Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh giảng kư

Phần 11

大方等大集賢護經講記

慈法法師

Chủ giảng: Pháp sư Từ Pháp

Địa điểm: Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam

Thời gian: Từ ngày 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Chung bất như chư ngoại đạo, nhược ngoại đạo đệ tử thủ trước Phú-già-la, cập dĩ Ngă Kiến .

          ()賢護。終不如諸外道若外道弟子。取著富伽羅。及以我見也。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Trọn chẳng như các ngoại đạo, hoặc các đệ tử ngoại đạo chấp giữ Phú-già-la cùng với Ngă Kiến).

 

          Hiện thời trong Phật pháp, có nhiều vị xuất gia hay tại gia tuy tu tŕ, nhưng tà kiến lừng lẫy! V́ sao vậy? Tham cầu, so đo cái thân, muốn do sự nhận biết [từ các giác quan] mà chứng đắc Bồ Đề, nhưng chẳng biết, chẳng thấy sự lựa chọn “nhất tâm thanh tịnh, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng đối đăi”, chẳng dám lựa chọn. Chẳng dụng công nơi pháp tánh vô tạo tác và cái tâm chân thật, cứ từ trong cái tâm hư vọng mà lấy, bỏ nhiều lượt. Kết quả là rơi vào tri kiến của ngoại đạo.

          Nếu là đệ tử Phật, chuyện liên quan đến “khổ, không, vô thường, vô ngă, Niết Bàn tịch tĩnh, pháp chẳng có tự tánh”, quả thật là pháp tắc trọng yếu hàng đầu, là sự nhận biết để lựa chọn. Nếu chẳng đặt vững tri kiến ấy, sẽ chẳng phải là đệ tử Phật! Dẫu hành tŕ Phật pháp, niệm Phật hiệu, tụng kinh Phật, lễ tượng Phật, nhưng chủng tử trong tâm trí là chủng tử ngoại đạo, chẳng tương ứng! V́ thế, trong “thuyết pháp ấn” của đức Thế Tôn, Ngài đă nhiều lượt dùng ấn khế để in vào tâm chúng sanh, khiến cho chúng ta thoát ĺa tri kiến và chủng tánh ngoại đạo. Nếu chẳng phải như thế, dẫu chúng ta suốt kiếp đọc kinh Phật, vẫn trọn chẳng tương ứng. Kết quả là thường bị cảnh giới xoay chuyển, chẳng biết chuyển cảnh, v́ chúng ta chẳng có pháp tắc để tu tập kinh giáo, chẳng dựa theo kinh giáo để nhận biết tự tâm, ấn chứng, hứa khả tự tâm, coi vọng chấp trong tự tâm là kinh điển [để vâng theo]. Như thế th́ dẫu suốt năm trọn tháng tu tập, niệm tụng, vẫn chỉ là nhân duyên xa vời vợi trong vị lai, chứ lợi ích trong hiện tiền nói chung sẽ chẳng mong đạt được!

          Tri kiến của các ngoại đạo và tri kiến của Phật pháp đích xác là có sai khác như vậy đó! Do vậy, đức Thế Tôn nói ra ba pháp ấn, hay bốn pháp ấn, nói Thật Tướng ấn, chúng ta nhất định phải từ trong các ấn khế ấy mà thật sự ấn khế xem chính ḿnh có phải là đệ tử Phật hay không? Tức là khởi tâm động niệm của chúng ta có phải là vô thường, vô ngă hay không? Có phải là Niết Bàn tịch tĩnh hay không? Có phải là lựa chọn “pháp chẳng có tự tánh” hay không? Nếu chẳng lựa chọn [như thế], chúng ta sẽ cho rằng có thiện, có ác, có đúng, có sai, có yêu, có ghét, có phàm, có thánh, như thế th́ chính là cái tâm phàm phu trong Dục Giới, mà cũng là tâm ngoại đạo. Nhưng trong tăng chúng, trong giới cư sĩ hiện tiền, cái tâm ngoại đạo lại càng phổ biến! Tuy nói như vậy khá nặng nề, nhưng chúng ta có thể xét kỹ chính ḿnh, đối với khởi tâm động niệm của chính ḿnh trong mỗi sát-na, có phù hợp pháp ấn của Phật Đà hay không? Có phải là thanh tịnh vô nhiễm, chẳng vướng, chẳng mắc, chẳng đối đăi hay không? Nếu là phải, th́ là đệ tử Phật. Nếu không, sẽ là tri kiến ngoại đạo. Hễ có cưỡng chấp th́ chính là chủng tánh ngoại đạo. Dẫu vào trong biển tri kiến của Phật pháp, vẫn giống như dùng cái b́nh chứa ít nước, niêm kín, vứt vào biển, [nước trong b́nh ấy] chẳng thể dung nhập, khế hợp với biển cả. V́ thế, trong biển trí sâu rộng, chúng ta luôn dùng tri kiến của chính ḿnh để cưỡng chấp cách ly, chẳng thể dung nhập!

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Bồ Tát chung bất tác như thị kiến, vân hà kiến Bồ Tát kiến giả? Như Như Lai kiến, chung bất thoái chuyển.

          ()賢護。菩薩終不作如是見。云何見菩薩見者。如如來見。終不退轉。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Bồ Tát trọn chẳng có cái thấy như thế, thấy cái Thấy của Bồ Tát như thế nào? Như cái Thấy của Như Lai, trọn chẳng thoái chuyển).

 

          Như Lai dùng ǵ để thấy? V́ thế, nói quả địa giác rất trọng yếu. Kinh Viên Giác đă xiển thuật cặn kẽ bốn loại tri kiến, tức cái gọi là “tùy thuận giác tánh”, bao gồm chúng sanh tùy thuận giác tánh, Bồ Tát tùy thuận giác tánh, Đăng Địa Bồ Tát tùy thuận giác tánh, và chư Phật Như Lai tùy thuận giác tánh. Trong chư Phật Như Lai tùy thuận giác tánh, tiêu trừ đối đăi, diệt mất thiện ác, tỏ lộ rơ rệt Phật Tánh, trọn đủ chân thật. Đó gọi là “linh đệ nhất thiên cung hàm vi Tịnh Độ, tŕ giới, phạm giới, giai vi phạm hạnh” (khiến cho cung trời bậc nhất đều là Tịnh Độ, tŕ giới hay phạm giới đều là phạm hạnh). V́ sao nói như vậy? Trong biển tịch diệt của đức Thế Tôn, đă chiếu soi, biết rơ tướng Chân Như, chứ phàm phu do phân biệt, chấp trước, sẽ chẳng thể kiến lập. Nếu chẳng thể nhận biết tri kiến của Như Lai là như thế, chúng ta sẽ chẳng thể tùy thuận cái Thấy của Như Lai. Có nhiều hữu t́nh vọng chấp, dùng tri kiến của chính ḿnh để phân tích, đồng hóa Phật pháp. Kết quả là Phật pháp hoàn toàn bị họ xử lư một lượt, hoàn toàn trở thành rác rưởi. Đó gọi là “rác rưởi tri kiến”, nói chung là chẳng tương ứng.

          Đây là một chuyện rất khó khăn, v́ trong thời đại này, sách vở lưu truyền rất rộng, phương tiện để duyệt đọc, trao đổi, phương tiện ngôn thuyết, phương tiện tư duy [rất nhiều], kết quả là chẳng dạy theo thứ tự, học pháp theo kiểu xen tạp, loạn xạ, quá nhiều! Trong quá khứ, khi tôi mới xuất gia, có thiện tri thức chỉ điểm sách để xem, không cho phép xem loạn xạ. V́ chẳng hạn như xem các giáo ngôn của các vị tổ sư từ đời Tống, đời Minh trở đi, tuy là chẳng thể nghĩ bàn, nhưng giống như một bầu sữa thêm vào mười bầu nước! Nếu chẳng khéo phân biệt, coi nước là sữa, sẽ chẳng thể tự lợi, chẳng thể dưỡng dục Pháp Thân huệ mạng. C̣n từ đời Tùy - Đường trở về trước, các lời dạy của thiện tri thức chẳng tăng giảm giáo ngôn của đức Thế Tôn, ví như thuần là sữa. Tuy có chút phần nước, nhưng giống như vài nét chấm phá, vị sữa vẫn mười phần trọn đủ. Hễ đọc, sẽ có thể tiêu hóa. Nếu một cân sữa thêm vào một trăm cân nước, dùng sữa như thế để dưỡng dục sanh mạng, có ư nghĩa ǵ chăng? Chỉ có sắc, chẳng có vị sữa! Nếu phước đức của chúng ta giống như ngỗng chúa, khéo thể chọn sữa từ trong nước, như thế th́ sẽ hấp thụ chất dinh dưỡng, lợi lạc Pháp Thân huệ mạng của chính ḿnh. Nhưng nếu chẳng có phước đức như vậy, nước lẫn sữa đều cùng dùng, sẽ chẳng đạt được lợi ích ấy! V́ thế, chúng ta học biết rất nhiều thứ mà chẳng đắc lực, v́ sở học chẳng thể dưỡng dục Pháp Thân huệ mạng của chúng ta, chẳng thể tăng thêm các Thiền Định và trí huệ. Khi đó, thiện tri thức quở trách, dạy bảo tôi như thế, đích xác là đă khiến cho tôi được gia tŕ và lợi ích rất lớn. Nhưng người hiện thời xem sách, muốn xem thứ ǵ liền xem thứ đó, muốn học ǵ bèn học thứ đó. Tri kiến hễ tiếp xúc thứ nào trước, thứ đó sẽ là chủ chốt. Đả động tri kiến c̣n nguy hại hơn giết sanh mạng nữa! Đấy cũng là tướng cộng nghiệp!

          V́ thế, học Phật mà nếu chẳng có sức truyền thừa chân thật, cũng có nghĩa là chẳng thể trừ khử lo ngờ, khiến cho cái tâm quư vị tịnh, mà là chấp trước tri kiến. Chấp trước cái gọi là “đa văn”, quư vị sẽ rất khó loại trừ nghiệp tướng độc hại ấy. V́ quư vị đă bị gánh nặng trân bảo của chính ḿnh đè sụp, giống như con trùng nhỏ thích cơng vật nặng trong Phù Bản Truyện. Trong lúc cùng mọi người học tập đă gần một tháng, điều tôi nhắc tới nhiều nhất là chúng ta đừng cơng gánh nặng trân bảo của chính ḿnh”, “đừng cơng gánh nặng lầm lỗi của kẻ khác”. Hai gánh nặng ấy có thể đè sụp con người. Do vậy, “nhập Như Lai kiến, chung bất thoái chuyển” (vào trong cái Thấy của Như Lai, trọn chẳng thoái chuyển). Nếu chẳng biết cái Thấy của Như Lai là thấy như thế nào ư? Chính là Như Lai ấn, chính là Như Lai giác tánh, chính là quả địa giác của Như Lai, chính là giải thoát tri kiến. Toàn bộ kinh Hiền Hộ không ngừng dạy bảo chúng ta về tri kiến của Như Lai. Nếu quư vị chẳng biết, làm sao vận dụng được?

 

          (Kinh) Bồ Tát kiến, như Bích Chi Phật kiến, như A La Hán kiến. Bồ Tát đương ưng tác như tư kiến. Như tư kiến cố, bất ức, bất niệm, bất kiến, bất văn. Dĩ bất ức niệm, cập kiến văn cố, diệt chư vọng tưởng, tức đắc tư duy như tư tam-muội dă.

          ()菩薩見。如辟支佛見。如阿羅漢見。菩薩當應作如斯見。如斯見故。不憶不念。不見不聞。以不憶念及見聞故。滅諸妄想。即得思惟如斯三昧也。

          (Kinh: Cái Thấy của Bồ Tát giống như cái Thấy của Bích Chi Phật, như cái Thấy của A La Hán. Bồ Tát hăy nên thấy như thế. Do thấy như thế, chẳng nhớ, chẳng nghĩ, chẳng thấy, chẳng nghe. Do chẳng nghĩ nhớ và thấy nghe, diệt các vọng tưởng, liền được tư duy tam-muội như thế).

 

          Do nhân duyên “chẳng nhớ, chẳng nghĩ, chẳng thấy, chẳng nghe”, đạt được chánh tư duy tam-muội, tức là tư duy chẳng đắm nhiễm. Có người dùng học vấn để tư duy sẽ chẳng thể phù hợp. Có kẻ dùng tri kiến để tư duy, cũng chẳng phù hợp. Nếu xét theo hai câu khẩu quyết niệm Phật “rành rẽ phân minh, trọn chẳng có ǵ để đạt được” của pháp sư Viên Anh, dùng cái tâm hữu sở đắc (có điều ǵ để đạt được) sẽ rất mệt. Dùng cái tâm vô sở đắc để niệm Phật mà nếu cưỡng chấp, cũng rất mệt. V́ thế, hiểu rành rẽ, phân minh, trọn chẳng có ǵ để đạt được, chẳng có ǵ nhiễm, thanh tịnh niệm Phật, chẳng chấp trước, đỡ tốn sức mà niệm Phật, đúng là cảm ân đội đức! V́ sao vậy? Thật sự giải thoát tâm linh của chính ḿnh, tháo bỏ gánh nặng của chính ḿnh, tất cả gánh nặng thiện ác, gánh nặng đối đăi, gánh nặng thánh phàm, cùng lúc được giải thoát, sẽ thật sự cảm kích Phật Đà Thế Tôn. Chỉ có bản thân chúng ta chẳng mang nặng nữa, chẳng tạo khổ nữa! Nếu không, chúng ta đúng là chẳng có ǵ để cảm kích, chẳng biết ân th́ báo ân bằng cách nào? Ân c̣n chẳng thể được, có thể cảm ơn bằng cách nào? Ân ở chỗ nào? Ở chỗ trừ khử gánh nặng lấy bỏ, gánh nặng phân biệt, gánh nặng chẳng chánh kiến của chúng ta từ vô thỉ đến nay, khiến cho chúng ta hiểu rơ ràng, an lạc, chẳng vướng mắc, chẳng đối đăi, chẳng nghĩ ngợi, chẳng thấy, thanh tịnh một bề, chân thật niệm Phật!

          Trong Ngẫu Ích Đại Sư Toàn Tập chép: Có người tới hỏi Ngẫu Ích đại sư: “Thưa đại sư! Ngài thông đạt giáo lư. Dù là Hoa Nghiêm, hay là Thiên Thai, hay là Tam Luận, Ngài đều tiến nhập vô ngại. Sao Ngài chẳng giảng các bộ đại luận, đại giáo? Cớ sao cứ khuất ḿnh giữ ǵn pháp tắc Niệm Phật như thế?” Ngẫu Ích đại sư nói: “Thiện tri thức! Ông hăy thôi đi! Chẳng cần phải nói nữa!” Sau đó, Ngài bảo: “Một niệm hiện tiền của ông, nếu chẳng niệm Phật th́ ông sẽ niệm ǵ?” Lúc đó, tôi đọc những câu ấy, đúng là ̣a khóc tuôn lệ, v́ sao vậy? Đúng là một niệm sẽ là như thế nào? Một niệm tỏ lộ tam thiên, tam thiên dung nhập trong một niệm. Một niệm ấy có thể làm ǵ? Ai biết, ai hiểu? Thiện tri thức tự biết, nhưng kẻ mê muội đă mê mất công dụng rộng lớn của một niệm, tức là tam giới sẽ kéo dài, ba đời sẽ tiếp tục! Chúng ta hăy khéo tư duy, quan sát!

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Thí như hư không, bổn vô h́nh sắc, bất khả quán kiến, vô hữu chướng ngại, vô sở y chỉ, vô hữu trụ xứ, thanh tịnh vô nhiễm, diệc vô cấu trược. Chư Bồ Tát bối, kiến nhất thiết pháp, diệc phục như thị.

          ()復次賢護。譬如虛空。本無形色。不可觀見。無有障礙。無所依止。無有住處。清淨無染。亦無垢濁。諸菩薩輩。見一切法。亦復如是。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Ví như hư không vốn chẳng có h́nh sắc, chẳng thể xem thấy, chẳng có chướng ngại, không ǵ để nương tựa, chẳng có trụ xứ, thanh tịnh vô nhiễm, cũng chẳng có nhơ bẩn. Các vị Bồ Tát thấy hết thảy các pháp cũng giống như thế).

 

          Quan sát sâu sắc, quan sát rành rẽ, quan sát không ngừng, quan sát chân thật rồi kết luận như thế, dùng [các điều quan sát] như thế để phá trừ lưới nghi, chọn lựa pháp nghĩa như thế.

 

          (Kinh) Sở vị ư bỉ hữu vi, vô vi nhất thiết pháp trung, vô hữu xứ chướng ngại.

          ()所謂於彼有爲無爲一切法中。無有處障礙。

          (Kinh: Tức là trong hết thảy các pháp hữu vi và vô vi, chẳng có chỗ chướng ngại).

 

          V́ sao? Hữu vi, vô vi là các danh tự giả lập, ắt chẳng có tự tánh. Chúng ta tạo nghiệp nơi danh tự, v́ sao hư vọng lấy bỏ? V́ sao cưỡng chấp phân biệt thiện ác? V́ sao hư giả giữ lấy yêu ghét?

 

          (Kinh) Năi chí diệc vô xứ sở, dĩ nhăn thanh tịnh vô chướng ngại cố, nhất thiết chư pháp tự nhiên hiện tiền.

          ()乃至亦無處所。以眼清淨無障礙故。一切諸法。自然現前。

          (Kinh: Cho đến cũng chẳng có xứ sở. Do mắt thanh tịnh chẳng có chướng ngại, hết thảy các pháp tự nhiên hiện tiền).

 

          Do tâm thanh tịnh, mắt thanh tịnh, do tâm và mắt tương ứng, cho nên được thấy chư Phật. Tâm chẳng thanh tịnh, mắt ắt ô trược! Nếu lúc chúng ta đối trước thiện duyên và ác duyên, đều có thể khéo tư duy, đối phương (đối tượng trông thấy bởi mắt) sẽ là thiện tri thức. Nếu chúng ta chẳng khéo tư duy, cứ t́m kiếm nơi sự tướng, t́m kiếm nơi âm thanh tốt đẹp như khen ngợi, ghét âm thanh xấu như phỉ báng, chúng ta sẽ bị mê muội bởi ác ngôn, ác ngữ, bị thiện ngôn, thiện ngữ cưỡng chế. Như thế th́ sẽ chẳng tự tại, chẳng hiểu rơ cái tâm. V́ thế, kẻ bị cảnh chuyển, mê mất tự tâm, được gọi là chúng sanh. Người thường có thể chuyển cảnh, an ủi thế gian, th́ là Bồ Tát, là bậc giác ngộ. Vốn chẳng khác biệt, chỉ v́ sử dụng và chấp trước cái Thấy và cách dùng khác biệt. Chúng ta xét kỹ như thế nào? Ở đây, phải nên rất nghiêm túc. Đáng nên nghiêm túc th́ nên nghiêm túc. Chẳng nghiêm túc là như chấp giữ, đắm nhiễm, tư duy hư vọng. Đó là chẳng nghiêm túc.

 

          (Kinh) Bỉ chư Bồ Tát như thị niệm thời, tức kiến chư Phật, kỳ sở trang nghiêm, trạng như kim liễn, cụ túc oai nghi. Như bách thiên quang, viêm hách tư chiếu. Như Thu măn nguyệt, chúng tinh vi nhiễu. Như Chuyển Luân Vương, quân chúng xí thịnh. Như Thiên Đế Thích, tứ phụ trung tôn. Như Đại Phạm Vương, xử bỉ thiên ṭa. Như sư tử vương, oai phục chúng thú. Như tiên bạch hộc, xử không nhi phi. Như Tu Di sơn vương, an trụ đại hải. Như Đại Tuyết Sơn, xuất chư lương dược. Như Thiết Vi sơn, nhiếp tŕ mănh phong. Như bỉ thủy giới, trụ tŕ đại địa. Như đại phong luân, tịnh hư không giới. N Tu Di đảnh, tráng lệ thiên cung.

          ()彼諸菩薩如是念時。即見諸佛。其所莊嚴。狀如金輦具足威儀。如百千光。炎赫斯照。如秋滿月。衆星圍繞。如轉輪王。軍衆熾盛。如天帝釋。四輔中尊。如大梵王。處彼天座。如師子王。威伏衆獸。如鮮白鵠。處空而飛。如須彌山王。安住大海。如大雪山。出諸良藥。如鐵圍山。攝持猛風。如彼水界。住持大地。如大風輪。淨虛空界。如須彌頂壯麗天宮。

          (Kinh: Các vị Bồ Tát ấy khi nghĩ như thế, liền thấy chư Phật. Các Ngài trang nghiêm, h́nh dạng như cỗ xe bằng vàng, trọn đủ oai nghi, như trăm ngàn quang minh, chiếu rực rỡ, chói ngời. Như trăng tṛn mùa Thu, các ngôi sao vây quanh. Như Chuyển Luân Vương, quân đội đông đảo. Như Thiên Đế Thích tôn quư trong bốn vị đại thần phù tá. Như Đại Phạm Vương, ngự trên ṭa trời. Như sư tử chúa, oai thế hàng phục các loại thú. Như chim hộc trắng sạch, bay trên hư không. Như núi chúa Tu Di, an trụ trong biển cả. Như Đại Tuyết Sơn, sanh ra các thứ thuốc tốt lành. Như núi Thiết Vi nắm giữ các luồng gió mạnh. Như thủy giới giữ yên đại địa. Như vầng gió lớn, thanh tịnh cơi hư không. Như trên đỉnh núi Tu Di, cung trời tráng lệ).

 

          “Tức kiến chư Phật” (liền thấy chư Phật), chư Phật có h́nh dạng như thế nào? Ở đây, [đức Thế Tôn] không ngừng dùng các vật mà chúng ta có thể thấy, có thể biết để tỷ dụ, hướng dẫn, ḥng tăng cường sự nhận biết và sự vui thích, yêu mến của chúng ta!

 

          (Kinh) Như thị Hiền Hộ! Bỉ chư Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác, dĩ trí đức quang chiếu minh nhất thiết tam thiên đại thiên chư Phật thế giới, kỳ sự nhược thử.

          ()如是賢護。彼諸如來應等正覺。以智德光照明一切三千大千諸佛世界。其事若此。

          (Kinh: Như thế đó Hiền Hộ! Các đức Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác ấy dùng quang minh trí đức để chiếu sáng hết thảy tam thiên đại thiên các thế giới chư Phật, chuyện là như thế đó).

 

          Trí đức quang minh của chư Phật Như Lai chiếu sáng hết thảy tam thiên đại thiên thế giới chư Phật. Phàm phu hữu t́nh th́ một tiểu thế giới cũng chẳng léo hánh được! Trong các vị đă chứng Tứ Hướng, Tứ Quả, trí lực của thánh giả Tu Đà Hoàn quả có thể khéo biết một tiểu thế giới, A La Hán có thể biết các tướng trang nghiêm trong một đại thiên thế giới, có thể vận dụng tự tại trong một đại thiên thế giới. Công đức của vị thánh ấy chẳng phải là hư giả đặt ra. Thánh giả trong Phật pháp chẳng phải là lập ra hư giả. Nếu là thánh nhân xuất thế, sẽ hiện nhân duyên đại phước đức. Như lần trước, tôn giả Hỗ Ba (Khruba Boonchum) đến đây, trong tay Ngài có bảo châu do long vương hiến tặng. Khi Ngài chứng quả, đại địa chấn động. Các vị hộ pháp có ḷng yêu mến từ cung trời, hoặc long vương đều đến cúng dường như thế. Ngài đă đánh mất hạt châu ấy ba bốn lần, nhưng mỗi lần đều có người dùng các thứ nhân duyên đưa trả lại. V́ sao? Người khác chẳng giữ nổi viên châu ấy. Nhân duyên oai đức phước đức của thánh nhân như thế chẳng phải là hư giả đặt ra. Bậc thánh nhân đều có oai đức thiện xảo, phước đức thiện xảo, Thiền Định thiện xảo, sức thần thông thiện xảo, vô úy thiện xảo, biết trọn khắp thiện xảo, được trời, rồng thủ hộ, trời, rồng tôn sùng, hết thảy trí giả và thánh giả yêu mến. Tất cả những điều ấy khiến cho oai đức bất cộng và phước đức bất cộng nẩy sanh. Phàm th́ chính là phàm, chúng ta chẳng thể dùng phàm loạn thánh. Thánh chính là thánh, dẫu có ngăn trở, che lấp, vẫn chẳng thể ngăn trở, che lấp được. Sở dĩ thánh là thánh, chẳng phải là do ngôn thuyết mà thành thánh, mà là thánh v́ oai đức, là thánh v́ công đức chân thật. Ở đây, chẳng thể lập bày hư giả, chẳng thể hư vọng, chẳng dám coi thường, nói dối đôi chút cũng chẳng được, nói lời khác lạ một tí cũng chẳng được. Kẻ hư vọng thật sự đáng buồn, v́ chẳng có đôi vai ấy, sẽ chẳng thể gánh vác các thứ này!

          Ở đây, tôi lại chẳng ngại nêu một thí dụ, v́ sợ mọi người đem phàm loạn thánh. V́ tôn giả Xá Lợi Phất phát nguyện làm đệ tử đứng đầu của chư Phật, và luôn nhập diệt trước chư Phật. Do đó, trước khi đức Thế Tôn nhập diệt, Ngài bạch cùng đức Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn! Con sẽ nhập diệt”. Đức Thế Tôn im lặng chấp thuận. Ngài Xá Lợi Phất trở về thôn xóm nơi chính ḿnh đă sanh trưởng, tức là thành phố Na Lan Đà hiện thời, vào trong ngôi nhà đă nuôi lớn Ngài. Mẹ Ngài vẫn c̣n sống, trông thấy Ngài, bèn sanh nghi hoặc to lớn: “Ối chao ơi! V́ sao đến tuổi già, con lại xả giới hoàn tục vậy? Nhà ḿnh tài sản vô số, lúc trẻ tuổi con chẳng biết lấy dùng, tuổi già hoàn tục, có ích ǵ đâu chứ?” Mẹ ngài Xá Lợi Phất tôn kính Đại Phạm, chẳng ưa thích Phật pháp, chẳng biết Phật pháp, thường lo ngờ Xá Lợi Phất. Tuy trong lúc hoài thai Xá Lợi Phất, trí huệ và biện tài của bà ta thiện xảo bậc nhất, chẳng bị chướng ngại, nhưng bà chẳng học Phật. Do vậy, trước khi nhập diệt, ngài Xá Lợi Phất trở về nhà, bà mẹ sanh ḷng nghi hoặc, nghĩ Xá Lợi Phất đă hoàn tục. Mẹ đang tựa cửa, trông thấy đứa con của chính ḿnh đă già khọm. Khi đó, Đại Phạm hiện đến, phóng quang minh, đảnh lễ dưới chân ngài Xá Lợi Phất, thốt lời tán thán. Bà mẹ hết sức kinh sợ, nói: “V́ sao đại thiên tới chỗ này? Con ơi! Con hành pháp ǵ mà vị này đến kính ngưỡng con?” Ngài Xá Lợi Phất chẳng đáp. Cho đến các loại trời, rồng đến lễ kính, cúng dường, khuyến thỉnh Ngài trụ thế. Mẹ Ngài hết sức nghi hoặc. Khi đó, ngài Xá Lợi Phất nói: “Ưu-bà-di! Bà thấy vị thiên tôn này hay không?” Mẹ Ngài hỏi: “Ta thờ phụng vị thiên tôn này, cớ sao Ngài đến lễ kính dưới chân con?” Ngài Xá Lợi Phất đáp: “Con đă có thể thủ hộ pháp rất sâu. Việc làm đă xong, phạm hạnh đă lập, chẳng c̣n thân sau, là bậc Ứng Cúng trong tam giới, là thầy hướng dẫn của tam giới, là ruộng phước cho tam giới”. Ngài nói lời quyết định; do vậy, mẹ Ngài được Ngài thành tựu, cuối cùng trở thành một vị ưu-bà-di quy y Tam Bảo. Thánh giả tự có thánh công đức, thánh giả tự có thánh tướng. Ngay như bậc Sơ Quả trong thánh quả Thanh Văn, biết một tiểu thiên hạ mà đạt được sức tự tại: Khi đi lại, tự nhiên ĺa khỏi mặt đất, chẳng gây hại sát sanh. Đó là điều quyết định chẳng nghi. Nói đến chỗ này, chỉ sợ mọi người hễ đạt được sự khinh an tương tự, lợi ích, cảnh giới tương tự v.v… liền nhận lầm đầu với chân, tự chuốc lấy phiền năo, cho nên tôi nhắc nhở đôi chút.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Bỉ chư Bồ Tát ư chánh quán trung, phục như tư niệm: “Nhi chư Như Lai hữu sở tuyên thuyết, ngă tích thính văn, văn dĩ độc tụng, thọ tŕ, tu hành”. Như thị niệm dĩ, tùng tam-muội khởi. Như bỉ định trung sở văn chư pháp, tư duy kỳ nghĩa, vị tha tuyên thuyết. Hiền Hộ! Đương tri thị tam-muội vương, vị chư Bồ Tát tác tư lợi ích, năng dữ như thị chư công đức tụ, sở vị thế gian, xuất thế gian nhất thiết chư pháp dă.

          ()賢護。彼諸菩薩於正觀中。復如斯念。而諸如來有所宣說。我昔聽聞。聞已讀誦。受持修行。如是念已。從三昧起。如彼定中所聞諸法。思惟其義。爲他宣說。賢護。當知是三昧王。爲諸菩薩作斯利益。能與如是諸功德聚。所謂世間出世間一切諸法也。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Các vị Bồ Tát ấy trong chánh quán, lại nghĩ như thế này: “Đối với các lời tuyên thuyết của các đức Như Lai, xưa kia, ta đă được nghe, nghe xong đọc tụng, thọ tŕ, tu hành”. Nghĩ như thế rồi, từ tam-muội khởi, đối với các pháp được nghe trong Định đều suy nghĩ ư nghĩa, v́ người khác tuyên nói. Này Hiền Hộ! Hăy nên biết tam-muội vương này v́ các Bồ Tát tạo lợi ích ấy, có thể ban cho các khối công đức như thế, tức là hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian).

 

          Tướng quang minh công đức của tam-muội vương khiến cho chúng ta thấy rơ tam thiên đại thiên thế giới chư Phật. Có người niệm A Di Đà Phật, chứng đắc Niệm Phật tam-muội, cũng có thể biết rơ vô lượng thế giới. Thời cận đại, có ghi chép một số ít người chứng tam-muội. Trong lịch sử, có Hám Sơn đại sư chứng đắc Tùy Ư tam-muội. Khi Ngài ở một chỗ trên Ngũ Đài Sơn, lúc bấy giờ, trời đổ một trận tuyết lớn, tuyết dày vùi kín gian nhà của Ngài. Mọi người vốn cho rằng Ngài đă bị chết cóng, nhưng sau khi tuyết tan, trông thấy Ngài đang ngồi thiền trong ấy, mọi người đều hết sức rúng động. Lại như Hám Sơn đại sư chép kinh Hoa Nghiêm, tay vừa chép kinh, vừa nói chuyện với người khác, chữ chẳng chép sai, hàng lối chẳng sai lệch, lời nói cũng không lầm loạn, Tùy Ư tam-muội tự tại! Đấy chẳng phải là Ngài nói suông, mà là Ngài làm được. Quư vị đừng nên cho rằng chính ḿnh đă chứng hay không, cứ sử dụng là biết ngay. Mảy may hư giả đều chẳng được. Nếu không, đại vọng ngữ sẽ gây tổn thương rất dữ dội!

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thị cố, nhược bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân, tùy dục cầu chứng Vô Thượng Bồ Đề, đương ưng thính văn như thị tam-muội. Văn dĩ, thư tả, độc tụng, thọ tŕ, tu tập, tư duy, quảng vị tha thuyết, linh thị diệu pháp lưu bố thế gian.

          ()賢護。是故。若彼善男子善女人。隨欲求證無上菩提。當應聽聞如是三昧。聞已書寫讀誦受持。修習思惟。廣爲他說。令是妙法流佈世間。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Do vậy, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy muốn cầu chứng Vô Thượng Bồ Đề, hăy nên nghe tam-muội như thế. Nghe rồi biên chép, đọc tụng, thọ tŕ, tu tập, tư duy, rộng v́ kẻ khác nói, khiến cho diệu pháp này được truyền bá trong thế gian).

 

          Đoạn văn tự này vẫn nhằm khuyên chúng ta nghe pháp này, cầu pháp này, tư duy, biên chép, đọc tụng, truyền bá pháp tắc như vậy, chứng thực pháp tắc như vậy. Bộ kinh này chỗ nào cũng đều tuyên nói như thế, rốt cuộc chúng ta tiếp nhận được bao nhiêu? Chuyện này đúng là tùy thuộc nhân duyên của mỗi người!

          Chúng ta đă nghe tiếng bước chân sắp viên măn của An Cư kết hạ, c̣n năm ngày nữa. Sinh hoạt tập trung học tập trong một trăm hai mươi ngày an cư sắp kết thúc viên măn. Thuận theo nhân duyên ấy, chúng ta học tập kinh Ban Châu Tam Muội cũng sắp viên măn. Vốn là bộ kinh như thế này, nếu chiếu theo lối khoa phán để học tập, sẽ tốn rất nhiều thời gian; v́ văn tự của kinh này khá b́nh dị, chúng ta liền đọc tụng, để mọi người rộng kết nhân duyên hành tŕ Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội. Vạn sự đều do nhân duyên mà khởi, do nhân duyên mà diệt. Nếu chẳng có duyên khởi, pháp chẳng thể tự sanh một ḿnh được. Trong cơi đời, chẳng có bất cứ pháp nào có thể trơ trọi sanh khởi, cũng chẳng có bất cứ đoạn diệt nào để có thể đạt được! Trong pháp tắc “vốn chẳng có một pháp nào để đạt được”, chúng ta nhờ nương theo một kinh, nương cậy một pháp tắc, thông qua cảm nhận liên tục, sẽ có thể thành thục một sanh mạng [tồn tại] liên tục để nương vào.

          Đối với toàn thể chỗ nương cậy để sanh mạng được tiếp nối đến tận tương lai, kẻ không có pháp tắc sẽ mê mờ. Kẻ chẳng có pháp tắc rơ rệt, sẽ mong chủ động vận dụng trí huệ và từ bi sáng suốt, ḥng dần dần thuần thục sanh mạng của chính ḿnh. Cơ chế như thế cũng chẳng thể đạt được! Do vậy, chúng ta có thể gặp gỡ một pháp môn, một cơ chế pháp, nhất là kinh Hiền Hộ khá có hệ thống như thế, là một giáo điển đă giới thiệu hoàn thiện pháp tắc bất cộng Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, đích xác là phước đức của mọi người. [Phước đức ấy] khó ĺa khỏi oai đức gia bị của đức Thích Ca Thế Tôn, mà thiện căn của chúng ta cũng được chín muồi chẳng ít. Do thiện căn chín muồi và được Phật Đà Thế Tôn gia bị, mọi người được gặp kinh điển này. Chúng ta đừng nên học xong bèn hời hợt bỏ qua. Nếu chẳng thể thâm nhập tu tập, đúng là khá đáng tiếc, chỉ có thể trở thành chủng tử của một nhân duyên xa xôi!

          Nếu chúng ta gặp pháp tắc này mà có thể thật sự tu tập nó, sẽ giống như kinh văn đă chỉ dạy: Trong các pháp xuất thế và nhập thế, pháp này tạo lợi ích rộng khắp cho các vị Bồ Tát Bồ Tát Ma Ha Tát. Người muốn cầu Vô Thượng Bồ Đề, nghe nói tam-muội này, đọc tụng, biên chép, khéo tư duy, rộng v́ người khác nói tam-muội này, cho đến người đích thân chứng tam-muội này, đều được đức Thế Tôn tán thán, được đức Thế Tôn thủ hộ, có thể khiến cho pháp này tồn tại trong thế gian, khiến cho vô lượng chúng sanh thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề thật sự là biểu hiện của tâm trí cội nguồn rơ ràng, hoàn thiện nhất, oai đức trọn đủ, sức tự tại thành thục trọn vẹn nơi hết thảy chúng sanh mà thôi! Chúng ta biết trong biển pháp tánh tịch diệt”, chẳng có mảy trần để có thể đạt được, chẳng có một pháp thật sự có bản chất, vô lượng chúng sanh trong các thứ nghiệp tướng đối với mười pháp giới hoặc tự do, hoặc chẳng tự do, hoặc thiện xảo, hoặc chẳng thiện xảo, hoặc sáng, hoặc tối, cho đến xuất hiện sanh mạng khổ, vui, phàm, thánh, trí, ngu khác biệt như thế. Sanh mạng khác biệt do ai lựa chọn? Chính là từ ngay trong bản thể của chúng ta mà thiện xảo đúng pháp chọn lựa, hay mê mất sự chọn lựa thiện xảo ấy. Nếu nắm vững sự chọn lựa thiện xảo ấy, sẽ có pháp để nương theo, thành tựu trong một đời sẽ chẳng phải là chuyện khó, chứng tam-muội cũng chẳng phải là chuyện khó, lợi ích thế gian rộng răi cũng chẳng phải là chuyện khó, chỉ là chuyện thuộc vào địa vị của chính ḿnh. Do đó, “tầm đắc bổn vị, tức đắc an lạc” (t́m được địa vị vốn có, liền được an vui). Nếu chúng ta chẳng t́m được bổn vị, tự lầm lạc mê mất nơi sự tướng, sẽ ở ngay trong các sự tướng biến đổi, vô thường, tự cho là có thật rồi xâm hại lẫn nhau, sẽ đánh mất lợi ích thanh tịnh to lớn.

          Giáo điển này giống như chư Phật xuất thế, chỉ nương theo một đại sự nhân duyên, tức là “muốn khiến cho chúng ta đoạn trừ phiền năo, trừ khử tập khí, vượt thoát sanh tử, lại c̣n tự tại trong sanh tử, chẳng nhiễm sanh tử, chẳng giữ lấy Niết Bàn, lợi ích trời người rộng khắp”. Trong thực tế, cũng có nghĩa là sanh mạng tất nhiên có chỗ nương tựa. Chúng ta thấy trong Thanh Văn Thừa, có hai loại Niết Bàn là Hữu Dư và Vô Dư. Người thiện xảo chứng đắc quả A La Hán là người đă đạt tới cực quả trong giáo ngôn của Thanh Văn Thừa, nhưng trong Đại Thừa Phật giáo, chẳng chấp sanh tử, chẳng giữ lấy Niết Bàn, văng sanh cơi vô sanh của A Di Đà Phật, gột sạch sành sanh hết thảy sanh tử bức bách từ vô thỉ tới nay. Bất luận Biến Dịch Sanh Tử hay Phần Đoạn Sanh Tử, đều cùng lúc tận diệt. Chỉ trong một đời thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, oai đức đến tận đời vị lai. Oai đức ấy chẳng phải là hành vi do kiêu mạn, do tà kiến, hay do làm bộ làm tịch, mà thật sự là tự tánh vốn có, là quang minh từ pháp tánh, là oai đức của pháp tánh, ai nấy đều có thể duyên theo nó, có thể sử dụng nó, mà cũng có thể thành tựu nó. Nói “thành tựu”, tức là chuyện thuộc về bổn phận, duyên theo chuyện ấy liền sử dụng nó, chọn lựa nó. Chúng ta duyên theo cái nghiệp của tam đồ, sẽ có thể thành tựu sanh mạng tiếp nối trong tam đồ y hệt! Chúng ta thấy lừa, ngựa, lạc đà thồ đồ vật, bèn sanh khởi tâm niệm thương xót. Thật ra, chúng vốn cũng trọn chẳng khác biệt chư Phật! Chư thiên thấy chúng ta phiền năo nặng nề, do thiếu thốn vật chất, do thiếu thốn ngũ dục bèn đau khổ t́m kiếm, sẽ thấy chúng ta chẳng khác ǵ trâu ngựa. Họ sẽ cảm thấy đau khổ không chịu nổi, sẽ sanh khởi tâm niệm xót thương. C̣n các vị thánh giả, trí giả, trông thấy chư thiên tuy có sanh mạng tám đại kiếp, cho đến sanh mạng tám vạn đại kiếp, nhưng đối với các sanh mạng, hiện đủ loại tướng chẳng thể tự khống chế, chẳng thể tự hiểu rơ, chẳng thể tự liễu thoát. Do vậy, cũng sanh một tâm niệm thương xót, c̣n chư Phật Như Lai th́ sao? Thấy hết thảy hữu t́nh trong chín pháp giới, dù là vi tế Hoặc, dù là Vô Minh Hoặc, hay Kiến Tư Hoặc, trong vô tận vô biên các thứ hoặc loạn, dù nặng nề, hay vi tế, dù cực vi tế, đều sanh khởi tâm bi mẫn rộng lớn. Do đó, tôn trọng, yêu thích hết thảy hữu t́nh trong thế gian. V́ sao? Do đồng thể, đồng dụng. Do nhân duyên này, cho nên có thể thiện xảo thí giáo rộng lớn, dạy hết thảy hữu t́nh trong chín pháp giới triệt để thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          Có người đă băn khoăn quá sớm “sau khi thành Phật, tôi sẽ làm như thế nào?" Quư vị chẳng cần nghĩ tới chuyện đó, cứ thong thả! Nếu đối với bộ kinh Ban Châu Tam Muội này, chúng ta có thể gặp được pháp tắc như thế, giáo ngôn như thế, thật sự có thể được nghe pháp tắc như thế, nghe danh tự như thế, chính là chẳng thể nghĩ bàn! Nếu ai nghĩ là chẳng thể nghĩ bàn, người ấy chính là chẳng thể nghĩ bàn. Nếu kẻ nào khinh thường, trái phạm, kẻ ấy là phường khinh dễ, trái phạm. Nếu ai tôn trọng, thủ hộ, truyền bá pháp này, sẽ do tôn trọng, thủ hộ, truyền bá, tất nhiên thành tựu lợi ích chẳng thể nghĩ bàn! V́ thế, dụng tâm ǵ vậy? Chọn lựa ǵ vậy? Chỉ là trong hiện duyên, mỗi người tự lựa chọn, có liên quan với người khác hay chăng? Hữu t́nh thời Mạt Pháp lăng phí thời gian của chính ḿnh quá nhiều, dùng một lượng lớn thời gian và tinh lực vào sự tướng vô thường, biến đổi, đổ công dốc sức nơi lời lẽ và cử chỉ của người khác. Người như thật biết tự tâm, như thật vận dụng tự tâm, như thật liễu giải cơ hội chẳng tăng, chẳng giảm, rơ ràng, rộng lớn, trọn đủ hết thảy các pháp trong tâm địa quá ít! Đối với chuyện này, đức Phật thương xót chúng ta, dùng sức oai thần gia bị, khiến cho nhân duyên thiện căn của chúng ta thành thục. Do vậy, tuyên nói giáo điển chẳng thể nghĩ bàn như thế. Chúng ta tối thiểu đă có cơ chế thành thục như vậy, cho nên mới có thể học tập, lắng nghe, trao đổi, thật sự là chuyện chẳng thể nghĩ bàn! V́ thế, đừng coi tự duyên (các duyên của chính ḿnh) là duyên nhỏ nhặt, đừng v́ tự duyên mà kiêu mạn, chớ nên coi rẻ tự ngă, cũng như đừng coi rẻ nhân duyên của người khác. Đương nhiên là cũng chớ nên kiêu mạn. Như thế th́ tâm trí của chúng ta sẽ yên tĩnh, b́nh ḥa, sẽ thấy thấu suốt pháp tắc, ấn khế pháp tắc, như thật thủ hộ pháp tắc mà chúng ta đang tu tập, chẳng đánh mất duyên khởi thật sự tốt đẹp, thanh tịnh.

          Con đường thành Phật ở ngay dưới chân, duyên khởi thành Phật ngay trong một niệm hiện tiền, sự chọn lựa thành Phật cũng ở trong hiện tiền. Sở dĩ vận dụng ngay trong hiện tiền là v́ nhận biết một niệm hiện tiền. Một niệm hiện tiền vô nhiễm, chính là chân tâm vô nhiễm. Nếu chúng ta lập tức duyên theo sự lựa chọn thanh tịnh của Phật Đà Thế Tôn, như đối với sáu loại “ngũ pháp” đă nói trong phần trước, cùng với công đức nơi một trăm hai mươi hai câu hỏi “như thế nào” mà thủ hộ, tập luyện xuyên suốt, tức là chúng ta đă lập tức lựa chọn duyên khởi thiện xảo và thanh tịnh “xa ĺa sự bức bách của sanh tử để lợi ích rộng khắp hữu t́nh”. Hành Ban Châu, chẳng qua chỉ là khiến cho duyên khởi thanh tịnh được tiếp nối, như thật công nhận, như thật vận dụng, chỉ như thế mà thôi! Cái tâm liên tục ấy, từ trong tâm trí thay đổi từ vô thỉ tới nay, trong tâm trí nắm níu của chúng ta, cho đến trong giả duyên như huyễn, phần nhiều chẳng thể tự khống chế. Chúng ta phần nhiều cưỡng chấp, đắm nhiễm [các giả duyên ấy], cho nên h́nh thành ḷng yêu mến và truy tầm sự vô thường đổi khác. Chúng ta hướng tới sự đổi khác ấy, hoặc có thể nói là vô kư, vô minh, mà sự vô kư, vô minh ấy đă đem lại cho chúng ta điều ǵ? Chính là chẳng làm sao được, vô tri, chẳng có năng lực, như thế th́ quư vị sẽ chẳng có cách nào giải quyết vấn đề của chính ḿnh!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa, dĩ kệ tụng viết.

          ()爾時世尊。爲重明此義。以偈頌曰。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn v́ nói rơ lại nghĩa này, dùng kệ tụng rằng).

 

          V́ chúng ta đối với chuyện huân tập pháp tắc c̣n khá xa lạ, đức Thế Tôn nhiều lượt giáo huấn chúng ta, không ngừng hướng dẫn chúng ta tư duy như thế, quan sát như thế. Ngài dùng các đoạn văn tự dưới đây để tổng kết rơ ràng, tóm tắt, đơn giản phần Trường Hàng trước đó, khiến cho chúng ta thật sự hiểu rơ. Ngoài thời gian lên lớp học tập, chúng ta hễ có thời gian hăy nên đọc tụng, đàm luận, trao đổi về kinh Hiền Hộ cho nhiều, bớt nói chuyện gẫu. Như thế th́ sẽ có thể khiến cho pháp được tiếp nối, khiến cho những ngày học tập này có được một cơ chế pháp tắc thuần thục. Nếu không, cứ gián đoạn, sẽ vẫn quay về với nghiệp tập!

 

          (Kinh) Chư Phật thanh tịnh ly trần cấu, công đức thâm quảng, vô sở y.

          ()諸佛清淨離塵垢。功德深廣無所依。

          (Kinh: Chư Phật thanh tịnh, ĺa trần cấu. Công đức sâu rộng, chẳng tựa nương).

 

          Qua lời dạy của đức Thế Tôn, Ngài đă bóc gỡ cái tâm nắm níu của hết thảy chúng sanh. Hoặc có thể nói là khiến cho hết thảy chúng sanh từ trong cái tâm nắm níu ấy mà biết: Thật ra, chẳng có pháp nào để có thể nắm níu! Trong tâm trí vịn nắm của phàm phu, nếu chẳng chấp trước một thứ chi đó, chẳng nắm bắt một thứ chi đó, cái tâm chẳng có [thứ ǵ để vịn nắm], sẽ trở nên trống trải, mê muội, bỗng dưng chẳng biết làm như thế nào! Một khi chúng ta đă vượt khỏi chỗ ấy, như trong quá khứ đă nói, sau khi “đ́nh tâm” (ngưng lặng cái tâm), sẽ tự đạt được phương tiện. Nói “đ́nh tâm” chính là vĩnh viễn đoạn trừ lo ngờ; khi đó, cái tâm nắm níu liền ngưng dứt. Chúng ta sẽ hiểu pháp tắc tương tự rơ ràng. Nhưng “chư Phật thanh tịnh ly trần cấu” tức là triệt để ĺa khỏi những cái gọi là Kiến Tư Hoặc, Trần Sa Hoặc, và Vô Minh Hoặc, biết rốt ráo thanh tịnh. Chư Bồ Tát, hiền thánh là bậc phương tiện thanh tịnh, c̣n phàm phu là kẻ chưa đạt được thanh tịnh. V́ sao nói là chưa đạt được? V́ ở trong trần lao, trong trần cấu, vẫn chưa giác ngộ, vẫn mê mất nơi vọng chấp trần lao, ở trong trần lao “vọng tưởng nắm níu”, chẳng thể tự thoát ra!

          “Công đức thâm quảng vô sở y” (Công đức sâu rộng, chẳng nương tựa vào đâu): Chẳng nương, chẳng dựa vào sức trí huệ, chính là trí huệ vốn sẵn có của hết thảy chúng sanh; đó gọi là “vô tạo, vô tác” (chẳng tạo tác), chẳng nhiễm mảy trần, chẳng nhơ, chẳng sạch. Đấy chẳng phải là một câu nói thường hằng, mà thật ra là dùng ngôn ngữ quyền biến để biểu đạt một loại phương tiện trí huệ. Nếu nói với hữu t́nh vô minh cố chấp, th́ cũng là bất đắc dĩ mà nói. Nếu nói với bậc trí giả, nói vừa đủ rồi thôi, tức là biết ẩn sau ngôn ngữ, sẽ thật sự là thanh tịnh, chẳng nhiễm, chẳng chấp!

 

          (Kinh) Chung cổ khanh thương chúng diệu âm, vạn chủng hàm bị tu cúng dường. Bố tán chư chủng siêu thế hương, tinh dị hoa man, thượng bảo cái. Nhiên đăng cúng dường chúng tháp miếu, sở vị cầu thử tam-ma-đề.

          ()鐘鼓鏗鏘衆妙音。萬種咸備修供養。佈散諸種超世香。精異花鬘上寶蓋。然燈供養衆塔廟。所爲求此三摩提。

          (Kinh: Chuông trống réo rắt các diệu âm, muôn thứ đều vẹn tu cúng dường. Rải rắc các hương tuyệt diệu nhất, tinh xảo tràng hoa, lọng báu dâng, cúng dường đèn soi các tháp miếu, đều v́ cầu đắc chánh định này).

 

          Dùng ca múa, âm thanh hay đẹp, ca ngợi, cho đến sắp đặt các loại đồ vật, các thứ hoa tươi v.v… để cúng dường. Quả thật v́ cầu tam-ma-đề này, tức là v́ để thành tựu Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội. Tam-muội là một danh từ có đủ cả danh xưng nơi tướng trạng của cái nhân lẫn tướng trạng của cái quả. Tam-ma-đề là tên gọi theo quả tướng. Tam-muội thành tựu th́ gọi là tam-ma-đề. Chẳng hạn như chúng ta nói đến Tứ Hướng và Tứ Quả, địa vị Tứ Hướng chẳng gọi là quả. V́ sao? Do mang ư nghĩa hướng đến. Nếu đă đạt tới quả vị, th́ có ư nghĩa “an trụ”. An trụ mà thật sự chẳng có ǵ để an trụ. Đó là nội hàm chân thật nơi quả đức.

          Chúng ta học tập một pháp tắc, nếu chẳng hiểu rơ nguyện vọng và mục đích, sẽ đứt gánh nửa đường, hoặc bị nghịch duyên làm dang dở, hoặc là bị thuận duyên làm lỡ làng. Nếu là thuận duyên, do nhiễm đắm nhân duyên, cũng sẽ đâm quàng vào ngơ rẽ. Nếu là nghịch duyên, do chẳng hiểu rơ nguyện vọng và mục đích, nhất định sẽ thoái đọa. Nếu chúng ta học Phật trong t́nh huống mười phần hiểu rơ mục đích và nguyện vọng, th́ sanh mạng lẫn cuộc sống đều suông sẻ, chẳng có chướng ngại! Chẳng hạn như người thường phải làm việc nơi đất khách, hễ mong trở về nhà, đúng là hết sức nôn nóng mong trở về. Hễ nhắm mắt là thấy người nhà. Cũng giống như thế, là người xuất gia, là người học Phật, phải nên đối với mục đích của chính ḿnh, tức là chỗ thành tựu của pháp tắc, thật sự phải có nhận thức rơ ràng, đích xác như người nóng ḷng mong trở về, phải có khát vọng chẳng điều ǵ có thể chướng ngại được! Nếu chẳng như thế, giữa chừng sẽ nẩy sanh quá nhiều nhân duyên gây chướng ngại. Trong thời đại này, do mọi người chẳng hiểu rơ nguyện vọng và sự thủ hộ thệ nguyện, cho nên phần nhiều chẳng thể thường hằng ǵn giữ một pháp, hay một sự. Kết quả là khiến cho nhân duyên chẳng thể thành thục, găy gánh giữa đường nhiều lắm, người trước sau vẹn toàn cực hiếm hoi! Trong thế gian này, bất luận là làm chuyện thế tục, hay học Phật, bất luận xuất gia hay tại gia, người có thể vẹn toàn từ đầu đến cuối đều làm các chuyện có ư nghĩa đối với thế gian, hoặc có thể khiến cho thế gian đạt được các khơi gợi cụ thể.

          Ở đây, [kinh văn] nhắc tới các loại cúng dường, bất luận là cúng dường bằng tràng hoa, cúng dường bằng các vật, cúng dường bằng diệu âm niệm tụng, đều là v́ tam-ma-đề này, cũng là để đích thân chứng Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập tam-muội. Nếu phát thệ nguyện như thế, tâm như thế, vậy th́ hết thảy các chướng ngại đều chẳng c̣n là chướng ngại. Nếu phát tâm rơ ràng, chướng ngại chẳng gọi là chướng ngại. Nếu phát tâm chẳng rơ ràng, dường như đúng mà thật ra là sai, chướng ngại sẽ xuất hiện, sẽ bị chướng ngại. Ngay cả thuận duyên xuất hiện, cũng h́nh thành chướng ngại. Kết quả là thuận duyên lẫn nghịch duyên đều có nhiều chướng ngại. Chúng tôi nêu một thí dụ. Chẳng hạn như từ đây du hành qua Trung Điện[1], mục đích của quư vị mười phần rơ ràng, tư duy của quư vị do phát tâm sẽ mười phần rơ ràng, xác đáng. V́ thế, tới Đại Lư, quư vị sẽ không kẹt luôn tại Đại Lư, [trong khi ở lại Đại Lư, quư vị] cũng có thể tùy duyên xem xét [phong cảnh, phong tục ở Đại Lư], rồi lại ra đi. Tới Ly Giang, quư vị chẳng kẹt lại Ly Giang, v́ sao vậy? Mục đích của quư vị là Trung Điện, chẳng phải là không thấy, không nghe quang cảnh dọc đường. Quư vị đă thấy, cũng nghe, nhưng chẳng ảnh hưởng đích đến của quư vị. Có người trong t́nh huống mục đích chẳng rơ ràng, chắc là sau khi đă tới Đại Lư, bèn nói: “Thôi được rồi! Chắc là tới Trung Điện cũng giống như thế chớ ǵ!” Hoặc cảm thấy ngồi xe đúng khốn đốn quá, bèn nghĩ: “Thôi đi! Vất vả như thế th́ chẳng đi nữa!” Cũng có thể là sau khi đến Ly Giang, bèn nói: “Chẳng sai biệt nhiều lắm, cũng bất quá như thế đó”. Cứ như thế, chuyện đến Trung Điện vĩnh viễn đều chẳng làm được! V́ sao? Phát tâm chẳng rơ ràng, chẳng chọn lựa, chẳng hiểu rơ, chẳng thấy thấu triệt. V́ thế, bị cảnh tượng trên đường, dù nghịch hay thuận, thoải mái hoặc chẳng thoải mái, hai pháp ấy làm cho mai một.

          Nay chúng ta chuẩn bị nhiều tư lương như thế, là v́ lẽ nào? “Sở vị cầu thử tam-ma-đề” (v́ cầu tam-ma-đề này). Nếu đấy là nguyện vọng của ta, tốt lắm, đối với phong cảnh dọc đường, dù tốt, hay xấu, dù thuận hay nghịch, chúng ta cứ thẳng thừng nh́n ngắm, v́ sao? Chẳng trở ngại ngắm nghía, chẳng trở ngại hay biết. Dưới t́nh huống chẳng trở ngại, sẽ tiến thẳng đến mục đích. Người như thế thật sự có oai đức, có trí huệ trong thế gian. Nếu một chuyện là như thế, hai chuyện là như thế, mọi chuyện đều là như thế, người ấy sẽ đắc tự tại lực, tức là chẳng có chướng ngại, có sức tự tại như người tiến nhập cảnh giới không chướng ngại. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy: “Bồ Tát thanh lương nguyệt, thường hành tất cánh không” (Bồ Tát như trăng trong mát, thường hành Không rốt ráo), soi rơ, nhận biết thế gian, chẳng bị trở ngại. Do tâm trí vô ngại, mục đích rơ ràng, chỉ nhằm chiếu sáng thế gian, khiến cho chúng sanh đạt được thanh lương, quang minh, và vui sướng. Làm một người học Phật, nguyện vọng của chúng ta, rốt cuộc là “v́ cầu” điều ǵ? Nếu chẳng hiểu rơ ràng, hành xử sẽ như cỏ đầu tường, gió Đông thổi bèn ngả qua phía Tây, gió Tây thổi bèn ngả rạp sang phía Đông, chẳng thể nào không nghiêng ngả! Như thế th́ sẽ rất khó đạt được phương tiện.

 

          (Kinh) Phật pháp thậm thâm nan khả kiến, khai thị Thế Đế linh nhân tri.

          ()佛法甚深難可見。開示世諦令人知。

          (Kinh: Phật pháp rất sâu, khó thể thấy, khai thị Thế Đế cho người biết).

 

          Cảnh giới vi diệu rộng lớn rất sâu của chư Phật Như Lai, hết thảy phàm thánh chẳng thể suy lường mà biết được. V́ vậy, đức Phật nói đủ loại tỷ dụ theo thế tục để hữu t́nh phàm ngu trong thế tục, cho đến phàm thánh hữu t́nh có phương tiện để khế nhập, nhận biết ḥng tham chiếu, tức là “khai thị Thế Đế linh nhân tri” (khai thị Thế Đế khiến cho mọi người biết). Sự tham chiếu ấy chẳng phải là chân thật, mà là nói tương tự. Nếu đức Thế Tôn chẳng nói các loại tỷ dụ, các loại pháp, các cách nói tương tự, khiến cho chúng ta nhận biết và tiến nhập, chúng ta sẽ chẳng có cơ hội tiếp xúc. V́ sao? Chẳng hạn như chúng ta mong liễu giải loài cá suy nghĩ như thế nào, nhưng do là con người, chúng ta trải qua một ngàn năm, vạn năm, ngàn kiếp, vạn kiếp, cũng suy nghĩ chẳng thấu tỏ. Tuy có thể dùng các tỷ dụ như cá sống trong nước như thế nào, cảm giác như thế nào, nhưng đều là nói tương tự! Nếu muốn thật sự thấu hiểu, chúng ta chỉ có thể làm một con cá th́ mới có thể triệt để thể nghiệm sanh mạng và cảm giác của cá.

          Cũng giống như thế, đối với cảnh giới rất sâu vi diệu rộng lớn của chư Phật Như Lai, cho đến thiện xảo trí huệ rộng lớn, oai đức lợi ích rộng khắp thế gian, phàm phu hữu t́nh, hữu t́nh có trí, hữu t́nh thánh nhân, dẫu nói cùng tận, giảng giải cùng tận, tư duy cùng tận, tư duy nhiều lượt, tư duy cho đến hết đời vị lai, mọi người đều tập trung cùng nhau tư duy, cũng chẳng thể biết chút phần. Đó là sự chọn lựa, v́ sao? Chẳng cùng một tầng cấp, sẽ chẳng thể tương ứng! Trong phàm t́nh của chúng ta, tâm c̣n chưa ngưng nghỉ, bị tạo tác lừa dối, chẳng có cách nào biết rơ công đức của hữu t́nh đă đ́nh tâm. Chúng sanh chưa đ́nh tâm trong một thế giới, hai thế giới, hay vô cùng thế giới tập trung một chỗ, vẫn chẳng thể biết tâm của một vị Bồ Tát đă đ́nh tâm. Vô lượng vô biên hữu t́nh đều chứng đắc các địa vị Bồ Tát Thập Hạnh, Thập Trụ, Thập Hồi Hướng cũng đều chẳng thể biết tâm trí, cảnh giới, diệu dụng, oai đức, và phước huệ của một vị Sơ Địa Bồ Tát, v́ chẳng có cách nào biết, chẳng thể nhận biết. Bất luận chúng ta nói như thế này, như thế kia, nội hàm thực chất vẫn chẳng phải là như thế. Do đó, quư vị tới Ly Giang, đừng suy đoán Trung Điện cũng chẳng khác Ly Giang cho mấy. Tới Đại Lư, cũng đừng suy đoán Ly Giang, chẳng giống nhau đâu nhé! Đối với phong cảnh, chúng ta có thể quan sát như thế, nhưng nói theo sự sai biệt của đạo nghiệp, cũng chắc chắn là như thế.

 

          (Kinh) Bỉ như tự tánh sơ bất thiên, nhữ đương tùy thuận trí vô ngại, do nhật nguyệt thiên sơ xuất thời, Đế Thích tá thiên tam thập nhị, chúng cụ trang nghiêm thật châu phổ, cầu bỉ tam-muội diệc phục nhiên.

          ()彼如自性初不遷。汝當隨順智無礙。猶日月天初出時。帝釋佐天三十二。衆具莊嚴實周普。求彼三昧亦復然。

          (Kinh: Như tự tánh ban sơ chẳng dời, ông nên tùy thuận trí vô ngại, như khi nhật nguyệt thiên vừa mọc, băm hai thiên phù tá Đế Thích, các món trang nghiêm đều trọn khắp, cầu tam-muội ấy cũng giống vậy).

 

          Đế Thích Thiên có ba mươi hai quyến thuộc, mỗi vị thống nhiếp một phương. Kinh Hoa Nghiêm đă miêu tả một tiểu thế giới, bao gồm một núi Tu Di, hai vầng nhật nguyệt, Đao Lợi thiên cung, biển nước thơm v.v… mọi người có thể t́m đọc. Chẳng biết trong các hữu t́nh hiện tiền, mấy vị có thể liễu giải trạng thái của Đao Lợi Thiên? Nói thông thường, người có Thiền Định có thể đến các cung trời thuộc Sắc Giới và Dục Giới, [sau đó, khi] trở lại [ở trong] nhân loại, phần nhiều chẳng thể chịu đựng nổi! V́ thế, trong quá khứ có nói: Một số người có Thiền Định bèn “tọa thoát” (ngồi mà mất), tức là họ chẳng cần sắc thân này nữa! Có khi trong lúc tọa Thiền, cảm nhận sắc thân này nặng nề, thần thức liền thất lạc. Nói “thất lạc” tức là tham cầu các cảnh sắc ấy. V́ cảnh sắc trong Dục Giới Thiên, dẫu diễn nói cùng cực, dẫu là kẻ giàu có tột bậc trong nhân loại, đều chẳng thể sánh ví được! Rất nhiều người ngỡ chính ḿnh đang sống nơi đô thị phồn hoa, hoặc ở trong hoàn cảnh ưu việt, nhưng đều là chẳng có cách nào sánh bằng cơi trời. Sự sai khác nơi phước đức [giữa thiên cung và nhân gian] khó thể diễn tả hay thí dụ. Sự sai khác nơi thiện xảo [giữa nhân loại và thiên chúng] khó thể diễn tả, tỷ dụ được!

          Người hiện thời tâm trí ră rời, phần nhiều chẳng thành tựu tam-muội. Do vậy, chẳng đạt được phương tiện như các hữu t́nh trong các thế giới khác, càng chẳng đạt được phương tiện thiện xảo như trong các thế giới khác. V́ thế, phần đông mê muội trong cảnh giới hiện tại, phiền năo hừng hực, chạy theo nghiệp tập của chính ḿnh, xoay vần trong cơ chế sanh mạng hữu hạn. Phần Đoạn Sanh Tử này kết thúc, chắc là sẽ tạo các nghiệp mới, rồi lại hoàn thành một Phần Đoạn Sanh Tử khác, rất khó tiến nhập các thế giới khác, rất khó cảm nhận trạng thái ư thức sanh mạng.

          Thông thường, nếu một người đă tiếp xúc chúng sanh hèn kém, sẽ dễ cảm nhận những điều ấy hơn. Chẳng hạn như đa số người sống ở vùng Đông Bắc [Trung Hoa] đều thờ cúng quỷ thần, nhân loại rất dễ thấu hiểu sự kém hèn của các loại quỷ thần ấy. Chúng tôi nêu thí dụ này, mọi người đừng cho là chê trách! Đây là chuyện phát sanh không lâu trước kia. Có một vị cư sĩ t́m tôi, ông ta rất hoang mang, nói: “Ối trời ơi! Sư phụ ơi! Con gặp một chuyện quá linh thiêng! Cư sĩ X… ở chỗ Y… lập một điện thờ, thờ phụng quỷ thần linh lắm! Tất cả những ǵ quư vị biết, bất luận ba mươi năm trước, hay ba mươi năm sau, nhà nào, người nào, ông ta đều biết, quả thật là quá linh!” Tôi nghĩ chắc là kẻ bị hồ ly dựa thân, bèn bảo ông ta kể xem ngôi miếu ấy thiết trí như thế nào. Sau đó, hỏi hoàn cảnh sống thông thường của người ấy có phải là thích đào dưới đất thứ chi đó hay không? Vị cư sĩ ấy nói: - Đúng rồi! Nhà ông ta chẳng cần cửa cái, cũng chẳng có cửa sổ. Dưới chân tường đào một cái hang, người khác ra vào cần phải từ dưới ḅ qua. Thoạt đầu, mọi người tạo cho ông ta một cái cửa, nhưng sau khi tạo xong, ông bèn đóng đinh gắn chặt, chẳng thể theo cửa ra vào được! Đấy chính là thói quen [sống trong hang của loài hồ ly]! Cớ sao con người dễ tiếp nhận sự nhận biết của sanh mạng hèn kém? V́ đối với các thứ hèn kém thô tháp hơn quư vị, phước đức của quư vị lớn hơn chúng nó. Chỉ cần quư vị hơi phóng túng đôi chút, sẽ lẫn lộn với chúng nó, giống như một vật từ chỗ cao rơi xuống sẽ dễ dàng hơn nâng một vật từ dưới thấp lên cao khá nhiều!

          Chuyện kiểu này rất phổ biến tại nhiều nơi ở Đông Bắc. Người ta đến cầu đảo, dùng sanh mạng trân quư của nhân loại để cúng dường chúng nó, khiến chúng nó hết sức khoái chí! Giống như chư thiên đến cúng dường chúng ta, chúng ta sẽ có sự cảm nhận như thế nào? Nếu có một vị trời quan tâm quư vị, sẽ giống như chúng ta chăm sóc cún con, mèo bé. Buổi tối, chúng ta mở đèn pin soi, con cún sẽ cảm thấy một cột sáng khá lớn: “Đó là ánh sáng ǵ vậy? Chẳng thể nghĩ bàn!” Đối với chúng nó mà nói, chắc chắn là chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta cho chúng nó thức ăn ngon, đồ vật để ngủ yên, là v́ chúng ta có rất nhiều thứ, tất cả các thứ thuận tiện đều có thể thiết trí cho chúng nó. Làm sao chúng nó nghĩ ra phước báo của chính ḿnh do đâu mà có, chỉ con người là có thể tạo tác cho chúng nó. Có khi, một vị trời đến chiếu cố chúng ta, [thể hiện các điều kỳ diệu] như tướng sáng, hương mầu nhiệm, tâm trí điều nhu, và cảm nhận thù thắng mầu nhiệm, thiện duyên rộng lớn, tâm trí thong dong, đều hiện tiền, nhưng quư vị thường chẳng tưởng tượng được v́ sao có sự thiện xảo tăng thượng to ngần ấy? Sẽ giống như một người mười phần oai đức đến chăm sóc một kẻ nghèo mạt rệp, kẻ nghèo mạt rệp rất tự nhiên được thoải mái, có thể thỏa măn các nhu cầu hiện tiền của chính ḿnh. Giống như vậy, nếu chúng ta thờ cúng các sanh mạng hèn kém, sẽ rất dễ mười phần tương ứng với chúng nó, tức là nếu quư vị muốn sống giống như mèo, chó, giữ giới của mèo, giới của chó, sẽ rất dễ dàng ḥa nhập!

          Tại một thánh địa của Ấn Độ Giáo, chúng tôi thấy mấy gă ngoại đạo trần truồng bôi đầy tro than. Trong sự tu tŕ của bọn họ, tro bụi được coi là Bố Thí trong tu tŕ Lục Ba La Mật. Tức là dùng tro thiêu xác người chết để bôi đầy thân thể của chính ḿnh, ḥng giảm bớt tướng vi tế nơi sắc thân của chính ḿnh. V́ sau khi bôi tro, thân thể con người sẽ thô ráp giống như da ngựa, da trâu. Đó là tu tŕ ǵ vậy? Tu tŕ sao cho có trạng thái và cảm giác giống như động vật. Cách tu theo kiểu ấy đâm ra dễ dàng, v́ chẳng cần nhờ vào bất cứ thứ ǵ. Trong Tạng Truyền Phật Giáo, có cách tu được gọi là “đệ nhất bố thí”, tức là buông bỏ hết thảy những thứ ḿnh có, dùng tro đất để che xấu, chống lạnh, ngăn ngừa côn trùng. Nay chúng ta cần trang phục, đức Thế Tôn đối với trang phục đă đúng lư xem xét kỹ càng, cho rằng y phục giúp cho nhân loại tôn nghiêm, ngăn ngừa loài trùng gây hại, chống đỡ mưa gió, chống đỡ rét lạnh, cho đến chống đỡ nóng bức. Trang phục dấy lên tác dụng như thế, ở đây, [ngoại đạo] dùng tro để giải quyết vấn đề.

          Giống như chư thiên gia tŕ, nếu là sức tam-muội gia tŕ chúng ta, chúng ta cũng phải có chủng tử trong tâm địa, tức là phước đức tương ứng. “Cầu bỉ tam-muội diệc phục nhiên” (cầu tam-muội ấy cũng giống như vậy): Trong phần trước đă nói đủ loại cúng dường, ở đây, nêu ra chư thiên để làm thí dụ, mục đích vẫn là cầu tam-muội này.

 

          (Kinh) Thí như Phạm thiên xử chúng Phạm, oai nghi tịch tĩnh công đức viên.

          ()譬如梵天處梵衆。威儀寂靜功德圓。

          (Kinh: Như Phạm Thiên giữa các Phạm chúng, oai nghi tịch tĩnh, công đức trọn).

 

          Trong hết thảy các chúng sanh thuộc về thiện pháp, Phạm Thiên Vương tôn quư, thù thắng nhất, oai đức trang nghiêm, trọn đủ diệu tướng. Nếu Đế Thích ở trước mặt Phạm Vương, sẽ lộ rơ dáng vẻ rất xấu xí, thô kệch; nhưng nhân loại chúng ta nếu đem so với Đế Thích, cũng chẳng có cách nào sánh bằng. Dẫu h́nh tướng của một sợi lông nơi thân chúng ta cũng đều chẳng có cách nào sánh bằng ông ta. Quư vị nói “lẽ nào con người kém cỏi như vậy ư? Nếu như đem con kiến so sánh với con người, con kiến cũng chẳng có cách nào so sánh với chúng ta. Đó là nói so sánh. V́ sao hiện thời sanh mạng của nhân loại thuộc trạng thái không ngừng đi xuống? Quả thật là do ḷng kiêu mạn của chúng ta. Cảm giác “chính ḿnh ưu việt” của con người càng ngày càng mạnh; đúng là cái tâm kiêu mạn dần dần tổn giảm cơ thể, cơ chế, nhân duyên bề ngoài của sự sanh tồn, và sức khỏe nội tại của chúng ta. V́ hễ chúng ta kiêu mạn, trời đất sẽ tổn giảm chúng ta, bản thân chúng ta cũng đang tiêu hao chính ḿnh.

 

          (Kinh) Dũng mănh tinh tấn bất khả xưng, bỉ cầu tam-muội diệc như thị.

          ()勇猛精進不可稱。彼求三昧亦如是。

          (Kinh: Dũng mănh tinh tấn chẳng thể nói, người cầu tam-muội cũng như vậy).

 

          Phạm Thiên thành tựu thiện pháp tôn quư, thành tựu tinh tấn, ở trong các Phạm chúng (chư thiên thuộc cơi trời Đại Phạm) rất chẳng thể nghĩ bàn! Đức Thế Tôn chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, dẫn một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ-kheo du hóa các nước. Có một lúc nọ, đến nước Xá Vệ; khi đó, cha Ngài trông thấy liền rơi lệ, nói: “Đức Thế Tôn đă đích thân chứng Vô Thượng Bồ Đề, diệu tướng trang nghiêm, thân như vàng ṛng. Cớ sao quyến thuộc nhếch nhác như thế?” V́ trong một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ-kheo, phần nhiều là thủ lănh của ngoại đạo, hay quyến thuộc của ngoại đạo, tuy theo đức Phật đă chứng đắc A La Hán quả, nhưng nghiệp tập từ vô thỉ đến nay che lấp, in dấu quá sâu. Do nghiệp tướng như thế, tướng mạo phần nhiều chẳng đẹp đẽ, chẳng phải là tướng c̣m nhom, xám xịt, vàng vọt, th́ cũng là h́nh tướng tiều tụy, như các ngoại đạo thờ lửa, thân thể đều khô khan, vàng vọt. Khi đó, Tịnh Phạn Vương bèn đề nghị, mỗi gia đ́nh trong tộc Thích Ca chọn ra một người nam đẹp nhất đi xuất gia, ḥng khiến cho Tăng đoàn của Phật Thích Ca trang nghiêm trọn đủ, khiến cho chúng sanh trong thế gian an lạc. V́ sao nói đến chuyện này? Nhằm nói nghiệp báo sai biệt quá lớn! Dẫu chứng quả, nghiệp từ quá khứ vô thỉ vẫn c̣n che lấp chúng ta.

          Trong cơ chế của nhân loại, trong tam giới, tức Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, có đại thiện xảo, tức là thiện xảo trong chọn lựa, nhưng có khuyết điểm to lớn, tức là hiện thời thọ mạng của nhân loại quá ngắn. Ba ngàn năm trên cung trời Đâu Suất là năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm trong nhân gian, làm sao có thể so sánh cho được? Người hiện thời thọ trăm tuổi, th́ trong năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm đó, phải chịu luân hồi sanh tử khổ nạn bao nhiêu lần? Bao nhiêu đời thọ thai, mang thai, sanh ra, trưởng thành, tử vong, tuần hoàn chẳng ngừng như thế? Có đau khổ hay chăng? Nếu người hiện thời thọ năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm, chúng ta ngồi đây chờ Phật Di Lặc [giáng thế] là được rồi, chẳng cần dùng pháp chi khác! Chủ yếu là chẳng thể so sánh tương tự được, nhân loại dễ nẩy sanh tự kiêu mạn, chẳng dễ biết “sanh tử vô thường” như đức Thế Tôn đă dạy, sẽ dường như cảm thấy chẳng liên quan ǵ với ḿnh, tợ hồ chẳng liên quan với vô thường, nhưng vô thường thường xuyên bức bách quư vị. Những người già suy, các bệnh nhân ung thư, họ thật sự biết vô thường là ǵ. Đối với lời dạy “hôm nay c̣n sống, khó bảo toàn ngày mai” của đức Thế Tôn, sẽ cảm nhận mười phần rơ rệt.

          “Dũng mănh tinh tấn bất khả xưng” (Dũng mănh, tinh tấn chẳng thể nói): Công đức do Phạm Thiên đă chứng do vậy mà có. Ông ta có diệu tướng trang nghiêm như thế, có oai đức như thế, c̣n chúng ta giải đăi chẳng thể nói được! Trong một ngày, chúng ta có bao nhiêu ư niệm? Mà trong các ư niệm ấy, lại có bao nhiêu ư niệm là rơ ràng, trí huệ, sáng suốt? Có bao nhiêu ư niệm điên đảo, bất đắc dĩ? Nếu chúng ta có thể tính toán, dẫu chỉ tính được số lượng ư niệm th́ cũng khá lắm rồi. Nếu không, đúng là ngày qua ngày luống uổng, sau này sẽ hối hận!

 

          (Kinh) Hựu như y vương xử thế gian, cấp thí bệnh giả chúng diệu dược. Tùy thuận chư Phật thanh tịnh tâm, sơ vị tằng ly bổn Không tánh.

          ()又如醫王處世間。給施病者衆妙藥。隨順諸佛清淨心。初未曾離本空性。

          (Kinh: Lại như y vương trong thế gian, ban thuốc nhiệm mầu cho người bệnh. Tùy thuận chư Phật tâm thanh tịnh, chưa hề ĺa tánh Không vốn có).

 

          Chúng sanh là người bệnh. “Tùy thuận chư Phật thanh tịnh tâm”: Đó là vị thuốc tốt lành nhất. Tùy thuận quả địa giáo chính là vị thuốc triệt để nhất. Đúng là có vô lượng vị thuốc, nhưng có thuốc chẳng thể trừ tận gốc chứng bệnh. Trong ba loại tâm Bồ Đề, Vô Thượng Bồ Đề tâm có thể trừ tận gốc bệnh của hết thảy chúng sanh. Thanh Văn Bồ Đề tâm và Duyên Giác Bồ Đề tâm có thể trừ chút phần, hoặc nhiều phần bệnh nạn cho chúng sanh. Tứ sanh cửu hữu trong thế gian, trong tam giới, đều là bệnh nhân, bệnh ǵ vậy? Từ trong các pháp, vốn chẳng có trần nhiễm, mà hư vọng tự nhiễm trần, luân hồi trong sáu nẻo, chẳng thể tự dứt, chẳng thể khống chế được!

          “Tùy thuận chư Phật thanh tịnh tâm, sơ vị tằng ly bổn Không tánh” (tùy thuận cái tâm thanh tịnh của chư Phật, từ thoạt đầu chưa hề ĺa khỏi tánh Không vốn có): Tuy chúng ta tùy thuận cái tâm thanh tịnh của chư Phật Như Lai, nhưng xét theo cái sẵn có để nói, chúng ta chưa từng ĺa khỏi cái tâm thanh tịnh ấy! Đây thật sự là lời nói hy hữu! Các vị thiện tri thức ơi! Thật sự phải khéo tư duy, khéo quan sát, chúng ta sẽ lănh hội được câu nói này. Thuốc được bố thí thật sự là thứ ta sẵn có. Sự khoẻ mạnh được bố thí thật ra vẫn đang sẵn có. Nhưng nếu chẳng có quá tŕnh tùy thuận ấy, cái “sẵn có” như chúng ta vừa nói chỉ là nói suông, hư vọng, là kiêu mạn và tà kiến.

 

          (Kinh) Thí như Tuyết sơn, chư sơn vương, vĩ diệp đồng ư Chuyển Luân đế, diệc như bảo liễn diệu trang nghiêm, bỉ kiến chư Phật chúng tướng măn. Hựu do hộc vương tuyệt minh bạch, xử không tự tại vô ngại du. Như thị chư Phật kim sắc thân, Thế Tôn chân tử như tư niệm.

          ()譬如雪山諸山王。煒燁同於轉輪帝。亦如寶輦妙莊嚴。彼見諸佛衆相滿。又猶鵠王絕明白。處空自在無礙遊。如是諸佛金色身。世尊真子如斯念。

    (Kinh: Ví như núi Tuyết, các núi chúa, rạng rỡ giống như Chuyển Luân Vương. Cũng như xe báu diệu trang nghiêm, trông thấy chư Phật tướng viên măn. Lại như hộc chúa[2] tuyệt trắng sạch, tự tại vô ngại lướt hư không. Thân chư Phật sắc vàng như thế, chân Phật tử nghĩ nhớ như vậy).

 

          Dùng các cảnh mà các loài chúng sanh thuộc Tục Đế trông thấy để làm tỷ dụ, muốn khiến cho chúng ta sanh khởi tín tâm nương cậy và tùy thuận quyết định đối với chư Phật Thế Tôn. Do muốn thấy chư Phật, chỉ có đối với Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội mà có một nguyện vọng mănh liệt, chân thật, rốt ráo, rơ ràng như thế, chúng ta mới có cơ hội đích thân chứng đắc!

 

          (Kinh) Vô cấu tam-muội tịnh trí đăng, năng phá đại minh chư hắc ám, bỉ trừ nhất thiết chúng vật tưởng, niệm chư Phật trí vô ngại quang. Chư cấu tiêu diệt vô sân độc, vô minh thanh tịnh diệu trí nhân. Nhược năng quán thị vô tự tha, bỉ chung vô hữu chư sắc tướng.

          ()無垢三昧淨智燈。能破大冥諸黑暗。彼除一切衆物想。念諸佛智無礙光。諸垢消滅無瞋毒。無明清淨妙智人。若能觀是無自他。彼終無有諸色相。

          (Kinh: Đèn tịnh trí vô cấu tam-muội, phá trừ các hắc ám đen kịt, ai trừ hết thảy tưởng mọi vật, nghĩ chư Phật trí quang vô ngại. Tiêu diệt các cấu, chẳng sân độc, là người diệu trí, sạch vô minh. Nếu quán rơ chẳng có ta, người, sẽ trọn chẳng có các sắc tướng).

 

          Thấy sắc, phá sắc. Từ trong vô sắc mà thấy chư Phật, cho nên “chẳng chấp Sắc, chẳng hoại Sắc” là phương tiện hành pháp. Trông thấy sắc mà không giữ lại ǵ; đó là phương tiện để thấy Phật. Khá nhiều người hành Ban Châu, do hai pháp chấp tướng và sợ tướng mà bị trở ngại. Người chấp tướng hễ thấy tướng bèn cho là có cái để đạt được, sau đó bị trở ngại. Kẻ sợ tướng liền chẳng dám thấy tướng, cũng bị trở ngại trong tu pháp. V́ thế, cứ một đường mà đi, quang cảnh hai bên đường cứ mặc t́nh đối diện, nhất định chớ nên đắm nhiễm chúng, mà cũng chớ nên hoại sắc. Nếu hoại sắc, tức là sợ sắc. Như thế cũng chẳng được thấy Phật, sanh ra Đoạn Kiến xấu ác!

 

          (Kinh) Vô nghi hoặc trung tịnh trí sanh, tất năng đoạn tư chư Hữu Kiến.

          ()無疑惑中淨智生。悉能斷斯諸有見。

          (Kinh: Do chẳng nghi hoặc, tịnh trí sanh, ắt đoạn trừ các Hữu Kiến ấy).

 

          Mọi người trong quá tŕnh tu tập pháp, khi trao đổi, sẽ có khá nhiều cái gọi là “chư Hữu kiến”, hoặc là chấp vào ngoan không, hoặc cho là có sắc, hoặc cho là có thức, hoặc là vô thức, cũng có nghĩa là hai loại Biên Kiến Đoạn Diệt và Thường Kiến đă “ăn ṃn” khá nhiều hữu t́nh, c̣n kẻ có kiến giải thanh tịnh hiếm hoi, tức là các tri kiến b́nh đẳng, thanh tịnh, vô nhiễm, vô chấp. Các tri kiến ấy là do một niệm vừa chuyển mà h́nh thành, từ trong thức tâm lưu xuất đối đăi, tổn hại tâm trí thanh tịnh của chúng ta. Cái gọi là “thức tâm” chính là phân biệt thức, nó kiến lập vô lượng vô biên pháp tắc, nhưng thật ra đều là pháp tắc của phàm ngu!

 

          (Kinh) Diệc dĩ diệt vong ấm giới tưởng, văn pháp trừ năo, đắc thanh lương.

          ()亦已滅亡陰界想。聞法除惱得清涼。

          (Kinh: Cũng đă diệt mất ấm giới tưởng, nghe pháp trừ năo, đạt thanh lương).

 

          “Ấm giới”: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức được gọi là Ngũ Ấm; sau này, c̣n được dịch là Ngũ Uẩn. Trước thời pháp sư Huyền Trang, dịch theo lối cũ là Ngũ Ấm, [c̣n dịch theo lối mới (cách dịch do ngài Huyền Trang đề xướng) th́ là Ngũ Uẩn], như trong Tâm Kinh có câu “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, cũng có khi dịch là “chiếu kiến ngũ ấm giai không”. Lại như kinh Lăng Nghiêm nói về năm mươi ấm vực, thật ra là năm mươi uẩn vực. Phương pháp phiên dịch sai khác, nhưng nội dung chẳng khác, đều là bị Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức năm giới ấy nhiếp tŕ. V́ trong Sắc Giới, tất nhiên là bị năm sự tướng thuộc về cảm nhận là Thọ, Tưởng, Hành, Thức ấy nhiếp tŕ, hoặc dính chặt vào đó, hoặc sợ hăi trong đó, hoặc mờ mịt trong đó, trong ba pháp là thiện, ác, hay vô kư đều bị vướng mắc, bị hạn chế ở trong ấy.

          Giới () có nghĩa là “chẳng thể vượt qua”. Chúng ta đến sân bay, trạm xe lửa, hay trạm xe hơi, đều có nhận biết, thường có thể trông thấy một cái cửa thủy tinh lớn: Chúng ta có thể nh́n xuyên qua, nhưng chẳng đi qua được. V́ sao? Có một tầng ngăn cách, bất luận là tầng ngăn cách ấy trong suốt hay không. Có người có thiện pháp, chẳng hạn như giải ngộ một pháp, nhưng tuy có giải ngộ, chẳng thể vượt qua giới ấy, tức là chẳng thể bén mảng các pháp tắc khác. Khá nhiều người nói: “Tôi hiểu rơ đạo lư này”, nhưng vẫn có cái giới hạn ấy, chẳng có sức để vượt qua, giống như ruồi bọ đâm vào kính vậy, nói chung là chẳng thể xuyên qua! V́ sao? Do chẳng có phương tiện đối với pháp, nào có biết pháp nhằm mở cho chúng ta một cái cửa để ra vào. V́ thế, rất nhiều người v́ pháp mà bị cách ngăn, v́ chẳng hiểu mà bị cách ngăn, v́ chẳng có pháp mà bị cách ngăn, v́ nghiệp tướng chấp trước mà bị cách ngăn v.v… chướng ngại nhân duyên hiện tiền của chính ḿnh, chẳng thể tự thoát ra.

          Ấm giới có lẽ là một vấn đề mà người kinh hành Ban Châu, hoặc người niệm Phật, người học Phật đều phải nên chú ư. Chúng ta thường quan sát sẽ biết. Rất nhiều người nói: “Tôi hiểu rơ đạo lư này, nhưng chẳng sử dụng được!” Cũng giống như nói: “Tôi thấy các thứ bên ngoài, nhưng chẳng thoát ra được”. Vẫn là bị trở ngại. Chướng ngại ấy ở chỗ nào? Quư vị phải giải quyết. Nếu chẳng giải quyết được, chuyện hiểu rơ đạo lư này đâm ra trở thành thủy tinh, thành phương tiện trở ngại quư vị ra vào tự tại, giao lưu rộng lớn.

 

          (Kinh) Tỳ-kheo đương tri chư Phật tử, cập dĩ thanh tịnh tỳ-kheo-ni, bỉ ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, nhược năng niệm thử, đắc tam-muội.

          ()比丘當知諸佛子。及以清淨比丘尼。彼優婆塞優婆夷。若能念此得三昧。

          (Kinh: Tỳ-kheo nên biết các Phật tử, cùng với thanh tịnh tỳ-kheo-ni, các ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, nếu niệm điều này, đắc tam-muội).

 

          Những điều được nêu ra trên đây, vẫn hy vọng chúng ta sẽ đích thân chứng tam-muội, hướng tới tam-muội, đọc tụng giáo điển tam-muội này sẽ có sự quy y chọn lựa rơ ràng, cũng như tuân theo pháp tắc.

 

17. Phẩm thứ mười ba: Hiện Tiền Tam-muội Trung Thập Pháp Bát Pháp

 

          (Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh, quyển đệ ngũ.

          Hiền Hộ Phần, hiện tiền tam-muội trung thập pháp, bát pháp, phẩm đệ thập tam.

          ()大方等大集賢護經卷第五。

   賢護分現前三昧中十法八法品第十三。

          (Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ, quyển thứ năm.

          Hiền Hộ Phần, phẩm thứ mười ba: Mười pháp và tám pháp trong hiện tiền tam-muội).

 

          Mười pháp hay tám pháp là các yêu cầu cơ sở của đức Thế Tôn đối với sự trao đổi, giải nói Ban Châu tam-muội. Trong pháp bổn này, đức Thế Tôn đă cụ thể, rơ ràng bày ra pháp tắc tu tập như thế nào, pháp tắc thành tựu trọn đủ như thế nào, cho đến nói các yêu cầu cơ sở để trao đổi với người khác và thực hiện như thế nào. Ở đây, chúng ta hăy xem nội dung cụ thể của tám pháp và mười pháp.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: - Hiền Hộ! Nhược hữu tỳ-kheo, nhạo dục tu tập thử tam-muội giả, tiên đương tư duy bỉ vô tướng tưởng.

          ()爾時世尊。復告賢護菩薩言。賢護。若有比丘。樂欲修習此三昧者。先當思惟彼無相想。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: - Này Hiền Hộ! Nếu có tỳ-kheo ưa thích tư tập tam-muội này, trước hết hăy nên tư duy vô tướng tưởng).

 

          “Tiên tư duy bỉ vô tướng tưởng” (trước hết, hăy tư duy vô tướng tưởng), đây là điều quan trọng hàng đầu. Trong duyên khởi của hết thảy các pháp, nếu chẳng dùng “pháp không có tự tánh” làm duyên khởi, vậy th́ người ấy tu theo tri kiến của ngoại đạo, người ấy hành pháp ngoại đạo, chẳng thể chứng Bồ Đề Phần theo giáo ngôn Bồ Đề của đức Thế Tôn. V́ sao? Đấy là chỗ khác biệt căn bản giữa người học tập Phật pháp chúng ta và tri kiến ngoại đạo. Chẳng hạn như trong Biên Kiến, trong tri kiến đối lập, sẽ chẳng có cách nghĩ vô tướng. Hễ tư duy bèn nẩy sanh các loại tà kiến như đoạn diệt hay ngoan không. “Vô tướng tưởng” thật sự là vô nhiễm tưởng, vô trước tưởng (tưởng không chấp trước), mà cũng là thiện xảo vô tự tánh tưởng.

 

          (Kinh) Kư tư duy dĩ, ngă mạn bất sanh.

          ()既思惟已。我慢不生。

          (Kinh: Đă tư duy rồi, chẳng sanh ngă mạn).

 

          V́ trọn chẳng có các tướng để có thể đạt được, cho nên chẳng có pháp đối đăi có thể sanh, mạn tâm chẳng thể được, cái tâm ty tiện cũng sẽ mất đi, tâm trí b́nh đẳng tự nhiên thuần thục. Do vậy, thấy Phật chẳng khó, như nước lặng soi vật, tự nhiên chẳng khó. Nhưng trong thời Mạt Pháp, phần nhiều là tâm con người bị kiêu mạn che khuất, ngăn chặn.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Trừ mạn cao dĩ, tâm ư thái nhiên.

          ()賢護。除慢高已。心意泰然。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Đă trừ ngạo mạn, kiêu căng, tâm ư thanh thản).

 

          V́ sao vậy? B́nh đẳng, an tường, thơ thới, tâm đă hiểu rơ. Tà kiến kiêu mạn che lấp hữu t́nh, giết chết đạo đức và thiện căn của con người rất nhanh chóng. Rất nhiều vị xuất gia học Phật, hoặc tại gia Bồ Tát khiến cho người khác rất tiếc nuối v́ đă đánh mất sự tôn trọng đối với chính ḿnh và đối với người khác trong hiện tiền, đánh mất sự cung kính như thật, cũng như sự cung kính xa ĺa hư luận. Có người biến tôn trọng trở thành hư luận, trở thành một vật chẳng thật. Đó là đă đánh mất trân bảo ngay trong hiện tiền, [trân bảo] chính là tất cả lợi ích rộng lớn nơi y báo và chánh báo trong hiện tiền. Nếu đúng như thật tôn trọng bằng cái tâm cung kính, b́nh đẳng thủ hộ, ngay trong hiện tại sẽ là trân bảo. Đấy chính là một liều thuốc chống mục nát. “Chẳng cung kính” chính là mục nát, nhưng vị thuốc ấy có thể khiến vật mục nát hóa thành trân bảo chẳng ngoài một sát-na, chẳng ĺa khỏi bản thể. Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta kết giao với kẻ khác, cùng ở với người khác, cùng tham học với người khác, thí giáo cho người khác, cho đến hướng về người khác xin chỉ dạy, nếu chẳng dùng cái tâm cung kính, chân thành, kẻ ấy sẽ chẳng đạt được thành tựu. Đó là chỗ trân bảo tồn tại.

 

          (Kinh) Viễn ly chúng tướng.

          ()遠離衆相。

          (Kinh: Xa ĺa các tướng).

 

          Tức cái được gọi là “tâm trí thanh tịnh b́nh đẳng”. Đấy là chỗ đặt đại ma-ni bảo. Thanh tịnh b́nh đẳng có thể xuất sanh hết thảy các công đức.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, tức ưng vị tha tuyên thuyết như thị tam-muội.

          ()爾時即應爲他宣說如是三昧。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, hăy nên v́ người ấy lập tức tuyên nói tam-muội như thế).

 

          Khi tuyên nói tam-muội cho người khác, nếu có nhân tướng, ngă tướng, chúng sanh tướng, hoặc nếu có kiêu mạn, sẽ khó thể trao đổi pháp này. Trước kia, tôi tiếp xúc khá nhiều người chưa học tập pháp tắc này, và những người nghi hoặc pháp này, v́ sau khi họ trông thấy những kẻ kinh hành Ban Châu mà tâm kiêu mạn, tự đại, bèn sanh khởi ḷng ngờ vực, hối hận. Đương nhiên cũng có các chúng sanh do bản thân có tâm kiêu mạn, ghen tỵ mà tự nẩy sanh chướng ngại cho chính ḿnh. Khi hai thứ vấn đề ấy đă chín muồi, sẽ sanh ra báng pháp, nghi pháp, cho đến gặp pháp mà chẳng muốn hành, chẳng muốn biết rơ hậu quả xấu ác như thế. Do vậy, chúng ta quán các tướng vô tướng, xa ĺa kiêu mạn, sanh tâm chân thành, b́nh đẳng, như thế th́ trao đổi tam-muội với người khác sẽ có ư nghĩa, người khác sẽ cảm thấy thân thiết, đáng mến, chân thật, tương ứng. Nếu dùng cái tâm kiêu mạn để trao đổi pháp tắc với người khác, thật sự sẽ tổn hại thế gian, lừa dối, làm nhục thế gian, lừa dối làm nhục loài hữu t́nh khác, v́ mọi người vốn sẵn đủ công đức ngang bằng với chư Phật, chỉ là xét theo phương diện dấy khởi tác dụng th́ có sai khác, cớ ǵ quư vị kiêu mạn? Đó là chuyện mười phần trọng yếu khi tuyên nói tam-muội này, mà cũng là một điều kiện quan trọng hàng đầu!

          Tôi nhớ khi sắp mở pháp hội Ban Châu lần thứ nhất, rất nhiều người hỏi tôi về vấn đề sắp đặt cúng dường. Tôi nói: “Hiện thời, hết thảy đại chúng đều có tư cách cúng dường chư Phật, tán thán pháp tắc này, nhưng không có bất cứ một ai có thể tiếp nhận sự cúng dường ấy. Nếu nói nhờ vào nhân duyên của cá nhân tôi để tiếp nhận sự cúng dường ấy rồi hồi thí cho Tam Bảo, hồi thí cho pháp tắc, tôi sẽ bằng ḷng làm một sứ giả như vậy. Làm một người hầu th́ tôi làm được, nhưng nếu nói cúng dường tôi th́ không được”. Sau đó, thực hiện một pháp hội cúng dường, mọi người dùng đủ loại vật chất để cúng dường, cúng dường bằng lễ bái, tán thán, cúng dường bằng niệm tụng để tán thán pháp tắc này tồn tại và được lưu truyền trong cơi đời, tán thán ḷng từ bi và oai đức của chư Phật Thế Tôn, quả thật là chẳng có người nào trong chúng ta đáng nên tiếp nhận vật cúng dường. Nếu trong chúng ta có người đích thân chứng tam-muội, hoặc như thật an trụ trong tam-ma-ba-địa, tôi nhất định sẽ cực lực đề cử mọi người cúng dường người đó. V́ sao vậy? Nương theo vị thành tựu ấy sẽ đạt được thiện xảo, sẽ rất dễ dàng khế nhập tam-muội.

          Trong pháp tắc này, v́ sao chúng ta chẳng dám tiến một bước lớn? Trong ấy, có một điều là v́ thiện căn và phước đức của người trong thời đại này chẳng đủ, pháp duyên chẳng đủ. Nếu dễ dăi truyền bá rộng khắp, sẽ tạo thành cơ chế xấu ác khiến cho kẻ khác báng pháp, nghi pháp. V́ thế, hiện thời dùng kiểu hành tŕ một ngày một đêm làm chánh yếu, dần dần tiếp nối thành thục như thế, sẽ có thể khiến cho thân tâm của mọi người có chỗ y chỉ, có chỗ y chỉ đối với pháp tắc, có thiện xảo tiến nhập. Như thế th́ sẽ có thể lợi ích rất nhiều trời, người, cho đến chẳng thể nghĩ bàn hữu t́nh trong thế gian. Nếu chúng ta có những thứ bộp chộp, chẳng tương ứng, hay kiêu căng, sẽ có các pháp tắc “nói năng chẳng phù hợp thực chất, cho đến gây nguy hại hoặc ngăn che pháp này, thậm chí hủy diệt sự tồn tại của pháp bổn này trong thế gian! Do đó, đối với pháp này, nếu chẳng thuận theo kinh giáo, chẳng thuận theo pháp tắc do các vị thiện tri thức thành tựu trải các đời truyền lại, chúng ta sẽ rất khó như thật truyền bá, đánh mất kinh điển như thế để y chỉ, hoặc liễu giải nên trao đổi như thế nào!

 

          (Kinh) Bất ưng khởi tránh. Thị trung, vân hà danh vi Tránh dă? Sở vị vọng tưởng phỉ hủy, tức báng ư Không, danh vi Tránh dă.

          ()不應起諍。是中雲何名爲諍也。所謂妄想誹毀。即謗於空。名爲諍也。

          (Kinh: Chớ nên dấy lên tranh chấp. Trong ấy, thế nào là “tranh chấp?” Tức là vọng tưởng phỉ báng, hủy báng, tức là báng bổ đối với Không, th́ gọi là tranh chấp).

 

          Tánh của các pháp vốn là Không, chẳng có trần nhiễm, chẳng có một pháp để có thể thành. Kẻ chẳng tương ứng với tâm trí như vậy, sẽ có tâm tranh chấp. Nếu ai đă chứng đắc Vô Tránh tam-muội, sẽ đối với hết thảy thế gian đều có thể bao dung, b́nh đẳng thủ hộ. V́ sao vậy? Do tâm trí chẳng vướng mắc, chẳng đối đăi. Trong khi tu nhân, A Di Đà Phật dùng Vô Tránh tam-muội làm căn bản để thủ hộ, làm cội gốc để quy kết ba thứ thệ nguyện căn bản, tức là Vô Tránh, có nghĩa là Không, Vô Nhiễm, Vô Trước, b́nh đẳng một vị. Tam-muội ấy chẳng ĺa bản thể của hết thảy hữu t́nh. Quư vị nói: “Tôi vận dụng tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng, đắm nhiễm đủ thứ tri kiến điên đảo, vậy th́ có quan hệ ǵ với tam-muội này cơ chứ?” Chính là từ ngay nơi bản thể, quư vị chẳng nhận biết, lầm tưởng nghiệp tướng hiện tiền của chính ḿnh, thật sự chẳng biết nghiệp tướng ấy quả thật vô sở đắc, được sanh bởi huyễn duyên. Nếu dùng trí huệ môn để quan sát, sẽ biết [nghiệp tướng] như mộng, như huyễn, thành thục trong hiện tiền, duyên diệt [nghiệp tướng] liền diệt, trọn chẳng có ǵ để đạt được. Nếu nh́n theo bản chất, hễ huyễn duyên sanh khởi, tức là tam-muội sanh khởi.

          Lựa chọn ở chỗ này hết sức ít ỏi! Vậy th́ làm như thế nào? Trước hết, dùng Vô Tránh để cảm động loại hữu t́nh ấy. V́ thế, trong khi tu nhân, A Di Đà Phật đă phát ra thệ nguyện, dùng Vô Tránh để thực hiện thủ hộ thanh tịnh, hoặc nói là duyên khởi thanh tịnh, thuận tánh phát khởi thệ nguyện thiện xảo rộng lớn, muốn độ thoát hết thảy chúng sanh, thành tựu Bồ Đề, hoặc ĺa hết thảy các khổ, đạt được hết thảy lạc. “Lạc” ở đây là sự tín thuận pháp tánh do tương ứng chân thật, đạt được sự an lạc rộng lớn và trí chẳng thể nghĩ bàn. Nhưng nếu chẳng tương ứng, sẽ sanh ra đủ thứ va chạm, đối đăi, thương tổn. Cho nên nói: “Trái nghịch tánh, sẽ có nhiều tổn hại”. Sự tổn hại ấy đúng là vô ích. Chư Phật Như Lai bất quá là tướng trang nghiêm, tướng chân thật, tướng oai đức, tướng trọn đủ trong biển pháp tánh tịch diệt, khiến cho kẻ khác mong mỏi, hướng đến, như thế mà thôi! Nhưng bọn phàm phu chúng ta yếu kém, ty tiện, các tướng khiến cho con người đau khổ thật ra chẳng qua là các tướng vụn vặt, vặn vẹo, đổi khác, mê mất, nhưng vẫn chẳng rời biển tịch diệt, chẳng ĺa pháp tánh. Do vậy, chẳng có nhân duyên trong sát-na, chưa hề có hữu t́nh nào có thể ĺa khỏi biển Chân Như pháp tánh. Điều này chân thật chẳng dối. A Di Đà Phật đích thân chứng tâm trí vô tránh như thế, cho nên chiếu mười phương cơi chẳng bị chướng ngại, quyết định là hết thảy chúng sanh “văn ngă danh hiệu, câu lai ngă sát” (nghe danh hiệu của ta, đều đến cơi nước của ta). V́ sao vậy? Tâm trí như thế, oai đức như thế, bản chất như thế, nguyện lực như thế, khăng khăng nhiếp thọ chúng sanh cùng tột vị lai chẳng bỏ như thế! V́ tự tánh phát tâm chân thật tương ứng, chân thật thành tựu, chẳng sợ hăi, cho đến tột đời vị lai đối diện với vô lượng chúng sanh chẳng hề sợ hăi, đối trước hữu t́nh dẫu ngu độn, ương bướng cách mấy vẫn chẳng hề sợ hăi, khiến cho họ được độ thoát. V́ thế, thực hiện giáo ngôn thanh tịnh sư tử hống rộng lớn, oai đức nhiếp phục hết thảy hữu t́nh trong thế gian, hiện oai đức lớn đến tận cùng Kim Cang Tế[3], độ thấu triệt tướng vô gián, ban cho hết thảy chúng sanh lợi ích rốt ráo. Sự lợi ích ấy chính là do đức Thế Tôn thủ hộ thệ nguyện căn bản này, bèn dẫn phát lợi ích chẳng thể nghĩ bàn cho hết thảy phàm thánh. Nếu nghĩ bàn, quư vị sẽ rất khó tương ứng, v́ chẳng có ǵ để khế hợp!

          “Tức báng ư Không, thị vi Tránh dă” (tức là báng bổ cái Không, đó gọi là Tranh Chấp): Trước kia, khi được tiếp xúc ba thệ nguyện trong khi tu nhân của A Di Đà Phật, tôi đă nói: “Cớ sao người thế gian tuyên truyền giáo ngôn của A Di Đà Phật trái nghịch với ba thệ nguyện ấy?” Nêu ra một thệ nguyện, chẳng nói nội dung cụ thể của thệ nguyện, chỉ nói tướng bên ngoài. A Di Đà Phật lập một thệ nguyện là rộng tu tập hết thảy các pháp, lợi lạc hết thảy chúng sanh. Danh tự của tam-muội-da thệ nguyện chẳng phải là như thế, nhưng nội dung là như thế, tức là phải tu tập hết thảy các pháp tắc, bất luận là Phật pháp hay ngoại đạo, phải lợi lạc hết thảy chúng sanh, bất luận là loài côn trùng nhỏ nhít, cho đến hữu t́nh ngu si, thậm chí kẻ phỉ báng, hủy diệt Phật pháp, A Di Đà Phật Thế Tôn đều dùng sức oai đức để nhiếp thọ, hộ tŕ, tức là sức oai đức vô úy, sức oai đức chẳng đối đăi, sức oai đức vô tránh, vận dụng thuận theo pháp tánh, sức oai đức triệt để biết rơ “các tướng chẳng phải là tướng”. V́ thế, kẻ phỉ báng, ngờ vực cũng chẳng tạo thành nghiệp phỉ báng thật sự. V́ sao vậy? A Di Đà Phật triệt để đập tan tướng hư giả, tướng biến huyễn, vô thường ấy. Trong hết thảy chúng sanh, Ngài đă chọn lựa pháp tắc căn bản thuộc về tâm trí vô lượng thọ, vô lượng quang. Nếu chẳng chọn lựa pháp tắc căn bản ấy, chúng sanh trong chín pháp giới vẫn là chín pháp giới. V́ sao? Mọi người ở yên nơi nghiệp tướng của chính ḿnh, chẳng thể tự thoát ra được, coi nghiệp là thật, dùng nghiệp để thủ hộ. Như thế th́ làm sao có thể lợi ích rộng khắp mười phương?

          Thiện Đạo đại sư cũng nói “chuyên phục chuyên” (đă chuyên lại càng chuyên hơn), nhưng ngụ ư phía sau “chuyên phục chuyên” chính là phương tiện thâm nhập một pháp, chẳng phải là phỉ báng hay ngờ vực các pháp khác, chẳng phải là không lợi ích các loài hữu t́nh khác, chẳng phải là bài xích các loài hữu t́nh khác! Tuyệt đối chẳng phải là như thế, chỉ là nói: “Kẻ sơ học muốn đạt được lợi ích, hăy nên chuyên phục chuyên”. Vậy th́ đạt được lợi ích hiện tiền, tùy thuận thệ nguyện của Phật, chính là công đức hiện tiền của người “chuyên phục chuyên”. Họ sẽ không nói lời bài xích một loại pháp nào, hoặc hướng tới loại nào, thủ hộ loại nào! Nếu có thân hay sơ, làm sao có thể tương ứng với “chiếu thập phương quốc vô sở chướng ngại” (chiếu mười phương cơi nước, chẳng bị chướng ngại) của A Di Đà Phật cho được? Do vậy, Vô Tránh hết sức trọng yếu. Trong tu hành pháp môn Tịnh Độ, nếu chúng ta chẳng lư giải phương pháp dụng tâm này, sẽ biến pháp môn Tịnh Độ thành một pháp môn chết cứng, hoặc một pháp môn đang giẫy chết, hoặc trở thành một thứ pháp môn hẹp ḥi, hèn kém. Do vậy, sẽ có rất nhiều người chẳng muốn tu tập pháp này! Lại bàn về Ban Châu tam-muội, càng cảm thấy “đó là chuyện của thánh nhân”. Nhưng chúng ta xem kinh này, từ đầu đến cuối tuyên nói đều là “tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đều nên yêu thích pháp này, chứng thực pháp này, rộng tuyên pháp này, đọc tụng kinh giáo, đích thân chứng lợi ích”. Chỗ nào cũng đều tuyên nói như thế, chẳng có đoạn văn tự nào nói loại thánh nhân nào th́ mới có thể hành pháp!

          Chúng ta chớ nên tranh chấp với kẻ khác, thế gian vốn vô tránh (chẳng tranh chấp), thế gian vốn chẳng đối đăi. Trong xuất thế và nhập thế, phàm phu chọn lựa pháp đối đăi. Nếu chúng ta chọn lấy “tranh chấp”, sẽ đọa vào tâm trí phàm phu, sẽ lưu chuyển trong nghiệp duyên phàm phu. Chúng ta đừng nên vọng tưởng “ai phàm, ai thánh”. Phàm hay thánh chẳng có địa vị đâu nhé! Quư vị nói: “Tôi mê mất trong nghiệp vô minh, ngu si, điên đảo, chẳng phải là phàm ư?” Đúng thế, nhưng quư vị chớ nên cưỡng chấp cái nghiệp ấy, địa vị ấy (phàm phu) cũng chẳng thể nói nó thuộc về quư vị! Chỉ là một thứ nghiệp tướng tiếp nối, thế nhưng nghiệp tướng vô ngă. Các vị thiện tri thức ơi! Khi chúng ta chẳng nhận biết nghiệp tướng vô ngă, sẽ cho rằng đó là danh tự ngă, vô thường ngă, nghiệp tướng ngă, phiền năo ngă, tập khí ngă, nam nữ ngă, sắc thân ngă. Các cái Ngă ấy đều hư hoại, đều là một thứ tướng nhân duyên biểu lộ pháp vô ngă đó thôi. Nếu cho đó là ngă, đúng là đă nhận lầm pháp tắc, sẽ bị lưu chuyển vô cùng!

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thị cố, bỉ tỳ-kheo dĩ vô tránh cố, đương năng tu học, vị tha tuyên thuyết thử tam-muội dă.

          ()賢護。是故彼比丘以無諍故。當能修學。爲他宣說此三昧也。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! V́ thế, vị tỳ-kheo ấy do vô tránh, hăy nên tu học, v́ người khác tuyên nói tam-muội này).

 

          Nếu tranh luận với người khác, sẽ rất khó trao đổi pháp tắc này. Người khác khen ngợi cũng thế, phỉ báng cũng thế, dẫu nói theo kiểu xấu hèn, chúng ta cũng chớ nên có đối đăi. V́ sao? Sự tướng vô ngă, cớ sao quư vị đắm nhiễm? Pháp tắc là vô nhân tướng, vô ngă tướng; chúng ta thuận theo pháp tắc, sẽ có thể thành tựu. Nhưng nếu thuận theo nhân, ngă, sẽ là đi ngược đường. Nêu một thí dụ, chẳng hạn như dọc theo hai bờ Trường Giang có rất nhiều ao, hồ. Nước trong hồ này có thể nói nước của hồ kia “chẳng phải là nước của Trường Giang”, mà nước hồ kia cũng nói nước hồ này “cũng chẳng phải là nước của Trường Giang”. V́ thế, khi chúng ta muốn nói một pháp tắc, bèn nói pháp tắc ấy, mọi người đều tùy thuận pháp tắc ấy, quy vào trong pháp tắc ấy, sẽ được pháp tắc ấy chuyên chở, đạt được lợi ích, mà những lời lẽ ở ngoài pháp tắc ấy sẽ trở thành vô ư nghĩa!

          Chúng ta nói theo “nhân, ngă, đúng, sai”, sẽ che lấp pháp tắc, lăng phí sanh mạng của chính ḿnh ngoài pháp tắc. Chúng ta tùy thuận một pháp tắc, sẽ vượt khỏi tranh chấp “ta, người”, v́ mỗi người đều có sở trường của chính ḿnh, mà cũng đều có sở đoản, đều là có tướng biến hóa thị phi, tướng phàm thánh biến hóa. Điều này có thể tương ứng với cơ chế pháp tắc trên tổng thể, mà cũng có thể chẳng tương ứng. Nếu tương ứng, chúng ta sẽ tùy thuận pháp tắc. Nếu chẳng tương ứng, chúng ta sẽ ở ngoài pháp tắc, mê muội trong nghiệp tướng của chính ḿnh. Chúng ta chẳng thể dùng nghiệp tướng của người khác, hoặc nghiệp tướng của chính ḿnh để mê hoặc chính ḿnh, hay mê hoặc người khác. Đó mới gọi là “kẻ đáng thương xót” trong Phật pháp. Đối với những kẻ đó, phải nên khai thông, hướng dẫn họ trở lại gịng pháp trong Phật pháp, tiến nhập biển trí nguyện của chư Phật, triệt để đạt được giải thoát, chẳng bị hủy diệt, chẳng bị khô cạn.

          Chẳng hạn như chúng ta đến vùng Vũ Hán, có thể thấy hai bên Trường Giang đặc biệt nhiều ao, hồ. Quư vị có thể nói đó là nước của Trường Giang hay là không? [Nếu nước trong ao hay hồ] chảy thông vào Trường Giang th́ là nước Trường Giang. Chẳng thông với Trường Giang th́ là nước ao chuôm. Nghiệp tướng của mỗi chúng sanh chúng ta giống như nước trong ao chuôm, hoặc nước trong một cái chậu. Nước ô trược, nước chẳng sạch, hay nước sạch, nước thải công nghiệp, nước thải từ gia đ́nh, nước kiểu nào cũng đều có, nhưng nếu đổ vào Trường Giang, sẽ đều chảy ra biển cả. Đó là điều chắc chắn. Quư vị nói sợ một chút nước của chính ḿnh ô nhiễm biển cả, biển cả rốt cuộc tột bậc mênh mông, có thể dung nạp, tiêu trừ đôi chút ô trược ấy. Đối với chuyện này, chúng ta hăy nên yên ḷng, đừng sợ chính ḿnh có thể nhuốm bẩn biển cả, chúng ta cũng chẳng có bản lănh ấy! Có kẻ sợ nước bẩn của kẻ khác sẽ nhuốm bẩn biển cả. Quư vị cũng đừng sợ, nó rốt cuộc đều đổ vào biển. Do biển cả tâm trí rộng lớn, không ǵ ngăn che được, do biển dung nạp hết thảy, quư vị sợ nỗi ǵ? V́ thế, chúng ta đừng sợ hữu t́nh ngu độn, ương bướng, hữu t́nh tội ác, hữu t́nh điên đảo, giống như khơi ng̣i dẫn nước ra sông, tất nhiên sẽ đổ vào biển cả, chúng ta có thể tiêu trừ nghiệp tướng của họ. Yên tâm đối với chuyện này là được rồi! Nếu vẫn nhất định nói người như thế này sẽ chẳng được như thế nào đó th́ thật ra cũng cần chẳng phải nói đến ai khác. Chính quư vị cũng chẳng khác biệt cho mấy! Rất nhiều người nghĩ kẻ khác chẳng tốt lành như thế nào đó, thật ra chính ḿnh cũng tệ hại y hệt như thế ấy! Nếu chẳng phải vậy, sao lại sống trong cùng một thời đại? Cớ sao chẳng sống trong thời đại đức Phật c̣n tại thế? Quư vị nói chính ḿnh nương theo nguyện mà đến, càng phải nên thương xót các hữu t́nh! Chúng ta phải nên quán kỹ. Pháp vô tránh rất trọng yếu!

         

          (Kinh) Hiền Hộ! Hữu chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhược dục tu học, vị tha giải thích thử tam-muội giả.

          ()賢護。有諸善男子善女人。若欲修學。爲他解釋此三昧者。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Có các thiện nam tử, thiện nữ nhân, nếu muốn tu học, v́ người khác giải thích tam-muội này).

 

          Đức Thế Tôn từng bước hướng dẫn chúng ta liễu giải pháp tắc thành tựu và tướng thành tựu của tam-muội này, cho đến trao đổi pháp tắc với người khác. Người tế nhị và chu đáo không ai hơn đức Thế Tôn, đúng là Ngài có đại ân đức đối với chúng ta, thật sự là cha mẹ của Pháp Thân huệ mạng, là cha mẹ dưỡng dục đạo đức của chúng ta.

 

          (Kinh) Ưng đương cụ túc thành tựu thập pháp, nhiên hậu vị tha giải tư tam-muội.

          ()應當具足成就十法。然後爲他解斯三昧。

          (Kinh: Hăy nên thành tựu đầy đủ mười pháp, sau đấy, sẽ v́ người khác giải thích tam-muội này).

 

          Quư vị nói: “Nay tôi chưa trọn đủ mười pháp, có thể giải thích cho người khác hay không?” Đức Thế Tôn nói: Khi quư vị muốn giải thích cho người khác, trước hết, hăy xem và học mười công đức, mười loại pháp này. Đó là nhờ vào lời của người khác để chứng lợi ích của pháp tắc trong Phật pháp cho bản thân. V́ thế, hết thảy đều chẳng ĺa pháp tắc.

          Khi tôi vừa mới tiếp xúc giới tỳ-kheo, đọc Tứ Phần Luật Tạng[4] một lượt, toàn thân mướt mồ hôi, v́ có cảm giác đức Thế Tôn chưa từng ĺa khỏi chúng ta. Thích Ca Mâu Ni Phật Thế Tôn cho đến Câu Lưu Tôn Thế Tôn, Câu Na Hàm Ma Ni Thế Tôn, Ca Diếp Thế Tôn, bốn vị Phật trong Hiền Kiếp chưa từng rời khỏi chúng ta. Các vị Thế Tôn trước Hiền Kiếp cũng chưa hề rời khỏi chúng ta. Các Ngài dùng đủ loại thân tướng, đủ loại âm thanh, đủ loại pháp tắc, chẳng ngừng thí giáo cho mọi người. Nếu quư vị đọc Tạng Kinh, nhất là những kinh mà người xuất gia cần phải đọc, sẽ mười phần có ư nghĩa. Quư vị sẽ cảm thấy rất b́nh thường, rất chân thật, rất gần gũi. Trước kia, cảm thấy cách biệt các vị A La Hán thuở đức Thế Tôn tại thế quá xa, khoảng cách hơn hai ngàn năm quá lớn; nhưng khi đọc Bát Thập Tụng của tôn giả Ưu Ba Ly, cảm thấy mười phần thân thiết, bất cứ khoảng cách nào cũng đều chẳng có! Dẫu chúng ta vận dụng cái tâm phàm phu, dung tục, vẫn chẳng cảm thấy có khoảng cách, huống hồ quư vị c̣n là hữu t́nh phát tâm dũng mănh, tŕ giới thanh tịnh, thiện căn sâu dày! V́ thế, tôi vẫn hy vọng mọi người thâm nhập kinh điển, có thể đọc nhiều th́ thật sự vẫn phải đọc. Niệm Phật th́ hăy siêng niệm Phật, kinh hành Ban Châu th́ hăy chăm kinh hành, kinh giáo vẫn phải đọc!

          Trước kia, khi tôi mới ở trong núi, có nỗi sợ hăigiải quyết vấn đề ăn uống như thế nào? Về sau, thường gặp các vị xuất gia sư phụ hỏi tôi chuyện này: “Thầy sống trong núi th́ chuyện ăn uống làm như thế nào?” Tôi nói: “Tôi không biết. Đấy chẳng phải là chuyện của tôi!” “Chẳng phải chuyện của thầy th́ là chuyện của ai chớ?” Tôi nói: “Có người lo”. “Ai lo?” “Phật!” Ai lo? Bồ Tát lo! Ai lo? Hộ pháp lo! Trời, người hộ pháp mà! Đó là thệ nguyện của họ. Khi quư vị thật sự hành Phật sự, chẳng có chỗ nào cố kỵ, chẳng sợ hăi chi hết! Trước kia, tôi ở nhiều nơi rất hẻo lánh, tuyệt đối chẳng có chuyện chết đói, trừ phi quư vị chẳng học Phật. Mà cũng chẳng gặp duyên trái nghịch, trừ phi quư vị tạo tác duyên trái nghịch.

          Nay chúng ta tụ hội như thế này, mà nếu chẳng có cơ sở để hành pháp th́ cũng chẳng thể được! Đối với pháp hội này, tôi một mực nói điện đường chẳng lớn, chẳng nhỏ, vừa khít, lớn chẳng được, nhỏ chẳng được. Lớn cũng chẳng mở được, nhỏ cũng chẳng mở được. Có long thiên hộ pháp, đúng không? Nếu chẳng được hộ tŕ, chúng ta đúng là một ngày cũng chẳng ở được. Nếu chẳng phải là trong bốn tháng an cư, có chư Phật, Bồ Tát hộ niệm và chiếu cố, chúng ta sẽ chẳng thể ngồi nổi. Quư vị thấy có bao nhiêu ngoại duyên quấy nhiễu. Trong các ác duyên từ vô thỉ đă chín muồi của chúng ta, đúng là nhiệt năo! Chuyện này, chuyện nọ, một trăm tám mươi người đều giằng kéo quư vị, chẳng biết khi nào sẽ lôi phắt quư vị đi, cũng chẳng biết bị tóm đến chỗ nào! Nhưng do nguyện vọng an cư rơ ràng, Phật, Bồ Tát gia tŕ rơ ràng, chúng ta thong dong ngồi ở đây, tránh khỏi hơi nóng của trời Hè xâm hại, kể như đó là sự cảm nhận lớn nhất nơi thân thể đó chăng? Chúng ta chẳng cần dùng quạt tay, quạt điện, máy điều ḥa thổi ào ào chi hết, tối thiểu là khỏi bị nóng mà! Có phước đức ấy, đúng không? Trong tương lai, nếu đạo tràng này xây dựng thành quy mô [chứa được] năm trăm người, nếu năm trăm người tránh nóng, quy mô to cỡ nào? Chẳng dùng máy điều ḥa, đỡ tốn bao nhiêu điện? V́ quốc gia sáng tạo bao nhiêu của cải? Vậy th́ nếu là một ngàn người, một ngàn năm trăm người, ba ngàn người th́ sao? Dẫu là đến tránh nóng, vẫn là phước báo!

 

          (Kinh) Hà đẳng vi thập? Sở vị nhất giả, bỉ chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, tiên tồi ngă mạn, khởi cung kính tâm.

          ()何等爲十。所謂一者。彼諸善男子善女人。先摧我慢。起恭敬心。

          (Kinh: Những ǵ là mười? Tức là điều thứ nhất, các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy trước hết dẹp tan ngă mạn, dấy ḷng cung kính).

 

          Tâm cung kính vẫn được đặt thành điều đầu tiên. Tôi đă gặp một chuyện, kư ức tới nay hăy c̣n như mới. Có một pháp sư tới chỉ đạo hành pháp Ban Châu, [nơi đó] vốn là một đạo tràng gia đ́nh rất tốt. Mọi người kinh hành rất tốt. Có người dâng nhà ra, có người cúng dường thức ăn, mọi người dốc hết sức để duy tŕ đạo tràng gia đ́nh hành pháp Ban Châu ấy. Nhưng vị pháp sư ấy tới đó, lỗ mũi hỉnh lên trời, vừa đến bèn nói: “A! Mấy người mở cuộc họp đi”. Sau đó, [sư đưa ra yêu sách] thứ nhất là, thứ hai là, thứ ba là… Người khác thấy vị đó kiêu mạn như thế: “Quên đi, chúng ta chẳng hành Ban Châu nữa! [Hành xử] kiểu đó là phá Ban Châu, chúng ta không kinh hành nữa!” Trước hết, chủ nhân căn nhà nói: “Các ngươi muốn kinh hành Ban Châu th́ phải trả tiền thuê nhà, một tháng là bao nhiêu đó”. Tiếp đó, vị Bồ Tát cúng dường thức ăn nói: “Ối dào! Quư vị ai kinh hành Ban Châu th́ người đó tự ḿnh bới cơm theo nhé!” Sau đó, người hộ quan nói: “Ái chà! Tôi c̣n phải làm việc, không chăm sóc quư vị nổi đâu!” OK! Đạo tràng ấy kết thúc luôn! Sự chỉ đạo của vị pháp sư ấy cũng viên măn! Viên măn ǵ vậy? Kiêu mạn! Sau đấy, có mấy vị cư sĩ hỏi tôi: “V́ sao vị pháp sư X… kiêu mạn cỡ đó?” Tôi đáp: “Người chẳng tự biết đấy mà! Chắc là mắt nh́n quá cao, rất dễ thấy người khác có rất nhiều điều chẳng đúng pháp”. Lỗ mũi hỉnh lên trời, vừa nói với người ta, kết quả là một đạo tràng hành pháp rất tốt đẹp, một đạo tràng đă có rất nhiều người kinh hành phải giải tán như thế đó!

          Do vậy, tṛ chuyện với người khác, chúng ta phải chân thành, phải tôn trọng. Như tôi đề ra ba điều cho Hằng Dương Am: Tôn trọng, bao dung, trao đổi ư kiến. Nếu làm được ba điều ấy, đạo tràng này sẽ lành mạnh, sẽ có ư nghĩa. Nếu không trao đổi ư kiến, chẳng tôn trọng, mà cũng chẳng bao dung, sẽ chẳng thể duy tŕ được. V́ sao? V́ mọi người chẳng muốn biết nội dung tôn trọng, bao dung, chẳng muốn biết cơ sở để giao tiếp. Đức Thế Tôn là người biết ơn ắt báo. Sau khi thành đạo, Ngài đứng làm bạn với cây Bồ Đề bảy ngày, chăm chú nh́n cây Bồ Đề, sanh ḷng cảm kích, nói: “Phàm là đệ tử của ta, phải nên lễ kính cây này. V́ sao? Do cây này đă cho ta tăng thượng duyên bất thoái thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”. Những cây chung quanh đều là tăng thượng duyên thành tựu đạo nghiệp cho chúng ta, chúng ta có nên lễ kính chúng bảy ngày hay không?

          Trong đoạn văn tự này, đức Thế Tôn đă giảng giải cho chúng ta biết “v́ người khác giải nói tam-muội này như thế nào?” Hăy nên trọn đủ pháp tắc như thế nào để giải thích cho người khác? Nếu chúng ta chẳng muốn giải thích pháp tam-muội này cho người khác, trong tâm chúng ta có chướng ngại như thế nào? Trên thực tế, khi giải nói, chúng ta có thể thoát khỏi chướng ngại và sự hạn cuộc trong ư thức của chính ḿnh. Nếu có thể nương theo pháp để giải thích, tự nhiên sẽ tùy thuận giáo ngôn của Phật Đà, tự lợi và lợi tha sẽ có thể như thật hiện tiền.

          Ngă mạn sẽ che lấp sự thành thục trong tâm trí Bồ Đề, v́ cái tâm cung kính là cái gốc của hết thảy các pháp, mà cũng là căn bản của tâm trí Bồ Đề. Nếu chẳng có tâm cung kính, tâm Bồ Đề sẽ chẳng có ǵ để thuần thục. Nếu chẳng có tâm Bồ Đề, hết thảy các pháp dùng ǵ để thành tựu? V́ thế, tâm cung kính là điều quan trọng hàng đầu trong hành pháp, cầu pháp, và chứng pháp của hết thảy các pháp. Từ sơ phát tâm cho đến khi thành Phật, chúng ta đều chẳng ĺa khỏi Bồ Đề tâm, mà tâm cung kính chính là tầng biểu hiện ngoài cùng của Bồ Đề tâm. Nếu chẳng có lớp vỏ bọc, hoặc tầng biểu hiện ấy, Bồ Đề tâm sẽ chẳng hoàn thiện, chẳng chân thật. Trong tu tập pháp tắc của Hán truyền Phật giáo, mọi người đối với chuyện huân tập, huấn luyện, hoặc tự ḿnh thể nghiệm cái tâm cung kính khá ít. Tâm cung kính hoàn toàn chẳng phải là có biểu hiện cung kính theo kiểu ủy khuất. Điều chủ yếu nhất là từ nội tâm dẫn phát sự tôn trọng như thật, thủ hộ như thật, truyền đạt như thật đối với pháp tắc. Điều này mười phần trọng yếu. Trong giáo dục “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”[5] của Trung Hoa, thật ra cũng là xoay quanh sự cung kính. Tâm cung kính là nhu cầu căn bản của hết thảy chúng sanh, bất luận là nghèo hay giàu, là phàm hay thánh, là xuất gia hay tại gia, học Phật hay không học Phật, tôn trọng lẫn nhau là một cơ chế giáo dục nền tảng nhất! Nếu chúng ta nhận thức chẳng đủ đối với điều này, sẽ rất khó tương ứng với chín pháp kế tiếp!

 

          (Kinh) Nhị giả, tri ân bất vong, tâm thường niệm báo.

          ()二者。知恩不忘。心常念報。

          (Kinh: Hai là tri ân chẳng quên, tâm thường nghĩ báo đáp).

 

          Chúng ta thường nói “thượng báo tứ trọng ân”, tức là ân sư trưởng, ân cha mẹ, ân quốc độ, ân chúng sanh, [ngoài ra, c̣n có] ân Tam Bảo. Người xuất gia c̣n có ân của đàn-na thí chủ v.v… Các ân ấy đích xác là trọn khắp mỗi thời khắc trong cuộc sống của chúng ta, dưỡng dục sanh mạng của chúng ta. Mỗi chỗ, mỗi thời khắc trong y báo và chánh báo của chúng ta đều biểu hiện tràn trề nội dung cụ thể của các ân ấy. Như cơm áo của người xuất gia, cho đến tất cả các vật dụng, đều là ân của thí chủ. Ân sư trưởng, ân Phật, ân Tam Bảo được biểu hiện qua cơ chế giáo dục, dưỡng dục Pháp Thân huệ mạng của chúng ta. Đối với các vị tại gia Bồ Tát, bốn trọng ân ấy cũng tồn tại rơ ràng.

          Hành pháp Ban Châu, nếu tâm chẳng biết ơn, ắt sẽ thường sanh đủ loại trạng thái tâm lư chẳng tương ứng, v́ cái tâm cảm ân sẽ là một loại tâm lư mười phần điều nhu, khiêm thuận. “Biết ân, báo ân” là một chủ đề trọng yếu hàng đầu trong Phật giáo, là một điều tất yếu phải liên tục thủ hộ trong Phật pháp. Khá nhiều người nói chính ḿnh học Phật mà chẳng hề có động lực, tu hành chẳng có động lực. Cũng có không ít kẻ học Phật hoặc người xuất gia sau dăm ba năm tinh thần sa sút, chẳng tu tập và thủ hộ pháp tắc. V́ sao? Do chẳng có tâm tri ân, báo ân. Nếu thật sự liễu giải ân đức của chư Phật, Bồ Tát đối với chúng ta, nguyện vọng mong chứng tam-muội của chúng ta sẽ mười phần bức thiết, mười phần chân thật duy tŕ.

 

          (Kinh) Tam giả, tâm vô ỷ trước, diệc vô tật đố.

          ()三者。心無倚著。亦無嫉妒。

          (Kinh: Ba là tâm chẳng dựa dẫm, mà cũng chẳng ghen tỵ).

 

          Không nắm níu cao thấp, chuyên hành một pháp, thâm nhập thực tiễn, do đích thân chứng đắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, cho nên nói “tâm vô ỷ trước” (tâm chẳng dựa dẫm). Hiện thời, sự tu tập pháp này tồn tại phổ biến một vấn đề to lớn, tức là trạng thái tâm lư thay đổi thất thường, chính là so b́ lẫn nhau. Người thế tục so b́ c̣n có thể tha thứ được, chứ so b́ trong Phật pháp sẽ thường là tự khen ḿnh, báng bổ người khác, hoặc nẩy sanh tâm lư đứng núi này trông núi nọ, hoặc là ghen tỵ, hoặc là tâm thượng mạn, hoặc là tâm nắm níu, đủ mọi loại tâm như thế đều sẽ sanh khởi. Như thế th́ cơ hội tu tŕ thực tiễn, như thật của chúng ta sẽ mất đi trong hiện duyên của chính ḿnh.

 

          (Kinh) Tứ giả, trừ đoạn nghi hoặc, cập chư chướng ngại.

          ()四者。除斷疑惑。及諸障礙。

          (Kinh: Bốn là trừ dứt nghi hoặc, và các chướng ngại).

 

          Chướng ngại của chúng ta thường được biểu hiện qua ba phương diện: Phiền Năo Chướng, Nghiệp Chướng, lại c̣n có Báo Chướng. Báo Chướng theo thân cùng đến (tức là sanh ra đă có). Nghiệp Chướng th́ trong quá tŕnh tồn tại sẽ không ngừng tăng mạnh hơn, hoặc yếu bớt đi. Phiền Năo Chướng cũng giống như thế. Mọi người c̣n khá thường nói đến hai loại chướng nữa là Sở Tri Chướng và Phiền Năo Chướng. Bất luận nói là ba chướng hay hai chướng th́ trong ấy, Phiền Năo Chướng khiến cho tâm trí tịch tĩnh của chúng ta chẳng được an lạc, Sở Tri Chướng khiến cho tâm trí Vô Thượng Bồ Đề của chúng ta chẳng thể tùy thuận thành tựu. Trong cuộc đất Hán truyền Phật giáo sôi nổi, Sở Tri Chướng thường lừng lẫy hơn Phiền Năo Chướng, v́ [người học Phật] thường la cà khá nhiều sách vở và pháp môn, hoặc nhân duyên rất phức tạp, chẳng sàng lọc, chọn lựa, vàng thau lẫn lộn. Do vậy, ngăn chướng khá nhiều duyên khởi thanh tịnh, duyên khởi viên măn, và duyên khởi chân thật để tu tập các pháp.

 

          (Kinh) Ngũ giả, thâm tín bất hoại, hệ niệm tư duy.

          ()五者。深信不壞。繫念思惟。

          (Kinh: Năm là tin sâu chẳng hoại, hệ niệm tư duy).

 

          Trong Phật pháp, nói “bất hoại” chẳng phải là Thường Kiến, mà là thủ hộ Tứ Tín, tức tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, và tin Giới, do tin vào công đức chân thật của những thứ ấy. Sự chân thật ấy chính là nói [ḷng tin ấy] có thể như thật lợi ích rộng khắp thế gian. Đối với công đức chân thật lợi ích rộng khắp thế gian của Phật, Pháp, Tăng, và Giới, bèn tin sâu, chẳng nghi, thường chú tâm tư duy, như thật quan sát. Đó chính là “thâm tín bất hoại”. Nếu chúng ta học Phật, bất luận xuất gia hay tại gia mà rời ĺa ḷng tin sâu xa ấy và sự quan sát đối với Tam Bảo và giới pháp, sẽ đọa nhập trạng thái tâm lư hoặc sanh mạng chẳng phải là Phật giáo đồ! Trong thời đại này, chúng ta cũng phải mười phần không ngừng luyện tập quán thông điều thứ năm này.

 

          (Kinh) Lục giả, tinh tấn cần cầu, kinh hành vô quyện.

          ()六者。精進勤求。經行無倦。

          (Kinh: Sáu là tinh tấn siêng cầu, kinh hành chẳng mệt).

 

          Tại Hằng Dương Am, đích xác là hành pháp Ban Châu đă thực hiện đến mức có tánh cách liên tục nhất định. Đối với nhận thức về tri kiến của pháp tắc, mọi người cũng liên tục không ngừng thâm nhập. Hiện thời, thông qua học tập kinh điển, có thể khiến cho chúng ta lựa chọn càng thêm cặn kẽ, chân thật. Đối với chuyện học tập kinh điển, không chỉ là người hiện thời chẳng coi trọng cho lắm, kể từ khi giáo pháp của tổ sư được truyền bá rộng răi tại Trung Hoa cho đến nay, chuyện tu tập và thủ hộ kinh văn là một nhược điểm khá lớn của Hán truyền Phật giáo. Nếu nay chúng ta có thể nương theo pháp bổn, nương theo giáo ngôn trực tiếp của Phật Đà, chẳng tăng giảm mà tu tập, sẽ đạt được đại phương tiện.

          Có thể tin lời Phật, đó là đại phước báo. Nhưng trong Hán truyền Phật giáo, sự nhận thức của chúng ta đối với cơ chế giáo ngôn trong kinh điển thường là bị chiết khấu! Chúng ta tin lời người khác, tin lời thiện tri thức, thế nhưng đối với chuyện trực tiếp vận dụng lời Phật dạy đâm ra lại rất ít. Như các giáo ngôn về Tổng Tŕ Đà La Ni và Như Lai Tạng Tánh trong kinh Viên Giác, cơ bản là có tánh chất khẩu quyết, tức là chẳng dùng lư giải. Nếu cứ cưỡng ép lư giải, đâm ra chẳng thể sử dụng được! V́ lẽ nào? Trong sự lư giải nơi tâm trí của phàm phu, dùng tư duy có thể nghĩ bàn của chúng ta để xử lư một phen, khiến cho nó biến thành sự ô nhiễm trong tâm thức của chính ḿnh. Đó là một thứ ư thức biến h́nh đối với lời Phật, là tướng chân thật dễ dàng thâm nhập pháp giới, hoặc là lợi ích chân thật dễ dàng đích thân chứng đắc pháp tắc. Điều này thật sự đ̣i hỏi chúng ta phải không ngừng tu tập.

          Pháp Ban Châu chẳng có kỹ xảo chi khác, chỉ là khiến cho chúng ta từ trong cái vốn chẳng sanh diệt, vốn chẳng đắm nhiễm, vốn chẳng đau khổ, vốn chẳng thất niệm, vốn chẳng có phiền năo hay không phiền năo, vốn chẳng có hôn trầm hay không hôn trầm, mà tiêu trừ hôn trầm, tiêu trừ phiền năo, tiêu trừ đau khổ, tiêu trừ đói lạnh. Sự tiêu trừ ấy thật ra là quan sát nghiệp tướng tự nhiên tiếp nối, phương pháp rất đơn giản. Trong khẩu quyết ba chữ, phía sau “lập một niệm, đoạn các tưởng”, thêm vào “vật niệm” (đừng nghĩ), tức là chẳng thêm vào sự hay biết, chẳng trầm trệ, chẳng thuận theo, tùy thuận tương ứng với thệ nguyện, quan sát rơ ràng, chẳng dính mắc, chẳng chấp, chẳng sợ, như thế mà thôi! Thực hiện sẽ mười phần đơn giản, thuận tiện. Nếu thật sự tu tập, pháp tắc này sẽ chẳng khó!

          Hôm nay xuống tới Hằng Dương Am, mọi người hỏi tôi có cần nghỉ ngơi chốc lát hay không, tôi bèn nghỉ ngơi một chốc, nhưng cảm thấy một khi con người quư trọng cái thân, đạo nghiệp sẽ lui sụt to lớn! Bất kể mọi người khuyên bảo, vẫn là chính ḿnh nhận biết: Một khi cho rằng sắc thân của chính ḿnh cần nghỉ ngơi, cần quư trọng, đă biến thành đạo nghiệp sụt giảm. Xét theo pháp tắc, chắc là mỗi người đều là như thế!

          Hành pháp một ngày một đêm ở Hằng Dương Am, cho đến có một số người có thể kinh hành bảy ngày tám đêm, ba ngày ba đêm, bất luận kéo dài như thế nào, một ngày một đêm là nét chung. Gần đây nhất, tôi vẫn hy vọng mọi người trong một ngày một đêm hoặc một ngày hai đêm có thể dựa theo nghi quỹ để hành tŕ. V́ trước đó đă có thương tích chồng chất, một pháp tắc mở ra, sẽ có người xông pha chặt đứt gai góc, tức là những người đi trước đă chịu gian khổ cỡ nào! Chắc là hành giả sẽ biết [điều ấy]. Tôi cũng đă tham dự hộ tŕ một số hành pháp, cũng biết nội dung pháp tắc tu tập trong một số đạo tràng, cũng gặp tại một số chỗ các vị xuất gia hay cư sĩ tương ứng hay chẳng tương ứng đối với pháp tắc này. Chẳng tương ứng sẽ có nhiều khổ nạn, hoặc nẩy sanh lo ngờ đối với pháp. Hễ tương ứng, sẽ sanh khởi vui sướng, cho đến thay đổi quan niệm về sanh mạng và ư thức. Pháp ấy rốt cuộc có ư nghĩa. Bất luận là do nhân duyên nào, một khi đă hành pháp ấy, sẽ kết nhân duyên chẳng thoái chuyển đối với Phật ph     áp. Điều này chân thật chẳng dối. Chỉ do trong đời hiện tại, chúng ta v́ như pháp hay không mà biểu hiện thành lợi ích thích đáng hay chẳng thích đáng, hiện tiền hay không hiện tiền. Đó là một vấn đề khá lớn. Nhưng xét theo nhân duyên rộng khắp với hữu t́nh, tức là nh́n từ nhân duyên niệm Phật, nói theo lợi ích rốt ráo, nói theo lợi ích to lớn căn bản, thật sự là phước đức chẳng thể nghĩ bàn. Cho nên pháp này chẳng báng được, chẳng nghi được, mà cũng chẳng thể tán thán được, nhưng hành được, thủ hộ được. Chúng ta như thật truyền bá nó, như thế th́ sẽ có thể lợi ích rộng khắp hữu t́nh trong thế gian.

 

          (Kinh) Thất giả, thường hành khất thực, bất thọ biệt thỉnh.

          ()七者。常行乞食。不受別請。

          (Kinh: Bảy là thường khất thực, chẳng nhận thỉnh riêng).

 

          Đây là nói theo người xuất gia. Thật ra, vẫn là một pháp tắc để khiến cho chúng ta trừ khử kiêu mạn. Trong tăng pháp (pháp tắc của tăng chúng), thường hành khất thực chính là sự thủ hộ và tu tập trọng yếu nhất nhằm vứt bỏ kiêu mạn, vứt bỏ cái Ta tôn quư nhất. Trong Hán truyền Phật giáo, ôm bát đi khất thực một mực là một tăng pháp vẫn chưa được đề xướng rộng khắp. Tuy rằng từ xưa đến nay, cũng có hành giả duy tŕ pháp này, nhưng phần nhiều chẳng phải là sinh hoạt thường nhật, chỉ là dưới một nhân duyên nào đó, mọi người đi khất thực một phen, có tánh chất tượng trưng, có tánh chất lễ nghi, hoặc có tánh chất cảnh tỉnh cơi đời. Đối với chuyện này, chúng ta thủ hộ, xét kỹ như thế nào? Thực tế là trong cuộc sống hằng ngày, trừ khử cái tâm kiêu căng, ngạo mạn, trừ khử cái tâm tham cầu yên vui, buông thả. Như thế là có ư nghĩa; tại gia cư sĩ cũng phải nên chú ư điểm này!

          Đức Thế Tôn đă giảng bộ kinh Anh Lạc và trong khá nhiều kinh điển, Ngài đă đặc biệt nhắc tới anh lạc Phật, Bồ Tát đeo. Đó là một loại vật dụng để trang nghiêm ḥng biểu thị pháp, ngụ ư phải thường sanh hổ thẹn. Đối với những pháp mà ḿnh đă hành, hăy nghĩ là chưa đủ. Do vậy, sẽ có cái tâm tăng thượng tiến nhập. Đối với chúng sanh và Phật Đà, đều có tâm hổ thẹn, vậy th́ chính ḿnh sẽ nỗ lực. Yêu cầu của hành pháp Ban Châu cũng như thế. Tại các nơi hành tŕ Ban Châu, do đối với chuyện ẩm thực hoặc các phương diện khác của người hành pháp mà chăm sóc quá lố, cũng h́nh thành phản tác dụng nơi người hành Ban Châu, tức là [hành nhân] sẽ chẳng tôn trọng sự cúng dường của người khác. Có khi chúng ta do áo cơm sung túc, hoàn cảnh an nhàn, sẽ đánh mất lợi ích chân chánh do hành pháp, tức là đích thân chứng tam-muội.

          Rất nhiều người hỏi tôi: “V́ sao hiện thời thầy bàn pháp môn Tịnh Độ chẳng tương ứng với lời bàn luận trước kia?” Thật ra, chẳng phải vậy. Chúng ta đích thân chứng tam-muội chẳng mâu thuẫn với nguyện vọng của A Di Đà Phật. Nếu chúng ta yên tâm thuận theo nguyện vọng của A Di Đà Phật, lại hành Ban Châu, đó chẳng phải là chuyện mâu thuẫn. Đích thân chứng tam-muội cũng chẳng phải là chuyện mâu thuẫn. Trong hiện duyên của chúng ta, hướng tới chuyện khiến cho pháp tắc này trụ thế và được truyền bá, cũng chẳng hề trái nghịch với đại nguyện “lợi ích rộng hữu t́nh trong thế gian, khiến cho Phật pháp trụ thế, an ủi hết thảy hữu t́nh” của A Di Đà Phật. Có lúc hai loại tâm trí biên kiến của chúng ta, tức là có, không, đúng, sai v.v… Tri kiến như vậy tùy thời sanh khởi, nhưng tri kiến chẳng đối đăi, tri kiến tùy thuận vẫn cần phải không ngừng điều chỉnh. Nếu có thể nương theo Trung Quán để thấy, hoặc thấy bằng trí huệ, tuy thấy mà chẳng đắm nhiễm, chẳng đối đăi, [dùng các cách thấy ấy] để quan sát pháp, sẽ rất thuận tiện.

 

          (Kinh) Bát giả, thiểu dục tri túc, điều phục chư căn.

          ()八者。少欲知足。調伏諸根。

          (Kinh: Tám là ít muốn, biết đủ, điều phục các căn).

 

          Đấy là công đức thánh hạnh do Bồ Tát thực hành. Bất luận là Thanh Văn Thừa, Đại Thừa, hay Kim Cang Thừa, trong chỗ y chỉ cơ bản của tất cả sự thành tựu, đều có tám pháp thiện xảo như “thiểu dục tri túc, điều phục chư căn” (ít muốn, biết đủ, điều phục các căn) v.v… tức tám điều giác ngộ của bậc đại nhân (bát đại nhân giác). Tám điều giác ngộ của bậc đại nhân là pháp tắc ắt phải hành, phải nên hành của hàng tại gia lẫn xuất gia Bồ Tát. “Ít muốn, biết đủ” là hai pháp đầu tiên trong tám pháp, tịch tĩnh là pháp thứ ba. Sau đó có chánh niệm, chánh định, tinh tấn, chánh huệ, chẳng hư luận. Bồ Tát nên hành tám pháp ấy.

          Nay chúng ta có thể quan sát một hiện tượng tu tập pháp chẳng tương ứng. Chẳng hạn như trong điện đường, trong công khóa, khi niệm Phật, hoặc khi trao đổi Phật pháp, chúng ta đều rất chánh quy, nhưng trong lúc b́nh thường, sẽ dễ dàng buông lung, chẳng nhiếp các căn, ư chí tản mạn. Thậm chí có khá nhiều tập khí phóng túng theo dục vọng, hoặc chẳng biết đủ, phàm phu hữu t́nh hết sức dễ dàng [phạm lỗi] như thế đó. Đấy cũng là chướng ngại đối với chuyện đích thân chứng Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội. Trong hành pháp Ban Châu, có thể đoạn trừ bằng cách rời ĺa nghiệp tập, có thể chiếu kiến nghiệp tập của chính ḿnh. Nhưng để hành Ban Châu trong cuộc sống hằng ngày, cần phải có tâm trí mười phần mạnh mẽ th́ mới có thể hành tŕ. Nói đến hành tŕ Tùy Ư tam-muội, luôn luôn thâu tóm về tâm ư, chỉ đề khởi danh hiệu, chẳng nhiễm, chẳng chấp, đối với “thiện, ác, đúng, sai” trong hiện duyên, trọn chẳng vướng mắc. Đối với phiền năo hay chẳng phiền năo, nghiệp tập hay chẳng nghiệp tập đều chẳng màng đến, cứ thẳng thừng tiến bước. Như thế th́ dễ thành tựu Tùy Ư tam-muội. Thật ra, Niệm Phật tam-muội đă hàm nhiếp sự tu tŕ Tùy Ư tam-muội, v́ dễ hành, lúc nào cũng đều có thể niệm, lúc nào cũng đều có thể tu, chẳng chọn lựa địa điểm, chẳng chọn phương pháp. V́ thế, Tŕ Danh Niệm Phật thật sự là một phương pháp tu hành chẳng thể nghĩ bàn. Nội hàm công đức và lợi ích của pháp ấy chỉ có Phật và Phật Thế Tôn có thể hiểu, có thể biết. Cách tu Bát Đại Nhân Giác ở nơi đây, hoặc cách tu mười pháp, khiến cho chúng ta có thể chiếu kiến chính ḿnh, thức tỉnh chính ḿnh, đều là pháp tắc có thể sử dụng trong b́nh thời. Nếu chúng ta chỉ chuyên chú trong một khắc hành Ban Châu, c̣n trong cuộc sống thường nhật bèn chẳng quan tâm, mà mong thật sự đạt thành tựu nơi pháp, quả thật sẽ rất khó!

 

          (Kinh) Cửu giả, chánh tín thậm thâm, Vô Sanh Pháp Nhẫn.

          ()九者。正信甚深。無生法忍。

          (Kinh: Chín là chánh tín rất sâu, Vô Sanh Pháp Nhẫn).

 

          Vô Sanh Pháp Nhẫn là pháp tắc do chư Phật đích thân chứng đắc, mà cũng là biểu hiện chân thật của Pháp Tánh, tức là hết thảy các pháp vốn bất sanh, vốn bất diệt, chẳng đến, chẳng đi. Các pháp tịch diệt, vốn vô sở đắc. Trong cơ chế giáo ngôn của Vô Sanh Pháp Nhẫn, do các phàm phu chẳng thể bén mảng, cho nên lập ra một Pháp Nhẫn tương tự cho hàng Bồ Tát, tức là đạt được an lạc trong Nhất Tướng Nhất Hạnh Tương Tự Nhẫn. Như trong Đàn Kinh, Lục Tổ đại sư tuyên nói phần nhiều là Nhất Tướng Nhất Hạnh Bồ Tát Pháp Nhẫn, tức là Vô Sanh Nhẫn của Bồ Tát, là tương tự nhẫn. Tức là đối với hết thảy “thiện, ác, đúng, sai”, đều chẳng nhiễm, chẳng chấp, chẳng vướng mắc. Nếu ai có thể khéo thủ hộ như thế, sẽ chẳng thấy lỗi thế gian, tiến thẳng vào nguồn tâm thanh tịnh, tức là thành tựu Bồ Đề tâm.

          Vô Sanh Pháp Nhẫn thật sự chỉ có chư Phật đích thân chứng. Do vậy, ở đây chỉ có tướng đại công đức tin sâu chư Phật. Đấy là chỗ chúng ta hướng đến, nương tựa, tiêu quy, là chỗ ta chẳng thể nghĩ bàn. Đó là một phương tiện. Do trong Sở Tri Chướng của chúng ta, phần nhiều do nghĩ bàn mà chính ḿnh bị ngăn chướng, đối với Tam Tạng mười hai bộ loại đều suy nghĩ một lượt, đều trở thành chướng ngại, chẳng thể chứng quả. Khá nhiều người đi đường ṿng ở chỗ này, dùng ư thức của chính ḿnh để tư duy kinh điển, chẳng phải là dùng kinh điển để tùy văn nhập quán, trừ bỏ cái gọi là “tâm suy luận” của chính ḿnh. Tư duy chính là chỗ tồn tại của sức mạnh lấy bỏ trong nghiệp tướng của chúng ta từ vô thỉ đến nay, cũng có nghĩa là nếu chúng ta đă lư giải: “Chuyện này có ư nghĩa bèn giữ lấy. Chuyện chẳng có ư nghĩa, ta bèn bỏ đi, bèn bài xích”. Đối với kinh điển, cũng lại lấy hay bỏ như thế. Như vậy th́ đối với Vô Sanh Pháp Nhẫn, bèn rơi vào Danh Tự Nhẫn, tức là vẫn đem tâm niệm của chính ḿnh bỏ vào đó. Kết quả là h́nh thành cái gọi là Sở Tri Chướng. Do vậy, trong hành pháp, như trạng thái tâm lư của bậc thiện tri thức sau khi đắc Ngũ Đ́nh Tâm so với những kẻ b́nh phàm chúng ta, sẽ sai khác như trời với đất. V́ trước khi chứng Ngũ Đ́nh Tâm, lời lẽ thuộc nhị biên (đúng, sai, ta, người, có, không v.v…) ắt cần phải nói, chẳng đúng th́ là sai, chẳng phải là thứ này bèn là thứ kia, chẳng có thứ ǵ ta không tạo tác. Tâm thanh tịnh, an lạc b́nh ḥa, buông xuống mọi lo lắng. Đối với vấn đề này, chúng ta nhất định phải khéo tư duy và quan sát, từ trong niệm Phật, chứng đắc tương tự đ́nh tâm, cũng đạt được phương tiện.

 

          (Kinh) Thập giả, thường niệm thùy sở hữu thị tam-muội, tức ư bỉ sư, sanh chư Phật tưởng, nhiên hậu tu tập như thị tam-muội.

          ()十者。常念誰所有是三昧。即於彼師生諸佛想。然後修習如是三昧。

          (Kinh: Mười là thường nghĩ ai sở hữu tam-muội này, liền sẽ đối với vị thầy ấy, sanh ư niệm tưởng như chư Phật. Sau đó, tu tập tam-muội như thế).

 

          Thường suy nghĩ ai đă chứng đắc tam-muội này. Đức Thế Tôn đă nêu ra một trường hợp: “Trong đệ tử của ta, Ma Ha Ca Diếp đích thân chứng tam-muội này”. Tôn giả Ca Diếp ở trong Hoa Thủ Môn phía trên chúng ta, chúng ta triều bái lễ kính Ngài được ngay, mười phần thuận tiện! Quư vị nói: “Đó là tảng đá, ai biết trong đó có ǵ”. Nếu nghi ngờ như thế, chúng ta vẫn nghi ngờ Phật pháp, mà cũng có thể là nghi ngờ văn tự. Thật ra, nói là tin hay nghi là do tâm trí nương tựa, do tâm trí sanh ra. Từ chỗ nương vào và chỗ xuất sanh, sẽ sanh ra phương tiện: Một đằng là nghi, một đằng là chẳng nghi. Người chẳng nghi mới chính là hành vi của bậc trí, c̣n nghi là chuyện phàm phu sẽ làm. Cùng là một tâm niệm, mọi người hăy khéo quan sát!

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thị vi bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân cụ túc như thượng thập chủng pháp dĩ, ưng đương tu tập như thị tam-muội, diệc linh tha nhân thọ tŕ, độc tụng. Như thị hành giả, đương đắc bát sự. Hà đẳng vi bát?

          ()賢護。是爲彼善男子善女人具足如上十種法已。應當修習如是三昧。亦令他人受持讀誦。如是行者。當得八事。何等爲八。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Đấy là thiện nam tử, thiện nữ nhân trọn đủ mười pháp như trên rồi, hăy nên tu tập tam-muội như thế, và cũng khiến cho người khác thọ tŕ, đọc tụng. Hành giả như thế, sẽ đạt được tám sự. Những ǵ là tám?)

 

          Mười pháp trên đây khi chúng ta trao đổi với người khác, phải nên tư duy, quan sát. Như thế th́ mới có sự thiện xảo trong trao đổi. Tiếp đó, [đức Thế Tôn] dạy: “Như thị hành giả, đương đắc bát sự” (hành giả như thế sẽ đạt được tám sự), tức là sẽ có tám sự hiển hiện. Các vị thiện tri thức ơi! Trong lúc học tập th́ chúng ta học tập, nhưng sau đó, vẫn hy vọng mọi người thường tư duy, quan sát, thường nghĩ đến pháp tắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội.

 

          (Kinh) Nhất giả, tất cánh thanh tịnh, ư chư cấm giới, vô hủy phạm cố.

          ()一者。畢竟清淨。於諸禁戒無毀犯故。

          (Kinh: Một là rốt ráo thanh tịnh, chẳng hủy phạm các giới cấm).

 

          Nói theo bản chất, hết thảy chúng sanh chẳng tŕ giới, mà cũng chẳng phạm giới, chẳng có giới để có thể tŕ, chẳng có giới để có thể phạm. V́ nhân duyên hiện tiền trong Tục Đế, trong mỗi pháp bổn vị đều có pháp tắc, đều có giới cấm. Tức là bản thân mỗi người chúng ta đều có thân phận cụ thể của chính ḿnh và những điều cần phải thủ hộ. Như hàng xuất gia, tại gia, tỳ-kheo, sa-di, tỳ-kheo-ni, sa-di-ni, [mỗi loại đều có các giới phải vâng giữ như] cận trụ giới, tại gia ngũ giới, thập giới, Bồ Tát giới v.v… Trong pháp bổn vị đều có sự thủ hộ; nhưng “tất cánh thanh tịnh” (rốt ráo thanh tịnh) có cội nguồn là thanh tịnh. Trong pháp bổn vị, có tŕ, có phạm. Nếu chẳng phạm giới cấm, trong đời hiện tại, chúng ta sẽ đạt được pháp tắc tương ứng với an lạc.

 

          (Kinh) Nhị giả, tri kiến thanh tịnh, trí huệ ḥa hợp, bất dữ dư tương ứng cố.

          ()二者。知見清淨。智慧和合。不與餘相應故。

          (Kinh: Hai là tri kiến thanh tịnh, trí huệ ḥa hợp, do chẳng tương ứng với những điều khác).

 

          Vận dụng tâm trí trí huệ để hành pháp, tức chẳng nhiễm, chẳng đắm. Đương nhiên là như vậy th́ cũng sẽ thành thục tri kiến thanh tịnh. Trong sự t́m cầu cái duyên bên ngoài, chẳng hạn như mọi người đàm luận khá nhiều “ai có cảnh giới chi đó, nhận biết sắc thân chi đó, nhận biết ư thức, nhận biết tướng cảnh giới ngoại duyên” v.v… Các điều ấy chẳng có mảy may liên quan đến tri kiến phát tâm thanh tịnh. Có người cảm thấy khinh an, có người cảm thấy thô nặng, có người cảm thấy buồn ngủ, có người cảm nhận bệnh tật. Các điều ấy thật sự chẳng liên quan đến tri kiến thanh tịnh. Mục đích của chúng ta rơ ràng, tiến thẳng đến mục đích, chẳng vướng mắc. Tri kiến ấy phải nên mười phần rơ rệt. Đối với những cái ở giữa đường như “cảm nhận, cảnh giới, ngoại duyên”, chẳng vướng bận v́ những thứ đó. Như thế là “bất dữ dư tương ứng” (chẳng tương ứng với các thứ khác), chính là phương tiện chứng tam-muội này, mà cũng là một con đường tắt. Chúng ta hành Ban Châu, bao gồm hành trong một ngày, một đêm, cơ bản đều là bị chướng ngại tại chỗ này. Chẳng hạn như đau đớn xảy đến, người ta bắt đầu dồn sức chú ư vào nơi đau đớn, tức là chẳng có một niệm thanh tịnh “chẳng lập một niệm, đoạn các tưởng”!          

          Tri kiến thanh tịnh chẳng nhiễm, chẳng chấp, rơ ràng, rành rẽ. Thấy Phật là như người trong Tông Môn đă nói: “Tiền niệm bất sanh, hậu niệm bất diệt”. Cái thật sự được thủ hộ là “các tướng vô tướng, vốn sẵn thấy Phật”. Quư vị nói: “Như vậy th́ chẳng trở thành Thiền Tông ư?” Quư vị có thể không quan tâm, chẳng vướng vào ngôn thuyết ấy, sẽ là “vô sở đắc niệm Phật” rất thuận tiện. Nhưng nếu như chân đau sẽ bóp chân, đùi đau liền xoa đùi, mệt bèn phải dựa, ngừng lại, điều ấy chẳng hợp với trí huệ, sẽ chẳng thấy thấu suốt “pháp chẳng có tự tánh”, chẳng thấy thấu suốt pháp vốn chẳng sanh diệt, vốn chẳng cảm nhận, mà cũng là vốn chẳng có đau khổ. Đă “vốn chẳng th́ v́ sao hiện thời lại hiện ra sự đau khổ? Đối diện các huyễn nghiệp như thế, hăy chẳng nhiễm, chẳng chấp, hành nhân sẽ an lạc. V́ nó là nghiệp tướng nhân duyên từ DThục Quả trong sát-na đó thôi, chẳng hề có thực chất, sẽ chẳng [tồn tại] lâu dài. Một khi chúng ta đối với mỗi chuyện ấy mà vượt qua được, bản chất của nó sẽ tự nhiên hiển lộ, tức là bản chất “pháp chẳng có tự tánh” sẽ tự nhiên bộc lộ, chư Phật tự nhiên hiện tiền, giống như nước hoặc gương soi vật.

          Chuyện này đích xác cần phải không ngừng tu tập th́ mới có thể thuần thục, lần này sang lần khác, không ngừng quan sát, không ngừng vận dụng. Chúng ta chỉ học một số lư luận, mà chẳng thực hiện, đúng là chẳng có ư nghĩa ǵ hết! Lư giải chỗ này quả thật cũng chẳng có ư nghĩa. Hăy nên nương theo chánh tri kiến, tri kiến thanh tịnh, nương theo trí huệ để hành. Chỉ nói suông, chỉ nghe suông, th́ chỉ là duyên khởi. Nếu chẳng hành tŕ, sẽ hết sức khó có thể đích thân chứng đắc. V́ thế, đối với pháp này, phải nên thường hành, hành nhiều! Hiện thời, nếu có thể thật sự kinh hành Ban Châu, thật sự là phước báo, kinh hành vào lúc nào? Chắc là chúng ta trong mỗi thời khắc đều chẳng đánh mất ư niệm, chẳng đắm nhiễm. Đó là hành Ban Châu rất tốt đẹp, mọi người hăy nên khích lệ lẫn nhau. Trước khi chúng ta chứng được lợi ích từ pháp tắc, hăy nên sanh ḷng hổ thẹn to lớn, v́ pháp chẳng tương ứng. Tuy mọi người thường nghe nói và trao đổi pháp tắc này, nhưng trước khi thật sự thành tựu lợi ích, đều phải nên sanh ḷng hổ thẹn.

 

          (Kinh) Tam giả, trí huệ thanh tịnh, cánh bất phục thọ chư hậu hữu cố.

          ()三者。智慧清淨。更不復受諸後有故。

          (Kinh: Ba là trí huệ thanh tịnh v́ chẳng c̣n nhận lấy các hậu hữu nữa).

 

          Trong phần trước nói về tri kiến thanh tịnh; ở đây, nói đến trí huệ thanh tịnh. Trí huệ thanh tịnh được kiến lập trên “chẳng tạo hậu hữu”. Chư vị Bồ Tát ai nấy hăy nên xem kỹ, xét kỹ. Nếu ngày mai chẳng có bất cứ nhân duyên thế tục nào để quư vị tiến nhập, quư vị có sanh ḷng sợ hăi hay không? Nếu tất cả hành vi của ngày mai, chỉ là lợi ích hữu t́nh trong thế gian, [khi đó], “hậu hữu” chính là sự tiếp nối không có hậu hữu, là sự tiếp nối trí huệ, hoặc là sự tiếp nối từ bi. Chúng ta thường là tiếp nối hậu hữu, cũng chính là nghiệp tiếp nối. Nếu đối với nghiệp tiếp nối mà nẩy sanh cái tâm đoạn ngang, thoát ra theo chiều ngang (hoành đoạn, hoành xuất), sẽ chẳng khó thủ hộ trí huệ thanh tịnh.

          Khi chúng ta vẫn c̣n v́ bản thân tạo nghiệp, tính toán được mất cho bản thân, đó chính là tướng hậu hữu, là hạnh nhiễm ô, là chẳng có trí huệ. Thiền sư Khuê Phong nói Bồ Đề tâm có ba loại tướng. Trong ấy, bậc đại trí th́ trên là chẳng có chư Phật để có thể thành, giữa là chẳng có pháp để có thể tu, dưới là chẳng có chúng sanh để có thể độ. Tướng như thế là tướng đại trí, không, tịnh, vô ngại”. Nếu chúng ta vẫn thiết lập một cái hậu hữu, nói ngày mai, ngày mốt sẽ làm ǵ đó, sẽ chẳng có sức thủ hộ tâm thanh tịnh và tâm trí huệ ngay trong hiện tiền. Nếu đối với sự phát tâm, chúng ta vận dụng trí huệ và từ bi để tiếp tục, đó chính là thủ hộ Bồ Đề tâm. Tức là trong sanh mạng của hậu hữu mà tiếp nối hai pháp bi và trí, sẽ chẳng ĺa cái thân do cha mẹ sanh ra mà thành tựu Bồ Đề. Tâm niệm vừa chuyển, cái thân tạo nghiệp này sẽ trở thành thân bi trí, có thể lợi ích rộng khắp thế gian. Điều này hết sức rơ ràng!

          Trong gia hạnh[6] của Tạng truyền Phật giáo, tâm chán ĺa và triệt để ĺa bỏ sự an lạc cho cái thân này, tức hết thảy các tâm hưởng thụ và an lạc. Đó là hai gia hạnh cơ bản nhất. Nếu không, thượng sư sẽ tuyệt đối chẳng truyền pháp cho quư vị. Khi tôi vừa mới xuất gia, có một vị Bồ Tát bảo tôi: “Nếu muốn thân này thật sự có thành tựu trong Phật pháp, thầy phải ĺa bỏ bất cứ nghiệp tướng đắm nhiễm nơi thân này. Nếu không, sẽ chẳng thể có thành tựu”. Khi ấy, tôi có cảm giác kinh hăi. Đối với chuyện triệt để ĺa bỏ sự thọ dụng vật chất và tinh thần nơi thân này, vẫn c̣n có các nỗi băn khoăn, mờ mịt. Trải qua một thời gian tu tập, cho đến khi gặp được cơ chế giáo ngôn của A Di Đà Phật, mới biết được sự thiện xảo do đoạn ngang, thoát ra theo chiều ngang, cũng như chọn lựa “chẳng tạo hậu hữu” của bậc thánh như A La Hán đă chứng quả là ở chỗ nào. Chính là ngay trong việc chẳng c̣n tiếp nối các nghiệp thiện, ác, vô kư của chính ḿnh và tiếp nối hai pháp bi trí, như pháp sư Đàm Loan đă dạy: “Dĩ Phật nguyện vi sanh mạng, khởi khả tư nghị?” Tức là dùng Phật nguyện để duy tŕ sanh mạng th́ sẽ là chẳng thể nghĩ bàn; nhưng nếu chúng ta nương theo nghiệp lực của chính ḿnh, nương vào tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng để tiếp nối sanh mạng th́ sẽ có hậu hữu. Hăy nên quán kỹ điều này!

 

          (Kinh) Tứ giả, thí dữ thanh tịnh, bất nguyện nhất thiết chư hành quả báo cố.

          ()四者。施與清淨。不願一切諸行果報故。

          (Kinh: Bốn là bố thí thành tựu, chẳng mong quả báo từ hết thảy các việc đă làm).

 

          Ở đây là nói đối với hết thảy bố thí, đều chẳng mong được báo đền. Trong quá tŕnh bố thí, chúng ta chẳng cầu được báo đền là điều rất quan trọng. Cũng giống như vậy, trong quá tŕnh hành pháp, nếu nóng ḷng mong đạt được điều ǵ, do nôn nóng về hậu quả và lợi ích, tự tâm cũng sẽ bị ngăn lấp. Hễ có báo đền, cùng với tiếng tăm, lợi dưỡng, th́ đều là giáo dục thế gian. [Giáo dục thế gian là] “nếu đă làm ǵ, đều muốn được báo đáp”. Nếu chẳng được báo đáp, người ta sẽ sanh ḷng oán. Chẳng hạn như nói: “Ta đă bỏ ra bao nhiêu công sức, sao mà chẳng đạt được ǵ?” Đó là tâm lư thông thường của phàm phu!

          “Thí dữ thanh tịnh” (bố thí thanh tịnh) ở đây là chẳng cầu báo đáp. Chúng ta có thể xét kỹ tất cả những ǵ chính ḿnh đă làm có phải là chẳng hề cầu được báo đền hay không? Nếu triệt để liễu thoát ngay trong mỗi hành vi, chẳng có hậu hữu, chẳng dính mắc, chẳng có tâm mong được báo đền, chẳng t́m cầu được báo đền, chẳng lập bày vọng tưởng được báo đền, chúng ta làm được như thế sẽ vô úy, chẳng truy cầu lợi lộc, chẳng so đo được mất. Cái tâm được, mất là khởi đầu căn bản của hết thảy các pháp trong tâm phàm phu. Hết thảy hành vi của phàm phu đều chẳng ĺa khỏi cái tâm ấy; nhưng nếu hành vi của chúng ta thật sự chẳng c̣n so đo được, mất, sự bố thí thanh tịnh sẽ tự nhiên hiện ra. Các phần kinh văn này hoàn toàn có tánh cách đối trị tri kiến của hữu t́nh phàm phu, và cũng hết sức cụ thể. Trong cuộc sống b́nh thời, mọi người đều có thể tự ḿnh xét kỹ.

          Chẳng mong được báo đền, thường là nói rất đơn giản, nhưng trong phàm t́nh, chẳng cầu được báo đền là tâm lư như thế nào? Hào phóng ư? Vô tư ư? Vô ngă ư? Nếu đúng là một vật mà quư vị thật sự ưa thích, tham ái, hay là tôn trọng, quư vị có thể bỏ ra hay không? Ngày hôm qua, có một vị pháp sư nói, khi ông ta sống ở Chung Nam Sơn, gặp cường đạo đoạt y bát, khi đó, ông ta phải nên đối diện vấn đề như thế nào? Có nên đưa cho hắn hay không? Vấn đề ấy ông ta đă hỏi rất nhiều người. Có tỳ-kheo nói đưa hết cho kẻ cướp, có người nói hăy chế phục hắn, cũng có người nói thà xả thân mạng, cũng chẳng thể xả y bát. Nói theo các kiểu khác nhau! Chúng ta xem xét vấn đề ấy như thế nào? Trong Tứ Phần Luật Tạng có giải thích chuyện này. Người thật sự chẳng cầu được báo đền, sẽ hành xử rất vô úy. Vô tư chính là vô úy, khẳng định chẳng có tâm trí ủy khuất hoặc chỉ trích. Kẻ thường ủy khuất sẽ ủy khuất ở chỗ báo đền; do chẳng được báo đền tương ứng, sẽ cảm thấy ủy khuất. Do đó, “thí dữ thanh tịnh” (bố thí thanh tịnh) là một pháp tắc to lớn mà người xuất gia lẫn tại gia chúng ta đều phải nên xét kỹ. Trong tám pháp và mười pháp này, đức Thế Tôn đều nói về các nội dung mười phần cụ thể trong cuộc sống của chúng ta, cũng như khuyết điểm dễ phạm nhất, hoặc là tri kiến dễ dàng cưỡng chấp nhất. Ở đây, mỗi điều đều được nêu rơ!

 

          (Kinh) Ngũ giả, đa văn thanh tịnh. Kư văn pháp dĩ, tất cánh bất vong cố.

          ()五者。多聞清淨。既聞法已畢竟不忘故。

          (Kinh: Năm là đa văn thanh tịnh, do đă nghe pháp sẽ rốt ráo chẳng quên).

 

          Trong tâm trí bất xả pháp, nghe nhiều các pháp chính là thiện xảo. Nghe mà chẳng nhiễm, cơ duyên thành thục liền có thể hành tŕ; đó là phương tiện. V́ thế, “đa văn thanh tịnh” rất trọng yếu. Đa văn chẳng trở thành gánh nặng, chẳng trở thành kiêu mạn. Hễ cơ duyên chín muồi, bèn có thể hành tŕ, hoặc là bố thí cho người khác, rộng truyền trong thế gian. Đó đều là thiện xảo. Có người sau khi tiếp xúc pháp, tiếp xúc với nhiều người khác, sẽ sanh ḷng kiêu mạn, tà kiến, tức là đa văn chẳng thanh tịnh, v́ do đa văn của chính ḿnh mà sanh tâm kiêu mạn, tâm tà kiến, tâm cao thấp. Như thế th́ sẽ ô nhiễm pháp tắc này.

 

          (Kinh) Lục giả, tinh tấn thanh tịnh, ư nhất thiết thời, cầu Phật Bồ Đề cố.

          ()六者。精進清淨。於一切時求佛菩提故。

          (Kinh: Sáu là tinh tấn thanh tịnh, do trong hết thảy mọi lúc đều cầu Phật Bồ Đề).

 

          Các pháp tắc đă thủ hộ đều phổ giai hồi hướng (hồi hướng trọn khắp) A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, chỉ nương theo tâm tối thượng thừa, chẳng v́ cầu chi khác, chẳng đọa vào thứ ǵ khác. Đó là “tinh tấn thanh tịnh”. Trong tâm trí tam thừa, có Thanh Văn Bồ Đề tâm, Duyên Giác Bồ Đề tâm, cho đến Phật Bồ Đề tâm. Ở đây, chỉ nói “cầu Phật Bồ Đề”, tức là cầu tối thượng thừa tâm, v́ tinh tấn, hăy đừng nên bỏ hoặc đánh mất cái tâm ấy.

 

          (Kinh) Thất giả, viễn ly thanh tịnh, ư nhất thiết danh lợi, bất nhiễm trước cố.

          ()七者。遠離清淨。於一切名利不染著故。

          (Kinh: Bảy là xa ĺa thanh tịnh, do đối với hết thảy danh lợi, chẳng đắm nhiễm).

 

          Trong cơ chế Phật pháp, chúng ta cũng thấy tiếng tăm, lợi dưỡng. Nếu hơi có chánh hạnh, đối với pháp tắc có đôi chút tương tự tu tập, danh lợi sẽ theo ngay đến. Chẳng chú ư đôi chút, sẽ bị danh lợi làm hại, bị nhiễm danh lợi, bị danh lợi nhuốm bẩn. Do đó, phải nên “viễn ly thanh tịnh”.

 

          (Kinh) Bát giả, bất thoái thanh tịnh, đương đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tan Bồ Đề, sơ bất động dao cố.

          ()八者。不退清淨。當得阿耨多羅三藐三菩提。初不動搖故。

          (Kinh: Tám là bất thoái thanh tịnh, sẽ đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề v́ thoạt đầu chẳng dao động).

 

          Thoạt đầu chẳng thể dao động. Thật ra, A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm, tức Vô Thượng Bồ Đề tâm, từ sơ phát tâm măi cho đến khi thành tựu đều là cùng một tâm trí, cho nên nói “phát tâm, liền thành Phật. Đă là “phát tâm liền thành Phật”, cho nên cần phải mười phần hiểu rơ sự phát tâm này. Đó là “bất thoái thanh tịnh”.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thị vi bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân sở hoạch bát pháp dă.

          ()賢護。是爲彼善男子善女人所獲八法也。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Đó là tám pháp mà thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đạt được).

 

          “Hoạch” là sẽ thủ hộ, sẽ tu tập, sẽ thành tựu. Đúng là các kinh điển ấy phải thường nên đọc; mọi người ở chùa Phóng Quang đă đọc suốt một tháng. Sau đó, chúng tôi lại nhắc nhở từng điều, không ǵ chẳng nhằm khiến cho kinh điển Ban Châu có thể lưu truyền rộng răi trong cơi đời, khiến cho mọi người có thể nương theo kinh mà hành, nương theo pháp mà hành, đúng pháp mà hành, đúng pháp mà thành tựu. Như thế th́ sẽ chẳng đi đường ṿng, tránh khỏi khổ sở vô ích mà tiến nhập Bồ Đề.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa, dĩ thuyết kệ viết: - Trí nhân bất khởi hữu tướng tưởng, diệc đương trừ mạn cập ngă tâm, ư thâm nhẫn trung vô thủ trước, bỉ năng tốc tuyên thử tam-muội. Không trung bổn cầu diệt tránh căn, Niết Bàn vô tướng đại tịch định, ư Phật vô hiềm, bất báng pháp, bỉ năng tốc tuyên thử tam-muội.

          ()爾時世尊。爲重明此義。以說偈曰。智人不起有相想。亦當除慢及我心。於深忍中無取著。彼能速宣此三昧。空中本求滅諍根。涅槃無相大寂定。於佛無嫌不謗法。彼能速宣此三昧。         (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn v́ muốn nói rơ lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Người trí chẳng dấy hữu tướng tưởng, cũng sẽ trừ mạn, tâm chấp ngă. Đối với nhẫn sâu chẳng chấp giữ, người ấy mau tuyên tam-muội này. Trong Không, vốn cầu gốc diệt tránh, Niết Bàn vô tướng đại tịch định, chẳng hiềm trách Phật, chẳng báng pháp. Người ấy mau tuyên tam-muội này).

 

          Nói rơ tâm trí phải nên thủ hộ trong khi tuyên nói tam-muội này.

 

          (Kinh) Trí giả bất hưng tật đố ư, niệm Phật tri ân cập Pháp, Tăng. Sở sanh hàng phục vô thiên di, như thị tịch tĩnh tŕ tam-muội. Vô hữu tật đố, diệc vô nghi, tư duy thâm pháp chân thật tín. Tinh tấn bất giải, ly chư dục. Bỉ năng như thị đắc tam-muội.

          ()智者不興嫉妒意。念佛知恩及法僧。所生降伏無遷移。如是寂靜持三昧。無有嫉妒亦無疑。思惟深法真實信。精進不懈離諸欲。彼能如是得三昧。

          (Kinh: Người trí chẳng dấy ư ghen tỵ, nghĩ tưởng biết ơn Phật, Pháp, Tăng, sở sanh hàng phục chẳng dời chuyển, tịch tĩnh tŕ tam-muội như thế. Chẳng có ghen tỵ cũng chẳng nghi, tư duy pháp sâu, tin chân thật. Tinh tấn chẳng lười, ĺa các dục. Ai được như thế, đắc tam-muội).

         

          Trong kệ tụng có “tuyên tam-muội”, “tŕ tam-muội”, “đắc tam-muội”. Thứ tự thuyết pháp ấy chẳng ngoài từ cầu pháp, đọc tụng, truyền bá, giải nói, đích thân chứng lợi ích của pháp tắc, lập ra các thứ pháp tắc để ấn khế tự tâm của chúng ta. Trong ấy, có rất nhiều toa thuốc để trị các loại bệnh tật của chúng ta, nhưng đối với ghen tỵ và kiêu mạn, kinh này hết sức chú trọng nhắc nhở. Ngoài ra, cũng đặc biệt nhắc tới tinh tấn, nhưng trong sự thủ hộ vô thượng thừa th́ [tinh tấn] chính là tinh tấn thiện xảo.

 

          (Kinh) Thường hành tỳ-kheo khất thực pháp, xả chư biệt thỉnh, huống cầu tài! Đoạn trừ cấu nhiễm, chứng Chân Như. Bỉ năng như thị đắc tam-muội.

          ()常行比丘乞食法。舍諸別請況求財。斷除垢染證真如。彼能如是得三昧。

          (Kinh: Thường hành pháp khất thực của tăng, bỏ các thỉnh riêng, huống cầu tài! Đoạn trừ cấu nhiễm, chứng Chân Như. Người được như thế, đắc tam-muội).

 

          “Khất thực pháp” trên thực tế là pháp ĺa bỏ các kiêu mạn, cũng là pháp tắc ĺa bỏ tham cầu an nhàn.          “Xả chư biệt thỉnh, huống cầu tài” (bỏ các lời thỉnh nhận cúng dường riêng, huống hồ cầu tài vật): Người xuất gia hoặc người hành pháp nếu tham lam các món tài vật, lỗi họa vô cùng, sẽ khiến cho người ấy mang gánh nặng trầm trọng, tŕ hoăn cơ hội thành đạo của chính ḿnh.

 

          (Kinh) Thùy năng hữu thử tam-ma-đề, ngă ưng thính thọ, quảng lưu bố, ư giáo sư sở khởi Phật tưởng. Bỉ năng như thị, đắc tam-muội.

          ()誰能有此三摩提。我應聽受廣流佈。於教師所起佛想。彼能如是得三昧。

          (Kinh: Hễ ai có tam-ma-đề này, ta nên nghe nhận, lưu truyền rộng, đối với người dạy tưởng như Phật, người được như thế, đắc tam-muội).

 

          Tam-ma-đề là thành tựu và an trụ tam-muội. Người hành pháp trong hiện thời đông đảo như thế, nếu có người thật sự chứng pháp tắc tam-ma-đề an lạc, hăy nên thỉnh vị thiện tri thức như vậy lợi ích rộng khắp thế gian.

          “Ư giáo sư sở, khởi Phật tưởng” (đối với thầy dạy tưởng như Phật): Hiện thời, trong Hán truyền Phật giáo, ḷng tôn trọng đối với thầy, đối với sự dạy bảo của thầy vẫn khá yếu ớt, c̣n Tạng truyền Phật giáo th́ chuyện xem xét, nhận biết thầy là một vấn đề mười phần trọng yếu, cũng có thể nói là một vấn đề trọng yếu hàng đầu. V́ nếu chẳng tưởng thầy như Phật, chuyện đạt được pháp ích và lưu thông [Phật pháp] sẽ bị trở ngại. Trên thực tế, sự nghĩ tưởng ấy chẳng phải nghĩ tưởng sai lầm, chúng ta tuyên nói phải tương ứng khế hợp pháp thể th́ mới có thể đạt được sự gia tŕ thật sự trong Phật pháp.

 

          (Kinh) Nhược nhân tu hành thử tam-muội, đương cụ công đức siêu thế gian.

          ()若人修行此三昧。當具功德超世間。

          (Kinh: Nếu ai tu hành tam-muội này, sẽ có công đức siêu thế gian).

 

          “Đương cụ công đức siêu thế gian” (sẽ có công đức vượt xa thế gian): Giáo ngôn xuất thế của đức Thế Tôn, tuyệt đối chẳng phải chỉ đơn giản là tăng ích thế gian, mà v́ khiến cho hữu t́nh trong thế gian thật sự xét kỹ thế gian, vượt khỏi pháp tắc thế gian. Nếu chẳng vậy, chúng ta sẽ coi Phật pháp thành giáo pháp nhân gian, đồng hóa Phật pháp, tức là thế tục hóa Phật pháp. Đây cũng là một vấn đề đặc biệt to lớn trong hiện thực.

 

          (Kinh) Bỉ ưng tốc thọ bát chủng pháp, xưng chư Phật tâm tịnh vô cấu.

          ()彼應速受八種法。稱諸佛心淨無垢。

          (Kinh: Hăy nên mau thọ tám loại pháp, khen tâm chư Phật sạch chẳng nhơ).

 

          Chúng ta nếu có thể tùy thuận chư Phật, như thế th́ sẽ tự nhiên siêu việt các cấu chướng nghiệp duyên.

 

          (Kinh) Tŕ giới thanh tịnh vô hữu biên, tam-muội Bồ Đề cập thắng kiến, bỉ năng thanh tịnh chư hữu trung, trụ dĩ tối diệu công đức tụ.

          ()持戒清淨無有邊。三昧菩提及勝見。彼能清淨諸有中。住以最妙功德聚。

          (Kinh: Tŕ giới thanh tịnh chẳng ngằn mé, tam-muội Bồ Đề và thắng kiến, ai hay thanh tịnh trong các hữu, trụ khối công đức mầu nhiệm nhất).

 

          Hai câu kệ này đặc biệt ngắn gọn nêu ra: “Thanh tịnh chư hữu trung” (thanh tịnh trong các hữu). Nếu chúng ta vô nhiễm trong các hữu, tức là thanh tịnh. Nếu có nhiễm, tức là đắm nhiễm trong các Hữu. Nếu đắm nhiễm trong các Hữu, hết thảy các thứ sanh ra đều là nghiệp tướng liên tục. Nếu chẳng đắm, chẳng nhiễm trong các Hữu, thanh tịnh an lập, tự nhiên sẽ là công đức thù thắng, nhiệm mầu, tức cái gọi là “tối diệu công đức tụ” (khối công đức nhiệm mầu nhất). V́ thế, trong nghiệp tướng hiện duyên này, chúng ta nương theo hai pháp nhiễm hoặc chẳng nhiễm, đạt được thanh tịnh hay không thanh tịnh, diệu dụng và nghiệp tiếp nối.

 

          (Kinh) Trí huệ thanh tịnh bất thọ hữu, bố thí ly cấu nhập vô vi.

          ()智慧清淨不受有。佈施離垢入無爲。

          (Kinh: Trí huệ thanh tịnh, chẳng thọ hữu. Bố thí ĺa cấu, nhập vô vi).

 

          Kệ tụng chủ yếu là trùng tuyên nội dung của phần Trường Hàng trước đó, cho nên chúng ta đọc sẽ thấy có ư trùng lặp. Thật ra, chẳng phải vậy. Giáo ngôn trong Phật pháp dẫu một câu nói mười lần, vẫn là dần dần thâm nhập nhiều hơn, vi tế hơn, thuần thục hơn, đừng nghĩ là trùng lặp!

 

          (Kinh) Đắc bỉ đa văn vị tằng vong, kỳ vi trí nhân công đức tạng.

          ()得彼多聞未曾忘。其爲智人功德藏。

          (Kinh: Đạt được đa văn chưa từng quên, là tạng công đức của bậc trí).

 

          Trong Hậu Đắc Trí, nếu chẳng có pháp đa văn, chúng ta rất khó thành tựu cái gọi là Bất Không Trí. V́ trong pháp Tu Đức, tức là pháp tắc lợi lạc thế gian, trong những hành vi hiện tiền, vẫn cần phải được truyền dạy, huân tập, cần phải lắng nghe.

 

          (Kinh) Dũng mănh tinh tấn đắc Bồ Đề, ư thế danh lợi bất tham nhiễm, nhược chư trí giả thiện hành thử, bỉ nhập vô thượng thâm diệu Thiền.

          ()勇猛精進得菩提。於世名利不貪染。若諸智者善行此。彼入無上深妙禪。

          (Kinh: Dũng mănh tinh tấn đắc Bồ Đề, chẳng tham đắm danh lợi thế gian, nếu bậc trí khéo hành pháp này, sẽ nhập vô thượng thâm diệu Thiền).

 

          Vẫn là không ngừng nêu ra chẳng nhiễm, chẳng chấp, đoạn trừ Hậu Hữu, duy tŕ bi trí, tiếp tục truyền pháp, tiếp tục hành pháp, nhưng chẳng trụ trong nghiệp tướng liên tục. Chúng ta thấy trọng điểm được tuyên nói trong mười pháp và tám pháp ấy chính là trừ kiêu mạn, ĺa ghen tỵ, chẳng cầu được báo đền, chẳng đắm nhiễm trong các Hữu, thủ hộ Vô Thượng Bồ Đề, nhưng chẳng tham thế gian, đă lựa chọn Vô Thượng Bồ Đề, đừng tham pháp khác, chẳng hành pháp khác v.v…

Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh giảng kư

Phần 11 hết

 

 

 

 



[1] Trung Điện vốn là một huyện thuộc tỉnh Vân Nam, gọi theo tiếng Tây Tạng là Gyaitang Zong, nằm ngay ranh giới của Tứ Xuyên, Vân Nam, và Tây Tạng. Ở đây, có một thị trấn nổi danh là Shangrila (người Tây Tạng gọi là Gyalthang) thuộc Địch Khánh Tạng Tộc Tự Trị Khu. Thị trấn này vốn cũng gọi là Trung Điện, nhưng từ ngày 16 tháng 12 năm 2014, đă chính thức đổi tên thành Shangrila, dựa theo tên miền đất huyễn tưởng trong tác phẩm Lost Horizon của James Hilton. Hilton mô tả vùng đất ấy nằm ở phía Tây rặng Côn Luân, được coi như thiên đường hạ giới, dân ở đó sống bất tử. Để hấp dẫn khách du lịch, do Trung Điện phong cảnh đẹp đẽ, lại gần Côn Luân, nhà cầm quyền Hoa Lục bèn đổi tên Trung Điện thành Shangrila. Một số nhà nghiên cứu cho rằng Shangrila được gợi hứng từ vương quốc bí mật Shambala dành cho những người chứng ngộ, như mật điển Kalachakra (Thời Luân) của Mật giáo Tây Tạng đă đề cập.

Đại Lư (sắc dân Bạch gọi thành phố này là Guiphet) là thành phố cấp huyện của tỉnh Vân Nam, là thủ phủ của Đại Lư Bạch Tộc Tự Trị Châu. Đây là thành phố được h́nh thành sớm nhất ở tỉnh Vân Nam. Khu vực Đại Lư đă được kiến thiết từ thời Hán Vũ Đế trong nỗ lực kiểm soát Tây Vực mà không phải đi vào đất Thục (Tứ Xuyên). Gia Cát Lượng đă lập ra Vân Nam Quận tại vùng này. Sắc dân Bạch kiến thiết khá nhiều thành ấp quanh khu vực, h́nh thành sáu bộ lạc lớn gọi là Lục Chiếu. Thủ lănh Mông Xá chiếu là B́ La Các đă thôn tính năm chiếu kia, thành lập nước Nam Chiếu. Năm 902, quyền thần Trịnh Măi Tự của Nam Chiếu đoạt quyền, xóa sổ Nam Chiếu, lập ra Đại Trường Ḥa Quốc. Nội chiến liên miên, cuối cùng Đoàn Tư B́nh chiến thắng, chiếm vùng này, lập ra Đại Lư Quốc, bắt đầu quá tŕnh Hán hóa vùng Vân Nam. Đến thời Nguyên, vùng này trở thành Đại Lư Lộ rồi biến thành Đại Lư Phủ dưới thời Minh, rồi trở thành huyện Đại Lư dưới thời Dân Quốc.

[2] Hộc là tên một loài chim, thuộc họ Thiên Nga, bay rất cao, cổ dài, sắc trắng muốt.

[3] Theo Tăng Nhất A Hàm Kinh, Kim Cang Tế chính là nền tảng của đại địa. Một thế giới được h́nh thành trong hư không (gọi là hư không luân), trên hư không luân có phong luân. Trên phong luân có thủy luân, trên thủy luân có địa luân. Nền tảng của địa luân được gọi là Kim Cang Tế.

[4] Tứ Phần Luật (Dharmagupta-Vinaya) là Luật Tạng theo Pháp Tạng Bộ, c̣n gọi là Đàm Vô Đức Luật, hay Tứ Phần Luật Tạng. Bộ luật này gồm sáu mươi quyển, do ngài Ưu Ba Quật Đa truyền thừa. Đàm Vô Đức là cách phiên âm của Dharmagupta (Pháp Tạng Bộ). Gọi là Tứ Phần Luật v́ gồm có bốn phần: 21 quyển đầu là giới tỳ-kheo, 16 quyển kế tiếp là giới tỳ-kheo-ni, phần thứ ba gồm các kiền độ (khandhaka) thuộc về pháp tắc an cư, tự tứ v.v… gồm 12 quyển, phần cuối cùng là các quy tắc về pḥng xá, cũng như các điều lặt vặt khác. Theo cách lư giải truyền thống, bộ luật này được kết tập khi tôn giả Ưu Ba Ly trùng tụng giới luật tám mươi lần, giao cho Ca Diếp, A Nan, rồi truyền cho các vị Thương Na Ḥa Tu, Mạt Điền Địa, Ưu Ba Quật Đa v.v… Do thoạt đầu chỉ là ghi nhớ truyền khẩu, bộ luật này về sau được ghi thành văn bản bởi bộ phái Pháp Tạng Bộ, cho nên được gọi là Đàm Vô Đức Luật. Bộ luật này được dịch sang tiếng Hán bởi hai vị Phật Đà Da Xá và Trúc Phật Niệm. Tứ Phần Luật được coi là bộ luật trọng yếu để truyền tŕ giới luật cho Phật giáo Bắc Tông. Đa số các trường phái Luật Tông của Trung Hoa hoàn toàn nghiên cứu Tứ Phần Luật, hoặc dùng Tứ Phần Luật làm cơ sở chính yếu để biện định giới pháp. Các vị luật sư như Huệ Quang, Đạo Tuyên (tổ sư sáng lập Nam Sơn Luật Tông) đều phán định luật này thuộc về Đại Thừa. Tác phẩm Tứ Phần Luật San Phiền Bổ Khuyết Hành Sự Sao của ngài Đạo Tuyên được coi là sách gối đầu giường cho những ai nghiên cứu Luật Tông theo truyền thống Phật giáo Bắc Tông.

[5] Đây là một câu nói nổi tiếng trích từ thiên Nhan Uyên trong sách Luận Ngữ: “Tề Cảnh Công vấn chánh ư Khổng Tử, Khổng Tử đối viết: Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử. Công viết: Thiện tai! Tín như quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử, tuy hữu túc, ngô đắc nhi thực chi?” (Tề Cảnh Công hỏi Khổng Tử về đường lối cai trị. Khổng Tử đáp: “Vua ra vua, bầy tôi ra bầy tôi, cha ra cha, con ra con” Cảnh Công nói: “Lành thay! Nếu vua chẳng ra vua, bầy tôi chẳng ra bầy tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, dẫu có nhiều lương thực, cũng chẳng ăn được!”)

[6] Gia Hạnh c̣n gọi là Phương Tiện, hoặc Tứ Du Già. Gia Hạnh có nghĩa là “gia công dụng hạnh”, tức là các hạnh tương ứng nhằm phụ trợ cho chánh hạnh thành tựu, là các hạnh cần phải thành tựu để làm tiền đề cho chánh hạnh. Thông thường, Gia Hạnh có bốn món là Noăn, Đảnh, Nhẫn, Thế Đệ Nhất, gọi gộp chung là Tứ Gia Hạnh. Nếu kể thêm Tư Lương, Ngũ Đ́nh Tâm Quán và Niệm Xứ th́ thành Thất Gia Hạnh. Sau Thất Gia Hạnh là các địa vị Kiến Đạo, Tu Đạo, và Vô Học Đạo. Trong Tạng Truyền Phật Giáo, Gia Hạnh phải hiểu là các pháp tu chuẩn bị (thường gọi là Ngöndro, tức “tiền phương tiện” hoặc “tu tŕ cơ bản”) trước khi được truyền thụ quán đảnh tu học một mật pháp (khác với các pháp quán đảnh thường tổ chức tập thể, mang tính chất kết duyên như nghi lễ quán đảnh (empowerment ritual) Kalachadra do Đại Lai Lạt Ma chủ tŕ, hoặc các nghi lễ quán đảnh do các đoàn lạt-ma ghé thăm các thành phố tổ chức). Mục đích của gia hạnh là cảm nhận “thân người khó được, quán cái chết là vô thường, nhân quả nghiệp lực, lỗi họa do luân hồi” nhằm thanh tịnh thân tâm, tiêu trừ nghiệp chướng, nhằm tương ứng với Bổn Tôn. Tùy theo tông phái, Gia Hạnh có nhiều loại khác nhau, nhưng chủ yếu là quy y lễ bái, cúng dường Mạn Đà La, tụng Bách Tự Chú Chân Ngôn của Kim Cang Tát Đỏa, tu Guruyoga… Thông thường, hành giả thật sự bế quan hành tŕ Ngöndro th́ phải cần mất từ ba năm cho đến năm năm mới hoàn tất yêu cầu.