Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ
Kinh giảng kư
Phần
1
大方等大集賢護經講記
慈法法師
Chủ giảng: Pháp
sư Từ Pháp
Địa điểm:
Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ ngày
08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức
Phong và Huệ Trang
1. Đôi nét về pháp
sư Từ Pháp
Pháp sư Từ
Pháp, pháp danh Quả Trung, pháp hiệu Từ Pháp, là người
huyện Tây B́nh, tỉnh Hà Nam, sanh năm 1960. Xuất gia
năm 1992 tại chùa Phổ Đồng thuộc huyện
Nam Cung tỉnh Hà Bắc, thọ giới Sa Di với luật
sư Hoằng Xuyên. Năm sau, Sư được đặc
cách thọ Cụ Túc Giới tại chùa Bạch Mă, Lạc
Dương. Sau đó, Sư xin phép thầy đi tham học
tại các đạo tràng Linh Nham, Quảng Hóa (tỉnh
Phước Kiến), B́nh Sơn, Đại Phật Tự
(tỉnh Cam Túc), chùa Đa Bảo (tại Chiết Giang),
chùa Song Lâm (tỉnh Giang Tây) v.v… Kể từ năm 1997,
Sư trụ tích ở chùa Hoa Thủ Phóng Quang (Hằng
Dương Am là ni viện thuộc chùa này) tại núi Kê Túc,
huyện Đại Lư, tỉnh Vân Nam cho đến nay. Tuy học
rộng kinh tạng, siêng năng tham lễ các vị tôn túc
để cầu học các pháp Đại Thừa, Sư
đặc biệt quy túc nơi pháp môn Tịnh Độ.
Tuy học rộng và giảng nhiều pháp khác nhau để
rộng kết thiện duyên độ chúng, Sư lập
thệ tŕ giới tinh nghiêm, chuyên tu Tịnh Độ, cầu
bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề.
2. Duyên khởi
Hôm
nay, chúng tôi từ trong mười hai bộ kinh giáo thuộc
Tam Tạng của Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
được lưu truyền rộng răi trong Hiền Kiếp,
chọn lấy một bộ kinh là kinh Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ,
c̣n gọi là kinh Ban Châu Tam Muội, ứng theo nhu cầu của
mười phương tín chúng, ứng với nhu cầu về
pháp môn tu hành. Mười phương chư Phật, Bồ
Tát gia bị cho chúng ta tụ tập tại ṭa điện
đường mới vừa bắt đầu sử dụng
của Hằng Dương Am để học tập, tu tập,
nhận biết giáo ngôn thanh tịnh này, ḥng khiến cho
chúng ta đạt được căn cơ chẳng thoái
thất Vô Thượng Bồ Đề, đắc pháp bất
thoái, tu tập bất thoái, cho đến thành tựu bất
thoái.
Hôm
nay là ngày Rằm tháng Bảy âm lịch, chính là Phật Hoan Hỷ
Nhật trong Tự Tứ Tăng pháp của đức Phật
Thích Ca, cũng là ngày Tự Tứ, mà cũng
là ngày đại chúng
hoàn tất ǵn giữ chín mươi ngày thanh tịnh trong
mùa An Cư Kết Hạ, là
ngày tu tập giới pháp viên măn. Trong nước, có rất
nhiều chùa miếu, đạo tràng đều cử hành
pháp hội Vu Lan Bồn. Pháp hội này lấy nhân duyên tôn giả
Đại Mục Kiền Liên cứu độ mẹ làm
duyên khởi, giải trừ sự treo ngược cho hết
thảy chúng sanh, độ thoát các vong linh hữu t́nh, cha, mẹ,
thầy, tṛ, từ vô thỉ tới nay, khiến cho họ
được tăng trưởng phước đức,
tăng trưởng thiện căn, tăng trưởng
pháp duyên, cho tới thành tựu Bồ Đề.
Ngày
Rằm tháng Bảy là ngày Phật Hoan Hỷ, do được
oai thần chẳng thể nghĩ bàn của Phật Thích
Ca cho đến mười phương chư Phật, và
hết thảy Bồ Tát, do mọi người cầu thỉnh,
mong mỏi và tích cực chuẩn bị, Tăng chúng chùa
Phóng Quang[1] và
chúng thường trụ cùng nhau phát khởi pháp hội học
tập này. Các duyên ḥa hợp, đúng là phước đức, nhân duyên thù thắng chẳng
thể nghĩ bàn chín muồi, cũng do oai thần thiện
xảo của chư Phật hiển lộ, thật sự
là khó có, khó gặp! Nhất là mọi người do nghe giảng,
hướng theo hành pháp Ban Châu, từ
các nơi trong nước mong đắc chẳng thoái chuyển
Vô Thượng Bồ Đề trong một đời, sẽ liễu giải và nhận biết rành rẽ pháp tắc,
tu tập, nương theo biển giáo pháp của đức Thế
Tôn để y giáo phụng hành. Nếu không, sẽ
gặp rất nhiều mê lầm trong quá tŕnh hành tŕ, khó thể
thành tựu.
Tại
Trung Hoa, kinh Ban Châu Tam Muội có bảy loại bản dịch,
nay c̣n ba loại:
1)
Phật Thuyết Ban Châu Tam Muội Kinh (佛說般舟三昧經, Pratyutpanna
Buddha Saṃmukhāvasthita Samādhi Sūtra), gồm một
quyển, chia thành tám phẩm.
2)
Ban Châu Tam Muội Kinh (般舟三昧經), gồm ba quyển,
mười sáu phẩm.
3)
Bản c̣n lại là bộ Đại Phương Đẳng
Đại Tập Hiền Hộ Kinh (大方等大集賢護經) mà chúng ta đang học
tập. Bản này bản dịch trễ nhất trong bảy
loại bản dịch. Khối lượng văn tự
lớn nhất, gồm năm quyển, mười bảy
phẩm, nhưng văn tự khá rơ ràng, giản dị, khiến cho người
học như chúng ta trong hiện thời dễ lư giải
và thực hành[2].
Do
thời gian hạn chế, chúng tôi tính bỏ ra năm
mươi tiếng đồng hồ để học tập
một lượt trong hai mươi lăm ngày, khiến
cho mọi người do được Tam Bảo gia tŕ, đức
Thế Tôn khải phát, sẽ có thể nhận biết rơ
ràng, hoàn chỉnh, rốt ráo về pháp Ban Châu. Sau đó, khi
tu tập, pháp tắc này sẽ trở
thành mười phần đơn giản, sáng sủa, nhẹ
nhàng. Tuy nói là giảng một lượt, nhưng quả
thật chẳng có ǵ để giảng, chúng tôi chỉ noi
theo văn tự để khuyên chỉ, hướng dẫn
quư vị mổ xẻ tự tâm. Bởi lẽ, văn tự
không ǵ chẳng từ trong Như Lai Tạng lưu xuất,
là lời chân thật của Như Lai, mà cũng là bản
chất của tâm trí chúng ta, chớ chẳng phải là
điều chi khác!
Dưới
đây, chúng ta sẽ phân tích tâm địa của chính ḿnh,
ḥng nhận biết pháp tắc này để ấn khế
tự tâm, tức là “dùng kinh ấn chứng, hứa khả
tự tâm”, khơi gợi, phát khởi tâm trí của chính
ḿnh, chứng thực “hết thảy chúng sanh vốn sẵn
là Phật”. Đấy là nguyện vọng xuất thế
duy nhất của chư Phật, là giáo ngôn thanh tịnh do
hết thảy chư Phật truyền đạt, khiến
cho chúng sanh trở về đúng với vị trí vốn
có, vượt thoát biển khổ sanh tử luân hồi, chẳng
c̣n bị luân hồi oan uổng.
3. Tựa đề
kinh
Đại Phương Đẳng
Đại Tập Hiền Hộ kinh.
大方等大集賢護經。
3.1. Hiền Hộ Bồ
Tát
Nay
chúng ta đang học kinh Hiền Hộ (賢護), tức là dùng tên người để
đặt tên kinh. Do vậy, đối với [danh
xưng] Hiền Hộ, cũng phải nên liễu giải
nhất định. Đối với ngài Hiền Hộ,
phần nhiều Ngài được gọi bằng danh
xưng Bồ Tát, hoặc Khai Sĩ, hay Đại Sĩ.
Trong mười hai bộ loại kinh điển của Tam Tạng do
đức Thế Tôn giảng giải, Ngài (Hiền Hộ
Bồ Tát) xuất hiện khá nhiều lần. Tên của Hiền
Hộ Bồ Tát (Bhadra-pāla)
được dịch theo rất nhiều cách, như Bạt
Đà Ḥa, Bạt Đà Bà La, Bạt Đà La Ba Lê v.v… Như
trong phẩm Bất Tư Nghị của kinh Lăng Nghiêm
và trong Phật Thuyết Ban Châu Tam Muội Kinh, đều
dùng danh tự Bạt Đà Ḥa. Danh xưng có khác biệt,
nhưng chỉ là một vị.
Trong
Phật Thuyết Đại Thừa Bồ Tát Tạng Chánh
Pháp Kinh, có chép Hiền Hộ
Bồ Tát là vị cầm đầu của mười sáu
vị Chánh Sĩ, là bậc tại gia Bồ Tát làm nhân vật
đại biểu hộ tŕ giáo pháp thù thắng. Trong rất
nhiều kinh điển, có nhắc đến mười
sáu vị Khai Sĩ, hoặc mười sáu vị Chánh
Sĩ, như kinh Vô Lượng Thọ có nói nhóm mười
sáu vị Chánh Sĩ do ngài Hiền Hộ làm Thượng Thủ, từ chỗ
ngồi đứng lên, đến lễ dưới chân
đức Phật. Trong kinh Ban Châu Tam Muội, bậc
thượng thủ thành tựu của hàng xuất gia là Ma
Ha Ca Diếp, c̣n vị đứng đầu truyền bá,
thủ hộ trong hàng tại gia là Hiền Hộ Bồ Tát,
mà kinh Ban Châu Tam Muội là do Hiền Hộ Bồ Tát khải
vấn, cũng như do đức Thế Tôn trả lời
mà triển khai thành một cơ chế giáo ngôn, và cũng là một cơ chế tu hành hoàn chỉnh.
Ngài Hiền Hộ chính là bậc đương cơ,
người khải phát, người thủ hộ, và truyền bá pháp Ban Châu Tam Muội.
3.2. Đại
Phương Đẳng
Chúng
ta biết Trung Hoa có rất nhiều tạng kinh, như Tích
Sa Tạng, Long Tạng, Tần Già Tạng, Tự Tạng,
Đại Chánh Tạng, Trung Hoa Tạng[3]
v.v… không dưới mấy chục loại. Trong quá tŕnh kết
tập các tạng ấy, đối với chuyện phán
định bộ loại, chia khoa mục, mỗi tạng
đều có cách phán định khác nhau. Như trong nước (Trung Quốc) th́ so ra Long Tạng lưu thông
rộng hơn. Trong tạng ấy, có cách phán định
[chia các kinh luận thành] Đại Tập, Bảo Tích, Mật
Bộ, Tiểu Thừa, Luật Bộ, Tạp Dịch,
trước tác nghị luận của cơi này và cơi khác. Trên
thực tế, Đại Phương Đẳng (大方等) là danh từ
chung để gọi các giáo điển Đại Thừa,
c̣n gọi là Đại Phương Quảng (大方廣, Mahāvaipulya), như Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, Đại
Phương Quảng Viên Giác Kinh, Đại Phương Quảng
Như Lai Tạng Kinh đều là các kinh điển thuộc
loại này. Bộ kinh nay chúng ta đang học có tên là Đại
Phương Đẳng; v́ thế, chúng ta biết giáo pháp
này là liễu nghĩa giáo ngôn (những lời dạy về
pháp liễu nghĩa), khai Quyền hiển Thật (chỉ
ra phương tiện quyền biến nhằm hiển thị
thật pháp), là giáo ngôn chân thật dành cho chúng sanh, lợi ích chân thật,
cho nên là lời giảng về Đại Thừa. “Đẳng”
là b́nh đẳng ban bố an lạc cho chúng sanh, là lời
dạy đúng lư, hiển thị pháp giới chân thật b́nh
đẳng an trụ.
Chúng
ta muốn thật sự thành tựu Ban Châu Tam Muội, mà nếu
chẳng thuận theo kinh điển để tu tŕ, sẽ
rất khó thành thục. Hiện thời, trong ngoài nước,
người tu tập hành pháp Ban Châu rất nhiều;
nhưng chúng sanh đời mạt giải đăi, buông lung,
chẳng có đủ sức để tu tập liên tục
các pháp, cho nên chẳng thể thâm nhập tu tập hai pháp
Bi và Trí, phần nhiều khó thể thành tựu, đối
với rất nhiều hành pháp, đâm ra chỉ đạt
được lợi ích hạn hẹp, ngoài ŕa. Trong khá
nhiều kinh điển, đức Thế Tôn đă thọ
kư rành rành: Trong thời đại này, chẳng hạn
như trong thời đại của chúng ta, ít ai có sức
thần thông thiện xảo. Người đắc Tam
Minh, Tứ Trí, Ngũ Nhăn, Lục Thông càng khó thấy trên cơi
đời. Nếu có bậc thành tựu, họ phần nhiều ở trong chốn phước địa
nơi núi non thù thắng, chẳng thể ở trong cơi
đời, v́ cớ sao vậy? Như trong kinh Vô Lượng
Thọ, đức Phật Thích Ca đă nói: Trong đời
ác ngũ trược này, ngũ ác, ngũ thống, ngũ
thiêu hết sức lừng lẫy. Đó là một cơ chế
chủ yếu trong nghiệp lực của chúng sanh thuộc
thời đại này!
Tựa
đề kinh có chữ Đại Phương Đẳng,
biểu thị chúng ta đang học liễu nghĩa giáo
ngôn, khiến cho các hữu t́nh thiện căn mỏng ít
trong thời mạt này sẽ có thể thành tựu đại
thiện xảo. Trong thời đại Mạt Pháp này, gặp
được giáo ngôn rốt ráo, liễu nghĩa, triệt
để th́ mới có thể thành tựu. Nếu tuân theo
thứ tự, pháp tắc nhân quả tiếp nối, sẽ
rất khó thành tựu[4].
V́ thế, trong thời đại này, các giáo ngôn thuộc về
quả địa, cũng tức là giáo ngôn liễu
nghĩa, phần nhiều được truyền bá trong
cơi đời. Như thế th́ mới có thể lợi lạc
thế gian, có thể cứu tế các hữu t́nh thiện
căn hiếm hoi, tự kiêu mạn, có thể độ
thoát, thành tựu các hữu t́nh kiêu mạn, ương ngạnh,
khó giáo hóa trong đời mạt. Nêu một thí dụ, nếu
một người rơi xuống hầm hố rất nông, sẽ
rất dễ tự thoát ra; nhưng nếu
rơi xuống hang sâu, hoặc giếng sâu, muốn cứu
vớt các loại hữu t́nh ấy, sẽ cần đến
sức lực to lớn, cần đến phương tiện
đại thiện xảo. Do đó, thuở đức Thế
Tôn tại thế, pháp cơ bản của đại chúng
xuất gia là quy y, cho tới khi thọ giới Sa Di, sẽ
có thể chứng đắc từ Sơ Quả cho đến
Tứ Quả A La Hán. Thế nhưng trong thời đại
này, hữu t́nh đấu tranh kiên cố, Ngă Chấp kiên cố,
coi phi pháp là chánh pháp, coi tri kiến bất chánh là chánh kiến.
Kết quả là họ phần nhiều tu tập tri kiến chẳng chánh đáng, chẳng buồn
nói đến Tam Quy Y! Dẫu hằng ngày tụng cả
đống kinh điển, lễ sám, tâm trí chúng ta rất
khó có cơ chế tương ứng được, làm
sao có thể thật sự tương ứng với pháp
cho được? V́ thế, trong thời đại Mạt
Pháp, điều rơ ràng triệt để là giáo ngôn về
quả địa sẽ khiến cho chúng sanh rốt ráo quy
y, rốt ráo nương nhờ, rốt ráo tùy thuận. V́ lẽ
nào? Nó b́nh đẳng bố thí, chẳng bỏ sót bất cứ
một kẻ hữu duyên nào, thí giáo rộng khắp các
căn cơ, tức là thí giáo b́nh đẳng. Bộ kinh
Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền
Hộ này cũng giống như thế, ban bố cơ hội
ngộ nhập b́nh đẳng cho hết thảy chúng sanh.
Giảng
kinh Ban Châu Tam Muội quả thật là một đại
nhân duyên, v́ đă nhiều năm ngần ấy, tuy có khá nhiều
vị xuất gia và tại gia Bồ Tát tu tập hành pháp
Ban Châu, nhưng mọi người đối với pháp
Ban Châu liễu giải rất ít. Thường có người
nói: Hành pháp Ban Châu là
hành pháp để bậc hiền thánh, hoặc người
đại lực, người thành tựu thủ hộ,
tu tập; chứ kẻ phàm phu, hoặc cũng có thể
nói là “tôi” có thể tu tập được sao? Hoặc
“các vị là người như vậy th́ mới tu tập
được”. Đúng không? Ở đây, bộ kinh Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ sẽ
cung cấp cho quư vị sự nhận thức, giáo huấn
và hướng dẫn cặn kẽ, rơ ràng cho mỗi
người chúng ta. Nếu kinh điển chẳng thể
thật sự lưu thông trong xă hội, khiến cho mọi
người đối với hành pháp này có cách nh́n chánh xác,
nhận thức sâu đậm, hoặc nói cách khác là có sự
liễu giải chánh xác đối với Ban Châu Tam Muội,
sẽ rất khó tu tập tương ứng, rất khó thể
thành tựu được!
Hiện
thời, người hành Ban Châu càng ngày càng nhiều, trong
cơ duyên như thế, mọi người đề xuất
học tập kinh Ban Châu Tam Muội. Trước kia,
cũng có rất nhiều thiện tri thức đề nghị
học tập kinh điển này, tôi đề nghị mọi
người hăy cùng nhau đọc tụng th́ sẽ rất
tốt. V́ đức Thế Tôn đă thọ kư: Trong thời Mạt Pháp, pháp sư giảng kinh phạm
nhiều lầm lỗi, c̣n pháp sư tụng kinh th́ giống
như Phật tuyên dương, giáo hóa, có nhiều công đức.
V́ sao vậy? Hữu t́nh thời Mạt Pháp cho đến
những vị thuộc vào địa vị thiện tri thức, cũng có rất nhiều vị tâm thức bị ô
nhiễm, khiến cho các tri kiến chẳng tương ứng
với Phật pháp được lưu hành trong
thế gian, nhuốm bẩn thế
gian, khiến cho hữu t́nh mờ mịt, khiến cho các hữu
t́nh vốn đă nghi hoặc Phật pháp càng thêm mê mờ,
càng chẳng tương ứng với Phật pháp. Đó
là điều đại kỵ trong giảng kinh thời Mạt
Pháp, mà cũng là lỗi lầm dễ phạm nhất trong
khi giảng kinh vào thời Mạt Pháp. Do vậy, đích xác
là trong thời Mạt Pháp, người giảng kinh chẳng
đạt được thiện xảo, chẳng thể
trực tiếp đạt được công đức
và lợi ích như người tụng kinh! V́ thế, trước
khi chúng ta học tập kinh Ban Châu, đại khái dùng thời
gian một tháng để đọc tụng. Nay giảng bộ
kinh này, thật ra cũng là v́ để nhiều người
đọc tụng hơn, liễu giải nguyên văn của
bộ kinh điển này, liễu giải ư nghĩa chân thật
và như thật của đức Thế Tôn, cũng
như để trực tiếp cúng dường bộ kinh
này, hồi thí cho kẻ hữu duyên, khiến cho chúng ta
nương theo kinh này mà tu tập pháp tắc, nương
theo kinh mà thành tựu pháp tắc. Như thế th́ mới sẽ
chẳng có bất cứ chuyện ủy khuất hay đi
đường ṿng. Đó cũng là duyên khởi và mục
đích học tập của chúng ta, mong cho càng nhiều hữu
t́nh liễu giải hành pháp Ban Châu, mong sao sẽ càng nhiều
hữu t́nh đạt được bất thoái chuyển
đối với Vô Thượng Bồ Đề ngay trong
một đời!
Trong
pháp Ban Châu, hiện thời, mọi người
chưa bàn đến cơ chế để đích thân chứng
nhập môn tam-muội này, phần lớn là trong khi tu tập,
quan sát, trong khi tu hành, sẽ không ngừng thâm nhập liễu
giải. Nếu muốn thật sự liễu giải hoàn
chỉnh pháp này, cần phải học tập kinh điển,
học tập sự nhận thức đối với pháp
này của lịch đại tổ sư và các vị thiện
xảo trải các đời. Cũng như thông qua sự
tu tập của chúng ta, khiến cho Ban Châu Tam Muội
được truyền bá rộng khắp trong cơi đời,
lợi ích rộng khắp trời người. Dựa trên
nguyện vọng tốt đẹp như vậy, chúng ta học
tập kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập
Hiền Hộ. Do ngôn ngữ trong kinh này khá đơn giản,
rơ ràng, chúng ta có thể trực tiếp hồi thí [công đức
ấy], cho đến giao lưu rộng răi, cổ vũ,
khích lệ mọi người trực tiếp thâm nhập
kinh tạng và pháp tắc tu tập. Do vậy, nói giảng
kinh chẳng qua chỉ là học tập, cổ vũ, khích
lệ, mang tâm trí tùy hỷ mà thực hiện vậy!
V́
sao học tập tại Hằng Dương Am[5]?
Quả thật là một cơ hội thù thắng, khó có,
cũng là v́ chúng thường trụ ở đây tuy hiện
thân nữ, thật sự là Bồ Tát. V́ sao vậy? Một
năm rưỡi qua, họ niệm Phật, kinh hành chẳng
gián đoạn, dùng h́nh thức đoàn thể liên tục
thay phiên để hành tŕ pháp tắc Ban Châu, mười phần
cảm động ḷng người, mười phần khó
có! Nhưng cũng xuất hiện khá nhiều vấn đề;
do vậy, cơ hội học tập ở nơi đây
càng thêm chín muồi! Hiện thời, Hằng Dương Am
có số người thường trụ nhất định,
mười mấy người, hai mươi mấy
người, hoặc ba mươi mấy người,
nhưng một năm trước vẫn chưa phải
là như thế. Đấy là một pháp duyên khởi, v́ có
nhóm các bà ấy tập thể tu tập Ban Châu, có cơ chế
luân phiên tu tập Ban Châu suốt ngày đêm, khiến cho người khác rất
cảm động. Họ tu tập suốt một năm
rưỡi, thật sự kéo dài đến nay. Mọi
người đối với đạo tràng khăng
khăng chẳng mệt, thường hằng, tập thể
thủ hộ pháp tắc này, đều rất
cảm động, hoặc thật sự ngưỡng mộ.
Khá nhiều người được hành vi của các bà
gia tŕ, cảm động, cũng tu tập pháp tắc Ban
Châu. Chúng thường trụ tại chùa Phóng Quang, cũng
như các vị thuộc các đạo tràng khác cũng
đều đề nghị có thể học tập kinh
Ban Châu Tam Muội hay không, nhưng do nhân duyên thuộc các phương diện khác chẳng
chín muồi, măi cho đến nay vẫn chưa học tập.
Lần này, chúng thường trụ tại Hằng
Dương Am đề xướng là v́ có ṭa điện
đường mới được đưa vào sử
dụng, cũng như do nhu cầu hành pháp của đạo
tràng mà học tập kinh Ban Châu Tam Muội. Các duyên ḥa hợp,
cho nên chúng ta tới học tập tại đây. Trên
đây cũng là duyên khởi và mục đích chúng ta tới
nơi này để học tập kinh Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ; ở
đây, tôi cũng thưa tŕnh luôn cùng mọi người.
3.3. Đại Tập
Chúng
ta hăy xem hai chữ Đại Tập (大集). Trong tạng
kinh có Đại Tập Bộ[6],
bộ phận kinh điển này là do đức Thế Tôn
đối trước các vị đại Bồ Tát trong
Dục Giới và Sắc Giới, tuyên thuyết rộng khắp
giáo ngôn liễu nghĩa Đại Thừa. Các giáo pháp ấy
được tụ tập lại, gọi chung là Đại
Tập Kinh[7]. Nay
chúng ta học tập kinh này, trên thực tế cũng là do
được chư Phật Như Lai gia tŕ, [cũng như v́] cơ hội của
các vị đại Bồ Tát chúng ta, tức là cơ duyên
đại giác ngộ, cơ duyên dụng công đă chín muồi.
Bởi lẽ, Bồ Tát, [hay nói đầy đủ là] Bồ
Đề Tát Đỏa, tức là những vị gặp
pháp bèn dũng mănh, tu tập thanh tịnh. Người hiện
thời buông lung, dẫu gặp pháp, phần nhiều chẳng
hành, dẫu gặp pháp chẳng sanh ḷng tôn trọng, vuột
mất cơ hội ngay trong tầm tay, [trôi lăn] trong
gịng sanh tử, chẳng thể tự
thoát ra được, đúng là khiến cho chư Phật
thương xót!
“Đại
Tập” c̣n có thể nói cách khác, tức là [kinh pháp
được] đức Phật nói trước đại
chúng. Nói tới “đại chúng” th́ không chỉ là bậc
đại Bồ Tát, mà c̣n là nói tổng quát các hữu t́nh
trong chín pháp giới, cũng đều được gọi
là Đại Tập. Nay chúng ta tiếp xúc, học tập
kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập
Hiền Hộ, đúng là chuyện chẳng thể nghĩ
bàn, v́ kinh Ban Châu được truyền bá rất rộng
tại Trung Hoa, nhưng người thật sự học
tập, tu tập kinh điển này, tuy hiện thời dần
dần nhiều hơn, nhưng nếu so với khá nhiều
bộ kinh điển khác như kinh A Di Đà, kinh Kim Cang, và kinh Diệu Pháp Liên Hoa th́ người liễu giải
kinh này vẫn là rất ít. Nhưng chúng ta có cơ duyên
như thế này để liễu giải, nhận biết
kinh này, quả thật là đời trước chúng ta
đă có nhân duyên rất sâu với pháp Ban Châu. Nếu chẳng
có nhân duyên như vậy, dẫu một kiếp, hai kiếp,
ba kiếp, bốn kiếp muốn nghe pháp này, cũng chẳng
thể có cơ duyên chín muồi được! Đối
với nhân duyên như thế nào th́ mới có thể học
tập hành pháp Ban Châu này, trong kinh này, đức Phật
đă b́nh đẳng rộng răi tuyên nói, trong phần sau, chúng tôi sẽ nói đến.
3.4. Kinh
Chữ
Kinh có nghĩa là “xuyên suốt”, hoặc “tiếp nối”,
ví như đường nẻo có thể khiến chúng sanh
noi theo mà đi. Chúng ta học tập
kinh điển này, cũng là cậy nhờ Tam Bảo gia
tŕ, Phật Thích Ca gia tŕ, Hiền Hộ Bồ Tát khơi gợi
mà có thể thâm nhập kinh tạng, liễu giải Ban
Châu, liễu giải Ban Châu tam-muội, liễu giải cách
tu nơi nhân địa và cách tu nơi quả địa của
Ban Châu tam-muội, liễu giải nội dung thành tựu
chân thật, cội nguồn và điều kiện cần
thiết của Ban Châu tam-muội. Nếu chẳng liễu
giải những điều ấy, nói Ban Châu th́ chẳng
đắc tam-muội, nói tam-muội sẽ chẳng thể
tương ứng với Ban Châu, nói Ban Châu tam-muội, chẳng
thể liên quan đến bản thân chúng ta. Nếu là
như vậy, dẫu pháp tắc tốt đẹp, đối
với chúng ta có lợi ích chi đâu? V́ vậy, nói theo phía
chúng ta, chuyện học tập đâm ra mười phần
quan trọng. Bất luận các vị Bồ Tát từ bên
ngoài tới, hay vốn ở đây từ trước, chúng
ta có cơ hội học tập, nhận biết pháp tắc
này, lại c̣n đặc biệt ấn định ngày Phật
Hoan Hỷ làm ngày khởi đầu học kinh Ban Châu Tam Muội,
cũng tức là kinh Đại Phương Đẳng
Đại Tập Hiền Hộ, đúng là thiện
căn, phước đức, nhân duyên chẳng thể
nghĩ bàn! Cơ hội như vậy thật sự là do
oai thần và phước đức của Tam Bảo,
chư Phật, Bồ Tát gia tŕ, ban bố, cũng như do
cơ chế thiện căn chín muồi của bản thân chúng ta cùng ḥa hợp
thành. Chúng ta thấy
chúng thường trụ trong đạo tràng này vận dụng
tâm tư rất lớn, mua rất nhiều hoa tươi, biểu
thị pháp này nhất định sẽ tạo ra kết
quả chẳng thể nghĩ bàn, giống như hoa thơm
ngát thế gian, tịnh hóa thế gian. Chúng ta học tập
kinh Ban Châu Tam Muội cũng phải như thế, khẳng
định là có một duyên khởi rất tốt đẹp
và thanh tịnh.
3.5. Dịch giả
Tùy
Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa cập Cấp Đa
đẳng dịch.
隋天竺三藏闍那崛多及笈多等譯
(Đời
Tùy, Tam Tạng pháp sư xứ Thiên Trúc là Xà Na Quật
Đa và các vị như Cấp Đa v.v… dịch)
“Tùy”
tức là nhà Tùy[8].
Thiên
Trúc (Sindhu) tức là Ấn Độ. Cổ nhân gọi là
Ngũ Thiên Trúc, tức Ngũ Ấn Độ, [tức là Ấn
Độ thuở ấy] được chia thành năm phần
Nam, Bắc, Đông, Tây, Trung Ương. Vùng Đại Lư hiện
thời từ đời Nguyên trở về trước vẫn
là nước
Đại Lư, tức nước Nam Chiếu[9].
Cương giới rất lớn, đại khái là gần
như cương vực của Trung Quốc hiện thời.
Phía Tây đến Việt Nam, phía Bắc đến tận
cùng Khang Tạng của Tứ Xuyên, Tây giáp ranh Ấn Độ.
Xét theo ghi chép th́ cũng từng là xứ Ma Yết Đà của
Ấn Độ[10].
“Tam
Tạng” ở đây là “Tam Tạng pháp sư”. Tam Tạng
bao gồm Kinh Tạng, Luật Tạng, Luận Tạng. Tại Trung Hoa,
xưa nay những vị có thể gọi là Tam Tạng pháp
sư rất ít. Mọi người quen thuộc Đường
Tam Tạng pháp sư, tức pháp sư Huyền Trang đời
Đường, là một nhân vật vĩ đại, là
nhân vật có tánh chất lịch sử chẳng thể
nghĩ bàn, cũng là một nhân vật mang tánh chất thế
giới. Tại Ấn Độ, tiếng tăm của
Ngài c̣n vang dội hơn so với tất cả những
người khác tại Trung Hoa, gần như không ai chẳng
biết tới Ngài. Hiện thời, rất nhiều
người di tích cổ được khai quật đều
dựa theo [các ghi chép] trong Đại Đường Tây Vực
Kư của ngài Đường Tam Tạng như một bản
hướng dẫn khảo chứng.
“Xà
Na Quật Đa cập Cấp Đa” là tên của [các vị
dịch sư] người Ấn Độ. Chúng ta biết người Ấn Độ
có hai đại ngữ hệ, ngữ hệ tiếng Phạn
(Sankrit, Saṃskṛta) và ngữ
hệ Ba Lỵ (Pāḷi), gần
giống như thể loại Văn Ngôn và Bạch Thoại
trong kết cấu ngôn ngữ của Trung Hoa. Tiếng Ba Lỵ
chỉ có ngôn ngữ, không có văn tự. Văn bản tiếng
Ba Lỵ được ghi chép như thế nào? Có khi dùng Anh
văn (tức là dùng mẫu tự Latin) để ghi chép,
có khi dùng tiếng Dai (傣,
Thái)[11]
vùng Bản Nạp (thuộc khu tự trị Tây Song (Sibsongbanna) tỉnh Vân Nam)
để ghi chép, có khi dùng văn tự Thái Lan để
ghi chép. Sử dụng rất nhiểu văn tự địa
phương trong từng quốc gia để ghi chép cách
đọc trong tiếng Ba Lỵ, gọi là “ngữ hệ
Ba Lỵ”.
“Xà
Na Quật Đa cập Cấp Đa”, danh tự này rất
dài, thông thường chúng ta không phiên dịch.
Nếu dịch ra, sẽ nói đơn giản là Đức
Chí (Jñānagupta). Vị
này thuộc chủng tánh Sát-lợi, trong nhà có năm anh em,
ngài Quật Đa nhỏ nhất. Ngài xuất gia từ bé, là
một vị Tam Tạng pháp sư giỏi về du hóa (đi
khắp nơi thuyết pháp giáo hóa). Theo [sử
liệu] ghi chép, thoạt đầu cùng xuất phát sang
Trung Hoa, Ngài có mười người làm đồng bạn.
Hành tŕnh rất gian khổ, sáu người mất mạng,
chỉ c̣n lại bốn người. Thoạt đầu,
họ tới Trường An, tới chùa Thảo Đường.
Hiện thời, tại Tây An c̣n có chùa Thảo Đường,
cũng là nơi dịch kinh sớm nhất của La Thập
đại sư. Tùy Văn Đế khá ưu đăi ngài Quật
Đa Tam Tạng, thỉnh Ngài phiên dịch kinh Phật.
Trong quá khứ, các vị Tam Tạng pháp sư đến
Trung Hoa, đều do được đế vương
thỉnh mà kiến lập đạo tràng dịch kinh. Do vậy,
nay chúng ta đọc các bản dịch này, cũng là do hoàng
quyền của Tùy Văn Đế gia tŕ, chấp thuận,
mới được phiên dịch. Quật Đa Tam Tạng
suốt đời phiên dịch ba mươi bộ kinh, gồm
một trăm bảy mươi sáu cuốn. Nay chúng ta học
tập năm quyển Đại Tập Hiền Hộ
trong số đó. Ngài viên tịch vào năm Khai Hoàng 20 (600),
thọ bảy mươi tám tuổi.
4. Phẩm Tư Duy thứ
nhất
(Kinh)
Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền
Hộ Kinh quyển đệ nhất.
Hiền Hộ phần, Tư Duy phẩm
đệ nhất.
(經)大方等大集賢護經卷第一。
賢護分思惟品第一。
(Kinh:
Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập
Hiền Hộ, quyển thứ nhất.
Hiền
Hộ phần, phẩm Tư Duy thứ nhất).
Mỗi
bộ kinh đều có ba bộ phận lớn là Tự Phần,
Chánh Tông Phần, và Lưu Thông Phần. Nay chúng ta học tập
Tự Phần.
(Kinh)
Như thị ngă văn, nhất thời, Phật tại
Vương Xá thành, Ca Lan Đà Trúc Viên Tinh Xá, dữ đại
tỳ-kheo chúng ngũ bách nhân câu.
(經)如是我聞。一時佛在王舍城迦蘭陀竹園精舍。與大比丘眾五百人俱。
(Kinh:
Tôi nghe như thế này, một thời, đức Phật
ngự tại Trúc Viên Tinh Xá Ca Lan Đà thành Vương Xá,
cùng với năm trăm vị tỳ-kheo nhóm họp).
Kinh
điển vừa mở đầu, đă bao gồm sáu loại
thành tựu:
“Như
thị ngă văn” biểu thị Chánh Tín Thành Tựu và
Văn Thành Tựu. Thuở đó, trong khi kết tập
kinh điển với năm trăm vị A La Hán, tôn giả
A Nan thăng ṭa tuyên thuyết, hiện quang minh và tướng
hảo giống như đức Thế Tôn, âm thanh mỹ
diệu giống như đức Thế Tôn, nội dung
ngôn từ giống như đức Thế Tôn, có người
sanh nghi nói “chẳng phải là A Nan đă thành Phật
ư?” V́ thế, Ngài dùng câu “như thị ngă văn” để
trừ bỏ nghi vấn ấy, nêu rơ [những điều
tôi đang nói] là do nghe đức Thế Tôn nói. Do đó, “như
thị ngă văn” bao gồm Tín Thành Tựu và Văn Thành
Tựu.
“Nhất
thời” là Thời Thành Tựu.
“Phật”
là Chủ Thành Tựu.
“Vương
Xá thành Ca Lan Đà Trúc Viên Tinh Xá”[12]
là Xứ Thành Tựu.
“Dữ
đại tỳ-kheo chúng ngũ bách nhân câu” là Chúng Thành Tựu.
Phần sau có nói năm trăm vị
ấy “giai thị A La Hán” (đều là bậc A La
Hán), biểu thị quyến thuộc
trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn. Trong sự thành tựu
của hết thảy các pháp hành tŕ, nếu chẳng biểu
đạt quyến thuộc, pháp tắc ấy sẽ
trơ trọi, sẽ chẳng có sức, chẳng thể
tiến nhập được, sẽ chẳng thể truyền
bá rộng răi được!
Sáu
loại thành tựu này chính là cách thức cơ bản của
kinh điển. Trong lời dạy về cơ cấu truyền
pháp của Long Thọ Bồ Tát, Ngài cũng đề ra
năm loại thành tựu. Nói chung, dùng các loại thành tựu
ấy để chứng thực kinh điển này vốn
là chân thật, khiến cho chúng sanh ĺa nghi ngờ, lo ngại. Giảng giải
kinh điển th́ cần phải nêu bày như thế,
chứng tỏ kinh điển này chân thật chẳng dối,
chẳng phải do người đời sau bịa đặt.
V́ nếu một bộ kinh điển có nguồn gốc
chẳng rơ ràng, nhận thức của chúng ta đối với
căn cứ của bộ kinh điển sẽ trở
thành ngờ vực, băn khoăn, rất khó y pháp phụng
hành, rất khó thâm nhập tu tập thành tựu được!
(Kinh)
Giai thị A La Hán.
(經)皆是阿羅漢。
(Kinh:
Đều là A La Hán).
La
Hán là “sở tác dĩ biện, phạm hạnh dĩ lập”
(việc làm đă hoàn tất, phạm hạnh đă lập),
là bậc Ứng Cúng (đáng tiếp nhận sự cúng
dường) trong tam giới, tức là hết thảy trời,
người trong Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc
Giới đều nên cúng dường Ngài, đều nên
đảnh lễ, đều nên tôn trọng. V́ thế, A
La Hán c̣n được gọi là Ứng Cúng (應供). Chúng ta đều biết trong mười tôn hiệu
của Như Lai, cũng có danh hiệu Ứng Cúng này.
(Kinh)
Chư lậu dĩ tận.
(經)諸漏已盡。
(Kinh:
Các lậu đă hết).
“Sở
tác dĩ biện, phạm hạnh dĩ lập, bất
vi hậu hữu” (việc làm (tức việc tu học
hữu lậu) đă hoàn tất, phạm hạnh đă lập,
chẳng c̣n tạo nghiệp cho thân sau); đó là tiêu chuẩn
của bậc A La Hán.
(Kinh)
Vô phục phiền năo, hàm đắc tự tại.
(經)無復煩惱。咸得自在。
(Kinh:
Chẳng c̣n phiền năo, đều được tự tại).
Trong
phiền năo của hữu t́nh, “tham, sân, si, mạn,
nghi” là năm món Tư Hoặc phiền năo thô nặng, là
các phiền năo khá tŕ độn (năm Độn
Sử). Ngoài ra, c̣n có Thân Kiến, Biên Kiến, Tà Kiến, Kiến
Thủ Kiến, và Giới Cấm Thủ Kiến là năm
món Kiến Hoặc phiền năo, được gọi là
năm Lợi Sử, tổng cộng là mười căn
bản phiền năo. Ngoài ra, c̣n có Tùy phiền năo, trong đó
lại có thượng phẩm Tùy phiền năo, trung phẩm
Tùy phiền năo, và hạ phẩm Tùy phiền năo.
“Vô
phục phiền năo” (chẳng c̣n phiền năo), tức là
các phiền năo trên đây đều đă hết. A La Hán
chưa hết tập khí, nhưng đă hết phiền
năo. Trong kinh điển của đức Thế Tôn, rất
nhiều vị A La Hán vẫn c̣n biểu hiện tập khí
rất lớn, nhưng đă hết phiền năo. Cũng có
nghĩa là nói theo sự đích thân chứng đắc trong
tâm trí th́ nhân duyên phiền năo đă bị đoạn trừ,
nghiệp duyên tập khí tái sanh cũng đă đoạn trừ,
giống như cội cây to đă bị nhổ bật gốc
rễ, đặt trên một tảng đá lớn, vĩnh
viễn chẳng thể mọc lại. Nhưng trong khi ấy,
chính nó vẫn có thể do lượng nước trong bản
thân mà trổ một số mầm non. Do đó, A La Hán
chưa hết tập khí, nhưng cội rễ sanh tử,
cội rễ phiền năo đă đoạn trừ,
được gọi là “vô phục phiền năo, hàm đắc
tự tại” (chẳng c̣n phiền năo, đều
được tự tại). Gánh nặng đă buông xuống,
vĩnh viễn giă biệt luân hồi, đó là bậc A La
Hán. Nhưng bọn phàm phu hữu t́nh chúng ta vẫn đeo
gánh nặng luân hồi, gánh nặng phiền năo, chẳng thể
tự chế ngự được!
(Kinh)
Tâm thiện giải thoát, huệ thiện giải thoát.
(經)心善解脫。慧善解脫。
(Kinh:
Tâm khéo giải thoát, huệ khéo giải thoát).
Từ
ngữ “giải thoát” có nghĩa là đối với
ác duyên và các thứ nhân duyên nghịch cảnh đều chẳng
vướng mắc, liễu đạt nguồn cội.
Đó là nói đến tướng trạng của giải
thoát. Chúng ta thấy có kẻ sau khi phạm pháp, sẽ bị
xiềng xích, c̣ng tay. Đó gọi là “triền phược” (纏縛, trói buộc), nhưng “tâm thiện giải
thoát” tức là vĩnh viễn giă biệt hết
thảy trói buộc. “Huệ thiện giải thoát” cho
thấy không chỉ tâm chẳng vướng mắc, mà huệ
cũng chẳng vướng mắc, chẳng vướng
mắc trong các thứ pháp, cũng chẳng đắm nhiễm,
mà cũng chẳng dính mắc các loại diệu dụng.
Thường là trong các hành pháp, đă phá Ngă Chấp th́ Pháp
Chấp lại xuất hiện.
(Kinh)
Điều phục nhất thiết, do như đại
long.
(經)調伏一切。猶如大龍。
(Kinh:
Điều phục hết thảy giống như rồng
lớn).
Người
Hoa tự xưng là “truyền nhân của rồng”,
hoàng đế lại xưng là “chân long thiên tử”.
Trong Phật giáo, Long là mạnh mẽ, đại oai đức,
là kẻ thủ hộ của kho tàng to lớn.
(Kinh)
Sở tác dĩ biện, chúng hạnh cụ bị, khí xả
trọng đảm, bất thọ hậu sanh.
(經)所作已辦。眾行具備。棄舍重擔。不受後生。
(Kinh:
Việc làm đă xong, trọn đủ các hạnh, buông bỏ
gánh nặng, chẳng nhận lấy đời sau).
Thông
thường, khi A La Hán đă chứng quả, tự nhiên sẽ
nói ra bốn câu kệ. Cũng có thể nói bốn câu ấy
là tiêu chí (logo) của A La Hán, nhưng mỗi kinh điển
đều có cách nói khác nhau, như “bất thọ hậu
sanh” th́ có kinh ghi là “bất vi hậu hữu”. Chúng
ta có thể quan sát cử tâm động niệm của
chính ḿnh trong hiện tiền có “hậu hữu” (後有, thân trong đời
sau) hay không? Các vị đại thiện tri thức, A La
Hán, cùng với các vị Bồ Tát đă chứng đắc
từ Bát Địa trở lên, tâm trí hậu hữu rất
khó sanh khởi. Bởi lẽ, các vị ấy đă cắt
đứt phiền năo, đạt tới địa vị
vô công dụng, hết thảy hành vi đều chẳng cậy
vào tạo tác, chẳng nhờ vào tư duy, chỉ dựa
vào phương tiện quyết trạch (抉擇, chọn lựa), cũng có nghĩa là hết thảy
các hành vi đều là phương tiện, chẳng phải
dùng đến sức lực, chẳng giống như chúng
ta [do phải luôn
vận dụng thể lực và tâm lực] thường có
cảm giác mệt mỏi, nhọc nhằn!
Tâm
lực giữa phàm và thánh sai biệt rất lớn; đấy
chẳng phải là lời lẽ hư giả. Năm nay,
tôn giả Hỗ Ba Ôn Trung (Khruba Bonchum)[13] của Nam Truyền
Phật giáo tới chỗ chúng ta. Có một lần, tôi dùng thời gian nửa
ngày để so sánh khối lượng công việc của
chính ḿnh với Ngài. Sau đó, tôi nói: “Ngài Hỗ Ba, Ngài là Bồ Tát, c̣n tôi tuyệt đối là phàm phu!” V́
sao tôi có thể phán định địa vị của
chính ḿnh? Mật độ hoạt động của Ngài hết
sức lớn, cơ bản là chẳng gián đoạn. Tất
cả các hành động đều có tánh chất liên tục,
chẳng cần phải suy nghĩ! Nếu quư vị phải
suy nghĩ, sẽ mệt mỏi rất nhanh, cần
phải nghỉ ngơi, c̣n mật độ xử lư công
việc trong tâm Ngài chẳng phải do tư duy mà có
được! Quư vị có thể trực tiếp cảm
nhận, có thể lănh hội, quan sát, so sánh [mà nhận biết].
Hễ so sánh, liền biết chính ḿnh thuộc phàm hay thánh,
chẳng cần phải nói chi nữa! Quư vị chẳng cần
phải khoe chính ḿnh như thế nào! Ngài làm rất nhiều chuyện,
tâm lực của quư vị chẳng thể theo kịp nổi!
Do vậy, tôi vẫn cổ vũ, khích lệ mọi người
hăy khéo tu tập Phật pháp, ḥng đạt được
niềm vui thù thắng nơi pháp, tức là niềm vui thuộc
về địa vị thánh nhân. Dẫu chẳng nhập
quả vị, [chỉ là] địa vị tương tự,
vẫn là chẳng thể nghĩ bàn. Quư vị sẽ có
đại thiện xảo, đại phương tiện,
đại oai đức, sự liên tục to lớn, tức là dẫu phải liên tục lo liệu mọi việc mà ít tốn sức,
đỡ tốn sức mà khởi tác dụng, an ủi thế
gian mà đỡ tốn sức!
Từ
sự so sánh ấy, nh́n vào mỗi chuyện tôn giả thực
hiện, tôi bèn suy xét chính ḿnh sẽ làm như thế nào,
Ngài làm một chuyện, tôi suy nghĩ đôi chút. Khoảng hai mươi
chuyện, tâm tôi đă có chút mệt mỏi. Từ năm
mươi chuyện trở đi, tôi có cảm giác nhọc
nhằn. Tới một trăm lẻ tám chuyện, tôi làm
không nổi nữa, nhưng Ngài vẫn tiếp
tục, vẫn trước sau như một đối
đăi mỗi nhân duyên trong hiện tiền. Tôi kiểm lại
các chuyện, xét theo con số khởi tâm động
niệm th́ tuy cũng được, nhưng quan sát, bèn thấy
sức tác dụng sai khác quá lớn! Thông thường, chúng
ta làm chuyện đầu tiên rất nghiêm túc, chuyện thứ
hai c̣n tạm được, chuyện thứ ba c̣n gắng
gượng. Chuyện thứ tư, thứ năm, cơ bản
là đă bớt chú ư, sự nhạy bén, nhanh nhẹn bị
giảm thấp, tri kiến lui sụt, nguyện vọng giảm
bớt, sự yêu thích hạ thấp, sự chuyên chú hạ
thấp. Kể từ hai mươi chuyện trở
đi, sẽ chẳng muốn làm, sẽ bắt đầu
phải cổ vũ chính ḿnh: “Hăy làm đi! Như thế sẽ
có lợi ích cho thế gian. Hăy làm đi, đây là thiện sự.
Hăy làm đi, như thế sẽ khiến cho Phật pháp trụ
thế”, cũng có nghĩa là bắt đầu mệt mỏi.
Đợi cho tới khi [phải làm] năm mươi chuyện,
đă bắt đầu mệt mỏi, chán ngán. “Ối trời!
Chuyện này có thể lợi ích mọi người,
nhưng chẳng lợi ích ǵ cho ta hết, chẳng cần làm nữa!” Nẩy sanh ư niệm ấy, bắt
đầu chán ngán, dần dần bắt đầu buông bỏ. Sức
liên tục của tâm trí chúng ta là do tạo tác, do chọn lựa,
tức là từ so sánh được mất mà ra. V́ thế,
tánh [quyết tâm thực hiện] liên tục chẳng dễ
dàng đâu nhé, rất dễ chán chường! “Phàm” là
tầm thường, chẳng có sức, chán ngán, so với sự hiểu
biết của bậc thánh, bậc trí, bậc thành tựu.
V́ thế, mỗi địa vị trước chẳng bằng
địa vị sau. Các vị thiện tri thức vẫn
phải cổ vũ, khích lệ mọi người thâm nhập,
tu tập Phật pháp, thành tựu các loại đức thù
thắng, quả thù thắng, lợi ích thù thắng nơi
pháp, đó là chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế, học tập
pháp Ban Châu th́ ắt phải hành, lại c̣n cần phải
nghiêm túc tu tập, quan sát pháp tắc này.
(Kinh)
Hành ư b́nh đẳng, hoạch chân kỷ lợi, an trụ
chánh giáo, đắc đáo bỉ ngạn,
duy trừ trưởng lăo A Nan nhất nhân.
(經)行於平等。獲真己利。安住正教。得到彼岸。唯除長老阿難一人。
(Kinh: Hành b́nh đẳng, đạt
được lợi ích chân thật cho chính ḿnh, an trụ
trong chánh giáo, đă đạt tới bờ kia, chỉ trừ
một ḿnh trưởng lăo A Nan).
Trong năm trăm vị ấy, chỉ có
trưởng lăo A Nan chưa chứng Tứ Quả, hăy c̣n lẩn
quẩn nơi Sơ Quả. Chúng ta đều biết, khi
đức Phật Thích Ca nhập diệt, ngài A Nan c̣n thuộc
Sơ Quả, tôn giả Ca Diếp thấy tám lầm lỗi
của ngài A Nan[14], không chấp thuận Ngài kết
tập kinh điển. Kinh này nhắc đến
năm trăm vị tỳ-kheo, cũng có thể là năm
trăm vị A La Hán tỳ-kheo kết tập kinh điển.
(Kinh)
Nhĩ thời, phục hữu ngũ bách chư tỳ-kheo,
ư thần triêu thời, các tùng trụ xứ, nghệ Thế
Tôn sở, cung kính hiệp chưởng, đảnh lễ Phật
túc, thoái tọa nhất diện.
(經)爾時復有五百諸比丘。於晨朝時。各從住處。詣世尊所。恭敬合掌。頂禮佛足。退坐一面。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, lại có năm trăm vị tỳ-kheo,
vào lúc sáng sớm, mỗi vị từ chỗ ở, đến chỗ đức Thế Tôn, cung kính chắp
tay, đảnh lễ dưới chân Phật, lui qua ngồi
một phía).
Người
xưa giải thích khi giải thích “thoái tọa nhất diện”,
nói có sáu điều nên tránh: Một là đừng quá xa; hai
là đừng quá gần; ba là chẳng ở nơi đầu
gió[15];
bốn là chẳng ở chỗ cao; năm là chẳng nên ở
ngay trước mặt; sáu là chẳng ở phía sau. Trước
kia, khi chúng tôi theo hầu thầy, chẳng hạn như
đeo đăy của ân sư, đă có yêu cầu không thể dẫm lên bóng của thầy (tức là không đi quá
gần thầy), không thể đứng trước đầu
gió, chẳng thể đứng hay đi nơi vị trí tốt
hơn thầy. Đấy là yêu cầu trong việc phụng
sự thầy. Quư vị chớ nên gây khó khăn cho thầy,
phải tạo sự thoải mái và thuận tiện cho thầy.
“Thoái tọa nhất diện” ở đây cũng giống
như thế, nhằm thuận tiện cho sự tuyên
dương giáo hóa của đức Thế Tôn, thuận tiện
cho việc tiếp đăi người đến sau. Do thời
gian hạn chế, chúng tôi chẳng thể giảng kinh cặn
kẽ được. Nếu nói cặn kẽ, chắc là
một trang này phải dùng cả hai mươi lăm ngày mới
nói xong! V́ vậy, chỉ đành nêu ra sơ sài, đại
lược mà thôi!
(Kinh)
Nhĩ thời, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả
Đại Mục Liên.
(經)爾時尊者舍利弗。尊者大目連。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả
Đại Mục Liên).
Chúng
ta mười phần quen thuộc các vị Xá Lợi Phất
và Mục Kiền Liên. Đấy là hai vị đại
đệ tử thân cận đức Phật, một vị
trí huệ bậc nhất, vị kia thần thông bậc nhất.
(Kinh)
Tại Xá Vệ thành, Hạ an cư dĩ.
(經)在舍衛城。夏安居已。
(Kinh:
Ở thành Xá Vệ, an cư kết hạ đă xong).
Dựa
theo cách nói trong quá khứ, hôm nay là ngày Tự Tứ trong mùa
An Cư kết hạ, ngày mai khi minh tướng (tướng
hừng đông) xuất hiện, mùa An Cư đă kết thúc.
Thông thường, tối nay mọi người sẽ niệm
Phật thâu đêm, hoặc tu hành
để mong chứng quả. Có người nói: “Tôi vẫn
chưa được, ba tháng chín mươi ngày dụng
công chẳng đủ, tôi vẫn muốn thêm một tháng”.
Tức là tu hành suốt một trăm hai mươi ngày!
Thêm một tháng, đó là “công đức
nguyệt” (tháng công
đức), [nhằm mục đích] nếu chẳng chứng quả,
sẽ không ra khỏi An Cư. Do lấy bốn tháng làm một
thời, được gọi là “măn phần tu pháp”.
Đức Thế Tôn đă xếp đặt cho chúng ta một
cách tu thong dong hơn, tức là trong một thời, lấy
ra ba phần để tu pháp, phần c̣n lại để
chúng ta tự lựa chọn. Nay thêm vào tháng Bảy, tức
là công đức nguyệt (tháng công đức), chẳng
cho “măn phần tu tŕ”, do sợ có hữu t́nh chẳng
thể gánh nổi “măn phần tu tŕ” v́ tâm lực chẳng
đủ, phước đức chẳng đủ! Do vậy, Ngài lập thêm tháng Bảy, tạo
phương tiện cho mọi người. Thuở đức
Thế Tôn tại thế, bậc “thiện lai tỳ-kheo”
(tỳ-kheo khéo
đến) vừa nghe giảng liền chứng A La Hán, râu tóc tự
rụng; c̣n kẻ độn căn hơn th́ có vị bảy
ngày sau sẽ chứng quả. Nếu chúng ta hiện thời
mà có thể chứng quả trong ṿng bảy ngày, mọi
người sẽ sốt sắng kinh hành ở đây bảy
tháng cũng được! Có thể chứng quả hay
không? Giáo pháp của đức Phật Thích Ca đă trụ
thế năm ngàn năm, luôn luôn có cơ hội chứng
thánh quả, mọi người hăy yên ḷng. “Hạ an
cư dĩ” (kết hạ an cư đă xong) cũng có
nghĩa là khi minh tướng đă xuất hiện trong
ngày Mười Sáu. Minh tướng
chưa xuất hiện, chẳng thể nói là “Hạ an
cư dĩ”. Minh tướng xuất hiện (trời vừa
tảng
sáng), có thể thấy rơ đường chỉ trong
ḷng bàn tay, An Cư mùa Hạ bèn viên măn. Khi đó, hết thảy
công khóa và pháp tắc trong mùa An Cư kết hạ đều
có thể kết thúc. Mùa An Cư năm nay tại chùa Phóng
Quang kéo dài thành một trăm hai mươi ngày, chúng ta hăy
c̣n một tháng nữa. Nếu chẳng phải là tháng nhuận
th́ gọi là thêm tháng Bảy, tức là “công đức
nguyệt”.
(Kinh)
Diệc dữ ngũ bách chư tỳ-kheo câu, thứ đệ
du hành thành ấp, tụ lạc.
(經)亦與五百諸比丘俱。次第遊行城邑聚落。
(Kinh:
Cũng cùng với năm trăm vị tỳ-kheo, theo thứ
tự du hành các thành ấp, làng xóm).
Theo
thứ tự du hành, tức là từ chỗ này sang chỗ
khác, tùy duyên mà đi.
(Kinh)
Chí Vương Xá thành, nhập Ca Lan Đà Trúc Viên tinh xá, nghệ
Thế Tôn sở. Đáo dĩ, cung kính đảnh lễ Phật
túc, thoái tọa nhất diện. Nhĩ thời, Thế Tôn
dĩ thần thông lực.
(經)至王舍城。入迦蘭陀竹園精舍。詣世尊所。到已。恭敬頂禮佛足。退坐一面。爾時世尊。以神通力。
(Kinh:
Tới thành Vương Xá, vào Ca Lan Đà Trúc Viên Tinh Xá, tới
chỗ đức Thế Tôn. Đă đến nơi, cung
kính đảnh lễ dưới chân đức Phật,
lui sang ngồi một bên. Lúc bấy giờ, đức Thế
Tôn dùng sức thần thông).
Các
vị thiện tri thức! Chớ nên coi thần thông là thứ
quái lạ chi cả, nó thật sự do phước đức
mà thành tựu. Chớ nên coi thần thông là thứ vốn
có của yêu ma, quỷ quái. Thật ra, nó là do đại
hùng, đại lực, đại từ bi, đại thiện
xảo trọn đủ, sử dụng thiện xảo
chẳng có dấu vết. Hễ có dấu vết th́ cũng
là phương tiện tự tại!
(Kinh)
Phóng đại oai quang.
(經)放大威光。
(Kinh:
Phóng quang minh oai đức to lớn).
“Oai
quang” là do sức tự tại hiển hiện. Khi tâm
trí của một người thanh tịnh, khi tu tŕ khá tốt
đẹp, tức là một khi quư vị đă đủ sức, sẽ tỏa ra
quang minh năm màu. Lại như rất nhiều tượng
Phật đều có quang tướng, cũng như trong
các ghi chép về các bậc tiền hiền của các đại
tôn giáo từ xưa th́ họ đều có ṿng hào quang. Gia
Tô Cơ Đốc (Jesus Christ), Mặc Hăn Mục Đức
(Mohammed, Muhammad), hoặc Lăo Tử của Trung Hoa v.v... Đấy
là lời chân thật, là lời thành thật. Rất nhiều
đứa bé có quang tướng trên thân rất tốt,
nhưng quang minh của lũ b́nh phàm chúng ta đă ch́m ngập trong nghiệp lực phiền năo, bị
chính ḿnh tiêu hao mất, sức tự tại chẳng đủ!
Có những người niệm một câu chân ngôn riêng biệt,
phát ra những lời thề riêng biệt, vận dụng
bi tâm riêng biệt, hoặc là khi có các pháp tắc riêng biệt,
cũng có thể phóng ra quang tướng. Trong tâm trí và nhân
duyên thông thường của chúng ta, những điều ấy
là b́nh thường. Do vậy, nói đức Thế Tôn dùng
sức thần thông phóng đại oai quang, đúng là lời
thành thật, chớ nên nói: “Đó có phải là thần
thoại hay không?” Người có trí lực, thắng lực,
công đức lực thành tựu sẽ biết ngay. Nếu
ai có công phu Thiền Định, cũng rất dễ thấy
thân thể người khác phóng quang. Nếu chúng ta có thể
ĺa bỏ các triền phược thô nặng nơi thân thể,
nh́n lại sắc thân này, trên cơ bản, sẽ có thể
trông thấy quang tướng. Khi đă thấy được,
cơ bản là quư vị biết người ấy mắc
bệnh ǵ, thân thể như thế nào, tánh t́nh như thế
nào? Chúng ta chẳng có Thiền Định, chẳng có thần
thông thiện xảo, cho nên mắt chúng ta là nhục nhăn, mắt
chẳng nh́n xuyên qua các vật
được, chẳng có sức mạnh ấy. Phật
giáo nói tới nhục nhăn, thiên nhăn, pháp nhăn, huệ nhăn, và
Phật nhăn. Nhục nhăn của chúng ta chẳng chánh xác, chẳng
sáng tỏ, nhanh nhạy, thiên nhăn chẳng thông đạt,
huệ nhăn chẳng trọn đủ, pháp nhăn chẳng
thanh tịnh, chúng ta chẳng thể thấy thế gian viên
măn được! Do vậy, chẳng phải là Phật
nhăn. Thiện Đạo đại sư dạy chúng ta phải
nên “từ tâm tương hướng, Phật nhăn
tương kiến” (dùng từ tâm để hướng
về nhau, dùng Phật nhăn để thấy nhau), hăy mở
toang Phật nhăn của chúng ta!
(Kinh)
Linh bỉ chư quốc, thành ấp, tụ lạc, nhất
thiết chư hữu chư tỳ-kheo chúng, hàm các
lai nghệ Vương Xá đại thành.
(經)令彼諸國城邑聚落。一切諸有諸比丘衆。咸各來詣王舍大城。
(Kinh:
Khiến cho các vị tỳ-kheo trong các thành ấp,
thôn xóm của các nước, và hết thảy
các cơi, đều đến thành lớn
Vương Xá).
Hiện
thời, chúng ta c̣n có “lệnh”: Sáng sớm thức dậy
bèn khua chuông, gióng trống. Đó là một thứ lệnh. Đánh mộc bản vang ra tiếng,
đó là lệnh. Kèn hiệu xung phong của bộ đội,
chính là Lệnh. Ở đây, đức Thế Tôn dùng sức
thần thông, dùng đại oai quang chiếu vào trọn khắp
tâm trí của chúng sanh, lay tỉnh tâm trí họ, khiến cho
họ đều đi đến đại thành
Vương Xá.
Có
kẻ thắc mắc: “Thế Tôn có sức mạnh như
thế, có phải là thần thoại hay không?” Họ c̣n cho
đó là văn chương do các vị Bồ Tát trong Phật
giáo viết ra, [cho rằng] thần thông thiện
xảo như trong Phật giáo đă nói thật ra là mê tín, là chẳng thật sự có, do
con người đặt ra để ca tụng,
thần thoại hóa Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn đó thôi! Nếu
nói như thế, cơi trời sẽ quá nhỏ! Sắc Giới
lẫn Dục Giới, cho tới mười pháp giới
như chúng ta đă nói đều trở thành hư luận.
Mười phương pháp giới vốn chẳng khác biệt,
nương vào tâm mà hiện, nhưng sự khác biệt trong
những cái được hiện quá lớn. Tôi nêu một
thí dụ đơn giản nhất, so sánh giữa một
người và một con kiến. Sức con người so
với sức con kiến đúng là chẳng thể
nghĩ bàn, nhưng quư vị chẳng thể dùng tư
tưởng của con kiến để phán đoán hành vi
của con người! So với Phật Đà Thế Tôn,
sanh mạng lực của bọn phàm phu chúng ta giống
như con kiến, đừng nên dùng tâm lực ấy để
tư duy tâm lượng của Phật Đà Thế Tôn! Nếu
cho rằng chính ḿnh chẳng có trí huệ rộng lớn, chẳng
có sức nh́n thấu suốt rộng lớn, chẳng có sức
thần thông thiện xảo, [rồi kết luận xằng
bậy] chắc là Phật cũng chẳng có! Chính ḿnh chẳng
có sự cảm nhận, hiểu biết thiện xảo rộng
lớn rốt ráo, chẳng có oai đức thiện xảo
dường ấy, [bèn đoan quyết]
chắc là Phật cũng chẳng thể có. Đó là
đọa lạc trong tri kiến và sự cảm nhận
của chính ḿnh! Trên thực tế, chúng ta dùng khoa học kỹ
thuật hiện đại có thể biểu đạt
[chuyện này]. Những ai từ bốn mươi lăm
tuổi trở lên, đối với
Cách Mạng Văn Hóa[16]
rất quen thuộc. Khi đó, người lănh đạo
quốc gia vừa nói, các loa phóng thanh trên toàn quốc đồng
loạt phát ra tiếng, tức là tâm quang của một cá
nhân thông qua luồng điện và loa phát thanh truyền
đi, người trong cả nước đều biết
các chỉ thị mới nhất từ tầng lớp tối
cao. Ngay trong ngày hôm ấy, [các chỉ thị đó] lan truyền
đi khắp cả nước; các cấp thực hiện
tuyệt đối đồng bộ! Đấy chẳng
phải là “tâm quang riêng chiếu” đó ư? Chẳng
qua là thông qua chánh trị, qua các máy móc do con người tạo
ra mà truyền bá. Thế nhưng, Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng
dùng loa lớn, cũng chẳng dùng chánh sách, Ngài an vị
trong đại quang minh tạng, dùng sức thần thông thiện
xảo to lớn, khiến cho hết thảy các chúng sanh hữu
duyên đều có thể cảm nhận. Máy móc hiện thời
có thể tạo ra năng lực như thế, đức
Thế Tôn nhất định có năng lực như thế.
Nếu chẳng có niềm vui do oai đức thù thắng
nơi pháp để hướng về, chúng ta sẽ chẳng
tiến nhập tu pháp, sẽ đọa lạc trong nỗi
kiêu mạn tầm thường, chôn vùi cơ chế giáo
ngôn rộng lớn của Phật pháp, cũng có nghĩa là
chẳng thể nào cổ vũ, khích lệ quư vị
được! Rất nhiều người học Phật
chẳng thể tiến nhập lợi ích chân thật trong
Phật pháp, là v́ đọa lạc trong tri kiến hạn
lượng của chính ḿnh, ch́m đắm trong sự sanh
tồn thuộc phạm trù Sở Tri Chướng của
chính ḿnh, dẫu tu tập Phật pháp mà chẳng thể
vượt thoát. Do đó, đức Thế Tôn gọi hạng
người không thể vượt ra ngoài cảm nhận
và tri kiến của chính ḿnh là “kẻ đáng
thương xót”, v́ họ chẳng
thể thành tựu tâm trí Vô Thượng Bồ Đề.
(Kinh)
Nhập Ca Lan Đà Trúc Viên Tinh Xá, chí Thế Tôn sở, cung
kính hiệp chưởng, đảnh lễ Phật túc,
thoái tọa nhất diện. Nhĩ thời, Ca Lan Đà Trúc
Viên Tinh Xá hữu bách thiên số chư tỳ-kheo đẳng,
thừa Phật oai quang, giai dĩ vân tập chí Thế Tôn sở, cung kính hiệp chưởng,
đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện.
Nhĩ thời, phục hữu bỉ Ma Ha Ba
Xà Ba Đề tỳ-kheo-ni, diệc thừa Thế Tôn oai
thần lực cố, diệc dữ nhị vạn tỳ-kheo-ni câu, tất
giai đại tập, nhập Ca Lan Đà Trúc Viên Tinh Xá, nghệ
Thế Tôn sở, cung kính hiệp chưởng, đảnh
lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện.
(經)入迦蘭陀竹園精舍。至世尊所。恭敬合掌。頂禮佛足。退坐一面。爾時迦蘭陀竹園精舍。有百千數諸比丘等。承佛威光皆已雲集至世尊所。恭敬合掌。頂禮佛足。退坐一面。爾時復有彼摩訶波闍波提比丘尼。亦承世尊威神力故。亦與二萬比丘尼俱。悉皆大集。入迦蘭陀竹園精舍詣世尊所。恭敬合掌。頂禮佛足。退坐一面。
(Kinh: Vào Ca Lan
Đà Trúc Viên Tinh Xá, tới chỗ đức Thế Tôn,
cung kính chắp tay, đảnh lễ dưới chân đức
Phật, lui qua ngồi một phía. Lúc bấy giờ, Ca Lan
Đà Trúc Viên Tinh Xá có đến trăm ngàn vị tỳ-kheo
nương theo oai quang của đức Phật, đều
đă như mây nhóm đến chỗ đức Thế
Tôn, cung kính chắp tay, đảnh lễ dưới chân
đức Phật, lui qua ngồi một phía. Lúc đó, lại
có tỳ-kheo-ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề cũng nương theo
sức oai thần của đức Thế Tôn, cũng cùng
với hai vạn tỳ-kheo-ni thảy đều tụ tập
đông đảo, vào Ca Lan Đà Trúc Viên Tinh Xá, tới chỗ
đức Phật, cung kính chắp tay, đảnh lễ
dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một
phía).
Tỳ-kheo-ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahāprajāpatī
Gautamī) cũng là d́ của đức Thế Tôn. Chúng ta biết:
Đức Thế Tôn sanh ra không lâu, mẹ Ngài liền sanh lên
trời Đao Lợi. Đức Thế Tôn được
bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề nuôi nấng. Sau khi bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề
xuất gia, được gọi là Đại Ái Đạo
tỳ-kheo-ni, là thủ lănh của các vị tỳ-kheo-ni. Trong
cơ chế giáo ngôn của đức Phật Thích Ca, nữ
chúng phải vượt qua các chướng duyên nhất
định th́ mới được xuất gia.
(Kinh)
Nhĩ thời, Vương Xá đại thành hữu
Ưu-bà-tắc.
(經)爾時王舍大城。有優婆塞。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, thành lớn Vương Xá có một vị
Ưu-bà-tắc).
Ưu-bà-tắc
(Upāsaka) là người
nam tại gia học Phật. Người
Hoa gọi người tại gia tu tập Phật pháp là cư
sĩ, nhưng trong thời đức Thế Tôn, “cư
sĩ” (gṛhapati)
là bậc tại gia tu hành đă chứng đắc Sơ
Quả, Nhị Quả, Tam Quả.
(Kinh)
Danh viết Hiền Hộ, vi chúng thượng thủ.
(經)名曰賢護。爲衆上首。
(Kinh:
Tên là Hiền Hộ, là thượng thủ của đại
chúng).
Hiền
Hộ Bồ Tát là vị khải phát chủ yếu trong bộ
kinh này. Kinh này dùng danh tự của Ngài
để đặt tên, v́ Ngài khiến cho chúng ta sau khi có được
pháp này, sẽ học tập, thực hành pháp Ban Châu, cho
đến có thể thành tựu tam-muội, có thể thấy
mười phương chư Phật thảy đều
đứng trước mặt. Pháp tắc như thế
đó.
(Kinh)
Diệc dữ ngũ bách Ưu-bà-tắc câu, thọ tŕ Ngũ Giới, cụ
túc oai nghi, thị đại Bồ Tát, cửu dĩ trụ
ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề hạnh.
Bổn nguyện lực cố, thường tùy Thế Tôn,
nhạo văn chánh pháp, hằng cần tinh tấn, vị
măn nhất thiết trợ đạo pháp cố.
(經)亦與五百優婆塞俱。受持五戒。具足威儀。是大菩薩。久已住於阿耨多羅三藐三菩提行。本願力故。常隨世尊。樂聞正法。恆勤精進。爲滿一切助道法故。
(Kinh:
Cũng cùng với năm trăm vị Ưu-bà-tắc thọ
tŕ Ngũ Giới tụ tập,
trọn đủ oai nghi, là bậc đại Bồ Tát, trụ
trong hạnh Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác từ
lâu. Do sức bổn nguyện, họ thường theo
đức Thế Tôn, thích nghe chánh pháp, luôn siêng năng tinh
tấn ḥng viên măn hết thảy các pháp trợ đạo).
Hiền
Hộ Bồ Tát đă đích thân chứng Vô Thượng Bồ
Đề từ lâu, Ngài thường thủ hộ chánh hạnh,
chỉ là chưa chứng Phật quả. Do v́ nguyện lực,
Ngài “thường tùy Thế Tôn, nhạo văn chánh pháp, hằng
cần tinh tấn, vị măn nhất thiết trợ đạo
pháp cố” (thường theo đức Thế Tôn, thích
nghe chánh pháp, luôn siêng năng tinh tấn ḥng viên măn hết thảy
các pháp trợ đạo), tức là Hiền Hộ Bồ
Tát phát ra thệ nguyện khiến cho hết thảy
chúng sanh tinh tấn nơi pháp, khơi mở các pháp tu làm trợ
duyên ḥng thành tựu Vô Thượng A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề cho hết thảy chúng sanh.
(Kinh)
Ư triêu đán thời, thừa Phật oai thần, tùng bổn
trụ xứ, nhập Ca Lan Đà Trúc Viên Tinh Xá, chí Thế
Tôn sở, cung kính hiệp chưởng, đảnh lễ
Phật túc, thoái tọa nhất diện.
(經)於朝旦時。承佛威神。從本住處。入迦蘭陀竹園精舍。至世尊所。恭敬合掌。頂禮佛足。退坐一面。
(Kinh:
Vào lúc sáng sớm, nương theo oai thần của đức
Phật, từ chỗ ở của chính ḿnh, vào Ca Lan Đà
Trúc Viên Tinh Xá, tới chỗ đức Thế Tôn, cung kính
chắp tay, đảnh lễ dưới chân đức Phật,
lui qua ngồi một bên).
Bất
luận là tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, hay Ưu-bà-tắc, đều lui qua ngồi một bên.
(Kinh)
Nhĩ thời, Tỳ Da Ly đại thành, hữu nhất
Ly Xa tử, danh viết Bảo Sanh, vi chúng thượng thủ,
diệc dữ nhị vạn bát thiên chư Ly Xa câu, ư thần
triêu thời, thừa Phật thần lực, giai tự bỉ
thành phát lai, nhập thử Ca Lan Đà viên, chí Như Lai sở,
cung kính hiệp chưởng, đảnh lễ Phật
túc, thoái tọa nhất diện.
(經)爾時毗耶離大城。有一離車子。名曰寶生。爲衆上首。亦與二萬八千諸離車俱。於晨朝時。承佛神力。皆自彼城發來。入此迦蘭陀園至如來所。恭敬合掌。頂禮佛足。退坐一面。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, nơi thành lớn Tỳ Da Ly (Vaiśālī)[17]
có một vị thuộc tộc Ly Xa, tên là Bảo Sanh là
thượng thủ của đại chúng, cũng cùng với
hai vạn tám ngàn các vị Ly Xa, vào lúc sáng sớm,
nương thần lực của đức Phật,
đều phát xuất từ thành ấy ra đi, vào vườn
Ca Lan Đà này, đến chỗ Như Lai, cung kính chắp
tay, đảnh lễ dưới chân đức Phật,
lui qua ngồi một phía).
Ly
Xa là một tộc thuộc gịng Sát-lợi.
(Kinh)
Nhĩ thời, Chiêm Bà thành hữu nhất trưởng giả
tử, danh viết Tinh Tạng, vi chúng thượng thủ,
diệc dữ nhị vạn bát thiên trưởng giả tử
câu. Ư thần triêu thời, thừa Phật thần lực,
tự Chiêm Bà thành phát lai, nhập thử Ca Lan Đà viên, chí
Thế Tôn sở, cung kính hiệp chưởng, đảnh
lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện.
(經)爾時瞻婆城有一長者子。名曰星藏。爲衆上首。亦與二萬八千長者子俱。於晨朝時。承佛神力。自瞻婆城發來。入此迦蘭陀園。至世尊所。恭敬合掌。頂禮佛足。退坐一面。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, nơi thành Chiêm Bà[18]
có một vị trưởng giả[19],
tên là Tinh Tạng, là thượng thủ của đại
chúng, cũng cùng với hai vạn tám ngàn các vị trưởng
giả, vào lúc sáng sớm, nương thần lực của
đức Phật, đều phát xuất từ thành Chiêm
Bà ra đi, vào vườn Ca Lan Đà này, đến chỗ
đức Thế Tôn, cung kính chắp tay, đảnh lễ
dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một
phía).
Từ
văn tự, chúng ta có thể thấy từ tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, chủng tánh Sát-lợi, các vị
trưởng giả v.v… không ai chẳng nương vào oai
thần của đức Phật. Do nương vào sức
oai thần của đức Phật, cho nên tụ tập
nơi đây.
(Kinh)
Nhĩ thời, phục hữu nhất Ma Na Bà (Tùy ngôn Tịnh
Tŕ, diệc vân Thiếu Niên, diệc vân Nhân Đồng Tử
đẳng), danh Na La Đạt Đa, vi chúng thượng
thủ, diệc dữ nhị vạn bát thiên nhân câu, ư
thần triêu thời, tự bổn trụ xứ phát lai, nhập
thử Ca Lan Đà viên, nghệ Thế Tôn sở, cung kính hiệp
chưởng, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất
diện.
(經)爾時復有一摩那婆(隋言淨持亦云少年亦云仁童子等)。名那羅達多。爲衆上首。亦與二萬八千人俱。於晨朝時。自本住處發來入此迦蘭陀園。詣世尊所。恭敬合掌。頂禮佛足。退坐一面。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, lại có một Ma Na Bà (tiếng đời
Tùy (tiếng Hán) dịch là Tịnh Tŕ, cũng dịch là Thiếu
Niên, c̣n dịch là Nhân Đồng Tử (bé trai có ḷng nhân)
v.v…) tên là Na La Đạt Đa làm thượng thủ của
đại chúng, cũng cùng với hai vạn tám ngàn người,
vào lúc sáng sớm, từ chỗ ḿnh ở ra đi, vào vườn
Ca Lan Đà này, đến chỗ đức Thế Tôn, cung
kính chắp tay, đảnh lễ dưới chân đức
Phật, lui qua ngồi một phía).
Ma Na Bà (Mānavaka) tức
là thiếu niên học đạo.
(Kinh)
Nhĩ thời, Xá Vệ quốc phục hữu trưởng
giả, danh Đại Thiện Thương Chủ, tịnh
bỉ Cấp Cô Độc trưởng giả, vi chúng
thượng thủ, diệc dữ nhị vạn bát thiên
nhân câu, tự bỉ Xá Vệ quốc, nghệ Vương
Xá thành, nhập Ca Lan Đà viên, chí Thế Tôn sở, cung kính
hiệp chưởng, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa
nhất diện. Nhĩ thời, Vương Xá đại
thành, phục hữu trưởng giả, danh viết Thủy
Thiên, vi tối thượng thủ, diệc dữ nhị
vạn bát thiên nhân câu, tùng bổn trụ xứ phát lai, nhập
thử Ca Lan Đà viên, nghệ Thế Tôn sở, cung kính hiệp
chưởng, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất
diện. Nhĩ thời, Ma Già Đà quốc chủ Vi Đề
Hy tử, A Xà Thế vương, diệc dữ bách thiên
chư quyến thuộc câu, ư thần triêu thời, diệc
lai nhập thử Ca Lan Đà viên, nghệ Thế Tôn sở,
đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện.
(經)爾時舍衛國復有長者。名大善商主。並彼給孤獨長者。爲衆上首。亦與二萬八千人俱。自彼舍衛國詣王舍城。入迦蘭陀園。至世尊所。恭敬合掌。頂禮佛足。退坐一面。爾時王舍大城。復有長者。名曰水天。爲最上首。亦與二萬八千人俱。從本住處發來。入此迦蘭陀園詣世尊所。恭敬合掌。頂禮佛足。退坐一面。爾時摩伽陀國主韋提希子阿闍世王。亦與百千諸眷屬俱。於晨朝時。亦來入此迦蘭陀園。詣世尊所。頂禮佛足。退坐一面。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, nước Xá Vệ lại có trưởng
giả tên là Đại Thiện Thương Chủ và
trưởng giả Cấp Cô Độc là thượng thủ
của đại chúng, cũng cùng với hai vạn tám ngàn
người từ nước Xá Vệ đến thành
Vương Xá, vào vườn Ca Lan Đà, tới chỗ
đức Thế Tôn, cung kính chắp tay, đảnh lễ
dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một
phía. Lúc bấy giờ, thành lớn Vương Xá lại có
trưởng giả, tên là Thủy Thiên, là thượng thủ
cao nhất, từ chỗ ḿnh ở, cũng cùng với hai vạn
tám ngàn người, phát xuất từ chỗ ḿnh ở ra
đi, vào vườn Ca Lan Đà, tới chỗ đức
Thế Tôn, cung kính chắp tay, đảnh lễ dưới
chân đức Phật, lui qua ngồi một phía. Lúc bấy
giờ, chúa nước Ma Già Đà là vua A Xà Thế, tức
là con của bà Vi Đề Hy, cũng cùng với trăm
ngàn quyến thuộc, vào lúc sáng sớm, cũng vào trong
vườn Ca Lan Đà này, tới chỗ đức Thế
Tôn, đảnh lễ dưới chân đức Phật,
lui qua ngồi một phía.).
Trong
kinh Quán Vô Lượng Thọ, đức Thế Tôn lấy
vua A Xà Thế (Ajātaśatru) làm chủ thể
để giảng bộ kinh ấy.
Đó cũng là kinh điển y chỉ chủ yếu của
Tịnh Độ. Phụ vương của A Xà Thế là
vua Tần Bà Sa La (Bimbisāra), mẹ là Vi
Đề Hy (Vaidehi). Do vua Tần Bà Sa La tuổi đă rất
cao mà chưa có con trai, ngôi vua không có người kế thừa,
bèn cầu xin tiên nhân chuyển thế. Tiên nhân nói ba năm
sau mới có thể xả báo. V́ thế, vua Tần Bà Sa La
dùng các phương pháp ép ông ta đầu thai. Do vậy, lúc
chưa sanh ra, tiên nhân đă kết oán với vua Tần Bà
Sa La, cho nên gọi là Vị Sanh Oán (未生怨, oán thù từ lúc
chưa sanh ra). Sau đó, tiên nhân xả thân đầu thai,
do oán hận mà sanh làm A Xà Thế: “Ngươi bắt bớ,
giết hại ta; ta cũng bắt bớ, giết hại
ngươi”. Do vậy, sau đó, bèn giam cầm vua Tần
Bà Sa La trong bảy tầng lao ngục, tạo tội giết
cha. A Xà Thế bị Đề Bà Đạt Đa cổ
vũ, mê hoặc, bèn giết cha để làm tân
vương, c̣n Đề Bà Đạt Đa th́ hại Phật
để làm tân Phật. Do nghịch hạnh, họ gặp
rất nhiều quả báo ác khổ. Sau đó, A Xà Thế
chân thành sám hối, vâng giữ lời dạy của đức
Thế Tôn, trở thành người hộ pháp cho cuộc kết
tập kinh điển của năm trăm vị A La Hán.
Trong
phần trên, [kinh văn] đă nhắc tới tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni
v.v… V́ sao chẳng nói tới Ưu-bà-di? Đây là phong tục
tập quán của Ấn Độ, có khi nói tới
Ưu-bà-tắc, sẽ tỉnh lược chẳng nhắc tới Ưu-bà-di. Từ kinh
văn, chúng ta có thể thấy, tánh chất phân chia chủng
tộc của Ấn Độ mười phần rơ ràng,
họ theo thứ tự, từ các nơi tụ tập,
đến chỗ đức Thế Tôn. Tới đây, các
loại hữu t́nh nhân loại đă nhóm họp xong.
(Kinh)
Nhĩ thời, phục hữu Tứ Đại Thiên
Vương, cập Thiên Đế Thích, năi chí Dục Giới
nhất thiết thiên chúng, các dữ vô lượng bách thiên
ức na-do-tha quyến thuộc thiên chúng câu, diệc ư
thần triêu, tất lai nhập Ca Lan Đà viên, chí Như
Lai sở, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất
diện.
(經)爾時復有四大天王。及天帝釋。乃至欲界一切天衆。各與無量百千億那由他眷屬天衆俱。亦於晨朝。悉來入迦蘭陀園。至如來所。頂禮佛足。退坐一面。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, lại có Tứ Đại Thiên
Vương và Thiên Đế Thích, cho đến hết thảy
thiên chúng trong Dục Giới, mỗi vị cùng với vô
lượng trăm ngàn ức na-do-tha quyến thuộc
thiên chúng, cũng vào lúc sáng sớm, đều đi vào
vườn Ca Lan Đà, tới chỗ Như Lai, đảnh
lễ dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một
bên).
“Năi
chí Dục Giới nhất thiết thiên chúng” (cho đến
hết thảy thiên chúng thuộc Dục Giới): Trong phần trước là nhân loại hữu t́nh, sau
đó là chư thiên. V́ kinh Đại Tập bao gồm các vị
đại Bồ Tát thuộc Sắc Giới và Dục Giới,
đối với loại hữu t́nh ấy mà tuyên nói kinh
điển. Từ Tứ Đại Thiên Vương cho
đến Tha Hóa Tự Tại Thiên, hữu t́nh trong một
tiểu thiên thế giới đều vân tập một chỗ.
Tứ Đại Thiên Vương và Thiên Đế Thích thuộc
loại Địa Cư Thiên, Ma Tây La thiên cung là Đâu Suất
Thiên, cho đến Tha Hóa Tự Tại Thiên, đều là Dục
Giới Thiên, từng tầng lên cao hơn, là các tầng trời
thuộc về Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền,
Tứ Thiền.
“Vô
lượng bách thiên ức na-do-tha quyến thuộc thiên
chúng”: Con số này chẳng phải là số lượng
nhân loại [tới tham dự pháp hội].
“Chí
Như Lai sở, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa
nhất diện” (đến chỗ Như Lai, đảnh
lễ dưới chân Phật, lui qua ngồi một phía):
Chư thiên lui qua ngồi một phía và xếp đặt
ṭa ngồi, có thể là khác biệt rất lớn với
nhân loại chúng ta. V́ chư thiên là sắc thân vi tế, mầu
nhiệm, mỗi vị đều có quang tướng. Sắc
thân của chúng ta là cái thân Tứ Đại do ăn uống
tạo thành, c̣n gọi là thân Ngũ Uẩn, là thân thô nặng.
Thân thô trọng bèn có ṭa ngồi thô nặng.
(Kinh)
Nhĩ thời phục hữu Sa Bà thế giới chủ
Đại Phạm thiên vương, diệc dữ vô lượng
bách thiên ức na-do-tha quyến thuộc thiên chúng câu, ư
thần triêu thời, tất nhập Ca Lan Đà viên, chí
Như Lai sở, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa
nhất diện.
(經)爾時復有娑婆世界主大梵天王。亦與無量百千億那由他眷屬天衆俱。於晨朝時。悉入迦蘭陀園。至如來所。頂禮佛足。退坐一面。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, lại có chủ của thế giới
Sa Bà là Đại Phạm thiên vương, cùng với vô
lượng trăm ngàn ức na-do-tha quyến thuộc
thiên chúng, vào lúc sáng sớm, đều vào vườn Ca Lan
Đà, tới chỗ đức Như Lai, đảnh lễ
dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một
phía).
Thế
giới Sa Bà là thế giới là một tam thiên đại
thiên thế giới ứng hóa của Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật. Chủ của thế
giới Sa Bà là Đại Phạm thiên vương, khác biệt
với địa vị Trụ Tŕ Pháp Vương của Phật Thích Ca. Đối với
các danh từ ấy, chúng tôi thật sự rất khó có thời gian
đầy đủ để tŕnh bày, chúng ta học tập
kinh Ban Châu Tam Muội không nhằm giải thích danh từ.
Do vậy, đối với danh từ, danh tướng
thông thường, sẽ chẳng giải thích quá nhiều,
mọi người có thể t́m các tài liệu tương ứng
để tiếp tục học tập. Chúng tôi muốn
tŕnh bày tư tưởng chủ thể của kinh Ban Châu
Tam Muội để mọi người học tập, khiến
cho mọi người trong khi tu tập pháp Ban Châu sẽ có sự gia tŕ tăng thượng và hướng dẫn
rơ ràng hơn. Như thế th́ sẽ chẳng đánh mất
mục đích học tập kinh Ban Châu Tam Muội của
chúng ta. Giải thích danh từ quá nhiều sẽ tốn thời
gian. Do vậy, ở đây, tôi chỉ nói lướt qua.
(Kinh)
Nhĩ thời, phục hữu Đại Tự Tại thiên
vương, diệc dữ vô lượng bách thiên Tịnh
Cư chư thiên chúng câu, ư thần triêu thời, tất
nhập Ca Lan Đà viên, đảnh lễ Phật túc, thoái
tọa nhất diện. Nhĩ thời, phục hữu tứ
A Tu La vương, các dữ vô lượng bách thiên quyến
thuộc A Tu La chúng câu, diệc ư thần triêu, nhập Ca Lan
Đà viên, nghệ Như Lai sở, đảnh lễ Phật
túc, thoái tọa nhất diện. Nhĩ thời, phục hữu
Nan Đà long vương, cập Bạt Nan Đà long
vương, các dữ vô lượng bách thiên quyến thuộc
chư long chúng câu, diệc ư thần triêu, nhập Ca Lan
Đà viên, nghệ Như Lai sở, đảnh lễ Phật
túc, thoái tọa nhất diện.
(經)爾時復有大自在天王。亦與無量百千淨居諸天衆俱。於晨朝時。悉入迦蘭陀園。頂禮佛足。退坐一面。爾時復有四阿修羅王。各與無量百千眷屬阿修羅衆俱。亦於晨朝入迦蘭陀園。詣如來所。頂禮佛足。退坐一面。爾時復有難陀龍王。及跋難陀龍王。各與無量百千眷屬諸龍衆俱。亦於晨朝。入迦蘭陀園。詣如來所。頂禮佛足。退坐一面。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, lại có Đại Tự Tại thiên
vương, cũng cùng với vô lượng trăm ngàn
các Tịnh Cư thiên chúng, vào lúc sáng sớm, đều vào
vườn Ca Lan Đà, đảnh lễ dưới chân
đức Phật, lui qua ngồi một bên. Lúc bấy giờ,
lại có bốn A Tu La vương, mỗi vị cùng với
vô lượng trăm ngàn quyến thuộc A Tu La chúng,
cũng vào sáng sớm, vào vườn Ca Lan Đà, tới chỗ
Như Lai, đảnh lễ dưới chân đức Phật,
lui qua ngồi một phía. Lúc bấy giờ, lại có Nan
Đà (Nanda) long vương, và Bạt Nan Đà (Upananda) long
vương, mỗi vị cùng với vô lượng bách
thiên quyến thuộc các long chúng cũng vào sáng sớm, vào
vườn Ca Lan Đà, tới chỗ Như Lai, đảnh
lễ dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một
phía).
Đây
là một quang cảnh ǵ vậy? Phàm phu hữu t́nh phần
nhiều chẳng thể thấy được! Chúng ta
đều biết khi đức Thế Tôn giảng một
số bộ kinh lớn, các vị A La Hán đều như
điếc, như đui, như kinh Diệu Pháp
Liên Hoa đă nói. Trong rất nhiều kinh điển Đại
Thừa khác cũng giống như thế.
(Kinh)
Nhĩ thời, phục hữu Sa Già La long vương, A Na
Bà Đạt Đa long vương, cập Ma Na Tư long
vương, Y Bạt La long vương đẳng, các dữ
vô lượng bách thiên quyến thuộc chư long chúng câu,
diệc ư thần triêu, nhập Ca Lan Đà viên, nghệ
Như Lai sở, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa
nhất diện. Nhĩ thời, thử tam thiên đại
thiên thế giới, nhất thiết chư tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di, cập dĩ nhất thiết thiên, long, dạ-xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn
Na La, Ma Hầu La Già, năi chí nhân phi nhân, cập
chư vương đẳng, tín Như
Lai giả, vị thính pháp cố, nhất thiết giai tập
Ca Lan Đà viên, nghệ Như Lai sở, đảnh lễ
Phật túc, các tọa nhất diện.
(經)爾時復有娑伽羅龍王。阿那婆達多龍王。及摩那斯龍王。伊跋羅龍王等。各與無量百千眷屬諸龍衆俱。亦於晨朝。入迦蘭陀園。詣如來所。頂禮佛足。退坐一面。爾時此三千大千世界。一切諸比丘比丘尼優婆塞優婆夷。及以一切天龍夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽。乃至人非人。及諸王等。信如來者。爲聽法故。一切皆集迦蘭陀園。詣如來所。頂禮佛足。各坐一面。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, lại có Sa Già La (Sāgara) long vương,
A Na Bà Đạt Đa (Anavatapta) long vương,
và Ma Na Tư (Manasa) long vương,
Y Bạt La (Erāpattra) long vương
v.v… mỗi vị đều cùng với vô lượng
trăm ngàn quyến thuộc các long chúng, cũng vào sáng sớm,
vào vườn Ca Lan Đà, tới chỗ đức Như
Lai, đảnh lễ dưới chân đức Phật,
lui qua ngồi một phía. Lúc bấy giờ, trong tam thiên
đại thiên thế giới này, hết thảy các tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cùng với hết
thảy trời, rồng, dạ-xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu
La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, cho đến hàng nhân phi
nhân và các vị vua, là những kẻ tin Như Lai, v́ nghe
pháp mà hết thảy đều tu tập nơi vườn Ca
Lan Đà, tới chỗ Như Lai, đảnh lễ dưới
chân đức Phật, mỗi người ngồi một
phía).
Giới
thiệu mười phần rơ ràng, thứ tự cũng
mười phần rơ rệt, hết thảy đều là
“tín Như Lai giả, vị thính pháp cố” (người
tin Như Lai v́ nghe pháp) mà vân tập ở nơi đây.
(Kinh)
Nhĩ thời, Ca Lan Đà viên, kỳ địa hoằng
quảng.
(經)爾時迦蘭陀園。其地弘廣。
(Kinh:
Khi ấy, cuộc đất trong vườn Ca Lan Đà rộng
lớn).
Giống
như cái thất vuông vức một trượng của
ngài Duy Ma Cật có thể chứa đựng vô lượng
hữu t́nh.
(Kinh)
Như thử tam thiên đại thiên thế giới, sở
hữu địa phương, đại chúng sung măn, vô
không khuyết xứ.
(經)如此三千大千世界所有地方。大衆充滿。無空缺處。
(Kinh: Tất cả mọi
nơi trong tam thiên đại thiên thế giới như thế,
tràn ngập đại chúng, chẳng có chỗ nào hở trống).
Đây
đều là do oai đức của Thế Tôn biến hiện.
Do sức phước đức và sức oai thần của
đức Thế Tôn trọn đủ, tràn trề, Tự Thọ Dụng và Tha Thọ Dụng đều chân
thật, chẳng dối. Cho nên chẳng có chỗ nào hở
trống!
(Kinh)
Nhược trượng đầu hứa, nhi bất biến
giả.
(經)若杖頭許而不遍者。
(Kinh:
Như bằng đầu gậy mà chẳng trọn khắp).
Cũng có nghĩa là ngay cả
chỗ để cắm một cây gậy cũng chẳng
có. Do quang minh oai đức thiện xảo, công đức
oai thần thiện xảo, và phước huệ trọn
đủ thiện xảo của đức Thế Tôn có
thể khiến cho chúng sanh hướng tới, khát vọng
vân tập về nơi đây!
(Kinh)
Như thị thượng chí Hữu Đảnh, hạ
đăi Phạm cung, sở hữu nhất thiết đại
oai đức thần thông chư thiên đại chúng, năi
chí nhất thiết chư long, dạ-xoa, Càn Thát Bà, A Tu La,
Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng,
giai lai tập hội.
(經)如是上至有頂。下逮梵宮。所有一切大威德神通諸天大衆。乃至一切諸龍夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽人非人等。皆來集會。
(Kinh:
Như thế th́ từ trên là tới trời Hữu Đảnh[20],
dưới tới cung Phạm Thiên, tất cả hết
thảy các đại chúng chư thiên có oai đức thần
thông, cho đến hết thảy các rồng, dạ-xoa,
Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân
phi nhân v.v… đều tới tụ tập).
Trên
đây là bộ phận Tự Phần của kinh này, đều
nhằm cho chúng ta thấy sự vân tập của đại
hội: Đấng thuyết
pháp chủ là Thích Ca Mâu Ni Phật đă dùng oai quang nhiếp
thọ trọn khắp mười phương hữu
t́nh, từ tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di, cho đến các vua Sát-lợi, các vị trưởng
giả, vua rồng, thiên long bát bộ, cho đến Tứ
Thiên, Đao Lợi Thiên, Phạm Thiên v.v… hết thảy những
vị có oai đức thiện xảo, hết thảy những
ai được cảm ứng, tin pháp, hướng về
pháp, đều cùng đến tụ tập.
(Kinh)
Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát tức tùng
ṭa khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất
trước địa, hiệp chưởng hướng
Phật, bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Ngă ư kim giả,
dục đắc tư vấn Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng
Chánh Giác, tâm trung sở nghi, bất thẩm Thế Tôn, kiến
thùy thính phủ?” Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền
Hộ Bồ Tát ngôn: “Hiền Hộ! Như Lai Thế Tôn
tùy nhữ sở nghi, tứ nhữ sở vấn, vị nhữ
tuyên thích, linh nhữ hoan hỷ”. Thời, bỉ Hiền Hộ
Bồ Tát, kư mông thính hứa, phục bạch Phật ngôn:
“Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc thành tựu hà đẳng
tam-muội, nhi năng đắc bỉ đại công
đức tụ?”
(經)爾時,賢護菩薩摩訶薩即從座起,偏袒右肩,右膝著地,合掌向佛白佛言:“世尊,我於今者,欲得諮問如來應供等正覺,心中所疑。不審世尊,見垂聽不?”爾時,世尊復告賢護菩薩言:“賢護,如來世尊隨汝所疑,恣汝所問,爲汝宣釋,令汝歡喜。”時,彼賢護菩薩既蒙聽許,復白佛言:“世尊,菩薩摩訶薩具足成就何等三昧,而能得彼大功德聚?
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát liền
từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo phải,
gối phải đặt sát đất, chắp tay hướng
về đức Phật, bạch cùng Phật rằng: “Bạch
Thế Tôn! Con nay muốn thưa hỏi đức Như
Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác điều nghi trong tâm,
chẳng rơ đức Thế Tôn có rủ ḷng chấp thuận
hay không?” Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo
Hiền Hộ Bồ Tát rằng: “Này Hiền Hộ! Như
Lai Thế Tôn thuận theo ḷng nghi của ông mà cho phép ông hỏi,
ta sẽ v́ ông tuyên nói, giải thích, khiến cho ông hoan hỷ”.
Lúc đó, Hiền Hộ Bồ Tát đă được chấp
thuận, lại bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch
Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu đầy đủ
các môn tam-muội như thế nào mà đạt được
khối công đức to lớn?”)
Sau
đây, Hiền Hộ Bồ Tát sẽ nêu ra một trăm
hai mươi hai điều “vân hà” (như thế nào)
để hỏi. Một trăm hai mươi hai câu hỏi
ấy đều là các thắc mắc chi tiết về tác
dụng của hết thảy các pháp thuộc về thiện
xảo, thần thông, công đức, trí huệ và
phương tiện v.v… trong Phật pháp, nhằm chỉ dạy
chúng ta theo từng góc độ: Hành Ban Châu sẽ có thể
đạt được lợi ích như thế nào?
Tam-muội Thập Phương Châu Phật Tất Giai Hiện
Tiền (Ban Châu tam-muội) v́ sao lại gọi là “vua của hết thảy các tam-muội?” V́ sao có công đức và lợi ích thù thắng nhiều
ngần ấy? Hiền Hộ Bồ Tát thay mặt cho hết
thảy các chúng sanh muốn tu tập Phật pháp, muốn
thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề
mà khải vấn, v́ muốn cho các hữu t́nh thiện
căn đă chín muồi do nghe pháp sẽ siêng năng tu hành,
chứng đạo mà khải vấn, v́ tạo cơ sở
khơi gợi cho các hữu t́nh thiện căn chưa chín
muồi sẽ hướng tới thiện căn chín muồi, mà nêu ra một trăm hai mươi hai tướng
công đức ấy. Trong bản dịch kinh Phật Thuyết Ban Châu Tam Muội chỉ gồm một quyển [trong ba loại bản
dịch của kinh này] có nhắc đến
hai mươi mốt công đức và lợi ích chẳng
thể nghĩ bàn, cũng chính là từ hai mươi mốt
khía cạnh mà nêu ra câu hỏi. Ở đây, kinh này nêu ra một
trăm hai mươi hai vấn đề, cũng chính là từ
một trăm hai mươi hai khía cạnh để nêu bày
thực chất của công đức
và lợi ích do hành pháp Ban Châu quả thật chẳng thể
nghĩ bàn!
“Nhĩ
thời, Hiền Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát, tức tùng ṭa khởi,
thiên đản hữu kiên” (lúc bấy giờ, Hiền Hộ
Bồ Tát Ma Ha Tát liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, trật vai áo phải), đấy là phong tục tập
quán của người Ấn Độ. Người xuất
gia lẫn tại gia đều khoác một tấm
khăn choàng to. Trang phục dân tộc
hiện tại của người Ấn Độ vẫn
c̣n sử dụng khăn choàng, rất thực dụng, có
thể sử dụng làm mền, làm vải bạt căng lều,
có thể ngăn gió lạnh, tro bụi, sâu bọ v.v… rất
nhiều tác dụng! “Thiên đản hữu kiên”
(trật vai áo phải) cũng là một phong tục tập
quán nhằm biểu đạt ḷng tôn trọng. “Hữu tất
trước địa” (gối phải chấm đất) chính là quỳ một gối xuống. Tức là trong lúc hỏi
pháp, bèn trật vai áo phải, quỳ xuống, hai đầu
gối hoặc một đầu gối ép sát đất,
thưa hỏi đức Phật. Thông thường, chúng
ta hỏi pháp bèn hai đầu gối đều đặt
sát đất, v́ Ngài là bậc đại Bồ Tát, hiện
phương tiện để kết duyên. Phương thức
lễ kính của chúng ta trong hiện thời phần nhiều
từ Ấn Độ truyền qua, tức là phương
thức lễ [đầu diện] tiếp túc.
“Hiệp
chưởng hướng Phật, bạch Phật ngôn: - Thế
Tôn! Ngă ư kim giả,
dục đắc tư vấn Như Lai Ứng Cúng Đẳng
Chánh Giác, tâm trung sở nghi, bất thẩm Thế Tôn, kiến
thùy thính phủ?” (chắp tay hướng
về đức Phật, bạch cùng Phật rằng: “Bạch
Thế Tôn! Con nay muốn thưa hỏi đức Như
Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác điều nghi trong tâm,
chẳng rơ đức Thế Tôn có rủ ḷng chấp thuận
hay không?”): Con muốn nêu câu hỏi, đức Thế Tôn có chấp
thuận trả lời cho con hay không?
“Nhĩ
thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn:
- Hiền Hộ! Như Lai Thế Tôn tùy nhữ sở nghi,
tứ nhữ sở vấn, vị nhữ tuyên thích, linh nhữ
hoan hỷ” (Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại
bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: - Này Hiền Hộ!
Như Lai Thế Tôn thuận theo ḷng nghi của ông mà cho phép
ông hỏi, ta sẽ v́ ông tuyên nói, giải thích, khiến cho
ông hoan hỷ): Chẳng phải là đức Thế Tôn không
cho bọn phàm phu hữu t́nh chúng ta sanh nghi. Tham, sân, si, mạn,
nghi là chuyện thuộc bổn phận của phàm phu.
Chư Phật Như Lai hiểu biết, có thể biết,
đă biết, nhưng chúng sanh vẫn kéo dài sanh mạng
trong tham, sân, si, mạn, nghi. Một trăm
hai mươi hai câu hỏi thật ra nhằm giải đáp về nội
hàm thực chất của công đức trong
hành pháp này, trực tiếp tuyên nói, giải thích
cho chúng ta phải nên chú ư tới khía cạnh nào, hăy nên đạt
được lợi ích như thế nào?
“Thời,
bỉ Hiền Hộ Bồ Tát kư mông thính hứa” (Lúc
đó, Hiền Hộ Bồ Tát đă được chấp
thuận): Đức Thế Tôn đă cho phép Bồ Tát thưa
hỏi. “Phục bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Bồ
Tát Ma Ha Tát cụ túc thành tựu hà đẳng tam-muội,
nhi năng đắc bỉ đại công đức tụ?”
(lại bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch
Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu đầy đủ
các môn tam-muội như thế nào mà đạt được
khối công đức to lớn?”): Do vậy có thể biết,
hành pháp Ban Châu, tức Thập Phương Chư Phật Tất
Giai Hiện Tiền tam-muội là khối công đức to
lớn. Trước kia, chúng tôi chuẩn bị
tạo một cái ao phóng sanh ở trước sơn môn,
đặt tên là Đức Tụ (德聚), tức là lấy ư từ kinh này, có nghĩa là “đạo
đức tụ tập, công đức tụ tập,
phước đức tụ tập, pháp tắc chân thật tụ tập,
khiến cho hữu t́nh trong thế gian có thể thọ dụng”.
Phần
sau bắt đầu bằng một trăm hai mươi
hai câu hỏi chính là Phát Khởi Tự Phần. Kinh này thông
qua Chánh Tự Phần trong phần trước và Phát Khởi
Tự Phần trong phần này, dẫn đến nội
dung lời đáp của đức Thế Tôn trong Chánh Tông
Phần, sẽ khiến cho chúng ta thật sự liễu giải
nội dung của Ban Châu và công đức chân thật của
hành pháp Ban Châu, ḥng khích lệ những kẻ thiện
căn chưa chín muồi được nghe pháp tắc này, [cũng
như] khích lệ người thiện căn đă chín muồi
đích thân tu tập pháp tắc này, khích lệ những
người thiện căn đă chín muồi đích thân chứng
đắc pháp tắc này, khích lệ những người
thiện căn đă chín muồi đích thân chứng đắc
pháp tắc này, khích lệ những người thiện
căn đă chín muồi sau khi đă đích thân chứng
đắc sẽ truyền bá pháp này, khích lệ những
người thiện căn chín muồi do biết rơ pháp tắc
này, sẽ
cùng nhau trao đổi, thủ hộ, an trụ trong pháp tắc
này. Những người ấy đều chẳng ĺa khỏi
lời dạy của đức Thế Tôn, chẳng ĺa khỏi
sự khải giáo đúng như lư của Hiền Hộ Bồ
Tát. Hữu t́nh thời Mạt Pháp khó thể khải giáo
đúng lư, v́ lẽ nào? Do chẳng biết phương tiện
để khải giáo (khải thỉnh đức Thế
Tôn truyền dạy giáo pháp), do chẳng có thiện xảo
để khải giáo. V́ thế, trong Trúc Lâm Tinh Xá (Ca Lan
Đà Trúc Viên Tinh Xá), Hiền Hộ Bồ Tát thay cho chúng ta
nêu ra nghi vấn về một trăm hai mươi hai
phương diện, để đức Thế Tôn sẽ
giải đáp viên măn, đối với nội dung của
khối công đức to lớn đều nhất nhất
nêu bày. Đọc một lượt một trăm hai
mươi hai câu hỏi này, chúng ta biết tâm trí Bồ Tát
chu đáo, cẩn mật, tường tận, cẩn trọng cỡ nào, ḥng tiêu trừ
các nghi hoặc và giải trừ nỗi mơ hồ đối
với pháp nghĩa trong tâm chúng ta.
(Kinh)
Vân hà đắc nhập đa văn đại hải, hoạch
trí huệ tạng, vấn vô nghi hoặc cố?
(經)云何得入多聞大海,獲智慧藏,問無疑惑故?
(Kinh:
Làm thế nào để vào biển cả đa văn,
đạt được kho trí huệ, hỏi han chẳng
nghi hoặc?)
Đại
trí huệ rốt ráo lấy măi chẳng tận, dùng chẳng cạn. Nếu gặp
lúc kẻ khác có nghi vấn, sẽ có thể giải
đáp, khéo léo trừ nghi, cho nên nói “đa văn đại hải”
trọn đủ phương tiện trí huệ, khiến
cho hữu t́nh có nghi hoặc sẽ tiêu trừ hết thảy
nghi hoặc, nhập Vô Ngại Trí. Câu hỏi thứ nhất
chính là làm theo cách nào th́ mới có thể vào trong biển
đại trí huệ, tức là biển cả đa
văn? Cũng là hỏi hành pháp như thế nào th́ mới
có thể sanh khởi đại trí huệ, trừ nghi hoặc
cho hết thảy chúng sanh, đạt được
phương tiện vô thượng đối với hết
thảy chúng sanh?
(Kinh)
Vân hà phục đắc vô ư giới tụ, bất thất
thành tựu, ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề
vô thoái giảm cố?
(經)云何復得無意戒聚不失成就於阿耨多羅三藐三菩提,無退減故?
(Kinh:
Như thế nào để lại đắc vô ư giới tụ,
chẳng mất thành tựu, chẳng thoái chuyển hay giảm bớt đối với
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác?)
“Đắc
vô ư giới tụ”: Giới có sức pḥng hộ (防護, ngăn ngừa,
bảo vệ), khiến cho chúng ta thủ hộ pháp tắc
đạt tới an ổn. Nói là “vô
ư” v́ giới luật chẳng phải do chúng ta tạo
ra, mà đều do đức Thế Tôn chế định.
Bất luận tại gia hay xuất gia, giới luật mà
hiện thời chúng ta đang học đều do Như
Lai Thế Tôn chế định, chẳng phải do ư niệm
của chúng ta tạo ra. Đó là một cơ chế tư
tưởng rất quan trọng, chư vị thiện tri
thức nhất định phải khéo quan sát, khéo liễu
giải. Khi chúng ta tư duy về Tứ Chánh Cần, đối
với chuyện nên làm và chẳng nên làm, vẫn là có tác ư,
nhưng đối với giới pháp th́ vô tác ư [mà hành tŕ].
V́ sao? Chỉ tùy thuận thủ hộ là được rồi!
Khi chúng ta giữ giới, chẳng có ǵ là đúng, chẳng có ǵ là sai, tức “tâm vô quá phi”
(tâm chẳng có lỗi lầm, sai trái), xa ĺa đúng sai, giới
đức tự nhiên tụ tập nơi thân, tỏ rơ
trong thế gian, tự lợi, lợi tha như thế măi
cho tới khi thành tựu Vô Thượng Bồ Đề
chẳng bị thoái chuyển. Nếu thật sự giữ
giới, người ấy sẽ chẳng thoái chuyển
Vô Thượng Bồ Đề. Đấy là điều
chắc chắn chẳng thể nghi ngờ. V́ sao vậy? Hết
thảy giới pháp đều từ tâm trí vô lậu của
Như Lai mà chín muồi, lưu xuất, ứng với nhu cầu
của hết thảy chúng sanh mà đặt bày!
(Kinh)
Phục vân hà đắc bất sanh ngu si, tà kiến không xứ
cố?
(經)復云何得不生愚癡。邪見空處故?
(Kinh:
Lại như thế nào để chẳng sanh vào chỗ
ngu si, tà kiến, ngoan không?)
Điều
“làm thế nào” thứ ba là thực hiện khối
công đức bằng cách nào để chẳng sanh ngu si,
chẳng c̣n đọa vào tà kiến ngoan không?
(Kinh)
Vân hà đương đắc Túc Mạng Trí, biến tri
khứ lai cố?
(經)云何當得宿命智。遍知去來故?
(Kinh:
Làm thế nào để sẽ đạt được
Túc Mạng Trí, biết trọn khắp quá khứ và vị
lai?)
Túc
Mạng Trí là biết rơ quá khứ, đối với chính
ḿnh và người khác đều đạt được
phương tiện vô ngại, như năm nào, tháng nào, do
v́ lẽ nào mà sanh, v́ đâu mà mất? Là
người th́ là người như thế nào? Là súc sanh
th́ là súc sanh như thế nào? Chúng sanh trong lục đạo
do đâu mà an lập? An lập trong thế giới nào? Thọ
mạng dài hay ngắn? Trí huệ cao hay thấp? Có h́nh dạng
nam hay nữ? Những thứ như vậy đều biết
rơ ràng, đó là Túc Mạng Trí thiện xảo. Túc Mạng
Minh (Pūrva-nivāsānusmrti-jñāna-sāksāt-kriya-vidyā) chính là có thể thông
đạt vô ngại hết thảy hữu t́nh, tức là
liễu giải quá khứ một đời, trăm đời,
ngàn đời, vạn đời, hoặc một kiếp,
hai kiếp, nhiều kiếp, nhiều đại kiếp,
vô cùng đại kiếp của hết thảy hữu
t́nh, thảy đều có thể biết rơ!
Rất
nhiều vị Bồ Tát do hành Ban Châu mà có thể thấu
hiểu như thế này: Họ cảm thấy [tới một nơi nào đó
trước kia chưa hề tới] nhưng rất quen thuộc hoàn cảnh
[của nơi ấy], có cảm nhận trước
kia đă từng đi qua, rất thông thuộc đối với
tướng trạng hoàn cảnh ấy, tợ hồ
đă từng thấy qua v.v… Có loại cảm thọ
như vậy đó. Điều này có thể gọi là
Tương Tự thông đạt túc mạng,
nhưng chẳng thể gọi là Túc Mạng Trí, mà
cũng chẳng thể gọi là Túc Mạng Minh. Nếu
đă chứng đắc tự nhiên trí, sẽ có
phương tiện trí, trí vận dụng thiện
xảo, trí vô ngại thiện xảo chiếu quán. Cái trí ấy
chẳng phải là do chúng ta tự khoa trương, nó có thể sanh ra lực dụng
thật sự!
(Kinh)
Vân hà đương đắc bất ly phụng kiến
chư Phật Thế Tôn, thính văn chánh pháp, năi chí mộng
trung cố?
(經)云何當得不離奉見諸佛世尊。聽聞正法。乃至夢中故。
(Kinh:
Làm thế nào th́ sẽ
được chẳng ĺa gặp gỡ chư Phật Thế
Tôn để nghe nhận chánh pháp, thậm chí trong mộng?)
Đây là một yêu cầu
đặc biệt, riêng biệt của hành pháp Ban Châu, muốn
khiến cho mọi người đều có thể thấy
Phật, nghe pháp. Chẳng phải
là thấy một vị Phật, hai vị Phật, mà là thấy
vô lượng chư Phật, nghe giảng chánh giáo, xa ĺa
tri kiến bất chánh, thậm chí ở trong mộng [vẫn
thấy Phật, nghe pháp]. Mọi người
trong quá tŕnh tu hành Ban Châu, sẽ có rất nhiều cảm
nhận và sự thật bất đồng. Ngay trong quá
tŕnh tu tập niệm Phật, nghiệp lực biểu hiện
cũng sai biệt hết sức to lớn. Do vậy, tuy có
công đức và lợi ích như thế, nhưng đối
với mỗi hành nhân, đều có sự biểu hiện
riêng. Trong Ban Châu, tức môn tam-muội Thập Phương
Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền này, mục
đích thấy Phật là để nghe pháp. Nghe pháp chính là một thứ thiện xảo để
tiêu quy tự tánh[21],
nhận biết tự tánh, là phương tiện để
nhận thức, là sự chọn lựa để thành tựu
Vô Thượng Bồ Đề. Chúng ta phải nên thâm nhập
quan sát pháp ích (lợi ích nơi pháp) này. Nói thông thường,
“thấy Phật” có thể luận bàn theo bốn
phương diện:
1)
Hiện tiền thấy Phật: Ban Châu tam-muội chính là
môn tam-muội Thập Phương Chư Phật Tất
Giai Hiện Tiền Lập. Trước kia, tôi đă niệm
thánh hiệu Dược Sư Phật, niệm thánh hiệu
Quán Thế Âm Bồ Tát, niệm chân ngôn của Văn Thù Bồ
Tát, khi tu tŕ hơi dụng công đôi chút, sẽ được
thấy h́nh tượng [của các vị
tôn thánh ấy], hoàn toàn chẳng phức tạp.
Nhưng nếu muốn có thể hỏi pháp, th́ vẫn cần
phải có mức độ tiến nhập nhất định.
Thông thường, nói “thấy Phật” đă là một
cơ chế tăng thượng rất lớn rồi, tức
là quá tŕnh thiện căn chín muồi. V́ tâm tịnh, cảnh
tướng (tướng
cảnh giới) sẽ tịnh; tâm thiện, cảnh
tướng sẽ thiện. Trong tâm giác ngộ bèn có tướng
cảnh giới kỳ diệu của chư Phật
Như Lai; nhưng nếu chẳng thể nghe pháp, phần nhiều
là do thiện căn chẳng thể thật sự chín muồi.
Trước kia, có một vị sư phụ
xuất gia bảo tôi: “Ôi chao! Tôi niệm Phật, niệm
chân ngôn, niệm tới mức hết sức mệt mỏi,
sẽ thường xuyên thấy tượng Phật bằng
đá, tượng Phật bằng đất sét, tượng
Phật vẽ, đều là Phật chẳng thể nói
năng!” Đó là do thiện căn chưa chín muồi. Khi
tu tập thâm nhập bi, trí và phương tiện của
Phật và cơ chế quan sát chưa chín muồi, sẽ có
thể thấy Phật như thế. Không chỉ là chẳng
thể nghe pháp, vẫn chỉ là trông thấy rồi thôi! Nếu
chúng ta tu tập cẩn thận, tu tập đúng như lư,
tu tập không đắm nhiễm, tu tập với khát vọng
được nghe pháp, sẽ có thể thấy Phật. Nếu
chúng ta thấy A Di Đà Phật hoặc chư Phật ở
phương khác, nhất định phải có pháp để
có thể hỏi. Nhưng nếu chúng ta b́nh thời chẳng
tư duy đúng như pháp, chẳng có khát vọng nghe pháp,
chẳng có nguyện vọng hỏi đáp, th́ làm sao có thể
hỏi pháp cho được? [Nếu là như vậy], dẫu
thấy Phật, vẫn có thể
mê mất tự tâm, cũng có thể đánh mất nguyện
vọng thưa hỏi, đánh mất tánh cách chủ động
thưa hỏi. Vậy th́ cũng có thể
là Phật sẽ nhanh chóng biến mất.
Ngày
hôm qua, có một vị Bồ Tát hỏi tôi: “Hành Ban Châu,
đi tới, đi lui, đi lui, đi tới, dẫu thấy Phật, Phật
vẫn phải ra đi, hăy nên làm như thế nào?” Thật
ra, nếu chẳng đi, sẽ xảy ra chuyện, hoặc
là quư vị diệt độ, hoặc Ngài nhập diệt.
Tối thiểu là quư vị xả báo, sẽ chẳng tiếp
tục ở trong cơi này. Nếu chẳng như vậy,
đức Phật ấy nhất định sẽ buông xả
quư vị, v́ sao vậy? Trong hành pháp, Ngài trợ duyên nhất
thời, oai đức chiếu soi, niệm Phật chiếu
kiến, do sức thiện xảo của Phật chiếu
kiến, [hành nhân] đă thấy Phật rồi bèn hỏi.
Hễ hỏi liền đáp, đáp xong th́ biến mất,
Ngài chẳng thể
ở lại chỗ của quư vị. Chúng ta phải liễu
giải rơ ràng thứ tự sử dụng của pháp này,
chớ nên mê mất ở chỗ này. Có vị Bồ
Tát đến đây thực hành Ban Châu vừa bắt đầu, đă hỏi: “Nếu
tôi thấy Phật, Phật vẫn rời khỏi, tôi c̣n
chịu đựng vất vả ngần ấy để
thấy Ngài làm ǵ chớ?” Chủ yếu
là do quư vị chẳng thấy! Nếu đă được
thấy, quư vị sẽ biết là chẳng nhọc nhằn!
“Hiện tiền thấy Phật” là chẳng sanh về cơi của Ngài, chẳng xả
báo, Phật cũng chẳng đến, ta cũng chẳng
đi. V́ cớ sao? Do nương vào sức niệm Phật,
nương vào sức thần thông gia bị của Phật,
nương vào nguyện lực nhiếp hóa của Phật,
nương vào sự tương ứng với công đức
của bổn hạnh, mà trong hiện tiền có thể thấy
Phật. Đối với chuyện này, chúng ta chớ nên
chần chừ, ngờ vực. Hết thảy
những ai hướng về pháp, vui thích pháp, bằng ḷng
tu tập, sẽ đều có cơ hội như vậy,
cũng sẽ đều có thành tựu như vậy.
2)
Thấy Phật trong Định: Nếu ai có các thứ Thiền
Định thiện xảo, đối với Sơ Thiền,
Nhị Thiền, Tam Thiền, và Tứ Thiền
xuất nhập tự tại, kiến lập đủ thứ
phương tiện thiện xảo du hư thần thông,
như thế th́ sẽ thấy Phật trong Định chẳng
khó. Người có công phu Thiền Định khá tốt,
đối với chuyện thấy Phật trọn chẳng
bận tâm cho lắm. V́ một khi có Thiền
Định, đối với chánh kiến và trí huệ, sẽ
có thể chọn lựa khá rơ ràng. Đó gọi là “do Định
sanh Huệ”. Huệ ấy sẽ chẳng sanh nghi, sẽ
chẳng bị chao đảo, chẳng bị ngoại cảnh
làm cho mê loạn. Bởi lẽ, người ấy có rất
nhiều thiện xảo, chẳng bị tướng cảnh
giới che lấp. Cho nên đối với chuyện thấy
Phật hay không, đâm ra c̣n lập bày rất nhiều
phương tiện.
3)
Thấy Phật trong mộng: Kẻ b́nh phàm dễ có chuyện
này. Trước kia, tôi ở một ngôi điện
đường, do [các hành nhân] mấy chục
năm niệm Phật tại đó như một ngày; cho
nên hễ ai tiến vào niệm Phật, rất dễ dung nhập
vào đó. Cứ khoảng ba ngày, lại có rất nhiều
mộng cảnh. Chẳng hạn như mộng thấy thế
giới Cực Lạc trang nghiêm, quốc độ trang
nghiêm, hoặc thiên cung trang nghiêm, hoặc là thấy Bồ Tát,
chư thiên, rất nhiều cảnh giới thù thắng.
Đương nhiên cũng mộng thấy người chết,
hoặc ác mộng có cảnh tượng rất hắc ám,
rất tàn khốc. Tuy là như vậy, nhân duyên như nhau,
đều do được sức công đức chẳng
thể nghĩ bàn của niệm Phật gia tŕ mà chiếu
soi, nhận biết chúng đều là hết thảy các
nghiệp tướng.
Thiện
Đạo đại sư có một đoạn văn tự
nói về phương pháp rất tốt để tu Tịnh
Độ trong mộng. Nếu có Bồ Tát khéo tu tŕ,
phương pháp này mười phần thuận tiện:
Thông thường là buổi tối, trước khi ngủ,
hăy chắp tay niệm Phật. Khi cảm nhận thân thể
đă mệt mỏi, chẳng thể gắng gượng
được nữa, bèn chắp tay nằm theo tư thế
cát tường, niệm mấy câu như sau: “Đệ
tử tên là… đang là phàm phu sanh tử, tội chướng
sâu nặng, nay nghe thiện tri thức dạy bảo, nghe
nói bổn nguyện và công đức chẳng thể
nghĩ bàn của A Di Đà Phật, xưng niệm Phật
hiệu. Do con bị nghiệp
chướng ngu si che lấp, chẳng thể thấy quốc
độ trang nghiêm của chư Phật, Bồ Tát, nguyện
Phật, Bồ Tát gia bị cho con, khiến cho con thấy
thế giới Cực Lạc, A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế
Chí và quốc độ thanh tịnh trang nghiêm, khiến cho
được thấy diệu tướng như thế.
A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật...” Thong thả niệm
cho đến khi ch́m vào giấc ngủ, [trong mộng sẽ]
rất dễ xuất hiện diệu tướng cát
tường, trọn đủ, thanh tịnh. Đấy là
trong mộng thấy Phật. Phương pháp tu tŕ này rất
hay, xưa nay những người tu hành pháp môn Tịnh
Độ đă lâu, ban ngày niệm Phật, trước khi
ngủ, nhất định sẽ làm như thế. Như
chúng tôi trước kia niệm Phật trong chùa, buổi tối
vào lúc đại hồi hướng, sẽ quỳ trước
Phật, niệm đoạn văn tự ấy. Sau đó,
quay về nghỉ ngơi.
Trên
thực tế, đây là một loại niệm Phật
liên tục, v́ trong lúc hôn mê, vô kư, nghiệp lực chín muồi,
chúng ta không thuận theo nghiệp lực, đă đem nguyện
vọng niệm Phật du nhập vào thời gian chính ḿnh sắp
nghỉ ngơi, điều chỉnh thời gian của
chính ḿnh, chẳng bỏ lỡ. Đó gọi là “dạ mạc
không quá, tồn niệm Tam Bảo” (chẳng bỏ luống
ban đêm, luôn nhớ đến Tam Bảo). Tức là trong
mộng chúng ta cũng có thể tu tập, thực hành pháp tắc
niệm Phật. Đó là một phương thức tu hành
mười phần có ư nghĩa. Từ xưa tới nay, nhất
là sau khi Thiện Đạo đại sư truyền bá
pháp môn này, có rất nhiều người tu theo, đạt
được diệu tướng, cảm ứng khó thể
thuật trọn. Điều cơ bản là pháp này có tánh
chất khá phổ biến; cũng có nghĩa là chỉ cần
dựa theo cách tu như vậy, hoặc một ngày, hai ngày,
bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, tu tập chẳng
giải đăi, chẳng gián đoạn, trong mộng sẽ
rất dễ thấy Phật, Bồ Tát, cho đến thấy
được các cảnh tượng trong thế giới
Cực Lạc.
4)
Tŕ niệm danh hiệu A Di Đà Phật, khi lâm chung, ắt
sanh về trước Phật. Do vậy mới có “mạng
chung, xả báo thấy Phật”.
Bốn
loại thấy Phật này đều là chân thật, chẳng
giả. V́ cớ sao vậy? Do thật sự có tướng
phàm phu, mà cũng có tướng chư Phật. Do thật sự
có nghiệp của phàm phu, mà cũng có nghiệp của
chư Phật. Thật sự có cơi ô trược, mà
cũng có Tịnh Độ của chư Phật. Thật
sự có nghiệp lực của chúng sanh, mà cũng công
đức thù thắng trang nghiêm của chư Phật. Bởi
lẽ, cái này có th́ cái kia có, cái này không th́ cái kia chẳng thể
hiển hiện. Chúng ta nhất định phải khéo quan
sát: “Chư Phật do nhân duyên sanh”. Do duyên theo pháp tắc
của các Ngài, Tu Đức có sai biệt, nhưng đối
với công dụng và lợi ích của việc niệm Phật,
mọi người đều có thể sử dụng
được.
Pháp
tu Ban Châu Tam Muội khiến cho bốn loại thấy Phật
ấy đều dễ phát lộ trong hiện tiền. Tác
dụng chủ yếu của pháp tu này là hiện tiền
thấy Phật. Nếu cơ chế “hiện tiền thấy
Phật” của chúng ta chẳng chín muồi, th́ cũng
có thể thấy Phật trong Định, hoặc trong mộng
thấy Phật, cho đến kết quả rốt ráo là
lâm chung thấy Phật. Do vậy mới nói pháp
môn Niệm Phật này đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Rất
nhiều người hỏi: “Tôi hành tŕ pháp này th́ thiện
căn có chín muồi hay không?” Tôi cảm thấy hoặc là
một ngày một đêm, hoặc một ngày hai đêm,
chúng ta có thể tu hành siêng ṛng, cẩn thận, thâm nhập,
sẽ chẳng một ai bị tổn thương! Trong nhiều năm qua, tôi mười
phần cẩn thận đối với điều này.
Đại khái là bắt đầu từ năm 1995, hễ
tôi có thời gian, bèn tu tập đi nhiễu niệm Phật
[theo phương pháp Ban Châu], chẳng dám tổn hại
[thân thể của] chính ḿnh. Nếu phước đức,
nhân duyên chẳng đủ th́ hành tŕ thong thả. Đủ
nhân duyên bèn kinh hành niệm Phật. Cơ bản là một
ngày kinh hành niệm Phật khoảng mười lăm tiếng
đồng hồ. Nếu lúc ấy có thời gian, bèn dành
ra bảy ngày, hoặc dành thời gian một tháng, hoặc
là nửa năm, hễ có cơ hội bèn đi kinh hành mỗi
ngày mười lăm tiếng đồng hồ. Chẳng
coi là tu Ban Châu, mà gọi là “kinh hành niệm Phật”.
Có khá nhiều khi hoặc là ba ngày, bảy ngày, cho đến
rất nhiều ngày đi kinh hành cũng đều có cảm
nhận nhân duyên trong khi ấy. Có lần vào dịp cuối
năm của một năm nọ, kể từ ngày Rằm
tháng Mười Một, tại chùa Phóng Quang núi Kê Túc, chúng
tôi tổ chức Phật thất kéo dài một trăm ngày.
Sau khi hoàn tất, có mấy vị Sa-di bèn đi kinh hành Ban
Châu bảy ngày. Trong thời gian ấy, cũng có tỳ-kheo
hành Ban Châu, nhưng đều là hai ngày, ba ngày, bốn ngày. Trong
quá tŕnh ấy, mọi người tu hành cảm nhận khác biệt rất lớn. Trên thực tế, Ban Châu
vốn là một hành pháp rất thông thường,
đương nhiên là vẫn cần tới thiện
căn chín muồi. Gặp được pháp này rất
khó, trọn chẳng phải là khoa trương, bản chất
và nội dung thực chất của nó là như thế!
(Kinh)
Vân hà đương đắc thù đặc đoan chánh
thượng diệu sắc thân, cụ túc oai nghi, chúng sanh
nhạo kiến cố?
(經)云何當得殊特端正上妙色身。具足威儀衆生樂見故。
(Kinh:
Làm thế nào th́ sẽ đạt
được sắc thân thượng diệu đặc
biệt đoan chánh, trọn đủ oai nghi, chúng sanh thích
thấy?)
“Thượng
diệu sắc thân”: Thân chúng ta thô kệch, nặng nề.
Có lúc người niệm Phật sắc thân đích xác là
trọn đủ quang tướng, trọn đủ tác dụng
tự tại. Ở đây, đâm ra chẳng nói nhiều
th́ tốt hơn. Chúng ta hăy tự ḿnh tu tập, cho đến
khi thật sự đạt được quả báo th́
cũng sẽ giống như thế.
(Kinh)
Vân hà đương đắc thường sanh đại
tánh chi gia, tôn quư chi vị, kiến giả cung kính cố?
(經)云何當得常生大姓之家。尊貴之位。見者恭敬故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ thường được sanh
trong thế gia vọng tộc, địa vị tôn quư,
người khác trông thấy sẽ cung kính?)
Phần
lớn mọi người ở đây đă đều
hành Ban Châu. Do hành pháp mà sắc thân và tâm lư đều thay
đổi, mọi người đều cùng nhận biết.
Đối với quả báo trong vị lai, nếu chẳng
cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ
sanh vào gia đ́nh thế gia vọng tộc là chuyện chắc
chắn, chẳng thể nghi ngờ. V́ lẽ nào vậy? Do
hành vi đơn nhất, tôn trọng, đầy đủ
phước đức và nhân duyên.
(Kinh)
Vân hà phục đắc phụ mẫu, huynh đệ, tông
thân, quyến thuộc, cập dĩ tri thức, tả hữu
vi nhiễu, hằng vô biệt ly cố?
(經)云何復得父母兄弟宗親眷屬。及以知識。左右圍繞。恆無別離故。
(Kinh:
Như thế nào để lại được cha mẹ,
anh em, gịng họ, quyến thuộc, cùng với tri thức
quây quần vây quanh, thường chẳng chia ĺa?)
Đại
gia tộc trước kia là “ngũ thế đồng
đường” (năm thế hệ sống cùng một
nhà), hoặc “tứ thế
đồng đường” rất nhiều. Một
nhà có đến hai ba chục người, hoặc ba bốn chục người rất b́nh
thường. Hiện thời, mười phần khó thấy,
dẫu nhà có ba người cũng rất khó ǵn giữ, do v́
lẽ nào? Sự tín nhiệm và đạo đức của
con người sai khác quá lớn. Hiện thời, dẫu
giữa người thân với nhau, cũng chẳng bằng
ḷng, hoặc rất khó ḥa hợp rành rẽ; dần dần
chẳng đủ tín nhiệm lẫn nhau, chẳng đủ
bảo vệ và tôn trọng lẫn nhau!
“Tả
hữu vi nhiễu” ư nói quyến thuộc quyến luyến
và che chở lẫn nhau. Thiếu thốn quyến thuộc
th́ thân tâm cô quạnh, yếu ớt,
trên thực tế là tướng trạng cô quạnh. Do vậy,
khi Thích Ca Mâu Ni Phật vừa chứng Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác, có một ngàn
hai trăm năm mươi vị tỳ-kheo thường
theo Ngài. Vua Tịnh Phạn
bèn nói: “V́ sao lại hiện tướng trạng nghèo xơ xác ấy? Sao những người theo Phật lại
vừa đen vừa c̣m cơi như thế này?” Do đó, vua
yêu cầu mỗi gia đ́nh trong ḍng họ Thích Ca phải
chọn ra một nam tử đẹp đẽ nhất
theo Phật xuất gia, để làm quyến thuộc trang
nghiêm của đức Phật, cũng nhằm khích lệ
mọi người để họ biết tới lợi
ích nơi y báo và chánh báo, tự lợi và lợi tha rộng
lớn, liên tục chân thật trong Phật pháp.
(Kinh)
Vân hà đương đắc quảng đạt bác
thông, sở vi thù dị, diệc chung vô khuyết giảm
ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm cố?
(經)云何當得廣達博通。所爲殊異。亦終無缺減於阿耨多羅三藐三菩提心故。
(Kinh:
Làm như thế nào để sẽ thông đạt rộng
lớn, việc làm đặc biệt khác lạ, và cũng
trọn chẳng khuyết giảm tâm A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề?)
Nội
hàm thực chất của pháp Ban Châu là có thể khiến cho
người ta thông đạt rộng lớn. Có người
vặn hỏi: “Một câu Phật hiệu sao có thể khiến
cho con người thông đạt rộng lớn cho
được?” Chúng ta cứ thật sự tu tập sẽ
biết. Nếu thật sự tu tập tới mức rơ
ràng, thông hiểu, xem lại hết thảy các kinh điển, [sẽ
nhận biết các kinh ấy] vốn xuất phát từ cái
tâm của chính ḿnh. Nếu chúng ta có thể thật sự
chứng đắc tam-muội, xem lại hết thảy
các giáo ngôn, [sẽ thấy] vốn là giáo ngôn của chính
ḿnh! Nh́n lại hết thảy các pháp tắc, [sẽ biết]
vốn là pháp tắc ta sẵn trọn đủ! Tuyệt
đối là chẳng hai, như thế th́ chúng ta sẽ chẳng
bài xích. Do vậy, giáo ngôn Tịnh Độ có cơ chế
thành tựu, tức là nó ngầm gồm thâu tam thừa, ngầm
bảo vệ tam thừa, [tu Tịnh Độ] là ngầm
hành cả ba thừa.
Trước
kia, tôi là một kẻ tiếp xúc phiến diện giáo ngôn
của A Di Đà Phật, là kẻ niệm Phật thọ
giới theo h́nh thức, cũng có nghĩa là niệm Phật
th́ phải nên ǵn giữ giới đức, ắt cần
phải niệm Phật. Trong đó, có ba điều thuộc
về tam-muội-da giới. Giới ấy có hai cách truyền
trao: Một là truyền trao trong cảnh giới. Cách kia là
truyền trao nơi Mạn Đà La, tức là truyền giới
trong đàn tràng Mạn Đà La. Sau khi được nghe ba
điều tam-muội-da giới ấy, tức là ba điều
thệ nguyện, tôi vẫn một mực niệm Phật,
nhưng tâm trạng niệm Phật đă khác hẳn. Chẳng
phải là v́ mong đạt tới một trạng thái chi
đó, hoặc chứng đắc kết quả chi đó
mới niệm Phật, nhưng do ba điều thệ
nguyện ấy mà niệm Phật, chẳng hạn như
dùng cái tâm chẳng tranh chấp để niệm Phật,
chẳng tranh chấp chính là thệ nguyện. Lại
như v́ hộ tŕ hết thảy các hành nhân tu pháp mà niệm
Phật, cũng tức là rất nhiều người
đang tu hành các loại pháp, Mật pháp, Hiển pháp, Thiền
Tông, Giáo Hạ, Tông Hạ, v́ hộ tŕ các hành pháp thiện xảo
cho tới khích lệ người tu hành thành tựu mà niệm
Phật. Đấy gọi là “b́nh đẳng cúng
dường mà niệm Phật”. Chẳng v́ cầu
cho chính ḿnh mà niệm Phật. Từ căn bản là chẳng
v́ cầu cho chính ḿnh. Hiện thời, rất nhiều
người cơ bản đều là v́ chính ḿnh được
văng sanh mà niệm Phật, v́ công phu của chính ḿnh mà niệm
Phật, v́ bản thân mà niệm Phật, v́ miễn trừ
tai nạn cho chính ḿnh mà niệm Phật, v́ ta sẽ chứng
đắc thánh đạo, thoát khỏi phiền năo mà niệm
Phật. Các kiểu niệm Phật ấy chẳng có cùng một
duyên khởi!
Chúng
ta thật sự niệm Phật, có thể thông đạt
ba thừa, rốt ráo vô ngại, từ trong hết thảy
các nghĩa, sanh ra sức phương tiện tự tại,
có thể thấy thông suốt hết thảy các pháp chẳng
vướng mắc, chẳng sợ hăi. Đó là điều
chắc chắn chẳng thể nghi ngờ. V́ thế nói là
thông đạt rộng lớn nội điển và các sách
vở ngoài Phật giáo. Hành vi chẳng giống kẻ phàm
ngu, tất nhiên là thành tựu nhất vị, đạt
được phương tiện thoát ĺa các phiền hoặc
đối đăi sanh tử và phiền hoặc phàm thánh
đối đăi, phiền hoặc đối đăi cao, thấp,
lớn, nhỏ, v́ cơ chế niệm Phật chính là cái
Vô Thượng Bồ Đề. Hễ đă đọc
kinh Vô Lượng Thọ, sẽ biết: Ba bậc văng sanh
đều lấy tâm Vô Thượng Bồ Đề làm
duyên khởi, dùng phương thức “một mực
chuyên niệm”, rốt cục quy kết hết thảy
công đức thiện xảo vào thế giới Cực Lạc
của A Di Đà Phật để đạt thành tựu.
Lời dạy ấy mười phần
rơ rệt!
(Kinh)
Vân hà đương đắc chánh niệm, chánh hạnh,
tiết độ bất di, tâm tri túc cố?
(經)云何當得正念正行。節度不移。心知足故。
(Kinh:
Làm thế nào để sẽ đạt được
chánh niệm, chánh hạnh, chừng mực chẳng dời,
tâm biết đủ?)
Chánh
kiến, chánh niệm, chánh hạnh, tâm hạnh chẳng tà.
Nếu chúng ta nương theo thệ nguyện, nương
vào giới để thủ hộ mà tu tập Phật
pháp, sẽ chẳng có tà nghiệp. Cái được gọi
là “ư thức, nghiệp lực, tập quán” tức là
có tri kiến chẳng chánh đáng, c̣n được gọi
là tà niệm, tạp niệm, ác niệm. Nhưng nếu
chúng ta nương vào giới luật, chẳng có tri kiến
bất chánh, nếu chúng ta niệm Phật, dùng Nam-mô A Di Đà Phật làm tri kiến thuần chánh
để ǵn giữ giới đức chính ḿnh, sẽ chẳng
nẩy sanh tà kiến. Đó cũng là điều tất
nhiên! Tâm không có tà niệm, nghiệp chẳng có tà hạnh, sẽ
biết chừng mực, xử sự sẽ đạt tới
thích đáng!
Trong
khoảng thời gian này, tôi có chút nghi ngờ đối với
khả năng làm việc của chính ḿnh. Trưa hôm nay, tôi
chẳng gắng gượng nổi nữa. Buổi sáng thức
dậy, đă tính t́m pháp sư duy-na xin nghỉ,
nói “tôi không lên giảng buổi này được. Tôi xin nghỉ”. Sau đấy vẫn
không xin nghỉ, vẫn cứ lên giảng. Giảng xong quay
về, vẫn nghĩ, buổi chiều sẽ chẳng giảng,
v́ thân thể không ổn. Thật ra là do ư thức không theo kịp,
nhưng cho tới khi lên đại điện th́ lại cảm
thấy có thể được. Sự nhận biết ấy
chính là do căn cứ theo cảm giác của chính ḿnh mà nẩy
sanh [ư niệm] chẳng liên tục. Thường là tri kiến
và cảm nhận của chúng ta không ngừng biến hóa,
không ngừng biến đổi cao hay thấp, rất khó
duy tŕ. Như chúng tôi đă nói, bất luận như thế
nào, ta đều phải ǵn giữ pháp tắc này, nó sẽ
chẳng đổi khác. Do vậy, ở đây là “tiết
độ bất di, tâm tri túc cố” (v́ chừng mực chẳng
đổi, tâm biết đủ), thiện xảo vận
dụng cái tâm thanh thản, tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng,
tâm trí huệ, khéo vận dụng các tâm ấy, cho nên tâm chẳng
rong ruổi theo bên
ngoài, chẳng bị ngoại cảnh xâm đoạt. Mỗi
người chúng ta hăy nên chú ư cảm giác, sự nhận biết,
và hành vi của chính ḿnh, hăy ít ham muốn, hăy biết đủ,
ḥng tránh khỏi bị tà tri tà kiến ăn ṃn!
(Kinh)
Vân hà đương đắc thường sanh tàm quư, viễn
ly sỉ nhục cố?
(經)云何當得常生慚愧。遠離恥辱故。
(Kinh:
Làm thế nào để sẽ được thường
sanh ḷng hổ thẹn, xa ĺa sỉ nhục?)
Chẳng
hổ, chẳng thẹn là thượng phẩm tùy phiền
năo. Nếu ai cảm thấy “ta làm rất tốt”, đó là
lời lẽ của kẻ chẳng hổ thẹn. Người
ấy phần nhiều có trạng thái ǵ? Vô kư, buông lung, hai
thứ ấy cũng là biểu hiện của thượng
phẩm tùy phiền năo. Tham đắm vô kư, hôn trầm, kẻ
ấy chẳng biết tàm quư thiện xảo, tâm phần
nhiều chẳng hổ thẹn, chẳng thể tinh tấn
đối với pháp tắc, tu hành phần nhiều chẳng
đắc lực, phần nhiều chẳng thể
tăng thượng. Nay chúng ta có cơ hội tu tập
pháp tắc như thế, hăy nên quư trọng. Có thể thâm
nhập tu tập th́ mới thật sự có thành tựu!
Trong
tu tập Phật pháp, do pháp hổ thẹn, xa ĺa tủi nhục. Xa ĺa nhục nhă là
điều đặc biệt quan trọng. Xa ĺa là v́ trong
khi hổ thẹn, cảm thấy đối với người
khác ta làm chẳng đủ, đối với chính ḿnh
cũng chẳng thực hiện trọn đủ, thường
sanh ḷng hổ thẹn, thường xuyên sám hối, thường
xuyên tự ḿnh phản tỉnh, tự tâm sẽ
đúng như thật quan sát hiện nghiệp (nghiệp
trong hiện tại) của chính ḿnh. Biết hổ thẹn,
sẽ chẳng hứng chịu sự vũ nhục. Nếu
là kẻ chẳng biết hổ thẹn, luông tuồng, chẳng kiêng dè,
cũng là kẻ tự nghĩ ḿnh rất tốt, kiêu mạn,
tà kiến, chẳng hổ, chẳng thẹn, phần nhiều
là vô kư, kẻ như vậy ham ngủ, ham ăn uống, Tùy Phiền Năo thô nặng, dần dần
sẽ rơi vào căn bản phiền năo. Những cái được
gọi là “tri kiến bất chánh”, tức “tham, sân,
si, mạn, nghi” sẽ tự nhiên biểu lộ!
V́
thế, đối với những lời giảng dạy
của đức Thế Tôn về phiền năo, tùy phiền
năo, vi tế tùy phiền năo, chúng ta hăy nên xem xét. Chúng ta đều
biết học Phật nhằm đoạn phiền năo, trừ
khử sanh tử, vận dụng bi trí để lợi ích thế gian rộng
lớn, thành tựu Bồ Đề. Đoạn phiền
năo mười phần trọng yếu, nhưng nếu chẳng
biết phiền năo là ǵ, đoạn như thế nào
đây? Rất nhiều người cứ ở măi trong sân
tâm, mạn tâm, nghi tâm, chẳng hổ thẹn, ở trong hôn trầm,
kiêu mạn, tà kiến, mà mong tu pháp, sẽ chẳng thể
có cách nào thành tựu, luôn bị phiền năo ch́m lấp, làm
sao tu tập Phật pháp cho nổi? Các vị thiện tri thức
hăy nên chú ư chỗ này!
Chẳng
biết tự xấu hổ là “vô tàm”, đùn đẩy
lỗi lầm của chính ḿnh sang người khác, nói
người này sai trái, quở kẻ kia sai trái, cuối cùng
người chung quanh ta đều bất hảo, xă hội
bất hảo, gia đ́nh bất hảo, toàn bộ đều
bất hảo, chỉ ḿnh ta tốt đẹp! Kẻ chỉ
thấy “một ḿnh ta tốt đẹp” như thế sẽ
chẳng thể sửa lỗi, thường nẩy sanh những
chuyện nhục nhă, tự ḿnh cũng ô nhục chính
ḿnh, tức là dùng sự thống khổ để làm nhục
chính ḿnh. Trong pháp tắc của tỳ-kheo, hổ thẹn là
điều trọng yếu nhất. Đối với sự
tu tŕ của tại gia cư sĩ, cũng là như thế.
Chẳng
xấu hổ đối với người khác là “vô
quư”, thường nói là “vô quư ư nhân” (chẳng xấu
hổ đối với người khác). Cổ nhân nói “ngă
ngưỡng chi vô quư” (ta ngẩng lên chẳng thẹn)
là nói đă thật sự thực hiện được
pháp tắc ấy. Có người như vậy hay không?
Đó là các vị thánh nhân, bậc trí giả, hoặc
các hữu t́nh đă xa ĺa tập khí và nghiệp lực.
[Người như vậy sẽ] có thể nói là “ngưỡng
phủ vô quư” (ngửa lên hay cúi xuống đều chẳng
hổ thẹn), c̣n kẻ b́nh phàm, trong khi cúi ngửa, đều
phải nên biết hổ, biết thẹn!
Kẻ
chẳng hổ, chẳng thẹn, tự chuốc lấy nhục.
Làm người mà nếu kiêu mạn, cho rằng chính ḿnh là
chánh xác, chẳng hổ, chẳng thẹn, ưa chỉ
trích kẻ khác, người như thế ắt gặp phải
tủi nhục, đó là bị tùy phiền năo tổn hại!
Loại người này thường tự cảm thấy
ḿnh rất tốt đẹp, nói chính ḿnh cũng chẳng
tham, mà cũng chẳng mạn, cũng chẳng sân, cũng
chẳng si, cũng chẳng ngu. Thật ra, chẳng phải
vậy! Thông qua không hổ, không thẹn, kẻ đó đă
biểu lộ tham, sân, si, mạn, ngu, các căn bản phiền
năo ấy được nối tiếp,
cho đến nẩy sanh tà kiến, chẳng thể thâm nhập
Phật pháp. Do vậy nói, “thường sanh hổ thẹn,
sẽ xa ĺa hai loại sỉ nhục đối với
chính ḿnh và người khác”. Cũng có nghĩa là tâm ta chẳng
hứng chịu sỉ nhục, mà người khác cũng sẽ
chẳng sỉ nhục ta, v́ sao? Chính ḿnh biết tự phản
tỉnh. Trong tư tưởng Nho gia Trung Hoa có câu: “Ngô nhật
tam tỉnh ngô thân” (Mỗi ngày, ta ba lượt tự
xét bản thân), “tam nhân đồng hành, tất hữu ngă
sư” (ba người cùng đi, ắt có người là
thầy ta), cũng có nghĩa là coi người khác đều
là thiện tri thức. Chúng ta phải thường tự
phản tỉnh. Nhưng người thời Mạt Pháp
toàn là điên đảo, thường phản tỉnh
người khác, gây phiền năo cho người khác,
bươi móc lỗi lầm của kẻ khác, chứ ta luôn
đúng! Kẻ khác sai be bét! Ương bướng, khó giáo
hóa như thế đó, gặp nhiều nỗi sỉ nhục.
Sỉ nhục là do chẳng thể tự phản tỉnh
chính ḿnh, chẳng thể nắm vững tự tâm. Chúng ta
đều biết: Nếu gây phiền toái cho kẻ khác,
cưỡng chế kẻ khác, có mấy ai chịu thần
phục kẻ khác? Cần phải hao tổn tâm huyết cỡ
nào? Lăng phí tinh lực nhiều cỡ nào? Chẳng bằng
đúng như thật liễu giải tự tâm. Do vậy,
đúng như thật liễu giải tự tâm, tu pháp thật
thuật tiện, sửa đổi lỗi lầm rất
thuận tiện, liễu giải cội nguồn của lỗi
lầm cũng rất thuận tiện. Hăy mau quay đầu,
chủ động mạnh mẽ, chúng ta cũng sẽ chẳng
bị các nhân duyên khác gây sỉ nhục.
(Kinh)
Vân hà đương đắc chánh trí khiêm cung, hàng phục
ngă mạn cố?
(經)云何當得正智謙恭。降伏我慢故。
(Kinh:
Làm thế nào để sẽ đạt được
chánh trí khiêm nhường, cung kính, hàng phục ngă mạn?)
Đối
với điều này, mọi người đều khá
thông hiểu. “Chánh trí” là đúng như thật biết tự tâm. “Khiêm
cung” là một pháp tắc người Hoa ưa thích nhất.
Trong kinh điển được tuyển chọn đứng
đầu truyền thống văn hóa Trung Hoa, tức kinh
Dịch, có quẻ Khiêm, sáu hào đều tốt lành[22].
Dẫu quẻ tốt nhất là quẻ Càn và quẻ Thái,
cũng như rất nhiều quẻ cát tường khác,
cũng đều chẳng được như thế.
Quẻ Khiêm cả sáu hào đều tốt lành, cũng chính
là như người Hoa hay nói: “Măn tao tổn, Khiêm thọ
ích” (Tự măn th́ bị hao tổn, Khiêm th́ được
lợi ích). Nhưng người thời Mạt Pháp tự
đại cuồng vọng, phần nhiều bị tâm trí
của chính ḿnh bức bách, tức là chính ḿnh bức bách cái
tâm của chính ḿnh, chịu đủ mọi nỗi khổ
nơi tâm trí. Người trong thời đại này, kẻ
điều phục, nhu thuận càng ít, kẻ hợm ḿnh
kiêu ngạo càng nhiều. Do vậy, đức Thế Tôn đă thọ kư người thời đại này là “ít
trí, ít phước, ương bướng, khó giáo hóa, chuộng
đấu tranh”.
V́
sao giáo ngôn Tịnh Độ được truyền bá rộng
răi trong thời đại này? V́ giáo ngôn ấy là duyên khởi
thanh tịnh b́nh đẳng. “Hết thảy chúng sanh
đều có thể văng sanh” là thanh tịnh, b́nh đẳng.
Duyên khởi thanh tịnh, b́nh đẳng là duyên khởi yêu
thương, từ bi trí huệ thật sự, mà cũng
là duyên khởi thanh tịnh của tôn giáo. Lợi ích của
tôn giáo là an ủi thế gian; thanh tịnh b́nh đẳng
th́ mới có thể an ủi thế gian. Quư vị có nói
chính ḿnh cao cả cỡ nào đi nữa, chẳng thể
an ủi thế gian. Hạ thấp ḿnh cỡ nào đi nữa,
cũng chẳng thể an ủi thế gian. Phàm hay thánh, bất
luận chúng ta đứng ở góc độ nào, đều
chẳng thể an ủi thế gian. Chỉ có b́nh đẳng
thanh tịnh, hết thảy chúng sanh đều có thể
thành Phật, đều có thể văng sanh, như thế th́
mới có thể đúng như thật an ủi thế
gian, mang lại lợi ích chân thật cho hữu t́nh trong thế
gian. Đối với điều này, chúng ta có thể
tư duy, và cũng có thể quan sát được!
“Hàng
phục ngă mạn cố” (do hàng phục ngă mạn): Chúng ta nếu
hơi chẳng chú ư, sẽ sanh khởi cái tâm ngạo mạn,
tức là tự đề cao chính ḿnh, khinh rẻ kẻ
khác. Đó là tướng trạng trong đời mạt. Hữu
t́nh trong thuở chánh pháp và thời mạt, phần nhiều
ương ngạnh. Trong kinh điển, đức Phật
đă nhiều lượt thọ kư
như thế. Tuy cái tâm của chúng ta vĩnh viễn giống
như tâm Phật, nhưng do biểu hiện của nghiệp
lực, bèn có Chánh Pháp và Mạt Pháp.
(Kinh)
Vân hà đương đắc sách cần tinh tấn, viễn
ly giải đăi cố?
(經)云何當得策勤精進。遠離懈怠故。
(Kinh: Như thế nào th́ sẽ siêng
gắng, tinh tấn, xa ĺa giải đăi?)
Đọc đến câu “sách
cần tinh tấn”, thấy dễ dàng; thật ra, chẳng
dễ thực hiện! Thiện
Đạo đại sư dạy: Nếu có kẻ ngày
đêm sáu thời gấp rút tu tŕ, như cứu đầu
cháy, nhưng do tạp niệm lừng lẫy, chẳng thể
thành tựu chánh nhân văng sanh, “Tinh tấn” được
nói ở đây là ǵ? Chư Phật Như Lai đă dạy:
Sức trí huệ chẳng đắm nhiễm, sức
phương tiện lợi ích hữu t́nh, thường
xuyên thủ hộ, chẳng hề gián đoạn; đó là
“tinh cần” (精勤, siêng
năng chuyên ṛng). Đối với chánh niệm, thệ
nguyện chẳng có lúc nào đánh mất chánh niệm,
thường liên tục siêng năng, thường siêng thủ
hộ. Đó là thiện xảo tinh tấn thật sự.
Nếu chúng ta hằng ngày chẳng ngủ nghê, cứ đứng
tại đó mà phát sanh cái tâm kiêu mạn, tự ḿnh tăng
trưởng cái Tôi, cưỡng
chấp cái Ta, tốt nhất là đừng nên tu tŕ! [Bởi lẽ],
tu tŕ như vậy sẽ càng tu càng khổ, càng tu càng xa,
càng tu càng khó! Chuyện này chúng ta đều có thể
trông thấy, đều nhận biết!
“Viễn
ly giải đăi”: Sự tinh tấn này ứng với
chánh tinh tấn. Kẻ tà tinh tấn phần nhiều có cái tâm tăng thượng
mạn, lừa dối, sỉ nhục chính ḿnh lẫn
người, cho ḿnh là tôn quư, lấn hiếp, sỉ nhục
kẻ chưa hành. Như thế th́ không chỉ chẳng
đạt được lợi ích nơi Phật pháp, mà
c̣n nẩy sanh đại kiêu mạn. Do cái tâm tăng thượng
mạn, bèn “chưa đắc mà
nói đă đắc”, phần nhiều
lấn hiếp, sỉ nhục thế gian, rơi vào quyến
thuộc của ma, dẫu niệm Phật cũng đánh mất
cam lộ vị. Dẫu hằng ngày niệm Phật,
nhưng do dùng cái tâm tăng thượng mạn để
tu tŕ, sẽ chẳng đạt được lợi ích
nơi Phật pháp. Nhất định phải chú ư chỗ
này!
(Kinh)
Vân hà đương đắc đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả, b́nh đẳng dữ
lạc cố?
(經)云何當得大慈大悲大喜大舍。平等與樂故。
(Kinh:
Làm thế nào để sẽ đắc đại từ,
đại bi, đại hỷ, đại xả, b́nh
đẳng ban vui?)
Đúng
là chúng ta phải nên đặc biệt chú ư tu tŕ Tứ Vô
Lượng Tâm. “Từ, bi, hỷ, xả” Tứ Vô
Lượng Tâm đều duyên theo
chúng sanh, b́nh đẳng hóa độ. Cái gọi là Từ
chính là ban vui cho chúng sanh. Ở đây, “ban vui cho chúng sanh” chẳng thể nói là quư vị đối với tôi
thân thiết, tốt đẹp, tôi sẽ ban vui cho quư vị;
đấy chẳng phải là từ bi. Phải nên là ban vui
cho hết thảy chúng sanh, bất luận kẻ đối
nghịch với quư vị, làm hại, hủy báng, tán
dương, báng bổ, làm nhục quư vị, đều ban
vui cho các chúng sanh như vậy, khiến cho hạng hữu
t́nh ấy đạt được pháp lạc, đạt
được niềm vui do ĺa khổ, tâm trí an lạc, niềm vui Bồ Đề, niềm vui chánh pháp, niềm vui do xa
ĺa tập khí nặng nề. Đó là thật sự thủ
hộ Phật pháp. Nếu không, chúng ta chọn lựa để
ban vui cho chúng sanh: Kẻ nào đối
xử tốt với ta, cung kính ta, tán thán ta, ta liền thuyết
pháp cho hắn, độ hắn. Trong rất nhiều kinh
điển, đức Phật đă phê phán loại người
như thế đă dùng cái tâm quyến thuộc của ma,
tăng trưởng nghiệp lừng lẫy, tức là
nghiệp luân hồi. Như thế gọi là “lôi kéo quyến
thuộc”. Quư vị đối xử với tôi rất tốt,
chúng ta sẽ tụ họp. Sau đó, tôi sẽ hóa độ
quư vị, thuyết pháp cho quư vị. Quư vị đối xử
với tôi chẳng tốt, tôi liền bài xích, thương
tổn quư vị. Đấy chẳng phải là từ tâm.
Từ tâm trọn khắp, chân thật nhất như, ban bố
rộng răi, khiến cho chúng sanh đạt được
yên vui, khiến cho hết thảy hữu t́nh dù thiện hay
ác, đều có thể b́nh đẳng an lạc. Đấy
là đại từ tâm thật sự. Khiến cho cừu
nhân của chính ḿnh, kẻ tánh t́nh độc ác, kẻ tổn
hại ta đều được sống ở nơi
như ư, tốt lành, đạt được thiện
báo. Đó là vun bồi cái tâm từ. Nếu nói “ngươi
đối xử với ta tệ bạc, ngươi
rơi vào chỗ xấu ác, hăy hứng chịu quả báo
đi, vào địa ngục đi!” Đó là sân tâm, hại
tâm, nghịch tâm! Chư vị thiện tri thức hăy rất khéo quan sát!
Cái
gọi là “đại bi” chính là sức tự tại
và nghiệp duyên tự tại dẹp trừ nỗi khổ
trầm luân của chúng sanh, khiến cho chúng sanh an trụ
nơi vui sướng, thoát khỏi khổ duyên.
Nói
tới Hỷ th́ là cái tâm làm cho chúng sanh vui mừng. Trong giáo
ngôn của đức Phật, khiến cho
chúng sanh vui sướng, khiến cho chúng sanh an lạc, chính
là khiến cho chư Phật an lạc, tức là nói “chúng
sanh an lạc, chư Phật an lạc. Chúng sanh hoan hỷ,
chư Phật hoan hỷ”. V́ lẽ nào vậy? Hết thảy
sự bố thí và giữ ǵn Bồ Đề tâm của
chư Phật Như Lai đều do chúng sanh làm nhân duyên mà
hiển lộ. Nếu không, chúng ta học tập Phật
pháp sẽ trở thành đi ngược đường!
Nói
tới Xả th́ là dùng cái tâm b́nh đẳng, ĺa bỏ hết
thảy đối đăi khác biệt, ĺa bỏ oán đối,
ĺa bỏ cao thấp, ĺa bỏ phàm thánh. Xả biểu lộ
triệt để tâm trí b́nh đẳng tạo lợi ích.
Xả khác biệt, xả đối đăi, xả nghi ngờ,
xả thiện ác, như thế th́ sẽ có các thứ thiện
xảo, có thể b́nh đẳng tạo lợi ích rộng
lớn cho hết thảy chúng sanh. Điều này được
vận dụng nhiều nhất trong pháp môn Tịnh Độ.
(Kinh)
Vân hà đương đắc văn thuyết thậm
thâm chân không, vô tướng, vô nguyện pháp thời, nhất
thiết vô hữu kinh bố, thoái một cố?
(經)云何當得聞說甚深真空無相無願法時。一切無有驚怖退沒故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đạt được khi
nghe nói pháp rất sâu như chân không, vô tướng, vô nguyện,
hết thảy sẽ chẳng bị kinh sợ, lui sụt?)
Đối
với hết thảy phàm phu hữu t́nh, đây là một sự
cảm nhận chân thật. “Không, vô tướng, vô nguyện”
chính là ba pháp môn giải thoát, là pháp môn giải thoát mà hết
thảy người học Phật đều phải nên hành tŕ. Chúng ta đều biết đến sự nhiếp
hóa của ngũ phần Pháp Thân, tức là Giới, Định,
Huệ, Giải Thoát, và Giải Thoát Tri
Kiến. “Không, vô tướng, vô nguyện” là thiện
xảo giải thoát. Khi nghe pháp môn như thế, “nhất
thiết vô hữu kinh bố, thoái một” (hết thảy
chẳng có kinh sợ, lui sụt). Tu pháp ǵ th́ sẽ có thể
đạt được lợi ích như thế? Hành pháp
Ban Châu đích xác là một trăm hai mươi hai câu hỏi,
tức là lợi ích có thể đạt được từ
một trăm hai mươi hai góc độ.
Ba
môn tam-muội Không, Vô Tướng, Vô Nguyện là các môn tam-muội riêng biệt, đặc
thù của Phật giáo, giống như Niệm Phật
tam-muội, Ban Châu tam-muội, Pháp Hoa tam-muội. Đó là một
pháp tu tŕ trong vô lượng vô biên môn tam-muội. Tu tŕ tam-muội
chính là công đức Chánh Thọ trong Phật pháp. Nếu
chẳng vận dụng tam-muội, công đức và lợi
ích hiện tiền đều là hư giả, tương
tự, chẳng chọn lựa. Nhập Hoan Hỷ Địa
Bồ Tát, sẽ có vô lượng tam-muội cùng lúc hiện
tiền, tự đạt được, tự trọn
đủ, đạt được oai đức tự
tại, vượt xa kẻ b́nh phàm. Chúng ta từ trong hành
vi b́nh phàm, từ trong tư duy và ư thức b́nh phàm mà nẩy
sanh sự hay biết. Sức mạnh hiểu biết thông
qua khả năng hiểu biết và đối tượng
nhận biết mà nẩy sanh tác dụng nối tiếp. Thế
nhưng sức tam-muội chẳng phải là sức tưởng
tượng, mà là sức cảnh
giới, sức
phước đức, sức thiện xảo, sức
công đức, sức trí huệ, sức từ bi, sức
phương tiện, sức lợi ích hữu t́nh chẳng thể nghĩ
bàn, sanh ra một thứ
hiện thực. Chỉ có người
đắc tam-muội mới nhận biết hiện thực
ấy. Chư Phật Như Lai cũng có thể
phương tiện lập bày giáo pháp, chỉ bảo,
hướng dẫn, nêu ra các thí dụ, bao gồm nhân dụ
và pháp dụ đểs dẫn dắt
chúng sanh khế nhập pháp tắc ấy. Nay chúng ta học
tập Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện
Tiền Lập tam-muội th́ cũng là như thế.
Nghe “không, vô tướng, vô nguyện”,
hết thảy phàm phu đều sanh tâm sợ hăi. Nếu
chẳng sợ hăi, là do chẳng
tư duy rất sâu. Nếu đă tư duy mà chẳng sợ
hăi, th́ đều là người có thiện căn đă
chín muồi. V́ sao? Đă an trụ nơi giải thoát. Nếu
là kẻ chẳng an trụ, ắt sẽ sanh ḷng sợ hăi.
Đối với điều này, chúng ta thường có thể
suy xét kỹ càng. Đối với ba môn tam-muội Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, nếu
là tương tự tùy thuận, sẽ chẳng sanh sợ
hăi, người ấy đạt được
phương tiện giải thoát. V́ hết thảy các pháp
hữu vi, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian rốt ráo như huyễn, chẳng có thực chất,
loạn khởi, loạn diệt (rối loạn dấy
lên, rối loạn diệt mất), do nhân duyên mà sanh. Tánh của
chúng vốn là Không, ắt sẽ chẳng có ǵ để
đạt được. Hết thảy bậc thiện
tri thức chọn lựa từ chỗ này, đích thân
chứng đắc ba môn tam-muội ấy, đạt
được giải thoát an lạc. Đó gọi là “chân
thật tánh Không”, chẳng phải là Đoạn Diệt
Không, cho nên nó có thể dung nạp trọn vẹn vạn
pháp, chẳng nhiễm mảy trần. Do trong vạn pháp chẳng
có mảy trần, người ấy đạt được
giải thoát rốt ráo. Nếu từ trong ba môn tam-muội ấy,
đích thân chứng pháp tánh không nhiễm trần, sẽ
đạt được giải thoát rốt ráo. Cho nên nói
“đắc nhập tam-muội nghĩa” chính là tâm trí
chẳng nhiễm trần an trụ trong hết thảy các
pháp, đạt được giải thoát rốt ráo. Sự
giải thoát chính là khi sự việc hiện tiền, sẽ
hiểu rơ pháp tánh, có thể chọn lựa. Sự chọn
lựa ấy chân thật, chẳng hư dối, trọn
chẳng phải là giả thiết, chẳng phải là lư
luận, chẳng phải là tư duy, chẳng phải là
điều trông thấy, được gọi là “tam muội
lực”, tức là sức Đẳng
Thọ.
Chư
vị thiện tri thức cùng tu tập Ban Châu tam-muội
như nhau, chúng ta phải nên thâm nhập tu tập. Không, Vô Tướng, Vô Nguyện chẳng phải là nói suông, chẳng lư giải.
Thật ra, nó là chứng đắc như thế, tâm trí
như thế, cảm nhận như thế, nghiệp
tướng như thế, liên tục tiếp nối
như thế! “Chẳng sanh sợ hăi” đối với
chuyện này th́ chỉ có hành giả đang tu tập Ban
Châu mới có thể chọn lựa tâm trí ấy. Trong quá
tŕnh chúng ta tu hành pháp Ban Châu, sẽ có thể lănh hội. Nếu
chẳng lănh hội được điểm này, th́ hoặc
một ngày, một đêm, hoặc bảy ngày bảy
đêm, hoặc chín mươi ngày chín mươi đêm, cho
tới thời gian lâu hơn, thậm chí kéo dài đến tận
tương lai, khó thể thành lập, khó thể tiếp tục
duy tŕ, khó thể ǵn giữ. V́ sao? Do quư vị ch́m đắm
nặng nề, mang nhiều gánh nặng, bị đủ
loại vọng tưởng lừa gạt, khinh nhục,
cho nên chẳng thể đạt được tam-muội.
Tam-muội là trong tâm phát sanh sự khinh an (nhẹ nhàng, an lạc),
thật sự tương ứng, thật sự đạt
được công đức như thế. Đối với
Không và Vô Tướng chẳng
mong cầu, đối với Không và Vô Tướng chẳng đạt được ǵ. Do
đó, nhập Vô Nguyện tam-muội.
Môn tam-muội ấy được gọi là giải thoát tam-muội
chân thật, chẳng lui sụt, chẳng đắm nhiễm,
chẳng sợ hăi!
Đây là điều “vân
hà” thứ mười lăm. Một trăm hai
mươi hai câu hỏi được đặt ra trong
kinh này đều nhằm nói về công
đức lợi ích của [môn tam-muội] Thập
Phương Chư Phật Hiện Tiền. Hỡi các vị
thiện tri thức! [Hiền Hộ Bồ Tát] lập ra các
câu hỏi là v́ công đức và lợi ích [của pháp Ban
Châu] mà đặt bày, v́ hết thảy các pháp vốn “không
có ǵ để đạt được”, hết thảy
các pháp vốn “không có ǵ để lập bày”, nhưng
nương vào sự đặt bày để khiến cho chúng
sanh được thấy, được nghe! Giống
như chúng ta vốn chẳng có căn nhà này, bèn tụ tập
một đống gỗ đá, qua sự lắp ghép, sơn phết của thợ thuyền
mà h́nh thành một căn nhà như thế đó. Do vậy,
hư không vốn chẳng có ǵ, mà tạo lập đủ
mọi thứ pháp ích thiện xảo, bản chất của
chúng cũng là Không. Nếu là có, làm sao
kiến lập cái Không cho được?
(Kinh)
Vân hà đương đắc bất nhạo lăn nọa,
nhiếp thọ chánh pháp cố?
(經)云何當得不樂懶惰。攝受正法故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đạt được chẳng
ưa thích lười nhác, nhiếp thọ chánh pháp?)
Chúng
ta đều biết: Công đức chân thật của hết
thảy chánh pháp là an lập, tiêu trừ hết thảy các
phiền năo, vi tế phiền năo, và tùy phiền năo. Trong hết thảy các phiền năo, vi tế phiền
năo và tùy phiền năo bị tiêu trừ triệt để. Hữu t́nh phàm
phu vận dụng sanh mạng của chính ḿnh như thế
nào? An trụ chẳng nghi ngờ trong phiền năo, vi tế
phiền năo, và tùy phiền năo, như
tham, sân, si, mạn, nghi, chẳng chánh kiến. Chúng sanh
như thế là chúng sanh thô ác. Lại như [các phiền năo] vô kư, giải đăi,
buông lung, chẳng hổ, chẳng thẹn. Đó là hạng
hữu t́nh bị thâu nhiếp bởi tùy phiền năo thô nặng,
chẳng thể tăng trưởng thiện pháp, chẳng
thể đạt được oai đức lợi ích
thế gian rộng lớn. Hữu t́nh thuộc loại
trước là hữu t́nh ác nặng nề, hữu t́nh thuộc
loại sau là hữu t́nh giải đăi, hữu t́nh vô kư, phần
nhiều chuyển theo gịng nghiệp, an trụ trong gịng nghiệp. Thoạt nh́n nghiệp lưu ấy thong
dong, nhưng thật ra, nó cũng là nghiệp luân hồi.
Như
thế nào th́ sẽ chẳng ưa thích giải đăi? Do được
Chánh Thọ cổ vũ, khích lệ, do Chánh
Thọ tiếp nối, do tiến hướng Chánh Thọ.
Ví như đối với nguyện vọng mong cầu Ban
Châu tam-muội của chúng ta, nếu chẳng có nguyện vọng
như thế, chúng ta sẽ rất dễ đọa vào giải
đăi. Trong kinh Phạm Vơng, đức Phật đă nêu dạy:
“Hết thảy chư Phật Như Lai đều dùng
tinh tấn để thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề. Hết thảy phàm ngu hữu t́nh đều
do giải đăi, buông lung mà trầm luân!” Hành pháp Ban Châu
cũng lại như thế, có thể khiến cho hết
thảy chúng sanh từ trong sự an lạc của Chánh Thọ
mà gạt bỏ lười nhác. Về cơ bản, lười
nhác thuộc về thượng phẩm tùy phiền năo. Món
tùy phiền năo này khá phổ biến trong các tăng chúng và
những người chuyên môn tu tŕ, c̣n hữu t́nh tại
gia th́ phần nhiều là ác tánh phiền năo thô nặng, tức
tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến bất chánh. Hàng xuất
gia th́ phần đông lười nhác, vô kư, hôn trầm,
không hổ thẹn. Lại c̣n có thói tự măn, chẳng
thể siêng ṛng tu tập Phật pháp, chẳng thể thâm
nhập sự thiện xảo rộng lớn.
Chúng
ta nói “Như Lai Chí Chân đẳng Chánh Giác” th́ “Đẳng”
quả thật là do Nhất Chân hiện ra, do bản chất
của pháp giới hiện ra. Hết thảy các tam-muội
sẽ tự b́nh đẳng lănh nhận công đức, tức
là công đức thuộc về bản chất. Tôi nhớ
ông Đại Hùng trong khóa tu pháp Ban Châu chín mươi ngày,
đă viết cho tôi vài chữ: “Hôn trầm trụ ám xứ”
(hễ hôn trầm bèn trụ trong chỗ tối tăm).
Trong thực tế, đó chính là Đẳng, đă có lănh hội
đôi chút đối với “chư pháp trụ pháp vị,
thế gian tướng thường trụ” (các pháp trụ
nơi địa vị vốn có của nó, tướng thế
gian thường trụ). Nếu tiếp tục, sẽ có
thể nhập thiện xảo Đẳng Thọ. Nếu
chẳng thể tiếp tục, sẽ lui sụt thành tập khí, lui sụt thành phương tiện
thiện xảo. Đấy là sự nhận biết
tương tự, nhưng sự nhận biết ấy
cũng rất có ư nghĩa. Khi tu tập hành pháp Ban Châu, rất
dễ dàng nhận biết Đẳng Chánh Giác. Do Như Lai
là bậc Chí Chân đẳng Chánh Giác, cho nên “chư pháp trụ
pháp vị, thế gian tướng thường trụ”.
“Thường trụ” chính là các pháp ở đúng
nơi pháp vị của chúng, hết thảy thiện tri thức
đích thân chứng pháp “dứt bặt đối
đăi”, dự vào địa vị Thập Trụ Bồ
Tát, quyết định có thể nhận biết “hết
thảy đều dứt bặt đối đăi”.
V́
đối với sự đích thân chứng đắc và
nhận biết pháp, chúng ta nghe nói th́ nhiều, chứ tu tập
th́ ít, cho nên chẳng thể hưởng thụ pháp vị
của chư Phật, chẳng thể yêu thích pháp vị của
Phật. Nếu có thể thật sự thâm nhập pháp vị
của Phật, pháp vị ấy cũng vô cùng. Thiện xảo
cũng là vô cùng, bi trí cũng vô cùng, phương tiện thiện
xảo vô cùng, sẽ đem lại cho chúng ta phước
đức, thiện xảo, phương tiện và oai
đức vô cùng. Oai đức là ǵ vậy? Chính là trong lúc b́nh thời,
chúng ta sẽ vận dụng không vướng mắc, không
trở ngại, chẳng sợ hăi!
(Kinh)
Vân hà đương đắc trí huệ thông đạt,
minh liễu nhất thiết vô dữ đẳng giả cố?
(經)云何當得智慧通達。明了一切無與等者故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đạt được trí huệ
thông đạt, hiểu rơ hết thảy, không ai sánh bằng?)
Đây
là vấn đề thứ mười bảy, cũng là
nói về lợi ích do trạch pháp (擇法, chọn lựa
pháp), mà cũng là hiệu quả tất nhiên sanh khởi bởi
sức tam-muội Thập Phương Chư Phật Tất
Giai Hiện Tiền. Hiệu quả ǵ vậy? Tức là “trí
huệ thông đạt, minh liễu nhất thiết vô dữ
đẳng giả” (trí huệ thông đạt, hiểu
rơ hết thảy, không ai sánh bằng). Phần này nhằm
tiếp nối phần trước: Nếu là người
chẳng thích lười nhác, nhiếp thọ chánh pháp, tất
nhiên sẽ tiến nhập trí huệ thông đạt, tất
nhiên sẽ tiến nhập “hết thảy chẳng có ǵ
sánh bằng”. Nếu chẳng trừ khử giải
đăi, Đẳng sẽ chẳng thể thành lập
được, chỉ là tướng hôn trầm, tướng
vô kư, tướng buông lung, tướng chẳng thẹn, chẳng
hổ, là tướng tầm thường chết lặng.
Tướng ấy sẽ chẳng thể lợi ích thế
gian, chẳng thể lợi ích bản thân, chẳng thể
lợi ích hữu t́nh.
“Trí
huệ thông đạt, minh liễu nhất thiết vô dữ
đẳng” (trí huệ thông đạt, hiểu rơ hết
thảy chẳng thể sánh bằng) chính là tâm trí nguồn
cội của A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Do hết thảy đều chẳng sánh bằng, cho nên chư
Phật Như Lai có thể liễu đạt “hết thảy
chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai”, không cần nhờ vào tạo tác, trực tiếp thấu đạt
cội nguồn. Khi chúng ta đọc Đại
Phương Đẳng Như Lai Tạng Kinh, sẽ có thể
nhận biết điểm này. Trong đó, có chín loại tỷ dụ[23].
Mỗi tỷ dụ đều nói đến thực chất
và tướng trạng biểu lộ: Tướng
được biểu lộ là vô nhiễm, c̣n thực chất
th́ chẳng thể nghĩ bàn, bằng với chư Phật.
Chỉ có Phật và Phật mới đích thân chứng chữ
Đẳng này; chỉ có người thiện xảo là nhận
biết, c̣n kẻ hủ bại sẽ mờ mịt. Nếu
nhận biết điều này, sẽ đắc trí huệ thông đạt, hiểu rơ tâm Vô Thượng
Bồ Đề ở chỗ nào, hiểu rơ Vô Thượng
Bồ Đề ở nơi đâu. Kẻ giải đăi
sẽ chẳng thể vận dụng Vô Thượng Bồ
Đề. Kẻ buông lung, kẻ vô kư, kẻ vô minh, kẻ
tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sẽ chẳng thể vận
dụng. V́ sao vậy? Họ bị tà kiến tham, sân, si, mạn,
nghi, cho đến các loại tùy phiền năo che lấp, cho
nên cũng bị biến dạng, giống như tấm
gương biến dạng [ở khu vui chơi]. Tuy Như
Lai chí chân đẳng Chánh Giác thiện xảo, tuy được
quang minh của tự tánh chiếu sáng rực, nhưng bị
cái gương biến dạng soi bóng mà trở thành vặn
vẹo, diện mạo sẵn có ngay lập tức bị
vặn vẹo, chẳng thể trông thấy, tâm sanh sợ
hăi, điên đảo.
(Kinh)
Vân hà đương đắc ư nhất thiết Phật
sát tùy ư đắc sanh cố?
(經)云何當得於一切佛剎隨意得生故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được tùy ư sanh vào hết
thảy các cơi Phật?)
Lập
ra một trăm hai mươi hai câu hỏi này, toàn bộ
đều [nhằm phơi bày] lợi ích và hiệu quả
của Ban Châu tam-muội, tức là công đức chân thật
do tu hành pháp Ban Châu là ở chỗ nào; cũng tức là một
trăm hai mươi hai công đức đều do tu tŕ
tam-muội Thập Phương Chư Phật Tất Giai
Hiện Tiền Lập mà đạt được. Điều
thứ mười tám chính là tùy ư đối với mười
phương cơi Phật, hoặc là thấy trong mộng, hoặc
thấy trong Định, hoặc do sức tam-muội mà
trông thấy, hoặc do xả báo mà thấy, sẽ đều
trông thấy. “Thấy” có nghĩa là “sanh vào hết
thảy các cơi Phật”. Trong cơi này, chúng ta thấy Phật,
chẳng hạn như hiện tiền thấy Phật, sẽ
là công đức văng sanh. Tức là chẳng ĺa khỏi
chỗ ngồi, chẳng xả bổn nguyện, mà được sanh trong mười phương cơi
nước. V́ lẽ nào? Chúng ta vốn cùng mười
phương cơi nước cũng chẳng có chướng
ngại. Nay chúng ta không thể biết, không thể hiểu,
không thể thấy, đều là do bản thân chấp
trước mạnh mẽ và nghiệp duyên dị thục
nhất thời che lấp.
(Kinh)
Vân hà đương đắc bất vị nhất thiết
ngoại đạo sở tồi hoại cố?
(經)云何當得不爲一切外道所催壞故。
(Kinh:
Như thế nào sẽ được chẳng bị hết
thảy ngoại đạo hủy hoại?)
Chúng
ta đều biết, ngoại đạo đều dựa
trên sự tướng để an lập. Họ dùng Ngă, bất luận hành
xử nơi Tiểu Ngă, Chân Ngă, Giả Ngă, Bổn Tế
Ngă, Vô Trước Ngă, Trí Huệ Ngă, cho tới Diệu Dụng
Thiện Xảo Ngă, đều là chấp trước. “Chấp”
có nghĩa là t́m kiếm nơi sự tướng, cho là
ngoài tâm có pháp. Chẳng hạn như truy ngược về
Bổn Tế, bèn cho rằng có một cái Thần Ngă[24],
cho rằng tất cả tâm tánh biến dạng của
chúng ta trong hiện tại là Giả Ngă, dùng Giả Ngă để
chứng Chân Ngă. Đó là quan điểm lập luận của
ngoại đạo, chẳng liên quan ǵ với Phật pháp.
Lại như Vô Trước Ngă, tức là tưởng cái
tâm chẳng vướng mắc là Ngă. Đấy cũng là
quan điểm của ngoại đạo. Kinh Lăng
Nghiêm đến cuối cùng bác bỏ vô trước ngoại
đạo. Trong chín mươi sáu loại ngoại đạo,
nếu chúng ta chẳng thật sự chọn lấy chánh
tri chánh kiến của Phật pháp, [các tri kiến khác]
đều là đắm nhiễm. Do vậy, Phật giáo nói
“tánh Không duyên khởi”, dạy vô ngă, vô thường,
khổ, tịch tĩnh Niết Bàn. Nếu không thể chọn
lựa bốn pháp ấn, chúng ta sẽ chẳng thể nhận
thức Phật pháp, thường bị đánh lừa bởi
tri kiến của ngoại đạo. Tri kiến của
ngoại đạo đều có chỗ y cứ, có chỗ
thuận theo, đều có chỗ nắm giữ, đều
có chỗ dính mắc, chỉ có giáo ngôn thanh tịnh “vô
ngă, không, khổ, vô thường, tịch tĩnh Niết
Bàn” của chư Phật là chân thật thủ hộ,
phơi bày thấu triệt vô tự tánh, gột sạch hết
thảy trần cấu. Nơi Thật Tế Lư Địa,
chẳng thể lập một pháp nào. Do vậy, hóa độ
hết thảy chúng sanh. Đối với điều này,
nếu chẳng dùng cái tâm oai đức, tâm trí huệ, tâm
thiện xảo thành thục, sẽ thường bị mê
mất tự tâm, phần nhiều tương ứng với
tâm ngoại đạo, phần nhiều thích đắm nhiễm.
Nếu chúng ta thật sự hành tŕ Phật pháp, chẳng hạn
như ngay lập tức tu pháp Ban Châu, hành ngay lập tức,
sẽ có thể cắt đứt, vượt thoát hết
thảy đắm nhiễm, cho nên chẳng bị lay động
bởi ngoại đạo.
(Kinh)
Vân hà đương đắc như hải, năng thọ
nạp chúng vấn nghi thích nạn vô giảm, vô tận cố?
(經)云何當得如海。能受納衆問疑釋難無減無盡故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được như biển,
có thể nhận lănh, dung nạp các các nghi vấn, giải
quyết các vấn nạn chẳng giảm, chẳng tận?)
Chúng
ta hành Ban Châu, đích xác là từ Tổng Tŕ mà giải quyết, là pháp môn Tổng Tŕ. Trí Nghiễm
đại sư[25]
đề ra thuyết Lục Tướng Viên Dung[26],
từ tổng tướng mà giải quyết hết thảy
các vấn đề, tức là Tổng Tŕ Đà La Ni giáo có
thể giải thích hết thảy. V́ sao là Tổng Tŕ? Nói
theo tâm duyên, nói theo tâm địa, nói theo pháp giới duyên khởi,
sẽ có thể giải quyết hết thảy nghi hoặc,
cũng là như chúng ta nương vào một niệm hiện
tiền để chọn lựa pháp giới, chẳng phải
là nương theo nhiễm duyên của pháp giới để
chọn lựa pháp giới. Đó là tế tướng,
cũng rất phức tạp. Như vậy th́ sẽ có thể
đạt được trí huệ như biển, hết
thảy các nghi vấn sẽ đều gột sạch. V́ sao? Vốn
chẳng có một pháp nào an lập mà có thể giải quyết
hết thảy vấn đề, hết thảy các duyên vấn
nạn. Thông thường, chúng ta bị một sự tướng
gây khó khăn, bị nghi vấn
gây khó dễ, v́ lẽ nào? Do tâm có trần cấu.
Hễ người khác tạo duyên gây khó dễ, chúng ta tự
nhiên bị mờ mịt. Nếu trong tâm sạch làu, chẳng
có một vấn đề nào để đạt
được, chẳng có một pháp nào để có thể
nhiễm, như thế th́ vấn đề đưa
đến, tự nhiên sẽ có thể giải quyết, tự
nhiên có sự thiện xảo giải trừ nó, có thể
phương tiện giải trừ nghi hoặc, chẳng
tăng giảm nơi pháp tắc, cho nên là “vô giảm, vô
tận cố”. Chẳng tăng, chẳng giảm tâm trí,
khiến cho chúng sanh trụ trong an lạc.
(Kinh)
Vân hà đương đắc như nguyệt măn, bạch
tịnh pháp cụ túc cố?
(經)云何當得如月滿。白淨法具足故。
(Kinh:
Như thế nào để sẽ được như
trăng tṛn, đầy đủ pháp trắng sạch?)
Có
người nói: “Niệm một câu Nam-mô A Di Đà Phật
có phải là trọn đủ hết thảy công đức
hay không?” Bậc thiện xảo nói “vạn đức hoằng
danh” (万德宏名, danh hiệu to lớn
có vạn đức), tức là trọn đủ, vừa
nêu ra pháp giới, sẽ toàn thể đảm
đương, chẳng hề thiếu sót! Do vậy,
đức Thế Tôn dạy: “A Dật Đa! Nhữ
văn Vô Lượng Thọ Phật danh, ngô trợ nhĩ
hỷ” (Này A Dật Đa! Ông được nghe danh hiệu
Vô Lượng Thọ Phật, ta mừng cho ông). V́ lẽ
nào? Do nghe danh hiệu Phật, sẽ trọn đủ công
đức vô thượng. Kinh A Di Đà dạy: “Bất
khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức,
nhân duyên đắc sanh bỉ quốc” (chẳng thể
do ít thiện căn, phước đức và nhân duyên mà
được sanh về nước ấy). Chúng ta nghe
danh hiệu Phật, niệm danh hiệu Phật, trọn
đủ công đức, trọn đủ nhiều thiện
căn, phước đức, nhân duyên.
(Kinh)
Vân hà đương đắc như nhật sơ xuất,
phá chư ám minh cố?
(經)云何當得如日初出。破諸闇冥故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được như mặt trời
mới mọc, phá tan các tối tăm?)
Trải
qua suốt đêm tối tăm, mặt trời vừa mọc
lên ở phương Đông, chúng ta sẽ cảm thấy
một sức mạnh sôi nổi, gạt bỏ trần lao
của cả đêm, tràn ngập hỷ duyệt và an lạc.
Trong Ban Châu Nhất Nhật Nhất Dạ Hành Pháp Nghi Quỹ
(nghi thức hành tŕ Ban Châu một ngày một đêm), có đề
nghị khi mặt trời vừa mới mọc bèn xuất
quan, sẽ có tướng trạng hưng phấn, tướng
tăng thượng, tướng quang minh chiếu rọi,
dùng những điều ấy để khích lệ quang
minh nơi tự tâm được tiếp nối, tăng
cao quang minh. Hành pháp Ban Châu có câu “như nguyệt sơ xuất,
phá chư ám minh” (như mặt trời mới mọc,
phá tan các tối tăm), công đức và lợi ích chẳng
thể nghĩ bàn! Do vậy, hăy lập tức tu, tu ngay trong
mỗi niệm, trong một niệm đều là một vầng
mặt trời trọn đủ ánh sáng thanh tịnh, thanh
tịnh chiếu soi thế gian, có thể phá trừ hết
thảy tối tăm, tức là sự tối tăm do bị
Phiền Năo Chướng và Sở Tri Chướng che lấp
từ vô thỉ tới nay!
(Kinh)
Vân hà đương đắc như đăng cự,
quang minh chiếu liễu cố?
(經)云何當得如燈炬。光明照了故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được như đèn
đuốc, quang minh chiếu tỏ?)
Hết
thảy pháp tắc là chủ động, tự do. Trong Phật
pháp gọi là Vô Tận Đăng, dùng đèn để thắp
đèn, ánh sáng được truyền từ ngọn
đèn này sang đèn khác. Chư Phật Như Lai dùng tâm
để ấn tâm; do ấn bị nát mà nét khắc thành
h́nh. Tuy thật sự không có ǵ để có thể thành, vẫn
cần phải dùng pháp để ấn pháp, dùng tâm để ấn tâm. Đó
là giáo ngôn đúng như thật!
(Kinh)
Vân hà đương đắc như hư không tánh, vô hữu
quải ngại cố.
(經)云何當得如虛空性。無有掛礙故。
(Kinh:
Làm thế nào để sẽ được như tánh
hư không, chẳng có vướng mắc?)
Đức
Thế Tôn từ đầu đến cuối đều
tuyên thuyết quang minh thiện xảo và
phương tiện trí huệ chẳng tạp nhiễm,
chẳng có trần cấu. Ở đây nói “hư không
tánh”, tức là nói tâm trí như không, dung nạp vạn vật,
chẳng bị nhuốm bẩn bởi vạn vật.
Đấy là tu tŕ tâm trí, mà cũng là sự quan sát trọng
yếu nhất khi tu hành Ban Châu. Nếu quư vị hơi có
chút đắm nhiễm, sẽ có chướng ngại. Chẳng
hạn như quư vị đi tới, đi lui (kinh
hành niệm Phật), người khác nói “đi ngủ”, quư
vị suy tưởng:
“Người ta đang ngủ mà ḿnh c̣n đang kinh hành Ban Châu”. Kết quả là nhướng mắt
lên chẳng nổi, bắt đầu sanh phiền năo. Hoặc
là đi tới, đi lui, nghe người khác nói nhà
Trương Tam như thế này, nhà Lư Tứ như thế
kia, quư vị lại bắt đầu nghĩ tới nhà
ḿnh, trong tâm bồn chồn: “Ta khi nào th́ sẽ được ra ngoài, hăy mau xuất
quan thôi!” Hoặc vừa nghe đánh mộc bản báo giờ
cơm, bèn nghĩ: “Ái chà! Ta ăn bữa sáng không nổi!”
Đó là vướng mắc! Tâm trí chẳng thể như hư không, điều ǵ chúng ta chấp
trước sẽ ngay lập
tức vọt ra, nẩy sanh chướng ngại, tức
là đắm nhiễm. Hễ đắm nhiễm, sẽ câu nệ
nghiệp tướng, đi tới, đi lui chẳng nổi!
Nếu tâm trí như hư không, dung nạp hết thảy
nghiệp tạo tác của hết thảy hữu t́nh, chẳng
nhuốm bẩn, bi lực và trí lực sẽ tự nhiên
sanh khởi. V́ thế, Ban Châu dễ kích phát hai phương
tiện Bi và Trí của con người. Nếu có kẻ khác
nói ǵ, làm ǵ, quư vị chẳng bận ḷng, trước hết
hăy bao dung, sau đó bèn hồi thí, khiến cho họ
được lợi ích, sẽ thật sự chẳng thể
nghĩ bàn! Nói “trước” và “sau” thật ra là nói miễn
cưỡng! Pháp chẳng có trước hay sau, chỉ là sử
dụng cách nói miễn cưỡng này!
(Kinh)
Vân hà đương đắc vô sở trụ trước,
tâm như hư không cố?
(經)云何當得無所住著。心如虛空故。
(Kinh:
Như thế nào sẽ được chẳng chấp trụ,
tâm như hư không).
Điều
này nối tiếp điều trước. “Như hư
không” là nói về đặc tánh bản chất, c̣n “vô
sở trụ” là nói theo đặc tánh hiện duyên. Nay
chúng ta trong tánh hiện duyên, chẳng hạn như đụng
phải tường, chúng ta phải t́m cửa th́ mới có
thể đi ra ngoài; đó chính là thứ bị chấp trụ.
Quư vị hăy nói xem, tâm trí của quư vị như hư
không, tôi muốn bay qua, nhưng chẳng bay được,
bị bức tường ấy ngăn trở. Như thế
th́ phải nên làm như thế nào? Tâm chẳng trụ! Tâm
quư vị có chẳng trụ hay không? Nếu tâm có thể chẳng
trụ, tối thiểu là nói theo Lư, theo Pháp, quư vị bắt
đầu có thiện xảo. Do vậy, phần trước
nói về bổn tánh, c̣n phần này giảng về sự
tướng: Tâm như hư không, dần dần tu tập
pháp tắc. Nếu chẳng tu tập, những lợi ích
sau đó sẽ chẳng thể tiếp nối được!
(Kinh)
Vân hà đương đắc như kim cang, xuyên triệt
thông đạt nhất thiết pháp cố?
(經)云何當得如金剛。穿徹通達一切法故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được như kim cang, xuyên
thấu, thông đạt hết thảy các pháp?)
Nếu
tâm địa có thể như hư không, đúng như lư,
chân thật lựa chọn để hành tŕ, người ấy sẽ đi vào đá mà
chẳng bị ngăn ngại, vào lửa chẳng bị
đốt, vào nước
chẳng ch́m, vào không trung chẳng rỗng
rang, có thể dùng sức tự tại mà tùy ư vận dụng
Tứ Đại. Cho nên “đương đắc
như kim cang” (sẽ được như kim cang). Tôi
nghe người hành Ban Châu trước kia đă nói: “Trong một
trạng thái nào đó, thân thể người ấy có thể
tự do, hoặc di động tự do, hoặc tự do
vượt qua các chướng ngại”. Đương
nhiên những lời ấy có đôi chút lạ lùng, chẳng
thích hợp lắm, nhưng quả thật là có những bậc
thiện xảo như thế đó!
“Đương đắc như kim cang,
xuyên triệt, thông
đạt nhất thiết pháp cố” (sẽ
được như kim cang, xuyên thấu, thông đạt
hết thảy các pháp), tức là đối với hết
thảy thức xứ và vô thức xứ, đều có
sức tự tại. Đấy
là dần dần thành tựu. Nói theo bổn tánh,
nói theo sự tướng, nói theo sự chứng đạo
nơi đạo nghiệp, thoạt đầu, các vị
cư sĩ tại chùa Bảo An (tại Hải Thành, tỉnh
Liêu Ninh) hành Ban Châu, lúc ấy, tôi nẩy sanh ḷng băn
khoăn, sợ họ sẽ hoảng hốt vượt
tường chạy mất, cho nên kết giới. Trước
kia, trong số các vị thiện tri thức tŕ giới
siêng ṛng, tỉ mỉ khác, khi tu hành pháp này, đă từng
phát sanh chuyện ấy. Một ư niệm có thể vượt
ra ngoài mấy trăm dặm, mấy ngàn dặm, vượt
ra khỏi quốc độ, vượt ra ngoài thế giới.
Chuyện này chẳng phải là dọa người đâu
nhé, quư vị phải cẩn thận. Phật pháp cách biệt
chúng ta chẳng xa, nhưng cũng lại cách biệt chẳng
gần. V́ sao vậy? Nếu
chẳng thanh tịnh, chẳng tế nhị, chẳng chân
thật, chúng ta sẽ chẳng làm được.
Rất
nhiều người hành Ban Châu, như các vị đại
thiện xảo từ xưa, đều đă đích thân
chứng đắc pháp tắc như vậy. Như Trí Giả
đại sư là vị thật sự thành tựu Ban Châu
tam-muội, lại như Viễn Công đại sư (sơ tổ Huệ Viễn), lịch sử đều có
ghi chép. Lại như Thừa Viễn đại sư, Thiện
Đạo đại sư đều thành tựu thâm nhập
pháp Ban Châu. Lại như Đạo Tuyên luật sư, khi
Ngài hành Ban Châu, có vị trời đến trực tiếp
cúng dường, đến tán thán, đến cúng răng
Phật cho Ngài. Vậy th́ chúng ta có xa cách pháp này hay không? Nếu
chẳng thật sự phát thệ nguyện, vẫn bị
tập khí nghiệp chướng, thế tục, tham, sân,
si, mạn, nghi lôi kéo, khống chế, vậy th́ chúng ta vẫn
đúng là chẳng có duyên! Nếu chúng ta tự ḿnh buông xuống
những thứ ấy, th́ mới là có duyên với pháp này. Nếu
chẳng buông xuống, tức là chẳng có cơ duyên và
cơ chế này. Chư vị thiện tri thức! Đấy
chẳng phải là lời nói tùy tiện, pháp tắc này nói
như thế đó, được ghi chép như thế
đó, truyền đạt như thế đó!
(Kinh)
Vân hà đương đắc như Tu Di sơn, bất
khả động dao cố?
(經)云何當得如須彌山。不可動搖故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được như núi Tu Di, chẳng
thể lay động?)
Núi
Tu Di là chỉ dấu của một tiểu thế giới.
Hai vầng nhật nguyệt là tướng sáng của một
tiểu thế giới. Núi Tu Di là tướng an trụ. Bốn
biển nước thơm lớn là tướng của sự
sống. Các tướng ấy đại diện cho một
thế giới. Núi Tu Di là rốt ráo an ổn. Nếu núi Tu
Di lay động, thế giới sẽ bị hư hoại.
“Vân hà đương
đắc như Tu Di sơn, bất khả động
dao” (Như thế nào th́ sẽ được như núi
Tu Di, chẳng thể lay động) chính là nói tới đạo
đức, trí huệ, thiện xảo, phương tiện,
và chọn lựa đều giống như núi Tu Di. Nếu
chúng ta lựa chọn dựa trên chánh tri kiến, tâm trí quyết
định như núi Tu Di; đạo đức và pháp ích
cũng như núi Tu Di, th́ sẽ lợi ích thế gian, làm chỗ
nương tựa cho thế gian cũng như núi Tu Di, khiến
cho hữu t́nh trong một thế giới được an lạc,
khiến cho hữu t́nh trong nhiều thế giới
được an lạc, được nương cậy.
Cho nên chẳng thể nghiêng ngả, lay động. Người
trong thế gian hiện thời khổ sở v́ bị bức
bách bởi dao động, thay đổi, chọn lựa,
được mất!
(Kinh)
Vân hà đương đắc như môn khổn, nhất
thiết chánh trụ cố.
(經)云何當得如門閫。一切正住故。
(Kinh: Làm thế
nào để sẽ được như ngạch cửa,
hết thảy chánh trụ?)
Trong
thứ tự hành tŕ của một pháp tắc, luôn có những
tiêu chí, giống như tiến vào một cánh cửa sẽ
có bảng chỉ dẫn cho biết sẽ tiến vào một
gian pḥng nào. Hành Ban Châu cũng có các dấu hiệu, có nhân
tam-muội, có quả tam-muội, có thứ tự tam-muội.
Như trong Phật Thuyết Ban Châu Tam Muội Kinh đă có
thứ tự rất rơ ràng: Ấm cảnh hiện tiền,
chẳng nhiễm đắm mà lướt qua. Cảnh quang
minh hiện tiền, không đắm nhiễm mà lướt qua. Cảnh trang nghiêm hiện tiền, chẳng
đắm nhiễm mà lướt qua.
Chư Phật đă hiện tiền, bèn thanh tịnh hỏi
pháp; sau đó không đắm nhiễm mà lướt qua. Tự tánh
lưu lộ, chẳng đến, chẳng đi. Tự
tánh rốt ráo thanh tịnh chiếu kiến, hiểu rơ tự
tánh để chọn lựa. Pháp tắc ấy “như
môn khổn”, [vượt qua] một tầng cửa, hai
tầng cửa, ba tầng cửa, bốn tầng cửa, quư
vị tiến vào nhà trong rồi tới hậu viện. Mỗi
chỗ đều biết. V́ sao nói như vậy? V́ khiến
cho quư vị chánh an trụ, chẳng bị mê hoặc, phiền
loạn. Chẳng hạn như một ngôi chùa chia ra rất
nhiều chỗ, quư vị đi qua một cửa, sẽ tới
một điện đường. Lại vượt qua một
cửa nữa, vào trong một ṭa viện. Quư vị sẽ
hiểu rất rơ ràng, có thể an trụ trong pháp tắc ấy!
Lại chẳng hạn như quư vị tiến vào cái cửa
này, sẽ đến nhà tôi; tiến vào cái cửa kia, sẽ
là nhà của người khác. Đó là “môn khổn”, khiến
cho hữu t́nh cảm nhận phân biệt rơ ràng họ
đă tiến nhập pháp tắc nào.
Trong
Tứ Hướng Tứ Quả của Thanh Văn Thừa,
hướng vị và quả vị có sai biệt. Hướng
vị là c̣n chưa chọn lựa, giống như chẳng
bước vào cửa. Quả vị là đă vào trong cửa,
an trụ trên pháp ṭa, chân thật chẳng dối, chẳng
lay, chẳng động! Hành Ban Châu cũng giống như
thế, thứ tự rất rơ ràng. Có người nói chính
họ đă hành Ban Châu đến mức độ nào; thật
ra, chẳng cần phải nói, biểu hiện của quư vị
đă dọn sẵn ra đó! Tôi thấy có mấy vị
cư sĩ hành Ban Châu, tôi rất tán thán họ, tán thán
điều ǵ? Bọn họ đă hành Ban Châu, hành một lần
bèn có một lượt biến hóa, người nhẹ
nhàng, thong dong. Hành một lần Ban Châu, lời ác bớt
đi! Hành Ban Châu một lần, cái tâm phiền bực nóng
nẩy ít đi. Kinh hành Ban Châu một lần,
trạng thái thân tâm đổi khác. Chúng ta không cần phải
nói, cũng chẳng cần quan sát, họ biểu hiện
ra như thế đó, rất an trụ, rất sáng suốt.
Họ chẳng cần phải nói năng ǵ, người
khác vẫn bị ảnh hưởng. Có người nói “ta
như thế này, như thế nọ”; dẫu quư vị
nói kiểu nào đi nữa, nhưng người khác nh́n vào sẽ thấy chẳng phải là như thế, sẽ cảm
nhận chẳng phải là như thế, [biết ngay] nội
dung thực chất của quư vị hoàn toàn chẳng phải
là như vậy! Như thế th́ chẳng có ư nghĩa chi hết,
chỉ có tánh chất cưỡng chấp, hư giả, chẳng
tương ứng với pháp. Do vậy, hăy đúng như
thật mà tự thọ dụng chân thật, chẳng
hư dối. Chẳng cần phải kể lể, phô
phang trong thế gian. Ví như mặt trời vừa mới
mọc, tự nhiên có thể chiếu tỏ,
có thể phá trừ tối tăm. Nhưng nếu chẳng
có lợi ích chân thật, phải cậy vào lời lẽ
[khoe khoang], sẽ hết sức bất tiện! Phần
nhiều sẽ đọa vào vô kư, gây khó khăn, bức bách lẫn
nhau. Trong lần tu hành pháp Ban Châu tại Thái Sơn, các vị
cư sĩ sau khi trở về nhà đều có biến hóa
rất lớn. Biến hóa như thế nào? Chính họ nhận
biết, mà người chung quanh cũng đều trông thấy.
Sự biến hóa ấy chính là vui sướng, nhẹ
nhàng, thong dong, an lạc, Ngă Chấp dần dần mỏng
ít. Hăy nên chú ư điểm này!
(Kinh)
Vân hà đương đắc như miêu, cẩu, thú đẳng,
tâm nghiệp thành tựu cố?
(經)云何當得如貓狗獸等。心業成就故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ như mèo, chó, các loài thú, tâm nghiệp
thành tựu?)
Đừng
nên hiểu lầm điều này! Quư vị nói “con người làm sao có thể giống như chó, mèo
cho được?” Chẳng phải
vậy, [chánh kinh] có ư nói: Tâm nghiệp của chúng nó đă điều phục. Chúng ta nói mèo có tác dụng
của mèo, chó có tác dụng của chó, tức là nghiệp của
chúng nó đă thành thục, đă điều phục nhu thuận,
ôn ḥa, thuận thảo, có bản chất tùng
phục, dịu hiền như thế. Đây là nói tỷ dụ.
“Tâm nghiệp thành tựu cố” (do tâm nghiệp đă
thành tựu). Tâm nghiệp của những người
đă [thật sự] hành Ban Châu cũng điều phục,
mềm mỏng, ai nấy làm đúng bổn phận, thật
sự là một nhân duyên chẳng thể nghĩ bàn!
(Kinh)
Vân hà đương đắc vô vi, nhất thiết
chư pháp trung cố?
(經)云何當得無爲。一切諸法中故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được vô vi trong hết
thảy các pháp?)
Chúng
ta đều biết: Hết thảy các hữu t́nh đắm
nhiễm thế gian đều coi trọng hữu vi, cũng
tức là [luôn coi trọng] “hiệu quả là ǵ? Quư vị
đạt được điều ǵ?” Chẳng coi vô vi
là pháp tắc. Ở đây nói “đương đắc
vô vi” (sẽ đắc vô vi), tức là vô sở đắc,
diệu dụng vô cùng. Vô sở đắc
lợi ích thế gian rộng lớn. Vô sở đắc tự
lợi, lợi tha. Vô sở đắc, đích thân chứng
các thứ pháp ích. Vô sở đắc trong hiện duyên. Vô sở
đắc tức là trong hết thảy các pháp đều
nên thủ hộ, thực hiện. Hành pháp Ban Châu Tam Muội
mà nếu tâm có sở đắc, người ấy sẽ
đọa lạc trong trạng thái kiêu mạn, giải
đăi, buông lung, trầm luân; bất luận
trong trạng thái nào, người ấy đều đă
đọa vào giải đăi. Thật sự phải nên chú
ư, phải nên quan sát điều này!
(Kinh)
Vân hà đương đắc như phi điểu, tùy ư
nhi khứ?
(經)云何當得如飛鳥。隨意而去故。
(Kinh:
Như thế nào sẽ được như chim bay, tùy ư
mà đi?)
Tùy
ư đến quốc độ ở phương khác. Tâm
nghiệp, ư nghiệp, và thân nghiệp cũng đều
như thế, giống như ngài Mục Kiền Liên. Các
câu hỏi này đều nói theo thứ tự. Khởi đầu
là nói theo tánh Không, các hiện duyên của tánh Không, cùng với
các thành tựu do tu tập hiện duyên, tức là “xuyên
triệt, thông đạt”. Tiếp đó
là như núi Tu Di an trụ. Lại c̣n điều phục, mềm
mỏng, tùy thuận như chó, mèo, kiến lập vô vi,
được tự tại trong hết thảy các pháp. Tiếp
đó là “đương đắc như phi điểu,
tùy ư nhi khứ” (sẽ được như chim bay, tùy
ư mà đi), tức là được như ư thông đạt
thiện xảo, đến phương khác, xứ khác vô
ngại, c̣n nhanh chóng hơn máy bay. Máy bay c̣n phải có phi
trường, c̣n phải ấn định mấy giờ, mấy phút mới được cất cánh. Ở
đây chẳng cần, hễ tiến nhập thiện xảo
liền được thành tựu. Ban Châu Tam Muội chân thật đă thành lập, bèn có thể kiến lập
sự thiện xảo này. Trong Hán truyền Phật giáo, từ
xưa tới nay, các vị đại thiện tri thức
dùng đủ mọi phương tiện, diệu dụng
hiện duyên, nhưng chẳng tỏ lộ. Nếu tỏ
lộ, sợ thế gian sẽ kinh hăi, [chê trách] là những
điều quái dị, mê hoặc cơi đời. Trong Tạng
truyền Phật giáo, có một số nơi ắt cần
phải dùng [đến thần thông], tức là sử dụng
thần thông nhiếp hóa trong Tứ Nhiếp Pháp.
(Kinh)
Vân hà đương đắc thôi chiết kiêu mạn,
như Chiên Đà La tử cố?
(經)云何當得催折驕慢。如旃陀羅子故。
(Kinh:
Làm thế nào để dẹp tan kiêu mạn như con của
kẻ Chiên Đà La?)
Trong
bốn chủng tánh tại Ấn Độ, Chiên Đà La
(Caṇḍāla) là chủng tánh
thấp nhất, là chủng tánh hạ tiện nhất. Các
đứa trẻ thuộc chủng tánh này sanh ra đều
rất tự ty. V́ sao? Do chủng tánh thấp hèn, sanh ra
đă là như thế, vốn phải biết thân biết
phận. Chúng ta có thể dẹp tan, chế ngự cái tâm
kiêu mạn của chính ḿnh như đứa trẻ thuộc
chủng tánh Chiên Đà La ǵn giữ tâm trí khiêm hạ của
chính ḿnh hay không? Hành Ban Châu, sẽ nhất định có thể
dẹp tan, chế ngự cái tâm kiêu mạn của quư vị.
Người thật sự hành Ban Châu mới biết hết
thảy chấp trước, hết thảy ngă mạn, hết
thảy ngă tướng, ngă kiến của chính ḿnh chắc
chắn là ty tiện, đáng nên vứt bỏ, chẳng nên
có, sẽ bị chiết phục. Do vậy, hữu t́nh
ngă mạn ở nơi ấy chắc chắn sẽ bị
chiết phục. Nếu chẳng bị chiết phục,
sẽ xuất hiện vấn đề to lớn. Hiện
thời, có người nói: “Quư vị có thấy quư vị
là những người đang hành Ban Châu đều rất
kiêu mạn”. Tôi nói chẳng phải vậy, kẻ đó chẳng
phải là do hành Ban Châu mà kiêu mạn, khẳng định
là do nghiệp tập của chính kẻ
đó hiện ra, chứ không phải là do tu Ban Châu mà biểu
lộ. V́ người hành Ban Châu, công đức điều
phục nhu thuận, tâm trí điều ḥa, nhu thuận,
thiện xảo điều ḥa, nhu thuận,
hành vi tạo tác đều có tướng điều phục
nhu thuận. Người càng có công đức, càng chẳng
dám xằng bậy, ăn nói lớn lối. Kẻ ăn nói lớn
lối sẽ phá hoại thế gian, gây thương tổn
rất lớn!
(Kinh)
Vân hà đương đắc trụ A Lan Nhă, như
chư thú, di hầu đẳng, bất nhạo thành ấp,
tụ lạc, nhất thiết xuất gia, tại gia bất
tương tham loạn cố?
(經)云何當得住阿蘭若。如諸獸獼猴等。不樂城邑聚落。一切出家在家不相參亂故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đạt được trụ
trong A Lan Nhă như các loài thú, khỉ vượn v.v… chẳng
thích thành ấp, xóm làng, hết thảy
xuất gia và tại gia chẳng thể tạp loạn?)
V́
sao nói “khỉ vượn chẳng thích thành ấp?” Chúng ta đều biết, nếu đem khỉ
vượn bỏ vào thành ấp, nhốt trong vườn
bách thú (sở thú), chắc chắn sẽ có trói buộc. Khi
chúng tôi đến Tân Đức Lư (New Delhi), thấy chung
quanh thành phố Tân Đức Lư, kể cả trong thành thị
đều có khỉ, v́ nơi ấy chúng quá tự do.
Nhưng xét theo t́nh huống thông thường, loài khỉ, vượn sẽ chẳng thích vào
trong thành ấp. Động vật và người chẳng
tạp loạn. “Xuất gia, tại gia bất
tương tham loạn” (xuất gia và tại gia chẳng
xen tạp) rất thuận tiện. Nếu xen lẫn quá mức,
như kẻ xuất gia thích la cà với hàng bạch y, phần
nhiều sẽ bị trầm luân, đọa lạc, buông lung, thậm chí ăn nói nhảm nhí. Lại như kẻ
tại gia, nếu chẳng kính ngưỡng pháp tắc của
người xuất gia, chẳng thật sự thành thục
nhân duyên xuất gia, cứ trà trộn với người
xuất gia, phần nhiều sẽ sanh ra ngờ vực
đối với xuất gia, nghi ngờ pháp. Đó là chẳng
tương ứng.
Người
thật sự hành Ban Châu chẳng thấy lỗi của kẻ
khác, chẳng xen tạp bừa băi, bởi pháp ấy là pháp
tịch tĩnh, phần nhiều trụ trong chốn A Lan
Nhă, ĺa khỏi hai chúng tự và tha. V́ sao trong đạo Ban
Châu, [tốt nhất] là một người hành? Nếu mọi
người cùng đi kinh hành, th́ phải niệm Phật tập
thể, sẽ có sai biệt nhất định với pháp
Ban Châu. Có người viết lách cho rằng: “Người
đang hành Ban Châu hiện thời đều chẳng phải
là tu pháp Ban Châu, chẳng qua là kinh hành niệm Phật đó
thôi!” Nói theo kiểu như vậy th́ cũng được,
nhưng có một điểm là nếu chúng ta chẳng sử
dụng cái tâm phóng dật, mà dùng tâm tịch tĩnh, tâm
hướng vọng mười phương chư Phật
hiện tiền để thỉnh giáo, tâm muốn liễu
sanh tử, đi kinh hành chẳng nghỉ ngơi, hành theo lời
kinh dạy, th́ đó là Ban Châu. Chứng hay không chứng
tam-muội là hai chuyện, hễ hành đúng như lời
dạy th́ là người tu tập Ban Châu tam-muội. Nay
chúng ta cực lực hành tŕ pháp Ban Châu trong một ngày một
đêm, một ngày hai đêm, hoặc bảy ngày tám đêm,
nhưng chẳng nói là “hành pháp Ban Châu tam-muội”, v́
hai chữ “tam-muội” là chứng hay không chứng, tương ứng hay chẳng
tương ứng, chẳng thể bịa đặt
được, chẳng thể nói xằng được,
mà cũng chẳng thể cưỡng chấp chính ḿnh
được! Có lúc có kẻ dối gạt người
khác mà nói như thế, sẽ có thể gây ra thương tổn.
“Bất
nhạo thành ấp” (Chẳng ưa thích thành ấp): Vốn
hành pháp Ban Châu là phải buông bỏ hết thảy th́ mới
có thể thâm nhập. Trước kia, có mấy vị
cư sĩ đến hành Ban Châu, tôi hay nói đùa: “Chẳng
chứng tam-muội th́ đừng xuống núi”. Thật
ra, chẳng phải là nói đùa! V́ đấy là sự chọn
lựa rất trịnh trọng. Nếu không, quư vị cứ
đi kinh hành lung tung, tâm trí chẳng tương ứng, cho
nên chẳng thể thâm nhập pháp tắc. Người hiện
thời v́ sao chẳng thể chứng đắc tam-muội?
Do tâm trí chẳng thể chọn lựa. Nói chung là vẫn
chừa cái đuôi lại! Cái đuôi ǵ vậy? Có thể
hành, có thể chẳng hành! Hoặc là hành, hoặc chẳng
hành. Vậy là chẳng tương ứng với pháp tắc
này, đó là tạp loạn. Pháp thành ấp và pháp A Lan Nhă chẳng
thể xen tạp lẫn lộn được, pháp xuất gia và pháp tại gia
chẳng thể tạp loạn được, cũng có
nghĩa là nhất định phải lựa chọn rơ ràng!
Đại Phương Đẳng Đại
Tập Hiền Hộ Kinh giảng kư phần 1 hết
[1]
Chùa này có tên gọi đầy đủ là Hoa Thủ Phóng
Quang Tự, ở núi Kê Túc, thành phố Đại Lư, tỉnh
Vân Nam. Chùa Phóng Quang ở ngay dưới chân Hoa Thủ Môn
(nơi tương truyền là cửa vào hang ngồi Thiền
của tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Trước khi đức
Phật nhập Niết Bàn, đă trao y ca-sa cho ngài Ma Ha Ca Diếp
lưu giữ để giao lại cho Phật Di Lặc.
Sau khi trà-tỳ di thể của đức Phật và kết
tập Tam Tạng xong, ngài Ca Diếp đă phó pháp cho tôn giả
A Nan rồi vào hang đá tại núi Kê Túc nhập Định).
Chùa này do thiền sư Vô Cùng khai sơn trong niên hiệu Gia
Tĩnh nhà Minh, sau đó, cư sĩ Lư Nguyên Dương xuất
tiền xây dựng thành một đạo tràng lớn. Tới
cuối đời Thanh, do chiến tranh loạn lạc,
chùa hoang tàn đổ nát thành vùng đất cỏ tranh gai
góc. Năm 1997, pháp sư Từ Pháp dẫn năm vị
Tăng đến đây dọn dẹp gai góc trên nền
cũ, dựng lều tranh, trùng kiến chùa Phóng Quang, biến
thành một đạo tràng chuyên tu Tịnh Độ.
[2] Tuy có bảy bản dịch, nhưng
chỉ có hai bản dịch hoàn chỉnh và một bản dịch thất truyền. Theo mục
lục kinh điển hiện thời, hăy c̣n giữ lại được
các bản sau:
1. Phật Thuyết Ban Châu Tam Muội
Kinh (c̣n gọi là Thập Phương Hiện Tại Phật
Tất Tại Tiền Lập Định Kinh), do các vị
Trúc Sóc Phật và Chi Lâu Ca Sấm dịch vào năm Quang Ḥa
thứ hai (179) thời Hán Linh Đế, thị giả Mạnh
Phước và Trương Liên làm bút thọ.
2. Đại Tập Hiền Hộ
Phần (c̣n gọi là Hiền Hộ Bồ Tát Kinh) do ngài Xà Na Quật Đa và Cấp Đa dịch
vào Khai Hoàng thứ tư (594) nhà Tùy tại chùa Đại
Hưng Thiện, các vị như sa-môn Minh Phân v.v… làm bút thọ.
3. Ban Châu Tam Muội Kinh gồm một
quyển, cũng do ngài Chi Lâu Ca Sấm dịch
(theo Khai Nguyên Thích Giáo Lục), nhưng có thuyết nói là do
ngài Trúc Pháp Hộ dịch. Bản này là bản dịch
khác của bản đầu tiên, nhưng tàn khuyết.
4. Bạt Bà Bồ Tát Kinh (c̣n gọi là Bạt Bả Đa
Bồ Tát Kinh), không rơ tên người dịch, chỉ gồm
bốn phẩm đầu của kinh Ban Châu Tam Muội.
5. Ban Châu Tam Muội Kinh do Trúc Pháp Hộ
dịch, bị tàn khuyết.
6. Ban Châu Tam Muội Niệm Phật
Chương Kinh một quyển, chỉ là bản dịch
khác của phẩm Hành trong kinh Ban Châu Tam Muội, không rơ tên người dịch.
[3] Tích Sa Tạng là Đại Tạng
Kinh được khắc vào cuối đời Nam Tống
tại Diên Thánh Viện thuộc Tích Sa châu, phủ B́nh Giang
(nay là khu Ngô Trung thuộc tỉnh Giang Tô). Các nhà nghiên cứu
ước đoán tạng kinh này được bắt
đầu khắc ván trong niên hiệu Bảo Khánh (1225-1227)
thời Tống Lư Tông, nhưng măi cho đến
năm Chí Trị (1322) đời Nguyên Anh Tông mới hoàn tất,
gồm 1.532 bản kinh.
Long Tạng là
Càn Long Đại Tạng Kinh, c̣n gọi là Thanh Tạng, do
triều đ́nh nhà Thanh chủ tŕ khắc in vào năm Ung
Chánh 13 (1735). Tạng kinh này do các vị Ḥa
Thạc Trang Thân Vương Doăn Lộc, Ḥa Thạc Ḥa Thân
Vương Hoằng Thư, và trụ tŕ chùa Hiền
Lương là pháp sư Siêu Thịnh chủ tŕ biên tập, giảo chánh. Măi cho đến
năm Càn Long thứ ba (1738) mới xong, gồm 1.669 bộ
kinh, chia thành 7.168 quyển. Tạng kinh này chủ yếu dựa
theo Vĩnh Lạc Bắc Tạng đời Minh. Hiện
thời, tạng kinh này được sử dụng phổ
biến tại Trung Hoa hơn Đại Chánh Tạng. Đại Tạng Kinh do ḥa thượng Tịnh
Không ấn hành và biếu tặng các trường đại
học, viện nghiên cứu, và tự viện các
nơi trên thế giới đều là Long Tạng.
Tần Già Tạng là Đại Tạng Kinh được in vào cuối
đời Thanh đầu thời Dân Quốc do Tần Già
Tinh Xá ấn hành, xuất bản vào năm Tuyên Thống
nguyên niên (1919), gồm 1.916 bộ kinh, chia thành 413 tập. Tạng
kinh này dựa theo bản in của Hoằng Giáo Tạng của Nhật Bản, đối
chiếu với các bản Tư Phước Tạng, Phổ
Ninh Tạng, Gia Hưng Tạng, Long Tạng, và Cao Ly Tạng,
nhưng lược bỏ các trước tác của người
Nhật. Tạng kinh này có khuyết điểm
giảo chánh không tinh tường, bị sai ngoa nhiều chỗ, cho nên chỉ có giá trị
tham khảo, không được phổ biến rộng răi.
Tự Tạng chính là Vạn Chánh Tạng
Kinh (tên gọi đầy đủ là Đại Nhật Bản
Giảo Đính Huấn Điểm Đại Tạng
Kinh), c̣n gọi là Nhật Bản Tàng Kinh Thư Viện
Đại Tạng Kinh, hay Vạn Đại
Tạng Kinh, do Đông Đô Tàng Kinh Thư Viện biên tập
và ấn hành từ năm 1902-1905, gồm
1.625 bộ kinh được tuyển chọn trên cơ sở Cao Ly Tạng và Vĩnh
Lạc Bắc Tạng. Về sau, các vị chủ biên của
tạng kinh này như Tiền Điền Huệ Vân (Maeda Eun) và Trung Dă Đạt Huệ (Nakano Tatsue) lại
sưu tập các bộ kinh sách và trước tác chưa
được thâu nhập vào Vạn Chánh Tạng, tạo thành bộ Vạn
Tự Tục Tạng Kinh.
Đại Chánh Tạng có tên gọi
đầy đủ là Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng
Kinh do Cao Nam Thuận Thứ Lang (Takakusu Junjiro) và Độ
Biên Hải Húc (Watanabe Kaikyoku) chủ biên, Tiểu Dă Huyền
Diệu (Ono Genmyō) giảo
khám từ năm 1924 đến năm 1934 mới hoàn thành.
Tạng kinh này được coi là Đại Tạng Kinh đầy
đủ nhất v́ đă dựa trên nhiều bản Đại
Tạng trước đó như Thục Tạng, Cao Ly Tạng,
Liêu Tạng, Khiết Đan Tạng, Hồ Châu Tạng, Phổ
Ninh Tạng, Kính Sơn Tạng v.v… chia thành 100 tập, bao gồm
5.320 bộ kinh sách, cũng như có nhiều trước
tác của Nhật Bản mà các tạng kinh khác không có. Tuy thế,
các vị giảng sư Trung Hoa thường chê cách chấm
câu trong tạng kinh này không hợp lư, cũng như có một
số bản kinh bị lược bớt một số
chi tiết, và nhất là Đại Chánh Tạng có khá nhiều
trước tác của người Nhật chứa đựng
quan điểm thiên kiến, đả kích tông phái nặng
nề của Nhật Liên Tông.
Chúng tôi không t́m được thông tin về Trung Hoa Tạng.
[4] Ư nói theo thứ tự tu tập các
pháp môn tự lực.
[5] Hằng Dương Am là
hạ viện của chùa Hoa Thủ Phóng Quang tại núi Kê
Túc, tỉnh Vân Nam. Hiện thời, Hằng
Dương Am thường được gọi
là Hoa Thủ Phóng Quang Tự Tịnh Độ Viện. Vị
trí ở trên núi Kê Túc cao hơn mặt biển khoảng
2.400 m. Hằng Dương Am là đạo tràng Ban Châu, chúng
thường trụ luân phiên hành pháp Ban Châu suốt ngày
đêm, thủ hộ suốt năm liên tục chẳng
đoạn. Cho tới thời gian giảng kinh lần này,
tức tháng Tám năm 2006, chúng thường trụ trong
đạo tràng đă tu hành pháp này một năm rưỡi
chẳng gián đoạn (chú thích của người biên tập
lời giảng).
[6]
Đại Tập Bộ là danh xưng được đặt
ra bởi sách Khai Nguyên Thích Giáo Lục để chỉ các
kinh không thuộc hệ thống A Hàm, Hoa Nghiêm, Bát Nhă, và Pháp Hoa. Trong bộ Duyệt Tạng Tri Tân,
ngài Ngẫu Ích đổi thành danh xưng Phương Đẳng
Bộ. Đại Tập Bộ bao gồm hai bộ kinh lớn
là Đại Tập Kinh và kinh Đại Bảo Tích, cũng
như các kinh nhỏ khác như kinh Đại Ai, kinh Bảo
Nữ Sở Vấn, kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn
Nguyện, kinh Bảo Tinh Đà La Ni, kinh Đại Tập
Đại Hư Không Tạng Bồ Tát Sở Vấn, kinh
Đại Thừa Đại Tập Địa Tạng Thập
Luân… Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh lại tách
các kinh thuộc loại này thành ra hai bộ là Bảo Tích Bộ
và Đại Tập Bộ.
[7] Đại Tập
Kinh (Mahāsaṃnipāta Sūtra)
c̣n gọi là Đại Phương Đẳng Đại
Tập Kinh, bao gồm nhiều bộ kinh nhỏ. Mỗi bộ
kinh ấy được gọi là Phần, như bản
kinh chúng ta đang học được gọi là Hiền Hộ
Phần. Nội dung của kinh Đại Tập rất rộng,
lấy Trung Quán và Thật Tướng làm tông chỉ. Kinh này
gồm sáu mươi quyển. Theo ngài Xà Na Quật Đa,
nguyên bản tiếng Phạn có đến mười vạn
bài kệ (một kệ là bốn câu không phân biệt dài ngắn),
nếu dịch ra toàn bộ, sẽ thành ba trăm quyển.
Bản đầu tiên của Đại Tập Kinh là ngài Đàm
Vô Sấm (Dharmarasksha) mang đến Tây Kinh Châu dưới
thời Tấn An Đế, được
Hà Tây Vương là Thư Cừ Mông Tốn dịch sang tiếng
Hán, gồm hai mươi chín quyển. Sau đó, ngài Na Liên Đề
Da Xá (Narendrayaśas) dịch thêm hai bộ
Nguyệt Tạng Kinh (mười hai quyển) và Nhật Tạng
Kinh (mười lăm quyển). Sau đó, lại có các vị
Đạt Ma Cấp Đa dịch thêm Đại Phương
Đẳng Đại Tập Kinh Bồ Tát Niệm Phật
Tam Muội Phần, ngài Xà Na Quật Đa dịch Hiền
Hộ Phần, Ban Châu Tam Muội Kinh, Đại Tập Thí
Dụ Vương Kinh, Hư Không Dựng Bồ Tát Kinh, ngài
Huyền Trang dịch Đại Thừa Đại Tập
Địa Tạng Thập Luân Kinh, ngài Bất Không dịch
Bách Thiên Tụng Đại Tập Kinh Địa Tạng Bồ
Tát Thỉnh Vấn Pháp Thân Tán v.v…
[8] Tùy là triều đại tiếp
sau thời Nam Bắc Triều, do Tùy Văn Đế
(Dương Kiên) sáng lập, tồn tại từ năm
581-605, truyền được hai đời vua, kinh đô
là Trường An. Danh xưng của triều đại là
do cha của Dương Kiên là Dương Trung từng
được nhà Bắc Châu phong là Tùy Quốc Công.
Dương Kiên được tập ấm, về sau, được sắc phong thành Tùy Vương, cai quản
mười hai quận. Tuy tồn tại không
lâu, nhà Tùy đă có công thống nhất Trung Hoa sau một thời
gian dài bị phân hóa do Ngũ Hồ (năm sắc dân du mục ở
phía Bắc và phía Tây Trung Hoa) xâm lấn Trung Nguyên, lập ra nhiều triều đại
(tức thời Nam Bắc Triều), liên tục gây chiến,
tiêu diệt lẫn nhau. Nhà Tùy đă có những cải cách
nâng cao sản lượng nông nghiệp, hoàn thành hệ thống
quản trị, thống nhất đúc tiền, tích cực
hộ pháp cho Phật pháp, phát triển hệ thống kinh
đào khiến cho giao thông thuận tiện
hơn. Tuy vậy, do tánh hiếu chiến, Tùy
Dượng Đế đă liên tục mở các chiến
dịch tốn kém để tấn công Cao Câu Ly (Goguryeo) khiến
quốc khố trống rỗng, thuế má nặng nề,
dẫn đến các cuộc bạo loạn, tướng
lănh quân phiệt cát cứ, gây nên sự sụp đổ của
nhà Tùy. Tùy Dượng Đế bị quyền thần
Vũ Văn Hóa Cập bức tử, lập ra nhà Bắc Châu, mở ra một thời kỳ loạn
lạc măi cho đến khi Lư Thế Dân dẹp tan các phe
phái, thống nhất Trung Hoa vào năm 626, mở ra thời thịnh trị của
nhà Đường.
[9] Nam Chiếu là một vương
quốc cổ tồn tại từ năm 738 đến năm 902, gồm hai sắc dân chủ
yếu là Ô Man (người Di, hoặc c̣n gọi là Lolo, hay
Nuosuo. Sắc dân này có một
số sống tại miền thượng du Bắc Việt,
tự xưng là người Lô Lô) và Bạch Man (Baipho). Vương quốc
này do thủ lănh của chiếu Mông Xá là B́ La Các (Khun Borom Rachathirath) sáng lập (Chiếu là danh xưng của
một bộ tộc. Thời ấy, họ bao gồm các bộ
tộc Mông Xá, Mông Huề, Lăng Khung, Thi Lăng, Việt Tích v.v…),
kinh đô là thành Thái Ḥa (tức thành phố Đại Lư hiện
thời). Thời cực thịnh vương quốc này
bao gồm toàn bộ tỉnh Vân Nam, miền Nam Tứ Xuyên,
khu vực Tây Nam của Quư Châu, vùng Đông Nam của Tây Tạng,
miền Bắc Miến Điện, Bắc Lào, và một phần
Bắc Thái Lan cũng như một số vùng đất thuộc
biên giới Việt Nam. Tới năm 902, Trịnh Măi Tự
xưng đế, diệt Nam Chiếu, lập ra nước
Đại Trường Ḥa. Sau đó, Đại
Trường Ḥa lại bị Đông Châu Tiết Độ Sứ
Dương Can Trinh (có sách viết là Dương Can Chân) diệt
quốc, tôn Triệu Thiện Chánh làm hoàng đế, lập
ra nước Đại Thiên Hưng. Năm sau, Dương
Can Trinh phế Triệu Thiện Chánh, tự xưng đế
đổi quốc hiệu là Đại Nghĩa Ninh. Năm
937, Thông Hải Tiết Độ Sứ Đoàn Tư B́nh soán
ngôi, đổi quốc hiệu là Đại Lư (Dablit
Guaif). Đại Lư rất cường thịnh cho đến
đời Đoàn Hưng Trí th́ Đại Lư diệt vong sau
khi tướng Mông Cổ là Ngột Lương Cáp Đài (Uriyanqadai, có khi phiên âm là Ngột Lương Hợp
Thai) bắt sống Đoàn Hưng Trí. Dân Nam Chiếu thiện chiến,
đă ba lần gây chiến tranh có quy mô lớn với nhà
Đường.
[10] Ở đây, pháp sư Từ Pháp nhầm
lẫn, Ma Yết Đà (Maghada, Ma Kiệt
Đà, Ma Già Đà) là một
trong mười sáu đại quốc thời đức
Phật, nằm ở Bắc Ấn (vùng Bihar ngày nay) bao gồm
các khu Patna, Jehanabad, Nalanda, Aurangabad, Arwal, Nawada và Gaya của
Bihar, hoàn toàn không liên quan ǵ đến địa bàn của
Nam Chiếu.
[11] Người Dai (c̣n gọi là Thái Tộc)
là sắc dân thiểu số, chủ yếu sống tại
tỉnh Vân Nam, có liên hệ huyết thống rất gần
với người Thái tại Lào và Thái Lan, bao gồm nhiều
sắc dân như Thái Lặc (Tây Song Bản Nạp,
Sibsongpanna), Thái Na (Tai Nua), Thái Đảm (Tai Dam), Thái Bằng
(Tay Pong), Thái Đoan (Tai Khao), Thái Nhă (Tai Ya), và Thái Hữu (Tai Yo). Họ
theo đạo Phật Nam Truyền và chia sẻ rất nhiều đặc
điểm văn hóa và ngôn ngữ với người Thái
tại Thái Lan và Lào.
[12] Ca Lan Đà Trúc Viên Tinh Xá (Kalaṇḍaka Veṇu-vana, Kāraṇḍa-veṇūvana),
c̣n dịch là Trúc Lâm Tinh Xá, hoặc Đại Lâm Tinh Xá, chính là khu rừng trúc do trưởng giả
Ca Lan Đà nước Vương Xá (Rājagṛiha) hiến cúng. Đây là tinh xá đầu tiên được
dâng cúng cho tăng đoàn của đức Phật.
Vương Xá là kinh đô của nước Ma Kiệt
Đà (Ma Yết Đà, Ma Già Đà, Magadha), nay là thành phố
Rajgir. Thời cổ, đại tự viện Nalanda đặt
ở đây.
[13] Đây là một vị trưởng
lăo rất được tôn trọng của Nam Truyền
Phật giáo, Ngài có pháp danh là Ñāṇasaṃvara, thường được người
Thái Lan gọi là Khruba
Bonchum, hay Phra
Khuva Boonchum. Ngài theo truyền thống tăng lữ hành Thiền
trong rừng (Kammaṭṭhāna, thường gọi là Thai
Forest Tradition, sáng lập bởi trưởng lăo Ajahn Mun
Bdhuridatto vào năm 1900). Ngài thuộc sắc tộc
Shan, sanh
năm 1965 tại Mae Kham thuộc tỉnh Chiang
Rai. Ngài từng
được mời tới thuyết pháp cho người
Dai tại Vân Nam, nên pháp sư Từ Pháp có dịp gặp gỡ.
[14]
Trước khi kết tập kinh điển lần thứ
nhất, tôn giả Ma Ha Ca Diếp quở ngài A Nan đă phạm
tám điều lầm lỗi:
1. Thỉnh Phật
cho phép nữ chúng xuất gia, khiến thời kỳ Chánh
Pháp bị giảm mất năm trăm năm.
2. Dẫu
đức Thế Tôn đă nói bậc tinh tấn có bốn
thần túc sẽ có thể trụ thế từ một kiếp
đến nhiều kiếp, A Nan chưa hề thỉnh Phật
trụ thế, đừng nhập Niết Bàn.
3. Được
Phật sai làm thị giả mà thoạt đầu từ
chối.
4. A Nan đă từng
vô ư đạp lên pháp y của đức Phật (có bản
chép như Thập Tụng Luật chép là khi may y cho đức
Phật, Ngài đă đạp lên y để dùng dao xén mép y
cho dễ, có bản chép là khi giặt y).
5. Trên
đường đến rừng Sa La Song Thụ, đức
Phật sanh bệnh, muốn uống nước, A Nan thoái
thác chẳng múc nước (có bản chép là Ngài múc nước
đục v́ không t́m được nguồn nước
trong).
6. Khi đức
Thế Tôn giảng về các giới vụn vặt, A Nan chẳng
thưa hỏi cặn kẽ để người đời
sau biết rơ chi tiết khai, giá, tŕ, phạm như thế
nào.
7. A Nan đă
cho nữ chúng thấy thân tử kim của đức Phật
sau khi Ngài nhập diệt, khiến họ khóc lóc, nước
mắt, nước mũi rơi xuống làm bẩn chân
đức Phật.
8. Vẫn c̣n
có phiền năo, chưa chứng quả A La Hán.
V́ phạm tám
lỗi ấy, và chưa phải là A La Hán, A Nan không đủ
tư cách kết tập kinh điển, nhưng kết tập
lại không thể thiếu ngài A Nan. V́ thế, ngài A Nan
đă cực lực sám hối và dốc sức chứng quả
A La Hán ngay đêm trước ngày kết tập.
[15]
Do sợ thân thể có mùi hôi sẽ khiến cho thầy khó
chịu.
[16] Cách Mạng Văn Hóa, gọi tắt
là Văn Cách, là một phong trào chánh trị do chính quyền
Hoa Lục phát động từ ngày 16 tháng Năm 1966 cho
đến ngày 6 tháng 10 năm 1976 mới chấm dứt. Nhằm
đập tan những thế lực và tư tưởng
chống đối Mao Trạch Đông cai trị Trung Hoa
theo đường lối sắt máu và điên rồ của
Stalin, nhất là sau các kế hoạch ngũ niên và “đại nhảy vọt” liên tiếp thất bại của
họ Mao, khiến cho kinh tế Hoa Lục tŕ trệ, dân chúng mất niềm
tin, ngay cả các cộng sự thân tín của Mao như Lưu Thiếu
Kỳ, Bành Đức Hoài, Đặng Tiểu B́nh… đều
bất đồng ư kiến với họ Mao. Mao Trạch Đông đă kết tội
các thế lực chống đối là tuân theo
đường lối xét lại của Khrushchev, có âm
mưu khôi phục chủ nghĩa tư bản. Dựa vào các cáo buộc ấy,
Mao Trạch Đông phát động cuộc cách mạng này. Dùng tuyển tập
Sách Đỏ (Hồng Bảo Thư) của Mao như một loại kinh thánh, bè lũ tay chân của Mao đả đảo
những tư tưởng truyền thống, sách động
những kẻ cơ hội kết đoàn thành Hồng Vệ
Binh tấn công vào hàng ngũ trí thức. Toàn thể nhân dân Hoa Lục mỗi
ngày nghe kẻng đều vội vă lao ra khỏi nhà, cầm
sách đỏ lớn tiếng đọc liên thanh để
khỏi bị kết tội là phản động. Các trường trung học và đại học bị
đóng cửa, các nhà máy tŕ trệ và công nhân chia thành phe phái
đấu tố lẫn nhau. Các bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ, y tá, kỹ sư, giáo viên, giáo sư, văn nghệ sĩ, các tầng lớp
trí thức bị bắt đi
lao động khổ sai, lăng nhục,
đấu tố, đập phá chùa chiền, miếu mạo, các cơ sở
tôn giáo, các di tích lịch sử, tăng lữ, tu sĩ bị đi tù, hay đuổi khỏi
chùa, miếu, đạo
quán, giáo đường. Hàng triệu người bị kết tội thuộc
phe cánh hữu, theo phe xét lại đă chết v́ bị hành hạ, tra tấn,
hay chịu không nổi phải tự tử. Các lănh tụ như Lưu Thiếu
Kỳ, Bành Đức Hoài, nguyên soái La
Thụy Anh, Đặng Tiểu
B́nh, Bành Chân, Lục Định Nhất… đều bị tù đày, lăng
nhục. Trong cách mạng Văn Hóa, Diêu Văn Nguyên, Lâm
Bưu, Giang Thanh (vợ Mao Trạch Đông), Trương
Xuân Kiều là những tên tay sai đắc lực trong việc
đàn áp phe đối lập. Lợi dụng
sự nhiệt t́nh của các tầng lớp nghèo khổ và
bọn thanh niên mới lớn, họ Mao đă xúi giục họ
mở các cuộc vũ đấu (đấu tranh bằng
bạo lực) để nghiền nát những ai bị quy
kết là phản cách mạng hay có tư tưởng tiểu
tư sản, dẫn đến các vụ tàn sát trên quy mô lớn
đẫm máu như tháng Tám đỏ tại Bắc Kinh, vụ
tàn sát tại Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam và Hồ
Nam. Không có con số chính
xác về các nạn nhân, nhưng các nhà sử học ước
tính, số người chết có thể lên đến 20
triệu người, kinh tế Hoa Lục bị thiệt hại nặng nề,
nhiều người bị tù đày, thương tật,
rất nhiều vật phẩm di tích văn hóa bị hủy
hoại không thể khôi phục.
[17] Tỳ Da Ly c̣n được phiên
âm là Tỳ Xá Ly, Phệ Xá Ly, hoặc dịch nghĩa là Quảng
Nghiêm Thành, ở phía Bắc thành phố Patna hiện thời.
Đây là kinh đô của nước Bạt Kỳ (Vajji)
thuộc bộ tộc Licchavi (Ly Xa). Nơi này ghi dấu nhiều
sự kiện quan trọng trong Phật giáo: Sau khi vượt
hoàng cung xuất gia, đức Phật t́m đến
đây học đạo với Uất Đầu Lam Phất
(Udraka Ramaputtra). Sau khi đắc đạo, Ngài thường giảng kinh tại
đây, chẳng hạn kinh Dược Sư được
nói thành Quảng Nghiêm tức là nơi này. Bà Ma Ha Ba Xà Ba
Đề cũng được đức Phật chấp
thuận cho xuất gia tại đây. Mùa An Cư kết hạ
cuối cùng cũng tại thành Tỳ Xá Ly trước khi
đức Phật tuyên bố Ngài sẽ nhập Niết
Bàn. Các Ly Xa Tử theo Ngài măi đến rừng Câu Thi
Na, đức Phật bèn lưu lại b́nh bát khất thực
cho dân chúng thành này. Đây cũng là trụ xứ của một
vị tại gia Bồ Tát nổi danh là ngài Duy Ma Cật. Tại
đây c̣n có trụ đá của vua A Dục và cũng là
nơi các vị đại A La Hán nhóm họp để kết
tập kinh tạng lần thứ hai vào năm 383 trước
Công Nguyên.
[18] Chiêm Bà (Campa, Champapuri) là kinh đô của
nước Ương Già (Aṅga),
một trong mười sáu đại quốc thời ấy,
hiện thời thuộc quận Bhagalpur của tiểu
bang Bihar, Ấn Độ.
[19] Ở
đây, chúng tôi dịch từ ngữ “trưởng giả
tử” tuân theo cách giải thích của ngài Linh Thừa trong Địa
Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Khoa Chú. Theo đó, ngài Linh
Thừa nói chữ Tử sau “trưởng giả” chỉ có
ư nghĩa tôn trọng như ta nói Khổng Tử, Lăo Tử
v.v…
[20] Hữu Đảnh là tên gọi khác
của Sắc Cứu Cánh Thiên (Akaniṣṭha, A Ca Ni Trá Thiên), tức
tầng trời cao nhất trong Sắc Giới.
[21] Có thể tạm hiểu “tiêu quy
tự tánh” là vượt khỏi các chấp trước,
thấy rơ các pháp hư huyễn, t́m ra được bản
chất của chúng (thấy được tự tánh).
[22] Quẻ Địa Sơn Khiêm bao gồm
quẻ Khôn (ba vạch đứt) chồng lên quẻ Cấn
(một vạch liền trên hai vạch đứt). Trong lời
giải thích của kinh Dịch đối với mỗi
Hào (mỗi vạch của quẻ này) đều là ư
nghĩa tốt lành, nên nói là “lục hào giai kỳ” (sáu
hào đều tốt lành). Lời giảng chung là: “Khiêm,
hanh, quân tử hữu chung. Tượng viết: Địa
trung hữu sơn, khiêm, quân tử dĩ biều đa ích
quả, xứng vật b́nh thí”. Câu này được
chú giải như sau: “Quẻ Khiêm, thông thuận, tốt
lành, gieo được quẻ này, bậc quân tử sẽ
có thành tựu. Lời Tượng Từ giảng: Quẻ này biểu
thị trong đất có núi, trong cao ngoài thấp, ở
địa vị cao mà chẳng kiêu ngạo. Bậc quân tử
nh́n vào quẻ tượng này, luôn giữ đức khiêm
cung, lấy chỗ dư dật bù đắp chỗ thiếu
sót, cân nhắc tài vật nhiều ít để ban bố
công bằng”.
[23] Chín loại tỷ dụ về
Như Lai Tạng như sau: Tỷ dụ trong hoa héo có Phật, tỷ dụ về
mật ong nơi cây mọc trên vách đá, tỷ dụ về chất cốt
lơi trong vỏ bọc cứng chắc, tỷ dụ về
vàng ṛng ẩn trong
thứ bất tịnh, tỷ dụ về kho báu giấu
trong nhà nghèo cùng, tỷ dụ về hạt quả Am Ma La, tỷ dụ về
tượng vàng ẩn trong
đồ vật tầm thường, tỷ dụ người
con gái nghèo mang thai đứa
con quư hiển, tỷ dụ về tượng vàng c̣n nằm trong
khuôn.
[24] Thần Ngă (Puruṣa) là quan điểm phát xuất
từ kinh Vệ Đà, cho rằng trong vũ trụ có một
cái Tự Ngă trọn khắp, là bản thể của
vũ trụ, là nguyên lư phổ quát. Phái Số Luận cho rằng
Thần Ngă bất động, thanh tịnh, bất biến,
vĩnh hằng, khi nó kết nối với vật chất, sẽ sanh ra sự sống. Nó c̣n
được gọi là Đại Ngă. Từ Đại Ngă mà sanh ra các tiểu ngă, tức linh
hồn của mỗi cá nhân. Quan điểm này khá giống
như quan điểm trong Đạo Giáo và các nhóm tôn giáo
theo quan điểm tam giáo đồng nguyên, cho rằng Thần
Ngă là chân tánh của Thượng Đế,
mỗi cá nhân là một điểm linh quang của Thượng Đế, phải tu tập
để quy vị trở về với linh quang.
[25] Trí Nghiễm đại sư
(602-668) là tổ thứ hai của tông Hoa Nghiêm, sống vào
thời Tùy - Đường. Ngài họ Triệu,
quê ở huyện Tần An, Thiên Thủy. Năm Đại
Nghiệp thứ chín (613), do pháp sư Pháp Thuận thỉnh
cầu, cha mẹ Ngài đồng ư cho Sư theo ngài Pháp Thuận
xuất gia. Ngài thọ Cụ Túc Giới năm hai
mươi tuổi, đi khắp nơi tham học, nghe giảng
luật Tứ Phần, Thành Thật Luận, Thập Địa,
Địa Tŕ, Niết Bàn v.v… Tổ học kinh Hoa Nghiêm từ ngài Tĩnh
Lâm, bèn quyết chí nghiên cứu kinh Hoa Nghiêm. Sau đó, Ngài
theo học với pháp sư Đế Tâm Đỗ Thuận
(sơ tổ tông Hoa Nghiêm), dung thông giáo nghĩa Lục
Tướng
để giải thích kinh Hoa
Nghiêm và dạy Nhiếp Đại Thừa Luận. Ngài trụ
tích tại chùa Vân Hoa, chuyên hoằng dương kinh Hoa
Nghiêm, tông phong cực thịnh. Ngài Pháp Tạng (tức ngài
Hiền Thủ) nghe danh xin làm môn hạ, trở thành tổ
thứ ba của tông Hoa Nghiêm. Người đương thời
tôn xưng ngài Trí Nghiễm là Vân Hoa tôn giả, hoặc Chí
Tướng đại sư. Trước tác của Ngài rất
nhiều, nhưng hiện thời chỉ c̣n giữ
được Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm Kinh Sưu Huyền Phần Tế Thông Trí Phương
Quỹ (thường gọi tắt là Hoa Nghiêm Kinh Sưu
Huyền Kư), Hoa Nghiêm Nhất Thừa Thập Huyền Môn,
Hoa Nghiêm Ngũ Thập Yếu Vấn Đáp, Hoa Nghiêm Kinh Nội
Chương Môn Đẳng Tạp Khổng Mục, Kim Cang
Bát Nhă Ba La Mật Kinh Lược Sớ, Vô Tánh Nhiếp Luận
Sớ. Các đệ tử xuất sắc của Ngài là
Nghĩa Tương, Pháp Tạng, Huệ Hiểu, Đạo
Thành, Bạc Trần, Hoài Tế…
[26] Lục Tướng là tổng
tướng, biệt tướng, đồng tướng,
dị tướng, thành tướng, hoại tướng.