Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

Phần bốn

大毘盧遮那成佛經疏

Đường sa-môn Nhất Hạnh A-xà-lê kư

沙門一行阿闍梨記

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

         

          Phương vị trong Mạn-đồ-la được truyền bởi [Thiện Vô Úy] A-xà-lê liệt kê đầy đủ như sau:

 

1. Phương thượng[1]

 

○ Như Lai Như Ư Bảo

○ Như Lai Giáp Trụ

○ Như Lai Quyến Sách

□ Như Lai Bố Ma

○ Như Lai Tề

□ Như Lai Mă Tạng

○ Như Lai Thần

□ Như Lai Thập Lực

○ Như Lai Nha

□ Như Lai Đại Hộ

Vô Sở Úy Đại Hộ Giả○○

○ Như Lai Vô Sở Úy

□ Như Lai Linh Đạc

○ Như Lai Thương Khư

□ Như Lai Tam Muội Da Kim Cang

○ Như Lai Chánh Cần

□ Như Lai Tam-muội-da

○ Như Lai Thiệt

□ Như Lai Hào Tướng

○ Nhất Thiết Như Lai Ṭa

□ Như Lai Đại Cần Dũng

□ Như Lai Nhăn

○ Như Lai Tâm

□ Như Lai Thước Để[2]

○ Vô Kham Nhẫn (Như Lai Vô Kham Nhẫn)

□ Thủy Tự Tại Tôn

□ Tương Hướng Thủ Hộ Môn Giả

□ Như Lai Niệm Xứ

○ Như Lai Đao

□ Như Lai Luân

□ Như Lai Liên Hoa

□ Như Lai Đảnh

○ Như Lai Kết Giới

□ Như Lai Thí Nguyện

○ Như Lai B́nh Đẳng Thuyết

□ Như Lai Khẩu

○ Như Lai Yêu

□ Như Lai Diễm Quang

□ Như Lai Câu

□ Hư Không Nhăn

□ Vô Cấu Quang Đồng Tử ○ ○

□ Quang Vơng Đồng Tử ○ ○

□ Nam Phụng Giáo Giả ○ ○ ○ ○

□ Nam Thủ Vệ Giả ○ ○ ○ ○

□ Nam Sứ Giả ○ ○ ○ ○

□ Nữ Sứ Giả ○ ○ ○ ○

Lục Diện Tôn

Hàng Diễm Ma Tôn

□ Địa Huệ Đồng Tử ○ ○

□ Ưu Ba Kế Thiết Ni ○ ○

* Văn Thù Sư Lợi

□ Kế Thiết Ni ○ ○

□ Chất Đa La ○ ○

□ Thỉnh Triệu Giả ○ ○

□ Nữ Sứ Giả ○ ○ ○ ○

□ Nam Sứ Giả ○ ○ ○ ○

□ Nữ Thủ Vệ Giả ○ ○ ○ ○

□ Nữ Phụng Giáo Giả ○ ○ ○ ○

□ Bảo Quan Đồng Tử ○ ○

□ Nguyệt Quang Đồng Tử

□ Thiện Tài Đồng Tử

Hỏa Thiên Hộ Phương Thần

Hỏa Thiên

Hỏa Thiên Hậu

Bà Tư Sắt Trá Đại Tiên

Kiệt Già Đại Tiên

Mạt Kiện Đồ Đại Tiên

Cù Đàm Đại Tiên

Ca Diếp Đại Tiên

Chư Chấp Diệu Thần đẳng

Tỳ Thệ Da Hậu

Nhật Thiên Tử

Thệ Da Hậu

□ Na La Diên và quyến thuộc

□ Ma Thiên Tha Hóa Tự Tại Thiên

□ Hóa Lạc Thiên

□ Đâu Suất Đà Thiên

□ Diễm Ma Thiên

□ Đông phương Đề Đầu Lại Tra thiên vương và các Càn Thát Bà.

□ Xá Chi phu nhân ○ ○

□ Đế Thích Tam Thập Tam Thiên

□ Đồng Tử Bồ Tát

□ Tỳ-kheo chúng

□ Hoan Hỷ Bồ Tát

□ Thượng phương Hoan Hỷ Đức Bồ Tát

□ Bồ Tát chúng

□ Đồng Nữ Bồ Tát

□ A Nan Đà

□ Tu Bồ Đề

□ Xá Lợi Tử

□ Đại Mục Liên

□ Đại Ca Diếp

□ Vô Lượng Âm Thanh Phật Đảnh

□ Quảng Đại Phật Đảnh

□ Hỏa Tụ Phật Đảnh

□ Thắng Phật Đảnh

Như Lai Tích Trượng

○ Như Lai Bát

○ Như Lai Nha

□ Hào Tướng

Vô Năng Thắng Tôn

□ Thích Ca Mâu Ni Phật

Vô Năng Thắng Phi

○ Phật Mẫu

○ Như Lai Thước Để Ấn

□ Đồng Nam Bồ Tát

□ Tỳ-kheo tăng

□ Phổ Quang Bồ Tát

□ Đông phương Bảo Tánh Phật

□ Bồ Tát Chúng

□ Tỳ-kheo tăng

□ Đồng Nữ Bồ Tát

□ Phật Ca Sa

Phật Quân Tŕ

□ Bạch Tán Phật Đảnh

□ Tối Thắng Phật Đảnh ○ ○

□ Tồi Toái Phật Đảnh ○ ○

□ Tối Cao Phật Đảnh

□ Bích Chi Phật

□ Đại Phạm và Minh Phi quyến thuộc

□ Tứ Thiền Thiên

□ Vô Sắc Thiên

□ Tịnh Cư Tự Tại Thiên Tử

□ Phổ Hoa Thiên Tử

□ Quang Man Thiên Tử

□ Ư Sanh Thiên Tử

□ Danh Xưng Viễn Văn Thiên Tử

□ Đại Tự Tại Phi và quyến thuộc

□ Đại Tự Tại Thiên và quyến thuộc

□ Ma Hê Thủ La Thiên Tử và phi

□ Tŕ Minh Phi

□ Tŕ Minh Tiên

 

2. Bên phải [của Trung Đài Bát Diệp]

 

Năng Thọ Nhất Thiết Tôn (thỏa măn hết thảy các nguyện)

□ Liên Hoa Bộ Nữ Phụng Giáo Giả

□ Liên Hoa Bộ Phụng Giáo Giả

□ Liên Hoa Tam Cổ Kích

□ Liên Hoa Kích

□ Liên Hoa Tôn

□ Kim Cang Liên

□ Liên Hoa Luân

□ Liên Hoa Đao

□ Liên Hoa Đức Bồ Tát

□ Đại Thủy Cát Tường

□ Đại Cát Tường

□ Tăng Cát Tường○ ○

□ Phật Cát Tường ○

□ Kim Sắc Bồ Tát

□ Danh Xưng Huệ Bồ Tát ○ ○

□ Bạch Sắc Bồ Tát

Hoại Chư Bố Úy Đại Hộ Giả ○ ○

□ Đại Thế Chí Bồ Tát

□ Tỳ Câu Chi Bồ Tát ○ ○

□ Quán Thế Âm Bồ Tát

□ Đa Lợi Tôn (Tara) ○ ○

□ Quán Âm Mẫu

□ Đại Bạch Bồ Tát

□ Tư Tài Chủ Bồ Tát

□ Biến Quán Bồ Tát

□ Cát Tường Bồ Tát

□ Đới Tháp Đức Bồ Tát

□ Bảo Đức Bồ Tát

□ Lộc B́ Y H́nh

□ Liên Hoa Quân Tŕ

□ Liên Hoa Man

□ Liên Hoa Phủ

□ Liên Hoa Sách

□ Liên Hoa Đạc

□ Liên Hoa Loa

□ Liên Hoa Bộ Sứ Giả

(□ Liên Hoa Bộ Sứ Giả Mă Đầu Quán Thế Âm)

□ Liên Hoa Bổng

(Tầng thứ nhất bên phải đă xong, [tức là hoàn tất Quán Âm Viện])

□ Hiền Kiếp Bồ Tát

Hạnh Huệ Bồ Tát ○ ○

○ Thắng Diệu Thiên Bồ Tát ○ ○

□ Bảo Nghiêm Bồ Tát ○ ○

Bảo Ấn Thủ Bồ Tát ○ ○

○ Bảo Chưởng Bồ Tát ○ ○

□ Địa Tạng Bồ Tát ○ ○

○ Bảo Tác Bồ Tát ○ ○

○ Tŕ Địa Bồ Tát ○ ○

□ Hiền Ư Bồ Tát

○ Bảo Quan Bồ Tát ○ ○

Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân Bồ Tát ○ ○

□ Thiện Trụ Ư Bồ Tát ○ ○

□ Hiền Kiếp Bồ Tát

(Tầng thứ hai ở bên phải đă xong, [tức là hoàn tất Địa Tạng Viện])

□ Y Xá Na hộ phương thần

□ Cưu Bàn Đồ chúng quyến thuộc

□ A Danh Yết Noa (tai dê)

□ A Thấp Phạ Yết Noa (tai ngựa)

□ Thú Bà Yết Noa

□ Tạp Bảo Tạng Thần○ ○ ○ ○

Đồ Cát Ni

Đồ Ca

□ Đồng Nam Bồ Tát

□ Tỳ-kheo chúng

□ Ly Trần Dũng Mănh Bồ Tát

□ Đông Bắc phương Định Thắng Thủ Đức Phật

□ Bồ Tát chúng

□ Tỳ-kheo chúng

□ Đồng Nữ Bồ Tát

□ Nữ Bộ Đa ○ ○ ○ ○

□ Bộ Đa Dược Xoa loại ○ ○

□ Trụ Tuyết Sơn Dược Xoa Tướng ○ ○ ○ ○ ○ ○

□ Sa Đa Kỳ Rị Dược Xoa Tướng ○ ○

□ Bán Giá La Dược Xoa Tướng ○ ○ ○ ○

□ Tỳ Sái Ca Dược Xoa Tướng ○ ○

□ A Trá Phạ Ca Dược Xoa Tướng ○ ○ ○ ○

□ Tỳ Sa Môn Tử Dược Xoa Tướng ○ ○

□ Ma Ni Bạt Đà La Thần○ ○ ○ ○

□ Hộ Phương Thần Hậu ○ ○ ○ ○

□ Câu Phệ Ra Hộ Phương Thần Tỳ Sa Môn ○ ○

□ Cát Tường Công Đức Thiên

□ Măn Hiền Dược Xoa Tướng ○ ○

□ Ha Lật Để Mẫu (năm trai, năm gái)

□ Tán Chi Đại Tướng

□ Đồng Nam Bồ Tát

□ Tỳ-kheo chúng

□ Thắng Thọ Bồ Tát

□ Bắc phương Thắng Đức Phật

□ Bồ Tát chúng

□ Tỳ-kheo chúng

□ Đồng Nữ Bồ Tát

□ Hiền Kiếp Bồ Tát

□ Chủ Điền Nông Thần

□ Chủ Tượng Mă Cứu Thần

□ Chủ Vương Khố Tạng

□ Chủ Ngoại Đạo Phước Xứ Thần

□ Chủ Nham Huyệt Thần

□ Chủ Phục Tạng Thần

□ Chủ Trách Thần

□ Chủ Thi Lâm Thần

□ Chủ Ba Tŕ Thần

□ Chủ Long Tuyền Thần

□ Chủ Tỉnh Thần

□ Chủ Không Trung Cung Uyển Thần

□ Chủ Cung Thất Thần

□ Chủ Hải Thần

□ Chủ Thất Trạch Thần

□ Chủ Hạng Khúc Thần

□ Phương Thần

□ Chủ Nhai Mạch Thần

□ Chủ Hà Thần

□ Chủ Đạo Thần

□ Chủ Khoáng Dă Thần

□ Chủ Giao Dă Thần

□ Chủ Thiêm Tứ Thần

□ Chủ Thành Thần

□ Chủ Thôn Thần

□ Chủ Châu Thần

□ Chủ Điểu Thần

□ Chủ Sơn Thần

□ Chủ Tất Địa Vật Thần

□ Chủ Tất Địa Thần

□ Chủ Tiên Dược Thần

□ Chủ Dược Kế Thần

□ Chủ Dược Thần

□ Tất Địa Tŕ Minh Phi ○ ○ ○ ○

□ Tất Địa Tŕ Minh Tiên ○ ○ ○ ○

(Tầng thứ ba bên phải đă xong, [tức là tầng ngoại Kim Cang giới bên phải đă xong]).

 

3. Bên trái [của Trung Đài Bát Diệp]

□ Diệu Kim Cang

□ Thanh Kim Cang

□ Kim Cang Liên

□ Tịch Tĩnh Kim Cang

□ Đại Tấn Lợi Kim Cang

□ Kim Cang Nha

□ Na Mị Đồ Kim Cang (do nhân mà lập danh, c̣n gọi là Đoản)

□ Xích Thể Kim Cang

□ Phật Phụng Giáo Giả

□ Việt Vô Lượng Hư Không

Nguyệt Yển Tôn○ ○

□ Nan Hàng Đại Hộ Giả (thân nữ) ○ ○

□ Kim Cang Bộ Sanh

□ Kim Cang Liên Tỏa

□ Chấp Kim Cang

□ Kim Cang Mẫu ○ ○

□ Kim Cang Châm

□ Kim Cang Câu

Kim Cang Vô Thắng Đại Hộ Giả○ ○

Quân Đồ Lợi Kim Cang○ ○

Đại Lực Kim Cang ○ ○

□ Hư Không Vô Cấu Kim Cang

□ Tố Ra Đa Kim Cang (Diệu Trụ)

□ Đại Thân Kim Cang

□ Đại Thắng Kim Cang

□ Quảng Nhăn Kim Cang

□ Bạt-chiết-la Kim Cang

○ Đại Huệ Bồ Tát

□Tịch Huệ Bồ Tát

Vô Cấu Huệ Bồ Tát ○ ○

○ Vô Tận Ư Bồ Tát ○ ○

□ Bất Tư Nghị Huệ Bồ Tát ○ ○

Đại Từ Khởi Bồ Tát ○ ○

Vô Tượng Bồ Tát ○ ○

○ Cứu Ư Huệ Bồ Tát ○ ○

□ Thí Nhất Thiết Vô Úy Bồ Tát ○ ○

Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát ○ ○

□ Trừ Nghi Quái Bồ Tát ○ ○

○ Trừ Nhất Thiết Ác Thú Bồ Tát ○ ○ ○

Bi Niệm Bồ Tát (c̣n gọi là Đại Bi Triền) ○○

□ Trừ Nhất Thiết Nhiệt Năo Bồ Tát ○○

○ Hải Huệ Bồ Tát○○

Diệu Huệ Bồ Tát

□ Hiền Kiếp Bồ Tát ○○○○

Niết Rị Để Hộ Phương Thần

Nữ La Sát○○

La Sát chúng○○

□ Hiền Kiếp Bồ Tát

○ Đồng Nam Bồ Tát

○ Tỳ-kheo chúng

○ Nhật Quang Bồ Tát

□ Tây Nam Nhật Luân Biến Chiếu Thắng Đức Phật

○ Bồ Tát chúng

○ Tỳ-kheo chúng

○ Đồng Nữ Bồ Tát

Tất Lăng Nghị Lật Tri

Chư Tỳ Na Dạ Ca

Ma Ha Ca La (Hắc Thần)

○ Ưu Bà, Lộ Hệ Đa nhị long vương

Tỳ Lô Giá thập quyến thuộc ○○○○○○

Tỳ Xá Chi thập quyến thuộc ○○

Hàn Lănh địa ngục

Nhiệt Năo địa ngục

□ Tỳ Lâu Bác Xoa vương ○○○○

Diễm Ma Một Lật Để Hậu

Diễm Ma Hậu

Diễm Ma Đản Đồ

Diễm Ma La pháp vương

Chất Đát La Cấp Đa Tấn Ngục Giả

Dạ Hắc Thiên

□ Biện Tài Thiên ○○

□ Đồng Nam Bồ Tát

□ Tỳ-kheo chúng

□ Ly Ưu Bồ Tát

□ Nam phương Vô Ưu Đức Phật

□ Bồ Tát chúng

□ Tỳ-kheo chúng

□ Đồng Nữ Bồ Tát

□ Biệt Dị địa ngục

□ Hiền Kiếp Bồ Tát

Giá Muộn Noa

Kiều Phệ Rị

Phệ Sắt Noa Vị

Kiều Rị

Yến Nại Rị

Ta Nại Rị

Mạt Ra Mị

□ Khẩn Na La phi ○○

○ Khẩn Na La

○ Đồng Nam Bồ Tát

○ Tỳ-kheo chúng

○ Liên Hoa Thủ Bồ Tát

○ Đông Nam Liên Hoa Thắng Đức Phật

○ Bồ Tát chúng

○ Tỳ-kheo chúng

○ Đồng Nữ Bồ Tát

Mộ Ha Nẵng

Khuyết Danh Hỏa Thần

Kiếp Vi

Mang Măng Sa

Ngật Sái Dă

Đỗ Trá Ra

Cú Rô Đản Nang

Một Lật Noa

Lộ Hệ Đa

Mang Rô Đa

Nại Rô Ca

Sa Ma Hê Nại La

Chư hỏa tiên đẳng

 

4. Phương dưới của Mạn-đồ-la

 

* Hàng Tam Thế Tôn

Kim Cang Đạc ○○

Kim Cang Quyến Sách

Kim Cang Đao

Bất Khả Việt Hộ Môn Giả ○○

Tương Hướng Thủ Hộ Môn Giả ○○

Như Lai Sứ Giả

Kim Cang Quyền

Vô Hư Luận Kim Cang

Kim Cang Phủ

Kim Cang Luân

□ Kim Cang Bổng

* Thánh Bất Động Tôn

Hiền Kiếp Bồ Tát

Kim Quang Bồ Tát

Kim Sắc Bồ Tát

Bảo Đức Bồ Tát

Hiền Đức Bồ Tát

Hoa Tràng Bồ Tát

Kế Đô Bồ Tát

Vô Cấu Quang Bồ Tát

Thanh Tịnh Huệ Bồ Tát ○○

Hư Không Huệ Bồ Tát ○○

Hư Không Tạng Bồ Tát ○○

Hư Không Vô Cấu Bồ Tát ○○

Pháp Huệ Bồ Tát ○○

Huệ Bộ Bồ Tát ○○

Lạt Nê Mị Bồ Tát

Nê Mị Bồ Tát

Bảo Phan Bồ Tát

Kim Quang Bồ Tát

Quang Minh Bồ Tát

Diệu Tràng Bồ Tát

□ Vô Biên Tràng Bồ Tát

□ Hiền Kiếp Bồ Tát

* Phong Thiên Hộ Phương Thần

* Phong Thần Hậu

Ca Lâu La nữ ○○○○

Ca Lâu La

Phi nhân quyến thuộc

Nhất thiết nhân quyến thuộc

Đồng Nam Bồ Tát

Tỳ-kheo chúng

Bảo Thắng Bồ Tát

Tây Bắc phương Nhất Bảo Cái Phật

Tỳ-kheo chúng

Đồng nữ chúng

Hiền Kiếp Bồ Tát

Tiểu Ngật Lật Sắt Nộ nhị long vương

Ngật Tây Sắt Noa nhị long vương

Lộ Hệ Đa nhị long vương

Ưu Bà Tư Đa nhị long vương

Ưu Bà Thúc Cật Lao nhị long vương

Thúc Cật Lao nhị long vương

Sa Già La long vương

A Na Bà Đạt Đa long vương

Đắc Xoa Ca long vương

Ma Ca Tư long vương

Củ Lợi Ca long vương

Yết Cú Trá Ca long vương

Ḥa Tu Cát long vương

A Nan Đà long vương

Đại Liên Hoa long vương

Ba Đầu Hoa long vương

Thương Khư long vương

Phạ Rô Noa hậu ○○

Phạ Rô Noa long vương○○○

Tỳ Lâu Lặc Xoa hộ phương thiên vương ○○

Ưu Bà Tôn Na Thủ Môn Giả ○○

Cửa để ra vào

Tôn Na Thủ Môn Giả ○○

Địa Thần ○○

Long vương và hậu quyến thuộc ○○

Đồng Nam Bồ Tát

Tỳ-kheo chúng

Hành Huệ Bồ Tát

Tây phương Bảo Diệm Phật

Bồ Tát chúng

Tỳ-kheo chúng

Đồng Nữ Bồ Tát

Chủ B́nh Tương Xâm Thần

Chủ Nhật Lịch Thần

Chủ Thời Phần Thần

Chủ Nghiệp Tác Thần

Chủ Túc Thần

Chủ Túc Đối Thần

Chủ Dạ Thần

Chủ Nguyệt Thần

Chủ Nhật Thần

Lục Thời Thần

Chủ Trực Thần

Chủ Nhập Bát Tú Thần

Chủ Thập Nhị Cung Thần

Nguyệt Hậu tên Xích Sắc

Nguyệt Hậu tên Nguyệt Tường

Nguyệt Thiên Tử

Nguyệt Hậu tên Nguyệt Tướng

Đồng Nam Bồ Tát

Tỳ-kheo chúng

Liên Hoa Thắng Bồ Tát

Hạ phương Liên Hoa Đức Phật

Bồ Tát chúng

Tỳ-kheo chúng

Đồng nữ Bồ Tát

Hiền Kiếp Bồ Tát

A Tu La nữ quyến thuộc

A Tu La quyến thuộc

Ma Hầu La Già nữ

Ma Hầu La Già    

          [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Viện thứ nhất, ở phương Đông, từ Như Lai Câu cho đến Như Lai Giáp v.v… đều là Tỳ Lô Giá Na tam-muội. Mỗi vị đều vẽ thành h́nh dạng thiên nữ, tùy theo Mạn-đồ-la vuông hay tṛn[3] để biện định màu sắc của họ. Họ ngồi trên đài sen trắng, trong tay lại cầm hoa sen. Trên hoa đều có các vật dùng làm biểu tượng đặc trưng cho mỗi vị như móc câu, bánh xe, đao, giáo, thương-khư (ốc tù và), chuông, khánh, dây trói, giáp trụ v.v… đều dựa theo tướng của mỗi vật ấy mà vẽ. Đảnh tướng, hào tướng, khẩu, thiệt, nha, thần (miệng, lưỡi, răng, môi) v.v… chuẩn theo lệ ấy để hiểu. Như Lai Tề (rốn của Như Lai) th́ trên hoa sen vẽ h́nh tướng ṿng tṛn nối liền, tṛn trặn. Như Lai Yêu (eo của Như Lai) th́ cũng vẽ h́nh như tràng hạt hơi cong. Như Lai Tạng giống như tạng tướng chẳng hiện nơi mă bảo của Luân Vương. Như Lai Thí Nguyện th́ vẽ thành tay Dữ Nguyện[4]. Như Lai Pháp và Biện Thuyết v.v… th́ hoặc là cầm kinh tạng, hoặc giơ tay trong tư thế thuyết pháp. Niệm, Xứ, Thập Lực v.v… đều là pháp tương ứng với Chỉ Quán, hăy vẽ các vị ấy với dáng điệu tam-muội lặng lẽ. Đối với Tam-muội-da, hăy vẽ như tướng Phật Đảnh. Như Lai Đảnh tướng nhiếp trọn hết thảy các công đức. Hễ trong tay [của một vị tôn thánh] không có vật ǵ để có thể biểu trưng th́ đều nên dùng [Phật Đảnh tướng] để biểu thị”.

          Nếu Mạn-đồ-la không vẽ h́nh các vị tôn thánh, chỉ nêu bày ấn bí mật[5] [của từng vị] th́ ở trên ṭa Kim Cang, vẽ đài hoa sen, trên đài th́ giống như trên, vẽ biểu tượng đặc trưng của từng vị. Đối với Mạn-đồ-la chỉ vẽ chữ (tức là Mạn-đồ-la dùng chữ chủng tử của từng vị tôn thánh thay v́ vẽ h́nh tướng) th́ nếu trong kinh có chữ chủng tự [của từng vị tôn thánh], hăy nên đúng pháp mà đặt [từng chữ vào đúng vị trí tương ứng]. Nếu trong kinh chẳng chép, hăy nên dùng chữ đầu tiên trong tiếng Phạn (chữ A) làm chữ chủng tử, hoặc có thể đều dùng chữ A [cho tất cả các vị tôn thánh.

          Chư tôn thuộc Liên Hoa Bộ ở phía Bắc[6] [của mạn-đồ-la], nếu trong kinh chẳng nói h́nh tướng, sẽ đều vẽ chung là [thân các Ngài có] màu hoa sen đỏ, hoặc sắc trắng sạch. C̣n các vị như Kim Sắc v.v… th́ theo tên gọi để biện định thân sắc. Ấn tướng các Ngài cầm cũng giống như trong Phật Bộ đă nói, nhưng dùng hoa sen làm biểu tượng. Như trong h́nh tượng Liên Hoa Luân th́ dùng bốn cánh sen [ghép lại] như h́nh chữ Thập để làm tướng căm bánh xe. Ở phía ngoài “căm bánh xe” ấy, dùng h́nh khuyên tṛn bao quanh. [Ấn tướng] Liên Hoa Đao th́ đặt đao trên hoa sen, trên mũi đao lại dùng hoa sen để biểu thị tướng đặc trưng. Đối với chày kim cang, kim cang kích v.v… cũng đều làm giống như thế. [Ấn tướng của] ngài Liên Hoa Quyến Sách th́ dùng hoa sen làm hai đầu mối [của dây thừng]. [Ấn tướng của ngài] Liên Hoa Đạc th́ dùng hoa sen để buộc [cái chuông ấy]. Ngài Liên Hoa Man th́ dùng hoa sen xâu thành tràng hoa để trang nghiêm thân, hoặc đặt trên hoa sen Ngài cầm. Ngài Đới Tháp Cát Tường th́ nơi búi tóc trên đỉnh đầu đặt Tốt-đổ-ba (stupa, tháp), hoặc đặt trên hoa sen [mà vị ấy đang cầm]. [Ấn tướng của] Liên Hoa Tôn th́ trên hoa sen lại đặt hoa sen. Bảo Đức Tôn th́ trên hoa sen có đặt vật báu.

          Năng Thọ Nhất Thiết Nguyện Minh Vương có thể thỏa măn hết thảy các điều mong nguyện, h́nh trạng chẳng phải chỉ có một. Như đức Quán Thế Âm tay cầm hoa sen, trên hoa đặt báu Như Ư. Tùy theo làm pháp sự Tức Tai, Tăng Ích, hay Hàng Phục mà đặt trong đàn tràng tương ứng. Ngài Đại Cát Tường hai tay đều cầm hoa sen. Thủy Cát Tường th́ hoa sen tuôn ra nước, hoặc tay Ngài rủ xuống tuôn nước. Ngài Bị Lộc Y (nghĩa đen là “khoác da nai”) th́ nên dùng da nai để trang nghiêm thân, giống như h́nh tượng Phạm Thiên. Khế ấn Mạn-đồ-la giống như trên đă nói, dùng chung chữ Sa () làm chủng tử.

          Đối với chư tôn thuộc Kim Cang Bộ ở mặt Nam [của Mạn-đồ-la], cũng có thể dựa theo các danh hiệu được liệt kê trong kinh để sắp xếp đầy đủ, tùy thuộc đàn tràng vuông, tṛn, tam giác, bán nguyệt v.v… Thân sắc cũng thế, hoặc là cầm bạt-chiết-la (vajra, chày kim cang) một nhánh, hoặc cầm [bạt-chiết-la] ba nhánh, năm nhánh, hai mũi nhọn trên dưới v.v… Các thứ h́nh tướng đặc trưng của kim cang, đúng như kinh đă nói mà tùy ư xếp đặt. Các thứ đao, búa, móc câu, châm (cái kim) v.v… đều dùng kim cang làm đặc điểm biểu trưng. Đao th́ nơi mũi nhọn và cán đều làm thành h́nh mũi chày kim cang bén nhọn. Quyến sách (羂索, dây trói) và dây xích th́ làm thành h́nh hai đầu đều có h́nh dáng như bạt-chiết-la ba nhánh. Luân (bánh xe) th́ dùng kim cang chữ thập[7] làm bánh xe, dùng các mũi nhọn bao quanh [để tạo thành h́nh bánh xe]. Đạc (, linh)[8] th́ dùng kim cang một nhánh làm cán, buộc kim cang chữ thập làm quả lắc. Những điều khác đều phỏng theo lệ này để hiểu. Trong Khế Ấn Mạn-đồ-la[9], cũng ở trên ṭa kim cang đặt hoa sen trắng, trên hoa đặt các vật [biểu tượng] ấy. Nếu làm Tự Mạn-đồ-la (mạn-đồ-la chỉ vẽ các chữ chủng tử), đối với các quyến thuộc được thống nhiếp bởi Chấp Kim Cang th́ đều dùng chữ Phạ (, Va), c̣n các vị Kim Cang khác th́ dùng chữ Hồng (हूं, Hūṃ) làm chủng tử.

          Đối với các vị Bồ Tát thuộc viện thứ hai, nếu trong kinh chép đầy đủ h́nh tướng của các Ngài, mỗi mỗi đều theo đúng lời dạy mà vẽ. Không có kinh văn th́ đều dùng ấn Chân Đà Ma Ni (Cintāmaṇi, Như Ư Bảo Châu) [để làm vật biểu trưng]. Hăy nên vẽ [các vị ấy] cầm hoa sen, trên hoa đặt báu Như Ư (Như Ư Bảo Châu), có ṿng lửa vây quanh. Hoặc thuận theo ư nghĩa được diễn tả bởi danh hiệu của các Ngài mà biểu thị, như Bảo Quan Bồ Tát th́ đặt măo trên hoa sen. Bảo Vơng Bồ Tát th́ đặt lưới trên hoa sen, Bảo Chưởng Bồ Tát th́ trong tay Ngài đặt vật báu. Phát Tâm Chuyển Pháp Luân Ấn th́ trong tay cầm một bộ luận. Tất cả các chỗ khuyết vị (tức các chỗ kinh không nói rơ danh xưng của vị tôn thánh ở vị trí đó) đều đặt Hiền Kiếp Bồ Tát.

          Các vị như Sứ Giả, Phụng Giáo v.v… đều vẽ thấp nhỏ [hơn so với tôn thánh mà các vị ấy chầu hầu]. Sứ Giả cầm nắm đao, gậy, h́nh dạng như đang pḥng ngự cửa hẹp. Người phụng giáo th́ hoặc là cầm nắm gậy, ấn, hoặc chiêm ngưỡng vị tôn thánh [họ đang chầu hầu], dường như đang tiếp nhận sự chỉ huy hay răn truyền. Người thủ hộ th́ [có h́nh dạng] như người canh cửa, truyền tin, có điều cần bẩm báo. Mỗi mỗi đều theo từng loại [mà vẽ tương ứng]. Hàng Diễm Ma Tôn (Yamāntaka, Diễm Man Đắc Ca) là quyến thuộc của đức Văn Thù, có oai thế to lớn. Thân Ngài sáu mặt, sáu tay, sáu chân, dùng trâu nước làm ṭa ngồi, mặt có ba mắt, sắc như mây đen, h́nh dạng tột bậc phẫn nộ. Hăy nên tra bổn tiếng Phạn nói về ngài Văn Thù để vẽ đầy đủ. Phàm các vị tôn thánh như thế, nếu các kinh khác nói đầy đủ h́nh tướng, cũng có thể dựa theo đó để tô vẽ khi nhập Mạn-đồ-la. Các vị tôn thánh ấy, nếu kinh Tỳ Lô Giá Na chẳng chép chân ngôn và thủ ấn, tức là được nói riêng trong các kinh khác, hăy nên dựa theo các kinh ấy để trao truyền chân ngôn và thủ ấn, bảo [hành nhân] vâng theo thứ tự của pháp hạnh cúng dường trong kinh này để thực hiện.

          Mười phương chư Phật trong viện thứ ba đều nương theo tướng thông thường để vẽ. Nếu làm Khế Ấn [Mạn-đồ-la], hăy nên dùng Như Lai đảnh tướng, và chủng tử th́ dùng chữ A. Thanh Văn, Duyên Giác th́ nên [vẽ] giống như nghi thức của tỳ-kheo. Trong ấy, Duyên Giác có chút sai biệt là có thể có tướng nhục kế của bậc đại nhân. Nếu là Khế Ấn [Mạn-đồ-la], hăy nên dùng bát, ca-sa, tích trượng v.v… để làm các vật biểu trưng. Chữ chủng tử của các Ngài th́ như chân ngôn trong kinh đă nói.

          Trước mặt Nhật Thiên ở phương Đông, có thể đặt thiên nữ Ma Lợi Chi (Marīci) như kinh Đà La Ni Tập[10] đă nêu. Tám đại tướng Dạ Xoa ở phương Bắc nếu trong đồ h́nh khuyết thiếu, th́ vẽ h́nh dạng của họ tương tự, đều mặc giáp trụ, cầm ấn Già Đà (Gadā)[11], thân tướng viên măn, đoan chánh. Do trong đường ấy, sở cầu chẳng thiếu thốn, họ thường vui sướng, tùy ư. Dương Nhĩ, Mă Nhĩ, Tượng Nhĩ v.v… đều là quyến thuộc của Cưu Bàn Đồ (Kumbhāṇḍa, Đạm Tinh Khí Quỷ, Ủng H́nh Quỷ[12]). Thân h́nh họ chẳng giống Dạ Xoa, đều là thân trần, lông rủ xuống, có h́nh dạng phi nhân, tai giống như loài thú. Trong đồ h́nh có nhắc tới Tŕ Minh Tiên, đó là [những ngoại đạo đạt được thành tựu] do sức của các thứ thuốc khác tạo thành. Tất Địa Tŕ Minh Tiên đều là những người chuyên nương vào chú thuật mà đắc Tất Địa. Nói “tiên nhân” đều là những người theo pháp Vi Đà thờ lửa, siêng tu khổ hạnh, trở thành ngũ thông thần tiên. Lại c̣n có Dạ Xoa Tŕ Minh là loại phước đức tối thắng trong loài ấy, thuộc về đường trời, lại c̣n thù thắng hơn tiên nhân trong cơi đời.

          Các loại thần núi, sông, ao, rừng, cây cối, ngũ cốc, thuốc men, thành, ấp, đường sá v.v... đều dùng danh tự của chính ḿnh để làm tướng biểu trưng: Sơn thần ngồi trong núi, thần sông ở trong sông, các vị thần cây cối, cỏ thuốc v.v… th́ hoặc là tay cầm nắm [các loại dược thảo], hoặc nương vào đó, hăy nên đều dựa theo nghĩa ấy để suy ra. Trong kinh Hoa Nghiêm, lại có Túc Hành Thần, Thân Chúng Thần, đều là các vị thần hộ tŕ các loài đi nhón gót và thần hộ thân, cũng có thể dựa theo đó mà sắp đặt theo thứ tự. Hăy nên biết loài phi nhân ở phương Tây đều thuộc vào thân phổ môn của đức Tỳ Lô Giá Na, thuần là các loại quỷ thần, bàng sanh v.v… khác nhau. Trong đồ h́nh, nếu không ghi riêng danh tướng của họ, th́ phần nhiều thuộc loại này. Thuộc về loại này nhiều nhất là Lộ Hệ Đa màu đỏ, Bích Đa màu vàng, Cật Lật Sắt Noa màu đen. Màu xanh cũng gộp trong loại này. Nếu dựa theo ư nghĩa rơ rệt ở phương này th́ cũng nên nêu riêng từng loại. Cật Lao sắc trắng, đều là một loại long vương, mỗi mỗi đều dựa theo màu sắc của họ mà vẽ. Nếu [tên của vị ấy có] thêm chữ Ổ Ba th́ màu sắc sẽ nhạt hơn. Tốn Na, Ổ Ba Tốn Na cũng là đại long vương thủ hộ cửa, đều là tay phải cầm đao, tay trái cầm dây trói.

          Các vị thần chủ tŕ năm, tháng, ngày, giờ v.v… đều được vẽ thành h́nh thiên nữ, cầm nắm các thứ như cành hoa v.v… để làm biểu tượng đặc trưng. Nếu là người chủ tŕ thiện sự, cũng vẽ sao cho hoa ấy có sắc tướng trọn vẹn. Nếu là người chủ tŕ ác sự th́ cầm hoa, quả héo úa v.v… Vị thần chủ tŕ sáu thời cũng có thể cầm hoa gồm sáu cành, thể hiện tướng tùy thời tươi tốt hay rơi rụng để biểu thị chuyện ấy. Đối với vị thần chủ tŕ ngày hay đêm, cũng có thể vẽ hoa nở hay cụp để minh thị. Những vị khác đều phỏng theo trường hợp này. Tất Lăng Cật Lật Tri (Bhṛṇgiriṭi) ở phía Nam là con của Ma Hê Thủ La (Maheśvara), thân cực khô gầy. Do thường hàng phục oán địch, giả sử xương thịt tiêu sạch cũng phải đắc thắng, cho nên có h́nh dáng như thế. Riêng tôi cho rằng đấy là như Trí Độ Luận nói: “Thường tu khổ hạnh, cắt thịt để tế lửa, cảm sanh các vị ác thần, cho nên có vị trí tại phương Nam”. Mười hai vị Hỏa Thiên ấy trong kinh có nói đại lược h́nh tượng, có một vị khuyết danh, chỉ dựa theo h́nh tướng chung của các Hỏa Thiên [để vẽ vị khuyết danh ấy], các vị khác th́ như trong đồ h́nh đă dạy.

 

* Phụ chú của người chuyển ngữ:        

 

          Đồ h́nh Thai Tạng Mạn-đồ-la:

 

 

 

Ngoại Kim Cang giới

(Bắc)

Ngoại Kim Cang giới (Đông)

 

 

Ngoại Kim Cang giới

(Nam)

Văn Thù viện

 

Địa Tạng viện

Thích Ca viện

 

Trừ

Cái Chướng viện

Liên Hoa viện

Chánh Biến Tri viện

Kim Cang Thủ viện

Trung Đài Bát Diệp

Tŕ Minh viện

Hư Không Tạng viện

Tô Tất Địa viện

Ngoại Kim Cang giới (Tây)

 

          Do lời sớ chỉ liệt kê các vị tôn thánh theo từng phương, không nói rơ vị nào thuộc viện nào, chúng tôi xin liệt kê các vị tôn thánh thuộc từng viện theo ghi chép trong Hiện Đồ Mạn-đồ-la[13], hơi khác đôi chút với danh sách các vị tôn thánh trên đây.

 

1. Trung Đài Bát Diệp (Trung Thai Bát Diệp)

 

          Chính giữa là Đại Nhật Như Lai, từ vị Phật này, lưu xuất bốn vị Phật, tạo thành bốn cánh sen chính: Đông phương Bảo Tràng Phật, Nam phương Khai Phu Hoa Vương Phật, Tây phương Vô Lượng Thọ Phật, và Bắc phương Thiên Cổ Lôi Âm Phật. Ở bốn góc là bốn cánh sen tương ứng với bốn vị đại Bồ Tát: Góc Đông Nam là Phổ Hiền Bồ Tát, góc Tây Nam là Văn Thù Bồ Tát, góc Tây Bắc là Quán Âm Bồ Tát, góc Đông Bắc là Di Lặc Bồ Tát.

 

2. Chánh Biến Tri viện (Phật Mẫu viện)

 

          Ở ngay phía trên của Trung Thai Bát Diệp (tức phía Đông của Mạn-đồ-la. Trong Thai Tạng Mạn-đồ-la, phương Đông ở phía trên cùng của Mạn-đồ-la, trong khi Kim Cang Giới Mạn-đồ-la th́ phương Đông ở phía dưới của Mạn-đồ-la). Chính giữa viện này là Nhất Thiết Biến Tri Ấn (Nhất Thiết Như Lai Trí Ấn) h́nh tam giác, đặt trên hoa sen, bao quanh bởi ṿng lửa. Bên phải của ấn ấy là Đại Dũng Mănh Bồ Tát và Đại An Lạc Bất Không Chân Thật Kim Cang (Phổ Hiền Diên Mạng Bồ Tát, Vajrāmoghasamayasattva). Bên trái của ấn ấy là Phật Nhăn Phật Mẫu (Buddhalocanī) và Thất Câu Chi Phật Mẫu (Chuẩn Đề Bồ Tát, Cundā, Cuṇḍī). Hai bên ở phía trên của Nhất Thiết Tri Ấn có vẽ hai vị tôn giả có kích thước nhỏ hơn, bên trái là Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, và bên phải là Già Da Ca Diếp.

 

3. Thích Ca Viện

 

          Viện này ở phía trên của Chánh Biến Tri viện, tức tầng thứ hai thuộc phương Đông của Mạn-đồ-la. Viện này biểu thị công năng thuyết pháp lợi sanh của Đại Nhật Như Lai, gồm ba mươi chín vị tôn thánh.

          Ở ngay phía trên của ấn Chánh Biến Tri, tương ứng với cửa Đông là Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Ngài là tôn chủ của viện này. Chung quanh Ngài có bốn vị tôn thánh, được sắp xếp như sau:

         

Hư Không Tạng Bồ Tát

 

Quán Tự Tại Bồ Tát

 

Thích Ca Mâu Ni Phật

 

Vô Năng Thắng Phi

 

Vô Năng Thắng Kim Cang

          Bên trái của năm vị trung ương ấy, có mười bảy vị, chia thành hai hàng, hàng trên gồm chín vị, hàng dưới gồm tám vị như sau:

Như Lai Xả

Như Lai Hỷ

Xá Lợi Phất

Ca Diếp Ba

Tu

Bồ

Đề

Đại Mục Kiền Liên

Đa Ma La Hương Bích Chi Phật

Chiên Đàn Hương Bích Chi Phật

Như Lai Thước Khất Để[14]

Như Lai Từ

Như Lai Mẫn

Như Lai Bi

Vô Lượng Thanh Phật Đảnh

Quang Tụ Phật Đảnh

Đại Chuyển Luân Đảnh

Như Lai Hào Tướng

Nhất Thiết Như Lai Bảo

 

          Bên phải của Thích Ca Mâu Ni Phật cũng gồm mười bảy vị, hàng trên là chín vị, hàng dưới là tám vị.

Như Lai Nha

Luân Bức Bích Chi Phật

Bảo Bức Bích Chi Phật

Câu

Hy

La

A

Nan

Ca Chiên Diên

Ưu

Ba

Ly

Trí

Câu

Hy La

Cúng Dường Vân Hải

Bạch Tán Cái Phật Đảnh

Thắng Phật Đảnh Chuyển Luân

Tối Thắng Phật Đảnh Chuyển Luân

Cao Phật Đảnh

Tồi Toái Phật Đảnh

Như Lai Thiệt

Như Lai Ngữ

Như

Lai

Tiếu

 

 

4. Văn Thù Viện

 

          Viện này ở phía trên Thích Ca viện, biểu thị trí huệ mầu nhiệm của Đại Nhật Như Lai, đoạn trừ hết thảy hư luận, quán chiếu Trí Đức, chính giữa viện này là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và bốn vị quyến thuộc như sau.

 

Quán Tự Tại Bồ Tát

 

Phổ Hiền Bồ Tát

 

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát

 

Đối diện hộ môn

 

Đối diện hộ môn

         

          Bên phải của Văn Thù Bồ Tát gồm có mười vị, được phân bố như sau:

Kế Thiết Ni

Ổ Ba Kế Thiết Ni

Chất Đa La

Địa

Huệ

Câu Triệu Sứ Giả

Câu Triệu sứ giả quyến thuộc

 

Sứ giả

 

Sứ giả

 

Câu Triệu sứ giả quyến thuộc

 

Sứ giả

 

          Bên trái là mười vị như sau

Ph́ Giả Da

 

A Nhĩ Đa

Diệu Âm Bồ Tát

Nguyệt Quang Bồ Tát

Cấu Quang Bồ Tát

Bảo Quan Bồ Tát

Vơng Quang Bồ Tát

 

Đồng

Mẫu Rô

 

Giả Da

 

A Ba La Nhĩ

 

5. Liên Hoa Bộ Viện

 

          Viện này nằm bên phải của Trung Thai Bát Diệp (tức bên phải của Đại Nhật Như Lai), biểu thị lực dụng đại bi của Đại Nhật Như Lai, gồm hai mươi mốt vị tôn thánh, sắp xếp như sau:

Bị Diệp Y Bồ Tát

Đại Tùy Cầu Bồ Tát

Liên Hoa Bộ Phát Sanh Bồ Tát

Bạch Thân Quán Thế Âm Bồ Tát

Tốt Đổ Ba Đại Cát Tường Bồ Tát

Đại Thế Chí Bồ Tát

Phong Tài Bồ Tát

Da Thâu Đà La Bồ Tát

Tỳ Câu Chi Bồ Tát

Bất Không Quyến Sách Bồ Tát

Như Ư Luân Bồ Tát

Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát

Thủy Cát Tường Bồ Tát

Đại Cát Tường Đại Minh Bồ Tát

Đa La Bồ Tát

Đại Cát Tường Biến Bồ Tát

Đại Cát Tường Minh Bồ Tát

Đại Minh Bạch Thân Bồ Tát

Bạch Xứ Tôn Bồ Tát

Tịch Lưu Minh Bồ Tát

Mă Đầu Quán Thế Âm

 

          Ngoài ra c̣n có các vị Đa La sứ giả (thị giả của Đa La Bồ Tát), Phụng Giáo sứ giả (thị giả của Tỳ Câu Chi Bồ Tát), Liên Hoa Quân Đồ Lợi (thị giả của Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát), Man Cúng Dường (thị giả của Đại Cát Tường Đại Minh Bồ Tát), Liên Hoa Bộ sứ giả, ba vị Liên Hoa Bộ sứ giả (thị giả của Đại Tùy Cầu Bồ Tát), Liên Hoa Bộ sứ giả (thị giả của Da Thâu Đà La), Bảo Cúng Dường (thị giả của Như Ư Luân Quán Âm), Thiêu Hương Bồ Tát, Liên Hoa Bộ sứ giả (thị giả của Đại Cát Tường Minh Bồ Tát), hai vị Liên Hoa Bộ sứ giả (dâng cúng hoa tươi), Đồ Hương Bồ Tát, Liên Hoa Bộ sứ giả (thị giả của Đại Cát Tường Biến Bồ Tát). Các vị này sẽ vẽ rất nhỏ, gần với các vị tôn thánh mà họ chầu hầu.

 

6. Kim Cang Thủ viện

 

          Nằm bên trái trong tầng thứ nhất của Trung Thai Bát Diệp, biểu thị Thật Trí của Như Lai cũng như lực dụng của Như Lai huệ, có thể phá tan các Hoặc nghiệp chướng, được sắp xếp như sau:  

Phát Sanh Kim Cang Bộ Bồ Tát

Hư Không Vô Cấu Tŕ Kim Cang Bồ Tát

Kim Cang Luân Tŕ Kim Cang Bồ Tát

Kim Cang Câu Nữ Bồ Tát

Kim Cang Lao Tŕ Bồ Tát

Kim Cang Thuyết Bồ Tát

Kim Cang Thủ Tŕ Kim Cang Bồ Tát

Phẫn Nộ Kim Cang Tŕ Bồ Tát

Trạch Duyệt Tŕ Kim Cang Bồ Tát

Kim Cang Tát Đỏa Bồ Tát

Hư Không Vô Biên Siêu Việt Bồ Tát

Kim Cang Nha Bồ Tát

Tŕ Kim Cang Phong Bồ Tát

Kim Cang Tỏa Bồ Tát

Ly Hư Luận Bồ Tát

Kim Cang Quyền Bồ Tát

Tŕ Kim Cang Bồ Tát

Tŕ Diệu Kim Cang Bồ Tát

Phẫn Nộ Nguyệt Yển Tôn Bồ Tát

Tŕ Kim Cang Lợi Bồ Tát

Đại Luân Kim Cang Bồ Tát

 

7. Địa Tạng Viện

 

          Thuộc tầng thứ hai, bên phải của Trung Thai Bát Diệp, biểu thị sức đại bi cứu độ chúng sanh trong chín pháp giới, bộ chủ là Địa Tạng Bồ Tát. Viện này gồm các vị tôn thánh, xếp từ trên xuống dưới theo thứ tự: Trừ Nhất Thiết U Minh Bồ Tát (Trừ Nhất Thiết Ưu Năo Bồ Tát), Bất Không Kiến Bồ Tát, Bảo Ấn Bồ Tát, Bảo Xứ Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát, Bảo Thủ Bồ Tát, Tŕ Địa Bồ Tát, Kiên Cố Thâm Tâm Bồ Tát, Nhật Quang Bồ Tát.

 

8. Tŕ Minh viện (Ngũ Đại viện, Phật Mẫu viện)

 

          Nằm ngay dưới Trung Thai Bát Diệp, biểu thị đức chiết phục và nhiếp thọ. Chính giữa là Bát Nhă Phật Mẫu, hai bên lần lượt là Đại Oai Đức Minh Vương, Thắng Tam Thế Minh Vương, Hàng Tam Thế, và Bất Động Minh Vương.

 

9. Hư Không Tạng viện

 

          Nằm ngay dưới Tŕ Minh Viện, biểu thị bi trí hợp nhất, bao hàm vạn đức, có thể ban vật báu cho hết thảy chúng sanh, trọn đủ các đức. Các vị tôn thánh được chia thành hai hàng như sau:

 

Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm

Bồ

Tát

Đàn Ba

La Mật Bồ

Tát

Giới

 Ba

La

Mật

Bồ

Tát

Nhẫn

 Ba

 La

Mật

 Bồ

Tát

Tinh

Tấn

Ba

La

Mật

Bồ

Tát

Thiền

Ba

La

Mật

Bồ

Tát

Không

Tạng

Bồ Tát

Bát

Nhă

Ba

La

Mật

Phương Tiện

Ba

La

Mật

Nguyện

Ba

La

Mật

Lực

Ba

La

Mật

Trí

Ba

La

Mật

Nhất

Bách

Bát

Kim

Cang

Tạng

Vương

Bồ

Tát

 

Bất Không Câu

Quán

Tự

Tại

Bồ

Tát

Phẫn

Nộ

Câu

Quán

Tự

Tại

Bồ

Tát

Sanh Phẫn Xứ

Bồ Tát

Cộng

Đăng

Ư

Vận Chuyển

Bồ

Tát

Cấu Thệ

Bồ

Tát

Hồ

Bồ

Tát

Kim

Cang

Châm

Bồ

Tát

Tất

Địa

Yết

La

Bồ

Tát

Mạn

Đồ

La

Bồ

Tát

 

10. Tô Tất Địa viện

 

          Nằm ngay dưới Hư Không Tạng viện, biểu thị sự thành tựu trong ba bộ của Thai Tạng Giới, gồm: Bất Không Cúng Dường Bồ Tát, Khổng Tước Vương mẫu, Nhất Kế La Sát, Thập Nhất Diện Quán Âm, Bất Không Kim Cang Bồ Tát, Kim Cang Quân Đồ Lợi, Kim Cang Tướng Bồ Tát, Kim Cang Minh Vương Bồ Tát.

 

11. Trừ Cái Chướng viện

 

          Trong tầng thứ hai, ở bên trái của Kim Cang Thủ Viện, biểu thị tác dụng trừ cái chướng phiền năo của Kim Cang Trí, gồm: Bi Mẫn Huệ Bồ Tát, Phá Ác Thú Bồ Tát, Thí Vô Úy Bồ Tát, Hiền Hộ Bồ Tát, Trừ Cái Chướng Bồ Tát, Bi Mẫn Bồ Tát, Từ Phát Sanh Bồ Tát, Chiết Chư Nhiệt Năo Bồ Tát, Bất Tư Nghị Bồ Tát.

         

12. Kim Cang Ngoại Giới ở phương Đông

 

          Gồm các vị Y Xá Na Thiên, Hỷ Diện Thiên, Thường Túy Thiên, Khí Thủ Thiên Hậu, Khí Thủ Thiên, Kiên Lao Địa Thần Hậu, Kiên Lao Địa Thần, Phi Tưởng Thiên, Vô Sở Hữu Xứ Thiên, Thức Vô Biên Xứ Thiên, Không Vô Biên Xứ Thiên, Nặc Da (quyến thuộc của Nhật Thiên), Nhật Thiên, Vi Nặc Da, Đế Thích Thiên, Thủ Môn Thiên, Thủ Môn Nữ thiên nữ, Thủ Môn Thiên, Thủ Môn thiên nữ (hai vị này c̣n gọi là Tương Hướng Thủ Hộ), Tŕ Quốc Thiên, Đại Phạm Thiên, Măo Tú, Tất Tú, Chủy Tú, Sâm Tú, Quỷ Tú, Tỉnh Tú, Liễu Tú, Ngưu Mật Cung, Bạch Dương Cung, Phu Phụ Cung, Tuệ Tinh, Lưu Tinh, Nhật Diệu, Bà Tẩu tiên hậu, Bà Tẩu đại tiên, Hỏa Thiên hậu, Hỏa Thiên.

 

13. Ngoại Kim Cang Giới viện - phương Bắc

 

          Nằm ở bên phải Trung Thai Bát Diệp, ở ŕa ngoài cùng, gồm hai vị Phong Thiên quyến thuộc, Quang Âm thiên nữ (vợ thứ nhất của Quang Âm Thiên), Quang Âm Thiên, Quang Âm thiên nữ (vợ thứ hai của Quang Âm Thiên), hai vị Đại Quang Âm thiên nữ, Đại Quang Âm Thiên, hai vị Đâu Suất thiên nữ, Đâu Suất Thiên, hai vị Tha Hóa Tự Tại thiên nữ, Tha Hóa Tự Tại Thiên, hai vị Tŕ Man thiên nữ, Tŕ Ma Thiên, hai vị Thành Tựu Tŕ Minh tiên nữ, Thành Tựu Tŕ Minh Tiên, ba vị Ma Hầu La Già, hai vị Khẩn Na La, hai vị Ca Thiên, Nhạc Thiên, Đế Thích Thiên Phi, Đế Thích Thiên, Câu La Ph́ (tức Cưu Bệ La Thiên, Kubera), Câu La Ph́ nữ, Nan Đà long vương, Ô Ba Nan Đà long vương, Tỳ Sa Môn Thiên, Thành Tựu Tŕ Minh Tiên, Thành Tựu Tŕ Minh tiên nữ, Hư Tú, Nguy Tú, Thất Tú, Khuê Tú, Bích Tú, Vị Tú, Lâu Tú, Thiếu Nữ Cung, Giải Cung, Sư Tử Cung, Kim Diệu (Kim Tinh), Chiến Quỷ, Tỳ Na Dạ Ca, Ma Ha Ca La, Y Xá Na thiên phi.

 

14. Ngoại Kim Cang giới viện – phương Nam

 

          Gồm A Nghệ La Tiên, A Nghệ La tiên hậu, Cù Đàm Tiên, Cù Đàm tiên hậu, Tỳ Nữu nữ, Tự Tại nữ, Dạ Ma nữ (ba vị này là quyến thuộc của Diêm Vương), Hiền B́nh Cung, Yết Ma Cung, Song Ngư Cung, La Hầu Tinh, Mộc Diệu, Hỏa Diệu, Tinh Tú, Chẩn Tú, Cang Tú, Trương Tú, Dực Tú, Giác Tú, Đê Tú, hai vị Dược Xoa Tŕ Minh nữ, Dược Xoa Tŕ Minh, Tăng Trưởng Thiên, Tăng Trưởng Thiên sứ giả, Nan Đà long vương, Ô Ba Nan Đà long vương, hai A Tu La, Diễm Ma Thiên, Hắc Ám thiên nữ, Thái Sơn Phủ Quân, Quỷ chúng, Đoạt Nhất Thiết Nhân Mạng, tám quỷ Tỳ Xá Xà, ba Đồ Cát Ni, tử quỷ, bốn vị Tŕ Minh Thành Tựu Tiên, Ma Ni A Tu La, hai quyến thuộc của Ma Ni A Tu La, A Tu La, hai quyến thuộc của A Tu La, hai Ca Lâu La, hai Cưu Bàn Trà.

 

15. Ngoại Kim Cang giới viện – phương Tây

 

          Bao gồm Niết Rị Để vương, hai La Sát nữ, Đại Tự Tại Thiên, Đại Tự Tại Thiên phi, Phạm Thiên nữ, Đế Thích nữ, Cưu Ma Lợi, Giá Văn Đồ, Ma Noa Xá (nữ), Ma Noa Xá (nam), Thủy Diệu, Thổ Diệu, Nguyệt Diệu, Xứng Cung, Hạt Trùng Cung, Cung Cung, Nữ Tú, Ngưu Tú, Đẩu Tú, Vĩ Tú, Cơ Tú, Pḥng Tú, Tâm Tú, Thủy Thiên quyến thuộc, Thủy Thiên, Nan Đà long vương, Ô Ba Nan Đà long vương, Đối Diện Thiên, Nan Phá Thiên, Quảng Mục Thiên, Thủy Thiên, Thủy Thiên Phi, Thủy Thiên Phi quyến thuộc, Na La Diên Thiên, Na La Diên Thiên Phi, Biện Tài Thiên, Cưu Ma La Thiên, Nguyệt Thiên, Nguyệt Thiên Phi, Cổ Thiên, hai vị Ca Thiên, Nhạc Thiên, hai vị Phong Thiên Phi quyến thuộc, Phong Thiên Phi, Phong Thiên quyến thuộc, Phong Thiên.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ư nhất thiết chúng hội trung, đế quán Đại Nhật Như Lai, mục bất tạm thuấn, nhi thuyết kệ ngôn: - Nhất thiết trí huệ giả, xuất hiện ư thế gian, như bỉ Ưu Đàm Hoa, thời thời năi nhất hiện. Chân ngôn sở hành đạo, bội phục thậm nan ngộ. Vô lượng câu-chi kiếp, sở tác chúng tội nghiệp, kiến thử Mạn-đồ-la, tiêu diệt tận vô dư, hà huống vô lượng xưng, trụ chân ngôn hành pháp? Hành thử vô thượng cú, chân ngôn cứu thế giả, chỉ đoạn chư ác thú, nhất thiết khổ bất sanh. Nhược tu như thị hạnh, diệu huệ thâm bất động.

            ()爾時執金剛祕密主,於一切眾會中諦觀大日如來,目不暫瞬而說偈言。一切智慧者,出現於世間,如彼優曇華,時時乃一現。真言所行道,倍復甚難遇,無量俱胝劫,所作眾罪業,見此漫荼羅,消滅盡無餘,何況無量稱,住真言行法。行此無上句,真言救世者,止斷諸惡趣,一切苦不生,若修如是行,妙慧深不動。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ trong hết thảy chúng hội trung, quán kỹ Đại Nhật Như Lai, mắt chẳng tạm nháy, mà nói kệ rằng: - Hết thảy bậc trí huệ, xuất hiện trong thế gian, như hoa Ưu Đàm kia, lâu lâu hiện một lần. Tu hành đạo Chân Ngôn, càng khó gặp bội phần. Vô lượng câu-chi kiếp, trót tạo các tội nghiệp, thấy Mạn-đồ-la này, diệt sạch chẳng c̣n sót. Huống hồ vô lượng xưng, trụ hành pháp Chân Ngôn? Hành câu vô thượng này, chân ngôn đấng cứu thế, dứt đoạn các đường ác, hết thảy khổ chẳng sanh. Nếu tu hạnh như thế, diệu huệ sâu bất động).

 

          Khi đó, đức Phật thị hiện Phổ Môn Mạn-đồ-la như thế, diễn thuyết phương vị của chư tôn trong đồ h́nh đă xong. Ngài Bí Mật Chủ dùng Phổ Nhăn quán mỗi vị tôn thánh ấy, đều chẳng thấy căn bản, mà cũng chẳng có trụ xứ, đều là thân Thật Tướng nơi Liên Hoa Đài Tạng, sanh ra đủ loại phương tiện chẳng thể cùng tận. Lúc bấy giờ, Ngài tự vui mừng sâu xa, phát tâm hy hữu, sanh ư tưởng khó gặp gấp bội đối với pháp này. Do muốn hỏi nghĩa càng sâu hơn, cho nên Ngài trước hết nói kệ. Bài kệ đầu tiên có ư nói: “Hết thảy các bậc trí huệ xuất hiện trong thế gian, giống như hoa Linh Thụy, rất lâu mới hiện một lần”. Phật như hoa Ưu Đàm tuy khó gặp, nhưng pháp yếu Chân Ngôn này lại càng bội phần khó gặp hơn. V́ sao vậy? Đây là tạng bí mật của Như Lai, được thủ hộ trong đêm dài, chẳng truyền trao bừa băi cho người khác! Nếu chẳng phải là căn cơ đốn ngộ, sẽ chẳng được truyền trao. Khi đức Thế Tôn c̣n tại thế, pháp này c̣n bị nhiều nỗi oán ghét, huống hồ đời Mạt ư?

          Hơn nữa, kinh này tự giải thích nhân duyên khó hiện: Nếu chúng sanh được thấy Mạn-đồ-la này, ác nghiệp trọng chướng từ vô thỉ tới nay sẽ bị dẹp tan, chẳng c̣n thừa sót, nhất định được thọ kư Đại Bồ Đề. V́ thế, chẳng phải là kẻ độn căn, phước mỏng mà có thể gặp gỡ được! Được thấy c̣n khó, huống hồ theo thứ tự tu hành ư? Hăy nên biết người ấy lại càng hiếm có, thường được Phổ Môn hải hội ca ngợi, tiếng vang dội mười phương. Lại giống như Đại Nhật Như Lai có đủ loại danh hiệu, nên nói là “vô lượng xưng”.

          Kinh nói “hành thử vô thượng cú” (hành câu vô thượng này) tức là tu hành câu Bồ Đề vô thượng. Môn chữ A này là vua của hết thảy các chân ngôn, giống như đức Thế Tôn là vua của các pháp. V́ thế nói: “Chân ngôn cứu thế giả” (Đấng Chân Ngôn cứu đời). Câu thứ hai nói về nghiệp cứu thế, có thể khiến cho hành nhân thành tựu Kim Cang Tánh, “chỉ đoạn chư ác thú, nhất thiết khổ bất sanh” (ngưng dứt các đường ác, hết thảy khổ chẳng sanh).

          Kinh nói “nhược tu như thị hạnh, diệu huệ thâm bất động” (nếu tu hạnh như thế, diệu huệ sâu bất động): Nếu nói theo bản chép đầy đủ, phải là “huệ cực thâm bất động” (trí huệ đạt đến cùng cực, sâu xa, bất động), như tâm đại hải, do đă cực sâu rộng, lại tột bậc xa ĺa hai bên, thậm chí khi băo tố dấy lên, vẫn chẳng thể lay động. Nếu khi hành giả nhập cái tâm biển cả Chân Ngôn này th́ cũng giống như thế, do diệu huệ rất sâu vô lượng, lại tột bậc xa ĺa nhị biên, hết thảy các pháp chẳng thể lay động. Như vua rồng Sa Kiệt La (Sāgara) tuôn mưa suốt sáu ngày, khi đó, trong cung của chính ông ta, ba nghiệp đều chẳng dấy khởi. Nếu hiểu nghĩa như thế, sẽ biết các thứ phương tiện trong Mạn-đồ-la đều trụ trong Thật Tế!

 

          (Kinh) Thời phổ tập hội nhất thiết đại chúng, cập chư Tŕ Kim Cang giả, dĩ nhất âm thanh tán thán Kim Cang Thủ ngôn: - Thiện tai! Thiện tai! Đại Cần Dũng, nhữ dĩ tu hành Chân Ngôn hạnh, năng vấn nhất thiết Chân Ngôn nghĩa. Ngă đẳng hàm hữu ư tư duy, nhất thiết hiện vị nhữ chứng nghiệm, y trụ Chân Ngôn chi hạnh lực, cập dư Bồ Đề đại tâm chúng, đương đắc thông đạt Chân Ngôn pháp.

            ()時普集會一切大眾及諸持金剛者,以一音聲讚歎金剛手言:善哉善哉大勤勇,汝已修行真言行,能問一切真言義,我等咸有意思惟。一切現為汝證驗,依住真言之行力,及餘菩提大心眾,當得通達真言法。

          (Kinh: Khi đó, hết thảy đại chúng trong hội nhóm họp trọn khắp và các vị Tŕ Kim Cang dùng một âm thanh tán thán ngài Kim Cang Thủ rằng: - Lành thay! Lành thay! Đại Cần Dũng, ông đă tu hành hạnh Chân Ngôn, có thể hỏi hết thảy nghĩa Chân Ngôn. Chúng tôi đều có ư tư duy, hết thảy sẽ v́ ông chứng nghiệm, nương theo sức của hạnh Chân Ngôn, và các Bồ Đề đại tâm chúng, sẽ được thông đạt pháp Chân Ngôn).

 

          Các đại chúng ấy nghe đức Phật rộng diễn các phương vị trong Mạn-đồ-la xong, muốn hỏi các biểu tượng đặc trưng cho pháp giới và sự nghiệp Kim Cang trong ấy, do kính trọng đức Thế Tôn, chưa dám thốt lời. Do ngài Kim Cang Thủ có thể quán sát tâm đại chúng, bèn thừa dịp nói kệ, ắt biết họ muốn đoạn lưới nghi, lợi ích rộng khắp vô lượng chúng sanh. Do vậy, [đại chúng] khen ngợi, chứng minh, khuyên Ngài hỏi han. Hơn nữa, các đại chúng nhiều như số vi trần trong mười cơi Phật, do nhất tâm, một mực, khiến cho một người tụng lời pháp âm này, chẳng phải là mỗi người đều cùng lúc riêng nói. Kệ rằng: “Thiện tai! Thiện tai! Đại Cần Dũng, nhữ dĩ tu hành Chân Ngôn hạnh, năng vấn nhất thiết chân ngôn nghĩa, ngă đẳng hàm hữu ư tư duy” (Lành thay! Lành thay! Đại Cần Dũng, ông đă tu hành hạnh Chân Ngôn, hay hỏi hết thảy nghĩa Chân Ngôn, chúng tôi đều có ư tư duy): “Hạnh Chân Ngôn” chính là pháp môn Tam B́nh Đẳng, ông là thượng thủ bậc nhất trong những người tŕ Tam Mật, cho nên có thể hỏi đức Thế Tôn về nghĩa sâu Phổ Môn. Như nhân giả toan hỏi ư nghĩa của đức Phật, chúng tôi cũng đều suy nghĩ ấy, nay thảy đều đồng tâm suy nghĩ, mong biết, ông hăy nên mau chóng thưa tŕnh. Kế đó nói: “Nhất thiết hiện vị nhữ chứng nghiệm, trụ Chân Ngôn chi hạnh lực” (Hết thảy nay v́ ông chứng nghiệm, trụ trong hạnh lực của Chân Ngôn), ư nói: Chúng tôi khi sơ phát tâm, do trụ trong câu vô thượng này, thậm chí có thể bất động trong biển Kim Cang huệ rất sâu. V́ thế, nhất định sẽ sư tử hống, sẽ hiện chứng minh cho bài kệ ông vừa nói trên đây. Nếu ông muốn thưa hỏi phương tiện bí mật của Như Lai, những người có ḷng mong cầu Đại Thừa sẽ do hạnh pháp Chân Ngôn mà đều được thông đạt. Do thông đạt, siêng năng tu hành chẳng lâu, cũng sẽ giống như chúng tôi không khác. Do thấy nghĩa lợi như thế, dùng một âm thanh mà đồng tâm khuyến trợ vậy!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ phục bạch Thế Tôn, nhi thuyết kệ ngôn: - Vân hà thái sắc nghĩa? Phục đương dĩ hà sắc? Vân hà nhi vận bố? Thị sắc thùy vi sơ? Môn tiêu kỳ lượng đẳng, sương vệ diệc như thị. Vân hà kiến chư môn? Nguyện tôn thuyết kỳ lượng. Phụng thực, hương, hoa đẳng, cập dữ chúng bảo b́nh. Vân hà dẫn đệ tử? Vân hà linh quán đảnh? Vân hà cúng dường sư? Nguyện thuyết hộ-ma xứ. Vân hà chân ngôn tướng? Vân hà trụ tam-muội?

            ()爾時執金剛祕密主復白世尊而說偈言:云何彩色義?復當以何色?云何而運布?是色誰為初?門標旗量等,廂衛亦如是。云何建諸門?願尊說其量。奉食華香等,及與眾寶瓶,云何引弟子?云何令灌頂?云何供養師?願說護摩處。云何真言相?云何住三昧?

            (Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ lại bạch đức Thế Tôn, mà nói kệ rằng: - Màu sắc nghĩa thế nào? Lại nên dùng màu nào? Sắp đặt như thế nào? Màu nào dùng đầu tiên? Kích thước cửa, cờ quạt? Góc xép cửa cũng thế. Lập các cửa ra sao? Kính xin nói kích thước! Dâng thức ăn, hương, hoa, và b́nh bằng các báu. Dẫn đệ tử ra sao? Dạy quán đảnh thế nào? Cúng dường thầy ra sao? Xin nói chỗ hộ-ma, tướng chân ngôn thế nào? Trụ tam-muội ra sao?)

 

          Lúc bấy giờ, ngài Bí Mật Chủ do được đại chúng khuyến phát, liền nói già-tha (kệ tụng) để rộng hỏi đức Thế Tôn. Bài kệ đầu tiên hỏi về ư nghĩa của màu sắc, gồm có bốn câu. Câu đầu tiên hỏi về ư nghĩa của màu sắc [được dùng trong Mạn-đồ-la] là như thế nào? Câu thứ hai nhằm hỏi nên chọn màu sắc nào? Câu thứ ba hỏi nên sắp đặt các màu ấy ra sao? Trước hết, [xếp đặt] ở chỗ nào? Trong hay là ngoài? Câu thứ tư hỏi: Sắp xếp các màu sắc th́ màu nào xếp đầu tiên? Đây chính là một loại chi phần thuộc về Thời của Mạn-đồ-la.

          Bài kệ kế đó hỏi về các biểu tượng nơi các cửa [của đàn tràng], gồm ba câu kệ: Câu đầu tiên hỏi về h́nh dạng và kích thước của cửa và cờ quạt [treo trên cửa ấy]. Câu thứ hai hỏi về h́nh dạng và kích thước của “môn sương” (tức là chỗ trống hai bên cửa để đặt các vị thủ hộ). Câu thứ ba hỏi về cách kiến lập các cửa: H́nh dạng, kích thước, và pháp tắc của chúng. Đủ loại biểu trưng bí mật như thế, A-xà-lê đều nên khéo thông đạt. Đây lại là một chi phần khác.

          Kế đó có hai bài kệ, nói chung có tám câu hỏi:

          - Câu đầu tiên hỏi về cách dâng cúng thức ăn, hương, hoa v.v… như thế nào?

          - Câu thứ hai hỏi về pháp tắc bảo b́nh. Hăy nên biết hết thảy các thứ vật cúng dường đều được bao gồm trong đó, A-xà-lê hăy nên tùy theo từng sự mà biện định tánh loại của chúng. Đây cũng lại là một loại chi phần.      

          - Câu thứ ba hỏi [thầy sẽ] dẫn dắt đệ tử vào Mạn-đồ-la như thế nào?

          - Câu thứ tư hỏi thực hiện pháp quán đảnh như thế nào?

          - Câu thứ năm là hỏi thân cận, phụng sự vị tôn thánh mà chính ḿnh tôn thờ như thế nào? Nhưng trong ấy lại có hai loại: 1) Nếu là hành nhân nương theo Thế Đế Mạn-đồ-la, sẽ triệu vời đệ tử vào đàn để quán đảnh, dâng cúng A-xà-lê như thế nào? 2) Nếu đă tu tập Du Già, thực hiện Bí Mật Quán Đảnh, sẽ triệu vời đệ tử quán đảnh, dâng cúng A-xà-lê như thế nào? Trong khi đang tác pháp, tất cả các phương tiện gia tŕ dạy bảo đều được nhiếp thuộc trong ấy. Đó lại là một loại chi phần nữa.

          - Câu thứ sáu là hỏi về nơi chốn để hộ-ma, cũng có hai cách giải thích nông cạn và bí mật, và các phương tiện lạ như Tức Tai, Tăng Ích, Hàng Phục v.v…

          - Câu thứ bảy hỏi về bộ loại, tự nghĩa, và cú nghĩa của chân ngôn.

          - Câu thứ tám hỏi về tướng sai biệt của các môn tam-muội cạn sâu sai khác.

          Phàm A-xà-lê mà chưa khéo thông đạt pháp như thế, chớ nên kiến lập Mạn-đồ-la. Điều này lại hợp thành ba loại chi phần vậy!

 

          (Kinh) Như thị phát vấn dĩ, Mâu Ni chư pháp vương, cáo Tŕ Kim Cang Huệ: - Nhất tâm ưng đế thính, tối thắng chân ngôn đạo, xuất sanh Đại Thừa quả, nhữ kim thỉnh vấn ngă, vị đại hữu t́nh thuyết, nhiễm bỉ chúng sanh giới, dĩ pháp giới chi vị, cổ Phật sở tuyên thuyết, thị danh vi sắc nghĩa. Tiên an bố nội sắc, phi an bố ngoại sắc, khiết bạch tối vi sơ, xích sắc vi đệ nhị, như thị hoàng cập thanh, tiệm thứ nhi chương trước, nhất thiết nội thâm huyền, thị vị sắc tiên hậu.         

            ()如是發問已,牟尼諸法王,告持金剛慧:一心應諦聽。最勝真言道,出生大乘果,汝今請問我,為大有情說。染彼眾生界,以法界之味,古佛所宣說,是名為色義。先安布內色,非安布外色,潔白最為初,赤色為第二,如是黃及青,漸次而彰著,一切內深玄,是謂色先後。

          (Kinh: Thưa hỏi như thế rồi, đấng Mâu Ni vua của các pháp, bảo ngài Tŕ Kim Cang Huệ: - Nên nhất tâm lắng nghe, đạo chân ngôn tối thắng, xuất sanh quả Đại Thừa. Ông nay thưa hỏi ta, v́ đại hữu t́nh nói. Nhuộm chúng sanh giới ấy, dùng vị của pháp giới, được cổ Phật tuyên nói. Đó là nghĩa của sắc. Trước xếp đặt nội sắc, chẳng xếp bày ngoại sắc. Khiết bạch là đầu tiên, màu đỏ là thứ hai, vàng rồi xanh như thế, lần lượt được phô rơ, sâu huyền trong hết thảy, gọi là sắc trước sau).

 

          Hỏi như thế xong, đấng Đại Tịch pháp vương bảo ngài Chấp Kim Cang rằng: “Ông hăy nên nhất tâm lắng nghe” rồi nói kệ rằng: “Tối thắng Chân Ngôn đạo, xuất sanh Đại Thừa quả” (đạo Chân Ngôn tối thắng, xuất sanh quả Đại Thừa). “Quả Đại Thừa” tức là vô thượng huệ của Phật, phải do phương tiện như thế mà được sanh. Do ông khéo dùng lời tốt lành thưa hỏi ta, nên ta nay v́ trọn khắp các vị Ma Ha Tát khai thị diễn thuyết (“đại hữu t́nh” trong lời kệ chính là dịch nghĩa của chữ Ma Ha Tát) .

          Bài kệ thứ nhất giải đáp ư nghĩa của sắc: “Nhiễm bỉ chúng sanh giới, dĩ pháp giới chi vị. Cổ Phật sở tuyên thuyết, thị danh vi sắc nghĩa” (Để nhuộm chúng sanh th́ dùng vị của pháp giới. Do vậy, đức Phật tuyên nói. Đó gọi là ư nghĩa của màu sắc): Giống như nhuộm màu trong thế gian, có thể nhuộm vải sạch thành cùng một vị. V́ thế, dùng vị để giải thích sắc. Như nói “ca-sa vị” tức là nhuộm thành màu ca-sa. Nay ư nghĩa của sắc trong Mạn-đồ-la này cũng thế: Dùng sắc chẳng thể nghĩ bàn của pháp giới để nhuộm tâm của chúng sanh thành cùng một vị Bồ Đề thanh tịnh. Lại như thế gian nhuộm áo, trước là dùng nước tro để gột tẩy cho áo dễ ăn màu. Nay dùng môn chữ Ra () để thiêu đốt tâm cấu của đệ tử cháy sạch thành tro. Sau đấy, dùng nước đại từ bi thuộc môn chữ Phạ (, Va) để gột rửa, khiến cho thuần nhất, trong sạch, ĺa các hư luận. Sau đấy mới nhuộm thành pháp giới Mạn-đồ-la, khiến cho các thứ thân Phổ Môn đều có cùng màu với Thật Tướng.

          Kế đó, có hai bài kệ đáp chung ba câu hỏi. Hỏi “trong các màu sắc ấy, nên dùng màu nào?” Nay trong lời đáp, [đức Phật dạy hăy] dùng trọn năm sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, đen. Kệ nói: “Tiên an bố nội sắc, phi an bố ngoại sắc” (trước xếp đặt nội sắc, chẳng xếp đặt ngoại sắc, [hàm nghĩa: Khi tô màu mạn-đồ-la, phải nên làm theo thứ tự từ trong ra ngoài), nhằm trả lời câu hỏi “xếp đặt sắc như thế nào?” Chỗ nào bắt đầu trước, chỗ nào bắt đầu sau. “Khiết bạch dĩ vi sơ, xích sắc vi đệ nhị, như thị hoàng cập thanh, tiệm thứ nhi chương trước. Nhất thiết nội thâm huyền, thị vi sắc tiên hậu” (trắng sạch là đầu tiên, màu đỏ là thứ hai, vàng rồi xanh như thế, lần lượt được nêu rơ. Màu đen xẫm trong hết thảy. Đó là thứ tự trước sau của các màu) tức là giải đáp câu hỏi “sắc nào là đầu tiên?” Khiết bạch là tịnh pháp giới sắc của đức Tỳ Lô Giá Na, tức là cội nguồn của hết thảy chúng sanh; v́ thế là tối sơ. Đỏ là màu của Bảo Tràng Như Lai, đă phát Bồ Đề tâm do hiểu đạo, hàng phục ma oán, diệt trừ cái chướng. V́ thế là thứ hai. Màu vàng là màu của Sa La Thụ Vương Phật (Khai Phu Hoa Vương Phật), do khi thành Chánh Giác, muôn đức nở x̣e, đều đạt tới Kim Cang Thật Tế, nên là thứ ba. Xanh là màu của Vô Lượng Thọ Phật, đă đạt được Kim Cang Thật Tế, tức là dùng phương tiện gia tŕ, hiện trọn khắp Đại Bi Mạn-đồ-la, như trong hư không thanh tịnh chứa đựng trọn đủ vạn tượng, cho nên là thứ tư. Màu đen là màu của Cổ Âm Như Lai (Thiên Cổ Lôi Âm Như Lai). Sở dĩ hóa hiện dấu tích Phổ Môn đều v́ hiển lộ Bổn. “Bổn” tức là địa vị do Như Lai tự chứng, trụ trong Đại Niết Bàn. Nếu bỏ đi thần lực gia tŕ, sẽ chẳng phải là cảnh giới mà tâm lượng của hết thảy chúng sanh có thể lănh hội. V́ thế, sắc này u huyền, xếp vào sau cùng.

          Lại nữa, như lụa sạch trong thế gian, sẽ nhuộm các màu trước. Cuối cùng, màu đen là màu nhuộm tột cùng, do quá sẫm, chẳng thể nhuộm thêm nữa, cho nên xếp sau cùng. Ư nghĩa màu sắc trong Mạn-đồ-la cũng giống như thế. Trắng nghĩa là “vượt khỏi một trăm sáu mươi tâm cấu”. Đó là màu của Tín; cho nên đứng đầu. Đỏ là ư nghĩa Đại Cần Dũng, là màu của Tinh Tấn. V́ thế là thứ hai. Vàng nghĩa là “khi một niệm tương ứng, Định và Huệ cân bằng, Thất Giác nở x̣e”. Đó gọi là màu của Niệm. V́ thế, đứng thứ ba. Xanh là ư nghĩa Đại Không tam-muội, là màu của Định. V́ thế là thứ tư. Đen là ư nghĩa của Đại Niết Bàn, tức là huệ rốt ráo của Như Lai. Đó là màu sắc của Huệ, nên là thứ năm. Hoặc có thuyết cho rằng: Màu trắng là đầu tiên, vàng là thứ hai, đỏ là thứ ba, xanh là thứ tư, đen là thứ năm. Đấy là xét theo ư nghĩa nhuộm màu sâu hay cạn tùy theo mức độ.

          Lại nữa, trắng có ư nghĩa là Tín, là màu đầu tiên. Vàng giống như kim cang chẳng thể ngăn trở, phá hoại, tức là ư nghĩa Tinh Tấn, nên là thứ hai. Đỏ là trừ sạch chướng ngại nơi tâm, quang minh chiếu rạng, tức là ư nghĩa của Niệm, cho nên là thứ ba. Những điều khác như trên đây đă giải thích. Các điều được biểu thị trong pháp môn mỗi môn mỗi khác.

          Lại nữa, trắng là màu Tịch Tai (dứt trừ tai nạn), là ư nghĩa của Như Lai Bộ. Cho nên đứng đầu. Vàng là màu Tăng Ích, là ư nghĩa của Liên Hoa Bộ, nên là thứ hai. Đỏ là màu Hàng Phục, là ư nghĩa của Kim Cang Bộ, cho nên là thứ tư. Xanh là Thành Biện Chư Sự (hoàn thành các sự) cũng sanh ra các h́nh tướng tùy theo từng loại, cho nên là thứ tư. Đen là ư nghĩa Nhiếp Triệu, tức các việc được thực hiện bởi các vị Phụng Giáo, Phẫn Nộ v.v… Cho nên là thứ năm.

          Lại nữa, như vẽ vời trong thế gian chẳng ngoài năm sắc, nhưng liên quan tới đủ loại sâu hay cạn khác nhau. Người xảo huệ sẽ khéo sắp xếp, sanh ra muôn h́nh tượng chẳng có cùng tận. Màu pháp giới chẳng thể nghĩ bàn cũng giống như thế. Nói chung, chẳng vượt ngoài năm tự môn (A, Ra, Va, Ha, Kha), nhưng lại phát huy thành đủ loại trí ấn sai biệt. Như Lai do thiện xảo phổ môn vẽ vời Đại Bi Sanh Mạn-đồ-la, cho đến sanh ra các h́nh tướng theo từng loại nhiều như số vi trần trong thế giới mà vẫn chẳng cùng tận. Nếu hành nhân Du Già hiểu được ư nghĩa trong ấy, sẽ càng hiểu sâu hơn, tự tại thực hiện chẳng hề thiếu khuyết trong Chân Như tịch diệt. Những điều kệ đă nói chính là nêu ra cương lănh của một đường lối pháp môn vậy.

          Kinh dạy “tiên an bố nội sắc, phi an bố ngoại sắc” (trước xếp đặt nội sắc, chẳng xếp đặt ngoại sắc), tức là trong cách vẽ vời, hăy nên trước hết vẽ nội tâm bí mật Liên Hoa Tạng xong. Kế đó, tạo tầng thứ nhất gồm các nội quyến thuộc (Liên Hoa Bộ, Kim Cang Thủ, Chánh Biến Tri, Tŕ Minh) giống như ba điểm của chữ Y. Kế đó, tạo các đại quyến thuộc của bốn vị Bồ Tát thuộc tầng thứ hai (Văn Thù, Địa Tạng, Trừ Cái Chướng, Hư Không Tạng), và tầng thứ ba gồm hết thảy các vị trời trong thế gian và quyến thuộc.

          Lại ở trong các đường ranh giới, phần chính giữa (Trung Thai Bát Diệp) và tầng thứ nhất, hăy nên dùng đủ năm màu. Trước hết, dùng màu trắng vẽ đường ranh giới bao quanh xong; kế đó, ở ngoài [đường ranh ấy] vẽ đường ranh giới màu đỏ. Kế đó, ở phía ngoài lại vẽ màu vàng. Sau đấy, lại vẽ [ranh giới] màu xanh, ở ngoài cùng bèn vẽ đường ranh giới màu đen. Trong tầng thứ hai, cũng theo thứ tự như trên để xếp đặt ba màu trắng, đỏ, vàng. Ranh giới của tầng thứ ba chỉ dùng thuần một màu trắng, đều vẽ sao cho tột bậc cân bằng, ngay ngắn, lần lượt xoay theo chiều phải để xếp đặt. Ở ŕa ngoài của chỗ đi lại và cúng dường v.v… đều làm đường ranh thuần một màu. Kinh Cù Hê nói: “Đản dụng bạch sắc” (chỉ dùng màu trắng). Do vậy, trước hết dùng màu trắng từ trong hướng ra ngoài, nhằm nêu tỏ năm loại căn lực (Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ) của Bồ Đề tâm lần lượt tăng rộng, cho tới trụ trong Đại Bát Niết Bàn, sẽ trọn hết thảy các chỗ, không đâu chẳng hiện diện. V́ thế, màu đen ở ngoài cùng. Nếu từ cạn tới sâu, từ Tích trở về Bổn, th́ đức Thế Tôn rủ ḷng cùng v́ quyến thuộc sơ môn trong sáu đường mà khai phát Bồ Đề tâm thanh tịnh. Nếu chúng sanh nhập minh môn này, khi vượt thoát một trăm sáu mươi tâm, là đă dự vào địa vị Bồ Tát vượt ngoài thế gian. V́ thế, tầng Mạn-đồ-la thứ ba chỉ nên dùng màu trắng để làm ranh giới. Tầng Mạn-đồ-la thứ hai, ngoài sắc trắng, lại thêm màu đỏ và màu vàng th́ đỏ là siêng năng, dũng mănh, tấn tu vạn hạnh trong Bồ Đề tâm. Vàng là vạn đức nở x̣e trong Niệm Xứ của Như Lai. Lúc bấy giờ bèn nhập trùng huyền môn, ngự trong cơi Tịch Quang, thậm chí bậc đă đạt tới địa vị gần với Bổ Xứ mà chẳng nhận biết một ai [đă nhập huyền môn ấy]. Do vậy, trong tầng thứ hai, chỉ dùng ba màu làm ranh giới.

          Trong tầng thứ nhất của Mạn-đồ-la, ngoài ba màu trên, c̣n thêm màu xanh và màu đen. Xanh là Đại Không tam-muội; đó gọi là thân, khẩu, ư mật của Như Lai gia tŕ vô tận, cho nên dùng màu của đại hư không. Đen là màu của thân Như Lai thọ lượng thường trụ. Diệu thân như thế rốt ráo chẳng có h́nh tượng, nên vẽ thành h́nh đen sẫm. Hai câu này chính là bí tạng của Như Lai, chẳng phải v́ trọn khắp hết thảy chúng sanh, cho nên gọi là “quyến thuộc”. Lại vào trong màu đen sẫm ấy chính là Thai Hoa Tạng do Như Lai tự chứng. Lúc bấy giờ, thấy màu của ngũ trí đều cùng là một màu pháp giới, há có cạn hay sâu sai khác ư? Tuy chúng sanh có người dần dần nhập, có người siêu thăng, có người đốn nhập, nhưng đều cùng tiến hướng về một đích. V́ thế nói “nhất thiết nội thâm huyền”.

 

          (Kinh) Kiến lập môn tiêu xí, lượng đồng Trung Thai Tạng, sương vệ diệc như thị. Hoa đài thập lục tiết. Ưng tri bỉ sơ môn, dữ nội đàn tề đẳng. Trí giả ư ngoại viện, tiệm thứ nhi tăng gia. Ư bỉ sương vệ trung, đương kiến đại hộ giả. Lược thuyết Tam-ma-địa, nhất tâm trụ ư duyên. Quảng nghĩa phục thù dị, Đại Chúng Sanh đế thính. Phật thuyết nhất thiết Không, Chánh Giác chi Đẳng Tŕ, tam-muội chứng tri tâm, phi tùng dị duyên đắc. Bỉ như thị cảnh giới, nhất thiết Như Lai Định. Cố thuyết vi Đại Không, viên măn Tát Bà Nhă.

            ()建立門幖幟,量同中胎藏,廂衛亦如是,華臺十六節。應知彼初門,與內壇齊等,智者於外院,漸次而增加,於彼廂衛中,當建大護者。略說三摩地,一心住於緣,廣義復殊異,大眾生諦聽。佛說一切空,正覺之等持,三昧證知心,非從異緣得。彼如是境界,一切如來定,故說為大空,圓滿薩婆若。

            (Kinh: Tạo lập các biểu tượng, đặt phía trên các cửa, lượng đồng Trung Thai Tạng, góc xép cửa cũng thế. Đài hoa mười sáu lóng. Hăy nên biết cửa đầu, cân bằng với nội đàn. Người trí ở ngoại viện, lần lượt mà tăng thêm. Ở nơi hai góc cửa, nên lập bậc đại hộ, lược nói Tam-ma-địa, nhất tâm trụ nơi duyên. Nghĩa rộng lại khác hẳn, Đại Chúng Sanh lắng nghe. Phật nói hết thảy Không, Đẳng Tŕ của Chánh Giác, tam-muội chứng biết tâm, chẳng do duyên khác được. Cảnh giới như thế đó, hết thảy Như Lai Định. Nên nói là Đại Không, viên măn Tát Bà Nhă).

 

            Kinh dạy: “Kiến lập môn tiêu xí, lượng đồng Trung Thai Tạng, sương vệ diệc như thị, hoa đài thập lục tiết” (Kiến lập các biểu tượng hoặc cờ quạt nơi cửa [của Mạn-đồ-la], có kích thước giống như Trung Thai Tạng (Trung Thai Bát Diệp), các khoảng trống ở hai bên cửa cũng thế, hoa đài to mười sáu ngón tay): Ở bên cạnh cửa [của đàn tràng Mạn-đồ-la], đều dựng tràng, cờ để làm vật biểu trưng; gọi đó là “môn tiêu xí”. Hai thứ cột cờ quạt biểu trưng ấy có kích thước tương đương, sao cho cân bằng với Trung Thai (đó là ư nghĩa của câu “lượng đồng Trung Thai Tạng”). Trên đó đặt thanh ngang, cũng rộng bằng chừng đó. Trên đầu mỗi cột treo tràng, đều đặt h́nh bán nguyệt. Dưới mặt trăng, đặt cờ xí, dùng lụa màu cột cho ngay ngắn. Góc cờ có thể cắt ra để tạo thành đuôi nheo, mỗi đuôi đều rủ xuống phía ngoài cột tràng, trên nhọn, dưới tù. Ở bốn góc [của Mạn-đồ-la], cũng đặt sào treo tràng và h́nh bán nguyệt. Cờ quạt đều đặt đối xứng nhau. Nơi cửa Đại Cần Dũng (tức cửa tương ứng với Thích Ca Viện, tức cửa Đông), trên các h́nh bán nguyệt, đều đặt báu Như Ư. Nơi cửa Kim Cang Thủ (cửa Nam) th́ trên các h́nh bán nguyệt, đều đặt bạt-chiết-la (vajra, chày kim cang). Nơi cửa Liên Hoa Thủ (cửa Bắc), trên mỗi h́nh bán nguyệt, đều đặt Thương-khư (tù và bằng vỏ ốc). Kế đó, ở bốn góc cũng đều đặt vật báu. “Giáp môn sương vệ”[15] như h́nh chữ Á (), c̣n thông đạo (lối đi) ở chính giữa th́ ở mỗi khúc quanh đều đặt cọc kim cang. Đầu cọc có h́nh dáng như bạt-chiết-la một nhánh, phía dưới bén nhọn. Mỗi góc có sáu cọc, hai bên tổng cộng là mười hai cọc. Bốn cửa và bốn góc tính chung là hai mươi tám cọc. Ba tầng đều như thế. Và chuẩn bị chỉ ngũ sắc, đều dùng Bất Động chân ngôn hoặc Hàng Tam Thế chân ngôn để gia tŕ [chỉ ấy] một trăm lẻ tám lượt, hoặc một ngàn tám mươi lượt.

          Vào đêm hôm A-xà-lê chánh thức tác pháp, đă vẽ Mạn-đồ-la xong, trước hết, xem xét Trung Thai và viện thứ nhất, thấy chẳng thiếu sót ǵ, liền đóng cọc Kim Cang xuống. Dùng chỉ Kim Cang (tức chỉ ngũ sắc vừa được gia tŕ trên đây) để chăng ṿng quanh các cọc kim cang ấy. Tới chỗ trổ cửa th́ ngưng, chẳng cần cắt ngang. Ba tầng đều sắp đặt như thế. Nếu chẳng thể như vậy, nơi viện thứ ba, ắt phải trọn đủ pháp này, chẳng được thiếu khuyết. Tới chỗ thông môn (cửa để ra vào đàn tràng), hăy nên nâng chỉ lên, thuận theo [phương vị của] cửa để căng ṿng quanh phía trên, khiến cho [người ra vào] chẳng bị vướng vào đầu. Đă kết giới xong, hăy nên theo cửa để ra vào, chẳng được tự tiện vượt qua chỗ khác [để vào trong đàn tràng]. Mỗi khi ra vào, vẫn cần phải tụng chân ngôn Bất Động. Nếu là Du Già A-xà-lê, nếu lúc cần ra vào, đối với chỉ vây quanh [đàn tràng], cũng có thể nghĩ nhấc chỉ lên để đi qua. Đi qua rồi bèn hạ chỉ xuống như cũ. Hoặc là khi cách xa cửa, cần ra vào gấp, hăy nên quán tự thân là đức Tỳ Lô Giá Na, dùng thân chẳng vướng mắc, chướng ngại, chớ sanh ư tưởng “vượt qua khỏi chỉ [kết giới], tùy ư ra vào” th́ không phạm lỗi!

          Đối với chỗ khuất khúc nơi sáu cây cọc, đều giữ sao cho khoảng cách [giữa các cọc] đều cân bằng, vẫn cần phải giữ sao cho có lối đi qua lại giữa các viện. Đối với hai bên góc xép của cửa ngoài cùng, cũng phải ngay ngắn tương xứng với Trung Thai. V́ thế nói: “Sương vệ diệc như thị” (góc xép nơi cửa cũng phải như thế). “Hoa đài” là chỗ quán đảnh. Đại để, quy chế về đàn hoa đài giống như Trung Thai Bát Diệp Tạng. [Hoa đài] nhỏ nhất th́ [có kích thước mỗi bề] bằng mười sáu ngón tay, các ư nghĩa khác sẽ được nói cặn kẽ hơn trong phần sau. [Đàn quán đảnh] chỉ trổ một cửa, cửa ấy hướng về đại đàn (tức đàn tràng của Thai Tạng Mạn-đồ-la). Kệ nói: “Ưng tri bỉ sơ môn, dữ nội đàn tề đẳng” (Hăy biết nơi cửa đầu, giữ bằng với nội đàn), tức là đối với cửa ở tầng thứ nhất [của hoa đài, tức đàn quán đảnh], hăy tương đương chuẩn theo chín phần[16], khiến cho rộng hẹp đều bằng với [đàn chánh], khiến cho đường chánh trong nội đàn dẫn thẳng tới tâm của hoa đàn. Các tầng thứ hai, thứ ba cũng dùng điều này để suy ra mà phân định, tự nhiên lần lượt tăng rộng, mỗi mỗi đều thích hợp. Tại hai góc xép nơi cửa của tầng thứ hai, đặt hai anh em long vương, Nan Đà ở phương Nam, Bạt Nan Đà ở phương Bắc[17]. Các món báu trang nghiêm khác đại để giống như trong phẩm Bí Mật Mạn Đồ La [sẽ nói].

          [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Nếu giải thích theo kiểu sâu xa, bí mật, bốn mặt đàn đều phải vuông vắn, ngay thẳng, quân b́nh, chính là ư nghĩa Tứ Niệm Xứ. Bốn cửa là Tứ Tĩnh Lự, mà cũng là Tứ Nhiếp Pháp. Các vật biểu trưng nơi cửa là Tứ Phạm Trụ, góc hai bên cửa là Tứ Chánh Cần. Bốn góc là Tứ Chân Đế (Tứ Thánh Đế), chỉ kim cang chính là Tu-đa-la. Do ba mươi bảy phẩm ấy duy tŕ lẫn nhau mà tạo thành ngằn hạn của pháp môn vậy!” V́ thế, phân lượng dài, ngắn, rộng, hẹp và vật tượng trưng nơi cửa ngoài đều tương xứng với Trung Thai, hàm ư mỗi một pháp môn của Như Lai đều tương xứng với pháp giới, thậm chí chẳng có mảy may tăng giảm. Lại c̣n phù hợp với Trung Đạo được hành, khế hợp tâm Thật Tướng của Liên Hoa Đài. Dấu tích Phổ Môn đă xa lại càng rộng. V́ thế nói: “Trí giả ư ngoại viện, tiệm thứ nhi tăng gia” (Nơi ngoại viện, người có trí lần lượt tăng thêm).

          Kệ nói: “Lược thuyết Tam-ma-địa, nhất tâm trụ ư duyên” (lược nói Tam-ma-địa, nhất tâm trụ nơi duyên). Từ đây trở đi, giải đáp đại lược về chi phần tam-muội trong Mạn-đồ-la. Nếu là người chưa tu Du Già, chẳng được làm A-xà-lê, do thiếu khuyết chi phần, pháp sự sẽ chẳng thành được! Kinh đă giải thích sơ lược ư nghĩa của danh hiệu tam-muội; kế đó, sẽ nói sâu rộng hơn. Trước hết, giải thích sơ lược th́ là “tâm duyên chắc nơi một cảnh, chẳng rong ruổi, tán loạn”. Đó là ư nghĩa Đẳng Tŕ. V́ thế, kệ nói: “Lược thuyết Tam-ma-địa, nhất tâm trụ ư duyên”.

          Xét theo hữu tướng Du Già, bèn có ba loại thượng, trung, hạ. Thượng là quán các thân của chư vị Như Lai như Tỳ Lô Giá Na v.v… Trung là quán thân Bồ Tát như Văn Thù Sư Lợi v.v… Hạ là quán thân của từng loại chúng sanh như Nhân Đà La (Indra, Đế Thích) v.v… Đối với mỗi một điều được biểu thị trong Mạn-đồ-la, như sắc tượng, oai nghi, các biểu trưng bí mật, hoặc ấn, hoặc chữ [chủng tử], chỉ nên nhất tâm trụ duyên, chẳng c̣n để tâm rong ruổi, tán loạn. Đấy chính là môn tam-muội của vị tôn thánh ấy. Nói tóm gọn, mỗi một vị thiện tri thức [trong các vị thiện tri thức] nhiều như số vi trần trong cơi Phật thuộc Mạn-đồ-la hải hội, đều là một loại tam-muội môn để nhập pháp giới. Nếu quán chung đại chúng phổ môn như thế, nhất tâm trụ trong duyên chẳng rong ruổi, tán loạn, tức là môn Phổ Nhăn tam-muội, cũng gọi là môn Phổ Môn Thế Giới tam-muội. Như một môn và hết thảy các môn, hoặc chỉ nhập môn tam-muội thuộc Chánh Biến Tri Bộ, hoặc chỉ nhập môn tam-muội thuộc Liên Hoa Bộ, hoặc chỉ nhập môn tam-muội thuộc Kim Cang Bộ, hoặc dùng Văn Thù Quyến Thuộc Phổ Giai Tập Hội (tất cả các vị tôn thánh thuộc Văn Thù Viện) làm một môn tam-muội. Đối với ba vị Bồ Tát kia cũng thế; tùy thuộc tâm lượng của hành nhân lớn hay nhỏ, các thứ bất đồng.

          Hành giả tu tập Du Già, hoặc quán Bổn Tôn, hoặc quán ấn bí mật, hoặc là lúc quán chân ngôn, có đủ loại cảnh giới hiện tiền; [nếu các cảnh giới ấy] chẳng giống với bổn quán (phép quán chính ḿnh đang tu tập), th́ đều là tà quán. Như ở trong Định, hoặc thấy mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao quang minh chói ngời, hoặc là thấy đại liên hoa vương trọn khắp không trung, hoặc thấy cây báu, lầu gác thù thắng trang nghiêm giống như cung trời và các cơi tịnh, hoặc lại bỗng dưng chẳng c̣n thấy có tướng thân tâm, hoặc thấy chư Phật, Bồ Tát, vô lượng đại chúng, hoặc nghe đủ loại tiếng lạ, hoặc thấy vách núi dốc ngược, cho tới địa ngục Vô Gián, do chẳng thuận theo điều ta vốn duyên theo, th́ đều chớ nên giữ lấy. Chỉ nên nhất tâm nhất ư như thường. Tuy đạt được định cảnh tương ứng, cần phải quán sát sâu xa mười câu duyên sanh, chớ nên đắm chấp. Nếu thấy cảnh giới khác lạ mà ngỡ là nhiệm mầu, thù thắng, chấp trước vào đó, sẽ gọi là Ngă Mạn Định, cũng gọi là Xan Chấp Định (môn Định do keo tham, chấp trước). Chỉ khi nào tương ứng với chánh quán, tự nhiên sẽ được thấy câu-chi cơi Phật, Phật trong ấy sẽ là trăm ngàn vị, cơi nước thuộc mặt Sự chính là cơi tịnh. Khi tương ứng như thế, sẽ biết các thứ sự tướng từ trước tới nay chẳng phải là không có nhân duyên. Do nhân duyên như thế mà có sự tướng như thế, chẳng do điều ǵ khác mà ngộ, chẳng vướng mắc!

          Lại giải thích theo ư nghĩa sâu xa, bí mật. Trong tướng chân thật nơi pháp môn của mỗi vị thiện tri thức, tâm trụ trong duyên, chẳng sanh vọng tưởng, hư luận. Đó chính là ư nghĩa Đẳng Tŕ. Như nhập nhất niệm pháp giới thuộc môn chữ A th́ chính là Tỳ Lô Giá Na tam-muội. Nhất tâm bất loạn nơi pháp Liên Hoa Ấn, đó là tam-muội của ngài Quán Tự Tại. Nhất tâm bất loạn trong Kim Cang huệ ấn th́ là tam-muội của Bí Mật Chủ. Cho đến các vị tôn thánh như Phạm vương, Đế Thích, mỗi vị đều được tự tại trong một pháp giới môn. Nếu trong thân giải thoát ấy mà một duyên chẳng loạn, mỗi pháp ấy chính là Tịnh Thiên Nhăn tam-muội. Nếu nhất tâm bất loạn trong Đại Bi Tạng Vân Hải th́ gọi là Phổ Nhăn tam-muội, cũng gọi là Phổ Hiện Sắc Thân tam-muội. Giả sử Như Lai trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp diễn nói nghĩa rộng trong ấy, vẫn chẳng cùng tận! Nay muốn dùng hai câu kệ để thâu nhiếp rốt ráo chẳng c̣n sót [các ư nghĩa ấy], nên nói: “Quảng nghĩa phục thù dị, đại chúng sanh đế thính” (Nghĩa rộng lại sai khác, Đại Chúng Sanh[18] lắng nghe). Ở trong đó, lại có hai điều:

          - Thứ nhất là nói về Như Lai tam-muội ấn.

          - Kế đó là nói về ấn sai biệt trong tam-muội đạo.

          Kệ nói: “Phật thuyết nhất thiết Không” (Phật nói hết thảy Không), tức là nhập môn chữ A. Cho đến chẳng có chút pháp nào để có thể đạt được, cũng chẳng có tướng nhất định để có thể gọi là tam-muội. Trụ trong nhất tâm pháp giới như thế, gọi là “Chánh Giác chi Đẳng Tŕ”. Do lẽ nào vậy? Nếu ở ngoài tâm tánh này mà có cảnh giới để có thể duyên theo, tức chẳng phải là cảnh thường trụ, bị tứ tướng (sanh, trụ, hoại, diệt) đổi dời, cái tâm “thời, trụ, duyên” cũng lưu chuyển theo cảnh giới, sao có thể gọi là Định cho được?

          Do vậy, chánh giác tam-muội giác ngộ “các pháp vốn chẳng sanh”, chỉ là tâm tự chứng tâm, tâm tự biết tâm, từ lâu xa tới nay, thường như Thật Tế chẳng đổi dời. Tức là dùng cái tâm như thế để trụ trong cái duyên như thế; v́ vậy, được gọi là Đẳng Tŕ. Đây chính là Bổn Tôn Tỳ Lô Giá Na hiển hiện tạng trang nghiêm vô tận, cũng chẳng ĺa Bổn Tôn như thế. Nếu quán khác đi, sẽ đều gọi là “tà quán”. V́ thế, nói chắc chắn rằng: “Tam-muội duy chứng tâm, phi tùng dị duyên đắc” (tam-muội chỉ chứng tâm, chẳng từ duyên nào khác mà đạt được). Nếu dựa theo bản tiếng Phạn để nói, phải nên nói là “bỉ cánh vô dị đắc” (điều đó lại chẳng do điều ǵ khác mà đạt được). Ư nói: Chẳng c̣n từ các chỗ khác mà đạt được!

          Kế đó nói: “Bỉ như thị cảnh giới, nhất thiết Như Lai định” (cảnh giới như thế đó là Định của hết thảy các Như Lai), như kinh Đại Bát Niết Bàn đă nói “hết thảy người có tâm th́ đều có Phật Tánh”. Phật Tánh ấy được gọi là Thủ Lăng Nghiêm Định, cũng gọi là Kim Cang tam-muội, cũng gọi là Bát Nhă Ba La Mật. Phật Phật đạo đồng, trọn chẳng có đường nào khác. Nếu hành nhân khi sơ phát tâm, có thể chánh quán tâm tánh đúng như lời dạy, th́ cũng gọi là “nhập Như Lai Định”, há có phải là nhọc công dần dần vượt thoát tứ xứ (thân, thọ, tâm, pháp) th́ mới đạt đến rốt ráo ư?

          Lại nữa, hành nhân Du Già nếu được oai thần của chư Phật gia bị, thậm chí trong tam-muội thấy trọn vô lượng ba loại mật ấn của vô lượng các vị tôn thánh chẳng xen tạp, số nhiều như vi trần trong mười cơi Phật, hoặc lại nhất tâm bất loạn chuyển [các mật ấn ấy] thành tự thân. Tuy là lạ lùng, đặc biệt, khó nghĩ tưởng, vẫn là hữu tướng, hữu duyên, nên gọi là “thế gian tam-muội”. Nếu lúc tam-muội ấy hiện tiền, hành giả quan sát mười câu duyên sanh, trừ sạch hết thảy vọng tưởng, hư luận, và tương ứng không tịch, liền ngộ Mạn-đồ-la hải hội như thế đều sanh từ các duyên, như bóng trong gương, trăng trong nước, thành Càn Thát Bà v.v… Quán vô tánh tướng, được gọi là xuất thế gian tam-muội; nhưng vẫn c̣n chứng bệnh Chấp Không chưa thể sạch hết, chẳng thể gọi là Đại Không. Đến khi ngồi đạo tràng, tự chứng tâm tánh, liền biết cảnh giới gia tŕ là như thế đó đều là Thật Tế của cái tâm. Lúc bấy giờ, tâm chẳng trụ vào tướng, mà cũng chẳng nương vào Không, chiếu kiến Không và Bất Không rốt ráo vô tướng, mà trọn đủ hết thảy các tướng. V́ thế gọi là Đại Không tam-muội. Trụ trong tam-muội ấy, tức là trụ trong vô ngại huệ của Phật, đức Phật nói người ấy “trí Nhất Thiết Trí rốt ráo viên măn”. Do vậy, kinh nói: “Cố thuyết vi Đại Không, viên măn Tát Bà Nhă” (nên nói là Đại Không, viên măn Tát Bà Nhă).

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn dữ nhất thiết chư Phật đồng cộng tập hội, các các tuyên thuyết nhất thiết Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát tam-muội đạo. Thời Phật nhập ư Nhất Thiết Như Lai Nhất Thể Tốc Tật Lực tam-muội. Ư thị, Thế Tôn phục cáo Chấp Kim Cang Bồ Tát ngôn:

          ()爾時毘盧遮那世尊與一切諸佛同共集會各各宣說一切聲聞緣覺菩薩三昧道時佛入於一切如來一體速疾力三昧於是世尊復告執金剛菩薩言

            (Kinh: Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn và hết thảy chư Phật cùng nhau nhóm họp, mỗi vị tuyên nói hết thảy đạo tam-muội của Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Khi đó, đức Phật nhập trong Nhất Thiết Như Lai Nhất Thể Tốc Tật Lực tam-muội. Ngay khi đó, đức Thế Tôn lại bảo Chấp Kim Cang Bồ Tát rằng).

 

          Đầu quyển hai của chánh kinh, có nói: “Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn dữ nhất thiết chư Phật đồng cộng tập hội, các các tuyên thuyết nhất thiết Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát tam-muội đạo” (Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn và hết thảy chư Phật cùng nhau nhóm họp, mỗi vị tuyên nói hết thảy đạo tam-muội của Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát): Đức Như Lai đă nói ba loại Không tam-muội ấn rốt ráo, v́ khiến cho trọn khắp những kẻ tiến nhập sẽ chẳng có chướng nạn, lại nói các thứ ấn sai biệt trong đạo tam-muội. Các thứ h́nh loại được chỉ bày trong ba tầng Mạn-đồ-la đều là một loại thân pháp môn của Như Lai. Do vậy, đều gọi là Phật. Hết thảy các đức Phật ấy, vị nào cũng đều từ trong pháp môn do chính ḿnh tự lưu thông mà tự nói đạo tam-muội ấy. Nếu hiện thành thân các vị trời trong thế gian, bèn nói đạo tam-muội của các vị trời ấy. Nếu hiện thân Thanh Văn, bèn nói đạo tam-muội của Thanh Văn. Nếu hiện thân Bích Chi Phật, bèn nói đạo tam-muội của Bích Chi Phật. Nếu hiện thân Bồ Tát, bèn nói đạo tam-muội của Bồ Tát. Nếu hiện thân Tŕ Kim Cang, bèn nói đạo tam-muội của Kim Cang. Hăy nên biết kệ tụng trong ấy nhiều như số vi trần trong vô lượng cơi, kinh quyển được kết tập trong thế gian chẳng thể chép trọn! Nhưng nếu khi các hành nhân thâm nhập cảnh giới Du Già tam-muội, sẽ tự nghe rơ rành rành, chẳng khác ǵ như được trực tiếp bảo ban. Do lẽ ấy mà nói là “ngày được Phật gia tŕ”.

          Kinh chép “thời, Phật nhập ư Nhất Thiết Như Lai Nhất Thể Tốc Tật Lực tam-muội” (khi đó, đức Phật nhập Nhất Thiết Như Lai Nhất Thể Tốc Tật Lực tam-muội), tức là khi nhập tam-muội ấy, sẽ chứng biết “hết thảy Như Lai đều cùng là một pháp giới trí thể”. Trong một niệm, có thể theo thứ tự quán sát các môn tam-muội nhiều như số vi trần trong vô lượng thế giới hải, biết ngần ấy chúng sanh như thế, trong mỗi môn tam-muội này hoặc môn tam-muội nọ đáng nên nhập đạo, biết vị thiện tri thức ấy đă v́ ngần ấy chúng sanh tạo nhân duyên chủng tử, chưa v́ ngần ấy chúng sanh tạo nhân duyên chủng tử, hoặc có chúng sanh nhập pháp môn như thế nên có thể siêu thăng thành Phật, nhập các pháp môn khác dằng dai đă lâu mà chưa thể thành Phật. Các loại căn tánh bất đồng như thế, phương tiện để tiến nhập cũng đều khác nhau, thậm chí du hư trong ấy, theo thứ tự tu tập, xuất nhập siêu thế gian, trong mỗi một môn, đều có thể thành tựu vô lượng chúng sanh. V́ thế gọi là Nhất Thể Tốc Tật Lực tam-muội.

 

          (Kinh) Ngă tích tọa đạo tràng, hàng phục ư tứ ma, dĩ Đại Cần Dũng thanh, trừ chúng sanh bố úy. Thị thời Phạm Thiên đẳng, tâm hỷ cộng xưng thuyết, do thử chư thế gian, hiệu danh Đại Cần Dũng. Ngă giác bổn bất sanh, xuất quá ngữ ngôn đạo. Chư quá đắc giải thoát, viễn ly ư nhân duyên, tri không đẳng hư không, như Thật Tướng trí sanh, dĩ ly nhất thiết ám, đệ nhất Thật vô cấu. Chư thú duy tưởng danh, Phật tướng diệc phục nhiên. Thử đệ nhất Thật Tế, dĩ gia tŕ lực cố, vị độ ư thế gian, nhi dĩ văn tự thuyết.

          ()我昔坐道場,降伏於四魔,以大勤勇聲,除眾生怖畏,是時梵天等,心喜共稱說,由此諸世間,號名大勤勇。我覺本不生, 出過語言道,諸過得解脫,遠離於因緣,知空等虛空,如實相智生,已離一切暗,第一實無垢。諸趣唯想名,佛相亦復然,此第一實際, 以加持力故,為度於世間, 而以文字說。

            (Kinh: Ta đă ngồi đạo tràng, hàng phục bốn loại ma, dùng tiếng Đại Cần Dũng, trừ chúng sanh sợ hăi. Khi đó, Phạm Thiên thảy, tâm mừng, cùng khen nói. Do vậy các thế gian, gọi ta Đại Cần Dũng. Ta giác “vốn bất sanh”, vượt ngoài các ngôn thuyết. Được giải thoát các lỗi, xa ĺa nơi nhân duyên, biết Không như hư không, như Thật Tướng trí sanh, đă ĺa hết thảy tối, đệ nhất Thật vô cấu. Các đường chỉ là tưởng, tướng Phật cũng như thế. Đệ nhất Thật Tế ấy, do v́ sức gia tŕ, v́ hóa độ thế gian, bèn dùng văn tự nói).

 

          Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn quán trọn khắp xong, biết rơ các loại tam-muội đạo cùng quy vào một Thể là Phật thừa, lại v́ ngài Chấp Kim Cang nói Bồ Đề ấn trong hết thảy các tam-muội đạo. Trước hết, có hai bài kệ nói về dấu tích thành Phật được thị hiện bên ngoài, bảo: Ta thoạt đầu ngồi đạo tràng, do Nhất Thể Tốc Tật Lực tam-muội này, hàng phục quân chúng của thiên ma. Nhưng trong ấy, lại có chỗ khó hàng phục, tức là các loại ma phiền năo v.v… chẳng có h́nh tướng, nơi chốn, mà cũng chẳng có dấu vết, khó thể hay biết. Trong một niệm, cũng thảy đều diệt mất. V́ thế nói là “hàng phục tứ ma”. “Dĩ Đại Cần Dũng thanh” (dùng âm thanh Đại Cần Dũng), nghĩa là đức Phật dùng lời thành thật bảo ma Ba Tuần: “Ta trong vô lượng vô số kiếp, v́ điều phục chúng sanh, vứt bỏ thân mạng chẳng thể tính đếm, nên nay đă thành tựu. Do có cơ hội nhập đạo, ta sắp chứng Bồ Đề, mở mắt thanh tịnh cho các chúng sanh ấy, ngươi có thế lực ǵ mà gây trở ngại ư?” Khi đức Phật vừa thốt ra lời ấy, hết thảy nỗi sợ hăi của chúng sanh đều trừ, thiên ma mê muội, ngă lăn ra đất, lập tức lui tan. Nếu có chúng sanh thọ tŕ ấn tam giác (Nhất Thiết Chánh Biến Tri Ấn) như thế, thậm chí trừ được vô lượng nỗi sợ hăi trong địa ngục Vô Gián, huống hồ nỗi sợ hăi đối với thiên ma, quỷ thần v.v… ư? V́ thế nói: “Dĩ Đại Cần Dũng thanh, trừ chúng sanh bố úy” (dùng tiếng Đại Cần Dũng, trừ chúng sanh sợ hăi). Lúc bấy giờ, địa thần hoan hỷ, xoay vần xưng nói, cho đến tiếng thấu tận cơi trời Tịnh Cư. Lúc đó, tám bộ chúng sanh như Đại Phạm Thiên v.v… chỉ thấy dấu tích hàng phục ma bề ngoài. V́ vậy, tiếng tăm [của đức Phật] rền khắp, được tôn xưng là bậc Đại Cần Dũng, nhưng đối với chỗ ta thật sự thành Phật, họ sẽ chẳng thể suy lường. Do vậy, kế đó, có hai bài kệ nêu ra thật nghĩa Bồ Đề: “Ngă giác bổn bất sanh”, tức là giác “tự tâm vốn bất sanh”, nghĩa là “thành Phật mà thật sự chẳng giác, chẳng thành”. Hết thảy chúng sanh chẳng hiểu “thường tịch diệt” như thế, do suy tưởng phân biệt bèn hư vọng nói là “có sanh”, luân hồi trong sáu nẻo, chẳng thể tự thoát! Nay tuy nghe âm thanh chánh pháp, vẫn suy t́m, so đo, mong mỏi thành Phật trong đủ loại h́nh tích, trong sự tướng hữu vi, há đắc lư ư?

          “Xuất quá ngôn ngữ đạo” (vượt thoát khỏi nói năng), từ đây trở đi đều nhằm diễn giải môn chữ A. Giác “vốn bất sanh” chính là pháp mà chư Phật đều tự chứng, chẳng do suy lường, phân biệt mà có thể thấu đạt, cũng chẳng thể truyền trao cho người khác. Trí Độ Luận nói “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”. “Chư quá đắc giải thoát” (được giải thoát các lỗi): Hết thảy vọng tưởng phân biệt được gọi là Quá (lỗi lầm), tức là đủ loại hư luận như sanh, diệt, đoạn, thường, đến đi, một, khác v.v… Do chẳng biết Thật Tướng của các pháp, thảy đều có thể phá, có thể chuyển. Nếu thấu hiểu “các pháp vốn vô sanh”, sẽ liền được giải thoát hết thảy lầm lỗi như thế. Do vậy, thân Kim Cang xa ĺa bách phi.

          “Viễn ly chư nhân duyên” (xa ĺa các nhân duyên): Nếu cái Thể của pháp giới có tướng sanh diệt, tức là có nhân duyên để có thể tuyên nói. Nhưng nay do pháp sanh từ duyên, nên chẳng có tự tánh. Nếu chẳng có tự tánh, tức là vốn sẵn chẳng sanh. Khi nhân duyên ḥa hợp th́ cũng chẳng có ǵ được dấy lên; khi nhân duyên ly tán th́ cũng chẳng có ǵ chấm dứt. V́ thế, như hư không thanh tịnh, thường chẳng thay đổi. Đại Kinh[19] cũng nói “chỉ có Như Lai ĺa các nhân duyên”. “Tri không đẳng hư không” (biết Không giống như hư không): “Vốn bất sanh” chính là nghĩa Tất Cánh Không, do tự tánh thanh tịnh, không có thời hạn, vô phân biệt, giống như thái hư. V́ thế, để thế gian dễ hiểu, dùng hư không để sánh ví Bất Tư Nghị Không.

          “Như Thật Tướng trí sanh”: Thật Tướng của cái tâm chính là Tỳ Lô Giá Na trọn khắp hết thảy mọi nơi. Khi đức Phật ngồi đạo tràng, hiểu đúng như pháp tướng, các thứ kiến giải chẳng như thật thảy đều diệt sạch, chẳng c̣n sót thừa. V́ thế, trí huệ Tát Bà Nhă giống như hư không. “Dĩ ly nhất thiết ám” (do ĺa hết thảy tối tăm): Trong hết thảy các pháp tướng mà chẳng biết như thật th́ tức là vô minh. V́ thế, khi giác “vốn bất sanh”, tức là sanh ra sự sáng suốt trọn khắp pháp giới. Dùng hết thảy các loại quán để quán hết thảy các pháp, không ǵ chẳng thấy, nghe, hay, biết. “Đệ nhất Thật vô cấu”: Đó chính là sự thật chân thật nhất, không chi hơn được nữa, được gọi là Đệ Nhất Thật Tế. Tức là nói cái tâm tự tánh thanh tịnh, do ĺa hết thảy tối tăm, tri kiến của Phật chẳng c̣n cấu ô. [Những điều vừa nói trên đây] đều nhằm diễn giải ư nghĩa “bất sanh”.

          Kế đó, có hai câu kết luận: “Chư thú duy tưởng danh, Phật tướng diệc phục nhiên” (Các đường luân hồi chỉ do tâm tưởng mà có danh xưng, Phật tướng cũng lại giống như thế), ư nói: Chúng sanh trong sáu đường và Tỳ Lô Giá Na Phật vốn chẳng có hai Thể, chỉ thuận theo đủ loại vọng tưởng của chúng sanh mà lập ra đủ loại tên gọi. Phật cũng như thế, hết thảy thế gian chỉ thấy dấu tích “ta hàng ma thành đạo, phương tiện độ người”, bèn thuận theo tâm tướng của họ mà xưng nói, hoặc nói là Đại Sa Môn, hoặc nói là Đại Cần Dũng, thậm chí như kinh Hoa Nghiêm đă nói “trong một thế giới có vô lượng tên gọi khác nhau”, chẳng phải là nói “trong pháp tự chứng mà có thể diễn nói để biểu thị được!”

          Bài kệ kế tiếp lại giải thích theo ư nghĩa thông với Thế Đế, nhằm nêu rơ nguyên do khởi giáo. Do vậy nói: “Thử đệ nhất Thật Tế, dĩ gia tŕ lực cố, vị độ chư thế gian, nhi dĩ văn tự thuyết” (Đệ nhất Thật Tế này, do bởi sức gia tŕ, v́ độ các thế gian, bèn dùng văn tự nói), tức là dùng Phật nhăn để quán: Các thứ danh tướng, ngôn từ như thế lại chẳng ra ngoài Đệ Nhất Thật Tế, nhưng chúng sanh nhập đạo có đủ loại nhân duyên bất đồng. Nếu là kẻ đáng nên dùng văn tự, ngôn ngữ để đắc độ, Như Lai sẽ chẳng ĺa Thật Tế, dùng thần lực tự tại để gia tŕ các âm thanh, câu chữ này nọ để diễn nói. Nếu chúng sanh đúng như pháp tu hành, khi được tương ứng với Tam Mật, sẽ biết Thế Đế chẳng khác Đệ Nhất Nghĩa Đế.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang cụ đức giả, đắc vị tằng hữu khai phu nhăn, đảnh lễ Nhất Thiết Trí, nhi thuyết kệ ngôn:

            ()爾時執金剛具德者得未曾有開敷眼,頂禮一切智而說偈言。

            (Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang là bậc trọn đức, đạt được mắt nở bừng chưa từng có, đảnh lễ đấng Nhất Thiết Trí mà nói kệ rằng).

 

            “Cụ đức” tức là trọn đủ hết thảy các đức trang nghiêm bí mật của Như Lai. Như hoa sen khi tăng trưởng đủ mức, được ánh nắng mặt trời chiếu, tự nhiên nở x̣e đoan nghiêm, đáng yêu. Ngài Chấp Kim Cang cũng thế, mắt hoa sen nơi tâm gặp quang minh từ ấn Bồ Đề, rạng ngời nở x̣e, muôn đức đều trọn vẹn, đẹp đẽ, thông suốt bên trong, tỏ lộ ra ngoài, cũng có tướng mắt hoa sen xanh nở x̣e, bèn nói già-đà [để trần thuật] sự lănh ngộ ư chỉ trên đây.

 

          (Kinh) Chư Phật thậm hy hữu, Quyền Trí bất tư nghị, ly nhất thiết hư luận, chư Phật tự nhiên trí, nhi vị thế gian thuyết, măn túc chúng hy nguyện, chân ngôn tướng như thị, thường y ư Nhị Đế. Nhược hữu chư chúng sanh, tri thử pháp giáo giả, thế nhân ưng cúng dường, do như kính chế-để.

            ()諸佛甚希有,權智不思議,離一切戲論,諸佛自然智,而為世間說,滿足眾希願,真言相如是,常依於二諦。若有諸眾生,知此法教者,世人應供養,猶如敬制底。

          (Kinh: Chư Phật rất hy hữu, Quyền Trí chẳng nghĩ bàn, ĺa hết thảy hư luận, chư Phật tự nhiên trí, mà v́ thế gian nói, trọn thỏa các mong cầu. Tướng Chân Ngôn như thế, thường nương vào Nhị Đế. Nếu có các chúng sanh, hiểu biết pháp giáo ấy, người đời nên cúng dường, ví như kính tháp miếu).

 

          Trước hết nói: “Chư Phật thậm hy hữu, Quyền Trí bất tư nghị” (Chư Phật rất hy hữu, Quyền Trí chẳng nghĩ bàn). Nếu theo bản đầy đủ trong tiếng Phạn, phải nên nói là “trí phương tiện hy hữu chẳng thể nghĩ bàn của hết thảy chư Phật”. “Trí” là nói tới sự lănh ngộ “giác vốn bất sanh” trong bài kệ thuộc phần trước, “phương tiện” là nói lănh giải thần lực gia tŕ trong bài kệ trước đó. Lại nữa, “trí” là đài hoa sen trọn đủ nơi tâm, “phương tiện” là cánh sen, tua nhị nở x̣e. Hai loại đều chẳng thể nghĩ bàn, nên nói là “hy hữu”.

          Kế đó nói: “Ly nhất thiết hư luận, chư Phật tự nhiên trí” (trí tự nhiên của Phật ĺa hết thảy các hư luận), tức là rộng tán thán trí chẳng thể nghĩ bàn. “Nhi vị thế gian thuyết, măn túc chúng hy nguyện” (mà v́ thế gian nói, trọn đủ các mong nguyện) chính là rộng tán thán phương tiện chẳng thể nghĩ bàn. Nếu pháp do nương vào thầy mà đắc, tức là sanh từ các nhân duyên, chính là tướng hư luận sanh diệt, chẳng phải là pháp tánh, [chẳng phải là] trí huệ tự nhiên của Phật. Nếu là trí huệ tự nhiên, sẽ chẳng do tu học mà có thể đạt được, cũng chẳng thể truyền dạy cho người khác! Như vị cam lộ cơi trời nội chứng, giả sử dùng đủ loại phương tiện để diễn nói cho kẻ chưa từng nếm trải, kẻ đó trọn chẳng thể hiểu được! Nhưng Phật có sức đại phương tiện, dùng vô tướng Pháp Thân để làm đủ loại danh tướng gia tŕ, khiến cho các chúng sanh dùng pháp nhân quả để chứng đắc pháp “chẳng phải nhân, chẳng phải quả”. V́ thế, Quyền Huệ và Thật Huệ đều chẳng thể nghĩ bàn!

          Kế đó nói: “Chân Ngôn tướng như thị, thường y ư Nhị Đế” (tướng Chân Ngôn như thế, thường nương vào Nhị Đế), nhằm kết lại [ư nghĩa] “hai trí chẳng thể nghĩ bàn”, lănh ngộ ư nghĩa lập bày Nhị Đế trong kinh văn thuộc phần trên. Do biết danh tướng chính là Thật Tế, có thể dùng Thật Tế để gia tŕ, tạo thành danh tướng. Do biết “nông cạn, sơ lược” chính là “sâu xa, bí mật”, có thể biến “sâu xa, bí mật” thành “nông cạn, sơ lược”, tùy thuận nghĩa lợi do chúng sanh thành tựu đều là chân thật, chẳng dối. Nếu khi có thể hiểu Thế Đế, sẽ tự thông đạt Đệ Nhất Nghĩa Đế. V́ thế nói “chư Phật thuyết pháp thường nương vào Nhị Đế”.

          Kế đó, có một bài kệ nhằm nói rơ: Tin hiểu Bồ Đề ấn của Phật, sẽ đắc vô lượng khối phước. V́ thế nói: “Nhược hữu chư chúng sanh, tri thử pháp giáo giả, thế nhân ưng cúng dường, do như kính chế-để” (nếu có các chúng sanh, hiểu biết pháp giáo này, người đời nên cúng dường, ví như kính tháp miếu). Chế-để (Caitya) là chỗ để nương vào của sanh thân xá-lợi. Do vậy, chư thiên và người đời, kẻ có phước, đều nên cúng dường. Nếu hành nhân tin nhận nghĩa như thế, tức là chỗ nương vào của Pháp Thân xá-lợi, kham nhận hết thảy thế gian cúng dường, cung kính. Hơn nữa, Chế-để trong tiếng Phạn có bản thể giống như Chất-đa (Citta, tâm), trong ấy nói bí mật sẽ là “tâm là tháp Phật”. Như đệ tam Mạn-đồ-la, dùng tự tâm làm nền, theo thứ tự tăng thêm, cho tới màu sắc của Trung Thai Niết Bàn là tột đỉnh. Do vậy, Chế-để rất cao. Lại từ Trung Thai Bát Diệp, theo thứ tự tăng thêm, cho đến loại thứ ba là tùy loại phổ môn thân, không chỗ nào chẳng trọn khắp. Do vậy, Chế-để cực rộng. Liên hoa đài Đạt Ma Đà Đô (Dharmadhatu, pháp giới) được gọi là Pháp Thân xá-lợi. Nếu chúng sanh hiểu ấn Bồ Đề nơi tâm này, tức là giống như Tỳ Lô Giá Na Phật. V́ thế nói: “Thế gian ưng cúng dường, như kính Chế-để” (thế gian nên cúng dường như kính trọng Chế-để).

 

          (Kinh) Thời Chấp Kim Cang thuyết thử kệ dĩ, đế quán Tỳ Lô Giá Na, mục bất tạm thuấn, mặc nhiên nhi trụ.

          ()時執金剛說此偈已,諦觀毘盧遮那目不暫瞬,默然而住。

          (Kinh: Khi đó, ngài Chấp Kim Cang nói bài kệ ấy xong, quán kỹ đức Tỳ Lô Giá Na, mắt chẳng tạm nháy, đứng lặng yên).

 

          Khi đó, ngài Chấp Kim Cang đă được nghe Tất Cánh tam-muội ấn, muốn hỏi sai biệt ấn trong tam-muội đạo. Nếu dùng lời lẽ để bạch cùng đức Phật, sợ trái nghịch lư tột cùng; do vậy, lặng thinh quán Phật, nhất tâm mà đứng. Đó chính là thưa hỏi nghĩa rất sâu! Lại nữa, ngài Chấp Kim Cang đứng lặng yên, nhằm muốn biểu thị ư nghĩa “Như Lai chiếu soi căn cơ”. Như giáo pháp thông thường đă nói: Trong ba thời của ngày đêm, đức Phật quán sát chúng sanh có thể hóa độ mà độ thoát họ. Đấy là thuận theo tâm lượng của Thanh Văn mà tự nói như thế. Nếu dùng Phật nhăn để quán rồi thấy, [đâm ra]: Chẳng quán sẽ chẳng thấy. Hễ quán th́ trí huệ sanh; chẳng quán, trí huệ chẳng sanh ư? Đó chính là cảnh “sanh diệt, sáng tối”, chẳng thể gọi là đại huệ b́nh đẳng! Do trí huệ vô tướng, vô phân biệt của Như Lai vốn sẵn vô ngại, thường chiếu pháp giới, căn, duyên, như sóng trong biển cả trọn chẳng vượt quá mức hạn. V́ thế, do ngài Kim Cang Thủ vừa khéo là căn cơ để có thể truyền dạy, Như Lai lập tức diễn nói, chẳng đợi hỏi rồi mới đáp! Hơn nữa, ngài Kim Cang Thủ biết Thế Đế tức là Đệ Nhất Nghĩa Đế, sở hành xứ chẳng khác tất cánh xứ; v́ thế, im lặng chẳng nói. Như Lai đă biết rơ “Đệ Nhất Nghĩa Đế tức là Thế Đế, tất cánh xứ chẳng khác sở hành xứ”. V́ thế, rộng nói phân biệt. V́ khiến cho chúng sanh thông đạt tướng Nhị Đế, lại nêu tỏ, nhưng thật ra là cùng quy vào nhất trí.

 

          (Kinh) Ư thị, Thế Tôn phục cáo Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Phục thứ, Bí Mật Chủ! Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát trụ Phật địa tam-muội đạo, ly ư tạo tác, tri thế gian tướng, trụ ư nghiệp địa, kiên trụ Phật địa. Phục thứ Bí Mật Chủ! Bát Địa tự tại Bồ Tát tam-muội đạo, bất đắc nhất thiết chư pháp, ly ư hữu sanh, tri nhất thiết huyễn hóa. Thị cố, thế xưng Quán Tự Tại giả. Phục thứ, Bí Mật Chủ! Thanh Văn chúng trụ hữu duyên địa thức sanh, diệt trừ nhị biên, cực quán sát trí, đắc bất tùy thuận tu hành nhân. Thị danh Thanh Văn tam-muội đạo. Bí Mật Chủ! Duyên Giác quán sát nhân quả, trụ vô ngôn thuyết pháp, bất chuyển vô ngôn thuyết, ư nhất thiết pháp, chứng cực diệt ngữ ngôn tam-muội. Thị danh Duyên Giác tam-muội đạo. Bí Mật Chủ! Thế gian nhân quả cập nghiệp, nhược sanh, nhược diệt, hệ thuộc tha chủ, không tam-muội sanh. Thị danh thế gian tam-muội đạo.

          ()於是世尊復告執金剛祕密主言:復次祕密主!一生補處菩薩住佛地三昧道,離於造作,知世間相住於業地,堅住佛地。復次祕密主!八地自在菩薩三昧道,不得一切諸法,離於有生,知一切幻化,是故世稱觀自在者。復次祕密主!聲聞眾住有緣地識生,滅除二邊,極觀察智,得不隨順修行因,是名聲聞三昧道。祕密主!緣覺觀察因果,住無言說法,不轉無言說,於一切法證極滅語言三昧,是名緣覺三昧道。祕密主!世間因果及業,若生若滅,繫屬他主,空三昧生,是名世間三昧道。

          (Kinh: Khi ấy, đức Thế Tôn lại bảo Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Lại này Bí Mật Chủ! Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát trụ trong đạo tam-muội thuộc Phật địa, ĺa các tạo tác, biết tướng thế gian, trụ nơi nghiệp địa, trụ vững nơi Phật địa. Lại này Bí Mật Chủ! Bát Địa tự tại trong đạo tam-muội của Bồ Tát, chẳng đạt được hết thảy các pháp, ĺa hữu sanh, biết hết thảy là huyễn hóa. V́ thế, cơi đời gọi là bậc Quán Tự Tại. Lại này, Bí Mật Chủ! Các Thanh Văn trụ trong địa vị hữu duyên, thức sanh, diệt trừ nhị biên, trí quán sát tột bậc, đạt được chẳng tùy thuận cái nhân tu hành. Đó gọi là đạo tam-muội của Thanh Văn. Bí Mật Chủ! Duyên Giác quán sát nhân quả, trụ trong vô ngôn thuyết pháp, chẳng chuyển vô ngôn thuyết, trong hết thảy các pháp, chứng diệt ngữ ngôn tam-muội tột bậc. Đó gọi là đạo tam-muội của Duyên Giác. Bí Mật Chủ! Nhân quả và nghiệp thế gian dù sanh hay diệt, đều thuộc về cái khác làm chủ, không tam-muội sanh. Đó gọi là đạo tam-muội thế gian).

 

          Xét theo lời đáp của Như Lai, đại lược có bốn câu. “Phục thứ, Bí Mật Chủ! Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát trụ Phật địa tam-muội đạo, ly ư tạo tác, tri thế gian tướng, trụ ư nghiệp địa, kiên trụ Phật địa” (Lại này Bí Mật Chủ! Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát trụ trong đạo tam-muội thuộc Phật địa, ĺa các tạo tác, biết tướng thế gian, trụ nơi nghiệp địa, trụ vững nơi Phật địa): Đấy là địa vị quán đảnh tối thượng, nên nêu ra trước. Như các kinh khác đă nói, đấy là bậc Nhất Sanh Sở Hệ Bồ Tát, từ đó sanh lên cung trời Đâu Suất, kế nhiệm địa vị Phật, nên gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ. Nay trong giáo thuyết chủ yếu của kinh này, nói “nhất sanh” tức là từ một mà sanh ra. Thoạt đầu, khi đắc Bồ Đề tâm thanh tịnh, từ đất Nhất Thật mà sanh khởi vô lượng vô biên môn tam-muội tổng tŕ. Trong mỗi địa vị như thế, theo thứ tự tăng trưởng, hăy nên biết là cũng như thế. Khi đă viên măn Đệ Thập Địa, chưa đạt tới Đệ Thập Nhất Địa, lúc bấy giờ, từ cảnh giới Nhất Thật, phát sanh trọn đủ hết thảy các trang nghiêm, chỉ c̣n thiếu một địa vị Như Lai là chưa chứng biết, tức là hễ chuyển pháp tánh sanh th́ chính là địa vị sẽ được bổ làm Phật. Do vậy, gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ. Đấy là phát Bồ Đề tâm rốt ráo, trong hết thảy đạo tam-muội, sẽ là tinh tấn nhập Phật đạo mạnh mẽ, hăng hái nhất. Do vậy nói là “trụ trong đạo tam-muội thuộc địa vị Phật”.

          Ly chư tạo tác” (ĺa các tạo tác): “Tác” là [thực hiện] là tu nghiệp Trị Địa, cho tới trang nghiêm Phật độ, thành tựu chúng sanh. Do tâm hữu trí phân biệt, vẫn là tướng thế gian. Nay vị Bồ Tát này chánh hành Đại Không tam-muội, xa ĺa hư luận vi tế nơi pháp sanh bởi các duyên, nên nói là “ĺa tạo tác”. Như đối với tướng thế gian, chính là thật sự biết Thật Tế của thế gian rốt ráo chẳng khác Niết Bàn tế, có thể chẳng lay động Thật Tế mà đều thấy nhân duyên vốn khởi lên của thế gian. Do vậy, trụ trong đạo tam-muội này, niệm nào cũng tiến nhập địa vị Như Lai. “Trụ trong nghiệp địa”: Nói theo cách giản dị trong tiếng Phạn, hăy nên nói là Tác Địa, tức là học tập sự nghiệp Kim Cang của Như Lai đều đạt được thiện xảo. Kinh Anh Lạc cũng nói “nhập trùng huyền môn, học Phật oai nghi”.

          “Kiên trụ Phật địa”: Kiên cố bất động đối với Như Lai th́ gọi là Trụ, có ư nghĩa khác với Trụ trong phần trước. Như người khát, cầu nước đă lâu, bỗng trông thấy cái ao trong mát, trong ấy lại chẳng có chướng ngại, chỉ nhất tâm tiến hướng, chẳng c̣n duyên theo điều nào khác. Đó gọi là “đạo tam-muội của bậc Bổ Xứ”. Đă đạt tới cái ao trong mát, điều mong cầu đều dứt sạch, cũng chính là Phật địa. V́ thế, tuy cùng gọi là Đại Không Định, nhưng ư nghĩa có sai biệt.

          Kinh dạy: “Bí Mật Chủ! Bát Địa Bồ Tát tam-muội đạo, bất đắc nhất thiết chư pháp, ly ư hữu sanh, tri nhất thiết như huyễn. Thị cố, thế xưng Quán Tự Tại giả” (Bí Mật Chủ! Đạo tam-muội của Bát Địa Bồ Tát, chẳng đạt được hết thảy các pháp, ĺa hữu sanh, biết hết thảy như huyễn. V́ thế, cơi đời xưng là Quán Tự Tại): Đạo của bậc Thập Địa như đă nói trên đây, nếu theo thứ tự mà tiến lên, hăy nên nói là Phật địa. Nếu nói thấp xuống th́ nên nói là Đệ Cửu Địa, cớ sao [chánh kinh] lại nói là Đệ Bát Địa? Do hết thảy các Bồ Tát khi mới vượt khỏi Đệ Thất Địa, trên là chẳng thấy có chư Phật để có thể cầu, dưới là chẳng thấy chúng sanh để có thể độ, cho rằng “trụ trong Đại Niết Bàn, ngưng dứt vạn hạnh”. Khi đó, mười phương chư Phật dùng đạo tam-muội này để phát khởi cái tâm của vị ấy, ḥng vượt khỏi chỗ khó khăn đối với Bồ Đề tâm. V́ thế nói riêng. Từ đấy, tiến nhập Đệ Cửu Địa, sẽ chẳng nói riêng nữa! Do lỗi họa ấy khó khăn, chẳng cần phải nói riêng hành xứ ấn. Từ sơ phát ư trở đi, quán sâu xa mười câu duyên sanh; khi nhập địa vị này, sẽ vượt lên bờ kia Tánh Không. V́ thế nói là “bất đắc nhất thiết chư pháp, ly ư hữu sanh” (chẳng đạt được hết thảy các pháp, ĺa hữu sanh). Lại do phương tiện thiện xảo, trong Như Như bất động, khởi vô biên tác dụng to lớn của mười duyên sanh, dùng Như Huyễn tam-muội để tới trọn khắp các cơi Phật trong mười phương, thân cận đủ loại thiện tri thức, học trọn khắp vô lượng môn “độ người”, tùy thuộc chúng sanh đáng nên dùng loại h́nh tượng, ngôn âm như thế nào để đắc độ, bèn đều hiện ra để v́ họ thuyết pháp. Do vậy, thế gian thấy dấu tích nơi mặt Sự như thế, bèn gọi Ngài là Quán Thế Tự Tại Giả. Đó là tên gọi khác của Nhập Liên Hoa tam-muội.

          Đối với chữ Tự Tại ở đây, âm tiếng Phạn nếu dịch sát nghĩa, sẽ là Phú Quư. Như người đạt được thế lực và địa vị to lớn, trọn đủ tài bảo, tùy theo ḷng muốn mà tự nhiên thành tựu. Vị Bồ Tát này cũng thế! Giả sử hết thảy hữu t́nh trong mười phương thế giới, mong cầu đủ loại vật dụng cần thiết thuộc thế gian hay xuất thế gian, tùy theo sự ưa muốn đủ loại khác nhau, mà đều có thể dùng Như Huyễn tam-muội để cùng lúc ban cho, khiến cho ai nấy đều được măn nguyện. Nhưng do chưa thể dứt bặt dấu tích khởi dụng (dấy lên tác dụng), khiến cho các việc đă làm đều như kim cang. V́ thế, chia thành hai thứ ấn. Lại nữa, ở đây nên nói về pháp môn đầu tiên để giảng giải đạo tam-muội. Do trong phẩm trước đă nói, cho nên chẳng nhắc lại. Lại nữa, tam-muội của bậc Nhất Sanh Bổ Xứ và Đệ Bát Địa như đă nói trên đây là xét theo giáo đạo pháp môn hướng dẫn, dạy bảo mà nói như thế. Nhưng người thuộc bí mật thừa, từ trong Thế Đế có thể thông đạt Đệ Nhất Nghĩa Đế, từ lúc sơ phát tâm đă hành trọn đủ Đại Không tam-muội. Nếu chẳng như thế, trong một đời sẽ chẳng thể nhanh chóng viên măn các địa!

          Kinh nói: “Phục thứ Bí Mật Chủ! Thanh Văn chúng trụ hữu duyên địa, thức sanh diệt, trừ nhị biên, cực quán sát trí, đắc bất tùy thuận tu hành nhân, thị danh Thanh Văn tam-muội đạo” (Lại này, Bí Mật Chủ! Các vị Thanh Văn trụ trong địa vị hữu duyên, biết sanh diệt, trừ nhị biên, trí quán sát tột bậc, đạt được chẳng tùy thuận các cái nhân. Đó gọi là đạo tam-muội của Thanh Văn): Như A Tỳ Đàm nói pháp cửu tưởng, bát niệm bối xả, thắng xứ, hết thảy nhập, ba tam-muội v.v… đều gọi là “trụ hữu duyên địa”. Nương vào các phương tiện tam-muội ấy, khiến cho tâm điềm nhiên, an tĩnh, đạt được sự quán sát chánh đáng, nhận biết pháp thế gian và xuất thế gian đều có nhân, có duyên. Thế gian th́ lấy Tập làm nhân, dùng Khổ làm quả; pháp xuất thế gian lấy Đạo làm nhân, dùng Diệt làm quả, như trong A Hàm đă nói rộng. Nói tới pháp trọng yếu trong Tỳ Ni (Luật Tạng) th́ chính là “các pháp do duyên khởi, Như Lai nói là nhân, pháp ấy do duyên tận, Đại Sa Môn đă nói”. Do biết là nhân duyên sanh diệt, bèn diệt kiến giải Hữu và Vô, xa ĺa Nhị Biên đoạn và thường, trí Chân Đế sanh khởi. V́ thế, gọi là Cực Quán Sát Trí. Do có thể quán sát tột cùng, chẳng điên đảo, chẳng sai lầm, nên gọi là Đế. Từ Vô Minh cho tới già, chết, do cái này có nên cái kia có, do cái này sanh nên cái kia sanh, cho tới luân hồi chẳng có ngằn hạn. Nếu thuận theo đó mà luân chuyển th́ gọi là Thuận. Đă thấy Tứ Chân Đế, liền trái nghịch sanh tử, hành theo chánh đạo, cho đến có thể nói chắc chắn: “Sự sanh của ta đă tận, phạm hạnh đă lập, việc làm đă hoàn thành, chẳng tiếp nhận hậu hữu (thân trong đời sau)”. Đó gọi là “chẳng tùy thuận”. Các hạnh chẳng tùy thuận như thế, phải dùng tam-muội làm nhân, cho nên nói là “đắc bất tùy thuận tu hành nhân” (đạt được cái nhân tu hành chẳng tùy thuận). Tuy các bộ nói về tam-muội của Thanh Văn đủ loại sai khác bất đồng, nhưng khế hợp pháp ấn như thế th́ gọi là “chánh hạnh”. Nếu chẳng khế hợp pháp ấn như thế, th́ gọi là “tà hạnh”.

          Kinh dạy “Bí Mật Chủ! Duyên Giác quán sát nhân quả, trụ vô ngôn thuyết pháp, bất chuyển vô ngôn thuyết, ư nhất thiết pháp, chứng cực diệt ngữ ngôn tam-muội. Thị danh Duyên Giác tam-muội đạo” (Bí Mật Chủ! Duyên Giác quán sát nhân quả, trụ vô ngôn thuyết pháp, chẳng chuyển vô ngôn thuyết, trong hết thảy các pháp, chứng Cực Diệt Ngữ Ngôn tam-muội. Đó gọi là đạo tam-muội của Duyên Giác). “Nhân quả” chính là pháp mười hai nhân duyên. Như Cực Quán Sát Trí của Thanh Văn hiểu “chỉ có Uẩn, vô ngă”, do tâm chán nhàm sâu nặng, bèn nhanh chóng đoạn phiền năo, tự chứng Niết Bàn, chẳng thể phân tích, t́m cầu Thật Tướng của mười hai nhân duyên. Bích Chi Phật trí huệ sâu bén, có thể dùng tổng tướng và biệt tướng để quán sát sâu xa, thấy hết thảy các Tập pháp đều là diệt pháp. Điều này khác hẳn Thanh Văn. Kinh A Hàm nói: “Thập nhị nhân duyên pháp giả, hữu Phật, vô Phật, pháp vị thường trụ” (pháp mười hai nhân duyên, dù có Phật hay không có Phật, pháp vị thường trụ). Ngài Long Thọ cũng nói: “Pháp vị trong ấy chính là tên gọi khác của Như; đấy chính là chỗ khó hiểu nhất trong hết thảy thế gian”. V́ thế, lúc đức Thế Tôn mới thành đạo, chẳng muốn thuyết pháp là do ư này. Sở nhập của Bích Chi Phật sâu dần, trụ trong vô ngôn mà thuyết pháp, nên nói là “bất chuyển”, tức là khi trụ Đệ Nhất Nghĩa, chẳng có âm thanh và văn tự, cho nên chẳng thể truyền dạy kẻ khác. Đức Thế Tôn đạt được tri kiến vô ngại, tự tại trong pháp, có thể trong vô ngôn thuyết pháp mà lập ra danh tự để dạy lại chúng sanh. Trí huệ của Bích Chi Phật có ngăn ngại; v́ thế, chẳng thể diễn nói.

          Lại nữa, Bích Chi Phật quán hết thảy Tập pháp thảy đều như tướng Niết Bàn. Trong đủ loại cảnh giới hữu vi, gió hư luận dứt bặt, mà chẳng hay biết, nên gọi là “chứng cực diệt ngữ ngôn tam-muội”. Tu Du Già tương ứng với điều này th́ gọi là Duyên Giác tam-muội. Hai loại tam-muội ấy đều là chỗ khó khăn trong Bồ Đề tâm, nhưng chỉ là một loại tâm tướng trong đạo được hành, chẳng phải là tâm tánh chẳng thể nghĩ bàn có tướng tam thừa nhất định như thế. V́ thế, hành nhân dùng pháp ấn này để tự ấn chứng, nhận biết rồi, sẽ vượt thẳng qua vô ngại. Nếu chẳng khéo hay biết, sẽ bị chướng ngại!

          Kinh nói “Bí Mật Chủ! Thế gian nhân quả cập nghiệp, nhược sanh, nhược diệt, hệ thuộc tha chủ, không tam-muội sanh, thị danh thế gian tam-muội đạo” (Bí Mật Chủ! Nhân quả và nghiệp thế gian, dù sanh hay diệt, đều thuộc vào cái khác làm chủ, Không tam-muội sanh, đó gọi là đạo tam-muội của thế gian), tức là hết thảy tam-muội thế gian, nói tóm gọn, đạt tới chỗ rốt ráo là đều diệt hoại nhân quả, và khi từ nhân mà biện định quả đối với tất cả các nghiệp đă tạo, [người đời] luôn cho rằng ba chuyện ấy đều hệ thuộc thứ khác. “Thứ khác” chính là Thần Ngă. V́ lẽ nào vậy? Nếu hành nhân chẳng hiểu ư nghĩa của nhân duyên chánh yếu mà tu chứng các môn Thiền, ắt sẽ chấp trước tự tâm, cho đó là nội ngă. Họ thấy vạn pháp trong thế gian do tâm mà có, bèn bảo là do Thần Ngă sanh ra. Nếu chẳng thuận theo nội ngă, ắt sẽ nương vào ngoại ngă, tức là Tự Tại Phạm Thiên v.v… Nếu từ trong ấy, t́m cầu sâu xa cùng tột, [do vô minh, chấp trước], sẽ tự nhiên bác bỏ nhân và nghiệp, chỉ cho rằng ngă tánh riêng tồn tại, cho đến chẳng có một pháp nào nhập tâm để chứng Không định, [cho rằng] đó là lư tột bậc trong thế gian. V́ thế, lẩn quẩn trong ba cơi, vẫn đọa trong tam đồ. Tuy trong Thiền Định phát sanh đủ loại trí thế gian thù thắng, trọn đủ năm món thần thông, nhưng suy xét tông thú, rốt cuộc vẫn quy vào chỗ ấy (tức là chấp có nội ngă hay ngoại ngă). V́ thế, dùng cái ấn ấy để thâu nhiếp hết thảy đạo tam-muội thế gian. Khi hành giả nhập cái tâm ấy, sẽ tự hay biết.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết kệ ngôn: - Bí Mật Chủ đương tri, thử đẳng tam-muội đạo, nhược trụ Phật Thế Tôn, Bồ Tát cứu thế giả, Duyên Giác, Thanh Văn thuyết, tồi hại ư chư quá. Nhược chư thiên, thế gian, chân ngôn pháp giáo đạo. Như thị cần dũng giả, vị lợi chúng sanh cố.

            ()爾時世尊而說偈言:祕密主當知,此等三昧道,若住佛世尊,菩薩救世者,緣覺聲聞說,摧害於諸過。若諸天世間,真言法教道,如是勤勇者,為利眾生故。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bèn nói kệ rằng: - Bí Mật Chủ nên biết, các đạo tam-muội ấy, nếu trụ Phật Thế Tôn, Bồ Tát đấng cứu đời, Duyên Giác, Thanh Văn nói, dẹp sạch các lỗi lầm. Nếu chư thiên, thế gian, chân ngôn pháp giáo đạo, bậc cần dũng như thế, do v́ lợi chúng sanh).

 

          Trong chánh kinh, đức Phật nói kệ thâu nhiếp, chia năm loại tam-muội thành hai phần, tức là: Bốn loại tam-muội của Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, đều gọi là xuất thế gian tam-muội; c̣n chân ngôn và pháp giáo do chư thiên v.v… đă nói th́ thuộc vào thế gian tam-muội. Xuất thế gian tam-muội đều có lợi ích chân thật, cho nên nói “tồi hại ư chư quá” (dẹp tan, trừ sạch các lỗi lầm). Thế gian tam-muội chỉ có lợi ích quyền biến, cho nên nói “vị lợi ích chúng sanh” (v́ lợi ích chúng sanh). Như các kinh khác đă nói, người cầu Tiểu Thừa phải nên tu hành tác quán, tức là sanh ḷng chán nhàm sâu xa đối với giáo pháp thế gian. Người cầu Đại Thừa lại sanh ḷng sợ hăi sâu xa đối với giáo pháp Thanh Văn. Đấy đều là v́ chẳng biết “do bí mật tạng mà nói phương tiện ấy!” Xét theo điều được đề cao trong kinh này, năm loại tam-muội đều là môn Thật Tướng để khai tâm. Như hành giả sơ trụ hữu tướng Du Già chính là thế gian tam-muội, nhưng biết rơ “chỉ có Uẩn, không ngă” trong ấy th́ là Thanh Văn tam-muội. Nếu dùng mười câu duyên sanh để quán các Uẩn vô tánh, vô sanh, tức là Bồ Tát tam-muội. Những điều khác như trong phẩm Trụ Tâm đă nói rộng. Các giáo pháp bất đồng khác do chưa hiểu rơ ư chỉ của tâm tánh, nên ngũ thừa bèn thành sai khác, chẳng thể dung hội! Nếu lại dùng cách giải thích sâu xa, bí mật, th́ như ngũ vị tam-muội[20] trong ba tầng Mạn-đồ-la đều được đức Tỳ Lô Giá Na bí mật gia tŕ, người tương ứng với điều ấy, sẽ đều có thể thành Phật trong một đời, há có cạn hay sâu khác biệt ư? Nay những điều được nói trong bài kệ đều là thuận theo pháp giáo được lưu truyền của bọn họ mà nói đó thôi!

 

          (Kinh) Phục thứ, Thế Tôn cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: “Bí Mật Chủ! Nhữ đương đế thính chư chân ngôn chi phần dă”. Kim Cang Thủ ngôn: “Dụy nhiên! Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn”.

          ()復次世尊告執金剛祕密主言:祕密主!汝當諦聽諸真言支分也。金剛手言:唯然。世尊!願樂欲聞。

            (Kinh: Lại nữa, đức Thế Tôn bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: “Bí Mật Chủ! Ông hăy nên lắng nghe các chi phần của chân ngôn”. Kim Cang Thủ thưa: “Bạch Thế Tôn, vâng ạ! Con ưa thích muốn nghe”).

 

          Phán định đại lược chân ngôn có năm loại, tức là do Như Lai nói, hoặc do Bồ Tát, Kim Cang nói, hoặc do Nhị Thừa nói, hoặc do chư thiên nói, hoặc do địa cư thiên như rồng, chim, A Tu La v.v… nói. Lại nữa, ba thứ đầu được gọi là “thánh giả chân ngôn”, loại thứ tư gọi là “chư thiên chúng chân ngôn”, loại thứ năm là “địa cư giả chân ngôn”, cũng có thể gọi là “chư thần chân ngôn”. Như thánh giả chân ngôn cũng nói các chữ A, hoặc chữ Ra v.v…, các vị trời trong thế gian, cho đến các địa cư quỷ thần cũng đều nói như thế. Tướng trạng có ǵ khác nhau? [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Nếu do Phật, Bồ Tát nói th́ trong một chữ, trọn đủ vô lượng nghĩa”. Lại nói đại lược, chữ A có ba nghĩa, tức là nghĩa bất sanh, nghĩa không, và nghĩa có. Như chữ A trong tiếng Phạn có âm thanh bổn sơ. Nếu có bổn sơ th́ tức là pháp nhân duyên; v́ thế là “có”. Lại nữa, A có nghĩa là Vô Sanh. Nếu pháp do nắm níu nhân duyên mà thành, tức là chẳng có tánh; do vậy là Không. Lại nữa, bất sanh chính là cảnh giới Nhất Thật, tức là Trung Đạo. V́ thế, ngài Long Thọ nói: “Pháp sanh bởi nhân duyên, cũng là Không, cũng là Giả, cũng là Trung”.

          Lại nữa, Đại Luận nói Tát Bà Nhă có ba loại tên gọi:

          - Nhất Thiết Trí, chung với Nhị Thừa.

          - Đạo Chủng Trí, chung với Bồ Tát.

          - Nhất Thiết Chủng Trí, là pháp bất cộng của Phật.

           Ba trí ấy thật ra là cùng đạt được trong một tâm, chỉ nhằm phân biệt khiến cho người khác dễ hiểu mà lập ra ba loại tên, tức là ba nghĩa của chữ A.

          Lại như chữ Ra () cũng có ba nghĩa:

          - Một, nghĩa là “trần” (bụi bặm).

          - Hai, do nhập môn chữ A nên chính là nghĩa “vô trần”.

          - Lại có nghĩa là Ba La Mật, do rốt ráo đạt đến bờ kia, tức là bổn sơ bất sanh.

          Hăy nên biết cũng là trọn đủ ba điểm, ba điểm chính là nhiếp hết thảy các pháp. Như chữ A và chữ Ra, ư nghĩa của các chữ khác cũng đều là như thế. Lại nữa, trong hết thảy lời nói, hễ có kèm theo âm A, sẽ đều thuộc vào môn chữ A. Nếu kèm theo âm Ra, đều thuộc vào môn chữ Ra. Các chữ khác cũng thế! Do Đại Luận giải thích ư nghĩa của các tiếng, các chữ đều tương đồng, trong phần sau sẽ không giải thích cặn kẽ nữa!

          Nếu chân ngôn của các Bồ Tát có chữ A, hăy nên biết trong pháp giới môn được thông đạt bởi chân môn ấy có trọn đủ hết thảy các nghĩa, chẳng phải là các ư nghĩa trọn đủ trong phổ môn pháp giới. Nếu chân ngôn của Nhị Thừa có chữ A th́ hăy nên biết: Chỉ xét theo Tận Vô Sanh Trí, tịch diệt Niết Bàn để nói về nghĩa “bất sanh”. Nếu là chân ngôn do Phạm Thiên nói ra mà có chữ A, xét theo ĺa ngũ dục, dựa theo “giác quán bất sanh” để nêu rơ ư nghĩa. Nếu chân ngôn của Đế Thích và các vị trời Hộ Thế có chữ A, tức là xét theo Thập Bất Thiện đạo và ư nghĩa “các tai hoạn bất ngờ chẳng nẩy sanh”. Những điều khác cứ phỏng theo đó mà suy ra. Những điều vừa nói trên đây đều là lời lẽ thuận theo ư của người khác mà nói, nhằm nêu bày ư nghĩa nông cạn, sơ lược.

          Nếu là lời lẽ thuận theo ư ḿnh để nêu bày ư nghĩa sâu xa, bí mật, th́ hễ nhập một môn, sẽ đều trọn đủ hết thảy các pháp giới môn. Thậm chí các vị trời, quỷ thần v.v… trong thế gian đều là Tỳ Lô Giá Na, há có cạn hay sâu sai khác ư? Nếu hành giả có thể từ trong vô sai biệt, thấu hiểu ư nghĩa sai biệt, hăy nên biết là người thông đạt nghĩa Nhị Đế, mà cũng là biết tướng chân ngôn vậy.

 

          (Kinh) Chánh Đẳng Giác chân ngôn, ngôn danh thành lập tướng, như Nhân Đà La tông, chư nghĩa lợi thành tựu, hữu tăng gia pháp cú, bổn danh hạnh tương ứng. Nhược Án tự, Hồng tự, cập dữ Bát Trách Ca, hoặc Hiệt Rị Bễ đẳng, thị Phật Đảnh danh hiệu. Nhược Yết Lật Ngận Noa, Khư Đà Da Bạn Xà, Ha Na Ma Ra dă, Bát Trá Dă đẳng loại, thị phụng giáo sứ giả, chư Phẫn Nộ chân ngôn. Nhược hữu Nạp Ma tự, cập Sa Phược Ha đẳng, thị tu Tam-ma-địa, tịch hạnh giả tiêu tướng. Nhược hữu Phiến Đa tự, Vi Thú Đà tự đẳng, đương tri năng măn túc, nhất thiết sở hy nguyện. Thử Chánh Giác Phật tử, cứu thế giả chân ngôn. Nhược Thanh Văn sở thuyết, nhất nhất cú an bố. Thị trung Bích Chi Phật, phục hữu thiểu sai biệt, vị tam-muội phần dị, tịnh trừ ư nghiệp sanh.     

            ()正等覺真言,言名成立相,如因陀羅宗,諸義利成就。有增加法句,本名行相應,若唵字吽字,及與潑磔迦,或頡唎嫓等,是佛頂名號。若揭佷拏,佉陀耶畔闍,訶娜摩囉也,鉢吒也等類,是奉教使者,諸忿怒真言。若有納麼字,及莎縛訶等,是修三摩地,寂行者標相。若有扇多字,微戍陀字等,當知能滿足,一切所希願。此正覺佛子,救世者真言,若聲聞所說,一一句安布,是中辟支佛,復有少差別,謂三昧分異,淨除於業生。

          (Kinh: Chân ngôn Chánh Đẳng Giác; ngôn, danh thành lập tướng, như Đế Thích tạo luận, thành tựu các nghĩa lợi. Có tăng thêm câu pháp, vốn tên Hành Tương Ứng. Như chữ Án (Oṃ), chữ Hồng (Hūṃ), cùng với Bát Trách Ca (Phaṭaka), hoặc Hiệt Rị (Hrīḥ), Bễ (Bhi) thảy, là danh hiệu Phật Đảnh. Nếu Yết Lật Hận Noa (Gṛhṇa), Khư Đà Da (Khādaya) Bạn Xà (Bhañja), Ha Na Ma Ra Dă (Hadamāraya), Bát Trá Dă (sphāṭaya) các loại, là phụng giáo sứ giả, các Phẫn Nộ chân ngôn. Nếu có chữ Nạp Ma (namaḥ), và Sa Phược Ha (svāhā) thảy, chính là chữ biểu trưng, của người tu tịch hạnh. Nếu có chữ Phiến Đa (śānta), chữ Vi Thú Đà (viśuddha) thảy, hăy nên biết trọn thỏa, hết thảy các ước nguyện. Đó chính là chân ngôn, bậc chánh giác Phật tử, chân ngôn đấng cứu thế. Nếu do Thanh Văn nói ra, mỗi mỗi câu sắp xếp. Bích Chi Phật trong ấy, lại có chút sai biệt, tức tam nghiệp muội sai khác, đều trừ sạch nghiệp sanh).

 

          Lại nữa, trong kinh tự nói tướng trạng của các Chân Ngôn. Bài kệ thứ nhất nói: “Chánh Đẳng Giác chân ngôn, ngôn danh thành lập tướng, như Nhân Đà La tông, chư nghĩa lợi thành tựu” (Chân ngôn của bậc Đẳng Chánh Giác, do ngôn và danh mà thành lập tướng, như Nhân Đà La tông (luận do Đế Thích soạn), thành tựu các nghĩa lợi), nói về tướng trạng chung nơi chân ngôn của Như Lai. Nay chỉ nói theo tam-muội-da chân ngôn tối sơ. “Ngôn” là nói mỗi một chữ đều là một loại nhập pháp giới môn, như nói A Tam Mê (Asame) th́ chữ A là môn Vô Sanh, chữ Sa là môn Vô Đế, chữ Ma là môn Đại Không. “Danh” là mỗi một tự môn hợp thành một danh, như A có nghĩa là Vô, Tam Mê là Đẳng. Nếu nói gộp chung, sẽ chính là Vô Đẳng. “Thành lập” là nhờ vào các danh ấy, từ đầu tới cuối, hợp thành một nghĩa. Như câu đầu là Vô Đẳng, câu kế là nói Tam Đẳng, câu kế đó là tam-muội-da, cùng nhau thành lập, tức là Vô Đẳng Tam B́nh Đẳng Tam-muội-da. Lại nữa, như do nhiều danh cùng hợp thành một câu, như “chư hành vô thường” v.v… Cho đến tổng hợp nhiều câu thành một kệ, sau đấy ư nghĩa mới viên măn, tức là “chư hành vô thường, thị sanh diệt pháp, sanh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc” (các hành vô thường, là pháp sanh diệt, sanh diệt đă diệt, tịch diệt là vui), đều là tướng thành lập bởi chân ngôn. Các điều khác đều phỏng theo lệ này.

          “Như Nhân Đà La tông”: Nhân Đà La (Indra) là tên gọi khác của Thiên Đế Thích. Đế Thích tự tạo thanh luận, trong một lời có thể bao hàm trọn các nghĩa. V́ thế, dẫn chuyện này làm chứng. Trí huệ thế gian mà c̣n như thế, huống hồ Như Lai tự tại trong các pháp ư?

          “Chư nghĩa lợi thành tựu” (thành tựu các nghĩa lợi), tức là đối với chân ngôn của Như Lai, trong mỗi một chữ đều trọn có thể thành tựu các nghĩa lợi. Trong mỗi một danh, cũng đều trọn có thể thành tựu hết thảy nghĩa lợi. Trong mỗi tướng được thành lập, cũng trọn có thể thành tựu hết thảy nghĩa lợi. Nếu nêu ra chữ tối sơ là chữ A trong tam-muội-da chân ngôn, do nó có nghĩa “vốn bất sanh”, tức là có tác dụng Tức Tai. Do vốn bất sanh, nên hết thảy các công đức trọn đủ, chẳng thiếu, tức là có tác dụng Tăng Ích. Do vốn chẳng sanh, vô lượng lầm lỗi bị diệt trừ chẳng sót, tức là có tác dụng Hàng Phục. Lại chẳng có một pháp nào vượt ngoài cái “vốn bất sanh” ấy, tức là có tác dụng Nhiếp Triệu. Trong cái “vốn chẳng sanh” như thế, do chẳng có công dụng, nên có thể hoàn thành hết thảy các sự. Như chữ A, mỗi chữ khác cũng đều là như thế. Như mỗi một chữ, mỗi một danh, ngôn, và tướng thành lập cũng đều như thế. Do vậy, hăy nên biết đấy chính là trong chân ngôn trọn đủ hết thảy các công dụng. Tướng trạng chung của chân ngôn đă nói xong.

          Kế đó, nói về biệt tướng của chân ngôn, cho nên nói: “Hữu gia tăng pháp cú, bổn danh hành tương ứng” (có tăng thêm câu pháp, sao cho tên gọi của chân ngôn tương ứng với điều sẽ được thực hiện bởi chân ngôn ấy), ư nói: Phàm tạo tác các sự nghiệp chân ngôn, hăy nên quán danh xưng vốn được thành lập và ư thú tạo tác trong chân ngôn ấy, nhằm biện định bộ loại sai biệt của nó, tùy theo tánh tướng đáng nên mà thực hiện, sử dụng. Nếu danh nghĩa và tác dụng của chân ngôn chẳng tương ứng, hăy nên vâng theo đúng pháp mà tăng thêm các câu có ư nghĩa. Như trong chân ngôn có các thứ danh ngôn sai biệt trong pháp giới pháp tánh Đại Không chẳng thể nghĩ bàn, do tương ứng với chân thể tự chứng của Như Lai, hăy nên biết đó là chân ngôn thuộc Phật Bộ. Nếu là [chân ngôn thuộc] các bộ khác [nhưng do tương ứng với chân thể tự chứng của Như Lai], cũng có thể dùng như [chân ngôn thuộc] Phật Bộ. Nếu có danh nghĩa tương ứng với Đại Bi Phổ Nhăn vô nhiễm trước, hăy nên biết là dùng cho Liên Hoa Bộ. Nếu có danh nghĩa tương ứng với Kim Cang Bất Hoại Vô Hư Luận, hăy nên biết là dùng cho Kim Cang Bộ. Các nghĩa như thế vô lượng vô biên, Du Già hành nhân hăy nên dùng ư để suy ra, chẳng cần phải chép tường tận.

          Lại nữa, kinh tự nói tác dụng tương ứng với danh hạnh. Tức là nếu trong chân ngôn có các chữ Án (, Oṃ), Hồng (हूं, Hūṃ), Phát (​, phát ), ङ्क​ (ṅka, trách ca), Hiệt Rị (ह्रि, hri), Bệ (भि, bhi) v.v… Hăy nên biết đó là danh hiệu của Phật Đảnh. Nếu có các chữ như Yết Lật (गृ, gṛ), Hận Noa (ह्ण​, hṇa, có nghĩa là “chấp thủ”), Khư (​, kha), Đà (​, da), Da (​, ya) (nghĩa là “ăn”), Bạn Xà (भज​, bhaja, nghĩa là “phá hoại”), Ha Na (हद​, hada, có nghĩa là “đánh”), Ma La Dă (मरय​, maraya, có nghĩa “giết”), Bát Trá Dă (फटय​, phaṭaya, nghĩa là “ném”) như thế, hăy nên biết là chân ngôn của các vị Phẫn Nộ hoặc Phụng Giáo, có thể dùng để hàng phục, nhiếp triệu. Như nói “đạm thực” (ăn nuốt) th́ “ăn nuốt” nghĩa là khiến cho các vị Phẫn Nộ nuốt, diệt hết thảy loài Tỳ Na Dă Ca. Nếu hiểu là “thật sự ăn nuốt” [các quỷ thần], chư Phật sẽ mắc tội giết chúng sanh. Nay xét theo nghĩa được giảng giải trong tông này, nói Tỳ Na Dă Ca (Vināyaka) cũng tức là “hết thảy các thứ có thể gây ra chướng ngại”. Các chướng ấy đều từ cái tâm vọng tưởng sanh ra. Nếu có thể “ăn nuốt” trọng chướng như thế, khiến cho tâm mục mở sáng, hăy nên biết đó gọi là bậc Chân Phẫn Nộ. Dùng môn chữ Khư (, Kha) để ăn nuốt các chướng của hết thảy chúng sanh, sẽ là người được Như Lai sai khiến hành Như Lai sự. Những điều khác có thể suy luận tương tự mà biết.

          Lại nữa, nếu trong chân ngôn có chữ Nạp-ma (नमः, Nama, có nghĩa là “quy mạng”), chữ Sa Phược Ha (स्वाहा, Svāhā, nghĩa là “nhiếp thủ”) v.v… hăy nên biết đó là chân ngôn tương ứng với tu Tam-ma-địa tịch tĩnh. Hoặc có các chữ Phiến Đa (षत​, Ṣata, nghĩa là “tịch”), Vi Thú Đà (विशुद्ध, Viśuddhā, nghĩa là “thanh tịnh”), hăy nên biết đó là chân ngôn thành tựu viên măn hết thảy các nguyện. Hơn nữa, Phiến Đa cũng có nghĩa là Tức Tai, tương ứng với Phật Bộ. Những điều khác như trong các kinh Tô Tất Địa v.v… đă nói tường tận. Những điều đă nói trên đây đều là tướng chân ngôn của Phật, Bồ Tát.

          Kế đó nói “nhược Thanh Văn sở thuyết, nhất nhất cú an bố” (nếu là [chân ngôn] do Thanh Văn nói, mỗi câu đều xếp đặt): Do Thanh Văn nhờ vào người khác mà được ngộ, nhập pháp tánh chưa sâu, không thể trong một lời trọn chứa trọn các đức. Nếu nói một bài kệ bốn câu như “chư hành vô thường…”, muốn theo thứ tự xếp đặt văn nghĩa chẳng khuyết để trở thành chân ngôn, chớ nên dùng tự môn để nêu ra ư nghĩa và tăng thêm danh và cú (câu). Tuy Bích Chi Phật vô ngôn thuyết, cũng có thể dùng sức thần thông hiện ra chân ngôn, khiến cho những người thọ tŕ đều đạt được nghĩa lợi. “Thị trung, thiếu hữu sai biệt” (trong ấy, có chút sai biệt), tức là Lậu Tận của Bích Chi Phật và Thanh Văn giống nhau, nhưng tam-muội có cạn hay sâu sai khác, có thể dùng thần thông để lợi ích chúng sanh, khiến cho sở nguyện của họ đều được thành tựu. Trừ tứ đại đệ tử ra, sức của các vị Thanh Văn khác chẳng thể. Lại nữa, chân ngôn ấy chỉ nhằm nói lư “mười hai nhân duyên tịch diệt”; cho nên nói: “Vị tam-muội phần dị, tịnh trừ ư nghiệp sanh” (Tức là tam muội có phần nào sai khác, nhưng đều là trừ sạch các quả do nghiệp sanh khởi).

 

          (Kinh) Phục thứ Bí Mật Chủ! Thử chân ngôn tướng, phi nhất thiết chư Phật sở tác, bất linh tha tác, diệc bất tùy hỷ. Hà dĩ cố? Dĩ thị chư pháp, pháp như thị cố. Nhược chư Như Lai xuất hiện, nhược chư Như Lai bất xuất, chư pháp pháp nhĩ như thị trụ. Vị chư chân ngôn, chân ngôn pháp nhĩ cố. Bí Mật Chủ! Thành Chánh Đẳng Giác nhất thiết tri giả, nhất thiết kiến giả, xuất hưng vu thế, nhi tự thử pháp thuyết chủng chủng đạo, tùy chủng chủng lạc dục, chủng chủng chư chúng sanh tâm, dĩ chủng chủng cú, chủng chủng văn, chủng chủng tùy phương ngữ ngôn, chủng chủng chư thú âm thanh, nhi dĩ gia tŕ, thuyết chân ngôn đạo.

          ()復次祕密主!此真言相非一切諸佛所作,不令他作亦不隨喜。何以故?以是諸法法如是故。若諸如來出現、若諸如來不出,諸法法爾如是住。謂諸真言,真言法爾故。祕密主!成正等覺一切知者、一切見者出興于世,而自此法說種種道,隨種種樂欲、種種諸眾生心,以種種句、種種文、種種隨方語言、種種諸趣音聲而以加持真言道。

    (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Tướng chân ngôn này chẳng do hết thảy chư Phật làm ra, chẳng khiến người khác làm, mà cũng chẳng tùy hỷ. V́ sao vậy? Do các pháp ấy, pháp vốn là như thế. Dù các đức Như Lai xuất hiện, hay chư Như Lai chẳng xuất hiện, các pháp vẫn vốn sẵn trụ như thế, tức là các chân ngôn và pháp chân ngôn vốn sẵn là như thế đó. Bí Mật Chủ! Bậc thành Chánh Đẳng Giác biết hết thảy, thấy hết thảy, xuất hiện trong cơi đời, bèn từ pháp này mà nói đủ loại đạo, tùy theo các thứ ưa thích, mong muốn, thuận theo các loại tâm của chúng sanh, dùng đủ loại câu, đủ loại văn, đủ loại ngôn ngữ theo từng nơi, đủ loại âm thanh trong các đường để gia tŕ, nói đạo chân ngôn).

 

          Kế đó, kinh nói đến Thật Tướng của chân ngôn, nên nói: “Phục thứ Bí Mật Chủ! Thử Chân Ngôn tướng, phi nhất thiết chư Phật sở tác, bất linh tha tác, diệc bất tùy hỷ, hà dĩ cố? Dĩ thị chư pháp, pháp như thị cố. Nhược chư Như Lai xuất hiện, nhược chư Như Lai bất xuất, chư pháp pháp nhĩ như thị trụ. Vị chư chân ngôn, chân ngôn pháp nhĩ cố” (Lại này, Bí Mật Chủ! Tướng chân ngôn này chẳng do hết thảy chư Phật làm ra, chẳng khiến người khác làm, mà cũng chẳng tùy hỷ. V́ sao vậy? Do các pháp ấy, pháp vốn sẵn là như thế. Dù các đức Như Lai xuất hiện, hay chư Như Lai chẳng xuất hiện, các pháp vẫn vốn sẵn trụ như thế, tức là các chân ngôn và pháp chân ngôn vốn sẵn như thế đó). Do thân, ngữ, ư của Như Lai rốt ráo b́nh đẳng; tướng, thanh, và chữ của chân ngôn đều là thường. Do là thường nên chẳng dời, chẳng có biến đổi, pháp vốn sẵn là như thế, chẳng phải là do tạo tác mà thành. Nếu có thể tạo thành th́ chính là sanh pháp (pháp được sanh bởi các pháp khác). Hễ pháp có sanh, sẽ có thể phá hoại, bốn tướng đổi dời, vô thường, vô ngă, há có ǵ gọi là chân thật ngữ ư? Do vậy, Phật chẳng tự làm, chẳng sai kẻ khác làm. Giả sử có người có thể làm th́ cũng chẳng tùy hỷ. V́ thế, tướng chân ngôn này, dù Phật xuất hiện trong cơi đời, hoặc chẳng xuất thế, hoặc đă nói, hoặc chưa nói, hoặc đang nói, pháp trụ pháp vị, tánh tướng thường trụ. Do vậy gọi là nhất định ấn, đạo của các vị thánh như nhau. Tức là hết thảy các chân ngôn trong Đại Bi Mạn-đồ-la này, tướng của mỗi chân ngôn đều vốn sẵn như thế, cho nên nhắc lại [lần nữa để nhấn mạnh].

          Nếu là như thế, tướng của các chân ngôn là rốt ráo tịch diệt, chẳng truyền cho người khác, cớ sao có lúc xuất hiện, có khi ẩn mất? Do vậy, kinh lại giải thích nguyên do, bèn nói rằng: “Bí Mật Chủ! Thành Chánh Đẳng Giác, nhất thiết trí giả, nhất thiết kiến giả, xuất hưng vu thế, nhi tự dĩ thử pháp thuyết chủng chủng đạo, tùy chủng chủng lạc dục, chủng chủng chư chúng sanh tâm, dĩ chủng chủng cú, chủng chủng văn, chủng chủng tùy phương ngữ ngôn, chủng chủng chư thú âm thanh, nhi dĩ gia tŕ thuyết chân thật đạo” (Bí Mật Chủ! Bậc thành Chánh Đẳng Giác biết hết thảy, thấy hết thảy, xuất hiện trong cơi đời, bèn từ pháp này mà nói đủ loại đạo, tùy theo các thứ ưa thích, mong muốn, thuận theo các loại tâm của chúng sanh, dùng đủ loại câu, đủ loại văn, đủ loại ngôn ngữ theo từng nơi, đủ loại âm thanh trong các đường để gia tŕ, nói đạo chân thật). Ư nói: Pháp thể do Như Lai tự chứng, chẳng phải do Phật tự làm, chẳng phải do trời, người nào khác làm ra, pháp vốn sẵn thường trụ. [Đức Phật] bèn dùng thần lực gia tŕ để [chân ngôn] xuất hiện trong cơi đời, lợi ích chúng sanh. Nay môn Chân Ngôn “thân, khẩu, ư bí mật” này chính là thân, khẩu, ư b́nh đẳng của Pháp Thân Phật, nhưng cũng do sức gia tŕ, bèn xuất hiện trong cơi đời để lợi ích chúng sanh. Tri kiến vô ngại của Như Lai vốn sẵn thành tựu liên tục nơi hết thảy chúng sanh, chẳng có khuyết giảm. Do chẳng như thật nhận biết thể tướng của chân ngôn ấy, nên gọi là “kẻ ở trong sanh tử”. Nếu lúc có thể tự biết, tự thấy, th́ gọi là bậc “biết hết thảy, thấy hết thảy”. Do thấy biết như thế, chẳng do Phật tự tạo tác, cũng chẳng phải do kẻ khác truyền trao.

          Đức Phật ngồi đạo tràng, chứng pháp như thế rồi, biết rơ hết thảy thế giới vốn sẵn thường là pháp giới, lập tức sanh đại bi tâm: “Cớ sao chúng sanh hết sức gần Phật đạo mà chẳng thể tự giác?” Do bởi nhân duyên ấy, Như Lai xuất hiện trong thế gian, vẫn dùng pháp giới chẳng thể nghĩ bàn như thế, chia thành đủ loại đạo, khai thị đủ loại thừa, tùy thuận đủ loại căn cơ, tâm hạnh, ưa thích, mà dùng đủ loại câu chữ, ngôn ngữ địa phương, tự tại gia tŕ để nói đạo chân ngôn. Tuy sanh từ nhân duyên cơ cảm, nhưng chẳng dao động Thật Tế. Tuy phương tiện thiện xảo không ǵ chẳng thực hiện, nhưng chẳng phải là do Phật tạo tác. Dẫu nói trọn khắp các điều khác biệt, nhưng chỉ dùng tri kiến của Phật để chỉ bày, giác ngộ chúng sanh. Nếu hành giả đối với mười thí dụ về Chân Ngôn (như huyễn, như mộng, như ánh nắng gợn v.v…) mà hư vọng thấy hữu vi sanh diệt rồi tăng trưởng tâm cấu, sẽ chẳng phải là bổn ư của Như Lai.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Vân hà Như Lai chân ngôn đạo? Vị gia tŕ thử thư tả văn tự.

          ()祕密主!云何如來真言道?謂加持此書寫文字。

    (Kinh: Bí Mật Chủ! Thế nào là đạo chân ngôn của Như Lai? Chính là gia tŕ văn tự được biên chép ấy).

 

          Lại nữa, do chúng sanh đời vị lai độn căn, mê nơi Nhị Đế, chẳng biết “Tục chính là Chân”; v́ thế, đức Thế Tôn ân cần chỉ bày rằng: “Bí Mật Chủ! Vân hà Như Lai chân thật đạo? Vị gia tŕ thử thư tả văn tự” (Bí Mật Chủ! Thế nào là đạo chân thật của Như Lai? Chính là gia tŕ văn tự được biên chép ấy). Do văn tự của thế gian là thật nghĩa của ngôn ngữ; v́ thế, Như Lai liền dùng thật nghĩa của chân ngôn để gia tŕ. Nếu vượt ngoài pháp tánh mà riêng có văn tự thế gian, tức là do vọng tâm mà thấy lầm lạc, đều chẳng có thật thể để có thể cầu, nhưng đức Phật dùng thần lực gia tŕ, sẽ là tùy thuận điên đảo, chẳng phải là chân ngôn. Đă biết chỗ gia tŕ, Như Lai dùng pháp nào để gia tŕ vậy?

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Như Lai vô lượng bách thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập tu hành chân thật đế ngữ, Tứ Thánh Đế, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thần Túc, Thập Như Lai Lực, Lục Ba La Mật, Thất Bồ Đề Bảo, Tứ Phạm Trụ, thập bát Phật bất cộng pháp. Bí Mật Chủ! Dĩ yếu ngôn chi, chư Như Lai Nhất Thiết Trí trí, nhất thiết Như Lai tự phước trí lực, tự nguyện trí lực, nhất thiết pháp giới gia tŕ lực, tùy thuận chúng sanh, như kỳ chủng loại, khai thị Chân Ngôn giáo pháp.

          ()祕密主!如來無量百千俱胝那庾多劫,積集修行真實諦語,四聖諦、四念處、四神足、十如來力、六波羅蜜、七菩提寶、四梵住、十八佛不共法。祕密主!以要言之,諸如來一切智智。一切如來自福智力、自願智力、一切法界加持力,隨順眾生,如其種類開示真言教法。

      (Kinh: Bí Mật Chủ! Như Lai trong vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập, tu hành lời chân lư chân thật, Tứ Thánh Đế, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thần Túc, mười lực của Như Lai, sáu Ba La Mật, Thất Bồ Đề Bảo, Tứ Phạm Trụ, mười tám pháp bất cộng của Phật. Bí Mật Chủ! Nói tóm lại, trí Nhất Thiết Trí của Như Lai, hết thảy sức phước trí của chính Như Lai, trí lực do tự thệ nguyện, sức gia tŕ của hết thảy pháp giới, tùy thuận chúng sanh, đúng như chủng loại của họ mà khai thị giáo pháp Chân Ngôn).

 

          V́ thế, kế đó đức Phật nói: “Bí Mật Chủ! Như Lai vô lượng bách thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập tu hành chân thật đế ngữ, Tứ Thánh Đế, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thần Túc, thập Như Lai lực, Lục Ba La Mật, Thất Bồ Đề Bảo, Tứ Phạm Trụ, thập bát Phật bất cộng pháp. Bí Mật Chủ! Dĩ yếu ngôn chi, chư Như Lai Nhất Thiết Trí trí, nhất thiết Như Lai tự phước trí lực, tự nguyện trí lực, nhất thiết pháp giới gia tŕ lực, tùy thuận chúng sanh, như kỳ chủng loại, khai thị Chân Ngôn giáo pháp” (Bí Mật Chủ! Như Lai trong vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập, tu hành lời chân lư chân thật, Tứ Thánh Đế, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thần Túc, mười lực của Như Lai, sáu Ba La Mật, Thất Bồ Đề Bảo, Tứ Phạm Trụ, mười tám pháp bất cộng của Phật. Bí Mật Chủ! Nói tóm lại, trí Nhất Thiết Trí của Như Lai, hết thảy sức phước trí của chính Như Lai, trí lực do tự thệ nguyện, sức gia tŕ của hết thảy pháp giới, tùy thuận chúng sanh, đúng như chủng loại của họ mà khai thị giáo pháp Chân Ngôn), tức là Như Lai trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp tích tập công đức, phổ môn gia tŕ trọn khắp hết thảy các chốn. V́ thế, tùy theo mỗi một chữ, mỗi một danh từ được thành lập, đều như thanh luận của Nhân Đà La (Indra, Đế Thích), hết thảy nghĩa lợi không ǵ chẳng thành tựu. Lại c̣n trong mỗi một công đức ấy, đều giống như tướng Chân Ngôn, pháp tánh vốn tự như vậy, chẳng phải do tạo tác mà thành.

          Nay lại dựa theo một chữ A để biện định nghĩa này. Như khi hành giả tự chứng cái tâm, biết rơ nhân quả thế gian và xuất thế gian vốn bất sanh, chẳng có Khổ, Tập, Diệt, Đạo, mà có Nhất Thật Đế. Đă thấy Nhất Thật Đế rồi, nhất định sẽ sư tử hống, rộng v́ chúng sanh mà nói. Đó gọi là “tích tập tu hành chân thật đế ngữ”. Lại biết tám món điên đảo[21] vốn thật sự chẳng sanh, thành tựu Như Lai Niệm Xứ. Do biết Tứ Như Ư Túc vốn bất sanh, thành tựu pháp tánh thần thông. Do biết các thứ như Thị Xứ Phi Xứ Trí v.v… vốn bất sanh, thành tựu trí lực tự nhiên của Phật. Do biết Lục Tế[22] vốn bất sanh, đạt đến bờ kia Lục Độ. Do biết Thất Bồ Đề Phần vốn bất sanh, thành tựu bảy loại báu Vô Sư Giác (giác ngộ không do thầy dạy). Do biết Tứ Phạm Trụ (từ, bi, hỷ, xả) vốn bất sanh, thành tựu vô duyên từ bi hỷ xả. Do biết mười tám loại pháp vốn bất sanh, cho nên vượt ngoài tâm lượng, chẳng cùng chung với hết thảy chúng sanh. Cho tới đủ loại pháp môn, sẽ đều tự tại nói.

          Lại nữa, như ư nghĩa trong phẩm đầu tiên của kinh này, nếu biết rơ “chỉ có Uẩn, không có ngă”, cho tới khi chứng tịch nhiên giới, hăy nên dựa theo “ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả vốn bất sanh” để nói rơ các thứ pháp môn. Khi dùng năm thứ thí dụ để quán sát tánh Không, hăy nên dựa theo “các Uẩn vốn bất sanh” để nói rơ các thứ pháp môn. Khi quán sát Uẩn A Lại Da cho đến tiền tế và hậu tế của giác tâm đều chẳng thể được, hăy nên xét theo “h́nh bóng của cái tâm vốn bất sanh” mà nói các thứ pháp môn. Khi tâm cực vô tự tánh sanh khởi, hăy nên dựa theo “Bồ Đề tâm thanh tịnh vốn bất sanh” để nói rơ các loại pháp môn. Cho tới Như Lai địa, hăy nên dựa theo ư nghĩa “rốt ráo bất sanh” của Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la để nói các thứ pháp môn. Như môn chữ A bất sanh, môn chữ Ca vô tác v.v… đều nên nói rộng. Như mỗi một chữ, cho đến mỗi một danh, mỗi mỗi thành lập, đều nên nói rộng.

          Lại nữa, đức Thế Tôn tự tại trong các pháp, hoặc dùng một chữ để nhiếp các thứ “một pháp môn” như Bồ Đề tâm v.v… Hoặc dùng hai chữ để nhiếp đủ loại “hai pháp môn” như Chỉ Quán v.v… Hoặc dùng ba chữ để nhiếp các loại “ba pháp môn” như Tam Không v.v… Hoặc dùng bốn chữ để nhiếp đủ loại “bốn pháp môn” như Tứ Niệm Xứ v.v… Hoặc dùng năm chữ để nhiếp các loại “năm pháp môn” như Căn, Lực v.v… Hoặc dùng sáu chữ để nhiếp đủ loại “sáu pháp môn” như Lục Độ v.v… Hoặc dùng bảy chữ để nhiếp đủ loại “bảy pháp môn” như Thất Bồ Đề Bảo (Thất Giác Chi) v.v… Hoặc dùng tám chữ để nhiếp đủ loại “tám pháp môn” như Bát Trực Đạo (Bát Chánh Đạo). Hoặc dùng chín chữ để nhiếp đủ loại “chín pháp môn” như Cửu Định v.v… Hoặc dùng mười chữ nhiếp đủ loại “mười pháp môn” như Thập Lực v.v… Cho đến dùng vô lượng chữ để nhiếp vô lượng pháp môn. Các danh, cú v.v… cũng giống như thế.

          Nếu xét theo tướng trạng chung của chân ngôn, như khi hành giả tŕ một môn chữ A, tùy theo sự ưa thích và cơ duyên của người đó, hoặc ngộ Tứ Niệm Xứ, hoặc ngộ Tứ Thần Thông v.v… mỗi mỗi bất đồng. Nhưng khi đă hiểu bất cứ một môn nào, sẽ trọn đủ các pháp môn khác, các thứ pháp bảo không cầu mà tự đến! Nếu xét theo biệt tướng, như dùng bốn chữ để nhiếp Tứ Niệm Xứ môn. Nếu lúc đúng như pháp tu hành, tuy trước kia chưa từng chánh quán “thân, thọ, tâm, pháp”, tự nhiên ngộ Niệm Xứ môn mà nhập các pháp môn thuộc pháp giới. Danh nghĩa hiểu theo lối thông thường th́ như trong Trí Độ Luận v.v… đă nói rộng. Lại nữa, Như Lai dùng đủ loại pháp môn, chẳng thể nêu trọn, lại nêu ra điều trọng yếu để nói. Thoạt đầu nói tới trí Nhất Thiết Trí, tức là nêu chung hết thảy Kim Cang trí ấn của mười phương ba đời Như Lai, dùng pháp ấy để cùng nhau gia tŕ, không ǵ chẳng trọn vẹn. Lại nữa, hết thảy Như Lai khi hành Bồ Tát đạo, tích tập vô biên khối phước, phát sanh vô tận đại nguyện, cho tới rốt ráo viên măn Tát Bà Nhă. Do vậy, đều được gọi là Trí. Nói do phước nguyện trí lực như thế, và sức gia tŕ của hết thảy các pháp giới bổn tánh, tùy thuận thế gian, đúng như từng chủng loại mà thực hiện gia tŕ. Do vậy, trong thân, ngữ, ư của hết thảy chúng sanh, đều có thể khai thị giáo pháp Chân Ngôn.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Vân hà chân ngôn pháp giáo?

          ()祕密主!云何真言法教?

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Thế nào là pháp giáo chân ngôn?)

 

          Tức là nói các môn như chữ A v.v… chính là giáo tướng của chân ngôn. Tuy Tướng chẳng khác Thể, Thể chẳng khác Tướng, Tướng chẳng tạo tác, tu đă thành tựu, chẳng thể chỉ bày cho người khác, nhưng có thể chẳng ĺa giải thoát, hiện làm âm thanh và chữ. Mỗi mỗi chữ và âm thanh chính là nhập pháp giới môn. V́ thế, được gọi là “pháp giáo chân ngôn”. Luận định pháp giáo chân ngôn, hăy nên trọn khắp hết thảy các danh ngôn trong các nơi, các đường; nhưng do thoạt đầu Như Lai thị hiện dấu tích xuất thế tại Thiên Trúc, người truyền pháp bèn dựa theo tiếng Phạn để làm phương cách nêu bày ư nghĩa vậy!

 

          (Kinh) Vị A tự môn, nhất thiết chư pháp bổn bất sanh cố.

          ()謂阿字門,一切諸法本不生故。

          (Kinh: Tức môn chữ A, do hết thảy các pháp vốn chẳng sanh).

 

          Chữ A () là cái gốc của hết thảy các giáo pháp. Phàm âm thanh khi ban sơ mở miệng đều có âm A. Nếu ĺa âm A, sẽ chẳng có hết thảy các ngôn thuyết. V́ thế, [chữ A] là mẹ của các âm thanh. Phàm ngôn ngữ trong tam giới đều nương vào danh, mà danh nương vào chữ. V́ thế, chữ A trong Tất Đàm[23] cũng là mẹ của các chữ. Hăy nên biết nghĩa chân thật của môn chữ A cũng lại giống như thế này: “Thuộc vào trọn khắp hết thảy các pháp nghĩa”. V́ lẽ nào vậy? Do hết thảy các pháp không ǵ chẳng sanh từ các duyên. Hễ sanh từ duyên th́ đều có khởi đầu, có cội gốc. Nay quán cái duyên có thể sanh ấy, cũng lại sanh từ các nhân duyên, lần lượt từ duyên, cái ǵ là gốc? Khi quán sát như thế, sẽ biết: Cái “vốn chẳng sanh” chính là cái gốc của vạn pháp. Giống như khi nghe hết thảy ngôn ngữ, th́ chính là nghe âm thanh của chữ A. Khi thấy hết thảy các pháp sanh như thế, chính là thấy cái gốc chẳng sanh. Nếu thấy cái gốc chẳng sanh, tức là đúng như thật biết tự tâm. Đúng như thật biết tự tâm chính là trí Nhất Thiết Trí; do vậy, đức Tỳ Lô Giá Na chỉ dùng một chữ này làm chân ngôn. Nhưng phàm phu trong thế gian do chẳng quán cội nguồn của các pháp, hư vọng thấy có sanh, cho nên thuận theo sanh tử mà lưu chuyển, chẳng thể tự thoát! Như thợ vẽ vô trí, tự dùng các màu vẽ thành h́nh tướng Dạ Xoa đáng sợ. Vẽ xong, lại tự xem, tâm sanh kinh hăi, ngă lăn ra đất. Chúng sanh cũng lại giống như thế, tự vận dụng cội nguồn của các pháp, vẽ ra tam giới, vẫn tự ch́m đắm trong đó, tự tâm hùng hực hứng chịu trọn các nỗi khổ! Như Lai là họa sĩ đă biết rơ rồi, liền có thể tự tại thành lập Đại Bi Mạn-đồ-la. Do vậy bèn nói, cái gọi là “bí tạng rất sâu” chính là do chúng sanh tự bí mật đó thôi, chẳng phải là Phật có ẩn tàng!

 

          (Kinh) Ca tự môn, nhất thiết chư pháp ly tác nghiệp cố.

          ()迦字門,一切諸法離作業故。

                (Kinh: Môn chữ Ca (, Ka), do hết thảy các pháp ĺa tác nghiệp).

 

                Ca Rị Da (Kārya) trong tiếng Phạn có nghĩa là “tác nghiệp”. Như các ngoại đạo chấp trước có tác giả, có người sai khiến làm v.v… Luận sư thuộc các bộ cũng nói có tác, có tác giả, có pháp được sử dụng để tạo tác, do ba sự ḥa hợp bèn có quả báo. Nếu do phương tiện Bát Nhă mà bảo là có quyết định, tức là đọa vào “không có nhân”. Nếu đọa vào “không có nhân” th́ hết thảy các pháp sẽ là không có nhân quả. Pháp có thể sanh được gọi là Nhân, pháp được sanh ra th́ gọi là Quả. Do hai pháp là không, tác và tác giả, pháp được sử dụng để tạo tác, tội phước, quả báo, và Niết Bàn đạo, hết thảy đều là chẳng có. Lại nữa, tác và tác giả do nhân mới sanh, nếu quyết định có pháp để tạo tác, th́ sẽ nhất định có tác giả (người làm), đều chẳng khác nghị luận của ngoại đạo, như trong phẩm Quán Tác Tác Giả của Trung Luận đă nói cặn kẽ. Nay chánh quán sát tác và tác giả v.v… đều sanh từ các duyên, liền nhập ngằn mé “vốn bất sanh”. Ngằn mé “vốn bất sanh” dù có Phật hay không có Phật, pháp vẫn vốn sẵn là như thế, ai là người cầm đầu tạo tác? Do vậy, thấy chữ Ca, sẽ biết hết thảy các pháp đều do tạo tác mà thành, đó gọi là “tự tướng”. Nếu là tác pháp, sẽ biết là rốt ráo vô tác. Đó gọi là nghĩa chân thật.

 

          (Kinh) Khư tự môn, nhất thiết chư pháp đẳng hư không bất khả đắc cố.

          ()佉字門,一切諸法等虛空不可得故。

          (Kinh: Môn chữ Khư, do hết thảy các pháp như hư không chẳng thể được).  

                   

          Chữ Khư (, Kha) trong tiếng Phạn có nghĩa là hư không. Thế gian cùng chấp nhận “hư không là pháp vô sanh, vô tác”. Nếu hết thảy các pháp vốn bất sanh, ĺa các tạo tác, sẽ rốt ráo như tướng hư không; nhưng cái tướng Không ấy cũng lại chẳng thể được! V́ lẽ nào vậy? Như chỗ không có sắc trong thế gian được gọi là hư không tướng. Sắc là pháp tạo tác, vô thường. Nếu sắc chưa sanh th́ “sắc chưa sanh” chính là chẳng diệt. Lúc bấy giờ, chẳng có tướng hư không. Do sắc mà có Vô Sắc Xứ. Vô Sắc Xứ được gọi là Không, phẩm Quán Lục Chủng của Trung Luận đă nói cặn kẽ. Ở đây, cũng có ư nghĩa như thế. Nếu sắc vốn chẳng sanh, v́ sao gọi là Vô Sắc Xứ? Vô Sắc Xứ chẳng thể nói, tức là hư không chẳng có tướng nhất định. Lại nữa, các pháp như tướng hư không, tức là Niết Bàn chẳng có tướng hư dối, như kinh nói “Ngũ Ấm diệt, sẽ chẳng sanh ǵ khác”. Ngũ Ấm chính là nghĩa Niết Bàn. Nếu Ngũ Ấm vốn bất sanh, nay có chỗ nào diệt mà gọi là Niết Bàn ư? V́ thế, “như tướng hư không” cũng chẳng thể được. Đó là ư nghĩa chân thật của môn chữ Khư.

 

          (Kinh) Nga tự môn, nhất thiết chư pháp, nhất thiết hành bất khả đắc cố.

          ()哦字門一切諸法一切行不可得故

          (Kinh: Môn chữ Nga (, Ga), do hết thảy các pháp và hết thảy hành đều chẳng thể được).

 

          Tiếng Phạn là Nga Đá Dă (Gataya), được gọi là Hành. Hành có nghĩa “đi, đến, tiến, lùi, chẳng trụ”. Nay từ môn chữ A để xoay vần giải thích. Do các pháp vốn chẳng sanh, nên vô tác. Do vô tác, nên chẳng có ǵ đối đăi để có thể nói là Không. Không tức là Bất Hành Xứ. Bất Hành Xứ c̣n chẳng thể được, huống hồ Hành Xứ ư? Phẩm Quán Khứ Lai của Trung Luận đă nói về ư nghĩa của Hành và Chỉ. Do liên tục nên gọi là Hành. Như từ hạt thóc sanh ra mầm, thân, lá, và vô minh duyên các hành v.v… Do đoạn nên gọi là Chỉ, như hạt thóc diệt nên mầm, thân, diệt. Do vô minh diệt, nên các hành v.v… diệt. Nếu pháp đă hành, sẽ là vô hành. Do đă hành, nên cái chưa hành cũng sẽ là vô hành. Do chưa có hành pháp, hành thời (lúc thực hiện) cũng là vô hành, do chẳng ĺa đă hành và chưa hành. Do các thứ môn quán sát như thế rốt ráo vô hành. Do vô hành nên chẳng có cái để chỉ. Do vô hành, vô chỉ, nên chẳng qua lại các đường, mà cũng chẳng trụ Niết Bàn. Lại nữa, nếu người chẳng ĺa chỗ ḿnh đang ở th́ chính là không có chỗ đến. Hăy nên biết người ấy chẳng hành, chẳng đến. V́ thế nói “hết thảy các hành đều chẳng thể được”.

 

          (Kinh) Già tự môn, nhất thiết chư pháp nhất hợp bất khả đắc cố.

          ()伽字門一切諸法一合不可得故

          (Kinh: Môn chữ Già (, Gha), hết thảy các pháp hợp nhất chẳng thể được).

 

           Già Na (Ghaṇa) trong tiếng Phạn có nghĩa là “mật hợp” (ngầm kết hợp). Như các thứ tướng nhỏ nhiệm hợp thành một tế trần, các Uẩn kết hợp thành một thân v.v… Trong phẩm Quán Hợp của Trung Luận, các luận sư đă nói: “Do ba sữ là Thấy, cái có thể thấy, và người thấy, mà có cái được thấy. Hăy nên biết cái hợp lại để nghe, cái có thể nghe, và người nghe, cho đến nhiễm, cái có thể nhiễm, và người nhiễm v.v… Các phiền năo cũng thế”. Đáp rằng: Phàm mọi vật đều do khác nhau mà có hợp, nhưng nay tướng khác biệt của hết thảy các pháp chẳng thể được. Do vậy, chẳng hợp. Như luận ấy (Trung Luận) đă nói rộng. Dùng tự môn để xoay vần giải thích, lại dùng nghĩa Hành để giảng giải. Phàm có cái được hành, hăy nên biết ắt có hành, cái có thể hành, và người hành, ba sự kết hợp. Nay do hết thảy các pháp vốn bất sanh, sẽ không có cái được hành. Nếu không có cái được hành, th́ hành, có thể hành, và người hành sao có thể hợp lại cho được? Lại nữa, nếu các pháp mỗi mỗi đều có tướng khác, rốt cuộc sẽ chẳng có lúc kết hợp. Nếu đạt tới ngằn mé “vốn bất sanh”, th́ “không có tướng khác” cũng chẳng thể hợp được. V́ thế, hết thảy các pháp rốt ráo chẳng hợp.

 

          (Kinh) Giá tự môn, nhất thiết chư pháp ly nhất thiết thiên biến cố.

          ()遮字門一切諸法離一切遷變故。

          (Kinh: Môn chữ Giá (, Ca), hết thảy các pháp ĺa hết thảy đổi dời).

 

          Giá Dữu Để (Cyuti) trong tiếng Phạn có nghĩa là “đổi dời”. Hơn nữa, Giá Rị Da trong tiếng Phạn nghĩa là “các hành”. Như khi thấy chữ Giá, liền biết các hành biến đổi chẳng trụ. Phẩm Quán Hành trong Trung Luận đă viết: “Các hành gọi là Ngũ Ấm, do từ các hành mà sanh. Ngũ Ấm ấy đều là hư vọng, chẳng có tướng nhất định. Như sắc tướng từ trẻ nít cho đến sắc tướng khi lăo niên, trong khoảng ấy, chẳng trụ trong mỗi niệm. Phân biệt quyết định tánh chẳng thể được. Tánh là quyết định có, chẳng thể biến đổi khác. Như vàng ṛng bất biến. Nay các pháp tuy sanh, chẳng trụ trong tự tánh. V́ thế, hăy nên biết là vô tánh”, như trong luận ấy đă nói cặn kẽ. Nếu vô tánh tức là thoạt đầu vốn chẳng sanh, th́ “vốn thoạt đầu chẳng sanh” tức là thân Như Lai, thường hằng an trụ, chẳng có thay đổi. V́ thế nói là “ly thiên biến” (ĺa đổi dời). Lại nữa, nếu hết thảy các pháp do ḥa hợp mà thành th́ sẽ có đổi dời. Nay các pháp vô sanh, vô tác, cho đến vô sở hành, cho nên chẳng có ḥa hợp. Do chẳng có ḥa hợp, nên ĺa hết thảy đổi dời. Phàm các tự môn sẽ đều nghịch thuận xoay vần giải thích lẫn nhau, chẳng vướng mắc. Nay chỉ dựa theo thứ tự nối tiếp nhau [để giải thích] đó thôi!

 

          (Kinh) Xa tự môn, nhất thiết chư pháp ảnh tượng bất khả đắc.

          ()車字門一切諸法影像不可得

    (Kinh: Môn chữ Xa (, Cha), h́nh ảnh của hết thảy các pháp chẳng thể được).

 

          Tiếng Phạn, Xa Dă (Chāyā) có nghĩa là “ảnh”. Như bóng người đều nương vào tự thân. Cũng thế, vạn pháp trong tam giới chỉ là do thức tâm nhân duyên biến hiện, giống như các cảnh, chuyện này như kinh Mật Nghiêm đă rộng nói. Cho đến người tu Du Già có đủ loại chuyện chẳng thể nghĩ bàn, hoặc có thể diện kiến mười phương chư Phật, hiện trọn khắp sắc thân, cũng đều là bóng dáng của cái tâm. Do tâm vốn bất sanh, hăy nên biết h́nh bóng cũng chẳng được sanh. Do chẳng được sanh, cho đến do tâm chẳng đổi dời, h́nh bóng cũng chẳng đổi dời. V́ lẽ nào vậy? Như h́nh bóng không có tánh nhất định mà “đi, ngừng” theo thân; h́nh bóng của cái tâm cũng thế. Do tâm động tác, hư luận, không có niệm nào ngưng trụ, muôn công dụng trong thế gian cũng lại lưu chuyển theo. Nếu lúc hiểu rơ tướng như thật của cái tâm, h́nh bóng cũng là tướng như thật, cho nên chẳng thể được!

         

          (Kinh) Nhạ tự môn, nhất thiết chư pháp sanh bất khả đắc cố.

          ()惹字門一切諸法生不可得故。

          (Kinh: Môn chữ Nhạ (, Ja), hết thảy các pháp sanh chẳng thể được).

 

          Nhạ Đá (Jāta) trong tiếng Phạn cũng có nghĩa là Sanh. Như do đất sét, bàn xoay, dây, thợ gốm v.v… ḥa hợp, nên mới sanh ra cái b́nh. Do sợi tơ, khung dệt, thợ dệt v.v… ḥa hợp mới sanh ra tấm vải. Do cuộc đất, nền đắp, kèo, rường, bùn, cỏ, sức người v.v… ḥa hợp mới sanh ra nhà. Do lạc, đồ đựng lạc, công người khuấy đảo v.v… ḥa hợp nên mới sanh ra tô. Do hạt giống, đất, nước, lửa, gió, hư không, thời tiết v.v… ḥa hợp mới sanh ra mầm. Nhân duyên của nội pháp cũng giống như thế. Do vô minh, hành v.v… mỗi thứ đều sanh, cho nên lại sanh. V́ thế, nếu thấy môn chữ Nhạ, liền biết hết thảy các pháp không ǵ chẳng sanh từ duyên. Như kệ đă nói: “Pháp sanh bởi nhân duyên, chính là vô tự tánh. Nếu là vô tự tánh, sao lại có pháp ấy?” Do đó, sanh chẳng thể được! Luận sư ngoại đạo nói đủ thứ tà nhân duyên hoặc vô nhân duyên sanh ra hết thảy các pháp. Trong Phật pháp, cũng có người do đánh mất phương tiện Bát Nhă, nên chấp trước tướng sanh diệt nơi nhân duyên, như Trung Luận đă đả phá cặn kẽ. Lại nữa, môn chữ A là các pháp bổn tánh chẳng sanh, môn chữ Nhạ dùng mười thí dụ để quán “sanh tuy từ duyên mà có, nhưng chẳng thể được!” Nếu sanh đă là rốt ráo chẳng thể được, sẽ chẳng khác với vô sanh tế. Lại nữa, mười thí dụ chính là h́nh bóng của tâm, chẳng ra ngoài pháp giới. V́ thế, Sanh cũng chẳng ra ngoài Vô Sanh Tế.

 

          (Kinh) Xă tự môn, nhất thiết chư pháp chiến địch bất khả đắc cố.    

          ()社字門一切諸法戰敵不可得故

          (Kinh: Môn chữ Xă (, Jha), sự chống trái nhau của hết thảy các pháp đều chẳng thể được).         

 

          Trong tiếng Phạn, Xă Ma La (Jhamala) có nghĩa là “đối địch”. Nếu thấy chữ Xă, liền biết hết thảy các pháp đều có đối địch, như pháp thiện và bất thiện trong thế gian, pháp trái nghịch ḍng sanh tử và pháp xuôi theo ḍng sanh tử, bố thí và keo tham, tŕ giới cho đến trí huệ, vô minh v.v… đều là đối đăi, thắng, bại, vô thường. Cho đến Như Lai xuất thế, dùng sức Nhất Thiết Trí phá lũ quân ma, cũng gọi là Chiến. Nhưng trong hết thảy các pháp, nghĩa ấy chẳng thành, trí huệ và phiền năo rốt cuộc thuộc về ai, mà nói Tỳ Bà Xá Na (Vipassanā) có thể phá phiền năo? Nếu nói “khi sáng sanh th́ tối diệt”, th́ gọi là phá. Vậy th́ do đă sanh nên phá? Hay do chưa sanh mà phá ư? Đă sanh th́ chẳng c̣n tối, c̣n phá chỗ nào? Chưa sanh th́ tự chẳng có cái Thể, sao có thể phá cho được? Nếu lúc sanh, th́ gọi là nửa đă sanh, nửa chưa sanh. V́ thế nói “sáng, tối rốt ráo chẳng đạt được”. Lại nữa, hết thảy các pháp vốn bất sanh, cho đến do chẳng có h́nh bóng, sẽ cùng là một tướng, chẳng vượt ngoài Như. Vậy th́ Phật giới Như chiến đấu với ma giới Như ra sao? Do vậy, khi đức Phật ngồi đạo tràng, chỉ biết rơ “các pháp không có đối đăi”, nhưng thế gian bàn luận, tự lập ra danh xưng “chiến thắng” đó thôi!

 

          (Kinh) Trá tự môn, nhất thiết chư pháp, mạn bất khả đắc cố.

          ()吒字門一切諸法慢不可得故

          (Kinh: Môn chữ Trá (, Ṭa), trong hết thảy các pháp, mạn chẳng thể được).

 

          Trong tiếng Phạn, Trá Ca Ra có nghĩa là Mạn, tức là thấy pháp kia thấp hèn, pháp này cao thắng. Như trong tam giới, sáu đường đủ loại hơn kém khác nhau, dấy khởi mạn tâm vô lượng sai biệt. Nói đại lược, có bảy loại tướng[24], như trong Tỳ Đàm (A Tỳ Đạt Ma) đă nói rộng. Cho tới người cầu tam thừa, vẫn có kiến chấp thượng địa, hạ địa chẳng b́nh đẳng, nay quán các pháp vô sanh, cho đến chẳng có đối đăi, liền biết A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề là pháp b́nh đẳng, chẳng có cao, thấp. V́ thế, Như Lai c̣n được gọi là Nhất Thiết Kim Cang Bồ Tát, cũng gọi là Tứ Quả Thánh Nhân, cũng gọi là phàm phu ngoại đạo, cũng gọi là chúng sanh trong các thứ đường ác, cũng gọi là kẻ ngũ nghịch tà kiến. Đại Bi Mạn-đồ-la nhằm biểu thị ư nghĩa này!

 

          (Kinh) Trá tự môn, nhất thiết chư pháp trưởng dưỡng bất khả đắc cố.

          ()咤字門一切諸法長養不可得故。

          (Kinh: Môn chữ Trá (, Ṭha), hết thảy các pháp trưởng dưỡng chẳng thể được).

 

           Trong tiếng Phạn, Tỳ Trá Bát Na (Viṭhapana) có nghĩa là trưởng dưỡng. Như trong thế gian, chủng tử (hạt giống) làm nhân, năm đại và thời tiết làm duyên, lần lượt tăng trưởng thành quả hạt. Nội pháp cũng thế, trong ruộng nghiệp gieo xuống chủng tử, bị vô minh che phủ, nước ái nhuần thấm mà được sum suê, như trong kinh Đạo Can đă rộng nói. Nay trong kinh này, tám tâm liên tục tăng trưởng trái nghịch hay thuận tùng thế gian cũng có nhân duyên, cho đến Bồ Đề tâm thanh tịnh dùng năm tự môn (A, Phạ, Ra, Ha, Khư) để làm duyên, sanh ra rễ đại bi. Cây sa-la của Phật tăng trưởng, che rợp khắp pháp giới. Nhưng hết thảy các pháp do năm tự môn ấy vốn bất sanh, ĺa ngôn thuyết, tự tánh tịnh, chẳng có nhân duyên, như tướng hư không, chẳng thể trưởng dưỡng được. Lại nữa, từ chữ A, Ca trở đi, lần lượt giải thích, cho đến các pháp rốt ráo b́nh đẳng, chẳng có cao, thấp. Do chẳng có cao, thấp, hăy nên biết tức là chẳng có tăng trưởng!

 

          (Kinh) Noa tự môn, nhất thiết chư pháp, oán đối bất khả đắc cố.

          ()拏字門一切諸法怨對不可得故。

          (Kinh: Môn chữ Noa (, Ḍa), hết thảy các pháp, oán đối chẳng thể được).

 

          Trong tiếng Phạn, nói Noa Ma Ra (Ḍamara) th́ có nghĩa là “oán đối”. Như thế gian cừu thù báo oán lẫn nhau; v́ thế gọi là Đối. Hơn nữa, trong phần trước nói “chiến địch” tức là đôi bên công kích lẫn nhau, c̣n “oán đối” ở đây hàm nghĩa “tỵ cừu” (tránh né cừu thù), trong tiếng Phạn mỗi danh từ khác nhau. Trong Tỳ Ni, đức Phật dạy “dùng oán để báo oán, oán trọn chẳng dứt”, chỉ có vô oán th́ oán mới dứt bặt. Lại nói nữ nhân là oán đối của người hành Phạm hạnh. Kinh Vô Lượng Nghĩa cũng nói “sanh tử oán địch tự nhiên tan hoại”. Chứng Vô Sanh Nhẫn là một nửa của báu nơi cơi Phật. V́ thế, hành giả khi thấy môn chữ Noa, sẽ biết hết thảy các pháp đều có oán đối, gọi là biết rơ “tự tướng” (tướng trạng của chữ). Lại do các pháp vốn bất sanh, cho tới chẳng thể trưởng dưỡng. V́ thế, Như Lai rốt ráo chẳng có oán đối; đó chính là nghĩa chân thật của tự môn.

 

          (Kinh) Đồ tự môn, nhất thiết chư pháp chấp tŕ bất khả đắc cố.

          ()荼字門一切諸法執持不可得故。

          (Kinh: Môn chữ Đồ (, Ḍha), hết thảy các pháp chấp tŕ chẳng thể được).

 

          Trong tiếng Phạn, Đường Ca (Ḍhaṅka) nghĩa là “chấp tŕ”. Do trên chữ Đồ (ha), thêm một chấm, sẽ chuyển âm đọc thành Đường, nhưng Thể của nó tương đồng. Lại nói Nghiệt Rị Hà (Graha) cũng là tên gọi khác của chữ này. Kinh nói bị quỷ mị dựa, hoặc bị phi nhân nắm giữ, Trí Độ Luận nói Trước Tương (著襄, dựa dẫm quấy phá), đều do quỷ Nghiệt Rị Hà gây ra. Lại [do quỷ] dựa vào người sẽ chẳng ĺa bỏ, nên đặt tên như thế. Mặt trời, mặt trăng, năm tinh tú, [cùng với Kế Đô và La Hầu] cũng là từ đầu đến cuối nương theo nhau, tiếng Phạn gọi là Nghiệt Rị Hà, dịch nghĩa là Cửu Chấp (九執). Khi chúng tụ hội một chỗ, lịch Thiên Trúc gọi lúc ấy là Chánh Trước Thời (正著時). Nghĩa “chấp tŕ” ấy khác với chữ Đà La (Dhara). Thấy môn chữ Đồ này, liền biết hết thảy chúng sanh từ vô thỉ tới nay, bị bốn ma[25] dựa, chẳng thể ĺa bỏ; đó là tướng danh tự. Nay dùng các môn như chữ A v.v… để xoay vần mà quán “hết thảy các pháp đều chẳng thể được”, sẽ biết hết thảy các pháp chẳng có oán đối. Do oán đối vốn chẳng sanh, trọn chẳng do pháp giới b́nh đẳng mà chấp trước pháp giới b́nh đẳng. V́ thế nói “hết thảy các pháp, chấp tŕ đều chẳng thể được”!

         

          (Kinh) Đa tự môn, nhất thiết chư pháp như như bất khả đắc cố.

          ()多字門一切諸法如如不可得故。

          (Kinh: Môn chữ Đa (, Ta), hết thảy các pháp như như chẳng thể được).

 

          Trong tiếng Phạn, Đá Tha Đa (Tathātā) có nghĩa là Như Như. Xét theo ngữ điệu th́ kèm thêm cả ư “đắc”. Chứng đắc Như Như chính là ư nghĩa giải thoát. Như” là Thật Tướng của các pháp; các thứ hư luận, kiến chấp chẳng thật đều diệt, thường như bổn tánh chẳng thể phá hoại. Nếu thấy môn chữ Đa, liền biết hết thảy các pháp đều là tướng Như Như. Đó là tướng trạng của chữ [Đa]. Nhưng có một loại ngoại đạo chấp trước “có tánh Như Như”, nếu thấy biết điều ấy th́ gọi là “giải thoát”. Tuy nói như thế, chỉ là chuyển sang gọi Ngă Kiến bằng một danh xưng khác. Ngài Long Thọ cho rằng “pháp trụ” được nói trong kinh Thanh Văn cũng là nghĩa Như Như của các pháp. Do sở nhập chưa sâu, mà họ (các vị Thanh Văn) sanh ư tưởng diệt độ, ngỡ là đă chứng Niết Bàn. Nhưng sanh tử và Niết Bàn là pháp đối đăi; nếu biết sanh tử từ cội gốc đă thường là như tướng Niết Bàn, há c̣n đối ứng với ǵ để nói là Niết Bàn được nữa? Do vậy, hết thảy các pháp rốt ráo chẳng thật, chẳng hư, chẳng như, chẳng khác. Trung Luận cũng nói: “Thật Tế Niết Bàn và thế gian tế, hai tế như thế chẳng khác mảy may”. Do chẳng sai biệt, hết thảy các pháp chẳng có oán đối. Do chẳng có oán đối, nên chẳng chấp tŕ. Do chẳng chấp tŕ nên cũng là chẳng có Như Như giải thoát.

 

          (Kinh) Tha tự môn, nhất thiết chư pháp trụ xứ bất khả đắc cố.

          ()他字門一切諸法住處不可得故

          (Kinh: Môn chữ Tha (, Tha), trụ xứ của hết thảy các pháp chẳng thể được).

 

          Trong tiếng Phạn, Tát Tha Na (Sthāna) nghĩa là “trụ xứ”, cũng có nghĩa là Trụ. Như người từ trụ xứ này dời sang chỗ khác, th́ chỗ ở đó cũng được gọi là Trụ. Các địa vị thánh hiền cũng như thế; xét theo chỗ nương tựa, an trụ trong tâm tích (dấu tích nơi tâm) của những người hành đạo mà nói đủ loại danh xưng. Nếu khi thấy chữ Tha, liền biết hết thảy các pháp không ǵ chẳng đợi duyên mà thành, hăy nên biết chúng đều có chỗ y trụ. Đó là tướng trạng của chữ này. Nhưng các pháp vốn bất sanh, cho tới Như Như giải thoát cũng chẳng thể được, nên chẳng đến, chẳng đi, chẳng hành, chẳng trụ. Trong tướng tịch diệt như thế, há có địa vị theo thứ lớp hay chăng? Lại nữa, khi nhập môn chữ Tha, do biết rơ các pháp đều là không, chẳng trụ trong sanh tử, tức là do Như Như cũng chẳng thể được, sẽ chẳng trụ trong Niết Bàn. Lúc bấy giờ, hành xứ dứt bặt, các địa vị đều hết, trọn khắp hết thảy mọi nơi đích xác là chẳng có chỗ nương tựa. Đó gọi là do chẳng trụ trong pháp mà trụ trong đại trụ của Như Lai.

 

          (Kinh) Na tự môn, nhất thiết chư pháp thí bất khả đắc cố.

          ()娜字門一切諸法施不可得故。

          (Kinh: Môn chữ Na (, Da)[26], trong hết thảy các pháp, Thí chẳng thể được).

 

          Trong tiếng Phạn, Đàn Na (Dāna) nghĩa là “xả thí”. Nếu thấy chữ Na, liền biết hết thảy các pháp đều là tướng có thể xả. V́ lẽ nào vậy? Do hết thảy các pháp tan ĺa hay kết hợp đều do duyên, chẳng hề tồn tại chắc chắn. Nếu chấp trước, sanh yêu mến nơi đó, ắt sẽ bị thiêu đốt. Cho đến các vị Bồ Tát thuộc Thập Địa, do công đức tịnh diệu sanh từ địa vị của chính ḿnh chưa đạt tới “xả bờ kia”, vẫn c̣n có thoái thất chẳng thể nghĩ bàn, chẳng được gọi là Đệ Nhất An Lạc Xứ. Nay do quán các pháp bất sanh, người thí, chỗ thí và vật để thí thảy đều vốn bất sanh, cho tới hết thảy các pháp chẳng có trụ xứ. Do chẳng có trụ xứ, tức là ba chuyện ấy cũng chẳng có trụ xứ. V́ thế, đức Phật ngồi đạo tràng đều chẳng có ǵ để có thể đạt được, mà cũng chẳng có ǵ để xả. Trong Hư Không Tạng, chẳng có ǵ chất chứa, nhưng phổ môn lưu xuất thí trọn khắp quần sanh. Đó gọi là Thật Tướng của Đàn (bố thí), mà cũng gọi là “trọn đủ Đàn Ba La Mật”. Lại nữa, tạng báu bí mật của Như Lai đều là pháp vốn sẵn như thế, đó gọi là “chẳng thể truyền trao cho người khác”. Nếu lúc thí cho người khác, vẫn là từ trong tâm thất của chúng sanh mà khơi mở đó thôi! V́ thế, kinh dạy: “Nhất thiết chư pháp, thí bất khả đắc, danh vi tự môn chân thật nghĩa” (Hết thảy các pháp thí chẳng thể được, gọi là nghĩa chân thật của tự môn).

 

          (Kinh) Đà tự môn, nhất thiết chư pháp, pháp giới bất khả đắc cố.

          ()馱字門一切諸法法界不可得。

          (Kinh: Môn chữ Đà (, Dha), trong hết thảy các pháp, pháp giới chẳng thể được).

         

          Trong tiếng Phạn, Đạt Ma Đà Đô (Dharmadhātu) là pháp giới. Giới có nghĩa là Thể, là Phần. Xá-lợi của Phật cũng gọi là Như Lai Đà Đô, ư nói là thân phần của Như Lai. Nếu thấy môn chữ Đà, sẽ biết hết thảy các pháp thảy đều có Thể, tức là dùng pháp giới làm Thể. V́ lẽ nào vậy? Nếu ĺa Thật Tướng của các pháp, th́ ư nghĩa “Thể của hết thảy các pháp” đều chẳng thành. Pháp giới chính là tâm giới. Do tâm giới vốn bất sanh, hăy nên biết pháp giới cũng vốn bất sanh. Cho đến do tâm giới chẳng đắc, chẳng xả, hăy nên biết pháp giới cũng chẳng đắc, chẳng xả. Xả c̣n tự không có, chẳng có pháp để có thể xả, huống hồ có thể đắc ư? Nếu pháp giới là tướng có thể đạt được, tức là từ các nhân duyên mà sanh. Nếu sanh từ các nhân duyên, hăy nên biết tự nó chẳng có bản thể, huống hồ là Thể của các pháp ư? V́ thế, pháp giới chỉ là tự chứng thường tâm, chẳng có pháp nào khác. Lại nữa, Như Lai đại thí chính là Đại Bi Mạn-đồ-la. Pháp giới chính là phổ môn Thật Tướng. Thật Tướng như thế chẳng thể dùng thần lực gia tŕ để dạy người khác. V́ thế, không có pháp để có thể đạt được!

 

          (Kinh) Ba tự môn, nhất thiết chư pháp Đệ Nhất Nghĩa Đế bất khả đắc cố.

          ()波字門一切諸法第一義諦不可得故

          (Kinh: Môn chữ Ba (, Pa), Đệ Nhất Nghĩa Đế trong hết thảy các pháp chẳng thể đạt được).

         

          Trong tiếng Phạn, Ba La Ma Tha (Paramārtha) dịch thành Đệ Nhất Nghĩa, hoặc là Thắng Nghĩa. Tát Để Dă (Satya) được dịch thành Đế. Ư nghĩa của Đế được nói trong môn chữ Sa. Nay trong môn chữ Ba này, chủ yếu nói về tướng của Đệ Nhất Nghĩa. Ngài Long Thọ nói: “Đệ Nhất Nghĩa là Thật Tướng của các pháp, do chẳng phá, chẳng hoại”. Lại nữa, bậc nhất trong các pháp là Niết Bàn, như A Tỳ Đàm nói: “Thế nào là pháp vô thượng? Chính là trí duyên đă hết”. Trí duyên đă hết chính là Niết Bàn. Nếu thấy chữ Ba, sẽ biết hết thảy các pháp chẳng ĺa Đệ Nhất Nghĩa, Đệ Nhất Nghĩa chẳng ĺa Thật Tướng của các pháp. Đó là tướng của chữ này. Nếu xét theo nghĩa chân thật của tự môn th́ Đệ Nhất Nghĩa cũng chẳng thể được. V́ lẽ nào vậy? Do chẳng yêu mến, chẳng đắm chấp. Trí Độ Luận lại nói: “Do chúng sanh chấp trước âm thanh Niết Bàn, mà tạo thành hư luận, hoặc có, hoặc không. Do phá chấp trước, bèn nói Niết Bàn là không, gọi là Đệ Nhất Nghĩa Không. Chẳng phá pháp đạt được trong tâm thánh nhân, do thánh nhân đối với hết thảy các pháp đều chẳng chấp tướng”. Lại nữa, hết thảy các pháp đều nhập pháp giới b́nh đẳng, chẳng có cao, thấp, há có nên khiến cho trong pháp vô sanh có tướng hơn kém ư? V́ vậy, Đệ Nhất Nghĩa Đế chẳng thể được!         

         

          (Kinh) Phả tự môn, nhất thiết chư pháp bất kiên như tụ mạt cố.

          ()頗字門一切諸法不堅如聚沫故

          (Kinh: Môn chữ Phả (, Pha), hết thảy các pháp chẳng cứng chắc như bọt nước).

 

          Phái Nô (Phena) trong tiếng Phạn được dịch thành Tụ Mạt (聚沫, bọt nước đọng). Như sóng ṃi nơi chỗ nước lớn va đụng nhau mà tạo thành bọt nước, có đủ loại tướng sanh, thậm chí kết nối với nhau bèn có tướng kiên cố. Nhưng mỗi mỗi quán sát từ thô tới tế, chỉ là từ duyên lại từ duyên, chẳng thể nắm bắt, sờ chạm, đều chẳng có thật tánh. Xét đến bản chất, toàn thể đều là nước, chẳng có ǵ được sanh ra. Các thứ Ngũ Ấm trong thế gian hiện thời cũng đều là như thế. Nay “gom ngọn về gốc, bỏ trượng theo thước” để quán sát, thậm chí như trong khoảng mảy may mà có dao động vi tế, sẽ đều lần lượt từ duyên. Nếu là từ các duyên mà sanh, sẽ chẳng có tự tánh. Nếu chẳng có tự tánh, hăy nên biết sanh chính là chẳng sanh. C̣n như đạt tới bổn bất sanh tế, chỉ là biển tâm tánh đó thôi! Nhưng thuận theo t́nh kiến hư vọng trong sáu đường, bèn có tên gọi “thế giới”. Biển tâm tánh chính là pháp giới, pháp giới chính là thắng nghĩa Niết Bàn. Khi nếu có thể thấy như thế, dẫu sóng to vây bủa, tạo thành đủ loại sắc thân hiện trọn khắp, vẫn chẳng hoại tánh trong lặng!

 

          (Kinh) Ma tự môn, nhất thiết chư pháp phược bất khả đắc cố.

          ()麼字門一切諸法縛不可得故

          (Kinh: Môn chữ Ma (, Ba)[27], trong hết thảy các pháp, trói chẳng thể được).

 

          Măn Đà (Bandha) trong tiếng Phạn được cơi này dịch là Phược (trói buộc). Như người bị dây thừng thô to bó chặt, chẳng thể cử động, đó là nghĩa “trói buộc”. Nếu lúc dùng phương tiện để tháo gỡ sự trói buộc ấy, th́ gọi là giải thoát. Nếu ĺa khỏi dây trói nơi thân, chẳng có pháp nào khác để trói buộc hay cởi gỡ. Như Thiên Đế Thích dùng vi tế phược để trói A Tu La vương, đặt trên trời Đao Lợi. Khi [A Tu La vương] khởi niệm muốn trở về, th́ thân đă bị trói buộc năm chỗ; nếu dứt niệm th́ trói buộc tự tháo gỡ. Như lưới rập của Ba Tuần lại c̣n gấp trăm ngàn lần số ấy, huống hồ sự trói buộc vô vi bởi nghiệp phiền năo ư? Nói tóm lại, nếu ĺa các nhân duyên, chẳng đọa trong các pháp số, th́ gọi là “vô phược” (không trói buộc). Đó là ư nghĩa của chữ [Ma này]. Trung Luận nói: “Ĺa Ngũ Ấm mà riêng có chúng sanh, hăy nên dùng Ấm để trói chúng sanh, nhưng thật sự ĺa Ngũ Ấm, sẽ chẳng có chúng sanh. Nếu ĺa Ngũ Ấm mà riêng có phiền năo, hăy nên dùng phiền năo để trói Ngũ Ấm, nhưng thật sự ĺa Ngũ Ấm th́ chẳng có phiền năo nào khác! Do các thứ nhân duyên như thế, hăy nên biết là chẳng trói buộc. Chẳng trói buộc th́ chẳng cởi gỡ. Do chẳng có trói buộc hay cởi gỡ, nên Niết Bàn chính là sanh tử, sanh tử chính là Niết Bàn”. Như phẩm Quán Phược Giải [trong Trung Luận] đă nói cặn kẽ. Lại nữa, nếu các pháp vốn sẵn bất sanh, cho đến như bọt nước, trong ấy ai có thể cởi gỡ? Ai bị trói buộc? Do đó, các trói buộc đều chẳng thể được!

 

          (Kinh) Bà tự môn, nhất thiết chư pháp, nhất thiết hữu bất khả đắc cố.

          ()婆字門一切諸法一切有不可得故

          (Kinh: Môn chữ Bà (, Bha), hết thảy hữu trong hết thảy các pháp đều chẳng thể được).

 

          Bà Phạ (Bhava) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Hữu (có). Hữu là là tam hữu (tam giới) cho đến hai mươi lăm Hữu[28]. Nếu thấy chữ Bà, liền biết hết thảy các pháp thảy đều có nhân duyên. Do các duyên hợp lại, nên nói là Hữu, chẳng có tánh quyết định. V́ lẽ nào vậy? Nếu pháp nhất định có tướng Hữu, rốt cuộc chẳng phải là vô tướng, tức là thường. Như nói “tam thế” (ba đời), trong vị lai có pháp tướng, pháp ấy chuyển đến hiện tại, chuyển nhập quá khứ, chẳng xả bổn tướng, liền đọa vào Thường Kiến. Nếu nói chắc chắn là “chẳng có Hữu”, th́ Vô tức là “trước có mà nay không”, đó là Đoạn Diệt Kiến. Do bởi hai kiến ấy, xa ĺa Phật pháp! Như phần Phá Hữu Vô trong Trung Luận đă nói cặn kẽ. Nay quán các Hữu đều do duyên, tức là ư nghĩa “vốn bất sanh”. Do vốn bất sanh, nên chẳng tác, chẳng hành, cho đến chẳng trói buộc, chẳng giải thoát. V́ thế, môn chữ Bà do từ duyên mà có, trọn đủ hết thảy các tự môn. Nếu trọn đủ hết thảy các tự môn, tức là Tam Muội Vương tam-muội, có thể phá hai mươi lăm Hữu. Đức Thích Ca Mâu Ni do nghĩa ấy mà được gọi là Phá Hữu Pháp Vương.

         

          (Kinh) Dă tự môn, nhất thiết chư pháp, nhất thiết thừa bất khả đắc cố.

          ()野字門一切諸法一切乘不可得故

          (Kinh: Môn chữ Dă (, Ya), trong hết thảy các pháp, hết thảy thừa đều chẳng thể được).

 

          Diễn Na (Yāna) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Thừa, c̣n dịch là Đạo. Như người ngồi thuyền hay xe, ắt có thể hoàn thành chuyện đưa vật nặng đến được nơi xa. Nếu thấy môn chữ Dă, liền biết hết thảy chúng sanh do đủ mọi nhân duyên mà tiến hướng sanh tử quả báo và hướng đến Niết Bàn, ai nấy đều có “thừa” (phương tiện, đường lối, phương pháp) để nương vào, cũng biết vô lượng các thừa đều là Phật thừa. Đó là tướng của chữ này. Nay quán các pháp vốn bất sanh, tức là vô hành, vô trụ, bất động, bất thoái; trong ấy cái ǵ là Thừa? Sẽ vận dụng pháp nào vậy? Lại nữa, Thừa là từ tam hữu mà thoát ra, đạt tới Tát Bà Nhă, năm trăm do-tuần[29] không ǵ chẳng phải là thật xứ, muốn đi theo đường nào để đến chỗ nào vậy? V́ thế, hết thảy các thừa đều chẳng thể được, bèn gọi là đạo Ma Ha Diễn (Đại Thừa).

 

          (Kinh) Ra tự môn, nhất thiết chư pháp ly nhất thiết trần nhiễm cố.

          ()囉字門一切諸法離一切塵染故

          (Kinh: Môn chữ Ra (), hết thảy các pháp ĺa hết thảy trần nhiễm).

 

          La Thệ (Rajas) trong tiếng Phạn có nghĩa là “trần nhiễm”. Trần là hành xứ của t́nh kiến hư vọng. V́ thế nói cảnh tượng của sáu t́nh, tức mắt, tai v.v.. là sáu trần. Nếu thấy môn chữ Ra, sẽ biết hết thảy các pháp có thể “thấy, nghe, tiếp xúc, biết” đều là trần tướng, giống như cái áo sạch bị nhuốm bẩn bởi trần cấu, cũng như do bụi bay lăng xăng khiến cho thái hư mờ đục, nhật, nguyệt chẳng sáng. Đó là tướng của chữ Ra này. Trung Luận dùng đủ loại Môn Đế để cầu thấy pháp, chẳng có người thấy. Nếu chẳng có người thấy, ai có thể vận dụng pháp Thấy để phân biệt ngoại sắc, thấy cái có thể thấy ư? Do thấy pháp là không, bốn pháp Thức, Xúc, Thọ, Ái đều chẳng có. Do chẳng yêu mến, mười hai phần nhân duyên cũng chẳng có. V́ thế, khi mắt thấy sắc, chính là tướng Niết Bàn; các trần khác cũng phỏng theo đó [để luận định]. Lại nữa, dùng môn chữ A để lần lượt quán sát các trần, do nó vốn bất sanh, do chẳng có tạo tác, cho đến chẳng có pháp để nương vào và người nương vào, hăy nên biết pháp để có thể thấy, nghe, hay, biết đều là tịnh pháp giới. Há nên dùng tịnh pháp giới để nhuốm bẩn lục căn của Như Lai ư? Kinh Ương Quật Ma La có nói: Thường nhăn của Phật do trọn đủ vô diệt mà thấy rơ thường sắc, cho đến ư và pháp cũng như thế. Đó là nghĩa chân thật của môn chữ Ra.

         

          (Kinh) La tự môn, nhất thiết chư pháp nhất thiết tướng bất khả đắc cố.

          ()邏字門一切諸法一切相不可得故

    (Kinh: Môn chữ La (), hết thảy tướng của hết thảy các pháp đều chẳng thể được).

 

          La Cật Sái (Lakṣṇa) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Tướng. Có người nói: Tánh và tướng chẳng có phân biệt, như nói tánh của lửa chính là nhiệt tướng. Hoặc nói: Có đôi chút sai biệt, Tánh là nói về Thể, Tướng là nói về cái có thể biết. Như Thích Tử thọ tŕ giới cấm là tánh (giới tánh), cạo tóc, cắt may, nhuộm y là tướng. Nếu thấy môn chữ La, liền biết hết thảy các pháp thảy đều có tướng. Tướng lại có hai thứ:

          - Một là tổng tướng, tức là tướng vô thường, khổ, không, vô ngă.

          - Hai, biệt tướng, tức là các pháp tuy vô thường, vô ngă, mà mỗi mỗi đều có tướng, như đất cứng, nước ướt, lửa nóng, gió động v.v… Xả là tướng Thí. “Chẳng hối, chẳng năo” là tướng Tŕ Giới. Tâm chẳng đổi khác là tướng Nhẫn. Phát khởi siêng năng là tướng Tinh Tấn. Nhiếp tâm là tướng Thiền. Chẳng chấp trước là tướng Huệ. Có thể hoàn thành sự việc là tướng Phương Tiện. Tạo tác sanh tử là tướng thế gian. Chẳng tạo tác là tướng Niết Bàn v.v… Nay quán thể tánh của các pháp hữu vi và vô vi đều là Không, tướng ấy là tướng của điều ǵ vậy? Như trong phẩm Tam Tướng của Trung Luận và Thập Nhị Môn Luận đă đều nói rộng. Lại nữa, trong pháp giới thanh tịnh, đủ loại các tướng của một trăm sáu mươi tâm v.v… vốn chẳng sanh, nên chẳng tạo tác. Do chẳng tạo tác, cho đến rốt ráo vô trần. Do vô trần nên ĺa hết thảy các tướng. Do ĺa hết thảy các tướng, bèn gọi là “chư Phật tự chứng Tam Bồ Đề”.

 

          (Kinh) Phạ tự môn, nhất thiết chư pháp ngôn ngữ đạo đoạn cố.

          ()嚩字門一切諸法語言道斷故。

          (Kinh: Môn chữ Phạ (, Va), hết thảy các pháp ngôn ngữ dứt bặt).

 

          Phạ Kiếp Bả (Vākpā) trong tiếng Phạn chính là ngôn ngữ. Nếu lúc thấy chữ Phạ, liền biết hết thảy các pháp chẳng ĺa đất ngôn ngữ, do các pháp ấy không ǵ chẳng có nhân duyên! Nếu pháp vốn sẵn bất sanh, sẽ ĺa các nhân duyên. V́ thế, ngôn ngữ dứt bặt. Lại nữa, nếu pháp là “tướng làm” (tác tướng) th́ có thể tuyên nói. Không làm th́ ngôn ngữ dứt bặt. Nếu tướng hư không là hữu tướng th́ có thể tuyên nói, do các pháp như tướng hư không cũng lại là vô tướng. V́ thế, ngôn ngữ dứt bặt. Nếu pháp có hành, có đổi dời, có h́nh bóng, th́ sẽ có thể tuyên nói. Nếu vô hành, chẳng đổi dời, chẳng có h́nh bóng, ngôn ngữ sẽ dứt bặt! Cho đến nếu các pháp là có tướng th́ sẽ có thể tuyên nói, nay hết thảy các pháp ĺa hết thảy các tướng. V́ thế, chẳng thể biểu thị, chẳng thể trao cho người khác. Do đó, ngôn ngữ dứt bặt. Lại nữa, vô tướng cũng là không có tướng nhất định. Hăy nên biết hết thảy các pháp từ ngay nơi tướng mà vô tướng, tức chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng, như ba mắt chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế, ngôn ngữ dứt bặt. Các pháp môn khác cũng phỏng theo đây mà suy ra.

 

          (Kinh) Xa tự môn, nhất thiết chư pháp bổn tánh tịch cố.

          ()奢字門一切諸法本性寂故

           (Kinh: Môn chữ Xa (, Śa), do bổn tánh của hết thảy các pháp là tịch).

 

          Phiến Để (Śānti) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Tịch. Như phàm phu trong thế gian đạt được chút phần tâm đạm bạc, ngưng dứt ồn ào, náo động th́ cũng gọi là Tịch. Cho đến hàng Nhị Thừa vĩnh viễn đoạn các hành và luân hồi, chứng đắc Niết Bàn, cũng gọi là Tịch, nhưng chẳng phải là bổn tánh thường tịch. Do lẽ nào? Các pháp vốn sẵn là tướng thường tự tịch diệt, tam giới lục đạo có ǵ chẳng phải là Niết Bàn? Khi vô lậu trí sanh, lại có khác ǵ phàm phu? Nhưng nay riêng ở trong ấy, khởi ư tưởng diệt độ, há chẳng phải là điên đảo ư? Lại nữa, nếu bổn tánh của các pháp là tịch, trong bốn mươi hai địa vị (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác), có ǵ chẳng phải là địa vị Như Lai? Có ǵ chẳng phải là địa vị phàm phu? Như Di Lặc Bồ Tát do bổn tánh tịch mà được thọ kư Nhất Sanh Bổ Xứ, hết thảy chúng sanh cũng đều nên được thọ kư! Nếu hết thảy chúng sanh ở trong bổn tánh tịch, chẳng ngại tu học chuyện của phàm phu, Di Lặc Bồ Tát cũng nên tu học chuyện của phàm phu! Mà nay khởi ư tưởng sai biệt, há chẳng phải là hư luận ư? Nếu lúc nhập môn chữ Xa, sẽ biết là pháp b́nh đẳng, chẳng có cao hay thấp, thường chẳng động, mà không ǵ chẳng làm! Cho nên nói: “Trong giải thoát, dung nạp nhiều thứ, Đại Bát Niết Bàn có thể kiến lập đại nghĩa”, đều do điều này!

 

          (Kinh) Sa tự môn, nhất thiết chư pháp tánh độn cố.

          ()沙字門一切諸法性鈍故。

    (Kinh: Môn chữ Sa (, Ṣa), hết thảy các pháp tánh độn).

 

          Nếu xét theo từ gốc trong bản tiếng Phạn, phải nên nói là “tánh đồng ư ngoan” (tánh giống như vật trơ trơ). “Ngoan” (,trơ trơ) có nghĩa là giống như gỗ, đá chẳng hay biết, không cảm xúc. Nói “đồng” là nói theo thí dụ, chẳng phải là một mực giống như thế. Kinh Đại Phẩm c̣n nói: “Bát Nhă vô tri, tự tánh độn cố” (Bát Nhă vô tri, do tự tánh độn). V́ thế, người nhuận sắc kinh văn đă giữ từ ngữ trong kiểu dịch theo lối cổ. Phàm [cho rằng] tự tánh là độn, tức là tâm cực vô phân biệt, chẳng ngu, chẳng trí, chẳng huệ, chẳng biết, chẳng trí, chẳng hư vọng, chẳng giác, cho đến hết thảy các pháp chẳng thể dao động, chỉ là một cuộc đất thuần Kim Cang kiên cố. V́ sao vậy? Như người thế gian do lấy bỏ chẳng quên, cho nên chuộng trí huệ mà vứt bỏ ngu si, đề cao Niết Bàn, coi rẻ sanh tử, nhưng nay đă nhất loạt là “vốn bất sanh”, cho đến nhất loạt “bổn tánh tịch”, vậy th́ ai là lợi, ai là độn? Như lưỡi dao Kim Cang sắc bén kia, do đối ứng với vật chẳng cứng chắc, chỉ dùng một bề, nên gọi là “lợi” (sắc bén). Nếu khiến cho chỗ hướng về đều là Kim Cang, toàn thể đều viên, chẳng sử dụng lệch lạc, th́ lợi cũng sẽ quy vào độn giống như vậy.

 

          (Kinh) Sa tự môn, nhất thiết chư pháp nhất thiết Đế bất khả đắc cố.

          ()娑字門一切諸法一切諦不可得故

           (Kinh: Môn chữ Sa (), hết thảy các Đế trong hết thảy các pháp chẳng thể được).

 

          Tát Đá Dă (Satya) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Đế. “Đế” là hiểu rơ chân tướng của các pháp đúng như thật, biết không điên đảo, không sai lầm. Như nói: “Mặt trời có thể lạnh, mặt trăng có thể nóng, chứ Khổ Đế do đức Phật đă nói chẳng thể đổi khác được!” Tập đúng là nhân, trọn chẳng có cái nhân nào khác. Nhân diệt th́ quả bèn diệt. Đạo diệt Khổ chính là chân đạo, trọn chẳng có đạo nào khác. Lại nữa, kinh Niết Bàn dạy: “Giải khổ vô khổ, thị cố vô khổ nhi hữu chân đế, dư tam diệc nhĩ” (Hiểu là khổ chẳng có khổ. Do đó, không khổ mà có Chân Đế, ba thứ kia cũng thế). Cho đến phân biệt Tứ Đế có vô lượng tướng và Nhất Thật Đế, như trong phẩm Thánh Hạnh đă nói. Đó là tướng của tự môn. Nhưng hết thảy các pháp vốn chẳng sanh, cho đến v́ rốt ráo vô tướng mà ngôn ngữ dứt bặt, do bổn tánh là tịch, tự tánh là độn. Hăy nên biết vô kiến, vô đoạn, vô chứng, vô tu. “Kiến, đoạn, chứng, tu” như thế đều là pháp giới chẳng nghĩ bàn, vừa là Không, vừa là Giả, vừa là Trung, chẳng thật, chẳng vọng, chẳng có tướng nhất định để có thể chỉ bày. V́ thế nói “Đế chẳng thể được!” Phẩm Tứ Đế trong Trung Luận cũng biện định cặn kẽ nghĩa này!

 

          (Kinh) Ha tự môn, nhất thiết chư pháp nhân bất khả đắc cố.

          ()訶字門一切諸法因不可得故

    (Kinh: Môn chữ Ha (), nhân của hết thảy các pháp chẳng thể được).

 

           Chữ Hệ Đát Phạ (Hetva) trong tiếng Phạn có nghĩa là Nhân. Nhân có sáu loại[30], và xét theo ư nghĩa nhân duyên th́ nhân có năm loại, như A Tỳ Đàm đă rộng nói. Nếu thấy môn chữ Ha, sẽ biết hết thảy các pháp không ǵ chẳng sanh từ nhân duyên. Đó là tướng của chữ Ha. Do các pháp xoay vần đợi duyên mà thành, hăy nên biết rốt cuộc không nương tựa; v́ thế nói “vô trụ là cội gốc của các pháp”. V́ sao vậy? Như Trung Luận dùng đủ mọi môn để quán “nhân duyên của các pháp đều chẳng sanh”, hăy nên biết vạn pháp duy tâm, Thật Tướng của tâm chính là Nhất Thiết Chủng Trí, tức là pháp giới của chư Phật. Pháp giới chính là cái Thể của các pháp, chẳng thể là nhân. Do vậy bèn nói, nhân cũng là pháp giới, duyên cũng là pháp giới, pháp sanh bởi nhân duyên cũng là pháp giới. Trong phần trước đă nói môn chữ A, từ gốc đến ngọn đều rốt ráo là chỗ như thế. Nay môn chữ Ha cũng thế, cũng từ ngọn trở về gốc, rốt ráo đạt tới chỗ như thế. Chữ A từ “vốn bất sanh” mà sanh ra hết thảy các pháp, nay cũng dùng “không có nhân đối đăi” để làm nhân của các pháp, đầu cuối đồng quy, tức là chỉ thú trong khoảng giữa ấy đều có thể biết.

          Lại nữa, trong tự luân tướng của Toàn Đà La Ni, dùng một chữ để giải thích ư nghĩa của hết thảy các chữ, dùng hết thảy các chữ để giải thích ư nghĩa của một chữ. Dùng nghĩa của một chữ để thành lập nghĩa của hết thảy các chữ, dùng nghĩa của hết thảy các chữ để thành lập nghĩa của một chữ, dùng nghĩa của một chữ để phá nghĩa của hết thảy các chữ, dùng nghĩa của hết thảy các chữ để phá nghĩa của một chữ. Như một chữ và hết thảy các chữ, xoay chuyển nghịch thuận, phỏng theo lệ này có thể suy ra.

          Thế nào là “dùng một chữ để giải thích hết thảy các chữ?” Như khi giải thích chữ Ca, chỉ dùng các thứ nhân duyên để quán “vốn bất sanh”, tức là thấy nghĩa “vô sở tác”. Cho đến khi giải thích chữ Ha, cũng dùng các thứ nhân duyên quán “vốn bất sanh”, tức thấy nghĩa “vô nhân”.

          Thế nào là “dùng hết thảy các chữ để giải thích một chữ?” Như khi giải thích môn chữ A, dùng các thứ nhân duyên để quán vô tạo tác, liền thấy nghĩa “vốn bất sanh”. Cho đến dùng các thứ nhân duyên để quán các pháp chẳng có nhân, tức là thấy nghĩa “vốn chẳng sanh”. Các chữ khác cũng phỏng theo lệ đó, sẽ nói rộng!

          Thế nào là “hết thảy các chữ thành lập một chữ?” Tức là hết thảy các pháp vốn bất sanh, do vô tác, như hư không vô tướng, vô hành, vô hợp, cho đến vô nhân.

          Thế nào là “một chữ thành hết thảy các chữ?” Tức là hết thảy các pháp vô tác, do vốn bất sanh, cho đến hết thảy các pháp vô nhân, do vốn bất sanh.

          Thế nào là “dùng hết thảy chữ để phá một chữ?” Như người chấp các pháp vốn có sanh, hăy nên phá điều ấy như sau: Nếu các pháp ĺa tạo tác mà nói là có sanh, th́ nghĩa ấy chẳng đúng! Cho đến nếu các pháp do chẳng thể được mà nói là “có sanh”, th́ nghĩa ấy chẳng đúng.

          Thế nào là “một chữ phá hết thảy các chữ?” Như người chấp có tạo tác, hăy nên phá điều ấy như sau: Nếu nghĩa “các pháp vốn bất sanh” đă thành lập mà nói là “có làm”, nghĩa ấy chẳng đúng. Cho tới nếu chấp “có nhân” th́ cũng phá rằng: Nếu nghĩa “các pháp vốn bất sanh’ đă thành lập mà nói là “có nhân”, nghĩa ấy chẳng đúng.

          Thế nào là “nghịch thuận xoay vần”? Tức là nếu pháp vốn sẵn bất sanh th́ chẳng có tạo tác. Nếu chẳng có tạo tác th́ như hư không vô tướng. Nếu như hư không vô tướng, tức là chẳng có hành. Nếu chẳng có cái để hành th́ chẳng có hợp. Nếu chẳng có hợp th́ chẳng biến đổi, cho đến nếu không có nhân th́ hăy nên biết pháp vốn chẳng sanh. Đó gọi là Thuận. Nếu pháp chẳng có nhân th́ Đế chẳng thể được. Nếu Đế chẳng thể được th́ tự tánh độn. Nếu tự tánh là độn th́ hăy nên biết bản tánh tịch. Nếu vốn là tịch th́ hăy nên biết là vô tướng. Cho đến nếu “vốn bất sanh” th́ hăy nên biết là không có nhân. Tám loại nghĩa như thế tự tại xoay chuyển để nói.

          Lại nữa, nay nói “hết thảy các pháp” tức là tổng tướng. Nếu dựa theo kinh Ma Ha Bát Nhă, sắc cho đến Nhất Thiết Chủng Trí, mỗi mỗi đều nói riêng khác, sẽ là vô lượng nghĩa. Lại c̣n với mỗi môn, hăy nên dựa tướng cạn hay sâu được nói trong phẩm Chân Ngôn Trụ Tâm để theo thứ tự phân biệt, do tự môn chuyển nên nghĩa cũng bất đồng. Do bởi nghĩa ấy, có thể sanh ra trăm ngàn vạn ức Toàn Đà La Ni. Lại nữa, do hết thảy ngôn thuyết của Như Lai không ǵ chẳng phải là chân ngôn, hăy nên dùng tự nghĩa như thế để nhập trọn khắp hết thảy Tu-đa-la. Do đó, Trí Độ Luận nói: “Nếu trong hết thảy các lời lẽ, Bồ Tát nghe chữ A, lập tức thuận theo nghĩa, biết cái được gọi là ‘tướng chẳng sanh từ ban sơ’ của hết thảy các pháp (chữ A hiểu theo nghĩa tiếng Hán là Sơ. A Nậu Ba Đà (Anutpāda) dịch sang tiếng Hán là “bất sanh”). Nếu nghe chữ Ra, liền thuận theo nghĩa, biết hết thảy các pháp ĺa tướng (chữ Ra được dịch sang tiếng Hán là Cấu). Nếu nghe chữ Ba, lập tức biết biết hết thảy các pháp nhập vào Đệ Nhất Nghĩa (Ba La Mạt Đà (Paramārtha) dịch sang tiếng Hán là Đệ Nhất Nghĩa). Nếu nghe chữ Giá, lập tức biết hết thảy các hành đều chẳng phải là hành (Giá Lợi Dạ (Kārya) dịch sang tiếng Hán là ngôn hạnh). Nếu nghe chữ Na, liền biết hết thảy các pháp chẳng được, chẳng mất, chẳng đến, chẳng đi (Na dịch sang tiếng Hán là Bất)”. Như trong phẩm Tứ Niệm Xứ của luận ấy đă nói rộng.

          Lại nữa, trong hết thảy các danh ngôn, hễ có thanh A đều nhập vào môn chữ A. Có thanh Ca th́ đều thuộc vào môn chữ Ca, cho đến có thanh Ha th́ thuộc vào môn chữ Ha. Do vậy, trong một tự môn có vô lượng nghĩa, chẳng phải là trong môn chữ Ha chỉ có nghĩa “không có nhân”. Các tự môn khác cũng phỏng theo lệ ấy.

          Lại như Sa Đá Dă (Satya) có nghĩa là Đế. V́ thế, kinh nói: “Sa tự môn, nhất thiết chư pháp, Đế bất khả đắc” (môn chữ Sa, trong hết thảy các pháp, Đế chẳng thể được). Vả nữa, Sa Đá có nghĩa là “vướng mắc”, cho nên trong Pháp Cúng Dường có nói: “Sa tự môn, nhất thiết chư pháp vô nhiễm trước” (Môn chữ Sa, trong hết thảy các pháp chẳng đắm nhiễm). Lại như Bà Phạ (Bhava) nghĩa là Có; do vậy, kinh nói: “Bà tự môn, nhất thiết chư pháp hữu bất khả đắc” (môn chữ Bà, trong hết thảy các pháp, Hữu chẳng thể được). Lại nữa, Bà Phạ Na (Bhāvanā) có nghĩa là Quán, cho nên trong Cúng Dường Pháp lại nói: “Bà tự môn, nhất thiết chư pháp, ly chư quán” (môn chữ Bà, trong hết thảy các pháp ĺa các quán). Những điều khác đều phỏng theo lệ này. Do vậy, trong kinh Đại Phẩm [Bát Nhă] và phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm đều nói môn bốn mươi hai chữ [Tất Đàm]. Phẩm Văn Tự trong kinh Niết Bàn, kinh Văn Thù Sở Vấn, phẩm Đà La Ni Tự Tại Vương của kinh Đại Tập đều giải thích mẫu tự Tất Đàm, ư nghĩa tương đồng với những điều được nói trong kinh này. Nếu hiểu ư này, ắt sẽ thẳng thừng thấu hiểu kinh này, chẳng hề trái nghịch, trở ngại.

          Lại nữa, mỗi một tự môn đều nói “chẳng thể được”, nhằm nêu ra ư nghĩa Trung Đạo. Nay dùng môn chữ Xa để nói, như nh́n h́nh ảnh khuôn mặt trong gương, do bổn chất làm nhân, gương sạch làm duyên, có ảnh hiện ra để thấy, đó chính là pháp được sanh. Tướng xấu hay đẹp hiện tiền, do chẳng sai chạy, nên gọi là Có. Dùng đủ loại phương tiện để t́m cầu, sẽ đều chẳng thể được, nên nói là Không! Nhưng Có hay Không đều chẳng ra ngoài bản thể của tấm gương ấy, tức là Một, bèn gọi là Trung. Ba tướng bất đồng mà đồng, chẳng khác mà khác. V́ thế, luận sư trong thế gian chẳng thể nghĩ bàn được! Nay Chân Ngôn môn cũng thế, lấy quán tâm làm nhân, Tam Mật làm duyên, phổ môn hải hội hiện tiền chẳng sai, do vậy là Có. Do dùng đủ loại môn để t́m ṭi, đều chẳng thể được, nên gọi là Không. Có và Không ấy đều chẳng ra ngoài pháp giới, nên nói là Trung. Tam Đế bất đồng mà đồng, chẳng khác mà khác, người thuộc hết thảy các phương tiện thừa đều chẳng thể nghĩ bàn được! Các pháp môn khác đều phỏng theo đó, chẳng thể nêu trọn!

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Ngưỡng nhưỡng nĩnh nẵng măng, ư nhất thiết tam-muội tự tại, tốc năng thành biện chư sự, sở vi nghĩa lợi giai tất thành tựu.

          ()祕密主!仰壤儜曩莾,於一切三昧自在,速能成辨諸事,所為義利皆悉成就。

      (Kinh: Bí Mật Chủ! Ngưỡng, nhưỡng, nĩnh, nẵng, măng[31], trong hết thảy tam-muội tự tại, có thể nhanh chóng hoàn thành các sự, thực hiện các nghĩa lợi thảy đều thành tựu).

 

          Trong năm loại thanh là Ca, Giá, Trá, Đa, Ba, mỗi loại lại có năm thanh, từ chữ thứ nhất tới chữ thứ tư đều là huệ môn như đă nói trên đây. Chữ thứ năm là chứng môn, nay nói gộp chung. Chữ Phạn coi năm chữ này đều giống như chấm tṛn. C̣n như bốn chữ Ca, Khư, Nga, Già đều tăng thêm tới mười một thanh, đều là đặt dấu chấm trên mỗi chữ. Nếu muốn bỏ chấm ấy đi, mà ngay sau đó thêm các chữ như Ngưỡng v.v… chúng sẽ chẳng khác khi có chấm. Lại nữa, trong mười hai thanh[32] của tiếng Phạn, thanh thứ nhất là bản thể, tức thanh thứ hai là hạnh, từ thanh thứ ba trở đi, dùng các nét để thêm vào đều là tam-muội. Thanh thứ mười một thêm một chấm chính là Chứng. Bên thanh thứ mười hai (tức aḥ (), thêm hai chấm là Bát Niết Bàn. Như chữ Ngưỡng (​) này, do là âm thanh có thể trọn khắp trí huệ tam-muội, hăy nên biết chính là nghĩa Đại Không. Do vậy, được nói riêng, chẳng luận chung với các chữ trước đó. Kinh Niết Bàn nói năm chữ ấy nêu trọn ư nghĩa của các chữ. Nay trong giáo nghĩa chủ yếu của đức Tỳ Lô Giá Na, nhờ vào năm chữ ấy để diễn tả Đại Không. Đại Không là chứng xứ, chẳng có cách nào nói được. V́ thế, chỉ dùng chấm tṛn để biểu thị. Lại nữa, tuy tự thể của cái chấm tṛn ấy chẳng có môn nào, nhưng trọn khắp hết thảy các pháp môn, như hư không xa ĺa các tướng mà đều chứa đựng vạn tượng. V́ thế, hết thảy tự môn nếu thêm một chấm Không, sẽ trọn đủ tác dụng tự tại, đều có thể hoàn thành các sự. Như vô sanh diệu huệ thuộc môn chữ A, hết thảy chúng sanh b́nh đẳng đều có, chỉ v́ chẳng tự chứng biết, như cô gái nghèo có kho báu[33] mà chẳng có thế lực [để khai quật]. Khi phát khởi hạnh, sẽ đúng như phương tiện mà khai phát. Khi nhập chứng th́ như kho báu hiện tiền; lúc bấy giờ, tùy ư thọ dụng, sở cầu ắt đạt được. V́ thế nói: “Thêm vào cái chấm Không th́ các nghĩa lợi đều được thành tựu”.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết kệ ngôn: - Chân Ngôn tam-muội môn, viên măn nhất thiết nguyện, sở vị chư Như Lai, bất khả tư nghị quả, cụ túc chúng thắng nguyện, chân ngôn quyết định nghĩa, siêu việt ư tam thế, vô cấu đồng hư không, trụ bất tư nghị tâm, khởi tác chư sự nghiệp, đáo tu hành địa giả, thọ bất tư nghị quả, thị đệ nhất chân thật, chư Phật sở khai thị. Nhược tri thử pháp giáo, đương đắc chư Tất Địa, tối thắng chân thật thanh. Chân ngôn, chân ngôn tướng, hành giả đế tư duy, đương đắc bất hoại cú.

          ()爾時世尊而說偈言:真言三昧門,圓滿一切願,所謂諸如來,不可思議果。具足眾勝願,真言決定義,超越於三世,無垢同虛空,住不思議心,起作諸事業,到修行地者,授不思議果,是第一真實,諸佛所開示,若知此法教,當得諸悉地。最勝真實聲,真言真言相,行者諦思惟,當得不壞句。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói kệ rằng: - Chân Ngôn tam-muội môn, viên măn hết thảy nguyện, chính là chư Như Lai, quả chẳng thể nghĩ bàn. Trọn đủ các thắng nguyện, nghĩa chân ngôn quyết định. Vượt thoát khỏi ba đời, vô cấu như hư không, trụ tâm chẳng nghĩ bàn, khởi tạo các sự nghiệp, đạt tới tu hành địa, trao quả chẳng nghĩ bàn. Là chân thật bậc nhất, được chư Phật khai thị. Nếu biết pháp giáo này, sẽ đắc các Tất Địa, tiếng chân thật tối thắng. Chân ngôn, tướng chân ngôn, hành giả tư duy kỹ, sẽ được câu chẳng hoại).

 

          Kế đó, trong lời kệ do đức Thế Tôn đă nói: “Chân ngôn tam-muội môn, viên măn nhất thiết nguyện” (các môn tam-muội của Chân Ngôn viên măn hết thảy các nguyện), nếu nói đầy đủ theo bản tiếng Phạn, phải là sau chữ “chân ngôn” có thêm chữ Đạo. Người thuộc địa vị Gia Hạnh hễ duyên trụ trong chữ A, bèn gọi là môn tam-muội chữ A. Môn tam-muội chữ A này chính là khai tâm minh đạo môn, hết thảy các chữ khác cũng đều như thế. “Nhất thiết nguyện” trong tiếng Phạn là Tát Phạ Xa (sarvāsā), tức là ước nguyện mong cầu trong tâm; ư nói: Các chúng sanh tu môn tam-muội này, hết thảy chí cầu đều được viên măn. Khi nguyện ấy viên măn th́ chính là cái quả chẳng thể nghĩ bàn của các Như Lai. Cái quả thường trụ, trí huệ không có thầy mà c̣n có thể ban cho chúng sanh, huống hồ các nguyện Tất Địa thế gian ư?

          Lại nữa, Thật Tướng của thanh và chữ trong mỗi môn tam-muội của Như Lai dù có Phật hay không có Phật, pháp là như thế, tức là do vậy mà chẳng thay đổi, chính là bổn địa Pháp Thân của Như Lai. V́ muốn thí Pháp Thân ấy cho trọn khắp chúng sanh, vẫn dùng thần lực tự tại gia tŕ vào thanh và chữ vốn sẵn như thế. V́ vậy, thanh và chữ chính là thân gia tŕ của chư Phật. Cái thân gia tŕ ấy có thể thực hiện trọn khắp các thân tùy theo từng loài, không đâu chẳng hiện diện. Hăy nên biết thanh và chữ gia tŕ cũng lại giống như thế. Do vậy, hành giả chỉ nên nhất tâm duyên quán kỹ càng thanh và chữ ấy, sẽ tự thấy thân gia tŕ của Phật. Nếu thấy thân gia tŕ, tức là thấy Pháp Thân nơi bổn địa. Nếu khi thấy Pháp Thân nơi bổn địa, đấy tức là tự thân của hành giả. V́ thế, mỗi một môn ấy chính là cái quả chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, chẳng do chỗ khác mà có.

          “Cụ túc chúng thắng nguyện, chân ngôn quyết định nghĩa” (đầy đủ các nguyện thù thắng, nghĩa quyết định của chân ngôn): Nói đầy đủ theo bản tiếng Phạn, hăy nên nói “trọn đủ tất cả các nguyện thù thắng và nghĩa quyết định chân thật của chân ngôn”. “Nguyện thù thắng” ở đây trong tiếng Phạn là Phạ Rô, tức là “trọn đủ các loại công đức”. Đó chính là tam-muội, tổng tŕ, lực, vô úy v.v… Có nghĩa là “sở nguyện đă măn, sở cầu ắt trọn”, khác âm tiếng Phạn của chữ Nguyện trong phần trước. Nói “quyết định” là như môn chữ A, dù thanh hay chữ, toàn thể đều là bất sanh, nghĩa của thanh và chữ chính là “toàn thể bất sanh”. Nếu lúc chứng, vẫn chỉ chứng sự “bất sanh” này, trong khoảng giữa, trọn chẳng xen tạp, mà cũng chẳng có đường khác. Nếu lúc thấy nghĩa chân thật này, giả sử mười phương chư Phật đồng thời hiện tiền, nói đủ loại Tương Tự Ba La Mật, toan khiến cho [người ấy] thay đổi cái tâm, [người ấy] vẫn chẳng sanh nghi hoặc. V́ thế nói là “quyết”.

          Lại nữa, “cụ túc chúng thắng nguyện” (đầy đủ các nguyện thù thắng) tức là công đức nội chứng của Như Lai nhiều như số vi trần trong mười phương thế giới. Do quyết định, mỗi mỗi đều thành ấn Kim Cang. Từ đấy trở đi, tự chứng thân lại khởi lên gia tŕ thân; v́ thế nói: “Siêu việt ư tam thế” (vượt thoát ba đời). “Vô cấu đồng hư không” (vô cấu giống như hư không) tức là tâm địa thanh tịnh vô cấu chẳng nghĩ bàn, dùng đại phương tiện để vẽ thành Phổ Môn Mạn-đồ-la nơi cuộc đất ấy. Do vậy, kế đó kinh nói: “Trụ bất tư nghị tâm, khởi tác chư sự nghiệp” (trụ trong tâm chẳng nghĩ bàn, dấy khởi tạo tác các sự nghiệp). Bản tiếng Phạn nói đầy đủ là “tâm địa”, nhưng do mỗi câu kệ chỉ có năm chữ, không thể ghi hết. Nhưng Địa chính là tâm thể; v́ thế nói là “trụ trong tâm chẳng nghĩ bàn”. Trong Chân Ngôn tam-muội môn, tuy có quả đức chẳng thể nghĩ bàn như thế, kham có thể châu cấp, ban tặng cho chúng sanh nhiều bằng một quốc gia, nhưng nếu các chúng sanh chẳng sanh ư tưởng khó gặp, cúng dường, tu hành, th́ ví như cỗ bàn của vua đầy ắp trước mặt, nhưng [chúng sanh] chẳng có tâm ăn uống, chư Phật biết làm sao được? V́ thế, kế đó, kinh nói: “Nhược đáo tu hành địa, thọ bất tư nghị quả” (nếu đạt tới địa vị tu hành, sẽ trao cho cái quả chẳng thể nghĩ bàn). “Tu hành địa” ở đây chính là sơ pháp minh môn trong cái tâm Bồ Đề thanh tịnh. Chẳng hạn như Thanh Văn sau khi kiến Đế, lại dự vào Tu Hành Vị. Vị Bồ Tát ấy trong Bách Tự Minh Môn, đều thấy Liên Hoa Thai Tạng Mạn-đồ-la thế giới hải, các tướng trang nghiêm ấy thảy đều bất đồng. Trước hết, từ đại không luân trong môn chữ Khư, dùng môn chữ Ha để khởi đại phong luân. Kế đó, trên đấy dùng môn chữ Phạ để khởi biển nước thơm. Tiếp đó, ở trên ấy, dùng môn chữ A để khởi đất kim cang, Kim Cang Luân Sơn. Những điều khác như kinh Hoa Nghiêm đă nói. Trong Bồ Đề Mạn-đồ-la nơi mỗi thế giới thuộc một trăm Liên Hoa Tạng ấy, đều có mười thế giới các Bồ Tát, Kim Cang v.v… làm quyến thuộc. Hành nhân Du Già có thể chẳng rời khỏi ṭa, mà đều tới các Phật hội như thế, cũng có thể lần lượt t́m cầu các thiện tri thức. V́ thế nói: “Sơ Địa Bồ Tát hóa măn bách Phật quốc” (Sơ Địa Bồ Tát biến hóa đầy ắp một trăm cơi Phật), chẳng phải chỉ là trông thấy mà thôi! Cũng có thể dùng một trăm Liên Hoa Tạng ấy chuyển thành tự thân. C̣n như khi viên măn mười tâm “mầm, thân, hoa, búp” v.v… thuộc Sơ Địa, trong một minh môn khai xuất mười môn giải thoát, thành một ngàn thế giới, đều là tùy phần truyền trao cái quả chẳng thể nghĩ bàn. Đạt đến gần Đệ Thập Nhất Địa, trong hư không vân hải minh môn, mỗi mỗi đều thấy tánh, tướng, h́nh loại của thế giới Liên Hoa Tạng trang nghiêm, xoay vần bất đồng, dùng đó làm tự thân tự tại vô ngại. Đấy gọi là “bất tư nghị quả măn”.

          Kế đó, có hai bài kệ nhằm khuyên tin, kết lại để ấn chứng: “Thị đệ nhất chân thật, chư Phật sở khai thị” (là chân thật bậc nhất, được chư Phật khai thị). “Khai thị” chính là tri kiến của Phật, có cùng ư nghĩa với kinh Pháp Hoa. Nửa bài kệ kế đó nói: “Nhược tri thử pháp giáo, đương hoạch chư Tất Địa” (nếu biết pháp giáo này, sẽ đạt các Tất Địa), tức là dẫn “chư Phật đạo đồng” để khuyến tín Thế Đế. Nếu hành giả Chân Ngôn hiểu rơ thứ tự phương tiện trong pháp giáo này, do nhất định tin tưởng, đúng như lời dạy mà tu hành, sẽ được thành tựu hết thảy các Tất Địa. Nếu chẳng phải như vậy, mười phương ba đời chư Phật sẽ mắc tội “trái nghịch bổn thệ, lừa dối chúng sanh”. Bài kệ kế tiếp nhằm khuyên [hành nhân hăy] trụ trong Chân Đế. Nhưng Tất Đàm tự mẫu, trẻ nhỏ cũng đều tụng tŕ, c̣n như hộ-ma, cúng dường v.v… Vi Đà thế tiên[34] cũng đều cùng làm; nhưng nay sở dĩ môn Chân Ngôn này riêng trở thành bí mật là do được nghĩa chân thật gia tŕ. Nếu chỉ miệng tụng Chân Ngôn mà chẳng tư duy ư nghĩa, chỉ có thể thành tựu nghĩa lợi thế gian, há có đạt được thể tánh Kim Cang ư? V́ thế, kệ rằng: “Tối thắng chân thật thanh, chân ngôn, chân ngôn tướng, hành giả đế tư duy, đắc thành bất hoại cú” (Tiếng chân thật tối thắng, chân ngôn, tướng chân ngôn. Hành giả tư duy kỹ, được thành câu bất hoại). “Thanh” chính là cái Thể của Ngữ Mật trong Chân Ngôn môn, như Đệ Nhất Chân Thật Nghĩa trong thanh A, tức là “vốn bất sanh”. Thoạt đầu nói về Chân Ngôn, bản tiếng Phạn dùng nhiều tiếng để gọi, tức là chỉ chung tướng bách tự môn Thế Đế tự luân. Kế đó, nói “chân ngôn tướng” tức là Thật Tướng của chân ngôn ấy. Từ ngay nơi Thật Tướng của chân ngôn, do tư duy chắc thật, mỗi mỗi đều nhập Liên Hoa Đài. “Cú” chính là chỗ dấu tích ngưng dứt.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật ngôn: - Hy hữu, Thế Tôn! Phật thuyết bất tư nghị chân ngôn tướng đạo pháp, bất cộng nhất thiết Thanh Văn, Duyên Giác, diệc phi phổ vị nhất thiết chúng sanh. Nhược tín thử chân ngôn đạo giả, chư công đức pháp giai đương măn túc, duy nguyện Thế Tôn thứ thuyết Mạn-đồ-la sở tu thứ đệ.

          ()爾時執金剛祕密主白佛言希有世尊說不思議真言相道法。不共一切聲聞緣覺,亦非普為一切眾生。若信此真言道者,諸功德法皆當滿足。唯願世尊次說漫荼羅所須次第。

    (Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch với đức Phật rằng: - Đức Thế Tôn hy hữu! Phật nói đạo pháp chân ngôn tướng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng cùng chung với hết thảy Thanh Văn, Duyên Giác, cũng chẳng phải v́ trọn khắp hết thảy chúng sanh. Nếu tin tưởng đạo chân ngôn này, các pháp công đức sẽ đều viên măn. Kính mong đức Thế Tôn kế đó hăy nói về thứ tự cần thiết trong Mạn-đồ-la).

 

          Như trong sự giải thoát của pháp Thanh Văn chẳng có văn tự, nhưng ngài Duy Ma Cật chẳng ĺa văn tự để nói tướng giải thoát, nên gọi là “bất tư nghị giải thoát”. Nay tự luân này cũng thế, tức là dùng vô tướng Pháp Thân để làm các loại thanh và chữ, các loại thanh và chữ làm vô tướng Pháp Thân, nên gọi là “tướng chân ngôn chẳng thể nghĩ bàn”. “Bất cộng nhất thiết Thanh Văn, Duyên Giác, diệc phi phổ vị nhất thiết chúng sanh” (chẳng cùng chung với hết thảy Thanh Văn và Duyên Giác, cũng chẳng phải v́ trọn khắp hết thảy chúng sanh): Kinh này là vật báu bí mật của đấng pháp vương, chẳng thể tùy tiện trao cho người chẳng xứng đáng. Như đức Thích Ca xuất thế hơn bốn mươi năm, do ngài Xá Lợi Phất ân cần thỉnh cầu ba lượt, [đức Phật] mới v́ Ngài nói đại lược nghĩa Diệu Pháp Liên Hoa. Nay thân bổn địa này lại là chỗ bí mật, sâu thẳm của Diệu Pháp Liên Hoa, cho nên phẩm Thọ Lượng nói: “Thường tại Linh Thứu sơn, cập dư chư trụ xứ” (thường tại núi Linh Thứu, và các trụ xứ khác) cho tới “ngă Tịnh Độ bất hủy, nhi chúng kiến thiêu tận” (Tịnh Độ của ta chẳng hủy, chúng sanh thấy cháy rụi), tức là ư nghĩa thuộc tông Du Già này vậy. Lại nữa, do bậc Bổ Xứ Bồ Tát ân cần thỉnh ba lượt, [đức Phật] mới nói. Nếu chẳng phải là căn cơ đốn ngộ, sẽ chẳng được nhận lấy. V́ thế, chẳng v́ trọn khắp hết thảy chúng sanh [mà nói pháp môn này]! Đó cũng là lănh hội ư nghĩa trong bài kệ trước đó “đạt đến địa vị Tu Hành th́ mới được truyền trao cái quả chẳng nghĩ bàn”.

          Kế đó, nói về sự lănh ngộ hai bài kệ khuyến tín và ấn khả để kết lại trong phần trước, nên nói: “Nhược tín thử Chân Ngôn đạo giả, chư công đức pháp giai đương măn túc” (nếu tin đạo Chân Ngôn này, các pháp công đức đều sẽ trọn đủ). Nếu lúc được viên măn, tức là trọn đủ các nguyện thù thắng. Trên đây, đă nói cặn kẽ về chi phần chân ngôn xong. Ngài Chấp Kim Cang lại tiếp nối phần kinh văn trên đây, thỉnh Phật kế đó hăy nói về thứ tự cần phải tu trong Mạn-đồ-la.

         

          (Kinh) Như thị thuyết dĩ, Thế Tôn phục cáo Kim Cang Thủ, nhi thuyết kệ ngôn: - Tŕ chân ngôn hành giả, cúng dường chư thánh tôn, đương phụng duyệt ư hoa, khiết bạch, hoàng, châu sắc, Bát Đầu Ma, thanh liên, Long hoa Bôn Na Già, Kế Tát Ra Mạt Lợi, Đắc Nghiệt Lam, Chiêm Bặc, Vô Ưu, Để La Kiếm, Bát Trá La Sa La. Thị đẳng tiễn diệu hoa, cát tường chúng sở nhạo, thải tập dĩ vi man, kính tâm nhi cúng dường.

          ()如是說已,世尊復告金剛手而說偈言:持真言行者,供養諸聖尊,當奉悅意花,潔白黃朱色,鉢頭摩青蓮、龍花奔那伽、計薩囉末利、得蘗藍瞻蔔、無憂底羅劍、鉢吒羅娑羅,是等鮮妙華,吉祥眾所樂,採集以為鬘,敬心而供養。

    (Kinh: Nói như thế xong, đức Thế Tôn lại bảo Kim Cang Thủ mà nói kệ rằng: - Hành giả tŕ chân ngôn, cúng dường các đức thánh, nên dâng hoa đẹp ư, sắc trắng tinh, vàng, đỏ: Bát Đầu Ma, sen xanh, Long Hoa Bôn Na Già, Kế Tát Ra, Mạt Lợi, Đắc Nghiệt Lam, Chiêm Bặc, Vô Ưu, Để La Kiếm, Bát Trá La, Sa La. Các hoa tươi đẹp ấy, cát tường, người ưa thích, thâu góp làm tràng hoa, tâm cung kính cúng dường).    

 

          Kế đó, trong lời kệ giải đáp, trước hết, đức Thế Tôn giải đáp về hai câu hỏi về dâng cúng thức ăn, hương, hoa v.v… và các thứ b́nh báu, gọi chung là “chi phần Cúng Dường”. Trong các vật để cúng dường, trước hết nói về hoa để dâng cúng. Phàm các vật để dâng cúng, đều tùy theo tánh loại của các vị tôn thánh và phương vị của Mạn-đồ-la v.v... mà mỗi mỗi đều khéo phân biệt, sao cho sắc, hương, vị, xúc đều khiến ḷng người vui thích. Các loại hoa không tốt lành sanh trên đất hay trong nước chỉ có thể dùng trong pháp Chiết Phục mà thôi! Trong ba màu trắng, vàng, đỏ, Như Lai Bộ nên dùng màu trắng, Liên Hoa quyến thuộc nên dùng màu vàng, Kim Cang Bộ nên dùng màu đỏ. Lại nữa, đúng theo phương vị của Mạn-đồ-la: Đàn tṛn th́ dùng màu trắng, đàn vuông th́ dùng màu vàng, đàn tam giác th́ dùng màu đỏ. Lại nữa, [để cúng dường] chư Phật th́ dùng màu trắng, chư Bồ Tát dùng màu vàng, các vị trời trong thế gian th́ màu đỏ. Các thứ khác như hương v.v… cũng chuẩn theo ư này, kiêm đối chiếu với kinh văn của kinh Tô Tất Địa và Cù Hê để dùng, chẳng chép tường tận [ở đây].

          Bát Đầu Ma (Padma) là hoa sen hồng. Phàm các loại hoa mọc trong nước như hoa sen xanh, đỏ, trắng v.v… đều có thể dâng cúng chung chư tôn. “Long Hoa Bôn Na Già” (Nāgakesara Puṃnāga): Bôn Na Già là hoa Long Thụ. Di Lặc Thế Tôn thành Phật ở dưới cội cây này. Nói thẳng là Long Hoa, tức loài hoa được rồng coi trọng. Phương Tây có loại hoa này. Hoa Kế Tát Ra (Kesara), hoa Mạt Lợi (Mallika, hoa lài), hoa Đắc Nghiệt La (Tagara), hoa Chiêm Bặc (Caṃpaka), hoa Vô Ưu (Aśoka), hoa Để La Kiếm (Tilaka), hoa Bát Trá La (Pāṭala), hoa cây Sa La (Śāla), đều là những thứ có ở Thiên Trúc, phương này chẳng thể biết trọn.

          Kinh nói “thị đẳng tiễn diệu hoa” (các loại hoa tươi đẹp ấy), trong bản tiếng Phạn có kèm thêm chữ Hoặc, ư nói các thứ hoa ấy đều có thể dùng chung, nên nêu ra một số trường hợp. Nhưng nếu phương này th́ có, phương kia th́ không, chỉ cốt sao loại hoa được người ta yêu thích, thế gian coi là cát tường, th́ đều có thể dùng để cúng dường, hăy nên mỗi mỗi lắng ḷng khéo phân biệt. “Thái tập dĩ vi man” (Gom góp thành tràng hoa), tức xen lẫn trang nghiêm, hoặc xâu, hoặc kết, do cái tâm ân cần, thanh tịnh, thuần hậu của hành nhân khiến cho chư tôn hoan hỷ hộ niệm.

         

          (Kinh) Chiên đàn cập thanh mộc, mục túc hương, uất kim, cập dư diệu đồ hương, tận tŕ dĩ phụng hiến. Trầm thủy cập tùng hương, Phạ Lam dữ long năo, bạch đàn, giao hương đẳng. Thất Lợi Phạ Tắc Ca, cập dư phần hương loại, phân phức thế xưng mỹ. Ưng đương tùy pháp giáo, nhi phụng ư thánh tôn.

          ()栴檀及青木、苜蓿香欝金,及餘妙塗香,盡持以奉獻。沈水及松香,嚩藍與龍腦,白檀膠香等,失利塞迦,及餘焚香類,芬馥世稱美,應當隨法教,而奉於聖尊。

                (Kinh: Chiên đàn và thanh mộc, mục túc hương, uất kim, và các hương bôi quư khác, đều dùng hết dâng hiến. Trầm thủy và tùng hương, Phạ Lam (Vāla) và long năo, bạch đàn, giao hương (Sarjarasa) thảy, Thất Lợi Phạ Tắc Ca (Śrīvāsaka), và các loại hương đốt, thơm ngát, đời ca ngợi. Hăy nên tùy pháp giáo, dâng lên các thánh tôn).

 

          Kế đó nói về hương bôi. Chiên đàn (Candana), thanh mộc (Kuṣṭha), uất kim (Kuṅkuma), cỏ Đố Lộ Bà (Turuska)[35] loại hương Mục Túc (Spṛkkā) ở phương Tây, hơi khác hương Mục Túc ở phương này. “Cập dư diệu đồ hương” (và các loại hương bôi tốt đẹp khác) như trầm thủy, cam tùng, đinh hương (clove), lơi cây quế, đậu khấu (cadarmom, nutmeg) ở phương Tây, hương phụ tử[36] v.v… như kinh Tô Tất Địa và Cù Hê đă nói. Lại nói trong các loại hương bôi ấy, đừng dùng hương lấy từ thân thể của chúng sanh, tử khoáng[37], cũng như bị trùng đục khoét. Hăy nên dùng thứ hương tốt, thanh tịnh, dùng nước để nghiền. Nếu dâng cúng Phật, hăy nên dùng uất kim mới, tốt, hoặc hắc trầm hương cùng với long năo. Quyến thuộc Liên Hoa th́ nên dùng bạch đàn, Kim Cang quyến thuộc cũng nên dùng bạch đàn; c̣n các vị tôn thánh khác th́ tùy ư mà dùng chung, c̣n các loại hương ḥa hợp th́ đều thêm long năo.

          Kế đó, nói về hương đốt, hăy nên dùng trầm thủy hương (agaru), tùng hương (dīpavṛkṣa), phạ lam hương (vāla), long năo hương (karpūra), bạch đàn hương phương Tây tên là Ma La Dữu (Malayū, tức là tên núi Malaya, phiên âm là Ma Lê Sơn), như Trí Độ Luận đă nói: “Ngoại trừ núi Ma Lê, không có chỗ nào khác sanh ra Chiên Đàn” là nói về loại hương này. Bạch giao hương (sarjarasa) chính là nhựa cây Sa La. Thất Lợi Phạ Tắc Ca (Śrīvāsaka) hương tương tự huân lục hương (kunduruka, tức frankincense) ở phương này. Thất Lợi (Śrī) có nghĩa là trọn đủ đức cát tường, ư nói loại hương này thậm chí thiên thần cũng đều yêu thích; do vậy đặt tên như thế. “Cập dư phần hương loại, phân phức thế xưng mỹ” (và các loại hương đốt khác, thơm ngào ngạt được cơi đời khen ngợi) cũng như trên đă nói. Kinh Cù Hê nói: “Thiêu hương dụng bạch đàn, trầm thủy tương ḥa, cúng dường Phật loại. Kỳ thụ chấp hương, cúng dường Liên Hoa loại. Hắc trầm cập An Tức, cúng dường Kim Cang loại” (Hương đốt th́ dùng bạch đàn và trầm thủy ḥa hợp để cúng dường Phật Bộ. Hương từ nhựa cây để cúng dường Liên Hoa Bộ. Hắc trầm và an tức để cúng dường Kim Cang Bộ). Hoặc vâng theo pháp ấy mà làm hương, ḥa hợp trọn khắp để dâng lên chư tôn. “Ưng đương tùy pháp giáo” (hăy nên tùy theo pháp giáo), tức là dùng chân ngôn và mật ấn để gia tŕ trừ nhơ như nói trong phần Thứ Tự Cúng Dường. Các loại hương bôi và hoa khác phỏng theo lệ này mà suy ra.

 

          (Kinh) Phục thứ, Đại Chúng Sanh, y giáo hiến chư thực, phụng nhũ mi, lạc phạn, hoan hỷ, Mạn-đồ-ca, bách diệp cam mỹ bính, tịnh diệu sa đường bính, bố lợi ca, gián huyệt, cập mạt đồ thất ra, bễ nặc ca, vô ưu, bá bát trá thực đẳng, như thị chư hào thiện, chủng chủng trân diệu quả, kiển đồ dữ thạch mật, đường mật, sanh thục tô, chủng chủng chư tương ẩm, nhũ lạc, tịnh ngưu vị.

                ()復次大眾生,依教獻諸食,奉乳糜酪飯,歡喜漫荼迦,百葉甘美餅,淨妙粆糖餅,布利迦間,及末塗失囉,諾迦無憂,播鉢吒食等,如是諸餚饍,種種珍妙果,蹇荼與石蜜,糖蜜生熟酥,種種諸漿飲,乳酪淨牛味。

          (Kinh: Lại này, Đại Chúng Sanh, theo giáo, hiến thức ăn, dâng cháo sữa, cơm bơ, hoan hỷ, Mạn-đồ-ca, bánh ngon ngọt bách diệp, bánh đường cát sạch ngon, bố lợi ca, gián huyệt, và mạt đồ thất ra, bễ nặc ca, vô ưu, bá bát trá các món. Món ngon quư như thế, các thứ quả ngon, quư, kiển đồ và thạch mật, đường, mật, sanh thục tô, và các thứ nước ép, sữa, lạc, các vị sữa).

 

          Kế đó nói “y giáo hiến chư thực” (theo đúng lời dạy, dâng các thức ăn). Như trong bản đầy đủ của kinh này nói, cúng dường các thứ ăn đều có phương tiện để tịnh hóa cho tới ư nghĩa sâu mầu [của việc tịnh hóa ấy], mỗi mỗi đều tương ứng với pháp môn. Phương này nếu không có, chỉ nên dựa theo các kinh như Tô Tất Địa v.v… Theo đúng pháp tạo tác, kết giới, thủ hộ, gia tŕ, sẽ được gọi là “y giáo”. “Nhũ mi”: Phương Tây có nhiều loại cháo, hoặc dùng nước ép Ô Ma, hoặc dùng các loại đậu và các vị thuốc, như trong các kinh văn Thập Tụng Dược Pháp v.v… đă nói cặn kẽ, nhưng cháo sữa[38] là loại tốt nhất. Phàm khi dâng thức ăn, phải nên thêm vào các thứ như tô, đường cát v.v… khiến cho sắc lẫn vị đều trọn vẹn để dâng cúng trước. Lại nữa, cơm ở phương Tây có nhiều loại, cũng coi cơm nấu trộn bơ là vị ngon nhất. Khi dâng món ăn này, phải nên nêm đường cát, muối, gừng các vị. Lại nên dâng canh theo đúng cách nấu nướng ở phương đó, hoặc thuận theo phong tục nước nhà.

          Đối với viên hoan hỷ (laḍḍuka), hăy nên dùng chất tô để nấu các loại bánh, ḥa hợp các vị và ba loại thuốc có vị đắng v.v… khiến cho trang nghiêm đủ mọi cách. Mạn-đồ-ca (Maṇḍaka) chính là loại bánh ép mỏng (pancake) ở phương này. Diệp bính là cách làm bánh ở Thiên Trúc: Dùng các vị như mật, đường, trộn với bột ḿ, dầu bơ đem nấu, hết sức thơm ngon. Bánh đường cát th́ loại đường cát này có tên là Kiển Đồ (Khanda, đường trắng), h́nh dạng giống như loại đường sản xuất tại Ích Châu, nhưng màu sắc hết sức trắng sạch, đụng tới là vỡ ngay. Đem loại đường này pha nước; trước hết, dùng bột ḿ làm bánh, nhỏ vài giọt nước đường lên đó rồi mới ăn. “Tịnh diệu” tức là chú trọng sao cho thanh khiết, khiến cho sắc lẫn hương đều trọn vẹn. Bố-lợi-ca (