Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh giảng kư

Phần 10

大方等大集賢護經講記

慈法法師

Chủ giảng: Pháp sư Từ Pháp

Địa điểm: Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam

Thời gian: Từ ngày 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

          (Kinh) Phục thứ, Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát phục hữu ngũ pháp năng đắc tam-muội.

          ()復次賢護。菩薩摩訶薩復有五法能得三昧。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát lại có năm pháp có thể đắc tam-muội).

 

          Đây là “năm pháp” thứ năm.

 

          (Kinh) Nhất giả, thường y thánh giáo, như thuyết tu hành.

          ()一者常依聖教。如說修行。

          (Kinh: Một là nương theo thánh giáo, tu hành đúng như lời dạy).

 

          Pháp này đơn giản, chẳng cần phải tư duy. Tu hành theo đúng lời dạy chính là phương tiện.

 

          (Kinh) Nhị giả, thanh tịnh ư nghiệp, diệt thân khẩu ác.

          ()二者清淨意業。滅身口惡。       

          (Kinh: Hai là thanh tịnh ư nghiệp, diệt điều ác nơi thân và miệng).

 

          Đây là thiện xảo Tứ Chánh Cần, rất dễ nắm vững, có thể vận dụng trong hiện duyên bất cứ lúc nào!

 

          (Kinh) Tam giả, thanh tịnh giới hạnh, đoạn trừ chư kiến.

          ()三者清淨戒行。斷除諸見。

          (Kinh: Ba là giới hạnh thanh tịnh, đoạn trừ các kiến).

 

          Giới do chư Phật Thế Tôn chế định. Bất luận Bồ Tát giới, Thanh Văn giới, tại gia giới, hay xuất gia giới, trong các loại giới hạnh, nếu nương theo giới, tự nhiên có thể trừ các kiến.

 

          (Kinh) Tứ giả, thường cầu đa văn, thâm tín chư thiện.

          ()四者常求多聞。深信諸善。

          (Kinh: Bốn là thường cầu đa văn, tin sâu các điều thiện).

 

          Trong các pháp, chẳng sanh nghi báng, bất luận là tự pháp hay tha pháp, b́nh đẳng yêu thích, nhưng nương theo tự pháp để thâm nhập tu tập, phương tiện thủ hộ. V́ thế, chớ nên tự khen ḿnh, báng bổ người khác.

 

          (Kinh) Ngũ giả, thường niệm Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác. Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc ngũ pháp, tắc năng hoạch đắc hiện tiền tam-muội.

          ()五者常念如來應等正覺。賢護。是爲菩薩摩訶薩具足五法則能獲得現前三昧。

          (Kinh: Năm là thường niệm Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác. Này Hiền Hộ! Đó là năm pháp mà Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ, sẽ có thể đạt được hiện tiền tam-muội).

 

          Phải nên thường niệm “Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác là đấng ta tôn kính”. Chớ xem thường câu này, hăy thường tư duy, hăy luôn để trong ḷng.

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát phục hữu ngũ pháp năng đắc tam-muội.

          ()復次賢護。菩薩摩訶薩復有五法能得三昧。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát lại có năm pháp có thể đắc tam-muội.

 

          Đây là “năm pháp” thứ sáu.

 

          (Kinh) Nhất giả, thường hành đại thí, năng vi thí chủ, bất khởi xan tham, tâm vô tật đố, hoằng quảng tâm thí, thuần trực vô siểm. Ư chư sa-môn, cập Bà La Môn, bần cùng, cô độc, nhất thiết khất nhân, vô sở ái tích, vô hữu thắng thượng khả trọng chi vật, nhi bất thí giả. Sở vị nhất thiết vi diệu ẩm thực, danh y thượng phục, đệ nhất pḥng xá, chư chủng phu cụ, đăng, chúc, hoa, hương, phàm sở thọ dụng, giai tất xả chi. Tuy thường hành thí, nhi bất cầu báo, lân mẫn nhất thiết, vô nghi hoặc tâm. Kư thí chi hậu, chung vô biến hối.

          ()一者常行大施。能爲施主。不起慳貪。心無嫉妒。宏廣心施。純直無諂。於諸沙門及婆羅門。貧窮孤獨。一切乞人。無所愛惜。無有勝上可重之物而不施者。所謂一切微妙飲食。名衣上服。第一房舍。諸種敷具。燈燭花香。凡所受用。皆悉舍之。雖常行施而不求報。憐愍一切。無疑惑心。既施之後。終無變悔。

          (Kinh: Một là thường hành bố thí to lớn. Có thể làm bậc thí chủ, chẳng dấy ḷng keo tham, tâm chẳng ghen tỵ, bố thí bằng cái tâm rộng lớn, tinh thuần thẳng thắn, chẳng siểm ngụy. Đối với các sa-môn và Bà La Môn, kẻ nghèo túng, cô độc, hết thảy ăn mày, đều chẳng yêu tiếc, chẳng có vật nào thù thắng, thượng diệu đáng trọng mà chẳng thể thí. Tức là hết thảy các thứ thức ăn vi diệu, y phục sang đẹp nổi tiếng, nhà cửa bậc nhất, các thứ để trải, đèn, đuốc, hoa, hương, phàm là thứ thọ dụng nào cũng đều xả được. Tuy thường hành bố thí, mà chẳng cầu báo, thương xót hết thảy, chẳng có tâm ngờ vực. Sau khi đă thí, trọn chẳng đổi dạ, hối hận).

 

          Đây thật sự là tâm địa rộng lớn. Quư vị nói: “Tôi chẳng có ǵ cả, [bố thí] rộng lớn bằng cách nào đây?” Trên thực tế, bần cùng cũng rất dễ bố thí. Có phương pháp [bố thí] là người nghèo cùng nếu chẳng sát sanh, yêu mến sanh mạng [của chúng sanh]. Đó chính là bố thí. Nếu biết đủ th́ là bố thí hết thảy tiền tài.

 

          (Kinh) Nhị giả, thường vi thí chủ nhi hành pháp thí. Sở vị thường vị chúng sanh thuyết như tư pháp, sở vị đệ nhất tối thượng, tối thắng, tối diệu, tối tinh. Tu hành như thị đại pháp thí thời, năng xuất nhất thiết vô ngại biện tài. Văn nghĩa thứ đệ, tương tục bất đoạn, Như Lai sở thuyết thậm thâm pháp trung, giai năng an trụ, thành tựu thâm nhẫn. Hoặc thời bị tha phỉ báng, mạ nhục, chủy kích, tiên đả, chung vô sân hận, uế trược độc tâm, diệc vô kinh cụ, chủng chủng khổ năo, nhi tâm vô úy, thường hoài hoan hỷ.

          ()二者常爲施主而行法施。所謂常爲衆生說如斯法。所謂第一最上最勝最妙最精。修行如是大法施時。能出一切無礙辯才。文義次第。相續不斷。如來所說甚深法中。皆能安住。成就深忍。或時被他誹謗罵辱。捶擊鞭打。終無瞋恨穢濁毒心。亦無驚懼種種苦惱。而心無畏。常懷歡喜。

          (Kinh: Hai là thường làm thí chủ để hành pháp thí. Tức là thường v́ chúng sanh mà nói pháp như thế này, chính là [các pháp] bậc nhất, tối thượng, tối thắng, mầu nhiệm nhất, tinh vi nhất. Khi tu hành đại pháp thí như thế, có thể phát ra hết thảy biện tài vô ngại, văn và nghĩa theo thứ tự, liên tục chẳng ngừng. Trong các pháp rất sâu do Như Lai đă nói, đều có thể an trụ, thành tựu Nhẫn sâu. Hoặc có lúc bị kẻ khác phỉ báng, nhục mạ, đánh đập, đ̣n vọt, trọn chẳng có tâm sân hận, nhơ bẩn, tàn độc, cũng chẳng có tâm kinh sợ, các thứ khổ năo, mà tâm chẳng sợ hăi, thường có ḷng hoan hỷ).

 

          Lành thay! Đây thật sự là những pháp tắc mà chúng ta có thể sử dụng trong lúc b́nh thời, có thể xem xét kỹ!

 

          (Kinh) Tam giả, nhược văn tha thuyết thử tam-muội thời, chí tâm thính thọ, thư tả, độc tụng, tư duy kỳ nghĩa, quảng vị tha nhân phân biệt, diễn thuyết, linh thị diệu pháp cửu trụ thế gian, chung vô bí tàng, sử pháp tật diệt.

          ()三者。若聞他說此三昧時。至心聽受。書寫讀誦。思惟其義。廣爲他人分別演說。令是妙法。久住世間。終無祕藏。使法疾滅。

          (Kinh: Ba là nếu khi nghe người khác nói tam-muội này, chí tâm nghe nhận, biên chép, đọc tụng, tư duy nghĩa lư, rộng v́ người khác phân biệt, diễn nói, khiến cho diệu pháp này tồn tại lâu dài trong thế gian, trọn chẳng giấu kín khiến cho pháp mau diệt).

 

          Các vị thiện tri thức ơi! Đây thật sự là một bảo điển! “Năm pháp” ấy chính là lời bí mật, lời như thật, lời công đức của chư Phật, có thể khiến cho chúng sanh ấn khế tự tâm, lựa chọn lợi ích. Sự lợi ích ấy được lựa chọn từ đâu? Quư vị nói: “Tôi hành Ban Châu trong một thời gian dài như thế, v́ sao chẳng tương ứng?” Tương ứng với ǵ vậy? Tương ứng với vọng tưởng của quư vị ư? Tương ứng với sự thấy Phật giả lập của quư vị ư? Do quư vị giả lập, nói chung là chẳng tương ứng! V́ thế, ở đây chẳng có sự giả lập, nhưng khi tương ứng, chúng ta sẽ có thể đạt được công đức của Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội như thế. “Chung vô bí tàng, sử pháp tật diệt” (Trọn chẳng giấu giếm, khiến cho pháp mau diệt): V́ thế, công đức tuyên nói pháp này rất chẳng thể nghĩ bàn! Kinh văn trong phần trước đă nói bốn điều:

          1) Nếu cầu pháp này, công đức chẳng thể nghĩ bàn.

          2) Nếu đọc tụng kinh điển này, công đức chẳng thể nghĩ bàn.

          3) Nếu v́ người khác tuyên nói, công đức chẳng thể nghĩ bàn.

          4) Nếu đích thân chứng tam-muội này, công đức chẳng thể nghĩ bàn, chỉ có chư Phật biết, chỉ có Bồ Tát thủ hộ, chỉ có người thiện căn thuần thục truyền đạt.

 

          (Kinh) Tứ giả, thường vô tật đố, viễn ly chư năo, khí xả Cái Triền, đoạn trừ trần cấu, bất tự xưng dự, diệc bất hủy tha.

          ()四者常無嫉妒。遠離諸惱。棄捨蓋纏。斷除塵垢。不自稱譽。亦不毀他。

          (Kinh: Bốn là thường chẳng ghen tỵ, xa ĺa các năo, vứt bỏ Cái, Triền, đoạn trừ trần cấu, chẳng tự khen ngợi, cũng chẳng hủy báng kẻ khác).

 

          “Ghen tỵ” là chuyện phiền toái nhất trong loài người hiện thời. Cái Triền bao gồm Ngũ Cái và Thập Triền. “Bất tự xưng dự” tức là chẳng tự ḿnh ca ngợi những ǵ chính ḿnh đă đạt được. Hữu t́nh hiện thời thường nói: “Ta nay tốt đẹp hơn trước rất nhiều, nay ta được lắm! Nay ta như thế này, như thế nọ…” Ca ngợi chính ḿnh như thế đó, chẳng thể tiến bộ, sẽ đứng ́ tại đó, hoặc là hăm trong sự ca tụng chính ḿnh, chẳng thể thoát ra. “Diệc bất hủy tha” (cũng chẳng hủy báng kẻ khác). V́ sao? Kẻ tự khen ḿnh, tất nhiên sẽ báng bổ kẻ khác. Nếu bảo là ta đúng, tất nhiên kẻ khác sai bét! Trong pháp tương đối, sẽ tự nhiên sanh khởi như thế, chọn lựa như thế. Quư vị chẳng cần phải hoài nghi!

 

          (Kinh) Ngũ giả, ư chư Phật sở, thường trọng tín tâm, ư chư sư trưởng, thường hành kính úy. Ư tri thức xứ, thường sanh tàm quư. Ư chư ấu trĩ, thường hoài từ lân. Năi chí thọ tha tiểu ân, thượng tư hậu báo, hà huống nhân hữu trọng đức, nhi cảm triếp vong, thường trụ thật ngôn, vị tằng vọng ngữ. Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc ngũ pháp, tắc năng hoạch đắc như thị tam-muội.

          ()五者於諸佛所。常重信心。於諸師長。常行敬畏。於知識處常生慚愧。於諸幼稚。常懷慈憐。乃至受他小恩。尚思厚報。何況人有重德而敢輒忘。常住實言。未曾妄語。賢護。是爲菩薩摩訶薩具足五法。則能獲得如是三昧。

          (Kinh: Năm là ở nơi chư Phật, thường có tín tâm sâu nặng. Đối với sư trưởng, thường giữ ḷng kính sợ. Ở nơi tri thức, thường sanh ḷng hổ thẹn. Đối với những kẻ nhỏ dại, thường có ḷng từ bi, thương xót. Cho đến nhận ân nhỏ của người khác, c̣n nghĩ báo đáp sâu đậm. Huống hồ đối với người có đức sâu nặng mà dám vội quên. Thường trụ trong lời chân thật, chưa từng nói dối. Này Hiền Hộ! Đó là Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ năm pháp, sẽ có thể đạt được tam-muội như thế).

 

          Kính sợ sư trưởng chính là thiện xảo, diệt trừ kiêu mạn, lập tức cung kính. Tâm cung kính chính là căn bản của hết thảy các pháp. Nếu chẳng có tâm cung kính, hết thảy các pháp đều chẳng thể đạt được, hết thảy các pháp đều chẳng thể thành, hết thảy các tam-muội đều chẳng thể thành tựu. Đó là điều chắc chắn, chẳng có mảy may hoài nghi nào! Bởi lẽ, sư trưởng là vị hướng dẫn tốt lành cho chúng ta. Chư Phật là đấng khéo hướng dẫn chúng ta, v́ [các Ngài] dẫn dắt, phát khởi sự cung kính chọn lựa cho chúng ta. “Thường trụ thật ngôn, vị tằng vọng ngữ” (thường trụ trong lời thật, chưa hề nói dối): V́ hành tŕ pháp Niệm Phật, và hành tŕ pháp tắc của chư Phật, nói dối sẽ gây tổn thương rất lớn cho con người. V́ thế, phải nên mười phần chú ư.

          Đức Thế Tôn nêu ra sáu thứ “ngũ pháp”, chúng ta hăy thường nên luyện tập, thường đọc tụng, thường tu tập, thường ấn khế tự tâm, như thật biết tự tâm, sẽ đích thân chứng đắc tam-muội này chẳng khó!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa, dĩ kệ tụng viết.

          ()爾時世尊爲重明此義。以偈頌曰。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn v́ nói rơ lại nghĩa này, dùng kệ tụng nói như sau).

 

          Đây là theo lệ thường, kệ tụng nhằm trùng tuyên ư nghĩa [trong phần Trường Hàng]. V́ sao như thế? Đức Thế Tôn giáo huấn chúng ta, muốn khiến cho chúng ta đạt được sự nhận biết rơ ràng đối với pháp tắc tam-muội, tư tưởng ít đi theo đường ṿng, có thể rơ ràng nhờ vào danh tướng và ngôn từ mà hiểu rơ tự tâm, nhờ vào ngôn thuyết mà biết rơ tự tâm, nhờ vào ngôn thuyết mà hiểu rơ pháp tắc.

          Đối với pháp tắc, dựa theo đạo lư, thường là chúng ta nhận biết chẳng phải là rất khó, nhưng nếu muốn nhận biết rơ ràng, chẳng nghi, cần phải không ngừng tập cho quen thuộc. V́ chúng ta đối với nghiệp tập tiếp nối từ vô thỉ đến nay, tức là những cái gọi là phiền năo và tri kiến chẳng chánh đáng, cho đến tham, sân, si, mạn, nghi, đủ loại tư duy, chúng ta đều hết sức quen thuộc. Đối với sự nhận biết đắm nhiễm trong sáu căn và sáu trần, chúng ta đă hết sức quen thuộc, đă thuần thục rất lâu, nhưng đối với sự tư duy về pháp, sự nhận biết về pháp th́ hết sức xa lạ! Nếu chẳng do thiện căn nhiều kiếp, đối với pháp chúng ta c̣n chẳng thể nghe, huống hồ có thể quen thuộc, hoặc thuần thục với nó, tu tập nó, cho đến thành tựu nó ư? V́ thế, chớ nên coi thường nhân duyên quen thuộc và thâm nhập quan sát một pháp tắc. Thật sự cần phải có một cơ chế rất sâu rộng th́ mới có thể thành thục tiếp xúc, nhận biết, tu tập, cũng như thành thục thiện căn thù thắng, duyên thù thắng, hay nghiệp thù thắng của một pháp tắc.

          Nói theo phía đại đa số người học Phật, cảm giác xa lạ [đối với pháp] biểu hiện khá rơ rệt, nhưng đấy chính là chỗ chúng ta chẳng sợ hăi, là chỗ phải nên hoan hỷ. Nói “hoan hỷ” hoàn toàn chẳng phải là chúng ta dễ dăi, hời hợt nhận biết một vấn đề, liền cho là đă có thành tựu, hoặc đă đạt được điều chi đó. Hoàn toàn chẳng phải là như vậy, mà là chúng ta có thể thật sự đắc lực tập trung vào sanh mạng. Tức là khi có phiền năo, nghịch duyên, tạp duyên, bèn có thể từ đó thoát ra, thật sự từ trong phiền năo mà thoát ly phiền năo, từ nơi nghịch hạnh mà được tự tại, từ chỗ ác duyên mà đạt được thuần tịnh. Như thế th́ mới có thể thật sự hiển thị sức mạnh và phương tiện chẳng thể nghĩ bàn của Phật pháp. Ở đây, cũng giống như thế. “Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa” (lúc bấy giờ, đức Thế Tôn v́ nói rơ lại nghĩa này) để khiến cho mọi người hiểu rơ. Nếu chúng ta chẳng hiểu rơ các duyên hiện tiền, dẫu hết thảy chư Phật đều hiểu rơ, cũng chẳng liên can ǵ với chúng ta, vô ích cho chúng ta!

 

          (Kinh) Nhược ư thâm pháp tâm dục nhạo, yếm ly nhất thiết chư hậu hữu.

          ()若於深法心欲樂。厭離一切諸後有。

          (Kinh: Nếu với pháp sâu, tâm ưa thích, chán ĺa hết thảy các hậu hữu).

 

          Đối với hai chữ “hậu hữu”[1], chúng ta phải nên chú ư, dốc sức tư duy, quan sát. “Yếm ly nhất thiết chư hậu hữu” (chán ĺa hết thảy các hậu hữu): Nếu đối với tương lai chẳng tính toán, đối với vị lai chẳng có nhiều điều mong mỏi, chẳng có nhiều vọng tưởng, nghiệp tập của người như thế đă mỏng ít. Nếu đối với sự tạo tác của “hậu hữu” trong đời vị lai mà xa ĺa sự cưỡng chấp nơi ư chí của tự ngă, chỉ v́ pháp tắc, v́ lợi lạc thế gian, người như thế sẽ đạt được sự an ủi nơi pháp tắc. Nếu trong khi lợi lạc thế gian mà vận dụng thuần thục hai pháp bi và trí, người ấy đạt được công đức và lợi ích thù thắng trong sự thành tựu. Nếu hiểu rơ ràng sự vận dụng liên tục trong từng sát-na cho đến hết đời vị lai, tâm thanh thản, tâm vô công dụng, chỉ xét theo sự tướng có tác dụng lợi ích rộng khắp thế gian, người ấy đă đoạn trừ hậu hữu, đích thân chứng các thứ tướng công đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn!

          Đối với Thanh Văn, “sở tác dĩ biện, phạm hạnh dĩ lập” (việc làm đă xong, phạm hạnh đă lập) chẳng phải là nói theo hậu hữu, mà là đă chứng thanh tịnh như thế. “Chẳng v́ hậu hữu”, nói theo những người đang học Phật trong hiện tiền, vốn là một điều phải nên quan sát hàng đầu, phải nên phản tỉnh trong sự tu tŕ nội tâm. “Hậu hữu” thường là ích kỷ, nhưng nếu đối với một pháp tắc mà liên tục tu tŕ, Hữu ấy sẽ là “hữu chẳng luân hồi”, là Hữu tăng thượng. Tuy chưa đắc đạo, mà đă có đạo cơ (cơ duyên ngộ đạo, chứng đạo). Tuy chưa ĺa vô minh, cái duyên “có thể trừ khử vô minh” đă hiện tiền. Cũng có nghĩa là nếu đối với vị lai, chúng ta c̣n có rất nhiều sự giả lập tự ngă, khát vọng, hoặc mong mỏi hư vọng, huy hoàng, tức là vẫn đắm ch́m trong gịng nghiệp vô minh. Hậu hữu kiểu đó chớ nên có, đừng nên có! Nếu chúng ta muốn lưu truyền Phật pháp rộng khắp trong thế gian, thực hiện các thứ thiện xảo, huân tu, trao đổi, tu hành các thứ pháp tắc, hoặc kiến thiết đạo tràng, “hậu hữu” kiểu đó chính là thiện duyên tăng thượng. Điều này càng trọng yếu hơn nữa đối với hữu t́nh c̣n đang mê muội. Do vậy, phải nên vận dụng Hậu Hữu như thế nào? Quan sát như thế nào?

          Xa ĺa hết thảy hậu hữu, thật sự là sự lựa chọn theo pháp tánh thanh tịnh, mà cũng là một loại duyên khởi thanh tịnh, viên măn, tự đạt được trong Phật giáo, chính là tu ngay trong hiện tiền. “Tu” là chọn lựa, chấp thuận ngay trong hiện tại, nhất là trong nghịch duyên, trong nhân duyên chẳng vừa ḷng, trong ác duyên. “Ngay trong hiện tại” giống như ḥn đá thử vàng, v́ trong thuận duyên, trong cái tâm vui sướng th́ sẽ thoải mái, cho nên thường là chẳng có trở ngại ǵ, c̣n nghịch duyên th́ vừa khéo là thời khắc trọng yếu để hiển hiện sức mạnh trí huệ. Do vậy, yếm ly nhất thiết chư hữu” (chán ĺa hết thảy các cơi) chính là cái được gọi là “duyên khởi trí huệ hạnh”, mà cũng là vận dụng trí huệ ngay trong hiện tiền. Có chán thế gian, ĺa thế gian, sẽ là rất có ư nghĩa. “Chán” là có tâm nguyện vứt bỏ, cảm thấy mệt nhọc, khốn đốn. “Ĺa” là đă ĺa bỏ nhị nguyên đối đăi, thiện ác bức bách, hoặc là lấy bỏ, được mất. Hai pháp “ghét” và “ĺa” chính là cơ sở của Bồ Đề tâm, mà cũng là bước khởi đầu đặc biệt trọng yếu để chúng ta học tập Ban Châu tam-muội.

 

          (Kinh) Trí giả bất nguyện nhất thiết sanh. Nhược năng như thị, đắc tam-muội.

          ()智者不願一切生。若能如是得三昧。

          (Kinh: Người trí chẳng nguyện hết thảy sanh. Nếu được như thế, đắc tam-muội).

 

          Chúng ta biết “sanh” trong “văng sanh thế giới Cực Lạc” chính là thủ hộ căn bản Vô Sanh. Nói “sanh” tức là sanh vào cơi Vô Sanh. Thế giới Cực Lạc chẳng phải là một cơi nước luân hồi, chẳng phải là hậu hữu,cơi an dưỡng, nương về để thành Phật rộng độ hữu t́nh, trọn đủ thiện pháp, trọn đủ oai đức. Đấy chính là chánh tướng “chẳng v́ hậu hữu”. Do vậy, quốc độ ấy là “các tướng vô tướng”, [nhân dân trong cơi ấy] đều đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo, b́nh đẳng nhất vị, trọn đủ các sức trang nghiêm, oai đức, thần thông tự tại vô sai biệt. “Vô sai biệt” là chẳng có sự nhọc nhằn v́ hậu hữu. V́ thế, “trí giả bất nguyện nhất thiết sanh” (người trí chẳng muốn hết thảy các thứ sanh) chẳng phải là đoạn diệt, mà cũng chẳng chấp giữ sanh. Đó chính là chỗ tồn tại của công đức chân thật nơi cơi An Dưỡng (Cực Lạc), mà cũng là chỗ tồn tại của tam-muội lực. Như trong sáu loại “ngũ cụ túc pháp” trên đây, các điều được thủ hộ bởi năm pháp thuộc loại đầu tiên là “vốn chẳng có sanh diệt, vốn chẳng có trần cấu, vốn chẳng chấp trước, vốn chẳng có ǵ được sanh”, cho nên có thể thủ hộ duyên khởi của tam-muội này. Vô sanh chính là duyên khởi, vô cấu chướng chính là duyên khởi. Nói “chính là duyên khởi” nghĩa là: Do vốn chẳng sanh, do vốn chẳng có nghiệp ấy, mà cũng do vốn chẳng có duyên ấy. Đó là chánh duyên hiện tiền.

          Nếu chúng ta chẳng thể biết rơ ràng, rành mạch năm pháp đầu tiên, th́ mỗi loại “năm pháp” do đức Thế Tôn đă nói sau đó đều là hướng dẫn dần dần theo thứ tự, cho đến năm pháp thuộc loại thứ sáu, đă phân tích tỉ mỉ, cặn kẽ, rộng khắp cho các hữu t́nh phàm phu nhiệt năo, khiến cho chúng ta dùng năm pháp để đạt được niềm vui tam-muội, xa ĺa các nỗi khổ do tản mạn, vô kư, thiện, ác trong thế tục. Niềm vui tam-muội ấy được hết thảy các bậc có trí, bậc thiện căn thuần thục thủ hộ, mà cũng có nghĩa là tam-muội vương này trọn đủ hết thảy các pháp, là Phật địa, là Phật trí, là Pháp tánh, là Tăng tánh, lợi ích chân thật như thế, chúng ta hăy nên siêng học, siêng tu tŕ, siêng quan sát!

          “Nhược năng như thị đắc tam-muội” (nếu có thể như thế th́ sẽ đắc tam-muội): Trong quá tŕnh học tập, giáo điển này không ngừng nhắc nhở chúng ta về sự thanh tịnh ngay trong hiện tiền, hiện tiền trọn đủ, hiện tiền chân thật. Nếu thật sự có thể trong mỗi thời khắc đều vận dụng mỗi niệm hiện tiền rất khéo, đạo tràng Ban Châu sẽ ở ngay trong mỗi bước chân, trong mỗi lúc giơ tay, đặt chân, mỗi câu nói năng của chúng ta đều là hành tam-muội. Mỗi ư niệm dấy động nơi ư thức đều là sự tiếp nối tam-muội chánh thọ. Đạo tràng Ban Châu lớn nhất ở ngay trong sự suy nghĩ, quán tưởng đúng pháp, ở ngay trong hiện duyên như pháp!

          Thông thường, chúng ta đối với một đạo tràng hành tŕ Ban Châu mà có sự cảm nhận rơ ràng, có sự quy hướng khá rơ ràng, th́ sẽ hoặc là đến đó tu tập, hoặc sẽ sợ hăi. Đương nhiên cũng có kẻ sợ hăi. Kẻ sợ hăi đều tự biết, như một số vị xuất gia hay tại gia Bồ Tát nói như thế này: “Trời ơi! Đợi cho tới khi tôi đầy đủ tư lương rồi mới kinh hành Ban Châu”. Hoặc là nói: “Tôi nghi ngờ pháp Ban Châu”. Chuyện này thật sự là do có người đầy đủ phước đức, có người chẳng đủ; có người pháp đầy đủ, có người pháp chẳng đủ. Nếu hai pháp phước và huệ thật sự trọn đủ th́ mới có thể đặc biệt hành pháp Ban Châu. Đây chẳng phải là cố ư khen ngợi, hoặc tung hô pháp tắc này, chẳng phải như vậy! Nếu chúng ta thật sự đơn độc, chuyên nhất hành Ban Châu, quả thật là phải có nhiều thiện căn, phước đức, và nhân duyên chín muồi! Rất ít người thật sự quan sát chỗ này! Chúng ta chẳng ngại lắng đọng cái tâm xen tạp để quan sát đôi chút: Nếu thật sự trọn đủ cơ hội chuyên môn hành pháp, phải có các duyên để thành tựu, các duyên phải chín muồi. Thiếu một duyên chẳng chín muồi, sẽ khó hành tŕ! Rất nhiều người phát tâm trong một khoảng thời gian rất dài, dùng cả mấy tháng để chuẩn bị, kết quả thường là chẳng thể thuận theo ư nguyện của chính ḿnh để hành pháp, v́ các duyên rất khó trọn đủ! [Hành tŕ] một ngày một đêm th́ c̣n thuận tiện, chứ nếu nhiều ngày hơn, ba ngày, bảy ngày, hoặc thời gian càng dài hơn, nhân duyên như thế càng khó thật sự tương ứng! Một người kinh hành suốt bảy ngày bảy đêm, hoặc bảy ngày tám đêm theo hành pháp Ban Châu, sẽ cần phải có khá đông người khác bỏ ra tinh lực, tâm lực, từ bi, và trí huệ lực của chính họ để phục vụ cho toàn thể quá tŕnh hành pháp của người ấy, nhất là trong bốn ngày cuối. Khá nhiều người kinh hành bảy ngày bảy đêm, do sức tự khống chế chẳng đủ, kết quả là [tuy một người hành Ban Châu, mà thành ra] cơ bản mọi người đều hành Ban Châu. Đối với chuyện này, chúng tôi đều đă thấy, biết, tham dự rồi!

          Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hành Ban Châu, tức là tu tŕ Tùy Ư tam-muội như người đạo nghiệp thuần thục đă nói. Đó là pháp tắc mà hữu t́nh thiện căn cực thuần thục có thể duy tŕ thanh tịnh liên tục. Nếu thất niệm, người ấy sẽ sanh ḷng hổ thẹn. Nếu đối với mặt Sự mà đánh mất lợi ích nơi pháp tắc, hoặc là trong một niệm hiện tiền mà chẳng tương ứng với pháp, người ấy sẽ có ḷng hối hận, hoặc tâm chán ĺa, hoặc dùng Bồ Đề tâm để quán chiếu, hoặc mạnh mẽ trực tiếp thấu đạt pháp tánh, chẳng dính chặt với sự tướng để rồi đánh mất pháp tắc thanh tịnh. Tu tŕ như thế, trên thực tế, chúng ta phải nên có một sự thiện xảo rộng lớn để cổ vũ khích lệ phổ biến. V́ trong tu tập pháp Ban Châu, rốt cuộc là rất ít người, cực ít người có thiện căn và cơ chế thành thục. Ngay như trong hiện tại, c̣n có rất nhiều vị xuất gia hay tại gia Bồ Tát sanh ḷng sợ hăi đối với pháp này, thậm chí mười phần sợ hăi. Sợ hăi ǵ vậy? Chẳng ngủ nghê, chẳng ngồi, mỗi ngày ăn một bữa. Đối với họ, đó là chuyện chẳng thể tưởng tượng. Cũng có lẽ đối với những người đă hành Ban Châu như chúng ta, chuyện này chẳng có ǵ đáng sợ. Người huân tập pháp tắc này trong một thời gian dài, đối với chuyện này (không ngủ, không ngồi, ăn một bữa) cũng chẳng có cảm giác ǵ, coi điều đó là rất tự nhiên, rất b́nh thản, thậm chí c̣n nói là một pháp tắc rất tốt. Nhưng đối với các hữu t́nh chưa hề bén mảng, c̣n sợ hăi, th́ đâm ra những điều ấy vẫn là chỗ đáng sợ hăi! Có những kẻ tự ngỡ chính ḿnh có thiện căn rất lớn, nhưng dính dáng đến hành pháp như thế liền chẳng dám chen chân vào! V́ sao? Vẫn là do có nỗi sợ hăi. Thoạt nh́n dường như dễ dàng, nhưng để thành thục thiện căn ấy, vẫn thật sự phải được oai thần của Phật gia bị, cần phải thường cầu nguyện ḥng thành thục các duyên ḥa hợp như thế. Do vậy, chúng ta chẳng ngại sử dụng hai chân để đi lại (tức là dùng hai pháp để thực hành Ban Châu trong cuộc sống thường nhật):

          - Một là vận dụng hành pháp Ban Châu chuyên nhất trong pháp môn Ban Châu.

          - Hai là trong cuộc sống hằng ngày, đối với chính ḿnh chớ nên buông lung, chớ nên quá mức dung túng bản thân.

          Đương nhiên là tâm địa phải nên khoan dung, phải nên như pháp, nhưng đối với các tâm niệm thế tục đă hết sức thuần thục, hoặc các thói quen trong phương thức tư duy, và phương thức sống thuộc về nghiệp lực luân hồi, đừng dung túng chính ḿnh! Như thế th́ đối với pháp, chúng ta sẽ có cái tâm hướng về, có cái tâm mạnh mẽ. Do vậy, thiện căn tinh tấn sẽ dễ chín muồi!

          Dựa theo lời thọ kư của đức Thế Tôn, thời đại này là thời đại chẳng có sức tu tŕ. V́ sao đức Thế Tôn lại thọ kư pháp hội Ban Châu sẽ thịnh hành rộng răi trong cơi đời? Chính là do oai đức, thần lực, thệ nguyện của đức Thế Tôn gia bị, phước đức của đức Thế Tôn truyền lại cho chúng ta, khích lệ cơ duyên cuối cùng của chúng ta. Người trong thế giới Sa Bà do hành đạo và nghe pháp trong tuổi thọ trăm năm, sẽ khó thể tư duy, quán kỹ các hữu t́nh thuộc các thế giới ở phương khác, v́ thọ mạng quá ngắn ngủi. Chúng ta tự cho hoàn cảnh sống trong hiện thời vẫn rất ưu việt, nhưng nếu thật sự biết các thế giới ở phương khác, hoặc là hoàn cảnh sống và t́nh huống thọ mạng của những vị thiện căn thành thục, hay công đức thành tựu thù thắng, nhất định là chúng ta sẽ khóc ̣a, tuôn lệ, nhất định sẽ quư trọng sự liên tục nơi sanh mạng của chính ḿnh trong mỗi phút, mỗi giây. V́ sao? Do có cảm giác tương phản cực lớn. Nếu chúng tôi so sánh [phước đức của chúng ta với] phước đức của người có thọ mạng tám vạn bốn ngàn năm, quư vị sẽ nói: “Tôi lại chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng biết, so sánh bằng cách nào?” Có thể nương theo kinh giáo để so sánh. Chẳng hạn như trong quần thể sanh tồn của nhân loại, thiện căn, phước đức, nhân duyên và quả báo đă thấy khác biệt rất lớn. Có người thân thể rất khỏe mạnh, có người thọ mạng khá dài, có kẻ rất trẻ đă chết non, có người đến tuổi trung niên mới từ trần, có người mắc đủ các thứ bệnh tật khó thể nói trọn, có người sống trong các khu vực thiếu thốn tài nguyên sanh hoạt, có người sống ở nơi có hoàn cảnh khí hậu ác liệt, có người sống trong hoàn cảnh phước đức khá đầy đủ, điều kiện khá hoàn thiện. Những khác biệt ấy mọi người đều có thể trông thấy, nhưng nếu so sánh với các hữu t́nh trọn đủ phước đức ở phương khác, sẽ rất giống với từng chút sai biệt ấy. V́ sao thường nhắc tới những lời lẽ ấy? Vẫn là v́ cổ vũ chúng ta biết rơ vô thường, thường niệm vô thường.

          Pháp sư Ấn Quang có một câu nói mười phần cảm động ḷng người! Các vị thiện tri thức thuở trước, hễ thuyết pháp cho đến dặn ḍ, lời lẽ đều rất sâu nặng v́ bi tâm cùng cực, thúc giục, cảnh tỉnh kẻ mạt học, khiến cho người đời sau thể tỉnh ngộ hiện duyên và cơ chế của chính ḿnh. V́ thế, lăo pháp sư nói “dùng một chữ Chết dán lên trán”. Chúng ta chẳng biết sanh mạng này ngày nào sẽ vùi xuống đất vàng, hoặc thành một nắm tro xương? Ai nấy đều khó tránh khỏi, thời tiết nhân duyên nào vậy? Có mấy ai có thể biết rơ, có mấy ai có thể nắm vững, có mấy ai có thể chọn lựa? Đối với chuyện này, quả thật chúng ta phải nên chánh quan sát, chánh tư duy. Nếu chẳng dán chữ Chết trên trán, chúng ta rất khó thể thật sự tư duy pháp tắc này! V́ cái tâm tương tục nơi hậu hữu mười phần xa rộng; cho nên người ta thường chẳng khéo tiếp nhận chữ Chết. Có các giáo ngôn nhằm dạy chúng ta tu tŕ sự an lạc đối với tử vong, quan tâm tử vong, sanh ḷng hớn hở đối với tử vong, vui sướng đối với tử vong, không ngừng vun bồi cho chính ḿnh cảm giác chẳng sợ hăi và thân thiết đối với tử vong. Cách tu vô úy đối với tử vong cho đến các pháp quan sát ấy khiến cho chúng ta có thể vứt bỏ Ngă Chấp. Nếu chẳng thường xuyên tu tập như thế, sẽ có các cách suy nghĩ như “vô thường đại quỷ dường như chẳng thể giết chúng ta, chúng ta hăy c̣n trẻ, c̣n khỏe mạnh, c̣n có nhiều cơ chế mà ta vẫn chưa can dự” v.v… Các pháp vừa nói đó, không ǵ chẳng nhằm khiến cho mọi người tư duy, tham chiếu “yếm ly nhất thiết chư hậu hữu” (chán ĺa hết thảy hậu hữu), “trí giả bất nguyện nhất thiết sanh” (người trí chẳng nguyện hết thảy các thứ sanh).

 

          (Kinh) Bất dụng nhất thiết chư ngoại luận, năi chí ngữ ngôn bất thính thọ.

          ()不用一切諸外論。乃至語言不聽受。

          (Kinh: Chẳng dùng hết thảy các ngoại luận, cho đến lời lẽ chẳng nghe nhận).

 

          “Cầu pháp ngoài tâm” chính là ngoại đạo, chính là tri kiến của ngoại đạo! Chúng ta thật sự chẳng nên bị ràng buộc quá lố bởi các cảnh giới và tạp duyên, hăy nên thấu đạt trực tiếp bổn tâm, trực tiếp thấu triệt cội nguồn, thấy trực tiếp pháp tắc, chẳng dụng công hư giả, ủy khuất để đi theo nhiều con đường ṿng, đạt lợi ích ít ỏi, tức là nhọc nhằn lắm nỗi mà chẳng đạt được lợi ích. V́ thế, “năi chí ngữ ngôn bất thính thọ” (cho đến chẳng nghe nhận lời lẽ [của ngoại đạo]). Nếu chẳng có tri thức tương ứng, phần nhiều sẽ bị thị phi, rối ren mê hoặc tâm trí của chúng ta, khiến cho chúng ta chấp trước sự tướng. Hăy đừng nghe những lời lẽ ấy, trước hết, hăy gạt nó qua một bên, tự ḿnh niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Tam Bảo, nghĩ thương xót, dùng phương tiện như thế, cộng trụ và cư xử với nhau như thế th́ sẽ có sự gia tŕ thanh tịnh và khích lệ lẫn nhau, sẽ hữu ư hay vô ư tạo lợi ích cho nhau!

          Chúng ta nói như thế, và cũng phải không ngừng làm như thế, chẳng quản người khác đánh chửi, tán thán, hay khinh nhục chính ḿnh, chúng ta cứ quan sát như vậy. Trên thực tế, đánh chửi, tán thán, khinh nhục, cho đến chửi rủa, đích xác là chẳng phải do chúng ta nghe nhận. Nếu đối với chỗ này mà mê hoặc, đắm nhiễm, cho là có thật, chúng ta sẽ đánh mất cơ chế tu tập hành pháp hoặc niệm Phật trong hiện tiền, kết quả là vẫn bị tri kiến của ngoại đạo gây rối, chịu nhiều nỗi ủy khuất. Sự ủy khuất ấy kéo dài càng lâu, chúng ta ĺa pháp càng xa, mà cũng xa ĺa lợi ích thật sự càng xa. Do đó, mê mất càng lâu. Chúng ta trải qua một khoảng thời gian học tập, tri kiến đại khái đă chẳng có vấn đề, nhưng đă vận dụng được hay chưa? Vẫn phải tùy thuộc mỗi vị thiện tri thức tự ḿnh chiếu kiến trong hiện tiền. Chúng ta chỉ có thể tự ḿnh xem xét, chứ xét đoán người khác sẽ gặp quá nhiều khó khăn, quá nhiều nỗi bất tiện, quá nhiều thứ nặng nề, quá nhiều thứ chẳng thể nắm bắt! Hăy xét kỹ tự tâm, nhận biết vạn pháp duy tâm, nhận biết cảnh giới Nhất Thật, nhận biết vốn chẳng sanh diệt, đích xác sẽ là mười phần pháp hỷ, mười phần thiện xảo.

 

          (Kinh) Vĩnh đoạn thế gian chư ngũ dục, nhược năng như thị chứng tam-muội.

          ()永斷世間諸五欲。若能如是證三昧。

          (Kinh: Vĩnh viễn đoạn ngũ dục thế gian, được như thế sẽ chứng tam-muội).

         

          Đối với “ngũ dục”, chúng ta hiểu khá rơ ràng, rất dễ cảm nhận được. “Vĩnh đoạn” (vĩnh viễn dứt trừ), đừng sợ hăi! Trong hành vi mà sợ hăi “vĩnh đoạn” th́ chúng ta chẳng ngại trước hết hăy dùng tâm niệm để “vĩnh đoạn”, dùng ư thức để luyện tập, kiến lập một trụ xứ an lạc để vĩnh viễn đoạn trừ ngũ dục trong vương quốc ư niệm, cũng là dùng niềm vui do năm pháp, tức “giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến” để quan sát, dùng niềm vui do từ bi độ chúng sanh để quan sát, dùng Thiền Định, thần thông, đại phương tiện để quan sát lỗi họa của ngũ dục. Như thế th́ chúng ta sẽ chẳng đắm ch́m trong ràng buộc của ngũ dục và thế tục.

          Chúng ta phải xét kỹ tự tâm, đừng bận tâm [xét đoán] người khác, v́ khi xoi mói người khác, sẽ thường là dùng vọng niệm để suy đoán, có quá nhiều khổ nạn và chẳng tương ứng. Nếu chúng ta ai nấy đều hướng theo ngoại duyên để suy lường, như thế sẽ chẳng phải là một đạo tràng, mọi người sẽ tranh đấu, vô duyên cớ tranh đấu, tranh đấu chẳng có ngằn hạn. Nhưng khi mỗi người chúng ta tự xét ḿnh, đạo nghiệp sẽ tồn tại, đạo tràng tồn tại. Mỗi người tự xét kỹ tâm ḿnh sẽ là lợi ích lẫn nhau; như thế th́ Phật pháp sẽ thanh tịnh, sẽ tiếp tục tồn tại không sợ hăi. Người học Phật chúng ta phải nên sanh tâm vô úy, cho nên nêu ra ư kiến hoặc thuyết giáo cho người khác, nhất định là phải nên vô úy, thậm chí đối với nghiệp xứ cũng phải nên vô úy. V́ sao? Trong quá tŕnh tiếp nối sanh mạng của chúng ta, nhất là hữu t́nh phàm phu, c̣n có khá nhiều nghiệp tập phiền năo đă biết hoặc chưa biết. Đối với những điều đă biết, chúng ta hăy khéo sám hối, đó là sự chuyển hóa tăng thượng rất tốt. Nếu chẳng biết, vẫn thật sự cần người sáng suốt hoặc người hiểu biết khéo cảnh tỉnh.

          Chư vị thiện tri thức ơi! Chúng ta nhận thức “vĩnh đoạn thế gian chư ngũ dục” (vĩnh viễn đoạn các ngũ dục trong thế gian) như thế nào? Trước hết, trong ư thức phải dám nghĩ tưởng; sau đấy mới có thể thật sự thực hiện nơi nghiệp tướng! Cho đến đối với quả báo trong đời vị lai, chúng ta mới có thể thật sự từ trong sức thần thông oai đức rộng lớn, trong sự thiện xảo, trong phương tiện độ sanh, trong cơi nước thanh tịnh của chính ḿnh mà lợi ích rộng khắp trời người, ta lẫn người đều viên măn. Nếu ư niệm c̣n chưa mơ tưởng tới [chuyện vĩnh viễn đoạn trừ ngũ dục thế gian], tự tâm vẫn c̣n mê mờ trong tham, sân, si, tà kiến, hai thứ chánh báo và y báo của chính ḿnh vẫn bị vùi dập trong phiền năo thô trọng th́ quả thật vẫn là khá khổ năo. V́ chúng ta đă biết: Nếu một pháp có thể tự hại, sẽ có thể nghịch hại các hữu t́nh chung quanh. Nếu [một pháp] có thể tự lợi, sẽ có lúc vô ư thức mà lợi ích hữu t́nh.

          “Vĩnh đoạn thế gian chư ngũ dục, nhược năng như thị chứng tam-muội” (vĩnh viễn đoạn trừ các ngũ dục trong thế gian. Nếu có thể như thế th́ sẽ chứng tam-muội): Đối với Ban Châu tam-muội, tuy chưa đoạn ngũ dục, đă có thể khiến cho mười phương chư Phật thảy đều hiện tiền, tuyên nói chánh pháp, khiến cho chúng ta tiến nhập Vô Sanh Nhẫn, chứng đắc các thứ thiện xảo. Chúng ta đọc một đoạn văn tự trả lời ngài Viễn Công của La Thập đại sư. La Thập đại sư nêu ra sự tu chứng của mấy loại tam-muội lực và mấy loại nhân duyên thấy Phật, như vừa mở đầu [khóa giảng kinh này], chúng tôi đă nhắc tới bốn pháp để thấy Phật: Trong cảnh giới hiện tiền, hoặc trong mộng, hoặc khi xả báo, hoặc trong Thiền Định có thể thấy chư Phật. Trong bốn pháp đó, chúng ta có thể sử dụng phương pháp nào để thấy Phật? Nếu có tịnh dục Bồ Tát đạt được thiện xảo do các sức thần thông, có Thân Như Ư Thông, có thể qua lại các thế giới ở phương khác, muốn thấy Phật ở các phương khác. Do nương vào sức thần thông, trong khoảng nháy mắt đă đến nơi, đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn, thiện xảo nghe pháp. Đó là người thiện căn đă chín muồi. Chẳng có sức thần thông như thế th́ làm như thế nào? Nhất là hàng phàm phu chưa tịnh dục (chưa trừ sạch các dục vọng), làm thế nào để có thể thấy Phật, nghe pháp trong hiện tiền? Ban Châu tam-muội là một giáo ngôn bất cộng: “Vĩnh đoạn thế gian chư ngũ dục” (vĩnh viễn đoạn ngũ dục của thế gian). Tuy là một sự chỉ dạy dành cho người trí, dành cho người có cái tâm mạnh mẽ mong thấy Phật, vẫn chẳng bỏ sót người có thiện căn. Vậy th́ quư vị nói: “Đối với ngũ dục trong thế giới này, tâm tham ái của tôi quá lừng lẫy, tôi tu tập pháp tắc này bằng cách nào đây?” Thật sự là khi niệm Phật, khi kinh hành, tức là trong lúc chuyên tu, hăy dũng mănh ĺa bỏ th́ cũng đạt được phương tiện.

          V́ hiện thời, trong khi hành pháp, chúng ta vẫn chưa chứng, dẫu đă chứng đắc A La Hán, vẫn chẳng thấy biết tâm trí bản chất trong quá khứ, hiện tại, vị lai của hữu t́nh ở chỗ nào. Do vậy, sẽ chẳng thể phát hiện thiện căn của người khác. V́ thế, trong thời đạt Mạt Pháp mà suy lường người khác, sẽ đặc biệt khó khăn. Nhưng trong thời đại này, kẻ chú ư ngôn thuyết của người khác, quan tâm nghiệp tướng quanh ḿnh khá nhiều, mà kẻ thủ hộ tự tâm, hiểu thấu tự tâm, người tu pháp hiểu biết tự tâm lẫn nhau đâm ra hiếm hoi! Do vậy, chúng ta hăy nên xét kỹ trong tâm niệm, chẳng cần nhất định phải lập tức tiếp nhận nơi sự tướng, chỉ cần có thể thử thí nghiệm trong tâm niệm. Nếu như trong hiện thực chẳng làm được, th́ có thể thử trong mộng!

 

          (Kinh) Thanh tịnh tŕ giới trụ phạm hạnh, sở sanh bất niệm chư nữ nhân, thâm yếm ngũ dục chân Phật tử, nhược năng như thị, chứng tam-muội.

          ()清淨持戒住梵行。所生不念諸女人。深厭五欲真佛子。若能如是證三昧。

          (Kinh: Tŕ giới thanh tịnh, trụ phạm hạnh. Suốt đời chẳng nghĩ các nữ nhân, Chân Phật tử chán sâu ngũ dục. Được như thế, sẽ chứng tam-muội).

 

          Đây là đối với các tỳ-kheo, sa-di, ưu-bà-tắc mà nêu ra pháp tắc. Nếu đối với nữ chúng, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-di sẽ nói ngược lại (suốt đời chẳng nghĩ tới nam nhân), chúng ta phải xét kỹ và quan sát.

 

          (Kinh) Thường hành đại thí bất cầu báo, diệc vô trụ trước hối hận tâm, nhất xả dĩ hậu bất trùng duyên, duy đương nhiếp niệm tư chư Phật.

          ()常行大施不求報。亦無住著悔恨心。一舍已後不重緣。唯當攝念思諸佛。

          (Kinh: Thường bố thí lớn, chẳng cầu báo, cũng chẳng chấp giữ tâm hối hận, hễ đă xả rồi chẳng nghĩ nữa, chỉ nên nhiếp niệm nghĩ chư Phật).

 

          Đối với bọn phàm phu hữu t́nh chúng ta mà nói, khẳng định là cần phải có tâm trí mười phần mạnh mẽ th́ mới có thể tiếp nhận pháp tắc như thế. Khá nhiều vị cư sĩ phát tâm xuất gia, cũng như đoản kỳ xuất gia, và người xuất gia trường kỳ, thường có cảm giác như sau: Ngay cả nhà mà ta c̣n bỏ, há c̣n có ǵ để luyến tiếc nữa? Nhưng quư vị lắng ḷng tư duy, hễ gặp các thuận duyên, các nhân duyên khiến cho quư vị hoan hỷ, dễ đắm nhiễm mà có thể quan sát, chẳng dễ dăi mang theo các chủng tử ấy, đối với các chủng tử từ vô thỉ đến nay và các chủng tử từ ư thức hiện duyên trong hiện tại, nếu chúng ta chẳng sợ hăi, “nhất xả dĩ hậu, bất trùng duyên, duy đương nhiếp niệm tư chư Phật” (hễ đă xả rồi, chẳng duyên (nghĩ tưởng) chuyện ấy nữa, chỉ nên thâu nhiếp ư niệm, nghĩ tới chư Phật), th́ sẽ là mười phần có ư nghĩa.

          “Thường hành đại thí bất cầu báo, diệc trụ trước hối hận tâm” (thường bố thí to lớn mà chẳng cần được báo đáp, cũng chẳng chấp giữ cái tâm hối hận). Đấy thật sự là thiện căn cực lớn, là phước báo cực lớn đă chín muồi, là phước báo cực phong phú, là tâm trí đầy đủ tột bậc. Nói tới “đại thí” mà chẳng cầu được báo đáp chính là đại thí. Nếu đem những thứ trân quư, đáng yêu mến ra bố thí cho các hữu t́nh nghèo khổ, thiếu thốn, cúng dường Tam Bảo ḥng lợi ích thế gian rộng khắp, cho đến cứu tế những chỗ bị tai nạn, chẳng có tâm mong được đền đáp, mà cũng chẳng có tâm hối hận, người ấy phước đức trọn đủ, giống như người thể lực sung măn, chẳng v́ làm chút việc nặng bị mệt mỏi, bèn nẩy sanh tâm lư hối hận, sợ hăi. Đó chính là tướng phước đức tràn trề.

          “Nhất xả dĩ hậu, bất trùng duyên” (hễ đă xả rồi, chẳng duyên theo chuyện ấy nữa), “xả” ở đây là bố thí. Chúng ta có thể bố thí các vật hết sức nhiều. Có khi bèn bố thí cho người khác một pháp tắc, một niệm từ bi, so với bố thí tài vật càng khó hơn, v́ tài sản vẫn là vật ngoài thân. Đối với chuyện này, tôi lănh hội mười phần sâu đậm! Có lúc sanh mạng gặp khó khăn chồng chất, đạt được chút ít tương tự pháp ích, khi đó, nếu nói với người khác, sẽ càng có ư tưởng tiếc pháp, từ vô thức mà có ư niệm ấy, thường mượn cớ “chẳng dễ dăi chấp thuận nói cho người khác, kẻ đó chẳng biết trân quư”, chẳng mong nói với người khác. Keo tiếc tài vật, có thể là trong tâm trí của người đời, nhưng cái tâm keo tiếc pháp của người học Phật cũng hết sức dễ dàng xuất hiện! Chẳng hạn như đối với từ bi mà keo tiếc pháp, tức là dùng cái tâm từ bi để lợi lạc người khác, chiếu cố hữu t́nh. Lại như dùng tâm trí huệ để hồi thí hữu t́nh, dùng tâm vô úy để hồi thí hữu t́nh, quư vị chẳng muốn hồi thí, đó cũng là chẳng bố thí pháp! Như thế th́ sẽ h́nh thành chướng ngại đối với pháp. Rất nhiều hữu t́nh bị chướng ngại rất lớn đối với pháp chẳng biết trợ hỷ, chẳng tùy hỷ, thường phá hoại nhân duyên tốt lành của người khác, chẳng thành thục người khác, chẳng tăng thượng người khác. Người như vậy mà muốn hành pháp, sẽ gặp nhiều chướng ngại nơi đạo nghiệp.

          Bố thí pháp, nhất là trong đạo tràng, sự tu tŕ này đối với chúng ta rất trọng yếu. V́ trong đạo tràng, vận dụng tài bố thí sẽ chẳng được mười phần rộng khắp, nhưng vận dụng bố thí trí huệ, bố thí từ bi, bố thí vô úy, sẽ hết sức thường xuyên. Nhưng ở nơi đó, bại hoại hoặc đánh mất cơ hội cũng hết sức nhiều. Chẳng hạn như đối với người đắm nhiễm, phải nên bố thí trí huệ. Đối với ác tánh hữu t́nh, phải nên bố thí từ bi. Đối với hữu t́nh ghen tỵ, phải nên bố thí tùy hỷ. Đối với hữu t́nh chẳng khỏe mạnh, tà kiến, hăy nên bố thí chánh kiến. Chúng ta có thể quan sát chuyện này!

          Bố thí, đích xác là chẳng nên cầu được báo đền, mà cũng chẳng có người có thể báo đền. V́ bản thân của bố thí là lợi ích, là pháp tu, là thành tựu, không có ǵ để có thể báo đền. Chúng ta tu hành trong đạo tràng như thế đó, cơ hội thành tựu đạo nghiệp cũng khác với lúc ở nhà, khác với hoàn cảnh thế tục. Chư vị thiện tri thức ơi! Tôi khao khát mọi người hăy như pháp bố thí pháp tắc trí huệ, từ bi, phương tiện, chánh kiến mà chúng ta đă học được, khiến cho hữu t́nh chẳng khỏe mạnh, kể cả thân tâm chẳng khỏe mạnh của chính ḿnh đều được kịp thời điều chỉnh. Như thế th́ chúng ta sẽ khiến cho đạo tràng dần dần hoàn thiện, khiến cho đạo nghiệp của chính ḿnh dần dần thuần thục. Chúng ta hăy khéo tư duy, khéo quan sát!

 

          (Kinh) Lân mẫn chúng sanh hành thí thời, quyết định trừ nghi vô biến thoái, an trụ điều nhu nhi tu thí, nhược năng như thị, đắc tam-muội.

          ()憐愍衆生行施時。決定除疑無變退。安住調柔而修施。若能如是得三昧。

          (Kinh: Khi thương xót chúng sanh bố thí, quyết định trừ nghi, chẳng lui sụt, an trụ điều nhu mà bố thí. Được như thế, sẽ đắc tam-muội).

 

          Nếu khéo dùng năm đức để khuyên can người khác ḥng lợi ích hữu t́nh trong thế gian, đắc tam-muội cũng chẳng phải là chuyện khó. Quán Thế Âm Bồ Tát có một danh hiệu là Thí Vô Úy Giả (đấng ban cho sự không sợ hăi). Thật ra, chư Phật Thế Tôn đă thọ kư rơ ràng cho hết thảy các vị Bồ Tát Ma Ha Tát, nói hết thảy các vị Bồ Tát Ma Ha Tát khéo trụ trong thế gian, khéo lợi ích thế gian, làm người ban cho thế gian sự an ủi lớn. V́ sao? Chính là đấng thí vô úy, là đấng tài bố thí và pháp bố thí rộng lớn. Vô úy thí là sự bố thí quan trọng nhất, v́ sự bố thí ấy có thể đoạn trừ sự mê hoặc của con người đối với pháp, đối với sự xuất ly sanh tử, cũng như nỗi khổ sợ hăi luân hồi trong thế gian, có thể khiến cho chúng ta hiểu rơ pháp, hiểu thấu suốt cách chọn lựa. Nếu quư vị chẳng hiểu rơ, chẳng thấy thấu suốt để chọn lựa, sẽ rất khó an ủi kẻ khác. Nếu có chánh tri kiến và pháp tắc thiện xảo, sẽ có thể khiến cho chúng sanh gột sạch nghi hoặc, khiến cho tâm trí của họ chẳng nhiễm, mất đi nỗi sợ hăi. Như thế th́ quư vị cũng sẽ đạt được danh hiệu Thí Vô Úy của Quán Thế Âm, cũng là danh hiệu từ bi. V́ nói “khéo quán âm thanh của thế gian” tức là khéo quan sát âm thanh khổ sở, nhọc nhằn, âm thanh mê hoặc của thế gian, để ban cho chúng sanh sự không sợ hăi.

          Đối với người học Phật chúng ta, nhất là nói theo người niệm Phật, đây là sự tu tŕ mười phần trọng yếu, như trong Hồi Hướng Môn thuộc năm môn tu tŕ trong Văng Sanh Luận đă có nói: “Bất xả nhất thiết khổ năo chúng sanh, tâm thường tác nguyện hồi hướng vi thủ, đắc thành tựu đại bi tâm cố” (Chẳng xả hết thảy chúng sanh khổ năo, tâm thường phát nguyện hồi hướng làm đầu, v́ để thành tựu tâm đại bi). Hồi hướng ǵ vậy? Muốn khiến cho hết thảy chúng sanh văng sanh quốc độ của A Di Đà Phật, chẳng sợ hăi! V́ sao? Do nương vào nguyện lực của Phật, liền nhập Chánh Định Tụ. Do Phật lực trụ tŕ, khiến cho hữu t́nh bất thoái. Phật lực hiển hiện ở nơi đâu? Khi chúng sanh tùy thuận liền được thành tựu. Đối với một niệm tùy thuận này, một niệm sợ hăi, kẻ sợ hăi liền hiện nghiệp phàm phu. Kẻ tùy thuận liền hiện Chánh Định Tụ, tức là chư Phật nghiệp. Quư vị chẳng ngừng tư duy như thế, quan sát như thế, tư duy như pháp, quan sát như pháp, thân tâm sẽ an lạc, ban cho chúng sanh sự chọn lựa vô úy. Không chỉ thí vô úy, mà c̣n để cho đối phương chọn lựa. V́ sao phải chọn lựa? Khiến cho họ như thật an trụ, chẳng có thoái chuyển.

          Do vậy, trong học pháp, nhất là trong ba tiến tŕnh học pháp của người xuất gia, tức giảng kinh là pháp thứ nhất, biện luận kinh là pháp thứ hai, trước tác là pháp thứ ba. Đương nhiên là đối với bậc tại gia thiện xảo A Xà Lê, cũng ắt phải tu ba pháp ấy. Trong ấy, giảng kinh thật sự chẳng phải là thuyết giảng, mà là như thật hiểu biết tự tâm, như thật biết tâm của người khác, như thật biết Phật tâm. Khi “tâm, Phật, chúng sanh chẳng khác biệt” bèn khẳng định tự tâm. Đó bất quá là khởi đầu của cái gọi là biện luận kinh thiện xảogiảng kinh. Sau đấy, quư vị có thể trước tác. Trước tác ǵ vậy? Trước tác về giáo ngôn chân chánh, khiến cho người trong thế gian có cái để nương theo. Đấy là lộ tŕnh ắt phải theo đuổi trong một đời của hết thảy các vị thiện tri thức trong quá khứ muốn đạt được thành tựu. Đương nhiên đấy chính là cái được gọi là “sự tuyên nói nghĩa lư theo thứ tự trong đạo”. Trong quá tŕnh tu pháp, chúng ta cũng phải nên làm như thế. Trong lúc b́nh thời, chẳng đánh mất mỗi hiện duyên “bố thí sự an ủi cho chúng sanh”, tức là bố thí pháp giáo, ban trí huệ cho kẻ ngu si, ban từ bi cho người sân hận điên đảo, ban chánh kiến cho người tà kiến, khiến cho kẻ lạc lối biết được đường nẻo. Do vậy, “an trụ điều nhu nhi hành thí, nhược năng như thị, đắc tam-muội” (an trụ trong điều phục, nhu thuận để bố thí. Nếu có thể làm như thế, sẽ đắc tam-muội), điều này rất trọng yếu!

 

          (Kinh) Nhược ư tài thí vi đại chủ, vô hữu kiêu mạn, tật đố tâm, hành nhất thiết thí thường dũng dược. Nhược năng như thị, đắc tam-muội.

          ()若於財施爲大主。無有憍慢嫉妒心。行一切施常踊躍。若能如是得三昧。

          (Kinh: Nếu rộng bố thí nơi tài vật, chẳng sanh tâm kiêu mạn, ghét ganh, hớn hở thường hành hết thảy thí. Được như thế, sẽ đắc tam-muội).

 

          Tâm chẳng vướng mắc. Do chẳng vướng mắc, rộng thí hết thảy pháp tắc, cho đến thí rộng khắp hết thảy các thứ tài thí, pháp thí, vô úy, khiến cho chúng sanh an lạc, khiến cho kẻ hữu duyên có thể trụ trong an lạc. Học tập Phật pháp, đích xác là phải nên khéo điều phục cái tâm con người, khéo đối trị các bệnh tật như thế đó.

          Trong thời đại này, nếu chúng ta chẳng nhờ vào một pháp tắc rơ ràng, ḿnh lẫn người sẽ đều bị mê mất, cho đến vốn muốn chữa trị, kết quả đâm ra là mắc hại, v́ dùng sai thuốc! Gặp phải bác sĩ tham tiền, đúng là khiến cho kẻ khác chết oan! Do vậy, nếu một pháp tắc có giáo pháp lưu truyền rộng răi, có kinh điển để nương theo, mọi người có thể cùng xét kỹ, cùng tu tập, độ trong suốt[2] như thế sẽ rất lớn. Như pháp môn Niệm Phật trong hiện thời, hay hành pháp Ban Châu do có kinh điển, được truyền bá từ thế hệ này sang thế hệ khác trải các đời, cho nên đối với pháp này, mọi người chẳng sợ hăi mà tu tập. Chẳng cần phải bàn bạc chi khác, cứ một mực thực hành như thế. Nhưng nếu trong một pháp tắc có khá nhiều tạp duyên, có rất nhiều đặc tánh mọi người chẳng thể cùng biết, quả thật sẽ rất khó thấy thấu suốt, rất khó tư duy, rất khó cùng nhau tu tập, cùng nhau quán chiếu. V́ thế, tôi cảm thấy người thật sự gặp gỡ Tịnh Độ, chọn lựa pháp Tịnh Độ, chính là mười phần phước báo. Đối với pháp tắc này là pháp đă được mọi người xem xét, tu tập, hiểu thấu từ xưa đến nay, lại có các hữu t́nh ngược ngạo cho là pháp tầm thường, nhạt nhẽo vô vị, chẳng yêu thích, chẳng thâm nhập, chẳng tu tập, chẳng thấy là lạ lùng. Thật ra, chỗ chẳng lạ lùng, chỗ b́nh phàm, chính là chỗ công đức đặc biệt, ưu việt, chẳng thể nghĩ bàn! Vẫn mong mọi người hăy suy nghĩ chỗ này!

 

          (Kinh) Hựu ư pháp thí vi thượng thủ, thiện giải vi diệu Tu Đa La. Năng tri thậm thâm tịch diệt pháp. Nhược năng như thị, đắc tam-muội.

          ()又於法施爲上首。善解微妙修多羅。能知甚深寂滅法。若能如是得三昧。

          (Kinh: Lại với pháp thí, làm thượng thủ, khéo hiểu Tu Đa La vi diệu. Hay biết pháp tịch diệt rất sâu. Được như thế, sẽ đắc tam-muội).

 

          Chư vị thiện tri thức ơi! Trong Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm, có nói pháp cúng dường là sự cúng dường tối thượng, hết thảy các cúng dường chẳng thể sánh bằng. Đích xác là trong hết thảy các sự bố thí, pháp thí trực tiếp nhất, rốt ráo nhất, thiện xảo nhất; các sự bố thí khác là kết duyên, phương tiện, tăng thượng mà thôi. Đương nhiên, trong các pháp, nếu vô duyên, sẽ chẳng thể trao đổi, nhưng nếu chẳng có pháp thí, mọi người sẽ chẳng thể đạt được giải thoát, chẳng thể đạt được lợi ích chân thật.

 

          (Kinh) An trụ thậm thâm chư pháp trung, thiện năng kham nhẫn, vô tật đố, tuy bị qua mạ vô năo hận, nhược năng như thị, đắc tam-muội.

          ()安住甚深諸法中。善能堪忍無嫉妒。雖被撾罵無惱恨。若能如是得三昧。

          (Kinh: An trụ trong các pháp rất sâu, khéo hay kham nhẫn, chẳng ghen tỵ. Tuy bị đánh chửi, chẳng bực hận. Được như thế, sẽ đắc tam-muội).

 

          “Thiện năng kham nhẫn, vô tật đố” (khéo có thể kham nhẫn, chẳng ghen tỵ): V́ sao chỗ nào cũng đều ghen tỵ? V́ hữu t́nh trong đời Mạt Pháp tranh căi quá nhiều, người tùy hỷ quá ít. Nhất là đối với những thứ ḿnh yêu thích, tự ḿnh cho là đúng, sẽ dễ nẩy sanh ghen tỵ. Nếu chúng ta khéo quan sát động niệm và thói quen trong tâm linh, sẽ có thể diệt trừ sự chấp trước đối với nghiệp hư giả của chính ḿnh từ vô thỉ đến nay, sẽ chẳng lầm tưởng nghiệp tập là tự ngă. Chúng ta thường coi nghiệp tập phiền năo là ngă, nắm chặt chẳng buông. Có kẻ ngỡ tội nghiệp là ngă, chẳng hạn như trót tạo một lỗi lầm, bèn nghĩ hễ người khác nói đến lỗi lầm đó sẽ là nói động đến ta! Nắm chặt khư khư, nói: Nếu mày nói động đến tao, tao sẽ liều mạng với mày”. Thật ra, tội ác chẳng phải là quư vị, nó chẳng thuộc về quư vị, nó vốn chẳng có tự tánh. Nghiệp tập của chúng ta cũng giống như thế. Tên gọi của chúng ta cũng giống như thế. Chẳng hạn như các danh tự Trương Tam, Lư Tứ cũng là vô tự tánh; nhưng thường là nếu ai réo cái tên ấy để mắng chửi, khi đó, cái tên ấy sẽ có tự tánh ngay! Chúng ta sẽ gắn chặt nó vào thân, buộc chặt vào ḿnh, canh cánh trong ḷng, in hằn vào óc. Sau đó, nó trở thành một nghiệp tướng. Vậy là chúng ta chẳng biết pháp chẳng có tự tánh. Quả thật, chớ nên như thế, nhất là cứ ôm chặt nghiệp tập và lỗi lầm chẳng buông, cho là chính ḿnh, đó là lúc khổ nhất của chúng ta.

          “Tuy bị qua mạ, vô hận năo” (dẫu bị đánh chửi, chẳng sân hận, bực bội): Bị người khác chửi bới, thương tổn, chẳng hối hận hay tức giận. Tu tŕ trong nghịch duyên là chân thật nhất. Trong thời Mạt Pháp, nghịch duyên hừng hực, thuận duyên hiếm hoi! Có người nói kẻ nào đó “vẻ mặt lầm ĺ khó ưa”; thật ra, mọi người đừng mong vẻ mặt người khác luôn dễ coi. Có đôi khi trong tâm người ấy quá căng thẳng, hoặc là chẳng biết chính ḿnh đang quá căng thẳng. Chúng ta cười x̣a là xong, thật sự chớ nên so đo khuyết điểm. Chớ nên coi lỗi lầm thành ta, chớ nên coi danh tự thành ta, chớ nên coi nghiệp tập thành ta. Các thiện tri thức vốn vô ngă, sao lại kiến lập cái Ngă? Nhất định phải tự hỏi chính ḿnh, thiện ngă c̣n chẳng thể được, sao lại có thể cưỡng chấp ác ngă? Chúng ta phải nên chọn lựa!

 

          (Kinh) Hoặc thời văn thuyết thử kinh điển, thư tả, độc tụng, xảo quảng tuyên, duy vị pháp trụ lợi thế gian. Nhược năng như thị, đắc tam-muội. Ư chư pháp trung, bất bí lận, bất cầu lợi dưỡng cập danh văn, đản vị thiệu long chư Phật chủng, nhược năng như thị chứng tam-muội.

          ()或時聞說此經典。書寫讀誦巧廣宣。唯爲法住利世間。若能如是得三昧。於諸法中不祕吝。不求利養及名聞。但爲紹隆諸佛種。若能如是證三昧。

          (Kinh: Có lúc nghe nói kinh điển này, biên chép, đọc tụng, khéo rộng nói, chỉ v́ pháp trụ lợi thế gian. Được như thế, sẽ đắc tam-muội. Chẳng keo tiếc, giấu giếm các pháp, chẳng cầu lợi dưỡng và tiếng tăm, chỉ v́ rạng truyền gịng giống Phật. Được như thế, sẽ chứng tam-muội).

 

          “Ư chư pháp trung bất bí lận” (chẳng keo tiếc, giấu giếm các pháp): Chẳng keo tiếc pháp quả thật mười phần khó khăn! Nếu mọi người nương theo pháp để cư xử, nương theo pháp để giao tiếp, nương theo pháp để bố thí, nương theo pháp để chung sống, chưa nói đến một bầu ḥa khí, tối thiểu là sẽ có không khí vui sướng, rạng rỡ, có trạng thái tăng thượng đạo đức, có trạng thái dần dần khỏe mạnh, chẳng xuất hiện tướng trạng chệch choạc, chẳng xuất hiện tướng trạng khô héo. Đấy là lẽ tất nhiên. V́ trao ra chút phần pháp, sẽ khiến cho người khác được an lạc, chẳng cần nói tới pháp thí rộng lớn. Khi chúng ta thí pháp cho người khác, chính ḿnh đă đạt được pháp vị trước. Chẳng hạn như rất nhiều người buồn bă, kêu ca trong nhà có người bệnh. Tôi nói: “Như thế th́ tốt quá!” Cớ sao nói như vậy? V́ đấy chính là cơ hội cho quư vị tu pháp, cơ hội niệm Phật, cơ hội vun bồi cái tâm từ bi. V́ khi thấy những người khác [chẳng phải là người thân của chính ḿnh] mắc bệnh, gặp nạn, quư vị chẳng quan tâm cho lắm! Nếu quư vị nói chính ḿnh quan tâm, vậy th́ trong thiên hạ hằng ngày đều có người nhiễm bệnh, tử vong, hằng ngày đều có người đau khổ khó thể chịu đựng, sao quư vị chẳng niệm Phật, sao chẳng niệm Pháp, sao chẳng niệm Tăng hồi thí cho họ? Sủng vật (thú cưng, pet) trong nhà của chúng ta chết, ta sẽ khóc ṛng; ông bà của kẻ khác chết, ta đều chẳng bận tâm, v́ sao? [Ta chỉ buồn bă, đau ḷng khi người hay vật mất đi] có quan hệ với chính ḿnh. V́ thế, chúng ta học Phật, cũng đích xác là [pháp môn muốn tu học ấy] phải có quan hệ với chính ḿnh, có duyên thân thiết. Chẳng có duyên, sẽ không được. Ở đây vẫn là phải như thật quan sát. Hiện thời, chúng ta nghe nói kinh điển như thế, cho đến biên chép, đọc tụng, những điều ấy đều là kết duyên, đều là một duyên khởi để tu tập pháp tắc. Mọi người phải khéo quan sát ở chỗ này, chẳng cần để ư ai khác. Đối với cái gọi là “nhân duyên” của chính ḿnh, chỉ nên thủ hộ pháp tắc. “Đản vị thiệu long chư Phật chủng” (chỉ v́ tiếp nối hưng thịnh chủng tánh chư Phật), tức là khiến cho chánh pháp trụ thế, lưu truyền rộng răi trong thế gian.

 

          (Kinh) Viễn ly thùy miên dữ suy năo, trừ đoạn tật đố cập Cái Triền. Bất tự xưng tán, khinh hủy tha, năng diệt ngă tướng, đắc tam-muội.

          ()遠離睡眠與衰惱。除斷嫉妒及蓋纏。不自稱讚輕毀他。能滅我相得三昧。

          (Kinh: Xa ĺa ngủ nghê và suy năo, trừ dứt ghen tỵ và Cái Triền. Chẳng tự khen, khinh hủy kẻ khác. Diệt được ngă tướng, đắc tam-muội).

 

          “Viễn ly thùy miên dữ suy năo” (xa ĺa ngủ nghê và suy năo): Nếu ai có tâm trí cầu pháp chẳng mỏi mệt, thuyết pháp chẳng chán, tu pháp thường tinh tấn, sẽ chẳng có tướng suy năo. Có khi chúng ta chẳng nhắc đến chữ Mệt th́ c̣n được, vẫn quên bẵng duyên do. Hễ nhắc tới th́ duyên liền đưa đến, ngay lập tức mệt liền! Cái duyên đưa đến rốt cuộc là ǵ vậy? Giống như nắm lấy ḥn sắt nóng sẽ bị phỏng tay, duyên như thế đó! Đối với điều này, quư vị phải nên tin tưởng. Trong tâm trí phàm phu liền có yêu đắm, hễ tiếp xúc liền đạt được, tức là có thể cảm nhận được.

          “Trừ đoạn tật đố cập Cái Triền” (trừ dứt ghen tỵ và Cái Triền): Lại nhắc tới ghen tỵ. Ghen tỵ rất nguy hại cho thiện căn của chúng ta, tạo thành quá nhiều chướng ngại cho chúng ta. Đây là cái ải khó qua nhất đối với người trong thời Mạt Pháp. Háo thắng là do cái tâm ghen tỵ đem lại, tranh đấu do cái tâm ghen tỵ đem lại, quá khổ! Trong tâm của phàm phu thời Mạt Pháp, chủng tử ghen tỵ khá lớn, khá chín muồi. Nếu đó là mầm tiêu hạt lép th́ c̣n được, nhưng chủng tử quá chín muồi, sẽ đặc biệt dễ nẩy mầm!

          “Bất tự xưng tán, khinh hủy tha, năng diệt ngă tướng, đắc tam-muội” (Chẳng tự khen ḿnh, khinh hủy người khác. Có thể diệt ngă tướng, sẽ đắc tam-muội): Những điều đó là bệnh tướng trong thời đại này. Nếu bệnh ấy đă trừ, sẽ liền khỏe mạnh, sẽ có oai đức thiện xảo, sẽ có thể lợi ích thế gian. Khi tôi xuất gia, trong toàn thể nghiệp tướng, có một khoảng thời gian ba bốn năm, tôi cảm thấy lỗi lầm “tự khen ḿnh, chê người” là lỗi lầm tôi thường phạm, thường phải sám hối. Rất nhiều khi là vô ư thức, khi nghĩ lại mới biết là tự khen ḿnh, chê người. Nghiệp tập ở ngay chỗ đó, thường là ngay khi đó liền buột miệng nói ra. Lúc đó, vẫn cảm thấy rất có bi trí, nhưng lắng ḷng suy xét, chủng tử đă gieo ra vẫn là các thứ “tự khen ḿnh, chê người”. Nếu chẳng kịp thời sám hối, sẽ tăng thêm cái nghiệp tiếp nối. Các vị Bồ Tát ơi! Cái nghiệp tiếp nối ấy phiền phức nhất; đó chính là chấp giữ cái Ngă. Chúng ta do chẳng có ư thức bèn tạo tác nghiệp ấy, cái nghiệp tiếp nối. “Vô ư thức chính là vô minh, đó là Cái, là Triền. Đối với điều này, chỉ có người có tâm tư tỉ mỉ, người thuần thục pháp th́ mới có thể khéo quan sát, thủ hộ, nhưng người học Phật chúng ta đều phải nên quan sát cẩn thận, sâu xa. Về sau, tôi không ngừng quan sát nghiệp tập “tự khen ḿnh, chê người” của chính ḿnh, biết là do trong nghiệp tướng quá khứ của chính ḿnh, khi thường tự cho là đúng, tự cho rằng chính ḿnh có thiện căn, có tinh tấn, có hành pháp, có pháp tắc, sẽ dẫn tới nghiệp chủng tăm tối, vô ư thức “tự khen ḿnh, chê người”. Ai có thể đoạn trừ? Chỉ có tự ḿnh có thể quan sát, biết rơ. Thiện tri thức cũng có thể chỉ ra cho quư vị, giúp quư vị trừ bỏ lỗi lầm này. Trong thời đại của chúng ta, những kẻ đồng bệnh với tôi đặc biệt nhiều! Chúng ta đều nên xét kỹ chính ḿnh, v́ “tự khen ḿnh, chê người” quá vi tế, hễ chẳng nhận biết sẽ phạm ngay. Nhưng cái nghiệp tiếp nối này mười phần bất hảo, nhất là trong Bồ Tát giới, sẽ là phạm trọng giới, phạm căn bản giới, nhưng chúng ta thường vô ư thức vi phạm. Lỗi lầm của kẻ khác quá rơ ràng, xác thực, cứ thuận miệng nói ra sẽ mang tánh cách chỉ trích, có tánh cách gây thương tổn, biểu lộ ưu điểm của chính ḿnh, đánh mất tâm từ bi tâm trí huệ, tạo áp lực cho kẻ khác, chẳng phải là các thứ đem lại an lạc và vui sướng cho kẻ khác. Chẳng trừ căn bệnh ấy, nghiệp cứ tiếp nối, sẽ nguy hại cho thân tâm an khang, sẽ giống như tiếp tục bị bệnh vậy.

 

          (Kinh) Chánh tín chư Phật, cập Pháp, Tăng, thường hành thành tâm vô khi cuống, bất vong nhất thiết chư ân báo, bỉ chứng tam-muội vô gian nan.

          ()正信諸佛及法僧。常行誠心無欺誑。不忘一切諸恩報。彼證三昧無艱難。

          (Kinh: Chánh tín chư Phật và Pháp, Tăng, thường hành thành tâm, chẳng lừa dối, chẳng quên báo hết thảy các ân, sẽ chứng tam-muội chẳng khó khăn).

 

          “Thường hành thành tâm vô khi cuống” (thường giữ cái tâm chân thành, chẳng lừa dối): “Thành tâm” quyết định đến từ sự tôn trọng ḿnh, tôn trọng người khác. Chúng ta tự tôn trọng ḿnh bằng cách nào? Như thật biết tự tâm, có thể biết thanh tịnh trong tâm duyên. V́ thế, chẳng đắm nhiễm, đó là một niệm tối sơ trong tâm chân thành. Khi đó, dùng bi và trí để quán thế gian, có thể vận dụng thành tâm. Nếu không, hễ có cái tâm ô nhiễm, phân biệt, làm sao có thể xưng là thành tâm cho được?

          “Bất vong nhất thiết chư ân báo” (chẳng quên báo đáp hết thảy các ân): Chẳng quên hết thảy các ân. Đối với ân nhỏ nhoi như giọt nước, báo đáp tràn trề như suối trào. Báo ân như thế nào? Khi chúng ta tạo ân đức cho người khác, chớ nên nghĩ đến chuyện được báo đáp. Khi người khác ban ân đức cho chúng ta, đừng nên quên báo đền. Đó là một pháp tắc. Nếu chính ḿnh dốc sức thực hiện, lại cầu được báo đền, đó là kinh doanh, là buôn bán. Đó gọi là tu tŕ nhằm cầu danh văn lợi dưỡng từ việc mua bán gia nghiệp của Như Lai, chẳng có ư nghĩa chi hết! Nhưng nếu chúng ta chẳng biết ân, chẳng báo ân, sẽ đánh mất lợi ích rộng lớn do tu chứng và tâm trí chân thành lợi ích thế gian, hoặc là sự tu tŕ cái tâm cung kính.

 

          (Kinh) Nhược năng chân thuyết vô vọng ngôn, phàm hữu sở hành diệc bất thất.

          ()若能真說無妄言。凡有所行亦不失。

          (Kinh: Nếu hay nói thật, chẳng nói dối, tất cả hành vi chẳng sai trái).

 

          Nếu ăn nói mà chẳng tương ứng với hành vi và tâm địa của chính ḿnh, hăy nên sám hối. Sám hối là chuyện bọn phàm phu hữu t́nh trong thời Mạt Pháp như chúng ta phải nên làm, phải nên thực hiện. Đó là một pháp tắc mười phần trọng yếu. Sám hối thay cho người khác cũng thế, tự sám hối cũng thế, [sám hối] thay cho pháp giới hữu t́nh cũng thế, sám hối cho cha mẹ, sư trưởng cũng thế. Đó là sự khỏe mạnh mười phần có ư nghĩa, là tâm lư thanh tịnh, là chuỗi anh lạc được kết bởi các pháp, là trang nghiêm Phật Đà, là chuyện được hết thảy chư Phật, Bồ Tát tán thán, hứa khả, và thủ hộ. Mọi người hăy nên kiểm điểm, ngăn che cho nhau, khiến cho người phạm lỗi được sám hối sạch làu!

 

          (Kinh) Sở tác tuy vi, hoạch báo quảng. Bỉ ư chứng pháp vô chướng ngại.

          ()所作雖微獲報廣。彼於證法無障礙。

          (Kinh: Việc làm tuy nhỏ, được báo rộng. Người ấy chứng pháp chẳng chướng ngại).

 

          Nương vào các pháp tắc trên đây, tuy thực hiện ít phần, nhưng đều có lợi ích chẳng thể nghĩ bàn, v́ đă hành đúng pháp.

 

          (Kinh) Nhược nhân hữu năng cụ tư pháp, thanh tịnh tŕ giới chư hữu ân, bỉ đắc Bồ Đề thượng bất nan, hà huống thậm thâm vi diệu Định.

          ()若人有能具斯法。清淨持戒諸有恩。彼得菩提尚不難。何況甚深微妙定。

          (Kinh: Nếu ai trọn đủ các pháp ấy, tŕ giới thanh tịnh, ân mọi loài, sẽ chứng Bồ Đề c̣n chẳng khó, huống hồ Định vi diệu rất sâu).

.

          Thành tựu Vô Thượng Bồ Đề c̣n chẳng khó, huống hồ đạt được Định vi diệu rất sâu! Các vị thiện tri thức ơi! Đừng cho là Phật pháp xa vời, hăy chánh hành Phật pháp!

 

15. Phẩm thứ mười một: Thọ Kư

 

          Chúng ta có một cơ duyên thù thắng như vậy, có thể cùng nhau học tập kinh Ban Châu Tam Muội, đúng là một cơ chế tốt đẹp rất khó có do thiện căn và cộng nghiệp cùng chín muồi! Chúng ta học hoàn chỉnh kinh này một lượt, tiếp đó bèn học tập và tu tập, sẽ mười phần thuận tiện. Sau đó, đọc tụng, sẽ có càng nhiều sự tham chiếu và chiết xạ tâm lư[3]. V́ đối với sự nhận biết kinh điển, nếu một người đọc tụng hoặc lư giải nó, sự hiểu biết [của người ấy] có tánh chất hạn cuộc nhất định; nhưng mọi người cùng nhau học tập, sẽ thường có thể trừ khử sự hạn cuộc ấy, khiến cho chúng ta từ trong vô lượng nghĩa, chọn lựa các lời lẽ có ư nghĩa, tâm trí có ư nghĩa, phân lượng có ư nghĩa đối với chính ḿnh để ấn chứng tự tâm, ḥng hoàn thành công đức tự lợi và lợi tha, xuất ly phiền năo, xuất ly sanh tử.

 

          (Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần, Thọ Kư, phẩm đệ thập nhất.

          ()大方等大集賢護分授記品第十一。

          (Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, Hiền Hộ Phần, phẩm thứ mười một: Thọ Kư).

 

          Thọ kư rất trọng yếu. Pháp giáo do chư Phật Như Lai truyền lại được truyền thừa từ đời này sang đời khác. Tuy chẳng giống các vị tổ sư xưng là “vị tổ đời thứ mấy”, nhưng trong Hiền Kiếp, một ngàn vị Phật theo thứ tự xuất thế, Phật này thọ kư cho Phật kia, chẳng gián đoạn. Quá khứ kiếp, vị lai kiếp cũng giống như thế. V́ sao chư Phật Thế Tôn thọ kư thanh tịnh? Muốn khiến cho hết thảy chúng sanh chẳng có kiến giải điên đảo đối với Vô Thượng Bồ Đề, sanh khởi sự nhận biết rơ ràng, chọn lựa dứt khoát, hoàn thiện đối với pháp tắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Tức là nhận biết mười hiệu trọn đủ, như Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn tám tướng thành đạo, tùy cơ thị hiện, cho nên có dấu vết để có thể t́m, có mười tám pháp bất cộng có thể thấy, có thể vận dụng, có thể biết, có Thập Lực, TVô Úy, thiện xảo lợi ích rộng khắp thế gian. Như thế th́ sẽ khiến cho hữu t́nh trong thế gian chẳng bị mê hoặc bởi những kẻ xằng bậy xưng là Phật! Nhưng trong thời Mạt Pháp, những kẻ xằng bậy xưng là Phật chỗ nào cũng đều có, thậm chí có kẻ [tự vỗ ngực] “vượt xa Phật” cũng có luôn. V́ thế, thọ kư mười phần trọng yếu!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: - Hiền Hộ! Ngă niệm văng tích quá ư vô lượng A-tăng-kỳ, phục quá vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, sơ ư Nhiên Đăng Phật Thế Tôn sở, văn thử tam-muội, văn dĩ tức chứng như tư tam-muội.

          ()爾時世尊。告賢護菩薩言。賢護。我念往昔。過於無量阿僧祇。復過無量阿僧祇劫初於然燈佛世尊所。聞此三昧。聞已即證如斯三昧。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: - Này Hiền Hộ! Ta nhớ xưa kia quá vô lượng A-tăng-kỳ, lại qua khỏi vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, thoạt đầu ở chỗ Nhiên Đăng Phật Thế Tôn nghe tam-muội này, nghe xong liền chứng tam-muội như thế).

 

          Trong chương Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm có nói: Mười hai vị Như Lai lần lượt xuất thế, vị Phật cuối cùng dạy ta (Đại Thế Chí Bồ Tát) Niệm Phật tam-muội. Sau đó, [Đại Thế Chí Bồ Tát] c̣n nêu ra [tỷ dụ] như mẹ nhớ con, mẹ con nhớ nhau”, cho đến nói “phàm phu nhớ Phật, niệm Phật, tương lai, hiện tiền nhất định thấy Phật, cách Phật chẳng xa, chẳng nhờ vào phương tiện, tự được tâm thông sáng”, cho đến “tam-ma-địa như thế chính là bậc nhất”. V́ thế, thấy Phật, chứng tam-muội là pháp tắc được chứng nhập bởi hữu t́nh có thiện căn đă chín muồi từ quá khứ. Hiện tại cũng giống như thế. Tôi gặp một vị cư sĩ, lúc ông ta vẫn c̣n là cư sĩ, sau khi nghe người khác niệm Phật, thân tâm [của vị cư sĩ ấy] rạng ngời, ngày đêm sáu thời tự nhiên niệm Phật, cũng chẳng nói ta phải niệm Phật hay không, tự nhiên trong tâm sanh khởi âm thanh thanh tịnh “Nam-mô A Di Đà Phật” như nước tuôn róc rách. Ông ta tới hỏi tôi: “Đó là chuyện như thế nào?” Tôi nói: - Đó là tướng thiện căn của ông đă chín muồi! Trong quá khứ, ông đă từng là người đích thân chứng Niệm Phật tam-muội. Tuy đă đánh mất, nhưng hễ nghe, sẽ liền đạt được! Đạt được ǵ vậy? Ông ta chẳng cần niệm, tự nhiên bèn niệm, mười phần an lạc, vui sướng, thân tâm sảng khoái, gặp pháp vô ngại. Phiền năo xảy đến, vấn đề đưa đến, tự nhiên sẽ do niệm Phật mà tiêu tan các sự tướng ấy. Đó chính là tướng túc duyên thiện căn chín muồi. Hoặc là chúng ta đời này niệm Phật rất khó khăn. “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, có người niệm rất mệt nhọc, chẳng hiểu phương pháp cho mấy, nhưng trong khi chưa hiểu ấy vẫn cứ niệm, dẫu đời này chẳng liễu sanh tử, nhưng nhân duyên trong vị lai chẳng thể nghĩ bàn, sẽ liễu sanh tử, tự đạt được niềm vui. V́ thế, niệm Phật là thiện nghiệp chẳng thể nghĩ bàn, là công đức chẳng thể nghĩ bàn!

          Ở đây, [đức Phật] nói đức Thế Tôn trong khi tu nhân, ở chỗ Nhiên Đăng Phật, nghe tam-muội này liền chứng. V́ sao chúng ta nghe tam-muội này chẳng chứng? Trong quá khứ, có người nghe kinh liền chứng Sơ Địa, Bát Địa. Có các vị tỳ-kheo, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di b́nh phàm nghe pháp, liền đắc pháp nhăn tịnh, liền chứng mấy quả vị. V́ sao chúng ta nghe pháp chẳng đạt được ǵ? Chẳng phải là đạt được hay không, mà là tự tâm nhận biết hay không? Đă chín muồi hay không?

          (Kinh) Kiến chư Như Lai, thường hiện tại tiền. Tùng thị dĩ lai, kinh ư vô lượng A-tăng-kỳ chư Thế Tôn sở, giai thọ thị kinh, tu hành, cúng dường.

          ()見諸如來。常現在前。從是已來。經於無量阿僧祇諸世尊所。皆受是經。修行供養。

          (Kinh: Thấy các Như Lai thường hiện ra trước. Từ đó trở đi, trải qua nơi vô lượng A-tăng-kỳ các vị Thế Tôn, đều lănh nhận kinh này, tu hành, cúng dường).

 

          Đây là Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn đă dùng pháp tắc do chính Ngài đă hành từ vô thỉ đến nay để ấn khế cho chúng ta.

 

          (Kinh) Bỉ Phật Thế Tôn thọ ngă kư viết: “Ma Nạp! Nhữ ư lai thế, đương đắc tác Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”.

          ()彼佛世尊授我記曰。摩納。汝於來世。當得作佛。號釋迦牟尼如來。應供。等正覺。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。

          (Kinh: Vị Phật Thế Tôn ấy thọ kư cho ta rằng: “Này Ma Nạp! Trong đời mai sau, ông sẽ được thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”).

 

          Ma Nạp là tên của Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn trong lúc tu nhân khi Ngài gặp Nhiên Đăng Cổ Phật.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Nhữ bối diệc đương chuyên tinh nhất tâm, tư duy tu tập như tư thánh pháp.

          ()賢護。汝輩亦當專精一心。思惟修習如斯聖法

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Các ông cũng nên chuyên ṛng nhất tâm, tư duy tu tập thánh pháp như thế).

 

          Đây là đức Thế Tôn nhắc nhở Hiền Hộ Bồ Tát, mà cũng là nhắc nhở chúng ta. Chúng ta hằng ngày xưng niệm Nam-mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật th́ phải nương tựa pháp tắc Phật Thích Ca đă hành để làm căn bản quy hướng, thành tựu, phỏng theo, tu tập, đạt thành tựu, chọn lựa làm nơi quy y. V́ thế, chúng ta gọi đó là giáo ngôn của đức Bổn Sư, là pháp tắc của đức Bổn Sư.

 

          (Kinh) Phi thị phàm phu sở kiến cảnh giới.

          ()非是凡夫所見境界。

          (Kinh: Chẳng phải là cảnh giới phàm phu trông thấy).

 

          Câu này rất trọng yếu. Nếu chúng ta chẳng nương theo giáo ngôn của thánh giáo và pháp tắc để tu tập, sẽ phải tư duy nhiều hơn, chỉ đành chịu khổ, tốn nhiều tâm tư tu tŕ mà chẳng thể thành tựu thánh đạo. V́ lẽ nào? Hết thảy các điều ấy đều chẳng phải là cảnh giới của phàm phu, tư duy của phàm phu chẳng thể thấu đạt, chẳng thể tương ứng được! Có các vị xuất gia và tại gia Bồ Tát, mười năm hay tám năm rất dụng công, rất chịu thương chịu khó, nhưng do nương theo cái tri kiến tiếp nối của chính ḿnh, quư vị nói chuyển biến tri kiến rất đơn giản, nhưng họ chẳng chuyển, cố chấp ư kiến của chính ḿnh, chẳng hổ thẹn, kiêu mạn, tự phụ, nhiều năm chẳng thay đổi, một mực kéo dài. Kéo dài ǵ vậy? Khổ năo, ngă mạn. Người trí nương theo sự tùy thuận, ḥa hợp, điều phục, nhu ḥa, nương theo pháp mà hành, thật sự là tăng thượng. Gặp pháp liền đạt được lợi ích tốt lành, v́ sao? Đó là cảnh giới của hết thảy chư Phật, trọn chẳng phải là cảnh giới phàm phu hay tư duy phàm phu.

          Có nhiều người học Phật, dùng cách nghĩ của chính ḿnh để dụng công trong Phật pháp. Trong quá khứ, tất cả các kinh điển mà người xuất gia đọc đều là được truyền trao, cũng tức là có người truyền dạy th́ mới có thể đọc tụng, mới có thể trao đổi với người khác. Nếu không, sẽ chẳng dám, mà cũng chẳng có sức, nhưng hiện thời người xuất gia lẫn kẻ tại gia đọc kinh, phần nhiều dụng công nơi kinh điển bằng cách dùng đầu óc của chính ḿnh để xử lư tất cả kinh điển một lượt, cho rằng “ta học khá lắm”, “ta học đă hiểu rành rồi”. Kẻ như thế chỉ tăng thêm tri kiến, học cả đống danh từ và danh tướng, chẳng có mảy may lợi ích cho chính ḿnh, chỉ tăng thêm cái tâm ngạo mạn. Không chỉ chẳng được lợi ích nơi Phật pháp, mà c̣n có thể rất khổ, giống như cơng một đống thuốc lớn, nhưng đối với căn bệnh nặng lại trọn chẳng biết dùng vị thuốc nào để đối trị bệnh tật của chính ḿnh, chẳng có phương tiện! Dẫu vác một rương thuốc to đùng, nhưng hằng ngày mắc bệnh nặng, chẳng thể trị liệu. Đối với chuyện này, mọi người phải nên chú trọng: “Pháp yếu phải có người truyền trao”. Điều này mười phần trọng yếu! Cho đến thành tựu cũng có người ấn chứng, hứa khả. Nếu không, mạn tâm của chúng ta khó trừ, Ngă Chấp khó trừ đấy nhé!

 

          (Kinh) Thậm thâm tịch tĩnh chúng tướng diệt xứ.

          ()甚深寂靜衆相滅處。

          (Kinh: Là chỗ tịch tĩnh rất sâu, các tướng đều diệt).

 

          Chúng ta là hữu t́nh chấp tướng, coi “thiện, ác, đúng, sai” là chân thật. Như thế th́ sao có thể đạt được an lạc nơi tịch tĩnh?

 

          (Kinh) Như thị học dĩ, vị lai tự nhiên thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề vô hữu gian nan, như ngă bất dị.

          ()如是學已。未來自然成就阿耨多羅三藐三菩提。無有艱難。如我不異。

          (Kinh: Học như thế rồi, trong đời tương lai sẽ tự nhiên thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề chẳng khó khăn, như ta chẳng khác).

 

          V́ sao vậy? Do nương theo lời thọ kư của đức Phật mà tùy thuận. Chúng ta cũng giống như thế. Nếu có thể tùy thuận chỗ “tịch tĩnh rất sâu, các tướng diệt trừ”, đă học như thế, trong vị lai, tự nhiên sẽ thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề chẳng khó khăn. Đấy là thọ kư cho mọi người. V́ sao? Ngài Hiền Hộ tượng trưng cho tứ chúng tu pháp Ban Châu tam-muội trong thời Mạt Pháp. Bộ kinh này chỗ nào cũng đều nói nhất quán về cơ chế giáo ngôn này.

 

          (Kinh) Nhữ đẳng đương tri, nhược hữu an trụ thị tam-muội giả, tự nhiên đương đắc cận đại Bồ Đề.

          ()汝等當知。若有安住。是三昧者。自然當得近大菩提。

          (Kinh: Các ông hăy nên biết: Nếu có người an trụ trong tam-muội này, tự nhiên sẽ gần với đại Bồ Đề).

 

          Gọi là Đại Bồ Đề, tức là Vô Thượng Bồ Đề. “Đại” là tâm trí trọn khắp do đức Thế Tôn đă chứng, chẳng phải là lớn hay nhỏ, mà là viên măn trọn đủ, trọn đủ chân thật, trọn khắp hết thảy.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa, dĩ kệ tụng viết: - Ngă tích ngộ bỉ Nhiên Đăng Phật, kiến dĩ, tức đắc tam-ma-đề.

          ()爾時世尊。爲重明此義。以偈頌曰。我昔遇彼然燈佛。見已即得三摩提。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn v́ nói rơ lại nghĩa này, dùng kệ tụng như sau: - Ta xưa gặp đức Nhiên Đăng Phật, gặp rồi liền đắc tam-ma-đề).

 

          Chứng đắc tam-muội, đó là tam-ma-đề, an trụ trong tam-ma-đề chân thật, hoặc thành tựu tam-ma-địa. Đó là thâm nhập theo thứ tự. Chúng ta đọc kinh Viên Giác, [sẽ thấy] kinh dạy: Xa-ma-tha (Śamatha) là chí tĩnh khinh an (至靜輕安), Tam-ma-bát-để (Samāpatti) là đại bi khinh an, Thiền Na (Dhyāna) là tịch diệt khinh an. Trong ấy, có nhắc tới tam-ma-đề (Samadhi).

 

          (Kinh) Tùng thị thường đổ chư Như Lai, cụ túc công đức đại danh xưng.

          ()從是常睹諸如來。具足功德大名稱。

          (Kinh: Từ đấy thường thấy các Như Lai, trọn đủ công đức, danh xưng lớn).

 

          Nếu thường thấy Phật, công đức thiện xảo tự nhiên trọn đủ. Chúng ta cảm nhận “thường chẳng thể thấy chư Phật, th́ có thể tŕ danh hiệu chư Phật, tŕ tâm chú của chư Phật, tŕ diệu tướng của chư Phật, tŕ đại nguyện của chư Phật, sẽ giống hệt như thường học theo Phật. Thường sử dụng tâm trí như thế, nếu dùng Phật nguyện để kéo dài sanh mạng của chính ḿnh, duy tŕ tâm thức và nghiệp tướng của chính ḿnh, người ấy sẽ chẳng thể nghĩ bàn, giống như Phật rủ ḷng tùy thuận căn cơ. Tuy là thân do cha mẹ sanh ra, nhưng khiến cho công đức nơi giáo pháp thù thắng của chư Phật Như Lai được truyền bá trong cơi đời, rộng lợi ích hữu t́nh.

 

          (Kinh) Nhữ đản đa tập chư công đức, nhất tâm chuyên niệm tức đắc thành. Nhược nhân năng hành thử pháp trung, đương đắc Vô Thượng Bồ Đề đạo.

          ()汝但多集諸功德。一心專念即得成。若人能行此法中。當得無上菩提道。

          (Kinh: Ông chỉ tu tập nhiều công đức, nhất tâm chuyên niệm liền được thành. Nếu ai có thể hành pháp này, sẽ đắc Vô Thượng Bồ Đề đạo).

 

          Đoạn kệ tụng “trùng tuyên thử nghĩa” này vẫn là từ trong phẩm Thọ Kư nhắc nhở chúng ta, nương theo sự thọ kư trong lúc tu nhân của Phật Thích Ca, mà cũng là lời thọ kư của Nhiên Đăng Cổ Phật đối với Ma Nạp. Ở đây, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn đối với Hiền Hộ cho đến hết thảy những người tu tập hành pháp Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội trong thời Mạt Pháp mà thọ kư: “Thậm thâm tịch tĩnh chúng tướng diệt xứ, như thị học dĩ, vị lai tự nhiên thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vô hữu gian nan, như ngă bất dị” (đối với chỗ tịch tĩnh rất sâu, các tướng trừ diệt, mà học như thế rồi, trong vị lai, sẽ tự nhiên thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác chẳng khó khăn, giống như ta chẳng khác). Đấy là lời thọ kư. Nếu có thể noi theo lời thọ kư, thuận thế mà hành, sẽ đạt được thiện xảo ít tốn công sức. V́ thế, tu pháp chẳng khó, tam-muội chẳng khó!

 

16. Phẩm thứ mười hai: Thậm Thâm

 

          (Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần, Thậm Thâm phẩm đệ thập nhị.

          Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát phục bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Vân hà tư duy như thị tam-muội?

          ()大方等大集賢護分甚深品第十二。

   爾時賢護菩薩復白佛言。世尊。云何思惟如是三昧。

          (Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, Hiền Hộ Phần, phẩm thứ mười hai: Rất Sâu.

          Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát lại bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Làm thế nào để tư duy tam-muội như thế này?)

 

          Toàn thể bộ kinh đều nhắc nhở chúng ta tư duy, quan sát, nhanh chóng chứng đắc, dùng chánh ngôn để tuyên nói Ban Châu tam-muội. Ở đây, kế tiếp là nêu ra “làm thế nào để tư duy tam-muội như thế?”

 

          (Kinh) Phật ngôn: - Hiền Hộ! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân niệm dục tư duy thử tam-muội giả.

          ()佛言。賢護。若有善男子善女人。念欲思惟此三昧者。

          (Kinh: Đức Phật dạy: - Này Hiền Hộ! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghĩ muốn tư duy tam-muội này).

 

          Tiếp đó, trực tiếp truyền dạy pháp tắc, nói chẳng tăng giảm, [người học pháp này] chỉ nên tùy văn nhập quán, liền đạt được phương tiện. Khá nhiều pháp tắc, nếu chẳng cố hiểu th́ sẽ rất thuận tiện. Nếu t́m hiểu, phần nhiều là dùng thức tâm của chính ḿnh để dụng công, sẽ thêm vào pháp tắc các chất độc hiểu biết cong quẹo, hiểu biết sai lầm” của chính ḿnh, phần nhiều dẫn đến đâm quàng ngơ rẽ. V́ thế, hăy tùy văn nhập quán, đâm ra rất thuận tiện, hăy y giáo phụng hành, chẳng nhờ vào người khác chỉ vẽ. Đó là sự chọn lựa thuận tiện nhất để hành tŕ kinh điển.

 

          (Kinh) Quán bỉ sắc thời, bất ưng thủ trước.

          ()觀彼色時。不應取著。

          (Kinh: Khi quán sắc, đừng nên chấp trước).

 

          Có thể nói câu này chính là cương lănh của toàn thể văn tự trong đoạn sau. “Quán bỉ sắc thời, bất ưng thủ trước” (khi quán sắc, đừng nên chấp giữ): Đối với Thọ, Tưởng, Hành, Thức, cũng giống như thế. Tâm Kinh nói Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc” (Sắc chính là Không, Không chính là Sắc). Nói kiểu này, chính là khiến cho chúng ta khi quán sắc sẽ chẳng nhiễm, chẳng chấp. Đức Thế Tôn muốn khiến cho chúng ta có thiện xảo để thâm nhập nội dung tu tập và chánh tư duy. Tiếp đó, Ngài c̣n nói cặn kẽ đủ mọi lẽ. Chúng ta hăy xem đức Thế Tôn giải thích như thế nào!

 

          (Kinh) Ư bỉ thanh trung, bất ưng thủ trước.

          ()於彼聲中。不應取著。

          (Kinh: Trong thanh, chớ nên chấp giữ).

 

          Lần lượt nêu ra sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, đấy có phải là trùng lặp hay không? Chẳng phải, mà là chỉ bảo thẳng thừng cho chúng ta: “Khi gặp sắc, khi gặp thanh, khi gặp hương, khi gặp vị, khi gặp xúc, khi gặp pháp, đối đăi như thế nào? Chớ nên chấp giữ! V́ hết thảy phàm phu hữu t́nh đều tưởng “đắm nhiễm sự tướng là chỗ nương cậy của y báo và chánh báo trong sanh mạng, cho nên trầm luân trong thế gian. Nói “trầm luân” là do chấp giữ mà trầm luân, chần chừ trong sự chấp giữ ấy, lăng phí trong sự chấp giữ ấy, tạo tác trong sự chấp giữ ấy. Các vị Bồ Tát thiện tri thức biết pháp chẳng có tự tánh, cho nên đối với phong cảnh trên đường sẽ tự nhiên tiếp nối, chẳng vướng, chẳng mắc; đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, bèn vận dụng, chẳng đắm nhiễm nơi đó, tự nhiên giải thoát từ ngay nơi bản thể, đạt được Chánh Thọ ngay nơi bản thể. Phật pháp đích xác là chẳng ở ngoài sự tướng, mà cũng chẳng ở trong sự tướng. Trong hiện duyên ấy, rành rành phân minh, chẳng nhiễm, chẳng chấp, sức vô ngại ấy có thể sanh ra các thứ sức Chánh Thọ.

 

          (Kinh) Ư bỉ hương trung, bất ưng thủ trước. Ư bỉ vị trung, bất ưng thủ trước.

          ()於彼香中。不應取著。於彼味中。不應取著。

          (Kinh: Trong hương chớ nên chấp giữ; trong vị, chớ nên chấp giữ).

 

          Chư vị thiện tri thức! Đừng nghĩ đức Thế Tôn nói như thế là trùng lặp. Chẳng phải là trùng lặp. Sắc chính là sắc, thanh chính là thanh, hương chính là hương, vị chính là vị, giải thích vi tế như thế đó. Nếu chúng ta có thể tùy thuận thủ hộ, tùy thuận tu tập, sẽ là đại thiện. Nếu chẳng thể, hăy nên tư duy các pháp tắc in hằn trong tâm của chính ḿnh. Trong kinh điển, đức Phật đă như thật giăi bày trọn vẹn chẳng tăng, chẳng giảm hết thảy các thiện xảo, hết thảy các pháp tắc như thật, hết thảy lợi ích chân thật. Đức Thế Tôn trọn chẳng keo tiếc bất cứ pháp nào, muốn lợi ích rộng khắp hữu t́nh, muốn chân thật hồi thí lợi ích chúng sanh, cho nên Ngài chẳng chọn lựa bất cứ pháp nào, chỉ hồi thí trọn vẹn.

         

          (Kinh) Ư bỉ xúc trung, bất ưng thủ trước. Ư chư pháp trung, bất ưng thủ trước. Ư chư sanh trung, bất ưng thủ trước. Ư nhất thiết xứ, bất ưng thủ trước. Ư thị pháp trung, đương khởi chân thật đại từ hạnh dă.

          ()於彼觸中。不應取著。於諸法中。不應取著。於諸生中。不應取著。於一切處不應取著。於是法中。當起真實大慈行也。

          (Kinh: Đối với xúc, chớ nên chấp giữ. Đối với các pháp, chớ nên chấp giữ. Đối với các sanh, chớ nên chấp giữ. Đối với hết thảy các chỗ, chớ nên chấp giữ. Do vậy, ở trong pháp, hăy nên khởi hạnh đại từ chân thật).

 

          “Đại từ hạnh” như vừa nói đó chính là hạnh b́nh đẳng, hạnh bất nhị, hạnh như thật. “Từ” là chẳng chọn lựa để giữ lấy. V́ thế, nói là “đồng thể”. Văn tự chỗ này khá dễ hiểu, nhưng lợi ích sâu rộng, chân thật, chẳng dối!

 

          (Kinh) Thị trung, hà đẳng danh vi tam-muội?

          ()是中何等名爲三昧。

          (Kinh: Trong ấy, những ǵ gọi là tam-muội?)

 

          Ở đây, tam-muội được định nghĩa như thế nào? Trong khi chúng ta trao đổi với người khác, thậm chí khi chính ḿnh tư duy, văn tự là tướng ngôn thuyết quyền biến, v́ nếu chẳng có ngôn thuyết, mọi người sẽ không có chỗ để nương theo. Nhưng nếu ngôn thuyết chẳng thể hướng dẫn tiêu quy tự tánh, hoặc quy vào pháp tắc, chắc là sẽ chết cứng nơi câu nói! Chúng ta phải nên làm như thế nào? Mọi người ai nấy hăy quán kỹ sự thủ hộ hiện tiền của chính ḿnh.

 

          (Kinh) Sở vị ư nhất thiết pháp trung, như pháp hành cố.

          ()所謂於一切法中。如法行故。

          (Kinh: Chính là từ trong hết thảy các pháp, đúng như pháp mà hành).

 

          Câu này tợ hồ nói mà cũng như chẳng nói. Văn tự trong phần sau nhằm chỉ dạy chúng ta...

 

          (Kinh) Nhược chư Bồ Tát quán niệm xứ thời, đương ưng như thị quán sát thân hành.

          ()若諸菩薩觀念處時。當應如是觀察身行。

          (Kinh: Nếu các Bồ Tát khi quán niệm xứ, hăy nên quan sát thân hành như thế).

 

          Khởi đầu từ quan sát thân hành, v́ hết thảy chúng sanh, nhất là chúng sanh thuộc nhân loại, phần nhiều coi cái thân thô trọng là Ngă, Thân Kiến mười phần nghiêm trọng.

 

          (Kinh) Chung bất phân biệt, kiến thân hành xứ.

          ()終不分別見身行處。

          (Kinh: Trọn chẳng phân biệt, thấy thân hành xứ).

 

          Đối với sự nhận biết về thân hành, như các cảm nhận về sức khỏe, thay đổi, hoặc là chẳng khỏe mạnh, chẳng đổi khác v.v… đều có thể nhận biết rơ ràng, như trong phần trước đă nói: Đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, trọn chẳng chấp giữ. Đối với lục căn, lục thức, chẳng chấp giữ. Đối với lục trần, cũng chẳng chấp giữ. Cho nên đối với mười pháp giới, cũng chẳng chấp giữ. V́ thế, vận dụng trong mười pháp giới chẳng nhiễm, chẳng chấp. Như thế bèn tự nhiên xuất ly.

 

          (Kinh) Quán sát thọ hành, diệc bất phân biệt, kiến thọ hành xứ.

          ()觀察受行。亦不分別見受行處。

          (Kinh: Quán sát thọ hành, cũng chẳng phân biệt, thấy thọ hành xứ).

 

          Đây là quan sát đối với mỗi chỗ cảm nhận, khiến cho chúng ta sẽ như thật thuận theo kinh văn mà cảm nhận sự nhận biết của chính ḿnh.

 

          (Kinh) Quán sát tâm hành, diệc bất phân biệt, kiến tâm hành xứ.

          ()觀察心行。亦不分別見心行處。

          (Kinh: Quán sát tâm hành, cũng chẳng phân biệt, thấy tâm hành xứ).

 

          Như trong phần trước đă nói, chẳng chấp Sắc, chẳng chấp Thanh, chẳng chấp Hương, chẳng chấp Vị, chẳng chấp Xúc, chẳng chấp Pháp. Các thứ đều chẳng chấp, cho đến hết thảy đều chẳng chấp. Ở đây cũng giống như thế, do chẳng có cái thấy phân biệt.

 

          (Kinh) Quán sát pháp hành, diệc bất phân biệt, kiến pháp hành xứ.

          ()觀察法行。亦不分別見法行處。

          (Kinh: Quan sát pháp hành, cũng chẳng phân biệt, thấy pháp hành xứ).

 

          Có Năng, có Sở, trong phần trước chỉ nói đến Năng, ở đây nói tới Sở. Năng lẫn Sở cùng mất, người như vậy sẽ có thể biết rơ, quan sát một niệm thô nặng.

 

          (Kinh) Bồ Tát đương ưng như thị quán sát tư duy tam-muội. Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Bỉ Bồ Tát quán thân hành thời, ư thân bất khởi tư duy, phân biệt.

          ()菩薩當應如是觀察思惟三昧。何以故。賢護。彼菩薩觀身行時。於身不起思惟分別。

          (Kinh: Bồ Tát hăy nên quán sát tư duy tam-muội như thế. V́ sao? Này Hiền Hộ! Khi vị Bồ Tát ấy quán thân hành, đối với thân, chẳng dấy lên tư duy, phân biệt).

 

          Thường nghe mọi người nói như thế này: “Ôi chao! Thời gian này thân thể tôi không tốt!” Cái kiểu cảm nhận “khoảng thời gian này” như thế, thật ra là một thứ quyến luyến, tham chấp, đắm nhiễm đối với sắc thân. Ở đây, đức Thế Tôn dạy chúng ta: “Quán thân hành thời, ư thân bất khởi tư duy, phân biệt” (khi quán thân hành, chẳng dấy lên tư duy, phân biệt đối với thân). Quư vị nói: “Rơ ràng là tôi có cảm nhận nơi thân, lẽ nào chẳng dấy lên tư duy, phân biệt?” Phương pháp này rất đơn giản, v́ sao? Hết thảy sự nhận biết nơi thân, hành vi nơi thân, đều là sự kéo dài hư vọng của vô thường, biến hóa, vô ngă, là cảm giác hư vọng, không giữ lại ǵ. V́ thế, tuy có tư duy, tăng thêm nhiều vọng nghiệp, tăng thêm nhiều nhiễm nghiệp, tăng thêm cái khổ, chẳng được giải thoát. Ở chỗ này, nếu đối với thân chẳng dấy lên tư duy, phân biệt, liền hiện phương tiện giải thoát, cũng chính là khi cảm nhận cái thân liền thấy phương tiện. Ngay trong lúc chúng ta coi trọng cái thân, liền thoát ly sự ràng buộc nơi thân. Nếu chẳng quan sát, tư duy như thế, phân biệt và chấp trước sẽ tăng mạnh hơn! Như có người thân thể chẳng tốt, đă nói: “Ôi chao! Trong khoảng thời gian này, thân thể tôi không khỏe”. Có người nói: “Trong khoảng thời gian này, tôi hành pháp, làm việc khá vừa ḷng, thân thể cũng thoải mái”. Trong quá tŕnh tư duy và phân biệt đối với thân thể, dù tốt hay xấu, dù tăng hay giảm, một khi nhiễm đắm tư duy, sẽ do cái thân mà trầm luân, do cái thân mà tạo nghiệp, hễ tiếp nối như thế, sẽ là tướng luân hồi liên tục. Nếu ngược lại, liền được giải thoát.

 

          (Kinh) Quán thọ hành thời, ư thọ bất khởi tư duy phân biệt.

          ()觀受行時。於受不起思惟分別。

          (Kinh: Khi quán thọ hành, đối với thọ, chẳng dấy lên tư duy, phân biệt).

 

          Đối với chuyện hiện tiền, hăy thẳng thừng xem xét, thiện xảo hiểu rơ, chẳng nhờ vào phân biệt, chấp trước, chẳng dấy lên vọng niệm. Như thế th́ tuy chưa đắc Chánh Thọ trong hiện tiền mà đă cảm nhận Chánh Thọ, đă biết Chánh Thọ.

 

          (Kinh) Quán tâm hành thời, ư tâm bất khởi tư duy, phân biệt. Quán pháp hành thời, ư pháp bất khởi tư duy, phân biệt cố. Sở dĩ giả hà? Nhất thiết pháp bất khả đắc cố.

          ()觀心行時。於心不起思惟分別。觀法行時。於法不起思惟分別故。所以者何。一切法不可得故。

          (Kinh: Khi quán tâm hành, đối với tâm chẳng dấy lên tư duy, phân biệt. Khi quán pháp hành, đối với pháp chẳng dấy lên tư duy, phân biệt. V́ sao vậy? Do hết thảy các pháp chẳng thể được).

 

          Đấy đều là những lời dạy rất sâu, có tánh chất giống như khẩu quyết, là pháp tắc chẳng thể nghĩ bàn. Nếu chúng ta có thể tùy thuận, tư duy, quan sát, sẽ thấu đạt nội dung của tam-muội Chánh Thọ, lợi ích của Chánh Thọ, chẳng cần cầu phương tiện nào khác, chẳng cần chúng ta phải tự hư giả lập bày, cũng chẳng cần đến các thứ siêng khổ và bức bách chẳng tất yếu. Hiện thời, có nhiều người hành pháp cho rằng kinh hành trong một thời gian dài, hoặc khổ sở bức bách chính ḿnh th́ sẽ có thể đạt được tam-muội. Đó là một thứ tâm lư chẳng tương ứng. Chẳng dấy lên phân biệt, tư duy, chẳng chấp, chẳng nhiễm. Ở đây chính là phương tiện chánh tam-muội, tức là phương tiện đỡ tốn sức, mà cũng là đạt đến chân thật đỡ tốn sức. V́ thế, do hết thảy các pháp chẳng thể được, chớ nên phân biệt, tư duy, chớ nên chấp giữ, thân tâm liền được an lạc. Như thế th́ sẽ là chánh hành đúng như pháp.

 

          (Kinh) Như thị chư pháp kư bất khả đắc, vân hà đương hữu phân biệt, tư duy?

          ()如是諸法既不可得。云何當有分別思惟。

          (Kinh: Chư pháp như thế đă chẳng thể được, làm sao có phân biệt, tư duy?)

 

          Kinh điển thật sự là một công cụ để ấn khế, giống như dùng một cái ấn để đóng xuống là phù hợp rồi! Đối với giáo ngôn trong kinh điển, nếu chẳng tăng, chẳng giảm ấn khế cái tâm của chúng ta, cũng sẽ có thể dấy lên hiệu quả ấn khế chẳng thể nghĩ bàn như thế. Hữu t́nh trong hiện đời có nhiều sự tư duy chẳng phải là tri kiến chánh đáng, có lắm tư duy hỗn loạn, cho đến lắm tư duy tà kiến. V́ thế, khiến cho sanh mạng của chính ḿnh chịu nhiều khốn khổ, lắm nỗi lo lắng nhọc nhằn vô ích, chỉ tăng thêm ư nghiệp, thân nghiệp, khẩu nghiệp, cùng với các nghiệp tướng khổ nạn từ hiện tại cho đến vị lai. Nếu chẳng giác ngộ, chẳng thể tự thoát ra, nếu chẳng nương theo pháp để hành, cũng chẳng thể tự thoát. Do vậy, trong nghiệp tướng vị lai mà sanh tử luân hồi. Đức Thế Tôn thương xót chúng ta, ban cho pháp tắc thanh tịnh, pháp tắc rơ ràng, pháp tắc chân thật, muốn khiến cho chúng ta nương theo pháp để hành, chứng giữ Bồ Đề. “Giữ” ở đây thật sự là không có chỗ nào để giữ th́ mới đạt được an lạc.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thị cố nhất thiết pháp vô hữu phân biệt. Vô phân biệt giả, vô hữu tư duy.

          ()賢護。是故一切法無有分別。無分別者。無有思惟。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! V́ thế, hết thảy các pháp chẳng có phân biệt. Chẳng phân biệt là chẳng có tư duy).

 

          “Hết thảy các pháp” là nói theo bản chất, vốn chẳng thể phân biệt. V́ vốn chẳng thể phân biệt, chẳng có tư duy. Do chẳng có tư duy, có ǵ để lấy hay bỏ, có ǵ để chấp giữ ư?

 

          (Kinh) Vô tư duy giả, đương tri bỉ trung vô pháp khả kiến.

          ()無思惟者。當知彼中無法可見。

          (Kinh: Chẳng tư duy: Hăy nên biết trong ấy chẳng có pháp để có thấy).

 

          Thật sự chẳng có một pháp để có thể đạt được. Đức Thế Tôn sư tử hống, nhưng hữu t́nh trong thế gian chẳng phải là như thế, phần nhiều nói thiện, nói ác, nói đúng, bàn sai, đúng đúng sai sai, nối tiếp sanh tử, thiện thiện ác ác, tạo tác luân hồi. Dẫu chúng ta mười phần hiểu rơ các pháp tắc ấy, nhưng cứ gặp lúc nhân duyên thành thục, thường là sẽ nhiễm đắm pháp, sẽ chấp trước pháp. Khi nói điều thiện th́ mắt lóe ánh vàng, khi nói ác th́ đau đầu buốt tim, quả thật chẳng liên can, cứ hư vọng tự nhận biết, chấp giữ, căi chày căi cối đúng sai, cưỡng lập đúng sai, đối với pháp tắc vô tự tánh bèn cưỡng lập tự tánh, cho nên thế gian kiên cố!

          Thế giới Sa Bà ô nhiễm này là do sự cưỡng chấp của chúng ta tạo nên, nhưng trong cơi nước thanh tịnh của mười phương chư Phật có thể vô ngại hành pháp, thần thông tự tại, cho đến cúng dường, phước đức, nhân duyên v.v… đủ loại tự tại đều do chẳng cưỡng chấp, do chẳng chọn lựa giữ lấy, do thanh tịnh b́nh ḥa, do một mực chân thật, do chẳng lấy, chẳng bỏ, cho nên vận dụng tự tại trong sức vô ngại, dùng phương tiện trí huệ và từ bi chẳng đắm nhiễm mười phương hữu t́nh. V́ thế, chẳng có tướng thế giới kiên cố, chỉ có tướng thế giới thanh tịnh vô ngại. Thế giới Sa Bà của chúng ta cho đến chúng sanh trong Diêm Phù Đề do chấp trước kiên cố đă tạo thành núi, sông, đại địa, cùng với các thứ vật chất kiên cố. Nếu có người yêu thích tu tập các thứ thiện pháp, có ư tưởng cứng cỏi, sẽ tạo thành đủ loại các nơi trân bảo. Nếu là kẻ thủ hộ ác tánh, thành tựu các loại chúng sanh tánh ác, cho đến các vật vô t́nh, núi, sông, đại địa sẽ cùng lúc hư vọng cưỡng chấp hóa hiện.

          Thật ra có một vật để có thể đạt được, [tức là] bậc trí đích thân chứng tánh Không, cho nên du hư tự tại, như các bậc thiện xảo có thể đi lại trong núi đá ngại, đi trên hư không ngại, vào nước chẳng chết đuối, vào lửa chẳng bị đốt cháy, chẳng bị đao, thương tổn hại, v́ sao? Do tâm trí vô nhiễm, do xa ĺa đối đăi. V́ thế, chẳng bị đối đăi gây thương tổn. Chúng ta đời đời kiếp kiếp huân tập chẳng ngừng, cưỡng chấp cái tâm đối đăi, tất nhiên sẽ bị pháp đối đăi thương tổn. Thuở đức Thế Tôn tại thế, có nhiều vị tỳ-kheo do từ tâm mà đao thương chẳng thể tổn hại, chất độc chẳng thể khiến cho họ bị trúng độc chết. Nhưng trong thời đại hiện tại, có nhiều hữu t́nh bệnh tật ngặt nghèo, có nhiều tổn thương trọng đại, có nhiều nhân duyên xấu ác, v́ lẽ nào? Do cưỡng chấp nghiệp duyên từ vô thỉ tới nay!

          Bản thân chúng ta có thể chẳng ngại mà tự thí nghiệm. Quư vị dùng hai mươi phút để sanh sân tâm, sau đấy cắn ngay vào da thịt của chính ḿnh, nó sẽ sưng phù. Nếu tâm trí của quư vị rất từ bi, tốt lành, chẳng hạn như dùng hai mươi phút vận dụng Từ Bi Quán để quán tự tâm, dẫu dùng kim chọc rách da thịt, vết thương sẽ lành miệng rất nhanh. Chúng ta có thể thí nghiệm, sanh mạng chính là tư lương để du hư của chúng ta. Đó là tướng phước đức. Nếu quư vị yêu mến, bảo vệ nó, sẽ bị nó xỏ mũi, đâm ra phước đức trong vị lai bị lỡ làng, tức là phước đức xuất ly, nhưng có nhiều hữu t́nh bị sắc thân này, bị tri kiến chẳng chánh đáng xâm hại. Do đó, đức Thế Tôn trực tiếp dạy chúng ta quán như thế nào trong pháp tắc b́nh nhật.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! khả kiến cố, tiện vi vô ngại.

          ()賢護。無可見故。便爲無礙。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Do chẳng thể thấy, sẽ là vô ngại).

 

          Chúng ta học pháp, trong đạo tràng, trong xă hội, trong đơn vị công tác, cho đến xuất gia hay tại gia, hành pháp, hay chẳng hành pháp, vâng giữ pháp, hay chẳng vâng giữ pháp, nếu hết thảy các chỗ đều vô úy, tức là vô ngại. Nếu là vô ngại th́ sẽ không bị ngăn chướng. Nếu đă là không chỗ nào bị ngăn chướng th́ chính là đại từ, tức là đại thiện. Thiện xứ ấy chẳng đối đăi. Chẳng đối đăi chính là thật sự chọn lựa Chánh Thọ. V́ sao chúng ta hành pháp có nhiều chỗ chướng ngại? Do sanh khởi đối đăi, sanh khởi chọn lựa, sanh khởi chấp giữ, trong pháp chẳng phân biệt mà kiến lập!

 

          (Kinh) Nhất thiết pháp trung vô chướng ngại cố, tức thị Bồ Tát hiện tiền tam-muội.

          ()一切法中無障礙故。即是菩薩現前三昧。

          (Kinh: Do chẳng chướng ngại trong hết thảy các pháp, chính là hiện tiền tam-muội của Bồ Tát).

 

          Ở đây nói tới Bồ Tát hiện tiền tam-muội. Bồ Tát là giác thế gian, tự giác và giác tha, tự lợi, lợi tha, hai pháp thiện xảo trọn đủ. V́ sao? Xa ĺa đối đăi, tức là tự lợi và lợi tha. Xa ĺa đối đăi, từ tâm, bi tâm, trí tâm tự nhiên sanh khởi. Do chẳng đối đăi, cho nên chẳng bị mệt nhọc, chẳng bị nặng nề, chẳng bị chướng ngại, chẳng có ǵ sợ hăi. Do chẳng có ǵ sợ hăi, sẽ đắc lực trong thế gian, lợi ích rộng khắp hữu t́nh, phương tiện trụ thế.            

          Chư Bồ Tát Ma Ha Tát đều dùng nguyện lực lợi ích rộng khắp thế gian để duy tŕ sanh mạng, cho nên trong một kiếp, hai kiếp, ba kiếp, cho tới chẳng thể diễn tả kiếp, như đức Thế Tôn nói “Hằng hà sa kiếp” (kiếp nhiều như cát sông Hằng), hoặc nhiều Hằng hà sa kiếp duy tŕ sanh mạng. Sanh mạng ấy có nền tảng là nguyện để duy tŕ. V́ thế nói “các vị Bồ Tát dùng nguyện, dùng tam-muội-da để thủ hộ”. Nói “tam-muội-da” tức là Chánh Thọ. Chánh Thọ nương vào nguyện để biểu đạt. Nếu ĺa bỏ hết thảy các thọ (sự tiếp nhận khi căn tiếp xúc trần), hết thảy chấp giữ, và hết thảy đối đăi, tự nhiên trọn đủ Chánh Thọ. Sanh mạng như thế một đời, hai đời, một kiếp, hai kiếp, nhiều kiếp, Hằng hà sa kiếp, cho đến bất khả ngôn thuyết Hằng hà sa kiếp tiếp nối không ngừng. Đó là thọ mạng rộng lớn của Bồ Tát, thanh tịnh chân thật, chẳng sợ hăi; nhưng phàm phu do chấp trước, chấp giữ nghiệp tướng, bèn có thiện, ác, đúng, sai v.v… cho nên sanh mạng có nhiều nỗi khốn đốn. V́ thế, phần nhiều chán ngán sanh, hoặc sợ hăi tử. Khi khổ nạn, sẽ sanh khởi ư tưởng “chán ngán, vứt bỏ” đối với sanh mạng. Khi sanh mạng gặp nguy nan, lại tham tiếc sanh mạng, sợ hăi tử vong. Đó là sự chấp giữ của tâm đắm nhiễm, tâm đối đăi. Nếu chúng ta từ trong cái tâm đối đăi mà có thể lập tức tiêu trừ đối đăi, sẽ là sức vô ngại, sanh mạng như thế sẽ tươi sáng, tiếp nối rộng lớn, mà chẳng đắm nhiễm. V́ thế, phần nhiều dùng sắc thân vi tế, mầu nhiệm để lợi ích rộng khắp thế gian, tối thiểu là ĺa khỏi cái chết thô nặng, hoặc có thể nói là Phần Đoạn sanh tử. Nỗi khổ và chướng ngại của Phần Đoạn sanh tử là do chính ḿnh tự cưỡng chấp lấy bỏ, chúng ta phải khéo quan sát.

         

          (Kinh) Bồ Tát thành tựu thị tam-muội cố, tức đắc đổ kiến vô lượng vô số quá A-tăng-kỳ chư Phật Thế Tôn, tịnh sở tuyên thuyết, giai tất thính văn.

          ()菩薩成就是三昧故。即得睹見無量無數過阿僧祇諸佛世尊。並所宣說。皆悉聽聞。

          (Kinh: Bồ Tát thành tựu tam-muội như thế, liền được trông thấy vô lượng vô số quá A-tăng-kỳ chư Phật Thế Tôn, và những ǵ các Ngài tuyên nói thảy đều nghe thấy).

 

          Người tu tŕ như thế, dù là sơ phát tâm, hay đă phát tâm, hoặc là cái tâm đă thuần thục, chọn lựa phương tiện tự tại nơi sức tam-muội, lợi ích rộng khắp hữu t́nh chẳng hề sợ hăi, chẳng hề chán mệt. Hữu t́nh trong thế gian phần nhiều do chẳng đạt được sức Chánh Thọ, cho nên ai nấy tự tiêu hao. Cho đến tiêu hao mà chẳng có sức tự lợi, lợi tha, vác gánh nặng trầm trọng bởi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nơi sanh mạng, cho đến tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê, cho đến nghiệp tướng hiện tiền của vạn sự vạn vật trong thế gian. Tự lợi là đạt được tự tại trong các chỗ khinh an, bất luận là chí tĩnh khinh an, tịch diệt khinh an, hay từ bi khinh an. Chí tĩnh khinh an (sự an lạc nhẹ nhàng do đă đạt đến tĩnh lặng tột bậc) là đă được ngơi nghỉ. Tịch diệt khinh an là có thể xuất ly. Từ bi khinh an là lợi ích rộng khắp hữu t́nh, chẳng chán mệt. Chúng ta thường gặp các vị đại thiện tri thức trong khi hành pháp và lợi ích thế gian, chẳng hề chán mệt, chẳng nghỉ ngơi, khiến cho tâm linh kẻ khác rúng động và cảm kích. V́ sao bọn phàm phu chúng ta có lắm nỗi mệt nhọc, chán ngán, lắm điều đối đăi, cho đến bị hại bởi danh tự, bị hại bởi nghiệp tướng? Tức là kẻ khác dựa vào danh tự của chúng ta để thốt ra lời nguy hại, ta sẽ chẳng thể tiếp nhận. Như thế tức là coi danh tự là Ngă, coi sắc thân là Ngă, coi nghiệp tướng là Ngă, coi phiền năo nghiệp tập là Ngă. Khi chấp giữ, lầm tưởng là có Ngă, sẽ sanh ra đủ thứ đau khổ. V́ sao? Do bị đối đăi và lấy bỏ bức bách. Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta phải nên khéo tư duy, khéo quan sát.

 

          (Kinh) Văn bỉ pháp dĩ, hàm năng thọ tŕ, bỉ chư Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác, sở hữu nhất thiết vô ngại giải thoát, giải thoát tri kiến, diệc tức năng đắc bỉ vô ngại trí.

          ()聞彼法已。能受持。彼諸如來應等正覺。所有一切無礙解脫解脫知見。亦即能得彼無礙智。

          (Kinh: Đă nghe pháp ấy, đều có thể thọ tŕ. Các đức Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác ấy tất cả hết thảy giải thoát, giải thoát tri kiến vô ngại cũng chính là có thể đắc vô ngại trí).

 

          Ở chỗ này, hết thảy những điều đức Thế Tôn tuyên nói như cái ấn đem in vào nhau, như khế[4] phù hợp nhau. Nếu chúng ta chẳng lấy, chẳng chấp, thanh tịnh tiếp nhận, tiếp nhận toàn bộ, đó là Nhất Thiết Vô Ngại Trí. Chư Phật có các trí như thế nào? Chúng ta do Chánh Thọ, cũng có thể ở yên nơi Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Khi “tâm, Phật, chúng sanh vốn chẳng sai biệt” cùng lúc hiện tiền, hiển hiện rơ rệt toàn thể nơi Chánh Thọ, hiện tiền đại dụng lập tức sanh khởi, sanh khởi pháp lạc vô úy, pháp lạc thiện xảo, pháp lạc lợi ích hữu t́nh chẳng chán mệt, các thứ lạc trong thế tục chẳng thể sánh bằng các loại pháp lạc ấy.

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Bồ Tát quán sát Tứ Niệm Xứ thời, vô pháp khả kiến, vô thanh khả văn. Vô kiến văn cố, tắc vô hữu pháp khả đắc phân biệt.

          ()復次賢護。菩薩觀察四念處時。無法可見。無聲可聞。無見聞故。則無有法可得分別。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Khi Bồ Tát quán Tứ Niệm Xứ, chẳng có pháp nào để có thể thấy, chẳng có tiếng nào để có thể nghe. Do chẳng thấy nghe, cho nên chẳng có pháp nào để có thể phân biệt).

 

          Trong phần trước đă nói “chẳng tư duy, chẳng chướng ngại”. Ở đây, bèn nói “chẳng phân biệt”. V́ sao chẳng phân biệt? Do chẳng thấy nghe, cho nên “chẳng có pháp để có thể phân biệt”.

 

          (Kinh) Diệc vô hữu pháp khả đắc tư duy.

          ()亦無有法可得思惟。

          (Kinh: Cũng chẳng có pháp để có thể tư duy).

 

          Cội nguồn của chẳng phân biệt, chẳng tư duy là do chẳng thể thấy, chẳng thể nghe. Đó là chánh tư duy. Quư vị nói: “Tôi thấy th́ cũng thấy, nghe th́ cũng nghe, tư duy th́ cũng tư duy“, nào có biết đấy chính sự tiếp nối của chủng tử tư duy bất chánh. Chúng ta hăy nên nương theo lời dạy của Phật Thế Tôn, nương theo ngôn thuyết chánh tư duy để hướng dẫn chánh tư duy cho chính ḿnh, nhập phương tiện chánh tư duy, chẳng nhờ vào pháp nào khác. Như thế th́ chúng ta sẽ có thể tùy thuận Phật giáo để được giải thoát, giống như người ngồi thuyền bèn được thuyền chở, ngồi xe bèn được xe chở, ngồi máy bay liền được máy bay chở đi! Chúng ta tùy thuận lời dạy của đức Thế Tôn để tư duy, cũng được lời dạy và sự tư duy ấy chuyên chở, khiến cho chúng ta đạt tới bờ trí huệ bên kia.

 

          (Kinh) Nhi diệc phục phi cổ manh lung loại.

          ()而亦復非瞽盲聾類。

          (Kinh: Mà cũng chẳng thuộc loại mù, ḷa, điếc).

 

          Chẳng phải là không thấy, không nghe! V́ sao? Hiểu rơ ràng, rành rẽ, sạch làu, vô nhiễm, thể chất hiển hiện, nhưng tướng vẫn là không. Tướng là phi tướng, do nhân duyên mà hiện. Tướng là vô thường, tướng là chẳng có vật chất, v́ thể chất chẳng có vật chất. Do vậy, trông thấy chánh tướng. Chánh tướng được hiểu rơ ràng phân minh, cho nên chẳng lấy, chẳng chấp, chẳng nghĩ, chẳng niệm. V́ sao? Do trong ấy chẳng được, chẳng mất, chẳng đối đăi. V́ thế, chẳng phải là mù, cũng chẳng phải là điếc, thật sự là như thế, rành rẽ, phân minh, có thể thấy, có thể biết!

 

          (Kinh) Đản thị chư pháp vô khả kiến cố, thị cố quán thời, bất sanh trụ trước, nhi kiến chư đạo.

          ()但是諸法無可見故。是故觀時。不生住著而見諸道。

          (Kinh: Chỉ v́ các pháp chẳng thể thấy, cho nên khi quán, chẳng sanh tâm chấp trước mà thấy các đường).

 

          “Đạo” là chỗ nghiệp tướng hiện tiền.

 

          (Kinh) Tư duy đạo cố, tức ư chư pháp vô hữu nghi vơng.

          ()思惟道故。即於諸法無有疑網。

          (Kinh: Do tư duy đạo, liền đối với các pháp chẳng có lưới nghi).

 

          V́ sao? Thanh tịnh tùy thuận, chẳng đối đăi, nhị nguyên bị tán hoại, kiến lập tâm trí viên măn. Sự kiến lập ấy là không có ǵ để kiến lập. V́ chúng ta sống trong không gian đối đăi nhị nguyên, một khi tất cả các pháp tắc dấy động, sẽ liền có đối đăi bầu bạn. V́ thế, nẩy sanh sự cưỡng chấp Biên Kiến, cưỡng chấp lấy bỏ, cưỡng chấp đắm nhiễm, cho đến các thứ được gọi là khổ và lạc, thiện và ác, đúng và sai của hữu t́nh trong thế gian, đều sẽ cùng khiến cho tự ngă trong ấy mạnh hơn, chẳng đạt được thiện xảo. Nhưng kẻ thiện xảo vô nhiễm, kẻ thiện xảo chẳng cậy vào tư duy, kẻ thiện xảo chỉ nhận biết tự tánh, kẻ có thiện xảo của Như Lai Đẳng Chánh Giác, sẽ ở trong biển pháp tánh Chân Như, sạch làu chẳng có một điều thiện hay lẽ ác. V́ sao? Chẳng có mảy trần để có thể đạt được! Thật ra, chúng ta thường như “Như Lai CChân Đẳng Chánh Giác”, Đẳng là chẳng đối đăi, Đẳng là giống hệt như nhau, nhưng hữu t́nh phiền năo vọng chấp thiện ác, trầm luân trong thế gian.

          Đức Thế Tôn nói “tánh có thiện và ác”, chư Phật đích thân chứng tánh “vốn trọn đủ thiện và ác” của hết thảy chúng sanh. Khi sự đối đăi giữa thiện và ác tiêu tan, sẽ là lúc chân thật trọn đủ. Nói là “đủ”, tức là có thể trọn đủ tạo thiện, trọn đủ tạo ác. Giáo pháp Thiên Thai Tông đă phán định “sự đối đăi giữa hai pháp thiện và ác” thật sự là phương tiện để chư Phật Như Lai xuất thế độ sanh, nhưng chúng sanh đắm ch́m trong đối đăi thiện ác, quả thật là tư lương để tạo ác luân hồi, trầm luân trong lục đạo. Trong một pháp, sanh khởi hai thứ tướng, có tự tại và chẳng tự tại, có giác và mê, chúng ta làm thế nào để thật sự giải thoát chính ḿnh, tùy thuận giáo ngôn của Phật? Điều này rất trọng yếu. Nếu quư vị nương vào thức tâm của chính ḿnh, chắc chắn sẽ là chấp giữ Biên Kiến, lấy bỏ bởi vọng thức. [Khi đó], quư vị chẳng lấy hay bỏ sẽ đau khổ, chẳng phân biệt sẽ khó tiếp nhận, lo âu nhọc nhằn sẽ khó đoạn. V́ sao? Phân biệt lấy hay bỏ trở thành sự cưỡng chấp liên tục trong sanh mạng, chính là chỗ tồn tại của nội dung sanh mạng. Nghiệp tập như thế, phiền năo là như thế, cội nguồn của tội nghiệp cũng ở tại đó. V́ thế, kẻ khéo nói thiện ác, kẻ cưỡng nói thiện ác, kẻ nói nhiều về thiện ác, th́ nghiệp tướng khổ nạn của kẻ đó cứ tiếp nối chẳng dứt. V́ sao? Tạo tác khổ nạn là ở chỗ này! Nhưng trong tâm trí của bậc trí, phân biệt thiện ác lập tức bị trừ sạch, thủ hộ thanh tịnh, hồi thí từ bi, cho nên trong cái tâm trí huệ chẳng có đối đăi, sức trí huệ chẳng đắm chấp chói rực trong thế gian, cùng lúc được thoát khỏi thiện ác.

          Thiện ác chỉ là pháp tắc cưỡng chấp bởi hữu t́nh trong Dục Giới, Sắc Giới sẽ chẳng thấy. Hữu t́nh trong Sắc Giới chẳng chấp trước thiện, ác, đúng, sai, nhưng bọn chúng ta là hữu t́nh trong Dục Giới phần nhiều khoa trương sự thiện ác của chính ḿnh. Nếu chính ḿnh là thiện, sẽ cưỡng chế kẻ ác, nào có biết “ác giả, thiện chi tư; thiện giả, ác chi sư” (ác là chỗ dẫn dắt thiện phát khởi, thiện là thầy của ác)[5]. Nếu biết điều này, th́ sẽ là người khéo dùng pháp. Nếu có ác pháp, đúng là lúc vận dụng tốt lành, đó là chánh thiện, tăng thượng thiện. Nhưng nếu thấy kẻ khác phạm lầm lỗi bèn chán ghét, quở trách, người ấy chẳng đắc thiện đạo, mà là cái tâm tà mạn. Chúng ta vận dụng trong Phật pháp, cũng phần nhiều bị Biên Kiến và tà mạn che lấp, mê mờ, cho nên kẻ xâm hại lẫn nhau th́ nhiều, kẻ lợi ích lẫn nhau ít ỏi! Kẻ quan tâm yêu thương lẫn nhau hiếm hoi, kẻ cảm ơn lẫn nhau rất thưa thớt. Nếu chúng ta thật sự sống trong tâm trí cảm ơn, cảm ơn hết thảy chúng sanh bầu bạn, cảm ơn hết thảy thế gian chuyên chở, cảm ơn hết thảy hiện duyên chúng sanh, y báo và chánh báo đă che chở, chúng ta sẽ sống trong tâm trí rộng lớn, trong sự yên vui chẳng có đối đăi, sẽ sanh khởi vô úy, sanh khởi thiện xảo, sanh khởi lợi ích phước huệ chân thật.

          Đối với hữu t́nh tánh ác, phần nhiều quở trách, thực tế là giữ lấy điều thiện, để lại điều hại cho cơi đời. Chẳng giữ lấy điều thiện, vẫn là phương tiện; một khi giữ lấy điều thiện, sẽ quở trách kẻ khác, thương tổn người khác, giống như khi giữ lấy vật sắc bén để tổn thương người khác! Người học Phật chúng ta chẳng như vậy, phải nên là chẳng chấp trước thiện ác ḥng tạo lợi ích cho hữu t́nh có tánh ác, cứu chữa ác tánh hữu t́nh. V́ sao vậy? Ác tánh hữu t́nh mười phần khổ nạn, ch́m đắm trong đớn đau chẳng được cứu thoát, họ chẳng thể tự thoát ra, nhưng thiện pháp hữu t́nh c̣n có trụ xứ an lạc. Cổ nhân Trung Hoa đă nói: “Ác giả, thiện chi tư, thiện giả, ác chi sư” chính là do ư nghĩa này! Trong xă hội thuộc thời đại hiện tại, chúng ta gần như đă đánh mất đạo đức tăng thượng cơ bản nhất, cho nên đâm ra: “Kẻ ác là đối tượng trừng phạt của thiện”. Như thế th́ thiện đă đánh mất bản chất giúp đỡ cho kẻ ác [thoát khỏi điều ác]. “Giúp đỡ” chính là cơ sở để tăng trưởng thiện pháp, là cơ duyên để tăng trưởng thiện pháp. Chúng ta thường nói “bùn lầy có thể sanh ra hoa sen”. Nếu muốn gột trừ sạch hết bùn lầy, nào có biết nguồn cội giúp sức cho hoa sen sanh trưởng chính là đó! Chư Phật Như Lai dạy chúng ta: “Chúng sanh hoan hỷ th́ chư Phật hoan hỷ”. V́ sao nói như vậy? Có nghĩa là hết thảy chúng sanh là nguồn gốc của chư Phật, là thầy của chư Phật. Do vậy, chư Phật Thế Tôn chẳng hề khinh báng bất cứ hiện duyên hữu t́nh nào. V́ sao? Do tri ân, biết hết thảy chúng sanh là cội nguồn thiện xảo oai đức xuất thế của chư Phật, lại là thầy để hết thảy chư Phật thành Phật. Nếu chẳng xét kỹ như thế, chúng ta học Phật sẽ chẳng có tư lương, chẳng có cơ sở, giống như quư vị cho rằng đất dưới chân ḿnh bị ô nhiễm, muốn dẹp sạch nó đí, vậy th́ quư vị đứng ở chỗ nào? Nhất định là chẳng được an lạc!

 

          (Kinh) Vô nghi vơng cố, kiến Phật Như Lai. Kiến Như Lai cố, vĩnh ly mê mậu. Vô mê mậu cố, tri nhất thiết pháp chung vô khả kiến.

          ()無疑網故見佛如來。見如來故。永離迷謬。無迷謬故。知一切法終無可見。

          (Kinh: Do chẳng có lưới nghi bèn thấy Phật Như Lai. Do thấy Như Lai, vĩnh viễn ĺa khỏi mê muội, lầm lạc. Do chẳng mê muội, lầm lạc, biết hết thảy các pháp trọn chẳng thể thấy).

 

          Tư Hoặc được gọi là “nghi vơng” (疑網, lưới nghi). Tư Hoặc dính chặt quá sâu, từ vô thỉ tới nay đă khiến cho hữu t́nh khốn khó, chúng sanh trói buộc lẫn nhau, chẳng thể tự thoát ra. Do vậy, chư Phật Thế Tôn lập bày phương tiện, khiến cho chúng ta yêu thích. Từ sự tu tŕ như thế đó, có thể trực tiếp đoạn trừ Tư Hoặc của chính ḿnh, khiến cho chúng ta thoát khỏi triền phược Tư Hoặc “tham, sân, si, mạn, nghi”.

 

          (Kinh) Hà dĩ cố? Bồ Tát nhược hữu như tư kiến giả, tắc thủ bỉ kiến.

          ()何以故。菩薩若有如斯見者。則取彼見。

          (Kinh: V́ cớ sao? Nếu Bồ Tát có kiến giải như thế, sẽ chấp lấy kiến giải đó).

 

          “Thủ bỉ kiến” (chấp giữ kiến giải ấy) là điều chẳng nên. Trong phần trước đă nói: Trọn chẳng nên có chấp lấy, chẳng có ǵ để thấy, chẳng có ǵ để tư duy, chẳng có ǵ để phân biệt.

 

          (Kinh) Thủ bỉ kiến cố, tắc thủ pháp tướng. Thủ pháp tướng cố, tắc thủ sự nghiệp. Thủ sự nghiệp cố, tắc kiến chúng sanh.

          ()取彼見故。則取法相。取法相故。則取事業。取事業故。則見衆生。    

          (Kinh: Do giữ lấy kiến giải đó, sẽ giữ lấy pháp tướng. Do giữ lấy pháp tướng, sẽ giữ lấy sự nghiệp. Do giữ lấy sự nghiệp, sẽ thấy chúng sanh).

 

          Đấy đều là do chấp giữ các tri kiến chẳng chánh đáng!

 

          (Kinh) Kiến chúng sanh cố, tắc kiến thọ mạng. Kiến thọ mạng cố, tắc kiến Phú-già-la. Kiến Phú-già-la cố, tắc kiến chư Ấm. Kiến chư Ấm cố, tắc kiến chư Nhập. Kiến chư Nhập cố, tắc kiến chư Giới. Kiến chư Giới cố, tắc kiến chư tướng. Kiến chư tướng cố, tắc kiến chư vật. Kiến chư vật cố, tắc kiến bỉ nhân. Kiến bỉ nhân cố, tắc phục kiến duyên. Dĩ kiến duyên cố, tắc tiện cầu thủ. Dĩ cầu thủ cố, tắc hữu Hữu sanh.

          ()見衆生故。則見壽命。見壽命故。則見富伽羅。見富伽羅故。則見諸陰。見諸陰故。則見諸入。見諸入故。則見諸界。見諸界故。則見諸相。見諸相故。則見諸物。見諸物故。則見彼因。見彼因故。則復見緣。以見緣故。則便求取。以求取故。則有有生。
          (Kinh: Do thấy chúng sanh, bèn thấy thọ mạng. Do thấy thọ mạng, bèn thấy Phú-già-la (Pudgala). Do thấy Phú-già-la, bèn thấy các Ấm. Do thấy các Ấm, bèn thấy các Nhập. Do thấy các Nhập, bèn thấy các Giới. Do thấy các Giới, bèn thấy các tướng. Do thấy các tướng, bèn thấy các vật. Do thấy các vật, bèn thấy cái nhân. Do thấy cái nhân, lại thấy cái duyên. Do thấy cái duyên, bèn cầu chấp giữ. Do cầu chấp giữ, bèn có Hữu sanh).

 

          Trong phần trước, đức Thế Tôn đă nêu lên pháp tắc tư duy. Ở đây, Ngài nói tới những điều chúng sanh chấp trước.

 

          (Kinh) Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Nhất thiết chư pháp, chung bất khả thủ.

          ()何以故。賢護。一切諸法。終不可取。

          (Kinh: V́ cớ sao? Này Hiền Hộ! Hết thảy các pháp trọn chẳng thể lấy được).

 

          Ở đây, phủ định tướng ngu si chấp trước, tướng cưỡng chấp của chúng sanh, cho đến tướng y báo và chánh báo mang lại đau khổ cho thế gian này. Trong các pháp chẳng thể đạt được, chúng sanh lại cưỡng chấp một pháp. Do vậy, gọi là chấp trước vọng tưởng điên đảo và nghiệp tập phiền năo. Các danh từ ấy đă cho chúng ta biết: Cưỡng chấp là do vọng tưởng nẩy sanh.

 

          (Kinh) Vô khả thủ cố, Bồ Tát ư bỉ nhất thiết chư pháp, bất tư, bất niệm, bất kiến, bất văn.

          ()無可取故。菩薩於彼一切諸法。不思不念。不見不聞。

          (Kinh: Do chẳng thể giữ lấy, Bồ Tát đối với hết thảy các pháp chẳng nghĩ, chẳng nhớ, chẳng thấy, chẳng nghe).

 

          Như thế chính là cái tâm thanh tịnh. Chúng ta thường nói “nhất tâm”, như niệm Phật nhất tâm bất loạn. Cái tướng nhất tâm ấy chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng đến, chẳng đi. Trong cái tâm như thế, niệm Phật thanh tịnh, thanh tịnh niệm Phật, chính là nhất tâm niệm Phật. Nếu nói chẳng chứng tam-muội th́ là lời lẽ chẳng tương ứng.

          Cận đại, Trung Hoa có một vị đại thiện tri thức giảng kinh Lăng Nghiêm, tức người sáng lập Viên Minh Giảng Đường: Pháp sư Viên Anh. Trong lúc Nhật Bản xâm chiếm Trung Hoa, Ngài nhiều lượt sang Đông Nam Á quyên tiền và vật dụng kháng Nhật. Thậm chí, tổ chức tăng nhân cứu hộ đội v.v... V́ thế, người Nhật bắt Sư vào tù, dùng cái chết để uy hiếp, ḥng khuất phục những ai chống đối Nhật Bản xâm lược. Thông thường, pháp sư Viên Anh giảng kinh Lăng Nghiêm tại Trung Hoa lục địa rất có oai danh, thậm chí tại các quốc gia ở Đông Nam Á cũng thế. Nhưng khi ấy, tâm trí của Ngài đặt nơi chuyên giảng kinh Lăng Nghiêm, dẫu cho tâm trí chứng ngộ của Ngài tại chùa Tuyết Phong cũng không thể nương cậy được [trong khi đối diện với cái chết]. Nếu Ngài chết vào lúc ấy, sẽ lấy ǵ để nương về? Khi đó, Ngài nghĩ đến pháp môn Niệm Phật thường nhật. Pháp sư Viên Anh hiểu rơ niệm Phật, Ngài tổng kết bằng hai câu: “Rành rành phân minh, trọn chẳng có ǵ để đạt được”. Ngài dùng tâm trí ấy để niệm Phật, đạt được rành rành phân minh, thanh tịnh niệm Phật, trọn chẳng có ǵ để đạt được, quyết định y chỉ thanh tịnh niệm Phật, chọn lựa pháp môn Niệm Phật. Sau đó, người Nhật thấy Ngài bèn chẳng áp bức nữa, v́ sao? V́ trong nhân duyên ấy, Ngài đă chứng đắc tướng Tương Tự Niệm Phật tam-muội. Trong lúc tai nạn tột cùng, pháp sư Viên Anh quy hướng Tịnh Độ, đạt được đại lợi. Sau khi ra khỏi tù, Ngài bèn truyền bá rộng răi pháp môn Niệm Phật, hướng dẫn chúng sanh sanh khởi ḷng tin quyết định đối với niệm Phật. Lúc b́nh thời, chúng ta chẳng biết sanh tử bức bách, cứ cho là thường hằng, cho nên chẳng thể “rành rành phân minh, trọn chẳng có ǵ đạt được” mà niệm Phật. Nói chung là có mong mỏi, có mong chờ đối với tương lai, thậm chí có mong mỏi đối với danh tự của tam-muội, chẳng biết chẳng nhiễm, chẳng chấp” chính là chánh nhân của tam-muội, “chẳng được, chẳng mất” chính là cái duyên của tam-muội. “Chẳng tạo tác” chính là cái Thể của tam-muội. Lúc chẳng biết, cứ khăng khăng tạo tác, hư vọng giữ lấy thiện ác, hư vọng giữ lấy cảnh giới tốt xấu, cho đến hư vọng giữ lấy khinh an, hư vọng giữ lấy giác thọ, hư vọng giữ lấy ấm cảnh v.v… các thứ cảnh giới, cho nên đă vuột mất pháp ích trong hiện tiền.

          Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh giảng kư

Phần 10 hết

 

 



[1] Hậu Hữu (Punar-bhava): Quả báo trong đời vị lai, hoặc thân tâm trong đời sau. Hiểu theo một nghĩa hẹp hơn, Hậu Hữu là thân sanh tử cuối cùng, c̣n gọi là Tối Hậu Thân, tức là thân cuối cùng của một vị Bồ Tát trước khi thành Phật. Ở đây, Hậu Hữu hiểu theo nghĩa thứ nhất.

[2] Ư nói pháp tắc ấy mọi người đều có thể dễ dàng thấy thấu suốt, hiểu rơ ràng.

[3] Đây là một thuật ngữ tâm lư học nhằm mô tả một hiện tượng: Nếu có sự kiện nào đó tạo thành ấn tượng trong tâm lư một người, bất luận thời gian đă qua đi lâu thế nào, khi thấy kẻ khác gặp phải một sự kiện tương tự, người đó vẫn nẩy sanh phản ứng tâm lư gần giống như ấn tượng tâm lư ban đầu mà chính người ấy đă kinh nghiệm. Đó gọi là “chiết xạ tâm lư”.

[4] Chữ Khế () vốn có nghĩa cổ là dùi khắc lên mai rùa, xương thú, hoặc đá để ghi nhớ một sự kiện hoặc một sự thỏa thuận nào đó. Từ đó, mở rộng thành ư nghĩa khế ước, tức văn kiện ghi chép những điều thỏa thuận của đôi bên. Ở đây, pháp sư Từ Pháp chỉ dùng từ ngữ này theo ư nghĩa “đôi bên phù hợp khít khao.

[5] Câu này nếu hiểu theo nghĩa gốc th́ có nghĩa là nếu người thiện quá khoan dung, người ác sẽ lợi dụng ḷng khoan dung ấy để làm chuyện xấu xa. Do thấy điều ác của người khác, mà người thiện được cảnh tỉnh, phát tâm hướng thiện. Tức là thiện hay ác đều có tánh chất bổ trợ nhau, kích phát lẫn nhau. Pháp sư Từ Pháp sử dụng theo nghĩa “khoan dung với kẻ ác để kẻ ác tăng trưởng thiện tâm, do thấy điều ác mà người thiện tự cảnh tỉnh ḿnh, hăng hái làm lành”.