Đại Tỳ Lô Giá
Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần bốn
大毘盧遮那成佛經疏
Đường sa-môn Nhất
Hạnh A-xà-lê kư
沙門一行阿闍梨記
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như
Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang
Phương vị trong Mạn-đồ-la
được truyền bởi [Thiện Vô Úy] A-xà-lê liệt
kê đầy đủ như sau:
1. Phương thượng[1]
○
Như Lai Như Ư Bảo
○
Như Lai Giáp Trụ
○
Như Lai Quyến Sách
□ Như Lai Bố Ma
○ Như Lai Tề
□ Như Lai Mă Tạng
○ Như Lai Thần
□ Như Lai Thập Lực
○ Như Lai Nha
□ Như Lai Đại Hộ
△
Vô Sở Úy Đại Hộ Giả○○
○ Như Lai Vô Sở Úy
□ Như Lai Linh Đạc
○ Như Lai Thương Khư
□ Như Lai Tam Muội Da Kim Cang
○ Như Lai Chánh Cần
□ Như Lai Tam-muội-da
○ Như Lai Thiệt
□ Như Lai Hào Tướng
○ Nhất Thiết Như Lai Ṭa
□ Như Lai Đại Cần
Dũng
□ Như Lai Nhăn
○ Như Lai Tâm
□ Như Lai Thước Để[2]
○ Vô Kham Nhẫn (Như Lai Vô Kham Nhẫn)
□ Thủy Tự Tại Tôn
□ Tương Hướng Thủ
Hộ Môn Giả
□ Như Lai Niệm Xứ
○ Như Lai Đao
□ Như Lai Luân
□ Như Lai Liên Hoa
□ Như Lai Đảnh
○ Như Lai Kết Giới
□ Như Lai Thí Nguyện
○ Như Lai B́nh Đẳng Thuyết
□ Như Lai Khẩu
○ Như Lai Yêu
□ Như Lai Diễm Quang
□ Như Lai Câu
□ Hư Không Nhăn
□ Vô Cấu Quang Đồng Tử
○ ○
□ Quang Vơng Đồng Tử ○
○
□ Nam Phụng Giáo Giả ○ ○
○ ○
□ Nam Thủ Vệ Giả ○ ○
○ ○
□ Nam Sứ Giả ○ ○ ○
○
□ Nữ Sứ Giả ○ ○
○ ○
△ Lục
Diện Tôn
△
Hàng Diễm Ma Tôn
□ Địa Huệ Đồng Tử
○ ○
□ Ưu Ba Kế Thiết Ni ○ ○
*
Văn Thù Sư Lợi
□ Kế Thiết Ni ○ ○
□ Chất Đa La ○ ○
□ Thỉnh Triệu Giả ○ ○
□ Nữ Sứ Giả ○ ○
○ ○
□ Nam Sứ Giả ○ ○ ○
○
□ Nữ Thủ Vệ Giả ○
○ ○ ○
□ Nữ Phụng Giáo Giả ○
○ ○ ○
□ Bảo Quan Đồng Tử ○
○
□ Nguyệt Quang Đồng Tử
□ Thiện Tài Đồng Tử
△ Hỏa
Thiên Hộ Phương Thần
△ Hỏa
Thiên
△ Hỏa
Thiên Hậu
△
Bà Tư Sắt Trá Đại Tiên
△
Kiệt Già Đại Tiên
△ Mạt
Kiện Đồ Đại Tiên
△
Cù Đàm Đại Tiên
△
Ca Diếp Đại Tiên
△
Chư Chấp Diệu Thần đẳng
△ Tỳ
Thệ Da Hậu
△
Nhật Thiên Tử
△
Thệ Da Hậu
□ Na La Diên và quyến thuộc
□ Ma Thiên Tha Hóa Tự Tại Thiên
□ Hóa Lạc Thiên
□ Đâu Suất Đà Thiên
□ Diễm Ma Thiên
□ Đông phương Đề
Đầu Lại Tra thiên vương và các Càn Thát Bà.
□ Xá Chi phu nhân ○ ○
□ Đế Thích Tam Thập Tam
Thiên
□ Đồng Tử Bồ Tát
□ Tỳ-kheo chúng
□ Hoan Hỷ Bồ Tát
□ Thượng phương Hoan Hỷ
Đức Bồ Tát
□ Bồ Tát chúng
□ Đồng Nữ Bồ Tát
□ A Nan Đà
□ Tu Bồ Đề
□ Xá Lợi Tử
□ Đại Mục Liên
□ Đại Ca Diếp
□ Vô Lượng Âm Thanh Phật
Đảnh
□ Quảng Đại Phật
Đảnh
□ Hỏa Tụ Phật Đảnh
□ Thắng Phật Đảnh
△
Như Lai Tích Trượng
○ Như Lai Bát
○ Như Lai Nha
□ Hào Tướng
△
Vô Năng Thắng Tôn
□ Thích Ca Mâu Ni Phật
△
Vô Năng Thắng Phi
○ Phật Mẫu
○ Như Lai Thước Để
Ấn
□ Đồng Nam Bồ Tát
□ Tỳ-kheo tăng
□ Phổ Quang Bồ Tát
□ Đông phương Bảo Tánh
Phật
□ Bồ Tát Chúng
□ Tỳ-kheo tăng
□ Đồng Nữ Bồ Tát
□ Phật Ca Sa
△ Phật Quân Tŕ
□ Bạch Tán Phật Đảnh
□ Tối Thắng Phật Đảnh
○ ○
□ Tồi Toái Phật Đảnh ○
○
□ Tối Cao Phật Đảnh
□ Bích Chi Phật
□ Đại Phạm và Minh Phi quyến
thuộc
□ Tứ Thiền Thiên
□ Vô Sắc Thiên
□ Tịnh Cư Tự Tại Thiên
Tử
□ Phổ Hoa Thiên Tử
□ Quang Man Thiên Tử
□ Ư Sanh Thiên Tử
□ Danh Xưng Viễn Văn Thiên Tử
□ Đại Tự Tại Phi và
quyến thuộc
□ Đại Tự Tại Thiên và
quyến thuộc
□ Ma Hê Thủ La Thiên Tử và phi
□ Tŕ Minh Phi
□ Tŕ Minh Tiên
2. Bên phải [của Trung Đài Bát Diệp]
△
Năng Thọ Nhất Thiết Tôn (thỏa măn hết thảy
các nguyện)
□ Liên Hoa Bộ Nữ Phụng Giáo
Giả
□ Liên Hoa Bộ Phụng Giáo Giả
□ Liên Hoa Tam Cổ Kích
□ Liên Hoa Kích
□ Liên Hoa Tôn
□ Kim Cang Liên
□ Liên Hoa Luân
□ Liên Hoa Đao
□ Liên Hoa Đức Bồ Tát
□ Đại Thủy Cát Tường
□ Đại Cát Tường
□ Tăng Cát Tường○ ○
□ Phật Cát Tường ○
□ Kim Sắc Bồ Tát
□ Danh Xưng Huệ Bồ Tát ○
○
□ Bạch Sắc Bồ Tát
△
Hoại Chư Bố Úy Đại Hộ Giả ○ ○
□ Đại Thế Chí Bồ Tát
□ Tỳ Câu Chi Bồ Tát ○ ○
□ Quán Thế Âm Bồ Tát
□ Đa Lợi Tôn (Tara) ○ ○
□ Quán Âm Mẫu
□ Đại Bạch Bồ Tát
□ Tư Tài Chủ Bồ Tát
□ Biến Quán Bồ Tát
□ Cát Tường Bồ Tát
□ Đới Tháp Đức Bồ
Tát
□ Bảo Đức Bồ Tát
□ Lộc B́ Y H́nh
□ Liên Hoa Quân Tŕ
□ Liên Hoa Man
□ Liên Hoa Phủ
□ Liên Hoa Sách
□ Liên Hoa Đạc
□ Liên Hoa Loa
□ Liên Hoa Bộ Sứ Giả
(□ Liên Hoa Bộ Sứ Giả △ Mă
Đầu Quán Thế Âm)
□ Liên Hoa Bổng
(Tầng thứ nhất bên phải
đă xong, [tức là hoàn tất Quán Âm Viện])
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
△ Hạnh Huệ Bồ Tát ○ ○
○ Thắng Diệu Thiên Bồ Tát ○
○
□ Bảo Nghiêm Bồ Tát ○ ○
△ Bảo Ấn Thủ Bồ Tát ○ ○
○ Bảo Chưởng Bồ Tát ○
○
□ Địa Tạng Bồ Tát ○
○
○ Bảo Tác Bồ Tát ○ ○
○ Tŕ Địa Bồ Tát ○ ○
□ Hiền Ư Bồ Tát
○ Bảo Quan Bồ Tát ○ ○
△
Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân Bồ Tát ○ ○
□ Thiện Trụ Ư Bồ Tát ○
○
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
(Tầng thứ hai ở bên phải
đă xong, [tức là hoàn tất Địa Tạng Viện])
□ Y Xá Na hộ phương thần
□ Cưu Bàn Đồ chúng quyến
thuộc
□ A Danh Yết Noa (tai dê)
□ A Thấp Phạ Yết Noa (tai
ngựa)
□ Thú Bà Yết Noa
□ Tạp Bảo Tạng Thần○
○ ○ ○
△
Đồ Cát Ni
△
Đồ Ca
□ Đồng Nam Bồ Tát
□ Tỳ-kheo chúng
□ Ly Trần Dũng Mănh Bồ Tát
□ Đông Bắc phương Định
Thắng Thủ Đức Phật
□ Bồ Tát chúng
□ Tỳ-kheo chúng
□ Đồng Nữ Bồ Tát
□ Nữ Bộ Đa ○ ○ ○
○
□ Bộ Đa Dược Xoa loại
○ ○
□ Trụ Tuyết Sơn Dược
Xoa Tướng ○ ○ ○ ○ ○ ○
□ Sa Đa Kỳ Rị Dược
Xoa Tướng ○ ○
□ Bán Giá La Dược Xoa Tướng
○ ○ ○ ○
□ Tỳ Sái Ca Dược Xoa Tướng
○ ○
□ A Trá Phạ Ca Dược Xoa
Tướng ○ ○ ○ ○
□ Tỳ Sa Môn Tử Dược
Xoa Tướng ○ ○
□ Ma Ni Bạt Đà La Thần○
○ ○ ○
□ Hộ Phương Thần Hậu
○ ○ ○ ○
□ Câu Phệ Ra Hộ Phương
Thần Tỳ Sa Môn ○ ○
□ Cát Tường Công Đức
Thiên
□ Măn Hiền Dược Xoa Tướng
○ ○
□ Ha Lật Để Mẫu
(năm trai, năm gái)
□ Tán Chi Đại Tướng
□ Đồng Nam Bồ Tát
□ Tỳ-kheo chúng
□ Thắng Thọ Bồ Tát
□ Bắc phương Thắng
Đức Phật
□ Bồ Tát chúng
□ Tỳ-kheo chúng
□ Đồng Nữ Bồ Tát
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
□ Chủ Điền Nông Thần
□ Chủ Tượng Mă Cứu Thần
□ Chủ Vương Khố Tạng
□ Chủ Ngoại Đạo
Phước Xứ Thần
□ Chủ Nham Huyệt Thần
□ Chủ Phục Tạng Thần
□ Chủ Trách Thần
□ Chủ Thi Lâm Thần
□ Chủ Ba Tŕ Thần
□ Chủ Long Tuyền Thần
□ Chủ Tỉnh Thần
□ Chủ Không Trung Cung Uyển Thần
□ Chủ Cung Thất Thần
□ Chủ Hải Thần
□ Chủ Thất Trạch Thần
□ Chủ Hạng Khúc Thần
□ Phương Thần
□ Chủ Nhai Mạch Thần
□ Chủ Hà Thần
□ Chủ Đạo Thần
□ Chủ Khoáng Dă Thần
□ Chủ Giao Dă Thần
□ Chủ Thiêm Tứ Thần
□ Chủ Thành Thần
□ Chủ Thôn Thần
□ Chủ Châu Thần
□ Chủ Điểu Thần
□ Chủ Sơn Thần
□ Chủ Tất Địa Vật
Thần
□ Chủ Tất Địa Thần
□ Chủ Tiên Dược Thần
□ Chủ Dược Kế Thần
□ Chủ Dược Thần
□ Tất Địa Tŕ Minh Phi ○
○ ○ ○
□ Tất Địa Tŕ Minh Tiên ○
○ ○ ○
(Tầng thứ ba bên phải đă
xong, [tức là tầng ngoại Kim Cang giới bên phải
đă xong]).
3. Bên trái [của Trung Đài Bát Diệp]
□ Diệu Kim Cang
□ Thanh Kim Cang
□ Kim Cang Liên
□ Tịch Tĩnh Kim Cang
□ Đại Tấn Lợi Kim Cang
□ Kim Cang Nha
□ Na Mị Đồ Kim Cang (do nhân
mà lập danh, c̣n gọi là Đoản)
□ Xích Thể Kim Cang
□ Phật Phụng Giáo Giả
□ Việt Vô Lượng Hư
Không
△
Nguyệt Yển Tôn○ ○
□ Nan Hàng Đại Hộ Giả
(thân nữ) ○ ○
□ Kim Cang Bộ Sanh
□ Kim Cang Liên Tỏa
□ Chấp Kim Cang
□ Kim Cang Mẫu ○ ○
□ Kim Cang Châm
□ Kim Cang Câu
△
Kim Cang Vô Thắng Đại Hộ Giả○ ○
△
Quân Đồ Lợi Kim Cang○ ○
△ Đại
Lực Kim Cang ○ ○
□ Hư Không Vô Cấu Kim Cang
□ Tố Ra Đa Kim Cang (Diệu Trụ)
□ Đại Thân Kim Cang
□ Đại Thắng Kim Cang
□ Quảng Nhăn Kim Cang
□ Bạt-chiết-la Kim Cang
○ Đại Huệ Bồ Tát
□Tịch Huệ Bồ Tát
△
Vô Cấu Huệ Bồ Tát ○ ○
○ Vô Tận Ư Bồ Tát ○ ○
□ Bất Tư Nghị Huệ Bồ
Tát ○ ○
△
Đại Từ Khởi Bồ Tát ○ ○
△
Vô Tượng Bồ Tát ○ ○
○ Cứu Ư Huệ Bồ Tát ○ ○
□ Thí Nhất Thiết Vô Úy Bồ
Tát ○ ○
△
Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát ○ ○
□ Trừ Nghi Quái Bồ Tát ○ ○
○ Trừ Nhất Thiết Ác Thú Bồ
Tát ○ ○ ○
△
Bi Niệm Bồ Tát (c̣n gọi là Đại Bi Triền) ○○
□ Trừ Nhất Thiết Nhiệt
Năo Bồ Tát ○○
○ Hải Huệ Bồ Tát○○
△
Diệu Huệ Bồ Tát
□ Hiền Kiếp Bồ Tát ○○○○
△
Niết Rị Để Hộ Phương Thần
△ Nữ
La Sát○○
△
La Sát chúng○○
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
○ Đồng Nam Bồ Tát
○ Tỳ-kheo chúng
○ Nhật Quang Bồ Tát
□ Tây Nam Nhật Luân Biến Chiếu
Thắng Đức Phật
○ Bồ Tát chúng
○ Tỳ-kheo chúng
○ Đồng Nữ Bồ Tát
△ Tất
Lăng Nghị Lật Tri
△
Chư Tỳ Na Dạ Ca
△
Ma Ha Ca La (Hắc Thần)
○ Ưu Bà, Lộ Hệ Đa nhị
long vương
△ Tỳ
Lô Giá thập quyến thuộc ○○○○○○
△ Tỳ
Xá Chi thập quyến thuộc ○○
△
Hàn Lănh địa ngục
△
Nhiệt Năo địa ngục
□ Tỳ Lâu Bác Xoa vương ○○○○
△
Diễm Ma Một Lật Để Hậu
△
Diễm Ma Hậu
△
Diễm Ma Đản Đồ
△
Diễm Ma La pháp vương
△
Chất Đát La Cấp Đa Tấn Ngục Giả
△ Dạ
Hắc Thiên
□ Biện Tài Thiên ○○
□ Đồng Nam Bồ Tát
□ Tỳ-kheo chúng
□ Ly Ưu Bồ Tát
□ Nam phương Vô Ưu Đức
Phật
□ Bồ Tát chúng
□ Tỳ-kheo chúng
□ Đồng Nữ Bồ Tát
□ Biệt Dị địa ngục
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
△
Giá Muộn Noa
△
Kiều Phệ Rị
△
Phệ Sắt Noa Vị
△
Kiều Rị
△ Yến
Nại Rị
△
Ta Nại Rị
△ Mạt
Ra Mị
□ Khẩn Na La phi ○○
○ Khẩn Na La
○ Đồng Nam Bồ Tát
○ Tỳ-kheo chúng
○ Liên Hoa Thủ Bồ Tát
○ Đông Nam Liên Hoa Thắng Đức
Phật
○ Bồ Tát chúng
○ Tỳ-kheo chúng
○ Đồng Nữ Bồ Tát
△ Mộ
Ha Nẵng
△
Khuyết Danh Hỏa Thần
△
Kiếp Vi
△
Mang Măng Sa
△
Ngật Sái Dă
△
Đỗ Trá Ra
△
Cú Rô Đản Nang
△ Một
Lật Noa
△ Lộ
Hệ Đa
△
Mang Rô Đa
△ Nại
Rô Ca
△
Sa Ma Hê Nại La
△
Chư hỏa tiên đẳng
4. Phương dưới
của Mạn-đồ-la
* Hàng
Tam Thế Tôn
□ Kim Cang Đạc ○○
□ Kim Cang Quyến Sách
□ Kim Cang Đao
□ Bất Khả Việt Hộ Môn Giả
○○
□ Tương Hướng Thủ Hộ
Môn Giả ○○
△ Như Lai Sứ Giả
□ Kim Cang Quyền
□ Vô Hư Luận Kim Cang
□ Kim Cang Phủ
□ Kim Cang Luân
□ Kim Cang Bổng
* Thánh Bất
Động Tôn
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
□ Kim Quang Bồ Tát
○ Kim Sắc Bồ Tát
△ Bảo Đức Bồ
Tát
□ Hiền Đức Bồ Tát
○ Hoa Tràng Bồ Tát
△ Kế Đô Bồ
Tát
□ Vô Cấu Quang Bồ Tát
△ Thanh Tịnh Huệ
Bồ Tát ○○
□ Hư Không Huệ Bồ Tát ○○
○ Hư Không Tạng Bồ Tát ○○
□ Hư Không Vô Cấu Bồ Tát ○○
△ Pháp Huệ Bồ
Tát ○○
○ Huệ Bộ Bồ Tát ○○
□ Lạt Nê Mị Bồ Tát
△ Nê Mị Bồ Tát
○ Bảo Phan Bồ Tát
□ Kim Quang Bồ Tát
△ Quang Minh Bồ Tát
○ Diệu Tràng Bồ Tát
□ Vô Biên Tràng Bồ Tát
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
* Phong
Thiên Hộ Phương Thần
* Phong
Thần Hậu
△ Ca Lâu La nữ ○○○○
△ Ca Lâu La
△ Phi nhân quyến thuộc
△ Nhất thiết
nhân quyến thuộc
□ Đồng Nam Bồ Tát
□ Tỳ-kheo chúng
□ Bảo Thắng Bồ Tát
□ Tây Bắc phương Nhất Bảo
Cái Phật
□ Tỳ-kheo chúng
□ Đồng nữ chúng
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
○ Tiểu Ngật Lật Sắt Nộ
nhị long vương
○ Ngật Tây Sắt Noa nhị long
vương
○ Lộ Hệ Đa nhị long
vương
○ Ưu Bà Tư Đa nhị long
vương
○ Ưu Bà Thúc Cật Lao nhị long
vương
○ Thúc Cật Lao nhị long
vương
○ Sa Già La long vương
○ A Na Bà Đạt Đa long
vương
○ Đắc Xoa Ca long vương
○ Ma Ca Tư long vương
○ Củ Lợi Ca long vương
○ Yết Cú Trá Ca long vương
○ Ḥa Tu Cát long vương
○ A Nan Đà long vương
○ Đại Liên Hoa long vương
○ Ba Đầu Hoa long vương
○ Thương Khư long vương
○ Phạ Rô Noa hậu ○○
○ Phạ Rô Noa long vương○○○
□ Tỳ Lâu Lặc Xoa hộ
phương thiên vương ○○
○ Ưu Bà Tôn Na Thủ Môn Giả ○○
Cửa
để ra vào
○ Tôn Na Thủ Môn Giả ○○
○ Địa Thần ○○
○ Long vương và hậu quyến
thuộc ○○
○ Đồng Nam Bồ Tát
○ Tỳ-kheo chúng
○ Hành Huệ Bồ Tát
○ Tây phương Bảo Diệm Phật
○ Bồ Tát chúng
○ Tỳ-kheo chúng
○ Đồng Nữ Bồ Tát
○ Chủ B́nh Tương Xâm Thần
○ Chủ Nhật Lịch Thần
○ Chủ Thời Phần Thần
○ Chủ Nghiệp Tác Thần
○ Chủ Túc Thần
○ Chủ Túc Đối Thần
○ Chủ Dạ Thần
○ Chủ Nguyệt Thần
○ Chủ Nhật Thần
○ Lục Thời Thần
○ Chủ Trực Thần
○ Chủ Nhập Bát Tú Thần
○ Chủ Thập Nhị Cung Thần
○ Nguyệt Hậu tên Xích Sắc
○ Nguyệt Hậu tên Nguyệt Tường
○ Nguyệt Thiên Tử
○ Nguyệt Hậu tên Nguyệt Tướng
○ Đồng Nam Bồ Tát
○ Tỳ-kheo chúng
○ Liên Hoa Thắng Bồ Tát
○ Hạ phương Liên Hoa Đức
Phật
○ Bồ Tát chúng
○ Tỳ-kheo chúng
○ Đồng nữ Bồ Tát
○ Hiền Kiếp Bồ Tát
□ A Tu La nữ quyến thuộc
□ A Tu La quyến thuộc
○ Ma Hầu La Già nữ
○ Ma Hầu La Già
[Thiện
Vô Úy] A-xà-lê nói: “Viện thứ nhất, ở
phương Đông, từ Như Lai Câu cho đến
Như Lai Giáp v.v… đều là Tỳ Lô Giá Na tam-muội. Mỗi
vị đều vẽ thành h́nh dạng thiên nữ, tùy theo
Mạn-đồ-la vuông hay tṛn[3]
để biện định màu sắc của họ. Họ
ngồi trên đài sen trắng, trong tay lại cầm hoa
sen. Trên hoa đều có các vật dùng làm biểu tượng
đặc trưng cho mỗi vị như móc câu, bánh xe,
đao, giáo, thương-khư (ốc tù và), chuông, khánh, dây
trói, giáp trụ v.v… đều dựa theo tướng của
mỗi vật ấy mà vẽ. Đảnh tướng, hào
tướng, khẩu, thiệt, nha, thần (miệng,
lưỡi, răng, môi) v.v… chuẩn theo lệ ấy để
hiểu. Như Lai Tề (rốn
của Như Lai) th́ trên hoa sen vẽ h́nh tướng ṿng
tṛn nối liền, tṛn trặn. Như Lai Yêu (eo của
Như Lai) th́ cũng vẽ h́nh như tràng hạt hơi
cong. Như Lai Tạng giống như tạng tướng
chẳng hiện nơi mă bảo của Luân Vương.
Như Lai Thí Nguyện th́ vẽ thành tay Dữ Nguyện[4].
Như Lai Pháp và Biện Thuyết v.v… th́ hoặc là cầm
kinh tạng, hoặc giơ tay trong tư thế thuyết
pháp. Niệm, Xứ, Thập Lực v.v… đều là pháp
tương ứng với Chỉ Quán, hăy vẽ các vị ấy
với dáng điệu tam-muội lặng lẽ. Đối
với Tam-muội-da, hăy vẽ như tướng Phật
Đảnh. Như Lai Đảnh tướng nhiếp trọn
hết thảy các công đức. Hễ trong tay [của một
vị tôn thánh] không có vật ǵ để có thể biểu
trưng th́ đều nên dùng [Phật Đảnh tướng]
để biểu thị”.
Nếu
Mạn-đồ-la không vẽ h́nh các vị tôn thánh, chỉ
nêu bày ấn bí mật[5]
[của từng vị] th́ ở trên ṭa Kim Cang, vẽ
đài hoa sen, trên đài th́ giống như trên, vẽ biểu
tượng đặc trưng của từng vị. Đối
với Mạn-đồ-la chỉ vẽ chữ (tức là
Mạn-đồ-la dùng chữ chủng tử của từng
vị tôn thánh thay v́ vẽ h́nh tướng) th́ nếu trong
kinh có chữ chủng tự [của từng vị tôn
thánh], hăy nên đúng pháp mà đặt [từng chữ vào
đúng vị trí tương ứng]. Nếu trong kinh chẳng
chép, hăy nên dùng chữ đầu tiên trong tiếng Phạn (chữ
A) làm chữ chủng tử, hoặc có thể đều
dùng chữ A [cho tất cả các vị tôn thánh.
Chư tôn thuộc Liên Hoa Bộ
ở phía Bắc[6]
[của mạn-đồ-la], nếu trong kinh chẳng nói
h́nh tướng, sẽ đều vẽ chung là [thân các Ngài
có] màu hoa sen đỏ, hoặc sắc trắng sạch. C̣n
các vị như Kim Sắc v.v… th́ theo tên gọi để
biện định thân sắc. Ấn tướng các Ngài cầm
cũng giống như trong Phật Bộ đă nói,
nhưng dùng hoa sen làm biểu tượng. Như trong h́nh
tượng Liên Hoa Luân th́ dùng bốn cánh sen [ghép lại]
như h́nh chữ Thập để làm tướng căm
bánh xe. Ở phía ngoài “căm bánh xe” ấy, dùng h́nh khuyên tṛn
bao quanh. [Ấn tướng] Liên Hoa Đao th́ đặt
đao trên hoa sen, trên mũi đao lại dùng hoa sen để
biểu thị tướng đặc trưng. Đối
với chày kim cang, kim cang kích v.v… cũng đều làm giống
như thế. [Ấn tướng của] ngài Liên Hoa Quyến
Sách th́ dùng hoa sen làm hai đầu mối [của dây thừng].
[Ấn tướng của ngài] Liên Hoa Đạc th́ dùng hoa
sen để buộc [cái chuông ấy]. Ngài Liên Hoa Man th́ dùng
hoa sen xâu thành tràng hoa để trang nghiêm thân, hoặc đặt
trên hoa sen Ngài cầm. Ngài Đới Tháp Cát Tường th́
nơi búi tóc trên đỉnh đầu đặt Tốt-đổ-ba
(stupa, tháp), hoặc đặt trên hoa sen [mà vị ấy
đang cầm]. [Ấn tướng của] Liên Hoa Tôn th́
trên hoa sen lại đặt hoa sen. Bảo Đức Tôn th́
trên hoa sen có đặt vật báu.
Năng Thọ Nhất Thiết
Nguyện Minh Vương có thể thỏa măn hết thảy
các điều mong nguyện, h́nh trạng chẳng phải
chỉ có một. Như đức Quán Thế Âm tay cầm
hoa sen, trên hoa đặt báu Như Ư. Tùy theo làm pháp sự Tức
Tai, Tăng Ích, hay Hàng Phục mà đặt trong đàn tràng
tương ứng. Ngài Đại Cát Tường hai tay
đều cầm hoa sen. Thủy Cát Tường th́ hoa sen
tuôn ra nước, hoặc tay Ngài rủ xuống tuôn nước.
Ngài Bị Lộc Y (nghĩa đen là “khoác da nai”) th́ nên dùng
da nai để trang nghiêm thân, giống như h́nh tượng
Phạm Thiên. Khế ấn Mạn-đồ-la giống
như trên đă nói, dùng chung chữ Sa (स)
làm chủng tử.
Đối với chư tôn
thuộc Kim Cang Bộ ở mặt Nam [của Mạn-đồ-la],
cũng có thể dựa theo các danh hiệu được
liệt kê trong kinh để sắp xếp đầy
đủ, tùy thuộc đàn tràng vuông, tṛn, tam giác, bán nguyệt
v.v… Thân sắc cũng thế, hoặc là cầm bạt-chiết-la
(vajra, chày kim cang) một nhánh, hoặc cầm [bạt-chiết-la]
ba nhánh, năm nhánh, hai mũi nhọn trên dưới v.v… Các
thứ h́nh tướng đặc trưng của kim cang,
đúng như kinh đă nói mà tùy ư xếp đặt. Các thứ
đao, búa, móc câu, châm (cái kim) v.v… đều dùng kim cang làm
đặc điểm biểu trưng. Đao th́ nơi
mũi nhọn và cán đều làm thành h́nh mũi chày kim cang
bén nhọn. Quyến sách (羂索, dây trói) và dây xích th́
làm thành h́nh hai đầu đều
có h́nh dáng như bạt-chiết-la ba nhánh. Luân (bánh xe) th́
dùng kim cang chữ thập[7]
làm bánh xe, dùng các mũi nhọn bao quanh [để tạo
thành h́nh bánh xe]. Đạc (鐸,
linh)[8]
th́ dùng kim cang một nhánh làm cán, buộc kim cang chữ thập
làm quả lắc. Những điều khác đều phỏng
theo lệ này để hiểu. Trong Khế Ấn Mạn-đồ-la[9],
cũng ở trên ṭa kim cang đặt hoa sen trắng, trên
hoa đặt các vật [biểu tượng] ấy. Nếu
làm Tự Mạn-đồ-la (mạn-đồ-la chỉ vẽ
các chữ chủng tử), đối với các quyến
thuộc được thống nhiếp bởi Chấp
Kim Cang th́ đều dùng chữ Phạ (व,
Va), c̣n các vị Kim Cang khác th́ dùng chữ Hồng (हूं,
Hūṃ)
làm chủng tử.
Đối với các vị
Bồ Tát thuộc viện thứ hai, nếu trong kinh chép
đầy đủ h́nh tướng của các Ngài, mỗi
mỗi đều theo đúng lời dạy mà vẽ. Không
có kinh văn th́ đều dùng ấn Chân Đà Ma Ni (Cintāmaṇi, Như Ư Bảo Châu) [để làm vật biểu trưng].
Hăy nên vẽ [các vị ấy] cầm hoa sen, trên hoa đặt
báu Như Ư (Như Ư Bảo Châu), có ṿng lửa vây quanh.
Hoặc thuận theo ư nghĩa được diễn tả
bởi danh hiệu của các Ngài mà biểu thị, như
Bảo Quan Bồ Tát th́ đặt măo trên hoa sen. Bảo Vơng
Bồ Tát th́ đặt lưới trên hoa sen, Bảo
Chưởng Bồ Tát th́ trong tay Ngài đặt vật báu.
Phát Tâm Chuyển Pháp Luân Ấn th́ trong tay cầm một bộ
luận. Tất cả các chỗ khuyết vị (tức
các chỗ kinh không nói rơ danh xưng của vị tôn thánh ở
vị trí đó) đều đặt Hiền Kiếp Bồ
Tát.
Các vị như Sứ Giả,
Phụng Giáo v.v… đều vẽ thấp nhỏ [hơn so
với tôn thánh mà các vị ấy chầu hầu]. Sứ Giả
cầm nắm đao, gậy, h́nh dạng như đang
pḥng ngự cửa hẹp. Người phụng giáo th́ hoặc
là cầm nắm gậy, ấn, hoặc chiêm ngưỡng
vị tôn thánh [họ đang chầu hầu], dường
như đang tiếp nhận sự chỉ huy hay răn
truyền. Người thủ hộ th́ [có h́nh dạng]
như người canh cửa, truyền tin, có điều
cần bẩm báo. Mỗi mỗi đều theo từng loại
[mà vẽ tương ứng]. Hàng Diễm Ma Tôn (Yamāntaka,
Diễm Man Đắc Ca) là quyến thuộc của đức
Văn Thù, có oai thế to lớn. Thân Ngài sáu mặt, sáu tay,
sáu chân, dùng trâu nước làm ṭa ngồi, mặt có ba mắt,
sắc như mây đen, h́nh dạng tột bậc phẫn
nộ. Hăy nên tra bổn tiếng Phạn nói về ngài
Văn Thù để vẽ đầy đủ. Phàm các vị
tôn thánh như thế, nếu các kinh khác nói đầy đủ
h́nh tướng, cũng có thể dựa theo đó để
tô vẽ khi nhập Mạn-đồ-la. Các vị tôn thánh ấy,
nếu kinh Tỳ Lô Giá Na chẳng chép chân ngôn và thủ ấn,
tức là được nói riêng trong các kinh khác, hăy nên dựa
theo các kinh ấy để trao truyền chân ngôn và thủ ấn,
bảo [hành nhân] vâng theo thứ tự của pháp hạnh
cúng dường trong kinh này để thực hiện.
Mười phương
chư Phật trong viện thứ ba đều
nương theo tướng thông thường để vẽ.
Nếu làm Khế Ấn [Mạn-đồ-la], hăy nên dùng
Như Lai đảnh tướng, và chủng tử th́ dùng
chữ A. Thanh Văn, Duyên Giác th́ nên [vẽ] giống như
nghi thức của tỳ-kheo. Trong ấy, Duyên Giác có chút sai
biệt là có thể có tướng nhục kế của bậc
đại nhân. Nếu là Khế Ấn [Mạn-đồ-la],
hăy nên dùng bát, ca-sa, tích trượng v.v… để làm các vật
biểu trưng. Chữ chủng tử của các Ngài th́
như chân ngôn trong kinh đă nói.
Trước mặt
Nhật Thiên ở phương Đông, có thể đặt
thiên nữ Ma Lợi Chi (Marīci) như kinh Đà La Ni Tập[10]
đă nêu. Tám đại tướng Dạ Xoa ở phương
Bắc nếu trong đồ h́nh khuyết thiếu, th́ vẽ
h́nh dạng của họ tương tự, đều mặc
giáp trụ, cầm ấn Già Đà (Gadā)[11], thân tướng viên
măn, đoan chánh. Do trong đường ấy, sở cầu
chẳng thiếu thốn, họ thường vui sướng,
tùy ư. Dương Nhĩ, Mă Nhĩ, Tượng Nhĩ v.v… đều
là quyến thuộc của Cưu Bàn Đồ (Kumbhāṇḍa,
Đạm Tinh Khí Quỷ, Ủng H́nh Quỷ[12]). Thân h́nh họ chẳng giống Dạ Xoa, đều
là thân trần, lông rủ xuống, có h́nh dạng phi nhân, tai
giống như loài thú. Trong đồ h́nh có nhắc tới
Tŕ Minh Tiên, đó là [những ngoại đạo đạt
được thành tựu] do sức của các thứ thuốc
khác tạo thành. Tất Địa Tŕ Minh Tiên đều là
những người chuyên nương vào chú
thuật mà đắc Tất Địa. Nói “tiên nhân”
đều là những người theo pháp Vi Đà thờ lửa,
siêng tu khổ hạnh, trở thành ngũ thông thần tiên.
Lại c̣n có Dạ Xoa Tŕ Minh là loại phước đức
tối thắng trong loài ấy, thuộc về đường
trời, lại c̣n thù thắng hơn tiên nhân trong cơi đời.
Các loại thần núi, sông,
ao, rừng, cây cối, ngũ cốc, thuốc men, thành, ấp,
đường sá v.v... đều dùng danh tự của
chính ḿnh để làm tướng biểu trưng: Sơn
thần ngồi trong núi, thần sông ở trong sông, các vị
thần cây cối, cỏ thuốc v.v… th́ hoặc là tay cầm
nắm [các loại dược thảo], hoặc
nương vào đó, hăy nên đều dựa theo nghĩa ấy
để suy ra. Trong kinh Hoa Nghiêm, lại có Túc Hành Thần,
Thân Chúng Thần, đều là các vị thần hộ tŕ
các loài đi nhón gót và thần hộ thân, cũng có thể dựa
theo đó mà sắp đặt theo thứ tự. Hăy nên biết
loài phi nhân ở phương Tây đều thuộc vào thân phổ
môn của đức Tỳ Lô Giá Na, thuần là các loại
quỷ thần, bàng sanh v.v… khác nhau. Trong đồ h́nh, nếu
không ghi riêng danh tướng của họ, th́ phần nhiều
thuộc loại này. Thuộc về loại này nhiều nhất
là Lộ Hệ Đa màu đỏ, Bích Đa màu vàng, Cật
Lật Sắt Noa màu đen. Màu xanh cũng gộp trong loại
này. Nếu dựa theo ư nghĩa rơ rệt ở
phương này th́ cũng nên nêu riêng từng loại. Cật
Lao sắc trắng, đều là một loại long
vương, mỗi mỗi đều dựa theo màu sắc
của họ mà vẽ. Nếu [tên của vị ấy có]
thêm chữ Ổ Ba th́ màu sắc sẽ nhạt hơn. Tốn
Na, Ổ Ba Tốn Na cũng là đại long vương thủ
hộ cửa, đều là tay phải cầm đao, tay
trái cầm dây trói.
Các vị thần chủ tŕ
năm, tháng, ngày, giờ v.v… đều được vẽ
thành h́nh thiên nữ, cầm nắm các thứ như cành hoa
v.v… để làm biểu tượng đặc trưng. Nếu
là người chủ tŕ thiện sự, cũng vẽ sao
cho hoa ấy có sắc tướng trọn vẹn. Nếu
là người chủ tŕ ác sự th́ cầm hoa, quả héo
úa v.v… Vị thần chủ tŕ sáu thời cũng có thể
cầm hoa gồm sáu cành, thể hiện tướng tùy thời
tươi tốt hay rơi rụng để biểu thị
chuyện ấy. Đối với vị thần chủ
tŕ ngày hay đêm, cũng có thể vẽ hoa nở hay cụp
để minh thị. Những vị khác đều phỏng
theo trường hợp này. Tất
Lăng Cật Lật Tri (Bhṛṇgiriṭi) ở phía Nam là con của Ma Hê Thủ La (Maheśvara), thân cực khô gầy. Do thường hàng phục oán
địch, giả sử xương thịt tiêu sạch
cũng phải đắc thắng,
cho nên có h́nh dáng như thế. Riêng tôi cho rằng đấy
là như Trí Độ Luận nói: “Thường tu khổ
hạnh, cắt thịt để tế lửa, cảm
sanh các vị ác thần, cho nên có vị trí tại
phương Nam”. Mười hai vị Hỏa Thiên ấy
trong kinh có nói đại lược h́nh tượng, có một
vị khuyết danh, chỉ dựa theo h́nh tướng
chung của các Hỏa Thiên [để vẽ vị khuyết
danh ấy], các vị khác th́ như trong đồ h́nh đă
dạy.
* Phụ chú của người
chuyển ngữ:
Đồ h́nh Thai Tạng Mạn-đồ-la:
Ngoại Kim Cang giới (Bắc) |
Ngoại Kim Cang giới
(Đông) |
Ngoại Kim Cang giới (Nam) |
||||
Văn Thù viện |
||||||
Địa Tạng viện |
Thích Ca viện |
Trừ Cái Chướng viện |
||||
Liên Hoa viện |
Chánh Biến Tri viện |
Kim Cang Thủ viện |
||||
Trung Đài Bát Diệp |
||||||
Tŕ Minh viện |
||||||
Hư Không Tạng viện |
||||||
Tô Tất Địa
viện |
||||||
Ngoại Kim Cang giới
(Tây) |
Do lời sớ chỉ liệt
kê các vị tôn thánh theo từng phương, không nói rơ vị
nào thuộc viện nào, chúng tôi xin liệt kê các vị tôn
thánh thuộc từng viện theo ghi chép trong Hiện Đồ
Mạn-đồ-la[13],
hơi khác đôi chút với danh sách các vị tôn thánh trên
đây.
1. Trung Đài Bát Diệp (Trung Thai Bát Diệp)
Chính giữa là Đại Nhật
Như Lai, từ vị Phật này, lưu xuất bốn vị
Phật, tạo thành bốn cánh sen chính: Đông
phương Bảo Tràng Phật, Nam phương Khai Phu Hoa
Vương Phật, Tây phương Vô Lượng Thọ
Phật, và Bắc phương Thiên Cổ Lôi Âm Phật. Ở
bốn góc là bốn cánh sen tương ứng với bốn
vị đại Bồ Tát: Góc Đông Nam là Phổ Hiền
Bồ Tát, góc Tây Nam là Văn Thù Bồ Tát, góc Tây Bắc là
Quán Âm Bồ Tát, góc Đông Bắc là Di Lặc Bồ Tát.
2. Chánh Biến Tri viện (Phật Mẫu viện)
Ở ngay phía trên của Trung
Thai Bát Diệp (tức phía Đông của Mạn-đồ-la.
Trong Thai Tạng Mạn-đồ-la, phương Đông ở
phía trên cùng của Mạn-đồ-la, trong khi Kim Cang Giới
Mạn-đồ-la th́ phương Đông ở phía dưới
của Mạn-đồ-la). Chính giữa viện này là Nhất
Thiết Biến Tri Ấn (Nhất Thiết Như Lai Trí Ấn)
h́nh tam giác, đặt trên hoa sen, bao quanh bởi ṿng lửa.
Bên phải của ấn ấy là Đại Dũng Mănh Bồ
Tát và Đại An Lạc Bất Không Chân Thật Kim Cang (Phổ
Hiền Diên Mạng Bồ Tát, Vajrāmoghasamayasattva). Bên trái của ấn
ấy là Phật Nhăn Phật Mẫu (Buddhalocanī) và Thất Câu Chi Phật
Mẫu (Chuẩn Đề Bồ Tát, Cundā, Cuṇḍī).
Hai bên ở
phía trên của Nhất Thiết Tri Ấn có vẽ hai vị
tôn giả có kích thước nhỏ hơn, bên trái là Ưu
Lâu Tần Loa Ca Diếp, và bên phải là Già Da Ca Diếp.
3. Thích Ca Viện
Viện này ở phía trên của
Chánh Biến Tri viện, tức tầng thứ hai thuộc
phương Đông của Mạn-đồ-la. Viện này
biểu thị công năng thuyết pháp lợi sanh của
Đại Nhật Như Lai, gồm ba mươi chín vị
tôn thánh.
Ở ngay phía trên của ấn
Chánh Biến Tri, tương ứng với cửa Đông
là Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Ngài là tôn chủ của viện
này. Chung quanh Ngài có bốn vị tôn thánh, được sắp
xếp như sau:
Hư
Không Tạng Bồ Tát |
|
Quán Tự
Tại Bồ Tát |
|
Thích
Ca Mâu Ni Phật |
|
Vô
Năng Thắng Phi |
|
Vô
Năng Thắng Kim Cang |
Bên trái của năm vị
trung ương ấy, có mười bảy vị, chia
thành hai hàng, hàng trên gồm chín vị, hàng dưới gồm
tám vị như sau:
Như
Lai Xả |
Như
Lai Hỷ |
Xá Lợi
Phất |
Ca Diếp
Ba |
Tu Bồ
Đề
|
Đại
Mục Kiền Liên |
Đa
Ma La Hương Bích Chi Phật |
Chiên
Đàn Hương Bích Chi Phật |
Như
Lai Thước Khất Để[14] |
Như
Lai Từ |
Như
Lai Mẫn |
Như
Lai Bi |
Vô
Lượng Thanh Phật Đảnh |
Quang Tụ
Phật Đảnh |
Đại
Chuyển Luân Đảnh |
Như
Lai Hào Tướng |
Nhất
Thiết Như Lai Bảo |
|
Bên phải của Thích Ca Mâu
Ni Phật cũng gồm mười bảy vị, hàng trên
là chín vị, hàng dưới là tám vị.
Như
Lai Nha |
Luân Bức
Bích Chi Phật |
Bảo
Bức Bích Chi Phật |
Câu Hy La |
A Nan |
Ca
Chiên Diên |
Ưu
Ba Ly |
Trí Câu Hy La |
Cúng
Dường Vân Hải |
Bạch
Tán Cái Phật Đảnh |
Thắng
Phật Đảnh Chuyển Luân |
Tối
Thắng Phật Đảnh Chuyển Luân |
Cao Phật
Đảnh |
Tồi
Toái Phật Đảnh |
Như
Lai Thiệt |
Như
Lai Ngữ |
Như
Lai Tiếu |
|
4. Văn Thù Viện
Viện này ở phía trên Thích
Ca viện, biểu thị trí huệ mầu nhiệm của
Đại Nhật Như Lai, đoạn trừ hết thảy
hư luận, quán chiếu Trí Đức, chính giữa viện
này là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và bốn vị quyến
thuộc như sau.
Quán Tự
Tại Bồ Tát |
|
Phổ
Hiền Bồ Tát |
|
Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát |
|
Đối
diện hộ môn |
|
Đối
diện hộ môn |
Bên phải của Văn Thù
Bồ Tát gồm có mười vị, được phân bố
như sau:
Kế
Thiết Ni |
Ổ
Ba Kế Thiết Ni |
Chất
Đa La |
Địa Huệ |
Câu Triệu Sứ Giả |
Câu Triệu sứ giả quyến thuộc |
|
Sứ
giả |
|
Sứ giả |
|
|||||
Câu Triệu sứ giả quyến thuộc |
|
Sứ
giả |
Bên trái là mười vị
như sau
Ph́ Giả
Da |
|
A
Nhĩ Đa |
Diệu
Âm Bồ Tát |
Nguyệt
Quang Bồ Tát |
Vô Cấu
Quang Bồ Tát |
Bảo
Quan Bồ Tát |
Vơng
Quang Bồ Tát |
|
Đồng
Mẫu
Rô |
|
|||||
Giả
Da |
|
A Ba La
Nhĩ |
5. Liên Hoa Bộ Viện
Viện này nằm bên phải
của Trung Thai Bát Diệp (tức bên phải của Đại
Nhật Như Lai), biểu thị lực dụng đại
bi của Đại Nhật Như Lai, gồm hai
mươi mốt vị tôn thánh, sắp xếp như sau:
Bị
Diệp Y Bồ Tát |
Đại
Tùy Cầu Bồ Tát |
Liên
Hoa Bộ Phát Sanh Bồ Tát |
Bạch
Thân Quán Thế Âm Bồ Tát |
Tốt
Đổ Ba Đại Cát Tường Bồ Tát |
Đại
Thế Chí Bồ Tát |
Phong
Tài Bồ Tát |
Da Thâu
Đà La Bồ Tát |
Tỳ
Câu Chi Bồ Tát |
Bất
Không Quyến Sách Bồ Tát |
Như
Ư Luân Bồ Tát |
Thánh
Quán Tự Tại Bồ Tát |
Thủy
Cát Tường Bồ Tát |
Đại
Cát Tường Đại Minh Bồ Tát |
Đa
La Bồ Tát |
Đại
Cát Tường Biến Bồ Tát |
Đại
Cát Tường Minh Bồ Tát |
Đại
Minh Bạch Thân Bồ Tát |
Bạch
Xứ Tôn Bồ Tát |
Tịch
Lưu Minh Bồ Tát |
Mă
Đầu Quán Thế Âm |
Ngoài ra c̣n có các vị Đa
La sứ giả (thị giả của Đa La Bồ Tát),
Phụng Giáo sứ giả (thị giả của Tỳ Câu
Chi Bồ Tát), Liên Hoa Quân Đồ Lợi (thị giả của
Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát), Man Cúng Dường (thị
giả của Đại Cát Tường Đại Minh Bồ
Tát), Liên Hoa Bộ sứ giả, ba vị Liên Hoa Bộ sứ
giả (thị giả của Đại Tùy Cầu Bồ
Tát), Liên Hoa Bộ sứ giả (thị giả của Da
Thâu Đà La), Bảo Cúng Dường (thị giả của
Như Ư Luân Quán Âm), Thiêu Hương Bồ Tát, Liên Hoa Bộ
sứ giả (thị giả của Đại Cát Tường
Minh Bồ Tát), hai vị Liên Hoa Bộ sứ giả (dâng
cúng hoa tươi), Đồ Hương Bồ Tát, Liên Hoa
Bộ sứ giả (thị giả của Đại Cát
Tường Biến Bồ Tát). Các vị này sẽ vẽ rất
nhỏ, gần với các vị tôn thánh mà họ chầu hầu.
6. Kim Cang Thủ viện
Nằm bên trái trong tầng thứ
nhất của Trung Thai Bát Diệp, biểu thị Thật
Trí của Như Lai cũng như lực dụng của
Như Lai huệ, có thể phá tan các Hoặc nghiệp
chướng, được sắp xếp như sau:
Phát
Sanh Kim Cang Bộ Bồ Tát |
Hư
Không Vô Cấu Tŕ Kim Cang Bồ Tát |
Kim
Cang Luân Tŕ Kim Cang Bồ Tát |
Kim
Cang Câu Nữ Bồ Tát |
Kim
Cang Lao Tŕ Bồ Tát |
Kim
Cang Thuyết Bồ Tát |
Kim
Cang Thủ Tŕ Kim Cang Bồ Tát |
Phẫn
Nộ Kim Cang Tŕ Bồ Tát |
Trạch
Duyệt Tŕ Kim Cang Bồ Tát |
Kim
Cang Tát Đỏa Bồ Tát |
Hư
Không Vô Biên Siêu Việt Bồ Tát |
Kim
Cang Nha Bồ Tát |
Tŕ Kim
Cang Phong Bồ Tát |
Kim
Cang Tỏa Bồ Tát |
Ly Hư
Luận Bồ Tát |
Kim Cang Quyền Bồ Tát |
Tŕ Kim
Cang Bồ Tát |
Tŕ Diệu
Kim Cang Bồ Tát |
Phẫn Nộ Nguyệt Yển Tôn Bồ Tát |
Tŕ Kim
Cang Lợi Bồ Tát |
Đại
Luân Kim Cang Bồ Tát |
7. Địa Tạng Viện
Thuộc tầng thứ hai,
bên phải của Trung Thai Bát Diệp, biểu thị sức
đại bi cứu độ chúng sanh trong chín pháp giới,
bộ chủ là Địa Tạng Bồ Tát. Viện này gồm
các vị tôn thánh, xếp từ trên xuống dưới
theo thứ tự: Trừ Nhất Thiết U Minh Bồ Tát
(Trừ Nhất Thiết Ưu Năo Bồ Tát), Bất Không Kiến
Bồ Tát, Bảo Ấn Bồ Tát, Bảo Xứ Bồ Tát,
Địa Tạng Bồ Tát, Bảo Thủ Bồ Tát, Tŕ
Địa Bồ Tát, Kiên Cố Thâm Tâm Bồ Tát, Nhật
Quang Bồ Tát.
8. Tŕ Minh viện (Ngũ Đại viện, Phật Mẫu
viện)
Nằm ngay dưới Trung
Thai Bát Diệp, biểu thị đức chiết phục
và nhiếp thọ. Chính giữa là Bát Nhă Phật Mẫu, hai
bên lần lượt là Đại Oai Đức Minh
Vương, Thắng Tam Thế Minh Vương, Hàng Tam Thế,
và Bất Động Minh Vương.
9. Hư Không Tạng viện
Nằm ngay dưới Tŕ
Minh Viện, biểu thị bi trí hợp nhất, bao hàm vạn
đức, có thể ban vật báu cho hết thảy chúng
sanh, trọn đủ các đức. Các vị tôn thánh
được chia thành hai hàng như sau:
Thiên
Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ
Tát |
Đàn
Ba La Mật
Bồ Tát |
Giới Ba La Mật
Bồ
Tát |
Nhẫn Ba La Mật Bồ Tát |
Tinh Tấn
Ba La Mật
Bồ
Tát |
Thiền
Ba La Mật
Bồ
Tát |
Hư
Không Tạng
Bồ
Tát |
Bát Nhă Ba La Mật |
Phương
Tiện Ba La Mật |
Nguyện
Ba La Mật |
Lực Ba La Mật |
Trí Ba La Mật |
Nhất
Bách Bát Tư Kim Cang Tạng
Vương Bồ
Tát |
|
Bất
Không Câu Quán Tự
Tại
Bồ
Tát |
Phẫn Nộ
Câu Quán Tự
Tại
Bồ
Tát |
Sanh Phẫn
Xứ Bồ
Tát |
Cộng
Đăng
Ư Vận
Chuyển Bồ
Tát |
Vô Cấu
Thệ Bồ
Tát |
Tô Bà Hồ
Bồ
Tát |
Kim Cang Châm Bồ
Tát |
Tô Tất
Địa
Yết
La Bồ
Tát |
Mạn
Đồ
La Bồ Tát |
10. Tô Tất Địa viện
Nằm ngay dưới Hư
Không Tạng viện, biểu thị sự thành tựu
trong ba bộ của Thai Tạng Giới, gồm: Bất
Không Cúng Dường Bồ Tát, Khổng Tước Vương
mẫu, Nhất Kế La Sát, Thập Nhất Diện Quán
Âm, Bất Không Kim Cang Bồ Tát, Kim Cang Quân Đồ Lợi,
Kim Cang Tướng Bồ Tát, Kim Cang Minh Vương Bồ
Tát.
11. Trừ Cái Chướng viện
Trong tầng thứ hai, ở
bên trái của Kim Cang Thủ Viện, biểu thị tác dụng
trừ cái chướng phiền năo của Kim Cang Trí, gồm:
Bi Mẫn Huệ Bồ Tát, Phá Ác Thú Bồ Tát, Thí Vô Úy Bồ
Tát, Hiền Hộ Bồ Tát, Trừ Cái Chướng Bồ
Tát, Bi Mẫn Bồ Tát, Từ Phát Sanh Bồ Tát, Chiết
Chư Nhiệt Năo Bồ Tát, Bất Tư Nghị Bồ
Tát.
12. Kim Cang Ngoại Giới ở phương Đông
Gồm các vị Y Xá Na Thiên,
Hỷ Diện Thiên, Thường Túy Thiên, Khí Thủ Thiên Hậu,
Khí Thủ Thiên, Kiên Lao Địa Thần Hậu, Kiên Lao
Địa Thần, Phi Tưởng Thiên, Vô Sở Hữu Xứ
Thiên, Thức Vô Biên Xứ Thiên, Không Vô Biên Xứ Thiên, Nặc
Da (quyến thuộc của Nhật Thiên), Nhật Thiên, Vi Nặc
Da, Đế Thích Thiên, Thủ Môn Thiên, Thủ Môn Nữ
thiên nữ, Thủ Môn Thiên, Thủ Môn thiên nữ (hai vị
này c̣n gọi là Tương Hướng Thủ Hộ), Tŕ
Quốc Thiên, Đại Phạm Thiên, Măo Tú, Tất Tú, Chủy
Tú, Sâm Tú, Quỷ Tú, Tỉnh Tú, Liễu Tú, Ngưu Mật
Cung, Bạch Dương Cung, Phu Phụ Cung, Tuệ Tinh,
Lưu Tinh, Nhật Diệu, Bà Tẩu tiên hậu, Bà Tẩu
đại tiên, Hỏa Thiên hậu, Hỏa Thiên.
13. Ngoại Kim Cang Giới viện - phương Bắc
Nằm ở bên phải Trung
Thai Bát Diệp, ở ŕa ngoài cùng, gồm hai vị Phong Thiên
quyến thuộc, Quang Âm thiên nữ (vợ thứ nhất
của Quang Âm Thiên), Quang Âm Thiên, Quang Âm thiên nữ (vợ thứ
hai của Quang Âm Thiên), hai vị Đại Quang Âm thiên nữ,
Đại Quang Âm Thiên, hai vị Đâu Suất thiên nữ,
Đâu Suất Thiên, hai vị Tha Hóa Tự Tại thiên nữ,
Tha Hóa Tự Tại Thiên, hai vị Tŕ Man thiên nữ, Tŕ Ma
Thiên, hai vị Thành Tựu Tŕ Minh tiên nữ, Thành Tựu Tŕ
Minh Tiên, ba vị Ma Hầu La Già, hai vị Khẩn Na La, hai
vị Ca Thiên, Nhạc Thiên, Đế Thích Thiên Phi, Đế
Thích Thiên, Câu La Ph́ (tức Cưu Bệ La Thiên, Kubera), Câu La
Ph́ nữ, Nan Đà long vương, Ô Ba Nan Đà long
vương, Tỳ Sa Môn Thiên, Thành Tựu Tŕ Minh Tiên, Thành Tựu
Tŕ Minh tiên nữ, Hư Tú, Nguy Tú, Thất Tú, Khuê Tú, Bích Tú, Vị
Tú, Lâu Tú, Thiếu Nữ Cung, Giải Cung, Sư Tử Cung,
Kim Diệu (Kim Tinh), Chiến Quỷ, Tỳ Na Dạ Ca, Ma
Ha Ca La, Y Xá Na thiên phi.
14. Ngoại Kim Cang giới viện – phương Nam
Gồm A Nghệ La Tiên, A Nghệ
La tiên hậu, Cù Đàm Tiên, Cù Đàm tiên hậu, Tỳ Nữu
nữ, Tự Tại nữ, Dạ Ma nữ (ba vị này là
quyến thuộc của Diêm Vương), Hiền B́nh Cung,
Yết Ma Cung, Song Ngư Cung, La Hầu Tinh, Mộc Diệu,
Hỏa Diệu, Tinh Tú, Chẩn Tú, Cang Tú, Trương Tú, Dực
Tú, Giác Tú, Đê Tú, hai vị Dược Xoa Tŕ Minh nữ,
Dược Xoa Tŕ Minh, Tăng Trưởng Thiên, Tăng
Trưởng Thiên sứ giả, Nan Đà long vương, Ô
Ba Nan Đà long vương, hai A Tu La, Diễm Ma Thiên, Hắc
Ám thiên nữ, Thái Sơn Phủ Quân, Quỷ chúng, Đoạt
Nhất Thiết Nhân Mạng, tám quỷ Tỳ Xá Xà, ba Đồ
Cát Ni, tử quỷ, bốn vị Tŕ Minh Thành Tựu Tiên,
Ma Ni A Tu La, hai quyến thuộc của Ma Ni A Tu La, A Tu La,
hai quyến thuộc của A Tu La, hai Ca Lâu La, hai Cưu Bàn
Trà.
15. Ngoại Kim Cang giới viện – phương Tây
Bao gồm Niết Rị
Để vương, hai La Sát nữ, Đại Tự Tại
Thiên, Đại Tự Tại Thiên phi, Phạm Thiên nữ,
Đế Thích nữ, Cưu Ma Lợi, Giá Văn Đồ,
Ma Noa Xá (nữ), Ma Noa Xá (nam), Thủy Diệu, Thổ Diệu,
Nguyệt Diệu, Xứng Cung, Hạt Trùng Cung, Cung Cung, Nữ
Tú, Ngưu Tú, Đẩu Tú, Vĩ Tú, Cơ Tú, Pḥng Tú, Tâm Tú,
Thủy Thiên quyến thuộc, Thủy Thiên, Nan Đà long
vương, Ô Ba Nan Đà long vương, Đối Diện
Thiên, Nan Phá Thiên, Quảng Mục Thiên, Thủy Thiên, Thủy
Thiên Phi, Thủy Thiên Phi quyến thuộc, Na La Diên Thiên, Na
La Diên Thiên Phi, Biện Tài Thiên, Cưu Ma La Thiên, Nguyệt
Thiên, Nguyệt Thiên Phi, Cổ Thiên, hai vị Ca Thiên, Nhạc
Thiên, hai vị Phong Thiên Phi quyến thuộc, Phong Thiên Phi,
Phong Thiên quyến thuộc, Phong Thiên.
(Kinh) Nhĩ thời, Chấp
Kim Cang Bí Mật Chủ ư nhất thiết chúng hội
trung, đế quán Đại Nhật Như Lai, mục bất
tạm thuấn, nhi thuyết kệ ngôn: - Nhất thiết
trí huệ giả, xuất hiện ư thế gian, như
bỉ Ưu Đàm Hoa, thời thời năi nhất hiện.
Chân ngôn sở hành đạo, bội phục thậm nan ngộ.
Vô lượng câu-chi kiếp, sở tác chúng tội nghiệp,
kiến thử Mạn-đồ-la, tiêu diệt tận vô
dư, hà huống vô lượng xưng, trụ chân ngôn hành
pháp? Hành thử vô thượng cú, chân ngôn cứu thế giả,
chỉ đoạn chư ác thú, nhất thiết khổ bất
sanh. Nhược tu như thị hạnh, diệu huệ
thâm bất động.
(經)爾時執金剛祕密主,於一切眾會中諦觀大日如來,目不暫瞬而說偈言。一切智慧者,出現於世間,如彼優曇華,時時乃一現。真言所行道,倍復甚難遇,無量俱胝劫,所作眾罪業,見此漫荼羅,消滅盡無餘,何況無量稱,住真言行法。行此無上句,真言救世者,止斷諸惡趣,一切苦不生,若修如是行,妙慧深不動。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ trong hết
thảy chúng hội trung, quán kỹ Đại Nhật
Như Lai, mắt chẳng tạm nháy, mà nói kệ rằng:
- Hết thảy bậc trí huệ, xuất hiện trong thế
gian, như hoa Ưu Đàm kia, lâu lâu hiện một lần.
Tu hành đạo Chân Ngôn, càng khó gặp bội phần. Vô
lượng câu-chi kiếp, trót tạo các tội nghiệp,
thấy Mạn-đồ-la này, diệt sạch chẳng
c̣n sót. Huống hồ vô lượng xưng, trụ hành
pháp Chân Ngôn? Hành câu vô thượng này, chân ngôn đấng cứu
thế, dứt đoạn các đường ác, hết thảy
khổ chẳng sanh. Nếu tu hạnh như thế, diệu
huệ sâu bất động).
Khi
đó, đức Phật thị hiện Phổ Môn Mạn-đồ-la
như thế, diễn thuyết phương vị của
chư tôn trong đồ h́nh đă xong. Ngài Bí Mật Chủ
dùng Phổ Nhăn quán mỗi vị tôn thánh ấy, đều
chẳng thấy căn bản, mà cũng chẳng có trụ
xứ, đều là thân Thật Tướng nơi Liên Hoa
Đài Tạng, sanh ra đủ loại phương tiện
chẳng thể cùng tận. Lúc bấy giờ, Ngài tự
vui mừng sâu xa, phát tâm hy hữu, sanh ư tưởng khó gặp
gấp bội đối với pháp này. Do muốn hỏi
nghĩa càng sâu hơn, cho nên Ngài trước hết nói kệ.
Bài kệ đầu tiên có ư nói: “Hết thảy các bậc
trí huệ xuất hiện trong thế gian, giống như
hoa Linh Thụy, rất lâu mới hiện một lần”.
Phật như hoa Ưu Đàm tuy khó gặp, nhưng pháp yếu
Chân Ngôn này lại càng bội phần khó gặp hơn. V́
sao vậy? Đây là tạng bí mật của Như Lai,
được thủ hộ trong đêm dài, chẳng truyền
trao bừa băi cho người khác! Nếu chẳng phải
là căn cơ đốn ngộ, sẽ chẳng được
truyền trao. Khi đức Thế Tôn c̣n tại thế,
pháp này c̣n bị nhiều nỗi oán ghét, huống hồ
đời Mạt ư?
Hơn
nữa, kinh này tự giải thích nhân duyên khó hiện: Nếu
chúng sanh được thấy Mạn-đồ-la này, ác
nghiệp trọng chướng từ vô thỉ tới nay
sẽ bị dẹp tan, chẳng c̣n thừa sót, nhất
định được thọ kư Đại Bồ
Đề. V́ thế, chẳng phải là kẻ độn
căn, phước mỏng mà có thể gặp gỡ được!
Được thấy c̣n khó, huống hồ theo thứ tự
tu hành ư? Hăy nên biết người ấy lại càng hiếm
có, thường được Phổ Môn hải hội ca
ngợi, tiếng vang dội mười phương. Lại
giống như Đại Nhật Như Lai có đủ loại
danh hiệu, nên nói là “vô lượng xưng”.
Kinh
nói “hành thử vô thượng cú” (hành câu vô thượng
này) tức là tu hành câu Bồ Đề vô thượng. Môn
chữ A này là vua của hết thảy các chân ngôn, giống
như đức Thế Tôn là vua của các pháp. V́ thế
nói: “Chân ngôn cứu thế giả” (Đấng Chân
Ngôn cứu đời). Câu thứ hai nói về nghiệp cứu
thế, có thể khiến cho hành nhân thành tựu Kim Cang
Tánh, “chỉ đoạn chư ác thú, nhất thiết khổ
bất sanh” (ngưng dứt các đường ác, hết
thảy khổ chẳng sanh).
Kinh
nói “nhược tu như thị hạnh, diệu huệ
thâm bất động” (nếu tu hạnh như thế,
diệu huệ sâu bất động): Nếu nói theo bản
chép đầy đủ, phải là “huệ cực thâm bất
động” (trí huệ đạt đến cùng cực,
sâu xa, bất động), như tâm đại hải, do
đă cực sâu rộng, lại tột bậc xa ĺa hai bên,
thậm chí khi băo tố dấy lên, vẫn chẳng thể
lay động. Nếu khi hành giả nhập cái tâm biển
cả Chân Ngôn này th́ cũng giống như thế, do diệu
huệ rất sâu vô lượng, lại tột
bậc xa ĺa nhị biên, hết thảy các pháp chẳng thể
lay động. Như vua rồng Sa Kiệt La (Sāgara) tuôn mưa
suốt sáu ngày, khi đó, trong cung của chính ông ta, ba nghiệp
đều chẳng dấy khởi. Nếu hiểu nghĩa
như thế, sẽ biết các thứ phương tiện
trong Mạn-đồ-la đều trụ trong Thật Tế!
(Kinh)
Thời phổ tập hội nhất thiết đại
chúng, cập chư Tŕ Kim Cang giả, dĩ nhất âm thanh
tán thán Kim Cang Thủ ngôn: - Thiện tai! Thiện tai! Đại
Cần Dũng, nhữ dĩ tu hành Chân Ngôn hạnh, năng
vấn nhất thiết Chân Ngôn nghĩa. Ngă đẳng hàm
hữu ư tư duy, nhất thiết hiện vị nhữ
chứng nghiệm, y trụ Chân Ngôn chi hạnh lực, cập
dư Bồ Đề đại tâm chúng, đương
đắc thông đạt Chân Ngôn pháp.
(經)時普集會一切大眾及諸持金剛者,以一音聲讚歎金剛手言:善哉善哉大勤勇,汝已修行真言行,能問一切真言義,我等咸有意思惟。一切現為汝證驗,依住真言之行力,及餘菩提大心眾,當得通達真言法。
(Kinh:
Khi đó, hết thảy đại chúng trong hội nhóm họp
trọn khắp và các vị Tŕ Kim Cang dùng một âm thanh tán
thán ngài Kim Cang Thủ rằng: - Lành thay! Lành thay! Đại
Cần Dũng, ông đă tu hành hạnh Chân Ngôn, có thể hỏi
hết thảy nghĩa Chân Ngôn. Chúng tôi đều có ư
tư duy, hết thảy sẽ v́ ông chứng nghiệm,
nương theo sức của hạnh Chân Ngôn, và các Bồ
Đề đại tâm chúng, sẽ được thông
đạt pháp Chân Ngôn).
Các
đại chúng ấy nghe đức Phật rộng diễn
các phương vị trong Mạn-đồ-la xong, muốn
hỏi các biểu tượng đặc trưng cho pháp giới
và sự nghiệp Kim Cang trong ấy, do kính trọng đức
Thế Tôn, chưa dám thốt lời. Do ngài Kim Cang Thủ
có thể quán sát tâm đại chúng, bèn thừa dịp nói kệ,
ắt biết họ muốn đoạn lưới nghi, lợi
ích rộng khắp vô lượng chúng sanh. Do vậy, [đại
chúng] khen ngợi, chứng minh, khuyên Ngài hỏi han. Hơn nữa,
các đại chúng nhiều như số vi trần trong
mười cơi Phật, do nhất tâm, một mực, khiến
cho một người tụng lời pháp âm này, chẳng phải
là mỗi người đều cùng lúc riêng nói. Kệ rằng:
“Thiện tai! Thiện tai! Đại Cần Dũng, nhữ
dĩ tu hành Chân Ngôn hạnh, năng vấn nhất thiết
chân ngôn nghĩa, ngă đẳng hàm hữu ư tư duy”
(Lành thay! Lành thay! Đại Cần Dũng, ông đă tu hành
hạnh Chân Ngôn, hay hỏi hết thảy nghĩa Chân Ngôn,
chúng tôi đều có ư tư duy): “Hạnh Chân Ngôn” chính
là pháp môn Tam B́nh Đẳng, ông là thượng thủ bậc
nhất trong những người tŕ Tam Mật, cho nên có thể
hỏi đức Thế Tôn về nghĩa sâu Phổ Môn.
Như nhân giả toan hỏi ư nghĩa của đức Phật,
chúng tôi cũng đều suy nghĩ ấy, nay thảy
đều đồng tâm suy nghĩ, mong biết, ông hăy nên
mau chóng thưa tŕnh. Kế đó nói: “Nhất thiết hiện
vị nhữ chứng nghiệm, trụ Chân Ngôn chi hạnh
lực” (Hết thảy nay v́ ông chứng nghiệm, trụ
trong hạnh lực của Chân Ngôn), ư nói: Chúng tôi khi sơ
phát tâm, do trụ trong câu vô thượng này, thậm chí có thể
bất động trong biển Kim Cang huệ rất sâu. V́
thế, nhất định sẽ sư tử hống, sẽ
hiện chứng minh cho bài kệ ông vừa nói trên đây. Nếu
ông muốn thưa hỏi phương tiện bí mật của
Như Lai, những người có ḷng mong cầu Đại
Thừa sẽ do hạnh pháp Chân Ngôn mà đều được
thông đạt. Do thông đạt, siêng năng tu hành chẳng
lâu, cũng sẽ giống như chúng tôi không khác. Do thấy
nghĩa lợi như thế, dùng một âm thanh mà đồng
tâm khuyến trợ vậy!
(Kinh)
Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ phục bạch
Thế Tôn, nhi thuyết kệ ngôn: - Vân hà thái sắc
nghĩa? Phục đương dĩ hà sắc? Vân hà nhi vận
bố? Thị sắc thùy vi sơ? Môn tiêu kỳ lượng
đẳng, sương vệ diệc như thị. Vân hà
kiến chư môn? Nguyện tôn thuyết kỳ lượng.
Phụng thực, hương, hoa đẳng, cập dữ
chúng bảo b́nh. Vân hà dẫn đệ tử? Vân hà linh quán
đảnh? Vân hà cúng dường sư? Nguyện thuyết
hộ-ma xứ. Vân hà chân ngôn tướng? Vân hà trụ
tam-muội?
(經)爾時執金剛祕密主復白世尊而說偈言:云何彩色義?復當以何色?云何而運布?是色誰為初?門標旗量等,廂衛亦如是。云何建諸門?願尊說其量。奉食華香等,及與眾寶瓶,云何引弟子?云何令灌頂?云何供養師?願說護摩處。云何真言相?云何住三昧?
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ lại bạch
đức Thế Tôn, mà nói kệ rằng: - Màu sắc
nghĩa thế nào? Lại nên dùng màu nào? Sắp đặt
như thế nào? Màu nào dùng đầu tiên? Kích thước
cửa, cờ quạt? Góc xép cửa cũng thế. Lập
các cửa ra sao? Kính xin nói kích thước! Dâng thức
ăn, hương, hoa, và b́nh bằng các báu. Dẫn đệ
tử ra sao? Dạy quán đảnh thế nào? Cúng dường
thầy ra sao? Xin nói chỗ hộ-ma, tướng chân ngôn thế
nào? Trụ tam-muội ra sao?)
Lúc bấy giờ, ngài Bí Mật Chủ do
được đại chúng khuyến phát, liền nói
già-tha (kệ tụng) để rộng hỏi đức
Thế Tôn. Bài kệ đầu tiên hỏi về ư nghĩa
của màu sắc, gồm có bốn câu. Câu đầu tiên hỏi
về ư nghĩa của màu sắc [được dùng trong
Mạn-đồ-la] là như thế nào? Câu thứ hai nhằm
hỏi nên chọn màu sắc nào? Câu thứ ba hỏi nên sắp
đặt các màu ấy ra sao? Trước hết, [xếp
đặt] ở chỗ nào? Trong hay là ngoài? Câu thứ
tư hỏi: Sắp xếp các màu sắc th́ màu nào xếp
đầu tiên? Đây chính là một loại chi phần thuộc
về Thời của Mạn-đồ-la.
Bài
kệ kế đó hỏi về các biểu tượng
nơi các cửa [của đàn tràng], gồm ba câu kệ:
Câu đầu tiên hỏi về h́nh dạng và kích thước
của cửa và cờ quạt [treo trên cửa ấy]. Câu
thứ hai hỏi về h́nh dạng và kích thước của
“môn sương” (tức là chỗ trống hai bên cửa
để đặt các vị thủ hộ). Câu thứ ba
hỏi về cách kiến
lập các cửa: H́nh dạng, kích thước, và pháp
tắc của chúng. Đủ loại biểu trưng bí mật
như thế, A-xà-lê đều nên khéo thông đạt.
Đây lại là một chi phần khác.
Kế
đó có hai bài kệ, nói chung có tám câu hỏi:
-
Câu đầu tiên hỏi về cách dâng cúng thức ăn,
hương, hoa v.v… như thế nào?
-
Câu thứ hai hỏi về pháp tắc bảo b́nh. Hăy nên biết
hết thảy các thứ vật cúng dường đều
được bao gồm trong đó, A-xà-lê hăy nên tùy theo từng
sự mà biện định tánh loại của chúng.
Đây cũng lại là một loại chi phần.
-
Câu thứ ba hỏi [thầy sẽ] dẫn dắt đệ
tử vào Mạn-đồ-la như thế nào?
-
Câu thứ tư hỏi thực hiện pháp quán đảnh
như thế nào?
-
Câu thứ năm là hỏi thân cận, phụng sự vị
tôn thánh mà chính ḿnh tôn thờ như thế nào? Nhưng trong ấy
lại có hai loại: 1) Nếu
là hành nhân nương theo Thế Đế Mạn-đồ-la,
sẽ triệu vời đệ tử vào đàn để
quán đảnh, dâng cúng A-xà-lê như thế nào? 2) Nếu
đă tu tập Du Già, thực hiện Bí Mật Quán Đảnh,
sẽ triệu vời đệ tử quán đảnh,
dâng cúng A-xà-lê như thế nào? Trong khi đang tác pháp, tất
cả các phương tiện gia tŕ dạy bảo đều
được nhiếp thuộc trong ấy. Đó lại
là một loại chi phần nữa.
-
Câu thứ sáu là hỏi về nơi chốn để hộ-ma,
cũng có hai cách giải thích nông cạn và bí mật, và các
phương tiện lạ như Tức Tai, Tăng Ích,
Hàng Phục v.v…
-
Câu thứ bảy hỏi về bộ loại, tự
nghĩa, và cú nghĩa của chân ngôn.
-
Câu thứ tám hỏi về tướng sai biệt của
các môn tam-muội cạn sâu sai khác.
Phàm
A-xà-lê mà chưa khéo thông đạt pháp như thế, chớ
nên kiến lập Mạn-đồ-la. Điều này lại
hợp thành ba loại chi phần vậy!
(Kinh)
Như thị phát vấn dĩ, Mâu Ni chư pháp
vương, cáo Tŕ Kim Cang Huệ: - Nhất tâm ưng đế
thính, tối thắng chân ngôn đạo, xuất sanh Đại
Thừa quả, nhữ kim thỉnh vấn ngă, vị đại
hữu t́nh thuyết, nhiễm bỉ chúng sanh giới,
dĩ pháp giới chi vị, cổ Phật sở tuyên thuyết,
thị danh vi sắc nghĩa. Tiên an bố
nội sắc, phi an bố ngoại sắc, khiết bạch
tối vi sơ, xích sắc vi đệ nhị, như thị
hoàng cập thanh, tiệm thứ nhi chương trước,
nhất thiết nội thâm huyền, thị vị sắc
tiên hậu.
(經)如是發問已,牟尼諸法王,告持金剛慧:一心應諦聽。最勝真言道,出生大乘果,汝今請問我,為大有情說。染彼眾生界,以法界之味,古佛所宣說,是名為色義。先安布內色,非安布外色,潔白最為初,赤色為第二,如是黃及青,漸次而彰著,一切內深玄,是謂色先後。
(Kinh:
Thưa hỏi như thế rồi, đấng Mâu Ni vua của
các pháp, bảo ngài Tŕ Kim Cang Huệ: - Nên nhất tâm lắng
nghe, đạo chân ngôn tối thắng, xuất sanh quả
Đại Thừa. Ông nay thưa hỏi ta, v́ đại hữu
t́nh nói. Nhuộm chúng sanh giới ấy, dùng vị của
pháp giới, được cổ Phật tuyên nói. Đó là
nghĩa của sắc. Trước xếp đặt nội
sắc, chẳng xếp bày ngoại sắc. Khiết bạch
là đầu tiên, màu đỏ là thứ hai, vàng rồi xanh
như thế, lần lượt được phô rơ, sâu
huyền trong hết thảy, gọi là sắc trước
sau).
Hỏi
như thế xong, đấng Đại Tịch pháp
vương bảo ngài Chấp Kim Cang rằng: “Ông hăy nên nhất
tâm lắng nghe” rồi nói kệ rằng: “Tối thắng
Chân Ngôn đạo, xuất sanh Đại Thừa quả”
(đạo Chân Ngôn tối thắng, xuất sanh quả
Đại Thừa). “Quả Đại Thừa” tức
là vô thượng huệ của Phật, phải do
phương tiện như thế mà được sanh. Do
ông khéo dùng lời tốt lành thưa hỏi ta, nên ta nay v́ trọn
khắp các vị Ma Ha Tát khai thị diễn thuyết (“đại
hữu t́nh” trong lời kệ chính là dịch nghĩa của
chữ Ma Ha Tát) .
Bài
kệ thứ nhất giải đáp ư nghĩa của sắc:
“Nhiễm bỉ chúng sanh giới, dĩ pháp giới chi vị.
Cổ Phật sở tuyên thuyết, thị danh vi sắc
nghĩa” (Để nhuộm chúng sanh th́ dùng vị của
pháp giới. Do vậy, đức Phật tuyên nói. Đó gọi
là ư nghĩa của màu sắc): Giống như nhuộm màu
trong thế gian, có thể nhuộm vải sạch thành cùng
một vị. V́ thế, dùng vị để giải thích
sắc. Như nói “ca-sa vị” tức là nhuộm thành
màu ca-sa. Nay ư nghĩa của sắc trong Mạn-đồ-la
này cũng thế: Dùng sắc chẳng thể nghĩ bàn của
pháp giới để nhuộm tâm của chúng sanh thành cùng một
vị Bồ Đề thanh tịnh. Lại như thế
gian nhuộm áo, trước là dùng nước tro để
gột tẩy cho áo dễ ăn màu. Nay dùng môn chữ Ra (र)
để thiêu đốt tâm cấu của đệ tử
cháy sạch thành tro. Sau đấy, dùng nước đại
từ bi thuộc môn chữ Phạ (व,
Va) để gột rửa, khiến cho thuần nhất,
trong sạch, ĺa các hư luận. Sau đấy mới nhuộm
thành pháp giới Mạn-đồ-la, khiến cho các thứ
thân Phổ Môn đều có cùng màu với Thật Tướng.
Kế
đó, có hai bài kệ đáp chung ba câu hỏi. Hỏi “trong
các màu sắc ấy, nên dùng màu nào?” Nay trong lời
đáp, [đức Phật dạy hăy] dùng trọn năm sắc
xanh, vàng, đỏ, trắng, đen. Kệ nói: “Tiên an bố
nội sắc, phi an bố ngoại sắc” (trước
xếp đặt nội sắc, chẳng xếp đặt
ngoại sắc, [hàm nghĩa: Khi tô màu mạn-đồ-la,
phải nên làm theo thứ tự từ trong ra ngoài), nhằm
trả lời câu hỏi “xếp đặt sắc
như thế nào?” Chỗ nào bắt đầu trước,
chỗ nào bắt đầu sau. “Khiết bạch dĩ
vi sơ, xích sắc vi đệ nhị, như thị hoàng
cập thanh, tiệm thứ nhi chương trước. Nhất
thiết nội thâm huyền, thị vi sắc tiên hậu”
(trắng sạch là đầu tiên, màu đỏ là thứ
hai, vàng rồi xanh như thế, lần lượt
được nêu rơ. Màu đen xẫm trong hết thảy.
Đó là thứ tự trước sau của các màu) tức
là giải đáp câu hỏi “sắc nào là đầu tiên?”
Khiết bạch là tịnh pháp giới sắc của
đức Tỳ Lô Giá Na, tức là cội nguồn của
hết thảy chúng sanh; v́ thế là tối sơ. Đỏ
là màu của Bảo Tràng Như Lai, đă phát Bồ Đề
tâm do hiểu đạo, hàng phục ma oán, diệt trừ
cái chướng. V́ thế là thứ hai. Màu vàng là màu của
Sa La Thụ Vương Phật (Khai Phu Hoa Vương Phật),
do khi thành Chánh Giác, muôn đức nở x̣e, đều
đạt tới Kim Cang Thật Tế, nên là thứ ba.
Xanh là màu của Vô Lượng Thọ Phật, đă đạt
được Kim Cang Thật Tế, tức là dùng
phương tiện gia tŕ, hiện trọn khắp Đại
Bi Mạn-đồ-la, như trong hư không thanh tịnh chứa
đựng trọn đủ vạn tượng, cho nên là
thứ tư. Màu đen là màu của Cổ Âm Như Lai
(Thiên Cổ Lôi Âm Như Lai). Sở dĩ hóa hiện dấu
tích Phổ Môn đều v́ hiển lộ Bổn. “Bổn”
tức là địa vị do Như Lai tự chứng, trụ
trong Đại Niết Bàn. Nếu bỏ đi thần lực
gia tŕ, sẽ chẳng phải là cảnh giới mà tâm
lượng của hết thảy chúng sanh có thể lănh hội.
V́ thế, sắc này u huyền, xếp vào sau cùng.
Lại
nữa, như lụa sạch trong thế gian, sẽ nhuộm
các màu trước. Cuối cùng, màu đen là màu nhuộm tột
cùng, do quá sẫm, chẳng thể nhuộm thêm nữa, cho
nên xếp sau cùng. Ư nghĩa màu sắc trong Mạn-đồ-la
cũng giống như thế. Trắng nghĩa là “vượt khỏi một trăm sáu
mươi tâm cấu”. Đó là màu của Tín; cho nên đứng
đầu. Đỏ là ư nghĩa Đại Cần
Dũng, là màu của Tinh Tấn. V́ thế là thứ hai. Vàng
nghĩa là “khi một niệm tương ứng, Định
và Huệ cân bằng, Thất Giác nở x̣e”. Đó gọi
là màu của Niệm. V́ thế, đứng thứ ba. Xanh
là ư nghĩa Đại Không tam-muội, là màu của Định.
V́ thế là thứ tư. Đen là ư nghĩa của Đại
Niết Bàn, tức là huệ rốt ráo của Như Lai.
Đó là màu sắc của Huệ, nên là thứ năm. Hoặc
có thuyết cho rằng: Màu trắng là đầu tiên, vàng là
thứ hai, đỏ là thứ ba, xanh là thứ tư,
đen là thứ năm. Đấy là xét theo ư nghĩa nhuộm
màu sâu hay cạn tùy theo mức độ.
Lại nữa, trắng có ư nghĩa là Tín, là
màu đầu tiên. Vàng giống như kim cang chẳng thể
ngăn trở, phá hoại, tức là ư nghĩa Tinh Tấn,
nên là thứ hai. Đỏ là trừ sạch chướng
ngại nơi tâm, quang minh chiếu rạng, tức là ư
nghĩa của Niệm, cho nên là thứ ba. Những điều
khác như trên đây đă giải thích. Các điều
được biểu thị trong pháp môn mỗi môn mỗi
khác.
Lại
nữa, trắng là màu Tịch Tai (dứt trừ tai nạn),
là ư nghĩa của Như Lai Bộ. Cho nên đứng đầu.
Vàng là màu Tăng Ích, là ư nghĩa của Liên Hoa Bộ, nên là
thứ hai. Đỏ là màu Hàng Phục, là ư nghĩa của
Kim Cang Bộ, cho nên là thứ tư. Xanh là Thành Biện
Chư Sự (hoàn thành các sự) cũng sanh ra các h́nh tướng
tùy theo từng loại, cho nên là thứ tư. Đen là ư
nghĩa Nhiếp Triệu, tức các việc được
thực hiện bởi các vị Phụng
Giáo, Phẫn Nộ v.v… Cho nên là thứ năm.
Lại
nữa, như vẽ vời trong thế gian chẳng ngoài
năm sắc, nhưng liên quan tới đủ loại sâu
hay cạn khác nhau. Người xảo huệ sẽ khéo sắp
xếp, sanh ra muôn h́nh tượng chẳng có cùng tận.
Màu pháp giới chẳng thể nghĩ bàn cũng giống
như thế. Nói chung, chẳng vượt ngoài năm tự
môn (A, Ra, Va, Ha, Kha), nhưng lại phát huy thành đủ loại
trí ấn sai biệt. Như Lai do thiện xảo phổ
môn vẽ vời Đại Bi Sanh Mạn-đồ-la, cho
đến sanh ra các h́nh tướng theo từng loại nhiều
như số vi trần trong thế giới mà vẫn chẳng
cùng tận. Nếu hành nhân Du Già hiểu được ư
nghĩa trong ấy, sẽ càng hiểu sâu hơn, tự tại
thực hiện chẳng hề thiếu khuyết trong Chân
Như tịch diệt. Những điều kệ đă
nói chính là nêu ra cương lănh của một đường
lối pháp môn vậy.
Kinh
dạy “tiên an bố nội sắc, phi an bố ngoại
sắc” (trước xếp đặt nội sắc,
chẳng xếp đặt ngoại sắc), tức là trong
cách vẽ vời, hăy nên trước hết vẽ nội
tâm bí mật Liên Hoa Tạng xong. Kế đó, tạo tầng
thứ nhất gồm các nội quyến thuộc (Liên Hoa
Bộ, Kim Cang Thủ, Chánh Biến Tri, Tŕ Minh) giống
như ba điểm của chữ Y. Kế đó, tạo
các đại quyến thuộc của bốn vị Bồ
Tát thuộc tầng thứ hai (Văn Thù, Địa Tạng,
Trừ Cái Chướng, Hư Không Tạng), và tầng thứ
ba gồm hết thảy các vị trời trong thế gian
và quyến thuộc.
Lại
ở trong các đường ranh giới, phần chính giữa
(Trung Thai Bát Diệp) và tầng thứ nhất, hăy nên dùng
đủ năm màu. Trước hết, dùng màu trắng vẽ
đường ranh giới bao quanh xong; kế đó, ở
ngoài [đường ranh ấy] vẽ đường ranh
giới màu đỏ. Kế đó, ở phía ngoài lại vẽ
màu vàng. Sau đấy, lại vẽ [ranh giới] màu xanh, ở
ngoài cùng bèn vẽ đường ranh giới màu đen.
Trong tầng thứ hai, cũng theo thứ tự như trên
để xếp đặt ba màu trắng, đỏ, vàng.
Ranh giới của tầng thứ ba chỉ dùng thuần một
màu trắng, đều vẽ sao cho tột bậc cân bằng,
ngay ngắn, lần lượt xoay theo chiều phải
để xếp đặt. Ở ŕa ngoài của chỗ
đi lại và cúng dường v.v… đều làm đường
ranh thuần một màu. Kinh Cù Hê nói: “Đản dụng bạch
sắc” (chỉ dùng màu trắng). Do vậy, trước
hết dùng màu trắng từ trong hướng ra ngoài, nhằm
nêu tỏ năm loại căn lực (Tín, Tấn, Niệm,
Định, Huệ) của Bồ Đề tâm lần
lượt tăng rộng, cho tới trụ trong Đại
Bát Niết Bàn, sẽ trọn hết thảy các chỗ,
không đâu chẳng hiện diện. V́ thế, màu đen ở
ngoài cùng. Nếu từ cạn tới sâu, từ Tích trở
về Bổn, th́ đức Thế Tôn rủ ḷng cùng v́ quyến
thuộc sơ môn trong sáu đường mà khai phát Bồ
Đề tâm thanh tịnh. Nếu chúng sanh nhập minh môn này,
khi vượt thoát một trăm sáu mươi tâm, là
đă dự vào địa vị Bồ Tát vượt ngoài
thế gian. V́ thế, tầng Mạn-đồ-la thứ
ba chỉ nên dùng màu trắng để làm ranh giới. Tầng
Mạn-đồ-la thứ hai, ngoài sắc trắng, lại
thêm màu đỏ và màu vàng th́ đỏ là siêng năng,
dũng mănh, tấn tu vạn hạnh trong Bồ Đề
tâm. Vàng là vạn đức nở x̣e trong Niệm Xứ của
Như Lai. Lúc bấy giờ bèn nhập trùng huyền môn, ngự
trong cơi Tịch Quang, thậm chí bậc đă đạt tới
địa vị gần với Bổ Xứ mà chẳng nhận
biết một ai [đă nhập huyền môn ấy]. Do vậy,
trong tầng thứ hai, chỉ dùng ba màu làm ranh giới.
Trong
tầng thứ nhất của Mạn-đồ-la, ngoài ba
màu trên, c̣n thêm màu xanh và màu đen. Xanh là Đại Không
tam-muội; đó gọi là thân, khẩu, ư mật của
Như Lai gia tŕ vô tận, cho nên dùng màu của đại
hư không. Đen là màu của thân Như Lai thọ lượng
thường trụ. Diệu thân như thế rốt ráo
chẳng có h́nh tượng, nên vẽ thành h́nh đen sẫm.
Hai câu này chính là bí tạng của Như Lai, chẳng phải
v́ trọn khắp hết thảy chúng sanh, cho nên gọi là “quyến
thuộc”. Lại vào trong màu đen sẫm ấy chính là
Thai Hoa Tạng do Như Lai tự chứng. Lúc bấy giờ,
thấy màu của ngũ trí đều cùng là một màu pháp
giới, há có cạn hay sâu sai khác ư? Tuy chúng sanh có người
dần dần nhập, có người siêu thăng, có
người đốn nhập, nhưng đều cùng tiến
hướng về một đích. V́ thế nói “nhất
thiết nội thâm huyền”.
(Kinh)
Kiến lập môn tiêu xí, lượng đồng Trung Thai Tạng,
sương vệ diệc như thị. Hoa đài thập
lục tiết. Ưng tri bỉ sơ môn, dữ nội
đàn tề đẳng. Trí giả ư ngoại viện,
tiệm thứ nhi tăng gia. Ư bỉ sương vệ
trung, đương kiến đại hộ giả. Lược
thuyết Tam-ma-địa, nhất tâm trụ ư duyên. Quảng
nghĩa phục thù dị, Đại Chúng Sanh đế
thính. Phật thuyết nhất thiết Không, Chánh Giác chi
Đẳng Tŕ, tam-muội chứng tri tâm, phi tùng dị
duyên đắc. Bỉ như thị cảnh giới, nhất
thiết Như Lai Định. Cố thuyết vi Đại
Không, viên măn Tát Bà Nhă.
(經)建立門幖幟,量同中胎藏,廂衛亦如是,華臺十六節。應知彼初門,與內壇齊等,智者於外院,漸次而增加,於彼廂衛中,當建大護者。略說三摩地,一心住於緣,廣義復殊異,大眾生諦聽。佛說一切空,正覺之等持,三昧證知心,非從異緣得。彼如是境界,一切如來定,故說為大空,圓滿薩婆若。
(Kinh: Tạo lập
các biểu tượng, đặt phía trên các cửa,
lượng đồng Trung Thai Tạng, góc xép cửa
cũng thế. Đài hoa mười sáu lóng. Hăy nên biết
cửa đầu, cân bằng với nội đàn. Người
trí ở ngoại viện, lần lượt mà tăng
thêm. Ở nơi hai góc cửa, nên lập bậc đại
hộ, lược nói Tam-ma-địa, nhất tâm trụ
nơi duyên. Nghĩa rộng lại khác hẳn, Đại
Chúng Sanh lắng nghe. Phật nói hết thảy Không, Đẳng
Tŕ của Chánh Giác, tam-muội chứng biết tâm, chẳng
do duyên khác được. Cảnh giới như thế
đó, hết thảy Như Lai Định. Nên nói là Đại
Không, viên măn Tát Bà Nhă).
Kinh
dạy: “Kiến lập môn tiêu xí, lượng đồng
Trung Thai Tạng, sương vệ diệc như thị,
hoa đài thập lục tiết” (Kiến lập các biểu
tượng hoặc cờ quạt nơi cửa [của Mạn-đồ-la],
có kích thước giống như Trung Thai Tạng (Trung Thai
Bát Diệp), các khoảng trống ở hai bên cửa
cũng thế, hoa đài to mười sáu ngón tay): Ở bên
cạnh cửa [của đàn tràng Mạn-đồ-la],
đều dựng tràng, cờ để làm vật biểu
trưng; gọi đó là “môn tiêu xí”. Hai thứ cột
cờ quạt biểu trưng ấy có kích thước
tương đương, sao cho cân bằng với Trung
Thai (đó là ư nghĩa của câu “lượng đồng
Trung Thai Tạng”). Trên đó đặt thanh ngang, cũng
rộng bằng chừng đó. Trên đầu mỗi cột
treo tràng, đều đặt h́nh bán nguyệt. Dưới
mặt trăng, đặt cờ xí, dùng lụa màu cột
cho ngay ngắn. Góc cờ có thể cắt ra để tạo
thành đuôi nheo, mỗi đuôi đều rủ xuống
phía ngoài cột tràng, trên nhọn, dưới tù. Ở bốn
góc [của Mạn-đồ-la], cũng đặt sào treo
tràng và h́nh bán nguyệt. Cờ quạt đều đặt
đối xứng nhau. Nơi cửa Đại Cần
Dũng (tức cửa tương ứng với Thích Ca Viện,
tức cửa Đông), trên các h́nh bán nguyệt, đều
đặt báu Như Ư. Nơi cửa Kim Cang Thủ (cửa
Nam) th́ trên các h́nh bán nguyệt, đều đặt bạt-chiết-la
(vajra, chày kim cang). Nơi cửa Liên Hoa Thủ (cửa Bắc),
trên mỗi h́nh bán nguyệt, đều đặt Thương-khư
(tù và bằng vỏ ốc). Kế đó, ở bốn góc
cũng đều đặt vật báu. “Giáp môn
sương vệ”[15]
như h́nh chữ Á (亞),
c̣n thông đạo (lối đi) ở chính giữa th́ ở
mỗi khúc quanh đều đặt cọc kim cang. Đầu
cọc có h́nh dáng như bạt-chiết-la một nhánh, phía
dưới bén nhọn. Mỗi góc có sáu cọc, hai bên tổng
cộng là mười hai cọc. Bốn cửa và bốn
góc tính chung là hai mươi tám cọc. Ba tầng đều
như thế. Và chuẩn bị chỉ ngũ sắc,
đều dùng Bất Động chân ngôn hoặc Hàng Tam Thế
chân ngôn để gia tŕ [chỉ ấy] một trăm lẻ
tám lượt, hoặc một ngàn tám mươi lượt.
Vào đêm hôm A-xà-lê chánh thức
tác pháp, đă vẽ Mạn-đồ-la xong, trước hết,
xem xét Trung Thai và viện thứ nhất, thấy chẳng
thiếu sót ǵ, liền đóng cọc Kim Cang xuống. Dùng
chỉ Kim Cang (tức chỉ ngũ sắc vừa
được gia tŕ trên đây) để chăng ṿng quanh
các cọc kim cang ấy. Tới chỗ trổ cửa th́
ngưng, chẳng cần cắt ngang. Ba tầng đều
sắp đặt như thế. Nếu chẳng thể
như vậy, nơi viện thứ ba, ắt phải trọn
đủ pháp này, chẳng được thiếu khuyết.
Tới chỗ thông môn (cửa để ra vào đàn tràng),
hăy nên nâng chỉ lên, thuận theo [phương vị của]
cửa để căng ṿng quanh phía trên, khiến cho
[người ra vào] chẳng bị vướng vào đầu.
Đă kết giới xong, hăy nên theo cửa để ra vào,
chẳng được tự tiện vượt qua chỗ
khác [để vào trong đàn tràng]. Mỗi khi ra vào, vẫn
cần phải tụng chân ngôn Bất Động. Nếu
là Du Già A-xà-lê, nếu lúc cần ra vào, đối với chỉ
vây quanh [đàn tràng], cũng có thể nghĩ nhấc chỉ
lên để đi qua. Đi qua rồi bèn hạ chỉ xuống
như cũ. Hoặc là khi cách xa cửa, cần ra vào gấp,
hăy nên quán tự thân là đức Tỳ Lô Giá Na, dùng thân chẳng
vướng mắc, chướng ngại, chớ sanh ư
tưởng “vượt qua khỏi chỉ [kết giới],
tùy ư ra vào” th́ không phạm lỗi!
Đối với chỗ khuất
khúc nơi sáu cây cọc, đều giữ sao cho khoảng
cách [giữa các cọc] đều cân bằng, vẫn cần
phải giữ sao cho có lối đi qua lại giữa các
viện. Đối với hai bên góc xép của cửa ngoài
cùng, cũng phải ngay ngắn tương xứng với
Trung Thai. V́ thế nói: “Sương vệ diệc như
thị” (góc xép nơi cửa cũng phải như thế).
“Hoa đài” là chỗ quán đảnh. Đại để,
quy chế về đàn hoa đài giống như Trung Thai
Bát Diệp Tạng. [Hoa đài] nhỏ nhất th́ [có kích
thước mỗi bề] bằng mười sáu ngón tay,
các ư nghĩa khác sẽ được nói cặn kẽ
hơn trong phần sau. [Đàn quán đảnh] chỉ trổ
một cửa, cửa ấy hướng về đại
đàn (tức đàn tràng của Thai Tạng Mạn-đồ-la).
Kệ nói: “Ưng tri bỉ sơ môn, dữ nội
đàn tề đẳng” (Hăy biết nơi cửa
đầu, giữ bằng với nội đàn), tức
là đối với cửa ở tầng thứ nhất
[của hoa đài, tức đàn quán đảnh], hăy
tương đương chuẩn theo chín phần[16],
khiến cho rộng hẹp đều bằng với
[đàn chánh], khiến cho đường chánh trong nội
đàn dẫn thẳng tới tâm của hoa đàn. Các tầng
thứ hai, thứ ba cũng dùng điều này để
suy ra mà phân định, tự nhiên lần lượt
tăng rộng, mỗi mỗi đều thích hợp. Tại
hai góc xép nơi cửa của tầng thứ hai, đặt
hai anh em long vương, Nan Đà ở phương Nam, Bạt
Nan Đà ở phương Bắc[17].
Các món báu trang nghiêm khác đại để giống như
trong phẩm Bí Mật Mạn Đồ La [sẽ nói].
[Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Nếu
giải thích theo kiểu sâu xa, bí mật, bốn mặt
đàn đều phải vuông vắn, ngay thẳng, quân b́nh,
chính là ư nghĩa Tứ Niệm Xứ. Bốn cửa là Tứ
Tĩnh Lự, mà cũng là Tứ Nhiếp Pháp. Các vật biểu
trưng nơi cửa là Tứ Phạm Trụ, góc hai bên cửa
là Tứ Chánh Cần. Bốn góc là Tứ Chân Đế (Tứ
Thánh Đế), chỉ kim cang chính là Tu-đa-la. Do ba
mươi bảy phẩm ấy duy tŕ lẫn nhau mà tạo
thành ngằn hạn của pháp môn vậy!” V́ thế,
phân lượng dài, ngắn, rộng, hẹp và vật
tượng trưng nơi cửa ngoài đều
tương xứng với Trung Thai, hàm ư mỗi một pháp
môn của Như Lai đều tương xứng với
pháp giới, thậm chí chẳng có mảy may tăng giảm.
Lại c̣n phù hợp với Trung Đạo được
hành, khế hợp tâm Thật Tướng của Liên Hoa
Đài. Dấu tích Phổ Môn đă xa lại càng rộng. V́
thế nói: “Trí giả ư ngoại viện, tiệm thứ
nhi tăng gia” (Nơi ngoại viện, người có
trí lần lượt tăng thêm).
Kệ nói: “Lược thuyết
Tam-ma-địa, nhất tâm trụ ư duyên” (lược
nói Tam-ma-địa, nhất tâm trụ nơi duyên). Từ
đây trở đi, giải đáp đại lược
về chi phần tam-muội trong Mạn-đồ-la. Nếu
là người chưa tu Du Già, chẳng được làm
A-xà-lê, do thiếu khuyết chi phần, pháp sự sẽ chẳng
thành được! Kinh đă giải thích sơ lược
ư nghĩa của danh hiệu tam-muội; kế đó, sẽ
nói sâu rộng hơn. Trước hết, giải thích
sơ lược th́ là “tâm duyên chắc nơi một cảnh,
chẳng rong ruổi, tán loạn”. Đó là ư nghĩa
Đẳng Tŕ. V́ thế, kệ nói: “Lược thuyết
Tam-ma-địa, nhất tâm trụ ư duyên”.
Xét theo hữu tướng Du
Già, bèn có ba loại thượng, trung, hạ. Thượng
là quán các thân của chư vị Như Lai như Tỳ Lô
Giá Na v.v… Trung là quán thân Bồ Tát như Văn Thù Sư Lợi
v.v… Hạ là quán thân của từng loại chúng sanh như
Nhân Đà La (Indra, Đế Thích) v.v… Đối với mỗi
một điều được biểu thị trong Mạn-đồ-la,
như sắc tượng, oai nghi, các biểu trưng bí mật,
hoặc ấn, hoặc chữ [chủng tử], chỉ nên
nhất tâm trụ duyên, chẳng c̣n để tâm rong ruổi,
tán loạn. Đấy chính là môn tam-muội của vị
tôn thánh ấy. Nói tóm gọn, mỗi một vị thiện
tri thức [trong các vị thiện tri thức] nhiều
như số vi trần trong cơi Phật thuộc Mạn-đồ-la
hải hội, đều là một loại tam-muội môn
để nhập pháp giới. Nếu quán chung đại
chúng phổ môn như thế, nhất tâm trụ trong duyên chẳng
rong ruổi, tán loạn, tức là môn Phổ Nhăn tam-muội,
cũng gọi là môn Phổ Môn Thế Giới tam-muội.
Như một môn và hết thảy các môn, hoặc chỉ nhập
môn tam-muội thuộc Chánh Biến Tri Bộ, hoặc chỉ
nhập môn tam-muội thuộc Liên Hoa Bộ, hoặc chỉ
nhập môn tam-muội thuộc Kim Cang Bộ, hoặc dùng
Văn Thù Quyến Thuộc Phổ Giai Tập Hội (tất
cả các vị tôn thánh thuộc Văn Thù Viện) làm một
môn tam-muội. Đối với ba vị Bồ Tát kia
cũng thế; tùy thuộc tâm lượng của hành nhân lớn
hay nhỏ, các thứ bất đồng.
Hành giả tu tập Du Già, hoặc
quán Bổn Tôn, hoặc quán ấn bí mật, hoặc là lúc
quán chân ngôn, có đủ loại cảnh giới hiện tiền;
[nếu các cảnh giới ấy] chẳng giống với
bổn quán (phép quán chính ḿnh đang tu tập), th́ đều
là tà quán. Như ở trong Định, hoặc thấy mặt
trời, mặt trăng, các ngôi sao quang minh chói ngời, hoặc
là thấy đại liên hoa vương trọn khắp
không trung, hoặc thấy cây báu, lầu gác thù thắng trang
nghiêm giống như cung trời và các cơi tịnh, hoặc lại
bỗng dưng chẳng c̣n thấy có tướng thân tâm,
hoặc thấy chư Phật, Bồ Tát, vô lượng
đại chúng, hoặc nghe đủ loại tiếng lạ,
hoặc thấy vách núi dốc ngược, cho tới địa
ngục Vô Gián, do chẳng thuận theo điều ta vốn
duyên theo, th́ đều chớ nên giữ lấy. Chỉ nên
nhất tâm nhất ư như thường. Tuy đạt
được định cảnh tương ứng, cần
phải quán sát sâu xa mười câu duyên sanh, chớ nên đắm
chấp. Nếu thấy cảnh giới khác lạ mà ngỡ
là nhiệm mầu, thù thắng, chấp trước vào
đó, sẽ gọi là Ngă Mạn Định, cũng gọi
là Xan Chấp Định (môn Định do keo tham, chấp
trước). Chỉ khi nào tương ứng với chánh
quán, tự nhiên sẽ được thấy câu-chi cơi Phật,
Phật trong ấy sẽ là trăm ngàn vị, cơi nước
thuộc mặt Sự chính là cơi tịnh. Khi tương ứng
như thế, sẽ biết các thứ sự tướng
từ trước tới nay chẳng phải là không có nhân
duyên. Do nhân duyên như thế mà có sự tướng
như thế, chẳng do điều ǵ khác mà ngộ, chẳng
vướng mắc!
Lại giải thích theo ư
nghĩa sâu xa, bí mật. Trong tướng chân thật
nơi pháp môn của mỗi vị thiện tri thức, tâm
trụ trong duyên, chẳng sanh vọng tưởng, hư luận.
Đó chính là ư nghĩa Đẳng Tŕ. Như nhập nhất
niệm pháp giới thuộc môn chữ A th́ chính là Tỳ Lô
Giá Na tam-muội. Nhất tâm bất loạn nơi pháp Liên
Hoa Ấn, đó là tam-muội của ngài Quán Tự Tại.
Nhất tâm bất loạn trong Kim Cang huệ ấn th́ là
tam-muội của Bí Mật Chủ. Cho đến các vị
tôn thánh như Phạm vương, Đế Thích, mỗi vị
đều được tự tại trong một pháp giới
môn. Nếu trong thân giải thoát ấy mà một duyên chẳng
loạn, mỗi pháp ấy chính là Tịnh Thiên Nhăn tam-muội.
Nếu nhất tâm bất loạn trong Đại Bi Tạng
Vân Hải th́ gọi là Phổ Nhăn tam-muội, cũng gọi
là Phổ Hiện Sắc Thân tam-muội. Giả sử
Như Lai trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp diễn
nói nghĩa rộng trong ấy, vẫn chẳng cùng tận!
Nay muốn dùng hai câu kệ để thâu nhiếp rốt
ráo chẳng c̣n sót [các ư nghĩa ấy], nên nói: “Quảng
nghĩa phục thù dị, đại chúng sanh đế
thính” (Nghĩa rộng lại sai khác, Đại Chúng Sanh[18]
lắng nghe). Ở trong đó, lại có hai điều:
- Thứ nhất là nói về
Như Lai tam-muội ấn.
- Kế đó là nói về ấn
sai biệt trong tam-muội đạo.
Kệ nói: “Phật thuyết
nhất thiết Không” (Phật nói hết thảy Không),
tức là nhập môn chữ A. Cho đến chẳng có chút
pháp nào để có thể đạt được,
cũng chẳng có tướng nhất định để
có thể gọi là tam-muội. Trụ trong nhất tâm pháp
giới như thế, gọi là “Chánh Giác chi Đẳng
Tŕ”. Do lẽ nào vậy? Nếu ở ngoài tâm tánh này mà có
cảnh giới để có thể duyên theo, tức chẳng
phải là cảnh thường trụ, bị tứ tướng
(sanh, trụ, hoại, diệt) đổi dời, cái tâm “thời,
trụ, duyên” cũng lưu chuyển theo cảnh giới,
sao có thể gọi là Định cho được?
Do vậy, chánh giác tam-muội
giác ngộ “các pháp vốn chẳng sanh”, chỉ là tâm tự
chứng tâm, tâm tự biết tâm, từ lâu xa tới nay,
thường như Thật Tế chẳng đổi dời.
Tức là dùng cái tâm như thế để trụ trong cái
duyên như thế; v́ vậy, được gọi là
Đẳng Tŕ. Đây chính là Bổn Tôn Tỳ Lô Giá Na hiển
hiện tạng trang nghiêm vô tận, cũng chẳng ĺa Bổn
Tôn như thế. Nếu quán khác đi, sẽ đều gọi
là “tà quán”. V́ thế, nói chắc chắn rằng: “Tam-muội
duy chứng tâm, phi tùng dị duyên đắc” (tam-muội
chỉ chứng tâm, chẳng từ duyên nào khác mà đạt
được). Nếu dựa theo bản tiếng Phạn
để nói, phải nên nói là “bỉ cánh vô dị đắc”
(điều đó lại chẳng do điều ǵ khác
mà đạt được). Ư nói: Chẳng c̣n từ các chỗ
khác mà đạt được!
Kế đó nói: “Bỉ
như thị cảnh giới, nhất thiết Như Lai
định” (cảnh giới như thế đó là
Định của hết thảy các Như Lai), như kinh
Đại Bát Niết Bàn đă nói “hết thảy người
có tâm th́ đều có Phật Tánh”. Phật Tánh ấy
được gọi là Thủ Lăng Nghiêm Định,
cũng gọi là Kim Cang tam-muội, cũng gọi là Bát Nhă
Ba La Mật. Phật Phật đạo đồng, trọn
chẳng có đường nào khác. Nếu hành nhân khi sơ
phát tâm, có thể chánh quán tâm tánh đúng như lời dạy,
th́ cũng gọi là “nhập Như Lai Định”, há
có phải là nhọc công dần dần vượt thoát tứ
xứ (thân, thọ, tâm, pháp) th́ mới đạt đến
rốt ráo ư?
Lại nữa, hành nhân Du Già
nếu được oai thần của chư Phật gia
bị, thậm chí trong tam-muội thấy trọn vô lượng
ba loại mật ấn của vô lượng các vị tôn
thánh chẳng xen tạp, số nhiều như vi trần
trong mười cơi Phật, hoặc lại nhất tâm bất
loạn chuyển [các mật ấn ấy] thành tự thân.
Tuy là lạ lùng, đặc biệt, khó nghĩ tưởng,
vẫn là hữu tướng, hữu duyên, nên gọi là “thế
gian tam-muội”. Nếu lúc tam-muội ấy hiện tiền,
hành giả quan sát mười câu duyên sanh, trừ sạch hết
thảy vọng tưởng, hư luận, và tương ứng
không tịch, liền ngộ Mạn-đồ-la hải hội
như thế đều sanh từ các duyên, như bóng trong
gương, trăng trong nước, thành Càn Thát Bà v.v… Quán
vô tánh tướng, được gọi là xuất thế
gian tam-muội; nhưng vẫn c̣n chứng bệnh Chấp
Không chưa thể sạch hết, chẳng thể gọi
là Đại Không. Đến khi ngồi đạo tràng, tự
chứng tâm tánh, liền biết cảnh giới gia tŕ là
như thế đó đều là Thật Tế của cái
tâm. Lúc bấy giờ, tâm chẳng trụ vào tướng,
mà cũng chẳng nương vào Không, chiếu kiến
Không và Bất Không rốt ráo vô tướng, mà trọn
đủ hết thảy các tướng. V́ thế gọi
là Đại Không tam-muội. Trụ trong tam-muội ấy,
tức là trụ trong vô ngại huệ của Phật,
đức Phật nói người ấy “trí Nhất Thiết
Trí rốt ráo viên măn”. Do vậy, kinh nói: “Cố thuyết
vi Đại Không, viên măn Tát Bà Nhă” (nên nói là Đại
Không, viên măn Tát Bà Nhă).
(Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn
dữ nhất thiết chư Phật đồng cộng
tập hội, các các tuyên thuyết nhất thiết Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát tam-muội đạo. Thời Phật
nhập ư Nhất Thiết Như Lai Nhất Thể Tốc
Tật Lực tam-muội. Ư thị, Thế Tôn phục
cáo Chấp Kim Cang Bồ Tát ngôn:
(經)爾時毘盧遮那世尊與一切諸佛同共集會,各各宣說一切聲聞、緣覺、菩薩三昧道。時佛入於一切如來一體速疾力三昧,於是世尊復告執金剛菩薩言:
(Kinh: Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn
và hết thảy chư Phật cùng nhau nhóm họp, mỗi
vị tuyên nói hết thảy đạo tam-muội
của Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Khi đó, đức
Phật nhập trong Nhất Thiết Như Lai Nhất Thể
Tốc Tật Lực tam-muội. Ngay khi đó, đức
Thế Tôn lại bảo Chấp Kim Cang Bồ Tát rằng).
Đầu
quyển hai của chánh kinh, có nói: “Nhĩ thời, Tỳ
Lô Giá Na Thế Tôn dữ nhất thiết chư Phật
đồng cộng tập hội, các các tuyên thuyết nhất
thiết Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát tam-muội đạo”
(Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn và hết thảy
chư Phật cùng nhau nhóm họp, mỗi vị tuyên nói hết
thảy đạo tam-muội của Thanh Văn, Duyên Giác,
Bồ Tát): Đức Như Lai đă nói ba loại Không tam-muội
ấn rốt ráo, v́ khiến cho trọn khắp những kẻ
tiến nhập sẽ chẳng có chướng nạn, lại
nói các thứ ấn sai biệt trong đạo tam-muội.
Các thứ h́nh loại được chỉ bày trong ba tầng
Mạn-đồ-la đều là một loại thân pháp môn
của Như Lai. Do vậy, đều gọi là Phật. Hết
thảy các đức Phật ấy, vị nào cũng
đều từ trong pháp môn do chính ḿnh tự lưu thông mà
tự nói đạo tam-muội ấy. Nếu hiện thành
thân các vị trời trong thế gian, bèn nói đạo
tam-muội của các vị trời ấy. Nếu hiện
thân Thanh Văn, bèn nói đạo tam-muội của Thanh
Văn. Nếu hiện thân Bích Chi Phật, bèn nói đạo
tam-muội của Bích Chi Phật. Nếu hiện thân Bồ
Tát, bèn nói đạo tam-muội của Bồ Tát. Nếu hiện
thân Tŕ Kim Cang, bèn nói đạo tam-muội của Kim Cang.
Hăy nên biết kệ tụng trong ấy nhiều như số
vi trần trong vô lượng cơi, kinh quyển được
kết tập trong thế gian chẳng thể chép trọn!
Nhưng nếu khi các hành nhân thâm nhập cảnh giới Du
Già tam-muội, sẽ tự nghe rơ rành rành, chẳng khác ǵ
như được trực tiếp bảo ban. Do lẽ ấy
mà nói là “ngày được Phật gia tŕ”.
Kinh
chép “thời, Phật nhập ư Nhất Thiết
Như Lai Nhất Thể Tốc Tật Lực tam-muội”
(khi đó, đức Phật nhập Nhất Thiết
Như Lai Nhất Thể Tốc Tật Lực tam-muội),
tức là khi nhập tam-muội ấy, sẽ chứng biết
“hết thảy Như Lai đều cùng là một pháp giới
trí thể”. Trong một niệm, có thể theo thứ tự
quán sát các môn tam-muội nhiều như số vi trần
trong vô lượng thế giới hải, biết ngần
ấy chúng sanh như thế, trong mỗi môn tam-muội này
hoặc môn tam-muội nọ đáng nên nhập đạo,
biết vị thiện tri thức ấy đă v́ ngần ấy
chúng sanh tạo nhân duyên chủng tử, chưa v́ ngần ấy
chúng sanh tạo nhân duyên chủng tử, hoặc có chúng sanh
nhập pháp môn như thế nên có thể siêu thăng thành
Phật, nhập các pháp môn khác dằng dai đă lâu mà chưa
thể thành Phật. Các loại căn tánh bất đồng
như thế, phương tiện để tiến nhập
cũng đều khác nhau, thậm chí du hư trong ấy, theo
thứ tự tu tập, xuất nhập siêu thế gian,
trong mỗi một môn, đều có thể thành tựu vô
lượng chúng sanh. V́ thế gọi là Nhất Thể Tốc
Tật Lực tam-muội.
(Kinh)
Ngă tích tọa đạo tràng, hàng phục ư tứ ma,
dĩ Đại Cần Dũng thanh, trừ chúng sanh bố
úy. Thị thời Phạm Thiên đẳng, tâm hỷ cộng
xưng thuyết, do thử chư thế gian, hiệu danh
Đại Cần Dũng. Ngă giác bổn bất sanh, xuất
quá ngữ ngôn đạo. Chư quá đắc giải
thoát, viễn ly ư nhân duyên, tri không đẳng hư
không, như Thật Tướng trí sanh, dĩ ly nhất thiết
ám, đệ nhất Thật vô cấu. Chư thú duy tưởng
danh, Phật tướng diệc phục nhiên. Thử đệ
nhất Thật Tế, dĩ gia tŕ lực cố, vị
độ ư thế gian, nhi dĩ văn tự thuyết.
(經)我昔坐道場,降伏於四魔,以大勤勇聲,除眾生怖畏,是時梵天等,心喜共稱說,由此諸世間,號名大勤勇。我覺本不生, 出過語言道,諸過得解脫,遠離於因緣,知空等虛空,如實相智生,已離一切暗,第一實無垢。諸趣唯想名,佛相亦復然,此第一實際, 以加持力故,為度於世間, 而以文字說。
(Kinh: Ta đă
ngồi đạo tràng, hàng phục bốn loại ma, dùng
tiếng Đại Cần Dũng, trừ chúng sanh sợ
hăi. Khi đó, Phạm Thiên thảy, tâm mừng, cùng khen nói.
Do vậy các thế gian, gọi ta Đại Cần
Dũng. Ta giác “vốn bất sanh”, vượt ngoài các ngôn
thuyết. Được giải thoát các lỗi, xa ĺa
nơi nhân duyên, biết Không như hư không, như Thật
Tướng trí sanh, đă ĺa hết thảy tối, đệ
nhất Thật vô cấu. Các đường chỉ là
tưởng, tướng Phật cũng như thế.
Đệ nhất Thật Tế ấy, do v́ sức gia tŕ,
v́ hóa độ thế gian, bèn dùng văn tự nói).
Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn quán trọn khắp
xong, biết rơ các loại tam-muội đạo cùng quy vào một
Thể là Phật thừa, lại v́ ngài Chấp Kim Cang nói Bồ
Đề ấn trong hết thảy các tam-muội đạo.
Trước hết, có hai bài kệ nói về dấu tích
thành Phật được thị hiện bên ngoài, bảo:
Ta thoạt đầu ngồi đạo tràng, do Nhất Thể
Tốc Tật Lực tam-muội này, hàng phục quân chúng của
thiên ma. Nhưng trong ấy, lại có chỗ khó hàng phục,
tức là các loại ma phiền năo v.v… chẳng có h́nh tướng,
nơi chốn, mà cũng chẳng có dấu vết, khó thể
hay biết. Trong một niệm, cũng thảy đều
diệt mất. V́ thế nói là “hàng phục tứ ma”.
“Dĩ Đại Cần Dũng thanh” (dùng âm thanh Đại
Cần Dũng), nghĩa là đức Phật dùng lời
thành thật bảo ma Ba Tuần: “Ta trong vô lượng
vô số kiếp, v́ điều phục chúng sanh, vứt bỏ
thân mạng chẳng thể tính đếm, nên nay đă
thành tựu. Do có cơ hội nhập đạo, ta sắp
chứng Bồ Đề, mở mắt thanh tịnh cho các
chúng sanh ấy, ngươi có thế lực ǵ mà gây trở
ngại ư?” Khi đức Phật vừa thốt ra lời
ấy, hết thảy nỗi sợ hăi của chúng sanh
đều trừ, thiên ma mê muội, ngă lăn ra đất,
lập tức lui tan. Nếu có chúng sanh thọ tŕ ấn tam
giác (Nhất Thiết Chánh Biến Tri Ấn) như thế,
thậm chí trừ được vô lượng nỗi sợ
hăi trong địa ngục Vô Gián, huống hồ nỗi sợ
hăi đối với thiên ma, quỷ thần v.v… ư? V́ thế
nói: “Dĩ Đại Cần Dũng thanh, trừ chúng sanh
bố úy” (dùng tiếng Đại Cần Dũng, trừ
chúng sanh sợ hăi). Lúc bấy giờ, địa thần
hoan hỷ, xoay vần xưng nói, cho đến tiếng thấu
tận cơi trời Tịnh Cư. Lúc đó, tám bộ chúng
sanh như Đại Phạm Thiên v.v… chỉ thấy dấu
tích hàng phục ma bề ngoài. V́ vậy, tiếng tăm [của
đức Phật] rền khắp, được tôn xưng
là bậc Đại Cần Dũng, nhưng đối với
chỗ ta thật sự thành Phật, họ sẽ chẳng
thể suy lường. Do vậy, kế đó, có hai bài kệ
nêu ra thật nghĩa Bồ Đề: “Ngă giác bổn bất
sanh”, tức là giác “tự tâm vốn bất sanh”, nghĩa
là “thành Phật mà thật sự chẳng giác, chẳng
thành”. Hết thảy chúng sanh chẳng hiểu “thường
tịch diệt” như thế, do suy tưởng phân biệt
bèn hư vọng nói là “có sanh”, luân hồi trong sáu nẻo,
chẳng thể tự thoát! Nay tuy nghe âm thanh chánh pháp, vẫn
suy t́m, so đo, mong mỏi thành Phật trong đủ loại
h́nh tích, trong sự tướng hữu vi, há đắc lư
ư?
“Xuất
quá ngôn ngữ đạo” (vượt thoát khỏi nói
năng), từ đây trở đi đều nhằm diễn
giải môn chữ A. Giác “vốn bất sanh” chính là pháp mà
chư Phật đều tự chứng, chẳng do suy
lường, phân biệt mà có thể thấu đạt,
cũng chẳng thể truyền trao cho người khác.
Trí Độ Luận nói “ngôn ngữ dứt bặt, tâm
hành xứ diệt”. “Chư quá đắc giải thoát”
(được giải thoát các lỗi): Hết thảy vọng
tưởng phân biệt được gọi là Quá (lỗi
lầm), tức là đủ loại hư luận như sanh,
diệt, đoạn, thường, đến đi, một,
khác v.v… Do chẳng biết Thật Tướng của các
pháp, thảy đều có thể phá, có thể chuyển. Nếu
thấu hiểu “các pháp vốn vô sanh”, sẽ liền
được giải thoát hết thảy lầm lỗi
như thế. Do vậy, thân Kim Cang xa ĺa bách phi.
“Viễn
ly chư nhân duyên” (xa ĺa các nhân duyên): Nếu cái Thể của
pháp giới có tướng sanh diệt, tức là có nhân duyên
để có thể tuyên nói. Nhưng nay do pháp sanh từ
duyên, nên chẳng có tự tánh. Nếu chẳng có tự tánh,
tức là vốn sẵn chẳng sanh. Khi nhân duyên ḥa hợp
th́ cũng chẳng có ǵ được dấy lên; khi nhân
duyên ly tán th́ cũng chẳng có ǵ chấm dứt. V́ thế,
như hư không thanh tịnh, thường chẳng thay
đổi. Đại Kinh[19]
cũng nói “chỉ có Như Lai ĺa các nhân duyên”. “Tri
không đẳng hư không” (biết Không giống như
hư không): “Vốn bất sanh” chính là nghĩa Tất
Cánh Không, do tự tánh thanh tịnh, không có thời hạn,
vô phân biệt, giống như thái hư. V́ thế, để
thế gian dễ hiểu, dùng hư không để sánh ví Bất
Tư Nghị Không.
“Như
Thật Tướng trí sanh”: Thật Tướng của
cái tâm chính là Tỳ Lô Giá Na trọn khắp hết thảy
mọi nơi. Khi đức Phật ngồi đạo
tràng, hiểu đúng như pháp tướng, các thứ kiến
giải chẳng như thật thảy đều diệt
sạch, chẳng c̣n sót thừa. V́ thế, trí huệ Tát Bà
Nhă giống như hư không. “Dĩ ly nhất thiết
ám” (do ĺa hết thảy tối tăm): Trong hết thảy
các pháp tướng mà chẳng biết như thật th́ tức
là vô minh. V́ thế, khi giác “vốn bất sanh”, tức là
sanh ra sự sáng suốt trọn khắp pháp giới. Dùng hết
thảy các loại quán để quán hết thảy các
pháp, không ǵ chẳng thấy, nghe, hay, biết. “Đệ
nhất Thật vô cấu”: Đó chính là sự thật
chân thật nhất, không chi hơn được nữa,
được gọi là Đệ Nhất Thật Tế.
Tức là nói cái tâm tự tánh thanh tịnh, do ĺa hết thảy
tối tăm, tri kiến của Phật chẳng c̣n cấu
ô. [Những điều vừa nói trên đây] đều nhằm
diễn giải ư nghĩa “bất sanh”.
Kế
đó, có hai câu kết luận: “Chư thú duy tưởng
danh, Phật tướng diệc phục nhiên” (Các
đường luân hồi chỉ do tâm tưởng mà có
danh xưng, Phật tướng cũng lại giống như
thế), ư nói: Chúng sanh trong sáu đường và Tỳ Lô
Giá Na Phật vốn chẳng có hai Thể, chỉ thuận
theo đủ loại vọng tưởng của chúng sanh
mà lập ra đủ loại tên gọi. Phật cũng
như thế, hết thảy thế gian chỉ thấy dấu
tích “ta hàng ma thành đạo, phương tiện độ
người”, bèn thuận theo tâm tướng của họ
mà xưng nói, hoặc nói là Đại Sa Môn, hoặc nói là
Đại Cần Dũng, thậm chí như kinh Hoa Nghiêm
đă nói “trong một thế giới có vô lượng tên
gọi khác nhau”, chẳng phải là nói “trong pháp tự chứng
mà có thể diễn nói để biểu thị được!”
Bài
kệ kế tiếp lại giải thích theo ư nghĩa thông
với Thế Đế, nhằm nêu rơ nguyên do khởi giáo.
Do vậy nói: “Thử đệ nhất Thật Tế,
dĩ gia tŕ lực cố, vị độ chư thế
gian, nhi dĩ văn tự thuyết” (Đệ nhất
Thật Tế này, do bởi sức gia tŕ, v́ độ các
thế gian, bèn dùng văn tự nói), tức là dùng Phật
nhăn để quán: Các thứ danh tướng, ngôn từ
như thế lại chẳng ra ngoài Đệ Nhất Thật
Tế, nhưng chúng sanh nhập đạo có đủ loại
nhân duyên bất đồng. Nếu là kẻ đáng nên dùng
văn tự, ngôn ngữ để đắc độ,
Như Lai sẽ chẳng ĺa Thật Tế, dùng thần lực
tự tại để gia tŕ các âm thanh, câu chữ này nọ
để diễn nói. Nếu chúng sanh đúng như pháp tu
hành, khi được tương ứng với Tam Mật,
sẽ biết Thế Đế chẳng khác Đệ Nhất
Nghĩa Đế.
(Kinh)
Nhĩ thời, Chấp Kim Cang cụ đức giả,
đắc vị tằng hữu khai phu nhăn, đảnh lễ
Nhất Thiết Trí, nhi thuyết kệ ngôn:
(經)爾時執金剛具德者得未曾有開敷眼,頂禮一切智而說偈言。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang là bậc trọn đức,
đạt được mắt nở bừng chưa từng
có, đảnh lễ đấng Nhất Thiết Trí mà nói
kệ rằng).
“Cụ đức” tức là trọn đủ hết
thảy các đức trang nghiêm bí mật của Như Lai.
Như hoa sen khi tăng trưởng đủ mức,
được ánh nắng mặt trời chiếu, tự
nhiên nở x̣e đoan nghiêm, đáng yêu. Ngài Chấp
Kim Cang cũng thế, mắt hoa sen nơi tâm gặp quang
minh từ ấn Bồ Đề, rạng ngời nở
x̣e, muôn đức đều trọn vẹn, đẹp
đẽ, thông suốt bên trong, tỏ lộ ra ngoài,
cũng có tướng mắt hoa sen xanh nở x̣e, bèn nói
già-đà [để trần thuật] sự lănh ngộ ư chỉ
trên đây.
(Kinh) Chư Phật thậm
hy hữu, Quyền Trí bất tư nghị, ly nhất thiết
hư luận, chư Phật tự nhiên trí, nhi vị thế
gian thuyết, măn túc chúng hy nguyện, chân ngôn tướng
như thị, thường y ư Nhị Đế.
Nhược hữu chư chúng sanh, tri thử pháp giáo giả,
thế nhân ưng cúng dường, do như kính chế-để.
(經)諸佛甚希有,權智不思議,離一切戲論,諸佛自然智,而為世間說,滿足眾希願,真言相如是,常依於二諦。若有諸眾生,知此法教者,世人應供養,猶如敬制底。
(Kinh: Chư Phật rất
hy hữu, Quyền Trí chẳng nghĩ bàn, ĺa hết thảy
hư luận, chư Phật tự nhiên trí, mà v́ thế gian
nói, trọn thỏa các mong cầu. Tướng Chân Ngôn
như thế, thường nương vào Nhị Đế.
Nếu có các chúng sanh, hiểu biết pháp giáo ấy, người
đời nên cúng dường, ví như kính tháp miếu).
Trước hết nói: “Chư
Phật thậm hy hữu, Quyền Trí bất tư nghị”
(Chư Phật rất hy hữu, Quyền Trí chẳng
nghĩ bàn). Nếu theo bản đầy đủ trong tiếng
Phạn, phải nên nói là “trí phương tiện hy hữu
chẳng thể nghĩ bàn của hết thảy chư Phật”.
“Trí” là nói tới sự lănh ngộ “giác vốn bất
sanh” trong bài kệ thuộc phần trước, “phương
tiện” là nói lănh giải thần lực gia tŕ trong bài kệ
trước đó. Lại nữa, “trí” là đài hoa sen
trọn đủ nơi tâm, “phương tiện” là
cánh sen, tua nhị nở x̣e. Hai loại đều chẳng
thể nghĩ bàn, nên nói là “hy hữu”.
Kế đó nói: “Ly nhất
thiết hư luận, chư Phật tự nhiên trí” (trí tự
nhiên của Phật ĺa hết thảy các hư luận), tức
là rộng tán thán trí chẳng thể nghĩ bàn. “Nhi vị
thế gian thuyết, măn túc chúng hy nguyện” (mà v́ thế
gian nói, trọn đủ các mong nguyện) chính là rộng
tán thán phương tiện chẳng thể nghĩ bàn. Nếu
pháp do nương vào thầy mà đắc, tức là sanh từ
các nhân duyên, chính là tướng hư luận sanh diệt, chẳng
phải là pháp tánh, [chẳng phải là] trí huệ tự
nhiên của Phật. Nếu là trí huệ tự nhiên, sẽ
chẳng do tu học mà có thể đạt được,
cũng chẳng thể truyền dạy cho người
khác! Như vị cam lộ cơi trời nội chứng, giả
sử dùng đủ loại phương tiện để
diễn nói cho kẻ chưa từng nếm trải, kẻ
đó trọn chẳng thể hiểu được!
Nhưng Phật có sức đại phương tiện,
dùng vô tướng Pháp Thân để làm đủ loại
danh tướng gia tŕ, khiến cho các chúng sanh dùng pháp nhân quả
để chứng đắc pháp “chẳng phải nhân,
chẳng phải quả”. V́ thế, Quyền Huệ và
Thật Huệ đều chẳng thể nghĩ bàn!
Kế đó nói: “Chân Ngôn
tướng như thị, thường y ư Nhị
Đế” (tướng Chân Ngôn như thế, thường
nương vào Nhị Đế), nhằm kết lại [ư
nghĩa] “hai trí chẳng thể nghĩ bàn”, lănh ngộ ư
nghĩa lập bày Nhị Đế trong kinh văn thuộc
phần trên. Do biết danh tướng chính là Thật Tế,
có thể dùng Thật Tế để gia tŕ, tạo thành
danh tướng. Do biết “nông cạn, sơ lược”
chính là “sâu xa, bí mật”, có thể biến “sâu xa, bí mật”
thành “nông cạn, sơ lược”, tùy thuận nghĩa lợi
do chúng sanh thành tựu đều là chân thật, chẳng dối.
Nếu khi có thể hiểu Thế Đế, sẽ tự
thông đạt Đệ Nhất Nghĩa Đế. V́ thế
nói “chư Phật thuyết pháp thường nương
vào Nhị Đế”.
Kế đó, có một bài kệ
nhằm nói rơ: Tin hiểu Bồ Đề ấn của Phật,
sẽ đắc vô lượng khối phước. V́ thế
nói: “Nhược hữu chư chúng sanh, tri thử pháp
giáo giả, thế nhân ưng cúng dường, do như kính
chế-để” (nếu có các chúng sanh, hiểu biết
pháp giáo này, người đời nên cúng dường, ví
như kính tháp miếu). Chế-để (Caitya) là chỗ
để nương vào của sanh thân xá-lợi. Do vậy,
chư thiên và người đời, kẻ có phước,
đều nên cúng dường. Nếu hành nhân tin nhận
nghĩa như thế, tức là chỗ nương vào của
Pháp Thân xá-lợi, kham nhận hết thảy thế gian
cúng dường, cung kính. Hơn nữa, Chế-để
trong tiếng Phạn có bản thể giống như Chất-đa
(Citta, tâm), trong ấy nói bí mật sẽ là “tâm là tháp Phật”.
Như đệ tam Mạn-đồ-la, dùng tự tâm làm nền,
theo thứ tự tăng thêm, cho tới màu sắc của
Trung Thai Niết Bàn là tột đỉnh. Do vậy, Chế-để
rất cao. Lại từ Trung Thai Bát Diệp, theo thứ tự
tăng thêm, cho đến loại thứ ba là tùy loại phổ
môn thân, không chỗ nào chẳng trọn khắp. Do vậy, Chế-để
cực rộng. Liên hoa đài Đạt Ma Đà Đô
(Dharmadhatu, pháp giới) được gọi là Pháp Thân xá-lợi.
Nếu chúng sanh hiểu ấn Bồ Đề nơi tâm
này, tức là giống như Tỳ Lô Giá Na Phật. V́ thế
nói: “Thế gian ưng cúng dường, như kính Chế-để”
(thế gian nên cúng dường như kính trọng Chế-để).
(Kinh)
Thời Chấp Kim Cang thuyết thử kệ dĩ, đế
quán Tỳ Lô Giá Na, mục bất tạm thuấn, mặc
nhiên nhi trụ.
(經)時執金剛說此偈已,諦觀毘盧遮那目不暫瞬,默然而住。
(Kinh:
Khi đó, ngài Chấp Kim Cang nói bài kệ ấy xong, quán kỹ
đức Tỳ Lô Giá Na, mắt chẳng tạm nháy, đứng
lặng yên).
Khi
đó, ngài Chấp Kim Cang đă được nghe Tất
Cánh tam-muội ấn, muốn hỏi sai biệt ấn
trong tam-muội đạo. Nếu dùng lời lẽ để
bạch cùng đức Phật, sợ trái nghịch lư tột
cùng; do vậy, lặng thinh quán Phật, nhất tâm mà đứng.
Đó chính là thưa hỏi nghĩa rất sâu! Lại nữa,
ngài Chấp Kim Cang đứng lặng yên, nhằm muốn
biểu thị ư nghĩa “Như Lai chiếu soi căn
cơ”. Như giáo pháp thông thường đă nói: Trong ba
thời của ngày đêm, đức Phật quán sát chúng
sanh có thể hóa độ mà độ thoát họ. Đấy
là thuận theo tâm lượng của Thanh Văn mà tự
nói như thế. Nếu dùng Phật nhăn để quán rồi
thấy, [đâm ra]: Chẳng quán sẽ chẳng thấy. Hễ
quán th́ trí huệ sanh; chẳng quán, trí huệ chẳng sanh
ư? Đó chính là cảnh “sanh diệt, sáng tối”, chẳng
thể gọi là đại huệ b́nh đẳng! Do trí huệ
vô tướng, vô phân biệt của Như Lai vốn sẵn
vô ngại, thường chiếu pháp giới, căn, duyên,
như sóng trong biển cả trọn chẳng vượt
quá mức hạn. V́ thế, do ngài Kim Cang Thủ vừa
khéo là căn cơ để có thể truyền dạy,
Như Lai lập tức diễn nói, chẳng đợi hỏi
rồi mới đáp! Hơn nữa, ngài Kim Cang Thủ biết
Thế Đế tức là Đệ Nhất Nghĩa Đế,
sở hành xứ chẳng khác tất cánh xứ; v́ thế,
im lặng chẳng nói. Như Lai đă biết rơ “Đệ
Nhất Nghĩa Đế tức là Thế Đế, tất
cánh xứ chẳng khác sở hành xứ”. V́ thế, rộng
nói phân biệt. V́ khiến cho chúng sanh thông đạt tướng
Nhị Đế, lại nêu tỏ, nhưng thật ra là
cùng quy vào nhất trí.
(Kinh)
Ư thị, Thế Tôn phục cáo Kim Cang Bí Mật Chủ
ngôn: - Phục thứ, Bí Mật Chủ! Nhất Sanh Bổ
Xứ Bồ Tát trụ Phật địa tam-muội đạo,
ly ư tạo tác, tri thế gian tướng, trụ ư
nghiệp địa, kiên trụ Phật địa. Phục
thứ Bí Mật Chủ! Bát Địa tự tại Bồ
Tát tam-muội đạo, bất đắc nhất thiết
chư pháp, ly ư hữu sanh, tri nhất thiết huyễn
hóa. Thị cố, thế xưng Quán Tự Tại giả.
Phục thứ, Bí Mật Chủ! Thanh Văn chúng trụ hữu
duyên địa thức sanh, diệt trừ nhị biên, cực
quán sát trí, đắc bất tùy thuận tu hành nhân. Thị
danh Thanh Văn tam-muội đạo. Bí Mật Chủ!
Duyên Giác quán sát nhân quả, trụ vô ngôn thuyết pháp, bất
chuyển vô ngôn thuyết, ư nhất thiết pháp, chứng
cực diệt ngữ ngôn tam-muội. Thị danh Duyên Giác
tam-muội đạo. Bí Mật Chủ! Thế gian nhân quả
cập nghiệp, nhược sanh, nhược diệt, hệ
thuộc tha chủ, không tam-muội sanh. Thị danh thế
gian tam-muội đạo.
(經)於是世尊復告執金剛祕密主言:復次祕密主!一生補處菩薩住佛地三昧道,離於造作,知世間相住於業地,堅住佛地。復次祕密主!八地自在菩薩三昧道,不得一切諸法,離於有生,知一切幻化,是故世稱觀自在者。復次祕密主!聲聞眾住有緣地識生,滅除二邊,極觀察智,得不隨順修行因,是名聲聞三昧道。祕密主!緣覺觀察因果,住無言說法,不轉無言說,於一切法證極滅語言三昧,是名緣覺三昧道。祕密主!世間因果及業,若生若滅,繫屬他主,空三昧生,是名世間三昧道。
(Kinh:
Khi ấy, đức Thế Tôn lại bảo Kim Cang Bí Mật
Chủ rằng: - Lại này Bí Mật Chủ! Nhất Sanh Bổ
Xứ Bồ Tát trụ trong đạo tam-muội thuộc
Phật địa, ĺa các tạo tác, biết tướng
thế gian, trụ nơi nghiệp địa, trụ vững
nơi Phật địa. Lại này Bí Mật Chủ! Bát
Địa tự tại trong đạo tam-muội của
Bồ Tát, chẳng đạt được hết thảy
các pháp, ĺa hữu sanh, biết hết thảy là huyễn
hóa. V́ thế, cơi đời gọi là bậc Quán Tự Tại.
Lại này, Bí Mật Chủ! Các Thanh Văn trụ trong
địa vị hữu duyên, thức sanh, diệt trừ
nhị biên, trí quán sát tột bậc, đạt được
chẳng tùy thuận cái nhân tu hành. Đó gọi là đạo
tam-muội của Thanh Văn. Bí Mật Chủ! Duyên Giác
quán sát nhân quả, trụ trong vô ngôn thuyết pháp, chẳng
chuyển vô ngôn thuyết, trong hết thảy các pháp, chứng
diệt ngữ ngôn tam-muội tột bậc. Đó gọi
là đạo tam-muội của Duyên Giác. Bí Mật Chủ!
Nhân quả và nghiệp thế gian dù sanh hay diệt, đều
thuộc về cái khác làm chủ, không tam-muội sanh. Đó
gọi là đạo tam-muội thế gian).
Xét
theo lời đáp của Như Lai, đại lược
có bốn câu. “Phục thứ, Bí Mật Chủ! Nhất
Sanh Bổ Xứ Bồ Tát trụ Phật địa tam-muội
đạo, ly ư tạo tác, tri thế gian tướng,
trụ ư nghiệp địa, kiên trụ Phật địa” (Lại này Bí Mật Chủ! Nhất Sanh Bổ
Xứ Bồ Tát trụ trong đạo tam-muội thuộc
Phật địa, ĺa các tạo tác, biết tướng
thế gian, trụ nơi nghiệp địa, trụ vững
nơi Phật địa): Đấy là địa vị quán
đảnh tối thượng, nên nêu ra trước.
Như các kinh khác đă nói, đấy là bậc Nhất Sanh
Sở Hệ Bồ Tát, từ đó sanh lên cung trời
Đâu Suất, kế nhiệm địa vị Phật,
nên gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ. Nay trong giáo thuyết
chủ yếu của kinh này, nói “nhất sanh” tức
là từ một mà sanh ra. Thoạt đầu, khi đắc
Bồ Đề tâm thanh tịnh, từ đất Nhất
Thật mà sanh khởi vô lượng vô biên môn tam-muội
tổng tŕ. Trong mỗi địa vị như thế,
theo thứ tự tăng trưởng, hăy nên biết là
cũng như thế. Khi đă viên măn Đệ Thập
Địa, chưa đạt tới Đệ Thập Nhất
Địa, lúc bấy giờ, từ cảnh giới Nhất
Thật, phát sanh trọn đủ hết thảy các trang
nghiêm, chỉ c̣n thiếu một địa vị Như
Lai là chưa chứng biết, tức là hễ chuyển
pháp tánh sanh th́ chính là địa vị sẽ được
bổ làm Phật. Do vậy, gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ.
Đấy là phát Bồ Đề tâm rốt ráo, trong hết
thảy đạo tam-muội, sẽ là tinh tấn nhập
Phật đạo mạnh mẽ, hăng hái nhất. Do vậy
nói là “trụ trong đạo tam-muội thuộc địa
vị Phật”.
“Ly chư tạo tác” (ĺa các tạo tác): “Tác” là [thực hiện]
là tu nghiệp Trị Địa, cho tới trang nghiêm Phật
độ, thành tựu chúng sanh. Do tâm hữu trí phân biệt,
vẫn là tướng thế gian. Nay vị Bồ Tát này
chánh hành Đại Không tam-muội, xa ĺa hư luận vi tế
nơi pháp sanh bởi các duyên, nên nói là “ĺa tạo tác”.
Như đối với tướng thế gian, chính là thật
sự biết Thật Tế của thế gian rốt ráo
chẳng khác Niết Bàn tế, có thể chẳng lay động
Thật Tế mà đều thấy nhân duyên vốn khởi
lên của thế gian. Do vậy, trụ trong đạo tam-muội
này, niệm nào cũng tiến nhập địa vị
Như Lai. “Trụ trong nghiệp địa”: Nói theo cách
giản dị trong tiếng Phạn, hăy nên nói là Tác Địa,
tức là học tập sự nghiệp Kim Cang của
Như Lai đều đạt được thiện xảo.
Kinh Anh Lạc cũng nói “nhập trùng huyền môn, học
Phật oai nghi”.
“Kiên
trụ Phật địa”: Kiên cố bất động
đối với Như Lai th́ gọi
là Trụ, có ư nghĩa khác với Trụ trong phần
trước. Như người khát, cầu nước
đă lâu, bỗng trông thấy cái ao trong mát, trong ấy lại
chẳng có chướng ngại, chỉ nhất tâm tiến
hướng, chẳng c̣n duyên theo điều nào khác. Đó
gọi là “đạo tam-muội của bậc Bổ Xứ”.
Đă đạt tới cái ao trong mát, điều mong cầu
đều dứt sạch, cũng chính là Phật địa.
V́ thế, tuy cùng gọi là Đại Không Định,
nhưng ư nghĩa có sai biệt.
Kinh
dạy: “Bí Mật Chủ! Bát Địa Bồ Tát tam-muội
đạo, bất đắc nhất thiết chư pháp,
ly ư hữu sanh, tri nhất thiết như huyễn. Thị
cố, thế xưng Quán Tự Tại giả” (Bí Mật
Chủ! Đạo tam-muội của Bát Địa Bồ
Tát, chẳng đạt được hết thảy các
pháp, ĺa hữu sanh, biết hết thảy như huyễn.
V́ thế, cơi đời xưng là Quán Tự Tại): Đạo
của bậc Thập Địa như đă nói trên
đây, nếu theo thứ tự mà tiến lên, hăy nên nói là
Phật địa. Nếu nói thấp xuống th́ nên nói là
Đệ Cửu Địa, cớ sao [chánh kinh] lại nói
là Đệ Bát Địa? Do hết thảy các Bồ Tát
khi mới vượt khỏi Đệ Thất Địa,
trên là chẳng thấy có chư Phật để có thể
cầu, dưới là chẳng thấy chúng sanh để
có thể độ, cho rằng “trụ trong Đại
Niết Bàn, ngưng dứt vạn hạnh”. Khi đó,
mười phương chư Phật dùng đạo tam-muội
này để phát khởi cái tâm của vị ấy, ḥng
vượt khỏi chỗ khó khăn đối với Bồ
Đề tâm. V́ thế nói riêng. Từ đấy, tiến
nhập Đệ Cửu Địa, sẽ chẳng nói
riêng nữa! Do lỗi họa ấy khó khăn, chẳng cần
phải nói riêng hành xứ ấn. Từ sơ phát ư trở
đi, quán sâu xa mười câu duyên sanh; khi nhập địa
vị này, sẽ vượt lên bờ
kia Tánh Không. V́ thế nói là “bất đắc nhất thiết
chư pháp, ly ư hữu sanh” (chẳng đạt
được hết thảy các pháp, ĺa hữu sanh). Lại
do phương tiện thiện xảo, trong Như Như bất
động, khởi vô biên tác dụng to lớn của
mười duyên sanh, dùng Như Huyễn tam-muội để
tới trọn khắp các cơi Phật trong mười
phương, thân cận đủ loại thiện tri thức,
học trọn khắp vô lượng môn “độ người”,
tùy thuộc chúng sanh đáng nên dùng loại h́nh tượng,
ngôn âm như thế nào để đắc độ, bèn
đều hiện ra để v́ họ thuyết pháp. Do vậy,
thế gian thấy dấu tích nơi mặt Sự như
thế, bèn gọi Ngài là Quán Thế Tự Tại Giả.
Đó là tên gọi khác của Nhập Liên Hoa tam-muội.
Đối
với chữ Tự Tại ở đây, âm tiếng Phạn
nếu dịch sát nghĩa, sẽ là Phú Quư. Như người
đạt được thế lực và địa vị
to lớn, trọn đủ tài bảo, tùy theo ḷng muốn
mà tự nhiên thành tựu. Vị Bồ Tát này cũng thế!
Giả sử hết thảy hữu t́nh trong mười
phương thế giới, mong cầu đủ loại
vật dụng cần thiết thuộc thế gian hay xuất
thế gian, tùy theo sự ưa muốn đủ loại
khác nhau, mà đều có thể dùng Như Huyễn tam-muội
để cùng lúc ban cho, khiến cho ai nấy đều
được măn nguyện. Nhưng do chưa thể dứt
bặt dấu tích khởi dụng (dấy lên tác dụng),
khiến cho các việc đă làm đều như kim cang. V́
thế, chia thành hai thứ ấn. Lại nữa, ở
đây nên nói về pháp môn đầu tiên để giảng
giải đạo tam-muội. Do trong phẩm trước
đă nói, cho nên chẳng nhắc lại. Lại nữa,
tam-muội của bậc Nhất Sanh Bổ Xứ và Đệ
Bát Địa như đă nói trên đây là xét theo giáo đạo
pháp môn hướng dẫn, dạy bảo mà nói như thế.
Nhưng người thuộc bí mật thừa, từ trong
Thế Đế có thể thông đạt Đệ Nhất
Nghĩa Đế, từ lúc sơ phát tâm đă hành trọn
đủ Đại Không tam-muội. Nếu chẳng
như thế, trong một đời sẽ chẳng thể
nhanh chóng viên măn các địa!
Kinh
nói: “Phục thứ Bí Mật Chủ! Thanh Văn
chúng trụ hữu duyên địa, thức
sanh diệt, trừ nhị biên, cực quán sát trí,
đắc bất tùy thuận tu hành nhân, thị danh Thanh Văn
tam-muội đạo” (Lại này, Bí Mật Chủ!
Các vị Thanh Văn trụ trong địa vị hữu
duyên, biết sanh diệt, trừ nhị biên, trí quán sát tột
bậc, đạt được chẳng tùy thuận các
cái nhân. Đó gọi là đạo tam-muội của Thanh
Văn): Như A Tỳ Đàm nói pháp cửu tưởng,
bát niệm bối xả, thắng xứ, hết thảy
nhập, ba tam-muội v.v… đều gọi là “trụ hữu
duyên địa”. Nương vào các phương tiện
tam-muội ấy, khiến cho tâm điềm nhiên, an
tĩnh, đạt được sự quán sát chánh
đáng, nhận biết pháp thế gian và xuất thế
gian đều có nhân, có duyên. Thế gian th́ lấy Tập
làm nhân, dùng Khổ làm quả; pháp xuất thế gian lấy
Đạo làm nhân, dùng Diệt làm quả, như trong A Hàm
đă nói rộng. Nói tới pháp trọng yếu trong Tỳ
Ni (Luật Tạng) th́ chính là “các pháp do duyên khởi,
Như Lai nói là nhân, pháp ấy do duyên tận,
Đại Sa Môn đă nói”. Do biết là nhân duyên sanh
diệt, bèn diệt kiến giải Hữu và Vô, xa ĺa Nhị
Biên đoạn và thường, trí Chân Đế sanh khởi.
V́ thế, gọi là Cực Quán Sát Trí. Do có thể quán sát tột
cùng, chẳng điên đảo, chẳng sai lầm, nên gọi
là Đế. Từ Vô Minh cho tới già, chết, do cái này có
nên cái kia có, do cái này sanh nên cái kia sanh, cho tới luân hồi
chẳng có ngằn hạn. Nếu thuận theo đó mà luân
chuyển th́ gọi là Thuận. Đă thấy Tứ Chân
Đế, liền trái nghịch sanh tử, hành theo chánh
đạo, cho đến có thể nói chắc chắn: “Sự
sanh của ta đă tận, phạm hạnh đă lập,
việc làm đă hoàn thành, chẳng tiếp nhận hậu
hữu (thân trong đời sau)”. Đó gọi là “chẳng
tùy thuận”. Các hạnh chẳng tùy thuận như thế,
phải dùng tam-muội làm nhân, cho nên nói là “đắc bất
tùy thuận tu hành nhân” (đạt được cái nhân
tu hành chẳng tùy thuận). Tuy các bộ nói về tam-muội
của Thanh Văn đủ loại sai khác bất đồng,
nhưng khế hợp pháp ấn như thế th́ gọi
là “chánh hạnh”. Nếu chẳng khế hợp pháp ấn
như thế, th́ gọi là “tà hạnh”.
Kinh
dạy “Bí Mật Chủ! Duyên Giác quán sát nhân quả, trụ
vô ngôn thuyết pháp, bất chuyển vô ngôn thuyết, ư
nhất thiết pháp, chứng cực diệt ngữ ngôn
tam-muội. Thị danh Duyên Giác tam-muội đạo”
(Bí Mật Chủ! Duyên Giác quán sát nhân quả, trụ vô ngôn
thuyết pháp, chẳng chuyển vô ngôn thuyết, trong hết
thảy các pháp, chứng Cực Diệt Ngữ Ngôn tam-muội.
Đó gọi là đạo tam-muội của Duyên Giác). “Nhân
quả” chính là pháp mười hai nhân duyên. Như Cực
Quán Sát Trí của Thanh Văn hiểu “chỉ có Uẩn, vô
ngă”, do tâm chán nhàm sâu nặng, bèn nhanh chóng đoạn phiền
năo, tự chứng Niết Bàn, chẳng thể phân tích, t́m
cầu Thật Tướng của mười hai nhân duyên.
Bích Chi Phật trí huệ sâu bén, có thể dùng tổng tướng
và biệt tướng để quán sát sâu xa, thấy hết
thảy các Tập pháp đều là diệt pháp. Điều
này khác hẳn Thanh Văn. Kinh A Hàm nói: “Thập nhị
nhân duyên pháp giả, hữu Phật, vô Phật, pháp vị
thường trụ” (pháp mười hai nhân duyên,
dù có Phật hay không có Phật, pháp vị thường trụ).
Ngài Long Thọ cũng nói: “Pháp vị trong ấy chính là
tên gọi khác của Như; đấy chính là chỗ khó hiểu
nhất trong hết thảy thế gian”. V́ thế, lúc
đức Thế Tôn mới thành đạo, chẳng muốn
thuyết pháp là do ư này. Sở nhập của Bích Chi Phật
sâu dần, trụ trong vô ngôn mà thuyết pháp, nên nói là “bất
chuyển”, tức là khi trụ Đệ Nhất
Nghĩa, chẳng có âm thanh và văn tự, cho nên chẳng
thể truyền dạy kẻ khác. Đức Thế Tôn
đạt được tri kiến vô ngại, tự tại
trong pháp, có thể trong vô ngôn thuyết pháp mà lập ra danh tự
để dạy lại chúng sanh. Trí huệ của Bích Chi
Phật có ngăn ngại; v́ thế, chẳng thể diễn
nói.
Lại
nữa, Bích Chi Phật quán hết thảy Tập pháp thảy
đều như tướng Niết Bàn. Trong đủ loại
cảnh giới hữu vi, gió hư luận dứt bặt, mà
chẳng hay biết, nên gọi là “chứng cực diệt
ngữ ngôn tam-muội”. Tu Du Già tương ứng với
điều này th́ gọi là Duyên Giác tam-muội. Hai loại
tam-muội ấy đều là chỗ khó khăn trong Bồ
Đề tâm, nhưng chỉ là một loại tâm tướng
trong đạo được hành, chẳng phải là tâm
tánh chẳng thể nghĩ bàn có tướng tam thừa nhất
định như thế. V́ thế, hành nhân dùng pháp ấn
này để tự ấn chứng, nhận biết rồi,
sẽ vượt thẳng qua vô ngại. Nếu chẳng
khéo hay biết, sẽ bị chướng ngại!
Kinh
nói “Bí Mật Chủ! Thế gian nhân quả cập nghiệp,
nhược sanh, nhược diệt, hệ thuộc tha chủ,
không tam-muội sanh, thị danh thế gian tam-muội đạo”
(Bí Mật Chủ! Nhân quả và nghiệp thế gian, dù sanh
hay diệt, đều thuộc vào cái khác làm chủ, Không
tam-muội sanh, đó gọi là đạo tam-muội của
thế gian), tức là hết thảy tam-muội thế
gian, nói tóm gọn, đạt tới chỗ rốt ráo là
đều diệt hoại nhân quả, và khi từ nhân mà biện
định quả đối với tất cả các nghiệp
đă tạo, [người đời] luôn cho rằng ba
chuyện ấy đều hệ thuộc thứ khác. “Thứ
khác” chính là Thần Ngă. V́ lẽ nào vậy? Nếu hành
nhân chẳng hiểu ư nghĩa của nhân duyên chánh yếu
mà tu chứng các môn Thiền, ắt sẽ chấp trước
tự tâm, cho đó là nội ngă. Họ thấy vạn pháp
trong thế gian do tâm mà có, bèn bảo là do Thần Ngă sanh ra.
Nếu chẳng thuận theo nội ngă, ắt sẽ
nương vào ngoại ngă, tức là Tự Tại Phạm
Thiên v.v… Nếu từ trong ấy, t́m cầu sâu xa cùng tột,
[do vô minh, chấp trước], sẽ tự nhiên bác bỏ
nhân và nghiệp, chỉ cho rằng ngă tánh riêng tồn tại,
cho đến chẳng có một pháp nào nhập tâm để
chứng Không định, [cho rằng] đó là lư tột bậc
trong thế gian. V́ thế, lẩn quẩn trong ba cơi, vẫn
đọa trong tam đồ. Tuy trong Thiền Định
phát sanh đủ loại trí thế gian thù thắng, trọn
đủ năm món thần thông, nhưng suy xét tông thú, rốt
cuộc vẫn quy vào chỗ ấy (tức là chấp có nội
ngă hay ngoại ngă). V́ thế, dùng cái ấn ấy để
thâu nhiếp hết thảy đạo tam-muội thế
gian. Khi hành giả nhập cái tâm ấy, sẽ tự hay biết.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết kệ ngôn: - Bí Mật
Chủ đương tri, thử đẳng tam-muội
đạo, nhược trụ Phật Thế Tôn, Bồ
Tát cứu thế giả, Duyên Giác, Thanh Văn thuyết, tồi
hại ư chư quá. Nhược chư thiên, thế gian,
chân ngôn pháp giáo đạo. Như thị cần dũng giả,
vị lợi chúng sanh cố.
(經)爾時世尊而說偈言:祕密主當知,此等三昧道,若住佛世尊,菩薩救世者,緣覺聲聞說,摧害於諸過。若諸天世間,真言法教道,如是勤勇者,為利眾生故。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bèn nói kệ rằng:
- Bí Mật Chủ nên biết, các đạo tam-muội ấy,
nếu trụ Phật Thế Tôn, Bồ Tát đấng cứu
đời, Duyên Giác, Thanh Văn nói, dẹp sạch các lỗi
lầm. Nếu chư thiên, thế gian, chân ngôn pháp giáo đạo,
bậc cần dũng như thế, do v́ lợi chúng sanh).
Trong
chánh kinh, đức Phật nói kệ thâu nhiếp, chia
năm loại tam-muội thành hai phần, tức là: Bốn
loại tam-muội của Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh
Văn, đều gọi là xuất thế gian tam-muội;
c̣n chân ngôn và pháp giáo do chư thiên v.v… đă nói th́ thuộc
vào thế gian tam-muội. Xuất thế gian tam-muội
đều có lợi ích chân thật, cho nên nói “tồi hại
ư chư quá” (dẹp tan, trừ sạch các lỗi lầm).
Thế gian tam-muội chỉ có lợi ích quyền biến,
cho nên nói “vị lợi ích chúng sanh” (v́ lợi ích chúng
sanh). Như các kinh khác đă nói, người cầu Tiểu
Thừa phải nên tu hành tác quán, tức là sanh ḷng chán nhàm
sâu xa đối với giáo pháp thế gian. Người cầu
Đại Thừa lại sanh ḷng sợ hăi sâu xa đối
với giáo pháp Thanh Văn. Đấy đều là v́ chẳng
biết “do bí mật tạng mà nói phương tiện ấy!”
Xét theo điều được đề cao trong kinh này,
năm loại tam-muội đều là môn Thật Tướng
để khai tâm. Như hành giả sơ trụ hữu
tướng Du Già chính là thế gian tam-muội, nhưng biết
rơ “chỉ có Uẩn, không ngă” trong ấy th́ là Thanh
Văn tam-muội. Nếu dùng mười câu duyên sanh để
quán các Uẩn vô tánh, vô sanh, tức là Bồ Tát tam-muội.
Những điều khác như trong phẩm Trụ Tâm
đă nói rộng. Các giáo pháp bất đồng khác do
chưa hiểu rơ ư chỉ của tâm tánh, nên ngũ thừa
bèn thành sai khác, chẳng thể dung hội! Nếu lại
dùng cách giải thích sâu xa, bí mật, th́ như ngũ vị
tam-muội[20]
trong ba tầng Mạn-đồ-la đều được
đức Tỳ Lô Giá Na bí mật gia tŕ, người
tương ứng với điều ấy, sẽ đều
có thể thành Phật trong một đời, há có cạn
hay sâu khác biệt ư? Nay những điều được
nói trong bài kệ đều là thuận theo pháp giáo
được lưu truyền của bọn họ mà nói
đó thôi!
(Kinh)
Phục thứ, Thế Tôn cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ
ngôn: “Bí Mật Chủ! Nhữ đương đế
thính chư chân ngôn chi phần dă”. Kim Cang Thủ ngôn: “Dụy
nhiên! Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn”.
(經)復次世尊告執金剛祕密主言:祕密主!汝當諦聽諸真言支分也。金剛手言:唯然。世尊!願樂欲聞。
(Kinh:
Lại nữa, đức Thế Tôn bảo Chấp Kim Cang
Bí Mật Chủ rằng: “Bí Mật Chủ! Ông hăy nên lắng
nghe các chi phần của chân ngôn”. Kim Cang Thủ thưa: “Bạch
Thế Tôn, vâng ạ! Con ưa thích muốn nghe”).
Phán
định đại lược chân ngôn có năm loại,
tức là do Như Lai nói, hoặc do Bồ Tát, Kim Cang nói, hoặc
do Nhị Thừa nói, hoặc do chư thiên nói, hoặc do
địa cư thiên như rồng, chim, A Tu La v.v… nói. Lại
nữa, ba thứ đầu được gọi là “thánh
giả chân ngôn”, loại thứ tư gọi là “chư
thiên chúng chân ngôn”, loại thứ năm là “địa
cư giả chân ngôn”, cũng có thể gọi là “chư
thần chân ngôn”. Như thánh giả chân ngôn cũng nói các
chữ A, hoặc chữ Ra v.v…, các vị trời trong thế
gian, cho đến các địa cư quỷ thần
cũng đều nói như thế. Tướng trạng
có ǵ khác nhau? [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Nếu do Phật,
Bồ Tát nói th́ trong một chữ, trọn đủ vô
lượng nghĩa”. Lại nói đại lược,
chữ A có ba nghĩa, tức là nghĩa bất sanh,
nghĩa không, và nghĩa có. Như chữ A trong tiếng Phạn
có âm thanh bổn sơ. Nếu có bổn sơ th́ tức là
pháp nhân duyên; v́ thế là “có”. Lại nữa, A có nghĩa là
Vô Sanh. Nếu pháp do nắm níu nhân duyên mà thành, tức là chẳng
có tánh; do vậy là Không. Lại nữa, bất sanh chính là cảnh
giới Nhất Thật, tức là Trung Đạo. V́ thế,
ngài Long Thọ nói: “Pháp sanh bởi nhân duyên, cũng là
Không, cũng là Giả, cũng là Trung”.
Lại
nữa, Đại Luận nói Tát Bà Nhă có ba loại tên gọi:
- Nhất
Thiết Trí, chung với Nhị Thừa.
-
Đạo Chủng Trí, chung với Bồ Tát.
- Nhất
Thiết Chủng Trí, là pháp bất cộng của Phật.
Ba trí ấy thật ra là cùng đạt
được trong một tâm, chỉ nhằm phân biệt
khiến cho người khác dễ hiểu mà lập ra ba loại
tên, tức là ba nghĩa của chữ A.
Lại
như chữ Ra (र)
cũng có ba nghĩa:
- Một,
nghĩa là “trần” (bụi bặm).
-
Hai, do nhập môn chữ A nên chính là nghĩa “vô trần”.
- Lại
có nghĩa là Ba La Mật, do rốt ráo đạt đến
bờ kia, tức là bổn sơ bất sanh.
Hăy
nên biết cũng là trọn đủ ba điểm, ba
điểm chính là nhiếp hết thảy các pháp. Như chữ
A và chữ Ra, ư nghĩa của các chữ khác cũng đều
là như thế. Lại nữa, trong hết thảy lời
nói, hễ có kèm theo âm A, sẽ đều thuộc vào môn chữ
A. Nếu kèm theo âm Ra, đều thuộc vào môn chữ Ra.
Các chữ khác cũng thế! Do Đại Luận giải
thích ư nghĩa của các tiếng, các chữ đều
tương đồng, trong phần sau sẽ không giải
thích cặn kẽ nữa!
Nếu
chân ngôn của các Bồ Tát có chữ A, hăy nên biết trong
pháp giới môn được thông đạt bởi chân
môn ấy có trọn đủ hết thảy các nghĩa,
chẳng phải là các ư nghĩa trọn đủ trong phổ
môn pháp giới. Nếu chân ngôn của Nhị Thừa có chữ
A th́ hăy nên biết: Chỉ xét theo Tận Vô Sanh Trí, tịch
diệt Niết Bàn để nói về nghĩa “bất
sanh”. Nếu là chân ngôn do Phạm Thiên nói ra mà có chữ A, xét
theo ĺa ngũ dục, dựa theo “giác quán bất sanh” để
nêu rơ ư nghĩa. Nếu chân ngôn của Đế Thích và các vị
trời Hộ Thế có chữ A, tức là xét theo Thập
Bất Thiện đạo và ư nghĩa “các tai hoạn bất
ngờ chẳng nẩy sanh”. Những điều khác cứ
phỏng theo đó mà suy ra. Những điều vừa nói
trên đây đều là lời lẽ thuận theo ư của
người khác mà nói, nhằm nêu bày ư nghĩa nông cạn,
sơ lược.
Nếu
là lời lẽ thuận theo ư ḿnh để nêu bày ư
nghĩa sâu xa, bí mật, th́ hễ nhập một môn, sẽ
đều trọn đủ hết thảy các pháp giới
môn. Thậm chí các vị trời, quỷ thần v.v… trong thế
gian đều là Tỳ Lô Giá Na, há có cạn hay sâu sai khác
ư? Nếu hành giả có thể từ trong vô sai biệt,
thấu hiểu ư nghĩa sai biệt, hăy nên biết là
người thông đạt nghĩa Nhị Đế, mà
cũng là biết tướng chân ngôn vậy.
(Kinh)
Chánh Đẳng Giác chân ngôn, ngôn danh thành lập tướng,
như Nhân Đà La tông, chư nghĩa lợi thành tựu, hữu
tăng gia pháp cú, bổn danh hạnh tương ứng.
Nhược Án tự, Hồng tự, cập dữ Bát Trách
Ca, hoặc Hiệt Rị Bễ đẳng, thị Phật
Đảnh danh hiệu. Nhược Yết Lật Ngận
Noa, Khư Đà Da Bạn Xà, Ha Na Ma Ra dă, Bát Trá Dă đẳng
loại, thị phụng giáo sứ giả, chư Phẫn
Nộ chân ngôn. Nhược hữu Nạp Ma tự, cập
Sa Phược Ha đẳng, thị tu Tam-ma-địa, tịch
hạnh giả tiêu tướng. Nhược hữu Phiến
Đa tự, Vi Thú Đà tự đẳng, đương
tri năng măn túc, nhất thiết sở hy nguyện. Thử
Chánh Giác Phật tử, cứu thế giả chân ngôn.
Nhược Thanh Văn sở thuyết, nhất nhất cú
an bố. Thị trung Bích Chi Phật, phục hữu thiểu
sai biệt, vị tam-muội phần dị, tịnh trừ
ư nghiệp sanh.
(經)正等覺真言,言名成立相,如因陀羅宗,諸義利成就。有增加法句,本名行相應,若唵字吽字,及與潑磔迦,或頡唎嫓等,是佛頂名號。若揭㗚佷拏,佉陀耶畔闍,訶娜摩囉也,鉢吒也等類,是奉教使者,諸忿怒真言。若有納麼字,及莎縛訶等,是修三摩地,寂行者標相。若有扇多字,微戍陀字等,當知能滿足,一切所希願。此正覺佛子,救世者真言,若聲聞所說,一一句安布,是中辟支佛,復有少差別,謂三昧分異,淨除於業生。
(Kinh: Chân ngôn
Chánh Đẳng Giác; ngôn, danh thành lập tướng,
như Đế Thích tạo luận, thành tựu các
nghĩa lợi. Có tăng thêm câu pháp, vốn tên Hành
Tương Ứng. Như chữ Án (Oṃ),
chữ Hồng (Hūṃ),
cùng với Bát Trách Ca (Phaṭaka),
hoặc Hiệt Rị (Hrīḥ),
Bễ (Bhi) thảy, là danh hiệu Phật Đảnh. Nếu
Yết Lật Hận Noa (Gṛhṇa),
Khư Đà Da (Khādaya)
Bạn Xà (Bhañja),
Ha Na Ma Ra Dă (Hadamāraya),
Bát Trá Dă (sphāṭaya)
các loại, là phụng giáo sứ giả, các Phẫn Nộ
chân ngôn. Nếu có chữ Nạp Ma (namaḥ),
và Sa Phược Ha (svāhā) thảy,
chính là chữ biểu trưng, của người tu tịch
hạnh. Nếu có chữ Phiến Đa (śānta),
chữ Vi Thú Đà (viśuddha)
thảy, hăy nên biết trọn thỏa, hết thảy các
ước nguyện. Đó chính là chân ngôn, bậc chánh giác
Phật tử, chân ngôn đấng cứu thế. Nếu
do Thanh Văn nói ra, mỗi mỗi câu sắp xếp. Bích Chi
Phật trong ấy, lại có chút sai biệt, tức tam nghiệp
muội sai khác, đều trừ sạch nghiệp sanh).
Lại
nữa, trong kinh tự nói tướng trạng của các
Chân Ngôn. Bài kệ thứ nhất nói: “Chánh Đẳng
Giác chân ngôn, ngôn danh thành lập tướng, như Nhân
Đà La tông, chư nghĩa lợi thành tựu” (Chân ngôn
của bậc Đẳng Chánh Giác, do ngôn và danh mà thành lập
tướng, như Nhân Đà La tông (luận do Đế
Thích soạn), thành tựu các nghĩa lợi), nói về
tướng trạng chung nơi chân ngôn của Như Lai.
Nay chỉ nói theo tam-muội-da chân ngôn tối sơ. “Ngôn”
là nói mỗi một chữ đều là một loại nhập
pháp giới môn, như nói A Tam Mê (Asame) th́ chữ A là môn Vô
Sanh, chữ Sa là môn Vô Đế, chữ Ma là môn Đại
Không. “Danh” là mỗi một tự môn hợp thành một
danh, như A có nghĩa là Vô, Tam Mê là Đẳng. Nếu nói
gộp chung, sẽ chính là Vô Đẳng. “Thành lập”
là nhờ vào các danh ấy, từ đầu tới cuối,
hợp thành một nghĩa. Như câu đầu là Vô Đẳng,
câu kế là nói Tam Đẳng, câu kế đó là tam-muội-da,
cùng nhau thành lập, tức là Vô Đẳng Tam B́nh Đẳng
Tam-muội-da. Lại nữa, như do nhiều danh cùng hợp
thành một câu, như “chư hành vô thường” v.v…
Cho đến tổng hợp nhiều câu thành một kệ,
sau đấy ư nghĩa mới viên măn, tức là “chư
hành vô thường, thị sanh diệt pháp, sanh diệt diệt
dĩ, tịch diệt vi lạc” (các hành vô thường,
là pháp sanh diệt, sanh diệt đă diệt, tịch diệt
là vui), đều là tướng thành lập bởi chân
ngôn. Các điều khác đều phỏng theo lệ này.
“Như
Nhân Đà La tông”: Nhân Đà La (Indra) là tên gọi khác của
Thiên Đế Thích. Đế Thích tự tạo thanh luận,
trong một lời có thể bao hàm trọn các nghĩa. V́ thế,
dẫn chuyện này làm chứng. Trí huệ thế gian mà c̣n
như thế, huống hồ Như Lai tự tại trong
các pháp ư?
“Chư
nghĩa lợi thành tựu” (thành tựu các nghĩa lợi),
tức là đối với chân ngôn của Như Lai, trong mỗi
một chữ đều trọn có thể thành tựu các
nghĩa lợi. Trong mỗi một danh, cũng đều
trọn có thể thành tựu hết thảy nghĩa lợi.
Trong mỗi tướng được thành lập,
cũng trọn có thể thành tựu hết thảy
nghĩa lợi. Nếu nêu ra chữ tối sơ là chữ
A trong tam-muội-da chân ngôn, do nó có nghĩa “vốn bất
sanh”, tức là có tác dụng Tức Tai. Do vốn bất
sanh, nên hết thảy các công đức trọn đủ,
chẳng thiếu, tức là có tác dụng Tăng Ích. Do vốn
chẳng sanh, vô lượng lầm lỗi bị diệt
trừ chẳng sót, tức là có tác dụng Hàng Phục. Lại
chẳng có một pháp nào vượt ngoài cái “vốn bất
sanh” ấy, tức là có tác dụng Nhiếp Triệu. Trong
cái “vốn chẳng sanh” như thế, do chẳng có công dụng,
nên có thể hoàn thành hết thảy các sự. Như chữ
A, mỗi chữ khác cũng đều là như thế.
Như mỗi một chữ, mỗi một danh, ngôn, và
tướng thành lập cũng đều như thế.
Do vậy, hăy nên biết đấy chính là trong chân ngôn trọn
đủ hết thảy các công dụng. Tướng trạng
chung của chân ngôn đă nói xong.
Kế
đó, nói về biệt tướng của chân ngôn, cho nên
nói: “Hữu gia tăng pháp cú, bổn danh hành tương ứng”
(có tăng thêm câu pháp, sao cho tên gọi của chân ngôn
tương ứng với điều sẽ được
thực hiện bởi chân ngôn ấy), ư nói: Phàm tạo tác
các sự nghiệp chân ngôn, hăy nên quán danh xưng vốn
được thành lập và ư thú tạo tác trong chân ngôn ấy,
nhằm biện định bộ loại sai biệt của
nó, tùy theo tánh tướng đáng nên mà thực hiện, sử
dụng. Nếu danh nghĩa và tác dụng của chân ngôn chẳng
tương ứng, hăy nên vâng theo đúng pháp mà tăng thêm
các câu có ư nghĩa. Như trong chân ngôn có các thứ danh ngôn
sai biệt trong pháp giới pháp tánh Đại Không chẳng
thể nghĩ bàn, do tương ứng với chân thể
tự chứng của Như Lai, hăy nên biết đó là chân
ngôn thuộc Phật Bộ. Nếu là [chân ngôn thuộc] các
bộ khác [nhưng do tương ứng với chân thể
tự chứng của Như Lai], cũng có thể dùng
như [chân ngôn thuộc] Phật Bộ. Nếu có danh
nghĩa tương ứng với Đại Bi Phổ Nhăn
vô nhiễm trước, hăy nên biết là dùng cho Liên Hoa Bộ.
Nếu có danh nghĩa tương ứng với Kim Cang Bất
Hoại Vô Hư Luận, hăy nên biết là dùng cho Kim Cang Bộ.
Các nghĩa như thế vô lượng vô biên, Du Già hành nhân
hăy nên dùng ư để suy ra, chẳng cần phải chép
tường tận.
Lại
nữa, kinh tự nói tác dụng tương ứng với
danh hạnh. Tức là nếu trong chân ngôn có các chữ Án (ॐ,
Oṃ), Hồng (हूं, Hūṃ), Phát (फ, phát ), ङ्क (ṅka, trách ca), Hiệt Rị (ह्रि, hri), Bệ
(भि, bhi) v.v… Hăy nên biết đó là danh hiệu của Phật
Đảnh. Nếu có các chữ như Yết Lật (गृ,
gṛ),
Hận Noa (ह्ण,
hṇa, có nghĩa là “chấp thủ”), Khư (ख,
kha), Đà (द, da), Da (य,
ya) (nghĩa là “ăn”), Bạn Xà (भज,
bhaja, nghĩa là “phá hoại”), Ha Na (हद,
hada, có nghĩa là “đánh”), Ma La Dă (मरय,
maraya, có nghĩa “giết”), Bát Trá Dă (फटय,
phaṭaya, nghĩa là “ném”) như thế, hăy nên biết là
chân ngôn của các vị Phẫn Nộ hoặc Phụng
Giáo, có thể dùng để hàng phục, nhiếp triệu.
Như nói “đạm thực” (ăn nuốt) th́
“ăn nuốt” nghĩa là khiến cho các vị Phẫn Nộ
nuốt, diệt hết thảy loài Tỳ Na Dă Ca. Nếu
hiểu là “thật sự ăn nuốt” [các quỷ thần],
chư Phật sẽ mắc tội giết chúng sanh. Nay xét
theo nghĩa được giảng giải trong tông này, nói
Tỳ Na Dă Ca (Vināyaka) cũng
tức là “hết thảy các thứ có thể gây ra chướng
ngại”. Các chướng ấy đều từ cái tâm vọng
tưởng sanh ra. Nếu có thể “ăn nuốt” trọng
chướng như thế, khiến cho tâm mục mở
sáng, hăy nên biết đó gọi là bậc Chân Phẫn Nộ.
Dùng môn chữ Khư (ख,
Kha) để ăn nuốt các chướng của hết
thảy chúng sanh, sẽ là người được
Như Lai sai khiến hành Như Lai sự. Những điều
khác có thể suy luận tương tự mà biết.
Lại
nữa, nếu trong chân ngôn có chữ Nạp-ma (नमः,
Namaḥ,
có nghĩa là “quy mạng”), chữ Sa Phược Ha (स्वाहा,
Svāhā, nghĩa là “nhiếp thủ”) v.v… hăy nên biết
đó là chân ngôn tương ứng với tu Tam-ma-địa
tịch tĩnh. Hoặc có các chữ Phiến Đa (षत,
Ṣata, nghĩa là “tịch”), Vi Thú Đà (विशुद्ध,
Viśuddhā, nghĩa là “thanh tịnh”), hăy nên biết
đó là chân ngôn thành tựu viên măn hết thảy các nguyện.
Hơn nữa, Phiến Đa cũng có nghĩa là Tức
Tai, tương ứng với Phật Bộ. Những
điều khác như trong các kinh Tô Tất Địa v.v…
đă nói tường tận. Những điều đă nói
trên đây đều là tướng chân ngôn của Phật,
Bồ Tát.
Kế
đó nói “nhược Thanh Văn sở thuyết, nhất
nhất cú an bố” (nếu là [chân ngôn] do Thanh Văn nói,
mỗi câu đều xếp đặt): Do Thanh Văn nhờ
vào người khác mà được ngộ, nhập pháp
tánh chưa sâu, không thể trong một lời trọn chứa trọn các đức.
Nếu nói một bài kệ bốn câu như “chư hành
vô thường…”, muốn theo thứ tự xếp đặt
văn nghĩa chẳng khuyết để trở thành chân
ngôn, chớ nên dùng tự môn để nêu ra ư nghĩa và
tăng thêm danh và cú (câu). Tuy Bích Chi Phật vô ngôn thuyết,
cũng có thể dùng sức thần thông hiện ra chân ngôn,
khiến cho những người thọ tŕ đều
đạt được nghĩa lợi. “Thị trung,
thiếu hữu sai biệt” (trong ấy, có chút sai biệt),
tức là Lậu Tận của Bích Chi Phật và Thanh
Văn giống nhau, nhưng tam-muội có cạn hay sâu sai
khác, có thể dùng thần thông để lợi ích chúng
sanh, khiến cho sở nguyện của họ đều
được thành tựu. Trừ tứ đại đệ
tử ra, sức của các vị Thanh Văn khác chẳng
thể. Lại nữa, chân ngôn ấy chỉ nhằm nói lư “mười
hai nhân duyên tịch diệt”; cho nên nói: “Vị tam-muội
phần dị, tịnh trừ ư nghiệp sanh” (Tức
là tam muội có phần nào sai khác, nhưng đều là trừ
sạch các quả do nghiệp sanh khởi).
(Kinh)
Phục thứ Bí Mật Chủ! Thử chân ngôn tướng,
phi nhất thiết chư Phật sở tác, bất linh tha
tác, diệc bất tùy hỷ. Hà dĩ cố? Dĩ thị
chư pháp, pháp như thị cố. Nhược chư
Như Lai xuất hiện, nhược chư Như Lai bất
xuất, chư pháp pháp nhĩ như thị trụ. Vị
chư chân ngôn, chân ngôn pháp nhĩ cố. Bí Mật Chủ!
Thành Chánh Đẳng Giác nhất thiết tri giả, nhất
thiết kiến giả, xuất hưng vu thế, nhi tự
thử pháp thuyết chủng chủng đạo, tùy chủng
chủng lạc dục, chủng chủng chư chúng sanh
tâm, dĩ chủng chủng cú, chủng chủng văn, chủng
chủng tùy phương ngữ ngôn, chủng chủng
chư thú âm thanh, nhi dĩ gia tŕ, thuyết chân ngôn đạo.
(經)復次祕密主!此真言相非一切諸佛所作,不令他作亦不隨喜。何以故?以是諸法法如是故。若諸如來出現、若諸如來不出,諸法法爾如是住。謂諸真言,真言法爾故。祕密主!成正等覺一切知者、一切見者出興于世,而自此法說種種道,隨種種樂欲、種種諸眾生心,以種種句、種種文、種種隨方語言、種種諸趣音聲而以加持說真言道。
(Kinh:
Lại này, Bí Mật Chủ! Tướng chân ngôn này chẳng
do hết thảy chư Phật làm ra, chẳng khiến
người khác làm, mà cũng chẳng tùy hỷ. V́ sao vậy?
Do các pháp ấy, pháp vốn là như thế. Dù các đức
Như Lai xuất hiện, hay chư Như Lai chẳng xuất
hiện, các pháp vẫn vốn sẵn
trụ như thế, tức là các chân ngôn và pháp chân ngôn vốn
sẵn là như thế đó. Bí Mật Chủ! Bậc
thành Chánh Đẳng Giác biết hết thảy, thấy hết
thảy, xuất hiện trong cơi đời, bèn từ pháp
này mà nói đủ loại đạo, tùy theo các thứ
ưa thích, mong muốn, thuận theo các loại tâm của
chúng sanh, dùng đủ loại câu, đủ loại
văn, đủ loại ngôn ngữ theo từng nơi,
đủ loại âm thanh trong các đường để
gia tŕ, nói đạo chân ngôn).
Kế
đó, kinh nói đến Thật Tướng của chân
ngôn, nên nói: “Phục thứ Bí Mật Chủ! Thử Chân
Ngôn tướng, phi nhất thiết chư Phật sở
tác, bất linh tha tác, diệc bất tùy hỷ, hà dĩ cố?
Dĩ thị chư pháp, pháp như thị cố. Nhược
chư Như Lai xuất hiện, nhược chư Như
Lai bất xuất, chư pháp pháp nhĩ như thị trụ.
Vị chư chân ngôn, chân ngôn pháp nhĩ cố” (Lại
này, Bí Mật Chủ! Tướng chân ngôn này chẳng do hết
thảy chư Phật làm ra, chẳng khiến người
khác làm, mà cũng chẳng tùy hỷ. V́ sao vậy? Do các pháp ấy,
pháp vốn sẵn là như thế. Dù các đức Như
Lai xuất hiện, hay chư Như Lai chẳng xuất hiện,
các pháp vẫn vốn sẵn trụ như thế, tức
là các chân ngôn và pháp chân ngôn vốn sẵn như thế
đó). Do thân, ngữ, ư của Như Lai rốt ráo b́nh
đẳng; tướng, thanh, và chữ của chân ngôn
đều là thường. Do là thường nên chẳng dời,
chẳng có biến đổi, pháp vốn sẵn là như
thế, chẳng phải là do tạo tác mà thành. Nếu có thể
tạo thành th́ chính là sanh pháp (pháp được sanh bởi
các pháp khác). Hễ pháp có sanh, sẽ có thể phá hoại, bốn
tướng đổi dời, vô thường, vô ngă, há có
ǵ gọi là chân thật ngữ ư? Do vậy, Phật chẳng
tự làm, chẳng sai kẻ khác làm. Giả sử có người
có thể làm th́ cũng chẳng tùy hỷ. V́ thế, tướng
chân ngôn này, dù Phật xuất hiện trong cơi đời, hoặc
chẳng xuất thế, hoặc đă nói, hoặc chưa
nói, hoặc đang nói, pháp trụ pháp vị, tánh tướng
thường trụ. Do vậy gọi là nhất định
ấn, đạo của các vị thánh như nhau. Tức
là hết thảy các chân ngôn trong Đại Bi Mạn-đồ-la
này, tướng của mỗi chân ngôn đều vốn sẵn
như thế, cho nên nhắc lại [lần nữa để
nhấn mạnh].
Nếu
là như thế, tướng của các chân ngôn là rốt
ráo tịch diệt, chẳng truyền cho người khác,
cớ sao có lúc xuất hiện, có khi ẩn mất? Do vậy,
kinh lại giải thích nguyên do, bèn nói rằng: “Bí Mật
Chủ! Thành Chánh Đẳng Giác, nhất thiết trí giả,
nhất thiết kiến giả, xuất hưng vu thế,
nhi tự dĩ thử pháp thuyết chủng chủng đạo,
tùy chủng chủng lạc dục, chủng chủng
chư chúng sanh tâm, dĩ chủng chủng cú, chủng chủng
văn, chủng chủng tùy phương ngữ ngôn, chủng
chủng chư thú âm thanh, nhi dĩ gia tŕ thuyết chân thật
đạo” (Bí Mật Chủ! Bậc thành Chánh Đẳng
Giác biết hết thảy, thấy hết thảy, xuất
hiện trong cơi đời, bèn từ pháp này mà nói đủ
loại đạo, tùy theo các thứ ưa thích, mong muốn,
thuận theo các loại tâm của chúng sanh, dùng đủ loại
câu, đủ loại văn, đủ loại ngôn ngữ
theo từng nơi, đủ loại âm thanh trong các
đường để gia tŕ, nói đạo chân thật).
Ư nói: Pháp thể do Như Lai tự chứng, chẳng phải
do Phật tự làm, chẳng phải do trời, người
nào khác làm ra, pháp vốn sẵn thường trụ. [Đức
Phật] bèn dùng thần lực gia tŕ để [chân ngôn] xuất
hiện trong cơi đời, lợi ích chúng sanh. Nay môn Chân
Ngôn “thân, khẩu, ư bí mật” này chính là thân, khẩu, ư b́nh
đẳng của Pháp Thân Phật, nhưng cũng do sức
gia tŕ, bèn xuất hiện trong cơi đời để lợi
ích chúng sanh. Tri kiến vô ngại của Như Lai vốn sẵn
thành tựu liên tục nơi hết thảy chúng sanh, chẳng
có khuyết giảm. Do chẳng như thật nhận biết
thể tướng của chân ngôn ấy, nên gọi là “kẻ
ở trong sanh tử”. Nếu lúc có thể tự biết,
tự thấy, th́ gọi là bậc “biết hết thảy,
thấy hết thảy”. Do thấy biết như thế,
chẳng do Phật tự tạo tác, cũng chẳng phải
do kẻ khác truyền trao.
Đức
Phật ngồi đạo tràng, chứng pháp như thế
rồi, biết rơ hết thảy thế giới vốn sẵn
thường là pháp giới, lập tức sanh đại
bi tâm: “Cớ sao chúng sanh hết sức gần Phật
đạo mà chẳng thể tự giác?” Do bởi nhân duyên
ấy, Như Lai xuất hiện trong thế gian, vẫn
dùng pháp giới chẳng thể nghĩ bàn như thế,
chia thành đủ loại đạo, khai thị đủ
loại thừa, tùy thuận đủ loại căn
cơ, tâm hạnh, ưa thích, mà dùng đủ loại câu chữ,
ngôn ngữ địa phương, tự tại gia tŕ
để nói đạo chân ngôn. Tuy sanh từ nhân duyên
cơ cảm, nhưng chẳng dao động Thật Tế.
Tuy phương tiện thiện xảo không ǵ chẳng thực
hiện, nhưng chẳng phải là do Phật tạo tác. Dẫu
nói trọn khắp các điều khác biệt, nhưng chỉ
dùng tri kiến của Phật để chỉ bày, giác ngộ
chúng sanh. Nếu hành giả đối với mười
thí dụ về Chân Ngôn (như huyễn, như mộng,
như ánh nắng gợn v.v…) mà hư vọng thấy hữu
vi sanh diệt rồi tăng trưởng tâm cấu, sẽ
chẳng phải là bổn ư của Như Lai.
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Vân hà Như Lai chân ngôn đạo? Vị
gia tŕ thử thư tả văn tự.
(經)祕密主!云何如來真言道?謂加持此書寫文字。
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Thế nào là đạo chân ngôn của
Như Lai? Chính là gia tŕ văn tự được biên chép
ấy).
Lại
nữa, do chúng sanh đời vị lai độn căn,
mê nơi Nhị Đế, chẳng biết “Tục chính
là Chân”; v́ thế, đức Thế Tôn ân cần chỉ
bày rằng: “Bí Mật Chủ! Vân hà Như Lai chân thật
đạo? Vị gia tŕ thử thư tả văn tự”
(Bí Mật Chủ! Thế nào là đạo chân thật của
Như Lai? Chính là gia tŕ văn tự được biên chép
ấy). Do văn tự của thế gian là thật
nghĩa của ngôn ngữ; v́ thế, Như Lai liền dùng
thật nghĩa của chân ngôn để gia tŕ. Nếu
vượt ngoài pháp tánh mà riêng có văn tự thế gian, tức
là do vọng tâm mà thấy lầm lạc, đều chẳng
có thật thể để có thể cầu, nhưng đức
Phật dùng thần lực gia tŕ, sẽ là tùy thuận
điên đảo, chẳng phải là chân ngôn. Đă biết
chỗ gia tŕ, Như Lai dùng pháp nào để gia tŕ vậy?
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Như Lai vô lượng bách thiên câu-chi
na-dữu-đa kiếp, tích tập tu hành chân thật đế
ngữ, Tứ Thánh Đế, Tứ Niệm Xứ, Tứ
Thần Túc, Thập Như Lai Lực, Lục Ba La Mật,
Thất Bồ Đề Bảo, Tứ Phạm Trụ, thập
bát Phật bất cộng pháp. Bí Mật Chủ! Dĩ yếu
ngôn chi, chư Như Lai Nhất Thiết Trí trí, nhất thiết
Như Lai tự phước trí lực, tự nguyện trí
lực, nhất thiết pháp giới gia tŕ lực, tùy thuận
chúng sanh, như kỳ chủng loại, khai thị Chân Ngôn
giáo pháp.
(經)祕密主!如來無量百千俱胝那庾多劫,積集修行真實諦語,四聖諦、四念處、四神足、十如來力、六波羅蜜、七菩提寶、四梵住、十八佛不共法。祕密主!以要言之,諸如來一切智智。一切如來自福智力、自願智力、一切法界加持力,隨順眾生,如其種類開示真言教法。
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Như Lai trong vô lượng trăm ngàn
câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập, tu hành lời chân
lư chân thật, Tứ Thánh Đế, Tứ Niệm Xứ,
Tứ Thần Túc, mười lực của Như Lai, sáu
Ba La Mật, Thất Bồ Đề Bảo, Tứ Phạm
Trụ, mười tám pháp bất cộng của Phật.
Bí Mật Chủ! Nói tóm lại, trí Nhất Thiết Trí của
Như Lai, hết thảy sức phước trí của
chính Như Lai, trí lực do tự thệ nguyện, sức
gia tŕ của hết thảy pháp giới, tùy thuận chúng
sanh, đúng như chủng loại của họ mà khai thị
giáo pháp Chân Ngôn).
V́
thế, kế đó đức Phật nói: “Bí Mật Chủ!
Như Lai vô lượng bách thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp,
tích tập tu hành chân thật đế ngữ, Tứ Thánh
Đế, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thần Túc, thập
Như Lai lực, Lục Ba La Mật, Thất Bồ Đề
Bảo, Tứ Phạm Trụ, thập bát Phật bất cộng
pháp. Bí Mật Chủ! Dĩ yếu ngôn chi, chư Như Lai
Nhất Thiết Trí trí, nhất thiết Như Lai tự
phước trí lực, tự nguyện trí lực, nhất
thiết pháp giới gia tŕ lực, tùy thuận chúng sanh,
như kỳ chủng loại, khai thị Chân Ngôn giáo pháp” (Bí
Mật Chủ! Như Lai trong vô lượng trăm ngàn
câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập, tu hành lời chân
lư chân thật, Tứ Thánh Đế, Tứ Niệm Xứ,
Tứ Thần Túc, mười lực của Như Lai, sáu
Ba La Mật, Thất Bồ Đề Bảo, Tứ Phạm
Trụ, mười tám pháp bất cộng của Phật.
Bí Mật Chủ! Nói tóm lại, trí Nhất Thiết Trí của
Như Lai, hết thảy sức phước trí của
chính Như Lai, trí lực do tự thệ nguyện, sức
gia tŕ của hết thảy pháp giới, tùy thuận chúng
sanh, đúng như chủng loại của họ mà khai thị
giáo pháp Chân Ngôn), tức là Như Lai trong vô lượng
A-tăng-kỳ kiếp tích tập công đức, phổ
môn gia tŕ trọn khắp hết thảy các chốn. V́ thế,
tùy theo mỗi một chữ, mỗi một danh từ
được thành lập, đều như thanh luận
của Nhân Đà La (Indra, Đế Thích), hết thảy
nghĩa lợi không ǵ chẳng thành tựu. Lại c̣n trong
mỗi một công đức ấy, đều giống
như tướng Chân Ngôn, pháp tánh vốn tự như vậy,
chẳng phải do tạo tác mà thành.
Nay
lại dựa theo một chữ A để biện định
nghĩa này. Như khi hành giả tự chứng cái tâm, biết
rơ nhân quả thế gian và xuất thế gian vốn bất
sanh, chẳng có Khổ, Tập, Diệt, Đạo, mà có Nhất
Thật Đế. Đă thấy Nhất Thật Đế
rồi, nhất định sẽ sư tử hống, rộng
v́ chúng sanh mà nói. Đó gọi là “tích tập tu hành chân thật
đế ngữ”. Lại biết tám món điên đảo[21]
vốn thật sự chẳng sanh, thành tựu Như Lai Niệm
Xứ. Do biết Tứ Như Ư Túc vốn bất sanh, thành
tựu pháp tánh thần thông. Do biết các thứ như Thị
Xứ Phi Xứ Trí v.v… vốn bất sanh, thành tựu trí lực
tự nhiên của Phật. Do biết Lục Tế[22]
vốn bất sanh, đạt đến bờ kia Lục
Độ. Do biết Thất Bồ Đề Phần vốn
bất sanh, thành tựu bảy loại báu Vô Sư Giác (giác
ngộ không do thầy dạy). Do biết Tứ Phạm Trụ
(từ, bi, hỷ, xả) vốn bất sanh, thành tựu vô
duyên từ bi hỷ xả. Do biết mười tám loại
pháp vốn bất sanh, cho nên vượt ngoài tâm lượng,
chẳng cùng chung với hết thảy chúng sanh. Cho tới
đủ loại pháp môn, sẽ đều tự tại
nói.
Lại
nữa, như ư nghĩa trong phẩm đầu tiên của
kinh này, nếu biết rơ “chỉ có Uẩn, không có ngă”,
cho tới khi chứng tịch nhiên giới, hăy nên dựa
theo “ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả vốn bất sanh”
để nói rơ các thứ pháp môn. Khi dùng năm thứ thí dụ
để quán sát tánh Không, hăy nên dựa theo “các Uẩn vốn
bất sanh” để nói rơ các thứ pháp môn. Khi quán sát Uẩn
A Lại Da cho đến tiền tế và hậu tế của
giác tâm đều chẳng thể được, hăy nên xét
theo “h́nh bóng của cái tâm vốn bất sanh” mà nói các
thứ pháp môn. Khi tâm cực vô tự tánh sanh khởi, hăy nên
dựa theo “Bồ Đề tâm thanh tịnh vốn bất
sanh” để nói rơ các loại pháp môn. Cho tới Như
Lai địa, hăy nên dựa theo ư nghĩa “rốt ráo bất
sanh” của Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la
để nói các thứ pháp môn. Như môn chữ A bất
sanh, môn chữ Ca vô tác v.v… đều nên nói rộng. Như
mỗi một chữ, cho đến mỗi một danh, mỗi
mỗi thành lập, đều nên nói rộng.
Lại
nữa, đức Thế Tôn tự tại trong các pháp, hoặc
dùng một chữ để nhiếp các thứ “một
pháp môn” như Bồ Đề tâm v.v… Hoặc dùng hai chữ
để nhiếp đủ loại “hai pháp môn” như Chỉ
Quán v.v… Hoặc dùng ba chữ để nhiếp các loại
“ba pháp môn” như Tam Không v.v… Hoặc dùng bốn chữ
để nhiếp đủ loại “bốn pháp môn”
như Tứ Niệm Xứ v.v… Hoặc dùng năm chữ
để nhiếp các loại “năm pháp môn” như Căn,
Lực v.v… Hoặc dùng sáu chữ để nhiếp đủ
loại “sáu pháp môn” như Lục Độ v.v… Hoặc dùng
bảy chữ để nhiếp đủ loại “bảy
pháp môn” như Thất Bồ Đề Bảo (Thất Giác
Chi) v.v… Hoặc dùng tám chữ để nhiếp đủ
loại “tám pháp môn” như Bát Trực Đạo (Bát Chánh
Đạo). Hoặc dùng chín chữ để nhiếp
đủ loại “chín pháp môn” như Cửu Định
v.v… Hoặc dùng mười chữ nhiếp đủ loại
“mười pháp môn” như Thập Lực v.v… Cho đến
dùng vô lượng chữ để nhiếp vô lượng
pháp môn. Các danh, cú v.v… cũng giống như thế.
Nếu
xét theo tướng trạng chung của chân ngôn, như khi
hành giả tŕ một môn chữ A, tùy theo sự ưa thích
và cơ duyên của người đó, hoặc ngộ Tứ
Niệm Xứ, hoặc ngộ Tứ Thần Thông v.v… mỗi
mỗi bất đồng. Nhưng khi đă hiểu bất
cứ một môn nào, sẽ trọn đủ các pháp môn
khác, các thứ pháp bảo không cầu mà tự đến!
Nếu xét theo biệt tướng, như dùng bốn chữ
để nhiếp Tứ Niệm Xứ môn. Nếu lúc
đúng như pháp tu hành, tuy trước kia chưa từng
chánh quán “thân, thọ, tâm, pháp”, tự nhiên ngộ Niệm Xứ
môn mà nhập các pháp môn thuộc pháp giới.
Danh nghĩa hiểu theo lối thông thường th́ như trong
Trí Độ Luận v.v… đă nói rộng. Lại nữa,
Như Lai dùng đủ loại pháp môn, chẳng thể nêu
trọn, lại nêu ra điều trọng yếu để
nói. Thoạt đầu nói tới trí Nhất Thiết Trí, tức
là nêu chung hết thảy Kim Cang trí ấn của mười
phương ba đời Như Lai, dùng pháp ấy để
cùng nhau gia tŕ, không ǵ chẳng trọn vẹn. Lại nữa,
hết thảy Như Lai khi hành Bồ Tát đạo, tích tập
vô biên khối phước, phát sanh vô tận đại nguyện,
cho tới rốt ráo viên măn Tát Bà Nhă. Do vậy, đều được
gọi là Trí. Nói do phước nguyện trí lực như
thế, và sức gia tŕ của hết thảy các pháp giới
bổn tánh, tùy thuận thế gian, đúng như từng
chủng loại mà thực hiện gia tŕ. Do vậy, trong
thân, ngữ, ư của hết thảy chúng sanh, đều có
thể khai thị giáo pháp Chân Ngôn.
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Vân hà chân ngôn pháp giáo?
(經)祕密主!云何真言法教?
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Thế nào là pháp giáo chân ngôn?)
Tức
là nói các môn như chữ A v.v… chính là giáo tướng của
chân ngôn. Tuy Tướng chẳng khác Thể, Thể chẳng
khác Tướng, Tướng chẳng tạo tác, tu đă
thành tựu, chẳng thể chỉ bày cho người khác,
nhưng có thể chẳng ĺa giải thoát, hiện làm âm
thanh và chữ. Mỗi mỗi chữ và âm thanh chính là nhập
pháp giới môn. V́ thế, được gọi là “pháp
giáo chân ngôn”. Luận định pháp giáo chân ngôn, hăy nên trọn
khắp hết thảy các danh ngôn trong các nơi, các
đường; nhưng do thoạt đầu Như Lai thị
hiện dấu tích xuất thế tại Thiên Trúc, người
truyền pháp bèn dựa theo tiếng Phạn để làm
phương cách nêu bày ư nghĩa vậy!
(Kinh)
Vị A tự môn, nhất thiết chư pháp bổn bất
sanh cố.
(經)謂阿字門,一切諸法本不生故。
(Kinh:
Tức môn chữ A, do hết thảy các pháp vốn chẳng
sanh).
Chữ A
(अ) là cái gốc của hết thảy các giáo pháp. Phàm âm
thanh khi ban sơ mở miệng đều có âm A. Nếu
ĺa âm A, sẽ chẳng có hết thảy các ngôn thuyết.
V́ thế, [chữ A] là mẹ của các âm thanh. Phàm ngôn ngữ
trong tam giới đều nương vào danh, mà danh
nương vào chữ. V́ thế, chữ A trong Tất
Đàm[23] cũng là mẹ của
các chữ. Hăy nên biết nghĩa chân thật của môn chữ
A cũng lại giống như thế này: “Thuộc vào
trọn khắp hết thảy các pháp nghĩa”. V́ lẽ
nào vậy? Do hết thảy các pháp không ǵ chẳng sanh từ
các duyên. Hễ sanh từ duyên th́ đều có khởi đầu,
có cội gốc. Nay quán cái duyên có thể sanh ấy,
cũng lại sanh từ các nhân duyên, lần lượt từ
duyên, cái ǵ là gốc? Khi quán sát như thế, sẽ biết:
Cái “vốn chẳng sanh” chính là cái gốc của vạn
pháp. Giống như khi nghe hết thảy ngôn ngữ, th́
chính là nghe âm thanh của chữ A. Khi thấy hết thảy
các pháp sanh như thế, chính là thấy cái gốc chẳng
sanh. Nếu thấy cái gốc chẳng sanh, tức là
đúng như thật biết tự tâm. Đúng như thật
biết tự tâm chính là trí Nhất Thiết Trí; do vậy,
đức Tỳ Lô Giá Na chỉ dùng một chữ này làm
chân ngôn. Nhưng phàm phu trong thế gian do chẳng quán cội
nguồn của các pháp, hư vọng thấy có sanh, cho nên
thuận theo sanh tử mà lưu chuyển, chẳng thể
tự thoát! Như thợ vẽ vô trí, tự dùng các màu vẽ
thành h́nh tướng Dạ Xoa đáng sợ. Vẽ xong, lại
tự xem, tâm sanh kinh hăi, ngă lăn ra đất. Chúng sanh
cũng lại giống như thế, tự vận dụng
cội nguồn của các pháp, vẽ ra tam giới, vẫn
tự ch́m đắm trong đó, tự tâm hùng hực hứng
chịu trọn các nỗi khổ! Như Lai là họa
sĩ đă biết rơ rồi, liền có thể tự tại
thành lập Đại Bi Mạn-đồ-la. Do vậy bèn
nói, cái gọi là “bí tạng rất sâu” chính là do chúng
sanh tự bí mật đó thôi, chẳng phải là Phật
có ẩn tàng!
(Kinh) Ca tự môn, nhất
thiết chư pháp ly tác nghiệp cố.
(經)迦字門,一切諸法離作業故。
(Kinh: Môn chữ
Ca (क, Ka), do hết thảy
các pháp ĺa tác nghiệp).
Ca Rị
Da (Kārya)
trong tiếng Phạn có nghĩa là “tác nghiệp”.
Như các ngoại đạo chấp trước có tác giả,
có người sai khiến làm v.v… Luận sư thuộc các
bộ cũng nói có tác, có tác giả, có pháp được sử
dụng để tạo tác, do ba sự ḥa hợp bèn có quả
báo. Nếu do phương tiện Bát Nhă mà bảo là có quyết
định, tức là đọa vào “không có nhân”. Nếu
đọa vào “không có nhân” th́ hết thảy các pháp sẽ
là không có nhân quả. Pháp có thể sanh được gọi
là Nhân, pháp được sanh ra th́ gọi là Quả. Do hai
pháp là không, tác và tác giả, pháp được sử dụng
để tạo tác, tội phước, quả báo, và Niết
Bàn đạo, hết thảy đều là chẳng có. Lại
nữa, tác và tác giả do nhân mới sanh, nếu quyết
định có pháp để tạo tác, th́ sẽ nhất
định có tác giả (người làm), đều chẳng
khác nghị luận của ngoại đạo, như trong
phẩm Quán Tác Tác Giả của Trung Luận đă nói cặn
kẽ. Nay chánh quán sát tác và tác giả v.v… đều sanh từ
các duyên, liền nhập ngằn mé “vốn bất sanh”. Ngằn
mé “vốn bất sanh” dù có Phật hay không có Phật, pháp vẫn
vốn sẵn là như thế, ai là người cầm
đầu tạo tác? Do vậy, thấy
chữ Ca, sẽ biết hết thảy các pháp đều
do tạo tác mà thành, đó gọi là “tự tướng”.
Nếu là tác pháp, sẽ biết là rốt ráo vô tác. Đó gọi
là nghĩa chân thật.
(Kinh) Khư tự môn, nhất
thiết chư pháp đẳng hư không bất khả
đắc cố.
(經)佉字門,一切諸法等虛空不可得故。
(Kinh: Môn chữ
Khư, do hết thảy các pháp như hư không chẳng
thể được).
Chữ Khư (ख,
Kha) trong tiếng Phạn có nghĩa là hư không. Thế
gian cùng chấp nhận “hư không là pháp vô sanh, vô tác”. Nếu
hết thảy các pháp vốn bất sanh, ĺa các tạo tác,
sẽ rốt ráo như tướng hư không; nhưng cái
tướng Không ấy cũng lại chẳng thể
được! V́ lẽ nào vậy? Như chỗ không có sắc
trong thế gian được gọi là hư không tướng.
Sắc là pháp tạo tác, vô thường. Nếu sắc
chưa sanh th́ “sắc chưa sanh” chính là chẳng diệt.
Lúc bấy giờ, chẳng có tướng hư không. Do sắc
mà có Vô Sắc Xứ. Vô Sắc Xứ được gọi
là Không, phẩm Quán Lục Chủng của Trung Luận
đă nói cặn kẽ. Ở đây, cũng có ư nghĩa
như thế. Nếu sắc vốn chẳng sanh, v́ sao gọi
là Vô Sắc Xứ? Vô Sắc Xứ chẳng thể nói, tức
là hư không chẳng có tướng nhất định. Lại
nữa, các pháp như tướng hư không, tức là Niết
Bàn chẳng có tướng hư dối, như kinh nói “Ngũ
Ấm diệt, sẽ chẳng sanh ǵ khác”. Ngũ Ấm
chính là nghĩa Niết Bàn. Nếu Ngũ Ấm vốn bất
sanh, nay có chỗ nào diệt mà gọi là Niết Bàn ư? V́
thế, “như tướng hư không” cũng chẳng thể
được. Đó là ư nghĩa chân thật của môn chữ
Khư.
(Kinh) Nga tự môn, nhất
thiết chư pháp, nhất thiết hành bất khả
đắc cố.
(經)哦字門,一切諸法一切行不可得故。
(Kinh: Môn chữ Nga (ग,
Ga), do hết thảy các pháp và hết thảy hành đều
chẳng thể được).
Tiếng Phạn là Nga Đá
Dă (Gataya), được gọi là Hành. Hành có nghĩa “đi,
đến, tiến, lùi, chẳng trụ”. Nay từ môn chữ
A để xoay vần giải thích. Do các pháp vốn chẳng
sanh, nên vô tác. Do vô tác, nên chẳng có ǵ đối đăi
để có thể nói là Không. Không tức là Bất Hành Xứ.
Bất Hành Xứ c̣n chẳng thể được, huống
hồ Hành Xứ ư? Phẩm Quán Khứ Lai của Trung Luận
đă nói về ư nghĩa của Hành và Chỉ. Do liên tục
nên gọi là Hành. Như từ hạt thóc sanh ra mầm,
thân, lá, và vô minh duyên các hành v.v… Do đoạn nên gọi là Chỉ,
như hạt thóc diệt nên mầm, thân, diệt. Do vô minh
diệt, nên các hành v.v… diệt. Nếu pháp đă hành, sẽ
là vô hành. Do đă hành, nên cái chưa hành cũng sẽ là vô
hành. Do chưa có hành pháp, hành thời (lúc thực hiện)
cũng là vô hành, do chẳng ĺa đă hành và chưa hành. Do các
thứ môn quán sát như thế rốt ráo vô hành. Do vô hành nên
chẳng có cái để chỉ. Do vô hành, vô chỉ, nên chẳng
qua lại các đường, mà cũng chẳng trụ Niết
Bàn. Lại nữa, nếu người chẳng ĺa chỗ
ḿnh đang ở th́ chính là không có chỗ đến. Hăy nên
biết người ấy chẳng hành, chẳng đến.
V́ thế nói “hết thảy các hành đều chẳng
thể được”.
(Kinh) Già tự môn, nhất
thiết chư pháp nhất hợp bất khả đắc
cố.
(經)伽字門,一切諸法一合不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Già (घ,
Gha), hết thảy các pháp hợp nhất chẳng thể
được).
Già Na (Ghaṇa) trong tiếng Phạn có nghĩa là “mật hợp”
(ngầm kết hợp). Như các thứ tướng nhỏ
nhiệm hợp thành một tế trần,
các Uẩn kết hợp thành một thân v.v… Trong phẩm
Quán Hợp của Trung Luận, các luận sư đă nói: “Do
ba sữ là Thấy, cái có thể thấy, và người thấy,
mà có cái được thấy. Hăy nên biết cái hợp lại
để nghe, cái có thể nghe, và người nghe, cho đến
nhiễm, cái có thể nhiễm, và người nhiễm v.v…
Các phiền năo cũng thế”. Đáp rằng: Phàm mọi
vật đều do khác nhau mà có hợp, nhưng nay tướng
khác biệt của hết thảy các pháp chẳng thể
được. Do vậy, chẳng hợp. Như luận ấy
(Trung Luận) đă nói rộng. Dùng tự môn để xoay
vần giải thích, lại dùng nghĩa Hành để giảng
giải. Phàm có cái được hành, hăy nên biết ắt
có hành, cái có thể hành, và người hành, ba sự kết
hợp. Nay do hết thảy các pháp vốn bất sanh, sẽ
không có cái được hành. Nếu không có cái được
hành, th́ hành, có thể hành, và người hành sao có thể hợp
lại cho được? Lại nữa, nếu các pháp mỗi
mỗi đều có tướng khác, rốt cuộc sẽ
chẳng có lúc kết hợp. Nếu đạt tới ngằn
mé “vốn bất sanh”, th́ “không có tướng khác” cũng
chẳng thể hợp được. V́ thế, hết
thảy các pháp rốt ráo chẳng hợp.
(Kinh) Giá tự môn, nhất
thiết chư pháp ly nhất thiết thiên biến cố.
(經)遮字門,一切諸法離一切遷變故。
(Kinh:
Môn chữ Giá (च,
Ca), hết thảy các pháp ĺa hết thảy đổi dời).
Giá Dữu
Để (Cyuti) trong tiếng Phạn có nghĩa là “đổi
dời”. Hơn nữa, Giá Rị Da trong tiếng Phạn
nghĩa là “các hành”. Như khi thấy chữ Giá, liền biết
các hành biến đổi chẳng trụ. Phẩm Quán Hành
trong Trung Luận đă viết: “Các hành gọi là Ngũ Ấm,
do từ các hành mà sanh. Ngũ Ấm ấy đều là
hư vọng, chẳng có tướng nhất định.
Như sắc tướng từ trẻ nít cho đến sắc
tướng khi lăo niên, trong khoảng ấy, chẳng trụ
trong mỗi niệm. Phân biệt quyết định tánh chẳng
thể được. Tánh là quyết định có, chẳng
thể biến đổi khác. Như vàng ṛng bất biến.
Nay các pháp tuy sanh, chẳng trụ trong tự tánh. V́ thế,
hăy nên biết là vô tánh”, như trong luận
ấy đă nói cặn kẽ. Nếu vô tánh tức là thoạt
đầu vốn chẳng sanh, th́ “vốn thoạt đầu
chẳng sanh” tức là thân Như Lai, thường hằng
an trụ, chẳng có thay đổi. V́ thế nói là “ly
thiên biến” (ĺa đổi dời). Lại nữa, nếu
hết thảy các pháp do ḥa hợp mà thành th́ sẽ có đổi
dời. Nay các pháp vô sanh, vô tác, cho đến vô sở hành,
cho nên chẳng có ḥa hợp. Do chẳng có ḥa hợp, nên ĺa
hết thảy đổi dời. Phàm các tự môn sẽ
đều nghịch thuận xoay vần giải thích lẫn
nhau, chẳng vướng mắc. Nay chỉ dựa theo thứ
tự nối tiếp nhau [để giải thích] đó
thôi!
(Kinh) Xa tự môn, nhất
thiết chư pháp ảnh tượng bất khả đắc.
(經)車字門,一切諸法影像不可得。
(Kinh:
Môn chữ Xa (छ,
Cha), h́nh ảnh của hết thảy các pháp chẳng thể
được).
Tiếng Phạn, Xa Dă (Chāyā)
có nghĩa là “ảnh”. Như bóng người đều
nương vào tự thân. Cũng thế, vạn pháp trong
tam giới chỉ là do thức tâm nhân duyên biến hiện,
giống như các cảnh, chuyện này như kinh Mật
Nghiêm đă rộng nói. Cho đến người tu Du Già có
đủ loại chuyện chẳng thể nghĩ bàn, hoặc
có thể diện kiến mười phương chư Phật,
hiện trọn khắp sắc thân, cũng đều là
bóng dáng của cái tâm. Do tâm vốn bất sanh, hăy nên biết
h́nh bóng cũng chẳng được sanh. Do chẳng
được sanh, cho đến do tâm chẳng đổi
dời, h́nh bóng cũng chẳng đổi dời. V́ lẽ
nào vậy? Như h́nh bóng không có tánh nhất định mà
“đi, ngừng” theo thân; h́nh bóng của cái tâm cũng thế.
Do tâm động tác, hư luận, không có niệm nào ngưng
trụ, muôn công dụng trong thế gian cũng lại lưu
chuyển theo. Nếu lúc hiểu rơ tướng như thật
của cái tâm, h́nh bóng cũng là tướng như thật,
cho nên chẳng thể được!
(Kinh) Nhạ tự môn,
nhất thiết chư pháp sanh bất khả đắc cố.
(經)惹字門,一切諸法生不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Nhạ (ज,
Ja), hết thảy các pháp sanh chẳng thể được).
Nhạ Đá
(Jāta) trong tiếng Phạn cũng có nghĩa là Sanh. Như
do đất sét, bàn xoay, dây, thợ gốm v.v… ḥa hợp, nên
mới sanh ra cái b́nh. Do sợi tơ, khung dệt, thợ dệt
v.v… ḥa hợp mới sanh ra tấm vải. Do cuộc đất,
nền đắp, kèo, rường, bùn, cỏ, sức người
v.v… ḥa hợp mới sanh ra nhà. Do lạc, đồ đựng
lạc, công người khuấy đảo v.v… ḥa hợp
nên mới sanh ra tô. Do hạt giống,
đất, nước, lửa, gió, hư không, thời tiết
v.v… ḥa hợp mới sanh ra mầm. Nhân duyên của nội
pháp cũng giống như thế. Do vô minh, hành v.v… mỗi thứ
đều sanh, cho nên lại sanh. V́ thế, nếu thấy
môn chữ Nhạ, liền biết hết thảy các pháp
không ǵ chẳng sanh từ duyên. Như kệ đă nói: “Pháp
sanh bởi nhân duyên, chính là vô tự tánh. Nếu là vô tự
tánh, sao lại có pháp ấy?” Do đó, sanh chẳng thể
được! Luận sư ngoại đạo nói đủ
thứ tà nhân duyên hoặc vô nhân duyên sanh ra hết thảy
các pháp. Trong Phật pháp, cũng có người do đánh mất
phương tiện Bát Nhă, nên chấp trước tướng
sanh diệt nơi nhân duyên, như Trung Luận đă đả
phá cặn kẽ. Lại nữa, môn chữ A là các pháp bổn
tánh chẳng sanh, môn chữ Nhạ dùng mười thí dụ
để quán “sanh tuy từ duyên mà có, nhưng chẳng thể
được!” Nếu sanh đă là rốt ráo chẳng thể
được, sẽ chẳng khác với vô sanh tế. Lại
nữa, mười thí dụ chính là h́nh bóng của tâm, chẳng
ra ngoài pháp giới. V́ thế, Sanh cũng chẳng ra ngoài Vô
Sanh Tế.
(Kinh) Xă tự môn, nhất
thiết chư pháp chiến địch bất khả
đắc cố.
(經)社字門,一切諸法戰敵不可得故 。
(Kinh: Môn chữ Xă (झ,
Jha), sự chống trái nhau của hết thảy các pháp
đều chẳng thể được).
Trong tiếng Phạn, Xă Ma La
(Jhamala) có nghĩa là “đối địch”. Nếu
thấy chữ Xă, liền biết hết thảy các pháp
đều có đối địch, như pháp thiện và
bất thiện trong thế gian, pháp trái nghịch ḍng sanh tử
và pháp xuôi theo ḍng sanh tử, bố thí và keo tham, tŕ giới
cho đến trí huệ, vô minh v.v… đều là đối
đăi, thắng, bại, vô thường. Cho đến
Như Lai xuất thế, dùng sức Nhất Thiết Trí
phá lũ quân ma, cũng gọi là Chiến. Nhưng trong hết
thảy các pháp, nghĩa ấy chẳng thành, trí huệ và
phiền năo rốt cuộc thuộc về ai, mà nói Tỳ Bà Xá Na (Vipassanā) có thể phá phiền năo? Nếu nói “khi sáng sanh th́ tối
diệt”, th́ gọi là phá. Vậy th́ do đă sanh nên phá? Hay
do chưa sanh mà phá ư? Đă sanh th́ chẳng c̣n tối, c̣n
phá chỗ nào? Chưa sanh th́ tự chẳng
có cái Thể, sao có thể phá cho được? Nếu lúc
sanh, th́ gọi là nửa đă sanh, nửa chưa sanh. V́ thế
nói “sáng, tối rốt ráo chẳng đạt được”.
Lại nữa, hết thảy các pháp vốn bất sanh,
cho đến do chẳng có h́nh bóng, sẽ cùng là một
tướng, chẳng vượt ngoài Như. Vậy th́ Phật
giới Như chiến đấu với ma giới Như
ra sao? Do vậy, khi đức Phật ngồi đạo
tràng, chỉ biết rơ “các pháp không có đối đăi”,
nhưng thế gian bàn luận, tự lập ra danh xưng “chiến
thắng” đó thôi!
(Kinh) Trá tự môn, nhất
thiết chư pháp, mạn bất khả đắc cố.
(經)吒字門,一切諸法慢不可得故。
(Kinh: Môn chữ Trá (ट, Ṭa),
trong hết thảy các pháp, mạn chẳng thể
được).
Trong
tiếng Phạn, Trá Ca Ra có nghĩa là Mạn, tức là thấy
pháp kia thấp hèn, pháp này cao thắng. Như trong tam giới,
sáu đường đủ loại hơn kém khác nhau, dấy
khởi mạn tâm vô lượng sai biệt. Nói đại
lược, có bảy loại tướng[24],
như trong Tỳ Đàm (A Tỳ Đạt Ma) đă nói rộng.
Cho tới người cầu tam thừa, vẫn có kiến
chấp thượng địa, hạ địa chẳng
b́nh đẳng, nay quán các pháp vô sanh, cho đến chẳng
có đối đăi, liền biết A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề là pháp b́nh đẳng, chẳng có cao, thấp.
V́ thế, Như Lai c̣n được gọi là Nhất Thiết
Kim Cang Bồ Tát, cũng gọi là Tứ Quả Thánh Nhân,
cũng gọi là phàm phu ngoại đạo, cũng gọi
là chúng sanh trong các thứ đường ác, cũng gọi
là kẻ ngũ nghịch tà kiến. Đại Bi Mạn-đồ-la
nhằm biểu thị ư nghĩa này!
(Kinh) Trá tự môn, nhất
thiết chư pháp trưởng dưỡng bất khả
đắc cố.
(經)咤字門,一切諸法長養不可得故。
(Kinh: Môn chữ Trá (ठ, Ṭha), hết thảy các pháp trưởng
dưỡng chẳng thể được).
Trong tiếng Phạn, Tỳ Trá Bát
Na (Viṭhapana) có
nghĩa là trưởng dưỡng. Như trong thế
gian, chủng tử (hạt giống) làm nhân, năm đại
và thời tiết làm duyên, lần lượt tăng
trưởng thành quả hạt. Nội pháp cũng thế,
trong ruộng nghiệp gieo xuống chủng tử, bị
vô minh che phủ, nước ái nhuần thấm mà
được sum suê, như trong kinh Đạo Can đă rộng
nói. Nay trong kinh này, tám tâm liên tục tăng trưởng
trái nghịch hay thuận tùng thế gian cũng có nhân duyên,
cho đến Bồ Đề tâm thanh tịnh dùng năm tự
môn (A, Phạ, Ra, Ha, Khư) để làm duyên, sanh ra rễ
đại bi. Cây sa-la của Phật tăng trưởng,
che rợp khắp pháp giới. Nhưng hết thảy các
pháp do năm tự môn ấy vốn bất sanh, ĺa ngôn thuyết,
tự tánh tịnh, chẳng có nhân duyên, như tướng
hư không, chẳng thể trưởng dưỡng
được. Lại nữa, từ chữ A, Ca trở
đi, lần lượt giải thích, cho đến các pháp
rốt ráo b́nh đẳng, chẳng có cao, thấp. Do chẳng
có cao, thấp, hăy nên biết tức là chẳng có tăng
trưởng!
(Kinh) Noa tự môn, nhất
thiết chư pháp, oán đối bất khả đắc
cố.
(經)拏字門,一切諸法怨對不可得故。
(Kinh: Môn chữ Noa (ड, Ḍa),
hết thảy các pháp, oán đối chẳng thể
được).
Trong tiếng Phạn, nói Noa
Ma Ra (Ḍamara)
th́ có nghĩa là “oán đối”. Như thế gian cừu
thù báo oán lẫn nhau; v́ thế gọi là Đối. Hơn
nữa, trong phần trước nói “chiến địch”
tức là đôi bên công kích lẫn nhau, c̣n “oán đối”
ở đây hàm nghĩa “tỵ cừu” (tránh né cừu
thù), trong tiếng Phạn mỗi danh từ khác nhau. Trong Tỳ
Ni, đức Phật dạy “dùng oán để báo oán, oán
trọn chẳng dứt”, chỉ có vô oán th́ oán mới dứt
bặt. Lại nói nữ nhân là oán đối của người
hành Phạm hạnh. Kinh Vô Lượng Nghĩa cũng nói “sanh
tử oán địch tự nhiên tan hoại”. Chứng Vô
Sanh Nhẫn là một nửa của báu nơi cơi Phật.
V́ thế, hành giả khi thấy môn chữ Noa, sẽ biết
hết thảy các pháp đều có oán đối, gọi
là biết rơ “tự tướng” (tướng trạng
của chữ). Lại do các pháp vốn bất sanh, cho tới
chẳng thể trưởng dưỡng. V́ thế,
Như Lai rốt ráo chẳng có oán đối; đó chính là
nghĩa chân thật của tự môn.
(Kinh) Đồ tự
môn, nhất thiết chư pháp chấp tŕ bất khả
đắc cố.
(經)荼字門,一切諸法執持不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Đồ (ढ, Ḍha),
hết thảy các pháp chấp tŕ chẳng thể được).
Trong tiếng Phạn,
Đường Ca (Ḍhaṅka) nghĩa là “chấp
tŕ”. Do trên chữ Đồ (Ḍha), thêm
một chấm, sẽ chuyển âm đọc thành
Đường, nhưng Thể của nó tương đồng.
Lại nói Nghiệt Rị Hà (Graha) cũng là tên gọi khác
của chữ này. Kinh nói bị quỷ mị dựa, hoặc
bị phi nhân nắm giữ, Trí Độ Luận nói
Trước Tương (著襄, dựa dẫm quấy phá),
đều do quỷ Nghiệt Rị Hà gây ra. Lại [do quỷ]
dựa vào người sẽ chẳng ĺa bỏ, nên đặt
tên như thế. Mặt trời, mặt trăng, năm
tinh tú, [cùng với Kế Đô và La Hầu] cũng là từ
đầu đến cuối nương theo nhau, tiếng
Phạn gọi là Nghiệt Rị Hà, dịch nghĩa là Cửu
Chấp (九執).
Khi chúng tụ hội một chỗ, lịch Thiên Trúc gọi
lúc ấy là Chánh Trước Thời (正著時).
Nghĩa “chấp tŕ” ấy khác với chữ Đà La
(Dhara). Thấy môn chữ Đồ này, liền biết hết
thảy chúng sanh từ vô thỉ tới nay, bị bốn
ma[25]
dựa, chẳng thể ĺa bỏ; đó là tướng danh
tự. Nay dùng các môn như chữ A v.v… để xoay vần
mà quán “hết thảy các pháp đều chẳng thể
được”, sẽ biết hết thảy các pháp chẳng
có oán đối. Do oán đối vốn chẳng sanh, trọn
chẳng do pháp giới b́nh đẳng mà chấp trước
pháp giới b́nh đẳng. V́ thế nói “hết thảy
các pháp, chấp tŕ đều chẳng thể được”!
(Kinh) Đa tự môn, nhất
thiết chư pháp như như bất khả đắc
cố.
(經)多字門,一切諸法如如不可得故。
(Kinh: Môn chữ Đa
(त,
Ta), hết thảy các pháp như như chẳng thể
được).
Trong tiếng Phạn, Đá
Tha Đa (Tathātā) có nghĩa là Như Như.
Xét theo ngữ điệu th́ kèm thêm cả ư “đắc”.
Chứng đắc Như Như chính là ư nghĩa giải
thoát. “Như” là Thật Tướng của
các pháp; các thứ hư luận, kiến chấp chẳng thật
đều diệt, thường như bổn tánh chẳng
thể phá hoại. Nếu thấy môn chữ Đa, liền
biết hết thảy các pháp đều là tướng
Như Như. Đó là tướng trạng của chữ
[Đa]. Nhưng có một loại ngoại đạo chấp
trước “có tánh Như Như”, nếu thấy biết
điều ấy th́ gọi là “giải thoát”. Tuy nói như
thế, chỉ là chuyển sang gọi Ngă Kiến bằng một
danh xưng khác. Ngài Long Thọ cho rằng “pháp trụ”
được nói trong kinh Thanh Văn cũng là nghĩa
Như Như của các pháp. Do sở nhập chưa sâu, mà
họ (các vị Thanh Văn) sanh ư tưởng diệt
độ, ngỡ là đă chứng Niết Bàn. Nhưng sanh
tử và Niết Bàn là pháp đối đăi; nếu biết
sanh tử từ cội gốc đă thường là
như tướng Niết Bàn, há c̣n đối ứng với
ǵ để nói là Niết Bàn được nữa? Do vậy,
hết thảy các pháp rốt ráo chẳng thật, chẳng
hư, chẳng như, chẳng khác. Trung Luận cũng
nói: “Thật Tế Niết Bàn và thế gian tế, hai tế
như thế chẳng khác mảy may”. Do chẳng sai biệt,
hết thảy các pháp chẳng có oán đối. Do chẳng
có oán đối, nên chẳng chấp tŕ. Do chẳng chấp
tŕ nên cũng là chẳng có Như Như giải thoát.
(Kinh) Tha tự môn, nhất
thiết chư pháp trụ xứ bất khả đắc
cố.
(經)他字門,一切諸法住處不可得故 。
(Kinh: Môn chữ Tha (थ,
Tha), trụ xứ của hết thảy các pháp chẳng thể
được).
Trong tiếng Phạn, Tát Tha
Na (Sthāna) nghĩa
là “trụ xứ”, cũng có nghĩa là Trụ. Như
người từ trụ xứ này dời sang chỗ khác,
th́ chỗ ở đó cũng được gọi là Trụ.
Các địa vị thánh hiền cũng như thế; xét
theo chỗ nương tựa, an trụ trong tâm tích (dấu
tích nơi tâm) của những người hành đạo
mà nói đủ loại danh xưng. Nếu khi thấy chữ
Tha, liền biết hết thảy các pháp không ǵ chẳng
đợi duyên mà thành, hăy nên biết chúng đều có chỗ
y trụ. Đó là tướng trạng của chữ này.
Nhưng các pháp vốn bất sanh, cho tới Như Như
giải thoát cũng chẳng thể được, nên chẳng
đến, chẳng đi, chẳng hành, chẳng trụ.
Trong tướng tịch diệt như thế, há có địa
vị theo thứ lớp hay chăng? Lại nữa, khi nhập
môn chữ Tha, do biết rơ các pháp đều là không, chẳng
trụ trong sanh tử, tức là do Như Như cũng chẳng
thể được, sẽ chẳng trụ trong Niết
Bàn. Lúc bấy giờ, hành xứ dứt bặt, các địa
vị đều hết, trọn khắp hết thảy mọi
nơi đích xác là chẳng có chỗ nương tựa.
Đó gọi là do chẳng trụ trong pháp mà trụ trong
đại trụ của Như Lai.
(Kinh) Na tự môn, nhất
thiết chư pháp thí bất khả đắc cố.
(經)娜字門,一切諸法施不可得故。
(Kinh: Môn chữ Na (द,
Da)[26],
trong hết thảy các pháp, Thí chẳng thể được).
Trong tiếng Phạn, Đàn
Na (Dāna)
nghĩa là “xả thí”. Nếu thấy chữ Na, liền biết
hết thảy các pháp đều là tướng có thể xả.
V́ lẽ nào vậy? Do hết thảy các pháp tan ĺa hay kết
hợp đều do duyên, chẳng hề tồn tại chắc
chắn. Nếu chấp trước, sanh yêu mến nơi
đó, ắt sẽ bị thiêu đốt. Cho đến
các vị Bồ Tát thuộc Thập Địa, do công đức
tịnh diệu sanh từ địa vị của chính
ḿnh chưa đạt tới “xả bờ kia”, vẫn
c̣n có thoái thất chẳng thể nghĩ bàn, chẳng
được gọi là Đệ Nhất An Lạc Xứ.
Nay do quán các pháp bất sanh, người thí, chỗ thí và vật
để thí thảy đều vốn bất sanh, cho tới
hết thảy các pháp chẳng có trụ xứ. Do chẳng
có trụ xứ, tức là ba chuyện ấy cũng chẳng
có trụ xứ. V́ thế, đức Phật ngồi
đạo tràng đều chẳng có ǵ để có thể
đạt được, mà cũng chẳng có ǵ để
xả. Trong Hư Không Tạng, chẳng có ǵ chất chứa,
nhưng phổ môn lưu xuất thí trọn khắp quần
sanh. Đó gọi là Thật Tướng của Đàn (bố
thí), mà cũng gọi là “trọn đủ Đàn Ba La Mật”.
Lại nữa, tạng báu bí mật của Như Lai đều
là pháp vốn sẵn như thế, đó gọi là “chẳng
thể truyền trao cho người khác”. Nếu lúc thí
cho người khác, vẫn là từ trong tâm thất của
chúng sanh mà khơi mở đó thôi! V́ thế, kinh dạy: “Nhất
thiết chư pháp, thí bất khả đắc, danh vi tự
môn chân thật nghĩa” (Hết thảy các pháp thí chẳng
thể được, gọi là nghĩa chân thật của
tự môn).
(Kinh) Đà tự môn, nhất
thiết chư pháp, pháp giới bất khả đắc cố.
(經)馱字門,一切諸法法界不可得。
(Kinh: Môn chữ Đà
(ध,
Dha), trong hết thảy các pháp, pháp giới chẳng thể
được).
Trong
tiếng Phạn, Đạt Ma Đà Đô (Dharmadhātu)
là pháp giới. Giới có nghĩa là Thể, là Phần. Xá-lợi
của Phật cũng gọi là Như Lai Đà Đô, ư nói
là thân phần của Như Lai. Nếu thấy môn chữ
Đà, sẽ biết hết thảy các pháp thảy đều
có Thể, tức là dùng pháp giới làm Thể. V́ lẽ nào
vậy? Nếu ĺa Thật Tướng của các pháp, th́ ư
nghĩa “Thể của hết thảy các pháp” đều
chẳng thành. Pháp giới chính là tâm giới. Do tâm giới vốn
bất sanh, hăy nên biết pháp giới cũng vốn bất
sanh. Cho đến do tâm giới chẳng đắc, chẳng
xả, hăy nên biết pháp giới cũng chẳng đắc,
chẳng xả. Xả c̣n tự không có, chẳng có pháp
để có thể xả, huống hồ có thể đắc
ư? Nếu pháp giới là tướng có thể đạt
được, tức là từ các nhân duyên mà sanh. Nếu
sanh từ các nhân duyên, hăy nên biết tự nó chẳng có bản
thể, huống hồ là Thể của các pháp ư? V́ thế,
pháp giới chỉ là tự chứng thường tâm, chẳng
có pháp nào khác. Lại nữa, Như Lai đại thí chính là
Đại Bi Mạn-đồ-la. Pháp giới chính là phổ
môn Thật Tướng. Thật Tướng như thế
chẳng thể dùng thần lực gia tŕ để dạy
người khác. V́ thế, không có pháp để có thể
đạt được!
(Kinh) Ba tự môn, nhất
thiết chư pháp Đệ Nhất Nghĩa Đế bất
khả đắc cố.
(經)波字門,一切諸法第一義諦不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Ba (प,
Pa), Đệ Nhất Nghĩa Đế trong hết thảy
các pháp chẳng thể đạt được).
Trong
tiếng Phạn, Ba La Ma Tha (Paramārtha) dịch thành Đệ
Nhất Nghĩa, hoặc là Thắng Nghĩa. Tát Để
Dă (Satya) được dịch thành Đế. Ư nghĩa của
Đế được nói trong môn chữ Sa. Nay trong môn chữ
Ba này, chủ yếu nói về tướng của Đệ
Nhất Nghĩa. Ngài Long Thọ nói: “Đệ Nhất
Nghĩa là Thật Tướng của các pháp, do chẳng
phá, chẳng hoại”. Lại nữa, bậc nhất
trong các pháp là Niết Bàn, như A Tỳ Đàm nói: “Thế
nào là pháp vô thượng? Chính là trí duyên đă hết”.
Trí duyên đă hết chính là Niết Bàn. Nếu thấy chữ
Ba, sẽ biết hết thảy các pháp chẳng ĺa Đệ
Nhất Nghĩa, Đệ Nhất Nghĩa chẳng ĺa Thật
Tướng của các pháp. Đó là tướng của chữ
này. Nếu xét theo nghĩa chân thật của tự môn th́
Đệ Nhất Nghĩa cũng chẳng thể
được. V́ lẽ nào vậy? Do chẳng yêu mến,
chẳng đắm chấp. Trí Độ Luận lại
nói: “Do chúng sanh chấp trước âm thanh Niết Bàn, mà
tạo thành hư luận, hoặc có, hoặc không. Do phá chấp
trước, bèn nói Niết Bàn là không, gọi là Đệ
Nhất Nghĩa Không. Chẳng phá pháp đạt được
trong tâm thánh nhân, do thánh nhân đối với hết thảy
các pháp đều chẳng chấp tướng”. Lại
nữa, hết thảy các pháp đều nhập pháp giới
b́nh đẳng, chẳng có cao, thấp, há có nên khiến cho
trong pháp vô sanh có tướng hơn kém ư? V́ vậy,
Đệ Nhất Nghĩa Đế chẳng thể
được!
(Kinh) Phả tự môn,
nhất thiết chư pháp bất kiên như tụ mạt
cố.
(經)頗字門,一切諸法不堅如聚沫故。
(Kinh:
Môn chữ Phả (फ,
Pha), hết thảy các pháp chẳng cứng chắc như
bọt nước).
Phái
Nô (Phena) trong tiếng Phạn được dịch thành Tụ
Mạt (聚沫,
bọt nước đọng). Như sóng ṃi nơi chỗ
nước lớn va đụng nhau mà tạo thành bọt
nước, có đủ loại tướng sanh, thậm
chí kết nối với nhau bèn có tướng kiên cố.
Nhưng mỗi mỗi quán sát từ thô tới tế, chỉ
là từ duyên lại từ duyên, chẳng thể nắm bắt,
sờ chạm, đều chẳng có thật tánh. Xét đến
bản chất, toàn thể đều là nước, chẳng
có ǵ được sanh ra. Các thứ Ngũ Ấm trong thế
gian hiện thời cũng đều là như thế. Nay “gom
ngọn về gốc, bỏ trượng theo thước”
để quán sát, thậm chí như trong khoảng mảy
may mà có dao động vi tế, sẽ đều lần
lượt từ duyên. Nếu là từ các duyên mà sanh, sẽ
chẳng có tự tánh. Nếu chẳng có tự tánh, hăy nên
biết sanh chính là chẳng sanh. C̣n như đạt tới
bổn bất sanh tế, chỉ là biển tâm tánh đó
thôi! Nhưng thuận theo t́nh kiến hư vọng trong sáu
đường, bèn có tên gọi “thế giới”. Biển
tâm tánh chính là pháp giới, pháp giới chính là thắng
nghĩa Niết Bàn. Khi nếu có thể thấy như thế,
dẫu sóng to vây bủa, tạo thành đủ loại sắc
thân hiện trọn khắp, vẫn chẳng hoại tánh
trong lặng!
(Kinh) Ma tự môn, nhất
thiết chư pháp phược bất khả đắc cố.
(經)麼字門,一切諸法縛不可得故。
(Kinh: Môn chữ Ma (ब,
Ba)[27],
trong hết thảy các pháp, trói chẳng thể được).
Măn Đà (Bandha) trong tiếng
Phạn được cơi này dịch là Phược (trói buộc).
Như người bị dây thừng thô to bó chặt, chẳng
thể cử động, đó là nghĩa “trói buộc”. Nếu
lúc dùng phương tiện để tháo gỡ sự trói
buộc ấy, th́ gọi là giải thoát. Nếu ĺa khỏi
dây trói nơi thân, chẳng có pháp nào khác để trói buộc
hay cởi gỡ. Như Thiên Đế Thích dùng vi tế
phược để trói A Tu La vương, đặt
trên trời Đao Lợi. Khi [A Tu La vương] khởi niệm
muốn trở về, th́ thân đă bị trói buộc
năm chỗ; nếu dứt niệm th́ trói buộc tự
tháo gỡ. Như lưới rập của Ba Tuần lại
c̣n gấp trăm ngàn lần số ấy, huống hồ
sự trói buộc vô vi bởi nghiệp phiền năo ư?
Nói tóm lại, nếu ĺa các nhân duyên, chẳng đọa
trong các pháp số, th́ gọi là “vô phược” (không
trói buộc). Đó là ư nghĩa của chữ [Ma này]. Trung
Luận nói: “Ĺa Ngũ Ấm mà riêng có chúng sanh, hăy nên dùng Ấm
để trói chúng sanh, nhưng thật sự ĺa Ngũ Ấm,
sẽ chẳng có chúng sanh. Nếu ĺa Ngũ Ấm mà riêng có
phiền năo, hăy nên dùng phiền năo để trói Ngũ Ấm,
nhưng thật sự ĺa Ngũ Ấm th́ chẳng có phiền
năo nào khác! Do các thứ nhân duyên như thế, hăy nên biết
là chẳng trói buộc. Chẳng trói buộc th́ chẳng cởi
gỡ. Do chẳng có trói buộc hay cởi gỡ, nên Niết
Bàn chính là sanh tử, sanh tử chính là Niết Bàn”.
Như phẩm Quán Phược Giải [trong Trung Luận]
đă nói cặn kẽ. Lại nữa, nếu các pháp vốn
sẵn bất sanh, cho đến như bọt nước,
trong ấy ai có thể cởi gỡ? Ai bị trói buộc?
Do đó, các trói buộc đều chẳng thể
được!
(Kinh) Bà tự môn, nhất
thiết chư pháp, nhất thiết hữu bất khả
đắc cố.
(經)婆字門,一切諸法一切有不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Bà (भ,
Bha), hết thảy hữu trong hết thảy các pháp đều
chẳng thể được).
Bà
Phạ (Bhava) trong tiếng Phạn được
phương này dịch là Hữu (có). Hữu là là tam hữu
(tam giới) cho đến hai mươi lăm Hữu[28].
Nếu thấy chữ Bà, liền biết hết thảy
các pháp thảy đều có nhân
duyên. Do các duyên hợp lại, nên nói là Hữu, chẳng có
tánh quyết định. V́ lẽ nào vậy? Nếu pháp nhất
định có tướng Hữu, rốt cuộc chẳng
phải là vô tướng, tức là thường. Như nói
“tam thế” (ba đời), trong vị lai có pháp tướng,
pháp ấy chuyển đến hiện tại, chuyển nhập
quá khứ, chẳng xả bổn tướng, liền
đọa vào Thường Kiến. Nếu nói chắc chắn
là “chẳng có Hữu”, th́ Vô tức là “trước có mà nay
không”, đó là Đoạn Diệt Kiến. Do bởi hai kiến
ấy, xa ĺa Phật pháp! Như phần Phá Hữu Vô trong
Trung Luận đă nói cặn kẽ. Nay quán các Hữu đều
do duyên, tức là ư nghĩa “vốn bất sanh”. Do vốn bất
sanh, nên chẳng tác, chẳng hành, cho đến chẳng
trói buộc, chẳng giải thoát. V́ thế, môn chữ Bà
do từ duyên mà có, trọn đủ hết thảy các tự
môn. Nếu trọn đủ hết thảy các tự môn,
tức là Tam Muội Vương tam-muội, có thể phá
hai mươi lăm Hữu. Đức Thích Ca Mâu Ni do
nghĩa ấy mà được gọi là Phá Hữu Pháp
Vương.
(Kinh) Dă tự môn, nhất
thiết chư pháp, nhất thiết thừa bất khả
đắc cố.
(經)野字門,一切諸法一切乘不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Dă (य,
Ya), trong hết thảy các pháp, hết thảy thừa
đều chẳng thể được).
Diễn
Na (Yāna)
trong tiếng Phạn được phương này dịch
là Thừa, c̣n dịch là Đạo. Như
người ngồi thuyền hay xe, ắt có thể hoàn
thành chuyện đưa vật nặng đến
được nơi xa. Nếu thấy môn chữ Dă, liền
biết hết thảy chúng sanh do đủ mọi nhân
duyên mà tiến hướng sanh tử quả báo và hướng
đến Niết Bàn, ai nấy đều có “thừa”
(phương tiện, đường lối, phương
pháp) để nương vào, cũng biết vô lượng
các thừa đều là Phật thừa. Đó là tướng
của chữ này. Nay quán các pháp vốn bất sanh, tức
là vô hành, vô trụ, bất động, bất thoái; trong ấy
cái ǵ là Thừa? Sẽ vận dụng pháp nào vậy? Lại
nữa, Thừa là từ tam hữu mà thoát ra, đạt tới
Tát Bà Nhă, năm trăm do-tuần[29]
không ǵ chẳng phải là thật xứ, muốn đi theo
đường nào để đến chỗ nào vậy?
V́ thế, hết thảy các thừa đều chẳng thể
được, bèn gọi là đạo Ma Ha Diễn (Đại
Thừa).
(Kinh) Ra tự môn, nhất
thiết chư pháp ly nhất thiết trần nhiễm cố.
(經)囉字門,一切諸法離一切塵染故。
(Kinh:
Môn chữ Ra (र),
hết thảy các pháp ĺa hết thảy trần nhiễm).
La Thệ (Rajas) trong tiếng
Phạn có nghĩa là “trần nhiễm”. Trần là hành xứ
của t́nh kiến hư vọng. V́ thế nói cảnh
tượng của sáu t́nh, tức mắt, tai v.v.. là sáu trần.
Nếu thấy môn chữ Ra, sẽ biết
hết thảy các pháp có thể “thấy, nghe, tiếp xúc,
biết” đều là trần tướng, giống như
cái áo sạch bị nhuốm bẩn bởi trần cấu,
cũng như do bụi bay lăng xăng khiến cho thái
hư mờ đục, nhật, nguyệt chẳng sáng.
Đó là tướng của chữ Ra này. Trung Luận dùng
đủ loại Môn Đế để cầu thấy
pháp, chẳng có người thấy. Nếu chẳng có
người thấy, ai có thể vận dụng pháp Thấy
để phân biệt ngoại sắc, thấy cái có thể
thấy ư? Do thấy pháp là không, bốn pháp Thức, Xúc,
Thọ, Ái đều chẳng có. Do chẳng yêu mến,
mười hai phần nhân duyên cũng chẳng có. V́ thế,
khi mắt thấy sắc, chính là tướng Niết Bàn;
các trần khác cũng phỏng theo đó [để luận
định]. Lại nữa, dùng môn chữ A để lần
lượt quán sát các trần, do nó vốn bất sanh, do chẳng
có tạo tác, cho đến chẳng có pháp để
nương vào và người nương vào, hăy nên biết
pháp để có thể thấy, nghe, hay, biết đều
là tịnh pháp giới. Há nên dùng tịnh pháp giới để
nhuốm bẩn lục căn của Như Lai ư? Kinh
Ương Quật Ma La có nói: Thường nhăn của Phật
do trọn đủ vô diệt mà thấy rơ thường sắc,
cho đến ư và pháp cũng như thế. Đó là
nghĩa chân thật của môn chữ Ra.
(Kinh) La tự môn, nhất
thiết chư pháp nhất thiết tướng bất khả
đắc cố.
(經)邏字門,一切諸法一切相不可得故。
(Kinh:
Môn chữ La (ल),
hết thảy tướng của hết thảy các pháp
đều chẳng thể được).
La Cật Sái (Lakṣṇa)
trong tiếng Phạn được phương này dịch
là Tướng. Có người nói: Tánh và tướng chẳng
có phân biệt, như nói tánh của lửa chính là nhiệt
tướng. Hoặc nói: Có đôi chút sai biệt, Tánh là nói
về Thể, Tướng là nói về cái có thể biết.
Như Thích Tử thọ tŕ giới cấm là tánh (giới
tánh), cạo tóc, cắt may, nhuộm y là tướng. Nếu
thấy môn chữ La, liền biết hết thảy các
pháp thảy đều có tướng. Tướng lại
có hai thứ:
- Một là tổng tướng,
tức là tướng vô thường, khổ, không, vô ngă.
- Hai, biệt tướng, tức
là các pháp tuy vô thường, vô ngă, mà mỗi mỗi đều
có tướng, như đất cứng, nước ướt,
lửa nóng, gió động v.v… Xả là tướng Thí. “Chẳng
hối, chẳng năo” là tướng Tŕ Giới. Tâm chẳng
đổi khác là tướng Nhẫn. Phát khởi siêng
năng là tướng Tinh Tấn. Nhiếp tâm là tướng
Thiền. Chẳng chấp trước là tướng Huệ.
Có thể hoàn thành sự việc là tướng
Phương Tiện. Tạo tác sanh tử là tướng thế
gian. Chẳng tạo tác là tướng Niết Bàn v.v… Nay
quán thể tánh của các pháp hữu vi và vô vi đều là
Không, tướng ấy là tướng của điều
ǵ vậy? Như trong phẩm Tam Tướng của Trung Luận
và Thập Nhị Môn Luận đă đều nói rộng. Lại
nữa, trong pháp giới thanh tịnh, đủ loại các
tướng của một trăm sáu mươi tâm v.v… vốn
chẳng sanh, nên chẳng tạo tác. Do chẳng tạo tác,
cho đến rốt ráo vô trần. Do vô trần nên ĺa hết
thảy các tướng. Do ĺa hết thảy các tướng,
bèn gọi là “chư Phật tự chứng Tam Bồ
Đề”.
(Kinh) Phạ tự môn,
nhất thiết chư pháp ngôn ngữ đạo đoạn
cố.
(經)嚩字門,一切諸法語言道斷故。
(Kinh: Môn chữ Phạ
(व,
Va), hết thảy các pháp ngôn ngữ dứt bặt).
Phạ Kiếp
Bả (Vākpā)
trong tiếng Phạn chính là ngôn ngữ.
Nếu lúc thấy chữ Phạ, liền biết hết
thảy các pháp chẳng ĺa đất ngôn ngữ, do các pháp ấy
không ǵ chẳng có nhân duyên! Nếu pháp vốn sẵn bất
sanh, sẽ ĺa các nhân duyên. V́ thế,
ngôn ngữ dứt bặt. Lại nữa, nếu pháp là
“tướng làm” (tác tướng) th́ có thể tuyên nói. Không
làm th́ ngôn ngữ dứt bặt. Nếu tướng hư
không là hữu tướng th́ có thể tuyên nói, do các pháp
như tướng hư không cũng lại là vô tướng.
V́ thế, ngôn ngữ dứt bặt. Nếu pháp có hành, có
đổi dời, có h́nh bóng, th́ sẽ có thể tuyên nói. Nếu
vô hành, chẳng đổi dời, chẳng có h́nh bóng, ngôn
ngữ sẽ dứt bặt! Cho đến nếu các pháp
là có tướng th́ sẽ có thể tuyên nói, nay hết thảy
các pháp ĺa hết thảy các tướng. V́ thế, chẳng
thể biểu thị, chẳng thể trao cho người
khác. Do đó, ngôn ngữ dứt bặt. Lại nữa, vô
tướng cũng là không có tướng nhất định.
Hăy nên biết hết thảy các pháp từ ngay nơi tướng
mà vô tướng, tức chẳng phải tướng, chẳng
phải vô tướng, như ba mắt chẳng thể
nghĩ bàn. V́ thế, ngôn ngữ dứt bặt. Các pháp môn
khác cũng phỏng theo đây mà suy ra.
(Kinh) Xa tự môn, nhất
thiết chư pháp bổn tánh tịch cố.
(經)奢字門,一切諸法本性寂故。
(Kinh: Môn chữ Xa (श, Śa),
do bổn tánh của hết thảy các pháp là tịch).
Phiến Để (Śānti)
trong tiếng Phạn được phương này dịch
là Tịch. Như phàm phu trong thế gian đạt
được chút phần tâm đạm bạc, ngưng dứt
ồn ào, náo động th́ cũng gọi là Tịch. Cho
đến hàng Nhị Thừa vĩnh viễn đoạn
các hành và luân hồi, chứng đắc Niết Bàn,
cũng gọi là Tịch, nhưng chẳng phải là bổn
tánh thường tịch. Do lẽ nào? Các pháp vốn sẵn
là tướng thường tự tịch diệt, tam giới
lục đạo có ǵ chẳng phải là Niết Bàn? Khi vô
lậu trí sanh, lại có khác ǵ phàm phu? Nhưng nay riêng ở
trong ấy, khởi ư tưởng diệt độ, há chẳng
phải là điên đảo ư? Lại nữa, nếu bổn
tánh của các pháp là tịch, trong bốn mươi hai
địa vị (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu
Giác), có ǵ chẳng phải là địa vị Như Lai? Có
ǵ chẳng phải là địa vị phàm phu? Như Di Lặc
Bồ Tát do bổn tánh tịch mà được thọ kư
Nhất Sanh Bổ Xứ, hết thảy chúng sanh cũng
đều nên được thọ kư! Nếu hết thảy
chúng sanh ở trong bổn tánh tịch, chẳng ngại tu học
chuyện của phàm phu, Di Lặc Bồ Tát cũng nên tu học
chuyện của phàm phu! Mà nay khởi ư tưởng sai biệt,
há chẳng phải là hư luận ư? Nếu lúc nhập môn
chữ Xa, sẽ biết là pháp b́nh đẳng, chẳng có
cao hay thấp, thường chẳng động, mà không ǵ
chẳng làm! Cho nên nói: “Trong giải thoát, dung nạp nhiều
thứ, Đại Bát Niết Bàn có thể kiến lập
đại nghĩa”, đều do điều này!
(Kinh) Sa tự môn, nhất
thiết chư pháp tánh độn cố.
(經)沙字門,一切諸法性鈍故。
(Kinh:
Môn chữ Sa (ष, Ṣa),
hết thảy các pháp tánh độn).
Nếu
xét theo từ gốc trong bản tiếng
Phạn, phải nên nói là “tánh đồng ư ngoan”
(tánh giống như vật trơ trơ). “Ngoan”
(頑,trơ trơ) có nghĩa là giống như gỗ,
đá chẳng hay biết, không cảm xúc. Nói “đồng”
là nói theo thí dụ, chẳng phải
là một mực giống như thế. Kinh Đại Phẩm
c̣n nói: “Bát Nhă vô tri, tự tánh
độn cố” (Bát Nhă vô tri, do tự
tánh độn). V́ thế, người nhuận sắc kinh
văn đă giữ từ ngữ trong kiểu dịch theo
lối cổ. Phàm [cho rằng] tự tánh là độn, tức
là tâm cực vô phân biệt, chẳng ngu, chẳng trí, chẳng
huệ, chẳng biết, chẳng trí, chẳng hư vọng,
chẳng giác, cho đến hết thảy các pháp chẳng
thể dao động, chỉ là một cuộc đất
thuần Kim Cang kiên cố. V́ sao vậy? Như người
thế gian do lấy bỏ chẳng quên, cho nên chuộng trí
huệ mà vứt bỏ ngu si, đề cao Niết Bàn, coi rẻ
sanh tử, nhưng nay đă nhất loạt là “vốn bất
sanh”, cho đến nhất loạt “bổn tánh tịch”, vậy
th́ ai là lợi, ai là độn? Như lưỡi dao Kim
Cang sắc bén kia, do đối ứng với vật chẳng
cứng chắc, chỉ dùng một bề, nên gọi là “lợi”
(sắc bén). Nếu khiến cho chỗ hướng về
đều là Kim Cang, toàn thể đều viên, chẳng sử
dụng lệch lạc, th́ lợi cũng sẽ quy vào
độn giống như vậy.
(Kinh) Sa tự môn, nhất
thiết chư pháp nhất thiết Đế bất khả
đắc cố.
(經)娑字門,一切諸法一切諦不可得故。
(Kinh: Môn chữ Sa (स),
hết thảy các Đế trong hết thảy các pháp chẳng
thể được).
Tát Đá Dă (Satya) trong tiếng
Phạn được phương này dịch là Đế.
“Đế” là hiểu rơ chân tướng của các
pháp đúng như thật, biết không điên đảo,
không sai lầm. Như nói: “Mặt trời có thể lạnh,
mặt trăng có thể nóng, chứ Khổ Đế do
đức Phật đă nói chẳng thể đổi khác
được!” Tập đúng là nhân, trọn chẳng
có cái nhân nào khác. Nhân diệt th́ quả bèn diệt. Đạo
diệt Khổ chính là chân đạo, trọn chẳng có
đạo nào khác. Lại nữa, kinh Niết Bàn dạy: “Giải
khổ vô khổ, thị cố vô khổ nhi hữu chân
đế, dư tam diệc nhĩ” (Hiểu là khổ chẳng
có khổ. Do đó, không khổ mà có Chân Đế, ba thứ
kia cũng thế). Cho đến phân biệt Tứ Đế
có vô lượng tướng và Nhất Thật Đế,
như trong phẩm Thánh Hạnh đă nói. Đó là tướng
của tự môn. Nhưng hết thảy các pháp vốn chẳng
sanh, cho đến v́ rốt ráo vô tướng mà ngôn ngữ
dứt bặt, do bổn tánh là tịch, tự tánh là độn.
Hăy nên biết vô kiến, vô đoạn, vô chứng, vô tu. “Kiến,
đoạn, chứng, tu” như thế đều là pháp
giới chẳng nghĩ bàn, vừa là Không, vừa là Giả,
vừa là Trung, chẳng thật, chẳng vọng, chẳng
có tướng nhất định để có thể chỉ
bày. V́ thế nói “Đế chẳng thể được!”
Phẩm Tứ Đế trong Trung Luận cũng biện
định cặn kẽ nghĩa này!
(Kinh) Ha tự môn, nhất
thiết chư pháp nhân bất khả đắc cố.
(經)訶字門,一切諸法因不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Ha (ह),
nhân của hết thảy các pháp chẳng thể được).
Chữ Hệ Đát Phạ (Hetva)
trong tiếng Phạn có nghĩa là Nhân. Nhân có sáu loại[30],
và xét theo ư nghĩa nhân duyên th́ nhân có năm loại, như A
Tỳ Đàm đă rộng nói. Nếu thấy môn chữ
Ha, sẽ biết hết thảy các pháp không ǵ chẳng sanh
từ nhân duyên. Đó là tướng của chữ Ha. Do các
pháp xoay vần đợi duyên mà thành, hăy nên biết rốt
cuộc không nương tựa; v́ thế nói “vô trụ
là cội gốc của các pháp”. V́ sao vậy? Như
Trung Luận dùng đủ mọi môn để quán “nhân
duyên của các pháp đều chẳng sanh”, hăy nên biết vạn
pháp duy tâm, Thật Tướng của tâm chính là Nhất Thiết
Chủng Trí, tức là pháp giới của chư Phật.
Pháp giới chính là cái Thể của các pháp, chẳng thể
là nhân. Do vậy bèn nói, nhân cũng là pháp giới, duyên
cũng là pháp giới, pháp sanh bởi nhân duyên cũng là pháp
giới. Trong phần trước đă nói môn chữ A, từ
gốc đến ngọn đều rốt ráo là chỗ
như thế. Nay môn chữ Ha cũng thế, cũng từ
ngọn trở về gốc, rốt ráo đạt tới
chỗ như thế. Chữ A từ “vốn bất sanh”
mà sanh ra hết thảy các pháp, nay cũng dùng “không có nhân
đối đăi” để làm nhân của các pháp, đầu
cuối đồng quy, tức là chỉ thú trong khoảng
giữa ấy đều có thể biết.
Lại nữa, trong tự
luân tướng của Toàn Đà La Ni, dùng một chữ
để giải thích ư nghĩa của hết thảy các
chữ, dùng hết thảy các chữ để giải
thích ư nghĩa của một chữ. Dùng nghĩa của một
chữ để thành lập nghĩa của hết thảy
các chữ, dùng nghĩa của hết thảy các chữ
để thành lập nghĩa của một chữ, dùng
nghĩa của một chữ để phá nghĩa của
hết thảy các chữ, dùng nghĩa của hết thảy
các chữ để phá nghĩa của một chữ.
Như một chữ và hết thảy các chữ, xoay chuyển
nghịch thuận, phỏng theo lệ này có thể suy ra.
Thế nào là “dùng một chữ
để giải thích hết thảy các chữ?” Như
khi giải thích chữ Ca, chỉ dùng các thứ nhân duyên
để quán “vốn bất sanh”, tức là thấy
nghĩa “vô sở tác”. Cho đến khi giải thích chữ
Ha, cũng dùng các thứ nhân duyên quán “vốn bất sanh”, tức
thấy nghĩa “vô nhân”.
Thế nào là “dùng hết thảy
các chữ để giải thích một chữ?” Như khi
giải thích môn chữ A, dùng các thứ nhân duyên để
quán vô tạo tác, liền thấy nghĩa “vốn bất
sanh”. Cho đến dùng các thứ nhân duyên để quán các
pháp chẳng có nhân, tức là thấy nghĩa “vốn chẳng
sanh”. Các chữ khác cũng phỏng theo lệ đó, sẽ
nói rộng!
Thế nào là “hết thảy
các chữ thành lập một chữ?” Tức là hết thảy
các pháp vốn bất sanh, do vô tác, như hư không vô tướng,
vô hành, vô hợp, cho đến vô nhân.
Thế nào là “một chữ
thành hết thảy các chữ?” Tức là hết thảy
các pháp vô tác, do vốn bất sanh, cho đến hết thảy
các pháp vô nhân, do vốn bất sanh.
Thế nào là “dùng hết thảy
chữ để phá một chữ?” Như người chấp
các pháp vốn có sanh, hăy nên phá điều ấy như sau:
Nếu các pháp ĺa tạo tác mà nói là có sanh, th́ nghĩa ấy
chẳng đúng! Cho đến nếu các pháp do chẳng thể
được mà nói là “có sanh”, th́ nghĩa ấy chẳng
đúng.
Thế nào là “một chữ
phá hết thảy các chữ?” Như người chấp
có tạo tác, hăy nên phá điều ấy như sau: Nếu
nghĩa “các pháp vốn bất sanh” đă thành lập mà nói
là “có làm”, nghĩa ấy chẳng đúng. Cho tới nếu
chấp “có nhân” th́ cũng phá rằng: Nếu nghĩa “các
pháp vốn bất sanh’ đă thành lập mà nói là “có nhân”,
nghĩa ấy chẳng đúng.
Thế nào là “nghịch thuận
xoay vần”? Tức là nếu pháp vốn sẵn bất sanh
th́ chẳng có tạo tác. Nếu chẳng có tạo tác th́
như hư không vô tướng. Nếu như hư không vô
tướng, tức là chẳng có hành. Nếu chẳng có
cái để hành th́ chẳng có hợp. Nếu chẳng có hợp
th́ chẳng biến đổi, cho đến nếu không
có nhân th́ hăy nên biết pháp vốn chẳng sanh. Đó gọi
là Thuận. Nếu pháp chẳng có nhân th́ Đế chẳng
thể được. Nếu Đế chẳng thể
được th́ tự tánh độn. Nếu tự tánh
là độn th́ hăy nên biết bản tánh tịch. Nếu vốn
là tịch th́ hăy nên biết là vô tướng. Cho đến
nếu “vốn bất sanh” th́ hăy nên biết là không có nhân.
Tám loại nghĩa như thế tự tại xoay chuyển
để nói.
Lại nữa, nay nói “hết
thảy các pháp” tức là tổng tướng. Nếu dựa
theo kinh Ma Ha Bát Nhă, sắc cho đến Nhất Thiết Chủng
Trí, mỗi mỗi đều nói riêng khác, sẽ là vô lượng
nghĩa. Lại c̣n với mỗi môn, hăy nên dựa tướng
cạn hay sâu được nói trong phẩm Chân Ngôn Trụ
Tâm để theo thứ tự phân biệt, do tự môn chuyển
nên nghĩa cũng bất đồng. Do bởi nghĩa ấy,
có thể sanh ra trăm ngàn vạn ức Toàn Đà La Ni. Lại
nữa, do hết thảy ngôn thuyết của Như Lai
không ǵ chẳng phải là chân ngôn, hăy nên dùng tự nghĩa
như thế để nhập trọn khắp hết thảy
Tu-đa-la. Do đó, Trí Độ Luận nói: “Nếu
trong hết thảy các lời lẽ, Bồ Tát nghe chữ
A, lập tức thuận theo nghĩa, biết cái được
gọi là ‘tướng chẳng sanh từ ban sơ’ của
hết thảy các pháp (chữ A hiểu theo nghĩa tiếng
Hán là Sơ. A Nậu Ba Đà (Anutpāda) dịch
sang tiếng Hán là “bất sanh”). Nếu nghe chữ Ra, liền
thuận theo nghĩa, biết hết thảy các pháp ĺa
tướng (chữ Ra được dịch sang tiếng
Hán là Cấu). Nếu nghe chữ Ba, lập tức biết
biết hết thảy các pháp nhập vào Đệ Nhất
Nghĩa (Ba La Mạt Đà (Paramārtha) dịch
sang tiếng Hán là Đệ Nhất Nghĩa). Nếu nghe chữ
Giá, lập tức biết hết thảy các hành đều
chẳng phải là hành (Giá Lợi Dạ (Kārya) dịch
sang tiếng Hán là ngôn hạnh). Nếu nghe chữ Na, liền
biết hết thảy các pháp chẳng được, chẳng
mất, chẳng đến, chẳng đi (Na dịch sang
tiếng Hán là Bất)”. Như trong phẩm
Tứ Niệm Xứ của luận ấy đă nói rộng.
Lại nữa, trong hết
thảy các danh ngôn, hễ có thanh A đều nhập vào môn
chữ A. Có thanh Ca th́ đều thuộc vào môn chữ Ca,
cho đến có thanh Ha th́ thuộc vào môn chữ Ha. Do vậy,
trong một tự môn có vô lượng nghĩa, chẳng phải
là trong môn chữ Ha chỉ có nghĩa “không có nhân”. Các tự
môn khác cũng phỏng theo lệ ấy.
Lại như Sa Đá Dă
(Satya) có nghĩa là Đế. V́ thế, kinh nói: “Sa tự
môn, nhất thiết chư pháp, Đế bất khả
đắc” (môn chữ Sa, trong hết thảy các pháp,
Đế chẳng thể được). Vả nữa,
Sa Đá có nghĩa là “vướng mắc”, cho nên trong Pháp
Cúng Dường có nói: “Sa tự môn, nhất thiết
chư pháp vô nhiễm trước” (Môn chữ Sa, trong hết
thảy các pháp chẳng đắm nhiễm). Lại như
Bà Phạ (Bhava) nghĩa là Có; do vậy, kinh nói: “Bà tự
môn, nhất thiết chư pháp hữu bất khả đắc” (môn
chữ Bà, trong hết thảy các pháp, Hữu chẳng thể
được). Lại nữa, Bà Phạ Na (Bhāvanā) có nghĩa là Quán, cho nên trong Cúng Dường Pháp lại
nói: “Bà tự môn, nhất thiết chư pháp, ly chư quán”
(môn chữ Bà, trong hết thảy các pháp ĺa các quán). Những
điều khác đều phỏng theo lệ này. Do vậy,
trong kinh Đại Phẩm [Bát Nhă] và phẩm Nhập Pháp Giới
của kinh Hoa Nghiêm đều nói môn bốn
mươi hai chữ [Tất Đàm]. Phẩm Văn Tự
trong kinh Niết Bàn, kinh Văn Thù Sở Vấn, phẩm
Đà La Ni Tự Tại Vương của kinh Đại
Tập đều giải thích mẫu tự Tất
Đàm, ư nghĩa tương đồng với những
điều được nói trong kinh này. Nếu hiểu ư
này, ắt sẽ thẳng thừng thấu hiểu kinh này,
chẳng hề trái nghịch, trở ngại.
Lại nữa, mỗi một
tự môn đều nói “chẳng thể được”,
nhằm nêu ra ư nghĩa Trung Đạo. Nay dùng môn chữ Xa
để nói, như nh́n h́nh ảnh khuôn mặt trong
gương, do bổn chất làm nhân, gương sạch
làm duyên, có ảnh hiện ra để thấy, đó chính
là pháp được sanh. Tướng xấu hay đẹp
hiện tiền, do chẳng sai chạy, nên gọi là Có. Dùng
đủ loại phương tiện để t́m cầu,
sẽ đều chẳng thể được, nên nói là
Không! Nhưng Có hay Không đều chẳng ra ngoài bản thể
của tấm gương ấy, tức là Một, bèn gọi
là Trung. Ba tướng bất đồng mà đồng, chẳng
khác mà khác. V́ thế, luận sư trong thế gian chẳng
thể nghĩ bàn được! Nay Chân Ngôn môn cũng thế,
lấy quán tâm làm nhân, Tam Mật làm duyên, phổ môn hải hội
hiện tiền chẳng sai, do vậy là Có. Do dùng đủ
loại môn để t́m ṭi, đều chẳng thể
được, nên gọi là Không. Có và Không ấy đều
chẳng ra ngoài pháp giới, nên nói là Trung. Tam Đế bất
đồng mà đồng, chẳng khác mà khác, người
thuộc hết thảy các phương tiện thừa
đều chẳng thể nghĩ bàn được! Các
pháp môn khác đều phỏng theo đó, chẳng thể
nêu trọn!
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Ngưỡng nhưỡng nĩnh nẵng
măng, ư nhất thiết tam-muội tự tại, tốc
năng thành biện chư sự, sở vi nghĩa lợi
giai tất thành tựu.
(經)祕密主!仰壤儜曩莾,於一切三昧自在,速能成辨諸事,所為義利皆悉成就。
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Ngưỡng, nhưỡng, nĩnh, nẵng,
măng[31],
trong hết thảy tam-muội tự tại, có thể
nhanh chóng hoàn thành các sự, thực hiện các nghĩa lợi
thảy đều thành tựu).
Trong
năm loại thanh là Ca, Giá, Trá, Đa, Ba, mỗi loại lại
có năm thanh, từ chữ thứ nhất tới chữ
thứ tư đều là huệ môn như đă nói trên
đây. Chữ thứ năm là chứng môn, nay nói gộp
chung. Chữ Phạn coi năm chữ này đều giống
như chấm tṛn. C̣n như bốn chữ Ca, Khư, Nga,
Già đều tăng thêm tới mười một thanh,
đều là đặt dấu chấm trên mỗi chữ.
Nếu muốn bỏ chấm ấy đi, mà ngay sau đó
thêm các chữ như Ngưỡng v.v… chúng sẽ chẳng
khác khi có chấm. Lại nữa, trong mười hai thanh[32]
của tiếng Phạn, thanh thứ nhất là bản thể,
tức thanh thứ hai là hạnh, từ thanh thứ ba trở
đi, dùng các nét để thêm vào đều là tam-muội.
Thanh thứ mười một thêm một chấm chính là Chứng.
Bên thanh thứ mười hai (tức aḥ (ः),
thêm hai chấm là Bát Niết Bàn. Như chữ Ngưỡng
(ङ) này, do là âm
thanh có thể trọn khắp trí huệ tam-muội, hăy nên
biết chính là nghĩa Đại Không. Do vậy, được
nói riêng, chẳng luận chung với các chữ trước
đó. Kinh Niết Bàn nói năm chữ ấy nêu trọn ư
nghĩa của các chữ. Nay trong giáo nghĩa chủ yếu
của đức Tỳ Lô Giá Na, nhờ vào năm chữ ấy
để diễn tả Đại Không. Đại Không là
chứng xứ, chẳng có cách nào nói được. V́ thế,
chỉ dùng chấm tṛn để biểu thị. Lại nữa,
tuy tự thể của cái chấm tṛn ấy chẳng có
môn nào, nhưng trọn khắp hết thảy các pháp môn,
như hư không xa ĺa các tướng mà đều chứa
đựng vạn tượng. V́ thế, hết thảy
tự môn nếu thêm một chấm Không, sẽ trọn
đủ tác dụng tự tại, đều có thể
hoàn thành các sự. Như vô sanh diệu huệ thuộc môn
chữ A, hết thảy chúng sanh b́nh đẳng đều
có, chỉ v́ chẳng tự chứng biết, như cô gái
nghèo có kho báu[33]
mà chẳng có thế lực [để khai quật]. Khi phát
khởi hạnh, sẽ đúng như phương tiện
mà khai phát. Khi nhập chứng th́ như kho báu hiện tiền;
lúc bấy giờ, tùy ư thọ dụng, sở cầu ắt
đạt được. V́ thế nói: “Thêm vào cái chấm
Không th́ các nghĩa lợi đều được thành tựu”.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế
Tôn nhi thuyết kệ ngôn: - Chân Ngôn tam-muội môn, viên măn nhất
thiết nguyện, sở vị chư Như Lai, bất khả
tư nghị quả, cụ túc chúng thắng nguyện, chân
ngôn quyết định nghĩa, siêu việt ư tam thế,
vô cấu đồng hư không, trụ bất tư nghị
tâm, khởi tác chư sự nghiệp, đáo tu hành địa
giả, thọ bất tư nghị quả, thị đệ
nhất chân thật, chư Phật sở khai thị.
Nhược tri thử pháp giáo, đương đắc
chư Tất Địa, tối thắng chân thật thanh.
Chân ngôn, chân ngôn tướng, hành giả đế tư
duy, đương đắc bất hoại cú.
(經)爾時世尊而說偈言:真言三昧門,圓滿一切願,所謂諸如來,不可思議果。具足眾勝願,真言決定義,超越於三世,無垢同虛空,住不思議心,起作諸事業,到修行地者,授不思議果,是第一真實,諸佛所開示,若知此法教,當得諸悉地。最勝真實聲,真言真言相,行者諦思惟,當得不壞句。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn nói kệ rằng: - Chân Ngôn tam-muội
môn, viên măn hết thảy nguyện, chính là chư Như
Lai, quả chẳng thể nghĩ bàn. Trọn đủ
các thắng nguyện, nghĩa chân ngôn quyết định.
Vượt thoát khỏi ba đời, vô cấu như
hư không, trụ tâm chẳng nghĩ bàn, khởi tạo
các sự nghiệp, đạt tới tu hành địa,
trao quả chẳng nghĩ bàn. Là chân thật bậc nhất,
được chư Phật khai thị. Nếu biết
pháp giáo này, sẽ đắc các Tất Địa, tiếng
chân thật tối thắng. Chân ngôn, tướng chân ngôn,
hành giả tư duy kỹ, sẽ được câu chẳng
hoại).
Kế đó, trong lời kệ
do đức Thế Tôn đă nói: “Chân ngôn tam-muội môn,
viên măn nhất thiết nguyện” (các môn tam-muội của
Chân Ngôn viên măn hết thảy các nguyện), nếu nói đầy
đủ theo bản tiếng Phạn, phải là sau chữ
“chân ngôn” có thêm chữ Đạo. Người thuộc
địa vị Gia Hạnh hễ duyên trụ trong chữ
A, bèn gọi là môn tam-muội chữ A. Môn tam-muội chữ
A này chính là khai tâm minh đạo môn, hết thảy các chữ khác cũng đều
như thế. “Nhất thiết nguyện” trong tiếng
Phạn là Tát Phạ Xa (sarvāsā), tức là ước nguyện mong cầu trong tâm; ư
nói: Các chúng sanh tu môn tam-muội này, hết thảy chí cầu
đều được viên măn. Khi nguyện ấy viên
măn th́ chính là cái quả chẳng thể nghĩ
bàn của các Như Lai. Cái quả thường trụ, trí
huệ không có thầy mà c̣n có thể ban cho chúng sanh, huống
hồ các nguyện Tất Địa thế gian ư?
Lại nữa, Thật
Tướng của thanh và chữ trong mỗi môn tam-muội
của Như Lai dù có Phật hay không có Phật, pháp là
như thế, tức là do vậy mà chẳng thay đổi,
chính là bổn địa Pháp Thân của Như Lai. V́ muốn
thí Pháp Thân ấy cho trọn khắp chúng sanh, vẫn dùng thần
lực tự tại gia tŕ vào thanh và chữ vốn sẵn
như thế. V́ vậy, thanh và chữ chính là thân gia tŕ của
chư Phật. Cái thân gia tŕ ấy có thể thực hiện
trọn khắp các thân tùy theo từng loài, không đâu chẳng
hiện diện. Hăy nên biết thanh và chữ gia tŕ cũng
lại giống như thế. Do vậy, hành giả chỉ
nên nhất tâm duyên quán kỹ càng thanh và chữ ấy, sẽ
tự thấy thân gia tŕ của Phật. Nếu thấy
thân gia tŕ, tức là thấy Pháp Thân nơi bổn địa.
Nếu khi thấy Pháp Thân nơi bổn địa, đấy
tức là tự thân của hành giả. V́ thế, mỗi một
môn ấy chính là cái quả chẳng thể nghĩ bàn của
Như Lai, chẳng do chỗ khác mà có.
“Cụ túc chúng thắng
nguyện, chân ngôn quyết định nghĩa” (đầy
đủ các nguyện thù thắng, nghĩa quyết định
của chân ngôn): Nói đầy đủ theo bản tiếng
Phạn, hăy nên nói “trọn đủ tất cả các
nguyện thù thắng và nghĩa quyết định chân thật
của chân ngôn”. “Nguyện thù thắng” ở đây trong
tiếng Phạn là Phạ Rô, tức là “trọn đủ
các loại công đức”. Đó chính là tam-muội, tổng
tŕ, lực, vô úy v.v… Có nghĩa là “sở nguyện đă
măn, sở cầu ắt trọn”, khác âm tiếng Phạn
của chữ Nguyện trong phần trước. Nói “quyết
định” là như môn chữ A, dù thanh hay chữ, toàn
thể đều là bất sanh, nghĩa của thanh và chữ
chính là “toàn thể bất sanh”. Nếu lúc chứng, vẫn
chỉ chứng sự “bất sanh” này, trong khoảng giữa,
trọn chẳng xen tạp, mà cũng chẳng có đường
khác. Nếu lúc thấy nghĩa chân thật này, giả sử
mười phương chư Phật đồng thời
hiện tiền, nói đủ loại Tương Tự Ba
La Mật, toan khiến cho [người ấy] thay đổi
cái tâm, [người ấy] vẫn chẳng sanh nghi hoặc.
V́ thế nói là “quyết”.
Lại nữa, “cụ túc
chúng thắng nguyện” (đầy đủ các nguyện
thù thắng) tức là công đức nội chứng của
Như Lai nhiều như số vi trần trong mười
phương thế giới. Do quyết định, mỗi
mỗi đều thành ấn Kim Cang. Từ đấy trở
đi, tự chứng thân lại khởi lên gia tŕ thân; v́ thế
nói: “Siêu việt ư tam thế” (vượt thoát ba
đời). “Vô cấu đồng hư không” (vô cấu
giống như hư không) tức là tâm địa thanh tịnh
vô cấu chẳng nghĩ bàn, dùng đại phương tiện
để vẽ thành Phổ Môn Mạn-đồ-la nơi
cuộc đất ấy. Do vậy, kế đó kinh nói: “Trụ
bất tư nghị tâm, khởi tác chư sự nghiệp”
(trụ trong tâm chẳng nghĩ bàn, dấy khởi tạo
tác các sự nghiệp). Bản tiếng Phạn nói đầy
đủ là “tâm địa”, nhưng do mỗi câu kệ
chỉ có năm chữ, không thể ghi hết. Nhưng
Địa chính là tâm thể; v́ thế nói là “trụ trong
tâm chẳng nghĩ bàn”. Trong Chân Ngôn tam-muội môn, tuy có
quả đức chẳng thể nghĩ bàn như thế,
kham có thể châu cấp, ban tặng cho chúng sanh nhiều bằng
một quốc gia, nhưng nếu các chúng sanh chẳng sanh
ư tưởng khó gặp, cúng dường, tu hành, th́ ví
như cỗ bàn của vua đầy ắp trước mặt,
nhưng [chúng sanh] chẳng có tâm ăn uống, chư Phật
biết làm sao được? V́ thế, kế đó, kinh
nói: “Nhược đáo tu hành địa, thọ bất
tư nghị quả” (nếu đạt tới địa
vị tu hành, sẽ trao cho cái quả chẳng thể
nghĩ bàn). “Tu hành địa” ở đây chính là
sơ pháp minh môn trong cái tâm Bồ Đề thanh tịnh. Chẳng
hạn như Thanh Văn sau khi kiến Đế, lại dự
vào Tu Hành Vị. Vị Bồ Tát ấy trong Bách Tự Minh
Môn, đều thấy Liên Hoa Thai Tạng Mạn-đồ-la
thế giới hải, các tướng trang nghiêm ấy thảy
đều bất đồng. Trước hết, từ
đại không luân trong môn chữ Khư, dùng môn chữ Ha
để khởi đại phong luân. Kế đó, trên
đấy dùng môn chữ Phạ để khởi biển
nước thơm. Tiếp đó, ở trên ấy, dùng môn
chữ A để khởi đất kim cang, Kim Cang Luân
Sơn. Những điều khác như kinh Hoa Nghiêm đă
nói. Trong Bồ Đề Mạn-đồ-la nơi mỗi
thế giới thuộc một trăm Liên Hoa Tạng ấy,
đều có mười thế giới các Bồ Tát, Kim
Cang v.v… làm quyến thuộc. Hành nhân Du Già có thể chẳng
rời khỏi ṭa, mà đều tới các Phật hội
như thế, cũng có thể lần lượt t́m cầu
các thiện tri thức. V́ thế nói: “Sơ Địa Bồ
Tát hóa măn bách Phật quốc” (Sơ Địa Bồ
Tát biến hóa đầy ắp một trăm cơi Phật),
chẳng phải chỉ là trông thấy mà thôi! Cũng có thể
dùng một trăm Liên Hoa Tạng ấy chuyển thành tự
thân. C̣n như khi viên măn mười tâm “mầm, thân, hoa, búp”
v.v… thuộc Sơ Địa, trong một minh môn khai xuất
mười môn giải thoát, thành một ngàn thế giới,
đều là tùy phần truyền trao cái quả chẳng thể
nghĩ bàn. Đạt đến gần Đệ Thập
Nhất Địa, trong hư không vân hải minh môn, mỗi
mỗi đều thấy tánh, tướng, h́nh loại của
thế giới Liên Hoa Tạng trang nghiêm, xoay vần bất
đồng, dùng đó làm tự thân tự tại vô ngại.
Đấy gọi là “bất tư nghị quả măn”.
Kế đó, có hai bài kệ
nhằm khuyên tin, kết lại để ấn chứng: “Thị
đệ nhất chân thật, chư Phật sở khai thị”
(là chân thật bậc nhất, được chư Phật
khai thị). “Khai thị” chính là tri kiến của Phật,
có cùng ư nghĩa với kinh Pháp Hoa. Nửa bài kệ kế
đó nói: “Nhược tri thử pháp giáo, đương
hoạch chư Tất Địa” (nếu biết pháp
giáo này, sẽ đạt các Tất Địa), tức là dẫn
“chư Phật đạo đồng” để khuyến
tín Thế Đế. Nếu hành giả Chân Ngôn hiểu rơ
thứ tự phương tiện trong pháp giáo này, do nhất
định tin tưởng, đúng như lời dạy mà
tu hành, sẽ được thành tựu hết thảy các
Tất Địa. Nếu chẳng phải như vậy,
mười phương ba đời chư Phật sẽ
mắc tội “trái nghịch bổn thệ, lừa dối
chúng sanh”. Bài kệ kế tiếp nhằm khuyên [hành nhân hăy]
trụ trong Chân Đế. Nhưng Tất Đàm tự mẫu,
trẻ nhỏ cũng đều tụng tŕ, c̣n như hộ-ma,
cúng dường v.v… Vi Đà thế tiên[34]
cũng đều cùng làm; nhưng nay sở dĩ môn Chân
Ngôn này riêng trở thành bí mật là do được
nghĩa chân thật gia tŕ. Nếu chỉ miệng tụng
Chân Ngôn mà chẳng tư duy ư nghĩa, chỉ có thể thành
tựu nghĩa lợi thế gian, há có đạt
được thể tánh Kim Cang ư? V́ thế, kệ rằng:
“Tối thắng chân thật thanh, chân ngôn, chân ngôn tướng,
hành giả đế tư duy, đắc thành bất hoại
cú” (Tiếng chân thật tối thắng, chân ngôn, tướng
chân ngôn. Hành giả tư duy kỹ, được thành câu
bất hoại). “Thanh” chính là cái Thể của Ngữ
Mật trong Chân Ngôn môn, như Đệ Nhất Chân Thật
Nghĩa trong thanh A, tức là “vốn bất sanh”. Thoạt
đầu nói về Chân Ngôn, bản tiếng Phạn dùng
nhiều tiếng để gọi, tức là chỉ chung
tướng bách tự môn Thế Đế tự luân. Kế
đó, nói “chân ngôn tướng” tức là Thật
Tướng của chân ngôn ấy. Từ ngay nơi Thật
Tướng của chân ngôn, do tư duy chắc thật, mỗi
mỗi đều nhập Liên Hoa Đài. “Cú” chính là chỗ
dấu tích ngưng dứt.
(Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật
Chủ bạch Phật ngôn: - Hy hữu, Thế Tôn! Phật
thuyết bất tư nghị chân ngôn tướng đạo
pháp, bất cộng nhất thiết Thanh Văn, Duyên Giác,
diệc phi phổ vị nhất thiết chúng sanh. Nhược
tín thử chân ngôn đạo giả, chư công đức
pháp giai đương măn túc, duy nguyện Thế Tôn thứ
thuyết Mạn-đồ-la sở tu thứ đệ.
(經)爾時執金剛祕密主白佛言:希有。世尊!佛說不思議真言相道法。不共一切聲聞緣覺,亦非普為一切眾生。若信此真言道者,諸功德法皆當滿足。唯願世尊次說漫荼羅所須次第。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật
Chủ bạch với đức Phật rằng: - Đức
Thế Tôn hy hữu! Phật nói đạo pháp chân ngôn
tướng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng cùng chung với
hết thảy Thanh Văn, Duyên
Giác, cũng chẳng phải v́ trọn khắp hết thảy
chúng sanh. Nếu tin tưởng đạo chân ngôn này, các
pháp công đức sẽ đều viên măn. Kính mong đức
Thế Tôn kế đó hăy nói về thứ tự cần
thiết trong Mạn-đồ-la).
Như
trong sự giải thoát của pháp Thanh Văn chẳng có
văn tự, nhưng ngài Duy Ma Cật chẳng ĺa văn tự
để nói tướng giải thoát, nên gọi là “bất
tư nghị giải thoát”. Nay tự luân này cũng thế,
tức là dùng vô tướng Pháp Thân để làm các loại
thanh và chữ, các loại thanh và chữ làm vô tướng
Pháp Thân, nên gọi là “tướng chân ngôn chẳng thể
nghĩ bàn”. “Bất cộng nhất thiết Thanh
Văn, Duyên Giác, diệc phi phổ vị nhất thiết
chúng sanh” (chẳng cùng chung với hết thảy Thanh
Văn và Duyên Giác, cũng chẳng phải v́ trọn khắp
hết thảy chúng sanh): Kinh này là vật báu bí mật của
đấng pháp vương, chẳng thể tùy tiện trao
cho người chẳng xứng đáng. Như đức
Thích Ca xuất thế hơn bốn mươi năm, do
ngài Xá Lợi Phất ân cần thỉnh cầu ba lượt,
[đức Phật] mới v́ Ngài nói đại lược
nghĩa Diệu Pháp Liên Hoa. Nay thân bổn địa này lại
là chỗ bí mật, sâu thẳm của Diệu Pháp Liên Hoa,
cho nên phẩm Thọ Lượng nói: “Thường tại
Linh Thứu sơn, cập dư chư trụ xứ”
(thường tại núi Linh Thứu, và các trụ xứ
khác) cho tới “ngă Tịnh Độ bất hủy, nhi
chúng kiến thiêu tận” (Tịnh Độ của ta chẳng
hủy, chúng sanh thấy cháy rụi), tức là ư nghĩa thuộc
tông Du Già này vậy. Lại nữa, do bậc Bổ Xứ
Bồ Tát ân cần thỉnh ba lượt, [đức Phật]
mới nói. Nếu chẳng phải là căn cơ đốn
ngộ, sẽ chẳng được nhận lấy. V́
thế, chẳng v́ trọn khắp hết thảy chúng sanh
[mà nói pháp môn này]! Đó cũng là lănh hội ư nghĩa trong
bài kệ trước đó “đạt đến địa
vị Tu Hành th́ mới được truyền trao cái quả
chẳng nghĩ bàn”.
Kế
đó, nói về sự lănh ngộ hai bài kệ khuyến tín
và ấn khả để kết lại trong phần
trước, nên nói: “Nhược tín thử Chân Ngôn đạo
giả, chư công đức pháp giai đương măn túc”
(nếu tin đạo Chân Ngôn này, các pháp công đức
đều sẽ trọn đủ). Nếu lúc được
viên măn, tức là trọn đủ các nguyện thù thắng.
Trên đây, đă nói cặn kẽ về chi phần chân ngôn
xong. Ngài Chấp Kim Cang lại tiếp nối phần kinh
văn trên đây, thỉnh Phật kế đó hăy nói về
thứ tự cần phải tu trong Mạn-đồ-la.
(Kinh)
Như thị thuyết dĩ, Thế Tôn phục cáo Kim Cang
Thủ, nhi thuyết kệ ngôn: - Tŕ chân ngôn hành giả, cúng
dường chư thánh tôn, đương phụng duyệt
ư hoa, khiết bạch, hoàng, châu sắc, Bát Đầu Ma,
thanh liên, Long hoa Bôn Na Già, Kế Tát Ra Mạt Lợi, Đắc
Nghiệt Lam, Chiêm Bặc, Vô Ưu, Để La Kiếm, Bát
Trá La Sa La. Thị đẳng tiễn diệu hoa, cát tường
chúng sở nhạo, thải tập dĩ vi man, kính tâm nhi
cúng dường.
(經)如是說已,世尊復告金剛手而說偈言:持真言行者,供養諸聖尊,當奉悅意花,潔白黃朱色,鉢頭摩青蓮、龍花奔那伽、計薩囉末利、得蘗藍瞻蔔、無憂底羅劍、鉢吒羅娑羅,是等鮮妙華,吉祥眾所樂,採集以為鬘,敬心而供養。
(Kinh:
Nói như thế xong, đức Thế Tôn lại bảo
Kim Cang Thủ mà nói kệ rằng: - Hành giả tŕ chân ngôn,
cúng dường các đức thánh, nên dâng hoa đẹp ư,
sắc trắng tinh, vàng, đỏ: Bát Đầu Ma, sen
xanh, Long Hoa Bôn Na Già, Kế Tát Ra, Mạt Lợi, Đắc
Nghiệt Lam, Chiêm Bặc, Vô Ưu, Để La Kiếm, Bát
Trá La, Sa La. Các hoa tươi đẹp ấy, cát tường,
người ưa thích, thâu góp làm tràng hoa, tâm cung kính cúng
dường).
Kế
đó, trong lời kệ giải đáp, trước hết,
đức Thế Tôn giải đáp về hai câu hỏi về
dâng cúng thức ăn, hương, hoa v.v… và các thứ b́nh
báu, gọi chung là “chi phần Cúng Dường”. Trong
các vật để cúng dường, trước hết
nói về hoa để dâng cúng. Phàm các vật để dâng
cúng, đều tùy theo tánh loại của các vị tôn thánh
và phương vị của Mạn-đồ-la v.v... mà mỗi
mỗi đều khéo phân biệt, sao cho sắc,
hương, vị, xúc đều khiến ḷng người
vui thích. Các loại hoa không tốt lành sanh trên đất hay
trong nước chỉ có thể dùng trong pháp Chiết Phục
mà thôi! Trong ba màu trắng, vàng, đỏ, Như Lai Bộ
nên dùng màu trắng, Liên Hoa quyến thuộc nên dùng màu vàng,
Kim Cang Bộ nên dùng màu đỏ. Lại nữa, đúng
theo phương vị của Mạn-đồ-la: Đàn
tṛn th́ dùng màu trắng, đàn vuông th́ dùng màu vàng, đàn tam
giác th́ dùng màu đỏ. Lại nữa, [để cúng
dường] chư Phật th́ dùng màu trắng, chư Bồ
Tát dùng màu vàng, các vị trời trong thế gian th́ màu đỏ.
Các thứ khác như hương v.v… cũng chuẩn theo ư
này, kiêm đối chiếu với kinh văn của kinh Tô
Tất Địa và Cù Hê để dùng, chẳng chép tường
tận [ở đây].
Bát
Đầu Ma (Padma) là hoa sen hồng. Phàm các loại hoa mọc
trong nước như hoa sen xanh, đỏ,
trắng v.v… đều có thể dâng cúng chung chư tôn. “Long
Hoa Bôn Na Già” (Nāgakesara Puṃnāga): Bôn
Na Già là hoa Long Thụ. Di Lặc Thế
Tôn thành Phật ở dưới cội cây này. Nói thẳng
là Long Hoa, tức loài hoa được rồng coi trọng.
Phương Tây có loại hoa này. Hoa Kế Tát Ra (Kesara), hoa Mạt Lợi
(Mallika, hoa lài), hoa Đắc Nghiệt La (Tagara), hoa Chiêm Bặc
(Caṃpaka),
hoa Vô Ưu (Aśoka),
hoa Để La Kiếm (Tilaka), hoa Bát Trá La (Pāṭala), hoa
cây Sa La (Śāla),
đều là những thứ có ở Thiên Trúc, phương
này chẳng thể biết trọn.
Kinh
nói “thị đẳng tiễn diệu hoa” (các loại
hoa tươi đẹp ấy), trong bản tiếng Phạn
có kèm thêm chữ Hoặc, ư nói các thứ hoa ấy đều
có thể dùng chung, nên nêu ra một số trường hợp.
Nhưng nếu phương này th́ có, phương kia th́
không, chỉ cốt sao loại hoa được người
ta yêu thích, thế gian coi là cát tường, th́ đều có
thể dùng để cúng dường, hăy nên mỗi mỗi
lắng ḷng khéo phân biệt. “Thái tập dĩ vi man”
(Gom góp thành tràng hoa), tức xen lẫn trang nghiêm, hoặc
xâu, hoặc kết, do cái tâm ân cần, thanh tịnh, thuần
hậu của hành nhân khiến cho chư tôn hoan hỷ hộ
niệm.
(Kinh)
Chiên đàn cập thanh mộc, mục túc hương, uất
kim, cập dư diệu đồ hương, tận tŕ
dĩ phụng hiến. Trầm thủy cập tùng
hương, Phạ Lam dữ long năo, bạch đàn, giao
hương đẳng. Thất Lợi Phạ Tắc Ca, cập
dư phần hương loại, phân phức thế
xưng mỹ. Ưng đương tùy pháp giáo, nhi phụng
ư thánh tôn.
(經)栴檀及青木、苜蓿香欝金,及餘妙塗香,盡持以奉獻。沈水及松香,嚩藍與龍腦,白檀膠香等,失利嚩塞迦,及餘焚香類,芬馥世稱美,應當隨法教,而奉於聖尊。
(Kinh:
Chiên đàn và thanh mộc, mục túc hương, uất
kim, và các hương bôi quư khác, đều dùng hết dâng hiến.
Trầm thủy và tùng hương, Phạ Lam (Vāla)
và long năo, bạch đàn, giao hương (Sarjarasa)
thảy, Thất Lợi Phạ Tắc Ca (Śrīvāsaka),
và các loại hương đốt, thơm ngát, đời
ca ngợi. Hăy nên tùy pháp giáo, dâng lên các thánh tôn).
Kế
đó nói về hương bôi. Chiên đàn (Candana), thanh mộc
(Kuṣṭha),
uất kim (Kuṅkuma),
cỏ Đố Lộ Bà (Turuska)[35]
loại hương Mục Túc (Spṛkkā) ở
phương Tây, hơi khác hương Mục Túc ở
phương này. “Cập dư diệu đồ
hương” (và các loại hương bôi tốt đẹp
khác) như trầm thủy, cam tùng, đinh hương
(clove), lơi cây quế, đậu khấu (cadarmom, nutmeg) ở
phương Tây, hương phụ tử[36]
v.v… như kinh Tô Tất Địa và Cù Hê đă nói. Lại
nói trong các loại hương bôi ấy, đừng dùng
hương lấy từ thân thể của chúng sanh, tử
khoáng[37],
cũng như bị trùng đục khoét. Hăy nên dùng thứ
hương tốt, thanh tịnh, dùng nước để
nghiền. Nếu dâng cúng Phật, hăy nên dùng uất kim mới,
tốt, hoặc hắc trầm hương cùng với long
năo. Quyến thuộc Liên Hoa th́ nên dùng bạch đàn, Kim
Cang quyến thuộc cũng nên dùng bạch đàn; c̣n các vị
tôn thánh khác th́ tùy ư mà dùng chung, c̣n các loại hương ḥa
hợp th́ đều thêm long năo.
Kế
đó, nói về hương đốt, hăy nên dùng trầm
thủy hương (agaru), tùng hương (dīpavṛkṣa),
phạ lam hương (vāla), long năo hương
(karpūra),
bạch đàn hương phương Tây tên là Ma La Dữu
(Malayū, tức
là tên núi Malaya, phiên âm là Ma Lê Sơn), như Trí Độ Luận
đă nói: “Ngoại trừ núi Ma Lê, không có chỗ nào khác
sanh ra Chiên Đàn” là nói về loại hương này. Bạch
giao hương (sarjarasa) chính
là nhựa cây Sa La. Thất Lợi Phạ Tắc Ca (Śrīvāsaka)
hương tương tự huân lục hương (kunduruka,
tức frankincense) ở phương này. Thất Lợi (Śrī)
có nghĩa là trọn đủ đức cát tường,
ư nói loại hương này thậm chí thiên thần cũng
đều yêu thích; do vậy đặt tên như thế. “Cập
dư phần hương loại, phân phức thế
xưng mỹ” (và các loại hương đốt khác,
thơm ngào ngạt được cơi đời khen ngợi)
cũng như trên đă nói. Kinh Cù Hê nói: “Thiêu hương
dụng bạch đàn, trầm thủy tương ḥa, cúng
dường Phật loại. Kỳ thụ chấp
hương, cúng dường Liên Hoa loại. Hắc trầm
cập An Tức, cúng dường Kim Cang loại”
(Hương đốt th́ dùng bạch đàn và trầm thủy
ḥa hợp để cúng dường Phật Bộ.
Hương từ nhựa cây để cúng dường
Liên Hoa Bộ. Hắc trầm và an tức để cúng
dường Kim Cang Bộ). Hoặc vâng theo pháp ấy mà làm
hương, ḥa hợp trọn khắp để dâng lên
chư tôn. “Ưng đương tùy pháp giáo” (hăy nên tùy
theo pháp giáo), tức là dùng chân ngôn và mật ấn để
gia tŕ trừ nhơ như nói trong phần Thứ Tự
Cúng Dường. Các loại hương bôi và hoa khác phỏng
theo lệ này mà suy ra.
(Kinh)
Phục thứ, Đại Chúng Sanh, y giáo hiến chư thực,
phụng nhũ mi, lạc phạn, hoan hỷ, Mạn-đồ-ca,
bách diệp cam mỹ bính, tịnh diệu sa đường
bính, bố lợi ca, gián huyệt, cập mạt đồ
thất ra, bễ nặc ca, vô ưu, bá bát trá thực đẳng,
như thị chư hào thiện, chủng chủng trân diệu
quả, kiển đồ dữ thạch mật,
đường mật, sanh thục tô, chủng chủng
chư tương ẩm, nhũ lạc, tịnh ngưu vị.
(經)復次大眾生,依教獻諸食,奉乳糜酪飯,歡喜漫荼迦,百葉甘美餅,淨妙粆糖餅,布利迦間穴,及末塗失囉,嫓諾迦無憂,播鉢吒食等,如是諸餚饍,種種珍妙果,蹇荼與石蜜,糖蜜生熟酥,種種諸漿飲,乳酪淨牛味。
(Kinh:
Lại này, Đại Chúng Sanh, theo giáo, hiến thức
ăn, dâng cháo sữa, cơm bơ, hoan hỷ, Mạn-đồ-ca,
bánh ngon ngọt bách diệp, bánh đường cát sạch
ngon, bố lợi ca, gián huyệt, và mạt đồ thất
ra, bễ nặc ca, vô ưu, bá bát trá các món. Món ngon quư
như thế, các thứ quả ngon, quư, kiển đồ
và thạch mật, đường, mật, sanh thục tô,
và các thứ nước ép, sữa, lạc, các vị sữa).
Kế
đó nói “y giáo hiến chư thực” (theo đúng lời
dạy, dâng các thức ăn). Như trong bản đầy
đủ của kinh này nói, cúng dường
các thứ ăn đều có phương tiện để
tịnh hóa cho tới ư nghĩa sâu mầu [của việc tịnh
hóa ấy], mỗi mỗi đều tương ứng
với pháp môn. Phương này nếu không có, chỉ nên dựa
theo các kinh như Tô Tất Địa v.v… Theo đúng pháp tạo
tác, kết giới, thủ hộ, gia tŕ, sẽ được
gọi là “y giáo”. “Nhũ mi”: Phương Tây có nhiều
loại cháo, hoặc dùng nước ép Ô Ma, hoặc dùng các
loại đậu và các vị thuốc, như trong các kinh
văn Thập Tụng Dược Pháp v.v… đă nói cặn
kẽ, nhưng cháo sữa[38]
là loại tốt nhất. Phàm khi dâng thức ăn, phải
nên thêm vào các thứ như tô, đường cát v.v… khiến
cho sắc lẫn vị đều trọn vẹn để
dâng cúng trước. Lại nữa, cơm ở
phương Tây có nhiều loại, cũng coi cơm nấu
trộn bơ là vị ngon nhất. Khi dâng món ăn này, phải
nên nêm đường cát, muối, gừng các vị. Lại
nên dâng canh theo đúng cách nấu nướng ở
phương đó, hoặc thuận theo phong tục nước
nhà.
Đối với viên hoan hỷ (laḍḍuka), hăy nên dùng chất tô để nấu các loại bánh, ḥa hợp các vị và ba loại thuốc có vị đắng v.v… khiến cho trang nghiêm đủ mọi cách. Mạn-đồ-ca (Maṇḍaka) chính là loại bánh ép mỏng (pancake) ở phương này. Diệp bính là cách làm bánh ở Thiên Trúc: Dùng các vị như mật, đường, trộn với bột ḿ, dầu bơ đem nấu, hết sức thơm ngon. Bánh đường cát th́ loại đường cát này có tên là Kiển Đồ (Khanda, đường trắng), h́nh dạng giống như loại đường sản xuất tại Ích Châu, nhưng màu sắc hết sức trắng sạch, đụng tới là vỡ ngay. Đem loại đường này pha nước; trước hết, dùng bột ḿ làm bánh, nhỏ vài giọt nước đường lên đó rồi mới ăn. “Tịnh diệu” tức là chú trọng sao cho thanh khiết, khiến cho sắc lẫn hương đều trọn vẹn. Bố-lợi-ca (Pū