Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

Phần tám

大毘盧遮那成佛經疏

Đường sa-môn Nhất Hạnh A-xà-lê kư

沙門一行阿闍梨記

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

          (Kinh) Kim thuyết nhiếp tŕ pháp, nhất thiết nhất tâm thính. Hành giả nhất duyên tưởng, bát phong Di Lô sơn, thượng quán diệu liên hoa, lập Kim Cang Trí ấn. Du Già giả ư thượng, tự môn oai diễm quang, nhi dụng trí kỳ đảnh, an trụ bất khuynh động.

      ()說攝持法,一切一心聽。行者一緣想,八峯彌盧山,上觀妙蓮華,立金剛智印。瑜伽者於上,字門威焰光,而用置其頂, 安住不傾動。

          (Kinh: Nay nói pháp nhiếp tŕ pháp, hết thảy nhất tâm nghe. Hành giả tưởng một duyên, núi Di Lô tám đỉnh, quán sen đẹp trên ấy, đặt Kim Cang Trí ấn. Hành nhân ở trên ấy, tự môn oai quang rực, đặt trên đỉnh đầu đó, an trụ, chẳng lay động).

 

          Lại nữa, phàm là pháp gia tŕ, như trong phần trước đă nói cách gia tŕ gió v.v… bằng cách chấm bảy điểm v.v… vẫn chưa nói trọn; ở đây, thuyết minh cặn kẽ. Phàm đối với hết thảy các thứ gây chướng, hại đạo, đều dùng pháp này, khiến cho chúng bất động. Hết thảy đều là một cảnh, khiến cho hết thảy trụ nơi tâm làm Thể. Làm pháp này, trước hết tưởng núi chúa Tu Di có tám đỉnh. “Bát phong” (tám đỉnh núi) tức là vây quanh bốn mặt đều là đỉnh núi. Trên tám đỉnh núi, tưởng hoa sen. Trên hoa có chày Kim Cang ba nhánh, các nhánh hướng lên trên. Kinh nói “trí bỉ đảnh” (đặt trên đỉnh đầu đó) tức là [đặt] ở trên đầu chày. Trên ấy, tưởng chữ A, ánh sáng như h́nh ngọn lửa bao quanh. Tưởng như thế xong, hết thảy các chướng đều bị nhiếp trừ. Nhiếp trừ những thứ đó như thế, khiến cho [tâm chính ḿnh] trụ trong một cảnh, chẳng thể động, chứ không phải là nói đến ngài Bất Động Minh Vương, mà có nghĩa là “giữ chặt [các thứ gây chướng]”, tự tại tùy ư tu đạo vô ngại.

 

          (Kinh) Bách chuyển sở tŕ dược, hành giả ưng phục chi. Tiên thế nghiệp sanh tật, thị đẳng tất trừ dũ.

      ()百轉所持藥,行者應服之,先世業生疾,是等悉除愈。

      (Kinh: Gia tŕ thuốc trăm lượt, hành giả nên uống vào. Bệnh do nghiệp trước sanh, thảy đều trừ khỏi hẳn).

 

          Lại nữa, thành tựu dược pháp. Hễ lúc muốn thành tựu như thế đó, đều có thứ tự pháp dụng, nay ở đây chỉ nói đại lược điều chánh yếu. Chế thuốc th́ tác pháp, gia tŕ một trăm lần. Hễ nói “một trăm lần”, hăy nên thêm vào tám lần nữa. Tụng xong, tự lấy uống, hoặc trao cho người khác. [Thuốc ấy] có thể trừ hết thảy bệnh hoạn, thậm chí bệnh do nghiệp trước cũng có thể trừ. Phàm là chuyện Tăng Ích, hăy nên tương ứng với kim cang sắc vàng.

 

          (Kinh) Phật tử ưng phục thính, đệ nhất Phạ tự môn, tuyết nhũ, thương-khư sắc, nhi tự tề trung khởi, tiễn bạch liên hoa đài, nhi ư bỉ trung trụ, thậm thâm tịch nhiên định. Thu tịch tố nguyệt quang. Như thị Mạn-đồ-la, chư Phật thuyết hy hữu. Tư duy dĩ thuần bạch, luân viên thành cửu trùng. Trụ ư phi vụ trung, trừ nhất thiết nhiệt năo. Tịnh nhũ do châu man, thủy tinh dữ nguyệt quang, phổ biến nhi lưu chú, nhất thiết xứ sung măn. Hành giả tâm tư duy, xuất ly chư chướng độc. Như thị ư viên đàn, Đẳng Dẫn tác thành tựu. Nhũ, lạc, sanh, thục tô, Phả-chi-ca, châu man, ngẫu thủy đẳng chúng vật. Thứ đệ thành Tất Địa. Đương đắc vô lượng thọ, ứng hiện thù đặc thân. Nhất thiết hoạn trừ tức, thiên nhân hàm ái kính, đa văn thành Tổng Tŕ, thiện huệ tịnh vô cấu. Do tư tác thành tựu, tốc chứng Tất Địa quả. Thị danh Tịch Tai giả, cát tường Mạn-đồ-la. Đệ nhất nhiếp tŕ tướng, an dĩ Đại Không điểm.

      ()佛子應復聽,第一嚩字門,雪乳商佉色,而自臍中起,鮮白蓮華臺,而於彼中住,甚深寂然定,秋夕素月光。如是漫羅, 諸佛說希有,思惟以純白,輪圓成九重,住於霏霧中,除一切熱惱,淨乳猶珠鬘,水精與月光,普遍而流注,一切處充滿。行者心思惟,出離諸障毒,如是於圓壇,等引作成就。乳酪生熟酥,頗胝迦珠鬘,藕水等眾物,次第成悉地。當得無量壽,應現殊特身,一切患除息,天人咸愛敬,多聞成總持,善慧淨無垢,由斯作成就,速證悉地果,是名寂災者,吉祥漫荼羅,第一攝持相,安以大空點。

          (Kinh: Phật tử lại nên nghe, môn chữ Phạ thứ nhất, màu tuyết, sữa, thương-khư. Từ nơi rốn khởi lên, đài hoa sen trắng sạch, để trụ trong đài đó, Định vắng lặng rất sâu. Vầng trăng sáng đêm Thu. Mạn-đồ-la như thế, chư Phật nói hy hữu. Tư duy thuần sắc trắng, tṛn trịa thành chín tầng, trụ ở trong sương mù, trừ hết thảy nhiệt năo. Sữa sạch như chuỗi ngọc, thủy tinh và ánh trăng, tuôn trào trọn khắp cả, hết thảy chốn tràn trề. Hành giả tâm tư duy, ĺa khỏi các chướng độc. Nơi đàn tṛn như thế, làm thành tựu Đẳng Dẫn. Sữa, lạc, sanh, thục tô, pha lê và chuỗi ngọc, ngó sen, nước… mọi vật. Thứ tự thành Tất Địa. Sẽ được thọ vô lượng, ứng hiện thân thù đặc. Mọi hoạn nạn trừ dứt, trời người đều yêu kính. Đa văn, thành Tổng Tŕ, thiện huệ sạch chẳng nhơ. Do vậy, làm thành tựu, mau chứng quả Tất Địa. Đó gọi là Tịch Tai, cát tường Mạn-đồ-la. Tướng nhiếp tŕ bậc nhất. Thêm vào chấm Đại Không).

 

          Kế đó, nói về môn chữ Phạ, tức là chữ Va (). Trước là nói về cái Thể của nó, sau là nói [chữ ấy] kèm thêm vạch tam-muội. Cách quán tưởng là tưởng chữ này thuần sắc trắng, sáng sạch, tươi tắn, ví như núi Tuyết, và sữa ḅ v.v… Trước hết, tưởng từ trên rốn có hoa sen màu trắng trắng sạch, trong sáng tột bậc. Chữ Phạ thuần màu trắng nằm trên sen trắng. Đă [quán tưởng] thành tựu rồi, liền chuyển chữ ấy thành Bổn Tôn. Đấy là cách bậc nhất trong pháp Tức Tai. Đối với Phật hoặc Bổn Tôn, cũng tưởng [Ngài có] h́nh tượng vắng lặng, dáng vẻ cực tịch tĩnh, trụ trong Tịch Định, thuần trắng khôn sánh, giống như vầng trăng đêm Thu. Mạn-đồ-la hăy nên tṛn trặn, ví như chín vầng trăng hợp thành, giống như trụ trong mây trắng mù mịt. Làm pháp này thành tựu, hết thảy nóng bức nhiệt năo v.v… đều có thể ngưng dứt.

          Phàm hết thảy các pháp tương ứng với Tức Tai, đều thực hiện trong ấy (trong Mạn-đồ-la ấy). “Giống như sữa ḅ, chuỗi ngọc” tức là tưởng chữ ấy giống như sữa ḅ tuôn chảy liên tục chẳng dứt, giống như trân châu trắng rót xuống tâm ḿnh. Dù v́ chính ḿnh hay người khác, nếu quán tưởng như vậy, hết thảy nhiệt năo trong ngoài, không ǵ chẳng trừ sạch. Hoặc tưởng như vầng trăng, hoặc như thủy tinh, ánh trăng thanh tịnh chiếu rót trọn khắp. Hễ có hết thảy nhiệt năo, do được tưới rót như vậy mà đều trừ sạch. Hết thảy các pháp Phiến Để Ca (Śantika, pháp Tịch Tai) tương ứng với màu trắng, được thực hiện trong ấy (trong Mạn-đồ-la này). Chữ A trong phần trước là Kim Cang mạn-đồ-la, c̣n chữ Phạ này được gọi là Thủy Mạn-đồ-la.

 

H́nh đàn tràng

Tên gọi và đặc tánh

Vuông

Kim cang, đất, màu vàng

Tṛn

Thủy, đất, màu trắng

Tam giác

Hỏa, đất, màu đỏ

Bán nguyệt

Phong, đất, màu đen

         

           Hư không chẳng có h́nh tướng nhất định, mà hiện ra đủ loại. Từ vầng trăng phủ trong sương mù, Mạn-đồ-la xuất hiện như sữa tưới rót, có thể trừ hết thảy nhiệt năo. Nói “nội ngoại chướng” tức là nhiệt chướng, pháp này đều có thể trừ. “Xuất ly” tức là thoát khỏi khổ hoạn ấy. Hệ duyên nơi một cảnh như thế để [tác pháp] thành tựu [các “dược vật” như] tô, sữa, chuỗi ngọc, ngó sen, thủy tinh, hoặc lạc, hoặc nước. Các vật như thế số lượng rất nhiều, tùy ḷng mong muốn mà thực hiện, chỉ cần tương ứng với pháp Tịch Tai, sẽ đều được thành tựu. Hoặc cầu trường thọ, sống lâu vô lượng, hoặc hiện đủ loại thân tướng đoan nghiêm, kỳ diệu. Nói “tối thượng” tức là yêu kính tối thượng, khiến cho người khác kính yêu. Hoặc cầu Văn Tŕ, hoặc cầu thông minh, hoặc cầu trí huệ, và dứt trừ các bệnh. Các điều như thế đều được thành tựu. Nếu thêm một chấm cho chữ Phạ này [tức chữ Vaṃ (वं)], các chuyện như trừ bệnh, trừ hoạn nạn, trừ các độc trong ngoài v.v… đều nhanh chóng thành tựu. Đấy chính là Tức Tai Cát Tường Mạn-đồ-la, nhưng do nhiếp trừ vô lượng sự, nên nói là Đẳng.

 

          (Kinh) Ra tự thắng chân thật, Phật thuyết hỏa trung thượng. Sở hữu chúng tội nghiệp, ưng thọ vô trạch báo. Du Kỳ thiện tu giả, Đẳng Dẫn giai tiêu trừ. Sở trụ tam giác h́nh, duyệt ư biến h́nh xích, tịch nhiên châu diễm man, tam giác tại kỳ tâm. Tương ứng quán bỉ trung, Ra tự Đại Không điểm. Trí giả như Du Già, dĩ thử thành chúng sự. Nhật diệu chư quyến thuộc, cập tác nhất thiết hỏa, nhiếp thủ, phát oán đối, tiêu khô chúng chi phần. Thị đẳng sở ưng tác, giai ư trí hỏa luân.

      ()囉字勝真實,佛說火中上,所有眾罪業,應受無擇報。瑜祇善修者,等引皆消除,所住三角形,悅意遍形赤,寂然周焰鬘, 三角在其心。相應觀彼中,囉字大空點,智者如瑜伽,以此成眾事,日曜諸眷屬,及作一切火,攝取發怨對,消枯眾支分,是等所應作,皆於智火輪。

          (Kinh: Chữ Ra thắng chân thật, Phật nói lửa bậc thượng. Tất cả các tội nghiệp, đáng chịu báo chẳng chọn. Bậc Du Kỳ (Yogi) khéo tu, Đẳng Dẫn đều tiêu trừ. Trụ trên h́nh tam giác, khắp h́nh đỏ đẹp ư. Vầng lửa vắng lặng vây, tam giác đặt nơi tâm. Quán tương ứng trong ấy. Chữ Ra, chấm Đại Không. Bậc trí như Du Già, dùng đó thành các sự. Các quyến thuộc Nhật Diệu, tạo ra hết thảy lửa, nhiếp thủ, trừ oán đối, tiêu khô mọi chi phần. Các điều nên làm ấy, đều trong trí hỏa luân).

 

          Kế đó, nói Trừ Chướng Mạn-đồ-la nơi chữ Ra, là pháp chân thật bậc nhất trong các cách trừ chướng (do vậy, chánh kinh nói “Ra tự thắng chân thật” tức là chữ Ra (​) chân thật thù thắng nhất). Chữ Ra ấy đỏ nhất trong các màu đỏ, là lửa mạnh nhất trong các thứ lửa, thiêu đốt nhất trong các sự thiêu đốt, do nó có thể đốt cháy tan đủ loại phiền năo nghiệp khổ; thậm chí tội Ngũ Vô Gián tạo tác trong hiện tại, nếu tu tự môn này, cũng có thể trừ sạch, khiến cho chẳng c̣n thừa sót. Tội đă diệt, sẽ sanh ra các công đức tốt lành. Tự môn này có tác dụng tương ứng với Bất Động Minh Vương, nhưng câu chân ngôn của Bất Động Minh Vương có thể dùng để làm hết thảy các sự thuộc ba phẩm (thượng, trung, hạ). Trước hết, pháp này [được thực hiện] giống như pháp trước: Trụ tâm nơi một cảnh, quán tưởng Mạn-đồ-la h́nh tam giác cực đỏ, sao cho tột bậc đẹp ư. “Đẹp ư” tức là [hăy quán] sao cho tươi sáng, đẹp đẽ, tề chỉnh. “Đẹp ư” lại c̣n là do tâm mà làm; đấy là bí ngữ (lời nói hàm chứa ư nghĩa bí mật). “Châu táp tác ư diễm man” là nói tới h́nh dạng giống như lửa cháy sáng rực [vây quanh], quán chữ Ra ở trong ấy. Đă thành tựu, [liền quán chữ Ra đó] biến thành Bất Động Minh Vương, có h́nh dạng tĩnh lặng. Chẳng sân, chẳng cười; đó là tĩnh lặng. Lại nói: Trước hết, tưởng Bất Động Minh Vương, nơi tim Ngài có h́nh tam giác, trong đó có chữ Ra. [Quán tưởng] chữ đă thành, [chữ ấy] lại biến thành Bất Động Minh Vương. Do trừ chướng nên tội diệt; do tĩnh lặng nên Tức Tai. Đó chính là ư nghĩa “tội diệt, phước sanh”.

          Kế đó là “thành tựu vật ấy” tức là nói đến [các pháp sẽ được thực hiện trong] cái đàn tam giác đó. Nói Cật La (Graha) tức là nói tới quyến thuộc của Chấp Nhật, gồm có tám tinh tú, đều gọi là Chấp. Phàm các Chấp như mặt trời, mặt trăng v.v… và Hỏa Thiên v.v… cùng đặt tại góc Đông Nam, cách tác pháp đại để tương đồng. Tức là cần phải dùng lửa để tác pháp, hoặc chuyển lửa thành lạnh v.v… đều được thực hiện trong ấy. Nhưng ư nghĩa bí mật là “làm mặt trời”, cho nên là trí hỏa. “Nhật” cũng là huệ nhật. “Nhiếp thủ” là thâu tóm những kẻ hành ác pháp, khó điều phục, khiến cho họ đều nhu thuận, điều phục (ư nghĩa cũng chuẩn theo hai mươi tám tinh tú, mười hai cung [hoàng đạo] v.v… cùng với Thủy Tinh, mặt trăng ở cùng phương vị). [Người] “nhiếp phục kẻ ác” ở đây chính là người có thể nhiếp phục phiền năo, đạt được tự tại. “Phát oán đối”: Có thể làm cho chính ḿnh lẫn người khác đều được thành tựu (gọi đó là “trừ khử oán hận của người khác”). “Tiêu khô chi phần”: Có thể làm cho thân của kẻ đó khô kiệt, chẳng thể kham làm ǵ được. Hết thảy các thân phần dùng Tam Độc làm bản thể, [nay do pháp này] khiến cho nó tiêu diệt chẳng c̣n sót. Nếu quán h́nh tướng bên ngoài để nói th́ “khô khan” chính là cạn kiệt ao rồng v.v… Hết thảy các việc làm, hết thảy chuyện tương ứng với Hàng Phục đều được thực hiện trong cái đàn này. Nhưng các pháp ấy đều tương ứng với từ bi; bởi lẽ, hàng phục, khéo điều phục họ, chỉ nhằm tạo nhân duyên [khiến cho người bị hàng phục] đạt được Phật đạo.

 

          (Kinh) Ha tự đệ nhất thật, phong luân chi sở sanh, cập dữ nhân nghiệp quả, chư chủng tử tăng trưởng. Bỉ nhất thiết tồi hoại, tịnh dĩ Đại Không điểm. Kim thuyết bỉ sắc tượng, thâm huyền, đại oai đức, thị hiện bạo nộ h́nh, diễm man phổ châu biến, trụ Mạn-đồ-la vị. Trí giả quán mi gian, thâm thanh bán nguyệt luân, xuy động tràng phan tướng, nhi ư bỉ trung tưởng, tối thắng Ha tự môn. Trụ bỉ Mạn-đồ-la, thành tựu sở ưng sự, tác nhất thiết nghĩa lợi, ứng hiện chư chúng sanh, bất xả ư thử thân, đăi đắc Thần Cảnh Thông, du bộ Đại Không vị, nhi thành thân bí mật. Thiên nhĩ, nhăn căn tịnh, năng khai thâm mật xứ. Trụ thử nhất tâm đàn, nhi thành chúng sự nghiệp. Bồ Tát đại danh xưng, sơ tọa Bồ Đề tràng, hàng phục ma quân chúng.

      ()訶字第一實,風輪之所生,及與因業果,諸種子增長,彼一切摧壞,并以大空點。今說彼色像,深玄大威德,示現暴怒形, 焰鬘普周遍。住漫荼羅位,智者觀眉間,深青半月輪,吹動幢幡相,而於彼中想,最勝訶字門。住彼漫荼羅,成就所應事,作一切義利,應現諸眾生,不捨於此身,逮得神境通,遊步大空位,而成身祕密。天耳眼根淨,能開深密處,住此一心壇,而成眾事業,菩薩大名稱。初坐菩提場,降伏魔軍眾。 

          (Kinh: Chữ Ha chân thật nhất, do phong luân sanh ra, cùng với nhân, nghiệp, quả, các chủng tử tăng trưởng, đều dẹp tan hết thảy, lại thêm chấm Đại Không. Nay nói sắc, h́nh tướng: Đen thẫm, oai đức lớn. Hiện h́nh dạng bạo nộ, ṿng lửa bọc khắp cùng, trụ trong Mạn-đồ-la. Bậc trí quán giữa mày, vầng bán nguyệt xanh đậm, tướng tràng phan thổi động. Nhưng tưởng ở trong ấy, môn chữ Ha tối thắng. Trụ trong Mạn-đồ-la, thành tựu chuyện đáng nên, tạo hết thảy nghĩa lợi, ứng hiện các chúng sanh, chẳng xả cái thân này, đạt được Thần Cảnh Thông, dạo địa vị Đại Không, thành tựu thân bí mật. Thiên nhăn, nhĩ căn tịnh, hay mở chỗ sâu mật. Trụ đàn nhất tâm này, mà thành các sự nghiệp. Bồ Tát tiếng tăm lớn, mới ngồi Bồ Đề tràng, hàng phục lũ quân ma).

               

          Chữ Ha () chân thật bậc nhất; đấy là Phong Mạn-đồ-la. Tánh của gió có thể tăng ích. “Phong sanh” (sanh bởi gió) nghĩa là những chuyện đáng nên làm tương ứng với tác dụng của Phong đều xuất sanh từ đàn tràng này, mà [đàn tràng này] cũng sanh ra các sự ấy. Vạn vật có thể tiêu hao, biến hóa không ngằn mé, các chuyện sử dụng chữ này cũng như thế. Nói “nhân nghiệp đẳng sanh” (sanh từ nhân, nghiệp v.v…) nghĩa là đủ loại chuyện tăng trưởng, tươi tốt đều được tự tại. Nếu trên đó thêm một chấm, sẽ có thể phá hoại hết thảy các chuyện thuộc về nhân, nghiệp v.v… Thực hiện pháp này th́ trước hết tưởng Bổn Tôn, trên trán vị ấy, chỗ giáp với chân mày, tưởng có h́nh bán nguyệt, đặt chữ Haṃ (हं) trong ấy. Trước hết là tưởng [h́nh tướng Bổn Tôn ở] bên ngoài, rồi tưởng chính ḿnh [là Bổn Tôn]. Trên h́nh bán nguyệt ấy, có h́nh tượng oai quang đại oai đức, sanh ra trọn khắp các ngọn lửa màu đen túa ra ngoài, tạo thành h́nh ảnh đặc trưng gió thổi lay động. “Ác” có nghĩa là tưởng h́nh tượng ấy có dáng vẻ cực phẫn nộ, ư nói: Đấy chỉ là vị tôn thánh ngự trên phong luân, chưa phải là ngài Hàng Tam Thế (Trailokyavijaya). Cũng tưởng h́nh tượng ấy xanh đậm (gần giống như màu đen). Nếu tưởng như vậy thành tựu, sẽ có thể v́ hết thảy chúng sanh tạo đủ loại nghĩa lợi. Kế đó, “thành tựu” tức là các vật liệt kê dưới đây đem làm [pháp gia tŕ thành tựu] trong Phong [Mạn-đồ-la], liền có thể là ngay trong thân hiện tại này, đều đạt được thành tựu. Chẳng hạn như thăng lên hư không, thần túc biến hóa, thiên nhăn, thiên nhĩ, ẩn mất thân h́nh. “Khai” tức là mở cửa cung A Tu La v.v… Kế đó, nói “niệm” th́ chỉ là dụng tâm mà làm.

          Năm chữ này (A, Va, Ra, Ha, Kha) đều là do tâm tạo tác mà thành tựu đàn tràng, mà cũng có thể dùng sự pháp (tức là dùng các vật cụ thể) để tạo đàn, nhưng quán tâm phải tương ứng. Nếu như dùng sự tướng để làm đàn mà tu Thần Túc, cũng có thể ngồi trong ấy để thực hiện. Như ngó sen v.v… cũng đặt ở trong đàn để làm [pháp thành tựu], tưởng sữa trắng tuôn chảy đầy ắp trong ấy. Xưa kia, đức Phật ngồi dưới cội đạo thụ, từ tự môn này mà hàng phục vô lượng quân chúng của thiên ma. Người tŕ tụng nếu có thể đúng như pháp tu tập, hành tŕ, chẳng lâu sau liền giống như Như Lai, ngay nơi thân hiện tại sẽ có thể hàng phục lũ ma quân ấy. “Đại danh xưng” (tiếng tăm to lớn) là do hàng ma vậy!

 

          (Kinh) Chư nhân bất khả đắc, nhân vô tánh, vô quả. Như thị nghiệp bất sanh, bỉ tam vô tánh cố, nhi đắc Không trí huệ. Đại đức Chánh Biến Tri, tuyên thuyết ư bỉ sắc. Khư tự cập Không điểm, tôn thắng hư không không, kiêm tŕ huệ đao ấn, sở tác tốc thành tựu. Pháp luân cập quyến sách, Khiết Già, Na Thích Giá, tịnh Mục Kiệt Lam đẳng, bất cửu thành tư cú.

          ()諸因不可得,因無性無果。如是業不生,彼三無性故,而得空智慧,大德正遍知,宣說於彼色。佉字及空點,尊勝虛空空,兼持慧刀印,所作速成就。法輪及羂索,朅伽那刺遮,并目竭嵐等,不久成斯句。

          (Kinh: Các nhân chẳng thể được, nhân vô tánh, không quả. Nghiệp như thế chẳng sanh, do cả ba vô tánh[1], mà đắc Không trí huệ. Đại đức Chánh Biến Tri, tuyên nói màu sắc đó. Chữ Khư và chấm Không, hư không Không[2] tôn thắng. Kiêm cầm huệ đao ấn, việc làm chóng thành tựu. Pháp luân và dây trói, Khiết Già[3], Na Thích Giá[4], và Mục Kiệt Lam[5] thảy, chẳng lâu thành câu này).

 

          Kế đó, do từ môn chữ Ha mà chuyển sang nói về môn chữ Khư. Ha có nghĩa là nhân. Do có nhân, liền có tướng “theo nghiệp mà thọ quả”. Nhưng trong Đệ Nhất Nghĩa, môn chữ Ha vốn tự chẳng sanh. Do chẳng sanh, nên cái nhân chẳng thể được! Cái nhân c̣n vốn sẵn chẳng sanh, huống hồ có nghiệp quả trong ấy ư? Khi quán như thế, các sự thuộc nhân, nghiệp, quả vắng lặng, đều là chẳng thể được! Nếu có thể quán như thế, chính là giống như đức Như Lai ngồi dưới cội đạo thụ hàng phục ma. Do nhân, nghiệp v.v… đều chẳng thể được, tức là cái tướng ấy giống như hư không; do đă không mà lại càng thêm không, [nên nói là “hư không Không”]! Đại đức Thế Tôn nói đến “sắc” chính là “hư không sắc”. Nếu lại thêm cái chấm [trên chữ Khư (, Kha)], sẽ thuộc vào môn chữ Khiếm (खं, Khaṃ). Điều đáng tôn trọng nói trong môn chữ Khiếm được gọi là Tôn, ư nói là “tôn quư nhất trong các thứ tôn quư”, tức là Đại Không. Nếu muốn thành tựu hết thảy các đồ vật [bởi pháp môn tu chữ Khiếm này], sẽ đều được thành tựu. Tên và chủng loại của các món ấy vô lượng, chẳng thể nói trọn!

          Mạn-đồ-la ấy chẳng có tướng vuông, tṛn, bán nguyệt v.v… Hăy nên biết hư không vô tướng mà có thể thành tựu các tướng. Đàn ấy làm đủ loại màu, do không trung hiện đủ thứ sắc tướng. “Huệ đao ấn cộng tác” tức là kiêm dùng đao ấn để thủ hộ ḥng thực hiện pháp thành tựu. Nếu làm [pháp thành tựu cho] đao, hăy dùng thép tinh luyện để chế [thành đao]. Dây trói (quyến sách, ) th́ dùng chỉ hoặc tơ ngó sen để làm. Luân (bánh xe) th́ dùng vàng hoặc thép tinh luyện để chế thành. Các khí cụ ấy rất nhiều, chẳng thể chép trọn để nêu riêng từng loại được. Các khí cụ như trên, tùy thuộc làm chuyện ǵ, đều dùng chữ Khiếm để thành tựu. Nếu đạt được thành tựu thượng, trung, hạ, hăy tùy theo từng sự mà dùng. Cho đến khi được thành tựu, cầm vật ấy để dạo chơi các cơi Phật, [hành giả ấy được] gọi là Tŕ Minh Tiên.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn quán đại chúng hội, cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ, nhi thuyết kệ ngôn: - Nhược ư Chân Ngôn môn, tu hành chư Bồ Tát, A tự vi tự thân, nội ngoại tất đồng đẳng, chư nghĩa lợi giai xả, đẳng lịch, thạch, kim, bảo, viễn ly chúng tội nghiệp, cập dữ tham, sân đẳng, đương đắc cụ thanh tịnh, đồng chư Phật Mâu Ni, năng tác chư lợi ích, ly nhất thiết chư quá.                   

          ()爾時毘盧遮那世尊觀大眾會告執金剛祕密主而說偈若於真言門,修行諸菩薩,阿字為自身,內外悉同等,諸義利皆捨,等礫石金寶,遠離眾罪業,及與貪瞋等,當得俱清淨,同諸佛牟尼,能作諸利益,離一切諸過。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn quán đại chúng hội, do bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ, mà nói kệ rằng: - Nếu các vị Bồ Tát, tu hành Chân Ngôn môn, chữ A là tự thân, trong ngoài đều đồng đẳng, các nghĩa lợi đều xả, vàng, báu như sỏi, đá, xa ĺa các tội nghiệp, cùng với tham, sân thảy, sẽ được cùng thanh tịnh, giống chư Phật Mâu Ni, hay tạo các lợi ích, ĺa hết thảy các lỗi).

         

          Kế đó, nói cặn kẽ hơn ư nghĩa của năm chữ. Nếu trụ trong lư này, tùy sự tương ứng, sẽ liền có thể hoàn thành hết thảy các chuyện. V́ thế, đức Phật quán đại chúng, bảo ngài Kim Cang Thủ rằng: “Vị Chân Ngôn Bồ Tát tu hạnh Bồ Tát này, dùng chữ A làm bổn sắc của chính ḿnh, trong ngoài hết thảy đều xả”. Đạt được hết thảy cú nghĩa, được tương ứng với bản thể và bản sắc của chữ A. Xét về cái Thể th́ bản thể bất sanh, giống như thân Thật Tướng của Kim Cang. Nếu tương ứng với điều ấy, liền có thể xả hết thảy các pháp, thô và diệu đều b́nh đẳng. Coi ngói và vàng giống như nhau, do khéo trụ trong b́nh đẳng quán, hết thảy tội nghiệp ba độc đều ĺa. Nếu đạt được cái tâm thanh tịnh như thế, người được sự thanh tịnh ấy sẽ tôn quư giống như chư Phật Mâu Ni, có thể lợi ích trọn khắp hết thảy chúng sanh, thoát khỏi sai trái, ĺa các lầm lỗi và lo âu.

 

          (Kinh) Phục thứ, ư Phạ tự, hành giả y Du Già, giải tác nghiệp nghi thức, lợi ích chúng sanh cố, nội thân cứu thế giả, nhất thiết giai như thị. Tâm thủy trạm doanh măn, khiết bạch do tuyết nhũ, đương sanh quyết định ư. Xuất ư nhất thiết thân, tất biến chư mao khổng, lưu chú cực thanh tịnh, tùng thử nội sung dật, biến măn ư đại địa. Dĩ thị bi mẫn thủy, quán thế khổ chúng sanh. Chư hữu ẩm dụng giả, hoặc phục thân sở xúc, nhất thiết giai quyết định, đắc thành tựu Bồ Đề.

          ()復次於嚩字,行者依瑜伽,解作業儀式,利益眾生故,內身救世者,一切皆如是,心水湛盈滿,潔白猶雪乳,當生決定意,出於一切身,悉遍諸毛孔,流注極清淨,從此內充溢,遍滿於大地,以是悲愍水,觀世苦眾生。諸有飲用者,或復身所觸,一切皆決定,得成就菩提。

          (Kinh: Lại nữa, nơi chữ Phạ, hành giả nương Du Già, hiểu nghi thức tác pháp, do lợi ích chúng sanh. Nội thân bậc Cứu Thế, hết thảy đều như thế. Tâm thủy lắng, tràn đầy. Trắng, sạch dường tuyết, sữa. Hăy sanh ư quyết định. Ra ngoài hết thảy thân, trọn khắp lỗ chân lông, tưới rót cực thanh tịnh. Tràn trề từ trong thân, trọn khắp cơi đại địa. Dùng nước bi mẫn ấy, nh́n chúng sanh khổ sở. Những người lấy uống, dùng, hoặc thân được tiếp xúc, hết thảy đều quyết định, được thành tựu Bồ Đề).

 

          Kế đó, nói về môn chữ Phạ. Nếu có thể hiểu các pháp tắc tương ứng với chữ này (tức là hiểu thứ tự pháp tắc trong chân ngôn), sẽ có thể tạo các chuyện lợi ích to lớn cho hết thảy chúng sanh. Trước hết, hăy nên quán chữ này như trong phần trên, trắng như tuyết hay sữa, rót vào trong tâm. Nếu tưới rót tràn ngập khắp thân, trong lẫn ngoài đều thanh tịnh, hết thảy người trông thấy liền [thấy thân hành giả] giống như thân Phật. Lại từ cái thân ấy tuôn ra, [thấm vào] trọn khắp hết thảy thân chúng sanh, sao cho thanh tịnh viên măn tột bậc. Lại c̣n tuôn rót tràn khắp đại địa. Hăy nên biết điều này giải thích theo nghĩa bí mật sẽ là “đại từ bi thủy”. Do quán thế gian tột bậc nhiệt năo, nên tạo lợi ích, có thể khiến cho chúng sanh hoặc uống, hoặc tiếp xúc, sẽ trừ các hoạn nạn, nhất định có thể đắc Vô Thượng Bồ Đề. Tức là nước ấy hiện [tác dụng] giống như cam lộ. Dù là hiển hay bí mật, trong hai cách giải thích ấy, đều có tác dụng lợi ích thế gian và xuất thế gian. “Vô nghi” tức là hăy nên sanh ḷng tin quyết định, chẳng nghi!

 

          (Kinh) Tư duy tại Đẳng Dẫn, nhất thiết Ra tự môn, châu luân sanh diễm quang, tịch nhiên nhi phổ chiếu. Du Kỳ quang ngoại chuyển, nhi biến nhất thiết xứ. Lợi thế tùy lạc dục, hành giả khởi thần thông. Thượng thân Ra tự môn. Phạ tự tề luân trung, xuất hỏa nhi giáng vũ, câu thời nhi ứng hiện. Địa ngục cực hàn khổ, Ra tự năng tiêu trừ. Phạ tự quyên xí nhiên, trụ Chân Ngôn pháp cố. Ra tự vi hạ thân, Ha tự vi tiêu xí. Tác nghiệp tốc thành tựu, cứu trọng tội chúng sanh. Trụ đại Nhân Đà La, tác thủy long sự nghiệp, nhất thiết nhiếp trừ đẳng, Chân Ngôn giả vật nghi. Phong biến nhất thiết xứ, nhất thiết tất khai hoại. Thử chủng chủng tạp loại, các các chúng sự nghiệp. Sắc Mạn-đồ-la trung, y pháp nhi tác chi, xúc tâm nhi niệm tŕ, đăi đắc ư căn tịnh. Khinh cử tập kinh hành, trung tụng hoạch thần túc. Yến tọa quán A tự, tưởng tại ư nhĩ căn, niệm tŕ măn nhất nguyệt, đương đắc nhĩ thanh tịnh.

          ()思惟在等引,一切囉字門,周輪生焰光,寂然而普照,瑜祇光外轉,而遍一切處。利世隨樂欲,行者起神通,上身囉字門,嚩字臍輪中,出火而降雨,俱時而應現。地獄極寒苦,囉字能消除,嚩字蠲熾然,住真言法故。囉字為下身,訶字為幖幟,作業速成就,救重罪眾生,住大因陀羅,作水龍事業,一切攝除等,真言者勿疑。風遍一切處,一切悉開壞,此種種雜類,各各眾事業,色漫荼羅中,依法而作之。觸心而念持,逮得意根淨,輕舉習經行,中誦獲神足。宴坐觀阿字,想在於耳根,念持滿一月,當得耳清淨。

          (Kinh: Tư duy nơi Đẳng Dẫn, hết thảy môn chữ Ra, giáp ṿng sanh lửa sáng, lặng lẽ mà chiếu khắp. Quang minh từ Du Kỳ, chiếu ra ngoài xoay chuyển, trọn khắp hết thảy nơi. Lợi đời tùy ưa thích, hành giả dấy thần thông. Thân trên: Môn chữ Ra. Chữ Phạ ở nơi rốn, bốc lửa và tuôn mưa, cùng lúc đều ứng hiện. Địa ngục khổ cực lạnh, chữ Ra tiêu trừ hết. Chữ Phạ trừ lửa bừng. Do trụ pháp Chân Ngôn. Chữ Ra làm thân dưới, chữ Ha làm biểu trưng. Tác nghiệp chóng thành tựu, cứu chúng sanh tội nặng. Trụ đại Nhân Đà La, làm sự nghiệp thủy long, nhiếp trừ cho hết thảy. Bậc chân ngôn đừng nghi. Gió trọn khắp mọi chốn, hết thảy đều mở, hoại. Đủ mọi loại như thế, mỗi mỗi các sự nghiệp. Trong Sắc Mạn-đồ-la, nương pháp mà thực hiện, chạm tim mà niệm tŕ, ḥng được ư căn tịnh. Nhẹ nâng thân, kinh hành, tụng niệm đạt Thần Túc. Ngồi yên quán chữ A, tưởng chữ ở nơi tai, niệm tŕ tṛn một tháng, sẽ được tai thanh tịnh).

 

          Kế đó, nói môn chữ Ra (thêm chấm [Đại Không], tức là chữ Raṃ). Cũng quán giống như trên, đều vắng lặng, quang minh chiếu sáng ngời như vầng lửa, chung quanh có quang minh, trọn khắp trong ngoài đều tưởng thành màu sắc ấy. Ánh sáng túa ra ngoài, cho đến chiếu vào thân người khác, cũng khiến cho quang minh ấy lần lượt biến thành rộng lớn, trọn khắp pháp giới, có thể trừ các thứ ác sự của hết thảy chúng sanh. Thuận theo ḷng họ mong thích mà thỏa nguyện cho họ, cũng có thể tạo các thứ thần biến. Kế đó, hành giả từ rốn trở lên, đặt chữ Ra (tức là tưởng nơi phần thân phía trên có chữ Ra). Trong rốn, đặt chữ Phạ, [cả hai chữ ấy] đều hiện thần biến. Từ chữ Ra sanh lửa, từ chữ Phạ sanh ra nước, trừ khử các hoạn nạn như nóng, lạnh v.v… Cho tới tám đại nhiệt địa ngục, có thể dùng chữ Phạ để tạo sự thanh lương ḥng ngưng diệt. Đối với tám hàn địa ngục, th́ có thể dùng chữ Ra để tạo sự ấm áp nhằm dứt diệt. Kế đó, phía dưới lại xếp các chữ như Ra v.v… Trên tràng nêu cao, lại đặt chữ Ha, có thể trừ sạch hết thảy tội khổ của ḿnh lẫn người.

          Lại giống như trong phần trên, tưởng đại kim cang luân; đó là chất cứng rắn nhất trong các thứ cứng rắn. Trong kim cang đại Nhân Đà La luân ấy, tưởng hai chữ A và Phạ, từ phương Long (phương Tây) có thể nhiếp phục hết thảy. Gió có thể trọn khắp hết thảy mọi nơi, hoặc có thể mở ra, hoặc phá hoại (V́ thế, chánh kinh ghi “Phong biến nhất thiết xứ, nhất thiết tất khai hoại tức là “gió trọn khắp mọi nơi, hết thảy đều mở ra hoặc phá hoại”). “Mở” là mở cung A Tu La và hết thảy các vật gây chướng ngại, “hoại” là đập nát, hủy hoại. Các thứ sắc khác nhau do nghiệp nhân trong và ngoài hợp thành, [gió] đều có thể khai, hoại. “Sắc Mạn-đồ-la” là nói dựa theo màu của nó, tức là như trong phần trước đă nhắc đến Phong Đàn (đàn có h́nh bán nguyệt, màu đen). “Xúc tâm nhi niệm tŕ” (chạm vào tim mà tŕ niệm): Tưởng chữ ấy ở trong vầng tṛn sáng ở ngay nơi tim, có thể khiến cho ư đạt được thanh tịnh, tức là như “ư căn thanh tịnh” nói trong kinh Pháp Hoa. Đi kinh hành niệm tụng, quán chữ này, tưởng có thể “khinh cử”, tức là có thể nâng thân vọt lên hư không, hiện đủ loại thần túc. Hoặc ngồi mà tưởng chữ A ở bên tai, do chữ ấy ra vào mà nghe tiếng, liền đạt được Thiên Nhĩ Thông. Hoặc nói là dùng bất cứ chữ nào cũng đều đạt được, hoặc có thể là phần kinh văn này chỉ nói về chữ A (điều này c̣n tồn nghi).

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Như thị đẳng ư sanh Tất Địa cú. Bí Mật Chủ! Quán thử vô hữu h́nh sắc, chủng chủng tạp loại chúng hạnh sanh, ư tư niệm khoảnh, tài chuyển tụng chi, năng tác như thị nhất thiết thiện nghiệp chủng tử. Phục thứ Bí Mật Chủ! Như Lai vô sở bất tác, ư Chân Ngôn môn tu hành chư Bồ Tát đồng ư ảnh tượng, tùy thuận nhất thiết xứ, tùy thuận nhất thiết chân ngôn tâm, tất trụ kỳ tiền, linh chư hữu t́nh hàm đắc hoan hỷ, giai do Như Lai vô phân biệt ư, ly chư cảnh giới.

          ()祕密主如是等意生悉地句祕密主觀此無有形色種種雜類眾行生於思念頃纔轉誦之能作如是一切善業種子復次祕密主如來無所不作於真言門修行諸菩薩同於影像隨順一切處隨順一切真言心悉住其前令諸有情咸得歡喜皆由如來無分別意離諸境界

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Câu ư sanh Tất Địa như thế. Bí Mật Chủ! Quán sắc chẳng có h́nh tướng ấy, đủ mọi các thứ loại hạnh của chúng sanh, trong khoảng một niệm suy nghĩ ấy, vừa mới chuyển tụng, có thể tạo ra hết thảy các chủng tử của nghiệp lành như thế. Lại này, Bí Mật Chủ! Như Lai không ǵ chẳng làm, các vị Bồ Tát tu hành trong Chân Ngôn môn giống như h́nh bóng, tùy thuận hết thảy mọi nơi, tùy thuận hết thảy chân ngôn tâm, đều trụ đằng trước [vị Bồ Tát ấy], khiến cho các hữu t́nh đều được hoan hỷ, đều do ư chẳng phân biệt của Như Lai mà ĺa các cảnh giới).

 

          “Ư sanh thân” tức là nói tóm lược. Thuận theo ư mong muốn mà đều được thành tựu, như đạt được Ư Sanh Thân thuận theo ư niệm đến khắp mười phương. Hăy nên biết Như Lai có phương tiện tự tại như thế, có thể khiến cho trong hạnh “vô tướng ly tướng” mà hiện trọn khắp sắc thân, hoàn thành hết thảy các Phật sự. Khi vừa mới tŕ tụng, có thể phá hoại hết thảy chủng tử sanh tử, thành tựu chủng tử Bồ Đề. “Chuyển” tức là chuyển trong “chuyển tụng”. Hành giả nếu có thể tu hành như thế, chư Phật sẽ thường hiện ra trước người ấy, như bóng theo thân, thỏa măn ước nguyện. Hành giả đă được măn nguyện ấy rồi, liền có thể chẳng xả hết thảy chúng sanh, cũng lại thường hiện trước họ, thỏa măn nguyện của họ, khiến cho họ đạt được pháp hỷ. V́ thế nói “đồng ư ảnh tượng” (giống như h́nh bóng). Trong hết thảy các chỗ, tùy thuận hết thảy chúng sanh. V́ lẽ nào vậy? Các đức Như Lai ấy trụ trong địa vị Tam B́nh Đẳng, chẳng có hư luận phân biệt.

 

          (Kinh) Nhi thuyết kệ ngôn: - Vô thời phương tạo tác, ly ư pháp, phi pháp, năng thọ Tất Địa cú, chân ngôn hạnh phát sanh. Thị cố, Nhất Thiết Trí, Như Lai Tất Địa quả, tối vi tôn thắng cú, ưng đương tác thành tựu.                ()說偈無時方造作,離於法非法,能授悉地句,真言行發生,是故一切智,如來悉地果,最為尊勝句,應當作成就。

          (Kinh: Bèn nói kệ rằng: - Chẳng thời, phương, tạo tác, ĺa khỏi pháp, phi pháp, hay thọ câu Tất Địa, hạnh chân ngôn phát sanh. Do vậy, Nhất Thiết Trí, Như Lai Tất Địa quả, là câu tôn thắng nhất, hăy nên làm thành tựu).

                  

          Lại c̣n vượt khỏi hết thảy các tâm “cảnh tướng, giới, thời, phương, tác nghiệp”, hết thảy cũng đều ĺa. “Thời” tức là sanh diệt trong thời hạn tam thế. “Phương” tức là nơi chốn. “Tác” là các nghiệp. Tuy hiện muôn vàn h́nh tượng mà giống như chẳng hiện ǵ, giống như trong mười thí dụ, pháp và phi pháp đều cùng xa ĺa. Do đạt được vô tận trang nghiêm tạng như thế, cho nên có thể ứng trọn khắp hết thảy chúng sanh. V́ thế, hành giả hăy nên siêng cầu Vô Thượng Tất Địa nơi hạnh chân ngôn này. Đó gọi là trí Nhất Thiết Trí của Như Lai. Hăy nên biết: Đấy là tối thượng trong các thành tựu, không có ǵ bằng, chẳng có ǵ sánh bằng. Nhất Thiết Trí do hạnh Chân Ngôn mà trụ. V́ thế, hăy nên siêng học. Tới đây, phẩm Tất Địa đă xong.

 

7. Phẩm thứ bảy: Thành Tựu Tất Địa (Thành Tựu Tất Địa phẩm đệ thất, 成就悉地品第七)

         

          (Kinh) Thời Cát Tường Kim Cang, kỳ đặc khai phu nhăn, thủ chuyển Kim Cang ấn, lưu tán như hỏa quang. Kỳ minh phổ biến chiếu, nhất thiết chư Phật sát, vi diệu âm xưng thán: - Pháp tự tại Mâu Ni, thuyết chư chân ngôn hạnh. Bỉ hạnh bất khả đắc, chân ngôn tùng hà lai? Sở khứ chí hà sở? Chư Phật thuyết như thị, cánh vô quá thượng cú, nhất thiết pháp quy thú, như chúng lưu phó hải.

          ()時吉祥金剛,奇特開敷眼,手轉金剛印,流散如火光,其明普遍照,一切諸佛,微妙音稱歎:法自在牟尼,說諸真言行。彼行不可得,真言從何來?所去至何所?諸佛說如是,更無過上句,一切法歸趣,如眾流赴海。

    (Kinh: Khi ấy, Cát Tường Kim Cang, mở mắt kỳ đặc, tay chuyển ấn Kim Cang, túa ra như ánh lửa, ánh sáng chiếu trọn khắp hết thảy các cơi Phật, dùng âm thanh vi diệu để ca ngợi: - Pháp tự tại Mâu Ni, nói các hạnh chân ngôn. Hạnh ấy chẳng thể được! Chân ngôn từ đâu tới? Sẽ đi về chỗ nào? Chư Phật nói như thế, câu không chi hơn được. Hết thảy pháp quy vào, như các ḍng vào biển).

 

          Khi đó, ngài Chấp Kim Cang mở bừng mắt cát tường hiếm có, kim cang ví như bí mật huệ của Như Lai. Kim cang là thứ chẳng có ǵ có thể phá hoại được, nhưng nó có thể phá hoại muôn vật. Trí huệ này cũng như thế, chẳng bị hết thảy phá hoại, nhưng nó có thể phá tan tất cả những ǵ khó thể phá hoại, tức là nói tới căn bản của Tam Độc vậy. Lại nữa, thân của vị Bồ Tát này chính là cái Thể kim cang, mà mười phương hết thảy chư Phật cùng đem kim cang trí ấn của Như Lai trao vào tay vị Bồ Tát này. Do vậy, Ngài có tên là Tŕ Kim Cang. Cát Tường là [từ ngữ dùng để] tán thán công đức của Kim Cang Thủ Bồ Tát. Các thiện công đức trọn đủ, chẳng khuyết, chính là ư nghĩa “cát tường”. Khi đó, Bồ Tát nghe pháp rất sâu hy hữu, lạ lùng, đặc biệt của chư Phật như đă nói trên, phát tâm hy hữu, mắt Ngài mở bừng, phát tâm hy hữu, nhất tâm quán Phật chẳng tạm xả, bèn phát khởi Tứ Hoằng.

          Lại nữa, như hoa sen trong thế gian dần dần tăng trưởng; nếu chẳng được quang minh của mặt trời, mặt trăng và thời tiết v.v… [giúp đỡ], sẽ chẳng thể tươi tốt. Bồ Tát cũng thế, tuy có tạng công đức Thật Tướng của Như Lai nơi Bồ Đề tâm bí mật, nhưng nếu chẳng được mặt trời đại huệ b́nh đẳng chói chang của chư Phật [chiếu soi], sẽ chẳng thể mở toang. Nay vị Bồ Tát này do khéo đạt được tri kiến chân thật nơi đài Diệu Pháp Liên Hoa, lại thưa hỏi đức Phật, muốn hoằng dương, truyền rộng pháp tâm địa này để độ hết thảy chúng sanh, khiến cho họ cũng đều được mở mang như thế. Lại c̣n như trong phần trên đă nói, tức là kim cang tánh của Như Lai nơi môn chữ A, nhưng công đức tạng trọn đủ chẳng khuyết, là môn diệu lư thường trụ. “Chuyển chày kim cang” (tức là như chánh kinh nói “thủ chuyển kim cang ấn”, “kim cang ấn” chính là chày kim cang) có ư chỉ vi tế, tức là “muốn chuyển vô ngại mật huệ ấy vào trong tâm của hết thảy chúng sanh”. V́ lẽ nào vậy? Tự chứng pháp tịch diệt như thế, vi diệu thanh tịnh, chẳng c̣n chi hơn được, nhưng chúng sanh chẳng tự hay biết. Do nhân duyên ấy, tuy ở trong tạng báu bí mật của vô lượng chư Phật, mà [oan uổng] hứng chịu vô lượng hoảng sợ, khổ năo. Do bởi chuyện này, [ngài Kim Cang Thủ] sanh tâm đại bi, muốn chuyển trí ấy, khiến cho hết thảy [chúng sanh chưa giác ngộ] đều được mở bừng tâm mục.

          “Hỏa quang vi phát” (ánh lửa vi tế phát ra): Lửa là sánh ví Bát Nhă Ba La Mật, bốn phía chẳng thể chạm, do chẳng thể chấp trước! Lại c̣n là thể tánh vô cấu, có thể đốt hết thảy cấu nhơ phiền năo hư vọng như lửa đốt lúc kiếp mạt, chẳng c̣n sót thừa ǵ! “Biến chiếu Phật sát” (chiếu trọn khắp các cơi Phật): Dùng huệ quang ấy để chiếu khắp hết thảy những ai hữu duyên đáng độ trong vô lượng pháp giới, không đâu chẳng hiện khắp trước mặt kẻ đó, dùng thân mà kẻ đó thích thấy để xứng cơ thuyết pháp, khiến cho kẻ đó đều được nhập môn chữ A như thế. Nói “các cơi Phật”, tức chẳng c̣n bỏ sót thế giới nào (Tôi cho rằng “thế giới” chính là cơi tịnh tâm, là quốc độ kim cang thường hằng, chẳng bị hủy hoại).

          “Phát mỹ diệu âm tán pháp tự tại Mâu Ni” (phát ra âm thanh đẹp đẽ để ca ngợi đấng Mâu Ni tự tại trong các pháp) tức là phát ra âm thanh vi diệu để thưa hỏi Như Lai. “Chư pháp tự tại” (tự tại trong các pháp) là như bậc trưởng giả trong thế gian trọn đủ của cải, chẳng bị thiếu hụt, có thể thuận theo ḷng muốn mà đều được thực hiện thành tựu. Như Lai cũng giống như thế, là vua của các pháp, hết thảy các pháp tài không ǵ chẳng trọn đủ, cho nên có thể thực hiện đại sự chẳng thể nghĩ bàn, hết thảy đều thực hiện. Mâu Ni có nghĩa là vắng lặng. Cơi thường tịch tĩnh lặng vi diệu, sâu thẳm vời vợi, chẳng thể diễn tả được. Pháp giới tĩnh lặng, pháp đại diệt độ như thế, chỉ có ḿnh đức Phật rốt ráo thanh tịnh; v́ thế gọi Ngài là Mâu Ni.

          Nói theo các hạnh Chân Ngôn, hạnh ấy chẳng thể được, tức là hạnh Chân Ngôn ba nghiệp b́nh đẳng, ví như do hạnh ấy của Như Lai mà được thành tựu đại quả báo vô thượng. Đức Phật đă v́ chúng ta nói các hạnh nguyện ấy. Ư của lời hỏi là: Đức Phật nói chân ngôn và hạnh ấy có thể hoàn thành hết thảy các sự công đức rộng lớn rất sâu của Như Lai. Nói tóm lại, vô lượng vô biên các pháp chưa từng có đều được thành tựu. Nhưng hết thảy các pháp, không ǵ chẳng nhập vào môn chữ A. Nếu nhập vào chữ A, tức “tâm vốn sẵn là không” v́ các pháp vốn bất sanh. Nếu các pháp vốn bất sanh, tức là chân ngôn c̣n chẳng thể được, huống hồ là các hạnh phát khởi từ đó ư? Đấy chính là vô sanh, vô khởi, chẳng có pháp nào để có thể đạt được, mà trọn đủ hết thảy công đức. Đó chính là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của Phật, chỉ có Phật và Phật mới có thể biết, Phật Phật tự chứng. Nếu ai nghe, chứng thấy, sẽ có thể dùng vô lượng phương tiện để chỉ dạy, giác ngộ chúng sanh. Nếu tâm chẳng tự chứng, sẽ chẳng có cách nào trù tính, suy lường chuyện như thế để nói cho người khác được, sao có thể tu hành chuyện bất sanh bất diệt chẳng nghĩ bàn như thế được ư?

          Lại nữa, chuyện này từ đâu mà đến? Sẽ đi về đâu? [Tức là] có ư hỏi: Chỗ phát khởi và tiến nhập của hạnh vô sanh là như thế nào? V́ sao vậy? Nếu là pháp sanh diệt, sẽ có thể nói đến tướng thành tựu và phá hoại. Nay pháp tắc này chẳng có các tướng như thế, cớ sao được thành tựu? Nghĩa này cũng rất sâu. Bản thể tịch tịnh của chân ngôn được phát khởi, vận dụng như thế nào, nguyện Phật tuyên nói cho con. “Hết thảy v́ con mà nói” có nghĩa là xin [đức Phật] hăy v́ tất cả chúng con mà diễn nói, tức là nói pháp hy hữu vô thượng này. Pháp tánh rất sâu như thế, ví như biển cả, là chỗ muôn ḍng nước đổ vào. Vạn pháp quy hướng, thuận nhập Đại Bát Niết Bàn. Đấy chính là ư nghĩa của “phát hành”. Như biển cả trong thế gian, [các ḍng chảy có] đủ loại sắc vị, hễ vào trong biển cả, sẽ đều có cùng một sắc, một vị, chẳng có sai biệt, chẳng thể biến đổi. Biển cả Như Lai cũng giống như thế, hết thảy vạn pháp, vạn hạnh vào trong ấy, đều cùng là một vị giải thoát chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phân biệt (nói như thế xong)!

 

          (Kinh) Như thị thuyết dĩ, Thế Tôn cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Ma Ha Tát ư xứ, thuyết danh Mạn-đồ-la. Chư chân ngôn tâm vị, liễu tri đắc thành quả. Chư hữu sở phân biệt, tất giai tùng ư sanh, phân biện bạch, hoàng, xích. Thị đẳng tùng tâm khởi, quyết định tâm hoan hỷ, thuyết danh nội tâm xứ. Chân ngôn trụ tư vị, năng thọ quảng đại quả.                    

          ()如是世尊告執金剛祕密主言摩訶薩意處,說名漫荼羅,諸真言心位,了知得成果。諸有所分別,悉皆從意生,分辯白黃赤,是等從心起。決定心歡喜,說名內心處,真言住斯位,能授廣大果。

          (Kinh: Nói như thế xong, đức Thế Tôn bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Ma Ha Tát ư xứ, gọi là Mạn-đồ-la. Tâm vị các chân ngôn, biết rơ, quả sẽ thành. Hễ có các phân biệt, thảy đều từ ư sanh, biện định trắng, vàng, đỏ. Chúng đều từ tâm khởi, tâm quyết định hoan hỷ, gọi là nội tâm xứ. Chân ngôn trụ vị ấy, trao truyền quả rộng lớn).

 

          Kế đó, đức Như Lai đáp rằng: “Ma Ha Tát ư xứ, gọi là Mạn-đồ-la”. Tâm xứ (心處) c̣n có thể gọi là “tâm vị” (心位), tức là nói tới chỗ tự tâm của chúng sanh, chính là Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la của hết thảy chư Phật. V́ lẽ nào vậy? Hết thảy chúng sanh chính là hoa đài tạng, nhưng do bốn loại phiền năo mà thường tự sanh, tự bị chúng nó che lấp, chẳng thể hiểu rơ để tự nhận biết. Nếu có thể tự biết tâm xứ, biết cái tâm này tự tánh thường tịnh. Chỗ thanh tịnh vô cấu như thế chính là địa vị Thật Tướng đại viên măn của chư Phật. Do vậy, lời giải đáp của đức Phật có ư nói: “Nếu muốn biết hạnh và quả Chân Ngôn, hăy nên cầu nơi tâm xứ”. “Đều nói như thế” tức là mười phương ba đời chư Phật cũng đều nói như thế, một đạo chẳng khác, chẳng phải riêng ḿnh ta nói như vậy! Nói “đối với các tâm xứ của chân ngôn, người nhận biết sẽ lănh thọ cái quả” th́ “quả” là cái quả Vô Thượng Bồ Đề của chư Phật, “thọ” (nhận lănh) tức là chứng đắc. Ư Phật nói: “Nếu có thể nhập môn chữ A này, sẽ có thể biết tâm xứ”. Nếu biết “xứ” ấy, tức là đạt được cái quả Chân Ngôn. Ư Phật lại nói: Các pháp trọn do tâm mà có. Như người mắt thấy sắc, khi mắt [vừa mới] tiếp xúc sắc, chẳng thể biết rơ [sắc đó là] xanh, vàng, đỏ, trắng v.v… Kế đó, nhăn thức liền sanh khởi, chẳng phán định, suy tưởng đây là xanh hay vàng ư? Kế đó, ư thức bèn phân biệt, phân tích, bảo đây là các thứ tướng xanh, vàng, đỏ, trắng. Hăy nên biết chỉ do tâm phân biệt mà có. Kế đó, tâm quyết định hoan hỷ là nội tâm xứ (cái tâm này tiếng Phạn là Chỉ Đa (Citta), tức là Lự Tri Tâm. Lại c̣n gọi là Hăn Lật Thái (Hridaya), tức là Xứ Trung Tâm). Như Nhị Thừa nhập đạo, cũng trước hết cũng cần phải đạt được cái tâm quyết định. Cái tâm quyết định ấy chính là tam-muội. Do đạt được tâm quyết định, có ḷng vui sướng, tức là sự vui sướng do nội tâm tự chứng hiện pháp. Do có Định, liền sanh tri kiến chân thật; nhưng ba thừa, mỗi thừa đều có Định, tuy sâu hay cạn khác nhau.

          Nay ở đây, [chánh kinh] có ư nói: Nếu có thể chứng cái tâm trong tâm xứ ấy (tức Hăn Lật Thái) chính là đại quyết định tâm của Như Lai (tức tam-muội); do có môn Định ấy, được nhập môn chữ A. Do nhập môn chữ A, liền có thể biết rơ hạnh và quả Chân Ngôn. Nếu biết rơ hạnh và quả ấy, chính là được truyền trao vô thượng đại quả. Ư của đức Phật là: Do tâm trụ trong Định, đạt được cái Thấy như thật Nhất Thừa rốt ráo, liền có thể tự biết chuyện ấy. Nếu không, dẫu nghe mà vô ích. V́ vậy, tiếp đó, nói thẳng vào sơ môn để tu tập Định. Như trước đó, ngài Chấp Kim Cang đă hỏi: “Cái tâm Chân Ngôn này từ đâu mà đến, sẽ đi về đâu? Thế nào là đắc quả?” Nay đức Phật trả lời: - Chân ngôn phát ra từ tự tâm, cho đến muốn biết hạnh và quả báo Chân Ngôn, cũng đều từ tâm mà hiện. Vượt ra ngoài cái tâm, sẽ chẳng có pháp nào khác. V́ lẽ nào vậy? Mạn-đồ-la này được gọi là tịnh, do tự tâm của hết thảy chúng sanh vốn sẵn thanh tịnh, chỉ v́ bị vô minh che lấp, nên chẳng thể biết rơ. Nếu tịnh cái tâm này, nó sẽ chính là chỗ của Mạn-đồ-la, chẳng từ nơi nào khác mà đến. Hạnh và quả báo cũng đều giống như thế. Do hết thảy vạn pháp, cho đến h́nh sắc, hiển sắc v.v… vạn loại sai biệt, không ǵ chẳng từ tâm phân biệt mà có.

         

          (Kinh) Niệm bỉ liên hoa xứ, bát diệp tu nhụy phu, hoa đài A tự môn, diễm man giai diệu hảo, quang huy phổ châu biến, chiếu minh chúng sanh cố, như hợp hội thiên điện, tŕ Phật xảo sắc h́nh, thâm cư viên kính trung, ứng hiện chư phương sở, do như tịnh thủy nguyệt, phổ hiện chúng sanh tiền, tri tâm tánh như thị, đắc trụ Chân Ngôn hạnh. Chân Ngôn giả đương kiến, Chánh Giác Lưỡng Túc Tôn. Nhược kiến thành Tất Địa, đệ nhất thường hằng Thể.

          ()念彼蓮華處,八葉鬚蘂敷,華臺阿字門,焰鬘皆妙好,光暉普周遍,照明眾生故,如合會千電,持佛巧色形,深居圓鏡中,應現諸方所,猶如淨水月,普現眾生前,知心性如是,得住真言行。真言者當見,正覺兩足尊,若見成悉地,第一常恒體。

          (Kinh: Nghĩ nơi hoa sen đó, tám cánh, tua nhụy x̣e, đài hoa: Môn chữ A, ṿng lửa bao đẹp đẽ, tỏa rạng chiếu trọn khắp, để soi sáng chúng sanh, như tụ ngàn tia chớp, tŕ Phật h́nh sắc đẹp, ngự sâu trong gương tṛn. Ứng hiện các nơi chốn, như trăng in nước sạch, hiện trước khắp chúng sanh, biết tâm tánh như thế, được trụ hạnh Chân Ngôn. Bậc Chân Ngôn sẽ thấy, Chánh Giác Lưỡng Túc Tôn. Nếu thấy, thành Tất Địa, Thể bậc nhất thường hằng).

 

    Nay môn chữ A này cũng chẳng từ bên ngoài mà đến, chỉ từ tâm sanh, chẳng đến từ chỗ nào khác. V́ lẽ nào vậy? Do có phương tiện để tu Định, cái tâm này sẽ dần dần tịnh. Do tâm tịnh, chữ A hiện trong ấy. Chữ A ấy chính là tâm của hết thảy chư Phật. Từ tâm luân thanh tịnh, có thể hiện ra chữ A. Do nhập môn chữ A, liền hiện thành tướng đại quả báo. V́ thế biết cái quả này cũng do tâm mà đạt được; thật ra, không ai có thể truyền trao được; do tự giác ngộ cái tâm ấy mà đạt được. Hăy nên dẫn ư nghĩa của giới “chẳng trộm cắp” trong kinh Ương Quật [để chứng minh]. Nhưng nguồn tâm ấy vi diệu, tịch tuyệt, vô danh, vô tướng, chẳng thể thị hiện, dùng phương tiện nào để có thể trông thấy vậy? Nay chư Phật v́ giáo hóa hàng Bồ Tát hành Chân Ngôn hạnh, trực tiếp từ cái tâm “tâm xứ phàm phu” mà tạo phương tiện, cũng chẳng tạo các hạnh đối trị nào khác. Tâm xứ ấy ở sâu thẳm nhất trong tâm xứ phàm phu, tức là Hăn Lật Đà tâm. Người học Quán cũng ở nơi ấy, tưởng h́nh hoa sen. V́ cớ sao vậy? Cái tâm ấy của hết thảy chúng sanh chính là cái nhân của Liên Hoa tam-muội, nhưng chưa thể x̣e nở, do bị các phiền năo vấn vít. Do vậy, chẳng thể tự liễu đạt tướng như thật của cái tâm. V́ thế, trước hết hăy nên quán hoa sen tám cánh nơi tâm xứ ấy, quán sao cho hoa sen nở x̣e, các nhị trọn đủ. Ở trên cái đài ấy, suy tưởng chữ A ở trong đó. Từ chữ ấy, tỏa ra vô lượng quang. Quang minh ấy tản ra bốn phía, hợp lại thành tràng, giống như tràng hoa. Sở dĩ nói là “tràng” tức là liên kết nhiều hoa, xuyên xỏ liên tục chẳng gián đoạn. Từ nhiều mà hợp thành một, nên gọi là “tràng”. Quang minh ở đây cũng giống như thế, hợp vô lượng quang thành một tràng ánh sáng. V́ sao cần phải quán tám cánh sen, không nhiều hơn, chẳng ít hơn? Ở đây, có hai nghĩa:

          - Một là tâm xứ của hết thảy phàm phu tuy chẳng thể tự liễu đạt, nhưng tự nhiên trên đó có tám cánh, như h́nh hoa sen khép lại. Nay chỉ quán chiếu cái tâm ấy, khiến cho nó nở x̣e, tức là tam-muội quán càng thêm thuận tiện.

          - [Hai là] xét theo lư, quán đóa hoa tám cánh ấy liền được tương ứng với lư. Tám cánh ấy chính là bốn phương và bốn góc, bốn phương chính là TTrí của Như Lai. Đầu tiên là môn chữ A, chính là Bồ Đề tâm. Chữ Ám (Aṃ) kế đó chính là thành vô thượng Bồ Đề. Chữ A âm dài (Ā) kế đó chính là hành Bồ Đề hạnh. Chữ Á (Aḥ) kế đó chính là Đại Niết Bàn. Các cánh sen ở bốn góc chính là Tứ Nhiếp Pháp. Trước là từ môn chữ A mà phát Bồ Đề tâm (tức là chỗ đến của chân ngôn), kế đó biết cái quả của nó (tức là ư hỏi về thứ tự), kế đó là do vậy mà xét ư nghĩa của bốn chữ A (tức A, Aṃ, Ā, Aḥ). Do muốn thành đại quả báo, nên tu hạnh Như Lai. Do tu hành, được chứng đắc đại Niết Bàn. Do chứng đại Niết Bàn, có thể thấy tâm tánh, biết cái Thể của tâm pháp giới vốn sẵn là tướng thường tịch diệt. Do vậy, cuối cùng là môn chữ Á.

          Sở dĩ nói “nhụy trọn đủ” th́ cũng có ư nghĩa, tức là nếu khi cái tâm “liên hoa tam-muội” x̣e nở, vô lượng pháp môn không ǵ chẳng trọn đủ, như là Lục Độ, mười tám Không, ba mươi bảy phẩm, Thiền Định, giải thoát, một trăm lẻ tám môn tam-muội, năm trăm môn đà-la-ni. Vô lượng vô biên như thế, không ǵ chẳng trọn đủ! Hăy nên biết hết thảy các pháp môn đều từ tâm mà có. “Niệm bỉ liên hoa xứ” (nghĩ tới liên hoa xứ đó) tức là quán chữ A trên đài hoa sen ấy, cho nên nói là “ngồi trên”. “Châu biến phổ chiếu chúng sanh loại” (chiếu sáng giáp ṿng, trọn khắp các loài chúng sanh): Khi quán, nếu tràng ánh sáng này hiện tiền, tức là từ cái tâm này sanh ra ánh sáng tịch chiếu, chiếu trọn khắp hết thảy các loài chúng sanh. Hết thảy chúng sanh cũng có tánh như thế, nhưng do bị vô minh phủ lấp, chẳng biết tánh của tự tâm. V́ vậy, chẳng đạt được tác dụng tự tại như thế. Nếu khi tự hiểu rơ nguồn tâm, cũng có thể hiện trọn khắp sắc thân như thế để giáo hóa mười phương, giống như Phật chẳng khác. Nói “chúng sanh” tức là do vô minh, bọn họ nương theo nghiệp mà sanh, liền thọ báo trong tứ sanh (noăn, thai, thấp, hóa). Do nương theo nghiệp mà sanh, nên gọi là “chúng sanh”. Nay muốn dạy “chúng sanh” ấy, khiến cho họ đều biết Thật Tướng nơi nguồn tâm, nở x̣e đài hoa ấy, khiến cho họ đạt được tri kiến của Phật. Tri kiến nói thông tục sẽ là “tâm khai ư giải”. Ư nghĩa này hữu lư; do tâm khai, liền nhập môn chữ A.

          Nói “ngồi trên” lại cũng chứa đựng nhiều ư nghĩa, hoặc là nói tới “hoa ṭa”, hoặc nói “khi chính ḿnh ngồi”, hoặc là thành tựu đại Mạn-đồ-la, tức là ở trong Mạn-đồ-la, người thực hiện quán hạnh ấy, nhập vào môn chữ A, liền có thể trông thấy quang minh hiện trọn khắp sắc thân để làm đủ loại Phật sự. Nhưng khi hành giả mới học Quán, tâm chưa thuần thục, chưa được hiện tiền, hăy nên trước hết vẽ hoa sen đẹp đẽ sao cho tột bậc vi diệu như trong phần trước đă nói. Lại đặt chữ A để thường hiện tiền quán. Hăy nên vẽ chữ ấy trong ṿng tṛn sáng. Ṿng tṛn sáng ấy giống như cái gương sáng sạch; trong đó, chữ A ở trong viên quang cực sâu. Quán nơi đó chắc thật lâu ngày, liền có thể thấy hiện tiền phân minh. Đă thấy ở bên ngoài rồi, hăy xoay lại quán vầng tṛn sáng nơi tâm của chính ḿnh để quán chữ A. Giống như chữ A, hăy nên biết các chữ như Ma v.v… cũng có thể hiểu giống như thế. Khi hành giả nội quán (quán các chữ chủng tử trong vầng tṛn sáng nơi tâm ḿnh) trọn đủ thuần thục, đă thấy chữ A, quang minh từ trong tâm tỏa ra bốn phía, chiếu trọn khắp hết thảy các cơi Phật trong mười phương. Quang minh ấy từ đầu tỏa xuống chân, lại c̣n nhiễu ṿng quanh thân hành giả, chẳng thể dùng thí dụ để diễn tả được!

          Hỏi: Quán hoa sen, chẳng quán các hoa khác ư?

          [Đáp]: Điều này cũng có ư nghĩa riêng. Như trong thế gian, hoa sen mọc từ bùn lầy, tuy sanh từ chỗ xấu ác, nhưng thể tánh của hoa sen thanh tịnh, diệu sắc khôn sánh, chẳng bị các cấu nhuốm bẩn. Phàm phu cũng lại giống như thế, tuy đủ loại lầm lỗi Tam Độc bất tịnh vô lượng vô biên, nhưng quả hạt rất sâu của liên hoa tam-muội đều sanh từ đó, tức là quang minh b́nh đẳng đại huệ của Như Lai.

          “Thiên điện tập hội” (ngàn tia chớp nhóm họp): Như ánh sáng của một tia chớp trong thế gian c̣n chẳng thể quán kỹ, do nó chói sáng lóa mắt người, huống hồ vô lượng ánh chớp tu tập. Đây là giải thích ư nghĩa tràng ánh sáng tỏa ra bốn phía, oai mănh rực rỡ. Nhưng khi ánh sáng từ tâm tỏa ra chiếu trọn khắp th́ có thể thấu tới trọn khắp hết thảy các thế giới, đều hiện ra trước mặt hết thảy chúng sanh đáng được độ, dùng thân mà họ ưa thích thấy, tương xứng căn cơ mà diễn nói diệu pháp, khiến cho họ đắc độ, đều chân thật chẳng dối. Như cái gương sáng trong thế gian hiện đủ loại h́nh tướng, nhưng có thứ chẳng chiếu, chẳng thể hiện trọn khắp. Gương tịnh tâm chẳng phải vậy! Nó hiển hiện trọn vẹn pháp giới vô ngại trong mười phương; nhưng mượn đó (mượn cái gương trong thế gian) để sánh ví [tịnh tâm], chứ thật ra, chẳng thể sánh ví được! Khi hành giả thấy chữ A viên minh, có thể làm Phật sự trọn khắp mười phương, nhưng vẫn vắng lặng, chẳng có động tác, giống như vầng trăng trong nước, thuận theo đồ chứa bất đồng mà có thể cùng lúc nhanh chóng hiện ra.

          Nhưng dùng trí huệ để quán, nếu tánh nước chẳng trong, trăng cũng chẳng hiện. Nước tuy lắng trong, nhưng không có trăng, th́ [bóng trăng] cũng chẳng thể hiện. Chẳng có đến đi mà hiện tiền rành rẽ, chỉ là duyên hợp bèn có đó thôi! Lại nữa, như lúc trăng mọc ra, tuy có thể thành tựu muôn vật trong tứ thiên hạ, khiến cho chúng đều được lợi ích, nhưng [mặt trăng] cũng chẳng nghĩ như thế này: “Ta có thể chiếu trọn khắp vạn vật, khiến cho chúng sanh trưởng”. Hành giả quán tự tâm cũng lại giống như thế, giống như vầng trăng trong nước, hiện các h́nh tượng. Từ phẩm này trở về trước là nói về cái quả của chân ngôn; từ phẩm này trở đi, lần lượt nói về phương tiện tu hành, nhập chứng, bắt đầu từ chỗ này. Trong đây, lại có các oai nghi ngồi, đứng dậy, khá nhiều pháp bí mật, sẽ lần lượt nêu riêng trong các phần sau. Do kinh này là bí mật của bậc thánh, cho nên chẳng nói rơ theo thứ tự. Như quán hoa sen tám cánh và chữ A trong phần trên, trước hết là để trừ sạch tự tâm, khiến cho đài hoa được hiện. Nay muốn khiến cho hoa đài tăng trưởng tươi tốt thành đại quả báo, lại nói phương tiện quán môn chữ Án (Oṃ). Nhập môn chữ A trong phần trước, tuy nói là “biết rơ tâm tánh”, nhưng vẫn chưa đạt đến rốt ráo hiện tiền. V́ thế, lại nhập môn chữ Án. Đấy là tam-muội dùng để thành tựu tâm Bồ Đề vậy. Như hoa sen trong cơi đời nương vào nước mà tăng trưởng. Nếu không có nước, chẳng lâu sau, hoa sẽ tàn khô. Bồ Đề tâm của hành giả cũng lại giống như thế. Nếu chẳng có nước tam-muội tưới rót cái tâm ấy, cũng chẳng thể tươi tốt, nở bùng được!

          Hăy nên quán chữ Án này trên xương đỉnh đầu, nơi bốn mí xương chung quanh giáp lại, khiến cho chữ ấy đứng thẳng chánh diện ngay trên đỉnh đầu. Trong phần sau, cũng có pháp quán bí mật, nhưng pháp ấy lại khác biệt. Điểm để quán chữ là đầu của hành giả, các chỗ khác là nơi bốn chi của thân phần. (Hỏi: Nước từ chữ A chảy xuống có tuôn rót vào các chữ khác hay không?) Do hành giả chưa biết tự tâm, bèn dùng phương tiện khiến cho biết: Trước hết là quán hoa sen. Lại dùng nước Định để gột sạch cái tâm, khiến cho khi chữ A này sáng sạch, thấy thấu triệt, các cấu nơi sáu căn thảy đều thanh tịnh. Do sáu căn thuần tịnh, vô cấu, tâm tánh sẽ vô cấu giống như ánh sáng của thủy tinh hay vầng trăng thanh tịnh. Hăy nên biết đấy được gọi là Kiến. Kiến tức là “thành tựu”, thành tựu chính là Thể đồng pháp giới. Hăy nên biết: Pháp giới ấy vốn sẵn vắng lặng, hết thảy chúng sanh nương nhờ thế giới duy tŕ. Ví như hữu t́nh nương vào thế giới, cho đến địa luân nương theo thủy luân, thủy luân nương vào phong luân, phong luân nương vào không luân. Không luân là chỗ y chỉ của hết thảy, nhưng nó chẳng nương vào đâu.

          Pháp giới cũng thế, do chúng sanh có vô minh cấu, nên chẳng thể tự hiểu rơ. Nay do sáu căn thanh tịnh nên liền thấy rơ. Khi chưa thấy, bèn có phương tiện, [phương tiện ấy] cũng [sẽ được nói] trong một phẩm riêng, lại chẳng phải là trực tiếp quán hai chữ ấy. Khi hành giả tự quán, sẽ khiến cho các chữ trọn khắp trong các chi phần. “Minh” là khi tác pháp, chuyện ǵ cũng đều rơ rệt, tức là thành bậc Tŕ Minh. Do có thể trực tiếp dùng các tự môn ấy, bèn thành Tŕ Minh Tiên.

          Hơn nữa, đối với pháp giới ấy mà nói là “thấy”, chẳng phải là có cái để trông thấy. Do vô cấu nên có thể thấy, “thấy” chính là cái Thể của pháp giới. Như do gương thanh tịnh, nên muôn h́nh tượng tự hiện, nhưng nó chẳng khởi lên phân biệt như thế này: “Ta có thể thấy các thứ đó, các thứ đó là cái bị thấy”. Cũng không phân biệt tướng đến, đi; chỉ do duyên ḥa hợp mà thấy. Hết thảy chúng sanh cũng đều cùng có cái Thể pháp giới này. Nếu khi thấy như thế, tức là thấy tướng Tất Địa, có thể hiện trọn khắp sắc thân, phơi bày vô tận trang nghiêm tạng. Hành giả do tâm tịnh, không chỉ là trọn đủ niềm vui mầu nhiệm cơi trời, mà c̣n đạt được niềm vui Đại Niết Bàn vi diệu, mà cũng thấy Như Lai cú. “Cú” là chỗ ngồi của chư Phật (tức là trụ xứ của Phật). Khi thấy như trên, vẫn chưa thể gọi là “thành tựu cái thấy rốt ráo” được!

 

          (Kinh) Tùng thử thứ tư duy, chuyển thử Ra tự môn, Ra tự Đại Không điểm, trí chi ư nhăn vị, kiến nhất thiết Không cú, đắc thành bất tử cú. Nhược dục quảng đại trí, hoặc khởi ngũ thần thông, trường thọ đồng tử thân, thành tựu Tŕ Minh đẳng. Chân Ngôn giả vị đắc, do bất tùy thuận chi. Chân Ngôn phát khởi trí, thị tối thắng thật tri, nhất thiết Phật, Bồ Tát, cứu thế chi khố tạng. Do thị chư Chánh Giác, Bồ Tát cứu thế giả, cập chư Thanh Văn đẳng, du bộ tha phương sở, nhất thiết Phật sát trung, giai tác như thị thuyết. Cố đắc Vô Thượng Trí, Phật vô quá thượng trí.

          ()從此次思惟,轉此囉字門,囉字大空點,置之於眼位,見一切空句,得成不死句。若欲廣大智,或起五神通,長壽童子身,成就持明等,真言者未得,由不隨順之。真言發起智,是最勝實知,一切佛菩薩,救世之庫藏。由是諸正覺,菩薩救世者,及諸聲聞等,遊步他方所,一切佛剎中,皆作如是,故得無上智,佛無過上智。

    (Kinh: Kế, tư duy từ đó. Chuyển môn chữ Ra này, chữ Ra chấm Đại Không, đặt ở ngay nơi mắt. Thấy câu “hết thảy Không”, được thành câu bất tử. Nếu muốn trí rộng lớn, hoặc khởi năm thần thông, thân đồng tử trường thọ, thành tựu Tŕ Minh thảy. Bậc Chân Ngôn chưa đắc, do v́ chẳng tùy thuận. Chân ngôn phát khởi trí, là thật tri tối thắng. Hết thảy Phật, Bồ Tát, là kho tàng cứu thế. Do vậy, các Chánh Giác, Bồ Tát bậc cứu đời, và các vị Thanh Văn, dạo chơi khắp chốn khác. Trong hết thảy cơi Phật, thảy đều nói như thế. Nên đắc Vô Thượng Trí, Phật trí không chi hơn).

 

          Cũng có phương tiện, tức là quán môn chữ Ra. Hành giả đặt hai chữ này trên hai mắt, quang minh như ánh đèn sáng bừng, tỏa rạng. Khi hành giả tĩnh tọa, sẽ hơi cúi đầu, dùng quang minh vô cấu ấy quán chiếu cái tâm bên trong. Do chữ Ra này, có thể thấy tâm tánh. Cúi đầu chớ nên quá thấp, chớ nên [giữ cho cổ] quá thẳng. Ở đây, có hai nghĩa:

          - Một là điều ḥa cái thân để chẳng sanh bệnh khổ. V́ ngồi quá cong, hay quá thẳng tức là Tứ Đại chẳng điều ḥa.

          - Hai là v́ tịnh nhăn căn, mau chóng thấu đạt nguồn tâm.

          Môn chữ Ra này chính là đèn sáng tịnh hóa tri kiến. Do trí này giống như quán Thật Tướng của đài sen nơi tâm, cho nên mau được thành tựu. Lại nữa, khi ngồi, lưỡi cũng chớ nên chạm ṿm họng, hay hạ quá thấp trong miệng, nên giữ vừa phải. Mắt thanh tịnh như thế quán nơi tự tâm, cũng chẳng có các tướng năng và sở, chỉ v́ nhân duyên đầy đủ nên được thấy như thế. Trên đây là đức Phật bảo ngài Kim Cang Thủ về tướng đến, đi.

          Hạnh ấy từ tâm mà sanh, tâm là chiếu sáng, có thể thấy đạo của Như Lai. Hạnh tức là đạo. “Đạo” tức là hạnh và quả báo. Chẳng riêng ǵ ta nói như vậy, mà tam thế Như Lai cũng chẳng nói khác! Trên đây là nói về phương tiện của Chân Ngôn, cho đến tâm xứ này vô cấu thanh tịnh giống như tấm gương tṛn thường hiện tiền. Hăy nên biết đấy chính là cái tâm chân thật do cổ Phật cùng tuyên nói. Tâm tánh như thế thường hằng an trụ, chẳng thay đổi, chẳng thể phá hoại, tức là Đại Bát Niết Bàn của chư Phật. Do vậy, gọi là “chân thật”. Do dùng các tự môn như Ra v.v… để thanh tịnh cái tâm này, sanh ra quang minh trí huệ chân thật, liền thấy đạo do cổ Phật đă hành. Đó gọi là chân ngôn thuộc bí mật tạng vậy.

          Khi hành giả thấy đạo chân ngôn này, thức cũng phát quang. “Thức” là nói đến sáu thức. Như trong Tiểu Thừa nói “tâm, ư, thức” chỉ là danh tự sai biệt. Đại Thừa bèn có biệt tướng, tức là Lục Thức Thân (thân do sáu thức giả huyễn kết hợp) chỉ là ba duyên ḥa hợp, chẳng thể quyết định biết rơ các pháp. Cái có thể phân biệt chính là tâm. Do tâm tịnh, sáu thức cũng đều là quang minh tỏa rạng. Giống như thể tánh của đại bảo châu thường tịnh, chẳng bị trần cấu nhuốm bẩn. Nếu có người mài bóng, dần dần trừ khử thô cấu, cho đến [khi bảo châu] chuyển thành sáng suốt, nó sẽ có thể vô ngại tuôn xối các thứ báu, h́nh sắc và quang minh khôn sánh. Sáu thức của chúng sanh cũng thế, do nguồn tâm thanh tịnh, sáu thức cũng đều thuần tịnh. Đó gọi là “lục tự tại vương tánh thanh tịnh”. Hành giả tŕ chân ngôn khi thấy tâm tánh như thế, tức là thấy đấng Lưỡng Túc Tôn Chánh Giác, vĩnh viễn ĺa khỏi tà kiến điên đảo, nên gọi là Chánh. Dùng chánh tri kiến ấy để hiện giác các pháp. Đấng Nhân Thiên Nhị Túc Trung Tôn được gọi là Lưỡng Túc Tôn. V́ sao vậy? Nếu ĺa tâm tánh này mà có thể trông thấy Như Lai tại mọi nơi, chẳng có lẽ ấy! Khi hành giả thấy vị Phật ở trong tâm ấy, liền gọi là “thành tựu Tất Địa bậc nhất”, gọi là “đắc đệ nhất thường thân”. Tất Địa có rất nhiều loại, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc vô lượng sai biệt. Nay sự thành tựu này chính là thành tựu xuất thế gian bậc nhất, được gọi là “thành tựu thường thân bậc nhất”. “Thường thân” ấy chính là thân kim cang bất hoại của chư Phật. Khi thấy cái tâm này, chính là thấy Như Lai cú, biết hết thảy các pháp đều như mười thí dụ, bất sanh, bất diệt, tánh thường bất sanh. Đạt được trí chân thật này, sẽ thấy Thật Tướng.

          Tuy nói như thế, nhưng do hành giả vẫn chưa thể hiểu rơ rốt ráo, chưa thấy được tâm tánh, lại có phương tiện để hiểu rơ, tức là chuyển chữ Ra thành chữ Lăm (Raṃ). Trước hết, trong vầng trăng quán chữ A để quán cái tâm; nay lại chuyển chữ Ra ấy thành chữ Lăm. Vẫn giống như trước, hơi cúi đầu sao cho không quá thấp, không quá thẳng, lưỡi cũng cao thấp vừa đúng mực, để quán chữ A trong tâm. Chữ Ra ấy có nghĩa là “tướng”, trên đó có một cái chấm, tức là Đại Không tam-muội, được gọi là “pháp vô tướng bậc nhất”, chư tướng vốn không! Do hết thảy các tướng đều là pháp chẳng kiên cố. Do bản thể của cái tướng ấy chẳng sanh, nên giống như Đại Không, tức là pháp Thật Tướng kiên cố. Tư duy câu “hết thảy không” như thế tương ứng với lư, chính là câu “bất tử”. Câu “bất tử” chính là thân thường trụ của chư Phật. Do phương tiện chữ Lăm ĺa hết thảy các tướng chính là thường thân, thường thân chính là câu “hết thảy các pháp là Không, bất tử”. Nếu muốn đạt được trí rộng lớn, thành tựu ngũ thông, tŕ minh, Tất Địa Minh v.v… hoặc trường thọ đồng tử, mà chưa thể tŕ tụng cho đến chẳng tùy thuận, [sẽ chẳng có cách nào đạt được]!

          “Quảng đại trí thân” (trí thân rộng lớn) chính là Như Lai thân, tức là công đức của hết thảy tam thừa, thậm chí các chuyện như ngũ thần thông, trường thọ v.v… Hễ ĺa môn chữ Lăm vô tướng, sẽ chẳng có nghĩa “đắc”. V́ lẽ nào vậy? Nếu người tâm chấp tướng, sẽ nẩy sanh triền cái, thuận theo nghiệp mà chuyển, chẳng được tự tại, cho đến Tất Địa thế gian c̣n chẳng thể đạt được, huống hồ các thứ như Ngũ Thông v.v… ư? Những thứ như Ngũ Thông v.v… c̣n chẳng có lẽ nào đạt được, huống hồ b́nh đẳng trí thân của Như Lai ư? Do vậy, đức Phật nói hết thảy công đức lợi ích thế gian của ba thừa đều được hoàn thành bởi pháp vô tướng. Như thần thông có nhiều loại, nếu hành giả dùng cái tâm ly tướng, chẳng chấp trước, sẽ thậm chí có thể đạt được Ngũ Thông của Nhị Thừa. Nếu tu càng sâu hơn, thậm chí có thể đắc Ngũ Thông của Bồ Tát. Năm món thần thông ấy chính là tác dụng tự tại của hàng Bồ Tát nhập địa (đă chứng từ Sơ Địa trở lên), so với thần thông của Nhị Thừa, như đem ánh nắng mặt trời so với ánh lửa đom đóm!

          “Tŕ minh giả” tức là người tŕ tụng đạt được cái quả Tất Địa diệu thành tựu, liền có thể dạo khắp hết thảy các cơi Phật, cúng dường chư Phật, thành tựu chúng sanh. Nếu chẳng quán pháp môn “ĺa hết thảy các tướng, vốn sẵn không tịch” này, vị tiên ấy cũng chẳng thể đạt được. Đây chính là nhập vào địa vị Bồ Tát. “Trường thọ” tức là tự tại nơi tuổi thọ, thường trụ thế gian để lợi ích chúng sanh, thân cận chư Phật. “Đồng tử” nghĩa là thọ vô lượng năm, thường như trai trẻ mười sáu tuổi, dung mạo tươi tắn, đẹp đẽ, cũng là Tŕ Minh Tiên. Kinh có ư nói: Nếu chẳng tùy thuận pháp môn “ĺa hết thảy các tướng” như thế, c̣n chẳng thể thành vị tiên này, huống hồ đạt được nghiệp chẳng nghĩ bàn nơi Pháp Thân rốt ráo ư? Chân ngôn trí phát khởi chân thật trí, là của cải tột bậc của hết thảy chư Phật. Do nhập vào môn chữ Lăm, ĺa hết thảy các tướng, liền thấy Như Lai, tức là trí chân thật đại huệ b́nh đẳng. Trong hết thảy các pháp, trí chân ngôn như thế là tối thượng nhất, hết thảy chư Phật đều dùng trí ấy làm tài sản. “Tài sản” hàm nghĩa “thọ dụng”. Của cải trí huệ quư báu như thế số đến vô lượng, tự tại thọ dụng, hoàn thành các Phật sự, thí trọn khắp chúng sanh, tức là ư nghĩa “đại trưởng giả” trong kinh Pháp Hoa.

          “Bồ Tát cứu thế giả” (Bồ Tát là bậc cứu đời) cho tới Nhị Thừa dạo khắp cơi nước, trụ trong các cơi Phật, hễ tuyên nói, thị hiện, cũng đều do pháp môn này. Cho đến do hạnh này mà được thành vô thượng đạo. V́ thế kinh nói: “Ly nhất thiết tướng, tắc danh chư Phật” (ĺa hết thảy các tướng th́ được gọi là Phật). Phẩm Tất Địa Thành Tựu đă xong (Tất Địa là diệu quả của chân ngôn. Do cái quả ấy mà tu nhân hạnh. V́ thế, thành tựu ở trong ấy chính là thành tựu các nghiệp đă tạo tác). Trên đây, ngài Kim Cang Thủ hỏi đức Phật về tướng đến đi, và hạnh, quả của chân ngôn, đức Phật đă giải đáp xong.

 

8. Phẩm thứ tám: Chuyển Tự Luân Mạn-đồ-la Hạnh (Chuyển Tự Luân Mạn-đồ-la Hạnh phẩm đệ bát, 轉字輪漫荼羅行品第八)

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn quán sát nhất thiết đại hội, dĩ tu tập đại từ bi nhăn, quán sát chúng sanh giới, trụ Cam Lộ Vương tam-muội.

          ()爾時毘盧遮那世尊觀察一切大會以修習大慈悲眼觀察眾生界住甘露王三昧

    (Kinh: Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn quán sát hết thảy đại hội, dùng mắt đại từ bi do tu tập để quán sát chúng sanh giới, trụ trong Cam Lộ Vương tam-muội).

         

          “Đại chúng” chính là các vị như Kim Cang v.v… nhiều như số vi trần trong mười cơi Phật tụ hội. Từ vô lượng kiếp lâu xa, Như Lai đă tu tập mắt đại từ bi, quán thế giới là cũng có hàm ư. Đó chính là do Ngài lại sắp tuyên nói phương tiện vi diệu, khiến cho hết thảy thế gian đều đạt được lợi ích to lớn. Quán như thế xong, Ngài bèn nhập Cam Lộ Vương tam-muội. Như người đời uống chất độc, lập tức bị yểu mạng. Nếu gặp được cam lộ cơi trời để uống, ngay lập tức sẽ chẳng già, chẳng chết, hết thảy các bệnh ngặt khổ sở, không ǵ chẳng chữa lành, thân tâm thanh lương, vui sướng, đạt được điều chưa từng có. Nay tam-muội này cũng giống như thế. Nếu được nghe, suy nghĩ, tu hành, sẽ đạt được niềm vui xuất thế gian bậc nhất, thọ lượng thường trụ, thành tựu hiện pháp lạc của Như Lai. Từ môn Định ấy khởi, lại nói sức ba đời hết thảy vô ngại, ba đời chẳng ai có thể phá hoại, sức của minh chú này là như thế đó.

          Phá trừ hết thảy tối tăm vô minh phiền năo th́ gọi là Minh; nhưng ư nghĩa của Minh (Vidyā) và chân ngôn (Mantra, Dhāraṇī) có sai khác. Nếu từ tâm và miệng phát ra th́ gọi là Chân Ngôn. Từ hết thảy các thân phần tùy ư sanh khởi th́ gọi là Minh. Do ư nghĩa “tăng trưởng” mà gọi bằng danh từ giống cái (tức “minh phi”). Như vua là địa vị tôn quư, vợ của vua (phi) cũng đáng tôn trọng. V́ thế, gọi là Minh Phi (Vidyārājñī). Như trong phần trên, thoạt đầu ngài Kim Cang Thủ hỏi Phật, đức Phật từ đầu đến cuối đều giải đáp theo lời hỏi. Trong chặng giữa, có những lời khác gây gián đoạn. Nay đức Phật lại dựa theo ư trong phần trước mà đáp. Như trong phần trên, ư nghĩa của môn chữ Lăm đă được nói đại lược xong. Nay dựa theo [các nghi vấn] trước đó, đức Phật v́ muốn cho hành giả tu Chân Ngôn trọn đủ các duyên, mau chóng đạt được đạo vô thượng, nên lại từ Cam Lộ Vương tam-muội mà khởi, nói ra minh phi sau đây.

 

          (Kinh) Thời, Phật do thị Định cố, phục thuyết Nhất Thiết Tam Thế Vô Ngại Lực Minh Phi viết: - Đát điệt tha: Già già na tam mê, a bát-ra để tam mê, tát bà đát tha nghiệt đa tam ma đá nỗ nghiệt đế. Già già na tam ma. Phạ ra lạc cật-sái năi, sa ha.

          ()時佛由是定故復說一切三世無礙力明妃曰怛姪他伽伽娜三迷阿鉢囉底三迷薩婆怛他蘗多三麼哆弩蘗帝伽伽那三摩嚩囉落吃灑嬭莎訶

          (Kinh: Khi đó, đức Phật do môn Định ấy, lại nói Nhất Thiết Tam Thế Vô Ngại Lực Minh Phi rằng: Đát điệt tha: Già già na tam mê, a bát-ra để tam mê, tát bà đát tha nghiệt đa tam ma đá nỗ nghiệt đế. Già già na tam ma. Phạ ra lạc cật-sái lệ năi, sa ha - Tadyathā, gaganasame pratisame sarvatathāgatasama-tānugate gaganasamavaralakṣaṇe svāhā”).

 

          Già già na tam mê (Gaganasame, như hư không). A bát-ra để tam mê (Apratisame, thưa hỏi). Tát phạ đát tha nghiệt đa (Sarvatathāgata, hết thảy Như Lai). Tam ma đá nỗ nghiệt đế (Samatānugate, cùng với Như Lai đến chỗ trụ). Già già na tam ma (Gaganasama, nhắc lại ư “bằng với hư không”). Phạ ra lạc cật-sái (Varalakṣaṇe, phạ-la (vara) là nguyện thù thắng, lạc cật-sái (lakṣa) là tướng).

          [Trong câu] “già già na tam mê”, “già già” nghĩa là hạnh. Nhắc lại chữ Hạnh, nhằm chỉ rơ hạnh ấy chính là vô sở hữu, tức là hành vô hạnh. Chữ thứ nhất nhằm chỉ ra, chữ sau là phá hoại, tức là pháp vô tướng, vô ngại này trong hư không vô lượng vô ngại, không đâu chẳng trọn khắp; nhưng lại có ư nghĩa khác, v́ lẽ nào vậy? Nếu hết thảy các pháp thẳng thừng như hư không; đó chính là công đức không có lầm lỗi. Nay trong ấy tuy vô tướng, vô ngại giống như hư không, nhưng trọn đủ hết thảy các công đức chân thật của Như Lai, không ǵ chẳng trọn. V́ thế, kế đó nói về ư nghĩa của câu thứ hai. Tuy nêu ra hư không để sánh ví, nhưng [trong hạnh này] có vô lượng vô biên các đức ĺa tướng, hư không chẳng thể sánh ví được! Công đức ấy bằng với Như Lai, là chỗ đạt đến của hết thảy Như Lai (tức là câu thứ ba). Lại nữa, nói “già già na tam mê” tuy trọn đủ vạn đức, nhưng chẳng biểu thị, giống như Đại Không; do vậy lặp lại. Ở đây nói “vô ngại lực” nghĩa là chẳng thể phá hoại, cũng có nghĩa là vô tướng. Do vô tướng, vô ngại, nên chẳng thể phá hoại.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Dĩ thử minh phi, Như Lai thân vô nhị cảnh giới, nhi thuyết kệ ngôn: - Do thị Phật gia tŕ, Bồ Tát đại danh xưng. Ư pháp vô quái ngại, năng diệt chúng sanh khổ.

          ()善男子以此明妃如來身無二境界而偈言由是佛加持菩薩大名稱於法無罣礙能滅除眾苦

          (Kinh: Thiện nam tử! Do minh phi này và thân Như Lai là cảnh giới vô nhị, bèn nói kệ rằng: - Do được Phật gia tŕ, Bồ Tát danh xưng lớn, chẳng vướng mắc nơi pháp, hay diệt khổ chúng sanh).

 

          Trong tam-muội, đức Phật hiện minh phi này. Miệng nói th́ gọi là “chân ngôn đà la ni” (danh từ giống đực), do thân hiện ra th́ gọi là Minh. Do minh phi và thân Như Lai là cảnh giới vô nhị, do bởi sức ấy, Phật, Bồ Tát có tiếng tăm to lớn, đắc pháp vô ngại, có thể trừ diệt khổ, nên nói “minh phi này giống như thân Như Lai”. Nếu chẳng ngộ lư này, sẽ không do đâu mà thành Phật được! Nếu chứng lư “vô tướng, vô ngại”, tức là được tự tại nơi pháp, thành tựu Bồ Đề. Vô tướng như thế chính là cảnh giới rất sâu của Như Lai, chỉ có Phật và Phật mới có thể biết. V́ thế nói là “cảnh giới của Phật”. Mười phương ba đời chư Phật và Bồ Tát do nhập môn này, phổ môn thị hiện trong khắp pháp giới, thành tựu chúng sanh chẳng có cùng tận. V́ thế, có thanh danh to lớn, rền khắp mười phương, cho nên nói là “đại danh xưng”. “Đắc vô ngại pháp” (đạt được pháp vô ngại): Do vô chướng, vô tướng, chẳng vướng mắc, nên có thể trừ nỗi khổ nơi thân và miệng của hết thảy chúng sanh, chân thật chẳng dối, đều khiến cho họ đạt được niềm vui rốt ráo nơi Vô Thượng Đại Bồ Đề. Do vẫn c̣n chưa hiểu rơ Chân Đế, nên nói là “vô minh”. Do vô minh, bèn có các hành, sanh ra đủ mọi nỗi khổ. Tuy Bồ Tát nhập vào địa vị, nhưng do chưa hiểu rơ cảnh bí mật rất sâu của Như Lai, cho nên vi tế vô minh cũng lại là khổ. Nay Phật khiến cho các chúng sanh ấy đều đạt đến cảnh giới Phật rốt ráo, nên nói là “trừ hết thảy các khổ”. Trừ nỗi khổ vô minh, tức là ban cho pháp lạc vô lượng vô biên công đức giải thoát chẳng nghĩ bàn trong hiện tại của chư Phật. “Phi” () là như người nữ trong cơi đời có thể sanh ra con cái, khiến cho ḍng dơi chẳng dứt. Minh này có thể sanh ra tất cả công đức của hết thảy Như Lai; do nghĩa ấy mà nói là Phi. Khi hành giả tu hạnh Chân Ngôn, tuy có đủ loại phương tiện như trên, cần phải tŕ minh phi này. Nếu chẳng như thế, các đức sẽ chẳng trọn đủ vậy!

 

          (Kinh) Thời Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn tầm niệm chư Phật bổn sơ bất sanh, gia tŕ tự thân, cập dữ Tŕ Kim Cang giả, cáo Kim Cang Thủ đẳng thượng thủ Chấp Kim Cang ngôn: - Thiện nam tử! Đế thính Chuyển Tự Luân Mạn-đồ-la Hạnh phẩm, Chân Ngôn môn tu hành chư Bồ Tát năng tác Phật sự, phổ hiện kỳ thân.

          ()時毘盧遮那世尊尋念諸佛本初不生加持自身及與持金剛者告金剛手等上首執金剛言善男子諦聽轉字輪漫荼羅行品真言門修行諸菩薩能作佛事普現其身

     (Kinh: Khi đó, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn liền nghĩ tới chư Phật ban sơ bất sanh, gia tŕ thân ḿnh và các vị Tŕ Kim Cang, bảo các vị thượng thủ Chấp Kim Cang như ngài Kim Cang Thủ v.v… rằng: - Này thiện nam tử! Hăy lắng nghe phẩm Chuyển Tự Luân Mạn-đồ-la Hạnh. Các Bồ Tát tu hành Chân Ngôn môn có thể làm Phật sự, hiện trọn khắp các thân).

 

          Như Lai từ Cam Lộ Vương tam-muội khởi, liền nghĩ “ta ban sơ vốn chẳng sanh hết thảy Phật thân”. Do bất sanh, liền cùng chư Phật chẳng hai Thể. Do vậy, giữ lấy chữ A vốn bất sanh, gia tŕ thân ḿnh và các vị Chấp Kim Cang để bảo ban. Dùng “bất sanh” để gia tŕ, suy niệm như thế xong, phương tiện bảo các vị thượng thủ Kim Cang. “Thượng thủ” không chỉ là Bí Mật Chủ, mà là hết thảy các vị nhập môn chữ A đều là cái Thể bất nhị. Các vị Chấp Kim Cang trong mười cơi Phật đều là thượng thủ. “Các thiện nam tử lắng nghe”: Tự luân xoay chuyển gọi là Mạn-đồ-la, như trong hạnh phẩm đă nói cặn kẽ. Đối với các Bồ Tát tu hành trong Chân Ngôn môn làm Phật sự, sẽ có thể [hiện thân] ở trước mặt họ, “luân” chính là môn chữ A. Trong một chữ ấy, nhập hết thảy các chữ. Nhập một chữ ấy, sẽ xoay vần vô ngại trong hết thảy các pháp. Như bánh xe của người đời chẳng xoay chuyển th́ thôi, hễ xoay chuyển sẽ chẳng có cùng tận, t́m đầu đuôi cũng đều chẳng thể biết rơ! V́ thế, gọi là Luân. Lại như bánh xe trong thế gian, nếu lúc xoay chuyển, sẽ có thể nghiến đứt hết thảy các loài cây cỏ. Dù là rễ, thân, cành, lá của chúng, hễ gặp bánh xe ấy, không ǵ chẳng bị nghiền nát. V́ cớ sao? Do vành bánh xe bén nhọn.

          Luân chữ A này cũng lại như thế, có thể trừ hết thảy vô minh phiền năo; hễ ai được nghe, không ǵ chẳng bị dẹp tan! Mạn-đồ-la cũng có nghĩa là “thanh tịnh”, sẽ giải thích trong phần sau. “Phẩm quảng” tức là các ư nghĩa trong ấy có thể trọn khắp hết thảy mọi nơi. “Phẩm” là từ ngữ để gọi một phần [của một bộ kinh]. Nghĩa rộng là như bánh xe chẳng có đoạn dứt. Nhưng một phần kinh này cũng chẳng ĺa khỏi luân này; do vậy, dùng đó để đặt tên. Các phẩm đều nói là Quảng do chuẩn theo nghĩa này (tức là do nói đại lược nên là “một phần”, do ư nghĩa rộng răi nên là “vô tận”). “Vốn bất sanh” chính là A tự luân. Nhập luân này chính là đồng Thể bất nhị với chư Phật. Đức Phật v́ thành tựu các vị Bồ Tát tu Chân Ngôn hạnh, muốn nói A tự luân này, bèn trước hết tán thán công đức của luân ấy. Nếu thấu đạt cái luân này, sẽ có thể khiến cho các Bồ Tát phổ môn thị hiện, dùng thân mà hết thảy chúng sanh thích thấy, trụ khắp trước họ để hóa độ, do đại nhân duyên mà làm Phật sự. V́ thế nói là “trụ bỉ tiền” (trụ trước họ).

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang tùng kim cang liên hoa ṭa, toàn chuyển nhi hạ, đảnh lễ Thế Tôn, nhi tán thán ngôn.

          ()爾時執金剛從金剛蓮華座旋轉而下頂禮世尊而讚歎言

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang từ ṭa kim cang liên hoa xoay chuyển rồi hạ xuống, đảnh lễ Thế Tôn, tán thán rằng).

 

          Lúc bấy giờ, ngài Chấp Kim Cang đảnh lễ Phật, tương ứng với chày kim cang xoay chuyển rồi hạ xuống, bước xuống khỏi đài kim cang liên hoa xong bèn tán thán đức Phật. Vị Bồ Tát này do trên chày kim cang có đài hoa sen, bèn dùng đó để ngồi. Kim cang chính là trí ấn của chư Phật. Phật trí ấy in vào đài đại Mạn-đồ-la; do vậy, có sự biểu thị như thế. Như ném kim cang huệ lên hư không, nó xoay chuyển mà hạ xuống đất. Vị Bồ Tát này cũng thế, do nghe đức Phật nói A tự luân, hoan hỷ, hớn hở, lập tức ở nơi đài ấy, trên chày kim cang xoay chuyển vô lượng, từ ṭa bước xuống, làm lễ đức Phật. Trong khi bước xuống, tương tự như ném chày kim cang lên hư không, nó sẽ xoay tṛn rồi hạ xuống. V́ thế nói là “tương ứng với nó”. Điều này cũng nhằm biểu thị Phật trí vô ngại. V́ tỏ ḷng cung kính nghe pháp, bèn bước xuống đất, dốc ḷng tôn kính.

 

          (Kinh) Quy mạng Bồ Đề tâm! Quy mạng phát Bồ Đề! Khể thủ ư hạnh thể, Địa Ba La Mật đẳng, cung lễ tiên tạo tác, quy mạng chứng Không giả.             

          ()歸命菩提心!歸命發菩提!稽首於行體,地波羅蜜等,恭禮先造作,歸命證空者。

    (Kinh: Quy mạng Bồ Đề tâm, quy mạng phát Bồ Đề, đảnh lễ với Hạnh Thể, Địa Ba La Mật thảy, kính lễ tiên tạo tác, quy mạng đấng chứng Không).

         

          “Quy mạng Bồ Đề tâm” tức là quy mạng cái tâm của hết thảy chúng sanh (như trong phần trên đă nói về Bồ Đề trong cái tâm này). “Quy mạng phát Bồ Đề” tức là lại c̣n đảnh lễ người có thể phát sanh cái tâm ấy (tức là Bồ Đề tâm thanh tịnh nhập minh môn). “Khể thủ Hạnh Thể, Địa Ba La Mật”: Kế đó, quy kính cái Thể của hạnh Chân Ngôn. Hạnh Thể chính là mỗi địa vị và Ba La Mật. “Cung lễ tiên tạo tác” (cung kính lễ bái bậc đă tạo tác trước đó): Hết thảy chúng sanh tuy có tâm Bồ Đề này, nhưng chẳng thể tự hiểu rơ. V́ thế, quy mạng bậc đă phát tâm thành tựu cái quả xưa kia và dạy lại chúng sanh; do nghĩ tới đại ân lại lễ bái. Nhắc lại chuyện quy mạng đảnh lễ, có ư nghĩa đại đồng tiểu dị. Nhắc lại, [ḥng biểu đạt] sự cung kính sâu xa tột bậc như thế.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ như thị thán dĩ, nhi bạch Phật ngôn: - Duy nguyện pháp vương ai mẫn, hộ niệm ngă đẳng, nhi diễn thuyết chi, vị lợi ích chúng sanh cố, như sở thuyết chân ngôn tu viên măn cố.

          ()祕密主如是歎已而白佛言惟願法王哀愍護念我等而演為利益眾生故如所真言修圓滿故

    (Kinh: Ngài Bí Mật Chủ tán thán như thế xong, bạch cùng đức Phật rằng: - Kính mong đấng pháp vương thương xót, hộ niệm chúng con mà diễn nói để tạo lợi ích cho chúng sanh tu viên măn chân ngôn như đă nói).

 

          Tán thán đức Phật như thế xong, lại thỉnh cầu. Như người đời nuôi tằm để kiếm lợi, nên nuôi nấng cẩn thận. Ở đây cũng giống như thế, v́ thỉnh đức Phật lại nói nghĩa sâu, tự lợi, lợi tha, nên trước hết tán thán đức Phật. “Không chứng” tức là chứng pháp vô tướng, vô ngại, b́nh đẳng. Bạch với đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Kính mong đấng pháp vương tuyên nói do thương xót chúng con và hết thảy chúng sanh”. “Pháp vương”: Tự tại trong pháp, nên gọi là “pháp vương”. Nguyện thương xót, hộ niệm con, và v́ lợi lạc chúng sanh. Do đấng pháp vương thương xót con, hộ niệm con, và v́ lợi lạc chúng sanh, v́ khiến cho hành giả Chân Ngôn sẽ đúng theo lời đức Phật dạy mà tu viên măn, nguyện Phật lại nói về A tự luân. “Viên măn”: Thuận theo các hạnh thượng, trung, hạ, tùy theo tánh phận mà được lợi ích, đều thành tựu diệu quả.

 

          (Kinh) Như thị thuyết dĩ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Ngă nhất thiết bổn sơ, hiệu danh Thế Sở Y, thuyết pháp vô đẳng tỷ, bổn tịch vô hữu thượng.

          ()如是已,毘盧遮那世尊告執金剛祕密主言:我一切本初,號名世所依,說法無等比,本寂無有上。

          (Kinh: Nói như thế xong, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Ta hết thảy ban đầu, hiệu là Thế Sở Y, thuyết pháp khôn sánh bằng, vốn tịch, không ǵ hơn).

 

          Kế đó, đức Phật bảo ngài Bí Mật Chủ rằng: Thoạt đầu, trong các vị Phật tối thắng, ta được xưng tụng là Thế Sở Y (đấng để cơi đời nương tựa), sắp nói bí tạng. Trước hết là tự tán thán đức, do pháp này khó tin, giống như khi sắp nói kinh Pháp Hoa, [đức Phật] cũng tán thán tương đồng. “Bổn sơ” có nghĩa là thọ lượng. “Thế Sở Y”: Như hết thảy cỏ cây đều nương vào đất mà được tăng trưởng. Lại như thương nhân nương theo người hướng dẫn, vào trong biển bèn nương cậy thuyền trưởng, người bệnh khổ nương cậy bậc đại y, ở đây có nhiều môn đều nên nói. Nay đức Phật cũng thế, là nơi nương tựa cho hết thảy. Nhưng lại c̣n có thâm ư: Tuy nói là tự thán (tự khen ngợi công đức của chính ḿnh), nhưng hàm ư là thuyết pháp. Như trong bản tiếng Phạn nói về Ngă (Ātman) th́ trong ấy có âm A, tức là ư nghĩa “vốn bất sanh”. Cái Thể thường trụ bất sanh ấy chính là cái để hết thảy nương vào. “Xưng hiệu”: Ta đă giác ngộ sự bất sanh ấy, hết thảy người đời gọi ta là Phật, chẳng phải là pháp giới b́nh đẳng có danh xưng như thế. “Thuyết pháp vô đẳng tỷ” (thuyết pháp không có ai sánh bằng): Trong sự khôn sánh ấy, đối với những điều ngoại đạo đă nói, đều có pháp cao hơn. V́ thế nói là “hữu tỷ” (có cái so sánh được). Phàm hết thảy các kẻ chẳng hiểu rơ pháp bí mật nội chứng th́ đều là ngoại đạo. Do đức Phật nói pháp “chẳng thể so sánh, sánh ví” này, thuyết pháp cũng là khôn sánh. Lại nữa, chữ Ma () trong Ngă (chính là nghĩa “bất sanh”, cũng là pháp được hỏi trong lời tán thán). “Bổn tịch vô hữu thượng” (vốn vắng lặng, chẳng có ǵ cao hơn được): Trong chữ Bổn có âm A, tức là ư nghĩa “bất sanh”. Do bất sanh nên bất diệt. V́ thế, vốn sẵn vắng lặng. Pháp này vi diệu bậc nhất, không chi hơn được. Do có thể tịch tĩnh các căn, sáu căn thường thanh tịnh, các ác vĩnh viễn diệt mất, cho nên nói là Tịch. Chữ A ấy chính là tâm của hết thảy chư Phật.

          Nay trong bài kệ của đức Phật nói đến chữ A, tức là nói tới pháp tự chứng của đức Phật, tuy trong hết thảy ngữ ư có nói, nhưng trọn chẳng thể biết rơ cảnh nội chứng ấy! Do pháp tự chứng chẳng thể nói, tuy đức Phật tự khen ngợi, tức là ca ngợi chữ A này, chữ ấy vốn sẵn là cái nương tựa cho cơi đời từ thuở ban sơ. Nay nói pháp tự chứng này, chẳng phải là cảnh giới của Nhị Thừa hay ngoại đạo. Do pháp ấy chẳng thể sánh ví, nên nói là “vô tỷ”. Như người uống nước, nóng lạnh tự biết, c̣n chẳng thể nói cho người không uống biết. Huống hồ cảnh giới của Như Lai ư? (Hăy nên dẫn kinh Giải Thâm Mật). Nhưng do đức Phật dùng sức gia tŕ, nói pháp chẳng thể nói, chẳng thể diễn tả này, khiến cho các vị như Kim Cang Tạng v.v… đều cùng được biết. Chuyện này chính là hy hữu (nói “bổn tịch” th́ hăy nên biết: Trong hết thảy Nhị Thừa và ngoại đạo, chẳng có pháp vốn sẵn tịch diệt này, do tâm cảnh của họ chẳng thể thấu đạt được).

 

          (Kinh) Thời, Phật thuyết thử già-tha, như thị nhi tác gia tŕ. Dĩ gia tŕ cố, Chấp Kim Cang giả cập chư Bồ Tát năng kiến thắng nguyện Phật Bồ Đề ṭa. Thế Tôn do như hư không vô hư luận, vô nhị, hành Du Già tướng. Thị nghiệp thành thục. Tức thời, Thế Tôn thân chư chi phần, giai tất xuất hiện thị tự, ư nhất thiết thế, xuất thế gian, Thanh Văn, Duyên Giác Tĩnh Lự, tư duy cần tu, thành tựu Tất Địa, giai đồng thọ mạng, đồng chủng tử, đồng y xứ, đồng cứu thế giả: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a.

          ()時佛說此伽如是而作加持以加持故執金剛者及諸菩薩能見勝願佛菩提座世尊猶如虛空無戲論無二行瑜伽相是業成熟即時世尊身諸支分皆悉出現是字於一切世出世間聲聞緣覺靜慮思惟勤修成就悉地皆同壽命同種子同依處同救世者南麼三曼多勃馱喃

          (Kinh: Khi đó, đức Phật nói kệ tụng này, thực hiện gia tŕ như thế. Do được gia tŕ, ngài Chấp Kim Cang và các Bồ Tát có thể thấy ṭa Bồ Đề thắng nguyện của đức Phật. Đức Thế Tôn ví như hư không chẳng có hư luận, chẳng hai, hành tướng Du Già. Nghiệp ấy đă chín muồi, ngay lập tức, từ các chi phần nơi thân đức Thế Tôn thảy đều xuất hiện chữ ấy, trong hết thảy Tĩnh Lự thế gian, xuất thế gian, Thanh Văn, Duyên Giác, tư duy, siêng tu thành tựu Tất Địa, đều có cùng thọ mạng, cùng chủng tử, cùng chỗ nương vào, cùng là bậc cứu đời: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a - Namaḥ samantabuddhānāṃ, a”).

 

          Do được gia tŕ, ngài Chấp Kim Cang và các vị Bồ Tát có thể hiện ṭa Bồ Đề nguyện thù thắng của đức Phật, tức là khi đức Phật nói bài kệ ấy xong, do được thần lực của đức Phật gia tŕ, lúc bấy giờ, các vị Kim Cang Bồ Tát liền có thể hiện Bồ Đề ṭa. Ṭa ấy chỉ nói theo ư nghĩa thế gian; nhưng phương Tây gọi ṭa này là Măn-đồ (Manda). Măn-đồ nghĩa là kiên cố, là bất động, là không c̣n ǵ sánh bằng, là trọn khắp pháp giới. Nay hiện ṭa Bồ Đề này cũng như trong lạc hiện ra tô, các vị cùng tụ hội một chỗ mà chẳng tách ĺa. Do gia tŕ nên có thể hiện ra. Ṭa này được trang nghiêm bởi công đức của Như Lai, được vô lượng đại nguyện thành tựu, tức là giống như thân Phật hiện trọn khắp hết thảy chúng sanh giới để làm Phật sự. V́ thế nói là “thắng nguyện” (nguyện thù thắng). Hư không Như của Phật vô hư luận, do hành “vô nhị” tương ứng với lư mà thành tựu nghiệp ấy, tức là cái ṭa này giống như hư không, ĺa hết thảy phân biệt. Tuy các Bồ Tát tu hành đủ loại phương tiện như thế, nhưng cũng chẳng hai, chẳng khác, chẳng ĺa diệu lư như thế. V́ thế nói là “tương ứng với lư”. Như người hành hạnh th́ cũng đắc quả như thế, tức là chẳng hai, chẳng khác với cái ṭa ấy. “Thành tựu” là Tất Địa được thành tựu bởi người tu hành. Trong khi đó, nơi các phần thân thể của đức Phật, thảy đều xuất hiện chữ ấy, trong hết thảy thế gian và xuất thế gian, Thanh Văn, Duyên Giác, Tĩnh Lự và quán, người siêng tu thành tựu Tất Địa [cũng như thế].

          Nói “trọn khắp thân Phật” tức là trong các thân phần của đức Phật, đều xuất hiện chân ngôn chữ A này. Môn chữ A này chính là huệ mạng của các thứ như Định quán v.v… thuộc thế gian, xuất thế gian và Nhị Thừa (nhiếp tâm chẳng tán là Định. Kế đó, sẽ quán chiếu, như lúc hành giả mới nhiếp tâm, th́ các cách quán viên minh v.v… là Quán. Trong các phần sau, ư nghĩa thường liên quan). Như đối với một chữ Thọ, các Thọ có cùng một chủng tử, cùng mạng, cùng y xứ, cùng cứu độ, cùng hiện. Trong hết thảy các diệu nghiệp thuộc thế gian và xuất thế gian đă được thực hiện như trên, chữ A chính là mạng của chúng. Như người nếu chẳng có mạng căn, hết thảy các việc làm thảy đều bỏ phế. Hết thảy công đức, định huệ v.v… thuộc thế gian và xuất thế gian cũng thế, nếu ĺa môn chữ A, sẽ chẳng thể tăng ích, thành tựu, như người chết chẳng thể làm ǵ được nữa!

          Lại nữa, chữ A là âm thanh phát ra khi mở miệng. Nếu chẳng có âm A, sẽ không thể mở miệng. Nếu chẳng mở miệng, hết thảy các chữ đều không có. Do vậy, chữ A là chủng tử của hết thảy các chữ. Hăy nên biết: Hết thảy vạn hạnh cũng giống như thế, lấy môn chữ A làm chủng tử. Nếu ĺa chữ A, cũng chẳng thành. “Đồng y xứ”: Như các chúng sanh nếu chẳng có đại địa, sẽ chẳng có trụ xứ. Môn chữ A này cũng giống như thế, nếu ĺa chữ A, sẽ không có chỗ để nương vào. Cứu độ cũng giống như thế! Hăy nên biết môn chữ A chính là sự cứu hộ (cứu vớt, thủ hộ) to lớn trong hết thảy thế gian. Cuối cùng nói “hiện” là như trong phần trên, đức Phật v́ các Bồ Tát và đại chúng mà hiện ṭa kim cang, hết thảy các nghĩa thù thắng thảy đều có thể hiện. Kế đó liền nói môn chân ngôn này, tức là “nam ma tam mạn đa bột đà nẫm” (kính lễ trọn khắp chư Phật), A (đây chính là môn chân ngôn chữ A).

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Thử A tự, nhất thiết Như Lai chi sở gia tŕ. Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát năng tác Phật sự, phổ hiện sắc thân, ư A tự môn, nhất thiết pháp chuyển.

          ()善男子此阿字一切如來之所加持真言門修菩薩行諸菩薩能作佛事普現色身於阿字門一切法轉

    (Kinh: Thiện nam tử! Chữ A này được hết thảy Như Lai gia tŕ. Các Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn có thể làm Phật sự, hiện trọn khắp sắc thân, chuyển hết thảy các pháp trong môn chữ A).

 

          Thiện nam tử! Do chân ngôn này được mười phương chư Phật dùng Pháp Thân cùng gia tŕ, những người tu hành do dùng chân ngôn này, có thể làm các Phật sự, cho đến hiện trọn khắp các sắc thân, v́ hết thảy chúng sanh giới khai thị trí huệ của Phật. Như Phật có thể làm chuyện ấy, môn chữ A này cũng có thể làm như thế. Cái Thể của chữ này giống như thân của hết thảy các vị Phật. “A tự môn nhất thiết pháp chuyển” (Chuyển hết thảy các pháp trong môn chữ A): Do chuyển chữ A này, sẽ thành tựu đủ loại công đức. Từ môn chữ A này tu hành để chuyển.

 

          (Kinh) Thị cố Bí Mật Chủ! Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát, nhược dục kiến Phật, nhược dục cúng dường, dục chứng phát Bồ Đề tâm, dục dữ chư Bồ Tát đồng hội, dục lợi ích chúng sanh, dục cầu Tất Địa, dục cầu Nhất Thiết Trí trí giả, ư thử nhất thiết Phật tâm, đương cần tu tập.

    ()是故祕密主真言門修菩薩行諸菩薩若欲見佛若欲供養欲證發菩提心欲與諸菩薩同會欲利益眾生欲求悉地欲求一切智智者於此一切佛心當勤修習

          (Kinh: Do đó, Bí Mật Chủ! Các Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn nếu muốn thấy Phật, nếu muốn cúng dường, nếu muốn chứng phát Bồ Đề tâm, muốn cùng tụ hội với các Bồ Tát, muốn lợi ích chúng sanh, muốn cầu Tất Địa, muốn cầu trí Nhất Thiết Trí, hăy nên siêng tu tập nơi tâm này của hết thảy chư Phật).

 

           Các hàng Bồ Tát trong Chân Ngôn môn “muốn thấy chư Phật” tức là muốn thấy Pháp Thân thanh tịnh của hết thảy chư Phật, “muốn cúng dường” là dạo hết thảy các cơi Phật để cúng dường, thừa sự, nghe pháp, tu hành, “muốn chứng phát Bồ Đề tâm” chính là chứng Bồ Đề khiến cho cái tâm thanh tịnh, “muốn tụ hội cùng với các Bồ Tát” tức là cùng với các vị như Na La Diên Bồ Tát v.v… cùng tụ hội một chỗ để lănh nhận hiện pháp lạc, “muốn lợi ích chúng sanh” tức là như Tỳ Lô Giá Na Phật thường v́ hết thảy chúng sanh làm Phật sự to lớn, đủ loại thành tựu, “muốn cầu Tất Địa” là sự thành tựu tối thượng trong ấy, ngay như thân Phật mà c̣n có thể nhanh chóng đạt được, huống hồ các thành tựu khác ư, “muốn cầu trí Nhất Thiết Trí”: Môn chữ A này hết thảy nghĩa lợi không ǵ chẳng hoàn thành. Nói tóm lại, muốn cầu t́m trí Nhất Thiết Trí, quyết định sẽ đạt được! “Hăy siêng tu tập nơi tâm này của chư Phật”: Đức Phật bảo nếu quư vị muốn cầu những chuyện trên đây, chẳng có thuật nào khác, chỉ nên siêng tu môn chữ A này!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn phục quyết định thuyết Đại Bi Tạng Sanh Mạn-đồ-la Vương, phu trí thánh thiên chi vị, tam-muội thần thông, Chân Ngôn hạnh bất tư nghị pháp. Bỉ A-xà-lê tiên trụ A tự nhất thiết trí môn, tŕ Tu Đa La, khể thủ nhất thiết chư Phật. Đông phương thân chi, toàn chuyển nhi Nam dĩ cập Tây phương, châu ư Bắc phương. Thứ tác Kim Cang Tát Đỏa, dĩ Chấp Kim Cang gia tŕ tự thân, hoặc dĩ bỉ ấn, hoặc dĩ Phạ tự, nhập ư nội tâm, trí Mạn-đồ-la. Như thị đệ nhị Mạn-đồ-la, diệc bổn tịch gia tŕ tự thân cố, vô nhị Du Già h́nh, Như Lai h́nh, Không tánh h́nh. Thứ xả sở hành đạo nhị phần thánh thiên xứ, viễn ly tam phần, trụ Như Lai vị. Đông phương thân Tu Đa La, châu táp toàn chuyển.

          ()爾時毘盧遮那世尊復決定說大悲藏生漫荼羅王敷置聖天之位三昧神通真言行不思議法彼阿闍梨先住阿字一切智門持修多羅稽首一切諸佛東方申之旋轉而南以及西方周於北方次作金剛薩埵以執金剛加持自身或以彼印或以嚩字入於置漫荼羅如是第二漫荼羅亦本寂加持自身故無二瑜伽形如來形空性形次捨所行道二分聖天處遠離三分住如來位東方申修多羅周匝旋轉

    (Kinh: Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn lại quyết định nói cách sắp xếp tọa vị của chư thánh và chư thiên trong Đại Bi Tạng Sanh Mạn-đồ-la Vương, tam-muội thần thông, là pháp chẳng thể nghĩ bàn trong Chân Ngôn hạnh. Vị A-xà-lê ấy trước hết trụ trong hết thảy trí môn của chữ A, cầm dây Tu Đa La (chỉ ngũ sắc đă được gia tŕ), đảnh lễ hết thảy chư Phật, căng dây từ phương Đông, xoay sang phương Nam cho đến phương Tây, [kết thúc] trọn một ṿng tại phương Bắc. Kế đó, [A-xà-lê] tưởng chính ḿnh là Kim Cang Tát Đỏa, dùng Chấp Kim Cang gia tŕ tự thân, hoặc dùng ấn của Ngài, hoặc dùng chữ Phạ nhập vào nội tâm, sắp đặt Mạn-đồ-la. Đối với Mạn-đồ-la thứ hai cũng thế, cũng dùng sự vắng lặng vốn sẵn có [nơi Pháp Thân Phật] để gia tŕ bản thân, [khiến cho thân ḿnh thành] h́nh tướng Du Già bất nhị, h́nh tướng Như Lai, h́nh tướng không tánh. Kế đó, chừa lại hai phần để làm đường đi lại [trong Mạn-đồ-la] và chỗ để đặt tọa vị của các tôn thánh và chư thiên, bỏ qua ba phần, trụ trong vị trí của Như Lai. Từ phương Đông, căng dây Tu Đa La, xoay chuyển để căng trọn một ṿng).

 

          Như trong phần trước đă rộng nói cách xếp đặt các tọa vị trong Mạn-đồ-la, nay v́ sao lại nói? Điều này có nhiều nghĩa, [tức là] do lại muốn khơi gợi, kích phát một loại chúng sanh, muốn khiến cho người đă được nghe nói trong phần trước càng hiểu rơ bội phần. Trong phần trước, tuy đă nói nơi chốn của các tọa vị, nhưng chưa trọn khắp, nay lại nói thêm, ḥng chẳng bị khuyết thiếu. Hơn nữa, trong phần trước chỉ nhắc đến danh xưng, phần nhiều chưa nói h́nh dạng. Nay lại nói cho đầy đủ! V́ sao chẳng cùng nói luôn [ngay trong phần trước], mà lại tách ra để nói ở chỗ này? Điều này cũng có ư nghĩa. Thậm chí đối với người ưa thích pháp sâu xa, vẫn chẳng v́ họ nói ngay, v́ muốn cho họ phát khởi cái tâm trân trọng mà hướng dẫn dần dần. Lại nữa, nếu chỉ coi vẽ vời tôn dung là chân thật th́ những người thợ vẽ cũng có thể thành tựu công đức của bậc A-xà-lê! Do không chỉ dùng đồ họa mà được thành tựu hạnh Chân Ngôn, mà c̣n phải tu sao cho mỗi mỗi đều tương ứng với thần thông, tam-muội, th́ mới gọi là “hạnh chẳng nghĩ bàn”. Nay đức Phật do muốn khai thị điều đó, bèn nói các pháp như tam-muội v.v…, tức là nói tương ứng với thần thông và tam-muội.

          Vị A-xà-lê ấy trụ trong chữ A là hết thảy trí môn, cầm dây [do chỉ ngũ sắc xe lại], lễ hết thảy chư Phật như đă nói trong phần trước. Tưởng chữ A nơi tâm và tưởng chữ Ra nơi mắt v.v… như đă nói cặn kẽ trong phẩm trước. Nay muốn làm đàn, trước hết cần phải trụ trong tam-muội này, sao cho tương ứng với lư, dùng trí tương ứng với lư để sắp xếp, tính toán. Hễ thắt dây lại, phải sao cho [dây căng] vừa phải, chớ nên quá lỏng lẻo. Nếu chẳng vừa đúng, sẽ khiến cho thầy và đệ tử nhiều bệnh, bị chướng nạn quấy nhiễu. Nếu khi dùng, [dây căng quanh đàn] bị đứt th́ cũng sẽ gây nên hao tổn. Kế đó, hăy nên biết phương hướng, nơi chốn. Do vậy, trước đó phải thẩm định các phương hướng. Nếu khi căng dây mà đệ tử lầm lẫn, chẳng hạn như ngỡ Đông là Tây v.v… sẽ khiến cho kẻ gây chướng có cơ hội [quấy nhiễu, phá hoại]. Kế đó, lễ hết thảy chư Phật, tức là lễ bản thể của chân ngôn chữ A.

          Thầy lễ xong, ở phương Tốn (góc Đông Nam) của đàn tràng đi về phương Bắc, đệ tử từ phương Cấn (góc Đông Bắc) hướng về Nam, kéo dây sao cho đối diện nhau. Kế đó, thầy kéo dây chuyển từ phương Càn (Tây Bắc) hướng sang Đông, đệ tử xoay ḿnh hướng về Tây. Kế đó, đệ tử xoay theo chiều phải trở về góc Khôn (Tây Nam) hướng về phía Bắc, thầy xoay ḿnh hướng về Nam. Kế đó, thầy xoay sang phải trở về phương Tốn hướng về Tây, đệ tử xoay ḿnh hướng về phương Đông, tức là bốn phương vị đă xong. Kế đó đệ tử lại từ phương Càn hướng về phương Tốn, đối diện với thầy, tức là đă định xong góc Càn và Tốn v.v… Phàm ấn định bốn phương, ắt cần phải thẩm định chắc chắn như trên, chẳng được dời đổi. Nếu ấn định bốn góc đường chữ thập ở chính giữa, chỉ cốt sao tùy tiện xoay theo chiều phải chẳng trở ngại là được rồi.

          Làm như thế xong, A-xà-lê lại từ trong Du Già, chuyển chữ A nơi tâm thành chữ Phạ, đúng như trước mà sắp đặt. Các phương tiện nơi chữ Ra v.v… chẳng khác phần trước. Chỉ đổi chữ A trong tâm thành thân Kim Cang Tát Đỏa. Cũng lại quán tưởng thân chính ḿnh giống như thân Ngài, chấp tŕ Như Lai trí ấn. Tuy đổi chữ A thành Phạ, nhưng chẳng hề tách ĺa. V́ lẽ nào vậy? Do bất sanh, tức là vốn chẳng có trói buộc, do Thể là một, chỉ có môn khác biệt. Căng dây như trên, vẫn chưa chạm đất, liền thắt lại. Đă quán điều này, [thầy] liền cùng đệ tử vào trong Trung Đài, vẫn giống như trên mà căng dây, chuẩn theo thứ tự trên đây để định ra phương hướng trong Trung Đài, làm giống như trên. “Vô nhị tương ứng h́nh, Như Lai h́nh, không tánh h́nh” câu nhằm nhằm giải thích lẫn nhau. Tán thán vô nhị h́nh chính là Như Lai h́nh, Như Lai h́nh chính là Không tánh h́nh.

          Dây căng như vừa nói trên đây, hăy nên đặt ngang tim [của người cầm], thầy và đệ tử đối diện, hoạch định bốn phương, bốn góc, và đường chữ thập, chỉ dùng dây căng để ấn định, chưa đặt xuống (trước hết, dùng vật đánh dấu bốn góc, đă đánh dấu xong mới căng dây). Hăy nên biết khi ấn định như thế, tưởng trên đỉnh đầu có chữ A trọn khắp thân (đều như trong phần trên đă nói). Nhưng Đại Nhật Như Lai nhập Đại Bi Thai Tạng Sanh tam-muội, Đại Bi Thai Tạng tam-muội này có khác với Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la được nói trong phẩm trước hay không? Chính là v́ đàn được nói trong phần trước các phương chưa trọn vẹn, màu sắc, h́nh tượng của [chư tôn] cũng chưa đầy đủ, nên lại nói thêm.

          Kế đó, ấn định các phương đă xong, thầy (A-xà-lê) tưởng chữ Phạ giống như trên đă nói “trọn khắp toàn thể thân phần, tưởng thân ḿnh giống như h́nh tướng Chấp Kim Cang, vào trong Trung Thai, căng dây ấn định phương vị trọn khắp rồi liền cột lại (Đă ấn định phương vị xong rồi mới cột lại, tức là cột lại ngay khi đó). Giả sử Trung Đài có h́nh vuông, mỗi bề rộng sáu thước, hăy ước định một nửa là ba thước. Đấy chính là kích thước rộng hẹp của viện thứ nhất ở ngoài Trung Đài. Chia khoảng rộng ba thước ấy thành ba lớp (tức là có ba lằn ranh). Phần thứ nhất là lối đi, phần thứ hai là chỗ để đặt các vật cúng dường, phần thứ ba là chỗ ngồi của chư tôn, [ở ngoài ba lớp ấy là] phần thứ tư, tức là ngoại duyên. Ba lớp ấy đều bằng nhau, c̣n phần ngoại duyên th́ hẹp. Tính toán trong ṿng ba thước ấy sao cho [ngoại trừ phần ngoại duyên, ba lớp ấy đều được chia] đều đặn thích đáng. Khi cúng dường, thầy nên vận tâm tưởng hết thảy [chư tôn] đều ứng hiện đến tụ hội tại đấy. Nhưng đối với các vị không vẽ tọa vị, đều cúng dường ở phần ngoại duyên. Kế đó, tách ra viện thứ hai rộng bằng một nửa của ba thước, tức là rộng một thước năm tấc. Trong viện ấy, cũng chia thành ba tầng và sắp bốn đường ranh giống như trong phần trên. Kế đó, tách ra một nửa của một thước năm tấc, tức là bảy tấc năm phân để làm phần viện ngoài. Ở trong khoảng bảy tấc rưỡi ấy, cũng đều đặt bốn đường sao cho thích đáng. Cửa thông ra ngoài trong phần đàn thứ nhất nên nối tiếp với chỗ đi lại trong đàn tràng. Hăy nên chừa ra một chút để dùng làm vị trí của cửa, thông với những chỗ đi lại khác (đặt các vị trời trong thế gian ở cửa này). Cửa thông ra ngoài nơi tầng thứ ba nếu đất rộng, tùy ư làm lớn hơn, chiếm nhiều chỗ hơn cũng chẳng trở ngại ǵ.

 

          (Kinh) “Sở dư nhị Mạn-đồ-la, diệc đương dĩ thị phương tiện, tác chư sự nghiệp. Phục dĩ Đại Nhật gia tŕ tự thân, niệm quảng pháp giới, nhi bố chúng sắc. Chân ngôn giả ưng dĩ khiết bạch vi tiên”, thuyết già-đà viết: - Dĩ thử tịnh pháp giới, tịnh trừ chư chúng sanh, tự thể như Như Lai, viễn ly nhất thiết quá. Như thị nhi quán tưởng, tư duy Ra tự môn, tịch nhiên quang diễm man. Tịnh nguyệt, thương-khư sắc. Đệ nhị bố xích sắc, hành giả đương ức tŕ, tư duy tự minh chiếu, bổn vô Đại Không điểm. Hoán bỉnh sơ nhật huy, tối thắng vô năng hoại.

          ()所餘二漫荼羅亦當以是方便作諸事業復以大日加持自身念廣法界而布眾色真言者應以潔白為先說伽陀曰以此淨法界,淨除諸眾生,自體如如來,遠離一切過。如是而觀想,思惟囉字門,寂然光焰鬘,淨月商佉色。第二布赤色,行者當憶持,思惟字明照,本無大空點,煥炳初日輝,最勝無能壞。

          (Kinh: “Đối với hai Mạn-đồ-la kia, cũng dùng phương tiện như thế để làm các sự nghiệp. Lại dùng Đại Nhật Phật để gia tŕ tự thân, nghĩ tới pháp giới rộng khắp để sắp đặt các màu sắc. Người tŕ Chân Ngôn hăy nên dùng sắc trắng sạch trước hết”. [Đức Phật] nói già-đà rằng: - Dùng pháp giới thanh tịnh, tịnh hóa các chúng sanh, tự thể như Như Lai, xa ĺa hết thảy lỗi. Hăy quán tưởng như thế, tư duy môn chữ Ra, vắng lặng, ṿng lửa rực. Màu trăng sạch, thương-khư. Thứ hai, đặt màu đỏ, hành giả nên nghĩ nhớ. Tư duy chữ chiếu sáng, vốn không, chấm Đại Không, rạng ngời mặt trời mọc, tối thắng, chẳng thể hoại).

 

          Trong phần trước nói về Mạn-đồ-la, đă bảo: “Viện thứ hai đặt Thích Ca, viện thứ ba đặt Văn Thù Sư Lợi”, tương ứng với đoạn kinh văn này. Do trước đó, ấn định Trung Thai đă xong, trực tiếp hoạch định đến viện thứ ba, nên nói là “đệ nhị”, nhưng chẳng phải là đệ nhị, mà là tầng thứ ba. Nay ở đây tự có kinh văn để làm chứng: Văn Thù ở tầng thứ hai, Thích Ca ở tầng thứ ba. Tưởng chữ A định ra ngoại viện; kế đó, tưởng chữ Phạ làm Trung Đài[6]. Kế đó, ở tầng thứ hai, tưởng ngài Văn Thù, hoặc tưởng chữ Phạ, cũng giống như trước, trọn khắp các thân phần. Nơi viện thứ ba, tưởng Phật Thích Ca, hoặc tưởng chữ Bà (chữ Bà đọc nặng giọng, tức Bha). Chánh kinh nói về việc ấn định tọa vị bằng cách căng dây xong, kể từ phần ấn định màu sắc trở đi, do chưa hiểu rơ lời giảng giải, nên tôi không ghi lại (cần phải t́m hiểu thêm).

          Kinh nói: “Phục thứ Tỳ Lô Giá Na, ngă gia tŕ bỉ ấn, quảng pháp giới tầm niệm thái sắc” (Lại nữa, Tỳ Lô Giá Na, ta gia tŕ ấn ấy, nghĩ nhớ màu sắc trong pháp giới rộng lớn), ư nói: Từ đây trở đi là nói tới lúc tô màu, A-xà-lê hăy nên tưởng Tỳ Lô Giá Na Như Lai, hoặc ấn của Ngài. Ấn ấy chính là Quảng Đại Pháp Giới Ấn (lúc bấy giờ, hăy nên tưởng thân chính ḿnh là Đại Nhật Như Lai). Tưởng như thế xong, đặt màu trắng[7] trước. Khi ấy, A-xà-lê tự tưởng thân ḿnh chính là pháp giới. Thể của pháp giới là sáng suốt, trắng ngần vô nhiễm. Khi tưởng niệm như thế, không riêng ǵ thân ta là như thế, mà hết thảy hữu t́nh cũng lại như thế, tức là trừ sạch [phiền năo] giống Như Lai, cũng ĺa hết thảy các lỗi, thân chính ḿnh bằng với Như Lai, th́ gọi là “sắc trắng”. Trắng là pháp thể, ĺa hết thảy các lỗi. Nhưng nói “hết thảy hữu t́nh đều cùng là diệu pháp giới”, hăy nên dùng pháp nào để đạt được? Đấy chẳng phải là không có phương tiện, [phương tiện] tức là môn chữ Ra. Khi nhập chữ này, sẽ có thể khiến cho bản thân và đệ tử cho đến hết thảy chúng sanh, rốt ráo đều bằng với thân pháp giới của Như Lai, vĩnh viễn ĺa các lỗi. V́ thế, kế đó nói tưởng chữ Ra. Chữ ấy sắc trắng như xa cừ (hoặc nói là thương-khư, tức là vỏ ốc biển, sắc nó trắng sạch bậc nhất).

          Thầy nói: “Trong ấy bèn có chữ A và chữ Phạ. V́ thế, chữ Ra có màu trắng. Tưởng chữ sáng ngời như ánh lửa, vắng lặng, quang minh tuôn ra như sữa. Do sự thanh tịnh ấy mà thành sắc vô cấu, ĺa hết thảy các lỗi. Và hoa Quân Đà (đây là hoa ở phương Tây, cũng trắng sạch khôn sánh), hoặc như vầng trăng sáng ngời. Ánh lửa tỏa từ chữ này cũng là màu trắng, vắng lặng, điềm tĩnh, an định, nhưng chói ngời quang minh. Khi tưởng như thế, lại tụng chữ Ra đến một trăm lượt, hoặc một ngàn lượt rồi mới tô màu. Pháp gia tŕ màu là trước hết ở trong màu tưởng chữ. Chữ đă tưởng thành, liền chuyển nó thành Phật. Ở đây có hai loại A Lợi Đồ, tức là tay trái đặt trên ngực, nắm thành quyền, duỗi ngón Phong (ngón trỏ) dựng thẳng, tay phải như đang nâng vật đưa thẳng lên. Chân trái hướng ra trước, cách chân phải khoảng ba thước đổ lại, xoạc chân là đúng. Trắng, đỏ, vàng, xanh đều dùng. Hăy nên tưởng h́nh Phật mà kết ấn này. Phàm kết ấn, có hai loại oai nghi, nếu đứng kết ấn th́ cần phải luôn giữ oai nghi ấy. Bốn vị Phật có dáng vẻ tĩnh lặng, dùng ấn này. Màu thứ hai là màu đỏ, hăy nên ghi nhớ. Tức là A-xà-lê hăy nên suy nghĩ kỹ càng. Khi sắp tô màu đỏ, hăy nên tưởng chữ Raṃ (रं). Chữ ấy chiếu sáng, có màu như mặt trời mới mọc, hoặc đỏ, hoặc vàng, tức là sắc đỏ pha vàng, quang minh chiếu rạng ngời. Chữ này chính là chủng tử của Bảo Tràng Phật. Đấy chính là vị Phật không ai có thể hàng phục, tối thắng khôn sánh. Kiêm tưởng tự thân liền giống như chư Phật. Chữ Ra màu đỏ được thêm cái chấm (chẳng phù hợp th́ dùng chữ A. Nếu ư nghĩa phù hợp th́ dùng chữ Ra thêm chấm, [tức Raṃ]). Các phương diện khác chuẩn theo [những điều đă nói trong các phẩm trước!”

 

          (Kinh) Thứ vận bố hoàng sắc, định ư Ca tự môn, đương tùy ư pháp giáo, thân tướng do chân kim, chánh thọ hại chư độc, quang minh biến nhất thiết, kim sắc đồng Mâu Ni.

          ()次運布黃色,定意迦字門,當隨於法教。身相猶真金,正受害諸毒,光明遍一切,金色同牟尼。

          (Kinh: Kế, sắp đặt màu vàng, định ư môn chữ Ca, nên tùy thuận pháp giáo, thân tướng như vàng ṛng, chánh thọ trừ các độc, quang minh trọn hết thảy, sắc vàng như Mâu Ni).

 

          Kế đó, khi tô màu vàng, hăy nên tưởng chữ Ca (, Ka) có màu vàng ṛng, quang minh như ánh lửa cũng thế. Đấy là Mâu Ni Phật sắc vàng (Mâu Ni là danh hiệu chung của Phật). Ca có nghĩa là “tác nghiệp”, do vô tác nên vĩnh viễn ĺa các lỗi. Trụ trong tam-muội này trừ các độc, quang minh chiếu trọn khắp hết thảy. Hăy nên nhập Định nương theo giáo (dụng ư là quán chắc thật, chẳng tán loạn).

 

          (Kinh) Thứ đương bố thanh sắc, siêu độ ư sanh tử, tư duy Ma tự môn, đại tịch Bồ Đề ṭa, thân sắc như hồng nghê, trừ nhất thiết bố úy.

          ()次當布青色,超度於生死,思惟麼字門,大寂菩提座,身色如虹霓,除一切怖畏。

          (Kinh: Kế nên đặt sắc xanh, siêu độ khỏi sanh tử, tư duy môn chữ Ma, ṭa Bồ Đề đại tịch, thân sắc như cầu vồng, trừ hết thảy sợ hăi).

 

          Kế đó, khi dùng màu xanh, tư duy trên đó có chữ Ma (, Ba), tức là tưởng [chữ ấy] ở trên màu xanh. Tức là ư nghĩa “vượt khỏi sanh tử”; đó chính là Thích Ca Mâu Ni Phật vậy. Vị Phật ấy ngồi trên ṭa đại Bồ Đề. Hết thảy chư Phật dùng chữ này để trừ nỗi kinh sợ của chúng sanh, hàng phục lũ ma quân. Chữ ấy [có màu sắc] như ŕa ngoài của cầu vồng, có màu như hoa sen xanh. Phương Tây gọi cầu vồng là “cung Đế Thích”. Quang minh này cũng thế. Các phương tiện khác cũng giống như trước.

 

          (Kinh) Tối hậu bố hắc sắc, kỳ thái thậm huyền diệu, tư duy Ha tự môn, châu biến sanh viên quang, như kiếp tai mănh diễm, bảo quan cử thủ ấn, năng bố nhất thiết ác, hàng phục chư ma quân.

          ()最後布黑色,其彩甚玄妙,思惟訶字門,周遍生圓光,如劫災猛焰,寶冠舉手印,能怖一切惡,降伏諸魔軍。

          (Kinh: Cuối cùng đặt màu đen, màu ấy cực huyền diệu. Tư duy môn chữ Ha. Viên quang sanh trọn khắp, như Kiếp hỏa hừng hực, măo báu, nâng thủ ấn, hay dọa hết thảy ác, hàng phục các ma quân).

         

          Kế đó, khi tô màu đen, bèn tưởng chữ Ha (), như lúc kiếp tai, đại hỏa tột bậc cực thịnh, nên có ánh sáng đen tía. Quang minh của chữ này cũng lại giống như thế. Đấy là A Súc (Akṣobhya) Như Lai, vị Phật ấy do ḷng đại từ bi, v́ thủ hộ hết thảy, hàng phục các chướng, hiện h́nh Tỳ Câu Chi (Bhrukuṭī, nhíu mày) phẫn nộ, kiêm kết ấn để hàng phục những kẻ gây chướng. Tỳ Câu Chi là “nhăn mày” như trong phần trước đă nói. Các phương tiện khác giống như trên. Đoạn này nên đặt ra trước. Vị tôn thánh này tên Bát La Để Rị Đồ, đó là tiếng Phạn. Ấn của Ngài là tay trái giơ lên, duỗi chân trái, gập chân phải. Đó là tư thế hàng phục thông dụng. Ngài hiện h́nh Kim Cang Phẫn Nộ, chẳng cần thị hiện h́nh tướng Phật. Hai vị tôn thánh này dùng chung cho hết thảy các thân ấn. Kế đó, kim cang hữu t́nh kim cang chấp ngă gia tŕ, ấn của Ngài hoặc là chữ Phạ, hoặc đặt trong Trung Đài Mạn-đồ-la. Muốn thực hiện, thầy trước hết đă dùng dây căng để hoạch định ranh giới xong, khi muốn vào Trung Đài, liền tự dùng Kim Cang Thủ để gia tŕ. Thầy tưởng chữ A là thân chính ḿnh, liền giống như Tỳ Lô Giá Na Phật, chớ nên nghĩ chính ḿnh đang tác pháp. V́ thế, chuyển thành thân Chấp Kim Cang Bồ Tát, do chữ A “vốn bất sanh” và chữ Phạ chẳng tách ĺa, cho nên có thể dùng lẫn cho nhau. Mạn-đồ-la thứ hai cũng được sức gia tŕ vốn vắng lặng của ta như thế, là h́nh thể tương ứng với vô nhị, là h́nh thể tánh Không của Phật.

          Kế đó, lại tán thán công đức của chữ Phạ. Do nghĩa của chữ A nhập vào trong ấy, cũng lại vốn vắng lặng, tức là ư nghĩa “vốn bất sanh”. “Vô nhị tương ứng”: Chữ Phạ chính là chữ A, chẳng hai, chẳng tách rời, lư thường tương ứng. Do vốn vắng lặng, h́nh thể của Như Lai cũng là không, vô tự tánh.        Hai phần kế đó là vị trí của chư thiên. [Trong phần trước nói] “bỏ ba phần ở ngoài mạn-đồ-la, cách xa chỗ đường ranh, đối mặt với phương Đông căng dây” v.v… tức là mỗi viện đều có ba tầng, bỏ qua hai tầng thứ nhất và thứ hai, nơi viện thứ ba đặt thần vị (ṭa vị của chư tôn thánh trong Mạn-đồ-la). Kế đó, bỏ đệ nhị viện, chỉ tô màu nơi viện thứ ba. Do phần nói về năm màu trong các phẩm trước, ư nghĩa vẫn chưa trọn, nên lại thưa hỏi.

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na tùng tam-muội khởi, trụ ư Vô Lượng Thắng Định, Phật ư Định trung, hiển thị Biến Nhất Thiết Vô Năng Hại Lực minh phi, ư nhất thiết Như Lai cảnh giới trung sanh. Kỳ minh viết: - Nam ma tát bà đát tha nghiệt đế tệ, tát bà mục khế tệ, a sa mê, bát ra mê, a giả lệ, già già nê tát ma ra năi, tát bà đát la nỗ nghiệt đế, sa ha.

          ()爾時世尊毘盧遮那從三昧起住於無量勝定佛於定中顯示遍一切無能害力明妃於一切如來境界中生其明曰南麼薩婆怛他蘖帝弊薩婆目契弊阿娑迷鉢囉迷阿者麗伽伽泥薩麼囉嬭薩婆怛羅弩蘖帝莎訶

     (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na từ tam-muội khởi, trụ trong Vô Lượng Thắng Định, từ trong Định, đức Phật hiển thị Biến Nhất Thiết Vô Năng Hại Lực minh phi, sanh trong cảnh giới của hết thảy Như Lai. Minh chú là: Nam ma tát bà đát tha nghiệt đế tệ, tát bà mục khế tệ, a sa mê, bát ra mê, a giả lệ, già già nê tát ma ra năi, tát bà đát la nỗ nghiệt đế, sa ha - Namaḥ sarva-tathāgatebhyaḥ sarvamukhebhyaḥ, asame parame acale gagane smaraṇe sarva-trānugate svāhā”).

 

          Trước đó, Như Lai đă trụ trong Cam Lộ Vương tam-muội để nói pháp môn trên đây xong, v́ muốn thỏa măn các vị Bồ Tát tu Chân Ngôn, khiến cho các phương tiện của họ đều được trọn đủ, lại từ Định khởi, nhập Vô Lượng Thắng tam-muội. “Vô Lượng Thắng tam-muội”: “Vô lượng thắng” có nghĩa là chẳng thể hại. Do trụ trong Vô Lượng Thắng tam-muội, cảm phát mà sanh khởi minh phi này. Minh phi này được gọi là Nhất Thiết Như Lai Cảnh Giới Sanh, tức là cảnh giới của Phật. Các vị Bồ Tát tu hạnh Chân Ngôn do Minh này, liền có cùng cảnh giới với Như Lai, cũng sanh ra cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn như thế. Do nhập cảnh giới của Phật, các công đức đă làm cũng lại giống như Như Lai. Biến Nhất Thiết Vô Năng Hại Lực (Sức trọn khắp, hết thảy chẳng thể hại được): Vô Năng Hại có nghĩa là vô chướng ngại. Chẳng phải chỉ trọn khắp các cảnh giới của Như Lai, mà c̣n trọn khắp hết thảy cảnh giới của Thanh Văn và Duyên Giác. Thậm chí người thoạt đầu mới phát tâm chỉ cần tu hạnh Minh Phi này, cũng liền nhập cảnh giới của Như Lai.

          Nam mô tát bà đát tha nghiệt đế tệ (Namaḥ sarvatathāgatebhyaḥ): Quy mạng hết thảy các đức Như Lai. Do được sanh bởi các Như Lai, nên chẳng phải là một. Do chẳng phải là một, nên nói là Đẳng. Tát bà mục khế tệ (Sarva-mukhebhyaḥ): Hết thảy các đức Như Lai là chỗ mong mỏi bậc nhất. A sa mê (Asame): Vô đẳng. Do sanh từ hết thảy cảnh giới của Như Lai, cho nên là vô đẳng (không ǵ bằng). Lại giải thích theo ư nghĩa bí mật, chữ A trong ấy chính là bản thân Phật, Tam Mê là Đẳng. Bằng với chư Phật, tức là bằng với cái Thể của chữ A. Bát ra mê (Parame) được dịch là đệ nhất. Do vô đẳng nên là đệ nhất, tức không có ǵ hơn được! Giải thích theo ư nghĩa bí mật, chữ Bát này chính là Đệ Nhất Nghĩa Đế. Do chữ A ở trên có cùng cái Thể với hết thảy Như Lai, tức là Đệ Nhất Nghĩa Đế, bằng với Như Lai. A giả lệ (Acale) là bất động. Do sanh từ chữ A nên cùng là Đệ Nhất Nghĩa Đế. Đệ Nhất Nghĩa chính là ngôn ngữ dứt bặt, tâm hạnh vắng lặng, cho nên chẳng thể phá, chẳng thể chuyển. Già già nê (Gagane) là Không. Do bất động nên bằng với hư không, tánh rộng lớn chẳng thể phân biệt, hạn lượng. Tát-ma ra năi (Smaraṇe) là suy nghĩ, tức là nghĩ tới ư nghĩa của chữ A, tức là luôn thường hằng, luôn nghĩ nhớ ư nghĩa ấy chẳng gián đoạn. Tát bà đát-ra nỗ nghiệt đế” (Sarvatrānugate) là biến chí (遍至, tới trọn khắp). Do thường nghĩ tưởng ư nghĩa như thế, có thể tới trọn khắp hết thảy các xứ. Không chỉ tới trọn khắp hết thảy chư Phật, mà c̣n tới trọn khắp Thanh Văn, Duyên Giác, cho tới chỗ những người vừa mới phát tâm). Sa-phạ ha (Svāhā): Chữ Sa-phạ nghĩa là Tự, Ha là bổn.

          [Minh chú này nhằm] nhắc nhở chư Phật hăy nhớ tới bổn thệ nguyện. Xưa kia, Như Lai đă lập thệ nguyện quyết định như thế, người tu hạnh Chân Ngôn này đều sẽ nên tŕ và kiến lập như thế, khiến cho sở nguyện mau chóng được thỏa măn. Ta nay do tu hành như thế, nhắc nhở, kích phát chư Phật hăy nghĩ tới thệ nguyện của các Ngài.

 

          (Kinh) Thứ điều thái sắc, đảnh lễ Thế Tôn, cập Bát Nhă Ba La Mật, tŕ thử minh phi bát biến. Tùng ṭa nhi khởi, toàn nhiễu Mạn-đồ-la, nhập ư nội tâm, dĩ đại từ đại bi lực niệm chư đệ tử.

          ()次調彩色頂禮世尊及般若波羅蜜持此明妃八遍從座而起旋繞漫荼羅入於以大慈大悲力念諸弟子  (Kinh: Kế đó, điều ḥa màu sắc, đảnh lễ đức Thế Tôn và Bát Nhă Ba La Mật, tŕ minh phi này tám lần. Từ chỗ ngồi đứng dậy, nhiễu quanh Mạn-đồ-la, vào trong giữa đàn, do sức đại từ đại bi nghĩ tới các đệ tử).

 

          Kế đó là cách điều ḥa màu sắc. Kính lễ Phật và Bát Nhă Ba La Mật Đa, tụng minh phi này tám lần, tức là điều ḥa màu sắc để vẽ h́nh tượng bổn chân của Như Lai. Trước hết, hăy đọc tụng kinh Đại Bát Nhă, cung kính cúng dường; đó là ư nghĩa của “lễ Phật”. Phàm điều ḥa màu sắc, cần phải làm như thế. Lại tưởng chữ thuộc loại màu sắc ấy. Tụng chữ ấy một trăm lần hoặc ngàn lần. Lại tụng minh phi tám lần. Thầy điều ḥa màu sắc xong, từ Định khởi, nhiễu quanh [mạn-đồ-la] xong, vào bên trong ấy, nghĩ tới các đệ tử. “Đại từ bi lực” chính là thầy tự làm kim cang, chữ và ấn, [nghĩa là] thầy từ Định khởi, nhiễu quanh Mạn-đồ-la, phát tâm đại từ, liền dùng sức đại từ bi ấy để gia tŕ đệ tử.

 

          (Kinh) A-xà-lê phục dĩ Yết Ma Kim Cang Tát Đỏa gia tŕ tự thân, dĩ Phạ tự môn cập Thí Nguyện Kim Cang dĩ, đương họa Đại Bi Tạng Sanh Đại Mạn-đồ-la. Bỉ an tường tại ư nội tâm, nhi tạo Đại Nhật Thế Tôn, tọa bạch liên hoa, thủ đới phát kế, bát trá vi quần, thượng bị tiêu hộc. Thân tướng kim sắc, châu thân diễm man, hoặc dĩ Như Lai đảnh ấn, hoặc dĩ tự cú, vị A tự môn. Đông phương nhất thiết chư Phật, dĩ A tự môn cập Đại Không điểm. Y Xá Nê phương, nhất thiết Như Lai Mẫu Hư Không Nhăn, ưng thư Già tự. Hỏa thiên phương nhất thiết chư Bồ Tát, họa Chân Đà Ma Ni bảo, hoặc trí Ca tự. Dạ Xoa phương Quán Thế Tự Tại, liên hoa ấn, tịnh họa Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát quyến thuộc, hoặc tác Sa tự. Diễm Ma phương, việt tam phần vị, trí Kim Cang Huệ ấn, Tŕ Kim Cang Bí Mật Chủ tịnh quyến thuộc, hoặc thư Phạ tự. Bỉ phục khí tam phần vị, họa Nhất Thiết Chư Chấp Kim Cang ấn, hoặc thư tự cú, sở vị Hồng tự.

          ()阿闍梨復以羯磨金剛薩埵加持自身以嚩字門及施願金剛已當畫大悲藏生大漫荼羅彼安祥在於內心而造大日世坐白蓮華首戴髮髻鉢吒為裙上被綃縠身相金色周身焰鬘或以如來頂印或以字句謂阿字門東方一切諸佛以阿字門及大空點伊舍尼方一切如來母虛空眼應書伽字火天方一切諸菩薩畫真陀摩尼寶或置迦字夜叉方觀世自在蓮華印并畫一生補處菩薩眷屬或作娑字焰摩方越三分位置金剛慧印持金剛祕密主并眷屬或書嚩字彼復棄三分位畫一切諸執金剛印或書字句所謂

          (Kinh: A-xà-lê lại dùng Yết Ma Kim Cang Tát Đỏa để gia tŕ bản thân, dùng môn chữ Phạ và Thí Nguyện Kim Cang xong, hăy nên vẽ Đại Bi Tạng Sanh Đại Mạn-đồ-la. Ở chính giữa đàn, A-xà-lê an tường tạo h́nh Đại Nhật Thế Tôn, ngồi trên hoa sen trắng, tóc búi trên đầu, bát-trá (Paṭa, lụa cực mịn) làm xiêm, phía trên khoác lụa là, thân tướng sắc vàng, quanh thân có tràng [quang minh] h́nh ngọn lửa. Hoặc [nếu không vẽ h́nh Ngài] th́ dùng Như Lai đảnh ấn [để thay thế], hoặc dùng câu chữ, tức là môn chữ A. Hết thảy chư Phật ở phương Đông, dùng môn chữ A và chấm Đại Không. Nơi phương Y Xá Nê (Đông Bắc), đặt Nhất Thiết Như Lai Mẫu Hư Không Nhăn (Gaganalocanā), hăy nên viết chữ Già. Đối với hết thảy các vị Bồ Tát ở phương Hỏa Thiên (phương Đông Nam), vẽ báu Chân Đà Ma Ni (Cintāmaṇi), hoặc đặt chữ Ca. Quán Thế Tự Tại Bồ Tát ở phương Dạ Xoa (Bắc), vẽ ấn hoa sen, và vẽ các vị Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát làm quyến thuộc, hoặc vẽ chữ Sa. Nơi phương Diễm Ma (Nam), bỏ qua ba phần vị, đặt Kim Cang Huệ ấn, Tŕ Kim Cang Bí Mật Chủ và quyến thuộc, hoặc viết chữ Phạ. Vị ấy lại bỏ qua ba phần vị, vẽ Nhất Thiết Chư Chấp Kim Cang ấn, hoặc viết câu chữ, tức là chữ Hồng).

 

          A-xà-lê thực hiện Thành Sự Kim Cang Tát Đỏa (tức là Yết Ma Kim Cang Tát Đỏa) để gia tŕ. “Chữ Phạ, thí nguyện kim cang” v.v… là nói vị A-xà-lê ấy do được Như Lai gia tŕ và do chữ A, nên [bản thân vị ấy] chính là Tỳ Lô Giá Na Như Lai. [Nói đến] chữ Phạ và Thí Nguyện Cát Tường Kim Cang là nói đến Văn Thù. Kế đó, chủng tử là chữ Ma, tức là cái chấm Đại Không (), thêm chữ Phạ (, Va) vào đó, thành chữ Văm (वं). Lại dùng chữ Phạ để gia tŕ làm thân Kim Cang Tát Đỏa ḥng vẽ các h́nh tượng. Trong khi làm, hăy tưởng [thân Bồ Tát] giống như thân chính ḿnh như trong phần trên đă nói. Lại tụng chữ Phạ này một trăm lần, hoặc một ngàn lần.

          Vẽ Đại Bi Tạng Sanh Mạn-đồ-la, “an tường trong Mạn-đồ-la”: Thầy tự gia tŕ như thế xong, an tường đứng lên vào trong Trung Đài, thong thả sắp xếp các màu để vẽ h́nh tượng đức Tỳ Lô Giá Na. H́nh tượng ấy ngồi trên ṭa hoa sen trắng, dùng tóc kết thành măo, không kèm thêm trang sức, dùng lụa cực mịn làm xiêm[8], lại dùng lượt là cực mịn và sa nhẹ để làm áo phía trên, khiến cho sắc tướng có màu thịt bên trong hiện bóng ra ngoài. Thân Ngài có màu vàng Diêm Phù Đàn, màu vàng cực đậm tươi tắn. Quanh thân đức Phật đều sanh ra ánh sáng như ngọn lửa, kết thành tràng bao quanh khắp thân chẳng gián đoạn. Sở dĩ cần phải tạo h́nh tượng vị Phật này trong Mạn-đồ-la là v́ muốn cho các đệ tử mau sanh nguyện thù thắng, và do sức gia tŕ, sẽ thành tựu viên măn thân Nhất Thiết Trí. V́ thế, cần phải tạo lập [h́nh tượng Ngài] trước hết.

          Lại nữa, tạo đàn có pháp thượng, trung và hạ. Nếu đệ tử tài lực dư dật, kham có thể rộng thực hiện, thầy sẽ làm đàn có vẽ h́nh tượng, ḥng chỉ bày h́nh tướng thân và ấn của Bổn Tôn. Nếu sức làm nổi, mà làm tự đàn (Mạn-đồ-la không vẽ h́nh Bổn Tôn, chỉ vẽ chủng tử tương ứng ở mỗi phương vị), tức là phạm tội ẩn tàng bí pháp. Nếu quán thấy tâm đệ tử tột bậc ân cần, trân trọng, cho đến chẳng tiếc thân mạng c̣n có thể xả thân để có thể phụng sự thầy, huống hồ có điều keo tiếc ư? Nhưng khi tài lực chẳng lo nổi, cho phép làm Tự Mạn-đồ-la, tức là ở nơi đáng lẽ đặt h́nh tượng Phật th́ chỉ vẽ chữ A. Đấy chính là cái Thể của Như Lai. Đặt chữ A xong, ở ngoi viện của Trung Đài, đối diện thẳng với phía Đông, vẽ chữ A thêm chấm Đại Không (tức chữ Aṃ, अं). Lại ở phương Đông Bắc, tức phương Tự Tại Thiên (Y Xá Na) đặt chữ Già (, Ga). Chữ Già ấy chính là Hư Không Nhăn (Gagana-Locanī), tức là mẹ của hết thảy Phật và Bồ Tát. Kế đến, ở phương Hỏa (phương Đông Nam), đặt ấn Chân Đà Ma Ni (Cintāmaṇi, Như Ư Bảo Châu) của hết thảy Phật, Bồ Tát, hoặc viết chữ (chữ Ka, ). [Vẽ hai vị tôn thánh ở] phương Bắc là Quán Tự Tại và Di Lặc, các vị Nhất Sanh Bổ Xứ trong Hiền Kiếp làm quyến thuộc, hoặc đặt chữ Sa (). Phía Nam th́ đặt các vị như Kim Cang Thủ v.v… Hoặc vẽ h́nh tượng, hoặc vẽ ấn (tức là bạt-chiết-la (chày kim cang) ba nhánh), hoặc vẽ chữ Phạ (Va, ). Lại nữa, chữ đặt trong đàn ở đây có phương vị khác với đàn tràng trong phần trước, hăy tra duyệt. Lại nữa có ba phần vị bỏ qua, tức là có ba chỗ không vẽ các ấn hoặc chữ chủng tử của hết thảy các vị Chấp Kim Cang, cũng như trong phần trước đă giải thích. Nếu chữ và ấn của [các vị tôn thánh mà trong chánh kinh chẳng nói rơ] khác nhau th́ vẽ chữ Hồng.

 

          (Kinh) Thứ Niết Rị Để phương, ư Đại Nhật Như Lai hạ, tác Bất Động Tôn, tọa ư thạch thượng, thủ tŕ quyến sách, huệ đao, châu táp diễm man, nghĩ tác chướng giả, hoặc trí bỉ ấn, hoặc thư tự cú, sở vị Hám tự. Phong Thiên phương, Hàng Tam Thế Tôn, tồi đại chướng giả, thượng hữu quang diễm, đại thế oai nộ do như Diễm Ma. Kỳ h́nh hắc sắc, ư khả bố trung, cực linh bố úy, thủ chuyển kim cang, hoặc tác bỉ ấn, hoặc thư tự cú, sở vị Ha tự.

          ()次涅哩底方於大日如來下作不動尊坐於石上手持羂索慧刀周匝焰鬘擬作障者或置彼印或書字句所謂唅字風天方降三世尊摧大障者上有光焰大勢威怒猶如焰摩其形黑色於可怖中極令怖畏手轉金剛或作彼印或書字句所謂訶

          (Kinh: Kế đó, ở phương Niết Rị Để, phía dưới Đại Nhật Như Lai, vẽ ngài Bất Động ngồi trên tảng đá, tay cầm dây trói và huệ đao, chung quanh có các ngọn lửa kết thành tràng, hàng phục kẻ gây chướng. Hoặc đặt ấn của Ngài, hoặc viết câu chữ, tức là chữ Hám. Ở phương Phong Thiên (Tây Bắc), vẽ ngài Hàng Tam Thế Tôn là bậc dẹp trừ chướng ngại to lớn, phía trên có quang minh như ngọn lửa, thế lực to lớn, oai mănh, phẫn nộ như vua Diễm Ma. Thân h́nh Ngài màu đen, vẽ sao cho tột bậc đáng sợ trong các sự sợ hăi, tay Ngài xoay chày kim cang, hoặc vẽ ấn của Ngài, hoặc viết câu chữ, tức là chữ Ha).

 

          Kế đó, ở phương La Sát (Niết Rị Để là một vị chúa tể của loài La Sát, tức phương Tây Nam), phía dưới đức Tỳ Lô Giá Na, vẽ ngài Bất Động (Acalanātha) ngồi trên tảng đá, tay cầm đao và dây trói. Toàn thân Ngài được bao bọc trong tràng ngọn lửa, hàng phục hết thảy những kẻ gây chướng. Hoặc chỉ vẽ ấn của Ngài (“ấn” là nói tới đao và dây trói), hoặc chỉ vẽ chữ Hám (हां, Hāṃ). Kế đó, ở phương Phong (Tây Bắc), vẽ ngài Hàng Tam Thế chiến thắng, trừ diệt hết thảy kẻ gây chướng ngại. Đầu Ngài có quang minh chói rực, hiện vẻ đại phẫn nộ giống như h́nh dạng Diêm Ma La (Diêm Vương), màu đen, tột bậc khủng bố trong các dáng vẻ khủng bố đáng sợ. Hăy nên vẽ h́nh dạng Ngài tột bậc đáng sợ. Tay Ngài xoay bạt-chiết-la (tức là chày kim cang ba nhánh; đó là Định), hoặc chỉ vẽ chữ để biểu thị (tức là chữ Hā, हा).

 

          (Kinh) Thứ ư tứ phương, họa tứ đại hộ. Đế Thích phương, danh Vô Úy Kết Hộ Giả, kim sắc, bạch y, diện hiện thiểu phẫn nộ tướng, thủ tŕ Đàn Đồ, hoặc tác bỉ ấn, hoặc trí tự cú, sở vị tác Phạ tự. Dạ Xoa phương, danh Hoại Chư Bố Kết Hộ Giả, bạch sắc, tố y, thủ tŕ Khiết-già, tịnh bố quang diễm, năng hoại chư bố. Hoặc họa bỉ ấn, hoặc trí tự cú, sở vị Phạ tự. Long phương, danh Nan Hàng Phục Kết Hộ Giả, diệc như Vô Ưu hoa sắc, bị châu y, diện tượng vi tiếu, tại quang diễm trung, nhi quán nhất thiết chúng hội, hoặc trí bỉ ấn, hoặc trí tự cú, sở vị Sách tự. Diễm Ma phương, danh Kim Cang Vô Thắng Kết Hộ Giả, hắc sắc, huyền y, tỳ câu chi h́nh, mi gian lăng văn, thượng đới phát quan, tự thân oai quang chiếu chúng sanh giới, thủ tŕ Đàn Đồ, năng hoại đại vi chướng giả, hoặc tác bỉ ấn, hoặc trí tự cú, sở vị Cật-sấm tự, cập nhất thiết quyến thuộc, sứ giả, giai tọa bạch liên hoa thượng.

          ()次於四方畫四大護帝釋方名無畏結護者金色白衣面現少忿怒相手持檀荼或作彼印或置字句所謂作嚩字夜叉方名壞諸怖結護者白色素衣手持朅伽并布光焰能壞諸怖或畫彼印或置字句所謂嚩字龍方名難降伏結護者亦如無憂華色被朱衣面像微笑在光焰中而觀一切眾會或置彼印或置字句所謂索字焰摩方名金剛無勝結護者黑色玄衣毘俱胝形眉間浪文上戴髮冠自身威光照眾生界手持檀荼能壞大為障者或作彼印或置字句所謂吃讖字及一切眷屬使者皆坐白蓮華上 

(Kinh: Kế đó, ở bốn phương, vẽ bốn vị đại hộ. Ở phương Đế Thích (phương Đông), tên là Vô Úy Kết Hộ, sắc vàng, áo trắng, vẻ mặt hiện chút tướng phẫn nộ, tay cầm Đàn Đồ (Daṇḍa: Gậy), hoặc vẽ ấn của Ngài, hoặc đặt câu chữ, tức là vẽ chữ Phạ. Ở phương Dạ Xoa (phương Bắc), tên là Hoại Chư Bố Kết Hộ, màu trắng, áo trắng, tay cầm gươm Khiết-già (Khaḍga), và xếp đặt quang minh chói ngời, có thể dẹp tan các sợ hăi. Hoặc vẽ ấn của Ngài, hoặc đặt câu chữ, tức là chữ Phạ. Ở phương Rồng (phương Tây), tên là Nan Hàng Phục Kết Hộ, cũng có màu như hoa Vô Ưu, mặc áo đỏ, vẻ mặt mỉm cười, ở trong quang minh rực lửa, quán hết thảy chúng hội, hoặc đặt ấn của Ngài, hoặc đặt câu chữ, tức là chữ Sách (Saḥ). Ở phương Diễm Ma (phương Nam), tên là Kim Cang Vô Thắng Kết Hộ, màu đen, áo đen, có h́nh dạng nhíu mày, giữa hai mày có vết nhăn như sóng, đầu đội măo che tóc, oai quang nơi thân Ngài chiếu chúng sanh giới, tay cầm Đàn Đồ, hoặc vẽ ấn của Ngài, hoặc đặt câu chữ, tức là chữ Cật-sấm (Kṣaṃ), và hết thảy quyến thuộc, sứ giả của Ngài đều ngồi trên hoa sen trắng).

 

          Kế đó, ở bốn phương, vẽ bốn vị đại kết hộ. Phương Đông, vẽ Vô Úy Kết Hộ (Abhaya), thân kim sắc, áo trắng, mặt hơi giận dữ, tay cầm gậy. Hoặc là chỉ vẽ ấn (chỉ vẽ ấn h́nh gậy), hoặc chỉ đặt chữ (chữ Phạ). Phương Bắc, vẽ Hoại Chư Bố Đại Hộ (Sarvabhayavināśin), màu trắng, tay phải cầm đao, mặc áo trắng, có quang minh như ngọn lửa. Nếu vẽ ấn th́ chỉ vẽ h́nh đao. Nếu vẽ chữ th́ vẽ chữ Phạ. Phương Tây là Nan Hàng Đại Hộ (Durdharṣa), chẳng ai có thể chế phục Ngài được, do vậy đặt tên như thế. Thân Ngài có màu hoa Vô Ưu (như màu hoa Thục Quỳ[9] có màu tía đậm ở phương này), áo Ngài mặc cũng là màu đỏ, nhưng nhạt hơn màu thân. Vẻ mặt mỉm cười, ở trong viên quang. Hăy vẽ Ngài trong dáng vẻ quán sát đại hội chúng, tức là các đại hội ở bốn phương. Ấn th́ chỉ vẽ đao ấn, vẽ chữ th́ là chữ Sách (सः, saḥ). Phía Nam là Kim Cang Vô Thắng Đại Hộ (Vajrāparājita), ví như kim cang chẳng có ai hơn được, nên gọi tên như thế. Lại nữa, Kim Cang là biệt danh của Thiên Đế Thích, nhưng thế lực của vị đại hộ này lại vượt trội ông ta, cho nên có tên như thế. Thân Ngài màu đen, h́nh dạng phẫn nộ, nhíu mày, áo cũng màu đen, nhưng hơi nhạt hơn màu thân và diện mạo. Trên đầu chỉ có búi tóc, thân Ngài có quang minh như lửa rực, tay cầm gậy. Nếu chỉ vẽ ấn th́ cũng chỉ vẽ h́nh gậy đó. Chữ th́ dùng chữ Sám (क्षं, kṣaṃ)[10]. Bốn vị đại hộ trên đây đều nên vẽ cùng quyến thuộc. Quyến thuộc tức là sứ giả, đều ngồi trên hoa sen trắng. Người tŕ chân ngôn hăy nên xếp đặt như thế.

 

          (Kinh) Chân Ngôn giả như thị phu trí dĩ, thứ đương xuất ngoại, ư đệ nhị phần, họa Thích Ca Chủng Mâu Ni Vương, bị ca-sa y, tam thập nhị đạo sư tướng, vị thuyết tối thắng giáo, thí nhất thiết chúng sanh vô úy cố, hoặc ca-sa bát ấn, hoặc dĩ tự cú, sở vị Bà tự. Thứ ư ngoại Mạn-đồ-la, dĩ pháp giới tánh gia tŕ tự thân, phát Bồ Đề tâm, bỉ xả tam phần vị, đương tam tác lễ, tâm niệm Đại Nhật Thế Tôn, như tiền điều sắc. Ư đệ tam phần, Đế Thích phương, tác Thí Nguyện Kim Cang đồng tử h́nh, tam-muội thủ tŕ thanh liên hoa, thượng trí kim cang huệ chử, dĩ chư anh lạc, nhi tự trang nghiêm, thượng diệu tiêu hộc vi quần, cực khinh tế giả dụng vi thượng phục, thân uất kim sắc, đảnh hữu ngũ kế, hoặc trí mật ấn, hoặc trí tự cú. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Văm”.

          ()真言者如是敷置已次當出外於第二分畫釋迦種牟尼王被袈裟衣三十二導師相說最勝施一切眾生無畏故或袈裟鉢印或以字句所謂婆字次於外漫荼羅以法界性加持自身發菩提心彼捨三分位當三作禮心念大日世尊如前調色於第三分帝釋方作施願金剛童子形三昧手持青蓮華上置金剛慧杵以諸瓔珞而自莊嚴上妙綃縠為裙極輕細者用為上服身欝金色頂有五髻或置密印或置字句真言曰:南麼三曼多勃馱喃

    (Kinh: Người tŕ Chân Ngôn xếp đặt như thế xong, kế đó, ra bên ngoài, trong phần thứ hai, vẽ đấng Mâu Ni Vương thuộc ḍng họ Thích Ca. Ngài mặc y ca-sa, ba mươi hai tướng đạo sư, v́ hết thảy chúng sanh nói giáo pháp tối thắng, ban vô úy. Hoặc vẽ ca-sa, hoặc bát ấn, hoặc dùng câu chữ, tức là chữ Bà (bhaḥ). Kế đó, ở phía ngoài Mạn-đồ-la, dùng pháp giới tánh gia tŕ tự thân, phát Bồ Đề tâm, bỏ qua ba phần vị, hăy làm lễ ba lượt, tâm niệm Đại Nhật Thế Tôn, điều ḥa màu sắc như trên. Trong phần thứ ba, nơi phương Đế Thích (phương Đông), vẽ h́nh Thí Nguyện Kim Cang (Varadavajra) đồng tử, tay tam-muội (tay trái) cầm hoa sen xanh, trên đó đặt chày kim cang huệ, dùng các chuỗi anh lạc để tự trang nghiêm, the lượt thượng diệu làm xiêm, chất vải cực nhẹ mịn dùng làm áo trên, thân màu uất kim, đỉnh đầu có năm búi tóc, hoặc đặt mật ấn, hoặc đặt câu chữ. Chân ngôn là: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Văm - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, maṃ”).

 

          Kế đó, ra ngoài, đến viện thứ ba, vẽ đấng Mâu Ni Vương thuộc ḍng họ Thích Ca, mặc y ca-sa, trọn đủ ba mươi hai tướng, là đấng Thí Vô Úy của hết thảy chúng sanh (dùng giáo pháp lợi ích hết thảy, khiến cho họ đều đạt được vô úy). Ấn của Ngài th́ hăy nên vẽ bát, hoặc y ca-sa v.v… (Nói “vân vân” tức là những thứ như tích trượng). Nếu chỉ vẽ chữ th́ dùng chữ Bà (भः, Bhaḥ). Đấy là tối thắng, tức là nghĩa bí mật thắng thượng. Kế đó, ở ngoài Mạn-đồ-la, pháp giới tự tánh gia tŕ Bồ Đề tâm “phát thú”, thực hiện Pháp Giới Tự Tánh Quán. “Pháp giới” chính là thân Như Lai, quán tự thân giống như thân pháp giới của hết thảy chư Phật. Dùng đó để gia tŕ cái tâm, ḥng trụ trong Bồ Đề tâm (“phát thú” (發趣) nghĩa là hướng đến, đạt tới, tu hành, phải t́m hiểu kỹ đoạn này). Nói “bỉ tam phần vị xả, tam tác lễ Phật Tỳ Lô Giá Na, tầm niệm, như tiền điều sắc” (bỏ qua ba phần vị, lễ Phật Tỳ Lô Giá Na ba lượt, suy nghĩ như trong phần nói về màu sắc trên đây), ư nói: Xếp đặt Phật Thích Ca xong; kế đó, nên ở viện thứ hai, lễ Tỳ Lô Giá Na Phật, đúng như phần phương tiện đă nói trong đoạn dạy về màu sắc trước đó mà vẽ vời. Ở phương Đông, vẽ Thí Nguyện Kim Cang (Varadavajra-kumāra), có h́nh dạng đồng tử (đây chính là biệt danh của ngài Văn Thù Sư Lợi), tay trái cầm hoa sen xanh, trên hoa đặt chày kim cang. Ngài dùng hết thảy các chuỗi anh lạc để trang nghiêm thân thể, dùng lụa thượng diệu là xiêm, the lượt cực vi tế làm áo ngoài. Lại vẽ sao cho cái xiêm vi tế ở phía dưới hiện bóng thân sắc. Thân Ngài màu vàng uất kim, trên đầu có năm búi tóc. Ấn của Ngài chỉ vẽ hoa sen xanh, trên hoa đặt chày kim cang. Nếu vẽ chữ th́ là chữ Văm.

 

          (Kinh) Ư kỳ hữu biên, Quang Vơng đồng tử, nhất thiết thân phần, giai tất viên măn, tam-muội thủ chấp tŕ bảo vơng, huệ thủ tŕ câu; hoặc trí bỉ ấn. Hoặc thư tự cú, sở vị Nhiễm tự. Y Diễm Ma phương, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát, kim sắc phát quan, tŕ Như Ư bảo, hoặc họa bỉ ấn, hoặc trí tự cú, sở vị Á tự. Dạ Xoa phương, Địa Tạng Bồ Tát sắc như Bát-dựng-ngộ hoa, thủ tŕ liên hoa, dĩ chư anh lạc trang nghiêm, hoặc trí bỉ ấn, hoặc trí tự cú, sở vị Y tự. Long phương, Hư Không Tạng, bạch sắc, bạch y, thân hữu quang diễm, dĩ chư anh lạc trang nghiêm, thủ tŕ Khiết-già, hoặc trí bỉ ấn, hoặc trí tự cú, sở vị Y tự.

          ()於其右邊光網童子一切身分皆悉圓滿三昧手執持寶網慧手持鉤或置彼印或書字句所謂染字依焰摩方除一切蓋障菩薩金色髮冠持如意寶或畫彼印或置字句所謂噁字夜叉方地藏菩薩色如鉢孕遇華手持蓮華以諸瓔珞莊嚴或置彼印或置字句所謂伊字龍方虛空藏白色白衣身有光焰以諸瓔珞莊嚴手持朅伽或置彼印或置字句所謂伊字

          (Kinh: Ở bên phải của Ngài (Văn Thù Bồ Tát) là Quang Vơng đồng tử, hết thảy các thân phần thảy đều viên măn, tay tam-muội (tay trái) cầm nắm lưới báu, tay huệ (tay phải) cầm móc câu. Hoặc đặt ấn của Ngài, hoặc viết câu chữ, tức chữ Nhiễm (जां, Jāṃ). Nương vào phương Diễm Ma (phương Nam), Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát, măo che tóc sắc vàng, cầm báu Như Ư, hoặc vẽ ấn ấy, hoặc đặt câu chữ, tức là chữ Á (आः Āḥ). Ở phương Dạ Xoa (phía Bắc), Địa Tạng Bồ Tát có màu như hoa Bát-dựng-ngộ (Priyaṅgu), tay cầm hoa sen, dùng các chuỗi anh lạc để trang nghiêm, hoặc đặt ấn của Ngài, hoặc đặt câu chữ, tức là chữ Y (, I). Ở phương Rồng (phương Tây) là ngài Hư Không Tạng, sắc trắng, áo trắng, thân có quang minh chói rực như lửa, dùng các thứ anh lạc để trang nghiêm, tay cầm gươm Khiết-già (Khaḍga), hoặc đặt ấn của Ngài, hoặc đặt câu chữ, tức là chữ Y (, Ī).

 

          Ở bên phải của đức Văn Thù (phương Bắc), đặt Vơng Quang Bồ Tát (Jālinīprabha), hết thảy các thân phần viên măn, tay trái cầm lưới báu, tay phải cầm móc câu. Nếu chỉ vẽ ấn th́ hoặc là vẽ ấn (tức lưới báu), hoặc móc câu. Chữ chủng tử là chữ Nhiễm (chỉ đặt ấn này thôi cũng được).

          Ở phía Nam, vẽ Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát (Sarvanīvaraṇa-viṣkambhin), măo che tóc kim sắc (không nói tới chuỗi anh lạc), tay trái cầm châu Chân Đà Ma Ni (Như Ư Bảo Châu) ở trên hoa sen. Nếu chỉ vẽ ấn, th́ vẽ trên hoa sen có châu Ma Ni. Hoặc chỉ vẽ chữ, th́ dùng chữ Á.

          Ở phương Bắc, vẽ Địa Tạng Bồ Tát (Kṣitigarbha), sắc như màu hoa Bát-dựng-cù[11] (tức hoa Bát-dựng-ngộ). Loại hoa này mọc ở phương Tây, giống như màu hạt kê ở phương này, búp hoa cũng giống như gié lúa rất thơm. Vị Bồ Tát này tay cầm hoa sen, dùng các chuỗi anh lạc để trang nghiêm thân thể. Nếu vẽ chữ, hăy vẽ chữ Y.

          Phương Tây là Hư Không Tạng Bồ Tát (Ākāśagarbha), cũng dùng các chuỗi anh lạc để trang nghiêm thân ḿnh, thân màu trắng, mặc áo trắng (áo trắng in sắc thịt hồng nơi thân người, hơi khác chút ít với màu thân). Thân Ngài có quang minh như lửa rực, cầm đao to. Vẽ ấn của Ngài th́ chỉ vẽ đao lớn. Nếu chỉ vẽ chữ, hăy vẽ chữ Y âm dài. Nhưng trong đàn này, các tọa vị c̣n thiếu khá nhiều! Nói “đă tạo” th́ cũng là phần trước và phần sau làm rơ nghĩa cho lẫn nhau.

 

          (Kinh) Chân Ngôn giả yến tọa, an trụ ư pháp giới, ngă tức pháp giới tánh, nhi trụ Bồ Đề tâm, hướng ư Đế Thích phương, kết kim cang huệ ấn.      

          ()真言者宴坐,安住於法界,我即法界性,而住菩提心。向於帝釋方,結金剛慧印。

          (Kinh: Bậc Chân Ngôn ngồi yên, an trụ trong pháp giới, ta là pháp giới tánh, trụ trong Bồ Đề tâm, hướng tới phương Đế Thích (phương Đông), kết kim cang huệ ấn).

 

          Khi tạo xong, trước tiên, A-xà-lê ngồi ở ngoài cửa, trụ trong pháp giới kiêm Bồ Đề tâm. Phạm bổn nói: “Kế đó, người tŕ tụng trụ trong pháp giới, ta chính là pháp giới tánh. Trụ Bồ Đề tâm, Bồ Đề tâm ấy chính là pháp giới tánh”. Hướng về phương Đông mà kết kim cang ấn (cửa đàn mở về hướng Tây, cho nên thầy hướng mặt về Đông).

 

          (Kinh) Thứ tác kim cang sự, ân cần tu cúng dường, hiện chư Phật cứu thế, tam-muội-da ấn đẳng. Niệm nhất thiết phương sở, tam chuyển tŕ chân ngôn.

      ()次作金剛事,慇懃修供養。現諸佛救世,三昧耶印等,念一切方所,三轉持真言。

          (Kinh: Kế, tác sự kim cang, ân cần tu cúng dường, hiện chư Phật cứu thế, các ấn tam-muội-da. Niệm hết thảy phương sở, ba lượt tŕ chân ngôn).

 

          Tạo đàn xong, nên ngồi hướng về phương Đông của đàn, tưởng giống như Phật. Phật chính là cái Thể của pháp giới. Đă giống như chư Phật, sau đó làm sự nghiệp độ người. “Tác sự kim cang” tức là Chư Sự Kim Cang, chính là ấn bạt-chiết-la (chày kim cang) ba nhánh. Hễ nói “tác kim cang”[12] th́ chữ và thân ấn đều thực hiện, “tác Phật” (quán tưởng Phật) cũng thế. Sợ rườm rà, nên chẳng nói cặn kẽ từng môn. Kế đó, ân cần cúng dường, lại răn hành nhân hăy nên cẩn thận mà làm, đừng quên mất thứ tự. Bản tiếng Phạn nói: “Hăy nên kết kim cang ấn, kế đó làm kim cang sự nghiệp, ân cần mà cúng dường”. Hiện tam-muội-da của hết thảy chư Phật là các đấng cứu thế. Lại hiện ấn tam-muội-da v.v... Ấn tam-muội-da khá nhiều, cho nên nói là “đẳng”. Cúng dường và “tác Phật” đều làm tam-muội-da, tụng ba lượt. Do khi tác pháp, [thứ tự cúng dường, kết ấn, tán thán, sám hối, hồi hướng v.v…] được sử dụng ở nhiều chỗ nên gọi là “đẳng”. Do làm pháp này, tức là thuận theo việc được thực hiện mà cái tâm có thể trọn khắp hết thảy các phương vị, nơi chốn, nhắc nhở hết thảy Như Lai. Do bổn nguyện của Phật, thảy đều nhắc nhở để các Ngài gia tŕ. Trước là niệm trọn khắp hết thảy các chỗ, tức là trong Mạn-đồ-la, tùy theo từng phía mà vận tâm suy tưởng trọn khắp hết thảy chư tôn. Nếu bậc hành giả tu tập sâu xa, chư tôn trong Mạn-đồ-la sẽ từ trong Tất Địa mà nêu bày tam-muội-da.

 

          (Kinh) Y pháp triệu đệ tử, hướng đàn nhi tác tịnh, thọ bỉ Tam Quy Y, trụ thắng Bồ Đề tâm. Đương vị chư đệ tử, kết Pháp Giới Tánh ấn. Thứ kết Pháp Luân Ấn, nhất tâm đồng bỉ Thể, tăng bạch phú diện môn, nhi khởi bi mẫn tâm. Linh tác bất không thủ, viên măn Bồ Đề cố. Nhĩ ngữ nhi cáo bỉ, vô thượng Chánh Đẳng giới. Thứ đương vị bỉ kết, Chánh Đẳng Tam-muội Ấn, thọ bỉ khai phu hoa, linh phát Bồ Đề ư, tùy kỳ sở chí xứ, nhi giáo ư học nhân. Tác như thị yếu thệ, nhất thiết ưng truyền thọ.

      ()依法召弟子,向壇而作淨,授彼三自歸,住勝菩提心。當為諸弟子,結法界性印,次結法輪印,一心同彼體。繒帛覆面門,而起悲愍心。令作不空手,圓滿菩提故。耳語而告彼,無上正等戒,次當為彼結,正等三昧印。授彼開敷花,令發菩提意,隨其所至處,而教於學人。作如是要誓,一切應傳授。

     (Kinh: Theo pháp, vời đệ tử, vào đàn để tác tịnh. Truyền dạy Tam Quy Y, trụ thắng Bồ Đề tâm. Hăy v́ các đệ tử, kết Pháp Giới Tánh Ấn. Rồi kết Pháp Luân Ấn, nhất tâm cùng một Thể. Dùng lụa màu phủ mặt, mà khởi tâm thương xót, bảo làm tay bất không, do viên măn Bồ Đề. Kề tai mà bảo ban, giới vô thượng Chánh Đẳng. Rồi thầy v́ tṛ kết, ấn Chánh Đẳng Tam-muội, trao cho hoa nở x̣e, dạy phát Bồ Đề ư. Tùy hoa rơi chỗ nào, dạy tṛ học pháp ấy. Phát yếu thệ như thế, hết thảy nên truyền dạy).

 

          Kế đó, thầy ra ngoài gọi đệ tử, hộ tịnh cho họ, [tức là] trước đó, đệ tử ở bên ngoài cửa, gọi họ vào. Theo đúng pháp thỉnh chư tôn, dùng chân ngôn Chư Sự Thành Biện của hai loại sứ giả là được. Nếu là kẻ trí huệ mẫn tiệp nhất, nhất nhất dùng chân ngôn và ấn của từng vị tôn thánh để thỉnh riêng cũng được. Cho họ (các đệ tử) đứng gần cửa, hướng vào đàn. Trước hết, lại nên dạy họ đúng pháp khiết tịnh. Đấy chính là thỉnh tôn thánh vậy. Kế đó, từ kết giới cho đến tống tiễn, đều theo đúng như [các chỉ dạy trong] pháp cúng dường. Chuẩn theo đó mà dùng là được! Đă kết giới, thủ hộ rồi, bèn truyền Tam Quy cho họ. Tam Quy ở đây chính là ấn pháp. Đầu tiên là ấn hộ thân, kế đó là Pháp Luân Ấn để thủ hộ các thân phần. Kế đó có một ấn sẽ được nói trong phần sau. Ấn thứ nhất ấn vào đỉnh đầu, ấn kế đó ấn vào các chi phần, trong phần trước đă nói là “kim cang hữu t́nh”. Do ba ấn ấy, bèn là “trụ trong Bồ Đề tâm”. Khi kết Pháp Giới Luân Ấn, người ấy nên nhất tâm coi đó là tự thể, tức là khi hành giả vận tâm tưởng pháp giới ấy, liền quán tự thân giống như pháp giới. Khi kết ấn, giống như dùng ấn ấy ấn lên tự thể. Đă kết Pháp Giới Tự Tánh Ấn trên đây rồi; kế đó, kết Pháp Luân Ấn. Trước hết, tưởng trong búi tóc của đệ tử có chữ A; sau đấy, dùng Pháp Giới Tánh Ấn để in vào. Dùng ấn đè lên [búi tóc hay đỉnh đầu], tự tụng chân ngôn ba lượt, hoặc bảy lượt. Kế đó, hăy nên dùng khăn lụa che mặt đệ tử. Thầy hăy nên phát tâm đại bi, nghĩ thương xót, khiến cho tṛ vĩnh viễn vượt khỏi sanh tử, mở mang tri kiến Phật. Đệ tử trong khi đó, cũng nên tự phát nguyện thù thắng vô thượng.

          “Bất Không thủ tác Bồ Đề viên măn” (tay Bất Không làm Bồ Đề viên măn), ư nói: Do các đệ tử ấy muốn mau được viên măn Vô Thượng Bồ Đề, hăy tùy theo sức thượng, trung, hạ mà thực hiện, tùy thuộc tất cả những ǵ ḿnh có để cúng dường chư Phật, Bổn Tôn v.v… Hoặc cầm hoa báu v.v… để hiến dâng. Khi ấy, thầy muốn cho đệ tử kết hộ (kết giới hộ thân), kề tai dạy bảo, đó gọi là “khiến cho trụ trong Bồ Đề tâm”, c̣n có cách nói khác. Người đă phát Bồ Đề tâm, nhất tâm chân thành, ngưỡng mộ mà đứng, thầy tự kết ấn, rải lên đỉnh đầu của người ấy. Sau đấy, mới bảo tṛ ném hoa. Ghi nhớ hoa rơi vào chỗ của vị tôn thánh nào. [Kể cả khi hoa rơi] ngay trên thân của Bổn Tôn, lại có thượng, trung, hạ, trái, phải sai khác. Tùy thuộc hoa rơi vào chỗ nào, thầy liền truyền trao cho tṛ chân ngôn và ấn tương ứng [của vị tôn thánh ở nơi đó]. Đệ tử vâng theo pháp giáo, làm tam-muội-da như thế, hết thảy tương ứng [với lời thầy đă dạy].

 

          (Kinh) Cụ đức Tŕ Kim Cang, hựu thỉnh bạch Thế Tôn: “Duy nguyện Nhân Trung Thắng, diễn thuyết quán đảnh pháp”. Nhĩ thời, Bạc Già Phạm, an trụ ư pháp giới, nhi cáo Kim Cang Thủ: - Nhất tâm ưng đế thính, ngă thuyết chư pháp giáo, thắng tự tại nhiếp tŕ. Sư dĩ Như Lai tánh, gia tŕ ư tự thể, hoặc phục dĩ mật ấn. Thứ ưng triệu đệ tử, linh trụ pháp giới tánh, đại liên hoa vương trung. Dĩ tứ đại Bồ Tát, sở gia tŕ bảo b́nh, kết Chi Phần Sanh n, nhi dụng quán kỳ đảnh. Kế trung, ưng thọ dữ, Đại Không Ám tự môn, tâm trí vô sanh cú, hung biểu vô cấu tự, hoặc nhất thiết A tự, phát kế kim sắc quang, trụ bạch liên hoa đài, đẳng đồng ư Nhân Giả.

      ()具德持金剛。又請白世尊:唯願仁中勝,演說灌頂法。爾時薄伽梵,安住於法界,而告金剛手:一心應諦聽,我說諸法教,勝自在攝持。師以如來性,加持於自體,或復以密印,次應召弟子,令住法界性,大蓮華王中。以四大菩薩,所加持寶瓶,結支分生印,而用灌其頂。髻中應授與,大空暗字門,心置無生句,胸表無垢字,或一切阿字,髮髻金色光,住白蓮華臺,等同於仁者。

          (Kinh: Tŕ Kim Cang trọn đức, lại thỉnh bạch Thế Tôn: “Nguyện đấng Nhân Trung Thắng, diễn nói pháp quán đảnh”. Lúc ấy, Bạc Già Phạm, an trụ trong pháp giới, bảo cùng Kim Cang Thủ: - Nhất tâm nên lắng nghe. Ta nói các pháp giáo, nhiếp tŕ thắng tự tại. Thầy dùng Như Lai tánh, để gia tŕ bản thân, hoặc lại dùng mật ấn. Kế đó, gọi đệ tử, bảo trụ pháp giới tánh, trong đại liên hoa vương. Dùng b́nh báu gia tŕ, bởi tứ đại Bồ Tát, kết Chi Phần Sanh Ấn, dùng rưới đỉnh đầu tṛ. Búi tóc, hăy truyền trao, môn chữ Ám Đại Không, câu vô sanh nơi tâm, chữ vô cấu nơi ngực, hoặc hết thảy chữ A, búi tóc kim sắc quang, trụ trong đài sen trắng, bằng với bậc Nhân Giả).

 

          Lúc bấy giờ, ngài Chấp Kim Cang là bậc trọn đủ công đức, lại thưa hỏi đức Phật về pháp quán đảnh, nguyện Phật tự nói, thỉnh Phật tự nói. Khi đó, đức Phật trụ trong pháp giới tánh, bảo ngài Kim Cang Thủ: - Hăy nhất tâm lắng nghe. Ta nói pháp này, khiến cho người tu hành được tự tại trong pháp này. Đó gọi là “khiến cho đạt được giáo pháp thắng thượng”. Ở đây, “tự tại” có nghĩa là “mau chóng đạt được”, lại c̣n là ư nghĩa “tự tại”, có ư nghĩa khác với “nhiều tài vật th́ được gọi là tự tại” như đă nói trong các phần trước. “Ta nói hết thảy các pháp giáo”, đó gọi là “tối thượng tự tại nhiếp”. Nghĩa là tâm có điều nguyện cầu, sẽ đều có thể nhiếp thủ tự tại măn nguyện. Như được tự tại trong một nước, việc làm ắt đều thành. A-xà-lê dùng h́nh tượng tâm ư của Như Lai để gia tŕ, kết ấn của Ngài, tức là tùy theo pháp thượng, trung, hạ mà tác pháp thuộc Như Lai Bộ, Liên Hoa Bộ, hay Kim Cang Bộ v.v… Tùy theo vị chủ của đàn ấy mà dùng h́nh tượng của vị tôn thánh ấy để quán đảnh. [Nói] “dùng bổn h́nh của Như Lai để gia tŕ” tức là A-xà-lê dùng Như Lai tánh để gia tŕ tự thân, Như Lai tánh tức là bản thể. Hoặc dùng ấn của Ngài, tức là dùng ấn để gia tŕ. Tưởng nơi tự thân, dùng chữ A đặt trọn khắp các chi phần. Chữ A ấy chính là thể tánh của pháp giới. Do sự trang nghiêm ấy, liền được giống như thân Phật, [thầy làm như thế xong] mới gọi đệ tử [vào đàn]. Nếu là bậc A-xà-lê đắc định, hoặc đă đạt được sự hiệu nghiệm nơi pháp, việc làm sẽ tùy ư thành tựu. Nếu chẳng thể như thế, hăy nên dùng ấn và quán tưởng để làm.

          Kế đó, thầy dẫn đệ tử hướng về Đại Hoa Vương Mạn-đồ-la (tức là ở ngoài đàn, ở chỗ trước đó đă làm đàn quán đảnh). “Dùng bốn báu làm cái b́nh lớn được bậc đại Bồ Tát gia tŕ” tức là cái b́nh được gia tŕ bởi bốn vị đại Bồ Tát thuộc Trung Đài (Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc), dùng Bồ Tát bảo để trang nghiêm. Kế đó, hăy nên kết Sanh Nhất Thiết Chi Phần Ấn (Aṅgodbhava), xối [nước từ b́nh báu ấy] lên đỉnh đầu đệ tử. Phàm khi quán đảnh bèn kết ấn này; kết xong, dùng b́nh để xối. Nếu chẳng dùng ấn này, tức là pháp thức chẳng đầy đủ, khiến cho đệ tử chẳng thể trụ Bồ Đề tâm, ắt sẽ có thoái chuyển, chẳng khác nào rảy nước thơm suông! Lại nữa, trước khi quán đảnh, nơi chỗ các mí xương giáp thành h́nh chữ thập trên đỉnh đầu đệ tử, hăy tưởng chữ Ám. Nơi tim, tận lực tưởng chữ A, lại tưởng chữ A ở trên ngực, cũng có thể chỉ tưởng chữ A trọn khắp hết thảy mọi nơi. “Măo che tóc sắc vàng, ngồi trên hoa sen trắng” tức là tưởng hoa sen trắng nở x̣e viên măn trong tâm đệ tử, Tỳ Lô Giá Na Như Lai ngồi trên ṭa ấy rồi mới quán đảnh. Kinh nói “nhân giả” tức là Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Nếu dùng pháp này để quán đảnh, tức là giống như mười phương chư Phật dùng pháp thủy để rưới, trao truyền ngôi vị pháp vương vậy. Nếu chẳng phải như vậy, chỉ xối nước suông mà thôi, sẽ chẳng có tác dụng ǵ!

 

9. Phẩm thứ chín: Mật Ấn (Mật ấn phẩm đệ cửu, 密印品第九)

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na quán sát chư đại chúng hội, cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: “Bí Mật Chủ! Hữu đồng Như Lai trang nghiêm cụ, đồng pháp giới thú tiêu xí, Bồ Tát do thị nghiêm thân cố, xử sanh tử trung, tuần lịch chư thú, ư nhất thiết Như Lai đại hội, dĩ thử đại Bồ Đề tràng nhi tiêu xí chi. Chư thiên, long, Dạ Xoa, Càn Đạt Bà, A Tô La, Yết Rô Đồ, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng, kính nhi nhiễu chi, thọ giáo nhi hành. Nhữ kim đế thính, cực thiện tư niệm, ngô đương diễn thuyết”. Như thị thuyết dĩ, Kim Cang Thủ bạch ngôn: “Thế Tôn! Kim chánh thị thời, Thế Tôn! Kim chánh thị thời”.

          ()爾時薄伽梵毘盧遮那觀察諸大眾會告執金剛祕密主言祕密主有同如來莊嚴具同法界趣幖幟菩薩由是嚴身故處生死中巡歷諸趣於一切如來大會以此大菩提幢而幖幟之諸天夜叉乾達婆阿蘇囉揭嚕荼緊那囉摩睺羅伽人非人等敬而遶之受教而行汝今諦聽極善思念吾當演如是金剛手白言:「世尊今正是時世尊今正是時

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na quán sát các đại chúng hội, bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: “Bí Mật Chủ! Có một ấn giống như vật trang nghiêm của Như Lai, có cùng biểu trưng với các đường trong pháp giới. Bồ Tát dùng ấn đó để trang nghiêm thân, ở trong sanh tử, trải khắp các đường, ở trong các đại hội của hết thảy Như Lai, dùng đại Bồ Đề tràng này để làm vật tiêu biểu. Các trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Đạt Bà (Càn Thát Bà), A Tô La (A Tu La), Yết Rô Đồ (Ca Lâu La), Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… kính trọng, nhiễu quanh, vâng theo lời dạy mà hành. Ông nay hăy lắng nghe, cực khéo suy nghĩ, ta sẽ diễn nói”. Nói như thế xong, ngài Kim Cang Thủ bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay chính là phải lúc. Bạch Thế Tôn! Nay chính là đúng lúc”).

 

          Đức Phật đă nói đại lược nghi thức và pháp tắc quán đảnh, Ngài lại c̣n có điều muốn nói, bèn quán sát đại hội nhiều như số vi trần trong mười cơi Phật, chẳng phải là không có nhân duyên, tức là Ngài sẽ nói về các ấn nơi thân mật của Như Lai. Kế đó, Ngài liền bảo Kim Cang Thủ, có ấn tên là “Như Lai trang nghiêm cụ đồng, pháp giới thú tiêu xí đồng” (giống như vật trang nghiêm của Như Lai, giống như vật biểu trưng của các đường trong pháp giới), ư nói: Hết thảy chư Phật do dùng ấn ấy để trang nghiêm được thành tựu thân pháp giới của Như Lai. Nếu có chúng sanh hành pháp này, do được ấn ấy gia tŕ, cũng sẽ giống như thân pháp giới của Như Lai. Ấn ấy chính là vật tiêu biểu cho pháp giới. Dùng ấn ấy để nêu bày cái Thể của pháp giới, bèn gọi nó là “pháp giới tràng”. Chư Phật dùng nó để trang nghiêm thân. Trong hết thảy các đại hội, hễ kiến lập vật biểu trưng cho Vô Thượng Đại Bồ Đề này, sẽ có thể khiến cho kẻ ác tà kiến trong tám bộ đại chúng lánh xa, người có căn tánh tốt lành sẽ thân cận, tu hành đúng theo lời dạy. Các vị hăy nên lắng nghe, khéo suy nghĩ tột bậc, ta nay sẽ tuyên nói.

          “Thế Tôn! Kim chánh thị thời. Thế Tôn! Kim chánh thị thời” (Bạch Thế Tôn! Nay là đúng lúc. Bạch Thế Tôn! Nay là phải lúc): Nhắc lại hai lần đều có ư nghĩa. Thời điểm nói lần thứ nhất là Ca La thời, hàm ư: Trong đại chúng này chẳng có cành lá, thuần là chân thật, kham tiếp nhận đại pháp, Như Lai ứng cơ mà nói, nay chính là đúng lúc. Kế đó là Tam-ma-da thời, tức là “thời” trong thời phần, nay chính là đúng dịp để thuyết pháp vậy.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Bạc Già Phạm tức tiện trụ ư Thân Vô Hại Lực tam-muội, trụ tư Định cố, thuyết Nhất Thiết Như Lai Nhập Tam-muội-da Biến Nhất Thiết Vô Năng Chướng Ngại Lực Vô Đẳng Tam-muội Lực Minh Phi viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a tam mê, đát rị tam mê, tam ma duệ, sa ha.

          ()爾時薄伽梵即便住於身無害力三昧住斯定故說一切如來入三昧耶遍一切無能障礙力無等三昧力明妃曰南麼三曼多勃馱喃阿三迷三迷三麼曳莎訶

    (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm liền trụ trong Thân Vô Hại Lực tam-muội. Do trụ trong Định ấy, nói Nhất Thiết Như Lai Nhập Tam-muội-da Biến Nhất Thiết Vô Năng Chướng Ngại Lực Vô Đẳng Tam-muội Lực Minh Phi rằng:Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a tam mê, đát rị tam mê, tam ma duệ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, asame trisame samaye svāhā”).

 

          V́ măn nguyện ấy, đức Phật lại nhập tam-muội. Đấy chính là sức tự tại nơi vô lượng thân của Như Lai, cho nên không ai có thể hại được! Trụ trong tam-muội này mà nói chân ngôn Tam Minh. Minh ấy có tên là sức Vô Ngại Vô Hại Vô Đẳng. Do tam-muội-da ấy, các người học được nghe, được nhập chánh pháp. Nếu chẳng hành pháp này, sẽ chẳng thích hợp nhập đàn, cũng chẳng thích hợp nghe bí giáo. Nếu tu Minh này, sẽ có thể đạt được thân tịnh, ngữ tịnh, sở nguyện được thỏa măn, trọn đủ ba thân. V́ thế, gọi là Tam Minh. Tam Lực tức là tam thế lực (sức trong ba đời), hoặc là tam b́nh đẳng lực. “Vô đẳng lực” chính là ba sức ấy. Kế đó, nói ra Minh ấy: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm (Namaḥ samantabuddhānāṃ). A sa mê (Asame, vô đẳng), đát-rị tam mê (trisame, tam đẳng), tam ma duệ (samaye, tức là tam-muội-da), sa ha (svāhā, cảnh tỉnh, phát khởi)”.

          “A sa mê”: Minh này lấy chữ A làm đầu, tức là giống như Pháp Thân của chư Phật vô tướng, ly tướng. Hăy nên biết Pháp Thân ấy chẳng thể sánh bằng. Tam-mê tức là ba thân của Phật, tức Pháp, Báo, Hóa, hợp thành một thân, giáo hóa chúng sanh, cũng là bản thể tương đồng với môn chữ A: Vô tướng, ly tướng! V́ thế nói là Đẳng. Tam-muội-da có nghĩa là “chẳng thể vượt qua”. Đó là “vô đẳng, tam đẳng” mà các đức Như Lai cùng nói. Đức Phật trụ trong tam-muội, nói ra sức vô hại vô đẳng của Minh này. Do Minh này mà có thể nhập tam-muội-da. Tam-muội-da này chính là thệ nguyện, giống như sắc truyền, là thệ nguyện trọng yếu căn bản của tam thế chư Phật. Pháp môn này khó tin, khó nhập, khó thể được nghe, do pháp chẳng thể gặp vậy! V́ đó, tam thế chư Phật cùng nói chân ngôn này. Do tam-muội-da chân ngôn này gia bị, [người học] sẽ được nhập, lắng nghe, tu hành pháp này. Giống như lời dạy của bậc tôn quư, chẳng thể trái vượt. Nếu chẳng nghe, tức là chẳng được nhập, mà cũng chẳng được nghe. Sa-ha (Svāhā) có nghĩa là cảnh phát (nhắc nhở), tức là dùng chân ngôn này để nhắc nhở chư Phật. Khi nói Minh này, chư Phật liền được nhắc nhở mà khởi tâm gia tŕ hành nhân. Do sức của Minh này, có thể thỏa măn các địa vị, có thể khiến cho người tu đạt được ba pháp trong hiện tại, tức là thành tựu bao gồm ba pháp, chính là sức của Bổn Tôn, chân ngôn, và ấn. Ba pháp giới ấy liền được thành tựu!

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Như thị Minh Phi thị hiện nhất thiết Như Lai địa, bất việt tam pháp đạo giới viên măn địa Ba La Mật. Thị mật ấn tướng, đương dụng Định Huệ thủ tác không tâm hiệp chưởng, dĩ Định Huệ nhị hư không luân tịnh hiệp nhi kiến lập chi. Tụng viết: - Thử nhất thiết chư Phật, cứu thế chi đại ấn, Chánh Giác tam-muội-da, ư thử ấn nhi trụ.             

          ()祕密主如是明妃示現一切如來地不越三法道界圓滿地波羅蜜是密印相當用定慧手作空心合掌以定慧二虛空輪並合而建立之頌曰此一切諸佛,救世之大印,正覺三昧耶,於此印而住。

    (Kinh: Bí Mật Chủ! Minh Phi như vậy thị hiện hết thảy các Địa của Như Lai, chẳng vượt qua giới hạn của tam pháp đạo, viên măn Thập Địa và Ba La Mật. Tướng của mật ấn này là hăy dùng tay Định (trái) và Huệ (phải) kết không tâm hiệp chưởng, dùng hai ngón hư không (ngón cái) của hai tay đặt sát lại để kết thành ấn. Tụng rằng: - Đại ấn cứu thế này, của hết thảy chư Phật, Chánh Giác tam-muội-da, trụ ở trong ấn này).

         

          Kế đó, nói đến tướng thủ ấn. “Bất việt tam pháp đạo giới”: Giới hạn ấy chính là cái quả do [A-xà-lê tác pháp] kết đại giới, chẳng phải là Đà Đô (Dhatu) [trong “pháp giới”]. [Khi tác pháp, A-xà-lê hoặc hành nhân] đi [trên lối đi] giữa các đường ranh trong đàn nên nói là “chẳng trái vượt”. Nay trong phẩm này nói mười hai loại danh tướng của “hiệp chưởng” (pranāma, chắp tay). Phàm trong các ấn pháp, mười hai loại [hiệp chưởng] này tột bậc trọng yếu, phải nên nhớ rơ:

          - Thứ nhất, chắp tay sao cho ḷng bàn tay áp chặt vào nhau, mười đầu ngón tay hơi tách rời nhau đôi chút. Cách này gọi là Ninh Vĩ Noa (Nevina, Nivida) hiệp chưởng (đó gọi là “kiên thật hiệp chưởng”).

          - Thứ hai, kế đó, đặt mười đầu ngón tay ngang nhau, các đầu ngón tay áp vào nhau, ḷng bàn tay hơi tách ra [nhưng ŕa bàn tay vẫn chạm nhau] th́ gọi là Tam Bổ Trá (Saṃpuṭa) hiệp chưởng (phương này (Trung Hoa) gọi là “hư tâm hiệp chưởng”).

          - Thứ ba, kế đó, mười đầu ngón tay áp vào nhau, các ngón tay cũng đặt ngang nhau, nhưng giữ cho khoảng trống giữa hai ḷng bàn tay rộng hơn [khiến cho hai lưng bàn tay hơi khum khum] th́ gọi là Khuất Măn La (Kumala) hiệp chưởng (phương này nói là như búp sen).

          - Thứ tư, kế đó hai ngón Không (ngón cái) và hai ngón Địa (ngón út) chạm vào nhau, các ngón khác đều hơi tách ra, gọi là Bộc Noa (Pūṇa, Bhagna) hiệp chưởng (phương này gọi là sen vừa mới chớm nở).

          - Thứ năm, kế đó, lại ngửa hai bàn tay đặt sát nhau, sao cho [hai ngón út đặt kế nhau, các đầu ngón tay] đều hướng lên trên cùng phô ḷng bàn tay ra [ḷng bàn tay hướng về phía người lễ bái], th́ gọi là Ốt Đa Na Nhă (Uttānaja) hiệp chưởng (phương này gọi là Lộ).

          - Thứ sáu, kế đó, lại cùng ngửa ḷng bàn tay [sao cho đầu ngón tay] hướng lên trên giống như trong loại trên, nhưng đầu các ngón chụm lại, sao cho hơi cong giống như dáng vẻ đang vốc nước (chớ quá cong ngón tay), th́ gọi là A Đà Ra (Ādhāra) hiệp chưởng (phương này dịch là Tŕ Thủy).

          - Thứ bảy, kế đó, mười đầu ngón tay xen kẽ, đều là các ngón tay phải gác lên đầu các ngón trái, giống như kim cang hiệp chưởng (cách này gọi là “quy mạng hiệp chưởng”), tiếng Phạn là Bát Ra Noa Ma (Praṇāma) hiệp chưởng.

          - Thứ tám, kế đó, lại dùng tay phải đặt trên tay trái sao cho ḷng bàn tay xoay ngược ra ngoài, mười đầu ngón tay đan vào nhau, cũng là sao cho ngón phải gác lên ngón trái, gọi là Vi Bát Rị Đá (Viparīta) hiệp chưởng (phương này nói là “phản xoa hiệp chưởng”).

          - Thứ chín, kế đó, lại dùng tay phải ngửa lên, đặt trên tay trái, tay trái che dưới lưng bàn tay phải, hơi giống như khi người tọa Thiền chồng tay lên nhau. Cách này gọi là Tỳ Bát Ra Rị Duệ Tát Đá (Vīparyasta) hiệp chưởng (phương này gọi là Phản Bối Tương Trước hiệp chưởng).

          - Thứ mười, ngửa hai ḷng bàn tay [giống như trong cách thứ năm, ḷng bàn tay hướng về thân người lễ bái] sao cho đầu của hai ngón giữa chạm nhau hướng lên trên, gọi là Đế Rị Duệ (Tiryak) hiệp chưởng (phương này gọi là Hoành Trụ Chỉ hiệp chưởng).

          - Thứ mười một, kế đó, cùng úp hai bàn tay, cũng dùng hai ngón giữa chạm vào nhau, gọi là A Đà Ra (Adhara) hiệp chưởng (phương này nói là chắp tay bằng cách úp ḷng bàn tay xuống dưới).

          - Thứ mười hai, hai bàn tay cùng úp xuống, hai ngón cái đặt ngang nhau, chạm vào nhau, mười đầu ngón tay hướng ra phía ngoài, cũng có cùng tên gọi với cách trên đây (tức cũng gọi là “chắp tay bằng cách úp ḷng bàn tay xuống”).

          Đối với tam-muội-da ấn đang nói ở đây, trước là chắp tay theo kiểu Tam Bổ Trá (tức hư tâm hiệp chưởng, trước là để ḷng bàn tay cách xa, dần dần ép lại gần, [sao cho] giữa hai ḷng bàn tay có khoảng trống là được). Dùng hai ngón Không (ngón cái) đặt ngang nhau, dựng thẳng lên, đừng quá thấp, mà cũng đừng quá khum, cốt sao hai ngón cái dựng thẳng lên là được (trong năm ngón tay, ngón út gọi là Địa, ngón áp út (ngón vô danh, ngón đeo nhẫn) là Thủy, ngón giữa là Hỏa, ngón trỏ là Phong, ngón cái là Địa. Tay trái là Định, tay phải là Huệ[13]). Cũng có thể hiểu ngón út trong tay trái là Đàn (bố thí), theo thứ tự tính về trước th́ ngón trỏ là Định. Ngón út trong tay phải là Huệ Độ, tính theo thứ tự hướng về phía trước th́ ngón trỏ là Trí Độ[14]. Nếu lúc mới tu hành, làm các thiện phẩm, mà nếu trước đó không kết tam-muội-da ấn này, sẽ chẳng thích hợp để thực hiện các pháp. Không chỉ là kết ấn này, mà c̣n phải tụng chân ngôn nói trên. Tác pháp th́ trước hết dùng tam-ma-da ấn để đặt lên đỉnh đầu, tụng chân ngôn trên đây một lượt. [Kế đó], đặt ấn này nơi vai phải. Kế đó, đặt trên vai trái, rồi đặt nơi tim, kế đó đặt nơi họng. Cứ mỗi lần đặt, đều tụng minh chú một lần. Phàm tụng năm lần th́ ấn năm chỗ. Nhưng chân ngôn này có công đức ǵ vậy? Do chân ngôn này có thể trừ túc chướng, tịnh hóa tự thân, khiến cho thân đă thanh tịnh th́ ngoại chướng cũng tịnh trừ. Do chướng bên ngoài đă tịnh trừ, các chướng đều chẳng nhập được. Đấy chính là đại hộ (sự thủ hộ to lớn). Do có thể hộ tŕ chẳng thể nghĩ bàn như vậy, phước tùy ư tăng trưởng, tội tự nhiên trừ, chư Phật được nhắc nhở, thỏa măn sở nguyện.

 

          (Kinh) Hựu dĩ Định Huệ thủ vi quyền, hư không luân nhập ư chưởng trung, nhi thư phong luân, thị vi Tịnh Pháp Giới Ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đạt ma đà đổ, tát phạ bà phạ câu hám.

          ()又以定慧手為拳虛空輪入於掌中而舒風輪是為淨法界印真言曰南麼三曼多勃陀喃達摩馱睹薩嚩婆嚩俱唅

    (Kinh: Lại dùng tay Định và Huệ (tay trái và tay phải) nắm thành quyền, hư không luân (ngón cái) gập vào ḷng bàn tay, [các ngón khác ôm lấy ngón cái], duỗi phong luân (ngón trỏ ra). Đó là Tịnh Pháp Giới Ấn. Chân ngôn là: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đạt ma đà đổ, tát phạ bà phạ câu hám - Namaḥ samantabuddhānāṃ, dharmadhātusvabhāvako ha).

 

          Lại nữa, kế đó là Pháp Giới Sanh chân ngôn: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Đạt ma đà đổ (dharmadhātu: Pháp giới), tát phạ bà phạ (svabhāva: Tánh), câu hám (ko haṃ: ta). Đạt Ma Đà Đổ là pháp giới, pháp giới chính là thân Phật. Câu cuối cùng là Ngă, ư nói: “Ta chính là pháp giới”. Lại nữa, hành giả tuy chưa thể thấu hiểu chân tánh, nhưng kết ấn này, tụng chân ngôn, cũng chính là “Thể đồng pháp giới”. Ấn ấy dùng hai ngón Không (ngón cái) gập vào ḷng bàn tay, dùng ba ngón Địa, Thủy, Hỏa (ngón út, vô danh, giữa) ôm lấy ngón cái thành quyền, dựng thẳng hai ngón Phong (ngón trỏ). Hai bàn tay đều nắm thành quyền riêng biệt, dựng thẳng ngón trỏ. Trước là dựng hai ngón trỏ ấy cho chúng chạm đầu nhau, đặt ngang ngực, hướng vào trong mà chuyển, khiến cho các ngón tay từ hai bên đỉnh đầu tới gần hai bên má, hướng vào trong hơi kéo xuống dưới, tức là trước hết dựng thẳng ngón trỏ, khiến cho đầu ngón tay hơi hướng xuống dưới, lưng ngón tay hướng vào trong, đặt gần đầu và má, dần dần hướng xuống dưới, tới nơi tim th́ xả ấn. Phàm tụng chân ngôn, kết ấn, ví như dùng trâu cày đôi, hai con trâu cùng tiến, chẳng được trước sau!

 

          (Kinh) Phục dĩ Định Huệ thủ, ngũ luân giai đẳng, điệt phiên tương câu, nhị hư không luân, thủ câu tương hướng. Tụng viết: “Thị danh vi thắng nguyện, cát tường pháp luân ấn, thế y cứu thế giả, tất giai chuyển thử luân”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phạt chiết ra đát ma câu hám.           

          ()復以定慧手五輪皆等迭翻相鉤二虛空輪首俱相向頌曰是名為勝願,吉祥法輪印,世依救世者,悉皆轉此輪。真言曰南麼三曼多勃馱喃伐折囉俱唅

          (Kinh: Lại dùng tay Định, Huệ (trái và phải) năm ngón đều đặt ngang nhau, các ngón đâu lưng móc vào nhau, đầu hai ngón hư không (ngón cái) hướng vào nhau. Tụng rằng: “Đó gọi nguyện thù thắng, ấn pháp luân cát tường, đấng đời nương cứu thế, thảy đều chuyển ấn này”. Chân ngôn rằng: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phạt chiết ra đát ma câu hám - Namaḥ samantabuddhānāṃ, vajrātmako haṃ’).    

 

          Kế đó, lại kết ấn. Trước hết, chắp tay sao cho lưng hai bàn tay áp vào nhau. Dùng hai ngón Địa (ngón út) móc vào nhau (sao cho ngón phải ở trên ngón trái). Các ngón Thủy, Hỏa, Phong theo thứ tự móc vào nhau. Cuối cùng, hai ngón Không (ngón cái) chống vào nhau hướng vào ḷng bàn tay. Đấy là Chuyển Pháp Luân Ấn. Do kết ấn này, khiến cho thân tâm người ấy (người tŕ chú) thân tâm thanh tịnh, có thể thấy mười phương Phật chuyển pháp luân. Chân ngôn đă được giải thích trong phần trước.

 

          (Kinh) Phục thư Định Huệ nhị thủ, tác quy mạng hiệp chưởng, Phong luân tương niệp. Dĩ nhị Không luân gia ư thượng, h́nh như Khiết-già, tụng viết: “Thử đại huệ đao ấn, nhất thiết Phật sở thuyết, năng đoạn ư chư kiến, vị câu sanh Thân Kiến”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ma ha khiết già vi ra xà, đạt ma san nại ra xa ca sa ha xà, tát ca da nại lật sắt trí xế nặc ca, đát tha nghiệt đa địa mục cật để nễ xă đa. Vi ra già đạt ma nễ xă đa hồng.

          ()復舒定慧二手作歸命合掌風輪相捻以二空輪加於上形如朅伽頌曰此大慧刀印,一切佛所,能斷於諸見,謂俱生身見。真言曰南麼三曼多勃馱喃摩訶朅伽微囉闍達麼珊捺囉奢迦娑訶闍薩迦耶捺瑟致掣諾迦怛他蘖多地目訖底儞社多微囉伽達摩儞社多吽 

          (Kinh: Lại duỗi tay Định và Huệ để quy mạng hiệp chưởng, ngón Phong luân (ngón trỏ) bấm vào nhau, dùng hai ngón Không luân (ngón cái) đặt lên đó, có h́nh dạng như gươm Khiết-già, tụng rằng: “Đại huệ đao ấn này, do hết thảy Phật nói, hay đoạn trừ các kiến, tức câu sanh Thân Kiến”. Chân ngôn rằng: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ma ha khiết già vi ra xà, đạt ma san nại ra xa ca sa ha xà, tát ca da nại-lật sắt-trí xế nặc ca, đát tha nghiệt đa địa mục cật để nễ xă đa. Vi ra già đạt ma nễ xă đa hồng - Namaḥ samanta buddhānāṃ, mahākhaḍga viraja-dharmasaṃdarśaka sahajasatkāyadṛṣṭicchedaka tathāgatādhimuktinirjāta virāga-dharmanirjāta hūṃ”).

 

          Kế đó, kết Đao Ấn. Đao ví như trí huệ sắc bén, do có ư nghĩa “có thể đoạn trừ”, tức là trừ ngọn núi ác kiến. Như quả núi lớn có rất nhiều ngọn lô nhô. Phiền năo cũng thế. Nay kết đao ấn này, do ấn này [có công năng] như trên đă nói. Liền gập hai ngón Phong (ngón trỏ) sao cho hai đầu ngón chống vào nhau. Lấy hai ngón Không (ngón cái) áp sát, đè lên, giống như h́nh đại đao là được! Chân ngôn rằng: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm (như đă giải thích trong phần trên). Đại đao vô cấu pháp hiện, cắt phăng Câu Sanh Thân Kiến (kiến chấp về cái thân từ lúc mới sanh ra đă có), sanh khởi tín giải của Như Lai, sanh khởi pháp vô tham. Tụng chân ngôn này bằng tiếng Phạn. Trong kinh đă giải thích ư nghĩa như đă nói trong phần trên. Chân ngôn này lấy chữ Ma đầu tiên làm tâm, có nghĩa là Ngă. Lại chữ Ngũ Không điểm, có nghĩa là “trọn khắp hết thảy mọi nơi”. Ư nghĩa ở đây là muốn trừ Ngă Kiến. Hăy nên biết Đao Ấn này chính là đại trí của chư Phật, do có thể đoạn dứt các kiến. Dùng đao cắt đứt gốc rễ phiền năo, tức là đạt được pháp vô cấu hiện ra.

          Các thứ như Thân Kiến câu sanh chính là cấu. Nay đoạn các cấu ấy, chúng liền ngưng dứt. “Tà” là chưa ngưng dứt. Lại có pháp thù thắng, tức là đă trừ cấu rồi, sẽ sanh khởi tín giải của Như Lai (ư nghĩa này như đă giải thích lúc thoạt đầu). Tín giải của Như Lai là pháp như thế nào? Tức là các thiện căn như vô tham v.v… Do vậy, kế đó sanh ra chữ Ha (). Trong đó, chữ Ha là nhân. V́ trừ cái nhân ấy, bên cạnh có vạch thể hiện chữ A (हा) đọc âm dài, tức là hết thảy các pháp vốn bất sanh. Phía dưới có chữ Ổ (), nên là tam-muội. Trên đó, có chấm Đại Không (thành Huṃ, हुं). Tụng minh chú này có thể khiến cho hành giả trọn vẹn ba loại thân; do trong chữ [Hồng] này có ba nghĩa, tức là Pháp Thân hiện. Ngài Tam Tạng nói: “Phương Tây có pháp ấn rất bí mật, khi tác pháp lại tột bậc cung kính, phải ở trong căn pḥng tôn quư, và là chỗ thanh vắng, thanh khiết. Phải nên tắm gội, trang nghiêm thân thể. Nếu không thể nhất nhất tắm gội, ắt phải rửa tay sạch, súc miệng, dùng hương bôi xoa lên tay v.v… rồi mới được tác pháp. Khi tác pháp, lại c̣n phải oai nghi chánh đáng, ngồi xếp bằng v.v… Nếu không như thế, sẽ mắc tội, khiến cho pháp chẳng thể nhanh chóng thành tựu”.

 

          (Kinh) Phục dĩ Định Huệ nhị thủ, tác hư tâm hiệp chưởng, khuất nhị Phong luân, dĩ nhị Không luân giảo chi, h́nh như thương-khư. Tụng viết: “Thử danh vi thắng nguyện, cát tường pháp loa ấn, chư Phật thế chi sư, Bồ Tát cứu thế giả, giai thuyết vô cấu pháp, chí tịch tĩnh Niết Bàn”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ám.

          ()復以定慧二手作虛心合掌屈二風輪以二空輪絞之形如商佉頌曰此名為勝願,吉祥法螺印,諸佛世之師,菩薩救世者,皆說無垢法,至寂靜涅槃。真言曰南麼三曼多勃馱喃

          (Kinh: Lại dùng hai tay Định và Huệ kết hư tâm hiệp chưởng, gập hai ngón Phong luân (ngón trỏ), dùng hai ngón Không (ngón cái) quấn lấy [như hai cái khuyên], h́nh dạng như thương-khư (tù và bằng vỏ ốc). Tụng rằng: “Đó gọi nguyện thù thắng, ấn pháp loa cát tường. Chư Phật: Thầy cơi đời, Bồ Tát: Đấng cứu thế. Đều nói pháp vô cấu, đạt Niết Bàn tịch tĩnh”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ám - Namaḥ samantabuddhānāṃ, aṃ”).

 

          Kế đó, kết Cát Tường Thương Khư Ấn. Trước hết, kết hư tâm hiệp chưởng (như trong phần trên), gập hai ngón Không (ngón cái), dùng hai ngón Phong (ngón trỏ) đè lên, sao cho giống như h́nh thương-khư. Kết ấn xong, để gần miệng để thổi giống như cách thổi tù và. Đây là Măn Nhất Thiết Nguyện Cát Tường Pháp Loa Ấn. Do kết ấn này, sẽ được măn hết thảy các thiện nguyện, có thể tuyên nói đại pháp khiến cho mười phương đều cùng được nghe biết. Đấy chính là Tịch Tĩnh Niết Bàn Ấn. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trên. Tát phạ đá (sarvathā, trọn khắp hết thảy), ám. Đấy là chân ngôn tâm; hết thảy các pháp vốn bất sanh. Trên đó, lại có một chấm, tức là Đại Không trọn hết thảy các chốn. Đây chính là thể tánh của Niết Bàn đại tịch, vạn đức vắng lặng, trọn khắp hết thảy mọi nơi!

 

          (Kinh) Phục dĩ Định Huệ thủ tương hợp, phổ thư tán chi, do như Kiện Trá, nhị Địa luân, nhị Không luân tương tŕ, linh Hỏa, Phong luân ḥa hợp, tụng viết: “Cát tường nguyện liên hoa, chư Phật cứu thế giả, bất hoại kim cang ṭa, giác ngộ danh vi Phật. Bồ Đề dữ Phật tử, tất giai tùng thị sanh”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A.

          ()復以定慧手相合普舒散之猶如健吒二地輪二空輪相持令火風輪和合頌曰吉祥願蓮華,諸佛救世者,不壞金剛座,覺悟名為佛,菩提與佛子,悉皆從是生。真言曰南麼三曼多勃馱喃

    (Kinh: Lại dùng hai tay Định và Huệ hợp lại, tách trọn các ngón tay ra, giống như h́nh Kiện Trá (Ghaṇṭā, cái chuông lắc, cái linh). Hai ngón Địa luân (út) và Không luân (ngón cái) chống đỡ lẫn nhau, đầu các ngón Hỏa và Phong luân (ngón giữa và ngón trỏ) ḥa hợp (tức là chụm vào nhau). Tụng rằng: “Hoa sen nguyện cát tường, chư Phật: Đấng cứu đời, ṭa kim cang bất hoại, giác ngộ gọi là Phật. Bồ Đề và Phật tử, thảy đều từ đây sanh”. Chân ngôn rằng: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A - Namaḥ samantabuddhānāṃ, āḥ”).

 

          Kế đó là ṭa kim cang bất hoại. Ấn pháp th́ trước hết dùng hai ngón Không (ngón cái) và hai ngón Địa (út) đều đặt song song nhau. Các ngón khác đều duỗi ra như [các cánh của] đóa sen nở. Kinh nói là h́nh dạng như cái linh. Kế đó, đổi thành ngón Địa (ngón út) và ngón Không chụm đầu với nhau. Sáu ngón giữa đó đều như tách ra như cũ. Trong đó, ngón Hỏa (ngón giữa) và Phong (ngón trỏ) [hơi khum khum], chỉ có ngón Thủy (ngón vô danh, ngón áp út) dựng thẳng là được. Đây là liên hoa tọa, cũng gọi là kim cang tọa. Do ngồi ṭa này, có thể sanh ra chư Phật. Chư Phật đều do ngồi nơi đó, nên gọi là “ngồi cát tường”. V́ thế, gọi là “kim cang bất hoại ṭa”. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như phần trên. A (आः, Aḥ) là chân ngôn tâm. Chữ A âm dài là “hành”, hai chấm bên cạnh là tam-muội. V́ khiến cho pháp này kiên cố, cho nên sau đó có chấm vậy. Quyền pháp (cách nắm tay thành nắm đấm) có bốn loại:

          - Thứ nhất, giống như cách nắm tay thường làm, ngón cái dựng thẳng; đó là cách thứ nhất.

          - Kế đó, là ngón Không (ngón cái) gập vào ḷng bàn tay, [các ngón kia ôm lấy], gọi là Kim Cang Quyền, là cách thứ hai.

          - Các ngón tay đan chéo vào nhau, hợp thành quyền, sao cho mười ngón tay nằm bên ngoài. Đây gọi là Chỉ Tại Ngoại Quyền (ngón tay ở bên ngoài nắm đấm), tức là cách thứ ba (đều là ngón phải đè lên ngón trái).

          - Kế đó, mười ngón đan vào nhau sao cho mười ngón đều nằm trong ḷng bàn tay, gọi là Nhị Thủ Quyền, tức là cách thứ tư (cũng là ngón phải đè lên ngón trái).

 

          (Kinh) Phục dĩ Định Huệ thủ, ngũ luân ngoại hướng vi quyền, kiến lập Hỏa luân. Thư nhị Phong luân, khuất vi câu h́nh, tại bàng tŕ chi. Hư không, Địa luân tịnh nhi trực thượng, Thủy luân giao hợp như bạt-chiết-la. Tụng viết: “Kim cang đại huệ ấn, năng hoại vô trí thành, hiểu ngụ thụy miên giả, thiên nhân bất năng hoại”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bạt chiết la nạn, hồng.                   

          ()復以定慧手五輪外向為拳建立火輪舒二風輪屈為鉤形在傍持之虛空地輪並而直上水輪交合如拔折囉頌曰金剛大慧印,能壞無智城,曉寤睡眠者,天人不能壞。真言曰南麼三曼多伐折羅𧹞。吽。

    (Kinh: Lại dùng tay Định và Huệ [đan vào nhau], năm ngón hướng ra ngoài, tạo thành quyền, dựng thẳng ngón giữa. Duỗi hai ngón trỏ, khum h́nh thành móc câu. Các ngón cái và út đều dựng thẳng lên, đặt sát nhau. Hai ngón áp út móc chéo như h́nh chày kim cang. Tụng rằng: “Kim cang đại huệ ấn, phá nát thành vô trí, giác ngộ kẻ ngủ say, trời, người chẳng thể hoại”. Chân ngôn rằng:Nam ma tam mạn đa bạt chiết la nạn, hồng - Namaḥ samantavajrāṇāṃ, hūṃ”).       

 

          Kế đó, kết Kim Cang Ấn. Hai tay đều gập ngón Thủy (ngón áp út) vào ḷng bàn tay, dùng hai ngón Phong (ngón trỏ) [cong lại], dựa vào lưng ngón Hỏa (ngón trỏ), nhưng đừng chạm vào. Đây chính Kim Cang Ấn (hai ngón Không, tức ngón cái, đặt sát nhau, dựng thẳng). Do Kim Cang Ấn này có thể phá hoại ṭa thành vô trí, hết thảy đều chẳng thể phá hoại. Chân ngôn quy mạng như trước, bản thể của chú này chỉ có chữ Hồng (ư nghĩa chuẩn theo những điều đă nói trong các phần trước).

 

          (Kinh) Phục dĩ Định Huệ thủ, ngũ luân nội hướng vi quyền, kiến lập Hỏa luân. Dĩ nhị Phong luân trí bàng, khuất nhị Hư Không tương tịnh. Tụng viết: “Thử ấn Ma Ha Ấn, sở vị Như Lai đảnh, thích tài kết tác chi, tức đồng ư Thế Tôn”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hồng hồng.

          ()復以定慧手五輪內向為拳建立火輪以二風輪置傍屈二虛空相並頌曰此印摩訶印,所謂如來頂,適纔結作之,即同於世尊。真言曰南麼三曼多勃馱喃。吽吽。

          (Kinh: Lại dùng tay Định và Huệ, năm ngón gập vào trong ḷng bàn tay tạo thành quyền, dựng thẳng Hỏa luân (ngón giữa). Đặt hai ngón Phong luân (ngón trỏ) bên cạnh, gập hai ngón Hư Không (ngón cái), đặt sát nhau. Tụng rằng: “Ấn này Ma Ha Ấn, gọi là Như Lai đảnh, hễ vừa mới kết ấn, liền giống như Thế Tôn”. Chân ngôn rằng: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hồng hồng - Namaḥ samantabuddhānāṃ, hūṃ hūṃ”).

 

          Kế đó là Phật Đảnh Ấn. Trước hết Chỉ Hướng Nội Quyền (các ngón tay đan vào nhau, gập vào trong ḷng bàn tay thành quyền), duỗi hai ngón giữa đặt sát nhau. Kế đó, dùng hai ngón trỏ để dựa vào lưng ngón giữa, gập hai ngón cái, sao cho chúng đặt sát nhau là thành ấn. (Chỉ Hướng Nội Quyền ở đây tức là các đầu ngón tay hướng vào trong [ḷng bàn tay]). Đại ấn này được gọi là Phật Đảnh. Khi kết pháp ấn này, sẽ giống như Nhân Giả. Nhân Giả tức là Như Lai; ư nói: Kết ấn này bèn giống như thân chư Phật. Chân ngôn của ấn này cũng có nghĩa là trọn đủ tam-muội giải thoát. Trước là nhân, sau là quả. Nhân là hạnh Như Lai, quả chính là Phật (nên kết ấn gia tŕ đỉnh đầu).

 

          (Kinh) Phục dĩ trí huệ thủ vi quyền, trí ư mi gian. Tụng viết: “Thử danh Hào Tướng Tạng, Phật thường măn nguyện ấn. Dĩ tài tác thử cố, tức đồng Nhân Trung Thắng”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A hám xà.                   ()復以智慧手為拳置於眉間頌曰此名毫相藏,佛常滿願印,以纔作此故,即同仁中勝。真言曰南麼三曼多勃馱喃唅闍

          (Kinh: Lại dùng tay trí huệ nắm thành quyền, đặt ở giữa hai mày. Tụng rằng: “Đây gọi Hào Tướng Tạng, ấn Phật thường măn nguyện. Vừa mới kết ấn này, liền như Nhân Trung Thắng”. Chân ngôn rằng:Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A hám xà - Namaḥ samantabuddhānāṃ, āḥ haṃ jaḥ”).

 

          Kế đó là Hào Tướng Ấn của Như Lai. Dùng tay trí huệ (tay phải) nắm thành quyền, để ngón cái ra ngoài quyền, đặt ở giữa hai mày là thành ấn. Kết ấn này tức giống như Hào Tướng trọn đủ của Như Lai. Phần quy mạng trong chân ngôn như trong phần trên. A (aḥ: Biết), Hám (haṃ: cái nhân), Xà (jaḥ, sanh). Do hạnh bất sanh này tịnh hóa hết thảy các nhân. Xà là “sanh bất khả đắc”.

 

          (Kinh) Trụ Du Già ṭa, tŕ bát tương ứng, dĩ Định Huệ thủ câu tại tề gian, thị danh Thích Ca Mâu Ni Đại Bát Ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bà.

          ()住瑜伽座持鉢相應以定慧手俱在臍間是名釋迦牟尼大鉢印真言曰南麼三曼多勃馱喃

     (Kinh: Ngồi theo thế Du Già (tức ngồi xếp bằng), cầm bát tương ứng, hai tay Định và Huệ đều đặt ngang rốn. Đó gọi là Thích Ca Mâu Ni Đại Bát Ấn. Chân ngôn rằng:Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bà - Namaḥ samantabuddhānāṃ, bhaḥ”).

 

          Kế đó, kết Như Lai Bát Ấn. Tay trái nắm hai góc y (cách thức là nắm lấy góc y ca-sa (phần không che vai) gần cánh tay và chỗ góc y che vai rủ xuống quấn quanh tay, cuộn vào trong ḷng bàn tay, khiến cho hai góc y giống như hai cái tai). Vẫn chồng hai tay lên nhau, sao cho tay phải đè lên tay trái như tư thế đặt tay khi tọa Thiền, nâng lên ngang rốn, hơi co tay như tư thế ṿng tay ôm bát là được. Kết ấn này sẽ giống như Như Lai nắm áo ca-sa, là oai nghi đặc trưng của chư Phật, cũng có thể khiến cho hết thảy chúng sanh chẳng phải căn khí đều có thể kham làm pháp khí. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trên. “Bà” (Bhaḥ) có nghĩa là Hữu, tức là tam hữu (ba cơi). Do vốn bất sanh bèn ĺa tam hữu, tam hữu vốn chẳng thể được! Ngoài tam hữu ấy, bèn có cái Hữu chân thật của Như Lai, tức là Pháp Thân của chư Phật vậy!

 

          (Kinh) Phục thứ dĩ trí huệ thủ, thượng hướng nhi tác Thí Vô Úy h́nh. Tụng viết: “Năng thí dữ nhất thiết, chúng sanh loại vô úy. Nhược kết thử đại ấn, danh Thí Vô Úy giả”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát bà tha, thệ na thệ na, bà dă na xa na. Sa ha.                  

          ()復次以智慧手上向而作施無畏形頌曰能施與一切,眾生類無畏,若結此大印,名施無畏者。真言曰南麼三曼多勃馱喃薩婆他也那奢娜莎訶

          (Kinh: Lại nữa, dùng tay trí huệ (tay phải) hướng lên trên làm tư thế Thí Vô Úy. Tụng rằng: “Có thể thí vô úy, cho hết thảy chúng sanh. Nếu kết đại ấn này, là bậc Thí Vô Úy”. Chân ngôn rằng: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát bà tha, thệ na thệ na, bà dă na xa na. Sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, sarvathā jina jina bhayanāśana svāhā”).

 

          Kế đó, kết thủ ấn Thí Vô Úy (Abhaya). Tay trái giống như trên nắm hai chéo y, duỗi tay đặt ngang rốn, tay phải hướng về phía trước, duỗi tay [sao cho ḷng bàn tay] hướng ra ngoài, giống như nâng đồ vật (như ấn Thích Ca trong Du Già vậy). Nếu kết ấn này, có thể trừ các loại kinh sợ của hết thảy chúng sanh, yêu và giận lập tức đều dứt, cũng trừ các thứ đáng kinh sợ to lớn nhất của họ trong đời tương lai. Phần quy mạng của chân ngôn giống như trong phần trước. Tát phạ tha (Sarvathā, trọn khắp), thệ na thệ na (jina jina, thắng), bà dă na xa na (bhayanāśana, trừ kinh sợ). “Trọn khắp” chính là “phổ biến”, tức là “trọn khắp hết thảy các chốn”. Đối với phương tiện thù thắng nhất trong hết thảy các xứ phương tiện, [thủ ấn và chân ngôn này] đều có thể vượt trội. Thứ nhất là ĺa các thứ phiền năo của dị sanh (prthag-jana, chúng sanh chưa đạt được thánh quả), kế đó là ĺa phiền năo của Nhị Thừa, tức là lại càng thù thắng hơn những điều thù thắng. Do bởi lẽ này, Như Lai có thể trọn khắp hết thảy mọi nơi, trừ khắp hết thảy khổ năo v́ kinh sợ.

 

          (Kinh) Phục thứ, dĩ trí huệ thủ, hạ thùy tác Thí Nguyện h́nh. Tụng viết: “Như thị Dữ Nguyện Ấn, thế y chỉ sở thuyết, thích tài kết thử giả, chư Phật măn kỳ nguyện”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phạ ra đà phạt chiết ra đát ma ca, sa ha.          

          ()復次以智慧手下垂作施願形頌曰如是與願印,世依之所,適纔結此者,諸佛滿其願真言曰南麼三曼多勃馱喃嚩囉伐折囉怛麼迦莎訶

    (Kinh: Lại nữa, dùng tay trí huệ, duỗi xuống dưới làm tư thế Thí Nguyện (ban cho điều nguyện). Tụng rằng: “Dữ Nguyện Ấn như thế, bậc đời nương nói ra. Vừa mới kết ấn này, chư Phật măn sở nguyện”. Chân ngôn rằng:Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phạ ra đà phạt chiết ra đát ma ca, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, varada vajrātmaka svāhā”).

 

          Kế đó là thủ ấn Như Lai Măn Nguyện. Tay trái cũng nắm góc y theo tư thế giống như trước, tay phải hướng ra ngoài, duỗi xuống dưới, như ấn của Bảo Sanh Phật trong Du Già[15]. Khi kết ấn này, liền do sức của Như Lai, hết thảy chư Phật thỏa măn nguyện ấy cho đều được thành tựu. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trước. Phạ ra đà (varada, ban cho), “phạt chiết la (vajra, kim cang), đát ma ca (atmaka, ta, cũng có nghĩa là thân). Ư nói: Nguyện chư Phật ban cho con thân kim cang, cũng ban cho con đại nguyện thân. Đấy tức là măn sở nguyện.

 

          (Kinh) Phục dĩ trí huệ thủ vi quyền, nhi thư Phong luân, dĩ tỳ-u-chi h́nh trụ ư Đẳng Dẫn, tụng viết: “Dĩ như thị đại ấn, chư Phật cứu thế tôn, khủng bố chư chướng giả, tùy ư thành Tất Địa. Do kết thị ấn cố, đại ác ma quân chúng, cập dư chư chướng giả, tŕ tán vô sở ngại”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ma ha phạ lê phạt để, đà xa phạ lê ốt bà phệ. Ma ha di để rị dă tỳ dữu ốt nghiệt để, sa ha.                  

          ()復以智慧手為拳而舒風輪以毘俱胝形住於等引頌曰以如是大印,諸佛救世尊,恐怖諸障者,隨意成悉地。由結是印故,大惡魔軍眾,及餘諸障者,馳散無所礙。真言曰南麼三曼多勃馱喃麼訶嚩梨伐駞奢嚩梨嗢婆吠摩訶彌底哩也毘庾嗢蘗底莎訶

    (Kinh: Lại dùng tay trí huệ (tay phải) nắm thành quyền, duỗi ngón Phong luân (ngón trỏ), dùng dáng vẻ nhíu mày, trụ trong Đẳng Dẫn. Tụng rằng: “Dùng đại ấn như thế, chư Phật đấng cứu đời, đe đọa kẻ gây chướng, tùy ư thành Tất Địa. Do bởi kết ấn này, lũ ma quân đại ác, và kẻ gây chướng khác, tan chạy không ngăn ngại”. Chân ngôn rằng: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ma ha phạ lê phạt để, đà xa phạ lê ốt bà phệ. Ma ha di để rị dă tỳ dữu ốt nghiệt để, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ mahābala vatidaśabalodbhave mahā-maitrya-bhyudgate, svāhā).

         

          Kế đó là Bố Nhất Thiết Vi Chướng Ấn (ấn đe đọa hết thảy kẻ gây chướng). Dùng tay phải làm thành quyền (để ngón cái ra ngoài nắm đấm ấy), duỗi ngón trỏ, dựng thẳng lên, đặt giữa hai mày, dùng đầu ngón ấy chống vào giữa hai mày. Nói Đẳng Dẫn tức là h́nh dạng Tỳ Câu Tri, tức vẻ mặt như đang phẫn nộ, tâm trụ trong một cảnh, bất động. Đại ấn này của hết thảy chư Phật có thể hiện ra đại thế lực oai mănh của Như Lai, đe dọa hết thảy kẻ gây chướng nạn, khiến cho họ hàng phục, cũng có thể thỏa măn sở nguyện của hết thảy chúng sanh. Khi hành giả kết ấn này, kẻ gây chướng ai nấy rảo chạy tan tác tứ phía, cho đến quân đội của đại lực thiên ma cũng tự nhiên lui tan. Khi Như Lai chứng Bồ Đề đạo, dùng ấn này liền có thể hàng phục các ma. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trước. Ma ha phạ lê (mahābala, đại lực) phạt để đà xa phạ lê (vati daśabalo, Thập Lực) ốt bà phệ (odbhave, đạt được), ma ha di để rị dă (mahāmaitrya, đại từ) phát khởi. Chân ngôn này là đại lực của chư Phật. Đại lực ấy là những ǵ? Chính là mười lực của Như Lai, tối đại tự tại trong hết thảy các lực. V́ sao Như Lai đạt được thập lực ấy? Chính là do đại từ mà đạt được thập lực ấy, v́ thế nói là các lực ấy “sanh từ ḷng đại từ”.

 

          (Kinh) Phục thứ, dĩ trí huệ thủ vi quyền, nhi thư Hỏa luân, Thủy luân, dĩ Hư Không luân nhi tại kỳ hạ. Tụng viết: “Thử danh nhất thiết Phật, thế y bi sanh nhăn, tưởng trí ư nhăn giới, trí giả thành Phật nhăn”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, già già na phạ ra lạc cật sái nĩnh, ca rô noa ma dă, đát tha yết đa chước cật sô, sa ha

          ()復次以智慧手為拳而舒火輪水輪以虛空輪而在其下頌曰此名一切佛,世依悲生眼,想置於眼界,智者成佛眼真言曰南麼三曼多勃馱喃伽伽那嚩囉洛吃灑儜迦嚕怛他多斫吃芻莎訶

          (Kinh: Lại dùng tay trí huệ (tay phải) nắm thành quyền, duỗi ngón Hỏa luân (ngón giữa) và Thủy luân (ngón áp út), đặt Hư Không luân (ngón cái) dưới đó. Tụng rằng: “Đó gọi hết thảy Phật, mắt sanh bởi ḷng bi, của đấng đời nương tựa, tưởng đặt ngay nơi mắt, bậc trí thành Phật nhăn”. Chân ngôn rằng:Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, già già na phạ ra lạc cật sái nĩnh, ca rô noa ma dă, đát tha yết đa chước cật sô, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, gaganavaralakṣaṇe karuṇā-mayatathāgatacakṣu svāhā”).        

 

          Kế đó là Phật Nhăn Ấn. Trước hết, nắm tay thành quyền, dùng ngón Không (ngón cái) đè lên hai ngón Phong (ngón trỏ) và Địa (ngón út), tức là gập ngón cái đè lên móng của hai ngón trỏ và út), duỗi ngón Thủy (áp út) và Hỏa (ngón giữa). Dùng tay phải để kết ấn này. Kết xong, dùng ấn đó đặt trên mắt, trước là đặt trên mắt phải, kế đó trên mắt trái. Dùng phương tiện bí mật này có thể tịnh hóa nhăn căn, thành tựu Phật nhăn, được thấy cảnh giới thâm mật của Như Lai. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trên. “Già già na” (Gagana, hư không), “phạ ra” (vara, nguyện) “ca rô noa” (karuṇā, bi), “ma dă” (maya, lễ), “đát tha yết đa” (tathāgata, Như Lai) chước cật-sô (cakṣu, mắt). Hư không tuy vô tướng, vô ngại, nhưng không thể hoàn thành đại sự. Nay Không của Như Lai tuy chẳng nương tựa vào đâu mà có thể thành tựu hết thảy các chuyện thù thắng, hơn hẳn hư không, hư không chẳng thể sánh bằng! Cái Thể của đại bi chính là mắt của Như Lai. Mắt ấy sanh từ đại bi, có thể sanh ra đại bi.

     

          (Kinh) Phục thứ, dĩ Định Huệ thủ, ngũ luân nội hướng vi quyền, nhi thư Phong luân, viên khuất tương hợp. Tụng viết: “Thử Thắng Nguyện Sách Ấn, hoại chư tạo ác giả, Chân Ngôn giả kết chi, năng phược chư bất thiện”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ hệ ma ha bá xa, bát ra sa lao đà lư da, tát đỏa đà đổ, vi mô ha ca, đát tha nghiệt đa, đề mục cật để nễ xă đa, sa ha.           

          ()復次以定慧手五輪內向為拳而舒風輪圓屈相合頌曰此勝願索印,壞諸造惡者,真言者結之,能縛諸不善。真言曰南麼三曼多勃馱喃係係摩訶播奢鉢羅嘮馱理耶薩埵馱睹微模訶迦怛他蘖多目吃底儞社多莎訶

          (Kinh: Lại nữa, dùng tay Định Huệ, năm ngón gập vào trong [ḷng bàn tay] tạo thành quyền, duỗi ngón trỏ, gập cong [cho hai ngón ấy] chạm đầu nhau. Tụng rằng: “Thắng Nguyện Sách Ấn này, hoại những kẻ tạo ác. Bậc Chân Ngôn kết ấn, trói được các bất thiện”. Chân ngôn rằng: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ hệ ma ha bá xa, bát ra sa lao đà lư da, tát đỏa đà đổ, vi mô ha ca, đát tha nghiệt đa, đề mục cật để nễ xă đa, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, he he mahāpāśa prasaraudārya sattvadhātuvimohaka tathāgatādhimuktinirjāta svāhā”).

 

          Kế đó là Như Lai Quyến Sách Ấn. Trước hết, dùng mười ngón tay gập vào ḷng bàn tay, nắm thành quyền. Duỗi hai ngón trỏ, đầu hai ngón ấy tựa vào nhau, cong ngón trỏ sao cho chúng tiếp giáp thành h́nh như khuyên tṛn. Hai ngón cái cũng là phải đè lên trái, cùng gập vào ḷng bàn tay là thành ấn. Ấn này có thể trói hết thảy kẻ làm ác, cũng có thể phá hoại họ, khiến cho họ dứt trừ các điều ác. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trước. “Hệ hệ” (Hehe): Trong ấy, có âm Ha tức là cái nhân, kiêm thêm nghĩa tam-muội[16]. Chữ Hệ này là âm thanh triệu tập, tức là gọi to cái nhân thành Phật. Cái nhân ấy vốn bất sanh, nên ĺa nhân quả, khiến cho cái nhân ấy lại được thanh tịnh. Ma ha bá xa (mahāpāśa, dây trói to lớn. Ư nói cái nhân ly tướng ấy do vốn bất sanh, nên ĺa tướng nhân quả, khiến cho cái nhân ấy thanh tịnh. Tịnh hóa cái nhân được gọi là “dây trói to lớn”), bát-ra (pra, trọn khắp), sa lao đà lư da (saraudārya, như hư không, ư nói: Sợi dây trói to lớn ấy rộng răi trọn khắp như hư không, không đâu chẳng trọn khắp). Tát đỏa đà đô (Sattvadhātu, ư nói: Sợi dây trói ấy rộng làm chuyện ǵ? Chính là duy tŕ hữu t́nh, trừ si cho họ). Vi mô ha ca (vimohaka, si, hàm nghĩa trừ phá si). Đát tha nghiệt đa (Tathāgatā, Như Lai), đề mục (dhimu, sanh tín giải, cũng là phát khởi bổn nguyện của chư Phật. Chư Phật khi hành Bồ Tát đạo, sẽ ở trong thời đại ác mà độ tận hết thảy chúng sanh. Nay dùng cái nhân này để thành tựu cái quả, trừ sự si mê ấy, khiến cho họ đạt đến Phật quả rốt ráo, luôn làm Phật sự). Lại nữa, dây trói ấy do đâu mà sanh? Sanh từ tín giải của Như Lai. Ư nghĩa của tín giải như đă nói trong quyển đầu của kinh. Như Lai do sức tín giải ấy, phổ môn thị hiện đủ thứ h́nh tướng, hoặc hiện chuyện phẫn nộ to lớn, hoặc làm Tŕ Minh Tiên, có thế lực to lớn, chiết phục, nhiếp thọ vô lượng chúng sanh, khiến cho họ đều đạt được diệu quả của Như Lai, tức là ư nghĩa “dây trói to lớn rộng khắp, giống như hữu t́nh giới”.

 

          (Kinh) Phục thứ, dĩ Định Hệ thủ nhất hợp vi quyền, thư trí huệ thủ, Phong luân khuất đệ tam tiết, do như hoàn tướng. Tụng viết: “Như thị danh Câu Ấn, chư Phật cứu thế giả, chiêu tập ư nhất thiết, trụ ư Thập Địa vị, Bồ Đề đại tâm giả, cập ác tư chúng sanh”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a tát bà đát ra bát ra để ha đế, đát tha nghiệt đảng củ xa, bồ đề chiết rị da, bát rị bố la ca, sa ha.                  

          ()復次以定慧手一合為拳舒智慧手風輪屈第三節猶如環相頌曰如是名鉤印,諸佛救世者,招集於一切,住於十地位,菩提大心者,及惡思眾生。真言曰南麼三曼多勃馱喃阿薩婆怛囉鉢囉底訶諦怛他蘖黨矩奢菩提浙哩耶鉢哩布邏迦莎訶

          (Kinh: Lại nữa, dùng tay Định và Huệ hợp nhất nắm thành quyền, duỗi ngón Phong luân (ngón trỏ) của tay trí huệ (tay phải), gập đốt thứ ba của nó, giống như h́nh dạng cái ṿng. Tụng rằng: “Như thế gọi Câu Ấn, chư Phật đấng cứu đời, chiêu tập khắp hết thảy, trụ địa vị Thập Địa, bậc Bồ Đề đại tâm, và chúng sanh nghĩ ác”. Chân ngôn rằng: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a tát bà đát ra bát ra để ha đế, đát tha nghiệt đảng củ xa, bồ đề chiết rị da, bát rị bố la ca, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, āḥ sarvatrāpratihate tathāgatāṅkuśa bodhicaryā-paripūraka svāhā”).

         

          Kế đó, kết Như Lai Câu Ấn. Trước hết, dùng ngón cái trong tay trái đè lên đầu bốn ngón kia, sao cho như h́nh cái ṿng. Kế đó, dùng ba ngón (tức các ngón út, áp út, và ngón giữa) trong tay phải đặt trong cái ṿng ấy, ngón cái của tay phải đè lên phía ngoài ngón cái trong tay trái, gập vào ḷng bàn tay, bấm đè lên ba ngón trong tay phải cũng sao cho giống như h́nh cái ṿng, hơi cong đốt thứ ba của ngón trỏ bên tay phải như h́nh cái móc tức là ấn thành. Kết Câu Ấn này có thể triệu vời mười phương hết thảy chư Phật, Bồ Tát, khiến cho các Ngài đều tụ hội trong đạo tràng, cũng có thể trọn vẹn địa vị Thập Địa, huống hồ những kẻ chưa sanh thiện tâm trong tám bộ v.v… mà chẳng tới ư?

          A (āḥ, hành), tát bà đát-ra bát-ra để ha đế (sarvatrāpratihate, nghĩa là vô ngại, hết thảy làm hại), đát tha nghiệt đa (tathāgata, Như Lai), ương củ xa (