Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

Phần sáu

大毘盧遮那成佛經疏

Đường sa-môn Nhất Hạnh A-xà-lê kư

沙門一行阿闍梨記

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

3. Phẩm thứ ba: Dứt Trừ Chướng (Tức Chướng phẩm đệ tam, 息障品第三)

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Kim Cang Thủ hựu phục thỉnh vấn Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn, nhi thuyết kệ ngôn: - Vân hà đạo tràng thời, tịnh trừ chư chướng giả? Tu Chân Ngôn hành nhân, vô năng vi năo hại? Vân hà tŕ chân ngôn? Vân hà bỉ thành quả?

          ()爾時金剛手又復請問毘盧遮那世尊,而說偈言:云何道場時,淨除諸障者?修真言行人,無能為惱害?云何持真言?云何彼成果?

          (Kinh: Lúc bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ lại thưa hỏi đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn, mà nói kệ rằng: - Lúc đạo tràng thế nào, trừ sạch các chướng ngại? Hành nhân tu Chân Ngôn, sẽ chẳng bị năo hại? Tŕ chân ngôn thế nào? Thành tựu quả ra sao?)

 

          Lúc đó, ngài Kim Cang Thủ lại bạch hỏi đức Phật Tỳ Lô Giá Na: Khi vẽ Mạn-đồ-la, [hăy nên] trừ dứt kẻ gây chướng nạn như thế nào để người tŕ tụng các chân ngôn chẳng bị năo hại? Thế nào là cái quả do tŕ tụng chân ngôn? Đó là do được Tỳ Lô Giá Na Như Lai gia tŕ, ngài Kim Cang Thủ nương vào sức oai thần của Phật, nhằm đoạn nghi cho đại chúng và chúng sanh trong đời vị lai mà nêu ra các câu hỏi ấy.

 

          (Kinh) Như thị phát vấn dĩ, Đại Nhật Tôn thán ngôn: - Thiện tai Ma Ha Tát, khoái thuyết như thị ngữ, tùy nhữ tâm sở vấn, kim đương tất khai thị. Chướng giả tự tâm sanh, tùy thuận tích xan lận. Vị trừ bỉ nhân cố, niệm thử Bồ Đề tâm, thiện trừ vọng phân biệt, tùng tâm tư sở sanh. Ức niệm Bồ Đề tâm, hành giả ly chư quá, thường đương ư tư duy, Bất Động Ma Ha Tát, nhi kết bỉ mật ấn.

          ()如是發問已,大日尊歎言:善哉摩訶薩,快說如是語,汝心所問,今當悉開示。障者自心生,隨順昔慳悋,為除彼因故,念此菩提心。善除妄分別,從心思所生,憶念菩提心,行者離諸過。常當意思惟,不動摩訶薩,而結彼密印。

          (Kinh: Thưa hỏi như thế rồi, đức Đại Nhật khen rằng: - Lành thay Ma Ha Tát! Vui thích nói như vậy. Thuận theo tâm ông hỏi, nay sẽ đều khai thị. Chướng sanh từ tự tâm, do xưa kia keo kiệt. Để trừ cái nhân ấy, nghĩ tâm Bồ Đề này. Khéo trừ vọng phân biệt, sanh từ trong tâm tư. Nghĩ nhớ tâm Bồ Đề, hành giả ĺa các lỗi, thường dốc ư suy tưởng, Bất Động Ma Ha Tát, kết mật ấn của Ngài).

 

          Đại Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn nói: “Lành thay! Lành thay! Này Đại Chúng Sanh! Ông có thể thốt ra lời ấy nhằm tạo lợi ích to tát cho các chúng sanh. Ta nay sẽ v́ ông khai thị, hết thảy đều thuận theo lời ông hỏi”. Đức Phật bảo: Chướng sanh từ tự tâm, thuận theo ḷng keo tiếc xưa kia. Để trừ cái nhân ấy, hăy nghĩ nhớ Bồ Đề tâm. Nếu trừ bỏ sự phân biệt trong tâm tư, nghĩ nhớ Bồ Đề tâm, người tŕ tụng sẽ ĺa các lỗi. Đức Phật dạy hết thảy các pháp gây chướng tuy vô lượng, nhưng nói tóm lại, chỉ từ tâm sanh! Lại do hành giả trong đời quá khứ đă tùy thuận pháp keo tham, đời này sẽ có nhiều chướng ngại. Hăy nên biết: Đấy cũng là sanh từ nhân duyên nơi tâm. Hăy nên biết keo tham v.v… chính là cái nhân của các chướng. Nếu trừ bỏ cái nhân đó, các chướng tự dứt. Cái để đối trị ở đây chính là Bồ Đề tâm. Nếu nghĩ tới Bồ Đề tâm, sẽ có thể trừ khử cái nhân của các chướng. Hết thảy các pháp gây chướng lại sanh từ phân biệt. Sự phân biệt ấy do tâm tư hư vọng mà có; Tư chính là chướng, tức là phiền năo, tùy phiền năo v.v… trong tâm. Chữ Có ở đây, nếu nói theo [ư nghĩa trong] tiếng Phạn th́ phải là Sanh. Có tâm tư, mà nếu có thể ĺa các phân biệt, sẽ chính là Bồ Đề tâm thanh tịnh. Do hành giả ức niệm cái tâm [Bồ Đề thanh tịnh] ấy, sẽ có thể ĺa hết thảy lầm lỗi.

          Ư thường tư duy Bất Động Đại Hữu T́nh (Bất Động Ma Ha Tát), sẽ có thể trừ hết thảy các thứ gây chướng. Người ấy hăy nên kết mật ấn, tức là [ấn của] Bất Động Minh Vương đă nói trước đó. Đấy là do Như Lai Pháp Thân vận dụng đại nguyện, trong vô tướng mà hiện tướng này, thủ hộ hết thảy các hành giả Chân Ngôn. Nếu hành giả thường có thể ức niệm, sẽ có thể ĺa hết thảy các chướng. Nói Bất Động chính là cái tâm Bồ Đề chân tịnh. Do biểu thị ư nghĩa này, bèn do sự mà đặt tên. Vị Minh Vương này nhắm một mắt là có thâm ư: Do mắt Phật thấy rơ “chỉ có một mà thôi, chẳng có hai, chẳng có ba”. Ấn ấy sẽ được nói trong phần sau.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ phục thính, hệ trừ tán loạn phong, A tự vi ngă thể, tâm tŕ Ha tự môn. Kiện-đà dĩ đồ địa, nhi tác Đại Không điểm, y ư Phạ Dữu phương, hạp dĩ Xả Ra Phạm, tư niệm ư bỉ khí, đại tâm Di Lô sơn, thời thời tại kỳ thượng. A tự Đại Không điểm, tiên Phật sở tuyên thuyết, năng phược ư đại phong.  

          ()祕密主復聽,繫除散亂風,阿字為我體,心持訶字門,健陀以塗地,而作大空點,依於嚩庾方,闔以捨囉梵,思念於彼器,大心彌盧山,時時在其上。阿字大空點,先佛所宣說,能縛於大風。

            (Kinh: Bí Mật Chủ lại nghe, buộc trừ gió tán loạn, chữ A là ngă thể. Tâm tŕ môn chữ Ha. Dùng hương để bôi đất, để vẽ chấm Đại Không, ở nơi phương Phạ Dữu, đậy bằng Xả Ra Phạm[1]. Nghĩ nhớ món đồ ấy, núi đại tâm Tu Di, luôn luôn ở trên đó. Chữ A, chấm Đại Không, cổ Phật đă tuyên nói, trói được trận gió lớn).

 

          [Đức Phật nói]: “Bí Mật Chủ! Để trị nạn gió, nên tụng chữ A”, cũng có nghĩa là: Lấy ngay chữ A làm thân, dùng tự môn “vốn là Không” y để làm cái thân của ta. Tâm vô ngă tụng niệm chữ Ha. Dùng hương bôi chấm xuống đất bảy chấm. Trước hết, hăy nên tưởng trong trận gió ấy, có chữ Ha, sau khi thêm bảy chấm, nó sẽ bị khống chế. Sau đó, ở nơi phương Phạ Dữu (Vāyu: Phương của thần gió trong Mạn-đồ-la, tức là phương Tây Bắc), dùng cái chén bằng gốm đè lên. Đại chúng nghĩ tưởng cái chén gốm ấy như núi Tu Di, luôn luôn tưởng chữ A ở trên đó và điểm thêm chấm, trận gió ấy sẽ bị trói chặt. [Có nghĩa là]: Theo lời dạy của chư Phật thuở trước, khi tạo lập đàn, nếu có gió lớn gây chướng ngại, hăy ở nơi đất trống, thực hiện cách này th́ gió sẽ dứt. Hăy nên tưởng chữ A ấy trọn khắp trong thân phần. Chữ ấy có màu Kim Cang bất động, tức là màu vàng ṛng. Tưởng như thế xong, trong tâm tụng chữ Ha () ở phương Phong (phương Tây Bắc), dùng hương bôi vẽ trên đất bảy chấm tṛn nhỏ. Mỗi chấm to bằng chừng một viên bi. Vẽ như thế xong, dùng đồ gốm đậy lên. Tâm tưởng trên món đồ bằng gốm ấy có chữ A, coi chữ A ấy như núi kim cang đè xuống. Các núi Tu Di trong tam thiên đại thiên thế giới kết hợp thành một Thể, đè lên đó. Khi đó, lại luôn tưởng chữ ấy ở trên món đồ đó. Chữ A ấy có nghĩa là “kim cang bất động”. Thêm một chấm là trọn hết thảy các chỗ, khiến cho kim cang bất động ấy trọn khắp hết thảy mọi nơi, tức là có ư nghĩa “tăng rộng hơn”.

 

          (Kinh) Đại Hữu T́nh đế thính! Hành giả pḥng sử vũ, tư duy Ra tự môn, đại lực hỏa quang sắc, oai mănh xí diễm man, phẫn nộ tŕ Át Già, tùy sở khởi phương phần, trị địa hưng ấm vân, đoạn dĩ huệ đao ấn. Hôn tế tầm tiêu tán. Hành giả vô úy tâm, hoặc tác Kỵ La kiếm, dĩ thị kim cang quyết, nhất thiết đồng kim cang.  

          ()大有情諦聽,行者防駛雨,思惟囉字門,大力火光色,威猛熾焰鬘,忿怒持遏伽,隨所起方分,治地興蔭雲,斷以慧刀印,昏蔽尋消散。行者無畏心,或作葪羅劍,以是金剛橛,一切同金剛

          (Kinh: Đại Hữu T́nh lắng nghe! Hành giả pḥng mưa giông, tư duy môn chữ Ra, đại lực, màu lửa sáng. Ṿng lửa rực oai mănh, phẫn nộ cầm Át-già (Khaḍga: Kiếm hay đao bén). Theo phương hướng chướng khởi, trị địa, nổi mây che, huệ đao ấn cắt đứt. Tối tăm tiêu tan ngay. Hành giả tâm vô úy, hoặc làm Kỵ La Kiếm (Kīlakaṃ: cọc kim cang). Dùng cọc kim cang ấy, như hết thảy Kim Cang).

 

          Cách để trị chướng ngại do nước gây ra [như sau]: Hăy nên suy tưởng chữ Ra () trọn khắp trong thân, có màu đỏ của ngọn lửa cháy hừng hực, tức là ṿng lửa cháy rực từ trong thân túa ra, bao khắp quanh thân như tràng hoa, làm ra vẻ dữ dằn đáng sợ, sức lực to lớn, tay cầm đại đao ấn. Hiện h́nh dáng giận dữ xong, vẽ h́nh mây xuống đất, hoặc vẽ h́nh rồng, rắn. Dùng Đao Ấn để chém đứt h́nh ấy, mây liền tan diệt. Do mây là cái nhân để các loại nước nương vào. Tùy theo phương hướng nơi chướng nạn dấy lên mà tác pháp, như mưa từ phương Đông bèn tác pháp ở phương Đông.

          Hoặc làm kim cang quyết (cọc kim cang) để dứt mưa gió. Cọc ấy dùng gỗ Khư Đà La (Khadira)[2] làm thành chày kim cang một nhánh. Dùng Kim Cang chân ngôn để gia tŕ. Tưởng [chính ḿnh] giống như hết thảy các vị Kim Cang [cầm chày ấy] để đánh. Cũng tùy theo nơi chốn [khởi chướng để tác pháp]. Pháp này phải nên [quán tưởng tự thân] giống hệt hết thảy các vị Kim Cang rồi mới thực hiện. Làm cái cọc ấy thành h́nh chày kim cang một nhánh, tức là chày ba nhánh loại trừ hai nhánh phụ[3]. Chày nhỏ sẽ gọi là kim cang châm (vajrasuci).

 

          (Kinh) Phục thứ, kim đương thuyết, tức nhất thiết chư chướng. Niệm chân ngôn đại mănh, Bất Động đại lực giả, trụ bổn Mạn-đồ-la. Hành giả hoặc cư trung, nhi quán bỉ h́nh tượng, đảnh đới tam-muội túc, bỉ chướng đương tịnh trừ, tức diệt nhi bất sanh. Hoặc dĩ La Nhĩ Ca, vi diệu cộng ḥa hợp. Hành giả tạo h́nh tượng, nhi dĩ đồ kỳ thân. Bỉ chư chấp trước giả, do tư đối trị cố. Bỉ chư căn xí nhiên. Vật sanh nghi hoặc tâm! Năi chí Thích, Phạm tôn, bất thuận ngă giáo cố, thượng đương vi sở phần, huống phục dư chúng sanh!

          ()復次今當說,息一切諸障,念真言大猛,不動大力者,住本漫荼羅,行者或居中,而觀彼形像,頂戴三昧足,彼障當淨除,息滅而不生。或以羅邇迦,微妙共和合,行者造形像,而以塗其身,彼諸執著者,由斯對治故,彼諸根熾然,勿生疑惑心,乃至釋梵尊,不順我教故,尚當為所焚,況復餘眾生。

          (Kinh: Lại nữa, nay sẽ nói, dứt hết thảy các chướng. Niệm chân ngôn đại mănh, đấng đại lực Bất Động, trụ bổn Mạn-đồ-la. Hoặc hành giả trong đó, chiêm ngưỡng h́nh tượng Ngài, đầu đội chân tam-muội, chướng ấy sẽ trừ sạch, dứt mất chẳng c̣n sanh. Hoặc dùng La Nhĩ Ca[4], vi diệu cùng ḥa hợp. Hành giả tạo h́nh tượng, rồi bôi lên thân tượng. Những kẻ chấp trước kia, do bị đối trị vậy, các căn đều cháy bừng. Đừng sanh tâm nghi hoặc! Thậm chí Thích, Phạm tôn, chẳng thuận giáo của ta, c̣n bị đốt cháy rụi, huống hồ chúng sanh khác).

 

          Để dứt hết thảy các chướng, lại dạy niệm chân ngôn Đại Ác Bất Động Đại Lực, trụ trong Mạn-đồ-la của Ngài. Người tŕ tụng tạo Mạn-đồ-la, trong ấy vẽ h́nh tượng [của Bất Động Minh Vương], chân trái của Ngài đạp lên đỉnh đầu của người ấy (người gây chướng ngại). [Làm như thế] sẽ dứt trừ chướng ngại, chẳng nghi hoặc. Lại nói phương tiện lạ, tức là phương tiện để trừ hết thảy các chướng, chính là [pháp trừ chướng của] Bất Động Minh Vương vừa nói trên đây. Mạn-đồ-la của Bất Động Minh Vương chính là Mạn-đồ-la h́nh tam giác, màu đen. Người tŕ tụng tưởng bản thân thành h́nh tượng Bất Động Minh Vương. Trong sự tác pháp này, lại có hai ư nghĩa:

          - Một là tưởng ngài Bất Động trong Mạn-đồ-la đạp lên đỉnh đầu kẻ đó (kẻ gây chướng).

          - Hai là tưởng thân ḿnh chính là ngài Bất Động, tức là dùng chân ngôn và ấn của Ngài gia tŕ rồi đạp lên [h́nh tượng của kẻ gây chướng]. Tức là trong h́nh tam giác, vẽ h́nh kẻ gây chướng. Sau đấy mới vào đó, dùng chân trái đạp lên đỉnh đầu của kẻ đó. Dùng h́nh tướng Đại Phẫn Nộ để gia tŕ, kẻ đó sẽ ngay lập tức lui tan. Nếu kẻ đó chống trái, chẳng vâng lệnh rời đi, thậm chí ắt sẽ tự đoạn mạng căn. Khi đó, người tŕ tụng nên sanh tâm Từ, niệm rằng: “Đừng đoạn mạng hắn!” Nhưng mật ư ở đây là: Cái gọi là kẻ “gây chướng” chính là các pháp keo tham v.v… nẩy sanh từ trong tâm, có thể gây nên hết thảy chuyện chướng ngại cho hành nhân. Bất Động Minh Vương ở đây chính là trí Nhất Thiết Trí đại Bồ Đề tâm. Hăy nên biết cái tâm này chính là đại lực oai mănh, có thể vĩnh viễn trừ diệt hết thảy các thứ lướt qua mắt, mũi v.v… khiến cho chúng vĩnh viễn đoạn trừ. Đó chính là nghĩa Chết.

          Như Du Già có nói: Khi đức Phật mới thành Chánh Giác, nhóm họp to lớn hết thảy các đại chúng trong tam giới thuộc vào hết thảy Mạn-đồ-la. Có Ma Hê Thủ La (Maheśvara, Tự Tại Thiên) là người đứng đầu tam thiên thế giới, trụ trong cơi tam thiên. Do tâm ông ta kiêu mạn, nên chẳng chịu vâng theo mạng lệnh triệu tập, nghĩ như thế này: “Ta là chúa tam giới, c̣n ai tôn quư hơn ta mà triệu vời ta?” Lại nghĩ như thế này: “Người tŕ chú sợ hết thảy vật ô uế, nay ta hóa ra hết thảy vật ô uế vây quanh bốn phía rồi trụ trong đó, chú thuật do kẻ đó thực hiện sẽ có thể làm ǵ được?” Khi ấy, Bất Động Minh Vương vâng theo giáo mạng của đức Phật triệu vời ông ta, thấy ông ta làm như thế, liền hóa ra Thọ Xúc Kim Cang (tức là Bất Tịnh Kim Cang, Ucchusma, Uế Tích Kim Cang, Ô Sô Sa Ma Kim Cang), sai vị ấy bắt lấy [Ma Hê Thủ La]. Lúc bấy giờ, Bất Tịnh Kim Cang trong khoảnh khắc đều nuốt sạch tất cả các ô uế chẳng c̣n thừa sót, bắt lấy ông ta, đưa đến chỗ Phật. Ông ta lại nói: “Các ngươi là loài Dạ Xoa, ta là chúa tể chư thiên, há có thể vâng theo mạng lệnh của bọn ngươi ư?” Lập tức trốn về, bảy lượt như thế. Lúc bấy giờ, Bất Động Minh Vương bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Cớ sao hữu t́nh này phạm pháp tam-muội-da của tam thế chư Phật, hăy nên dùng chuyện ǵ để trị?” Đức Phật bảo: “Lập tức đoạn trừ ông ta”. Khi đó, Bất Động Minh Vương liền nắm lấy Ma Hê Thủ La, dùng chân trái đạp lên vầng bán nguyệt trên đỉnh đầu hắn, chân phải đạp trên h́nh bán nguyệt trên đỉnh đầu vợ hắn. Lúc đó, Đại Tự Tại Thiên ngay lập tức mạng chung. Lập tức trong khi đang chết ngất, ông ta chứng vô lượng pháp, được thọ kư sẽ thành Phật trong thế giới Hôi Dục, hiệu là Nguyệt Thắng Như Lai.

          Đấy đều là lời bí mật. “Ăn hết thảy các thứ ô uế” chính là ăn nuốt các pháp cấu uế, cặn bẩn như ác nghiệp phiền năo v.v… Nói “mạng chung” tức là hết thảy tâm pháp (các tâm sở) vĩnh viễn đoạn trừ, nhập Vô Sanh pháp tánh. V́ thế, từ đó được hết thảy chư Phật thọ kư, chẳng phải là bị giết chết. Lúc bấy giờ, các chư thiên thấy chúa cơi trời trong tam thiên thế giới do chẳng thuận theo tam-muội-da mà tự bị mạng chung, hết thảy kính sợ, tự bảo nhau rằng: “Chúa trời c̣n như thế, sao ta chẳng đến [chỗ Phật]?” Liền cùng nhau đến chỗ đức Phật, đạt được pháp lợi trong Đại Mạn-đồ-la. Khi ấy, Bất Động Minh Vương bạch cùng đức Phật rằng: “Đại Tự Thiên này nên làm như thế nào?” Đức Phật bảo: “Ông hăy nên khiến cho hắn sống lại”. Bất Động Minh Vương liền nói Pháp Giới Sanh chân ngôn. Lúc bấy giờ, Đại Tự Tại liền tỉnh lại, sanh ḷng đại hoan hỷ, bạch rằng: “Rất hy hữu! Thoạt đầu con bị triệu tới, hỏi Phật: ‘Gă Dạ Xoa này thuộc loài nào?’ Con chẳng hiểu. Đức Phật bảo: ‘Là chúa của chư Phật’. Con nghĩ thế này: ‘Chư Phật tôn quư nhất trong hết thảy, sao lại coi gă này là chúa vậy ḱa?’ Đấy là con chẳng hiểu, nay mới biết. Do sức của vị đại vương này, khiến cho con hiện tiền được thọ kư thành Phật. Hăy nên biết Ngài thật sự là tôn quư trong chư Phật’. V́ lẽ nào vậy? Đại Tự Tại Thiên là chúa tể của tam thiên thế giới, chính là tự tâm của chúng sanh, được gọi là vô thỉ vô minh trụ địa, được tự tại trong các Hoặc. Chỉ trừ đại Bồ Đề tâm ra, không ai có thể khuất phục. “Đoạn mạng rồi” tức tác chứng trong tịch nhiên giới. Nói “sanh” tức là khởi huệ môn của Phật. V́ thế, hành giả Chân Ngôn phải nên tư duy mỗi lời mật ngữ của chư Phật!

          Lại có pháp là dùng hai thứ hạt cải và các thứ độc dược trộn chung. Tạo h́nh tượng của kẻ gây chướng, dùng [hạt cải và thuốc độc] bôi lên, khiến cho thân kẻ đó như bị lửa thiêu, mau chóng bị thương. V́ thế nói là “mau bị”. [Kinh nói] đại lược đến chỗ “Đại Phạm v.v… gây chướng c̣n bị [chế phục], huống hồ những kẻ khác ư?” Pháp này lại c̣n do tŕ tụng đă lâu mà được thành tựu, người hiểu pháp tắc rồi mới có thể thực hiện. Nếu chỉ nghe pháp rồi lập tức mong đạt được tác dụng như thế, chẳng có lẽ ấy! Đối với cọc bằng gỗ Khư Đà ở đây, nếu không có loại gỗ ấy, dùng gỗ khổ luyện[5], cho đến dùng tân thiết[6] cũng được. “Chân” [trong câu “chân trái đạp lên đỉnh đầu”] chính là trí túc (chân trí huệ).

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Kim Cang Thủ bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Như ngă giải Phật sở thuyết nghĩa, ngă diệc như thị tri chư thánh tôn trụ bổn Mạn-đồ-la vị, linh hữu oai thần. Do bỉ như thị trụ cố, Như Lai giáo sắc vô năng ẩn tế. Hà dĩ cố? Thế Tôn tức nhất thiết chư chân ngôn tam-muội-da, sở vị trụ ư tự chủng tánh cố. Thị cố, Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát, diệc đương trụ ư bổn vị, tác chư sự nghiệp.

          ()爾時金剛手白佛言:世尊!如我解佛所說義,我亦如是知諸聖尊住本漫荼羅位令有威神,由彼如是住故。如來教勅無能隱蔽。何以故?世尊即一切諸真言三昧耶,所謂住於自種性故。是故真言門修菩薩行諸菩薩,亦當住於本位作諸事業。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ bạch Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa do đức Phật nói, con cũng biết như thế này: Các vị tôn thánh trụ nơi tọa vị trong Mạn-đồ-la của họ, khiến cho có oai thần như thế. Do họ trụ như thế, giáo sắc của Như Lai chẳng thể ẩn tàng. V́ cớ sao? Đức Thế Tôn chính là hết thảy các chân ngôn tam-muội-da, tức là trụ trong chủng tánh của chính ḿnh. V́ thế, các Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn cũng nên trụ nơi bổn vị, thực hiện các sự nghiệp).

 

          Ngài Kim Cang Thủ bạch cùng đức Phật rằng: “Vị Đại Lực Bất Động Minh Vương (tức là tôn chủ) này có thể làm chuyện oai mănh như thế, có thể điều phục, có thể truyền giáo lệnh bí mật của Như Lai, khiến cho [giáo lệnh ấy được] thực hiện”. Nếu như Bổn Tôn là Phật Bộ, tức là [vị Bổn Tôn ấy sẽ] ngồi trên kim luân. Nếu làm như thế, ắt sẽ có linh nghiệm. Sự “hiển hiện oai thần” ở đây chính là nói về sự hiệu nghiệm. “Khiến cho làm” tức là nói nếu nay làm như thế, ắt sẽ có công hiệu. Ở trong các đường sanh tử, [chân ngôn này] được nghe biết trọn khắp, không ai dám ẩn giấu chân ngôn này. V́ thế, Tŕ Kim Cang là bậc đại lực oai mănh, chẳng dám ẩn giấu, tức là do vị tôn thánh này có linh nghiệm, thực hiện các thiện sự đều thành tựu, các kẻ gây chướng sẽ chẳng dám ẩn giấu giáo sắc của Như Lai. “Chuyện đáng nên làm” th́ cũng chính là tam-muội-da của mười phương ba đời chư Phật. Hết thảy các Chấp Kim Cang chúng con cũng phải nên thực hiện chuyện đáng nên làm, thuận theo tam-muội này, chẳng dám bỏ lỡ. V́ lẽ nào vậy? Đấy chính là tánh của các Kim Cang; v́ thế, phải thường trụ trong pháp ấy.

          Mỗi tánh trong tứ tánh (bốn chủng tánh trong xă hội Cổ Ấn Độ) đều có gia pháp; nếu đánh mất gia pháp, sẽ chẳng thể gọi là “kính thuận lời dạy của cha ông”, người đời sẽ gọi kẻ đó là “đứa con xấu ác”. Nay đấng đại hùng mănh, điều phục kẻ khó điều phục, tuyên bố giáo pháp khó tin; đấy chính là gia pháp của chủng tánh Kim Cang chúng con. Đó chính là gia pháp thuộc chủng tánh Như Lai. [Nhắc tới] các vị Bồ Tát trong Chân Ngôn môn, các vị Bồ Tát tu hành ấy trụ trong bổn vị để làm hết thảy các sự; đó chính là ư nghĩa ngài Kim Cang Thủ dùng bản thân để khuyên lơn, khích lệ các hành nhân: Đối với chuyện mà chúng tôi đáng nên làm, nếu quư vị là người tu hành tŕ chân ngôn, th́ cũng nên trụ trong ấy; đó chính là gia pháp của Như Lai. Đáng nên dùng vô lượng môn để hàng phục các chướng, khiến cho [những kẻ gây chướng ngại] chẳng dám ẩn giấu pháp của Như Lai. Các hành nhân ấy cũng nên phỏng theo chư tôn, nếu muốn làm pháp hàng phục, cần phải tưởng tự thân là ngài Bất Động, trụ trong hỏa luân v.v… Đức Phật nói: “Như thị Bí Mật Chủ! Như thị như thuyết” (Đúng như thế, Bí Mật Chủ! Đúng như lời ông đă nói) chính là lời ấn khả: Quả đúng như những điều ông đă nói!

         

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Nhược thuyết chư sắc, bỉ chư thánh tôn Mạn-đồ-la vị, chư tôn h́nh tướng, đương tri diệc nhĩ, thị tắc tiên Phật sở thuyết.

          ()祕密主!若說諸色彼諸聖尊漫荼羅位、諸尊形相,當知亦爾,是則先佛所說。      

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Nếu nói về các màu [nơi thân tướng của chư vị tôn thánh, tùy theo từng màu mà mỗi vị sẽ ngồi trên các luân khác nhau], đối với vị trí của các vị tôn thánh trong Mạn-đồ-la, và h́nh tướng của chư tôn, cũng nên biết [họ sẽ ngồi trên luân hay đàn khác nhau] như thế. Đó là lời dạy của cổ Phật).

 

          Mỗi vị Bổn Tôn đều có h́nh sắc riêng, trong phần sau sẽ nói. Như trong phần trên đă nói, [mỗi vị tôn thánh] đều tùy theo vị trí của chính ḿnh [trong Thai Tạng Mạn-đồ-la] mà thực hiện sự nghiệp, nay lại nói đến màu sắc. Tức là đối với tất cả các vị tôn thánh trong hội, nếu thấy có màu vàng, [vị ấy] sẽ đáng nên ngồi trên kim luân, màu trắng th́ ngồi trên thủy luân, màu đỏ như lửa th́ ngồi trên hắc phong luân. Kế đó, từng chữ Phạm âm (chủng tử tự của từng vị tôn thánh) có màu sắc khác biệt; đó là “h́nh tướng” [được nói trong chánh kinh]. Như thấy [một vị tôn thánh có] dáng vẻ tịch nhiên, cần phải [vẽ vị tôn thánh ấy] ngồi trên đàn tṛn v.v… Tùy theo từng loại mà nói như thế. Hăy nên mỗi mỗi vâng theo lời dạy mà vẽ. Đó là lời dạy của cổ Phật, đạo u huyền tương đồng, chẳng riêng do ta (Thích Ca Mâu Ni Phật) cố ư nói. [Đức Phật khẳng định như thế] v́ muốn cho chúng sanh dấy lên ḷng tin quyết định.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Ư vị lai thế, liệt huệ, vô tín chúng sanh, văn như thị thuyết, bất năng tín thọ, dĩ vô huệ cố, nhi tăng nghi hoặc, bỉ duy như văn kiên trụ, nhi bất tu hành, tự tổn, tổn tha, tác như thị ngôn: “Bỉ chư ngoại đạo hữu như thị pháp, phi Phật sở thuyết”. Bỉ vô trí nhân đương tác như thị tín giải.

          ()祕密主!於未來世劣慧無信眾生,聞如是說,不能信受,以無慧故而增疑惑。彼唯如聞堅住而不修行,自損損他作如是言:彼諸外道有如是法,非佛所說。彼無智人當作如是信解。

          (Kinh: Này Bí Mật Chủ! Trong đời vị lai, chúng sanh huệ kém, chẳng tin. Do không có trí huệ, tăng thêm nghi hoặc. Bọn họ chỉ bám chắc vào các điều đă được nghe, chẳng tu hành, tự tổn, tổn hại người khác, nói như thế này: “Lũ ngoại đạo đó có pháp như thế, chẳng phải là do đức Phật nói”. Kẻ vô trí ấy sẽ tin hiểu như thế).

 

          Kẻ không có trí huệ, tăng thêm nghi hoặc, do các chúng sanh ấy căn độn, ít trí, ḷng tin chẳng đủ, cho nên nghe chuyện rất sâu này, sẽ chẳng thể hiểu rơ, càng tăng thêm lưới nghi. Đấy chính là nguyên do gây chướng. Vẽ [các h́nh tượng Bổn Tôn và chủng tử của] chân ngôn, tŕ tụng v.v… mỗi mỗi đều có thâm ư, đều là chuyện chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai. Như người có được món thuốc như thế, liền có thể bay lên không trung, hoặc vào trong lửa v.v… Điều ấy chỉ do các duyên ḥa hợp, cho nên chắc chắn chẳng dối, chẳng phải hư huyễn, chẳng phải là điều để mọi người suy lường mà ḥng nêu ra nguyên do được! Vẽ các màu sắc như thế ấy, nếu vâng theo pháp chẳng nghi, sẽ có thể thâm nhập cảnh pháp giới chẳng thể nghĩ bàn. Điều này chỉ có người tin mới được vào, nếu muốn dùng tâm số (các tâm sở, các vọng niệm phân biệt) để suy đoán, ḍ lường, sao có thể biết nguyên do để rồi chẳng nghi ư? Như người đời do sức thuốc mà bay lên không trung, chuyện ấy các vị c̣n chưa thể hiểu trọn vẹn được! Thế mà do cái tâm ngu độn, khinh miệt, hủy báng [pháp thâm mật này], bảo chẳng phải là pháp chân không vô tướng của Như Lai, chỉ tự tổn hại: “Chỉ chấp chặt vào những ǵ đă nghe biết, chẳng tu, kẻ đó tự tổn hại, tổn hại người khác, [cho là] nói như thế th́ chính là pháp của ngoại đạo v.v… Pháp như thế chẳng phải do đức Phật nói”. Người ấy tuy nghe pháp này, chẳng thể có tín tâm quyết định, tu hành đúng như pháp để cầu sự hiệu nghiệm trong hiện tại. Do chẳng thể, bèn sanh ḷng báng bổ rằng: “Sao lại do pháp chấp tướng như thế mà có thể thành Bồ Đề được ư? Đấy ắt là do bọn ngoại đạo nói, chẳng phải là Phật pháp”. Như người có được cam lộ cơi trời, chỉ cần quyết tâm sanh ḷng tin mà uống vào, sẽ tự thấy hiệu nghiệm trong hiện thời. Miệng chẳng uống vào mà cầu bay lên không trung giữa ban ngày, do chẳng được thành tiên, bèn báng bổ thuốc ấy. Hăy nên biết kẻ đó chẳng phải là người có trí. Do vậy, kẻ vô trí tin hiểu [sai lầm] như thế đó.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết kệ ngôn: - Nhất Thiết Trí Thế Tôn, chư pháp đắc tự tại, như kỳ sở thông đạt, phương tiện độ chúng sanh. Thị chư tiên Phật thuyết, lợi ích cầu pháp giả. Bỉ ngu phu bất tri, chư Phật chi pháp tướng. Ngă thuyết nhất thiết pháp, sở hữu tướng giai Không, thường đương trụ Chân Ngôn, thiện quyết định tác nghiệp.

          ()爾時世尊而說偈言一切智世尊,諸法得自在,如其所通達,方便度眾生。是諸先佛說,利益求法者,彼愚夫不知,諸佛之法相。我說一切法,所有相皆空,常當住真言,善決定作業。

            (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bèn nói kệ rằng: - Nhất Thiết Trí Thế Tôn, tự tại trong các pháp, như Ngài đă thông đạt, phương tiện độ chúng sanh. Đấy do cổ Phật nói, lợi ích người cầu pháp. Kẻ ngu phu chẳng biết, pháp tướng của chư Phật. Ta nói hết thảy pháp, tất cả tướng đều Không. Thường nên trụ Chân Ngôn, khéo quyết định tác nghiệp).

         

          Phật là bậc Nhất Thiết Trí, trong hết thảy các pháp đă được tự tại, lợi lạc chúng sanh. Chữ “dĩ” (đă) ở đây cũng có thể hiểu là “thông đạt”; đó là ư nghĩa chánh yếu, tức là ư nghĩa “trọn đủ phương tiện, không ǵ chẳng hiểu”. Do trước câu này, [chánh kinh] đă nói “nhất thiết”, [phải nên áp dụng ư nghĩa ấy vào đây], do tiếng Phạn có cách nói chiếu ứng ấy. Trong phần kinh văn trước đó đă nói đến chư Phật, nay từ câu này trở đi mới nói “tiên Phật tác như thị thuyết” (cổ Phật đă nói như thế). Hết thảy các điều được nói giữa đôi đằng đều nhằm nói về chuyện lợi ích người cầu pháp. Do kẻ ngu phu chẳng biết “chư pháp tướng Không”, đó là nói về tướng của hết thảy các pháp. “Thường đương trụ Chân Ngôn, thiện quyết định tác nghiệp” (thường nên trụ Chân Ngôn, khéo tạo tác các sự nghiệp, tức tu hành Mật pháp): Ư nói Như Lai trọn đủ Nhất Thiết Trí, được tự tại trong các pháp. Do chúng sanh trí huệ kém cỏi, Phật chưa thể kham nói ngay về lực dụng chẳng thể nghĩ bàn nơi tự thể của Như Lai, bèn chỉ bày các phương tiện như vẽ vời, màu sắc v.v… khiến cho chúng sanh làm theo, sẽ có thể thỏa măn sở cầu, đạt được lợi ích. V́ lẽ nào vậy? Do các chúng sanh chẳng hiểu tướng Không của các pháp. Do vậy, trong vô tướng, [đức Phật] bèn nói phương tiện hữu tướng. Nếu ai thấu hiểu thâm ư của Phật, sẽ trụ trong hạnh “chân thường trụ”, các việc đă làm đều nhập Lư Thể giống như tâm trí Nhất Thiết Trí. Người chẳng có mối lo ngờ như thế, hết thảy các chướng pháp sẽ chẳng thể thừa dịp [gây rối] được!

 

4. Phẩm thứ tư: Phổ Thông Chân Ngôn Tạng (Phổ Thông Chân Ngôn Tạng phẩm đệ tứ, 普通真言藏品第四)

         

          (Kinh) Nhĩ thời, chư Chấp Kim Cang, Bí Mật Chủ vi thượng thủ, chư Bồ Tát chúng, Phổ Hiền vi thượng thủ, khể thủ Tỳ Lô Giá Na Phật, các các ngôn âm thỉnh bạch: - Thế Tôn! Nhạo dục ư thử Đại Bi Tạng Sanh Đại Mạn-đồ-la vương, như sở thông đạt pháp giới thanh tịnh môn, diễn thuyết chân ngôn pháp cú.

          ()爾時諸執金剛祕密主為上首諸菩薩眾普賢為上首稽首毘盧遮那佛各各言音請白世尊樂欲於此大悲藏生大漫荼羅王如所通達法界清淨門演說真言法句

          (Kinh: Lúc bấy giờ, các vị Chấp Kim Cang, ngài Bí Mật Chủ làm thượng thủ, trong các vị Bồ Tát th́ ngài Phổ Hiền làm thượng thủ, đảnh lễ Tỳ Lô Giá Na Phật, ai nấy dùng lời lẽ thỉnh bạch: - Bạch Thế Tôn! Chúng con ưa thích từ trong Đại Bi Tạng Sanh Đại Mạn-đồ-la vương này, đúng theo từng môn thanh tịnh đă thông đạt đối với pháp giới mà diễn nói pháp cú chân ngôn).

 

          Các vị Bồ Tát, Kim Cang ấy v́ muốn thành tựu viên măn pháp này, ai nấy đảnh lễ Đại Nhật Như Lai xong, mỗi vị vui thích, muốn tự diễn nói pháp môn pháp giới thanh tịnh mà tâm ḿnh đă thông đạt. V́ lẽ nào vậy? Đối với cái Thể của pháp giới thanh tịnh nơi Đại Mạn-đồ-la vương như thế, mỗi vị Bồ Tát do từ một môn mà đạt được tự tại, tương xứng với sự hiểu biết của chính ḿnh mà rộng nói. Nếu có chúng sanh tiến nhập, hành theo một môn ấy, chẳng lâu sau, sẽ được giống như vị Bồ Tát đó. Các vị Bồ Tát ấy đều là đức nội chứng của Đại Nhật Như Lai. V́ muốn rộng khai môn tri kiến ấy, mỗi vị Bồ Tát đều diễn nói một môn.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vô hoại pháp nhĩ gia tŕ, nhi cáo chư Chấp Kim Cang, cập Bồ Tát ngôn: - Thiện nam tử! Đương thuyết như sở thông đạt pháp giới, tịnh trừ chúng sanh giới chân thật ngữ cú.

          ()爾時世尊無壞法爾加持而告諸執金剛及菩薩言善男子當說如所通達法界淨除眾生界真實語句

            (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn do pháp vốn sẵn bất hoại gia tŕ như thế, bảo các vị Chấp Kim Cang và Bồ Tát rằng: - Thiện nam tử! Hăy nên nói câu chữ chân thật tịnh trừ chúng sanh giới đúng như các ông đă thông đạt).

 

          Khi đó, đức Phật thuận theo lời thỉnh của họ, do pháp ấy là vô tận, hoặc có thể nói là vô hại, hoặc có thể nói là bất động, hoặc có thể nói là bất hoại, các nghĩa dưới đây chính là các ư nghĩa đó. Như người khăng khăng cam chịu thất bại, sẽ chẳng thể cứu chữa được! Lại có kẻ khác có thể ĺa các lỗi lầm ấy, kẻ đó sẽ chẳng bị khuất phục. Ư nghĩa “bất hoại” là như thế đó. Sức tự tại trang nghiêm vô tận, sức vô công dụng mà pháp vốn sẵn có, dùng đó để gia tŕ trọn khắp các đại chúng ấy; sau đấy mới bảo rằng: “Thiện nam tử! Nay các ông hăy nên nói. Như đối với mỗi môn do chính ông thông đạt pháp giới, v́ muốn trừ sạch các cấu uế hư vọng trong hết thảy chúng sanh giới, khiến cho đều giống như chân pháp giới vô tận tạng, ai nấy hăy nên tự nói câu chân ngôn vậy”.

         

          (Kinh) Thời Phổ Hiền tức thời trụ ư Phật Cảnh Giới Trang Nghiêm tam-muội, thuyết Vô Ngại Lực chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tam ma đa nô yết đa, vi ra xà đạt ma nễ xà đa, ma ha ma ha, sa ha.

          ()時普賢菩薩即時住於佛境界莊嚴三昧說無閡力真言曰南麼三曼多勃馱喃三麼多奴揭多囉闍達摩闍多摩訶摩訶莎訶

          (Kinh: Khi đó, Phổ Hiền Bồ Tát lập tức trụ trong Phật Cảnh Giới Trang Nghiêm tam-muội, nói chân ngôn Vô Ngại Lực rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tam ma đa nô yết đa, vi ra xà đạt ma nễ xà đa, ma ha ma ha, sa ha).

 

          Khi đó, Phổ Hiền Bồ Tát trụ trong Phật Trang Nghiêm Cảnh Giới tam-muội để nói chân ngôn Vô Ngại Lực. Ngài là thượng thủ trong các vị đại Bồ Tát, được tự tại trong pháp môn Phật Trang Nghiêm Cảnh Giới, lập tức nhập tam-muội ấy. Phật Cảnh Giới chính là cảnh giới chân thật do chư Phật tự chứng, hàng Thanh Văn chẳng thể đạt được, như trong phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa đă nói. “Trang nghiêm” chính là cái Thể mà Như Lai tự chứng. Thể có vô lượng đức, mỗi đức có vô lượng tên, dùng vô lượng trang nghiêm để tự trang nghiêm. Đấy chính là pháp ĺa danh tự chẳng thể nghĩ bàn. Cớ sao trong Định ấy mà có ngôn thuyết vậy? Tức là nói vị Bồ Tát này do trụ trong môn tam-muội ấy, nên đạt được sức vô ngại. Từ trong tự tâm diện môn mà phát ra đủ loại ánh sáng, trong quang minh ấy nói chân ngôn này.

          Tam Mạn Đa (Samanta) là Đẳng, Nô Yết Đa (Anugata) nghĩa là “tiến, đi, qua”. Vi Ra Xà (Viraja): Vi là ĺa, Ra Xà (Raja) là trần cấu, [Vi Ra Xà] nghĩa là “trừ hết thảy các chướng”. Đạt Ma Nễ Xà Đa (Dharmanirjāta), hai chữ đầu là Pháp, ba chữ sau là Sanh. Sanh ra các pháp nào? Tức là từ thể tánh của các pháp mà sanh. Ma Ha Ma Ha (Mahāmahā): Ma là chữ thứ năm, trọn khắp hết thảy mọi nơi, tức là Đại Không. To lớn trong các món Không, nên gọi là Đại Không. V́ thế, lặp lại. Lại c̣n là “chẳng thể được, không ǵ sánh bằng”, nên gọi là Đại. Trong Trùng Không, lại càng là khôn sánh!

          Ư nói: Đẳng chính là “các pháp rốt ráo b́nh đẳng”. “Tiến” có nghĩa là “đi qua”, tức là Phật khéo vượt qua [sanh tử, phiền năo] mà thành Chánh Giác. Nhưng pháp giới b́nh đẳng chẳng đến, chẳng đi, sao lại có đến, có đi ư? Kế đó, giải thích: Do có thể ly cấu, trừ hết thảy các chướng; đó chính là ư nghĩa “tiến lên thù thắng”. Chẳng đi mà tiến, đó chính là Thiện Thệ bậc nhất! Do tiến hành như thế, sẽ có thể sanh thành các pháp, tức là từ pháp tánh b́nh đẳng mà sanh trong nhà Phật. V́ thế nói là “đại trung chi đại” (lớn nhất trong các thứ to lớn), tức là Đại Không do chứng vô ngại, không ǵ sánh bằng. Đại Không là cảnh giới của Phật. Nhưng chân ngôn này dùng chữ Ha làm Thể, Ha là Hỷ. Đó gọi là tu hành theo pháp tu của Bồ Tát. Nếu chúng sanh từ trong pháp môn này mà thọ tŕ, đọc, tụng, hoặc quán chiếu, tức là có cùng pháp môn với đức Phổ Hiền, chẳng lâu sau sẽ đạt được sức tự tại nơi Phật Cảnh Giới Trang Nghiêm tam-muội.

 

          (Kinh) Thời, Di Lặc Bồ Tát trụ Phát Sanh Phổ Biến Đại Từ tam-muội, thuyết TTâm chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A thệ đan xà da. Tát bà tát đỏa xa dă nô kiệt đa. Sa ha.

          ()時彌勒菩薩住發生普遍大慈三昧說自心真言曰南麼三曼多勃馱喃誓單闍薩婆薩埵奢也奴竭莎訶

          (Kinh: Khi đó, Di Lặc Bồ Tát trụ trong Phát Sanh Phổ Biến Đại Từ tam-muội, nói tự tâm chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A thệ đan xà da, tát bà tát đỏa xa dă nô kiệt đa. Sa ha).

         

          Phổ là b́nh đẳng, trọn khắp hết thảy các pháp giới. Tương xứng với pháp giới mà sanh khởi ḷng đại từ, có thể trao cho trọn khắp hết thảy chúng sanh niềm vui chánh pháp. Đó là chỗ nhập môn của Ngài. Như tự ḿnh tăng tấn, đạt được, nhập vào tam-muội mà nói chân ngôn; do vậy nói là “tự tâm thuyết”. Chữ Thuyết có ư nghĩa giống như trong phần trên. A Thệ Đan Xà Da (Ajitajaya), có nghĩa là “vô năng thắng” (không ai hơn được). Xà Da (Jaya) là thắng, A là không. Tát Bà Tát Đỏa (Sarvasatva) là “hết thảy chúng sanh”. A Xa Dă (Āśaya) là tâm tánh, tức các căn, tánh dục do đă hành, hoặc tu tập từ đời trước. Nô Kiệt Đa (Anugata) là “biết”, tức là có thể biết rơ các căn và tánh hạnh của chúng sanh.     

          Chân ngôn này lấy chữ A làm Thể, tức là ư nghĩa “vốn bất sanh”. “Sanh” là sanh, lăo, bệnh, tử, hết thảy các pháp lưu chuyển. Thể của nó là thường tự chẳng sanh; đó là ư nghĩa của chữ A. Do biết tự tánh của các pháp chẳng sanh, cho nên hết thảy chúng sanh chẳng có thượng, thắng thượng, vô đẳng! Lại có thể biết do pháp thể là bất sanh, soi biết hết thảy tâm tánh của các căn cơ, không ǵ chẳng hiểu rơ hiện giác, thuận theo người đáng nên được [hóa độ] mà thành tựu [người ấy]. Đó là ḷng Từ bậc thượng, thí trọn khắp chúng sanh, chẳng có cùng tận. Do vậy, nếu có chúng sanh có thể thông đạt, thọ tŕ, đọc, tụng pháp hạnh này, hành theo, chẳng lâu sau sẽ có cùng một hạnh với đức Di Lặc.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Hư Không Tạng Bồ Tát nhập Thanh Tịnh Cảnh Giới tam-muội, thuyết tự tâm chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a ca xa tam ma đa nô kiệt đa, phệ chất đát lăm phạ ra đà ra, sa ha.

          ()爾時虛空藏菩薩入清淨境界三昧說自心真言曰南麼三曼多勃馱喃阿迦奢三麼多奴竭吠質怛纜嚩囉莎訶

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Hư Không Tạng Bồ Tát nhập Thanh Tịnh Cảnh Giới tam-muội, tự nói tâm chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a ca xa tam ma đa nô kiệt đa, phệ chất đát lăm, phạ ra đà ra, sa ha).

 

          Hư Không Tạng Bồ Tát nhập Thanh Tịnh Cảnh Giới tam-muội, nói tâm chú, tức là trụ trong tam-muội ấy, có thể biết bản tánh của tự tâm là thanh tịnh, liễu đạt cảnh pháp giới thanh tịnh như thế, tức là tạng bí mật Đại Không. Hư Không lại chính là Đại Bi Thai Tạng, có thể trưởng dưỡng thành tựu cái tâm Bồ Đề. A Ca Xa (Ākāśa) nghĩa là hư không, Tam Mạn Đa (Samata) là Đẳng, ư nói hết thảy các pháp như hư không. Nô Kiệt Đa (Anugata) là biết rơ. Phệ Chất Đát-lăm (Vicitrāṃ) là “áo nhiều màu”, nghĩa là các thứ hiển sắc kỳ diệu. Phạ-ra (Bara) là áo, Đà (Dha) nghĩa là chấp tŕ, Ra là mặc, khoác. Đức ấy sanh ra tức là mặc các loại áo vậy.

          Chân ngôn này lấy chữ A (âm dài, tức chữ Ā, ) làm Thể. Chữ A là cái Thể vốn chẳng sanh, nay chữ Ā này là âm thanh thứ hai, tức là nghĩa Không. Do “vốn bất sanh” nên giống như hư không, cũng tức là hết thảy các pháp đều giống như hư không, tự đạt được sự thấu hiểu như thế đó. “Áo nhiều màu” chính là các thứ pháp môn vạn đức trang nghiêm. Nếu ai có thể chứng môn Không tam-muội này, sẽ có thể dùng vạn đức để trang nghiêm tấm thân, như do hư không thanh tịnh mà có thể thấy hiển sắc. Các điều khác như đă nói trong phần trước.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát nhập Bi Lực tam-muội, thuyết chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a tát đỏa hệ đa, phiêu dữu kiệt đa, đát lăm đát lăm lăm lăm, sa ha.

          ()爾時除一切蓋障菩薩入悲力三昧說真言曰南麼三曼多勃馱喃阿薩埵係多纜纜纜莎訶

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát nhập Bi Lực tam-muội, nói chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a tát đỏa hệ đa, phiêu dữu kiệt đa, đát lăm đát lăm lăm lăm, sa ha).

 

          Lúc bấy giờ, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát nhập Bi Lực tam-muội nói chân ngôn; đó chính là ḷng Bi nơi pháp tánh. Do sức tự tại có thể trừ hết thảy cái chướng của chúng sanh, được tự tại trong các chướng ấy. Có thể ở ngay trong chướng ấy mà lại có thể trừ khử th́ chính là đại bi của Như Lai vậy! A (Aḥ, आः) có nghĩa là “hàng phục, nhiếp phục”. Đó là cái Thể của chân ngôn. Chữ A vốn bất sanh, chữ thứ hai sau đó (tức hai chấm) tạo thành âm dài, chính là Kim Cang tam-muội, lại thêm một điểm bất động th́ chính là ư nghĩa “hàng phục”. Tát Đóa Hệ Đa (Satvahīta) là lợi ích hữu t́nh. Phiêu Dữu Kiệt Đa (Abhyugata) là khởi đầu, mà cũng là khởi sanh. Đát-lăm Đát-lăm (Traṃ Traṃ, त्रंत्रं), Đát chính là chữ Đa (​, ta), có nghĩa là Như Như, trong chữ Lăm (रं) có chữ La (), có nghĩa là “vô cấu”. Thêm một chấm tức là chữ Ma, th́ là “nhập chứng Đại Không”. Lăm Lăm (Raṃ Raṃ): Chữ La trong ấy có nghĩa là “không có bụi bặm”, thêm một chấm tức là chứng Đại Không.

          Chân ngôn này có ư nghĩa: Cái Thể là Như Như, do sức tự tại này mà trừ hết thảy các trần cấu che lấp, ngăn chướng, chứng Không. Cái Không nhất trong các cái Không, chính là ư nghĩa của Đại Không. Tướng ấy vi tế, khó trừ, chốn chốn đều nói phá vô minh tam-muội, trừ sạch Hoặc tướng nơi tự thể. V́ thế, lặp lại hai chữ Lăm Lăm nhằm nhấn mạnh lần nữa. Lại giải thích theo tướng th́ do trụ trong chữ Raṃ (रं), sẽ có thể tạo lợi ích rộng lớn cho hết thảy chúng sanh, phát sanh tánh này, trừ khử các cấu. Nếu có chúng sanh nhập môn Chân Ngôn này, chẳng lâu sau, sẽ có cùng đức với vị Bồ Tát ấy. Phàm khi quán chiếu, chỉ lấy một chữ bản thể làm chủ, khi tŕ tụng th́ nói đủ [các chữ trong chân ngôn]. Đấy là chữ chủng tử. Lại giải thích theo thứ tự của các chữ, như trước hết có chữ Ác (A), dùng chữ kế đó để giải thích. Chuẩn theo tự môn trước đó, nếu chẳng trọn khắp, sẽ chẳng gọi là Phổ được!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Quán Thế Tự Tại Bồ Tát nhập ư Phổ Quán tam-muội, thuyết tự tâm cập quyến thuộc chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Tát phạ đát tha kiệt đa, phạ lộ cát đa, ca rô ni ma dă, ra ra ra, hồng nhă, sa ha.

          ()爾時觀世自在菩薩入於普觀三昧說自心及眷屬真言曰南麼三曼多勃馱喃薩嚩怛他竭多嚩路吉多迦嚧尼麼也囉囉囉吽莎訶

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Quán Thế Tự Tại Bồ Tát nhập Phổ Quán tam-muội, nói chân ngôn của tự tâm và quyến thuộc rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Tát phạ đát tha kiệt đa, phạ lộ cát đa, ca rô ni ma dă, ra ra ra, hồng nhă, sa ha).

 

          Dùng Phổ Nhăn để quán chúng sanh, nên gọi là đấng Quán Tự Tại. Đă nhập môn tam-muội này, từ cái tâm này, tỏa ra đủ loại quang minh, trong quang minh hiện ra chân ngôn của pháp môn. Tát Phạ Đát Tha Kiệt Đa (Sarvatathāgata) tức là hết thảy Như Lai, ư nói mười phương ba đời chư Phật. Phạ Lộ Cát Đa (Avalokita) là Quán, giống hệt như điều đức Phật quán. V́ thế gọi là “chư Như Lai quán”, tức là b́nh đẳng quán. Đó chính là Phổ Nhăn Quán. Ca Rô Ni Ma Dă (Kāruṇamaya) là cái Thể. Đó chính là Đại Bi làm Thể, giống như người bằng vàng, do tự thể thuần là vàng, nên gọi là “kim nhân”. Vị Bồ Tát này cũng thế, thuần dùng Đại Bi làm Thể. Ra Ra Ra: Ra có nghĩa là trần, nhập A tự môn th́ là Vô Trần. Do vậy, nhắc lại ba lượt, ngụ ư trừ trần chướng của phàm phu. Chữ Hồng (Hūṃ) nghĩa là “khủng bố”. Dùng sức tự tại đại oai mănh để đe dọa ba tầng trần chướng, khiến cho chúng bị trừ sạch, giống như mắt Phật. Chữ Nhă (जाः, Ja) cuối cùng chính là chủng tử. Các chữ [khác trong bài chú này] đều nhằm giải thích ư nghĩa của chữ [Nhă] này, tức sanh và bất sanh là ư nghĩa của chữ Xà (, Ja). Hoặc coi chữ Tát (, Sa) đầu tiên là Thể, cũng có cùng công dụng, mang ư nghĩa “cảnh giác”. Trong chữ Hồng (हूं) có chữ Ha () nghĩa là hoan hỷ, trên đó có chấm Đại Không là tam-muội, phía dưới có nét vẽ tam-muội (). Trong đó, nét chữ vẽ ở dưới cũng là tam-muội, [tức là] hai tam-muội song hành. Tam thế chư Phật đều cùng quán điều này. V́ thế gọi là Đẳng Quán.

 

          (Kinh) Đắc Đại Thế chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa bột đà nẫm, nhiêm nhiêm sách, sa ha.

          ()得大勢真言曰南麼三曼多勃馱喃髯髯莎訶

          (Kinh: Chân ngôn Đắc Đại Thế rằng: - Nam mô tam mạn đa bột đà nẫm, nhiêm nhiêm sách, sa ha).

 

          Ngài Đắc Đại Thế cũng nhập môn tam-muội này, giống như ngài Quán Âm, do là quyến thuộc vậy. Nhiêm Nhiêm (Jaṃ Jaṃ, जांजां) nghĩa là Sanh, nên có hai tầng: Trước là Phiền Năo Chướng sanh, sau là Sở Tri Chướng sanh. Nhập môn chữ A th́ toàn thể của cả hai thứ sanh đều là bất sanh. Trên đó có chấm Đại Không, tức là ư nghĩa Đại Không, ngụ ư: Trừ hai thứ chướng th́ Đại Không sanh khởi. Chữ Sách (Sa, सः) là chủng tử của chân ngôn. “Sách” nghĩa là bất động. Pháp bất động mà trụ trong Động tức là có sanh diệt. Phàm là vật có sanh diệt th́ có tướng trụ trong Động. V́ thế kinh nói: “Động, bất động pháp, giai thị bất an chi tướng” (Pháp động và bất động đều là tướng chẳng yên). Bên cạnh [chữ Sa ()] có hai chấm giống như Niết Bàn, tức là ư nghĩa Kiên Trụ. Đă ĺa hai chướng, giống như Đại Không, trụ vững trong địa vị ấy, giống như chư Phật trụ, tức là địa vị “đại thế” (thế lực, oai thế to lớn). Như người đời có quan chức lớn, có lắm tài lực, oai thế, khiến cho nhiều người khuất phục, bèn gọi là “người có oai thế”. Oai thế ấy chính là địa vị. Ư nói: Vượt thoát hai thứ sanh, sẽ giống như Phật sanh, tức là địa vị Như Lai. Đạt được địa vị to lớn ấy, có thế lực to lớn ấy, nên gọi là Đắc Đại Thế.

 

          (Kinh) Đa La tôn chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa bột đà nẫm, ca lô noa, ốt bà phí, đa rị đa rị ni, sa ha.

          ()多羅尊真言曰南麼三曼多勃馱喃迦盧拏婆費多唎多唎尼莎訶

          (Kinh: Chân ngôn của ngài Đa La là: - Nam mô tam mạn đa bột đà nẫm, ca lô noa, ốt bà phí, đa rị đa rị ni, sa ha).

 

          Kế đó, ngài Đa La (Tārā) cũng là quyến thuộc của ngài Quán Tự Tại, nhập tam-muội cũng giống như phần trên đă nói. Ca Lô Noa (Kāruṇa) nghĩa là Bi. Ốt-bà Phí (Odbhave) là Sanh, ư nói sanh từ ḷng Bi. Đấng có ḷng Bi tức là Quán Âm. Vị Bồ Tát này sanh từ mắt của vị tôn thánh ấy (Quán Thế Âm Bồ Tát). Giống như thấy Thật Tướng của các pháp, bèn gọi là Phổ Nhăn, tức là thấy cái Thể Như Như, sanh từ con mắt tam-muội ấy. Đa Rị Đa Rị Ni (Tāre Tārii): Đa Rị nghĩa là Độ. Nhưng chân ngôn này lấy chữ Đa đầu tiên làm thể, tức là chữ Đa (ता, Tā) đầu tiên trong hai chữ Đa. Đa (, Ta) có nghĩa là Như Như, cái chấm bên cạnh () chính là chữ A; đó gọi là hạnh Như Như. Chữ Ra là trần. Sáu trần chính là biển cả sanh tử. Do quán lư tánh Như Như này, hết thảy các trần lao liền giống như “vốn sẵn bất sanh”, tức là ư nghĩa “vượt biển cả”. Có thể vượt thoát các biển cả sanh tử tức là đắc độ trong các pháp. Hơn nữa, Thích Phạm được nói là “cực độ”, do đă tự đắc độ, lại c̣n phổ độ hết thảy chúng sanh, nên gọi là Cực Độ. Nếu người chưa tự đắc độ mà độ người khác, sẽ chẳng thể như thế được. Nếu là người đă tự độ, lại c̣n có thể độ người khác, sẽ có lẽ ấy! Chữ Đa kế tiếp chính là cái Thể của Như Lai. Do quán Như Như mà vượt qua biển cả trần lao, đạt thành tự thể của Như Lai. Như trong Đại Bổn nói có năm trăm vị Đa La, đều sanh từ mắt của đức Quán Âm, đều là A Di Đà Tỷ Muội tam-muội vậy!

 

          (Kinh) Đại Tỳ Câu Chi chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa bột đà nẫm, tát bà bồi dă, đá la tát nễ, hồng, hồng, tát phả trá dă, sa ha.

          ()大毘俱胝真言曰南麼三曼多勃馱喃薩婆陪也哆羅薩儞薩頗吒也莎訶

          (Kinh: Chân ngôn của ngài Đại Tỳ Câu Chi là: - Nam mô tam mạn đa bột đà nẫm, tát bà bồi dă, đá la tát nễ, hồng, hồng, tát phả trá dă, sa ha).

 

          Kế đó, ngài Tỳ Câu Chi (Bhṛkuṭi) nhập tam-muội giống như trên. Tát Bà Bồi Dă (Sarvabhaya) nghĩa là “hết thảy khủng bố”. Đá La Tát Nễ (Trāsani) cũng là Khủng Bố. Hồng Hồng (Hūṃ Hūṃ) cũng có nghĩa là Khủng Bố. Tát Phả Trá Dă (Sphoaya) là “tàn hại, phá chướng”. Sở dĩ lặp lại Khủng Bố là do trước bèn có sự sợ hăi, sau là vô úy. Hết thảy chúng sanh đều có nỗi sợ hăi, do chưa đạt được Vô Úy Xứ. Nhưng do ở trong ấy mà sanh giải đăi, ngạo mạn, ngă chấp, tự cao, cho nên [Bồ Tát] đe dọa họ, khiến cho họ ĺa hữu úy, đạt được vô úy. Do bị sợ hăi mà khiến cho họ được không sợ hăi. V́ thế nói lặp lại. “Tàn hại” tức là phá hết thảy các chướng. Nhưng chân ngôn này lấy chữ Đá La (त्रा​, Trā) làm Thể. Các chữ khác nhằm giải thích chữ này. Đa (, Ta) là Như Như. La là trần. Một chấm bên góc chữ Đa là A (), A tức là “hạnh”. Thể của các trần lao giống như Như Như. Dùng hạnh Như Như này, sẽ có thể chiết phục, diệt tan hết thảy các tràng cao “sanh tử kiến, mạn, ngă chấp”, tức là ư nghĩa “đại tồi phục” đập tan, chế phục lớn lao).

          Trong đại hội của Phật, khi đó, các vị Kim Cang hiện dáng vẻ hàng phục hết sức đáng sợ, ra vẻ như không ai có thể hàng phục họ. Khi đó, từ vết nhăn trên trán của đức Quán Âm, hiện ra vị Bồ Tát này. Phương Tây gọi vết nhăn trên trán là Tỳ Câu Chi. Như người hiện thời tức giận, trên trán sẽ có vết nhăn. Vị Bồ Tát này hiện thân với h́nh dạng đại phẫn nộ. Khi đó, các vị Kim Cang đều sanh ḷng sợ hăi, nhập vào thân ngài Kim Cang Tạng. Khi đó, ngài Tỳ Câu Chi đến trước ngài Kim Cang Tạng. Lúc ấy, ngài Kim Cang Tạng cũng hết sức sợ hăi, lui tới dưới ṭa của Như Lai, “nguyện Phật che chở cho con”. Khi đó, đức Phật bảo ngài Tỳ Câu Chi: “Này chị! Hăy dừng lại”. Lúc bấy giờ, ngài Tỳ Câu Chi liền đứng lại, bạch Phật: “Vâng theo giáo sắc của Phật, con sẽ phụng hành”. Lúc bấy giờ, nỗi sợ hăi của các vị Kim Cang cũng đều trừ, họ đều đại hoan hỷ mà nói thế này: “Đấng đại bi này có thể hiện đại lực oai mănh rất hy hữu. Phải nên thưa hỏi ư bí mật trong ấy”.

 

          (Kinh) Bạch Xứ Tôn chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha kiệt đa tỳ xá dă, tam bà phệ, bát đầu ma ma lư nễ, sa ha.

          ()白處尊真言曰南麼三曼多勃馱喃怛他多毘舍也三婆吠摩摩履儞莎訶   
   
(Kinh: Chân ngôn của ngài Bạch Xứ Tôn là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha kiệt đa tỳ xá dă, tam bà phệ, bát đầu ma ma lư nễ, sa ha).

 

          Kế đến là ngài Bạch Trụ Xứ (Pāṇḍaravāsinī, Bạch Xứ) Bồ Tát, hăy nên giữ nguyên âm tiếng Phạn. Đát Tha Kiệt Đa (Tathāgata) là Như Lai, Tỳ Xá Dă (Viṣaya) là cảnh giới. Cảnh giới của Như Lai gọi là Như Như. Tam Bà Phệ (Saṃbhave) là “sanh từ đó”. Bát Đầu-Ma (Padma) là “hoa trắng”, Ma Lư Nễ (Mālini) tức là dùng hoa Bát Đầu-Ma làm tràng hoa; do vậy đặt tên như thế. Lư Nễ ở đây có nghĩa là “ở”, là “trụ”. Nhưng chân ngôn này lấy chữ Đát (Tat) đầu tiên làm Thể, tức là Như Như. Như Như chính là cảnh giới của chư Phật. Ta nay từ đó mà sanh! “Bạch” tức là tâm Bồ Đề. Trụ trong cái tâm Bồ Đề ấy chính là chỗ tự trụ. Bồ Đề tâm ấy sanh từ cảnh giới của Phật. Thường trụ trong ấy, có thể sanh ra chư Phật. Đây chính là Quán Âm Mẫu, tức Liên Hoa Bộ Chủ.

 

          (Kinh) Hà Da Yết Lật Phạ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hồng khư đà bạn xà, tát phổ trá dă, sa ha.

          ()何耶揭嚩真言南麼三曼多勃馱喃吽佉陀畔闍吒也莎訶

    (Kinh: Chân ngôn của Hà Da Yết Lật Phạ là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hồng khư đà bạn xà, tát phổ trá dă, sa ha).

 

          Kế đó là Mă Đầu Bồ Tát (Hayagrīva, Hà Da Yết Lật Phạ). Hồng nghĩa là “khủng bố”, Khư Đà (खद​, Khada) nghĩa là “ăn nuốt”, tức là ăn nuốt các chướng, nhưng chân ngôn này lấy chữ Khư làm thể. Chữ Khư (, Kha) nghĩa là Không, cái chấm bên góc là “hành”. Đà (, da) có nghĩa là “trao cho”. Nói tới Không, đó chính là Thật Tướng của các pháp. Do hành chuyện này mà đạt được cái quả Thật Tướng. Lại thường dùng điều này để trao cho người khác. Nay nói “ăn nuốt” th́ chính là dùng Không hạnh này để ăn nuốt các thứ gây chướng ngại pháp Bồ Đề. Bạn Xà (Bhañja): Bạn là Dục, Sắc, tam giới, Xà là sanh. Nói gộp chung hai chữ, chính là ư nghĩa “thuận hoại”. Tát Phổ Trá Dă (Sphoaya) nghĩa là “phá nát trọn khắp, khiến cho hết sạch”, ư nói: Dùng Không hạnh ấy để phá hết thảy các pháp trọn khắp, chẳng c̣n thừa sót. Ngoại trừ Thật Tướng của các pháp, các thứ khác đều là pháp gây chướng Bồ Đề. Dùng “ăn nuốt” để phá nát cho đều hết sạch, đạt thành đại thế lực oai mănh. Vị Bồ Tát này là Liên Hoa Bộ Minh Vương.

 

          (Kinh) Thời Địa Tạng Bồ Tát trụ Kim Cang Bất Khả Hoại Hạnh Cảnh Giới tam-muội, thuyết chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha ha ha, tô đa nô, sa ha.

          ()時地藏菩薩住金剛不可壞行境界三昧真言曰南麼三曼多勃馱喃訶訶訶蘇多奴莎訶

    (Kinh: Khi đó, Địa Tạng Bồ Tát trụ trong Kim Cang Bất Khả Hoại Hạnh Cảnh Giới tam-muội, nói chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha ha ha, tô đa nô, sa ha).

 

          Kế đó là chân ngôn của Địa Tạng Bồ Tát. Khi đó, vị Bồ Tát này nhập Kim Cang Bất Khả Hoại Hạnh [Cảnh Giới] tam-muội. Kim Cang tức là tâm Bồ Đề. Tâm Bồ Đề ấy chẳng thể phá hoại; nương vào đó để hành Kim Cang hạnh. Ha Ha Ha: Chữ Ha đầu tiên là cái Thể của chân ngôn. Ha có nghĩa là hành, cũng có nghĩa là cười, là hoan hỷ. Nhập môn chữ A liền ĺa hỷ, Hỷ chính là pháp sanh diệt. Sở dĩ có ba [chữ Ha], do chính là hạnh tam thừa. Vị Bồ Tát này dùng đủ loại pháp môn để lợi ích chúng sanh. Tô Đa Nô (Sutanu): Tô là thiện, Đa Nô là Tử, tức là Thiện Tử (đứa con tốt lành), cũng có nghĩa là Khinh An. Ví như khéo có thể hành hạnh này để lợi ích hữu t́nh, thật sự là Phật tử, từ thiện tánh mà sanh, nên gọi là Thiện Tử. Do từ Phật mà sanh, nên gọi là Phật Tử. Vị Bồ Tát này liền có thể nói các loại hạnh môn trong tam thừa để lợi ích chúng sanh như trong kinh Thập Luân đă rộng nói.

 

          (Kinh) Thời Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử trụ Phật Gia Tŕ Thần Lực tam-muội, tự thuyết tâm chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hê hê câu ma ra ca, tỳ mục cật-để bát tha tất-thể đa, sa-ma ra, sa-ma ra, bát-ra để nhă, sa ha.

          ()時文殊師利童子住佛加持神力三昧,說自心真言曰:南麼三曼多勃馱喃醯醯俱摩囉迦目吃底鉢他悉體多麼囉麼囉鉢囉底莎訶

    (Kinh: Khi đó, Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử trụ trong Phật Gia Tŕ Thần Lực tam-muội, tự nói tâm chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hê hê câu ma ra ca, tỳ mục cật-để bát tha tất-thể đa, sa-ma ra, sa-ma ra, bát-ra để nhă, sa ha).

 

          Kế đó, ngài Văn Thù nhập Phật Gia Tŕ Thần Lực tam-muội. Gia Tŕ tam-muội này như trong phần đầu kinh Tỳ Lô đă nói. Hê Hê nghĩa là triệu tập, Câu Ma Ra Ca (Kumāraka) nghĩa là “đồng tử” (bé trai), tức là triệu tập khiến cho nghĩ nhớ bổn nguyện. Lại c̣n có nghĩa “tồi phá” (dẹp tan). Ma Ra (Mara) là quyến thuộc của Ma, đó chính là Tứ Ma. Chân ngôn này lấy chữ Ma làm thể, tức là ư nghĩa Đại Không. Chứng Đại Không, sẽ đập tan hết thảy các ma. Tỳ Mục Cật-để Bát Tha Tất-thể Đa (Vimuktipathasthita) là người trụ trong đạo giải thoát, tức là gọi đồng tử này trụ trong đạo giải thoát, tức là sự giải thoát của chư Phật, chính là Đại Niết Bàn. Sa-ma Ra Sa-ma Ra (Smara Smara) nghĩa là ức niệm. Bát-ra Để Nhă (Pratijñāṃ) là sở nguyện đă lập trước đó.

          Chân ngôn này có ư nói: Hê Hê đồng tử trụ trong đạo giải thoát, nghĩ nhớ bổn nguyện đă lập. Pháp Thân của hết thảy chư Phật thành Phật, nhập cái Thể “thân, khẩu, ư bí mật”, hết thảy kẻ hữu tâm chẳng thể sánh bằng! Nhưng do nghĩ nhớ bổn nguyện, dùng sức tự tại, trở vào sanh tử cứu độ chúng sanh. Chân ngôn này cũng có ư nghĩa như thế đó. Vị đồng tử này đă thành tựu Pháp Thân Phật từ lâu; do vậy, thỉnh Ngài hăy nghĩ nhớ bổn nguyện độ chúng sanh. Do thỉnh bổn nguyện của Bồ Tát, nếu có ai thấy, nghe, tiếp xúc, hay biết, nghĩ nhớ đến ta, sẽ đều đắc Định rốt ráo trong tam thừa, cho đến thỏa măn hết thảy các nguyện. Vị Bồ Tát này thành Phật đă lâu, tức là Phổ Kiến Như Lai, hoặc c̣n gọi là Phổ Hiện Như Lai, do sức đại bi gia tŕ mà thị hiện thân đồng tử.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Kim Cang Thủ trụ Đại Kim Cang Vô Thắng tam-muội, thuyết tự tâm cập quyến thuộc chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, chiến đồ ma ha lô sắt noa, hồng.

          ()爾時金剛手住大金剛無勝三昧說自心及眷屬真言曰南麼三曼多伐折囉𧹞戰荼麼訶盧瑟拏

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Kim Cang Thủ trụ trong Đại Kim Cang Vô Thắng tam-muội, nói tự tâm và quyến thuộc chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, chiến đồ ma ha lô sắt noa, hồng).

 

          Kế đó là Kim Cang Vô Thắng tam-muội. Do không ǵ sánh bằng được, nên gọi là Vô Thắng. Do hiện tại giác ngộ cái Thể Kim Cang của chư Phật, có thể tŕ trí của chư Phật, nên gọi là Chấp Kim Cang. [“Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn(Namaḥ samantavajrāṇāṃ) là] quy mạng [hết thảy] các Kim Cang, v́ Kim Cang chính là trí ấn của chư Phật, tức là biệt danh của chư Phật vậy. Chiến Đồ (Caṇḍa) là cực ác. Tột cùng trong các điều ác, ư nói: H́nh dạng bạo ác, không ai hơn được. Thậm chí ăn thịt hết thảy thế gian chẳng bỏ sót, tức là ác tột bậc. Ma Ha Lô Sắt Noa (Mahāroṣaṇa) là đại phẫn nộ. Đă cực ác, mà lại c̣n phẫn nộ hết mực, tức là nói Phật đệ nhất oai mănh, tàn hại tận cùng sào huyệt thế gian, khiến cho [chúng sanh] đều nhập pháp giới, quy vào Kim Cang Giới. Chữ Hồng (hūṃ) là cái Thể của chân ngôn, có nghĩa là chẳng sợ hăi. [Chữ Hồng gồm ba phần: Chính giữa là] chữ Ha, nghĩa là hành. Phía trên có một điểm Đại Không, nét cong ở dưới là Định. Đó là Đại Không hành tam-muội, tức là tên gọi khác của Đại Kim Cang tam-muội. Do có thể hàng phục, chẳng có ai thắng được!

 

          (Kinh) Mang Măng Kê chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn, đát rị trá đát rị trá, nhă diễn để, sa ha.

          ()忙莽計真言曰南麼三曼多伐折囉𧹞吒怛衍底莎訶

          (Kinh: Chân ngôn của Mang Măng Kê là: - Nam mô tam mạn đa chiết phạt ra nạn, đát rị trá đát rị trá, nhă diễn để, sa ha.)

 

          Kế đến là Kim Cang Mẫu, được gọi là Mang Măng Kê (Māmāki). Mang nghĩa là mẹ, Măng Kế nghĩa là nhiều, tức là mẹ của hết thảy các Kim Cang. Các kim cang trí huệ sanh từ đây. Đát-Rị Trá Đát-Rị Trá (Triṭa Triṭa): Trong ấy, chữ Đát-Rị (त्रि) thứ nhất là Thể, [gồm ba phần]: Đa nghĩa là như như, Ra nghĩa là ly trần cấu, Y là tam-muội. Tức là Như Như Vô Cấu tam-muội, các trí huệ kim cang sanh bởi đấy. Chữ Trá chẳng thành, là nửa Thể. Phá hoại cái Thể “chẳng thành” chính là nghĩa “chết”. Do tam-muội này, “giết” kẻ thuộc vô minh trụ địa, đă giết vô minh trụ địa! Nhă Diễn Để (Jayanti) có nghĩa là Thắng, cũng có nghĩa là Sanh. Nếu liễu đạt Như Như, trừ sạch cấu chướng, sẽ đạt được Sanh không ai hơn được. Do vậy, là mẹ của đại chúng. Không ai hơn được mà sanh, tức là sanh ra các Kim Cang. Kim Cang là bậc không ai hơn, cũng sanh ra những người không ai hơn được! Vô Thắng Sanh (sự sanh không chi hơn được) ấy c̣n gọi là Cam Lộ Sanh.

 

          (Kinh) Kim Cang Tỏa chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn, bạn đà bạn đà dă, mộ trá mộ trá dă, phạt chiết ra ốt bà phệ, tát phạ đát ra bát ra để ha đế, sa ha.

          ()金剛鎖真言曰南麼三曼多伐折囉𧹞畔陀畔陀也暮吒暮吒也伐折囉嗢婆吠薩嚩怛囉鉢囉底訶諦莎訶

    (Kinh: Chân ngôn Kim Cang Tỏa là: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn, bạn đà bạn đà dă, mộ trá mộ trá dă, phạt chiết ra ốt bà phệ, tát phạ đát ra bát ra để ha đế, sa ha).

 

          Kế đến là chân ngôn của ngài Kim Cang Tỏa (Vajraśṛṅkhalā, Kim Cang Thương Khế La). Bạn Đà Bạn Đà Dă (Bandha bandahya): [Chữ Bạn (बं) này] là chữ Phạ () đằng sau kèm thêm chữ Na, dùng chữ Na ấy thêm vào trên chữ Phạn, tức là cái chấm Đại Không [trên chữ Phạ]. Nếu chữ Phạ trước đó đă thêm chấm th́ chữ Đà (, dha) kế đó, không cần thêm âm Na (tức là không có chấm). Ở đây, lấy chữ Bạn làm Tâm, có ư nghĩa “trói buộc”, tức là Kim Cang Phược. Bạn Đà có nghĩa là “thủ hộ trọn khắp”, tức là trọn khắp mọi nơi đều dùng nó để kết lại. Trọn khắp mọi nơi bị nó kết lại, tức là kết cái Thể của pháp giới vậy. Cái chấm trên đầu ấy [chữ Phạ] ấy có nghĩa là “trọn khắp hết thảy mọi nơi”. Đă liễu đạt cái Thể của Kim Cang pháp giới, kết cho nó chẳng hoại, tức là ư nghĩa “kết hộ” (kết giới thủ hộ) vậy. Mộ Trá Mộ Trá Dă (Moṭa Moṭaya) nghĩa là kiên cố. Đă làm kim cang phược, đă trói rồi lại trói thêm, khiến cho nó vững chắc. Bạt Chiết Ra Ốt Bà Phệ (Vajrodbhave) là kim cang sanh. Sanh từ kim cang giới th́ chính là kim cang trí của chư Phật sanh khởi. Tát Phạ Đát Ra Bát Ra Để Ha Đế (Sarvatrāpratihate) chính là các thứ chẳng thể hại. Như bản thể của báu kim cang, hết thảy chẳng thể hại. Nếu thấu hiểu kim cang thể tánh ấy, do kim cang phược trói chặt cái Thể, cho nên nó chẳng thể bị hư hại. Kim cang phược chính là Chân Như không có kẽ hở!

         

          (Kinh) Kim Cang Nguyệt Yển chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn, hiệt rị, hồng phát trá, sa ha.

          ()金剛月壓真言曰南麼三曼多伐折囉𧹞頡唎吽發吒莎訶

          (Kinh: Chân ngôn của ngài Kim Cang Nguyệt Yển là: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn, hiệt rị, hồng phát trá, sa ha).

 

          Kế đến, nói về chân ngôn của ngài Phẫn Nộ Nguyệt Yển Kim Cang (Vajra-candratilaka, Krodhacandratilaka). Trên đây, chữ Hiệt-Rị (h) là Tâm. Hiệt Rị (ह्रीः) có nghĩa là nhiếp triệu, mà cũng là triệu thỉnh. Chữ ấy gồm có chữ Ha (​) là hành, có chữ Ra là ĺa trần cấu, lại thêm nét vạch trên đó là nghĩa tam-muội. Hai chấm bên cạnh tức là giống như Niết Bàn. Đấy là trọn đủ công đức của chư Phật, nguyện ta cũng giống như thế. Kế đó, chữ Hồng có nghĩa là Khủng Bố. V́ nhanh chóng viên măn công đức của chư Phật, dùng sự kiên cường để chuyển biến, thăng tấn Ly Cấu tam-muội, giống như hạnh Niết Bàn, khiến cho hết thảy các ma kinh hăi to lớn, thảy đều tan lui. Phát Trá (Phaṭ) nghĩa là quát mắng, tức quát chửi hết thảy ma chướng, khiến cho chúng nó diệt mất.

 

          (Kinh) Kim Cang Châm chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn, nỉ bệ đà nễ, phạt chiết ra tố chỉ phạt ra đệ, sa ha.

          ()金剛針真言曰南麼三曼多伐折囉𧹞薩婆達麼抳鞞陀儞伐折囉素只伐囉弟莎訶

          (Kinh: Chân ngôn của ngài Kim Cang Châm là: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn, nỉ bệ đà nễ, phạt chiết ra tố chỉ phạt ra đệ, sa ha).

 

          Kế đó là chân ngôn của ngài Kim Cang Châm. Tát Bà Đạt Ma (Sarva- dharma) là hết thảy các pháp, lấy chữ Tát trước đó làm chủng tử thể. Nỉ Bệ Đà Nễ (Nirvedhani) nghĩa là “xuyên qua”. Phạt Chiết La Tố Chỉ (Vajrasūci) là Kim Cang Châm. Phạt Ra Đệ (Varade) là nguyện thù thắng. Ư nói: “Châm” có nghĩa là trí sắc bén. Dùng trí nhạy bén như kim cang ấy xuyên suốt, không pháp nào chẳng thông suốt, có ư nghĩa “huệ đạt pháp tánh”. Đó là ư nghĩa của Kim Cang Châm, tức là xuyên suốt thấu triệt vô minh, đạt tới Thật Tướng Tế.

 

          (Kinh) Nhất thiết Tŕ Kim Cang chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn, hồng hồng hồng, bạn trá bạn trá bạn trá, nhiêm nhiêm, sa ha.

          ()一切持金剛真言曰南麼三曼多伐折囉𧹞吽吽吽吒髯髯莎訶

    (Kinh: Chân ngôn của hết thảy các vị Tŕ Kim Cang là: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn, hồng hồng hồng, bạn trá, bạn trá, bạn trá, nhiêm nhiêm, sa ha).

 

          Kế đó là chân ngôn của hết thảy các vị Tŕ Kim Cang. Khi đó, các vị Kim Cang số nhiều như số vi trần trong mười cơi Phật cùng nhập Kim Cang Vô Thắng tam-muội, giống hệt như ngài Kim Cang Thủ chẳng khác, cũng từ tự tâm tỏa ra quang minh chẳng thể nghĩ bàn. Trong quang minh, hiện chân ngôn này. Hăy nên biết các quyến thuộc khác đều chuẩn theo đây. Hồng Hồng Hồng: Lấy chữ đầu tiên làm Thể, cũng là Đại Không Hạnh tam-muội. [Người hành] tam-muội này chính là hành nhân Đại Kim Cang Vô Thắng. Do nhập tam-muội này, nên gọi là Đại Không Hạnh tam-muội. Ba chữ [Hồng] hàm ư đông nhiều, các vị Kim Cang nhiều như hết thảy chúng sanh cùng nói, nên gộp ba chữ lại. Bạn Trá Bạn Trá Bạn Trá (Phaṭ Phaṭ Phaṭ) có nghĩa là quở trách, ư nghĩa giống như trên. Tôi cho rằng nói nhiều lượt nhằm quở trách ba chướng. Nhiêm Nhiêm (JaJaṃ, जांजां) nghĩa là Sanh. Trên đó (trên chữ Ja, ) có một chấm là Đại Không. Đă phá các chướng, sẽ đạt được Đại Không Sanh, tức là sanh ra chư Phật vậy. Sanh ra Kim Cang trí, tức là Pháp Thân của chư Phật sanh khởi. Như kinh Ương Quật nói “sanh cái thân bất sanh này”; đấy chính là ư nghĩa này vậy!

 

          (Kinh) Nhất thiết chư phụng giáo giả chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn, hê hê khẩn chỉ ra duệ tế, nghị rị ngân noa, nghị rị ngân noa, khư đà, khư đà, bát rị bổ ra dă, tát phạ chỉ ca ra nẫm, sa phạ bổ ra để nhiễm, sa ha.

          ()一切諸奉教者真言曰南麼三曼多伐折囉𧹞醯醯緊只囉曳細蟻哩痕拏蟻哩痕拏佉駝佉駝唎補囉也薩嚩枳迦囉喃娑嚩補囉底染莎訶

          (Kinh: Chân ngôn của hết thảy các vị phụng giáo là: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn, hê hê khẩn chỉ ra duệ tế, nghị rị ngân noa, nghị rị ngân noa, khư đà, khư đà, bát rị bổ ra dă, tát phạ chỉ ca ra nẫm, sa phạ bổ ra để nhiễm, sa ha).

 

          Kế đó, các vị phụng giáo nói chân này. Các vị này chuyên ở bên cạnh Bổn Tôn, vâng lệnh qua lại tùy thuộc các việc cần làm, cũng giống như các vị Kim Cang trên đây, nhập Đại Kim Cang Vô Thắng tam-muội mà nói chân ngôn. Hết thảy các vị phụng giáo trong các bộ đều dùng chân ngôn này. Hê Hê: Chữ Hê thứ nhất là chủng tử, cũng có nghĩa là kêu gọi triệu tập. [Trong chữ Hê (हे)], Ha (​) nghĩa là hành, là hỷ, trong đó có chữ Ế (​) là tam-muội. Nói lặp lại [hai chữ Hê] nhằm diễn tả “hành cực hành”, ư nói “cực định” vậy. Khẩn Chỉ Ra Duệ Tế (Kiṃ Cirāyasi) nghĩa là “sao không nhanh chóng”. Đó là ư nghĩa thúc ép. Như người phán xử đă ra lệnh, sao chẳng nhanh chóng làm chuyện ấy, mà lại lần khân? Nghĩ Rị Ngân Na Nghĩ Rị Ngân Noa (Gṛhṇa gṛhṇa) nghĩa là “chấp tŕ, ǵn giữ”, ư nói: Tŕ Kim Cang Hạnh tam-muội đă nói trong phần trên. Nhắc lại từ ngữ này lần thứ hai, nhằm diễn tả ư nghĩa “thủ hộ”. Đă chấp tŕ rồi lại chấp tŕ, lại thủ hộ không cho thất lạc, khiến cho nó chẳng bị các chướng bức bách, đoạt mất, khiến cho Kim Cang Hạnh tam-muội mau chóng thành tựu. Khư Đà Khư Đà (Khāda Khāda) có nghĩa là ăn nuốt. Ăn các phiền năo, lại c̣n tột bậc ăn nuốt khiến cho chúng hết sạch. V́ thế nói lặp lại. Tôi cho rằng đó là “ăn nuốt” giới nội, giới ngoại phiền năo; do đó nói lặp lại. Bát Rị Bổ Ra Dă (Paripūraya) nghĩa là sung măn, ư nói do ăn nuốt tột bậc mà được thỏa măn. Do viên măn tất cả nguyện thù thắng của hành nhân mà được thỏa măn. Nguyện bậc nhất chính là Kim Cang Hạnh tam-muội. Tát Phạ Chỉ Ca Ra Nẫm Sa Phạ Bổ Ra Để Nhiễm (Sarvakiṃkarāṇaṃ Sāprativijñāṃ) là nói nguyện vốn đă lập. Thuận theo cái nguyện đă lập trước đó mà đều nên được thỏa. Câu trước là nói về Măn, câu kế đó là bổn nguyện đă lập. [Chú ngữ] này dùng chung cho sứ giả của ba bộ.

 

          (Kinh) Thời Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn nhập ư Bảo Xứ tam-muội, thuyết tự tâm cập quyến thuộc chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ cật lệ xa, nê tô đà na, tát phạ đạt ma, phạ thế đa bổ ra bát đa. Già già na, sa ma, sa ma, sa ha.

          ()時釋迦牟尼世尊入於寶處三昧說自心及眷屬真言曰南麼三曼多勃馱喃薩嚩吃泥蘇馱娜薩嚩達摩勢多補囉鉢多伽伽娜莎訶

    (Kinh: Khi đó, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn nhập Bảo Xứ tam-muội, nói tự tâm và quyến thuộc chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ cật lệ xa, nê tô đà na, tát phạ đạt ma, phạ thế đa bổ ra bát đa. Già già na, sa ma, sa ma, sa ha).

 

          Kế đó, Thích Ca Như Lai nhập Bảo Xứ tam-muội. Chất báu sanh ra từ đó, nên gọi là Bảo Xứ, ví như biển cả sanh ra đủ loại báu. Nếu tới bến băi ấy, sẽ tùy ư cần dùng, không ǵ chẳng đầy đủ. Đức Phật nhập tam-muội ấy xong, từ diện môn của Ngài tỏa ra các thứ ánh sáng. Trong quang minh, hiện chân ngôn này. Cho đến trọn khắp hết thảy các cơi Phật. Hăy nên biết các chân ngôn khác đều nên nói như thế. Tát Phạ Cật Lệ Xa (Sarvakleśa) là hết thảy các phiền năo. Nê Tô Đà Na (Niṣūdana) là dẹp trừ, thông với câu trên thành “diệt trừ hết thảy phiền năo”. Tát Phạ Đạt Ma (Sarvadharma) là hết thảy các pháp. Phạ Thế Đa Bổ Ra Bát Đa (Vaśitāprāpta) là đắc tự tại, thông với câu trên nghĩa là “được tự tại trong các pháp”. Do trừ các chướng, nên được đại tự tại. Già Già Na (Gagana) là hư không. Sa Ma (Sama, đọc không dấu, có thanh A, nghĩa là Đẳng, tức là bằng với hư không). Hạnh ấy bằng với hư không, vô biên thanh tịnh, hết thảy tự tại vô ngại, giống như danh tự. Câu dưới do gắn liền với A thành Vô Đẳng. Vô Đẳng chính là Nhị Thừa. Do có khiếm khuyết mà gọi là Vô Đẳng, tức là ư nghĩa thực hiện Quyền.

          Nhưng chân ngôn này lấy chữ Tát đầu tiên làm Thể. Sa nghĩa là lậu, cũng có nghĩa là kiên cố. Nhập môn chữ A chính là vô lậu, vô kiên. Nếu có sự cứng chắc, tức là pháp “sanh, diệt, hoại, phá”! Nếu khiến cho nó giống như chữ A, sự kiên cố ấy vốn chẳng sanh, tức là trong các pháp mà tự tại như hư không, có thể là chỗ có hết thảy của báu. Tôi cho rằng đức Thích Ca do sức đại bi, dẫu là kẻ Nhất Xiển Đề toàn thể kín mít như kim cang, Ngài vẫn có thể phá hoại kiến chấp ấy để [kẻ đó] nhập Phật pháp, ban cho cái nguyện đại bảo. Há chẳng phải là tự tại trong các pháp, có thể phá hết thảy sự cứng chắc ư?

 

          (Kinh) Hào Tướng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bà ra đề, bà ra bổ ra bát để, hồng.

          ()毫相真言曰南麼三曼多勃馱喃皤囉提皤囉補囉鉢底

    (Kinh: Chân ngôn về Hào Tướng rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bà ra đề, bà ra bổ ra bát để, hồng).

 

          Kế đó là chân ngôn về Hào Tướng. Đây chính là do vô lượng công đức của Như Lai thành tựu để trang nghiêm. Đó chính là khối công đức; do vậy, tạo tam-muội có h́nh dáng nữ nhân. Vị này là quyến thuộc của Phật Thích Ca, cũng nhập Bảo Xứ tam-muội mà nói chân ngôn này. Bà Ra đề (Varade) là ban cho thỏa nguyện, [tức là] có thể thỏa nguyện cho hết thảy chúng sanh. Bà Ra Bổ Ra Bát Để (Varaprāpte) là “nguyện đắc”, tức đạt được điều nguyện. Như người có của báu, bèn có thể ban cho người khác. Do ta tự ḿnh thành tựu nguyện này, nên có thể tự tại thí cho người khác, khiến cho họ đều sung túc. Chữ Hồng (हूं, Hū) [hàm ư] cái tâm này là chủng tử, chữ Ha () [trong đó] là hành nơi Đại Không, phía dưới [chữ Hồng] là chữ Ổ (, Ū) làm tam-muội. Phía trên có cái chấm tức là hành Đại Không tam-muội. Nhờ vào đó mà tấn tu, đạt đến chỗ có của báu, có thể tự tại thỏa nguyện cho người khác.

 

          (Kinh) Nhất thiết chư Phật đảnh chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Văm văm văm, hồng hồng phát trá, sa ha.

          ()一切諸佛頂真言曰南麼三曼多勃馱喃鑁鑁鑁吽吽發吒莎訶

    (Kinh: Chân ngôn của hết thảy chư Phật đảnh là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Văm văm văm, hồng hồng phát trá, sa ha).

 

          Kế đó là [chân ngôn của] hết thảy Phật Đảnh. “Hết thảy Phật Đảnh” tức là đỉnh đầu của các vị Phật số nhiều như vi trần trong mười cơi Phật. Đỉnh đầu là chỗ tôn thắng, cao nhất trên thân. Đó chính là tên gọi khác đối với mười tám pháp bất cộng của Phật. H́nh tượng của vị Bổn Tôn này giống như h́nh tướng bậc đại nhân trọn đủ của Phật Thích Ca, chỉ có búi tóc trên đỉnh đầu có h́nh dạng như búi tóc của Bồ Tát là khác biệt. Các Ngài cũng trụ trong Bảo Xứ tam-muội mà nói chân ngôn này. Văm Văm Văm (VaVaVa): Trong ấy, chữ thứ nhất là chủng tử, có nghĩa là “trói buộc”; nhập môn chữ A th́ có nghĩa là “không trói buộc”. Lại nữa, “trói buộc” nghĩa là ngôn ngữ dứt bặt. Trên chữ ấy, có một chấm Đại Không. Đă thành tựu, lại khiến cho thành tựu tột bậc, cho nên nói ba lượt [nhằm diễn tả] ư khiến cho thành tựu thanh tịnh tột bậc. Hồng (Hū) có nghĩa là Khủng Bố, dùng sức oai mănh phá trọn khắp các trói buộc giống như Đại Không. Phán Trá (Phaṭ) nghĩa là bất sanh, ví như cái Thể đă hoại, chẳng sanh, ắt sẽ chết! Tức là các pháp không ǵ chẳng trọn khắp, đều khiến cho chúng vĩnh viễn chẳng c̣n sanh trở lại, giống như Đại Không là giải thoát của chư Phật, tức là nhập đỉnh đầu “bất cộng pháp” của Phật.

 

          (Kinh) Vô Năng Thắng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, địa lăng, địa lăng, lăng lăng, nhật lăng, nhật lăng, sa ha.

          ()無能勝真言曰南麼三曼多勃馱喃𠻱𠻱𠻱𠻱𠻱𠻱莎訶

    (Kinh: Chân ngôn Vô Năng Thắng là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, địa lăng địa lăng, lăng lăng, nhật lăng nhật lăng, sa ha).

 

          Kế đó là chân ngôn của ngài Vô Năng Thắng (Aparājita). Vị này là quyến thuộc của Phật Thích Ca, cũng nhập Bảo Xứ tam-muội như trên mà nói chân ngôn. Vị này là hóa thân của Phật Thích Ca, ẩn vô lượng tự tại thần lực để hiện thân Phẫn Nộ Minh Vương nhằm hàng phục chúng sanh, tận trừ các chướng. Địa lăng, địa lăng (DhriDhri, hai chữ đọc dính nhau, giống như âm Chiêm). Lấy thứ nhất làm Thể, lấy chữ Địa Lăng (ध्रिं, Dhriṃ) thứ nhất làm chủng tử. Đà (, Dha) có nghĩa là pháp giới. Ra (âm R trong chữ Dhriṃ ấy) có nghĩa là “trần chướng, các cấu”. Nếu nhập môn chữ A tức là “không có trần chướng”, chính là pháp giới. Hăy nên biết chính là giống như pháp giới, há c̣n nơi nào có trần nữa ư? Đấy chính là ư nghĩa Đại Không. Nếu ai trụ trong tam-muội này, hết thảy cái chướng không ǵ chẳng bị phá hoại. Nói nhắc lại [hai chữ Dhriṃ], đó là ư nghĩa “phá trần chướng tột bậc”. V́ thế nói là Vô Trần tam-muội chính là môn chữ Lăng (Riṃ). Kế đó nói Nhật Lăng (ज्रिं, Jriṃ), tức là chư chướng chẳng sanh mà đắc Đại Không sanh vậy. Chữ chủng tử này có đủ loại Định Huệ trang nghiêm; do vậy có thể đạt tự tại trong sanh tử, ngồi dưới cội cây của đức Phật, phá tan bốn ma binh chúng. Vô Năng Thắng có nghĩa là “không ǵ chẳng phá hoại”.

 

          (Kinh) Vô Năng Thắng Phi chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A ba ra thệ đế, xà diễn đế, đa trĩ đế, sa ha.

          ()無能勝妃真言曰南麼三曼多勃馱喃阿波囉誓帝闍演帝多雉帝莎訶

    (Kinh: Chân ngôn của Vô Năng Thắng Phi là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A ba ra thệ đế, xà diễn đế, đa trĩ đế, sa ha).

 

          Kế đó là Vô Năng Thắng Minh Phi, h́nh dạng nữ nhân. Nói chân ngôn này, Ngài nhập tam-muội như trong phần trên đă nói. A Ba Ra Thệ Đế (Aparājite) là Vô Năng Thắng, Xà Diễn Đế (Jayanti) là tên gọi khác của Thắng, có nghĩa “đánh bại, hàng phục kẻ khác”. Đa Trĩ Đế (Taite) có nghĩa là “đă dẹp tan xong. Chữ Xà (Ja) ở đây có nghĩa “chiến đấu”. Đức Phật ngồi nơi đạo tràng, dùng định lực chiến đấu cùng tứ ma, đạt được thế lực to lớn, không ai có thể tổn hại được. Đó là do sức của tam-muội này. [Chân ngôn này] dùng chữ thứ ba làm chủng tử.

 

          (Kinh) Địa Thần chân ngôn viết: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bát lật thể tỳ duệ, sa ha.

          ()地神真言曰南麼三曼多勃馱喃莎訶

    (Kinh: Chân ngôn của Địa Thần là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bát lật thể tỳ duệ, sa ha).

 

          Kế đó là chân ngôn của Địa Thần. Đất có thể nâng giữ vạn vật. Hết thảy vạn vật nương vào đất mà sanh trưởng; hăy nên biết đó chính là Phật tâm. Ví như Như Lai tâm có thể tŕ vạn vật, thân nhập tam-muội mà chính ḿnh đang tŕ để nói chân ngôn này. Đây cũng là phương tiện hóa thân của Phật Thích Ca. Bát Lật Thể Tỳ Duệ (पृथिव्यै, Pṛthivyai) là tên của Địa Thần, tức là dùng danh tự của chính vị ấy làm chân ngôn. Nếu ai tụng tŕ, tu tập, chẳng lâu sau cũng sẽ đắc tâm địa của Như Lai. Lấy chữ thứ ba của chân ngôn làm chữ chủng tử, nghĩa là “ĺa ngôn thuyết”. Trong đó, có âm Y là tam-muội. Nhập môn Ly Danh tam-muội này, sẽ được chứng tâm địa. Tam muội này c̣n có tên là Phổ Tải (chuyên chở khắp), do tam-muội này giống như đại địa. Chữ Tỳ Duệ (व्यै, Vīyai) cuối cùng có nghĩa là “trói”, tức Diễn Na (, Ya) nghĩa là Xứ. Ế (, ai) là tam-muội, cũng là tiếng chỉ vật. Đó là nói về cái Thể của chân ngôn vậy. Do môn ly Tâm Địa tam-muội này, ĺa khỏi các thừa trói buộc để tăng tấn hạnh.

 

          (Kinh) Tỳ Nữu Thiên chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tỳ sắt nữu phí, sa ha.

          ()毘紐真言曰南麼三曼多勃馱喃毘瑟紐費莎訶

          (Kinh: Chân ngôn của Tỳ Nữu Thiên là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tỳ sắt nữu phí, sa ha).

 

          Kế đó là Tỳ Nữu Thiên (Viṣṇu) có nhiều biệt danh, [Tỳ Nữu] chính là biệt danh của Na La Diên Thiên (Nārāyaṇa). Vị này là hóa thân của Phật, tam-muội giống như trên. Tỳ Sắt Nữu Phí (Viṣṇave) tức là lấy chính tên ḿnh làm chân ngôn. Lấy chữ thứ nhất làm chủng tử. Chữ Tỳ (वि, vi) có nghĩa là Không, Sắt Nữu Phí (ष्णवे, Ṣṇave) có nghĩa là Tiến, là Sanh, do nương vào hư không mà tiến. Tức là vị trời này cưỡi chim Ca Lâu La bay đi trong không trung. Tôi cho rằng Phật Thích Ca trong Ngũ Bộ Phật[7] ngồi trên chim Ca Lâu La, tức là ư nghĩa “đi lại trong hư không”.

 

          (Kinh) Rô Nại Ra chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, rô đà ra dă, sa ha.

          ()嚕捺囉真言曰南麼三曼多勃馱喃囉也莎訶

    (Kinh: Chân ngôn của Rô Nại Ra là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, rô đà ra dă, sa ha).

 

          Kế đó là Rô Nại Ra (Rudra), cũng là thân do Phật biến thành. Vị này là hóa thân của Ma Hê Thủ La (Maheśvara, c̣n gọi là Y Xá Na, Īśāna). Rô Đà Ra Dă (Rudrāya) tức là lấy tên của chính ḿnh làm chân ngôn, lấy chữ Rô (रु, Ru) làm tâm. Đà Ra (द्रा, Drā) có nghĩa là “trao cho”, ví như tự ḿnh có nhiều, bèn có thể huệ thí (bố thí rộng răi) cho người khác. Nói đến các thừa, “thừa” nghĩa là chính ḿnh. Tự thông đạt thừa báu như thế, có thể thí trọn khắp hết thảy chúng sanh. Rô tức là Vô Trần Cấu tam-muội, tự đạt được tam-muội này, lại c̣n dùng đó để thí cho người khác.

 

          (Kinh) Phong Thần chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bà dă phệ, sa ha.

          ()風神真言曰南麼三曼多勃馱喃皤也吠莎訶

          (Kinh: Chân ngôn của Phong Thần là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bà dă phệ, sa ha).

 

          Kế đó là chân ngôn của Phong Thần. Vị này cũng là hóa thân của Phật, tam-muội giống như trên. Bà Dă Phệ (Vāyave) tức là [thần gió] dùng tên của chính ḿnh làm chân ngôn, lấy chữ Bà (वा, Vā) làm Thể. Phệ (वे, Ve) có nghĩa là trói buộc; nhập môn chữ A th́ nghĩa là chẳng trói buộc, tức là giải thoát. Bên cạnh [Chữ Va] có chữ A [tạo thành A âm dài, tức Vā], tức là thực hiện. Chữ Phệ thứ ba nghĩa là vô ngôn thuyết, lại thêm chữ Ế () là nghĩa tam-muội-da. Các thừa ấy dùng vô ngại thừa để độ hết thảy.

         

          (Kinh) Mỹ Âm Thiên chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát la tát phạt để duệ, sa ha.

          ()美音天真言曰南麼三曼多勃馱喃薩羅薩伐底曳莎訶

    (Kinh: Chân ngôn của Mỹ Âm Thiên là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát la tát phạt để duệ, sa ha).

 

          Kế đó là Mỹ Âm Thiên, tức là các vị trời hiển thị sự ca vịnh, hơi khác với Càn Thát Bà, Càn Thát Bà là người tấu nhạc. Tát La Tát Phạt Để Duệ (Sarasvatyai) chính là tên của Mỹ Âm. Lấy chữ Tát (Sa) đầu tiên làm Thể, có nghĩa là “kiên cố”. Nếu có kiên trụ, tức là có tướng sanh, trụ, dị, diệt. Nhập môn chữ A th́ chẳng kiên cố, tức là không có thành hay hoại. Các chữ khác [trong chân ngôn] đều nhằm giải thích chữ này. Tôi cho rằng vị này dùng diệu âm khiến cho chúng sanh đẹp dạ, ngôn từ mềm mỏng, đẹp ḷng mọi người, khiến họ hoan hỷ. Nói “chẳng kiên cố” nhằm khiến cho họ biết vô thường, chứng nghiệm pháp kiên cố của Như Lai.

 

          (Kinh) Nễ Rị Để chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ra cật sát sa, đề bát để duệ, sa ha.

          ()禰哩底真言曰南麼三曼多勃馱喃囉吃提鉢底曳莎訶

          (Kinh: Chân ngôn của Nễ Rị Để là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ra cật sát sa, đề bát để duệ, sa ha).

 

          Kế đến là Nễ Rị Để (Nairṛti), tức là chúa của loài La Sát, cũng là hóa thân của Phật. Ra Cật Sát Sa (Rākṣasa, La Sát): Ra (cấu nhơ), Cật Sát Sa (Kṣasa, ăn nuốt). Sa có nghĩa là cứng chắc, đều có nghĩa là ăn nuốt. Vị này thường ăn nuốt chúng sanh. Như Lai cũng thế, có thể ăn hết thảy trần chướng hữu t́nh chẳng chán đủ. Đề Bát Để Duệ (Adhipataye): Chữ Đề có âm Đà (Dha) tức là pháp giới, thêm âm Y là tam-muội. Đó là pháp giới tam-muội. Bát Để là Trụ, tức là trụ trong pháp giới tam-muội ấy, th́ gọi là Diệu Trụ. Quán hết thảy cấu chướng chính là pháp giới; nhập trong pháp giới chính là nghĩa “có thể ăn vào bụng”. Chữ Duệ cuối cùng chính là Thừa. Thừa ấy nhanh chóng khôn sánh, ở trong chữ chủng tử nơi cái Thể của môn này.

 

          (Kinh) Diễm Ma chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tỳ phạ tát phạ đá dă, sa ha.

          ()焰摩真言曰南麼三曼多勃馱喃哆也莎訶

    (Kinh: Chân ngôn của Diễm Ma là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tỳ phạ tát phạ đá dă, sa ha).

 

          Kế đó là chân ngôn của Diễm Ma Vương (Yamarāja), vị này cũng là hóa thân của Phật. Tỳ Phạ Tát Phạ Đá Dă (Vaivasvatāya) cũng lấy tên của chính ḿnh làm chân ngôn[8]. Lấy chữ đầu tiên làm Thể để hỏi, tức là Vô Phược tam-muội. Tỳ Phạ nghĩa là kiên cố trụ, cũng là trừ các trói buộc, ư nói dùng Lư để trừ trói buộc, chẳng dùng phi pháp! Trong chữ Đá có nhiều âm, tức là Như Như. Chữ Tát có nghĩa là kiên cố. Chữ Dă có nghĩa là Thừa, nương vào cái Thừa Như Như này để thăng tấn hạnh. Bên cạnh đó có chữ A tức là hành. Nương vào tướng Như Như mà tiến hành, tức là đạt đến thành tựu Chánh Giác vậy!

 

          (Kinh) Tử vương chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, một lật để dă phệ, sa ha.

          ()死王真言曰南麼三曼多勃馱喃莎訶

    (Kinh: Tử vương chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, một lật để dă phệ, sa ha.

 

    Kế đó là chân ngôn của Tử Vương (Mṛtyu). Vị này là Diêm La Minh Vương, cũng v́ thành tựu Đại Bi Phát Sanh Mạn-đồ-la, thuận theo sự thông đạt của chính ḿnh mà nói chân ngôn này. Một Lật Để Dă Phệ (Mṛtyave) chính là nghĩa Chết. Chết nghĩa là “giết, đoạn”. Căn bản ấy được gọi là Sát. Do ư nguyện của chính ḿnh, “ta đoạn mạng căn của hết thảy chúng sanh”. “Mạng căn” chính là các vô thỉ vô minh phiền năo. Đoạn [mạng căn của] hết thảy chúng sanh chẳng c̣n thừa sót! Đấy là nói “tự tại trong Tử pháp môn”, tức là do Phật hiện hóa, chẳng phải là thật sự giết chết hết thảy chúng sanh. Dùng chữ đầu tiên là chữ Một làm chủng tử [của chân ngôn này].

 

          (Kinh) Hắc Dạ Thần chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ca la ra để rị duệ, sa ha.

          ()黑夜神真言曰南麼三曼多勃馱喃囉底哩曳莎訶

    (Kinh: Chân ngôn Hắc Dạ Thần rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ca la ra để rị duệ, sa ha).

 

          Kế đó là chân ngôn của Hắc Dạ Thần (Kālarātri). Đấy chính là phi hậu thị tùng của Diêm La. Ca La Ra (Kālarā)hắc” (đen). Để Rị Duệ (Trīye)đêm. Dùng chữ Ca đầu tiên làm Thể, do trong đêm tối có nhiều nỗi sợ hăi và các họa hoạn. V́ muốn trừ nỗi sợ do các chướng cấu trong đêm dài vô minh, nên nói chân ngôn này.

 

          (Kinh) Thất mẫu đẳng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ma đát rị tệ dă, sa ha.

          ()七母等真言曰南麼三曼多勃馱喃摩怛哩弊也莎訶

          (Kinh: Chân ngôn của thất mẫu là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ma đát rị tệ dă, sa ha).

 

          Kế đó là Diêm La Vương Thất Mẫu, gồm bảy chị em. Danh hiệu của bảy vị này[9] chuẩn theo các kinh khác, đều dùng tên của chính họ làm chân ngôn. Nay chỉ nói chung như sau: Ma Đát Rị Tệ Dă (Mātṛbhyaḥ) nghĩa là Đẳng. Đẳng nghĩa là chẳng phải một, mà là nhiều, tức là bảy chị em. Dùng chữ Ma đầu tiên làm chủng tử, nghĩa là Vô Ngă.

 

          (Kinh) Thích Đề Hoàn Nhân chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Thích ca ra dă, sa ha.

          ()釋提桓因真言曰南麼三曼多勃馱喃釋迦囉也莎訶

          (Kinh: Chân ngôn của Thích Đề Hoàn Nhân là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Thích ca ra dă, sa ha).

 

          Kế đó là Thích Đề Hoàn Nhân (Śakro Devānām Indraḥ). Thích Ca Ra Dă (Śakrāya) chính là tên gọi của ông ta. Thích Ca nghĩa là “một trăm phước đức”. Do trong khi tu nhân, vị này đă từng tu phước một trăm lần, tức là một trăm lần thực hiện Đại Vô Giá Thí Hội để thí trọn khắp chúng sanh. Do vậy, được thành tựu chốn sanh về thù thắng ấy. Dùng chữ Thích đầu tiên làm chủng tử; do vậy, gọi tên như thế. Nó có nghĩa là “ngưng dứt”, tức ngưng dứt các chướng. Chướng đă dứt bèn tăng phước, Ca Ra là tăng tấn. Chữ Xa lại chính là Xa Ma Tha (Chỉ). Thường dùng lời sâu xa để lợi ích chư thiên; v́ thế, dùng tâm làm chân ngôn. Vị này cũng do Phật hóa sanh.

 

          (Kinh) Phạ Rô Noa long vương chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A bán bát đa dă, sa ha.

          ()嚩嚕拏龍王真言曰南麼三曼多勃馱喃阿半鉢多也莎訶

          (Kinh: Chân ngôn của vua rồng Phạ Rô Noa: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A bán bát đa dă, sa ha).

 

          Kế đó là chân ngôn của long vương Phạ Rô Noa (Varuṇa). Đây là rồng trong biển cả, các long vương có cùng chân ngôn này. A Bán (nước, Apāṃ) Bát Đa Dă (Pataye): Bát Đa [nghĩa là] “người nào đó”, Dă là tiếng trợ thanh. Do vị này được tự tại trong nước, nên gọi là Thủy Chủ. Dùng chữ A đầu tiên làm chủng tử.

 

          (Kinh) Phạm Thiên chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Bổ ra xà ma đa duệ, sa ha.

          ()梵天真言曰南麼三曼多勃馱喃補囉麼多莎訶

    (Kinh: Chân ngôn của Phạm Thiên là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Bổ ra xà ma đa duệ, sa ha).

 

          Kế đó là chân ngôn của Phạm Thiên. V́ muốn thành tựu Đại Bi Thai Tạng, cũng giống như trên đă nói. Bổ Ra Xà (Prajā, sanh ra hết thảy), Ma Đa Duệ (Pataye, chủ). Cái nhân của hết thảy chúng sanh là Phạm Thiên, nên gọi là Nhất Thiết Chúng Sanh Chủ, do có thể sanh ra hết thảy hữu t́nh. Dùng chữ Bổ-ra (Pra) làm chữ chủng tử. Bổ là Đệ Nhất Nghĩa. Ra là chướng cấu, tức chướng chẳng thể chướng trong Thắng Nghĩa, hết thảy các thánh giả đều sanh từ đy. Vị này cũng là hóa thân của Phật.

 

          (Kinh) Nhật Thiên chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A địa đa tà dă, sa ha.

          ()日天真言曰南麼三曼多勃馱喃阿地多邪也莎訶

          (Kinh: Chân ngôn của Nhật Thiên là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A địa đa tà dă, sa ha).

 

          Kế đó là chân ngôn của Nhật Thiên Tử. A Địa Đa Tà Dă (Ādityāya): A (vốn bất sanh), Địa (cùng với), Đa Tà Dă (mặt trời). Dùng chữ A đầu tiên làm chủng tử, tức là ư nghĩa “vốn bất sanh”. Tự thông đạt lư này, lại c̣n truyền cho người khác, tức là ư nghĩa “thường lợi ích chúng sanh” giống như vầng mặt trời. Người đời nói mặt trời thường lợi ích chúng sanh.

 

          (Kinh) Nguyệt Thiên chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Chiến đạt ra dă, sa ha.

          ()月天真言曰南麼三曼多勃馱喃戰達囉也莎訶

          (Kinh: Chân ngôn của Nguyệt Thiên là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Chiến đạt ra dă, sa ha).

 

          Kế đó là chân ngôn của Nguyệt Thiên Tử. Chiến Đạt Ra (Candrāya): Chiến (bất tử), Đạt Ra là tên của mặt trăng. Dùng chữ đầu tiên làm Thể. Nếu bất tử th́ cũng bất sanh. Bất sanh bất tử th́ gọi là Cam Lộ. Người đời do mặt trăng có thể trừ độc nhiệt phiền năo mà coi như cam lộ; do vậy, gọi như thế. Vị của hết thảy cam lộ chẳng thể nào hơn được Tịnh Nguyệt tam-muội.

 

          (Kinh) Chư long chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Mê ca phiến nễ duệ, sa ha.

          ()諸龍真言曰南麼三曼多勃馱喃迷迦扇儞曳莎訶 

          (Kinh: Chân ngôn của các rồng là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Mê ca phiến nễ duệ, sa ha).

 

          Kế đó là chân ngôn của các rồng. Chú trong phần trước là của long vương, chú này dùng chung cho hết thảy các rồng. Mê Ca Phiến Nễ Duệ (Meghāśanīye): Mê Ca (mây), Phiến Nễ Duệ (nhai nuốt). Giải nghĩa là “nuốt mây”. Mây chính là hắc ám, tức là cấu chướng của chúng sanh. Có thể ăn các chướng mà được tự tại, cho nên đặt tên như thế. Lấy chữ Mê đầu tiên làm Thể, tức là ư nghĩa Ta, [nhập môn chữ A sẽ là] vô ngă vậy.

 

          (Kinh) Nan Đà, Bạt Nan Đà chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Nan đồ, bạt nan đà dữu, sa ha.

          ()難陀跋難陀真言曰南麼三曼多勃馱喃難徒拔難陀庾莎訶

    (Kinh: Chân ngôn của Nan Đà, Bạt Nan là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Nan đồ, bạt nan đà dữu, sa ha).

 

          Kế đó là chân ngôn của hai vị long vương Nan Đà (Nanda) và Bạt Nan Đà (Upananda) thủ hộ cửa [đàn tràng]. Nan Đồ (Nando) dùng chữ Nan đầu tiên làm Thể, có nghĩa là Quán. Từ ngay trong quán mà ĺa quán, trụ trong Trung. Đă tự thông đạt, c̣n dùng đó để lợi ích chúng sanh. Bạt Nan Đà Dữu (Opanandayoḥ: Chữ Bạt có âm là Ổ Ba). Ổ là vượt khỏi, [tức là] tự vượt khỏi các pháp sanh tử lưu chuyển, trụ trong chỗ tối thắng. Dùng đó để hộ tŕ thế gian, nên gọi tên như thế.

          Đến đây đă xong phần quyến thuộc của Phật Thích Ca, họ đều trụ trong Bảo Xứ tam-muội, do đức Phật hóa thân v́ muốn thành tựu Đại Bi Tạng mà nói chân ngôn.

 

          (Kinh) Thời Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn nhạo dục thuyết Tự Giáo Tích Bất Không Tất Địa Nhất Thiết Phật Bồ Tát Mẫu Hư Không Nhăn Minh Phi chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, già già na bà ra lạc khất xoa nỗ, già già na tam mê, tát bà đô ốt kiệt đa, bệ tát ra tam bà phệ, xà phạ la na mẫu, a mục già nẫm, sa ha.

          ()時毘盧遮那世尊樂欲說自教跡不空悉地一切佛菩薩母虛空眼明妃真言曰南麼三曼多勃馱喃伽伽那囉落吃叉努伽伽那薩皤都竭多陛薩囉三婆吠闍嚩羅娜母阿穆伽喃娑訶

          (Kinh: Khi đó, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn ưa thích nói chân ngôn Tự Giáo Tích Bất Không Tất Địa Nhất Thiết Phật Bồ Tát Mẫu Hư Không Nhăn Minh Phi rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, già già na bà ra, lạc khất xoa nỗ, già già na tam mê, tát bà đô ốt kiệt đa, bệ tát ra tam bà phệ, xà phạ la na mẫu, a mục già nẫm, sa ha).

 

          Tự Giáo Tích tức là giáo pháp do Pháp Thân Phật tự chứng, tức là giáo pháp bí mật b́nh đẳng. Người tu hành trong giáo pháp này, thảy đều bất không. Bất không nghĩa “chẳng luống uổng”. Tùy theo năng lực của mỗi người, đều hướng về lư Pháp Thân, liền giống như Phật. V́ thế nói là Bất Không. Như trong phần trên, các vị Bồ Tát nói chân ngôn, ai nấy đều mong dẫn nhiếp các hành giả đồng loại: “Nếu có ai tu hành, sẽ đều giống như ta”. Nay Pháp Thân Phật tự nói Minh Phi chân ngôn; nếu có ai tu hành, sẽ từ Hư Không Nhăn (Gaganalocanā) mà sanh Pháp Thân, giống như ta chẳng khác.

          Già Già Na (Gagana): Lấy chữ đầu tiên làm tâm, Già có nghĩa là không đến, đi. Già Già Na lại có nghĩa là Không, tức là Đại Không của chư Phật. Bà Ra (Vara) là nguyện. Lạc Khất Xoa Nỗ (Lakṣaṇe): Lạc Khất Xoa là tướng, Nỗ tức Đại Không. Nguyện này thắng thượng, tức là giống như hư không nhất tướng thanh tịnh vô biên, chẳng thể phân biệt. Già Già Na là Không. Tam Mê (Samaye) là Đẳng. Đại nguyện như trên đây giống như tướng hư không, bằng với hư không. Tát Bà Đô (Sarvato) là hết thảy mọi nơi. Ốt Kiệt Đa (Odgata) là không có ǵ sánh bằng, tức là nói các Không Nguyện này bằng với hư không, trọn khắp hết thảy mọi nơi, đều chẳng có ǵ sánh bằng. Trên tâm có chữ A liên quan. Bệ Tát La (Abhisāra): Kiên cố, chẳng thể hoại. Tam Bà Phệ (Saṃbhave): Sanh theo, tức là sanh từ bất khả hoại. Xà Phạ La (Jvala) nghĩa là quang minh. Do trụ trong hạnh “chẳng đến, chẳng đi”, bèn thành tựu đại oai quang không ǵ sánh bằng. Na Mẫu (Namo) là quy mạng. Do trụ pháp này, cho nên tôi quy mạng. A Mục Già Nẫm (Amoghānāṃ): Bất Không là chỗ để quy mạng, tôi bèn quy mạng.

          Đầu các chân ngôn đều là “quy mạng trọn khắp chư Phật”, do chữ Nhất Thiết giống như “phổ biến”. Như nếu nói “hết thảy chư Phật ở phương Đông”, tức là chẳng trọn khắp mười phương. V́ phân biệt với chút phần đó mà nói là “phổ biến chư Phật” (trọn khắp chư Phật). Những điều khác cứ phỏng theo [cách nói] này. Phần nói về ngài Hư Không Nhăn là mẹ của hết thảy Phật, Bồ Tát đă xong.

 

          (Kinh) Phục thứ, Bạc Già Phạm vị tức nhất thiết chướng cố, trụ ư Hỏa Sanh tam-muội, thuyết thử Đại Tồi Chướng Thánh Giả Bất Động Chủ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, chiến đồ, ma ha rô sắt noa, tát phả trá dă, hồng đát ra ca. Hám văm.

          ()復次薄伽梵為息一切障故住於火生三昧說此大摧障聖者不動主真言曰南麼三曼多伐折囉𧹞摩訶嚧瑟拏吒也。吽怛囉迦唅鑁

    (Kinh: Khi đó, đức Bạc Già Phạm v́ dứt hết thảy các chướng mà trụ trong Hỏa Sanh tam-muội, nói chân ngôn của ngài Bất Động Chủ là đấng vĩ đại phá tan các chướng như sau: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, chiến đồ, ma ha rô sắt noa, tát phả trá dă, hồng đát ra ca. Hám văm).

 

          Khi đó, đức Phật lại muốn ngăn dứt hết thảy những kẻ gây chướng, Hỏa Sanh là chứng tam-muội, nói chân ngôn Đại Tồi Chướng này. Chân ngôn này có oai thế có thể trừ hết thảy các thứ chướng nạn của người tu Chân Ngôn. Thậm chí, đức Phật ngồi dưới đạo thụ, do dùng chân ngôn này, hết thảy ma quân không ǵ chẳng tán hoại, huống hồ các chướng ngại trong thế gian! Lại nữa, chướng ấy đại lược có hai loại:

          - Một là nội chướng, tức là sanh từ tự tâm. Loại này rất nhiều, chẳng thể nói tường tận được.

          - Hai là ngoại chướng, tức là sanh từ bên ngoài, cũng rất nhiều.

          [Chú này] đều có thể dẹp tan [các chướng ấy]. Chiến Đồ (Caṇḍa) là cực ác, tức là tột bậc bạo ác trong các kẻ bạo ác. Ma Ha Rô Sắt Noa (Mahāroṣaṇa) là Đại Phẫn Nộ. Tát Phả Trá Dă (Sphoṭaya) nghĩa là phá hoại. Hồng là khủng bố. Đát Ra Ca (Traka) là kiên cố. Dùng hai chữ cuối là Hám Văm (Hāṃ māṃ) làm chủng tử, các cú nghĩa đều nhằm thành tựu điều này. Trước tiên là Chiến Đồ. Chiến nghĩa là “chết”, nhập môn chữ A sẽ có nghĩa là “chẳng sanh tử”. Đồ là chiến đấu, dùng cái “vô sanh tử” có thế lực to lớn ấy làm chủ để chiến đấu cùng tứ ma. Chữ Ma kế đó nghĩa là Ta, nhập môn chữ A th́ là Vô Ngă, cũng là Không. Ha nghĩa là hỷ, là hành. Rô Sắt (रोष, Roṣa) có chữ Ra () là cấu chướng, có âm Ổ () là tam-muội; tức Xa-ma-tha là tam-muội. Noa (, ṇa) nghĩa là Không. Chữ thứ năm tức là Đại Không tam-muội. Tát [trong Tát Phả Trá Dă] có nghĩa là cứng chắc. Phả có nghĩa là pháp, biết rơ thế gian như bọt nước đọng, dễ phá tan. Bên cạnh có cái chấm diễn tả âm A, tức là “thực hiện”. Trá có nghĩa là chiến đấu, có thể đối địch sự chướng ngại, sợ hăi, khiến nó bị phá tan, cũng có nghĩa là Thừa. Hồng là Đại Không Hạnh tam-muội, như trong phần trước đă nói. Đát là Như Như, Ra là vô cấu. Ca là làm, tức hết thảy các pháp vô tác. Chữ Ha () trong chữ Hám (हां) có nghĩa là hành, lại có âm A () tức là Bố Ma Chướng Kim Cang tam-muội. Cái chấm trên đó tức là Đại Không, [hàm nghĩa] dùng Đại Không bất động để thực hiện, khiến cho hết thảy ma chướng hết sức kinh sợ. Chữ Ma (​) trong Văm (मां, māṃ) nghĩa là ta, nhập môn chữ A tức là Vô Ngă. Lại dùng Đại Không Vô Ngă tam-muội để dọa nạt lũ ma, do chữ này cũng có âm A và chấm [Đại Không]. Bốn chữ Ha, Rô, Hám, Văm đều có âm A, tức là ư nghĩa “tầng tầng đe dọa ma, khủng bố hai loại chướng nội và ngoại!”

 

          (Kinh) Phục thứ, Hàng Tam Thế chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, ha ha ha, tỳ tát ma duệ, tát phạ đát đa yết đa, tỳ sái dă, tam bà phạ, đát lệ lộ ca dă, phệ xà dă, hồng nhạ, sa ha.

          ()復次降三世真言曰南麼三曼多伐折囉𧹞訶訶訶薩麼曳怛多揭多灑也三婆嚩吠闍。吽莎訶

    (Kinh: Lại nữa, chân ngôn của ngài Hàng Tam Thế là: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, ha ha ha, tỳ tát ma duệ, tát phạ đát đa yết đa, tỳ sái dă, tam bà phạ, đát lệ lộ ca dă, phệ xà dă, hồng nhạ, sa ha).

 

          Kế đó là chân ngôn của Hàng Tam Thế Minh Vương (Trailokyavijaya). Đây là Tỳ Lô Giá Na Như Lai trụ trong Pháp Tràng Cao Phong Quán gia tŕ tam-muội, như trong phẩm Tự đầu tiên đă nói. Như Lai nói hai thứ minh chú này đều là tam-muội của Pháp Thân Phật, nhằm khiến cho hành nhân từ sơ phát Bồ Đề tâm được thủ hộ, tăng trưởng, khiến cho chúng sanh thành tựu trọn vẹn Phật quả, trọn chẳng lui sụt, mất mát, chẳng đọa trong phi đạo. Đó chính là Bất Động Minh Vương. Nhằm hàng phục chúng sanh khó điều phục trong thế gian, th́ là Hàng Tam Thế Minh Vương. [Đức Phật] lần lượt nói ra [các minh chú ấy]. Nói đến Tam Thế th́ Thế chính là tham, sân, si. Hàng phục ba món độc ấy th́ gọi là Hàng Tam Thế. Lại do v́ quá khứ tham lam, nay thọ cái thân do quả báo tham lam ấy, lại sanh nghiệp tham, phải chịu quả báo trong vị lai. Tam Độc đều như thế, [v́ trừ diệt Tam Độc] nên gọi là Hàng Tam Thế. Lại nữa, tam thế gọi là tam giới, tức là Tỳ Lô Giá Na Như Lai, bắt đầu từ trời Hữu Đảnh cho đến mặt đất, từ trên xuống dưới, trong mỗi tầng trời đều lần lượt hóa hiện, hóa thành chúa tể của vô lượng đại thiên quyến thuộc. Nay Ngài (Tỳ Lô Giá Na Như Lai) hơn hẳn các vị trời ấy trăm ngàn vạn lần, chưa từng có nỗi sợ hăi, há có chúng sanh nào hơn được ta ư? Cho đến dùng pháp mà hàng phục, tức là lần lượt giáng hạ. Do có thể hàng phục chúa tể của ba thế giới, nên gọi là Hàng Tam Thế Minh Vương.

          Ha Ha Ha (Ha có nghĩa là Hnh, là Hỷ). Ba hạnh ấy chính là hạnh của người thuộc tam thừa. Chữ Hnh này chính là nói ba hạnh ấy vốn sẵn “chẳng sanh”. Do vốn chẳng sanh, nên vượt khỏi ba hạnh ấy, tức là Phật hạnh. Tỳ Tát Ma Duệ (Vismaye) có nghĩa là “lạ thay, ngạc nhiên sao!” Như đức Phật thường dạy, dùng ḷng Từ để đối trị sân, dùng vô tham đối trị tham, dùng chánh kiến đối trị tà kiến, nay bèn dùng đại phẫn sân để trừ phẫn sân, dùng đại tham để trừ hết thảy các tham. Điều này khó tin, khó hiểu nhất. V́ thế, nói là “lạ lùng thay!”

          Tát Phạ Đát Đa Yết Đa (Sarvatathāgata) là hết thảy chư Phật. Tỳ Xá Dă (Viaya) là cảnh giới. Tam Bà Phạ (Saṃbhava) là sanh, ư nói từ cảnh giới của chư Phật mà sanh. Cảnh giới của chư Phật chính là Thật Tướng của các pháp. Từ Thật Tướng mà sanh, v́ thế hiệu là Hàng Tam Thế. Đế Lệ Lộ Ca Dă (Trailokya) tức là Tam Thế. Phệ Xà Dă (Vijaya) nghĩa là hàng phục chiến thắng. Hồng có ư nghĩa giống như trong phần trước đă nói. Nhạ (Jaḥ) là triệu tập, có ư nghĩa cảnh giác. Nếu tụng chú này, có thể vào tâm của trọn khắp hết thảy chúng sanh để cảnh tỉnh, giác ngộ họ, khiến cho họ hết sạch chướng, giống như Pháp Thân Phật. Nhưng chân ngôn này lấy chữ Đế Lệ (त्रै, Trai) làm Thể, trong đó có âm Đa (Ta), tức là nghĩa Như Như, Ra là cấu chướng. Có âm Y tức là tam-muội. Do cái Thể Như Như vốn sẵn bất sanh, do bất sanh nên cấu chướng cũng tự vốn sẵn chẳng sanh. Xứng với lư này mà tu Định Huệ đều trọn. Do vậy, có thể hàng phục ba đời!

 

          (Kinh) Chư Thanh Văn chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hê đô bát ra để dă, tỳ nghiệt đa yết ma nê xă đa, hồng.

          ()諸聲聞真言曰南麼三曼多勃馱喃醯都鉢羅底也毘蘖多羯麼泥社多。吽。

    (Kinh: Chân ngôn của các Thanh Văn là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hê đô bát ra để dă, tỳ nghiệt đa yết ma nê xă đa, hồng).

 

          Kế đó là chân ngôn của Thanh Văn. Hê Đô (Hetu) là nhân, Bát Ra Để Dă (Pratyaya) là duyên. Tỳ Nghiệt Đa (Vigata) là ĺa, Yết Ma (Karma) là nghiệp, Nê Xă Đa (Nirjāta) là sanh, Hồng (Hūṃ) là đe dọa các chướng. Giải thích chung là ĺa sự sanh bởi nhân duyên. Sanh bắt nguồn từ nghiệp. Ly sanh tức là ĺa nghiệp. Chữ Hê (हे) đầu tiên có âm Ha () là hành, là hỷ, tức là hạnh Thanh Văn. Âm Ế () tam-muội chính là môn Định của Thanh Văn. Kế đó là chữ Đô (तु, Tu) có âm Đa (, Ta) chính là Như Như mà Thanh Văn đă nhập. [Trong chữ Tu (तु) cũng có âm tam muội chữ Ổ (, U). Kế đó là chữ Bát (tức Đệ Nhất Nghĩa Đế do Thanh Văn trông thấy) rồi đến chữ Ra (tức là sáu trần mà Thanh Văn phải đối diện). Để Dă (có nghĩa là nương vào Như, tức là ư nghĩa “cái Thể để Thanh Văn nương vào”). Chữ Tỳ (वि, Vi) có âm Phạ (, Va), tức là “trói”. Âm Y (ि) chính là tam-muội. Nghiệt Đa (Gata, ĺa). Các chữ c̣n lại đều rộng nói. “Bố chướng” (đe dọa các chướng) ư nghĩa như trong phần trên đă nói, nhưng do hạnh Thanh Văn có khác. Đây là Pháp Thân Phật do nguyện lực đại bi, v́ lợi ích hữu t́nh, trong tam-muội mà hiện chân ngôn của Duyên Giác và Thanh Văn. Nếu chúng sanh đáng nên dùng pháp này để nhập đạo, sẽ khiến cho họ từ môn này mà nhập Đại Bi Tạng.

 

          (Kinh) Chư Duyên Giác chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phạ.

          ()諸緣覺真言曰南麼三曼多勃馱喃

          (Kinh: Chân ngôn của các Duyên Giác là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phạ).

 

          Kế đó là chân ngôn của Duyên Giác. Chữ Phạ (वः, Vaḥ) nghĩa là ngôn ngữ dứt bặt, tức là như trên đă nói: Duyên Giác chứng cực vô ngôn thuyết giới. Đă chứng đắc trong ấy, lại dùng pháp ấy để lợi ích chúng sanh. Tự ḿnh thông đạt, lại dùng pháp này để lợi tha. [Chân ngôn của] Thanh Văn và Duyên Giác được nói như trên đây, đều dùng cú pháp làm chân ngôn. Nay dùng một chữ ấy chính là điều trọng yếu được đề cao tột bậc, tức là trụ xứ tu hành tột bậc. V́ thế, sử dụng một chữ!

 

          (Kinh) Phổ nhất thiết Phật, Bồ Tát tâm chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Tát phạ bột đà bồ đề tát đỏa, ha lật na da, nịnh dạ tỳ xá nễ, na ma tát phạ tỳ đệ, sa ha.

          ()普一切佛菩薩心真言曰南麼三曼多勃馱喃勃馱菩提薩埵娜耶甯夜毘舍娜麼薩嚩毘睇莎訶

    (Kinh: Tâm chân ngôn của trọn khắp hết thảy Phật, Bồ Tát là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Tát phạ bột đà bồ đề tát đỏa, ha lật na da, nịnh dạ tỳ xá nễ, na ma tát phạ tỳ đệ, sa ha).

 

          Kế đó là tâm chân ngôn của chư Phật, Bồ Tát. Tát Phạ Bột Đà (Sarva-buddhā, hết thảy chư Phật), Bồ Đề Tát Đỏa (Boddhisatva, Bồ Tát), Ha Lật Na Da (Hṛdaya, tâm), Nịnh Dạ Tỳ Xá Nễ (Nyāveśani, nhập. Đây là nói chung nhập vào tâm của hết thảy chư Phật, Bồ Tát). Na Ma (Namaḥ, quy mạng), Tát Phạ Tỳ Đê (Sarvavide, thỏa nguyện), tức là cho thỏa nguyện trí Nhất Thiết Trí. [Trong câu Tát Phạ Tỳ Đê], Tát có nghĩa là cứng chắc, [hàm nghĩa] có thể ĺa các sự cứng chắc và chẳng cứng chắc). Chữ Ra [trong chữ Tát (Sar)] là cấu nhơ, chữ Phạ sau đó là trói buộc. Tỳ (वे, Ve) là ngôn ngữ dứt bặt, lại có âm thanh tam-muội (tức là có nguyên âm E sau chữ व, Va). Đệ (दे, De) nghĩa là trao cho, âm Ế là tam-muội. Ví như do đă tự trọn đủ bèn trao cho người khác. Ví như do đă tự đạt được trí Nhất Thiết Trí, có thể ban cho người khác được thỏa nguyện này. Đấy chính là tâm của chư Phật. Chữ Đệ chính là chủng tử, nối tiếp âm A trong câu trước đó, tức là dùng âm A làm cái Thể của chủng tử, tức là ư nghĩa vốn chẳng sanh.

 

          (Kinh) Phổ thế thiên đẳng chư tâm chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Lô ca lô ca ca ra dă. Tát bà đề bà, na già, dạ khất xoa, kiện thát phược, a tu la, yết lộ đồ, khẩn na la, ma hô la già nễ, ha lật đà dạ na dạ, ca sa dă, phí chỉ đa la yết đế.

          ()普世天等諸心真言曰南麼三曼多勃馱喃嚧迦嚧迦迦囉也提婆那伽夜乞叉健闥縛阿修羅揭露荼緊那羅摩呼羅伽儞馱夜娜迦沙也費只多羅揭帝

    (Kinh: Tâm chân ngôn của trọn khắp các vị trời trong thế gian là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Lô ca lô ca ca ra dă. Tát bà đề bà, na già, dạ khất xoa, kiện thát phược, a tu la, yết lộ đồ, khẩn na la, ma hô la già nễ, ha lật đà dạ na dạ, ca sa dă, phí chỉ đa la yết đế).

 

          Kế đó là các tâm chân ngôn của các vị trời trong thế gian. Lô Ca Lô Ca (Lokaloka, thế gian), tức là ư nghĩa tối tăm, được gọi là vô minh. Bên cạnh chữ này có âm A, nghĩa là “vốn chẳng có”. Chẳng tối tăm tức là thật sự sáng sủa. A Lô Ca là sáng. Ca Ra Dă (Karāya) là Tác, có nghĩa là Chiếu, soi sáng, tạo thành tướng sáng, [hàm ư]: Hiện thân trọn khắp trong tám bộ để trừ tối tăm cho họ, khiến cho họ hành hạnh sáng suốt. Tạo sự sáng suốt ấy để khiến cho thế gian sáng bừng. Tát Bà Đề Bà (Sarvadeva, chư thiên), Na Già (Nāga, rồng), Dạ Khất Xoa (Yakṣa, Dạ Xoa, đọc đúng theo mặt chữ), Kiện Thát Phược (Gandharva, Càn Thát Bà), A Tu La (Asura), Yết Lộ Đồ (Garua, Ca Lâu La, nhạc chủ[10]), Khẩn Na La (Kiṃnara, nhạc thanh), Ma Hô La Già (Mahoraga), Nễ (दि, Di) nghĩa là “vân vân”, nhiếp thuộc các bộ), Ha Lật Đà Dạ Na Dạ (Hṛdayāny, tâm), Ca Sa Dă (Akarṣāya, nhiếp thuộc, [hàm nghĩa]: Khiến cho tâm của tám bộ ấy được sáng suốt). Phí Chỉ Đa La Yết Đế (Vicitragati) là các thứ hạnh, cũng có nghĩa là Xảo Sắc (màu sắc đẹp đẽ). Tùy loại thị hiện hết thảy các thân đáng yêu mến th́ gọi là Xảo Sắc. Cũng có nghĩa là Tạp Sắc (nhiều màu), [hàm nghĩa] dùng đủ loại hạnh, đủ loại sắc pháp môn để trừ tối tăm cho thế gian, tức là ư nghĩa khôn sánh trong các minh chú vậy. Dùng chữ Lô tối sơ để làm chủng tử.

 

          (Kinh) Nhất thiết chư Phật chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Tát phược tha, tỳ mạt để, tỳ kết ra noa, đạt ma đà đô, niết xà đa, sâm sâm ha, sa ha.

          ()一切諸佛真言曰南麼三曼多勃馱喃薩縛他毘末底毘結囉拏達摩馱都涅闍多參參訶莎訶

          (Kinh: Chân ngôn của hết thảy chư Phật: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Tát phược tha, tỳ mạt để, tỳ kết ra noa, đạt ma đà đô, niết xà đa, sâm sâm ha, sa ha).

 

          Kế đó là chân ngôn của hết thảy chư Phật. Tát Phược Tha (Sarvātha, hết thảy). Tỳ Mạt Để (Vimati, vô huệ): Do không có huệ, nên gọi là Nghi. Chữ này chính là để giải thích cho Nghi. Tỳ Kết Ra Noa (Vikiraṇa) nghĩa là Trừ. Có nghĩa là vứt bỏ Sắc Trần như người vứt bỏ ô uế, nên gọi là Trừ Khí. Đạt Ma Đà Đô (Dharmadhātu, pháp giới): Ư nói trừ hết thảy vô huệ, đều khiến cho trụ trong pháp giới. Niết Xà Đa (Nirjāta) là sanh. Chữ Niết này chính là Đại Không tam-muội. Từ đây mà sanh th́ chính là sanh trong pháp giới vậy. Sâm Sâm Ha (Saṃ saṃ hā): Ba chữ này đều là chủng tử. Tát (, Sa) có nghĩa là cứng chắc. Ví như do trừ sự kiên cố này mà sanh ra tối thắng. Cái chấm Không là nhập tam-muội, [tức chữ Sa thêm chấm Đại Không thành Saṃ (सं)]. Như Nhị Thừa nhập Niết Bàn, đấy chính là ư nghĩa kiên cố. Cho đến nếu có ǵ cứng chắc, đấy chính là tướng sanh trụ. Hết thảy các pháp động đều là bất an. Do cực lực trừ khử điều ấy mà đều có ư nghĩa Trọng Không tam-muội. Ha chính là hạnh ấy, tức là Như Lai hạnh.

 

          (Kinh) Bất Khả Việt Thủ Hộ Môn Giả chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Nô đạt rị sa, ma ha rô sắt noa, khư đà dă, tát phược đát tha yết đa chiêm, câu rô, sa ha.

          ()不可越守護門者真言曰南麼三曼多勃馱喃奴達哩沙摩訶嚧瑟拏佉佗也薩縛怛他揭多俱嚧莎訶

          (Kinh: Chân ngôn của người thủ hộ cửa Bất Khả Việt (chẳng thể vượt qua): - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Nô đạt rị sa, ma ha rô sắt noa, khư đà dă, tát phược đát tha yết đa chiêm, câu rô, sa ha).

 

          Kế đó là chân ngôn của người thủ hộ. Đây chính là chẳng thể vượt qua, chính v́ khó tŕ (nghĩa là tận lực tŕ. Ḍm ngó sẽ chẳng thể được[11], cũng có nghĩa là khó hàng phục). Người vâng theo giáo pháp của Pháp Thân Phật thường ở bên phải, phía trong cửa, gọi là Bất Khả Việt Sứ Giả (Durdharṣadvarapāla). Do oai lực tam-muội-da của chư Phật, sẽ không thể vượt qua! Tuân phụng, làm theo giới luật kim cang, hết thảy chẳng dám trái vượt, cũng gọi là Vô Năng Kiến (chẳng thể thấy). Do người tuân phụng giáo này oai mănh hừng hực như trăm ngàn mặt trời, không ai dám nh́n, ví như trẻ nhỏ mới sanh chẳng kham ngửa mặt nh́n mặt trời. Do vậy gọi tên như thế. Do thường ở phía trong cửa của Phật, hành đúng theo lời răn dạy, nên gọi là Phụng Giáo Giả.

          Nô Đạt Rị Sa (Durdharṣa) chính là tên của họ, có nghĩa là Bất Khả Việt. Đà Đạt (dhar) là pháp giới, có âm Ra là vô cấu, Xa (Ṣa) tức là Xa-ma-tha. Ma Ha Rô Sắt Noa (Mahāroṣaṇa) là Đại Phẫn Nộ. Khư Đà Da (Khādaya) là ăn, tức nuốt hết thảy các phiền năo do h́nh tướng hư vọng. Dùng chữ Khư (Khā) làm chủng tử. Các chữ kia nhằm giải thích chữ này, tức là nghĩa Không. Đà có nghĩa là Cho, cũng có nghĩa là Thừa (nương vào, ngự trên). Tát Phược Đát Tha Yết Đa (Sarva- tathāgatā) là hết thảy Như Lai. Chiêm (Jñaṃ, đọc âm dài) có nghĩa là giáo sắc, liên kết với âm A trong câu trước. Câu Rô (Kurū) là “làm”, tức là khiến cho [người phụng giáo] thực hiện giáo sắc của Như Lai. Thuận theo giáo sắc mà thực hiện, chẳng trái nghịch, nghĩa là “có thể tuân theo giáo sắc” vậy.

 

          (Kinh) Tương Hướng Thủ Hộ Môn Giả chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Hê ma ha bát ra, chiến đồ. A bệ mục khư. Nghiệt lật ha noa, khư đà dă, khẩn chỉ la duệ tế, tam ma da, ma nỗ tát ma ra, sa ha.

          ()相向守護門者真言曰南麼三曼多勃馱喃醯摩訶鉢囉戰荼阿鞞目佉訶拏佉陀也緊只羅曳細三麼耶麼努薩麼囉莎訶

    (Kinh: Chân ngôn của người thủ hộ cửa đối diện nhau: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Hê ma ha bát ra, chiến đồ. A bệ mục khư. Nghiệt lật ha noa, khư đà dă, khẩn chỉ la duệ tế, tam ma da, ma nỗ tát ma ra, sa ha).

 

          Kế đến là chân ngôn của Tương Đối Thủ Môn Giả (Abhimukha). Hê (He) là kêu gọi triệu tập. Ma Ha Bát Ra (Mahāpra) là cùng cực. Chiến Đồ (Caṇḍa) là đại phẫn nộ, bạo ác, hàm nghĩa phẫn nộ tột bậc. A Bệ Mục Khư (Abhimukhā): Đối diện nhau, giữ cửa như trong phần trên [đă nói về Việt Thủ Hộ Thủ Môn Phụng Giáo Giả]. Nghiệt Lật Ha Noa (Gṛhṇa) là nhiếp thủ. Khư Đà Dă (Khādaya) là ăn nuốt, cũng lấy chữ Khư (Khā) làm chủng tử. Khẩn Chỉ La Duệ Tế (Kiṃ cirāyasi): Sao không nhanh chóng? Tam Ma Da (Samayam) như đă giải thích trong phần trước. Ma Nỗ Tát Ma Ra (Anusmara): Ức niệm, tức là nghĩ nhớ Tam-ma-da. Do phẫn nộ tột bậc. Kẻ chẳng thể quán sẽ khiến cho [kẻ đó] chẳng thể nh́n ngó. Do đối ứng với [các vị thủ hộ cửa] trong phần trước, nên gọi tên như thế. Tuân phụng giáo sắc của chư Phật, dùng Bất Khả Đắc Không để ăn nuốt hết thảy chúng sanh chấp tướng và khó thể hóa độ hàng phục, khiến cho chẳng c̣n sót. Đó là ư nghĩa Đại Phẫn Nộ.

 

          (Kinh) Kết đại giới chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Tát phạ đa la nỗ yết để, bạn đà dă tử mạn. Ma ha tam muội da nễ ra xă để. Tát mạt ra noa, a bát ra để ha để. Đà ca, đà ca, giá la, giá la. Bạn đà, bạn đà. Na xa nễ chiên. Tát phạ đát tha yết đa nô nhưỡng đa. Bát ra phạ ra. Đạt ma la đà tỳ xà duệ. Bạc già phiệt để, tỳ câu lệ, tỳ câu lệ, lệ rô bổ lê, sa ha.

          ()結大界真言曰南麼三曼多勃馱喃薩嚩多羅努揭底畔陀也死曼摩訶三昧耶儞囉社底薩末囉拏阿鉢囉底訶底馱迦馱迦遮囉遮囉畔陀畔陀娜奢儞羶薩縛怛他揭多奴壤多鉢囉嚩囉達摩羅陀毘闍曳薄伽筏底毘俱毘俱麗嚕補𠼝莎訶

    (Kinh: Chân ngôn kết đại giới là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Tát phạ đa la nỗ yết để, bạn đà dă tử mạn. Ma ha tam muội da nễ ra xă để. Tát mạt ra noa, a bát ra để ha để. Đà ca đà ca, giá la, giá la. Bạn đà, bạn đà. Na xa nễ chiên. Tát phạ đát tha yết đa nô nhưỡng đa. Bát ra phạ ra. Đạt ma la đà tỳ xà duệ. Bạc già phiệt để, tỳ câu lệ, tỳ câu lệ, lệ rô bổ lê, sa ha).

         

          Kế đó là chân ngôn kết đại giới. Như đức Phật đă nói có vô lượng tŕ minh, sợ cũng có những người tŕ chân ngôn do không kết giới, thủ hộ, pháp sự có thể bị phá, tổn hoại người tŕ tụng. V́ thế, lập ra pháp kết giới. Do kết giới, thậm chí các vị Tŕ Minh cũng chẳng thể phá hoại. Do tỳ-kheo kết giới làm pháp sự, dẫu tỳ-kheo ở ngoài kết giới tác pháp, [những kẻ gây rối khác] cũng chẳng thể chướng ngại được, ở bất cứ chỗ nào cũng đều trọn khắp.

          Tát Phạ Đa La Nỗ Yết Để (Sarvatrānugate): Hết thảy nơi chốn, tức là mười phương đều cần kết giới trọn khắp. Bạn Đà Dă Tử Mạn (Bandhaya sīmāṃ): Câu trên là Kết, câu dưới là Giới. Ư nói: Hết thảy các nơi chốn đều được kết giới. Ma Ha Tam Muội Da (Mahāsamaya): Đại tam-muội-da, tức là dùng đại tam-muội-da ấy để kết các giới. Nễ Ra Xă Để (Nirjāte): Sanh bởi. Ư nói từ đại tam-muội-da mà sanh. Tát Mạt Ra Noa (Smaraṇe): Ức niệm. Tức là nghĩ nhớ hết thảy lời dạy của đức Phật. A Bát Ra Để Ha Để (Apratihate): Chẳng có ǵ có thể gây hại, cũng nói là không vướng mắc, cũng là “chẳng thể phá hoại. Do kết giới mà chẳng thể phá hoại. Đà Ca Đà Ca (Dhaka dhaka): Oai quang. Do oai quang mà thành giới. Đà là pháp giới, Ca là làm. Tức là nói Thể của pháp giới ĺa các tạo tác; ĺa tạo tác tức là pháp giới. Giá La Giá La (Cala cala): Giá nghĩa là Diệt, tức là sanh diệt, đổi dời. La là cấu chướng. Câu này cũng có nghĩa là hành, tức là tới trọn khắp mười phương để kết. “Cũng có nghĩa là hành” tức là đến, đi. Nói lặp lại, [nhằm diễn tả] ư nghĩa “đến tột bậc”. Đây chính là gấp đến. Bạn Đà Bạn Đà (Bandha bandha): Câu giải thích để kết lại ư nghĩa. Câu trước mang ư nghĩa “có thể”, câu sau là Không. Ví như chẳng thể đả phá giống như hư không. Do dùng chuyện này để kết giới, nên chẳng thể phá hoại. Na Xa (Daśa) là mười; Nễ Chiên (Diśaṃ) là Phương; tức là “kết giới trong mười phương”. Tát PhĐát Tha Yết Đa (Sarvatathāgata): Hết thảy chư Phật. Nô Nhưỡng Đa (Anujñate): Giáo, tức là lời dạy của hết thảy chư Phật; khiến cho nghĩ nhớ cái được nghĩ tới trong phần trước. Bát Ra Phạ Ra (Pravara) là sở chứng. Đạt Ma (Dharma) là pháp, [nói gộp hai câu này lại] th́ chính là pháp được chứng bởi chư Phật. La Đà (Labdha): Thu được, chứng được, đạt được. Tỳ Xà Duệ (Vijaye): Chẳng thể thắng, [hàm nghĩa]: Ở trong các chướng bèn chiến thắng, tức là [các chướng] chẳng thể hại (chẳng thể thắng người ở trong kết giới) được! Bạc Già Phiệt Để (Bhagavati): Đấy là vị Chân Ngôn Chủ, tán thán công đức của Thế Tôn. Tỳ Câu Lệ (Vikuri): Trừ, [tức là] có thể trừ cấu. Trước hết là khuyên trừ, mà cũng khuyên niệm để làm. Tỳ Câu Lệ (Vikule): Câu trước là trừ hữu tướng cấu, chính là “đừng làm”. Câu sau là trừ ly tướng cấu. Tức là trừ hết thảy các chướng. Lệ (Le) là chủng tử. Lỗ Bổ Lê (Lu Puri) nghĩa là cung điện, là nơi chốn. Dùng chân pháp để trừ cấu tướng, đó chính là cung điện để chư Phật trụ, tức là giống như pháp giới. [Trong Phạn bản, có khi sau câu này] lại thêm câu Vi Củ Lệ (Vikuli), nhưng chỉ có chữ Lệ trong câu cuối cùng chủng tử. La (ल) là tướng, thêm vào âm Ế tức là tam-muội [thành chữ Lệ (ले)], [hàm ư] “có đủ hết thảy các tướng mà ly tướng. Đấy là thể tướng của Giới.

 

          (Kinh) Bồ Đề chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ố.

          ()菩提真言曰南麼三曼多勃馱喃

          (Kinh: Chân ngôn Bồ Đề là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ố).

         

          Từ đây trở đi, nói các chữ chủng tử (do từ một chữ mà có thể sanh ra nhiều, th́ gọi là Ch̗