Đại Tỳ Lô Giá
Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần bảy
大毘盧遮那成佛經疏
Đường sa-môn
Nhất Hạnh A-xà-lê kư
沙門一行阿闍梨記
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang
5. Phẩm thứ
năm: Thế Gian Thành Tựu (Thế gian thành tựu phẩm
đệ ngũ, 世間成就品第五)
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Chấp Kim Cang Thủ
Bí Mật Chủ, nhi thuyết kệ ngôn: - Như Chân Ngôn
giáo pháp, thành tựu ư bỉ quả, đương tự
tự tương ứng, cú cú diệc như thị, tác
tâm tưởng niệm tụng, thiện trụ nhất lạc-xoa,
sơ tự Bồ Đề tâm.
(經)爾時世尊復告執金剛祕密主而說偈言:如真言教法,成就於彼果,當字字相應,句句亦如是,作心想念誦,善住一洛叉,初字菩提心。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Kim
Cang Thủ Bí Mật Chủ, mà nói kệ rằng: - Như
giáo pháp Chân Ngôn, thành tựu nơi quả ấy, nên mỗi
chữ tương ứng, từng câu cũng như thế,
vận tâm tưởng niệm tụng, khéo trụ một
lạc-xoa. Chữ đầu Bồ Đề tâm).
Trong
phần trước, [ngài Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ]
đă thưa hỏi đức Phật, do tiếp nối
lời giải đáp trong phần trước, nên [ở
đây, đức Phật] không hỏi mà tự nói. “Như
Chân Ngôn giáo pháp, thành tựu ư bỉ quả” (như
giáo pháp Chân Ngôn, thành tựu cái quả ấy): Hành nhân Chân
Ngôn vâng theo đúng giáo pháp, nương theo chánh giáo để
tu pháp hạnh; do khéo hành hạnh ấy, đắc quả
Tất Địa. Ư Phật là: Nếu có chúng sanh muốn
được thành tựu đại quả như trên,
trước hết nên nương theo thứ tự
[được nói] trong phẩm này để tu hành. Đó
chính là chỗ đặt chân ban đầu vậy!
“Đương
tự tự tương ứng, cú cú diệc như thị.
Tác tâm tưởng niệm tụng, thiện trụ nhất
lạc-xoa, sơ tự Bồ Đề tâm” (Nên mỗi
chữ tương ứng, từng câu cũng như thế.
Vận tâm tưởng niệm tụng, khéo trụ một
lạc-xoa, chữ đầu Bồ Đề tâm): Mỗi
chữ như trên đều có ư nghĩa. Từ chữ ấy,
nhập môn Thật Tướng, tức là [nói tới] chữ
[trong
mỗi bài] chân ngôn. Lại nữa, các chữ ấy
hợp thành câu, bèn có “cú nghĩa” (ư
nghĩa của mỗi câu). Câu ấy
nói thẳng vào cái Thể của Thật Tướng. V́ thế,
hành giả tŕ Chân Ngôn, ắt phải sao cho từng chữ
đều tương ứng, từng câu đều
tương ứng. Hoặc trụ trong chữ chủng tử
nơi tâm, hoặc tưởng chân ngôn trở thành h́nh ṿng
tṛn, hoặc như h́nh tràng hoa, hoặc như viên châu
được treo, sáng sạch,
vô cấu, tuần hoàn liên tục, chẳng gián đoạn.
[Tưởng] như thế, sao cho hiện tiền rành rẽ xong, tưởng
chân ngôn luân (các chữ trong chân ngôn kết thành ṿng tṛn) ấy
sáng suốt, trắng trong như sữa tinh thuần, lần
lượt tuôn trào chẳng ngưng dứt, lọt vào trong
miệng [của người tŕ chú], từ trên xuống
dưới, rưới trọn khắp hạ phẩm (phần
dưới thân thể), đầu đuôi liên tiếp, lôi
kéo lẫn nhau, rót vào trong thân, tưới trọn khắp
thân tâm, tưới tắm các thân phần. Do nhân duyên ấy,
có thể khiến cho các chướng nơi thân tâm của
hành giả thảy đều thanh tịnh.
Nói “một
lạc-xoa” chính là ẩn ngữ. Phải hiểu theo biệt
ư của tiếng Phạn, tức [lạc-xoa (lakṣa)] có
nghĩa là “nhất kiến” (vừa trông thấy),
[hàm nghĩa] “giữ cho cái tâm trụ trong cảnh ấy,
một duyên bất loạn, từng chữ tương ứng,
từng câu cũng
tương ứng”.
Tưởng mỗi chữ ấy trong sáng, trắng sạch,
thấu triệt như minh châu thanh tịnh. Mỗi chữ
lại đều rơ rệt, đều có vầng sáng bao
quanh trọn khắp như tràng hoa, theo thứ tự không
ngừng rót vào tâm, như tưới rảy cam lộ. Khi
duyên tưởng chuyên nhất như thế, giả sử
có đủ loại chướng dấy lên, hoặc hiện
ra h́nh tượng hết sức đáng sợ, những kẻ
tán tâm trông thấy sẽ cuồng loạn. Hoặc phát ra âm
thanh to lớn, giả sử núi chúa cũng có thể bị
phá nát. Khi có các chuyện như thế, hành giả trụ
trong tâm Bồ Đề chân thật dũng kiện, nhất
duyên bất động, chẳng có lấy, bỏ. V́ thế
nói là “trụ trong nhất kiến”. Nếu chẳng vậy,
dẫu trải qua trăm năm, tụng trọn ngàn vạn
lạc-xoa (lạc-xoa hiểu theo nghĩa đen là “mười
vạn”), vẫn chẳng có thành tựu, huống hồ [chỉ
tụng niệm] một lạc-xoa ư?
Hơn
nữa, chữ ấy chính là Bồ Đề tâm. Do mỗi
chữ liền nhập môn Thật Tướng, đều
đạt được cái Thể của pháp giới. Chữ
Tự như đă nói, tiếng Phạn là A Sát Lam, A có
nghĩa là “bất hoại”,
tức là Bồ Đề tâm thanh tịnh. Hành môn như thế
chính là Bồ Đề tâm thanh tịnh. Nếu chẳng trừ
cấu, Bổn Tôn tam-muội sẽ không do đâu mà hiện
tiền
được! Do vậy, hành giả
khiến cho mỗi chữ đều tương ứng với
Bồ Đề tâm thanh tịnh.
(Kinh)
Đệ nhị danh vi thanh, cú tưởng vi Bổn Tôn,
nhi ư tự xử tác.
(經)第二名為聲,句想為本尊,而於自處作。
(Kinh:
Thứ hai chính là thanh, tưởng câu là Bổn Tôn, tự
trụ để tác pháp).
Lại
nên quán tưởng âm thanh của từng chữ, từng
câu chân ngôn, theo thứ tự như trên mà liên tục xoay
tṛn không ngừng. Mỗi một âm thanh đều rơ ràng,
như là âm thanh của linh, khánh, gió, phạm chung (hồng
chung) theo thứ tự chẳng đoạn, nhập vào
thân, trọn khắp trong cơ thể. Do nhân duyên ấy, có
thể quét sạch cấu trược trong thân tâm, như
lúc lửa bốc lên, các trần đều hết sạch.
Tâm cũng nên khéo trụ trong một cảnh bất loạn.
Giả sử có đủ loại cảnh giới th́
cũng như trên đă nói. Lại nữa, ư nghĩa trong mỗi
câu chính là cái Thể của Bổn Tôn. Trước hết,
tưởng Bổn Tôn rơ ràng; kế đó, tự quán thân
chính ḿnh giống như Bổn Tôn, khiến cho trong lẫn
ngoài đều sáng tỏ. Quán chữ chân ngôn chính là thân chân
ngôn, quán âm thanh nơi chân ngôn chính là Chân Ngôn Chủ, ư
nghĩa của mỗi câu chính là cái Thể của chân ngôn,
tức là chân ngôn tâm. Câu là chỗ quy hướng của ư
nghĩa, tức là cái tâm của Bổn Tôn. Thân, ngữ, ư
thanh tịnh th́ ba sự thanh tịnh b́nh đẳng, ví
như trong có mắt sáng, ngoài có cảnh thanh tịnh, lại
chẳng có ám chướng. Do ba sự b́nh đẳng, nên
hiện tiền rơ rệt. Do ba sự b́nh đẳng, nên
thân khẩu, ư đều trụ trong “nhất kiến”.
Do các duyên đầy đủ, sẽ có niềm vui thành tựu.
Ba sự ấy b́nh đẳng, thấy rơ Bổn
Tôn, cho nên tự ở trong ấy để
tác pháp. Lại c̣n chính là tự quán thân này cũng giống
như Bổn Tôn, do ba sự b́nh đẳng, mà gọi là “thành
tựu thế gian”. Lúc bấy giờ, Bổn Tôn và các vị
Bồ Tát v.v… sẽ thuận theo tâm tưởng mà hiện,
hễ nghĩ liền tới, hễ hỏi liền
đáp. Sau đấy, mới nhập hạnh Chân Ngôn, tu học
xuất thế. Nếu chẳng như vậy, sẽ uổng
phí công sức, chẳng có lợi ích ǵ!
(Kinh)
Đệ tam cú đương tri, tức chư Phật thắng
cú, hành giả quán trụ bỉ, cực viên tịnh nguyệt
luân, ư trung đế thành tưởng, chư tự
như thứ đệ.
(經)第三句當知,即諸佛勝句。行者觀住彼,極圓淨月輪,於中諦誠想,諸字如次第。
(Kinh:
Nên biết câu thứ ba, câu thù thắng chư Phật. Hành
giả hăy quán trụ, vầng trăng cực tṛn sạch,
tưởng chân thật, chắc chắn, các chữ theo thứ
tự).
Kế
đó, hăy nên quán Phật, tức là quán Bổn Tôn. Tùy thuộc
người ấy (người hành tŕ chân ngôn) muốn làm
chuyện ǵ, đều có các pháp môn cùng loại. Như sắc
có trắng, vàng, đỏ v.v…, các h́nh dạng ngồi,
đứng, thân ấn, tùy theo chuyện muốn làm mà tận
lực quán. Như muốn [thực hiện pháp] tịch tâm
tức tai, liền quán h́nh tượng tức tai. Đă
được thành tựu, rơ ràng vô ngại, lại tưởng
vầng trăng tṛn sáng, thanh tịnh. Quán tự luân (các chữ
trong chân ngôn kết thành ṿng tṛn) ở trong cái tâm sáng sạch
nơi luân ấy, thành tựu như trong phần trên. Đấy
chính là ư nghĩa của Bồ Đề tâm thanh tịnh vậy.
Do ba nghiệp b́nh đẳng thanh tịnh, sẽ có thể
thấy tướng của chư Phật. Bồ Đề
tâm thanh tịnh tương ứng với Niệm Phật
tam-muội, sáng suốt vô ngại, chỉ riêng tự ḿnh hiểu
rơ, người khác chẳng trông thấy! Nói “ư trung
đế thành tưởng” (tưởng chắc thật
trong đó), tức là quán Bổn Tôn và các chữ [chân ngôn]
viên minh, chắc thật, rành rẽ, chẳng hề khuất
lấp, mơ hồ, th́ gọi là “đế liễu phân
minh”.
(Kinh)
Trung trí tự cú đẳng, nhi tưởng tịnh kỳ
mạng, mạng giả sở vị phong, niệm tùy xuất
tức nhập.
(經)中置字句等,而想淨其命。命者所謂風,念隨出入息。
(Kinh:
Trong ấy, đặt chữ, câu, tưởng là thanh tịnh
mạng. Mạng là nói đến gió, niệm theo hơi hít
thở).
Tức
là quán chữ, quán âm thanh, quán Bổn Tôn như trên, rồi mới
quán Phật. Phật chính là Bổn Tôn, thuận theo tất
cả các duyên ấy mà quán [các điều ấy] đều
là thân phổ môn của Phật. Do vậy, chẳng có
tướng khác, cùng gọi [các điều ấy (chữ
chân ngôn, âm thanh chân ngôn, Bổn Tôn)] là Phật. Trước
là thực hiện ba loại quán ấy đều phù hợp
th́ mới thành chủng tử. Do là
chủng tử, ắt sẽ đắc quả. Kế
đó, quán Bổn Tôn v́ muốn thành tựu cái quả.
Như người có hạt giống, đem gieo trong ruộng
tốt, [dùng các] phương tiện vun quén, [các hạt giống
ấy] sẽ kết thành quả. V́ thế nói là “thành tựu
chủng tử, đă thành cái quả của trí
Nhất Thiết Trí”; do vậy quán Phật.
Khi hành giả mới quán, bỗng tạm được
tương ứng, giống như tia chớp, tạm
được thấy đạo. Lúc đó, chớ nên sanh
chấp trước. Như tại phương Tây, có đệ
tử của một vị A-xà-lê, khi thực hiện phép
Quán này, bỗng tạm đạt được
tương ứng, sanh ḷng kiêu căng, khoe với các đồng
học
khác. Thầy liền bảo: “Nếu thấy
pháp tức là thành tựu cái quả. Cái quả của Chân
Ngôn chính là trọn đủ hết thảy các loại huệ.
Chiều hôm qua ta soạn kệ tụng, ngươi có biết
hay chăng? Nếu đối với chuyện gần
như thế mà ngươi c̣n chưa thể thấu đạt,
hăy nên biết là ngươi chưa thể thông đạt
cảnh giới của chư Phật!” V́ thế, nói đến
chuyện này! Nếu người khi thấy chữ, hiểu
rơ, do tương ứng với pháp, ắt thân tâm sẽ
khác. Kẻ trước kia ngu độn, nếu đắc
Tổng Tŕ, sẽ do nghe một câu mà thông đạt vô
lượng nghĩa thú, nói chẳng thể cùng tận! Huống
hồ [kẻ tạm được tương ứng],
nhưng bị các lỗi quấy như ngă mạn
v.v… dấy động, [há có nên] sanh tâm kiêu căng, ngạo
mạn, chấp trước ư? Do vậy, hành giả hăy
nên ĺa pháp ái như thế, chớ nên tự
lui sụt!
Lại
nữa, khi hành giả quán Bổn Tôn, thoạt đầu bỗng
thấy [h́nh tượng Bổn Tôn] diệt mất, chớ
nên yêu đắm, chấp trước, hoặc sanh tâm sầu,
hối, chỉ nên nhất tâm hành tŕ. Lâu dần, sẽ tự
hiểu chân thật, rơ ràng. Nếu lúc thấy Bổn Tôn,
các việc suy tưởng sẽ tự nhiên thành tựu;
viên quang, nguyệt luân, và các chữ [trong chân ngôn] v.v… sẽ
thuận theo ư niệm mà hiện ra rành rẽ, thấu suốt.
Nếu thấy chữ th́ phía ngoài chữ đều có quang
minh chói ngời, ví như ngọn lửa sáng sạch khôn
sánh. Hoặc quán tự luân như trong phần trước
đă nói, trên luân cũng có quang minh, tùy tâm thành tựu. Cho
đến quán sự viên minh ấy, muốn nhỏ liền
hiện nhỏ, muốn lớn bèn hiện lớn, cho đến
trọn khắp mười phương cơi Phật, thảy
đều trọn khắp! Hoặc muốn trông thấy vô
lượng vô số sắc tướng, ngôn ngữ diễn
nói bí tạng, các chuyện thần thông của mười
phương chư Phật, đều được thấy
rơ. Ví như người thợ vàng tài khéo, có được
vàng ṛng tốt đẹp, tinh luyện trăm lần, [vàng
sẽ] thanh tịnh nhu nhuyễn, vô cấu, tùy ư tạo tác,
tùy tâm mà thành, hết thảy vô ngại. Đó gọi là cái
quả của tŕ tụng.
Lại
nữa, nói “xuất nhập tức” chính là như
hơi thở của người đời, lọt vào
thân rồi lại thoát ra, thoát ra rồi lại trở vào,
chẳng có đoạn tuyệt, gián đoạn chút nào.
Người ấy quán thấy tự luân viên minh cũng giống
như thế, từ tâm của Bổn Tôn trong mỗi niệm
đều tuôn nhập vào thân hành giả như hít vào. Lại
từ thân tâm của người ấy, trong mỗi niệm
mà thoát ra, nhập vào tâm của Bổn Tôn. Tâm trong mỗi niệm
đều chẳng gián đoạn giống như thở
ra. Mỗi niệm đều giáp ṿng như thế vô cùng;
đó chính là hành nhân Chân Ngôn thở ra hít vào vậy. Thở
ra hít vào như thế, tưới rót thân tâm, tịnh trừ
các cấu uế, dần dần đạt được
các căn thanh tịnh. Lại tùy theo từng sự mà quán
màu sắc của các chủng tử trong tự luân, như
Tức Tai là sắc trắng, Hàng Phục th́ có các màu như
xanh hoặc đen v.v… Có thể suy ra mà biết! Làm như
thế
th́ cũng có thể tùy tâm hoàn thành các sự.
Trong kinh lại nói: “Mạng giả sở vị phong”
(mạng được gọi là phong). “Phong” tức
là tưởng, là niệm. Tưởng mạng căn hít
vào, thở ra như thế, tuy tịnh diệu, vẫn là
do tưởng gió mà thành, cũng phải nên tịnh hóa.
(Kinh)
Bỉ đẳng tịnh trừ dĩ, tác tiên tŕ tụng
pháp. Thiện trụ chân ngôn giả, thứ nhất nguyệt
niệm tụng. Hành giả tiền phương tiện,
nhất nhất cú thông đạt.
(經)彼等淨除已,作先持誦法,善住真言者,次一月念誦,行者前方便,一一句通達。
(Kinh:
Trừ sạch các thứ ấy, trước làm
pháp tŕ tụng. Người khéo trụ
Chân Ngôn,
tụng niệm một tháng nữa. Mỗi
câu tiền phương tiện, hành giả đều thông
đạt).
Nói
đến chuyện đă tịnh trừ các
thứ ấy xong, trước hết, hăy nên nói đến
chữ A trong pháp tŕ tụng, v́ hết thảy các chủng
tử đều sanh từ chữ A. Nếu quán tướng
chủng tử, th́ tức là chẳng quán chữ A. Nếu
cùng quán, sẽ chính là có hai tướng. Do vậy, chỉ
quán chữ A, sẽ là hết thảy các chủng tử, v́
hết thảy các pháp chẳng ra ngoài môn chữ A. Ở
đây có nghĩa là: Trước hết, quán biệt tướng
của chủng tử. Kế đó đến đây, mỗi
mỗi đều cần phải nhập vào môn chữ A. Nếu
nhập môn chữ A, sẽ thấy “lư thể vốn bất
sanh”. Đă thấy như thế rồi, tức là ba
nghiệp đều thông. Do thân thông, thấy trọn khắp
các sắc thân, tùy loại thấy trọn khắp các thân
ưa thấy. Do ngữ thông, có thể dùng một âm thanh
mà thấu tới trọn khắp mười phương
cơi Phật, cũng có thể ứng trọn khắp ngôn ngữ
sai biệt của hết thảy chúng sanh. Do tâm thông, cho
đến hết thảy động niệm, hư luận dấy
lên trong tâm của hết thảy chúng sanh, không ǵ chẳng
biết rơ, mà cũng có thể biết chuyện bí mật của
các Như Lai, tức là sáu căn rốt ráo
thanh tịnh, thành tựu Chủng Trí. Hành giả tu Chân Ngôn
trước hết vâng làm một tháng niệm tụng, tức
là trong ṿng một tháng, trước hết hăy nên quán như
trên đây.
Lại
giải thích theo ư nghĩa bí mật, th́ một năm do
mười hai tháng mà thành, trở lại Bổn
Tế
để thấu đạt cái cội nguồn. Cũng
như mười hai địa vị Bồ Tát, tức là
sự giác ngộ của Thập Trụ, Đẳng Giác,
Diệu Giác, ví như mười hai tháng. Do vậy, ở
đây [kinh văn nói] “trong một tháng” chính là “nhập
địa vị Sơ Trụ”. Đối với mỗi
một câu, chữ, hoặc Bổn Tôn, đều hiểu
chắc thật, thành tựu chẳng có chướng cấu.
V́ thế nói là “mỗi câu đều tương ứng”.
“Hành giả tiền phương tiện”: Khi quán hạnh như thế, nếu dùng một
bông hoa dâng Phật, chí tâm hồi hướng, nguyện hiểu
thông đạt mỗi câu, và câu “hoa hiến thập
phương nhất thiết Phật sát độ, phổ
tác Phật sự” (hoa dâng lên hết thảy các cơi Phật
trong mười phương, làm Phật sự trọn khắp)
trong kinh văn thuộc phần sau, lúc bấy giờ, vừa
niệm liền thành. Cho tới các chuyện như
hương, thức ăn v.v… mỗi mỗi đều nói
rộng như thế. Giả sử trời hạn hán nặng,
hoặc có đủ loại tai ương,
hoạn nạn, lúc bấy giờ, hành nhân dùng một đóa hoa để
cúng dường, nguyện trừ nạn hạn hán ấy,
xối cơn mưa to, hoặc nguyện các tai ương
tự dứt, không ǵ chẳng ngay lập tức thành tựu.
Lại đem mỗi một công đức ấy hồi
hướng Bồ Đề, thí trọn khắp hết thảy
chúng sanh. Đại nguyện Bồ Đề như thế
cũng sẽ thành tựu, huống hồ các chuyện khác!
Trong phần trước nói “một tháng” tức
là tâm tương ứng với một cảnh.
“Nhất
nhất cú thông đạt” (mỗi câu đều thông
đạt), tức là quán tự luân, quán thanh luân (âm thanh của
câu chân ngôn liên tiếp xoay vần không gián đoạn), chủng
tử của Bổn Tôn, mỗi mỗi đều hiện
tiền rành rẽ, chẳng có sai lầm, th́ gọi là “nhất
nhất cú thông đạt”. Trước hết, quán Phật
thành tựu, liền thấy viên minh. Hễ thành tựu một
thứ, các thứ khác đều thành tựu. Tức là khi
quán Bổn Tôn rành rẽ, các tướng như tự luân
viên minh v.v… sẽ tự nhiên thành tựu. “Nguyệt” ở
đây chính là Nguyệt Dụ tam-muội, pháp tánh thanh
lương có thể hiện trọn khắp trong tâm thủy
của chúng sanh, chẳng phải như vầng trăng thế
gian, chỉ là mượn nó (vầng trăng trong thế
gian) để sánh ví cái tâm đó thôi. Chỉ cần
thành một sự, những chuyện khác đều thành,
nhưng sở dĩ nói trọn hết là v́ mỗi điều
sẽ đều có tác dụng trong kinh văn thuộc phần
sau. V́ thế, nói trọn vẹn tác dụng của pháp quán
mặt trăng.
(Kinh)
Chư Phật đại danh xưng, thuyết thử tiên
thọ tŕ. Thứ đương tùy sở hữu, phụng
đồ hương, hoa đẳng, vị thành Chánh Giác cố,
hồi hướng tự Bồ Đề. Như thị
ư lưỡng nguyệt, chân ngôn đương vô úy.
Thứ măn thử nguyệt dĩ, hành giả nhập
tŕ tụng.
(經)諸佛大名稱,說此先受持。次當隨所有,奉塗香花等,為成正覺故,迴向自菩提。如是於兩月,真言當無畏。次滿此月已,行者入持誦。
(Kinh: Chư Phật
danh xưng lớn, bèn nói thọ tŕ trước. Kế
đó, tùy sức có, dâng hương bôi, hoa thảy. V́ để
thành Chánh Giác, hồi hướng tự Bồ Đề.
Như thế trong hai tháng, chân ngôn sẽ
vô úy. Măn tháng kế tiếp rồi, hành giả liền tŕ tụng).
“Chư
Phật đại danh xưng, thuyết thử tiên thọ
tŕ” (Nói danh xưng to lớn của
chư Phật là điều nên thọ tŕ trước hết),
tức là chủng tử thành tựu tối sơ. “Thứ
đương tùy sở hữu, phụng đồ
hương, hoa đẳng” (kế đó, tùy theo những
ǵ ḿnh có mà dâng hiến hương bôi, hoa v.v…) tức là có thể
dùng một hoa để [dâng cúng] trọn khắp pháp giới,
cho đến do nhân duyên nguyện lực, có thể trừ
các thứ khổ năo của chúng sanh như phẩm Phổ
Môn đă nói. Há có phải là do một hoa mà có thể thành tựu
nguyện lực như thế ư? “Vị thành Chánh Giác
cố, hồi hướng tự Bồ Đề” (V́
để thành Chánh Giác mà hồi hướng Bồ Đề
của chính ḿnh): Hăy nên biết đấy chính là chủng tử
của Bồ Đề trong tự tâm sáng sạch, hiển
hiện lực dụng tự tại. Kế đó là giải
thích ư nghĩa sâu xa trong hai chữ ấy. “Như thị
ư lưỡng nguyệt, chân ngôn đương vô úy”
(Hăy nên trong hai tháng, mà hành chân ngôn vô úy
như thế đó) tức là nói đến ư nghĩa Tất
Địa. Đây chính là tác dụng to lớn trong tháng thứ
hai. Tháng thứ nhất là thành tựu chủng tử. Tháng
thứ hai là thành tựu địa vị. Kế đó, trọn
hết tháng ấy rồi, sẽ hoặc là thành tựu hạnh
thế gian, tiến
nhập tŕ tụng. Nếu nói theo thành tựu
thế gian th́ chính là tháng thứ nhất tŕ tụng;
tháng kế đó, đạt được thành tựu
trong pháp thế gian, tức là được thành tựu
các pháp nơi dược vật, có thể đạt
được Văn Tŕ “hễ nghe bèn chẳng quên”,
cho đến lực, thần thông, minh hạnh đều được
khéo thành tựu, được tự tại nơi Đại
Không. Nếu nói theo nghĩa xuất thế, tức là khi
thành tựu pháp ấy, sẽ có thể măn hết thảy
các nguyện.
(Kinh)
Sơn phong hoặc ngưu lan, cập chư hà than đẳng, tứ cù đạo, nhất
thất, thần thất, đại thiên thất, bỉ mạn-đồ-la
xứ, tất như kim cang cung. Thị xứ nhi kết hộ, hành giả tác thành tựu.
(經)山峯或牛欄,及諸河潬等,四衢道一室,神室大天室彼漫荼羅處,悉如金剛宮。是處而結護,行者作成就。
(Kinh:
Đỉnh núi hoặc chuồng ḅ, và các bến sông thảy,
đường ngă tư, một thất, miếu thần,
miếu đại thiên, nơi mạn-đồ-la ấy,
đều như cung kim cang. Kết hộ
các nơi ấy, hành giả làm thành tựu).
Nói “sơn
phong, ngưu lan” (đỉnh núi, chuồng ḅ) có nghĩa
là Quán. Khi thực hiện thành tựu, sẽ
như ở trên núi, chính là tương ứng với núi
Trung Đạo. Mỗi mỗi sự đều
tương ứng với Lư. Nói “bất động danh
sơn” (bất động gọi là núi) tức là [nói về]
đại Bồ Đề tâm. Do là chỗ cùng tột trong
Bồ Đề tâm ấy, nên gọi là “sơn phong”
(đỉnh núi). Như người lên núi, nh́n xuống vạn
vật, không ǵ chẳng thấy rơ ràng. Núi pháp tánh ấy cũng
thế, [từ trên núi ấy] nh́n xuống pháp giới, sẽ
chiếu trọn khắp vô ngại! “Ngưu lan” (chuồng
ḅ): Ḅ sanh ra năm thứ tịnh[1],
có thể khử uế, trừ chướng, thành tựu
chuyện thanh tịnh. Do được trưởng
dưỡng bởi chất tịnh của ḅ, cỏ mịn
tươi tốt, tự nhiên sum suê. Chuồng ḅ trong Bồ
Đề tâm cũng thế, có thể ngăn ngừa các lỗi
phân biệt, vọng tưởng, tịnh hóa các tâm địa,
dùng nước đại bi rưới đất b́nh
đẳng, sanh khởi công đức tùy ư trưởng
thành. Ư
nghĩa của hai con sông như đă nói
trong phần trước. “Hai con sông”
nghĩa là tuôn chảy chẳng dứt;
đó là ḍng sanh tử. Lại c̣n là tâm tâm tịch diệt,
đổ vào biển cả pháp tánh; tức ḍng xuất thế.
Ở giữa đó, chính là cảnh Trung
Đạo diệu trụ, kham tạo ra sự thành tựu
nhiệm mầu. Nói “tứ đạo trung” (tức “tứ
cù đạo” trong chánh kinh) chính là Tứ Thánh Đế
Trung Đạo. “Nhất thất” tức là trừ
phân biệt đối với các cảnh, thuộc về hạnh
Như Như, coi đó là “thất”. “Đại thiên thất”
(miếu thờ đại thiên) chính là Niết Bàn thất,
được thành tựu bởi sức tự tại của
Bồ Đề. Nếu chẳng nhập “đại
thiên thất” như thế, sao có thể thành tựu sức
tự tại cho được? Ư nghĩa của Mạn-đồ-la
như đă nói trong phần trước. “Tứ giác”
là làm h́nh tượng của chày kim cang ba nhánh, [xếp
đặt sao cho các chày ấy] tiếp giáp nhau vây quanh,
[th́ khoảng không gian trong ṿng chày kim cang ấy được]
gọi là “kim cang cung”.
Nếu
nói theo ư nghĩa bí mật, đấy chính là đại trí
không ai có thể phá hoại. Do dùng kim cang diệu trí ấy
để kết thành kim cang giới, thủ hộ Bồ
Đề tâm, các việc làm đều hoàn thành. “Tác hộ”
(thực hiện sự thủ hộ) chính là dùng minh chú Hàng
Phục Tam Thế và minh chú Bất Động để thủ
hộ các sự. Nếu nói theo Lư, Hàng Phục Tam Thế và Bất
Động Minh Vương tức là đại Bồ
Đề tâm, kham có thể thủ hộ hết thảy
chúng sanh, khiến cho thiện căn của họ tự tại
thành tựu.
“Sức
dược vật thành tựu” tức là không thanh[2],
dầu tô, ngưu hoàng v.v… tùy theo việc mà thực hiện
[pháp thành tựu] như các chỗ khác (các kinh luận khác)
đă nói. Nói theo Lư th́ chính là thân khẩu ư thành tựu.
Đó gọi là “tạng
tam nghiệp vô tận trang nghiêm phấn tấn thị hiện”,
thành tựu pháp giới chúng sanh. Phật pháp vốn dĩ
trước là thành tựu nơi Sự; sau đấy mới
dùng tịnh huệ Đại Không để quán sát, tức
là thành tựu xuất thế.
(Kinh)
Tức dĩ trung dạ phần, hoặc ư nhật xuất
thời, trí giả ưng đương tri, hữu như
thị tướng hiện, Hồng
thanh hoặc cổ âm. Nhược phục địa chấn
động, cập văn hư không trung, hữu duyệt
ư ngôn từ. Ưng tri như thị tướng, Tất
Địa tổng như ư. Chư Phật lưỡng túc
tôn, tuyên thuyết ư bỉ quả, trụ thị Chân
Ngôn hạnh, tất định đương thành Phật.
Ưng nhất thiết chủng loại, thường niệm
tŕ Chân Ngôn, cổ Phật đại tiên thuyết, cố
ưng đương ức niệm.
(經)即以中夜分,或於日出時,智者應當知,有如是相現,吽聲或鼓音,若復地震動,及聞虛空中,有悅意言辭,應知如是相,悉地總如意。諸佛兩足尊,宣說於彼果,住是真言行,必定當成佛,應一切種類,常念持真言,古佛大仙說,故應當憶念。
(Kinh:
Liền vào lúc giữa đêm, hoặc khi mặt trời mọc.
Bậc trí hăy nên biết, có tướng như sau hiện:
Tiếng Hồng, hoặc tiếng trống. Hoặc đất
lại chấn động, và nghe trong hư không, có ngôn từ
đẹp ư. Nên biết tướng như thế, Tất
Địa được như ư. Chư Phật Lưỡng
Túc
Tôn,
tuyên nói cái quả ấy. Trụ hạnh Chân Ngôn này, nhất
định sẽ thành Phật. Hết thảy các chủng
loại, nên thường tŕ chân ngôn, cổ Phật đại
tiên nói. V́ thế nên nghĩ nhớ).
Khi
dược vật và tâm thành tựu, sẽ có tướng
thượng, trung, hạ. Khi mặt trời mọc là
thượng, nửa đêm là trung, đầu đêm là hạ.
Trong lúc ấy nếu có tướng, hăy nên biết tùy theo từng
sự mà biết là thành tựu thượng, trung, hay hạ.
“Đầu đêm” có nghĩa là “mới nhập, chưa chứng”.
Nửa đêm có nghĩa là Bồ Đề tâm, tức từ
nay do trái nghịch sự tối tăm, hướng theo
sáng suốt, nhưng vẫn
chưa là
đại minh. Tới khi mặt trời mọc là tướng
thành tựu, ví như vầng mặt trời to lớn chiếu
trọn khắp thế gian. Trong lúc đó, hoặc có âm thanh
chữ Hồng, hoặc đủ loại tiếng trống,
hoặc đất chấn động mạnh mẽ, hoặc
nghe các thứ âm thanh mầu nhiệm, [thấy] đủ loại
tướng mầu nhiệm mà mọi người thích
nghe, tâm ư vui sướng, hoặc trên không trung, hoặc ở
trong đàn tràng. Nếu có các tướng ấy, hăy nên biết
đó là Tất Địa thế gian thành tựu. Nếu
nói theo Lư, chỗ mỗi một pháp kết hợp đạt
được cái quả, tức là cái quả tam thừa.
Hoặc chuyển pháp luân, đạt được thế
lực to lớn, cho đến trường thọ, thọ
lượng vô số, tiến cao hơn là du hành trên hư không,
tịnh nhăn soi sáng. Đă thanh tịnh th́ vô ngại tịnh
tâm là trí huệ trọn khắp. Tới đây là xong phẩm
Thành Tựu Thế Gian.
6. Phẩm thứ sáu: Tất Địa
xuất hiện (Tất Địa xuất hiện phẩm
đệ lục, 悉地出現品第六)
(Kinh) Nhĩ thời, Thế
Tôn phục quán chư đại chúng hội, vị dục
măn túc nhất thiết nguyện cố, phục thuyết
tam thế vô lượng môn quyết định trí viên măn
pháp cú.
(經)爾時世尊復觀諸大眾會,為欲滿足一切願故,復說三世無量門決定智圓滿法句:
(Kinh: Lúc bấy
giờ, đức Thế Tôn lại quán các đại chúng
hội, v́ muốn thỏa măn hết thảy các nguyện,
lại nói pháp cú viên măn “trí quyết định trong vô
lượng môn khắp ba đời”).
Quán sát đại chúng chẳng
phải là không có nhân duyên. Trước hết, dùng Phật
tâm để quán chủng tử, tướng mạo, và thể
tánh của các chúng sanh ấy kham tiếp nhận pháp nào, nên
gieo như thế nào để họ đạt
được lợi ích. Quán như thế xong, sẽ biết
họ sẽ từ
nơi pháp môn nào mà được ngộ nhập. V́
muốn nói điều này, cho nên trước hết [đức
Phật] bèn quán cơ (xem xét căn cơ). Vô lượng
trí môn quyết định trong ba đời, tức là trong
một niệm, vô lượng trí môn vô ngại trọn ba
đời. Đức Phật dùng đủ loại
phương tiện để nói diệu pháp ấy, hết
thảy chúng sanh ai nấy tùy theo trí môn tương ứng
mà đạt được quyết định. Do các môn ấy
vô lượng; cho nên nói là “vô lượng môn”. Đức
Phật quán đại chúng hội, v́ họ nói môn “tiến
nhập phổ môn pháp giới” này, muốn cho ai nấy
tùy theo cái duyên của chính họ mà đạt được
quyết định, nên gọi là “quyết định
trí môn”. “Pháp cú” là trước hết vận dụng Sự,
từ Sự có thể sanh ra Lư. V́ thế, gọi là Cú (câu),
tức Cú chính là cái để Kệ nương vào. Cách
thành lập các câu kệ trong thế gian là dùng danh tự
để nói. “Măn túc”: Nhập pháp môn này, có thể sanh ra pháp môn, có thể
sanh ra pháp giới vô tướng là pháp bí mật do Như
Lai tự chứng; muốn dùng pháp như thế để
thỏa măn [ước nguyện của] hết thảy
chúng sanh, khiến cho chẳng luống uổng. “Cú” ở
đây chính là kệ[3],
đừng hiểu là từng câu. Trong phần sau, sẽ
coi “nghĩa” (tức ư nghĩa trong một bài kệ)
là câu kệ.
(Kinh) Hư không vô cấu,
vô tự tánh, năng thọ chủng chủng chư xảo
trí.
(經)虛空無垢無自性,能授種種諸巧智。
(Kinh: Hư
không vô cấu, vô tự tánh, hay trao các thứ trí thiện xảo).
Tâm trí Nhất Thiết Trí giống
như hư không, vô cấu, vô lượng, vô ngại, chẳng
có phân biệt, tức là pháp hiện chứng Đại
Không của Phật. “Vô tự tánh” tức là pháp giới
thanh tịnh ấy vô cấu như hư không, cũng lại
chẳng có tự tánh, chẳng thể chấp trước!
Do như thế chính là Đại Không, vô vi cũng là vô tự
tánh, có thể sanh ra trí Nhất Thiết Trí, tức là “xảo
trí”; đó là tên gọi khác của trí. Nếu chẳng phải
là xảo trí, sao có thể thuận theo đủ loại
tâm hạnh của hết thảy chúng sanh, hiện thân mà họ
thích thấy, nói pháp họ
đáng nên nghe, tương xứng với căn cơ lănh
ngộ của họ, thảy đều chẳng dối,
vào trong hết thảy pháp giới b́nh đẳng, tức
là tột bậc hay khéo trong các thứ khéo léo. Do b́nh đẳng
Không cũng là vô tự tánh, hữu tướng sanh diệt
cũng lại chẳng có tự tánh. V́ thế,
trong pháp tự tại có thể sanh ra xảo trí, thỏa
nguyện trọn khắp hết thảy
chúng sanh, độ lượng chẳng thể nghĩ bàn.
(Kinh)
Do bổn tự tánh thường Không cố, duyên khởi
thậm thâm nan khả kiến.
(經)由本自性常空故,緣起甚深難可見。
(Kinh: Do bổn
tự tánh thường là Không, duyên khởi rất sâu khó thể
thấy).
Đây chính là tự
tánh của “bất khả đắc Không”, tức là
thân đệ nhất thường trụ của Pháp Thân
Phật, do ĺa tám tướng điên đảo như
không, phi không v.v… Đấy chính là pháp rất sâu khởi lên
từ các duyên, vô vi, vô tác, mà có thể chẳng động
pháp giới, ứng trọn khắp chúng sanh. Cơ và ứng
tương quan như vầng trăng hiện nơi nước
trong. Pháp duyên khởi như thế chẳng thể nghĩ
bàn! (Tự tánh của Không là thường có, chẳng phải
là trước không mà nay có. Đă có rồi lại không. V́
thế, nói là bản tánh của Không là như thế
đó).
(Kinh) Ư
trường hằng thời thù thắng tấn, tùy niệm thí dữ vô thượng
quả.
(經)於長恒時殊勝進,隨念施與無上果。
(Kinh: Tinh tấn lâu
dài hành thù thắng, tùy niệm ban cho quả vô thượng).
“Hằng” tức là
thường tu pháp hạnh như thế, cho đến
Đại Không cũng chẳng thể được, v́
vô tự tánh. Ví như Đại Không có thể sanh khởi
vạn hạnh, đối với hạnh pháp giới b́nh
đẳng rất sâu này, nếu hành giả có thể
thường hành như thế, sẽ có thể tùy thuận
thỏa măn các điều mong nguyện của chúng sanh, cho
đến vô thượng đại nguyện cũng có thể
ban cho họ.
(Kinh) Thí như nhất
thiết thú cung thất, giai y hư không vô trước hạnh.
Thử thanh tịnh pháp diệc như thị, tam hữu vô
dư thanh tịnh sanh.
(經)譬如一切趣宮室,皆依虛空無著行。此清淨法亦如是,三有無餘清淨生。
(Kinh: Ví như hết
thảy các cung điện, đều nương hư
không, hạnh chẳng chấp. Pháp thanh tịnh này cũng
như thế, ba cơi chẳng c̣n, thanh tịnh sanh).
“Thí
như nhất thiết thú cung thất, giai y hư không vô
trước hạnh” (Ví như
cung điện, nhà cửa trong hết thảy các đường
[thọ sanh], đều nương vào hư không [để
tồn tại, nhưng hư không và các thứ nương
vào nó để tồn tại] đều chẳng sanh chấp
trước): Sợ người khác chẳng tin hiểu,
bèn dẫn thí dụ để sánh ví. Như hết thảy
thế gian đều nương vào hư không để
an trụ, nhưng Đại Không chẳng nương vào
đâu, chẳng nghĩ thế này: “Hết thảy thế
gian do ta mà sanh, nương vào ta mà trụ”. Thế gian này ở
trong hư không cũng chẳng nghĩ tới ân đức
[của hư không] để cầu báo đáp, chẳng khởi
ư niệm như thế này: “Do sức của hư
không khiến cho ta được an ổn như thế”.
V́ sao vậy? Do chẳng thấy hư không có hạnh tạo
tác, nên chẳng nghĩ báo đáp. Kế đó nói: “Thử
thanh tịnh pháp diệc như thị, tam hữu vô dư
thanh tịnh sanh” (pháp thanh tịnh này cũng như thế,
do chướng ngại trong ba cơi chẳng c̣n thừa sót nên
thanh tịnh sanh khởi): Nói gộp chung với cái hạnh
đă nói trong đoạn trước “cũng giống
như hư không” (tức hạnh “pháp giới b́nh
đẳng”), trừ chướng trong ba cơi chẳng c̣n
thừa sót, có thể sanh ra pháp thanh tịnh, sanh khởi
thân mầu nhiệm thanh tịnh tương xứng với
pháp tánh.
(Kinh) Tích Thắng Sanh
Nghiêm tu thử cố, đắc hữu nhất thiết
Như Lai hạnh.
(經)昔勝生嚴修此故,得有一切如來行。
(Kinh: Xưa Thắng
Sanh Nghiêm tu hạnh này, đạt được hết thảy
Như Lai hạnh).
Lại dẫn chuyện
xưa để làm chứng. Thắng Sanh tức là Tiên
Sanh. Tiên Sanh tức là người giác ngộ pháp này trước.
Nếu giác ngộ pháp này th́ chính là vô tận trang nghiêm, tức
tạng diệu nghiêm định huệ thần lực
trang nghiêm vô tận. [Hai câu kệ trên đây có] ư nói: Trong quá
khứ, có một vị Bồ Tát tên là Thắng Sanh Nghiêm.
Đây chính là một vị Phật Tử, tức là người
tu hành trước kia, như nói Tiên Sanh vậy. Tiếng Phạn
là Tỵ Bộ. [Do vị ấy tu hành hạnh này], chẳng
lâu sau bèn trọn đủ các thứ của cải, tức
là pháp tài. Đấy chính là dùng đức để trang
nghiêm cái thân. Vị tiên giác ấy đă từng đạt
được pháp như thế, hết thảy chư Phật
cũng đều đạt được pháp ấy.
(Kinh) Phi tha cú hữu
nan khả đắc, tác thế biến minh như Thế
Tôn, thuyết cực thanh tịnh tu hành pháp, thâm quảng vô
tận ly phân biệt.
(經)非他句有難可得,作世遍明如世尊,說極清淨修行法,深廣無盡離分別。
(Kinh: Chẳng do câu khác mà hiện hữu, cái quả
pháp giới rất khó được, soi khắp cơi đời
như Thế Tôn, nói pháp tu hành cực thanh tịnh, sâu rộng
vô tận, ĺa phân biệt).
Ư nói: Nếu ĺa pháp này mà có thể
do pháp cú khác bèn được thành tựu cái quả pháp giới
chẳng thể nghĩ bàn như thế, chẳng có lẽ
ấy! Giả sử cầu trong ấy, cũng chẳng có
lẽ nào đạt được! Như cầu dầu ở
trong nước, chẳng thể được! Nếu ai
có thể tự chứng điều này chẳng phải ǵ
khác, chẳng do pháp nào khác mà ngộ, liền có thể chiếu
sáng thế gian giống như mặt trời soi chiếu.
Cũng như khi đức Phật xuất thế, đă
tạo sự sáng suốt to lớn cho khắp hết thảy
thế gian vô minh. “Thuyết cực thanh tịnh tu hành
pháp, thâm quảng vô tận ly phân biệt” [nghĩa là]
đức Phật nói pháp tự chứng cực thanh tịnh,
vô phân biệt, ĺa phân biệt rất sâu. Pháp ấy rộng
sâu, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể phá hoại,
chẳng có cùng tận. Đấy là ư nghĩa tán thán công
đức của pháp vậy.
(Kinh) Nhĩ thời, Tỳ
Lô Giá Na Thế Tôn thuyết thử già-đà dĩ, quán sát
Kim Cang Thủ đẳng nhất thiết đại chúng,
cáo Chấp Kim Cang ngôn: - Thiện nam tử! Các các
đương hiện pháp giới thần lực Tất
Địa lưu xuất cú. Nhược chư chúng sanh kiến
như thị pháp, hoan hỷ dũng dược, đắc
an lạc trụ.
(經)爾時毘盧遮那世尊說此伽陀已,觀察金剛手等一切大眾,告執金剛言:善男子!各各當現法界神力悉地流出句。若諸眾生見如是法,歡喜踊躍得安樂住。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn nói già-đà ấy
xong, quán sát hết thảy đại chúng như Kim Cang Thủ
v.v… bảo Chấp Kim Cang rằng: - Thiện nam tử! Mỗi
người hăy nên hiện câu pháp giới thần lực
lưu xuất Tất Địa. Nếu các chúng sanh thấy
pháp như thế, sẽ hoan hỷ, hớn hở,
được trụ trong an lạc).
“Thần lực” cũng là vận
dụng thần biến. “Thần biến” ở
đây hiểu theo nghĩa rộng: Từ một mà đạt
được nhiều. Đức Phật quán đại
chúng chẳng phải là không có nhân duyên, [Ngài quán sát đại
chúng trong hội] v́ muốn khiến cho họ ai nấy
đều nói câu [diễn giải] Tất Địa
được lưu xuất từ sức thần thông tự
tại thuộc pháp giới chẳng thể nghĩ bàn. Sự
lưu xuất ấy được gọi là Môn. Do [chữ
Môn trong] tiếng Phạn bao hàm nhiều nghĩa, nay ư
nghĩa ở đây là “lưu xuất”, tức là Phật
tâm tự chứng pháp giới, lưu xuất vô lượng
môn xảo trí. Có nghĩa là mỗi vị Bồ Tát hoặc
Kim Cang đều là mỗi đức nội chứng của
Như Lai. Từ đó hiện ra pháp môn, mỗi môn đều
có truyền pháp, nhiếp thọ chúng sanh, dẫn dắt một
loại chúng sanh ấy do môn ấy mà tiến nhập, đạt
đến địa vị chứng trí Nhất Thiết
Trí. Ư Phật muốn khiến cho các vị ấy ai nấy
đều nói môn nhập Thật Tướng. Nếu có
chúng sanh tương xứng căn tánh ấy, sẽ sanh
ḷng vui thích, phát khởi thiện căn; tức là từ môn
này mà thành tựu hạnh thù thắng, trụ trong hạnh
an lạc của Như Lai.
(Kinh) Như thị thuyết
dĩ, chư Chấp Kim Cang vị Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn
tác lễ: “Như thị, pháp chủ! Y sở giáo sắc”.
Phục thỉnh Phật ngôn: “Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn
ngă đẳng, thị hiện Tất Địa lưu xuất
cú, hà dĩ cố? Ư tôn giả Bạc Già Phạm tiền,
nhi tự tuyên thị sở thông đạt pháp, phi thị
sở nghi. Thiện tai Thế Tôn! Duy nguyện lợi ích an
lạc vị lai chúng sanh cố”.
(經)如是說已,諸執金剛為毘盧遮那世尊作禮:如是。法主!依所教勅。復請佛言:惟願世尊哀愍我等,示現悉地流出句。何以故?於尊者薄伽梵前而自宣示所通達法,非是所宜。善哉世尊!惟願利益安樂未來眾生故。
(Kinh: Nói như
thế xong, các vị Chấp Kim Cang đảnh lễ
đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn: “Thưa pháp chủ,
đúng như thế! Chúng con kính vâng lời truyền dạy”.
Lại thỉnh đức Phật rằng: “Kính xin đức
Thế Tôn thương xót chúng con, thị hiện câu lưu
xuất từ Tất Địa. V́ sao vậy? Đối
trước đức Bạc Già Phạm tôn kính mà tự
tuyên nói, chỉ bày pháp do chính ḿnh thông đạt th́ chẳng
phải là điều hợp lẽ. Lành thay đức Thế
Tôn! Kính mong hăy lợi ích, an lạc chúng sanh trong đời
vị lai”).
Khi đó, các vị Chấp
Kim Cang đảnh lễ Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn, thưa:
“Như thị pháp chủ! Y sở giáo sắc”, tức
là tuân theo mệnh lệnh của đức Phật, chẳng
dám trái nghịch. Nhưng Như Lai là pháp chủ, nếu ai
nấy đối trước đức pháp chủ mà nói
sai khác, th́ là điều chẳng nên. Do vậy, thỉnh
đức Phật tự nói để hết thảy mọi
người được nghe. V́ sao vậy? Bạch Thế
Tôn! Chúng con đối trước đức Thế Tôn nói
pháp do chính ḿnh thông đạt chẳng phải là điều
đáng nên. Đó là lời đáp. Khi đó, các vị Kim
Cang lại thỉnh đức Phật rằng: “Kính mong
đức Thế Tôn thương xót chúng con, thị hiện
câu lưu xuất từ Tất Địa. V́ lẽ nào?
Đối trước đức Thế Tôn đáng tôn trọng
mà tự tuyên nói, chỉ bày pháp do chính ḿnh thông đạt,
chẳng phải là điều đáng nên”. Điều này
có ư nghĩa như thế nào? Như Lai pháp vương tôn
quư, thù thắng vô thượng đă hiện tiền thông
đạt pháp này, thấy thấu suốt rơ ràng chẳng
thừa sót. Chúng con do ân lực của Phật, đều
từ một môn, thuận theo tâm lượng của chính
ḿnh mà được thông đạt. Nếu chúng con đối
trước bậc đại pháp chủ như thế mà
tự xưng nói th́ chẳng đúng lẽ! Đấy là ư
hổ thẹn, khiêm nhượng vậy. [Các vị Kim Cang]
trần thuật ư nghĩa như thế, nguyện Phật
hăy tự nói. V́ lẽ nào vậy? V́ chúng sanh trong đời
vị lai gặp được pháp này, sẽ đạt
được lợi ích to lớn, khai tri kiến của
Phật, mau chóng thực hiện hoàn thành hạnh an lạc
của Như Lai.
(Kinh) Thời Bạc Già
Phạm Tỳ Lô Giá Na cáo nhất thiết chư Chấp
Kim Cang ngôn: - Thiện tai, thiện tai, thiện nam tử!
Như Lai sở thuyết pháp Tỳ Nại Da xưng tán nhất
pháp, sở vị hữu tu. Nhược hữu tu thiện
nam tử, thiện nữ nhân, kiến như thị pháp, tốc
sanh nhị sự, vị bất tác sở bất ưng
tác, chúng sở xưng tán.
(經)時薄伽梵毘盧遮那告一切諸執金剛言:善哉善哉!善男子!如來所說法毘柰耶稱讚一法,所謂有羞。若有羞善男子善女人,見如是法速生二事,謂不作所不應作、眾所稱讚。
(Kinh: Khi đó, đức
Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na bảo hết thảy các
vị Chấp Kim Cang rằng: - Lành thay! Lành thay! Thiện
nam tử! Trong pháp Tỳ Nại Da do Như Lai nói, đă
khen ngợi một pháp, chính là “có hổ thẹn”. Nếu
thiện nam tử, thiện nữ nhân có ḷng hổ thẹn,
thấy pháp như thế, sẽ nhanh chóng sanh khởi hai
chuyện, tức là chẳng làm chuyện không nên làm, và
được đại chúng khen ngợi).
Ư đức Phật là ca ngợi:
Các vị thiện sĩ ấy tuy đă khéo thông đạt
pháp môn mà họ đă nhập, nhưng do kính ngưỡng
Như Lai mà sanh ḷng hổ thẹn, chẳng dám trần thuật
[pháp môn ấy]. Hăy nên biết đấy là tướng trạng
của bậc thiện sĩ, nên [đức Phật] bảo
“Lành thay! Lành thay!” Kế đó, [đức Phật] liền
dùng ngay điều các vị ấy đă làm để tiếp
dẫn, cho nên nói “trong luật thuộc về pháp do đức
Như Lai đă dạy, chỉ thường khen ngợi một
pháp, tức là hổ thẹn”. Trong tiếng Phạn, [“hổ
thẹn” (Lajja)] khác với “tàm
quư” (Hrīapatrāpya). Giải thích tàm quư
là như thế nào? Chính là có ḷng hổ thẹn. Nếu
người có ḷng hổ thẹn, chính là có tàm quư. Như Lai
thường khen ngợi pháp này. Nếu ai có tâm hổ thẹn,
sẽ thành tựu hạnh bí mật. Hăy nên biết đó là
chỗ phát khởi dấu tích (tức là hiện ra cách hành
tŕ như thế để tiếp dẫn chúng sanh). Do có
ḷng hổ thẹn, sẽ trọn đủ hai pháp:
- Một là đối với
các sự nghiệp chẳng nên làm, sẽ đều chẳng
làm. Thế nào là “chẳng nên làm”? Như người trong thế
gian, ai nấy hăy nên quán sát chuyện chẳng nên làm trong chủng
tánh của chính ḿnh liền chẳng dám làm; thế gian gọi
[người ấy] là người biết hổ thẹn.
Nay thiện nam tử này cũng thế, tự quán sát chủng
tánh của Như Lai, biết hết thảy các ác nghiệp
trong pháp ấy thảy đều chẳng nên làm. Đấy
chính là pháp thứ nhất.
- Hai, do chẳng làm ác, sẽ
được Như Lai khen ngợi. Không chỉ riêng
Như Lai, mà c̣n được các hàng trời, người,
A Tu La, sa-môn, Bà-la-môn và đại chúng thánh phàm trong mười
phương đều thường khen ngợi, truyền
nói. Đấy chính là quả báo do chẳng làm các điều
ác. Lại nữa, điều được đại
chúng khen ngợi chính là “đều hành hết thảy các
điều thiện”. Do trọn đủ hết thảy
các điều thiện, bèn được đại chúng
khen ngợi.
(Kinh) Phục hữu nhị
sự, vị sở vị chí linh chí, đắc dữ Phật,
Bồ Tát đồng xử.
(經)復有二事,謂所未至令至,得與佛菩薩同處。
(Kinh: Lại có hai chuyện,
tức là: Khiến đạt được điều
chưa đạt đến, và được ở cùng
chỗ với Phật, Bồ Tát).
Nói “khiến cho đạt
được điều chưa đạt được”
chính là đạt được bến băi có vật báu trí
Nhất Thiết Trí. Do có ḷng hổ thẹn, nên có thể
hành hai pháp. Do hai pháp trên đây mà có thể đạt tới
chỗ đáng nên đạt tới, trước kia
chưa ngộ mà nay đắc ngộ, trước kia
chưa nghe mà nay được nghe. Đó là một pháp.
Điều thứ hai là do
đạt tới điều trước kia chưa đạt,
bèn sanh trong chủng tánh của Như Lai, ở cùng một
chỗ với hết thảy Phật, Bồ Tát, thường
chẳng ĺa bỏ sự thắng tấn vi diệu. Đấy
chính là điều thứ hai.
(Kinh) Phục hữu nhị
sự, vị trụ Thi La, sanh ư nhân thiên.
(經)復有二事,謂住尸羅、生於人天。
(Kinh: Lại có hai chuyện
là trụ trong Thi La và sanh trong trời người).
“Trừ
nóng bức, được mát mẻ” chính là ư nghĩa của
Thi La. Như người nóng bức, nghĩ tưởng
cái ao trong mát, hay căn nhà mát mẻ, kẻ khéo nhập liền
ĺa các ương hoạn nhiệt năo. Lại như người
bệnh nhiệt được trừ bệnh nhiệt
độc, thân tâm liền mát mẻ, khéo được an
vui, có ư nghĩa giống như thanh lương. Bậc Bồ
Tát tánh giới thành tựu, chẳng do [vâng giữ] giới
[do đức Phật] chế định mà tùy ư đều
trọn đủ giới. Ví như biển cả, tánh nó vốn
tự chẳng chứa đựng tử thi, chẳng có
người hay vật nào có thể khiến cho nó như thế,
chẳng giống như giới Thanh Văn.
Pháp thứ hai là do trọn
đủ giới, thường được sanh trong trời
người. Đây là nói người chưa đạt
đến địa vị đắc Pháp Thân, đời
đời thường sanh trong nhân gian hay cơi trời,
được ĺa chướng, thấy Phật, nghe pháp.
Đấy chính là lợi ích to lớn.
(Kinh) Thiện tai, đế
thính, thiện tư niệm chi, ngă đương tuyên thuyết
chân ngôn thành tựu lưu xuất tương ứng cú.
Chư lưu xuất tương ứng cú, Chân Ngôn môn tu Bồ
Đề chư Bồ Tát, tốc ư thị trung,
đương đắc Chân Ngôn Tất Địa.
(經)善哉諦聽,善思念之,我當宣說真言成就流出相應句。諸流出相應句,真言門修菩提諸菩薩,速於是中當得真言悉地。
(Kinh: Lành thay, lắng
nghe, khéo suy nghĩ lấy. Ta sẽ tuyên nói câu tương ứng
với sự lưu xuất bởi chân ngôn thành tựu. Do
các câu lưu xuất tương ứng ấy, các vị Bồ
Tát tu Bồ Đề trong Chân Ngôn môn sẽ nhanh chóng đạt
được Chân Ngôn Tất Địa trong ấy).
Trong từ ngữ “thiện
tai” (lành thay) ở đây có hai nghĩa, tức là đức
Phật tán thán phẩm đức hiền thiện của
các vị ấy, hoặc là [nói “lành thay”] để bảo
họ hăy khéo nghe. “Lưu xuất” là như đức
Phật phóng quang, trước là có chỗ phát ra, tức là
các chỗ như diện môn, hào tướng (tướng bạch
hào giữa hai chân mày), đỉnh đầu v.v… Phóng ra làm
Phật sự rộng khắp xong, lại trở vào [chỗ
phát ra quang minh ấy]. Sự lưu xuất này của chân
ngôn cũng giống như thế. Hăy nên biết từ chân
ngôn lưu xuất chính là “lưu xuất cái quả Tất
Địa”. Chân ngôn này vốn từ công đức tự
chứng của Như Lai, từ tâm địa của
đức Phật mà xuất hiện, tạo tác vô lượng
pháp môn, thực hiện Phật sự to lớn. Thực hiện
Phật sự xong, khiến cho chúng sanh đáng được
độ sẽ do môn ấy mà nhập pháp giới của
Phật, nên gọi là “lưu xuất”. V́ thế, kế
đó nói “do câu tương ứng ấy, các vị Bồ
Tát tu Bồ Đề trong Chân Ngôn môn sẽ nhanh chóng đạt
được cái quả Chân Ngôn Tất Địa”. Cái
quả trong ấy chính là cái quả trí Nhất Thiết Trí
chẳng thể nghĩ bàn.
(Kinh) Nhược hành giả
kiến Mạn-đồ-la tôn sở ấn khả, thành tựu
chân ngữ, phát Bồ Đề tâm, thâm tín từ bi, vô hữu
xan lận, trụ ư điều phục, năng thiện
phân biệt tùng duyên sở sanh, thọ tŕ cấm giới,
thiện trụ chúng học, cụ xảo phương tiện
dũng kiện, tri thời, phi thời, hiếu hành huệ
xả, tâm vô bố úy, cần tu Chân Ngôn hành pháp, thông đạt
Chân Ngôn thật nghĩa, thường nhạo tọa Thiền,
nhạo tác thành tựu.
(經)若行者見漫荼羅尊所印可成就真語發菩提心、深信慈悲、無有慳悋、住於調伏,能善分別從緣所生,受持禁戒善住眾學,具巧方便勇健,知時非時,好行惠捨心無怖畏,勤修真言行法,通達真言實義,常樂坐禪、樂作成就。
(Kinh: Nếu
hành giả thấy lời chân thật được bậc
tôn quư trong Mạn-đồ-la ấn khả, thành tựu, sẽ
phát tâm Bồ Đề, tin sâu từ bi, chẳng hề keo
tiếc, trụ trong điều phục, có thể khéo phân
biệt [các pháp] từ duyên sanh ra, thọ tŕ giới cấm,
khéo trụ trong các điều học (các tướng thành
tựu), trọn đủ phương tiện khéo léo, mạnh
mẽ, biết đúng thời và chẳng đúng thời,
thích hành xả thí rộng răi, tâm chẳng sợ hăi, siêng tu
hành pháp Chân Ngôn, thông đạt thật nghĩa Chân Ngôn,
thường thích tọa Thiền, thích tạo thành tựu).
Kế đến là điều
đầu tiên [trong Chân Ngôn Tất Địa], từ “nhược
hành giả kiến Mạn-đồ-la tôn sở ấn khả
thành tựu chân ngữ” (nếu hành giả thấy bậc
tôn quư trong Mạn-đồ-la ấn khả, thành tựu lời
chân thật) trở đi là nói về thứ tự trong
pháp cúng dường. Trước hết, được thấy
Mạn-đồ-la. Không chỉ được trông thấy
mà thôi, cần phải được thầy thực hiện
pháp gia tŕ, dẫn vào [Mạn-đồ-la] như trong phần
trước đă nói. Không chỉ được vào mà thôi,
[lại c̣n phải] theo thứ tự tu hành. Do thuận theo
pháp tu hành, được A-xà-lê ấn khả, truyền
pháp. Do được ấn khả, quán đảnh; kế
đó, nói tới chuyện thành tựu Chân Ngôn.
Lại nữa, trong phẩm
Thế Gian Tŕ Tụng, trước hết là nói về cách
quán viên minh, có cách niệm tụng hoàn nhiễu chân ngôn tự
luân (đầu đuôi tiếp nối)[4].
Khi đó, chữ thứ nhất từ trong miệng
tuôn ra, nhập vào thân, giống như hơi thở hít vào
trọn khắp thân phần. Đấy là do thần lực
tự tại của Như Lai gia tŕ. Người niệm
như thế có thể trừ hết thảy nghiệp cấu
của chúng sanh. [Chữ ấy] trọn khắp thân thể
như thế xong, lại từ miệng [của hành giả]
thoát ra, nhập vào chân Bổn Tôn, tới trọn khắp bổn
xứ (tức là tưởng chữ ấy tới trọn
khắp các thân phần của Bổn Tôn). Khi mỗi chữ
lưu xuất như thế, từng chữ kế tiếp
liên tục theo thứ tự liên hoàn chẳng ngừng. Nếu
như người sơ học sợ tâm tán loạn, chẳng
thể thành tựu như thế, hăy nên chỉ quán chữ
chủng tử [của chân ngôn] để làm như trên, cho
đến khi tâm đă quen thuộc, sẽ dần dần
[quán tưởng] thêm chữ khác. Dời đoạn này thêm
vào phẩm trước, như trong phần trước nói
đă được thấy Mạn-đồ-la, lại
được nhập vào đó, thực hiện các pháp sự
cho đến quán đảnh. Đă được thọ
pháp, tu hành đúng như pháp, khéo hiểu rành rẽ vô ngại
pháp dụng theo thứ tự của chân ngôn, sẽ kham có
thể truyền pháp, được thầy ấn khả.
Chữ “tôn giả” trong chánh kinh chính là thầy.
Lại
c̣n có thể “phát Bồ Đề tâm”; đó chính là v́
cầu nghiệp tự tại của Như Lai, phổ môn
lợi ích hết thảy chúng sanh mà làm chuyện này, chẳng
phải v́ chuyện nào khác. “Thâm tín từ bi, vô hữu xan
lận” (tin sâu từ bi, chẳng hề keo tiếc) tức
là tin tưởng sâu xa pháp rộng lớn chẳng thể
nghĩ bàn, quyết định chánh tín, chẳng có ḷng nghi
ngờ. Lại c̣n đối với tài và pháp, đều
chẳng có ḷng keo tiếc. Do tâm đại từ bi mà xót
thương hết thảy, thường hành hạnh lợi
tha, chẳng cầu tự lợi. “Trụ ư điều
phục” (trụ trong điều phục) tức là
điều phục các căn thuộc lục t́nh; đấy
chính là tánh giới[5].
“Năng thiện phân biệt tùng duyên sở sanh pháp”
(khéo có thể phân biệt các pháp sanh bởi duyên): Ví như
gương sáng, chiếu soi hiện bóng rành rẽ các vật
đối trước nó. Các pháp như thế chẳng phải
là có sẵn trong kính từ trước, chẳng phải do sắc
đến từ bên ngoài. Hăy nên biết hai pháp ḥa hợp
cũng chẳng thể sanh, nhưng rành rành hiện rơ trong ấy,
chẳng thể chấp giữ, chẳng thể cầu
được, mà cũng chẳng phải là có, chẳng phải
là không, chỉ do các duyên ḥa hợp mà có thể trông thấy.
Hăy nên biết hết thảy các pháp cũng giống như
thế, cho đến mười thí dụ [về duyên
sanh, tức như huyễn, như hóa, như thành Càn Thát Bà
v.v…] đều có thể thông đạt. Quán như thế
rồi, đối với cái quả Tất Địa của chân ngôn cũng
quán như thế. Tướng Tất Địa ấy do
nhân duyên thuộc người tŕ tụng và chân ngôn của Bổn
Tôn ḥa hợp mà có hết thảy chuyện chẳng thể
nghĩ bàn. H́nh tượng trong tấm gương pháp giới
chẳng thể chấp trước, nhưng có đủ
loại thành tựu.
“Thọ
tŕ cấm giới” tức là [thọ tŕ] giới cụ
túc của Tŕ Minh, mỗi pháp tắc trong ấy đều
khéo thọ tŕ. Do nhân duyên ấy, chẳng phạm tam-muội-da
giới, đạt được Tất Địa thành
tựu. “Thiện trụ chúng học” tức là đối
với tướng thành tựu thượng, trung, hạ của
các pháp trong Chân Ngôn, mỗi chuyện đáng nên học đều
khéo thông đạt, tức là khéo trụ trong các pháp thượng,
trung, hạ. “Cụ xảo phương tiện” (trọn
đủ phương tiện khéo léo) tức là có thể thấu hiểu
tác dụng quyền biến thiện xảo của Như
Lai. Như khi tu Chân Ngôn hạnh, nếu đối với
pháp xuất gia và Nhị Thừa có trái phạm, chớ nên
sanh mê chấp như thế này: “Ta do chuyện này mà hủy
phạm giới này”. Hăy nên biết bỏ đường
ác và tâm ôm ấp chuyện làm ác sẽ trở ngại sự
tu sửa chánh đáng. V́ sao? Tất cả các phương
tiện của Như Lai chỉ v́ đại sự nhân
duyên như thế đó. Nếu bảo “do chẳng tŕ
phương tiện thuộc các giới thanh tịnh trong
các thừa, sẽ trở ngại hạnh viên măn trong Chân
Ngôn” th́ chẳng có lẽ ấy! Do vậy, nếu có lúc hành
giả lỡ hủy
phạm, hăy nên nghĩ như thế
này: “Ta nay do chí cầu Vô Thượng Đại Thừa,
lợi ích trọn khắp hết thảy hữu t́nh, mọi
chuyện đều chẳng thể ổn thỏa
được. Do vậy, trong ấy có trái phạm. Đợi
cho đến khi ta đă thành tựu cái quả, sẽ nên hối
lỗi”. Do thiện tâm ấy, sẽ chẳng
phải là nhân duyên phạm giới, chẳng gọi là “phạm
giới”. Ư
nghĩa của “dũng mănh” như đă nói trong phần
thầy tṛ thuộc phần trước.
“Tri
thời phi thời” (biết đúng thời và chẳng
phải thời): Đối với mỗi thứ tự
pháp dụng trong Chân Ngôn Môn, chẳng được đem
phần trước ra đằng sau, chuyển đằng
sau ra đằng trước! Hăy nên phần trước
th́ làm trước, phần nên làm sau cũng như thế,
đó gọi là “đúng thời”. Cho đến đủ
loại các hạnh như ăn uống, ngủ nghê, mỗi
mỗi đều có tướng thời và phi thời.
Như hành giả Chân Ngôn mà nếu ban ngày ngủ vùi, suốt
đêm chẳng ngủ, các chuyện như thế đều
chẳng phải là tam-muội-da, do chẳng hợp thời
vậy! “Hiếu hành huệ xả” (chuộng hành bố
thí rộng răi): Chân Ngôn hạnh Bồ Tát thường dùng
tài thí và pháp thí để nhiếp thủ chúng sanh, khiến
cho họ nhập Phật đạo. Nếu chẳng thể
tùy sức làm như thế, tức là phạm Tŕ Minh Giới.
“Tâm
vô bố úy” (Tâm chẳng sợ hăi): Nếu ở trong
đại chúng, có các chúng sanh dị giải, dị kiến,
sẽ hoặc là đoạn nghi cho họ, hoặc dùng cách
thử hỏi sâu hay cạn để khiến cho họ
thưa hỏi. Lúc bấy giờ, [hành giả Chân Ngôn] an trụ
trong pháp, dùng tâm vô úy, tâm không chấp trước, thuận
theo lời hỏi để nói, khiến cho người ấy
(người thưa hỏi) nhập trong chánh kiến, tâm
chẳng khiếp nhược. “Cần tu Chân Ngôn hạnh
pháp” (siêng tu hạnh pháp Chân Ngôn): Trong tu hành môn, trọn
chẳng gián đoạn giữa chừng, chẳng đ́nh
trệ. Nếu bỏ phế giữa
chừng, sẽ chẳng phải là tướng tinh tấn,
chẳng đạt được cái đáng nên đắc,
sẽ thoái thất cái đă đạt được, sẽ
trở ngại trong đường đạo. V́ thế,
hành giả nhất tâm tinh tấn như cứu đầu
cháy. Do tinh tấn, chẳng buông lung, cho đến có thể
đạt được tri kiến của Phật ngay
trong đời này, huống hồ các pháp trợ đạo
khác. Nếu chẳng phải như vậy,
sẽ là phạm pháp tam-muội-da.
“Thông
đạt chân ngôn thật nghĩa” (thông đạt ư
nghĩa chân thật của chân ngôn): Biết lư thú rất
sâu trong các thành tựu thượng, trung, hạ. Trong mỗi
từ ngữ, âm thanh nam, nữ v.v… từ nhập môn cho tới
khi thành Phật, đều khéo phân biệt, biết các
tướng thông, tắc trong đó. V́ lẽ nào vậy? Các
chân ngôn ấy chính là công đức tự chứng của
Như Lai, dùng đó để trang nghiêm Pháp Thân, khiến
cho các chúng sanh ai nấy đều từ môn hữu duyên mà
thấy Thật Tướng. Nếu lúc nhập một chữ,
sẽ trọn đủ vô lượng môn công đức,
chẳng hai, chẳng khác! “Thường nhạo tọa
Thiền, nhạo tác thành tựu” (thường thích tọa
Thiền, thích làm pháp thành tựu): Trong Chân Ngôn môn, tâm trụ
trong một cảnh mà chẳng tán loạn.
Như quán chữ, quán thanh, quán chủng tử của Bổn
Tôn, tùy thuộc chuyện nào, tâm cũng đều chẳng
duyên theo bên ngoài, sẽ có thể đạt được
thành tựu to lớn. Nếu cái tâm tán loạn, dẫu trải
qua vô lượng kiếp mong cầu thành tựu, vẫn chẳng
thể được! Huống hồ là ngay trong một
đời này mà đạt được pháp lợi
ư?
Kế
đó, nói về tướng Chân Ngôn thành tựu. Chắc là
có kẻ ngờ rằng: “Trong pháp vô vi thuộc về Thật
Tướng của các pháp, cớ sao cũng có đủ loại
sự tướng như thế vậy?” Nay muốn khiến
cho họ ngộ, bèn đáp rằng: “Chuyện ấy thật
sự có, chớ nên sanh nghi”. Lại c̣n dùng chuyện trong thế
gian để làm thí dụ!
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Thí như Dục Giới hữu Tự Tại
Duyệt Măn Ư minh, năi chí nhất thiết Dục Xứ thiên
tử ư thử mê túy, xuất chúng diệu tạp loại
hư tiếu, cập hiện chủng chủng tạp loại
thọ dụng, biến thọ dụng, thọ dữ tự sở
biến hóa, Tha Hóa Tự Tại Thiên đẳng nhi diệc
tự thọ dụng chi.
(經)祕密主!譬如欲界有自在悅滿意明,乃至一切欲處天子於此迷醉,出眾妙雜類戲笑及現種種雜類受用遍受用,授與自所變化、他化自在天等而亦自受用之。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Ví như Dục Giới
có minh chú tên là Tự Tại Duyệt Măn Ư, cho tới hết
thảy các thiên tử thuộc Dục Xứ đều mê
say trong đó, hiện ra các thứ vui cười mầu
nhiệm đủ loại, và hiện các thứ thọ dụng
đủ loại để thọ dụng trọn khắp,
hoặc trao cho nhau các [thứ thọ dụng] do chính ḿnh biến
hóa. Các vị Tha Hóa Tự Tại Thiên cũng tự thọ
dụng).
Như
trong Đại Thừa nói, Dục Giới có ba mươi
sáu chỗ, tức là [tám] hàn nhiệt địa ngục, mỗi
nơi đều có hai chỗ, hợp thành mười sáu
chỗ. Lại có bốn đại châu, mỗi đại
châu lại đều có hai tùy châu (hợp thành mười
hai châu[6],
cộng với [các địa ngục] trên đây thành hai
mươi tám chỗ), cùng với sáu tầng trời (Tứ
Vương Thiên, Đao Lợi, Đâu Suất, Dạ Ma,
Hóa Lạc, Tha Hóa Tự Tại), bàng sanh (súc sanh) và quỷ
đạo (hợp thành ba mươi sáu chỗ). Tự Tại
Thiên Chúa do sức của Duyệt Măn Ư Minh này, hiện ra
đủ loại các vật lạc dục nhiều h́nh sắc,
có thể cùng lúc trọn khắp ba mươi sáu chỗ. Lại
c̣n nói “ư thử mê túy, xuất chúng diệu tạp loại
thọ dụng biến thọ dụng, thọ dữ tự
sở biến hóa, Tha Hóa Tự Tại Thiên đẳng nhi
diệc tự thọ dụng chi” (đều mê say trong đó, hiện ra các thứ thọ
dụng đủ loại để thọ dụng trọn
khắp, hoặc trao cho nhau các [thứ thọ dụng] do
chính ḿnh biến hóa, các vị Tha Hóa Tự Tại Thiên
cũng tự thọ dụng), [tức là] hóa hiện
ra các thiên tử, thiên nữ v.v… thị hiện cảnh hữu
t́nh và vô t́nh trong lẫn ngoài. Như hiện ra các thức
ăn
ngon lành, âm nhạc v.v… mỗi mỗi đều
có thể hiện tiền thọ dụng. Nếu thấy
các thân nữ sắc v.v… [chư thiên] cũng có thể tự
hưởng vui ngũ dục, mỗi mỗi đều thuận
theo ḷng ham muốn. Do gặp cảnh ngũ dục cực
diệu, tâm đều say mê, [chú ngữ của Dục Giới
mà c̣n có tác dụng to lớn như thế], huống hồ
chân ngôn của Như Lai mà chẳng thể hiện trọn
khắp các sắc thân thực hiện Phật sự ư?
(Kinh)
Hựu thiện nam tử! Như Ma Hê Thủ La thiên hữu
Thắng Ư Sanh Minh, năng tác tam thiên đại thiên thế
giới chúng sanh lợi ích, hóa nhất thiết thọ dụng,
biến thọ dụng, thọ dữ Tịnh Cư chư
thiên, diệc phục tự thọ dụng chi.
(經)又善男子!如摩醯首羅天有勝意生明,能作三千大千世界眾生利益,化一切受用、遍受用、授與淨居諸天亦復自受用之。
(Kinh:
Lại này thiện nam tử! Như Ma Hê Thủ La Thiên có
minh chú Thắng Ư Sanh, có thể làm lợi ích cho chúng sanh
trong tam thiên đại thiên thế giới, hóa hiện hết
thảy các thọ dụng, thọ dụng trọn khắp,
[lại c̣n] trao cho các Tịnh Cư Thiên để họ
cũng được tự thọ dụng).
Như
Ma Hê Thủ La thiên vương có một minh chú tên là Thắng
Ư Sanh Minh. Do sức của chân ngôn này, có thể đồng
thời tạo sự biến hóa to lớn, hóa hiện trọn
khắp tam thiên đại thiên thế giới này, v́ mỗi
chúng sanh hiện ra các chuyện lợi ích đáng ưa
thích, để họ đều thọ dụng chân thật,
chẳng dối. Lại c̣n hóa hiện thân Tịnh Cư
Thiên và các sự thọ dụng vi diệu như trong kinh
đă nói, huống hồ sức chân ngôn của Như Lai
[mà chẳng có tác dụng to lớn hơn vậy] ư?
(Kinh)
Hựu như huyễn thuật chân ngôn năng hiện chủng
chủng viên lâm, nhân vật, như A Tu La chân ngôn hiện huyễn
hóa sự. Như thế chú thuật nhiếp độc, cập
hàn nhiệt đẳng. Ma Đát Rị thần chân ngôn
năng tác chúng sanh tật dịch tai lệ, cập thế
gian chú thuật nhiếp trừ chúng độc, cập hàn
nhiệt đẳng, năng biến xí hỏa nhi sanh thanh
lương.
(經)又如幻術真言能現種種園林人物,如阿修羅真言現幻化事。如世呪術攝毒及寒熱等,摩怛哩神真言能作眾生疾疫災厲,及世間呪術攝除眾毒及寒熱等,能變熾火而生清涼。
(Kinh:
Lại như huyễn thuật chân ngôn có thể hóa hiện
đủ loại vườn rừng, người, vật.
Như chân ngôn của A Tu La hiện ra chuyện huyễn
hóa. Như chú thuật của thế gian nhiếp trừ chất
độc, bệnh hàn nhiệt v.v… Chân ngôn của thần
Ma Đát Rị có thể gây bệnh dịch, tai ương
cho chúng sanh, và chú thuật thế gian có thể nhiếp trừ
các chất độc và bệnh hàn, nhiệt v.v…, có thể
biến lửa mạnh thành mát mẻ).
Hăy
gác chuyện ấy lại, như huyễn thuật sư
trong cơi đời c̣n có thể dùng chân ngôn của họ để
hiện ra các thứ vườn quả và xe cộ, người,
súc vật v.v… Lại như A Tu La tự
có chân ngôn, có thể hiện thân giống như Đế
Thích, ngồi trong Thiện Pháp Đường trên Tam Thập
Tam Thiên, khiến cho hết thảy chư thiên đều
sanh ḷng ngờ vực, quái lạ. Lại như người
đời có chân ngôn, có thể nhiếp thọ các độc,
và các bệnh hàn, nhiệt. Lại có chân ngôn của Ma
Đát Rị Thiên (Mātṛ)[7]
có thể gây ra tật dịch to
lớn cho hết thảy mọi người, cho tới
trong thế gian hiện thời có người do chân ngôn mà
biến lửa thành lạnh, biến băng thành nóng, huống
hồ chân ngôn được thần lực tự tại
của Như Lai gia tŕ mà chẳng thực hiện Phật
sự to lớn trọn khắp pháp giới ư?
(Kinh)
Thị cố thiện nam tử! Đương tín như
thị lưu xuất cú chân ngôn oai đức. Thử chân
ngôn oai đức phi tùng chân ngôn trung xuất, diệc bất
nhập chúng sanh, bất ư tŕ tụng giả xứ nhi hữu
khả đắc.
(經)是故善男子!當信如是流出句真言威德。此真言威德非從真言中出亦不入眾生,不於持誦者處而有可得。
(Kinh:
V́ thế, thiện nam tử! Hăy nên tin oai đức của
câu
chân ngôn lưu xuất như thế.
Oai đức của chân ngôn ấy chẳng phát xuất từ
trong chân ngôn, cũng chẳng vào trong chúng sanh, chẳng thể
có đạt được từ nơi người tŕ tụng).
V́
thế, hăy nên sanh tín tâm, tin tưởng lực dụng và
oai đức ấy chân thật chẳng dối. Người
tŕ tụng do chưa đạt được Tất
Địa, sẽ sanh
tâm nghi ngờ thật sự có chuyện ấy,
hay là chắc chắn chẳng có! Cái quả chẳng thể
nghĩ bàn như thế, nếu dùng tâm lượng để
phân biệt, sẽ trọn chẳng thấu đạt lư.
V́ trừ mối nghi này, [đức Thế Tôn] liền nói
các thí dụ trên đây. Nhưng oai lực của chân ngôn chẳng
từ chân ngôn phát ra, cũng chẳng từ chỗ người
tŕ tụng, cũng chẳng nhập vào thân và miệng của
người được gia tŕ đó. T́m cầu tánh lẫn
tướng đều trọn chẳng thể được,
mà có thể thực hiện hết thảy các sự thuận
theo lẽ đáng nên, khéo léo thành tựu. Đấy chính là
duyên khởi rất sâu. Pháp tánh từ các duyên mà có, như
trăng trong nước, như h́nh bóng
trong gương, là duyên khởi chẳng thể nghĩ bàn!
(Kinh)
Thiện nam tử! Chân ngôn gia tŕ lực cố, pháp nhĩ
nhi sanh, vô sở quá việt. Dĩ tam thời bất việt
cố, thậm thâm bất tư nghị duyên sanh lư cố.
Thị cố, thiện nam tử! Đương tùy thuận
thông đạt bất tư nghị pháp tánh, thường
bất đoạn tuyệt chân ngôn đạo.
(經)善男子!真言加持力故,法爾而生,無所過越,以三時不越故、甚深不思議緣生理故。是故善男子!當隨順通達不思議法性,常不斷絕真言道。
(Kinh:
Thiện nam tử! Do sức gia tŕ của chân ngôn, pháp vốn
sẵn như vậy mà sanh, không vượt qua. Do chẳng
vượt ngoài ba thời, do lư duyên sanh rất sâu chẳng
thể nghĩ bàn. V́ thế, này thiện nam tử! Hăy nên
tùy thuận thông đạt pháp tánh chẳng thể nghĩ
bàn để thường tu đạo chân ngôn chẳng
đoạn tuyệt).
Đó
là nói Chân Ngôn Tất Địa vốn sẵn thành tựu.
V́ lẽ nào vậy? Như Lai hiện chứng pháp chẳng
thể nghĩ bàn như thế, tức là tự thể của
chữ A từ cái gốc vốn đă sẵn trọn
đủ vô lượng sức tự tại chẳng thể
nghĩ bàn. Thể của Tất Địa là thường
trụ bất biến, chỉ do hành nhân chẳng tự biết
rơ,
nên chẳng đạt được cái quả như thế.
Nay dùng hạnh này để tịnh hóa thân, khẩu, ư nghiệp,
nếu có thể tương ứng với pháp, sẽ tự
thành tựu. Các pháp vốn tự như thế, trọn chẳng
hư dối. Cái quả chẳng nghĩ bàn ấy, khi các
duyên tụ hội sẽ tự sanh khởi, giống
như sóng trong biển cả trọn chẳng lỡ thời.
Hơn nữa, chân ngôn này, tự không có khởi đầu,
chẳng có kết thúc. Nếu có khởi đầu và kết
thúc th́ sẽ có cùng tận, tức là pháp vô thường, bại
hoại, sao có thể gọi là “sức
tự tại của Như Lai”
cho được? Do pháp thể này vượt ngoài ba đời,
thường ở trong ba đời; v́ thế, trong ba
đời tự nhiên thường làm Phật sự, chẳng
phế bỏ, chẳng lỡ kỳ hạn. Như nước
trong biển cả, nếu nhằm lúc trăng tṛn, tự
nhiên [sóng ṃi] bủa trào, chẳng lỡ thời.
“Thậm
thâm bất tư nghị duyên sanh lư” (lư duyên sanh chẳng
nghĩ bàn rất sâu): Nếu bản thể của chân ngôn
trước đó đă chẳng thành tựu, sẽ chẳng
thể thuận theo cảm mà ứng chẳng lỡ kỳ
hạn! Tuy chân ngôn có sức ấy, nhưng nếu tâm
hạnh của hành nhân chưa tương ứng, cũng sẽ
chẳng thể khiến cho sự gia tŕ đó hiển hiện
được! Nhưng duyên tụ hội sẽ tự
thành; v́ thế biết là chẳng từ nơi kia mà tới,
chẳng từ nơi này mà đi, cũng chẳng phải ở
hai nơi ấy. Vô tánh mà có duyên tụ hội th́ cũng
thành cái quả Tất Địa, cũng chẳng phải
là tự nhiên mà có. Hăy nên biết: Đấy là cái quả pháp giới chẳng
thể nghĩ bàn rất sâu! Từ duyên mà khởi, thường
tự vô tánh, chẳng thể nghĩ bàn. Nếu hành nhân tu
hành chẳng dứt, ắt sẽ là cực
quả
khế hợp chí lư. Chí lư (lư cùng tột)
như thế, chẳng thể do suy lường mà có thể
biết rơ được. Đó là [lư do đức Phật]
nêu ra
các thí dụ trên đây để khuyến
tín. “Thị cố, thiện nam tử! Tùy thuận thông
đạt bất tư nghị pháp tánh, thường bất
đoạn tuyệt chân ngôn đạo” (V́ thế, thiện
nam tử! Hăy tùy thuận thông đạt pháp tánh chẳng
nghĩ bàn để thường tu đạo chân ngôn chẳng
đoạn tuyệt): Cái quả chân ngôn chẳng thể
nghĩ bàn ấy đă chẳng do phân biệt mà có thể
biết được, chẳng do thuận theo sức chấp
trước hành xứ, hoặc hạnh đối trị
nhỏ nhoi mà có thể thủ chứng được! Do vậy,
chỉ những
ai có tín lực kiên cố th́ mới có
thể tiến nhập! V́ thế, trước hết nêu
thí dụ; kế đó, nêu ra chí lư, khuyên [thính chúng] hăy
nương vào môn này, quán chí lư duyên sanh chẳng thể
nghĩ bàn, thường cầu thông đạt pháp tánh chẳng
nghĩ bàn như thế, tùy thuận lư ấy để tu
hạnh Chân Ngôn sao
cho chẳng gián đoạn, sẽ tự
nhiên thành Phật. Đạo chân ngôn này chính là chỗ sanh khởi
của pháp chẳng thể nghĩ bàn. Do cái nhân chẳng thể
nghĩ bàn mà đạt được cái quả chẳng
thể nghĩ bàn!
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn phục trụ tam thế vô ngại
lực, y Như Lai gia tŕ bất tư nghị lực, y
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Tạng tam-muội.
(經)爾時世尊復住三世無礙力,依如來加持不思議力,依莊嚴清淨藏三昧。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại trụ trong
sức ba đời vô ngại, nương vào sức gia
tŕ chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, nương
vào Trang Nghiêm Thanh Tịnh Tạng tam-muội).
Nương
vào sức tam thế vô ngại, nương vào sức chẳng
thể nghĩ bàn của Phật; ở đây, có hai loại
nương cậy ấy. Tam-muội ở đây chính là chỗ
y chỉ của lực dụng gia tŕ ba đời không
chướng ngại chẳng thể nghĩ bàn.
Nương vào pháp thể ấy để có thể thành tựu
nghiệp chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tức
là trọn khắp mười phương ba đời, lợi
ích trọn khắp hết thảy các chúng sanh, thảy
đều khiến cho họ rốt ráo trụ trong địa
vị của trí Nhất Thiết Trí. Đấy chính là
Như Lai nương vào pháp tự chứng chẳng thể
nghĩ bàn, dùng vô lượng các sức định trí
để tự trang nghiêm thanh tịnh. Đó chính là cái Thể
của chân ngôn vậy. Đấy cũng là tạng các công
đức của Như Lai, vô tận trang nghiêm, chẳng
có khuyết giảm, thành tựu trọn vẹn các tướng.
(Kinh)
Tức thời Thế Tôn tùng Tam Ma Bát Để trung, xuất
vô tận giới, vô tận ngữ biểu, y pháp giới lực,
vô đẳng lực, chánh đẳng giác tín giải,
dĩ nhất âm thanh tứ xứ lưu xuất, phổ biến
nhất thiết pháp giới, dữ hư không đẳng,
vô sở bất chí. Chân ngôn viết: - Nam ma tát bà đát tha
nghiệt đế phiêu, vi thấp phạ mục khế tệ,
tát bà tha, a a ám á.
(經)即時世尊從三摩鉢底中,出無盡界無盡語表。依法界力、無等力、正等覺信解、以一音聲四處流出、普遍一切法界、與虛空等,無所不至。真言曰:南麼薩婆怛他蘖帝驃。微濕嚩目契弊。薩婆他。阿阿闇噁。
(Kinh: Lập tức,
đức Thế Tôn từ trong Tam Ma
Bát Để (Samāpatti)[8], phát ra ngữ biểu[9] vô tận của
vô tận giới, nương vào sức pháp giới, sức
không sánh bằng, chánh đẳng giác tín giải, dùng một
âm thanh lưu xuất bốn xứ, trọn khắp hết
thảy các pháp giới, giống như hư không, không
đâu chẳng thấu đến. Chân ngôn rằng: - Nam ma
tát bà đát tha nghiệt đế phiêu, vi thấp phạ mục
khế tệ,
tát bà tha, a a ám á).
Ư nói từ chữ A phát ra ba
chữ (A (âm dài), Ám, Á), [cộng với chính chữ A] thành bốn
chữ. Bốn chữ ấy hợp thành một, trọn
khắp hết thảy các chốn. Âm thanh của các tự
môn ấy cũng trọn khắp hết thảy. “Phổ
biến nhất thiết pháp giới, dữ hư không
đẳng vô sở bất chí” (trọn khắp hết
thảy pháp giới, bằng với hư không, không đâu
chẳng đến): Khi đức Phật trụ trong
tam-muội, sanh khởi biểu nghiệp này, “biểu”
(表)
tức là nêu ra. Âm thanh ấy có thể trọn khắp hết
thảy, được gọi là “chư Phật ấn
khả, thành tựu”. “Ấn” có nghĩa là “tiêu
biểu”,
tức là ngữ biểu của Như Lai, nghĩa là từ
sức tín giải của Như Lai (trong phần Tự
đă giải thích điều này). Chỗ âm thanh của
Thanh Văn phát ra được gọi là Môn, Thanh Văn ở
đây chính là bốn chữ như A, Ám, Á v.v… Do từ chữ
A ấy mà phát ra âm thanh; do vậy gọi là
Môn. Chữ A ấy chính là Phật khẩu, chính là Phật
tâm, chính là người nói, chính là người nghe, là sức
nương vào pháp giới, là sức không ǵ sánh bằng
để sanh khởi ngữ biểu b́nh đẳng, vô ngại,
phát ra vô lượng âm thanh, tức là tác dụng hướng
dẫn, lợi
lạc trọn khắp nơi ngữ nghiệp của
Như Lai. Từ tâm Như Lai, lưu xuất diệu âm b́nh
đẳng ấy, chia thành bốn chỗ, như từ ao
lớn Vô Nhiệt[10]
tuôn chảy bốn con sông lớn chẳng khô cạn. Chỗ
nương vào của chân ngôn này cũng giống như thế:
Do một diệu âm, có thể biểu thị vô tận pháp
giới, xoay vần sanh khởi, chẳng có cùng tận. “Tứ
xứ” ở đây chính là bốn chữ (A, Ā, Aṃ, Aḥ),
Tứ Đức, bốn màu, bốn thỏa nguyện, từ
Tứ Đức trong tâm Phật mà nở x̣e. Trong ấy,
dùng Sự để biểu thị lư nội chứng, tức là bốn
chữ bất đồng, bốn màu có công dụng khác biệt,
nguyện được thỏa
cũng lại bất đồng. Tứ Đức ấy
phổ biến hư không giới, như hư không vô
lượng, chẳng có phân biệt, ĺa chính giữa và bờ
mé, chẳng có cùng tận. Chân ngôn này thị hiện cũng
lại giống như thế.
Kế
đó, [chánh kinh] nói trong tâm Phật chia thành bốn chỗ.
Trước hết, chân ngôn nói “quy mạng hết thảy
các Như Lai” (tức câu “Nam ma tát bà đát tha nghiệt
đế phiêu” - Namaḥ sarvatathāgatebhyo).
Câu kế đó là các thứ môn. Vi Thấp Phạ (Viśva) là “các
thứ nghĩa”,
mà cũng là nghĩa “hay khéo”. Mục Khế Tệ (Mukhebhyaḥ) nghĩa là
môn, tức là Phổ Môn thị hiện các loại trí nghiệp
xảo độ môn. Tát Phạ Tha (Sarvathā) là hết
thảy. Không chỉ là thân và miệng dốc ḷng lễ kính,
mà thậm chí ba nghiệp cũng đều quy mạng trọn
khắp. Như thân biểu thị điều chất chứa
trong tâm, mỗi chi phần của thân ở bên ngoài đều
lễ khắp hết thảy các đức Như Lai.
(Kinh)
Chánh Đẳng Giác tâm tùng thị phổ biến, tức
thời, nhất thiết pháp giới chư thanh môn tùng
Chánh Đẳng Giác tiêu xí chi âm, nhi hỗ xuất thanh.
Chư Bồ Tát văn thị dĩ, đắc vị tằng
hữu khai phu nhăn, phát mỹ diệu ngôn âm, ư Nhất
Thiết Trí ly nhiệt giả tiền, nhi thuyết tụng
viết.
(經)正等覺心從是普遍,即時一切法界諸聲門從正等覺幖幟之音而互出聲。諸菩薩聞是已,得未曾有開敷眼,發美妙言音,於一切智離熱者前而說頌曰:
(Kinh:
Từ đó (từ chân ngôn đó), tâm Chánh Đẳng Giác
trọn khắp. Ngay lập tức, hết thảy các thanh
môn trong pháp giới từ âm thanh tiêu biểu cho Chánh Đẳng
Giác bèn lần lượt phát ra. Các Bồ Tát nghe các âm thanh ấy
xong, được mở bừng mắt chưa từng
có, thốt ra âm thanh đẹp đẽ, nhiệm mầu,
đối trước đấng Nhất Thiết Trí ĺa
nhiệt năo mà nói kệ tụng rằng).
Kế
đó, nói về cái Thể của chân ngôn, ư nghĩa của
bốn chữ A, A, Ám, Á (A, Ā, Aṃ, Aḥ) như đă nói. “Tùng
thị phổ biến, Chánh Đẳng Giác tâm” (từ [chân
ngôn] ấy mà tâm Chánh Đẳng Giác trọn khắp), “tùng”
là phổ biến. Tức thời, các môn âm thanh trong pháp giới
từ âm thanh biểu trưng của Chánh Đẳng Giác, tức
là từ Tứ Đức của chân ngôn bèn trọn khắp
tâm của hết thảy chư Như Lai. Như từ một
chữ sanh ra hai chữ, hai chữ sanh ra bốn chữ, bốn
chữ sanh ra tám, tám sanh ra mười sáu, xoay vần vô cùng
như thế. Nhưng chữ ban đầu giống
như chữ thứ hai. Chữ thứ hai cũng b́nh đẳng
chẳng sai biệt với chữ thứ ba. Bốn chữ
ấy chính là cái Thể được đề cao chánh yếu
trong bộ kinh này, hết thảy bí tạng đều sanh
từ đó, chính là tâm của Tỳ Lô Giá Na Phật. Điều
này biểu thị các âm thanh hỗ tương phát ra tiếng,
như trong phần trên [vừa mới nói] từ một
phát ra bốn, từ bốn phát ra vô lượng chữ và
âm thanh trọn khắp pháp giới. Âm thanh của mỗi chữ
đều phát ra lẫn nhau, [nghĩa là] trong âm thanh của
một chữ, phát ra âm thanh của hết thảy các chữ
khác. Các chữ khác cũng thế. Đấy chính là tác dụng
tiêu biểu của Phật. Các âm thanh chẳng nghĩ bàn ấy
thông đạt lẫn nhau, biểu thị hết thảy
vô lượng tự đức và tha đức của hết
thảy Như Lai. Trong một âm thanh,
đều phát ra vô lượng các thứ âm thanh cú
nghĩa. V́ thế nói là “nhi hỗ xuất thanh” (hỗ
tương phát ra tiếng). “Chư Bồ Tát kiến
văn thị dĩ, đắc vị tằng hữu”
(các Bồ Tát thấy, nghe âm thanh ấy rồi, đạt
được điều chưa từng có) cho nên nói là “hy
hữu”. “Khai phu nhăn” (mắt mở bừng): Khi tâm
đă định th́ mắt chẳng mở, chẳng nhắm.
Nay thấy chuyện ấy, kinh ngạc, cho
là chưa từng có, cho nên mở bừng mắt. Nay tôi
riêng cho rằng: Như hoa sen chưa nở, do ánh nắng mặt
trời mà được nở x̣e. Tâm mục của các vị
Bồ Tát này cũng thế, do Phật gia tŕ thị hiện,
cho nên mở to. “Phát mỹ diệu ngôn âm, ư Nhất
Thiết Trí ly nhiệt năo giả tiền, nhi thuyết tụng
viết” (thốt ra tiếng nói đẹp đẽ, mầu
nhiệm, đối trước bậc Nhất Thiết
Trí đă ĺa nhiệt năo mà nói kệ tụng rằng), tức
là đối trước các bậc đă đạt
được Nhất Thiết Trí ĺa nhiệt năo mà ca ngợi.
(Kinh)
Kỳ tai Chân Ngôn hạnh, năng cụ quảng đại
trí.
(經)奇哉真言行,能具廣大智。
(Kinh:
Lạ thay hạnh Chân Ngôn, trọn đủ trí rộng lớn).
Tán
thán hạnh Chân Ngôn này hết sức kỳ đặc: Từ
Như Lai tâm mà có thể hiện ra Tứ Đức. Từ
đấy, mỗi đức đều phát xuất vô
lượng âm thanh bí diệu chẳng nghĩ bàn trọn khắp
pháp giới. Mỗi âm thanh lại lần lượt phát ra
hết thảy các âm thanh chẳng hai, chẳng khác, nhưng
có tác dụng sai biệt để hoàn thành Phật sự,
tức là biểu lộ Pháp Thân bí mật trong tạng diệu
nghiêm của Như Lai trọn đủ vô lượng công
đức trang nghiêm. Do vậy nói “năng cụ quảng
đại trí” (có thể trọn đủ trí rộng lớn).
Trí ấy chẳng có ngằn mé, giống như thái hư chứa
đựng muôn vàn h́nh tượng, cho nên nói là “quảng”.
Do vậy, quảng trí tức là vô đẳng trí (trí không ǵ
bằng), vô tỷ trí (trí khôn sánh). Do trí cú (câu trí huệ) ấy, sẽ có thể thành Phật.
(Kinh)
Nhược biến bố thử giả, thành Phật
Lưỡng Túc Tôn.
(經)若遍布此者,成佛兩足尊。
(Kinh:
Nếu phổ biến chú ấy, thành Phật Lưỡng
Túc Tôn).
“Nhược
biến bố thử giả” tức là đem chân ngôn ấy
phổ biến trong hết thảy các thế giới, tức
là môn chữ A. “Thành Phật Lưỡng Túc Tôn”: Trong
chữ chân ngôn, dùng diệu âm ấy để phổ biến
trong các thế giới, có thể khiến cho người
nghe nhất định đắc Vô Thượng Bồ
Đề. V́ thế nói là “thành Phật Lưỡng Túc
Tôn”.
(Kinh)
Thị cố, cần tinh tấn, ư chư Phật
ngữ tâm, thường tác vô gián tu, tịnh tâm ly ư ngă.
(經)是故勤精進,於諸佛語心,常作無間修,淨心離於我。
(Kinh:
Do vậy, siêng tinh tấn, với chư Phật ngữ
tâm, thường tu chẳng gián đoạn, tịnh tâm ĺa
khỏi ngă).
Có
hai thứ siêng năng: Loại siêng năng trước
chính là tinh tấn chẳng gián đoạn. Loại siêng
năng thứ hai là thường tu chẳng gián đoạn.
[Hai loại siêng năng ấy, nói theo] âm tiếng Phạn sẽ
sai khác. Tức là trong tâm chân ngôn do hết thảy các đức
Như Lai đă nói đó, dùng bốn chữ trên đây để
khuyên các chúng sanh hăy nên lắng ḷng siêng năng tu học tâm
chân ngôn đă nói như thế sao cho đừng gián đoạn,
thường nên dùng tâm chân ngôn ấy để tịnh cái
tâm. “Tịnh” tức là tịnh trừ hết thảy
các vọng nghiệp, các chướng trong và ngoài. “Ly ngă”
là ĺa hai món Nhân Ngă và Pháp Ngă. Hăy nên biết cái tâm ấy chính
là Phật tâm. Phật tâm chính là chân ngôn tâm.
(Kinh) Nhĩ thời, Bạc Già Phạm, phục
thuyết thử pháp cú: - Ư Chánh Đẳng Giác tâm, nhi
tác thành tựu giả.
(經)爾時薄伽梵,復說此法句,於正等覺心,而作成就者。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm lại nói
pháp cú này: - Trong tâm Chánh Đẳng Giác, mà thực hiện
thành tựu).
Phẩm
trước đă nói sự thành tựu trong thế gian giúp
hành nhân đạt tới thành tựu xuất thế gian.
Do vậy, ở đây nói dùng Phật tâm để làm nghiệp
thành tựu xuất thế gian. “Phật tâm” tức là
bốn chữ chân ngôn trên đây, tùy ư lấy một chữ
nào để thực hiện cũng đều được.
Thực hiện thành tựu cái quả ấy, sẽ đạt
được cái quả xuất thế. “Chánh Đẳng
Giác tâm” chính là chân ngôn tâm.
(Kinh)
Ư viên uyển, tăng phường, nhược tại
nham quật trung, hoặc ư sở nhạo xứ, quán bỉ
Bồ Đề tâm, năi chí sơ an trụ, bất sanh nghi lự
ư.
(經)於園苑僧坊,若在巖窟中,或意所樂處,觀彼菩提心,乃至初安住,不生疑慮意。
(Kinh:
Nơi vườn hoa, tăng phường, hoặc nơi
vách núi, hang, hoặc chỗ ḿnh yêu thích, quán tâm Bồ Đề
ấy, cho đến mới an trụ, chẳng sanh ư ngờ,
lo).
Muốn thực hiện pháp thành tựu
ấy, hăy nên chọn nơi chốn trước. “Viên uyển”
là chỗ [cây cối] do con người vun trồng, cắt
xén, th́ mới là viên uyển. Nếu không trồng mà tự
mọc th́ là đồng hoang, chẳng phải là viên uyển.
“Tự” trong tiếng Phạn là Tỳ Ha La (Vihāra), phương này dịch là Trụ Xứ. “Quật”
(窟) là hang đá tự nhiên trong núi, hoặc do sức
người đào khoét. Hoặc là chỗ hành nhân
yêu thích, th́ cũng là nơi thích hợp để tu đạo.
Nếu nói theo ư nghĩa bí mật, “viên uyển” chính là
Đại Bồ Đề tâm. Chỗ ấy rộng răi,
không ǵ chẳng có. Nương vào đấy để tu
đạo, sẽ là chỗ tốt nhất. “Trụ”
là Tứ Phạm Trụ, hoặc nói là đại bi, do hết
thảy Bồ Tát thường thích trụ trong ấy. “Quật”
là chỗ sâu thẳm, thanh nhàn, tức là hang Thiền Định
rất sâu, sư tử là vua các loài thú cũng ngự trong
đó. Hoặc “chỗ yêu thích” tức là đối với
các pháp môn, tùy thuộc
pháp nào thuận tiện, sẽ hệ
niệm một môn mà hành, chẳng hạn như Lục
Độ v.v… như kinh Bát Nhă đă nói, từ trong đó mà
tùy ư tự tu.
“Quán
bỉ Bồ Đề tâm, năi chí sơ an trụ, bất
sanh nghi lự ư” (Quán cái tâm Bồ Đề ấy, cho
đến khi mới an trụ, chẳng sanh ư niệm ngờ
vực, lo ngại) tức là dùng tâm
để quán Bồ Đề tâm của chính ḿnh. Đấy
là chánh hạnh xuất thế. Trụ trong ấy, chẳng duyên theo điều ǵ khác, tức là tam-muội.
Ở trong pháp Quán ấy, do thường tự
giác, hết thảy các lưới nghi sẽ dần dần
trừ sạch, thậm chí đạt đến chỗ “không
nghi ngờ”. Các
mối nghi chẳng sanh, tức là thật sự
trụ trong Bồ Đề tâm. Khi ấy, có đủ loại
tướng mạo v.v… chớ nên sanh
ḷng lo ngờ, sẽ dần dần thấy Chân Thật
Như. Nhưng khi hành điều đó, đại lược
có hai địa vị: Một là chẳng phải là địa
vị Tam-ma-hế-đa, và hai là địa vị Tam-ma-hế-đa
(Samāhita,
dịch là Đẳng Dẫn). Trong
lúc chưa thành tựu mà đă có tướng thành tựu
trước, cho đến khi sắp thành tựu, cũng
có tướng sắp thành tựu. Đấy đều chẳng
phải là địa vị Tam-ma-hế-đa. Tức là khi
mới đạt được thành tựu
thế gian, các thứ được gia tŕ như dược
vật v.v… đều có lực dụng chẳng thể
nghĩ bàn. Thậm chí [nhờ vào lực dụng của các
dược vật ấy], có thể dạo chơi các cơi
Phật. Tuy là tướng chưa thành tựu, mà giống
như đă đạt được chuyện ứng
nghiệm chẳng thể nghĩ bàn trong hiện tại.
Tâm quyết định tín càng thêm tăng tấn thù thắng,
được nhập vào địa vị Đẳng Dẫn.
Khi hành giả mới tu phương tiện xuất thế
gian quán, trước hết quán Bổn Tôn, nương vào
tượng vẽ để khéo quán xong. Thoạt đầu,
khi nhắm mắt bèn thấy rành rẽ; sau đó, dần dần
mở mắt cũng thấy, [tướng đă quán] hiển
hiện rành rẽ, chẳng bị ẩn lấp, mù mờ.
Đấy chưa phải là Đẳng Dẫn. Nếu do
đạt được chuyện như thế, cái tâm
sanh tin tưởng, vui sướng gấp bội. Do ḷng
tin ấy mà cái tâm thanh tịnh, tâm sẽ dần dần chẳng
chấp trước, b́nh đẳng bất nhị. Sự
bất nhị ấy cũng trừ bỏ,
chẳng có cái thấy “trung biên” (chính giữa hay bờ
mé, tức là chẳng thấy có nhị biên, chẳng thấy
chính ḿnh chẳng chấp vào hai bên)
sai khác, trừ các tâm duyên, vạn pháp b́nh đẳng. Khi
đó, gọi là tướng Đẳng Chí. Do khi các tướng
hiện, tuy chưa thành tựu, nhưng do vậy mà có thể
dần dần được thành, nên nói “đấy
chưa phải là địa vị Đẳng Dẫn”
(tôi cho rằng là như thế gian chưa đạt tới
môn Định thuộc mỗi địa vị vậy).
(Kinh)
Tùy thủ bỉ nhất tâm, dĩ tâm trí ư tâm, chứng
ư cực tịnh cú. Vô cấu an bất động, bất
phân biệt như kính, hiện tiền thậm vi tế.
Nhược bỉ thường quán sát, tu tập nhi
tương ứng, năi chí bổn sở tôn, tự thân
tượng giai hiện.
(經)隨取彼一心,以心置於心,證於極淨句,無垢安不動,不分別如鏡,現前甚微細。若彼常觀察,修習而相應,乃至本所尊,自身像皆現。
(Kinh:
Tùy chọn một tâm ấy, đem tâm đặt nơi
tâm, chứng biết câu cực tịnh. Vô cấu, an, bất
động, chẳng phân biệt như gương, hiện
tiền, rất vi tế. Nếu như thường quán
sát, tu tập đạt tương ứng, thậm chí
đức Bổn Tôn, tự thân Ngài
đều hiện).
Trước
hết là quán Bổn Tôn đă hiện rành rẽ. Trong bốn
chữ, tùy ư chọn một chữ đặt trên tâm của
Bổn Tôn, chánh kinh nói điều này là “dữ tâm
tương ứng” (tương ứng với tâm), tức
là dùng chữ của Phật tâm để đặt trên
tâm của Bổn Tôn (“Thủ tâm” chính là lấy chữ
thuộc Phật tâm, đặt ở trên Phật tâm, th́ gọi
là “dữ tâm”). Tùy ư chọn lấy một chân ngôn tâm,
tưởng đặt chân ngôn tâm nơi tâm của Bổn
Tôn. Hoặc tưởng thân của chính
ḿnh là Bổn Tôn để đặt tâm chân ngôn nơi tim của
chính ḿnh. V́ thế nói là “dĩ tâm trí ư tâm” (dùng tâm
chân ngôn đặt nơi tâm) v.v… Khi quán như thế, hăy
quán vô cấu cực tịnh, do hết thảy Bổn Tôn
nơi tâm thường là như thế. Khi quán tịnh
như vậy, do chẳng duyên theo bên ngoài, an trụ bất
động, chẳng phân biệt hết thảy pháp tướng
để
rồi nẩy sanh vọng tưởng. Khi
đó, tương ứng với Quán Phật tam-muội v.v…
Ví như người có con mắt thanh tịnh,
đối diện gương sáng. “Gương” ở
đây chính là quán sự viên minh, thanh tịnh vô cấu
nơi tâm của Bổn Tôn. Nói “cực vi” tức là
thoạt đầu quán chữ chủng tử sao cho cực
nhỏ bé, do đó là chủng tử của tâm vậy.
Trước là đă quán thấy h́nh tượng Bổn Tôn
rồi, nơi tâm Bổn Tôn, quán cái gương sáng sạch
ấy, trong gương có chữ ấy. Nhất tâm quán chữ
ấy, tức là từ trong ấy mà được
thấy h́nh tướng chân thật của Bổn Tôn, mà
cũng
là từ trong cái
gương tṛn sáng ấy, tự thấy thân ḿnh. Đấy
vẫn chưa phải là tướng Đẳng Dẫn.
Chỉ trụ trong một cảnh như thế, chẳng
bị cấu chướng lay động. Do thường
tu tập như thế, khi h́nh bóng của chính ḿnh hiện
ra, nơi tim cũng có viên minh (ṿng tṛn sáng suốt thanh tịnh
như cái gương) và chữ. Lúc mới quán, hễ thấy
một chữ th́ ba sự đều tự nhiên hiện.
Lúc sau, từ trên viên minh nơi tâm, trông thấy Bổn Tôn.
Nơi viên minh của Bổn Tôn, lại thấy thân ḿnh. Soi
tỏ lẫn nhau như thế chẳng có chướng ngại,
gọi là “ảnh tượng thành tựu”. Đấy
vẫn chẳng phải là địa vị Đẳng Dẫn!
(Kinh)
Đệ nhị Chánh Giác cú, ư kính Mạn-noa-la, đại
liên hoa vương ṭa, thâm thúy trụ tam-muội.
(經)第二正覺句,於鏡漫拏羅,大蓮華王座,深邃住三昧。
(Kinh:
Câu Chánh Giác thứ hai, nơi kính Mạn-noa-la, ṭa đại
liên hoa vương, sâu thẳm trụ tam-muội).
Thoạt
đầu là quán Bổn Tôn, nay th́ chỉ quán Phật. V́ lẽ
nào vậy? Do hết thảy các h́nh tượng tôn thánh
đều là các môn để thấy Pháp Thân. “Ư kính Mạn-noa-la,
đại liên hoa vương ṭa, thâm thúy trụ tam-muội”:
Trong gương ấy, lại có h́nh tượng hang động.
Quán hang động ấy rất sâu, trong đó có Như Lai
ngồi lặng lẽ trong cái hang ấy.
(Kinh)
Tổng tŕ phát kế quan, vô lượng quang vi nhiễu, ly
vọng chấp phân biệt, bổn tịch như hư
không. Ư bỉ trung tư duy, tác nhiếp ư niệm tụng,
nhất nguyệt tu Đẳng Dẫn, tŕ măn nhất lạc-xoa.
Thị vi tối sơ nguyệt, tŕ chân ngôn pháp tắc.
(經)總持髮髻冠,無量光圍繞,離妄執分別,本寂如虛空。於彼中思惟,作攝意念誦,一月修等引,持滿一落叉。是為最初月,持真言法則。
(Kinh:
Măo che tóc Tổng Tŕ, vô lượng quang vây quanh. Ĺa vọng
chấp phân biệt, vốn tịch như hư không.
Tư duy ở trong ấy, nhiếp ư để niệm tụng,
một tháng tu Đẳng Dẫn, tŕ đủ một lạc-xoa.
Đó là tháng đầu tiên, tŕ pháp tắc chân ngôn).
Ở
trong ấy, quán như thế, đó gọi là “thật sự
thấy Phật”. Khi thấy như thế, tưởng
nơi tâm đức Phật ấy có chữ, nhất tâm tụng
chữ chân ngôn ấy. Đó là một mực nhiếp ư
nơi một cảnh, chẳng có một ngoại duyên nào.
Tâm tâm niệm tụng, chẳng để cho người
khác nghe thấy, nhưng trong Định tự nhiên có âm
thanh lưu xuất như nước chảy không ngừng.
Nói “một lạc-xoa”, phương này dịch [lạc-xoa]
là “thấy”, nghĩa là tâm trụ nơi một
duyên, hiện tiền rành rẽ. Nếu nói theo ngôn ngữ
thế gian th́ [lạc-xoa] sẽ là mười vạn lần.
“Nhất nguyệt tụng” th́ “nhất nguyệt”
chính là Đẳng Dẫn viên măn, nhập Sơ Địa.
Trong bí tạng, Sơ Địa là tháng thứ nhất;
đó chính là địa vị Đẳng Dẫn. Trong phần
trước đă nói ba câu: “Bồ Đề tâm là chủng
tử, đại bi là căn, phương tiện là sau
cùng”. Ở đây nói cặn kẽ về hành pháp.
Câu thứ hai là quán Phật
trong hang sâu nơi tâm kính (cái gương nơi tâm),
cho đến quán thân chính ḿnh là Bổn Tôn. Trước hết,
quán cái gương tṛn sáng tṛn sạch
nơi tâm Bổn Tôn, trong gương có h́nh dạng hang
đá, trong ấy có Bổn Tôn, tức là thật sự thấy
Phật. Đă thấy Phật rồi, trong tâm vị Phật
ấy lại có [tấm gương] tṛn, sáng, viên măn, thanh tịnh.
Thoạt đầu, tâm kính cực tịnh ấy rất nhỏ
bé;
sau đó lớn dần, đối diện rành rành, nên nói
là “hiện tiền”. Trong [tâm kính] thanh tịnh khôn sánh ấy,
có chữ chủng tử. Nhất tâm chánh quán chữ chủng
tử ấy, tức là tụng chữ ấy. Từ đấy
trở đi, được thấy cái tâm đó, lại
thấy thân chính ḿnh giống như thể tướng của
Bổn Tôn ở trong tâm Phật. Nếu quán [tâm kính] viên minh
nơi tự tâm, th́ cũng là [trông thấy] Như Lai Bổn
Tôn ở trong ấy. Xoay vần hiển hiện lẫn nhau
như thế chẳng trở ngại lẫn nhau. Bổn
Tôn thanh tịnh, ĺa các phân biệt. Đạt được
như thế, gọi là “thấy Bồ Đề tâm”,
là chủng tử Phật vừa mới thành. Đấy
cũng gọi là “vừa thấy một cảnh”, nên
gọi là “một lạc-xoa”. Đấy chính là pháp thừa
sự trước hết trong hạnh xuất thế.
Người thành tựu như thế tức là nhập Tín
Địa (Đó là [giải đáp] cho câu hỏi về
hành tướng của Bồ Đề tâm). Kế đó,
nói “nhiếp ư” từ một đến mười
cũng như thế, từ một cho đến một
trăm, một ngàn, một vạn v.v… cũng đều giống
hệt như nhau. Do trọn khắp nhiều lúc, sẽ có
thể tự thấy trong nhiều lúc. Tiếng Phạn gọi
là Tam-ma-hế-đa, có nghĩa là Đẳng Dẫn,
cũng chính là ư nghĩa “nhiếp tâm nơi một cảnh”,
tức là ư nghĩa “nhất tâm” vậy.
(Kinh)
Thứ ư đệ nhị nguyệt, phụng đồ
hương, hoa đẳng, nhi dĩ tác nhiêu ích, chủng chủng
chúng sanh loại. Hựu phục ư tha nguyệt, khí xả
chư lợi dưỡng.
(經)次於第二月,奉塗香花等,而以作饒益,種種眾生類。又復於他月,捨棄諸利養。
(Kinh:
Kế đó, tháng thứ hai, dâng hương bôi, hoa thảy,
để làm chuyện lợi ích, cho các loài chúng sanh. Lại
ở trong tháng khác, vứt bỏ các lợi dưỡng).
Như
hạnh thế gian trong phần trước, cũng có nói “cúng
dường hương bôi, hoa” v.v… Ở đây lại
nhắc tới, nhưng có ư nghĩa khác với phần
trước. Do ở đây, [hành nhân] đă đắc
Đẳng Dẫn, do thanh tịnh, điều nhu, chuyện
ǵ cũng đều có thể thành tựu. Hễ dâng một
hương, liền có thể đúng như thật trọn
khắp pháp giới, trọn khắp hết thảy chúng
sanh giới, làm đủ loại lợi ích, chuyện ǵ
cũng đều thành tựu. Như phẩm Hồi Hướng
trong kinh Hoa Nghiêm đă nói rộng tướng này. Giống
như hương, hoa, hễ làm hết thảy điều
ǵ, cũng lại giống như thế, không ǵ chẳng thực
hiện thành tựu Phật sự to lớn. Lại nữa,
[kinh văn nói] “tha nguyệt” (tháng khác), tức là ở
đây, thực hành hai tháng, đă đạt tới Sơ
Địa, liền vứt bỏ các lợi dưỡng.
Hiểu theo mặt văn tự, tức là ĺa bỏ các chuyện
thuộc tám pháp nghịch thuận, v́ chúng gây trở ngại
cho đạo.
Nếu
nói theo ư nghĩa bí mật, đấy là bậc đại
Bồ Tát gieo thiện căn to lớn, quả báo [của
thiện căn ấy] vô tận, chẳng hiện, đạt
được của báu công đức là vô lượng
pháp môn, nhưng chớ nên sanh chấp trước trong ấy.
Nếu sanh tâm chấp trước lợi dưỡng, sẽ
chẳng nhanh chóng nhập chánh vị. V́ thế, cần phải
bỏ lợi dưỡng ấy! Lúc đó, hành giả lại
nên đúng như lư tư duy, từ ngay cái Bồ Đề
tâm ấy mà phát bi nguyện, nhiếp theo lư để khởi
lên. V́ thế nói là “như lư tư duy” (suy nghĩ
đúng như lư). Ư
nghĩa “tư duy” trong ấy chính là “ta sẽ tư
duy tương ứng lư như thế để được
tự tại”.
(Kinh)
Thời bỉ ư Du Già, tư duy nhi tự tại, nguyện
nhất thiết vô chướng, an lạc chư quần
sanh.
(經)時彼於瑜伽,思惟而自在。願一切無障,安樂諸群生。 (Kinh:
Khi ấy, trong Du Già, tư duy được tự tại,
nguyện hết thảy chẳng chướng, an lạc
các quần sanh).
Đấy
chính là phát ra bi nguyện quyết định. Cớ sao
chúng sanh cùng có giác tánh như thế mà chẳng tự thấu
hiểu, phải hứng trọn đại khổ năo? Liền
sanh tâm đại dũng mănh, phải nên dùng vô số
phương tiện để thành tựu [các chúng sanh ấy],
nhất định sẽ đều khiến cho [các chúng
sanh] đạt đến địa vị Nhất Thiết
Trí, trừ khử hết thảy cấu chướng, khiến
cho chẳng c̣n sót.
(Kinh)
Nhạo dục thành Như Lai, sở xưng tán viên quả.
(經)樂欲成如來,所稱讚圓果。
(Kinh:
Ưa muốn thành Như Lai, viên quả đáng ca ngợi).
Tức
là Như Lai vô lượng tri kiến, rốt ráo thành tựu
phương tiện quyền biến mầu nhiệm, khéo
độ chúng sanh. Nếu chẳng đạt được
điều ấy, sao có thể do một đại sự
nhân duyên mà xuất hiện trong cơi đời? Ta sẽ mau
chóng thành tựu phương tiện mầu nhiệm
được chư Phật khen ngợi như thế!
(Kinh)
Hoặc măn túc nhất thiết, hữu t́nh chúng hy nguyện,
ứng lư vô chướng cái, nhi sanh thị phan duyên.
(經)或滿足一切,有情眾希願,應理無障蓋,而生是攀緣。
(Kinh:
Hoặc thỏa hết thảy nguyện, của hữu
t́nh chúng sanh, đúng lư, chẳng ngăn chướng, nẩy
sanh các nắm níu).
Chẳng
có chướng ngại như thế, dùng sự phan duyên (nắm
níu) như thế để niệm tụng. Dùng công đức
của ta để dẹp tan hết thảy các khổ.
Dùng tâm đại bi để thỏa măn hết thảy
mong nguyện của chúng sanh, cũng có thể thành tựu
chuyện dẹp trừ nỗi khổ to lớn của họ,
ban cho niềm vui trong hiện tại. V́ lẽ nào vậy?
Do tự tâm của hành giả chẳng có cấu chướng,
tức là có năng lực và thế lực to lớn. Lại
v́ chúng sanh mà tùy phần trừ chướng, do không có nhân
duyên gây chướng ngại giữa người khác và ta,
liền có thể bất cứ chuyện ǵ cũng đều
thành tựu. Đây chính hạnh nguyện Phổ Hiền.
Tướng ấy như thế nào? Tức là sanh nguyện
đại bi như thế đó.
(Kinh)
Bàng sanh tương đạm thực, sở hữu khổ
vĩnh trừ. Thường linh chư quỷ giới, ẩm
thực giai sung măn. Địa ngục trung thọ khổ,
chủng chủng chư sở độc, đương
nguyện tốc trừ diệt. Dĩ ngă công đức cố,
cập dư vô lượng môn, sổ sổ tâm tư duy,
phát quảng đại bi mẫn, tam chủng gia tŕ cú,
tưởng niệm ư nhất thiết, tâm tụng tŕ
chân ngôn.
(經)傍生相噉食,所有苦永除。常令諸鬼界,飲食皆充滿。地獄中受苦,種種諸楚毒,當願速除滅,以我功德故。及餘無量門,數數心思惟,發廣大悲愍,三種加持句,想念於一切,心誦持真言。
(Kinh:
Bàng sanh ăn nuốt nhau, tất cả khổ măi trừ.
Thường khiến các quỷ giới, uống ăn
đều sung măn. Chịu khổ trong địa ngục,
đủ loại khổ sở ngặt, đều nguyện
mau trừ diệt. Do công đức của tôi, và vô lượng
môn khác, tâm nhiều lượt tư duy, phát bi mẫn rộng
lớn. Ba loại câu gia tŕ, nghĩ tưởng đến
hết thảy, tâm tụng tŕ chân ngôn).
Do
ta đă sanh khởi vô lượng phước thù thắng,
trong tháng khác, tức là tháng thứ ba đă xả lợi
dưỡng. Đối với trong và ngoài, đều chẳng
tham chấp, th́ gọi là “xả lợi dưỡng”,
nhưng đối với chuyện bên ngoài, chẳng cầu,
chẳng nhận bố thí. Xả lợi dưỡng,
nhưng chẳng xả chúng sanh, do hạnh chân ngôn mà đều
được thành tựu. “Cập dư vô lượng
môn, sổ sổ tâm tư duy, phát quảng đại bi mẫn.
Tam chủng gia tŕ cú, tưởng niệm ư nhất thiết,
tâm tŕ tụng chân ngôn” (cùng vô lượng môn khác, nhiều
lượt tâm tư duy, phát bi mẫn rộng lớn. Ba loại
câu gia tŕ, nghĩ tưởng tới hết thảy, tâm tŕ
tụng chân ngôn): Các bi nguyện ấy cũng có vô lượng
thứ, chẳng thể do tŕ tụng trong tháng đầu
tiên và tháng thứ hai mà cũng nói là “có
thể phát nguyện như thế”.
Nhưng trong hai tháng đầu, do tâm tín giải mà thực
hiện, nhưng chưa thể thành tựu. Tháng thứ ba,
sở nguyện đều thành; do vậy, hồi hướng
cho
ḿnh lẫn người khác. Nếu lúc hành giả
Chân Ngôn hiểu ư, tùy theo sự mà làm, nhiều lượt
dùng nước đại bi để gột rửa cái
tâm như thế, dần dần khiến cho tâm Bồ Đề
này có oai thế to lớn. Cho tới địa vị thứ
mười một
trở đi, lực dụng dần dần
tăng trưởng, đều do điều này viên măn.
Tháng thứ nhất là Bồ Đề tâm, tháng kế
đó là quán h́nh tượng của Phật th́ gọi là “câu
Chánh Giác”. Tháng thứ ba, trụ trong Chân Ngôn, ĺa hết
thảy các tướng, gọi là “tháng thứ ba”,
cũng gọi là “ba lạc-xoa”. Lại do được
gia tŕ rộng lớn, tức là thần lực gia tŕ của
Như Lai do ba câu mà được thành.
(Kinh)
Dĩ ngă công đức lực, Như Lai gia tŕ lực, cập
dữ pháp giới lực, châu biến chúng sanh giới.
(經)以我功德力,如來加持力,及與法界力,周遍眾生界。
(Kinh:
Do sức công đức tôi, sức Như Lai gia tŕ, cùng với
sức pháp giới, trọn khắp chúng sanh giới).
Nay
do muốn hành Như Lai sự, bèn suy tưởng, tâm niệm
ba câu ấy. V́ thế, kinh nói: “Dĩ ngă công đức lực,
Như Lai gia tŕ lực, cập dữ pháp giới lực,
châu biến chúng sanh giới” (dùng sức công đức của tôi,
sức gia
tŕ của Như Lai, cùng với sức
pháp giới, trọn khắp chúng sanh giới). Ba câu này ḥa hợp,
bèn có sức gia tŕ rộng lớn sanh khởi. Niệm
như thế rồi, hăy nên tụng niệm câu này. Đấy
chính là hết thảy chân ngôn tâm. Dùng công đức của
ba câu, tùy ư lấy hoa, hương v.v… dùng tâm niệm gia tŕ,
như đối với hoa bèn dùng Hoa Chân Ngôn, đối với
hương bèn dùng Hương Chân Ngôn để gia tŕ, cho
đến dẹp khổ ban vui trong hết thảy mọi
nơi, dâng
hiến Phật, Bồ Tát v.v… sẽ đều được
thành. Nếu chẳng dùng bổn chân ngôn (tức Hoa chân ngôn
khi dâng hoa, Hương chân ngôn khi dâng hương v.v…) để
gia tŕ, mà dùng minh phi [sẽ được nói] trong phần
sau th́ cũng thành
tựu, do sức công đức của ta trọn
khắp chúng sanh giới, do sức gia tŕ của Như Lai,
do sức pháp giới b́nh đẳng.
(Kinh)
Chư niệm cầu nghĩa lợi, giai tất nhiêu ích
chi. Bỉ nhất thiết như lư, sở niệm giai
thành tựu.
(經)諸念求義利,皆悉饒益之。彼一切如理,所念皆成就。
(Kinh:
Các niệm cầu nghĩa lợi, thảy đều tạo
lợi ích. Hết thảy đúng như lư, sở niệm
đều thành tựu).
Do
trụ trong lư, tùy theo điều [hành nhân] hệ niệm mà
thành tựu. Cho đến trừ khổ, khổ liền
trừ diệt v.v... Do sức công đức của ta, do sức
gia tŕ của Như Lai, do sức pháp giới b́nh đẳng,
do ba duyên ấy ḥa hợp, sẽ có thể thành tựu nghiệp
chẳng thể nghĩ bàn. Làm như thế, hăy nên biết
là rộng tương ứng với lư, nên nói là “đương
đắc như lư” (sẽ được đúng
như lư). Do sức bằng với hư không, chân ngôn
Hư Không Tạng Minh Phi sẽ được nói tiếp
đó.
(Kinh)
Nhĩ thời, Như Lai phục thuyết Hư Không Đẳng
Lực Hư Không Tạng Chuyển Minh Phi chân ngôn viết:
(經)爾時如來復說虛空等力虛空藏轉明妃真言曰。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Như Lai lại nói chân ngôn Hư Không
Đẳng Lực Hư Không Tạng Chuyển Minh Phi rằng).
Như
hư không chẳng thể phá hoại, hết thảy chẳng
thể thắng được, nên gọi là Hư Không
Đẳng Lực
(sức bằng với hư không).
Hơn nữa, Tạng là như người có kho báu lớn,
thí cho người mong muốn, họ tự tại lấy
mà [người bố thí] chẳng bị nghèo thiếu.
Hư không tạng của Như Lai cũng lại giống như
thế, hết thảy chuyện lợi lạc chúng sanh
đều từ trong đó sanh ra vô lượng pháp bảo,
tự tại thọ dụng, chẳng có tướng cùng
kiệt, cho nên gọi là Hư Không Tạng. Chuyển Thuận
Minh: “Chuyển thuận” nghĩa là “có thể sanh
ra”. Tạng này có thể sanh ra hết thảy các Phật
sự. Như bi nguyện đă phát trước đó, tức
là như khi dùng một bông hoa cúng dường, vận tâm
tưởng trọn khắp hết thảy chư Phật
và phàm, thánh,
đều cùng cúng dường xong, liền hồi hướng
trí Nhất Thiết Trí, thỉnh rằng: “Các vị
đă tiếp nhận con cúng thí. Nguyện do sức này, sẽ
khiến cho con đạt được các nguyện
như trên”. Nguyện như thế xong, dùng chân ngôn này
để gia tŕ, không ǵ chẳng thành tựu. Trước hết
là kính lễ hết thảy các đức Như Lai.
(Kinh)
Nam
ma tát phạ đá tha nghiệt đế phiêu, vi
thấp phạ, mục khiết tệ (xảo môn đẳng,
diệc thị chủng chủng môn đẳng dă), tát phạ
tha (nhất thiết dă) khiếm (không dă, thông thượng,
ngôn Nhất Thiết Trí Không dă. Thử thị chủng tử
tự dă) ổ đặc yết để (sanh dă) tát phán
ra hê môn (phổ biến dă), già già na kiếm (hư không dă),
sa ha. Tŕ thử tam chuyển, tùy bỉ sở sanh thiện
nguyện, giai diệc thành tựu.
(經)南麼薩嚩怛他蘖帝鏢。微濕嚩目喫弊(巧門等,亦是種種門等也)。薩嚩他(一切也)。欠(空也,通上言一切智空也,此是種子字也)。鄔特揭底(生也)。薩泮囉醯門(普遍也)。伽伽那劍(虛空也)。莎訶。持此三轉,隨彼所生善願皆亦成就。
(Kinh:
Nam
ma tát phạt đá tha nghiệt đế phiêu (Namaḥ sarva-tathāgatebhyo). Vi
thấp-phạ mục khiết tệ (viśvamukhebhyaḥ, môn
hay khéo, cũng là các thứ môn), tát phạ tha (sarvathā, hết
thảy) khiếm (khaṃ, không, thông với Nhất
Thiết Trí Không trong phần trên. Đây là chữ chủng
tử). Ổ đặc-yết để (udgate, sanh),
tát-phán ra hê môn (spharahīmaṃ, phổ
biến), già già na kiếm (gaganakaṃ, hư
không),
sa ha (svāhā). Tŕ
minh chú này, ba lượt chuyển, các thiện nguyện
sanh bởi đó cũng đều được thành tựu).
Đây
là ư nghĩa Hư Không Đẳng Lực của Hư Không
Tạng, giống như hết thảy các pháp đều từ Không
mà sanh ra các vật trọn khắp hết thảy hư
không. “Tŕ thử tam chuyển” (tŕ minh chú này, ba lượt
chuyển) tức là dùng một hoa để dâng hiến,
không ǵ chẳng trọn khắp pháp giới. Trên là hiến
cúng hết thảy thánh hiền, dưới là thí cho hết
thảy hữu t́nh. “Tùy bỉ sở sanh thiện nguyện,
giai diệc thành tựu” (bất cứ thiện
nguyện nào sanh bởi đó cũng đều thành tựu)
tức là dùng chân ngôn này để gia tŕ, [hết thảy
các thiện nguyện] đều được thành tựu.
Như từ trong kho, tự lấy vật báu, không ǵ chẳng
tùy tâm. Nếu tụng minh chú này ba lượt, hễ
nghĩ đến chuyện ǵ, chuyện ấy cũng thành
tựu. Phàm thứ dâng cúng như hoa, hương v.v… do ba sức
hồi hướng, lại dùng minh chú gia tŕ, hết thảy
đều tùy ư mà thành. Có nghĩa là dùng Bi hoa để dâng
lên hết thảy chư Phật, sẽ tự tại thành
tựu.
(Kinh)
Hành nhân ư măn nguyệt, thứ nhập tác tŕ tụng.
(經)行人於滿月,次入作持誦。
(Kinh:
Hành nhân ngày trăng tṛn, kế đó, vào tŕ tụng).
Trước
đó đă cúng dường, thừa sự xong, đă đạt
được tướng thành tựu. Do tướng trên
đây, sau đó mới trong ngày Mười Lăm của bạch
nguyệt, thực hiện pháp tŕ tụng, tức là [thực hiện]
vào ngày trăng tṛn.
(Kinh)
Sơn phong, ngưu lan trung, hàn lâm hoặc hà châu, tứ cù,
độc thụ hạ, Mang-đát-rị thiên thất.
(經)山峯牛欄中,寒林或河洲,四衢獨樹下,忙怛哩天室。
(Kinh:
Đỉnh núi, trong chuồng ḅ, rừng lạnh, hoặc
băi sông, ngă tư, cội cây lẻ, miếu thờ
Mang-đát-rị[11]).
Tùy
theo chuyện thượng, trung, hạ, mà thực hiện
pháp thành tựu. Thượng sự th́ [làm trên] đỉnh
núi, trung sự th́ làm ở chỗ nhốt trâu, ḅ, hạ sự
th́ làm trong rừng, hoặc bến sông, cho tới ngă tư,
miếu thờ trời v.v… đều có thể áp dụng
cho các pháp thượng, trung, hạ thành tựu. Hoặc tùy
ư ở chỗ ưa thích mà làm, ở các chỗ như đỉnh
núi v.v… mà tạo Mạn-đồ-la.
(Kinh)
Nhất thiết kim cang sắc, nghiêm tịnh đồng
kim cang, bỉ trung chư chướng giả, nhiếp phục
tâm mê loạn.
(經)一切金剛色,嚴淨同金剛,彼中諸障者,攝伏心迷亂。
(Kinh:
Hết thảy kim cang sắc, nghiêm tịnh như kim cang. Kẻ
gây chướng trong đó, nhiếp phục, tâm mê loạn).
Nơi
tầng thứ nhất, giáp ṿng đều vẽ h́nh chày
kim cang. Cái đàn ấy được làm gồm ba lớp,
đều dùng [h́nh chày] kim cang làm ranh giới. Thần thủ
hộ các phương, chư Phật, Bồ Tát v.v… sẽ
được nói trong phần sau; ở đây chưa nói
phân biệt. Trong ấy, xếp đặt các vị tôn
thánh, nói chung là giống như đă liệt kê trong phần
trước, chỉ dùng thêm h́nh chày kim cang đặt liên tiếp
để làm ranh giới là khác biệt mà thôi! Nói “nhất
thiết kim cang sắc” (hết thảy màu kim cang) tức
là vẽ h́nh chày kim cang ṿng quanh để làm ranh giới,
đều vẽ sao cho thanh tịnh, chẳng sai sót. “Chẳng
sai sót” tức là [h́nh vẽ] viên măn, chỉnh tề,
đoan nghiêm, đẹp đẽ. “Nghiêm tịnh đồng
kim cang”: Các h́nh chày kim cang giáp ṿng như thế đều
có màu vàng. Ở đây, có ba sự giống như kim cang: Sắc
đồng kim cang, thể đồng kim cang, danh đồng
kim cang. V́ thế nói “nghiêm tịnh đồng kim cang”
tức là thanh tịnh giống như kim cang. Nói “bỉ
trung chư chướng giả, nhiếp phục tâm mê loạn”
(kẻ gây chướng ở trong ấy sẽ bị nhiếp
phục, tâm mê loạn), do ba sự ấy giống như kim
cang, không ǵ có thể phá hoại được, không thể
thắng được, không thể hàng phục được.
Do tạo kim cang giới trọn đủ nghiêm tịnh
như thế, khiến cho những kẻ gây chướng
đều bị
mê hoặc, chẳng dám quấy nhiễu.
Đă được ĺa chướng, tức là dược
vật dùng làm pháp thành tựu đều được
thành tựu.
(Kinh)
Tứ phương tương châu táp, nhất môn cập
thông đạo, kim cang hỗ liên thuộc, kim cang kết
tương ứng.
(經)四方相周匝,一門及通道,金剛互連屬,金剛結相應。
(Kinh:
Bốn phương đều giáp ṿng, một cửa thông
lối đi, kim cang xếp liên tiếp, tương ứng
kim cang kết).
Kinh nói: “Tứ phương
tương châu táp” có hai nghĩa, tức là làm đàn
tràng có h́nh vuông ngay ngắn, và kim cang ấn (h́nh chày kim cang)
cũng được đặt khắp bốn phía [của
đàn] ứng với bốn mặt. Nói “nhất môn cập
thông đạo, kim cang hỗ liên thuộc, kim cang kết
tương ứng”: “Kim cang kết” nghĩa là xếp
đặt chày kim cang giáp ṿng như trên, đều là đặt
liên tiếp nối đầu nhau; đó chính là ư nghĩa “kim
cang kết”. Xếp đặt sao cho cửa và “duyên” tương
ứng (“duyên” là như trong phần trên đă nói: Mở
một đường trống để thông với bên
ngoài), tức là cái cửa ấy tương ứng với
từng sự. Thượng thành tựu th́ cửa mở
hướng về phía Đông. Trung thành tựu th́ mở cửa
về hướng Bắc hoặc Tây. Hạ thành tựu th́ mở cửa
về hướng Nam. Ranh giới [của cái cửa ấy]
tiếp nối với [ranh giới do các chày] kim cang [hợp
lại bao quanh đàn tràng], cũng là ư nghĩa kim cang.
(Kinh)
Môn môn nhị thủ hộ: Bất Khả Việt, Tương Hướng,
nghĩ thủ nhi thượng chỉ, châu mục, phẫn nộ h́nh. Ân cần họa ngung giác, Thâu-la diễm
quang ấn. Trung diệu kim cang ṭa, phương vị chánh
tương trực. Kỳ thượng đại liên hoa,
bát diệp tu nhụy phu.
(經)門門二守護,不可越相向,擬手而上指,朱目奮怒形,慇懃畫隅角,輸羅焰光印,中妙金剛座,方位正相直,其上大蓮華,八葉鬚蘂敷。
(Kinh:
Mỗi cửa hai thủ hộ: Bất Khả Việt (Durdharṣa), Tương Hướng (Abhimukha). Giơ tay chỉ lên trên, mắt
đỏ, dáng phẫn nộ. Cẩn trọng vẽ các
góc, ấn Thâu-la rực lửa. Giữa: Ṭa diệu kim cang.
Phương vị đều ngay ngắn. Trên đặt
hoa sen lớn, tám cánh, phô tuy nhụy).
Để
làm vật thành tựu, thủ hộ là quan trọng nhất.
Coi chuyện thủ hộ cửa là trọng yếu, tức
là như trong phần trước đă nói: “Oai quang nan thị
cập, Tương Hướng thủ môn giả” (oai
quang khó thể nh́n ngó, hai vị Tương Hướng
canh giữ cửa). Mỗi mỗi tướng đều
là ấn (ấn sẽ được nói ở phần
sau), cả hai [vị thủ hộ cửa ấy] đều
là sắc trắng và đỏ, có h́nh dạng tột bậc
phẫn nộ. “Ân cần họa ngung giác, Thâu La diễm
quang ấn” (Cẩn trọng vẽ h́nh ấn Thâu-la có
quang minh như ngọn lửa cháy rực [bao quanh] ở mỗi
góc đàn), [Thâu-la (Śūla)] tức là chày kim cang một nhánh,
chỉ đặt ở các góc đàn, có vầng sáng h́nh ngọn
lửa. “Trung diệu kim cang ṭa, phương vị chánh
tương trực, kỳ thượng đại liên hoa,
bát diệp tu nhụy phu” nghĩa là: Chính giữa Mạn-đồ-la,
đặt ṭa kim cang yết-ma chữ thập[12],
sao cho [các đầu mũi nhọn của chày kim cang] đối
diện trực tiếp với bốn phương. Trên
đó, vẽ hoa sen lớn có tám cánh và các tua nhụy (làm bằng
chất kim cang). Đấy chính là kim cang ṭa, v́ thế
nói “giống như kim cang”.
(Kinh)
Đương kết Kim Cang Thủ, kim cang chi huệ ấn.
Khể thủ nhất thiết Phật, sổ sổ kiên
thệ nguyện, ưng hộ tŕ thị xứ, cập tịnh
chư dược vật.
(經)當結金剛手,金剛之慧印,稽首一切佛,數數堅誓願。應護持是處,及淨諸藥物。
(Kinh:
Nên kết Kim Cang Thủ, tức Kim Cang huệ ấn. Đảnh
lễ hết thảy Phật, thệ nguyện nhiều
lượt vững. Nên hộ tŕ nơi đó, tịnh hóa
các dược vật).
Hăy
nên kết Kim Cang Ngũ Cổ Ấn của ngài Kim Cang Thủ,
nên nói là “kim cang tam-muội huệ kim cang ấn”. Nói “khể
thủ nhất thiết Phật” (đảnh lễ hết
thảy Phật), [nghĩa là] ở ngay nơi sẽ thủ
hộ dược vật, hoặc tác tịnh, trong khi làm lễ,
hăy nên phát ra bi nguyện rộng lớn như trên đă nói.
“Sổ sổ kiên thệ nguyện” (nhiều lượt
phát thệ nguyện vững vàng) tức là tự thệ vận
tâm, thệ nguyện rộng khắp, chẳng v́ chính ḿnh,
v́ hết thảy chúng sanh mà thành tựu dược vật
ấy. Nguyện do sức gia tŕ sẽ khiến cho mau chóng
thành tựu, v́ vật ấy được thành tựu, sẽ có thể lợi
ích hết thảy chúng sanh. “Ưng hộ tŕ thị xứ,
cập tịnh chư dược vật” (Hăy nên hộ
tŕ nơi ấy, và tịnh trị các dược vật):
Có nhiều pháp, trong Quảng Bổn có nói. Phàm khi thực hiện
pháp thành tựu dược vật, cần phải hiểu
thứ tự của pháp dụng. Dẫu cầu thành tựu
dược vật để chính ḿnh sử dụng th́ vẫn
có phương quỹ (方軌: pháp tắc, khuôn khổ, nghi thức), cho đến
tác hộ (gia tŕ để thủ hộ), tác tịnh (tịnh
trị bản thân và vật cúng dường, vật muốn
làm pháp thành tựu) đều có thứ tự pháp dụng
và cách tẩy rửa v.v… Trong kinh này không nói cặn kẽ, cần
phải t́m hiểu thêm [từ các kinh khác] (hoặc dùng theo
phương cách đă nói trong kinh Tô Tất Địa v.v…)
(Kinh)
Ư thử thời tŕ tụng, thanh tịnh vô chướng
ngại. Hoặc ư trung dạ phần, hoặc ư nhật
xuất thời, bỉ dược vật đương
chuyển, viên quang phổ huy diễm. Chân Ngôn giả tự
thủ, du bộ ư đại không, trụ thọ đại
oai đức, ư sanh tử tự tại. Hành ư thế
gian đảnh, hiện chủng chủng sắc thân.
(經)於此時持誦,清淨無障礙。或於中夜分,或於日出時。彼藥物當轉,圓光普暉焰,真言者自取,遊步於大空,住壽大威德,於生死自在,行於世界頂,現種種色身。
(Kinh: Lúc bấy giờ tŕ
tụng, thanh tịnh vô chướng ngại. Hoặc vào
lúc giữa đêm, hoặc khi mặt trời mọc, dược
vật ấy sẽ chuyển, viên quang rực sáng khắp.
Chân Ngôn giả tự lấy, dạo bước trên hư
không, sống lâu, oai đức lớn, tự tại trong
sanh tử. Đi trên đỉnh thế giới, hiện
đủ loại sắc thân).
Tướng thành tựu
có thượng, trung, hạ. Nếu đạt được
thành tựu vô chướng ngại, thượng thành tựu
có ba tướng chuyển, tức là đầu đêm th́
sanh ra hơi ấm, giữa đêm khói bốc lên, tới
canh năm th́ có ngọn lửa xuất hiện. Trung thành tựu
th́ có hai tướng, ngoại trừ tướng ngọn
lửa xuất hiện. Hạ thành tựu chỉ có một
tướng, tức là chỉ sanh ra hơi ấm. “Chuyển”
tức là từ ít mà được nhiều, từ hơi
ấm mà có ngọn lửa v.v… Đă được thành tựu,
“Chân Ngôn giả tự thủ, du bộ ư đại
không” (hành giả Chân Ngôn tự lấy [dược vật
ấy], bước đi trên không trung), [tức là hành giả]
hoặc ăn, hoặc bôi, chấm [dược vật lên
thân] v.v… sẽ tự tại dạo trong các cơi Phật, từ
cơi này sang cơi khác. “Trụ thọ, đại oai đức”:
Liền được thọ trọn vô lượng kiếp
số, oai quang tự tại. “Ư sanh tử tự tại”
tức là đủ thứ tự tại trong sanh tử.
Đó gọi là “chân Phật tử” (“đi trên thế
giới” (chánh kinh ghi là “hành ư thế giới đỉnh”)
tức là đi qua các thế giới). Vật đă thành tựu rồi, dùng Kim Cang Ấn
để thủ hộ tự thân, thủ hộ Bổn
Tôn, thủ hộ vật [thành tựu ấy] rồi mới
lấy, chia thành năm phần, tức là thầy, tiên nhân
đă thành tựu trước, trợ bạn (người
giúp đỡ, phụ tá), chính ḿnh, và Phật. Vật
được sanh thêm từ đó, nên dùng cho Tam Bảo. Vật
thành tựu trước, nếu có tiên nhân đến lấy,
hăy nên cho họ. Nếu chẳng đến lấy, chia
thành hai phần: Một phần cho trợ bạn, một
phần cho chính ḿnh. Vật dành cho thầy, nếu thầy ở
phương khác, hăy nên giữ lấy, đợi thầy
đến sẽ đưa cho. Nếu thầy chẳng
c̣n, hăy [dùng vật ấy] làm công đức nơi thầy
sanh ra. Những thứ [dùng làm vật thành tựu] như
đao v.v… chẳng thể chia, cũng nên lắng ḷng tưởng
chia sẻ. Từ đầu đến cuối, đều
dùng Kim Cang để tự thủ hộ và thủ hộ vật
cho đến lúc lấy. Nói “hành ư thế giới
đảnh, hiện chủng chủng sắc thân”
(đi trên đỉnh thế giới, hiện đủ loại
sắc thân) tức là v́ các chúng sanh mà làm Phật sự to lớn.
Cúng dường thuốc cũng có phương pháp, tức
là dâng hiến.
(Kinh)
Cụ đức cát tường giả, triển chuyển
nhi cúng dường. Chân ngôn sở thành vật, thị danh
vi Tất Địa. Dĩ phân biệt dược vật,
thành tựu vô phân biệt.
(經)具德吉祥者,展轉而供養,真言所成物,是名為悉地。以分別藥物,成就無分別。
(Kinh:
Bậc đủ đức cát tường, xoay vần
để cúng dường. Vật do chân ngôn thành, được
gọi là Tất Địa. Do phân biệt dược vật,
thành tựu vô phân biệt).
Đă
được thành tựu, mang [vật thành tựu ấy]
tới mười phương, tùy ư dâng lên mười
phương Phật. Đối với chư Phật,
A-xà-lê, và trợ bạn, đều có phương pháp để
phân chia, hăy nên thưa hỏi [để làm cho đúng pháp tắc].
“Chân ngôn sở thành vật, thị danh vi Tất Địa”
(Vật được thành tựu bởi chân ngôn, đó gọi
là Tất Địa): Nếu đạt được
thành tựu như thế th́ gọi là “thành tựu có phân
biệt”. Do v́ các sự như dược vật ấy,
vẫn là pháp có tướng thành tựu, nên gọi là “thành
tựu có phân biệt”. “Dĩ phân biệt dược
vật, thành tựu vô phân biệt” (do phân biệt dược
vật, thành tựu chẳng phân biệt): Do có phân biệt
mà đạt được thành tựu vô phân biệt. Cái
có thể phân biệt làm nhân, nương vào cái “có phân biệt”
đó mà đạt được cái quả vô phân biệt. Cái quả vô vi, vô
tướng, vô nhiễm chẳng thể nghĩ bàn tuy chẳng
do cái nhân mà thành, nhưng do có phân biệt để làm nhân mà thành tựu cái quả vô đắc, vô vi này.
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Nhất thiết thế giới chư hiện
tại đẳng Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác,
thông đạt Phương Tiện Ba La Mật Đa, bỉ
Như Lai tri nhất thiết phân biệt bổn tánh Không,
dĩ Phương Tiện Ba La Mật Đa lực cố,
nhi ư vô vi dĩ hữu vi vi biểu, triển chuyển
tương ứng, nhi vị chúng sanh thị hiện biến pháp giới.
(經)祕密主!一切世界諸現在等如來、應、正等覺,通達方便波羅蜜多,彼如來知一切分別本性空,以方便波羅蜜多力故,而於無為以有為為表。展轉相應,而為眾生示現遍法界。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Hết
thảy Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác thuộc hiện
tại trong hết thảy các thế giới, thông đạt
Phương Tiện Ba La Mật Đa, các đức
Như Lai ấy biết bổn tánh của hết thảy
phân biệt là Không, do sức của Phương Tiện Ba
La Mật Đa, trong vô vi dùng hữu vi để biểu thị,
xoay vần tương ứng, v́ chúng sanh thị hiện trọn
khắp pháp giới).
Tức
là cái quả vô vi, do phương tiện hữu vi mà có
thể thành tựu chuyện ấy chẳng thể nghĩ
bàn. Hiện tại, vị lai, quá khứ tam thế Phật,
đều do thông đạt Phương Tiện Ba La Mật
mà nói pháp này; đó là một. Nêu lên tam thế Phật, muốn
nói rơ [các
Ngài] “cùng dùng pháp này để nhập”. Tuy
lập ra phương tiện hữu vi này, nhưng hiểu
rơ bản tánh của pháp phân biệt này thường Không!
Pháp sanh khởi bởi nhân duyên như thế ĺa “sanh,
diệt, đoạn, thường, một, khác, đến,
đi”,
chỉ như huyễn hóa, chẳng khác Trung Đạo. Nếu
ĺa bỏ điều này để cầu một cái Thể
vô vi nào khác, sẽ chẳng thể được, do tánh của
vô vi chẳng khác hữu vi. Do liễu đạt
pháp duyên khởi rất sâu như thế, sẽ có thể từ
ngay pháp hữu vi này mà thành tựu cái quả vô vi. V́ thế,
hết thảy tam thế Như Lai do sức phương
tiện, tuy chứng pháp giới mà có thể từ cái quả
có bản thể “vô vi, vô tác”, dùng hữu vi làm các quyến
thuộc. Như Đại Nhật Như Lai từ trong
đức tự chứng này, do sức gia tŕ, từ
trong vô vi mà dùng hữu vi để biểu đạt, bổn
tánh chẳng hề tạo tác, do có tạo
tác mà có thể thành tựu vô vi. “Triển chuyển
tương ứng”: Khi chưa tŕ tụng th́ tánh vốn
bất tịnh. Do tŕ tụng liền đạt được
thanh tịnh, có thể độ chúng sanh, cho nên hiện
thân chẳng thanh tịnh, lại tạo nhân duyên thanh tịnh
cho người khác, bèn gọi là “triển chuyển
tương ứng”. Lại từ vô vi sanh ra hữu vi
để biểu đạt. Do vậy, hiện ra các Kim
Cang và Bồ Tát nhiều như số vi trần trong mười
thế giới, mỗi mỗi đều dùng môn Chân Ngôn
để hướng dẫn, tiếp
độ chúng sanh, đều khiến cho họ đạt
tới cái quả vô vi. Dùng phương tiện ấy trọn
khắp pháp giới, ứng với trọn khắp chúng
sanh, khiến cho họ đều đạt được
nghĩa lợi.
(Kinh)
Linh đắc kiến pháp an lạc trụ, phát hoan hỷ
tâm, hoặc đắc trường thọ, ngũ dục
hy hư nhi tự ngu lạc, vị Phật Thế Tôn nhi tác
cúng dường. Chứng như thị cú, nhất thiết
thế nhân sở bất năng tín. Như Lai kiến thử
nghĩa lợi cố, dĩ hoan hỷ tâm, thuyết thử
Bồ Tát chân ngôn hành đạo thứ đệ pháp tắc.
(經)令得見法安樂住、發歡喜心,或得長壽,五欲嬉戲而自娛樂,為佛世尊而作供養。證如是句,一切世人所不能信。如來見此義利故,以歡喜心說此菩薩真言行道次第法則。
(Kinh:
Khiến cho được thấy pháp, trụ trong an lạc,
phát tâm hoan hỷ, hoặc được sống lâu, tự
được vui thỏa trong ngũ dục, cúng dường
Phật Thế Tôn. Chứng câu như thế, hết thảy
người đời chẳng thể tin. Như Lai do thấy
nghĩa lợi ấy, dùng cái tâm hoan hỷ để nói
pháp tắc hành đạo chân ngôn theo thứ tự này của
bậc Bồ Tát).
Tức
là các đức Như Lai do phương tiện, từ vô
vi giới, dùng sức gia tŕ chẳng xả chúng sanh, tùy thuận
chúng sanh mà thị hiện tu các hạnh, hoặc khiến
cho họ thấy pháp, trụ trong an lạc hạnh, phát tâm
hoan hỷ (tức là Pháp Hỷ Sơ Địa). Hoặc
đạt được trường thọ, tức là
trong vô số kiếp, luôn được thấy đức
Phật xuất thế. Hoặc có được ngũ dục
thanh tịnh tốt đẹp để tự vui sướng,
lại có thể cúng dường hết thảy Như Lai.
Kẻ chẳng có phương tiện, sẽ chẳng thể
tin chuyện này. Họ nghĩ như thế này: “Cái Thể
của chân ngôn giống như pháp giới, là vô vi, vô tác, sao
có thể thành tựu chuyện này? Nếu sanh khởi chuyện
này, tức là hữu tướng phân biệt, sao có thể
tương ứng với lư cho được?” V́ thế,
sanh tâm hủy báng. Nói “Phật có bí mật khó hiểu”,
tức là nói kẻ do chẳng có phương tiện, cho
nên chẳng thể hiểu. Nhưng ở đây, do tâm tự
tại mà nói đến trường thọ. Thọ lượng
như thế chính là thọ mạng nơi Pháp Thân của
Như Lai. “Ngũ dục” tức là Tứ Vô Lượng
(từ, bi, hỷ, xả) và Bồ Đề tâm, hết thảy
thánh nhân dùng các hiện pháp ấy để tự vui thỏa.
Cúng dường Như Lai chính là chân pháp cúng dường
Pháp Thân Phật. Nếu hành giả nương vào
phương tiện duyên sanh rất sâu của Phật
để đạt được thành tựu trong pháp thế
gian, tức là từ trong ấy quán bổn tánh Không; đấy
chính là thành tựu vô vi. Phàm phu sẽ chẳng thể tin
pháp chẳng thể nghĩ bàn như thế, nhưng
chư Phật Như Lai và các vị Bồ Tát do thấy
nghĩa lợi này, nói ra thứ tự trong đạo chân
ngôn hạnh này, chớ nên báng bổ là chẳng có!
(Kinh)
Hà dĩ cố? Ư vô lượng kiếp, cần cầu
tu chư khổ hạnh sở bất năng đắc,
nhi Chân Ngôn môn hạnh đạo chư Bồ Tát tức
ư thử sanh nhi hoạch đắc.
(經)何以故?於無量劫勤求修諸苦行所不能得,而真言門行道諸菩薩即於此生而獲得。
(Kinh:
V́ sao vậy? Trong vô lượng kiếp, siêng cầu tu các
khổ hạnh mà chẳng thể đạt được,
nhưng các Bồ Tát do hạnh đạo của Chân Ngôn
môn liền đạt được
ngay trong đời này).
Như
các vị Bồ Tát khác v́ cầu đạo vô thượng,
hành hạnh khó, hạnh khổ như cứu đầu
cháy trải qua vô lượng kiếp, vẫn chưa thể
đạt được thành tựu như thế. Hành giả
Chân Ngôn nếu trọn đủ phương tiện, sẽ
có thể thành tựu thánh quả trong một đời. Do
biết ư nghĩa của mười thí dụ về duyên
khởi rất sâu, dùng các nguyện thuộc về Chân Ngôn
để tạo tác đủ loại thành tựu,
nhưng chẳng chấp trước, chẳng khác nào [sẽ
thành tựu] vi diệu nhanh chóng các pháp như thế.
(Kinh)
Phục thứ Bí Mật Chủ! Chân ngôn môn tu Bồ Tát hạnh
Bồ Tát, như thị Kế-đô, Khiết-già, tán, cái,
lư tỷ, Chân Đà Ma Ni, cập An Thiện Na dược,
Lô Giá Na đẳng, tŕ tam lạc-xoa, nhi tác thành tựu, diệc
đắc Tất Địa.
(經)復次祕密主!真言門修菩薩行菩薩,如是計都朅伽、傘蓋履屣、真陀摩尼,及安膳那藥、盧遮那等,持三落叉而作成就,亦得悉地。
(Kinh:
Lại này Bí Mật Chủ! Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh
trong Chân Ngôn môn, đối với các thứ Kế-đô
(Ketu, phan), Khiết-già (Khaḍga)[13], lọng,
tàn, giày dép, Như Ư Châu, và thuốc An Thiện Na (Añjana)[14], Lô
Già Na (Rocanā)[15]
v.v… tŕ ba lạc-xoa để làm thành tựu, cũng đạt
được Tất Địa).
Kế
đó,
nói về dược vật được thành tựu, tức
là như trong phần trước [đă nói], trước hết
là [niệm tụng] một lạc-xoa. Tháng thứ hai tŕ tụng
xong, tạo Mạn-đồ-la. Trong đó, đặt vật
muốn được thành tựu để niệm tụng,
lại [tŕ tụng] ba lạc-xoa mới thành. Tọa vị
của chư tôn thánh trong Mạn-đồ-la ấy giống
như Đại Bi Thai Tạng. V́ vậy, ở đây
không nhắc lại. Nhưng đối với vật muốn
được thành tựu đặt ở trong ấy,
đặt Đại Nhật Như Lai ở góc. Tràng th́
dùng trúc làm sào, dùng vải sạch buộc vào, lại buộc
rủ xuống
từ một trượng trở lên,
giống như phan, phía trên làm thành h́nh nhiều tầng.
Trên đó, đặt bạt-chiết-la (chày kim cang). Đao
th́ dùng thép tinh luyện làm sống đao và cán. Tàn (lọng
che) th́ có thượng, trung, hạ thành tựu, tức là
[làm bằng] vàng, bạc, lông chim công. Giày, dép làm bằng da,
trước hết phải xông, gột đủ cách khiến
cho cực thanh tịnh, không có mùi. Lại c̣n dùng thuốc
để chế biến, khiến cho lửa đốt
không cháy, lại cực thơm th́ mới dùng được.
Báu Như Ư th́ lấy chất báu sạch sẽ, tốt
đẹp đặt ở trên tràng. Thuốc nhỏ mắt
th́ dùng thuốc An Thiện Na để làm. Thuốc An Thiện
Na có hai loại,
một loại là cực nhẹ, có thể
nổi trên mặt nước. Ngưu hoàng th́ lại có vô
lượng loại[16],
tức là không thanh, châu sa, hùng hoàng, thư hoàng v.v… đều
có thể thành tựu.
Lại
c̣n vô lượng vật như chày kim cang v.v…
cũng có thể thành tựu. Đại Bổn có nói
phương quỹ đầy đủ, kinh Tô Tất
Địa cũng có nói thứ tự [tác pháp]. Như giày
dép nếu được thành tựu, sẽ có thể mang
vào chân, dạo các cơi Phật vô ngại. Các thứ như
thuốc nhỏ mắt v.v… thành tựu, liền thấy
mười phương cơi Phật, liền có thể vọt
lên không, dạo trong mười phương cơi Phật. Những
thứ khác có thể suy ra mà hiểu. Lại c̣n có trường
hợp vẽ h́nh đủ loại chim, thú, tùy ư chọn lấy
một loại nào, tác pháp thành tựu, sẽ liền có thể
cưỡi lên chúng, tự tại đến mười
phương cơi. Hoặc dùng pháp gia tŕ đồng nam, đồng
nữ, cũng khiến cho chúng nó thành tựu để làm
người hầu hạ, theo ta dạo khắp mười
phương cơi. Ở phương Tây, có một người
thành tựu, dẫn năm trăm người vọt lên
không mà đi, chẳng biết đi về đâu! Pháp này
thành tựu tức là Tŕ Minh Tiên. Vật ấy tùy theo ḷng
mong muốn mà làm, khi người ấy tŕ tụng cũng
đắc cảnh giới, khiến cho làm các vật
như thế này, như thế nọ. Hoặc có thể vận
tâm làm vật ấy th́ cũng được thành tựu!
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Nhược cụ phương tiện
thiện nam tử, thiện nữ nhân, tùy sở nhạo cầu,
nhi hữu sở tác, bỉ duy tâm tự tại,
nhi đắc thành tựu.
(經)祕密主!若具方便善男子善女人,隨所樂求而有所作,彼唯心自在而得成就。
(Kinh: Bí Mật
Chủ! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân trọn
đủ phương tiện, tùy theo ư thích, mong cầu mà
thực hiện, chỉ do tâm tự tại mà được
thành tựu).
Người
đời chẳng thể tin tưởng. Nói “người
ấy đạt được” tức là nói về
người thực hiện pháp thành tựu ấy. [Người
đời] chẳng thể tin tưởng các chuyện hiếm
lạ đều có thể đạt được. V́ thế
nói “thiện nam, thiện nữ trọn đủ
phương tiện muốn cầu vật,
nhưng tự tâm tự tại, chuyện hy hữu chẳng
thể tin sẽ đều có thể đạt được”,
đạt được thành tựu chỉ [v́ lư do] như
thế mà thôi! Nói “tự tâm của người ấy tự
tại, chỉ thành tựu như thế” nghĩa là tùy
theo ḷng mong muốn, duy tâm chuyển biến mà được
thành tựu. “Duy” là chỉ dùng tự tâm, chẳng nhờ
vào các duyên khác. “Duy” cũng có nghĩa là “tạm”,
[ư nói] tâm vừa mới khởi niệm liền thành tựu.
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Chư nhạo dục
nhân quả giả, bí mật chi pháp phi bỉ ngu phu chi sở
năng tri chân ngôn chư chân ngôn tướng. Hà dĩ cố?
(經)祕密主!諸樂欲因果者,祕密之法非彼愚夫之所能知真言諸真言相。何以故?
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Đối với những
kẻ ưa thích, mong muốn nhân
quả, những kẻ ngu phu đó sẽ chẳng thể
biết chân ngôn và tướng của chân ngôn trong pháp bí mật
được. V́ sao vậy?)
Nếu
có người đối với hạnh Chân Ngôn ấy mà
nghĩ như thế này: “Ta nay hành cái nhân như thế, sẽ
đạt được cái quả như thế”. Hăy nên
biết: Như thế chẳng phải là chánh thuyết, chỉ
là so đo hư vọng của phàm phu! V́ lẽ nào vậy?
Có các ngoại đạo nói “hết thảy các pháp từ
Ngă mà sanh. Nếu Tự Tại Thiên vui thích như thế
th́ sẽ ban cho. Chẳng vui thích th́ chẳng cho”. Người
như thế chẳng thể hiểu đạo này! Phải
nên nói “vạn vật đều sanh từ các nhân”. Nếu
sanh từ các nhân, cái nhân ấy sẽ có tánh. Nếu có tự
tánh, tức là đọa vào Thường Kiến. Thường
pháp sao có thể sanh cho được? Nếu nhân diệt,
quả sanh, th́ là pháp đoạn diệt, sao có thể sanh
cho được?
(Kinh)
Thuyết nhân phi tác giả, bỉ quả tắc bất
sanh.
(經)說因非作者,彼果則不生。
(Kinh: Nói
nhân chẳng phải là người
làm, quả ấy sẽ chẳng sanh).
Ư
nói “nhân” là Nhân Không. Do cái nhân đă là Không, há có quả?
V́ thế, Trung Luận và Đại Trí Độ Luận
đă rộng phá [chấp trước này]. Hăy nên biết:
Dùng trí để quán sát cái nhân ấy, c̣n chẳng thể thấu
suốt cội nguồn. Cái nhân ấy không nương vào
đâu. “Không nương vào đâu” tức là vốn sẵn
bất sanh. Cái nhân vốn sẵn bất sanh, sao có thể
sanh ra quả cho được? Do vậy, cũng giống
như thế, cái quả vốn bất sanh.
(Kinh)
Thử nhân nhân thượng không, vân hà nhi hữu quả?
(經)此因因尚空,云何而有果。
(Kinh:
Do cái nhân ấy c̣n là không, làm sao có quả cho được?)
Ư
nói: Cái nhân chẳng thật có. Nhân đă là chẳng chân thật,
trọn chẳng thể sanh ra cái quả chân thật; hăy nên
biết cái quả vốn bất sanh. Lại nữa, bản
tánh của cái nhân ấy là không tịch; hăy nên biết cái quả
cũng như thế. Nếu đối với pháp duyên khởi
như thế, mà nói “có nhân, có quả”, tức là Biến
Kế Sở Chấp, đọa vào “đoạn, thường,
một, khác”, chẳng nhập Trung Đạo. V́ thế,
chứng biết chân ngôn như thế vĩnh viễn ĺa khỏi
nhân nghiệp, chính là pháp giới (tức bất tư nghị
giới).
(Kinh)
Đương tri chân ngôn quả, tất ly ư nhân nghiệp.
(經)當知真言果,悉離於因業。
(Kinh:
Nên biết cái
quả của chân
ngôn, đều ĺa khỏi nhân nghiệp).
Nói
rơ nhân chính là pháp “có phương cách để thực hiện”.
Nhân đă là hữu tác, hăy nên biết quả cũng là hữu
sở tác. Đă là
được thực hiện, há có
thể trở thành chân thật ư? Hăy nên biết cái quả
ĺa khỏi nhân nghiệp vậy.
(Kinh)
Năi chí thân chứng xúc, vô tướng Tam-ma-địa.
(經)乃至身證觸,無相三摩地。
(Kinh:
Cho đến thân chứng, chạm vô tướng
Tam-ma-địa).
Ư
nói các tướng nhân quả v.v… như thế ấy do vọng
tưởng mà có. Chánh quán sát th́ [sẽ thấy]
chúng vốn chẳng trụ. Do chẳng trụ nên quả
thể (Thể của cái quả) chẳng sanh, tức là giống
như vô vi. Do vậy, nếu hành giả nghĩ như thế
này: “Ta tụng chân ngôn, tu Chân Ngôn hạnh, sẽ
được thành tựu cái quả” chỉ là tự dối
ḿnh! Nếu hành giả Chân Ngôn ấy tuy từ duyên khởi
mà thật sự vô tác, vốn sẵn là pháp giới, vô sanh,
vô diệt, chẳng tịnh, chẳng nhiễm như thế,
sao có thể là nói “đạt được thành tựu?”
(Kinh)
Chân Ngôn giả đương đắc, Tất Địa
tùng tâm sanh,
(經)乃至身證觸,無相三摩地。
(Kinh:
Người tu Chân Ngôn sẽ đạt được Tất
Địa từ tâm sanh).
Hăy
nên biết hành giả Chân Ngôn chỉ dùng phương tiện
này để tự tịnh cái tâm. Nếu ba nghiệp thanh
tịnh, sẽ ở trong ấy, tự được hiểu
rơ rồi tự giác ngộ. Ví như có người trong mộng
tu hành các thứ Lục Độ, thanh tịnh cơi Phật;
tỉnh giấc, sẽ thấy chẳng có tướng
thành tựu cái quả, chỉ là trong một niệm tâm vô
minh bèn có nhân quả vạn hạnh đó thôi! Lại
như trong nhà tối mà có kho báu, nếu dùng phương tiện
để đốt lửa, thắp đèn, tuy t́m cầu
nhân duyên sanh diệt chẳng thể được, giống
như hư không, nhưng cũng hiểu rơ pháp tùy ư dấy
lên: Do cái tâm hiểu rơ nhân duyên mà thấy kho báu, chẳng phải
là kho báu ấy
sanh từ nhân duyên. Người tu Chân
Ngôn hạnh vốn v́ trừ bỏ Hoặc nghiệp, từ
ngay nơi bản thể, thấu hiểu pháp giới chẳng
có “sanh,
diệt, tịnh, nhiễm”, ĺa các phân biệt,
biết cái Thể của chân ngôn này chính là cái Thể của
pháp giới. Nếu biết rơ cái Thể của chân ngôn giống
như pháp giới, giống như Đại Không, sẽ tự
nhiên có thể đạt được Vô Tướng
tam-muội. Do vậy, Tất Địa hiện tiền.
Hăy nên tin hiểu như thế.
(Kinh)
Nhĩ thời, Kim Cang Thủ phục bạch Phật ngôn:
- Thế Tôn! Duy nguyện phục thuyết Chánh Đẳng
Giác cú, Tất Địa thành tựu cú.
(經)爾時金剛手復白佛言:世尊!惟願復說正等覺句、悉地成就句。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ lại bạch cùng
đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Kính mong lại
nói câu Chánh Đẳng Giác, câu Tất Địa thành tựu).
Tức
là như trên đă nói, từ một chữ có thể sanh ra
bốn chữ, cho đến trọn khắp pháp giới.
Đấy chính là câu “thấy Phật tâm”. Nay Ngài hỏi
về pháp thành tựu trong ấy.
(Kinh)
Chư kiến thử pháp thiện nam tử, thiện nữ
nhân đẳng, tâm đắc hoan hỷ, thọ an lạc
trụ, bất hại pháp giới.
(經)諸見此法善男子善女人等,心得歡喜,受安樂住,不害法界。
(Kinh:
Các thiện nam tử, thiện nữ nhân thấy pháp này,
tâm hoan hỷ, được trụ trong an lạc, chẳng
trở ngại pháp giới).
Người
thuận theo đó để tu giác, nếu được
thành tựu, sẽ gọi là “kiến pháp”. “Thành tựu”
tức là ngay trong đời này được kiến
Đế. Người thấy
pháp ấy nghe đức Phật nói pháp thành tựu này, ắt
sẽ đạt được pháp hỷ sâu xa, trụ
trong an lạc hạnh, hiện pháp lạc trụ. V́ thế,
thưa hỏi. “Bất hại pháp giới” có nghĩa
là “chẳng gây trở ngại trong pháp giới ấy”. Cho
đến tiếp nhận đủ loại vui thú trong cơi
đời, nhưng sự vui thú trong cơi đời chính là
pháp giới, trọn chẳng do vậy mà trở ngại, tổn
hại pháp giới. Do vậy, [nói là] “bất hại”.
(Kinh)
Hà dĩ cố? Thế Tôn! Pháp giới giả, nhất thiết
Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác thuyết danh tức
bất tư nghị giới. Thị cố Thế Tôn! Chân
Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát đắc thị
thông đạt pháp giới bất khả phân tích, phá hoại.
(經)何以故?世尊!法界者,一切如來、應、正等覺說名即不思議界。是故世尊!真言門修菩薩行諸菩薩得是通達法界不可分析破壞。
(Kinh:
V́ sao vậy? Bạch Thế Tôn! Pháp giới được
hết thảy Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác gọi
là “giới chẳng nghĩ bàn”. Do vậy, bạch đức
Thế Tôn! Các vị Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân
Ngôn môn đạt được sự thông đạt pháp
giới chẳng thể phân tích hay phá hoại này).
Bốn
chữ ấy rốt ráo thành tựu, chẳng phương
hại pháp giới. Bốn câu ấy đều là Phật
tâm, há có thể
do Phật tâm mà phương hại pháp giới ư?
Người trụ trong thành tựu ấy
do chẳng hai, chẳng khác pháp giới, cho nên chẳng
phương hại, trở ngại. Tất Địa ấy, pháp giới ấy đều
chẳng bị phương hại. V́ lẽ nào vậy? Do
pháp giới chẳng thể nghĩ bàn!
V́ thế, vô lượng Phật đắc đạo
thành tựu mà pháp giới chẳng tăng. Vô lượng
chúng sanh diệt độ mà pháp giới chẳng giảm.
Nếu chúng sanh thắng tấn, [pháp giới] cũng chẳng
tăng thêm nhiều. Nếu họ phá phiền năo, [pháp giới]
cũng chẳng tổn hại. Đó cũng là bất
tư nghị giới tánh như kim cang, chẳng thể phá
hoại. Nếu có phương ngại, tức là có “đây,
kia”.
Hễ có “đây, kia” th́ có thể phá hoại. Nay chẳng
phương hại, trở ngại, cho nên chẳng thể
phá hoại. Hăy nên biết “bất hoại” ở
đây cũng có nghĩa là “không thể chia chẻ”,
tức là các loại môn, các loại chuyện thế gian và
xuất thế gian đều cùng là một pháp giới, chẳng
thể chia chẻ thành những cái Thể riêng biệt. Nếu
hành giả có thể thông đạt như thế, chính là
được thấy pháp thành tựu.
(Kinh)
Như thị thuyết dĩ, Thế Tôn cáo Chấp Kim Cang
Bí Mật Chủ ngôn: - Thiện tai, thiện tai! Bí Mật
Chủ! Nhữ phục thiện tai, năng vấn Như
Lai như thị nghĩa. Nhữ đương đế
thính, thiện tư niệm chi, ngô kim diễn thuyết.
(經)如是說已,世尊告執金剛祕密主言:善哉善哉!祕密主!汝復善哉,能問如來如是義。汝當諦聽,善思念之,吾今演說。
(Kinh:
Nói như thế xong, đức Thế Tôn bảo Chấp
Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Lành thay! Lành thay, này Bí Mật
Chủ! Ông lại rất lành, có thể hỏi Như Lai
nghĩa như thế đó. Ông nên lắng nghe, khéo suy
nghĩ lấy, ta nay sẽ diễn nói).
[Đức
Phật] lại khen ngợi ngài Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ,
v́ có thể thương xót người tu Chân Ngôn hạnh
trong đời vị lai mà nêu ra câu hỏi
như thế. “Nhữ đương đế thính, thiện
tư niệm chi, ngô kim diễn thuyết”, lời ấy có ư
bảo các đại chúng trong hội:
Các vị hăy lắng nghe, khéo suy nghĩ đó, ta nay sẽ
diễn nói chuyện như thế đó.
(Kinh)
Bí Mật Chủ ngôn: - Như thị Thế Tôn! Nguyện
nhạo dục văn.
(經)祕密主言:如是世尊!願樂欲聞。
(Kinh:
Bí Mật Chủ thưa: - Đúng như thế, bạch
đức Thế Tôn! Con vui thích muốn được
nghe).
Nhắc
lại Như Lai từ bi trọn khắp, thuận theo lời
hỏi ấy mà giải thích.
(Kinh)
Phật cáo Bí Mật Chủ: - Dĩ A
tự môn nhi tác thành tựu.
(經)佛告祕密主:以阿字門而作成就。
(Kinh:
Đức Phật bảo ngài Bí Mật
Chủ: - Dùng môn chữ A để thực hiện thành tựu).
Tức
là từ trong câu Chánh Đẳng Giác mà thực hiện pháp
thành tựu.
(Kinh)
Nhược tại tăng sở trụ xứ, nhược
sơn quật trung, hoặc ư tịnh thất.
(經)若在僧所住處、若山窟中、或於淨室。
(Kinh:
Hoặc ở chỗ Tăng cư trụ, hoặc trong hang
núi, hoặc nơi tịnh thất).
Tùy
ư chọn nơi yêu thích, và cách giải thích bí mật như
đă nói trong phần trước.
(Kinh)
Dĩ A tự biến bố nhất thiết chi phần,
tŕ tam lạc-xoa.
(經)以阿字遍布一切支分,持三落叉。
(Kinh:
Dùng chữ A để xếp trọn khắp trên hết
thảy chi phần, tŕ ba lạc-xoa).
Dùng
tâm để trải khắp chữ A ấy. Từ đỉnh
đầu, và mắt, tai v.v… cho đến trọn khắp
các thân phần trong, ngoài, [đều tưởng có chữ
A tại đó, th́ gọi là “dùng chữ A để xếp
trọn khắp hết thảy các chi phần”]. Lại
tụng chữ ấy ba lạc-xoa, liền thành tựu. Lại
nói rằng: Bổn Tôn, chủng tử, và viên minh (vầng
quang minh tṛn sáng như cái gương nơi tâm của Bổn
Tôn) là ba thứ. Chữ ở trong viên minh, viên minh ở
nơi tâm Bổn Tôn. Khi quán một thứ đă thành, ba thứ
đều tự thành. Một thứ duyên ba cảnh ấy,
nên gọi là ba lạc-xoa. Lạc-xoa nghĩa là “thấy”.
Tụng ba lạc-xoa xong, tới ngày Mười Lăm của
bạch nguyệt là ngày trăng tṛn, y theo kinh văn mà tụng
đủ ba lạc-xoa xong.
(Kinh)
Thứ ư măn nguyệt, tận kỳ sở hữu nhi
dĩ cúng dường.
(經)次於滿月,盡其所有而以供養。
(Kinh:
Kế đó, trong ngày trăng tṛn, tận hết những
ǵ ḿnh có để cúng dường).
Tức
là làm thành tựu Mạn-đồ-la trong ngày Mười
Lăm của bạch nguyệt. Khi làm pháp này, tận lực
đem tất cả các thứ ḿnh vốn
có để cúng dường Tam Bảo, thực hiện
pháp thành tựu. Khi làm pháp thành tựu, cũng tụng chữ
này (cách hiểu theo nghĩa bí mật như trên đă nói).
(Kinh)
Tác thử pháp thời, năi chí Phổ Hiền Bồ Tát,
Văn Thù Sư Lợi, Chấp Kim Cang đẳng, hoặc
dư thánh, thiên hiện tiền, ma đảnh xướng
ngôn: “Thiện tai hành giả!” Ưng đương khể
thủ tác lễ, phụng Át-già thủy.
(經)作此法時,乃至普賢菩薩、文殊師利、執金剛等或餘聖天現前,摩頂唱言:善哉行者!應當稽首作禮,奉閼伽水。
(Kinh:
Khi làm pháp này, cho đến Phổ Hiền Bồ Tát,
Văn Thù Sư Lợi, Chấp Kim Cang v.v… hoặc các vị
thánh, chư thiên khác hiện tiền, xoa đỉnh đầu
[hành giả], xướng rằng: “Lành thay hành giả”. [Khi
ấy, hành giả] hăy nên dập đầu làm lễ, dâng
nước Át-già).
Giải rằng: Hoặc là các vị
Kim Cang khác, chẳng thể nói nhất định
được! Hễ có một vị nào hiện đến,
sẽ là thành tựu. Nhưng khi trông thấy, cũng nên biện
định tướng thượng, trung, hạ. Nếu
đích thân trông thấy phân minh như đối trước
mắt chẳng khác th́ là thượng thành tựu. Nếu
chỉ nghe tiếng hiện tiền, chỉ dạy khiến
cho lợi lạc, hoan hỷ, th́ là trung thành tựu. Nếu
mộng thấy th́ là hạ thành tựu. Lại nữa, khi
thấy có rơ ràng hay mù mờ sai khác, sẽ biết là có
chướng hay không (nói theo nghĩa bí mật cũng có thể
hiểu là “tâm đắc”). Khi Bổn Tôn hiện tiền
gia bị như thế, [hành nhân] liền “ưng
đương khể thủ tác lễ, phụng Át-già thủy”
(hăy nên dập đầu đảnh lễ, dâng nước
Át-già). Đây chính là nước thơm, bỏ thêm năm thứ
báu, năm loại hạt lương thực v.v… như
trong phần trước đă nói.
(Kinh)
Tức thời đắc bất vong Bồ Đề tâm
tam-muội.
(經)即時得不忘菩提心三昧。
(Kinh:
Liền được chẳng quên Bồ Đề tâm
tam-muội).
Hành
giả ấy do đắc tam-muội, khiến cho thân tâm
đều được khinh an (khinh an tức là cấu
chướng trừ sạch).
(Kinh)
Hựu dĩ như thị thân tâm khinh an nhi tụng tập
chi, đương đắc tùy sanh tâm thanh tịnh, thân
thanh tịnh.
(經)又以如是身心輕安而誦習之,當得隨生心清淨、身清淨。
(Kinh:
Lại dùng thân tâm khinh an như thế để tụng niệm,
tu tập, sẽ đạt được tâm thanh tịnh
và thân thanh tịnh, ư sanh thân thuận theo ư niệm mà sanh).
Tức
là dùng sự khinh an ấy để suy tưởng, xếp
đặt [các chữ trên các chi phần của thân thể],
niệm tụng, ǵn giữ tột bậc, [khiến cho]
năm căn như thân v.v… đều thanh tịnh. Như
trong phẩm Lục Căn đă nói, muôn h́nh tượng
đều thấy, có thể biết Phật tâm v.v… Do thân
tâm thanh tịnh, liền được “tùy sanh”, tức
là ư sanh thân[17]
thuận theo ư niệm mà sanh. Do tùy sanh làm nhân, niệm tụng
là tịnh, sẽ đạt được thân tâm thanh tịnh.
(Kinh)
Nhược trí ư nhĩ thượng tŕ chi,
đương đắc nhĩ căn thanh tịnh.
(經)若置於耳上持之,當得耳根清淨。
(Kinh:
Nếu đặt ở tai để tŕ, sẽ đạt
được Nhĩ Căn thanh tịnh).
Giải
rằng: Nếu hành giả muốn Nhĩ Căn thanh tịnh,
hăy tưởng đặt chữ A nơi tai rồi niệm
tụng, sẽ được nhĩ căn thanh tịnh,
Văn Tŕ chẳng quên, có thể nghe mười
phương chư Phật thuyết pháp, cho đến nghe
tiếng của chư thiên v.v… cũng giống như kinh
Pháp Hoa đă nói.
(Kinh)
Dĩ A tự môn tác xuất nhập tức, tam thời
tư duy. Hành giả nhĩ thời, năng tŕ thọ mạng
trường kiếp trụ thế. Nguyện Ra Xà đẳng
chi sở ái kính, tức dĩ Ha tự môn tác sở ưng
độ giả, thọ dữ Bát-đầu-ma hoa, tự
tŕ thương-khư nhi hỗ tương quán, tức sanh
hoan hỷ.
(經)以阿字門作出入息,三時思惟,行者爾時能持壽命長劫住世。願囉闍等之所愛敬,即以訶字門作所應度者,授與鉢頭摩華,自持商佉而互相觀,即生歡喜。
(Kinh:
Dùng môn chữ A theo hơi thở ra vào, ba thời tư duy.
Lúc bấy giờ, hành giả có thể duy tŕ thọ mạng
trụ thế lâu cả kiếp. Nếu mong được
hàng vua chúa kính yêu, dùng môn chữ Ha để làm người
đáng được độ (tức tưởng chữ
Ha là người mà ḿnh muốn nhiếp phục), trao cho
[người ấy] hoa Bát-đầu-ma, chính ḿnh th́ cầm
thương-khư (tù và bằng vỏ ốc), [đôi bên]
nh́n ngó lẫn nhau, liền sanh hoan hỷ).
Đây
nói về môn Bồ Đề tâm bất sanh bất diệt
trong chữ A. Nếu muốn sống lâu dài, hăy tưởng
chữ A giống như hơi thở ra vào (tức là dùng
chữ này để tùy thuận hơi thở, sao cho thở
ra, hít vào [luôn tưởng chữ A] chẳng gián đoạn).
Nếu kẻ đoản mạng tưởng niệm
như thế, hằng ngày ba thời tư duy, sẽ liền
được trường thọ. Nói theo ư nghĩa bí mật,
chữ, câu và Bổn Tôn là ba thời. Nếu muốn thâu nhiếp
hết thảy các độc, hăy tưởng chữ A
đó, hoặc ḿnh hay người khác, đều tưởng
nơi thân. Nếu như [chất độc] ở nơi
thân chính ḿnh, hăy tưởng chữ ấy nơi chỗ có
độc, dần dần khắp toàn thân trục chất
độc xuống phía dưới, chất độc
cũng dần dần cũng theo chữ ấy mà bị loại
trừ. Loại bỏ hết th́ độc liền trừ.
Độc có hai loại: Một là chất độc từ
các vật; hai là chất độc của hữu t́nh, tức
là chất độc của rồng, rắn v.v… Nếu nói
theo ư nghĩa bí mật, “độc” tức là Tam Độc.
Khi Tam Độc lừng lẫy, muốn trừ khử th́
cũng làm như trên, tức là loại trừ cho hết.
“Nguyện
Ra Xà đẳng chi sở ái kính” (nguyện được
hàng vua chúa kính yêu) liền dùng môn chữ A và Ha để làm
người đáng được độ, ư nói: Nếu
muốn cho kẻ khác nghĩ tưởng yêu mến và quy y,
trước hết hăy tưởng chữ A là thân thể của
chính ḿnh, tưởng chữ Ha là thân của kẻ khác.
Tưởng thân chính ḿnh cầm thương-khư (tù và bằng
vỏ ốc). Lại tưởng người ấy cầm
hoa sen, [đôi bên] nh́n ngó lẫn nhau, trong tâm tụng chữ
A này. Dẫu người ấy phẫn nộ, kiêu mạn,
cũng liền có tâm yêu mến, ḥa thuận. Nói theo nghĩa
bí mật, nếu muốn nhiếp phục cái tâm, tưởng
chính ḿnh là chữ A, tưởng tâm là chữ Ha, trên tâm có
hoa sen, tay cầm thương-khư, khiến cho thuận
tùng, liền có thể nhiếp phục. Hết thảy kẻ
khó hàng phục, [vận dụng pháp này] cũng đều
có thể nhiếp phục. Đó là nói về Thượng
Phiền Năo và Tùy Phiền Năo.
(Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn
phục quán nhất thiết đại hội, cáo Chấp
Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Kim Cang Thủ! Chư Như
Lai hữu ư sanh, tác nghiệp hư hành vũ, quảng diễn
phẩm loại, nhiếp tŕ tứ giới, an trụ tâm
vương đẳng đồng hư không, thành tựu
quảng đại kiến, phi kiến quả, xuất
sanh nhất thiết Thanh Văn cập Bích Chi Phật,
chư Bồ Tát vị, linh Chân Ngôn môn tu hành chư Bồ
Tát nhất thiết hy nguyện giai tất măn túc, cụ chủng
chủng nghiệp, lợi ích vô lượng chúng sanh. Nhữ
đương đế thính, thiện tư niệm chi,
ngô kim diễn thuyết. Bí Mật Chủ! Vân hà hành vũ,
nhi tác nhất thiết quảng đại thành hoại quả?
Tŕ chân ngôn giả nhất thiết thân
chứng da?
(經)爾時毘盧遮那世尊復觀一切大會,告執金剛祕密主言:金剛手!諸如來有意生,作業戲行舞,廣演品類,攝持四界安住心王等同虛空,成就廣大見非見果,出生一切聲聞及辟支佛、諸菩薩位,令真言門修行諸菩薩一切希願皆悉滿足,具種種業,利益無量眾生。汝當諦聽,善思念之,吾今演說。祕密主!云何行舞而作一切廣大成壞果?持真言者一切親證耶?
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn lại quán hết
thảy đại hội, bảo Chấp Kim Cang Bí Mật
Chủ rằng: - Kim Cang Thủ! Các
đức Như Lai do ư sanh khởi tác nghiệp du hư, biến
hiện thần thông, rộng diễn phẩm loại, nhiếp
tŕ tứ giới (Địa, Thủy, Hỏa, Phong), an trụ
trong tâm vương giống như hư không, thành tựu
cái quả “kiến, phi kiến” rộng lớn, xuất
sanh hết thảy các Thanh Văn và Bích Chi Phật, các địa
vị Bồ Tát, khiến cho hết thảy các ước
nguyện của Bồ Tát tu hành trong Chân Ngôn môn thảy
đều được thỏa măn, trọn đủ
các loại nghiệp, lợi ích vô lượng chúng sanh. Ông
hăy nên lắng nghe, khéo suy nghĩ lấy, ta nay diễn nói.
Bí Mật Chủ! Thế nào là hiện thần thông biến
hóa để tạo tác hết thảy cái quả thành hoại
rộng lớn mà người tŕ Chân Ngôn đích thân chứng
đắc hết thảy vậy?)
Đấy
chính là phổ hiện sắc thân, tùy loại mà hiện thân
h́nh trong lục đạo. “Vũ” (Múa) tức là các
chuyện thần biến huyễn tác (thần thông biến
hiện, hóa hiện như huyễn), tùy theo từng sự
cũng hiện rất nhiều loại, chẳng thể
nói trọn. “Tứ giới nhiếp tŕ” tức là nói
đến các giới Địa, Thủy, Hỏa, Phong. Tuy
hiện các thân trong, ngoài, y báo, chánh báo ấy, nhưng đấy là tâm
vương an trụ giống như hư không. Hư không
thường bất động mà chứa đựng hết
thảy. V́ thế, chỉ từ nghiệp nơi Phật
tâm mà sanh, tùy tâm mà có, bản thể giống như hư
không, chẳng thể chấp giữ. “Kiến” là nói tới
các thứ tướng vũ hư (múa may, đùa bỡn)[18],
chẳng phải là thấy lư Niết Bàn (Lại nói Kiến
là thấy cái quả thế gian, chẳng phải là thấy
cái quả Bồ Đề. Do loại này vô lượng,
nên nói là “rộng lớn”). Cũng thấy ba thừa
tu hành đủ loại pháp môn, thuận theo nguyện của
họ mà khiến cho được thỏa măn, tức là
có thể hiện đủ loại chuyện có thể thấy
và chẳng thể thấy. Cho đến nguyện cầu
các pháp môn Thiền Định, trí huệ, nhiều thứ
của báu, cũng đều tùy loại mà thị hiện
để ban tặng cho. Giống như Như Ư bảo
vương, tùy ḷng mong cầu, hết thảy đều
thí cho.
Đẳng
Dẫn
khiến cho thần thông v.v… dấy lên. Tam-ma-hế-đa (Samāhita)
có nghĩa là Đẳng Dẫn (b́nh đẳng dẫn khởi
các thứ như thần thông, chẳng phải là Đẳng
Chí). Khi đó, đức Tỳ Lô Giá Na Phật lại quán
hết thảy đại chúng hội, quán xong, bảo Kim
Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng (như trong phần
trên đă giải thích). Kim Cang Thủ “hành vũ, nhất
thiết tác quảng đại thành hoại quả, thân nhất
thiết dữ” (nhảy múa, thực hiện hết thảy
quả thành hoại rộng lớn, đích thân ban cho hết
thảy): “Vũ” chính là đùa vui. Lại c̣n phổ hiện
sắc thân, thuận theo từng loài mà khéo léo thành tựu họ,
thực hiện đủ loại ứng hiện. Những
điều này chẳng chân thật, chỉ là như huyễn.
V́ thế gọi là “Như Lai chi vũ”. Giống
như người nhảy múa có thể làm đẹp ḷng mọi
người, tuy [người xem có] các thứ ư giải bất
đồng, nhưng đều khiến cho họ đẹp
dạ. Phật cũng như thế đó, nhưng chẳng
phải do sắc tướng thuộc tứ giới mà
làm, chỉ tùy thuận tâm ư của Phật mà sanh. Từ tâm
mà sanh, từ tâm mà diệt. Tuy là thường pháp mà có thể
tùy duyên sanh diệt. Do hưng phế tùy duyên, nên nói là cái quả
sanh diệt. V́ vậy bảo là “thành, hoại”. Dấu
tích ấy trọn khắp pháp giới rộng lớn vô
biên, v́ thế nói là “rộng lớn”. Đă thực hiện
rồi bèn diệt, cho nên nói là “thành, hoại”.
“Quảng
đại thành hoại” (Thành hoại rộng
lớn): “Thành” có nghĩa là biến chuyển, cho nên sẽ
hoại;
nhưng sự thành hoại ấy chính
là sự ứng hiện mầu nhiệm của Như Lai,
từ Phật pháp giới tùy cơ cảm ứng mà sanh,
tuy sanh mà chẳng sanh, tuy diệt mà chẳng diệt, tức
là giống như huyễn, do chẳng khác pháp giới. Do việc
làm chẳng thật, cho nên gọi là Vũ. Tam thế
chư Phật đều thực hiện “sự nhảy
múa” ấy. “Thân nhất thiết dữ” (Đích
thân ban cho hết thảy): Ta đích thân từ
cổ Phật nhận lănh pháp này, nay lại đích thân trao
cho các vị. V́ thế nói “đích thân trao cho hết thảy”.
Nói “đích thân” tức là có thể đích thân hiện
tiền trao cho hết thảy cái quả mà họ ước
nguyện. Nghĩa ấy là đúng.
(Kinh)
Hành giả như thứ đệ, tiên tác tự chân thật,
như tiền y pháp trụ, chánh tư niệm Như Lai. A
tự vi tự thể, tịnh trí Đại Không điểm,
đoan nghiêm biến kim sắc, tứ giác kim cang tiêu. Ư
bỉ trung tư niệm, nhất thiết xứ tôn Phật.
Thị chư Chánh Đẳng Giác, thuyết tự chân thật
tướng. Tu hành bất nghi lự, tự chân thật
tướng sanh. Đương đắc vi thế gian,
nhất thiết chúng lợi lạc, cụ quảng đại
hy hữu, trụ ư như huyễn cú. Vô thỉ thời
túc thực, vô trí chư hữu bách. Hành giả thành Đẳng
Dẫn, nhất thiết giai tiêu trừ. Nhược quán
ư bỉ tâm, vô thượng Bồ Đề tâm. Tŕ chân
ngôn nghiệp cố, ư tịnh phi tịnh quả, ứng
lư thường vô nhiễm, như liên xuất ứ nê. Hà huống
ư tự thể, đắc thành Nhân Trung Tôn. (經)行者如次第,先作自真實,如前依法住,正思念如來,阿字為自體,并置大空點,端嚴遍金色,四角金剛標。於彼中思念,一切處尊佛,是諸正等覺,說自真實相。修行不疑慮,自真實相生,當得為世間,一切眾利樂。具廣大希有,住於如幻句,無始時宿殖,無智諸有迫,行者成等引,一切皆消除。若觀於彼心,無上菩提心,持真言業故,於淨非淨果,應理常無染,如蓮出淤泥,何況於自體,得成仁中尊。
(Kinh:
Hành giả theo thứ tự, trước tác tự chân thật,
như trên, nương pháp trụ, chánh tư niệm
Như Lai. Chữ A làm tự thể, thêm một chấm
Đại Không, sắc vàng khắp đoan nghiêm, bốn góc
bày kim cang. Ở trong ấy nghĩ niệm, tôn, Phật hết
thảy chỗ. Các Chánh Đẳng Giác ấy, nói tự
tướng chân thật. Tu hành chẳng lo ngờ. Tự
tướng chân thật sanh, sẽ được v́ thế
gian, hết thảy các lợi lạc, trọn hy hữu rộng
lớn, trụ trong câu như huyễn. Đă gieo từ vô
thỉ, vô trí, các cơi ép. Hành giả thành Đẳng Dẫn,
hết thảy đều tiêu trừ. Nếu quán cái tâm ấy,
vô thượng Bồ Đề tâm. Do nghiệp tŕ chân ngôn,
nơi quả tịnh, phi tịnh, xứng lư, thường
vô nhiễm, như sen vượt bùn lầy. Huống hồ
nơi tự thể, được thành Nhân Trung Tôn).
Nói “tiên
tác tự chân thật” (trước hết thực hiện
sự chân thật nơi chính ḿnh) tức
là như trên đây đă quán chủng tử, chân ngôn, và Bổn
Tôn. Do quán thấy Bổn Tôn, thấy rồi liền chuyển
thân chính ḿnh thành Bổn Tôn. Xoay vần “tức là lẫn
nhau” (tức quán Bổn Tôn, Bổn Tôn nhập vào thân ḿnh,
thân ḿnh chuyển thành Bổn Tôn, quán Bổn Tôn và chính ḿnh chẳng
khác), chẳng hề trở ngại lẫn nhau, chính là “thấy
cái quả kim cang”,
cái tâm Bồ Đề, cho nên gọi là “tiên tác tự chân
thật”. Theo thứ tự trụ như thế, tức
là trụ vào đối tượng được quán trên
đây, tâm nương vào đó mà khéo trụ. Trước hết
đă thấy Thật Tướng, đă quán chữ A vậy.
Kinh
nói “như tiền y pháp trụ, chánh tư niệm Như
Lai” (nương vào pháp mà trụ giống như trên, chân
chánh nghĩ nhớ Như Lai) có nghĩa là theo đúng cách
suy nghĩ như trong phần trên đă nói để niệm
tụng, hành tŕ. Tưởng chữ A là chính ḿnh, và thêm một
chấm [Đại Không trên đầu chữ A] để
trở thành rộng lớn, hết thảy đều là
màu vàng sao cho đẹp dạ tột bậc. Nơi chày kim
cang bày khắp bốn cạnh [của chữ ấy], hăy
nghĩ nhớ, tŕ tụng chữ [chân ngôn] và quang minh của
chư Phật trọn hết thảy mọi nơi. Hết
thảy các đức Phật ấy sẽ tự nói, tức
là quán chữ A có màu vàng đậm, sắc tướng ấy
đoan chánh, trang nghiêm, tốt đẹp, khiến cho mọi
người đẹp ḷng, ở ngay trong tâm của chính
ḿnh. Đối với chữ này, kinh lại nói cũng thêm
vào cái chấm cho rộng lớn, nghĩa là trên chữ A lại
thêm một cái chấm [Đại Không], “tăng thêm” tức
là rộng lớn. Ở phía ngoài, nơi bốn góc của
chữ A, dùng chày kim cang làm lan can bao bọc. Lan can ấy
toàn bằng chày kim cang ba nhánh. Các nhánh chày lại được
vẽ chéo nhau, chính giữa [khung lan can
được xếp bằng chày kim cang ấy] đặt
chữ. Đă thấy chữ A ấy, liền chuyển chữ
A đó thành h́nh tượng của Tỳ Lô Giá Na Bổn
Tôn, tức là tự thân hiện h́nh tượng giống
như Bổn Tôn. H́nh tượng ấy dựa theo bổn
ấn mà làm. Toàn thân đức Phật có quang minh. Đấy
chính là thấy vị Phật Thật Tướng trong Bồ
Đề tâm, giống như trong lưu ly thanh tịnh
trông thấy h́nh tượng vàng ṛng, chẳng giống như vọng
tưởng trong các món tâm số (tâm sở) khác.
Hăy nên biết thấy như thế chính là thấy vị
Phật Thật Tướng trong tâm. Người tu pháp
thành tựu này nếu chẳng ngờ vực, lo lắng, sẽ
có thể v́ khắp hết thảy chúng sanh tạo tác sự
lợi ích to lớn.
Kinh
nói: “Cụ quảng đại hy hữu” (trọn hy hữu
rộng lớn), giống như huyễn nhân, tức là có
đủ loại chuyện khác lạ. Giống như
chư đại Bồ Tát, thuận theo ḷng muốn làm chuyện
lợi ích chúng sanh, khác nào vầng trăng hư huyễn
trong nước ứng với vạn loại đều
được thành tựu. Đấy là câu Như Huyễn
tam-muội của Như Lai. Nếu có thể làm như thế,
ác nghiệp từ đời vô thỉ đến nay, và cái
quả bức bách trong ba cơi, cho đến nghiệp nặng
Vô Gián diệt ngay trong thân hiện tại, huống hồ
những thứ khác ư? Nói tóm lại, các thứ khổ
quả trong ba cơi đều diệt. V́ lẽ nào vậy? Do
người tŕ tụng trụ trong địa vị
Tam-ma-hế-đa. Nếu quán Thật Tướng như thế,
sẽ ĺa khổ.
Kinh
nói: “Nhược quán ư bỉ tâm, vô thượng Bồ
Đề tâm” (nếu quán vô thượng Bồ Đề
tâm trong cái tâm ấy) tức là quán Vô Thượng Bồ
Đề tâm trong tự tâm của hành giả. Nói “tâm”
th́ tức là vô thượng đại Bồ Đề
tâm. Nếu trụ trong phép Quán ấy, sẽ có thể thanh
tịnh thân khẩu ư nghiệp. Do có thể thanh tịnh các
nghiệp, tịnh nghiệp và bất tịnh nghiệp
đều ĺa. Ư nói: Có nghiệp như thế sanh ra, tịnh
và bất tịnh đều chẳng thể nhiễm. Kinh
nói “đương nghiệp” tức là cái nghiệp sẽ
sanh ra tịnh tâm này. Cái quả ấy đều chẳng
thể nhuốm bẩn. V́ sao vậy? Do thường
tương ứng với lư. Ví như hoa sen tuy sanh trong bùn
lầy, nhưng chẳng bị bùn nhuốm bẩn. Hành giả
như thế giống như chư Phật. V́ sao vậy?
Do có thể sanh ra hết thảy chư Như Lai. Đấy
chính là Phật, là bậc thầy tôn quư trong những vị
nhân từ vậy. Ư nói: Vừa mới quán Bồ Đề
tâm, đă đạt được cái quả Như Lai, huống
hồ đích thân hiện chứng mà thành Phật ư?
(Kinh)
Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Như Lai hựu phục trụ
ư Hàng Phục Tứ Ma Kim Cang Hư tam-muội,
thuyết hàng phục tứ ma, giải thoát lục thú, măn
túc Nhất Thiết Trí trí kim cang tự cú: - Nam ma tam mạn
đa bột đà nẫm, a vị ra hồng khiếm.
(經)爾時毘盧遮那世尊又復住於降伏四魔金剛戲三昧,說降伏四魔、解脫六趣滿足一切智智金剛字句:南麼三曼多勃馱喃。阿味囉吽欠。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Tỳ Lô Giá Na Như Lai lại trụ trong Hàng Phục
Tứ Ma Kim Cang Hư tam-muội, thuyết câu chữ kim cang
hàng phục tứ ma, giải thoát sáu nẻo, viên măn trí Nhất
Thiết Trí: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a
vị ra hồng khiếm).
Lại
nữa, khi đó, Tỳ Lô Giá Na Như Lai lại trụ
trong Hàng Phục Tứ Ma Kim Cang Hư tam-muội, hàng phục bốn
loại ma, giải thoát sáu đường, nói câu chữ
kim cang viên măn trí Nhất Thiết Trí. Trụ trong tam-muội
ấy, có thể hàng phục tứ ma, có thể trừ phiền
năo nghiệp khổ trong sáu đường, ban cho niềm
vui giải thoát, và cũng có thể thỏa măn tất cả
hết thảy ước nguyện của hết thảy
phàm thánh. Đức Phật trụ trong Định ấy
mà nói câu Kim Cang
và ư nghĩa chân ngôn. Năm chữ ấy chính là
câu chân ngôn hàng phục tứ ma. A (अः, Aḥ) là
hành, tức là “hành”
vốn bất sanh. Hai cái chấm bên cạnh
chữ A (अ) có nghĩa là “tịnh
trừ”. Do nghĩa này mà có thể hàng phục tứ ma,
trừ hết thảy các khổ. Vị (वि,
Vi) nghĩa là “trói
buộc”,
[chữ Va (व)] thêm một vạch
chính là Vô Giải tam-muội, tức là giải thoát chẳng
thể nghĩ bàn. Ra (र)
nghĩa là “thanh
tịnh sáu căn”;
do sáu căn thanh tịnh nên chẳng có trần. Hồng (हुं, Hūṃ)
có ư nghĩa như đă giải thích trong phần trước.
Trong phần trước, cũng có chỗ giải thích ư
nghĩa chữ Khư (ख,
Kha). “Hồng” lại có ba nghĩa, chính là ba món giải
thoát của Như Lai. Do tu hành trừ chướng mà có ba
giải thoát, trụ trong Đại Không. Khiếm (खं,
Khaṃ)
là Đại Không.
(Kinh)
Thời Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ đẳng chư
Chấp Kim Cang, Phổ Hiền đẳng chư Bồ
Tát, cập nhất thiết đại chúng, đắc vị
tằng hữu khai phu nhăn, khể thủ nhất thiết
Tát Bà Nhă, nhi thuyết kệ ngôn:
(經)時金剛手祕密主等諸執金剛,普賢等諸菩薩,及一切大眾,得未曾有開敷眼,稽首一切薩婆若而說偈言:
(Kinh:
Khi đó, các vị Chấp Kim Cang như Kim Cang Thủ Bí Mật
v.v… Các vị Bồ Tát như Phổ Hiền v.v… và hết
thảy đại chúng, được mở bừng mắt
chưa từng có, đảnh lễ hết thảy Tát Bà
Nhă mà nói kệ rằng).
Khi
đức Phật nói chân ngôn này, các vị như Kim Cang Thủ
và Phổ Hiền được mở bừng mắt
chưa từng có (như trên đă nói), đảnh lễ hết thảy Nhất
Thiết Trí, nói kệ như thế này (“hết
thảy Nhất Thiết Trí” tức
là hết thảy các pháp Như, tức là Như Lai Như).
(Kinh)
Thử chư Phật, Bồ Tát, cứu thế chư khố
tạng, do thị nhất thiết Phật, Bồ Tát, cứu
thế giả, cập dữ nhân Duyên Giác, Thanh Văn hại
phiền năo, năng biến sở hành địa, khởi
chủng chủng thần thông, bỉ đắc Vô Thượng
Trí, Chánh Giác vô thượng trí.
(經)此諸佛菩薩,救世諸庫藏,由是一切佛,菩薩救世者,及與因緣覺,聲聞害煩惱,能遍所行地,起種種神通。彼得無上智,正覺無上智。
(Kinh:
Chư Phật, Bồ Tát ấy, các kho tàng cứu đời,
do vậy hết thảy Phật, Bồ Tát đấng cứu
thế, và do bởi Duyên Giác, Thanh Văn trừ phiền
năo, khắp địa vị sở hành, dấy đủ
loại thần thông, đạt được Vô Thượng
Trí, Chánh Giác vô thượng trí).
“Nhất
thiết” (hết thảy) ở đây theo ư nghĩa tiếng
Phạn là “không ǵ chẳng đủ”, tức là ư
nghĩa “kho chứa” vậy. Ư nói dùng năm chữ ấy
làm cái kho, có thể chứa đựng đầy ắp hết
thảy của cải. Hết thảy chư Phật, Bồ
Tát là đấng cứu thế. “Duyên Giác, Thanh Văn hại
phiền năo”: Tán thán phẩm đức của Thanh
Văn, tức là trừ diệt tùy miên vậy. Lại c̣n
có thể hiểu là: Tô La Đa (Surata)[19]
là trừ diệt phiền năo. “Năng biến sở hành
địa, khởi chủng chủng thần thông” (có thể
trọn khắp các hành xứ, dấy lên các thứ thần
thông): “Của cải” chính là pháp bảo của Như
Lai, ban cho hết thảy chúng sanh mà vẫn chẳng thiếu
hụt. Kho báu đại trí vô cùng như thế, nên gọi
là “của cải”. Do của cải nơi pháp có thể
thí cho hết thảy, nên nói môn chân ngôn này trên từ chư
Phật, dưới đến Thanh Văn, không ǵ chẳng
nương vào câu này để có thể thực hiện
các loại thần biến lợi ích hết thảy. V́ thế
nói “tùy theo hành địa này mà hiện đủ loại sức
thần thông”. Nói “hành địa” tức
là nói về hành xứ, như kệ nói: “Tầm địa
sơn lâm biến vô đẳng” (t́m khắp núi rừng
trên đại địa đều chẳng có ai sánh bằng).
Nói “bỉ đắc vô thượng trí, Chánh Giác vô
thượng trí” (người ấy đạt
được vô thượng trí, Chánh Giác vô thượng
trí): Cũng do câu này mà hết thảy các vị thánh
hiền đều được thành tựu trí huệ,
cho tới cùng thành trí Nhất Thiết Trí. Nhưng trí Nhị
Thừa đối với thế gian cũng gọi là “vô
thượng”,
nay lại nói rơ Phật là vô thượng, tức là lặp
lại [để nhấn mạnh Phật trí vô thượng tuyệt đối].
(Kinh)
Thị cố nguyện quảng thuyết, thử giáo
chư phương tiện, cập dữ bố tưởng
đẳng, chủng chủng chúng sự nghiệp. Chư
chí cầu đại chúng, vô thượng Chân Ngôn hạnh,
kiến pháp an trụ giả, đương đắc
hoan hỷ trụ.
(經)是故願廣說,此教諸方便,及與布想等,種種眾事業。諸志求大眾,無上真言行,見法安住者,當得歡喜住。
(Kinh:
Do vậy, nguyện rộng nói, phương tiện trong
giáo này, và đặt chữ, quán tưởng… Các sự nghiệp
đủ loại. Các đại chúng chí cầu, hạnh
Chân Ngôn vô thượng, thấy pháp được an trụ,
sẽ được hoan hỷ trụ).
Trước
là đă tán thán; sau đó, thỉnh đức Phật nói
năm chữ ấy. Theo thứ tự nói cặn kẽ, và
các chủng loại quán tưởng, sắp xếp chữ
v.v… Đối với các điều chưa nói, đều
thỉnh [đức
Thế Tôn] giảng giải trong lời dạy
này. Đối với chuyện sắp xếp chữ (tức
quán tưởng sẽ đặt chữ chân ngôn nơi nào
trên các chi phần thân thể), thượng, trung, hạ
thành tựu, màu
sắc, lực dụng sai biệt,
các loại phương tiện, đều thỉnh Phật
rộng v́ [chúng con] tuyên nói. Thành tựu, tiến nhập,
tùy thuận để hành pháp ấy trong các môn th́ gọi là
Giáo. Thỉnh [đức Phật] tự nói Giáo ấy, tức
là [cầu thỉnh] đức Phật đích thân diễn
nói. Nếu đức Phật rộng nói pháp ấy, các hành
giả hành vô thượng Chân Ngôn trong Đại Thừa sẽ
được thấy pháp. Nếu đă thấy, cũng sẽ
đều hoan hỷ. “Kiến pháp” (Thấy pháp) tức
là chứng đắc. “Đương trụ” (sẽ
trụ trong) tức đă tự thấy rồi, lại
trao truyền cho các chúng sanh. Do thấy sự ấy, ḿnh và
người đều đạt được lợi
ích vô thượng nơi pháp. V́ thế, thỉnh đức
Phật rộng nói. Kinh này vốn có ba ngàn năm trăm bài
kệ giảng giải ư nghĩa của năm chữ ấy.
Ư nghĩa chánh yếu của Tam-ma-hế-đa chính là “trụ
tâm nơi một cảnh”.
(Kinh)
Thuyết như thị kệ dĩ, Đại Nhật Thế
Tôn ngôn: - Phổ giai ưng đế thính, nhất tâm trụ
Đẳng Dẫn. Đại kim cang địa tế, thời
gia tŕ hạ thân, vị thuyết thử pháp cố, nhi hiện
Bồ Đề ṭa, tối thắng A tự đồng,
đại Nhân Đà La luân, đương tri nội ngoại
đẳng, Kim Cang Mạn-đồ-la, trung tư duy nhất
thiết, thuyết danh Du Già ṭa.
(經)說如是偈已,大日世尊言:普皆應諦聽,一心住等引,大金剛地際,時加持下身,為說此法故,而現菩提座。最勝阿字同,大因陀羅輪,當知內外等,金剛漫荼羅,中思惟一切,說名瑜伽座。
(Kinh:
Nói kệ như vậy xong, Đại Nhật Thế Tôn bảo:
- Hết thảy nên lắng nghe. Nhất tâm trụ Đẳng
Dẫn. Địa tế đại kim cang, gia tŕ ở
dưới thân. V́ để nói pháp này, mà hiện ṭa Bồ
Đề, như chữ A tối thắng. Đại Nhân
Đà La luân, hăy nên biết trong ngoài, Kim Cang Mạn-đồ-la,
trong tư duy hết thảy, gọi là ṭa Du Già).
Đức Phật muốn nói câu
kim cang, khiến cho khắp đại chúng trụ trong cảnh
nhất tâm mà lắng nghe, muốn thực hiện pháp thành
tựu Kim Cang chân ngôn này; trước hết, bảo họ
làm kim cang ṭa. Như lúc đức Phật sắp thành đạo,
ngự tại kim cang đạo tràng. Lại nữa, ngoại
trừ ṭa ấy ra, chẳng c̣n có ṭa nào khác kham có thể
vượt trội mà đạt đến điều ấy
được! Khi đó, đại kim cang từ mặt
đất thấu tận địa tế. “Gia tŕ hạ
thân nơi địa tế, v́ muốn nói chữ A” có
nghĩa là: Chữ ấy là tối thắng, là chữ bậc
nhất. “Gia tŕ”: Nay v́ muốn nói pháp ấy, trước
hết, dùng [chữ ấy] để gia tŕ tự thân. “Hạ
thân” tức là từ rốn trở xuống, đều
tưởng thuần là kim cang. Trong ấy, có nội và ngoại,
“nội” là như vừa nói trên đây, “ngoại”
là tưởng thân chính ḿnh ngồi trong đàn tràng kim cang
h́nh vuông. Đàn ấy như trong phần trên đă nói, có
h́nh vuông, [dùng chày kim cang] làm lan can. Nói “đại Nhân
Đà La” (Mahendra) tức là chất tột bậc cứng
rắn trong các chất kim cang, có thể phá nát kim cang,
nhưng kim cang chẳng thể phá nó. Lại c̣n là màu vàng tột
bậc, giống như tử ma kim sắc (màu của chất
vàng sắc tía được giồi mài sáng bóng). Tưởng
đó là chữ A, gọi là “kim cang luân”. Ở trên ṭa ấy,
tư duy hết thảy, th́ chính là “Du Già ṭa”. Đấy
là chỗ ngồi của người tu hành tương ứng
với lư. “Tư duy hết thảy” nghĩa là hết
thảy các sự đều do sự tư duy này mà thực
hiện. Do có nhiều sự việc, nên nói là “hết thảy”.
Trên đây là phần đầu tiên giải thích [ư nghĩa]
“dùng chữ A làm ṭa” đă xong.
(Kinh)
A tự đệ nhất mạng, thị vi dẫn nhiếp
cú, thường an Đại Không điểm, năng nhiếp
thọ chư quả. Hành giả ư nhất nguyệt, kết
Kim Cang Huệ ấn, tam thời tác tŕ tụng, tồi hủy
vô trí thành, đắc bất động kiên cố. Thiên, Tu
La mạc hoại. Năi chí tùy tự ư, tăng ích sự thành tựu.
(經)阿字第一命,是為引攝句,常安大空點,能攝授諸果。行者於一月,結金剛慧印,三時作持誦,摧毀無智城,得不動堅固,天脩羅莫壞,乃至隨自意,增益事成就。
(Kinh:
Chữ A: Mạng bậc nhất. Đó là câu dẫn nhiếp.
Thường đặt chấm Đại Không, hay nhiếp
thọ các quả. Hành giả trong một tháng, kết Kim
Cang Huệ ấn, ba thời đều tŕ tụng, đập
nát thành vô trí, được kiên cố bất động.
Trời, Tu La chẳng hoại, cho đến tùy tự ư,
tăng ích sự thành tựu).
Kế
đó, nói về chữ A âm dài (Ā).
Đây là mạng căn bậc nhất của chữ A. Do
nó có thể phát sanh các chữ, cho nên nói là Mạng. Nếu
chẳng có chữ A, các chữ khác chẳng sanh, nên gọi
là “mạng bậc nhất”. Đây chính là câu có thể
nhiếp triệu. Nếu tưởng chữ này, sẽ có
thể nhiếp triệu. Chữ A đọc âm dài tức
là hạnh. Nếu tiếp xúc chữ A, sẽ có thể dẫn
khởi hết thảy Phật hạnh. V́ thế nói là “nhiếp
triệu”. Nhiếp triệu hết thảy các pháp trong,
ngoài. “Nhiếp triệu” nghĩa là thâu nhiếp, khiến
cho phụ thuộc chính ḿnh ḥng tự tại thọ dụng.
Môn chữ A này có thể nhiếp triệu công đức của
hết thảy Như Lai quy vào tự thân, cũng có thể
trọn vẹn hết thảy các hạnh.
Kế
đó nói chữ Ám (Aṃ). Nếu tưởng chữ này, có thể
nhiếp trừ hết thảy độc và các chướng
như bệnh tật v.v… Các chướng trong và ngoài đều
có thể thâu nhiếp để trừ khử. Nội
chướng tức là các thứ pháp chướng đạo,
chỉ cần chúng hiện tiền, sẽ đều có thể
diệt trừ. Ngoại chướng là hết thảy các
vật gây chướng ở bên ngoài, cũng thảy đều
có thể trừ diệt. Lại trừ các độc, bệnh
tật. Bệnh có đủ loại, đều có thể
trừ diệt. Lại c̣n có thể trừ diệt thậm
chí bệnh mất trí, tức là có thể cứu chữa
khiến cho [người bị mất trí] khôi phục bổn
tâm. Chữ này lại c̣n có thể nhiếp tâm một cảnh,
mau chóng tương ứng với tam-muội. Nếu tưởng
chữ này, sẽ đạt được công đức
như trên. “Nhất thiết năng dữ” (Có thể
ban cho hết thảy): Nói “dữ” (與) tức là có thể
măn nguyện ấy, trao cho cái quả Tất Địa. Nếu
tŕ tụng th́ trong một tháng liền kết Kim Cang Huệ
Ấn để tụng chữ Ám. Trong một tháng đó,
mỗi ngày tu tập ba thời, sẽ phá hết thảy
thành quách vô trí. Hết thảy chúng sanh bị vô minh quấy
nhiễu, bốn phía ép lại, kiên cố giống như
ṭa thành chắc chắn, chẳng thể phá hoại. Dùng tự
môn này, sẽ có thể phá hoại [ṭa thành kiên cố vô trí ấy].
“Đắc bất động kiên cố” tức là trời,
người, A Tu La v.v… đều chẳng thể phá hoại.
Phàm hết thảy các chuyện tăng ích, nếu muốn
làm, sẽ đều ngồi ṭa này. Tăng Ích cũng gọi
là viên măn, ngụ ư: Có thể thỏa măn hết thảy các
nguyện.
(Kinh)
Hành giả nhất thiết thường, Mạn-đồ-la
trung tác, kim sắc quang minh thân, thượng tŕ phát kế
quan, chánh giác trụ tam-muội, danh Đại Kim Cang Cú. Kim
cang liên hoa đao, tố nga, cập
kim địa, Chân Đà Mạt Ni bảo. Thị đẳng
chúng khí vật, quán đại Nhân Đà La, nhi tác chư Tất
Địa.
(經)行者一切常,漫荼羅中作,金色光明身,上持髮髻冠,正覺住三昧,名大金剛句。金剛蓮華刀,素鵝及金地,真陀末尼寶,是等眾器物,觀大因陀羅,而作諸悉地。
(Kinh:
Hành giả hết thảy thường, làm trong Mạn-đồ-la,
thân quang minh kim sắc, trên đội măo che tóc, Chánh Giác trụ
tam-muội, gọi Đại Kim Cang Cú. Kim cang, hoa sen,
đao, ngỗng trắng và đất vàng, báu Chân Đà Mạt
Ni. Các vật dụng như thế, quán đại Nhân
Đà La, để làm các Tất Địa).
Nếu
giải thích theo ư nghĩa bí mật, “một tháng” tức
là “vừa trông thấy”. Nếu được thấy
pháp, sẽ nhập Sơ Địa, tùy ư tăng ích hết
thảy tam-muội, đà-la-ni
v.v… và các địa vị. Nếu lúc muốn thực hiện
pháp Tăng Ích, người tŕ tụng ở trong đàn kim
cang này, tưởng Phật trụ trong tam-muội, thân màu
vàng ṛng. Ánh sáng có h́nh ngọn lửa, tức là ư nghĩa “có oai
quang”. “Hữu
oai quang” tức là kiêm nói về ư nghĩa Bổn Tôn. Tiếng
Phạm như thế đó, tức là quang minh có h́nh như ngọn
lửa bọc quanh. Dùng tóc kết thành măo. Đấy chính
là đại Nhân Đà La. Đại kim cang ấy cứng
chắc, hàm nghĩa “Phật trí có thể phá hết thảy
những
cái chẳng thể trừ”.
Tưởng vị Phật ấy ở trong đàn kim cang
vuông đó, tùy ư làm hết thảy các vật thành tựu.
Kinh nói “kim cang, liên hoa” v.v… hàm nghĩa [để tác
pháp nhằm thành tựu] hết thảy các sự ấy,
hăy nên thực hiện trong luân ấy (tức trong đàn
tràng Mạn-đồ-la). Nếu muốn thành tựu pháp
kim cang, hăy dùng chày kim cang năm nhánh thuần bằng vàng,
đặt ở trong đàn để gia tŕ. Các vật
thành tựu trung, hạ như thương-khư v.v…
cũng như trên đă nói, tức là đều tŕ tụng
chữ A này. Nếu muốn thành tựu Phật Đảnh,
dùng vàng ṛng làm Phật Đảnh để làm pháp gia tŕ. Nếu
được thành tựu, sẽ giống như thân của
Đại Nhật Như Lai. Hoặc có thể là
chẳng cần vật nào khác, chỉ tự tại tưởng
là thân Phật để gia tŕ. Nếu thành tựu, sẽ
giống như thân Phật. Nếu làm kim cang thành tựu,
người tŕ tụng sẽ giống như Kim Cang Thủ
Bồ Tát. “Liên hoa” th́ dùng vàng làm hoa sen tám cánh v.v… Tŕ tụng
ở trong ấy. Nếu thành tựu, sẽ giống
như Quán Âm. Đao cũng có pháp thành tựu. Nếu thành tựu,
sẽ giống như Văn Thù đồng tử. Ngỗng
th́ nếu tác pháp thành tựu, thân chính ḿnh sẽ thành thân Phạm
Thiên. Trong pháp thành tựu ngoại tài, th́ hoặc là thành tựu
vàng, hoặc thành tựu đất (“đất” là nói tới
kho tàng), hoặc là châu Như Ư v.v… Chỉ cần tương
ứng với pháp Tăng Ích th́ đều dùng pháp này để
làm, đều có pháp thượng, trung, hạ. Nói “đại
Nhân Đà La quán” tức là quán trong kim luân.
Đại Tỳ Lô Giá
Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần bảy hết
[1] Theo truyền thống
của Bà La Môn giáo, ḅ được coi là sứ giả của
Phạm Thiên, được tôn xưng là thánh ngưu. Nhất
là con ḅ Nandi (c̣n gọi là Nandikeshavara hay Nandideva) là tọa kỵ
của thần Thấp Bà (Śiva), được
coi là thần thủ hộ của núi thánh Kailash (nơi có
cung điện chính của thần Shiva). Họ cho rằng
ḅ sanh ra năm thứ thanh tịnh là sữa, lạc, tô,
nước tiểu, và phân.
[2] Không Thanh (Chesylite, Azurite) là chất hydroxide bicarbonate đồng, tức
Cu3(CO3)2(OH)2,
có màu xanh nước biển đậm (gần như màu
Navy, nhưng sáng hơn một chút). Khi để lâu ngoài không khí, nó sẽ
bị biến thành khổng tước thạch (malachite, tức
hydroxide monocarbonate đồng, Cu3CO3(OH)2, có màu xanh ngọc thạch). Không Thanh được dùng trong
Đông Y để chữa bệnh mắt, mắt cườm,
trúng phong, tai điếc v.v… Âu Tây chỉ dùng chất này
để làm màu nhuộm, hoặc
làm hạt trang sức.
Trong Mật giáo, thường dùng các thứ thuốc đem
tŕ chú để mong đạt được tác dụng
chữa bệnh, hoặc dùng vào các phương tiện ḥng
đạt được các thứ thần thông khác. Thậm
chí, các vật như đao, kiếm, vỏ ốc,
gương… dùng làm pháp thành tựu cũng được gọi
chung là “dược vật”.
[3] Sở dĩ nói “Cú ở
đây là Kệ” v́ chánh kinh ghi “pháp cú
viên măn trí quyết định trong vô lượng môn khắp
ba đời”, nhưng “pháp cú”
trong đoạn này là kệ tụng.
[4] Tức là quán các chữ
trong chân ngôn được xếp thành một ṿng tṛn khép
kín (nên nói là “đầu đuôi tiếp nối”). Chính giữa
ṿng tṛn ấy thường là chữ chủng tử của
chân ngôn. Chẳng hạn như khi quán Lục Tự Đại
Minh của Quán Thế Âm Bồ Tát, sáu chữ Om mani padme hum
được xếp thành ṿng tṛn, mỗi chữ một
màu tương ứng với một đường trong lục
đạo (Chữ Om màu trắng tương ứng với
thiên đạo, chữ Ma màu xanh lá cây
tương ứng với A Tu La, chữ Ni màu vàng
tương ứng với nhân đạo, chữ Pad màu xanh dương tương ứng
súc sanh đạo, chữ Me màu đỏ
tương ứng với ngạ quỷ đạo, chữ Hum màu đen tương ứng với
chúng sanh trong địa ngục đạo). Chính giữa là
chủng tử của đức Quán Âm là chữ Hrih màu trắng, tương ứng với Pháp Thân
thanh tịnh.
[5] Tánh giới là một
trong hai loại giới (tức tánh giới và giá giới).
Tánh giới có nghĩa là các giới bắt buộc phải tuân thủ v́ đó là chuẩn
mực đạo đức của người tu hành. Phạm
các giới ấy, sẽ khiến cho chân tánh bị che lấp,
tăng trưởng phiền năo, tổn hại công đức.
Người phạm các giới ấy bất luận có thọ
giới hay không vẫn có tội, v́ các giới ấy nhằm ngăn ngừa các phiền năo nẩy
sanh.
[6] Mỗi châu trong tứ
đại châu có hai tùy châu (châu nhỏ hơn phụ thuộc),
nên cứ mỗi một đại châu (như Diêm Phù Đề)
chẳng hạn, tính gộp chung là ba châu. Do vậy, 3x4=12.
[7] Tức là Thất Ma
Đát Rị Mẫu, họ là bảy chị em của Diêm
Vương.
[8] Tam-ma-bát-để
được dịch nghĩa là Đẳng Chí, Chánh Thọ,
Chánh Định Hiện Tiền, có nghĩa là do xa ĺa các
chướng ngại như hôn trầm, điệu cử
v.v… mà thân tâm đạt tới cảnh b́nh đẳng, an
ḥa.
[9] Ngữ biểu là sự
biểu thị bằng từ ngữ dể diễn đạt
một lư nào đó; ở đây có nghĩa là chân ngôn.
[10] Tức là ao A Nậu
Đạt (Anavatapta). Theo Câu Xá Luận, quyển mười
một, ở giữa phía Bắc của Tuyết Sơn và
phía Nam của Hương sơn, có một cái ao lớn, tên
là Vô Nhiệt Năo, là nguồn của bốn con sông lớn:
Sông Hằng, sông Tín Độ (Sindhu, tức sông Indus hiện
thời), sông Tỷ Đa (Sītā,
tức sông Sir-Daria hiện thời), và sông Phược
Sô (Vaksu, tức sông Amu Daria).
[11] Mang Đát Rị
(Mātṛs) có nhiều cách hiểu:
- Thất Mẫu Mang
Đát Rị, tức bảy chị em của Diêm La
Vương.
- Trong Bà La Môn giáo, Mātṛs
là thánh mẫu, tức nhân cách hóa năng lực của một
vị thần, hoặc phối ngẫu của vị thần
ấy. Tám vị thánh mẫu được tôn sùng nhất
là Brāhmī (mẹ của Phạm
Vương, tức Brahma. Có thuyết nói vị này là vợ
của Phạm Vương), Māheśvarī (mẹ của thần Shiva), Vaiṣṇavī (mẹ của thần Viṣnu);
Aindri (Indrāṇī), of Indra; Varahi (vợ có h́nh đầu lợn
của Viṣnu, vị này được Mật Tông gọi
là Kim Cang Hợi), Kaumārī (mẹ của thần Kartikeya); Cāṃuṇḍī (mẹ
của thần Kuvera), và Nārasiṃhī (mẹ của thần
Narasimha).
- Là danh xưng của Diễm Ma Hậu
(Yami) tức vợ của vua Diêm La.
- Là tôn hiệu của Lakṣmi (vợ của
thần Viṣnu).
[12] Tức là chày kim cang
kép (visva-vajra), c̣n gọi là Yết Ma kim
cang (karma-vajra) gồm hai chày kim cang năm nhánh nối kết với
nhau ở phần giữa thành h́nh chữ thập.
[13] Khaḍga (c̣n gọi
là Khaṅga) là một loại
kiếm thẳng, lưỡi kiếm được mài bén
cả hai bề. Do cực sắc bén và mạnh mẽ, kiếm
này thường được dùng tượng trưng cho
trí huệ. Trong Mật Tông, loại kiếm này được
cầm bởi Văn Thù Bồ Tát, Bất Động Minh
Vương, Đại Hắc Thiên (Mahakala), Công Đức
Thiên (Śrīdēvī, thường
được biết phổ biến với danh xưng Palden Lhamo,
tức thần bảo hộ của Dalai Lama).
[14] Thuốc An Thiện Na
(c̣n được phiên âm là An Thiền Na, A Xà Na), có hai cách
giải thích:
- Một là loại thuốc
trị bệnh mắt, có màu xanh đen.
- Hai là tên một loại
thực vật, lá nó có thể dùng để làm thuốc trị
bệnh mắt.
[15] Lô Giá Na có nhiều
nghĩa, nếu hiểu là một loại thuốc th́ chính
là mật của ḅ, hay ngưu hoàng (bezoar).
[16] Ngưu Hoàng ở
đây là nói chung, tức là trong thể loại được
coi là Lô Giá Na th́ bao gồm Ngưu Hoàng (chất sạn của
ḅ, mật của ḅ), hoặc các vị thuốc
sau đó như Không Thanh, Châu Sa, Hùng Hoàng, Thư Hoàng v.v…
Không Thanh (Azurite) là hydroxide bicarbonate đồng
như đă giải thích trong phần trước. Châu Sa
(Cinnabar) c̣n gọi là Đan Sa, Xích Đan, hoặc Hống
Sa, chính là sulfide thủy ngân (HgS) có màu đỏ tươi,
thường được dùng trong Đông Y để trị
động kinh, an thần, trấn tĩnh. Nhưng theo các
nghiên cứu mới nhất, 10% thuốc Đông Y có chứa
Châu Sa, và Châu Sa dùng lâu ngày có thể gây tổn thương
thận, bao tử, nhất là hệ thống thần kinh…
Hùng Hoàng (Realgar) càng độc hơn nữa v́ nó là Sulfide
Arsenic (As4S4), có màu
đỏ sậm, nhưng thấu quang. Thư Hoàng (Orpiment)
cũng là Sulfide Arsenic (As2S3), nhưng có màu từ
vàng chanh cho tới vàng óng. Người xưa thường
dùng Hùng Hoàng để pha rượu uống vào tiết
Đoan Ngọ với mục đích khử trùng cho thân thể.
[17] Ư Sanh Thân (Manomayaṃ kāyaṃ) c̣n gọi
là Ư Thành Thân, Ư Thành Sắc Thân, tức cái thân chẳng do cha
mẹ sanh ra, mà là thân do bậc Địa Thượng Bồ
Tát (từ Sơ Địa trở lên) thuận theo tâm ư của
chúng sanh mà hóa hiện để
tế độ chúng sanh. Ngoài ra các thân trong giai đoạn
Trung Hữu, người thuộc kiếp sơ, thân của
chư thiên Sắc Giới và Vô Sắc Giới, thân biến
hóa đều được gọi là Ư Sanh Thân v́ các thân ấy
có thể thuận theo ư niệm mà biến đổi.
[18] Do chư Phật biến hiện
đủ loại thần thông nhằm thuận theo căn
tánh của chúng sanh, khiến họ sanh ḷng ưa thích, tin tưởng,
quy hướng, giống như một h́nh thức “biểu
diễn” để thu hút chúng sanh, nên gọi các chuyện
thần thông biến hiện ấy là “vũ hư” (múa, biểu
diễn tṛ vui).
[19] Tô La Đa dịch nghĩa là Diệu
Thích, Diệu Trụ, Diệu Trước, Diệu Lạc,
có nghĩa là cộng trụ an lạc, cùng trụ trong diệu
lư để thọ hưởng pháp lạc.