Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

Phần ba

大毘盧遮那成佛經疏

Đường sa-môn Nhất Hạnh A-xà-lê kư

沙門一行阿闍梨記

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Bỉ giản trạch địa, trừ khử lịch, thạch, toái ngơa, phá khí, độc lâu, mao phát, khang tao, hôi thán, thích cốt, hủ mộc đẳng, cập trùng nghĩ, khương lang, độc thích chi loại.

          ()祕密主!彼揀擇地,除去礫石碎瓦破器、髑髏毛髮、糠糟灰炭、刺骨朽木等,及蟲蟻蜣蜋毒螫之類。

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Cuộc đất chọn được ấy, trừ bỏ sỏi, đá, ngói vỡ, đồ hư bể, đầu lâu, trấu cám, tro than, xương găy, cây mục v.v… và trùng, kiến, bọ hung, các loài trùng có nọc độc).

 

          Kế đó, nói về chi phần tịnh trị cơi đất. Tức là trong cuộc đất đă chọn trên đây, chọn lựa chỗ đặt đàn tràng, đào sâu xuống chừng một khủy tay. Đối với đất nơi ấy, mỗi mỗi đều chọn lọc kỹ càng, hễ có các vật không dùng đến và các loài trùng, đều bỏ đi. Nếu [cuộc đất] có các thứ ấy, sẽ sanh ra các nạn, gây chướng ngại cho pháp. Đá và cát, sỏi, nếu ít th́ có thể chọn ra để bỏ đi. Nếu cát, đá quá nhiều, tích tụ chỗ này, chỗ kia cũng có, chẳng thể loại ra để trừ sạch được, hăy nên bỏ chỗ ấy, t́m chỗ khác. Nhưng đối với đá tảng bằng phẳng, có thánh giáo bảo là có thể lập Mạn-đồ-la trên đó; nhưng nếu là đá xen tạp trong đất th́ nên loại bỏ đi.

          Thói tục ở phương Tây (Ấn Độ), phần nhiều ăn trong đồ đựng bằng sành, ăn xong liền vứt đi, cho là đă nhơ uế, chẳng c̣n dùng nữa. Những thứ như thế và các thứ vật dụng bị hư hoại khác, cùng với đầu lâu, xương vụn, các thứ móng, tóc, da, lông, các thứ cây cỏ tạp nhạp, các thứ tro than, cành nhánh gai góc, gỗ mục. Nói tóm lại, các thứ vật chẳng dùng được như thế, chẳng phải là thứ vốn nên có trong đất sạch, đều loại bỏ. Nếu chúng quá nhiều, chẳng lọc ra được, cũng nên bỏ chỗ ấy để t́m chỗ khác. Từ ngữ Cật Lật Mị (Kṛmi) trong tiếng Phạn chỉ chung các loại trùng kiến, đều là các loại trùng rất nhỏ, đều nên loại bỏ đi. Bọ hung là trùng lớn, lại c̣n các loài giun đất v.v… Cứ chuẩn theo đó mà biết ư nghĩa. “Độc trùng” tức là các loài rắn, bọ, rết, cuốn chiếu, đều nên dùng phương tiện xua đuổi. Nếu quá nhiều chẳng thể trừ, tức là chỗ có thể gây trở ngại, chướng nạn. Hăy nên bỏ nơi đó!

 

          (Kinh) Ly như thị chư quá.

          () 離如是諸過

          (Kinh: Ĺa các lỗi như thế).

 

          Đây là nói chung nhiều thứ. Người hiểu ư khi gặp chuyện sẽ tự suy xét. Hoặc là cuộc đất nghiêng lệch, hoặc cao, thấp, chẳng bằng phẳng, hoặc sắc vị chẳng hợp thánh giáo. Đối với sắc, coi màu vàng hoặc trắng là thù thắng. Nếu đất thuần màu đen, chớ nên chọn lấy. Nếm vị đất thấy ngọt hoặc nhạt th́ tốt, nếu cay, đắng, mặn, chát th́ không nên dùng. Hoặc đào lên rồi lấp hố lại, mà đất chẳng thể lấp đầy th́ chẳng nên dùng. Nếu lấp xong mà đầy vun lên th́ tốt. Lại ở trong một chỗ, phía Nam là hạ địa, chỉ có thể dùng làm [chỗ để thực hiện pháp] A Tỳ Giá Lỗ Ca[1] mà thôi!

          Lại nữa, A-xà-lê đă biết tâm địa của đệ tử kham có thể kiến lập Đại Bi Mạn-đồ-la trong ấy, liền trụ trong Định sâu để quán sát, phân biệt kỹ càng, dùng trí huệ để chọn lựa, trừ khử các cấu nhơ tạp uế chẳng thể kham thực hiện. Sau đấy mới đối trị, khiến cho vững chắc để trang nghiêm. Nếu không, túc nghiệp hoặc tập khí thừa sót sẽ có thể sanh ra chướng ngại. “Sỏi, đá” ví như chẳng tin chánh pháp, chấp chặt những thứ chấp trước thuộc về ngă, các kiến chấp như bài bác “chẳng có nhân quả” v.v… Do khó thể đẽo, khắc, dù vun tưới, trọn chẳng thể sanh ra mạ lành; dẫu đổ công chăm chút, vẫn chẳng thể thành tựu được ǵ! Chấp trước vi tế quá nhiều, sẽ chẳng thể tiếp nhận [pháp do thầy truyền dạy]. V́ thế, ví như cát, sỏi.

          “Ngói vụn, đồ vật hư vỡ” ví như tạo Ngũ Nghịch, phạm tứ trọng cấm[2], báng bổ kinh Phương Đẳng v.v… Do tâm khí bại hoại, nên chẳng thể kham nổi; dẫu có thêm pháp vị vào, vẫn chẳng thể ǵn giữ được, uổng phí các điều thiện. Trước hết, hăy nên dùng tay huệ phương tiện để chọn lọc, loại bỏ các thứ chướng như thế. “Đầu lâu” ví như chướng ngại phá hoại Bồ Đề tâm. Xưa kia, từng có người trọn đủ nhân và pháp, là thượng thủ bậc nhất trong các chi phần, nhưng do mạng căn bị chấm dứt, bách thể (thân thể) hư hại, chẳng thể làm được ǵ. Do tập khí xấu ác ấy, dẫu khiến cho người ấy lại phát Bồ Đề tâm, vẫn trở thành chướng, tự vui thỏa [trong các dục hoặc tiểu quả] khiến cho đạo tâm lui sụt. V́ thế, càng phải nên gột trừ sạch các tập khí thừa sót.

          “Lông, tóc” ví như sáu mươi tâm [đă nói trong phẩm trước], kết hợp với tám loại thiện tâm mà sanh, tới khi nhận biết, hăy nên cắt bỏ. Kể từ khi chưa đạt được cái tâm xuất thế gian đến nay, chúng xen tạp, lăng xăng dấy lên, khó thể thấy được đầu mối. V́ thế nói là “lông tóc, trấu cám”. Như vô minh vọng tưởng là do chấp trước hư luận, chỉ đạt được lớp vỏ trấu danh tướng, đánh mất gạo Thật Tướng. V́ thế, dùng trấu cám để sánh ví. “Tro than” ví như dấy khởi tâm Nhị Thừa, yêu chuộng tiểu pháp. Nếu thiện căn bị cái tâm ấy thiêu đốt, sẽ quy vào “hôi đoạn”[3], chẳng sanh ra cành, lá, hoa, quả đại bi. V́ thế, dùng [tro, than] để sánh ví. “Thích cốt” (xương găy vụn) là như từng tạo các hạnh chẳng lợi ích chúng sanh, phạm đủ mọi luật nghi vụn vặt. Đấy là túc đối tàn chướng (oan gia oán đối và chướng ngại c̣n sót lại từ đời trước) trong quá khứ, nên gọi là “xương”. “Gỗ mục” là nói đến loại người chẳng mong muốn, biếng nhác v.v… chẳng kham được vun bồi, uốn nắn, đào luyện. Lại nữa, trong tiếng Phạn, [từ ngữ này] c̣n có nghĩa là “gốc cây chết”, ư nói từ lâu xa tới nay, riêng quen với các phiền năo, dư nghiệt[4] sâu chắc, khó thể nhổ trừ. Do các nghiệp quá khứ như thế chứa đựng trong tâm địa, khi nhất tâm hành đạo, ma sự dễ dấy lên. V́ thế, cần phải loại bỏ trước! Nếu quá nhiều, chẳng thể loại bỏ, hăy nên vứt bỏ căn cơ ấy, để t́m căn cơ khác.

          “Các loài trùng kiến, bọ hung, trùng có nọc độc” ví như các thứ phiền năo hiện hành. Trùng, kiến ví như si, bọ hung ví như tham, độc trùng ví như sân. Các loài ấy rất nhiều, ví như các thứ Tùy Phiền Năo. Các thứ trùng nhỏ bé ví như vô lượng ác giác kiến. Quán các loài ấy đều có Như Lai Tánh, càng phải nên che chở, chớ nên dứt tuyệt mạng căn của chúng, chỉ nên phương tiện xua đuổi, khiến cho chúng chẳng gây trở ngại cho việc tu đạo, chẳng làm nhơ bẩn Mạn-đồ-la mà thôi! Nếu muốn cho đạo tràng cực thanh tịnh th́ một trăm sáu mươi thứ cấu vi tế thượng, trung, hạ [trong tâm] đều nên loại trừ, khiến cho chẳng c̣n sót. Cho tới trong cuộc đất quán đảnh, phàm những ǵ chẳng phải là đất sạch, đều nên loại bỏ, th́ mới gọi là rốt ráo thanh tịnh vậy!

 

          (Kinh) Ngộ lương nhật thần, định nhật, thời phần, tú trực, chư chấp giai tất tương ứng, ư thực tiền thời, trị cát tường tướng.

          ()遇良日晨定日時分宿直諸執皆悉相應於食前時值吉祥相

          (Kinh: Gặp ngày giờ tốt, định nhật, thời phần, ngày có sao tốt chiếu, các tinh tú trong cửu diệu tương ứng, trước lúc bữa trưa, gặp được tướng tốt lành).

 

          Do chuyện chọn đất, bèn nói tới chi phần chọn lựa thời điểm. Hễ thực hiện pháp sự, đều cần phải có thời và nghĩa khế hợp. Nay sắp chọn lựa thời điểm và cuộc đất để tịnh trị, phải nên trong ngày tốt mà báo tin, nhắc nhở địa thần. Các pháp sự khác cũng nên biết như thế.

          “Lương nhật thần” tức là tác pháp nên dùng ngày thuộc bạch nguyệt[5], tức mùng Một, mùng Ba, mùng Năm, mùng Bảy, Mười Ba đều là cát tường, kham làm Mạn-đồ-la. Lại nữa, ngày mồng Tám, ngày Mười Bốn, và ngày Rằm trong một tháng là tối thắng. Tới những ngày ấy, thường niệm tụng, cũng nên dụng công hơn.

          “Định nhật”: Theo cách tính thông thường trong lịch pháp phương Tây (Ấn Độ), tính toán trong một tháng thiếu, [th́ ngày thông thường trong một tháng đủ] sẽ ứng hợp với ngày nào [trong tháng thiếu ấy]. Nếu tháng thiếu thuộc vào bạch nguyệt, ngày Mười Lăm tháng ấy sẽ thuộc vào hắc nguyệt, chẳng nên dùng. Lại nữa, lịch pháp tính chung chu kỳ vận chuyển của mặt trời và mặt trăng để tính toán ngày mồng Một mỗi tháng, đều là gồm một tháng thiếu, một tháng đủ. Do mặt trời và mặt trăng cùng vận hành, lại có sớm hay trễ, hoặc có lúc trùng nhau, có lúc chẳng trùng. Do vậy, ngày mồng Một sẽ được ấn định trước hay sau một ngày, ngày Rằm sẽ thuộc ngày mười bốn hay ngày mười sáu [trong tháng đó]. Đại để, ngày Rằm trong tháng nhằm lúc trăng tṛn th́ gọi là ngày Mười Lăm thuộc bạch nguyệt, khi mặt trăng vừa đúng một nửa như lúc thượng huyền th́ cũng gọi là ngày mồng Tám. Chỉ dùng cách tính như vậy để suy ra “định nhật”.

          “Thời phần”: Theo lịch pháp của phương Tây th́ ngày và đêm mỗi buổi đều có ba mươi thời, mỗi thời đều có tên gọi riêng, tức là ban ngày dựa theo sự đo lường bóng nắng dài hay ngắn mà tính, nhằm lúc nào đó thực hiện th́ sẽ tốt lành, thực hiện vào lúc nào đó sẽ xấu, lúc nào th́ trung b́nh, mỗi mỗi đều có h́nh tượng, phân loại riêng.

          Nói “tú trực” chính là nói đến hai mươi bảy tinh tú[6]. Châu thiên (quỹ đạo vận chuyển của mặt trời hoặc một hành tinh nào đó; ở đây là quỹ đạo của mặt trời) được chia thành mười hai cung, giống như mười hai Thứ[7], mỗi Thứ có chín Túc. Châu thiên gồm một trăm lẻ tám Túc[8], mỗi Tú (mỗi tinh tú) đều có bốn Túc, tức là khoảng cách mặt trăng di chuyển trong một ngày. Trải qua hai mươi bảy ngày, tức là mặt trăng xoay hết một châu thiên. Dựa theo lịch để tính toán, mặt trăng thuộc vào phương vị của tinh tú nào, tinh tú ấy được gọi là “trực nhật” [của ngày hôm đó]. Tinh tú có thượng, trung, hạ, bẩm tánh có cương, nhu, tĩnh, động khác nhau. Thực hiện pháp sự cũng nên thuận theo [để chọn lựa “trực nhật” thích hợp].

          “Chư chấp”: Chấp có chín loại, tức bảy ngôi sao, gồm mặt trời, mặt trăng, Hỏa, Thủy, Mộc, Kim, Thổ, cùng với La Hầu và Kế Đô, hợp thành Cửu Chấp. La Hầu là giao hội thực thần[9]. Kế Đô dịch sát nghĩa là Cờ, sao Cờ chính là sao chổi. Ngoài hai Chấp ấy, bảy ngôi sao kia theo thứ tự trực nhật[10], tánh loại cũng có thiện và ác, như trong Phạm lịch (lịch pháp của Ấn Độ) đă nói.

          “Thực tiền thời” (lúc trước bữa ăn): Ngày đêm mỗi đằng đều có ba thời, trước bữa ăn có thể thực hiện pháp Tức Tai (dứt trừ tai nạn), buổi chiều th́ làm pháp Tăng Ích, ban đêm th́ làm pháp sự Hàng Phục. Nhập Mạn-đồ-la quán đảnh tương ứng với Tức Tai, nên nói là “thực tiền”.

          “Gặp cảnh giới tốt lành”, tôi cho rằng: Lúc tác pháp, hoặc trên mặt đất, hoặc trong hư không có các thứ tướng lạ thuộc về sắc, thanh v.v… Trên mặt đất, tức là hoặc thấy bé gái cầm nắm b́nh đựng năm vị của sữa (sữa, lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ), hoặc b́nh đựng nước thơm, hoặc cầm vật giống như luân, ấn v.v… Hoặc là vật tôn quư trong cơi đời, và các thứ chứa đựng gạo tẻ trắng v.v… tinh sạch, đầy ắp, hoặc mặc y phục đoan nghiêm, sạch sẽ, đẹp đẽ, hoặc nói các thứ âm thanh tương ứng cát tường, th́ đều là tướng thành tựu. Không trung th́ bỗng thấy mây lành thụy khí cuồn cuộn năm màu, hoặc có cầu vồng rực rỡ tươi đẹp, rơ ràng bỗng hiện ra bất ngờ, hoặc có ánh lửa thoáng vụt qua như h́nh dạng khi hộ-ma[11] thành tựu. Hoặc bên cạnh mặt trời, thấy có năm sắc, hoặc hiện h́nh người như đang đứng yên lặng, hoặc trong hư không có âm thanh hay đẹp, như là [tiếng hót của] các loài như bạch hạc, chim công, uyên ương, hồng nhạn, trong trẻo, ḥa nhă khiến cho mọi người thích nghe. Các tướng như thế cũng đều là tướng thành tựu. Sở dĩ cần phải thuận theo Thế Đế, là v́ Mạn-đồ-la có ư nghĩa thù thắng, vi diệu, tịch diệt, người thuần tín, tâm trong trắng c̣n khó thể tin nhận, huống kẻ ôm ḷng ngờ lo ư? Do người được độ đă từng học tập các kinh sách cúng tế thuộc Vi Đà (Vedas), các tài khéo, minh xứ (các sách vở thế gian), nếu họ thấy thời phần tạo Mạn-đồ-la sai lầm, lo sợ sẽ dẫn đến điều chẳng tốt lành, liền sanh nghi, trách móc rằng: “Ta nghe nói bậc trí huệ tổng tŕ không ǵ chẳng thông đạt, nhưng nay xem ra, c̣n chẳng thể chọn được lúc có tinh tú tốt đẹp, huống hồ các chuyện sâu xa khác ư?” V́ thế, kẻ đó do ngờ thầy, nghi pháp, đánh mất tín lực kiên cố, đâm ra chuốc lấy trọng tội. Do vậy, cần phải thuận theo t́nh kiến và căn cơ của họ.

          Hơn nữa, Chấp Diệu như thế chính là một loại thiện tri thức môn trong Mạn-đồ-la. Các vị Bổn Tôn ấy có thể thuận theo sự nghiệp thế gian mà tạo phương tiện gia tŕ, do A-xà-lê khéo chọn lúc cát tường, vốn sẵn liên quan tới pháp bổn thệ Chân Ngôn như thế, thực hiện gia tŕ, sẽ được ĺa các chướng. Lại nữa, các loại Thế Đế môn đều là tiêu xí[12] của pháp giới. Nói “lương nhật thần” (ngày giờ tốt lành) ngụ ư “thuộc lúc hội ngộ tốt lành của Bồ Đề tâm”. Khi bậc thâm hạnh A-xà-lê trụ trong Du Già, quán sát thiện căn đă gieo từ thuở ban sơ của người sắp được độ có lâu xa hay không? Nhân duyên thuộc về ai? Do chuyện nào mà khởi đầu? Như lúc hành giả sơ phát tâm, hoặc do thấy đức Phật thuyết pháp, hoặc trông thấy thần biến (thần thông biến hóa), hoặc thấy các thứ chuyện đáng buồn khổ, hoặc ở nơi Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác mà phát khởi đạo tâm, hoặc dùng hương, hoa v.v… để cúng dường các bậc phước điền như trên, tâm được hoan hỷ, liền phát nguyện mong cầu Phật quả. Do nhân trước và duyên hiện thời của người ấy cùng cảm phát, các thứ cơ duyên khế hợp mà giác ngộ bất đồng. Hoặc là trong lúc như thế, Bồ Đề tâm có sức tịch tĩnh. Hoặc trong lúc như thế, có sức tăng tấn. Hoặc trong lúc như thế, có sức oai mănh, thuận theo các thứ phương tiện Tất Đàn mà kiến lập, như vậy th́ sẽ chẳng uổng công, chẳng sanh chướng ngại.

          “Định nhật”: Mặt trời ví như thân Bổn Tôn. Mặt trăng ví như tu tập Du Già hạnh. Do vầng trăng “Định tâm” của hành giả có lúc sáng thêm, hoặc có lúc hơi mờ đi, hoặc vận hành quá nhanh, hoặc vận hành rất chậm, hoặc vượt mức b́nh thường, hoặc chẳng đạt tới mức b́nh thường, khiến cho lúc cơ duyên khế hợp mà giác ngộ cũng bị kéo dài hoặc rút ngắn. Nếu chiếu theo lẽ thường, có thể là đến một duyên nào đó, một thời nào đó, đáng nên kiến lập, nhưng có khi duyên và cảnh đổi dời, hoặc chưa đạt tới xứ và thời [tương ứng] mà đă chín muồi, hoặc có lúc vượt ngoài thời và xứ ấy mới có chín muồi. Lẽ biến thông như thế đều nên khéo biết, cho nên nói là “định nhật”.

          “Thời phần”: Hành giả trong mỗi một địa đều tự có mười tâm. Mỗi cái tâm ấy đều có nhân, căn, và quả, kết hợp thành ba mươi tâm. Đối với ba mươi tâm ấy, trong một Mâu-hô-lật-đa (Muhūrta, khoảnh khắc), cũng nên biện định, suy xét sâu xa cặn kẽ: Lúc nào có thể chiết phục phiền năo? Lúc nào có thể tăng ích công đức? Lúc nào nên thuận theo Trung Đạo để trụ trong tịch tâm? Đó gọi là “hiểu tướng vi tế nơi mỗi thời”.

          “Tú trực”: Nơi vầng trăng Du Già, hành nhân khi tiếp xúc với duyên cảnh, trong hết thảy duyên cảnh, đều thấy tâm tánh, như các ngôi sao tuy h́nh dạng lớn, nhỏ, chủng loại sai biệt, không ǵ chẳng tṛn sáng vậy! Như khi mặt trăng đi qua [phương vị] của hai mươi bảy tinh tú, do trải qua các tinh tú tốt xấu khác nhau, khiến cho khí hậu và mỗi tháng trong thế gian cũng thuận theo mà khác biệt. Như sao Cơ[13] chuộng gió, mặt trăng đi vào địa phận của sao Cơ th́ trời sẽ nổi gió. [Tương tự như vậy], sao Tất chuộng mưa, mặt trăng đi vào [địa phận của sao Tất], ắt sẽ đổ mưa. Bồ Đề hạnh cũng giống như thế, do gặp duyên, đối cảnh, thế lực khác nhau, khiến cho việc thực hiện các phương tiện chiết phục, nhiếp thọ, và tịch hạnh (tức tai) cũng thay đổi theo. Nếu A-xà-lê có thể suy xét sâu xa căn duyên, hiểu biết chuyện ấy, th́ gọi là “khéo quan sát tú trực”.

          “Cửu chấp” (Navagraha) tiếng Phạn là Ngật-lật-hà (Graha), có nghĩa là “chấp tŕ”. A-xà-lê hăy nên quán tay “tâm lực” của người ấy có thể làm chuyện ǵ, th́ mật ấn được truyền sẽ chẳng đến nỗi bị luống uổng. Như kim cang huệ ấn của chư Phật, chỉ có bậc Bồ Tát kim cang tâm mới có thể cầm. Nếu truyền cho kẻ kém hơn, sẽ gọi là “chấp diệu chẳng tương ứng”. Trong Cửu Chấp, mặt trời ví như Bồ Đề tâm vốn tịnh, tức là tự thể của đức Tỳ Lô Giá Na. Mặt trăng ví như Bồ Đề hạnh. Ngày Mười Lăm trong bạch nguyệt tức là các hạnh đều viên măn, ví như thành tựu Bồ Đề. Ngày Mười Lăm của hắc nguyệt (tức ngày cuối tháng âm lịch) là các hành đều tận, ví như nhập Niết Bàn. Trong khoảng giữa, theo thời mà tăng hay giáng, ví như sức phương tiện. Hăy nên biết [các điều ấy] đă thâu nhiếp Bách Tự Minh Môn. Thổ Tinh duy tŕ Trung Đài Tạng, Thủy Tinh duy tŕ quyến thuộc Liên Hoa Bộ ở bên phải [của Trung Đài Bát Diệp]. Kim Tinh duy tŕ Kim Cang quyến thuộc ở bên trái. Mộc Tinh tŕ Như Lai quả đức thuộc phương trên. Hỏa Tinh duy tŕ các đại lực minh[14] ở phương dưới.

          Lại nữa, năm Chấp như thế, chính là tŕ ngũ sắc Tô-đa-la (Sutra)[15], Thổ là Tín, Mộc là Tấn (tinh tấn), Kim là Niệm, Thủy là Định, Hỏa là Huệ. Hai chấp kia th́ La Hầu chủ tŕ ngăn che, Tuệ Tinh (Kế Đô) chủ tŕ điều bất tường, cho nên [hai tinh chấp này] chẳng trực nhật. Sơ nhật phần như tịnh tâm hiển hiện, trung nhật phần như phát khởi các hạnh, hậu nhật phần như vạn đức đă viên măn, công dụng lần lượt ngưng dứt. Sơ dạ phần như địa vị tự chứng, trụ trong Đại Niết Bàn. Hậu dạ phần như nghĩ tới bổn thệ nguyện, dấy lên sức gia tŕ. Giáp ṿng liền trở lại từ đầu, tuần hoàn vô cùng. Thể của mặt trời là một, nhưng trong bốn bộ châu th́ thời phần mỗi châu mỗi khác. Nay dụng ư của Mạn-đồ-la này là muốn khai phát vầng mặt trời Bồ Đề tâm, cho nên chọn lấy lúc trước bữa ăn (trước lúc chính ngọ).

          “Gặp cảnh giới tốt lành” tức là cảnh giới tâm vô tướng, trọn chẳng phải là hữu vi hay vô vi. Dùng ngũ nhăn (nhục nhăn, thiên nhăn, huệ nhăn, pháp nhăn, Phật nhăn) của Phật để quán kỹ, vẫn chẳng thể thấy tướng mạo ấy, nhưng cũng có tướng phát khởi của các loại thiện căn để có thể rơ biết. Nếu là bậc kiến đế A-xà-lê, sẽ tự hiện tiền thông đạt. Nếu chưa kiến đế, [vị ấy] sẽ ở trong tam-muội, xem xét cảnh giới này, hoặc là thấy khi người ấy (người sẽ được truyền trao quán đảnh) tu hành Lục Độ, các thứ Lục Tế[16] đều chẳng thể gây chướng nạn, hoặc được chúng sanh khen ngợi, cho đến thọ kư Bồ Đề. Hoặc như trong phần trước [đă nói] các thứ ấn tướng trong tam-muội sẽ hiển hiện rơ rệt, lạ lùng, đặc biệt, khác với lẽ thường! Dùng nhân quả để suy xét, sẽ có thể hiểu ư, cho đến đối với các chỗ phổ môn thâu nhiếp cũng đều có thể biết.

 

          (Kinh) Tiên đương vị nhất thiết Như Lai tác lễ, dĩ như thị kệ cảnh phát địa thần: - Nhữ thiên thân hộ giả, ư chư Phật đạo sư, tu hành thù thắng hạnh, tịnh địa Ba La Mật, như phá ma quân chúng. Thích Sư Tử cứu thế, ngă diệc hàng phục ma, ngă họa Mạn-đồ-la.                    

          ()先當為一切如來作禮,以如是偈警發地神。汝天親護者,於諸佛導師,修行殊勝行,淨地波羅蜜。如破魔軍眾,釋師子救世,我亦降伏魔,我畫漫荼羅

    (Kinh: Trước hết, hăy kính lễ hết thảy các đức Như Lai, dùng kệ như thế này để nhắc nhở địa thần: - Ngài, vị trời hộ tŕ, nơi chư Phật đạo sư, tu hành hạnh thù thắng, tịnh địa Ba La Mật, như phá lũ ma quân. Thích Sư Tử cứu thế, tôi cũng hàng phục ma, tôi vẽ Mạn-đồ-la).      

 

          Vị A-xà-lê sẽ nhắc nhở địa thần. Trước đó, [A-xà-lê] vận tâm tư duy thân trang nghiêm vô tận của đức Tỳ Lô Giá Na trọn khắp pháp giới, mười phương ba đời hết thảy các Như Lai cũng giống như thế. Mỗi thân trang nghiêm vô tận đều trọn khắp pháp giới. Các vị Bồ Tát từ địa vị Thập Trụ cho đến Sơ Địa phần chứng thân trang nghiêm, vô lượng vô biên trọn khắp pháp giới, chẳng có kẽ hở như dầu mè. Hăy nên quán thân này đối trước trọn khắp hết thảy các vị thánh, dùng ba nghiệp thanh tịnh chí thành làm lễ. Do nhân duyên ấy, [A-xà-lê] đạt được vô lượng phước, liền dùng tâm vô đảo (chẳng điên đảo) thí cho đệ tử ấy, nguyện [đệ tử] chẳng có chướng nạn, mau thành Vô Thượng Bồ Đề.

          Kế đó, hăy nên nói kệ để nhắc nhở địa thần. Như lúc Thích Ca Mâu Ni Phật mới ngồi nơi đạo tràng, bảo ma vương rằng: “Ngươi do đời trước đă từng thí vô tận một lần, nay được làm thân chúa trời tự tại, nhưng ta từ vô lượng kiếp tới nay, tu đại thí như thế chẳng tính nổi, thậm chí thịt nơi thân thể, và tay, chân cũng chẳng keo tiếc, ngươi sao có thể so sánh hơn kém cùng ta được?” Ma nói: “Ta làm phước đă được ông chứng nhận, c̣n phước nghiệp của ông, ai sẽ chứng minh? Nếu không có người chứng minh, tức là ông thua rồi!” Lúc bấy giờ, Bồ Tát duỗi tay phải, chỉ xuống đất, nói lời chân thật rằng: “Ta vốn hành Bồ Tát đạo nơi đất này, đủ mọi khổ hạnh khó hành, địa thần chứng biết!” Hăy nên biết chỉ đất như thế chính là mật ấn nơi thân. Lúc bấy giờ, vô lượng địa thần từ dưới đất vọt ra, hiện nửa người để chứng minh. Quân chúng của ma vương do vậy lui tan. Nay A-xà-lê muốn cho đệ tử không lâu sau sẽ kế tục địa vị Như Lai, cũng dùng ấn này để nhắc nhở địa thần. Khi đó, địa thần sanh ḷng tán thán, hoan hỷ to lớn, nghĩ như thế này: “Nay Phật tử này có thể kiến lập đại sự nhân duyên, v́ sẽ thủ hộ chúng ta, khiến cho chẳng bị tổn năo, cho nên răn nhắc. Ta phải nên dùng phương tiện thủ hộ, cũng khiến cho vị này ĺa khỏi các ma nghiệp”. Do sức của các duyên ấy, khiến cho cuộc đất này giống như kim cang. Nói ra bài kệ A Lợi Sa[17], có tên là Tự Nhiên Thành Tựu Chân Ngôn. Nếu lúc tác pháp, năy nên tụng theo bản tiếng Phạn. Nay tôi trích lục đầy đủ. [A-xà-lê] tụng [chân ngôn ấy] bảy lượt, dùng năm ngón tay phải áp xuống đất.

          “Đát-văn (nghĩa là “ngươi”), thê vi (thiên nữ), sa cật-tỷ (thủ hộ), bổ đa tứ (đích thân).

          Dịch thành: “Nhữ thiên thân hộ giả” (Ngài là vị trời, hăy đích thân thủ hộ).

          “Tát ma (hết thảy) Bột-đà-nẵng (Phật), đá dĩ nạn (độ đời, tức là có ư nghĩa “đạo sư”).

          Dịch thành: “Ư chư Phật đạo sư” (nơi các đức Phật là bậc thầy hướng dẫn).

          Chiết-rị-da (hành) na dă (tu hành) vĩ thế sái sổ (thù thắng).

          Dịch thành: “Tu hành thù thắng hạnh”.

          “Bộ-mị (tịnh địa) Bá La Mật Đa (đến bờ kia), tố giả (đẳng).

          Dịch thành: “Tịnh địa Ba La Mật”.

          “Ma-la (thiên ma) tắc niên (quân chúng) dă tha (như) hào cật nạn (phá).

          Dịch thành: “Như phá ma quân chúng”.

          “Xá-cật-dă (Thích Ca), tăng hệ na (sư tử) đá dĩ na (cứu thế).

          Dịch thành: “Thích Sư Tử cứu thế”.

          “Đát-tha ngân (như ta), ma-la (ma) nhă diên (hàng) cật lật đỏa (phục).

          Dịch thành “ngă diệc hàng phục ma” (ta cũng hàng phục ma).

          “Mạn-đồ-lam lệ (Mạn-đồ-la), lư khư (vẽ) miệu ngân (ta).

          Dịch thành “ngă họa Mạn-đồ-la” (ta vẽ Mạn-đồ-la).

          Bài kệ ngụ ư: Trước hết, bảo địa thần rằng: - Thiên nữ, bà là người đích thân thủ hộ đại địa này, đă từng cúng dường, thân cận hết thảy chư Phật đạo sư, tu hạnh thù thắng tịnh trị các cuộc đất, viên măn thanh tịnh các Độ (Ba La Mật), cùng các thứ công đức khác. Như trong kinh Ma Ha Bát Nhă đă nói cặn kẽ theo từng pháp, ở đây [chỉ nói tóm gọn] là “Đẳng”. Nay do lời kệ được dịch thành mỗi câu năm chữ, không thể ghi trọn, nhưng trong Địa Ba La Mật cũng đă bao hàm các đức ấy.

          Kế đó, bài kệ trần thuật ư nghĩa v́ sao nhắc nhở, nói lời thành thật: Như xưa kia, lúc đức Thế Tôn tại Bồ Đề Mạn-đồ-la hàng phục quân đội của thiên ma, bà đă hiện thân để chứng minh trong đại hội ấy. Do vậy, đức Thế Tôn được gọi là Thích Ca Sư Tử, có thể đi một ḿnh chẳng sợ hăi, cứu giúp, che chở thế gian! Tôi nay cũng muốn theo gương đức Phật, tiếp nối hành Như Lai sự. Do vậy, vẽ Mạn-đồ-la này. Tôi tuy chưa được hết thảy đều giống như Như Lai, nhưng do được Tam Mật của đức Tỳ Lô Giá Na gia tŕ, cũng có thể hiện làm thân Phật, nhóm họp đại hội trọn khắp hết thảy các Mạn-đồ-la. V́ thế, nay bà cũng nên hiện thân chứng minh, khiến cho bọn ma quân chẳng thể ngăn trở, phá hoại.

          Lại nữa, địa thần là thiên nữ, mà nữ có nghĩa là Tam-ma-địa (Samādhi, Chánh Định), tức là tam-muội do đức Đại Nhật Thế Tôn hộ tŕ tâm địa của hết thảy chúng sanh. Đức Thế Tôn đúng như Thật Tướng, xưa kia lúc Ngài tại Bồ Đề Mạn-đồ-la hàng phục vô minh trụ địa ma vương và trần sa đại chúng, dùng tay Bát Nhă Ba La Mật, duỗi ngũ lực ấn xuống tâm địa của hết thảy chúng sanh; khi đó, bà dùng tam-muội, hiện thân chứng minh. Do vậy, độ vô lượng chúng sanh, bốn loại ma quân v́ thế đều lui tan. Bởi đó, hiệu là Tịch Nghiệp Sư Tử, có thể dùng thần thông tự tại để cứu thế gian. Tôi nay cũng muốn sửa dọn phẳng phiu tâm địa của đệ tử, vẽ Đại Bi Mạn-đồ-la, bà cũng nên v́ tôi chứng minh, khiến cho bốn lũ ma quân hàng phục. Lại c̣n dùng Tự Môn để giải thích, bài A Lợi Sa này có vô lượng nghĩa, nhưng điều được đề cao tột bậc chính là trong chữ Tha. Chữ Đát Đa (Tatha) trong tiếng Phạn nghĩa là Như. Chữ Đa đọc âm dài, sẽ kèm theo âm A, do hết thảy các pháp vốn bất sanh. Như trong Thật Tướng chẳng tăng, chẳng giảm, tức là dùng nghĩa này để nhắc nhở hết thảy các địa thần.

 

          (Kinh) Bỉ ưng trường quỵ, thư thủ án địa, tần tụng thử kệ, dĩ đồ hương, hoa đẳng cúng dường. Cúng dường dĩ, chân ngôn giả phục ưng quy mạng nhất thiết Như Lai, nhiên hậu trị địa. Như kỳ thứ đệ, đương cụ chúng đức.

          ()彼應長跪,舒手按地,頻誦此偈,以塗香華等供養。供養已,真言者復應歸命一切如來,然後治地。如其次第,當具眾德。

                (Kinh: Người ấy nên quỳ thẳng, duỗi tay áp xuống đất, nhiều lượt tụng bài kệ ấy, dùng hương bôi, hoa v.v… để cúng dường. Cúng dường xong, người tu chân ngôn lại nên quy mạng hết thảy Như Lai, sau đấy mới tịnh hóa cơi đất. Theo đúng thứ tự đó, sẽ trọn đủ các đức).

 

          Khi người ấy tụng kệ, hăy nên quỳ thẳng, hai gối đặt sát đất, dùng tay “trí huệ” (tay phải) duỗi năm ngón, áp ḷng bàn tay xuống đất rồi mới tụng bài kệ A Lợi Sa này. Cứ một lượt th́ bảy lần kết ấn, gia tŕ bảy lượt; đấy gọi là Chân Ngôn và ấn tương ứng. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Khi muốn thực hiện pháp này, trước hết dùng tam-muội-da pháp giới kim cang tự tánh để gia tŕ tự thân, đều như trong pháp cúng dường đă nói. Dùng môn chữ Ra () để tự tịnh tâm địa và đất nơi đạo tràng xong, trong Du Già[18] bèn trước hết khởi phong luân có h́nh bán nguyệt, dùng chữ Ha () để gia tŕ. Kế đó, khởi thủy luân, dùng chữ Phược (Va,) để gia tŕ. Kế đó, khởi kim cang địa luân dùng chữ A () để gia tŕ. Một mặt duyên theo đế quán tương ứng để hiểu rơ, khéo điều phục cái tâm và hơi thở, một hơi tụng môn chữ A liên tục chẳng gián đoạn. Tận lực tụng hết một hơi xong, lại tụng tiếp, hoặc là một hơi hay ba hơi, cho đến khiến cho [trong tâm] có cảm giác nhận biết. Dùng phương tiện duyên vào một nơi như thế, liền nhập tam-muội, sẽ thấy đại hội trang nghiêm bí mật của Phật, Bồ Tát, hoặc tự thấy các lầm lỗi trong ngoài cuộc đất”.

          Kinh dạy: “Dĩ đồ hương, hoa đẳng cúng dường” (dùng hương bôi, hoa v.v… để cúng dường), không chỉ nhắc nhở mà thôi, lại c̣n dùng các thứ hương, hoa, đèn sáng v.v… để cúng dường mười chư Phật và địa thần. Nhưng ở đây, “địa” có ba loại, tức là dùng môn chữ Ra để tịnh trừ tâm địa của chính ḿnh, tâm địa của đệ tử, và đất nơi đạo tràng, đều tŕ môn chữ A để khiến cho [các “địa” ấy đều] trở thành kim cang.

          Nếu xét theo ư nghĩa bí mật để giải thích “cúng dường” th́ cũng giống như thế. Nếu A-xà-lê dùng các thứ công đức thuộc Bồ Đề tâm thanh tịnh để hồi hướng trí ấn Nhất Thiết Trí, chính là cúng dường hết thảy chư Phật và người tŕ địa trong pháp giới của chính ḿnh. Dùng công đức ấy để hồi thí đệ tử, giúp tạo thành nhân duyên thành Phật cho người ấy, tức là cúng dường hết thảy chư Phật và người tŕ địa trong pháp giới thuộc cái tâm của đệ tử. Nếu dùng đó để trang nghiêm đạo tràng kim cang này, tức là dùng pháp để cúng dường hết thảy chư Phật trong mười phương thế giới. Cúng dường xong, lại nên quy mạng hết thảy Như Lai. Phỏng theo đó, sẽ có thể hiểu [các điều khác].

          Kinh dạy: “Nhiên hậu trị địa. Như kỳ thứ đệ, đương cụ chúng đức” (sau đấy tịnh hóa cơi đất. Theo đúng thứ tự ấy, sẽ trọn đủ các đức), ư nói: Phàm muốn tạo Mạn-đồ-la, trước hết cần phải thực hiện pháp như thế (cúng dường, nhắc nhở địa thần) rồi mới đào đất, chọn lọc loại bỏ [uế vật], cũng bao gồm ba loại đất (tâm địa của chính ḿnh, tâm địa của đệ tử, và đất nơi đạo tràng). Do hai cách giải thích nông cạn và bí mật, cho đến thực hiện đầy đủ các chi phần như trong kinh đă nói; v́ thế nói là “cụ chư chúng đức” (trọn đủ các đức).

             

          (Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ đầu diện lễ Thế Tôn túc, nhi thuyết kệ ngôn: - Phật pháp ly chư tướng, pháp trụ ư pháp vị, sở thuyết vô thí loại, vô tướng, vô vi tác. Hà cố đại tinh tấn, nhi thuyết thử hữu tướng, cập dữ Chân Ngôn hạnh, bất thuận pháp nhiên đạo?

          ()爾時執金剛祕密主頭面禮世尊足,而說偈言:佛法離諸相,法住於法位,所說無譬類,無相無為作。何故大精進,而說此有相,及與真言行,不順法然道?

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ đầu mặt lễ dưới chân đức Thế Tôn mà nói kệ rằng: - Phật pháp ĺa các tướng, pháp trụ trong pháp vị, diễn nói chẳng sánh ví, vô tướng, chẳng tạo tác. Sao đấng Đại Tinh Tấn, nói pháp hữu tướng này, cùng với hạnh Chân Ngôn, chẳng thuận đạo pháp ấy?)

 

          Khi đó, ngài Kim Cang Thủ v́ muốn nêu tỏ ư chỉ sâu kín, bí mật của Như Lai, ḥng đoạn trừ tâm nghi hoặc cho đệ tử trong vị lai, đầu mặt áp sát đất, lễ dưới chân đức Thế Tôn, bèn nói kệ rằng: “Phật pháp ly chư tướng…. Bất thuận pháp nhiên đạo” (Phật pháp ĺa các tướng… Chẳng thuận theo đạo pháp vốn sẵn như thế). Ư nói: Con đích thân nghe từ đức Phật, Thật Tướng của các pháp xa ĺa hết thảy các tướng, chỗ trụ của Phật pháp là trụ trong pháp vị. Dẫu Như Lai xuất thế hay chẳng xuất thế, [tánh của các pháp] thường tự tịch diệt chẳng thể nghĩ bàn. Chẳng thể do suy lường, phân biệt mà thấu hiểu được, cũng chẳng do nhân lượng, thí dụ mà có thể biểu thị được! Như pháp tướng thường như thế, chư Phật c̣n chẳng thể tạo tác, huống hồ tướng hữu vi mà có thể tụ tập, kết thành ư? Cớ sao đấng Thiên Trung Thiên là bậc đại tinh tấn nay lại nói các sự tướng hữu vi như chọn đất, tạo đàn tràng v.v… và thứ tự của hành pháp Chân Ngôn, dạy người tu học chuẩn bị các thứ hương, hoa, vật cúng, miệng [tụng niệm] thuận theo giác quán[19] và ngôn thuyết, thân th́ học oai nghi thủ ấn, tâm duyên theo màu sắc, h́nh mạo, và phương vị của Bổn Tôn? Đă là hữu vi, hữu tướng, há có thể phù hợp đạo vô vi vô tướng vốn sẵn như thế ư? Kính mong đức Thế Tôn khai phát chỉ thú sâu xa ấy, trừ vọng chấp và t́nh kiến phỉ báng của thế gian.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na Phật cáo Chấp Kim Cang Thủ: - Thiện thính pháp chi tướng, pháp ly ư phân biệt, cập nhất thiết vọng tưởng. Nhược tịnh trừ vọng tưởng, tâm tư chư khởi tác, ngă thành Tối Chánh Giác, cứu cánh như hư không. Phàm ngu sở bất tri, tà vọng chấp cảnh giới, thời, phương, tướng mạo đẳng, lạc dục vô minh phú. Độ thoát bỉ đẳng cố, tùy thuận phương tiện thuyết, nhi thật vô thời phương, vô tác, vô tạo giả. Bỉ nhất thiết chư pháp, duy trụ ư Thật Tướng. Phục thứ Bí Mật Chủ! Ư đương lai thế thời, liệt huệ chư chúng sanh, dĩ si ái tự tế, duy y ư hữu trước, hằng nhạo chư đoạn thường, thời phương sở tạo nghiệp, thiện, bất thiện chư tướng, manh minh nhạo cầu quả, bất tri giải thử đạo. Vị độ bỉ đẳng cố, tùy thuận thuyết thị pháp.

          ()爾時薄伽梵毘盧遮那佛,告執金剛手:善聽法之相,法離於分別,及一切妄想。若淨除妄想,心思諸起作,我成最正覺,究竟如虛空。凡愚所不知,邪妄執境界,時方相貌等,樂欲無明覆;脫彼等故,隨順方便,而實無時方,無作無造者,彼一切諸法,唯住於實相。復次祕密主!於當來世時,劣慧諸眾生,以癡愛自蔽,唯依於有著,恒樂諸斷常,時方所造業,善不善諸相,盲冥樂求果,不知解此道;為度彼等故,隨順說是法

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na Phật bảo Chấp Kim Cang Thủ: - Hăy khéo nghe pháp tướng. Pháp ĺa các phân biệt, và hết thảy vọng tưởng. Nếu trừ sạch vọng tưởng, các tâm tư động niệm, ta thành Tối Chánh Giác, rốt ráo như hư không. Kẻ phàm ngu chẳng biết, tà vọng chấp cảnh giới, thời, phương, tướng mạo thảy, lạc dục, vô minh che. V́ độ thoát bọn họ, tùy thuận phương tiện nói. Thật chẳng có thời phương, vô tác, không người tạo. Hết thảy các pháp đó, chỉ trụ trong Thật Tướng. Lại này Bí Mật Chủ! Ở trong đời tương lai, chúng sanh trí huệ kém, do si ái tự lấp, chỉ nương vào chấp Có, thường ưa thích Đoạn, Thường, thời, phương mà tạo nghiệp, các tướng thiện, bất thiện, mù tối, chuộng cầu quả, chẳng biết hiểu đạo này. V́ độ thoát bọn họ, tùy thuận nói pháp này).

 

          Từ “nhĩ thời, Bạc Già Phạm” (lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm) trở đi, đức Thế Tôn dùng kệ đáp. Trước hết, Ngài nói: “Thiện thính pháp chi tướng” (hăy khéo lắng nghe tướng của các pháp). Do ư nghĩa “Thật Tướng của các pháp” quá sâu, khó thấy, cho nên [đức Phật] răn hăy khéo nghe. Pháp thường vô tánh, sanh từ các duyên, tức là tướng của tám tâm vượt ngoài các hư luận. Ngươi lại muốn cầu pháp vô tướng vô vi từ chỗ nào? V́ thế, câu kế đó nói: “Pháp ly ư phân biệt, cập nhất thiết vọng tưởng” (pháp ĺa khỏi phân biệt, và hết thảy vọng tưởng). Nếu biết rơ các pháp vốn là vô tướng như thế, sẽ chiếu kiến Thật Tướng của cái tâm, từ bổn sơ tới nay, thường tự chẳng sanh. Lúc bấy giờ, hết thảy thân, khẩu, ư nghiệp đều như hư không chẳng thể cùng tận. V́ thế nói: “Ngă thành Tối Chánh Giác, cứu cánh như hư không” (Ta thành Tối Chánh Giác, rốt ráo như hư không). Nhưng hết thảy phàm phu giống như trẻ nít ngu muội, do chẳng biết như thật, cứ tà vạy, điên đảo, hư vọng chấp trước đủ loại cảnh giới, tức là “thời, phương, chư tướng mạo” (thời gian, phương vị, các tướng mạo) v.v… “Lạc dục vô minh phú” (bị che lấp bởi lạc dục vô minh), thường bị nước ái tưới tắm, bị vô minh che đậy. Nếu ta xả phương tiện, trực tiếp nói với chúng sanh pháp tự chứng như thế, sao họ có thể ngộ giải để tiến nhập cho được? V́ thế, kế đó, kệ nói về ư nghĩa lập giáo, bảo: V́ độ họ mà tùy thuận nói phương tiện. Ư Phật là do pháp tướng quá sâu, chẳng thể tuyên nói trực tiếp, nên ta dùng sức phương tiện, gởi gắm nơi các chi phần trọn đủ các duyên của Mạn-đồ-la, khiến cho tâm kẻ sơ nghiệp có chỗ nương cậy, tu tập chẳng luống uổng. Tức là do vậy mà được Phật gia tŕ, đồng thời quan sát mười câu duyên sanh, có thể chẳng động Thật Tướng mà du hư thần thông, quán trọn khắp hết thảy các thiện tri thức, trang nghiêm hết thảy các cơi Phật, chẳng muốn khiến cho các hành nhân vứt bỏ các hạnh, trụ trong vô tướng, lại chẳng chấp trước các hạnh, trụ vào hữu tướng. V́ thế nói “thời, phương, sở tác nghiệp” (thời gian, phương vị, nghiệp đă tạo), “nhi thật vô thời, phương, vô tác, vô tạo giả, bỉ nhất thiết chư pháp, duy trụ ư Thật Tướng” (nhưng thật ra chẳng có thời gian, nơi chốn, vô tác, không có người tạo ra. Hết thảy các pháp đó chỉ trụ trong Thật Tướng). Nếu hết thảy các pháp hữu vi thảy đều trụ trong Thật Tướng, há có nên như kẻ si kia muốn trốn tránh hư không, hoặc muốn tham đắm hư không ư?

          Lại nữa, đối với chuyện này, [Thiện Vô Úy] A-xà-lê lại nói rộng về thí dụ ba cỗ xe trong kinh Pháp Hoa: Như các con của ông trưởng tử thơ ấu, vô tri, tuy cha đă dùng đủ mọi lời lẽ tốt lành để khuyên răn con thoát khỏi nạn lửa, trọn chẳng thể được. Khi đó, trưởng giả quán thấy thâm tâm con chỉ lo chơi đùa, bèn dùng phương tiện mà bảo như thế này: “Nay ở ngoài cửa, có ba loại xe quư báu. Các con nên ra lấy, sẽ tự vui thú”. Khi đó, các con nghe nói tới vui chơi, ứng hợp ư nguyện của chúng, tâm t́nh đều sốt sắng, tranh nhau thoát ra, cho tới khi đều cùng được cỗ xe báu trang nghiêm bậc nhất, tức chẳng phải là điều tâm chúng nó trrước đó vốn muốn mong cầu.

          Pháp môn Mạn-đồ-la này cũng giống như thế. Như Lai dùng nhân duyên sự tướng thế gian để sánh ví pháp giới chẳng thể nghĩ bàn, ḥng rủ ḷng tiếp độ các căn cơ. Nếu có thể nắm vững, sẽ có thể tin hiểu trọn khắp, dũng mănh tấn tu, và do được Tam Mật gia bị, khi tự thấy tâm, hiểu đạo, sẽ biết các thứ danh tướng, ngôn từ đều là mật hiệu của Như Lai, và cũng chẳng phải là điều mong cầu thường t́nh. Như nói “ba tháng tŕ tụng” tức là ba lượt chuyển phương tiện trong tánh thanh tịnh viên minh, há có nên hiểu là chỉ [tŕ tụng trong] chín mươi ngày ư? Lại như Đông phương Bảo Tràng Phật, tức là ư nghĩa “sơ phát tịnh Bồ Đề tâm”, há chỉ nên hiểu là “bốn phương” ư? Cứ theo lệ ấy mà suy, đối với các pháp môn khác, sẽ đều có thể hiểu ư. V́ thế nói “nhi thật vô thời phương…. Duy trụ ư Thật Tướng” (nhưng thật sự chẳng có thời gian và phương vị… Chỉ trụ trong Thật Tướng).

          Lại nữa, đức Thế Tôn đại bi vô hạn, thương xót chúng sanh trong đời vị lai do chướng nặng, căn độn, chẳng thể nhanh chóng nhập pháp giới. V́ thế, trong tạng sâu thẳm, bí mật ấy, dùng tổng tŕ xoay chuyển và phương tiện nông cạn, sơ lược, để tạo lập sự tư duy tu tập nơi sự tướng, cũng nhằm thành tựu, khiến cho công tu tập Tất Địa thế gian chẳng luống uổng, Tam Mật ngầm giúp để trọn thành Phật quả. V́ thế, kế đó, kệ nói: “Phục thứ Bí Mật Chủ! Ư đương lai thế thời, liệt huệ chư chúng sanh, dĩ si ái tự tế, duy y ư hữu tướng, hằng nhạo ư đoạn thường, thời phương, sở tác nghiệp, thiện bất thiện chư tướng, manh minh nhạo cầu quả, bất tri giải thử đạo. Vị độ bỉ đẳng cố, tùy thuận phương tiện thuyết” (Lại này, Bí Mật Chủ! Ở trong đời tương lai, các chúng sanh huệ kém, do si ái tự lấp, chỉ nương vào tướng Có, luôn ưa chuộng đoạn thường, thời, phương, nghiệp tạo tác, các tướng thiện, bất thiện, mù quáng thích cầu quả, chẳng hiểu biết đạo này. V́ độ thoát bọn họ, tùy thuận phương tiện nói). V́ thế, người truyền pháp hăy nên khéo biết căn duyên, lại biết giới hạn của pháp môn, đúng theo bệnh cho thuốc, chớ sai căn cơ. Nếu đối với kẻ chấp tướng mà lập tức nói nghĩa Không rất sâu, ắt sẽ khiến cho họ sợ hăi, nghi hoặc, càng thêm chẳng tin. Nếu là bậc lợi căn, trí sâu, mà vội vàng trao cho pháp môn nông cạn, sơ lược, ắt họ sẽ cho là [cách tu tập hữu tướng] chẳng phù hợp chánh đạo vô vi, bèn sanh ḷng khinh mạn. Đă vô ích đối với kẻ đó, lại c̣n tự phạm tam-muội-da! V́ thế, trước hết nên trụ trong Du Già để quán nhân duyên của người ấy từ đầu đến đuôi. Đă khéo biết rơ rồi, hăy nên quán ư nghĩa thực hiện Quyền nhằm hiển lộ Thật trong đoạn vấn đáp này, nhập vào trong hết thảy các phương tiện môn để truyền dạy, sẽ có thể tạo nhiều lợi ích. Do vậy, chẳng nẩy sanh chướng nạn!

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Như thị sở thuyết xứ sở trung, tùy tại nhất địa, trị linh kiên cố, thủ vị chí địa cù-ma-di, cập cù-mô-đát-la, ḥa hợp đồ chi. Thứ dĩ hương thủy chân ngôn sái tịnh.

          ()祕密主!如是所說處所,隨在一地治令堅固,取未至地瞿摩夷及瞿摸怛羅和合塗之。次以香水真言灑淨。

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Trong các chỗ như đă nói, tùy chọn một cuộc đất, tịnh trị cho kiên cố, lấy cù-ma-di và cù-mô-đát-la chưa rơi xuống đất, ḥa hợp để bôi lên. Kế đó, dùng hương thủy chân ngôn để sái tịnh).

 

          Theo đúng lời dạy, hễ tạo Mạn-đồ-la, cần phải hoàn tất trong ṿng bảy ngày. Trong ngày đầu tiên, A-xà-lê nên trụ trong tự tánh của Đại Nhật Như Lai; sau đấy mới nhắc nhở địa thần, dùng phương tiện để trang nghiêm thân thể, đều theo đúng các điều đă nói trong phần Thứ Tự Cúng Dường. Đă nhắc nhở xong, liền dùng Bất Động Tôn chân ngôn (chân ngôn của Bất Động Minh Vương) để gia hộ; sau đấy mới đào đất, đúng như pháp mà chọn lựa, sửa sang [cuộc đất]. Người ấy nên trước hết đào ở trung tâm [cuộc đất ấy] sâu xuống chừng một khủy tay, chọn lựa [loại bỏ vật tạp uế và trùng trong đất] xong, lấp lại. Nếu hố lấp tràn đầy c̣n dư đất ra th́ là cuộc đất bậc thượng, giống như cũ là bậc trung, lấp chẳng đầy là cuộc đất bậc hạ. Theo thứ tự như thế, trừ khử các khuyết điểm xong, dùng đất đào lên đó đă được tịnh trị cặn kẽ xong lấp lại, dùng các chất dịch của ḅ để tưới ướt, đắp cho chắc chắn, bằng phẳng như ḷng bàn tay. Kế đó, dùng cù-ma-di (gomatī, gomaya) và cù-mô-đát-la (gomūtra) ḥa hợp để tô trát. Nếu giải thích theo lối nông cạn, sơ lược th́ đó là dùng phân và nước tiểu ḅ, do thuận theo phong tục địa phương, coi các thứ đó là thanh tịnh.

          Giải thích theo lối bí mật, Cù nghĩa là “hành”. Do nhập môn chữ A, tức là các pháp vô hành. Ma nghĩa là Ta, Di có nghĩa là Thừa. V́ sao các pháp vô hành? Do trong hết thảy các pháp, chẳng thể đạt được ngă. Nếu chẳng có ngă, sẽ chẳng có pháp để nương vào và người nương vào, bèn gọi là Đại Thừa. Cù-mô có nghĩa giống như cách giải thích trên đây. Đát-la nghĩa là “như như, ĺa trần cấu”, tức là Thật Tướng của cái tâm. Nếu hành giả có thể tịnh trị tâm địa như thế, sẽ có thể rốt ráo thanh tịnh, ĺa các chướng ngại. Đối với cuộc đất đă được chọn lọc, sửa sang phẳng phiu xong, biết phương vị và giới hạn, liền đào ở trung tâm Mạn-đồ-la sâu chừng một khủy tay, dùng chân ngôn Thành Biện Chư Sự để gia tŕ năm thứ báu[20], ngũ cốc[21], năm món thuốc[22], xếp đặt tại đó, trừ khử các thứ cấu nhơ v.v… đều như trong Pháp Cúng Dường đă nói.

          Nếu giải thích sâu xa, bí mật, th́ tức là an lập báu ngũ trí trong Bồ Đề tâm, có thể dấy lên năm thứ mầm thiện, diệt trừ năm thứ lỗi lầm. V́ thế nói “ngũ cốc, ngũ dược”. Xếp đặt như thế xong, lại c̣n tịnh trị, tô trát cho tột bậc bằng phẳng. Hăy nên lấy cái b́nh sẽ dùng để quán đảnh, chứa nước sạch, đừng để đầy tràn, cắm các loại hoa quả, trong đó đặt năm thứ báu, ngũ cốc, và năm loại thuốc, đặt ở chỗ chôn vật báu. Từ ngày thứ ba kể từ sau khi đặt b́nh, hăy nên hằng ngày ba thời tụng Biện Sự chân ngôn một trăm lẻ tám lượt để gia tŕ cái b́nh ấy; sau đấy mới làm các sự nghiệp (tác pháp). Tới chiều ngày thứ tư, dùng Hương Thủy chân ngôn để gia tŕ nước thơm, hoặc tụng một trăm lẻ tám lượt cho đến một ngàn lượt. Sau đấy mới sái tịnh.

 

          (Kinh) Tức thuyết chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a bát ra để tam mê, già già na tam mê, tam ma đa nỗ yết đế, bát ra cật lật để vi thâu đệ, đạt ma đà đổ vi thú đạt nễ, sa ha.

          ()即說真言曰。南麼三曼多勃馱喃。阿鉢囉底三迷。伽伽那三迷。三麼揭帝。鉢囉吃底微輸睇。達摩馱睹微戌達儞。莎訶。

          (Kinh: Liền nói chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a bát ra để tam mê, già già na tam mê, tam ma đa nỗ yết đế, bát ra cật lật để vi thâu đệ, đạt ma đà đổ vi thú đạt nễ, sa ha).

 

          Câu đầu tiên là quy mạng trọn khắp chư Phật. Như tam thân của đức Tỳ Lô Giá Na trọn khắp hết thảy mọi nơi, mười phương ba đời hết thảy Như Lai cũng lại như thế. Nay đều dùng cái tâm trọn khắp để quy mạng hết thảy; sau đấy mới nói chân ngôn này, muốn khiến cho các đức Thế Tôn chẳng vượt bổn thệ, cùng nhau gia tŕ để chứng minh. Hết thảy các chân ngôn trong phần sau đều theo lệ này, chẳng giải thích cặn kẽ nữa. Trong câu thứ hai, dùng môn chữ A tối sơ làm cái Thể của chân ngôn, được gọi là “chủng tử tự” (chữ chủng tử), các tự môn khác đều nhằm trang nghiêm chữ này, do tự môn này chính là cội gốc của Bồ Đề tâm. Nay kiến tạo Đại Bi Tạng Sanh Mạn-đồ-la Vương: Trước hết, dùng nước thơm để sái tịnh, đều v́ tịnh trị tâm địa như thế, khiến cho nó ĺa các cấu uế. Nếu luận theo ngoại cảnh, th́ cũng là kim cang tâm địa được tŕ. V́ thế, các chữ khác đều trở thành tự môn này. Chữ A có nghĩa là “hết thảy các pháp vốn bất sanh”. Kế đó nói chữ Ba La (được phiên âm thành Bát La trong Chân Ngôn) th́ Ba là Đệ Nhất Nghĩa Đế, La là trần. Do hết thảy các chữ đều vào trong môn chữ A, tức là “trần cấu vốn chẳng sanh”. Trần cấu vốn chẳng sanh tức là Đệ Nhất Nghĩa Đế, Đệ Nhất Nghĩa Đế chính là nói tới Bồ Đề tâm thanh tịnh vậy. Kế đó [chân ngôn] có chữ Để, xét theo chánh thể th́ là Đa tự môn, do kèm theo âm thanh tam-muội nên chuyển thành chữ Để. “Để” có nghĩa là tâm, cũng có nghĩa là Như Như. Như Như trong tự tâm là tướng như thật, tức là Bồ Đề tâm thanh tịnh. Bồ Đề tâm thanh tịnh trong hết thảy các pháp đều chẳng đắm nhiễm, được gọi là Liên Hoa tam-muội. Người trụ trong tam-muội ấy, thậm chí tướng Không của các pháp cũng chẳng thể được. Đó gọi là “Đại Không của chư Phật”. Kế đó, nói đến Sa tự và Ma tự môn. Do Định và Huệ cân bằng, trọn đủ âm thanh tam-muội, nên nói là Tam Mê. Ở đây, chỉ xét theo tự môn để giải thích. Như trong các kinh luận Đại Thừa, xét theo Tứ Bất Sanh của Tứ Tất Đàn, dùng đủ mọi nhân duyên, thí dụ để rộng diễn môn chữ A, bèn có vô lượng câu nghĩa. Lại do trong hết thảy các ngôn ngữ đều kèm theo âm A, mỗi một tự môn đều có trọn đủ hết thảy các tự môn. Nếu hiểu ư, sẽ tự tại xoay chuyển mà nói; những điều sau đó, chẳng thể luận định đầy đủ được!

          Lại nữa, trong chân ngôn có tự nghĩa và cú nghĩa. Tự nghĩa th́ như trong phần trên đă nói. Nếu là cú nghĩa th́ “a bát la để tam mê” có nghĩa là “chẳng sánh bằng, chẳng thể so sánh được”, ư nói tâm địa Mạn-đồ-la vương này sanh ra hết thảy các ngôn ngữ, thí dụ, cho đến chẳng có một pháp nào có thể sánh bằng. Cho nên nói là “vô đẳng”. V́ sao như thế? Do trọn đủ các nghĩa như đă nói trong tự môn trên đây.

          Câu thứ ba có nghĩa là “như hư không”, ư nói tâm địa rốt ráo thanh tịnh, chẳng phân biệt, chẳng có ngằn mé, bằng với hư không. Lại nữa, Già tự môn có nghĩa là “hành”. Đó là Đại Không, có ư nghĩa “tự tại nơi pháp”. Do chữ Già nhập vào môn chữ A, hết thảy các pháp từ ban sơ cho tới nay đều vô sở hành. Như Lai từ trong các pháp ấy mà đạt đến Thật Tế. Lại c̣n là vô sở hành, do chẳng hành, nên trụ trong Đại Không, tự tại nơi pháp, tức là do tâm địa của ta rốt ráo bằng với Đại Không. Hăy nên biết tâm địa của đệ tử và đất nơi đạo tràng cũng lại giống như thế. V́ thế nói là “đẳng hư không” (bằng với hư không).

          Câu thứ tư có nghĩa là “đẳng tùy” (b́nh đẳng thuận theo); do đất Kim Cang bằng với hư không, tức là có thể b́nh đẳng trọn khắp hết thảy chúng sanh giới, hiện trọn khắp hết thảy các thân theo từng loài, cho nên có thể kham vẽ Mạn-đồ-la. Lại nữa, Sa nghĩa là Lậu, Ma nghĩa là Ta. Các chúng sanh giới ấy vốn chẳng sanh nên thảy đều như như. Do vậy, pháp giới chúng sanh rốt ráo b́nh đẳng. “Nỗ” là Đại Không tam-muội. Như Lai trụ trong Đại Không tam-muội này, chẳng hành, chẳng đến, mà cũng chẳng đến, đi, nhưng có thể đúng như tâm lượng để tùy duyên ứng hiện. V́ thế nói là “đẳng tùy”.

          Câu thứ năm nghĩa là “bản tánh thanh tịnh”, vẫn là cách diễn giải Bồ Đề tâm thanh tịnh thuộc môn chữ A, và có nghĩa là “nước thơm”. Như Lai dùng hương pháp giới Đẳng Chí[23] ḥa hợp với nước đại bi tam-muội, có thể rưới trọn khắp tâm địa của hết thảy chúng sanh, trừ khử cấu uế. V́ sao như thế? Do bổn tánh thanh tịnh. Như tánh của nước vốn tịnh, nên có thể trừ sạch các cấu uế. Nước thơm của Như Lai cũng thế, có thể tịnh hóa cái tâm của hết thảy chúng sanh.

          Kế đó, nói về ư nghĩa của câu thứ sáu, tức là “tịnh trừ pháp giới”. Giống như nước thơm rưới đất trừ ô uế. Như Lai cũng thế, dùng giới hương tánh tịnh ḥa hợp với bi thủy tánh tịnh, rưới trọn khắp tâm địa tánh tịnh của pháp giới chúng sanh, khiến cho hết thảy hư luận đều trừ sạch. Cũng nên dùng các tự môn để diễn rộng, do hết thảy các đức Như Lai đều cùng nói đại thệ như thế, gọi là Chân Ngôn. Lại nữa, pháp giới chính là chúng sanh giới, chúng sanh giới chính là tâm giới. Tâm giới chính là bản tánh thanh tịnh, bản tánh thanh tịnh tức là tới trọn khắp hết thảy, bằng với hư không. “Bằng với hư không” tức là môn chữ A không ǵ sánh bằng. Như hư không vô biên, hăy nên biết môn chữ A cũng là vô biên, vô nhiễm, chẳng biến đổi, bất động. Hăy nên biết môn chữ A cũng là vô nhiễm, chẳng biến đổi, bất động. Như hư không ĺa hết thảy các tướng mà chứa đựng muôn h́nh tượng, ĺa hết thảy tạo tác, mà sự nghiệp thế gian bởi đó mà được thành tựu. Môn chữ A cũng lại giống như thế, vô tướng, vô tác, mà trọn đủ vô tận trang nghiêm, thành tựu nghiệp phổ môn chẳng thể nghĩ bàn. Như thế th́ hăy nên dùng các loại môn tự tại để nói; nhưng lại có vô lượng vô biên pháp chưa từng có, hư không chẳng thể sánh ví được! V́ vậy, chân ngôn và chủng tử trong môn chữ A vượt ngoài các thí dụ tương cận.

          Câu cuối cùng là Sa Ha, có nghĩa là “cảnh tỉnh”. Do hết thảy các đức Như Lai vốn khi hành Bồ Tát đạo, đă cùng thấy nghĩa như thế, sẽ nhất định sư tử hống, thốt ra lời thành thật: “Ta phải nên dùng môn chữ A này để tịnh hóa trọn khắp vô tận chúng sanh giới. Nếu thệ nguyện này của ta chẳng dối, hễ có hết thảy chúng sanh tụng lời thành thật của ta, chẳng khuyết thiếu phép tắc, ắt sẽ đúng như sở nguyện mà đều được thỏa măn trọn vẹn. Ta nay do tùy thuận tam-muội-da giáo của Như Lai mà nói chân ngôn này, chỉ nguyện chẳng trái nghịch bổn thệ, khiến cho đạo tràng của ta trang nghiêm, thanh tịnh trọn đủ”. V́ thế, nói là Sa Ha. Chữ Sa Ha trong các chân ngôn thuộc phần sau có ư nghĩa tương đồng.

          Phàm là khi [hiến cúng] nội ngũ bảo, hăy nên như trước kính lễ mười phương chư Phật, mà thỉnh bạch rằng: “Ngày mai con sẽ tác pháp cầu thỉnh”. Từ ngày thứ ba hôm ấy trở đi, sẽ lần lượt lượng định [kích thước] và phương vị của Mạn-đồ-la lớn hay nhỏ, tức là to bốn khủy tay hay mười hai khủy tay. Cho đến vị trí, nơi chốn của các vị thánh và chư thiên, đều dùng bạch đàn để đánh dấu ghi nhớ. Nếu A-xà-lê chẳng thể nhớ trọn hết, th́ hoặc là vẽ h́nh tượng hoặc viết chữ để ghi nhớ, khiến cho mỗi mỗi phân minh. Dùng nước thơm sái tịnh xong, hăy nên dùng bạch đàn để tô trát cái đàn tṛn, to chừng bằng mười hai ngón tay.

          Thoạt đầu, đặt vị trí của Đại Nhật Thế Tôn ở Trung Đài Thai Tạng. Kế đó, ở phương Đông là chỗ của bậc Đại Cần Dũng, đặt vị trí của hết thảy Như Lai. Phương Đông Nam là chỗ của Chân Đà Ma Ni (Như Ư Bảo Châu), đặt tọa vị của hết thảy các Bồ Tát. Kế đến, phương Đông Bắc là chỗ của Hư Không Nhăn, đặt tọa vị của Phật mẫu. Kế đó, bên phải của đức Đại Nhật đặt tọa vị của ngài Liên Hoa Thủ. Kế đó, bên trái của đức Đại Nhật, đặt tọa vị của ngài Kim Cang Thủ. Kế đó, ở góc Tây Nam, đặt tọa vị của thánh giả Bất Động, góc Tây Bắc đặt tọa vị của ngài Hàng Tam Thế. Phía chánh Tây là chỗ để trổ cửa, tức là nơi A-xà-lê trụ, là chỗ để tu cúng dường Du Già.

 

          (Kinh) Hành giả thứ ư trung, định ư quán Đại Nhật, xử bạch liên hoa ṭa, phát kế dĩ vi quan, phóng chủng chủng sắc quang, thông thân tất châu biến. Phục đương ư Chánh Thọ, thứ tưởng tứ phương Phật. Đông phương hiệu Bảo Tràng, thân sắc như nhật huy. Nam phương Đại Cần Dũng, Biến Giác Hoa Khai Phu, kim sắc phóng quang minh, tam-muội ly chư cấu. Bắc phương Bất Động Phật, ly năo thanh lương định. Tây phương Nhân Thắng giả, thị danh Vô Lượng Thọ. Tŕ tụng giả tư duy, nhi trụ ư Phật thất, đương thọ tŕ thị địa, dĩ Bất Động đại danh, hoặc dụng Hàng Tam Thế, nhất thiết lợi thành tựu. Bạch đàn dĩ đồ họa, viên diệu Mạn-đồ-la. đệ nhất ngă thân, đệ nhị chư cứu thế, đệ tam đồng bỉ đẳng, Phật mẫu Hư Không Nhăn, đệ tứ Liên Hoa Thủ, đệ ngũ Chấp Kim Cang, đệ lục Bất Động Tôn, tưởng niệm trí kỳ hạ. Phụng đồ hương, hoa đẳng, tư niệm chư Như Lai, chí thành phát ân trọng, diễn thuyết như thị kệ: Chư Phật từ bi giả, tồn niệm ngă đẳng cố, minh nhật thọ tŕ địa, tịnh Phật tử đương giáng.

          ()行者次於中,定意觀大日,處白蓮華座,髮髻以為冠,放種種色光,通身悉周遍。復當於正受,次想四方佛,東方號寶幢,身色如日暉;南方大勤勇,遍覺華開敷,金色放光明,三昧離諸垢;北方不動佛,離惱清涼定;西方仁勝者,是名無量壽。持誦者思惟,而住於佛室,當受持是地,以不動大名,或用降三世,一切利成就。白檀以塗畫,圓妙漫羅,第一我身,第二諸救世,第三同彼等,佛母虛空眼,第四蓮華手,第五執金剛,第六不動尊,想念置其下。奉塗香華等,思念諸如來,至誠發殷重,演說如是偈:諸佛慈悲者,存念我等故,明日受持地,并佛子當降。

                (Kinh: Kế, hành giả trong ấy, định ư quán Đại Nhật, ngự trên ṭa sen trắng, búi tóc dùng làm măo, phóng quang đủ màu sắc, trọn khắp toàn bộ thân. Lại nên trong Chánh Thọ, kế tưởng bốn phương Phật. Phương Đông hiệu Bảo Tràng, thân sắc vầng nhật rạng. Đại Cần Dũng phương Nam: Biến Giác Hoa Khai Phu, sắc vàng, phóng quang minh, tam-muội ĺa các cấu. Phương Bắc Bất Động Phật, ĺa năo, định trong mát. Bậc Nhân Thắng phương Tây, tên là Vô Lượng Thọ. Người tŕ tụng tư duy, bèn trụ trong Phật thất, nên thọ tŕ đất này, dùng Bất Động đại danh, hoặc dùng Hàng Tam Thế, hết thảy lợi thành tựu. Dùng bạch đàn tô vẽ, Mạn-đồ-la viên diệu. Thứ nhất là thân ta, thứ hai các cứu thế. Thứ ba giống như họ. Phật mẫu Hư Không Nhăn. Thứ tư Liên Hoa Thủ. Thứ năm Chấp Kim Cang. Thứ sáu Bất Động Tôn, tưởng niệm đặt phía dưới. Dâng hương bôi, hoa thảy, nghĩ nhớ các Như Lai. Chí thành tâm trân trọng, diễn nói kệ thế này: “Chư Phật đấng từ bi, do nghĩ tưởng chúng con, ngày mai thọ tŕ đất, mong Phật tử sẽ giáng”).

 

          Kinh nói: “Sơ đệ nhất ngă thân” (đầu tiên là thân ta), tức là tọa vị của Tỳ Lô Giá Na, đem năm vị Phật cùng xếp vào một đàn tràng. “Đệ nhị chư cứu thế” (thứ hai là các đấng cứu thế), tức là chư Phật, Bồ Tát, cũng chia thành hai tọa vị. “Đệ tam bỉ đồng đẳng” (thứ ba là những vị ngang bằng [với Phật, Bồ Tát]) tức là Phật mẫu[24]. Như Lai được gọi là Vô Đẳng, mà Bát Nhă Ba La Mật là Vô Đẳng Đẳng, nên nói là “bỉ đồng đẳng” (cùng ngang hàng với các vị ấy, tức ngang hàng với các vị Phật, Bồ Tát). Thứ tư là Liên Hoa Thủ (Padmapāṇi)[25], thứ năm là Kim Cang Bộ Chủ, thứ sáu là Bất Động Tôn, như vậy th́ Hàng Tam Thế cũng có thể biết. Những vị này đều là Thành Biện Chư Sự Tŕ Minh. Hăy nên biết: Nêu ra sáu vị ấy, sẽ thống nhiếp hết thảy các vị tôn thánh. Làm như thế xong, hăy nên sắp đặt hương, hoa, vật cúng dường giống như nghi thức trong phần nói về Thứ Tự Cúng Dường.

          Sau đấy mới quán cung điện bảo vương trên đài hoa sen báu. Trong đó, trải ṭa, đặt trên ṭa là một đài sen trắng. Dùng môn chữ A chuyển thành thân Đại Nhật Như Lai, sắc vàng tía Diêm Phù Đàn được giồi mài sáng bóng. Ngài có h́nh tượng như Bồ Tát, búi tóc trên đỉnh đầu giống như cái măo. Toàn thân tỏa ra đủ loại ánh sáng nhiều màu, đắp y bằng lụa trắng nhẹ. Đó là biểu trưng của Thủ Đà Hội Thiên[26] thành Tối Chánh Giác. Chư thánh và thiên chúng trong cơi ấy, y phục nhẹ đẹp, thậm chí chẳng có thù, lượng[27], bản chất trang nghiêm, thanh tịnh, chẳng cần nhờ vào phục sức bên ngoài. V́ thế, đức Thế Tôn rủ ḷng hiện h́nh tượng giống như vậy.

          Nếu giải thích theo cách bí mật, sâu xa, tướng diệu nghiêm của Như Lai pháp vốn sẵn như thế, chẳng giảm, chẳng do tạo tác tạo thành. V́ thế, chẳng dùng chất báu bên ngoài để trang sức. Thậm chí các vị Thập Trụ Bồ Tát, do nương vào thần lực của Phật, được thấy thân gia tŕ, đối với cái Thể thường tịch đều như nh́n qua một lớp the mỏng. V́ thế, dùng đó để sánh ví. Vàng Diêm Phù cũng tự nhiên là bổn tánh thanh tịnh, màu lại thẫm nhất, nêu tỏ kim cang trí thể của đức Phật sâu mầu nhất. Toàn thân Ngài tỏa ra đủ loại quang minh, tức là ánh sáng phổ môn khai thị đại huệ. Kế đó, từ tám cánh sen nơi bốn phương, quán tứ phương Phật. Phương Đông bèn quán Bảo Tràng Như Lai (Ratnaketu) như mặt trời mới mọc, hiện sắc trắng xen đỏ. Bảo Tràng nghĩa là “phát Bồ Đề tâm”. Thí như tướng quân thống ngự đại chúng, phải vận dụng tràng cờ [để điều khiển] th́ các đội quân mới hoạt động thống nhất, có thể phá tan nước địch, lập đại công danh. Như Lai vạn hạnh cũng lại như thế, dùng nguyện Nhất Thiết Trí làm tràng cờ, dưới cội Bồ Đề hàng phục bốn loại ma quân. Do vậy lấy đó làm tên. Sắc như mặt trời sớm mai, cũng có ư nghĩa tương ứng.

          Phương Nam quán Sa La Thụ Vương Hoa Khai Phu Phật (Sajkusumita-rāja), thân tướng kim sắc, phóng quang minh trọn khắp, chính là tướng biểu thị trụ trong Ly Cấu tam-muội. Bắt đầu từ chủng tử của Bồ Đề tâm, trưởng dưỡng đại bi vạn hạnh, nay thành giác ngộ trọn khắp, vạn đức nở x̣e. Do vậy, đặt tên như thế. Ly Cấu có nghĩa là Đại Không. Khi chứng Đại Không, giống như vàng ṛng luyện trăm lần, các cấu uế đều trừ sạch. Thân tướng của Phật cũng thế. Đó là loại vàng thượng diệu trong thế gian, nếu đem so với vàng Diêm Phù Đề th́ màu sắc kém hơn, mà c̣n hơi ô trược, chẳng được tự nhiên tươi tắn, sáng sạch như vàng Diêm Phù. Do vị Phật ở trên cánh sen từ nhân duyên tâm lượng mà sanh, cho nên kém hơn.

          Kế đó, tại phương Bắc quán Bất Động Phật. Quán Ngài ĺa nhiệt năo, thanh lương trụ trong tướng tịch định. Đấy là trí Niết Bàn của Như Lai; do vậy, có ư nghĩa Bất Động, chẳng phải là danh xưng vốn có của Ngài. Danh hiệu vốn có của Ngài là Cổ Âm Như Lai (tức Thiên Cổ Lôi Âm Như Lai, Divyadundubhi-meghanirghoṣa), như trống cơi trời đều chẳng có h́nh tướng, mà cũng chẳng có trụ xứ, nhưng có thể diễn nói pháp âm, cảnh tỉnh, giác ngộ chúng sanh. Đại Bát Niết Bàn cũng lại giống như thế, chẳng như Nhị Thừa vĩnh viễn tịch diệt, trọn chẳng có diệu dụng. Do vậy, dùng điều này để sánh ví.

          Kế đó, tại phương Tây quán Vô Lượng Thọ Phật (Amitāyus). Đấy là trí phương tiện của Như Lai. Do chúng sanh giới vô tận, phương tiện đại bi của chư Phật cũng chẳng có cùng tận. Do vậy, tên là Vô Lượng Thọ. Âm tiếng Phạn là Nhĩ Nhĩ, tức là “nhân giả (bậc nhân từ). Lại do hàng phục tứ ma, nên gọi là Thắng. Do vậy, kệ dịch trọn đủ ư nghĩa này, gọi Ngài là “Nhân Thắng Giả” (bậc nhân từ thù thắng). Cũng vẽ hai vị Phật này có màu vàng ṛng, mắt nhắm hờ, nh́n xuống dưới, ra vẻ nhập Tịch Diệt tam-muội. [Vẽ, tạc h́nh tượng] chư Phật đều theo lệ ấy.

          Bốn góc hoa đài có bốn vị Bồ Tát, như kinh văn trong phần sau sẽ nói. Đối với tọa vị của hết thảy Như Lai, chỉ quán một vị Phật ở trong kim đàn, sẽ giống như thân của hết thảy các đức Phật. Những vị khác đều dựa theo h́nh tượng, vị trí được nói trong kinh, đều nên chuyển chữ thành thân (tức là quán tưởng chữ chủng tử của mỗi vị ấy đều biến thành thân Phật hoặc Bồ Tát tương ứng), khiến cho mỗi mỗi đều rành rẽ. Phàm là cách chuyển chữ trong Mạn-đồ-la, đối với mỗi vị tôn thánh, đều dùng chữ chủng tử của chính vị ấy, hoặc dùng chữ thông dụng thống nhiếp các bộ khác, như các chữ A, Sa, Phạ tương ứng với ba bộ. Nếu sợ bậc A-xà-lê hạnh cạn chẳng thể xoay chuyển [để quán tưởng] nhanh chóng như thế, chỉ quán môn chữ A sanh ra vô lượng quang, quang minh chiếu tới đâu liền hiện thân của vị tôn thánh đó. C̣n như hành pháp sự trong đêm, cũng đều phỏng theo lệ này.

          Khi tu quán hạnh, trước tiên dùng năm chữ để gia tŕ thân, như trong Cúng Dường Pháp đă nói: Quán tự tâm thành hoa sen tám cánh. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Ô Lật Đà tâm[28] của phàm nhân có h́nh dạng giống như hoa sen c̣n búp chưa nở, có gân, mạch, ước chừng chia thành tám phần, đàn ông th́ hướng lên trên, đàn bà th́ hướng xuống dưới”. Trước tiên, quán đóa sen ấy nở x̣e thành ṭa sen trắng tám cánh. Trên đài ấy, hăy nên quán chữ A có màu kim cang, trên đầu đặt Bách Quang Biến Chiếu Vương (Tỳ Lô Giá Na Phật), dùng Vô Cấu Nhăn để quán. Dùng chữ ấy để tự gia tŕ, liền thành thân đức Tỳ Lô Giá Na. Dùng phương tiện này để quán thân Tỳ Lô Giá Na cùng với thân ta chẳng hai, chẳng khác. [Vị trí] ở giữa hai vị minh vương [Bất Động và Hàng Tam Thế thuộc phía Tây của Mạn-đồ-la] th́ gọi là “trụ trong Phật thất”. Tới khi vẽ xong Mạn-đồ-la, A-xà-lê dời chỗ ngồi ra ngoài cửa đàn tràng, ở vị trí Phật thất ấy, vẽ h́nh vị tôn thánh ḿnh kính chuộng, hoặc đặt kinh Bát Nhă, chất đầy vàng, chất báu để trang hoàng, cúng dường. Hoặc đặt xâu chuỗi ḿnh thường cầm, hoặc chày kim cang, hoặc kim cang đạc (chuông kim cang) v.v…

          Lại nữa, khi sắp chọn cuộc đất để tịnh trị, hăy nên tự quán Như Ư Bảo Châu trên hoa sen trong tâm, trong ngoài trong suốt. Khi quán sát kỹ càng, tất cả các tướng thiện ác thảy đều hiện trong ấy. A-xà-lê liền dùng huệ phương tiện để chọn lựa, tịnh trị, khiến cho kiên cố, bằng phẳng. Quán tâm đệ tử cũng như thế, sẽ có thể lănh hội chỉ thú sâu xa trong ấy. Hành giả trụ nơi Phật thất, đúng như trên mà quán tôn thánh xong, sẽ chuyển chữ A thành Phạ, dùng Kim Cang Tát Đỏa để gia tŕ tự thân, dâng hương bôi, hoa v.v… đúng như pháp cúng dường, đều như sẽ nói rộng trong pháp thứ tự thuộc phần sau. Sau đấy, dấy ḷng đại bi, chí thành trân trọng, tụng A Lợi Sa kệ thỉnh bạch như kinh văn dạy.

          Nay giữ nguyên âm tiếng Phạn như sau:

 

          (Kinh) Tam mạn phạ ha lan (tồn niệm dă), đổ mê (ngă dă) tát ra bệ (nhất thiết dă), nhĩ nẵng (nhân giả dă, tức chư Phật) ca lô noa đát măng ca (bi giả), bộ mê bát rị bệ ra ha (thỉnh thọ tŕ địa), ca lê dă (tác dă), sa bổ đát lệ (tịnh Phật tử dă), thấp vụ nễ na để duệ.

          ()三漫嚩訶(存念也)覩迷(我也)薩囉鞞(一切也)爾曩(仁者也,即諸佛)。迦盧拏怛莾迦(悲者)部迷鉢𭌆薜囉訶(請受持地)。迦𠼝(作也)。娑補怛(并佛子也)。濕務儞那𫪭曳。

    (Kinh: Tam mạn phạ ha lan (nghĩ nhớ), đổ mê (con) tát ra bệ (hết thảy), nhĩ nẵng (nhân giả, tức chư Phật), ca lô noa đát măng ca (từ bi), bộ mê bát rị bệ ra ha (xin thọ tŕ đất), ca lê dă (thực hiện), sa bổ đát lệ (và Phật tử), thấp vụ nễ na để duệ).

 

          Ư của bài kệ là: Chư Phật là các đấng bi mẫn, xin hăy nghĩ nhớ chúng con. Con nay thỉnh bạch, xin hăy thọ tŕ pháp trị địa và các Phật tử. Ngày mai, [xin các Ngài] cùng giáng lâm để chứng minh. Chữ “tồn niệm” trong tiếng Phạn có nghĩa là xin giáng hiện. Tọa vị trong bạch đàn Mạn-đồ-la:

(4) Phật mẫu Hư Không Nhăn

Đông(mộc)

(2) Tọa vị của hết thảy chư Phật

(3) Tọa vị của hết thảy Bồ Tát

Bắc (thủy)

(6) Liên Hoa Thủ

(1) Tọa vị của ngũ Như Lai

Nam (hỏa)

(5) Kim Cang Thủ

(8) Hàng Tam Thế Tôn

Tây(kim)

(9) Tọa vị của A-xà-lê

(7) Thánh Bất Động Tôn

 

          Đến chiều ngày thứ năm, lại nên theo thứ tự, trọn đủ các pháp tắc, khéo tự trang nghiêm thân, quán nhập vị trí trong Mạn-đồ-la, phụng thỉnh, kết giới, hộ thân v.v… mỗi mỗi đều đầy đủ xong, hăy nên tụng [chân ngôn của] Bất Động Minh Vương, hoặc [chân ngôn của] tôn thánh Hàng Tam Thế, và mật ấn tương ứng, trọn một trăm lẻ tám biến gia tŕ trong ấy. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Từ ngày thứ ba trở đi, mỗi ngày vào lúc ba thời niệm tụng, đều tụng Bất Động chân ngôn một trăm lẻ tám lần để gia tŕ cuộc đất. Không chỉ nơi đây, mà nên dùng vào hết thảy các chốn. Lại từ ngày thứ nhất cho tới ngày thứ ba, nếu có chướng nạn, hăy nên thu dọn, đ́nh chỉ. Nếu đă vẽ xong các phương vị trong bạch đàn, mà nếu có các thứ ma sự, hai đằng chẳng ḥa hợp, phải nên siêng năng tăng thêm phương tiện, ắt khiến cho được thành tựu. Những điều khác như đă nói trong kinh Cù Hê[29]”. Đêm thứ năm, tụng Bất Động chân ngôn xong; kế đó, hăy nên đối với thân Đại Nhật Như Lai, liền tụng Tŕ Địa chân ngôn, và kết tam-muội-da ấn, nói chân ngôn ấy như sau:

 

          (Kinh) Như thị thuyết dĩ, phục đương tụng thử chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát bà đát tha yết đa, địa sắt xá na, địa sắt chỉ đế, a giả lệ, vi ma lệ, sa ma ra năi, bát ra cật lật để bát lư thâu đệ, sa ha.

          ()如是說已。復當誦此真言曰南麼三曼多勃馱喃。薩婆怛他揭多。地瑟那地瑟祉帝。阿者麗。微麼麗。娑麼囉。鉢囉吃𫪭鉢履輸睇。莎訶。

          (Kinh: Nói như thế xong, lại nên tụng chân ngôn này như sau: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát bà đát tha yết đa, địa sắt xá na, địa sắt chỉ đế, a giả lệ, vi ma lệ, sa ma ra năi, bát ra cật lật để bát lư thâu đệ, sa ha).

 

          Câu đầu tiên là quy mạng hết thảy chư Phật. Câu thứ hai và câu thứ ba có nghĩa là: Dùng sự gia tŕ của hết thảy các Như Lai để gia tŕ. Ư nói: Như đạo tràng kim cang ấy cùng được duy tŕ bởi thần lực của hết thảy các Như Lai, nay khiến cho cuộc đất này cũng giống như thế. Hơn nữa, con đă b́nh trị tâm địa thanh tịnh của đệ tử xong. Đấy là chỗ để tâm vương Như Lai vẽ Đại Bi Tạng Mạn-đồ-la. Con nay nói lời thành thật, dùng thần lực của hết thảy Như Lai để gia hộ, khiến cho được kiên cố, bất động. Câu thứ tư nói “a giả lệ” (acale) có nghĩa là bất động. Câu thứ năm là “vi ma lệ” (vimale) có nghĩa là “vô cấu”. Ư nói: Do được thần lực của hết thảy Như Lai gia tŕ, khiến cho [tâm địa ấy] đạt được an ổn, vững vàng, bất động. Không chỉ bất động mà thôi, lại c̣n khiến cho ĺa hết thảy cấu. Chính là lấy chữ A đầu tiên trong câu thứ tư làm cái Thể của chân ngôn. Như Lai dùng pháp ǵ để gia tŕ mà có thể khiến cho rốt ráo chẳng khuynh động? Chính là do dùng môn chữ A này mà có lực dụng như thế. Câu thứ sáu có nghĩa là “nghĩ nhớ, ǵn giữ”, giống như tỳ-kheo tác pháp Yết Ma[30], khiến cho chúng tăng ḥa hợp, cùng nhau thọ tŕ. Nay chân ngôn này cũng thế, dùng chữ A để gia tŕ xong, do thỉnh hết thảy Như Lai nghĩ nhớ bổn thệ nên [các Ngài] cùng thọ tŕ. Câu thứ bảy có nghĩa là “bản tánh thanh tịnh”, đấy là diễn giải câu trước. Cớ sao chư Phật cùng tâm niệm gia tŕ? Do bản tánh thanh tịnh. Nếu pháp nhập vào môn chữ A, tức là vốn sẵn vô động, vô cấu. Mười phương ba đời chư Phật do bởi nghĩa ấy, đều có cùng một giới, một kiến giải, cho nên cùng chung gia tŕ. Câu cuối cùng là Sa Ha, như Tăng chúng đă yết-ma xong, bèn thêm câu “nhẫn khả, ấn chứng thành tựu”. Nếu lời chân thành do con thốt ra nhất định chẳng sai lầm, kính mong chư Phật do chẳng vượt tam-muội-da, sẽ khiến cho nó được thực hiện viên măn. Tất cả ư nghĩa của các chữ ở đây cũng nên rộng nói phân biệt.

          Khi đó, A-xà-lê nên đi tới phía ngoài phương vị của hết thảy các đức Như Lai ở phương Đông, vừa hướng về phương Đông, vừa tụng tŕ chân ngôn hoặc ba lượt, hoặc bảy lượt, sẽ có thể tạo nhiều lợi ích. Kế đó, đi về phương Nam rồi đi sang phương Tây. Kế đó, đi sang phương Bắc, đều đi sau lưng của phương vị trong bạch đàn mà tŕ tụng. Xong hết một ṿng như thế; kế đó, đến chỗ của Hư Không Nhăn: Trước hết, hướng góc Đông Bắc xoay lưng vào phương vị trong đàn (tức phương vị của Hư Không Nhăn Phật Mẫu) mà tụng niệm. Kế đó, đi sang hướng Đông Nam, kế đó tới phương Tây Nam, sau đó đi sang Tây Bắc. Giáp một ṿng xong, hăy nên chí thành làm lễ, cúng dường các thứ, trở về chỗ ngồi của A-xà-lê, ngồi hướng mặt về phương Đông, tụng chân ngôn mà ḿnh vốn được thọ tŕ, trụ trong Bổn Tôn tam-muội, đều đúng như thứ tự được nói trong phần Cúng Dường. Lại theo thứ tự, tŕ chân ngôn của các vị tôn thánh trong bạch đàn, và cũng kết ấn của các Ngài.

          [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Trước hết, tŕ chân ngôn của Bộ Chủ Đại Nhật Phật một trăm lẻ tám lượt, c̣n tám vị khác [trong Trung Đài Bát Diệp], xem chân ngôn của các vị ấy dài hay ngắn mà tŕ. Nếu lại có thể tụng th́ kiêm tŕ [chân ngôn] của bốn vị Bồ Tát thuộc viện thứ hai, các vị tôn thánh thượng thủ như Phật Thích Ca trong viện thứ ba, cho đến tụng trọn hết [chân ngôn] của chư vị cũng được”. Chỉ cần chất bùn tô trát nơi các phương vị trong bạch đàn đă khô, rải nước thơm [để sái tịnh] xong th́ liền có thể tác pháp, cũng chẳng cần nhất định phải khởi sự trong ngày thứ tư. Kể từ khi sắp xếp xong, đều cần nương theo đó để tŕ tụng. Đối với pháp sự ban đêm, cũng chuẩn theo lệ này mà biết.

 

          (Kinh) Tŕ Chân Ngôn hành giả, thứ phát bi niệm tâm, y ư bỉ Tây phương, hệ niệm dĩ an tẩm, tư duy Bồ Đề tâm, thanh tịnh trung vô ngă. Hoặc ư mộng trung kiến, Bồ Tát đại danh xưng, chư Phật vô hữu lượng, hiện tác chúng sự nghiệp, hoặc dĩ an úy tâm, khuyến chúc ư hành giả: “Nhữ niệm chúng sanh cố, tạo tác Mạn-đồ-la. Thiện tai Ma Ha Tát! Sở họa thậm vi diệu”.

          ()持真言行者,次發悲念心,依於彼西方,繫念以安寢,思惟菩提心,清淨中無我。或於夢中見,菩薩大名稱,諸佛無有量,現作眾事業,或以安慰心,勸囑於行者:汝念眾生故,造作漫羅,善哉摩訶薩,所畫甚微妙。

    (Kinh: Hành giả tŕ Chân Ngôn, bèn phát tâm bi niệm, nương vào chỗ phương Tây, hệ niệm rồi ngủ yên, tư duy Bồ Đề tâm, trong thanh tịnh vô ngă. Hoặc là trong mộng thấy, Bồ Tát thanh danh lớn, chư Phật nhiều vô lượng, hiện làm các sự nghiệp, hoặc dùng tâm an ủi, khuyên, dặn ḍ hành giả: “Ngươi nghĩ tới chúng sanh, tạo tác Mạn-đồ-la. Lành thay Ma Ha Tát! Vẽ đàn rất vui diệu!”)

 

          Trong đêm thọ tŕ đất, A-xà-lê đúng như pháp tŕ tụng xong, cho tới dùng kim cang phúng vịnh để ca ngợi trọn khắp chư Phật, Bồ Tát. Ngồi yên lặng mệt mỏi cùng cực, liền ở chỗ đă đặt đàn tràng, đúng như pháp mà hộ thân, liền nằm ở phía Đông. Hăy nên sanh ḷng đại bi thương xót tột bậc đối với đệ tử được hóa độ. Nếu [vâng theo nghi quỹ] Cù Hê Thả Đát Ra (Guhyatantra) thọ tŕ đất xong, lại có cách kết tô-đa-la (dây chỉ ngũ sắc) để thọ tŕ đệ tử danh hiệu. Khi vị ấy ngủ nghỉ, hăy nên tư duy: “Hết thảy các pháp thuộc môn chữ Ma () trên đài hoa sen trong tâm, ta đều chẳng thể đạt được, tức là Bồ Đề tâm chẳng chướng ngại, mà cũng là Như Ư Bảo Châu”. Lại nói: “Châu Như Ư ấy chỉ là môn chữ A đó thôi! Vị A-xà-lê ấy sẽ ở trong mộng, hoặc là thấy vô lượng chư Phật và Bồ Tát là các bậc có thanh danh to lớn, thị hiện tạo tác các sự nghiệp, tức là thuận theo các loại chúng sanh đáng được hóa độ mà dùng tam luân (thân, miệng, ư) để hướng dẫn, hoặc đích thân sắp đặt, kiến lập Đại Bi Sanh Mạn-đồ-la, hoặc dùng âm thanh vi diệu để an ủi, khuyên nhủ, căn dặn rằng: “Ngươi nay do nghĩ thương xót chúng sanh, tạo tác Mạn-đồ-la này. Lành thay Ma Ha Tát Đỏa! [Mạn-đồ-la] do ngươi đă vẽ hết sức vi diệu!” Các cảnh giới như thế, A-xà-lê hăy nên dùng huệ tâm để khéo quyết trạch. Hăy nên biết chư thánh đă cùng gia tŕ cuộc đất ấy, có thể tùy ư tác pháp. Nếu có chướng ngại, hăy nên thực hiện phương tiện hộ-ma tương ứng để tịnh trừ. Hăy nên phát tâm Đại Cần Dũng mong cho việc làm được thành tựu.

          Lại nữa, nếu A-xà-lê kiến đế, th́ nơi Như Ư Châu trong Liên Hoa tam-muội thuộc Bồ Đề tâm thanh tịnh, tự nhiên thấy rơ nhân duyên có chướng hay không có chướng rành rành vô ngại. Vị Phật trong tâm hiện tiền căn dặn, truyền trao, nhằm giải quyết nghi vấn [của A-xà-lê]. Nếu như nhận biết ma sự, hăy nên dùng đại phương tiện đại trí huệ để xoay chuyển, thực hiện pháp hộ-ma, nhằm khiến cho cái tâm hành tŕ chẳng lay động, chẳng lui sụt, kham kiến lập pháp giới Mạn-đồ-la. Sau đó mới nghỉ ngơi.

          Lại nữa, A-xà-lê kể từ lúc nhắc nhở địa thần trở đi, chớ nên ĺa bỏ cuộc đất đạo tràng như thế, luôn ở trong ấy, gia tŕ, niệm tụng, quán sát cặn kẽ: Hễ chỗ nào chưa ngay ngắn, bằng phẳng, liền lập tức sửa sang. Lại tư duy chi phần của các duyên, khiến cho đều trọn đủ, chớ để lúc gặp chuyện bị khuyết thiếu, khiến cho nghi hoặc nẩy sanh. Tự thọ tŕ đất xong, hăy nên ngay lập tức quy hoạch giới hạn, khu vực, ấn định chắc chắn từng phương vị. Tới đêm quán đảnh, mới tạo h́nh tượng các tôn thánh. Nếu không thể nhanh chóng hoàn thành, sau khi tŕ địa, sẽ lần lượt thực hiện th́ cũng không phạm lỗi ǵ!

 

          (Kinh) Phục thứ ư dư nhật, nhiếp thọ ưng độ nhân. Nhược đệ tử tín tâm, sanh chủng tánh thanh tịnh, cung kính ư Tam Bảo, thâm huệ dĩ nghiêm thân, kham nhẫn vô giải quyện, Thi La tịnh vô khuyết, nhẫn nhục, bất xan lận, dũng kiện, kiên hạnh nguyện, như thị ưng nhiếp thủ, dư tắc vô sở quán. Hoặc thập, hoặc bát, thất, hoặc ngũ, nhị, nhất, tứ, đương tác ư quán đảnh, nhược phục số quá thử.

          ()復次於餘日,攝受應度人,若弟子信心,生種姓清淨,恭敬於三寶,深慧以嚴身,堪忍無懈倦,尸羅淨無缺,忍辱不慳悋,勇健堅行願,如是應攝取,餘則無所觀。或十或八七,或五二一四,當作於灌頂,若復數過此。

                (Kinh: Lại nữa, vào ngày khác, nhiếp thọ người đáng độ. Nếu đệ tử tín tâm, sanh chủng tánh thanh tịnh, tâm cung kính Tam Bảo, huệ sâu trang nghiêm thân, kham nhẫn, không lười mệt. Giới thanh tịnh chẳng khuyết, nhẫn nhục, chẳng keo kiệt, mạnh mẽ, hạnh nguyện vững. Nên nhiếp người như thế, những điều khác chẳng màng. [Số người được quán đảnh], hoặc mười, hoặc tám, bảy, hoặc năm, hai, một, bốn, nên thực hiện quán đảnh, [nếu là kẻ kết duyên], lại vượt hơn số ấy).

 

          Kinh dạy: “Phục thứ ư dư nhật, nhiếp thọ ưng độ nhân” (lại trong ngày kế tiếp, bèn nhiếp thọ kẻ đáng được độ) nói về chi phần “nhiếp thọ, kiến lập, hộ tŕ đệ tử”. Thọ tŕ địa xong, kế đến nói trong ban đêm hăy nên thực hiện tác pháp cho đệ tử. V́ thế nói là “dư nhật” (ngày khác). Do đó, rộng biện định tướng trạng của hàng đệ tử đáng độ.

          Kệ nói “nhược đệ tử tín tâm” (nếu đệ tử có tín tâm) là nói A-xà-lê quán căn tánh hiện tại, hoặc nhân duyên xa xôi của người ấy, [thấy người ấy] trong các phương tiện thuộc ba thứ bí mật trong duyên khởi chẳng thể nghĩ bàn, đều tin tưởng thẳng thừng, chẳng ngờ, chẳng hề sợ hăi, bèn có thể nhiếp thọ. Những điều khác như đă nói trong phần luận về phẩm đức của người thầy.

          Kệ nói: “Sanh chủng tánh thanh tịnh” tức là [người đệ tử ấy] sanh trong các ḍng họ to lớn thuộc bốn chủng tánh như Bà La Môn v.v… Nếu là Chiên Đà La v.v… th́ người ấy do kế tục pháp tắc của gia đ́nh, đă quen làm chuyện chẳng thanh tịnh, tánh nhiều tệ ác. Nếu v́ kẻ đó truyền pháp quán đảnh ḥng lưu thông đại pháp, sẽ khiến cho kẻ khác sanh ḷng khinh mạn, hoặc tạo thành nhân duyên chướng ngại pháp. Ngay như truyền Cụ Túc Giới cho tỳ-kheo, cũng loại trừ kẻ hủy nhục tăng chúng, hoặc chủng tánh cực hèn tệ. Nếu chỉ là kết duyên thọ pháp, sẽ chẳng cần phải bàn tới [những điều ấy]! Lại nữa, từ lâu xa tới nay, người đă từng có nhân duyên phát Bồ Đề tâm th́ tức là sanh trong chủng tánh của Như Lai, chính là ḍng tộc thù thắng nhất!

          Kệ nói: “Cung kính ư Tam Bảo”, tức là đối với Phật, Pháp, chúng Tăng khởi tâm thuần hậu, khiêm hạ, thường chuộng thân cận, tôn trọng, cúng dường, tán thán. Hăy nên biết người ấy đă có nhân duyên hành đạo từ thời trước, thậm chí như Thường Bất Khinh Bồ Tát. Đó gọi là “kính trọng sâu xa hết thảy chúng sanh”, tin Phật, Pháp, Tăng Bảo. “Thâm huệ dĩ nghiêm thân” (dùng trí huệ sâu xa để trang nghiêm thân), Phật pháp như hư không vô biên như thế, kẻ kém trí huệ sẽ chẳng thể kham nổi. V́ thế, người trí tánh sâu xa, bén nhạy, tự dùng đó để trang nghiêm, cho đến v́ người khác nói (thuyết pháp). “Kham nhẫn vô giải quyện” (Kham nhẫn, chẳng lười nhác, mệt mỏi): Đấy nghĩa là người kham thực hiện, chẳng có thoái khuất. Âm gốc trong tiếng Phạn khác với Nhẫn Nhục, tức là nhân duyên cầu pháp tuy đủ mọi chuyện khó khăn, nhưng [người ấy] đều có thể làm được. Giả sử một lượt chẳng thành, lại càng ra sức tu tập, như thề tát cạn biển cả mới thôi. Nếu người có chí tánh như thế, sẽ có thể truyền pháp. “Thi La tịnh vô khuyết” (Giới hạnh thanh tịnh, chẳng thiếu sót), tức là đối với luật nghi tại gia và xuất gia, cho tới đối với thọ lănh các giới cấm thuộc về bản tánh, hễ phụng tŕ bèn thâm tâm ǵn giữ, bảo vệ, chẳng hề hủy hoại, thiếu sót. Nếu là người có tánh như thế, dẫu nhập tam-muội-da b́nh đẳng đại thệ, cũng sẽ kính thuận, chẳng trái nghịch, cho nên có thể kham truyền pháp.

          “Nhẫn nhục, bất xan lận” (nhẫn nhục, chẳng keo kiệt): Ở đây, chia thành hai câu. Nhẫn nhục tức là đối với tám loại gió lớn cảnh giới “trong, ngoài, nghịch, thuận”, tâm đều an nhẫn, chẳng khuynh động, như trong Trí Độ Luận đă nói rộng về Thi La Ba La Mật. Hăy nên biết người ấy ắt chẳng vi phạm trọng cấm của tŕ minh (giới cấm trong pháp môn Chân Ngôn), làm chuyện bất lợi cho chúng sanh, cho nên có thể kham truyền pháp. Chẳng keo kiệt, tức là đối với tất cả tài và pháp, thường nghĩ bố thí cho người khác. Nếu có người đến cầu, đều không keo tiếc, như Trí Độ Luận đă nói rộng trong phần Đàn Ba La Mật. Hăy nên biết người ấy ắt chẳng phạm trọng cấm của tŕ minh, chẳng keo tiếc chánh pháp, nên kham truyền thọ.

          “Dũng kiện, kiên hạnh nguyện” (mạnh mẽ, hạnh nguyện vững) cũng chia thành hai câu. “Dũng kiện” tức là [phẩm đức] “chủng tánh Bồ Đề tâm mạnh mẽ” trong các phẩm đức của vị A-xà-lê. Trong khi hành đạo, tuy gặp đủ loại h́nh sắc và âm thanh đáng sợ, tâm chẳng khiếp nhược, thậm chí xuất sanh nhập tử chẳng có ư tưởng sợ hăi, thật sự tùy thuận sở hành của bậc đại nhân Bồ Đề Tát Đỏa. Do vậy, đáng nên truyền thọ. “Kiên hạnh nguyện” chính là nguyện tâm mong muốn. Âm tiếng Phạn và ư nghĩa cầu nguyện không giống nhau. Như tự lập chí, khiến cho mỗi ngày ba thời niệm tụng, bèn [thực hiện] trọn hết một kỳ hạn. Tuy gặp đủ mọi duyên khác, trọn chẳng gián đoạn hay chấm dứt. Mọi chuyện đều có đầu, có đuôi như thế. Nếu lúc hành Bồ Tát đạo, cũng chẳng khuyết bổn thệ. V́ thế, kham truyền pháp. Nhưng mười đức của đệ tử được nói ở đây, nếu ai có trọn đủ th́ hăy nên biết là người rất hiếm có! Nhưng nếu có [đệ tử chẳng trọn đủ mười đức, nhưng có] ưu điểm là “có thể kham đào luyện” th́ hăy nên nhiếp thọ. Lại như khi Thanh Văn thọ Cụ Túc Giới, [vị thầy truyền giới phải] quan sát đủ loại ngăn chướng [nơi người thọ giới], như quá nhỏ, quá già, h́nh sắc, tướng mạo có tỳ vết, có các bệnh hoạn v.v… sợ hàng bạch y sẽ chê gièm, quở trách, bèn loại trừ. Nay đạo Ma Ha Diễn (Đại Thừa) này chẳng phải vậy, chỉ cần đạo cơ có thể tế độ, dẫu có các khuyết điểm khác, đều chẳng liên quan! [Đó chính là ư nghĩa của câu “dư tắc vô sở quán” (những điều khác chẳng xét tới) trong lời kệ].

          Kệ nói: “Hoặc thập, hoặc bát, thất, hoặc ngũ, nhị, nhất, tứ” (hoặc mười, hoặc tám, bảy. Hoặc năm, hai, một, bốn) chính là con số hạn lượng của các [đệ tử] trong một kỳ đạo tràng để được bậc A-xà-lê quán đảnh. Ở đây, dựa theo siêu số để nói, tức là từ một tới hai, từ hai vượt lên bốn, từ bốn đến năm, từ năm tới bảy, từ bảy tới tám, từ tám cho đến mười người. V́ thế, trong một Mạn-đồ-la, không được đồng thời quán đảnh cho ba người, sáu người, chín người! Thế nhưng, đối với mật ư của Như Lai, A-xà-lê chẳng giải thích nguyên do [v́ sao không truyền cho ba, sáu, hoặc chín người]. Lại c̣n tương đồng với kinh Đại Phương Đẳng Đà La Ni[31] nói không được vượt quá mười người. Vượt quá con số ấy, sợ tâm lượng của A-xà-lê chẳng thể bao quát nổi, hăy đợi duyên khác về sau, sẽ v́ những người c̣n lại mà tác pháp. Hơn nữa, từ mười người trở xuống ấy, chính là cùng lúc phát tâm, ai nấy đều xả tất cả các thứ trong ngoài để cúng dường Tam Bảo, cùng nhau hoàn thành Mạn-đồ-la. V́ thế, đồng thời tác pháp. Nếu có người gặp đạo tràng, liền nói “pháp duyên khó gặp”, xin cũng được tế độ, sẽ chẳng hợp lẽ nếu làm quán đảnh A-xà-lê cho người ấy. Nếu lại vượt quá con số ấy, mà nếu [có người] chỉ cầu kết duyên với pháp của một vị Bổn Tôn trong một môn, tiếp nhận chân ngôn, ấn khế, th́ chẳng thuộc vào hạn định ấy. A-xà-lê cũng nên phát khởi đại bi, hễ ai có thể khởi chút phần thiện tâm, hăy đều v́ người ấy phát sanh, tạo lập chủng tử Bồ Đề, cho nên nói nhược phục quá ư thử” (lại có thể vượt quá con số ấy).

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ phục bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Đương vân hà danh thử Mạn-đồ-la? Mạn-đồ-la giả kỳ nghĩa vân hà?” Phật ngôn: - Thử danh Phát Sanh Chư Phật Mạn-đồ-la, cực vô tỷ vị, vô quá thượng vị. Thị cố, thuyết vi Mạn-đồ-la. Hựu Bí Mật Chủ! Ai mẫn vô biên chúng sanh giới cố, thị Đại Bi Thai Tạng Sanh Mạn-đồ-la quảng nghĩa. Bí Mật Chủ! Như Lai ư vô lượng kiếp tích tập A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề chi sở gia tŕ. Thị cố, cụ vô lượng đức, đương như thị tri. Bí Mật Chủ! Phi vị nhất chúng sanh cố, Như Lai thành Chánh Đẳng Giác, diệc phi nhị, phi đa, vị lân mẫn vô dư kư cập hữu dư kư chúng sanh giới cố, Như Lai thành Chánh Đẳng Giác, dĩ đại bi nguyện lực ư vô lượng chúng sanh giới như kỳ bản tánh, nhi diễn thuyết pháp.    

          ()爾時金剛手祕密主復白佛言世尊當云何名此漫羅者其義云何佛言:此名發生諸佛漫羅,極無比味、無過上味,是故為漫羅。又祕密主!哀愍無邊眾生界故,是大悲胎藏生漫羅廣義。祕密主!如來於無量劫積集阿耨多羅三藐三菩提之所加持,是故具無量德,當如是知。祕密主!非為一眾生故如來成正等覺,亦非二非多,為憐愍無餘記及有餘記諸眾生界故,如來成正等覺,以大悲願力於無量眾生界如其本性而演 

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ lại bạch với đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Mạn-đồ-la này nên gọi tên là ǵ? Mạn-đồ-la có nghĩa là như thế nào? Đức Phật nói: - Đây gọi là Phát Sanh Chư Phật Mạn-đồ-la. Do vị tột bậc khôn sánh, do vị không chi hơn được. V́ thế nói là Mạn-đồ-la. Lại này, Bí Mật Chủ! Do thương xót vô biên chúng sanh là nghĩa rộng của Đại Bi Thai Tạng Sanh Mạn-đồ-la. Bí Mật Chủ! Như Lai trong vô lượng kiếp tích tập sự gia tŕ của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. V́ thế, trọn đủ vô lượng đức, hăy nên biết như thế. Bí Mật Chủ! Chẳng phải v́ một chúng sanh mà Như Lai thành Chánh Đẳng Giác, cũng chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, v́ thương xót vô dư kư và hữu dư kư chúng sanh giới mà Như Lai thành Chánh Đẳng Giác, do nguyện lực đại bi trong vô lượng chúng sanh giới, đúng như bản tánh mà diễn nói pháp).

 

          Đây là do Như Lai hạn định số người [được quán đảnh trong một kỳ lập đàn tràng], v́ biết những kẻ chưa ngộ sẽ đâm ra nẩy sanh nghi vấn. Ngài Kim Cang Thủ vốn thỉnh đức Thế Tôn tuyên nói cảnh giới gia tŕ này, diễn nói Đại Bi Tạng Sanh Đại Mạn-đồ-la Vương, tức là đại bi b́nh đẳng, chẳng có hạn lượng. Nhưng nay đức Thế Tôn nói, dẫu là người có đức có thể truyền thọ, vẫn chẳng vượt quá mười người, tợ hồ là nói thuận theo bất cứ minh chú nào, chẳng phải là cụ thể [một minh chú nhất định nào]. V́ thế, Ngài hỏi Mạn-đồ-la này tên gọi là ǵ. Hơn nữa, Mạn-đồ-la nghĩa là “luân viên” (tṛn trặn). Nay đă hạn cuộc danh số (số người được quán đảnh), tợ hồ lư chưa viên măn. V́ thế, lại hỏi Mạn-đồ-la ở đây có ư nghĩa ǵ. Do có hai câu hỏi, trong lời đáp, trước hết, đức Thế Tôn giải đáp danh xưng; kế đó, giải đáp ư nghĩa.

          Trong phần giải đáp danh xưng, lại c̣n nói rơ ư chỉ sẵn có rằng: Mạn-đồ-la có nghĩa là “phát sanh”, nên nay gọi là Phát Sanh Chư Phật Mạn-đồ-la. Gieo chủng tử Bồ Đề tâm vào tâm địa Nhất Thiết Trí, tưới nhuần bằng nước đại bi, chiếu bằng mặt trời đại huệ, cổ vũ bằng gió đại phương tiện, chẳng ngại dùng hư không Đại Không, có thể khiến cho mầm pháp tánh chẳng thể nghĩ bàn tăng trưởng theo thứ tự, cho đến thành cây chúa (thụ vương) của Phật, đầy ắp pháp giới. V́ thế, gọi là Phát Sanh. Phàm mưa giông làm duyên thúc đẩy, [các hạt giống] tùy theo tánh chất riêng mà nẩy mầm, chớ nên v́ tánh chất tăng trưởng của thảo mộc khác nhau mà khiến cho sự bố thí b́nh đẳng cũng trở thành có hạn lượng!

          Kế đó, trong phần giải đáp ư nghĩa, âm tiếng Phạn là Mạn-đồ-la (Maṇḍala), có ư nghĩa “khuấy đảo khiến cho sữa và lạc trở thành tô”. Mạn-đồ-la là chất tô cực tinh thuần đọng trên mặt sữa, ví như sự tinh thuần ấy chẳng c̣n đổi khác, lại gọi là Kiên. Vị tịnh diệu cùng ḥa hợp, khiến cho các vật khác chẳng thể xen tạp, nên có ư nghĩa “tụ tập”. V́ thế, đức Phật nói: “Cực vô tỷ vị, vô quá thượng vị, thị cố thuyết vi Mạn-đồ-la dă” (vị khôn sánh tột cùng, vị không chi hơn được. Do vậy, nói là Mạn-đồ-la). Dùng ba loại phương tiện bí mật để khuấy đảo sữa Phật tánh của chúng sanh, cho đến lần lượt trải qua ngũ vị (sữa, lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ), thành diệu giác đề hồ. Ḥa hợp thuần tịnh mầu nhiệm, chẳng c̣n ǵ có thể tăng thêm nữa, hết thảy kim cang trí ấn cùng chung nhóm họp, trong vị cam lộ chân thường bất biến, thật là bậc nhất. Đó là ư nghĩa của Mạn-đồ-la vậy. Từ “hựu Bí Mật Chủ” (lại này, Bí Mật Chủ) trở đi, rộng diễn ư nghĩa của Mạn-đồ-la nhằm giải thích đoạn trừ các vấn nạn. Lại chia thành ba phần:

          - Một, nêu rơ pháp giới viên đàn phổ môn vô hạn.

          - Hai, nêu ra nguyên nhân giới hạn số người [được quán đảnh trong một kỳ đàn tràng]: Loại trừ các chúng sanh [không thích hợp].

          - Ba, câu cuối nhằm khuyên lơn, căn dặn A-xà-lê hăy dấy khởi bi nguyện b́nh đẳng.

          Trong kinh văn thuộc phần thứ nhất, “ai mẫn vô biên chúng sanh giới, thị Đại Bi Thai Tạng Sanh Mạn-đồ-la quảng nghĩa” (thương xót vô biên chúng sanh giới là nghĩa rộng của Đại Bi Thai Tạng Sanh Mạn-đồ-la), tức là nếu lúc hành nhân tự thấy Trung Đài Thai Tạng, liền biết hết thảy chúng sanh đều có nhân duyên thành Phật. V́ thế, Đại Bi Mạn-đồ-la đă khởi lên ấy cũng trọn khắp pháp giới. Vả nữa, bất cứ vị nào trong số các vị Chấp Kim Cang và Bồ Tát nhiều như số vi trần trong mười thế giới, hễ dùng một môn nào để làm Mạn-đồ-la chủ, các vị kia làm quyến thuộc, sẽ thành một loại Mạn-đồ-la. Xoay chuyển vô cùng như thế, dẫu toán số, thí dụ đều chẳng thể [tính toán, diễn tả] được! Huống hồ trong ấy đều dùng vô lượng môn trang nghiêm, các thứ phương tiện để dẫn khởi, nhiếp thọ chúng sanh, há c̣n có thể kể xiết ư? Nếu hành giả trong pháp môn một chữ ấy, thâu nhiếp rộng thành lược, triển khai lược thành rộng, sanh ra pháp tài để thí trọn khắp hết thảy, thường chẳng đoạn hết, bèn gọi là “khéo hiểu ư nghĩa rộng của Mạn-đồ-la”.

          Kế đó nói: “Bí Mật Chủ! Như Lai ư vô lượng kiếp, tích tập A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề chi sở gia tŕ. Thị cố, cụ vô lượng đức. Đương như thị tri” (Bí Mật Chủ! Như Lai trong vô lượng kiếp, tích tập sự gia tŕ của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. V́ thế, trọn đủ vô lượng đức, hăy nên biết như thế): Đấy là giải thích nguyên do của nghĩa rộng. Như các vị thiện tri thức trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm, mỗi vị đều từ trong một môn mà thông đạt pháp rộng sâu chẳng có ngằn mé, nhưng cũng chẳng biết lẫn nhau. Xưa kia, khi Như Lai hành Bồ Tát đạo, phổ môn thân cận các vị thiện tri thức nhiều như số vi trần trong các cơi Phật như thế, trong mỗi công đức tạng đó, đều đạt được vị tột bậc không sánh bằng, không ǵ hơn được! Do đức nội chứng vô lượng vô biên như thế, hiện làm quyến thuộc trong pháp môn được gia tŕ cũng lại vô lượng vô biên. Hành giả Chân Ngôn môn hăy nên thông suốt tâm ấy, hiểu như thế đó.

          Đă biết nội đức vô hạn; kế đó, nói rơ số người được độ trong bổn địa Mạn-đồ-la cũng là vô hạn. V́ sao vậy? Do ứng với đại bi nguyện. Do vậy, tiếp đó, kinh nói: “Bí Mật Chủ! Phi vị nhất chúng sanh cố, Như Lai thành Chánh Đẳng Giác, diệc phi nhị, phi đa, vị lân mẫn vô dư kư cập hữu dư kư chư chúng sanh cố, Như Lai thành Chánh Đẳng Giác. Dĩ đại bi nguyện lực, ư vô lượng chúng sanh giới, như kỳ bổn tánh, nhi diễn thuyết pháp” (Bí Mật Chủ! Chẳng phải v́ một chúng sanh mà Như Lai thành Chánh Đẳng Giác, cũng chẳng phải v́ hai, chẳng phải v́ nhiều, v́ thương xót các chúng sanh vô dư kư và hữu dư kư mà Như Lai thành Chánh Đẳng Giác. Do đại bi nguyện lực, trong vô lượng chúng sanh giới, đúng như bổn tánh của họ mà diễn nói pháp). Ư nghĩa phát Bồ Đề tâm ở đây như trong phẩm Nhập Pháp Giới [của kinh Hoa Nghiêm] và phần luận định về Ma Ha Tát trong Trí Độ Luận đă rộng nói. “Vô dư kư” là như Phật hiện tiền thọ kư: “Chúng sanh nào đó sẽ trong kiếp nào đó thành Phật, hiệu là X… Như Lai, có quốc độ và quyến thuộc như thế đó”. Do đă thọ kư rành rẽ, nên gọi là vô dư kư. Hữu dư kư là như bảo chúng sanh rằng: “Nhữ ư vị lai mỗ Phật thời, đương tất thị tội, mỗ giáp Như Lai vị nhữ thọ kư” (Ông trong đời vị lai, vào thời đức Phật chi đó, sẽ hết sạch tội này, Như Lai chi đó sẽ thọ kư cho ông) v.v… Lại nữa, như đức Thế Tôn nói: “Nhược ngă tại thế, hoặc diệt độ hậu, chư hữu văn Pháp Hoa Kinh nhất cú, nhất kệ, ngă giai vị thọ Vô Thượng Bồ Đề kư” (Nếu ta tại thế, hoặc sau khi diệt độ, nếu có người nghe một câu, một kệ của kinh Pháp Hoa, ta đều thọ kư Vô Thượng Bồ Đề cho người ấy). Đó là vô dư kư. Nếu nói “hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, sanh ra thiện căn liên tục chẳng đoạn, sẽ đạt tới Vô Thượng Bồ Đề”. Đó gọi là hữu dư kư. Ta vốn v́ chúng sanh như thế đó mà thành Đẳng Chánh Giác, huống hồ nay sở nguyện đă măn, mở ra vật báu nơi tự tâm của chúng sanh, đúng như bản tánh của họ mà ban cho, há có hạn lượng ǵ ư? Hơn nữa, do dựa theo dấu tích của hạnh nông cạn hoằng kinh trong đời ác mà nói “một kỳ pháp sự chỉ hạn ngạch mười người” đó thôi! Từ đây trở đi là giải thích nguyên do v́ sao hạn chế số người như thế.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Vô Đại Thừa túc tập, vị tằng tư duy Chân Ngôn thừa hạnh, bỉ bất năng thiểu phần kiến văn, hoan hỷ tín thọ. Hựu Kim Cang Tát Đỏa! Nhược bỉ hữu t́nh tích ư Đại Thừa Chân Ngôn Thừa đạo vô lượng môn tấn thú, dĩ tằng tu hành, vị bỉ đẳng cố, hạn thử tạo lập danh số. Bỉ A-xà-lê diệc đương dĩ đại bi tâm, lập như thị thệ nguyện, vị độ vô dư chúng sanh giới cố, ưng đương nhiếp thọ bỉ vô lượng chúng sanh, tác Bồ Đề chủng tử nhân duyên.

          ()密主無大乘宿習未曾思惟真言乘行彼不能少分見聞歡喜信受又金剛薩埵若彼有情昔於大乘真言乘道無量門進趣已曾修行為彼等故限此造立名數彼阿闍梨亦當以大悲心立如是誓願為度無餘眾生界故應當攝受彼無量眾生作菩提種子因緣

    (Kinh: Bí Mật Chủ! Kẻ chẳng tu tập Đại Thừa từ trước, chưa từng tư duy hạnh Chân Ngôn thừa, sẽ chẳng thể có chút phần thấy, nghe, hoan hỷ tin nhận. Lại này Kim Cang Tát Đỏa! Nếu hữu t́nh ấy trước kia đă từng tu hành đạo Đại Thừa Chân Ngôn Thừa, tiến nhập vô lượng môn, v́ những người như thế mà tạo lập chuyện hạn định danh số. Vị A-xà-lê đó cũng nên do tâm đại bi mà lập thệ nguyện như thế, v́ độ chúng sanh giới chẳng thừa sót, hăy nên nhiếp thọ vô lượng chúng sanh để làm nhân duyên cho chủng tử Bồ Đề).

 

          Đoạn này có ư nói: Nếu các chúng sanh chưa từng gieo thiện căn đă lâu nơi quá khứ vô lượng chư Phật, chưa từng tu tập bí mật thừa này, sẽ hời hợt nghe nói, chẳng thể tin nhận. Nếu chỉ v́ thiện tâm mà người truyền pháp nói [pháp Chân Ngôn] với kẻ căn cơ sai lệch, sẽ có thể khiến cho kẻ đó tăng thêm ḷng phỉ báng, đoạn mất căn lành. V́ thế, kinh Pháp Hoa nói: “Vô trí nghi hối, tắc vi vĩnh thất” (kẻ không có trí, ngờ vực, hối hận, sẽ bị mất mát vĩnh viễn). Các chúng sanh trong mười phương thế giới, ít có người cầu Thanh Văn, người cầu Duyên Giác càng ít hơn, người cầu Đại Thừa rất hy hữu! Người cầu Đại Thừa c̣n dễ, người tin pháp này là khó nhất. V́ thế, dùng Phổ Nhăn để xem, người kham tiếp nhận pháp này giống như hạt bụi nơi núi Tu Di, hoặc giọt nước trong biển cả. Do bảo vệ tâm ư của chúng sanh, đến đúng thời mới nói, lẽ nào chẳng đại lược chế định, tạo lập danh số hay sao? Nói “vô lượng môn tấn thú” tức là giải thích kèm thêm danh nghĩa của Mạn-đồ-la.

          Mạn-đồ-la là “tụ tập”, [tức là] nay đem công đức chân thật của Như Lai tụ tập ở một chỗ, cho đến gom tụ trọn vẹn trí ấn sai biệt số lượng nhiều như vi trần trong mười thế giới để phù tá Đại Nhật tâm vương, khiến cho hết thảy chúng sanh đều phổ môn tiến nhập. Do vậy nói là Mạn-đồ-la. Nói “lược thử tạo lập danh số” (đại lược tạo lập danh số ấy), như dùng chữ A để năm lượt chuyển, ḥng thống nhiếp vô biên nội đức của Như Lai, dùng trăm bài minh chú ứng với các tự luân để thâu nhiếp pháp môn Phổ Nhăn của Như Lai. Đó gọi là “đại lược về danh xưng”. Dùng phương tiện nhiều như số vi trần trong một cơi nước để mở đàn [hoa sen] tám cánh, do vô cực đại bi mà chế định hạn lượng mười người. Đấy chính là nói đại lược về số. Nhưng người học thuận theo một pháp minh đạo mà được ngộ nhập, tức là nhập trọn khắp hết thảy các môn Tổng Tŕ. Như từ một môn thấy vua, tức là thấy nhập trọn khắp ngàn muôn môn hộ. Nếu chẳng thể hành đúng như lời dạy, tuy dùng đủ loại văn từ rộng v́ họ khai thị, vẫn chẳng có ích ǵ! Do vậy, câu thứ ba nói rơ: [Tuy lập] danh số hạn lược, chẳng trở ngại sự [truyền thọ] rộng răi. Ở đây, kinh nói: “Bỉ A-xà-lê diệc đương dĩ đại bi tâm, lập như thị thệ nguyện, vị độ vô dư chúng sanh giới cố, ưng đương nhiếp thọ vô lượng chúng sanh, tác Bồ Đề chủng tử nhân duyên” (Vị A-xà-lê ấy cũng nên do tâm đại bi mà lập thệ nguyện như thế, v́ độ chúng sanh giới chẳng sót, hăy nên nhiếp thọ vô lượng chúng sanh để làm nhân duyên cho chủng tử Bồ Đề), tức là: Tạo lập Mạn-đồ-la này, chính là hễ có kẻ nào thấy, nghe, hay, biết, thậm chí giơ tay, cúi đầu, một niệm tùy hỷ, sẽ đều nhất định thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. V́ thế, A-xà-lê tuy chẳng thể truyền thụ đầy đủ chi phần quán đảnh cho kẻ căn cơ không thích hợp, nhưng đối với cái duyên “buộc viên châu trong chéo áo, cái trống bôi thuốc độc”, há nên bỏ qua ư? V́ thế, hăy nên vận tâm đại bi khiến cho [pháp này] được lưu truyền rộng khắp. Lại nữa, như người trong nhà có chất báu bí mật, sợ bị đạo tặc ḍm ngó; bởi thế, giấu trong đám quần áo cũ rách. Nay pháp môn Mạn-đồ-la này cũng lại như thế, do tạng bí mật chẳng thể tuyên nói thẳng thừng; v́ thế, xoay vần che phủ mật ư bằng phương tiện hữu tướng. Nay nói hạn định mười người, chính là Thế Đế Mạn-đồ-la vậy! Nhưng A-xà-lê sẽ tự sửa trị tâm địa, vẽ Đại Bi Mạn-đồ-la, Phổ Nhăn độ người, tạo nhiều lợi ích tốt lành, chớ nên hiểu theo văn tự vậy!

 

          (Kinh) Tŕ chân ngôn hành giả, như thị nhiếp thọ dĩ, mạng bỉ Tam Tự Quy, linh thuyết hối tiên tội. Phụng đồ hương, hoa đẳng, cúng dường chư thánh tôn. Ưng thọ bỉ tam thế, vô chướng ngại trí giới. Thứ đương thọ xỉ mộc, nhược Ưu Đàm Bát La, hoặc A Thuyết Tha đẳng. Kết hộ nhi tác tịnh. Hương, hoa dĩ trang nghiêm, đoan trực thuận bổn mạt. Đông diện hoặc Bắc diện, tước dĩ nhi trịch chi. Đương tri bỉ chúng sanh, thành khí phi khí tướng. Tam kết Tu-đa-la, thứ hệ Đẳng Tŕ tư. Như thị thọ đệ tử, viễn ly chư trần cấu, tăng phát tín tâm cố. Đương tùy thuận thuyết pháp, úy dụ kiên kỳ ư.

          ()持真言行者,如是攝受已,命彼三自歸,令說悔先罪。奉塗香華等,供養諸聖尊,應授彼三世,無障礙智戒。次當授齒木,若優曇鉢羅,或阿說他等,結護而作淨。香華以莊嚴,端直順本末,東面或北面,嚼已而擲之,當知彼眾生,成器非器相。三結修多羅,次繫等持臂,如是受弟子,遠離諸塵垢。增發信心故,當隨順說法,慰喻堅其意

          (Kinh: Hành giả tŕ chân ngôn, nhiếp thọ như thế xong, dạy cho Tam Tự Quy, bảo nói, hối tội trước. Dâng hương bôi, hoa thảy, cúng dường các tôn thánh. Hăy nên thọ trí giới, ba đời chẳng chướng ngại. Kế đó trao xỉ mộc[32], hoặc Ưu Đàm Bát La, A Thuyết Tha thảy. Kết hộ[33] rồi tác tịnh. Hương, hoa để trang nghiêm, ngay thẳng thuận đầu đuôi[34]. Hướng về Đông hoặc Bắc, nhai rồi bèn ném ra. Nên biết chúng sanh ấy, thành tướng khí, phi khí. Ba lượt dây niệt thắt, buộc vào tay Đẳng Tŕ. Truyền đệ tử như thế, xa ĺa các trần cấu. Do tăng trưởng tín tâm, nên tùy thuận thuyết pháp, an ủi, nhủ vững ư).

 

          Kệ nói “tŕ chân ngôn hành giả” (hành giả tŕ chân ngôn) tức là nói về phương tiện hộ tŕ và kiến lập trong chi phần đệ tử. Tới đêm ngày thứ sáu, thầy và đệ tử đều tắm gội thanh tịnh, mặc áo mới sạch, cầm các vật cúng, tới chỗ bạch đàn Mạn-đồ-la như đă tạo trong phần trước. Hăy nên theo đúng pháp gia tŕ tự thân, đạo tràng, và các đệ tử. Phương tiện thủ hộ đệ tử như kinh văn trong phần sau nói về lúc nhập quán đảnh. Khi đó, A-xà-lê theo đúng thứ tự pháp tắc, tu cúng dường trọn đủ, quán chư tôn thánh tại các phương vị trong bạch đàn và mật ấn tương ứng, tŕ chân ngôn của các Ngài. Kinh Cù Hê nói: “Thủ án Trung Đài Mạn-đồ-la, tụng chân ngôn nhất biến, như thị nhất tụng, nhất án, năi chí thất biến, dư vị diệc nhĩ dă” (Tay ấn xuống Trung Đài, tụng chân ngôn một lần. Cứ một lần tụng, một lần ấn như thế cho tới đủ bảy lượt. Đối với các phương vị khác cũng thế). Kế đó, nên v́ các đệ tử tùy thuận thuyết pháp, khơi mở, hướng dẫn tâm họ, dạy họ Tam Tự Quy, sám hối tội trước kia. Đă sám hối xong, thân tâm thanh tịnh giống như minh châu, có thể thật sự kham phát tâm. V́ thế, kế đó dạy đệ tử phát Bồ Đề tâm, đều như phần Pháp Cúng Dường đă nói.

          Kế đó, nên trao cho họ hương bôi, hoa v.v… Truyền dạy đệ tử hăy vận tâm cúng dường chư tôn thánh, sau đấy mới truyền trao Tam Thế Vô Chướng Ngại Trí Giới. Thọ giới pháp Bồ Tát th́ có hành nghi riêng. Sở dĩ Bồ Tát phát tâm nhiếp thọ phương tiện học xứ, đều là để thành tựu trí huệ thanh tịnh của Như Lai. Trong một niệm, liễu đạt các pháp trong ba đời chẳng vướng mắc. Có người trụ trong giới ấy, cho đến khi thấy tâm, hiểu đạo, liền có oai thế chẳng nghĩ bàn như vậy. Do giới ấy có thể đích thân phát sanh Phật huệ. Lại do so với luật nghi có hạn lượng của Nhị Thừa, bèn gọi là Tam Thế Vô Chướng Ngại Trí.

          Kế đó, trao cho [các đệ tử] nhánh cây để chà răng, bảo đệ tử nhai cắn; nhân đó, quán tướng người ấy sẽ trở thành pháp khí hay không. Sở dĩ làm pháp này, cũng là do thuận theo Tục Đế của phương ấy (Ấn Độ), do dùng phương tiện bí mật để gia tŕ. Người dân Ấn Độ kể từ việc mời tăng chúng dùng cơm cho đến người đời xem tướng, đều trước đó, trao xỉ mộc cho khách mời, dùng các thứ hương, hoa trang hoàng rồi mới trao cho. Hăy nên biết đó là họ mời người ấy ngày mai tới dùng cơm. Sở dĩ làm như thế là để biểu thị tâm yêu kính, sợ người ấy trước đó đă có bệnh đàm nhiệt v́ nhân duyên ăn uống khi xưa. Nếu tiếp nhận thức ăn do tôi cúng dường, không chừng sẽ khiến cho bệnh cũ phát động, [cơ thể] bất an. V́ thế, trước hết do thiện ư che chở mà nhắc nhở, khiến cho người ấy trước hết thanh tịnh thân khí, hoặc uống Ha Lê Lặc v.v… để ngày hôm sau tùy ư ăn uống, chẳng bị thương tổn, thân tâm an lạc. Nay A-xà-lê cũng thế, khi trao nhành dương cho đệ tử, liền nhờ vào phương tiện này mà nói pháp sâu: “Ta vừa mới trao cho ngươi Phật tánh đề hồ, có vị không chi hơn được, đă dạy ngươi phát Bồ Đề tâm, tịnh trừ túc chướng nơi tam nghiệp, dùng răng điều phục ‘trí tam thế vô ngại’ để cắn các phiền năo. Muốn dùng sự bí mật gia tŕ này để gột trừ sạch tội lỗi nơi thân tâm. Ngươi hăy nên tịnh trừ lỗi nơi miệng. Đi tới nơi đâu, cũng đừng xằng bậy tuyên nói [pháp được dạy bảo trong đàn tràng này]. Ngày mai, ta sẽ tặng cho ngươi cam lộ bất tử, khiến cho đều sung túc”.

          Vị thầy ấy nên lấy nhánh cây Ưu Đàm Bát La (Udumbara) hoặc gỗ A Thuyết Tha (Aśvattha)[35] ngay thẳng, đẹp đẽ, chẳng thô, chẳng nhỏ, cắt thành đoạn dài bằng mười hai ngón tay. Phàm trong hết thảy cách đo lường, đều dùng lóng trên cùng của ngón cái gập lại cho chạm vào bên cạnh [của đốt dưới ngón cái, gọi đó là một ngón tay]. Đó là con số đúng. Hai loại gỗ ấy chính là loại cây Bồ Đề của quá khứ chư Phật. Nếu không có, hăy nên t́m loại gỗ có nhựa, tức là gỗ dâu, v.v… Đánh dấu phân biệt phần trên và phần dưới của gỗ, đều coi chỗ cành nhánh là trên, chỗ cội gốc là dưới. Dùng nước thơm rửa sạch, lại dùng hương bôi để ướp. Đối với đầu dưới của nhánh gỗ, dùng chỉ trắng buộc hoa để trang hoàng, cũng nên làm dấu khiến cho dễ biết trên dưới. [A-xà-lê] hăy nên lấy tay đè lên, dùng chân ngôn Bất Động để gia tŕ, hoặc niệm một trăm lần, hoặc một ngàn lần, khiến cho trang nghiêm thật trọn vẹn. Đă thọ giới xong, thầy nên lấy một nhánh xỉ mộc dâng hiến chư tôn, những nhánh c̣n lại chia ra cho đệ tử, bảo họ ra khỏi đàn tràng, ở phương Đông hay phương Bắc phía ngoài đàn tràng, đúng pháp ngồi xổm mà cắn [nhánh xỉ mộc ấy]. Cắn xong, hăy bảo họ hướng về phương vị mà họ đang đối diện mà ném để kiểm nghiệm tướng ấy. Nếu chỗ bị cắn hướng ra ngoài th́ người ấy chẳng thành tựu Tất Địa. Nếu hướng về thân [người ném] th́ Tất Địa thành tựu. Nếu quăng ra xa mà rơi gần thân th́ là tướng chẳng lâu sẽ thành tựu. Nếu phần đầu dựng thẳng, hướng lên trên th́ thành tựu càng nhanh chóng. Nếu phần đầu hướng xuống dưới th́ người ấy sẽ vào cung A Tu La, hoặc cung rồng. Nếu vướng trên không trung th́ người ấy trước đó đă thành tựu. Lại c̣n hướng về phương Bắc, hay phương Đông th́ là thượng thành tựu, phương Tây là trung thành tựu, phương Nam là hạ thành tựu. Tuy là như thế, nếu người ấy hướng về phương Đông mà quăng, nhưng chỗ cắn hướng về phương Đông, tức ngược chiều với thân, cũng chẳng được thành tựu. Những trường hợp khác chuẩn theo đây mà suy ra. Những điều khác như trong kinh Cù Hê đă nói.

          Kế đó, hăy nên thực hiện pháp kim cang tuyến. Phàm làm dây buộc, hăy nên chọn loại sợi tốt nhất, mịn, trọn vẹn, dùng nước thơm gột rửa cho tột bậc thanh tịnh, sai bé gái khiết tịnh xe sợi theo chiều phải. Dùng sợi năm màu để xe lại, dùng chân ngôn của năm vị Như Lai để gia tŕ mỗi màu. Sau đó, dùng chân ngôn Thành Biện Chư Sự để gia tŕ chung. Sợi chỉ dùng để [căng ra, xác định ranh giới, phương vị nhằm] tạo Mạn-đồ-la cũng thế. Màu của năm đức Như Lai th́ đối với Đại Nhật Phật sẽ gia tŕ màu trắng, Bảo Tràng Phật gia tŕ màu đỏ, Hoa Khai Phu Phật gia tŕ màu vàng, Vô Lượng Thọ Phật gia tŕ màu lục, Cổ Âm Phật th́ gia tŕ màu đen. A-xà-lê trước hết cầm sợi chỉ thắt ba gút, tạo thành kim cang kết, dùng để buộc lên cánh tay trái ḥng hộ tŕ tự thân. Kế đó, nhất nhất buộc lên tay các đệ tử, nhiếp thọ đệ tử như thế th́ nhập Mạn-đồ-la sẽ ĺa các chướng nạn. Kim cang kết chớ nên nói nhiều lượt, hăy nên đích thân nhận từ A-xà-lê.

          Lại nữa, dây ngũ sắc chính là ngũ trí của Như Lai, mà cũng là năm pháp Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ. Dùng năm pháp ấy để quán nhiếp hết thảy các giáo môn; do vậy gọi là Tu-đa-la. Dịch theo lối cổ là “Diên Kinh” (綖經)[36]. Nếu là bậc A-xà-lê kiến đế, có thể dùng ngũ trí của Như Lai để gia tŕ năm thứ thiện căn trong Bồ Đề tâm của đệ tử, thâu nhiếp trọn khắp vạn hạnh, buộc chặt nơi “cánh tay” Du Già, khiến cho [đệ tử] dẫu trải qua sanh tử mà vẫn thường chẳng thất lạc, hư hoại [chủng tử thiện căn]. Nếu có thể nhiếp thủ đệ tử như thế, bèn gọi là “thiện tác kim cang kết”. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Muốn trong đêm ấy làm pháp này cho đệ tử, vật cúng dường nên giảm bằng một nửa đêm thứ bảy. Lại nên quán t́nh kiến và căn cơ của người ấy (đệ tử sẽ được truyền pháp) mà tán dương Mật giáo, [khiến cho người ấy] phát sanh các tâm ưa thích kiên cố, cũng v́ người ấy phân biệt mười loại phương tiện Học Xứ”. Hễ là người kết duyên, đều nên tham dự nghe giảng môn Tam Thế Vô Ngại Trí Giới này.

 

          (Kinh) Cáo như thị kệ ngôn: - Nhữ hoạch vô đẳng lợi, vị đồng ư đại ngă. Nhất thiết chư Như Lai, thử giáo Bồ Tát chúng, giai dĩ nhiếp thọ nhữ, thành biện ư đại sự. Nhữ đẳng ư minh nhật, đương đắc Đại Thừa sanh”.

          ()告如是偈言:汝獲無等利,位同於大我,一切諸如來,此教菩薩眾。皆已攝受汝,成辦於大事,汝等於明日,當得大乘生

          (Kinh: Nói kệ như thế này: “Ngươi được lợi khôn sánh, địa vị đồng đại ngă. Hết thảy các Như Lai, dạy Bồ Tát pháp này, đều đă nhiếp thọ ngươi, thành tựu nơi đại sự. Các ngươi vào ngày mai, được sanh trong Đại Thừa”).

 

          Đối với bốn loại căn bản và tam-muội-da[37], lại có một bài kệ, ắt phải răn dạy trực tiếp cho lọt vào tai, người được quán đảnh đầy đủ các chi phần hăy nên lắng nghe. Hai bài kệ dạy răn cũng là A Lợi Sa, có thể tụng hoàn toàn bằng tiếng Phạn th́ càng lợi ích nhiều hơn, chép ra như sau:

          A nễ dă (từ nay), dữu sáp ma (ngươi), tỵ ra đổ la (không ai sánh bằng), la bà (lợi ích), lạp đà (đạt được), ma ha đát ma tỵ (đại ngă), duệ nẵng (các, những), tát bà (hết thảy), nhĩ nại (Phật), dụ diên (ngươi), sa bổ đát lại (và Bồ Tát), rị ha (đây), xá sa nê dă (dạy), tát ra mai (hết thảy), bả rị nghĩ rị hệ đá tát tha (nhiếp), xà da ma nang (sanh), ma hỗ (to lớn), nại da (thực hiện). Đế nẵng dụ diên (ngươi), ma ha dạ nê (Đại Thừa) thấp phụ nhă đá hê (sanh vào sáng mai), bà vĩ tỷ dă tha (đạt được).

          Bài kệ có ư nói: Ngươi từ nay trở đi, sẽ đạt được lợi ích không ǵ bằng, có địa vị bằng với Đại Ngă. Đại Ngă tức là tám Tự Tại Ngă thuộc về Pháp Tự Tại do Như Lai đă thành tựu, và các Ma Ha Tát Đỏa. Kế đó nói hết thảy Như Lai và các vị Ma Ha Tát trong giáo pháp này, hết thảy đều đă nhiếp thọ ngươi. Đây chính là các vị Kim Cang và Bồ Tát trong mười cơi Phật thuộc giáo pháp bí mật của Đại Thừa. Kế đó nói “thành biện đại sự”, tức là có thể thành tựu đại sự. Nhân duyên để có thể hoàn thành đại sự chính là “khai thị ngộ nhập tri kiến của Như Lai”. V́ thế, kinh đă dung hội ư ấy để nói. Kế đó nói: “Ngày mai các ngươi sẽ được sanh trong Đại Thừa”, tức là vào Đại Bi Mạn-đồ-la để được quán đảnh, sanh trong chủng tánh của hết thảy Như Lai. Lại nữa, ĺa duyên nghiệp mà sanh, đắc Đại Không mà sanh, cho nên nói là “Đại Thừa sanh”.

 

          (Kinh) Như thị giáo thọ dĩ, hoặc ư mộng mị trung, đổ kiến Tăng trụ xứ, viên lâm tất nghiêm hảo, đường vũ tướng thù đặc, hiển sưởng chư lâu quán, tràng, cái, ma-ni châu, bảo đao, duyệt ư hoa, nữ nhân tiên bạch y, đoan chánh sắc xu lệ. Mật thân hoặc thiện hữu, nam tử như thiên thân, quần ngưu phong tự nhũ, kinh quyển tịnh vô cấu. Biến tri nhân duyên giác, tịnh Phật, Thanh Văn chúng, đại ngă chư Bồ Tát, hiện tiền thọ chư quả, độ đại hải, hà, tŕ, cập văn sở nhạo thanh, không trung ngôn cát tường, đương dữ ư nhạo quả. Như thị đẳng hảo tướng, nghi ưng đế phân biệt. Dữ thử tương vi giả, đương tri phi thiện mộng.

                ()如是教授已,或於夢寐中,覩見僧住處,園林悉嚴好,堂宇相殊特,顯敞諸樓觀,幢蓋摩尼珠,寶刀悅意華;女人鮮白衣,端正色姝麗,密親或善友,男子如天身;群牛豐牸乳,經卷淨無垢。遍知因緣覺,并佛聲聞眾,大我諸菩薩,現前授諸果。度大海河池,及聞所樂聲,空中言吉祥,當與意樂果。如是等好相,宜應諦分別,與此相違者,當知非善夢。

          (Kinh: Dạy dỗ như thế rồi, hoặc là trong mộng mị, trông thấy chỗ Tăng ở, vườn rừng trang nghiêm đẹp, điện đường tướng đẹp lạ, lầu đài cao, thoáng đăng. Tràng, lọng, ma-ni châu, đao báu, hoa đẹp ư. Nữ nhân áo trắng sạch, đoan chánh, sắc xinh đẹp. Người chí thân, bạn lành, nam tử như thân trời, đàn ḅ cái đầy sữa, kinh quyển sạch chẳng dơ. Biết trọn nhân duyên giác, và Phật, các Thanh Văn, các Bồ Tát đại ngă, hiện tiền trao các quả, vượt biển cả, sông, ao, và nghe tiếng ưa thích, không trung nói cát tường, trao cho trái ưa thích. Các tướng tốt như thế, hăy nên phân biệt kỹ. Nếu trái nghịch tướng ấy, biết chẳng phải mộng lành”.

         

          Khi đó, A-xà-lê răn dạy, ấn tŕ như thế xong, lại bảo các đệ tử theo thứ tự ngồi ở ngoài Mạn-đồ-la, hướng về phía Đông. A-xà-lê lại nên cúng dường, dùng tâm chí thành, nghênh thỉnh chư tôn rằng: “Ngày mai con sẽ v́ thương xót đệ tử mà cúng dường các đức tôn thánh, kiến lập Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la, tùy sức cúng dường. Kính mong từ bi nghĩ nhớ, trong ngày mai sẽ đều giáng hạ, nhóm họp trong Mạn-đồ-la để gia tŕ”. Đại ư như thế, những điều khác như trong kinh Cù Hê đă nói. Vị ấy chí thành thỉnh ba lượt xong, tuyên thuyết kim cang cú kệ để ca ngợi chư tôn, sau đấy mới đúng như pháp tống tiễn.

          Lại v́ đệ tử nói rộng pháp yếu, sắc truyền họ hệ niệm tư duy, dựa vào cỏ cát tường, hướng mặt về Tây mà ngủ. Nếu người ấy trong mộng đạt các thứ cảnh giới, sáng dậy nên thưa với thầy, thầy sẽ biết tướng trạng có thể thành tựu Tất Địa hay không của hành nhân. Nếu là bậc A-xà-lê kiến đế, sẽ tự trong Du Già sâu thẳm, thấy rơ căn duyên của đệ tử từ đầu đến đuôi, chẳng phạm sai lầm. Nếu chẳng làm sự tướng như thế, và thuận theo Thế Đế mà hành, th́ hết thảy chẳng sai lầm. Nếu là vị thầy chưa kiến đế, hăy nên cẩn trọng nương theo pháp tắc, chớ để thiếu sót!

          Kinh nói: “Mộng trung kiến Tăng trụ xứ” (Trong mộng thấy chỗ ở của Tăng sĩ), tức là trông thấy các thứ trang nghiêm thanh tịnh, vi diệu. Thân vào trong ấy, lễ, quỳ, nhiễu quanh, gặp các chuyện vui mừng, tốt lành. “Viên lâm” tức là trông thấy hoa quả sum suê, tươi tốt, đặc biệt thù thắng, hoặc đích thân hái, bẻ, hoặc trèo lên cành cây, bước đi trong không trung. “Đường vũ” tức là các loại nhà cửa đẹp đẽ, tráng lệ, được trang hoàng lộng lẫy, ở trong đó hưởng thụ tự tại, thân tâm vui sướng. “Lâu quán” tức là đài nhiều tầng cao trội, thoáng đăng, có thể ngó xa bốn phương, thấy các thứ cảnh thù thắng, tinh thần thư thái. Phàm các tướng như thế đều là cát tường. Pháp môn được biểu thị trong ấy cũng giống như đă nói trong phần chọn đất. Nếu trái nghịch các tướng ấy, như thấy tháp, chùa bị đốt, phá hoại, bỏ hoang, dơ bẩn, tức chẳng phải là giấc mộng tốt lành.

          “Tràng” tức là cờ quạt, tràng báu, cao vời, đoan nghiêm, đẹp đẽ hiện ra trước mặt, hoặc dùng để phất nhằm hướng dẫn mọi người, không ai chẳng vâng theo. Đấy là h́nh tượng kiến lập đại Bồ Đề tâm uốn nắn vạn hạnh. “Cái” (lọng) tức là các thứ như đuôi chim công v.v… năm màu xen kẽ [được kết lại], hoặc là để che phủ phía trên không trung, hoặc do được người khác trao cho để cầm đi lại. Đấy chính là h́nh tượng bi nguyện che chở trọn khắp. Châu Ma-ni cũng có nghĩa là viên minh, chiếu thấu triệt, hoặc có thể sanh ra các vật thí cho mọi người. Đấy chính là h́nh tượng của báu tịnh tâm giác ngộ Tứ Nhiếp lợi lạc người khác. “Đao” tức là chói ngời, soi thấu, cứng chắc, sắc bén, hoặc do người khác đưa cho, hoặc tự ḿnh cầm, nắm. Đó là biểu tượng của huệ tánh thành tựu. “Duyệt ư hoa” (hoa đẹp ư) tức là các thứ hoa sanh dưới nước, hay mọc trên đất. Tùy theo tánh chất, chủng loại, mà có thượng, trung, hạ, như sắc th́ coi trắng sạch là loại thượng, vị th́ coi ngọt thuần là thượng, đều là điềm “mầm thiện nẩy nở”, hăy nên suy nghĩ phân biệt [để nhận biết].

          “Nữ nhân” là h́nh tượng tam-muội, nam tử tượng trưng cho trí huệ, cũng mang ư nghĩa “người có oai đức đoan chánh, được người khác yêu kính”. “Mật thân” (người thân thiết nhất) như cha mẹ v.v… “Thiện hữu” (bạn lành) tức là thượng nhân truyền pháp, thiện tri thức v.v… Hoặc thấy ḅ cái tụ tập, vị sữa phong phú, hoặc có người vắt sữa, hoặc tự uống, đều là tượng trưng cho đề hồ thượng vị của Đại Bi Mạn-đồ-la. Hoặc thấy kinh sách trắng sạch, vô cấu, trang hoàng tề chỉnh, nét chữ phân minh, ghi chép các loại chuyện thù thắng; đó là tướng lành. Nếu quyển kinh dơ bẩn, hư hoại, chữ nghĩa tàn khuyết; hăy nên biết là bất thiện. Hoặc thấy chư Phật đích thân v́ [hành nhân] xoa đầu, hiện tiền thọ kư, dùng âm thanh vi diệu để an ủi, phủ dụ. Hoặc thấy Thanh Văn, Bích Chi Phật v.v… cho đến trụ trong hư không, thị hiện vô lượng thần biến, đều nên tùy theo sự mà chọn lựa, phân biệt, hiểu rơ nhân duyên của chúng. Các quả tức là các thứ quả mầu nhiệm hy hữu, quư hiếm trong cơi đời, hoặc có người trao cho, hoặc từ trên hư không giáng xuống v.v… đều là biểu tượng của Tất Địa. Hoặc vượt qua sông, ao, biển cả, cho đến trong mộng trong khoảnh khắc bèn uống cạn, th́ đều là cát tường. Nếu trôi giạt, ch́m đắm, không được cứu giúp v.v… Hăy nên biết đó là bất thiện. Hoặc nghe trong hư không có các loại âm thanh tốt đẹp, ca vịnh pháp âm, tấu các kỹ nhạc, hoặc xưng dương công đức Tam Bảo mà tâm thích nghe, hoặc nói lời tốt lành, hoặc nói “hăy nên trao cho ngươi cái quả ngươi yêu thích”. Như thế đó đều là thiện mộng. Hăy nên phân biệt thành các loại thượng, trung, hạ. “Như tự vũ đẳng” (như chùa, miếu v.v…) tức là ở trên mặt đất hay trong hư không sai khác. Người được trông thấy cũng có nam, nữ, thánh, phàm sai khác. V́ thế, kinh nói: “Nghi ưng đế phân biệt chi” (Hăy nên phân biệt kỹ càng).

          Nếu trái nghịch với thiện tướng trên đây, hoặc mộng thấy thân ḿnh bị voi cuồng đuổi theo, kinh sợ, nguy cấp, hoặc cưỡi lạc đà, lừa, hoặc thấy người đáng ghét, tệ ác, ăn mặc rách rưới, hoặc tự thấy thân ḿnh nằm lăn trên bùn xanh, ở trong phân nhơ, hoặc các thứ bất tịnh từ trên hư không rơi xuống; đó đều là các tướng trái nghịch. Nếu là bậc thâm hạnh A-xà-lê, sẽ tự trong Du Già, đều biết rơ giấc mộng của người ấy và các nhân duyên tạo nên.

 

          (Kinh) Thiện trụ ư giới giả, thần khởi bạch sư dĩ. Sư thuyết thử cú pháp, khuyến phát chư hành nhân: “Thử thù thắng nguyện đạo, đại tâm Ma Ha Diễn, nhữ kim năng chí cầu, đương thành tựu Như Lai. Tự nhiên trí đại long, thế gian kính như tháp. Hữu, vô tất siêu việt; vô cấu đồng hư không. Chư pháp thậm thâm áo, nan liễu vô hàm tàng. Ly nhất thiết vọng tưởng, hư luận bổn vô cố. Tác nghiệp diệu vô tỷ, thường y ư Nhị Đế, thị thừa thù thắng nguyện, nhữ đương trụ tư đạo”.

          ()善住於戒者,晨起白師已,師說此句法,勸發諸行人:此殊勝願道,大心摩訶衍,汝今能志求,當成就如來。自然智大龍,世間敬如塔,有無悉超越,無垢同虛空。諸法甚深奧,難了無含藏,離一切妄想,戲論本無故。作業妙無比,常依於二諦,是乘殊勝願,汝當住斯道。

                (Kinh: Người khéo trụ nơi giới, sáng dậy thưa với thầy. Thầy nói câu pháp này, khuyên, phát khởi hành nhân: “Nguyện đạo thù thắng này, là đại tâm Đại Thừa, ngươi nay hay chí cầu, sẽ thành tựu Như Lai. Rồng lớn trí tự nhiên, thế gian kính như tháp. Hữu, vô đều vượt thoát, vô cấu như hư không. Các pháp rất sâu thẳm, khó hiểu chẳng chứa đựng. Ĺa hết thảy vọng tưởng, hư luận vốn chẳng có. Tác nghiệp diệu khôn sánh, thường nương vào Nhị Đế. Nương vào nguyện thù thắng. Ngươi nên trụ đạo này”).

 

          Lúc sáng dậy, đệ tử thưa với thầy [những chuyện đă thấy trong mộng], thầy nên tùy cơ khuyên nhủ, phát khởi, để đoạn lưới nghi cho tṛ. Nếu thấy người ấy chẳng có lẽ nào thành tựu, ắt chẳng nên phó pháp trọn đủ cho người ấy, sợ do lâu ngày chẳng có công hiệu, có lẽ [người ấy] sẽ sanh ḷng nghi hoặc, phỉ báng. Hoặc như kinh Cù Hê đă nói: “Thầy hăy v́ tṛ làm hộ-ma để dứt trừ tai ương. Đă được ĺa các chướng rồi mới cho vào [đàn tràng]”. Nếu thấy đủ loại cảnh giới thù thắng, hăy nên dùng pháp ngôn để an ủi, khuyên dụ, khiến cho tṛ hoan hỷ. Nói “thiện trụ giới” (khéo trụ trong giới), tiếng Phạn là Tô Phạ La Đa (Suvrata), tức là mỹ hiệu để gọi đệ tử, giống như gọi họ là “Phật tử” vậy. Bài kệ được nói trong phần chánh kinh cũng là A Lợi Sa, kiêm tụng bằng tiếng Phạn th́ càng hay hơn, [bản ấy] cũng được chép đầy đủ như sau:

          Ế sa (cái này), ma lạt-già (đạo), phạ ra ra (nguyện), thất-rị mạn (thù thắng, cũng có nghĩa là đức), ma ha (to lớn) dạ nang (thừa), ma hộ (lớn), nại dă (tâm), duệ nẵng (có thể) sưu diên (ngươi), nghiễm mị sái (cái được diễn nói), đổ (cầu) ba phí (thành), thiết tha (tựu), đát tha yết đá (Như Lai), tát diễm bộ vô (tự nhiên trí), ma ha na già (đại long), tát ma lô yết (người đời), tả chế để da (kính trọng như h́nh tướng của tháp), a tất-để (có), na tất-để (không), vĩ-dă (đều), để yết-lan đa (vượt khỏi), ma ca xa (hư không), mị phạ (cùng), thư (không) để lam (cấu nhơ), nghiêm tỵ lan (thâm áo), tát-bà (hết thảy), đạt mê tỵ (pháp), cát bát ra đát kiên (trí thế gian chẳng thể biết rơ), ma na la diêm (chẳng chứa đựng), tát ra-ma (hết thảy), bát-ra bán giá ra hệ đan (ĺa hết thảy hư luận, vọng tưởng), bát-la bán chế (hư luận), cát (do là không), bát ra bán chỉ đan (cũng là hư luận, lặp lại), tát bà (hết thảy), cật-rị da tỵ (việc làm), ra đổ lan (không sánh bằng), tát để-dă (chân thật), nại-phạ dă-dă tham ma thiết-ra diêm (áo), y năng (cái này) đát nễ-dạ nang (thừa), mạt lan (nguyện) thất-lệ sắt sá (thù thắng), la tỵ-thiết (đạt được), tha nại duệ (đạo), tát thể-đá (trụ) (phàm là kệ được nói trong bản tiếng Phạn đều thêm vào câu trợ thanh, gọi là Y Để).

          Nửa đầu bài kệ ca ngợi đạo Bí Mật Thừa. “Nguyện thù thắng” chính là nói tới nguyện Nhất Thiết Trí. Nếu nhập Bồ Đề môn thanh tịnh này, sẽ chiếu kiến tâm pháp, hiểu đạo, đó gọi là “đại Bồ Đề đạo của cổ Phật”. V́ thế nói là thử thù thắng nguyện đạo” (đạo nguyện thù thắng này). “Đại tâm” có ư nghĩa như đă nói trong Ma Ha Tát Đỏa thuộc phần trước. Các vị đại tâm thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai, không vị nào chẳng ngự cỗ xe báu ấy để tới thẳng đạo tràng; v́ thế nói là “đại tâm Ma Ha Diễn”. Bài kệ thứ nhất tán thán công đức phát Bồ Đề tâm của hành nhân, tức là dùng pháp ấn nhất định của hết thảy Như Lai để thọ kư đại Bồ Đề. V́ thế nói: “Nhữ kim năng chí cầu, đương thành tựu Như Lai. Tự nhiên trí đại long, thế gian kính như tháp” (Ngươi nay dốc chí cầu, sẽ thành tựu Như Lai, rồng lớn tự nhiên trí, thế gian kính như tháp). “Tự nhiên trí” là trí tự giác tự chứng của Như Lai. Đối với pháp xưa kia chưa nghe, chưa biết, mà tự nhiên hiểu rơ, hiện tiền chẳng vướng mắc; do vậy, gọi tên như thế. Ma Ha Na Già (Mahānaga, đại long) là biệt hiệu của Như Lai, do sánh ví tác dụng to lớn không ngằn mé, chẳng thể nghĩ bàn). Chế-để (Caitya) được dịch nghĩa là “phước tụ” (khối phước), nghĩa là hết thảy khối công đức của chư Phật tích tụ trong đó. Do vậy, người đời v́ cầu phước, thảy đều cúng dường, cung kính. Nay ngươi phát Bồ Đề tâm, cũng có thể nhiếp thọ vô biên khối phước của hết thảy Như Lai. V́ vậy, thế gian phải nên tôn kính, coi như tháp Phật. Kế đó là một bài kệ rưỡi nhằm hiển thị Bồ Đề tâm thanh tịnh như Thật Tướng ấn, tức là khai Phật tri kiến, khiến cho [hành nhân] được thanh tịnh. “Hữu vô tất siêu việt” (hữu và vô đều vượt thoát) tức là Trung Đạo chẳng thể nghĩ bàn, từ các duyên mà sanh, vượt khỏi đoạn, thường, chẳng phải có, chẳng phải không, hết thy tâm lượng đều chẳng phải là hành xứ, nên gọi là “vô cấu hư không kim cang trí ấn”.

          “Chư pháp thậm thâm áo” (các pháp rất sâu xa): Do tâm tánh quá sâu, hăy nên biết Ấm, Giới, Nhập v.v… cho đến Nhất Thiết Chủng Trí cũng đều quá sâu, do hết thảy các pháp chẳng vượt ngoài Thật Tướng của cái tâm. Thật Tướng như thế chỉ có Phật và Phật mới có thể biết, chẳng do suy lường, phân biệt mà có thể thấu đạt, nên nói là “thậm thâm áo”. “Thế trí bất năng liễu” (trí thế gian chẳng hiểu rơ) là nói người thông huệ, lợi căn trong thế gian chẳng thể nghĩ bàn tâm tánh ấy được! Giả sử các vị đại luận sư như Trường Trảo phạm chí v.v… dùng đủ loại nhân duyên và thí dụ trang nghiêm để sánh ví, ḍ lường, đều trọn chẳng phải là cảnh giới ấy. Hễ tư duy nhọc nhằn để cầu [thấu hiểu], chỉ khiến [kẻ tư duy] phát cuồng. Chỉ riêng người có tín lực kiên cố nương theo phương tiện bí mật này là có thể nhập mà thôi! “Vô hàm tàng” (chẳng chứa đựng) nghĩa là khó thể biết rơ, chính là trong chỗ không chứa đựng như thế, do như thật biết Uẩn A Lại Da vốn bất sanh, không có ǵ để chấp thọ, mà cũng chẳng chứa đựng ǵ. Lúc bấy giờ, hết thảy tâm ư thức vọng tưởng hư luận thảy đều thanh tịnh, chiếu trọn vẹn pháp giới như vầng trăng Thu ở trên hư không. Do vậy, câu kế tiếp nói: “Ly nhất thiết vọng tưởng” (Ĺa hết thảy vọng tưởng). Bản tiếng Phạn ghi là “ĺa hết thảy hư luận vọng tưởng”, nay trong bài kệ [do số chữ có hạn], từ ngữ bị giản lược, nhưng ư nghĩa chẳng khác, cho nên chẳng ghi đủ! Câu kế tiếp nói “hư luận bổn vô cố” (v́ hư luận vốn chẳng có), nếu nói đầy đủ theo bản tiếng Phạn, phải nên nói là “hư luận, vô hư luận cố, dĩ nhất thiết hư luận giai tất tùng duyên sanh, vô hữu tự tánh” (do hư luận chẳng phải là hư luận, v́ hết thảy các hư luận đều từ duyên sanh, chẳng có tự tánh). Do chẳng có tự tánh, tức là vốn sẵn bất sanh. Đây là giải thích câu trước, tức là nói “hư luận ấy vốn chẳng có hư luận”. Nay dùng cách hội ư để nói, bèn bảo là “bổn vô” (vốn chẳng có).

          Kế đó có hai câu nói về phương tiện rốt ráo của Bồ Đề tâm thanh tịnh ấy: Do vượt ngoài hết thảy vọng nghiệp, tức là có thể thành tựu trí nghiệp của Như Lai. Phổ môn hướng dẫn lợi ích trọn khắp, không ǵ chẳng phải là đại sự nhân duyên. V́ thế, hết thảy việc làm đều chẳng thể sánh bằng. Cho nên nói “nhất thiết nghiệp vô tỷ” (hết thảy các nghiệp đều chẳng sánh bằng). Tiếp đó là diễn giải câu trước, luận định chung đại cương của Quyền và Thật; do đó nói: “Thường y ư Nhị Đế” (thường nương vào Nhị Đế), tức là do vậy mà luận nói: “Chư Phật thuyết pháp thường nương vào Nhị Đế”. Nhưng điều được đề cao trong kinh này là các loại phương tiện thuộc các chi phần đều tùy thuận Thế Đế; do nhân duyên ấy mà đắc trí ấn Nhất Thiết Trí, tức là Chân Đế. V́ thế, dùng Thế Đế làm nhân, Chân Đế làm quả, nhân như bốn vị (sữa, lạc, sanh tô, thục tô) thảy đều là vô thường, quả như đề hồ tức là thường. Nhưng dùng mười câu duyên sanh để quán, Thật Tướng của Thế Đế chính là Đệ Nhất Nghĩa Đế. V́ thế, tướng của Quyền và Thật đều chẳng thể nghĩ bàn. Hai câu kinh văn này tuy giản lược, nhưng có thể khiến cho hành giả trong hết thảy các phương tiện của Như Lai sẽ chẳng c̣n ngờ vực nữa. V́ thế, hăy nên “xúc loại nhi trưởng”[38], khiến cho văn nghĩa của toàn bộ bản kinh đều được [thấu hiểu] xuyên suốt như thế. Đă khai thị đại lược đại Bồ Đề đạo xong, lại kết khuyến (khuyên lơn để kết lại) ấn tŕ, cho nên nói “thừa thù thắng nguyện, nhữ đương trụ tư đạo” (nương vào nguyện thù thắng, ngươi nên trụ trong đạo này). Đấy cũng là nhắc lại ư nghĩa thọ kư vậy!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Trụ Vô Hư Luận Chấp Kim Cang bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Nguyện thuyết tam thế vô ngại trí giới. Nhược Bồ Tát trụ thử giới giả, linh chư Phật, Bồ Tát giai hoan hỷ cố”. Như thị thuyết dĩ, Phật cáo Trụ Vô Hư Luận Chấp Kim Cang đẳng ngôn: - Phật tử đế thính! Nhược tộc tánh tử trụ thị giới giả, dĩ thân, ngữ, ư hợp vi nhất, bất tác nhất thiết chư pháp. Vân hà vi giới? Sở vị quán sát xả ư tự thân, phụng hiến chư Phật, Bồ Tát. Hà dĩ cố? Nhược xả tự thân, tắc vi xả bỉ tam sự. Vân hà vi tam? Vị thân, ngữ, ư. Thị cố, tộc tánh tử! Dĩ thọ thân, ngữ, ư giới, đắc danh Bồ Tát, sở dĩ giả hà? Ly bỉ thân, ngữ, ư cố, Bồ Tát Ma Ha Tát ưng như thị học.

                ()爾時住無戲論執金剛白佛言:世尊!願說三世無礙智戒。若菩薩住此者,令諸佛菩薩皆歡喜故。如是說已,佛告住無戲論執金剛等言:佛子諦聽。若族姓子住是戒者,以身語意合為一,不作一切諸法。云何為戒?所謂觀察捨於自身,奉獻諸佛菩薩。何以故?若捨自身則為捨彼三事。云何為三?謂身、語、意。是故族姓子!以受身語意戒得名菩薩。所以者何?離彼身語意故。菩薩摩訶薩應如是學。  

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Trụ Vô Hư Luận Chấp Kim Cang bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Xin hăy nói tam thế vô ngại trí giới. Nếu Bồ Tát trụ trong giới này, sẽ khiến cho chư Phật, Bồ Tát đều hoan hỷ”. Nói như thế xong, đức Phật bảo các vị như Trụ Vô Hư Luận Chấp Kim Cang v.v… rằng: - Phật tử lắng nghe! Nếu tộc tánh tử trụ trong giới này, do thân, ngữ, ư hợp thành một, sẽ chẳng làm hết thảy các pháp. Thế nào là giới? Chính là quán sát, xả tự thân, dâng hiến chư Phật, Bồ Tát. V́ sao vậy? Nếu bỏ tự thân, tức là bỏ ba sự. Những ǵ là ba? Tức là thân, ngữ, ư. V́ thế, tộc tánh tử! Do thọ thân, ngữ, ư giới, mà được gọi là Bồ Tát. V́ lẽ nào vậy? Do ĺa thân, ngữ, ư. Bồ Tát Ma Ha Tát hăy nên học như thế).

 

          Phần kinh văn trước đó chỉ nhắc tới “thọ Tam Thế Vô Chướng Ngại Giới, chưa nói rơ tướng ấy. V́ thế, ngài Trụ Vô Hư Luận Kim Cang bèn thừa dịp nêu lời hỏi. Lại nữa, đức Thế Tôn chờ [có người hỏi] rồi mới nói, cũng là v́ quyến thuộc trong pháp môn mà nêu rơ. Nay tịnh giới ấy chính v́ lấy trí ấn Trụ Vô Hư Luận Kim Cang làm Thể; do vậy, [đức Phật] đặc biệt nói với vị tôn thánh này (ngài Trụ Vô Hư Luận Chấp Kim Cang), v́ muốn cho nhân và pháp tương ứng, ḥng gởi gắm lưu truyền. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê lại nói: “Giới tướng này cũng là câu gia tŕ. Nếu khi truyền trao, trước hết hăy nên tụng tŕ bản tiếng Phạn; sau đấy mới dùng ngôn ngữ địa phương để giải thích th́ càng tốt lành hơn”. Nay chép đầy đủ [nguyên âm tiếng Phạn] như sau:

          Thất rị nô (lắng nghe), củ la bổ đát-ra (tộc tánh tử), đát thảm mạt lan (giới ấy), duệ đát-ra (nếu), củ la bổ đát-ra (tộc tánh tử) ca da phạ ngập-măng na sa (thân, ngữ, ư), mế yết đát-ra nễ cật-sái bố na ram bà (kết hợp thành một). A cật-rị tà (chẳng làm), tát ra-ma đạt ma xá (hết thảy các pháp), ca đá ma giả bà (gọi là như thế nào), dă a đát măng bà phạ (quán tự thân), bát rị đát-dă ngung (xả để hiến dâng), bột đà bồ đề tát đá-phệ tệ (các vị Phật, Bồ Tát), trớ yết sa-ma đệ đổ (v́ sao vậy), rị dữu hệ a đát-ma bà văm (nếu tự thân), bát rị để-dă nhă để (xả thí), đế na phạ tát-đổ đát-rị diên (ba vật ấy), bát rị để-dă yết-đan bà phạ để (bỏ làm), yết đá măng thất-giả phạ-đát tốt đổ đát-ra diên (thế nào là ba vật) dă nỗ đá ca tà phạ ngập măng na y để (thân, ngữ, ư), đát tát man trớ rị-hệ (v́ thế), câu la bổ đát-ra (thiện nam tử) ca tà phạ ngập măng na tam phạ ra tam vật-lật đế na (thọ thân ngữ ư giới), bồ đề tát đát-phệ na (Bồ Tát), bà vĩ đát vật-diễm (sẽ đạt được), đát yết sa-ma đệ đổ (v́ lẽ nào), lật-nẵng ca tà phạ ngập măng na san bát rị để-dă nhĩ-dă (bỏ ĺa thân, ngữ, ư ấy), thích xoa cật-ra ha xá (hăy nên học), củ mạn (chẳng lạnh) để (làm), Bồ Đề Tát Đỏa Ma Ha Tát Đỏa y để” (Bồ Tát Ma Ha Tát, Y Để là câu để đệm).

          Câu thứ nhất là nói “Phật tử đế thính” (Phật tử hăy lắng nghe). Củ La (Kula) trong tiếng Phạn có nghĩa là “tộc, hoặc bộ, Bổ Đát La (Putra) có nghĩa là nam tử” (con trai). Nếu giải thích theo Thế Đế, th́ sanh trong bốn chủng tánh đều gọi là Đại Tộc; v́ thế gọi là Tộc Tánh Tử. Nay được sanh trong nhà Như Lai, thù thắng nhất trong các gia tộc. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Hăy nên hiểu ư, dịch là Phật tử v́ chú trọng nơi ư nghĩa”.

          Kinh dạy “nhược tộc tánh tử trụ thị giới giả, đương dĩ thân ngữ ư hợp nhi vi nhất” (nếu tộc tánh tử trụ trong giới này, hăy nên đem thân, ngữ, ư hợp thành một). Giới này tiếng Phạn gọi là Tam Phạ La (Saṁvara), có nghĩa là “cộng duyên, cùng thành tựu giới này”. Đó gọi là huệ, phương tiện v.v… hợp thành. Như Thi La (Śīla) chỉ có nghĩa là “thanh tịnh”. Hơn nữa, Tam Phạ La có nghĩa là “b́nh đẳng”. Đức Phật bảo kết hợp thân, ngữ, ư thành một, tức là trụ trong pháp môn Tam B́nh Đẳng (thân, ngữ, ư b́nh đẳng); cho nên được gọi là Tam Thế Vô Chướng Ngại Giới. Như đức Phật đă v́ các Thanh Văn nói đại lược giáo giới, tức là nói ba nghiệp đạo thanh tịnh ấy chính là đạo của bậc đại tiên nhân. Từ mười hai năm sau, Ngài hơi diễn nói ư nghĩa, tạo thành các thứ luật nghi. Nay phần lược giảng ư nghĩa của giới trong tŕ minh (tŕ chân ngôn) cũng giống như thế. Nếu phương tiện nơi ba nghiệp của hành nhân thảy đều thật sự thuận theo Tam B́nh Đẳng Xứ (thân ngữ ư b́nh đẳng), hăy nên biết đấy chính là trọn đủ luật nghi của hết thảy chư Phật. Lại c̣n xé rách lưới tưởng, đó là ư nghĩa của Tam Phạ La. Ư nói: Lưới các hư luận và kiến giải, do sợi ngang và sợi dọc hợp thành, trùng lặp, chồng chéo, nên gọi là Lưới. Nay hành giả quán thân nghiệp và khẩu nghiệp chẳng có một cái Thể riêng biệt, cuối cùng đều quy vào gốc th́ chỉ là một cái tâm, nhưng Thật Tướng của cái tâm ấy luôn là pháp giới b́nh đẳng. V́ thế, khi trụ trong giới ấy, các thứ thân, khẩu, ư nghiệp đều có cùng một tướng, vô lượng lưới kiến chấp thảy đều trừ sạch. Do vậy được gọi là “Trụ Vô Hư Luận kim cang ấn”.

          Kinh nói: “Bất tác nhất thiết chư pháp” (chẳng làm hết thảy các pháp): Các thứ Ngũ Ấm nương vào phiền năo, phiền năo nương vào nghiệp. Các thứ nghiệp ấy đều do thân, miệng, ư sanh ra. Như xét theo thân, miệng, ư, mà chia thành mười loại nghiệp đạo thiện ác. Xét theo đầu mối của chúng, đều là vô lượng vô biên. Do vậy, hễ tu hành ba nghiệp th́ đều có hạnh để tiến nhập. Kẻ chẳng tiến nhập tức là do suy tưởng điên đảo. Do suy tưởng điên đảo, nên có vô lượng tướng sanh. V́ thế, bị các tướng gây trở ngại, chẳng đạt được vô ngại trí của Phật. Nay hành giả quán sâu xa mười câu duyên sanh, biết rơ ba nghiệp rốt ráo chẳng sanh, pháp tánh vốn tự thường hằng, chẳng có động tác. Đó gọi là “trụ vô vi giới”. Tịnh giới như thế c̣n chẳng phải do Như Lai thực hiện, huống hồ trụ vào giới này mà tạo tác các pháp ư?

          Kinh dạy: “Vân hà vi giới? Sở vị quán sát, xả ư tự thân, phụng hiến chư Phật, Bồ Tát. Hà dĩ cố? Nhược xả tự thân, tắc vi xả bỉ tam sự! Hà đẳng vi tam? Vị thân, ngữ, ư” (Thế nào là giới? Tức là quán sát, xả tự thân để dâng hiến chư Phật, Bồ Tát. V́ sao vậy? Nếu bỏ thân ḿnh, sẽ có thể bỏ ba sự. Những ǵ là ba? Tức là thân, ngữ, ư). Kế đó, nói về phương tiện trọn đủ huệ để tŕ vô tác giới. Hành giả quán trong Thật Tế của thân th́ thân chẳng thể được. Đó chính là sự giải thoát của Như Lai. V́ thế, bỏ sạch thân này, thí cho hết thảy các Như Lai. Từ đấy trở đi, động tác, hành vi, hễ thực hiện điều ǵ, đều là sự giải thoát của Như Lai, chẳng v́ thân ḿnh. Tuy đủ loại vạn hạnh hừng hực, trang nghiêm cơi Phật, thành thục chúng sanh, nhưng pháp tánh vốn sẵn như thế, chẳng phải là tạo tác. Người có thể dâng hiến, tu tập như thế, th́ gọi là “vô biên phước tụ”, gọi là “vô tận phước hà” (sông phước vô tận). Hễ tạo thiện căn chừng bằng mảy giọt, gieo vào biển pháp giới, sẽ có thể cứu vớt chúng sanh giới cũng chẳng cạn kiệt.

          [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Trong bản tiếng Phạn, có bài kệ rằng: - Nếu có người giải thoát, tŕ pháp giải thoát này, cúng dường bậc giải thoát, phước ấy thù thắng nhất”. Nếu hành nhân Chân Ngôn chẳng hiểu tịnh giới như thế, dẫu miệng tụng chân ngôn, thân tŕ mật ấn, tâm trụ trong Bổn Tôn tam-muội, tu trọn đủ các nghi thức cúng dường chư tôn theo thứ tự, vẫn gọi là “tạo tác các pháp, chẳng ĺa lưới nhân ngă”, sao có thể gọi là Bồ Đề Tát Đỏa cho được? V́ thế, tiếp đó kinh nói: “Thị cố, tộc tánh tử! Dĩ thọ thân ngữ ư giới, đắc danh Bồ Tát. Sở dĩ giả hà? Ly bỉ thân ngữ ư cố. Bồ Tát Ma Ha Tát ưng như thị học” (V́ thế, tộc tánh tử! Do thọ thân, ngữ, ư giới mà được gọi là Bồ Tát. V́ cớ sao vậy? Do ĺa thân, ngữ, ư. Bồ Tát Ma Ha Tát hăy nên học như thế). “Ưng học” ở đây, được dịch theo lối cũ là Thức Xoa Ca La Ni (Śikṣākāraṇī), giống như thiên thứ năm trong Giới, thâu nhiếp chung các kiền-độ[39] oai nghi hành pháp trong Tỳ Ni (Vinaya, Luật Tạng). Người học Đại Thừa cũng giống như thế, hăy nên tŕ giới phương tiện này, nhập trọn khắp hết thảy các hạnh chân ngôn. Nếu giới có thiếu khuyết mà được thành Bồ Tát hạnh, chẳng có lẽ ấy!

 

          (Kinh) Thứ ư minh nhật, dĩ Kim Cang Tát Đỏa gia tŕ tự thân, vị Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na tác lễ. Ưng thủ tịnh b́nh, thịnh măn hương thủy, tŕ tụng Hàng Tam Thế chân ngôn, nhi dụng gia chi, trí sơ môn ngoại, dụng sái thị chư nhân đẳng. Bỉ A-xà-lê dĩ tịnh hương thủy, thọ dữ linh ẩm, bỉ tâm thanh tịnh cố.

          ()次於明日,以金剛薩埵加持自身,為世尊毘盧遮那作禮,應取淨瓶盛滿香水,持誦降三世真言而用加之。置初門外,用灑是諸人等。彼阿闍梨以淨香水授與令飲,彼心清淨故。

          (Kinh: Kế đó, vào ngày hôm sau, dùng Kim Cang Tát Đỏa để gia tŕ tự thân, v́ Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na mà làm lễ. Hăy nên lấy cái b́nh sạch, đựng đầy nước thơm, tŕ tụng chân ngôn Hàng Tam Thế, dùng để gia tŕ, đặt ở ngoài cửa tầng ngoài cùng [của đàn tràng], dùng rưới lên những người ấy. Vị A-xà-lê dùng nước thơm thanh tịnh trao cho họ bảo uống, nhằm [khiến cho] tâm họ thanh tịnh).

 

          Kinh dạy: “Thứ ư minh nhật, dĩ Kim Cang Tát Đỏa gia tŕ tự thân, vị Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na tác lễ” (Kế đó, vào ngày hôm sau, dùng Kim Cang Tát Đỏa để gia tŕ bản thân, đảnh lễ Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na Phật), tức là nói ngày hôm sau thọ giới, chính là chiều ngày thứ bảy. Khi thực hiện các sự việc để tạo tác Mạn-đồ-la, đều nên dùng Kim Cang Tát Đỏa để gia tŕ tự thân, tức là quán thân ḿnh chính là Chấp Kim Cang. Phương tiện trong ấy, sẽ như kinh văn trong phần sau và Thứ Tự Cúng Dường sẽ nói. Nếu là bậc A-xà-lê kiến đế, sẽ trụ trong tâm Kim Cang Tát Đỏa; đó gọi là “vô đẳng đẳng Bồ Đề tâm”. Do được bí mật gia tŕ như thế, các việc làm đều chẳng thể phá hoại. Kế đó, hăy như trước mà vận tâm, lễ bái Đại Nhật Như Lai. Sau đấy mới tŕ tụng chân ngôn Hàng Tam Thế để gia tŕ tịnh b́nh[40]. Đấy cũng là chân ngôn Thành Biện Chư Sự. Trước hết, hăy nên đúng như pháp, lấy cái b́nh sạch sẽ, múc nước thanh khiết [từ giếng hay suối thanh tịnh], đúng như pháp chắt lọc. Trong b́nh đựng, bỏ vào đó năm thứ báu, ngũ cốc, lại lấy các thứ nước thơm, các thứ hoa quả đẹp đẽ cắm vào đó, trang nghiêm đủ mọi lẽ, dùng vải lụa sạch sẽ buộc cổ b́nh, đều nên dựa theo Thứ Tự Cúng Dường để gạt trừ cấu nhơ, tịnh hóa bằng chữ Pháp Giới Tâm (Raṃ) rồi mới gia tŕ. Nói chung, số lượt tụng chân ngôn chẳng có hạn lượng nhất định, hăy nên dùng chữ để tính như trong kinh Tô Tất Địa[41] đă nói.

          Lại nữa, ở trong ấy, hễ thực hiện Mạn-đồ-la của tam bộ (Phật bộ, Liên Hoa bộ, Kim Cang bộ), đối với mỗi bộ, đều dùng Bộ Tâm (tâm chú trong một bộ) hoặc Bộ Mẫu[42] chân ngôn để gia tŕ. Nay trong kinh này, thông dụng dùng Biện Sự Chân Ngôn để gia tŕ. Chân ngôn ấy lại có rộng và lược. V́ thế, chẳng luận định cặn kẽ số lượt, hăy nên suy nghĩ cân nhắc. Nếu chú quá lớn (quá nhiều chữ) th́ tụng tới một trăm lượt, kém hơn th́ năm trăm lượt, ít chữ th́ tụng tới một ngàn lượt. Đă gia tŕ xong, hăy nên đặt [b́nh chứa nước sạch ấy] ở ngoài cửa của bạch đàn như đă hoạch định trước đó. Người muốn vào Mạn-đồ-la, hăy nên dùng nước này rẩy lên, khiến cho túc chướng của người đó trừ sạch th́ mới được thấy Mạn-đồ-la.

          Lại từ trong một b́nh chứa khác, pha chế nước thơm, dùng các thứ hương tốt đẹp như uất kim, long năo, chiên đàn v.v… [để pha trộn], trao cho [đệ tử] bảo họ uống một chút. Đó gọi là Kim Cang Thủy. Do được bí mật gia tŕ, thậm chí trọng chướng địa ngục thảy đều trừ diệt, trong lẫn ngoài đều thanh tịnh, kham làm pháp khí. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Đây gọi là thệ thủy, cũng là thuận theo Thế Đế, giống như cách giao ước lập thệ, khiến cho hành nhân đối trước các vị tôn thánh, uống nước thơm ấy, tự thệ nơi tâm, sao cho chẳng thoái thất đại Bồ Đề nguyện”. Lại dùng vô ngại giới hương ḥa hợp với tâm thủy trong sạch nơi môn chữ Phạ (, Va), ai được uống vào, hoặc tiếp xúc, đều nhất định thành Vô Thượng Bồ Đề. Thanh tịnh cái tâm như thế, tức là kham nhập Bí Mật Mạn-đồ-la.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ dĩ kệ vấn Phật: - Chủng Trí thuyết trung tôn, nguyện thuyết bỉ thời phần. Đại chúng ư hà thời, phổ tập hiện linh thụy, Mạn-đồ-la xà-lê, ân cần tŕ chân ngôn?

          ()爾時執金剛祕密主以偈問佛:種智說中尊,願說彼時分。大眾於何時,普集現靈瑞,漫荼羅闍梨,慇懃持真言?

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ dùng kệ hỏi đức Phật: “Đấng thuyết pháp bậc nhất, bậc Nhất Thiết Chủng Trí, xin hăy nói thời phần, đại chúng vào lúc nào, cùng nhóm hiện điềm lành. Mạn-đồ-la xà-lê, ân cần tŕ chân ngôn?”)

 

          Từ “nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ dĩ kệ vấn Phật” (lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ dùng kệ hỏi đức Phật) trở đi, nói về chi phần tạo lập Mạn-đồ-la. Trong kệ tụng, trước hết là tán thán Phật: Kính mong đấng Nhất Thiết Trí, bậc nhất trong các vị thuyết pháp, sẽ nói về thời phần của pháp môn này. “Thời phần” tức là thời gian hạn lượng từ lúc mới vẽ Mạn-đồ-la cho đến khi xong việc. Kế đó nói “đại chúng ư hà thời, phổ tập hiện linh thụy” (đại chúng vào lúc nào, sẽ nhóm họp trọn khắp, hiện điềm lành linh diệu), tức là hết thảy các thân phổ môn [của các vị tôn thánh] theo từng loại trong Đại Bi Thai Tạng khi nào sẽ nhóm họp trọn khắp, hiện tiền trong đạo tràng, dùng thần lực gia tŕ, thị hiện oai thần ứng nghiệm. Nếu đệ tử các căn thanh tịnh, nhạy bén, căn cơ đáng được độ sâu xa, sẽ có thể là từ ngay trong thân này, đích thân trông thấy vô biên thánh chúng, chẳng khác ǵ người tham dự hội Linh Sơn cùng thấy [đức Phật] ba lượt biến ra cơi tịnh để dung nạp phân thân chư Phật. Hăy nên biết khi đó, tức là lúc Mạn-đồ-la A-xà-lê truyền tŕ lời chân thành, chắc thật, thực hiện Như Lai sự. V́ thế nói: “Ân cần tŕ chân ngôn”.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Bạc Già Phạm, cáo Tŕ Kim Cang Huệ: - Thường đương ư thử dạ, nhi tác mạn-đồ-la, truyền pháp A-xà-lê, như thị ưng thứ thủ, ngũ sắc Tu-đa-la, khể thủ nhất thiết Phật, Đại Tỳ Lô Giá Na, thân tự tác gia tŕ. Đông phương dĩ vi thủ, đối tŕ Tu-đa-la, chí tề nhi tại không, tiệm thứ hữu toàn chuyển. Như thị Nam cập Tây, chung cánh ư Bắc phương. Đệ nhị an lập giới, diệc tùng sơ phương khởi, ức niệm chư Như Lai. Sở hành như thượng thuyết, hữu phương cập hậu phương, phục châu ư thắng phương. A-xà-lê thứ hồi, y ư Niết-rị-để, thọ học đối tŕ giả, tiệm thứ dĩ Nam hành. Tùng thử hữu toàn nhiễu, chuyển y ư Phong phương. Sư vị di bổn xứ, nhi cư ư Hỏa phương. Tŕ chân ngôn hành giả, phục tu như thị pháp. Đệ tử tại Tây Nam, sư cư Y-xá-ni. Học giả phục toàn nhiễu, chuyển y ư Hỏa phương. Sư vị di bổn xứ, nhi trụ ư Phong phương.

          ()爾時薄伽梵,告持金剛慧:常當於此夜,而作漫荼羅。傳法阿闍梨,如是應次取,五色修多羅,稽首一切佛。大毘盧遮那,親自作加持,東方以為首,對持修多羅,至齊而在空,漸次右旋轉,如是南及西,終竟於北方。第二安立界,亦從初方起,憶念諸如來,所行如上,右方及後方,復周於勝方。阿闍梨次迴,依於涅哩底,受學對持者,漸次以南行,從此右旋遶,轉依於風方,師位移本處,而居於火方。持真言行者,復修如是法,弟子在西南,師居伊舍尼,學者復旋遶,轉依於火方,師位移本處,而住於風方。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm bảo Tŕ Kim Cang Huệ: - Thường nên trong đêm này, tạo lập Mạn-đồ-la. A-xà-lê truyền pháp, kế đó hăy nên lấy, chỉ ngũ sắc như thế. Đảnh lễ hết thảy Phật, Đại Tỳ Lô Giá Na, đích thân làm gia tŕ. Khởi đầu từ phương Đông, đối diện tay cầm chỉ, ngang rốn tại hư không, xoay dần theo chiều phải, từ Nam cho đến Tây, rốt cuộc tới phương Bắc. An lập giới thứ hai, cũng từ phương đầu khởi (từ phương Đông mà bắt đầu), nghĩ nhớ các Như Lai, đi đúng như nói trên, phương phải và phương sau, hết một ṿng về Bắc. Kế đó, thầy trở về, ở nơi Niết-rị-để (phương Tây Nam). Người học đối diện cầm (tức cầm chỉ ngũ sắc đă được gia tŕ), lần lượt sang phương Nam. Từ đó, ṿng chiều phải, chuyển sang ở phương Phong (phương Tây Bắc). Thầy bèn dời khỏi chỗ, đến ở nơi Hỏa phương (phương Đông Nam). Hành giả tŕ chân ngôn, lại tu pháp như vậy. Đệ tử ở Tây Nam, thầy ở Y Xá Ni (phương Đông Bắc). Người học lại nhiễu quanh, chuyển sang trụ phương Hỏa (Đông Nam). Thầy lại dời khỏi chỗ, sang trụ nơi phương Phong).

 

          [Ngài Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ] nói bài kệ ấy xong, lúc đó, đức Thế Tôn bảo Tŕ Kim Cang Huệ rằng: “Thường đương ư thử dạ, nhi tác Mạn-đồ-la” (thường ngay trong đêm ấy, mà tạo Mạn-đồ-la), tức là trong đêm thứ bảy, khiến cho pháp sự đều hoàn tất. Trong ngày hôm ấy, [khoảng thời gian] sau khi mặt trời lặn cho đến khi tướng sáng xuất hiện (tức rạng đông ngày hôm sau) được gọi chung là “đêm”. Khi bắt đầu vào đêm (lúc mặt trời lặn), liền vẽ vời, xếp đặt tọa vị của các vị tôn thánh, sắp đặt các vật cúng dường. Khi tướng sáng [của ngày hôm sau] chưa xuất hiện, bèn tống tiễn [chư thánh] xong xuôi. Nếu trái nghịch pháp tắc này, sẽ sanh ra chướng ngại, cho tới khiến cho chỗ nương vào để trụ cũng chẳng cát tường.

          Nhưng nếu giải thích theo cách bí mật, sâu xa, th́ chính là coi cơ hội tốt lành cho đạo cơ là “thời”, hoặc dùng phương tiện gia tŕ, rút gọn trăm kiếp thành một đêm, hoặc kéo dài một đêm thành trăm kiếp. Dài hay ngắn do duyên, chẳng có thời hạn nhất định! Nếu là thiển hạnh A-xà-lê, sẽ cần phải hoàn toàn tuân theo pháp tắc, trong lúc ban ngày sẽ tính toán, vẽ phần đường ranh [của Mạn-đồ-la], dùng các thứ thảo mộc như bạch đàn v.v… để ấn định phương vị của h́nh tượng chư tôn thánh. Từ ban ngày cho tới lúc tối, sắp sẵn hương, hoa, đèn, đuốc v.v… đều phải chuẩn bị đầy đủ. Kinh Cù Hê nói: “Ư Mạn-đồ-la Bắc diện nhất xứ, dĩ bạch sắc quy hoạch Biện Sự Chân Ngôn tịch trừ chư nạn, trí chư cúng cụ dă” (Ở một chỗ tại mặt Bắc của Mạn-đồ-la, dùng màu trắng để ấn định chỗ vẽ chân ngôn biện sự nhằm đoạn trừ các nạn, đặt các vật cúng dường). [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Nếu chẳng thể trong một đêm vẽ khắp h́nh tượng của các tôn giả, hăy từ ngày thứ năm, sau khi thọ tŕ địa, bèn lần lượt làm, theo lư th́ chẳng trở ngại ǵ”. Lại c̣n có ba loại phương tiện vẽ h́nh ấn và chữ chủng tử của chư tôn như kinh văn trong phần sau sẽ nói.

          Kinh nói “truyền pháp A-xà-lê” đă biết thời phần, tức là hiểu rơ nghi quỹ tạo lập. Tới lúc mặt trời lặn, A-xà-lê cùng các đệ tử phụ giúp đúng như pháp tắm gội xong, mặc áo mới sạch, dấy tâm đại bi, cầm các vật cúng đến chỗ Mạn-đồ-la. Trước hết, hăy nên mỗi mỗi đều gia tŕ đúng pháp trọn đủ như trong phần Thứ Tự Cúng Dường đă nói. Kế đó, hăy nên đúng như pháp hộ tŕ bản thân. Gọi đệ tử được độ đến, thầy tác pháp thủ hộ cho họ, dùng nước thơm rảy lên, bảo họ đều theo thứ tự mà ngồi tại một nơi. Sau đấy, A-xà-lê tới trước cửa đạo tràng, vận tâm trọn khắp, dập đầu đảnh lễ mười phương hết thảy chư Phật cũng như trong phần trên đă nói. Sau đấy, cầm dây ngũ sắc, đứng hướng về phương vị của Mạn-đồ-la mà đặt lên đỉnh đầu. Kế đó, quán thân ḿnh là Tỳ Lô Giá Na, kinh gọi chuyện này là “Đại Tỳ Lô Giá Na nhi tự tác gia tŕ” (dùng Tỳ Lô Giá Na để tự gia tŕ). V́ cớ sao vậy? Do Đại Nhật Như Lai chính là A-xà-lê của Đại Bi Thai Tạng này. V́ vậy, nếu lúc hành giả làm chuyện của A-xà-lê, liền phải nên tưởng tự thân là Tỳ Lô Giá Na. Nếu lúc làm các việc dựa theo Mạn-đồ-la, bèn quán tự thân là Kim Cang Tát Đỏa. Phương tiện gia tŕ này sẽ được nói trong pháp Cúng Dường thuộc phần sau.

          Lại nữa, hành giả hăy nên biết tám vị trí thủ hộ thuộc các phương. Phàm tạo tác Mạn-đồ-la đều thuận theo các vị trí ấy mà di chuyển. Từ phương Đông Nhân Đà La (Indra, Đế Thích) theo thứ tự chuyển tới phương Nam Diễm Ma La (Yamarāja, Diêm Vương), phương Tây Phạ Rô Noa (Varuṇa, thủy thần), phương Bắc Tỳ Sa Môn (Vaiśravaṇa, Đa Văn thiên vương), Đông Bắc Y Xá Ni (Īśana, tức thần Shiva), Đông Nam là Hộ Ma (hỏa cúng), Tây Nam là Niết Rị Để (Nirṛti)[43], Tây Bắc là Phạ Dữu (Vāyu, thần gió). Các tôn thánh thuộc phương trên phần nhiều ở bên phải của Đế Thích. Chư tôn thuộc phương hạ phần nhiều ở bên phải của Long Tôn. Phương thượng là Không Cư, phương hạ là Địa Cư.

          Lại nữa, đối với Trung Đài Tạng th́ ba lớp thành tŕ[44] ranh giới đều đă hoạch định sẵn để làm tiêu chí, khiến cho các phương và các góc cân bằng. Phải ấn định phương vị trọn vẹn để vẽ mạn-đồ-la sao cho vị trí của Đại Nhật Phật nằm ở ngay giữa năm loại khối báu. Tới lúc vẽ các h́nh tướng, A-xà-lê trước hết tới phương Nhân Đà La (phương Đông), đúng như pháp lễ bái. Kế đó, đứng ở phương Hỏa (phương Đông Nam), hướng về phương Bắc. Các đệ tử phụ tá thầy th́ đứng ở phương Y Xá Ni (phương Đông Bắc). Đối diện nhau, tay cầm Tu-đa-la (chỉ ngũ sắc như đă nói trong phần trước) để chuẩn định [phương vị của] ngoại giới. Kế đó, đệ tử xoay theo chiều phải tới vị trí Niết Rị Để (phương Tây Nam), thầy cũng xoay theo chiều phải hướng về phương Tây, đối diện nhau mà cầm [chỉ ngũ sắc]. Kế đó, A-xà-lê lại nhiễu theo chiều phải, tới phương vị của Phạ Dữu (Tây Bắc). Đệ tử cũng nhiễu theo chiều phải trở về phương Bắc đối diện thầy, cầm chỉ. Đệ tử lại nhiễu theo chiều phải tới phương vị Y Xá Ni (Đông Bắc). Thầy cũng nhiễu theo chiều phải, trở về phương Đông, cầm chỉ đối diện [với tṛ]. Hễ giáp một ṿng xong, đều nên căn [sao cho chỉ được căng ấy] ngay ngắn, vuông vắn trên không trung. Tới ṿng thứ hai, cũng chuyển theo chiều phải như trên, theo thứ tự căng dây để làm đường ranh (tức phân định ranh giới giữa các viện trong Mạn-đồ-la). Kế đó, chuẩn định đúng bốn góc. A-xà-lê lại nên nhiễu theo chiều phải tới Niết Rị Để (Tây Nam), c̣n đệ tử trước tiên ở Y Xá Ni (Đông Bắc), xoay theo chiều phải, đối diện mà cầm dây. Kế đó, đệ tử lại nhiễu theo chiều phải đến phương Phạ Dữu (Tây Bắc), thầy liền chuyển theo chiều phải đến phương Hộ Ma (Đông Nam), đệ tử cũng theo xoay theo chiều phải đối diện mà cầm chỉ ngũ sắc, sao cho [chỉ được căng] ngang rốn ở trên hư không, để chuẩn định phương vị. Kế đó, đệ tử lại xoay theo chiều phải đến phương Niết Rị Để, thầy liền chuyển theo chiều phải đến phương vị Y Xá Ni, đối mặt nhau mà buộc dây. Kế đó, đệ tử lại nhiễu theo chiều phải tới phương vị Hộ-ma (Đông Nam), thầy liền chuyển theo chiều phải tới phương Phạ Dữu, đối diện mà buộc dây. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Đối với đường chữ thập ở bốn phương, tuy kinh không nói, nhưng theo lư ắt phải có, cũng cần phải xoay theo chiều phải, đối diện nhau để buộc”.

 

          (Kinh) Như thị chân ngôn giả, phổ tác tứ phương tướng, tiệm thứ nhập kỳ trung, tam vị dĩ phân chi, dĩ biểu tam phn vị, địa tướng phổ châu biến. Phục ư nhất nhất phần, sai biệt dĩ vi tam. Thị trung, tối sơ phần, tác nghiệp sở hành đạo. Kỳ dư trung hậu phần, thánh thiên chi trụ xứ.

          ()如是真言者, 普作四方相,漸次入其中,三位以分之。已表三分位,地相普周遍,復於一一分,差別以為三。是中最初分,作業所行道,其餘中後分,聖天之住處。

          (Kinh: Người tŕ chú như thế, tạo trọn tướng bốn phương, dần dần vào chính giữa, chia mỗi tầng làm ba, biểu thị ba phận vị, tướng đất đều trọn khắp. Ở trong mỗi một phần, chia ba phần sai khác. Trong ấy, phần thứ nhất, nơi tác nghiệp, tu đạo. Phần giữa và sau đó, chỗ trụ của thánh, trời).

 

          Ấn định [phương vị của] ngoại giới (phía ngoài Trung Đài Bát Diệp) và tướng tám phương như thế xong. Kế đó, vào bên trong, trước hết ấn định ngoại giới của Trung Đài, cũng giống như trên xoay chuyển để căng dây ḥng xác định tướng bốn phương. Ấn định tướng tám phương xong, sẽ chẳng c̣n làm nữa. Kế đó, ấn định tầng ngoại giới thứ nhất, rồi ấn định tầng ngoại giới thứ hai, cũng theo cùng pháp tắc như Trung Đài. Kích thước rộng hẹp sẽ đều lần lượt bằng một nửa, [nghĩa là]: Giả sử Trung Đài có kích thước mỗi bề là tám thước, tầng thứ nhất [ở ngoài Trung Đài] sẽ là bốn thước, tầng thứ hai là hai thước, tầng thứ ba th́ rộng một thước. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Bổn pháp là như thế. Nếu sợ lớn nhỏ cách biệt quá nhiều, có thể cân nhắc sao cho cân bằng, theo lẽ th́ chẳng trở ngại ǵ”.

          Chia như thế xong, lại trong mỗi tầng, đều chia thành ba phần. Phần ở trong cùng là chỗ đường bao quanh để đi lại, v́ thế nói là “Phật tử sở hành đạo”. Phần kế tiếp là chỗ đặt các vật cúng dường. Phần ngoài cùng là chỗ đặt tọa vị của các vị tôn thánh. V́ thế, hai phần đó đều là chỗ của tôn thánh và chư thiên [cho nên kinh nói: “Kỳ dư trung hậu phần, thánh thiên chi trụ xứ” (hai phần giữa và sau c̣n lại kia, là chỗ trụ của tôn thánh và chư thiên)]. Kế đó, ở phía ngoài lại làm đường ranh bao quanh trọn khắp. Đối với các tọa vị trống không đó, hăy nên vận tâm quán sát, thuận theo chư tôn tương ứng với phương diện phần vị mà đều nên thỉnh vời, cúng dường. Bởi lẽ, khi A-xà-lê gặp chuyện lỡ quên mất, hoặc sai lầm, có thể là xếp đặt chư tôn [trong Mạn-đồ-la] chẳng toàn vẹn. Đối với các vị đáng nên thỉnh vời mà không có tọa vị, đều nên vận tâm cúng dường nơi ấy. Cách chia thành ba phần này [như sau]: Trước hết, ở phía trong của tầng thứ nhất thuộc ngoại giới (tức phần ngoài của Trung Đài Bát Diệp], chọn lấy chút phần dùng làm đường ranh giới. Kích thước rộng hay hẹp đều nên cân nhắc để định đoạt, sao cho hơi thông với các tọa vị. Phía trong ranh giới, hăy nên chia thành ba phần đều nhau. Hăy nên là trước hết ấn định phần đặt tọa vị của chư tôn xong xuôi. Kế đó, ấn định ranh giới của phần đặt đồ cúng dường và phần dùng làm đường đi. Tầng thứ nhất như thế đă xong.

          Kế đó, đối với tầng thứ hai, cũng từ ngoài hướng vào trong mà lần lượt chia [thành ba phần]. Kế đó, đối với tầng thứ ba, cũng [chia ba phần] giống như phần kinh văn trên đây đă nói. Quang minh tỏa ra từ rốn của Đại Nhật Như Lai trở xuống là các tọa vị thuộc tầng thứ ba. Quang minh phát ra từ rốn cho đến yết hầu là tọa vị thuộc tầng thứ hai. Quang minh phát ra từ yết hầu cho đến đảnh tướng là tọa vị thuộc tầng thứ nhất. Thai Tạng trong đó chính là hoa sen tám cánh nơi tự tâm của đức Tỳ Lô Giá Na. Các kim cang đệ tử cùng [giúp thầy] kiến lập Mạn-đồ-la cần phải khéo thông đạt chân ngôn, pháp yếu, gần bằng với thầy, th́ sẽ có thể giúp thầy chẳng sai sót. Nếu chẳng có người như thế, chỉ chọn lấy người đă từng được quán đảnh đúng pháp, gặp việc bèn chỉ dạy họ hành tŕ. Nếu lại chẳng có người như thế th́ dùng cọc [để đánh dấu phương vị]. Trước hết, đóng cọc tại Hỏa phương (phương Đông Nam), kế đó ở tại phương Y Xá Ni (Đông Bắc) cũng đặt dây chăng, tức là thầy trước đă ghi nhớ chỗ có cọc ở Hỏa phương là chỗ của thầy. Sau đấy, từ phương Y Xá Ni kéo dây tới chỗ Niết Rị Để (Tây Nam); những điều khác cứ chuẩn theo cách làm này mà suy ra. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê lại bảo: “Muốn cùng kéo dây, cần phải chọn đệ tử muốn được quán đảnh. Trước hết, dùng nước thơm đă gia tŕ rảy lên họ để cùng làm việc. Đối với các phương vị được vẽ trong đàn, hăy dùng vật che lại, đừng để cho họ trông thấy”.

 

          (Kinh) Phương đẳng hữu tứ môn, ưng tri kỳ phận tễ. Thành tâm dĩ ân trọng, vận bố chư thánh tôn. Như thị tạo chúng tướng, quân điều thiện phân biệt. Nội tâm diệu bạch liên, Thai Tạng chánh quân đẳng, tạng trung tạo nhất thiết, Bi Sanh Mạn-đồ-la. Thập lục ương-cụ-lê, quá thử thị kỳ lượng. Bát diệp chánh viên măn, tu nhị giai nghiêm hảo. Kim cang chi trí ấn, biến xuất chư diệp gian.

          ()方等有四門,應知其分劑,誠心以殷重,運布諸聖尊。如是造眾相,均調善分別,內心妙白蓮,胎藏正均等。藏中造一切,悲生漫荼羅,十六央具梨,過此是其量。八葉正圓滿,鬚蘂皆嚴好,金剛之智印,遍出諸葉間。

    (Kinh: Vuông vắn có bốn cửa, hăy nên biết ngằn mé. Thành kính, tâm trân trọng, sắp đặt các tôn thánh. Tạo các tướng như thế, đều khéo léo phân biệt. Nội tâm diệu bạch liên, thai tạng vừa ngay ngắn. Trong đó, tạo Nhất Thiết, Bi Sanh Mạn-đồ-la. To mười sáu ngón tay, hơn đó làm hạn lượng. Tám cánh thật tṛn đy, tua nhụy đều tươi đẹp. Các trí ấn kim cang, hiện khắp trong các cánh).

 

    “Phương đẳng hữu tứ môn” (vuông vắn có bốn cửa), tức là mỗi tầng viện đều đặt bốn cửa, sao cho ngay chính giữa, cân bằng. Cửa mở ra hướng Tây th́ thông suốt để ra vào, các cửa kia dùng dây chăng làm ranh giới chặn ngang. Kinh Cù Hê nói: “Phàm chư phương khai môn, giai tùy bỉ phương ngung quảng hiệp, chuẩn vi cửu phần. Thủ trung nhất phần vi môn. Kỳ dư bát phần tắc môn chi tả hữu các đắc tứ phần. Sở xuất nhập môn sảo linh hoát tác. Tự dư chư môn, dĩ bạch sắc mạt tác họa bế chi” (Trổ cửa ở các phương đều tùy theo mỗi phương và góc rộng hay hẹp để chuẩn theo đó mà chia [phương đó] thành chín phần, dùng một phần làm cửa. Tám phần khác đều ở hai bên cửa, sao mỗi bên đều có bốn phần. Cửa để ra vào làm hơi rộng hơn, các cửa khác đều dùng bột màu trắng để vẽ đóng lại). [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Dùng dây kim cang để chặn ngang ranh giới xong, ví như kim cang chẳng thể vượt qua. Kẻ vượt qua sẽ phạm tam-muội-da. Hơn nữa, kinh văn đều nói cửa để thông suốt hướng về phía Tây. Nếu có nhân duyên phải trổ cửa hướng về phương khác, theo lư cũng chẳng phạm lỗi ǵ”. Những điều khác như kinh văn trong phần sau sẽ nói.     

          “Thành tâm dĩ ân trọng, vận bố chúng thánh tôn” (Thành tâm ḷng trân trọn, sắp xếp các vị tôn thánh): Khi vẽ vời, trước hết trụ trong Du Già, quán đại chúng hội trong Mạn-đồ-la này, mỗi mỗi h́nh sắc, tướng mạo, oai nghi, tánh loại, tọa vị, các ấn, thảy đều hiện tiền rơ ràng trọn đủ. Sau đấy, dùng cái tâm vô lượng ân cần, cung kính mà vẽ vời, cho đến mức độ lớn, nhỏ, thưa thớt hay dày đặc, cũng đều cân bằng tương xứng. V́ thế nói: “Như thị tạo chúng tướng, quân điều thiện phân biệt” (tạo các tướng như thế, đều khéo điều chỉnh, phân biệt sao cho tương xứng).

          “Nội tâm diệu bạch liên”: Đấy là bổn tâm của chúng sanh, là biểu trưng bí mật của Diệu Pháp Phân-đà-lợi hoa (hoa sen trắng). Đài hoa có tám cánh, viên măn, cân bằng như h́nh thể đang nở tung. Đài hoa sen ấy chính là trí huệ tự nhiên nơi Thật Tướng. Cánh hoa sen là phương tiện đại bi. Chính là dùng tạng này để nói về cái Thể của Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la, ba tầng kia (ba tầng ngoại giới bao quanh Trung Đài) là công đức tự chứng lưu xuất từ đó, tức các thiện tri thức nhập pháp giới môn vậy. Bốn cánh sen đối diện với bốn phương chính là tứ trí của Như Lai, bốn cánh sen ứng với bốn phương bàng là tứ hạnh của Như Lai. Xét theo đó, hiện thành tám loại thiện tri thức, mỗi vị đều tŕ kim cang huệ ấn. V́ thế nói biến xuất chư diệp gian” (hiện ra trọn khắp trong các cánh sen). Mười sáu pháp như thế, mỗi mỗi đều bằng với pháp giới, cho tới chẳng có chút phần nào không b́nh đẳng. V́ thế, tướng được biểu thị cũng ngầm phù hợp, lược nhiếp vạn đức của Như Lai thành các vị tôn thánh trong [đàn tràng Mạn-đồ-la to] mười sáu ngón[45], mở rộng ra sẽ là vô lượng vô biên. Do vậy, kích thước nhỏ nhất của Mạn-đồ-la bằng mười sáu ngón, lớn th́ vô hạn.

          “Tua nhụy” là hết thảy các tam-muội môn, đà-la-ni môn, lục độ, mười tám món Không v.v… như kinh Đại Bát Nhă đă nói. Từ mỗi tua nhị ấy, do được thần lực gia tŕ, sẽ hiện một loại quyến thuộc trang nghiêm trong ba tầng Mạn-đồ-la. Đấy là pháp bí truyền của Như Lai, chẳng thể dùng văn tự để h́nh dung được. Do vậy, gởi gắm vào h́nh vẽ để chỉ dạy hành nhân. Nếu hiểu được thâm ư, sẽ tự ngầm biết mà thôi! Từ trong Thật Tướng hoa đài ấy, biểu lộ tướng gia tŕ của Đại Nhật Như Lai, ư nghĩa như đă giải thích trong phần trước. Tám ấn bí mật kia sẽ được nói trong phẩm sau và đồ h́nh.

 

    (Kinh) Tùng thử hoa đài trung, Đại Nhật thắng tôn hiện, kim sắc cụ huy diệu, thủ tŕ phát kế quan. Cứu thế viên măn quang, ly nhiệt trụ tam-muội. Bỉ Đông ưng họa tác, Nhất Thiết Biến Tri Ấn, tam giác liên hoa thượng. Kỳ sắc giai tiễn bạch, quang diệm biến vi nhiễu, hạo khiết phổ châu biến. Thứ ư kỳ Bắc duy, đạo sư chư Phật mẫu, hoảng diệu chân kim sắc, cảo tố dĩ vi y, biến chiếu do nhật quang, Chánh Thọ trụ tam-muội. Phục ư bỉ Nam phương, cứu thế, Phật, Bồ Tát. Đại đức thánh tôn ấn, hiệu danh Măn Chúng Nguyện, Chân Đà Ma Ni châu, trụ ư bạch liên hoa.

    ()從此華臺中,大日勝尊現,金色具暉曜,首持髮髻冠,救世圓滿光,離熱住三昧。彼東應畫作,一切遍知印,三角蓮華上,其色皆鮮白,光焰遍圍遶,皓潔普周遍。次於其北維,導師諸佛母,晃曜真金色,縞素以為衣,遍照猶日光,受住三昧。復於彼南方,救世佛菩薩,大德聖尊印,號名滿眾願,真陀摩尼珠,住於白蓮華。

    (Kinh: Từ trong đài hoa ấy, hiện Đại Nhật thù thắng, sắc vàng trọn chói ngời, đội măo che búi tóc. Cứu thế quang viên măn, ly nhiệt trụ tam-muội. Phía Đông hăy nên vẽ, Nhất Thiết Biến Tri Ấn, h́nh tam giác trên sen. Màu sắc đều trắng sạch. Ánh lửa nhiễu trọn quanh, trắng sạch đều trọn khắp. Kế đó, ở góc Bắc, đạo sư chư Phật mẫu, sắc vàng ṛng chói ngời, dùng lụa trắng làm áo, chiếu khắp như vầng dương, Chánh Thọ trụ tam-muội. Lại ở phía Nam Phật, cứu thế, Phật, Bồ Tát, đại đức thánh tôn ấn, tên là Măn Chúng Nguyện, châu Chân Đà Ma Ni, trụ trên hoa sen trắng).

 

    Kế đó, ở phương Đông của nội viện[46], ở phía trên của Đại Nhật Như Lai, hăy vẽ Nhất Thiết Biến Tri Ấn, có h́nh tam giác, mũi nhọn hướng xuống dưới[47], được bao quanh bằng quang minh có h́nh ngọn lửa sắc trắng, đặt trên hoa sen trắng. Đấy chính là Đại Cần Dũng Ấn của mười phương ba đời hết thảy Như Lai, cũng gọi là Tâm Ấn của chư Phật. “Tam giác” có nghĩa là hàng phục, trừ chướng, tức là đức Phật ngồi nơi đạo thụ (cây Bồ Đề), dùng thế lực to lớn oai mănh, hàng phục tứ ma, thành Chánh Giác. Trắng tươi là màu của đại từ bi. Sức phấn tấn đại tinh tấn của Như Lai chính là đại sự nhân duyên, cho tới phóng đại bi quang thường trọn khắp pháp giới. V́ thế nói là “phổ châu biến” (giáp ṿng trọn khắp).

          Kế đó, ở phương Bắc của Đại Cần Dũng, ở góc phía Bắc, đặt Hư Không Nhăn (Gagana-locanī), tức Tỳ Lô Giá Na Phật Mẫu. Oai nghi của Phật Mẫu như trong phẩm Phật Mẫu của kinh Bát Nhă đă rộng nói. Chân kim (vàng ṛng) là cái Thể của Như Như Thật Tướng. “Tất cánh tịnh cú (câu thành tựu rốt ráo) là trang sức bên ngoài trong giáo môn của Ngài. V́ thế nói “cảo tố dĩ vi y” (dùng lụa trắng làm áo). Khi diệt hết thảy hư luận, quang minh của vầng mặt trời nơi tâm không đâu chẳng chiếu thấu; cho nên nói: “Biến chiếu do nhật quang” (chiếu trọn khắp như ánh sáng mặt trời). Người điềm tĩnh mới có thể thấy quang minh ấy. V́ thế, điểm đặc trưng của Ngài là có h́nh tượng giống như thiên nữ trụ trong Chánh Thọ.

          Kế đó, ở phía Nam của Đại Cần Dũng, cho đến góc phía Nam, vẽ Nhất Thiết Chư Phật Bồ Tát Chân Đà Ma Ni Ấn. Đấy là do tổng thể của vô biên hạnh nguyện thuộc Bồ Đề tâm thanh tịnh kết thành, thường có thể mưa trọn khắp hết thảy các của báu thế gian và xuất thế gian. Các đấng cứu thế đều từ đài sen tánh tịnh hiện ra vật báu như thế. V́ thế nói “trụ ư bạch liên thượng” (trụ trên hoa sen trắng). [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Ấn này bao gồm hết thảy các ấn, cũng có thể đặt ở mọi phương. Như chư Phật, Bồ Tát nếu trong kinh không nói rơ tŕ ấn tướng nào th́ cũng cầm ấn này, vô giá bảo châu đều đạt được”.

          Nói chung, trong tầng thứ nhất, phương trên [của Trung Đài Bát Diệp] là các đức trang nghiêm nơi thân Phật. Phương dưới là Tŕ Minh Sứ Giả của Phật, đều gọi là môn Như Lai Bộ. Bên phải[48] [của Trung Đài Bát Diệp] là đại bi tam-muội của Như Lai, có thể trưởng dưỡng dồi dào muôn điều thiện, nên gọi là Liên Hoa Bộ. Bên trái [của Trung Đài Bát Diệp] là đại huệ lực dụng của Như Lai, có thể phá tan ba chướng, nên gọi là Kim Cang Bộ. V́ thế, nhập vào môn chữ A, hết thảy các pháp chẳng sanh, đó là ư nghĩa của Pháp Thân. Nhập môn chữ Sa, hết thảy các pháp chẳng đắm nhiễm, đó là ư nghĩa của Liên Hoa. Nhập môn chữ Phạ, hết thảy các pháp ĺa ngôn thuyết, đó là ư nghĩa của Kim Cang. Như trong phẩm Tự Luân thuộc phần sau, sẽ dùng ba chữ ấy để thống nhiếp hết thảy trăm bài minh chú là do ư nghĩa này.

 

    (Kinh) Bắc phương đại tinh tấn, Quán Thế Tự Tại giả, quang sắc như hạo nguyệt, Thương-khư, Quân-na hoa, vi tiếu, tọa bạch liên. Kế hiện Vô Lượng Thọ. Bỉ hữu đại danh xưng, thánh giả Đa La Tôn, thanh bạch sắc tương tạp, trung niên nữ nhân trạng, hiệp chưởng tŕ thanh liên, viên quang mỵ bất biến, huy phát do tịnh kim. Vi tiếu, tiễn bạch y. Hữu biên Tỳ Câu Chi, thủ thùy sổ châu man, tam mục, tŕ phát kế, tôn h́nh do hạo tố, viên quang sắc vô chủ. Hoàng, xích, bạch tương nhập. Thứ cận Tỳ Câu Chi, họa đắc Đại Thế Tôn, bỉ phục thương-khư sắc, đại bi liên hoa thủ, tư vinh nhi vị phu, vi nhiễu dĩ viên quang. Minh phi trụ kỳ trắc, hiệu Tŕ Danh Xưng giả. Nhất thiết diệu anh lạc, trang nghiêm kim sắc thân, chấp tiễn diệu hoa chi, tả tŕ bát-dận-ngộ, cận thánh giả Đa La. Trụ ư Bạch XTôn, phát quan tập thuần bạch, Bát Đàm Ma hoa thủ. Ư thánh giả tiền tác, Đại Lực Tŕ Minh Vương. Thần triêu nhật huy sắc, bạch liên dĩ nghiêm thân. Hách dịch thành diễm man, hống nộ nha xuất hiện. Lợi trảo, thú vương phát, Hà Da Yết Lợi Bà. Như thị tam-ma-địa, Quán Âm chư quyến thuộc.

    ()北方大精進,觀世自在者,光色如皓月,商佉軍那華,微笑坐白蓮,髻現無量壽。彼右大名稱,聖者多羅尊,青白色相雜,中年女人狀,合掌持青蓮,圓光靡不遍,暉發猶淨金,微笑鮮白衣。右邊毘俱胝,手垂數珠鬘,三目持髮髻,尊形猶皓素,圓光色無主,黃赤白相入。次近毘俱胝,畫得大勢尊,彼服商佉色,大悲蓮華手,滋榮而未敷,圍遶以圓光。明妃住其側,號持名稱者,一切妙瓔珞,莊嚴金色身,執鮮妙華枝,左持鉢胤遇。近聖者多羅,住於白處尊,髮冠襲純帛,鉢曇摩華手。於聖者前作,大力持明王,晨朝日暉色,白蓮以嚴身,赫奕成焰鬘,吼怒牙出現,利爪獸王髮,何耶揭利婆,如是三摩地,觀音諸眷屬。

    (Kinh: Phương Bắc, Đại Tinh Tấn, là Quán Thế Tự Tại, quang sắc như trăng trong, Thương-khư, hoa Quân-na. Mỉm cười, ngồi sen trắng. Đỉnh hiện Vô Lượng Thọ. Bên phải, Đại Danh Xưng, là đức thánh Đa La. Màu xanh, trắng chen lẫn. Tướng nữ nhân trung niên, chắp tay, cầm sen xanh. Viên quang chiếu trọn khắp, rực rỡ như vàng ṛng. Mỉm cười, áo trắng sạch. Bên phải, Tỳ Câu Chi, tay cầm tràng hạt rủ, ba mắt, tóc kết búi. H́nh dạng trắng tinh sạch. Viên quang không màu chánh, vàng, đỏ, trắng xen lẫn. Gần bên Tỳ Câu Chi, hăy vẽ Đại Thế Chí. Mặc áo màu thương-khư, tay hoa sen đại bi, tươi tốt, chưa nở x̣e. Viên quang phủ khắp thân. Minh phi ở bên cạnh, hiệu là Tŕ Danh Xưng. Hết thảy diệu anh lạc, trang nghiêm thân sắc vàng, cầm cành hoa tươi đẹp. Trái cầm Bát-dận-ngộ. Gần thánh giả Đa La, là vị Bạch Xứ Tôn. Măo che tóc lụa trắng, tay cầm hoa sen hồng. Trước thánh giả bèn vẽ, Đại Lực Tŕ Minh Vương. Màu như ánh nắng sớm, hoa sen trắng nghiêm thân. Chói ngời như ṿng lửa, giận, rống, nhe răng nanh. Vuốt bén, tóc thú vương, Hà Da Yết Lợi Bà. Tam-ma-địa như thế, các quyến thuộc Quán Âm).

 

    Kinh dạy: “Đại Nhật hữu phương, trí đại tinh tấn Quán Thế Tự Tại” (ở bên phải của đức Đại Nhật, vẽ bậc đại tinh tấn là Quán Thế Tự Tại); đó chính là Liên Hoa Bộ Chủ[49], tức là Như Lai rốt ráo quán sát mười câu duyên sanh, được thành tựu Phổ Nhăn Liên Hoa, nên tên là Quán Tự Tại (Avalokiteśvara). Xét theo Như Lai hạnh, nên gọi là Bồ Tát. “Đảnh hiện Vô Lượng Thọ” (kinh chép là “kế hiện Vô Lượng Thọ” tức là trong búi tóc hiện ra Phật Vô Lượng Thọ) là nói tới cực quả của cái hạnh ấy, tức là Phổ Môn Phương Tiện Trí của Như Lai. Ngài có h́nh tượng giống như thân Bồ Tát, đều hiện dung mạo trụ trong “hiện pháp lạc”, mỉm cười vui sướng. Thân sắc của ngài Quán Tự Tại như vầng trăng sạch, hoặc như Thương-khư (Śaṅkha), tức là vỏ ốc thượng diệu. Hoặc như hoa Quân-na (Kunda)[50]. Hoa ấy mọc tại phương Tây, cũng rất trắng ngần. Hăy nên gộp chung cả ba thí dụ ấy để nói [màu thân của Quán Tự Tại Bồ Tát] sáng ngời, tươi nhuận, trắng ngần bậc nhất.

          Bên phải của Quán Âm, vẽ Đa La (Tārā) Bồ Tát. Phàm các vị tôn thánh đều hướng mặt về đức Đại Nhật, nay nói “bên phải của Quán Âm”, tức là phía Tây của ṭa. Những vị khác đều phỏng theo lệ này. Đấy là Quán Tự Tại tam-muội; v́ thế, Ngài có h́nh tượng nữ nhân. Đa La có nghĩa là “mắt”. Hoa sen xanh nghĩa là “thanh tịnh, vô cấu”. Dùng Phổ Nhăn như thế để nhiếp thọ quần sanh, do chẳng phải thời trước mà cũng chẳng phải thời sau, cho nên vẽ h́nh Ngài có h́nh dạng nữ nhân trung niên, [tức là] h́nh dạng không quá già, mà cũng chẳng quá trẻ. Xanh[51] là màu hàng phục, trắng là màu của đại bi; điểm hay khéo là ở trong hai tác dụng ấy, nên khiến cho hai sắc ḥa hợp. Do bởi nghĩa ấy, [thân Ngài có màu sắc] chẳng xanh, chẳng trắng. Tượng Ngài được vẽ chắp tay, bàn tay cầm hoa sen xanh, tay và mặt đều hướng về đức Quán Âm, vẻ mặt như mỉm cười. Viên quang[52] nơi toàn thân như sắc của chất vàng trong sạch (vàng ṛng). Ngài mặc áo trắng, đầu có búi tóc giống như h́nh búi tóc của chư thiên, khác với cái măo che búi tóc của đức Đại Nhật.

          Bên trái đức Quán Âm, đặt thánh giả Tỳ Câu Chi (Bhṛkuṭī)[53]. Thân Ngài có bốn tay, một tay bên phải cầm mấy tràng hoa đẹp đẽ rủ xuống[54]. Một tay kết Thí Nguyện Ấn. Một tay bên trái cầm hoa sen, tay kia cầm b́nh Quân Tŕ. Mặt Ngài có ba mắt giống như h́nh tượng Ma Hê Thủ La (Maheśvara, Đại Tự Tại Thiên). Đầu đội măo bịt tóc, giống như măo che búi tóc của đức Tỳ Lô Giá Na. Nói “tŕ” th́ như nói đất duy tŕ vạn vật, tức là ư nghĩa “chuyên chở” vậy. Thân Ngài trắng sạch, viên quang vây quanh. Trong quang minh có ba màu vàng, đỏ, trắng, chẳng phải là thuần trắng, thuần đỏ, hay thuần vàng. V́ thế nói là “vô chủ” (không có màu chủ yếu). Màu vàng là màu Tăng Ích, trắng là màu Tịch Tai (Tức Tai), đỏ là màu Hàng Phục. Do trong quang minh tam-muội này kiêm đủ ba lực. V́ thế, dùng điều đó để biểu trưng.

          Kế đó, gần bên trái của Tỳ Câu Chi, vẽ Đại Thế Tôn (Mahāsthāmaprāpta, Đại Thế Chí Bồ Tát), như oai thế tự tại của quốc vương và đại thần trong thế gian th́ được gọi là Đại Thế. Ư nói: Vị thánh giả này đă đạt được địa vị đại bi tự tại như vậy. Do đó, dùng điều này làm tên. Bởi đó, Ngài cầm hoa sen chưa nở, như hoa đài Thật Trí của đức Tỳ Lô Giá Na đă kết thành quả, Ngài lại cầm chủng tử như thế rải trọn khắp vào tâm thủy của hết thảy chúng sanh, nên sanh ra hoa sen chưa nở. Vị tôn thánh này cũng hiện dấu tích giống như thế, cũng có thể thủ hộ trọn khắp điều thiện tiềm tàng của chúng sanh, khiến cho chúng chẳng bị tổn hoại, mà thường tăng trưởng trong mỗi niệm. Ngài chính là Tŕ Minh Vương của Liên Hoa Bộ.

          Kế đó, bên trái của Minh Vương[55] (Đại Thế Chí), vẽ minh phi Da Thâu Đà La (Yaśodhāra), dịch nghĩa là Tŕ Danh Xưng. Thân Ngài màu vàng ṛng, dùng các thứ anh lạc để trang hoàng tột bậc đoan nghiêm, có h́nh dáng như thiên nữ. Tay phải cầm cành diệu hoa trắng ngần, quả lá xen kẽ, cành nhánh tươi tốt. Hoa ấy hoặc vừa chớm búp, hoặc sắp nở, hoặc đang nở x̣e, hoặc năm, hoặc mười bông, cho đến mấy chục bông. Tay trái cầm Bát-dận-ngộ (Priyaṅgu), cũng là một loại hoa thù thắng ở phương Tây. Do Đắc Đại Thế Minh Vương chủ tŕ an lập chủng tử Bồ Đề cho hết thảy chúng sanh, mà minh phi th́ chủ tŕ hàm tàng xuất sanh các loại công đức ấy. V́ thế, y phục và biểu tượng của Ngài tương ứng với ư nghĩa ấy.

          Bên phải của đức Đa La, đặt Bán Noa La Phạ Tất Ninh (Pāṇḍaravāsinī), dịch nghĩa là Bạch Xứ, do vị tôn thánh này thường ngự trên hoa sen trắng, nên đặt tên như thế. Ngài cũng đội măo che búi tóc cơi trời, mặc áo trắng tinh, tay trái cầm hoa sen nở x̣e. Từ chỗ trắng sạch nhất ấy, sanh ra Phổ Nhăn; do vậy, tam-muội tên là Liên Hoa Bộ Mẫu.

          Kế đó, phía dưới Quán Tự Tại Bồ Tát, đặt Hà Da Yết Rị Bà (Hayagrīva)[56], dịch là Mă Đầu. Vị này thân chẳng vàng, chẳng đỏ, như lúc mặt trời mới mọc. Dùng hoa sen trắng để làm chuỗi ngọc trang nghiêm thân thể. Quang minh chói rực oai mănh, sáng ngời như tràng hoa. Móng tay dài bén, hai nanh chĩa ngược lên. Đầu tóc như bờm sư tử (do vậy, kinh nói “thú vương phát” tức tóc giống như lông của vua các loài thú), hiện h́nh trạng hét to v́ phẫn nộ tột bậc. Đây là Phẫn Nộ Tŕ Minh Vương của Liên Hoa Bộ, giống như ngựa báu của Chuyển Luân Vương tuần tra khắp bốn châu, trong hết thảy thời, tới hết thảy các chốn, tâm chẳng ngưng nghỉ. Sức đại tinh tấn của các vị Bồ Tát cũng giống như thế. Do đạt được thế lực oai mănh như thế, ở trong trọng chướng sanh tử, chẳng đoái hoài thân mạng, dùng nhiều cách dẹp tan. Chính v́ tâm đại bi trắng sạch, cho nên dùng hoa sen trắng làm chuỗi ngọc để trang nghiêm thân thể. Đă đúng như pháp kiến lập quyến thuộc của Quán Âm xong.

         

          (Kinh) Phục thứ hoa đài biểu, Đại Nhật chi hữu phương, năng măn nhất thiết nguyện, Tŕ Kim Cang Huệ giả. Bát-dựng-ngộ hoa sắc, hoặc phục như lục bảo, thủ đới chúng bảo quan, anh lạc trang nghiêm thân, gián thác hỗ nghiêm sức, quảng đa số vô lượng, tả chấp Bạt-chiết-la, châu hoàn khởi quang diễm. Kim Cang Tạng chi hữu, sở vị Mang Măng Kê, diệc tŕ kiên huệ chử, nghiêm thân dĩ anh lạc. Bỉ hữu thứ ưng trí, Đại Lực Kim Cang Châm. Sứ giả chúng vi nhiễu, vi tiếu đồng chiêm ngưỡng. Thánh giả chi tả phương, Kim Cang Thương Yết La, chấp tŕ kim cang tỏa, tự bộ chư sứ câu. Kỳ thân thiển hoàng sắc, trí chử vi tiêu xí. Ư Chấp Kim Cang hạ, Phẫn Nộ Hàng Tam Thế, tồi phục đại chướng giả, hiệu danh Nguyệt Yểm Tôn. Tam mục, tứ nha hiện. Hạ thời vũ vân sắc, A Trá Trá tiếu thanh, kim cang bảo anh lạc. Nhiếp hộ chúng sanh cố, vô lượng chúng vi nhiễu, năi chí bách thiên thủ, thao tŕ chúng khí giới. Như thị Phẫn Nộ đẳng, giai trụ liên hoa trung. Thứ văng Tây phương họa, vô lượng Tŕ Kim Cang, chủng chủng kim cang ấn, h́nh sắc các sai biệt. Phổ phóng viên măn quang, vị chư chúng sanh cố. Chân Ngôn Chủ chi hạ, y Niết Rị Để phương, Bất Động Như Lai sứ, tŕ huệ đao, quyến sách. Đảnh phát thùy tả kiên, nhất mục nhi đế quán. Oai nộ thân mănh dim, an trụ tại bàn thạch. Diện môn thủy ba tướng, sung măn đồng tử h́nh. Như thị cụ huệ giả, thứ ưng văng Phong phương, phục họa Phẫn Nộ tôn, sở vị Thắng Tam Thế, oai mănh diễm vi nhiễu. Bảo quan, tŕ kim cang, bất cố tự thân mạng, chuyên thỉnh nhi thọ giáo. Dĩ thuyết sơ giới vực, chư tôn phương vị đẳng.

    ()復次華臺表,大日之右方,能滿一切願,持金剛慧者,鉢孕遇華色,或復如綠寶,首戴眾寶冠,瓔珞莊嚴身,間錯互嚴飾, 廣多數無量,左執跋折羅,周環起光焰。金剛藏之右,所謂忙莽雞,亦持堅慧杵,嚴身以瓔珞。彼右次應置,大力金剛針,使者眾圍遶,微笑同瞻仰。聖者之左方,金剛商羅,執持金剛鎖,自部諸使俱,其身淺黃色,智杵為幖幟。於執金剛下,忿怒降三世,摧伏大障者,號名月黶尊,三目四牙現,夏時雨雲色,阿吒吒笑聲,金剛寶瓔珞,攝護眾生故,無量眾圍遶,乃至百千手,操持眾器械。如是忿怒等,皆住蓮華中。次往西方畫,無量持金剛,種種金剛印,形色各差別,普放圓滿光,為諸眾生故。真言主之下,依涅哩底方,不動如來使,持慧刀羂索,頂髮垂左肩,一目而諦觀,威怒身猛焰,安住在盤石,面門水波相,充滿童子形。如是具慧者,次應往風方。復畫忿怒尊,所謂勝三世,威猛焰圍遶,寶冠持金剛,不顧自身命,專請而受教。已說初界域,諸尊方位等。

    (Kinh: Kế đó, ngoài đài hoa, bên phải của Đại Nhật, hay măn hết thảy nguyện, là Tŕ Kim Cang Huệ, sắc hoa Bát-dựng-ngộ. Hoặc lại như lục bảo. Đầu đội măo các báu, anh lạc trang nghiêm thân, xen kẽ để trang hoàng, rộng nhiều số vô lượng. Tay trái: Chày kim cang, ánh lửa bốc quanh thân. Bên phải Kim Cang Tạng, chính là Mang Măng Kê, cũng cầm chày kiên huệ, dùng anh lạc nghiêm thân. Kế đó, bên phải đặt, Đại Lực Kim Cang Châm. Các sứ giả vây quanh, mỉm cười, cùng chiêm ngưỡng. Bên phải của thánh giả, Kim Cang Thương Khiết La, cầm nắm xiềng kim cang, và sứ giả tự bộ[57]. Thân Ngài sắc vàng nhạt, đặc trưng: Chày trí huệ. Phía dưới Chấp Kim Cang, Phẫn Nộ Hàng Tam Thế, bậc dẹp tan chướng lớn, hiệu là Nguyệt Yểm Tôn. Ba mắt, bốn nanh lộ. Màu như mây mưa hạ, tiếng cười A Trá Trá[58], kim cang anh lạc báu. Do nhiếp hộ chúng sanh, vô lượng chúng vây quanh, cho đến trăm ngàn tay, vung nắm các khí giới. Các Phẫn Nộ như thế, đều trụ trong hoa sen. Kế đó, phương Tây vẽ, vô lượng Tŕ Kim Cang, các loại kim cang ấn, h́nh sắc đều sai biệt, phóng trọn viên măn quang, do v́ các chúng sanh. Ở dưới Chân Ngôn Chủ, nơi phương Niết Rị Để, Bất Động Như Lai sứ, cầm đao huệ, dây trói, tóc rủ xuống vai trái. Một mắt quan sát kỹ. Thân oai nộ rực lửa, an trụ trên tảng đá. Mặt có vết sóng nhăn. Thân bé trai đậm chắc. Bậc huệ trọn như thế. Kế đó, sang phương Phong, lại vẽ đức Phẫn Nộ, tức là Thắng Tam Thế, lửa oai mănh vây quanh. Măo báu, cầm kim cang. Chẳng đoái thân mạng ḿnh, chuyên thỉnh cầu, thọ giáo. Đă nói giới vực đầu, phương vị chư tôn thánh).

 

    Kế đó, bên trái của Đại Nhật Như Lai, an trí Kim Cang Bộ Minh Vương, tức là vị Chấp Kim Cang có thể thỏa măn hết thảy các nguyện. Ngài có màu như hoa Bát-dận-ngộ, tức là màu vàng nhạt. Hoặc như lục bảo, tức là Lục Mạt Yết Bảo, giống như hiển sắc[59] của hư không. Do sắc của pháp giới thanh tịnh và kim cang trí thể ḥa hợp. Do vậy, thân Ngài màu trắng pha sắc vàng. Trí thân như thế ví như hư không chẳng thể phá hoại, hết thảy chẳng thể hàng phục Ngài. V́ thế, dùng hiển sắc của hư không để làm biểu trưng. Điều này có nghĩa là nếu pháp có chút phần dẫu nhỏ như cực vi để có thể đạt được, sẽ là vô thường, thay đổi, tùy thuộc các hành. Do vậy, trí Tất Cánh Không là tánh kiên cố bậc nhất. Mật ấn[60] mà Ngài cầm chính là chày kim cang năm nhánh. Ngũ trí Như Lai đều kiêm hai tác dụng Quyền và Thật, nhưng dùng tay kim cang huệ để chấp tŕ. V́ thế kinh nói “[tay] trái cầm bạt-chiết-la (vajra, chày kim cang)”. Ấn ấy nên dùng tràng hoa bằng quang minh để vây quanh trọn khắp. V́ thế nói là “châu hoàn khởi quang diễm” (ánh sáng như ngọn lửa cháy rực vây quanh). Đầu Ngài đội măo báu có ba chóp, h́nh dạng như chữ Sơn (). Giữa các chóp, có h́nh dáng như vầng trăng non ngửa lên, dùng các nhiều loại chất báu vi diệu để làm hết thảy các thứ anh lạc ḥng trang nghiêm thân thể. Điều này có nghĩa là: Bát Nhă Ba La Mật đạt tới cái tâm nơi quả địa, đổi danh xưng thành Nhất Thiết Chủng Trí. V́ thế, đầu Ngài đội măo bằng các thứ báu. Dùng diệu huệ ấy để trải qua hết thảy các pháp, tự tại xoay chuyển, sanh ra vô lượng pháp giới trang nghiêm. V́ thế nói là “gián thác hỗ nghiêm sức” (xen kẽ để trang hoàng lẫn nhau). “Quảng đa” có nghĩa là số đến vô lượng.

          Kế đó, bên phải Kim Cang Bộ Chủ, đặt Mang Măng Kê (Māmakī)[61]. Đó là Kim Cang Bộ Mẫu, cũng cầm chày kim cang trí, dùng các thứ anh lạc để trang nghiêm thân. Đây là Xuất Sanh Kim Cang Trí Lực tam-muội, được gọi là Kim Cang tam-muội.

          Kế đó, bên phải Bộ Mẫu, đặt Đại Lực Kim Cang Châm (Mahābala Vajrasūcī), [Bạt Chiết La] Tố Chi (Vajrasūcī) được dịch là Kim Cang Châm, cầm bạt-chiết-la một nhánh để làm biểu tượng. Bạt-chiết-la ấy chính là trí huệ nhất tướng, nhất duyên, cứng chắc, sắc bén, dùng nó để quán triệt các pháp, không ǵ chẳng thông suốt, nên gọi là Kim Cang Châm. Phía dưới vị này có hai sứ giả đều mang h́nh dáng nữ nhân, hồ quỳ, mỉm cười, ngước mắt chiêm ngưỡng. H́nh dạng của họ nhỏ [hơn Đại Lực Kim Cang Châm], nhưng tṛn đầy, sắc vàng nhạt, dùng kim cang làm vật biểu tượng, tức là tam-muội phá nát các trọng chướng.

          Kế đó, ở bên trái của Chấp Kim Cang, đặt Kim Cang Thương Yết La (Vajra-śṛṅkhala), dịch nghĩa là Kim Cang Tỏa (金剛鏁, dây xích kim cang). Ấn của vị này là cầm dây xích, hai đầu xích đều làm thành h́nh bạt-chiết-la. Phía dưới Kim Cang Tỏa cũng có hai nữ sứ giả, chẳng khác sứ giả của ngài Kim Cang Châm. Dùng trí ấn này để nhiếp tŕ hết thảy chúng sanh ương ngạnh, khó giáo hóa, khiến cho họ chẳng thoái chuyển Vô Thượng Bồ Đề, cho nên Ngài có tên như vậy.

          Kế đó, ở phía dưới Chấp Kim Cang, đặt Phẫn Nộ Tŕ Minh hàng phục hết thảy các kẻ gây chướng nạn to lớn trong ba đời, hiệu là Nguyệt Yểm Tôn (Candratilaka)[62]. Mặt Ngài có ba mắt, bốn răng nanh ch́a ra, [thân có màu] như sắc mây lúc trời đổ mưa trong mùa Hè, hiện vẻ cười to, dùng chất báu kim cang làm anh lạc. Vị Tŕ Kim Cang này dùng vô lượng môn tam-muội có thế lực to lớn, oai mănh để nhiếp thủ, hộ tŕ chúng sanh, cũng có vô lượng quyến thuộc tự vây quanh, thảy đều [vẽ thành h́nh dáng] nhỏ bé, mà mập mạp. Ngài hiện h́nh dạng phẫn nộ, cho đến một thân mà có trăm ngàn tay, cầm nắm các thứ khí giới, đứng thẳng oai nghiêm. Nếu chẳng thể vẽ hết, hăy nên vẽ một, hai sứ giả cho đến năm, sáu người, đều nên [vẽ họ] đứng trên hoa sen. Ư nói trong tâm liên hoa này đă vốn sẵn thành tựu hết thảy các sức đại tinh tấn dũng kiện, chẳng từ nơi khác tới. Kiến lập các quyến thuộc của Kim Cang Tát Đỏa đă xong.

          Kế đó, ở phương Tây[63], vẽ Tŕ Minh Sứ Giả và các vị Chấp Kim Cang, có các thứ h́nh sắc, tánh loại, các thứ mật ấn để làm vật biểu trưng, đều dựa vào đồ h́nh mà vẽ. Đại huệ quang minh của mỗi vị tôn thánh ấy thảy đều trọn khắp pháp giới, hiện ra thân, khẩu, ư mật cũng trọn khắp pháp giới. V́ thế nói là “phổ phóng viên măn quang, vị chư chúng sanh cố” (tỏa trọn khắp quang minh viên măn, v́ các chúng sanh vậy).

          Phía dưới tôn vị này, nơi phương Niết Rị Để (Tây Nam), vẽ Bất Động (Acala) Minh Vương là sứ giả của Như Lai, có h́nh dạng đồng tử (bé trai), bên phải cầm đại huệ đao ấn, bên trái cầm dây trói. Đỉnh đầu có sa kế[64], tóc rủ xuống bên vai trái, hơi nhắm mắt trái. Răng thuộc hàm dưới nghiến lên góc phải của môi trên, bên trái của môi dưới hơi đưa ra ngoài. Trán có vết nhăn giống như sóng nước, ngồi trên tảng đá. Thân Ngài thấp bé, nhưng đầy đặn, mập mạp, hiện tư thế phẫn nộ, h́nh dạng giận dữ cùng cực. Đó là h́nh tướng biểu trưng cho mật ấn của Ngài. Nơi hoa đài của đức Đại Nhật, vị này thành Phật đă lâu. Do tam-muội-da bổn thệ nguyện, mà thị hiện mới vừa phát đại tâm, có h́nh dạng các tướng chưa trọn vẹn, làm người hầu để thực hiện các sự vụ cho Như Lai. V́ thế, Ngài cầm đao bén và dây trói, vâng theo mạng lệnh phẫn nộ của Như Lai, tận lực muốn sát hại [các phiền năo và nghiệp chướng của] hết thảy chúng sanh. Quyến sách (羂索: Dây trói) chính là phương tiện Tứ Nhiếp trong Bồ Đề tâm. Dùng đó để bắt trói kẻ chẳng hàng phục, dùng đao bén trí huệ để đoạn trừ mạng sống của nghiệp thọ vô cùng, khiến đạt được Đại Không Sanh. Nếu chủng tử của nghiệp thọ đă trừ, ắt gió ngôn ngữ hư luận cũng đều diệt mất, dứt bặt. V́ thế, Ngài ngậm kín miệng. Ư nghĩa của việc “dùng một mắt để nh́n” là “Như Lai dùng mắt b́nh đẳng xem hết thảy chúng sanh không ǵ chẳng thể khoan dung”. Do vậy, phàm các sự nghiệp tạo tác của vị tôn thánh này chỉ v́ một sự nhân duyên ấy. Ngài trấn áp tảng đá trọng chướng, khiến cho nó chẳng c̣n động, thành tựu núi chúa Diệu Cao Bồ Đề tâm thanh tịnh. V́ thế nói: “An trụ tại bàn thạch” (ở yên trên tảng đá).

          Lại ở góc Tây Bắc ở phía dưới, họa h́nh đức Tam Thế Phẫn Nộ Tŕ Minh Vương, đầu đội măo báu, tŕ chày Kim Cang năm nhánh làm ấn, chiêm ngưỡng đức Tỳ Lô Giá Na, dáng vẻ như thỉnh cầu [đức Phật] truyền trao mệnh lệnh. Kệ nói “bất cố tự thân mạng” (chẳng đoái hoài thân mạng của chính ḿnh), tức là nói hăy vẽ h́nh dạng Ngài cực phẫn nộ, dáng vẻ như liều ḿnh chẳng tiếc mạng, nghĩa là muốn nhiếp triệu pháp giới chúng sanh, khiến cho họ đều tùy thuận oai mạng (mạng lệnh oai nghiêm) của đấng pháp vương. Đây cũng là [vị Bồ Tát nói ra] chân ngôn Thành Biện Chư Sự. Do được sức đại tự tại của Ngũ Như Lai Trí gột rửa, dẹp tan, mà thảy đều đạt tới quả địa trang nghiêm, chẳng phải chỉ là không chướng ngại, riêng chứng Thiên Không mà thôi! V́ thế, Ngài cầm ngũ cổ ấn (chày kim cang năm nhánh), đầu đội măo báu, trụ trong phong luân, tức là có ư nghĩa như kinh Pháp Hoa đă nói: “Chư hữu sở tác, giai vị khai Phật tri kiến, sử đắc thanh tịnh” (Các việc làm đều nhằm khai tri kiến của Phật, khiến cho được thanh tịnh). An lập chư tôn thượng thủ trong tầng thứ nhất của Mạn-đồ-la đă xong.

 

    (Kinh) Tŕ Chân Ngôn hành nhân, thứ văng đệ nhị viện. Đông phương sơ môn trung, họa Thích Ca Mâu Ni, vi nhiễu tử kim sắc, cụ tam thập nhị tướng, bị phục ca-sa y, tọa bạch liên hoa đài. Vị linh giáo lưu bố, trụ bỉ nhi thuyết pháp. Thứ ư Thế Tôn hữu, hiển thị Biến Tri Nhăn, hy di tướng vi tiếu, biến thể viên tịnh quang, hỷ kiến vô tỷ thân. Thị danh Năng Tịch Mẫu. Phục ư bỉ tôn hữu, đồ tả hào tướng minh, trụ Bát Đầu Ma hoa, viên chiếu thương-khư sắc, chấp tŕ như ư bảo, măn túc chúng hy nguyện, huy quang đại tinh tấn. Cứu Thế Thích Sư Tử, thánh tôn chi tả phương, Như Lai chi ngũ đảnh. Tối sơ danh Bạch Tán, Thắng Đảnh, Tôn Thắng Đảnh, Chúng Đức Quang Hỏa Tụ, cập dữ Xả Trừ Đảnh. Đại ngă chi Thích chủng, ưng đương y thị xứ, tinh tâm tạo chúng tướng. Thứ ư kỳ Bắc phương, bố liệt Tịnh Cư chúng, Tự Tại dữ Phổ Hoa, Quang Man cập Ư Sanh, Danh Xưng Viễn Văn đẳng, các như kỳ thứ đệ. Ư hào tướng chi hữu, phục họa tam Phật Đảnh. Sơ danh Quảng Đại Đảnh, thứ danh Cực Quảng Đại, cập Vô Biên Âm Thanh, giai ưng thiện an lập. Ngũ chủng Như Lai Đảnh, bạch hoàng chân kim sắc. Phục thứ tam Phật Đảnh, bạch hoàng xích kiêm bị. Kỳ quang phổ thâm quảng, chúng anh lạc trang nghiêm. Sở phát hoằng thệ lực, nhất thiết nguyện giai măn. Hành giả ư Đông ngung, nhi tác Hỏa Tiên tượng, trụ ư xí diễm trung, tam điểm hôi vi tiêu, thân sắc giai thâm xích, tâm trí tam giác ấn, nhi tại viên diễm trung, tŕ châu cập tháo b́nh. Hữu phương Diễm Ma vương, thủ bỉnh Đàn Noa ấn, thủy ngưu dĩ vi ṭa, chấn lôi huyền vân sắc, thất mẫu tịnh Hắc Dạ, hậu phi đẳng vi nhiễu.

    ()持真言行人,次往第二院,東方初門中,畫釋迦牟尼,圍遶紫金色,具三十二相,被服袈裟衣,坐白蓮華臺,為令教流布, 住彼而說法。次於世尊右,顯示遍知眼,熙怡相微笑,遍體圓淨光,喜見無比身,是名能寂母。復於彼尊右,圖寫毫相明,住鉢頭摩華,圓照商佉色,執持如意寶滿足眾希願,暉光大精進,救世釋師子。聖尊之左方,如來之五頂,最初名白傘,勝頂最勝頂,眾德火光聚,及與捨除頂,是名五大頂,大我之釋種,應當依是處心造眾相。次於其北方,布列淨居眾,自在與普華,光鬘及意生,名稱遠聞等,各如其次弟。於毫相之右,復畫三佛頂,初名廣大頂,次名極廣大,及無邊音聲,皆應善安立。五種如來頂,白黃真金色,復次三佛頂,白黃赤兼備,其光普深廣,眾瓔珞莊嚴,所發弘誓力,一切願皆滿。行者於東隅,而作火仙像,住於熾焰中,三點灰為標,身色皆深赤,心置三角印,而在圓焰中,持珠及澡瓶。右方閻摩王,手秉壇拏印,水牛以為座,震電玄雲色,七母并黑夜,妃后等圍繞。

          (Kinh: Hành nhân tŕ Chân Ngôn, kế sang viện thứ hai. Ở cửa đầu phương Đông, vẽ Thích Ca Mâu Ni, sắc vàng tía vây quanh, trọn đủ băm hai tướng, thân mặc y ca-sa, ngồi trên đài sen trắng. V́ lưu truyền giáo pháp, trụ nơi đó thuyết pháp. Ở bên phải Thế Tôn, hiển thị Biến Tri Nhăn, tướng vui sướng, mỉm cười. Khắp thân, quang tṛn sạch, vui thấy thân khôn sánh. Đó là Năng Tịch Mẫu. Lại bên phải vị ấy, vẽ h́nh Hào Tướng Minh, trụ trên hoa sen hồng, sắc thương-khư chiếu trọn. Cầm nắm báu như ư, trọn thỏa các mong nguyện, chói ngời, đại tinh tấn. Cứu Thế Thích Sư Tử, bên trái của đức thánh, có năm đảnh Như Lai, thứ nhất tên Bạch Tán, Thắng Đảnh, Tôn Thắng Đảnh, Chúng Đức Quang Hỏa Tụ, cùng với Xả Trừ Đảnh. Đó gọi Ngũ Đại Đảnh. Đại ngă thuộc họ Thích, hăy nên nương vào đó, tâm chuyên ṛng tạo tướng. Kế đó, ở phương Bắc, xếp đặt chúng Tịnh Cư: Tự Tại và Phổ Hoa, Quang Man cùng Ư Sanh, Danh Xưng Viễn Văn thảy, mỗi vị theo thứ tự. Ở bên phải hào tướng, lại vẽ ba Phật Đảnh. Trước là Quảng Đại Đảnh. Kế đó, Cực Quảng Đại, và Vô Biên Âm Thanh, đều nên khéo an lập. Năm loại Như Lai Đảnh, trắng, vàng, sắc vàng ṛng. Lại nữa, ba Phật Đảnh, trắng, vàng, đỏ đều trọn. Quang ấy sâu rộng khắp, các anh lạc trang nghiêm. Do sức phát hoằng thệ, hết thảy nguyện đều thỏa. Hành giả ở góc Đông, lại vẽ h́nh Hỏa Tiên, ở trong ngọn lửa rực, ba chấm tro tiêu biểu, thân sắc đều đỏ rực, ngực có ấn tam giác. Ở trong ṿng lửa nung, cầm châu và tháo b́nh. Bên phải vua Diễm Ma, tay cầm gậy đầu lâu, dùng trâu nước làm ṭa, rền sấm, sắc mây đen. Thất Mẫu và Hắc Dạ, các hậu phi vây quanh).

 

          Kế đó, tới viện thứ hai, vẽ Thích Ca Mâu Ni. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Trong ấy, tầng thứ hai là ẩn mật ngữ. Nếu từ trong hướng ra ngoài, hăy nên đặt quyến thuộc của Phật Thích Ca Mâu Ni thuộc viện thứ ba”[65]. Nay coi pháp môn quyến thuộc của đức Tỳ Lô Giá Na[66] là thứ nhất, quyến thuộc nơi sanh thân của Phật Thích Ca Mâu Ni thuộc thứ ba. Các vị Bồ Tát thượng cầu hạ hóa trong bi trí, cho nên thuộc tầng thứ hai (tức các vị Bồ Tát thuộc Liên Hoa Bộ và Kim Cang Bộ). Sở dĩ nói tương hỗ như vậy, v́ đây là mật tạng của Như Lai, phải ngăn ngừa kẻ mạn pháp chẳng do thầy dạy mà sửa đổi kinh văn lung tung. Do đó, cần phải khẩu truyền trao dạy.

          Ở cửa thứ nhất thuộc phương Đông, trước hết, vẽ Thích Ca Mâu Ni, thân chân kim sắc, và ba mươi hai tướng rạng rỡ. Ngài mặc y ca-sa có màu Càn Đà[67], ngồi trên hoa sen trắng, hiện tướng thuyết pháp, tức là dùng tay trái nắm góc y ca-sa, giống như tượng A Dục Vương hiện thời. Các ngón trong tay phải giơ thẳng lên, hai ngón Không và Thủy (ngón cái và ngón áp út)[68] chạm đầu nhau; đó là biểu trưng. Hoa sen trắng ấy chính là Trung Đài tịnh pháp giới tạng. Thế Tôn v́ muốn cho giáo pháp này được lưu truyền rộng, nên dùng sanh thân làm h́nh tướng biểu trưng để diễn nói, nhưng với thân bổn pháp giới sẽ chẳng hai, chẳng khác. V́ thế nói: “Trụ bỉ nhi thuyết pháp” (trụ trong đó thuyết pháp).

          Kế đó, ở phía Bắc của đức Thế Tôn, đặt Phật Nhăn, cũng là Thích Ca Mâu Ni Phật Mẫu, phương này dịch là Năng Tịch Mẫu (Śākyamuṇi-Mātṛ). Hăy nên vẽ Ngài có thân đoan nghiêm khôn sánh mà thế gian thích thấy, khắp thân đều có viên quang, [dáng vẻ] vui sướng, mỉm cười. Đấy là xuất sanh tùy loại sanh h́nh tam-muội (tam-muội có thể xuất sanh các h́nh tướng giống như từng loại chúng sanh) của Như Lai. Tam-muội ấy lấy Đại Từ Phổ Nhăn làm Thể, quán sát chúng sanh đáng độ mà hướng dẫn, tạo lợi ích cho họ. Quang minh của Từ Nhăn không đâu chẳng trọn khắp, nên nói là “biến thể viên tịnh quang” (khắp thân là quang minh viên măn, thanh tịnh).

          Kế đó, ở phía Bắc của Phật Mẫu, vẽ Như Lai Bạch Hào Tướng Ấn, trụ trong hoa sen, có màu như thương-khư, thân có viên quang, tay cầm hoa sen có h́nh dạng vừa nở một nửa; trong đó có Như Ư Bảo Châu. Đấy là do vô biên phước nghiệp của Như Lai hợp thành, như kinh Quán Phật Tam Muội v.v… đă rộng nói, có thể măn nguyện cho hết thảy chúng sanh.

          Kế đó, ở phía Nam của Thích Ca Sư Tử, vẽ Như Lai Ngũ Đảnh:

          - Thứ nhất là Bạch Tán Cái Phật Đảnh[69] (Sitātapatroṣṇīṣa).

          - Thứ hai là Thệ Da (Jayoṣṇīṣa), dịch là Thắng Đảnh.

          - Thứ ba là Vi Thệ Da (Vijayoṣṇīṣa), đây là dùng nhiều âm để gọi, dịch nghĩa là Tối Thắng Đảnh.

          - Thứ tư là Đế Thù La Thí (Tejorāśi-uṣṇīṣa), dịch là Hỏa Tụ Đảnh. Kinh ghi là Chúng Đức, tức là chỉ dịch ư nghĩa chánh yếu, phải nên hiểu nghĩa là “có oai đức to lớn”.

          - Thứ năm là Vi Cát La Noa (Vikiraṇoṣṇīṣa), dịch là Xả Trừ Đảnh, có nghĩa là vứt bỏ hết thảy phiền năo, cũng có nghĩa là “đập tan”.

          Đấy là năm trí đảnh của Thích Ca Như Lai, trong hết thảy các công đức, giống như Luân Vương trọn đủ thế lực to lớn. Các vị ấy đều được vẽ giống như h́nh dạng Chuyển Luân Thánh Vương, tức là đỉnh đầu có nhục kế, trên ấy lại có búi tóc, tức là búi tóc trùng lặp. Các tướng mạo khác đều như Bồ Tát, sao cho cực đoan nghiêm, hoan hỷ. Mật ấn do các vị ấy cầm giống như trong đồ h́nh. Kế đó, ở phương Đông, gần ŕa phía Bắc nhất, đặt năm vị Tịnh Cư thiên chúng:

          - Thứ nhất là Tự Tại Thiên Tử (Īśvara).

          - Thứ hai là Phổ Hoa Thiên Tử (Samantapuṣpaka).

          - Thứ ba là Quang Man Thiên Tử (Prabhamālaka).

          - Thứ tư là Ư Sanh Thiên Tử (Manojava).

          - Thứ năm là Danh Xưng Viễn Văn Thiên Tử (Prakirtita-viśrūta).

          Hăy nên xếp theo thứ tự. Ấn tướng của họ đă được nói đầy đủ trong đồ h́nh. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Đấy là Ngũ A Hàm thiên tử. Qua khỏi đó là chỗ của Bồ Tát thọ chức vị Phật, cũng gọi là Tịnh Cư Thiên, phần đông là Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, thuộc vào viện thứ hai, chẳng thuộc vào điều đang được nói ở đây”.

          Kế đó, phía Nam của các vị trời ấy, ở bên phải của Hào Tướng, lại vẽ ba vị Phật Đảnh: Thứ nhất tên là Quảng Đại Phật Đảnh (Mahodgatoṣṇīṣa), thứ hai là Cực Quảng Đại Phật Đảnh (Abhyudgatoṣṇīṣa), thứ ba là Vô Biên Âm Thanh Phật Đảnh (Anantasvaraghoṣa-uṣṇīṣa), h́nh tướng đều giống như Ngũ Đảnh, tức là các đảnh thuộc về các đức của Như Lai trong ba bộ. Năm loại Như Lai Đảnh gồm năm loại màu, tức là màu chân kim, màu uất kim, màu vàng nhạt, màu cực trắng, màu trắng nhạt. Trong ấy, hai màu chân kim và uất kim tương tự, nhưng chân kim th́ tươi sáng, màu uất kim tối hơn. Ba vị Phật Đảnh có ba màu, tức là trắng, vàng, đỏ, tức là kiêm trọn các màu Tịch Tai, Tăng Ích và Hàng Phục. Tám vị ấy đều là quanh thân có quang minh, quang minh tột bậc rộng dày. Dùng các thứ anh lạc để trang nghiêm thân thể, do bổn thệ nguyện của Như Lai, thảy đều có thể thỏa măn hết thảy các nguyện.

          Bên phải góc Đông Nam, đặt các vị Hỏa Thiên (Agni-ṛṣī), trụ trong vầng lửa, trán và hai tay đều có ba vạch tro, tức là như Bà-la-môn dùng ba ngón tay bốc tro xoa lên thân thể. Hết thảy đều có sắc đỏ đậm, giữa ngực có ấn tam giác được ṿng lửa bao quanh. Tay trái cầm tràng hạt, tay phải cầm tháo b́nh (tức b́nh Quân Tŕ để đựng nước dùng khi rửa ráy). Đấy là một thân Phổ Môn, nhằm dẫn dắt, nhiếp thọ các Vi Đà phạm chí thờ lửa mà phương tiện khai thị pháp Vi Đà của Phật. V́ thế, chỉ bày biểu trưng của Đại Huệ Hỏa Đàn Tịnh Tu Phạm Hạnh này.

          Kế đó, ở bên phải của phương Nam, đối diện thẳng với đức Đại Nhật, vẽ h́nh pháp vương Diễm Ma, tay cầm Đàn Noa (Daṇḍa) ấn. Ấn tướng có h́nh dạng giống như cái gậy, trên đó có h́nh đầu người dáng vẻ cực phẫn nộ. Vua dùng thủy ngưu làm ṭa, thân có màu đen tuyền. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Khi nhỏ, ta do bệnh nặng, thần thức mê muội, đi đến minh ty (cơi âm), thấy vị pháp vương này và hậu phi cùng tṛ chuyện, h́nh dạng hết sức từ bi, nhẫn nại. Nhưng ấn Đàn Noa ấy dùng h́nh dạng phẫn nộ để kiểm giảo những tội đă phạm trong khi [phạm nhân] c̣n sống, miệng phóng quang minh lớn tột bậc nghiêm khắc, và kiểm nghiệm công nghiệp sau khi xuất gia. Sau đó, lặng im chẳng nói ǵ nữa. Vua Diễm Ma và hoàng hậu lập tức xuống khỏi bệ, dùng lời lẽ tốt lành khen ngợi, ân cần hết sức tôn kính, cầu thọ quy giới. Do vậy, bèn thả ta trở về. Tới khi tỉnh lại, chỗ buộc dây trói ở hai tay hăy c̣n có vết trầy trụa, mười tháng mới lành”.

          Ở phía Tây của vua Diễm Ma vẽ Diễm Ma Hậu và Tử Hậu, đó cũng là vợ của Diễm Ma. Phía Đông vẽ Hắc Dạ Thần (Kālarātrī)[70] và bảy Ma Đát Lư (Mātṛka), dịch nghĩa là Thất Mẫu[71], đều là nữ quỷ. H́nh dạng họ đều có màu đen.

         

          (Kinh) Niết Rị Để quỷ vương, chấp đao khủng bố h́nh. Phạ Rô Noa long vương, quyến sách dĩ vi ấn. Sơ phương Thích thiên vương, an trụ Diệu Cao sơn, bảo quan, bị anh lạc, tŕ bạt-chiết-la ấn, cập dư chư quyến thuộc, huệ giả thiện phân bố. Tả trí Nhật Thiên chúng, tại ư dư lộ trung, Thắng, Vô Thắng phi đẳng, dực tùng nhi thị vệ. Đại Phạm tại kỳ hữu, tứ diện tŕ phát quan. Án tự tướng vi ấn. Chấp liên, tại nga thượng. Tây phương chư địa thần, Biện Tài cập Tỳ Nữu, Tắc Kiến Na, Phong Thần. Thương Yết La, Nguyệt Thiên. Thị đẳng y long phương, họa chi vật di mậu. Tŕ chân ngôn hành giả, dĩ bất mê hoặc tâm. Phật tử thứ ưng tác, Tŕ Minh Đại Phẫn Nộ, hữu hiệu Vô Năng Thắng, tả Vô Năng Thắng Phi. Tŕ Địa Thần phụng b́nh, kiền kính nhi trường quỵ, cập nhị đại long vương, Nan Đà, Bạt Nan Đà, đối xử sương khúc trung, thông môn chi đại hộ. Sở dư Thích chủng tôn, chân ngôn dữ ấn đàn, sở thuyết nhất thiết pháp, sư ưng cụ khai thị.

          ()涅哩底鬼王,執刀恐怖形,嚕拏龍王,羂索以為印。初方釋天王,安住妙高山,寶冠被瓔珞,持跋折羅印,及餘諸眷屬,慧者善分布。左置日天眾,在於輿輅中,勝無勝妃等,翼從而侍衛。大梵在其右,四面持髮冠,唵字相為印,執蓮在鵝上。西方諸地神,辯才及毘紐,塞建那風神,商羯羅月天,是等依龍方,畫之勿遺謬。持真言行者,以不迷惑心,佛子次應作,持明大忿怒,右號無能勝,左無能勝妃,持地神奉瓶,虔敬而長跪。及二大龍王,難陀拔難陀,對處廂曲中,通門之大護。所餘釋種尊,真言與印壇,所說一切法,師應具開示。

    (Kinh: Quỷ vương Niết Rị Để, cầm đao, dạng đáng sợ. Vua rồng Phạ Rô Noa, dùng dây trói làm ấn. Phương trước Thích thiên vương, an trụ núi Diệu Cao, măo báu, đeo anh lạc, cầm ấn bạt-chiết-la, và các quyến thuộc khác. Người trí khéo xếp bày. Trái đặt các Nhật Thiên, ngự ở trong cỗ xe, Thắng phi, Vô Thắng phi, chầu hầu ở hai bên. Đại Phạm ở bên phải, bốn mặt, đầu đội măo, dùng chữ Án làm ấn. Cầm hoa sen, cưỡi ngỗng. Các địa thần phương Tây, Biện Tài và Tỳ Nữu, Tắc Kiến Na, thần gió. Thương Yết La, Nguyệt Thiên. Bọn họ ở phương Rồng (phương Tây). Hăy vẽ, đừng sai sót. Hành giả tŕ chân ngôn, do tâm chẳng mê hoặc. Phật tử kế đó vẽ, Tŕ Minh Đại Phẫn Nộ, bên phải Vô Năng Thắng, trái: Vô Năng Thắng Phi. Tŕ Địa Thần nâng b́nh, thành kính, đều quỳ thẳng, và hai vua rồng lớn: Nan Đà, Bạt Nan Đà. Góc xép, đối nhau cuộn, nơi cửa lớn thông suốt. Các tôn thánh họ Thích, chân ngôn và ấn đàn, nói ra hết thảy pháp, thầy đều nên khai thị trọn).

 

      Kế đó, ở góc Tây Nam, vẽ quỷ vương Niết Rị Để, cầm đao, hiện h́nh dáng đáng kinh sợ; đó là vua La Sát thủ hộ phương vị. Phạ Rô Noa (Varuṇa) là long vương thủ hộ ở phương Tây, cầm dây trói làm ấn. Ở phương Đông, nơi phía Nam của Ngũ Đảnh, hăy nên vẽ Nhân Đà La Thích Thiên Chúa (Đế Thích), ngồi trên núi Tu Di, thiên chúng nhiễu quanh, đầu đội măo báu, thân khoác đủ thứ anh lạc, cầm phạt-chiết-la (vajra, chày kim cang), và các quyến thuộc khác, tức là Xá Chi (Śacī)[72] phu nhân và Lục Dục Thiên v… chi tiết như đồ h́nh đă nêu bày.

          Phía Nam của quyến thuộc Đế Thích, hăy vẽ các chúng trời thuộc Nhật Thiên (Sūrya), ngồi trong cỗ xe do tám ngựa kéo, và hai phi tần ở hai bên tức là Thệ Da Vi (Aparājita) và Thệ Da (Jaya), phương này dịch Thắng và Vô Thắng. Quyến thuộc của Nhật Thiên xếp đặt các tinh tú: Áng Già (Agāraka, Hỏa Tinh) ở phương Tây, Thâu Già (Śukra, Kim Tinh) tại phương Đông, Bột Đà (Buddha, Thủy Tinh) ở phương Nam, Vật Lạc Tát Bát Để (Brhaspati, Mộc Tinh) ở phương Bắc, Thiết Nễ Thiết Giá (Śanaiścara, Thổ Tinh) tại Đông Nam, La Hầu (Rāhu) tại Tây Nam, Kiếm Bà ở Tây Bắc, Kế Đô (Ketu) tại Đông Bắc. Lại ở phía Nam của trục ngang của phía Nam mạn-đồ-la, đặt Niết Già Đa (Nirghāta), tức là sao Thiên Cẩu[73]. Phía Bắc của trục ngang phía Bắc, đặt Ốt Ca Bả Đa, tức là Lưu Hỏa.

          Phía Bắc của quyến thuộc Đế Thích gần với Tịnh Cư Thiên, đặt Đại Phạm Vương, đội măo che búi tóc, ngồi trên xe do bảy con ngỗng kéo, bốn mặt, bốn tay: Một tay cầm hoa sen, một tay cầm tràng hạt. Đó là tay bên phải. Một tay cầm b́nh quân-tŕ, một tay kết ấn chữ Án (Auṃ, ), đó là tay bên trái. Thủ ấn là hơi gập ngón trỏ, các ngón khác duỗi thẳng, đặt nghiêng tay trước người như đang nói năng. Đó là ấn Cát Tường của bậc tịnh hạnh. Các vị trời khác thuộc Tứ Thiền Thiên đều xếp vào bên trái, Ngũ Tịnh Cư Thiên như Vô Nhiệt v.v… đều xếp vào bên phải. Tỳ Ni có nói giới “hăy nh́n cách ăn mặc của Tịnh Cư Thiên, chế định cách ăn mặc ba y và nội y tề chỉnh” là nói tới các vị trời này. Ở phương Tây, gần cửa, đặt các vị Địa Thần. Kế đó, ở phương Bắc đặt Tát Ra Tát Phạt Để (Sarasvatī), dịch là Diệu Âm Nhạc Thiên, hoặc dịch là Biện Tài Thiên. Cũng đặt phi tử của vị này ở phương Bắc. Kế đó, lại đặt Vi Sắt Nữu (Viṣṇu), dịch theo lối cũ là Tỳ Nữu. Đấy chính là Na La Diên Thiên (Nārāyaṇa). Và đặt Thương Yết La Thiên (Śaṅkara); đây chính là Ma Hê Thủ La (Maheśvara), có thế lực to lớn trong một thế giới, nhưng chẳng phải là chủ của tam thiên đại thiên thế giới. Kinh văn trong phần sau cũng có Rô Nại La (Rudra), tức là thân phẫn nộ của Thương Yết La, do sự mà đặt tên. Lại đặt Tắc Kiến Na Thiên (Skanda), tức là Đồng Tử Thiên, đều đặt phi tử của họ bên cạnh. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: Hăy nên theo thứ tự đặt các vị thiên chúng ấy ở hai bên của Đế Thích và Phạm Vương”. Ngay góc Tây Bắc, đặt quyến thuộc của Phong Thiên để thủ hộ phương vị. Phía Nam của cửa Tây, đối diện với Nhật Thiên, hăy nên đặt Nguyệt Thiên (Candra) cưỡi xe ngỗng trắng. Ở hai bên vị này, đặt hai mươi bảy tinh tú, mười hai cung thần v.v… để làm quyến thuộc. Kế đó, ở cửa Bắc, hăy nên đặt Tỳ Sa Môn thiên vương, hai bên vị này, đặt tám Dạ Xoa đại tướng:

          - Một là Ma Ni Bạt Đà La (Maṇibhadra), dịch nghĩa là Bảo Hiền.

          - Hai là Bố Rô Na Bạt Đà La (Pūrnabhadra), dịch nghĩa là Măn Hiền.

          - Ba là Bán Chỉ Ca (Pāñcika, Mật Chủ), dịch theo lối cũ là Tán Chi.

          - Bốn là Sa Đa Kỳ Rị (Śatagiri, Oai Thần).

          - Năm là Hê Ma Phạ Đa (Himavanta), tức là Trụ Tuyết Sơn Giả.

          - Sáu là Tỳ Sái Ca (Viśakha, Đại Măn, Tŕ Pháp).

          - Bảy là A Trá Phạ Ca (Ātavaka, Vô Tỷ Lực).

          - Tám là Bán Giá La (Pañcala, Mật Nghiêm) và Ha Lợi Để Mẫu (Hārītī).     

          Kinh văn không nhắc tới Công Đức Thiên Nữ (Śrīdevi, Lakṣmī). [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Công Đức Thiên đáng nên ở cùng chỗ với Tỳ Sa Môn ở phương Bắc. Nếu đặt riêng th́ nên để ở phương Tây”. Phàm các vị đại thiên thần này, đều là những vị được nhiều người biết, chúng sanh trong thế gian ai nấy tùy theo tánh t́nh và ḷng ưa thích mà tôn thờ, cúng dường. Đức Tỳ Lô Giá Na v́ muốn Phổ Môn nhiếp thọ chúng sanh, trọn khắp hết thảy mọi nơi đều thị hiện thân giống như họ, dùng các biểu tượng mà thế gian cùng biết để làm biểu tượng bí mật xuất thế gian. Ví như h́nh tượng Đế Thích an trụ trên núi chúa Diệu Cao, Nhân Đà La tam-muội của Như Lai cũng chẳng dời khỏi nơi đây mà khai xuất núi chúa Diệu Cao trong Bồ Đề tâm thanh tịnh. Các pháp môn khác đều là như thế, chẳng thể nói cặn kẽ được! Nhưng hành giả hễ công hạnh thành tựu trong mỗi thừa, sẽ tự khai giải.

          Hơn nữa, dưới ṭa của Thích Ca Mâu Ni Phật, hăy nên vẽ h́nh Phẫn Nộ Tŕ Minh. Vị bên phải hiệu là Vô Năng Thắng, bên trái hiệu là Vô Năng Thắng Minh Phi, đều là sắc trắng, cầm đao ấn, quán Phật mà ngồi nơi đó. Nói tới “địa thần” th́ chính là địa thần [được vẽ] ở cửa Tây như đă nói ở phần trên. Hăy nên vẽ h́nh họ nâng b́nh báu, kiền thành cung kính, quỳ thẳng. Trong b́nh ấy, cắm các loại hoa mọc trên đất hay sanh trong nước, các điều khác như đồ h́nh đă nói. Và ở bên góc xép của cửa thông ra nơi tầng thứ hai, đặt hai long vương, bên phải là Nan Đà, bên trái là Bạt Nan Đà. Trên đầu họ đều có bảy đầu rồng, tay phải cầm đao, tay trái cầm dây trói, đứng ở trên mây. Những vị này đều là [các tôn thánh] trọng yếu trong Mạn-đồ-la. V́ thế, hành giả Chân Ngôn hăy nên dùng cái tâm không mê hoặc để nương theo thứ tự mà thực hiện!

          Kinh nói: “Sở dư Thích chủng tôn, chân ngôn dữ ấn đàn, sở thuyết nhất thiết pháp, sư ưng cụ khai thị” (Các tôn thánh họ Thích, chân ngôn và ấn đàn, nói ra hết thảy pháp, thầy nên khai thị đủ): Như các thứ bát, tích trượng, ấn v.v… thuộc Thích Ca Bộ, chủng loại rất nhiều, kinh chẳng liệt kê trọn hết, chỉ tùy thuộc phương ấy có chỗ nào trống khuyết, bèn chọn lựa theo những điều đă được nói trong các kinh khác để xếp đặt. Giả sử khuyết thiếu, cũng chẳng phạm lỗi. Nhưng đối với các vị thượng thủ được kinh này nhắc tới, đều phải nên mỗi mỗi đúng như pháp mà vẽ, chẳng được bỏ sót. Đối với các phương thuộc Liên Hoa Bộ, Kim Cang Bộ, cũng phỏng theo lệ này mà suy ra.

         

          (Kinh) Tŕ chân ngôn hành giả, thứ chí đệ tam viện, tiên đồ Diệu Cát Tường. Kỳ thân uất kim sắc, ngũ kế quan kỳ đảnh, do như đồng tử h́nh. Tả tŕ thanh liên hoa, thượng biểu kim cang ấn. Từ nhan biến vi tiếu, tọa ư bạch liên đài. Diệu tướng viên phổ quang, châu táp hỗ huy ánh. Hữu biên ưng thứ họa, Vơng Quang Đồng Tử thân, chấp tŕ chúng bảo vơng, chủng chủng diệu anh lạc. Trụ bảo liên hoa ṭa, nhi quán Phật trưởng tử. Tả biên họa ngũ chủng, dữ nguyện kim cang sứ, sở vị Kế Thiết Ni, Ưu Bà Kế Thiết Ni, cập dữ Chất Đa La, Địa Huệ, tịnh Thỉnh Triệu. Như thị ngũ sứ giả, ngũ chủng phụng giáo giả, nhị chúng cộng vi nhiễu, thị vệ vô thắng trí.

      ()持真言行者,次至第三院,先圖妙吉祥,其身欝金色,五髻冠其頂,猶如童子形,左持青蓮華,上表金剛印,慈顏遍微笑,坐於白蓮臺,妙相圓普光,周匝互暉映。右邊應次畫,網光童子身,執持眾寶網,種種妙瓔珞,住寶蓮華座,而觀佛長子。左邊畫五種,與願金剛使,所謂髻設尼,優婆髻設尼,及與質多羅,地慧并請召,如是五使者,五種奉教者,二眾共圍遶,侍衛無勝智。

    (Kinh: Hành giả tŕ chân ngôn, kế đến viện thứ ba. Trước vẽ Diệu Cát Tường, thân Ngài màu uất kim. Đỉnh đầu năm búi tóc, giống như thân bé trai. Trái cầm hoa sen xanh, trên hiện ấn kim cang. Vẻ từ nhan, mỉm cười, ngồi trên đài sen trắng. Diệu tướng quang trọn khắp, giáp ṿng chiếu lẫn nhau. Bên phải, kế nên vẽ, thân Vơng Quang Đồng Tử, cầm nắm các lưới báu, đủ loại diệu anh lạc. Trụ trên ṭa sen báu, nh́n ngắm Phật trưởng tử. Bên trái vẽ năm vị, kim cang sứ thỏa nguyện, tức là Kế Thiết Ni, Ưu Ba Kế Thiết Ni, cùng với Chất Đa La, Địa Huệ và Thỉnh Triệu. Năm sứ giả như thế, có năm vị phụng giáo, hai chúng cùng vây quanh, chầu hầu vô thắng trí).

 

    Kế đó, kinh nói quyến thuộc của Bồ Tát thuộc viện thứ ba. Hăy nên ở phía trong cửa chánh đông, tương ứng với Phật Thích Ca, vẽ Văn Thù Sư Lợi, thân có màu uất kim, đỉnh đầu có năm búi tóc, có h́nh dạng như bé trai. Tay trái cầm Nê Lô Bát La (Nīla-utpala), tức là hoa sen xanh có cánh nhỏ. Trên hoa có kim cang ấn. Vẻ mặt Ngài cực vui sướng, mỉm cười, ngồi trên đài hoa sen trắng. Đó là biểu tượng bí mật của Ngài. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Uất kim chính là sắc vàng Diêm Phù, biểu thị kim cang thâm huệ. Đầu có năm búi tóc, biểu thị Ngài đă thành tựu Ngũ Trí của Như Lai từ lâu. Do bổn nguyện nhân duyên, hiện h́nh đồng chân pháp vương tử. Hoa sen xanh là tam-muội chẳng nhiễm đắm các pháp, do tâm chẳng trụ vào đâu, tức là thấy Thật Tướng Kim Cang Trí Ấn, có thể dùng thường tịch quang để chiếu trọn khắp pháp giới. Do vậy, Ngài ngồi trên hoa sen trắng nhằm biểu thị ư nghĩa: Chẳng khác với Trung Đài Tạng”.

          Ở phía Bắc của ngài Văn Thù, hăy nên vẽ Quang Vơng Đồng Tử (Jālinīprabha-kumāra) Bồ Tát, thân màu vàng ṛng, cầm nắm lưới báu, dùng các thứ anh lạc để trang nghiêm, ngồi trên hoa sen báu. Ngài Văn Thù tŕ vô tướng diệu huệ, c̣n ngài Quang Vơng tŕ vạn đức trang nghiêm, như Trí Độ Luận đă nói: “Dùng muối nêm các món ăn, tăng thêm mùi vị, chẳng nhạt nhẽo”. V́ thế, hành nhân đánh mất phương tiện Bát Nhă, chỉ tu Không Huệ, sẽ đọa vào Đoạn Diệt. Thuần tu phước đức, sẽ đọa vào “có sở đắc”. Do vậy, “quán trưởng tử của Phật”, ư nghĩa ở chỗ này!

          Kế đó, ngài Văn Thù có năm sứ giả: Một là Kế Thiết Ni (Keśinī), hai là Ưu Bà Kế Thiết Ni (Upakeśinī), ba là Chất Đa La (Citrā), bốn là Địa Huệ (Vasumatī), năm là Thỉnh Triệu (Ākarṣaṇī), được xếp theo thứ tự ở hai bên ngài Diệu Cát Tường (Văn Thù Sư Lợi), v́ mỗi vị tŕ một trí của ngài Văn Thù. Kế Thiết Ni nghĩa là “tóc đoan nghiêm”. Ổ Bá (Ưu Bà) là Á (kém hơn). Ngài Văn Thù dùng năm búi tóc để biểu thị ngũ trí. Do vậy, sứ giả cũng lấy “tóc đẹp” làm tên. Chất Đa La có nghĩa là “nhiều màu”. Phía dưới năm sứ giả, [dưới mỗi vị] đều vẽ một người tuân phụng giáo pháp, đều quỳ gối hướng về sứ giả, có dáng vẻ như đang vâng lănh lời dạy, đều là Văn Thù tam-muội. V́ thế, kinh nói: “Thị vệ vô thắng trí” (Chầu hầu vô thắng trí).

         

          (Kinh) Hành giả ư hữu phương, thứ tác đại danh xưng, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng, chấp tŕ như ư bảo. Xả ư nhị phần vị, đương họa bát Bồ Tát, sở vị Trừ Nghi Quái, Thí Nhất Thiết Vô Úy, Trừ Nhất Thiết Ác Thú, Cứu Ư Huệ Bồ Tát, Bi Niệm cụ huệ giả, Từ Khởi đại chúng sanh, Trừ Nhất Thiết Nhiệt Năo, bất khả tư nghị huệ.

          ()行者於方,次作大名稱,除一切蓋障,執持如意寶。捨於二分位,當畫八菩薩,所謂除疑怪,施一切無畏,除一切惡趣,救意慧菩薩,悲念具慧者,慈起大眾生,除一切熱惱,不可思議慧

          (Kinh: Hành giả ở hữu phương, kế vẽ đại danh xưng, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng, cầm nắm báu như ư. Ngoại trừ hai phần vị, hăy vẽ tám Bồ Tát, tức là Trừ Nghi Quái, Thí Nhất Thiết Vô Úy, Trừ Nhất Thiết Ác Thú, Cứu Ư Huệ Bồ Tát, Bi Niệm: Đấng trọn huệ, Từ Khởi đại chúng sanh, Trừ Nhất Thiết Nhiệt Năo, huệ chẳng thể nghĩ bàn).

 

          Kế đến là tầng thứ hai, ở phía trái của Đại Nhật Như Lai, vẽ Trừ Cái Chướng Bồ Tát (Sarvanīvaraṇa-viṣkaṃbhin). Theo thói tục ở phương Tây (Ấn Độ), đi theo hướng Đông, coi phương Đông là sơ phương, phương Nam là hữu phương, phương Tây là hậu phương, phương Bắc là thắng phương. Nay do cửa của đàn Mạn-đồ-la này hướng về Tây, nên [ngài Trừ Cái Chướng thuộc về phía Nam của đàn tràng, được] coi là bên trái của đức Đại Nhật. Trong đồ h́nh, Trừ Cái Chướng Bồ Tát, tay trái cầm hoa sen, trên hoa đặt ma-ni bảo châu, tay phải kết ấn Thí Vô Úy[74]. Vị Bồ Tát này và các quyến thuộc đều là môn đại từ bi dẹp khổ, trừ chướng. Chính là dùng Như Ư Bảo Châu trong Bồ Đề tâm để bố thí cho hết thảy chúng sanh chẳng sợ hăi, thỏa măn điều họ mong nguyện.

          Kinh nói: “Xả ư nhị phần vị, đương họa bát Bồ Tát”, tức là ở bên cạnh Trừ Cái Chướng, hăy nên vẽ hai sứ giả. Sau đấy, theo thứ tự, xếp đặt tám vị Bồ Tát. Hễ xếp đặt các quyến thuộc, đều là người đầu tiên ở bên phải, người thứ hai bên trái, người thứ ba lại ở bên phải, người thứ tư ở bên trái. Một trái, một phải như thế, theo thứ tự mà xếp đặt. Nay tám vị Bồ Tát ấy, trước hết xếp Trừ Nghi Quái (Ascarya) ở bên phải của Trừ Cái Chướng, Thí Nhất Thiết Vô Úy (Sarvasattvābha-yaṃdada) bên phải. Kế đó, lại xếp Trừ Nhất Thiết Ác Thú (Sarvāpāyaṃjaha) ở bên phải của Trừ Nghi Quái. Xếp Cứu Ư Huệ (Paritrāṇā-śayamati) ở bên trái Thí Vô Úy. Kế đó, lại đặt Bi Niệm Bồ Tát (Kāruṇāmṛditamati) ở bên phải ngài Trừ Ác Thú, xếp Từ Khởi Bồ Tát (Mahāmaitrya-bhyudgata) ở bên phải của ngài Cứu Ư Huệ. Kế đó, lại xếp Trừ Nhất Thiết Nhiệt Năo (Sarvadāha-praśamita) ở bên phải Bi Niệm, Bất Khả Tư Nghị Huệ (Acintyamati) ở bên trái của ngài Từ Khởi. Xếp đặt các tọa vị khác đều phỏng theo lệ này.

         

          (Kinh) Thứ phục xả tư vị, chí ư Bắc thắng phương, hành giả dĩ nhất tâm, ức tŕ bố chúng thái, nhi tạo cụ thiện nhẫn, Địa Tạng Ma Ha Tát. Kỳ ṭa cực xảo nghiêm, thân xử ư diễm thai, tạp bảo trang nghiêm địa, ỷ thác hỗ tương gián, tứ bảo vi liên hoa, thánh giả sở an trụ. Cập dữ đại danh xưng, vô lượng chư Bồ Tát, vị Bảo Xứ, Bảo Thủ, cập dữ Tŕ Địa đẳng. Bảo Ấn Thủ, Kiên Ư, thượng thủ chư thánh tôn, các dữ vô số chúng, tiền hậu cộng vi nhiễu. Thứ phục ư Long phương, đương họa Hư Không Tạng, cần dũng bị bạch y, tŕ đao sanh diễm quang. Cập dữ chư quyến thuộc, Chánh Giác sở sanh tử, các tùy kỳ thứ đệ, liệt tọa chánh liên thượng. Kim thuyết bỉ quyến thuộc, đại ngă Bồ Tát chúng, ưng thiện đồ tảo hội, đế thành, vật mê vong. Vị Hư Không Vô Cấu, thứ danh Hư Không Huệ, cập Thanh Tịnh Huệ đẳng, Hạnh Huệ, An Huệ đẳng. Như thị chư Bồ Tát, thường cần tinh tấn giả, các như kỳ thứ đệ, nhi họa trang nghiêm thân. Lược thuyết Đại Bi Tạng, Mạn-đồ-la vị cánh.

                ()次復捨斯位,至於北勝方,行者以一心,憶持布眾綵,而造具善忍,地藏摩訶薩。其座極巧嚴,身處於焰胎,雜寶莊嚴地,綺錯互相間,四寶為蓮華,聖者所安住。及與大名稱,無量諸菩薩,謂寶寶手,及與持地等。寶印手堅意,上首諸聖尊,各與無數眾,前後共圍遶。次復於龍方,當畫虛空藏,勤勇被白衣,持刀生焰光,及與諸眷屬,正覺所生子,各隨其次第,列坐正蓮上。今說彼眷屬,大我菩薩眾,應善圖藻繢,諦誠勿迷忘。謂虛空無垢,次名虛空慧,及清淨慧等,行慧安慧等,如是諸菩薩,常勤精進者,各如其次第,而畫莊嚴身。說大悲藏,漫荼羅位竟。

          (Kinh: Lại bỏ vị trí ấy, đến chỗ Bắc thắng phương. Hành giả do nhất tâm, nghĩ nhớ sắp các màu, vẽ đấng trọn thiện nhẫn, Địa Tạng Ma Ha Tát. Ṭa Ngài cực tinh xảo, thân ngự trong thai lửa, các báu trang nghiêm đất, lộng lẫy, xen kẽ nhau. Bốn báu làm hoa sen, được bậc thánh an trụ. Cùng với đại danh xưng, vô lượng các Bồ Tát, là Bảo Xứ, Bảo Thủ, cùng với Tŕ Địa thảy. Bảo Ấn Thủ, Kiên Ư, các tôn thánh thượng thủ, đều cùng vô số chúng, trước sau cùng vây quanh. Rồi lại ở phương Rồng, sẽ vẽ Hư Không Tạng, đấng siêng năng, mạnh mẽ, khoác mặc áo trắng ngần, cầm đao, tóe ánh lửa. Cùng với các quyến thuộc, được sanh bởi Chánh Giác, mỗi vị theo thứ tự, sắp xếp trên hoa sen. Nay nói quyến thuộc Ngài, hàng Bồ Tát đại ngă, hăy nên khéo vẽ vời, chân thành, đừng mê, quên. Là Hư Không Vô Cấu, rồi đến Hư Không Huệ, và Thanh Tịnh Huệ thảy, Hạnh Huệ, An Huệ thảy. Các Bồ Tát như thế, bậc thường siêng tinh tấn, ai nấy theo thứ tự, mà vẽ thân trang nghiêm. Lược nói Đại Bi Tạng, Mạn-đồ-la đă xong).

 

          Kế đó, ở phương Bắc, đặt Địa Tạng Bồ Tát (Kṣitigarbha). Ở trên mặt đất trang nghiêm bằng nhiều thứ báu xen kẽ, dùng vàng, bạc, pha-chi (Sphaṭika, pha lê), thủy tinh, bốn chất báu làm ṭa hoa sen, cũng sao cho tột bậc khéo léo, đẹp đẽ. Nay Bồ Tát ngự trên hoa ṭa ấy, quang minh chói ngời trọn khắp toàn thân, như ở trong thai tạng, nên nói là “xử ư diễm thai” (ngự trong thai lửa). Vị tôn thánh này chủ tŕ vô biên tạng báu do công đức phát khởi từ tánh nơi bảo vương tâm địa. V́ thế, biểu tượng của Ngài được trang nghiêm bằng hết thảy kỳ trân dị bảo xen lẫn choáng lộn. Các vị Bồ Tát quyến thuộc của Ngài cũng có ư nghĩa tương đồng. Ở bên phải của đức Địa Tạng đặt Bảo Xứ Bồ Tát (Ratnākara), bên trái đức Địa Tạng đặt Bảo Chưởng Bồ Tát (Ratnapāṇi). Kế đó, bên phải Bảo Xứ, đặt Trị Địa Bồ Tát (Dharanindhara), bên trái Bảo Chưởng đặt Bảo Ấn Thủ Bồ Tát (Ratnamudrā-hasta). Bên phải Trị Địa, lại đặt Kiên Cố Ư (Dṛḍhādhyāśaya) Bồ Tát. Các vị tôn thánh thượng thủ như thế, ở hai bên mỗi vị, đều vẽ các quyến thuộc vây quanh.

          Kế đó, ở phương Tây, vẽ Hư Không Tạng Bồ Tát (Ākāśagarbha), mặc áo trắng ngần, tay trái cầm hoa sen, trên hoa có Đại Đao Ấn. Trên Đao Ấn sanh trọn khắp các ngọn lửa chói ḷa, và các quyến thuộc đều ngồi trên hoa sen. Vị Bồ Tát này tŕ “trí huệ như hư không” của Như Lai, cho nên cầm đại đao; đó là biểu tượng của trí huệ nhạy bén. Ngài mặc áo trắng, biểu thị trắng sạch, không nhơ. Đó là trang sức phía ngoài của giáo môn. Ví như hư không, chẳng phân biệt, mà cũng chẳng tích tập, nhưng muôn h́nh tượng trong thế gian đều nương vào đó để sanh thành. Nay pháp môn này cũng thế, trong Tất Cánh Không, xuất sanh tác dụng tự tại chẳng thể nghĩ bàn, chẳng có cùng tận, như kinh Đại Tập Hư Không Tạng đă nói cặn kẽ. V́ thế, gọi là Hư Không Tạng.

          Quyến thuộc trong pháp môn này là Hư Không Vô Cấu (Gaganāmala) Bồ Tát, Hư Không Huệ Bồ Tát (Gaganamati), Thanh Tịnh Huệ Bồ Tát (Viśuddha-mati), Hạnh Huệ Bồ Tát (Cāritramati), An Huệ Bồ Tát (Sthiramati), cũng theo thứ tự như trên lần lượt xếp bên trái và bên phải. Sở dĩ đều nói là “đẳng” (vân vân), nhằm nói các vị thượng thủ trên đây, mỗi vị đều có vô biên quyến thuộc. H́nh tướng của các Ngài đều như trong đồ h́nh miêu tả. Bài kệ này cuối cùng nói: “Lược thuyết Đại Bi Tạng, Mạn-đồ-la vị cánh” (lượt nói Đại Bi Tạng, các vị trí trong mạn-đồ-la đă xong), hai câu này chính là người truyền độ (truyền pháp, hóa độ) dùng để kết lại ư nghĩa, chẳng phải là kinh văn trong kinh này.

          Như đă nói trên đây, Bồ Đề tâm là nhân, đại bi là căn, phương tiện là rốt ráo, tức là Thật Tướng Hoa Đài Đại Bi Thai Tạng trong tâm x̣e nở, dùng phương tiện đại bi hiện thành ba tầng phổ môn quyến thuộc. Do v́ nghĩa ấy mà gọi là Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la. Như trong một thế giới, hiện trọn khắp các thân theo từng loại trong sáu đường; trong hết thảy các thế giới, cũng lại như thế. Trong các chúng đồng phận như thế, [các vị tôn thánh ấy] là thượng thủ bậc nhất. Pháp do các vị ấy nói cũng là vi diệu bậc nhất trong các pháp. Lại do nghĩa này, có thể nhiếp thọ trọn khắp vô tận chúng sanh. V́ thế, đức Tỳ Lô Giá Na được gọi là Pháp Giới Vương. Nay các vị thượng thủ này cùng nhau nhóm họp, ấn tŕ pháp như thế, cho nên hết thảy chúng sanh đồng loại, ai nấy đều sanh tâm hy hữu, nói rằng: “Đấng ta tôn trọng chẳng có ai sánh bằng”. Cũng lại ở trong chúng ấy, hăy nên biết pháp này rất hy hữu. Do sanh tâm hy hữu, sẽ tùy thuận hết thảy pháp giới môn mà gieo thiện căn. Thậm chí, kẻ trong đêm dài dấy khởi bất thiện căn, toan phá hoại chánh pháp, đă tới đạo tràng, thấy các vị đại thiên được tôn phụng, lại được ban thí pháp thực chẳng thể nghĩ bàn, ác tâm liền diệt, vứt bỏ ma sự, hoặc sanh một niệm tâm tùy hỷ. Do sanh một niệm tịnh tâm, sẽ có thể mở ra Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la.

          Lại nữa, các thứ pháp môn trong Mạn-đồ-la này tuy cùng một pháp giới, nhưng công dụng cạn hay sâu đều có sai khác. Như do cùng sanh trưởng trong một cuộc đất, cùng được một trận mưa tưới tắm, nhưng do các dược thảo tánh phận bất đồng, nếu y vương xem xét, liền biết thảo dược như thế tuy chẳng thích hợp để đối trị một căn bệnh nào đó, nhưng đối với một chứng bệnh khác, lại có thế lực thù thắng. Nếu trong các phương tiện phổ môn như thế đó, mỗi mỗi phân biệt chẳng sai, bèn kham làm bậc đại A-xà-lê. Trong Đại Bổn mười vạn kệ, các vị tôn thánh ai nấy đều tự tuyên nói pháp giới môn do chính ḿnh thông đạt, các thứ pháp phương tiện lạ, nay lược bổn này chỉ nêu lên pháp yếu phổ thông để tiến nhập đạo mà thôi. Nếu hành giả đúng pháp tu hành, chẳng khuyết thiếu pháp tắc, khi được gia bị chẳng thể nghĩ bàn, sẽ tự nhiên khéo chỉ bày phương tiện, không ǵ chẳng thông suốt. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Phàm hành giả chẳng trụ trong Du Già, sẽ chẳng thích hợp v́ người khác kiến lập Mạn-đồ-la”.

          Thoạt đầu, khi sắp vẽ, trước hết dùng tự môn để chuyển thành các vị tôn thánh, tọa vị, h́nh sắc, tánh loại, mỗi mỗi tương ứng, liền quán Đại Bi Tạng như thế chính là thân ta rồi mới khởi sự vẽ. Bậc thâm hạnh A-xà-lê như thế, ắt trong hết thảy các thời, đều thường chẳng ĺa Phật hội như thế. Khi làm pháp sự vẽ vời, theo đúng như pháp, lần lượt bắt đầu [vẽ] từ đất kim cang, quán cung điện bảo vương trên đỉnh núi Tu Di, tất cả mỗi mỗi đều trang nghiêm như trong phẩm sau sẽ nói. Hiểu rành rẽ như thế th́ mới có thể thỉnh vời được!  

Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

Phần ba hết

 



[1] A Tỳ Giá Lỗ Ca (Abhicāraka), c̣n phiên âm là A Tỳ Trá Lưu Ca, A Tỳ Tả Lưu Ca, tức là điều phục, hàng phục, nghĩa đen là “trói buộc khiến cho chẳng tự tại”.

[2] Hiểu theo nghĩa thông thường, Tứ Trọng Cấm chính là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, và nói dối. Trong Mật Giáo, Tứ Trọng Cấm là:

1. Chẳng xả chánh pháp.

2. Chẳng xả Bồ Đề tâm.

3. Chẳng keo kiệt pháp thù thắng.

4. Chẳng tàn hại chúng sanh.

[3] Tiểu Thừa sau khi chứng quả, sẽ thường nhập diệt tận định, trụ trong Thiên Chân Niết Bàn, xả sắc thân, kinh thường nói là “hôi thân diệt trí” (thân như tro, trí nhập diệt), do không có bi nguyện độ sanh, nên thường gọi là “hôi đoạn” (đoạn diệt như lửa tắt, chỉ c̣n tro).

[4] Dư nghiệt (): Các chủng tử tập khí xấu ác c̣n sót lại từ quá khứ.

[5] Bạch nguyệt (Śukla-paksa) chỉ nửa đầu mỗi tháng Âm lịch, từ lúc trăng mới mọc cho đến khi trăng tṛn.

[6] Hai mươi bảy tinh tú (Nakṣatram) là hai mươi bảy cḥm sao trong thiên văn học cổ Ấn Độ, gồm: A Thuyết Nhĩ (Ashvinī), Bạt Lạt Nhĩ (Bharanī), Cơ Lật Để Kha (Kṛttikā), Lỗ Hỷ Ni (Rohini), Ma Lê Già Thi La (Mrigashīra), A Đà La (Ārdrā), Bất Nại Bà Tu (Punarvasu), Phất Sa (Pushya), A Sa Ly Sa (Āshleshā), Ma Già (Maghā), Phất Bà Phả Cầu Ni (Pūrva Phalgunī), Úc Đa La Phả Cầu Ni (Uttara Phalgunī), Ha Sa Đa (Hasta), Chất Đa La (Chitrā), Sa Để (Svātī), Tỳ Thích Kha (Vishākhā), A Nô La Đà (Anurādhā), Chiết Sa Tha (Jyeshtha), Mâu Lam (Mūla), Phất Bà Sa Tha (Pūrva Ashādhā), Úc Đa La Sa Tha (Uttara Ashādhā) Sa La Ba Na (Shravana), Đản Nhĩ Sắt Đà (Dhanistha), Xá Đa Tỳ Sa (Shatabhisha), Phất Bà Bạt Đà La Bát Tha (Pūrva Bhādrapadā), Úc Đa La Bạt Đà La Bát Tha (Uttara Bhādrapadā), Ly Bà Để (Revatī)

[7] Thập Nhị Thứ c̣n được gọi là Phận Dă, là khái niệm thiên văn được định ra vào thời Ân Thương. Cổ nhân căn cứ theo sự vận chuyển của Tuế Tinh (Mộc Tinh) trên bầu trời, họ nhận thấy: Nh́n từ trái đất, Tuế Tinh xoay quanh trái đất một ṿng hết mười hai năm. Do vậy, họ chia hoàng đạo (quỹ đạo vận chuyển của Tuế Tinh) thành mười hai cung, gọi là Thập Nhị Thứ, đặt tên là Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Tu Tứ, Giáng Lâu, Đại Lương, Thật Thẩm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, và Tích Mộc. Từ đó, mở rộng thành khái niệm mỗi Thứ trong mười hai Thứ sẽ ứng với một khu vực trên mặt đất của Cổ Trung Hoa (chỉ tương ứng với phần gọi là Trung Nguyên, tức khu vực giữa Hoàng Hà và Trường Giang), gọi mỗi thứ là một “phận dă”, đồng thời quy định hai mươi tám ngôi sao thuộc vào phận dă nào.

[8] Một trăm lẻ tám Túc là do có hai mươi bảy ngôi sao, mỗi ngôi có bốn Túc, thành ra 27x4=108 Túc. Túc (pāda) ở đây là đơn vị đo khoảng cách di chuyển của mặt trăng trên bầu trời khi quan sát từ trái đất.

[9] Theo thiên văn học cổ Ấn Độ, La Hầu là giao điểm giữa quỹ đạo của mặt trăng và hoàng đạo, nên c̣n gọi là Giao Hội. Do trong huyền thoại Ấn Độ, các thiên chúng và A Tu La cùng quấy đảo biển sữa để t́m cam lộ (Amrta). Sau đó, thiên chúng đánh bại A Tu La, độc chiếm cam lộ, Mohini (một hóa thân của thần Vishnu) chia cam lộ cho chư thiên. Một A Tu La tên là Svarbhanu đă giả làm thiên chúng để uống cam lộ. Do Nhật Thiên (Surya) và Nguyệt Thiên (Chandra) phát hiện, tố cáo với Mohini. Mohini cắt đứt đầu Svarbhanu, phần đầu được gọi là Rahu (La Hầu), phần thân được gọi là Ketu (Kế Đô). Để báo thù, La Hầu thường t́m cách nuốt mặt trời, mặt trăng, tạo nên hiện tượng nhật thực và nguyệt thực. V́ thế, La Hầu c̣n được gọi là Thực Thần.

[10] Trực Nhật ở đây có nghĩa là mỗi sao ứng với một ngày trong tuần.

[11] Hộ Ma (Homa) dịch nghĩa là hỏa thiêu, hỏa tế, c̣n gọi là Hỏa Cúng, tức cúng dường bằng cách thiêu vật cúng như gỗ thơm, thảo dược, sữa, mật v.v… trong lửa, hàm nghĩa dùng lửa trí huệ thiêu đốt mê tâm, vọng tưởng.

[12] Tiêu xí (摽幟) có nghĩa gốc là cờ quạt hoặc kư hiệu để phân biệt một sự vật. Ở đây, lời sớ thường dùng chữ này để chỉ một dấu hiệu đặc biệt, hoặc một pháp khí cầm trong tay của các vị tôn thánh để biểu thị hạnh nguyện của vị đó, giúp cho hành nhân nhận biết vị tôn thánh ấy.

[13] Sao Cơ (gọi đầy đủ là Cơ Thủy Báo) là một chùm sao trong Nhị Thập Bát Tú của Trung Hoa, nằm ở phương Đông, tương ứng với cḥm sao Nhân Mă (Sagittarius) trong thiên văn học Tây phương. Thần thoại Trung Hoa coi sao này là hiện thân của thần Gió. Sao Tất (gọi đầy đủ là Tất Nguyệt Ô, gồm mười lăm ngôi sao chánh như Tất, Phụ Nhĩ, Thiên Nhai, Thiên Tiết…) tương ứng với cḥm sao Kim Ngưu (Taurus) trong thiên văn học hiện đại.

[14] Đại lực minh: Các chân ngôn (minh chú, đà-la-ni) do các thân phẫn nộ (thường gọi là minh vương) nói ra.

[15] Tô-đa-la ở đây không phải là Khế Kinh, mà chỉ có nghĩa là sợi dây do các sợi chỉ nhiều màu được xe lại.

[16] Lục Tế (sáu thứ ngăn che) chính là sáu thứ ác tâm trở ngại hành nhân chứng nhập tự tâm thanh tịnh, gồm tâm keo kiệt, tâm phá giới, tân sân hận, tâm lười nhác, tâm tán loạn, và tâm si.

[17] A Lợi Sa (Ārṣa) dịch nghĩa là CThánh Chủ, tức là công đức thù thắng, tự lợi, lợi tha, là đạo của cổ thánh tiên hiền. Nói A Lợi Sa Kệ là gọi chung các bài kệ do cổ thánh đă soạn ra với dụng ư tán dương các điều tốt lành, hoặc tóm tắt các pháp yếu để tu tập.

[18] Du Già (Yoga) dùng trong kinh sách Phật giáo không có nghĩa là một môn tập luyện để bồi bổ sức khỏe hay các phương pháp Thiền Định của ngoại đạo, mà dùng theo nghĩa tương ứng. Theo Đại Nhật Kinh Sớ, Du Già có năm loại tương ứng: Một là tương ứng với cảnh, hai là tương ứng với hạnh, ba là tương ứng với lư, bốn là tương ứng với quả, năm là tương ứng với cơ duyên. Duy Thức hay dùng chữ Du Già nhằm thể hiện ư nghĩa tương ứng với lư thú (do vậy mới có bộ luận Du Già Sư Địa). Mật Tông th́ dùng chữ Du Già nhằm thể hiện hành giả Tam Mật tương ứng, khế hợp với Bồ Đề tâm thanh tịnh.

[19] Giác Quán là danh xưng khác của Tầm Tứ, tức là suy nghĩ ở mức độ thô thiển th́ gọi là Giác, suy nghĩ cặn kẽ sâu xa, th́ gọi là Quán.

[20] Năm thứ báu nhằm tượng trưng cho hết thảy các vật báu, biểu thị “tôn quư nhất, vô thượng”. Tùy theo từng kinh mà năm thứ báu khác nhau. Chẳng hạn như kinh Tô Tất Địa nói năm thứ báu là vàng, bạc, chân châu, loa bối (vỏ ốc), xích châu. Kinh Cù Hê (kinh Nhuy Hế Da) nói năm thứ báu là san hô, pha lê, vàng, bạc, thương-khư (vỏ ốc biển to). Kinh Đà La Ni Tập nói năm thứ báu là vàng, bạc, chân châu, san hô, hổ phách. Kinh Kiến Lập Mạn Đồ La Trạch Địa Pháp nói năm thứ báu là vàng, bạc, chân châu, sắt sắt (một loại đá quư có màu xanh đậm), và pha lê.

[21] Ngũ cốc là năm loại hạt dùng làm lương thực, gồm đại mạch (barley), tiểu mạch (lúa ḿ), đạo cốc (gạo tẻ), tiểu đậu (đậu đỏ), và hồ ma (mè). Các kinh Mật giáo thường dạy như vậy, nhưng Quán Trí Nghi Quỹ lại nói ngũ cốc là đạo cốc, đại mạch, tiểu mạch, lục đậu (đậu xanh) và bạch giới tử (hạt cải trắng). Nói chung, ngũ cốc tượng trưng cho chủng tử của Bồ Đề tâm thuộc Ngũ Trí của Như Lai.

[22] Năm món thuốc (ngũ dược) đại biểu cho phá trừ mê hoặc, tận trừ các thứ bệnh khổ do vô minh phiền năo chướng gây ra. Các kinh nói ngũ dược bất đồng. Chẳng hạn như kinh Kim Cang Đảnh Du Già nói năm thứ thuốc là Bà Hạ Tát Ra, Bà Hạ Nễ Phược, Kiến Tra Cát Rị, Ngại Rị Yết Ra Noa, Vật Rị Đáp Hạ Định. Do Trung Hoa không có các vị thuốc ấy, bèn dùng các thứ thuốc được coi là linh dược để thay thế, tức là dùng Phục Linh, Châu Sa, Hùng Hoàng, Nhân Sâm, và Xích Tiễn.

[23] Đẳng Chí là danh xưng khác của Định. Ở trong Định, thân tâm ḥa hợp an trụ trong b́nh đẳng, đó là Đẳng. Do Định mà có thể đạt tới địa vị b́nh đẳng, nên gọi là Đẳng Chí.

[24] Phật Mẫu hiểu theo nghĩa chung chính là Bát Nhă Ba La Mật, v́ Phật do trí huệ mà sanh. Trí huệ vô thượng là Bát Nhă Ba La Mật, nên Bát Nhă Ba La Mật được gọi là Phật Mẫu. Trong Mật giáo, Phật Mẫu chính là thần cách hóa của nguyên tố có thể sanh ra chư Phật, Bồ Tát (tức trí huệ Bát Nhă Ba La Mật), lập ra các tôn vị như Phật Nhăn, Chuẩn Đề v.v… (được xếp vào Biến Tri Viện của Thai Tạng Mạn-đồ-la), đấy chính là các thân cụ thể hóa của trí huệ chư Phật.

[25] Liên Hoa Thủ là một danh xưng của Quán Thế Âm Bồ Tát. Tên Ngài c̣n được dịch thành Quang Thế Âm, Quán Tự Tại, Quán Thế Tự Tại, Quán Thế Âm Tự Tại, Hiện Âm Thanh, Khuy Âm, Cứu Thế, Viên Thông Đại Sĩ v.v…

[26] Thủ Đà Hội Thiên (Suddhāvāsehi) chính là Ngũ Tịnh Cư Thiên, tức chư thiên thuộc năm tầng trời Tịnh Cư.

[27] Thù, lượng là các đơn vị trọng lượng thời cổ, khá nhẹ. Cách tính như sau: Một thạch là một trăm hai mươi cân, một cân là mười sáu lượng, một lượng là hai truy, một truy bằng sáu thù. Mà một cân thời Tần Thủy Hoàng chỉ là 253g. Như vậy, một Thù chỉ khoảng 0,65 g.

[28] Ô Lật Đà (hrdaya) có nghĩa là nhục đoàn tâm, kiên thật tâm.

[29] Cù Hê là phiên âm của chữ Guhya, có nghĩa là niệm tụng. Đây là tên gọi tắt của bộ kinh Nhuy Hế Da, gọi đầy đủ là Cúc Hế Da Đàn Đát La Kinh (Guhyatantra) gồm ba quyển, do ngài Bất Không dịch, gồm mười một phẩm, giảng rất nhiều về nghi thức Mật pháp.

[30] Yết Ma (Karma) có nghĩa là “tác nghiệp”, tức là nghi thức tuyên cáo khi Tăng chúng thực hiện các việc như thọ giới, sám hối, cử tội v.v…

[31] Bộ kinh này do ngài Pháp Chúng dịch sang tiếng Hán vào đời Bắc Lương. Kinh này c̣n có tên là Phương Đẳng Đàn Tŕ Đà La Ni Kinh, hoặc Đàn Tŕ Đà La Ni. Do Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thỉnh vấn đức Phật bèn nói các loại đà-la-ni, tu hành, hộ giới v.v… Ngài dạy rơ cách hành sám hối, diệt tội v.v… Đồng thời, kinh c̣n dạy hai mươi bốn giới trọng của Bồ Tát. Dựa theo kinh này, Nam Nhạc đại sư đă hành pháp Phương Đẳng tam-muội, chứng viên vị. V́ thế, Trí Giả đại sư đă soạn một quyển Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp.

[32] Xỉ mộc (齒木) ở đây vốn là một phiến gỗ có chất chát hoặc tinh dầu thơm, dùng để chà răng cho sạch sẽ, hoặc nhai nhỏ để chất chát hoặc tinh dầu tiết ra, có tác dụng khử trùng, khử mùi hôi khiến cho hơi thở thơm tho.

[33] Kết hộ: Kết ấn hộ thân để gia tŕ.

[34] Ư nói miếng xỉ mộc để dùng trong đàn pháp này phải chọn miếng ngay ngắn, không cong vẹo, có thể phân biệt rơ đầu nào là phía trên thân cây, phần nào là dưới (tức hướng xuống gốc cây) như trong lời sớ sẽ giải thích cặn kẽ.

[35] A Thuyết Tha là tên gọi khác của cây Tất Bát La (Pippala), tức cây Bồ Đề.

[36] Diên theo nghĩa gốc là dây để buộc, nghĩa hẹp là cái dây để buộc mũ cho khỏi rớt. Kinh là sợi dọc khi căng sợi để dệt vải.

[37] Tam-muội-da (Samaya) có rất nhiều ư nghĩa, các ư nghĩa chủ yếu là b́nh đẳng, thệ nguyện, cảnh giác và trừ cấu chướng. Tuy vậy, khi nói đến Tam-muội-da, thường được hiểu theo các nghĩa sau đây:

- Một hệ thống giáo pháp hay giáo nghĩa, đặc biệt là giáo nghĩa Mật Tông.

- Hiểu đồng nhất với khái niệm Tam-muội-da giới, tức các giới luật cần thiết cho hành giả chân ngôn.

- Sự nhận thức Phật tánh, Phật quả.

- Hành giả hợp nhất với Tam Mật của Phật.

[38] Đây là một câu thành ngữ phát xuất từ kinh Dịch, hàm ư: Sau khi đă hiểu rơ, lư giải quy luật của một chuyện, tiến cao hơn nữa là đối với những sự lư có cùng một loại với chuyện đó, sẽ đều có thể hiểu rơ thấu đáo hơn.

[39] Kiền-độ (skandha), c̣n phiên âm là Kiến Đà, Kiến Đồ, Càn Độ, Tắc Càn Đà, Sa Kiền Đồ, có các ư nghĩa: Uẩn, Tụ, Chúng, Phần Đoạn, tức là phân loại các điều tương đồng để hợp riêng thành từng nhóm. Do vậy, Kiền Độ tương đương với Phẩm hoặc Tiết. Trong giới luật, nói chung có hai mươi hai loại kiền độ, chẳng hạn như: Kiền-độ nhằm quy định pháp thức xuất gia, thọ giới, c̣n gọi là Đại Kiền Độ; kiền-độ về cách Bố Tát (tụng giới), kiền-độ gồm các quy định về an cư, kiền-độ về tự tứ…

 

[40] Tịnh b́nh c̣n gọi là b́nh Quân Tŕ (Kuṇḍikām, c̣n phiên âm là Quẫn Trĩ Ca), chỉ có nghĩa là B́nh. Do tác dụng mà chia thành hai loại là tịnh b́nh và xúc b́nh. Tịnh b́nh dùng để đựng nước rửa tay sạch, c̣n xúc b́nh (tháo b́nh) là b́nh đựng nước để rửa tay dơ. Có sách c̣n nói rơ tịnh b́nh bằng sứ, c̣n tháo b́nh th́ dùng kim loại như đồng, sắt đúc thành. Sách Kư Quy Truyện lại bảo tịnh b́nh đựng nước uống, c̣n tháo b́nh dùng để rửa ráy, tắm gội. Khi cầm tịnh b́nh, phải dùng tay sạch, cất tịnh b́nh ở chỗ sạch.

[41] Tô Tất Địa có tên gọi là Tô Tất Địa Yết La Kinh (Susiddhikara Mahātantra Sādhanopāyika Paṭala) do ngài Thâu Ba Ca La (Śubhakarasiṃha, tức ngài Thiện Vô Úy) dịch vào năm Khai Nguyên 14 (726) đời Đường, gồm ba quyển, chia thành ba mươi bảy phẩm. Kinh dạy về sự thành tựu trong ba bộ của Mật Tông (Phật bộ, Liên Hoa bộ và Kim Cang bộ), bao gồm các nghi thức tŕ tụng, quán đảnh, cầu thỉnh, hộ ma, thành tựu, thời phần v.v… Do kinh này nói nhiều về oai nghi pháp tắc của hành giả Chân Ngôn, nên kinh này lại cùng với kinh Tô Bà Hô Đồng Tử Thỉnh Vấn được coi là Giới Kinh của Mật Tông. Trong truyền thống Đông Mật, kinh này cùng với kinh Đại Nhật và Kim Cang Đảnh được coi là Mật Tông Tam Đại Bộ. Thai Mật (Mật Tông trong Thiên Thai Tông Nhật Bản) cho rằng kinh Kim Cang Đảnh và kinh Đại Nhật nói riêng về Kim Cang Tạng và Thai Tạng, c̣n Tô Tất Địa nhằm diễn bày ư chỉ sâu xa Kim Cang Giới và Thai Tạng Giới bất nhị. Lời Sớ nói “dùng chữ để tính” tức là tùy theo chú dài hay ngắn mà giảm hay tăng số lượt tụng niệm tương ứng.

[42] Trong ba bộ của Mật Tông, vị tôn thánh có phẩm đức năng sanh ra các công đức và hành pháp của bộ ấy, được gọi là Bộ Mẫu. Chẳng hạn như Bộ Mẫu của Phật Bộ là Phật Nhăn, Bộ Mẫu của Liên Hoa Bộ là Bạch Y Quán Tự Tại, Bộ Mẫu của Kim Cang Bộ là Mang Măng Kê Bồ Tát. Bộ Mẫu thường được gọi là Phật Mẫu, nhưng không có nghĩa là sanh ra Phật, mà là vị có công năng sanh ra các phẩm đức của Tỳ Lô Giá Na Phật.

[43] Niết Rị Để có hai cách hiểu:

1. Hiểu theo nghĩa thông thường là tên một nữ thần chủ tŕ sự phá hoại, bất hạnh, tai họa, bệnh tật, nguy hiểm, sợ hăi, hoặc là mẹ của địa ngục.

2. Theo Mật giáo, đây là tên của một La Sát Thiên, tay cầm đao bén, h́nh dạng như quỷ vương đáng kinh sợ, thủ hộ phương Tây Nam.

[44] Tức ba tầng để bọc quanh Trung Đài Bát Diệp trong Mạn-đồ-la sẽ dùng để thiết lập từng khu (thường gọi là Viện) như Liên Hoa Viện, Kim Cang Thủ Viện, Tŕ Minh Viện v.v…

[45] Ương-cụ-lê (Aṅguli) có nghĩa là ngón tay.

[46] Trong Thai Tạng Mạn-đồ-la, phía trên Mạn-đồ-la được coi là phương Đông.

[47] Mạt nhân ngờ rằng đây là lỗi lầm do khắc ấn, v́ trong các h́nh vẽ Mạn-đồ-la từ đó tới giờ, phần nhọn của ấn này luôn hướng lên trên.

[48] Bên trái và bên phải trong lời Sớ là nói theo Đại Nhật Như Lai trong đồ h́nh, không phải là theo phương hướng của người nh́n Mạn-đồ-la. Nếu nh́n theo phương hướng của người nh́n vào Thai Tạng Mạn-đồ-la, phía trên là phương Đông, phía dưới là phương Tây, bên phải của người ấy là phương Nam, bên trái là phương Bắc.

[49] Bộ Chủ là một vị Bồ Tát trọng yếu nhất, có các phẩm đức đặc trưng nhất của một bộ. Có thể hiểu Bộ trong Mạn-đồ-la như tập hợp các vị Bồ Tát hoặc thánh giả có phẩm đức tương đồng. Chẳng hạn như phẩm đức của Liên Hoa Bộ là đại bi, có tác dụng trưởng dưỡng muôn điều thiện, cứu độ chúng sanh. Các vị Bồ Tát trong một bộ có thể là các hóa thân khác nhau của vị Bộ Chủ (chẳng hạn Đa La, Đại Bạch, Tỳ Câu Chi, Mă Đầu đều là các thân hóa hiện của Quán Thế Âm Bồ Tát), hoặc các Bồ Tát có phẩm đức tương đồng với vị Bộ Ch