Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng kư
Phần
11
大方等大集賢護經講記
慈法法師
Chủ giảng:
Pháp sư Từ Pháp
Địa điểm:
Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ
ngày 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt:
Đức Phong và Huệ Trang
(Kinh) Hiền Hộ! Chung bất như
chư ngoại đạo, nhược ngoại đạo
đệ tử thủ trước Phú-già-la, cập dĩ
Ngă Kiến dă.
(經)賢護。終不如諸外道若外道弟子。取著富伽羅。及以我見也。
(Kinh: Này Hiền
Hộ! Trọn chẳng như các ngoại đạo, hoặc các đệ
tử ngoại đạo chấp giữ Phú-già-la cùng với
Ngă Kiến).
Hiện
thời trong Phật pháp, có nhiều vị xuất gia hay tại
gia tuy tu tŕ, nhưng tà kiến lừng lẫy! V́ sao vậy?
Tham cầu, so đo cái thân, muốn do sự nhận biết
[từ các giác quan] mà chứng đắc Bồ Đề,
nhưng chẳng biết, chẳng thấy sự lựa chọn
“nhất tâm thanh tịnh, chẳng tăng, chẳng giảm,
chẳng đối đăi”, chẳng dám lựa chọn.
Chẳng dụng công nơi pháp tánh vô tạo tác và cái tâm chân
thật, cứ từ trong cái tâm hư vọng mà lấy, bỏ
nhiều lượt. Kết quả là rơi vào tri kiến
của ngoại đạo.
Nếu là đệ tử Phật, chuyện
liên quan đến “khổ, không, vô thường, vô ngă, Niết
Bàn tịch tĩnh, pháp chẳng có tự tánh”, quả thật
là pháp tắc trọng yếu hàng đầu, là sự nhận
biết để lựa chọn. Nếu chẳng đặt
vững tri kiến ấy, sẽ chẳng phải là đệ
tử Phật! Dẫu hành tŕ Phật pháp, niệm Phật hiệu,
tụng kinh Phật, lễ tượng Phật, nhưng chủng
tử trong tâm trí là chủng tử ngoại đạo, chẳng
tương ứng! V́ thế, trong “thuyết pháp ấn”
của đức Thế Tôn, Ngài đă nhiều lượt
dùng ấn khế để in vào tâm chúng sanh, khiến cho chúng
ta thoát ĺa tri kiến và chủng tánh ngoại đạo. Nếu
chẳng phải như thế, dẫu chúng ta suốt kiếp
đọc kinh Phật, vẫn trọn chẳng tương
ứng. Kết quả là thường bị cảnh giới
xoay chuyển, chẳng biết chuyển cảnh, v́ chúng ta
chẳng có pháp tắc để tu tập kinh giáo, chẳng
dựa theo kinh giáo để nhận biết tự tâm, ấn
chứng, hứa khả tự tâm, coi vọng chấp trong
tự tâm là kinh điển [để vâng theo]. Như thế
th́ dẫu suốt năm trọn tháng tu tập, niệm tụng,
vẫn chỉ là nhân duyên xa vời vợi trong vị lai, chứ
lợi ích trong hiện tiền nói chung sẽ chẳng mong đạt
được!
Tri kiến của các ngoại đạo và
tri kiến của Phật pháp đích xác là có sai khác như
vậy đó! Do vậy, đức Thế Tôn nói ra ba pháp ấn, hay bốn pháp
ấn, nói Thật Tướng ấn, chúng ta nhất định
phải từ trong các ấn khế ấy mà thật sự ấn khế xem
chính ḿnh có phải là đệ tử Phật hay không? Tức
là khởi tâm động niệm của chúng ta có phải là
vô thường, vô ngă hay không? Có phải là Niết Bàn tịch
tĩnh hay không? Có phải là lựa chọn “pháp chẳng
có tự tánh” hay không? Nếu chẳng lựa chọn [như
thế], chúng ta sẽ cho rằng có thiện, có ác, có đúng,
có sai, có yêu, có ghét, có phàm, có thánh, như thế th́ chính là cái
tâm phàm phu trong Dục Giới, mà cũng là tâm ngoại đạo.
Nhưng trong tăng chúng, trong giới cư sĩ hiện
tiền, cái tâm ngoại đạo lại càng phổ biến!
Tuy nói như vậy khá nặng nề, nhưng chúng ta có thể
xét kỹ chính ḿnh, đối với khởi tâm động
niệm của chính ḿnh trong mỗi sát-na, có phù hợp pháp ấn
của Phật Đà hay không? Có phải là thanh tịnh vô
nhiễm, chẳng vướng, chẳng mắc, chẳng đối
đăi hay không? Nếu là phải, th́ là đệ tử Phật.
Nếu không, sẽ là tri kiến ngoại đạo. Hễ
có cưỡng chấp th́ chính là chủng tánh ngoại đạo.
Dẫu vào trong biển tri kiến của Phật pháp, vẫn
giống như dùng cái b́nh chứa ít nước, niêm kín, vứt
vào biển, [nước trong b́nh ấy] chẳng thể
dung nhập, khế hợp với biển cả. V́ thế,
trong biển trí sâu rộng, chúng ta luôn dùng tri kiến của
chính ḿnh để cưỡng chấp cách ly, chẳng thể
dung nhập!
(Kinh) Hiền Hộ! Bồ Tát chung bất
tác như thị kiến, vân hà kiến Bồ Tát kiến giả?
Như Như Lai kiến, chung bất thoái chuyển.
(經)賢護。菩薩終不作如是見。云何見菩薩見者。如如來見。終不退轉。
(Kinh: Này Hiền
Hộ! Bồ Tát trọn chẳng có cái thấy như thế,
thấy cái Thấy của Bồ Tát như thế nào? Như
cái Thấy của Như Lai, trọn chẳng thoái chuyển).
Như Lai dùng ǵ để thấy? V́ thế,
nói quả địa giác rất trọng yếu. Kinh Viên Giác
đă xiển thuật cặn kẽ bốn loại tri kiến,
tức cái gọi là “tùy thuận giác tánh”, bao gồm chúng
sanh tùy thuận giác tánh, Bồ Tát tùy thuận giác tánh, Đăng
Địa Bồ Tát tùy thuận giác tánh, và chư Phật Như
Lai tùy thuận giác tánh. Trong chư Phật Như Lai tùy thuận
giác tánh, tiêu trừ đối đăi, diệt mất thiện
ác, tỏ lộ rơ rệt Phật Tánh, trọn đủ chân
thật. Đó gọi là “linh đệ nhất thiên cung hàm
vi Tịnh Độ, tŕ giới, phạm giới, giai vi phạm
hạnh” (khiến cho cung trời bậc nhất đều
là Tịnh Độ, tŕ giới hay phạm giới đều
là phạm hạnh). V́ sao nói như vậy? Trong biển tịch
diệt của đức Thế Tôn, đă chiếu soi, biết
rơ tướng Chân Như, chứ phàm phu do phân biệt, chấp
trước, sẽ chẳng thể kiến lập. Nếu
chẳng thể nhận biết tri kiến của Như
Lai là như thế, chúng ta sẽ chẳng thể tùy thuận
cái Thấy của Như Lai. Có nhiều hữu t́nh vọng
chấp, dùng tri kiến của chính ḿnh để phân tích, đồng
hóa Phật pháp. Kết quả là Phật pháp hoàn toàn bị họ
“xử lư” một lượt,
hoàn toàn trở thành rác rưởi. Đó gọi là “rác rưởi
tri kiến”, nói chung là chẳng tương ứng.
Đây là một chuyện rất khó khăn,
v́ trong thời đại này, sách vở lưu truyền rất
rộng, phương tiện để duyệt đọc,
trao đổi, phương tiện ngôn thuyết, phương
tiện tư duy [rất nhiều], kết quả là chẳng dạy theo thứ
tự, học pháp theo kiểu xen tạp, loạn xạ, quá
nhiều! Trong quá khứ, khi tôi mới xuất gia, có thiện
tri thức chỉ điểm sách để xem, không cho phép
xem loạn xạ. V́ chẳng hạn như xem các giáo ngôn của
các vị tổ sư từ đời Tống, đời
Minh trở đi, tuy là chẳng
thể nghĩ bàn, nhưng giống như một bầu sữa
thêm vào mười bầu nước! Nếu chẳng khéo
phân biệt, coi nước là sữa, sẽ chẳng thể
tự lợi, chẳng thể dưỡng dục Pháp Thân huệ
mạng. C̣n từ đời Tùy - Đường trở về
trước, các lời dạy của thiện tri thức chẳng
tăng giảm giáo ngôn của đức Thế Tôn, ví như
thuần là sữa. Tuy có chút phần nước, nhưng giống
như vài nét chấm phá, vị sữa vẫn mười
phần trọn đủ. Hễ đọc, sẽ có thể
tiêu hóa. Nếu một cân sữa thêm vào một trăm cân nước,
dùng sữa như thế để dưỡng dục sanh
mạng, có ư nghĩa ǵ chăng? Chỉ có sắc, chẳng
có vị sữa! Nếu phước đức của chúng
ta giống như ngỗng chúa, khéo có thể
chọn sữa từ trong nước, như thế th́ sẽ
hấp thụ chất dinh dưỡng, lợi lạc Pháp
Thân huệ mạng của chính ḿnh. Nhưng nếu chẳng
có phước đức như vậy, nước lẫn
sữa đều cùng dùng, sẽ chẳng đạt được
lợi ích ấy! V́ thế, chúng ta học biết rất
nhiều thứ mà chẳng đắc lực, v́ sở học
chẳng thể dưỡng dục Pháp Thân huệ mạng
của chúng ta, chẳng thể tăng thêm các Thiền Định
và trí huệ. Khi đó, thiện tri thức quở trách, dạy
bảo tôi như thế, đích xác là đă khiến cho tôi được
gia tŕ và lợi ích rất lớn. Nhưng người hiện
thời xem sách, muốn xem thứ ǵ liền xem thứ đó,
muốn học ǵ bèn học thứ đó. Tri kiến hễ
tiếp xúc thứ nào trước, thứ đó sẽ là chủ
chốt. Đả động tri kiến c̣n nguy hại hơn
giết sanh mạng nữa! Đấy cũng là tướng
cộng nghiệp!
V́ thế, học Phật mà nếu chẳng
có sức truyền thừa chân thật, cũng có nghĩa là
chẳng thể trừ khử lo ngờ, khiến cho cái tâm quư vị tịnh, mà là chấp trước
tri kiến. Chấp trước cái gọi là “đa văn”,
quư vị sẽ rất khó loại trừ nghiệp tướng
độc hại ấy. V́ quư vị
đă bị gánh nặng trân bảo của chính ḿnh đè sụp,
giống như con trùng nhỏ thích cơng vật nặng trong
Phù Bản Truyện. Trong lúc cùng mọi người học
tập đă gần một tháng, điều tôi nhắc tới
nhiều nhất là “chúng ta đừng
cơng gánh nặng trân bảo của chính ḿnh”, “đừng
cơng gánh nặng lầm lỗi của kẻ khác”. Hai gánh
nặng ấy có thể đè sụp con người. Do vậy,
“nhập Như Lai kiến, chung bất thoái chuyển”
(vào trong cái Thấy của Như Lai, trọn chẳng
thoái chuyển). Nếu chẳng biết cái Thấy của Như
Lai là thấy như thế nào ư? Chính là Như Lai ấn,
chính là Như Lai giác tánh, chính là quả địa giác của
Như Lai, chính là giải thoát tri kiến. Toàn bộ kinh Hiền
Hộ không ngừng dạy bảo chúng ta về tri kiến
của Như Lai. Nếu quư vị chẳng biết, làm sao vận
dụng được?
(Kinh) Bồ Tát kiến, như Bích Chi Phật
kiến, như A La Hán kiến. Bồ Tát đương ưng
tác như tư kiến. Như tư kiến cố, bất
ức, bất niệm, bất kiến, bất văn. Dĩ
bất ức niệm, cập kiến văn cố, diệt
chư vọng tưởng, tức đắc tư duy
như tư tam-muội dă.
(經)菩薩見。如辟支佛見。如阿羅漢見。菩薩當應作如斯見。如斯見故。不憶不念。不見不聞。以不憶念及見聞故。滅諸妄想。即得思惟如斯三昧也。
(Kinh: Cái Thấy
của Bồ Tát giống như cái Thấy của Bích Chi Phật,
như cái Thấy của A La Hán. Bồ Tát hăy nên thấy như
thế. Do thấy như thế, chẳng nhớ, chẳng
nghĩ, chẳng thấy, chẳng nghe. Do chẳng nghĩ
nhớ và thấy nghe, diệt các vọng tưởng, liền
được tư duy tam-muội như thế).
Do nhân duyên “chẳng nhớ, chẳng nghĩ,
chẳng thấy, chẳng nghe”, đạt
được chánh tư duy tam-muội, tức là tư duy
chẳng đắm nhiễm. Có người
dùng học vấn để tư duy sẽ chẳng thể
phù hợp. Có kẻ dùng tri kiến để tư duy, cũng
chẳng phù hợp. Nếu xét theo hai câu khẩu quyết niệm
Phật “rành rẽ phân minh, trọn chẳng có ǵ để
đạt được” của pháp sư Viên Anh, dùng cái
tâm hữu sở đắc (có điều ǵ để đạt
được) sẽ rất mệt. Dùng cái tâm vô sở đắc
để niệm Phật mà nếu cưỡng chấp, cũng
rất mệt. V́ thế, hiểu rành rẽ, phân minh, trọn
chẳng có ǵ để đạt được, chẳng có ǵ nhiễm, thanh tịnh niệm Phật, chẳng chấp trước,
đỡ tốn sức mà niệm Phật, đúng là cảm
ân đội đức! V́ sao vậy? Thật
sự giải thoát tâm linh của chính ḿnh, tháo bỏ gánh nặng
của chính ḿnh, tất cả gánh nặng thiện ác, gánh nặng
đối đăi, gánh nặng thánh phàm, cùng lúc được
giải thoát, sẽ thật sự cảm kích Phật
Đà Thế Tôn. Chỉ có bản thân chúng ta chẳng mang nặng
nữa, chẳng tạo khổ nữa! Nếu không, chúng ta
đúng là chẳng có ǵ để cảm kích, chẳng biết ân th́ báo ân bằng cách nào?
Ân c̣n chẳng thể được, có thể cảm ơn
bằng cách nào? Ân ở chỗ nào? Ở chỗ trừ khử
gánh nặng lấy bỏ, gánh nặng phân biệt, gánh nặng
chẳng chánh kiến của chúng ta từ vô thỉ đến
nay, khiến cho chúng ta hiểu rơ ràng, an lạc, chẳng vướng
mắc, chẳng đối đăi, chẳng nghĩ ngợi,
chẳng thấy, thanh tịnh một bề, chân thật niệm
Phật!
Trong Ngẫu Ích Đại Sư Toàn Tập chép: Có người
tới hỏi Ngẫu Ích đại sư: “Thưa đại
sư! Ngài thông đạt giáo lư. Dù là Hoa Nghiêm, hay là Thiên Thai,
hay là Tam Luận, Ngài đều tiến nhập vô ngại.
Sao Ngài chẳng giảng các bộ đại luận, đại
giáo? Cớ sao cứ khuất ḿnh giữ ǵn pháp tắc Niệm
Phật như thế?” Ngẫu Ích đại sư nói: “Thiện
tri thức! Ông hăy thôi đi! Chẳng cần phải nói nữa!”
Sau đó, Ngài bảo: “Một niệm hiện tiền của
ông, nếu chẳng niệm Phật th́ ông sẽ niệm ǵ?”
Lúc đó, tôi đọc những câu ấy, đúng là ̣a khóc
tuôn lệ, v́ sao vậy? Đúng là một niệm sẽ là
như thế nào? Một niệm tỏ lộ tam thiên, tam thiên
dung nhập trong một niệm. Một niệm ấy có thể
làm ǵ? Ai biết, ai hiểu? Thiện tri thức tự biết,
nhưng kẻ mê muội đă mê mất công dụng rộng
lớn của một niệm, tức là tam giới sẽ
kéo dài, ba đời sẽ tiếp tục! Chúng ta hăy khéo tư
duy, quan sát!
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Thí
như hư không, bổn vô h́nh sắc, bất khả quán
kiến, vô hữu chướng ngại, vô sở y chỉ,
vô hữu trụ xứ, thanh tịnh vô nhiễm, diệc vô
cấu trược. Chư Bồ Tát bối, kiến nhất
thiết pháp, diệc phục như thị.
(經)復次賢護。譬如虛空。本無形色。不可觀見。無有障礙。無所依止。無有住處。清淨無染。亦無垢濁。諸菩薩輩。見一切法。亦復如是。
(Kinh: Lại
này Hiền Hộ! Ví như hư không vốn chẳng có h́nh
sắc, chẳng thể xem thấy, chẳng có chướng
ngại, không ǵ để nương tựa, chẳng có trụ
xứ, thanh tịnh vô nhiễm, cũng chẳng có nhơ bẩn.
Các vị Bồ Tát thấy hết thảy các pháp cũng giống
như thế).
Quan sát sâu sắc, quan sát rành rẽ, quan sát không
ngừng, quan sát chân thật rồi kết luận như
thế, dùng [các điều quan sát] như thế để
phá trừ lưới nghi, chọn lựa pháp nghĩa như
thế.
(Kinh) Sở vị ư bỉ hữu vi, vô
vi nhất thiết pháp trung, vô hữu xứ chướng
ngại.
(經)所謂於彼有爲無爲一切法中。無有處障礙。
(Kinh: Tức
là trong hết thảy các pháp hữu vi và vô vi, chẳng có chỗ
chướng ngại).
V́ sao? Hữu vi, vô vi là các danh tự
giả lập, ắt chẳng có tự tánh. Chúng ta tạo
nghiệp nơi danh tự, v́ sao hư vọng lấy bỏ?
V́ sao cưỡng chấp phân biệt thiện ác? V́ sao hư
giả giữ lấy yêu ghét?
(Kinh) Năi chí diệc vô xứ sở, dĩ
nhăn thanh tịnh vô chướng ngại cố, nhất thiết
chư pháp tự nhiên hiện tiền.
(經)乃至亦無處所。以眼清淨無障礙故。一切諸法。自然現前。
(Kinh: Cho đến cũng chẳng có
xứ sở. Do mắt thanh tịnh chẳng có chướng
ngại, hết thảy các pháp tự nhiên hiện tiền).
Do tâm thanh tịnh, mắt thanh tịnh, do tâm
và mắt tương ứng, cho nên được thấy chư
Phật. Tâm chẳng thanh tịnh, mắt ắt ô trược!
Nếu lúc chúng ta đối trước thiện duyên và ác
duyên, đều có thể khéo tư duy, đối phương
(đối tượng trông thấy bởi mắt) sẽ
là thiện tri thức. Nếu chúng ta chẳng khéo tư duy,
cứ t́m kiếm nơi sự tướng, t́m kiếm nơi
âm thanh tốt đẹp như khen ngợi, ghét âm thanh xấu
như phỉ báng, chúng ta sẽ bị mê muội bởi ác
ngôn, ác ngữ, bị thiện ngôn, thiện ngữ cưỡng
chế. Như thế th́ sẽ chẳng tự tại, chẳng
hiểu rơ cái tâm. V́ thế, kẻ bị cảnh chuyển, mê mất tự
tâm, được gọi là “chúng
sanh”. Người
thường có thể chuyển cảnh, an ủi thế
gian, th́ là Bồ Tát, là bậc giác ngộ. Vốn chẳng
khác biệt, chỉ v́ sử dụng và chấp trước
cái Thấy và cách dùng khác biệt. Chúng ta xét kỹ như thế
nào? Ở đây, phải nên rất nghiêm túc. Đáng nên nghiêm
túc th́ nên nghiêm túc. Chẳng nghiêm túc là như chấp giữ,
đắm nhiễm, tư duy hư vọng. Đó là chẳng
nghiêm túc.
(Kinh) Bỉ chư Bồ Tát như thị
niệm thời, tức kiến chư Phật, kỳ sở
trang nghiêm, trạng như kim liễn, cụ túc oai nghi. Như
bách thiên quang, viêm hách tư chiếu. Như Thu măn nguyệt,
chúng tinh vi nhiễu. Như Chuyển Luân Vương, quân chúng
xí thịnh. Như Thiên Đế Thích, tứ phụ trung tôn.
Như Đại Phạm Vương, xử bỉ thiên ṭa.
Như sư tử vương, oai phục chúng thú. Như
tiên bạch hộc, xử không nhi phi. Như Tu Di sơn vương,
an trụ đại hải. Như Đại Tuyết Sơn,
xuất chư lương dược. Như Thiết Vi sơn,
nhiếp tŕ mănh phong. Như bỉ thủy giới, trụ
tŕ đại địa. Như đại phong luân, tịnh
hư không giới. Như Tu Di đảnh, tráng lệ
thiên cung.
(經)彼諸菩薩如是念時。即見諸佛。其所莊嚴。狀如金輦具足威儀。如百千光。炎赫斯照。如秋滿月。衆星圍繞。如轉輪王。軍衆熾盛。如天帝釋。四輔中尊。如大梵王。處彼天座。如師子王。威伏衆獸。如鮮白鵠。處空而飛。如須彌山王。安住大海。如大雪山。出諸良藥。如鐵圍山。攝持猛風。如彼水界。住持大地。如大風輪。淨虛空界。如須彌頂壯麗天宮。
(Kinh: Các
vị Bồ Tát ấy khi nghĩ như thế, liền thấy
chư Phật. Các Ngài trang nghiêm, h́nh dạng như cỗ
xe bằng vàng, trọn đủ oai nghi, như trăm ngàn
quang minh, chiếu rực rỡ, chói ngời. Như trăng
tṛn mùa Thu, các ngôi sao vây quanh. Như Chuyển Luân Vương,
quân đội đông đảo. Như Thiên Đế Thích
tôn quư trong bốn vị đại thần phù tá. Như Đại
Phạm Vương, ngự trên ṭa trời. Như sư tử
chúa, oai thế hàng phục các loại thú. Như chim hộc
trắng sạch, bay trên hư không. Như núi chúa Tu Di, an trụ
trong biển cả. Như Đại Tuyết Sơn, sanh
ra các thứ thuốc tốt lành. Như núi Thiết Vi nắm
giữ các luồng gió mạnh. Như thủy giới giữ
yên đại địa. Như vầng gió lớn, thanh tịnh
cơi hư không. Như trên đỉnh núi Tu Di, cung trời tráng
lệ).
“Tức kiến chư Phật” (liền
thấy chư Phật), chư Phật có h́nh dạng như
thế nào? Ở đây, [đức Thế Tôn] không ngừng
dùng các vật mà chúng ta có thể thấy, có thể biết
để tỷ dụ, hướng dẫn, ḥng tăng cường
sự nhận biết và sự vui thích, yêu mến của chúng
ta!
(Kinh) Như thị Hiền Hộ! Bỉ
chư Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác, dĩ trí đức
quang chiếu minh nhất thiết tam thiên đại thiên
chư Phật thế giới, kỳ sự nhược thử.
(經)如是賢護。彼諸如來應等正覺。以智德光照明一切三千大千諸佛世界。其事若此。
(Kinh: Như
thế đó Hiền Hộ! Các đức Như Lai Ứng
Đẳng Chánh Giác ấy dùng quang minh trí đức để chiếu
sáng hết thảy tam thiên đại thiên các thế giới
chư Phật, chuyện là như thế đó).
Trí đức quang minh của chư Phật
Như Lai chiếu sáng hết thảy tam thiên đại thiên
thế giới chư Phật. Phàm phu hữu t́nh th́ một
tiểu thế giới cũng chẳng léo hánh được!
Trong các vị đă chứng Tứ Hướng, Tứ
Quả, trí lực của thánh giả Tu Đà Hoàn quả có
thể khéo biết một
tiểu thế giới, A La Hán có thể biết các tướng
trang nghiêm trong một đại thiên thế giới, có thể
vận dụng tự tại trong một đại thiên thế
giới. Công đức của vị thánh ấy chẳng
phải là hư giả đặt ra. Thánh giả trong Phật
pháp chẳng phải là lập ra hư giả. Nếu là thánh
nhân xuất thế, sẽ hiện nhân duyên đại phước
đức. Như lần trước, tôn giả Hỗ Ba (Khruba
Boonchum) đến đây, trong tay Ngài có bảo châu do long vương
hiến tặng. Khi Ngài chứng quả, đại địa
chấn động. Các vị hộ pháp có ḷng yêu mến từ
cung trời, hoặc long vương đều đến cúng
dường như thế. Ngài đă đánh mất hạt
châu ấy ba bốn lần, nhưng mỗi lần đều
có người dùng các thứ nhân duyên đưa trả lại.
V́ sao? Người khác chẳng giữ nổi viên châu ấy.
Nhân duyên
oai đức và phước đức của thánh nhân như thế
chẳng phải là hư giả đặt ra. Bậc thánh nhân đều
có oai đức thiện xảo, phước đức
thiện xảo, Thiền Định thiện xảo, sức
thần thông thiện xảo, vô úy thiện xảo, biết
trọn khắp thiện xảo, được trời, rồng
thủ hộ, trời, rồng tôn sùng, hết thảy trí
giả và thánh giả yêu mến. Tất cả những điều
ấy khiến cho oai đức bất cộng và phước
đức bất cộng nẩy sanh. Phàm th́ chính là phàm, chúng
ta chẳng thể dùng phàm loạn thánh. Thánh chính là thánh, dẫu
có ngăn trở, che lấp, vẫn chẳng thể ngăn
trở, che lấp được. Sở dĩ thánh là thánh,
chẳng phải là do ngôn thuyết mà thành thánh, mà là thánh v́
oai đức, là thánh v́ công đức chân thật. Ở đây,
chẳng thể lập bày hư giả, chẳng thể hư
vọng, chẳng dám coi thường, nói dối đôi chút
cũng chẳng được, nói lời khác lạ một
tí cũng chẳng được. Kẻ hư vọng thật
sự đáng buồn, v́ chẳng có đôi vai ấy, sẽ
chẳng thể gánh vác các thứ này!
Ở đây, tôi lại chẳng ngại nêu một
thí dụ, v́ sợ mọi người đem phàm loạn
thánh. V́ tôn giả Xá Lợi Phất phát nguyện làm đệ
tử đứng đầu của chư Phật, và luôn
nhập diệt trước chư Phật. Do đó, trước
khi đức
Thế Tôn nhập
diệt, Ngài bạch cùng đức Thế Tôn: “Bạch Thế
Tôn! Con sẽ nhập diệt”. Đức Thế Tôn im lặng
chấp thuận. Ngài Xá Lợi Phất trở về thôn xóm
nơi chính ḿnh đă sanh trưởng, tức là thành phố
Na Lan Đà hiện thời, vào trong ngôi nhà đă nuôi lớn
Ngài. Mẹ Ngài vẫn c̣n sống, trông thấy Ngài, bèn sanh
nghi hoặc to lớn: “Ối chao ơi! V́ sao đến tuổi
già, con lại xả giới hoàn tục vậy? Nhà ḿnh tài sản
vô số, lúc trẻ tuổi con chẳng biết lấy dùng, tuổi
già hoàn tục, có ích ǵ đâu chứ?” Mẹ ngài Xá Lợi Phất
tôn kính Đại Phạm, chẳng ưa thích Phật pháp, chẳng
biết Phật pháp, thường lo ngờ Xá Lợi Phất.
Tuy trong lúc hoài thai Xá Lợi Phất, trí huệ và biện tài
của bà ta thiện xảo bậc nhất, chẳng bị
chướng ngại, nhưng bà chẳng học Phật.
Do vậy, trước khi nhập diệt, ngài Xá Lợi Phất
trở về nhà, bà mẹ sanh ḷng
nghi hoặc, nghĩ Xá Lợi Phất đă hoàn tục. Mẹ
đang tựa cửa, trông thấy đứa con của
chính ḿnh đă già khọm.
Khi đó, Đại Phạm hiện đến, phóng quang
minh, đảnh lễ dưới chân ngài Xá Lợi Phất,
thốt lời tán thán. Bà mẹ hết sức kinh sợ, nói:
“V́ sao đại thiên tới chỗ này? Con ơi! Con hành pháp
ǵ mà vị này đến kính ngưỡng con?” Ngài Xá Lợi
Phất chẳng đáp. Cho đến các loại trời,
rồng đến lễ kính, cúng dường, khuyến thỉnh
Ngài trụ thế. Mẹ Ngài hết sức nghi hoặc. Khi
đó, ngài Xá Lợi Phất nói: “Ưu-bà-di! Bà thấy vị
thiên tôn này hay không?” Mẹ Ngài hỏi: “Ta thờ phụng vị
thiên tôn này, cớ sao Ngài đến lễ kính dưới chân
con?” Ngài Xá Lợi
Phất đáp: “Con đă có thể thủ hộ pháp rất
sâu. Việc làm đă xong, phạm hạnh đă lập, chẳng
c̣n thân sau, là bậc Ứng Cúng trong tam giới, là thầy hướng
dẫn của tam giới, là ruộng phước cho tam giới”.
Ngài nói lời quyết định; do vậy, mẹ Ngài được
Ngài thành tựu, cuối cùng trở thành một vị ưu-bà-di
quy y Tam Bảo. Thánh giả tự có thánh công đức, thánh giả
tự có thánh tướng. Ngay như bậc
Sơ Quả trong thánh quả Thanh Văn, biết một tiểu
thiên hạ mà đạt được sức tự tại:
Khi đi lại, tự nhiên ĺa khỏi mặt đất,
chẳng gây hại sát sanh. Đó là điều quyết
định chẳng nghi. Nói đến chỗ này, chỉ sợ
mọi người hễ đạt được sự
khinh an tương tự, lợi ích, cảnh giới tương
tự v.v… liền nhận lầm đầu với chân, tự
chuốc lấy phiền năo, cho nên tôi nhắc nhở đôi
chút.
(Kinh) Hiền Hộ! Bỉ chư Bồ
Tát ư chánh quán trung, phục như tư niệm: “Nhi chư
Như Lai hữu sở tuyên thuyết, ngă tích thính
văn, văn dĩ độc tụng, thọ tŕ, tu hành”.
Như thị niệm dĩ, tùng tam-muội khởi. Như
bỉ định trung sở văn chư pháp, tư duy kỳ
nghĩa, vị tha tuyên thuyết. Hiền Hộ! Đương
tri thị tam-muội vương, vị chư Bồ Tát tác
tư lợi ích, năng dữ như thị chư công
đức tụ, sở vị thế gian, xuất thế
gian nhất thiết chư pháp dă.
(經)賢護。彼諸菩薩於正觀中。復如斯念。而諸如來有所宣說。我昔聽聞。聞已讀誦。受持修行。如是念已。從三昧起。如彼定中所聞諸法。思惟其義。爲他宣說。賢護。當知是三昧王。爲諸菩薩作斯利益。能與如是諸功德聚。所謂世間出世間一切諸法也。
(Kinh: Này Hiền
Hộ! Các vị Bồ Tát ấy trong chánh quán, lại nghĩ
như thế này: “Đối với các lời tuyên thuyết
của các đức Như Lai, xưa kia, ta đă được
nghe, nghe xong đọc tụng, thọ tŕ, tu hành”. Nghĩ
như thế rồi, từ tam-muội khởi, đối
với các pháp được
nghe trong Định đều suy nghĩ ư nghĩa, v́ người
khác tuyên nói. Này Hiền Hộ! Hăy nên biết tam-muội vương
này v́ các Bồ Tát tạo lợi ích ấy, có thể ban cho
các khối công đức như thế, tức là hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian).
Tướng quang minh công đức của tam-muội
vương khiến cho chúng ta thấy rơ tam thiên đại
thiên thế giới chư Phật. Có người niệm A
Di Đà Phật, chứng đắc Niệm Phật tam-muội,
cũng có thể biết rơ vô lượng thế giới.
Thời cận đại, có ghi chép một số ít người
chứng tam-muội. Trong lịch sử, có Hám Sơn đại
sư chứng đắc Tùy Ư tam-muội. Khi Ngài ở một
chỗ trên Ngũ Đài Sơn, lúc bấy giờ, trời đổ
một trận tuyết lớn, tuyết dày vùi kín gian nhà của
Ngài. Mọi người vốn cho rằng Ngài đă bị
chết cóng, nhưng sau khi tuyết tan, trông thấy Ngài đang
ngồi thiền trong ấy, mọi người đều
hết sức rúng động. Lại như Hám Sơn đại
sư chép kinh Hoa Nghiêm, tay vừa chép kinh, vừa nói chuyện
với người khác, chữ chẳng chép sai, hàng lối
chẳng sai lệch, lời nói cũng không lầm loạn,
Tùy Ư tam-muội tự tại mà! Đấy
chẳng phải là Ngài nói suông, mà là Ngài làm được.
Quư vị đừng nên cho rằng chính ḿnh đă chứng
hay không, cứ sử dụng là biết ngay. Mảy may hư
giả đều chẳng được. Nếu không, đại
vọng ngữ sẽ gây tổn thương rất dữ
dội!
(Kinh) Hiền Hộ! Thị cố, nhược
bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân, tùy dục cầu
chứng Vô Thượng Bồ Đề, đương ưng
thính văn như thị tam-muội. Văn dĩ, thư tả,
độc tụng, thọ tŕ, tu tập, tư duy, quảng
vị tha thuyết, linh thị diệu pháp lưu bố thế
gian.
(經)賢護。是故。若彼善男子善女人。隨欲求證無上菩提。當應聽聞如是三昧。聞已書寫讀誦受持。修習思惟。廣爲他說。令是妙法流佈世間。
(Kinh: Này Hiền
Hộ! Do vậy, nếu thiện nam tử, thiện nữ
nhân ấy muốn cầu chứng Vô Thượng Bồ
Đề, hăy nên nghe tam-muội như thế. Nghe rồi
biên chép, đọc tụng, thọ tŕ, tu tập, tư duy,
rộng v́ kẻ khác nói, khiến cho diệu pháp này được
truyền bá trong thế gian).
Đoạn văn tự này vẫn nhằm khuyên
chúng ta nghe pháp này, cầu pháp này, tư duy, biên chép, đọc
tụng, truyền bá pháp tắc như vậy, chứng thực
pháp tắc như vậy. Bộ kinh này chỗ nào cũng đều
tuyên nói như thế, rốt cuộc chúng ta tiếp nhận
được bao nhiêu? Chuyện này đúng là tùy thuộc nhân
duyên của mỗi người!
Chúng ta đă nghe tiếng bước chân sắp
viên măn của An Cư kết hạ, c̣n năm ngày nữa. Sinh
hoạt tập trung học tập trong một trăm hai
mươi ngày an cư sắp kết thúc viên măn. Thuận
theo nhân duyên ấy, chúng ta học tập kinh Ban Châu Tam Muội cũng
sắp viên măn. Vốn là bộ kinh như thế này, nếu
chiếu theo lối khoa phán để học tập, sẽ
tốn rất nhiều thời gian; v́ văn tự của
kinh này khá b́nh dị, chúng ta liền đọc tụng, để
mọi người rộng kết nhân duyên hành tŕ Thập
Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội.
Vạn sự đều do nhân duyên mà khởi, do nhân duyên mà
diệt. Nếu chẳng có duyên khởi, pháp chẳng thể
tự sanh một ḿnh được. Trong cơi đời, chẳng
có bất cứ pháp nào có thể trơ trọi sanh khởi,
cũng chẳng có bất cứ đoạn diệt nào để
có thể đạt được! Trong pháp tắc “vốn
chẳng có một pháp nào để đạt được”,
chúng ta nhờ nương theo một kinh, nương cậy
một pháp tắc, thông qua cảm nhận liên tục, sẽ
có thể thành thục một sanh mạng [tồn tại] liên
tục để nương vào.
Đối với toàn thể chỗ nương
cậy để sanh mạng được tiếp nối
đến tận tương lai, kẻ không có pháp tắc
sẽ mê mờ. Kẻ chẳng có pháp tắc rơ rệt, sẽ
mong chủ động vận dụng trí huệ và từ
bi sáng suốt, ḥng dần dần thuần thục sanh mạng
của chính ḿnh. Cơ chế như thế cũng chẳng
thể đạt được! Do vậy, chúng ta có thể
gặp gỡ một pháp môn, một cơ chế pháp, nhất
là kinh Hiền Hộ khá có hệ thống như thế, là
một giáo điển đă giới thiệu hoàn thiện
pháp tắc bất cộng Thập Phương Chư Phật
Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, đích xác là phước
đức của mọi người. [Phước đức
ấy] khó ĺa khỏi oai đức gia bị của đức
Thích Ca Thế Tôn, mà thiện căn của chúng ta cũng được chín muồi chẳng
ít. Do thiện căn chín muồi và được
Phật Đà Thế Tôn gia bị, mọi người được gặp
kinh điển này. Chúng ta đừng nên học xong bèn hời
hợt bỏ qua. Nếu chẳng thể thâm nhập tu tập,
đúng là khá đáng tiếc, chỉ có thể trở thành
chủng tử của một nhân duyên xa xôi!
Nếu chúng ta gặp pháp tắc này mà có thể
thật sự tu tập nó, sẽ giống như kinh
văn đă chỉ dạy: Trong các pháp xuất thế và nhập
thế, pháp này tạo lợi ích rộng khắp cho các vị Bồ
Tát Bồ Tát Ma Ha Tát. Người
muốn cầu
Vô Thượng Bồ Đề, nghe nói tam-muội này, đọc
tụng, biên chép, khéo tư duy, rộng v́ người khác nói
tam-muội này, cho đến người đích thân chứng
tam-muội này, đều được
đức Thế Tôn tán thán, được đức Thế
Tôn thủ hộ, có thể khiến cho pháp này tồn tại
trong thế gian, khiến cho vô lượng chúng sanh thành tựu
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề
thật sự là biểu hiện của tâm trí cội nguồn
rơ ràng, hoàn thiện nhất, oai đức trọn đủ,
sức tự tại thành thục trọn vẹn nơi hết
thảy chúng sanh mà thôi! Chúng ta biết trong biển “pháp tánh
tịch diệt”, chẳng
có mảy trần để có thể đạt được,
chẳng có một pháp thật sự có bản chất, vô
lượng chúng sanh trong các thứ nghiệp tướng đối
với mười pháp giới hoặc tự do, hoặc chẳng
tự do, hoặc thiện xảo, hoặc chẳng thiện
xảo, hoặc sáng, hoặc tối, cho đến xuất
hiện sanh mạng khổ, vui, phàm, thánh, trí, ngu khác biệt
như thế. Sanh mạng khác biệt do ai lựa chọn?
Chính là từ ngay trong bản thể của chúng ta mà thiện
xảo đúng pháp chọn lựa, hay mê mất sự chọn
lựa thiện xảo ấy. Nếu nắm vững sự
chọn lựa thiện xảo ấy, sẽ có pháp để
nương theo, thành tựu trong một đời sẽ
chẳng phải là chuyện khó, chứng tam-muội cũng
chẳng phải là chuyện khó, lợi ích thế gian rộng
răi cũng chẳng phải là chuyện khó, chỉ là chuyện
thuộc vào địa vị của chính ḿnh. Do đó, “tầm
đắc bổn vị, tức đắc an lạc” (t́m
được địa vị vốn có, liền được
an vui). Nếu chúng ta chẳng t́m được bổn vị,
tự lầm lạc mê mất nơi sự tướng, sẽ
ở ngay trong các sự tướng biến đổi, vô
thường, tự cho là có thật rồi xâm hại lẫn
nhau, sẽ đánh mất lợi ích thanh tịnh to lớn.
Giáo điển này giống như chư Phật
xuất thế, chỉ nương theo một đại sự
nhân duyên, tức là “muốn khiến cho chúng ta đoạn
trừ phiền năo, trừ khử tập khí, vượt
thoát sanh tử, lại c̣n tự tại trong sanh tử, chẳng
nhiễm sanh tử, chẳng giữ lấy Niết Bàn, lợi
ích trời người rộng khắp”. Trong thực tế,
cũng có nghĩa là sanh mạng tất nhiên có chỗ nương
tựa. Chúng ta thấy trong Thanh Văn Thừa, có hai loại
Niết Bàn là Hữu Dư và Vô Dư. Người thiện
xảo chứng đắc quả A La Hán là người
đă đạt tới cực quả trong giáo ngôn của Thanh
Văn Thừa, nhưng trong Đại Thừa Phật giáo,
chẳng chấp sanh tử, chẳng giữ lấy Niết
Bàn, văng sanh cơi vô sanh của A Di Đà Phật, gột sạch
sành sanh hết thảy sanh tử bức bách từ vô thỉ
tới nay. Bất luận Biến Dịch Sanh Tử hay Phần
Đoạn Sanh Tử, đều cùng
lúc tận diệt. Chỉ trong một đời thành tựu
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, oai đức
đến tận đời vị lai. Oai đức ấy
chẳng phải là hành vi do kiêu mạn, do tà kiến, hay do làm
bộ làm tịch, mà thật sự là tự tánh vốn có,
là quang minh từ pháp tánh, là oai đức của pháp tánh, ai
nấy đều có thể duyên theo nó, có thể sử dụng
nó, mà cũng có thể thành tựu nó. Nói “thành tựu”, tức
là chuyện thuộc về bổn phận, duyên theo chuyện
ấy liền sử dụng nó, chọn lựa nó. Chúng ta
duyên theo cái nghiệp của tam đồ, sẽ có thể
thành tựu sanh mạng tiếp nối trong tam đồ y
hệt! Chúng ta thấy lừa, ngựa, lạc đà thồ
đồ vật, bèn sanh khởi tâm niệm thương xót.
Thật ra, chúng vốn cũng trọn chẳng
khác biệt chư Phật! Chư thiên thấy chúng ta phiền
năo nặng nề, do thiếu thốn vật chất, do thiếu
thốn ngũ dục bèn đau khổ t́m kiếm, sẽ
thấy chúng ta chẳng khác ǵ trâu ngựa. Họ sẽ cảm
thấy đau khổ không chịu nổi, sẽ sanh khởi
tâm niệm xót thương. C̣n các vị
thánh giả, trí giả, trông thấy chư thiên tuy có sanh
mạng tám đại kiếp, cho đến sanh mạng
tám vạn đại kiếp, nhưng đối với các
sanh mạng, hiện đủ loại tướng chẳng
thể tự khống chế, chẳng thể tự hiểu
rơ, chẳng thể tự liễu thoát. Do vậy, cũng
sanh một tâm niệm thương xót, c̣n chư Phật
Như Lai th́ sao? Thấy hết thảy hữu t́nh trong chín
pháp giới, dù là vi tế Hoặc, dù là Vô Minh Hoặc, hay Kiến
Tư Hoặc, trong vô tận vô biên các thứ hoặc loạn,
dù nặng nề, hay vi tế, dù cực vi tế, đều
sanh khởi tâm bi mẫn rộng lớn. Do đó, tôn trọng,
yêu thích hết thảy hữu t́nh trong thế gian. V́ sao? Do đồng
thể, đồng dụng. Do nhân duyên này, cho nên có thể
thiện xảo thí giáo rộng lớn, dạy hết thảy
hữu t́nh trong chín pháp giới triệt
để thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Có người đă băn khoăn quá sớm
“sau khi thành Phật, tôi sẽ
làm như thế nào?" Quư vị chẳng cần nghĩ tới
chuyện đó, cứ thong thả! Nếu đối với
bộ kinh Ban Châu Tam Muội này, chúng ta có thể gặp được
pháp tắc như thế, giáo ngôn như thế, thật sự
có thể được nghe pháp tắc như thế, nghe danh tự
như thế, chính là chẳng thể
nghĩ bàn! Nếu ai nghĩ là “chẳng thể
nghĩ bàn”, người
ấy chính là chẳng thể nghĩ bàn. Nếu kẻ nào
khinh thường, trái phạm, kẻ ấy là phường
khinh dễ, trái phạm. Nếu ai tôn trọng, thủ hộ,
truyền bá pháp này, sẽ do tôn trọng, thủ hộ, truyền
bá, tất
nhiên thành tựu lợi ích chẳng thể nghĩ bàn! V́ thế,
dụng tâm ǵ vậy? Chọn lựa ǵ vậy? Chỉ là
trong hiện duyên, mỗi người tự lựa chọn,
có liên quan với người khác hay chăng? Hữu t́nh thời
Mạt Pháp lăng phí thời gian của chính ḿnh quá nhiều, dùng
một lượng lớn thời gian và tinh lực vào sự
tướng vô thường, biến đổi, đổ
công dốc sức nơi lời lẽ và cử chỉ của
người khác. Người như thật biết tự
tâm, như thật vận dụng tự tâm, như thật
liễu giải cơ hội chẳng tăng, chẳng giảm,
rơ ràng, rộng lớn, trọn đủ hết thảy các
pháp trong tâm địa quá ít! Đối với chuyện này,
đức Phật thương xót chúng ta, dùng sức oai thần
gia bị, khiến cho nhân duyên thiện căn của chúng
ta thành thục. Do vậy, tuyên nói giáo điển chẳng
thể nghĩ bàn như thế. Chúng ta tối thiểu đă
có cơ chế thành thục như vậy, cho nên mới có
thể học tập, lắng nghe, trao đổi, thật
sự là chuyện chẳng thể nghĩ bàn! V́ thế, đừng
coi tự duyên (các duyên của chính ḿnh) là duyên nhỏ nhặt,
đừng v́ tự duyên mà kiêu mạn, chớ nên coi rẻ
tự ngă, cũng như đừng coi rẻ nhân duyên của
người khác. Đương nhiên là cũng chớ nên kiêu
mạn. Như thế th́ tâm trí của chúng ta sẽ yên tĩnh,
b́nh ḥa, sẽ thấy thấu suốt pháp tắc, ấn khế
pháp tắc, như thật thủ hộ pháp tắc mà chúng
ta đang tu tập, chẳng đánh mất duyên khởi thật
sự tốt đẹp, thanh tịnh.
Con đường thành Phật ở ngay dưới
chân, duyên khởi thành Phật ngay trong một niệm hiện
tiền, sự chọn lựa thành Phật cũng ở
trong hiện tiền. Sở dĩ vận dụng ngay trong hiện
tiền là v́ nhận biết một niệm hiện tiền.
Một niệm hiện tiền vô nhiễm, chính là chân tâm vô
nhiễm. Nếu chúng ta lập tức duyên theo sự lựa
chọn thanh tịnh của Phật Đà Thế Tôn, như
đối với sáu loại “ngũ pháp” đă nói trong
phần trước, cùng với công đức nơi một
trăm hai mươi hai câu hỏi “như thế nào” mà
thủ hộ, tập luyện xuyên suốt, tức là chúng
ta đă lập tức lựa chọn duyên khởi thiện
xảo và thanh tịnh “xa ĺa sự bức bách của sanh
tử để lợi ích rộng khắp hữu t́nh”.
Hành Ban Châu, chẳng qua chỉ là khiến cho duyên khởi
thanh tịnh được tiếp nối, như thật
công nhận, như thật vận dụng, chỉ như
thế mà thôi! Cái tâm liên tục ấy, từ trong tâm trí thay
đổi từ vô thỉ tới nay, trong tâm trí nắm níu
của chúng ta, cho đến trong giả duyên như huyễn,
phần nhiều chẳng thể tự khống chế. Chúng
ta phần nhiều cưỡng chấp, đắm nhiễm
[các giả duyên ấy], cho nên h́nh thành ḷng yêu mến và truy tầm
sự vô thường đổi khác. Chúng ta hướng tới
sự đổi khác ấy, hoặc có thể nói là vô kư, vô
minh, mà sự vô kư, vô minh ấy đă đem lại cho chúng
ta điều ǵ? Chính là chẳng làm sao được, vô
tri, chẳng có năng lực, như thế th́ quư vị sẽ
chẳng có cách nào giải quyết vấn đề của
chính ḿnh!
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng
minh thử nghĩa, dĩ kệ tụng viết.
(經)爾時世尊。爲重明此義。以偈頌曰。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn v́ nói rơ lại nghĩa
này, dùng kệ tụng rằng).
V́ chúng ta đối với chuyện huân tập
pháp tắc c̣n khá xa lạ, đức Thế Tôn nhiều lượt
giáo huấn chúng ta, không ngừng hướng dẫn chúng ta
tư duy như thế, quan sát như thế. Ngài dùng các đoạn
văn tự dưới đây để tổng kết rơ
ràng, tóm tắt, đơn giản phần Trường Hàng
trước đó, khiến cho chúng ta thật sự hiểu
rơ. Ngoài thời gian lên lớp học tập, chúng ta hễ có
thời gian hăy nên đọc tụng, đàm luận, trao đổi về
kinh Hiền Hộ cho nhiều, bớt
nói chuyện gẫu. Như thế th́ sẽ có thể khiến cho pháp
được tiếp nối, khiến cho những ngày học
tập này có được một cơ chế pháp tắc
thuần thục. Nếu không, cứ gián đoạn, sẽ
vẫn quay về với nghiệp tập!
(Kinh) Chư Phật thanh tịnh ly trần
cấu, công đức thâm quảng, vô sở y.
(經)諸佛清淨離塵垢。功德深廣無所依。
(Kinh: Chư
Phật thanh tịnh, ĺa trần cấu. Công đức sâu
rộng, chẳng tựa nương).
Qua lời dạy của đức Thế
Tôn, Ngài đă bóc gỡ cái tâm nắm níu của hết thảy
chúng sanh. Hoặc có thể nói là khiến cho hết thảy
chúng sanh từ trong cái tâm nắm níu ấy mà biết: “Thật
ra, chẳng có pháp nào để có thể nắm níu!” Trong tâm
trí vịn nắm của phàm phu, nếu chẳng chấp
trước một thứ chi đó, chẳng nắm bắt
một thứ chi đó, cái tâm chẳng có [thứ ǵ để
vịn nắm], sẽ trở nên trống trải, mê muội,
bỗng dưng chẳng biết làm như thế nào! Một
khi chúng ta đă vượt khỏi chỗ ấy, như trong
quá khứ đă nói, sau khi “đ́nh tâm” (ngưng lặng
cái tâm), sẽ tự đạt được phương
tiện. Nói “đ́nh tâm” chính là vĩnh viễn đoạn
trừ lo ngờ; khi đó, cái tâm nắm níu liền ngưng
dứt. Chúng ta sẽ hiểu pháp tắc tương tự
rơ ràng. Nhưng “chư Phật thanh tịnh ly trần cấu”
tức là triệt để ĺa khỏi những cái gọi
là Kiến Tư Hoặc, Trần Sa Hoặc, và Vô Minh Hoặc,
biết rốt ráo thanh tịnh. Chư Bồ Tát, hiền thánh
là bậc phương
tiện thanh tịnh, c̣n phàm phu là kẻ
chưa đạt được thanh tịnh. V́ sao nói
là “chưa
đạt được?” V́ ở trong
trần lao, trong trần cấu, vẫn chưa
giác ngộ, vẫn mê mất nơi vọng chấp trần
lao, ở trong trần lao “vọng tưởng nắm níu”,
chẳng thể tự thoát ra!
“Công đức thâm quảng vô sở y”
(Công đức sâu rộng, chẳng nương tựa vào đâu):
Chẳng nương, chẳng dựa vào sức trí huệ,
chính là trí huệ vốn sẵn có của hết thảy
chúng sanh; đó gọi là “vô tạo, vô tác” (chẳng tạo
tác), chẳng nhiễm mảy trần, chẳng nhơ, chẳng
sạch. Đấy chẳng phải là một câu nói thường
hằng, mà thật ra là dùng ngôn ngữ quyền biến để
biểu đạt một loại phương tiện trí
huệ. Nếu nói với hữu t́nh vô minh cố chấp,
th́ cũng là bất đắc dĩ mà nói. Nếu nói với
bậc trí giả, nói vừa đủ rồi thôi, tức là
biết ẩn sau ngôn ngữ, sẽ thật sự là thanh tịnh,
chẳng nhiễm, chẳng chấp!
(Kinh) Chung cổ khanh thương
chúng diệu âm, vạn chủng hàm bị tu cúng dường.
Bố tán chư chủng siêu thế hương, tinh dị
hoa man, thượng bảo cái. Nhiên
đăng cúng dường chúng tháp miếu, sở vị cầu
thử tam-ma-đề.
(經)鐘鼓鏗鏘衆妙音。萬種咸備修供養。佈散諸種超世香。精異花鬘上寶蓋。然燈供養衆塔廟。所爲求此三摩提。
(Kinh:
Chuông trống réo rắt các diệu
âm, muôn thứ đều vẹn tu cúng dường. Rải
rắc các hương tuyệt diệu nhất,
tinh xảo tràng hoa, lọng báu dâng, cúng dường đèn
soi các tháp miếu, đều v́ cầu đắc chánh
định này).
Dùng ca múa, âm thanh hay đẹp, ca ngợi,
cho đến sắp đặt các loại đồ vật,
các thứ hoa tươi v.v… để cúng dường. Quả
thật v́ cầu tam-ma-đề này, tức là v́ để
thành tựu Thập Phương Chư Phật Tất Giai
Hiện Tiền tam-muội. Tam-muội là một danh từ
có đủ cả danh xưng nơi tướng trạng
của cái nhân lẫn tướng trạng của cái quả.
Tam-ma-đề là tên gọi theo quả tướng. Tam-muội
thành tựu th́ gọi là tam-ma-đề. Chẳng hạn như
chúng ta nói đến Tứ Hướng và Tứ Quả, địa
vị Tứ Hướng chẳng gọi là quả. V́ sao? Do
mang ư nghĩa hướng đến. Nếu đă đạt
tới quả vị, th́ có ư nghĩa “an trụ”. An trụ
mà thật sự chẳng có ǵ để an trụ. Đó là
nội hàm chân thật nơi quả đức.
Chúng ta học tập một pháp tắc, nếu
chẳng hiểu rơ nguyện vọng và mục đích, sẽ
đứt gánh nửa đường, hoặc bị nghịch
duyên làm dang dở, hoặc là bị thuận duyên làm lỡ
làng. Nếu là thuận duyên, do nhiễm đắm nhân duyên,
cũng sẽ đâm quàng vào ngơ rẽ. Nếu là nghịch
duyên, do chẳng hiểu rơ nguyện vọng và mục
đích, nhất định sẽ thoái đọa. Nếu chúng
ta học Phật trong t́nh huống mười phần hiểu
rơ mục đích và nguyện vọng, th́ sanh mạng lẫn
cuộc sống đều suông sẻ, chẳng có chướng
ngại! Chẳng hạn như người thường
phải làm việc nơi đất khách, hễ mong trở
về nhà, đúng là hết sức nôn nóng mong trở về.
Hễ nhắm mắt là thấy người nhà. Cũng giống
như thế, là người xuất gia, là người học
Phật, phải nên đối với mục đích của
chính ḿnh, tức là chỗ thành tựu của pháp tắc, thật
sự phải có nhận thức rơ ràng, đích xác như người
nóng ḷng mong trở về, phải có khát vọng chẳng điều
ǵ có thể chướng ngại được! Nếu chẳng
như thế, giữa chừng sẽ nẩy sanh quá nhiều
nhân duyên gây chướng ngại. Trong thời đại này,
do mọi người chẳng hiểu rơ nguyện vọng
và sự thủ hộ thệ nguyện, cho nên phần nhiều
chẳng thể thường hằng ǵn giữ một pháp,
hay một sự. Kết
quả là khiến cho nhân duyên chẳng thể thành thục,
găy gánh giữa đường nhiều lắm, người
trước sau vẹn toàn cực hiếm hoi! Trong thế
gian này, bất luận là làm chuyện thế tục, hay học
Phật, bất luận xuất gia hay tại gia, người
có thể vẹn toàn từ đầu đến cuối đều
làm các chuyện có ư nghĩa đối với thế gian,
hoặc có thể khiến cho thế gian đạt được
các khơi gợi cụ thể.
Ở đây, [kinh văn] nhắc tới các
loại cúng dường, bất luận là cúng dường
bằng tràng hoa, cúng dường bằng các vật, cúng
dường bằng diệu âm niệm tụng, đều
là v́ tam-ma-đề này, cũng là để đích thân chứng
Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền
Lập tam-muội. Nếu phát thệ nguyện như thế,
tâm như thế, vậy th́ hết thảy các chướng
ngại đều chẳng c̣n là chướng ngại. Nếu
phát tâm rơ ràng, chướng ngại chẳng gọi là chướng
ngại. Nếu phát tâm chẳng rơ ràng, dường như đúng
mà thật ra là sai, chướng ngại sẽ xuất hiện,
sẽ bị chướng ngại. Ngay cả thuận duyên
xuất hiện, cũng h́nh thành chướng ngại. Kết
quả là thuận duyên lẫn nghịch duyên đều có
nhiều chướng ngại. Chúng tôi nêu một thí dụ.
Chẳng hạn như từ đây du hành qua Trung Điện[1], mục đích của
quư vị mười phần rơ ràng, tư duy của quư vị
do phát tâm sẽ mười phần rơ ràng, xác đáng. V́ thế,
tới Đại Lư, quư vị sẽ không kẹt luôn tại
Đại Lư, [trong khi ở lại Đại Lư, quư vị]
cũng có thể tùy duyên xem xét [phong cảnh, phong tục ở
Đại Lư], rồi lại ra đi. Tới Ly Giang, quư vị
chẳng kẹt lại Ly Giang, v́ sao vậy? Mục đích
của quư vị là Trung Điện, chẳng phải là không
thấy, không nghe quang cảnh dọc đường. Quư vị
đă thấy, cũng nghe, nhưng chẳng ảnh hưởng
đích đến của quư vị. Có người trong t́nh
huống mục đích chẳng rơ ràng, chắc là sau khi đă
tới Đại Lư, bèn nói: “Thôi được rồi! Chắc
là tới Trung Điện cũng giống như thế chớ
ǵ!” Hoặc cảm thấy ngồi xe đúng là khốn đốn
quá, bèn nghĩ: “Thôi đi!
Vất vả như thế th́ chẳng đi nữa!” Cũng
có thể là sau khi đến Ly Giang, bèn nói: “Chẳng sai biệt
nhiều lắm, cũng bất quá như thế đó”. Cứ
như thế, chuyện đến Trung Điện vĩnh
viễn đều chẳng làm được! V́ sao? Phát tâm
chẳng rơ ràng, chẳng chọn lựa, chẳng hiểu
rơ, chẳng thấy thấu triệt. V́ thế, bị cảnh
tượng trên đường, dù nghịch hay thuận,
thoải mái hoặc chẳng thoải mái, hai pháp ấy làm
cho mai một.
Nay chúng ta chuẩn bị nhiều tư lương
như thế, là v́ lẽ nào? “Sở vị cầu thử
tam-ma-đề” (v́ cầu tam-ma-đề này). Nếu đấy
là nguyện vọng của ta, tốt lắm, đối với
phong cảnh dọc đường, dù tốt, hay xấu,
dù thuận hay nghịch, chúng ta cứ thẳng thừng nh́n
ngắm, v́ sao? Chẳng trở ngại ngắm nghía, chẳng
trở ngại hay biết. Dưới t́nh huống chẳng
trở ngại, sẽ tiến thẳng đến mục
đích. Người như thế thật sự có oai đức,
có trí huệ trong thế gian. Nếu một chuyện là như
thế, hai chuyện là như thế, mọi chuyện đều
là như thế, người ấy sẽ đắc tự
tại lực, tức là chẳng có chướng ngại,
có sức tự tại như người tiến nhập
cảnh giới không chướng ngại. Trong kinh Hoa Nghiêm,
đức Phật dạy: “Bồ Tát thanh lương
nguyệt, thường hành tất cánh không” (Bồ Tát như
trăng trong mát, thường hành Không rốt ráo), soi rơ, nhận
biết thế gian, chẳng bị trở ngại. Do tâm trí
vô ngại, mục đích rơ ràng, chỉ
nhằm chiếu sáng thế gian, khiến cho chúng sanh đạt
được thanh lương, quang minh, và vui sướng.
Làm một người học Phật, nguyện vọng của
chúng ta, rốt cuộc là “v́ cầu” điều ǵ? Nếu
chẳng hiểu rơ ràng,
hành xử sẽ như cỏ đầu tường, gió Đông
thổi bèn ngả qua phía Tây, gió Tây thổi bèn ngả rạp
sang phía Đông, chẳng thể
nào không nghiêng ngả! Như thế
th́ sẽ rất khó đạt được phương
tiện.
(Kinh) Phật pháp thậm thâm nan khả
kiến, khai thị Thế Đế linh nhân tri.
(經)佛法甚深難可見。開示世諦令人知。
(Kinh: Phật
pháp rất sâu, khó thể thấy, khai thị Thế Đế
cho người biết).
Cảnh giới vi diệu rộng lớn rất
sâu của chư Phật Như Lai, hết thảy phàm thánh
chẳng thể suy lường mà biết được. V́
vậy, đức Phật nói đủ loại tỷ dụ
theo thế tục để hữu t́nh phàm ngu trong thế
tục, cho đến phàm thánh hữu t́nh có phương tiện
để khế nhập, nhận biết ḥng tham chiếu,
tức là “khai thị Thế Đế linh nhân tri”
(khai thị Thế Đế khiến cho mọi người
biết). Sự tham chiếu ấy chẳng phải là chân
thật, mà là nói tương tự. Nếu đức Thế
Tôn chẳng nói các loại tỷ dụ, các loại pháp, các
cách nói tương tự, khiến cho
chúng ta nhận biết và tiến nhập, chúng ta sẽ chẳng
có cơ hội tiếp xúc. V́ sao? Chẳng hạn như chúng
ta mong liễu giải loài cá suy nghĩ như thế nào, nhưng
do là con người, chúng ta trải qua một
ngàn năm, vạn năm, ngàn kiếp, vạn kiếp, cũng
suy nghĩ chẳng thấu tỏ. Tuy có
thể dùng các tỷ dụ như cá sống trong nước
như thế nào, cảm giác như thế nào, nhưng đều
là nói tương tự! Nếu muốn thật sự thấu
hiểu, chúng ta chỉ có thể làm một con cá th́ mới
có thể triệt để thể nghiệm sanh mạng và
cảm giác của cá.
Cũng giống như thế, đối với
cảnh giới rất sâu vi diệu rộng lớn của
chư Phật Như Lai, cho đến thiện xảo trí
huệ rộng lớn, oai đức lợi ích rộng khắp
thế gian, phàm phu hữu t́nh, hữu t́nh có trí, hữu t́nh
thánh nhân, dẫu nói cùng tận, giảng giải cùng tận, tư duy cùng tận,
tư duy nhiều lượt, tư duy cho đến hết
đời vị lai, mọi người đều tập
trung cùng nhau tư duy, cũng chẳng thể biết chút phần.
Đó là sự chọn lựa, v́ sao? Chẳng cùng một tầng
cấp, sẽ chẳng thể tương ứng! Trong phàm t́nh của chúng ta, tâm c̣n chưa ngưng nghỉ,
bị tạo tác lừa dối, chẳng có cách nào biết
rơ công đức của hữu t́nh đă đ́nh tâm. Chúng
sanh chưa đ́nh tâm trong một thế giới, hai thế
giới, hay vô cùng
thế giới tập trung một chỗ, vẫn chẳng
thể biết tâm của một vị Bồ Tát đă đ́nh
tâm. Vô lượng vô biên hữu t́nh đều chứng đắc
các địa vị Bồ Tát Thập Hạnh, Thập Trụ,
Thập Hồi Hướng cũng đều chẳng thể
biết tâm trí, cảnh giới, diệu dụng, oai đức,
và phước huệ của một vị Sơ Địa
Bồ Tát, v́ chẳng có cách nào biết, chẳng thể nhận
biết. Bất luận chúng ta nói như thế này, như
thế kia, nội hàm thực chất vẫn chẳng phải
là như thế. Do đó, quư vị tới Ly Giang, đừng
suy đoán Trung Điện cũng chẳng khác Ly Giang cho mấy. Tới
Đại Lư, cũng đừng suy đoán Ly Giang, chẳng
giống nhau đâu nhé! Đối với phong cảnh, chúng ta có thể
quan sát như thế, nhưng nói theo sự sai biệt của
đạo nghiệp, cũng chắc chắn là như thế.
(Kinh) Bỉ như tự tánh sơ bất
thiên, nhữ đương tùy thuận trí vô ngại, do nhật
nguyệt thiên sơ xuất thời, Đế Thích tá thiên
tam thập nhị, chúng cụ trang nghiêm thật châu phổ,
cầu bỉ tam-muội diệc phục nhiên.
(經)彼如自性初不遷。汝當隨順智無礙。猶日月天初出時。帝釋佐天三十二。衆具莊嚴實周普。求彼三昧亦復然。
(Kinh: Như tự tánh ban sơ chẳng
dời, ông nên tùy thuận trí vô ngại, như khi nhật
nguyệt thiên vừa mọc, băm hai thiên phù tá Đế
Thích, các món trang nghiêm đều trọn khắp, cầu tam-muội
ấy cũng giống vậy).
Đế Thích Thiên có ba mươi hai quyến
thuộc, mỗi vị thống nhiếp một phương.
Kinh Hoa Nghiêm đă miêu tả một tiểu thế giới,
bao gồm một núi Tu Di, hai vầng nhật nguyệt, Đao
Lợi thiên cung, biển nước thơm v.v… mọi người
có thể t́m đọc. Chẳng biết trong các hữu t́nh
hiện tiền, mấy vị có thể liễu giải trạng
thái của Đao Lợi Thiên? Nói thông thường, người
có Thiền Định có thể đến các cung trời
thuộc Sắc Giới và Dục Giới, [sau đó, khi] trở
lại [ở
trong] nhân loại, phần nhiều chẳng thể chịu
đựng nổi! V́ thế,
trong quá khứ có nói: Một số người có Thiền Định
bèn “tọa thoát” (ngồi mà mất), tức là họ
chẳng cần sắc thân này nữa! Có khi trong lúc tọa
Thiền, cảm nhận sắc thân này nặng nề, thần
thức liền thất lạc. Nói “thất lạc” tức
là tham cầu các cảnh sắc ấy. V́ cảnh sắc
trong Dục Giới Thiên, dẫu diễn nói cùng cực, dẫu
là kẻ giàu có tột bậc trong nhân loại, đều
chẳng thể sánh ví được! Rất nhiều người
ngỡ chính ḿnh đang sống nơi đô thị phồn
hoa, hoặc ở trong hoàn cảnh ưu việt, nhưng đều
là chẳng có cách nào sánh bằng cơi trời. Sự
sai khác nơi phước đức [giữa thiên cung và nhân
gian] khó thể diễn tả hay thí dụ. Sự sai khác nơi
thiện xảo [giữa nhân loại và thiên chúng] khó thể
diễn tả, tỷ dụ được!
Người hiện thời tâm trí ră rời,
phần nhiều chẳng thành tựu tam-muội. Do vậy,
chẳng đạt được phương tiện như
các hữu t́nh trong các thế giới khác, càng chẳng đạt
được phương tiện thiện xảo như
trong các thế giới khác. V́ thế, phần đông mê muội
trong cảnh giới hiện tại, phiền năo hừng hực,
chạy theo nghiệp tập của chính ḿnh, xoay vần
trong cơ chế sanh mạng hữu hạn. Phần Đoạn
Sanh Tử này kết thúc, chắc là sẽ tạo các nghiệp
mới, rồi lại hoàn thành một Phần Đoạn
Sanh Tử khác, rất khó tiến nhập các thế giới
khác, rất khó cảm nhận trạng thái ư thức sanh mạng.
Thông thường, nếu một người
đă tiếp xúc chúng sanh hèn kém, sẽ dễ cảm nhận
những điều ấy hơn. Chẳng hạn như đa
số người sống ở vùng Đông Bắc [Trung
Hoa] đều thờ cúng quỷ thần, nhân loại rất
dễ thấu hiểu sự kém hèn của các loại quỷ
thần ấy. Chúng tôi nêu thí dụ này, mọi người
đừng cho là chê trách! Đây là chuyện phát sanh không lâu trước
kia. Có một vị cư sĩ t́m tôi, ông ta rất hoang mang,
nói: “Ối trời ơi! Sư phụ ơi! Con gặp một
chuyện quá linh thiêng! Cư sĩ X… ở chỗ Y… lập một
điện thờ, thờ phụng quỷ thần linh lắm! Tất
cả những ǵ quư vị biết, bất luận ba mươi
năm trước, hay ba mươi năm sau, nhà nào, người
nào, ông ta đều biết, quả thật là quá linh!” Tôi
nghĩ chắc là kẻ bị hồ ly dựa thân, bèn bảo
ông ta kể xem ngôi miếu ấy thiết trí như thế
nào. Sau đó, hỏi hoàn cảnh sống thông thường của
người ấy có phải là thích đào dưới đất
thứ chi đó hay không? Vị cư sĩ ấy nói: - Đúng
rồi! Nhà ông ta chẳng cần cửa cái, cũng chẳng
có cửa sổ. Dưới chân tường đào một
cái hang, người khác ra vào cần phải từ dưới
ḅ qua. Thoạt đầu, mọi người tạo cho ông
ta một cái cửa, nhưng sau khi tạo xong, ông bèn đóng
đinh gắn chặt, chẳng thể theo cửa ra vào được!
Đấy chính là thói quen [sống trong hang của loài hồ
ly]! Cớ sao con người dễ tiếp nhận sự
nhận biết của sanh mạng hèn kém? V́ đối với
các thứ hèn kém thô tháp hơn quư vị, phước đức
của quư vị lớn hơn chúng nó. Chỉ cần quư vị
hơi phóng túng đôi chút, sẽ lẫn lộn với chúng
nó, giống như một vật từ chỗ cao rơi xuống
sẽ dễ dàng hơn nâng một vật từ dưới
thấp lên cao khá nhiều!
Chuyện kiểu này rất phổ biến
tại nhiều nơi ở Đông Bắc. Người ta đến
cầu đảo, dùng sanh mạng trân quư của nhân loại
để cúng dường chúng nó, khiến chúng nó hết sức
khoái chí! Giống như chư thiên đến cúng dường
chúng ta, chúng ta sẽ có sự cảm nhận như thế
nào? Nếu có một vị trời quan tâm quư vị, sẽ giống
như chúng ta chăm sóc cún con, mèo bé. Buổi tối, chúng ta
mở đèn pin soi, con cún sẽ cảm thấy một cột
sáng khá lớn: “Đó là ánh sáng ǵ vậy? Chẳng thể
nghĩ bàn!” Đối với chúng nó mà nói, chắc chắn
là chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta cho chúng nó thức ăn
ngon, đồ vật để ngủ yên, là v́ chúng ta có rất
nhiều thứ, tất cả các thứ thuận tiện đều
có thể thiết trí cho chúng nó. Làm sao chúng nó nghĩ ra phước
báo của chính ḿnh do đâu mà có, chỉ con người là có
thể tạo tác cho chúng nó. Có khi, một vị trời đến
chiếu cố chúng ta, [thể hiện các điều kỳ diệu]
như tướng sáng, hương mầu nhiệm, tâm
trí điều nhu, và cảm nhận thù thắng mầu nhiệm,
thiện duyên rộng lớn, tâm trí thong dong, đều hiện
tiền, nhưng quư vị thường chẳng tưởng
tượng được v́ sao có sự thiện
xảo tăng thượng to ngần ấy? Sẽ giống
như một người mười phần oai đức
đến chăm sóc một kẻ nghèo mạt rệp, kẻ
nghèo mạt rệp rất tự nhiên được thoải
mái, có thể thỏa măn các nhu cầu hiện tiền của
chính ḿnh. Giống như vậy, nếu chúng ta thờ cúng các
sanh mạng hèn kém, sẽ rất dễ mười phần
tương ứng với chúng nó, tức là nếu quư vị
muốn sống giống như mèo, chó, giữ giới của
mèo, giới của chó, sẽ rất dễ dàng ḥa nhập!
Tại một thánh địa của Ấn
Độ Giáo, chúng tôi thấy mấy gă ngoại đạo
trần truồng bôi đầy tro than. Trong sự
tu tŕ của bọn họ, tro bụi được coi là
Bố Thí trong tu tŕ Lục Ba La Mật. Tức là dùng tro thiêu
xác người chết để bôi đầy thân thể
của chính ḿnh, ḥng giảm bớt tướng vi tế nơi
sắc thân của chính ḿnh. V́ sau khi bôi tro, thân thể con người
sẽ thô ráp giống như da ngựa, da trâu. Đó là tu tŕ
ǵ vậy? Tu tŕ sao cho có trạng thái và cảm giác giống
như động vật. Cách tu theo kiểu ấy đâm
ra dễ dàng, v́ chẳng cần nhờ vào bất
cứ thứ ǵ. Trong Tạng Truyền Phật Giáo, có cách
tu được gọi là “đệ nhất bố thí”,
tức là buông bỏ hết thảy những thứ ḿnh có,
dùng tro đất để che xấu, chống lạnh, ngăn
ngừa côn trùng. Nay chúng ta cần trang phục, đức Thế
Tôn đối với trang phục đă đúng lư xem xét kỹ
càng, cho rằng y phục giúp cho nhân loại tôn nghiêm, ngăn
ngừa loài trùng gây hại, chống đỡ mưa gió, chống
đỡ rét lạnh, cho đến chống đỡ nóng
bức. Trang phục dấy lên tác dụng như thế, ở
đây, [ngoại đạo] dùng tro để giải quyết
vấn đề.
Giống như chư thiên gia tŕ, nếu là sức
tam-muội gia tŕ chúng ta, chúng ta cũng phải có chủng tử
trong tâm địa, tức là phước đức tương
ứng. “Cầu bỉ tam-muội diệc phục nhiên”
(cầu tam-muội ấy cũng giống như vậy):
Trong phần trước đă nói đủ loại cúng dường,
ở đây, nêu ra chư thiên để làm thí dụ, mục
đích vẫn là cầu tam-muội này.
(Kinh) Thí như Phạm thiên xử chúng
Phạm, oai nghi tịch tĩnh công đức viên.
(經)譬如梵天處梵衆。威儀寂靜功德圓。
(Kinh:
Như Phạm Thiên giữa các Phạm chúng, oai nghi tịch
tĩnh, công đức trọn).
Trong hết thảy các chúng sanh thuộc về thiện
pháp, Phạm
Thiên Vương tôn quư, thù thắng nhất, oai đức
trang nghiêm, trọn đủ diệu tướng. Nếu
Đế Thích ở trước mặt Phạm
Vương, sẽ lộ rơ dáng vẻ rất xấu xí, thô
kệch;
nhưng nhân loại chúng ta nếu đem so với Đế
Thích, cũng chẳng có cách nào sánh bằng. Dẫu h́nh
tướng của một sợi lông nơi thân chúng ta
cũng đều chẳng có cách nào sánh bằng ông ta. Quư vị
nói “lẽ nào con người kém cỏi như vậy ư?” Nếu như đem
con kiến so sánh với con người, con kiến cũng
chẳng có cách nào so sánh với chúng ta. Đó là nói so sánh. V́
sao hiện thời sanh mạng của nhân loại thuộc
trạng thái không ngừng đi xuống? Quả thật là
do ḷng kiêu mạn của chúng ta. Cảm giác “chính ḿnh ưu
việt” của con người càng ngày càng mạnh; đúng
là cái tâm kiêu mạn dần dần tổn giảm cơ thể,
cơ chế, nhân duyên bề ngoài của sự sanh tồn,
và sức khỏe nội tại của chúng ta. V́ hễ chúng
ta kiêu mạn, trời đất sẽ tổn giảm chúng
ta, bản thân chúng ta cũng đang tiêu hao chính ḿnh.
(Kinh) Dũng mănh tinh tấn bất khả
xưng, bỉ cầu tam-muội diệc như thị.
(經)勇猛精進不可稱。彼求三昧亦如是。
(Kinh: Dũng
mănh tinh tấn chẳng thể nói, người cầu tam-muội
cũng như vậy).
Phạm Thiên thành tựu thiện pháp tôn quư, thành
tựu tinh tấn, ở trong các Phạm chúng (chư thiên
thuộc cơi trời Đại Phạm) rất chẳng thể
nghĩ bàn! Đức Thế Tôn chứng đắc A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, dẫn một ngàn hai
trăm năm mươi vị tỳ-kheo du hóa các nước.
Có một lúc nọ, đến nước Xá Vệ; khi đó,
cha Ngài trông thấy liền rơi lệ, nói: “Đức Thế
Tôn đă đích thân chứng Vô Thượng Bồ Đề,
diệu tướng trang nghiêm, thân như vàng ṛng. Cớ sao
quyến thuộc nhếch nhác như thế?” V́ trong một
ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ-kheo, phần
nhiều là thủ lănh của ngoại đạo, hay quyến
thuộc của ngoại đạo, tuy theo đức Phật
đă chứng đắc A La Hán
quả, nhưng nghiệp tập từ vô thỉ đến
nay che lấp, in dấu quá sâu. Do nghiệp tướng như
thế, tướng mạo phần nhiều chẳng đẹp
đẽ, chẳng phải là tướng c̣m nhom, xám xịt,
vàng vọt, th́ cũng là h́nh tướng tiều tụy, như
các ngoại đạo thờ lửa, thân thể đều
khô khan, vàng vọt. Khi đó, Tịnh Phạn Vương bèn
đề nghị, mỗi gia đ́nh trong tộc Thích Ca chọn
ra một người nam đẹp nhất đi xuất
gia, ḥng khiến cho Tăng đoàn của Phật Thích Ca
trang nghiêm trọn đủ, khiến cho chúng sanh trong thế
gian an lạc. V́ sao nói đến chuyện này? Nhằm nói nghiệp
báo sai biệt quá lớn! Dẫu chứng quả, nghiệp
từ quá khứ vô thỉ vẫn c̣n che lấp chúng ta.
Trong cơ chế của nhân loại, trong tam
giới, tức Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc
Giới, có đại thiện xảo, tức là thiện xảo
trong chọn lựa, nhưng có khuyết điểm to lớn,
tức là hiện thời thọ mạng của nhân loại
quá ngắn. Ba ngàn năm trên cung trời Đâu Suất là năm
mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm trong nhân gian,
làm sao có thể so sánh cho được? Người hiện
thời thọ trăm tuổi, th́ trong năm mươi sáu
ức bảy ngàn vạn năm đó, phải chịu luân
hồi sanh tử khổ nạn bao nhiêu lần? Bao nhiêu đời
thọ thai, mang thai, sanh ra, trưởng thành, tử vong, tuần
hoàn chẳng ngừng như thế? Có đau khổ hay chăng?
Nếu người hiện thời thọ năm
mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm, chúng ta ngồi
đây chờ Phật Di Lặc [giáng thế] là được
rồi, chẳng cần dùng pháp chi khác! Chủ yếu là chẳng
thể
so sánh tương tự được, nhân loại dễ
nẩy sanh tự kiêu mạn, chẳng dễ biết “sanh
tử vô thường” như đức Thế Tôn
đă dạy, sẽ dường như cảm thấy chẳng
liên quan ǵ với ḿnh, tợ hồ chẳng liên quan với
vô thường, nhưng vô thường thường xuyên bức
bách quư vị. Những người già suy, các bệnh nhân
ung thư, họ thật sự biết vô thường là ǵ.
Đối với lời dạy “hôm nay c̣n sống, khó bảo
toàn ngày mai” của đức Thế Tôn, sẽ cảm
nhận mười phần rơ rệt.
“Dũng mănh tinh tấn bất khả
xưng” (Dũng mănh, tinh tấn chẳng thể nói): Công
đức do Phạm Thiên đă chứng do vậy mà có. Ông
ta có diệu tướng trang nghiêm như thế, có oai đức
như thế, c̣n chúng ta giải đăi chẳng thể nói được!
Trong một ngày, chúng ta có bao nhiêu ư niệm? Mà trong các ư niệm
ấy, lại có bao nhiêu ư niệm là rơ ràng, trí huệ, sáng
suốt? Có bao nhiêu ư niệm điên đảo, bất đắc
dĩ? Nếu chúng ta có thể tính toán, dẫu chỉ tính được
số lượng ư niệm th́ cũng khá lắm rồi. Nếu
không, đúng là ngày qua ngày luống uổng, sau này sẽ hối
hận!
(Kinh) Hựu như y vương xử
thế gian, cấp thí bệnh giả chúng diệu dược.
Tùy thuận chư Phật thanh tịnh tâm, sơ vị tằng
ly bổn Không tánh.
(經)又如醫王處世間。給施病者衆妙藥。隨順諸佛清淨心。初未曾離本空性。
(Kinh: Lại
như y vương trong thế gian, ban thuốc nhiệm mầu
cho người bệnh. Tùy thuận chư Phật tâm thanh
tịnh, chưa hề ĺa tánh Không vốn có).
Chúng sanh là người bệnh. “Tùy thuận
chư Phật thanh tịnh tâm”: Đó là vị thuốc tốt
lành nhất. Tùy thuận quả địa giáo chính là vị
thuốc triệt để nhất. Đúng là có vô lượng
vị thuốc, nhưng có thuốc chẳng thể trừ
tận gốc chứng bệnh. Trong ba loại tâm Bồ
Đề, Vô Thượng Bồ Đề tâm có thể trừ
tận gốc bệnh của hết thảy chúng sanh. Thanh
Văn Bồ Đề tâm và Duyên Giác Bồ Đề tâm có
thể trừ chút phần, hoặc nhiều phần bệnh
nạn cho chúng sanh. Tứ sanh cửu hữu trong thế
gian, trong tam giới, đều là bệnh nhân, bệnh ǵ vậy?
Từ trong các pháp, vốn chẳng có trần nhiễm, mà hư
vọng tự nhiễm trần, luân hồi trong sáu nẻo,
chẳng thể tự dứt, chẳng thể khống chế
được!
“Tùy thuận chư Phật thanh tịnh
tâm, sơ vị tằng ly bổn Không tánh” (tùy thuận
cái tâm thanh tịnh của chư Phật, từ thoạt đầu
chưa hề ĺa khỏi tánh Không vốn có): Tuy chúng ta tùy
thuận cái tâm thanh tịnh của chư Phật Như Lai,
nhưng xét theo cái sẵn có để nói, chúng ta chưa từng
ĺa khỏi cái tâm thanh tịnh ấy! Đây thật sự là
lời nói hy hữu! Các vị thiện tri thức ơi! Thật
sự phải khéo tư duy, khéo quan sát, chúng ta sẽ lănh hội
được câu nói này. Thuốc được bố thí
thật sự là thứ ta sẵn có. Sự khoẻ mạnh
được bố thí thật ra vẫn đang sẵn có.
Nhưng nếu chẳng có quá tŕnh tùy thuận ấy, cái “sẵn
có” như chúng ta vừa nói chỉ là nói suông, hư vọng,
là kiêu mạn và tà kiến.
(Kinh) Thí như Tuyết sơn, chư sơn
vương, vĩ diệp đồng ư Chuyển Luân đế,
diệc như bảo liễn diệu trang nghiêm, bỉ kiến
chư Phật chúng tướng măn. Hựu do hộc vương
tuyệt minh bạch, xử không tự tại vô ngại du.
Như thị chư Phật kim sắc thân, Thế Tôn chân tử
như tư niệm.
(經)譬如雪山諸山王。煒燁同於轉輪帝。亦如寶輦妙莊嚴。彼見諸佛衆相滿。又猶鵠王絕明白。處空自在無礙遊。如是諸佛金色身。世尊真子如斯念。
(Kinh: Ví
như núi Tuyết, các núi chúa, rạng rỡ giống như
Chuyển Luân Vương. Cũng như xe báu diệu trang
nghiêm, trông thấy chư Phật tướng viên măn. Lại
như hộc chúa[2] tuyệt
trắng sạch, tự tại vô ngại lướt hư
không. Thân chư Phật sắc vàng như thế, chân Phật
tử nghĩ nhớ như vậy).
Dùng các cảnh mà các loài chúng sanh thuộc Tục
Đế trông thấy để làm tỷ
dụ, muốn khiến cho chúng ta sanh khởi tín tâm nương
cậy và tùy thuận quyết định đối với
chư Phật Thế Tôn. Do muốn thấy chư Phật,
chỉ có đối với Thập Phương Chư Phật
Tất Giai Hiện Tiền tam-muội mà có một nguyện
vọng mănh liệt, chân thật, rốt ráo, rơ ràng như thế, chúng
ta mới có cơ hội đích thân chứng đắc!
(Kinh) Vô cấu tam-muội tịnh trí đăng,
năng phá đại minh chư hắc ám, bỉ trừ nhất
thiết chúng vật tưởng, niệm chư Phật trí
vô ngại quang. Chư cấu tiêu diệt vô sân độc,
vô minh thanh tịnh diệu trí nhân. Nhược năng quán
thị vô tự tha, bỉ chung vô hữu chư sắc tướng.
(經)無垢三昧淨智燈。能破大冥諸黑暗。彼除一切衆物想。念諸佛智無礙光。諸垢消滅無瞋毒。無明清淨妙智人。若能觀是無自他。彼終無有諸色相。
(Kinh: Đèn
tịnh trí vô cấu tam-muội, phá trừ các hắc ám đen
kịt, ai trừ hết thảy tưởng mọi vật,
nghĩ chư Phật trí quang vô ngại. Tiêu diệt các cấu,
chẳng sân độc, là người diệu trí, sạch
vô minh. Nếu quán rơ chẳng có ta, người, sẽ trọn
chẳng có các sắc tướng).
Thấy sắc, phá sắc. Từ trong vô sắc
mà thấy chư Phật, cho nên “chẳng chấp Sắc,
chẳng hoại Sắc” là phương tiện hành pháp. Trông thấy sắc
mà không giữ lại ǵ; đó là phương
tiện để thấy Phật. Khá nhiều người
hành Ban Châu, do hai pháp chấp tướng và sợ tướng
mà bị trở ngại. Người chấp tướng
hễ thấy tướng bèn cho là có cái để đạt
được, sau đó bị trở ngại. Kẻ sợ
tướng liền chẳng dám thấy tướng, cũng
bị trở ngại trong tu pháp. V́ thế, cứ một đường
mà đi, quang cảnh hai bên đường cứ mặc t́nh
đối diện, nhất định chớ nên đắm
nhiễm chúng, mà cũng chớ nên hoại sắc. Nếu
hoại sắc, tức là sợ sắc. Như thế cũng
chẳng được thấy Phật, sanh ra Đoạn
Kiến xấu ác!
(Kinh) Vô nghi hoặc trung tịnh trí sanh,
tất năng đoạn tư chư Hữu Kiến.
(經)無疑惑中淨智生。悉能斷斯諸有見。
(Kinh: Do chẳng
nghi hoặc, tịnh trí sanh, ắt đoạn trừ các Hữu
Kiến ấy).
Mọi người trong quá tŕnh tu tập pháp,
khi trao đổi, sẽ
có khá nhiều cái gọi là “chư Hữu kiến”, hoặc
là chấp vào ngoan không, hoặc cho là có sắc, hoặc cho là
có thức, hoặc là vô thức, cũng có nghĩa là hai loại
Biên Kiến Đoạn Diệt và Thường Kiến đă
“ăn ṃn” khá nhiều hữu t́nh, c̣n kẻ có kiến
giải thanh tịnh hiếm hoi, tức là các tri kiến b́nh
đẳng, thanh tịnh, vô nhiễm, vô chấp. Các tri kiến
ấy là do một
niệm vừa chuyển mà h́nh thành, từ trong thức tâm
lưu xuất đối đăi, tổn hại tâm trí thanh
tịnh của chúng ta. Cái gọi là “thức tâm” chính là
phân biệt thức, nó kiến lập vô lượng vô biên
pháp tắc, nhưng thật ra đều là pháp tắc của
phàm ngu!
(Kinh) Diệc dĩ diệt vong ấm giới
tưởng, văn pháp trừ năo, đắc
thanh lương.
(經)亦已滅亡陰界想。聞法除惱得清涼。
(Kinh: Cũng
đă diệt mất ấm giới tưởng, nghe pháp trừ
năo, đạt thanh lương).
“Ấm giới”: Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức được gọi là Ngũ Ấm; sau này,
c̣n được dịch là Ngũ Uẩn. Trước thời
pháp sư Huyền Trang, dịch theo lối cũ là Ngũ Ấm,
[c̣n dịch theo lối mới (cách dịch do ngài Huyền
Trang đề xướng) th́ là Ngũ Uẩn], như
trong Tâm Kinh có câu “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”,
cũng có khi dịch là “chiếu kiến ngũ ấm
giai không”. Lại như kinh Lăng Nghiêm nói về năm
mươi ấm vực, thật ra là năm mươi uẩn
vực. Phương pháp phiên dịch sai khác, nhưng nội
dung chẳng khác, đều là bị Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức năm giới ấy nhiếp tŕ. V́ trong Sắc
Giới, tất nhiên là bị năm sự tướng thuộc
về cảm nhận là Thọ, Tưởng, Hành, Thức ấy
nhiếp tŕ, hoặc dính chặt vào đó, hoặc sợ hăi
trong đó, hoặc mờ mịt trong đó, trong ba pháp là
thiện, ác, hay vô kư đều bị vướng mắc, bị
hạn chế ở trong ấy.
Giới (界) có nghĩa là “chẳng
thể vượt qua”. Chúng ta đến sân bay, trạm
xe lửa, hay trạm xe hơi, đều có nhận biết,
thường có thể trông thấy một cái cửa thủy
tinh lớn: Chúng ta có thể nh́n xuyên qua, nhưng chẳng đi
qua được. V́ sao? Có một tầng ngăn cách, bất
luận là tầng ngăn cách ấy trong suốt hay không. Có
người có thiện pháp, chẳng hạn như giải ngộ một
pháp, nhưng tuy có giải ngộ, chẳng thể vượt
qua giới ấy, tức là chẳng thể bén mảng các
pháp tắc khác. Khá nhiều người nói: “Tôi hiểu rơ đạo lư này”, nhưng
vẫn có cái giới hạn ấy, chẳng có sức để
vượt qua, giống như ruồi bọ đâm vào kính
vậy, nói chung là chẳng thể xuyên qua! V́ sao? Do chẳng
có phương tiện đối với pháp, nào có biết
pháp nhằm mở cho chúng ta một cái cửa để ra
vào. V́ thế, rất
nhiều người v́ pháp mà bị cách ngăn, v́ chẳng hiểu mà bị
cách ngăn, v́ chẳng có pháp mà bị cách ngăn, v́ nghiệp
tướng chấp trước mà bị cách ngăn v.v… chướng
ngại nhân duyên hiện tiền của chính ḿnh, chẳng
thể tự thoát ra.
Ấm giới có lẽ là một vấn
đề mà người kinh hành Ban Châu, hoặc người
niệm Phật, người học Phật đều phải
nên chú ư. Chúng ta thường quan sát sẽ biết. Rất
nhiều người nói: “Tôi hiểu rơ đạo lư này, nhưng
chẳng sử dụng được!” Cũng giống như
nói: “Tôi thấy các thứ bên ngoài, nhưng chẳng thoát ra được”.
Vẫn là bị trở ngại. Chướng ngại ấy
ở chỗ nào? Quư vị phải giải quyết. Nếu
chẳng giải quyết được, chuyện hiểu
rơ đạo lư này đâm ra trở thành thủy tinh, thành phương
tiện trở ngại quư vị ra vào tự tại, giao lưu
rộng lớn.
(Kinh) Tỳ-kheo đương tri chư
Phật tử, cập dĩ thanh tịnh tỳ-kheo-ni, bỉ
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, nhược năng niệm thử,
đắc tam-muội.
(經)比丘當知諸佛子。及以清淨比丘尼。彼優婆塞優婆夷。若能念此得三昧。
(Kinh: Tỳ-kheo
nên biết các Phật tử, cùng với thanh tịnh tỳ-kheo-ni,
các ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, nếu niệm điều này,
đắc tam-muội).
Những điều được nêu ra trên
đây, vẫn là hy vọng
chúng ta sẽ đích thân chứng tam-muội, hướng tới
tam-muội, đọc tụng giáo điển tam-muội này
sẽ có sự quy y chọn lựa rơ ràng, cũng như tuân
theo pháp tắc.
17. Phẩm thứ
mười ba: Hiện Tiền Tam-muội Trung Thập Pháp
Bát Pháp
(Kinh)
Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền
Hộ Kinh, quyển đệ ngũ.
Hiền Hộ Phần, hiện tiền
tam-muội trung thập pháp, bát pháp, phẩm đệ thập
tam.
(經)大方等大集賢護經卷第五。
賢護分現前三昧中十法八法品第十三。
(Kinh: Kinh Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ,
quyển thứ năm.
Hiền
Hộ Phần, phẩm thứ mười ba: Mười
pháp và tám pháp trong hiện tiền tam-muội).
Mười
pháp hay tám pháp là các yêu cầu cơ sở của đức
Thế Tôn đối với sự trao đổi, giải
nói Ban Châu tam-muội. Trong pháp bổn này, đức Thế
Tôn đă cụ thể, rơ ràng bày ra pháp tắc tu tập
như thế nào, pháp tắc thành tựu trọn đủ
như thế nào, cho đến nói các yêu cầu cơ sở
để trao đổi với người khác và thực
hiện như thế nào. Ở đây, chúng ta hăy xem nội
dung cụ thể của tám pháp và mười pháp.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ
Tát ngôn: - Hiền Hộ! Nhược hữu tỳ-kheo, nhạo
dục tu tập thử tam-muội giả, tiên
đương tư duy bỉ vô tướng tưởng.
(經)爾時世尊。復告賢護菩薩言。賢護。若有比丘。樂欲修習此三昧者。先當思惟彼無相想。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát
rằng: - Này Hiền Hộ! Nếu có tỳ-kheo ưa thích
tư tập tam-muội này, trước hết hăy nên
tư duy vô tướng tưởng).
“Tiên
tư duy bỉ vô tướng tưởng” (trước
hết, hăy tư duy vô tướng tưởng), đây là
điều quan trọng hàng đầu. Trong duyên khởi của
hết thảy các pháp, nếu chẳng dùng “pháp không có tự
tánh” làm duyên khởi, vậy th́ người ấy tu theo
tri kiến của ngoại đạo, người ấy
hành pháp ngoại đạo, chẳng thể chứng Bồ
Đề Phần theo giáo ngôn Bồ Đề của đức
Thế Tôn. V́ sao? Đấy là chỗ khác biệt căn bản
giữa người học tập Phật pháp chúng ta và tri
kiến ngoại đạo. Chẳng hạn như trong Biên Kiến, trong tri kiến đối lập, sẽ chẳng
có cách nghĩ vô tướng. Hễ tư duy bèn nẩy sanh
các loại tà kiến như đoạn diệt hay ngoan
không. “Vô tướng tưởng” thật sự là vô
nhiễm tưởng, vô trước tưởng (tưởng
không chấp trước), mà cũng là thiện xảo vô tự
tánh tưởng.
(Kinh)
Kư tư duy dĩ, ngă mạn bất sanh.
(經)既思惟已。我慢不生。
(Kinh: Đă tư
duy rồi, chẳng sanh ngă mạn).
V́
trọn chẳng có các tướng để có thể
đạt được, cho nên chẳng có pháp đối
đăi có thể sanh, mạn tâm chẳng thể được,
cái tâm ty tiện cũng sẽ mất đi, tâm trí b́nh đẳng
tự nhiên thuần thục. Do vậy, thấy Phật chẳng
khó, như nước lặng soi vật, tự nhiên chẳng
khó. Nhưng trong thời Mạt Pháp, phần nhiều là tâm
con người bị kiêu mạn che khuất, ngăn chặn.
(Kinh)
Hiền Hộ! Trừ mạn cao dĩ, tâm ư thái nhiên.
(經)賢護。除慢高已。心意泰然。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Đă trừ ngạo mạn, kiêu căng, tâm ư thanh thản).
V́ sao vậy? B́nh đẳng, an tường,
thơ thới, tâm đă hiểu rơ. Tà kiến kiêu mạn
che lấp hữu t́nh, giết chết đạo đức
và thiện căn của con người rất nhanh chóng. Rất
nhiều vị xuất gia học Phật, hoặc tại
gia Bồ Tát khiến cho người khác rất tiếc nuối
v́ đă đánh mất sự tôn trọng đối với
chính ḿnh và đối với người khác trong hiện
tiền, đánh mất sự cung kính như thật,
cũng như sự cung kính xa ĺa hư luận. Có người
biến tôn trọng trở thành hư luận, trở thành một
vật chẳng thật. Đó là đă đánh mất trân bảo
ngay trong hiện tiền, [trân bảo] chính là tất cả
lợi ích rộng lớn nơi y báo và chánh báo trong hiện
tiền. Nếu đúng như thật tôn trọng bằng
cái tâm cung kính, b́nh đẳng thủ hộ, ngay trong hiện
tại sẽ là trân bảo. Đấy chính là một liều
thuốc chống mục nát. “Chẳng cung kính” chính là mục nát,
nhưng vị thuốc ấy có thể khiến vật mục
nát hóa thành trân bảo chẳng ngoài một sát-na, chẳng
ĺa khỏi bản thể. Các vị thiện tri thức
ơi! Chúng ta kết giao với kẻ khác, cùng ở với
người khác, cùng tham học với người khác, thí
giáo cho người khác, cho đến hướng về
người khác xin chỉ dạy, nếu chẳng dùng cái
tâm cung kính, chân thành, kẻ ấy sẽ chẳng đạt
được thành tựu. Đó là chỗ trân bảo tồn
tại.
(Kinh)
Viễn ly chúng tướng.
(經)遠離衆相。
(Kinh: Xa ĺa các
tướng).
Tức
cái được gọi là “tâm trí thanh tịnh b́nh đẳng”.
Đấy là chỗ đặt đại ma-ni bảo.
Thanh tịnh b́nh đẳng có thể xuất sanh hết thảy
các công đức.
(Kinh)
Nhĩ thời, tức ưng vị tha tuyên thuyết
như thị tam-muội.
(經)爾時即應爲他宣說如是三昧。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
hăy nên v́ người ấy lập tức tuyên nói tam-muội
như thế).
Khi
tuyên nói tam-muội cho người khác, nếu có nhân tướng,
ngă tướng, chúng sanh tướng, hoặc nếu có kiêu
mạn, sẽ khó thể trao đổi pháp này. Trước
kia, tôi tiếp xúc khá nhiều người chưa học tập
pháp tắc này, và những người nghi hoặc pháp này,
v́ sau khi họ trông thấy những kẻ kinh hành Ban Châu mà
tâm kiêu mạn, tự đại, bèn sanh khởi ḷng ngờ
vực, hối hận. Đương nhiên cũng có các
chúng sanh do bản thân có tâm kiêu mạn, ghen tỵ mà tự nẩy
sanh chướng ngại cho chính ḿnh. Khi hai thứ vấn đề ấy đă chín muồi,
sẽ sanh ra báng pháp, nghi pháp, cho đến gặp pháp mà chẳng
muốn hành, chẳng muốn biết rơ hậu quả xấu
ác như thế. Do vậy, chúng ta quán các tướng vô
tướng, xa ĺa kiêu mạn, sanh tâm chân thành, b́nh đẳng,
như thế th́ trao đổi tam-muội với người
khác sẽ có ư nghĩa, người khác sẽ cảm thấy
thân thiết, đáng mến, chân thật, tương ứng.
Nếu dùng cái tâm kiêu mạn để trao đổi pháp tắc
với người khác, thật sự sẽ tổn hại
thế gian, lừa dối, làm nhục thế gian, lừa dối
làm nhục loài hữu t́nh khác, v́ mọi người vốn
sẵn đủ công đức ngang bằng với chư
Phật, chỉ là xét theo phương diện dấy khởi
tác dụng th́ có sai khác, cớ ǵ quư vị kiêu mạn? Đó
là chuyện mười phần trọng yếu khi tuyên nói
tam-muội này, mà cũng là một điều kiện quan
trọng hàng đầu!
Tôi
nhớ khi sắp mở pháp hội Ban Châu lần thứ nhất,
rất nhiều người hỏi tôi về vấn đề
sắp đặt cúng dường. Tôi nói: “Hiện thời, hết thảy đại
chúng đều có tư cách cúng dường chư Phật,
tán thán pháp tắc này, nhưng không có bất cứ một
ai có thể tiếp nhận sự cúng dường ấy. Nếu nói nhờ vào nhân duyên của cá nhân tôi để
tiếp nhận sự cúng dường ấy rồi hồi
thí cho Tam Bảo, hồi thí cho pháp tắc, tôi sẽ bằng
ḷng làm một sứ giả như vậy. Làm một
người hầu th́ tôi làm được, nhưng nếu
nói ‘cúng dường
tôi’ th́ không
được”. Sau đó, thực
hiện một pháp hội cúng dường,
mọi người dùng đủ loại vật chất
để cúng dường, cúng dường bằng lễ bái, tán thán, cúng dường bằng niệm tụng để tán thán
pháp tắc này tồn tại và được lưu truyền
trong cơi đời, tán thán ḷng từ bi và oai đức
của chư Phật Thế Tôn, quả thật là chẳng
có người nào trong chúng ta đáng nên tiếp nhận vật
cúng dường. Nếu trong chúng ta có người đích
thân chứng tam-muội, hoặc như thật an trụ
trong tam-ma-ba-địa, tôi nhất định sẽ cực lực
đề cử mọi người cúng dường
người đó. V́ sao vậy? Nương theo vị thành
tựu ấy sẽ đạt được thiện xảo,
sẽ rất dễ dàng khế nhập tam-muội.
Trong
pháp tắc này, v́ sao chúng ta chẳng dám tiến một
bước lớn? Trong ấy, có một điều
là v́ thiện căn và phước đức của
người trong thời đại này chẳng đủ,
pháp duyên chẳng đủ. Nếu dễ dăi truyền bá rộng
khắp, sẽ tạo thành cơ chế xấu ác khiến
cho kẻ khác báng pháp, nghi pháp. V́ thế, hiện thời
dùng kiểu hành tŕ một ngày một đêm làm chánh yếu,
dần dần tiếp nối thành thục như thế, sẽ
có thể khiến cho thân tâm của mọi người có
chỗ y chỉ, có chỗ y chỉ đối
với pháp tắc, có thiện xảo tiến nhập. Như thế th́ sẽ có thể lợi ích rất nhiều
trời, người, cho đến chẳng thể
nghĩ bàn hữu t́nh trong thế gian. Nếu chúng ta
có những thứ bộp chộp, chẳng tương ứng,
hay kiêu căng, sẽ có các pháp tắc “nói năng chẳng phù hợp
thực chất”, cho đến gây
nguy hại hoặc ngăn che pháp này, thậm chí hủy
diệt sự tồn tại của pháp bổn
này trong thế
gian! Do đó, đối với pháp này, nếu chẳng
thuận theo kinh giáo, chẳng thuận theo pháp tắc do các
vị thiện tri thức thành tựu trải các đời
truyền lại, chúng ta sẽ rất khó như thật
truyền bá, đánh mất kinh điển như thế để y chỉ, hoặc liễu
giải nên trao đổi như thế nào!
(Kinh)
Bất ưng khởi tránh. Thị trung, vân hà danh vi Tránh dă? Sở vị vọng
tưởng phỉ hủy, tức báng ư Không, danh vi Tránh
dă.
(經)不應起諍。是中雲何名爲諍也。所謂妄想誹毀。即謗於空。名爲諍也。
(Kinh: Chớ nên dấy
lên tranh chấp. Trong ấy, thế nào là “tranh chấp?” Tức
là vọng tưởng phỉ báng, hủy báng, tức là
báng bổ đối với Không, th́ gọi
là tranh chấp).
Tánh
của các pháp vốn là Không, chẳng có trần nhiễm,
chẳng có một pháp để có thể thành. Kẻ chẳng tương ứng với tâm trí như
vậy, sẽ có tâm tranh chấp. Nếu ai đă chứng
đắc Vô Tránh tam-muội, sẽ đối với hết
thảy thế gian đều có thể bao dung, b́nh đẳng
thủ hộ. V́ sao vậy? Do tâm trí chẳng vướng mắc,
chẳng đối đăi. Trong khi tu nhân, A Di Đà Phật
dùng Vô Tránh tam-muội làm căn bản để thủ hộ,
làm cội gốc để quy kết ba thứ thệ nguyện
căn bản, tức là Vô Tránh, có nghĩa là Không,
Vô Nhiễm, Vô Trước, b́nh đẳng một vị.
Tam-muội ấy chẳng ĺa bản thể của hết
thảy hữu t́nh. Quư vị nói: “Tôi vận dụng tham,
sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng, đắm
nhiễm đủ thứ tri kiến điên đảo, vậy
th́ có quan hệ ǵ với tam-muội này cơ chứ?” Chính
là từ ngay nơi bản
thể, quư vị chẳng nhận biết, lầm tưởng
nghiệp tướng hiện tiền của chính ḿnh, thật
sự chẳng biết nghiệp tướng
ấy quả thật vô sở
đắc, được sanh bởi
huyễn duyên. Nếu dùng trí huệ môn để quan sát, sẽ
biết [nghiệp
tướng] như mộng, như huyễn, thành thục trong hiện tiền, duyên diệt
[nghiệp
tướng] liền diệt, trọn
chẳng có ǵ để đạt được. Nếu
nh́n theo bản chất, hễ huyễn duyên sanh khởi, tức là tam-muội
sanh khởi.
Lựa
chọn ở chỗ này hết sức ít ỏi! Vậy th́
làm như thế nào? Trước hết, dùng Vô Tránh để cảm
động loại hữu t́nh ấy. V́ thế, trong khi tu
nhân, A Di Đà Phật đă phát ra thệ nguyện, dùng Vô Tránh để thực
hiện thủ hộ thanh tịnh, hoặc nói là duyên khởi
thanh tịnh, thuận tánh phát khởi thệ nguyện thiện
xảo rộng lớn,
muốn độ thoát hết thảy chúng sanh, thành tựu
Bồ Đề, hoặc ĺa hết thảy các khổ,
đạt được hết thảy lạc. “Lạc”
ở đây là sự tín thuận pháp tánh do tương ứng
chân thật, đạt được sự an lạc rộng
lớn và trí chẳng thể nghĩ bàn. Nhưng nếu chẳng
tương ứng, sẽ sanh ra đủ thứ va chạm,
đối đăi, thương tổn. Cho nên nói: “Trái nghịch
tánh, sẽ có nhiều
tổn hại”. Sự tổn hại
ấy đúng là vô ích. Chư Phật Như Lai bất quá là
tướng trang nghiêm, tướng chân thật, tướng
oai đức, tướng trọn đủ trong biển
pháp tánh tịch diệt, khiến cho kẻ khác mong mỏi,
hướng đến, như thế mà thôi! Nhưng bọn
phàm phu chúng ta yếu kém, ty tiện, các tướng khiến
cho con người đau khổ thật ra chẳng qua là
các tướng vụn vặt, vặn vẹo, đổi
khác, mê mất, nhưng vẫn chẳng rời biển tịch
diệt, chẳng ĺa pháp tánh. Do vậy, chẳng có nhân duyên trong
sát-na, chưa hề có hữu t́nh nào có thể ĺa khỏi biển
Chân Như pháp tánh. Điều này chân thật chẳng dối.
A Di Đà Phật đích thân chứng tâm trí vô tránh như thế,
cho nên chiếu mười phương cơi chẳng bị
chướng ngại, quyết định là hết thảy
chúng sanh “văn ngă danh hiệu, câu lai ngă sát” (nghe danh hiệu
của ta, đều đến cơi nước của ta).
V́ sao vậy? Tâm trí như thế, oai đức như thế,
bản chất như thế, nguyện lực như thế,
khăng khăng nhiếp thọ chúng sanh cùng tột vị
lai chẳng bỏ như thế! V́ tự tánh phát tâm chân thật
tương ứng, chân thật thành tựu, chẳng sợ
hăi, cho đến tột đời vị lai đối diện
với vô lượng chúng sanh chẳng hề sợ hăi,
đối trước hữu t́nh dẫu ngu độn,
ương bướng cách mấy vẫn chẳng hề sợ
hăi, khiến cho họ được độ thoát. V́ thế,
thực hiện giáo ngôn thanh tịnh sư tử hống rộng
lớn, oai đức nhiếp phục hết thảy hữu
t́nh trong thế gian, hiện oai đức lớn đến
tận cùng Kim Cang Tế[3], độ thấu triệt tướng
vô gián, ban cho hết thảy chúng sanh lợi ích rốt ráo. Sự
lợi ích ấy chính là do đức Thế Tôn thủ hộ
thệ nguyện căn bản này, bèn dẫn phát lợi ích
chẳng thể nghĩ bàn cho hết thảy phàm thánh. Nếu
nghĩ bàn, quư vị sẽ rất khó tương ứng,
v́ chẳng có ǵ để khế hợp!
“Tức
báng ư Không, thị vi Tránh dă” (tức là báng bổ
cái Không, đó gọi là Tranh Chấp): Trước kia, khi
được tiếp xúc ba thệ nguyện trong khi tu nhân
của A Di Đà Phật, tôi đă nói: “Cớ sao người
thế gian tuyên truyền giáo ngôn của A Di Đà Phật
trái nghịch với ba thệ nguyện ấy?” Nêu ra một
thệ nguyện, chẳng nói nội dung cụ thể của
thệ nguyện, chỉ nói tướng bên ngoài. A Di Đà
Phật lập một thệ nguyện là rộng tu tập
hết thảy các pháp, lợi lạc hết thảy chúng
sanh. Danh tự của tam-muội-da thệ nguyện chẳng
phải là như thế, nhưng nội dung là như thế,
tức là phải tu tập hết thảy các pháp tắc, bất
luận là Phật pháp hay ngoại đạo, phải lợi
lạc hết thảy chúng sanh, bất luận là loài côn
trùng nhỏ nhít, cho đến hữu t́nh ngu si, thậm chí
kẻ phỉ báng, hủy diệt Phật pháp, A Di Đà Phật
Thế Tôn đều dùng sức oai đức
để nhiếp thọ, hộ tŕ, tức là sức oai
đức vô úy, sức oai đức chẳng đối
đăi, sức oai đức vô tránh, vận dụng thuận
theo pháp tánh, sức oai đức triệt để biết
rơ “các tướng chẳng phải là tướng”. V́
thế, kẻ phỉ báng, ngờ vực cũng chẳng tạo
thành nghiệp phỉ báng thật sự. V́ sao vậy? A
Di Đà Phật triệt để đập tan tướng
hư giả, tướng biến huyễn, vô thường
ấy. Trong hết thảy chúng sanh, Ngài đă chọn lựa
pháp tắc căn bản thuộc về tâm trí vô lượng
thọ, vô lượng quang. Nếu chẳng chọn lựa
pháp tắc căn bản ấy, chúng sanh trong chín pháp giới
vẫn là chín pháp giới. V́ sao? Mọi người ở
yên nơi nghiệp tướng của chính ḿnh, chẳng thể
tự thoát ra được, coi nghiệp là thật, dùng
nghiệp để thủ hộ. Như thế th́ làm sao
có thể lợi ích rộng khắp mười
phương?
Thiện
Đạo đại sư cũng nói “chuyên phục
chuyên” (đă chuyên lại càng chuyên hơn), nhưng ngụ
ư phía sau “chuyên phục
chuyên” chính là phương tiện “thâm nhập một
pháp”, chẳng phải
là phỉ báng hay ngờ vực các pháp khác, chẳng phải
là không lợi ích các loài hữu t́nh khác, chẳng phải
là bài xích các loài hữu t́nh khác! Tuyệt đối
chẳng phải là như thế, chỉ là nói: “Kẻ sơ học
muốn đạt được lợi ích, hăy nên chuyên phục
chuyên”. Vậy th́ đạt được lợi ích hiện
tiền, tùy thuận thệ nguyện của Phật, chính
là công đức hiện tiền của người “chuyên
phục chuyên”. Họ sẽ không nói lời bài xích một
loại pháp nào, hoặc hướng tới loại nào, thủ
hộ loại nào! Nếu có thân hay sơ, làm sao có thể
tương ứng với “chiếu thập phương
quốc vô sở chướng ngại” (chiếu mười
phương cơi nước, chẳng bị
chướng ngại) của A Di Đà Phật cho
được? Do vậy, Vô Tránh hết sức trọng
yếu. Trong tu hành pháp môn Tịnh Độ, nếu chúng ta
chẳng lư giải phương pháp dụng tâm này, sẽ biến
pháp môn Tịnh Độ thành một pháp môn chết cứng,
hoặc một pháp môn đang giẫy chết, hoặc trở
thành một thứ pháp môn hẹp ḥi, hèn kém. Do vậy, sẽ
có rất nhiều người chẳng muốn tu tập pháp
này! Lại bàn về Ban Châu tam-muội, càng cảm thấy
“đó là chuyện của thánh nhân”. Nhưng chúng ta xem kinh
này, từ đầu đến cuối tuyên nói đều
là “tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di
đều nên yêu thích pháp này, chứng thực pháp này, rộng
tuyên pháp này, đọc tụng kinh giáo, đích thân chứng
lợi ích”. Chỗ nào cũng đều tuyên nói như
thế, chẳng có đoạn văn tự nào nói loại thánh nhân nào th́ mới có thể hành
pháp!
Chúng
ta chớ nên tranh chấp với kẻ khác, thế gian vốn
vô tránh (chẳng tranh chấp), thế gian vốn
chẳng đối đăi. Trong xuất thế và nhập
thế, phàm phu chọn lựa pháp đối đăi. Nếu
chúng ta chọn lấy “tranh chấp”, sẽ đọa vào
tâm trí phàm phu, sẽ lưu chuyển trong nghiệp duyên phàm
phu. Chúng ta đừng nên vọng tưởng “ai phàm, ai
thánh”. Phàm hay thánh chẳng có địa vị đâu nhé! Quư
vị nói: “Tôi mê mất trong nghiệp vô minh, ngu si, điên
đảo, chẳng phải là phàm ư?” Đúng thế,
nhưng quư vị chớ nên cưỡng chấp cái nghiệp
ấy, địa vị ấy (phàm phu) cũng chẳng thể nói nó thuộc về
quư vị! Chỉ là một thứ nghiệp tướng tiếp
nối, thế nhưng nghiệp tướng vô ngă. Các vị
thiện tri thức ơi! Khi chúng ta chẳng nhận biết
nghiệp tướng vô ngă, sẽ cho rằng đó là danh tự
ngă, vô thường ngă, nghiệp tướng ngă, phiền
năo ngă, tập khí ngă, nam nữ ngă, sắc thân ngă. Các cái Ngă ấy
đều hư hoại, đều là một thứ
tướng nhân duyên biểu lộ pháp vô ngă đó thôi. Nếu
cho đó là ngă, đúng là đă nhận lầm pháp tắc, sẽ
bị lưu chuyển vô cùng!
(Kinh)
Hiền Hộ! Thị cố, bỉ tỳ-kheo
dĩ vô tránh cố, đương năng tu học, vị
tha tuyên thuyết thử tam-muội dă.
(經)賢護。是故彼比丘以無諍故。當能修學。爲他宣說此三昧也。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! V́ thế, vị tỳ-kheo ấy do vô
tránh, hăy nên tu học, v́ người khác tuyên nói tam-muội
này).
Nếu
tranh luận với người khác, sẽ rất khó trao
đổi pháp tắc này. Người khác khen ngợi
cũng thế, phỉ báng cũng thế, dẫu nói theo kiểu
xấu hèn, chúng ta cũng chớ nên có đối đăi. V́
sao? Sự tướng vô ngă, cớ sao quư vị đắm
nhiễm? Pháp tắc là “vô nhân tướng,
vô ngă tướng”; chúng ta thuận
theo pháp tắc, sẽ có thể thành tựu. Nhưng nếu
thuận theo nhân, ngă, sẽ là đi ngược đường.
Nêu một thí dụ, chẳng hạn như dọc theo hai bờ
Trường Giang có rất nhiều ao, hồ. Nước
trong hồ này có thể nói nước của hồ kia “chẳng
phải là nước của Trường Giang”, mà nước
hồ kia cũng nói nước hồ này “cũng chẳng
phải là nước của Trường Giang”. V́ thế,
khi chúng ta muốn nói một pháp tắc, bèn nói pháp tắc ấy,
mọi người đều tùy thuận pháp tắc
ấy, quy vào trong pháp tắc ấy, sẽ được
pháp tắc ấy chuyên chở, đạt được lợi
ích, mà những lời lẽ ở ngoài pháp tắc ấy sẽ
trở thành vô ư nghĩa!
Chúng
ta nói theo “nhân, ngă, đúng, sai”, sẽ che lấp pháp tắc,
lăng phí sanh mạng của chính ḿnh ngoài pháp tắc. Chúng ta
tùy thuận một pháp tắc, sẽ vượt khỏi
tranh chấp “ta, người”, v́ mỗi người
đều có sở trường của chính ḿnh, mà cũng
đều có sở đoản, đều là có tướng
biến hóa thị phi, tướng phàm thánh biến hóa.
Điều này có thể tương ứng với cơ chế
pháp tắc trên tổng thể, mà cũng có thể chẳng
tương ứng. Nếu tương ứng, chúng ta sẽ
tùy thuận pháp tắc. Nếu chẳng tương ứng,
chúng ta sẽ ở ngoài pháp tắc, mê muội trong nghiệp
tướng của chính ḿnh. Chúng ta chẳng thể dùng nghiệp
tướng của người khác, hoặc nghiệp
tướng của chính ḿnh để mê hoặc chính ḿnh,
hay mê hoặc người khác. Đó mới gọi là “kẻ
đáng thương xót” trong Phật pháp. Đối với
những kẻ đó, phải nên khai thông, hướng dẫn
họ trở lại gịng pháp trong Phật pháp, tiến nhập
biển trí nguyện của chư Phật, triệt để
đạt được giải thoát, chẳng bị hủy
diệt, chẳng bị khô cạn.
Chẳng
hạn như chúng ta đến vùng Vũ Hán, có thể thấy
hai bên Trường Giang đặc biệt nhiều ao, hồ.
Quư vị có thể nói đó là nước của Trường
Giang hay là không? [Nếu nước trong ao hay hồ] chảy
thông vào Trường Giang th́ là nước Trường
Giang. Chẳng thông với Trường Giang th́ là nước
ao chuôm. Nghiệp tướng của mỗi chúng sanh chúng ta
giống như nước trong ao chuôm, hoặc nước
trong một cái chậu. Nước ô trược, nước
chẳng sạch, hay nước sạch, nước thải
công nghiệp, nước thải từ gia đ́nh, nước
kiểu nào cũng đều có, nhưng nếu đổ
vào Trường Giang, sẽ đều chảy ra biển cả.
Đó là điều chắc chắn. Quư vị nói sợ một
chút nước của chính ḿnh ô nhiễm biển cả, biển
cả rốt cuộc tột bậc mênh mông, có thể dung
nạp, tiêu trừ đôi chút ô trược ấy. Đối
với chuyện này, chúng ta hăy nên yên ḷng, đừng sợ
chính ḿnh có thể nhuốm bẩn biển cả, chúng ta cũng chẳng có bản lănh ấy! Có kẻ sợ nước
bẩn của kẻ khác sẽ nhuốm bẩn biển cả.
Quư vị cũng đừng sợ, nó rốt cuộc đều
đổ vào biển. Do biển cả tâm trí rộng lớn,
không ǵ ngăn che được, do biển dung nạp hết
thảy, quư vị sợ nỗi ǵ? V́ thế, chúng ta đừng
sợ hữu t́nh ngu độn, ương bướng, hữu t́nh tội ác, hữu
t́nh điên đảo, giống như khơi ng̣i dẫn nước ra sông, tất nhiên sẽ đổ
vào biển cả, chúng ta có thể tiêu trừ nghiệp
tướng của họ. Yên tâm đối với chuyện
này là được rồi! Nếu vẫn nhất định
nói người như thế này sẽ chẳng
được như thế nào đó th́ thật ra
cũng cần chẳng phải nói đến ai khác. Chính quư
vị cũng chẳng khác biệt cho mấy! Rất nhiều
người nghĩ kẻ khác chẳng tốt lành như thế
nào đó, thật ra chính ḿnh cũng tệ hại y hệt
như thế ấy! Nếu chẳng phải vậy, sao lại
sống trong cùng một thời đại? Cớ sao chẳng
sống trong thời đại đức Phật c̣n tại
thế? Quư vị nói chính ḿnh nương theo nguyện mà
đến, càng phải nên thương xót các hữu t́nh!
Chúng ta phải nên quán kỹ. Pháp vô tránh rất trọng yếu!
(Kinh)
Hiền Hộ! Hữu chư thiện nam tử, thiện nữ
nhân, nhược dục tu học, vị tha giải thích thử
tam-muội giả.
(經)賢護。有諸善男子善女人。若欲修學。爲他解釋此三昧者。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Có các thiện nam tử, thiện nữ nhân, nếu muốn
tu học, v́ người khác giải thích tam-muội này).
Đức
Thế Tôn từng bước hướng dẫn chúng ta liễu
giải pháp tắc thành tựu và tướng
thành tựu của tam-muội này, cho đến trao đổi
pháp tắc với người khác. Người tế nhị
và chu đáo không ai hơn đức Thế Tôn, đúng là
Ngài có đại ân đức đối với chúng ta, thật
sự là cha mẹ của Pháp Thân huệ mạng, là cha mẹ
dưỡng dục đạo đức của chúng ta.
(Kinh)
Ưng đương cụ túc thành tựu thập pháp,
nhiên hậu vị tha giải tư tam-muội.
(經)應當具足成就十法。然後爲他解斯三昧。
(Kinh: Hăy nên thành tựu
đầy đủ mười pháp, sau đấy, sẽ
v́ người khác giải thích tam-muội này).
Quư
vị nói: “Nay tôi chưa trọn đủ mười pháp,
có thể giải thích cho người khác hay không?” Đức
Thế Tôn nói: Khi quư vị muốn giải thích cho người
khác, trước hết, hăy xem và học mười công
đức, mười loại pháp này. Đó là nhờ vào lời
của người khác để chứng lợi ích của
pháp tắc trong Phật pháp cho bản thân. V́ thế, hết
thảy đều chẳng ĺa pháp
tắc.
Khi
tôi vừa mới tiếp xúc giới tỳ-kheo, đọc
Tứ Phần Luật Tạng[4]
một lượt, toàn thân mướt mồ hôi, v́ có cảm
giác đức Thế Tôn chưa từng ĺa khỏi chúng ta.
Thích Ca Mâu Ni Phật Thế Tôn cho đến Câu Lưu Tôn Thế
Tôn, Câu Na Hàm Ma Ni Thế Tôn, Ca Diếp Thế Tôn, bốn vị
Phật trong Hiền Kiếp chưa từng rời khỏi
chúng ta. Các vị Thế Tôn trước Hiền Kiếp
cũng chưa hề rời khỏi chúng ta. Các Ngài dùng
đủ loại thân tướng, đủ loại âm
thanh, đủ loại pháp tắc, chẳng ngừng thí
giáo cho mọi người. Nếu quư vị đọc Tạng
Kinh, nhất là những kinh mà người xuất gia cần
phải đọc, sẽ mười phần có ư nghĩa.
Quư vị sẽ cảm thấy rất b́nh thường, rất
chân thật, rất gần gũi. Trước kia, cảm
thấy cách biệt các vị A La Hán thuở đức Thế
Tôn tại thế quá xa, khoảng cách hơn hai ngàn năm
quá lớn; nhưng khi đọc Bát Thập Tụng của
tôn giả Ưu Ba Ly, cảm thấy mười phần
thân thiết, bất cứ khoảng cách nào cũng đều
chẳng có! Dẫu chúng ta vận dụng cái tâm phàm phu, dung
tục, vẫn chẳng cảm thấy có khoảng cách, huống
hồ quư vị c̣n là hữu t́nh phát tâm dũng mănh, tŕ giới
thanh tịnh, thiện căn sâu dày! V́ thế, tôi vẫn hy
vọng mọi người thâm nhập kinh điển, có
thể đọc nhiều th́ thật sự vẫn phải
đọc. Niệm Phật th́ hăy siêng niệm Phật, kinh
hành Ban Châu th́ hăy chăm kinh hành, kinh giáo vẫn phải
đọc!
Trước
kia, khi tôi mới ở trong núi, có nỗi sợ hăi “giải quyết vấn đề ăn uống
như thế nào?” Về sau,
thường gặp các vị xuất gia sư phụ hỏi
tôi chuyện này: “Thầy sống trong núi th́ chuyện ăn
uống làm như thế nào?” Tôi nói: “Tôi không biết. Đấy
chẳng phải là chuyện của tôi!” “Chẳng phải
chuyện của thầy th́ là chuyện của ai chớ?” Tôi nói: “Có người lo”. “Ai lo?” “Phật!” Ai lo? Bồ
Tát lo! Ai lo? Hộ pháp lo! Trời, người hộ pháp mà!
Đó là thệ nguyện của họ. Khi quư vị thật
sự hành Phật sự, chẳng có chỗ nào cố kỵ,
chẳng sợ hăi chi hết! Trước kia, tôi ở nhiều
nơi rất hẻo lánh, tuyệt đối chẳng có
chuyện chết đói, trừ phi quư vị chẳng học
Phật. Mà cũng chẳng gặp duyên trái nghịch, trừ
phi quư vị tạo tác duyên trái nghịch.
Nay
chúng ta tụ hội như thế này, mà nếu chẳng có
cơ sở để hành pháp th́
cũng chẳng thể được! Đối với
pháp hội này, tôi một mực nói điện đường
chẳng lớn, chẳng nhỏ, vừa khít, lớn chẳng
được, nhỏ chẳng được. Lớn
cũng chẳng mở được, nhỏ cũng chẳng
mở được. Có long thiên hộ pháp, đúng không? Nếu
chẳng được hộ tŕ, chúng ta đúng là một
ngày cũng chẳng ở được. Nếu chẳng
phải là trong bốn tháng an cư, có chư Phật, Bồ
Tát hộ niệm và chiếu cố, chúng ta sẽ chẳng thể ngồi nổi.
Quư vị thấy có bao nhiêu ngoại duyên quấy nhiễu.
Trong các ác duyên từ vô thỉ đă chín muồi của chúng ta, đúng là nhiệt năo! Chuyện này, chuyện nọ, một trăm tám
mươi người đều giằng kéo quư vị, chẳng
biết khi nào sẽ lôi phắt quư vị đi, cũng chẳng
biết bị tóm đến chỗ nào! Nhưng do nguyện
vọng an cư rơ ràng, Phật, Bồ Tát gia tŕ rơ ràng, chúng
ta thong dong ngồi ở đây, tránh khỏi hơi nóng của
trời Hè xâm hại, kể như đó là sự cảm nhận lớn nhất nơi
thân thể đó chăng? Chúng ta chẳng cần dùng quạt
tay, quạt điện, máy điều ḥa thổi ào ào
chi hết, tối thiểu là khỏi bị nóng mà! Có
phước đức ấy, đúng không? Trong
tương lai, nếu đạo tràng này xây dựng thành
quy mô [chứa được] năm trăm người, nếu
năm trăm người tránh nóng, quy mô to cỡ nào? Chẳng
dùng máy điều ḥa, đỡ tốn bao nhiêu điện?
V́ quốc gia sáng tạo bao nhiêu của cải? Vậy th́ nếu
là một ngàn người, một ngàn năm trăm người,
ba ngàn người th́ sao? Dẫu là đến tránh nóng, vẫn
là phước báo!
(Kinh)
Hà đẳng vi thập? Sở vị nhất giả, bỉ
chư thiện nam tử, thiện
nữ nhân, tiên tồi ngă mạn, khởi cung kính tâm.
(經)何等爲十。所謂一者。彼諸善男子善女人。先摧我慢。起恭敬心。
(Kinh: Những
ǵ là mười? Tức là điều thứ nhất, các
thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy trước hết
dẹp tan ngă mạn, dấy ḷng cung kính).
Tâm cung kính vẫn được đặt
thành điều đầu tiên. Tôi đă gặp một chuyện,
kư ức tới nay hăy c̣n
như mới. Có một pháp sư tới chỉ đạo
hành pháp Ban Châu, [nơi đó] vốn là một đạo
tràng gia đ́nh rất tốt. Mọi người kinh hành rất
tốt. Có người dâng nhà ra, có người cúng dường
thức ăn, mọi người dốc hết sức
để duy tŕ đạo tràng gia đ́nh hành pháp Ban Châu ấy.
Nhưng vị pháp sư ấy tới đó, lỗ mũi
hỉnh lên trời, vừa đến bèn nói: “A! Mấy
người mở cuộc họp đi”. Sau đó, [sư đưa ra yêu sách] thứ
nhất là, thứ hai là, thứ ba là… Người khác thấy
vị đó kiêu mạn như thế: “Quên đi, chúng ta chẳng
hành Ban Châu nữa! [Hành xử] kiểu đó là phá Ban Châu,
chúng ta không kinh hành nữa!”
Trước hết, chủ nhân căn nhà nói: “Các
ngươi muốn kinh hành Ban Châu th́
phải trả tiền thuê nhà, một tháng là bao nhiêu
đó”. Tiếp đó, vị Bồ Tát cúng dường thức
ăn nói: “Ối dào! Quư vị ai kinh hành Ban
Châu th́ người đó tự ḿnh bới cơm theo nhé!”
Sau đó, người hộ quan nói: “Ái chà! Tôi c̣n phải
làm việc, không chăm sóc quư vị nổi đâu!” OK! Đạo tràng ấy kết thúc luôn! Sự chỉ đạo
của vị pháp sư ấy cũng “viên măn!” Viên măn ǵ vậy? Kiêu mạn!
Sau đấy, có mấy vị cư sĩ hỏi tôi: “V́
sao vị pháp sư X… kiêu mạn cỡ đó?” Tôi đáp:
“Người chẳng tự biết đấy mà! Chắc
là mắt nh́n quá cao, rất dễ thấy người khác
có rất nhiều điều chẳng đúng pháp”. Lỗ
mũi hỉnh lên trời, vừa nói với người
ta, kết quả là một đạo tràng hành pháp rất tốt
đẹp, một đạo tràng đă có rất nhiều
người kinh hành phải giải tán như thế
đó!
Do
vậy, tṛ chuyện với người khác, chúng ta phải
chân thành, phải tôn trọng. Như tôi đề ra ba
điều cho Hằng Dương Am: Tôn trọng, bao dung,
trao đổi ư kiến. Nếu làm được ba điều
ấy, đạo tràng này sẽ lành mạnh, sẽ có ư nghĩa. Nếu không trao đổi ư kiến, chẳng
tôn trọng, mà cũng chẳng bao dung, sẽ chẳng thể
duy tŕ được. V́ sao? V́ mọi người chẳng
muốn biết nội dung tôn trọng, bao dung, chẳng muốn
biết cơ sở để giao tiếp. Đức Thế
Tôn là người biết ơn ắt báo. Sau khi thành đạo,
Ngài đứng làm bạn với cây Bồ Đề bảy
ngày, chăm chú nh́n cây Bồ Đề, sanh ḷng cảm kích,
nói: “Phàm là đệ tử của ta, phải nên lễ kính
cây này. V́ sao? Do cây này đă cho ta tăng thượng duyên bất
thoái thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”.
Những cây chung quanh đều là tăng thượng duyên
thành tựu đạo nghiệp cho chúng ta, chúng ta có nên lễ
kính chúng bảy ngày hay không?
Trong
đoạn văn tự này, đức Thế Tôn đă giảng
giải cho chúng ta biết “v́ người khác giải nói
tam-muội này như thế nào?” Hăy nên trọn đủ
pháp tắc như thế nào để giải thích cho
người khác? Nếu chúng ta chẳng muốn giải
thích pháp tam-muội này cho người khác, trong tâm chúng ta có
chướng ngại như thế nào? Trên thực tế,
khi giải nói, chúng ta có thể thoát khỏi chướng ngại
và sự hạn cuộc trong ư thức của chính ḿnh. Nếu
có thể nương theo pháp để giải thích, tự
nhiên sẽ tùy thuận giáo ngôn của Phật Đà, tự
lợi và lợi tha sẽ có thể như thật hiện
tiền.
Ngă
mạn sẽ che lấp sự thành thục trong tâm trí Bồ
Đề, v́ cái tâm cung kính là cái gốc của hết thảy
các pháp, mà cũng là căn bản của tâm trí Bồ Đề. Nếu chẳng có tâm cung kính, tâm Bồ
Đề sẽ chẳng có ǵ để thuần thục.
Nếu chẳng có tâm Bồ Đề, hết thảy các
pháp dùng ǵ để thành tựu? V́ thế, tâm cung kính là điều
quan trọng hàng đầu trong hành pháp, cầu pháp, và chứng
pháp của hết thảy các pháp. Từ sơ phát tâm
cho đến khi thành Phật, chúng ta đều chẳng
ĺa khỏi Bồ Đề tâm, mà tâm cung kính chính là tầng
biểu hiện ngoài cùng của Bồ Đề tâm. Nếu
chẳng có “lớp vỏ bọc”, hoặc “tầng biểu hiện” ấy, Bồ Đề tâm sẽ chẳng hoàn thiện,
chẳng chân thật. Trong tu tập pháp tắc của Hán
truyền Phật giáo, mọi người đối với
chuyện huân tập, huấn luyện, hoặc tự ḿnh
thể nghiệm cái tâm cung kính khá ít. Tâm cung kính hoàn toàn chẳng
phải là có biểu hiện cung kính theo kiểu ủy khuất.
Điều chủ yếu nhất là từ nội tâm dẫn
phát sự tôn trọng như thật, thủ hộ như
thật, truyền đạt như thật đối với
pháp tắc. Điều này mười phần trọng yếu.
Trong giáo dục “quân quân, thần thần, phụ phụ,
tử tử”[5]
của Trung Hoa, thật ra cũng là xoay quanh sự cung kính.
Tâm cung kính là nhu cầu căn bản của hết thảy
chúng sanh, bất luận là nghèo hay giàu, là phàm hay thánh, là xuất
gia hay tại gia, học Phật hay không học Phật, tôn
trọng lẫn nhau là một cơ chế giáo dục nền
tảng nhất! Nếu chúng ta nhận thức chẳng
đủ đối với điều này, sẽ rất
khó tương ứng với chín pháp kế tiếp!
(Kinh)
Nhị giả, tri ân bất vong, tâm thường niệm
báo.
(經)二者。知恩不忘。心常念報。
(Kinh: Hai là tri ân chẳng
quên, tâm thường nghĩ báo đáp).
Chúng
ta thường nói “thượng báo tứ trọng ân”, tức là ân
sư trưởng, ân cha mẹ, ân quốc độ, ân
chúng sanh, [ngoài ra, c̣n có] ân Tam Bảo. Người
xuất gia c̣n có ân của đàn-na thí chủ v.v… Các ân ấy
đích xác là trọn khắp mỗi thời khắc trong cuộc
sống của chúng ta, dưỡng dục sanh mạng của
chúng ta. Mỗi chỗ, mỗi thời khắc trong y
báo và chánh báo của chúng ta đều biểu hiện tràn
trề nội dung cụ thể của các ân ấy. Như
cơm áo của người xuất gia, cho đến tất
cả các vật dụng, đều là ân của thí chủ.
Ân sư trưởng, ân Phật, ân Tam Bảo được
biểu hiện qua cơ chế giáo dục, dưỡng dục
Pháp Thân huệ mạng của chúng ta. Đối với các
vị tại gia Bồ Tát, bốn trọng ân ấy
cũng tồn tại rơ ràng.
Hành
pháp Ban Châu, nếu tâm chẳng biết ơn, ắt sẽ
thường sanh đủ loại trạng thái tâm lư chẳng
tương ứng, v́ cái tâm cảm ân sẽ là một loại
tâm lư mười phần điều nhu, khiêm thuận. “Biết
ân, báo ân” là một chủ đề trọng yếu hàng
đầu trong Phật giáo, là một điều tất yếu
phải liên tục thủ hộ trong Phật pháp. Khá nhiều
người nói chính ḿnh học Phật mà chẳng hề có
động lực, tu hành chẳng có động lực. Cũng có không ít kẻ học Phật hoặc người
xuất gia sau dăm ba năm tinh thần
sa sút, chẳng tu tập và thủ hộ pháp tắc. V́ sao?
Do chẳng có tâm tri ân, báo ân. Nếu thật sự liễu
giải ân đức của chư Phật, Bồ Tát đối
với chúng ta, nguyện vọng mong chứng tam-muội của
chúng ta sẽ mười phần bức thiết, mười
phần chân thật duy tŕ.
(Kinh)
Tam giả, tâm vô ỷ trước, diệc vô tật đố.
(經)三者。心無倚著。亦無嫉妒。
(Kinh: Ba là tâm chẳng
dựa dẫm, mà cũng chẳng ghen tỵ).
Không
nắm níu cao thấp, chuyên hành một pháp, thâm nhập thực
tiễn, do đích thân chứng đắc Thập
Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền
tam-muội, cho nên nói “tâm vô ỷ trước” (tâm chẳng
dựa dẫm). Hiện thời, sự tu tập pháp này tồn
tại phổ biến một vấn đề to lớn,
tức là trạng thái tâm lư thay đổi thất thường,
chính là so b́ lẫn nhau. Người thế tục so b́ c̣n
có thể tha thứ được, chứ so b́ trong Phật
pháp sẽ thường là tự khen ḿnh, báng bổ người
khác, hoặc nẩy sanh tâm lư “đứng núi này trông
núi nọ”, hoặc là ghen
tỵ, hoặc là tâm thượng mạn, hoặc là tâm nắm
níu, đủ mọi loại tâm như thế đều sẽ
sanh khởi. Như thế th́ cơ hội tu tŕ thực tiễn,
như thật của chúng ta sẽ mất đi trong hiện
duyên của chính ḿnh.
(Kinh)
Tứ giả, trừ đoạn nghi hoặc, cập
chư chướng ngại.
(經)四者。除斷疑惑。及諸障礙。
(Kinh:
Bốn là trừ dứt nghi hoặc, và các chướng ngại).
Chướng
ngại của chúng ta thường được biểu
hiện qua ba phương diện: Phiền Năo Chướng,
Nghiệp Chướng, lại c̣n có Báo Chướng. Báo
Chướng theo thân cùng đến (tức là sanh ra đă
có). Nghiệp Chướng th́ trong quá tŕnh tồn tại sẽ
không ngừng tăng mạnh hơn, hoặc yếu bớt
đi. Phiền Năo Chướng cũng giống như thế.
Mọi người c̣n khá thường nói đến hai loại
chướng nữa là Sở Tri Chướng và Phiền
Năo Chướng. Bất luận nói là ba chướng hay hai
chướng th́ trong ấy, Phiền Năo Chướng khiến
cho tâm trí tịch tĩnh của chúng ta chẳng được
an lạc, Sở Tri
Chướng khiến cho tâm trí Vô Thượng Bồ Đề
của chúng ta chẳng thể tùy thuận thành tựu. Trong
cuộc đất Hán truyền Phật giáo sôi nổi, Sở Tri Chướng thường
lừng lẫy hơn Phiền Năo Chướng, v́ [người
học Phật] thường la cà khá nhiều sách vở và
pháp môn, hoặc nhân duyên rất phức tạp, chẳng
sàng lọc, chọn lựa, vàng thau lẫn lộn. Do vậy,
ngăn chướng khá nhiều duyên khởi thanh tịnh,
duyên khởi viên măn, và duyên khởi chân thật để tu
tập các pháp.
(Kinh)
Ngũ giả, thâm tín bất hoại, hệ niệm tư
duy.
(經)五者。深信不壞。繫念思惟。
(Kinh:
Năm là tin sâu chẳng hoại, hệ niệm tư duy).
Trong
Phật pháp, nói “bất hoại” chẳng phải là
Thường Kiến, mà là thủ hộ Tứ Tín, tức
tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, và tin Giới, do tin vào công
đức chân thật của những thứ ấy. Sự “chân thật” ấy chính là nói [ḷng tin ấy]
có thể như thật lợi ích rộng khắp thế
gian. Đối với công đức chân thật lợi
ích rộng khắp thế gian của Phật, Pháp, Tăng,
và Giới, bèn tin sâu, chẳng
nghi, thường chú tâm tư duy, như thật quan sát.
Đó chính là “thâm tín bất hoại”. Nếu chúng ta học
Phật, bất luận xuất gia hay tại gia mà rời
ĺa ḷng tin sâu xa ấy và sự quan sát đối với Tam
Bảo và giới pháp, sẽ đọa nhập trạng
thái tâm lư hoặc sanh mạng chẳng phải là Phật
giáo đồ! Trong thời đại này, chúng ta cũng phải
mười phần không ngừng luyện tập quán thông điều
thứ năm này.
(Kinh)
Lục giả, tinh tấn cần cầu, kinh hành vô quyện.
(經)六者。精進勤求。經行無倦。
(Kinh: Sáu là tinh tấn
siêng cầu, kinh hành chẳng mệt).
Tại
Hằng Dương Am, đích xác là hành pháp Ban Châu đă thực
hiện đến mức có tánh cách liên tục nhất định. Đối với nhận
thức về tri kiến của pháp tắc, mọi người
cũng liên tục không ngừng thâm nhập. Hiện thời,
thông qua học tập kinh điển, có thể khiến
cho chúng ta lựa chọn càng thêm cặn kẽ, chân thật.
Đối với chuyện học tập kinh điển,
không chỉ là người hiện thời chẳng coi trọng
cho lắm, kể từ khi giáo pháp của tổ sư
được truyền bá rộng răi tại Trung Hoa cho
đến nay, chuyện tu tập và thủ hộ kinh
văn là một nhược điểm khá lớn của
Hán truyền Phật giáo. Nếu nay chúng ta có thể
nương theo pháp bổn, nương theo giáo ngôn trực
tiếp của Phật Đà, chẳng tăng giảm mà tu
tập, sẽ đạt được đại
phương tiện.
Có
thể tin lời Phật, đó là đại phước
báo. Nhưng trong Hán truyền Phật giáo, sự nhận thức
của chúng ta đối với cơ chế giáo ngôn trong
kinh điển thường là bị chiết khấu! Chúng
ta tin lời người khác, tin lời thiện tri thức,
thế nhưng đối với chuyện trực tiếp
vận dụng lời Phật dạy đâm ra lại rất
ít. Như các giáo ngôn về Tổng Tŕ Đà La Ni và Như
Lai Tạng Tánh trong kinh Viên Giác, cơ bản là có tánh chất
khẩu quyết, tức là chẳng dùng lư giải. Nếu
cứ cưỡng ép lư giải, đâm ra chẳng thể sử dụng
được! V́ lẽ nào? Trong sự lư giải nơi
tâm trí của phàm phu, dùng tư duy có thể nghĩ bàn của
chúng ta để xử lư một phen, khiến cho nó biến
thành sự ô nhiễm trong tâm thức của chính ḿnh. Đó là một thứ ư thức biến h́nh đối với
lời Phật, là tướng chân thật dễ dàng thâm nhập
pháp giới, hoặc là lợi ích chân thật dễ dàng
đích thân chứng đắc pháp tắc. Điều này
thật sự đ̣i hỏi chúng ta phải không ngừng tu
tập.
Pháp
Ban Châu chẳng có kỹ xảo chi khác, chỉ là khiến
cho chúng ta từ trong cái vốn chẳng sanh diệt, vốn
chẳng đắm nhiễm, vốn chẳng đau khổ,
vốn chẳng thất niệm, vốn chẳng có phiền
năo hay không phiền năo, vốn chẳng có hôn trầm hay
không hôn trầm, mà tiêu trừ hôn trầm, tiêu trừ phiền
năo, tiêu trừ đau khổ, tiêu trừ đói lạnh. Sự
tiêu trừ ấy thật ra là quan sát nghiệp tướng
tự nhiên tiếp nối, phương pháp rất
đơn giản. Trong khẩu quyết ba chữ, phía sau “lập
một niệm, đoạn các tưởng”, thêm vào “vật
niệm” (đừng nghĩ), tức là chẳng thêm vào
sự hay biết, chẳng trầm trệ, chẳng thuận
theo, tùy thuận tương ứng với thệ nguyện,
quan sát rơ ràng, chẳng dính mắc, chẳng chấp, chẳng
sợ, như thế mà thôi! Thực hiện sẽ mười
phần đơn giản, thuận tiện. Nếu thật
sự tu tập, pháp tắc này sẽ chẳng khó!
Hôm
nay xuống tới Hằng Dương Am, mọi người
hỏi tôi có cần nghỉ ngơi chốc lát hay không, tôi
bèn nghỉ ngơi một chốc, nhưng cảm thấy
một khi con người quư trọng cái thân, đạo
nghiệp sẽ lui sụt to lớn! Bất kể mọi
người khuyên bảo, vẫn là chính ḿnh nhận biết:
Một khi cho rằng sắc thân của chính ḿnh cần nghỉ
ngơi, cần quư trọng, đă biến thành đạo
nghiệp sụt giảm. Xét theo pháp tắc, chắc là mỗi
người đều là như thế!
Hành
pháp một ngày một đêm ở Hằng Dương Am,
cho đến có một số người có
thể kinh hành bảy ngày tám đêm, ba ngày ba đêm, bất
luận kéo dài như thế nào, một ngày một đêm là
nét chung. Gần đây nhất, tôi vẫn hy vọng mọi
người trong một ngày một đêm hoặc một
ngày hai đêm có thể dựa theo nghi quỹ để hành
tŕ. V́ trước đó đă có thương tích chồng
chất, một pháp tắc mở ra, sẽ có người
xông pha chặt đứt gai góc, tức là những người
đi trước đă chịu gian khổ cỡ nào! Chắc
là hành giả sẽ biết [điều ấy]. Tôi cũng
đă tham dự hộ tŕ một số hành pháp, cũng biết
nội dung pháp tắc tu tập trong một số đạo
tràng, cũng gặp tại một
số chỗ các vị xuất gia hay cư sĩ tương ứng
hay chẳng tương ứng đối với pháp tắc
này. Chẳng tương ứng sẽ có nhiều khổ nạn,
hoặc nẩy sanh lo ngờ đối với pháp. Hễ
tương ứng, sẽ sanh khởi vui sướng, cho
đến thay đổi quan niệm về sanh mạng và
ư thức. Pháp ấy rốt cuộc có ư nghĩa. Bất luận
là do nhân duyên nào, một khi đă hành pháp ấy, sẽ kết
nhân duyên chẳng thoái chuyển đối với Phật
ph áp. Điều này chân thật
chẳng dối. Chỉ do trong đời hiện tại,
chúng ta v́ như pháp hay không mà biểu hiện thành lợi
ích thích đáng hay chẳng thích đáng, hiện tiền hay
không hiện tiền. Đó là một vấn
đề khá lớn. Nhưng xét theo nhân duyên
rộng khắp với hữu t́nh, tức là nh́n từ nhân
duyên niệm Phật, nói theo lợi ích rốt ráo, nói theo lợi
ích to lớn căn bản, thật sự là phước
đức chẳng thể nghĩ bàn. Cho nên pháp này chẳng
báng được, chẳng nghi được, mà cũng
chẳng thể tán thán được, nhưng hành
được, thủ hộ được. Chúng ta
như thật truyền bá nó, như thế th́ sẽ có thể
lợi ích rộng khắp hữu t́nh trong thế gian.
(Kinh)
Thất giả, thường hành khất thực, bất
thọ biệt thỉnh.
(經)七者。常行乞食。不受別請。
(Kinh: Bảy là
thường khất thực, chẳng nhận
thỉnh riêng).
Đây
là nói theo người xuất gia. Thật ra, vẫn là một pháp tắc để
khiến cho chúng ta trừ khử kiêu mạn. Trong tăng
pháp (pháp tắc của tăng chúng), thường
hành khất thực chính là sự thủ hộ và tu tập
trọng yếu nhất nhằm vứt bỏ kiêu mạn, vứt
bỏ cái Ta tôn quư nhất. Trong Hán truyền Phật giáo, ôm
bát đi khất thực một mực là một tăng
pháp vẫn chưa được đề xướng rộng
khắp. Tuy rằng từ xưa đến nay, cũng có
hành giả duy tŕ pháp này, nhưng phần nhiều chẳng
phải là sinh hoạt thường nhật, chỉ là dưới
một nhân duyên nào đó, mọi người đi khất
thực một phen, có tánh chất tượng trưng, có
tánh chất lễ nghi, hoặc có tánh chất cảnh tỉnh
cơi đời. Đối với chuyện này, chúng ta thủ
hộ, xét kỹ như thế nào? Thực tế là trong cuộc
sống hằng ngày, trừ khử cái tâm kiêu căng, ngạo
mạn, trừ khử cái tâm tham cầu yên vui, buông thả.
Như thế là có ư nghĩa; tại gia cư sĩ cũng
phải nên chú ư điểm này!
Đức
Thế Tôn đă giảng bộ kinh Anh Lạc và trong khá nhiều
kinh điển, Ngài đă đặc biệt nhắc tới
anh lạc mà Phật, Bồ Tát đeo. Đó là một
loại vật dụng để trang nghiêm ḥng biểu thị
pháp, ngụ ư phải thường sanh hổ thẹn. Đối
với những pháp mà ḿnh đă hành, hăy nghĩ là chưa
đủ. Do vậy, sẽ có cái tâm tăng thượng tiến
nhập. Đối với chúng sanh và Phật Đà, đều có tâm hổ thẹn, vậy th́ chính ḿnh sẽ
nỗ lực. Yêu cầu của hành pháp Ban Châu
cũng là như thế. Tại các nơi hành tŕ Ban Châu, do đối
với chuyện ẩm thực hoặc các phương diện
khác của người hành pháp mà chăm sóc quá lố,
cũng h́nh thành phản tác dụng nơi người hành
Ban Châu, tức là [hành nhân] sẽ chẳng tôn trọng sự
cúng dường của người khác. Có khi chúng ta do áo
cơm sung túc, hoàn cảnh an nhàn, sẽ đánh mất lợi
ích chân chánh do hành pháp, tức là đích thân chứng tam-muội.
Rất
nhiều người hỏi tôi: “V́ sao hiện thời thầy
bàn pháp môn Tịnh Độ chẳng tương ứng với
lời bàn luận trước kia?” Thật ra, chẳng phải
vậy. Chúng ta đích thân chứng tam-muội chẳng mâu
thuẫn với nguyện vọng của A Di Đà Phật.
Nếu chúng ta yên tâm thuận theo nguyện vọng của A
Di Đà Phật, lại hành Ban Châu, đó chẳng phải
là chuyện mâu thuẫn. Đích thân chứng tam-muội
cũng chẳng phải là chuyện mâu thuẫn. Trong hiện
duyên của chúng ta, hướng tới chuyện khiến
cho pháp tắc này trụ thế và được truyền
bá, cũng chẳng hề trái nghịch với đại
nguyện “lợi ích rộng hữu t́nh trong thế gian,
khiến cho Phật pháp trụ thế, an ủi hết thảy
hữu t́nh” của A Di Đà Phật. Có lúc hai loại
tâm trí biên kiến của chúng ta, tức là có, không, đúng,
sai v.v… Tri kiến như vậy tùy thời sanh khởi,
nhưng tri kiến chẳng đối đăi, tri kiến
tùy thuận vẫn cần phải không ngừng điều
chỉnh. Nếu có thể nương theo Trung Quán để
thấy, hoặc thấy bằng trí huệ, tuy thấy mà chẳng đắm nhiễm,
chẳng đối đăi, [dùng các cách thấy ấy] để
quan sát pháp, sẽ rất thuận tiện.
(Kinh)
Bát giả, thiểu dục tri túc, điều phục
chư căn.
(經)八者。少欲知足。調伏諸根。
(Kinh:
Tám là ít muốn, biết đủ, điều phục các
căn).
Đấy
là công đức thánh hạnh do Bồ Tát thực hành. Bất
luận là Thanh Văn Thừa, Đại Thừa, hay Kim
Cang Thừa, trong chỗ y chỉ cơ bản của tất
cả sự thành tựu, đều có tám pháp thiện xảo
như “thiểu dục tri túc, điều phục chư
căn” (ít muốn, biết đủ, điều phục
các căn) v.v… tức tám điều giác ngộ của bậc
đại nhân (bát đại nhân giác). Tám điều giác ngộ
của bậc đại nhân là pháp tắc ắt phải
hành, phải nên hành của hàng tại gia lẫn xuất gia
Bồ Tát. “Ít muốn, biết đủ” là hai pháp
đầu tiên trong tám pháp, tịch tĩnh là pháp thứ ba.
Sau đó có chánh niệm, chánh định, tinh tấn, chánh
huệ, chẳng hư luận. Bồ Tát nên hành tám pháp ấy.
Nay
chúng ta có thể quan sát một hiện tượng tu tập
pháp chẳng tương ứng. Chẳng hạn như
trong điện đường, trong công khóa, khi niệm Phật,
hoặc khi trao đổi Phật pháp, chúng ta đều rất
chánh quy, nhưng trong lúc b́nh thường, sẽ dễ dàng
buông lung, chẳng nhiếp các căn, ư chí tản mạn. Thậm
chí có khá nhiều tập khí phóng túng theo dục vọng, hoặc chẳng
biết đủ, phàm phu hữu t́nh hết sức dễ
dàng [phạm lỗi] như thế đó. Đấy
cũng là chướng ngại đối với chuyện
đích thân chứng Thập Phương Chư Phật Tất
Giai Hiện Tiền tam-muội. Trong hành pháp Ban Châu, có thể
đoạn trừ bằng cách rời ĺa nghiệp tập,
có thể chiếu kiến nghiệp tập của chính
ḿnh. Nhưng để hành Ban Châu trong cuộc sống hằng
ngày, cần phải có tâm trí mười phần mạnh mẽ
th́ mới có thể hành tŕ. Nói đến hành tŕ Tùy Ư tam-muội,
luôn luôn thâu tóm về tâm ư, chỉ đề khởi danh hiệu, chẳng
nhiễm, chẳng chấp, đối với “thiện, ác,
đúng, sai” trong hiện duyên, trọn chẳng vướng
mắc. Đối với phiền năo hay chẳng phiền
năo, nghiệp tập hay chẳng nghiệp tập đều chẳng màng
đến, cứ thẳng thừng tiến
bước. Như thế
th́ dễ thành tựu Tùy Ư tam-muội. Thật ra, Niệm Phật
tam-muội đă hàm nhiếp sự tu tŕ Tùy Ư tam-muội, v́
dễ hành, lúc nào cũng đều có thể niệm, lúc
nào cũng đều có thể tu, chẳng chọn lựa
địa điểm, chẳng chọn phương pháp.
V́ thế, Tŕ Danh Niệm Phật thật sự là một
phương pháp tu hành chẳng thể nghĩ bàn. Nội hàm công đức và lợi ích của pháp ấy
chỉ có Phật và Phật Thế Tôn có thể hiểu, có
thể biết. Cách tu Bát Đại Nhân Giác ở nơi
đây, hoặc cách tu mười pháp, khiến cho chúng
ta có thể chiếu kiến chính ḿnh, thức tỉnh chính
ḿnh, đều là pháp tắc có thể sử dụng trong
b́nh thời. Nếu chúng ta chỉ chuyên chú trong một khắc
hành Ban Châu, c̣n trong cuộc sống thường nhật bèn
chẳng quan tâm, mà mong thật sự đạt thành tựu
nơi pháp, quả thật sẽ rất khó!
(Kinh)
Cửu giả, chánh tín thậm thâm, Vô Sanh Pháp Nhẫn.
(經)九者。正信甚深。無生法忍。
(Kinh: Chín là chánh
tín rất sâu, Vô Sanh Pháp Nhẫn).
Vô
Sanh Pháp Nhẫn là pháp tắc do chư Phật đích thân chứng
đắc, mà cũng là biểu hiện chân thật của
Pháp Tánh, tức là hết thảy các pháp vốn bất sanh,
vốn bất diệt, chẳng đến, chẳng
đi. Các pháp tịch diệt, vốn vô sở đắc.
Trong cơ chế giáo ngôn của Vô Sanh Pháp Nhẫn, do các
phàm phu chẳng thể bén mảng, cho nên lập ra một Pháp Nhẫn tương tự
cho hàng Bồ Tát, tức là đạt được an lạc
trong Nhất Tướng Nhất Hạnh Tương Tự
Nhẫn. Như trong Đàn Kinh, Lục Tổ đại
sư tuyên nói phần nhiều là Nhất Tướng Nhất
Hạnh Bồ Tát Pháp Nhẫn, tức là Vô Sanh Nhẫn của
Bồ Tát, là tương tự nhẫn. Tức là đối
với hết thảy “thiện, ác, đúng, sai”, đều
chẳng nhiễm, chẳng chấp, chẳng vướng mắc.
Nếu ai có thể khéo thủ hộ như thế, sẽ
chẳng thấy lỗi thế gian, tiến thẳng vào nguồn
tâm thanh tịnh, tức là thành tựu Bồ Đề tâm.
Vô
Sanh Pháp Nhẫn thật sự chỉ có chư Phật
đích thân chứng. Do vậy, ở đây chỉ có tướng
đại công đức “tin sâu chư Phật”. Đấy là chỗ chúng ta hướng đến,
nương tựa, tiêu quy, là chỗ ta chẳng thể
nghĩ bàn. Đó là một phương tiện. Do trong Sở
Tri Chướng của chúng ta, phần nhiều do nghĩ
bàn mà chính ḿnh bị ngăn chướng, đối với
Tam Tạng mười hai bộ loại đều suy nghĩ
một lượt, đều trở thành chướng ngại,
chẳng thể chứng quả. Khá nhiều người
đi đường ṿng ở chỗ này, dùng ư thức của
chính ḿnh để tư duy kinh điển, chẳng phải
là dùng kinh điển để tùy văn nhập quán, trừ
bỏ cái gọi là “tâm suy luận” của chính ḿnh. Tư
duy chính là chỗ tồn tại của sức mạnh lấy
bỏ trong nghiệp tướng của chúng ta từ vô thỉ
đến nay, cũng có nghĩa là nếu chúng ta đă lư giải:
“Chuyện này có ư nghĩa bèn giữ lấy. Chuyện chẳng
có ư nghĩa, ta bèn bỏ đi, bèn bài xích”. Đối với
kinh điển, cũng lại lấy hay bỏ như thế.
Như vậy th́ đối với Vô Sanh Pháp Nhẫn, bèn rơi vào
Danh Tự Nhẫn, tức là vẫn đem tâm niệm của
chính ḿnh bỏ vào đó. Kết quả là h́nh thành cái gọi
là Sở Tri Chướng. Do vậy, trong hành pháp, như trạng
thái tâm lư của bậc thiện tri thức sau khi đắc
Ngũ Đ́nh Tâm so với những kẻ b́nh phàm chúng ta, sẽ
sai khác như trời với đất. V́ trước khi
chứng Ngũ Đ́nh Tâm, lời lẽ thuộc nhị biên
(đúng, sai, ta, người, có, không v.v…) ắt cần phải
nói, chẳng đúng th́ là sai, chẳng phải là thứ này
bèn là thứ kia, chẳng có thứ ǵ ta không tạo tác. Tâm
thanh tịnh, an lạc b́nh ḥa, buông xuống mọi lo lắng.
Đối với vấn đề này, chúng ta nhất
định phải khéo tư duy và quan sát, từ trong niệm
Phật, chứng đắc tương tự đ́nh tâm,
cũng đạt được phương tiện.
(Kinh)
Thập giả, thường niệm thùy sở hữu thị
tam-muội, tức ư bỉ sư, sanh chư Phật
tưởng, nhiên hậu tu tập như thị tam-muội.
(經)十者。常念誰所有是三昧。即於彼師生諸佛想。然後修習如是三昧。
(Kinh: Mười
là thường nghĩ ai sở hữu tam-muội này, liền
sẽ đối với vị thầy ấy, sanh ư niệm
tưởng như chư Phật. Sau đó, tu tập tam-muội
như thế).
Thường
suy nghĩ ai đă chứng đắc tam-muội này. Đức
Thế Tôn đă nêu ra một trường hợp: “Trong
đệ tử của ta, Ma Ha Ca Diếp đích thân chứng
tam-muội này”. Tôn giả Ca Diếp ở trong Hoa Thủ
Môn phía trên chúng ta, chúng ta triều bái lễ kính Ngài
được ngay, mười phần thuận tiện!
Quư vị nói: “Đó là tảng đá, ai biết trong đó
có ǵ”. Nếu nghi ngờ như thế, chúng ta vẫn nghi ngờ
Phật pháp, mà cũng có thể là nghi ngờ văn tự.
Thật ra, nói là tin hay nghi là do tâm trí nương
tựa, do tâm trí sanh ra. Từ chỗ nương vào và chỗ
xuất sanh, sẽ sanh ra phương tiện: Một đằng
là nghi, một đằng là chẳng nghi. Người chẳng
nghi mới chính là hành vi của bậc trí, c̣n nghi là chuyện
phàm phu sẽ làm. Cùng là một tâm niệm, mọi người
hăy khéo quan sát!
(Kinh)
Hiền Hộ! Thị vi bỉ thiện nam tử, thiện
nữ nhân cụ túc như thượng thập chủng
pháp dĩ, ưng đương tu tập như thị
tam-muội, diệc linh tha nhân thọ tŕ, độc tụng.
Như thị hành giả, đương đắc bát sự.
Hà đẳng vi bát?
(經)賢護。是爲彼善男子善女人具足如上十種法已。應當修習如是三昧。亦令他人受持讀誦。如是行者。當得八事。何等爲八。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Đấy là thiện nam tử, thiện nữ nhân trọn
đủ mười pháp như trên rồi, hăy nên tu tập
tam-muội như thế, và cũng khiến cho người
khác thọ tŕ, đọc tụng. Hành giả như thế, sẽ đạt được tám sự. Những
ǵ là tám?)
Mười
pháp trên đây khi chúng ta trao đổi với người
khác, phải nên tư duy, quan sát. Như thế th́ mới có
sự thiện xảo
trong trao đổi.
Tiếp đó, [đức Thế Tôn] dạy: “Như thị
hành giả, đương đắc bát sự” (hành giả
như thế sẽ đạt được tám sự),
tức là sẽ có tám sự hiển hiện. Các vị thiện
tri thức ơi! Trong lúc học tập th́ chúng ta học tập,
nhưng sau đó, vẫn hy vọng mọi người
thường tư duy, quan sát, thường nghĩ đến
pháp tắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai
Hiện Tiền tam-muội.
(Kinh)
Nhất giả, tất cánh thanh tịnh, ư chư cấm
giới, vô hủy phạm cố.
(經)一者。畢竟清淨。於諸禁戒無毀犯故。
(Kinh: Một là rốt
ráo thanh tịnh, chẳng hủy phạm các giới cấm).
Nói
theo bản chất, hết thảy chúng sanh chẳng tŕ giới,
mà cũng chẳng phạm giới, chẳng có giới
để có thể tŕ, chẳng có giới để có thể
phạm. V́ nhân duyên hiện tiền trong Tục Đế,
trong mỗi pháp bổn vị đều có pháp tắc,
đều có giới cấm. Tức là bản thân mỗi
người chúng ta đều có thân phận cụ thể
của chính ḿnh và những điều cần
phải thủ hộ. Như hàng xuất gia, tại gia, tỳ-kheo,
sa-di, tỳ-kheo-ni, sa-di-ni, [mỗi loại đều có các
giới phải vâng giữ như] cận trụ giới, tại
gia ngũ giới, thập giới, Bồ Tát giới
v.v… Trong pháp bổn vị đều có sự thủ hộ;
nhưng “tất cánh thanh tịnh” (rốt ráo thanh tịnh)
có cội nguồn là thanh tịnh. Trong pháp bổn vị, có
tŕ, có phạm. Nếu chẳng phạm giới cấm,
trong đời hiện tại, chúng ta sẽ đạt
được pháp tắc tương ứng với an lạc.
(Kinh)
Nhị giả, tri kiến thanh tịnh, trí huệ ḥa hợp,
bất dữ dư tương ứng cố.
(經)二者。知見清淨。智慧和合。不與餘相應故。
(Kinh:
Hai là tri kiến thanh tịnh, trí huệ ḥa hợp, do chẳng
tương ứng với những điều khác).
Vận
dụng tâm trí trí huệ để hành pháp, tức chẳng
nhiễm, chẳng đắm. Đương nhiên là như
vậy th́ cũng sẽ thành thục tri kiến thanh tịnh.
Trong sự t́m cầu cái duyên bên ngoài, chẳng hạn
như mọi người đàm luận khá nhiều “ai có
cảnh giới chi đó, nhận biết sắc thân chi
đó, nhận biết ư thức, nhận biết tướng
cảnh giới ngoại duyên” v.v… Các điều ấy chẳng
có mảy may liên quan đến tri kiến phát tâm thanh tịnh.
Có người cảm thấy khinh an, có người cảm
thấy thô nặng, có người cảm thấy buồn
ngủ, có người cảm nhận bệnh tật. Các điều ấy
thật sự chẳng liên quan đến tri kiến thanh tịnh.
Mục đích của chúng ta rơ ràng, tiến thẳng đến
mục đích, chẳng vướng mắc. Tri kiến ấy
phải nên mười phần rơ rệt. Đối
với những cái ở giữa đường như “cảm
nhận, cảnh giới, ngoại duyên”, chẳng vướng
bận v́ những thứ đó. Như thế là “bất
dữ dư tương ứng” (chẳng tương ứng
với các thứ khác), chính là phương tiện chứng
tam-muội này, mà cũng là một con đường tắt.
Chúng ta hành Ban Châu, bao gồm hành trong một ngày, một
đêm, cơ bản đều là bị chướng ngại tại chỗ này. Chẳng hạn
như đau đớn xảy đến, người ta
bắt đầu dồn sức chú ư vào nơi đau đớn,
tức là chẳng có một niệm thanh tịnh “chẳng
lập một niệm, đoạn các tưởng”!
Tri
kiến thanh tịnh chẳng nhiễm, chẳng chấp, rơ
ràng, rành rẽ. “Thấy Phật” là như người trong Tông Môn đă nói: “Tiền
niệm bất sanh, hậu niệm bất diệt”. Cái
thật sự được thủ hộ là “các tướng
vô tướng, vốn sẵn thấy Phật”. Quư vị
nói: “Như vậy th́ chẳng trở thành Thiền Tông
ư?” Quư vị có thể không quan tâm, chẳng vướng
vào ngôn thuyết ấy, sẽ là “vô sở đắc niệm
Phật” rất thuận tiện. Nhưng nếu như
chân đau sẽ bóp chân, đùi đau liền xoa đùi, mệt
bèn phải dựa, ngừng lại, điều ấy chẳng
hợp với trí huệ, sẽ chẳng thấy thấu
suốt “pháp chẳng có tự tánh”, chẳng thấy
thấu suốt pháp vốn chẳng sanh diệt, vốn chẳng
cảm nhận, mà cũng là vốn chẳng có đau khổ.
Đă “vốn chẳng có” th́ v́ sao hiện
thời lại hiện ra sự đau khổ? Đối
diện các huyễn nghiệp như thế, hăy chẳng nhiễm,
chẳng chấp, hành nhân sẽ an lạc. V́ nó là nghiệp
tướng nhân duyên từ Dị Thục Quả trong sát-na đó
thôi, chẳng hề có thực chất, sẽ chẳng [tồn
tại] lâu dài. Một khi chúng ta đối với mỗi chuyện ấy
mà vượt qua được, bản chất của nó sẽ tự nhiên hiển lộ, tức
là bản chất “pháp chẳng có tự tánh” sẽ tự
nhiên bộc lộ, chư Phật tự nhiên hiện tiền,
giống như nước hoặc gương soi vật.
Chuyện
này đích xác cần phải không ngừng tu tập th́ mới
có thể thuần thục, lần này sang lần khác, không
ngừng quan sát, không ngừng vận dụng. Chúng ta chỉ
học một số lư luận, mà chẳng thực hiện,
đúng là chẳng có ư nghĩa ǵ hết! Lư giải chỗ
này quả thật cũng chẳng có ư nghĩa. Hăy nên
nương theo chánh tri kiến, tri kiến thanh tịnh,
nương theo trí huệ để hành. Chỉ nói suông, chỉ nghe suông, th́ chỉ là
duyên khởi. Nếu chẳng hành tŕ, sẽ hết sức
khó có thể đích thân chứng đắc. V́ thế,
đối với pháp này, phải nên thường hành, hành
nhiều! Hiện thời, nếu có thể thật sự
kinh hành Ban Châu, thật sự là phước báo, kinh hành vào
lúc nào? Chắc là chúng ta trong mỗi thời khắc đều
chẳng đánh mất ư niệm, chẳng đắm nhiễm.
Đó là hành Ban Châu rất tốt đẹp, mọi người
hăy nên khích lệ lẫn nhau. Trước khi chúng ta chứng
được lợi ích từ pháp tắc, hăy nên sanh ḷng hổ
thẹn to lớn, v́ pháp chẳng tương ứng. Tuy mọi
người thường nghe nói và trao đổi pháp tắc
này, nhưng trước khi thật sự thành tựu lợi
ích, đều phải nên sanh ḷng hổ thẹn.
(Kinh)
Tam giả, trí huệ thanh tịnh, cánh bất phục thọ
chư hậu hữu cố.
(經)三者。智慧清淨。更不復受諸後有故。
(Kinh: Ba là trí huệ
thanh tịnh v́ chẳng c̣n nhận lấy các hậu hữu
nữa).
Trong
phần trước nói về tri kiến thanh tịnh; ở
đây, nói đến trí huệ thanh tịnh. Trí huệ
thanh tịnh được kiến lập trên “chẳng
tạo hậu hữu”. Chư vị Bồ Tát ai nấy
hăy nên xem kỹ, xét kỹ. Nếu ngày mai chẳng có bất
cứ nhân duyên thế tục nào để quư vị tiến
nhập, quư vị có sanh ḷng sợ hăi hay không? Nếu tất
cả hành vi của ngày mai, chỉ là lợi ích hữu t́nh
trong thế gian, [khi đó], “hậu hữu” chính là sự
tiếp nối không có hậu hữu, là sự tiếp nối
trí huệ, hoặc là sự tiếp nối từ bi. Chúng
ta thường là tiếp nối hậu hữu, cũng
chính là nghiệp tiếp nối. Nếu đối với
nghiệp tiếp nối mà nẩy sanh cái tâm “đoạn ngang, thoát ra theo chiều ngang” (hoành đoạn, hoành xuất), sẽ chẳng khó thủ
hộ trí huệ thanh tịnh.
Khi
chúng ta vẫn c̣n v́ bản thân tạo nghiệp, tính toán
được mất cho bản thân, đó chính là tướng
hậu hữu, là hạnh nhiễm ô, là chẳng có trí huệ.
Thiền sư Khuê Phong nói Bồ Đề tâm có ba loại
tướng. Trong ấy, bậc đại trí th́ trên
là chẳng có chư Phật để có thể thành, giữa
là chẳng có pháp để có thể tu, dưới là chẳng
có chúng sanh để có thể độ. Tướng
như thế là tướng “đại trí,
không, tịnh, vô ngại”. Nếu chúng ta vẫn
thiết lập một cái hậu hữu, nói ngày mai, ngày mốt
sẽ làm ǵ đó, sẽ chẳng có sức thủ hộ
tâm thanh tịnh và tâm trí huệ ngay trong hiện tiền. Nếu
đối với sự phát tâm, chúng ta vận dụng trí
huệ và từ bi để tiếp tục, đó chính là
thủ hộ Bồ Đề tâm. Tức là trong sanh mạng
của hậu hữu mà tiếp nối hai pháp bi và trí, sẽ
chẳng ĺa cái thân do cha mẹ sanh ra mà thành tựu Bồ
Đề. Tâm niệm vừa chuyển, cái thân tạo nghiệp
này sẽ trở thành thân bi trí, có thể lợi ích rộng
khắp thế gian. Điều này hết sức rơ ràng!
Trong
gia hạnh[6] của
Tạng truyền Phật giáo, tâm chán ĺa và triệt để
ĺa bỏ sự an lạc cho cái thân này, tức hết thảy
các tâm hưởng thụ và an lạc. Đó là hai gia hạnh
cơ bản nhất. Nếu không, thượng sư sẽ
tuyệt đối chẳng truyền pháp cho quư vị. Khi
tôi vừa mới xuất gia, có một vị Bồ Tát bảo
tôi: “Nếu muốn thân này thật sự có thành tựu
trong Phật pháp, thầy phải ĺa bỏ bất cứ
nghiệp tướng đắm nhiễm nơi thân này. Nếu
không, sẽ chẳng thể có thành tựu”. Khi ấy, tôi có
cảm giác kinh hăi. Đối với chuyện triệt
để ĺa bỏ sự thọ dụng vật chất
và tinh thần nơi thân này, vẫn c̣n có các nỗi băn
khoăn, mờ mịt. Trải qua một thời gian tu tập,
cho đến khi gặp được cơ chế giáo
ngôn của A Di Đà Phật, mới biết được
sự thiện xảo do đoạn ngang, thoát ra theo chiều
ngang, cũng như chọn lựa “chẳng tạo hậu
hữu” của bậc thánh như A La Hán đă chứng
quả là ở chỗ nào. Chính là ngay trong việc chẳng c̣n tiếp nối các nghiệp
thiện, ác, vô kư của chính ḿnh và tiếp nối hai pháp bi
trí, như pháp sư Đàm Loan đă dạy: “Dĩ Phật
nguyện vi sanh mạng, khởi khả tư nghị?”
Tức là dùng Phật nguyện để duy tŕ sanh mạng
th́ sẽ là chẳng thể nghĩ bàn; nhưng nếu chúng
ta nương theo nghiệp lực của chính ḿnh,
nương vào tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng
chánh đáng để tiếp nối sanh mạng th́ sẽ
có hậu hữu. Hăy nên quán kỹ điều này!
(Kinh)
Tứ giả, thí dữ thanh tịnh, bất nguyện nhất
thiết chư hành quả báo cố.
(經)四者。施與清淨。不願一切諸行果報故。
(Kinh: Bốn là bố
thí thành tựu, chẳng mong quả báo từ hết thảy
các việc đă làm).
Ở
đây là nói đối với hết thảy bố thí, đều chẳng mong được báo đền.
Trong quá tŕnh bố thí, chúng ta chẳng cầu được
báo đền là điều rất quan trọng. Cũng giống
như vậy, trong quá tŕnh hành pháp, nếu nóng ḷng mong đạt
được điều ǵ, do nôn nóng về hậu quả
và lợi ích, tự tâm cũng sẽ bị ngăn lấp.
Hễ có báo đền, cùng với tiếng tăm, lợi
dưỡng, th́ đều là giáo dục thế gian. [Giáo dục
thế gian là] “nếu đă làm ǵ, đều muốn
được báo đáp”. Nếu chẳng được
báo đáp, người ta sẽ sanh ḷng oán. Chẳng hạn
như nói: “Ta đă bỏ ra bao nhiêu công sức, sao mà chẳng
đạt được ǵ?” Đó là tâm lư thông thường
của phàm phu!
“Thí
dữ thanh tịnh” (bố thí thanh tịnh) ở đây
là chẳng cầu báo đáp. Chúng ta có thể xét kỹ tất
cả những ǵ chính ḿnh đă làm có phải là chẳng hề
cầu được báo đền hay không? Nếu triệt
để liễu thoát ngay trong mỗi hành vi, chẳng có hậu hữu, chẳng dính mắc,
chẳng có tâm mong được báo đền, chẳng
t́m cầu được báo đền, chẳng lập
bày vọng tưởng được báo đền, chúng
ta làm được như thế sẽ vô úy, chẳng truy
cầu lợi lộc, chẳng so đo được mất.
Cái tâm “được, mất” là khởi đầu căn bản của hết thảy
các pháp trong tâm phàm phu. Hết thảy hành vi của phàm phu
đều chẳng ĺa khỏi cái tâm ấy; nhưng nếu
hành vi của chúng ta thật sự chẳng c̣n so đo “được, mất”, sự bố
thí thanh tịnh sẽ tự nhiên hiện ra. Các phần kinh
văn này hoàn toàn có tánh cách đối trị tri kiến của
hữu t́nh phàm phu, và cũng hết sức cụ thể.
Trong cuộc sống b́nh thời, mọi người đều
có thể tự ḿnh xét kỹ.
Chẳng
mong được báo đền, thường là nói rất
đơn giản, nhưng trong phàm t́nh, chẳng cầu
được báo đền là tâm lư như thế nào? Hào
phóng ư? Vô tư ư? Vô ngă ư? Nếu đúng là một
vật mà quư vị thật sự ưa thích, tham ái, hay là
tôn trọng, quư vị có thể bỏ ra hay không? Ngày hôm qua,
có một vị pháp sư nói, khi ông ta sống ở Chung Nam
Sơn, gặp cường đạo đoạt y bát, khi
đó, ông ta phải nên đối diện vấn đề
như thế nào? Có nên đưa cho hắn hay không? Vấn
đề ấy ông ta đă hỏi rất nhiều người.
Có tỳ-kheo nói đưa hết cho kẻ cướp, có
người nói hăy chế phục hắn, cũng có người
nói “thà xả thân mạng, cũng chẳng
thể xả y bát”. Nói theo các kiểu
khác nhau! Chúng ta xem xét vấn đề ấy như thế
nào? Trong Tứ Phần
Luật Tạng có giải thích chuyện này. Người thật
sự chẳng cầu được báo đền, sẽ
hành xử rất vô úy. Vô tư chính là vô úy, khẳng định
chẳng có tâm trí ủy khuất hoặc chỉ trích. Kẻ
thường ủy khuất sẽ ủy khuất ở chỗ
báo đền; do chẳng được
báo đền tương ứng, sẽ cảm thấy ủy
khuất. Do đó, “thí dữ thanh tịnh” (bố thí thanh tịnh) là một pháp tắc to
lớn mà người xuất gia lẫn tại gia chúng ta
đều phải nên xét kỹ. Trong tám pháp và mười
pháp này, đức Thế Tôn đều nói về các nội
dung mười phần cụ thể trong cuộc sống
của chúng ta, cũng như khuyết điểm dễ phạm
nhất, hoặc là tri kiến dễ dàng cưỡng chấp
nhất. Ở đây, mỗi điều đều
được nêu rơ!
(Kinh)
Ngũ giả, đa văn thanh tịnh. Kư văn pháp
dĩ, tất cánh bất vong cố.
(經)五者。多聞清淨。既聞法已畢竟不忘故。
(Kinh:
Năm là đa văn thanh tịnh, do đă nghe pháp sẽ rốt
ráo chẳng quên).
Trong
tâm trí bất xả pháp, nghe nhiều các pháp chính là thiện
xảo. Nghe mà chẳng nhiễm, cơ duyên thành thục liền
có thể hành tŕ; đó là phương tiện. V́ thế, “đa
văn thanh tịnh” rất trọng yếu. Đa văn chẳng trở thành gánh nặng, chẳng trở
thành kiêu mạn. Hễ cơ duyên chín muồi, bèn có thể hành tŕ, hoặc
là bố thí cho người khác, rộng truyền trong thế
gian. Đó đều là thiện xảo. Có người sau
khi tiếp xúc pháp, tiếp xúc với nhiều người
khác, sẽ sanh ḷng kiêu mạn, tà kiến, tức là đa
văn chẳng thanh tịnh, v́ do đa văn của chính
ḿnh mà sanh tâm kiêu mạn, tâm tà kiến, tâm cao thấp.
Như thế th́ sẽ ô nhiễm pháp tắc
này.
(Kinh)
Lục giả, tinh tấn thanh tịnh, ư nhất thiết
thời, cầu Phật Bồ Đề cố.
(經)六者。精進清淨。於一切時求佛菩提故。
(Kinh: Sáu là
tinh tấn thanh tịnh, do trong hết thảy mọi lúc
đều cầu Phật Bồ Đề).
Các
pháp tắc đă thủ hộ đều phổ giai hồi
hướng (hồi hướng trọn khắp) A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, chỉ
nương theo tâm tối thượng thừa, chẳng v́
cầu chi khác, chẳng đọa vào thứ ǵ khác. Đó là “tinh tấn thanh tịnh”. Trong tâm trí tam thừa,
có Thanh Văn Bồ Đề tâm, Duyên Giác Bồ Đề
tâm, cho đến Phật Bồ Đề tâm. Ở đây, chỉ nói “cầu Phật Bồ Đề”, tức
là cầu tối thượng thừa tâm, v́ tinh tấn, hăy
đừng nên bỏ hoặc đánh mất cái tâm ấy.
(Kinh)
Thất giả, viễn ly thanh tịnh, ư nhất thiết
danh lợi, bất nhiễm trước cố.
(經)七者。遠離清淨。於一切名利不染著故。
(Kinh: Bảy là xa
ĺa thanh tịnh, do đối với hết thảy danh lợi,
chẳng đắm nhiễm).
Trong cơ chế
Phật pháp, chúng ta cũng thấy tiếng tăm, lợi
dưỡng. Nếu hơi có chánh hạnh, đối với
pháp tắc có đôi chút tương tự tu tập, danh lợi
sẽ theo ngay đến. Chẳng chú ư đôi chút, sẽ bị danh lợi làm hại, bị nhiễm
danh lợi, bị danh lợi nhuốm bẩn. Do đó, phải
nên “viễn ly thanh tịnh”.
(Kinh)
Bát giả, bất thoái thanh tịnh, đương đắc
A Nậu Đa La Tam Miệu Tan Bồ Đề, sơ bất
động dao cố.
(經)八者。不退清淨。當得阿耨多羅三藐三菩提。初不動搖故。
(Kinh:
Tám là bất thoái thanh tịnh, sẽ đắc A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề v́ thoạt đầu chẳng
dao động).
Thoạt
đầu chẳng thể dao động. Thật ra, A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm, tức Vô Thượng
Bồ Đề tâm, từ sơ phát tâm măi cho đến
khi thành tựu đều là cùng một tâm trí, cho nên nói “phát
tâm, liền thành Phật”. Đă là “phát
tâm liền thành Phật”, cho nên cần phải
mười phần hiểu rơ sự phát tâm này. Đó là “bất
thoái thanh tịnh”.
(Kinh)
Hiền Hộ! Thị vi bỉ thiện nam tử, thiện
nữ nhân sở hoạch bát pháp dă.
(經)賢護。是爲彼善男子善女人所獲八法也。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Đó là tám pháp mà thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy
đạt được).
“Hoạch”
là sẽ thủ hộ, sẽ tu tập, sẽ thành tựu.
Đúng là các kinh điển ấy phải thường nên
đọc; mọi người ở chùa Phóng Quang đă đọc
suốt một tháng. Sau đó, chúng tôi lại nhắc nhở
từng điều, không ǵ chẳng nhằm khiến cho
kinh điển Ban Châu có thể lưu truyền rộng răi
trong cơi đời, khiến cho mọi người có thể
nương theo kinh mà hành, nương theo pháp mà hành, đúng
pháp mà hành, đúng pháp mà thành tựu. Như thế th́ sẽ
chẳng đi đường ṿng, tránh khỏi khổ sở
vô ích mà tiến nhập Bồ Đề.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa,
dĩ thuyết kệ viết: - Trí nhân bất khởi hữu
tướng tưởng, diệc đương trừ mạn
cập ngă tâm, ư thâm nhẫn trung vô thủ trước,
bỉ năng tốc tuyên thử tam-muội. Không trung bổn
cầu diệt tránh căn, Niết Bàn vô tướng đại
tịch định, ư Phật vô hiềm, bất báng
pháp, bỉ năng tốc tuyên thử tam-muội.
(經)爾時世尊。爲重明此義。以說偈曰。智人不起有相想。亦當除慢及我心。於深忍中無取著。彼能速宣此三昧。空中本求滅諍根。涅槃無相大寂定。於佛無嫌不謗法。彼能速宣此三昧。 (Kinh: Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn v́ muốn nói rơ lại nghĩa này, bèn
nói kệ rằng: - Người trí chẳng dấy hữu
tướng tưởng, cũng sẽ trừ mạn, tâm chấp ngă. Đối
với nhẫn sâu chẳng chấp giữ, người ấy
mau tuyên tam-muội này. Trong Không, vốn cầu
gốc diệt tránh, Niết Bàn vô tướng đại tịch
định, chẳng hiềm trách Phật, chẳng báng pháp. Người ấy
mau tuyên tam-muội này).
Nói
rơ tâm trí phải nên thủ hộ trong khi tuyên nói tam-muội này.
(Kinh)
Trí giả bất hưng tật đố ư, niệm Phật
tri ân cập Pháp, Tăng. Sở sanh hàng phục vô thiên di,
như thị tịch tĩnh tŕ tam-muội. Vô hữu tật
đố, diệc vô nghi, tư duy thâm pháp chân thật tín.
Tinh tấn bất giải, ly chư dục. Bỉ năng
như thị đắc tam-muội.
(經)智者不興嫉妒意。念佛知恩及法僧。所生降伏無遷移。如是寂靜持三昧。無有嫉妒亦無疑。思惟深法真實信。精進不懈離諸欲。彼能如是得三昧。
(Kinh:
Người trí chẳng dấy
ư ghen tỵ, nghĩ tưởng biết ơn Phật,
Pháp, Tăng, sở sanh hàng phục chẳng dời chuyển,
tịch tĩnh tŕ tam-muội như thế. Chẳng có ghen
tỵ cũng chẳng nghi, tư duy pháp sâu, tin chân thật.
Tinh tấn chẳng lười, ĺa các dục. Ai được
như thế, đắc tam-muội).
Trong
kệ tụng có “tuyên tam-muội”, “tŕ tam-muội”, và “đắc tam-muội”. Thứ tự thuyết
pháp ấy chẳng ngoài từ cầu pháp, đọc
tụng, truyền bá, giải nói,
đích thân chứng lợi ích của pháp tắc, mà lập
ra các thứ pháp tắc để ấn khế tự tâm của
chúng ta. Trong ấy, có rất
nhiều toa thuốc để
trị các loại bệnh tật của chúng ta, nhưng
đối với ghen tỵ và kiêu mạn, kinh này hết
sức chú trọng nhắc nhở. Ngoài ra, cũng đặc
biệt nhắc tới tinh tấn, nhưng trong sự
thủ hộ vô thượng thừa th́ [tinh tấn] chính là tinh tấn
thiện xảo.
(Kinh)
Thường hành tỳ-kheo khất thực pháp, xả
chư biệt thỉnh, huống cầu tài! Đoạn trừ
cấu nhiễm, chứng Chân Như. Bỉ năng
như thị đắc tam-muội.
(經)常行比丘乞食法。舍諸別請況求財。斷除垢染證真如。彼能如是得三昧。
(Kinh:
Thường hành pháp khất thực của tăng, bỏ
các thỉnh riêng, huống cầu tài! Đoạn trừ cấu
nhiễm, chứng Chân Như. Người được
như thế, đắc tam-muội).
“Khất
thực pháp” trên thực tế là pháp ĺa bỏ các kiêu mạn,
cũng là pháp tắc ĺa bỏ tham cầu an nhàn. “Xả chư biệt thỉnh,
huống cầu tài” (bỏ các lời thỉnh nhận
cúng dường riêng, huống hồ cầu tài vật):
Người xuất gia hoặc người hành pháp nếu
tham lam các món tài vật, lỗi
họa vô cùng, sẽ khiến cho người ấy mang gánh
nặng trầm trọng, tŕ hoăn cơ hội thành đạo
của chính ḿnh.
(Kinh)
Thùy năng hữu thử tam-ma-đề, ngă ưng thính thọ, quảng lưu bố, ư giáo
sư sở khởi Phật tưởng. Bỉ năng
như thị, đắc tam-muội.
(經)誰能有此三摩提。我應聽受廣流佈。於教師所起佛想。彼能如是得三昧。
(Kinh: Hễ ai có
tam-ma-đề này, ta nên nghe nhận, lưu truyền rộng,
đối với người dạy tưởng như
Phật, người được như thế, đắc
tam-muội).
Tam-ma-đề
là thành tựu và an trụ tam-muội. Người hành pháp
trong hiện thời đông đảo như thế, nếu
có người thật sự chứng pháp tắc
tam-ma-đề an lạc, hăy nên thỉnh
vị thiện tri thức như vậy lợi ích rộng
khắp thế gian.
“Ư
giáo sư sở, khởi Phật tưởng” (đối với
thầy dạy tưởng như Phật): Hiện thời,
trong Hán truyền Phật
giáo, ḷng tôn trọng đối với
thầy, đối với sự dạy bảo của thầy
vẫn khá yếu ớt, c̣n Tạng truyền Phật giáo th́
chuyện xem xét, nhận biết thầy là một vấn
đề mười phần trọng yếu, cũng có thể
nói là một vấn đề trọng yếu hàng đầu.
V́ nếu chẳng tưởng thầy như Phật, chuyện
đạt được pháp ích và lưu thông [Phật pháp] sẽ bị trở
ngại. Trên thực tế, sự nghĩ tưởng ấy
chẳng phải nghĩ tưởng sai lầm, chúng ta tuyên
nói phải tương ứng khế hợp pháp thể th́ mới có thể đạt
được sự gia tŕ thật sự trong Phật
pháp.
(Kinh)
Nhược nhân tu hành thử tam-muội, đương cụ
công đức siêu thế gian.
(經)若人修行此三昧。當具功德超世間。
(Kinh: Nếu ai tu
hành tam-muội này, sẽ có công đức siêu thế gian).
“Đương
cụ công đức siêu thế gian” (sẽ có công
đức vượt xa thế gian): Giáo ngôn xuất
thế của đức Thế Tôn, tuyệt đối chẳng
phải chỉ đơn giản là tăng ích thế gian, mà v́ khiến
cho hữu t́nh trong thế gian thật sự xét kỹ thế
gian, vượt khỏi pháp tắc thế gian. Nếu chẳng
vậy, chúng ta sẽ coi Phật pháp thành giáo pháp nhân gian,
đồng hóa Phật pháp, tức là thế tục hóa Phật
pháp. Đây cũng là một vấn đề đặc biệt
to lớn trong hiện thực.
(Kinh)
Bỉ ưng tốc thọ bát chủng pháp, xưng chư
Phật tâm tịnh vô cấu.
(經)彼應速受八種法。稱諸佛心淨無垢。
(Kinh: Hăy nên mau thọ
tám loại pháp, khen tâm chư Phật sạch chẳng
nhơ).
Chúng
ta nếu có thể tùy thuận chư Phật, như thế
th́ sẽ tự nhiên siêu việt các cấu chướng
nghiệp duyên.
(Kinh)
Tŕ giới thanh tịnh vô hữu biên, tam-muội Bồ
Đề cập thắng kiến, bỉ năng thanh tịnh
chư hữu trung, trụ dĩ tối diệu công đức
tụ.
(經)持戒清淨無有邊。三昧菩提及勝見。彼能清淨諸有中。住以最妙功德聚。
(Kinh: Tŕ giới
thanh tịnh chẳng ngằn mé, tam-muội Bồ Đề
và thắng kiến, ai hay thanh tịnh trong các hữu, trụ
khối công đức mầu nhiệm nhất).
Hai
câu kệ này đặc biệt ngắn gọn nêu ra: “Thanh
tịnh chư hữu trung” (thanh tịnh trong các hữu).
Nếu chúng ta vô nhiễm trong các hữu, tức là thanh tịnh.
Nếu có nhiễm, tức là đắm nhiễm trong các Hữu.
Nếu đắm nhiễm trong các Hữu, hết thảy
các thứ sanh ra đều là nghiệp tướng liên tục.
Nếu chẳng đắm, chẳng nhiễm trong các Hữu,
thanh tịnh an lập, tự nhiên sẽ là công đức
thù thắng, nhiệm mầu, tức cái gọi là “tối
diệu công đức tụ” (khối công đức
nhiệm mầu nhất). V́ thế, trong nghiệp tướng
hiện duyên này, chúng ta nương theo
hai pháp nhiễm hoặc chẳng nhiễm, đạt
được thanh tịnh hay không thanh tịnh, diệu dụng
và nghiệp tiếp nối.
(Kinh)
Trí huệ thanh tịnh bất thọ hữu, bố thí ly cấu
nhập vô vi.
(經)智慧清淨不受有。佈施離垢入無爲。
(Kinh: Trí huệ
thanh tịnh, chẳng thọ hữu. Bố thí ĺa cấu,
nhập vô vi).
Kệ
tụng chủ yếu là trùng tuyên nội dung của phần
Trường Hàng trước đó, cho nên chúng ta đọc
sẽ thấy có ư trùng lặp. Thật ra, chẳng phải
vậy. Giáo ngôn trong Phật pháp dẫu một câu nói mười
lần, vẫn là dần dần thâm nhập nhiều
hơn, vi tế hơn, thuần thục hơn, đừng
nghĩ là trùng lặp!
(Kinh)
Đắc bỉ đa văn vị tằng vong, kỳ vi
trí nhân công đức tạng.
(經)得彼多聞未曾忘。其爲智人功德藏。
(Kinh:
Đạt được đa văn chưa từng
quên, là tạng công đức của bậc trí).
Trong
Hậu Đắc Trí, nếu chẳng có pháp đa văn,
chúng ta rất khó thành tựu cái gọi là Bất Không Trí. V́
trong pháp Tu Đức, tức là pháp tắc lợi lạc
thế gian, trong những hành vi hiện tiền, vẫn cần
phải được truyền dạy, huân tập, cần
phải lắng nghe.
(Kinh)
Dũng mănh tinh tấn đắc Bồ Đề, ư thế
danh lợi bất tham nhiễm, nhược chư trí giả
thiện hành thử, bỉ nhập vô thượng thâm diệu
Thiền.
(經)勇猛精進得菩提。於世名利不貪染。若諸智者善行此。彼入無上深妙禪。
(Kinh: Dũng mănh
tinh tấn đắc Bồ Đề, chẳng tham đắm
danh lợi thế gian, nếu bậc trí khéo hành pháp này, sẽ
nhập vô thượng thâm diệu Thiền).
Vẫn
là không ngừng nêu ra chẳng nhiễm, chẳng chấp,
đoạn trừ Hậu Hữu, duy tŕ bi trí, tiếp tục
truyền pháp, tiếp tục hành pháp, nhưng chẳng trụ
trong nghiệp tướng liên tục. Chúng ta thấy trọng
điểm được tuyên nói trong mười pháp và
tám pháp ấy chính là trừ kiêu mạn, ĺa ghen tỵ, chẳng
cầu được báo đền, chẳng đắm
nhiễm trong các Hữu, thủ hộ Vô Thượng Bồ
Đề, nhưng chẳng tham thế gian, đă lựa chọn
Vô Thượng Bồ Đề, đừng tham
pháp khác, chẳng hành pháp khác v.v…
Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng kư
Phần
11 hết
[1] Trung Điện vốn là một
huyện thuộc tỉnh Vân Nam, gọi theo tiếng Tây Tạng là Gyaitang Zong, nằm
ngay ranh giới của Tứ Xuyên, Vân Nam, và Tây Tạng. Ở đây, có một thị trấn
nổi danh là Shangrila (người Tây Tạng gọi là
Gyalthang) thuộc Địch Khánh Tạng Tộc Tự Trị
Khu. Thị trấn này vốn cũng gọi là Trung Điện,
nhưng từ ngày 16 tháng 12 năm 2014, đă chính thức
đổi tên thành Shangrila, dựa theo tên miền đất huyễn tưởng trong tác phẩm
Lost Horizon của James Hilton. Hilton mô tả vùng đất ấy
nằm ở phía Tây rặng Côn Luân, được coi
như thiên đường hạ giới, dân ở đó sống
bất tử. Để hấp dẫn khách du lịch, do
Trung Điện phong cảnh đẹp đẽ, lại
gần Côn Luân, nhà cầm quyền Hoa Lục bèn đổi
tên Trung Điện thành Shangrila. Một số nhà nghiên cứu
cho rằng Shangrila được gợi hứng từ
vương quốc bí mật Shambala dành cho những người
chứng ngộ, như mật điển Kalachakra (Thời
Luân) của Mật giáo Tây Tạng
đă đề cập.
Đại Lư (sắc dân Bạch gọi thành phố này
là Guiphet) là thành phố cấp huyện của tỉnh Vân
Nam, là thủ phủ của Đại Lư Bạch Tộc Tự
Trị Châu. Đây là thành phố được h́nh thành sớm
nhất ở tỉnh Vân Nam. Khu vực Đại Lư đă được
kiến thiết từ thời Hán Vũ Đế trong nỗ
lực kiểm soát Tây Vực mà không phải đi vào đất
Thục (Tứ Xuyên). Gia Cát Lượng đă lập ra Vân
Nam Quận tại vùng này. Sắc dân Bạch kiến thiết
khá nhiều thành ấp quanh khu vực, h́nh thành sáu bộ lạc
lớn gọi là Lục Chiếu. Thủ lănh Mông Xá chiếu
là B́ La Các đă thôn tính năm chiếu kia, thành lập nước
Nam Chiếu. Năm 902, quyền thần Trịnh Măi Tự
của Nam Chiếu đoạt quyền, xóa sổ Nam Chiếu,
lập ra Đại Trường Ḥa Quốc. Nội chiến
liên miên, cuối cùng Đoàn Tư B́nh chiến thắng, chiếm
vùng này, lập ra Đại Lư Quốc, bắt đầu
quá tŕnh Hán hóa vùng Vân Nam. Đến thời Nguyên, vùng này trở
thành Đại Lư Lộ rồi biến thành Đại Lư
Phủ dưới thời Minh, rồi trở thành huyện
Đại Lư dưới thời Dân Quốc.
[2] Hộc là tên một loài chim, thuộc
họ Thiên Nga, bay rất cao, cổ dài, sắc trắng muốt.
[3] Theo Tăng Nhất A Hàm Kinh, Kim Cang
Tế chính là nền tảng của đại địa.
Một thế giới được h́nh thành trong hư
không (gọi là hư không luân), trên hư không luân có phong luân. Trên phong luân có thủy
luân, trên thủy luân có địa luân. Nền
tảng của địa luân được gọi là Kim
Cang Tế.
[4] Tứ Phần Luật (Dharmagupta-Vinaya) là Luật Tạng theo Pháp Tạng
Bộ, c̣n gọi là Đàm Vô Đức Luật, hay Tứ Phần Luật Tạng. Bộ
luật này gồm sáu mươi quyển, do ngài Ưu Ba Quật
Đa truyền thừa. Đàm Vô Đức là cách phiên âm của
Dharmagupta (Pháp Tạng Bộ). Gọi là Tứ Phần Luật
v́ gồm có bốn phần: 21 quyển đầu là giới
tỳ-kheo, 16 quyển kế tiếp là giới tỳ-kheo-ni,
phần thứ ba gồm các kiền độ (khandhaka) thuộc về pháp tắc an cư, tự tứ
v.v… gồm 12 quyển, phần cuối cùng là các quy tắc
về pḥng xá, cũng
như các điều lặt
vặt khác. Theo cách lư giải truyền thống, bộ luật
này được kết tập khi tôn giả Ưu Ba Ly trùng tụng giới
luật tám mươi lần, giao cho Ca Diếp, A Nan, rồi
truyền cho các vị Thương Na Ḥa Tu, Mạt Điền
Địa, Ưu Ba Quật Đa v.v… Do thoạt đầu
chỉ là ghi nhớ truyền khẩu, bộ luật này về sau được ghi thành văn bản
bởi bộ phái Pháp Tạng Bộ, cho nên được gọi là Đàm
Vô Đức Luật. Bộ luật này được dịch
sang tiếng Hán bởi hai vị Phật Đà Da Xá và Trúc Phật
Niệm. Tứ Phần Luật được coi là bộ
luật trọng yếu để truyền tŕ giới luật
cho Phật giáo Bắc Tông. Đa số các trường phái Luật Tông của Trung Hoa hoàn toàn nghiên cứu Tứ
Phần Luật, hoặc dùng Tứ Phần Luật làm
cơ sở chính yếu để biện định giới
pháp. Các vị luật
sư như Huệ Quang, Đạo Tuyên (tổ sư sáng lập
Nam Sơn Luật Tông) đều phán định luật
này thuộc về Đại Thừa. Tác phẩm Tứ Phần Luật San Phiền
Bổ Khuyết Hành Sự Sao của ngài Đạo Tuyên được coi là sách gối
đầu giường cho những ai nghiên cứu Luật
Tông theo truyền thống
Phật giáo Bắc Tông.
[5] Đây là một câu nói nổi tiếng
trích từ thiên Nhan Uyên trong sách Luận Ngữ: “Tề
Cảnh Công vấn chánh ư Khổng Tử, Khổng Tử
đối viết: Quân quân, thần thần, phụ phụ,
tử tử. Công viết: Thiện tai! Tín như quân bất
quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử
bất tử, tuy hữu túc, ngô đắc nhi thực chi?”
(Tề Cảnh Công hỏi Khổng Tử về đường
lối cai trị. Khổng Tử đáp: “Vua ra vua, bầy
tôi ra bầy tôi, cha ra cha, con ra con” Cảnh Công
nói: “Lành thay! Nếu vua chẳng ra vua, bầy tôi chẳng ra
bầy tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, dẫu có nhiều
lương thực, cũng chẳng ăn được!”)
[6]
Gia Hạnh c̣n gọi là Phương Tiện, hoặc Tứ
Du Già. Gia Hạnh có nghĩa là “gia công dụng hạnh”,
tức là các hạnh tương ứng nhằm phụ trợ
cho chánh hạnh thành tựu, là các hạnh
cần phải thành tựu để làm tiền đề
cho chánh hạnh. Thông thường, Gia Hạnh có bốn món
là Noăn, Đảnh, Nhẫn, Thế Đệ Nhất, gọi
gộp chung là Tứ Gia Hạnh. Nếu kể thêm Tư
Lương, Ngũ Đ́nh Tâm Quán và Niệm Xứ th́
thành Thất Gia Hạnh. Sau Thất Gia Hạnh là các địa
vị Kiến Đạo, Tu Đạo, và Vô Học Đạo.
Trong Tạng Truyền Phật Giáo, Gia Hạnh phải hiểu
là các pháp tu chuẩn bị (thường gọi là Ngöndro,
tức “tiền phương tiện” hoặc “tu tŕ cơ bản”)
trước khi được truyền thụ quán đảnh
tu học một mật pháp (khác với các pháp quán đảnh
thường tổ chức tập thể, mang tính chất
kết duyên như nghi lễ quán đảnh (empowerment
ritual) Kalachadra do Đại Lai Lạt Ma chủ tŕ, hoặc
các nghi lễ quán đảnh do các đoàn lạt-ma ghé thăm
các thành phố tổ chức). Mục đích của gia hạnh
là cảm nhận “thân người khó được,
quán cái chết là vô thường, nhân quả nghiệp lực,
lỗi họa do luân hồi” nhằm thanh tịnh thân
tâm, tiêu trừ nghiệp chướng, nhằm tương ứng
với Bổn Tôn. Tùy theo tông phái, Gia Hạnh có nhiều loại
khác nhau, nhưng chủ yếu là quy y lễ
bái, cúng dường Mạn Đà La, tụng Bách Tự Chú
Chân Ngôn của Kim Cang Tát Đỏa, tu Guruyoga… Thông thường,
hành giả thật sự bế quan hành tŕ Ngöndro
th́ phải cần mất từ ba
năm cho đến năm năm mới hoàn tất yêu cầu.