Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng kư
Phần
10
大方等大集賢護經講記
慈法法師
Chủ giảng:
Pháp sư Từ Pháp
Địa điểm:
Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ
ngày 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt:
Đức Phong và Huệ Trang
(Kinh) Phục thứ, Hiền Hộ! Bồ
Tát Ma Ha Tát phục hữu ngũ pháp năng đắc tam-muội.
(經)復次賢護。菩薩摩訶薩復有五法能得三昧。
(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Bồ
Tát Ma Ha Tát lại có năm pháp có thể đắc tam-muội).
Đây là “năm pháp” thứ năm.
(Kinh) Nhất giả, thường y
thánh giáo, như thuyết tu hành.
(經)一者常依聖教。如說修行。
(Kinh: Một là nương theo thánh giáo,
tu hành đúng như lời dạy).
Pháp này đơn giản, chẳng cần phải
tư duy. Tu hành theo đúng lời dạy chính là
phương tiện.
(Kinh) Nhị giả, thanh tịnh ư nghiệp,
diệt thân khẩu ác.
(經)二者清淨意業。滅身口惡。
(Kinh: Hai là thanh tịnh ư nghiệp, diệt
điều ác nơi thân và miệng).
Đây là thiện xảo Tứ Chánh Cần,
rất dễ nắm vững, có thể vận dụng
trong hiện duyên bất cứ lúc nào!
(Kinh) Tam giả, thanh tịnh giới hạnh,
đoạn trừ chư kiến.
(經)三者清淨戒行。斷除諸見。
(Kinh: Ba là giới hạnh thanh tịnh,
đoạn trừ các kiến).
Giới do chư Phật Thế Tôn chế định.
Bất luận Bồ Tát giới, Thanh Văn giới, tại
gia giới, hay xuất gia giới, trong các loại giới
hạnh, nếu nương theo giới, tự nhiên có thể
trừ các kiến.
(Kinh) Tứ giả, thường cầu
đa văn, thâm tín chư thiện.
(經)四者常求多聞。深信諸善。
(Kinh: Bốn
là thường cầu đa văn, tin sâu các điều thiện).
Trong các pháp, chẳng sanh nghi báng, bất luận
là tự pháp hay tha pháp, b́nh đẳng yêu thích, nhưng nương
theo tự pháp để thâm nhập tu tập, phương
tiện thủ hộ. V́ thế, chớ nên tự khen ḿnh,
báng bổ người khác.
(Kinh) Ngũ giả, thường niệm
Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác. Hiền Hộ! Thị
vi Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc ngũ pháp, tắc
năng hoạch đắc hiện tiền tam-muội.
(經)五者常念如來應等正覺。賢護。是爲菩薩摩訶薩具足五法則能獲得現前三昧。
(Kinh: Năm
là thường niệm Như Lai Ứng Đẳng Chánh
Giác. Này Hiền Hộ! Đó là năm pháp mà Bồ Tát Ma Ha Tát
trọn đủ, sẽ có thể đạt được
hiện tiền tam-muội).
Phải nên thường
niệm “Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác là đấng
ta tôn kính”. Chớ xem thường câu này, hăy thường
tư duy, hăy luôn để trong ḷng.
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Bồ
Tát Ma Ha Tát phục hữu ngũ pháp năng đắc tam-muội.
(經)復次賢護。菩薩摩訶薩復有五法能得三昧。
(Kinh: Lại
này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát lại có năm pháp có
thể đắc tam-muội.
Đây là “năm pháp” thứ sáu.
(Kinh) Nhất giả, thường hành đại
thí, năng vi thí chủ, bất khởi xan tham, tâm vô tật
đố, hoằng quảng tâm thí, thuần trực vô siểm.
Ư chư sa-môn, cập Bà La Môn, bần cùng, cô
độc, nhất thiết khất nhân, vô sở ái tích, vô
hữu thắng thượng khả trọng chi vật,
nhi bất thí giả. Sở vị nhất thiết vi diệu
ẩm thực, danh y thượng phục, đệ nhất
pḥng xá, chư chủng phu cụ, đăng, chúc, hoa, hương,
phàm sở thọ dụng, giai tất xả chi. Tuy thường
hành thí, nhi bất cầu báo, lân mẫn nhất thiết, vô
nghi hoặc tâm. Kư thí chi hậu, chung vô biến hối.
(經)一者常行大施。能爲施主。不起慳貪。心無嫉妒。宏廣心施。純直無諂。於諸沙門及婆羅門。貧窮孤獨。一切乞人。無所愛惜。無有勝上可重之物而不施者。所謂一切微妙飲食。名衣上服。第一房舍。諸種敷具。燈燭花香。凡所受用。皆悉舍之。雖常行施而不求報。憐愍一切。無疑惑心。既施之後。終無變悔。
(Kinh: Một
là thường hành bố thí to lớn. Có thể làm bậc
thí chủ, chẳng dấy ḷng keo tham, tâm chẳng ghen tỵ,
bố thí bằng cái tâm rộng lớn, tinh thuần thẳng
thắn, chẳng siểm ngụy. Đối với các sa-môn
và Bà La Môn, kẻ nghèo túng, cô độc, hết thảy
ăn mày, đều chẳng yêu tiếc, chẳng có vật
nào thù thắng, thượng diệu đáng trọng mà chẳng
thể thí. Tức là hết thảy các thứ thức ăn
vi diệu, y phục sang đẹp nổi tiếng, nhà cửa
bậc nhất, các thứ để trải, đèn, đuốc,
hoa, hương, phàm là thứ thọ dụng nào cũng đều
xả được. Tuy thường hành bố thí, mà chẳng
cầu báo, thương xót hết thảy, chẳng có tâm ngờ
vực. Sau khi đă thí, trọn chẳng đổi dạ,
hối hận).
Đây thật sự là tâm địa rộng
lớn. Quư vị nói: “Tôi chẳng có ǵ cả, [bố thí] rộng
lớn bằng cách nào đây?” Trên thực tế, bần cùng
cũng rất dễ bố thí. Có phương
pháp [bố
thí] là người nghèo cùng nếu chẳng sát sanh,
yêu mến sanh mạng [của chúng
sanh]. Đó chính là
bố thí. Nếu “biết đủ” th́ là bố
thí hết thảy tiền tài.
(Kinh) Nhị giả, thường vi thí chủ
nhi hành pháp thí. Sở vị thường vị chúng sanh thuyết
như tư pháp, sở vị đệ nhất tối thượng,
tối thắng, tối diệu, tối tinh. Tu hành như thị
đại pháp thí thời, năng xuất nhất thiết
vô ngại biện tài. Văn nghĩa thứ đệ, tương
tục bất đoạn, Như Lai sở thuyết thậm
thâm pháp trung, giai năng an trụ, thành tựu thâm nhẫn.
Hoặc thời bị tha phỉ báng, mạ nhục, chủy
kích, tiên đả, chung vô sân hận, uế trược độc
tâm, diệc vô kinh cụ, chủng chủng khổ năo, nhi tâm
vô úy, thường hoài hoan hỷ.
(經)二者常爲施主而行法施。所謂常爲衆生說如斯法。所謂第一最上最勝最妙最精。修行如是大法施時。能出一切無礙辯才。文義次第。相續不斷。如來所說甚深法中。皆能安住。成就深忍。或時被他誹謗罵辱。捶擊鞭打。終無瞋恨穢濁毒心。亦無驚懼種種苦惱。而心無畏。常懷歡喜。
(Kinh: Hai
là thường làm thí chủ
để hành pháp
thí. Tức là thường v́ chúng sanh mà nói pháp như thế
này, chính là [các pháp] bậc nhất,
tối thượng, tối thắng, mầu nhiệm nhất,
tinh vi nhất. Khi tu hành đại pháp thí như thế, có
thể phát ra hết
thảy biện tài vô ngại, văn và nghĩa theo thứ
tự, liên tục chẳng ngừng. Trong các pháp rất sâu
do Như Lai đă nói, đều có thể an trụ, thành tựu
Nhẫn sâu. Hoặc có lúc bị kẻ khác phỉ báng, nhục
mạ, đánh đập, đ̣n vọt, trọn chẳng
có tâm sân hận, nhơ bẩn, tàn độc, cũng chẳng có tâm kinh sợ, các thứ khổ năo,
mà tâm chẳng sợ hăi, thường có ḷng hoan hỷ).
Lành thay! Đây thật sự là những pháp
tắc mà chúng ta có thể sử dụng trong lúc b́nh thời,
có thể xem xét kỹ!
(Kinh) Tam giả, nhược văn tha
thuyết thử tam-muội thời, chí tâm thính thọ, thư
tả, độc tụng, tư duy kỳ nghĩa, quảng
vị tha nhân phân biệt, diễn thuyết, linh thị diệu
pháp cửu trụ thế gian, chung vô bí tàng, sử pháp tật
diệt.
(經)三者。若聞他說此三昧時。至心聽受。書寫讀誦。思惟其義。廣爲他人分別演說。令是妙法。久住世間。終無祕藏。使法疾滅。
(Kinh: Ba là
nếu khi nghe người khác nói tam-muội này, chí tâm nghe
nhận, biên chép, đọc tụng, tư duy nghĩa lư, rộng
v́ người khác phân biệt, diễn nói, khiến cho diệu
pháp này tồn tại lâu dài trong thế gian, trọn chẳng
giấu kín khiến cho pháp mau diệt).
Các vị thiện tri thức ơi! Đây thật
sự là một bảo điển! “Năm pháp” ấy
chính là lời bí mật, lời như thật, lời công
đức của chư Phật, có thể khiến cho chúng
sanh ấn khế tự tâm, lựa chọn lợi ích. Sự
lợi ích ấy được lựa chọn từ đâu?
Quư vị nói: “Tôi hành Ban Châu trong một thời gian dài như
thế, v́ sao chẳng tương ứng?” Tương ứng với ǵ vậy? Tương
ứng với vọng tưởng của quư vị ư?
Tương ứng với sự thấy Phật giả lập
của quư vị ư? Do quư vị giả lập, nói chung là
chẳng tương ứng! V́ thế, ở đây chẳng
có sự giả lập, nhưng khi tương ứng, chúng
ta sẽ có thể đạt được công đức
của Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện
Tiền tam-muội như thế. “Chung vô bí tàng, sử pháp
tật diệt” (Trọn chẳng giấu giếm, khiến
cho pháp mau diệt): V́ thế, công đức tuyên nói pháp này
rất chẳng thể nghĩ bàn! Kinh văn trong phần trước
đă nói bốn điều:
1) Nếu cầu pháp này, công đức chẳng
thể nghĩ bàn.
2) Nếu đọc tụng kinh điển
này, công đức chẳng thể nghĩ bàn.
3) Nếu v́ người khác tuyên nói, công
đức chẳng thể nghĩ bàn.
4) Nếu đích thân chứng tam-muội này,
công đức chẳng thể nghĩ bàn, chỉ có chư Phật
biết, chỉ có Bồ Tát thủ hộ, chỉ có người
thiện căn thuần thục truyền đạt.
(Kinh) Tứ giả, thường vô tật
đố, viễn ly chư năo, khí xả Cái Triền, đoạn
trừ trần cấu,
bất tự xưng dự, diệc bất hủy tha.
(經)四者常無嫉妒。遠離諸惱。棄捨蓋纏。斷除塵垢。不自稱譽。亦不毀他。
(Kinh: Bốn là thường chẳng
ghen tỵ, xa ĺa các năo, vứt bỏ Cái, Triền, đoạn
trừ trần cấu,
chẳng tự khen ngợi, cũng chẳng hủy báng kẻ
khác).
“Ghen tỵ” là chuyện phiền toái nhất
trong loài người hiện thời. “Cái Triền” bao gồm
Ngũ Cái và Thập Triền. “Bất tự xưng dự”
tức là chẳng tự ḿnh ca ngợi những ǵ chính ḿnh đă đạt
được. Hữu t́nh hiện thời thường nói:
“Ta nay tốt đẹp hơn trước rất nhiều,
nay ta được lắm! Nay ta như thế này, như thế
nọ…” Ca ngợi chính ḿnh như thế đó, chẳng thể
tiến bộ, sẽ đứng ́ tại đó, hoặc là
hăm trong sự ca tụng chính ḿnh, chẳng thể thoát ra. “Diệc
bất hủy tha” (cũng chẳng hủy báng kẻ khác).
V́ sao? Kẻ tự khen ḿnh, tất nhiên sẽ báng bổ kẻ
khác. Nếu bảo là ta đúng, tất nhiên kẻ khác sai bét!
Trong pháp tương đối, sẽ tự nhiên sanh khởi
như thế, chọn lựa như thế. Quư vị chẳng
cần phải hoài nghi!
(Kinh) Ngũ giả, ư chư Phật
sở, thường trọng tín tâm, ư chư sư trưởng,
thường hành kính úy. Ư tri thức xứ, thường
sanh tàm quư. Ư chư ấu trĩ, thường hoài từ
lân. Năi chí thọ tha tiểu ân, thượng tư hậu báo,
hà huống nhân hữu trọng đức, nhi cảm triếp
vong, thường trụ thật ngôn, vị tằng vọng
ngữ. Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc
ngũ pháp, tắc năng hoạch đắc như thị
tam-muội.
(經)五者於諸佛所。常重信心。於諸師長。常行敬畏。於知識處常生慚愧。於諸幼稚。常懷慈憐。乃至受他小恩。尚思厚報。何況人有重德而敢輒忘。常住實言。未曾妄語。賢護。是爲菩薩摩訶薩具足五法。則能獲得如是三昧。
(Kinh: Năm
là ở nơi chư Phật, thường có tín tâm sâu nặng.
Đối với sư trưởng, thường giữ
ḷng kính sợ. Ở nơi tri thức, thường sanh ḷng
hổ thẹn. Đối với những kẻ nhỏ dại,
thường có ḷng từ bi, thương xót. Cho đến
nhận ân nhỏ của người khác, c̣n nghĩ báo đáp
sâu đậm. Huống hồ đối với người
có đức sâu nặng mà dám vội quên. Thường trụ
trong lời chân thật, chưa từng nói dối. Này Hiền
Hộ! Đó là Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ năm
pháp, sẽ có thể đạt được tam-muội như
thế).
Kính sợ sư trưởng chính là thiện
xảo, diệt trừ kiêu mạn, lập tức cung kính.
Tâm cung kính chính là căn bản của hết thảy các pháp.
Nếu chẳng có tâm cung kính, hết thảy các pháp đều
chẳng thể đạt được, hết thảy
các pháp đều chẳng thể thành, hết thảy các tam-muội
đều chẳng thể thành tựu. Đó là điều
chắc chắn, chẳng có mảy may hoài nghi nào! Bởi lẽ,
sư trưởng là vị hướng dẫn tốt lành
cho chúng ta. Chư Phật là đấng khéo hướng dẫn
chúng ta, v́ [các Ngài] dẫn dắt, phát khởi sự cung kính
chọn lựa cho chúng ta. “Thường trụ thật ngôn,
vị tằng vọng ngữ” (thường trụ
trong lời thật, chưa hề nói dối): V́ hành tŕ pháp
Niệm Phật, và hành tŕ pháp tắc của chư Phật,
nói dối sẽ gây tổn thương rất lớn cho
con người. V́ thế, phải nên mười phần
chú ư.
Đức Thế Tôn nêu ra sáu thứ “ngũ
pháp”, chúng ta hăy thường nên luyện tập, thường
đọc tụng, thường tu tập, thường ấn
khế tự tâm, như thật biết tự tâm, sẽ đích
thân chứng đắc tam-muội này chẳng khó!
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng
minh thử nghĩa, dĩ kệ tụng viết.
(經)爾時世尊爲重明此義。以偈頌曰。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế
Tôn v́ nói rơ lại nghĩa này, dùng kệ tụng nói như sau).
Đây là theo lệ thường, kệ tụng
nhằm trùng tuyên ư nghĩa [trong phần
Trường Hàng]. V́ sao như thế? Đức
Thế Tôn giáo huấn chúng ta, muốn khiến cho chúng ta
đạt được sự nhận biết rơ ràng đối
với pháp tắc tam-muội, tư tưởng ít đi
theo đường ṿng, có thể rơ ràng nhờ vào danh tướng và ngôn từ mà hiểu
rơ tự tâm, nhờ vào ngôn thuyết mà biết rơ tự tâm,
nhờ vào ngôn thuyết mà hiểu rơ pháp tắc.
Đối với pháp tắc, dựa theo đạo
lư, thường là chúng ta nhận biết chẳng phải
là rất khó, nhưng nếu muốn nhận biết rơ ràng,
chẳng nghi, cần phải không ngừng tập cho quen thuộc.
V́ chúng ta đối với nghiệp tập tiếp nối từ
vô thỉ đến nay, tức là những cái gọi là phiền
năo và tri kiến chẳng chánh đáng, cho đến tham,
sân, si, mạn, nghi, đủ loại tư duy, chúng ta đều
hết sức quen thuộc. Đối với sự nhận
biết đắm nhiễm trong sáu căn và sáu trần, chúng
ta đă hết sức quen thuộc, đă thuần thục
rất lâu, nhưng đối với sự tư duy về
pháp, sự nhận biết về pháp th́ hết sức xa lạ!
Nếu chẳng do thiện căn nhiều kiếp, đối
với pháp chúng ta c̣n chẳng thể nghe, huống hồ có
thể quen thuộc, hoặc thuần thục với nó, tu
tập nó, cho đến thành tựu nó ư? V́ thế, chớ
nên coi thường nhân duyên quen thuộc và thâm nhập quan
sát một pháp tắc. Thật sự cần phải có một
cơ chế rất sâu rộng th́ mới có thể thành thục
tiếp xúc, nhận biết, tu tập, cũng như thành
thục thiện căn thù thắng, duyên thù thắng, hay
nghiệp thù thắng của một pháp tắc.
Nói theo phía đại đa số người
học Phật, cảm giác xa lạ [đối với pháp]
biểu hiện khá rơ rệt,
nhưng đấy chính là chỗ chúng ta chẳng sợ hăi,
là chỗ phải nên hoan
hỷ. Nói “hoan hỷ” hoàn toàn chẳng phải là chúng
ta dễ dăi, hời hợt nhận biết một vấn
đề, liền cho là đă có thành tựu, hoặc đă
đạt được điều chi đó. Hoàn toàn chẳng
phải là như vậy, mà là chúng ta có thể thật sự
đắc lực tập trung vào sanh mạng. Tức là khi
có phiền năo, nghịch duyên, tạp duyên, bèn có thể từ
đó thoát ra, thật sự từ trong phiền
năo mà thoát ly phiền năo, từ nơi nghịch hạnh mà được
tự tại, từ chỗ ác duyên mà đạt được
thuần tịnh. Như thế th́ mới có thể thật
sự hiển thị sức mạnh và phương tiện
chẳng thể nghĩ bàn của Phật pháp. Ở đây,
cũng giống như thế. “Nhĩ thời, Thế
Tôn vị trùng minh thử nghĩa” (lúc bấy giờ, đức
Thế Tôn v́ nói rơ lại nghĩa này) để khiến
cho mọi người hiểu rơ. Nếu chúng ta chẳng hiểu
rơ các duyên hiện tiền, dẫu hết thảy chư Phật
đều hiểu rơ, cũng chẳng liên can ǵ với chúng
ta, vô ích cho chúng ta!
(Kinh) Nhược ư thâm pháp tâm dục
nhạo, yếm ly nhất thiết chư hậu hữu.
(經)若於深法心欲樂。厭離一切諸後有。
(Kinh: Nếu
với pháp sâu, tâm ưa thích, chán ĺa hết thảy các hậu
hữu).
Đối với hai chữ “hậu hữu”[1], chúng ta phải nên
chú ư, dốc sức tư
duy, quan sát. “Yếm ly nhất thiết chư hậu hữu”
(chán ĺa hết thảy các hậu hữu): Nếu đối
với tương lai chẳng tính toán, đối với vị
lai chẳng có nhiều
điều mong mỏi, chẳng có nhiều vọng tưởng,
nghiệp tập của người như thế đă mỏng
ít. Nếu đối với sự tạo tác của “hậu
hữu” trong đời vị lai mà xa ĺa sự cưỡng
chấp nơi ư chí của tự ngă, chỉ v́ pháp tắc, v́
lợi lạc thế gian, người như thế sẽ
đạt được sự an ủi nơi pháp tắc.
Nếu trong khi lợi lạc thế gian mà vận dụng
thuần thục hai pháp bi và trí, người ấy đạt
được công đức và lợi ích thù thắng trong
sự thành tựu. Nếu hiểu rơ ràng sự vận dụng
liên tục trong từng sát-na cho đến hết đời
vị lai, tâm thanh thản, tâm vô công dụng, chỉ xét theo
sự tướng có tác dụng lợi ích rộng khắp
thế gian, người ấy đă đoạn trừ hậu
hữu, đích thân chứng các thứ tướng công
đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn!
Đối với Thanh Văn, “sở tác dĩ biện, phạm hạnh
dĩ lập” (việc làm đă xong, phạm hạnh đă
lập) chẳng phải là nói theo hậu hữu, mà là đă
chứng thanh tịnh như thế. “Chẳng v́ hậu hữu”,
nói theo những người đang học Phật trong hiện
tiền, vốn là một điều phải nên quan sát hàng
đầu, phải nên phản
tỉnh trong sự tu tŕ nội tâm. “Hậu hữu” thường
là ích kỷ, nhưng nếu đối với một pháp tắc
mà liên tục tu tŕ, Hữu ấy sẽ là “hữu chẳng
luân hồi”, mà là Hữu
tăng thượng. Tuy chưa đắc đạo, mà đă
có đạo cơ (cơ duyên ngộ đạo, chứng đạo).
Tuy chưa ĺa vô minh, cái duyên “có thể trừ khử vô
minh” đă hiện tiền. Cũng có nghĩa là nếu đối
với vị lai, chúng ta c̣n có rất nhiều sự giả
lập tự ngă, khát vọng, hoặc mong mỏi hư vọng,
huy hoàng, tức là vẫn đắm ch́m trong gịng nghiệp
vô minh. Hậu hữu kiểu đó chớ nên có, đừng
nên có! Nếu chúng ta muốn lưu truyền Phật pháp rộng
khắp trong thế gian, thực hiện các thứ thiện
xảo, và huân tu,
trao đổi, tu hành các thứ pháp tắc, hoặc kiến
thiết đạo tràng, “hậu hữu” kiểu đó
chính là thiện duyên tăng thượng.
Điều này càng trọng yếu hơn nữa đối
với hữu t́nh c̣n đang mê muội. Do vậy, phải
nên vận dụng Hậu Hữu như thế nào? Quan sát
như thế nào?
Xa ĺa hết thảy hậu hữu, thật
sự là sự lựa chọn theo pháp tánh thanh tịnh, mà cũng
là một loại duyên khởi thanh tịnh, viên măn, tự đạt
được trong Phật giáo, chính là tu ngay trong hiện
tiền. “Tu” là chọn lựa, chấp
thuận ngay trong hiện tại, nhất là trong nghịch
duyên, trong nhân duyên chẳng vừa ḷng, trong ác duyên. “Ngay
trong hiện tại” giống như ḥn đá thử vàng,
v́ trong thuận duyên, trong cái tâm vui sướng th́ sẽ thoải
mái, cho nên thường là chẳng có trở ngại ǵ, c̣n
nghịch duyên th́ vừa khéo là thời khắc trọng yếu
để hiển hiện sức mạnh trí huệ.
Do vậy, “yếm ly nhất
thiết chư hữu” (chán ĺa hết
thảy các cơi) chính là cái được gọi là “duyên khởi
trí huệ hạnh”, mà cũng là vận dụng trí huệ
ngay trong hiện tiền. Có chán thế gian, ĺa thế gian, sẽ
là rất có ư nghĩa. “Chán” là có tâm nguyện vứt bỏ, cảm
thấy mệt nhọc, khốn đốn. “Ĺa” là đă
ĺa bỏ nhị nguyên đối đăi, thiện ác bức
bách, hoặc là lấy bỏ, được mất. Hai pháp
“ghét” và “ĺa” chính là cơ sở của Bồ Đề tâm,
mà cũng là bước khởi đầu đặc biệt
trọng yếu để chúng ta học tập Ban Châu tam-muội.
(Kinh) Trí giả bất nguyện nhất
thiết sanh. Nhược năng như thị, đắc
tam-muội.
(經)智者不願一切生。若能如是得三昧。
(Kinh: Người
trí chẳng nguyện hết thảy sanh. Nếu được
như thế, đắc tam-muội).
Chúng ta biết “sanh” trong “văng sanh thế
giới Cực Lạc” chính là thủ hộ căn bản
Vô Sanh. Nói “sanh” tức là sanh vào cơi Vô Sanh. Thế giới
Cực Lạc chẳng phải là một cơi nước luân
hồi, chẳng phải là hậu hữu, mà là cơi an dưỡng, nương
về để thành Phật rộng độ hữu t́nh,
trọn đủ thiện pháp, trọn đủ oai đức.
Đấy chính là chánh tướng “chẳng v́ hậu hữu”. Do vậy,
quốc độ ấy là “các tướng vô tướng”,
[nhân dân trong cơi ấy] đều đầy đủ ba
mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo, b́nh
đẳng nhất vị, trọn đủ các sức
trang nghiêm, oai đức, thần thông tự tại vô sai biệt.
“Vô sai biệt” là chẳng có sự nhọc nhằn v́ hậu
hữu. V́ thế, “trí giả bất nguyện nhất
thiết sanh” (người trí chẳng muốn hết thảy
các thứ sanh) chẳng phải là đoạn diệt, mà cũng
chẳng chấp giữ sanh. Đó chính là chỗ tồn tại của công đức
chân thật nơi cơi An Dưỡng
(Cực Lạc), mà cũng là chỗ tồn tại của tam-muội
lực. Như trong sáu loại “ngũ cụ túc pháp” trên
đây, các điều
được thủ hộ bởi năm pháp thuộc loại
đầu tiên là “vốn chẳng có sanh diệt, vốn chẳng
có trần cấu, vốn chẳng chấp trước, vốn
chẳng có ǵ được sanh”, cho nên có thể thủ
hộ duyên khởi của tam-muội này. Vô sanh chính là duyên
khởi, vô cấu chướng chính là duyên khởi. Nói “chính
là duyên khởi” nghĩa là: Do vốn chẳng sanh, do
vốn chẳng có nghiệp ấy, mà cũng do vốn chẳng
có duyên ấy. Đó là chánh duyên hiện tiền.
Nếu chúng ta chẳng thể biết rơ ràng,
rành mạch năm pháp đầu tiên, th́ mỗi loại “năm
pháp” do đức Thế Tôn đă nói sau đó đều
là hướng dẫn dần dần theo thứ tự, cho đến
năm pháp thuộc loại thứ sáu, đă phân tích tỉ
mỉ, cặn kẽ, rộng
khắp cho các hữu t́nh phàm phu nhiệt năo, khiến cho chúng
ta dùng năm pháp để đạt được niềm
vui tam-muội, xa ĺa các nỗi khổ do tản mạn, vô kư,
thiện, ác trong thế tục. Niềm vui tam-muội ấy
được hết thảy các bậc có trí, bậc thiện
căn thuần thục thủ hộ, mà cũng có nghĩa
là tam-muội vương này trọn đủ hết thảy
các pháp, là Phật địa, là Phật trí, là Pháp tánh, là Tăng
tánh, lợi ích chân thật như thế, chúng ta hăy nên siêng
học, siêng tu tŕ, siêng quan sát!
“Nhược năng như thị đắc
tam-muội” (nếu có thể như thế th́ sẽ đắc
tam-muội): Trong quá tŕnh học tập, giáo điển này
không ngừng nhắc nhở chúng ta về sự thanh
tịnh ngay trong hiện tiền, hiện tiền trọn đủ,
hiện tiền chân thật. Nếu thật sự có thể
trong mỗi thời khắc đều vận dụng mỗi
niệm hiện tiền rất khéo, đạo tràng Ban Châu
sẽ ở ngay trong mỗi bước chân, trong mỗi lúc
giơ tay, đặt chân, mỗi câu nói năng của chúng
ta đều là hành tam-muội. Mỗi ư niệm dấy động
nơi ư thức đều là sự tiếp nối tam-muội
chánh thọ. Đạo tràng Ban Châu lớn nhất ở
ngay trong sự suy nghĩ, quán tưởng đúng pháp, ở
ngay trong hiện duyên như pháp!
Thông thường, chúng ta đối với
một đạo tràng hành tŕ Ban Châu mà có sự cảm nhận
rơ ràng, có sự quy hướng khá rơ ràng, th́ sẽ hoặc là
đến đó tu tập, hoặc sẽ sợ hăi. Đương
nhiên cũng có kẻ sợ hăi. Kẻ
sợ hăi đều tự
biết, như một số vị xuất gia hay tại
gia Bồ Tát nói như thế này: “Trời ơi! Đợi
cho tới khi tôi đầy đủ tư lương rồi
mới kinh hành Ban Châu”. Hoặc là nói: “Tôi nghi ngờ pháp Ban
Châu”. Chuyện này thật sự là do có người đầy
đủ phước đức, có người
chẳng đủ; có người pháp đầy đủ,
có người pháp chẳng đủ. Nếu hai pháp phước
và huệ thật sự trọn đủ th́ mới có thể
đặc biệt hành pháp Ban Châu. Đây chẳng phải là
cố ư khen ngợi, hoặc tung hô pháp tắc này, chẳng
phải như vậy! Nếu chúng ta thật sự đơn độc,
chuyên nhất hành Ban Châu, quả thật là phải có nhiều
thiện căn, phước đức, và nhân duyên chín muồi!
Rất ít người thật sự quan sát chỗ này! Chúng
ta chẳng ngại lắng đọng cái tâm xen tạp để
quan sát đôi chút: Nếu thật sự trọn đủ
cơ hội chuyên môn hành pháp, phải có các duyên để thành tựu, các duyên phải
chín muồi. Thiếu một duyên chẳng chín muồi, sẽ khó
hành tŕ! Rất nhiều người phát tâm trong một khoảng
thời gian rất dài, dùng cả mấy tháng để chuẩn
bị, kết quả thường là chẳng thể thuận
theo ư nguyện của chính ḿnh để hành pháp, v́ các
duyên rất khó trọn đủ! [Hành tŕ] một ngày một
đêm th́ c̣n thuận tiện, chứ nếu nhiều ngày hơn,
ba ngày, bảy ngày, hoặc thời gian càng dài hơn,
nhân duyên như thế càng khó thật sự tương ứng!
Một người kinh hành suốt bảy ngày bảy đêm,
hoặc bảy ngày tám đêm theo hành pháp Ban Châu, sẽ cần
phải có khá đông người khác bỏ ra tinh lực, tâm
lực, từ bi, và trí huệ lực của chính họ để
phục vụ cho toàn thể quá tŕnh hành pháp của người
ấy, nhất là trong bốn ngày cuối. Khá nhiều người
kinh hành bảy ngày bảy đêm, do sức tự khống
chế chẳng đủ, kết quả là [tuy một người hành Ban Châu, mà thành
ra] cơ bản mọi người đều hành Ban Châu. Đối với
chuyện này, chúng tôi đều đă thấy, biết, tham
dự rồi!
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hành
Ban Châu, tức là tu tŕ Tùy Ư tam-muội như người đạo
nghiệp thuần thục đă nói. Đó là pháp tắc mà hữu t́nh thiện
căn cực thuần thục có thể duy tŕ thanh
tịnh liên tục. Nếu thất niệm, người ấy
sẽ sanh ḷng hổ thẹn. Nếu đối với mặt Sự mà đánh
mất lợi ích nơi pháp tắc, hoặc là trong một
niệm hiện tiền mà chẳng tương ứng với
pháp, người ấy sẽ có ḷng hối hận, hoặc
tâm chán ĺa, hoặc dùng Bồ Đề tâm để quán chiếu,
hoặc mạnh mẽ trực tiếp thấu đạt pháp
tánh, chẳng dính chặt với sự tướng để
rồi đánh mất pháp tắc thanh tịnh. Tu tŕ như
thế, trên thực tế, chúng ta phải nên có một sự
thiện xảo rộng lớn để cổ vũ khích
lệ phổ biến. V́ trong tu tập pháp Ban Châu, rốt cuộc
là rất ít người, cực ít người có thiện căn và cơ chế thành thục. Ngay như
trong hiện tại, c̣n có rất nhiều vị xuất
gia hay tại gia Bồ Tát sanh ḷng sợ hăi đối với
pháp này, thậm chí mười phần sợ hăi. Sợ hăi
ǵ vậy? Chẳng ngủ nghê, chẳng ngồi, mỗi ngày
ăn một bữa. Đối với họ, đó là chuyện
chẳng thể tưởng tượng. Cũng có lẽ đối
với những người đă hành Ban Châu như chúng ta,
chuyện này chẳng có ǵ đáng sợ. Người huân tập
pháp tắc này trong một thời gian dài, đối với
chuyện này (không ngủ, không ngồi, ăn một bữa)
cũng chẳng có cảm giác ǵ, coi điều đó là rất
tự nhiên, rất b́nh thản, thậm chí c̣n nói là một pháp
tắc rất tốt. Nhưng đối với các hữu
t́nh chưa hề bén mảng, c̣n sợ hăi, th́ đâm ra những
điều ấy vẫn là chỗ đáng sợ hăi! Có những
kẻ tự ngỡ chính ḿnh có thiện căn rất lớn,
nhưng dính dáng đến hành pháp như thế liền chẳng
dám chen chân vào! V́ sao? Vẫn
là do có nỗi sợ hăi. Thoạt nh́n dường như dễ
dàng, nhưng để thành
thục thiện căn ấy, vẫn
thật sự phải được oai thần của Phật
gia bị, cần phải thường cầu nguyện ḥng
thành thục các duyên ḥa hợp như thế. Do vậy, chúng
ta chẳng ngại sử dụng hai chân để đi lại (tức là dùng hai pháp để
thực hành Ban Châu trong cuộc sống thường nhật):
- Một là vận dụng hành pháp Ban Châu
chuyên nhất trong pháp môn Ban Châu.
- Hai là trong cuộc sống hằng ngày,
đối với chính ḿnh chớ nên buông lung, chớ nên quá
mức dung túng bản thân.
Đương nhiên là tâm địa phải
nên khoan dung, phải nên như pháp, nhưng đối với
các tâm niệm thế tục đă hết sức thuần
thục, hoặc các thói quen trong phương thức tư
duy, và
phương thức sống thuộc về nghiệp lực
luân hồi, đừng
dung túng chính ḿnh! Như
thế th́ đối với pháp, chúng ta sẽ có cái tâm
hướng về, có cái tâm mạnh mẽ.
Do vậy, thiện căn tinh tấn sẽ dễ chín muồi!
Dựa theo lời thọ kư của đức
Thế Tôn, thời đại này là thời đại chẳng
có sức tu tŕ. V́ sao đức Thế Tôn lại thọ kư
pháp hội Ban Châu sẽ thịnh hành rộng răi trong cơi đời? Chính là
do oai đức, thần lực, và thệ
nguyện của đức Thế
Tôn gia bị, phước đức của đức Thế Tôn
truyền lại cho chúng ta, khích lệ cơ duyên cuối cùng
của chúng ta. Người trong thế giới Sa Bà do hành đạo
và nghe pháp trong tuổi thọ trăm năm, sẽ khó thể
tư duy, quán kỹ các hữu t́nh thuộc các thế giới ở phương khác, v́ thọ mạng
quá ngắn ngủi. Chúng ta tự cho hoàn cảnh sống trong
hiện thời vẫn rất ưu việt, nhưng nếu
thật sự biết các thế giới ở phương
khác, hoặc là hoàn cảnh sống và t́nh huống thọ mạng
của những vị thiện căn thành thục, hay công đức
thành tựu thù thắng, nhất định là chúng ta sẽ
khóc ̣a, tuôn lệ, nhất định sẽ quư trọng sự
liên tục nơi sanh mạng của chính ḿnh trong mỗi phút,
mỗi giây. V́ sao? Do có cảm giác tương phản cực lớn.
Nếu chúng tôi so sánh [phước đức của chúng ta
với] phước đức của người có thọ
mạng tám vạn bốn ngàn năm, quư vị sẽ nói: “Tôi
lại chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng biết, so
sánh bằng cách nào?” Có thể nương theo kinh giáo để
so sánh. Chẳng hạn như trong quần thể sanh tồn
của nhân loại, thiện căn, phước đức,
nhân duyên và quả báo đă thấy khác biệt rất lớn.
Có người thân thể rất khỏe mạnh, có người
thọ mạng khá dài, có kẻ rất trẻ đă chết
non, có người đến tuổi
trung niên mới từ trần, có người mắc đủ
các thứ bệnh tật khó thể nói trọn, có người
sống trong các khu vực thiếu thốn tài nguyên sanh hoạt,
có người sống ở nơi có hoàn cảnh khí hậu
ác liệt, có người sống trong hoàn cảnh phước
đức khá đầy đủ, điều kiện khá
hoàn thiện. Những khác biệt ấy mọi người
đều có thể trông thấy, nhưng nếu so sánh với
các hữu t́nh trọn đủ phước đức ở
phương khác, sẽ rất
giống với từng chút sai biệt ấy. V́ sao thường
nhắc tới những lời lẽ ấy? Vẫn là v́ cổ
vũ chúng ta biết rơ vô thường, thường niệm
vô thường.
Pháp sư Ấn Quang có một câu nói mười
phần cảm động ḷng người! Các vị thiện
tri thức thuở trước, hễ
thuyết pháp cho đến dặn ḍ, lời
lẽ đều rất sâu nặng v́ bi tâm cùng cực, thúc
giục, cảnh tỉnh kẻ mạt học, khiến cho
người đời sau có thể tỉnh ngộ hiện
duyên và cơ chế của chính ḿnh. V́ thế, lăo pháp sư
nói “dùng một chữ Chết dán lên trán”. Chúng ta chẳng
biết sanh mạng này ngày nào sẽ vùi xuống đất
vàng, hoặc thành một nắm tro xương? Ai nấy đều
khó tránh khỏi, thời tiết nhân duyên nào vậy? Có mấy
ai có thể biết rơ, có mấy ai có thể nắm vững,
có mấy ai có thể chọn lựa? Đối với
chuyện này, quả thật chúng ta phải nên chánh quan sát, chánh
tư duy. Nếu chẳng dán chữ Chết trên trán, chúng ta
rất khó thể thật sự tư duy pháp tắc này! V́
cái tâm tương tục nơi hậu hữu mười
phần xa rộng; cho nên người ta thường chẳng
khéo tiếp nhận chữ Chết. Có các giáo ngôn nhằm dạy
chúng ta tu tŕ sự an lạc đối với tử vong,
quan tâm tử vong, sanh ḷng hớn hở đối với tử
vong, vui sướng đối với tử vong, không ngừng
vun bồi cho chính ḿnh cảm giác chẳng sợ hăi và thân thiết
đối với tử vong. Cách tu vô úy đối với tử
vong cho đến các pháp quan sát ấy khiến cho chúng ta có
thể vứt bỏ Ngă Chấp. Nếu chẳng thường xuyên tu tập
như thế, sẽ có các cách suy nghĩ như
“vô thường đại quỷ dường như chẳng
thể giết chúng ta, chúng ta hăy c̣n trẻ, c̣n khỏe mạnh,
c̣n có nhiều cơ chế mà ta vẫn chưa can dự”
v.v… Các pháp vừa
nói đó, không ǵ chẳng nhằm khiến cho mọi người
tư duy, tham chiếu “yếm ly nhất thiết chư
hậu hữu” (chán ĺa hết thảy hậu hữu),
“trí giả bất nguyện nhất thiết sanh” (người
trí chẳng nguyện hết thảy các thứ sanh).
(Kinh) Bất dụng nhất thiết chư
ngoại luận, năi chí ngữ ngôn bất thính thọ.
(經)不用一切諸外論。乃至語言不聽受。
(Kinh: Chẳng
dùng hết thảy các ngoại luận, cho đến lời
lẽ chẳng nghe nhận).
“Cầu pháp ngoài tâm” chính là ngoại
đạo, chính là tri kiến của ngoại đạo!
Chúng ta thật sự chẳng nên bị ràng buộc quá lố
bởi các cảnh giới và tạp duyên, hăy nên thấu đạt
trực tiếp bổn tâm, trực tiếp thấu triệt
cội nguồn, thấy trực tiếp pháp tắc, chẳng
dụng công hư giả, ủy khuất để đi
theo nhiều con đường ṿng, đạt lợi ích ít
ỏi, tức là nhọc nhằn lắm nỗi mà chẳng
đạt được lợi ích. V́ thế, “năi chí ngữ
ngôn bất thính thọ” (cho đến chẳng nghe nhận
lời lẽ [của ngoại đạo]). Nếu chẳng
có tri thức tương ứng, phần nhiều sẽ bị
thị phi, rối ren mê hoặc tâm trí của
chúng ta, khiến
cho chúng ta chấp trước sự tướng. Hăy đừng
nghe những lời lẽ ấy, trước hết, hăy gạt nó qua một
bên, tự ḿnh niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng,
niệm Tam Bảo, nghĩ thương xót,
dùng phương tiện như thế, cộng
trụ và cư xử với nhau như thế th́ sẽ có sự
gia tŕ thanh tịnh và khích lệ lẫn nhau, sẽ hữu ư
hay vô ư tạo lợi ích cho
nhau!
Chúng ta nói như thế, và cũng phải không
ngừng làm như thế, chẳng quản người khác
đánh chửi, tán thán, hay khinh nhục chính ḿnh, chúng ta cứ
quan sát như vậy. Trên thực tế, đánh chửi, tán
thán, khinh nhục, cho đến chửi rủa, đích xác
là chẳng phải do chúng ta nghe nhận. Nếu đối
với chỗ này mà mê hoặc, đắm nhiễm, cho là có
thật, chúng ta sẽ đánh mất cơ chế tu tập
hành pháp hoặc niệm Phật trong hiện tiền, kết
quả là vẫn bị tri kiến của ngoại đạo
gây rối, chịu nhiều nỗi ủy khuất. Sự ủy
khuất ấy kéo dài càng lâu, chúng ta ĺa pháp càng xa, mà cũng
xa ĺa lợi ích thật sự càng xa. Do đó, mê mất càng
lâu. Chúng ta trải qua một khoảng thời
gian học tập, tri kiến đại khái đă chẳng
có vấn đề, nhưng đă vận dụng được
hay chưa? Vẫn phải tùy thuộc mỗi vị thiện
tri thức tự ḿnh chiếu kiến trong hiện tiền. Chúng
ta chỉ có thể tự ḿnh xem xét, chứ xét đoán người
khác sẽ gặp quá nhiều
khó khăn, quá nhiều nỗi bất tiện, quá nhiều
thứ nặng nề, quá nhiều thứ chẳng thể nắm
bắt! Hăy xét kỹ tự tâm, nhận biết vạn pháp
duy tâm, nhận biết cảnh giới Nhất Thật, nhận
biết vốn chẳng sanh diệt, đích xác sẽ là mười
phần pháp hỷ, mười phần thiện xảo.
(Kinh) Vĩnh đoạn thế gian chư
ngũ dục, nhược năng như thị chứng tam-muội.
(經)永斷世間諸五欲。若能如是證三昧。
(Kinh: Vĩnh viễn đoạn ngũ
dục thế gian, được như thế sẽ chứng
tam-muội).
Đối với “ngũ dục”, chúng
ta hiểu khá rơ ràng, rất dễ cảm nhận được.
“Vĩnh đoạn” (vĩnh viễn dứt trừ), đừng
sợ hăi! Trong hành vi mà sợ hăi “vĩnh đoạn” th́ chúng ta
chẳng ngại trước hết hăy dùng tâm
niệm để “vĩnh đoạn”, dùng ư thức để
luyện tập, kiến lập một trụ xứ an lạc để vĩnh viễn
đoạn trừ ngũ dục trong vương quốc ư
niệm, cũng là dùng niềm vui do năm pháp, tức “giới,
định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến” để
quan sát, dùng niềm vui do từ bi độ chúng sanh để
quan sát, dùng Thiền Định, thần thông, đại phương
tiện để quan sát lỗi họa của ngũ dục.
Như thế th́ chúng ta sẽ chẳng đắm ch́m trong
ràng buộc của ngũ dục và thế tục.
Chúng ta phải xét kỹ tự tâm, đừng
bận tâm [xét đoán] người khác, v́ khi xoi mói người
khác, sẽ thường là dùng vọng niệm để
suy đoán, có quá nhiều khổ nạn và chẳng tương
ứng. Nếu chúng ta ai nấy đều hướng theo
ngoại duyên để suy lường, như thế sẽ
chẳng phải là một đạo tràng, mọi người
sẽ tranh đấu, vô duyên cớ tranh đấu, tranh đấu
chẳng có ngằn hạn.
Nhưng khi mỗi người chúng ta tự xét ḿnh, đạo
nghiệp sẽ tồn tại, đạo tràng tồn tại.
Mỗi người tự xét kỹ tâm ḿnh sẽ là lợi
ích lẫn nhau; như
thế th́ Phật pháp sẽ thanh tịnh, sẽ tiếp tục
tồn tại không sợ hăi. Người học Phật chúng
ta phải nên sanh tâm vô úy, cho nên nêu ra ư kiến hoặc thuyết
giáo cho người
khác, nhất định là phải nên vô úy, thậm chí đối
với nghiệp xứ cũng phải nên vô úy. V́
sao? Trong quá tŕnh tiếp nối sanh mạng của chúng ta, nhất
là hữu t́nh phàm phu, c̣n có khá nhiều nghiệp tập phiền
năo đă biết hoặc chưa biết. Đối
với những điều đă biết, chúng ta hăy khéo sám
hối, đó là sự chuyển hóa tăng thượng rất
tốt. Nếu
chẳng biết, vẫn thật sự cần người
sáng suốt hoặc người hiểu biết khéo cảnh tỉnh.
Chư vị thiện tri thức ơi! Chúng
ta nhận thức “vĩnh đoạn thế gian chư ngũ
dục” (vĩnh
viễn đoạn các ngũ dục trong thế gian) như
thế nào? Trước hết, trong ư thức
phải dám nghĩ tưởng; sau đấy mới có thể
thật sự thực hiện nơi nghiệp tướng!
Cho đến đối với quả báo trong đời
vị lai, chúng ta mới có thể thật sự từ trong
sức thần thông oai đức rộng lớn, trong sự
thiện xảo, trong phương tiện độ sanh,
trong cơi nước thanh tịnh của chính ḿnh mà lợi ích
rộng khắp trời người, ta lẫn người
đều viên măn. Nếu ư niệm c̣n chưa mơ tưởng
tới [chuyện vĩnh viễn đoạn trừ ngũ
dục thế gian], tự tâm vẫn c̣n mê mờ trong tham, sân,
si, tà kiến, hai thứ chánh báo và y báo của chính ḿnh vẫn
bị vùi dập trong phiền năo thô trọng th́ quả thật
vẫn là khá khổ năo. V́ chúng ta đă biết: Nếu một
pháp có thể tự hại, sẽ có thể nghịch hại
các hữu t́nh chung quanh. Nếu [một pháp] có thể tự
lợi, sẽ có lúc vô ư thức mà lợi ích hữu t́nh.
“Vĩnh đoạn thế gian chư ngũ
dục, nhược năng như thị chứng tam-muội”
(vĩnh viễn đoạn trừ các ngũ dục trong thế
gian. Nếu có thể như thế th́ sẽ chứng tam-muội):
Đối với Ban Châu tam-muội, tuy chưa đoạn
ngũ dục, đă có thể khiến
cho mười phương chư Phật thảy đều
hiện tiền, tuyên nói chánh pháp, khiến cho chúng ta tiến
nhập Vô Sanh Nhẫn, chứng đắc các thứ thiện
xảo. Chúng ta đọc một đoạn văn tự trả
lời ngài Viễn Công của La Thập đại sư. La
Thập đại sư nêu ra sự tu chứng của mấy
loại tam-muội lực và mấy loại nhân duyên thấy
Phật, như vừa mở đầu [khóa giảng kinh
này], chúng tôi đă nhắc tới bốn pháp để thấy
Phật: Trong cảnh giới hiện tiền, hoặc trong
mộng, hoặc khi xả báo, hoặc trong Thiền Định
có thể thấy chư Phật. Trong bốn pháp đó, chúng
ta có thể sử dụng phương pháp nào để thấy
Phật? Nếu có tịnh dục Bồ Tát đạt được thiện
xảo do các sức thần thông, có Thân Như Ư Thông, có thể
qua lại các thế giới ở phương khác, muốn
thấy Phật ở các phương khác. Do nương vào
sức thần thông, trong khoảng nháy mắt đă đến
nơi, đảnh lễ dưới chân đức Thế
Tôn, thiện xảo nghe pháp. Đó là người thiện
căn đă chín muồi. Chẳng
có sức thần thông như thế th́ làm như thế nào?
Nhất là hàng phàm phu chưa tịnh dục (chưa trừ
sạch các dục vọng), làm thế nào để có thể
thấy Phật, nghe pháp trong hiện tiền? Ban Châu tam-muội
là một giáo ngôn bất cộng: “Vĩnh đoạn thế
gian chư ngũ dục” (vĩnh viễn đoạn ngũ
dục của thế gian). Tuy là một sự chỉ
dạy dành cho người trí, dành cho người có cái tâm mạnh
mẽ mong thấy Phật, vẫn chẳng bỏ sót người
có thiện căn. Vậy th́ quư vị nói: “Đối với
ngũ dục trong thế giới này, tâm tham ái của tôi quá
lừng lẫy, tôi tu tập pháp tắc này bằng cách nào đây?” Thật
sự là khi niệm Phật, khi kinh hành, tức là trong lúc
chuyên tu, hăy dũng mănh ĺa bỏ th́ cũng đạt được
phương tiện.
V́ hiện thời, trong khi hành pháp, chúng ta vẫn
chưa chứng, dẫu đă chứng đắc A La Hán, vẫn
chẳng thấy biết tâm trí bản chất trong quá khứ,
hiện tại, vị lai của hữu t́nh ở chỗ nào. Do vậy, sẽ
chẳng thể phát hiện thiện căn của người
khác. V́ thế, trong thời đạt Mạt Pháp mà suy lường
người khác, sẽ đặc biệt khó khăn. Nhưng
trong thời đại này, kẻ chú ư ngôn thuyết của
người khác, quan tâm nghiệp tướng quanh ḿnh khá nhiều, mà kẻ thủ
hộ tự tâm, hiểu thấu tự tâm, người tu
pháp hiểu biết tự tâm lẫn nhau đâm ra hiếm hoi! Do
vậy, chúng ta hăy nên xét kỹ trong tâm niệm, chẳng
cần nhất định phải lập tức tiếp
nhận nơi sự tướng, chỉ cần có thể
thử thí nghiệm trong
tâm niệm. Nếu như trong hiện thực chẳng làm được,
th́ có thể thử trong mộng!
(Kinh) Thanh tịnh tŕ giới trụ phạm
hạnh, sở sanh bất niệm chư nữ nhân, thâm yếm
ngũ dục chân Phật tử, nhược năng như
thị, chứng tam-muội.
(經)清淨持戒住梵行。所生不念諸女人。深厭五欲真佛子。若能如是證三昧。
(Kinh: Tŕ
giới thanh tịnh, trụ phạm hạnh. Suốt đời
chẳng nghĩ các nữ nhân, Chân Phật tử chán sâu ngũ
dục. Được như thế, sẽ chứng tam-muội).
Đây là đối với các tỳ-kheo, sa-di, ưu-bà-tắc
mà nêu ra pháp tắc. Nếu đối với nữ chúng, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-di sẽ nói ngược lại (suốt đời
chẳng nghĩ tới nam nhân), chúng ta phải xét kỹ và
quan sát.
(Kinh) Thường hành đại thí bất
cầu báo, diệc vô trụ trước hối hận tâm,
nhất xả dĩ hậu bất trùng duyên, duy đương
nhiếp niệm tư chư Phật.
(經)常行大施不求報。亦無住著悔恨心。一舍已後不重緣。唯當攝念思諸佛。
(Kinh: Thường bố thí lớn,
chẳng cầu báo, cũng chẳng chấp giữ tâm hối hận, hễ
đă xả rồi chẳng nghĩ nữa, chỉ
nên nhiếp niệm nghĩ chư Phật).
Đối với bọn phàm phu hữu t́nh chúng
ta mà nói, khẳng định là cần phải có tâm trí mười
phần mạnh mẽ th́ mới có thể tiếp nhận
pháp tắc như thế. Khá nhiều vị cư sĩ phát
tâm xuất gia, cũng như đoản kỳ xuất gia,
và người xuất gia trường kỳ, thường
có cảm giác như sau: “Ngay cả
nhà mà ta c̣n bỏ, há c̣n có ǵ để luyến tiếc nữa?” Nhưng quư vị
lắng ḷng tư duy, hễ gặp các thuận duyên, các nhân duyên khiến
cho quư vị hoan hỷ, dễ đắm nhiễm mà có thể
quan sát, chẳng dễ dăi mang theo các chủng tử ấy,
đối với các chủng tử từ vô thỉ đến
nay và các chủng tử từ ư thức
hiện duyên trong hiện tại, nếu chúng ta chẳng
sợ hăi, “nhất xả dĩ hậu, bất trùng duyên,
duy đương nhiếp niệm tư chư Phật”
(hễ đă xả rồi, chẳng duyên
(nghĩ tưởng) chuyện ấy
nữa, chỉ nên thâu nhiếp ư niệm, nghĩ tới chư
Phật), th́ sẽ là mười phần có ư nghĩa.
“Thường hành đại thí bất cầu
báo, diệc vô trụ
trước hối hận tâm” (thường
bố thí to lớn mà chẳng cần được báo đáp,
cũng chẳng chấp giữ cái tâm hối hận). Đấy
thật sự là thiện căn cực lớn, là phước
báo cực lớn đă chín muồi, là phước
báo cực phong phú, là tâm trí đầy đủ tột bậc.
Nói tới “đại thí” mà chẳng cầu được
báo đáp chính là đại thí. Nếu đem những thứ
trân quư, đáng yêu mến ra bố thí cho các hữu t́nh nghèo
khổ, thiếu thốn, cúng dường Tam Bảo ḥng lợi
ích thế gian rộng khắp, cho đến cứu tế
những chỗ bị tai nạn, chẳng có tâm mong được
đền đáp, mà cũng chẳng có tâm hối hận, người
ấy phước đức trọn đủ, giống
như người thể lực sung măn, chẳng v́ làm chút
việc nặng mà bị mệt mỏi, bèn nẩy sanh tâm lư hối hận,
sợ hăi. Đó chính là tướng phước đức
tràn trề.
“Nhất xả dĩ hậu, bất trùng
duyên” (hễ đă xả rồi, chẳng duyên theo chuyện ấy nữa),
“xả” ở đây là bố thí. Chúng ta có thể bố
thí các vật hết sức nhiều. Có khi bèn bố thí cho người khác một
pháp tắc, một niệm từ bi, so với bố thí tài
vật càng khó hơn, v́ tài sản vẫn là vật ngoài thân.
Đối với chuyện này, tôi lănh hội mười
phần sâu đậm! Có lúc sanh mạng gặp khó khăn
chồng chất, đạt được chút ít tương
tự pháp ích, khi đó, nếu nói với người khác, sẽ
càng có ư tưởng tiếc pháp, từ vô thức mà có ư niệm
ấy, thường mượn cớ “chẳng dễ dăi
chấp thuận nói cho người khác, kẻ đó chẳng
biết trân quư”, chẳng mong nói với người khác. Keo
tiếc tài vật, có thể là trong tâm trí của người
đời, nhưng cái tâm keo tiếc pháp của người
học Phật cũng hết sức dễ dàng xuất hiện!
Chẳng hạn như đối với từ bi mà keo tiếc
pháp, tức là dùng cái tâm từ bi để lợi lạc người
khác, chiếu cố hữu t́nh. Lại như
dùng tâm trí huệ để hồi thí hữu t́nh, dùng tâm vô úy
để hồi thí hữu t́nh, quư vị chẳng muốn
hồi thí, đó cũng là chẳng bố thí pháp! Như thế th́ sẽ h́nh thành
chướng ngại đối với pháp. Rất nhiều
hữu t́nh bị chướng ngại rất lớn đối
với pháp v́ chẳng
biết trợ hỷ, chẳng tùy hỷ, thường phá
hoại nhân duyên tốt lành của người khác, chẳng
thành thục người khác, chẳng tăng thượng
người khác. Người như vậy mà muốn hành
pháp, sẽ gặp nhiều chướng ngại nơi đạo
nghiệp.
Bố thí pháp, nhất là trong đạo tràng,
sự tu tŕ này đối với chúng ta rất trọng yếu.
V́ trong đạo tràng, vận dụng tài bố thí sẽ
chẳng được mười phần rộng khắp,
nhưng vận
dụng bố thí trí huệ, bố thí từ bi, bố
thí vô úy, sẽ là hết
sức thường xuyên. Nhưng ở nơi đó, bại
hoại hoặc đánh mất cơ hội cũng hết
sức nhiều. Chẳng hạn như đối với
người đắm nhiễm, phải nên bố thí trí huệ.
Đối với ác tánh hữu t́nh, phải nên bố thí từ
bi. Đối với
hữu t́nh ghen tỵ, phải nên bố thí tùy hỷ. Đối
với hữu t́nh chẳng khỏe mạnh, tà kiến, hăy
nên bố thí chánh kiến. Chúng ta có thể quan sát chuyện
này!
Bố thí, đích xác là chẳng nên cầu được
báo đền, mà cũng chẳng có người có thể báo
đền. V́ bản thân của bố
thí là lợi ích, là pháp
tu, là thành tựu, không có ǵ để có thể báo đền.
Chúng ta tu hành trong đạo tràng như thế đó, cơ
hội thành tựu đạo nghiệp cũng khác với
lúc ở nhà, khác với hoàn cảnh thế tục. Chư vị
thiện tri thức ơi! Tôi khao khát mọi người hăy
như pháp bố thí pháp tắc trí huệ, từ bi, phương
tiện, chánh kiến mà chúng ta đă học được,
khiến cho hữu t́nh chẳng khỏe mạnh, kể cả thân tâm
chẳng khỏe mạnh của chính ḿnh đều được
kịp thời điều chỉnh. Như thế th́ chúng
ta sẽ khiến cho đạo tràng dần dần hoàn thiện,
khiến cho đạo nghiệp của chính ḿnh dần dần
thuần thục. Chúng ta hăy khéo tư duy, khéo quan sát!
(Kinh) Lân mẫn chúng sanh hành thí thời, quyết
định trừ nghi vô biến thoái, an trụ điều
nhu nhi tu thí, nhược năng như thị, đắc tam-muội.
(經)憐愍衆生行施時。決定除疑無變退。安住調柔而修施。若能如是得三昧。
(Kinh: Khi
thương xót chúng sanh bố thí, quyết định trừ
nghi, chẳng lui sụt, an trụ điều nhu mà bố
thí. Được như thế, sẽ đắc tam-muội).
Nếu khéo dùng năm đức để khuyên
can người khác ḥng lợi ích hữu t́nh trong thế
gian, đắc tam-muội cũng chẳng phải là chuyện
khó. Quán Thế Âm Bồ Tát có một danh hiệu là Thí Vô Úy
Giả (đấng ban cho sự không sợ hăi). Thật ra,
chư Phật Thế Tôn đă thọ kư rơ ràng cho hết thảy
các vị Bồ Tát Ma Ha Tát, nói hết thảy các vị Bồ
Tát Ma Ha Tát khéo trụ trong thế gian, khéo lợi ích thế
gian, làm người ban cho thế gian sự an ủi lớn.
V́ sao? Chính là đấng thí vô úy, là đấng tài bố thí
và pháp bố thí rộng lớn. Vô úy thí là sự bố thí
quan trọng nhất, v́ sự bố thí ấy có thể đoạn
trừ sự mê hoặc của con người đối
với pháp, đối với sự xuất ly sanh tử, cũng
như nỗi khổ sợ hăi luân hồi trong thế gian, có thể khiến cho chúng
ta hiểu rơ pháp, hiểu thấu suốt cách chọn lựa.
Nếu quư vị chẳng hiểu rơ, chẳng thấy thấu
suốt để chọn lựa, sẽ rất khó an ủi
kẻ khác. Nếu có chánh tri kiến và pháp tắc thiện
xảo, sẽ có thể khiến cho chúng sanh gột sạch
nghi hoặc, khiến cho tâm trí của
họ chẳng nhiễm, mất đi nỗi sợ hăi. Như
thế th́ quư vị cũng sẽ đạt được
danh hiệu Thí Vô Úy của Quán Thế Âm, cũng là danh hiệu
từ bi. V́ nói “khéo quán âm thanh của thế gian” tức
là khéo quan sát âm thanh khổ sở, nhọc nhằn, âm thanh mê
hoặc của thế gian, để ban cho chúng sanh sự
không sợ hăi.
Đối với người học Phật
chúng ta, nhất là nói theo người niệm Phật, đây
là sự tu tŕ mười phần trọng yếu, như
trong Hồi Hướng Môn thuộc năm môn tu tŕ trong Văng
Sanh Luận đă có nói: “Bất xả nhất thiết
khổ năo chúng sanh, tâm thường tác nguyện hồi
hướng vi thủ, đắc thành tựu đại bi
tâm cố” (Chẳng xả hết thảy chúng sanh khổ
năo, tâm thường phát nguyện hồi hướng làm đầu,
v́ để thành tựu tâm đại bi). Hồi hướng
ǵ vậy? Muốn khiến cho hết thảy chúng sanh văng
sanh quốc độ của A Di Đà Phật, chẳng sợ
hăi! V́ sao? Do nương vào nguyện lực của Phật,
liền nhập Chánh Định Tụ. Do Phật lực
trụ tŕ, khiến cho hữu t́nh bất thoái. Phật lực
hiển hiện ở nơi đâu? Khi chúng sanh tùy thuận
liền được thành tựu. Đối với một
niệm tùy thuận này, một niệm sợ hăi, kẻ sợ
hăi liền hiện nghiệp
phàm phu. Kẻ tùy thuận liền hiện Chánh Định Tụ,
tức là chư Phật nghiệp. Quư vị chẳng ngừng
tư duy như thế, quan sát như thế, tư duy như
pháp, quan sát như pháp, thân tâm sẽ an lạc, ban cho chúng
sanh sự chọn lựa vô úy. Không chỉ thí vô úy, mà c̣n để
cho đối phương chọn lựa. V́ sao phải chọn
lựa? Khiến cho họ như thật an trụ, chẳng
có thoái chuyển.
Do vậy, trong học pháp, nhất là trong ba tiến
tŕnh học pháp của người xuất gia, tức giảng
kinh là pháp thứ nhất, biện luận kinh là pháp thứ
hai, trước tác là pháp thứ ba. Đương nhiên là đối
với bậc tại gia thiện xảo A Xà Lê, cũng ắt
phải tu ba pháp ấy. Trong ấy, giảng kinh thật sự
chẳng phải là thuyết giảng, mà là như thật
hiểu biết tự tâm, như thật biết tâm của
người khác, như thật biết Phật tâm. Khi “tâm,
Phật, chúng sanh chẳng khác biệt” bèn khẳng định
tự tâm. Đó bất quá là khởi đầu của cái
gọi là “biện
luận kinh thiện xảo” và “giảng
kinh”. Sau đấy,
quư vị có thể trước tác. Trước tác ǵ vậy?
Trước tác về giáo ngôn chân chánh, khiến cho người
trong thế gian có cái để nương theo. Đấy
là lộ tŕnh ắt phải theo đuổi trong một đời
của hết thảy các vị thiện tri thức trong quá
khứ muốn đạt được thành tựu. Đương
nhiên đấy chính là cái được gọi là “sự
tuyên nói nghĩa lư theo thứ tự trong đạo”. Trong
quá tŕnh tu pháp, chúng ta cũng phải nên làm như thế. Trong
lúc b́nh thời, chẳng đánh mất mỗi hiện duyên
“bố thí sự an ủi cho chúng sanh”, tức là bố
thí pháp giáo, ban trí huệ cho kẻ ngu si, ban từ bi cho người
sân hận điên đảo, ban chánh kiến cho người
tà kiến, khiến cho kẻ lạc lối biết được
đường nẻo. Do vậy, “an trụ điều
nhu nhi hành thí, nhược năng như thị, đắc
tam-muội” (an trụ trong điều phục, nhu thuận
để bố thí. Nếu có thể làm như thế, sẽ
đắc tam-muội), điều này rất trọng yếu!
(Kinh) Nhược ư tài thí vi đại
chủ, vô hữu kiêu mạn, tật đố tâm, hành nhất
thiết thí thường dũng dược. Nhược năng
như thị, đắc tam-muội.
(經)若於財施爲大主。無有憍慢嫉妒心。行一切施常踊躍。若能如是得三昧。
(Kinh: Nếu rộng bố thí nơi
tài vật, chẳng sanh tâm kiêu mạn, ghét ganh, hớn hở
thường hành hết thảy thí. Được như
thế, sẽ đắc tam-muội).
Tâm chẳng vướng mắc. Do chẳng
vướng mắc, rộng thí hết thảy pháp tắc,
cho đến thí rộng khắp hết thảy các thứ
tài thí, pháp thí, vô úy, khiến cho chúng sanh an lạc, khiến
cho kẻ hữu duyên có thể trụ trong an lạc. Học
tập Phật pháp, đích xác là phải nên khéo điều
phục cái tâm con người, khéo đối trị các bệnh
tật như thế đó.
Trong thời đại này, nếu chúng ta chẳng
nhờ vào một pháp tắc rơ ràng, ḿnh lẫn người
sẽ đều bị mê mất, cho đến vốn muốn
chữa trị, kết quả đâm ra là mắc hại, v́
dùng sai thuốc! Gặp phải bác sĩ tham tiền, đúng
là khiến cho kẻ khác chết oan! Do vậy, nếu một
pháp tắc có giáo pháp lưu truyền rộng răi, có kinh
điển để nương theo, mọi người có
thể cùng xét kỹ, cùng tu tập, độ trong suốt[2] như thế sẽ rất
lớn. Như pháp môn Niệm Phật trong hiện thời,
hay hành pháp Ban Châu do có kinh điển, được truyền
bá từ thế hệ này sang thế hệ khác trải các đời,
cho nên đối với pháp này, mọi người chẳng
sợ hăi mà tu tập. Chẳng cần phải bàn bạc chi
khác, cứ một mực thực hành như thế. Nhưng
nếu trong một pháp tắc
có khá nhiều tạp duyên, có rất nhiều đặc tánh
mọi người chẳng thể cùng biết, quả thật sẽ
rất khó thấy thấu suốt, rất khó tư duy, rất
khó cùng nhau tu tập, cùng nhau quán chiếu. V́ thế, tôi cảm
thấy người thật sự gặp gỡ Tịnh
Độ, chọn lựa pháp Tịnh Độ, chính là mười
phần phước báo. Đối với pháp tắc này là
pháp đă được mọi người xem xét, tu tập,
hiểu thấu từ xưa đến nay, lại có các hữu
t́nh ngược ngạo cho là pháp tầm thường, nhạt
nhẽo vô vị, chẳng yêu thích, chẳng thâm nhập, chẳng
tu tập, chẳng thấy là lạ lùng. Thật ra, chỗ
chẳng lạ lùng, chỗ b́nh phàm, chính là chỗ công đức
đặc biệt, ưu việt, chẳng thể nghĩ bàn!
Vẫn mong mọi người hăy suy nghĩ chỗ này!
(Kinh) Hựu ư pháp thí vi thượng
thủ, thiện giải vi diệu Tu Đa La. Năng tri thậm
thâm tịch diệt pháp. Nhược năng như thị,
đắc tam-muội.
(經)又於法施爲上首。善解微妙修多羅。能知甚深寂滅法。若能如是得三昧。
(Kinh: Lại
với pháp thí, làm thượng thủ, khéo hiểu Tu Đa
La vi diệu. Hay biết pháp tịch diệt rất sâu. Được
như thế, sẽ đắc tam-muội).
Chư vị thiện tri thức ơi! Trong
Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm, có nói pháp
cúng dường là sự cúng dường tối thượng,
hết thảy các cúng dường chẳng thể sánh bằng.
Đích xác là trong hết thảy các sự bố thí, pháp thí
trực tiếp nhất, rốt ráo nhất, thiện xảo
nhất; các sự bố thí khác là kết duyên, phương
tiện, tăng thượng mà thôi. Đương nhiên, trong
các pháp, nếu vô duyên, sẽ chẳng thể trao đổi,
nhưng nếu chẳng có pháp thí, mọi
người sẽ chẳng thể đạt được giải
thoát, chẳng thể đạt được lợi ích
chân thật.
(Kinh) An trụ thậm thâm chư pháp
trung, thiện năng kham nhẫn, vô tật đố, tuy bị
qua mạ vô năo hận, nhược năng như thị, đắc
tam-muội.
(經)安住甚深諸法中。善能堪忍無嫉妒。雖被撾罵無惱恨。若能如是得三昧。
(Kinh: An trụ trong các pháp rất sâu,
khéo hay kham nhẫn, chẳng ghen tỵ. Tuy bị đánh chửi,
chẳng bực hận. Được như thế, sẽ
đắc tam-muội).
“Thiện năng kham nhẫn, vô tật đố”
(khéo có thể kham nhẫn, chẳng ghen tỵ): V́ sao chỗ
nào cũng đều ghen tỵ? V́ hữu t́nh trong đời
Mạt Pháp tranh căi quá nhiều, người tùy hỷ quá ít.
Nhất là đối với những thứ ḿnh yêu thích, tự
ḿnh cho là đúng, sẽ dễ nẩy sanh ghen tỵ. Nếu
chúng ta khéo quan sát động niệm và thói quen trong tâm linh,
sẽ có thể diệt trừ sự chấp trước
đối với nghiệp hư giả của chính ḿnh từ
vô thỉ đến nay, sẽ chẳng lầm tưởng
nghiệp tập là tự ngă. Chúng ta thường coi nghiệp
tập phiền năo là ngă, nắm chặt chẳng buông. Có kẻ
ngỡ tội nghiệp là ngă, chẳng hạn như trót tạo
một lỗi lầm, bèn nghĩ hễ
người khác nói đến lỗi lầm đó sẽ
là nói động đến ta! Nắm chặt khư khư,
nói: “Nếu mày nói động
đến tao, tao sẽ liều mạng với mày”. Thật
ra, tội ác chẳng phải là quư vị, nó chẳng thuộc
về quư vị, nó vốn chẳng có tự tánh. Nghiệp
tập của chúng ta cũng giống như thế. Tên gọi
của chúng ta cũng giống như thế. Chẳng hạn
như các danh tự Trương Tam, Lư Tứ cũng là vô tự
tánh; nhưng thường là nếu có ai réo cái
tên ấy để mắng chửi, khi đó, cái tên ấy
sẽ có tự tánh ngay! Chúng ta sẽ gắn chặt nó vào
thân, buộc chặt vào ḿnh, canh cánh trong
ḷng, in hằn vào óc. Sau đó, nó trở
thành một nghiệp tướng. Vậy là chúng ta chẳng
biết “pháp chẳng
có tự tánh”. Quả
thật, chớ nên như thế, nhất là cứ ôm chặt
nghiệp tập và lỗi lầm chẳng buông, cho nó là chính ḿnh, đó
là lúc khổ nhất của chúng ta.
“Tuy bị qua mạ, vô hận năo” (dẫu
bị đánh chửi, chẳng sân hận, bực bội): Bị người
khác chửi bới, thương tổn, chẳng hối hận
hay tức giận. Tu tŕ trong nghịch duyên là chân thật nhất.
Trong thời Mạt Pháp, nghịch duyên hừng hực, thuận
duyên hiếm hoi! Có người nói kẻ nào đó “vẻ mặt
lầm ĺ khó ưa”; thật ra, mọi người đừng
mong vẻ mặt người khác luôn dễ coi. Có đôi
khi trong tâm người ấy quá căng thẳng, hoặc là
chẳng biết chính ḿnh đang quá căng thẳng. Chúng ta cười
x̣a là xong, thật sự chớ nên so đo khuyết điểm.
Chớ nên coi lỗi lầm thành ta, chớ nên coi danh tự
thành ta, chớ nên coi nghiệp tập thành ta. Các thiện
tri thức vốn vô ngă, sao lại kiến lập cái Ngă? Nhất
định phải tự hỏi chính ḿnh, thiện ngă c̣n
chẳng thể được, sao lại có thể cưỡng
chấp ác ngă? Chúng ta phải nên chọn lựa!
(Kinh) Hoặc thời văn thuyết thử
kinh điển, thư tả, độc tụng, xảo
quảng tuyên, duy vị pháp trụ lợi thế gian. Nhược
năng như thị, đắc tam-muội. Ư chư
pháp trung, bất bí lận, bất cầu lợi dưỡng
cập danh văn, đản vị thiệu long chư Phật
chủng, nhược năng như thị chứng tam-muội.
(經)或時聞說此經典。書寫讀誦巧廣宣。唯爲法住利世間。若能如是得三昧。於諸法中不祕吝。不求利養及名聞。但爲紹隆諸佛種。若能如是證三昧。
(Kinh: Có lúc nghe nói kinh điển này,
biên chép, đọc tụng, khéo rộng nói, chỉ v́ pháp trụ
lợi thế gian. Được như thế, sẽ đắc
tam-muội. Chẳng keo tiếc, giấu giếm các pháp, chẳng
cầu lợi dưỡng và tiếng tăm, chỉ v́ rạng
truyền gịng giống Phật.
Được như thế, sẽ chứng tam-muội).
“Ư chư pháp trung bất bí lận”
(chẳng keo tiếc, giấu giếm các pháp): Chẳng keo
tiếc pháp quả thật mười phần khó khăn!
Nếu mọi người nương theo pháp để cư
xử, nương theo pháp để giao tiếp, nương
theo pháp để bố thí, nương theo pháp để
chung sống, chưa nói đến một bầu ḥa khí, tối
thiểu là sẽ có không khí vui sướng, rạng rỡ,
có trạng thái tăng thượng đạo đức,
có trạng thái dần dần khỏe mạnh, chẳng xuất
hiện tướng trạng chệch choạc, chẳng xuất
hiện tướng trạng khô héo. Đấy là lẽ tất
nhiên. V́ trao ra chút phần pháp, sẽ khiến cho người
khác được an lạc, chẳng cần nói tới pháp
thí rộng lớn. Khi chúng ta thí pháp cho người khác, chính
ḿnh đă đạt được pháp vị trước.
Chẳng hạn như rất nhiều người buồn
bă, kêu ca trong nhà có người bệnh. Tôi nói: “Như thế
th́ tốt quá!” Cớ sao nói như vậy? V́ đấy chính
là cơ hội cho quư vị tu pháp, cơ hội niệm Phật,
cơ hội vun bồi cái tâm từ bi. V́ khi thấy những
người khác [chẳng phải là người thân của
chính ḿnh] mắc bệnh, gặp nạn, quư vị chẳng
quan tâm cho lắm! Nếu quư vị nói chính ḿnh quan tâm, vậy
th́ trong thiên hạ hằng ngày đều có người nhiễm
bệnh, tử vong, hằng ngày đều có người
đau khổ khó thể chịu đựng, sao quư vị chẳng
niệm Phật, sao chẳng niệm Pháp, sao chẳng niệm
Tăng hồi thí cho họ? Sủng vật (thú cưng, pet) trong nhà của
chúng ta chết, ta sẽ khóc ṛng; ông bà của kẻ khác chết,
ta đều chẳng bận tâm, v́ sao? [Ta chỉ buồn bă,
đau ḷng khi người hay vật mất đi] có quan hệ
với chính ḿnh. V́ thế, chúng ta học Phật, cũng đích
xác là [pháp môn muốn tu học ấy] phải có quan hệ
với chính ḿnh, có duyên thân thiết. Chẳng có duyên, sẽ
không được. Ở đây vẫn là phải như
thật quan sát. Hiện thời, chúng ta nghe nói kinh điển
như thế, cho đến biên chép, đọc tụng, những
điều ấy đều là kết duyên, đều là một
duyên khởi để tu tập pháp tắc. Mọi người
phải khéo quan sát ở chỗ này, chẳng cần để
ư ai khác. Đối với cái gọi là “nhân duyên” của
chính ḿnh, chỉ nên thủ hộ pháp tắc. “Đản
vị thiệu long chư Phật chủng” (chỉ v́ tiếp
nối hưng thịnh chủng tánh chư Phật), tức
là khiến cho chánh pháp trụ thế, lưu truyền rộng
răi trong thế gian.
(Kinh) Viễn ly thùy miên dữ suy năo, trừ
đoạn tật đố cập Cái Triền.
Bất tự xưng tán, khinh hủy
tha, năng diệt ngă tướng, đắc tam-muội.
(經)遠離睡眠與衰惱。除斷嫉妒及蓋纏。不自稱讚輕毀他。能滅我相得三昧。
(Kinh: Xa ĺa
ngủ nghê và suy năo, trừ dứt ghen tỵ và Cái Triền. Chẳng
tự khen, khinh hủy kẻ khác. Diệt được
ngă tướng, đắc tam-muội).
“Viễn ly thùy miên dữ suy năo” (xa ĺa ngủ
nghê và suy năo): Nếu ai có tâm trí cầu pháp chẳng mỏi
mệt, thuyết pháp chẳng chán, tu pháp thường tinh tấn,
sẽ chẳng có tướng suy năo. Có khi chúng ta chẳng
nhắc đến chữ Mệt th́ c̣n được, vẫn
quên bẵng duyên do. Hễ nhắc tới th́ duyên
liền đưa đến, ngay lập tức mệt liền!
Cái duyên đưa đến rốt cuộc là ǵ vậy? Giống
như nắm lấy ḥn sắt nóng sẽ bị phỏng
tay, duyên như thế đó! Đối với điều
này, quư vị phải nên tin tưởng. Trong tâm trí phàm phu liền
có yêu đắm, hễ tiếp xúc liền đạt được,
tức là có thể cảm nhận được.
“Trừ đoạn tật đố cập
Cái Triền” (trừ
dứt ghen tỵ và Cái Triền): Lại
nhắc tới ghen tỵ. Ghen tỵ rất nguy hại cho thiện
căn của chúng ta, tạo thành quá nhiều chướng
ngại cho chúng ta. Đây là cái ải khó qua nhất đối
với người trong thời Mạt Pháp. Háo thắng là
do cái tâm ghen tỵ đem lại, tranh đấu do cái tâm
ghen tỵ đem lại, quá khổ!
Trong tâm của phàm phu thời Mạt Pháp, chủng tử
ghen tỵ khá lớn, khá chín muồi. Nếu đó là mầm
tiêu hạt lép th́ c̣n được, nhưng chủng tử
quá chín muồi, sẽ
đặc biệt dễ nẩy mầm!
“Bất tự xưng tán, khinh hủy tha, năng diệt ngă tướng, đắc tam-muội” (Chẳng
tự khen ḿnh, khinh hủy người khác. Có thể diệt
ngă tướng, sẽ đắc tam-muội): Những điều đó là bệnh
tướng trong thời đại này. Nếu bệnh ấy
đă trừ, sẽ liền khỏe mạnh, sẽ có oai đức
thiện xảo, sẽ có thể lợi ích thế gian. Khi
tôi xuất gia, trong toàn thể nghiệp tướng, có một
khoảng thời gian ba bốn năm, tôi cảm thấy lỗi
lầm “tự khen ḿnh, chê người” là lỗi lầm
tôi thường phạm, thường phải sám hối. Rất
nhiều khi là vô ư thức, khi nghĩ lại mới biết
là tự khen ḿnh, chê người. Nghiệp tập ở
ngay chỗ đó, thường là ngay khi đó liền buột
miệng nói ra. Lúc đó, vẫn cảm
thấy rất có bi trí, nhưng lắng ḷng suy xét, chủng
tử đă gieo ra vẫn là các thứ “tự khen ḿnh, chê
người”. Nếu chẳng kịp thời sám hối,
sẽ tăng thêm cái nghiệp tiếp nối. Các vị Bồ
Tát ơi! Cái nghiệp tiếp nối ấy phiền phức
nhất; đó chính là chấp giữ cái Ngă. Chúng ta do chẳng
có ư thức bèn tạo tác
nghiệp ấy, cái nghiệp tiếp nối. “Vô ư thức” chính là
vô minh, đó là Cái, là Triền. Đối với điều
này, chỉ có người có tâm tư tỉ mỉ, người
thuần thục pháp th́ mới có thể khéo quan sát, thủ
hộ, nhưng người học Phật chúng ta đều
phải nên quan sát cẩn thận, sâu xa. Về sau, tôi không
ngừng quan sát nghiệp tập “tự khen ḿnh, chê người”
của chính ḿnh, biết là do trong nghiệp tướng quá
khứ của chính ḿnh, khi thường tự cho là đúng,
tự cho rằng chính ḿnh có thiện căn, có tinh tấn,
có hành pháp, có pháp tắc, sẽ dẫn tới nghiệp chủng
tăm tối, vô ư thức “tự khen ḿnh, chê người”.
Ai có thể đoạn trừ? Chỉ có tự ḿnh có thể
quan sát, biết rơ. Thiện tri thức cũng có thể chỉ
ra cho quư vị, giúp quư vị trừ bỏ lỗi lầm này.
Trong thời đại của chúng ta, những kẻ đồng
bệnh với tôi đặc biệt nhiều! Chúng ta đều
nên xét kỹ chính ḿnh, v́ “tự khen ḿnh, chê người”
quá vi tế, hễ chẳng nhận biết sẽ phạm
ngay. Nhưng cái nghiệp tiếp nối này mười phần
bất hảo, nhất là trong Bồ Tát giới, sẽ là phạm trọng giới,
phạm căn bản giới, nhưng chúng ta thường
vô ư thức vi phạm. Lỗi lầm của kẻ khác quá rơ
ràng, xác thực, cứ thuận miệng nói ra sẽ mang tánh
cách chỉ trích, có tánh cách gây thương tổn, biểu lộ
ưu điểm của chính ḿnh, đánh mất tâm từ
bi và tâm trí huệ,
tạo áp lực cho kẻ khác, chẳng phải là các thứ
đem lại an lạc và vui sướng cho kẻ khác. Chẳng
trừ căn bệnh ấy, nghiệp cứ tiếp nối,
sẽ nguy hại cho thân tâm an khang, sẽ giống như tiếp
tục bị bệnh vậy.
(Kinh) Chánh tín chư Phật, cập Pháp,
Tăng, thường hành thành tâm vô khi cuống, bất vong
nhất thiết chư ân báo, bỉ chứng tam-muội vô
gian nan.
(經)正信諸佛及法僧。常行誠心無欺誑。不忘一切諸恩報。彼證三昧無艱難。
(Kinh: Chánh
tín chư Phật và Pháp, Tăng, thường hành thành tâm,
chẳng lừa dối, chẳng quên báo hết thảy các ân,
sẽ chứng tam-muội chẳng khó khăn).
“Thường hành thành tâm vô khi cuống”
(thường giữ cái tâm chân thành, chẳng lừa dối):
“Thành tâm” quyết định đến từ sự
tôn trọng ḿnh, tôn trọng người khác. Chúng ta tự
tôn trọng ḿnh bằng cách nào? Như thật biết tự
tâm, có thể biết thanh tịnh trong tâm duyên. V́ thế, chẳng
đắm nhiễm, đó là một niệm tối sơ
trong tâm chân thành. Khi đó, dùng bi và trí để quán thế
gian, có thể vận dụng thành tâm. Nếu không, hễ có
cái tâm ô nhiễm, phân biệt, làm sao có thể xưng là “thành tâm” cho được?
“Bất vong nhất thiết chư ân báo”
(chẳng quên báo đáp hết thảy các ân): Chẳng quên hết
thảy các ân. Đối với ân nhỏ nhoi như giọt
nước, báo đáp tràn trề như suối trào. Báo ân như
thế nào? Khi chúng ta tạo ân đức cho người khác,
chớ nên nghĩ đến chuyện được báo đáp.
Khi người khác ban ân đức cho chúng ta, đừng nên
quên báo đền. Đó là một pháp tắc. Nếu chính ḿnh
dốc sức thực hiện, lại
cầu được báo đền, đó là kinh doanh, là buôn
bán. Đó gọi là tu tŕ nhằm cầu danh văn lợi dưỡng
từ việc mua bán gia nghiệp của Như Lai, chẳng
có ư nghĩa chi hết! Nhưng nếu chúng ta chẳng biết
ân, chẳng báo ân, sẽ đánh mất lợi ích rộng lớn
do tu chứng và tâm trí chân thành lợi ích thế gian, hoặc
là sự tu tŕ cái tâm cung kính.
(Kinh) Nhược năng chân thuyết vô
vọng ngôn, phàm hữu sở hành diệc bất thất.
(經)若能真說無妄言。凡有所行亦不失。
(Kinh: Nếu
hay nói thật, chẳng nói dối, tất cả hành vi chẳng
sai trái).
Nếu ăn nói mà chẳng tương ứng
với hành vi và tâm địa của
chính ḿnh, hăy nên sám hối. Sám hối là chuyện bọn phàm
phu hữu t́nh trong thời Mạt Pháp như chúng ta phải
nên làm, phải nên thực hiện. Đó là một pháp tắc
mười phần trọng yếu. Sám hối thay cho người
khác cũng thế, tự sám hối cũng thế, [sám hối]
thay cho pháp giới hữu
t́nh cũng thế, sám hối cho cha mẹ, sư trưởng
cũng thế. Đó là sự khỏe mạnh mười
phần có ư nghĩa, là tâm lư thanh tịnh, là chuỗi anh lạc
được kết bởi các pháp, là trang nghiêm Phật
Đà, là chuyện được hết thảy chư Phật,
Bồ Tát tán thán, hứa khả, và thủ hộ. Mọi người
hăy nên kiểm điểm, ngăn che cho nhau, khiến cho người
phạm lỗi được sám hối sạch làu!
(Kinh) Sở tác tuy vi, hoạch báo quảng.
Bỉ ư chứng pháp vô chướng ngại.
(經)所作雖微獲報廣。彼於證法無障礙。
(Kinh: Việc
làm tuy nhỏ, được báo rộng. Người ấy
chứng pháp chẳng chướng ngại).
Nương vào các pháp tắc trên đây, tuy thực
hiện ít phần, nhưng đều có lợi ích chẳng
thể nghĩ bàn, v́ đă hành đúng pháp.
(Kinh) Nhược nhân hữu năng cụ
tư pháp, thanh tịnh tŕ giới chư hữu ân, bỉ đắc
Bồ Đề thượng bất nan, hà huống thậm
thâm vi diệu Định.
(經)若人有能具斯法。清淨持戒諸有恩。彼得菩提尚不難。何況甚深微妙定。
(Kinh: Nếu
ai trọn đủ các pháp ấy, tŕ giới thanh tịnh,
ân mọi loài, sẽ chứng Bồ Đề c̣n chẳng
khó, huống hồ Định vi diệu rất sâu).
.
Thành tựu Vô Thượng Bồ Đề
c̣n chẳng khó, huống hồ đạt được Định
vi diệu rất sâu! Các vị thiện tri thức ơi! Đừng
cho là Phật pháp xa vời, hăy chánh hành Phật pháp!
15. Phẩm thứ
mười một: Thọ Kư
Chúng ta có một cơ duyên thù thắng như
vậy, có thể cùng nhau học tập kinh Ban Châu Tam Muội,
đúng là một cơ chế tốt đẹp rất khó
có do thiện căn và cộng nghiệp cùng chín muồi! Chúng
ta học hoàn chỉnh kinh này một lượt, tiếp đó
bèn học tập và tu tập, sẽ mười phần thuận tiện. Sau đó,
đọc tụng, sẽ có càng nhiều sự tham chiếu
và chiết xạ tâm lư[3]. V́ đối với
sự nhận biết kinh điển, nếu một người
đọc tụng hoặc lư giải nó, sự hiểu biết
[của người ấy] có tánh chất hạn cuộc nhất
định; nhưng mọi người cùng nhau học tập,
sẽ thường có thể trừ khử sự hạn
cuộc ấy, khiến cho chúng ta từ trong vô lượng
nghĩa, chọn lựa các lời lẽ có ư nghĩa, tâm trí
có ư nghĩa, và phân lượng có ư nghĩa đối với chính ḿnh
để ấn chứng tự tâm, ḥng hoàn thành công đức
tự lợi và lợi tha, xuất ly phiền năo, xuất
ly sanh tử.
(Kinh) Đại Phương Đẳng
Đại Tập Hiền Hộ Phần, Thọ Kư, phẩm
đệ thập
nhất.
(經)大方等大集賢護分授記品第十一。
(Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng
Đại Tập, Hiền Hộ Phần, phẩm thứ
mười một: Thọ Kư).
Thọ kư rất trọng yếu. Pháp giáo do
chư Phật Như Lai truyền lại được
truyền thừa từ đời này sang đời khác. Tuy
chẳng giống các vị tổ sư xưng là “vị
tổ đời thứ mấy”, nhưng trong Hiền
Kiếp, một ngàn vị Phật theo thứ tự xuất
thế, Phật này thọ kư cho Phật kia, chẳng gián đoạn.
Quá khứ kiếp, vị lai kiếp cũng giống như
thế. V́ sao chư Phật Thế Tôn thọ kư thanh tịnh?
Muốn khiến cho hết thảy chúng sanh chẳng có kiến
giải điên đảo đối với Vô Thượng
Bồ Đề, sanh khởi sự nhận biết rơ ràng,
chọn lựa dứt khoát, hoàn thiện đối với
pháp tắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Tức là nhận biết mười hiệu trọn đủ,
như Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn tám tướng thành đạo,
tùy cơ thị hiện, cho nên có dấu vết để
có thể t́m, có mười tám pháp bất cộng có thể
thấy, có thể vận
dụng, có thể biết, có Thập
Lực, Tứ Vô Úy, thiện
xảo lợi ích rộng khắp thế gian. Như thế
th́ sẽ khiến cho hữu t́nh trong thế gian chẳng bị
mê hoặc bởi những kẻ xằng bậy xưng là Phật!
Nhưng trong thời Mạt Pháp, những kẻ xằng bậy
xưng là Phật chỗ nào cũng đều có, thậm
chí có kẻ [tự vỗ ngực] “vượt xa Phật”
cũng có luôn. V́ thế, thọ kư mười phần trọng
yếu!
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Hiền
Hộ Bồ Tát ngôn: - Hiền Hộ! Ngă niệm văng tích quá
ư vô lượng A-tăng-kỳ, phục quá vô lượng
A-tăng-kỳ kiếp, sơ ư Nhiên Đăng Phật
Thế Tôn sở, văn thử tam-muội, văn dĩ tức
chứng như tư tam-muội.
(經)爾時世尊。告賢護菩薩言。賢護。我念往昔。過於無量阿僧祇。復過無量阿僧祇劫初於然燈佛世尊所。聞此三昧。聞已即證如斯三昧。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Hiền Hộ
Bồ Tát rằng: - Này Hiền Hộ! Ta nhớ xưa kia
quá vô lượng A-tăng-kỳ, lại qua khỏi vô
lượng A-tăng-kỳ kiếp, thoạt
đầu ở chỗ Nhiên Đăng Phật Thế Tôn nghe
tam-muội này, nghe xong liền chứng tam-muội như thế).
Trong chương Đại Thế Chí Niệm
Phật Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm có nói: Mười
hai vị Như Lai lần lượt xuất thế, vị
Phật cuối cùng dạy ta (Đại Thế Chí Bồ
Tát) Niệm Phật tam-muội. Sau đó, [Đại Thế Chí
Bồ Tát] c̣n nêu ra [tỷ dụ] “như
mẹ nhớ con, mẹ con nhớ nhau”, cho đến
nói “phàm phu nhớ Phật, niệm Phật, tương
lai, hiện tiền nhất định thấy Phật, cách
Phật chẳng xa, chẳng nhờ vào phương tiện,
tự được tâm thông sáng”, cho đến “tam-ma-địa
như thế chính là bậc nhất”. V́ thế, “thấy
Phật, chứng tam-muội” là pháp
tắc được chứng nhập bởi hữu t́nh
có thiện căn đă chín
muồi từ quá khứ. Hiện
tại cũng giống như thế. Tôi gặp một vị
cư sĩ, lúc ông ta vẫn c̣n là cư sĩ, sau khi nghe người
khác niệm Phật, thân tâm [của vị cư sĩ ấy]
rạng ngời, ngày đêm sáu thời tự nhiên niệm Phật,
cũng chẳng nói ta phải niệm Phật hay không, tự
nhiên trong tâm sanh khởi âm thanh thanh tịnh “Nam-mô A Di
Đà Phật” như nước tuôn róc rách. Ông ta tới
hỏi tôi: “Đó là chuyện như thế nào?” Tôi nói: - Đó là tướng
thiện căn của ông đă chín
muồi! Trong quá khứ, ông đă từng là người đích
thân chứng Niệm Phật tam-muội. Tuy đă đánh mất,
nhưng hễ nghe, sẽ liền
đạt được! Đạt được
ǵ vậy? Ông ta chẳng cần niệm, tự nhiên bèn niệm,
mười phần an lạc, vui sướng, thân tâm sảng
khoái, gặp pháp vô ngại. Phiền năo xảy đến, vấn
đề đưa đến, tự nhiên sẽ do niệm
Phật mà tiêu tan các sự tướng ấy. Đó chính là
tướng túc duyên thiện căn chín
muồi. Hoặc là chúng ta đời này niệm Phật rất
khó khăn. “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, có
người niệm rất mệt nhọc, chẳng hiểu
phương pháp cho mấy, nhưng trong khi chưa hiểu ấy
vẫn cứ niệm, dẫu
đời này chẳng liễu sanh tử, nhưng nhân duyên trong
vị lai chẳng thể nghĩ bàn, sẽ liễu
sanh tử, tự đạt được niềm vui. V́ thế,
niệm Phật là thiện nghiệp chẳng thể
nghĩ bàn, là công đức chẳng thể nghĩ bàn!
Ở đây, [đức
Phật] nói đức Thế Tôn trong khi tu nhân, ở chỗ
Nhiên Đăng Phật, nghe tam-muội này liền chứng.
V́ sao chúng ta nghe tam-muội này chẳng chứng? Trong quá khứ,
có người nghe kinh liền chứng Sơ Địa, Bát
Địa. Có các vị tỳ-kheo, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di
b́nh phàm nghe pháp, liền
đắc pháp nhăn tịnh, liền chứng mấy quả
vị. V́ sao chúng ta nghe pháp chẳng đạt được
ǵ? Chẳng phải là đạt được hay không, mà
là tự tâm có nhận
biết hay không? Đă chín muồi hay không?
(Kinh) Kiến chư Như Lai, thường
hiện tại tiền. Tùng thị dĩ lai, kinh ư vô lượng
A-tăng-kỳ chư Thế Tôn sở, giai thọ thị
kinh, tu hành, cúng dường.
(經)見諸如來。常現在前。從是已來。經於無量阿僧祇諸世尊所。皆受是經。修行供養。
(Kinh: Thấy
các Như Lai thường hiện ra trước. Từ đó
trở đi, trải qua nơi vô lượng A-tăng-kỳ
các vị Thế Tôn, đều lănh nhận kinh này, tu hành, cúng
dường).
Đây là Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn đă dùng pháp
tắc do chính Ngài đă hành từ vô thỉ đến nay để
ấn khế cho chúng ta.
(Kinh) Bỉ Phật Thế Tôn thọ ngă
kư viết: “Ma Nạp! Nhữ ư lai thế, đương
đắc tác Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”.
(經)彼佛世尊授我記曰。摩納。汝於來世。當得作佛。號釋迦牟尼如來。應供。等正覺。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。
(Kinh: Vị
Phật Thế Tôn ấy thọ kư cho ta rằng: “Này Ma Nạp!
Trong đời
mai sau, ông sẽ được
thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng
Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”).
Ma Nạp là tên của Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn
trong lúc tu nhân khi Ngài gặp Nhiên Đăng Cổ Phật.
(Kinh) Hiền Hộ! Nhữ bối diệc
đương chuyên tinh nhất tâm, tư duy tu tập như
tư thánh pháp.
(經)賢護。汝輩亦當專精一心。思惟修習如斯聖法。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Các ông cũng
nên chuyên ṛng nhất tâm, tư duy tu tập thánh pháp như thế).
Đây là đức Thế Tôn nhắc nhở
Hiền Hộ Bồ Tát, mà cũng là nhắc nhở chúng
ta. Chúng ta hằng ngày xưng niệm “Nam-mô Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” th́ phải
nương tựa pháp tắc mà Phật
Thích Ca đă hành để
làm căn bản quy hướng, thành tựu,
phỏng theo, tu tập,
đạt thành tựu, chọn lựa làm nơi quy y. V́ thế,
chúng ta gọi đó là giáo ngôn của đức Bổn Sư,
là pháp tắc của đức Bổn Sư.
(Kinh) Phi thị phàm phu sở kiến cảnh
giới.
(經)非是凡夫所見境界。
(Kinh: Chẳng
phải là cảnh giới mà phàm phu trông thấy).
Câu này rất trọng yếu. Nếu chúng ta
chẳng nương theo giáo ngôn của thánh giáo và pháp tắc
để tu tập, sẽ phải tư duy nhiều hơn,
chỉ đành chịu khổ, tốn nhiều tâm tư tu tŕ
mà chẳng thể thành tựu thánh đạo. V́ lẽ nào?
Hết thảy các điều ấy đều chẳng phải
là cảnh giới của phàm phu, tư duy của phàm phu chẳng
thể thấu đạt, chẳng thể tương ứng
được! Có các vị xuất gia và tại gia Bồ
Tát, mười năm hay tám năm rất dụng công, rất
chịu thương chịu khó, nhưng do nương theo
cái tri kiến tiếp nối của chính ḿnh, quư vị nói “chuyển biến
tri kiến rất đơn giản”, nhưng
họ chẳng chuyển, cố chấp ư kiến của chính
ḿnh, chẳng hổ thẹn, kiêu mạn, tự phụ, nhiều
năm chẳng thay đổi, một mực kéo dài. Kéo dài
ǵ vậy? Khổ năo, ngă mạn.
Người trí nương theo sự tùy thuận, ḥa hợp,
điều phục, nhu ḥa, nương theo pháp mà hành, thật
sự là tăng thượng. Gặp pháp liền đạt
được lợi ích tốt lành, v́ sao? Đó là cảnh
giới của hết thảy chư Phật, trọn chẳng
phải là cảnh giới phàm phu hay tư duy phàm phu.
Có nhiều người học Phật, dùng
cách nghĩ của chính ḿnh để dụng công trong Phật
pháp. Trong quá khứ, tất cả các kinh điển mà người
xuất gia đọc đều là được truyền
trao, cũng tức là có người truyền dạy th́ mới
có thể đọc tụng, mới có thể trao đổi
với người khác. Nếu không, sẽ chẳng dám, mà
cũng chẳng có sức, nhưng hiện thời người
xuất gia lẫn kẻ tại gia đọc kinh, phần
nhiều dụng công nơi kinh điển bằng cách dùng đầu
óc của chính ḿnh để “xử lư” tất cả
kinh điển một lượt, cho rằng “ta học khá
lắm”, “ta học đă hiểu rành rồi”. Kẻ như
thế chỉ tăng thêm tri kiến, học cả đống
danh từ và danh tướng, chẳng có mảy may lợi ích
cho chính ḿnh, chỉ tăng thêm cái tâm ngạo mạn. Không chỉ
chẳng được lợi ích nơi Phật pháp, mà c̣n
có thể rất khổ, giống như cơng một đống
thuốc lớn, nhưng đối với căn bệnh
nặng lại trọn chẳng biết dùng vị thuốc
nào để đối trị bệnh tật của chính
ḿnh, chẳng có phương tiện! Dẫu vác một rương
thuốc to đùng, nhưng hằng ngày mắc bệnh nặng,
chẳng thể trị liệu. Đối với chuyện
này, mọi người phải nên chú trọng: “Pháp yếu
phải có người truyền trao”. Điều này mười
phần trọng yếu! Cho đến
thành tựu cũng có người ấn chứng, hứa
khả. Nếu không, mạn tâm của chúng ta khó trừ, Ngă
Chấp khó trừ đấy nhé!
(Kinh) Thậm thâm tịch tĩnh chúng tướng
diệt xứ.
(經)甚深寂靜衆相滅處。
(Kinh: Là
chỗ tịch tĩnh rất sâu, các tướng đều
diệt).
Chúng ta là hữu t́nh chấp tướng, coi
“thiện, ác, đúng, sai” là chân thật. Như thế
th́ sao có thể đạt được an lạc nơi
tịch tĩnh?
(Kinh) Như thị học dĩ, vị
lai tự nhiên thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề vô hữu gian nan, như ngă bất dị.
(經)如是學已。未來自然成就阿耨多羅三藐三菩提。無有艱難。如我不異。
(Kinh: Học
như thế rồi, trong đời tương lai sẽ
tự nhiên thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề chẳng khó khăn, như ta chẳng khác).
V́ sao vậy? Do nương theo lời thọ
kư của đức Phật mà tùy thuận. Chúng ta cũng giống
như thế. Nếu có thể tùy thuận chỗ “tịch
tĩnh rất sâu, các tướng diệt trừ”, đă
học như thế, trong vị lai, tự nhiên sẽ thành
tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề chẳng
khó khăn. Đấy là thọ kư cho mọi người. V́
sao? Ngài Hiền Hộ tượng trưng cho tứ chúng tu
pháp Ban Châu tam-muội trong thời Mạt Pháp. Bộ kinh này
chỗ nào cũng đều nói nhất quán về cơ chế
giáo ngôn này.
(Kinh) Nhữ đẳng đương
tri, nhược hữu an trụ thị tam-muội giả,
tự nhiên đương đắc cận đại Bồ
Đề.
(經)汝等當知。若有安住。是三昧者。自然當得近大菩提。
(Kinh: Các ông
hăy nên biết: Nếu có người an trụ trong tam-muội
này, tự nhiên sẽ gần với đại Bồ Đề).
Gọi là Đại Bồ Đề, tức
là Vô Thượng Bồ Đề. “Đại” là tâm
trí trọn khắp do đức Thế
Tôn đă chứng, chẳng phải là lớn hay nhỏ, mà là
viên măn trọn đủ, trọn đủ chân thật, trọn
khắp hết thảy.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng
minh thử nghĩa, dĩ kệ tụng viết: - Ngă tích
ngộ bỉ Nhiên Đăng Phật, kiến dĩ, tức
đắc tam-ma-đề.
(經)爾時世尊。爲重明此義。以偈頌曰。我昔遇彼然燈佛。見已即得三摩提。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, đức Thế Tôn v́ nói rơ lại nghĩa này, dùng
kệ tụng như sau: - Ta xưa gặp đức Nhiên Đăng
Phật, gặp rồi liền đắc tam-ma-đề).
Chứng đắc tam-muội, đó là tam-ma-đề,
an trụ trong tam-ma-đề chân thật, hoặc thành tựu
tam-ma-địa. Đó là thâm nhập theo thứ tự. Chúng
ta đọc kinh Viên Giác, [sẽ thấy] kinh dạy: Xa-ma-tha
(Śamatha) là chí
tĩnh khinh an (至靜輕安), Tam-ma-bát-để
(Samāpatti)
là đại bi khinh an, Thiền Na (Dhyāna) là tịch
diệt khinh an. Trong ấy, có nhắc tới tam-ma-đề
(Samadhi).
(Kinh) Tùng thị thường đổ
chư Như Lai, cụ túc công đức đại danh xưng.
(經)從是常睹諸如來。具足功德大名稱。
(Kinh: Từ
đấy thường thấy các Như Lai, trọn đủ
công đức, danh xưng lớn).
Nếu thường thấy Phật, công đức
thiện xảo tự nhiên trọn đủ. Chúng ta cảm
nhận
“thường chẳng thể thấy chư Phật”, th́ có thể
tŕ danh hiệu chư Phật, tŕ tâm chú của chư Phật,
tŕ diệu tướng của chư Phật, tŕ đại
nguyện của chư Phật, sẽ giống hệt như
“thường
học theo Phật”. Thường
sử dụng tâm trí như thế, nếu dùng Phật nguyện
để kéo dài sanh mạng của chính ḿnh, duy tŕ tâm thức và
nghiệp tướng của chính ḿnh, người ấy sẽ chẳng
thể nghĩ bàn, giống như Phật rủ ḷng tùy thuận
căn cơ. Tuy là thân do cha mẹ sanh ra, nhưng khiến
cho công đức nơi giáo pháp thù thắng của chư Phật
Như Lai được truyền bá trong cơi đời, rộng
lợi ích hữu t́nh.
(Kinh) Nhữ đản đa tập chư
công đức, nhất tâm chuyên niệm tức đắc
thành. Nhược
nhân năng hành thử pháp trung, đương đắc Vô
Thượng Bồ Đề đạo.
(經)汝但多集諸功德。一心專念即得成。若人能行此法中。當得無上菩提道。
(Kinh: Ông chỉ tu tập nhiều công
đức, nhất tâm chuyên niệm liền được
thành. Nếu ai có thể hành pháp này, sẽ đắc Vô Thượng
Bồ Đề đạo).
Đoạn kệ tụng “trùng tuyên thử
nghĩa” này vẫn là từ trong phẩm Thọ Kư nhắc
nhở chúng ta, nương theo sự thọ kư trong lúc tu nhân
của Phật Thích Ca, mà cũng là lời thọ kư của
Nhiên Đăng Cổ Phật đối với Ma Nạp.
Ở đây, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn đối với Hiền
Hộ cho đến hết thảy những người tu
tập hành pháp Thập Phương Chư Phật Tất
Giai Hiện Tiền tam-muội trong thời Mạt Pháp mà thọ
kư: “Thậm thâm tịch tĩnh chúng tướng diệt
xứ, như thị học dĩ, vị lai tự nhiên thành
tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vô
hữu gian nan, như ngă bất dị” (đối với
chỗ tịch tĩnh rất sâu, các tướng trừ diệt,
mà học như thế rồi, trong vị lai, sẽ tự
nhiên thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác chẳng
khó khăn, giống như ta chẳng khác). Đấy là lời
thọ kư. Nếu có thể
noi theo lời thọ kư, thuận thế mà hành, sẽ đạt
được thiện xảo ít tốn công sức. V́ thế,
tu pháp chẳng khó, tam-muội chẳng khó!
16. Phẩm thứ
mười hai: Thậm Thâm
(Kinh) Đại Phương Đẳng
Đại Tập Hiền Hộ Phần, Thậm Thâm phẩm
đệ thập nhị.
Nhĩ thời, Hiền Hộ
Bồ Tát phục bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Vân hà tư
duy như thị tam-muội?
(經)大方等大集賢護分甚深品第十二。
爾時賢護菩薩復白佛言。世尊。云何思惟如是三昧。
(Kinh: Kinh
Đại Phương Đẳng Đại Tập, Hiền
Hộ Phần, phẩm thứ mười hai: Rất Sâu.
Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát lại
bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn!
Làm thế nào để tư duy tam-muội như thế này?)
Toàn thể bộ kinh đều nhắc nhở
chúng ta tư duy, quan sát, nhanh chóng chứng đắc, dùng chánh
ngôn để tuyên nói Ban Châu tam-muội. Ở đây, kế
tiếp là nêu ra “làm thế nào để tư duy tam-muội
như thế?”
(Kinh) Phật ngôn: - Hiền Hộ! Nhược
hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân niệm dục
tư duy thử tam-muội giả.
(經)佛言。賢護。若有善男子善女人。念欲思惟此三昧者。
(Kinh: Đức
Phật dạy: - Này Hiền Hộ! Nếu có thiện nam tử,
thiện nữ nhân nghĩ muốn tư duy tam-muội này).
Tiếp đó, trực tiếp truyền dạy
pháp tắc, nói chẳng tăng giảm, [người học
pháp này] chỉ nên tùy văn nhập quán, liền đạt
được phương tiện. Khá nhiều pháp tắc,
nếu chẳng cố hiểu th́ sẽ rất
thuận tiện. Nếu t́m hiểu, phần nhiều là dùng
thức tâm của chính ḿnh để dụng công, sẽ thêm
vào pháp tắc các chất độc “hiểu biết
cong quẹo, hiểu biết sai lầm” của
chính ḿnh, phần nhiều dẫn đến đâm quàng ngơ rẽ.
V́ thế, hăy tùy văn nhập quán, đâm ra rất thuận
tiện, hăy y giáo phụng hành, chẳng nhờ vào người
khác chỉ vẽ. Đó là sự chọn lựa thuận
tiện nhất để hành tŕ kinh điển.
(Kinh) Quán bỉ sắc thời, bất ưng
thủ trước.
(經)觀彼色時。不應取著。
(Kinh: Khi
quán sắc, đừng nên chấp trước).
Có thể nói câu này chính là cương lănh của
toàn thể văn tự trong đoạn sau. “Quán bỉ sắc
thời, bất ưng thủ trước” (khi quán sắc,
đừng nên chấp giữ): Đối với Thọ,
Tưởng, Hành, và Thức, cũng
giống như thế. Tâm Kinh nói “Sắc tức
thị Không, Không tức thị
Sắc” (Sắc
chính là Không, Không chính là Sắc). Nói kiểu
này, chính là khiến cho chúng ta khi quán sắc sẽ chẳng
nhiễm, chẳng chấp. Đức Thế Tôn muốn
khiến cho chúng ta có thiện xảo để thâm nhập
nội dung tu tập và chánh tư duy. Tiếp đó, Ngài c̣n
nói cặn kẽ đủ mọi lẽ. Chúng ta hăy xem đức
Thế Tôn giải thích như thế nào!
(Kinh) Ư bỉ thanh trung, bất ưng
thủ trước.
(經)於彼聲中。不應取著。
(Kinh:
Trong thanh, chớ nên chấp giữ).
Lần lượt nêu ra sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp, đấy có phải là trùng lặp
hay không? Chẳng phải, mà là chỉ bảo
thẳng thừng cho chúng ta: “Khi gặp
sắc, khi gặp thanh, khi gặp hương, khi gặp vị,
khi gặp xúc, khi gặp pháp, đối đăi như thế
nào?” Chớ nên chấp
giữ! V́ hết thảy phàm phu hữu t́nh đều tưởng “đắm
nhiễm sự tướng là chỗ nương cậy của
y báo và chánh báo trong sanh mạng”, cho nên trầm
luân trong thế gian. Nói “trầm luân” là do chấp giữ
mà trầm luân, chần chừ trong sự
chấp giữ ấy, lăng phí trong sự chấp giữ ấy,
tạo tác trong sự chấp giữ ấy. Các vị Bồ
Tát và thiện
tri thức biết “pháp chẳng
có tự tánh”, cho nên đối
với phong cảnh trên đường sẽ tự
nhiên tiếp nối, chẳng vướng, chẳng mắc;
đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp,
bèn vận dụng, chẳng đắm nhiễm nơi đó,
tự nhiên giải thoát từ ngay nơi bản thể, đạt
được Chánh Thọ ngay nơi bản thể. Phật
pháp đích xác là chẳng ở ngoài sự tướng, mà cũng
chẳng ở trong sự tướng. Trong hiện duyên ấy,
rành rành phân minh, chẳng nhiễm, chẳng chấp, sức
vô ngại ấy có thể sanh ra các thứ sức Chánh Thọ.
(Kinh) Ư bỉ hương trung, bất
ưng thủ trước. Ư bỉ vị trung, bất ưng
thủ trước.
(經)於彼香中。不應取著。於彼味中。不應取著。
(Kinh:
Trong hương chớ nên chấp giữ; trong vị, chớ
nên chấp giữ).
Chư vị thiện tri thức! Đừng
nghĩ đức Thế Tôn nói như thế là trùng lặp.
Chẳng phải là trùng lặp. Sắc chính là sắc, thanh
chính là thanh, hương chính là hương, vị chính là vị,
giải thích vi tế như thế đó. Nếu chúng ta có
thể tùy thuận thủ hộ, tùy thuận tu tập, sẽ
là đại thiện. Nếu chẳng thể, hăy nên tư
duy các pháp tắc in hằn trong tâm của chính ḿnh. Trong kinh
điển, đức Phật đă như thật giăi bày
trọn vẹn chẳng tăng, chẳng giảm
hết thảy các thiện
xảo, hết thảy các pháp tắc
như thật, hết thảy lợi ích chân thật. Đức
Thế Tôn trọn chẳng keo tiếc bất cứ pháp nào,
muốn lợi ích rộng khắp hữu t́nh, muốn chân
thật hồi thí lợi ích chúng sanh, cho nên Ngài chẳng chọn
lựa bất cứ pháp nào, chỉ hồi thí trọn vẹn.
(Kinh) Ư bỉ xúc trung, bất ưng
thủ trước. Ư chư pháp trung, bất ưng thủ
trước. Ư chư sanh trung, bất
ưng thủ trước. Ư nhất thiết xứ, bất
ưng thủ trước. Ư thị pháp trung, đương
khởi chân thật đại từ hạnh dă.
(經)於彼觸中。不應取著。於諸法中。不應取著。於諸生中。不應取著。於一切處不應取著。於是法中。當起真實大慈行也。
(Kinh: Đối với xúc, chớ nên
chấp giữ. Đối với các pháp, chớ nên chấp
giữ. Đối với các sanh, chớ nên chấp giữ.
Đối với hết thảy các chỗ, chớ nên chấp
giữ. Do vậy, ở trong pháp, hăy nên khởi hạnh đại
từ chân thật).
“Đại từ hạnh” như vừa
nói đó chính là hạnh b́nh đẳng, hạnh bất nhị,
hạnh như thật. “Từ” là chẳng chọn lựa
để giữ lấy. V́ thế, nói là “đồng thể”.
Văn tự chỗ này khá dễ hiểu, nhưng lợi ích
sâu rộng, chân thật, chẳng dối!
(Kinh) Thị trung, hà đẳng danh vi tam-muội?
(經)是中何等名爲三昧。
(Kinh: Trong
ấy, những ǵ gọi là tam-muội?)
Ở đây, tam-muội được định
nghĩa như thế nào? Trong khi chúng ta trao đổi với
người khác, thậm chí khi chính
ḿnh tư duy, văn tự là tướng ngôn thuyết quyền
biến, v́ nếu chẳng có ngôn thuyết, mọi người
sẽ không có chỗ để nương theo. Nhưng nếu
ngôn thuyết chẳng thể hướng dẫn tiêu quy tự
tánh, hoặc quy vào pháp tắc, chắc là sẽ chết cứng nơi câu nói! Chúng ta
phải nên làm như thế nào? Mọi người ai nấy hăy quán kỹ sự thủ hộ hiện
tiền của chính ḿnh.
(Kinh) Sở vị ư nhất thiết
pháp trung, như pháp hành cố.
(經)所謂於一切法中。如法行故。
(Kinh: Chính
là từ trong hết thảy các pháp, đúng như pháp mà hành).
Câu này tợ hồ nói mà cũng như chẳng
nói. Văn tự trong phần sau nhằm chỉ dạy chúng
ta...
(Kinh) Nhược chư Bồ Tát quán niệm
xứ thời, đương ưng như thị quán sát
thân hành.
(經)若諸菩薩觀念處時。當應如是觀察身行。
(Kinh: Nếu
các Bồ Tát khi quán niệm xứ, hăy nên quan sát thân hành như
thế).
Khởi đầu từ quan sát thân hành, v́ hết
thảy chúng sanh, nhất là chúng sanh thuộc nhân loại, phần
nhiều coi cái thân thô trọng là Ngă, Thân Kiến mười
phần nghiêm trọng.
(Kinh) Chung bất phân biệt, kiến
thân hành xứ.
(經)終不分別見身行處。
(Kinh: Trọn chẳng phân biệt, thấy
thân hành xứ).
Đối với sự nhận biết về thân hành,
như các cảm nhận về sức khỏe, thay đổi, hoặc
là chẳng khỏe mạnh, chẳng đổi khác v.v…
đều có thể nhận biết rơ ràng, như trong phần
trước đă nói: Đối với sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp, trọn chẳng chấp giữ.
Đối với lục căn, lục thức, chẳng
chấp giữ. Đối với lục trần, cũng
chẳng chấp giữ. Cho nên đối với mười
pháp giới, cũng chẳng chấp giữ. V́ thế, vận
dụng trong mười pháp giới chẳng nhiễm, chẳng
chấp. Như thế bèn tự nhiên xuất ly.
(Kinh) Quán sát thọ hành, diệc bất phân
biệt, kiến thọ hành xứ.
(經)觀察受行。亦不分別見受行處。
(Kinh: Quán sát thọ hành, cũng chẳng
phân biệt, thấy thọ hành xứ).
Đây là quan sát đối với mỗi chỗ
cảm nhận, khiến cho chúng ta sẽ như thật thuận
theo kinh văn mà cảm nhận sự nhận biết của
chính ḿnh.
(Kinh) Quán sát tâm hành, diệc bất phân
biệt, kiến tâm hành xứ.
(經)觀察心行。亦不分別見心行處。
(Kinh: Quán sát tâm hành, cũng chẳng phân
biệt, thấy tâm hành xứ).
Như trong phần trước đă nói, chẳng
chấp Sắc, chẳng chấp Thanh, chẳng chấp Hương,
chẳng chấp Vị, chẳng chấp Xúc, chẳng chấp
Pháp. Các thứ đều chẳng chấp, cho đến hết
thảy đều chẳng chấp. Ở đây cũng giống
như thế, do chẳng có cái thấy phân biệt.
(Kinh) Quán sát pháp hành, diệc bất phân
biệt, kiến pháp hành xứ.
(經)觀察法行。亦不分別見法行處。
(Kinh: Quan
sát pháp hành, cũng chẳng phân biệt, thấy pháp hành xứ).
Có Năng, có Sở, trong phần trước
chỉ nói đến Năng, ở đây nói tới Sở.
Năng lẫn Sở cùng mất, người như vậy
sẽ có thể biết rơ, quan sát một niệm thô nặng.
(Kinh) Bồ Tát đương ưng
như thị quán sát tư duy tam-muội. Hà dĩ cố? Hiền
Hộ! Bỉ Bồ Tát quán thân hành thời, ư thân bất
khởi tư duy, phân biệt.
(經)菩薩當應如是觀察思惟三昧。何以故。賢護。彼菩薩觀身行時。於身不起思惟分別。
(Kinh: Bồ Tát hăy nên quán sát tư duy tam-muội
như thế. V́ sao? Này Hiền Hộ! Khi vị Bồ Tát ấy
quán thân hành, đối với thân, chẳng
dấy lên tư duy, phân biệt).
Thường nghe
mọi người nói như thế này: “Ôi chao! Thời
gian này thân thể tôi không tốt!” Cái kiểu cảm nhận
“khoảng thời gian này” như thế, thật ra là một
thứ quyến luyến, tham chấp, đắm nhiễm đối
với sắc thân. Ở đây, đức Thế Tôn dạy
chúng ta: “Quán thân hành thời, ư thân bất khởi tư
duy, phân biệt” (khi quán thân hành, chẳng dấy lên tư
duy, phân biệt đối với thân). Quư vị nói: “Rơ ràng
là tôi có cảm nhận nơi thân, lẽ nào chẳng dấy
lên tư duy, phân biệt?” Phương pháp này rất đơn
giản, v́ sao? Hết thảy sự nhận biết nơi
thân, hành vi nơi thân, đều là sự kéo dài hư vọng
của vô thường, biến hóa, vô ngă, là cảm giác hư
vọng, không giữ lại ǵ. V́ thế, tuy có tư duy, tăng
thêm nhiều vọng nghiệp, tăng thêm nhiều nhiễm
nghiệp, tăng thêm cái khổ, chẳng được giải
thoát. Ở chỗ này, nếu đối với thân chẳng
dấy lên tư duy, phân biệt, liền hiện phương
tiện giải thoát, cũng chính là khi cảm nhận cái thân
liền thấy phương tiện. Ngay trong lúc chúng ta coi
trọng cái thân, liền thoát ly sự ràng buộc nơi thân.
Nếu chẳng quan sát, tư duy như thế, phân biệt
và chấp trước sẽ tăng mạnh hơn! Như
có người thân thể chẳng tốt, đă nói: “Ôi chao!
Trong khoảng thời gian này, thân thể tôi không khỏe”. Có
người nói: “Trong khoảng thời gian này, tôi hành pháp, làm
việc khá vừa ḷng, thân thể cũng thoải mái”. Trong
quá tŕnh tư duy và phân biệt đối với thân thể,
dù tốt hay xấu, dù tăng hay giảm, một khi nhiễm
đắm tư duy, sẽ do cái thân mà trầm luân, do cái thân
mà tạo nghiệp, hễ tiếp nối như thế, sẽ
là tướng luân hồi liên tục. Nếu ngược lại,
liền được giải thoát.
(Kinh) Quán thọ hành thời, ư thọ
bất khởi tư duy phân biệt.
(經)觀受行時。於受不起思惟分別。
(Kinh: Khi
quán thọ hành, đối với thọ, chẳng dấy
lên tư duy, phân biệt).
Đối với
chuyện hiện tiền, hăy thẳng thừng xem xét, thiện
xảo hiểu rơ, chẳng nhờ vào phân biệt, chấp
trước, chẳng dấy lên vọng niệm. Như thế
th́ tuy chưa đắc Chánh Thọ trong hiện tiền mà
đă cảm nhận Chánh Thọ, đă biết Chánh Thọ.
(Kinh) Quán tâm hành thời, ư tâm bất
khởi tư duy, phân biệt. Quán pháp hành thời, ư pháp
bất khởi tư duy, phân biệt cố. Sở dĩ giả
hà? Nhất thiết pháp bất khả đắc cố.
(經)觀心行時。於心不起思惟分別。觀法行時。於法不起思惟分別故。所以者何。一切法不可得故。
(Kinh: Khi
quán tâm hành, đối với tâm chẳng dấy lên tư
duy, phân biệt. Khi quán pháp hành, đối với pháp chẳng
dấy lên tư duy, phân biệt. V́ sao vậy? Do hết thảy
các pháp chẳng thể được).
Đấy đều
là những lời dạy rất sâu, có tánh chất giống
như khẩu quyết, là pháp tắc chẳng thể
nghĩ bàn. Nếu chúng ta có thể tùy thuận, tư duy, quan
sát, sẽ thấu đạt nội dung của tam-muội
Chánh Thọ, lợi ích của Chánh Thọ, chẳng cần
cầu phương tiện nào khác, chẳng cần chúng ta
phải tự hư giả lập bày, cũng chẳng cần
đến các thứ siêng khổ và bức bách chẳng tất
yếu. Hiện thời, có nhiều người hành pháp cho
rằng kinh hành trong một thời gian dài, hoặc khổ sở bức
bách chính ḿnh th́ sẽ có thể đạt được tam-muội.
Đó là một thứ tâm lư chẳng tương ứng. Chẳng
dấy lên phân biệt, tư duy, chẳng chấp, chẳng
nhiễm. Ở đây chính là phương tiện chánh tam-muội,
tức là phương tiện đỡ tốn sức, mà cũng
là đạt đến chân thật đỡ tốn sức.
V́ thế, do hết thảy các pháp chẳng thể được,
chớ nên phân biệt, tư duy, chớ nên chấp giữ,
thân tâm liền được an lạc. Như thế th́ sẽ
là chánh hành đúng như pháp.
(Kinh) Như thị chư pháp kư bất
khả đắc, vân hà đương hữu phân biệt,
tư duy?
(經)如是諸法既不可得。云何當有分別思惟。
(Kinh: Chư
pháp như thế đă chẳng thể được, làm
sao có phân biệt, tư duy?)
Kinh điển thật sự là một công
cụ để ấn khế, giống như dùng một cái
ấn để đóng xuống là phù hợp rồi! Đối
với giáo ngôn trong kinh điển, nếu chẳng tăng,
chẳng giảm ấn khế cái tâm của chúng ta, cũng
sẽ có thể dấy lên hiệu quả ấn khế chẳng
thể nghĩ bàn như thế. Hữu t́nh trong hiện đời
có nhiều sự tư duy chẳng phải là tri kiến chánh
đáng, có lắm
tư duy hỗn loạn, cho đến lắm tư duy tà
kiến. V́ thế, khiến cho sanh mạng của chính ḿnh chịu
nhiều khốn khổ, lắm nỗi lo lắng nhọc
nhằn vô ích, chỉ tăng thêm ư nghiệp, thân nghiệp,
khẩu nghiệp, cùng với các nghiệp tướng khổ
nạn từ hiện tại cho đến vị lai. Nếu
chẳng giác ngộ, chẳng thể tự thoát ra, nếu
chẳng nương
theo pháp để hành, cũng chẳng
thể tự thoát. Do vậy, trong nghiệp tướng vị
lai mà sanh tử luân hồi. Đức Thế Tôn
thương xót chúng ta, ban cho pháp tắc thanh tịnh, pháp tắc
rơ ràng, pháp tắc chân thật, muốn khiến cho chúng ta nương
theo pháp để hành, chứng giữ Bồ Đề. “Giữ”
ở đây thật sự là không có chỗ nào để giữ
th́ mới đạt được an lạc.
(Kinh) Hiền Hộ! Thị cố nhất
thiết pháp vô hữu phân biệt. Vô phân biệt giả, vô
hữu tư duy.
(經)賢護。是故一切法無有分別。無分別者。無有思惟。
(Kinh: Này Hiền
Hộ! V́ thế, hết thảy các pháp chẳng có phân biệt.
Chẳng phân biệt là chẳng có tư duy).
“Hết thảy các pháp” là nói theo bản
chất, vốn chẳng thể phân biệt. V́ vốn chẳng
thể phân biệt, chẳng có tư duy. Do chẳng có tư
duy, có ǵ để lấy hay bỏ, có ǵ để chấp
giữ ư?
(Kinh) Vô tư duy giả, đương
tri bỉ trung vô pháp khả kiến.
(經)無思惟者。當知彼中無法可見。
(Kinh: Chẳng
tư duy: Hăy nên biết trong ấy chẳng có pháp để
có thấy).
Thật sự chẳng có một pháp để
có thể đạt được. Đức Thế Tôn
sư tử hống, nhưng hữu t́nh trong thế gian chẳng
phải là như thế, phần nhiều nói thiện, nói ác,
nói đúng, bàn sai, đúng đúng sai sai, nối tiếp sanh tử, thiện thiện ác ác, tạo
tác luân hồi. Dẫu chúng ta mười phần hiểu rơ
các pháp tắc ấy, nhưng cứ gặp lúc nhân duyên thành
thục, thường là sẽ nhiễm đắm pháp, sẽ
chấp trước pháp. Khi nói điều thiện th́ mắt
lóe ánh vàng, khi nói ác th́ đau đầu buốt tim, quả
thật chẳng liên can, cứ hư vọng
tự nhận biết, chấp giữ, căi chày căi cối đúng
sai, cưỡng lập đúng sai, đối với pháp tắc
vô tự tánh bèn cưỡng lập tự tánh, cho nên thế
gian kiên cố!
Thế giới Sa Bà ô nhiễm này là do sự
cưỡng chấp của chúng ta tạo nên, nhưng trong
cơi nước thanh tịnh của mười phương
chư Phật có thể vô ngại hành pháp, thần thông tự
tại, cho đến cúng dường, phước đức,
nhân duyên v.v… đủ loại tự tại đều do
chẳng cưỡng chấp, do chẳng chọn lựa giữ
lấy, do thanh tịnh b́nh ḥa, do một mực chân thật,
do chẳng lấy, chẳng bỏ, cho nên vận dụng tự
tại trong sức vô ngại, dùng phương tiện trí
huệ và từ bi chẳng đắm nhiễm mười
phương hữu t́nh. V́ thế, chẳng
có tướng thế giới kiên cố, chỉ có tướng
thế giới thanh tịnh vô ngại. Thế giới Sa Bà
của chúng ta cho đến chúng sanh trong Diêm Phù Đề
do chấp trước kiên cố đă tạo thành núi, sông,
đại địa, cùng với các thứ vật chất
kiên cố. Nếu có người yêu thích tu tập các thứ
thiện pháp, có ư tưởng cứng
cỏi, sẽ tạo thành đủ
loại các nơi trân bảo. Nếu là kẻ thủ hộ
ác tánh, thành tựu các loại chúng sanh tánh ác, cho đến
các vật vô t́nh, núi, sông, đại địa sẽ cùng lúc
hư vọng cưỡng chấp hóa hiện.
Thật ra có một vật để có thể
đạt được, [tức là] bậc trí đích thân
chứng tánh Không, cho nên du hư tự tại, như các bậc
thiện xảo có thể đi lại trong núi đá vô ngại, đi
trên hư không vô ngại,
vào nước chẳng chết đuối, vào lửa chẳng
bị đốt cháy, chẳng bị đao, thương tổn
hại, v́ sao? Do tâm trí vô nhiễm, do xa ĺa đối đăi.
V́ thế, chẳng bị đối đăi gây thương
tổn. Chúng ta đời đời kiếp kiếp huân tập
chẳng ngừng, cưỡng chấp cái tâm đối đăi,
tất nhiên sẽ bị pháp đối đăi thương
tổn. Thuở đức Thế Tôn tại thế, có nhiều
vị tỳ-kheo do từ tâm mà đao thương chẳng
thể tổn hại, chất độc chẳng thể
khiến cho họ bị trúng độc chết. Nhưng
trong thời đại hiện tại, có nhiều hữu
t́nh bệnh tật ngặt nghèo, có nhiều tổn thương
trọng đại, có nhiều nhân duyên xấu ác, v́ lẽ
nào? Do cưỡng chấp nghiệp duyên từ vô thỉ tới
nay!
Bản thân chúng ta có thể chẳng ngại
mà tự thí nghiệm. Quư vị dùng hai mươi phút để
sanh sân tâm, sau đấy cắn ngay vào da thịt của chính
ḿnh, nó sẽ sưng phù. Nếu tâm trí của quư vị rất
từ bi, tốt lành, chẳng hạn như dùng hai mươi
phút vận dụng Từ Bi Quán để quán tự tâm, dẫu
dùng kim chọc rách da thịt, vết thương sẽ lành
miệng rất nhanh. Chúng ta có thể thí nghiệm, sanh mạng
chính là tư lương để du hư của chúng ta. Đó
là tướng phước đức. Nếu quư vị yêu
mến, bảo vệ nó, sẽ bị nó xỏ mũi, đâm
ra phước đức trong vị lai bị lỡ làng, tức
là phước đức xuất ly, nhưng có nhiều hữu
t́nh bị sắc thân này, bị tri kiến chẳng chánh đáng
xâm hại. Do đó, đức Thế Tôn trực tiếp dạy
chúng ta quán như thế nào trong pháp tắc b́nh nhật.
(Kinh) Hiền Hộ! Vô khả
kiến cố, tiện vi vô ngại.
(經)賢護。無可見故。便爲無礙。
(Kinh: Này Hiền
Hộ! Do chẳng thể thấy, sẽ là vô ngại).
Chúng ta học pháp, trong đạo tràng, trong
xă hội, trong đơn vị công tác, cho đến xuất
gia hay tại gia, hành pháp, hay chẳng hành pháp, vâng giữ pháp,
hay chẳng vâng giữ pháp, nếu hết thảy các chỗ
đều vô úy, tức là vô ngại. Nếu là vô ngại th́
sẽ không bị ngăn chướng.
Nếu đă là không chỗ
nào bị ngăn chướng th́ chính là
đại từ, tức là đại thiện. Thiện xứ
ấy chẳng đối đăi. Chẳng đối đăi
chính là thật sự chọn lựa Chánh Thọ. V́ sao chúng
ta hành pháp có nhiều chỗ chướng ngại? Do sanh khởi
đối đăi, sanh khởi chọn lựa, sanh khởi
chấp giữ, trong pháp chẳng phân biệt mà kiến lập!
(Kinh) Nhất thiết pháp trung vô chướng
ngại cố, tức thị Bồ Tát hiện tiền tam-muội.
(經)一切法中無障礙故。即是菩薩現前三昧。
(Kinh: Do chẳng chướng ngại
trong hết thảy các pháp, chính là hiện tiền tam-muội
của Bồ Tát).
Ở đây nói tới “Bồ
Tát hiện tiền tam-muội”. Bồ
Tát là giác thế gian, tự giác và giác tha, tự lợi, lợi
tha, hai pháp thiện xảo trọn đủ. V́ sao? Xa ĺa đối
đăi, tức là tự lợi và lợi tha. Xa ĺa đối
đăi, từ tâm, bi tâm, trí tâm tự nhiên sanh khởi. Do chẳng
đối đăi, cho nên chẳng bị mệt nhọc, chẳng
bị nặng nề, chẳng bị chướng ngại,
chẳng có ǵ sợ hăi. Do chẳng có ǵ sợ hăi, sẽ đắc
lực trong thế gian, lợi ích rộng khắp hữu t́nh,
phương tiện trụ thế.
Chư Bồ Tát Ma Ha Tát đều dùng nguyện
lực lợi ích rộng khắp thế gian để duy
tŕ sanh mạng, cho nên trong một kiếp, hai kiếp, ba kiếp,
cho tới chẳng thể diễn tả kiếp,
như đức Thế
Tôn nói “Hằng hà sa kiếp” (kiếp
nhiều như cát sông Hằng), hoặc nhiều
Hằng hà sa kiếp duy tŕ sanh mạng. Sanh mạng ấy có
nền tảng là nguyện để duy tŕ. V́ thế nói “các
vị Bồ Tát dùng nguyện, dùng tam-muội-da để
thủ hộ”. Nói “tam-muội-da” tức là Chánh Thọ.
Chánh Thọ nương vào nguyện để biểu đạt.
Nếu ĺa bỏ hết thảy các thọ (sự tiếp
nhận khi căn tiếp xúc trần), hết thảy chấp
giữ, và hết thảy đối đăi, tự nhiên trọn
đủ Chánh Thọ. Sanh mạng như thế một đời,
hai đời, một kiếp, hai kiếp, nhiều kiếp,
Hằng hà sa kiếp, cho đến bất khả ngôn thuyết Hằng
hà sa kiếp tiếp nối không ngừng. Đó là thọ mạng
rộng lớn của Bồ Tát, thanh tịnh chân thật, chẳng
sợ hăi; nhưng phàm phu
do chấp trước, chấp giữ nghiệp tướng,
bèn có thiện, ác, đúng, sai v.v… cho nên sanh mạng có nhiều
nỗi khốn đốn. V́ thế, phần nhiều chán
ngán sanh, hoặc sợ hăi tử. Khi khổ nạn, sẽ
sanh khởi ư tưởng “chán ngán, vứt bỏ” đối
với sanh mạng. Khi sanh mạng gặp nguy nan, lại tham
tiếc sanh mạng, sợ hăi tử vong. Đó là sự chấp
giữ của tâm đắm nhiễm, tâm đối đăi.
Nếu chúng ta từ trong cái tâm đối đăi mà có thể
lập tức tiêu trừ đối đăi, sẽ là sức
vô ngại, sanh mạng như thế sẽ tươi sáng,
tiếp nối rộng lớn, mà chẳng đắm nhiễm.
V́ thế, phần nhiều dùng sắc thân vi tế, mầu
nhiệm để lợi ích rộng khắp thế gian, tối
thiểu là ĺa khỏi cái chết thô nặng, hoặc có thể
nói là Phần Đoạn sanh tử. Nỗi khổ và chướng
ngại của Phần Đoạn sanh tử là do chính ḿnh tự
cưỡng chấp lấy bỏ, chúng ta phải khéo quan sát.
(Kinh) Bồ Tát thành tựu thị tam-muội
cố, tức đắc đổ kiến vô lượng
vô số quá A-tăng-kỳ chư Phật Thế Tôn, tịnh
sở tuyên thuyết, giai tất thính văn.
(經)菩薩成就是三昧故。即得睹見無量無數過阿僧祇諸佛世尊。並所宣說。皆悉聽聞。
(Kinh: Bồ
Tát thành tựu tam-muội như thế, liền được
trông thấy vô lượng vô số quá A-tăng-kỳ chư
Phật Thế Tôn, và những ǵ các Ngài tuyên nói thảy đều
nghe thấy).
Người tu tŕ như thế, dù là sơ
phát tâm, hay đă phát tâm, hoặc là cái tâm đă thuần thục,
chọn lựa phương tiện tự tại nơi sức
tam-muội, lợi ích rộng khắp hữu t́nh chẳng
hề sợ hăi, chẳng hề chán mệt. Hữu t́nh
trong thế gian phần nhiều do chẳng đạt được
sức Chánh Thọ, cho nên ai nấy tự tiêu hao. Cho đến
v́ tiêu hao mà chẳng
có sức tự lợi, lợi tha, vác gánh nặng trầm
trọng bởi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nơi sanh mạng, cho đến
tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê, cho đến
nghiệp tướng hiện tiền của vạn sự
vạn vật trong thế gian. Tự lợi là đạt được
tự tại trong các chỗ khinh an, bất luận là chí tĩnh
khinh an, tịch diệt khinh an, hay từ bi khinh an. Chí tĩnh
khinh an (sự an lạc nhẹ nhàng do đă đạt
đến tĩnh lặng tột bậc) là đă
được ngơi nghỉ. Tịch diệt khinh an là có
thể xuất ly. Từ bi khinh an là lợi ích rộng khắp
hữu t́nh, chẳng chán mệt. Chúng ta
thường gặp các vị đại thiện tri thức
trong khi hành pháp và lợi ích thế gian, chẳng hề chán
mệt, chẳng nghỉ ngơi, khiến cho tâm linh kẻ
khác rúng động và cảm kích. V́ sao bọn phàm phu chúng ta
có lắm nỗi mệt nhọc, chán
ngán, lắm điều đối đăi, cho đến bị
hại bởi danh tự, bị
hại bởi nghiệp tướng? Tức là kẻ khác dựa
vào danh tự của chúng ta để thốt ra lời nguy
hại, ta sẽ chẳng thể tiếp nhận. Như thế
tức là coi danh tự là Ngă, coi sắc thân là Ngă, coi nghiệp
tướng là Ngă, coi phiền năo nghiệp tập là Ngă. Khi
chấp giữ, lầm tưởng là có Ngă, sẽ
sanh ra đủ thứ đau khổ. V́ sao? Do bị đối
đăi và lấy bỏ bức bách. Các vị thiện tri thức
ơi! Chúng ta phải nên khéo tư duy, khéo quan sát.
(Kinh) Văn bỉ pháp dĩ, hàm năng
thọ tŕ, bỉ chư Như Lai Ứng Đẳng Chánh
Giác, sở hữu nhất thiết vô ngại giải thoát,
giải thoát tri kiến, diệc tức năng đắc
bỉ vô ngại trí.
(經)聞彼法已。咸能受持。彼諸如來應等正覺。所有一切無礙解脫解脫知見。亦即能得彼無礙智。
(Kinh: Đă
nghe pháp ấy, đều có thể thọ tŕ. Các đức
Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác ấy tất cả hết
thảy giải thoát, giải thoát tri kiến vô ngại cũng
chính là có thể đắc vô ngại trí).
Ở chỗ này, hết thảy những điều
đức Thế Tôn tuyên nói như cái ấn đem in vào
nhau, như khế[4] phù hợp nhau. Nếu
chúng ta chẳng lấy, chẳng chấp, thanh tịnh tiếp
nhận, tiếp nhận toàn bộ, đó là Nhất Thiết
Vô Ngại Trí. Chư Phật có các trí như thế nào? Chúng
ta do Chánh Thọ, cũng có thể ở yên nơi Chí Chân Đẳng
Chánh Giác. Khi “tâm, Phật, chúng sanh vốn chẳng sai biệt”
cùng lúc hiện tiền, hiển hiện rơ rệt toàn thể
nơi Chánh Thọ, hiện tiền đại dụng lập
tức sanh khởi, sanh khởi pháp lạc vô úy, pháp lạc
thiện xảo, pháp lạc lợi ích hữu t́nh chẳng
chán mệt, các thứ lạc trong thế tục chẳng
thể sánh bằng các loại pháp lạc ấy.
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Bồ
Tát quán sát Tứ Niệm Xứ thời, vô pháp khả kiến,
vô thanh khả văn. Vô kiến
văn cố, tắc vô hữu pháp khả đắc phân biệt.
(經)復次賢護。菩薩觀察四念處時。無法可見。無聲可聞。無見聞故。則無有法可得分別。
(Kinh: Lại
này Hiền Hộ! Khi Bồ Tát quán Tứ Niệm Xứ, chẳng
có pháp nào để có thể thấy, chẳng có tiếng nào
để có thể nghe. Do chẳng thấy nghe, cho nên chẳng có
pháp nào để có thể phân biệt).
Trong phần trước đă nói “chẳng
tư duy, chẳng chướng ngại”. Ở đây, bèn
nói “chẳng phân biệt”. V́ sao chẳng phân biệt?
Do chẳng thấy nghe, cho nên “chẳng có pháp để có
thể phân biệt”.
(Kinh) Diệc vô hữu pháp khả đắc
tư duy.
(經)亦無有法可得思惟。
(Kinh: Cũng
chẳng có pháp để có thể tư duy).
Cội nguồn của chẳng phân biệt,
chẳng tư duy là do chẳng thể thấy, chẳng thể
nghe. Đó là
chánh tư duy. Quư vị nói: “Tôi thấy th́ cũng thấy, nghe
th́ cũng nghe, tư duy th́ cũng tư duy“, nào có biết đấy
chính sự tiếp nối của chủng tử tư duy bất
chánh. Chúng ta hăy nên nương theo lời dạy của Phật
Thế Tôn, nương theo ngôn thuyết chánh tư duy để
hướng dẫn chánh tư duy cho chính ḿnh, nhập phương
tiện chánh tư duy, chẳng nhờ vào pháp nào khác. Như
thế th́ chúng ta sẽ có thể tùy thuận Phật giáo để
được giải thoát, giống như người ngồi
thuyền bèn được thuyền chở, ngồi xe bèn
được xe chở, ngồi máy bay liền được
máy bay chở đi! Chúng ta tùy thuận lời dạy của
đức Thế Tôn để tư duy, cũng được
lời dạy và sự tư duy ấy chuyên chở, khiến
cho chúng ta đạt tới bờ trí huệ bên kia.
(Kinh) Nhi diệc phục phi cổ manh lung
loại.
(經)而亦復非瞽盲聾類。
(Kinh: Mà cũng
chẳng thuộc loại mù, ḷa, điếc).
Chẳng phải là không thấy, không nghe! V́
sao? Hiểu rơ ràng, rành rẽ, sạch làu, vô nhiễm,
thể chất hiển hiện, nhưng tướng vẫn
là không. Tướng là phi tướng, do nhân duyên mà hiện.
Tướng là vô thường, tướng là chẳng có vật
chất, v́ thể chất chẳng có vật chất. Do vậy,
trông thấy chánh tướng. Chánh tướng được
hiểu rơ ràng phân minh, cho nên chẳng
lấy, chẳng chấp, chẳng nghĩ, chẳng niệm.
V́ sao? Do trong ấy chẳng được, chẳng mất,
chẳng đối đăi. V́ thế, chẳng phải là mù,
cũng chẳng phải là điếc, thật sự là như
thế, rành rẽ, phân minh, có thể thấy, có thể biết!
(Kinh) Đản thị chư pháp vô khả
kiến cố, thị cố quán thời, bất sanh trụ
trước, nhi kiến chư đạo.
(經)但是諸法無可見故。是故觀時。不生住著而見諸道。
(Kinh: Chỉ
v́ các pháp chẳng thể thấy, cho nên khi quán, chẳng sanh
tâm chấp trước mà thấy các đường).
“Đạo” là chỗ nghiệp tướng
hiện tiền.
(Kinh) Tư duy đạo cố, tức
ư chư pháp vô hữu nghi vơng.
(經)思惟道故。即於諸法無有疑網。
(Kinh: Do tư
duy đạo, liền đối với các pháp chẳng có
lưới nghi).
V́ sao? Thanh tịnh tùy thuận, chẳng
đối đăi, nhị nguyên bị tán hoại,
kiến lập tâm trí viên măn. Sự kiến lập ấy là
không có ǵ để kiến lập. V́ chúng ta sống trong không
gian đối đăi nhị nguyên, một khi tất cả
các pháp tắc dấy động, sẽ liền có đối
đăi bầu bạn. V́ thế, nẩy sanh sự cưỡng
chấp Biên Kiến, cưỡng chấp lấy bỏ, cưỡng
chấp đắm nhiễm, cho đến các thứ được
gọi là khổ và lạc, thiện và ác, đúng và sai của hữu t́nh trong thế
gian, đều sẽ cùng khiến
cho tự ngă trong ấy mạnh
hơn, chẳng đạt được thiện xảo.
Nhưng kẻ thiện xảo vô nhiễm, kẻ thiện
xảo chẳng cậy vào tư duy, kẻ thiện xảo
chỉ nhận biết tự tánh, kẻ có
thiện xảo của Như Lai Đẳng Chánh Giác, sẽ
ở trong biển pháp tánh Chân Như, sạch làu chẳng có
một điều thiện hay lẽ ác. V́ sao? Chẳng có mảy
trần để có thể đạt được! Thật
ra, chúng ta thường
như “Như Lai Chí Chân Đẳng
Chánh Giác”, Đẳng là chẳng đối đăi, Đẳng
là giống hệt như
nhau, nhưng hữu t́nh phiền năo vọng chấp thiện
ác, trầm luân trong thế gian.
Đức Thế Tôn nói “tánh có thiện và
ác”, chư Phật đích thân chứng tánh “vốn trọn
đủ thiện và ác” của hết thảy chúng sanh. Khi sự đối
đăi giữa thiện và ác tiêu tan, sẽ là lúc chân thật
trọn đủ. Nói là “đủ”, tức là có thể
trọn đủ tạo thiện, trọn đủ tạo
ác. Giáo pháp Thiên Thai Tông đă phán định “sự đối
đăi giữa hai pháp thiện và ác” thật sự là phương
tiện để chư Phật Như Lai xuất thế độ
sanh, nhưng chúng sanh đắm ch́m trong đối đăi
thiện ác, quả thật là tư lương để tạo
ác luân hồi, trầm luân trong lục đạo. Trong một
pháp, sanh khởi hai thứ tướng, có tự tại và
chẳng tự tại, có giác và mê, chúng ta làm thế nào để
thật sự giải thoát chính ḿnh, tùy thuận giáo ngôn của
Phật? Điều này rất trọng yếu. Nếu quư
vị nương vào thức tâm của chính ḿnh, chắc chắn
sẽ là chấp giữ Biên Kiến, lấy bỏ bởi
vọng thức. [Khi đó], quư vị chẳng lấy hay bỏ
sẽ đau khổ, chẳng phân biệt sẽ khó tiếp
nhận, lo âu nhọc nhằn sẽ khó đoạn. V́ sao?
Phân biệt lấy hay bỏ trở thành sự cưỡng
chấp liên tục trong sanh mạng, chính là chỗ tồn tại
của nội dung sanh mạng. Nghiệp tập như thế,
phiền năo là như thế, cội nguồn của tội
nghiệp cũng ở tại đó. V́ thế, kẻ khéo nói thiện
ác, kẻ cưỡng nói thiện ác, kẻ nói nhiều về
thiện ác, th́ nghiệp tướng khổ nạn của
kẻ đó cứ tiếp nối chẳng dứt. V́ sao? Tạo
tác khổ nạn là ở chỗ này! Nhưng trong tâm trí của
bậc trí, phân biệt thiện ác lập tức bị trừ sạch, thủ hộ thanh tịnh, hồi thí
từ bi, cho nên trong cái tâm trí huệ chẳng
có đối đăi, sức trí huệ chẳng đắm chấp
chói rực trong thế gian, cùng lúc được thoát
khỏi thiện ác.
Thiện ác chỉ là pháp tắc cưỡng
chấp bởi hữu t́nh trong Dục Giới, Sắc Giới
sẽ chẳng thấy. Hữu t́nh trong Sắc Giới chẳng
chấp trước thiện, ác, đúng, sai, nhưng bọn
chúng ta là hữu t́nh trong Dục Giới phần nhiều
khoa trương sự thiện ác của chính ḿnh. Nếu chính
ḿnh là thiện, sẽ cưỡng chế kẻ ác, nào có biết
“ác giả, thiện chi tư; thiện giả, ác chi sư”
(ác là chỗ dẫn dắt thiện phát khởi, thiện là thầy của ác)[5]. Nếu biết điều
này, th́ sẽ là người khéo dùng pháp. Nếu có ác pháp, đúng
là lúc vận dụng tốt lành, đó là chánh thiện, tăng
thượng thiện. Nhưng
nếu thấy kẻ khác phạm lầm lỗi bèn chán ghét,
quở trách, người ấy chẳng đắc thiện
đạo, mà là cái tâm tà mạn. Chúng ta vận dụng trong
Phật pháp, cũng phần nhiều bị Biên Kiến và tà
mạn che lấp, mê mờ, cho nên kẻ xâm hại lẫn
nhau th́ nhiều, kẻ lợi ích lẫn nhau ít ỏi! Kẻ
quan tâm yêu thương lẫn nhau hiếm hoi, kẻ cảm
ơn lẫn nhau rất thưa thớt. Nếu chúng ta thật
sự sống trong tâm trí cảm ơn, cảm ơn hết
thảy chúng sanh bầu bạn, cảm ơn hết thảy
thế gian chuyên chở, cảm ơn hết thảy hiện
duyên chúng sanh, y báo và chánh báo đă che chở, chúng ta sẽ sống
trong tâm trí rộng lớn, trong sự yên vui chẳng có
đối đăi, sẽ sanh khởi vô úy, sanh khởi thiện
xảo, sanh khởi lợi ích phước huệ chân thật.
Đối với hữu t́nh tánh ác, phần
nhiều quở trách, thực tế là giữ lấy điều
thiện, để lại điều hại cho cơi đời.
Chẳng giữ lấy điều thiện, vẫn là phương
tiện; một khi giữ lấy điều thiện, sẽ
quở trách kẻ khác, thương tổn người khác,
giống như khi giữ lấy vật sắc bén để tổn
thương người khác! Người học Phật chúng
ta chẳng như vậy, phải nên là chẳng chấp trước
thiện ác ḥng tạo lợi ích cho hữu t́nh có tánh ác, cứu chữa
ác tánh hữu t́nh. V́ sao vậy? Ác tánh hữu t́nh mười
phần khổ nạn, ch́m đắm trong đớn đau
chẳng được cứu thoát, họ chẳng thể
tự thoát ra, nhưng thiện pháp hữu t́nh c̣n có trụ
xứ an lạc. Cổ nhân Trung Hoa đă nói: “Ác giả, thiện
chi tư, thiện giả, ác chi sư” chính là do ư nghĩa
này! Trong xă hội thuộc thời
đại hiện tại, chúng ta gần như
đă đánh mất đạo đức tăng thượng
cơ bản nhất, cho nên đâm ra: “Kẻ ác là đối
tượng trừng phạt của thiện”. Như thế
th́ thiện đă đánh mất bản chất giúp đỡ
cho kẻ ác [thoát khỏi điều ác]. “Giúp đỡ” chính
là cơ sở để tăng trưởng thiện pháp,
là cơ duyên để tăng trưởng thiện pháp. Chúng
ta thường nói “bùn lầy có thể sanh ra hoa sen”. Nếu
muốn gột trừ sạch
hết bùn lầy, nào có biết
nguồn cội giúp sức
cho hoa sen sanh trưởng chính là đó! Chư Phật
Như Lai dạy chúng ta: “Chúng sanh hoan hỷ th́ chư Phật
hoan hỷ”. V́ sao nói như vậy? Có nghĩa là hết
thảy chúng sanh là nguồn gốc của chư Phật, là
thầy của chư Phật. Do vậy, chư Phật Thế
Tôn chẳng hề khinh báng bất cứ hiện duyên hữu
t́nh nào. V́ sao? Do tri ân, biết hết thảy chúng sanh là cội
nguồn thiện xảo oai đức xuất thế của
chư Phật, lại là thầy để hết thảy
chư Phật thành Phật. Nếu chẳng xét kỹ như
thế, chúng ta học Phật sẽ
chẳng có tư lương, chẳng có cơ sở,
giống như quư vị cho rằng đất dưới
chân ḿnh bị ô nhiễm, muốn dẹp sạch nó đí, vậy
th́ quư vị đứng ở chỗ nào? Nhất định
là chẳng được an lạc!
(Kinh) Vô nghi vơng cố, kiến Phật Như
Lai. Kiến Như Lai cố, vĩnh ly mê mậu. Vô mê mậu
cố, tri nhất thiết pháp chung vô khả kiến.
(經)無疑網故見佛如來。見如來故。永離迷謬。無迷謬故。知一切法終無可見。
(Kinh: Do
chẳng có lưới nghi bèn thấy Phật Như Lai. Do
thấy Như Lai, vĩnh viễn ĺa khỏi mê muội, lầm
lạc. Do chẳng mê muội, lầm lạc, biết hết
thảy các pháp trọn chẳng thể thấy).
Tư Hoặc được gọi là “nghi
vơng” (疑網, lưới
nghi). Tư Hoặc dính chặt quá sâu, từ vô thỉ tới
nay đă khiến cho hữu t́nh khốn khó, chúng sanh trói buộc
lẫn nhau, chẳng thể tự thoát ra. Do vậy, chư
Phật Thế Tôn lập bày phương tiện, khiến
cho chúng ta yêu thích. Từ sự tu tŕ như thế đó, có
thể trực tiếp đoạn trừ Tư Hoặc của
chính ḿnh, khiến cho chúng ta
thoát khỏi triền phược Tư Hoặc “tham, sân,
si, mạn, nghi”.
(Kinh) Hà dĩ cố? Bồ Tát nhược
hữu như tư kiến giả, tắc thủ bỉ kiến.
(經)何以故。菩薩若有如斯見者。則取彼見。
(Kinh: V́ cớ
sao? Nếu Bồ Tát có kiến giải như thế, sẽ
chấp lấy kiến giải đó).
“Thủ bỉ kiến” (chấp giữ
kiến giải ấy) là điều chẳng nên. Trong phần
trước đă nói: Trọn chẳng nên có chấp lấy,
chẳng có ǵ để thấy, chẳng có ǵ để tư
duy, chẳng có ǵ để phân biệt.
(Kinh) Thủ bỉ kiến cố, tắc
thủ pháp tướng. Thủ pháp tướng cố, tắc
thủ sự nghiệp. Thủ sự nghiệp cố, tắc
kiến chúng sanh.
(經)取彼見故。則取法相。取法相故。則取事業。取事業故。則見衆生。
(Kinh: Do giữ
lấy kiến giải đó, sẽ giữ lấy pháp tướng.
Do giữ lấy pháp tướng, sẽ giữ lấy sự
nghiệp. Do giữ lấy sự nghiệp, sẽ thấy
chúng sanh).
Đấy đều là do chấp giữ các
tri kiến chẳng chánh đáng!
(Kinh) Kiến chúng sanh cố, tắc kiến
thọ mạng. Kiến thọ mạng cố, tắc kiến
Phú-già-la. Kiến Phú-già-la cố, tắc kiến chư Ấm.
Kiến chư Ấm cố, tắc kiến chư Nhập.
Kiến chư Nhập
cố, tắc kiến chư Giới.
Kiến chư Giới
cố, tắc kiến chư tướng. Kiến chư tướng
cố, tắc kiến chư vật. Kiến chư vật
cố, tắc kiến bỉ nhân. Kiến bỉ nhân cố,
tắc phục kiến duyên. Dĩ kiến duyên cố, tắc
tiện cầu thủ. Dĩ cầu thủ cố, tắc
hữu Hữu sanh.
(經)見衆生故。則見壽命。見壽命故。則見富伽羅。見富伽羅故。則見諸陰。見諸陰故。則見諸入。見諸入故。則見諸界。見諸界故。則見諸相。見諸相故。則見諸物。見諸物故。則見彼因。見彼因故。則復見緣。以見緣故。則便求取。以求取故。則有有生。
(Kinh:
Do thấy chúng sanh, bèn thấy thọ mạng. Do thấy thọ
mạng, bèn thấy Phú-già-la (Pudgala). Do thấy Phú-già-la, bèn
thấy các Ấm. Do thấy các Ấm, bèn thấy các Nhập. Do thấy
các Nhập, bèn thấy
các Giới. Do thấy
các Giới, bèn thấy
các tướng. Do thấy các tướng, bèn thấy các vật. Do thấy các vật, bèn thấy
cái nhân. Do thấy cái nhân, lại thấy cái duyên. Do thấy
cái duyên, bèn cầu chấp giữ. Do cầu chấp giữ,
bèn có Hữu sanh).
Trong phần trước, đức Thế
Tôn đă nêu lên pháp tắc tư duy. Ở đây, Ngài nói tới
những điều chúng sanh chấp trước.
(Kinh) Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Nhất
thiết chư pháp, chung bất khả thủ.
(經)何以故。賢護。一切諸法。終不可取。
(Kinh: V́ cớ
sao? Này Hiền Hộ! Hết thảy các pháp trọn chẳng
thể lấy được).
Ở đây, phủ định tướng
ngu si chấp trước, tướng cưỡng chấp
của chúng sanh, cho đến tướng y báo và chánh báo mang
lại đau khổ cho thế gian này. Trong các pháp chẳng
thể đạt được, chúng sanh lại cưỡng
chấp một pháp. Do vậy, gọi là chấp trước
vọng tưởng điên đảo và nghiệp tập phiền
năo. Các danh từ ấy đă cho chúng ta biết: Cưỡng
chấp là do vọng tưởng nẩy sanh.
(Kinh) Vô khả thủ cố, Bồ Tát
ư bỉ nhất thiết chư pháp, bất tư, bất
niệm, bất kiến, bất văn.
(經)無可取故。菩薩於彼一切諸法。不思不念。不見不聞。
(Kinh: Do
chẳng thể giữ lấy, Bồ Tát đối với
hết thảy các pháp chẳng nghĩ, chẳng nhớ, chẳng
thấy, chẳng nghe).
Như thế chính là cái tâm thanh tịnh. Chúng
ta thường nói “nhất tâm”, như niệm Phật
nhất tâm bất loạn. Cái tướng nhất tâm ấy
chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng đến, chẳng
đi. Trong cái tâm như thế, niệm Phật thanh tịnh,
thanh tịnh niệm Phật, chính là nhất tâm niệm Phật.
Nếu nói chẳng chứng tam-muội th́ là lời lẽ
chẳng tương ứng.
Cận đại, Trung Hoa có một vị đại
thiện tri thức giảng kinh Lăng Nghiêm, tức người
sáng lập Viên Minh Giảng Đường: Pháp sư Viên
Anh. Trong lúc Nhật Bản xâm chiếm Trung Hoa, Ngài nhiều
lượt sang Đông Nam Á quyên tiền và vật dụng
kháng Nhật. Thậm chí, tổ chức tăng nhân cứu hộ
đội v.v... V́ thế,
người Nhật bắt Sư vào tù, dùng cái chết để
uy hiếp, ḥng khuất phục những ai chống đối
Nhật Bản xâm lược. Thông thường, pháp sư
Viên Anh giảng kinh Lăng Nghiêm tại Trung Hoa lục địa
rất có oai danh, thậm chí tại các quốc gia ở Đông
Nam Á cũng thế. Nhưng
khi ấy, tâm trí của Ngài đặt nơi chuyên giảng
kinh Lăng Nghiêm, dẫu cho tâm trí chứng ngộ của Ngài
tại chùa Tuyết Phong cũng không thể nương cậy
được [trong khi đối diện với cái chết].
Nếu Ngài chết vào lúc ấy, sẽ lấy ǵ để
nương về? Khi đó, Ngài nghĩ đến pháp môn Niệm
Phật thường nhật. Pháp sư Viên Anh hiểu rơ niệm
Phật, Ngài tổng kết bằng hai câu: “Rành rành phân
minh, trọn chẳng có ǵ để đạt được”.
Ngài dùng tâm trí ấy để niệm Phật, đạt được
rành rành phân minh, thanh tịnh niệm Phật, trọn chẳng
có ǵ để đạt được, quyết định
y chỉ thanh tịnh niệm Phật, chọn lựa pháp môn
Niệm Phật. Sau đó, người Nhật thấy Ngài
bèn chẳng áp bức nữa, v́ sao? V́ trong nhân duyên ấy,
Ngài đă chứng đắc tướng
Tương Tự Niệm
Phật tam-muội. Trong lúc tai nạn tột cùng, pháp sư
Viên Anh quy hướng Tịnh Độ, đạt được
đại lợi. Sau khi
ra khỏi tù, Ngài bèn truyền bá rộng răi pháp môn Niệm
Phật, hướng dẫn chúng sanh sanh khởi ḷng tin quyết
định đối với niệm Phật. Lúc b́nh thời,
chúng ta chẳng biết sanh tử bức bách, cứ cho là
thường hằng, cho nên chẳng thể “rành rành phân
minh, trọn chẳng có ǵ đạt được” mà
niệm Phật. Nói chung là có mong mỏi, có mong chờ đối
với tương lai, thậm chí có mong mỏi đối
với danh tự của tam-muội, chẳng biết “chẳng
nhiễm, chẳng chấp” chính là chánh nhân
của tam-muội, “chẳng được, chẳng mất”
chính là cái duyên của tam-muội. “Chẳng tạo tác”
chính là cái Thể của tam-muội. Lúc chẳng biết, cứ
khăng khăng tạo tác, hư vọng giữ lấy thiện
ác, hư vọng giữ lấy cảnh giới tốt xấu,
cho đến hư vọng giữ lấy khinh an, hư vọng
giữ lấy giác thọ, hư vọng giữ lấy ấm
cảnh v.v… các thứ cảnh giới, cho nên đă vuột
mất pháp ích trong hiện tiền.
Đại Phương
Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh giảng
kư
Phần
10 hết
[1] Hậu Hữu (Punar-bhava): Quả báo trong đời vị lai, hoặc thân tâm trong đời sau. Hiểu
theo một nghĩa hẹp hơn, Hậu Hữu là thân sanh
tử cuối cùng, c̣n gọi là Tối Hậu Thân, tức là thân cuối cùng của một vị Bồ
Tát trước khi thành Phật. Ở đây, Hậu Hữu
hiểu theo nghĩa thứ nhất.
[2] Ư nói pháp tắc ấy mọi
người đều có thể dễ dàng thấy thấu
suốt, hiểu rơ ràng.
[3] Đây là một thuật ngữ tâm
lư học nhằm mô tả một hiện tượng: Nếu
có sự kiện nào đó tạo thành ấn tượng
trong tâm lư một người, bất luận thời gian
đă qua đi lâu thế nào, khi thấy kẻ khác gặp
phải một sự kiện tương tự, người
đó vẫn nẩy sanh phản ứng tâm lư gần giống
như ấn tượng tâm lư ban đầu mà chính người
ấy đă kinh nghiệm. Đó gọi là “chiết xạ tâm lư”.
[4] Chữ Khế (契) vốn có nghĩa cổ
là “dùi khắc lên mai rùa, xương thú,
hoặc đá để ghi nhớ một sự kiện hoặc
một sự thỏa thuận nào đó”. Từ đó, mở rộng thành ư nghĩa khế
ước, tức văn kiện ghi chép những điều
thỏa thuận của đôi bên. Ở đây, pháp sư Từ
Pháp chỉ dùng
từ ngữ này theo ư nghĩa “đôi bên phù hợp khít khao”.
[5] Câu này nếu hiểu theo nghĩa gốc
th́ có nghĩa là nếu người thiện quá khoan dung, người ác sẽ lợi
dụng ḷng khoan dung ấy để làm chuyện xấu
xa. Do thấy điều ác của người khác, mà
người thiện được cảnh tỉnh, phát
tâm hướng thiện. Tức là thiện hay ác đều
có tánh chất bổ trợ nhau, kích phát lẫn nhau. Pháp sư Từ Pháp
sử dụng theo nghĩa “khoan dung với kẻ ác để
kẻ ác tăng trưởng thiện tâm, do thấy điều
ác mà người thiện tự cảnh tỉnh ḿnh,
hăng hái làm lành”.