Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền
Hộ Kinh giảng kư
Phần 13
大方等大集賢護經講記
慈法法師
Chủ
giảng: Pháp sư Từ Pháp
Địa
điểm: Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời
gian: Từ ngày 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
duyệt: Đức Phong và Huệ Trang
20. Phẩm thứ mười
sáu: Giác Ngụ
(Kinh)
Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền
Hộ Phần, Giác Ngụ phẩm đệ thập lục.
(經)大方等大集賢護分覺寤品第十六。
(Kinh:
Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, Hiền
Hộ Phần, phẩm thứ mười sáu: Tỉnh Ngủ).
Trong phẩm
này, đức Thế Tôn đă tuyên nói, khiến cho chúng ta
giác ngộ kinh điển này khó có, khó nghe. Chúng ta có cơ hội
nghe pháp, tu tập pháp, tư duy, luyện tập, đọc
tụng, cho đến v́ người khác giải nói, trao
đổi, đích thân chứng nhập. Đó là thiện
căn, phước đức như thế nào? Đức
Thế Tôn chẳng ẩn giấu bất cứ nhân duyên nào,
mà cũng chẳng khoe khoang bất cứ nhân duyên nào, chỉ
nói như thật. Chúng tôi nêu một thí dụ đơn giản
nhất. Chẳng hạn như trâu, ngựa, la, lừa chở
nặng, nếu chúng chuyên môn đến nghe kinh giáo như thế này, gần như
là chẳng có cơ hội ấy! V́ chủ nhân của chúng
nó sẽ chẳng lôi lừa, ngựa đến nghe pháp. Chúng
nó có thể ngẫu nhiên nghe thấy, nhưng hiểu hay không,
biết hay không, vẫn là một câu hỏi! Tôi dự Phật
Thất hoặc tụng kinh ở nhiều nơi, đă từng
gặp chuyện súc sanh đến nghe pháp, nhưng chúng nó
phần nhiều bị mọi người la hét, xua đuổi,
phước đức của chúng nó chẳng đủ! Lại
như các quỷ thần thường là có sức thần
thông, nếu nơi nào hiện tướng quang minh to lớn,
sanh ra âm thanh vi diệu, họ phần nhiều muốn tới
đó, nhưng do phước đức chẳng đầy
đủ, chẳng thể đi khỏi khu vực của
chính ḿnh. Tức là bị một loại nghiệp lực nào
đó hạn cuộc, chẳng thể tiến nhập! Ngay
trong loài người chúng ta, cũng có nhân duyên giống như
thế. Chẳng hạn như có người nói cuộc sống
và khoa học kỹ thuật nơi các quốc gia phương
Tây phát triển; do vậy, mong tới đó du học, sanh sống, hoặc phát triển
tại những nước ấy, nhưng do phước
đức ngăn trở, chẳng xin hộ chiếu được,
chẳng ra khỏi nước được, chẳng làm
chuyện ấy được! Phước đức nơi
hết thảy các hiện tượng sanh mạng khi chưa
thành thục, đều là như thế.
Trong một
tháng này, chúng ta đă nhiều lần nghe danh tự Thập
Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội,
cho đến nội dung của giáo điển tam-muội
này, không ngừng tư duy, quan sát, nghe nhận, trao đổi,
cho tới tu tập. Thoạt nh́n, tuy mười phần đơn
giản, nhưng đối với nội hàm của pháp tắc
này, chúng ta biết hay không, hiểu hay không, tiếp nhận
hay không, cho tới một niệm nguyện vọng học
tập là nguyện vọng thuận theo thế tục, nguyện
vọng thuận duyên, hay là nguyện vọng do chính ḿnh lựa
chọn? Phước báo ấy sai khác mười phần to
lớn! Nếu đối với một pháp tắc, chúng
ta có thể chủ động, rơ ràng tiến nhập, pháp
hỷ tràn trề, yêu thích thủ hộ. Đấy thật
sự là biểu hiện của thiện căn chín muồi.
Nếu không như vậy, chúng ta chỉ thuận theo nghiệp
tướng, tuy nghiệp tướng ấy cũng là thiện
căn, nhưng nó sẽ thường tiến nhập hai loại:
Một loại là tiếp tục thành thục, loại kia là
chuyển vào duyên khác. Tức là do quư vị chẳng mừng,
bài xích, thậm chí chẳng tiếp tục, nó sẽ sanh khởi
tác dụng nơi nhân duyên khác. V́ vậy, đức Thế
Tôn chẳng ngừng hướng dẫn chúng ta, thậm chí
hướng dẫn rất tỉ mỉ, muốn khiến
cho chúng ta sanh khởi tín tâm quyết định đối
với pháp tắc này, quyết định thủ hộ,
cho đến quyết định tu tập, và chánh tư
duy quan sát, hoặc là một niệm tâm tùy hỷ, hoặc là
có tâm muốn nghe.
Đối
với chuyện nghe kinh, nếu nghe rồi sanh ḷng tin, nghe
xong có thể hành, nghe rồi bèn biết, nghe rồi bèn sanh khởi
chánh hạnh vui sướng. Đó gọi là Văn (聞, nghe). Nếu nghe xong,
sanh ḷng phỉ báng, bài xích, nghe mà chẳng mừng, sanh nghi, dẫu
nghe mà như chẳng nghe. Có thiện tri thức hướng
tới Ban Châu tam-muội này, nếu muốn nghe mà chưa được
nghe, do đă hướng về, yêu thích, thiện căn ấy
cũng chín muồi chẳng thể nghĩ bàn! Trong đời
sau có thể thấy Phật, có thể thấy nhiều vị
Phật, có thể thấy trăm ngàn vị Phật, do thấy
Phật mà nghe pháp. Trong kinh điển, đức Thế Tôn
không ngừng hướng dẫn chúng ta như vậy, muốn
khiến cho chúng ta có thể tiến nhập, có thể yêu
thích pháp này. Đối với các giáo ngôn Đại Thừa,
nhất là giáo ngôn thành tựu trong một đời như
thế này, người nghe xong mà chẳng báng bổ, nghi hoặc
rất ít, người nghe xong hoan hỷ càng tột bậc
hiếm hoi! Người nghe xong, hoan hỷ, lại c̣n siêng
năng tu tập, tư duy, tán thán, truyền bá, thủ hộ,
tu tập, đă hiếm lại càng hiếm hơn! Đó là
sự tương ứng dẫn khởi từ tâm địa.
Các vị thiện tri thức ơi! Hăy nên khéo tư duy, khéo
quan sát!
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ
Tát ngôn.
(經)爾時世尊。復告賢護菩薩言。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền
Hộ Bồ Tát rằng).
V́ Hiền
Hộ Bồ Tát là bậc đương cơ, là vị khải
giáo (khải thỉnh giáo pháp), và cũng là vị thượng
thủ truyền bá thí giáo trong đời tương lai của
giáo ngôn này, do vậy, trong kinh
điển, đức Thế Tôn không ngừng bảo Hiền
Hộ.
(Kinh)
Hiền Hộ! Ngă niệm văng tích quá đa vô lượng A-tăng-kỳ
kiếp.
(經)賢護。我念往昔過多無量阿僧祇劫。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Ta nhớ xưa kia qua khỏi nhiều vô lượng vô
lượng A-tăng-kỳ kiếp).
Phẩm
này nói về sự giác ngộ. Lời dạy của đức
Thế Tôn không ǵ chẳng ngoài khiến cho chúng ta ngộ nhập
tri kiến của Phật, thành tựu đạo nghiệp
thanh tịnh. Đó là chánh nhân xuất thế của hết
thảy chư Phật. Trong phẩm giác ngộ này, đức
Thế Tôn dùng ngài Hiền Hộ làm đối tượng
để tuyên nói, ḥng chân thật thí giáo cho đại chúng
hiện tiền.
“Ngă niệm
văng tích quá đa vô lượng A-tăng-kỳ kiếp”
(ta nhớ xưa kia qua khỏi nhiều vô lượng A-tăng-kỳ
kiếp): Số lượng mà đức Thế Tôn biết,
tâm trí của Bồ Tát chẳng thể theo kịp, Thanh
Văn, Duyên Giác cũng giống như thế. Phàm phu chỉ
nghe danh tướng, chẳng thể biết biết được
con số đức Thế Tôn đă nói. “Vô lượng A-tăng-kỳ
kiếp” là con số như thế nào? Đối với
một kiếp, bọn nhân loại chúng ta phải nên tính toán
như thế nào? Nếu nói “năm mươi sáu ức
bảy ngàn vạn năm có thể là thời gian tiếp nối
giữa một đức Phật này và đức Phật
kia”, vậy th́ trong thời gian và không gian rộng lớn,
rốt ráo phải nên dùng số lượng như thế
nào để cân nhắc? Chuyện này đ̣i hỏi chúng ta
phải chân thật tu chứng các pháp ích cho nhiều, như
thế th́ mới có thể tiến nhập các pháp tắc
chân thật, liễu giải số lượng như thật.
Điều này được gọi là “hữu chứng
lượng”. Tuy rằng “pháp chẳng có tự tánh, các
pháp rốt ráo chẳng có thực chất, do nhân duyên sanh ra”,
nhưng tu tập và đích thân chứng các pháp mười
phần trọng yếu! Ở đây, chẳng phải là Pháp
Chấp, chỉ là nhu cầu. Chúng ta đối với pháp
tắc Ban Châu tam-muội, cho đến đối với
hết thảy các pháp tắc đáng nên tu tập, đối với số lượng
ấy, cho đến cảm nhận thế giới, đều
phải nên tu tŕ như thật.
(Kinh)
Hữu Phật xuất thế, danh Tát Giá Na Ma Như Lai.
(經)有佛出世。名薩遮那摩如來。
(Kinh: Có Phật xuất
thế, tên là Tát Giá Na Ma Như Lai).
Tát Giá Na Ma
dịch nghĩa Chí Thành, nhưng cách dịch này chỉ có thể
nói là miễn cưỡng, chẳng hoàn toàn tương ứng.
[Phiên dịch kinh Phật từ] Phạn văn có [quy ước]
“ngũ chủng bất
phiên” (năm loại không phiên
dịch), “bí mật bất
phiên” (do bí mật nên chẳng phiên dịch) là một loại
trong ấy. Chẳng hạn như chân ngôn, hễ phiên dịch
th́ mọi người chẳng đọc, hoặc giải
nghĩa th́ chẳng có ư nghĩa. Khá nhiều tâm chú chính là thệ
nguyện bí mật, đều chẳng thể nói rơ ràng được,
v́ người thế gian chẳng đủ sức [để
thấu hiểu nội dung của thệ nguyện ấy].
Nếu nói rơ ràng, phần nhiều sẽ khiến kẻ khác
nghe xong sợ hăi, nghe rồi sanh nghi ngờ, phỉ báng, nghe
xong sanh tâm chửi bới, phần nhiều bị tổn hại
thiện căn và phước đức. Trong năm thứ
không phiên dịch, c̣n có một loại [chẳng phiên dịch]
là v́ phương này (Trung Hoa) chẳng có, cho nên chẳng thể
dịch, hoặc do có nhiều ư nghĩa nên chẳng dịch.
Các danh từ chuyên dụng cũng chẳng thể dịch,
như từ xưa đến nay, mọi người
đă quen sử dụng các danh từ ấy, như Bát Nhă Ba
La Mật, Niết Bàn v.v… chỉ có thể hiểu ư, chẳng
phiên dịch!
Na Ma tức
là Nam Mô. Trong quá khứ, Nam Mô có năm thứ ư nghĩa mật thuyết (nói
theo ư nghĩa bí mật), hai mươi lăm cách khai thuyết
(nói theo cách nói công khai, rơ ràng, chẳng bí mật). Thông thường,
phần nhiều chẳng tuyên nói năm nghĩa, nhưng phải
nên biết các ư nghĩa “lễ kính, quy mạng, cúng dường,
tùy thuận, trọn đủ, hàng phục, chân thật an
trụ”. Nam Mô [được hiểu theo nghĩa nào] là
do người sử dụng. Chẳng hạn như người
lễ kính bèn coi lễ kính là Nam Mô. Người quy mạng
tự coi quy mạng là Nam Mô. Người cúng dường
hiểu cúng dường là Nam Mô. Người tùy thuận bèn
do tùy thuận mà nói Nam Mô. Có người dùng Nam Mô để
hàng phục phiền năo hiện tiền; vậy th́ hàng phục
là Nam Mô. Có người do thấy như chư Phật trọn
đủ các thiện công đức, bèn thủ hộ như
thế, lấy Phật đức làm đức của chính
ḿnh, ngay lập tức tiêu trừ [mọi phiền năo], chẳng
chấp trước, chẳng có Ngă Chấp, chẳng có Pháp
Chấp, tâm trí thanh tịnh, tự tâm chân thật “chẳng đến, chẳng đi” ngay lập tức sáng tỏ.
Loại người như thế tức là coi Nam Mô là “trọn
đủ”. Lại c̣n có người coi xếp đặt
các phương tiện bố thí là Nam Mô, tức Nam Mô theo
kiểu lợi tha. C̣n có người coi khen ngợi là Nam Mô,
như chư Phật Như Lai Thế Tôn xưng niệm Nam
Mô A Di Đà Phật chính là trực tiếp ca ngợi A Di
Đà Phật Thế Tôn có quang minh chẳng thể nghĩ
bàn, nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn, sức thần
thông chẳng thể nghĩ bàn. Đó cũng là Nam Mô. Do vậy,
Nam Mô có vô lượng vô biên nghĩa bí mật, trong một
từ ngữ chứa đựng vô lượng nghĩa. Nếu
sử dụng thích đáng, khéo sử dụng, sử dụng
chân thật vô lượng nghĩa ấy, sẽ có công
đức hiện tiền, liền có thể như thật
khởi tác dụng của nội hàm chữ Nam Mô.
(Kinh)
Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, thập hiệu cụ túc.
(經)應供等正覺。十號具足。
(Kinh: Ứng Cúng Đẳng
Chánh Giác, mười hiệu đầy đủ).
Trong quá
khứ, các vị được xưng là chư Phật
Như Lai Thế Tôn có đủ mười hiệu. Hiện
thời, trong thế giới Sa Bà có nhiều loại hữu
t́nh cuồng vọng, tự xưng là Phật, thậm chí c̣n
[vênh váo tuyên bố] vượt xa Phật Thích Ca, coi thường
Ứng Thân của đức Thế Tôn, cho đến coi
thường giáo pháp của Ứng Hóa Thân Phật Thích Ca, tức
là giáo pháp của Ứng Thân. Thật ra, chẳng thể chê
bai! V́ ba thân Pháp, Báo, Ứng chẳng cách biệt, chẳng tách
rời, một Thể cùng phóng quang minh, chỉ ứng theo
nhu cầu của chúng sanh, hoặc dùng thân to lớn, thân
trang nghiêm, thân oai đức hiển hiện
trong cơi đời, hết thảy chúng sanh mê hoặc, điên
đảo! Khi đức Thế Tôn xuất thế, thành tựu
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, có ngoại
đạo liền báng bổ đức
Thế Tôn, nói: “Cù Đàm (Gautama) là hóa nhân (người biến
hóa ra), chẳng phải là có thật. Chẳng giống như
người thế gian chúng ta có cha, có mẹ”. Đức
Thế Tôn nói: “Cha ta là Tịnh Phạn (Śuddhodana), mẹ ta là Ma
Da (Māyā) ở nước
Ca Tỳ La Vệ ( Kapilavastu)”. V́ sao đức Thế
Tôn chứng thực cha mẹ và quê hương của chính
ḿnh như thế? Muốn khiến cho hết thảy chúng sanh
chẳng sanh tâm sợ
hăi, cho nên Ngài sanh trong thân phận tương ứng để
an trụ.
Chư Phật
Như Lai Thế Tôn trọn đủ mười hiệu,
Thích Ca Mâu Ni Như Lai Thế Tôn cũng trọn đủ mười
hiệu. Trong mười hiệu ấy, Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn đều
là các danh xưng trọn đủ đức. Nói cách khác,
chẳng phải là khoác lấy danh xưng đẹp đẽ, to tát, mà là có nội hàm của
mười loại công đức cụ thể. V́ thế,
đó là danh xưng toàn vẹn nơi danh hiệu của chư
Phật. Đối với A Di Đà Phật Thế Tôn, cũng
như trong danh xưng của chư Phật Thế Tôn, hoặc
trong các chân ngôn, đều dùng các mười hiệu ca ngợi
trọn đức để xưng tán. Chẳng hạn như
nói “Nam-mô Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư A
Di Đà Phật Thế Tôn”. Hoặc nói: “Nam-mô Như
Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư Dược Sư Lưu Ly
Quang Phật Thế Tôn”. Trong quá khứ có người niệm
Phật truyền dạy cách niệm như thế, nhưng
người hiện thời dường như cảm thấy
niệm kiểu ấy quá rườm rà, dường như
đọc lên quá mệt. Thật ra, chẳng phải vậy,
v́ Như Lai thật sự tương ứng trọn vẹn
mười danh hiệu công đức ấy, hiển hiện
trọn đủ oai đức, quyết định là bậc
đạo sư trong tam giới, trong hết thảy chúng sanh
Ngài quyết định an ủi, trong hết thảy thế
gian, Ngài quyết định làm phước điền.
Trong hết thảy chúng sanh, Ngài quyết định ban pháp
thí, vô úy pháp thí trọn đủ, chẳng có mảy may chần
chừ, siểm khúc, hoặc các [phiền năo] tương tự
như thế.
Trước
kia, tôi đă gặp một vị tại gia Bồ Tát nói pháp
tắc của ông ta tu tập cao hơn
giáo pháp do Phật Thích Ca tuyên nói bao nhiêu lần! Tôi nói: - Ông
chẳng cần phải nói chính ḿnh cao siêu! Có một phương
pháp để ngay lập tức thí nghiệm. V́ Thích Ca Mâu
Ni Phật Thế Tôn chứng đắc pháp thể tràn đầy,
tức là cái Thể pháp tắc sung măn, thân hiện viên quang,
hết thảy Bồ Tát đều chẳng thể sánh bằng!
Ở trong ngũ trược ác thế này, nếu nói đến
thân quang (quang minh tỏa ra từ thân thể) th́ A La Hán có hạng
quang (quang minh tỏa ra từ phía sau cổ, bao quanh đầu),
các vị Bồ Tát có thân tướng quang, nhưng đều
chẳng có viên quang. Viên quang là chẳng có thân tướng
trước sau. V́ viên quang tràn trề, là quang minh hỷ duyệt
và trí huệ. Do vậy, chẳng thấy tướng lưng.
Khi đức Thế Tôn tuyên nói, hết thảy chư thiên
vây quanh, Bồ Tát vây quanh, các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cho đến đại chúng vây
quanh trước sau, đều thấy tướng chánh diện
của đức Thế Tôn, chẳng thấy tướng
lưng của đức Thế Tôn. Chẳng phải là đức
Thế Tôn không có lưng, mà là do viên quang chiếu rọi. Thích
Ca Phật Thế Tôn, cho đến chư Phật Thế
Tôn trong lúc ứng hóa đều có viên quang. Đấy là bất
cộng pháp, bất cộng lực, bất cộng thiện
xảo giữa tướng xuất thế của hết
thảy chư Phật Thế Tôn và hết thảy Bồ
Tát, phàm phu! Hữu t́nh cuồng vọng, ngu si, vô minh trong thế
gian phần nhiều tự phụ, tự đề cao, khoe
chính ḿnh lớn hơn Phật. Vậy th́ xin nhà ngươi
hăy hiện quang minh chẳng có thân tướng trước
sau xem sao! Đúng là thứ ǵ cũng chẳng phải, chỉ
bất quá là tâm cuồng loạn, ư điên đảo, là thứ
điên rồ, bị các tâm trí xấu ác không chế đó
thôi! Chút phần công đức c̣n chẳng thể đạt
được, vẫn xằng bậy xưng là Phật, vẫn
nói là cao hơn Phật. Hiện thời, hữu t́nh thuộc
loại này xuất hiện nhiều trong cơi đời, là yêu
nghiệt rối loạn thế gian, mê hoặc hữu t́nh!
Bởi vậy,
chúng ta nếu học Phật, nhất định phải
tin chắc mười hiệu công đức trọn đủ
là chư Phật, chư Phật xuất thế chắc chắn
đều có sự thọ kư thanh tịnh, chẳng hề
chênh lệch. Chẳng hạn như Phật Di Lặc xuất
thế đă có chư Phật thọ kư từ lâu, mà sau khi Phật
Di Lặc xuất thế, lại có vị Phật thứ sáu,
vị Phật thứ bảy, một ngàn vị Phật trong
Hiền Kiếp được thọ kư nhiều lần;
trong ấy, tuyệt đối chẳng có sự gián đoạn
nào! Là một Phật giáo đồ, chúng ta phải nhận
biết điều này! Nếu không, sẽ bị các ngoại
đạo, cho đến bị kẻ tà kiến mê hoặc.
Nếu vậy, chúng ta sẽ chẳng thể đạt được
sự y chỉ rốt ráo an ổn. Hiện thời, trong thế
gian này, hữu t́nh tâm trí cuồng điên hết sức
đông đảo. Có một lần, tôi đến vùng Đông
Bắc, một cư sĩ đến bảo tôi: “Tôi chỉ
có thể chào thầy bằng một tay. Thầy có biết
v́ sao hay không? Tôi là Phật X…
Nếu tôi chắp hai tay chào thầy, thầy sẽ bị
tổn phước”. Tôi nói: “Ông là Phật th́ cứ thong thả
thủ hộ là được rồi! Hết thảy
chúng sanh vốn là Phật, nhưng khi ông nói chính ḿnh là Phật,
các đức chẳng đầy đủ, hăy nên sanh tâm hổ
thẹn, đừng kiêu ngạo, cuồng vọng, tự
phụ!” Nhưng có kẻ mười phần mê hoặc thế
gian như thế đó. Rất nhiều kẻ học Phật
khi chẳng có chánh tri chánh kiến, sẽ thường dễ
gặp vấn đề xuất hiện. Trước kia,
có một vị cư sĩ c̣n kể với tôi: Ông ta quen một
người tại gia làm nghề y, chẳng học Phật,
nhưng có sức thần thông. Kết quả là rất nhiều
Phật tử chẳng học Phật mà đến chỗ
hắn, nói hắn là một vị Phật sống. V́ sao? Hắn
ta “có công phu thật sự!” Nhưng sức thần thông là
ǵ? Giống như kỹ thuật, hoặc kỹ xảo, chẳng
thể đại diện cho Phật pháp, chỉ có thể
đại diện cho một phương diện kỹ
thuật chi đó! Nhưng vị cư sĩ ấy kể
với tôi trong nước có nhiều vị cư sĩ chẳng
học Phật nữa, đều đến chỗ kẻ
đó, cho rằng kẻ đó mới là Phật thật. Hắn
ta cũng mặc nhiên thừa nhận chuyện đó. Đó
là ǵ? Chính là v́ chẳng hiểu rơ giáo lư Phật pháp.
Mười
hiệu trọn đủ cũng là sự thủ hộ
cho nhận thức Phật giáo và tu tập Phật pháp của
chúng ta. Đối với chỗ này, phải sanh quyết
định giải, cho đến mỗi vị Phật ứng
hóa, xuất thế, cũng đều chẳng thể tạp
loạn. Nhất là vào cuối thời chánh pháp của đức
Phật Thích Ca trong mai sau, giáo ngôn của Phật pháp phần
nhiều bị các hữu t́nh ngu si, hữu t́nh cuồng vọng,
hữu t́nh có tri kiến điên đảo dựa hơi, để
“tương tự truyền bá”. Tức là chẳng thuận
theo kinh giáo, cứ xằng bậy sáng chế, hoặc chẳng
nương theo truyền thừa, cứ hư vọng tự
“sáng chế”, hoặc chẳng tuân theo pháp hệ để
truyền bá, cứ tự hư vọng “sáng chế”, hướng
dẫn hữu t́nh sai lầm, khiến cho rất nhiều hữu
t́nh bị mê mất. V́ thế, chúng ta học bất luận
pháp tắc nào, nhất định phải có xuất xứ
từ kinh điển, nhất định phải có giáo ngôn
xuất xứ, hoặc xuất xứ truyền thừa, cũng
như xuất xứ từ sự tu chứng của lịch
đại tổ sư trong quá khứ. Xét coi kinh điển
nói như thế nào? Lịch đại tổ sư nói như
thế nào? Trong quá tŕnh chúng ta tu tập, có tương ứng
hay không? Đó đều là các tham số (parameters) an toàn cơ
bản, tức là phán đoán quư vị có phải là dùng pháp
Tứ Đế, Tứ Pháp Ấn, hoặc Tam Pháp Ấn để
ấn khế tự tâm, dùng Thật Tướng Ấn để
ấn khế pháp tắc. Nếu chẳng phải như vậy,
sẽ chẳng an toàn. Nếu chúng ta tu tập pháp tắc
trong Phật pháp, lại ngược ngạo đi đường
ṿng, thậm chí rơi vào tri kiến hoặc sự tu chứng
của ngoại đạo th́ sẽ là gặp Phật pháp
mà chẳng được giải thoát, bị pháp tắc tương
tự làm hại, quả thật quá đáng tiếc! Chư
vị thiện tri thức hăy khéo tư duy, khéo quan sát ở
chỗ này!
(Kinh)
Thời hữu tỳ-kheo, danh viết Ḥa Luân, ư Phật
diệt hậu, xưng dương, quảng thuyết thị
tam-muội kinh.
(經)時有比丘。名曰和輪。於佛滅後。稱揚廣說是三昧經。
(Kinh: Khi đó, có tỳ-kheo
tên là Ḥa Luân, sau khi đức Phật diệt độ, xưng
dương, rộng nói kinh tam-muội này).
Trong hội
của Tát Giá Na Ma Như Lai, có một tỳ-kheo tên là Ḥa Luân.
Sau khi đức Phật ấy diệt độ, sư bèn
tuyên nói rộng khắp kinh giáo Thập Phương Chư
Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội này. “Thị
tam-muội kinh” (kinh tam-muội này) có thể là kinh điển
dịch theo ư nghĩa, hoặc thuộc loại trực dịch,
cho đến các thứ kinh điển giáo hóa rất sâu về
Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền
tam-muội như thế, đều có thể gọi là “thị
tam-muội kinh”.
Chúng ta thấy
kinh Ban Châu Tam Mội được dịch theo nhiều cách,
thành [các bản dịch gồm] một quyển, ba quyển,
hoặc năm quyển. Nội dung như nhau, v́ sao số
quyển bất đồng? Do người phiên dịch có vị
thích đơn giản, có vị thích chi tiết, có vị là
trực dịch, có vị dịch ư. Từ xưa đến
nay, có khá nhiều phương pháp dịch kinh. Như La Thập
đại sư giỏi dịch ư, phần nhiều dùng ngôn
từ ngắn gọn, thanh thoát, lưu loát để diễn
đạt ư nghĩa trong kinh văn, nhưng chẳng đánh
mất giáo nghĩa, c̣n pháp sư Huyền Trang th́ trung thực
dịch sát từng chữ, chẳng tăng, chẳng giảm.
Từ kinh A Di Đà, chúng ta có thể thấy được
sự khác biệt giữa lối cựu dịch và tân dịch.
Cựu dịch phần lớn tôn sùng cách dịch ư, khiến
cho chúng ta là người Hán thích ngắn gọn, phần lớn
sẽ đọc tụng. Về sau, pháp sư Huyền
Trang cho rằng cách ấy có những chỗ chẳng thỏa
đáng. Chẳng hạn như trong kinh A Di Đà, Thích Ca Văn
Phật (Thích Ca Mâu Ni Phật) nói mười phương chư
Phật đều cùng ca ngợi công đức thù thắng
chẳng thể nghĩ bàn của A Di Đà Phật. Mười
phương chư Phật cùng lúc hiện đại thần
biến, dùng đủ loại oai đức để nhiếp
hóa hữu t́nh trong mười phương, khiến họ
ĺa sanh tử, thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề ngay trong một đời. C̣n La Thập đại
sư dịch kinh A Di Đà là sáu phương Như Lai. V́
thế, các vị thiện tri thức dịch kinh về sau
như pháp sư Huyền Trang v.v… cho là [dịch theo lối
cũ] có chỗ chẳng thỏa dáng, lại sang Ấn Độ
cầu được nguyên bản tiếng Phạn, muốn
dịch sát văn tự, trên thực tế là phiên dịch
chẳng tăng giảm câu văn gốc.
Trong Hán
truyền Phật giáo, có kinh điển được dịch
vào thời kỳ đầu, cũng có kinh điển được
dịch vào trung kỳ và hậu kỳ, tức là hai thuyết
cựu dịch và tân dịch. Ở đất Tây Tạng,
cũng có hai phái cựu dịch và tân dịch[1]. Thường
là kinh điển cựu dịch trải qua thời đại
lắng đọng, sẽ bộc lộ một số khuyết
điểm. Chẳng hạn như sẽ sanh ra các tranh luận
về ư nghĩa, khiến cho hữu t́nh nương theo giáo
ngôn gặp mê hoặc, hay chẳng tương ứng. Do vậy,
sẽ xuất hiện một số thiện tri thức sang
Ấn Độ lần nữa, thỉnh Phạm bổn về,
phiên dịch lần nữa, để khiến cho mọi người
xả trừ nghi hoặc, sanh quyết định y chỉ.
Nguồn gốc thanh tịnh và sự tuyên nói như thật
của kinh điển là một điều rất trọng yếu
để chúng ta y chỉ trong tu tập Phật pháp.
Rất nhiều
người đă đọc kinh Xưng Tán Tịnh Độ
Phật Nhiếp Thọ, và cũng đă đọc kinh A Di
Đà. Vào thời Đường, kinh A Di Đà đă được
lưu thông hết sức phổ biến và nổi tiếng
như kinh Kim Cang và Tâm Kinh, nhưng bản kinh Xưng Tán Tịnh
Độ Phật Nhiếp Thọ do ngài Huyền Trang dịch
được truyền bá rất ít. Trước kia, chúng tôi
ở trong nước cũng đi khắp nơi đề
xướng bộ kinh ấy, nhưng rất khó được
thật sự lưu truyền rộng răi và tiếp nhận.
Nhưng so sánh hai bản dịch, chúng ta sẽ thấy chỗ
thù thắng của bản trực dịch (bản của
ngài Huyền Trang), v́ nó có thể như thật tuyên nói giáo
ngôn của Phật Đà dành cho hữu t́nh phàm phu, c̣n trong bản
dịch ư lại biểu hiện [kiến giải của] các
vị thiện tri thức dịch kinh. Chẳng hạn như
đối với chỗ “nhược nhất nhật, nhược
nhị nhật, nhược tam nhật, nhược tứ
nhật, nhược ngũ nhật, nhược lục nhật,
nhược thất nhật, nhất tâm bất loạn”
(hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc
bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy
ngày, nhất tâm bất loạn), sẽ nẩy sanh vấn
đề lớn, trở thành một công án lịch sử!
Bản dịch Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp
Thọ Kinh của ngài Huyền Trang lại chép: “Xá Lợi
Tử! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ
nhân, nhược nhất nhật nhất dạ, nhược
nhị nhật, nhược tam nhật, tứ nhật, ngũ
nhật, lục nhật, thất nhật, hệ niệm tư
duy” (Này Xá Lợi Tử! Nếu có thiện nam tử, thiện
nữ nhân, hoặc một ngày một đêm, hoặc hai ngày,
hoặc ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, hệ niệm
tư duy). “Hệ niệm tư duy” có nghĩa là quư vị
có thể tư duy trong một ngày, hai ngày, ba ngày v.v… và câu “như
thị tư duy” (tư duy như thế) trong kinh Ban Châu
Tam Muội mà nay chúng ta đang học giống nhau, đối
lập với “nhất tâm bất loạn”. Sự sai
biệt ẩn sau [các từ ngữ] đó rất lớn.
Trong hai pháp Lư nhất tâm và Sự nhất tâm do Ngẫu Ích
đại sư đề xướng, Sự nhất tâm c̣n
thuận tiện thấy được, nói cách khác là c̣n dễ
tu chứng, nhưng Lư nhất tâm th́ rất khó để đích
thân chứng được! Theo bản dịch của pháp
sư Huyền Trang, nếu một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn
ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, hệ niệm bất loạn
th́ dễ dàng hơn, phàm phu hữu t́nh
có thể làm được! Chẳng hạn như xếp
đặt đàn tràng, nhiễu Phật, lễ tán, một ngày,
hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày liên tục cúng
dường, sẽ có lợi ích chẳng thể nghĩ
bàn. Chuyện này so với yêu cầu nhất tâm bất loạn
từ một ngày cho tới bảy ngày, sai khác quá lớn! Cũng
có nghĩa là do chọn lựa pháp bổn khác biệt, sẽ
khiến cho người tu hành cảm nhận pháp tắc có
sai khác rất lớn. Bản trực dịch của pháp
sư Huyền Trang có thể mở rộng con đường
thành tựu Niết Bàn cho vô lượng hữu t́nh. Nếu
chiếu theo yêu cầu “Lư nhất tâm, hoặc Sự nhất
tâm” trong một ngày, bảy ngày nhất tâm bất loạn,
nói theo nhân duyên của phàm phu, sẽ có mức độ khó
khăn nhất định, sẽ đóng lấp thiện
duyên và cơ hội thành tựu của khá nhiều hữu
t́nh.
Y chỉ
vào pháp bổn, y chỉ kinh điển hết sức trọng
yếu. Chúng ta đọc bộ kinh Ban Châu Tam Muội này, cũng
là một pháp tắc để y chỉ. Từ phẩm Tư
Duy, phẩm Quán Sát, phẩm Chánh Niệm, cho đến phẩm
Thọ Kư và Chúc Lụy thuộc phần sau, khắp nơi đức
Thế Tôn đều mở rộng con đường Niết
Bàn cho tứ chúng, tạo thiện căn rộng lớn để
hồi thí và thọ kư, muốn khiến cho hết thảy
hết thảy kẻ hữu duyên đều tiến nhập Bồ Đề,
chẳng thoái chuyển, chẳng sợ hăi. Đấy thật
sự là phước đức nhân duyên chẳng thể
nghĩ bàn. V́ trước kia, trong Tịnh Độ Tông, được
tranh luận nhiều nhất là công án “nhất tâm bất
loạn”. Ngoài ra c̣n có công án văng sanh, công án về biệt
thời ư, nan hành và dị hành, tự lực và tha lực[2] v.v… là các vấn
đề khá lớn. Phần lớn người hiện
thời chú giải yêu cầu để văng sanh thế giới
Cực Lạc là “nhất tâm bất loạn”, bất
luận là Lư hoặc Sự. Rất nhiều người
đều nói chém đinh, chặt sắt như thế; nhưng
điều ấy chẳng tương ứng với lời
dạy của Như Lai, Như Lai chẳng nói như thế.
Như từ bộ kinh điển này, chúng ta đă thấy,
thậm chí có người hướng tới, nghe, tụng
kinh này, dù muốn nghe mà chưa được nghe, đều
đă thành tựu cái quả trong vị lai “sẽ thấy
một vị Phật, nhiều vị Phật, ngàn vị Phật”,
cho đến “thành tựu Bồ Đề”. V́ sao đức
Thế Tôn mở ra một con đường lớn về
tín tâm như thế? Chính là Ngài khéo nói an ủi, an ủi chân
thật, an ủi như thật, an ủi rốt ráo, an ủi chẳng xả, đối với
hết thảy người thiện căn thành thục hoặc
chẳng thành thục, người gặp duyên hoặc chẳng
gặp duyên, khiến cho bất cứ ai hễ hướng
tới sẽ đều có thể thành tựu Bồ Đề.
Nếu có người nào phát tâm th́ người ấy sẽ
đều có thể thành tựu trên con đường tiến
nhập Phật đức rộng lớn như thế, đó
chính là kim quang đại đạo vậy!
Nhưng
chúng ta thấy trong nước có các vị Bồ Tát viết
lách, cho rằng [pháp môn Tịnh Độ] chẳng phải
là “tam căn phổ bị, lợi độn toàn thâu” (thích
hợp khắp ba căn, gồm thâu lợi căn lẫn độn
căn). Do đó, [theo họ] chuyện “đều
có thể văng sanh” chẳng thể thành lập! Chiếu
theo cách nh́n của các vị thiện tri thức ấy, đúng
là trong một vạn người, chẳng được
một hai người [văng sanh]. Thậm chí có kẻ c̣n chấp
nhận lập thuyết “trong vạn người, chẳng
được một hai người văng sanh”, bèn thâu thập
một lượng lớn tài liệu để phủ định
trí huệ rộng lớn rất sâu vô ngại, thiện xảo
và nguyện lực của A Di Đà Phật, chê gièm công đức
được đích thân chứng đắc bởi Pháp Tánh
của chư Phật Như Lai, tức là [chê bai] chỗ quy
kết của căn bản công đức to lớn nơi
trí huệ và đức tướng của Như Lai mà hết
thảy chúng sanh đều sẵn đủ, khiến cho hết
thảy chúng sanh mê mất tự tâm. Tự tâm là ǵ? Chính là trí
huệ và đức tướng của Như Lai mà hết
thảy chúng sanh đều sẵn đủ, là điều
được chiếu kiến bởi cái tâm chân thật của
hết thảy chúng sanh, là pháp được đích thân chứng
đắc bởi chư Phật. Do vậy, vô lượng
hữu t́nh bị mê lầm trong các giáo ngôn hư ngụy ấy,
không có chỗ để nương theo. Đấy chẳng
phải là Phật pháp! Phật pháp sẽ ban cho hết thảy
chúng sanh sự an ủi, tạo sự hồi thí lợi ích
chân thật! An ủi, lợi
ích thế gian, khiến cho chúng sanh thành tựu Bồ Đề,
thoát ĺa biển khổ sanh tử, tạo nhân duyên chân thật
rộng lớn cho hết thảy chúng sanh; điều này mười
phần trọng yếu. Thời Mạt Pháp, có lắm ác
tri thức ngăn lấp con đường thoát ly sanh tử
của chúng sanh, hư vọng tự lập ra ư kiến, ăn
nói ra vẻ cao minh, thốt ra những lời lẽ khiến
cho chúng sanh chẳng thể ṃ mẫm được,
chẳng thể nương theo, chẳng thể tư duy,
chẳng thể quan sát, chẳng thể tu tập pháp tắc,
khiến cho chúng sanh lầm lạc. Đó chẳng phải
là Phật pháp, chẳng phải là quang minh vô ngại sanh từ
bi tâm của đức Thế Tôn, mà cũng chẳng phải
là sự thí giáo khéo an ủi chúng sanh của Bồ Tát. Trong
thời đại này, đối với các vấn đề
ấy, chúng ta phải khéo nhận thức rơ
ràng.
(Kinh)
Ngă ư nhĩ thời vi đại quốc vương.
(經)我於爾時爲大國王。
(Kinh: Ta trong khi ấy
làm đại quốc vương).
Thích Ca
Mâu Ni Thế Tôn tuyên nói nhân địa của Ngài với Hiền
Hộ, cho biết sau khi Chí Thành Như Lai (Tát Giá Ma Na Như
Lai) diệt độ, lúc tỳ-kheo Ḥa Luân chuyển pháp luân,
giảng kinh tam-muội này, Phật Thích Ca là quốc vương.
(Kinh)
Nhất tâm chuyên cầu thị diệu tam-muội, tức ư
mộng trung, văn hữu cáo ngôn thị tam-muội xứ.
(經)一心專求是妙三昧。即於夢中。聞有告言。是三昧處。
(Kinh: Nhất tâm chuyên
cầu tam-muội mầu nhiệm ấy, liền ở
trong mộng nghe có tiếng bảo cho biết chỗ của
tam-muội ấy).
“Nhất
tâm” ở
đây biểu thị loại tâm lư siêng ṛng tư duy, chẳng
xả tư duy, tư duy liên tục, cung kính tư duy, cầu
pháp chẳng mệt mỏi. Nếu chúng ta đối với
một pháp mà sanh khởi ḷng yêu thích và tùy thuận quyết
định, sau đó, liên tục tư duy, quan sát, cũng sẽ
ở trong mộng được nghe pháp âm mầu nhiệm,
cho đến được thấy diệu tướng trang
nghiêm. Tánh chất liên tục mười phần trọng yếu,
giống như nấu nước, một bầu nước, bất luận
quư vị dùng gas cũng thế, dùng điện cũng thế,
dùng củi cũng thế, cho đến dùng phân trâu cũng
thế để đun nó, chỉ cần nó đă được
đun sôi lên, th́ đều được gọi là “nước
sôi”, dẫu nó là nước đun sôi để nguội
th́ vẫn là nước đă được đun, bầu
nước ấy đă có thể dùng để uống. Chúng
ta tu hành một pháp tắc, tư duy một pháp tắc, giải
quyết một vấn đề, cũng giống như
thế. Cổ nhân nói “sấn nhiệt đả thiết” (rèn sắt khi c̣n nóng). Khi chúng ta gặp một pháp
tắc, hăy nên thâm nhập, tu tập, thuần thục pháp tắc
ấy, đừng nên chần chừ, chớ nên đánh mất
chánh niệm, chớ bỏ lỡ cơ hội này. Đấy
thật sự là tướng trạng liên tục “nghe pháp
sanh hoan hỷ, nghe pháp rồi chánh hành, nghe pháp đạt được
lợi ích”.
“Nhất
tâm chuyên cầu” mười phần trọng yếu. Người
hiện thời hành pháp thành tựu ít ỏi; v́ sao? Do đun
nước nóng tới hai mươi độ, sẽ chẳng
đun nữa, tắt lửa đi! Lại bận bịu
với chuyện khác. Do đó, người trong thời đại
này ít có cơ hội “đun sôi nước”. Cũng có
nghĩa là cơ hội làm xong một việc trong một lần
đặc biệt ít ỏi, v́ tạp duyên hừng hực,
vọng tưởng hừng hực, tâm trí biến đổi
khác lạ, đa nghi lắm nỗi mê hoặc, phước
đức chẳng chín muồi, trợ duyên chẳng mạnh
mẽ, người thủ hộ pháp ích rốt ráo rất
thưa thớt, người tuyên nói như thật rất
hiếm hoi. Do đó, phần nhiều khiến cho chúng sanh bị
mê mất, chẳng thể chọn lựa rốt ráo một
pháp để như thật đích thân chứng đắc.
Kết quả là bỏ dở nửa chừng, hoặc tương
tự lư giải. Rất nhiều người một khi đă
“lư giải”, sẽ chẳng hành tŕ. Do vậy, trong thời
đại Mạt Pháp, người hiểu giáo th́ nhiều,
người y giáo phụng hành th́ ít, người đích thân
chứng lại càng ít hơn, như đức Thế Tôn
đă thọ kư: Đây là một thời đại đấu
tranh kiên cố, thị phi kiên cố, khó giáo hóa, khó độ
thoát, là một thời đại chẳng có sức tu tŕ.
Rất nhiều người nói chính ḿnh vẫn rất siêng
ṛng, rất muốn tu tŕ, vậy th́ cứ nhất định
chuyên cầu, nhất tâm tu tŕ là được rồi!
Thời
Mạt Pháp, thiện tri thức đề xướng chuyên
tu rất nhiều, nhưng người thật sự
đích thân chuyên tu ít ỏi. Nếu là bậc thật sự
đă đề xướng, lại có thể chuyên tu tập
một môn, đă ít lại càng ít hơn. Như pháp sư Ấn
Quang, người đời sau tôn xưng Ngài là “tam bách niên
lai, độc xuất thử nhất nhân” (trong hơn
ba trăm năm qua, chỉ ḿnh vị này xuất hiện).
“Ḿnh vị này xuất hiện” chẳng phải v́ lư do nào
khác, chỉ v́ Ngài chuyên tu tập một pháp, thâm nhập cặn
kẽ, rốt ráo thấu triệt, chẳng nhờ vào phương
tiện, do thâm nhập một pháp, biết hết thảy các
pháp. Hiện thời, rất nhiều vị cư sĩ và
sư phụ xuất gia tợ hồ đối với Tam
Tạng mười hai bộ loại không ǵ chẳng thông đạt,
tợ hồ không cơ chế giáo ngôn nào chẳng liễu
giải, thậm chí đối với mỗi vị thiện
tri thức đều biết, đến khắp các đạo
tràng, nhưng chẳng thật sự chứng thực một
pháp tắc nào, chẳng thật sự hành trọn một lợi
ích, thật sự đă lựa chọn cho chính ḿnh nỗi hoang
mang trong sanh tử, hoang mang trong phiền năo! Chúng ta chỉ
có khăng khăng chẳng mệt mỏi “xử lư” sạch
sành sanh những thứ ấy, chọn lựa chẳng ngờ
ở chỗ này th́ mới có thể dừng tay, mới có
thể nghỉ ngơi! Mọi người ai nấy hăy nên
cổ vũ chính ḿnh, tối thiểu là thành tựu tín tâm như
vậy, nguyện vọng như vậy, tri kiến như vậy.
Thiện
tri thức trong Tạng truyền Phật giáo nhiều lượt
cổ vũ: “Nếu thành tựu một Bổn Tôn th́ đối
với trăm vị Bổn Tôn, ngàn vị Bổn Tôn sẽ
tự đạt được phương tiện”. Tại
đất Hán, chúng ta cũng cổ vũ giống như thế: “Nếu thâm
nhập một môn, thật sự chứng đắc lợi
ích chân thật trong pháp môn ấy, th́ môn nào cũng đều
thông!” Hiện thời, e rằng mọi người là “tương
tự đều thông”, chỗ nào cũng thông, [nhưng
thật ra] chỗ nào cũng bị chướng ngại!
Giống như một con trùng bị nhốt trong cái buồng
thủy tinh, bốn phía trong suốt, nhưng chỗ nào cũng
đều chẳng thoát ra được, chỉ có thể
va vào vách mà thôi! Trong tương tự giải, rất nhiều
hữu t́nh bị nguy hại. V́ thế, nếu chẳng có truyền
thừa, buông sách xuống, đâm ra là sự giải thoát của
quư vị sẽ giống như kinh Viên Giác đă nói: “Người
đời Mạt mong cầu đa văn, ngược ngạo
nẩy sanh chướng ngại”. Trên thực tế, nếu
có thể thâm nhập một pháp, thật sự chứng đắc
“đ́nh tâm”, cho đến địa vị Gia Hạnh,
địa vị Tư Lương, địa vị Kiến
Đạo, thật sự tu chứng được địa
vị, sẽ là tuyệt diệu. Nếu nương theo quả
địa giáo, triệt để buông xuống Ngă Chấp
và Pháp Chấp của chính ḿnh, tùy thuận nguyện vọng
của Như Lai, tùy thuận tri kiến nơi quả địa
của Như Lai, thật sự an tâm, chẳng c̣n bận ḷng,
nương theo Phật nguyện để làm thiện xảo
tu tŕ, thiện xảo quan sát, “dùng Phật nhăn để
nh́n, từ tâm đối với nhau” th́ cũng là một
phương pháp chẳng sơ sót. Đương nhiên, phương
pháp có nhiều môn, nhiều loại, nhưng thâm nhập một
pháp để tu tập mười phần quan trọng!
(Kinh)
Kư giác ngụ dĩ, toại tiện cung nghệ tỳ-kheo sư
sở, cầu thị tam-muội.
(經)既覺寤已。遂便躬詣比丘師所。求是三昧。
(Kinh: Đă tỉnh
giấc, liền lập tức cung kính đến chỗ vị
thầy tỳ-kheo, cầu tam-muội này).
Trong mộng,
nghe tỳ-kheo Ḥa Luân tuyên nói pháp ấy. Do vậy, dựa
theo giấc mộng để t́m cầu vị tỳ-kheo ấy.
Người trong quá khứ v́ cầu pháp, kể cả đức
Thế Tôn trong khi tu nhân cũng cầu pháp giống như
thế. Nghe xong, bèn lập tức hành, nhưng hiện thời
chúng ta nghe pháp có thể hành ngay lập tức hay chăng? Nếu
thật sự chứng đắc an lạc nơi một
pháp, thật sự chứng đắc Thật Tế lư địa,
chân thật chứng đắc tướng đại công
đức th́ mới có thể nghỉ ngơi. Nếu không,
thật sự chẳng thể nghỉ ngơi!
(Kinh)
Nhân thỉnh pháp sư, thế phát xuất gia.
(經)因請法師。剃髮出家。
(Kinh: Do vậy, thỉnh
pháp sư xuống tóc, xuất gia).
V́ nghe pháp
như thế, do vậy, thỉnh tỳ-kheo Ḥa Luân cho nhà vua xuống tóc. Đại quốc
vương xuống tóc, trong tâm mục của người
Hoa, chắc là chỉ có hoàng đế Thuận Trị làm
như thế, nhưng tại các quốc gia ở Đông
Nam Á như Miến Điện, Thái Lan v.v… cũng như vương
quốc Nam Chiếu thời cổ tại thành phố Đại
Lư mà chúng ta đang ở, chuyện này chẳng được
coi là hy hữu. Họ có rất nhiều quốc vương
hoặc thân vương, tức là anh em của hoàng đế,
đều xuất gia. V́ trong ư thức của người
Hoa, phần nhiều chẳng chấp nhận pháp sa-môn, do đại
đa số chấp nhận tư tưởng “nhập
thế” của Nho giáo, coi đó là tư tưởng chánh
thống. V́ thế, trong Phật giáo có các vị thiện tri
thức muốn thông qua tư tưởng Nho giáo để
truyền bá giáo nghĩa Phật giáo, xem chừng khá thiện
xảo, nhưng ở đây có thể giải thích như
thế hay chăng? Lịch sử sẽ trả lời vấn
đề này!
(Kinh)
Vị cầu thính thọ thị tam-muội cố.
(經)爲求聽受是三昧故。
(Kinh: V́ cầu được
nghe nhận tam-muội này).
V́ sao quốc
vương xuất gia? V́ cầu tam-muội này, ḥng đạt
được phương tiện nơi pháp này.
(Kinh)
Cung dụng thừa sự Ḥa Luân pháp sư.
(經)躬用承事和輪法師。
(Kinh: Cung kính thừa
sự pháp sư Ḥa Luân).
Trong Phật
giáo Nam truyền hoặc Tạng truyền, khi sa-di thấy tỳ-kheo,
chắc chắn là sẽ khom lưng [vái chào]. Cư sĩ bạch y càng
làm như thế, chẳng dám thẳng lưng mà đi. Nhưng
nơi đất Hán, lưng của cư sĩ, lưng của
sa-di, lưng của tỳ-kheo mới thọ giới dường
như duỗi c̣n thẳng hơn lưng của ḥa thượng,
thượng tọa! V́ các tỳ-kheo, pháp sư nơi ḥa thượng
nơi đất Hán đă cơng nặng quá, eo đều bị
cong ṿng rồi! H́nh tượng được biểu lộ
vẫn là có ư nghĩa, nhưng phong tục của dân tộc
Hán là như thế, đ̣i hỏi như vậy có thích hợp
hay không? Có lẽ chẳng thích hợp, v́ giáo dục trăm
ngàn năm của chúng ta là như thế. Vậy th́ làm như
thế nào? Chúng ta phải nên giữ tâm tôn kính, yêu mến pháp
tắc, v́ cung kính và kiền thành là điều mọi người
đều cần, bất luận là người học Phật
hay không, dù là người xuất gia hay kẻ tại gia. Chúng
ta phải khéo tư duy, quan sát điều này!
(Kinh)
Bị kinh tam vạn hữu lục thiên tuế, thiên ma chướng
tế, cánh bất đắc văn.
(經)備經三萬有六千歲。天魔障蔽。竟不得聞。
(Kinh: Trải qua trọn
ba vạn sáu ngàn năm, do bị thiên ma ngăn chướng, trọn chẳng được
nghe).
Thừa
sự pháp sư ba vạn sáu ngàn năm, nhưng v́ bị thiên
ma ngăn chướng, rốt cuộc chẳng
được nghe giáo pháp tam-muội này. Nay v́ sao chúng ta có
thể học tập, trao đổi, và tu tập pháp tắc này? Ẩn
sau đó là phước đức nhân duyên mà quả thật
chỉ có Phật và Phật mới có thể biết! Cũng
có thể là khi chúng ta chứng đắc Bồ Đề,
hồi tưởng khi chúng ta tại Niệm Phật Đường
của Hằng Dương Am trên núi Kê Túc, thuộc huyện
Tân Xuyên, châu Đại Lư, tỉnh Vân Nam nước Cộng
Ḥa Nhân Dân Trung Hoa trong Diêm Phù Đề, lắng nghe giáo ngôn
của kinh Ban Châu Tam Muội, cơ chế phước
đức nhân duyên ấy được chín muồi là do điều ǵ kiến
lập? Khi đó, quư vị sẽ lại quan sát.
Hiện thời,
chúng ta không có sức quan sát, mắt cách một tờ giấy
đă chẳng trông thấy. Một trang giấy đă ngăn
trở tầm nh́n của chúng ta, chẳng cần nói nh́n suốt
quá khứ, hiện tại, vị lai theo chiều ngang. Cũng
có nghĩa là chúng ta chẳng có thiện xảo rộng lớn,
Thiên Nhăn chưa mở sáng, Túc Mạng chưa biết, chưa
hiểu. Dẫu có hiện duyên, lại chẳng có thiện
căn để thấy biết rành rẽ! Cũng có thể
là có biết, nhưng do thủ hộ nghiêm mật, chẳng
tuyên nói cho! Đương nhiên, chẳng biết cũng chớ
nên tự khinh; đă biết th́ càng tốt hơn. V́ nếu
có thể hiểu rành rẽ, rơ ràng cơ chế cội nguồn
nghiệp tướng của chính ḿnh, tâm người ấy
sẽ được yên vui, như chúng ta trong phần trước
đă học về pháp tắc mười tám món Bất Cộng
và Thập Lực. Trong mười tám món bất cộng, có
pháp biết hết thảy mọi chuyện trong quá khứ,
hiện tại, vị lai. Trong đời nào đó, có tên họ
là ǵ, làm nghề ǵ, tuổi tác như thế nào, gia tộc
như thế nào, thân tướng như thế nào, đều
biết rơ ràng. Dù một đời, nhiều đời, trăm
ngàn đời, vạn đời, Hằng hà sa đời,
cho đến đời đời kiếp kiếp, đều
thấy biết cùng tận, thấy biết thấu triệt,
chẳng hề sơ sót. Đó gọi là Túc Mạng Minh, Thiên
Nhăn Minh, và Lậu Tận Minh của chư Phật Như
Lai. Do các Minh ấy, tự nhiên thông đạt vô ngại,
chẳng phải là nói suông, mà thật sự là như thế,
tức là chỗ quy kết của tự lợi.
Do vậy,
chúng ta là Phật giáo đồ, phải nên hướng đến
chuyện đích thân tu tập, chứng đắc các pháp tắc
trân bảo, phải nên biết sức thiện xảo rộng
lớn và sự chân thật của sức ấy. Nói “chân
thật” tức chẳng phải là nói suông, chẳng phải
là giả thiết! V́ thế, các pháp tắc như mười
tám món Bất Cộng, Thập Lực, Tứ Vô Úy v.v… chư
Phật Như Lai đều đă từng tu tập, nhưng
chẳng nhiễm các pháp, thấy thấu triệt “các pháp vốn chẳng có pháp”. Tuy chẳng có pháp mà hành
vô lượng pháp, dùng đó để lợi ích rộng
khắp nhu cầu của của hữu t́nh, khiến cho chúng
sanh thoát khỏi mê chấp, cũng có nghĩa là đối
với các hữu t́nh ngỡ là thật sự có pháp, sẽ
khiến cho họ phá trừ Pháp Chấp. Nhưng nếu chúng
ta chẳng đích thân chứng pháp tắc, làm thế nào để
phá trừ Pháp Chấp? Chúng ta phải nên khéo tư duy, khéo quan
sát ở chỗ này!
(Kinh)
Thời Phật phục cáo chư tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di ngôn: - Ngă kim ngữ nhữ, nhữ đẳng đương ưng cấp tật thính thọ
thị tam-muội vương. (經)時佛復告諸比丘比丘尼優婆塞優婆夷言。我今語汝。汝等當應急疾聽受是三昧王。
(Kinh: Khi đó,
đức Phật lại bảo các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di rằng: - Ta nay bảo các vị,
các vị hăy nên gấp rút lắng nghe tam-muội vương
này).
Ở đây,
đức Phật bỏ qua Hiền Hộ Bồ Tát, trực
tiếp nói với mọi người. Dường như đức
Thế Tôn có đôi chút gấp rút, v́ thấy thiên ma gây ma chướng,
có thể khiến cho đại quốc vương xuất
gia làm tỳ-kheo sa-môn phụng sự, hầu hạ pháp
sư ba vạn sáu ngàn năm, vẫn chẳng thể nghe pháp
như thế. Đức Thế Tôn nhớ lại điều
ấy, bèn nóng ruột: “Thời Phật phục cáo
chư tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di
ngôn: - Ngă kim ngữ nhữ” (Khi đó, đức Phật
lại bảo các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di
rằng: - Ta nay bảo các vị). Nói cách khác, đức Thế
Tôn chẳng nói với ngài Hiền Hộ, mà trực tiếp
nói với chúng ta. “Nhữ đẳng
đương ưng cấp tật thính thọ thị
tam-muội vương” (các vị hăy nên gấp rút, nhanh
chóng lắng nghe tam-muội vương này): Hai chữ “cấp”
và “tật” gộp chung lại. Một chữ Cấp
(急, gấp rút) đă đủ
khiến cho người ta toát mồ hôi, lại c̣n phải
thêm một chữ Tật (疾, nhanh chóng)! Chẳng phải
là đức Thế Tôn nóng ḷng, mà là thật sự muốn
khiến cho mọi người nhanh chóng chín muồi thiện
căn!
(Kinh)
Vô đắc xa tŕ, diệc bất vong thất, thiện thừa
sự sư, vô linh thất sở.
(經)無得奢遲。亦無忘失。善承事師。無令失所。
(Kinh: Chớ nên chần
chừ, cũng đừng quên mất, hăy khéo thừa sự
thầy, đừng bỏ sót nơi chốn [truyền bá tam-muội
này]).
“Vô
đắc xa tŕ” tức là chớ nên tŕ hoăn, lần khân,
lăng phí nhân duyên như thế! “Vô linh thất sở”
nghĩa là nếu biết chỗ nào truyền bá tam-muội
này, đừng bỏ lỡ cơ hội học tập như
thế, đừng mê mất chỗ truyền dạy như
vậy! Chẳng hạn như chúng ta ở nơi đây, bất
luận là nhân duyên như thế nào khiến cho đạo
tràng Ban Châu được kiến lập ở chỗ này,
quả thật là do oai đức thù thắng chẳng thể
nghĩ bàn của chư Phật gia tŕ. Đương nhiên
cũng là do oai đức của Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật tụ tập truyền lại trong cơi đời mà
thành. Chúng ta nương vào nhân duyên này có thể thành thục
thiện căn, có thể nghe pháp, tư duy, giải thích,
cho đến tu chứng. Phước đức nhân duyên ấy
quả thật khó thể diễn nói.
(Kinh)
Cầu thị tam-muội, dĩ đắc vi kỳ. Nhược
kinh nhất kiếp, năi chí bách thiên, bất sanh giải tâm,
vô bất đắc dă.
(經)求是三昧。以得爲期。若經一劫乃至百千。不生懈心。無不得也。
(Kinh: Cầu tam-muội
ấy, lấy chứng đắc làm kỳ hạn. Nếu
trải qua một kiếp, cho đến trăm ngàn kiếp,
chẳng sanh tâm giải đăi, không ai chẳng đạt được).
Chớ nên
sanh khởi tâm giải đăi. Sau khi chúng ta đă nghe tam-muội
này, có phải là hướng đến tam-muội hay không?
Hay là hướng tới cuộc sống hằng ngày? Hay là
hướng tới nghiệp tập của chính ḿnh? Hay là
hướng tới các tạp duyên chung quanh chính ḿnh? Tại
các nơi trong nước, thường có người
đến đây cầu hành pháp Ban Châu. Đương nhiên
cũng có người ở ngoài nước, bất quá họ
mang tánh chất quan sát nhiều hơn. Mọi người
đến nghe pháp này, hướng tới pháp này, có lẽ
phần nhiều thuộc vào một trạng thái nhất
định, tức là vẫn mong chính ḿnh trở về sẽ
sống an ổn, làm việc thuận lợi. V́ thế, nếu
thật sự lấy chuyện chứng tam-muội này làm kỳ
hạn, quả thật cần phải có thiện căn, phước
đức, nhân duyên.
Nếu có
thể chứng đắc tam-muội ngay trong một đời,
sẽ giải quyết vấn đề sanh tử to lớn từ bao kiếp đến
nay, giải quyết các vấn đề to lớn do phiền
năo bức bách từ bao kiếp đến nay, giải quyết
vấn đề to lớn thành tựu A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề của hết thảy chúng
sanh, cũng giải quyết hết thảy các vấn
đề thế gian, giải quyết hết thảy nghi
nan trong mười pháp giới, hết thảy các pháp tắc!
Trong đời này, quư vị có thể gặp được
pháp tắc rốt ráo viên măn như thế, đó là phước
báo như thế nào? Có thể tu tập, đó là phước
báo như thế nào? Có thể chẳng bỏ pháp tắc như
vậy, lại là phước báo như thế nào? Đối
với chuyện này, chúng ta cần thật sự tư duy
như thật, quan sát như thật, quan sát tinh tế, quan
sát tỉ mỉ, chánh tư duy pháp tắc này. Nếu cứ
qua loa lướt qua, lại quay về với thế tục,
lại trở vào trong nhân duyên tạp duyên lừng lẫy, lại
chọn lựa các thứ chẳng tương ứng, hoặc
pháp tắc chẳng tương ứng, nói cao, nói thấp,
nói tương ứng hay chẳng tương ứng, kết
quả sẽ đánh mất đại lợi trong hiện
tiền. V́ thế, chư Phật buồn than, hết thảy
trời người cũng đều cảm thấy nuối
tiếc thay cho chúng ta!
(Kinh)
Hiền Hộ! Nhược nhân nhất tâm cầu thị tam-muội,
thường tùy trục sư, bất đắc viễn
ly, đương thiết cúng dường, sở vị
thang dược, ẩm thực, y phục, sàng phu, chủng
chủng chúng cụ.
(經)賢護。若人一心求是三昧。常隨逐師。不得遠離。當設供養。所謂湯藥飲食衣服牀敷種種衆具。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Nếu ai nhất tâm cầu tam-muội này, hăy thường
theo sát thầy, chẳng được xa ĺa, hăy nên sắp
đặt cúng dường, như là thuốc thang, thức
ăn, quần áo, giường, mền, các thứ vật dụng).
Trong quá
khứ, thuốc thang, thức ăn, quần áo, và giường,
mền được gọi là “tứ sự cúng dường”.
Đó là các thiết trí cơ bản cho cuộc sống của
người xuất gia. Người xuất gia chẳng có
mong cầu, chỉ v́ đạo nghiệp, v́ Phật pháp trụ
thế, cũng vẫn cần phải sống!
(Kinh)
Cập dĩ nhất thiết kim, ngân, trân bảo, phàm thị
tư dụng, tận phụng ư sư, vô sở ái tích,
như kỳ tự vô, khất cầu nhi dữ.
(經)及以一切金銀珍寶。凡是資用。盡奉於師。無所愛惜。如其自無乞求而與。
(Kinh: Cùng với hết
thảy vàng, bạc, trân bảo, phàm là các vật dụng cần
thiết, đều dâng trọn cho thầy, chẳng hề
quư tiếc. Nếu chính ḿnh chẳng có, bèn đi xin để
dâng thầy).
Nếu chính
ḿnh có vật dụng, bèn cung phụng cho thầy.
Đấy quả thật là đức Thế Tôn hy vọng
chúng ta sẽ duy tŕ pháp này, yêu mến và tu tập pháp này, duy tŕ ḷng chân thành trong tâm trí. Nếu chính ḿnh chẳng có vật
ǵ, bèn đi xin để dâng cúng. Thoạt nh́n, yêu cầu này
quá nặng nề; thật ra, chẳng phải vậy! Đó
là yêu cầu như thật, mà cũng là yêu cầu để
duy tŕ. Người đất Hán học pháp, tu tập pháp,
nhận biết yêu cầu này thường sanh ḷng ngần
ngại, hoặc lo ngờ! Nhưng trong quá khứ, cầu
pháp đích xác là như thế, chẳng hề tiếc thân
mạng, huống hồ tài vật ư? Chẳng tiếc
chân tay, đầu, năo, huống hồ các vật thuộc y
báo của chính ḿnh ư? Do vậy, người trong quá khứ
đốt cánh tay, đốt ngón tay, đốt đỉnh
đầu, trên thực tế đều nhằm biểu
thị hàng Bồ Tát muốn xả tự thân, nhờ vào nhân
duyên ấy để biểu lộ niềm chân thành, tâm trí
như thật. Nếu tâm chẳng thật, làm các hành vi ấy
sẽ chẳng có ư nghĩa chi hết!
Cúng
dường cũng lại như thế, nhằm dẫn
phát sự chân thành, dẫn phát tâm trí “nhất tâm cầu tam-muội”,
chẳng băn khoăn chi khác. Chẳng hạn như hết
thảy các vật đều buông xả, hết thảy các
tạp duyên đều buông xả, chỉ thủ hộ tam-muội
này. Đó là nhất tâm chuyên cầu.
Nếu chúng ta có rất nhiều đường lui, rất
nhiều tạp duyên mà mong nhất tâm cầu tam-muội này;
đó là dối gạt chính ḿnh! Nhưng người hiện
thời vốn có đủ phước đức nhân
duyên hừng hực, tạp duyên hừng hực, người
mong cầu pháp muốn xả càng khó hơn! Nhớ năm xưa,
nghe có người kể: Đại khái là tại vùng Quảng
Đông, có một chủ xí nghiệp, kinh doanh đến mức
kha khá, liền trực tiếp bán đấu giá xí nghiệp
ấy. Sau đó, cầm tiền kiếm một vị lạt-ma,
nói: “Thưa lạt-ma, tôi có tiền, thầy có pháp. Tôi đưa
tiền cho thầy, thầy cho tôi pháp”. Vị lạt-ma ấy
nói: “Ông đem tiền của ông về nhà đi! V́ sao? Tiền
tuy rất nhiều, nhưng tâm trí chẳng tương ứng!”
Nếu khi [người ấy] chân thành cúng dường, xót
xa cầu xin cúng dường, tức là thật sự v́ cầu
pháp mà cúng dường, người ấy sẽ đâm ra
chẳng coi trọng tiền bạc của chính ḿnh. Nếu
chúng ta có thể thật sự vứt bỏ nỗi lo toan
cho mai sau của chính ḿnh để tiến nhập một
pháp tắc; đó là cái tâm một dạ dũng mănh! Như
xuất gia, giống như vứt bỏ các thứ sở
hữu của chính ḿnh trong thế tục, bất luận là
thứ ǵ tốt hay xấu, đều phải triệt để
vứt bỏ. Có thể triệt để
vứt bỏ hay không? Có thể là nhất thời trên phương
diện tâm lư chẳng vứt bỏ được, từ
h́nh tượng th́ có thể vứt bỏ. Nếu tâm lư lẫn
h́nh tượng đều có thể vứt bỏ, đúng
là đạo nghiệp đă thành thục. Chúng ta đều nói tỳ-kheo
A Nan là “thân đă xuất gia, nhưng tâm chưa xuất
gia”, cũng có nghĩa là Ngài c̣n chưa thật sự ĺa
thoát tam giới khổ năo, vậy th́ nhiều vị xuất
gia trong thời đại Mạt Pháp này hành tŕ như thế
nào? Phải nên tư duy, quan sát.
Ở đây,
chúng ta phải nên biết hàm nghĩa của chuyện “nhất
tâm cầu pháp, cúng dường các vật dụng” thật
ra là cái tâm chân thành. Có kẻ chỉ đem thân xuất gia,
thứ ǵ cũng chẳng mang theo, bèn dùng hành pháp để
cúng dường. Đó là sự cúng dường lớn nhất.
Nếu c̣n quan tâm, lưu luyến trong nhà có bao nhiêu tiền,
bao nhiêu căn nhà và xe cộ phải nên giải quyết như
thế nào; đó thật
sự là sự trói buộc khiến cho [hành nhân] chẳng dũng
mănh tu pháp. Quư vị nói: “Ta phải giải quyết sạch
rồi mới đến tu tập pháp”, đó vẫn là có
nhiều nỗi băn khoăn. Như chúng ta vừa mới
sanh ra trần trụi, đỏ hỏn, chẳng có vật
chi hết, khi hành pháp, nếu tâm chẳng vướng mắc,
chẳng có vật ǵ có thể tồn tại; đó chính là phương
tiện để tu tập pháp. Người như vậy
nhất định đạt được thành tựu. Nếu hôm
nay nhớ thương gia sản của chính ḿnh, bữa
mai lại bận tâm về công ty của chính ḿnh, ngày mốt
lại lo âu về con cái của chính ḿnh, người như
vậy mong thành tựu chắc hẳn mười phần
khó khăn, v́ bị tạp duyên khống chế!
Tiền
tài, vật phẩm cúng dường đúng là quan trọng thứ
yếu! Thật sự hành pháp tắc chẳng đoái tiếc
thân mạng, chẳng tiếc nuối nhân duyên, chuyên tâm dốc
chí, sẽ rất dễ thành tựu. Ở đây, đức
Thế Tôn tuyên nói với dụng ư khiến cho chúng ta nhất
định cầu tam-muội, chớ ôm ấp những ư niệm
khác, hoặc băn khoăn, hoặc dính mắc. Phải vứt
bỏ các duyên, chỉ hành pháp, chỉ cầu pháp, căn bản
là chẳng ngó ngàng tới những thứ khác. Nếu bận
ḷng, quư vị sẽ chẳng thể bố thí được.
Chẳng bận ḷng th́ thật sự
là bố thí, đừng đắm nhiễm chúng nữa, đừng
thủ hộ chúng nữa, đừng hướng đến
chúng nữa. Vốn là bố thí, cho nên nói “xuất gia, buông
xả thế gian là phương tiện bố thí bậc
nhất”.
(Kinh)
Thú đắc tam-muội, vật sanh yếm tâm. Hiền Hộ!
Thả trí như tư tầm thường cúng cụ, phù cầu
pháp giả, sư nhược hữu tu, năi chí ưng đương
tự cát kỳ thân, cơ phu, chi thể, cung phụng ư
sư. Sư nhược tu mạng, thượng vô ái tích, huống
dư ngoại vật nhi bất phụng sư.
(經)趣得三昧。勿生厭心。賢護。且置如斯尋常供具。夫求法者。師若有須。乃至應當自割其身。肌膚肢體。供奉於師。師若須命。尚無愛惜。況餘外物而不奉師。
(Kinh:
Tiến nhập tam-muội, đừng sanh tâm chán. Này Hiền
Hộ! Hăy để các vật cúng tầm thường như
vậy lại đó. Phàm là người cầu pháp, nếu
thầy cần dùng, thậm chí hăy nên cắt thân ḿnh, da thịt,
chân tay để dâng hiến cho thầy. Nếu thầy cần
mạng, c̣n chẳng yêu tiếc, huống hồ các vật
ngoài thân khác mà chẳng dâng cho thầy).
Đức
Thế Tôn nói như thế, thật ra là vẫn muốn cho
chúng ta quy kết vào ḷng chân thành, gieo ḿnh vào tâm trí. Kinh điển
Đại Thừa và kinh điển của Thanh Văn Thừa
sai khác rất lớn. Do kinh điển Thanh Văn Thừa
thuận theo Tục Đế, xét theo giới luật, cách
tu tập, cũng như dạy bảo đều rất mềm
mỏng, đều là pháp thuần bạch, chỗ nào cũng
đều an ủi, nói dịu dàng, nói tịch diệt thanh
tịnh. Nhưng trong kinh điển Đại Thừa, có
nhiều chỗ nói mạnh mẽ, hăng hái, nói oai đức,
muốn khiến cho chúng sanh nhanh chóng thành tựu A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Ở đây, thực
tế đều là nói theo oai đức, chúng ta phải khéo
quan sát cơ chế khác biệt giữa hai loại giáo pháp này.
Nếu chẳng khéo quán, người ta sẽ thường
nẩy sanh ngờ vực.
Lúc học
tập Bồ Tát giới bổn, rất nhiều người
chẳng muốn xem. Chẳng hạn như trong đó có bốn
đại nguyện, “thà đọa địa ngục,
ngàn lưỡi mâu đâm vào thân suốt một kiếp, hai
kiếp” v.v… Rất nhiều người sợ hăi đại
nguyện đó, nói đó chẳng phải quá tàn nhẫn, quá
lố, chẳng tương ứng hay sao? Có phải là có chút
vượt ngoài pháp tắc cơ bản về đạo đức
nhân luân hay không? Thật ra, chẳng phải vậy! Ẩn
sau những lời dạy của đức Thế Tôn là cách
nói an ủi to lớn, cách nói chân thật to lớn. Sự an ủi to lớn ấy rốt ráo khiến cho
quư vị thoát ĺa nỗi hoang mang sanh tử, thoát khỏi các
pháp tắc bị ràng buộc bởi sanh tử, khiến
cho quư vị sanh khởi sự vô úy, tùy thuận tương
ứng pháp tánh. Nếu chuẩn xác nương theo pháp tánh, người
ta sẽ chẳng sanh ḷng sợ hăi. V́ sao? Chẳng c̣n con đường
nào khác. Nếu chẳng nương theo thệ nguyện như
thế, cứ thuận theo sự cảm nhận dựa trên
nghiệp tập của chính ḿnh, người ta sẽ sợ
hăi. Chỉ có thuận theo pháp tánh, sẽ ngay lập tức
giải thoát, rốt ráo an ổn, lần lượt nương
tựa như thế, sẽ chẳng nẩy sanh sợ hăi.
Giáo ngôn ở đây cũng giống như thế, v́ các vật
ngoài thân đáng nên cúng dường vô ngại, tự thân th́
sao? Cũng giống như thế. Đấy thật sự
là nhắc nhở chúng ta v́ cầu tam-muội, hăy nên dũng
mănh phát tâm.
(Kinh)
Hiền Hộ! Kỳ cầu pháp giả, thừa sự pháp
sư, tương hộ tùy thuận, kỳ sự nhược
thử. Hựu thừa sự sư, như nô tùy chủ, như
thần sự quân, sự sư diệc nhĩ. Tư nhân như
thị, tật đắc tam-muội.
(經)賢護。其求法者。承事法師。將護隨順。其事若此。又承事師。如奴隨主。如臣事君。事師亦爾。斯人如是。疾得三昧。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Người cầu pháp thừa sự pháp
sư, hộ tŕ, tùy thuận như thế đó. Lại nữa,
thừa sự thầy như đầy tớ theo chủ,
như bầy tôi phụng sự vua, phụng sự thầy
cũng thế. Người như thế sẽ mau chóng đắc
tam-muội).
Mau chóng đắc
tam-muội là duyên khởi của tất cả các hành vi [thừa
sự, tận lực dâng hiến]. Nhờ vào những hành
vi đó để triệt để trừ bỏ Thân Ngă
Chấp và Pháp Ngă Chấp, Tài Ngă Chấp, cho đến triệt
để vứt bỏ tự ngă, trở về tam-muội
chánh hạnh. Nếu chúng ta bị Ngă Chấp và Pháp Chấp
ngăn chướng, hoặc tham luyến các tài vật, tham
luyến thế tục, mà muốn thành tựu pháp này, sẽ
chẳng thể được!
(Kinh)
Đắc tam-muội dĩ, đương niệm ức
tŕ, thường niệm sư ân, hằng tư báo đáp.
(經)得三昧已。當念憶持。常念師恩。恆思報答。
(Kinh: Đă đắc
tam-muội, hăy nên nghĩ nhớ, thường nghĩ tới
ân thầy, luôn nghĩ báo đáp).
Nếu chẳng
phải như vậy, sức tam-muội
sẽ có tiến thoái. Đối với chuyện này, từ các câu chuyện về
Thiện Đạo đại sư đă có một công án.
Khi Thiện Đạo đại sư tại thế, do
nhân duyên từ Quán Kinh, Ngài chứng đắc Niệm Phật
tam-muội tại chùa Ngộ Chân ở huyện Lam Điền
(thuộc tỉnh Thiểm Tây). Do vậy, có nhiều vị
tỳ-kheo theo Ngài tu tập pháp tắc. Có vị tỳ-kheo sau
khi chứng tam-muội, sanh tâm tăng thượng mạn che
lấp tâm trí, nên sức tam-muội chẳng hiện, kết
quả là phỉ báng tam-muội ấy. Nếu chúng ta duyệt
tạng (đọc Đại Tạng Kinh), sẽ có thể
thấy trong rất nhiều kinh điển đều có cách nói như
vậy. Chẳng phải là hễ chứng bèn vĩnh viễn
chứng. Có người sau khi chứng đắc tam-muội
lực, do tham cầu cảnh giới của tam-muội lực, đọa vào cái tâm thế tục,
tức là tâm tham. Sau đấy, ngoại duyên vừa quấy
nhiễu, chẳng hạn như có tạp âm, tạp duyên, tạp
cảnh tướng, sẽ sanh tâm sân. Do vậy, liền đọa
lạc! Thuở đức Thế Tôn tại thế, cũng
có tỳ-kheo đọa lạc như thế. Do công đức
chứng tam-muội bèn sanh vào Vô Sắc Giới Thiên, sau tám
vạn đại kiếp, thiện căn và nhân duyên đă
hao hết, liền đọa vào đời ác. V́ thế,
thường nghĩ tới ân thầy, thường mong báo
đáp, thật sự là một thứ tư lương cơ
bản để duy tŕ sức tam-muội. Thật ra, Niệm
Phật tam-muội chủ yếu nhất là tri ân, báo ân đó
thôi! V́ hết thảy đều do công đức thanh tịnh
của chư Phật Như Lai ban tặng, chúng ta chẳng
có một pháp nào để có thể đạt được,
chẳng có một thiện căn nào tồn tại, mà cũng
chẳng tồn tại một ác pháp nào, cũng chẳng có
một nghiệp tướng vô kư tiếp nối nào, chỉ
nương theo đại công đức tạng của chư
Phật Như Lai làm sanh mạng, tùy thuận ư thức. Như
thế th́ sẽ dễ thành tựu, dễ đạt được, dễ tương ứng. Nếu hơi tồn
tại tri kiến của chính ḿnh, sẽ rất khó đạt
được tam-muội lực, tương ứng với
các đại công đức lực. Đối với pháp
tắc này, chúng ta vẫn phải nên tư duy.
(Kinh)
Hiền Hộ! Thị tam-muội bảo, bất dị khả
văn.
(經)賢護。是三昧寶。不易可聞。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Báu tam-muội này, chẳng dễ được nghe).
Trong phần
trước nói là “tam-muội vương”, ở đây
lại nói là “tam-muội bảo”, cho thấy chẳng
dễ nghe tam-muội này. Từ vô thỉ tới nay, chúng ta
trầm luân trong thế tục, bận bịu trong các thứ
sự vụ, nếu nương theo những lời dạy
trong kinh giáo th́ cũng có các thứ ngăn che, chướng
nạn, như trong khi tu nhân, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn xuất
gia, phụng sự thầy suốt ba vạn sáu ngàn năm,
do bị thiên ma ngăn chướng, vẫn chẳng được
nghe! Nhưng chúng ta bị sự vụ thế tục che lấp,
chẳng hạn như có người theo đuổi phước
báo nhân thiên, có người theo đuổi đủ loại
sự vụ trong thế gian, làm đủ loại chuyện
thuộc về sự tướng, chẳng có dịp nghe pháp,
chẳng thể tu tập pháp tắc như vậy, chẳng
thể trao đổi pháp tắc như vậy. Trên thực
tế cũng là bị thiên ma che lấp, gây chướng ngại.
Nghe pháp rất khó, trong thế tục, chúng ta muốn thành thục
nghiệp của chính ḿnh, nhưng nghiệp liên tục, ở trong nghiệp liên tục,
sẽ chẳng thể tự thoát ra được, chẳng
thể tự giải quyết được, như thế
th́ sự liên tục của nghiệp chính là chỗ khiến
cho “chẳng dễ nghe pháp”. Đó cũng là sự thật
nẩy sanh bởi cái gọi là “các ma che lấp, ngăn chướng”.
Đối
với cơ chế và cơ duyên nghe pháp, chúng ta thường
rất khó thật sự sanh khởi ḷng tôn trọng! Vào thời
Tùy - Đường, nếu có chỗ nào giảng pháp, hoặc
là trong núi rừng, dưới tàng cây, hoặc chỗ thanh vắng,
mọi người đều đến đó, yêu thích. Nhưng
nghe pháp trong hiện thời th́ thường là mang tánh chất
h́nh thức hóa nhiều hơn. Do vậy, tuy người nghe
đông đảo, nhưng người đạt được
lợi ích rất hiếm hoi! Như chúng ta tụng niệm
công khóa cũng vậy, nếu thật sự yêu thích, công
khóa như thế sẽ trở thành cơ duyên tăng thượng
để chúng ta tu chứng, thành tựu Bồ Đề cho
chúng ta. Nếu có thái độ ứng phó “làm ḥa thượng
một ngày, giộng chuông một ngày”, hoặc có cảm
giác nhọc nhằn, chán ngán, như thế th́ sẽ hoàn toàn
tương phản! Trong cơ chế học tập liên tục
hiện thời, rốt cuộc chúng ta dùng cái tâm yêu thích,
hay là cái tâm chán ghét, tâm ứng phó? Thực sự là [kết
quả sẽ sai khác một trời một vực] nếu
chọn lựa cái tâm sai khác. Một niệm ấy hoàn toàn
do chính ḿnh, chứ cơ chế ngoại vi như người
khác, hoặc đạo tràng v.v… thuần túy là trợ duyên. Chúng
ta phải nhận biết rơ ràng đối với điều
này!
(Kinh)
Chánh sử hữu nhân, quá bách thiên kiếp, đản cầu
văn danh, thượng bất đắc văn, hà huống
văn dĩ, thư tả, tụng tŕ, chuyển phục vị
tha, phân biệt thuyết dă. Hiền Hộ! Giả sử Hằng
hà sa số chư Phật thế giới thịnh măn trân bảo,
tŕ dĩ hành Đàn, kỳ phước tuy đa, do diệc
bất như văn thử kinh danh.
(經)正使有人。過百千劫。但求聞名。尚不得聞。何況聞已。書寫誦持。轉復爲他。分別說也。賢護。假使恆河沙數諸佛世界。盛滿珍寶。持以行檀。其福雖多。猶亦不如聞此經名。
(Kinh: Nếu như
có người trải qua trăm ngàn kiếp, chỉ cầu
được nghe tên, c̣n chưa được nghe, huống
hồ là nghe xong, biên chép, tụng tŕ, lại c̣n v́ người khác nói phân biệt.
Này Hiền Hộ! Giả sử đựng đầy trân
bảo trong Hằng hà sa số thế giới của chư
Phật, dùng để bố thí, phước ấy tuy nhiều,
vẫn chẳng bằng nghe tên của kinh này).
Trong rất
nhiều kinh điển Đại Thừa, đức Thế
Tôn đều có cách nói hy hữu như vậy. Chẳng hạn
như đối với danh tự Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh, đức Thế Tôn cũng từng
thọ kư: Nếu là người có thể nghe tên kinh này, phước
đức của người ấy chẳng thể nghĩ
bàn. Đối với sự thọ kư tướng đại
công đức này, thật sự là lời lẽ thành thật,
nhưng có nhiều chúng sanh chẳng thể sanh ḷng tin đối
với chỗ này, chẳng thể hưởng niềm vui.
Chúng ta biết Lục Tổ nghe một câu kinh Kim Cang “ưng
vô sở trụ như sanh kỳ tâm” (hăy nên đừng
trụ vào đâu mà sanh tâm) liền được chứng
ngộ, tâm sanh quang minh, tâm sanh hoan hỷ. Nếu thiện
căn của chúng ta chín
muồi, hoặc
là cơ hội chín muồi, nghe tên của kinh Ban
Châu Tam Muội này, cũng sẽ đạt được
phước đức chẳng thể nghĩ bàn!
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa, dĩ
kệ tụng viết: - Ngă niệm quá khứ vô lượng
thời, cụ túc số măn lục thiên tuế, thường
tùy pháp sư bất tạm xả, sơ bất văn thị
tam-muội danh. Phật hữu quyết hiệu vi Chí Thành, thời
bỉ tỳ-kheo danh Ḥa Luân. Kỳ ư Thế Tôn diệt độ
hậu, tỳ-kheo quảng thuyết thị tam-muội. Ngă
thời vi bỉ thiên hạ vương, mộng trung văn
cáo tam-muội xứ.
(經)爾時世尊。爲重明此義。以偈頌曰。我念過去無量時。具足數滿六千歲。常隨法師不蹔舍。初不聞是三昧名。有佛厥號爲至誠。時彼比丘名和輪。其於世尊滅度後。比丘廣說是三昧。我時爲彼天下王。夢中聞告三昧處。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn v́ muốn nói rơ lại nghĩa này, dùng
kệ tụng như sau: - Ta nhớ quá khứ vô lượng
thời, trọn đủ con số sáu ngàn năm, thường
theo pháp sư chẳng tạm rời, trọn chẳng nghe
tên tam-muội này. Đức Phật danh hiệu là Chí Thành,
tỳ-kheo khi ấy tên Ḥa Luân. Sau khi Thế Tôn đă diệt
độ, tỳ-kheo rộng nói tam-muội này. Thuở đó
ta làm vua cơi đời, trong mộng nghe nói chỗ tam-muội).
Ở đây,
nêu lên một trường hợp, có thể là quốc vương
chẳng có cơ hội nghe pháp, nhưng trong mộng, biết
chỗ tuyên thuyết tam-muội. Có nhiều vị Bồ
Tát, cho đến chư Phật đều phát diệu nguyện
rộng lớn rất sâu, muốn khiến cho hết thảy
hữu t́nh trầm luân dùng các thứ nhân duyên để thoát
ĺa biển khổ sanh tử, hoặc dùng Hiển Giáo, hoặc
dùng Mật Giáo, hoặc dùng giáo pháp trong lúc ban ngày, hoặc dùng
giáo pháp trong mộng, hoặc dùng giáo pháp trong Tam Tạng mười
hai bộ loại để tuyên nói diệu tướng trang
nghiêm, cho đến danh hiệu bí mật, danh hiệu Hiển
Giáo, cho đến sức thần thông nhiếp hóa trọn
khắp. Thệ nguyện căn bản của Văn Thù Bồ
Tát quy kết vào một thệ nguyện, chính là muốn khiến
cho nhiều hữu t́nh ngu độn, ương bướng
ở trong mộng sẽ được gặp gỡ thí
giáo, hoặc khiến cho nhiều hữu t́nh chẳng có cơ
hội nghe pháp sẽ có dịp nghe pháp trong mộng. V́ thế,
có chúng sanh từ trong mộng nghe danh hiệu của chư
Phật, giáo ngôn của chư Phật, được sức
thần thông chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật
gia tŕ, thấy diệu tướng quang minh của chư Phật.
Bốn
loại thấy Phật là hiện tiền thấy Phật,
trong mộng thấy Phật, trong định cảnh do sức
thần thông thấy Phật, cho đến lúc lâm chung xả
báo sẽ thấy Phật, đều là do thiện căn
thù thắng đă chín muồi. Nay chúng ta học tập, tu tập
một pháp Ban Châu, tức Thập Phương Chư Phật
Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, điều được
tuyên nói [trong pháp tắc này] chính là muốn khiến cho chúng
sanh trong hiện tiền thấy mười phương chư
Phật, gặp Phật nghe pháp, chẳng nhờ vào phương
tiện, chẳng đến thế giới ở phương
khác, mà Phật cũng chẳng đến đi, chúng ta cũng
chẳng đến đi, chỉ nương vào cái tâm thanh
tịnh, do thiện căn thành thục mà nghe pháp rất sâu,
chứng Vô Sanh Nhẫn, chọn lựa sanh tử.
(Kinh)
Ḥa Luân tỳ-kheo thường tuyên chuyển, vương đương
thính thọ thị diệu kinh, tùng mộng ngụ dĩ, tức
thôi cầu, cung nghệ tỳ-kheo thỉnh tam-muội.
(經)和輪比丘常宣轉。王當聽受是妙經。從夢寤已即推求。躬詣比丘請三昧。
(Kinh: Ḥa Luân tỳ-kheo
thường tuyên nói, vua sẽ nghe nhận diệu kinh ấy,
đă tỉnh giấc mộng liền t́m cầu, cung kính xin
sư dạy tam-muội).
Tam-muội
ở đây là nói tắt của Thập Phương Chư
Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, chẳng phải
là tam-muội nào khác. Báu tam-muội này là vua của hết
thảy các tam-muội. Kinh Đại Phật Đảnh
Thủ Lăng Nghiêm nói Phật Đảnh Thủ Lăng
Nghiêm tam-muội là vua của hết thảy các tam-muội.
v́ sao ở đây lại xuất hiện một tam-muội
vương khác? Chúng ta chẳng khảo cứu điều
này, nhưng có một điều: Công đức của Lăng
Nghiêm tam-muội và Thập Phương Chư Phật Tất
Giai Hiện Tiền có sai khác hay không? Có phải là được
truyền dạy dưới danh xưng khác nhau hay không? Hay
là công đức có sai khác? Nói thiện xảo th́ có thể
là Lăng Nghiêm tam-muội nhiếp hóa một loại căn
cơ riêng biệt, c̣n Thập Phương Chư Phật Tất
Giai Hiện Tiền tam-muội thâu nhiếp trọn khắp
hết thảy hữu t́nh phàm ngu lẫn phàm thánh hữu t́nh!
V́ thế, tam-muội này có thiện xảo rộng lớn!
(Kinh)
Toại xả vương vị nhi xuất gia, cung kính cúng
dường bất tạm hưu. Kinh lịch tam vạn lục
thiên niên, đản nguyện hậu phùng bỉ tuyên lưu,
thường vị thiên ma lai cố nhiễu, chung cánh vị
quả nhất thính văn. Thị cố tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
chư ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, ngô cố giới nhữ
thử thành ngôn, nhữ đương thú tŕ thị tam-muội.
(經)遂舍王位而出家。恭敬供養不暫休。經歷三萬六千年。但願後逢彼宣流。常爲天魔來固擾。終竟未果一聽聞。是故比丘比丘尼。諸優婆塞優婆夷。吾故誡汝此誠言。汝當趣持是三昧。
(Kinh: Bèn bỏ ngôi
vua để xuất gia, cung kính cúng dường, chẳng
tạm nghỉ. Trải qua ba vạn sáu ngàn năm, chỉ
mong được nghe pháp thầy nói, thường bị
thiên ma đến quấy nhiễu, trọn chẳng một
lần được nghe thấy. V́ thế, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
các ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, ta nay khuyên dạy lời chân
thành, nên tiến nhập, tŕ tam-muội này).
“Giới
nhữ” là khuyên bảo mọi người, khích lệ kẻ
hữu duyên: “Nhữ đương thú tŕ thị tam-muội”
(ngươi hăy nên tiến nhập, thọ tŕ tam-muội này).
Kinh Hiền Hộ từ mở đầu cho đến hiện
thời, chỗ nào cũng đều khiến cho chúng ta nghe
dạy, đọc tụng, giải nói, cho đến tu hành
pháp tắc tam-muội này. Đức Thế Tôn dùng đủ
mọi tỷ dụ, đủ mọi hướng dẫn,
để khiến cho chúng ta sanh ḷng tin quyết định
đối với pháp này.
(Kinh)
Kỳ dục kính thừa bỉ pháp sư, nhược kinh
nhất kiếp cập đa kiếp, bị phụng dược
thang, chư diệu thiện, cầu văn như thị tam-muội
kinh.
(經)其欲敬承彼法師。若經一劫及多劫。備奉藥湯諸妙膳。求聞如是三昧經 。
(Kinh:
Muốn kính trọng thừa sự pháp sư, trải qua một
kiếp và nhiều kiếp, dâng đủ thuốc thang, các
món ngon, cầu nghe kinh tam-muội như thế).
Hầu
thầy, cúng dường để mong nhanh chóng thành tựu
công đức của tam-muội này.
(Kinh)
Hựu biện ức số chúng y phục, sàng phu, đăng
chúc, cập chư trân, tinh cần như thị bất giác
b́, vị thính như thị diệu tam-muội.
(經)又辦億數衆衣服。牀敷燈燭及諸珍。精勤如是不覺疲。爲聽如是妙三昧。
(Kinh: Lo toan ức
số các y phục, giường, mền, đèn đuốc
và các báu. Siêng ṛng như thế chẳng thấy mệt. V́
nghe diệu tam-muội như thế).
Duyên khởi
của tất cả các sự cúng dường đều
v́ để tam-muội này tồn tại trong cơi đời,
được truyền bá. V́ lẽ nào? Người truyền
bá, tu tập, lắng nghe, cho đến người tùy hỷ
tam-muội này, người đến nghe cùng chẳng nghe,
đều đă gieo chủng tử chẳng thể
nghĩ bàn nơi Vô Thượng Bồ Đề, trong đời
vị lai nhất định sẽ thành Phật. V́ thế, sự
cúng dường này rất có ư nghĩa, được đức
Thế Tôn cổ vũ, tán thán.
(Kinh)
Tỳ-kheo tự vô, đương khất phụng, năi chí
thân mạng vô lận tích.
(經)比丘自無當乞奉。乃至身命無吝惜。
(Kinh: Tỳ-kheo chẳng
có, xin về dâng. Dẫu xả tánh mạng, chẳng keo tiếc).
Người
xuất gia không có ǵ để có thể cúng dường, có
thể dùng những vật dụng chính ḿnh xin được
để cúng dường, hoặc dùng thân để cúng
dường. Biểu hiện của người xuất
gia là buông xả thế tục, thủ hộ, tu tập, truyền
bá pháp.
(Kinh)
Hà huống dư vật hữu tích tâm, như thị cầu
giả đắc tam-muội. Thọ ân thường niệm
tư báo ân, trí nhân văn dĩ ưng quảng thuyết.
(經)何況餘物有惜心。如是求者得三昧。受恩常念思報恩。智人聞已應廣說。
(Kinh: Huống hồ
tiếc nuối các vật khác, người cầu như
thế đắc tam-muội. Chịu ân thường nghĩ
báo đáp ân, người trí nghe rồi nên rộng nói).
“Ân nhân”
là người có ân với ta. Nếu đối với lợi
ích thực tế và tướng công đức của Ban
Châu tam-muội mà chẳng hiểu biết, có lẽ cũng
sẽ có kẻ cho rằng “v́ sao là có ân và chẳng có ân cơ
chứ?” V́ tu tập có thành thục hay không, có tương ứng
hay không. Do đó, đối với chỗ chịu ân, có thể
hiểu biết hay không, vẫn thật sự là một ẩn
số! Thông qua học tập, thông qua nhận biết, trao đổi
lẫn nhau, cho đến tuyên nói, tu tập pháp tắc này, đối
với ân đức, chúng ta nên thật sự có sự hiểu
biết rơ ràng!
“Trí nhân
văn dĩ quảng tuyên thuyết” (người trí nghe
xong sẽ tuyên nói rộng răi): Người trí huệ thật
sự thành thục, sẽ thường tuyên nói pháp này. V́
sao? Nếu truyền bá, lưu thông pháp này, sẽ có thể
khiến cho hữu t́nh hữu duyên thành tựu A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, được thấy
mười phương chư Phật, nghe giáo ngôn rộng
lớn. Đó là do tam-muội nên đa văn, do đa văn
nên có thể chứng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề. Cơ chế này chẳng thể nghĩ bàn! V́ thế,
người tuyên nói tam-muội này có thể khiến cho hữu
t́nh trong thế gian đạt được sự yên vui rốt
ráo!
(Kinh)
Ức na-do kiếp chuyên tinh cầu, tư diệu tam-muội
nhĩ năi văn. Giả sử hằng sa chư thế giới,
thịnh măn trân bảo dụng hành Đàn, năng ư thị
trung thuyết nhất kệ, thử nhân công đức quá ư
bỉ.
(經)億那由劫專精求。斯妙三昧爾乃聞。假使恆沙諸世界。盛滿珍寶用行檀。能於是中說一偈。此人功德過於彼。
(Kinh: Ức na-do kiếp
chuyên ṛng cầu, mới được nghe diệu tam-muội
này. Giả sử thế giới như Hằng sa, chứa đầy trân bảo
đem bố thí. Người có thể nói một kệ trong đó, công đức
sẽ vượt xa người trước).
Trong [các loại]
bố thí, tài bố thí chỉ là bố thí để kết
duyên, tức bố thí thuộc về phước đức.
Chỉ có hành pháp, đích thân chứng pháp tắc, như thế
mới là cơ hội to lớn có thể khiến cho chúng
sanh thành tựu Vô Thượng Bồ Đề. Công đức
của một bài kệ là có thể làm cho con người thành
Phật, c̣n công đức cúng dường trân bảo trong
nhiều thế giới chỉ là hiện tướng phước
đức, hai đằng chẳng thể so sánh được.
Do vậy, “thử nhân công đức quá ư bỉ” (công
đức của người ấy vượt hơn đó).
(Kinh)
Chánh ngôn tuyên thuyết nhất kệ giả, quá ư chư
kiếp na-do-tha, hà huống văn dĩ năng quảng tuyên,
tư nhân công đức bất khả thuyết.
(經)正言宣說一偈者。過於諸劫那由他。何況聞已能廣傳。斯人功德不可說。
(Kinh: Người
chánh ngôn tuyên nói một kệ, vượt khỏi na-do-tha các
kiếp. Huống chi nghe xong, lại rộng tuyên, công đức
người ấy chẳng thể nói).
Đức
Thế Tôn không ngừng khích lệ chúng ta đọc tụng,
truyền bá, tu tập pháp tắc này. Nói đến công
đức th́ [xét theo pháp tánh], do chẳng có công đức,
cho nên công đức rộng lớn. V́ công đức rốt
ráo, cho nên chẳng có công đức để thấy, nhưng
thật sự là công đức. V́ thế, “tư nhân công
đức bất khả thuyết” (công đức của
người ấy chẳng thể nói).
(Kinh)
Nhược nhân nhạo hành ư Bồ Đề, đương
vị nhất thiết cầu thị pháp.
(經)若人樂行於菩提。當爲一切求是法。
(Kinh:
Nếu ai thích hành đạo Bồ Đề, hăy v́ hết
thảy cầu pháp này).
Trong hết
thảy mọi thời, mọi chốn, hăy nên lập tức
tu tập, truyền bá rộng răi, thường hành đạo,
thường thủ hộ.
(Kinh)
Tất năng chánh giác vô thượng đạo, văn dĩ
an trụ tư định trung.
(經)必能正覺無上道。聞已安住斯定中。
(Kinh: Ắt với
chánh giác vô thượng đạo, nghe xong, an trụ trong Định
ấy).
Ỏ đây,
đức Thế Tôn chọn lựa pháp. Các vị Bồ
Tát hiện tiền nếu nhận biết mười phần
rơ ràng, chọn lựa một pháp, nhưng vẫn chưa rất thành thục, cần phải thông qua
không ngừng học tập, quan sát, tu tập, cũng như
so sánh thành tựu trong Phật pháp với nghiệp tướng
luân hồi của thế gian th́ mới có thể sanh khởi
ḷng yêu thích và tu tập pháp ấy.
Trong phẩm này, đức Thế Tôn nêu ra sự
chẳng thể nghĩ bàn của tam-muội này, nghĩ tới
ân thầy rất quan trọng. Pháp này khó nghe, khó được.
Chúng ta đừng nên vừa xong buổi giảng bèn bàn tán chuyện
thế tục, đánh mất nhân duyên tăng thượng
của chính ḿnh. Hăy nên thường tập quen tư duy pháp tắc như thế, trong tâm trí liên tục, trong nghiệp tướng, hăy nhiều lượt luyện
tập, cũng phải nên nhanh chóng thành tựu công đức
thiện căn như thế.
21. Phẩm thứ mười
bảy: Chúc lụy
(Kinh)
Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền
Hộ Phần, Chúc Lụy phẩm đệ thập thất.
(經)大方等大集賢護分囑累品第十七。
(Kinh: Kinh Đại
Phương Đẳng Đại Tập, Hiền Hộ Phần,
phẩm thứ mười bảy: Chúc Lụy).
Hôm nay là
ngày thánh đản của Đại Thế Chí Bồ Tát,
nương cậy sự gia tŕ thù thắng
này, chúng ta học tập viên măn đoạn văn tự cuối
cùng này.
“Chúc lụy”
là sự căn dặn đối với một pháp tắc,
bao gồm cách duy tŕ tiếp nối pháp ấy như thế
nào, tu tập như thế nào, căn nguyên của pháp tắc
ấy, ai là người truyền bá, cũng như người
truyền bá nên truyền bá bằng cách nào, các pháp tắc cơ
bản đáng được chấp thuận [để
thủ hộ, truyền bá pháp ấy]. Sự chúc lụy của
đức Thế Tôn có lược thuyết và cũng có quảng
thuyết. Chẳng hạn như đức Thế Tôn chúc
lụy Di Lặc Bồ Tát chỉ dùng bốn câu kệ, v́ đối
với các bậc đại trí, chỉ dùng lời phương
tiện, lời giản lược đă khiến cho tâm trí
họ tương ứng, c̣n đối với phàm ngu hữu
t́nh như chúng ta, phải tuyên nói cho nhiều, cho đến
nói cặn kẽ, nói rộng răi, nói trọn khắp, khiến
cho chúng ta có pháp để nương cậy, hoặc là có
ngôn thuyết để y chỉ.
Học tập
một bộ kinh điển, Tự Phần là duyên khởi
của kinh điển, [nêu ra] đối tượng để
tuyên nói. Chánh Tông Phần là trực tiếp tuyên nói nội
dung thực tế, khiến cho hữu t́nh hiện tiền
tu tập, yêu thích pháp tắc. Hiện thời, chúng ta đang
học phần Chúc Lụy chính là phần Lưu Thông, tức
là nương theo lợi ích hiện tiền để thủ
hộ pháp tắc, mong sao pháp tồn tại trong cơi đời,
truyền rộng đến đời vị lai, ḥng lợi
ích hữu t́nh trong vị lai. Lưu Thông Phần là một bộ
phận rất trọng yếu trong kinh điển. Tâm chúng
ta duy tŕ liên tục đối với một pháp tắc, thâm
nhập tu tập và nhận biết một pháp tắc, đấy
cũng là nội dung của thực tế của sự lưu
thông, tức đối với chuyện thành tựu Bồ
Đề bèn tu tập chẳng lười nhác và nhận
biết. V́ thế, có một cách nói ví von: Phần Chánh Tông
giống như thắp đèn, thắp sáng ngọn đèn trong
tâm trí của đại chúng hiện tiền, khiến cho chúng
ta đối với pháp có một sự nhận biết hoàn
chỉnh, sáng sủa, rơ ràng, có một thứ tự để tu tập.
Lưu Thông Phần là truyền bá rộng răi cho đời mai
sau, khiến cho Phật chủng thành thục nơi hữu
t́nh trong thế gian, giống như ngọn đèn này thắp
chuyền sang ngọn đèn khác, chiếu sáng vị lai. Đèn
vô tận, đèn này chuyền sang đèn kia, trí hỏa chẳng
diệt, khiến cho chúng sanh tối tăm, hoặc hữu
t́nh đang say ngủ vô minh được quang minh chiếu
sáng rực, có cơ hội tỉnh giấc. Đây là một
cơ chế tiếp nối pháp tắc, kinh điển về
cơ bản đều được thiết trí như
vậy. Sau khi chúng ta học tập, trong cuộc sống thường
nhật, phải nên đối với Chánh Tông Phần, thủ
hộ lợi ích hiện tiền như thế nào để
giống như đèn sáng chiếu rực cả ḿnh lẫn
người? Đối với Lưu Thông Phần, lại
nên như thế nào để truyền bá đến đời
vị lai, lợi ích cho người đời sau? Thật
sự là càng phải nên sanh tâm yêu thích, càng nên sanh tâm vui sướng.
Chúng ta
c̣n phải giữ cho cái tâm liên tục, duy tŕ liên tục đối
với pháp, đối với các sự tướng phồn
tạp trong thế tục và các ngôn thuyết chẳng tương
ứng, đúng là chẳng nên nói. Nếu không, tuy học tập
Phật pháp mà vĩnh viễn chẳng có cơ hội thành
tựu! Giống như thí dụ đun nước ở
phần trước, lại như mài giũa một món pháp khí, nếu tâm trí tản mạn,
buông lung, đúng là sẽ rất khó thành thục pháp. Cứ
như thế, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm kia bị
lăng phí! Nếu gặp được giáo ngôn thù thắng như
thế mà chẳng yêu thích, cứ ham hố thế tục,
vui thích tạp duyên, ham chuộng tán gẫu, đúng là đă
phần nào cô phụ cơ duyên của chính ḿnh. Nếu cô phụ
cơ duyên của chính ḿnh, mà chẳng rối loạn người
khác, th́ vẫn c̣n chấp nhận được! Nhưng
không chỉ cô phụ cơ duyên của chính ḿnh, lại c̣n nhiễu
loạn [người khác] thấy nghe, đúng là chẳng tương
ứng. Do vậy, trong các trường hợp học Phật,
trong cơ duyên hành đạo của mọi người, phải
quư tiếc! Trong nhân duyên thế tục, chẳng hạn như
ở trong các hoàn cảnh thế tục nơi gia đ́nh, xă
hội v.v… vẫn cần phải nghĩ tưởng Tam Bảo,
nghĩ tưởng ân đức của Phật, ân đức
được học giáo pháp, ân đức của sư
trưởng, ân đức dưỡng dục của cha mẹ,
huống hồ trong đạo tràng, trong các dịp học
pháp ư? Đối với các chỗ ấy, phải nên
nghiêm túc, chớ nên qua loa.
Hôm nay là thánh
đản của Đại Thế Chí Bồ Tát, dẫu đức
Đại Thế Chí tới ngồi ở bên cạnh chúng
ta, nếu quư vị vẫn chẳng yêu thích Phật pháp th́ cũng
chẳng đạt được lợi ích nơi Phật
pháp. Chư Phật Như Lai phóng đại quang minh nhiếp
thọ trọn khắp hết thảy chúng sanh, chẳng gián
đoạn. Quư vị chẳng yêu thích Phật pháp, sẽ chẳng đạt
được lợi ích nơi Phật pháp y hệt. Giống
như kẻ ngủ mê, dẫu mặt trời mọc giữa
bầu trời quang đăng, chiếu sáng rực Diêm Phù
Đề, ngay lập tức chúng sanh đều đạt
được phương tiện, ai nấy đều có
ánh sáng, nhưng kẻ ngủ mê chẳng đạt được.
Quư vị c̣n đắm ch́m trong cơn mê ngủ vô minh, trong
nghiệp tập tán loạn của chính ḿnh, sẽ chẳng đạt
được đại quang minh của chư Phật. V́
sao? “Được” và “chẳng được” là do cách dùng; v́ chẳng biết dùng, cho nên
chẳng thể đạt được. Chư vị thiện
tri thức! Nhất định phải trân quư từng cơ
hội nhỏ nhặt của chính ḿnh, mạng người
vô thường c̣n hơn nước từ trên núi tuôn xuống,
gặp pháp rất khó, nghe pháp rất khó, cứ ham thích nghiệp
tập, lưu chuyển trong tam đồ bát nạn thật
dễ! Tạo các ác nghiệp thật dễ, hành các thiện
pháp thật khó, đă khó lại càng khó hơn! Do phước
báo từ bao kiếp tới nay, chúng ta mới có dịp nghe
pháp. Nếu vẫn để [cơ hội đó] tiêu hủy
trong chốc lát, đối với cái nhân đời sau, cái
quả đời sau, chẳng phải là do nhân như thế
nào, quả sẽ như thế ấy đó ư? Các vị
Bồ Tát phải khéo tư duy. Nếu thật sự không
biết, hăy nên khích lệ chính ḿnh một phen!
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: -
Hiền Hộ! Thị cố, bỉ thiện nam tử hữu
tịnh tín giả, thường đương tinh cần
thính thử tam-muội.
(經)爾時世尊。告賢護菩薩言。賢護。是故彼善男子有淨信者。常當精勤聽此三昧。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng:
- Này Hiền Hộ! V́ thế, thiện nam tử có ḷng tin
trong sạch, hăy thường nên siêng ṛng, nghe tam-muội này).
“Tinh cần”
(精勤) là tâm phải nên chuyên chú, đối
với pháp phải nên chuyên chú. Nếu ở trong tạp duyên,
sẽ thường khiến cho cái tâm bị tán hoại, đổi
khác. Đương nhiên, nếu quư vị hiểu rơ pháp tánh
không ǵ chẳng trọn khắp, sự tướng ǵ cũng
đều là vô sở đắc, đều chẳng có tự
tánh; đó là hành pháp phương tiện. Nếu hành pháp phương
tiện, sẽ thật sự có thể dẹp trừ nỗi
khổ, ban vui cho người khác!
(Kinh)
Kư văn thọ dĩ, độc tụng, tổng tŕ, tư
duy kỳ nghĩa.
(經)既聞受已。讀誦總持。思惟其義。
(Kinh: Đă nghe nhận
rồi, đọc tụng, tổng tŕ, tư duy ư nghĩa).
Tướng
đại công đức của Thập Phương Chư
Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội cũng thuộc
về pháp tổng tŕ. Nói “tổng tŕ” tức là trong một
pháp có thể trọn đủ hết thảy các tướng
công đức chân thật.
(Kinh)
Quảng vị thế gian phân biệt, diễn thuyết.
(經)廣爲世間分別演說。
(Kinh: Rộng v́ thế
gian, phân biệt, diễn nói).
Mọi người
diễn nói đều là diễn nói ǵ vậy? Có tương
ứng với pháp hay không? Chính ḿnh có yêu thích pháp tắc ấy
hay không? Nếu chúng ta vẫn chẳng tôn trọng, chẳng
yêu thích nhân duyên của pháp, làm sao có thể vận dụng Phật
pháp vào chỗ phi pháp cho được? Chúng ta chẳng thể không chú ư ngôn hạnh của
chính ḿnh, chớ nên
không biết
ngôn hạnh của chính ḿnh. Nay vẫn c̣n đang ở trong
giai đoạn an cư, c̣n có Tam Bảo, được chư
Phật, Bồ Tát gia bị, có thể khiến cho cái tâm chúng
ta đặt vững trong thiện duyên, nhưng
sau khi An Cư kết thúc, đúng là mỗi người có nghiệp
báo riêng, nghiệp duyên sẽ theo sát bầu bạn!
Giả sử
chúng ta qua một trăm hai mươi ngày An Cư, hoặc
thông qua học tập kinh Ban Châu, đă có sự liễu giải, yêu thích, tu tập,
không ngừng thường tư duy, thường
nghĩ tưởng kinh Ban Châu, trong hết thảy mọi
nơi, mọi chỗ đều chẳng bỏ mất mỗi
niệm hoặc mỗi chuyện để tùy thuận pháp
tắc. Đó gọi là “tu ngay trong mỗi niệm” nhằm uốn nắn
cái tâm, uốn nắn nhân duyên, hoặc là như thật biết
cái tâm, như thật biết nhân duyên, trong hiện tiền
phiền năo mà đích thân chứng Bồ Đề. Đó là
chuyện mười phần có ư nghĩa. Nếu nhân duyên này
chẳng thể chín muồi, tiếp tục tồn tại
sau khi An Cư th́ sẽ là như thế nào? Chúng ta đều
nên tự xét kỹ, v́ sau khi An Cư, cơ hội tập
trung học tập, cơ hội được nhắc nhở,
cơ hội trao đổi như vậy có thể là càng ít
hơn, nhân duyên của mỗi người trở nên mười
phần rời rạc, những thứ thuộc về thế tục
như nói chuyện
gẫu, làm những chuyện vô bổ v.v… chẳng thể mười
phần trọn khắp cổ vũ [cái tâm tấn tu của hành giả]. Khi đó, chúng ta vận dụng
Phật pháp sẽ càng mệt mỏi hơn! Nay chúng ta ở
chỗ ít tốn sức, trong cơ hội thừa thế
học tập và tu tập, quán sát, mà vẫn chẳng yêu thích,
th́ dấn ḿnh vào thế tục sẽ là “chệch đi ngàn dặm!” Đấy
chẳng phải là nói theo kiểu sợ hăi đâu nhé! Mọi
người phải nên tư duy, v́ trong thế giới Diêm
Phù Đề này, thiện ít, ác nhiều, nghịch duyên lừng
lẫy, kẻ hoại pháp, diệt pháp, và các tạp duyên ngập
tràn cơi đời. Người như pháp, chánh pháp, hướng
về pháp, hạnh tăng thượng đă ít ỏi lại
càng hiếm hoi hơn, giống như trân bảo trong thế
gian khó có, khó gặp! Các vị thiện tri thức hăy khéo
quan sát nhé!
(Kinh)
Nghi thiện thư tả, an trí tạng trung.
(經)宜善書寫。安置藏中。
(Kinh: Hăy nên biên chép,
đặt trong kho báu).
“An trí tạng
trung” trên thực tế là cất chứa, trân tàng, cung
kính. “Tạng” ở đây chẳng phải là phong kín,
mà là khiến cho chúng ta yêu thích pháp tắc ấy, ví như
thủ hộ vật báu gia truyền. Đấy đích xác
là trân bảo ma-ni do Phật Thích Ca truyền lại cho chúng
ta, có thể sanh ra hết thảy công đức.
(Kinh)
Sở dĩ giả hà? Hiền Hộ! Ư ngă diệt hậu,
đương lai chi thế.
(經)所以者何。賢護。於我滅後當來之世。
(Kinh: V́ cớ sao vậy?
Này Hiền Hộ! Sau khi ta diệt độ, trong đời
tương lai).
Cũng tức
là thời hiện tại của chúng ta, đức Thế
Tôn đă nhập diệt ba ngàn năm, Di Lặc Thế Tôn vẫn
chưa giáng thế. Trong thời gian chẳng có Phật này,
phần nhiều là ác tri thức ra đời, ma năo hại
hữu t́nh trong thế gian, nếu chẳng nương theo
giáo pháp, chúng ta sẽ chẳng có ǵ để độ thoát.
V́ thế nói giáo pháp này hết sức trân quư.
Di giáo mười
phần trân quư! Trong thời đại này, nếu chúng ta chẳng
nương theo giáo pháp của Phật Thích Ca, thật sự
sẽ tất nhiên đọa vào tam đồ bát nạn!
Nay chúng ta ở trong tám nạn, vẫn c̣n có kinh giáo của Phật
pháp để có thể tu tập, học tập, huân tu,
truyền đạt, đúng là phước đức chẳng
thể nghĩ bàn! Đáng phải nên tôn trọng, đáng phải
nên nghiêm túc tư duy! Đối với chỗ này, nếu coi
thường chẳng quan tâm, một khi chút phần thiện
căn tán hoại, ác nghiệp tất nhiên chín muồi nhanh
chóng, như thế th́ tam đồ bát nạn sẽ khó thể chẳng phải là quê
nhà, quư vị c̣n trở về đâu được nữa!
Các vị thiện tri thức chẳng thể không tư duy!
Thời
gian kết thúc An Cư càng ngày càng gần, tôi càng cảm thấy
tâm t́nh ngày càng mười phần nặng nề, trọn chẳng
phải là thanh thản, v́ nếu nghiên cứu pháp sâu xa, yêu
thích tu tập pháp tắc, nhất định sẽ
dẫn khởi sự coi trọng [pháp tắc tam-muội này]
nơi mỗi cá nhân chúng ta. Nhiều khi người có duyên
lại vô phước, kẻ có phước lại vô duyên.
Kẻ vô duyên phần nhiều hướng về, do hướng
về c̣n có thể thành thục thiện căn. Nếu chúng
ta trong lúc có cơ duyên mà chẳng yêu quư, chẳng trân trọng,
mai sau cơ hội gặp pháp lần nữa sẽ rất
ít. Cơ hội tăng thượng để tiếp tục
tu tập pháp đă ít ỏi lại càng hiếm hoi hơn!
Thật sự đáng tiếc! Đối với chuyện
này, chúng ta nhất định phải sanh ư tưởng tôn
trọng.
(Kinh)
Hữu chư Bồ Tát Ma Ha Tát bối, tịnh tín tâm giả,
vị chúng sanh cố, đương cầu đa văn.
Cầu đa văn cố, đương nghệ chư
phương, thính thọ chánh pháp. Hiền Hộ! Thị cố,
bỉ chư thiện nam tử hữu dục lạc giả,
cụ túc tín tâm giả, nhiếp thọ chánh pháp giả, ái
nhạo chánh pháp giả, tổng tŕ Tu Đa La giả, vị
như thị đẳng quảng tuyên thuyết cố, dĩ
Như Lai lực gia tŕ cố.
(經)有諸菩薩摩訶薩輩。淨信心者。爲衆生故。當求多聞。求多聞故。當詣諸方。聽受正法。賢護。是故彼諸善男子。有欲樂者。具足信心者。攝受正法者。愛樂正法者。總持修多羅者。爲如是等廣宣說故。以如來力加持故。
(Kinh: Có các vị Bồ
Tát Ma Ha Tát là kẻ tín tâm thanh tịnh, v́ chúng sanh mà cầu đa
văn, hăy nên cầu đa văn. Do cầu đa văn, sẽ
đến các phương, nghe nhận chánh pháp. Này Hiền
Hộ! V́ thế, các thiện nam tử là kẻ có ham muốn
yêu thích, trọn đủ tín tâm, nhiếp thọ chánh pháp,
yêu thích chánh pháp, tổng tŕ Khế Kinh, sẽ v́ những người
như thế mà tuyên nói rộng răi, do được Như
Lai lực gia tŕ).
“Dĩ
Như Lai lực gia tŕ cố” (do được Như
Lai lực gia tŕ): Trong việc hồi thí công đức của
giáo ngôn A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề thù thắng
nhất, nếu ĺa khỏi sự gia tŕ của đức Thế
Tôn, sẽ chẳng thể thành tựu. Do đó, hết thảy
Bồ Tát Ma Ha Tát từ sơ phát tâm, cho đến chứng
đắc Đẳng Giác, Diệu Giác Bồ Tát, đều
nương vào công đức của chư Phật để
niệm niệm tăng thượng, đó gọi là “chẳng
rời niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng”. Chúng
ta là hữu t́nh trong thời Mạt Pháp, niệm nào cũng đều
nên chẳng ĺa Phật, chẳng ĺa Pháp, chẳng ĺa Tăng,
chẳng ĺa Tử, chẳng ĺa Giới. Nếu rời khỏi
cơ chế như thế, chúng ta sẽ chẳng được
Tam Bảo gia tŕ, sẽ rơi vào tri kiến thế tục,
tri kiến phiền năo, thậm chí tà kiến, ác kiến, lưu
chuyển trong tam đồ bát nạn. Điều này có thể
khiến cho các vị thiện tri thức khéo tư duy, khéo
quan sát, khéo chọn lựa.
(Kinh)
Thư tả như thị Đại Thừa kinh điển,
dĩ Như Lai ấn, ấn phong chi dĩ.
(經)書寫如是大乘經典。以如來印。印封之已。
(Kinh: Biên chép kinh
điển Đại Thừa như thế, dùng ấn của
Như Lai để đóng ấn, niêm phong).
V́ sao phải
dùng ấn của Như Lai để in vào, phong kín? Nhằm
nói rơ kinh giáo này do kim khẩu của đức Thế Tôn
tuyên thuyết, chẳng phải do người đời
sau biên soạn. Điều nhận biết này mười
phần trọng yếu! Nếu có kẻ ngờ vực, pháp
này sẽ chẳng thành. Nếu có kẻ hủy báng, kẻ đó
sẽ bị đọa lạc. Dùng ấn của Như
Lai để in vào, v́ đây là giáo ngôn chân chánh, có thể nương
vào, có thể thuận theo, có thể đọc và chép, có thể
tu tập, có thể truyền bá. “Có thể” tức là để
thủ hộ người có ḷng tin thanh tịnh, thủ hộ
người chứng pháp, thủ hộ người yêu thích
pháp, đều dùng Phật ấn, Phật lực để
gia tŕ, khiến cho chúng ta sanh khởi chánh tín và yêu mến, cung
kính và chân thành!
Cái tâm thế
tục, tâm phàm phu chẳng chân thành. Phần nhiều tùy thuộc
tánh t́nh của chính ḿnh mà phát huy, tức là trong tri kiến đắm
nhiễm mỗi người sẽ tự phát huy tánh mạng
của chính ḿnh, cho nên xoay vần trong sáu đường,
ai nấy tự hiển lộ sở đắc. Cái “sở đắc” đó thật ra là
các thứ nhân duyên khác biệt đó thôi! Như Lai Thế
Tôn v́ khiến cho các loại tạp cư hữu t́nh trong tứ
sanh cửu hữu thành tựu sức đại thiện xảo
tự tại, cho nên đă tuyên nói với chúng ta Thập
Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội,
khiến cho chúng ta lắng nghe, đọc tụng, giải
nói, tu tập thành tựu, muốn khiến cho chúng ta có thể
chứng đắc tam-muội, cho đến đa văn,
thậm chí thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề. “Ấn” chính là ấn khả, chấp thuận
tự tâm, thật sự phải nên chú ư, phải nên tư
duy điều này!
(Kinh)
Nhiên hậu an trí ư hạp tạng trung.
(經)然後安置於匣藏中。
(Kinh: Sau đó, an
trí trong hộp đựng).
Không ǵ chẳng
ngoài khiến cho chúng ta như thật tôn trọng, thủ hộ,
trân tàng. Trong quá khứ, kinh điển phải đựng
trong hộp bảy báu để khiến cho kẻ khác sanh tâm trân quư. Lại
như tụng kinh th́ phải tắm gội, rửa sạch
tay, rửa sạch mặt, súc miệng sạch sẽ v.v...
V́ sao? Chỗ nào cũng đều vun bồi cái tâm kiền
thành, tâm cung kính, cũng tức là cái tâm chân thật. Nếu
chẳng toàn tâm toàn ư, cứ tùy tiện đem kinh điển
giống như vứt bừa ở nơi nào tiện tay, tùy
ư giở đọc, bước qua, làm bẩn, quư vị làm
sao có thể đạt được pháp ích? Làm sao có thể
sanh khởi tâm tôn quư và chân thật cho được? Do vậy,
trong phần Lưu Thông này, luôn khích lệ chúng ta tôn trọng,
yêu thích pháp tắc này.
V́ tôn trọng,
yêu thích pháp tắc, khiến cho chúng ta tôn trọng và yêu thích
tự tâm. V́ tôn trọng và yêu thích tự tâm, khiến cho cái
tâm thanh tịnh. Do tâm thanh tịnh, sẽ thấy tự tánh
chân thật, thành tựu Bồ Đề. Điều này thật
ra là do nhờ vào công đức thanh tịnh rất sâu của
chư Phật để ấn khế tự tâm mà thôi! Do vậy,
nếu chẳng có sự ấn chứng tôn trọng và thanh
tịnh, khải phát thanh tịnh, chúng ta sẽ chẳng thể
biết chút phần Bồ Đề! Nghiệp tập và vọng
tưởng từ vô thỉ đến nay của chúng ta đă
chín muồi, chúng ta ở trong lục đạo mười
phần thuần thục, chẳng nhờ vào bất cứ
trợ duyên nào cũng có thể tùy ư luân hồi! Hành vi, ư thức,
và tướng quả báo của chúng ta, bất luận mỗi
ngày từ sáng đến tối làm ǵ, tư duy hay chẳng
tư duy, chọn lựa hay không chọn lựa, đều
là tiếp nối từ ngày này sang ngày khác, năm này qua năm
nọ, chẳng nhờ vào bất cứ sức nào, cứ
tự nhiên thuận lư thành chương. Nhưng đối
với pháp có ngộ hay không, được nghe hay không, chân
thành hay không, quả thật là vấn đề do chọn
lựa và phước báo có thành thục hay không?
(Kinh)
Hiền Hộ! Thị trung hà đẳng vi Như Lai ấn?
Sở vị nhất thiết chư hành vô tạo, vô tác, vô
tạo tác giả, vị tằng hữu, vô vi, vô tướng,
vô tưởng, vô y, vô nhiếp, vô thủ, vô trụ, nhất
thiết chư hạnh tận, khổ nhân tận, hữu
tận, nhất thiết phiền năo tận, vô sanh, vô diệt,
vô đạo, vô đạo quả.
(經)賢護。是中何等爲如來印。所謂一切諸行無造無作。無造作者。未曾有。無爲無相。無想無依無攝無取無住。一切諸行盡。苦因盡。有盡。一切煩惱盡。無生無滅無道無道果。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Trong ấy, những ǵ là ấn của Như Lai? Tức là
hết thảy các hành chẳng tạo, chẳng tác, chẳng
có người tạo tác, chưa từng có, vô vi, vô tướng,
vô tưởng, chẳng nương tựa, chẳng thâu
nhiếp, chẳng giữ lấy, chẳng trụ, hết
thảy các hạnh tận, khổ nhân tận, hữu tận,
hết thảy phiền năo tận, chẳng sanh, chẳng
diệt, chẳng có đạo, chẳng có đạo quả).
Hết thảy
các pháp đều là chưa từng có, nhưng dùng Phật ấn
để in vào, khiến cho chúng ta biết điều chưa
từng có. Hết thảy các pháp đều dứt bặt
đối đăi, v́ lẽ nào vậy? Do chẳng có tự
tánh, chẳng thể lặp lại. Chỉ v́ hữu t́nh phàm phu phiền năo
hư vọng nhận
biết, chấp
giữ, dùng các tri kiến cất chứa trong A Lại Da Thức
của chính ḿnh để ấn chứng, hứa khả đấy
là thiện, đấy là ác, coi là đă từng có, coi là vô kư
(chẳng thiện, chẳng ác), coi là tịnh, coi là trược,
coi là phàm, coi là thánh v.v… Vô lượng vô biên nhận biết,
chấp giữ đắm nhiễm như thế chẳng
phải là Phật ấn, mà là tạo tác phần, là hữu
lậu, là hữu vi, là chấp trước. Chấp trước
như thế, trôi lăn trong tam giới là lẽ tất
nhiên. Nhưng dùng ấn của Như Lai để in vào, đó
gọi là “hết thảy chẳng tạo tác”, đều
là chưa từng có. Do chưa từng có, cho nên “vô vi, vô
tướng, vô tưởng, chẳng
nương cậy, chẳng thâu nhiếp, chẳng giữ
lấy, chẳng trụ. Hết thảy các hành đều
tận, khổ nhân tận, hữu tận, hết thảy phiền
năo tận, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng có đạo,
chẳng có đạo quả”.
Nếu
chỉ nói tới vô sanh, chúng sanh sẽ mê muội. V́ thế,
đức Thế Tôn lần lượt dùng các thứ ngôn từ
quyền biến, hướng dẫn chúng ta nhận biết
Phật ấn, tức là chánh tín, chánh hạnh “chẳng
nhiễm, chẳng chấp, chẳng đến, chẳng đi,
bất cấu, bất tịnh”. Hết thảy các pháp vốn
vô sanh. Nói “do nhân duyên mà sanh” sẽ phá trừ, ĺa bỏ Thường Kiến và Đoạn
Kiến, khiến cho chúng ta thoát ly hai loại Biên Kiến ấy.
Đọc đoạn kinh văn này giống như đọc
Tâm Kinh, “vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề Tát Đỏa” nương theo trí huệ
môn để quan sát, trọn chẳng có một vật, quang
minh “không, tịnh”, trong ngôn thuyết thật sự
đă trừ sạch hết thảy đắm nhiễm của
chúng sanh, trừ hết thảy chấp trước của
chúng sanh, trừ hết thảy phiền năo của chúng sanh,
cũng như [phá trừ] cưỡng chấp phiền năo,
cưỡng chấp nghiệp duyên, cưỡng chấp thiện
duyên, cho đến các thứ khổ, cùng với cưỡng
chấp các thứ tạo tác khổ.
(Kinh)
Nhất thiết chư thánh, vô hữu phú tàng, ngu si sở hủy,
trí giả sở xưng, xảo giả năng thọ.
(經)一切諸聖。無有覆藏。愚癡所毀。智者所稱。巧者能受。
(Kinh: Hết thảy
các vị thánh, chẳng có vị
nào ẩn giấu, bị kẻ ngu si hủy báng, bậc
trí ca ngợi, người thiện xảo bèn có thể tiếp
nhận).
V́ kẻ
ngu si phần nhiều sanh tà kiến đoạn diệt, nói
đoạn diệt theo kiểu ngoan không, khiến cho tâm trí
của người khác bị mê loạn. V́ thế, nói “ngu
si sở hủy”, tức là hủy hoại cái tâm thanh tịnh.
C̣n “trí giả sở xưng” tức là hết thảy
người trí yêu thích, thủ hộ giáo ngôn như thế!
(Kinh)
Như Lai Thế Tôn thuyết thử kinh thời, vô lượng
chúng sanh, giai ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề, chủng chư thiện căn.
(經)如來世尊說此經時。無量衆生。皆於阿耨多羅三藐三菩提。種諸善根。
(Kinh: Khi Như Lai Thế
Tôn nói kinh này, vô lượng chúng sanh đều gieo các thiện
căn nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề).
Đây là
nói chân thật. Chúng ta nghe đức Thế Tôn nói kinh giáo như
vậy, giống như dùng ấn của Như Lai để
ấn khế tự tâm. Tuy nhất thời chưa thể
giác, vẫn c̣n nghi ngờ, băn khoăn, hoặc là ở giữa
thành thục và chẳng thành thục, nhưng cơ duyên “ư
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề chủng
chư thiện căn” (gieo các thiện căn nơi A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề) đă chín muồi,
tối thiểu là Nhĩ Căn đă được nghe. Đối
với kinh điển, kinh giáo như thế và nội hàm của
nó, chúng ta đă có thể nghe đầy đủ vẹn
toàn từ đầu đến cuối một lượt,
hoặc là thậm chí ngẫu nhiên nghe một câu, nửa lời,
nếu đă có thể thoảng qua tai, sẽ đều là
thiện căn. V́ khác với những lời thông tục,
thêu dệt, lời thô ác, cho đến lời lẽ tà kiến
trong thế tục, lời lẽ chánh giáo của chư Phật
sẽ có thể khiến cho chúng sanh đạt được
an lạc, gieo các thiện căn, thuần thục thiện
căn, cho đến ắt sẽ đạt được
Vô Thượng Bồ Đề. V́ thế,
nghe kinh pháp cho nhiều là điều rất trọng yếu.
(Kinh)
Bỉ Hằng hà sa đẳng chư Phật thế giới,
hữu vô lượng A-tăng-kỳ chư Bồ Tát Ma Ha
Tát chúng, giai tùng bổn quốc phát lai chí thử, hàm vi thính
thọ thị tam-muội giả.
(經)彼恆河沙等諸佛世界。有無量阿僧祇諸菩薩摩訶薩衆。皆從本國發來至此。咸爲聽受是三昧者。
(Kinh: Trong các thế
giới của chư Phật nhiều như cát sông Hằng,
có vô lượng A-tăng-kỳ các vị Bồ Tát Ma Ha Tát
đều từ cơi ḿnh xuất phát đến đây, đều
là v́ nghe nhận tam-muội này).
Tâm trí và
sanh mạng của hết thảy chúng sanh chênh lệch chẳng
giống nhau, biểu hiện muôn ngàn sai khác. Ở đây [đức Phật] nhắc tới các vị
Bồ Tát Ma Ha Tát từ các thế giới ở phương
khác, có sức tự tại như ư, tức sức thần
thông vô ngại, có thể từ thế giới của chính
ḿnh đến vô biên thế giới ở phương khác.
Sau đó, nương theo công đức danh hiệu của
đức Thế Tôn trong thế giới của chính ḿnh mà
quay về, giống như chúng ta niệm
danh hiệu của đức Bổn Sư A Di Đà Phật
bèn có thể sanh về bổn quốc của A Di Đà Phật.
“Giai tùng
bổn quốc phát lai chí thử” (đều từ nước
ḿnh xuất phát đến nơi đây): Đều do nghe
nói danh hiệu công đức thù thắng của Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật trong thế giới Sa Bà, cho đến
sự giáo hóa chẳng thể nghĩ bàn của tam-muội này.
Do nhân duyên ấy mà từ nước ḿnh ra đi, tới cơi
này để thấy Phật, nghe pháp. Các vị Đại
Bồ Tát Ma Ha Tát ấy đă từ vô lượng kiếp
tới nay siêng tu các loại pháp, đối với Ban Châu tam-muội,
hoặc c̣n gọi là Thập
Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, đều thuần thục vô ngại.
Do đó, khi xưng danh hiệu Phật, liền gặp Phật: Nhân chính là quả, quả chính
là nhân, đạt được phương tiện có thể
thấy Phật, nghe pháp. Bồ Tát trong thế giới Sa Bà
muốn đến thế giới phương khác để
thấy Phật, nghe pháp, cũng phải xưng danh hiệu
công đức của chư Phật trong thế giới phương
khác. Nay chúng ta hướng tới, quan sát, tu tập, yêu thích,
lắng nghe pháp tắc này. Trước kia, tôi ở tại
một ngôi chùa thuộc tỉnh Hà Bắc, gặp một vị
cư sĩ. Vị này niệm vị Phật nào, h́nh tượng
của vị Phật ấy sẽ hiện tiền. Chẳng
hạn như khi lạy tám mươi tám vị Phật
[trong Hồng Danh Bảo Sám], niệm đến vị Thế
Tôn nào, h́nh tượng, biểu cảm, cho đến động
tác của vị Thế Tôn ấy đều hiện tiền.
Tôi hỏi ông ta: “Các vị Phật
khác nhau có ǵ khác biệt?” Ông ta nói: “Chủ yếu là tay kết
ấn khác nhau, tướng âm thanh hơi khác nhau”. Đấy
có thể là cách nói của ḿnh ông ta, tôi cũng chẳng biết,
cũng chưa từng thấy. Nếu thật sự đích
thân chứng Niệm Phật tam-muội th́ trông thấy chư
Phật cũng chẳng phải là chuyện khó, v́ sao? Mười
phương Bồ Tát Ma Ha Tát đă sớm đích thân chứng
pháp tắc như thế, cho đến đức Thế Tôn
cũng nói: Đối với sự giáo hóa này, tôn giả Ma
Ha Ca Diếp đă thành tựu pháp này để khiến cho
người đời sau có chỗ để nương
theo.
Hiện
thời, chúng ta đang ở trên núi Kê Túc là chỗ tôn giả
Ca Diếp đang giữ y [của Phật Thích Ca], nhập
Định [chờ Phật Di Lặc giáng thế], chúng ta đă
được tôn giả Ca Diếp nhiếp hóa bởi quang
minh từ công đức chân thật của Thập
Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội,
vậy th́ cớ sao chẳng yêu thích, tu tập pháp tắc này?
Nếu chẳng yêu thích, tu tập, cứ đợi các nhân
duyên khác, mong cho thiện căn chín muồi, vẫn chẳng biết sẽ
là như thế nào? V́ trong pháp tắc thế tục, luyện
thép th́ cần phải dùng ḷ luyện thép. Nếu dùng các loại
ḷ khác, sẽ rất khó luyện thành thép rất tốt! V́
thế, đối với sự tu tŕ của phàm phu hữu
t́nh, nói theo h́nh tướng thế tục, sẽ rất quan trọng, nói theo trợ
duyên, sẽ là hết sức quan trọng. Thậm chí là có mức
độ quan trọng chẳng thể thay thế được!
(Kinh)
Bỉ bối giai đắc bất thoái chuyển ư A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thử thời, tam
thiên đại thiên thế giới, nhất thiết đại
địa lục chủng chấn động.
(經)彼輩皆得不退轉於阿耨多羅三藐三菩提。時此三千大千世界。一切大地六種震動。
(Kinh:
Bọn họ đều đắc bất thoái chuyển nơi
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Khi đó, hết
thảy đại địa trong tam thiên đại thiên thế
giới sáu thứ chấn động).
Khi đức
Thế Tôn nói giáo pháp liễu nghĩa rốt ráo, lợi ích rộng
khắp hữu t́nh trong pháp giới. V́ thế, hết thảy
các thế giới đều có sáu loại chấn động,
hoặc là mười tám loại chấn động, rúng động
hết thảy thế gian, cảm động hết thảy
thế gian, nhuần thấm hết thảy thế gian, thuần
thục thiện căn của hữu t́nh trong hết thảy các thế gian, muốn khiến cho hết
thảy hữu t́nh đang mê muội, trơ ĺ, trầm luân
sẽ thức tỉnh, giác ngộ, thoát khỏi tâm trí u ám,
tối tăm. V́ thế, “chấn động” chính là
tướng đại quang minh chiếu trọn khắp, là
tướng thức tỉnh chúng sanh, là tướng cảm
động thế gian.
(Kinh)
Sở vị động, đại động, đẳng
biến động.
(經)所謂動大動等遍動。
(Kinh: Tức là động,
đại động, đẳng biến động).
Trong mỗi
thứ “động”, lại có ba loại động,
cho nên cũng nói là mười tám loại chấn động.
Chẳng biết mọi người đă từng thể
nghiệm loại chấn động này hay không? Trong kinh giáo,
có ghi chép như thế này: Nhằm lúc trong thế giới này
và thế giới ở phương khác có thiện tri thức
xuất thế, hoặc nhằm lúc có thiện tri thức chứng
đắc thánh quả, hoặc vị nào thuộc địa
vị Bồ Tát chứng đắc các phương tiện
Thiền Định, hay phương tiện sức thần
thông, mười phương thế giới sẽ cùng lúc
chấn động, phóng đại quang minh. [Khi đó], tất
cả những vị đă có các môn Thiền Định, các
vị đă đắc thánh quả, đều dùng trợ
duyên tán thán hy hữu, tán thán “thiện tai” (lành thay). Như
khi Thích Ca Phật Thế Tôn xuất thế, mười
phương chư Phật đều đến tán thán.
Khi Ngài thành đạo cũng lại như thế, mà vị nào chứng đắc
Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả, Tứ Quả, cho đến
chứng quả trong các giai vị Bồ Tát, cũng đều
đạt được các thứ oai đức và phương
tiện cảm động thế gian. Ở chỗ này, chẳng
cần phải nhờ vào ngôn thuyết!
Khi thầy
Đại Hùng hành Ban Châu chín mươi ngày ở Đông Bắc,
lúc xuất quan, toàn thể trời đất đều là
màu trắng tinh, điềm chứng đắc ấy mười
phần hy hữu, v́ nội hàm và công đức của chín
mươi ngày tu tập có thể cảm động rất nhiều
hữu t́nh trong thế gian. Nếu thật sự hành pháp, như
đạo tràng Hằng Dương Am này, cũng sẽ cảm
động rất nhiều vị thiện tri thức có
Thiền Định, có phước đức đều
dùng sức phước đức
của chính ḿnh để nghĩ tưởng nơi này, cổ
vũ cho đạo nghiệp ở nơi này được
thành thục. Đương nhiên, người biết tự
biết, người chẳng biết sẽ chẳng tự
biết, người có thể thấy, có được phương
tiện để trông thấy. Người chẳng thấy,
nếu có thể tín thuận, cũng đạt được phương tiện
lợi lạc, nhưng nếu chúng ta đối với công
đức thù thắng ấy, gia tŕ oai đức thù thắng
ấy lại chẳng cho là thù thắng th́ chuyện ấy
cũng sẽ chẳng thù thắng. Nếu dè bỉu th́ chuyện ấy [đối
với kẻ đó] cũng trở thành đáng dè bỉu!
V́ thế,
sự chấn động này quả thật là lúc [các vị có trí, thánh nhân trong tam thiên đại
thiên thế giới] bị cảm động, là tướng
khích lệ, là sự biểu đạt chân thật của
căn cơ chín muồi. Trước kia, tôi cho
rằng chuyện này có thể là do oai đức trong Phật
pháp. Về sau, tiếp xúc với một vị Bồ Tát trong
Đạo gia đă đạt thành tựu nhất định.
Ông ta cho biết trong Đạo gia, khi họ chứng đắc
quả vị, đại địa cũng nghiêng ngửa,
chấn động y hệt. Có người nói trong quá tŕnh
kinh hành Ban Châu, đại địa cũng rúng động.
Có phải là giống như thế hay không? Có liên quan đến
chuyện chứng quả hay chăng? Cứ để mặc
đó, nhưng nó có thể cảm động thế gian.
Hơn nữa, pháp Ban Châu cảm động thế gian rộng
lớn trọn khắp. Nếu chúng ta cảm kích Tam Bảo,
dùng cái tâm cảm ơn để tu tập, duy tŕ pháp tắc
này, sẽ là rất chẳng thể nghĩ bàn. Nếu dùng
tâm kiêu mạn, tâm tà kiến để hành pháp này, sẽ bị
nguy hại rất lớn. V́ thế, trong cơ chế tuyên
truyền hoặc truyền bá pháp này, cứ nhắc đi nhắc
lại, yêu cầu chúng ta, cứ
nhiều lượt nhắc nhở chúng ta, phải xa ĺa kiêu
mạn, phải thanh tịnh, điều phục, nhu thuận.
Đấy là điều trọng yếu hàng đầu. Nhưng
pháp này lại cực dễ khiến cho người ta sanh
khởi cái tâm kiêu mạn, v́ có thể xuất sanh nhiều
loại công đức và thiện xảo. Hễ một khi
kiêu mạn, sẽ bị hại. Khi ấy, đâm ra chẳng
bằng kẻ tầm thường! Đó quả thật là
chỗ lợi ích to lớn và chỗ nguy hại to lớn
trong pháp này, các vị thiện tri thức nhất định
phải tự khéo quan sát, tự khéo tư duy.
(Kinh)
Dũng, đại dũng, đẳng biến dũng, khởi,
đại khởi, đẳng biến khởi, chấn, đại
chấn, đẳng biến chấn, hống, đại hống,
đẳng biến hống, giác, đại giác, đẳng
biến giác.
(經)湧大湧等遍湧。起大起等遍起。震大震等遍震。吼大吼等遍吼。覺大覺等遍覺。
(Kinh:
Dũng, đại dũng, đẳng biến dũng, khởi,
đại khởi, đẳng biến khởi, chấn, đại
chấn, đẳng biến chấn, hống, đại hống,
đẳng biến hống, giác, đại giác, đẳng
biến giác).
Sáu loại
chấn động ấy[3] được
hiển lộ theo thứ tự, có trạng thái mỗi thứ
sau cao hơn [thứ trước]. Sáu loại chấn động
là nói chung, nói tách ra th́ có mười tám loại, như nói “đại,
đẳng, biến”, thật sự cảm động
thế gian. Chúng ta chớ nên khinh miệt hoặc tự phụ
về đối với chuyện đạt được
lợi ích nơi pháp tắc hay không, chỉ xét coi có lợi
ích thế gian hay không, chỉ xét coi có thật sự cảm
động hay không. Trong kinh điển nhà Phật, thường
có cách nói sung măn như “cảm động sung măn”, hoặc
“đại hỷ sung măn” v.v… Thật ra, khi lợi ích
sung măn, sẽ cảm thấy chấn động, vui sướng,
hữu lực tràn trề. Trong Tạng truyền Phật
giáo, đă đặc biệt nêu ra tám loại “nội thọ
dụng”; trong đó, sung măn thọ dụng là loại thọ
dụng bậc nhất. Bản thân trông thấy quang tướng
và oai đức, sức lực trọn đủ, thiện
xảo đầy đủ, chẳng phải là nói suông, chẳng
phải là hư luận, mà là nội hàm như thật, công đức
chân thành cảm động thế
gian.
(Kinh)
Năi chí biên dũng trung một, trung dũng biên một. Thời
thử thế giới như thị đại động.
(經)乃至邊湧中沒中湧邊沒。時此世界如是大動。
(Kinh: Cho đến
ngoài ŕa dâng lên, chính giữa ch́m xuống, hoặc chính giữa
dâng lên, ngoài ŕa ch́m xuống. Khi đó, thế giới này chấn
động to lớn như thế).
Đại
động như thế, trên thực tế là v́ khi Phật
Thích Ca tuyên nói pháp này đă cảm động thế giới. Như Thích
Ca Mâu Ni Phật dưới cội Bồ Đề, ở
trên ṭa Kim Cang trải cỏ cát tường, phát ra thệ
nguyện “chẳng chứng A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề, sẽ không rời khỏi ṭa”, ngay
lập tức đại địa chấn động. V́
thế, ma cung nứt rách, tan hoại. Do vậy, Ba Tuần
liền t́m kiếm xem phương nào có Bồ Tát sắp chứng
Bồ Đề, phát ra đại thệ nguyện, khiến
cho các ma sanh ḷng sợ hăi, cho nên hắn cố ư đến
khiêu chiến. Có người nói quá tŕnh tu tập pháp của
chính ḿnh thuận buồm xuôi gió; thật ra, chính là người tu tập gặp
nhiều thử thách, nhưng khi trừ được thử
thách th́ sẽ chính là tướng thành
tựu các pháp, cũng có nghĩa là một khi vượt
qua, sẽ ở ngay chỗ đó mà đạt phương
tiện thành tựu, do quán tự tánh vô sở đắc,
chẳng sợ hăi. Do vậy, có thể vượt qua!
Hiện
thời, người tu tập gặp nhiều duyên trái nghịch
mà sanh ḷng sợ hăi, do gặp duyên trái nghịch mà sanh áo năo,
do gặp duyên trái nghịch mà phỉ báng Phật pháp; đúng
là đă đánh mất đại lợi của Phật pháp
trong hiện tiền. Nhiều hữu t́nh hễ đả
thất, hễ niệm Phật, hễ tụng kinh liền
có chuyện chi đó xảy đến, bệnh cũng đưa
đến, phiền năo cũng đưa tới, gia đ́nh xảy ra vấn
đề, b́nh thường th́ chuyện ǵ cũng đều thuận lợi, rất tốt
đẹp! Chuyện này tùy thuộc chúng ta ở trong Phật
pháp, sẽ nương theo lợi ích của Phật pháp để
triệt để giải quyết các thứ chướng,
nghiệp chướng, phiền năo chướng, sở tri
chướng từ vô thỉ tới nay như thế nào! Các
chướng ấy chính là ma chướng. Khiến cho chúng
nó bị tiêu trừ, sẽ có thể thật sự đích
thân chứng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề,
sẽ đạt được pháp vô ngại, đạt
được trí vô ngại, phương tiện vô ngại.
Đối với điều này, phải nên tư duy, phải
nên quan sát.
V́ thế,
gặp nạn duyên trong hành pháp, thật sự là chỗ thù
thắng. Các vị thiện tri thức trong quá khứ đều
nhận định như thế, vậy mà người hiện
thời hễ gặp nạn duyên bèn tích cực trốn tránh,
hoặc sanh nhiều nỗi oán hận, hoặc lắm điều
chửi bới, thật là đáng tiếc! Lợi ích Phật
pháp hiện tiền, kết quả là báng Phật. Đúng là
thiện căn chẳng chín muồi, đúng là chuyện đáng
tiếc nuối! Nhưng người chẳng sợ hăi, yêu
thích Phật pháp, thật sự biết Phật pháp, ngay khi
nguy nan hiện tiền, sẽ biết là đại lợi
hiện tiền. Khi đó, bèn tán thán đức Thế Tôn,
tán thán Tam Bảo, nghiệp duyên như thế sẽ ngay lập
tức tiêu trừ, sẽ đạt được vô
thượng đại lợi. Sau đấy, lại gặp
chuyện kiểu đó, sẽ chẳng bị chướng
ngại tí nào! Trong các pháp tu, hễ thiện căn có chút chín
muồi, tất nhiên là nạn duyên sẽ hiện tiền.
Ai nấy đều là như thế, chẳng phải là riêng
một ai! Trong toàn bộ quá tŕnh thành đạo của Phật
Thích Ca, cùng với bảy lần bảy bốn mươi
chín ngày dưới cội Bồ Đề, phần nhiều
cũng là thị hiện. Kinh nghiệm thành Phật dưới
cội Bồ Đề của Phật Thích Ca thật ra là
kinh nghiệm về ma nạn đó thôi. Vượt qua các ma
nạn càng nhiều, càng triệt để thấy rơ các ma
nạn chẳng có tự tánh, xét kỹ bằng trí huệ, đích
thân chứng Bồ Đề. V́ thế, hễ dụng công
đôi chút, sẽ có người đến gây duyên chướng
ngại, nếu tán Phật sẽ vượt qua, hễ nghi
Phật, sẽ trầm trệ nơi đó. Báng Phật sẽ
bị nguy hại. Điều này rất rơ ràng, các vị thiện
tri thức phải nên khéo quan sát nhân duyên học pháp.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn cáo tôn giả Ma Ha Ca Diếp.
(經)爾時世尊。告尊者摩訶迦葉。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo tôn giả
Ma Ha Ca Diếp).
Trong khi
Di Lặc Hạ Sanh, cho đến trong khá nhiều kinh giáo,
đều ghi chép khi Thích Ca Thế Tôn sắp nhập diệt,
đă đem chánh pháp nhăn tàng chúc lụy cho tôn giả Ca Diếp.
Cho đến đem y bát Ngài đang dùng, dặn ḍ tôn giả
Ca Diếp hăy khéo thủ hộ, chờ đến năm
mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm sau, khi Di Lặc
Thế Tôn giáng thế, sẽ truyền cho Di Lặc Thế
Tôn, và cũng ủy thác tôn giả Ca Diếp căn dặn
Di Lặc Thế Tôn bốn câu kệ, tức “pháp bổn
pháp vô pháp, vô pháp pháp diệc pháp, kim phó vô pháp thời, pháp pháp
hà tằng pháp”[4]. V́ thế,
tôn giả Ca Diếp quả thật đă đại diện
cho tướng chánh pháp trụ thế, tướng chánh pháp
tồn tại, là tướng lănh thọ ấn khế của
vị lai Phật, là tiêu chí trong Phật pháp.
Nay chúng
ta vào núi Kê Túc, vào đạo tràng “giữ y, nhập định”
thù thắng của tôn giả Ca Diếp như thế, phải
nên cảm nhận là chuyện mười phần may mắn.
Nếu chẳng cho là đúng, đă có nhiều khảo chứng,
quư vị có thể tự tham khảo. Nếu là người
có tín tâm, sẽ tự đạt được tín tâm an ủi,
nhưng các vị thiện tri thức từ xưa tới
nay, không chỉ là Hán truyền Phật giáo, Tạng truyền
Phật giáo, Nam truyền Phật giáo, mà những vị thiện
tri thức đạt Thiền Định ở một mức
độ nhất định, có chứng ngộ nhất định,
sẽ đều cung kính, mến thích, kính ngưỡng chẳng
nghi đối với núi Kê Túc, tâm thường nghĩ tưởng,
lễ kính phương vị ấy. Lời này chẳng
khoa trương chút nào, cũng có thể là chúng ta đang ở
nơi đây chẳng cho là đúng, đó gọi là “đang
hưởng phước mà chẳng biết phước”,
chắc là như thế đó!
(Kinh)
Tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Mục Kiền Liên,
tôn giả A Nan.
(經)尊者舍利弗。尊者目犍連。尊者阿難。
(Kinh:
Tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Mục Kiền Liên,
tôn giả A Nan).
Tôn giả
Ca Diếp, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Mục Kiền
Liên, tôn giả A Nan, đấy là tứ đại đệ
tử của đức Phật Thích Ca, đại diện
cho hết thảy bậc Thượng Thủ của chúng Thanh
Văn. Nếu chúng ta xem lời thọ kư của Phật Thích
Ca dành cho các vị ấy sẽ biết: Tuy các Ngài là bậc Thượng Thủ
của hàng Thanh Văn, thật ra, đă sớm thành Phật
ở phương khác, hoặc đă sớm trụ nơi địa
vị Bất Thoái Chuyển Đại Bồ Tát ở phương
khác, dùng thân đại Bồ Tát nhiếp hóa thế gian,
nhưng do người trong thế giới Sa Bà thọ trăm
tuổi rất nhơ bẩn, bèn hiện thân Thanh Văn
để giúp Phật Thích Ca giáo hóa, hoằng truyền giáo
pháp thù thắng của đức Thế Tôn, khiến cho pháp
trụ thế. Phải nên lư giải sự thị hiện
này như thế nào? Vẫn là nói “thiên lư giang thủy, thiên
giang nguyệt” (ngàn dặm nước sông, ngàn bóng trăng).
V́ các vị thánh nhân giống như vầng trăng, tỏa
ra quang minh thanh tịnh, trong một ngàn thế giới, trong
trăm thế giới, nếu có chỗ nào có nước đều
có thể soi bóng. Nước đục cũng có thể
chiếu rọi vầng trăng rạng rỡ ấy. Ngũ
trược ác thế giống như nước đục,
mà quang minh thánh oai, thánh đức của bậc thánh nhân chiếu
soi toàn thể pháp giới, trong mỗi thế giới đều
chiếu rọi, đều vận dụng.
(Kinh)
Cập Hiền Hộ Bồ Tát, Bảo Đức Ly Xa Tử,
Thương Chủ trưởng giả, Tinh Đức trưởng
giả tử, Vĩ Đức Ma Nạp, Thủy Thiên trưởng
giả đẳng, ngũ bách chúng nhân, tịnh dư chư
thiên, thế nhân, tứ bộ
chúng đẳng ngôn.
(經)及賢護菩薩。寶德離車子。商主長者。星德長者子。偉德摩納水天長者等。五百人衆。並餘諸天世人。四部衆等言。
(Kinh: Và Hiền Hộ
Bồ Tát, Bảo Đức Ly Xa Tử, trưởng giả
Thương Chủ, trưởng giả tử Tinh Đức,
trưởng giả Vĩ Đức Ma Nạp Thủy Thiên
v.v… năm trăm người, và các chư thiên, người
đời khác, bốn bộ chúng rằng).
“Chư
thiên” ở đây là nói chung, v́ trong Tự Phần đă
ghi chép cặn kẽ rộng khắp các vị trời Trúc
Lâm Tinh Xá nghe pháp. “Tứ bộ chúng đẳng”: Bốn
bộ tức là các tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di,
tức những người được gọi là Phật
giáo đồ. Từ chỗ này có thể thấy, khi đức
Thế Tôn thuyết pháp, không chỉ có Phật giáo đồ,
mà thật sự là toàn thể Diêm Phù Đề, hoặc [nói
rộng hơn] là tuyên nói trong thế giới Sa Bà, tức tam
thiên đại thiên thế giới. Thường là người
học Phật chúng ta xem nhẹ điều này. Ba Tuần
tuy ngăn trở đức Thế Tôn giáo hóa khắp nơi,
nhưng do oai đức của đức Thế Tôn, hắn
cũng đến dự pháp hội. Tuy là hiện đủ
loại nguy nan, nhưng đức Thế Tôn khéo hướng
dẫn, giáo hóa, khiến hắn phát Bồ Đề tâm. Ba
Tuần cũng phát Bồ Đề tâm, do đại oai đức
của đức Phật, chiếu thấu triệt tâm trí
của hết thảy hữu t́nh trong thế gian, cho đến
tâm trí của chúng sanh ma vương, đức Thế Tôn cũng
khiến cho họ tâm khai ư giải. Trong giáo ngôn rốt ráo,
chắc chắn là thí giáo như thế.
(Kinh)
Ca Diếp.
(經)迦葉。
(Kinh: Này Ca Diếp!)
Ở đây,
lấy ngài Ca Diếp làm đối tượng để
chúc lụy. V́ thế, chúng ta ở đạo tràng của
ngài Ca Diếp tại núi Kê Túc này, nếu quư vị cảm
thấy may mắn, sẽ nhận được sự gia
tŕ bất cộng. Nếu cảm thấy b́nh thường,
sẽ có nhân duyên b́nh thường!
(Kinh)
Ngă kim dĩ thị tam đại A-tăng-kỳ kiếp tu
thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề pháp, phó
chúc nhữ đẳng.
(經)我今以是三大阿僧祇劫修成阿耨多羅三藐三菩提法。付囑汝等。
(Kinh:
Ta nay đem pháp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề
do ba đại A-tăng-kỳ kiếp tu thành, phó chúc cho các
ông).
Đương
nhiên là các vị trời, người, Thanh Văn, Bồ
Tát đă được nhắc đến trước đó
đều thuộc vào đối tượng được
chúc lụy. Chẳng biết vị Bồ Tát nào đang hiện
diện tại đây đă lănh nhận sự phó chúc này trong
thuở đức Thế Tôn c̣n tại thế?
(Kinh)
Như thị đẳng nghĩa, nhất thiết thế
gian sở bất năng tín. Hà dĩ cố? Như Lai sở
thuyết Tu Đa La, tối thắng vi diệu, đệ
nhất thậm thâm, ư đương lai thế, năng
dữ nhất thiết chúng sanh A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề. Thị cố, ngă kim ân cần chúc nhữ,
nhữ đương thính thọ, nhữ đương độc
tụng, nhữ đương ức tŕ, nhữ đương
tư duy, nhữ đương tu hành.
(經)如是等義。一切世間所不能信。何以故。如來所說修多羅。最勝微妙。第一甚深。於當來世。能與一切衆生阿耨多羅三藐三菩提。是故我今殷勤囑汝。汝當聽受。汝當讀誦。汝當憶持。汝當思惟。汝當修行。
(Kinh: Các nghĩa như
thế, hết thảy thế gian đều chẳng thể
tin. V́ sao vậy? Tu Đa La do Như Lai đă nói vi diệu,
thù thắng nhất, rất sâu bậc nhất, trong đời
tương lai có thể ban A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề cho hết thảy chúng sanh. V́ thế, ta nay ân cần
căn dặn ông, ông hăy nên nghe nhận, ông hăy nên đọc
tụng, ông hăy nên nghĩ nhớ, ǵn giữ, ông hăy nên tư
duy, ông hăy nên tu hành).
Đây thật
sự là căn dặn chúng ta, chúng ta biết tôn giả Ca
Diếp chính là bậc thành tựu pháp này, v́ sao vẫn phải
nói “nhữ đương tu hành” (ông nên tu hành)? Mọi
người hăy tự khéo quan sát.
(Kinh)
Nhữ đương khai phát, nhữ đương quảng
tuyên, nhữ đương giải thích, nhữ
đương tận thiện, nhữ đương lưu
bố, vật linh đoạn tuyệt.
(經)汝當開發。汝當廣宣。汝當解釋。汝當盡善。汝當流佈。勿令斷絕。
(Kinh: Ông hăy nên khai
phát, ông hăy nên tuyên nói rộng răi, ông hăy nên giải thích, ông hăy
nên trọn hết điều thiện, ông hăy nên truyền
bá, đừng để đoạn tuyệt).
Thật
sự dặn bảo tôn giả Ca Diếp, cho đến các
vị thiện tri thức, các hữu t́nh, trong đời Mạt
Pháp thuở vị lai, mong cho pháp này được lưu truyền
rộng khắp, khai phát, có thể khiến cho chúng sanh tín
giải, tu tập, thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề.
(Kinh)
Phục thứ A Nan! Nhược hữu chư thiện nam
tử, thiện nữ nhân, niệm dục tu tập thử
tam-muội kinh giả, dục độc tụng giả, dục
thọ tŕ giả, dục tư duy giả, dục khai thị
giả, dục quảng thuyết giả, đương ưng
linh tha sanh chánh tín cố, linh tha độc tụng cố,
linh tha thọ tŕ cố, linh tha tư duy cố, linh tha khai
thị cố, linh tha quảng thuyết cố, ngă kim vi bỉ
an trụ Đại Thừa.
(經)復次阿難。若有諸善男子善女人。念欲修習此三昧經者。欲讀誦者。欲受持者。欲思惟者。欲開示者。欲廣說者。當應令他生正信故。令他讀誦故。令他受持故。令他思惟故。令他開示故。令他廣說故。我今爲彼安住大乘。
(Kinh: Lại này A Nan!
Nếu có các thiện nam tử, thiện nữ nhân, nghĩ
muốn tu tập kinh tam-muội này, muốn đọc tụng,
muốn thọ tŕ, muốn tư duy, muốn khai thị, muốn
rộng nói, hăy nên khiến cho người ấy sanh chánh tín,
khiến cho người ấy đọc tụng, khiến
cho người ấy thọ tŕ, khiến cho người ấy
tư duy, khiến cho người ấy khai thị, khiến
cho người ấy tuyên thuyết rộng răi, ta nay khiến
cho người ấy an trụ trong Đại Thừa).
Khiến
cho chúng sanh đạt được pháp ích như thế,
đọc tụng, thọ tŕ, tư duy, khai thị, rộng
nói v.v… do nhân duyên ấy mà an trụ trong Đại Thừa.
(Kinh)
Chư thiện nam tử, thiện nữ nhân bối, quảng
khai phát dĩ, đương như thị học, thường
đương niệm ngă như tư giáo sắc.
(經)諸善男子善女人輩。廣開發已。當如是學。常當念我如斯教敕。
(Kinh:
Các vị thiện nam tử, thiện nữ nhân đă rộng
khai phát rồi, hăy nên học như thế, thường nên
nghĩ đến ta đă sắc truyền như thế).
Cũng có
nghĩa là mọi người đừng quên mất lời
căn dặn này.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn thuyết thị kinh dĩ, tôn giả
Ma Ha Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền
Liên, A Nan, tự dư nhất thiết chư đại Thanh
Văn, cập bỉ Hiền Hộ, Bảo Đức, Thiện
Thương Chủ, Tinh Đức, Vĩ Đức, Thủy
Thiên trưởng giả đẳng ngũ bách ưu-bà-tắc
chúng. Cập bỉ tùng thập
phương tha Phật quốc độ chư lai Bồ Tát
Ma Ha Tát chúng, năi chí nhất thiết thiên, long, quỷ thần,
nhân phi nhân đẳng, bỉ văn Như Lai thuyết, giai
đại hoan hỷ, phụng giáo tu hành.
(經)爾時世尊說是經已。尊者摩訶迦葉舍利弗大目犍連。阿難。自餘一切諸大聲聞。及彼賢護寶德善商主星德偉德水天長者等五百優婆塞衆。及彼從十方他佛國土諸來菩薩摩訶薩衆。乃至一切天龍鬼神人非人等。彼聞如來說。皆大歡喜。奉教修行。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói kinh này xong, tôn giả
Ma Ha Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền
Liên, A Nan, cùng với hết thảy các vị đại Thanh
Văn, và Hiền Hộ, Bảo Đức, Thiện Thương
Chủ, Tinh Đức, Vĩ Đức, trưởng giả
Thủy Thiên v.v… năm trăm vị ưu-bà-tắc, cùng với
các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đến từ các quốc
độ khác của chư Phật trong mười phương,
cho đến hết thảy trời, rồng, quỷ thần,
nhân phi nhân v.v… Họ nghe đức Như Lai nói đều
hết sức hoan hỷ, vâng theo lời dạy tu hành).
Thông thường
trong phần kết thúc của kinh giáo đều nhắc
nhở chúng ta như thế này, “giai đại hoan hỷ,
phụng giáo tu hành” (đều hết sức hoan hỷ,
vâng theo lời dạy mà tu hành), hoặc “y giáo phụng hành”.
Phụng giáo tu hành là lời căn dặn trọng yếu
nhất, lưu truyền quan trọng nhất, bảo ban
quan trọng nhất, mà cũng là lời kết thúc cuối
cùng mà mỗi cá nhân trong đại chúng hiện tiền phải
nên y giáo tu hành, và cũng là ấn khế cuối cùng dành cho
chúng ta. Do vậy, “phụng giáo tu hành” là chỗ sự
quy kết tột cùng của toàn thể những người
nghe pháp chúng ta, cũng là cơ duyên to lớn rốt cục
của việc nghe pháp này.
Chúng ta đă
giảng phẩm Hiền Hộ trong kinh Đại Tập,
thông qua gần một tháng học tập, luyện tập
một lượt, do được chư Phật và Tam Bảo
gia bị, có thể kết nhân duyên “chẳng thoái chuyển”
nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề với
mọi người, khiến cho chúng ta cùng sanh An Dưỡng,
cùng thành Bồ Đề! Cám ơn mọi người, pháp
hội tới đây đă viên măn!
Đại Phương Đẳng Đại
Tập
Hiền Hộ Kinh giảng kư
hết
[1] Phật giáo được truyền vào Tây
Tạng dưới thời vua Songtsan Gampo (618-649), nhưng chỉ giới hạn
trong cung đ́nh. Đây là giai đoạn h́nh thành chữ viết
Tây Tạng dựa trên văn tự Ấn Độ. Măi cho
đến thế kỷ thứ tám, dưới thời vua
Trisong Detsen (755-787), vua thỉnh các học giả Ấn Độ
sang truyền giáo. Trong số đó có hai vị lỗi lạc
nhất là Liên Hoa Sanh (Padamashambava) và Tịch Hộ (Śāntarakṣita, vị này
chuyên dạy về Trung Quán). Liên Hoa Sanh đại sư chuyên
dạy về Mật Tông, và được coi là sáng tổ
của Phật giáo Tây Tạng. Các giáo pháp, kinh điển
truyền thừa trong thời kỳ này được gọi
là Cựu Mật, và được kế thừa bởi tông
phái Cổ Mật (Nyingmapa). Đến thời vua Langdarma
(836-842), tuy chỉ làm vua trong sáu năm, nhà vua đă bức
hại Phật giáo, khiến cho nguyên khí của Phật giáo
Tây Tạng bị tổn hoại nghiêm trọng. Sau cái chết
của nhà vua, chế
độ phong kiến tập quyền trung ương
tan ră, nội loạn triền miên, các lạt-ma của Cổ Mật đa phần sống
theo lối thế tục, để tóc, cưới vợ,
sinh con, và giáo pháp có sự pha tạp các tín ngưỡng bản
địa. Năm 1042, tôn giả Atisha (982-1054) được
mời đến Tây Tạng để phục hưng giáo
pháp. Các truyền thừa của Ngài được gọi
là Sarma (tân dịch). Trong thời kỳ này, các thiện tri
thức Tây Tạng cũng sang Ấn Độ để cầu
học và từ đó, h́nh thành phái Sakya
(sáng lập bởi Khon Konchok Gyelpo, người đứng đầu phái này vẫn là tại gia, và người
đứng đầu luôn là con cháu ḍng họ Khon). Một
vị học giả khác là Marpa sang Ấn
Độ cầu pháp với đại thành tựu giả
Tilopa. Marpa có đệ tử tâm đắc
là Milarepa. Đệ tử của Milarepa là tỳ-kheo Gamgopa
là người sáng lập ḍng tu Kargyupa. Phái Kargyupa có nhiều chi phái, nhưng hiện thời, tại
Tây Tạng, chi phái Kargyupa lớn nhất là Karma-Kargyupa. Sau này, nhà cải
cách tôn giáo Tsongkhapa vốn theo học với
phái Sakyapa, đă chọn lọc các tinh hoa của Mật Giáo
từ ba tông phái trên, nhấn mạnh vấn đề giới
luật và Trung Quán, đă sáng lập ḍng tu Gelugpa (phái của Đại
Lai Lạt Ma).
[2] Công án văng sanh tức là tranh luận không cần
văng sanh Cực Lạc mà văng sanh Di Lặc Nội Viện, văng
sanh Hoa Tạng thế giới, văng sanh cơi Diệu Hỷ của
A Súc Bệ Phật v.v…
Biệt thời ư (Kālāntarābhiprāya) thoạt đầu
chỉ đơn giản có nghĩa là Như Lai nói pháp dựa
theo nhân duyên để khuyến hóa chúng sanh giải đăi sẽ
tinh tấn, chẳng hạn như nói tŕ tụng danh hiệu
Phật Đa Bảo sẽ chắc chắn chẳng thoái
chuyển Vô Thượng Bồ Đề. Người ấy
không thể ngay lập tức chẳng thoái chuyển
được, nhưng việc tŕ tụng
ấy sẽ tạo nhân duyên tốt lành cho người ấy
không thoái chuyển trong quá tŕnh tu tŕ. Hoặc như kinh Pháp
Hoa nói trẻ nhỏ gom cát làm tháp, dùng móng tay vẽ h́nh Phật, người vào tháp
miếu, giơ tay cúi đầu đều thành Phật, đều
là những cách nói biệt thời ư. Về sau, khi giảng
giải Tịnh Độ, một số vị đă đi
quá xa, cho rằng tín nguyện niệm Phật văng sanh trong một
đời cũng là biệt thời ư, hành nhân không thể văng
sanh ngay trong một đời v.v… Hoặc cho rằng Cực
Lạc là quyền tạm, niệm Phật văng sanh chỉ là
cách nói khuyến hóa để hành nhân đạt tới nhất
tâm tịnh ư ḥng tiếp tục tấn
tu trong đời kế tiếp…
“Nan hành và dị hành”
là tranh luận so với các pháp môn khác, Tịnh Độ là
dễ hành, các pháp khác là khó hành. So trong các pháp niệm Phật
th́ tŕ danh là dễ hành, quán tưởng, thật tướng
v.v… là khó hành.
“Tự lực và
tha lực” là tranh luận chỉ cần tin vào bổn nguyện
và phát nguyện văng sanh là đủ, hoàn toàn trông cậy vào A
Di Đà Phật tiếp dẫn, không cần phải gắng
sức niệm Phật, đoạn trừ phiền năo, tịnh
hóa cái tâm… Những người theo chủ trương này kết
án những người tin tưởng tu Tịnh Độ
phải có ba tư lương “tín, nguyện, hạnh” là tu theo lối tự lực, hoàn toàn phủ
nhận sức tiếp dẫn của A Di Đà Phật. Thậm chí c̣n có những phái như
Tịnh Độ Chân Tông chủ trương có tín và nguyện
là đă đủ để văng sanh, niệm Phật chỉ
là h́nh thức xưng dương Phật để cảm
ơn, không cần chú trọng niệm Phật liên tục
miên mật như Tịnh Tông Trung Hoa.
[3] Theo Pháp Hoa Văn Cú Kư, mặt đất tṛng
trành là Động, đất bằng đột ngột dâng
cao lên là Khởi, chỗ trồi lên chỗ hụp xuống
th́ gọi là Dũng, có tiếng ầm ́ trong ḷng đất
là Chấn, phát ra tiếng vang lớn như vật bị va
đụng, xé rách th́ là Hống, khiến cho chúng sanh giác ngộ
th́ gọi là Giác.
[4] Theo pháp sư Siêu Nhiên, bài kệ này phải
hiểu như sau: Chữ Pháp đầu tiên là Phật pháp.
Phật pháp là pháp bất nhị. Cho nên trong Phật pháp vốn
chẳng có pháp và vô pháp để phân biệt, cũng tức
là chẳng có hữu pháp và vô pháp. Nói đơn giản, Phật
pháp chẳng phải có, chẳng phải không, mà cũng đừng
nghĩ là Phật pháp vừa có vừa không. Mọi phân biệt
nhị nguyên đối đăi đều là t́nh kiến. Đó
là ư nghĩa của câu “pháp bổn pháp vô pháp”.
“Vô pháp pháp diệc pháp”: Tuy Nhất Chân pháp giới là một pháp chẳng
lập, nhưng cũng chẳng ngại hiển hiện vạn
pháp, bao la vạn tượng. Tuy chẳng có một pháp để
có thể nói, nhưng chẳng ngại dùng ngôn thuyết để
diễn nói.
“Kim phó vô pháp thời, pháp pháp hà tằng pháp”: Nay ta (Phật Thích Ca) đem cái pháp “không
có pháp” giao phó cho ông, đối với các pháp mà ta đă
nói trước kia, có pháp nào nào lại chẳng từng đă
nói ư? Hoặc có thể nói là “ta thuyết pháp bốn mươi
chín năm, một câu cũng chưa hề nói”.