Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

Phần bảy

大毘盧遮那成佛經疏

Đường sa-môn Nhất Hạnh A-xà-lê kư

沙門一行阿闍梨記

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

5. Phẩm thứ năm: Thế Gian Thành Tựu (Thế gian thành tựu phẩm đệ ngũ, 世間成就品第五)

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Chấp Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ, nhi thuyết kệ ngôn: - Như Chân Ngôn giáo pháp, thành tựu ư bỉ quả, đương tự tự tương ứng, cú cú diệc như thị, tác tâm tưởng niệm tụng, thiện trụ nhất lạc-xoa, sơ tự Bồ Đề tâm.

          ()爾時世尊復告執金剛祕密主而說偈言如真言教法,成就於彼果,當字字相應,句句亦如是,作心想念誦,善住一洛叉,初字菩提心

            (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ, mà nói kệ rằng: - Như giáo pháp Chân Ngôn, thành tựu nơi quả ấy, nên mỗi chữ tương ứng, từng câu cũng như thế, vận tâm tưởng niệm tụng, khéo trụ một lạc-xoa. Chữ đầu Bồ Đề tâm).

 

          Trong phần trước, [ngài Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ] đă thưa hỏi đức Phật, do tiếp nối lời giải đáp trong phần trước, nên [ở đây, đức Phật] không hỏi mà tự nói. “Như Chân Ngôn giáo pháp, thành tựu ư bỉ quả” (như giáo pháp Chân Ngôn, thành tựu cái quả ấy): Hành nhân Chân Ngôn vâng theo đúng giáo pháp, nương theo chánh giáo để tu pháp hạnh; do khéo hành hạnh ấy, đắc quả Tất Địa. Ư Phật là: Nếu có chúng sanh muốn được thành tựu đại quả như trên, trước hết nên nương theo thứ tự [được nói] trong phẩm này để tu hành. Đó chính là chỗ đặt chân ban đầu vậy!

          “Đương tự tự tương ứng, cú cú diệc như thị. Tác tâm tưởng niệm tụng, thiện trụ nhất lạc-xoa, sơ tự Bồ Đề tâm” (Nên mỗi chữ tương ứng, từng câu cũng như thế. Vận tâm tưởng niệm tụng, khéo trụ một lạc-xoa, chữ đầu Bồ Đề tâm): Mỗi chữ như trên đều có ư nghĩa. Từ chữ ấy, nhập môn Thật Tướng, tức là [nói tới] chữ [trong mỗi bài] chân ngôn. Lại nữa, các chữ ấy hợp thành câu, bèn có “cú nghĩa” (ư nghĩa của mỗi câu). Câu y nói thẳng vào cái Thể của Thật Tướng. V́ thế, hành giả tŕ Chân Ngôn, ắt phải sao cho từng chữ đều tương ứng, từng câu đều tương ứng. Hoặc trụ trong chữ chủng tử nơi tâm, hoặc tưởng chân ngôn trở thành h́nh ṿng tṛn, hoặc như h́nh tràng hoa, hoặc như viên châu được treo, sáng sạch, vô cấu, tuần hoàn liên tục, chẳng gián đoạn. [Tưởng] như thế, sao cho hiện tiền rành rẽ xong, tưởng chân ngôn luân (các chữ trong chân ngôn kết thành ṿng tṛn) ấy sáng suốt, trắng trong như sữa tinh thuần, lần lượt tuôn trào chẳng ngưng dứt, lọt vào trong miệng [của người tŕ chú], từ trên xuống dưới, rưới trọn khắp hạ phẩm (phần dưới thân thể), đầu đuôi liên tiếp, lôi kéo lẫn nhau, rót vào trong thân, tưới trọn khắp thân tâm, tưới tắm các thân phần. Do nhân duyên ấy, có thể khiến cho các chướng nơi thân tâm của hành giả thảy đều thanh tịnh.

          Nói “một lạc-xoa” chính là ẩn ngữ. Phải hiểu theo biệt ư của tiếng Phạn, tức [lạc-xoa (lakṣa)] có nghĩa là “nhất kiến” (vừa trông thấy), [hàm nghĩa] “giữ cho cái tâm trụ trong cảnh ấy, một duyên bất loạn, từng chữ tương ứng, từng câu cũng tương ứng”. Tưởng mỗi chữ ấy trong sáng, trắng sạch, thấu triệt như minh châu thanh tịnh. Mỗi chữ lại đều rơ rệt, đều có vầng sáng bao quanh trọn khắp như tràng hoa, theo thứ tự không ngừng rót vào tâm, như tưới rảy cam lộ. Khi duyên tưởng chuyên nhất như thế, giả sử có đủ loại chướng dấy lên, hoặc hiện ra h́nh tượng hết sức đáng sợ, những kẻ tán tâm trông thấy sẽ cuồng loạn. Hoặc phát ra âm thanh to lớn, giả sử núi chúa cũng có thể bị phá nát. Khi có các chuyện như thế, hành giả trụ trong tâm Bồ Đề chân thật dũng kiện, nhất duyên bất động, chẳng có lấy, bỏ. V́ thế nói là “trụ trong nhất kiến”. Nếu chẳng vậy, dẫu trải qua trăm năm, tụng trọn ngàn vạn lạc-xoa (lạc-xoa hiểu theo nghĩa đen là “mười vạn”), vẫn chẳng có thành tựu, huống hồ [chỉ tụng niệm] một lạc-xoa ư?

          Hơn nữa, chữ ấy chính là Bồ Đề tâm. Do mỗi chữ liền nhập môn Thật Tướng, đều đạt được cái Thể của pháp giới. Chữ Tự như đă nói, tiếng Phạn là A Sát Lam, A có nghĩa là “bất hoại”, tức là Bồ Đề tâm thanh tịnh. Hành môn như thế chính là Bồ Đề tâm thanh tịnh. Nếu chẳng trừ cấu, Bổn Tôn tam-muội sẽ không do đâu mà hiện tiền được! Do vậy, hành giả khiến cho mỗi chữ đều tương ứng với Bồ Đề tâm thanh tịnh.

 

          (Kinh) Đệ nhị danh vi thanh, cú tưởng vi Bổn Tôn, nhi ư tự xử tác.

          ()第二名為聲句想為本尊而於自處作

          (Kinh: Thứ hai chính là thanh, tưởng câu là Bổn Tôn, tự trụ để tác pháp).

 

          Lại nên quán tưởng âm thanh của từng chữ, từng câu chân ngôn, theo thứ tự như trên mà liên tục xoay tṛn không ngừng. Mỗi một âm thanh đều rơ ràng, như là âm thanh của linh, khánh, gió, phạm chung (hồng chung) theo thứ tự chẳng đoạn, nhập vào thân, trọn khắp trong cơ thể. Do nhân duyên ấy, có thể quét sạch cấu trược trong thân tâm, như lúc lửa bốc lên, các trần đều hết sạch. Tâm cũng nên khéo trụ trong một cảnh bất loạn. Giả sử có đủ loại cảnh giới th́ cũng như trên đă nói. Lại nữa, ư nghĩa trong mỗi câu chính là cái Thể của Bổn Tôn. Trước hết, tưởng Bổn Tôn rơ ràng; kế đó, tự quán thân chính ḿnh giống như Bổn Tôn, khiến cho trong lẫn ngoài đều sáng tỏ. Quán chữ chân ngôn chính là thân chân ngôn, quán âm thanh nơi chân ngôn chính là Chân Ngôn Chủ, ư nghĩa của mỗi câu chính là cái Thể của chân ngôn, tức là chân ngôn tâm. Câu là chỗ quy hướng của ư nghĩa, tức là cái tâm của Bổn Tôn. Thân, ngữ, ư thanh tịnh th́ ba sự thanh tịnh b́nh đẳng, ví như trong có mắt sáng, ngoài có cảnh thanh tịnh, lại chẳng có ám chướng. Do ba sự b́nh đẳng, nên hiện tiền rơ rệt. Do ba sự b́nh đẳng, nên thân khẩu, ư đều trụ trong “nhất kiến”. Do các duyên đầy đủ, sẽ có niềm vui thành tựu. Ba sự ấy b́nh đẳng, thấy rơ Bổn Tôn, cho nên tự ở trong ấy để tác pháp. Lại c̣n chính là tự quán thân này cũng giống như Bổn Tôn, do ba sự b́nh đẳng, mà gọi là “thành tựu thế gian”. Lúc bấy giờ, Bổn Tôn và các vị Bồ Tát v.v… sẽ thuận theo tâm tưởng mà hiện, hễ nghĩ liền tới, hễ hỏi liền đáp. Sau đấy, mới nhập hạnh Chân Ngôn, tu học xuất thế. Nếu chẳng như vậy, sẽ uổng phí công sức, chẳng có lợi ích ǵ!

 

          (Kinh) Đệ tam cú đương tri, tức chư Phật thắng cú, hành giả quán trụ bỉ, cực viên tịnh nguyệt luân, ư trung đế thành tưởng, chư tự như thứ đệ.

          ()第三句當知即諸佛勝句行者觀住彼極圓淨月輪於中諦誠想諸字如次第

          (Kinh: Nên biết câu thứ ba, câu thù thắng chư Phật. Hành giả hăy quán trụ, vầng trăng cực tṛn sạch, tưởng chân thật, chắc chắn, các chữ theo thứ tự).

 

          Kế đó, hăy nên quán Phật, tức là quán Bổn Tôn. Tùy thuộc người ấy (người hành tŕ chân ngôn) muốn làm chuyện ǵ, đều có các pháp môn cùng loại. Như sắc có trắng, vàng, đỏ v.v…, các h́nh dạng ngồi, đứng, thân ấn, tùy theo chuyện muốn làm mà tận lực quán. Như muốn [thực hiện pháp] tịch tâm tức tai, liền quán h́nh tượng tức tai. Đă được thành tựu, rơ ràng vô ngại, lại tưởng vầng trăng tṛn sáng, thanh tịnh. Quán tự luân (các chữ trong chân ngôn kết thành ṿng tṛn) ở trong cái tâm sáng sạch nơi luân ấy, thành tựu như trong phần trên. Đấy chính là ư nghĩa của Bồ Đề tâm thanh tịnh vậy. Do ba nghiệp b́nh đẳng thanh tịnh, sẽ có thể thấy tướng của chư Phật. Bồ Đề tâm thanh tịnh tương ứng với Niệm Phật tam-muội, sáng suốt vô ngại, chỉ riêng tự ḿnh hiểu rơ, người khác chẳng trông thấy! Nói “ư trung đế thành tưởng” (tưởng chắc thật trong đó), tức là quán Bổn Tôn và các chữ [chân ngôn] viên minh, chắc thật, rành rẽ, chẳng hề khuất lấp, mơ hồ, th́ gọi là “đế liễu phân minh”.

 

          (Kinh) Trung trí tự cú đẳng, nhi tưởng tịnh kỳ mạng, mạng giả sở vị phong, niệm tùy xuất tức nhập.

          ()中置字句等而想淨其命命者所謂風,念隨出入息

          (Kinh: Trong ấy, đặt chữ, câu, tưởng là thanh tịnh mạng. Mạng là nói đến gió, niệm theo hơi hít thở).

 

          Tức là quán chữ, quán âm thanh, quán Bổn Tôn như trên, rồi mới quán Phật. Phật chính là Bổn Tôn, thuận theo tất cả các duyên ấy mà quán [các điều ấy] đều là thân phổ môn của Phật. Do vậy, chẳng có tướng khác, cùng gọi [các điều ấy (chữ chân ngôn, âm thanh chân ngôn, Bổn Tôn)] là Phật. Trước là thực hiện ba loại quán ấy đều phù hợp th́ mới thành chủng tử. Do chủng tử, ắt sẽ đắc quả. Kế đó, quán Bổn Tôn v́ muốn thành tựu cái quả. Như người có hạt giống, đem gieo trong ruộng tốt, [dùng các] phương tiện vun quén, [các hạt giống ấy] sẽ kết thành quả. V́ thế nói là “thành tựu chủng tử, đă thành cái quả của trí Nhất Thiết Trí”; do vậy quán Phật. Khi hành giả mới quán, bỗng tạm được tương ứng, giống như tia chớp, tạm được thấy đạo. Lúc đó, chớ nên sanh chấp trước. Như tại phương Tây, có đệ tử của một vị A-xà-lê, khi thực hiện phép Quán này, bỗng tạm đạt được tương ứng, sanh ḷng kiêu căng, khoe với các đồng học khác. Thầy liền bảo: “Nếu thấy pháp tức là thành tựu cái quả. Cái quả của Chân Ngôn chính là trọn đủ hết thảy các loại huệ. Chiều hôm qua ta soạn kệ tụng, ngươi có biết hay chăng? Nếu đối với chuyện gần như thế mà ngươi c̣n chưa thể thấu đạt, hăy nên biết là ngươi chưa thể thông đạt cảnh giới của chư Phật!” V́ thế, nói đến chuyện này! Nếu người khi thấy chữ, hiểu rơ, do tương ứng với pháp, ắt thân tâm sẽ khác. Kẻ trước kia ngu độn, nếu đắc Tổng Tŕ, sẽ do nghe một câu mà thông đạt vô lượng nghĩa thú, nói chẳng thể cùng tận! Huống hồ [kẻ tạm được tương ứng], nhưng bị các lỗi quấy như ngă mạn v.v… dấy động, [há có nên] sanh tâm kiêu căng, ngạo mạn, chấp trước ư? Do vậy, hành giả hăy nên ĺa pháp ái như thế, chớ nên tự lui sụt!

          Lại nữa, khi hành giả quán Bổn Tôn, thoạt đầu bỗng thấy [h́nh tượng Bổn Tôn] diệt mất, chớ nên yêu đắm, chấp trước, hoặc sanh tâm sầu, hối, chỉ nên nhất tâm hành tŕ. Lâu dần, sẽ tự hiểu chân thật, rơ ràng. Nếu lúc thấy Bổn Tôn, các việc suy tưởng sẽ tự nhiên thành tựu; viên quang, nguyệt luân, và các chữ [trong chân ngôn] v.v… sẽ thuận theo ư niệm mà hiện ra rành rẽ, thấu suốt. Nếu thấy chữ th́ phía ngoài chữ đều có quang minh chói ngời, ví như ngọn lửa sáng sạch khôn sánh. Hoặc quán tự luân như trong phần trước đă nói, trên luân cũng có quang minh, tùy tâm thành tựu. Cho đến quán sự viên minh ấy, muốn nhỏ liền hiện nhỏ, muốn lớn bèn hiện lớn, cho đến trọn khắp mười phương cơi Phật, thảy đều trọn khắp! Hoặc muốn trông thấy vô lượng vô số sắc tướng, ngôn ngữ diễn nói bí tạng, các chuyện thần thông của mười phương chư Phật, đều được thấy rơ. Ví như người thợ vàng tài khéo, có được vàng ṛng tốt đẹp, tinh luyện trăm lần, [vàng sẽ] thanh tịnh nhu nhuyễn, vô cấu, tùy ư tạo tác, tùy tâm mà thành, hết thảy vô ngại. Đó gọi là cái quả của tŕ tụng.

          Lại nữa, nói “xuất nhập tức” chính là như hơi thở của người đời, lọt vào thân rồi lại thoát ra, thoát ra rồi lại trở vào, chẳng có đoạn tuyệt, gián đoạn chút nào. Người ấy quán thấy tự luân viên minh cũng giống như thế, từ tâm của Bổn Tôn trong mỗi niệm đều tuôn nhập vào thân hành giả như hít vào. Lại từ thân tâm của người ấy, trong mỗi niệm mà thoát ra, nhập vào tâm của Bổn Tôn. Tâm trong mỗi niệm đều chẳng gián đoạn giống như thở ra. Mỗi niệm đều giáp ṿng như thế vô cùng; đó chính là hành nhân Chân Ngôn thở ra hít vào vậy. Thở ra hít vào như thế, tưới rót thân tâm, tịnh trừ các cấu uế, dần dần đạt được các căn thanh tịnh. Lại tùy theo từng sự mà quán màu sắc của các chủng tử trong tự luân, như Tức Tai là sắc trắng, Hàng Phục th́ có các màu như xanh hoặc đen v.v… Có thể suy ra mà biết! Làm như thế th́ cũng có thể tùy tâm hoàn thành các sự. Trong kinh lại nói: “Mạng giả sở vị phong” (mạng được gọi là phong). “Phong” tức là tưởng, là niệm. Tưởng mạng căn hít vào, thở ra như thế, tuy tịnh diệu, vẫn là do tưởng gió mà thành, cũng phải nên tịnh hóa.

 

          (Kinh) Bỉ đẳng tịnh trừ dĩ, tác tiên tŕ tụng pháp. Thiện trụ chân ngôn giả, thứ nhất nguyệt niệm tụng. Hành giả tiền phương tiện, nhất nhất cú thông đạt.

          ()彼等淨除已,作先持誦法,善住真言者,次一月念誦,行者前方便,一一句通達。

          (Kinh: Trừ sạch các thứ ấy, trước làm pháp tŕ tụng. Người khéo trụ Chân Ngôn, tụng niệm một tháng nữa. Mỗi câu tiền phương tiện, hành giả đều thông đạt).

 

          Nói đến chuyện đă tịnh trừ các thứ ấy xong, trước hết, hăy nên nói đến chữ A trong pháp tŕ tụng, v́ hết thảy các chủng tử đều sanh từ chữ A. Nếu quán tướng chủng tử, th́ tức là chẳng quán chữ A. Nếu cùng quán, sẽ chính là có hai tướng. Do vậy, chỉ quán chữ A, sẽ là hết thảy các chủng tử, v́ hết thảy các pháp chẳng ra ngoài môn chữ A. Ở đây có nghĩa là: Trước hết, quán biệt tướng của chủng tử. Kế đó đến đây, mỗi mỗi đều cần phải nhập vào môn chữ A. Nếu nhập môn chữ A, sẽ thấy “lư thể vốn bất sanh”. Đă thấy như thế rồi, tức là ba nghiệp đều thông. Do thân thông, thấy trọn khắp các sắc thân, tùy loại thấy trọn khắp các thân ưa thấy. Do ngữ thông, có thể dùng một âm thanh mà thấu tới trọn khắp mười phương cơi Phật, cũng có thể ứng trọn khắp ngôn ngữ sai biệt của hết thảy chúng sanh. Do tâm thông, cho đến hết thảy động niệm, hư luận dấy lên trong tâm của hết thảy chúng sanh, không ǵ chẳng biết rơ, mà cũng có thể biết chuyện bí mật của các Như Lai, tức sáu căn rốt ráo thanh tịnh, thành tựu Chủng Trí. Hành giả tu Chân Ngôn trước hết vâng làm một tháng niệm tụng, tức là trong ṿng một tháng, trước hết hăy nên quán như trên đây.

          Lại giải thích theo ư nghĩa bí mật, th́ một năm do mười hai tháng mà thành, trở lại Bổn Tế để thấu đạt cái cội nguồn. Cũng như mười hai địa vị Bồ Tát, tức là sự giác ngộ của Thập Trụ, Đẳng Giác, Diệu Giác, ví như mười hai tháng. Do vậy, ở đây [kinh văn nói] “trong một tháng” chính là “nhập địa vị Sơ Trụ”. Đối với mỗi một câu, chữ, hoặc Bổn Tôn, đều hiểu chắc thật, thành tựu chẳng có chướng cấu. V́ thế nói là “mỗi câu đều tương ứng”.

          Hành giả tiền phương tiện”: Khi quán hạnh như thế, nếu dùng một bông hoa dâng Phật, chí tâm hồi hướng, nguyện hiểu thông đạt mỗi câu, và câu “hoa hiến thập phương nhất thiết Phật sát độ, phổ tác Phật sự” (hoa dâng lên hết thảy các cơi Phật trong mười phương, làm Phật sự trọn khắp) trong kinh văn thuộc phần sau, lúc bấy giờ, vừa niệm liền thành. Cho tới các chuyện như hương, thức ăn v.v… mỗi mỗi đều nói rộng như thế. Giả sử trời hạn hán nặng, hoặc có đủ loại tai ương, hoạn nạn, lúc bấy giờ, hành nhân dùng một đóa hoa để cúng dường, nguyện trừ nạn hạn hán ấy, xối cơn mưa to, hoặc nguyện các tai ương tự dứt, không ǵ chẳng ngay lập tức thành tựu. Lại đem mỗi một công đức ấy hồi hướng Bồ Đề, thí trọn khắp hết thảy chúng sanh. Đại nguyện Bồ Đề như thế cũng sẽ thành tựu, huống hồ các chuyện khác! Trong phần trước nói “một tháng” tức là tâm tương ứng với một cảnh.

          “Nhất nhất cú thông đạt” (mỗi câu đều thông đạt), tức là quán tự luân, quán thanh luân (âm thanh của câu chân ngôn liên tiếp xoay vần không gián đoạn), chủng tử của Bổn Tôn, mỗi mỗi đều hiện tiền rành rẽ, chẳng có sai lầm, th́ gọi là “nhất nhất cú thông đạt”. Trước hết, quán Phật thành tựu, liền thấy viên minh. Hễ thành tựu một thứ, các thứ khác đều thành tựu. Tức là khi quán Bổn Tôn rành rẽ, các tướng như tự luân viên minh v.v… sẽ tự nhiên thành tựu. “Nguyệt” ở đây chính là Nguyệt Dụ tam-muội, pháp tánh thanh lương có thể hiện trọn khắp trong tâm thủy của chúng sanh, chẳng phải như vầng trăng thế gian, chỉ là mượn nó (vầng trăng trong thế gian) để sánh ví cái tâm đó thôi. Chỉ cần thành một sự, những chuyện khác đều thành, nhưng sở dĩ nói trọn hết là v́ mỗi điều sẽ đều có tác dụng trong kinh văn thuộc phần sau. V́ thế, nói trọn vẹn tác dụng của pháp quán mặt trăng.

 

          (Kinh) Chư Phật đại danh xưng, thuyết thử tiên thọ tŕ. Thứ đương tùy sở hữu, phụng đồ hương, hoa đẳng, vị thành Chánh Giác cố, hồi hướng tự Bồ Đề. Như thị ư lưỡng nguyệt, chân ngôn đương vô úy. Thứ măn thử nguyệt dĩ, hành giả nhập tŕ tụng.

          ()諸佛大名稱,說此先受持。次當隨所有,奉塗香花等,為成正覺故,迴向自菩提。如是於兩月,真言當無畏。次滿此月已,行者入持誦。

            (Kinh: Chư Phật danh xưng lớn, bèn nói thọ tŕ trước. Kế đó, tùy sức có, dâng hương bôi, hoa thảy. V́ để thành Chánh Giác, hồi hướng tự Bồ Đề. Như thế trong hai tháng, chân ngôn sẽ vô úy. Măn tháng kế tiếp rồi, hành giả liền tŕ tụng).

 

          “Chư Phật đại danh xưng, thuyết thử tiên thọ tŕ” (Nói danh xưng to lớn của chư Phật là điều nên thọ tŕ trước hết), tức là chủng tử thành tựu tối sơ. “Thứ đương tùy sở hữu, phụng đồ hương, hoa đẳng” (kế đó, tùy theo những ǵ ḿnh có mà dâng hiến hương bôi, hoa v.v…) tức là có thể dùng một hoa để [dâng cúng] trọn khắp pháp giới, cho đến do nhân duyên nguyện lực, có thể trừ các thứ khổ năo của chúng sanh như phẩm Phổ Môn đă nói. Há có phải là do một hoa mà có thể thành tựu nguyện lực như thế ư? “Vị thành Chánh Giác cố, hồi hướng tự Bồ Đề” (V́ để thành Chánh Giác mà hồi hướng Bồ Đề của chính ḿnh): Hăy nên biết đấy chính là chủng tử của Bồ Đề trong tự tâm sáng sạch, hiển hiện lực dụng tự tại. Kế đó là giải thích ư nghĩa sâu xa trong hai chữ ấy. “Như thị ư lưỡng nguyệt, chân ngôn đương vô úy” (Hăy nên trong hai tháng, hành chân ngôn vô úy như thế đó) tức là nói đến ư nghĩa Tất Địa. Đây chính là tác dụng to lớn trong tháng thứ hai. Tháng thứ nhất là thành tựu chủng tử. Tháng thứ hai là thành tựu địa vị. Kế đó, trọn hết tháng ấy rồi, sẽ hoặc là thành tựu hạnh thế gian, tiến nhập tŕ tụng. Nếu nói theo thành tựu thế gian th́ chính là tháng thứ nhất tŕ tụng; tháng kế đó, đạt được thành tựu trong pháp thế gian, tức là được thành tựu các pháp nơi dược vật, có thể đạt được Văn Tŕ “hễ nghe bèn chẳng quên”, cho đến lực, thần thông, minh hạnh đều được khéo thành tựu, được tự tại nơi Đại Không. Nếu nói theo nghĩa xuất thế, tức là khi thành tựu pháp ấy, sẽ có thể măn hết thảy các nguyện.

 

          (Kinh) Sơn phong hoặc ngưu lan, cập chư hà than đẳng, tứ cù đạo, nhất thất, thần thất, đại thiên thất, bỉ mạn-đồ-la xứ, tất như kim cang cung. Thị xứ nhi kết hộ, hành giả tác thành tựu.

          ()山峯或牛欄,及諸河潬等,四衢道一室,神室大天室彼漫荼羅處,悉如金剛宮。是處而結護,行者作成就。

          (Kinh: Đỉnh núi hoặc chuồng ḅ, và các bến sông thảy, đường ngă tư, một thất, miếu thần, miếu đại thiên, nơi mạn-đồ-la ấy, đều như cung kim cang. Kết hộ các nơi ấy, hành giả làm thành tựu).

 

          Nói “sơn phong, ngưu lan” (đỉnh núi, chuồng ḅ) có nghĩa là Quán. Khi thực hiện thành tựu, sẽ như ở trên núi, chính là tương ứng với núi Trung Đạo. Mỗi mỗi sự đều tương ứng với Lư. Nói “bất động danh sơn” (bất động gọi là núi) tức là [nói về] đại Bồ Đề tâm. Do là chỗ cùng tột trong Bồ Đề tâm ấy, nên gọi là “sơn phong” (đỉnh núi). Như người lên núi, nh́n xuống vạn vật, không ǵ chẳng thấy rơ ràng. Núi pháp tánh ấy cũng thế, [từ trên núi ấy] nh́n xuống pháp giới, sẽ chiếu trọn khắp vô ngại! “Ngưu lan” (chuồng ḅ): Ḅ sanh ra năm thứ tịnh[1], có thể khử uế, trừ chướng, thành tựu chuyện thanh tịnh. Do được trưởng dưỡng bởi chất tịnh của ḅ, cỏ mịn tươi tốt, tự nhiên sum suê. Chuồng ḅ trong Bồ Đề tâm cũng thế, có thể ngăn ngừa các lỗi phân biệt, vọng tưởng, tịnh hóa các tâm địa, dùng nước đại bi rưới đất b́nh đẳng, sanh khởi công đức tùy ư trưởng thành. Ư nghĩa của hai con sông như đă nói trong phần trước. “Hai con sông” nghĩa là tuôn chảy chẳng dứt; đó là ḍng sanh tử. Lại c̣n là tâm tâm tịch diệt, đổ vào biển cả pháp tánh; tức ḍng xuất thế. Ở giữa đó, chính là cảnh Trung Đạo diệu trụ, kham tạo ra sự thành tựu nhiệm mầu. Nói “tứ đạo trung” (tức “tứ cù đạo” trong chánh kinh) chính là Tứ Thánh Đế Trung Đạo. “Nhất thất” tức là trừ phân biệt đối với các cảnh, thuộc về hạnh Như Như, coi đó là “thất”. “Đại thiên thất” (miếu thờ đại thiên) chính là Niết Bàn thất, được thành tựu bởi sức tự tại của Bồ Đề. Nếu chẳng nhập “đại thiên thất” như thế, sao có thể thành tựu sức tự tại cho được? Ư nghĩa của Mạn-đồ-la như đă nói trong phần trước. “Tứ giác” là làm h́nh tượng của chày kim cang ba nhánh, [xếp đặt sao cho các chày ấy] tiếp giáp nhau vây quanh, [th́ khoảng không gian trong ṿng chày kim cang ấy được] gọi là “kim cang cung”.

          Nếu nói theo ư nghĩa bí mật, đấy chính là đại trí không ai có thể phá hoại. Do dùng kim cang diệu trí ấy để kết thành kim cang giới, thủ hộ Bồ Đề tâm, các việc làm đều hoàn thành. “Tác hộ” (thực hiện sự thủ hộ) chính là dùng minh chú Hàng Phục Tam Thế và minh chú Bất Động để thủ hộ các sự. Nếu nói theo Lư, Hàng Phục Tam Thế Bất Động Minh Vương tức là đại Bồ Đề tâm, kham có thể thủ hộ hết thảy chúng sanh, khiến cho thiện căn của họ tự tại thành tựu.

          “Sức dược vật thành tựu” tức là không thanh[2], dầu tô, ngưu hoàng v.v… tùy theo việc mà thực hiện [pháp thành tựu] như các chỗ khác (các kinh luận khác) đă nói. Nói theo Lư th́ chính là thân khẩu ư thành tựu. Đó gọi là tạng tam nghiệp vô tận trang nghiêm phấn tấn thị hiện, thành tựu pháp giới chúng sanh. Phật pháp vốn dĩ trước là thành tựu nơi Sự; sau đấy mới dùng tịnh huệ Đại Không để quán sát, tức là thành tựu xuất thế.

 

          (Kinh) Tức dĩ trung dạ phần, hoặc ư nhật xuất thời, trí giả ưng đương tri, hữu như thị tướng hiện, Hồng thanh hoặc cổ âm. Nhược phục địa chấn động, cập văn hư không trung, hữu duyệt ư ngôn từ. Ưng tri như thị tướng, Tất Địa tổng như ư. Chư Phật lưỡng túc tôn, tuyên thuyết ư bỉ quả, trụ thị Chân Ngôn hạnh, tất định đương thành Phật. Ưng nhất thiết chủng loại, thường niệm tŕ Chân Ngôn, cổ Phật đại tiên thuyết, cố ưng đương ức niệm.

          ()即以中夜分,或於日出時,智者應當知,有如是相現,吽聲或鼓音,若復地震動,及聞虛空中,有悅意言辭,應知如是相,悉地如意。諸佛兩足尊,宣說於彼果,住是真言行,必定當成佛,應一切種類,常念持真言,古佛大仙說,故應當憶念。

          (Kinh: Liền vào lúc giữa đêm, hoặc khi mặt trời mọc. Bậc trí hăy nên biết, có tướng như sau hiện: Tiếng Hồng, hoặc tiếng trống. Hoặc đất lại chấn động, và nghe trong hư không, có ngôn từ đẹp ư. Nên biết tướng như thế, Tất Địa được như ư. Chư Phật Lưỡng Túc Tôn, tuyên nói cái quả ấy. Trụ hạnh Chân Ngôn này, nhất định sẽ thành Phật. Hết thảy các chủng loại, nên thường tŕ chân ngôn, cổ Phật đại tiên nói. V́ thế nên nghĩ nhớ).

 

          Khi dược vật và tâm thành tựu, sẽ có tướng thượng, trung, hạ. Khi mặt trời mọc là thượng, nửa đêm là trung, đầu đêm là hạ. Trong lúc ấy nếu có tướng, hăy nên biết tùy theo từng sự mà biết là thành tựu thượng, trung, hay hạ. “Đầu đêm” có nghĩa là “mới nhập, chưa chứng”. Nửa đêm có nghĩa là Bồ Đề tâm, tức từ nay do trái nghịch sự tối tăm, hướng theo sáng suốt, nhưng vẫn chưa là đại minh. Tới khi mặt trời mọc là tướng thành tựu, ví như vầng mặt trời to lớn chiếu trọn khắp thế gian. Trong lúc đó, hoặc có âm thanh chữ Hồng, hoặc đủ loại tiếng trống, hoặc đất chấn động mạnh mẽ, hoặc nghe các thứ âm thanh mầu nhiệm, [thấy] đủ loại tướng mầu nhiệm mà mọi người thích nghe, tâm ư vui sướng, hoặc trên không trung, hoặc ở trong đàn tràng. Nếu có các tướng ấy, hăy nên biết đó là Tất Địa thế gian thành tựu. Nếu nói theo Lư, chỗ mỗi một pháp kết hợp đạt được cái quả, tức là cái quả tam thừa. Hoặc chuyển pháp luân, đạt được thế lực to lớn, cho đến trường thọ, thọ lượng vô số, tiến cao hơn là du hành trên không, tịnh nhăn soi sáng. Đă thanh tịnh th́ vô ngại tịnh tâm là trí huệ trọn khắp. Tới đây là xong phẩm Thành Tựu Thế Gian.

 

6. Phẩm thứ sáu: Tất Địa xuất hiện (Tất Địa xuất hiện phẩm đệ lục, 悉地出現品第六)

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục quán chư đại chúng hội, vị dục măn túc nhất thiết nguyện cố, phục thuyết tam thế vô lượng môn quyết định trí viên măn pháp cú.

          ()爾時世尊復觀諸大眾會為欲滿足一切願故復說三世無量門決定智圓滿法句

            (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại quán các đại chúng hội, v́ muốn thỏa măn hết thảy các nguyện, lại nói pháp cú viên măn “trí quyết định trong vô lượng môn khắp ba đời”).

 

          Quán sát đại chúng chẳng phải là không có nhân duyên. Trước hết, dùng Phật tâm để quán chủng tử, tướng mạo, và thể tánh của các chúng sanh ấy kham tiếp nhận pháp nào, nên gieo như thế nào để họ đạt được lợi ích. Quán như thế xong, sẽ biết họ sẽ từ nơi pháp môn nào mà được ngộ nhập. V́ muốn nói điều này, cho nên trước hết [đức Phật] bèn quán cơ (xem xét căn cơ). Vô lượng trí môn quyết định trong ba đời, tức là trong một niệm, vô lượng trí môn vô ngại trọn ba đời. Đức Phật dùng đủ loại phương tiện để nói diệu pháp ấy, hết thảy chúng sanh ai nấy tùy theo trí môn tương ứng mà đạt được quyết định. Do các môn ấy vô lượng; cho nên nói là “vô lượng môn”. Đức Phật quán đại chúng hội, v́ họ nói môn “tiến nhập phổ môn pháp giới” này, muốn cho ai nấy tùy theo cái duyên của chính họ mà đạt được quyết định, nên gọi là “quyết định trí môn”. “Pháp cú” là trước hết vận dụng Sự, từ Sự có thể sanh ra Lư. V́ thế, gọi là Cú (câu), tức Cú chính là cái để Kệ nương vào. Cách thành lập các câu kệ trong thế gian là dùng danh tự để nói. “Măn túc”: Nhập pháp môn này, có thể sanh ra pháp môn, có thể sanh ra pháp giới vô tướng là pháp bí mật do Như Lai tự chứng; muốn dùng pháp như thế để thỏa măn [ước nguyện của] hết thảy chúng sanh, khiến cho chẳng luống uổng. “Cú” ở đây chính là kệ[3], đừng hiểu là từng câu. Trong phần sau, sẽ coi “nghĩa” (tức ư nghĩa trong một bài kệ) là câu kệ.

 

          (Kinh) Hư không vô cấu, vô tự tánh, năng thọ chủng chủng chư xảo trí.

          ()虛空無垢無自性能授種種諸巧智

          (Kinh: Hư không vô cấu, vô tự tánh, hay trao các thứ trí thiện xảo).

 

          Tâm trí Nhất Thiết Trí giống như hư không, vô cấu, vô lượng, vô ngại, chẳng có phân biệt, tức là pháp hiện chứng Đại Không của Phật. “Vô tự tánh” tức là pháp giới thanh tịnh ấy vô cấu như hư không, cũng lại chẳng có tự tánh, chẳng thể chấp trước! Do như thế chính là Đại Không, vô vi cũng là vô tự tánh, có thể sanh ra trí Nhất Thiết Trí, tức là “xảo trí”; đó là tên gọi khác của trí. Nếu chẳng phải là xảo trí, sao có thể thuận theo đủ loại tâm hạnh của hết thảy chúng sanh, hiện thân mà họ thích thấy, nói pháp họ đáng nên nghe, tương xứng với căn cơ lănh ngộ của họ, thảy đều chẳng dối, vào trong hết thảy pháp giới b́nh đẳng, tức là tột bậc hay khéo trong các thứ khéo léo. Do b́nh đẳng Không cũng là vô tự tánh, hữu tướng sanh diệt cũng lại chẳng có tự tánh. V́ thế, trong pháp tự tại có thể sanh ra xảo trí, thỏa nguyện trọn khắp hết thảy chúng sanh, độ lượng chẳng thể nghĩ bàn.

         

          (Kinh) Do bổn tự tánh thường Không cố, duyên khởi thậm thâm nan khả kiến.

          ()由本自性常空故緣起甚深難可見

          (Kinh: Do bổn tự tánh thường là Không, duyên khởi rất sâu khó thể thấy).

 

          Đây chính là tự tánh của “bất khả đắc Không”, tức là thân đệ nhất thường trụ của Pháp Thân Phật, do ĺa tám tướng điên đảo như không, phi không v.v… Đấy chính là pháp rất sâu khởi lên từ các duyên, vô vi, vô tác, mà có thể chẳng động pháp giới, ứng trọn khắp chúng sanh. Cơ và ứng tương quan như vầng trăng hiện nơi nước trong. Pháp duyên khởi như thế chẳng thể nghĩ bàn! (Tự tánh của Không là thường có, chẳng phải là trước không mà nay có. Đă có rồi lại không. V́ thế, nói là bản tánh của Không là như thế đó).

 

          (Kinh) Ư trường hằng thời thù thắng tấn, tùy niệm thí dữ vô thượng quả.

          ()於長恒時殊勝進隨念施與無上果

          (Kinh: Tinh tấn lâu dài hành thù thắng, tùy niệm ban cho quả vô thượng).

 

          “Hằng” tức là thường tu pháp hạnh như thế, cho đến Đại Không cũng chẳng thể được, v́ vô tự tánh. Ví như Đại Không có thể sanh khởi vạn hạnh, đối với hạnh pháp giới b́nh đẳng rất sâu này, nếu hành giả có thể thường hành như thế, sẽ có thể tùy thuận thỏa măn các điều mong nguyện của chúng sanh, cho đến vô thượng đại nguyện cũng có thể ban cho họ.

 

          (Kinh) Thí như nhất thiết thú cung thất, giai y hư không vô trước hạnh. Thử thanh tịnh pháp diệc như thị, tam hữu vô dư thanh tịnh sanh.

          ()譬如一切趣宮室皆依虛空無著行此清淨法亦如是三有無餘清淨生

          (Kinh: Ví như hết thảy các cung điện, đều nương hư không, hạnh chẳng chấp. Pháp thanh tịnh này cũng như thế, ba cơi chẳng c̣n, thanh tịnh sanh).

 

          Thí như nhất thiết thú cung thất, giai y hư không vô trước hạnh” (Ví như cung điện, nhà cửa trong hết thảy các đường [thọ sanh], đều nương vào hư không [để tồn tại, nhưng hư không và các thứ nương vào nó để tồn tại] đều chẳng sanh chấp trước): Sợ người khác chẳng tin hiểu, bèn dẫn thí dụ để sánh ví. Như hết thảy thế gian đều nương vào hư không để an trụ, nhưng Đại Không chẳng nương vào đâu, chẳng nghĩ thế này: “Hết thảy thế gian do ta mà sanh, nương vào ta mà trụ”. Thế gian này ở trong hư không cũng chẳng nghĩ tới ân đức [của hư không] để cầu báo đáp, chẳng khởi ư niệm như thế này: “Do sức của hư không khiến cho ta được an ổn như thế”. V́ sao vậy? Do chẳng thấy hư không có hạnh tạo tác, nên chẳng nghĩ báo đáp. Kế đó nói: “Thử thanh tịnh pháp diệc như thị, tam hữu vô dư thanh tịnh sanh” (pháp thanh tịnh này cũng như thế, do chướng ngại trong ba cơi chẳng c̣n thừa sót nên thanh tịnh sanh khởi): Nói gộp chung với cái hạnh đă nói trong đoạn trước “cũng giống như hư không” (tức hạnh “pháp giới b́nh đẳng”), trừ chướng trong ba cơi chẳng c̣n thừa sót, có thể sanh ra pháp thanh tịnh, sanh khởi thân mầu nhiệm thanh tịnh tương xứng với pháp tánh.

 

          (Kinh) Tích Thắng Sanh Nghiêm tu thử cố, đắc hữu nhất thiết Như Lai hạnh.

            ()昔勝生嚴修此故得有一切如來行

          (Kinh: Xưa Thắng Sanh Nghiêm tu hạnh này, đạt được hết thảy Như Lai hạnh).

 

          Lại dẫn chuyện xưa để làm chứng. Thắng Sanh tức là Tiên Sanh. Tiên Sanh tức là người giác ngộ pháp này trước. Nếu giác ngộ pháp này th́ chính là vô tận trang nghiêm, tức tạng diệu nghiêm định huệ thần lực trang nghiêm vô tận. [Hai câu kệ trên đây có] ư nói: Trong quá khứ, có một vị Bồ Tát tên là Thắng Sanh Nghiêm. Đây chính là một vị Phật Tử, tức là người tu hành trước kia, như nói Tiên Sanh vậy. Tiếng Phạn là Tỵ Bộ. [Do vị ấy tu hành hạnh này], chẳng lâu sau bèn trọn đủ các thứ của cải, tức là pháp tài. Đấy chính là dùng đức để trang nghiêm cái thân. Vị tiên giác ấy đă từng đạt được pháp như thế, hết thảy chư Phật cũng đều đạt được pháp ấy.

 

          (Kinh) Phi tha cú hữu nan khả đắc, tác thế biến minh như Thế Tôn, thuyết cực thanh tịnh tu hành pháp, thâm quảng vô tận ly phân biệt.

          ()非他句有難可得,作世遍明如世尊,說極清淨修行法深廣無盡離分別

          (Kinh: Chẳng do câu khác mà hiện hữu, cái quả pháp giới rất khó được, soi khắp cơi đời như Thế Tôn, nói pháp tu hành cực thanh tịnh, sâu rộng vô tận, ĺa phân biệt).

 

          Ư nói: Nếu ĺa pháp này mà có thể do pháp cú khác bèn được thành tựu cái quả pháp giới chẳng thể nghĩ bàn như thế, chẳng có lẽ ấy! Giả sử cầu trong ấy, cũng chẳng có lẽ nào đạt được! Như cầu dầu ở trong nước, chẳng thể được! Nếu ai có thể tự chứng điều này chẳng phải ǵ khác, chẳng do pháp nào khác mà ngộ, liền có thể chiếu sáng thế gian giống như mặt trời soi chiếu. Cũng như khi đức Phật xuất thế, đă tạo sự sáng suốt to lớn cho khắp hết thảy thế gian vô minh. “Thuyết cực thanh tịnh tu hành pháp, thâm quảng vô tận ly phân biệt” [nghĩa là] đức Phật nói pháp tự chứng cực thanh tịnh, vô phân biệt, ĺa phân biệt rất sâu. Pháp ấy rộng sâu, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể phá hoại, chẳng có cùng tận. Đấy là ư nghĩa tán thán công đức của pháp vậy.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn thuyết thử già-đà dĩ, quán sát Kim Cang Thủ đẳng nhất thiết đại chúng, cáo Chấp Kim Cang ngôn: - Thiện nam tử! Các các đương hiện pháp giới thần lực Tất Địa lưu xuất cú. Nhược chư chúng sanh kiến như thị pháp, hoan hỷ dũng dược, đắc an lạc trụ.

          ()爾時毘盧遮那世尊說此伽陀已觀察金剛手等一切大眾告執金剛言善男子各各當現法界神力悉地流出句若諸眾生見如是法歡喜踊躍得安樂住

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn nói già-đà ấy xong, quán sát hết thảy đại chúng như Kim Cang Thủ v.v… bảo Chấp Kim Cang rằng: - Thiện nam tử! Mỗi người hăy nên hiện câu pháp giới thần lực lưu xuất Tất Địa. Nếu các chúng sanh thấy pháp như thế, sẽ hoan hỷ, hớn hở, được trụ trong an lạc).

         

           “Thần lực” cũng là vận dụng thần biến. “Thần biến” ở đây hiểu theo nghĩa rộng: Từ một mà đạt được nhiều. Đức Phật quán đại chúng chẳng phải là không có nhân duyên, [Ngài quán sát đại chúng trong hội] v́ muốn khiến cho họ ai nấy đều nói câu [diễn giải] Tất Địa được lưu xuất từ sức thần thông tự tại thuộc pháp giới chẳng thể nghĩ bàn. Sự lưu xuất ấy được gọi là Môn. Do [chữ Môn trong] tiếng Phạn bao hàm nhiều nghĩa, nay ư nghĩa ở đây là “lưu xuất”, tức là Phật tâm tự chứng pháp giới, lưu xuất vô lượng môn xảo trí. Có nghĩa là mỗi vị Bồ Tát hoặc Kim Cang đều là mỗi đức nội chứng của Như Lai. Từ đó hiện ra pháp môn, mỗi môn đều có truyền pháp, nhiếp thọ chúng sanh, dẫn dắt một loại chúng sanh ấy do môn ấy mà tiến nhập, đạt đến địa vị chứng trí Nhất Thiết Trí. Ư Phật muốn khiến cho các vị ấy ai nấy đều nói môn nhập Thật Tướng. Nếu có chúng sanh tương xứng căn tánh ấy, sẽ sanh ḷng vui thích, phát khởi thiện căn; tức là từ môn này mà thành tựu hạnh thù thắng, trụ trong hạnh an lạc của Như Lai.

 

          (Kinh) Như thị thuyết dĩ, chư Chấp Kim Cang vị Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn tác lễ: “Như thị, pháp chủ! Y sở giáo sắc”. Phục thỉnh Phật ngôn: “Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn ngă đẳng, thị hiện Tất Địa lưu xuất cú, hà dĩ cố? Ư tôn giả Bạc Già Phạm tiền, nhi tự tuyên thị sở thông đạt pháp, phi thị sở nghi. Thiện tai Thế Tôn! Duy nguyện lợi ích an lạc vị lai chúng sanh cố”.

          ()如是說已諸執金剛為毘盧遮那世尊作禮如是法主依所教勅復請佛言惟願世尊哀愍我等示現悉地流出句何以故於尊者薄伽梵前而自宣示所通達法非是所宜善哉世尊惟願利益安樂未來眾生故

            (Kinh: Nói như thế xong, các vị Chấp Kim Cang đảnh lễ đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn: “Thưa pháp chủ, đúng như thế! Chúng con kính vâng lời truyền dạy”. Lại thỉnh đức Phật rằng: “Kính xin đức Thế Tôn thương xót chúng con, thị hiện câu lưu xuất từ Tất Địa. V́ sao vậy? Đối trước đức Bạc Già Phạm tôn kính mà tự tuyên nói, chỉ bày pháp do chính ḿnh thông đạt th́ chẳng phải là điều hợp lẽ. Lành thay đức Thế Tôn! Kính mong hăy lợi ích, an lạc chúng sanh trong đời vị lai”).

 

          Khi đó, các vị Chấp Kim Cang đảnh lễ Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn, thưa: “Như thị pháp chủ! Y sở giáo sắc”, tức là tuân theo mệnh lệnh của đức Phật, chẳng dám trái nghịch. Nhưng Như Lai là pháp chủ, nếu ai nấy đối trước đức pháp chủ mà nói sai khác, th́ là điều chẳng nên. Do vậy, thỉnh đức Phật tự nói để hết thảy mọi người được nghe. V́ sao vậy? Bạch Thế Tôn! Chúng con đối trước đức Thế Tôn nói pháp do chính ḿnh thông đạt chẳng phải là điều đáng nên. Đó là lời đáp. Khi đó, các vị Kim Cang lại thỉnh đức Phật rằng: “Kính mong đức Thế Tôn thương xót chúng con, thị hiện câu lưu xuất từ Tất Địa. V́ lẽ nào? Đối trước đức Thế Tôn đáng tôn trọng mà tự tuyên nói, chỉ bày pháp do chính ḿnh thông đạt, chẳng phải là điều đáng nên”. Điều này có ư nghĩa như thế nào? Như Lai pháp vương tôn quư, thù thắng vô thượng đă hiện tiền thông đạt pháp này, thấy thấu suốt rơ ràng chẳng thừa sót. Chúng con do ân lực của Phật, đều từ một môn, thuận theo tâm lượng của chính ḿnh mà được thông đạt. Nếu chúng con đối trước bậc đại pháp chủ như thế mà tự xưng nói th́ chẳng đúng lẽ! Đấy là ư hổ thẹn, khiêm nhượng vậy. [Các vị Kim Cang] trần thuật ư nghĩa như thế, nguyện Phật hăy tự nói. V́ lẽ nào vậy? V́ chúng sanh trong đời vị lai gặp được pháp này, sẽ đạt được lợi ích to lớn, khai tri kiến của Phật, mau chóng thực hiện hoàn thành hạnh an lạc của Như Lai.

 

          (Kinh) Thời Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na cáo nhất thiết chư Chấp Kim Cang ngôn: - Thiện tai, thiện tai, thiện nam tử! Như Lai sở thuyết pháp Tỳ Nại Da xưng tán nhất pháp, sở vị hữu tu. Nhược hữu tu thiện nam tử, thiện nữ nhân, kiến như thị pháp, tốc sanh nhị sự, vị bất tác sở bất ưng tác, chúng sở xưng tán.

          ()時薄伽梵毘盧遮那告一切諸執金剛言善哉善哉善男子如來所說法毘柰耶稱讚一法所謂有羞若有羞善男子善女人見如是法速生二事謂不作所不應作眾所稱讚

          (Kinh: Khi đó, đức Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na bảo hết thảy các vị Chấp Kim Cang rằng: - Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Trong pháp Tỳ Nại Da do Như Lai nói, đă khen ngợi một pháp, chính là “có hổ thẹn”. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân có ḷng hổ thẹn, thấy pháp như thế, sẽ nhanh chóng sanh khởi hai chuyện, tức là chẳng làm chuyện không nên làm, và được đại chúng khen ngợi).

 

          Ư đức Phật là ca ngợi: Các vị thiện sĩ ấy tuy đă khéo thông đạt pháp môn mà họ đă nhập, nhưng do kính ngưỡng Như Lai mà sanh ḷng hổ thẹn, chẳng dám trần thuật [pháp môn ấy]. Hăy nên biết đấy là tướng trạng của bậc thiện sĩ, nên [đức Phật] bảo “Lành thay! Lành thay!” Kế đó, [đức Phật] liền dùng ngay điều các vị ấy đă làm để tiếp dẫn, cho nên nói “trong luật thuộc về pháp do đức Như Lai đă dạy, chỉ thường khen ngợi một pháp, tức là hổ thẹn”. Trong tiếng Phạn, [“hổ thẹn” (Lajja)] khác với “tàm quư” (Hrīapatrāpya). Giải thích tàm quư là như thế nào? Chính là có ḷng hổ thẹn. Nếu người có ḷng hổ thẹn, chính là có tàm quư. Như Lai thường khen ngợi pháp này. Nếu ai có tâm hổ thẹn, sẽ thành tựu hạnh bí mật. Hăy nên biết đó là chỗ phát khởi dấu tích (tức là hiện ra cách hành tŕ như thế để tiếp dẫn chúng sanh). Do có ḷng hổ thẹn, sẽ trọn đủ hai pháp:

          - Một là đối với các sự nghiệp chẳng nên làm, sẽ đều chẳng làm. Thế nào là “chẳng nên làm”? Như người trong thế gian, ai nấy hăy nên quán sát chuyện chẳng nên làm trong chủng tánh của chính ḿnh liền chẳng dám làm; thế gian gọi [người ấy] là người biết hổ thẹn. Nay thiện nam tử này cũng thế, tự quán sát chủng tánh của Như Lai, biết hết thảy các ác nghiệp trong pháp ấy thảy đều chẳng nên làm. Đấy chính là pháp thứ nhất.

          - Hai, do chẳng làm ác, sẽ được Như Lai khen ngợi. Không chỉ riêng Như Lai, mà c̣n được các hàng trời, người, A Tu La, sa-môn, Bà-la-môn và đại chúng thánh phàm trong mười phương đều thường khen ngợi, truyền nói. Đấy chính là quả báo do chẳng làm các điều ác. Lại nữa, điều được đại chúng khen ngợi chính là “đều hành hết thảy các điều thiện”. Do trọn đủ hết thảy các điều thiện, bèn được đại chúng khen ngợi.

 

          (Kinh) Phục hữu nhị sự, vị sở vị chí linh chí, đắc dữ Phật, Bồ Tát đồng xử.

          ()復有二事謂所未至令至得與佛菩薩同處  

          (Kinh: Lại có hai chuyện, tức là: Khiến đạt được điều chưa đạt đến, và được ở cùng chỗ với Phật, Bồ Tát).

 

          Nói “khiến cho đạt được điều chưa đạt được” chính là đạt được bến băi có vật báu trí Nhất Thiết Trí. Do có ḷng hổ thẹn, nên có thể hành hai pháp. Do hai pháp trên đây mà có thể đạt tới chỗ đáng nên đạt tới, trước kia chưa ngộ mà nay đắc ngộ, trước kia chưa nghe mà nay được nghe. Đó là một pháp.

          Điều thứ hai là do đạt tới điều trước kia chưa đạt, bèn sanh trong chủng tánh của Như Lai, ở cùng một chỗ với hết thảy Phật, Bồ Tát, thường chẳng ĺa bỏ sự thắng tấn vi diệu. Đấy chính là điều thứ hai.

 

          (Kinh) Phục hữu nhị sự, vị trụ Thi La, sanh ư nhân thiên.

          ()復有二事謂住尸羅生於人天

          (Kinh: Lại có hai chuyện là trụ trong Thi La và sanh trong trời người).

 

          “Trừ nóng bức, được mát mẻ” chính là ư nghĩa của Thi La. Như người nóng bức, nghĩ tưởng cái ao trong mát, hay căn nhà mát mẻ, kẻ khéo nhập liền ĺa các ương hoạn nhiệt năo. Lại như người bệnh nhiệt được trừ bệnh nhiệt độc, thân tâm liền mát mẻ, khéo được an vui, có ư nghĩa giống như thanh lương. Bậc Bồ Tát tánh giới thành tựu, chẳng do [vâng giữ] giới [do đức Phật] chế định mà tùy ư đều trọn đủ giới. Ví như biển cả, tánh nó vốn tự chẳng chứa đựng tử thi, chẳng có người hay vật nào có thể khiến cho nó như thế, chẳng giống như giới Thanh Văn.

          Pháp thứ hai là do trọn đủ giới, thường được sanh trong trời người. Đây là nói người chưa đạt đến địa vị đắc Pháp Thân, đời đời thường sanh trong nhân gian hay cơi trời, được ĺa chướng, thấy Phật, nghe pháp. Đấy chính là lợi ích to lớn.

 

          (Kinh) Thiện tai, đế thính, thiện tư niệm chi, ngă đương tuyên thuyết chân ngôn thành tựu lưu xuất tương ứng cú. Chư lưu xuất tương ứng cú, Chân Ngôn môn tu Bồ Đề chư Bồ Tát, tốc ư thị trung, đương đắc Chân Ngôn Tất Địa.

          ()善哉諦聽善思念之我當宣說真言成就流出相應句諸流出相應句真言門修菩提諸菩薩速於是中當得真言悉地

            (Kinh: Lành thay, lắng nghe, khéo suy nghĩ lấy. Ta sẽ tuyên nói câu tương ứng với sự lưu xuất bởi chân ngôn thành tựu. Do các câu lưu xuất tương ứng ấy, các vị Bồ Tát tu Bồ Đề trong Chân Ngôn môn sẽ nhanh chóng đạt được Chân Ngôn Tất Địa trong ấy).

 

          Trong từ ngữ “thiện tai” (lành thay) ở đây có hai nghĩa, tức là đức Phật tán thán phẩm đức hiền thiện của các vị ấy, hoặc là [nói “lành thay”] để bảo họ hăy khéo nghe. “Lưu xuất” là như đức Phật phóng quang, trước là có chỗ phát ra, tức là các chỗ như diện môn, hào tướng (tướng bạch hào giữa hai chân mày), đỉnh đầu v.v… Phóng ra làm Phật sự rộng khắp xong, lại trở vào [chỗ phát ra quang minh ấy]. Sự lưu xuất này của chân ngôn cũng giống như thế. Hăy nên biết từ chân ngôn lưu xuất chính là “lưu xuất cái quả Tất Địa”. Chân ngôn này vốn từ công đức tự chứng của Như Lai, từ tâm địa của đức Phật mà xuất hiện, tạo tác vô lượng pháp môn, thực hiện Phật sự to lớn. Thực hiện Phật sự xong, khiến cho chúng sanh đáng được độ sẽ do môn ấy mà nhập pháp giới của Phật, nên gọi là “lưu xuất”. V́ thế, kế đó nói “do câu tương ứng ấy, các vị Bồ Tát tu Bồ Đề trong Chân Ngôn môn sẽ nhanh chóng đạt được cái quả Chân Ngôn Tất Địa”. Cái quả trong ấy chính là cái quả trí Nhất Thiết Trí chẳng thể nghĩ bàn.

         

          (Kinh) Nhược hành giả kiến Mạn-đồ-la tôn sở ấn khả, thành tựu chân ngữ, phát Bồ Đề tâm, thâm tín từ bi, vô hữu xan lận, trụ ư điều phục, năng thiện phân biệt tùng duyên sở sanh, thọ tŕ cấm giới, thiện trụ chúng học, cụ xảo phương tiện dũng kiện, tri thời, phi thời, hiếu hành huệ xả, tâm vô bố úy, cần tu Chân Ngôn hành pháp, thông đạt Chân Ngôn thật nghĩa, thường nhạo tọa Thiền, nhạo tác thành tựu.

          ()若行者見漫羅尊所印可成就真語發菩提心深信慈悲無有慳悋住於調伏能善分別從緣所生受持禁戒善住眾學具巧方便勇健知時非時好行惠捨心無怖畏勤修真言行法通達真言實義常樂坐禪樂作成就

          (Kinh: Nếu hành giả thấy lời chân thật được bậc tôn quư trong Mạn-đồ-la ấn khả, thành tựu, sẽ phát tâm Bồ Đề, tin sâu từ bi, chẳng hề keo tiếc, trụ trong điều phục, có thể khéo phân biệt [các pháp] từ duyên sanh ra, thọ tŕ giới cấm, khéo trụ trong các điều học (các tướng thành tựu), trọn đủ phương tiện khéo léo, mạnh mẽ, biết đúng thời và chẳng đúng thời, thích hành xả thí rộng răi, tâm chẳng sợ hăi, siêng tu hành pháp Chân Ngôn, thông đạt thật nghĩa Chân Ngôn, thường thích tọa Thiền, thích tạo thành tựu).

 

          Kế đến là điều đầu tiên [trong Chân Ngôn Tất Địa], từ “nhược hành giả kiến Mạn-đồ-la tôn sở ấn khả thành tựu chân ngữ” (nếu hành giả thấy bậc tôn quư trong Mạn-đồ-la ấn khả, thành tựu lời chân thật) trở đi là nói về thứ tự trong pháp cúng dường. Trước hết, được thấy Mạn-đồ-la. Không chỉ được trông thấy mà thôi, cần phải được thầy thực hiện pháp gia tŕ, dẫn vào [Mạn-đồ-la] như trong phần trước đă nói. Không chỉ được vào mà thôi, [lại c̣n phải] theo thứ tự tu hành. Do thuận theo pháp tu hành, được A-xà-lê ấn khả, truyền pháp. Do được ấn khả, quán đảnh; kế đó, nói tới chuyện thành tựu Chân Ngôn.

          Lại nữa, trong phẩm Thế Gian Tŕ Tụng, trước hết là nói về cách quán viên minh, có cách niệm tụng hoàn nhiễu chân ngôn tự luân (đầu đuôi tiếp nối)[4]. Khi đó, chữ thứ nhất từ trong miệng tuôn ra, nhập vào thân, giống như hơi thở hít vào trọn khắp thân phần. Đấy là do thần lực tự tại của Như Lai gia tŕ. Người niệm như thế có thể trừ hết thảy nghiệp cấu của chúng sanh. [Chữ ấy] trọn khắp thân thể như thế xong, lại từ miệng [của hành giả] thoát ra, nhập vào chân Bổn Tôn, tới trọn khắp bổn xứ (tức là tưởng chữ ấy tới trọn khắp các thân phần của Bổn Tôn). Khi mỗi chữ lưu xuất như thế, từng chữ kế tiếp liên tục theo thứ tự liên hoàn chẳng ngừng. Nếu như người sơ học sợ tâm tán loạn, chẳng thể thành tựu như thế, hăy nên chỉ quán chữ chủng tử [của chân ngôn] để làm như trên, cho đến khi tâm đă quen thuộc, sẽ dần dần [quán tưởng] thêm chữ khác. Dời đoạn này thêm vào phẩm trước, như trong phần trước nói đă được thấy Mạn-đồ-la, lại được nhập vào đó, thực hiện các pháp sự cho đến quán đảnh. Đă được thọ pháp, tu hành đúng như pháp, khéo hiểu rành rẽ vô ngại pháp dụng theo thứ tự của chân ngôn, sẽ kham có thể truyền pháp, được thầy ấn khả. Chữ “tôn giả” trong chánh kinh chính là thầy.

          Lại c̣n có thể “phát Bồ Đề tâm”; đó chính là v́ cầu nghiệp tự tại của Như Lai, phổ môn lợi ích hết thảy chúng sanh mà làm chuyện này, chẳng phải v́ chuyện nào khác. “Thâm tín từ bi, vô hữu xan lận” (tin sâu từ bi, chẳng hề keo tiếc) tức là tin tưởng sâu xa pháp rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn, quyết định chánh tín, chẳng có ḷng nghi ngờ. Lại c̣n đối với tài và pháp, đều chẳng có ḷng keo tiếc. Do tâm đại từ bi mà xót thương hết thảy, thường hành hạnh lợi tha, chẳng cầu tự lợi. “Trụ ư điều phục” (trụ trong điều phục) tức là điều phục các căn thuộc lục t́nh; đấy chính là tánh giới[5]. “Năng thiện phân biệt tùng duyên sở sanh pháp” (khéo có thể phân biệt các pháp sanh bởi duyên): Ví như gương sáng, chiếu soi hiện bóng rành rẽ các vật đối trước nó. Các pháp như thế chẳng phải là có sẵn trong kính từ trước, chẳng phải do sắc đến từ bên ngoài. Hăy nên biết hai pháp ḥa hợp cũng chẳng thể sanh, nhưng rành rành hiện rơ trong ấy, chẳng thể chấp giữ, chẳng thể cầu được, mà cũng chẳng phải là có, chẳng phải là không, chỉ do các duyên ḥa hợp mà có thể trông thấy. Hăy nên biết hết thảy các pháp cũng giống như thế, cho đến mười thí dụ [về duyên sanh, tức như huyễn, như hóa, như thành Càn Thát Bà v.v…] đều có thể thông đạt. Quán như thế rồi, đối với cái quả Tất Địa của chân ngôn cũng quán như thế. Tướng Tất Địa ấy do nhân duyên thuộc người tŕ tụng và chân ngôn của Bổn Tôn ḥa hợp mà có hết thảy chuyện chẳng thể nghĩ bàn. H́nh tượng trong tấm gương pháp giới chẳng thể chấp trước, nhưng có đủ loại thành tựu.

          “Thọ tŕ cấm giới” tức là [thọ tŕ] giới cụ túc của Tŕ Minh, mỗi pháp tắc trong ấy đều khéo thọ tŕ. Do nhân duyên ấy, chẳng phạm tam-muội-da giới, đạt được Tất Địa thành tựu. “Thiện trụ chúng học” tức là đối với tướng thành tựu thượng, trung, hạ của các pháp trong Chân Ngôn, mỗi chuyện đáng nên học đều khéo thông đạt, tức là khéo trụ trong các pháp thượng, trung, hạ. “Cụ xảo phương tiện” (trọn đủ phương tiện khéo léo) tức là có thể thấu hiểu tác dụng quyền biến thiện xảo của Như Lai. Như khi tu Chân Ngôn hạnh, nếu đối với pháp xuất gia và Nhị Thừa có trái phạm, chớ nên sanh mê chấp như thế này: “Ta do chuyện này mà hủy phạm giới này”. Hăy nên biết bỏ đường ác và tâm ôm ấp chuyện làm ác sẽ trở ngại sự tu sửa chánh đáng. V́ sao? Tất cả các phương tiện của Như Lai chỉ v́ đại sự nhân duyên như thế đó. Nếu bảo “do chẳng tŕ phương tiện thuộc các giới thanh tịnh trong các thừa, sẽ trở ngại hạnh viên măn trong Chân Ngôn” th́ chẳng có lẽ ấy! Do vậy, nếu có lúc hành giả lỡ hủy phạm, hăy nên nghĩ như thế này: “Ta nay do chí cầu Vô Thượng Đại Thừa, lợi ích trọn khắp hết thảy hữu t́nh, mọi chuyện đều chẳng thể ổn thỏa được. Do vậy, trong ấy có trái phạm. Đợi cho đến khi ta đă thành tựu cái quả, sẽ nên hối lỗi”. Do thiện tâm ấy, sẽ chẳng phải là nhân duyên phạm giới, chẳng gọi là phạm giới. Ư nghĩa của “dũng mănh” như đă nói trong phần thầy tṛ thuộc phần trước.

          “Tri thời phi thời” (biết đúng thời và chẳng phải thời): Đối với mỗi thứ tự pháp dụng trong Chân Ngôn Môn, chẳng được đem phần trước ra đằng sau, chuyển đằng sau ra đằng trước! Hăy nên phần trước th́ làm trước, phần nên làm sau cũng như thế, đó gọi là “đúng thời”. Cho đến đủ loại các hạnh như ăn uống, ngủ nghê, mỗi mỗi đều có tướng thời và phi thời. Như hành giả Chân Ngôn mà nếu ban ngày ngủ vùi, suốt đêm chẳng ngủ, các chuyện như thế đều chẳng phải là tam-muội-da, do chẳng hợp thời vậy! “Hiếu hành huệ xả” (chuộng hành bố thí rộng răi): Chân Ngôn hạnh Bồ Tát thường dùng tài thí và pháp thí để nhiếp thủ chúng sanh, khiến cho họ nhập Phật đạo. Nếu chẳng thể tùy sức làm như thế, tức là phạm Tŕ Minh Giới.

          “Tâm vô bố úy” (Tâm chẳng sợ hăi): Nếu ở trong đại chúng, có các chúng sanh dị giải, dị kiến, sẽ hoặc là đoạn nghi cho họ, hoặc dùng cách thử hỏi sâu hay cạn để khiến cho họ thưa hỏi. Lúc bấy giờ, [hành giả Chân Ngôn] an trụ trong pháp, dùng tâm vô úy, tâm không chấp trước, thuận theo lời hỏi để nói, khiến cho người ấy (người thưa hỏi) nhập trong chánh kiến, tâm chẳng khiếp nhược. “Cần tu Chân Ngôn hạnh pháp” (siêng tu hạnh pháp Chân Ngôn): Trong tu hành môn, trọn chẳng gián đoạn giữa chừng, chẳng đ́nh trệ. Nếu bỏ phế giữa chừng, sẽ chẳng phải là tướng tinh tấn, chẳng đạt được cái đáng nên đắc, sẽ thoái thất cái đă đạt được, sẽ trở ngại trong đường đạo. V́ thế, hành giả nhất tâm tinh tấn như cứu đầu cháy. Do tinh tấn, chẳng buông lung, cho đến có thể đạt được tri kiến của Phật ngay trong đời này, huống hồ các pháp trợ đạo khác. Nếu chẳng phải như vậy, sẽ là phạm pháp tam-muội-da.

          “Thông đạt chân ngôn thật nghĩa” (thông đạt ư nghĩa chân thật của chân ngôn): Biết lư thú rất sâu trong các thành tựu thượng, trung, hạ. Trong mỗi từ ngữ, âm thanh nam, nữ v.v… từ nhập môn cho tới khi thành Phật, đều khéo phân biệt, biết các tướng thông, tắc trong đó. V́ lẽ nào vậy? Các chân ngôn ấy chính là công đức tự chứng của Như Lai, dùng đó để trang nghiêm Pháp Thân, khiến cho các chúng sanh ai nấy đều từ môn hữu duyên mà thấy Thật Tướng. Nếu lúc nhập một chữ, sẽ trọn đủ vô lượng môn công đức, chẳng hai, chẳng khác! “Thường nhạo tọa Thiền, nhạo tác thành tựu” (thường thích tọa Thiền, thích làm pháp thành tựu): Trong Chân Ngôn môn, tâm trụ trong một cảnh chẳng tán loạn. Như quán chữ, quán thanh, quán chủng tử của Bổn Tôn, tùy thuộc chuyện nào, tâm cũng đều chẳng duyên theo bên ngoài, sẽ có thể đạt được thành tựu to lớn. Nếu cái tâm tán loạn, dẫu trải qua vô lượng kiếp mong cầu thành tựu, vẫn chẳng thể được! Huống hồ là ngay trong một đời này mà đạt được pháp lợi ư?

          Kế đó, nói về tướng Chân Ngôn thành tựu. Chắc là có kẻ ngờ rằng: “Trong pháp vô vi thuộc về Thật Tướng của các pháp, cớ sao cũng có đủ loại sự tướng như thế vậy?” Nay muốn khiến cho họ ngộ, bèn đáp rằng: “Chuyện ấy thật sự có, chớ nên sanh nghi”. Lại c̣n dùng chuyện trong thế gian để làm thí dụ!

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Thí như Dục Giới hữu Tự Tại Duyệt Măn Ư minh, năi chí nhất thiết Dục Xứ thiên tử ư thử mê túy, xuất chúng diệu tạp loại hư tiếu, cập hiện chủng chủng tạp loại thọ dụng, biến thọ dụng, thọ dữ tự sở biến hóa, Tha Hóa Tự Tại Thiên đẳng nhi diệc tự thọ dụng chi.

          ()祕密主譬如欲界有自在悅滿意明乃至一切欲處天子於此迷醉出眾妙雜類戲笑及現種種雜類受用遍受用授與自所變化他化自在天等而亦自受用之

            (Kinh: Bí Mật Chủ! Ví như Dục Giới có minh chú tên là Tự Tại Duyệt Măn Ư, cho tới hết thảy các thiên tử thuộc Dục Xứ đều mê say trong đó, hiện ra các thứ vui cười mầu nhiệm đủ loại, và hiện các thứ thọ dụng đủ loại để thọ dụng trọn khắp, hoặc trao cho nhau các [thứ thọ dụng] do chính ḿnh biến hóa. Các vị Tha Hóa Tự Tại Thiên cũng tự thọ dụng).

 

          Như trong Đại Thừa nói, Dục Giới có ba mươi sáu chỗ, tức là [tám] hàn nhiệt địa ngục, mỗi nơi đều có hai chỗ, hợp thành mười sáu chỗ. Lại có bốn đại châu, mỗi đại châu lại đều có hai tùy châu (hợp thành mười hai châu[6], cộng với [các địa ngục] trên đây thành hai mươi tám chỗ), cùng với sáu tầng trời (Tứ Vương Thiên, Đao Lợi, Đâu Suất, Dạ Ma, Hóa Lạc, Tha Hóa Tự Tại), bàng sanh (súc sanh) và quỷ đạo (hợp thành ba mươi sáu chỗ). Tự Tại Thiên Chúa do sức của Duyệt Măn Ư Minh này, hiện ra đủ loại các vật lạc dục nhiều h́nh sắc, có thể cùng lúc trọn khắp ba mươi sáu chỗ. Lại c̣n nói “ư thử mê túy, xuất chúng diệu tạp loại thọ dụng biến thọ dụng, thọ dữ tự sở biến hóa, Tha Hóa Tự Tại Thiên đẳng nhi diệc tự thọ dụng chi (đều mê say trong đó, hiện ra các thứ thọ dụng đủ loại để thọ dụng trọn khắp, hoặc trao cho nhau các [thứ thọ dụng] do chính ḿnh biến hóa, các vị Tha Hóa Tự Tại Thiên cũng tự thọ dụng), [tức là] hóa hiện ra các thiên tử, thiên nữ v.v… thị hiện cảnh hữu t́nh và vô t́nh trong lẫn ngoài. Như hiện ra các thức ăn ngon lành, âm nhạc v.v… mỗi mỗi đều có thể hiện tiền thọ dụng. Nếu thấy các thân nữ sắc v.v… [chư thiên] cũng có thể tự hưởng vui ngũ dục, mỗi mỗi đều thuận theo ḷng ham muốn. Do gặp cảnh ngũ dục cực diệu, tâm đều say mê, [chú ngữ của Dục Giới mà c̣n có tác dụng to lớn như thế], huống hồ chân ngôn của Như Lai mà chẳng thể hiện trọn khắp các sắc thân thực hiện Phật sự ư?

 

          (Kinh) Hựu thiện nam tử! Như Ma Hê Thủ La thiên hữu Thắng Ư Sanh Minh, năng tác tam thiên đại thiên thế giới chúng sanh lợi ích, hóa nhất thiết thọ dụng, biến thọ dụng, thọ dữ Tịnh Cư chư thiên, diệc phục tự thọ dụng chi.

          ()又善男子如摩醯首羅天有勝意生明能作三千大千世界眾生利益化一切受用遍受用授與淨居諸天亦復自受用之

            (Kinh: Lại này thiện nam tử! Như Ma Hê Thủ La Thiên có minh chú Thắng Ư Sanh, có thể làm lợi ích cho chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới, hóa hiện hết thảy các thọ dụng, thọ dụng trọn khắp, [lại c̣n] trao cho các Tịnh Cư Thiên để họ cũng được tự thọ dụng).

 

          Như Ma Hê Thủ La thiên vương có một minh chú tên là Thắng Ư Sanh Minh. Do sức của chân ngôn này, có thể đồng thời tạo sự biến hóa to lớn, hóa hiện trọn khắp tam thiên đại thiên thế giới này, v́ mỗi chúng sanh hiện ra các chuyện lợi ích đáng ưa thích, để họ đều thọ dụng chân thật, chẳng dối. Lại c̣n hóa hiện thân Tịnh Cư Thiên và các sự thọ dụng vi diệu như trong kinh đă nói, huống hồ sức chân ngôn của Như Lai [mà chẳng có tác dụng to lớn hơn vậy] ư?

 

          (Kinh) Hựu như huyễn thuật chân ngôn năng hiện chủng chủng viên lâm, nhân vật, như A Tu La chân ngôn hiện huyễn hóa sự. Như thế chú thuật nhiếp độc, cập hàn nhiệt đẳng. Ma Đát Rị thần chân ngôn năng tác chúng sanh tật dịch tai lệ, cập thế gian chú thuật nhiếp trừ chúng độc, cập hàn nhiệt đẳng, năng biến xí hỏa nhi sanh thanh lương.

          ()又如幻術真言能現種種園林人物如阿修羅真言現幻化事如世呪術攝毒及寒熱等摩怛哩神真言能作眾生疾疫災厲及世間呪術攝除眾毒及寒熱等能變熾火而生清涼

          (Kinh: Lại như huyễn thuật chân ngôn có thể hóa hiện đủ loại vườn rừng, người, vật. Như chân ngôn của A Tu La hiện ra chuyện huyễn hóa. Như chú thuật của thế gian nhiếp trừ chất độc, bệnh hàn nhiệt v.v… Chân ngôn của thần Ma Đát Rị có thể gây bệnh dịch, tai ương cho chúng sanh, và chú thuật thế gian có thể nhiếp trừ các chất độc và bệnh hàn, nhiệt v.v…, có thể biến lửa mạnh thành mát mẻ).

 

          Hăy gác chuyện ấy lại, như huyễn thuật sư trong cơi đời c̣n có thể dùng chân ngôn của họ để hiện ra các thứ vườn quả và xe cộ, người, súc vật v.v… Lại như A Tu La tự có chân ngôn, có thể hiện thân giống như Đế Thích, ngồi trong Thiện Pháp Đường trên Tam Thập Tam Thiên, khiến cho hết thảy chư thiên đều sanh ḷng ngờ vực, quái lạ. Lại như người đời có chân ngôn, có thể nhiếp thọ các độc, và các bệnh hàn, nhiệt. Lại có chân ngôn của Ma Đát Rị Thiên (Mātṛ)[7] có thể gây ra tật dịch to lớn cho hết thảy mọi người, cho tới trong thế gian hiện thời có người do chân ngôn mà biến lửa thành lạnh, biến băng thành nóng, huống hồ chân ngôn được thần lực tự tại của Như Lai gia tŕ mà chẳng thực hiện Phật sự to lớn trọn khắp pháp giới ư?

 

          (Kinh) Thị cố thiện nam tử! Đương tín như thị lưu xuất cú chân ngôn oai đức. Thử chân ngôn oai đức phi tùng chân ngôn trung xuất, diệc bất nhập chúng sanh, bất ư tŕ tụng giả xứ nhi hữu khả đắc.

          ()是故善男子當信如是流出句真言威德此真言威德非從真言中出亦不入眾生不於持誦者處而有可得

          (Kinh: V́ thế, thiện nam tử! Hăy nên tin oai đức của câu chân ngôn lưu xuất như thế. Oai đức của chân ngôn ấy chẳng phát xuất từ trong chân ngôn, cũng chẳng vào trong chúng sanh, chẳng thể có đạt được từ nơi người tŕ tụng).

 

          V́ thế, hăy nên sanh tín tâm, tin tưởng lực dụng và oai đức ấy chân thật chẳng dối. Người tŕ tụng do chưa đạt được Tất Địa, sẽ sanh tâm nghi ngờ thật sự có chuyện ấy, hay là chắc chắn chẳng có! Cái quả chẳng thể nghĩ bàn như thế, nếu dùng tâm lượng để phân biệt, sẽ trọn chẳng thấu đạt lư. V́ trừ mối nghi này, [đức Thế Tôn] liền nói các thí dụ trên đây. Nhưng oai lực của chân ngôn chẳng từ chân ngôn phát ra, cũng chẳng từ chỗ người tŕ tụng, cũng chẳng nhập vào thân và miệng của người được gia tŕ đó. T́m cầu tánh lẫn tướng đều trọn chẳng thể được, mà có thể thực hiện hết thảy các sự thuận theo lẽ đáng nên, khéo léo thành tựu. Đấy chính là duyên khởi rất sâu. Pháp tánh từ các duyên mà có, như trăng trong nước, như h́nh bóng trong gương, là duyên khởi chẳng thể nghĩ bàn!

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Chân ngôn gia tŕ lực cố, pháp nhĩ nhi sanh, vô sở quá việt. Dĩ tam thời bất việt cố, thậm thâm bất tư nghị duyên sanh lư cố. Thị cố, thiện nam tử! Đương tùy thuận thông đạt bất tư nghị pháp tánh, thường bất đoạn tuyệt chân ngôn đạo.

          ()善男子真言加持力故法爾而生無所過越以三時不越故甚深不思議緣生理故是故善男子當隨順通達不思議法性常不斷絕真言道

          (Kinh: Thiện nam tử! Do sức gia tŕ của chân ngôn, pháp vốn sẵn như vậy mà sanh, không vượt qua. Do chẳng vượt ngoài ba thời, do lư duyên sanh rất sâu chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế, này thiện nam tử! Hăy nên tùy thuận thông đạt pháp tánh chẳng thể nghĩ bàn để thường tu đạo chân ngôn chẳng đoạn tuyệt).

 

          Đó là nói Chân Ngôn Tất Địa vốn sẵn thành tựu. V́ lẽ nào vậy? Như Lai hiện chứng pháp chẳng thể nghĩ bàn như thế, tức là tự thể của chữ A từ cái gốc vốn đă sẵn trọn đủ vô lượng sức tự tại chẳng thể nghĩ bàn. Thể của Tất Địa là thường trụ bất biến, chỉ do hành nhân chẳng tự biết rơ, nên chẳng đạt được cái quả như thế. Nay dùng hạnh này để tịnh hóa thân, khẩu, ư nghiệp, nếu có thể tương ứng với pháp, sẽ tự thành tựu. Các pháp vốn tự như thế, trọn chẳng hư dối. Cái quả chẳng nghĩ bàn ấy, khi các duyên tụ hội sẽ tự sanh khởi, giống như sóng trong biển cả trọn chẳng lỡ thời. Hơn nữa, chân ngôn này, tự không có khởi đầu, chẳng có kết thúc. Nếu có khởi đầu và kết thúc th́ sẽ có cùng tận, tức là pháp vô thường, bại hoại, sao có thể gọi là sức tự tại của Như Lai cho được? Do pháp thể này vượt ngoài ba đời, thường ở trong ba đời; v́ thế, trong ba đời tự nhiên thường làm Phật sự, chẳng phế bỏ, chẳng lỡ kỳ hạn. Như nước trong biển cả, nếu nhằm lúc trăng tṛn, tự nhiên [sóng ṃi] bủa trào, chẳng lỡ thời.

          “Thậm thâm bất tư nghị duyên sanh lư” (lư duyên sanh chẳng nghĩ bàn rất sâu): Nếu bản thể của chân ngôn trước đó đă chẳng thành tựu, sẽ chẳng thể thuận theo cảm mà ứng chẳng lỡ kỳ hạn! Tuy chân ngôn có sức ấy, nhưng nếu tâm hạnh của hành nhân chưa tương ứng, cũng sẽ chẳng thể khiến cho sự gia tŕ đó hiển hiện được! Nhưng duyên tụ hội sẽ tự thành; v́ thế biết là chẳng từ nơi kia mà tới, chẳng từ nơi này mà đi, cũng chẳng phải ở hai nơi ấy. Vô tánh mà có duyên tụ hội th́ cũng thành cái quả Tất Địa, cũng chẳng phải là tự nhiên mà có. Hăy nên biết: Đấy là cái quả pháp giới chẳng thể nghĩ bàn rất sâu! Từ duyên mà khởi, thường tự vô tánh, chẳng thể nghĩ bàn. Nếu hành nhân tu hành chẳng dứt, ắt sẽ cực quả khế hợp chí lư. Chí lư (lư cùng tột) như thế, chẳng thể do suy lường mà có thể biết rơ được. Đó là [lư do đức Phật] nêu ra các thí dụ trên đây để khuyến tín. “Thị cố, thiện nam tử! Tùy thuận thông đạt bất tư nghị pháp tánh, thường bất đoạn tuyệt chân ngôn đạo” (V́ thế, thiện nam tử! Hăy tùy thuận thông đạt pháp tánh chẳng nghĩ bàn để thường tu đạo chân ngôn chẳng đoạn tuyệt): Cái quả chân ngôn chẳng thể nghĩ bàn ấy đă chẳng do phân biệt mà có thể biết được, chẳng do thuận theo sức chấp trước hành xứ, hoặc hạnh đối trị nhỏ nhoi mà có thể thủ chứng được! Do vậy, chỉ những ai có tín lực kiên cố th́ mới có thể tiến nhập! V́ thế, trước hết nêu thí dụ; kế đó, nêu ra chí lư, khuyên [thính chúng] hăy nương vào môn này, quán chí lư duyên sanh chẳng thể nghĩ bàn, thường cầu thông đạt pháp tánh chẳng nghĩ bàn như thế, tùy thuận lư ấy để tu hạnh Chân Ngôn sao cho chẳng gián đoạn, sẽ tự nhiên thành Phật. Đạo chân ngôn này chính là chỗ sanh khởi của pháp chẳng thể nghĩ bàn. Do cái nhân chẳng thể nghĩ bàn mà đạt được cái quả chẳng thể nghĩ bàn!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục trụ tam thế vô ngại lực, y Như Lai gia tŕ bất tư nghị lực, y Trang Nghiêm Thanh Tịnh Tạng tam-muội.

          ()爾時世尊復住三世無礙力依如來加持不思議力依莊嚴清淨藏三昧

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại trụ trong sức ba đời vô ngại, nương vào sức gia tŕ chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, nương vào Trang Nghiêm Thanh Tịnh Tạng tam-muội).

 

          Nương vào sức tam thế vô ngại, nương vào sức chẳng thể nghĩ bàn của Phật; ở đây, có hai loại nương cậy ấy. Tam-muội ở đây chính là chỗ y chỉ của lực dụng gia tŕ ba đời không chướng ngại chẳng thể nghĩ bàn. Nương vào pháp thể ấy để có thể thành tựu nghiệp chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tức là trọn khắp mười phương ba đời, lợi ích trọn khắp hết thảy các chúng sanh, thảy đều khiến cho họ rốt ráo trụ trong địa vị của trí Nhất Thiết Trí. Đấy chính là Như Lai nương vào pháp tự chứng chẳng thể nghĩ bàn, dùng vô lượng các sức định trí để tự trang nghiêm thanh tịnh. Đó chính là cái Thể của chân ngôn vậy. Đấy cũng là tạng các công đức của Như Lai, vô tận trang nghiêm, chẳng có khuyết giảm, thành tựu trọn vẹn các tướng.

 

          (Kinh) Tức thời Thế Tôn tùng Tam Ma Bát Để trung, xuất vô tận giới, vô tận ngữ biểu, y pháp giới lực, vô đẳng lực, chánh đẳng giác tín giải, dĩ nhất âm thanh tứ xứ lưu xuất, phổ biến nhất thiết pháp giới, dữ hư không đẳng, vô sở bất chí. Chân ngôn viết: - Nam ma tát bà đát tha nghiệt đế phiêu, vi thấp phạ mục khế t, tát bà tha, a a ám á.

    ()即時世尊從三摩鉢底中出無盡界無盡語表依法界力無等力正等覺信解以一音聲四處流出普遍一切法界與虛空等無所不至真言曰南麼薩婆怛他蘖帝驃微濕嚩目契弊薩婆他阿阿闇噁

    (Kinh: Lập tức, đức Thế Tôn từ trong Tam Ma Bát Để (Samāpatti)[8], phát ra ngữ biểu[9] vô tận của vô tận giới, nương vào sức pháp giới, sức không sánh bằng, chánh đẳng giác tín giải, dùng một âm thanh lưu xuất bốn xứ, trọn khắp hết thảy các pháp giới, giống như hư không, không đâu chẳng thấu đến. Chân ngôn rằng: - Nam ma tát bà đát tha nghiệt đế phiêu, vi thấp phạ mục khế t, tát bà tha, a a ám á).

 

          Ư nói từ chữ A phát ra ba chữ (A (âm dài), Ám, Á), [cộng với chính chữ A] thành bốn chữ. Bốn chữ ấy hợp thành một, trọn khắp hết thảy các chốn. Âm thanh của các tự môn ấy cũng trọn khắp hết thảy. “Phổ biến nhất thiết pháp giới, dữ hư không đẳng vô sở bất chí” (trọn khắp hết thảy pháp giới, bằng với hư không, không đâu chẳng đến): Khi đức Phật trụ trong tam-muội, sanh khởi biểu nghiệp này, “biểu” () tức là nêu ra. Âm thanh ấy có thể trọn khắp hết thảy, được gọi là “chư Phật ấn khả, thành tựu”. “Ấn” có nghĩa là tiêu biểu, tức là ngữ biểu của Như Lai, nghĩa là từ sức tín giải của Như Lai (trong phần Tự đă giải thích điều này). Chỗ âm thanh của Thanh Văn phát ra được gọi là Môn, Thanh Văn ở đây chính là bốn chữ như A, Ám, Á v.v… Do từ chữ A ấy mà phát ra âm thanh; do vậy gọi là Môn. Chữ A ấy chính là Phật khẩu, chính là Phật tâm, chính là người nói, chính là người nghe, là sức nương vào pháp giới, là sức không ǵ sánh bằng để sanh khởi ngữ biểu b́nh đẳng, vô ngại, phát ra vô lượng âm thanh, tức là tác dụng hướng dẫn, lợi lạc trọn khắp nơi ngữ nghiệp của Như Lai. Từ tâm Như Lai, lưu xuất diệu âm b́nh đẳng ấy, chia thành bốn chỗ, như từ ao lớn Vô Nhiệt[10] tuôn chảy bốn con sông lớn chẳng khô cạn. Chỗ nương vào của chân ngôn này cũng giống như thế: Do một diệu âm, có thể biểu thị vô tận pháp giới, xoay vần sanh khởi, chẳng có cùng tận. “Tứ xứ” ở đây chính là bốn chữ (A, Ā, Aṃ, Aḥ), Tứ Đức, bốn màu, bốn thỏa nguyện, từ Tứ Đức trong tâm Phật mà nở x̣e. Trong ấy, dùng Sự để biểu thị lư nội chứng, tức là bốn chữ bất đồng, bốn màu có công dụng khác biệt, nguyện được thỏa cũng lại bất đồng. Tứ Đức ấy phổ biến hư không giới, như hư không vô lượng, chẳng có phân biệt, ĺa chính giữa và bờ mé, chẳng có cùng tận. Chân ngôn này thị hiện cũng lại giống như thế.

          Kế đó, [chánh kinh] nói trong tâm Phật chia thành bốn chỗ. Trước hết, chân ngôn nói “quy mạng hết thảy các Như Lai” (tức câu “Nam ma tát bà đát tha nghiệt đế phiêu” - Namaḥ sarvatathāgatebhyo). Câu kế đó là các thứ môn. Vi Thấp Phạ (Viśva) là các thứ nghĩa, mà cũng là nghĩa “hay khéo”. Mục Khế Tệ (Mukhebhyaḥ) nghĩa là môn, tức là Phổ Môn thị hiện các loại trí nghiệp xảo độ môn. Tát Phạ Tha (Sarvathā) là hết thảy. Không chỉ là thân và miệng dốc ḷng lễ kính, mà thậm chí ba nghiệp cũng đều quy mạng trọn khắp. Như thân biểu thị điều chất chứa trong tâm, mỗi chi phần của thân ở bên ngoài đều lễ khắp hết thảy các đức Như Lai.

 

          (Kinh) Chánh Đẳng Giác tâm tùng thị phổ biến, tức thời, nhất thiết pháp giới chư thanh môn tùng Chánh Đẳng Giác tiêu xí chi âm, nhi hỗ xuất thanh. Chư Bồ Tát văn thị dĩ, đắc vị tằng hữu khai phu nhăn, phát mỹ diệu ngôn âm, ư Nhất Thiết Trí ly nhiệt giả tiền, nhi thuyết tụng viết.

          ()正等覺心從是普遍即時一切法界諸聲門從正等覺幖幟之音而互出聲諸菩薩聞是已得未曾有開敷眼妙言音於一切智離熱者前而說頌

     (Kinh: Từ đó (từ chân ngôn đó), tâm Chánh Đẳng Giác trọn khắp. Ngay lập tức, hết thảy các thanh môn trong pháp giới từ âm thanh tiêu biểu cho Chánh Đẳng Giác bèn lần lượt phát ra. Các Bồ Tát nghe các âm thanh ấy xong, được mở bừng mắt chưa từng có, thốt ra âm thanh đẹp đẽ, nhiệm mầu, đối trước đấng Nhất Thiết Trí ĺa nhiệt năo mà nói kệ tụng rằng).

 

          Kế đó, nói về cái Thể của chân ngôn, ư nghĩa của bốn chữ A, A, Ám, Á (A, Ā, Aṃ, Aḥ) như đă nói. “Tùng thị phổ biến, Chánh Đẳng Giác tâm” (từ [chân ngôn] ấy mà tâm Chánh Đẳng Giác trọn khắp), “tùng” là phổ biến. Tức thời, các môn âm thanh trong pháp giới từ âm thanh biểu trưng của Chánh Đẳng Giác, tức là từ Tứ Đức của chân ngôn bèn trọn khắp tâm của hết thảy chư Như Lai. Như từ một chữ sanh ra hai chữ, hai chữ sanh ra bốn chữ, bốn chữ sanh ra tám, tám sanh ra mười sáu, xoay vần vô cùng như thế. Nhưng chữ ban đầu giống như chữ thứ hai. Chữ thứ hai cũng b́nh đẳng chẳng sai biệt với chữ thứ ba. Bốn chữ ấy chính là cái Thể được đề cao chánh yếu trong bộ kinh này, hết thảy bí tạng đều sanh từ đó, chính là tâm của Tỳ Lô Giá Na Phật. Điều này biểu thị các âm thanh hỗ tương phát ra tiếng, như trong phần trên [vừa mới nói] từ một phát ra bốn, từ bốn phát ra vô lượng chữ và âm thanh trọn khắp pháp giới. Âm thanh của mỗi chữ đều phát ra lẫn nhau, [nghĩa là] trong âm thanh của một chữ, phát ra âm thanh của hết thảy các chữ khác. Các chữ khác cũng thế. Đấy chính là tác dụng tiêu biểu của Phật. Các âm thanh chẳng nghĩ bàn ấy thông đạt lẫn nhau, biểu thị hết thảy vô lượng tự đức và tha đức của hết thảy Như Lai. Trong một âm thanh, đều phát ra vô lượng các thứ âm thanh cú nghĩa. V́ thế nói là “nhi hỗ xuất thanh” (hỗ tương phát ra tiếng). “Chư Bồ Tát kiến văn thị dĩ, đắc vị tằng hữu” (các Bồ Tát thấy, nghe âm thanh ấy rồi, đạt được điều chưa từng có) cho nên nói là “hy hữu”. “Khai phu nhăn” (mắt mở bừng): Khi tâm đă định th́ mắt chẳng mở, chẳng nhắm. Nay thấy chuyện ấy, kinh ngạc, cho là chưa từng có, cho nên mở bừng mắt. Nay tôi riêng cho rằng: Như hoa sen chưa nở, do ánh nắng mặt trời mà được nở x̣e. Tâm mục của các vị Bồ Tát này cũng thế, do Phật gia tŕ thị hiện, cho nên mở to. “Phát mỹ diệu ngôn âm, ư Nhất Thiết Trí ly nhiệt năo giả tiền, nhi thuyết tụng viết” (thốt ra tiếng nói đẹp đẽ, mầu nhiệm, đối trước bậc Nhất Thiết Trí đă ĺa nhiệt năo mà nói kệ tụng rằng), tức là đối trước các bậc đă đạt được Nhất Thiết Trí ĺa nhiệt năo mà ca ngợi.

 

          (Kinh) Kỳ tai Chân Ngôn hạnh, năng cụ quảng đại trí.

          ()奇哉真言行能具廣大智

          (Kinh: Lạ thay hạnh Chân Ngôn, trọn đủ trí rộng lớn).

 

          Tán thán hạnh Chân Ngôn này hết sức kỳ đặc: Từ Như Lai tâm mà có thể hiện ra Tứ Đức. Từ đấy, mỗi đức đều phát xuất vô lượng âm thanh bí diệu chẳng nghĩ bàn trọn khắp pháp giới. Mỗi âm thanh lại lần lượt phát ra hết thảy các âm thanh chẳng hai, chẳng khác, nhưng có tác dụng sai biệt để hoàn thành Phật sự, tức là biểu lộ Pháp Thân bí mật trong tạng diệu nghiêm của Như Lai trọn đủ vô lượng công đức trang nghiêm. Do vậy nói “năng cụ quảng đại trí” (có thể trọn đủ trí rộng lớn). Trí ấy chẳng có ngằn mé, giống như thái hư chứa đựng muôn vàn h́nh tượng, cho nên nói là “quảng”. Do vậy, quảng trí tức là vô đẳng trí (trí không ǵ bằng), vô tỷ trí (trí khôn sánh). Do trí cú (câu trí huệ) ấy, sẽ có thể thành Phật.

 

          (Kinh) Nhược biến bố thử giả, thành Phật Lưỡng Túc Tôn.

          ()若遍布此者,成佛兩足尊。

          (Kinh: Nếu phổ biến chú ấy, thành Phật Lưỡng Túc Tôn).

 

          “Nhược biến bố thử giả” tức là đem chân ngôn ấy phổ biến trong hết thảy các thế giới, tức là môn chữ A. “Thành Phật Lưỡng Túc Tôn”: Trong chữ chân ngôn, dùng diệu âm ấy để phổ biến trong các thế giới, có thể khiến cho người nghe nhất định đắc Vô Thượng Bồ Đề. V́ thế nói là “thành Phật Lưỡng Túc Tôn”.

 

          (Kinh) Thị cố, cần tinh tấn, ư chư Phật ngữ tâm, thường tác vô gián tu, tịnh tâm ly ư ngă.

          ()是故勤精進,於諸佛語心,常作無間修,淨心離於我。

          (Kinh: Do vậy, siêng tinh tấn, với chư Phật ngữ tâm, thường tu chẳng gián đoạn, tịnh tâm ĺa khỏi ngă).

 

          Có hai thứ siêng năng: Loại siêng năng trước chính là tinh tấn chẳng gián đoạn. Loại siêng năng thứ hai là thường tu chẳng gián đoạn. [Hai loại siêng năng ấy, nói theo] âm tiếng Phạn sẽ sai khác. Tức là trong tâm chân ngôn do hết thảy các đức Như Lai đă nói đó, dùng bốn chữ trên đây để khuyên các chúng sanh hăy nên lắng ḷng siêng năng tu học tâm chân ngôn đă nói như thế sao cho đừng gián đoạn, thường nên dùng tâm chân ngôn ấy để tịnh cái tâm. “Tịnh” tức là tịnh trừ hết thảy các vọng nghiệp, các chướng trong và ngoài. “Ly ngă” là ĺa hai món Nhân Ngă và Pháp Ngă. Hăy nên biết cái tâm ấy chính là Phật tâm. Phật tâm chính là chân ngôn tâm.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Bạc Già Phạm, phục thuyết thử pháp cú: - Ư Chánh Đẳng Giác tâm, nhi tác thành tựu giả.

          ()時薄伽梵說此法於正等覺心而作成就者

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm lại nói pháp cú này: - Trong tâm Chánh Đẳng Giác, mà thực hiện thành tựu).

 

          Phẩm trước đă nói sự thành tựu trong thế gian giúp hành nhân đạt tới thành tựu xuất thế gian. Do vậy, ở đây nói dùng Phật tâm để làm nghiệp thành tựu xuất thế gian. “Phật tâm” tức là bốn chữ chân ngôn trên đây, tùy ư lấy một chữ nào để thực hiện cũng đều được. Thực hiện thành tựu cái quả ấy, sẽ đạt được cái quả xuất thế. “Chánh Đẳng Giác tâm” chính là chân ngôn tâm.

 

          (Kinh) Ư viên uyển, tăng phường, nhược tại nham quật trung, hoặc ư sở nhạo xứ, quán bỉ Bồ Đề tâm, năi chí sơ an trụ, bất sanh nghi lự ư.

          ()於園苑僧坊,若在巖窟中,或意所樂處,觀彼菩提心,乃至初安住,不生疑慮意。

          (Kinh: Nơi vườn hoa, tăng phường, hoặc nơi vách núi, hang, hoặc chỗ ḿnh yêu thích, quán tâm Bồ Đề ấy, cho đến mới an trụ, chẳng sanh ư ngờ, lo).

 

           Muốn thực hiện pháp thành tựu ấy, hăy nên chọn nơi chốn trước. “Viên uyển” là chỗ [cây cối] do con người vun trồng, cắt xén, th́ mới là viên uyển. Nếu không trồng mà tự mọc th́ là đồng hoang, chẳng phải là viên uyển. “Tự” trong tiếng Phạn là Tỳ Ha La (Vihāra), phương này dịch là Trụ Xứ. “Quật” () là hang đá tự nhiên trong núi, hoặc do sức người đào khoét. Hoặc là chỗ hành nhân yêu thích, th́ cũng là nơi thích hợp để tu đạo. Nếu nói theo ư nghĩa bí mật, “viên uyển” chính là Đại Bồ Đề tâm. Chỗ ấy rộng răi, không ǵ chẳng có. Nương vào đấy để tu đạo, sẽ là chỗ tốt nhất. “Trụ” là Tứ Phạm Trụ, hoặc nói là đại bi, do hết thảy Bồ Tát thường thích trụ trong ấy. “Quật” là chỗ sâu thẳm, thanh nhàn, tức là hang Thiền Định rất sâu, sư tử là vua các loài thú cũng ngự trong đó. Hoặc “chỗ yêu thích” tức là đối với các pháp môn, tùy thuộc pháp nào thuận tiện, sẽ hệ niệm một môn mà hành, chẳng hạn như Lục Độ v.v… như kinh Bát Nhă đă nói, từ trong đó mà tùy ư tự tu.

          “Quán bỉ Bồ Đề tâm, năi chí sơ an trụ, bất sanh nghi lự ư” (Quán cái tâm Bồ Đề ấy, cho đến khi mới an trụ, chẳng sanh ư niệm ngờ vực, lo ngại) tức là dùng tâm để quán Bồ Đề tâm của chính ḿnh. Đấy là chánh hạnh xuất thế. Trụ trong ấy, chẳng duyên theo điều ǵ khác, tức là tam-muội. Ở trong pháp Quán ấy, do thường tự giác, hết thảy các lưới nghi sẽ dần dần trừ sạch, thậm chí đạt đến chỗ “không nghi ngờ”. Các mối nghi chẳng sanh, tức là thật sự trụ trong Bồ Đề tâm. Khi ấy, có đủ loại tướng mạo v.v… chớ nên sanh ḷng lo ngờ, sẽ dần dần thấy Chân Thật Như. Nhưng khi hành điều đó, đại lược có hai địa vị: Một là chẳng phải là địa vị Tam-ma-hế-đa, và hai là địa vị Tam-ma-hế-đa (Samāhita, dịch là Đẳng Dẫn). Trong lúc chưa thành tựu mà đă có tướng thành tựu trước, cho đến khi sắp thành tựu, cũng có tướng sắp thành tựu. Đấy đều chẳng phải là địa vị Tam-ma-hế-đa. Tức là khi mới đạt được thành tựu thế gian, các thứ được gia tŕ như dược vật v.v… đều có lực dụng chẳng thể nghĩ bàn. Thậm chí [nhờ vào lực dụng của các dược vật ấy], có thể dạo chơi các cơi Phật. Tuy là tướng chưa thành tựu, mà giống như đă đạt được chuyện ứng nghiệm chẳng thể nghĩ bàn trong hiện tại. Tâm quyết định tín càng thêm tăng tấn thù thắng, được nhập vào địa vị Đẳng Dẫn. Khi hành giả mới tu phương tiện xuất thế gian quán, trước hết quán Bổn Tôn, nương vào tượng vẽ để khéo quán xong. Thoạt đầu, khi nhắm mắt bèn thấy rành rẽ; sau đó, dần dần mở mắt cũng thấy, [tướng đă quán] hiển hiện rành rẽ, chẳng bị ẩn lấp, mù mờ. Đấy chưa phải là Đẳng Dẫn. Nếu do đạt được chuyện như thế, cái tâm sanh tin tưởng, vui sướng gấp bội. Do ḷng tin ấy mà cái tâm thanh tịnh, tâm sẽ dần dần chẳng chấp trước, b́nh đẳng bất nhị. Sự bất nhị ấy cũng trừ bỏ, chẳng có cái thấy “trung biên” (chính giữa hay bờ mé, tức là chẳng thấy có nhị biên, chẳng thấy chính ḿnh chẳng chấp vào hai bên) sai khác, trừ các tâm duyên, vạn pháp b́nh đẳng. Khi đó, gọi là tướng Đẳng Chí. Do khi các tướng hiện, tuy chưa thành tựu, nhưng do vậy mà có thể dần dần được thành, nên nói “đấy chưa phải là địa vị Đẳng Dẫn” (tôi cho rằng là như thế gian chưa đạt tới môn Định thuộc mỗi địa vị vậy).

 

          (Kinh) Tùy thủ bỉ nhất tâm, dĩ tâm trí ư tâm, chứng ư cực tịnh cú. Vô cấu an bất động, bất phân biệt như kính, hiện tiền thậm vi tế. Nhược bỉ thường quán sát, tu tập nhi tương ứng, năi chí bổn sở tôn, tự thân tượng giai hiện.

          ()隨取彼一心,以心置於心,證於極淨句,無垢安不動,不分別如鏡,現前甚微細。若彼常觀察修習而相應乃至本所尊自身像皆現

          (Kinh: Tùy chọn một tâm ấy, đem tâm đặt nơi tâm, chứng biết câu cực tịnh. Vô cấu, an, bất động, chẳng phân biệt như gương, hiện tiền, rất vi tế. Nếu như thường quán sát, tu tập đạt tương ứng, thậm chí đức Bổn Tôn, tự thân Ngài đều hiện).

 

          Trước hết là quán Bổn Tôn đă hiện rành rẽ. Trong bốn chữ, tùy ư chọn một chữ đặt trên tâm của Bổn Tôn, chánh kinh nói điều này là “dữ tâm tương ứng” (tương ứng với tâm), tức là dùng chữ của Phật tâm để đặt trên tâm của Bổn Tôn (“Thủ tâm” chính là lấy chữ thuộc Phật tâm, đặt ở trên Phật tâm, th́ gọi là “dữ tâm”). Tùy ư chọn lấy một chân ngôn tâm, tưởng đặt chân ngôn tâm nơi tâm của Bổn Tôn. Hoặc tưởng thân của chính ḿnh là Bổn Tôn để đặt tâm chân ngôn nơi tim của chính ḿnh. V́ thế nói là “dĩ tâm trí ư tâm” (dùng tâm chân ngôn đặt nơi tâm) v.v… Khi quán như thế, hăy quán vô cấu cực tịnh, do hết thảy Bổn Tôn nơi tâm thường là như thế. Khi quán tịnh như vậy, do chẳng duyên theo bên ngoài, an trụ bất động, chẳng phân biệt hết thảy pháp tướng để rồi nẩy sanh vọng tưởng. Khi đó, tương ứng với Quán Phật tam-muội v.v… Ví như người có con mắt thanh tịnh, đối diện gương sáng. “Gương” ở đây chính là quán sự viên minh, thanh tịnh vô cấu nơi tâm của Bổn Tôn. Nói “cực vi” tức là thoạt đầu quán chữ chủng tử sao cho cực nhỏ bé, do đó là chủng tử của tâm vậy. Trước là đă quán thấy h́nh tượng Bổn Tôn rồi, nơi tâm Bổn Tôn, quán cái gương sáng sạch ấy, trong gương có chữ ấy. Nhất tâm quán chữ ấy, tức là từ trong ấy được thấy h́nh tướng chân thật của Bổn Tôn, mà cũng từ trong cái gương tṛn sáng ấy, tự thấy thân ḿnh. Đấy vẫn chưa phải là tướng Đẳng Dẫn. Chỉ trụ trong một cảnh như thế, chẳng bị cấu chướng lay động. Do thường tu tập như thế, khi h́nh bóng của chính ḿnh hiện ra, nơi tim cũng có viên minh (ṿng tṛn sáng suốt thanh tịnh như cái gương) và chữ. Lúc mới quán, hễ thấy một chữ th́ ba sự đều tự nhiên hiện. Lúc sau, từ trên viên minh nơi tâm, trông thấy Bổn Tôn. Nơi viên minh của Bổn Tôn, lại thấy thân ḿnh. Soi tỏ lẫn nhau như thế chẳng có chướng ngại, gọi là “ảnh tượng thành tựu”. Đấy vẫn chẳng phải là địa vị Đẳng Dẫn!

 

          (Kinh) Đệ nhị Chánh Giác cú, ư kính Mạn-noa-la, đại liên hoa vương ṭa, thâm thúy trụ tam-muội.

          ()第二正覺句於鏡漫拏羅大蓮華王座深邃住三昧

          (Kinh: Câu Chánh Giác thứ hai, nơi kính Mạn-noa-la, ṭa đại liên hoa vương, sâu thẳm trụ tam-muội).

 

          Thoạt đầu là quán Bổn Tôn, nay th́ chỉ quán Phật. V́ lẽ nào vậy? Do hết thảy các h́nh tượng tôn thánh đều là các môn để thấy Pháp Thân. “Ư kính Mạn-noa-la, đại liên hoa vương ṭa, thâm thúy trụ tam-muội”: Trong gương ấy, lại có h́nh tượng hang động. Quán hang động ấy rất sâu, trong đó có Như Lai ngồi lặng lẽ trong cái hang ấy.

 

          (Kinh) Tổng tŕ phát kế quan, vô lượng quang vi nhiễu, ly vọng chấp phân biệt, bổn tịch như hư không. Ư bỉ trung tư duy, tác nhiếp ư niệm tụng, nhất nguyệt tu Đẳng Dẫn, tŕ măn nhất lạc-xoa. Thị vi tối sơ nguyệt, tŕ chân ngôn pháp tắc.

      ()總持髮髻冠無量光圍繞離妄執分別本寂如虛空於彼中思惟作攝意念誦一月修等引持滿一落叉是為最初月,持真言法則。

    (Kinh: Măo che tóc Tổng Tŕ, vô lượng quang vây quanh. Ĺa vọng chấp phân biệt, vốn tịch như hư không. Tư duy ở trong ấy, nhiếp ư để niệm tụng, một tháng tu Đẳng Dẫn, tŕ đủ một lạc-xoa. Đó là tháng đầu tiên, tŕ pháp tắc chân ngôn).

 

          Ở trong ấy, quán như thế, đó gọi là “thật sự thấy Phật”. Khi thấy như thế, tưởng nơi tâm đức Phật ấy có chữ, nhất tâm tụng chữ chân ngôn ấy. Đó là một mực nhiếp ư nơi một cảnh, chẳng có một ngoại duyên nào. Tâm tâm niệm tụng, chẳng để cho người khác nghe thấy, nhưng trong Định tự nhiên có âm thanh lưu xuất như nước chảy không ngừng. Nói “một lạc-xoa”, phương này dịch [lạc-xoa] là “thấy”, nghĩa là tâm trụ nơi một duyên, hiện tiền rành rẽ. Nếu nói theo ngôn ngữ thế gian th́ [lạc-xoa] sẽ là mười vạn lần. “Nhất nguyệt tụng” th́ “nhất nguyệt” chính là Đẳng Dẫn viên măn, nhập Sơ Địa. Trong bí tạng, Sơ Địa là tháng thứ nhất; đó chính là địa vị Đẳng Dẫn. Trong phần trước đă nói ba câu: “Bồ Đề tâm là chủng tử, đại bi là căn, phương tiện là sau cùng”. Ở đây nói cặn kẽ về hành pháp.

          Câu thứ hai là quán Phật trong hang sâu nơi tâm kính (cái gương nơi tâm), cho đến quán thân chính ḿnh là Bổn Tôn. Trước hết, quán cái gương tṛn sáng tṛn sạch nơi tâm Bổn Tôn, trong gương có h́nh dạng hang đá, trong ấy có Bổn Tôn, tức là thật sự thấy Phật. Đă thấy Phật rồi, trong tâm vị Phật ấy lại có [tấm gương] tṛn, sáng, viên măn, thanh tịnh. Thoạt đầu, tâm kính cực tịnh ấy rất nhỏ bé; sau đó lớn dần, đối diện rành rành, nên nói là “hiện tiền”. Trong [tâm kính] thanh tịnh khôn sánh ấy, có chữ chủng tử. Nhất tâm chánh quán chữ chủng tử ấy, tức là tụng chữ ấy. Từ đấy trở đi, được thấy cái tâm đó, lại thấy thân chính ḿnh giống như thể tướng của Bổn Tôn ở trong tâm Phật. Nếu quán [tâm kính] viên minh nơi tự tâm, th́ cũng là [trông thấy] Như Lai Bổn Tôn ở trong ấy. Xoay vần hiển hiện lẫn nhau như thế chẳng trở ngại lẫn nhau. Bổn Tôn thanh tịnh, ĺa các phân biệt. Đạt được như thế, gọi là “thấy Bồ Đề tâm”, là chủng tử Phật vừa mới thành. Đấy cũng gọi là “vừa thấy một cảnh”, nên gọi là “một lạc-xoa”. Đấy chính là pháp thừa sự trước hết trong hạnh xuất thế. Người thành tựu như thế tức là nhập Tín Địa (Đó là [giải đáp] cho câu hỏi về hành tướng của Bồ Đề tâm). Kế đó, nói “nhiếp ư” từ một đến mười cũng như thế, từ một cho đến một trăm, một ngàn, một vạn v.v… cũng đều giống hệt như nhau. Do trọn khắp nhiều lúc, sẽ có thể tự thấy trong nhiều lúc. Tiếng Phạn gọi là Tam-ma-hế-đa, có nghĩa là Đẳng Dẫn, cũng chính là ư nghĩa “nhiếp tâm nơi một cảnh”, tức là ư nghĩa “nhất tâm” vậy.

 

          (Kinh) Thứ ư đệ nhị nguyệt, phụng đồ hương, hoa đẳng, nhi dĩ tác nhiêu ích, chủng chủng chúng sanh loại. Hựu phục ư tha nguyệt, khí xả chư lợi dưỡng.

          ()次於第二月奉塗香花等而以作饒益種種眾生類又復於他月捨棄諸利養

          (Kinh: Kế đó, tháng thứ hai, dâng hương bôi, hoa thảy, để làm chuyện lợi ích, cho các loài chúng sanh. Lại ở trong tháng khác, vứt bỏ các lợi dưỡng).

 

          Như hạnh thế gian trong phần trước, cũng có nói “cúng dường hương bôi, hoa” v.v… Ở đây lại nhắc tới, nhưng có ư nghĩa khác với phần trước. Do ở đây, [hành nhân] đă đắc Đẳng Dẫn, do thanh tịnh, điều nhu, chuyện ǵ cũng đều có thể thành tựu. Hễ dâng một hương, liền có thể đúng như thật trọn khắp pháp giới, trọn khắp hết thảy chúng sanh giới, làm đủ loại lợi ích, chuyện ǵ cũng đều thành tựu. Như phẩm Hồi Hướng trong kinh Hoa Nghiêm đă nói rộng tướng này. Giống như hương, hoa, hễ làm hết thảy điều ǵ, cũng lại giống như thế, không ǵ chẳng thực hiện thành tựu Phật sự to lớn. Lại nữa, [kinh văn nói] “tha nguyệt” (tháng khác), tức là ở đây, thực hành hai tháng, đă đạt tới Sơ Địa, liền vứt bỏ các lợi dưỡng. Hiểu theo mặt văn tự, tức là ĺa bỏ các chuyện thuộc tám pháp nghịch thuận, v́ chúng gây trở ngại cho đạo.

          Nếu nói theo ư nghĩa bí mật, đấy là bậc đại Bồ Tát gieo thiện căn to lớn, quả báo [của thiện căn ấy] vô tận, chẳng hiện, đạt được của báu công đức là vô lượng pháp môn, nhưng chớ nên sanh chấp trước trong ấy. Nếu sanh tâm chấp trước lợi dưỡng, sẽ chẳng nhanh chóng nhập chánh vị. V́ thế, cần phải bỏ lợi dưỡng ấy! Lúc đó, hành giả lại nên đúng như lư tư duy, từ ngay cái Bồ Đề tâm ấy mà phát bi nguyện, nhiếp theo lư để khởi lên. V́ thế nói là “như lư tư duy” (suy nghĩ đúng như lư). Ư nghĩa “tư duy” trong ấy chính là “ta sẽ tư duy tương ứng lư như thế để được tự tại”.

 

          (Kinh) Thời bỉ ư Du Già, tư duy nhi tự tại, nguyện nhất thiết vô chướng, an lạc chư quần sanh.

      ()時彼於瑜伽,思惟而自在。願一切無障,安樂諸群生。     (Kinh: Khi ấy, trong Du Già, tư duy được tự tại, nguyện hết thảy chẳng chướng, an lạc các quần sanh).

 

          Đấy chính là phát ra bi nguyện quyết định. Cớ sao chúng sanh cùng có giác tánh như thế mà chẳng tự thấu hiểu, phải hứng trọn đại khổ năo? Liền sanh tâm đại dũng mănh, phải nên dùng vô số phương tiện để thành tựu [các chúng sanh ấy], nhất định sẽ đều khiến cho [các chúng sanh] đạt đến địa vị Nhất Thiết Trí, trừ khử hết thảy cấu chướng, khiến cho chẳng c̣n sót.

 

          (Kinh) Nhạo dục thành Như Lai, sở xưng tán viên quả.

          ()樂欲成如來所稱讚圓果

          (Kinh: Ưa muốn thành Như Lai, viên quả đáng ca ngợi).

 

          Tức là Như Lai vô lượng tri kiến, rốt ráo thành tựu phương tiện quyền biến mầu nhiệm, khéo độ chúng sanh. Nếu chẳng đạt được điều ấy, sao có thể do một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cơi đời? Ta sẽ mau chóng thành tựu phương tiện mầu nhiệm được chư Phật khen ngợi như thế!

 

          (Kinh) Hoặc măn túc nhất thiết, hữu t́nh chúng hy nguyện, ứng lư vô chướng cái, nhi sanh thị phan duyên.

      ()或滿足一切,有情眾希願,應理無障蓋,而生是攀緣。

          (Kinh: Hoặc thỏa hết thảy nguyện, của hữu t́nh chúng sanh, đúng lư, chẳng ngăn chướng, nẩy sanh các nắm níu).

 

          Chẳng có chướng ngại như thế, dùng sự phan duyên (nắm níu) như thế để niệm tụng. Dùng công đức của ta để dẹp tan hết thảy các khổ. Dùng tâm đại bi để thỏa măn hết thảy mong nguyện của chúng sanh, cũng có thể thành tựu chuyện dẹp trừ nỗi khổ to lớn của họ, ban cho niềm vui trong hiện tại. V́ lẽ nào vậy? Do tự tâm của hành giả chẳng có cấu chướng, tức là có năng lực và thế lực to lớn. Lại v́ chúng sanh mà tùy phần trừ chướng, do không có nhân duyên gây chướng ngại giữa người khác và ta, liền có thể bất cứ chuyện ǵ cũng đều thành tựu. Đây chính hạnh nguyện Phổ Hiền. Tướng ấy như thế nào? Tức là sanh nguyện đại bi như thế đó.

 

          (Kinh) Bàng sanh tương đạm thực, sở hữu khổ vĩnh trừ. Thường linh chư quỷ giới, ẩm thực giai sung măn. Địa ngục trung thọ khổ, chủng chủng chư sở độc, đương nguyện tốc trừ diệt. Dĩ ngă công đức cố, cập dư vô lượng môn, sổ sổ tâm tư duy, phát quảng đại bi mẫn, tam chủng gia tŕ cú, tưởng niệm ư nhất thiết, tâm tụng tŕ chân ngôn.

      ()傍生相噉食所有苦永除常令諸鬼界飲食皆充滿地獄中受苦種種諸楚毒當願速除滅以我功德故及餘無量門,數數心思惟,發廣大悲愍,三種加持句,想念於一切,心誦持真言。

          (Kinh: Bàng sanh ăn nuốt nhau, tất cả khổ măi trừ. Thường khiến các quỷ giới, uống ăn đều sung măn. Chịu khổ trong địa ngục, đủ loại khổ sở ngặt, đều nguyện mau trừ diệt. Do công đức của tôi, và vô lượng môn khác, tâm nhiều lượt tư duy, phát bi mẫn rộng lớn. Ba loại câu gia tŕ, nghĩ tưởng đến hết thảy, tâm tụng tŕ chân ngôn).

 

          Do ta đă sanh khởi vô lượng phước thù thắng, trong tháng khác, tức là tháng thứ ba đă xả lợi dưỡng. Đối với trong và ngoài, đều chẳng tham chấp, th́ gọi là “xả lợi dưỡng”, nhưng đối với chuyện bên ngoài, chẳng cầu, chẳng nhận bố thí. Xả lợi dưỡng, nhưng chẳng xả chúng sanh, do hạnh chân ngôn mà đều được thành tựu. “Cập dư vô lượng môn, sổ sổ tâm tư duy, phát quảng đại bi mẫn. Tam chủng gia tŕ cú, tưởng niệm ư nhất thiết, tâm tŕ tụng chân ngôn” (cùng vô lượng môn khác, nhiều lượt tâm tư duy, phát bi mẫn rộng lớn. Ba loại câu gia tŕ, nghĩ tưởng tới hết thảy, tâm tŕ tụng chân ngôn): Các bi nguyện ấy cũng có vô lượng thứ, chẳng thể do tŕ tụng trong tháng đầu tiên và tháng thứ hai mà cũng nóicó thể phát nguyện như thế. Nhưng trong hai tháng đầu, do tâm tín giải mà thực hiện, nhưng chưa thể thành tựu. Tháng thứ ba, sở nguyện đều thành; do vậy, hồi hướng cho ḿnh lẫn người khác. Nếu lúc hành giả Chân Ngôn hiểu ư, tùy theo sự mà làm, nhiều lượt dùng nước đại bi để gột rửa cái tâm như thế, dần dần khiến cho tâm Bồ Đề này có oai thế to lớn. Cho tới địa vị thứ mười một trở đi, lực dụng dần dần tăng trưởng, đều do điều này viên măn. Tháng thứ nhất là Bồ Đề tâm, tháng kế đó là quán h́nh tượng của Phật th́ gọi là “câu Chánh Giác”. Tháng thứ ba, trụ trong Chân Ngôn, ĺa hết thảy các tướng, gọi là “tháng thứ ba”, cũng gọi là “ba lạc-xoa”. Lại do được gia tŕ rộng lớn, tức là thần lực gia tŕ của Như Lai do ba câu mà được thành.

 

          (Kinh) Dĩ ngă công đức lực, Như Lai gia tŕ lực, cập dữ pháp giới lực, châu biến chúng sanh giới.

      ()以我功德力,如來加持力,及與法界力,周遍眾生界。

          (Kinh: Do sức công đức tôi, sức Như Lai gia tŕ, cùng với sức pháp giới, trọn khắp chúng sanh giới).

 

          Nay do muốn hành Như Lai sự, bèn suy tưởng, tâm niệm ba câu ấy. V́ thế, kinh nói: “Dĩ ngă công đức lực, Như Lai gia tŕ lực, cập dữ pháp giới lực, châu biến chúng sanh giới” (dùng sức công đức của tôi, sức gia tŕ của Như Lai, cùng với sức pháp giới, trọn khắp chúng sanh giới). Ba câu này ḥa hợp, bèn có sức gia tŕ rộng lớn sanh khởi. Niệm như thế rồi, hăy nên tụng niệm câu này. Đấy chính là hết thảy chân ngôn tâm. Dùng công đức của ba câu, tùy ư lấy hoa, hương v.v… dùng tâm niệm gia tŕ, như đối với hoa bèn dùng Hoa Chân Ngôn, đối với hương bèn dùng Hương Chân Ngôn để gia tŕ, cho đến dẹp khổ ban vui trong hết thảy mọi nơi, dâng hiến Phật, Bồ Tát v.v… sẽ đều được thành. Nếu chẳng dùng bổn chân ngôn (tức Hoa chân ngôn khi dâng hoa, Hương chân ngôn khi dâng hương v.v…) để gia tŕ, mà dùng minh phi [sẽ được nói] trong phần sau th́ cũng thành tựu, do sức công đức của ta trọn khắp chúng sanh giới, do sức gia tŕ của Như Lai, do sức pháp giới b́nh đẳng.

 

          (Kinh) Chư niệm cầu nghĩa lợi, giai tất nhiêu ích chi. Bỉ nhất thiết như lư, sở niệm giai thành tựu.    

          ()諸念求義利皆悉饒益之彼一切如理所念皆成就

          (Kinh: Các niệm cầu nghĩa lợi, thảy đều tạo lợi ích. Hết thảy đúng như lư, sở niệm đều thành tựu).

 

          Do trụ trong lư, tùy theo điều [hành nhân] hệ niệm mà thành tựu. Cho đến trừ khổ, khổ liền trừ diệt v.v... Do sức công đức của ta, do sức gia tŕ của Như Lai, do sức pháp giới b́nh đẳng, do ba duyên ấy ḥa hợp, sẽ có thể thành tựu nghiệp chẳng thể nghĩ bàn. Làm như thế, hăy nên biết là rộng tương ứng với lư, nên nói là “đương đắc như lư” (sẽ được đúng như lư). Do sức bằng với hư không, chân ngôn Hư Không Tạng Minh Phi sẽ được nói tiếp đó.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Như Lai phục thuyết Hư Không Đẳng Lực Hư Không Tạng Chuyển Minh Phi chân ngôn viết:

          ()時如來復虛空等力虛空藏轉明妃真言曰

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Như Lai lại nói chân ngôn Hư Không Đẳng Lực Hư Không Tạng Chuyển Minh Phi rằng).

         

          Như hư không chẳng thể phá hoại, hết thảy chẳng thể thắng được, nên gọi là Hư Không Đẳng Lực (sức bằng với hư không). Hơn nữa, Tạng là như người có kho báu lớn, thí cho người mong muốn, họ tự tại lấy mà [người bố thí] chẳng bị nghèo thiếu. Hư không tạng của Như Lai cũng lại giống như thế, hết thảy chuyện lợi lạc chúng sanh đều từ trong đó sanh ra vô lượng pháp bảo, tự tại thọ dụng, chẳng có tướng cùng kiệt, cho nên gọi là Hư Không Tạng. Chuyển Thuận Minh: “Chuyển thuận” nghĩa là “có thể sanh ra”. Tạng này có thể sanh ra hết thảy các Phật sự. Như bi nguyện đă phát trước đó, tức là như khi dùng một bông hoa cúng dường, vận tâm tưởng trọn khắp hết thảy chư Phật và phàm, thánh, đều cùng cúng dường xong, liền hồi hướng trí Nhất Thiết Trí, thỉnh rằng: “Các vị đă tiếp nhận con cúng thí. Nguyện do sức này, sẽ khiến cho con đạt được các nguyện như trên”. Nguyện như thế xong, dùng chân ngôn này để gia tŕ, không ǵ chẳng thành tựu. Trước hết là kính lễ hết thảy các đức Như Lai.

 

          (Kinh) Nam ma tát phạ đá tha nghiệt đế phiêu, vi thấp phạ, mục khiết tệ (xảo môn đẳng, diệc thị chủng chủng môn đẳng dă), tát phạ tha (nhất thiết dă) khiếm (không dă, thông thượng, ngôn Nhất Thiết Trí Không dă. Thử thị chủng tử tự dă) ổ đặc yết để (sanh dă) tát phán ra hê môn (phổ biến dă), già già na kiếm (hư không dă), sa ha. Tŕ thử tam chuyển, tùy bỉ sở sanh thiện nguyện, giai diệc thành tựu.

          ()南麼薩嚩怛他蘖帝鏢微濕嚩目喫弊(巧門等亦是種種門等也)薩嚩他(一切也)(空也通上言一切智空也此是種子字也)鄔特揭底(生也)薩泮囉醯門(普遍也)伽伽那劍(虛空也)莎訶持此三轉隨彼所生善願皆亦成就

            (Kinh: Nam ma tát phạt đá tha nghiệt đế phiêu (Namaḥ sarva-tathāgatebhyo). Vi thấp-phạ mục khiết tệ (viśvamukhebhyaḥ, môn hay khéo, cũng là các thứ môn), tát phạ tha (sarvathā, hết thảy) khiếm (khaṃ, không, thông với Nhất Thiết Trí Không trong phần trên. Đây là chữ chủng tử). Ổ đặc-yết để (udgate, sanh), tát-phán ra hê môn (spharahīmaṃ, phổ biến), già già na kiếm (gaganakaṃ, hư không), sa ha (svāhā). Tŕ minh chú này, ba lượt chuyển, các thiện nguyện sanh bởi đó cũng đều được thành tựu).

 

          Đây là ư nghĩa Hư Không Đẳng Lực của Hư Không Tạng, giống như hết thảy các pháp đều từ Không mà sanh ra các vật trọn khắp hết thảy hư không. “Tŕ thử tam chuyển” (tŕ minh chú này, ba lượt chuyển) tức là dùng một hoa để dâng hiến, không ǵ chẳng trọn khắp pháp giới. Trên là hiến cúng hết thảy thánh hiền, dưới là thí cho hết thảy hữu t́nh. “Tùy bỉ sở sanh thiện nguyện, giai diệc thành tựu” (bất cứ thiện nguyện nào sanh bởi đó cũng đều thành tựu) tức là dùng chân ngôn này để gia tŕ, [hết thảy các thiện nguyện] đều được thành tựu. Như từ trong kho, tự lấy vật báu, không ǵ chẳng tùy tâm. Nếu tụng minh chú này ba lượt, hễ nghĩ đến chuyện ǵ, chuyện ấy cũng thành tựu. Phàm thứ dâng cúng như hoa, hương v.v… do ba sức hồi hướng, lại dùng minh chú gia tŕ, hết thảy đều tùy ư mà thành. Có nghĩa là dùng Bi hoa để dâng lên hết thảy chư Phật, sẽ tự tại thành tựu.

 

          (Kinh) Hành nhân ư măn nguyệt, thứ nhập tác tŕ tụng.

          ()行人於滿月次入作持誦

     (Kinh: Hành nhân ngày trăng tṛn, kế đó, vào tŕ tụng).

         

          Trước đó đă cúng dường, thừa sự xong, đă đạt được tướng thành tựu. Do tướng trên đây, sau đó mới trong ngày Mười Lăm của bạch nguyệt, thực hiện pháp tŕ tụng, tức là [thực hiện] vào ngày trăng tṛn.

 

          (Kinh) Sơn phong, ngưu lan trung, hàn lâm hoặc hà châu, tứ cù, độc thụ hạ, Mang-đát-rị thiên thất.

          ()山峯牛欄中,寒林或河洲,四衢獨樹下,忙怛哩天室

          (Kinh: Đỉnh núi, trong chuồng ḅ, rừng lạnh, hoặc băi sông, ngă tư, cội cây lẻ, miếu thờ Mang-đát-rị[11]).

 

          Tùy theo chuyện thượng, trung, hạ, mà thực hiện pháp thành tựu. Thượng sự th́ [làm trên] đỉnh núi, trung sự th́ làm ở chỗ nhốt trâu, ḅ, hạ sự th́ làm trong rừng, hoặc bến sông, cho tới ngă tư, miếu thờ trời v.v… đều có thể áp dụng cho các pháp thượng, trung, hạ thành tựu. Hoặc tùy ư ở chỗ ưa thích mà làm, ở các chỗ như đỉnh núi v.v… mà tạo Mạn-đồ-la.

 

          (Kinh) Nhất thiết kim cang sắc, nghiêm tịnh đồng kim cang, bỉ trung chư chướng giả, nhiếp phục tâm mê loạn.

          ()一切金剛色,嚴淨同金剛,彼中諸障者,攝伏心迷亂。

          (Kinh: Hết thảy kim cang sắc, nghiêm tịnh như kim cang. Kẻ gây chướng trong đó, nhiếp phục, tâm mê loạn).

 

          Nơi tầng thứ nhất, giáp ṿng đều vẽ h́nh chày kim cang. Cái đàn ấy được làm gồm ba lớp, đều dùng [h́nh chày] kim cang làm ranh giới. Thần thủ hộ các phương, chư Phật, Bồ Tát v.v… sẽ được nói trong phần sau; ở đây chưa nói phân biệt. Trong ấy, xếp đặt các vị tôn thánh, nói chung là giống như đă liệt kê trong phần trước, chỉ dùng thêm h́nh chày kim cang đặt liên tiếp để làm ranh giới là khác biệt mà thôi! Nói “nhất thiết kim cang sắc” (hết thảy màu kim cang) tức là vẽ h́nh chày kim cang ṿng quanh để làm ranh giới, đều vẽ sao cho thanh tịnh, chẳng sai sót. “Chẳng sai sót” tức là [h́nh vẽ] viên măn, chỉnh tề, đoan nghiêm, đẹp đẽ. “Nghiêm tịnh đồng kim cang”: Các h́nh chày kim cang giáp ṿng như thế đều có màu vàng. Ở đây, có ba sự giống như kim cang: Sắc đồng kim cang, thể đồng kim cang, danh đồng kim cang. V́ thế nói “nghiêm tịnh đồng kim cang” tức là thanh tịnh giống như kim cang. Nói “bỉ trung chư chướng giả, nhiếp phục tâm mê loạn” (kẻ gây chướng ở trong ấy sẽ bị nhiếp phục, tâm mê loạn), do ba sự ấy giống như kim cang, không ǵ có thể phá hoại được, không thể thắng được, không thể hàng phục được. Do tạo kim cang giới trọn đủ nghiêm tịnh như thế, khiến cho những kẻ gây chướng đều bị mê hoặc, chẳng dám quấy nhiễu. Đă được ĺa chướng, tức là dược vật dùng làm pháp thành tựu đều được thành tựu.

 

          (Kinh) Tứ phương tương châu táp, nhất môn cập thông đạo, kim cang hỗ liên thuộc, kim cang kết tương ứng.

          ()四方相周匝,一門及通道,金剛互連屬,金剛結相應。

    (Kinh: Bốn phương đều giáp ṿng, một cửa thông lối đi, kim cang xếp liên tiếp, tương ứng kim cang kết).

 

    Kinh nói: “Tứ phương tương châu táp” có hai nghĩa, tức là làm đàn tràng có h́nh vuông ngay ngắn, và kim cang ấn (h́nh chày kim cang) cũng được đặt khắp bốn phía [của đàn] ứng với bốn mặt. Nói “nhất môn cập thông đạo, kim cang hỗ liên thuộc, kim cang kết tương ứng”: “Kim cang kết” nghĩa là xếp đặt chày kim cang giáp ṿng như trên, đều là đặt liên tiếp nối đầu nhau; đó chính là ư nghĩa “kim cang kết”. Xếp đặt sao cho cửa và “duyên” tương ứng (“duyên” là như trong phần trên đă nói: Mở một đường trống để thông với bên ngoài), tức là cái cửa ấy tương ứng với từng sự. Thượng thành tựu th́ cửa mở hướng về phía Đông. Trung thành tựu th́ mở cửa về hướng Bắc hoặc Tây. Hạ thành tựu th́ mở cửa về hướng Nam. Ranh giới [của cái cửa ấy] tiếp nối với [ranh giới do các chày] kim cang [hợp lại bao quanh đàn tràng], cũng là ư nghĩa kim cang.

         

          (Kinh) Môn môn nhị thủ h: Bất Khả Việt, Tương Hướng, nghĩ thủ nhi thượng chỉ, châu mục, phẫn nộ h́nh. Ân cần họa ngung giác, Thâu-la diễm quang ấn. Trung diệu kim cang ṭa, phương vị chánh tương trực. Kỳ thượng đại liên hoa, bát diệp tu nhụy phu.

          ()門門二守護不可越相向擬手而上指,朱目奮怒形慇懃畫隅角,輸羅焰光印,中妙金剛座,方位正相直,其上大蓮華,八葉鬚蘂敷。

          (Kinh: Mỗi cửa hai thủ hộ: Bất Khả Việt (Durdharṣa), Tương Hướng (Abhimukha). Giơ tay chỉ lên trên, mắt đỏ, dáng phẫn nộ. Cẩn trọng vẽ các góc, ấn Thâu-la rực lửa. Giữa: Ṭa diệu kim cang. Phương vị đều ngay ngắn. Trên đặt hoa sen lớn, tám cánh, phô tuy nhụy).

 

          Để làm vật thành tựu, thủ hộ là quan trọng nhất. Coi chuyện thủ hộ cửa là trọng yếu, tức là như trong phần trước đă nói: “Oai quang nan thị cập, Tương Hướng thủ môn giả” (oai quang khó thể nh́n ngó, hai vị Tương Hướng canh giữ cửa). Mỗi mỗi tướng đều là ấn (ấn sẽ được nói ở phần sau), cả hai [vị thủ hộ cửa ấy] đều là sắc trắng và đỏ, có h́nh dạng tột bậc phẫn nộ. “Ân cần họa ngung giác, Thâu La diễm quang ấn” (Cẩn trọng vẽ h́nh ấn Thâu-la có quang minh như ngọn lửa cháy rực [bao quanh] ở mỗi góc đàn), [Thâu-la (Śūla)] tức là chày kim cang một nhánh, chỉ đặt ở các góc đàn, có vầng sáng h́nh ngọn lửa. “Trung diệu kim cang ṭa, phương vị chánh tương trực, kỳ thượng đại liên hoa, bát diệp tu nhụy phu” nghĩa là: Chính giữa Mạn-đồ-la, đặt ṭa kim cang yết-ma chữ thập[12], sao cho [các đầu mũi nhọn của chày kim cang] đối diện trực tiếp với bốn phương. Trên đó, vẽ hoa sen lớn có tám cánh và các tua nhụy (làm bằng chất kim cang). Đấy chính là kim cang ṭa, v́ thế nói “giống như kim cang”.

 

          (Kinh) Đương kết Kim Cang Thủ, kim cang chi huệ ấn. Khể thủ nhất thiết Phật, sổ sổ kiên thệ nguyện, ưng hộ tŕ thị xứ, cập tịnh chư dược vật.

          ()當結金剛手,金剛之慧印,稽首一切佛,數數堅誓願。應護持是處,及淨諸藥物。

          (Kinh: Nên kết Kim Cang Thủ, tức Kim Cang huệ ấn. Đảnh lễ hết thảy Phật, thệ nguyện nhiều lượt vững. Nên hộ tŕ nơi đó, tịnh hóa các dược vật).

 

          Hăy nên kết Kim Cang Ngũ Cổ Ấn của ngài Kim Cang Thủ, nên nói là “kim cang tam-muội huệ kim cang ấn”. Nói “khể thủ nhất thiết Phật” (đảnh lễ hết thảy Phật), [nghĩa là] ở ngay nơi sẽ thủ hộ dược vật, hoặc tác tịnh, trong khi làm lễ, hăy nên phát ra bi nguyện rộng lớn như trên đă nói. “Sổ sổ kiên thệ nguyện” (nhiều lượt phát thệ nguyện vững vàng) tức là tự thệ vận tâm, thệ nguyện rộng khắp, chẳng v́ chính ḿnh, v́ hết thảy chúng sanh mà thành tựu dược vật ấy. Nguyện do sức gia tŕ sẽ khiến cho mau chóng thành tựu, v́ vật ấy được thành tựu, sẽ có thể lợi ích hết thảy chúng sanh. “Ưng hộ tŕ thị xứ, cập tịnh chư dược vật” (Hăy nên hộ tŕ nơi ấy, và tịnh trị các dược vật): Có nhiều pháp, trong Quảng Bổn có nói. Phàm khi thực hiện pháp thành tựu dược vật, cần phải hiểu thứ tự của pháp dụng. Dẫu cầu thành tựu dược vật để chính ḿnh sử dụng th́ vẫn có phương quỹ (方軌: pháp tắc, khuôn khổ, nghi thức), cho đến tác hộ (gia tŕ để thủ hộ), tác tịnh (tịnh trị bản thân và vật cúng dường, vật muốn làm pháp thành tựu) đều có thứ tự pháp dụng và cách tẩy rửa v.v… Trong kinh này không nói cặn kẽ, cần phải t́m hiểu thêm [từ các kinh khác] (hoặc dùng theo phương cách đă nói trong kinh Tô Tất Địa v.v…)

 

          (Kinh) Ư thử thời tŕ tụng, thanh tịnh vô chướng ngại. Hoặc ư trung dạ phần, hoặc ư nhật xuất thời, bỉ dược vật đương chuyển, viên quang phổ huy diễm. Chân Ngôn giả tự thủ, du bộ ư đại không, trụ thọ đại oai đức, ư sanh tử tự tại. Hành ư thế gian đảnh, hiện chủng chủng sắc thân.

          ()於此時持誦清淨無障。或於中夜分,或於日出時。彼藥物當轉,圓光普暉焰,真言者自取,遊步於大空,住壽大威德,於生死自在,行於世界頂,現種種色身。

    (Kinh: Lúc bấy giờ tŕ tụng, thanh tịnh vô chướng ngại. Hoặc vào lúc giữa đêm, hoặc khi mặt trời mọc, dược vật ấy sẽ chuyển, viên quang rực sáng khắp. Chân Ngôn giả tự lấy, dạo bước trên hư không, sống lâu, oai đức lớn, tự tại trong sanh tử. Đi trên đỉnh thế giới, hiện đủ loại sắc thân).

 

          Tướng thành tựu có thượng, trung, hạ. Nếu đạt được thành tựu vô chướng ngại, thượng thành tựu có ba tướng chuyển, tức là đầu đêm th́ sanh ra hơi ấm, giữa đêm khói bốc lên, tới canh năm th́ có ngọn lửa xuất hiện. Trung thành tựu th́ có hai tướng, ngoại trừ tướng ngọn lửa xuất hiện. Hạ thành tựu chỉ có một tướng, tức là chỉ sanh ra hơi ấm. “Chuyển” tức là từ ít mà được nhiều, từ hơi ấm mà có ngọn lửa v.v… Đă được thành tựu, “Chân Ngôn giả tự thủ, du bộ ư đại không” (hành giả Chân Ngôn tự lấy [dược vật ấy], bước đi trên không trung), [tức là hành giả] hoặc ăn, hoặc bôi, chấm [dược vật lên thân] v.v… sẽ tự tại dạo trong các cơi Phật, từ cơi này sang cơi khác. “Trụ thọ, đại oai đức”: Liền được thọ trọn vô lượng kiếp số, oai quang tự tại. “Ư sanh tử tự tại” tức là đủ thứ tự tại trong sanh tử. Đó gọi là “chân Phật tử” (“đi trên thế giới” (chánh kinh ghi là “hành ư thế giới đỉnh”) tức là đi qua các thế giới). Vật đă thành tựu rồi, dùng Kim Cang Ấn để thủ hộ tự thân, thủ hộ Bổn Tôn, thủ hộ vật [thành tựu ấy] rồi mới lấy, chia thành năm phần, tức là thầy, tiên nhân đă thành tựu trước, trợ bạn (người giúp đỡ, phụ tá), chính ḿnh, và Phật. Vật được sanh thêm từ đó, nên dùng cho Tam Bảo. Vật thành tựu trước, nếu có tiên nhân đến lấy, hăy nên cho họ. Nếu chẳng đến lấy, chia thành hai phần: Một phần cho trợ bạn, một phần cho chính ḿnh. Vật dành cho thầy, nếu thầy ở phương khác, hăy nên giữ lấy, đợi thầy đến sẽ đưa cho. Nếu thầy chẳng c̣n, hăy [dùng vật ấy] làm công đức nơi thầy sanh ra. Những thứ [dùng làm vật thành tựu] như đao v.v… chẳng thể chia, cũng nên lắng ḷng tưởng chia sẻ. Từ đầu đến cuối, đều dùng Kim Cang để tự thủ hộ và thủ hộ vật cho đến lúc lấy. Nói “hành ư thế giới đảnh, hiện chủng chủng sắc thân” (đi trên đỉnh thế giới, hiện đủ loại sắc thân) tức là v́ các chúng sanh mà làm Phật sự to lớn. Cúng dường thuốc cũng có phương pháp, tức là dâng hiến.

 

          (Kinh) Cụ đức cát tường giả, triển chuyển nhi cúng dường. Chân ngôn sở thành vật, thị danh vi Tất Địa. Dĩ phân biệt dược vật, thành tựu vô phân biệt.

          ()具德吉祥者,展轉而供養,真言所成物,是名為悉地。以分別藥物,成就無分別。

          (Kinh: Bậc đủ đức cát tường, xoay vần để cúng dường. Vật do chân ngôn thành, được gọi là Tất Địa. Do phân biệt dược vật, thành tựu vô phân biệt).

 

          Đă được thành tựu, mang [vật thành tựu ấy] tới mười phương, tùy ư dâng lên mười phương Phật. Đối với chư Phật, A-xà-lê, và trợ bạn, đều có phương pháp để phân chia, hăy nên thưa hỏi [để làm cho đúng pháp tắc]. “Chân ngôn sở thành vật, thị danh vi Tất Địa” (Vật được thành tựu bởi chân ngôn, đó gọi là Tất Địa): Nếu đạt được thành tựu như thế th́ gọi là “thành tựu có phân biệt”. Do v́ các sự như dược vật ấy, vẫn là pháp có tướng thành tựu, nên gọi là “thành tựu có phân biệt”. “Dĩ phân biệt dược vật, thành tựu vô phân biệt” (do phân biệt dược vật, thành tựu chẳng phân biệt): Do có phân biệt mà đạt được thành tựu vô phân biệt. Cái có thể phân biệt làm nhân, nương vào cái “có phân biệt” đó mà đạt được cái quả vô phân biệt. Cái quả vô vi, vô tướng, vô nhiễm chẳng thể nghĩ bàn tuy chẳng do cái nhân mà thành, nhưng do có phân biệt để làm nhân mà thành tựu cái quả vô đắc, vô vi này.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Nhất thiết thế giới chư hiện tại đẳng Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác, thông đạt Phương Tiện Ba La Mật Đa, bỉ Như Lai tri nhất thiết phân biệt bổn tánh Không, dĩ Phương Tiện Ba La Mật Đa lực cố, nhi ư vô vi dĩ hữu vi vi biểu, triển chuyển tương ứng, nhi v chúng sanh thị hiện biến pháp giới.

          ()祕密主一切世界諸現在等如來正等覺通達方便波羅蜜多彼如來知一切分別本性空以方便波羅蜜多力故而於無為以有為為表展轉相應而為眾生示現遍法界

     (Kinh: Bí Mật Chủ! Hết thảy Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác thuộc hiện tại trong hết thảy các thế giới, thông đạt Phương Tiện Ba La Mật Đa, các đức Như Lai ấy biết bổn tánh của hết thảy phân biệt là Không, do sức của Phương Tiện Ba La Mật Đa, trong vô vi dùng hữu vi để biểu thị, xoay vần tương ứng, v́ chúng sanh thị hiện trọn khắp pháp giới).

 

     Tức là cái quả vô vi, do phương tiện hữu vi có thể thành tựu chuyện ấy chẳng thể nghĩ bàn. Hiện tại, vị lai, quá khứ tam thế Phật, đều do thông đạt Phương Tiện Ba La Mật mà nói pháp này; đó là một. Nêu lên tam thế Phật, muốn nói rơ [các Ngài] “cùng dùng pháp này để nhập”. Tuy lập ra phương tiện hữu vi này, nhưng hiểu rơ bản tánh của pháp phân biệt này thường Không! Pháp sanh khởi bởi nhân duyên như thế ĺa sanh, diệt, đoạn, thường, một, khác, đến, đi, chỉ như huyễn hóa, chẳng khác Trung Đạo. Nếu ĺa bỏ điều này để cầu một cái Thể vô vi nào khác, sẽ chẳng thể được, do tánh của vô vi chẳng khác hữu vi. Do liễu đạt pháp duyên khởi rất sâu như thế, sẽ có thể từ ngay pháp hữu vi này mà thành tựu cái quả vô vi. V́ thế, hết thảy tam thế Như Lai do sức phương tiện, tuy chứng pháp giới mà có thể từ cái quả có bản thể “vô vi, vô tác”, dùng hữu vi làm các quyến thuộc. Như Đại Nhật Như Lai từ trong đức tự chứng này, do sức gia tŕ, từ trong vô vi mà dùng hữu vi để biểu đạt, bổn tánh chẳng hề tạo tác, do có tạo tác mà có thể thành tựu vô vi. “Triển chuyển tương ứng”: Khi chưa tŕ tụng th́ tánh vốn bất tịnh. Do tŕ tụng liền đạt được thanh tịnh, có thể độ chúng sanh, cho nên hiện thân chẳng thanh tịnh, lại tạo nhân duyên thanh tịnh cho người khác, bèn gọi là “triển chuyển tương ứng”. Lại từ vô vi sanh ra hữu vi để biểu đạt. Do vậy, hiện ra các Kim Cang và Bồ Tát nhiều như số vi trần trong mười thế giới, mỗi mỗi đều dùng môn Chân Ngôn để hướng dẫn, tiếp độ chúng sanh, đều khiến cho họ đạt tới cái quả vô vi. Dùng phương tiện ấy trọn khắp pháp giới, ứng với trọn khắp chúng sanh, khiến cho họ đều đạt được nghĩa lợi.

 

          (Kinh) Linh đắc kiến pháp an lạc trụ, phát hoan hỷ tâm, hoặc đắc trường thọ, ngũ dục hy hư nhi tự ngu lạc, vị Phật Thế Tôn nhi tác cúng dường. Chứng như thị cú, nhất thiết thế nhân sở bất năng tín. Như Lai kiến thử nghĩa lợi cố, dĩ hoan hỷ tâm, thuyết thử Bồ Tát chân ngôn hành đạo thứ đệ pháp tắc.

          ()令得見法安樂住發歡喜心或得長壽五欲嬉戲而自為佛世尊而作供養證如是句一切世人所不能信如來見此義利故以歡喜心說此菩薩真言行道次第法則

     (Kinh: Khiến cho được thấy pháp, trụ trong an lạc, phát tâm hoan hỷ, hoặc được sống lâu, tự được vui thỏa trong ngũ dục, cúng dường Phật Thế Tôn. Chứng câu như thế, hết thảy người đời chẳng thể tin. Như Lai do thấy nghĩa lợi ấy, dùng cái tâm hoan hỷ để nói pháp tắc hành đạo chân ngôn theo thứ tự này của bậc Bồ Tát).

 

          Tức là các đức Như Lai do phương tiện, từ vô vi giới, dùng sức gia tŕ chẳng xả chúng sanh, tùy thuận chúng sanh mà thị hiện tu các hạnh, hoặc khiến cho họ thấy pháp, trụ trong an lạc hạnh, phát tâm hoan hỷ (tức là Pháp Hỷ Sơ Địa). Hoặc đạt được trường thọ, tức là trong vô số kiếp, luôn được thấy đức Phật xuất thế. Hoặc có được ngũ dục thanh tịnh tốt đẹp để tự vui sướng, lại có thể cúng dường hết thảy Như Lai. Kẻ chẳng có phương tiện, sẽ chẳng thể tin chuyện này. Họ nghĩ như thế này: “Cái Thể của chân ngôn giống như pháp giới, là vô vi, vô tác, sao có thể thành tựu chuyện này? Nếu sanh khởi chuyện này, tức là hữu tướng phân biệt, sao có thể tương ứng với lư cho được?” V́ thế, sanh tâm hủy báng. Nói “Phật có bí mật khó hiểu”, tức là nói kẻ do chẳng có phương tiện, cho nên chẳng thể hiểu. Nhưng ở đây, do tâm tự tại mà nói đến trường thọ. Thọ lượng như thế chính là thọ mạng nơi Pháp Thân của Như Lai. “Ngũ dục” tức là Tứ Vô Lượng (từ, bi, hỷ, xả) và Bồ Đề tâm, hết thảy thánh nhân dùng các hiện pháp ấy để tự vui thỏa. Cúng dường Như Lai chính là chân pháp cúng dường Pháp Thân Phật. Nếu hành giả nương vào phương tiện duyên sanh rất sâu của Phật để đạt được thành tựu trong pháp thế gian, tức là từ trong ấy quán bổn tánh Không; đấy chính là thành tựu vô vi. Phàm phu sẽ chẳng thể tin pháp chẳng thể nghĩ bàn như thế, nhưng chư Phật Như Lai và các vị Bồ Tát do thấy nghĩa lợi này, nói ra thứ tự trong đạo chân ngôn hạnh này, chớ nên báng bổ là chẳng có!

 

          (Kinh) Hà dĩ cố? Ư vô lượng kiếp, cần cầu tu chư khổ hạnh sở bất năng đắc, nhi Chân Ngôn môn hạnh đạo chư Bồ Tát tức ư thử sanh nhi hoạch đắc.

          ()何以故於無量劫勤求修諸苦行所不能得而真言門行道諸菩薩即於此生而獲得       

          (Kinh: V́ sao vậy? Trong vô lượng kiếp, siêng cầu tu các khổ hạnh mà chẳng thể đạt được, nhưng các Bồ Tát do hạnh đạo của Chân Ngôn môn liền đạt được ngay trong đời này).

 

          Như các vị Bồ Tát khác v́ cầu đạo vô thượng, hành hạnh khó, hạnh khổ như cứu đầu cháy trải qua vô lượng kiếp, vẫn chưa thể đạt được thành tựu như thế. Hành giả Chân Ngôn nếu trọn đủ phương tiện, sẽ có thể thành tựu thánh quả trong một đời. Do biết ư nghĩa của mười thí dụ về duyên khởi rất sâu, dùng các nguyện thuộc về Chân Ngôn để tạo tác đủ loại thành tựu, nhưng chẳng chấp trước, chẳng khác nào [sẽ thành tựu] vi diệu nhanh chóng các pháp như thế.

 

          (Kinh) Phục thứ Bí Mật Chủ! Chân ngôn môn tu Bồ Tát hạnh Bồ Tát, như thị Kế-đô, Khiết-già, tán, cái, lư tỷ, Chân Đà Ma Ni, cập An Thiện Na dược, Lô Giá Na đẳng, tŕ tam lạc-xoa, nhi tác thành tựu, diệc đắc Tất Địa.

          ()復次祕密主真言門修菩薩行菩薩如是計都朅伽傘蓋履屣真陀摩尼及安膳那藥盧遮那等持三落叉而作成就亦得悉地

          (Kinh: Lại này Bí Mật Chủ! Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn, đối với các thứ Kế-đô (Ketu, phan), Khiết-già (Khaḍga)[13], lọng, tàn, giày dép, Như Ư Châu, và thuốc An Thiện Na (Añjana)[14], Lô Già Na (Rocanā)[15] v.v… tŕ ba lạc-xoa để làm thành tựu, cũng đạt được Tất Địa).

 

          Kế đó, nói về dược vật được thành tựu, tức là như trong phần trước [đă nói], trước hết là [niệm tụng] một lạc-xoa. Tháng thứ hai tŕ tụng xong, tạo Mạn-đồ-la. Trong đó, đặt vật muốn được thành tựu để niệm tụng, lại [tŕ tụng] ba lạc-xoa mới thành. Tọa vị của chư tôn thánh trong Mạn-đồ-la ấy giống như Đại Bi Thai Tạng. V́ vậy, ở đây không nhắc lại. Nhưng đối với vật muốn được thành tựu đặt ở trong ấy, đặt Đại Nhật Như Lai ở góc. Tràng th́ dùng trúc làm sào, dùng vải sạch buộc vào, lại buộc rủ xuống từ một trượng trở lên, giống như phan, phía trên làm thành h́nh nhiều tầng. Trên đó, đặt bạt-chiết-la (chày kim cang). Đao th́ dùng thép tinh luyện làm sống đao và cán. Tàn (lọng che) th́ có thượng, trung, hạ thành tựu, tức là [làm bằng] vàng, bạc, lông chim công. Giày, dép làm bằng da, trước hết phải xông, gột đủ cách khiến cho cực thanh tịnh, không có mùi. Lại c̣n dùng thuốc để chế biến, khiến cho lửa đốt không cháy, lại cực thơm th́ mới dùng được. Báu Như Ư th́ lấy chất báu sạch sẽ, tốt đẹp đặt ở trên tràng. Thuốc nhỏ mắt th́ dùng thuốc An Thiện Na để làm. Thuốc An Thiện Na có hai loại, một loại là cực nhẹ, có thể nổi trên mặt nước. Ngưu hoàng th́ lại có vô lượng loại[16], tức là không thanh, châu sa, hùng hoàng, thư hoàng v.v… đều có thể thành tựu.

          Lại c̣n vô lượng vật như chày kim cang v.v… cũng có thể thành tựu. Đại Bổn có nói phương quỹ đầy đủ, kinh Tô Tất Địa cũng có nói thứ tự [tác pháp]. Như giày dép nếu được thành tựu, sẽ có thể mang vào chân, dạo các cơi Phật vô ngại. Các thứ như thuốc nhỏ mắt v.v… thành tựu, liền thấy mười phương cơi Phật, liền có thể vọt lên không, dạo trong mười phương cơi Phật. Những thứ khác có thể suy ra mà hiểu. Lại c̣n có trường hợp vẽ h́nh đủ loại chim, thú, tùy ư chọn lấy một loại nào, tác pháp thành tựu, sẽ liền có thể cưỡi lên chúng, tự tại đến mười phương cơi. Hoặc dùng pháp gia tŕ đồng nam, đồng nữ, cũng khiến cho chúng nó thành tựu để làm người hầu hạ, theo ta dạo khắp mười phương cơi. Ở phương Tây, có một người thành tựu, dẫn năm trăm người vọt lên không mà đi, chẳng biết đi về đâu! Pháp này thành tựu tức là Tŕ Minh Tiên. Vật ấy tùy theo ḷng mong muốn mà làm, khi người ấy tŕ tụng cũng đắc cảnh giới, khiến cho làm các vật như thế này, như thế nọ. Hoặc có thể vận tâm làm vật ấy th́ cũng được thành tựu!

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Nhược cụ phương tiện thiện nam tử, thiện nữ nhân, tùy sở nhạo cầu, nhi hữu sở tác, bỉ duy tâm tự tại, nhi đắc thành tựu.

          ()祕密主若具方便善男子善女人隨所樂求而有所作彼唯心自在而得成就

    (Kinh: Bí Mật Chủ! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân trọn đủ phương tiện, tùy theo ư thích, mong cầu mà thực hiện, chỉ do tâm tự tại mà được thành tựu).

         

          Người đời chẳng thể tin tưởng. Nói “người ấy đạt được” tức là nói về người thực hiện pháp thành tựu ấy. [Người đời] chẳng thể tin tưởng các chuyện hiếm lạ đều có thể đạt được. V́ thế nói “thiện nam, thiện nữ trọn đủ phương tiện muốn cầu vật, nhưng tự tâm tự tại, chuyện hy hữu chẳng thể tin sẽ đều có thể đạt được”, đạt được thành tựu chỉ [v́ lư do] như thế mà thôi! Nói “tự tâm của người ấy tự tại, chỉ thành tựu như thế” nghĩa là tùy theo ḷng mong muốn, duy tâm chuyển biến mà được thành tựu. “Duy” là chỉ dùng tự tâm, chẳng nhờ vào các duyên khác. “Duy” cũng có nghĩa là “tạm”, [ư nói] tâm vừa mới khởi niệm liền thành tựu.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Chư nhạo dục nhân quả giả, bí mật chi pháp phi bỉ ngu phu chi sở năng tri chân ngôn chư chân ngôn tướng. Hà dĩ cố?

          ()祕密主諸樂欲因果者祕密之法非彼愚夫之所能知真言諸真言相何以故

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Đối với những kẻ ưa thích, mong muốn nhân quả, những kẻ ngu phu đó sẽ chẳng thể biết chân ngôn và tướng của chân ngôn trong pháp bí mật được. V́ sao vậy?)

 

          Nếu có người đối với hạnh Chân Ngôn ấy mà nghĩ như thế này: “Ta nay hành cái nhân như thế, sẽ đạt được cái quả như thế”. Hăy nên biết: Như thế chẳng phải là chánh thuyết, chỉ là so đo hư vọng của phàm phu! V́ lẽ nào vậy? Có các ngoại đạo nói “hết thảy các pháp từ Ngă mà sanh. Nếu Tự Tại Thiên vui thích như thế th́ sẽ ban cho. Chẳng vui thích th́ chẳng cho”. Người như thế chẳng thể hiểu đạo này! Phải nên nói “vạn vật đều sanh từ các nhân”. Nếu sanh từ các nhân, cái nhân ấy sẽ có tánh. Nếu có tự tánh, tức là đọa vào Thường Kiến. Thường pháp sao có thể sanh cho được? Nếu nhân diệt, quả sanh, th́ là pháp đoạn diệt, sao có thể sanh cho được?

 

          (Kinh) Thuyết nhân phi tác giả, bỉ quả tắc bất sanh.

          ()說因非作彼果則不生

    (Kinh: Nói nhân chẳng phải là người làm, quả ấy sẽ chẳng sanh).

 

          Ư nói “nhân” là Nhân Không. Do cái nhân đă là Không, há có quả? V́ thế, Trung Luận và Đại Trí Độ Luận đă rộng phá [chấp trước này]. Hăy nên biết: Dùng trí để quán sát cái nhân ấy, c̣n chẳng thể thấu suốt cội nguồn. Cái nhân ấy không nương vào đâu. “Không nương vào đâu” tức là vốn sẵn bất sanh. Cái nhân vốn sẵn bất sanh, sao có thể sanh ra quả cho được? Do vậy, cũng giống như thế, cái quả vốn bất sanh.

 

          (Kinh) Thử nhân nhân thượng không, vân hà nhi hữu quả?

          ()此因因尚空云何而有果

          (Kinh: Do cái nhân ấy c̣n là không, làm sao có quả cho được?)

 

          Ư nói: Cái nhân chẳng thật có. Nhân đă là chẳng chân thật, trọn chẳng thể sanh ra cái quả chân thật; hăy nên biết cái quả vốn bất sanh. Lại nữa, bản tánh của cái nhân ấy là không tịch; hăy nên biết cái quả cũng như thế. Nếu đối với pháp duyên khởi như thế, mà nói “có nhân, có quả”, tức là Biến Kế Sở Chấp, đọa vào “đoạn, thường, một, khác”, chẳng nhập Trung Đạo. V́ thế, chứng biết chân ngôn như thế vĩnh viễn ĺa khỏi nhân nghiệp, chính là pháp giới (tức bất tư nghị giới).

 

          (Kinh) Đương tri chân ngôn quả, tất ly ư nhân nghiệp.

          ()知真言果悉離於因業

     (Kinh: Nên biết cái quả của chân ngôn, đều ĺa khỏi nhân nghiệp).

 

          Nói rơ nhân chính là pháp “có phương cách để thực hiện”. Nhân đă là hữu tác, hăy nên biết quả cũng là hữu sở tác. Đă được thực hiện, há có thể trở thành chân thật ư? Hăy nên biết cái quả ĺa khỏi nhân nghiệp vậy.

 

          (Kinh) Năi chí thân chứng xúc, vô tướng Tam-ma-địa.

          ()乃至身證觸無相三摩地

          (Kinh: Cho đến thân chứng, chạm vô tướng Tam-ma-địa).

         

          Ư nói các tướng nhân quả v.v… như thế ấy do vọng tưởng mà có. Chánh quán sát th́ [sẽ thấy] chúng vốn chẳng trụ. Do chẳng trụ nên quả thể (Thể của cái quả) chẳng sanh, tức là giống như vô vi. Do vậy, nếu hành giả nghĩ như thế này: “Ta tụng chân ngôn, tu Chân Ngôn hạnh, sẽ được thành tựu cái quả” chỉ là tự dối ḿnh! Nếu hành giả Chân Ngôn ấy tuy từ duyên khởi mà thật sự vô tác, vốn sẵn là pháp giới, vô sanh, vô diệt, chẳng tịnh, chẳng nhiễm như thế, sao có thể là nói “đạt được thành tựu?”

 

          (Kinh) Chân Ngôn giả đương đắc, Tất Địa tùng tâm sanh,

          ()乃至身證觸無相三摩地

          (Kinh: Người tu Chân Ngôn sẽ đạt được Tất Địa từ tâm sanh).

         

          Hăy nên biết hành giả Chân Ngôn chỉ dùng phương tiện này để tự tịnh cái tâm. Nếu ba nghiệp thanh tịnh, sẽ ở trong ấy, tự được hiểu rơ rồi tự giác ngộ. Ví như có người trong mộng tu hành các thứ Lục Độ, thanh tịnh cơi Phật; tỉnh giấc, sẽ thấy chẳng có tướng thành tựu cái quả, chỉ là trong một niệm tâm vô minh bèn có nhân quả vạn hạnh đó thôi! Lại như trong nhà tối mà có kho báu, nếu dùng phương tiện để đốt lửa, thắp đèn, tuy t́m cầu nhân duyên sanh diệt chẳng thể được, giống như hư không, nhưng cũng hiểu rơ pháp tùy ư dấy lên: Do cái tâm hiểu rơ nhân duyên mà thấy kho báu, chẳng phải là kho báu ấy sanh từ nhân duyên. Người tu Chân Ngôn hạnh vốn v́ trừ bỏ Hoặc nghiệp, từ ngay nơi bản thể, thấu hiểu pháp giới chẳng có sanh, diệt, tịnh, nhiễm, ĺa các phân biệt, biết cái Thể của chân ngôn này chính là cái Thể của pháp giới. Nếu biết rơ cái Thể của chân ngôn giống như pháp giới, giống như Đại Không, sẽ tự nhiên có thể đạt được Vô Tướng tam-muội. Do vậy, Tất Địa hiện tiền. Hăy nên tin hiểu như thế.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Kim Cang Thủ phục bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Duy nguyện phục thuyết Chánh Đẳng Giác cú, Tất Địa thành tựu cú.

          ()爾時金剛手復白佛言世尊惟願復說正等覺悉地成就句

          (Kinh: Lúc bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ lại bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Kính mong lại nói câu Chánh Đẳng Giác, câu Tất Địa thành tựu).

 

          Tức là như trên đă nói, từ một chữ có thể sanh ra bốn chữ, cho đến trọn khắp pháp giới. Đấy chính là câu “thấy Phật tâm”. Nay Ngài hỏi về pháp thành tựu trong ấy.

 

          (Kinh) Chư kiến thử pháp thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng, tâm đắc hoan hỷ, thọ an lạc trụ, bất hại pháp giới.

          ()諸見此法善男子善女人等心得歡喜受安樂住不害法界

          (Kinh: Các thiện nam tử, thiện nữ nhân thấy pháp này, tâm hoan hỷ, được trụ trong an lạc, chẳng trở ngại pháp giới).

 

          Người thuận theo đó để tu giác, nếu được thành tựu, sẽ gọi là “kiến pháp”. “Thành tựu” tức là ngay trong đời này được kiến Đế. Người thấy pháp ấy nghe đức Phật nói pháp thành tựu này, ắt sẽ đạt được pháp hỷ sâu xa, trụ trong an lạc hạnh, hiện pháp lạc trụ. V́ thế, thưa hỏi. “Bất hại pháp giới” có nghĩa là “chẳng gây trở ngại trong pháp giới ấy”. Cho đến tiếp nhận đủ loại vui thú trong cơi đời, nhưng sự vui thú trong cơi đời chính là pháp giới, trọn chẳng do vậy mà trở ngại, tổn hại pháp giới. Do vậy, [nói là] “bất hại”.

 

          (Kinh) Hà dĩ cố? Thế Tôn! Pháp giới giả, nhất thiết Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác thuyết danh tức bất tư nghị giới. Thị cố Thế Tôn! Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát đắc thị thông đạt pháp giới bất khả phân tích, phá hoại.

          ()何以故世尊法界者一切如來正等覺說名即不思議界是故世尊真言門修菩薩行諸菩薩得是通達法界不可分析破壞

          (Kinh: V́ sao vậy? Bạch Thế Tôn! Pháp giới được hết thảy Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác gọi là “giới chẳng nghĩ bàn”. Do vậy, bạch đức Thế Tôn! Các vị Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn đạt được sự thông đạt pháp giới chẳng thể phân tích hay phá hoại này).

 

          Bốn chữ ấy rốt ráo thành tựu, chẳng phương hại pháp giới. Bốn câu ấy đều là Phật tâm, há có thể do Phật tâm mà phương hại pháp giới ư? Người trụ trong thành tựu ấy do chẳng hai, chẳng khác pháp giới, cho nên chẳng phương hại, trở ngại. Tất Địa ấy, pháp giới ấy đều chẳng bị phương hại. V́ lẽ nào vậy? Do pháp giới chẳng thể nghĩ bàn! V́ thế, vô lượng Phật đắc đạo thành tựu mà pháp giới chẳng tăng. Vô lượng chúng sanh diệt độ mà pháp giới chẳng giảm. Nếu chúng sanh thắng tấn, [pháp giới] cũng chẳng tăng thêm nhiều. Nếu họ phá phiền năo, [pháp giới] cũng chẳng tổn hại. Đó cũng là bất tư nghị giới tánh như kim cang, chẳng thể phá hoại. Nếu có phương ngại, tức là có đây, kia. Hễ có “đây, kia” th́ có thể phá hoại. Nay chẳng phương hại, trở ngại, cho nên chẳng thể phá hoại. Hăy nên biết “bất hoại” ở đây cũng có nghĩa là không thể chia chẻ, tức là các loại môn, các loại chuyện thế gian và xuất thế gian đều cùng là một pháp giới, chẳng thể chia chẻ thành những cái Thể riêng biệt. Nếu hành giả có thể thông đạt như thế, chính là được thấy pháp thành tựu.

 

          (Kinh) Như thị thuyết dĩ, Thế Tôn cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Thiện tai, thiện tai! Bí Mật Chủ! Nhữ phục thiện tai, năng vấn Như Lai như thị nghĩa. Nhữ đương đế thính, thiện tư niệm chi, ngô kim diễn thuyết.

          ()如是世尊告執金剛祕密主言善哉善哉祕密主汝復善哉能問如來如是義汝當諦聽善思念之吾今演

     (Kinh: Nói như thế xong, đức Thế Tôn bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Lành thay! Lành thay, này Bí Mật Chủ! Ông lại rất lành, có thể hỏi Như Lai nghĩa như thế đó. Ông nên lắng nghe, khéo suy nghĩ lấy, ta nay sẽ diễn nói).

 

          [Đức Phật] lại khen ngợi ngài Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ, v́ có thể thương xót người tu Chân Ngôn hạnh trong đời vị lai nêu ra câu hỏi như thế. “Nhữ đương đế thính, thiện tư niệm chi, ngô kim diễn thuyết”, lời ấy có ư bảo các đại chúng trong hội: Các vị hăy lắng nghe, khéo suy nghĩ đó, ta nay sẽ diễn nói chuyện như thế đó.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ ngôn: - Như thị Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn.

          ()祕密主言如是世尊願樂欲聞

          (Kinh: Bí Mật Chủ thưa: - Đúng như thế, bạch đức Thế Tôn! Con vui thích muốn được nghe).

 

    Nhắc lại Như Lai từ bi trọn khắp, thuận theo lời hỏi ấy mà giải thích.

 

          (Kinh) Phật cáo Bí Mật Chủ: - Dĩ A tự môn nhi tác thành tựu.

          ()佛告祕密主以阿字門而作成就

    (Kinh: Đức Phật bảo ngài Bí Mật Chủ: - Dùng môn chữ A để thực hiện thành tựu).

 

          Tức là từ trong câu Chánh Đẳng Giác mà thực hiện pháp thành tựu.

         

          (Kinh) Nhược tại tăng sở trụ xứ, nhược sơn quật trung, hoặc ư tịnh thất.

          ()若在僧所住處若山窟中或於淨室

          (Kinh: Hoặc ở chỗ Tăng cư trụ, hoặc trong hang núi, hoặc nơi tịnh thất).

 

          Tùy ư chọn nơi yêu thích, và cách giải thích bí mật như đă nói trong phần trước.

 

          (Kinh) Dĩ A tự biến bố nhất thiết chi phần, tŕ tam lạc-xoa.

          ()以阿字遍布一切支分持三落叉

          (Kinh: Dùng chữ A để xếp trọn khắp trên hết thảy chi phần, tŕ ba lạc-xoa).

 

          Dùng tâm để trải khắp chữ A ấy. Từ đỉnh đầu, và mắt, tai v.v… cho đến trọn khắp các thân phần trong, ngoài, [đều tưởng có chữ A tại đó, th́ gọi là “dùng chữ A để xếp trọn khắp hết thảy các chi phần”]. Lại tụng chữ ấy ba lạc-xoa, liền thành tựu. Lại nói rằng: Bổn Tôn, chủng tử, và viên minh (vầng quang minh tṛn sáng như cái gương nơi tâm của Bổn Tôn) là ba thứ. Chữ ở trong viên minh, viên minh ở nơi tâm Bổn Tôn. Khi quán một thứ đă thành, ba thứ đều tự thành. Một thứ duyên ba cảnh ấy, nên gọi là ba lạc-xoa. Lạc-xoa nghĩa là “thấy”. Tụng ba lạc-xoa xong, tới ngày Mười Lăm của bạch nguyệt là ngày trăng tṛn, y theo kinh văn mà tụng đủ ba lạc-xoa xong.

 

          (Kinh) Thứ ư măn nguyệt, tận kỳ sở hữu nhi dĩ cúng dường.

          ()次於滿月盡其所有而以供養

          (Kinh: Kế đó, trong ngày trăng tṛn, tận hết những ǵ ḿnh có để cúng dường).

 

          Tức là làm thành tựu Mạn-đồ-la trong ngày Mười Lăm của bạch nguyệt. Khi làm pháp này, tận lực đem tất cả các thứ ḿnh vốn có để cúng dường Tam Bảo, thực hiện pháp thành tựu. Khi làm pháp thành tựu, cũng tụng chữ này (cách hiểu theo nghĩa bí mật như trên đă nói).

 

          (Kinh) Tác thử pháp thời, năi chí Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi, Chấp Kim Cang đẳng, hoặc dư thánh, thiên hiện tiền, ma đảnh xướng ngôn: “Thiện tai hành giả!” Ưng đương khể thủ tác lễ, phụng Át-già thủy.

          ()作此法時乃至普賢菩薩文殊師利執金剛等或餘聖天現前摩頂唱言善哉行者應當稽首作禮奉閼伽水

          (Kinh: Khi làm pháp này, cho đến Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi, Chấp Kim Cang v.v… hoặc các vị thánh, chư thiên khác hiện tiền, xoa đỉnh đầu [hành giả], xướng rằng: “Lành thay hành giả”. [Khi ấy, hành giả] hăy nên dập đầu làm lễ, dâng nước Át-già).     

 

           Giải rằng: Hoặc là các vị Kim Cang khác, chẳng thể nói nhất định được! Hễ có một vị nào hiện đến, sẽ là thành tựu. Nhưng khi trông thấy, cũng nên biện định tướng thượng, trung, hạ. Nếu đích thân trông thấy phân minh như đối trước mắt chẳng khác th́ là thượng thành tựu. Nếu chỉ nghe tiếng hiện tiền, chỉ dạy khiến cho lợi lạc, hoan hỷ, th́ là trung thành tựu. Nếu mộng thấy th́ là hạ thành tựu. Lại nữa, khi thấy có rơ ràng hay mù mờ sai khác, sẽ biết là có chướng hay không (nói theo nghĩa bí mật cũng có thể hiểu là “tâm đắc”). Khi Bổn Tôn hiện tiền gia bị như thế, [hành nhân] liền “ưng đương khể thủ tác lễ, phụng Át-già thủy” (hăy nên dập đầu đảnh lễ, dâng nước Át-già). Đây chính là nước thơm, bỏ thêm năm thứ báu, năm loại hạt lương thực v.v… như trong phần trước đă nói.

 

          (Kinh) Tức thời đắc bất vong Bồ Đề tâm tam-muội.

          ()即時得不忘菩提心三昧

          (Kinh: Liền được chẳng quên Bồ Đề tâm tam-muội).

 

          Hành giả ấy do đắc tam-muội, khiến cho thân tâm đều được khinh an (khinh an tức là cấu chướng trừ sạch).

 

          (Kinh) Hựu dĩ như thị thân tâm khinh an nhi tụng tập chi, đương đắc tùy sanh tâm thanh tịnh, thân thanh tịnh.

          ()又以如是身心輕安而誦習之當得隨生心清淨身清淨

          (Kinh: Lại dùng thân tâm khinh an như thế để tụng niệm, tu tập, sẽ đạt được tâm thanh tịnh và thân thanh tịnh, ư sanh thân thuận theo ư niệm mà sanh).

 

          Tức là dùng sự khinh an ấy để suy tưởng, xếp đặt [các chữ trên các chi phần của thân thể], niệm tụng, ǵn giữ tột bậc, [khiến cho] năm căn như thân v.v… đều thanh tịnh. Như trong phẩm Lục Căn đă nói, muôn h́nh tượng đều thấy, có thể biết Phật tâm v.v… Do thân tâm thanh tịnh, liền được “tùy sanh”, tức là ư sanh thân[17] thuận theo ư niệm mà sanh. Do tùy sanh làm nhân, niệm tụng là tịnh, sẽ đạt được thân tâm thanh tịnh.

 

          (Kinh) Nhược trí ư nhĩ thượng tŕ chi, đương đắc nhĩ căn thanh tịnh.

          ()若置於耳上持之當得耳根清淨

          (Kinh: Nếu đặt ở tai để tŕ, sẽ đạt được Nhĩ Căn thanh tịnh).

 

          Giải rằng: Nếu hành giả muốn Nhĩ Căn thanh tịnh, hăy tưởng đặt chữ A nơi tai rồi niệm tụng, sẽ được nhĩ căn thanh tịnh, Văn Tŕ chẳng quên, có thể nghe mười phương chư Phật thuyết pháp, cho đến nghe tiếng của chư thiên v.v… cũng giống như kinh Pháp Hoa đă nói.

 

          (Kinh) Dĩ A tự môn tác xuất nhập tức, tam thời tư duy. Hành giả nhĩ thời, năng tŕ thọ mạng trường kiếp trụ thế. Nguyện Ra Xà đẳng chi sở ái kính, tức dĩ Ha tự môn tác sở ưng độ giả, thọ dữ Bát-đầu-ma hoa, tự tŕ thương-khư nhi hỗ tương quán, tức sanh hoan hỷ.

          ()以阿字門作出入息三時思惟行者爾時能持壽命長劫住世願囉闍等之所愛敬即以訶字門作所應度者授與鉢頭摩華自持商佉而互相觀即生歡喜

          (Kinh: Dùng môn chữ A theo hơi thở ra vào, ba thời tư duy. Lúc bấy giờ, hành giả có thể duy tŕ thọ mạng trụ thế lâu cả kiếp. Nếu mong được hàng vua chúa kính yêu, dùng môn chữ Ha để làm người đáng được độ (tức tưởng chữ Ha là người mà ḿnh muốn nhiếp phục), trao cho [người ấy] hoa Bát-đầu-ma, chính ḿnh th́ cầm thương-khư (tù và bằng vỏ ốc), [đôi bên] nh́n ngó lẫn nhau, liền sanh hoan hỷ).

 

          Đây nói về môn Bồ Đề tâm bất sanh bất diệt trong chữ A. Nếu muốn sống lâu dài, hăy tưởng chữ A giống như hơi thở ra vào (tức là dùng chữ này để tùy thuận hơi thở, sao cho thở ra, hít vào [luôn tưởng chữ A] chẳng gián đoạn). Nếu kẻ đoản mạng tưởng niệm như thế, hằng ngày ba thời tư duy, sẽ liền được trường thọ. Nói theo ư nghĩa bí mật, chữ, câu và Bổn Tôn là ba thời. Nếu muốn thâu nhiếp hết thảy các độc, hăy tưởng chữ A đó, hoặc ḿnh hay người khác, đều tưởng nơi thân. Nếu như [chất độc] ở nơi thân chính ḿnh, hăy tưởng chữ ấy nơi chỗ có độc, dần dần khắp toàn thân trục chất độc xuống phía dưới, chất độc cũng dần dần cũng theo chữ ấy mà bị loại trừ. Loại bỏ hết th́ độc liền trừ. Độc có hai loại: Một là chất độc từ các vật; hai là chất độc của hữu t́nh, tức là chất độc của rồng, rắn v.v… Nếu nói theo ư nghĩa bí mật, “độc” tức là Tam Độc. Khi Tam Độc lừng lẫy, muốn trừ khử th́ cũng làm như trên, tức là loại trừ cho hết.

          “Nguyện Ra Xà đẳng chi sở ái kính” (nguyện được hàng vua chúa kính yêu) liền dùng môn chữ A và Ha để làm người đáng được độ, ư nói: Nếu muốn cho kẻ khác nghĩ tưởng yêu mến và quy y, trước hết hăy tưởng chữ A là thân thể của chính ḿnh, tưởng chữ Ha là thân của kẻ khác. Tưởng thân chính ḿnh cầm thương-khư (tù và bằng vỏ ốc). Lại tưởng người ấy cầm hoa sen, [đôi bên] nh́n ngó lẫn nhau, trong tâm tụng chữ A này. Dẫu người ấy phẫn nộ, kiêu mạn, cũng liền có tâm yêu mến, ḥa thuận. Nói theo nghĩa bí mật, nếu muốn nhiếp phục cái tâm, tưởng chính ḿnh là chữ A, tưởng tâm là chữ Ha, trên tâm có hoa sen, tay cầm thương-khư, khiến cho thuận tùng, liền có thể nhiếp phục. Hết thảy kẻ khó hàng phục, [vận dụng pháp này] cũng đều có thể nhiếp phục. Đó là nói về Thượng Phiền Năo và Tùy Phiền Năo.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn phục quán nhất thiết đại hội, cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Kim Cang Thủ! Chư Như Lai hữu ư sanh, tác nghiệp hư hành vũ, quảng diễn phẩm loại, nhiếp tŕ tứ giới, an trụ tâm vương đẳng đồng hư không, thành tựu quảng đại kiến, phi kiến quả, xuất sanh nhất thiết Thanh Văn cập Bích Chi Phật, chư Bồ Tát vị, linh Chân Ngôn môn tu hành chư Bồ Tát nhất thiết hy nguyện giai tất măn túc, cụ chủng chủng nghiệp, lợi ích vô lượng chúng sanh. Nhữ đương đế thính, thiện tư niệm chi, ngô kim diễn thuyết. Bí Mật Chủ! Vân hà hành vũ, nhi tác nhất thiết quảng đại thành hoại quả? Tŕ chân ngôn giả nhất thiết thân chứng da?

          ()爾時毘盧遮那世尊復觀一切大會告執金剛祕密主言金剛手諸如來有意生作業戲行舞廣演品類攝持四界安住心王等同虛空成就廣大見非見果出生一切聲聞及辟支佛諸菩薩位令真言門修行諸菩薩一切希願皆悉滿足具種種業利益無量眾汝當諦聽善思念之吾今演祕密主云何行舞而作一切廣大成壞果持真言者一切親證耶

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn lại quán hết thảy đại hội, bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Kim Cang Thủ! Các đức Như Lai do ư sanh khởi tác nghiệp du hư, biến hiện thần thông, rộng diễn phẩm loại, nhiếp tŕ tứ giới (Địa, Thủy, Hỏa, Phong), an trụ trong tâm vương giống như hư không, thành tựu cái quả “kiến, phi kiến” rộng lớn, xuất sanh hết thảy các Thanh Văn và Bích Chi Phật, các địa vị Bồ Tát, khiến cho hết thảy các ước nguyện của Bồ Tát tu hành trong Chân Ngôn môn thảy đều được thỏa măn, trọn đủ các loại nghiệp, lợi ích vô lượng chúng sanh. Ông hăy nên lắng nghe, khéo suy nghĩ lấy, ta nay diễn nói. Bí Mật Chủ! Thế nào là hiện thần thông biến hóa để tạo tác hết thảy cái quả thành hoại rộng lớn mà người tŕ Chân Ngôn đích thân chứng đắc hết thảy vậy?)

 

          Đấy chính là phổ hiện sắc thân, tùy loại mà hiện thân h́nh trong lục đạo. “Vũ” (Múa) tức là các chuyện thần biến huyễn tác (thần thông biến hiện, hóa hiện như huyễn), tùy theo từng sự cũng hiện rất nhiều loại, chẳng thể nói trọn. “Tứ giới nhiếp tŕ” tức là nói đến các giới Địa, Thủy, Hỏa, Phong. Tuy hiện các thân trong, ngoài, y báo, chánh báo ấy, nhưng đấy là tâm vương an trụ giống như hư không. Hư không thường bất động mà chứa đựng hết thảy. V́ thế, chỉ từ nghiệp nơi Phật tâm mà sanh, tùy tâm mà có, bản thể giống như hư không, chẳng thể chấp giữ. “Kiến” là nói tới các thứ tướng vũ hư (múa may, đùa bỡn)[18], chẳng phải là thấy lư Niết Bàn (Lại nói Kiến là thấy cái quả thế gian, chẳng phải là thấy cái quả Bồ Đề. Do loại này vô lượng, nên nói là “rộng lớn”). Cũng thấy ba thừa tu hành đủ loại pháp môn, thuận theo nguyện của họ mà khiến cho được thỏa măn, tức là có thể hiện đủ loại chuyện có thể thấy và chẳng thể thấy. Cho đến nguyện cầu các pháp môn Thiền Định, trí huệ, nhiều thứ của báu, cũng đều tùy loại mà thị hiện để ban tặng cho. Giống như Như Ư bảo vương, tùy ḷng mong cầu, hết thảy đều thí cho.

          Đẳng Dẫn khiến cho thần thông v.v… dấy lên. Tam-ma-hế-đa (Samāhita) có nghĩa là Đẳng Dẫn (b́nh đẳng dẫn khởi các thứ như thần thông, chẳng phải là Đẳng Chí). Khi đó, đức Tỳ Lô Giá Na Phật lại quán hết thảy đại chúng hội, quán xong, bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng (như trong phần trên đă giải thích). Kim Cang Thủ “hành vũ, nhất thiết tác quảng đại thành hoại quả, thân nhất thiết dữ” (nhảy múa, thực hiện hết thảy quả thành hoại rộng lớn, đích thân ban cho hết thảy): “Vũ” chính là đùa vui. Lại c̣n phổ hiện sắc thân, thuận theo từng loài mà khéo léo thành tựu họ, thực hiện đủ loại ứng hiện. Những điều này chẳng chân thật, chỉ là như huyễn. V́ thế gọi là “Như Lai chi vũ”. Giống như người nhảy múa có thể làm đẹp ḷng mọi người, tuy [người xem có] các thứ ư giải bất đồng, nhưng đều khiến cho họ đẹp dạ. Phật cũng như thế đó, nhưng chẳng phải do sắc tướng thuộc tứ giới mà làm, chỉ tùy thuận tâm ư của Phật mà sanh. Từ tâm mà sanh, từ tâm mà diệt. Tuy là thường pháp mà có thể tùy duyên sanh diệt. Do hưng phế tùy duyên, nên nói là cái quả sanh diệt. V́ vậy bảo là “thành, hoại”. Dấu tích ấy trọn khắp pháp giới rộng lớn vô biên, v́ thế nói là “rộng lớn”. Đă thực hiện rồi bèn diệt, cho nên nói là “thành, hoại”.

          “Quảng đại thành hoại” (Thành hoại rộng lớn): “Thành” có nghĩa là biến chuyển, cho nên sẽ hoại; nhưng sự thành hoại ấy chính là sự ứng hiện mầu nhiệm của Như Lai, từ Phật pháp giới tùy cơ cảm ứng mà sanh, tuy sanh mà chẳng sanh, tuy diệt mà chẳng diệt, tức là giống như huyễn, do chẳng khác pháp giới. Do việc làm chẳng thật, cho nên gọi là Vũ. Tam thế chư Phật đều thực hiện “sự nhảy múa” ấy. Thân nhất thiết dữ” (Đích thân ban cho hết thảy): Ta đích thân từ cổ Phật nhận lănh pháp này, nay lại đích thân trao cho các vị. V́ thế nói “đích thân trao cho hết thảy”. Nói “đích thân” tức là có thể đích thân hiện tiền trao cho hết thảy cái quả mà họ ước nguyện. Nghĩa ấy là đúng.

 

          (Kinh) Hành giả như thứ đệ, tiên tác tự chân thật, như tiền y pháp trụ, chánh tư niệm Như Lai. A tự vi tự thể, tịnh trí Đại Không điểm, đoan nghiêm biến kim sắc, tứ giác kim cang tiêu. Ư bỉ trung tư niệm, nhất thiết xứ tôn Phật. Thị chư Chánh Đẳng Giác, thuyết tự chân thật tướng. Tu hành bất nghi lự, tự chân thật tướng sanh. Đương đắc vi thế gian, nhất thiết chúng lợi lạc, cụ quảng đại hy hữu, trụ ư như huyễn cú. Vô thỉ thời túc thực, vô trí chư hữu bách. Hành giả thành Đẳng Dẫn, nhất thiết giai tiêu trừ. Nhược quán ư bỉ tâm, vô thượng Bồ Đề tâm. Tŕ chân ngôn nghiệp cố, ư tịnh phi tịnh quả, ứng lư thường vô nhiễm, như liên xuất ứ nê. Hà huống ư tự thể, đắc thành Nhân Trung Tôn.              ()行者如次第,先作自真實,如前依法住,正思念如來,阿字為自體,并置大空點,端嚴遍金色,四角金剛標。於彼中思念,一切處尊佛,是諸正等覺,說自真實相。修行不疑慮,自真實相生,當得為世間,一切眾利樂。具廣大希有,住於如幻句,無始時宿殖,無智諸有迫,行者成等引,一切皆消除。若觀於彼心,無上菩提心,持真言業故,於淨非淨果,應理常無染,如蓮出淤泥,何況於自體,得成仁中尊。

          (Kinh: Hành giả theo thứ tự, trước tác tự chân thật, như trên, nương pháp trụ, chánh tư niệm Như Lai. Chữ A làm tự thể, thêm một chấm Đại Không, sắc vàng khắp đoan nghiêm, bốn góc bày kim cang. Ở trong ấy nghĩ niệm, tôn, Phật hết thảy chỗ. Các Chánh Đẳng Giác ấy, nói tự tướng chân thật. Tu hành chẳng lo ngờ. Tự tướng chân thật sanh, sẽ được v́ thế gian, hết thảy các lợi lạc, trọn hy hữu rộng lớn, trụ trong câu như huyễn. Đă gieo từ vô thỉ, vô trí, các cơi ép. Hành giả thành Đẳng Dẫn, hết thảy đều tiêu trừ. Nếu quán cái tâm ấy, vô thượng Bồ Đề tâm. Do nghiệp tŕ chân ngôn, nơi quả tịnh, phi tịnh, xứng lư, thường vô nhiễm, như sen vượt bùn lầy. Huống hồ nơi tự thể, được thành Nhân Trung Tôn).

 

          Nói “tiên tác tự chân thật” (trước hết thực hiện sự chân thật nơi chính ḿnh) tức là như trên đây đă quán chủng tử, chân ngôn, và Bổn Tôn. Do quán thấy Bổn Tôn, thấy rồi liền chuyển thân chính ḿnh thành Bổn Tôn. Xoay vần “tức là lẫn nhau” (tức quán Bổn Tôn, Bổn Tôn nhập vào thân ḿnh, thân ḿnh chuyển thành Bổn Tôn, quán Bổn Tôn và chính ḿnh chẳng khác), chẳng hề trở ngại lẫn nhau, chính là thấy cái quả kim cang, cái tâm Bồ Đề, cho nên gọi là “tiên tác tự chân thật”. Theo thứ tự trụ như thế, tức là trụ vào đối tượng được quán trên đây, tâm nương vào đó mà khéo trụ. Trước hết đă thấy Thật Tướng, đă quán chữ A vậy.

          Kinh nói “như tiền y pháp trụ, chánh tư niệm Như Lai” (nương vào pháp mà trụ giống như trên, chân chánh nghĩ nhớ Như Lai) có nghĩa là theo đúng cách suy nghĩ như trong phần trên đă nói để niệm tụng, hành tŕ. Tưởng chữ A là chính ḿnh, và thêm một chấm [Đại Không trên đầu chữ A] để trở thành rộng lớn, hết thảy đều là màu vàng sao cho đẹp dạ tột bậc. Nơi chày kim cang bày khắp bốn cạnh [của chữ ấy], hăy nghĩ nhớ, tŕ tụng chữ [chân ngôn] và quang minh của chư Phật trọn hết thảy mọi nơi. Hết thảy các đức Phật ấy sẽ tự nói, tức là quán chữ A có màu vàng đậm, sắc tướng ấy đoan chánh, trang nghiêm, tốt đẹp, khiến cho mọi người đẹp ḷng, ở ngay trong tâm của chính ḿnh. Đối với chữ này, kinh lại nói cũng thêm vào cái chấm cho rộng lớn, nghĩa là trên chữ A lại thêm một cái chấm [Đại Không], “tăng thêm” tức là rộng lớn. Ở phía ngoài, nơi bốn góc của chữ A, dùng chày kim cang làm lan can bao bọc. Lan can ấy toàn bằng chày kim cang ba nhánh. Các nhánh chày lại được vẽ chéo nhau, chính giữa [khung lan can được xếp bằng chày kim cang ấy] đặt chữ. Đă thấy chữ A ấy, liền chuyển chữ A đó thành h́nh tượng của Tỳ Lô Giá Na Bổn Tôn, tức là tự thân hiện h́nh tượng giống như Bổn Tôn. H́nh tượng ấy dựa theo bổn ấn mà làm. Toàn thân đức Phật có quang minh. Đấy chính là thấy vị Phật Thật Tướng trong Bồ Đề tâm, giống như trong lưu ly thanh tịnh trông thấy h́nh tượng vàng ṛng, chẳng giống như vọng tưởng trong các món tâm số (tâm sở) khác. Hăy nên biết thấy như thế chính là thấy vị Phật Thật Tướng trong tâm. Người tu pháp thành tựu này nếu chẳng ngờ vực, lo lắng, sẽ có thể v́ khắp hết thảy chúng sanh tạo tác sự lợi ích to lớn.

          Kinh nói: “Cụ quảng đại hy hữu” (trọn hy hữu rộng lớn), giống như huyễn nhân, tức là có đủ loại chuyện khác lạ. Giống như chư đại Bồ Tát, thuận theo ḷng muốn làm chuyện lợi ích chúng sanh, khác nào vầng trăng hư huyễn trong nước ứng với vạn loại đều được thành tựu. Đấy là câu Như Huyễn tam-muội của Như Lai. Nếu có thể làm như thế, ác nghiệp từ đời vô thỉ đến nay, và cái quả bức bách trong ba cơi, cho đến nghiệp nặng Vô Gián diệt ngay trong thân hiện tại, huống hồ những thứ khác ư? Nói tóm lại, các thứ khổ quả trong ba cơi đều diệt. V́ lẽ nào vậy? Do người tŕ tụng trụ trong địa vị Tam-ma-hế-đa. Nếu quán Thật Tướng như thế, sẽ ĺa khổ.

          Kinh nói: “Nhược quán ư bỉ tâm, vô thượng Bồ Đề tâm” (nếu quán vô thượng Bồ Đề tâm trong cái tâm ấy) tức là quán Vô Thượng Bồ Đề tâm trong tự tâm của hành giả. Nói “tâm” th́ tức là vô thượng đại Bồ Đề tâm. Nếu trụ trong phép Quán ấy, sẽ có thể thanh tịnh thân khẩu ư nghiệp. Do có thể thanh tịnh các nghiệp, tịnh nghiệp và bất tịnh nghiệp đều ĺa. Ư nói: Có nghiệp như thế sanh ra, tịnh và bất tịnh đều chẳng thể nhiễm. Kinh nói “đương nghiệp” tức là cái nghiệp sẽ sanh ra tịnh tâm này. Cái quả ấy đều chẳng thể nhuốm bẩn. V́ sao vậy? Do thường tương ứng với lư. Ví như hoa sen tuy sanh trong bùn lầy, nhưng chẳng bị bùn nhuốm bẩn. Hành giả như thế giống như chư Phật. V́ sao vậy? Do có thể sanh ra hết thảy chư Như Lai. Đấy chính là Phật, là bậc thầy tôn quư trong những vị nhân từ vậy. Ư nói: Vừa mới quán Bồ Đề tâm, đă đạt được cái quả Như Lai, huống hồ đích thân hiện chứng mà thành Phật ư?

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Như Lai hựu phục trụ ư Hàng Phục Tứ Ma Kim Cang Hư tam-muội, thuyết hàng phục tứ ma, giải thoát lục thú, măn túc Nhất Thiết Trí trí kim cang tự cú: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a vị ra hồng khiếm.

          ()爾時毘盧遮那世尊又復住於降伏四魔金剛戲三昧說降伏四脫六趣滿足一切智智金剛字句南麼三曼多勃馱喃阿味囉吽欠

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Như Lai lại trụ trong Hàng Phục Tứ Ma Kim Cang Hư tam-muội, thuyết câu chữ kim cang hàng phục tứ ma, giải thoát sáu nẻo, viên măn trí Nhất Thiết Trí: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a vị ra hồng khiếm).

          Lại nữa, khi đó, Tỳ Lô Giá Na Như Lai lại trụ trong Hàng Phục Tứ Ma Kim Cang Hư tam-muội, hàng phục bốn loại ma, giải thoát sáu đường, nói câu chữ kim cang viên măn trí Nhất Thiết Trí. Trụ trong tam-muội ấy, có thể hàng phục tứ ma, có thể trừ phiền năo nghiệp khổ trong sáu đường, ban cho niềm vui giải thoát, và cũng có thể thỏa măn tất cả hết thảy ước nguyện của hết thảy phàm thánh. Đức Phật trụ trong Định ấy mà nói câu Kim Cang và ư nghĩa chân ngôn. Năm chữ ấy chính là câu chân ngôn hàng phục tứ ma. A (अः, A) là hành, tức là hành
vốn bất sanh. Hai cái chấm bên cạnh chữ A () có nghĩa là “tịnh trừ”. Do nghĩa này mà có thể hàng phục tứ ma, trừ hết thảy các khổ. Vị (वि, Vi) nghĩa là trói buộc, [chữ Va ()] thêm một vạch chính là Vô Giải tam-muội, tức là giải thoát chẳng thể nghĩ bàn. Ra () nghĩa là thanh tịnh sáu căn; do sáu căn thanh tịnh nên chẳng có trần. Hồng (हुं, Hūṃ) có ư nghĩa như đă giải thích trong phần trước. Trong phần trước, cũng có chỗ giải thích ư nghĩa chữ Khư (, Kha). “Hồng” lại có ba nghĩa, chính là ba món giải thoát của Như Lai. Do tu hành trừ chướng mà có ba giải thoát, trụ trong Đại Không. Khiếm (खं, Khaṃ) là Đại Không.

 

          (Kinh) Thời Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ đẳng chư Chấp Kim Cang, Phổ Hiền đẳng chư Bồ Tát, cập nhất thiết đại chúng, đắc vị tằng hữu khai phu nhăn, khể thủ nhất thiết Tát Bà Nhă, nhi thuyết kệ ngôn:

          ()時金剛手祕密主等諸執金剛普賢等諸菩薩及一切大眾得未曾有開敷眼稽首一切薩婆若而說偈

     (Kinh: Khi đó, các vị Chấp Kim Cang như Kim Cang Thủ Bí Mật v.v… Các vị Bồ Tát như Phổ Hiền v.v… và hết thảy đại chúng, được mở bừng mắt chưa từng có, đảnh lễ hết thảy Tát Bà Nhă mà nói kệ rằng).

 

          Khi đức Phật nói chân ngôn này, các vị như Kim Cang Thủ và Phổ Hiền được mở bừng mắt chưa từng có (như trên đă nói), đảnh lễ hết thảy Nhất Thiết Trí, nói kệ như thế này (hết thảy Nhất Thiết Trí tức là hết thảy các pháp Như, tức là Như Lai Như).

 

          (Kinh) Thử chư Phật, Bồ Tát, cứu thế chư khố tạng, do thị nhất thiết Phật, Bồ Tát, cứu thế giả, cập dữ nhân Duyên Giác, Thanh Văn hại phiền năo, năng biến sở hành địa, khởi chủng chủng thần thông, bỉ đắc Vô Thượng Trí, Chánh Giác vô thượng trí.

          ()此諸佛菩薩,救世諸庫藏,由是一切佛,菩薩救世者,及與因緣覺,聲聞害煩惱,能遍所行地,起種種神通。彼得無上智,正覺無上智。

          (Kinh: Chư Phật, Bồ Tát ấy, các kho tàng cứu đời, do vậy hết thảy Phật, Bồ Tát đấng cứu thế, và do bởi Duyên Giác, Thanh Văn trừ phiền năo, khắp địa vị sở hành, dấy đủ loại thần thông, đạt được Vô Thượng Trí, Chánh Giác vô thượng trí).

 

          “Nhất thiết” (hết thảy) ở đây theo ư nghĩa tiếng Phạn là “không ǵ chẳng đủ”, tức là ư nghĩa “kho chứa” vậy. Ư nói dùng năm chữ ấy làm cái kho, có thể chứa đựng đầy ắp hết thảy của cải. Hết thảy chư Phật, Bồ Tát là đấng cứu thế. “Duyên Giác, Thanh Văn hại phiền năo”: Tán thán phẩm đức của Thanh Văn, tức là trừ diệt tùy miên vậy. Lại c̣n có thể hiểu là: Tô La Đa (Surata)[19] là trừ diệt phiền năo. “Năng biến sở hành địa, khởi chủng chủng thần thông” (có thể trọn khắp các hành xứ, dấy lên các thứ thần thông): “Của cải” chính là pháp bảo của Như Lai, ban cho hết thảy chúng sanh mà vẫn chẳng thiếu hụt. Kho báu đại trí vô cùng như thế, nên gọi là “của cải”. Do của cải nơi pháp có thể thí cho hết thảy, nên nói môn chân ngôn này trên từ chư Phật, dưới đến Thanh Văn, không ǵ chẳng nương vào câu này để có thể thực hiện các loại thần biến lợi ích hết thảy. V́ thế nói “tùy theo hành địa này mà hiện đủ loại sức thần thông”. Nói “hành địa” tức là nói về hành xứ, như kệ nói: “Tầm địa sơn lâm biến vô đẳng” (t́m khắp núi rừng trên đại địa đều chẳng có ai sánh bằng). Nói “bỉ đắc vô thượng trí, Chánh Giác vô thượng trí” (người ấy đạt được vô thượng trí, Chánh Giác vô thượng trí): Cũng do câu này mà hết thảy các vị thánh hiền đều được thành tựu trí huệ, cho tới cùng thành trí Nhất Thiết Trí. Nhưng trí Nhị Thừa đối với thế gian cũng gọi là vô thượng, nay lại nói rơ Phật là vô thượng, tức là lặp lại [để nhấn mạnh Phật trí vô thượng tuyệt đối].

 

          (Kinh) Thị cố nguyện quảng thuyết, thử giáo chư phương tiện, cập dữ bố tưởng đẳng, chủng chủng chúng sự nghiệp. Chư chí cầu đại chúng, vô thượng Chân Ngôn hạnh, kiến pháp an trụ giả, đương đắc hoan hỷ trụ.

   ()是故願廣,此教諸方便,及與布想等,種種眾事業。諸志求大眾,無上真言行,見法安住者,當得歡喜住。

    (Kinh: Do vậy, nguyện rộng nói, phương tiện trong giáo này, và đặt chữ, quán tưởng… Các sự nghiệp đủ loại. Các đại chúng chí cầu, hạnh Chân Ngôn vô thượng, thấy pháp được an trụ, sẽ được hoan hỷ trụ).

 

          Trước là đă tán thán; sau đó, thỉnh đức Phật nói năm chữ ấy. Theo thứ tự nói cặn kẽ, và các chủng loại quán tưởng, sắp xếp chữ v.v… Đối với các điều chưa nói, đều thỉnh [đức Thế Tôn] giảng giải trong lời dạy này. Đối với chuyện sắp xếp chữ (tức quán tưởng sẽ đặt chữ chân ngôn nơi nào trên các chi phần thân thể), thượng, trung, hạ thành tựu, màu sắc, lực dụng sai biệt, các loại phương tiện, đều thỉnh Phật rộng v́ [chúng con] tuyên nói. Thành tựu, tiến nhập, tùy thuận để hành pháp ấy trong các môn th́ gọi là Giáo. Thỉnh [đức Phật] tự nói Giáo ấy, tức là [cầu thỉnh] đức Phật đích thân diễn nói. Nếu đức Phật rộng nói pháp ấy, các hành giả hành vô thượng Chân Ngôn trong Đại Thừa sẽ được thấy pháp. Nếu đă thấy, cũng sẽ đều hoan hỷ. “Kiến pháp” (Thấy pháp) tức là chứng đắc. “Đương trụ” (sẽ trụ trong) tức đă tự thấy rồi, lại trao truyền cho các chúng sanh. Do thấy sự ấy, ḿnh và người đều đạt được lợi ích vô thượng nơi pháp. V́ thế, thỉnh đức Phật rộng nói. Kinh này vốn có ba ngàn năm trăm bài kệ giảng giải ư nghĩa của năm chữ ấy. Ư nghĩa chánh yếu của Tam-ma-hế-đa chính là “trụ tâm nơi một cảnh”.

 

          (Kinh) Thuyết như thị kệ dĩ, Đại Nhật Thế Tôn ngôn: - Phổ giai ưng đế thính, nhất tâm trụ Đẳng Dẫn. Đại kim cang địa tế, thời gia tŕ hạ thân, vị thuyết thử pháp cố, nhi hiện Bồ Đề ṭa, tối thắng A tự đồng, đại Nhân Đà La luân, đương tri nội ngoại đẳng, Kim Cang Mạn-đồ-la, trung tư duy nhất thiết, thuyết danh Du Già ṭa.

      ()說如是偈已,大日世尊言:普皆應諦聽,一心住等引,大金剛地際,時加持下身,為說此法故,而現菩提座。最勝阿字同,大因陀羅輪,當知內外等金剛漫荼羅,中思惟一切,說名瑜伽座

          (Kinh: Nói kệ như vậy xong, Đại Nhật Thế Tôn bảo: - Hết thảy nên lắng nghe. Nhất tâm trụ Đẳng Dẫn. Địa tế đại kim cang, gia tŕ ở dưới thân. V́ để nói pháp này, mà hiện ṭa Bồ Đề, như chữ A tối thắng. Đại Nhân Đà La luân, hăy nên biết trong ngoài, Kim Cang Mạn-đồ-la, trong tư duy hết thảy, gọi là ṭa Du Già).

 

           Đức Phật muốn nói câu kim cang, khiến cho khắp đại chúng trụ trong cảnh nhất tâm mà lắng nghe, muốn thực hiện pháp thành tựu Kim Cang chân ngôn này; trước hết, bảo họ làm kim cang ṭa. Như lúc đức Phật sắp thành đạo, ngự tại kim cang đạo tràng. Lại nữa, ngoại trừ ṭa ấy ra, chẳng c̣n có ṭa nào khác kham có thể vượt trội mà đạt đến điều ấy được! Khi đó, đại kim cang từ mặt đất thấu tận địa tế. “Gia tŕ hạ thân nơi địa tế, v́ muốn nói chữ A” có nghĩa là: Chữ ấy là tối thắng, là chữ bậc nhất. “Gia tŕ”: Nay v́ muốn nói pháp ấy, trước hết, dùng [chữ ấy] để gia tŕ tự thân. “Hạ thân” tức là từ rốn trở xuống, đều tưởng thuần là kim cang. Trong ấy, có nội và ngoại, “nội” là như vừa nói trên đây, “ngoại” là tưởng thân chính ḿnh ngồi trong đàn tràng kim cang h́nh vuông. Đàn ấy như trong phần trên đă nói, có h́nh vuông, [dùng chày kim cang] làm lan can. Nói “đại Nhân Đà La” (Mahendra) tức là chất tột bậc cứng rắn trong các chất kim cang, có thể phá nát kim cang, nhưng kim cang chẳng thể phá nó. Lại c̣n là màu vàng tột bậc, giống như tử ma kim sắc (màu của chất vàng sắc tía được giồi mài sáng bóng). Tưởng đó là chữ A, gọi là “kim cang luân”. Ở trên ṭa ấy, tư duy hết thảy, th́ chính là “Du Già ṭa”. Đấy là chỗ ngồi của người tu hành tương ứng với lư. “Tư duy hết thảy” nghĩa là hết thảy các sự đều do sự tư duy này mà thực hiện. Do có nhiều sự việc, nên nói là “hết thảy”. Trên đây là phần đầu tiên giải thích [ư nghĩa] “dùng chữ A làm ṭa” đă xong.

 

          (Kinh) A tự đệ nhất mạng, thị vi dẫn nhiếp cú, thường an Đại Không điểm, năng nhiếp thọ chư quả. Hành giả ư nhất nguyệt, kết Kim Cang Huệ ấn, tam thời tác tŕ tụng, tồi hủy vô trí thành, đắc bất động kiên cố. Thiên, Tu La mạc hoại. Năi chí tùy tự ư, tăng ích sự thành tựu.

      ()阿字第一命,是為引攝句,常安大空點,能攝授諸果。行者於一月,結金剛慧印,三時作持誦,摧毀無智城,得不動堅固,天脩羅莫壞,乃至隨自意,增益事成就。

          (Kinh: Chữ A: Mạng bậc nhất. Đó là câu dẫn nhiếp. Thường đặt chấm Đại Không, hay nhiếp thọ các quả. Hành giả trong một tháng, kết Kim Cang Huệ ấn, ba thời đều tŕ tụng, đập nát thành vô trí, được kiên cố bất động. Trời, Tu La chẳng hoại, cho đến tùy tự ư, tăng ích sự thành tựu).

 

          Kế đó, nói về chữ A âm dài (Ā). Đây là mạng căn bậc nhất của chữ A. Do nó có thể phát sanh các chữ, cho nên nói là Mạng. Nếu chẳng có chữ A, các chữ khác chẳng sanh, nên gọi là “mạng bậc nhất”. Đây chính là câu có thể nhiếp triệu. Nếu tưởng chữ này, sẽ có thể nhiếp triệu. Chữ A đọc âm dài tức là hạnh. Nếu tiếp xúc chữ A, sẽ có thể dẫn khởi hết thảy Phật hạnh. V́ thế nói là “nhiếp triệu”. Nhiếp triệu hết thảy các pháp trong, ngoài. “Nhiếp triệu” nghĩa là thâu nhiếp, khiến cho phụ thuộc chính ḿnh ḥng tự tại thọ dụng. Môn chữ A này có thể nhiếp triệu công đức của hết thảy Như Lai quy vào tự thân, cũng có thể trọn vẹn hết thảy các hạnh.

          Kế đó nói chữ Ám (A). Nếu tưởng chữ này, có thể nhiếp trừ hết thảy độc và các chướng như bệnh tật v.v… Các chướng trong và ngoài đều có thể thâu nhiếp để trừ khử. Nội chướng tức là các thứ pháp chướng đạo, chỉ cần chúng hiện tiền, sẽ đều có thể diệt trừ. Ngoại chướng là hết thảy các vật gây chướng ở bên ngoài, cũng thảy đều có thể trừ diệt. Lại trừ các độc, bệnh tật. Bệnh có đủ loại, đều có thể trừ diệt. Lại c̣n có thể trừ diệt thậm chí bệnh mất trí, tức là có thể cứu chữa khiến cho [người bị mất trí] khôi phục bổn tâm. Chữ này lại c̣n có thể nhiếp tâm một cảnh, mau chóng tương ứng với tam-muội. Nếu tưởng chữ này, sẽ đạt được công đức như trên. “Nhất thiết năng dữ” (Có thể ban cho hết thảy): Nói “dữ” () tức là có thể măn nguyện ấy, trao cho cái quả Tất Địa. Nếu tŕ tụng th́ trong một tháng liền kết Kim Cang Huệ Ấn để tụng chữ Ám. Trong một tháng đó, mỗi ngày tu tập ba thời, sẽ phá hết thảy thành quách vô trí. Hết thảy chúng sanh bị vô minh quấy nhiễu, bốn phía ép lại, kiên cố giống như ṭa thành chắc chắn, chẳng thể phá hoại. Dùng tự môn này, sẽ có thể phá hoại [ṭa thành kiên cố vô trí ấy]. “Đắc bất động kiên cố” tức là trời, người, A Tu La v.v… đều chẳng thể phá hoại. Phàm hết thảy các chuyện tăng ích, nếu muốn làm, sẽ đều ngồi ṭa này. Tăng Ích cũng gọi là viên măn, ngụ ư: Có thể thỏa măn hết thảy các nguyện.

 

          (Kinh) Hành giả nhất thiết thường, Mạn-đồ-la trung tác, kim sắc quang minh thân, thượng tŕ phát kế quan, chánh giác trụ tam-muội, danh Đại Kim Cang Cú. Kim cang liên hoa đao, tố nga, cập kim địa, Chân Đà Mạt Ni bảo. Thị đẳng chúng khí vật, quán đại Nhân Đà La, nhi tác chư Tất Địa.

      ()行者一切常,漫荼羅中作,金色光明身,上持髮髻冠,正覺住三昧,名大金剛句。金剛蓮華刀,素鵝及金地,真陀末尼寶,是等眾器物,觀大因陀羅,而作諸悉地。

          (Kinh: Hành giả hết thảy thường, làm trong Mạn-đồ-la, thân quang minh kim sắc, trên đội măo che tóc, Chánh Giác trụ tam-muội, gọi Đại Kim Cang Cú. Kim cang, hoa sen, đao, ngỗng trắng và đất vàng, báu Chân Đà Mạt Ni. Các vật dụng như thế, quán đại Nhân Đà La, để làm các Tất Địa).

 

          Nếu giải thích theo ư nghĩa bí mật, “một tháng” tức là “vừa trông thấy”. Nếu được thấy pháp, sẽ nhập Sơ Địa, tùy ư tăng ích hết thảy tam-muội, đà-la-ni v.v… và các địa vị. Nếu lúc muốn thực hiện pháp Tăng Ích, người tŕ tụng ở trong đàn kim cang này, tưởng Phật trụ trong tam-muội, thân màu vàng ṛng. Ánh sáng có h́nh ngọn lửa, tức là ư nghĩa “có oai quang. “Hữu oai quang” tức là kiêm nói về ư nghĩa Bổn Tôn. Tiếng Phạm như thế đó, tức là quang minh có h́nh như ngọn lửa bọc quanh. Dùng tóc kết thành măo. Đấy chính là đại Nhân Đà La. Đại kim cang ấy cứng chắc, hàm nghĩa “Phật trí có thể phá hết thảy những cái chẳng thể trừ”. Tưởng vị Phật ấy ở trong đàn kim cang vuông đó, tùy ư làm hết thảy các vật thành tựu. Kinh nói “kim cang, liên hoa” v.v… hàm nghĩa [để tác pháp nhằm thành tựu] hết thảy các sự ấy, hăy nên thực hiện trong luân ấy (tức trong đàn tràng Mạn-đồ-la). Nếu muốn thành tựu pháp kim cang, hăy dùng chày kim cang năm nhánh thuần bằng vàng, đặt ở trong đàn để gia tŕ. Các vật thành tựu trung, hạ như thương-khư v.v… cũng như trên đă nói, tức là đều tŕ tụng chữ A này. Nếu muốn thành tựu Phật Đảnh, dùng vàng ṛng làm Phật Đảnh để làm pháp gia tŕ. Nếu được thành tựu, sẽ giống như thân của Đại Nhật Như Lai. Hoặc có thể chẳng cần vật nào khác, chỉ tự tại tưởng là thân Phật để gia tŕ. Nếu thành tựu, sẽ giống như thân Phật. Nếu làm kim cang thành tựu, người tŕ tụng sẽ giống như Kim Cang Thủ Bồ Tát. “Liên hoa” th́ dùng vàng làm hoa sen tám cánh v.v… Tŕ tụng ở trong ấy. Nếu thành tựu, sẽ giống như Quán Âm. Đao cũng có pháp thành tựu. Nếu thành tựu, sẽ giống như Văn Thù đồng tử. Ngỗng th́ nếu tác pháp thành tựu, thân chính ḿnh sẽ thành thân Phạm Thiên. Trong pháp thành tựu ngoại tài, th́ hoặc là thành tựu vàng, hoặc thành tựu đất (“đất” là nói tới kho tàng), hoặc là châu Như Ư v.v… Chỉ cần tương ứng với pháp Tăng Ích th́ đều dùng pháp này để làm, đều có pháp thượng, trung, hạ. Nói “đại Nhân Đà La quán” tức là quán trong kim luân.

Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

Phần bảy hết

 

 

         

 

 

 

 

 

 

 



[1] Theo truyền thống của Bà La Môn giáo, ḅ được coi là sứ giả của Phạm Thiên, được tôn xưng là thánh ngưu. Nhất là con ḅ Nandi (c̣n gọi là Nandikeshavara hay Nandideva) là tọa kỵ của thần Thấp Bà (Śiva), được coi là thần thủ hộ của núi thánh Kailash (nơi có cung điện chính của thần Shiva). Họ cho rằng ḅ sanh ra năm thứ thanh tịnh là sữa, lạc, tô, nước tiểu, và phân.

[2] Không Thanh (Chesylite, Azurite) là chất hydroxide bicarbonate đồng, tức Cu3(CO3)2(OH)2, có màu xanh nước biển đậm (gần như màu Navy, nhưng sáng hơn một chút). Khi để lâu ngoài không khí, nó sẽ bị biến thành khổng tước thạch (malachite, tức hydroxide monocarbonate đồng, Cu3CO3(OH)2, có màu xanh ngọc thạch). Không Thanh được dùng trong Đông Y để chữa bệnh mắt, mắt cườm, trúng phong, tai điếc v.v… Âu Tây chỉ dùng chất này để làm màu nhuộm, hoặc làm hạt trang sức. Trong Mật giáo, thường dùng các thứ thuốc đem tŕ chú để mong đạt được tác dụng chữa bệnh, hoặc dùng vào các phương tiện ḥng đạt được các thứ thần thông khác. Thậm chí, các vật như đao, kiếm, vỏ ốc, gương… dùng làm pháp thành tựu cũng được gọi chung là “dược vật”.

[3] Sở dĩ nói “Cú ở đây là Kệ” v́ chánh kinh ghi pháp cú viên măn trí quyết định trong vô lượng môn khắp ba đời”, nhưng “pháp cú” trong đoạn này là kệ tụng.

[4] Tức là quán các chữ trong chân ngôn được xếp thành một ṿng tṛn khép kín (nên nói là “đầu đuôi tiếp nối”). Chính giữa ṿng tṛn ấy thường là chữ chủng tử của chân ngôn. Chẳng hạn như khi quán Lục Tự Đại Minh của Quán Thế Âm Bồ Tát, sáu chữ Om mani padme hum được xếp thành ṿng tṛn, mỗi chữ một màu tương ứng với một đường trong lục đạo (Chữ Om màu trắng tương ứng với thiên đạo, chữ Ma màu xanh lá cây tương ứng với A Tu La, chữ Ni màu vàng tương ứng với nhân đạo, chữ Pad màu xanh dương tương ứng súc sanh đạo, chữ Me màu đỏ tương ứng với ngạ quỷ đạo, chữ Hum màu đen tương ứng với chúng sanh trong địa ngục đạo). Chính giữa là chủng tử của đức Quán Âm là chữ Hrih màu trắng, tương ứng với Pháp Thân thanh tịnh.

[5] Tánh giới là một trong hai loại giới (tức tánh giới và giá giới). Tánh giới có nghĩa là các giới bắt buộc phải tuân thủ v́ đó là chuẩn mực đạo đức của người tu hành. Phạm các giới ấy, sẽ khiến cho chân tánh bị che lấp, tăng trưởng phiền năo, tổn hại công đức. Người phạm các giới ấy bất luận có thọ giới hay không vẫn có tội, v́ các giới ấy nhằm ngăn ngừa các phiền năo nẩy sanh.

[6] Mỗi châu trong tứ đại châu có hai tùy châu (châu nhỏ hơn phụ thuộc), nên cứ mỗi một đại châu (như Diêm Phù Đề) chẳng hạn, tính gộp chung là ba châu. Do vậy, 3x4=12.

[7] Tức là Thất Ma Đát Rị Mẫu, họ là bảy chị em của Diêm Vương.

[8] Tam-ma-bát-để được dịch nghĩa là Đẳng Chí, Chánh Thọ, Chánh Định Hiện Tiền, có nghĩa là do xa ĺa các chướng ngại như hôn trầm, điệu cử v.v… mà thân tâm đạt tới cảnh b́nh đẳng, an ḥa.

[9] Ngữ biểu là sự biểu thị bằng từ ngữ dể diễn đạt một lư nào đó; ở đây có nghĩa là chân ngôn.

[10] Tức là ao A Nậu Đạt (Anavatapta). Theo Câu Xá Luận, quyển mười một, ở giữa phía Bắc của Tuyết Sơn và phía Nam của Hương sơn, có một cái ao lớn, tên là Vô Nhiệt Năo, là nguồn của bốn con sông lớn: Sông Hằng, sông Tín Độ (Sindhu, tức sông Indus hiện thời), sông Tỷ Đa (Sītā, tức sông Sir-Daria hiện thời), và sông Phược Sô (Vaksu, tức sông Amu Daria).

[11] Mang Đát Rị (Mātṛs) có nhiều cách hiểu:

- Thất Mẫu Mang Đát Rị, tức bảy chị em của Diêm La Vương.

- Trong Bà La Môn giáo, Mātṛs là thánh mẫu, tức nhân cách hóa năng lực của một vị thần, hoặc phối ngẫu của vị thần ấy. Tám vị thánh mẫu được tôn sùng nhất là Brāhmī (mẹ của Phạm Vương, tức Brahma. Có thuyết nói vị này là vợ của Phạm Vương), Māheśvarī (mẹ của thần Shiva), Vaiṣṇavī (mẹ của thần Vinu); Aindri (Indrāṇī), of Indra; Varahi (vợ có h́nh đầu lợn của Vinu, vị này được Mật Tông gọi là Kim Cang Hợi), Kaumārī (mẹ của thần Kartikeya); Cāṃuṇḍī (mẹ của thần Kuvera), và Nārasiṃhī (mẹ của thần Narasimha).

- Là danh xưng của Diễm Ma Hậu (Yami) tức vợ của vua Diêm La.

- Là tôn hiệu của Lakṣmi (vợ của thần Vinu).

[12] Tức là chày kim cang kép (visva-vajra), c̣n gọi là Yết Ma kim cang (karma-vajra) gồm hai chày kim cang năm nhánh nối kết với nhau ở phần giữa thành h́nh chữ thập.

[13] Khaḍga (c̣n gọi là Khaga) là một loại kiếm thẳng, lưỡi kiếm được mài bén cả hai bề. Do cực sắc bén và mạnh mẽ, kiếm này thường được dùng tượng trưng cho trí huệ. Trong Mật Tông, loại kiếm này được cầm bởi Văn Thù Bồ Tát, Bất Động Minh Vương, Đại Hắc Thiên (Mahakala), Công Đức Thiên (Śrīdēvī, thường được biết phổ biến với danh xưng Palden Lhamo, tức thần bảo hộ của Dalai Lama).

[14] Thuốc An Thiện Na (c̣n được phiên âm là An Thiền Na, A Xà Na), có hai cách giải thích:

- Một là loại thuốc trị bệnh mắt, có màu xanh đen.

- Hai là tên một loại thực vật, lá nó có thể dùng để làm thuốc trị bệnh mắt.

[15] Lô Giá Na có nhiều nghĩa, nếu hiểu là một loại thuốc th́ chính là mật của ḅ, hay ngưu hoàng (bezoar).

[16] Ngưu Hoàng ở đây là nói chung, tức là trong thể loại được coi là Lô Giá Na th́ bao gồm Ngưu Hoàng (chất sạn của ḅ, mật của ḅ), hoặc các vị thuốc sau đó như Không Thanh, Châu Sa, Hùng Hoàng, Thư Hoàng v.v… Không Thanh (Azurite) là hydroxide bicarbonate đồng như đă giải thích trong phần trước. Châu Sa (Cinnabar) c̣n gọi là Đan Sa, Xích Đan, hoặc Hống Sa, chính là sulfide thủy ngân (HgS) có màu đỏ tươi, thường được dùng trong Đông Y để trị động kinh, an thần, trấn tĩnh. Nhưng theo các nghiên cứu mới nhất, 10% thuốc Đông Y có chứa Châu Sa, và Châu Sa dùng lâu ngày có thể gây tổn thương thận, bao tử, nhất là hệ thống thần kinh… Hùng Hoàng (Realgar) càng độc hơn nữa v́ nó là Sulfide Arsenic (As4S4), có màu đỏ sậm, nhưng thấu quang. Thư Hoàng (Orpiment) cũng là Sulfide Arsenic (As2S3), nhưng có màu từ vàng chanh cho tới vàng óng. Người xưa thường dùng Hùng Hoàng để pha rượu uống vào tiết Đoan Ngọ với mục đích khử trùng cho thân thể.

[17] Ư Sanh Thân (Manomayaṃ kāyaṃ) c̣n gọi là Ư Thành Thân, Ư Thành Sắc Thân, tức cái thân chẳng do cha mẹ sanh ra, mà là thân do bậc Địa Thượng Bồ Tát (từ Sơ Địa trở lên) thuận theo tâm ư của chúng sanh hóa hiện để tế độ chúng sanh. Ngoài ra các thân trong giai đoạn Trung Hữu, người thuộc kiếp sơ, thân của chư thiên Sắc Giới và Vô Sắc Giới, thân biến hóa đều được gọi là Ư Sanh Thân v́ các thân ấy có thể thuận theo ư niệm mà biến đổi.

[18] Do chư Phật biến hiện đủ loại thần thông nhằm thuận theo căn tánh của chúng sanh, khiến họ sanh ḷng ưa thích, tin tưởng, quy hướng, giống như một h́nh thức “biểu diễn” để thu hút chúng sanh, nên gọi các chuyện thần thông biến hiện ấy là “vũ hư” (múa, biểu diễn tṛ vui).

[19] Tô La Đa dịch nghĩa là Diệu Thích, Diệu Trụ, Diệu Trước, Diệu Lạc, có nghĩa là cộng trụ an lạc, cùng trụ trong diệu lư để thọ hưởng pháp lạc.