Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng kư
Phần
12
大方等大集賢護經講記
慈法法師
Chủ giảng:
Pháp sư Từ Pháp
Địa điểm:
Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ
ngày 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt:
Đức Phong và Huệ Trang
18. Phẩm thứ
mười bốn: Bất cộng công đức
Trong
phẩm này, đức Thế Tôn tán thán pháp tắc mười
tám môn Bất Cộng và Thập Lực của chư Phật
Như Lai, khuyên Bồ Tát tấn tu pháp này, thành tựu Bồ
Đề. Nếu giải thích chi
tiết các danh tướng trong phẩm này, lời giải
thích sẽ có phân lượng
hết sức lớn, cho nên ở đây chúng ta hăy cùng
đọc.
(Kinh)
Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền
Hộ Phần Bất Cộng Công Đức, phẩm
đệ thập tứ.
Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền
Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: - Hiền Hộ! Bỉ chư
Bồ Tát Ma Ha Tát, phục đương thành tựu thập
bát bất cộng pháp.
(經)大方等大集賢護分不共功德品第十四。
爾時世尊。復告賢護菩薩摩訶薩言。賢護。彼諸菩薩摩訶薩。復當成就十八不共法。
(Kinh: Kinh Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ
Phần, phẩm thứ mười bốn: Công đức
bất cộng.
Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền
Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: - Này Hiền Hộ!
Các vị Bồ Tát Ma Ha Tát ấy lại nên thành tựu mười
tám pháp bất cộng).
Mười
tám pháp bất cộng được viên thành khi chư Phật
Thế Tôn trọn đủ mười hiệu.
(Kinh)
Hà đẳng danh vi bất cộng pháp dă? Sở vị
Như Lai sơ thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề, năi chí bát Niết Bàn, ư kỳ trung gian, Như
Lai sở hữu tam nghiệp, trí huệ vi thủ. Nhất
thiết thân nghiệp tùy trí huệ hành. Nhất thiết khẩu
nghiệp tùy trí huệ hành. Nhất thiết ư nghiệp tùy
trí huệ hành. Hựu chư Như Lai tri kiến quá khứ
vô hữu chướng ngại, tri kiến vị lai vô hữu
chướng ngại, tri kiến hiện tại vô hữu
chướng ngại. Hựu chư Như Lai sở vi vô hữu
thác mậu, ngôn vô lậu
thất, ư vô vọng niệm, vô biệt dị tưởng,
thường tại tam-muội, vô bất tri dĩ xả.
Hựu chư Như Lai ư dục vô giảm, tinh tấn vô giảm,
Thiền Định vô giảm, trí huệ vô giảm, giải
thoát vô giảm, giải thoát tri kiến vô giảm.
(經)何等名爲不共法也。所謂如來初成阿耨多羅三藐三菩提。乃至般涅槃。於其中間。如來所有三業。智慧爲首。一切身業隨智慧行。一切口業隨智慧行。一切意業隨智慧行。又諸如來知見過去無有障礙。知見未來無有障礙。知見現在無有障礙。又諸如來。所爲無有錯謬。言無漏失。意無妄念。無別異想。常在三昧。無不知已舍。又諸如來意欲無減。精進無減。禪定無減。智慧無減。解脫無減。解脫知見無減。
(Kinh:
Những ǵ là pháp bất cộng? Chính là Như Lai khi mới
thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cho
đến lúc nhập Niết Bàn, trong khoảng ấy, tất
cả tam nghiệp của Như Lai, trí huệ làm đầu.
Hết thảy thân nghiệp thuận theo trí huệ mà hành xử.
Hết thảy khẩu nghiệp thuận theo trí huệ mà
hành xử. Hết thảy ư nghiệp thuận theo trí huệ
mà hành xử. Lại nữa, các đức Như Lai thấy
biết quá khứ chẳng có chướng ngại, thấy
biết vị lai chẳng có chướng ngại, thấy
biết hiện tại chẳng có chướng ngại. Lại
nữa, việc làm của các đức Như Lai chẳng
sai lầm, lời lẽ chẳng sai sót, ư chẳng có vọng
niệm, chẳng nghĩ điều ǵ khác lạ, thường
ở trong tam-muội, không điều ǵ đă biết mà chẳng
xả. Lại nữa, các đức Như Lai ư dục chẳng
giảm, tinh tấn chẳng giảm, Thiền Định
chẳng giảm, trí huệ chẳng giảm, giải thoát
chẳng giảm, giải thoát tri kiến chẳng giảm).
Biết
quá khứ, hiện tại, vị lai chẳng chướng
ngại, thật sự là do Thiên Nhăn Minh, Túc Mạng
Minh, và Lậu Tận Minh mà có thể biết thấu triệt.
Nay chúng ta nói “vô chướng ngại” tức là đối
với nghe nói và suy luận, do phàm phu hữu t́nh chúng ta thủ
hộ phân lượng hữu hạn, cho nên phần nhiều
đối với sự hay biết th́ bất quá lắng
nghe cũng là chẳng thể nghĩ bàn, v́ có phương
tiện để tu tập ḥng tiến nhập.
Nếu thật sự đạt được vô ngại
lực, sẽ sư tử hống, đối với pháp
vô úy, đối với hành vô úy, đối với sự
vô úy. V́ thế, Lư vô ngại, Sự vô ngại, Lư Sự vô
ngại, Sự Sự vô ngại, có thể thật sự tự
tại vô ngại!
“Ngôn
vô lậu thất, ư vô vọng niệm, vô biệt dị
tưởng” (lời lẽ chẳng sai sót, ư chẳng có
vọng niệm, không nghĩ ǵ khác lạ), khác hẳn hết
thảy phàm phu ăn nói sơ sót, ư niệm vọng tưởng,
thậm chí đủ loại suy tưởng khác lạ. “Thường
tại tam-muội” (thường ở trong tam-muội):
Hết thảy chư Phật Như Lai Thế Tôn chẳng
ra khỏi tam-muội, dùng sức tự tại an ủi thế
gian.
“Vô
bất tri dĩ xả” tức là tuy biết nhưng
đều xả (chẳng chấp trước điều
ḿnh hiểu biết). Bọn phàm phu hữu t́nh chúng ta phần
nhiều bị vô minh và vô tri che lấp, chẳng nói tới
“xả” được! Chỉ có bậc tṛn đủ
đức ấy, hiểu rơ chuyện ấy th́ mới có
thể nói đến Xả. Giống như chúng ta có một
món đồ th́ mới có thể nói đến xả. Nếu
chẳng có đức như thế, chẳng có nhân duyên
như thế, sao có thể nói đến xả cho
được? Chư Phật Như Lai đă đích thân
chứng hết thảy pháp tắc tự tại, cho nên các
Ngài có thể đối với những ǵ đă biết, không ǵ chẳng xả!
“Hựu
chư Như Lai ư dục vô giảm, tinh tấn vô giảm,
Thiền Định vô giảm, trí huệ vô giảm, giải
thoát vô giảm, giải thoát tri kiến vô giảm” (Lại
chư Như Lai ư dục chẳng giảm, tinh tấn chẳng
giảm, Thiền Định chẳng giảm, trí huệ
chẳng giảm, giải thoát chẳng giảm, giải
thoát tri kiến chẳng giảm), chúng ta thường nói
Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Nếu dùng Đẳng
Chánh Giác để giải thích “vô giảm” th́ khá chuẩn
xác. Nếu nói cặn kẽ hơn, sẽ khá rườm
rà!
(Kinh)
Hiền Hộ! Thị vi Như Lai thập bát bất cộng
pháp, bỉ Bồ Tát Ma Ha Tát đương ưng tu tập
cụ túc thành măn.
(經)賢護。是爲如來十八不共法。彼菩薩摩訶薩。當應修習具足成滿。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Đó là mười tám pháp bất cộng
của Như Lai, các vị Bồ Tát Ma Ha Tát ấy hăy nên tu
tập trọn đủ, thành tựu viên măn).
Trước
hết, tán thán mười
tám món bất cộng thiện xảo của Như Lai, sau
đó là khuyên các Bồ Tát tấn tu pháp này.
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Nhược Bồ Tát Ma Ha
Tát thành tựu cụ túc thậm thâm nan kiến nhiếp thọ
chánh pháp, tức dục tuyên thuyết thị tam-muội giả,
ưng đương cánh thọ thập chủng thắng
pháp.
(經)復次賢護。若菩薩摩訶薩。成就具足甚深難見攝受正法。即欲宣說是三昧者。應當更受十種勝法。
(Kinh:
Lại này Hiền Hộ! Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu
trọn đủ nhiếp thọ chánh pháp rất sâu khó thấy,
nếu muốn tuyên nói
tam-muội này, hăy nên thọ thêm nười thứ pháp thù
thắng).
Trước
tiên là nói về mười tám món bất cộng, sau đó
nói đến Thập Lực và bốn món vô úy, dần dần
sẽ nói. V́ sao hướng dẫn chúng ta thâm nhập dần
dần? Nếu chứng đắc tam-muội, tất nhiên
chúng ta sẽ huân tập mười tám món bất cộng
và pháp Thập Lực. Nếu chẳng có sức tam-muội,
sẽ chỉ là nghe danh tự, chúng ta vẫn chẳng có sức
để dính líu được!
(Kinh)
Hà đẳng vi thập? Sở vị Như Lai Thập Lực.
Vân hà Thập Lực? Hiền Hộ! Thị trung, Như Lai
thị xứ phi xứ lực giả, Như Lai ư
chư xứ phi xứ sự, năng dĩ chánh trí như
thật tri cố. Hiền Hộ! Như thị xứ phi xứ
sự, Như Lai năng dĩ chánh trí như thật tri giả.
Thử tắc Như Lai xứ phi xứ lực. Như Lai
đắc thử lực dĩ, tri chân thật xứ,
ư đại chúng trung, tác sư tử hống, chuyển
đại phạm luân, tích sở vị chuyển. Nhược
hữu sa-môn, Bà La Môn, nhược thiên, nhược Phạm,
nhược ma, nhược nhân, nhất thiết thế
gian, chung vô hữu năng như thị chuyển giả.
Hiền Hộ! Thị vi Như Lai đệ nhất trí lực.
Bồ Tát Ma Ha Tát ưng đương tu học cụ túc
thành măn.
(經)何等爲十。所謂如來十力。云何十力。賢護。是中如來是處非處力者。如來於諸處非處事。能以正智如實知故。賢護。如是處非處事。如來能以正智如實知者。此則如來處非處力。如來得此力已。知真實處。於大衆中。作師子吼。轉大梵輪。昔所未轉。若有沙門婆羅門。若天若梵若魔若人。一切世間。終無有能如是轉者。賢護。是爲如來第一智力。菩薩摩訶薩。應當修學具足成滿。 (Kinh: Những ǵ là mười?
Nói đến Thập Lực của Như Lai. Thập Lực
là ǵ? Này Hiền Hộ! Trong ấy, thị xứ phi xứ
lực của Như Lai là Như Lai đối với các
chuyện thị xứ và phi xứ, có thể dùng chánh trí
để biết như thật. Này Hiền Hộ! Đối
với chuyện thị xứ hay phi xứ như thế,
Như Lai có thể dùng chánh trí để biết như thật.
Đấy chính là xứ phi xứ lực của Như Lai.
Như Lai đă đạt được sức này, biết
chỗ chân thật, ở trong đại chúng, hiện sư tử hống,
chuyển đại phạm luân trước kia chưa chuyển.
Nếu có Sa-môn, Bà La Môn, hoặc trời, hoặc rồng,
hoặc Phạm Vương, hoặc ma, hoặc người,
hết thảy thế gian trọn không có ai có thể chuyển
như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ
nhất của Như Lai, Bồ Tát Ma Ha
Tát hăy nên tu học trọn đủ, thành tựu viên măn).
“Như
Lai xứ phi xứ lực”: Trong thế gian này, chúng ta
đối với mọi chuyện nhận biết là
đương cơ hay chẳng phải đương
cơ, là tương ứng hay chẳng tương ứng, đều chẳng thể
sanh ra sức chân thật[1],
nhưng chư Phật Như Lai đối với điều
này chẳng bị chướng ngại. “Chuyển đại
phạm luân, tích sở vị chuyển” (chuyển đại
phạm luân trước kia chưa chuyển): Tức là [tuyên
nói] pháp chưa từng có. Hết thảy chư Phật
Như Lai xuất thế đều tuyên nói rộng răi,
đều là [các pháp] chưa từng có. Tuy tâm ấn của
chư Phật Như Lai đă truyền lại chưa hề
khác biệt, nhưng các giáo pháp được nói ra đều
là pháp chưa từng có.
“Nhược
hữu sa-môn, Bà La Môn, nhược thiên, nhược Phạm,
nhược ma, nhược nhân, nhất thiết thế
gian, chung vô hữu năng như thị chuyển giả”
(Nếu có sa-môn, Bà La Môn, hoặc trời, hoặc Phạm
Vương, hoặc ma, hoặc người, hết thảy
thế gian, trọn chẳng có ai có thể chuyển như
thế): V́ sao đặt Ma trước người? Chúng
ta thường cho rằng nhân loại chắc là tốt
đẹp hơn Ma đôi chút, nhưng con người
trước khi thoát khỏi sanh tử, phần nhiều là
quyến thuộc của ma, bị tử ma, thiên ma, phiền
năo ma v.v… đủ loại ma quấy rối, gây khó
khăn, bị chúng nó sai khiến, trở thành nô
dịch. Do vậy, đặt Ma lên trước, người
ở sau. Đối với chuyện này, chớ nên sợ
hăi, v́ chúng ta được gặp Phật pháp, đối
với ma pháp lẫn ma cảnh đều chẳng sợ
hăi. V́ sao vậy? Do có giáo ngôn oai đức của Phật.
“Bồ Tát Ma Ha Tát ưng đương tu học cụ
túc thành măn” (Bồ Tát Ma Ha Tát phải nên tu học thành tựu,
viên măn trọn đủ): Trước là tán thán, sau là khuyên
tấn tu.
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Thị trung, Như Lai nhất thiết chí xứ
đạo lực giả, Như Lai ư nhất thiết
xứ đạo sai biệt, giai dĩ chánh trí như thật
tri cố. Hiền Hộ! Như thị nhất thiết
chí xứ đạo sự, Như Lai năng dĩ chánh trí
như thật tri giả. Thử tắc Như Lai chí xứ
đạo lực dă. Như Lai đắc thử lực
dĩ, tri chân thật xứ, ư đại chúng trung, tác
sư tử hống, chuyển đại phạm luân, tích
sở vị chuyển. Nhược chư thế gian,
sa-môn, Bà La Môn, nhược thiên, nhược Phạm,
nhược ma, nhược nhân, chung vô hữu năng
như thị chuyển giả. Hiền Hộ! Thị vi
Như Lai đệ nhị trí lực, Bồ Tát Ma Ha
Tát ưng đương tu học cụ túc thành măn.
(經)復次賢護。是中如來一切至處道力者。如來於一切處道差別。皆以正智如實知故。賢護。如是一切至處道事。如來能以正智如實知者。此則如來至處道力也。如來得此力已。知真實處。於大衆中作師子吼。轉大梵輪。昔所未轉。若諸世間沙門婆羅門。若天若梵若魔若人。終無有能如是轉者。賢護。是爲如來第二智力。菩薩摩訶薩。應當修學具足成滿。
(Kinh: Lại
này Hiền Hộ! Trong ấy, nhất thiết chí xứ
đạo lực (sức đến hết thảy các chỗ,
các đường) của Như Lai là Như Lai trong hết
thảy các chốn, các
đường sai biệt, đều
dùng chánh trí như thật mà biết. Này Hiền Hộ!
Đối với chuyện tới hết thảy các chốn,
các đường như thế, Như Lai có thể dùng
chánh trí để biết như thật. Đó chính là “chí xứ đạo lực” của Như
Lai. Như Lai đă đạt được sức ấy,
biết chỗ chân thật, ở trong đại chúng, hiện
sư tử hống, chuyển đại phạm luân
xưa kia chưa chuyển, dù các sa-môn, Bà La Môn, hoặc trời,
hoặc Phạm Vương, hoặc ma, hoặc người
trong các thế gian, trọn chẳng có ai có thể chuyển
như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ
hai của Như Lai, Bồ Tát Ma Ha Tát hăy nên tu học, thành
tựu viên măn trọn đủ).
“Như
Lai đắc thử lực dĩ, tri chân thật xứ”
(Như Lai đạt được sức này rồi, biết
chỗ chân thật): “Đắc” là như thật vận
dụng, như thật thành tựu. Hiện thời, chúng
ta là hữu t́nh không có sức tu tŕ trong thời Mạt Pháp,
mạng người ngắn ngủi, phước đức
mỏng ít, nghe pháp c̣n chẳng kịp, càng chẳng nói có sức
hành pháp. Nhưng nói “thời đại này không có sức
hành pháp” hoàn toàn chẳng phải là nói “chúng ta không thể
hành pháp, không thể chứng Thập Phương Chư Phật
Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, hoặc là
mười tám pháp bất cộng cho đến Thập Lực
đều chẳng thể chứng”, mà là nói: Trong thời
đại này, người có đủ nhân duyên ấy
mười phần hiếm hoi. Cho đến người
nghe nói pháp này rất thưa thớt. Chúng ta thấy trong thế
tục, hữu t́nh lặn hụp trong nghiệp và nghiệp
duyên, chôn vùi trong nghiệp và nghiệp duyên, đúng là nhướng
mắt nh́n, đâu đâu cũng
có. C̣n kẻ gặp gỡ Phật pháp hiếm thấy,
khó gặp! Đối với pháp Ban Châu, hữu t́nh trong thời
Mạt Pháp như thế mà c̣n có thể thành tựu pháp.
Trên thực tế, [Ban Châu] là một pháp nhanh chóng, cắt
đứt theo chiều ngang, vượt khỏi [tam giới]
theo chiều ngang, lập tức huân tu, lập tức lựa
chọn. Nếu một niệm có thể lựa chọn thật
sự tương ứng, do [tương ứng] liên tục,
bèn đạt được lợi ích chẳng thể
nghĩ bàn, cho đến Thập Lực, cho đến
mười tám bất cộng lực, đều có cơ hội
tương ứng khế nhập, bởi cơ duyên ấy
mạnh mẽ, nhạy bén!
Rất
nhiều pháp tu khi con người thọ tám vạn tuổi,
sáu vạn tuổi, hay bốn vạn tuổi th́ vẫn rất
dễ tu, nhưng hiện thời con người thọ một
trăm tuổi, thậm chí chưa đến trăm tuổi,
phước đức và thọ mạng của chúng ta đều quả thật quá kém cỏi,
chỉ trong phút chốc sanh mạng đă tận. Trong khoảng vừa
đặt chân, phước huệ đă hao sạch.
Nhưng tuổi thọ con người càng ngày càng ngắn,
tánh cảnh giác của chính ḿnh lại càng chẳng đủ,
càng dễ dàng trơ ĺ. Khi con người thọ tám vạn
bốn ngàn năm, nhân loại tôn trọng sanh mạng,
phước đức trọn đủ, sống trọn
thọ mạng tám vạn năm. Trong khoảng đó, chẳng
nẩy sanh vấn đề, chỉ có ba thứ bệnh là
ăn uống, tiêu tiểu, và tử vong; c̣n chúng ta trong
đời này có bao nhiêu bệnh nạn? Có bao nhiêu chướng
ngại? Khi tuổi thọ của chúng ta là một trăm năm, coi ăn uống là vui sướng;
c̣n khi thọ mạng hơi dài lâu hơn,
ăn uống và tiêu tiểu trên thực tế đều bị
coi là bệnh tật. Chúng ta bị nhiều nỗi khốn
khó v́ hai pháp cơm áo. Do vậy, hành pháp th́ phải giảm
thiểu áo cơm, ba bữa giảm thành một bữa
để tiện hành đạo. Nếu trong thế tục,
rất nhiều thời gian bị lăng phí trong ba bữa cơm
mỗi ngày. Nhất là nói theo phía người Hoa vốn coi trọng ẩm thực, lăng phí sanh mạng và thời
gian quá lớn! Không chỉ có ẩm thực, mà c̣n phải
tiêu hóa. Cơ thể c̣n phải chịu đựng gánh nặng
khi tiêu hóa. Sau gánh nặng ấy, c̣n phải bài tiết.
Đó quả thật là duyên gây chướng nạn; nhưng hiện thời chúng ta vẫn hưởng thụ!
Trong thế tục, thường có kẻ nói: “Tu Phật
pháp làm ǵ chớ? Không ăn thứ này, lại chẳng uống
thứ kia, có ư nghĩa chi đâu?” Thực tế là đang ở
trong bệnh tật mà cứ coi là vui, chuyện này đáng bị
người có trí nhạo báng!
(Kinh)
Phục thứ, Hiền Hộ. Thị trung, Như Lai thế
gian chủng chủng giới lực giả, Như Lai
ư thế gian chủng chủng chư giới vô lượng
sai biệt, năng dĩ chánh trí như thật tri cố.
Hiền Hộ! Như thị thế gian chủng
chủng giới sự, Như Lai giai dĩ chánh trí như
thật tri giả. Thử tắc Như Lai thế gian giới lực dă. Như Lai
đắc thử lực dĩ, tri chân thật xứ.
Ư đại chúng trung, tác sư tử hống, chuyển
đại phạm luân, tích sở vị chuyển. Nhược
chư thế gian, sa-môn, Bà La Môn, nhược
thiên, nhược Phạm, nhược ma, nhược nhân,
chung vô hữu năng như tư chuyển giả. Hiền
Hộ! Thị vi Như Lai đệ tam trí lực, Bồ
Tát Ma Ha Tát ưng đương tu học cụ túc thành măn.
(經)復次。賢護。是中如來世間種種界力者。如來於世間種種諸界無量差別。能以正智如實知故。賢護。如是世間種種界事。如來皆以正智如實知者。此則如來世間界力也。如來得此力已。知真實處。於大衆中作師子吼。轉大梵輪。昔所未轉。若諸世間沙門婆羅門。若天若梵若魔若人。終無有能如斯轉者。賢護。是爲如來第三智力。菩薩摩訶薩。應當修學具足成滿。
(Kinh: Lại này Hiền
Hộ! Trong ấy, “sức biết các thứ giới trong
thế gian của Như Lai” là Như Lai đối với
các thứ giới vô lượng sai biệt trong thế
gian, có thể dùng chánh tri để biết chân thật. Này
Hiền Hộ! Đối với các chuyện thuộc về
các giới trong thế gian như thế, đức Như
Lai đều dùng chánh trí để biết như thật.
Đó chính là thế gian giới lực của
Như Lai. Như Lai đă đạt được sức
ấy rồi, biết chỗ chân thật. Ở trong đại
chúng, hiện sư tử hống, chuyển đại phạm
luân mà trước kia chưa chuyển. Dù sa-môn, Bà La Môn, hoặc
trời, hoặc Phạm Vương, hoặc
ma, hoặc người trong các thế gian, trọn chẳng
có ai có thể chuyển như thế. Này Hiền Hộ!
Đó là trí lực thứ ba của Như Lai, Bồ Tát Ma
Ha Tát hăy nên tu học thành tựu viên măn trọn đủ).
Không
ngừng tán thán Phật, khuyên tu như thế.
(Kinh)
Phục thứ, Hiền Hộ! Thị trung, Như Lai tâm hạnh
lực giả, Như Lai ư chư chúng sanh chủng chủng
tâm hạnh, vô lượng sai biệt, giai dĩ chánh trí
như thật tri cố. Hiền Hộ! Như thị chúng
sanh chủng chủng tâm hạnh vô lượng sai biệt,
Như Lai năng dĩ chánh trí như thật tri giả. Thử
tắc Như Lai tri tâm hạnh lực dă. Như Lai đắc
thử lực dă, tri chân thật xứ, ư đại
chúng trung, tác sư tử hống, chuyển đại phạm
luân, tích sở vị chuyển. Nhược chư thế
gian, sa-môn, Bà La Môn, nhược thiên, nhược Phạm,
nhược ma, nhược nhân, chung vô hữu năng
như thị chuyển giả. Hiền Hộ! Thị vi
Như Lai đệ tứ trí lực, Bồ Tát Ma Ha Tát,
ưng đương tu học cụ túc thành măn.
(經)復次。賢護。是中如來心行力者。如來於諸衆生。種種心行。無量差別。皆以正智如實知故。賢護。如是衆生種種心行。無量差別。如來能以正智如實知者。此則如來知心行力也。如來得此力已。知真實處。於大衆中作師子吼。轉大梵輪昔所未轉。若諸世間沙門婆羅門。若天若梵若魔若人。終無有能如是轉者。賢護。是爲如來第四智力。菩薩摩訶薩。應當修學具足成滿。
(Kinh: Lại này Hiền
Hộ! Trong ấy, sức tâm hạnh của Như Lai là
Như Lai đối với các thứ tâm hạnh vô lượng
sai biệt của các chúng sanh, đều dùng chánh trí để
biết như thật. Này Hiền Hộ! Đối với
các tâm hạnh vô lượng sai biệt của chúng sanh
như thế, Như Lai có thể dùng chánh trí để biết
như thật. Đó chính là sức biết tâm hạnh của
Như Lai. Như Lai đạt được sức ấy
rồi, biết chỗ chân thật, ở trong đại
chúng, hiện sư tử hống, chuyển đại phạm
luân trước kia chưa chuyển. Dù là sa-môn, Bà La Môn, hoặc
trời, hoặc Phạm Vương, hoặc ma, hoặc
người trong các thế gian, trọn chẳng có ai có thể
chuyển như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực
thứ tư của Như Lai, Bồ Tát Ma Ha Tát hăy nên tu học
thành tựu viên măn trọn đủ).
Cũng
giống như thế, cách thức hành văn trong phần
Thập Lực này giống như nhau: Không ngừng tán thán
Phật, khuyên tu, rồi lại tán thán Phật, khuyên tu.
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Như Lai tri chúng sanh chư
căn sai biệt lực giả, Như Lai ư chúng sanh
chư căn chủng chủng sai biệt, giai dĩ chánh
trí như thật tri cố. Hiền Hộ! Như thị
chúng sanh chư căn chủng chủng sai biệt, Như
Lai giai dĩ chánh trí như thật tri giả. Thị tắc
Như Lai chư căn sai biệt lực dă. Như Lai đắc
thử lực dĩ, tri chân thật xứ. Ư đại
chúng trung, tác sư tử hống, chuyển đại phạm
luân, tích sở vị chuyển. Nhược chư thế
gian sa-môn, Bà La Môn, nhược thiên, nhược Phạm, nhược
ma, nhược nhân, chung vô hữu năng như thị chuyển
giả. Hiền Hộ! Thị vi Như Lai đệ
ngũ trí lực, Bồ Tát Ma Ha Tát, ưng đương
tu học, cụ túc thành măn. Phục thứ Hiền Hộ!
Thị trung, Như Lai Thiền Định lực giả,
Như Lai ư nhất thiết Thiền Định giải
thoát tam-muội, sanh khởi phiền năo, cập dĩ diệt
trừ, tư dĩ chánh trí như thật tri cố. Hiền
Hộ! Như thị nhất thiết Thiền Định
giải thoát tam-ma-bạt-đề sanh khởi phiền
năo, năi chí thanh tịnh, Như Lai giai dĩ chánh trí như thật
tri giả. Thị tắc Như Lai Thiền Định lực
dă. Như Lai đắc thử lực dĩ, tri chân chánh xứ.
Ư đại chúng trung, tác sư tử hống, chuyển
đại phạm luân, tiên sở vị chuyển. Nhược
bỉ thế gian, sa-môn, Bà La Môn, nhược thiên, nhược
Phạm, nhược ma, nhược nhân, chung vô hữu
năng như thị chuyển giả. Hiền Hộ! Thị
vi Như Lai đệ lục trí lực, Bồ Tát Ma Ha Tát,
ưng đương tu học, cụ túc thành măn. Phục
thứ, Hiền Hộ! Như Lai nghiệp lực giả,
Như Lai ư bỉ nhất thiết chư nghiệp chủng
chủng sai biệt, cập bỉ vị lai ḥa hợp
đắc báo, diệc vô lượng sai biệt. Như Lai
tư dĩ chánh trí như thật tri cố. Hiền Hộ!
Như thị chư nghiệp chủng chủng sai biệt.
vị lai đắc quả diệc phục sai biệt,
Như Lai giai dĩ chánh trí, như thật tri giả. Tư
tắc Như Lai tri nghiệp lực dă. Như Lai đắc
dĩ, tri chân thật xứ. Ư đại chúng trung, tác
sư tử hống, chuyển đại phạm luân tiên sở
vị chuyển. Nhược bỉ thế gian, nhược sa-môn, Bà La Môn, nhược
thiên, nhược Phạm, nhược ma, nhược nhân,
chung vô hữu năng như tư chuyển giả. Hiền
Hộ! Thị vi Như Lai đệ thất nghiệp lực,
Bồ Tát Ma Ha Tát, ưng đương tu học, cụ
túc thành măn. Phục thứ Hiền Hộ! Như Lai thiên
nhăn lực giả, Như Lai thường dĩ thanh tịnh
thiên nhăn, quá ư nhân nhăn, kiến bỉ vị lai chư
chúng sanh bối, tử thử, sanh bỉ, kỳ sở thọ
thân, hoặc mỹ, hoặc xú, hoặc thiện, hoặc
ác, sở đắc chư sắc, hoặc hảo, hoặc
ác, hoặc diệu, hoặc thô, hoặc sanh thiện đạo,
hoặc sanh ác thú. Hựu kiến chúng sanh sở tác chư
nghiệp, hoặc thiện, hoặc ác. Hữu chư chúng
sanh, cụ thân ác nghiệp, cụ khẩu ác nghiệp, cụ
ư ác nghiệp, ha mạ thánh nhân, phỉ báng chánh pháp, hoại
ḥa hợp Tăng. Cụ
túc như thị chư ác nghiệp cố, thân hoại, mạng
chung, sanh ư ác đạo. Hựu chư chúng sanh cụ
thân thiện nghiệp, cụ khẩu thiện nghiệp, cụ
ư thiện nghiệp, cung kính thánh nhân, tôn trọng chánh pháp,
cúng dường chúng Tăng. Cụ
hành như thị chư thiện nghiệp cố, mạng
chung đắc sanh nhân thiên thiện thú. Như thị đẳng
sự, giai như thật tri. Hiền Hộ! Như Lai dĩ
tịnh thiên nhăn, kiến chư chúng sanh, tử thử, sanh
bỉ, năi chí mạng chung, sanh ư thiên thượng. Thị
tắc Như Lai sanh tử trí lực. Đắc thị lực
dĩ, tri chân thật xứ. Ư đại chúng trung, tác
sư tử hống, chuyển đại phạm luân, tích
sở vị chuyển. Nhược bỉ thế gian,
nhược sa-môn, Bà La Môn, nhược thiên, nhược Phạm,
nhược ma, nhược nhân, chung vô hữu năng
nhược tư chuyển giả. Hiền Hộ! Thị
vi Như Lai đệ bát trí lực, Bồ Tát Ma Ha Tát
ưng đương tu học, cụ túc thành măn.
(經)復次賢護。如來知衆生諸根差別力者。如來於衆生諸根種種差別。皆以正智如實知故。賢護。如是衆生諸根種種差別。如來皆以正智如實知者。是則如來諸根差別力也。如來得此力已。知真實處。於大衆中作師子吼。轉大梵輪昔所未轉。若諸世間沙門婆羅門。若天若梵若魔若人。終無有能如是轉者。賢護。是爲如來第五智力。菩薩摩訶薩。應當修學具足成滿。復次賢護。是中如來禪定力者。如來於一切禪定解脫三昧。生起煩惱。及以滅除。斯以正智如實知故。賢護。如是一切禪定解脫三摩跋提生起煩惱。乃至清淨。如來皆以正智如實知者。是則如來禪定力也。如來得此力已。知真正處。於大衆中作師子吼。轉大梵輪。先所未轉。若彼世間沙門婆羅門。若天若梵若魔若人。終無有能如是轉者。賢護。是爲如來第六智力。菩薩摩訶薩。應當修學具足成滿。復次。賢護。如來業力者。如來於彼一切諸業種種差別。及彼未來和合得報。亦無量差別。如來斯以正智如實知故。賢護。如是諸業種種差別。未來得果亦復差別。如來皆以正智如實知者。斯則如來知業力也。如來得已。知真實處。於大衆中作師子吼。轉大梵輪。先所未轉。若彼世間。若沙門婆羅門。若天若梵若魔若人。終無有能如斯轉者。賢護。是爲如來第七業力。菩薩摩訶薩。應當修學具足成滿。復次賢護。如來天眼力者。如來常以清淨天眼。過於人眼。見彼未來諸衆生輩。死此生彼。其所受身。或美或醜。或善或惡。所得諸色。或好或惡。或妙或粗。或生善道。或生惡趣。又見衆生所作諸業。或善或惡。有諸衆生。具身惡業。具口惡業。具意惡業。訶罵聖人。誹謗正法。壞和合僧。具足如是諸惡業故。身壞命終。生於惡道。又諸衆生。具身善業。具口善業。具意善業。恭敬聖人。尊重正法。供養衆僧。具行如是諸善業故。命終得生人天善趣。如是等事。皆如實知。賢護。如來以淨天眼。見諸衆生死此生彼。乃至命終。生於天上。是則如來生死智力。得是力已。知真實處。於大衆中作師子吼。轉大梵輪。昔所未轉。若彼世間。若沙門婆羅門。若天若梵若魔若人。終無有能若斯轉者。賢護。是爲如來第八智力。菩薩摩訶薩。應當修學具足成滿。
(Kinh: Lại này Hiền
Hộ! Sức “chúng sanh có biết các
căn sai biệt” của Như Lai là Như Lai đối
với các loại căn sai biệt của chúng sanh, đều
dùng chánh trí để biết như thật. Này Hiền Hộ!
Đối với các thứ căn sai biệt của chúng
sanh như thế, Như Lai đều dùng chánh trí để
biết như thật. Đấy chính là chư căn sai
biệt lực (sức biết các căn sai khác) của
Như Lai. Như Lai đă đắc sức ấy rồi,
biết chỗ chân thật. Ở trong đại chúng, hiện
sư tử hống, chuyển đại phạm luân
xưa kia chưa chuyển. Dù sa-môn, Bà La Môn, hoặc trời,
hoặc Phạm Vương, hoặc ma, hoặc người
trong các thế gian, trọn chẳng có ai có thể chuyển
như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ
năm của Như Lai, Bồ Tát Ma Ha Tát hăy nên tu học thành
tựu viên măn trọn đủ.
Lại
này Hiền Hộ! Trong ấy, sức Thiền Định
của Như Lai là Như Lai đối với hết thảy
Thiền Định, giải thoát tam-muội, sanh khởi
phiền năo, cùng với diệt trừ, đều dùng chánh
trí để biết như thật. Này Hiền Hộ!
Đối với hết thảy Thiền Định giải
thoát, tam-ma-bạt-đề sanh khởi phiền năo, cho
đến thanh tịnh như thế, Như Lai đều
dùng chánh trí để biết như thật. Đấy
chính là Thiền Định lực của Như Lai. Như
Lai đă đắc sức ấy rồi, biết chỗ
chân chánh. Ở trong đại chúng, hiện sư tử hống,
chuyển đại phạm luân trước kia chưa chuyển.
Dù sa-môn, Bà La Môn, hoặc trời, hoặc Phạm
Vương, hoặc ma, hoặc người trong các thế
gian, trọn chẳng có ai có thể chuyển như thế.
Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ sáu của
Như Lai, Bồ Tát Ma Ha Tát hăy nên tu học thành tựu viên
măn trọn đủ.
Lại
này Hiền Hộ! Nghiệp lực của Như Lai là
Như Lai đối với hết thảy các thứ nghiệp
sai biệt, và các quả báo do ḥa hợp mà đạt
được trong vị lai, cũng là vô lượng sai
biệt, Như Lai đều dùng chánh trí để biết
như thật. Này Hiền Hộ! Do các thứ nghiệp sai
biệt như thế, đạt được cái quả
trong vị lai cũng sai biệt, Như Lai đều dùng
chánh trí để biết như thật. Đấy chính là
sức biết nghiệp của Như Lai. Như Lai đă
đạt được, biết chỗ chân thật. Ở
trong đại chúng, hiện sư tử hống, chuyển
đại phạm luân trước kia chưa chuyển. Dẫu
cho sa-môn, Bà La Môn, hoặc trời, hoặc Phạm
Vương, hoặc ma, hoặc người trong các thế
gian, trọn chẳng có ai có thể chuyển như thế.
Này Hiền Hộ! Đó là nghiệp lực thứ bảy
của Như Lai, Bồ Tát Ma Ha Tát hăy nên tu học thành tựu
viên măn trọn đủ.
Lại
này Hiền Hộ! Thiên nhăn lực của Như Lai là
Như Lai thường dùng thiên nhăn thanh tịnh vượt
xa mắt của loài người, thấy các loại chúng
sanh trong vị lai chết đây, sanh kia, họ thọ thân
hoặc đẹp, hoặc xấu, hoặc thiện, hoặc
ác, đạt được các sắc, hoặc tốt, hoặc
xấu, hoặc mầu nhiệm, hoặc thô kệch, hoặc
sanh vào đường lành, hoặc sanh trong nẻo ác. Lại
thấy chúng sanh tạo tác các nghiệp hoặc thiện, hoặc
ác. Có các chúng sanh trọn đủ ác nghiệp nơi thân,
trọn đủ ác nghiệp nơi miệng, trọn
đủ ác nghiệp nơi ư, chửi rủa thánh nhân, phỉ
báng chánh pháp, phá hoại ḥa hợp Tăng. Do đầy
đủ các ác nghiệp như thế, thân hư, mạng
hết, sanh vào đường ác. Lại có các chúng sanh trọn
đủ thiện nghiệp nơi thân, trọn đủ
thiện nghiệp nơi miệng, trọn đủ thiện
nghiệp nơi ư, cung kính thánh nhân, tôn trọng chánh pháp, cúng
dường chúng Tăng. Do hành trọn
đủ các thiện nghiệp như thế, mạng chung
được sanh vào đường lành trời, người.
Các chuyện như thế, đều biết như thật.
Này Hiền Hộ! Như Lai dùng thiên nhăn thanh tịnh, thấy
các chúng sanh chết đây, sanh kia, cho đến mạng
chung, sanh lên cơi trời. Đấy chính là sanh tử trí lực
của Như Lai. Đă đạt được sức ấy rồi,
sẽ biết chỗ chân thật. Ở trong đại
chúng, hiện sư tử hống, chuyển đại phạm
luân, xưa kia chưa chuyển. Dẫu cho các thế gian, hoặc
sa-môn, Bà La Môn, hoặc trời, hoặc Phạm
Vương, hoặc ma, hoặc người, trọn chẳng
có ai có thể chuyển như thế. Này Hiền Hộ!
Đó là trí lực thứ tám của Như Lai, Bồ Tát Ma
Ha Tát hăy nên tu học thành tựu viên măn trọn đủ).
Chư
Phật Như Lai phần nhiều thọ kư cho các chúng sanh
hữu duyên. V́ sao thọ kư? Do thấy bằng Thiên Nhăn, trông thấy chân thật,
chẳng phải là hư giả lập ra, chẳng phải
là tự tạo. Đối với chuyện “chết
đây, sanh kia; mất nơi này, hiện ra nơi khác” đều
biết rơ rành rẽ, chẳng hề lẫn lộn. Đó
là sức thiên nhăn.
(Kinh)
Phục thứ, Hiền Hộ! Như Lai túc mạng trí lực
giả, Như Lai năng dĩ chư túc mạng trí, tri
ư quá khứ chư túc mạng sự. Sở vị chúng
sanh sanh thử, tử bỉ, hoặc ư nhất xứ,
sơ thọ nhất sanh, hoặc nhị, hoặc tam, hoặc
ngũ, hoặc thập, hoặc bách, hoặc thiên, năi chí hoặc
thọ vô lượng bách sanh, vô lượng thiên sanh, vô
lượng bách thiên sanh. Như thị năi chí vô lượng
chuyển kiếp, vô lượng định kiếp, vô
lượng chuyển bất chuyển kiếp đẳng,
giai như thật tri. Hựu ư bỉ sở sanh thú,
như thị xứ, như thị gia, như thị chủng
tánh, như thị danh tự, như thị tướng mạo,
như thị sanh trung, như thị phục thực,
như thị sở tác, như thị thiện ác, như thị
ưu hỷ, như thị khổ lạc, năi chí nhược
can thọ mạng đẳng, diệc như thật tri. Hựu
ư mỗ xứ, xả bỉ thân dĩ, phục sanh mỗ
xứ. Như thị thân tướng, như thị sở
thuyết, như thị sở kinh, năi chí thọ mạng
chư quá khứ sự, giai tất tri cố. Hiền Hộ!
Như Lai năng dĩ chủng chủng vô lượng
chư túc mạng trí, tri bỉ chúng sanh túc mạng sở
kinh, thỉ tự nhất sanh, cập vô lượng sanh,
năi chí thọ mạng, chư quá khứ sự, như thật
tri giả. Thị tắc Như Lai túc mạng trí lực
dă. Đắc thị lực dĩ, xử đại chúng
trung, tác sư tử hống, chuyển đại phạm
luân, tích sở vị chuyển. Nhược bỉ thế
gian, sa-môn, Bà La Môn, nhược thiên, nhược Phạm,
nhược ma, nhược nhân, chung vô hữu năng
nhược tư chuyển giả. Hiền Hộ! Thị
vi Như Lai đệ cửu trí lực. Bồ Tát Ma Ha Tát
ưng đương tu học, cụ túc thành măn. Phục thứ Hiền Hộ!
Như Lai lậu tận lực giả, Như Lai năng tận
nhất thiết chư hữu, vô phục chư lậu,
tâm huệ giải thoát, tự giác pháp dĩ. Thị cố
xướng ngôn: “Ngă sanh dĩ tận, phạm hạnh
dĩ lập, sở tác dĩ biện, bất thọ hậu
hữu”. Hiền Hộ! Như Lai như thị năng tận
chư lậu, tâm huệ minh thoát, tự chứng tri cố.
Cố ngôn ngă sanh dĩ tận, năi chí bất thọ hậu
hữu, như thật tri giả. Thị tắc Như Lai
lậu tận trí lực dă. Như Lai đắc dĩ, xử
đại chúng trung, tác sư tử hống, chuyển
đại phạm luân, tích sở vị chuyển. Nhược
bỉ thế gian, sa-môn, Bà La Môn, nhược thiên, nhược
Phạm, nhược ma, nhược nhân, chung vô hữu
năng nhược tư chuyển giả. Hiền Hộ!
Thị vi Như Lai đệ thập trí lực. Bồ Tát
Ma Ha Tát đương ưng tu học cụ túc thành măn.
(經)復次。賢護。如來宿命智力者。如來能以諸宿命智。知於過去諸宿命事。所謂衆生。生此死彼。或於一處。初受一生。或二或三或五或十。或百或千。乃至或受無量百生。無量千生。無量百千生。如是乃至無量轉劫。無量定劫。無量轉不轉劫等。皆如實知。又於彼所生趣。如是處如是家。如是種姓。如是名字。如是相貌。如是生中。如是服食。如是所作。如是善惡。如是憂喜。如是苦樂。乃至若干壽命等。亦如實知。又於某處。舍彼身已。復生某處。如是身相。如是所說。如是所經。乃至壽命諸過去事。皆悉知故。賢護。如來能以種種無量諸宿命智。知彼衆生宿命所經。始自一生。及無量生。乃至壽命。諸過去事。如實知者。是則如來宿命智力也。得是力已。處大衆中作師子吼。轉大梵輪。昔所未轉。若彼世間沙門婆羅門。若天若梵若魔若人。終無有能若斯轉者。賢護。是爲如來第九智力。菩薩摩訶薩。應當修學具足成滿。復次賢護。如來漏盡力者。如來能盡一切諸有。無復諸漏。心慧解脫。自覺法已。是故唱言。我生已盡。梵行已立。所作已辦。不受後有。賢護。如來如是能盡諸漏。心慧明脫。自證知故。故言我生已盡。乃至不受後有。如實知者。是則如來漏盡智力也。如來得已。處大衆中。作師子吼。轉大梵輪。昔所未轉。若彼世間沙門婆羅門。若天若梵若魔若人。終無有能若斯轉者。賢護。是爲如來第十智力。菩薩摩訶薩。當應修學具足成滿。
(Kinh: Lại này, Hiền Hộ! Sức
túc mạng trí lực của Như Lai là Như Lai có thể
dùng các túc mạng trí, đối với các chuyện túc mạng
trong quá khứ, như là chúng sanh sanh nơi đây, chết
nơi kia, hoặc ở một chỗ, nhận lănh một
đời, hoặc hai, hoặc ba, hoặc năm, hoặc
mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, cho đến hoặc
thọ sanh vô
lượng trăm đời, vô lượng ngàn đời,
vô lượng trăm ngàn đời. Như thế cho
đến vô lượng chuyển kiếp, vô lượng
định kiếp, vô lượng chuyển bất chuyển
kiếp v.v… đều biết như thật. Lại c̣n
đối với đường đă sanh vào, chỗ
như thế, gia đ́nh như thế, gịng họ như
thế, tên gọi như thế, tướng mạo
như thế, trong cuộc
đời như thế, ăn mặc như thế, làm lụng
như thế, thiện ác như thế, lo, mừng
như thế, khổ, vui như thế, cho đến thọ
mạng dài chừng nào v.v… cũng đều biết
như thật. Lại ở chỗ nào đó, đă xả
thân đó, lại sanh vào chỗ nào đó. Thân tướng
như thế, nói năng như thế, từng trải
như thế, cho đến các chuyện thuộc về thọ mạng
trong quá khứ, đều biết trọn hết. Này Hiền
Hộ! Như Lai có thể dùng vô lượng các thứ túc
mạng trí, biết chuyện chúng sanh đă từng trải
qua trong đời trước, bắt đầu từ một
đời, cho đến vô lượng đời, cho đến
thọ mạng, các chuyện quá khứ, đều biết
như thật. Đấy là túc mạng trí lực của
Như Lai. Đă đạt được sức ấy rồi,
ở trong đại chúng, hiện sư tử hống,
chuyển đại phạm luân, xưa kia chưa chuyển.
Dẫu cho sa-môn, Bà La Môn, hoặc trời, hoặc Phạm
Vương, hoặc ma, hoặc người trong thế
gian, trọn chẳng có ai có thể chuyển như thế.
Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ chín của
Như Lai, Bồ Tát Ma Ha Tát hăy nên tu học thành tựu viên
măn trọn đủ.
Lại
này Hiền Hộ! Lậu tận lực của Như Lai
là Như Lai có thể hết sạch các hữu, chẳng
c̣n các lậu, tâm huệ giải thoát, đă tự giác ngộ
pháp. V́ thế, xướng rằng: “Ta đă hết sanh, phạm
hạnh đă lập, việc làm đă xong, chẳng nhận
lấy hậu hữu”. Này Hiền Hộ! Như Lai có thể
hết sạch các lậu như thế, tâm huệ sáng suốt,
giải thoát, do tự chứng biết. V́ thế nói “ta đă hết
sanh”, cho đến “chẳng nhận
lấy hậu hữu”, biết như thật.
Đấy là lậu tận trí lực của Như Lai.
Như Lai đạt được rồi, ở trong
đại chúng, hiện sư tử hống, chuyển
đại phạm luân, xưa kia chưa chuyển. Dẫu
cho thế gian, sa-môn, Bà La Môn, hoặc trời, hoặc Phạm
Vương, hoặc ma, hoặc người, trọn chẳng
có ai có thể chuyển như thế. Này Hiền Hộ!
Đó là trí lực thứ mười của Như Lai, Bồ
Tát Ma Ha Tát hăy nên tu học thành tựu viên măn trọn đủ).
“Như
Lai Lậu Tận lực”: Trong quá khứ, đă nói về Tam Minh, tức là Thiên Nhăn Minh, Túc Mạng
Minh, và Lậu Tận Minh. Đây là ba cơ chế giáo ngôn
riêng biệt trong Phật pháp, biết quá khứ, hiện tại,
vị lai. “Như Lai năng tận nhất thiết
chư hữu, vô phục chư lậu, tâm huệ giải
thoát” (Như Lai có thể tận hết thảy
các hữu, chẳng c̣n các lậu, tâm huệ giải
thoát) tức là biết hiện tiền. Rất nhiều
người nói đến thời điểm hiện tiền,
có thể dùng Lậu Tận Lực để xem xét kỹ
th́ sẽ dễ nói hơn. “Như thật tri giả, thị
tắc Như Lai lậu tận trí lực dă” (do biết
như thật, đấy là sức lậu tận trí của
Như Lai): Đây chẳng phải là vô ích, vô lực, mà thật
sự là đích thân chứng.
(Kinh)
Hiền Hộ! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát độc
tụng, thọ tŕ, tư duy, tu tập thị tam-muội
giả, tắc năng nhiếp thọ Như Lai Thập Lực
dă. Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử
nghĩa, dĩ kệ tụng viết: - Thập bát bất
cộng đẳng giác pháp, Thập Lực minh trí chư Phật
đồng.
(經)賢護。若諸菩薩摩訶薩。讀誦受持。思惟修習。是三昧者。則能攝受如來十力也。爾時世尊爲重明此義。以偈頌曰。十八不共等覺法。十力明智諸佛同。
(Kinh: “Này Hiền Hộ!
Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát đọc tụng, thọ tŕ,
tư duy, tu tập tam-muội này, sẽ có thể nhiếp
thọ Thập Lực của Như Lai”. Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn v́ muốn nói lại nghĩa này, dùng kệ
tụng nói như sau: - Giác
pháp như mười tám bất cộng, Thập Lực
trí sáng chư Phật đồng).
Sự
biểu đạt bằng sanh mạng của hết thảy
Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn,
hoặc sự biểu đạt của các vị trí giả
đều nương theo mười tám món bất cộng
và Thập Lực, cùng với Tứ Vô Úy sẽ nói trong phần
sau v.v… để hoằng pháp, trụ thế, thủ hộ
pháp bất cộng lợi ích rộng khắp thế gian.
Đấy cũng là biểu hiện và sự lựa chọn
nơi thân nghiệp, khẩu nghiệp, ư nghiệp, quá khứ,
hiện tại, vị lai.
(Kinh)
Bồ Tát tu tập thử diệu Thiền, tự nhiên
thành tựu tư nhị chủng.
(經)菩薩修習此妙禪。自然成就斯二種。
(Kinh: Bồ Tát tu
tập diệu Thiền này, tự nhiên thành tựu hai loại
ấy).
Ở
đây, đức Thế Tôn hoàn toàn biểu đạt công
đức và lợi ích trọn đủ của hai loại pháp “mười tám Bất Cộng” và Thập Lực trong Thập Phương Chư Phật
Tất Giai Hiện Tiền tam-muội.
19. Phẩm thứ
mười lăm: Tùy hỷ công đức
Mọi
người công khai đến cùng nhau đọc tụng,
học tập kinh Đại Phương Đẳng Đại
Tập Hiền Hộ này, đúng là đă rộng kết
duyên thù thắng tu tŕ Thập Phương Chư Phật Tất
Giai Hiện Tiền tam-muội. Bất luận tu tŕ tương
ứng hay chẳng tương ứng, nhân duyên này đều
là cơ hội mười phần có ư nghĩa, mười
phần đáng để cho mọi người thâm nhập
tu tập, thâm nhập tham dự.
(Kinh)
Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền
Hộ Phần, Tùy Hỷ Công Đức, phẩm
đệ thập ngũ.
(經)大方等大集賢護分隨喜功德品第十五。
(Kinh: Kinh Đại
Phương Đẳng Đại Tập, Hiền Hộ
Phần, phẩm thứ mười lăm: Tùy hỷ công
đức).
Trong
kinh điển, đức Thế Tôn nơi nơi đều
chỉ dạy chúng ta phải thành tựu Thập
Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền
tam-muội, học tập, đọc
tụng pháp tắc này, truyền bá pháp tắc này, cho đến
v́ người khác giải nói như thế
nào, khiến cho pháp này được trụ thế lâu
dài, khiến cho hết thảy hữu t́nh hữu duyên
được chẳng thoái chuyển nơi Phật pháp.
Đối với pháp Tịnh Độ, cho đến pháp
môn Niệm Phật, nếu có thể gặp gỡ, người
ấy chắc chắn thuộc vào chủng tánh bất thoái
chuyển trong Phật pháp. Nhân duyên bất thoái chuyển ấy
quả thật là sự giáo hóa chẳng thể nghĩ bàn,
tức là cái được gọi là “sự giáo hóa chân
thật trong giáo ngôn thuộc về quả địa của
chư Phật Như Lai”.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ
Tát ngôn: - Hiền Hộ! Nhược Bồ Tát Ma Ha Tát cụ
túc thành tựu tứ tùy hỷ cố, tức
đương đắc tư hiện tiền tam-muội.
(經)爾時世尊。復告賢護菩薩言。賢護。若菩薩摩訶薩。具足成就四隨喜故。即當得斯現前三昧。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền
Hộ Bồ Tát rằng: - Này Hiền Hộ! Nếu Bồ
Tát Ma Ha Tát do thành tựu trọn đủ bốn thứ
tùy hỷ, sẽ liền đắc hiện tiền tam-muội
này).
Trong
phần trước, đă nói nhiều pháp tắc có thể
chứng đắc tam-muội; ở đây, chỉ nói về công
đức tùy hỷ. Trong phần trước, thường
nhắc tới xa ĺa kiêu mạn, ghen tỵ. Ở đây, nhắc tới tùy hỷ thành tựu.
(Kinh)
Tốc tật thành măn A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề.
(經)速疾成滿阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh:
Mau chóng thành tựu viên măn A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề).
Không
chỉ là đích thân chứng Thập Phương Chư Phật
Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, mà c̣n nhanh chóng thành tựu
Vô Thượng Bồ Đề.
(Kinh)
Hà đẳng danh vi tứ chủng tùy hỷ dă? Sở vị
bỉ Bồ Tát Ma Ha Tát ưng tác như thị niệm.
(經)何等名爲四種隨喜也。所謂彼菩薩摩訶薩應作如是念。
(Kinh:
Những ǵ gọi là bốn thứ tùy hỷ? Tức là Bồ
Tát Ma Ha tát hăy nên nghĩ như thế này).
Đức
Thế Tôn nhẫn nại, tỉ mỉ hướng dẫn
chúng ta quan sát, tư duy, tu tập, cho đến hướng
dẫn chúng ta trong mỗi ư niệm như thế. Kinh
điển như vậy rất hiếm thấy, mà
cũng là mười phần thuận tiện, đối
với hết thảy hữu t́nh dù phàm hay thánh, dù trí hay
ngu, đều chân thật gia tŕ tăng thượng công
đức và lợi ích.
(Kinh)
Như bỉ quá khứ nhất thiết chư Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng Chánh Giác, các ư văng tích
hành Bồ Tát thời, giai nhân tùy hỷ, đắc thị
tam-muội. Nhân tam-muội cố, cụ túc đa văn. Do
đa văn cố, tốc tật thành tựu A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
(經)如彼過去一切諸如來應供等正覺。各於往昔行菩薩時。皆因隨喜。得是三昧。因三昧故。具足多聞。由多聞故。速疾成就阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh:
Như hết thảy các đức Như Lai, Ứng Cúng,
Đẳng Chánh Giác trong quá khứ, mỗi vị khi hành Bồ
Tát thuở trước, đều do tùy hỷ mà đắc
tam-muội này. Do v́ tam-muội, đầy đủ đa văn.
Do v́ đa văn, mau chóng thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề).
Đây
là ư niệm quan sát tương ứng, tức là hết thảy
các vị Bồ Tát Ma Ha Tát do tùy hỷ tam-muội này, bèn
thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Cơ chế giáo ngôn này chẳng đơn giản chỉ
là hướng dẫn chúng ta cầu tam-muội này, đọc
tụng kinh điển, v́ người khác giải nói, cho
đến đích thân chứng đắc tam-muội, mà c̣n
nói người tùy hỷ tam-muội này sẽ chắc chắn
chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề,
đạt được thành tựu. Điều này thật
sự vượt khá xa sự nhận biết đơn giản
của chúng ta khi thoạt đầu tiếp xúc tam-muội
Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền
này. Chẳng hạn như thoạt đầu, [Hiền Hộ
Bồ Tát] nêu ra một trăm hai mươi hai công đức;
ở đây, không chỉ nêu ra một trăm hai mươi
hai công đức đó chỉ là chút ít phần
trong rất ít phần vô lượng công đức của
chư Phật, mà c̣n nói thẳng thừng: “Có thể thành tựu
Vô Thượng Bồ Đề”. Do tùy hỷ
tam-muội này, cho nên được thành tựu A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Cơ chế giáo
hóa như vậy quả thật rúng động ḷng người,
rất chẳng thể nghĩ bàn!
(Kinh)
Như ngă kim nhật, diệc ưng như thị, y nhân tùy
hỷ, đắc thị tam-muội. Nhân tam-muội cố,
cụ túc đa văn. Do đa văn cố, tốc đắc
thành tựu Vô Thượng Bồ Đề.
(經)如我今日。亦應如是。依因隨喜。得是三昧。因三昧故。具足多聞。由多聞故。速得成就無上菩提。
(Kinh:
Như ta ngày nay, cũng nên như thế, do nương vào
tùy hỷ, đạt được tam-muội này. Do tam-muội,
cho nên trọn đủ đa văn. Do đa văn nên mau
chóng thành tựu Vô Thượng Bồ Đề).
Đức
Thế Tôn hướng dẫn chúng ta: Muốn được
mau chóng viên măn đạo Vô Thượng Bồ Đề,
hăy nên tùy hỷ tam-muội này, hăy nên tu tập, hăy nên thành tựu.
Sau đó, trọn đủ đa văn. Do nhân duyên này mà
được thành tựu Vô Thượng Bồ Đề.
(Kinh)
Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát, đệ nhất
tùy hỷ công đức tụ dă.
(經)賢護。是爲菩薩摩訶薩。第一隨喜功德聚也。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Đó là khối công đức thứ nhất
do tùy hỷ của Bồ Tát Ma Ha Tát).
Bảo
Vương tam-muội này đúng là kho chứa hết thảy
công đức, là đại tổng tŕ môn. Nếu có thể gặp gỡ, chứng môn tam-muội
này, hoặc là tùy hỷ tam-muội này, hoặc hướng
tới, hoặc v́ người khác giải nói, cho đến
đọc tụng. Công đức ấy đều là
đại công đức tụ, lợi ích ấy chẳng
thể nghĩ bàn!
(Kinh)
Hiền Hộ! Bỉ Bồ Tát Ma Ha Tát phục ưng
như thị niệm: Như bỉ đương lai nhất
thiết chư Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác,
hành Bồ Tát thời, giai nhân tùy hỷ, đắc thị
tam-muội. Nhân thử tam-muội cố, cụ túc đa
văn. Do đa văn cố, tốc tật thành tựu A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
(經)賢護。彼菩薩摩訶薩。復應如是念。如彼當來一切諸如來應供等正覺。行菩薩時。皆因隨喜得是三昧。因此三昧故。具足多聞。由多聞故。速疾成就阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Vị Bồ Tát Ma Ha Tát ấy lại nên
nghĩ như thế này: Như hết thảy các đức
Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác trong tương
lai khi hành Bồ Tát, đều do tùy hỷ mà đắc
tam-muội này. Do v́ tam-muội này, đầy đủ đa
văn. Do v́ đa văn, mau chóng thành tựu A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề).
Theo
thứ tự, đức Thế Tôn hướng dẫn rơ
ràng cho chúng ta: Trong phần trước là nghĩ tới hết
thảy chư Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác trong quá khứ, các Ngài đều
do tùy hỷ tam-muội này, cho nên chứng đắc tam-muội.
Do chứng tam-muội nên đắc đa văn. Do đa
văn cho nên mau chóng thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề. Ở đây, hăy nên nghĩ tùy hỷ hết
thảy các đức Như Lai Thế Tôn trong tương
lai. Trong khi tu nhân, các Ngài cũng do tùy hỷ tam-muội này.
Do tam-muội mà đa văn, do đa văn nên mau chóng thành
tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
(Kinh)
Như ngă kim nhật, diệc ưng như thị,
đương nhân tùy hỷ đắc thị tam-muội.
Quy bằng tam-muội, cầu măn đa văn. Do đa văn
cố, tốc tật thành bỉ Vô Thượng Bồ
Đề. Hiền Hộ! Thị vị Bồ Tát Ma Ha Tát
đệ nhị tùy hỷ công đức tụ dă.
(經)如我今日。亦應如是。當因隨喜得是三昧。歸憑三昧。求滿多聞。由多聞故。速疾成彼無上菩提。賢護。是爲菩薩摩訶薩。第二隨喜功德聚也。
(Kinh:
Như ta ngày nay cũng phải nên như thế, hăy nên do
tùy hỷ mà đạt được tam-muội này. Dựa
vào tam muội, cầu thỏa đa văn. Do đa văn
nên mau chóng thành tựu Vô Thượng Bồ Đề. Này
Hiền Hộ! Đó là khối công đức thứ hai do
tùy hỷ của Bồ Tát Ma Ha Tát).
“Bỉ
Vô Thượng Bồ Đề” chính là A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Trong sự hướng dẫn
theo thứ tự này, chúng ta thấy hết sức rơ ràng phải
nên tùy hỷ hết thảy chư Phật dù quá khứ, dù
tương lai, hay hiện tại.
(Kinh)
Hiền Hộ! Thị Bồ Tát Ma Ha Tát phục ưng
như thị niệm: Nhi kim hiện tại
vô lượng vô biên A-tăng-kỳ chư thế giới
trung, nhất thiết chư Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, các ư văng
tích hành Bồ Tát thời, diệc nhân tùy hỷ đắc
thị tam-muội. Nhân thị tam-muội, cụ túc đa
văn. Do đa văn, diệc ưng tùy hỷ, năi chí vị
dục tốc thành Vô Thượng Bồ Đề cố.
Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát đệ tam tùy
hỷ công đức tụ dă.
(經)賢護。是菩薩摩訶薩。復應如是念。而今現在無量無邊阿僧祇諸世界中。一切諸如來應供等正覺。各於往昔行菩薩時。亦因隨喜得是三昧。因是三昧。具足多聞。由多聞亦應隨喜。乃至爲欲速成無上菩提故。賢護。是爲菩薩摩訶薩。第三隨喜功德聚也。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Vị Bồ Tát Ma Ha Tát ấy cũng nên
nghĩ như thế này: Trong vô lượng vô biên
A-tăng-kỳ thế giới hiện thời, hết thảy
các đức Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng
Chánh Giác, mỗi vị khi xưa lúc hành đạo Bồ Tát,
cũng do tùy hỷ mà đắc tam-muội này. Do tam-muội
này, trọn đủ đa văn. Do đa văn, cũng
nên tùy hỷ, cho đến v́ muốn nhanh chóng thành Vô
Thượng Bồ Đề. Này Hiền Hộ! Đó là
khối công đức thứ ba do tùy hỷ của Bồ
Tát Ma Ha Tát).
Tùy
hỷ chư Như Lai trong quá khứ, chư Như Lai trong
tương lai, cho đến chư Như Lai trong hiện
tại. Tất cả ba đời hết thảy chư
Phật Thế Tôn đều do tùy hỷ tam-muội này mà
chứng đắc sức tam-muội. Do sức tam-muội
mà nghe nhiều, thấy nhiều, mau chóng thành tựu A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Đúng là sự tùy
hỷ ở đây có công đức chẳng thể
nghĩ bàn. Người trong thời đại này v́ trong tâm nhiệt năo,
cho nên so đo. Do so đo, lại sanh ra nhiệt năo, mỗi
người nẩy sanh kiêu mạn, tri kiến chẳng chánh đáng, ghen tỵ, và đấu
tranh. Ở đây, chỉ nhắc tới công đức
chân thật của pháp tùy hỷ. Trong mười đại
nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh
Nguyện Phẩm cũng tuyên nói nhiều về công đức
và lợi ích của tùy hỷ.
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Bỉ
Bồ Tát Ma Ha Tát, phục ưng như thị niệm: Ngă
kim dĩ đắc ngưỡng học tam thế nhất
thiết chư Như Lai, bổn ư quá khứ hành Bồ
Tát thời, giai nhân tùy hỷ, đắc thị tam-muội,
giai nhân tam-muội, cụ túc đa văn, giai do đa
văn, nhi đắc thành Phật. Kim ngă dĩ thử tùy hỷ
công đức, nguyện dữ nhất thiết chúng sanh cộng
chi, đồng sanh tùy hỷ, đồng hoạch tam-muội,
đồng cụ đa văn, đồng tất thành tựu
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Hiền Hộ!
Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát đệ tứ tùy hỷ công
đức tụ dă.
(經)復次賢護。彼菩薩摩訶薩。復應如是念。我今已得仰學三世一切諸如來。本於過去行菩薩時。皆因隨喜得是三昧。皆因三昧。具足多聞。皆由多聞而得成佛。今我以此隨喜功德。願與一切衆生共之。同生隨喜。同獲三昧。同具多聞。同悉成就阿耨多羅三藐三菩提。賢護。是爲菩薩摩訶薩。第四隨喜功德聚也。
(Kinh:
Lại này Hiền Hộ! Vị Bồ Tát Ma Ha Tát lại
nên nghĩ như thế này: Ta nay đă được kính
ngưỡng, học theo ba đời hết thảy các vị
Như Lai, vốn trong quá khứ, khi hành Bồ Tát, đều
do tùy hỷ mà đắc tam-muội này, đều do tam-muội
mà đầy đủ đa văn, đều do đa
văn mà được thành Phật. Nay ta do công đức
tùy hỷ này mà nguyện cùng với hết thảy chúng
sanh, cùng sanh tùy hỷ, đồng đắc tam-muội,
đồng trọn đủ đa văn, cùng đều
thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Này Hiền Hộ! Đó là khối công đức thứ
tư do tùy hỷ của Bồ Tát Ma Ha Tát).
Ở
đây là nguyện, rất nhiều người tu pháp suốt
đời mà chẳng có nguyện lực chống đỡ,
chẳng có nguyện lực hướng dẫn. V́ thế,
tu pháp phần nhiều do mê mờ bèn tiếp tục chuyển
đổi nhân duyên, nhưng chẳng thể thật sự hiểu
rơ pháp tắc “thâm nhập một môn”. V́ chẳng có sức
như thế, cho nên phần nhiều là bỏ dở nửa
chừng, hoặc “sáng ba, chiều bốn” (thay đổi
thất thường), chẳng thể chân thật
tương ứng với đạo nghiệp.
Nguyện
vọng ở chỗ này chính là công đức thứ tư
do tùy hỷ. Nếu có các Bồ Tát Ma Ha Tát phát nguyện
như thế, thật sự là rất dễ đạt
được, rất dễ thành tựu tướng công
đức to lớn này. Trên cơ sở của ba nguyện
trước, ở đây đă thực hiện tùy hỷ
triệt để, tổng kết, “nguyện dữ
nhất thiết chúng sanh cộng chi, đồng sanh tùy hỷ,
đồng hoạch tam-muội, đồng cụ đa
văn, đồng tất thành tựu A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề” (nguyện cùng chung với hết
thảy chúng sanh, cùng sanh tùy hỷ, cùng đạt được
tam-muội, cùng trọn đủ đa văn, đều
cùng thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề).
Đây đúng là nguyện đại trí huệ chẳng thể
nghĩ bàn, là nguyện đại dụng, là nguyện
đại phương tiện!
Trong
kinh giáo, đức Thế Tôn đă nhiều lượt
tuyên nói nguyện vọng thù thắng, pháp tắc thù thắng,
tâm địa thù thắng, và sự thủ hộ cùng thành tựu
thù thắng như thế. Tâm trí của hạng phàm phu lè tè
sát đất thường hẹp ḥi, ích kỷ, dùng Thân Kiến,
Pháp Kiến, hoặc đủ loại nghiệp kiến, tức
là các tri kiến chẳng tương ứng như tham, sân,
si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng v.v… để
tổn giảm, lăng phí sanh mạng
hoàn chỉnh vốn sẵn thanh tịnh của chính ḿnh. Nếu
có thể phát nguyện như thế, đúng là chẳng thể
nghĩ bàn.
(Kinh)
Phục thứ, Hiền Hộ! Nhi bỉ Bồ Tát kư đắc
thành tựu như thị tùy hỷ, như thị tam-muội,
như thị đa văn, như thị tốc tật
thành tựu Bồ Đề. Dĩ thị công đức,
tất dữ chúng sanh cộng đồng hồi hướng
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Như thị
công đức, nan khả xưng lượng, ngă kim vị
nhữ lược khai thiểu phần, nhữ nghi đế
thính, thiện tư niệm chi.
(經)復次。賢護。而彼菩薩既得成就如是隨喜。如是三昧。如是多聞。如是速疾成就菩提。以是功德。悉與衆生共同迴向阿耨多羅三藐三菩提。如是功德。難可稱量。我今爲汝略開少分。汝宜諦聽。善思念之。
(Kinh:
Lại này Hiền Hộ! Nhưng vị Bồ Tát ấy
đă được thành tựu tùy hỷ như thế,
tam-muội như thế, đa văn như thế, mau
chóng thành tựu Bồ Đề như thế. Do công đức
ấy, đều cùng với chúng sanh cùng nhau hồi hướng
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Công đức
như thế khó thể tính kể, ta nay v́ ông nói đại
lược chút phần, ông hăy nên lắng nghe, khéo suy
nghĩ đó).
Đối
với tướng công đức của bốn loại
khối công đức trên đây, đức Thế Tôn sẽ
dùng tỷ dụ để chúng ta có thể cảm nhận,
có thể thật sự tùy hỷ sự hành tŕ của hết
thảy chư Phật quá khứ, hiện tại, vị
lai trong khi tu nhân. Do tùy hỷ tam-muội này, sẽ đích
thân chứng tam-muội này, có thể đạt được đa văn, cho đến
đích thân chứng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề. Đối với tướng công đức to
lớn này và nội dung thực chất của nó, đức
Thế Tôn dùng tỷ dụ để chúng ta có thể cảm
nhận phần nào, sẽ phát khởi sự tùy thuận
quyết định đối với pháp tắc tùy hỷ
này.
(Kinh)
Hiền Hộ! Thí như hữu nhân định thọ bách
tuế.
(經)賢護。譬如有人。定壽百歲。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Ví như có người chắc chắn
thọ một trăm tuổi).
Nay
chúng ta đang ở trong kiếp giảm, tuổi thọ của
con người chỉ c̣n trong ṿng một trăm năm.
Đây là giai đoạn khổ nhất của nhân loại
từ bao kiếp rộng lớn đến nay, nhưng
người trong thời đại này hết sức kiêu mạn,
tự đại, ghen tỵ, hiếu chiến. V́ lẽ
nào? Cộng nghiệp của mọi người không ngừng
cường hóa, đem lại quả báo thuộc loại xấu
ác ấy. Khi chúng ta nghe tuổi thọ của con người
là tám vạn bốn ngàn năm, tâm trí sẽ cảm thấy
thoải mái, thong dong, v́ khi đó, sẽ có đủ thời
gian để làm mọi chuyện, tinh lực, thể lực,
phước đức lực đều trọn đủ,
c̣n hiện tại th́ tâm trí và nghiệp duyên của con
người bị nhiều nỗi bức bách, bị Khổ
Khổ bức bách. Do sanh mạng ngắn ngủi, cho nên con
người nóng ḷng đạt được hiệu quả
và lợi ích chẳng màng thủ đoạn, chẳng bận
tâm đến pháp tắc, kết quả là mắc hại
v́ chỉ chuyên chú đạt lợi ích bất cần thủ
đoạn! Tuy làm thành công một chuyện chi đó,
nhưng đă tạo vô lượng nghiệp. Dẫu đạt
được một mục đích, nhưng đă
thương tổn vô lượng hữu t́nh. Như vậy
đều là do cái tâm cưỡng chấp hiệu quả
và lợi ích của chính ḿnh, gieo hại cho chúng sanh, nhiễu
loạn xă hội, bức bách lẫn nhau, khiến cho
năm sự ác, năm sự đau, năm sự thiêu
đốt trong thế giới này càng thêm hừng hực.
Đấy quả thật là chuyện đọa lạc mà nhân loại trong thời đại
này cần phải đặc biệt phản tỉnh. Nếu
hiện thời chẳng phải là con người thọ
tám vạn bốn ngàn năm, dẫu là năm vạn
năm, chúng ta vẫn có thể yên tâm vận dụng, tu tập
các pháp tắc đó. Nhưng hiện thời, tuổi thọ
của con người quá ngắn ngủi, trong ṿng một
trăm năm, thời gian chúng ta có thể tự làm chủ
là bao lâu? Thời gian chúng ta có thể nghe pháp, hành pháp lại
là bao lâu? Trí huệ của chúng ta lại thật sự
có thể sáng suốt trong thời gian bao lâu? Đấy quả
thật là những chỗ chúng ta phải nên suy nghĩ!
(Kinh)
Thân khinh khí mănh, hành tuấn nhược phi. Thị nhân sanh
tiện tức năng hành nhất thế giới. Tiên hành
Đông phương tận thế giới biên. Như thị
thứ đệ hành ư Nam, Tây, Bắc phương, tứ
duy, thượng, hạ, châu toàn thập phương, cùng cực
địa tế. Hiền Hộ! Ư ư vân hà? Giả sử
hữu nhân thông minh xuất thế, thiện thông toán thuật,
năng kế thị nhân sở hành địa giới
đạo lộ viễn cận, trường đoản
da?
(經)身輕氣猛。行駿若飛。是人生便即能行一世界。先行東方盡世界邊。如是次第行於南西北方四維上下。周旋十方。窮極地際。賢護。於意云何。假使有人聰明出世。善通算術。能計是人所行地界道路近遠長短耶。
(Kinh: Thân nhẹ nhàng, sức mạnh
mẽ, đi vùn vụt
như bay. Người ấy vừa sanh ra đă có thể
đi khắp một thế giới. Trước hết,
đi trọn hết các thế giới ở phương
Đông. Theo thứ tự như thế, đi trong các
phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc, trên, dưới, trọn
khắp mười phương, cùng cực ranh giới các
cơi đất. Này Hiền Hộ! Ư ông nghĩ sao? Giả sử
có người thông minh ra đời, khéo thông thạo tính
toán, có thể tính toán đường sá xa gần, dài ngắn
nơi các cơi đất mà người ấy đă đi
hay chăng?)
Ở
đây, đức Thế Tôn nêu một giả thiết: Một
người đi lại nhanh chóng như bay, sanh ra đă có
thể đi khắp một thế giới. Trước hết
đi từ phương Đông, sau đó, Đông, Tây, Nam,
Bắc, bốn phương bàng, trên, dưới, mỗi phương
đều đi cùng tận giới hạn của cuộc
đất, hỏi rằng người thông minh có thể
tính toán đường sá kẻ đó đă đi dài ngắn
cỡ nào hay chăng?
(Kinh)
Hiền Hộ bạch ngôn: “Bất dă!” “Hựu năng
xưng lượng da?” “Bất dă!” “Hữu năng quán sát
da?” “Bất dă”. “Diệc năng tư duy da?” “Bất dă, Thế
Tôn”. “Hiền Hộ! Thả trí sơ hành, tức sử thị
nhân măn túc bách niên, tốc tật văng phản, biến chí thập
phương vô lượng thế giới. Bỉ minh toán
nhân, phục năng tri phủ?” Hiền Hộ báo ngôn: “Bất
dă, Thế Tôn. Bỉ minh toán nhân, thượng bất
năng tri sơ thời sở hành địa giới cận
viễn, vân hà năng kế thị nhân nhất thế, tận
lực phi hành châu biến thập phương vô số thế
giới đạo lộ do-tuần, kỳ số đa thiểu?
Nhược dục đắc tri, duy độc Thế
Tôn, cập đại đệ tử Xá Lợi Phất, dữ
bỉ bất thoái chư đại Bồ Tát đẳng,
năi năng tri nhĩ”.
(經)賢護白言。不也。又能稱量耶。不也。又能觀察耶。不也。亦能思惟耶。不也世尊。賢護。且置初行。即使是人滿足百年。速疾往返。遍至十方無量世界。彼明算人。復能知否。賢護報言。不也世尊。彼明算人。尚不能知初時所行地界近遠。云何能計是人一世。盡力飛行周遍十方。無數世界。道路由旬其數多少。若欲得知。唯獨世尊及大弟子舍利弗。與彼不退諸大菩薩等。乃能知耳。
(Kinh:
Hiền Hộ bạch rằng: “Thưa không ạ!” [Đức
Thế Tôn hỏi]: “Lại có thể tính kể hay
chăng?” “Thưa không ạ”. “Có thể quan sát hay không?”
“Thưa không ạ!” “Cũng có thể tư duy hay không?” “Bạch
Thế Tôn! Không ạ”. “Này Hiền Hộ! Hăy để chuyện
đi trên đây lại đó. Giả sử người ấy
trọn một trăm năm, qua lại nhanh chóng, đến
khắp vô lượng thế giới trong mười phương,
người giỏi toán đó lại có thể biết
được chăng?” Hiền Hộ thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, không ạ!
Người giỏi toán đó c̣n chẳng thể biết
lúc kẻ đó khi đi lần
đầu, đă đi trong bao nhiêu cơi đất
gần xa, th́ làm sao có thể tính ra kẻ đó trong một
đời, tận lực phi hành trọn khắp mười
phương vô số thế giới, con số do-tuần
nơi các đường sá kẻ đó đă đi là bao
nhiêu! Nếu muốn biết, chỉ riêng đức Thế
Tôn và đại đệ tử Xá Lợi Phất, cùng với
các vị đại Bồ Tát bất thoái mới có thể
biết mà thôi!”)
“Do-tuần”
(Yojana) là một đơn vị đo lường [chiều
dài] của Ấn Độ. Nếu nói khá chuẩn xác,
đại khái là ở vùng núi th́ năm mươi dặm
là một do-tuần, nơi núi đồi th́ ba mươi dặm
hoặc bốn mươi dặm là một do-tuần,
nơi đồng bằng th́ sáu mươi dặm là một
do-tuần. Cũng có người trực tiếp coi bốn
mươi dặm là một do-tuần [trong mọi trường
hợp].
(Kinh)
Phật cáo Hiền Hộ: - Như thị, như thị,
ngă kim ngữ nhữ. Nhược hữu thiện nam tử,
thiện nữ nhân khởi tín kính tâm, ư bỉ phong hành
tráng nhân sở kinh thế giới, thịnh măn trân bảo,
tŕ dụng phụng hiến thập phương chư Phật,
kỳ sở hoạch phước, tuy viết cực
đa, nhiên thượng bất như tùy hỷ tam-muội
công đức thiểu phần.
(經)佛告賢護。如是如是。我今語汝。若有善男子善女人。起信敬心。於彼風行壯人所經世界。盛滿珍寶。持用奉獻十方諸佛。其所獲福。雖曰極多。然尚不如隨喜三昧功德少分。
(Kinh: Lại này Hiền
Hộ: - Như thế đó, như thế đó. Ta nay bảo
ông, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân khởi
tâm kính tin, đối với các thế giới mà người
mạnh khỏe đi như gió ấy đă trải qua, bèn
chứa đầy trân bảo, dùng để dâng cúng mười
phương chư Phật, phước do người ấy
đạt được tuy nói là cực nhiều, vẫn
chẳng bằng chút phần công đức do tùy hỷ
tam-muội).
Đây
là tỷ dụ, nêu rơ sự sai biệt giữa Tài Bố
Thí và Pháp Bố Thí. Quư vị nói: “Như vậy th́ chẳng
phải là pháp tùy hỷ quá tiện nghi hay sao?” Chẳng phải vậy! Nếu chẳng có thiện
căn từ bao kiếp lâu xa tới nay đă chín muồi,
chúng ta sẽ chẳng có cơ hội được nghe!
Đừng tưởng chính ḿnh được nghe [tam-muội
này] là chuyện rất đơn giản. Nếu [cứ
nghĩ như thế], thật ra là
đang tự khinh! Có khi do tự mạn, chúng ta nẩy sanh
tri kiến tự khinh chẳng chánh xác! Thường là
đối với thiện căn của chính ḿnh, chẳng
thể chánh tín, đối với ác duyên của chính ḿnh chẳng
thể trực diện xét kỹ, đối với lỗi
lầm của chính ḿnh cũng chẳng thể
sám hối. Con người có khi là như thế đó, rất
khó thể thuyết phục được! Nếu chúng ta
có thể nắm rơ ràng, nhận thức chuẩn xác, sẽ
rất dễ dàng xử lư các vấn đề sanh tử
phiền năo.
(Kinh)
Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Do bỉ Bồ Tát Ma Ha Tát tu
thử tam-muội, cụ túc như thượng tứ
đại tùy hỷ, hồi hướng A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề. Vị cầu đa văn
thành Chánh Giác cố. Hiền Hộ! Dĩ thị nhân duyên,
tŕ bỉ thí phước, vọng tiền tùy hỷ sở
hoạch công đức, bách phần bất cập nhất,
thiên phần bất cập nhất, bách thiên vạn phần
bất cập nhất, ức bách thiên phần bất cập
nhất. Năi chí toán số thí dụ, sở bất năng cập.
Hiền Hộ! Nhữ kim đương tri, chư Bồ
Tát đẳng, tùy hỷ hồi hướng sở đắc
công đức. Thị cố, ngă kim cánh vị
nhữ thuyết Bồ Tát tùy hỷ công đức thiểu
phần, nhữ nghi đế thính dă.
(經)何以故。賢護。由彼菩薩摩訶薩。修此三昧。具足如上四大隨喜。迴向阿耨多羅三藐三菩提。爲求多聞成正覺故。賢護。以是因緣。持彼施福。望前隨喜所獲功德。百分不及一。千分不及一。百千萬分不及一。億百千分不及一。乃至算數譬喻所不能及。賢護。汝今當知。諸菩薩等。隨喜迴向所得功德。是故我今更爲汝說菩薩隨喜。功德少分。汝宜諦聽也。
(Kinh: V́ cớ sao?
Này Hiền Hộ! Do Bồ Tát Ma Ha Tát ấy tu tam-muội
này, sẽ đầy đủ bốn món đại tùy hỷ
như trên, hồi hướng A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề, v́ để cầu đa văn, thành
Chánh Giác. Này Hiền Hộ! Do nhân duyên ấy, đem phước
bố thí đó so với công đức đạt
được do tùy hỷ trên đây th́ chẳng bằng
một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn,
chẳng bằng một phần trăm ngàn vạn phần,
chẳng bằng một phần ức trăm ngàn. Cho đến
toán số thí dụ, đều chẳng thể bằng
được. Này Hiền Hộ! Ông nay nên biết công
đức đạt được của các vị Bồ
Tát do tùy hỷ hồi hướng. V́ thế, ta nay lại
v́ ông nói chút phần công đức do tùy hỷ, ông hăy nên lắng
nghe).
Đức
Thế Tôn lại dùng tỷ dụ để nói rơ với chúng
ta một vấn đề, tức là phước đức
đạt được do bố thí cúng dường
chư Phật so với công đức tùy hỷ tam-muội, hồi hướng
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề sẽ là chẳng
thể nói trọn được!
(Kinh)
Hiền Hộ! Ngă niệm văng tích quá ư vô lượng vô
biên A-tăng-kỳ kiếp, nhĩ thời hữu Phật,
hiệu Sư Tử Ư Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng
Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, xuất hiện ư thế.
(經)賢護。我念往昔過於無量無邊阿僧祇劫。爾時有佛。號師子意如來。應供。等正覺。明行足。善逝世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。出現於世。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Ta nhớ xưa kia quá vô lượng vô
biên A-tăng-kỳ kiếp, lúc ấy có Phật, hiệu là
Sư Tử Ư Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác,
Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện trong
đời).
“Sư
Tử Ư Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”, cách dịch này thuận
theo kết cấu ngôn ngữ của người Hoa. Trong
quá khứ, cũng có người dịch thành “Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư …. Phật Thế Tôn”.
Đó là cách nói đảo ngược.
(Kinh)
Hiền Hộ! Thời thử thế giới Diêm Phù Đề
trung, nhân dân xí thịnh, đa nhiêu tài bảo, phong lạc an
ổn, thậm khả ái nhạo. Hiền Hộ! Nhĩ thời,
thử Diêm Phù Đề, kỳ địa hoằng quảng,
cụ túc nhất vạn bát thiên do-tuần. Kỳ gian thành
đô, tụ lạc, năi hữu nhất vạn bát thiên, nhất
thiết giai dĩ thất bảo sở thành. Kỳ thành
tung quảng thập nhị do-tuần, ư chư thành nội,
thành ngoại, giai hữu cửu thập ức dân gia.
(經)賢護。時此世界閻浮提中。人民熾盛。多饒財寶。豐樂安穩。甚可愛樂。賢護。爾時此閻浮提。其地宏廣。具足一萬八千由旬。其間城都聚落。乃有一萬八千。一切皆以七寶所成。其城縱廣十二由旬。於諸城內城外。皆有九十億民家。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Khi đó, trong Diêm Phù Đề của thế giới này, nhân dân
đông đảo, của cải sung túc, giàu mạnh, an ổn,
rất đáng yêu thích. Này Hiền Hộ! Lúc bấy giờ,
trong Diêm Phù Đề này, cuộc đất rộng răi, trọn
đủ một vạn tám ngàn do-tuần. Trong đó, thành
đô, xóm làng bèn có một vạn
tám ngàn nơi, hết thảy
đều do bảy báu tạo thành. Thành ấy có kích
thước mười hai do-tuần, trong ngoài thành đều
có chín mươi ức nhà dân).
“Nhất
thiết giai dĩ thất bảo sở thành” (Hết thảy
đều do bảy báu tạo thành): Trong Phật giáo,
thường nhắc tới thất bảo. Dùng thất bảo
để kiến tạo thành thị là như thế nào? Tâm
trí của chúng ta rất khó suy nghĩ
được, chẳng có khái niệm! Nay các thành thị tốt
đẹp nhất của chúng ta đều chẳng rời
các loại xi măng, cốt thép, ngói, gạch v.v… Bất luận
trau chuốt cỡ nào, vẫn là ngói, đá! “Cửu
thập ức dân gia” (chín mươi ức nhà dân): Tại
Ấn Độ, đối với chữ Ức, có khi
hiểu là một trăm vạn, hoặc một ngàn vạn,
mà cũng có khi nói là một vạn vạn. Ở đây nói
theo kiểu nào? Chẳng thể biết!
(Kinh)
Hiền Hộ! Nhĩ thời, đại thành danh viết
Hiền Tác. Thành trung cư dân, hữu lục thập ức,
bỉ thành tức thị Sư Tử Ư Như Lai hiện
sanh xứ dă. Hiền Hộ! Nhĩ thời, Sư Tử Ư
Như Lai sơ hội thuyết pháp, hữu cửu thập
ức nhân chứng A La Hán quả. Quá thất nhật dĩ,
ư đệ nhị hội, phục hữu cửu thập
ức nhân đắc A La Hán quả. Quá đệ nhị hội,
đệ tam hội trung, phục hữu cửu thập ức
nhân đắc A La Hán quả. Quá tam hội dĩ, phục hữu
cửu thập ức nhân hàm tùng tha phương nhi lai đại
tập, tất thị thanh tịnh chư Bồ Tát chúng. Tự
hậu, bỉ Phật hằng hữu vô lượng
A-tăng-kỳ chư Thanh Văn chúng. Hiền Hộ!
Nhĩ thời, nhân dân hành Thập Thiện nghiệp,
như bỉ vị lai Di Lặc Phật thế.
(經)賢護。爾時大城名曰賢作。城中居民。有六十億。彼城即是師子意如來現生處也。賢護。爾時師子意如來。初會說法。有九十億人證阿羅漢果。過七日已。於第二會。復有九十億人得阿羅漢果。過第二會。第三會中。復有九十億人得阿羅漢果。過三會已。復有九十億人。咸從他方而來大集。悉是清淨諸菩薩衆。自後彼佛。恆有無量阿僧祇諸聲聞衆。賢護。爾時人民行十善業。如彼未來彌勒佛世。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Lúc bấy giờ, thành lớn tên là Hiền
Tác. Trong thành có sáu mươi ức cư dân. Thành ấy chính
là chỗ Sư Tử Ư thị hiện giáng sanh. Này Hiền
Hộ! Lúc bấy giờ, trong hội thuyết pháp đầu
tiên của Sư Tử Ư Như Lai có chín mươi ức
người chứng A La Hán quả. Bảy ngày sau, trong hội
thứ hai, lại có chín mươi ức người chứng
A La Hán quả. Sau hội thứ hai, trong hội thứ ba,
lại có chín mươi ức người chứng A La Hán
quả. Sau ba hội, lại có chín mươi ức người
đều từ phương khác đến tụ họp
đông đảo, đều là các vị Bồ Tát thanh tịnh.
Từ đó về sau, đức Phật ấy luôn có vô
lượng A-tăng-kỳ chư Thanh Văn chúng. Này Hiền
Hộ! Lúc ấy, nhân dân đều hành Thập Thiện
nghiệp như thời Di Lặc Phật giáng thế trong
đời vị lai).
Sau
Thích Ca Mâu Ni Phật năm mươi sáu ức bảy ngàn
vạn năm, Di Lặc Thế Tôn hạ sanh trong Diêm Phù
Đề, thị hiện tám tướng thành đạo.
Khi đó, con người thọ tám vạn bốn ngàn
năm, tự nhiên hành Thập Thiện. Nay chúng ta hễ nói đến Ngũ Giới, Thập Thiện, phần
đông đều sợ hăi, rất nhiều người
nói: “Ối trời ơi! Tôi tŕ Ngũ Giới không nổi,
đành tŕ một giới vậy!” Có kẻ nói có thể tŕ
hai điều, ba điều, tức là một phần, họ
là thiểu phần ưu-bà-tắc, ưu-bà-di. Nếu là
nguyện vọng tŕ măn phần Ngũ Giới đều chẳng
có, càng chẳng nói tới chuyện hành tŕ. Đấy là
cơ chế trong thời đại này, mọi người
hăy như thật xem xét kỹ!
(Kinh)
Giáo chư chúng sanh, cụ túc thành tựu thập chủng
nghiệp hạnh. Nhĩ thời, nhân thọ bát vạn tứ
thiên, như Di Lặc thời nhân thọ vô dị.
(經)教諸衆生。具足成就十種業行。爾時人壽八萬四千。如彌勒時。人壽無異。
(Kinh:
Dạy các chúng sanh trọn đủ thành tựu mười
loại nghiệp hạnh. Lúc bấy giờ, con người
thọ tám vạn bốn ngàn năm, như tuổi thọ
của người thời Phật Di Lặc chẳng
khác).
V́
Di Lặc Thế Tôn gần chúng ta nhất trong hiện thời, [cho nên so sánh như thế].
Hiện nay, Phật Thích Ca đă nhập diệt hơn hai
ngàn năm, phải năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn
năm sau, Di Lặc Thế Tôn mới giáng thế. Chúng ta sanh
giữa hai vị Thế Tôn, trong thời trước và sau
Phật đều chẳng thể thấy Phật, chỉ
có thể lănh thọ di giáo của Thích Ca Phật Thế
Tôn, nương theo di giáo mà hành tŕ.
(Kinh)
Hiền Hộ! Thời bỉ đại thành hữu Chuyển
Luân Vương, danh viết Thắng Du, như pháp trị
thế, cụ túc thất bảo, sở vị kim luân bảo,
tượng bảo, mă bảo, ma-ni bảo, nữ bảo,
trưởng giả bảo, chủ binh bảo, thị vi
thất bảo.
(經)賢護。時彼大城有轉輪王。名曰勝遊。如法治世。具足七寶。所謂金輪寶。象寶馬寶。摩尼寶。女寶。長者寶。主兵寶。是爲七寶。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Khi đó, thành lớn ấy có Chuyển
Luân Vương tên là Thắng Du, đúng pháp cai trị cơi
đời, trọn đủ bảy báu, tức là kim luân bảo,
tượng bảo, mă bảo, ma-ni bảo, nữ bảo,
trưởng giả bảo, chủ binh bảo. Đấy
là bảy báu).
Phần
nhiều là Luân Vương xuất thế, thất bảo
mới sanh ra. Tức là khi [Luân Vương] giáng thế, bảy
thứ công đức ấy tự nhiên hiển hiện bên
thân. Đó là tướng Luân Vương. Như chúng ta biết
Thiện Tài đồng tử vừa mới sanh ra, tất
cả các pḥng trống trong nhà đều tự nhiên trồi lên bảy báu đầy
ắp. Do nhân duyên mạnh mẽ, cho nên thất bảo mới
sanh ra tràn trề. Nếu
ác nghiệp thành thục, gia đ́nh của chính ḿnh sẽ bị
suy bại.
(Kinh)
Măn túc thiên tử.
(經)滿足千子。
(Kinh:
Trọn đủ một ngàn con trai).
Đây
cũng là tướng riêng biệt của Luân Vương.
Trong loài người chúng ta, người có mười con
trai hết sức hiếm hoi, trăm đứa con trai hầu
như không có, nhưng Luân Vương do oai đức, có trọn
đủ một ngàn con trai. Như A Di Đà Phật khi làm
Luân Vương cũng trọn đủ một ngàn con trai.
Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền v.v… đều ở
trong số một ngàn đứa con trai ấy. Trong đó,
Quán Âm và Thế Chí là con thứ nhất và thứ hai. A Di
Đà Phật dùng thân Luân Vương phát nguyện, sau
đó, thành Phật. Do trong lúc tu nhân, A Di Đà Phật có
đại thế lực, một ngàn người con của Ngài cũng phát nguyện trong khi tu nhân,
sau đó lại trở thành một ngàn vị Phật hoặc
Bồ Tát. Tuy mỗi người con đều phát nguyện,
nhưng đều ĺa bỏ thế giới ngũ trược
Sa Bà, cho nên Phạm Chí [tiền thân của] Thích Ca Mâu Ni Phật
bèn phát ra năm trăm đại nguyện ḥng nhiếp hóa thế
giới bị một ngàn vị Phật ĺa bỏ. V́ thế,
một khi Phật Thích Ca ứng thế trong đời ô
trược, chư Phật hoặc các vị đại Bồ
Tát đều ĺa bỏ Tịnh Độ của chính ḿnh
để đến giúp Phật Thích Ca thực hiện sự
nghiệp hoằng hóa, trở thành quyến thuộc tùy thuận
của Ngài để sự giáo hóa ấy được
lưu truyền rộng răi.
V́
ngũ trược ác thế hiện thời rất ô
trược, bị chư Phật ĺa bỏ, giống
như chúng ta vứt rác rưởi vậy, chư Phật
cũng ĺa bỏ, chẳng quay lại nh́n tới thế giới
này. Phật Thích Ca giống như trạm trưởng thu
nhặt rác, tới thâu nhặt nghiệp duyên của chúng
ta. V́ sao Ngài có thể hóa các thứ mục nát thành
trân bảo? Ngài lập ra năm trăm trọng thệ, trở
vào thế giới Sa Bà bị vứt bỏ này. Chúng ta đọc
kinh Bi Hoa sẽ biết, nhưng thường là chúng ta chẳng
tự biết, cứ tự phụ, tự kiêu mạn,
trong chốn cực khổ coi khổ là vui, vẫn dùng khổ để
thủ hộ tăng thượng mạn, xâm hại lẫn
nhau. Điều này mười phần là chuyện khiến
cho người khác hổ thẹn, tiếc nuối!
(Kinh)
Thân tướng đoan nghiêm, thành tựu oai hùng, hàng phục
oán địch. Bỉ vương sở thống tận thế
giới biên, bất dụng đao binh, diệc vô oai bách, vô sở thuế liễm,
chúng cụ tự nhiên.
(經)身相端嚴。成就威雄。降伏怨敵。彼王所統。盡世界邊。不用刀兵。亦無威迫。無所稅斂。衆具自然。
(Kinh:
Thân tướng đoan nghiêm, thành tựu oai hùng, hàng phục
oán địch. Vị vua ấy thống lănh đến tận
ngằn mé thế giới, chẳng dùng tới chiến
tranh, cũng chẳng dùng oai thế bức bách, chẳng có thuế
khóa, các vật dụng tự nhiên [trọn đủ]).
Luân
Vương có Kim Luân Vương, Ngân Luân Vương, Đồng
Luân Vương, và Thiết Luân Vương. Thời Kim Luân
Vương, hết thảy tự nhiên thành tựu. Thời
Ngân Luân Vương, hễ kiến lập quân đội là
được rồi (tự nhiên thống ngự thế giới). Thời
Đồng Luân Vương, dẫn quân đội đi khắp
thiên hạ liền chinh phục thiên hạ, nhưng thời
Thiết Luân Vương th́ phải giao chiến khổ sở.
(Kinh)
Thời Thắng Du vương, nghệ Sư Tử Ư
Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác sở, đảnh
lễ tôn túc, nhiên hậu thoái tọa. Nhĩ thời, Sư
Tử Ư Như Lai tri Thắng
Du vương khát ngưỡng tâm dĩ, tức vị quảng
tuyên hiện tiền tam-muội.
(經)時勝遊王。詣師子意如來應供等正覺所。頂禮尊足。然後退坐。爾時師子意如來。知勝遊王渴仰心已。即爲廣宣現前三昧。
(Kinh:
Khi đó, vua Thắng Du đến chỗ Sư Tử Ư
Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, đảnh lễ
dưới chân đức Thế Tôn, sau đó lui ra ngồi
[một phía]. Lúc bấy giờ, Sư Tử Ư Như Lai biết
cái tâm khát ngưỡng của vua Thắng Du rồi, liền
v́ nhà vua tuyên nói rộng răi hiện tiền tam-muội).
“Hiện
tiền tam-muội” tức là Thập Phương
Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội
như đă nói, ở đây là gọi tắt.
(Kinh)
Thời bỉ vương kư văn như thị tam-muội,
thâm tự khánh hạnh, phát tùy hỷ tâm.
(經)時彼王既聞如是三昧。深自慶幸。發隨喜心。
(Kinh:
Khi đó, vị vua ấy đă nghe tam-muội như thế,
vui mừng sâu xa, phát tâm tùy hỷ).
Chúng
ta trong thời gian học tập một tháng này, chẳng biết mọi
người đối với chuyện được nghe nói tam-muội này có
sanh khởi tâm trí “chính ḿnh quá may mắn” hay không? Đúng là
quá may mắn!
(Kinh)
Dĩ nhất bả bảo phụng tán Phật thượng.
(經)以一把寶奉散佛上。
(Kinh:
Dùng một nắm báu dâng rải lên trên Phật).
“Phụng thượng” (dâng lên) là một
phương thức cúng dường khá xưa cũ. Có hai
loại dâng tặng: Một là trao tận
tay, khiến cho đối phương chạm đến,
tiếp nhận. Loại kia th́ rải lên là được
rồi. Dùng cách làm ấy để cúng dường pháp ấy,
hoặc nhân duyên ấy, tức là cúng dường mà chẳng
cần được đền đáp, mà cũng chẳng
báo cho đối phương biết, chỉ cúng
dường là được rồi! Như thế sẽ
rất dễ giúp cho tùy hỷ. Nói “tùy hỷ” tức
là chẳng cầu được báo đáp, thiện
căn như thế chính là chẳng thể nghĩ bàn!
Trong
thời đại của chúng ta, loại cúng dường
Phật theo kiểu tùy hỷ này khá ít! Mọi người
thường nói là: Trương X… hoặc Trần Y… dâng
cúng bao nhiêu tiền, có ư nguyện ǵ đó. Chẳng hạn
như trong nhà có người bệnh mong được chữa
lành, hoặc mong phát tài, hoặc mong lập công ty v.v… mong Phật,
Bồ Tát, thánh nhân gia tŕ. Chúng ta có thể như pháp cúng dường
hay không? Ở đây, kinh điển đă chỉ bảo
chúng ta, nhưng con người hiện thời đối
với chuyện này thường là nhận biết chẳng
đầy đủ. V́ sao vậy? Có chướng ngại
trong tu tập, có chướng ngại nơi tâm lư, hoặc
thường là không có tâm trí “chẳng
mong cầu được đền đáp thứ ǵ”. V́ thế,
chúng ta bỏ ra điều ǵ, đều cần phải
được đền đáp thứ chi đó. Chuyện
này nói theo phía phàm phu là có ư nghĩa, nhưng chỉ có thể
kết thành một duyên, duyên ấy sẽ chẳng rộng
lớn, sẽ chẳng sâu đậm, chẳng phải là
duyên thù thắng. Nếu quư vị kết một nhân duyên
thanh tịnh, chẳng đ̣i lấy được ǵ,
đó sẽ là duyên thù thắng, có thể nhanh chóng đạt
được công đức và lợi ích. Quư vị nói:
“Đấy chẳng phải là tham ư?” Chẳng phải!
Tướng công đức là như thế, lợi ích chân
thật ở chỗ này!
(Kinh) Bỉ vương duyên thử tùy hỷ
thiện căn, mạng chung chi hậu, hoàn sanh Diêm Phù, vi bỉ
vương tử, danh viết Phạm Đức, phục
thiệu vương vị, như pháp trị hóa. Bỉ Phật
diệt hậu, ư chánh pháp trung, hữu nhất tỳ-kheo,
kỳ danh viết Bảo, thông minh, tinh tấn,
thường vị tứ chúng, tuyên dương, quảng
thuyết như thị kinh điển.
(經)彼王緣此隨喜善根。命終之後。還生閻浮。爲彼王子。名曰梵德。復紹王位。如法治化。彼佛滅後。於正法中。有一比丘。其名曰寶。聰明精進。常爲四衆。宣揚廣說如是經典。
(Kinh: Vị vua đó do thiện căn
tùy hỷ ấy, sau khi mạng
chung, vẫn sanh trong Diêm Phù, làm vương tử tên là Phạm
Đức, lại nối tiếp ngôi vua, đúng như
pháp mà cai trị, giáo hóa. Sau khi đức Phật ấy diệt
độ, ở trong chánh pháp, có một vị tỳ-kheo
tên là Bảo, thông minh, tinh tấn, thường v́ bốn chúng,
tuyên dương, nói rộng kinh điển như thế).
“Kinh
điển như thế” chính là giáo điển Ban Châu
Tam Muội Kinh như vậy.
(Kinh)
Hiền Hộ! Nhĩ thời, bỉ Phạm Đức
vương, ư tỳ-kheo sở văn tam-muội dĩ.
(經)賢護。爾時彼梵德王。於比丘所聞三昧已。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Lúc bấy giờ, vua Phạm Đức ở chỗ tỳ-kheo
nghe tam-muội rồi).
Do
trong kiếp trước, do nhân duyên đối trước
đức Phật, trong khoảng sát-na, rải báu cúng
dường và tùy hỷ, ở nơi đây, chuyển sanh
làm vua Phạm Đức, vẫn được nghe tam-muội
này.
(Kinh)
Đắc thâm tịnh tín, khởi tùy hỷ tâm, tŕ thượng
diệu y, giá trị bách thiên, phú tỳ-kheo thượng.
(經)得深淨信。起隨喜心。持上妙衣。價直百千。覆比丘上。
(Kinh: Đạt
được ḷng tin thanh tịnh sâu xa, dấy ḷng tùy hỷ,
cầm áo thượng diệu, giá trị trăm ngàn, che
trên tỳ-kheo).
Trong
chỗ sống thuộc đời
trước, [vua Phạm Đức] đă cúng dường
Thế Tôn, c̣n ở đây là che diệu y để cúng
dường tỳ-kheo. “Che y để cúng dường” khá
phổ biến trong Nam truyền Phật giáo, c̣n đối
với người nơi đất Hán, khái niệm “cúng dường
y bát” chẳng rơ ràng
cho lắm. Ở Ấn Độ, y có giá trị rất cao,
có tấm y giá trị liên thành. Trong tâm mục của người
Hoa, nếu nói một tấm y có giá trị liên thành, phần
nhiều cảm thấy chẳng thể nghĩ bàn. Từ
xưa tới nay, dường như rất ít nghe nói theo kiểu
như thế. Tuy có “kim lũ y, ngân lũ y” (y
ca-sa dệt bằng sợi vàng, sợi bạc), nhưng nói
là “giá trị liên thành” th́ vẫn rất khó nghĩ bàn.
Nhưng tại Ấn Độ, một tấm y giá trị
liên thành thường xuất hiện, có thể do nhân duyên
phong tục trong dân chúng.
(Kinh)
Hiền Hộ! Hựu Phạm Đức vương tùng tỳ-kheo
sở văn tam-muội dĩ, tức phát A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm, vị ái pháp cố, xả
gia, xuất gia, thế trừ tu phát, phi phục ca-sa. Thị
thời, diệc hữu bách thiên nhân chúng thành tựu tín tâm,
tức tùy bỉ vương, pháp phục xuất gia, diệc
vị như thị tam-muội kinh cố.
(經)賢護。又梵德王。從比丘所聞三昧已。即發阿耨多羅三藐三菩提心。爲愛法故。舍家出家。剃除鬚髮。披服袈裟。是時亦有百千人衆。成就信心。即隨彼王。法服出家。亦爲如是三昧經故。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Lại nữa, vua Phạm Đức từ chỗ tỳ-kheo
nghe tam-muội xong, liền phát A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề tâm, do v́ yêu mến pháp bèn bỏ nhà, xuất
gia, cạo bỏ râu tóc, khoác mặc ca-sa. Lúc ấy, cũng
có trăm ngàn người thành tựu tín tâm, liền theo nhà
vua ấy, khoác pháp phục xuất gia, cũng v́ kinh tam-muội
như thế).
Vua
Phạm Đức do công đức của tam-muội bèn
phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm. V́ yêu thích pháp nên bỏ nhà, xuất gia, cạo bỏ
râu tóc, khoác mặc ca-sa. Cho đến có
trăm ngàn người như thế cũng tùy thuận vị
vua ấy mặc pháp phục xuất gia, đều là v́
kinh tam-muội này!
(Kinh)
Thời bỉ Phạm Đức tỳ-kheo, dữ bỉ
bách thiên chư tỳ-kheo chúng, kinh bát thiên tuế, cúng dường
thừa sự bỉ Bảo tỳ-kheo, vô hữu b́ quyện,
chung bất năng đắc như thị tam-muội.
(經)時彼梵德比丘。與彼百千諸比丘衆。經八千歲。供養承事。彼寶比丘。無有疲倦。終不能得如是三昧。
(Kinh: Khi đó, tỳ-kheo
Phạm Đức cùng với trăm ngàn các vị tỳ-kheo,
trải qua tám ngàn năm cúng dường, thừa sự vị tỳ-kheo Bảo ấy, chẳng hề
mệt nhọc, trọn chẳng thể đắc tam-muội
như thế).
Hàm
nghĩa trong đoạn văn tự này rất rơ ràng. Tỳ-kheo
Phạm Đức do trong đời quá khứ cúng dường
Phật, được nghe nói và tùy hỷ pháp này. Sau
đó, chuyển sang kiếp khác, làm vương tử, lại
ở chỗ tỳ-kheo Bảo nghe giáo điển này. Do vậy,
phát Vô Thượng Tâm, bỏ nhà, xuất gia, trong tám ngàn
năm thừa sự tỳ-kheo Bảo chưa hề mệt
mỏi, nhưng nhà vua trọn chẳng
thể đắc tam-muội như thế. “Đắc”
có nghĩa là đích thân chứng.
(Kinh)
Duy trừ nhất văn.
(經)惟除一聞。
(Kinh: Chỉ trừ
một lần nghe).
Cũng
có nghĩa là chỉ có thể nghe nói tam-muội này, nhưng
chẳng có cơ chế
tu tập, thành tựu.
(Kinh)
Văn dĩ tùy hỷ, cụ dĩ tứ chủng tùy hỷ
công đức, hồi hướng A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề. Như sơ tùy hỷ, như thị
quảng hành, nhiên hậu, Phạm Đức tỳ-kheo, cập
bách thiên chúng, duyên thử thiện căn.
(經)聞已隨喜。具以四種隨喜功德。迴向阿耨多羅三藐三菩提。如初隨喜。如是廣行。然後梵德比丘。及百千衆。緣此善根。
(Kinh:
Nghe rồi tùy hỷ, trọn đủ bốn loại công
đức tùy hỷ, hồi hướng A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề. Như thoạt đầu
tùy hỷ, hành rộng răi như thế, sau đó, tỳ-kheo
Phạm Đức và trăm ngàn đại chúng, do thiện
căn ấy).
“Duyên
thử thiện căn” (do thiện căn ấy) tức
là thiện căn tùy hỷ, chỉ có thể nghe lời dạy
này, chẳng hành, chẳng chứng, nhưng phần nhiều
sanh ḷng tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Bồ
Đề.
(Kinh)
Tầm đắc trị ngộ lục vạn bát thiên
chư Phật Thế Tôn.
(經)尋得值遇六萬八千諸佛世尊。
(Kinh: Liền
được gặp gỡ sáu vạn tám ngàn chư Phật
Thế Tôn).
Tuy
chưa chứng Thập Phương Chư Phật Tất
Giai Hiện Tiền tam-muội, nhưng do tùy hỷ mà đạt
được nhân duyên phước đức này.
(Kinh)
Phàm sở sanh xứ, thường đắc vị chúng,
ban tuyên, quảng thuyết như thị tam-muội.
(經)凡所生處。常得爲衆。頒宣廣說如是三昧。
(Kinh: Phàm sanh ở
chỗ nào, cũng đều thường v́ đại
chúng ban bố, tuyên nói rộng
răi tam-muội như thế).
Nương
vào thiện căn tùy hỷ chín muồi, được
gặp sáu vạn tám ngàn chư Phật Thế Tôn, cho đến chỗ nào cũng đều làm thầy
hướng dẫn cho đại chúng, tuyên nói công đức
của Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện
Tiền tam-muội.
(Kinh)
Bỉ vương tỳ-kheo, nhân bỉ thiện căn, phục
cánh trị ngộ lục vạn bát thiên ức số
chư Phật, như thị thứ đệ chủng
chư thiện căn, đắc thử tam-muội.
(經)彼王比丘。因彼善根。復更值遇六萬八千億數諸佛。如是次第種諸善根。得此三昧。
(Kinh: Vị cựu
vương tỳ-kheo ấy do thiện căn đó, lại
gặp gỡ sáu vạn tám ngàn chư Phật, lần
lượt gieo các thiện căn
như thế, đắc tam-muội này).
Do
vậy có thể thấy: Nếu hiện thời chúng ta hễ hơi
dính dáng đến pháp tắc liền nóng ḷng đạt
được lợi ích, như thế là không được!
Bởi lẽ, đối với pháp tắc này, cầu
được truyền dạy, tu tập, đọc tụng,
v́ người khác giải nói, cho đến chứng đắc
tam-muội này, công đức đều giống hệt nhau. Thậm chí tùy hỷ, thủ hộ, công đức
cũng đều chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế,
chúng ta hướng đến tu tập tam-muội này,
đối với pháp tắc tam-muội này phải nên thực
hành, phải nên tùy hỷ, nhưng chớ nên nóng ruột cầu
đạt được lợi ích, chớ nên vội vă bức
bách chính ḿnh. Có khi do gấp rút, sẽ sanh ra duyên trái nghịch,
chẳng tương ứng, nhưng tùy hỷ mười
phần trọng yếu.
(Kinh)
Cụ túc viên măn trợ Bồ Đề pháp dĩ, tầm
đắc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề.
(經)具足圓滿助菩提法已。尋得成就阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh: Trọn
đủ viên măn pháp trợ Bồ Đề rồi,
liền được thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề).
Do
chứng tam-muội mà đạt được đa văn. Do
đa văn mà thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề. Trong phần văn tự trước đó có
nói đích thân chứng Thập Phương Chư Phật
Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, sẽ có thể
đa văn. V́ lẽ nào? V́ có thể thấy mười
phương chư Phật, v́ có thể thấy chư Phật
nghe pháp, cho nên chứng tam-muội này, tất nhiên sẽ
đa văn. Đa văn th́ tất nhiên có thể thành tựu
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, có thể
nhanh chóng thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề. Đấy là lời thành thật!
(Kinh)
Hiệu viết Kiên Cố Tinh Tấn Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, nhi bỉ
bách thiên chư tỳ-kheo chúng, đắc thử tam-muội,
diệc năng thành tựu trợ đạo pháp cố,
giai dĩ thành ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề, danh viết Kiên Dũng Như Lai, Ứng Cúng,
Đẳng Chánh Giác. Phục linh vô lượng bách thiên chúng
sanh trụ ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
(經)號曰堅固精進如來。應供等正覺。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。而彼百千諸比丘衆。得此三昧。亦能成就助道法故。皆已成於阿耨多羅三藐三菩提。名曰堅勇如來。應供。等正覺。復令無量百千衆生。住於阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh: Hiệu là
Kiên Cố Tinh Tấn Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng
Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, mà trăm ngàn các vị tỳ-kheo
kia, do đắc tam-muội này, cũng có thể thành tựu
trợ đạo pháp, đều đă thành A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề, hiệu là Kiên Dũng
Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Lại khiến
cho vô lượng trăm ngàn chúng sanh trụ trong A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề).
Tỳ-kheo
Phạm Đức chứng đắc A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề. Một ngàn vị tỳ-kheo
theo Ngài xuất gia cũng chứng đắc A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, cũng nhờ vào
điều ấy mà thành tựu nhân duyên. “Phục linh vô
lượng bách thiên chúng sanh trụ ư A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề” (lại có thể khiến
cho vô lượng trăm ngàn chúng sanh trụ trong A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề), tức là lay tỉnh
càng nhiều hữu t́nh trụ trong pháp tắc Vô Thượng
Bồ Đề.
(Kinh)
Hiền Hộ! Bỉ đản nhĩ văn, thượng
hoạch như thị, hà huống Bồ Tát văn thọ
tam-muội, độc tụng, ức tŕ, vị tha quảng
thuyết, phục cần tư hành, nhi bất đắc
dă.
(經)賢護。彼但耳聞。尚獲如是。何況菩薩聞受三昧。讀誦憶持。爲他廣說。復勤思行而不得也。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Họ chỉ do tai nghe mà c̣n được như thế,
huống hồ Bồ Tát nghe nhận tam-muội, đọc
tụng, nhớ giữ, v́ người
khác rộng nói, lại c̣n tư duy, hành tŕ, mà chẳng đắc
[tam-muội này] ư?)
“Cần
tư hành” (siêng năng suy nghĩ, hành tŕ), chẳng phải
là nóng ḷng mong đạt được lợi ích. Trong quá
tŕnh hành pháp, siêng hành, tán thán, tùy hỷ, v́ người khác rộng nói đều được,
nhưng cái tâm chỉ chú trọng đạt lợi ích th́
không được, cái tâm kiêu mạn chẳng
được. Trên thực tế, nóng ḷng mong đạt lợi
ích đều là
chiết xạ của các trạng thái tâm lư kiêu mạn và
ghen tỵ đó thôi! Như thế th́ sẽ chẳng thể
chứng tam-muội này. Cho đến chỗ này, đối
với câu chuyện của vị vua này, chúng ta thấy rất
rơ ràng: Do nghe nói mà tùy hỷ. Sau đó, chuyển sang kiếp
khác làm vua, kế đến là xuất gia, nhưng do công
đức tùy hỷ mà được thành tựu quả A
Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Đây là nêu
ra tấm gương để nói, khiến cho chúng ta đọc tụng, tư duy, truyền
bá, tu tập pháp tắc này.
(Kinh) Hiền Hộ! Dĩ thử nghĩa
cố, chư Bồ
Tát đẳng, văn thị tam-muội, thùy bất tùy hỷ,
thùy bất độc tụng, thùy bất thọ tŕ, thùy bất
tu tập, thùy bất quảng thuyết?
(經)賢護。以此義故。諸菩薩等。聞是三昧。誰不隨喜。誰不讀誦。誰不受持。誰不修習。誰不廣說。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Do v́ nghĩa này,
các vị Bồ Tát nghe tam-muội này, ai chẳng tùy hỷ?
Ai chẳng đọc tụng? Ai chẳng thọ tŕ? Ai chẳng
tu tập? Ai chẳng rộng nói?)
Đây
là nhắc nhở chúng ta: Lợi ích như thế, ai chẳng
tùy hỷ? Ai chẳng đọc tụng? Ai chẳng thọ
tŕ? Ai chẳng tu tập? Ai chẳng rộng nói? Là trí hay
ngu? Đặt ra những câu hỏi ấy nhằm khích lệ
chúng ta trực diện quán kỹ pháp tắc này!
(Kinh)
Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Dĩ bỉ Bồ Tát văn
thị tam-muội, tức đắc thành tựu trợ
đạo pháp đẳng, tốc tật thành ư A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cố. Hiền Hộ!
Dĩ thị nhân duyên, ngô kim ngữ nhữ, nhược
nhân chánh tín tịnh tâm, dục cầu A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề giả, yếu tiên chí tâm cầu
thử tam-muội.
(經)何以故。賢護。以彼菩薩聞是三昧。即得成就助道法等。速疾成於阿耨多羅三藐三菩提故。賢護。以是因緣。吾今語汝。若人正信淨心。欲求阿耨多羅三藐三菩提者。要先至心求此三昧。
(Kinh: V́ cớ sao?
Này Hiền Hộ! Do vị Bồ Tát ấy nghe tam-muội
này, liền được thành tựu các pháp trợ
đạo v.v…, mau chóng thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề. Này Hiền Hộ! Do nhân duyên ấy,
nay ta nói với ông: Nếu ai chánh tín, tịnh tâm, muốn cầu
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, trước
hết, phải chí tâm cầu
tam-muội này).
Đức
Thế Tôn đă đặt tam-muội này làm điều kiện
hàng đầu để thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề. V́ sao vậy? Nếu hướng tới
tam-muội này, sẽ có thể thấy vô lượng
vô biên chư Phật. Nếu tùy hỷ tam-muội này, sẽ
có thể thấy vô lượng vô biên chư Phật. Nếu
có thể đọc tụng, có thể v́ người khác
giảng nói, có thể đích thân chứng, th́ cũng có thể
thấy vô lượng vô biên mười phương
chư Phật. Bởi đó, có thể thấy Phật, nghe
pháp, có thể nhanh chóng thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề. Thông qua sự hướng dẫn của
văn tự, chúng ta cũng biết pháp tắc này mạnh
mẽ và chân thật rốt ráo chẳng thể nghĩ bàn.
(Kinh) Bồ Tát nhược văn bách
do-tuần nội, hữu thử thậm thâm tam-muội
kinh giả.
(經)菩薩若聞百由旬內。有此甚深三昧經者。
(Kinh: Nếu
Bồ Tát được nghe trong ṿng một trăm do-tuần
có kinh tam-muội rất sâu này).
Nay trong tay chúng ta đều cầm bộ
kinh này, chẳng biết mọi người đối với
kinh có cảm xúc ǵ? Coi thành vô thượng trân bảo, hay là
coi như một bộ sách b́nh thường? Hy vọng mọi
người sau khi học tập, tốt nhất là có thể
mỗi người đem theo một quyển, tốt nhất
là lại có thể thường xuyên đọc tụng, tu
tập pháp tắc này. Hoặc tối thiểu là thường
tư duy và trao đổi với người khác. Pháp bổn
trân bảo như thế khó có, khó gặp, khó nghe. Nếu trong
đời quá khứ, chúng ta
đă từng được thấy, vận dụng;
đời này sẽ có thể là bậc Bồ Tát
đầy đủ thiện xảo. Nếu không, chắc
là đời quá khứ đúng là chưa từng gặp gỡ.
(Kinh)
Bồ Tát tức ưng cung tự văng nghệ, thính thị
kinh điển.
(經)菩薩即應躬自往詣。聽是經典。
(Kinh: Bồ Tát hăy
nên lập tức cung kính tự đến đó, nghe kinh
điển này).
Chúng
ta học tập kinh giáo trong một đạo
tràng, thoạt nh́n dường như rất đơn giản,
trên thực tế, ẩn sau đó là mọi người phải
có phước đức và nhân duyên rất thành thục mới
có thể kiên tŕ học tập. Cũng chắc là có người
nói: “Có ǵ đâu! Tự ḿnh cũng thường đọc”.
Nhưng hoàn toàn chẳng phải là như thế! Có đôi
khi thấy một vấn đề rất đơn giản,
nhưng nhân duyên ẩn sau đó chẳng đơn giản.
Đối với chuyện học tập kinh điển
này, thực tế là cảm động trời đất,
là chuyện chẳng thể nghĩ bàn! Nếu chẳng tin,
chúng ta có thể không ngừng đọc tụng kinh điển
này, lợi ích sẽ là chẳng thể nghĩ bàn. Hoặc là
tuyên nói với người khác, hoặc tự ḿnh tu tập,
đều có lợi ích và oai đức chẳng thể
nghĩ bàn. Cơ chế thiện căn này thật sự
giống như đức Phật đă tuyên nói trong phần
trước, rất khó thể tính kể, v́ là rốt ráo Bồ
Đề.
(Kinh)
Văn dĩ, tức ưng độc tụng, thọ tŕ,
tu tập tư duy, vị tha quảng thuyết.
(經)聞已。即應讀誦受持。修習思惟。爲他廣說。
(Kinh: Nghe rồi
hăy nên liền đọc tụng, thọ tŕ, tu tập
tư duy, v́ người khác rộng nói).
Thời
gian chúng ta học tập một tháng sẽ viên măn rất
nhanh chóng, chư vị thiện tri thức hăy nên đối
diện pháp tắc này như thế nào? Ở đây, tôi cầu
mong, chúc phước mọi người có thể đúng
như trong giáo ngôn của đức Thế Tôn đă nói mà
như thật đọc tụng, tư duy, yêu mến pháp
tắc này, cho tới v́ người khác tuyên nói rộng khắp,
hồi thí cho những người hữu duyên quanh ta sẽ
nhanh chóng thành tựu cơ chế trợ đạo pháp A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Đương
nhiên chúng ta chẳng phải là tuyên truyền chi đó, mà là
như thật tuyên nói công đức thù thắng chẳng
thể nghĩ bàn này, khiến cho thiện căn của hữu
t́nh trong thế gian thành thục. Nếu chư vị Bồ
Tát gặp pháp tắc này mà chẳng truyền bá, chẳng thủ
hộ, chẳng yêu thích, đúng là đáng tiếc!
(Kinh)
Hiền Hộ! Thả trí bách do-tuần nội,
đương văng thính thọ. Hựu bỉ Bồ Tát,
nhược văn nhị bách do-tuần, tam bách, tứ
bách, ngũ bách, năi chí thiên do-tuần nội, hữu thị
tam-muội, tại mỗ đô thành, mỗ tụ lạc sở,
Bồ Tát tức ưng cung văng thính thọ, tập tụng,
thọ tŕ.
(經)賢護。且置百由旬內當往聽受。又彼菩薩。若聞二百由旬。三百四百五百。乃至千由旬內。有是三昧。在某都城。某聚落所。菩薩即應躬往聽受習誦受持。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Chuyện “trong một
trăm do-tuần phải nên
đến nghe nhận” hăy
để lại đó. Lại nữa, vị Bồ Tát ấy
nếu nghe trong hai trăm do-tuần, ba trăm, bốn
trăm, năm trăm, cho đến trong một ngàn do-tuần
mà có tam-muội này, ở đô thành nào đó, trong thôn xóm nào
đó, Bồ Tát liền nên cung kính đến
đó, nghe nhận, tu tập, đọc tụng, thọ
tŕ).
Đây
là yêu cầu của đức Thế Tôn. Một trăm
do-tuần, một ngàn do-tuần, đối với hành nhân
trong quá khứ vẫn là chẳng dễ dàng. Hiện thời
[cả thế giới] là thôn địa cầu, rất thuận
tiện!
(Kinh)
Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Dĩ thị Bồ Tát thanh
tịnh tín tâm, vị cầu thành tựu A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề cố. Thị cố, Bồ
Tát bất ưng khởi giải đăi tâm, sanh lăn nọa
tâm, khởi tán loạn tâm, đương cánh phát tinh tấn
tâm, phát mănh lợi tâm. Ưng đương vị thị
tam-muội, tốc chí thiên do-tuần sở, năi chí đản
đắc văn thị tam-muội, hà huống độc
tụng, thọ tŕ, tư duy, giải thuyết!
(經)何以故。賢護。以是菩薩清淨信心。爲求成就阿耨多羅三藐三菩提故。是故菩薩不應起懈怠心。生懶惰心。起散亂心。當更發精進心。發猛利心。應當爲是三昧。速至千由旬所。乃至但得聞是三昧。何況讀誦受持思惟解說。
(Kinh: V́ sao vậy?
Này Hiền Hộ! Do vị Bồ Tát ấy có tín tâm thanh tịnh,
v́ cầu thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề. Bởi thế, Bồ Tát chớ nên dấy ḷng
giải đăi, sanh tâm biếng nhác, dấy tâm tán loạn,
mà hăy nên phát tâm tinh tấn, phát tâm mạnh mẽ. Hăy nên v́
tam-muội này mà nhanh chóng đến chỗ xa ngoài một
ngàn do-tuần, thậm chí chỉ để được
nghe tam-muội này, huống hồ đọc tụng, thọ
tŕ, tư duy, giải nói).
Một
ngàn do-tuần có xa lắm hay không? Tám vạn dặm. “Tọa
địa nhật hành bát vạn lư” (vừa sanh ra đă
có thể một ngày đi tám vạn dặm), tức là đi quanh địa cầu một
ṿng là tám vạn dặm, như thế th́ người trên
địa cầu này đều phải nên nghe; thật sự
là phải nên! Trong bộ giáo điển này, đức Thế
Tôn đă giải thích mười phần rơ ràng. Ngài dạy
Bồ Tát Ma Ha Tát phải khéo nghe pháp, v́ pháp này có thể
nhanh chóng thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề. Bất luận là tùy hỷ, hoặc đọc
tụng, tư duy, tu tập, v́ người khác giải nói.
Do thiện căn ấy, có thể gặp gỡ vô lượng
chư Phật, nhanh chóng thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề. Do vậy, pháp này có công đức chẳng
thể nghĩ bàn! Hiện thời, trong số chúng ta, có những
vị Bồ Tát từ các nơi rất xa trong nước
đến nghe, có thể trước sau vẹn toàn, thật
sự là thiện căn khó nghĩ bàn! Đừng nên coi
thường nhân duyên của chính ḿnh! Có khi khinh hủy bản
thân cũng là phạm lỗi, nhưng cũng chớ v́ chính
ḿnh có thiện căn mà khinh mạn!
(Kinh)
Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Dĩ thị tam-muội
năng nhiếp nhất thiết trợ đạo
pháp cố. Phục thứ Hiền Hộ! Thị trung, nhược hữu Bồ Tát dĩ thuần
tịnh tâm, vị cầu Bồ Đề, ưng đương
văng nghệ thiên do-tuần sở, vị thính như thị
tam-muội pháp thời, Bồ Tát ưng đương thừa
sự, cúng dường bỉ thuyết pháp sư, nhất
thiết chúng cụ, tất giai phụng thượng.
(經)何以故。賢護。以是三昧。能攝一切助道法故。復次賢護。是中若有菩薩。以純淨心。爲求菩提。應當往詣千由旬所。爲聽如是三昧法時。菩薩應當承事供養彼說法師。一切衆具。悉皆奉上。
(Kinh:
V́ sao vậy? Này Hiền Hộ! Do tam-muội này có thể
nhiếp thủ hết thảy các pháp trợ đạo. Lại
này Hiền Hộ! Trong ấy nếu có Bồ Tát dùng cái tâm
thuần tịnh, v́ cầu Bồ Đề, hăy nên tới
chỗ xa ngoài một ngàn do-tuần. Khi v́ nghe pháp tam-muội như thế, Bồ
Tát hăy nên thừa sự, cúng dường vị thầy thuyết
pháp ấy. Hết thảy các vật thảy đều
dâng lên).
Pháp
duyên có hai loại:
-
Một loại như rải báu cúng dường, chủ
động cúng dường, tâm trí yêu thích mà cúng dường,
sẽ sanh khởi nhân duyên thành thục mạnh mẽ.
-
Hai là bị bức bách, có tánh chất thù tạc, như thế
th́ sẽ là dẫu nghe mà như chẳng nghe, dẫu thấy
mà như chẳng thấy, lăng phí nhân duyên!
Có
khi chúng ta đối với chuyện này chẳng hiểu
rơ cho lắm, sợ là đến núi báu mà trở về tay
không! Do vậy, vẫn hy vọng mọi người sanh khởi
tâm thật sự tôn trọng, yêu mến và thủ hộ
đối với pháp tắc này. Thật ra, v́ pháp này, vứt
bỏ sanh mạng cũng thật sự đáng giá!
Nhưng hiện thời, mọi người có bao nhiêu
người mang ḷng tôn trọng và tùy hỷ? Tôi cũng không
biết, nhưng tối thiểu là kết thành nhân duyên “tai
nghe”, cũng là chẳng thể nghĩ bàn!
Cúng
dường ở đây chẳng phải là cúng dường
bao nhiêu tiền, chẳng phải là nói đến vật chất
nhiều hay ít, chỉ là tùy hỷ, chỉ là tùy phần. Tùy
hỷ th́ như giọt nước trở về biển
cả, công đức ấy chẳng thể nghĩ bàn! Nếu
quư vị nói: “Chỉ cần tôi đă nghe,
cũng là chẳng thể nghĩ bàn”. Nhưng đối với
pháp này, chẳng sanh tâm tùy hỷ, tâm cầu
được truyền trao, đọc tụng, rộng
v́ người khác nói, cho tới cái tâm khát vọng chứng
đắc tam-muội này, tuy rốt cuộc vẫn là một
tăng thượng duyên cho A Nậu Đa La Tam Miệu Tam
Bồ Đề tâm, nhưng có vấn đề nhân duyên
chín muồi hay không. Tuy vậy, ở đây, đức Thế
Tôn thật sự cổ vũ mọi người sanh khởi
duyên thù thắng đối với pháp này, do cơ chế
thuần thục, chẳng phải là dẫu nghe pháp này mà
“tuy thấy, dường như chẳng thấy; dẫu
nghe mà như chẳng nghe”, thậm chí hành các pháp khác, hoặc
là hành theo đạo khác.
“Tất
giai phụng thượng” (thảy đều dâng lên):
Chủ yếu là nói tới công đức tạng. Mỗi
cá nhân chúng ta phải nên xét kỹ tự tâm, chính ḿnh có
hướng đến pháp tắc này hay không? Nếu không
có tâm niệm và nguyện vọng ấy, tuy có duyên mà thật
ra như vô duyên, tuy đă nghe mà giống
như chẳng nghe. Nếu đối pháp này mà chẳng tin tưởng, chắc là bản thân
chúng ta c̣n có thứ ǵ sơ sót, mấy năm sau sẽ có sự
sai khác rất rơ rệt, chúng ta nh́n vào sự biến hóa là
biết ngay. Một phẩm này từ đầu đến
cuối đều nói về tùy hỷ. Ở đây, đức
Thế Tôn cảnh tỉnh mọi người, vẫn là hy
vọng mọi người nhờ vào pháp này, tối thiểu
là tùy hỷ, trong tâm chẳng tương ứng với thứ
chi khác.
(Kinh)
Thường đương tùy trục pháp sư nhi hành, hoặc
thời nhất niên, hoặc phục nhị niên, hoặc thập,
nhị thập, hoặc kinh bách niên, năi chí tận thọ,
tùy trục pháp sư, bất đắc xả ly, năi chí
đản cầu văn thị tam-muội. Hà huống
năng đắc độc tụng, thọ tŕ, tư duy
nghĩa lư, vị tha giải thích.
Như thị Bồ Tát tùy pháp sư thời, đương
xả tự tâm chư sở vi sự, thường đương
tùy thuận bỉ
A Xà Lê pháp sư ư hành, cẩn tâm thừa sự, bất
đắc vi giáo, khởi tôn kính tâm, cập trọng ái tâm,
trừ xả nhất thiết vô ái kính sự.
(經)常當隨逐法師而行。或時一年。或復二年。或十二十。或經百年。乃至盡壽。隨逐法師。不得舍離。乃至但求聞是三昧。何況能得讀誦受持。思惟義理。爲他解釋。如是菩薩隨法師時。當舍自心諸所爲事。常當隨順彼阿闍梨法師意行。謹心承事。不得違教。起尊敬心。及重愛心。除舍一切無愛敬事。
(Kinh:
Thường nên theo sát pháp sư mà hành, hoặc là trong thời
gian một năm, hoặc lại là hai năm, hoặc
mười, hai mươi, hoặc trải qua trăm
năm, cho đến hết tuổi thọ, theo sát pháp
sư, chẳng được ĺa bỏ, thậm chí chỉ để cầu nghe
tam-muội này. Huống hồ có thể được
đọc tụng, thọ tŕ, tư duy nghĩa lư, v́ người khác giải thích. Bồ Tát như thế,
khi theo pháp sư, hăy nên xả các chuyện tự tâm muốn
làm, hăy nên thường thuận theo ư của vị
pháp sư A Xà Lê mà hành, tâm cẩn trọng phụng sự,
chẳng trái nghịch lời [pháp sư] dạy, dấy tâm
tôn kính, và tâm yêu mến sâu đậm, trừ bỏ hết
thảy các chuyện chẳng yêu kính).
Đây
là thật sự nhờ vào thầy để hoàn thành công
đức của bản thân. Chúng ta thủ hộ viên măn sự
phát tâm thuần tịnh của chính ḿnh, thật ra là thành tựu
sự phát tâm của chính ḿnh, thành tựu sự viên măn của
chính ḿnh. Thường là chúng ta chẳng biết ngoại
duyên đầy đủ hay không. Nếu tự tâm trọn
đủ, có thể soi thấy ngoại duyên đầy
đủ. V́ lẽ này, chánh báo viên măn, y báo lẽ nào chẳng
viên măn ư? Chánh báo chẳng viên măn, y báo làm sao viên măn cho
được? Thật ra, đây là cổ vũ, khích lệ
chúng ta phát tâm, là một thứ thiện xảo căn bản
để thuần thục sự phát tâm của chúng ta, hoặc
có thể nói là trợ duyên thiện xảo.
(Kinh)
Ư pháp sư sở, phát thiện tri thức tưởng,
năi chí đương khởi như chư Phật tâm.
(經)於法師所。發善知識想。乃至當起如諸佛心。
(Kinh:
Đối với pháp sư, hăy tưởng là thiện tri
thức, cho đến tâm nên tưởng [pháp sư] giống
như chư Phật).
Đây
cũng là dạy chúng ta hăy nên tư duy như thế nào? Coi
thầy như là Phật, đấy thật sự là
bước khởi đầu trọng yếu trong học
Phật. Kinh điển nơi đất Hán rất ít khi
nói như thế, nhưng trong kinh Ban Châu đă nêu ra rất
khẳng định “như thế nào để thành tựu
tam-muội nhanh chóng?” Chính là phải coi thầy như Phật.
Thật ra, coi thầy như Phật, tức là tự tâm
như Phật, như thế mà thôi! Đó gọi “tâm tác
Phật thời, tâm thị Phật” (khi tâm làm Phật,
tâm là Phật). “Tâm tác viên măn, đắc kiến viên măn”
(Tâm tạo viên măn, sẽ thấy viên măn). Do tâm chẳng tự
thấy, tâm chẳng tự biết, tâm vô tướng, chẳng có ǵ phụ thuộc, cho nên khi tâm ta làm Phật,
tâm chính là Phật. Đấy thật sự là phương
tiện tu hành, là phương tiện trợ
duyên.
(Kinh)
Hiền Hộ! Bỉ Bồ Tát ư thị pháp sư A Xà
Lê sở, năng sanh như thị kính ái tâm dĩ, nhược
đương bất đắc độc tụng, thọ
tŕ, tư duy, quảng thuyết, năi chí thính văn thị
tam-muội giả, chung vô thị sự. Duy trừ văng tích
phỉ báng như thị thậm thâm kinh điển, nghiệp
thời dĩ thục, định đọa ác đạo,
nghiệp bất tịnh nhĩ.
(經)賢護。彼菩薩於是法師阿闍梨所。能生如是敬愛心已。若當不得讀誦受持思惟廣說。乃至聽聞是三昧者。終無是事。惟除往昔誹謗如是甚深經典。業時已熟。定墮惡道。業不淨耳。 (Kinh: Này Hiền Hộ! Vị
Bồ Tát ấy đối với pháp sư A Xà Lê mà có thể
sanh tâm kính yêu như thế, nếu chẳng đọc tụng,
thọ tŕ, tư duy, rộng nói, cho đến lắng nghe
tam-muội này, trọn chẳng
có lẽ ấy! Chỉ trừ xưa kia đă phỉ báng kinh
điển rất sâu như thế, đến lúc nghiệp
đă chín muồi, chắc chắn đọa vào ác đạo,
do nghiệp bất tịnh).
Nếu
báng bổ kinh điển này, sẽ biểu hiện thành
nghiệp quả báo ứng “chẳng có cơ hội đọc
tụng kinh này”, hoặc “chẳng thể nghe nhận, tiếp xúc kinh
điển này”. Phỉ báng kinh như vậy, thật ra là
đă đánh mất cơ hội đối với pháp tắc
như thế, hứng chịu ác báo chẳng thể nói ǵ được! Chúng ta có thể tự xét kỹ,
như trong kinh Quán Phật Tam Muội Hải, đức Phật
đă bảo ngài A Nan rằng: Trong đời Mạt Pháp,
các ông hăy nên dạy người tŕ Niệm Phật tam-muội
này ngầm thủ hộ ba nghiệp, đừng nên
tăng thượng mạn. Nếu tăng
thượng mạn, sẽ ví như voi cuồng vào
trong ao sen, phá hoại thiện căn của người
khác, trở thành quyến thuộc của ma, mà cũng
đánh mất cam lộ vị niệm Phật. Nếu
chúng ta báng kinh điển quá sâu như thế, hễ Dị
Thục Quả chín muồi, khẳng định là quả
báo rất khổ. Quư vị nói xem, đức Thế Tôn nói
[quả báo] do phỉ báng kinh điển khủng bố
như thế để làm ǵ? Thật ra chẳng phải vậy!
Đó là tướng nhân quả mà thôi! Kẻ đại ác ắt
có đại khổ báo; người đại thiện
bèn có đại thiện báo. Người rốt ráo thanh tịnh
sẽ có quả báo là thành tựu Bồ Đề. Các pháp
do nhân duyên mà sanh đó thôi!
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Giả bỉ Bồ Tát, hoặc
dục tu ly bỉ pháp sư giả, thường
đương tri ân, thường đương niệm
ân, thường đương báo ân. Hà dĩ cố? Hiền
Hộ! Dĩ thị pháp sư tuyên giảng nhân duyên, linh
tư kinh điển, cửu trụ bất một.
(經)復次賢護。假彼菩薩。或欲須離彼法師者。常當知恩。常當念恩。常當報恩。何以故。賢護。以是法師宣講因緣。令斯經典。久住不沒。
(Kinh:
Lại này Hiền Hộ! Giả sử vị Bồ Tát ấy
nếu cần phải ĺa khỏi vị pháp sư đó,
hăy thường nên biết ân, thường nên nghĩ tới
ân đức, thường nên báo ân. V́ cớ sao? Này Hiền
Hộ! Do nhân duyên tuyên giảng của
vị pháp sư ấy, đă khiến cho kinh
điển tồn tại lâu dài, chẳng bị mất đi).
Chúng
ta đều biết: Trong Tam Tạng mười hai bộ
loại, bị diệt mất sớm nhất là hai bộ
kinh điển, một là kinh Lăng Nghiêm, hai là kinh Ban Châu.
V́ lẽ nào? Do [hai kinh ấy] bị dè bỉu nhiều nhất.
Do dần dần chẳng có người hành tŕ, mọi
người sẽ chê bai các kinh ấy, nói là kinh điển
chẳng thật. Chẳng hạn như nói chín mươi
ngày chẳng ngủ để kinh hành, làm sao có thể thực
hiện được? V́ hiện thời kẻ hành pháp
đông đảo, mọi người dần dần cảm
thấy chẳng có ǵ là có thể hay không thể, chỉ có
như pháp hay là không, nhưng thoạt đầu, sự phỉ
báng như thế vẫn rất nhiều, rất mạnh mẽ.
Khi đó, tôi thường nói với đối
phương: “Nếu là đánh giá khuyết điểm của
cá nhân, chúng tôi có thể sám hối, hoặc là đối với
các chỗ chẳng thích đáng của
cá nhân, hăy nên điều chỉnh. Nhưng đối với
kinh điển hoặc giáo pháp, chớ nên dễ
ngươi phỉ báng! Chúng ta có thể không hiểu, không
biết [ư nghĩa chân thật của lời dạy trong
kinh], nhưng tốt nhất là chớ nên khinh dễ đánh giá. Hăy nên xem xét, xem đọc,
quan sát trước đă!”
(Kinh)
Phục thứ, Hiền Hộ! Nhược hữu Bồ
Tát vị thị tam-muội, thượng đương
ưng văng thiên do-tuần xứ, huống phục tùy cận
thành đô, quốc ấp, tụ lạc, không xứ, hoặc
sơn dă trung, nhi đương bất văng thính thọ,
độc tụng, tư duy nghĩa lư, vị tha quảng
thuyết dă.
(經)復次。賢護。若有菩薩爲是三昧。尚當應往千由旬處。況復隨近城都國邑聚落空處。或山野中。而當不往聽受讀誦思惟義理。爲他廣說也。
(Kinh:
Lại này Hiền Hộ! Nếu có Bồ Tát v́ tam-muội
này, c̣n nên đến chỗ xa một ngàn do-tuần, huống
hồ là chỗ thành đô, quốc
ấp, xóm làng, chỗ trống, hoặc trong rừng núi gần đó, mà chẳng đến nghe nhận,
đọc tụng, tư duy nghĩa lư, v́ người khác
rộng nói).
Hiện
tiền đại chúng chúng ta, nếu tùy thuận giáo ngôn như thế để
đọc tụng, tư duy, v́ người khác diễn
nói, cho đến quan sát pháp tắc này, thật sự là thiện
căn và phước đức nhân duyên chẳng thể
nghĩ bàn! Chẳng hạn như nay chúng tôi ngồi ở
vị trí này, đọc tụng cho mọi người, tôi
cũng trọn chẳng dám khinh mạn nhân duyên của chính
ḿnh. Đương nhiên là cũng chẳng dám khinh mạn
nhân duyên của bất cứ một người nào trong hiện
tiền đại chúng. Quư vị nói xem, nếu có người
nào chẳng muốn nghe nhận, chẳng yêu mến pháp tắc
này, hăy nên đối đăi với kẻ ấy như thế
nào? Vẫn tôn trọng y hệt! Chỉ v́ thiện căn của
người ấy chưa chín muồi, pháp duyên chưa trọn
đủ, có chút đáng tiếc mà thôi.
(Kinh)
Phục thứ, Hiền Hộ! Ngă kim ngữ nhữ,
nhược hữu Bồ Tát vị tam-muội cố, tức
năng văng chí thiên do-tuần sở, năi chí bất đắc
văn thị tam-muội, nhi bỉ Bồ Tát tuy phục bất
đắc văn thị tam-muội, ư thị pháp trung,
niệm cầu thiện căn, đương phát tinh tấn,
mạc tức giải nọa, nhữ ưng
đương tri: Như thị chi nhân, tắc vi dĩ
đắc bất thoái chuyển ư A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề. Hà huống thính văn, thọ
tŕ, độc tụng, tư duy, tu tập, vị tha quảng
tuyên.
(經)復次。賢護。我今語汝。若有菩薩爲三昧故。即能往至千由旬所。乃至不得聞是三昧。而彼菩薩。雖復不得聞是三昧。於是法中。念求善根。當發精進。莫即懈惰。汝應當知。如是之人。則爲已得不退轉於阿耨多羅三藐三菩提。何況聽聞受持讀誦。思惟修習爲他廣宣。
(Kinh: Lại này Hiền
Hộ! Ta nay nói với ông, nếu có Bồ Tát v́ tam-muội
liền có thể đến chỗ cách xa một ngàn do-tuần,
thậm chí chẳng được nghe tam-muội này,
nhưng vị Bồ Tát ấy dẫu chẳng được
nghe tam-muội này, nhưng ở
trong pháp này, nghĩ mong cầu thiện
căn, hăy nên phát tâm tinh tấn, chớ có biếng nhác. Các
ông nên biết: Người như thế chính là đă chẳng
thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề; huống hồ lắng nghe, thọ tŕ, đọc
tụng, tư duy, tu tập, v́ người khác rộng
nói).
Đức
Thế Tôn nói: Nếu có Bồ Tát
hướng đến tam-muội này, đi ngàn dặm [t́m
đến chỗ pháp sư đang giảng tam-muội
này], dẫu chưa có thể nghe giáo ngôn tam-muội này, vẫn
đắc bất thoái chuyển đối với A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. V́ lẽ nào? V́ “niệm
cầu thiện căn”, do nhân duyên ấy mà thành tựu
đắc bất thoái chuyển đối với A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Trong phần
sau, đức Thế Tôn nói theo kiểu đối lập:
“Hà huống thính văn, độc tụng, tư duy, tu tập,
vị tha quảng thuyết thử pháp tắc” (huống
hồ nghe nhận, đọc tụng, tư duy, tu tập,
v́ người khác rộng nói pháp tắc này ư?)
Các
cách nói của đức Thế Tôn trong kinh điển chẳng
có mảy may nào là lời lẽ chẳng đúng
như sự thật. Đức Thế Tôn là đấng nói lời
thành thật, là đấng nói lời chân thật, là đấng
nói lời đúng sự thật, là đấng chẳng nói
tăng giảm. Nếu chúng ta chẳng ngờ vực mà
quan sát, thủ hộ như thế, tức là người
có thiện căn đă chín muồi, sẽ có thể đạt
được lợi ích từ chỗ an ổn này. Trong
cơ chế giáo ngôn của Phật giáo Nam Truyền thường
nói: “Thưa trưởng lăo! Tất cả các công đức
của Ngài đều nên thưởng cho tôi, nên thuộc
về tôi”. Tức là công đức của chư Phật
cũng nên thuộc về tôi. Nếu quư vị chẳng dám
mong muốn, đó là chuyện cá nhân của quư vị! Chúng
ta niệm A Di Đà Phật, có nghĩa là: “Thưa A Di Đà Phật! Công đức của Ngài
thuộc về con”. V́ lẽ nào? Lấy
quả địa giác làm nhân địa tâm (lấy sự giác ngộ nơi cái quả làm cái tâm
để tu nhân). Công đức nơi quả địa
sẽ tùy thuận nhân địa mà an trụ. Nhưng quư vị
chẳng dám, bảo “đó chẳng phải là kiêu mạn,
cuồng vọng hay sao?” Thật ra đó là “giọt
nước trở về biển cả”. Khi giọt
nước trở về biển cả, công đức của
biển cả sẽ thuộc vào giọt nước,
điều này chẳng hề có chỗ nào chần chờ!
Bản thân chữ Nam Mô có nghĩa là “công đức của
Phật thuộc về chúng ta”, nhưng chúng ta
thường có cái tâm bài xích, tâm ngờ vực, tâm chẳng
tương ứng đối với điều ấy. Do
vậy, chư Phật Thế Tôn liền dùng đủ loại
phương tiện hướng dẫn chúng ta vận dụng
công đức của chư Phật, vận dụng
như thế nào? Tâm, Phật, chúng sanh vốn chẳng khác
biệt. Khác biệt là do nơi chúng sanh, chẳng phải
do phía Phật, mà cũng chẳng phải từ phía pháp,
cũng chẳng phải nơi phía Tăng, chẳng ở
nơi thành tựu, mà ở nơi mê mất. Do vậy, chúng
ta chỉ là giác ngộ, thành tựu, tùy thuận, liền đạt
được công đức và lợi ích to lớn của
chư Phật. Nếu chẳng xét kỹ như thế th́
ngă mạn và ngă chấp của chúng ta vẫn chưa trừ,
ngă kiến vẫn chưa diệt.
(Kinh)
Hiền Hộ! Nhữ kim đương quán bỉ Bồ
Tát bối, văn thử tam-muội dĩ, nhi năng thọ
tŕ, tư duy, tu hành, tức đắc nhĩ hứa đại
công đức tụ, năi chí cầu dĩ bất năng
đắc văn, diệc đương cụ túc kỷ
đại thiện căn! Nhược văn bất
văn, giai vi dĩ trụ bất thoái chuyển địa.
(經)賢護。汝今當觀彼菩薩輩。聞此三昧已。而能受持思惟修行。即得爾許大功德聚。乃至求已不能得聞。亦當具足幾大善根。若聞不聞。皆爲已住不退轉地。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Ông nay nên quán các vị Bồ Tát ấy,
đă nghe tam-muội này rồi, bèn có thể thọ tŕ,
tư duy, tu hành, liền đạt được khối
công đức to ngần ấy, cho đến người
đă cầu mà chẳng thể nghe, cũng sẽ đầy
đủ thiện căn to ngần ấy. Dù nghe hay chẳng
nghe, đều đă trụ nơi địa vị chẳng
thoái chuyển).
“Chí
cầu dĩ” (đă đến để cầu
[được nghe tam-muội]): Nghe và không nghe, đều
đạt được lợi ích. Giáo ngôn kiểu này rất
nhiều trong lời thọ kư của đức Thế
Tôn. Trong Thiện Đạo Đại Sư Toàn Tập
đă bảo chúng ta: “Thấy và chẳng thấy đều
là ân Phật, gia hộ ngấm ngầm hay gia hộ hiển
nhiên đều là Phật đức”. Đọc xong,
tâm mọi người sẽ cảm thấy
rất kiên định, chẳng tạo tác, xa ĺa đối
đăi, lập tức quy y. Ở đây, cũng giống
như thế. Nếu muốn nghe mà chưa được
nghe, đều trọn đủ đại thiện
căn, trụ bất thoái chuyển, c̣n chúng ta đă nghe
pháp này, hướng đến cầu chứng pháp này,
đọc tụng kinh điển, truyền bá pháp này,
cũng đều có thể an trụ nơi địa vị
bất thoái chuyển. V́ thế nói: “Ban Châu tam-muội nhiếp
chuyện thuộc Bát Địa”. Đó là nói như thật!
Rất
nhiều người hỏi tôi học Phật, xuất gia
phát nguyện ǵ? Về cơ bản th́ nguyện vọng chủ
đạo là: “Nguyện những người hữu
duyên đều bất thoái Bồ Đề trong một
đời”. Thực tế là nguyện vọng Tịnh
Độ mà thôi! Đối với tất cả các thọ
kư trong kinh điển Tịnh Độ, đức Thế
Tôn đều nói được gặp gỡ pháp tắc
như thế th́ sẽ bất thoái ngay trong một đời,
như kinh A Di Đà nói: “Nhược hữu nhân dĩ
phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện,
dục sanh A Di Đà Phật quốc giả, thị chư
nhân đẳng, giai đắc bất thoái ư A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, ư bỉ quốc
độ, nhược dĩ sanh, nhược kim sanh,
nhược đương sanh” (nếu có người
đă phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện,
muốn sanh về cơi của A Di Đà Phật, th́ những
người đó đều được chẳng thoái
chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Đối với cơi ấy, hoặc là đă sanh, hoặc
nay sanh, hoặc sẽ sanh). Trong khá nhiều kinh giáo, điều
này đúng là chẳng thể nghĩ bàn, đúng là đại
ân đức hồi thí, thật sự là đại quán
đảnh!
(Kinh) Tất cánh thành tựu A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề, hà huống văn dĩ độc
tụng, thọ tŕ, tư duy, tu tập, quảng vị tha
thuyết, diệc linh đa nhân, văn dĩ tụng tŕ, tu
tập tư duy, xí nhiên lưu bố dă.
(經)畢竟成就阿耨多羅三藐三菩提。何況聞已讀誦受持。思惟修習廣爲他說。亦令多人。聞已誦持。修習思惟。熾然流佈也。
(Kinh: Rốt ráo thành tựu A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Huống hồ nghe rồi
thọ tŕ, đọc tụng, tư duy, tu tập, rộng
v́ người khác nói, cũng khiến cho nhiều người
nghe xong bèn tụng tŕ, tu tập tư duy, lưu truyền mạnh
mẽ vậy).
Mọi
người chúng ta phải nên thủ hộ như thế,
hướng tới pháp này như thế, đọc tụng,
thọ tŕ, tư duy tu tập, v́ người khác rộng
nói, khiến cho các hữu t́nh được nghe biết, sẽ
có thể tư duy, khiến cho pháp này được hừng
hực lưu truyền trong thế gian, khiến cho vô
lượng hữu t́nh thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề ngay trong một đời.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa,
dĩ kệ tụng viết: - Ngă niệm quá khứ hữu
Như Lai, hiệu Sư Tử Ư nhân trung thiên.
(經)爾時世尊。爲重明此義。以偈頌曰。我念過去有如來。號師子意人中天。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn v́ muốn nói rơ lại nghĩa này, dùng
kệ tụng nói: - Ta nhớ quá khứ có Như Lai, hiệu
Sư Tử Ư nhân trung thiên).
“Nhân
trung thiên” (vị trời trong loài người): Cách
xưng hô này được sử dụng hết sức rộng
khắp trong Phật giáo, chủ yếu là thuận ứng
lúc đức Thế Tôn xuất hiện nhằm lúc Ấn Độ có chín mươi sáu thứ ngoại
đạo, đấy là xưng hô bậc tôn quư trong loài
người. Trong tiếng Hán, cũng có khi dịch
là Đại Thiên, Đại Tiên, hoặc Thiên Trung Thiên v.v…
(Kinh)
Bỉ thời, hữu vương vi chúng thủ, thân văng
nghệ Phật cầu tam-muội. Thời đại trí
vương đắc văn dĩ, hoan hỷ biến măn bất
khả tuyên!
(經)彼時有王爲衆首。親往詣佛求三昧。時大智王得聞已。歡喜遍滿不可宣。
(Kinh:
Lúc ấy, vua đứng đầu đại chúng, tự
đến chỗ Phật cầu tam-muội. Vua đại
trí khi được nghe xong, khắp thân hoan hỷ, chẳng
nói trọn).
“Hoan
hỷ biến măn” là một danh từ mô tả lợi ích
của Phật pháp trong Phật giáo. Quá khứ nói là “sung
doanh chi chí” (充盈之至, đầy ắp tột
bậc), miêu tả trạng thái mười phần hữu lực
và vui sướng. Mỗi cách tu từ[2]
trong Phật pháp đều là một tiêu chí thực
tế, ở đây có ư nói tướng trạng an lạc
do đạt được lợi ích và tướng trạng
đắc lực.
(Kinh)
Dĩ thủ tŕ bảo phụng tán chi, cúng dường nhân
tôn Sư Tử Ư. Nội tâm tư duy phát thị ngôn: “Ngă kim
quy y Vô Thượng Giác, vị chư thế gian tác nhiêu
ích, duy nguyện thiện thuyết tam-ma-đề”.
(經)以手持寶奉散之。供養人尊師子意。內心思惟發是言。我今歸依無上覺。爲諸世間作饒益。唯願善說三摩提。
(Kinh: Tay cầm
báu rải để dâng hiến, cúng dường nhân tôn
Sư Tử Ư. Nội tâm suy nghĩ, thốt lời này: “Con
nay quy y Vô Thượng Giác, lợi ích rộng khắp các thế
gian, chỉ xin khéo nói tam-ma-đề”).
Chúng
ta không ngừng thấy các danh từ tam-muội, tam-ma-đề,
tam-ma-địa v.v… Tam-muội chứa
đựng hai pháp nhân quả, nhưng ở đây nói đến
tướng quả đức th́ là tam-ma-đề, tức
là sự thành tựu và vận dụng chân thật của
tam-muội.
(Kinh)
Thời vương hưng kiến thử nghiệp dĩ,
xả thân hoàn sanh ư bỉ cung, tầm đắc trị
ngộ Bảo tỳ-kheo, đại đức danh văn
măn thập phương.
(經)時王興建此業已。捨身還生於彼宮。尋得值遇寶比丘。大德名聞滿十方。
(Kinh: Khi ấy,
vua lập nghiệp ấy rồi, xả thân lại sanh
trong cung ấy, liền được gặp gỡ tỳ-kheo
Bảo, là đại đức danh rền mười
phương).
Các
vị đại thiện tri thức trong quá khứ oai danh
truyền xa, thật đức lợi đời, cũng
có nghĩa là các Ngài có công đức chân thật lợi ích
thế gian rộng khắp, ví như vầng mặt trời
trừ các tối tăm. V́ các vị đại thiện tri thức ấy xuất thế, có thể
khiến cho hữu t́nh ngu si điên đảo được
an vui, được thoát khỏi ngu si và tri kiến
điên đảo, tiếng tăm thật sự chẳng
dối. V́ thế nói là “danh măn thập phương”.
(Kinh)
Bỉ văn tỳ-kheo thiện thuyết thời, tâm sanh
hoan hỷ vô xưng lượng. Tức dĩ thắng diệu
chúng bảo phục, cái bỉ tỳ-kheo vị Bồ Đề.
Phục dữ sổ thiên chúng xuất gia, cúng dường
thừa sự bỉ tỳ-kheo. Kinh lịch măn ư bát
thiên tuế, vị cầu như thị tam-muội cố.
(經)彼聞比丘善說時。心生歡喜無稱量。即以勝妙衆寶服。蓋彼比丘爲菩提。復與數千衆出家。供養承事彼比丘。經歷滿於八千歲。爲求如是三昧故。
(Kinh:
Khi nghe tỳ-kheo khéo nói pháp, tâm sanh hoan hỷ khôn tính kể,
liền dùng các áo báu thượng diệu, phủ lên tỳ-kheo,
cầu Bồ Đề. Lại cùng mấy ngàn người
xuất gia, cúng dường thừa sự tỳ-kheo ấy.
Trải qua trọn cả tám ngàn năm, v́ để cầu
tam-muội như thế).
Vua
Phạm Đức do nghe lời dạy về Ban Châu tam-muội,
sanh ḷng hớn hở hoan hỷ đối với tỳ-kheo
Bảo, bỏ ngôi vua, khoác pháp phục xuất gia. Đồng
thời, cũng có rất nhiều hữu t́nh theo nhà vua xuất
gia. V́ để chứng đắc tam-muội như thế,
mà cúng dường, thủ hộ tỳ-kheo Bảo.
(Kinh)
Bỉ duy nhất thuyết, bất tái tuyên, văn thọ
thâm diệu như đại hải.
(經)彼惟一說不再宣。聞受深妙如大海。
(Kinh:
Thầy nói một lần, chẳng nhắc lại, nghe nhận
sâu mầu như biển cả).
“Bỉ
duy nhất thuyết, bất tái tuyên” (vị ấy chỉ nói một lần, chẳng nhắc lại): Đó là
nhắc nhở các vị Bồ Tát chúng ta: “Giáo ngôn tam-muội này rất sâu!” Chẳng phải
là vị tỳ-kheo ấy tiếc pháp, mà là thị hiện
như thế. Quả thật là do pháp này khó tuyên nói, khó
được nghe!
(Kinh)
Nhĩ thời, tâm trí đô vô quyện, cầu thử
như thật thắng tịch Thiền.
(經)爾時心智都無倦。求此如實勝寂禪。
(Kinh: Lúc ấy,
tâm trí đều chẳng mệt. Cầu Thiền như thật, thắng tịch
này).
Trong
các giáo điển khác, đức Thế Tôn nói: “Niệm
Phật năi vi thâm diệu Thiền” (niệm Phật chính
là Thiền sâu mầu), ở đây
nói “như thật thắng tịch Thiền” (Thiền
thù thắng tịch diệt đúng như thật). Chúng ta đều
biết, trong Phật pháp, niềm vui tịch diệt chính
là thủ hộ công đức chân thật.
Như các vị A La Hán “việc làm đă xong, phạm hạnh
đă lập, không tạo hậu hữu”, đă chứng
như thật Hữu Dư, hoặc Vô Dư Niết Bàn, tức
là chứng Thật Tế Lư Địa, ngay lập tức
đạt được niềm vui tịch diệt, mà
cũng là công đức chân thật tịch diệt. Do chứng
đắc tịch diệt, chán nhàm thế gian, vô ư vận
dụng bi tâm; nhưng trong pháp Ban Châu tam-muội này, hoặc
là nói theo nội hàm của công đức tu tŕ Thập
Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội,
quả thật là đại bi lợi lạc
cơi đời, khiến cho chúng sanh được nghe, hoặc
chúng sanh hữu duyên, cho đến chúng sanh đọc tụng,
giải nói, hướng tới, tùy hỷ tam-muội này,
đều đạt được công đức chẳng
thể nghĩ bàn, tức là thành tựu A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề. V́ thế, ở đây nói “như
thật thắng tịch Thiền”, cũng là vượt
xa công đức tự lợi của Thanh Văn Thừa.
Đấy là lời chân thật. Nếu chẳng thể
quan sát, xét kỹ như thế, chúng ta vẫn rất khó thấy
thấu suốt lợi ích rộng lớn rất sâu của pháp Ban
Châu. Ở đây, tôi hy vọng mọi người có thể
chân thật khéo tự quan sát, khéo tự so sánh.
(Kinh)
Bỉ bối như thị tu hành dĩ, trị ngộ
chư Phật đại oai hùng, cụ măn lục vạn hữu
bát thiên, kỳ gian diệc văn thử tam-muội.
(經)彼輩如是修行已。值遇諸佛大威雄。具滿六萬有八千。其間亦聞此三昧。
(Kinh: Bọn họ
đă tu hành như thế, gặp gỡ chư Phật
đại oai hùng, trọn đủ sáu vạn tám ngàn vị,
cũng từ các Ngài nghe tam-muội).
Do
nhân duyên nghe pháp này, có thể gặp gỡ sáu vạn tám
ngàn chư Phật Thế Tôn. Đối trước sáu vạn
tám ngàn chư Phật Thế Tôn, cũng nghe pháp này.
(Kinh)
Dư thế cúng dường, phục thừa sự, lục
vạn bát thiên ức Thế Tôn. Sở văn thâm diệu tất
tùy hỷ, tư do Sư Tử Như Lai cố.
(經)餘世供養復承事。六萬八千億世尊。所聞深妙悉隨喜。斯由師子如來故。
(Kinh: Đời
khác cúng dường và thừa sự, sáu vạn tám ngàn ức
Thế Tôn, nghe pháp sâu mầu đều tùy hỷ, vốn
do Sư Tử Ư Như Lai).
Cho
đến gặp gỡ sáu vạn tám ngàn ức Thế
Tôn, nghe kinh giáo rất sâu này. Đó
đều là sự tiếp nối công đức đă
sanh khởi do thoạt đầu được nghe giáo
ngôn rộng lớn này từ nơi Sư Tử Ư Như Lai
Thế Tôn. Dấu vết nghiệp nơi đại chúng
hiện tiền trong tương lai sẽ là như thế
nào? Hoặc là nói tướng công đức sẽ như
thế nào? Đấy thật ra là gián tiếp thọ kư cho mọi
người. Nói là Kư, tức là muốn khiến cho chúng ta
đối với công đức và lợi ích của pháp
này, sẽ sanh khởi sự thấu hiểu quyết định,
quyết định tùy thuận.
(Kinh)
Bỉ vương như thị cụ tu hành, chung đắc
thành Phật hiệu Kiên Dũng, giáo hóa chúng sanh vô lượng
số, sở tại sanh tử giai viễn trần. Tùy
vương xuất gia sổ thiên chúng, diệc đồng
đắc Phật danh Kiên Dũng.
(經)彼王如是具修行。終得成佛號堅勇。教化衆生無量數。所在生死皆遠塵。從王出家數千衆。亦同得佛名堅勇。
(Kinh:
Vua ấy tu hành trọn như thế, trọn thành Phật
hiệu là Kiên Dũng, giáo hóa chúng sanh số vô lượng,
trong sanh tử đều ĺa trần cấu,
mấy ngàn người theo vua xuất gia, cũng đều
thành Phật hiệu Kiên Dũng).
Mấy
ngàn người theo vị vua ấy cùng xuất gia cũng
do tam-muội mà thành Phật trọn đủ mười
hiệu.
(Kinh)
Đức thanh biến măn ư thập phương,
văn tam-muội danh chứng Đại Giác.
(經)德聲遍滿於十方。聞三昧名證大覺。
(Kinh: Tiếng
đức hạnh trọn khắp mười
phương, nghe tên tam-muội chứng Đại Giác).
Nghe
giải thoát, nghe thành tựu, nghe công đức lợi ích.
Trong Phật pháp đều có các trường hợp cụ
thể và thí giáo về chuyện này. Thông qua học tập
bộ kinh này, mọi người phải nên có sự nhận
thức ấy.
(Kinh)
Hà huống phục năng vị tha thuyết, bất nhiễm
trước bỉ chư thế giới. Đương
cánh quảng hiển diệu tư duy. Nhược tư
tam-muội chư Phật diễn. Nhược tri tam-muội
bách do-tuần, vị cầu Bồ Đề nghệ bỉ
thính.
(經)何況復能爲他說。不染著彼諸世界。當更廣顯妙思惟。若斯三昧諸佛演。若知三昧百由旬。爲求菩提詣彼聽。
(Kinh: Huống hồ
lại v́ người khác nói, chẳng đắm nhiễm
các thế giới ấy. Hăy nên hiển rộng diệu
tư duy, tam-muội chư Phật nói như thế, hoặc
biết tam-muội trăm do-tuần, v́ cầu Bồ Đề
đến đó nghe).
Đây
là khuyến thỉnh kẻ hữu duyên [nếu biết]
trong một trăm do-tuần, cho đến trong ṿng hai
trăm, ba trăm, vài trăm do-tuần [có thiện tri thức
dạy pháp này], cũng nên qua đó nghe giảng Ban Châu tam-muội,
như trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Thế Tôn
đă nói: “Giả sử khắp đại thiên thế
giới tràn ngập lửa, vẫn nên vượt qua cầu
pháp này”. V́ lẽ nào? V́ pháp như thế ấy rất
khó gặp! Thà xả sanh mạng, vẫn mong được
nghe pháp này. Công đức ấy cũng là chẳng thể
nghĩ bàn. V́ sanh mạng một đời có thể hết,
nhưng pháp này có thể lợi ích rộng khắp thế
gian nhiều kiếp. Cho đến khiến cho hữu t́nh
thành tựu Bồ Đề, cho nên lợi ích chẳng thể
nghĩ bàn!
(Kinh)
Ư ngôn giáo trung mạc từ quyện, văn giả công
đức bất khả lượng.
(經)於言教中莫辭倦。聞者功德不可量。
(Kinh: Trong ngôn giáo, chẳng hề chán mệt, người nghe
công đức chẳng thể lường).
Tùy
hỷ, nghe nói, đọc tụng, giải nói, đích thân chứng,
các lợi ích ấy đều chẳng thể nghĩ bàn.
Nói “lợi ích” chính là thành tựu A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề. Trong cả bộ kinh này, đức
Thế Tôn đều tuyên nói như thế.
(Kinh)
Nhược chí ư bỉ bất đắc văn,
thượng hoạch nhược can chư phước tụ.
(經)若至於彼不得聞。尚獲若干諸福聚。
(Kinh: Nếu đến
nơi đó, chẳng được nghe; vẫn được
chừng ấy các khối phước).
Nếu
chỉ nghe nói, sau đó chẳng tiếp tục, công đức
do nghe rồi tùy hỷ cùng với công đức “cầu
nghe mà chẳng được nghe” cũng là chẳng thể
nghĩ bàn.
(Kinh)
Hà huống văn dĩ, tư thuyết giả, duy
đương tốc cầu thử tam-muội.
(經)何況聞已思說者。唯當速求此三昧。
(Kinh:
Huống hồ đă nghe, c̣n nghĩ, nói. Chỉ nên mau cầu tam-muội
này).
Nếu
là kẻ được nghe, hăy khéo tư duy, tu tŕ. Đức
Thế Tôn nhiều lượt nêu ra các trường hợp
“đọc tụng, tư duy tu tŕ, v́ người khác giải
nói, cùng với đích thân chứng”. Ở đây, nêu ra công
đức và lợi ích đạt được do nghe
tam-muội này.
(Kinh)
Đương niệm bỉ cụ phạm đức
nhân, thân cận, thừa sự vật sanh yếm.
(經)當念彼具梵德人。親近承事勿生厭。
(Kinh:
Hăy nghĩ người trọn đủ phạm đức,
thân cận, thừa sự, chớ sanh chán).
“Cụ
phạm đức nhân” là nói tới người tuyên nói
trọn đủ giáo ngôn này, khiến cho giáo ngôn này
được truyền rộng khắp trong thế gian.
(Kinh)
Thùy tỳ-kheo sở hữu thử kinh, tức
đương nghệ bỉ tu cúng dường.
(經)誰比丘所有此經。即當詣彼修供養。
(Kinh:Tỳ kheo nào
có được kinh này, hăy đến tu cúng dường vị
ấy).
Trong
phần trước, chúng ta đă đọc thấy Hiền
Hộ Bồ Tát là Thượng Thủ của năm
trăm vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di, cho đến tám vị Đại Sĩ v.v… v́
thủ hộ kinh giáo này, bèn đối trước đức
Thế Tôn lập thệ nguyện rộng lớn, ở chỗ
một đức Phật, hai đức Phật, cho đến
tận vị lai hết thảy Phật, đều tuyên
nói kinh này. V́ sao trong phần trước có bốn chúng, mà ở
đây chỉ nhắc đến tỳ-kheo? V́ tỳ-kheo
đứng đầu bốn chúng, nhắc đến tỳ-kheo
th́ ba chúng kia không ǵ chẳng được bao gồm.
“Tỳ-kheo
sở” tức là dặn bảo. Đây là cơ chế
trụ thế trong giáo ngôn chúc lụy của đức Thế
Tôn, mà cũng là cơ chế truyền bá, tu tŕ. Khi đức
Thế Tôn nhập diệt, Ngài đă căn dặn các tỳ-kheo
hăy làm cho chánh pháp trụ thế, khiến cho Tượng
Pháp trụ thế, thậm chí khiến cho trong thời Mạt Pháp, [Phật pháp] chẳng mất
dấu vết trong thế gian, khiến cho kẻ tiến
nhập Phật pháp, yêu mến Phật pháp sẽ có kinh giáo để có thể tu tập, cho đến
nói có chỗ quy y. V́ thế, [đức Phật] sắc truyền tỳ-kheo hăy tùy
cơ thị hiện. “Sắc truyền” là đức Thế
Tôn truyền các vị đại A La Hán, các vị
đại Bồ Tát đă sớm thành tựu, thậm chí ứng
cơ thân (thân ứng hiện thuận theo căn cơ) của
chư Phật, hiện đủ loại thân trong thế
gian này, hoặc là thân thù thắng, hoặc thân kém cỏi, hoặc
thân phàm phu, hoặc thân ngu si, hoặc thân tội ác, cho đến
thân xuất gia, thân Bồ Tát, tùy thuộc cơ mà tuyên nói, dạy bảo, khiến cho kẻ
hữu duyên được nghe kinh giáo có thể tu tŕ, có thể
thành tựu.
Từ
phần Trường Hàng cho đến phần Kệ Tụng
của phẩm này, chúng ta có thể thấy đức Thế
Tôn đối với chuyện nghe nói, hướng đến,
và tùy hỷ pháp Ban Châu đă ban sự gia tŕ và thọ kư
không chi lớn bằng, khiến cho các hữu t́nh hữu
duyên nghe rồi bèn thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề. Do tùy hỷ mà thành tựu A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Do đọc tụng
mà thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Do tư duy, quan sát, chánh hạnh mà thành tựu A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thậm chí khiến
cho người truyền tụng, người đích thân
chứng [tam-muội] thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề. V́ sao nói như thế? Nếu đức
Thế Tôn chẳng thọ kư cho chúng ta, tức là chẳng
có Phật lực dẫn dắt và thọ kư, thường
là đối với chỗ này, chúng ta chẳng có sức
tư duy và nh́n thấu suốt một cách rộng lớn rốt
ráo, có thể là đối với một chút nào đó, một
khía cạnh nào đó mà có chút cảm giác, nhưng chẳng
thể quan sát lợi ích rốt ráo, hoặc lợi ích viên
măn ở nơi đâu, hoặc chỗ quy hướng chân thật.
Các
vị Bồ Tát hiện tiền đang nghe giảng, tư
duy, đọc tụng, v́ người khác diễn nói Thập
Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền
tam-muội, trong cơ chế của mấy loại nhân
duyên này, chắc có là dính dáng, hoặc đều có chút hành
tŕ tương tự. Do vậy, ở nơi đây, giống
như đức Thế Tôn đă ban cho chúng ta một sự
chọn lựa và thọ kư, khiến cho chúng ta thật sự
tiến nhập Bồ Đề, viên măn vị lai!
Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng kư
Phần
12 hết
[1] Chuyện tương ứng, hợp
lư, chính xác th́ gọi là Xứ (hay Thị Xứ), c̣n chuyện
chẳng tương ứng, chẳng hợp lư th́ gọi
là Phi Xứ.
[2] Tu từ (修辭,Rhetoric) là các biện pháp nhằm khiến
cho lời văn súc tích, sâu đậm, tạo ấn tượng
mạnh khiến cho người đọc
dễ lănh hội, thậm chí lănh hội ư nghĩa vượt
ngoài ngôn từ. Các biện pháp tu từ thường sử
dụng là dùng tỷ dụ, mô phỏng, trùng phức (nói liên tiếp nhiều
ư hay nhiều tỷ dụ tương tự), luyến láy (chẳng hạn nhỏ
tí t́ ti, bé tẹo tẻo teo, lạch bà lạch bạch), so
sánh đối lập (chẳng hạn “hữu ư trồng hoa, hoa chẳng
nở; vô tâm cắm liễu, liễu xanh um” hoặc “thượng
vàng, hạ cám”), bài tỷ (liệt kê một loạt h́nh ảnh có
liên quan, chẳng hạn như “tọa sơn khán hổ
đấu, tá đao sát nhân, dẫn hỏa xuy phong” tức
là ngồi trên núi xem hổ đánh nhau, mượn đao giết
người, dẫn lửa thổi gió…)