Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ
Kinh giảng kư
Phần
2
大方等大集賢護經講記
慈法法師
Chủ giảng: Pháp
sư Từ Pháp
Địa điểm:
Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ ngày
08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức
Phong và Huệ Trang
(Kinh) Vân hà đương đắc thống
lănh đại chúng, giáo chiếu đạo thị cố?
(經)云何當得統領大衆。教詔導示故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được thống lănh
đại chúng, dạy dỗ, hướng dẫn,
chỉ bày?)
“Thống
lănh đại chúng” là như các vị xuất gia nơi
chùa miếu, hoặc các vị
hữu t́nh duy tŕ và truyền bá Phật pháp. Nay chúng ta là kẻ
phàm phu, chẳng thể thống lănh đại chúng,
nhưng có thể học Tứ Nhiếp Pháp. Tứ Nhiếp
Pháp là [pháp môn mà] hết thảy chúng sanh đều
có thể tu tập. Khi chúng ta hành Ban Châu, pháp này vốn thống
lănh đại chúng. Một câu Phật hiệu rơ ràng, rành rẽ,
chẳng được, chẳng mất mà niệm, quư vị
chẳng cần chào hỏi người khác mà đă là chào
đón, đă là thống lănh
đại chúng, đích xác là có thể khiến cho các hữu t́nh chung quanh yêu thích, hướng về, chân
thật nương cậy.
Sự
tu hành của chúng thường trụ tại Hằng
Dương Am ảnh hưởng tới các công nhân đang
xây cất tại tự viện. Có cư sĩ tới nói:
“Công nhân Hằng Dương Am muốn quy y, có được
hay không?” Tôi nói: “Được chứ! Nhất định
là chuyện tốt! Chuyện này so ra có công
đức, có ư nghĩa hơn xây dựng Hằng
Dương Am, có ư nghĩa hơn xây dựng
pḥng ốc nhiều! Dẫu tốn một
ngàn vạn đều chẳng mua được, hăy để
cho toàn thể họ đều quy y!” Ngày các công nhân ấy
đến quy y, trời đổ mưa to, tuy thân họ
toàn mùi mồ hôi và mùi thuốc lá nồng nặc, nhưng họ
đúng là rất tuyệt diệu, phước đức và nhân duyên rất lớn, rất chẳng
thể nghĩ bàn! Ngay lúc đó, tôi có cảm giác vui sướng
hơn kiến thiết mấy gian nhà, thật sự là
vượt xa hơn xây dựng rất nhiều thứ, có
ư nghĩa rất nhiều. V́ sao vậy? Quy y khiến cho thiện
căn của các hữu t́nh thô kệch ấy được
chín muồi! Chính là v́ các vị nữ cư sĩ thường
ngày luôn niệm Phật, hành Ban Châu, cứ đi tới đi lui như thế
đă cảm động, ảnh hưởng họ.
Đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Khi họ tới quy y,
tôi nói: “Kiến lập đạo tràng này
đáng giá lắm, v́ sao? Cảm động các hữu t́nh
thô tháp hết sức khó khăn. Chúng ta do một câu Phật
pháp, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật đă cảm động
họ!”
(Kinh)
Vân hà đương đắc bất nhạo sanh nhất
thiết chúng sanh trung, bất động ư nhất thiết
chúng sanh cố?
(經)云何當得不樂生一切衆生中。不動於一切衆生故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được
chẳng ưa thích sanh trong hết thảy chúng sanh, bất
động đối với hết thảy chúng sanh?)
Nếu
có các thiện tri thức phát ra thệ nguyện “vĩnh
viễn chẳng luân hồi”, sẽ v́ hết thảy chúng
sanh đang luân hồi mà mở ra một vùng đất rộng
lớn, khiến cho hết thảy chúng sanh có sức tự
tại mà chẳng xâm đoạt thế gian. Quư vị nói
“ta chẳng muốn luân hồi nữa”, bèn giống như đưa chúng
sanh tới một không gian khác. Tức là giống
như quư vị nói “ta chẳng cần thứ này”, sẽ chẳng chiếm
hữu thứ ấy nữa, giống như bố thí vậy.
Không sát sanh giống như phóng sanh. Chúng ta chẳng muốn
sanh trong chúng sanh nữa, vậy th́ chẳng thể khuấy
động chúng sanh, nhất định sẽ an lập thế
gian này. Người hành Ban Châu hăy nên lập thệ nguyện
như thế, chẳng đến, chẳng đi, thủ
hộ thanh tịnh, chẳng tăng, chẳng giảm, chân
thật thủ hộ, tâm trụ trong pháp
giới, dùng công dụng của pháp giới để lợi
ích các hữu t́nh trong pháp giới. Như thế th́ quư vị
sẽ có thiện xảo.
(Kinh)
Vân hà đương đắc bất vị nhất thiết
ngoại đạo hàng phục, thiên ma hoặc loạn cố?
(經)云何當得不爲一切外道降伏。天魔惑亂故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ chẳng bị hết thảy
ngoại đạo hàng phục, thiên ma mê hoặc?)
Trong
hành pháp Ban Châu, đă tiến nhập thanh tịnh th́ thiên ma
chẳng thể lừa dối, mê hoặc, ngoại
đạo chẳng thể xâm phạm. Nếu chẳng
như thế, chúng ta rất khó vượt thoát ngoại
đạo và thiên ma. Khi chúng tôi đả Phật thất,
đă có một lần gặp phải thiên ma quấy nhiễu.
Trước kia, đối với các cơ chế truyền
thừa, tôi chẳng hiểu
rơ lắm. Chẳng hạn như nói “các chỗ điện
đường, thiền đường, nơi bế
quan đều phải có ba tầng mành. Khi đả thất,
cũng phải kéo mành xuống để bảo
vệ, che chắn, sợ trong tâm mọi người có
điều bận ḷng”, nhưng để
che chắn điều ǵ, tôi cũng chẳng hiểu cho lắm!
Có một ngày, niệm Phật miết, mà mọi người
đều chẳng thể niệm, tôi nh́n xem v́ sao đại
chúng ở phía dưới đều chẳng niệm? Chính
tôi muốn niệm mà cũng chẳng thể niệm được! Một
bầu thinh lặng, là chuyện ǵ thế? Tôi nh́n th́ ra lớp
mành ngoài cùng không kéo xuống. V́ sao một tầng mành không
kéo xuống mà bị trở ngại như thế? V́ “thiên
chúng bất quá tam”, [tức là] có một tầng trở
ngại, họ c̣n có thể lướt qua; đến tầng trở ngại thứ ba, họ sẽ
chẳng vượt qua. Đấy là do phước báo của
họ, họ chẳng phải đón nhận khó khăn. Kẻ
đón nhận khó khăn th́ chẳng phải là phước
báo, mà là khổ báo. V́ lúc đó chỉ có hai lớp mành, họ
vượt qua lớp thứ nhất rồi lại vượt
qua lớp thứ hai, thấy chúng tôi đang niệm rồi
lại niệm, thân họ có quang tướng quá lớn, khiến cho mọi người bị soi trúng, câm nín hết. Cho
đến khi buông mành đàng hoàng rồi, mọi người
lại bắt đầu niệm được. Đó là
bị thiên ma gây khó dễ. Vị trời ấy chưa chắc
là ma, nhưng sức mạnh của vị ấy lớn
hơn chúng ta, chúng ta chẳng thể vượt thắng vị
ấy, vị ấy sẽ giống như ma. Lúc đó, chủ
yếu là sức mạnh ngoài ư muốn, mọi người
đều khá mệt mỏi. Trong t́nh huống chí nguyện
chẳng rơ ràng, bị họ làm khó, buông mành xuống là
được rồi. Do vậy, nhất định phải
biết: Lịch đại tổ sư, thiện tri thức
chế định nghi quỹ, đều có nội hàm
riêng, chân thật chẳng dối. Đối với người
thật sự hành Ban Châu, những thứ đó sẽ chẳng
gây khó khăn hay quấy nhiễu họ được! V́
một câu Nam-mô A Di Đà Phật là vạn đức hoằng
danh (萬德宏名, danh hiệu rộng
lớn có vạn đức), là danh hiệu trọn đủ
công đức lợi ích hữu t́nh trong chín pháp giới, lợi
ích chúng sanh trong mười phương, bao gồm chư
thiên, ngoại đạo, bao gồm hết thảy
Thanh Văn, Bồ Tát, hết thảy người có trí. Đương
nhiên là hết thảy phàm ngu hữu t́nh cũng được
bao gồm trong ấy. V́ thế nói là “lợi ích trọn
khắp hữu t́nh trong chín pháp giới mười phương”, do một câu
danh hiệu đều hồi thí viên măn, an ủi thanh tịnh,
lợi ích chân thật, quư vị chẳng có ǵ phải sợ
hăi!
(Kinh)
Vân hà đương đắc đại biện tài,
ư nhất thiết pháp quyết liễu tri cố?
(經)云何當得大辯才。於一切法決了知故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đắc đại biện
tài, quyết định biết rơ hết thảy các pháp?)
Người
hiện thời niệm Phật đều niệm rất
trơn tru, nhưng điều đó và biện tài chẳng
ăn nhập ǵ với nhau! Biện tài có thể tiêu trừ
lo ngờ cho chúng sanh, trừ nghi hoặc cho chúng sanh, kiến
lập pháp ích, ban thiện xảo cho chúng sanh. Hành pháp Ban
Châu quyết định là như thế, đối với
hết thảy các pháp, sẽ quyết
đoán, sẽ có thể chọn lựa, có thể
biết rơ, có thể ban cấp sự thiện
xảo cho chúng sanh.
(Kinh)
Vân hà đương đắc nhất thiết Phật
pháp, bất tùy tha hành cố?
(經)云何當得一切佛法。不隨他行故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được trong hết
thảy Phật pháp, chẳng ngả theo người khác?)
Trong
sự chọn lựa để học Phật của
chúng ta, chẳng xuôi theo ư của người khác. Người
niệm Phật có thể bị kẻ khác dao động
hay chăng? Người tu hành các pháp môn khác cũng có thể
chẳng bị người niệm Phật lay động,
nhưng có một điều: Thâm nhập một môn hết
sức trọng yếu! Thay đổi hạnh tu là nghiệp
chướng của chúng sanh, là tướng trạng thiện
căn chẳng chín muồi, là tướng do dự, băn
khoăn, là tướng chọn lựa chẳng dứt
khoát, phước đức chẳng trọn đủ. Do
vậy, thâm nhập một pháp là thiện căn đă chín
muồi!
(Kinh)
Vân hà đương đắc đại kiên cố tín, vô
khả thôi hoại cố?
(經)云何當得大堅固信。無可催壞故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đạt được niềm
tin vững chắc to lớn, chẳng thể phá hoại?)
Đối
với hành pháp Ban Châu, công đức và lợi ích ấy là
chuyện tất nhiên.
(Kinh)
Vân hà đương đắc đại từ lực
tín, bất khả động cố?
(經)云何當得大慈力信。不可動故。
(Kinh:
Như thế nào sẽ đạt được niềm
tin đại từ lực chẳng thể động?)
V́
hành pháp Ban Châu “lập một niệm, đoạn các
tưởng”, trong tu tŕ Định Ư tam-muội, “bất
khả động” (chẳng thể lay động) là
chuyện tất nhiên. Trong loại tín lực chẳng thể
hủy hoại này, trong pháp tắc chẳng thể dao động
này, “bất khả động” có khá nhiều phương
tiện: Phương tiện tri kiến, phương tiện
hành pháp, phương tiện lợi ích, phương tiện
chọn lựa pháp môn, phương tiện vận dụng
Bi và Trí v.v… đều có sức chẳng thể nghĩ bàn.
(Kinh)
Vân hà đương đắc thâm nhập tín, vô sở
hành cố?
(經)云何當得深入信。無所行故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đạt được niềm
tin thâm nhập, chẳng có sở hành?)
Ở
đây là nói về pháp tùy thuận,
thực hiện mà chẳng có dấu vết.
(Kinh)
Vân hà đương đắc nhuận trạch tín, ư
nhất thiết pháp trung, đa hoan hỷ cố?
(經)云何當得潤澤信。於一切法中多歡喜故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được niềm tin nhuần
thấm, nhiều hoan hỷ trong hết thảy các pháp?)
Nhuận
trạch chúng sanh là pháp phương tiện, hành pháp tuyệt
đối là lợi ích thế gian. Tôi hỏi rất nhiều
người: “V́ sao hành Ban Châu?” Có người nói: “Ôi chao!
Chân tôi bị phong thấp. Tôi mong hết bệnh phong thấp”.
Có được hay không? Được chứ! Trong hai loại
lợi ích tự lợi và lợi tha đều có thể
đạt được, đích xác là tôi cũng thấy
chân người ấy khỏi bệnh phong thấp,
nhưng như thế th́ cũng quá đáng thương, sẽ
giống như thí dụ “năng mậu ngưu hồ”
(có thể đổi lấy trâu hay không) trong kinh Ban Châu, tức
là thắc mắc có thể đổi báu ma-ni lấy một
con trâu hay không? Nếu ai chỉ v́ thân thể khỏe mạnh
hơn mà hành pháp [Ban Châu], sẽ giống như dùng báu ma-ni
để đổi lấy trâu, chẳng cần báu ma-ni nữa!
Trong
khi chúng ta tu pháp, Tín rất trọng yếu, lợi ích thế
gian rất trọng yếu. Sanh hoan hỷ đối với
hết thảy các pháp rất trọng yếu. Bất luận
hành pháp Ban Châu, hay hành hết thảy các pháp khác, vui sướng,
hoan hỷ rất quan trọng. Rất nhiều người
nói v́ chính ḿnh rất khổ, cho nên mới đến hành
pháp. Có được hay không? Điểm xuất phát của
cái tâm có vấn đề! Do chính ḿnh đau khổ, buồn
thương mà hành pháp, như vậy th́ sẽ khá khổ sở.
Nếu biết “chẳng có khổ
để t́m được, chẳng có lạc để
có thể đạt được”, do hành pháp sẽ
có thể đạt được tâm trí Vô Thượng Bồ
Đề thanh tịnh, có thể đối trị khổ,
có thể sanh khởi các thứ lạc. “Lạc” ở đây chẳng phải là lạc
trong “tham lạc” (niềm vui sướng v́ thỏa
măn ḷng tham), mà là niềm vui chẳng
đắm nhiễm, là niềm vui chẳng
đối đăi, dẫu trong khổ cũng được
vui. Thọ giác (受覺, sự nhận biết, cảm nhận) chẳng có thực
chất, quư vị coi nó như một loại lạc th́ sẽ
là lạc, coi nó là khổ th́ sẽ thành khổ. Quư vị
kêu: “Rành rành là khổ mà!” Chẳng phải vậy! “Rành rành là khổ” là một
thứ nhận biết của quư vị. Nếu nói “ta sợ
nỗi khổ này”, sẽ là khổ càng thêm
khổ, tức là bị Khổ Khổ bức bách. Nói: “Tôi
mong cho nỗi khổ này chấm dứt”, cũng là bị
Khổ Khổ bức bách. Khổ đă hiện tiền,
quư vị nhận biết nó, đó là lạc trong khổ, là
sự thọ dụng trong khổ, là thiện xảo trong
khổ. Trong khổ bèn có thiện xảo, nhưng mọi
người thường chẳng biết. Chẳng hạn
như kẻ đặc biệt khổ, từ trong khổ
có thể sanh ra đại thiện xảo, v́ khổ
cũng là của cải chẳng thể thay thế
được! Trước kia, có người nói với
tôi: “Pháp sư ơi! Tôi thấy thầy quá khổ”. Tôi nói: - Tôi cũng biết khổ,
nhưng người khác chẳng thể thay thế
được. Quư vị đă chẳng thay cho tôi
được, mà tôi cũng chẳng thay cho quư vị
được. Mỗi người có “của cải”
riêng, có của cải khổ, mà cũng có của cải lạc.
Chớ nên đánh mất “của cải” của chính ḿnh!
(Kinh)
Vân hà đương đắc tối thắng tín, cúng
dường, thừa sự
nhất thiết chư Phật vô yếm túc cố?
(經)云何當得最勝信。供養承事一切諸佛無饜足故。
(Kinh: Làm thế
nào để đạt được niềm tin tối
thắng, cúng dường, phụng sự hết thảy
chư Phật chẳng chán đủ?)
Hành
Ban Châu rất dễ kích phát điều này. Nếu không,
chúng ta vẫn chưa tu đạo, chẳng có sức tam-muội
chân thật! Thật sự thành tựu, quư vị sẽ
ưa thích hết thảy cơ hội cúng Phật, hết
thảy cơ hội lợi ích chúng sanh; đấy là
điều chân thật, chẳng dối. Nếu vẫn c̣n ở trong buông lung, giải
đăi, hoặc c̣n vướng trong phân biệt, lấy bỏ,
quư vị chẳng phải là hành giả của pháp Ban Châu,
chẳng phải là người thật sự chứng pháp
ích, chẳng phải là người b́nh đẳng an trụ.
(Kinh)
Vân hà đương đắc chủng chủng nhập
tín, chủng chư thiện căn cố?
(經)云何當得種種入信。種諸善根故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đạt được các thứ
nhập tín, gieo các thiện căn?)
“Chủng
chủng nhập tín” (Các thứ nhập
tín): Trong các thứ tín, có sự sai biệt quá lớn. Chúng ta ở trong tham, sân, si, mạn, nghi, trong
vô kư, khi Tam Độc sanh khởi, lúc ba nghiệp thân, khẩu,
ư sanh khởi, nếu nhận biết tự tánh, tín lực
sẽ nhanh chóng sanh khởi. Nếu chẳng nhận biết
tự tánh, trôi nổi theo gịng nghiệp,
sẽ nhanh chóng bị vô minh bức bách. Chẳng hạn
như sân tâm sanh khởi, hễ nhận biết tự
tánh của sân tâm, sẽ lập tức sanh ḷng tin đối
với Phật, chánh tín hiện tiền, tự biết “sân
chẳng có tự tánh”, liền đạt được
phương tiện. Trong giáo ngôn của Mật giáo, từ
trong tham, sân, si, mạn, nghi, sẽ ngay lập tức chọn lựa
năm loại trí[1].
Ở đây là sự chọn lựa nơi tự tánh, tức
là sự chọn lựa nơi tổng tướng, tột bậc thuận tiện. Một
khi tiến vào phân tích tỉ mỉ, người ta sẽ dễ
hỗn loạn. Tham sanh khởi, [nhận biết nó] chẳng
có tự tánh, chánh tín sẽ sanh khởi. Lúc các thứ sân, mạn,
nghi, tà kiến sanh khởi, quư vị chớ lưu chuyển theo chúng nó, sẽ lập tức sanh khởi chánh tín. Chẳng
cần trừ khử tham, sân, si, mạn, nghi, chúng ta nói “gieo
các thiện căn”, các thiện căn ấy ở
nơi đâu? Sanh khởi từ
ngay trong sát-na tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng. Đó là thiện
căn, thiện căn ǵ vậy? Hiểu rơ tự tánh, hiểu
rơ tự tánh của tham, sân, si, mạn, nghi, thiện căn
sẽ chín muồi! V́ sao? Lập tức tu. Hành Ban Châu chính
là tu ngay lập tức trong hiện tiền. Tu ǵ vậy? Hiểu
rơ tự tánh! Ở đây là chân thật chẳng dối,
cho nên nói “chủng chủng nhập tín”. V́ các thứ
nhân duyên hiện tiền, tất nhiên sẽ sanh khởi
chánh tín. Chánh tín ǵ vậy? Ngay trong lúc tham, sân, si, mạn,
nghi, cho tới buông lung, vô kư, chẳng hổ, chẳng thẹn,
hôn trầm sanh khởi, do các duyên ấy mà hiểu rơ các pháp
chẳng có tự tánh, tức là khi thiện căn đă
chín muồi. Đó là thiện căn thật sự. Chúng ta
nói “hoa sen mọc từ bùn lầy mà chẳng nhuốm bẩn”.
Nếu quư vị gạt bỏ bùn lầy, hoa sen sẽ sanh
từ đâu? Từ tham, sân, si, mạn, nghi, sanh trưởng hoa sen thanh tịnh.
Hoa sen tồn tại nơi bùn nhơ nước đục
“tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến”, bản chất của
nó là thanh tịnh vô nhiễm! Các vị thiện tri thức
hăy khéo quan sát nhé!
(Kinh)
Vân hà đương đắc chân diệu tín, tăng
trưởng vô hư ngụy hạnh cố?
(經)云何當得真妙信。增長無虛僞行故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đạt được niềm
tin chân thật, mầu nhiệm, tăng trưởng hạnh
chẳng hư ngụy?)
Thông
thường, đối với hư ngụy và chân thật,
chúng ta có nghi ngờ. Thật ra, mười phương hết
thảy hữu t́nh, không ai chẳng phải là liên tục
hư ngụy! Hết thảy người thủ hộ
công đức Tam Bảo, không ai chẳng
an lập trong nghiệp chân thật. Đối với chuyện
này, chúng ta phải xác định vị trí của chính ḿnh.
Nếu chẳng xác định vị trí [của chính ḿnh], sẽ
nẩy sanh vấn đề. Do vậy, người học
Phật chúng ta khuyên hết thảy chúng sanh: “Muốn hành Phật
pháp, trước hết phải thọ Tam Quy Y”. Tam Quy Y là
duyên khởi của nghiệp chân thật, là thủ hộ
nghiệp chân thật, là an trụ trong nghiệp chân thật.
Trong Lục Niệm Trụ[2],
đều phải niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tăng. Đó là đối tượng được niệm
của nghiệp chân thật, nhất định chớ
nên hàm hồ! Trong t́nh huống hàm hồ, chúng ta có thể
tưởng là trong tâm của chính ḿnh vẫn có thể sanh
khởi nghiệp chân thật, nhưng thật ra, nếu chẳng
niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, chúng ta sẽ
chẳng đạt tới, chẳng thể thành tựu
nghiệp chân thật được!
“Vân
hà đắc chân diệu tín” (Như thế nào để
đạt được diệu tín thật sự)?
Cũng là chọn lựa diệu tín. Chọn lựa ǵ vậy?
Thân, khẩu, ư tam nghiệp của
hết thảy phàm phu không ǵ chẳng phải là nghiệp hư ngụy! Quư vị phải vứt
bỏ [các nghiệp hư ngụy ấy]! Niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng là sanh khởi nghiệp chân thật,
an lập nghiệp chân thật, tùy thuận nghiệp chân thật.
Đấy là “tăng trưởng vô hư ngụy hạnh”.
Nhất định phải chọn lựa [nghiệp hạnh
chân thật]. Nếu chẳng chọn lựa, chân diệu
tín sẽ chẳng thể sanh khởi.
Rất
nhiều kẻ trẻ tuổi hay nói: “Tôi học Phật chẳng
tin vào h́nh thức, chỉ tin tưởng tâm địa”.
Tôi nói: “Quư vị lấy tâm địa ra cho tôi xem là ǵ
đi? Là màu vàng, màu trắng, hay là màu lam?” Họ chẳng
nói rơ được, rất mơ hồ. Một khi chọn
lựa Tam Quy Y, sẽ rơ ràng, Phật, Pháp, Tăng, chân thật
chẳng dối. Tăng là “lợi ích thế gian rộng
lớn, ḥa hợp hữu t́nh”. Pháp là gột sạch thế
gian, nhuần thấm thế gian, khiến cho chúng sanh trụ
trong an lạc. Phật là từ bi lợi ích rộng lớn, làm chỗ
nương cậy chân thật cho chúng sanh. Nhất Chân pháp
giới cũng thế, chân thật chẳng tăng giảm
cũng thế, tâm địa viên măn cũng thế, cũng
đều giống như vậy. Đó là hạnh nghiệp
chân thật. Bồ Tát nhất định phải xem xét kỹ
ở chỗ này, chớ nên chần chờ. Có khi chúng ta vẫn
giả thiết chính ḿnh có thể có chút bản lănh, vậy
th́ nhất định sẽ đi lầm đường,
đọa lạc trong ngă mạn, ngă kiến, ngă chấp.
Chẳng tin th́ hăy tự phân tích chính ḿnh thử xem! Ngoài các
nghiệp hư ngụy, sẽ là ngă nghiệp. Ngoài ngă nghiệp
ra th́ ương ngạnh chấp chặt, giữ ǵn nghiệp vô thường. Như thế là
khổ đấy các vị Bồ Tát và thiện tri thức
ạ!
(Kinh)
Vân hà đương đắc tịnh hỷ tín, trừ
diệt nhất thiết kỵ đố cấu cố?
(經)云何當得淨喜信。除滅一切忌妒垢故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đạt được niềm
tin hoan hỷ thanh tịnh, trừ diệt hết thảy cấu
uế ghen ghét?)
Tâm
đố kỵ tức là phàm phu chẳng có cái tâm tùy hỷ,
chính là tâm trí đấu tranh Ngă Chấp, Ngă Kiến. Trong thời
Mạt Pháp, tâm trí ấy mạnh mẽ nhất. Cái tâm Tu La chính
là tuyệt đối chẳng cho phép kẻ khác mạnh mẽ
hơn ta. Ngươi mạnh hơn ta, ta vĩnh viễn chẳng chịu thua! Đó là cái tâm
đố kỵ, cho nên Tu La tranh chấp, giết chóc vô
cùng, măi cho tới khi sanh mạng kết thúc, chẳng hề
nghỉ ngơi! C̣n nhân loại chúng ta th́ sao? Trong mười
đại nguyện vương, phải “tùy hỷ công
đức”. Đức Phật dạy “hồi hướng
công đức”, “hồi thí công đức”. Tu tŕ
cái tâm tùy hỷ mười phần quan trọng đối
với hữu t́nh.
Trong
khi hành tŕ Ban Châu, cái tâm tùy hỷ cũng thường sanh khởi,
sẽ xa ĺa đố kỵ, cho nên đạt được
niềm tin hoan hỷ thanh tịnh. Nếu có cái tâm tùy hỷ,
tâm sẽ rất an lạc, rất sạch làu, rất
đơn giản, quư vị chẳng cần phải dụng
công! Hễ người khác có chuyện tốt lành, chuyện
vui sướng, quư vị tự nhiên sanh hoan hỷ, tự
nhiên sanh khởi trợ duyên, sẽ chẳng do dự, lại
càng chẳng muốn khiến cho họ đau khổ. Nếu muốn tạo duyên gây khó
khăn cho họ, đó là chẳng
tương ứng. V́ thế, tâm trí tùy hỷ sanh khởi
vui sướng, trụ trong an lạc. Nhân duyên như thế
được gọi là “tịnh hỷ tín”, trừ
diệt hết thảy cấu uế đố kỵ.
(Kinh)
Vân hà đương đắc thanh tịnh tín, đắc
Nhất Thiết Chủng Trí quang minh cố?
(經)云何當得清淨信。得一切種智光明故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đạt được niềm
tin thanh tịnh, đạt được quang minh Nhất
Thiết Chủng Trí?)
Nhất
Thiết Chủng Trí là một danh từ riêng trong Phật
giáo. Người thành tựu Tứ Quả A La Hán là người
thành tựu Nhất Thiết Trí, Bồ Tát th́ có Đạo
Chủng Trí. Chư Phật Như Lai th́ có quang minh Nhất
Thiết Chủng Trí (Sarvathājñāna). Nhất Thiết
Trí là tổng tướng trí, Đạo Chủng Trí là phân
biệt trí. Hai loại này được gọi là hai đại
trí tướng trong Phật giáo, tức là nói theo hai
phương diện Tổng và Biệt. Chư Phật
Như Lai trọn đủ Nhất Thiết Chủng Trí, tức
là hết thảy tổng tướng trí và biệt
tướng trí đều trọn đủ. Hành Ban Châu sẽ
có thể đạt được thiện xảo như
vậy. Từ tự tánh thanh tịnh lưu xuất cái
được gọi là “thanh tịnh tín”, cũng là
quang minh Nhất Thiết Trí lưu xuất từ tự
tánh. Quang minh lưu xuất từ tự tánh là chẳng thể
nghĩ bàn. Hành Ban Châu có thể khơi gợi, phát khởi loại quang minh tâm trí này,
tổng tướng lẫn biệt tướng đồng
thời đều trọn đủ. Hành pháp Ban Châu đồng
hành với sự thiện xảo của Bát Địa [Bồ
Tát], thuộc về Bát Địa Bồ Tát, cho nên đạt
được chẳng thoái chuyển. Rất nhiều
người xem nhẹ Ban Châu. Sau khi chúng ta học bộ
kinh Ban Châu này, sẽ có thể thấy pháp Ban Châu v́ sao khó có, khó nghe,
khó gặp. [Được nghe pháp này], quả thật là
đại phước đức chín muồi! Thoạt
nh́n, tưởng chừng đơn giản, nhưng học
tập, thực hiện pháp tắc này rất khó, hết sức
chẳng dễ. Trong phần sau, chúng tôi sẽ nói, như
khi đức Phật c̣n tu nhân, muốn nghe pháp này, phải
trải qua bao nhiêu ngàn năm cúng dường
Phật, vẫn là mong được nghe mà chẳng thể
nghe, muốn hành tŕ mà chẳng thể hành tŕ được!
(Kinh)
Vân hà đương đắc hỷ lạc hạnh tín,
trừ diệt chư cái chướng ác cố?
(經)云何當得喜樂行信。除滅諸蓋障惡故。
(Kinh: Như
thế nào th́ sẽ được hỷ lạc hạnh
tín v́ trừ diệt các cái chướng ác?)
Lợi
ích thật sự của hành pháp Ban Châu là tiêu trừ cái
chướng. Bản thân hành pháp hỷ lạc có sức chẳng
thể nghĩ bàn, bản thân nó có sự thiện xảo trừ
khử cấu chướng. Nếu quư vị chẳng ưa
thích pháp, chẳng ưa thích hành pháp, tất nhiên sẽ
ưa thích thế tục. Đối với chuyện này,
chẳng cần phê phán, v́ tâm nghiệp tiếp nối, quư vị
chẳng thể phủ định. Đối với
điều này, chúng ta hăy nên khéo quan sát: Quư vị chẳng
ưa thích Phật pháp, tất nhiên sẽ ưa chuộng thế
tục. Quư vị nói: “Ta không ưa thích Phật pháp, mà
cũng chẳng ưa thích thế tục”, vậy th́ tất
nhiên là quư vị ưa thích vô kư, giải đăi, buông lung, vẫn
là thế tục, khó thoát khỏi
lưới rập!
Ưa
thích hành tŕ giáo ngôn của chư Phật, ưa thích hành tŕ pháp, hết
thảy ác duyên tự nhiên tán hoại, hữu ư hay vô ư túc
duyên của chúng ta tiếp nối, chẳng thể cắt
đứt, phá tan sự liên tục
của Dị Thục Quả[3].
Đương nhiên, chủng tử ác vẫn thúc đẩy
quư vị, nhưng trong khi hành pháp Ban Châu, niệm Phật và
tu tập Phật pháp đă phá tan rất nhiều ngoại
duyên có tánh ác. Đồng thời, tuy ngoại duyên có tánh chất
ác bị phá hoại, vẫn c̣n có rất nhiều nhân duyên của
Dị Thục Quả có tánh chất ác đă chín muồi,
nhưng chỉ cần quư vị chẳng thuận theo chúng,
trong khi niệm Phật, trong khi tu pháp, trong yêu mến pháp,
trong ưa thích pháp, sẽ phá tan nghiệp duyên của Dị
Thục Quả. Thế nhưng nghiệp duyên của Dị
Thục Quả vẫn tiếp nối, chúng ta gọi chúng
là “hành khổ tương tục” (hành khổ tiếp
nối), Bồ Tát đều chẳng thể trốn khỏi,
đừng mong chúng ta có thể trốn thoát được!
Đối
với những cái gọi là “tài, sắc, danh vọng,
ăn uống, ngủ nghê, là năm cái rễ của địa
ngục”, hành tŕ Ban Châu sẽ khiến cho quư vị giảm
bớt ăn uống, [v́ pháp Ban Châu] chẳng cho phép quư vị
ngủ nghê, cứ đi tới, đi lui (kinh hành) như thế,
danh ǵ cũng chẳng có, lợi ǵ cũng chẳng có, sắc
ǵ cũng chẳng có, chân thật, chẳng dối, trọn
đủ viên măn. Do vậy, có thể phá trừ các chướng,
các Cái; [hay nói cách khác] Cái lẫn Chướng đều trừ.
“Tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê”
được gọi là Ngũ Cái. Chướng th́ Thân
Chướng (chướng ngại nơi thân), Sở Tri
Chướng, Phiền Năo Chướng v.v… quá nhiều! Quư
vị thấy một người khi phiền năo vừa mới
dấy lên, chuyện ǵ cũng đều chẳng quản.
T́nh tự vừa dấy lên, chuyện ǵ cũng đều chẳng hỏi tới. Vừa xoa mặt, chuyện
ǵ cũng đều chẳng thấy, chẳng phải là
chướng ư? Chướng ngại ai vậy? Chẳng
có ǵ có thể gây chướng ngại th́ sẽ chẳng
chướng. Hễ có thứ ǵ có thể gây chướng
ngại, th́ sẽ là Kế Tục Chướng
(chướng ngại liên tục, tiếp nối).
(Kinh)
Vân hà đương đắc trí hỷ tín, nhiếp thọ
chư Phật cảnh giới cố?
(經)云何當得智喜信。攝受諸佛境界故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đắc trí hỷ tín để
nhiếp thọ cảnh giới của chư Phật?)
Trong
mười phương pháp giới, cảnh giới của
chư Phật là Nhất Chân b́nh đẳng, viên măn, Nhất Chân
rộng lớn, Nhất Chân thanh tịnh, Nhất Chân
như thật. Cho nên trong Nhất Chân pháp giới, chúng ta
nói là Phật pháp trí. Chúng ta đọc phẩm Nhập Bất
Tư Nghị Cảnh Giới của Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, đó là cảnh
giới chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật. Nếu
thật sự thường xuyên đọc, chẳng cầu
cảnh giới của chư Phật mà quư vị thường
có cảnh giới của chư Phật. Do vậy, năm
nay chùa Phóng Quang tụng kinh Hoa Nghiêm, tôi cảm thấy
mười phần vui mừng, an ủi, v́ đă gia bị
khiến cho sơn thần, thổ địa, long thiên, hộ
pháp cả một vùng này, cũng như các vị thiện
tri thức đến và đi đều được
hưởng sự gia tŕ từ
cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của
chư Phật.
Trước
kia, tôi đă gặp một số vị thiện xảo sau khi đă hành pháp, có chứng ngộ, ắt đều đọc Hoa Nghiêm. V́
sao? Họ đă tiến nhập cảnh giới tam-muội
rất sâu, rơ ràng, an lạc, rộng lớn chẳng thể
nghĩ bàn. Khi đó, họ sẽ sợ nhận sai
đường lối, cho nên bèn tiến nhập cảnh
giới chư Phật để xem xét: “Ồ! Hết thảy
chứng ngộ vốn chẳng qua là tướng sai biệt
nơi cảnh giới đó thôi! Thật ra, chẳng có cảnh
giới rộng lớn, rốt ráo, trang nghiêm của chư
Phật”. Do vậy, chính họ sẽ sanh khởi cái tâm
khiêm hạ và tâm điều phục, nhu ḥa niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng, sẽ giống như Long Thọ
Bồ Tát. Chúng ta đều biết Long Thọ Bồ Tát
dùng chín mươi ngày để đọc tụng trọn hết văn tự trong Diêm
Phù Đề, cảm thấy trong thiên hạ chẳng có ǵ
lỗi lạc! [Tự cho rằng] “đức Thế Tôn cũng bất quá chỉ
là như thế, chính ḿnh cũng có thể lập giáo, có thể
chế giới, sửa đổi”. Khi đó, Long
Vương Bồ Tát bèn mời Ngài đến long cung. Ngài
vừa tụng thượng, trung, hạ phẩm của
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh bèn trở
thành kẻ thật thà. V́ sao vậy? V́ cảnh giới của
chư Phật thật sự chẳng thể nghĩ bàn, chẳng
thể nói năng, chẳng thể trái nghịch, chẳng
thể giữ lấy, rộng lớn rốt ráo. “Bất
tư nghị, bất khả ngôn” (chẳng thể
nghĩ bàn, chẳng thể nói), trong kinh Hoa Nghiêm, các ngôn từ
như vậy rất nhiều. Chẳng có hạn lượng, sẽ đạt được đại
phương tiện. Đối với cảnh giới có
thể nghĩ bàn, cảnh giới hữu lượng,
người đă hiểu “không có hạn lượng” sẽ chẳng nghĩ các cảnh giới
ấy là đúng. Nhưng đối với người chỉ
biết hữu lượng, sẽ câu nệ trong sự hạn
lượng ấy. Câu nệ ở chỗ nào vậy? Câu nệ
là v́ tự cho ḿnh là đúng!
(Kinh)
Vân hà đương đắc trang nghiêm hạnh tín, thắng
nhất thiết thế gian anh lạc trang nghiêm, Phật quốc
thanh tịnh thành tựu cố?
(經)云何當得莊嚴行信。勝一切世間瓔珞莊嚴。佛國清淨成就故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đạt niềm tin được
trang nghiêm bởi các hạnh, hơn hẳn hết thảy
các sự trang nghiêm bởi các chuỗi anh lạc trong thế
gian, thành tựu sự thanh tịnh nơi cơi Phật?)
Chúng
ta đều biết: Hành Ban Châu có thể khiến cho
mười phương chư Phật thảy đều
hiện tiền. Những điều được nói ở
đây đều là nội hàm thực chất của tam-muội
“mười phương chư Phật thảy đều hiện
tiền”. “Thắng nhất thiết thế gian anh lạc
trang nghiêm” (Hơn hẳn sự trang nghiêm bởi hết
thảy các chuỗi anh lạc trong thế gian): Trong pháp của
chư Phật, anh lạc (các chuỗi đeo kết bằng
châu báu) biểu thị sự sám hối. Trong quá khứ,
người giảng kinh ngực đeo
chuỗi anh lạc, tay cầm anh lạc hoặc như ư[4],
nhằm biểu thị Phật pháp trang nghiêm, tôn quư, khiến
cho tâm trí của chúng sanh chiếu kiến. Anh lạc chẳng
phải để trang nghiêm tự thân, tự thân dùng ǵ
để trang nghiêm? Cái thân xú uế, thân vô thường,
thân Tứ Đại tụ tập, thân suy bại trong
mỗi lúc, do v́ trang nghiêm Phật pháp ḥng biểu thị
pháp, cho nên phải đeo chuỗi anh lạc. Thật ra,
trước khi giảng kinh, sẽ có các thứ vật
trang nghiêm để cúng dường. Các thứ vật trang
nghiêm cúng dường ấy nhằm biểu thị ḷng mong
cầu pháp như thật, thủ hộ pháp như thật, nhận
thức, vâng giữ pháp như thật, chẳng nhằm
trang nghiêm một người nào, mà là [để biểu lộ]
ḷng kính ngưỡng, lễ kính, tán thán, thuận tùng của
mọi người. Chẳng hạn như trong Tạng Truyền
Phật giáo, hễ mở một pháp hội lớn, sẽ
phải xếp đặt rất nhiều thứ vật
cúng dường trang nghiêm, để làm ǵ? Muốn cho bậc
thiện xảo, bậc thiện tri thức sẽ ban bố
sự hoan hỷ, ban bố Tất Địa (Siddhi, thành tựu)
cho chúng ta, khiến cho mọi người được
trụ trong an lạc. Do vậy, trên thực tế, [trang
nghiêm bằng vật phẩm cúng dường] chẳng phải
là v́ mọi người coi trọng một người hay
không, mà là để biểu thị mọi người nhận
biết pháp ấy có trọng yếu hay không.
“Phật
quốc thanh tịnh cố” (v́ thanh tịnh cơi Phật): Chúng ta hành Ban Châu, thấy
quốc độ trang nghiêm, mười phần như ư,
hoặc là trong hiện tiền, hoặc là trong Định
cảnh, hoặc trong mộng, hoặc lúc xả báo, chẳng
khó! Đích xác là chẳng khó. Người nói tới cảnh
giới rất nhiều, nhất là người niệm Phật; chớ nên v́ cái tâm tăng thượng mạn mà kể
lể cảnh giới này nọ! Nếu do
nương vào sức thanh tịnh mà được thấy
[các cảnh giới ấy] th́ hữu dụng. Đó là do sức
thiện xảo và sức phước đức nhân duyên
chín muồi!
(Kinh)
Vân hà đương đắc thanh tịnh giới hạnh,
vĩnh diệt nhất thiết Thanh Văn, Bích Chi Phật
tâm cố?
(經)云何當得清淨戒行。永滅一切聲聞辟支佛心故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đạt được giới
hạnh thanh tịnh, vĩnh viễn diệt hết thảy
cái tâm Thanh Văn và Bích Chi Phật?)
“Thanh
tịnh giới hạnh”: Đức Phật tán thán quả
Thanh Văn, quả Bích Chi Phật, quở trách tâm Thanh
Văn và tâm Bích Chi Phật. Quở trách là để ngăn
chặn. Chúng ta hành Ban Châu cũng nhằm ngăn trở cái
tâm Thanh Văn, tâm Bích Chi Phật như thế, tán thán lợi
ích chẳng thể nghĩ bàn của quả đức.
Trong giáo ngôn Đại Thừa, nếu [hành nhân đă chứng
quả địa Thanh Văn, tức là] chứng Thật Tế
lư địa, bị chư Phật quở trách chính là quở trách
cái tâm [chấp trước an trụ trong quả địa
ấy, chẳng phát nguyện rộng độ chúng sanh]
như vậy, chứ chẳng phải là quở trách cái quả
như thế. V́ quả Thanh Văn hay Bích Chi Phật thật
sự là tự lợi viên măn chẳng thể nghĩ bàn.
Tuy đức Phật nói theo sự so sánh, th́ [các quả vị
ấy] chẳng có thiện xảo lợi tha, nhưng đă
tự lợi viên măn. Chúng ta nhất định chẳng
dám khinh rẻ, chê trách quả Thanh Văn, chỉ có thể
chê trách tâm Thanh Văn. Nếu chính ḿnh đă phát tâm Thanh
Văn, sẽ phải quở trách. V́ sao? Tâm Thanh Văn hạn
hẹp, đắm ch́m trong tự lợi, sa vào chấp giữ
Diệt Độ, sa vào chấp trước Thật Tế,
đáng nên bị quở trách.
“Vĩnh
diệt Bích Chi Phật tâm” (vĩnh viễn diệt trừ
cái tâm Bích Chi Phật): Trước kia, tôi đă đọc
thấy Long Thọ Bồ Tát có nói: “Thà đọa địa
ngục một kiếp, hai kiếp, ba kiếp, chẳng
sanh một niệm tâm Thanh Văn”, tôi cảm thấy
rất khiếp sợ! May mắn là
tôi chẳng phát tâm Thanh Văn. Thuở ấy, tôi thật
sự nghĩ: Chính ḿnh có thể chứng đôi chút lợi ích
là đă tuyệt diệu lắm rồi, c̣n mong tưởng
chi nữa? Do vậy, sanh cái tâm kém cỏi, v́ lợi ích của
chính ḿnh, v́ tránh né sanh tử mà cầu Niết Bàn. Thuở
đó, [cái tâm hèn kém ấy] rất mạnh mẽ. Về
sau, bị thiện tri thức quở trách, lại do xem các kinh điển, biết cái tâm đó thật sự là
lợi ích hẹp ḥi. Quả thật cảm kích tâm trí rộng
lớn của Long Thọ Bồ Tát đă khích lệ tôi
thành thục [cái tâm Đại Thừa]. V́ nếu quư vị
thật sự có cái tâm Thanh Văn, Ngài sẽ khích lệ quư vị
[dũng mănh tiến cao hơn]. Nếu quư vị chẳng có
cái tâm Thanh Văn, Ngài sẽ khiến cho quư vị thấy
thấu suốt cái tâm Thanh Văn.
(Kinh)
Vân hà đương đắc
trang nghiêm đại thệ, nhất thiết sở tác giai
cứu cánh cố.
(經)云何當得莊嚴大誓。一切所作皆究竟故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đạt được đại
thệ trang nghiêm, hết thảy việc làm đều rốt
ráo?)
Chúng
ta thường nói Thanh Văn Bồ Đề tâm, Bồ
Tát Bồ Đề tâm, và Vô Thượng Bồ Đề
tâm. “Đại thệ trang nghiêm” được nói ở
đây chính là Vô Thượng Bồ Đề tâm, v́ “nhất
thiết sở tác giai cứu cánh cố” (hết thảy
việc làm đều rốt ráo) cũng chính là huân tập
Vô Thượng Bồ Đề. Vô Thượng Bồ
Đề tâm chẳng nhờ vào đến, đi, chẳng
nhờ vào tu chứng, biểu đạt bằng cách nào? V́
thế nói “quả địa giác, nhân địa tâm”,
có thể vận dụng thích đáng Vô Thượng Bồ
Đề tâm. Do nương vào nguyện lực của
chư Phật nơi quả địa, chúng ta có thể
tùy thuận Vô Thượng Bồ Đề tâm, có thể
thanh tịnh thành tựu, cho nên nói là “trang nghiêm đại
thệ”. Thệ nguyện của chư Phật Như
Lai không ǵ chẳng phải là đại thệ nguyện, “độ
tận chúng sanh, phương thành Phật đạo”
(độ hết sạch chúng sanh th́ mới thành Phật
đạo), rộng lợi ích hữu
t́nh, chân thật chẳng dối, như “văn ngă danh hiệu,
câu lai ngă sát” (nghe danh hiệu của ta, đều sanh về
cơi ta). Đấy đều là lời chân thật, lời
thành thật. Nếu nói A Di Đà Phật phát nguyện là “văn
ngă danh hiệu, nhược lai ngă quốc, nhược bất
lai ngă quốc” (nghe danh hiệu của ta mà có thể sanh
về cơi ta, hay chẳng sanh về cơi ta), ta sẽ chẳng
tin tưởng. Đấy chẳng phải là lời thành
thật, chẳng phải là lời chân thật, chẳng phải
là lời lẽ dứt bặt đối
đăi. V́ thế, đức Phật dùng lời thành thật
để nhiếp thọ rộng khắp hữu t́nh.
(Kinh)
Vân hà đương đắc vi nhất thiết chúng sanh
trung thượng thủ, dục hành chư thiện pháp cố?
(經)云何當得爲一切衆生中上首。欲行諸善法故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được là bậc thượng
thủ trong hết thảy đại chúng v́ muốn hành
các thiện pháp?)
Trong
Phật giáo, “thượng thủ giáo ngôn” tức là lời
dạy của bậc Bồ Tát trụ thế. Trong cơ
chế của giáo ngôn ấy, thường là dùng các vị
thị giả thân cận chư Phật Thế Tôn làm đại
biểu cho thượng thủ của chúng sanh. Như trong
kinh Hoa Nghiêm, Văn Thù và Phổ Hiền làm thượng thủ
trong đại chúng. Hoặc trong thế giới Cực Lạc,
Quán Âm và Thế Chí làm thượng thủ của đại
chúng. Dược Sư Như Lai th́ có Nhật Quang Bồ
Tát và Nguyệt Quang Bồ Tát làm thượng thủ của
đại chúng. Bậc thượng thủ như thế
hướng dẫn hữu t́nh tiến hướng A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, phụ trợ
đức Thế Tôn, tạo thành cơ chế giáo ngôn không
khiếm khuyết, ban bố sự thanh tịnh rộng
lớn. “Chúng trung thượng thủ” (bậc thượng
thủ trong đại chúng) là v́ muốn hành các thiện
pháp. “Thiện” ở đây chẳng phải là điều
thiện tương đối trong thế gian, mà bao hàm
điều thiện do đối ứng với ác trong thế
gian, khiến cho hết thảy chúng sanh tấn nhập,
hoàn thiện rốt ráo A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề. Do vậy, nói hai thiện pháp xuất thế gian và
thế gian cùng lúc trọn đủ, làm bậc thượng
thủ dẫn dắt, mong thực hiện. Muốn hành cái
pháp ấy, bậc Bồ Tát làm thượng thủ của
đại chúng dùng bi, hoặc dùng trí, hoặc dùng oai đức,
hoặc dùng thệ nguyện để lập các thứ
thiết chế, khiến cho hết thảy kẻ hữu
duyên do thiết chế thanh tịnh ấy bèn được
hướng dẫn tăng thượng sự thành tựu.
(Kinh)
Vân hà đương đắc vô hữu b́ quyện, vị
dục giáo thọ nhất thiết Bồ Tát sở học
chư Ba La Mật cố?
(經)云何當得無有疲倦。爲欲教授一切菩薩所學諸波羅蜜故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được chẳng mệt
mỏi v́ muốn dạy bảo các môn Ba La Mật mà hết
thảy Bồ Tát đă học?)
V́
thành tựu Ban Châu tam-muội sẽ gồm thâu hết thảy
các chuyện thuộc Bát Địa, đối với vô
công dụng, sẽ đạt
được thiện xảo rộng lớn, chọn lựa
tâm trí của hết thảy Bồ Tát, không sợ hăi ǵ. Do
đó, chẳng chán ngán, mệt mỏi đối với
pháp. Chúng ta có thể thấy sự sai biệt trong tạo
tác nghiệp giữa phàm và thánh: Phàm phu hữu t́nh v́ tâm
lượng hữu hạn, rất dễ dàng mệt mỏi,
chán ngán. Thoạt đầu th́ nẩy sanh cảm giác hiếu
kỳ, mới mẻ, hấp dẫn, bị lôi cuốn, sẽ
tiến nhập pháp tắc. Nhưng thường là đă
quen thuộc rồi, sẽ nẩy
sanh cảm giác mỏi mệt, chán chường, buông bỏ, chán ĺa. Các vị Bồ
Tát dùng đủ mọi thiện xảo để lợi
ích thế gian trọn khắp, do mong mỏi nhiếp
hóa nên chẳng có mệt chán. Cho nên nói “chúng sanh vô tận,
phiền năo vô tận”, tạo tác các nghiệp để
ban bố lợi ích cho hữu t́nh trong thế gian, dạy bảo
các hữu t́nh trong thế gian chẳng hề chán mệt.
Tâm trí như thế, tác dụng như thế, hành pháp
như thế, lợi ích thế gian như thế, công
đức chân thật ấy chẳng phải là nói suông, mà
thật sự là hành vi chân thật, tương ứng với
cái tâm.
“Dục
giáo thọ nhất thiết Bồ Tát sở học chư
Ba La Mật” (muốn dạy bảo các môn Ba La Mật mà
hết thảy các Bồ Tát đă học): Tại đất
Hán, chúng ta thường nói tới Thập Ba La Mật[5],
Nam Truyền Phật giáo có ba mươi môn Ba La Mật. Vô
lượng vô biên Ba La Mật đều thuộc vào môn trí
huệ thiện xảo, có thể tiếp độ chúng
sanh thành tựu tâm trí Vô Thượng A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề. Tại đất Hán, chúng ta phần
nhiều dùng Ba La Mật môn làm thiện xảo để
nhiếp hóa chúng sanh, trong hết thảy mọi lúc, hết
thảy mọi nơi, đều như huyễn quán sát,
như huyễn liễu tri, như huyễn đích thân chứng
đắc. Ví như làm việc trong mộng chẳng vướng
mắc, thiết lập phương tiện, do chẳng có
được mất, cho nên khéo léo cân nhắc, thủ hộ tự tâm. Đó là đại
oai đức thiện xảo tự nhiên chiêu cảm thành
thục, cho nên “giáo thọ nhất thiết Bồ Tát sở
học chư Ba La Mật” (dạy bảo các môn Ba La Mật
mà hết thảy các Bồ Tát đă học) chẳng hề
chán mệt.
Trong
hai pháp mệt và chán của hữu t́nh, hai pháp giải
đăi và buông lung, hai pháp hôn trầm và vô kư là tùy phiền
năo, tất nhiên chúng sẽ tiếp tục chín muồi. Tuy
xa ĺa tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng, nhưng v́ chán mệt,
hôn trầm, vô kư, vô lực, cho nên [hành giả] chẳng
đắc lực nơi các tam-muội, chẳng thể thủ
hộ thanh tịnh, do tác dụng trí huệ
thần thông thiện xảo rộng lớn chẳng thể
trọn đủ, đă tiến nhập th́ sẽ phần nhiều sanh chán mệt. Đó là chuyện
chẳng ngờ chi nữa! Mang thân phận phàm phu hữu
t́nh, chúng ta đều nhận biết và quan sát sâu đậm chuyện
này!
(Kinh)
Vân hà đương đắc bất thoái chuyển,
đa cầu nhất thiết Phật pháp cố?
(經)云何當得不退轉。多求一切佛法故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được bất thoái chuyển,
cầu nhiều hết thảy Phật pháp?)
Bất
luận chúng ta đă tiếp xúc rất nhiều tài liệu
về Ban Châu cũng thế, hoặc trong các cách nói theo sự
truyền thừa trong lịch sử cũng thế, hoặc
người cận đại quan sát thực tiễn
cũng thế. Nói chung, nội hàm được thâu nhiếp
trong hành pháp Ban Châu là “bất thoái ngay trong một đời”,
cũng có nghĩa là công đức của bậc Bát Địa
Bồ Tát. Do các địa
vị thấp hơn Bát Địa Bồ Tát
vẫn c̣n có khả năng bị thoái chuyển. Nói theo giáo
ngôn Tịnh Độ là pháp môn tu nơi quả địa,
nếu hết thảy chúng sanh duyên theo pháp này, trong một
đời, chắc chắn đắc bất thoái chuyển
nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề! Đối
với chuyện này, đức Thế Tôn đă từng
chuyên biệt thọ kư, thọ kư rộng khắp, thọ
kư đúng như thật. Đối với hết thảy
các vị Bồ Tát có thể thật sự liễu giải,
tiếp xúc, tu tập, thủ hộ pháp môn Tịnh Độ,
sự thọ kư ấy là thọ kư như thật. Nếu
là [cái nhân] như thế, ắt sẽ đắc cái quả như thế,
nguyện như thế, thành tựu như thế!
“Vân
hà đương đắc bất thoái chuyển”
(như thế nào th́ sẽ đạt được
chẳng thoái chuyển) ư? Nếu chúng ta nương vào
tự lực để kiên tŕ hành tŕ, th́ từ ngữ “bất
thoái chuyển” sẽ rất khó tuyên nói, càng chẳng cần
nói tới sự thành tựu nơi pháp ích. Nhưng nếu
dựa theo sức phước đức thù thắng của
Phật, khi hiện duyên chín muồi, sẽ thấy chư
Phật, Bồ Tát, cho tới được
chư Phật đích thân đến dạy bảo.
Như thế th́ “bất thoái chuyển ngay trong một
đời” chẳng phải là chuyện khó! V́ cơ
duyên và pháp chẳng đồng nhất, giáo pháp bèn thiết
lập Quyền và Thật. Do vậy, trong pháp Vô Thượng
Thừa, căn cơ to lớn, tác dụng to lớn, thành tựu
ngay trong một đời, đúng là chẳng thể
nghĩ bàn!
“Đa
cầu nhất thiết Phật pháp cố” (v́ cầu
nhiều hết thảy Phật pháp): Ở đây, trong việc
thủ hộ tổng tướng của pháp môn, tức là
trong giáo ngôn về quả địa, đă bao hàm, dung nạp
hết thảy các pháp, ngầm hộ tŕ hết thảy các
pháp, duyên theo, thành tựu hết thảy các pháp. Đó là vạn đức trọn đủ.
(Kinh)
Vân hà đương đắc bất khả hoại, bất
vị nhất thiết ngoại đạo, tà sư sở
phá cố.
(經)云何當得不可壞。不爲一切外道邪師所破故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được chẳng thể
hoại, chẳng bị hết thảy ngoại đạo
và tà sư phá hoại?)
Nói
theo hành pháp Ban Châu, tất cả các cầu nguyện và hành
pháp của chúng ta, chỉ có Phật và Phật là có thể
biết, chỉ có Phật và Phật là có thể thấy.
Chỉ dựa vào thấy Phật làm phương tiện
tăng thượng, vứt bỏ hết thảy các tạp
duyên, cho nên hết thảy ngoại đạo, tà sư chẳng
thể đụng chạm, chẳng thể hủy hoại
được! V́ cớ sao? Do chẳng có cái duyên ấy!
Khi chúng ta tu pháp Ban Châu, lập một niệm, đoạn
các tưởng, niệm một phương, do nguyện lực
và công đức thù thắng của A Di Đà Phật gia
tŕ, do sức thần thông gia tŕ, do sức nguyện lực
nhiếp hóa, khiến cho sức công đức sẵn có của
chúng sanh được thành tựu, được đích
thân chứng đắc Thập Phương Chư Phật
Tất Giai Hiện Tiền, nghe giáo pháp thù thắng, chọn
lựa giáo huấn tối thượng của chư Phật
Như Lai, quán tự tánh của các pháp “chẳng đến,
chẳng đi”, đích thân chứng tự tánh chân thật,
xa ĺa hết thảy sự quẩn quanh trong sanh tử và
nghi lự đắm nhiễm!
“Tà
sư” là kẻ chẳng nói giáo pháp rốt ráo, chẳng rộng
ban cho chúng sanh lợi ích chân thật, chẳng thể khiến
cho hữu t́nh đạt được bất thoái chuyển
ngay trong một đời. Trong các pháp đối đăi, phần
nhiều thuộc về tà sư. Nói là “tà” tức là chẳng
thể khiến cho chúng sanh nhập chánh tri, chánh kiến,
chánh nghiệp, chánh mạng, thành tựu chánh trí, chánh định,
cho đến rốt ráo thành tựu Bồ Đề. Thậm
chí rơi vào sự tướng, quẩn quanh nơi nhân
địa. Trong kiếp giảm, các hữu t́nh phần nhiều
chẳng thể sanh vui thích nơi pháp, chẳng thể sanh
ḷng tin đối với pháp, cho nên phần nhiều bị
tri kiến bất chánh xúi giục, sai khiến, rơi vào tà
lưu ác kiến, trầm luân trong thế gian, chẳng thể
tự thoát ra được, nhưng công đức của
hành pháp Ban Châu tam-muội tuyệt đối chẳng thể
phá hoại, dẫu ngoại đạo lẫn tà sư
cũng đều chẳng thể phá được!
(Kinh)
Vân hà đương đắc thâm tín nhất thiết
chư Phật, bất xả thử niệm, thường
kiến chư Phật cố.
(經)云何當得深信一切諸佛。不捨此念常見諸佛故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ tin sâu hết thảy chư Phật,
chẳng bỏ niệm ấy, thường thấy chư
Phật?)
Tam-muội
Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền
Lập được gọi là tu tŕ Định Ư tam-muội,
tức là thủ hộ và tiếp nối ư niệm “định ư” do sự gia tŕ
và thuần thục của Phật lực, Phật nguyện,
sức thần thông, sức công đức, mà có thể chẳng
bỏ thân hạnh này, được thấy chư Phật.
Tu hành pháp Ban Châu mà nếu chẳng
bỏ tạp duyên, tức là tri kiến của ngoại
đạo, tri kiến của tà sư, hoặc các thứ
tri kiến chẳng như thật, sẽ bị các thứ
tri kiến và các thứ tư tưởng nhiễu loạn,
như thế th́ Định Ư tam-muội sẽ khó thể
thành tựu được!
Mấy
năm qua, rất nhiều người tu tập hành pháp Ban
Châu hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bảy ngày, hoặc
thời gian lâu hơn, đối với chuyện này đều
có quan sát, nhưng người có thể giữ nhất quán
Định Ư tam-muội từ đầu đến cuối
rất ít. Thậm chí người có thể nhất quán
trong một ngày một đêm rất hiếm hoi, tột bậc hiếm hoi! Có người
thiện căn đă chín muồi, có thể nhất quán trong
một ngày một đêm như thế, thân tâm biến hóa khó thể diễn tả, thí dụ được,
phước đức và nhân duyên chín muồi khó thể diễn
đạt được! Nếu trong một ngày một
đêm giữ được định ư nhất quán từ
đầu đến cuối, người ấy chẳng
thể nghĩ bàn, được mười phương
chư Phật thủ hộ, tán thán, hứa khả, được
hết thảy Bồ Tát yêu mến, tôn trọng, cúng dường.
Thật đấy, chẳng giả! Trong pháp tắc này,
chúng ta hăy nên như thật quan sát tâm trí của chính ḿnh, trọn
chớ nên có cái tâm viện cớ
che đậy, hư ngụy, dối lừa. Nếu thật
sự trong một ngày một đêm chẳng đánh mất
niệm, chẳng đánh mất chánh niệm, không có ư niệm
sai lầm, hành tŕ pháp tắc như thế, sẽ sanh ra tâm
trí thiện xảo cực lớn, khó thể thí dụ và diễn nói được.
Do
Định Ư tam-muội th́ có thấy Phật hay không? Nếu
là “tin sâu hết thảy chư Phật, chẳng bỏ
niệm này”, tức là chúng ta là người thật sự
tin Phật, nhất quán từ đầu đến cuối,
giữ ǵn định ư, đoạn trừ các tưởng,
nhưng do niệm một phương, do được gia tŕ bởi nguyện lực, sức thần thông, sức
vô ngại của Phật và do công đức vốn có của
chúng ta chín muồi, sẽ nhất định có thể thấy
Phật, nghe lời dạy thù thắng của chư Phật,
giải trừ hết thảy nghi ngờ lo lắng, giải
trừ những thứ pḥng ngự và gánh nặng trầm
trọng. Đó gọi là thật sự đắc đại
tự tại, đích thân chứng quang minh nơi tự tánh,
hiểu tách bạch bản chất của tự tánh, ĺa hết
thảy che đậy, lấp liếm, tỏ lộ diện
mục chân thật, nhập Thật Tế lư địa, an
trụ trong pháp tắc chân thật.
Đối
với điều này, chúng ta hăy nên quan sát; hiện thời,
pháp tắc này được tu tập rất rộng, rất
phổ cập trong nước. “Phổ cập” ở
đây chẳng thể nói là phổ cập như các hành
pháp niệm Phật đơn giản khác, nhưng người
hành tŕ cũng đông, đă được hữu t́nh tiếp
nhận trong thực tế. Thoạt đầu, mọi
người không chấp nhận hành tŕ pháp Ban Châu, nhiều
kẻ phỉ báng, nghi ngờ, hủy báng; nhưng qua sự
tu tập và quan sát của mọi người trong mấy
năm qua, nhất là do nương theo giáo pháp, nương
theo kinh điển để tu tập đúng như thật,
đă dần dần có thể quan sát thấy: Căn tánh của
hữu t́nh trong hiện thời là kém cỏi; điều
xuyên suốt từ đầu đến cuối là thiện
xảo chẳng thể thành thục. Do vậy, không ngừng
tu tập pháp này. Như các vị cư sĩ thường
trụ tại Hằng Dương Am đă hành tŕ liên tục
pháp tắc này hơn một năm qua, một ngày một
đêm, hoặc một ngày hai đêm, hoặc thời gian
dài hơn đôi chút, nhưng có thể trong một ngày một
đêm “lập một niệm, đoạn các tưởng”
nhất quán từ đầu đến cuối, chẳng
thất niệm, chẳng đánh mất ư niệm, người
thủ hộ thanh tịnh như thế có được
mấy người? Đối với điều này, những
người tu tập ai nấy tự có thiện căn chín
muồi, tự vận dụng, tự được
chư Phật Như Lai thủ hộ.
(Kinh)
Vân hà đương đắc như phụ tưởng,
thiệu long nhất thiết Phật pháp cố.
(經)云何當得如父想。紹隆一切佛法故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ tưởng như cha, để
tiếp nối hưng thịnh hết thảy Phật
pháp?)
“Phụ”
(cha) có nghĩa là “người thúc
đẩy sanh khởi hết thảy công đức”. V́ thế, trong trước
tác của Long Thọ Bồ Tát, Ngài đă tán thán hành pháp Ban
Châu là “cha của hết thảy chư Phật”, Bát
Nhă là mẹ của hết thảy chư Phật. Hành pháp Ban Châu là cha của hết thảy chư Phật,
v́ có thể thúc đẩy sanh khởi công đức “nhập
thế gian, rộng độ hết thảy hữu t́nh”
của hết thảy chư Phật. Bát Nhă là mẹ ấp
ủ, nuôi nấng hết thảy công đức, dưỡng
dục pháp tắc của hết thảy chư Phật, chứa
đựng thế gian rộng khắp.
“Thiệu
long nhất thiết hành pháp” (tiếp nối
hưng thịnh hết thảy các hành pháp): Hành pháp Ban
Châu thật sự trọn đủ oai đức này, trọn
đủ thiện xảo này, trọn đủ nội hàm
chân thật này. Nếu có người thành tựu biết,
nếu người thiện xảo biết, nếu người
tu tập như thật biết, nếu là người chọn
lựa như thế th́ sẽ quyết định thủ
hộ, thủ hộ không ngờ vực. V́ hữu t́nh trong
thời đại này mê hoặc, lẩn quẩn trong sự
cảm nhận dựa trên tri kiến của chính ḿnh. Từ
trong ngoại duyên hư vọng, tức sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp, tài, sắc, danh vọng, ăn
uống, ngủ nghê mà họ đă cảm nhận, họ
chẳng thể chọn lựa một pháp tắc, chẳng
thể tu tập thanh tịnh, chẳng thể bỏ ĺa hết
thảy tạp duyên để tu tập một pháp tắc,
cho nên cơ hội thành thục thiện căn như thế
lại càng ít ỏi. Do vậy, chúng tôi không ngừng dựa
theo pháp tắc để cổ vũ, khích lệ, khuyến
hóa, hướng dẫn, tăng thượng, xúc tiến
thành lập một cơ chế ngoại vi, nhưng cơ
chế nội tại th́ vẫn đích xác là mỗi hữu
t́nh cần phải phát tâm.
(Kinh) Vân hà đương đắc Phật
lực gia tŕ, ư nhất thiết Phật pháp quang minh trung
sanh cố?
(經)云何當得佛力加持。於一切佛法光明中生故。
(Kinh: Như thế nào th́ sẽ
được Phật lực gia tŕ để sanh trong hết
thảy quang minh của Phật pháp?)
Đây là một cơ chế riêng biệt của
hành pháp Ban Châu. Trong giáo ngôn về quả địa của
pháp môn niệm Phật, nương theo nguyện lực của
Phật để trực tiếp tiến nhập quang minh
tạng, thanh tịnh b́nh đẳng, hết thảy chúng
sanh đều được văng sanh trong tâm trí quang minh b́nh
đẳng, đạt được sự thủ hộ
thanh tịnh. Do duyên khởi niệm Phật, cho nên hễ
khởi lên, đều là quang minh. Quang minh b́nh đẳng,
chẳng hề vướng mắc, đều được
văng sanh, chẳng có đối đăi. Chọn lựa mười
hai thứ quang minh [của A Di Đà Phật], tức là Vô
Lượng Quang, Vô Biên Quang, Vô Ngại Quang, Vô Đối
Quang, Diễm Vương Quang, Thanh Tịnh Quang, Hoan Hỷ
Quang, Trí Huệ Quang, Bất Đoạn Quang, Nan Tư Quang,
Vô Xưng Quang, Siêu Nhật Nguyệt Quang. Dùng hết thảy
các loại quang minh chẳng thể diễn nói chiếu rạng thế
gian để tiêu trừ hết thảy t́nh chấp
đối đăi, t́nh chấp thánh phàm. Hành pháp Ban Châu
cũng giống như thế, do được Phật lực
chẳng thể nghĩ bàn gia tŕ, tức
là do được
Phật quả đức lực gia tŕ, sẽ diệt trừ
tâm trí sai biệt của hết thảy chúng sanh, nhập
quang minh tạng b́nh đẳng, quang minh tạng chẳng
thể nghĩ bàn, miễn trừ hết thảy quang minh tạng
đối đăi. Ở trong quang
minh tạng như thế, có thể thúc đẩy
sanh khởi hết thảy công đức, tức là các thứ
trang nghiêm quốc độ, các thứ trang nghiêm cho bậc đương cơ trong hiện tại, cho nên nói là “ban bố cho
chúng sanh lợi ích tối thượng thừa”, khiến cho hết
thảy các chúng sanh đều b́nh đẳng giác ngộ.
Hành
pháp Ban Châu đích xác là chẳng thể nghĩ bàn như thế. Khi ấm cảnh hiện tiền, đúng là dịp bố thí sự thủ hộ
b́nh đẳng. Trong hành pháp Ban Châu, đa số hữu t́nh
chẳng thể tự thoát khỏi ấm cảnh, cũng
có nghĩa là đọa lạc, trầm luân trong sự tướng,
chẳng thể giác ngộ. Từ kinh nghiệm bản
thân, tôi đă biết rất nhiều người tu hành, hoặc
một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày
trong khi thực hành pháp này, có nhiều ấm cảnh, nhiều
người bị ấm cảnh vây hăm, chiết
phục, lôi kéo, khống chế, chẳng thể tự
thoát ra được, bèn chấp giữ ấm cảnh. V́ cớ sao? Do chưa thoát khỏi mộng, chưa thoát
khỏi tri kiến và giác thọ của chính ḿnh, chưa cậy
nhờ trí b́nh đẳng, trí quang minh, trí vô ngại, và sự gia tŕ và hồi thí thanh tịnh viên măn của đức Phật, chỉ dựa trên sự
cảm nhận về sự tướng của chính ḿnh, tức
là do trần nhiễm đối với sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp, sanh ra giác, thọ, tưởng,
hành, thức, quẩn quanh mơ màng trong ấm cảnh, nhận
biết sai lầm tâm trí của chính ḿnh, nhận biết
sai lầm pháp tắc, chẳng có sức để nhất
quán từ đầu đến cuối đối với “lập một niệm, đoạn các tưởng”, chẳng nhiễm,
chẳng chấp, không vướng, không mắc, trực tiếp
chọn lựa thấy Phật, cho nên phần nhiều
rơi vào ấm cảnh, chẳng đạt được
quang minh. V́ nếu thật sự được Phật
lực gia tŕ, sẽ có thể khiến
cho hết thảy ngăn chướng nơi hết thảy
ấm cảnh bị tiêu trừ.
Các
vị thiện tri thức! Nếu dùng tâm trí chẳng đối
đăi làm bước khởi đầu để tu tập
hành pháp này, tức là thủ hộ Định Ư tam-muội,
nương theo tâm trí nơi vô ngại quả đức của
Phật, tâm trí Vô Thượng Bồ Đề, tâm trí chẳng
mong mỏi, chỉ cầu thấy Phật, lập một
niệm ấy, tất nhiên sẽ tiến nhập quang minh
tạng. Ở trong biển quang minh tạng ấy mà gột
rửa vô minh, hắc ám, trần cấu vốn là những thứ
chẳng để đạt được, ḥng
được thấy chư Phật Như Lai. Hăy nên biết
Phật lực! Hăy nên niệm phương ấy (phương vị của đức Phật
được chọn làm bổn tôn trong hành pháp Ban Châu)! Hăy nên biết
nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn của Phật!
Sự hồi thí nơi quả địa của Phật
chẳng thể nghĩ bàn! Nhân duyên giáo hóa rất sâu của
chư Phật chẳng thể nghĩ bàn! Ở đây, giải
thích mười phần rơ ràng. “Tại Phật pháp quang minh trung sanh” (sanh trong quang
minh của Phật pháp), thúc đẩy sanh khởi các công
đức. Nhưng phàm phu hữu t́nh phần nhiều
tăng ích đạo đức và thiện căn nơi sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp qua sự cảm nhận của
chính ḿnh, cho nên đâm ra phần nhiều chẳng
tương ứng khít khao với pháp tắc này, chẳng có duyên tương ứng.
Quả thật hăy nên nhờ
vào sự gia tŕ của Phật lực, từ trong quang minh
của Phật mà xúc tiến sanh khởi Pháp Thân huệ mạng
và các thứ thiện xảo của chính ḿnh. Phải mười phần
chú ư điều này!
Do
thứ tự đặt câu hỏi ở đây là “đương
như phụ tưởng” (hăy nên nghĩ như cha), tức
là tiếp tục thúc đẩy công đức sanh khởi.
“Phật pháp quang minh” cũng là hiển thị “trí
Bát Nhă là mẹ của công đức, là mẹ của
chư Phật”. Đừng coi thường những lời
này! Nếu quư vị nhận biết đúng mực, sẽ
biết chọn lựa chân thật trong hết thảy các
nghiệp duyên như huyễn, sẽ trụ trong
phương tiện thiện xảo rộng lớn. Nếu
chúng ta thật sự nhận biết hết thảy các pháp
hữu vi như mộng, như huyễn, ở trong huyễn
duyên, trong mộng duyên, chúng ta sẽ làm ǵ? Ai nấy đều
có thể chọn lựa; trong cái nhân duyên
mộng huyễn hiện thời, chọn lựa cái tâm,
nghiệp, và duyên của chính ḿnh như thế nào? Chúng ta
c̣n cần tô son, trát phấn, cần trang điểm chi nữa?
C̣n cần những thứ hư giả, chứng ǵ, thành tựu
ǵ nữa ư? Như thế th́ chúng ta sẽ thật sự
đối diện tâm địa của chính ḿnh để
chọn lựa, an bài sanh mạng và
khát vọng của chính ḿnh.
(Kinh)
Vân hà đương đắc vô chướng ngại, nhất
thiết Phật pháp tất hiện tại tiền cố?
(經)云何當得無障礙。一切佛法悉現在前故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được chẳng chướng
ngại, hết thảy Phật pháp đều hiện ra
trước?)
“Đương
đắc vô ngại” (sẽ được vô ngại):
Trong quá tŕnh học tập Phật pháp, sẽ có những ǵ chướng ngại chúng ta? Không
ǵ chẳng ngoài được hay mất. Thứ ǵ sẽ
chướng ngại chúng ta? Không ǵ chẳng ngoài thánh hay
phàm. Điều ǵ có thể trở ngại chúng ta? Không ǵ
chẳng ngoài hết thảy đối đăi lấy hay bỏ. Ngă Chấp,
Ngă Kiến chướng ngại hữu t́nh. Có nghĩa là Phiền
Năo Chướng và Sở Tri Chướng khiến cho chúng
sanh mê mất tự tâm, do mỗi thứ chướng pháp ấy
mà chẳng đạt được thiện xảo,
chẳng đắc lực. Như thế th́ pháp của
chư Phật chẳng thể hiện tiền! Nhưng
hành Ban Châu chính là tu ngay trong mỗi niệm hiện tại, tu ngay
trong mỗi niệm hiện tiền, tức là khi
các chuyện, các nhân, các duyên hiện tiền, sẽ
nương vào sức vô ngại, nương vào sức báo
đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật để
quan sát, cũng tức là nương theo tự tánh vô nhiễm,
tự tánh không chấp trước, sức vô tự tánh [mà chính ḿnh] vốn sẵn có để quan
sát ngay trong mỗi niệm, cho đến nương vào sức
công đức của danh hiệu Phật để nhanh
chóng thành tựu quang minh của tự tánh, chiếu rơ, nhận
biết hết thảy các pháp vốn đă trọn đủ,
hết thảy các pháp vốn sẵn trang nghiêm, hết thảy
chư Phật vốn sẵn an lập, hết thảy sự trang nghiêm trong biển pháp giới thanh tịnh an lập vốn
chẳng rời ĺa trong khoảng sát-na, thành tựu vô lượng pháp
tắc thiện xảo!
(Kinh)
Vân hà đương đắc như huyễn nhân, ư nhất
thiết pháp vô tư niệm cố?
(經)云何當得如幻人。於一切法無思念故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được
như kẻ huyễn hóa, trong hết thảy các pháp, chẳng
suy nghĩ?)
Tại
Ấn Độ, có các huyễn sư có thể dùng các thủ
đoạn như chú thuật, phù lục (bùa phép) v.v… khiến
cho các chúng sanh tiến nhập huyễn cảnh, sanh ra đủ
loại mừng sợ, [trông thấy] đủ loại
trang nghiêm. Hiện thời, chúng ta là huyễn nhân, hay là người như thật? Nếu hiểu rơ “pháp
chẳng có tự tánh”, có nhân duyên của hữu t́nh nào
chẳng phải là nhân duyên nhất thời ḥa hợp biến
hiện? Có thực chất ǵ vậy? Quư vị từ vô thỉ
đến nay, thiện ác, lớn nhỏ, đúng sai, có thứ
ǵ để có thể đạt được? Đều
là các thứ nhân duyên tụ hợp, quả thật chẳng
sanh, mà cũng chẳng hiện, chỉ là do cưỡng chấp
duy tŕ, sẽ nẩy sanh các thứ lực và tác dụng. Lực
và dụng ấy không ǵ chẳng phải là tác dụng của
pháp tánh, nhưng khi mê mất, chấp trước, sẽ nẩy
sanh tướng nghiệp lưu hư vọng. Nếu từ
trong hết thảy được, mất, chúng ta thấy
thấu suốt bản chất của chúng, há c̣n đắm
nhiễm nơi được mất ư? V́ thế, huyễn
nhân chẳng cầu được, mất, chẳng sợ
được, mất; có ai chẳng phải là huyễn
nhân? Có ǵ là biết như thật? Chúng ta tu hành pháp Ban Châu,
nhất định sẽ có sự quan sát như thế.
Có
các vị xuất
gia và cư sĩ tu hành pháp Ban Châu, sanh ra cảm nhận
được gọi là “hư huyễn”. Nếu trong t́nh huống thông thường, sẽ bị
tổn thương rất lớn; nhưng khi hành tŕ Ban
Châu, nó chẳng gây tổn giảm cho người ấy. Hễ
khôi phục thái độ b́nh thường th́ chẳng sao cả!
Tôi nhớ khi mọi người hành tŕ pháp này ở vùng
Đông Bắc[6],
do nhân duyên khác, tôi bèn rút lui, muốn đến Bản Nạp
(Sipsong Panna)[7].
Khi ở trạm xe và phi trường, cảm thấy rất
yếu ớt, chẳng phải là không biết rơ, nhưng
chẳng có cách nào dùng ư niệm để điều khiển
nhân duyên của chính ḿnh, v́ bất cứ tâm niệm nào
cũng đều chẳng đắc lực. Khi đó, nếu
nói là bị thất niệm th́ quả thật chẳng thất
niệm, chỉ là chẳng thể dùng sức. Thông thường,
sau khi hành Ban Châu ba ngày, tư duy muốn dùng sức sẽ rất
khó. Thật sự tu tập, sẽ rất khó thể dùng những
cái gọi là “ư nghĩ, ư niệm” của chính ḿnh. Ư nghĩ và ư niệm đều là
hư vọng tạo tác, cơ bản là đă tiến nhập
một trạng thái nghỉ ngơi đặc biệt;
đó là một hiện tượng khá phổ biến.
Đương nhiên là nếu “niệm trong một kỳ
hạn, niệm một phương”, chẳng mê muội
cái tâm đă phát ban đầu của chính ḿnh, nhất quán từ
đầu đến cuối, người như vậy nếu
có thể hành một ngày, hai ngày, ba ngày, nhân duyên ấy
cũng khó thể diễn tả, chỉ có hành giả biết,
theo đúng pháp mà ấn khế.
Giữa nhiều người
tu tập như vậy, v́ sao có người tương ứng,
có người chẳng tương ứng, kết quả
sai lệch bất đồng? Đó là do nguyện vọng
và tâm trí của mỗi cá nhân [khác biệt]. Rất nhiều
người hành pháp trong khi kinh hành, cũng như trong quá
tŕnh kinh hành, phần nhiều nẩy sanh tâm lư muốn nghỉ
ngơi, tránh né, chẳng muốn đi nữa, hoặc là cuồng
vọng, tự đại, cho nên tinh thần sa sút, chẳng
mong hành tŕ nữa, bèn hôn trầm, nghỉ ngơi. Loại
người ấy là kẻ tránh né, chẳng thể
tương ứng với pháp, mà kẻ tâm trí cuồng vọng,
hợm ḿnh, sôi nổi cực độ giống như mắc
chứng cuồng tưởng cũng chẳng thể
tương ứng. Do vậy, nếu tri kiến có thể
đúng như thật nhất quán từ đầu đến
cuối, liền gặp Phật, nghe pháp, tin sâu Phật lực
chẳng thể nghĩ bàn, tin sâu công đức gột
rửa của danh hiệu Phật thanh tịnh và quang minh
thanh tịnh, người ấy sẽ có thể trong một
ngày, hai ngày, ba ngày, bảy ngày đạt được lợi ích chẳng
thể nghĩ bàn. Có lợi ích như vậy hay không? Thật
sự là người tu tập th́ sẽ biết. Nội
hàm thực chất của hành pháp Ban Châu thật sự chẳng
thể nghĩ bàn! Có người nói: “Chúng ta chẳng sanh ra
lợi ích trong hiện thời, vậy th́ lợi ích trong vị
lai rốt cuộc là như thế nào?” Lợi ích của
hành pháp Ban Châu trong vị lai đúng là chẳng thể
nghĩ bàn! Chúng ta chẳng thể dùng lợi ích để
dụ dỗ hữu t́nh, nhưng trong hơn một trăm
hai mươi câu hỏi được đặt ra ở đây, quả thật [đă diễn tả] nội dung thực chất
của lợi ích do hành tŕ Ban Châu. Nội dung ấy chính
là lời thành thật, lời chân thật của đức
Phật ban bố cho chúng sanh.
(Kinh)
Vân hà đương đắc như hóa giả, quán nhất
thiết pháp vô sanh diệt cố?
(經)云何當得如化者。觀一切法無生滅故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đạt được
như hóa, quán hết thảy các pháp chẳng sanh diệt?)
Trong
hành tŕ Ban Châu, có thể là có các hữu t́nh hành pháp đối
với cảm giác “như hóa” đă có sự nhận biết sâu sắc. “Quán nhất
thiết pháp vô sanh diệt cố” (v́ quán hết thảy
các pháp chẳng sanh diệt): Pháp vốn chẳng sanh diệt,
nhưng nương vào các thứ hiện duyên và các thứ
nhân duyên tiếp nối mà hiển lộ rành rành các thứ vật chất như
huyễn, cho nên là “không, vô sở hữu”. Các loại hữu
t́nh trong các loại pháp giới cho rằng pháp giới là có
thật, nhưng thật ra, chẳng có pháp nào để có
thể đạt được! Trong pháp chẳng thể
được, chúng sanh vẫn tiếp tục duy tŕ các thứ
cảm nhận, các thứ tri kiến, các thứ sanh mạng,
và các thứ thiện ác của chính ḿnh, sáng lập Dục
Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, cho tới
mười pháp giới. Mỗi giới đều phô bày
công đức, đều hiển lộ tác dụng của
pháp tánh. V́ thế, đức Phật nói “pháp giới duy
tâm”, thật sự chẳng sanh diệt, nhưng do nương theo tâm trí tạo
tác, tâm trí manh động, tâm trí nhân duyên mà liên tục xuất
hiện các chọn lựa và các thứ tác dụng.
Hết
thảy các pháp thật sự chẳng sanh diệt. Trong khi
hành tŕ Ban Châu, chúng ta có thể quan sát rơ ràng: Khi lập một
niệm, các thứ ấm cảnh, các thứ cảm giác,
đau, ngứa, ấm cảnh, cho đến cảnh quang minh, cho
đến cảnh thấy Phật, cảnh hỏi pháp
cũng đều là chẳng thể được,
cũng là chẳng có sanh diệt, nhưng do tâm trí trói buộc,
nguyện lực nêu bày, hành pháp sẽ hiển hiện
tương ứng. Sự hiển hiện ấy như huyễn,
như hóa, chẳng có thực chất. Hành giả sẽ
đạt được diệu dụng, c̣n người
nhiễm đắc sẽ trầm trọng, sẽ vướng
mắc hệ lụy.
(Kinh)
Vân hà đương đắc như mộng, quán sát tam thế
vô lai khứ cố?
(經)云何當得如夢。觀察三世無來去故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được như mộng,
quan sát ba đời chẳng đến, đi?)
Đối
với loại cảm nhận này, có lẽ rất nhiều
người đă tu hành pháp này, đọc tới đây, sẽ cảm thấy
rất thân thiết. Thông thường, đối với
người đă hành [Ban Châu] từ bảy ngày trở lên,
đối với hết thảy hiện duyên và hiện cảnh, phần nhiều chẳng sanh sợ
hăi. Tôi đă thấy khá nhiều người tu hành pháp này từ
bảy ngày trở lên, nếu chẳng mê mất trong ấm
cảnh của chính ḿnh, có thể dựa theo giáo lư để
thanh tịnh quan sát cặn kẽ, đối với những
ngôn từ như “ba đời như mộng”, “ba
đời như huyễn”, “tam thế nhất niệm”,
“ba đời b́nh đẳng”, đều có thể cảm
nhận. Thoạt đầu, trong khi tu hành pháp này, nhất
là ở vùng Đông Bắc, có rất nhiều người
hành Ban Châu, sau khi xuất quan đều nói: “Cảnh giới
ấy tôi đă sớm từng thấy. Rất lâu trước
kia, tôi đă biết quang cảnh ấy, đều đă
thể nghiệm tinh thần ấy” v.v… Quả thật là nhất
niệm chuyển dùng lẫn nhau!
“Ba
đời” là do chúng sanh hư vọng tự ấn
định, trọn chẳng phải là như thật. V́ vậy,
người có trí huệ, do có Thiên Nhăn Minh, Túc
Mạng Minh, và Lậu Tận Minh, sẽ
có thể chuyển đổi giữa ba đời, hoán
chuyển diệu dụng, nương vào lúc sức công đức
thành tựu để chuyển hoán tới lúc túc duyên của
chính ḿnh chưa thành tựu, ḥng lợi ích các hữu t́nh
trong thế gian thuở chưa thành tựu, khiến cho họ
được an lạc. Hoặc trước hết tiến
nhập công đức thành Phật ḥng bố thí cho thế
gian đang trầm luân, khiến cho những kẻ trầm
luân trong hiện duyên của đời quá khứ nơi thế
gian đều được độ thoát. Ba đời
dùng lẫn cho nhau, vốn chẳng có chướng ngại.
Trong sự tu chứng của Phật pháp, nếu đối
với cái gọi là Bổn Tôn[8]
Quán, hoặc Bổn Tôn Thí Giáo mà đích thân chứng đắc
giáo nghĩa, sẽ có thể nương theo tâm trí của Bổn
Tôn, giáo ngôn của Bổn Tôn, và pháp tắc của Bổn
Tôn để lợi ích trời, người rộng lớn,
nhưng Bổn Tôn thật sự chẳng có lúc trước
hay lúc sau. Do vậy, “tam thế vô lai khứ” (ba đời
chẳng đến đi), đến hay đi là do chúng
sanh sử dụng, cũng như để cho bậc thiện
xảo sử dụng. Bậc thiện xảo vào trong ba
đời, “một niệm nhập ba đời, ba
đời làm một niệm”, ai nấy đều
đạt được phương tiện. Chúng ta
đọc kinh Hoa Nghiêm, trong cảnh giới chẳng thể
nghĩ bàn, quả thật chẳng có pháp nào để có thể
đạt được, đúng là như huyễn,
như hóa, thật sự là đạt được sức
tự tại trong huyễn hóa. Thật sự là kẻ trí
th́ sử dụng, c̣n kẻ ngu th́ mê muội!
(Kinh)
Vân hà đương đắc như kính tượng, nhất
thiết thế giới tư hiện thân trung cố.
(經)云何當得如鏡像。一切世界斯現身中故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được như h́nh tướng
trong gương, để hiện thân trong hết thảy
các thế giới?)
Trong
việc tu tŕ môn tam-muội Thập Phương Chư Phật
Tất Giai Hiện Tiền này, chiếu soi, nhận biết
hết thảy thế gian, hiện ra các thứ phương
tiện trong sát độ thế giới, đúng là chẳng
thể nghĩ bàn! Đấy chẳng phải là sở chứng
của bậc thánh, mà cũng chẳng phải là pháp tắc
nào khác, mà là sở chứng của người có mong muốn
thanh tịnh, do được chư Phật, Bồ Tát gia
tŕ, sanh ra sự thiện xảo nơi tâm trí giống
như tấm gương có thể chiếu soi thế gian.
Trước
kia, trong quá tŕnh tŕ chân ngôn Dược Sư, tôi đối
với chuyện này có cảm xúc mười phần to lớn. Muốn vào địa
ngục giới, muốn vào súc sanh giới, muốn vào quỷ
pháp giới, nhân pháp giới, thiên pháp giới, Thanh Văn
Duyên Giác pháp giới, đều có thể đạt
được sức tự tại. Sức tự tại
ấy chính là nương nhờ sức của chân ngôn, có
thể chuyển vận cảm giác từ tâm trí vào trong các
loại thế giới, thấy các phương tiện. Nếu
thủ hộ đầu gối (chú tâm quán chủng tử
của chân ngôn hiện ra nơi đầu gối), sẽ
có thể khéo vào súc sanh pháp giới. Trong quá tŕnh tŕ chân ngôn
Dược Sư, nhanh chóng tiến nhập súc sanh pháp giới,
trông thấy đủ loại súc sanh, đủ loại
luân hồi, đủ loại sanh mạng tiếp nối,
đủ loại nguồn cội, cho đến đủ
loại mong cầu, đủ loại khát vọng,
đủ loại khổ nạn. Trong nhất thời, muốn
biết sự thủ hộ của quỷ thần, bèn quán nơi rốn,
dùng chân ngôn Dược Sư gia tŕ, sẽ tiến nhập
tâm giới của các loại quỷ thần, trông thấy
nhu cầu, tác dụng, thành tựu, sự đến đi,
khát vọng, nỗi sợ hăi, và tránh né của
đủ loại quỷ thần. Đó là then chốt, là
đàn tràng, và mấu chốt của quỷ thần. Nếu
muốn quán nhân pháp giới, bèn quán nơi ngực, phần
nhiều là quán sát thanh tịnh nơi ức, dùng sức chân
ngôn để gia tŕ, sẽ có thể tiến nhập các thứ
nhân loại, các thứ tâm trí, khát vọng, nhu cầu,
băn khoăn, chọn lựa, sanh đây chết kia, chết
đây sanh kia của con người. Đó là phương
tiện. Nếu quán nơi lông mày, có thể trông thấy các
thứ thiện xảo, vui chơi, hướng đến,
trở về, trầm luân của chư thiên. Điều
này chẳng khó, cũng có nhiều phương tiện. Nếu
quán cảnh tướng địa ngục, hăy quán sát
nơi bàn chân cho nhiều, nương theo
chân ngôn thúc đẩy, sẽ thấy các thứ lửa, các
thứ băng, các thứ gió, các thứ nạn, các thứ
hành h́nh tàn khốc, các thứ gào khóc áo năo, các thứ nạn
duyên chẳng thể nghĩ bàn cùng lúc hiện tiền. Các
thứ chẳng thể nghĩ bàn ấy chỉ
nương vào sức thúc đẩy của chân ngôn mà đều
có thể cảm nhận, biết rơ!
Thật sự là hết thảy
thế gian rốt ráo như huyễn, đủ loại
gương, cùng với điều
then chốt và thực tiễn, đă được
truyền thừa lâu đời từ xưa, cũng có vị
thí giáo, cũng có người tu tập. Trong hành pháp Ban Châu,
chúng ta muốn đạt được phương tiện
thiện xảo này, cũng có thể khế nhập để
tu tŕ trong một luân ấy (tức các chỗ vừa nói
trong phần trên, như ngực, bụng, đầu gối
v.v…) để làm thiện xảo. Quư vị nói: “Tôi tu pháp
trong sự vui chơi, tôi chẳng thấy Phật”. Cũng có thể tu tŕ
như thế, bất quá như thế
th́ là đâm đầu vào ngơ rẽ, khiến cho người
ấy sợ hăi mà đọa lạc, hoặc nói “chẳng
thể [chứng đắc] ngay trong một đời”,
cho đến sân hận, hoặc nẩy sanh kiêu mạn. Nếu đă đạt được sức tự tại
th́ có thể hành tŕ pháp này.
“Vân hà đương đắc như
kính tượng, nhất thiết thế giới tư hiện
thân trung cố” (Như thế nào th́ sẽ được
như h́nh tượng trong gương để hết thảy
thế giới đều hiện thân trong ấy): Đối
với chuyện này, mọi người có thể tự chứng
thực. Tôi chẳng cần phải giới thiệu
phương pháp cho mọi người, chỉ nêu ra với
mọi người, mỗi chỗ trong thân luân đều
có phương tiện, đều có thể tiến nhập.
Chẳng hạn như muốn thấy chư thiên, hăy quán
nơi lông mày, sẽ rất dễ trông thấy. Nhưng
nơi ấy cũng rất dễ gây ra thương tổn
chẳng thể nghĩ bàn đối với sanh mạng,
v́ nếu đối với các thứ tu tŕ mà đắm
nhiễm, sẽ có thể thậm chí đánh mất sanh mạng,
hoặc sanh ra bệnh tật. Do đó, đối với
các pháp tắc như thế, hăy hết sức chớ nên coi thường, dễ dăi vận
dụng. Ở đây, tôi chỉ nhằm thuyết minh câu
kinh văn này mà thôi!
(Kinh)
Vân hà đương đắc như hưởng thanh, nhất
thiết pháp vô tác, vô vi, nhân duyên sanh cố?
(經)云何當得如響聲。一切法無作無爲因緣生故。
(Kinh: Như thế nào th́ sẽ
được như tiếng vọng, hết thảy các
pháp vô tác, vô vi, do nhân duyên sanh?)
Chúng ta chọn
lựa như thế nào? Giáo ngôn của tam thừa đều
công nhận các pháp nhân duyên. V́ sao vậy? Do nó hiển hiện
trong thế gian mà chẳng hoại Tục Đế, có thể
tạo lợi ích và lợi lạc cho chúng sanh, có thể khiến
cho chúng sanh trông thấy và sử dụng. V́ thế, “chư
pháp nhân duyên sanh, duyên tạ pháp hoàn diệt, ngă sư đại
sa-môn, thường tác như thị thuyết” (các pháp
nhân duyên sanh, duyên hết, pháp cũng diệt, thầy ta
đại sa-môn, thường nói như thế
đó), điều này được các hữu t́nh tiếp
nhận. Nói “pháp sanh bởi nhân duyên”, có thể trừ
sạch hai pháp Đoạn và Thường, cũng có
nghĩa là Thường Kiến và Đoạn Kiến có thể
cùng lúc tiêu mất!
Bởi lẽ, hết thảy các
pháp vô tác, vô vi, do nhân duyên mà hiển hiện, đó gọi
là “từ trong cái vốn chẳng sanh diệt, do nhân duyên mà hiển hiện”. Nhân duyên ấy
từ đâu đến? Đi về đâu? Thật sự
chẳng có nhân duyên để có thể được!
Chúng sanh do đắm nhiễm, chúng sanh do nhất niệm
mê muội chân tánh xúc động mà tướng động
hiện tiền, Năng và Sở được kiến lập,
kiến lập thế giới hải[9].
Cho nên các thứ sát-độ (các cơi Phật) do vậy mà sanh,
tức là do chân tánh manh động, bèn liên tục xuất
hiện các thứ sát-độ. Các sát-độ ấy
là vô tác, vô khởi, tất nhiên là loạn khởi,
loạn diệt, chẳng có thực chất, v́ đều là do nhân duyên mà sanh.
Hành
Ban Châu sẽ nhất định có cơ chế thiện xảo
như vậy. Chư vị thiện tri thức nếu có
thể khéo quan sát, sẽ có thể chọn lựa pháp nhân
duyên. Nhị Đế (Chân Đế và Tục Đế)
dung thông, từ trong pháp Thắng Nghĩa Đế chẳng
có tự tánh mà có thể chọn lựa an trụ, có thể
an lập, trụ trong hết thảy các pháp nhân duyên thuộc
Tục Đế, quan sát rất sâu, thật sự là vô
sanh, vô diệt. Các loại nhân duyên sanh ra các loại pháp, từ
trong các loại pháp mà hư huyễn dấy lên hay tiêu diệt,
chẳng có thực chất, trở lại quy nạp trong
Thắng Nghĩa Đế chân thật.
(Kinh)
Vân hà đương đắc như h́nh ảnh, ư nhất
thiết sanh pháp, tự vô tâm thủ
xả cố?
(經)云何當得如形影。於一切生法自無心取捨故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được như h́nh ảnh,
trong hết thảy các pháp sanh khởi, tự chẳng có
tâm lấy bỏ?)
“Như
h́nh ảnh”: Chúng ta sẽ chẳng nắm bắt sự
được mất nơi h́nh bóng, nhưng có nhiều hữu
t́nh ngu si từ trong hết thảy các pháp tắc huyễn duyên
như h́nh bóng, lại hư vọng chấp giữ thiện
ác, hư vọng chấp giữ được mất,
hư vọng chấp giữ ta người, trầm luân
trong thế gian. Nếu thật sự biết “hết thảy
các pháp ví như h́nh bóng,
chẳng mất, chẳng được”, há có đắm
nhiễm? Hữu t́nh tất nhiên không lấy bỏ, từ “không
lấy bỏ” mà đạt được B́nh Đẳng Trí, Diệu Quán Sát
Trí, Đại Viên Măn Trí, Pháp Giới Thể Tánh Trí. Bốn
loại trí bẩm sanh ấy cùng lúc chín muồi, quan sát thế
gian chẳng hề sợ hăi!
(Kinh)
Vân hà đương đắc không, vô sở hữu, viễn ly nhất
thiết chư vật tưởng cố?
(經)云何當得空無所有。遠離一切諸物想故。
(Kinh: Như
thế nào th́ sẽ được “không, vô sở hữu”, xa ĺa hết thảy các ư tưởng về mọi
vật?)
Đối
với mỗi vật chất trong thế gian, chúng ta đều
nhận biết. Nếu dùng Thật Tướng ấn để nhận biết, giữ lấy, sẽ
mười phần thuận tiện. Đó gọi là “sự
nhận biết và chọn lựa đối với pháp vô
tự tánh”, nhưng chúng ta thường dễ mê mất
điều này. Quan sát như thế nào? Có thể thấy sắc
tướng và nhân duyên của vật chất. Chẳng hạn
như tấm vải là do các sợi bông vải (cotton) dệt thành. Nay treo tại đó, nếu bỏ nó vào lửa,
vải sẽ chẳng c̣n. Đối với vạn
sự, vạn vật, chúng ta đều có thể quán
như thế. Lại như bức tượng bằng
đồng này, sau khi bỏ vào ḷ nung chảy, sẽ chẳng
gọi là tượng nữa! Lúc Kiếp Hỏa thiêu đốt,
đại thiên thế giới nhất loạt bị lửa
đốt tụi. Khi Thủy Đại thành thục, tức
là lúc Thủy Kiếp, lại nhất loạt bị nước
nhấn ch́m, mênh mông không bờ mé! Vạn sự vạn vật
đều không ngừng nghỉ, do vô tự tánh mà biểu
hiện thành các thứ nhân duyên. V́ thế, các pháp đều
do sức nhân duyên mà hiển hiện.
V́
sao nói “không, vô sở hữu, viễn ly nhất thiết
chư vật tưởng” (không, vô sở hữu, xa ĺa
suy tưởng về hết thảy các vật): Bản dịch
này ghi là “chư vật” (các vật), tôi thấy có bản
dịch khác ghi là “viễn ly nhất thiết chư Phật
tưởng” (xa ĺa ư tưởng về hết thảy
chư Phật). Trên thực tế, chư vật và chư
Phật vốn chẳng khác biệt! Tuy là du hư nơi
văn tự, nhưng nói về thực chất, chư Phật
Như Lai xuất hiện trong cơi đời, và các vật ứng hiện trong thế gian, đều do
nhân duyên mà hiện. Thật sự là pháp nhất như! Hoàn
toàn chẳng có một vật tồn tại trong thế
gian, đều là do các thứ pháp tắc, các thứ nhu cầu
mà tạo tác các thứ biểu đạt đó thôi! Ở
đây, các thứ ấy
rất khéo léo xuất hiện sự sai biệt, một bản
kinh mà có hai cách dịch [khác nhau], chúng tôi bèn dựa theo “chư
vật” để nói. Chúng ta có thể quan sát trong lúc chính
ḿnh giơ tay, giở chân, đụng chạm các vật, xem xét
các vật, cảm nhận các vật, quả thật chẳng
có tự tánh. Nếu quan sát cặn kẽ, chẳng có một
vật thật sự nào có thể thường tồn tại,
cho nên nói “về bản chất cũng là không, chẳng
có ǵ”, do nhân duyên tụ hợp mà hư vọng biểu
hiện, tạm thời biểu hiện. Đối với
sự biểu hiện ấy, người khéo dùng sẽ
đạt được thiện xảo, đạt được an lạc, đắc
lực. Kẻ một mực chấp trước, sẽ trở thành trầm
trọng, bị bức bách, bị khổ nạn. Các thứ
pháp không ǵ chẳng là như thế!
Nói “viễn ly nhất thiết
chư vật tưởng” (xa ĺa ư tưởng về hết
thảy các vật), trong phần trước là quan sát cặn
kẽ các pháp tắc “như huyễn, như hóa, như mộng,
như h́nh bóng trong gương”, chúng ta có thể thấy
thấu suốt “vạn sự, vạn vật chẳng
có tự tánh”, có thể chọn lựa tánh “vô tự
tánh”. Như thế th́ sẽ có thể đúng như thật mà ấn khế vạn sự, vạn pháp trong thế
gian, đương nhiên là kể cả chư Phật! Quư
vị đừng sợ hăi! Mười phương uế
độ như mộng, như huyễn, mười
phương Tịnh Độ cũng lại như mộng,
như huyễn. Nói như vậy chẳng phải là khiến
cho chúng sanh chẳng có chỗ nương cậy ư? Chẳng
phải vậy! Nếu chúng ta chẳng quán kỹ càng triệt
để như mộng, như huyễn, sẽ chẳng
đạt được trí huệ thiện xảo, chẳng
có xuất ly thiện xảo, chẳng có hữu lực
thiện xảo, chẳng có thiện xảo triệt để
vượt thoát sự lấy bỏ, tức là chẳng thể
thúc đẩy sanh khởi các thứ công đức, chẳng
thể nhập Ba La Mật môn. Đối với “viễn
ly nhất thiết chư vật tưởng” (xa ĺa ư
tưởng về hết thảy các vật), do hành
Ban Châu, chúng ta sẽ có thể đạt được
thiện xảo và phương tiện như thế.
(Kinh)
Vân hà đương đắc vô tướng, quán nhất
thiết pháp vô hữu nhị cố?
(經)云何當得無相。觀一切法無有二故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được vô tướng,
quán hết thảy các pháp chẳng có hai?)
Pháp
tắc này thẳng thừng đoạt hết tâm trí đối
đăi của chúng sanh, [khiến cho họ] nhập pháp môn Bất
Nhị. Các tướng thật sự chẳng có tướng,
chỉ do nhân duyên mà hiển hiện các tướng. Như
căn nhà này của chúng ta là do gỗ thông chất chứa
lại, thông qua người thợ đẵn chặt,
cưa xẻ, ghép mộng mà thành. Trước khi đẵn
chặt th́ nó là một cây thông. Cây được xẻ
thành tấm ván; sau đấy, trở
thành h́nh dạng như hiện thời. Cho đến khi
nhân duyên đă tận, cũng có thể biến thành một
nhúm lửa, hoặc một nhúm tro, chẳng có thực chất.
Chỉ có thể nói theo nhân duyên mà mọi người hiện
thời đang sử dụng, nó hiển hiện thành một
căn nhà để chúng ta tránh nắng, đụt mưa,
khiến cho mọi người an trụ trong ấy mà tu
hành.
“Vân
hà đương đắc vô tướng, quán nhất thiết
pháp vô hữu nhị cố” (như thế nào để
được vô tướng, quán hết
thảy các pháp chẳng có hai): Hết
thảy các pháp chẳng có đối đăi, chẳng có tánh
chất tồn tại liên tục. Chúng là bất
sanh, bất diệt. Từ trong cái chẳng sanh diệt ấy,
do nhân duyên mà hiện. Căn nhà này là
như thế, cái đệm chúng ta đang ngồi cũng lại giống như thế, cái y chúng
ta đang đắp cũng là như thế. Cái y này đắp
lên thân, thị hiện màu đỏ, màu vàng, nhằm biểu
hiện tướng trạng của pháp. Nhưng nếu
quăng nó vào đống lửa, nó sẽ
hóa thành một nắm tro, chẳng phải là màu đỏ,
màu vàng chi hết, thật sự chẳng có thực chất,
thật sự chẳng có tướng để có thể đạt
được, do nhân duyên mà có, do nhân duyên mà hiện. Cho nên
bản chất của nó là bất nhị.
Đối
với sự chọn lựa tâm trí vô nhị, hành Ban Châu sẽ
dễ nẩy sanh [tâm trí] ấy
nhất. V́ lẽ nào? Nếu có đối đăi, sẽ dễ
bị nặng nề, mệt chán, khó thể hành tŕ! Chúng ta
đi tới đi lui, đi lui đi tới, hễ hơi
có [ư niệm so đo] được mất,
hễ hơi có đối đăi, [sẽ cảm thấy] nặng
nề, khó thể chịu nổi, khó thể duy tŕ hành vi đơn giản suốt một ngày một
đêm. Suốt một ngày một đêm lập một niệm
ǵ vậy? Ư niệm chẳng đối đăi, ư niệm
như huyễn, ư niệm vô tướng.
(Kinh)
Vân hà đương đắc pháp giới biên tế, Bồ
Đề tâm vô hạn lượng cố?
(經)云何當得法界邊際。菩提心無限量故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đạt được bờ
mé của pháp giới, do tâm Bồ Đề chẳng có hạn
lượng?)
Cái
tâm Bồ Đề ở nơi đây là cái tâm Bồ Đề
chẳng tạo tác, chẳng đối đăi, chẳng
đến, chẳng đi, chẳng có đầu, chẳng
có cuối, chẳng phải phàm, chẳng phải thánh. Chọn
lựa tâm tánh rộng lớn như thế th́ Vô Thượng
Bồ Đề tâm chẳng có hạn lượng, là vô lượng trong vô lượng, chẳng thể
nói năng, chẳng thể đề cập, chẳng thể
biểu đạt. Nương vào các thứ nhân duyên để
biểu đạt chính là tạo tác Bồ Đề tâm phần,
như cổ nhân đă nói năm phần Pháp Thân, tức Giới,
Định, Huệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến
có thể biểu đạt Bồ Đề tâm phần. Lại
như cổ nhân nói “phát Bồ Đề tâm, hiểu rơ Bồ
Đề tâm, quy phục Bồ Đề tâm, cho đến
chứng Bồ Đề tâm, trọn đủ Bồ
Đề tâm, các thứ Bồ Đề tâm”, th́ vẫn
là các phần của Bồ Đề tâm. Có người nói
Bồ Đề tâm thuộc vào đại nguyện, đại
bi, đại trí, hễ trọn đủ
sẽ là Vô Thượng Bồ Đề tâm. Đấy
chính là tướng của Bồ Đề tâm. Tướng
ấy vô tướng, cưỡng lập một tướng,
khiến cho chúng sanh được thấy công đức
đại lực, đại trí, đại bi vô hạn.
Thông qua ngôn thuyết để biểu đạt nội
dung ấy [để chúng
sanh] có thể tiến nhập. Do đó, pháp giới chẳng
có ngằn mé, chẳng có hiện lượng. Bồ Đề
tâm chẳng có ngằn mé, mà cũng chẳng có hiện
lượng. Cái tâm ấy chẳng phải là tâm tạo tác,
mà cũng chẳng phải là tâm ĺa tạo tác. Trong tâm phần của tâm tạo tác, nếu
chẳng cưỡng chấp, cũng khó thể dùng ngôn ngữ
để suy lường, khó thể nói trọn!
(Kinh)
Vân hà đương đắc bất khởi trước,
nhất thiết thế giới tánh vô sai biệt cố?
(經)云何當得不起著。一切世界性無差別故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ chẳng dấy lên chấp
trước, do tánh của hết thảy các thế giới
chẳng sai biệt?)
“Đương
đắc bất khởi trước” (sẽ chẳng
dấy lên chấp trước): Điều này lại dung
nhập về chuyện tự tánh chẳng khởi tác dụng,
tự tánh chẳng tạo tác. Tự tánh là cội nguồn
sáng suốt, tự tánh an lạc, tự tánh vốn
trọn đủ tánh chất liễu đạt, liễu
thoát hết thảy nỗi khổ sanh tử, kiến lập
thiện xảo trong hết thảy các thế giới hải.
“Bất khởi” ở đây chính là pháp giới chân tế[10],
là tướng mạo của Thật Địa (Thật Tế
lư địa), là sự chân thật của tâm trí bất
động, là sự trang nghiêm nơi Nhất Chân pháp giới.
Nhưng trong các thứ cơ chế, tâm trí của phàm phu hữu
t́nh sẽ manh động đối với các nhân duyên,
đó gọi là “tướng động hiện tiền”,
tâm sẽ thường xuyên lay động. Động
như thế nào? Bị gió nghiệp thổi lay động, vọng duyên thổi rung động, bị
cảm giác thổi lay động, mà thổi bùng lên ư niệm được
mất, thổi lên ư niệm thiện ác, thổi lên ư niệm
về công đức lợi ích. Hễ động th́
Năng và Sở bèn được kiến lập. Năng
và Sở đă được kiến lập, sẽ có các thứ sai biệt trong thế giới
lượng nhiều như biển. Tuy là hư vọng,
nhưng mỗi chúng sanh đều chấp lấy để
sử dụng, lưu chuyển, an trụ,
đều cho có thật. “Vô khởi trước” (chẳng dấy chấp trước) thật ra chính là tiêu quy về
Thật Tế, là tướng mạo vốn sẵn có. Ở
đây, có sự lưu xuất và tác dụng của tự
tánh quang minh. Tác dụng ấy là vô công dụng mà có thể
rộng lợi ích thế gian, chẳng được, chẳng
mất.
Do
“chẳng chấp trước” nên “nhất thiết
thế gian tánh vô sai biệt” (tánh của hết thảy
thế gian chẳng khác biệt). Đối với bản
chất của hết thảy thế gian cho đến bản
chất của mười pháp giới, nương theo thể
tánh trí của pháp giới để quan sát sâu xa, chúng sẽ
hiện tiền rạng ngời, nhưng chẳng có một vật
nào để có thể đạt được. Do vậy,
tâm trí Nhất Chân chân thật đă được chư
Phật đích thân chứng rốt ráo, có thể hiển hiện
biển các chủng tử trong mười phương, biển
các cơi nước trong các thế gian khắp mười
phương, [những điều
ấy được] gồm thâu trong kinh Hoa
Nghiêm, chúng ta có thể khéo quan sát. Tuy nhập thế, thật
sự chẳng có thế gian sai biệt nào để có thể
đạt được, hoặc có thực chất tồn tại. Nếu nương theo pháp nhân duyên, có
thể diễn đạt bằng văng sanh thế giới Cực
Lạc, đạt được các an vui. Nếu
nương theo pháp nhân duyên, có thể hiện tạo các thứ
nghiệp, ch́m đắm, tiêm nhiễm trong các loại thế
gian trược ác, chịu đủ mọi nỗi khổ.
“Hữu” ấy là cái
ắt có, chân thật chẳng dối, chẳng phải là
cái Hữu thường hằng, mà cũng chẳng
phải là cái Vô đoạn diệt. V́ thế, nói “nhân
duyên sanh” th́ sẽ xa ĺa đoạn diệt và thường
kiến.
Nhất
định phải nhận biết rơ ràng pháp nhân duyên, xa
ĺa tri kiến của ngoại đạo. Nếu là người
trong Phật pháp, xa ĺa phương tiện của ngoại
đạo, sanh khởi sự chọn lựa đối với
pháp nhân duyên, dung thông Nhị Đế, trừ bỏ hai thứ Biên
Kiến, tức Đoạn Kiến và Thường Kiến.
Chúng ta đều biết, tứ cú bách phi chẳng thâu nhiếp
Phật pháp; nhưng Phật pháp tuyệt đối thâu nhiếp
tứ cú bách phi, thành tựu trọn khắp
thế gian, rộng lợi ích hữu t́nh. “Bất khởi
trước” (Chẳng dấy
lên chấp trước) ở đây chính là
nơi Thật Tế lư địa chẳng
có mảy trần, chẳng nhiễm trước, chẳng
tạo tác. Vô sắc, vô tướng, chẳng đến,
chẳng đi như thế, quang minh trong cái tâm chân thật
chiếu sáng rực thế gian!
(Kinh)
Vân hà đương đắc vô ngại hạnh, biến
du nhất thiết chư Phật sát trung cố.
(經)云何當得無礙行。遍遊一切諸佛剎中故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đắc vô ngại hạnh, dạo
chơi trọn khắp hết thảy các cơi Phật?)
“Vô
ngại hạnh”: Người hành Ban Châu hết sức
dễ biết hai chữ Vô Ngại này, v́ pháp Thường
Hành Đạo niệm nào cũng đều là như thế,
niệm nào cũng chẳng nhiễm, niệm nào cũng chẳng
chấp. Do chẳng chấp mà đạt được sự
vô ngại này. V́ thế, từ trong “bất khởi
trước” (chẳng dấy lên chấp trước)
mà đạt được thiện xảo chẳng dụng
công, xa ĺa hết thảy tạo tác sanh diệt và đối
đăi, an trụ trong Thật Tế lư địa chân thật,
tức là được chiếu rạng ngời bởi
tâm trí Vô Thượng Bồ Đề, xa ĺa hết thảy
sự xâm đoạt của sanh diệt, xâm đoạt của
phàm thánh, xâm đoạt của được mất. Chẳng
dấy lên chấp trước chính là cơ sở của hạnh
vô ngại. Dạo chơi trọn khắp các cơi Phật,
chính là diệu dụng tánh chẳng sai biệt của hết
thảy thế giới. Quán thấu triệt một
trăm hai mươi hai điều “vân hà” (như thế nào) này, sẽ thấy
mỗi điều đều được sử dụng
hỗ trợ, nhằm nêu tỏ
trọn đủ hết thảy các pháp công đức và lợi
ích rất sâu chẳng thể nghĩ bàn của pháp Ban Châu,
trọn đủ Nhất Thiết Trí, trọn đủ hết
thảy Đạo Chủng Trí, rốt ráo thành tựu an trụ
trong Nhất Thiết Đạo Chủng Trí.
V́
tánh của biển “hết thảy các cơi nước của chư Phật” là vô sai biệt,
cho nên có thể dạo chơi tự tại. Bậc A La Hán trong Thanh Văn Thừa như tôn giả Mục
Kiền Liên đạt được phương tiện
dạo khắp một đại thiên thế giới, nhưng
chưa có phương tiện dạo chơi trong biển vô tận tam
thiên đại thiên thế giới khắp mười
phương. Đó gọi là quả Thanh Văn có
phương tiện để chọn lựa trong một
đại thiên thế giới. Nếu dùng sức thần
thông để ĺa bỏ tam thiên đại thiên thế giới
này, đều phải dựa theo sức nhiếp thọ từ
công đức nơi danh hiệu đức Bổn Sư
để quay về [thế giới Sa Bà]. Nếu không
như thế, họ sẽ bị lạc lối trong vô tận
cơi nước, chẳng thể quay về. Nếu chúng ta lấy
quốc độ của A Di Đà Phật làm quốc
độ của bổn sư, làm bổn quốc
của chính ḿnh, xưng niệm danh hiệu A Di
Đà Phật, sẽ tất nhiên văng
sanh quốc độ ấy. V́ lẽ nào? Như con nhớ
mẹ, như mẹ nhớ con, mẹ con chẳng trái nghịch
nhau, như trở về quê nhà, chẳng c̣n mê mất, chọn
lựa chẳng nghi, tâm trí an trụ, xa ĺa sợ hăi. Kẻ
bị lạc đường sẽ sợ hăi. V́ sao lại
lạc mất quê nhà, lạc mất nước ḿnh, sao
không sợ hăi cho được? Do vậy, nếu tŕ danh
hiệu có công đức thù thắng của từ phụ
A Di Đà Phật nơi thế giới
Cực Lạc, khi xưng niệm chính là lúc chọn lựa
văng sanh, chẳng sợ hăi. V́ sao vậy? Đă nhận biết
quê nhà, nước ḿnh. Do đă nhận biết, sẽ
như chúng ta trở về nhà của chính ḿnh, chẳng có
ǵ mê mất nữa, chẳng có ǵ nghi hoặc, chẳng có ǵ
bàng hoàng, băn khoăn, cũng chẳng có điều kiện
ǵ, đă trọn đủ rồi! Bất luận
nhà của quư vị xa xôi cách nào đi nữa, dẫu ngàn dặm,
vạn dặm, quư vị luôn nhận biết nhà ḿnh, chẳng
có nỗi sợ hăi “không có nhà!” Thế giới Cực Lạc là quê nhà, là bổn quốc
của hết thảy chúng sanh. Nếu nhận biết,
nguyện văng sanh, sẽ nhất định văng sanh. Văng
sanh thế giới Cực Lạc sẽ rất thuận tiện
sanh vào các cơi nước trong mười phương. Do vậy
nói: “Xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật có thể
dạo chơi các cơi nước trong mười
phương, chẳng ngăn ngại ǵ!”
(Kinh)
Vân hà đương đắc chư Đà-la-ni, văn nhất
tri vạn, thiện đạt nhất thiết văn tự
phân biệt thuyết cố.
(經)云何當得諸陀羅尼。聞一知萬善達一切文字分別說故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đắc các Đà-la-ni, nghe một,
biết vạn, khéo thông đạt hết thảy văn tự
để nói phân biệt?)
Thành
tựu Đà-la-ni, có thể trọn đủ giáo ngôn thiện
xảo của hết thảy các tổng tŕ, phân biệt ngôn
từ thiện xảo, ngôn từ sai biệt thiện xảo,
tổng tướng ngôn từ thiện xảo, vô dụng công
văn tự thiện xảo, hữu dụng công văn tự
thiện xảo. Đà-la-ni như thế tổng tŕ hết
thảy các pháp, an ủi chúng sanh, thuần thục chúng sanh,
thiện xảo bố thí chúng sanh.
Đối với cái gọi là “thiện đạt
nhất thiết văn tự phân biệt thuyết” (khéo thông đạt
hết thảy văn tự để nói phân biệt), hết thảy văn tự thật sự chẳng
nói phân biệt. Kiến lập “nói phân biệt” chỉ nhằm tạo thuận tiện cho chúng sanh.
V́ lẽ nào? Hết thảy các pháp vốn chẳng phân biệt,
do thiện xảo mà kiến lập phân biệt. Được
kiến lập là do thiện xảo mà kiến lập, chẳng phải là chấp trước cái được
kiến lập. Hễ chấp trước th́ sẽ chẳng
có ǵ để kiến lập, phần nhiều bị mê mờ
bởi sự tướng. Cho nên chẳng thể nào tự
tại kiến lập được!
Hành
pháp Ban Châu, đối với hết thảy các giáo ngôn
Đà-la-ni, chắc chắn sẽ sanh khởi sự chọn
lựa, như trong các thệ nguyện của A Di Đà Phật
có nguyện: “Hữu t́nh ở
phương khác được nghe danh hiệu của Ngài,
đều nhập Đà-la-ni môn, cũng là đắc Tổng
Tŕ Môn”. Trong bốn mươi tám nguyện của A Di Đà
Phật có nói đến nguyện này. Chư Phật là
đấng nói lời thành thật, nói đúng sự thật,
đích thân chứng đắc công đức và lợi ích,
đạt được lợi ích như thật. Cho nên
chúng sanh nghe danh hiệu của các Ngài, đều nhập hết
thảy Đà-la-ni môn, đạt được thiện
xảo, ngoại trừ kẻ ngờ vực, băn
khoăn, báng pháp, nghi pháp. “Ngoại” có nghĩa là trừ
lợi ích ra, trừ chẳng được hồi thí công
đức ra. Tuy là [chư Phật] b́nh đẳng bố
thí công đức, nhưng quư vị chẳng
dùng được. Tuy chẳng dùng được, Phật
vẫn nhiếp thọ kẻ nghi pháp, báng pháp, khiến cho
họ cũng được lợi ích.
(Kinh)
Vân hà đương đắc như chư pháp sư, thiện
tri nhất thiết Phật pháp cố?
(經)云何當得如諸法師。善知一切佛法故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được như các pháp
sư khéo biết hết thảy Phật pháp?)
Chư
Phật Như Lai thành tựu viên măn Tam Minh, Tứ Trí,
Ngũ Nhăn, Lục Thông, mười tám pháp Bất Cộng,
Thập Lực, Tứ Vô Úy, các thứ chọn lựa thiện
xảo, là bậc pháp sư. Pháp sư trong thế gian hiện
thời phần nhiều là pháp sư dựa hơi, hoặc
là danh tự pháp sư! Pháp sư đúng thực chất chỉ
có Phật Thế Tôn mới xứng danh, [do Phật] trọn
đủ hết thảy đại thiện xảo, tự
tại trong hết thảy các pháp, đạt được
phương tiện, rộng truyền dạy hết thảy
các pháp, lợi ích hết thảy chúng sanh, không sợ hăi, chẳng
bỏ sót thời cơ để khiến cho chúng sanh đều
được giải thoát, thành tựu. Nếu chúng ta muốn
thành pháp sư giống như chư Phật Như Lai, trọn
đủ phương tiện thiện xảo, biết hết
thảy các pháp, sử dụng hết thảy các pháp, thành tựu
hết thảy các pháp, truyền bá hết thảy các pháp,
chân thật an trụ trong hết thảy các pháp, chẳng
đắm nhiễm các pháp ích, lợi ích trời người
rộng khắp, th́ hành Ban Châu sẽ đạt được
lợi ích và thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn
như thế!
(Kinh)
Vân hà đương đắc nhất thiết chư Phật
sở hộ niệm, nhất thiết Phật oai đức
gia tŕ cố?
(經)云何當得一切諸佛所護念,一切佛威德加持故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được hết thảy
chư Phật hộ niệm, oai đức của hết
thảy chư Phật gia tŕ?)
Hành
pháp Ban Châu cũng giống như thế, được hết thảy chư
Phật khéo hộ niệm. Hết thảy chư Phật
dùng thần quang, dùng hào quang chiếu nhiếp người ấy,
khiến cho người ấy tăng trưởng thiện
căn, thành tựu phước đức, nhanh chóng thành tựu
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, thành tựu
viên măn ngay trong một đời. Pháp Tịnh Độ chọn lựa như thế,
trong một đời, chắc chắn các thứ thiện căn sẽ chín
muồi, công đức và lợi ích chẳng thể
nghĩ bàn đều được oai thần của
chư Phật gia bị mà chín muồi, đều do tự
tâm chân thật ấn khế mà chín muồi, tức là công
đức trong bổn tánh sẽ chín muồi. Nếu chẳng
chọn lựa pháp thích hợp căn cơ to lớn, có tác
dụng to lớn, mà muốn thành thục Vô Thượng Bồ
Đề ngay trong một đời, đúng là rất khó thành
công. V́ sao vậy? Căn cơ nhỏ, pháp nhỏ, sẽ khó thể thành tựu! Phát khởi
cái tâm Thanh Văn, Duyên Giác, cho đến cái tâm cầu
phước báo nhân thiên, sẽ khó thể thành tựu Vô Thượng
Bồ Đề, v́ tâm trí chẳng tương ứng, v́ chẳng
ấn khế chư Phật. Do đó, ai nấy đều nên phát
tâm Vô Thượng Bồ Đề, dùng cái quả của
Vô Thượng Bồ Đề tâm để đích thân chứng,
ấn chứng chư Phật Như Lai trong khoảng
sát-na, sẽ biết các pháp thật sự chẳng đến
đi, thật sự chẳng có người chứng, mà
cũng chẳng có được hay mất, hết thảy
chúng sanh vốn sẵn đủ. Như khi chứng ngộ,
Phật Thích Ca đă nói: “Lành thay! Chúng sanh trong đại
địa đều sẵn có trí huệ và đức
tướng của Như Lai”, ấn khế cái tâm Vô
Thượng Bồ Đề của hết thảy chúng sanh
như thế đó!
Chúng
sanh do vọng tưởng, chấp trước mà mê muội
tự tâm, chẳng thể ấn chứng, chẳng thể
nhận biết, chẳng thể sanh khởi hết thảy
diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn. Chư Phật
Như Lai phát khởi Tu Đức rộng lớn để chứng thực cho loại hữu t́nh ấy, khiến cho loại hữu t́nh ấy có chỗ nương cậy,
có tác dụng. Chư Phật nói tám vạn bốn ngàn pháp,
hành đủ loại công đức lợi ích, dùng Tu Đức
và Tánh Đức để nhiếp hóa hữu t́nh, đều
là thuận theo chúng sanh. Quả thật, chẳng có một
pháp nào có thể kiến lập. Do đó, hết thảy
chư Phật hộ niệm hết thảy chúng sanh niệm
Phật, nhiếp thọ chẳng bỏ, ấn chứng, hứa
khả hết thảy chúng sanh niệm Phật. Đối với kẻ báng Phật, nghi Phật, Ngài vẫn
nhiếp thọ. Kẻ phỉ báng là do chẳng biết, giống
như kẻ đang ngủ mê, dẫu vầng mặt trời
chiếu trọn khắp, vẫn chẳng thấy quang minh.
Do kẻ đó ở trong hôn ám, chẳng thể sử dụng
được, nhưng quang minh [của vầng mặt trời] vẫn chiếu
thấu thân người ấy.
Do
vậy, “nhất thiết Phật oai thần gia bị”
(oai thần của hết thảy chư Phật gia bị).
Khi chúng ta niệm danh hiệu A Di Đà Phật, [đó là danh hiệu]
có công đức thù thắng, A Di Đà Phật là vua trong
các vị Phật, quang minh tôn quư nhất, có oai đức
thiện xảo, sẽ đồng thời tập trung công
đức của chư Phật nơi một thân, chiếu
trọn khắp hết thảy chúng sanh, khiến cho hết
thảy chúng sanh được thấy công đức của
chư Phật. V́ thế, mười phương chư
Như Lai nhiều như cát sông Hằng đều cùng tán
thán oai thần và công đức thiện xảo chẳng thể
nghĩ bàn của Vô Lượng Thọ Phật. Oai thần và công đức thiện
xảo ấy quả thật trọn đủ oai thần
và thiện xảo của hết thảy chư Phật. Do
vậy, khi chúng ta lập một niệm, đoạn các
tưởng, xưng niệm danh hiệu quư báu ma-ni công đức
thanh tịnh của A Di Đà Phật, sẽ được
trọn khắp oai thần của hết thảy chư Phật
gia bị, được hết thảy chư Phật thủ hộ, nhiếp thọ,
có thể khiến cho thiện căn chín muồi, thấy rơ tự tâm.
(Kinh)
Vân hà đương đắc hùng mănh, bất khiếp nọa,
xuất thanh như đại ngưu vương, đại
sư tử vương bộ cố?
(經)云何當得雄猛不怯懦。出聲如大牛王大獅子王步故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được hùng mănh, chẳng
hèn nhát, phát ra tiếng như trâu chúa, hay sư tử
chúa bước đi?)
Trong
pháp Ban Châu, hễ hơi sợ hăi, người ấy sẽ
khó hành tŕ, sẽ khó thực hiện. Do vậy, đích xác
là người có tâm trí ôm ấp chí nguyện “đại
hùng, đại lực, đại từ, đại bi”.
Người khâm ngưỡng, người quy y, người
tùy thuận th́ mới có thể hành pháp này! Người thiện
căn chín muồi nghe pháp này, bèn có thể
siêng năng hành tŕ, chẳng báng bổ, chẳng ngờ vực,
người như vậy rất hy hữu, được
chư Phật hộ niệm, gia tŕ. Cho nên sẽ oai mănh, chẳng
nhát sợ. Kẻ chẳng nhát sợ là do tự tâm đă an
lập, v́ nhát sợ đều là do [tâm trạng] được
mất, đối đăi, chọn lựa lấy bỏ của
chúng sanh tạo thành.
“Như
đại ngưu vương” (như trâu chúa lớn):
Trâu chúa lớn là tướng sức mạnh to lớn, có sức
mạnh, thiện xảo, oai mănh. Người Ấn Độ
coi trâu là thần ngưu, mọi người đều
kính ngưỡng, tránh né, chẳng thể xâm phạm.
“Như
đại sư tử vương bộ” (như sư
tử chúa to lớn bước đi): Sư tử chúa ra
khỏi hang, chắc chắn chẳng có bầu bạn.
Người hành Ban Châu không nương dựa, không nhờ
vào phương tiện mà chỉ thẳng A Di Đà Phật trong tâm ḿnh! Hành công đức to lớn,
đúng là trọn đủ. Chẳng nhờ vào gia
tŕ mà được
chân thật gia tŕ, Chẳng nương cậy mà quyết định
được nương cậy, chẳng phải
là dựa hơi, quyết định trở về [quê nhà Cực Lạc sẵn có], như sư tử
chúa chẳng có bầu bạn, tâm trí chọn lựa dứt khoát, phá tan hết thảy các trói buộc
khiếp sợ, nhút nhát, kiến lập thành tựu sự
tu tŕ vô thượng chẳng thể nghĩ bàn!
(Kinh)
Vân hà đương đắc vô úy, linh nhất thiết
thế giới hoan hỷ cố?
(經)云何當得無畏。令一切世界歡喜故。
(Kinh: Như thế nào th́ sẽ
được vô úy, khiến cho hết thảy thế giới
hoan hỷ?)
Trong
khi hành pháp này, đă khiến
cho hết thảy thế gian được an ủi, an ủi
hết thảy hữu t́nh. Nếu tu ngay, hành ngay, thường
hành đạo này, chẳng bỏ lỡ thời cơ, ví
như chư Phật Như Lai, hoặc ví như hết thảy
bậc hiền thánh, hay bậc trọn đủ công đức
lợi ích thế gian rộng khắp, chẳng sợ hăi,
v́ lẽ nào? Tâm thanh thản, tâm an nghỉ, chẳng phải
dụng tâm. Cái tâm ấy do trọn
đủ, chẳng phải là tạo tác, chẳng phải là tu hay
không tu. Do vậy, lợi ích trời người rộng khắp,
chẳng sợ hăi, khiến cho hết thảy chúng sanh
được hoan hỷ, khiến cho hết thảy thế
gian được hoan hỷ. Đấy là tu ngay trong mỗi
niệm hiện tại, thường xuyên tu, tu cho đến
hết thọ mạng, chân thật như ư mà tu. Sự tu tập
ấy trong hết thảy nhân duyên chẳng bỏ lỡ thời
cơ, chẳng sợ hăi, chẳng vướng mắc, chẳng
đón ư nói hùa, chẳng siểm khúc, như thế th́ hết
thảy hữu t́nh chắc chắn sanh hoan hỷ. V́ cớ
sao? Đấy là người bố thí, người
nương cậy cho thế gian, là người tạo lợi ích rộng
răi, là người thiện xảo thành tựu, là người
bố thí pháp ích, là tṛng mắt của chúng sanh.
Hành
pháp Ban Châu thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Các thứ công đức,
các thứ phương tiện, các thứ nhân duyên trong một
trăm hai mươi hai câu hỏi này, đều đề
cập tới tâm trí của chúng ta, khiến cho chúng ta thấy
rơ, chọn lựa tâm trí, hành pháp thành tựu. Công đức
và lợi ích nhiều ngần ấy, nếu chẳng hành,
pháp ích sẽ chẳng hiện tiền, giống như bày một
bữa ăn ngon trước mặt, nếu chẳng
ăn, sẽ chẳng thể biết vị ngon được!
Đức Thế Tôn nói các phương tiện thiện xảo
nhiều ngần ấy, muốn khiến cho hết thảy
hữu t́nh hữu duyên thâm nhập, tu tập pháp này, khiến
cho họ thành tựu Ban Châu tam-muội, có thể an trụ
trong các thứ lợi ích chẳng thể nghĩ bàn,
đúng như thật mà an trụ. Nếu chẳng phải là
người tu tập, sẽ chẳng thể dùng được!
(Kinh)
Vân hà đương đắc vô nghi hoặc, ư nhất
thiết Phật b́nh đẳng vô nhị cố?
(經)云何當得無疑惑。於一切佛平等無二故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được chẳng nghi hoặc,
đối với hết thảy chư Phật b́nh đẳng
chẳng hai?)
Trong
phần trước đă nói tới “vô nhị”, v́ sao
ở đây lại nói “vô nhị”? Có khi thoạt nh́n dường
như trùng lặp vấn đề; thật ra, chẳng lặp
lại! Trong hết thảy các Phật pháp, chọn lựa
Vô Nhị là để khiến cho chúng sanh xa ĺa đối đăi, tâm trí chẳng đối đăi,
rốt ráo b́nh đẳng, tâm trí chẳng đối đăi
rốt ráo an lạc, tâm trí chẳng đối đăi rốt
ráo giải thoát. Tâm trí chẳng đối
đăi tất nhiên là trọn đủ hai pháp Bi và Trí.
“Vô
nghi hoặc”: Chúng ta đều biết có Kiến Tư
Hoặc, có Trần Sa Hoặc, có Vô Minh Hoặc. Trong ba loại mê
hoặc ấy, Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc chúng sanh
chẳng có phần, hai loại Hoặc ấy hàng Bồ Tát
hoặc thánh giả phải thủ hộ, nhận biết,
quan sát, chứ phàm phu hữu t́nh chỉ nghe danh. Kiến Hoặc và Tư Hoặc là thứ chúng sanh chấp
giữ, không lúc nào chẳng dùng tới. Như tham, sân, si, mạn,
nghi, tri kiến bất chánh chính là các danh tướng thuộc
vào Kiến Tư Hoặc. Trong hai pháp Kiến Hoặc và
Tư Hoặc, chúng sanh phần nhiều sợ hăi. Để
đoạn Kiến Tư Hoặc th́ thuận tiện nhất
chính là trí b́nh đẳng, thuận tiện nhất là Diệu
Quan Sát Trí, thuận tiện nhất là Pháp Giới Thể
Tánh Trí, thuận tiện nhất là Đại Viên Măn Kính
Trí, thuận tiện nhất là A Di Đà Phật, thuận
tiện nhất là lập một niệm, thuận tiện
nhất là chẳng đến đi, thuận tiện nhất
là đúng như pháp mà hành, thuận tiện nhất là lập
tức chọn lựa, thuận tiện nhất là thường
kinh hành, thuận tiện nhất là Ban Châu!
(Kinh)
Vân hà đương đắc thông đạt Như
Như, diệt trừ nghi hoặc, bất trước
chư pháp cố?
(經)云何當得通達如如。滅除疑惑不著諸法故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được thông đạt
Như Như, diệt trừ nghi hoặc, chẳng chấp
các pháp?)
Hết
thảy các pháp vốn chẳng chấp trước. Do các
thứ đắm nhiễm của các loại chúng sanh tạo
thành cái gọi là “nghi hoặc”. V́ thế nghi hoặc
là do chấp tướng. Chúng ta dùng cái tâm Như Như[11],
tâm b́nh đẳng, tâm bất nhị, đúng như các cách
nói trong phần trước, chẳng dấy lên cái tâm chấp
trước, tâm thông đạt hết thảy các pháp chẳng
có tự tánh, chẳng sợ hăi, sẽ thấu đạt
sâu xa thiện xảo “chẳng chấp các pháp” này. Hành
pháp Ban Châu sẽ tiếp tục quyết định là
như thế, thâm nhập, tu tập, quan sát từng điều
một.
(Kinh)
Vân hà đương đắc chứng thâm pháp giới, thiện
năng giải thích sở vấn nghĩa cố?
(經)云何當得證深法界。善能解釋所問義故。
(Kinh: Như thế
nào th́ sẽ
chứng pháp giới sâu xa, có thể khéo giải thích các
nghĩa được hỏi?)
Pháp giới khác biệt rành rành trước mắt,
chúng sanh mỗi người tự chấp giữ. Như
chúng ta tuy cùng ở trong căn nhà này, nhưng sự nhận
biết đối với pháp tắc, đối với sự
nhận biết về cảm giác, nhận biết về
tri kiến, quan điểm về sanh mạng, mỗi
người mỗi khác. Sự sai khác ấy khó thể nói
năng, thí dụ được! Chư Phật Như Lai
dùng pháp tắc thanh tịnh để soi tỏ, thấu hiểu
các thứ sai biệt. Do vậy, khéo nói phương tiện,
khéo nói pháp sai biệt mà vô sai biệt cho chúng sanh, khiến
cho chúng sanh tiến nhập trí b́nh đẳng, trí thanh tịnh,
trí chẳng nghĩ bàn! “Thâm pháp giới” là pháp giới
rộng lớn, hết thảy các pháp giới. Các thứ
nghi vấn, các loại đặt bày, hết thảy các
pháp giới đều thuộc về trần nhiễm, chấp
trước, hư vọng chấp giữ của chúng sanh,
mà cũng chính là do những cái được gọi là Kiến
Tư Hoặc, Trần Sa Hoặc, và Vô Minh Hoặc tạo
nên. “Hoặc” (惑) có nghĩa là sanh khởi. “Hoặc”
có nghĩa là ngưng trệ, “Hoặc” có nghĩa là “tưởng
nó là thật”.
(Kinh)
Vân hà đương đắc sư lợi ích tha, cụ
túc đại từ cố?
(經)云何當得師利益他。具足大慈故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được làm thầy lợi
ích người khác, trọn đủ ḷng đại từ?)
Trong
pháp Tịnh Độ, nếu có thể thật sự
đúng như pháp thực hành một ngày, hai ngày, chín
mươi ngày, cho đến thường hành pháp này măi cho rốt ráo thuở vị lai, đều
nương vào pháp lợi ích người khác để
thành tựu. V́ sao? Do thật sự chẳng có pháp nào để
đạt được, do chẳng đắm nhiễm,
do chẳng thể chấp giữ, cho nên nói “đại từ
cố” (do đại từ). Chúng ta nói “đồng thể
đại bi, vô duyên đại từ”, “vô duyên” có
nghĩa là thật sự chẳng có pháp nào để có thể
đạt được, không có duyên nào có thể sanh. Pháp
nhân duyên thuộc về Thế Tục Đế, bởi trong
Thắng Nghĩa Đế chẳng có một pháp nào để
có thể được, chẳng có duyên nào để có thể
sanh, chẳng có duyên nào để có thể diệt. Trong trần
duyên, hư vọng sanh ra nhân quả. Trong Tục Đế,
mỗi thứ đều hiển lộ “được, mất”. Muốn lợi ích loại
hữu t́nh này, cho nên dùng “đại từ” để
lợi ích hữu t́nh rộng lớn. Trong Tạng truyền
Phật giáo, có cách tu “hoán vị từ tâm”, tức là tự thân gánh lấy tội ác của hết
thảy chúng sanh, hồi thí sự thọ dụng thanh tịnh
vô nhiễm của chính ḿnh cho hết thảy hữu t́nh trược
ác, khổ nạn, khiến cho họ trụ trong an lạc,
trụ trong trí huệ, trụ trong trang nghiêm, trụ trong niềm
vui sướng rộng lớn.
(Kinh)
Vân hà đương đắc diệt trừ lăn nọa,
hằng nhạo thuyết pháp cố?
(經)云何當得滅除懶惰。恆樂說法故。
(Kinh:
Như thế nào để diệt trừ lười biếng,
luôn thích thuyết pháp?)
“Diệt
trừ lăn nọa” (diệt trừ lười biếng):
Chẳng hạn như lần này, cùng với mọi người
học tập kinh Ban Châu, quả thật là nhờ vào
phước đức của mọi người, nhờ
chư Phật gia tŕ, nhờ các cư sĩ ở Hằng
Dương Am hành tŕ đúng pháp, nhờ vào đại chúng hành tŕ an lạc
tăng thượng
hướng dẫn, cho nên chúng ta có pháp hội lần
này. Đương nhiên là cũng nhờ vào Tăng chúng an cư tại Phóng Quang Tự ban bố từ
bi, ban bố pháp, mọi người cùng góp sức, bằng
ḷng tới đây nghe pháp. Quả thật là nhân duyên chẳng
thể nghĩ bàn, v́ chúng tôi khiến cho đại chúng nhọc
nhằn, tới lui lên xuống[12],
đúng là vất vả. Nhưng nói theo pháp, quả
thật là đáng nên làm, thật sự là cơ hội
để cúng dường pháp, mà cũng là trao đổi[13] để cúng
dường pháp, là thiện xảo để thực hành
pháp, chúng ta cũng chỉ nên coi chuyện lên xuống ấy
đều là đang hành Ban Châu. Vậy th́ lười nhác
chỉ là nhân duyên của cá nhân tôi, một mực thoái thác,
đối với kinh điển một mực rất ít
xem, mà cũng rất ít đọc, rất
ít tu tập. Chúng thường trụ một mực đọc
kinh điển này, do thầy Đức Viên đă cho in
văn tự [trong bộ kinh này ra], tôi mới quyết
định cùng mọi người học tập phẩm
Hiền Hộ của kinh Đại Tập.
Trước
kia, tôi cứ một mực băn khoăn giữa mấy
loại bản dịch, hoặc là một quyển, hay ba
quyển, để so sánh coi giảng bản nào sẽ tiện
lợi hơn. Các bậc thiện xảo, các vị đại
thiện tri thức từ xưa như Viễn công đại
sư, Trí Giả đại sư, Đạo Tuyên luật
sư, phần nhiều y chỉ kinh Ban Châu Tam Muội bản
ba quyển. Bản năm quyển này phân lượng khá lớn,
các vị thiện tri thức từ xưa đến nay phần
nhiều chẳng nghiên cứu kinh này, do [bản dịch
này] ngôn từ giản dị, thong dong, vừa đọc liền
biết ngay, chẳng cần phải nghiên cứu, cầm lấy
đă có thể sử dụng rồi. Do nỗi băn
khoăn ấy, chẳng biết học tập bản nào sẽ
thuận tiện hơn. V́ thế, cứ một mực bất
định. Pháp sư Đức Viên đă tạo thiện
xảo cho tôi, trực tiếp đem bản năm quyển
in ra, phân phát. Tôi bèn thuận duyên. Một là [bản dịch
này] văn tự khá suông sẻ, ngôn từ khá lưu loát, mọi
người có thể đọc tụng. Hơn nữa,
tôi không có sức để giảng, không có sức để
tuyên thuyết, phần nhiều ôm ḷng lười nhác. V́ sắc
thân do nhiều ác nghiệp từ vô thỉ tới nay đă
chín muồi, thân thể mệt chán, niềm vui nơi pháp
thù thắng chẳng thể hiện tiền, không chuộng
thuyết pháp. V́ thế, thường sanh ḷng hổ thẹn.
Người thật sự hành Ban Châu sẽ tiêu trừ loại
lười nhác này, v́ lẽ nào? Do ngày đêm đi kinh hành.
Đối với các vị Bồ Tát ngày đêm kinh hành tại
Hằng Dương Am, tôi thật sự muốn quỳ sụp
xuống đất đảnh lễ các bà, v́ trong khi tôi ngủ,
các bà vẫn đi kinh hành. Mỗi lần xuống đây, tôi
đều ôm ḷng kính ngưỡng, mới có thể bước
xuống đây. Nếu chẳng có tâm kính ngưỡng, tôi
tuyệt đối chẳng dám xuống. V́ sao? Người kinh
hành, người niệm Phật chính là đang thuyết
pháp, là đang trừ khử lười nhác, ở ngay trong
thế gian thay Phật tuyên nói cho hết thảy hữu
t́nh, khiến cho pháp trụ thế lợi ích rộng khắp
trời người, hữu t́nh trong chín pháp giới do vậy
mà đạt được lợi ích to lớn! Quư vị
chẳng kính ngưỡng, tôi kính ngưỡng. Tôi hy vọng
mọi người ai nấy đều kính ngưỡng,
yêu mến, tôn trọng những
người thật sự tu tập Phật pháp. Họ chẳng
phải là những kẻ thủ hộ Phật pháp bằng
cách nói suông, thủ hộ bằng cái tâm hư vọng, tự
cao tự đại, tự lợi.
“Hằng
nhạo thuyết pháp” (luôn ưa thích thuyết pháp): Ngay
trong khi niệm Phật là đă tuyên nói giáo ngôn tổng tŕ, lợi
lạc rộng khắp hết thảy hữu t́nh trong thế
gian dù phàm hay thánh, mười pháp giới đều
được b́nh đẳng nhiếp thọ. Tŕ bảo
hiệu quang minh oai đức A Di Đà Phật, đúng là
tṛng mắt của trời người, là sứ giả của
chư Phật, chớ nên coi thường! “Hằng nhạo
thuyết pháp” (Thường thích thuyết pháp): Pháp ấy
là pháp như thật, pháp chân thật, pháp chẳng tăng,
chẳng giảm, có thể lợi lạc hữu t́nh, chẳng
đắm nhiễm. “Nam-mô A Di Đà Phật” thanh tịnh
chân thật, oai đức tự tại, lợi ích rộng
khắp trời người. Do vậy, hành pháp Ban Châu sẽ
đạt được công đức và lợi ích
như thế đó!
(Kinh)
Vân hà đương đắc như pháp trụ, bất xả
nhất thiết chúng sanh cố?
(經)云何當得如法住。不捨一切衆生故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được đúng pháp mà trụ,
chẳng bỏ hết thảy chúng sanh?)
Hành
giả như thế, ngày này qua ngày khác, năm này sang năm khác, đi tới,
đi lui (kinh hành), tán thán Phật đức, hồi thí chúng
sanh, tán thán sanh mạng trọn đủ đức tướng
của Như Lai. Đó là trụ trong Như Như, trụ
trong như pháp, chẳng xả hết thảy chúng sanh.
Người niệm Phật chẳng xả hết thảy
hữu t́nh, chẳng xả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát,
quyết định nhiếp thọ, hộ tŕ thánh đạo
tam thừa, khiến cho họ đạt tới rốt ráo
Bồ Đề. Đối với ba thiện đạo,
tức nhân, thiên, Tu La, quyết định khiến cho kẻ buông lung tránh khỏi tai ương do buông lung, kẻ
đấu tranh tránh khỏi hoạn nạn do đấu
tranh, người chọn lựa sẽ tránh khỏi nỗi
khổ băn khoăn. V́ sao vậy? Do chẳng xả chúng
sanh, siêng gắng, tích cực niệm Phật, khiến cho hết
thảy chúng sanh có thể trụ trong an lạc b́nh đẳng.
Các vị Bồ Tát ơi! Niệm Phật đúng là chẳng
thể nghĩ bàn! Đối với thánh đạo, thiện
đạo c̣n có công đức này, mà đối với tam
ác đạo, tam đồ hữu t́nh, đúng là công đức
to lớn, đại quang minh an ủi! Do vậy, người
niệm Phật nhiếp trọn khắp chín giới, lợi
lạc trọn khắp hết thảy hữu t́nh. Người
hành Ban Châu cũng có công đức này, đại bi huân tập,
oai đức huân tập, chân thật trọn đủ.
(Kinh)
Vân hà đương đắc bất siểm khúc, tánh thuần
trực cố?
(經)云何當得不諂曲。性淳直故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được chẳng siểm
khúc, tánh thuần thẳng thắn?)
Người niệm Phật
tâm địa thuần hậu, lợi ích khắp thế
gian, chân thật chẳng dối, xa ĺa tạo tác, chúng ta lúc
nào cũng có thể trông thấy. Quư vị nói xem, người
ấy hiện thời đang hành đạo Ban Châu mà buồn
ngủ là do nghiệp tập hiện ra, chẳng phải là quang minh nơi tâm tánh hiển hiện, chẳng phải
do công đức của A Di Đà Phật hiển hiện.
Nếu do bản chất Nhất Như hiển hiện, hiển hiện như thế, sẽ
thấy Phật. V́ thế, chúng ta phải thật sự thấy
Phật, đừng thấy huyễn tướng nghiệp
lực của chúng sanh, đừng nghĩ nghiệp duyên của
chúng sanh là điều chính
ḿnh trông thấy. [Nếu chấp nghiệp duyên của
chúng sanh chính là điều chính ḿnh trông thấy], kiến giải
kiểu đó sẽ bị rơi vào tà kiến.
(Kinh)
Vân hà đương đắc như nhăn mục, vi nhất
thiết thế gian đăng minh cố?
(經)云何當得如眼目。爲一切世間燈明故。
(Kinh:
Như thế nào để sẽ được như mắt,
là đèn sáng của hết thảy thế gian?)
Người
niệm Phật nương vào pháp để chọn lựa,
giống như con mắt của hết thảy chúng sanh. V́ sao? V́ mở to mắt trí huệ,
do chẳng lấy, chẳng bỏ. Các thứ được
tuyên nói, các thứ ngôn thuyết trong phần trước
đều như con mắt, lợi ích thế gian. V́ sao
chúng sanh hôn ám, mê muội trụ trong chỗ tối tăm?
Những cái được gọi là “tối tăm”
trong thế gian đều do nương theo Kiến Tư
Hoặc, Trần Sa Hoặc, và Vô Minh Hoặc. Trong Văng Sanh Luận
có nói: “Hóa Phật, Bồ Tát nhật, trừ thế si ấm
minh” (vầng mặt trời hóa Phật và hóa Bồ Tát
trừ tối tăm do ngu si trong cơi đời). Ai đến
làm hóa Phật? Ai đến trừ tối tăm do ngu si
cho cơi đời? Kẻ tối tăm v́ ngu si chỉ bao gồm
[chúng sanh trong] chín pháp giới, chẳng
phải là vầng mặt trời hóa Phật, Bồ Tát. V́
sao bao gồm chín pháp giới? Chẳng có Phật nhật
luân, dùng ǵ để chiếu soi ḥng trừ bỏ tối
tăm do ngu si trong chín pháp giới? Do vậy, khi chúng ta niệm
bảo hiệu vạn đức quang minh “Nam-mô A Di Đà
Phật”, sẽ soi tỏ pháp giới, ban tṛng mắt cho
chúng sanh. Nếu có mắt mà chẳng có ánh sáng, dùng ǵ để
thấy? V́ thế nói “tác dĩ thế gian đăng
minh” (làm đèn sáng cho thế gian). Trong tối tăm, mắt
có tác dụng ǵ? Do đó, hữu t́nh trong chín pháp giới
đều dựa vào quang minh nơi vầng mặt
trời của chư Phật để chiếu rọi,
hướng dẫn mà thành tựu Bồ Đề. Từ địa vị Sơ Tín Bồ Tát măi cho đến
Đẳng Giác, đều nương vào niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng để tăng thượng mà thành tựu A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Các vị Bồ Tát ơi! Đừng coi rẻ niệm Phật!
V́
vậy, hành Ban Châu có lợi ích chẳng thể nghĩ bàn
như thế, làm đèn sáng cho thế gian, rộng lợi
ích hữu t́nh. “Đèn sáng” là nói tỷ dụ, thật sự là vầng mặt
trời. Vầng mặt trời vẫn là nói tỷ dụ!
Pháp quang minh oai đức của chư Phật chiếu khắp
thế gian, vầng mặt trời sao có thể sánh ví cho
được? Chỉ đều là nói tỷ dụ đó
thôi
(Kinh)
Vân hà đương đắc bất khả khinh miệt,
thắng xuất nhất thiết tam giới cố?
(經)云何當得不可輕蔑。勝出一切三界故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đạt được chẳng
thể khinh miệt do thù thắng vượt khỏi hết
thảy tam giới?)
Trong cơi này (thế giới Sa Bà) có tam giới, thế
gian ở phương khác cũng có tam giới, tức Dục
Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới. Cơi
này là một tiểu thế giới, trung thế giới,
đại thế giới, đại thiên thế giới,
là quốc độ tồn tại các loại thế giới.
Trong các loại tam giới, làm thế
nào để “thắng xuất nhất thiết tam giới”
(thù thắng vượt khỏi hết thảy tam giới).
“Bất khinh miệt” (chẳng khinh miệt) thù thắng
hơn hẳn, đúng là chẳng thể nghĩ bàn. Do vậy,
đối với hết thảy
chúng sanh, chớ nên khinh miệt, hủy báng, chớ nên chửi bới. Đối với hết thảy pháp thế
gian, chớ nên khinh mạn, chớ nên coi rẻ, hăy
nên tôn trọng hết thảy. Cái tâm “tôn trọng hết
thảy” là tâm b́nh đẳng. Cái tâm tôn trọng hết
thảy là tâm vui sướng thù thắng. Cái
tâm tôn trọng hết thảy là tâm chân thật. Cái tâm tôn trọng
hết thảy là tâm tri ân. Cái tâm tôn trọng hết thảy
là Phật tâm! Thẳng thừng vượt thoát tam giới, không
nhờ vào phương tiện, tự tâm hiện tiền
diệu dụng. Chúng ta tu ngay trong hiện tiền, vận
dụng trong hiện tiền, ngay trong lúc tu hành, đă thù thắng
vượt thoát tam giới, tức
là ngay trong một niệm phương tiện hiện tiền,
liền có thể chọn lựa. Nếu mở rộng
đến vị lai, sẽ thành tựu an trụ,
lợi ích thế giới rộng khắp, tự lợi lẫn
lợi tha.
“Bất
khả khinh miệt” (chẳng thể khinh miệt) hết
sức quan trọng. Có nhiều vị hành pháp do kiêu mạn
mà lấn hiếp người khác. Có nhiều vị hành
pháp do kiêu mạn mà rơi vào tà kiến. Có nhiều vị
hành pháp do tự cho là chẳng đúng pháp, nẩy sanh cái tâm
ty tiện, khinh miệt ḿnh lẫn người. Có nhiều
người hành pháp do chẳng biết “pháp chẳng có tự
tánh”, bèn vọng nhiễm, vọng chấp, vọng thức,
cho rằng có được, có mất, lầm lạc sanh
ḷng lấn hiếp. Từ trong pháp vô sở đắc,
hư vọng cho là có cái để đắc, phần nhiều
trở thành kẻ tăng thượng mạn, dẫu có
thái độ siêng khổ [tu hành], vẫn chẳng thể
thân cận pháp ích, chẳng có bi trí thiện xảo, diệt
mất phương tiện, chấp trước mạnh mẽ
đối với thế giới, bị các nỗi khổ
của chính ḿnh lẫn người khác bức bách. Những
kẻ đọa lạc như thế là các chúng sanh
được chư Phật, Bồ Tát thương xót, [bởi
họ đă] đánh mất cam lộ vị trong niệm Phật.
Do vậy, họ đều là những người đáng
nên gấp rút cứu vớt, v́ họ chẳng thuận theo
pháp, phá hoại pháp. Chúng ta phải khéo tư duy, khéo quan sát điều này, chớ
nên hủy nhục người khác. Các vị thiện tri thức
ơi! Khi chúng ta hành pháp, nhất định phải tôn trọng
hết thảy hữu t́nh, hết thảy cơ chế, hết
thảy nhân duyên. Tôn trọng như thế, sẽ có thể
vượt thoát tam giới, lợi ích tam giới!
(Kinh)
Vân hà đương đắc vô tránh luận, như giáo
thuyết hành cố?
(經)云何當得無諍論。如教說行故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được không tranh căi,
đúng như lời dạy mà hành?)
“Vô
tránh luận” là căn bản của pháp Tịnh Độ,
là cội rễ của giáo ngôn chư Phật, là căn bản
để lợi ích trọn khắp hữu t́nh. Căn bản
ấy chính là tướng trọn đức, chẳng tạo
tác, là trí b́nh đẳng bất nhị, vốn như thế
đó. Vốn chẳng thể tranh chấp, do chúng sanh phân
biệt, chấp trước, mà tạo lập
đủ loại kiến giải tranh chấp, nghị luận
tranh chấp, các pháp tranh chấp, [những thứ hư vọng
ấy đều] do thế gian sốt sắng tạo nên.
Khi A Di Đà Phật tu nhân địa, đă lập ba thệ
nguyện. Điều được thệ nguyện
căn bản ǵn giữ duy tŕ chính là “vô tránh nguyện”,
được Vô Tránh tam-muội nhiếp tŕ, thủ hộ,
ban bố “không tranh chấp” cho hết thảy chúng sanh, khiến cho hết thảy
chúng sanh đạt được trí thanh tịnh, b́nh
đẳng. Thanh tịnh b́nh đẳng giác cũng là
nơi an trụ của Vô Lượng Thọ Phật.
Đấy chính là bố thí thuốc để cứu chữa
chúng sanh, cứu chữa cái tâm vô thường sanh diệt và cái tâm tạo
tác sanh tử đối đăi của chúng sanh. Do vậy, vô
tránh là cội rễ của pháp Tịnh Độ, mà
cũng là chỗ quy kết của các thiện xảo trong
hết thảy Phật pháp. Nếu nẩy sanh đối
đăi, tất nhiên sẽ dấy lên tranh chấp. Nếu dấy
lên tranh chấp, tất nhiên là bối rối v́ sanh tử hiện
tiền, [khi đó], dẫu nương theo
giáo pháp để tu hành, sẽ không có chỗ để
nương cậy. Do vậy, trong ba thệ nguyện bí mật
do A Di Đà Phật đă lập ra, lợi ích căn bản
là “chẳng tranh chấp”. Nếu nhận biết
căn bản “chẳng tranh luận”, sẽ thấy trí thanh tịnh b́nh đẳng của
A Di Đà Phật, sẽ thấy sự liên tục của
Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang.
Trong
thời đại này, có thể là mọi người khá
khốn đốn v́ thói xấu “thuyết pháp nhiều,
hành pháp ít” như thế đó! Pháp tắc được
thực hiện trong một đạo tràng, phần nhiều
là chẳng thể đạt đến mười phần
đúng mức thật sự
tương ứng, thường sẽ nẩy sanh các
tranh luận do chấp trước nơi t́nh kiến.
Nhưng nếu y theo giáo pháp để hành, sẽ có thể
tiêu trừ các so đo t́nh chấp của chính ḿnh, đạt
được sự thực hiện đúng như pháp,
thành tựu ḿnh lẫn người, lợi ích thế gian.
Nói theo giáo ngôn Tịnh Độ, dùng “diệt tránh” (diệt trừ
tranh chấp, căi cọ) làm phương tiện tối thắng.
Người đời do tạo
tác tranh luận, nẩy sanh thói quen tạo nghiệp trái nghịch,
tàn hại, thậm chí c̣n khá hào hứng
làm chuyện đó. Trong một đạo tràng, hoặc
trong quá tŕnh tu pháp, nếu mỗi người đều
nói chuyện thị phi, sẽ dễ sanh ḷng vui thích; nhưng nếu bàn tới các nhu cầu
để đạt tới vô sự, an tịnh, th́ người ta thường chẳng cảm thấy
yên vui cho lắm. Đó là cái tâm của phàm phu, mà cũng là
tâm phân biệt, tâm chấp trước. Trong khi hành Ban Châu,
tức là pháp Thường Hành đạo, đích xác là hăy nên đối
trước mỗi chuyện, mỗi thời khắc quan
trọng, mỗi nhân duyên xảy đến với chúng ta,
tâm trí đều biết rơ như thật, chẳng tranh chấp,
tâm trí b́nh đẳng, tiêu trừ kiến giải luôn phân biệt
những thứ vốn chẳng cần thiết phải
phân biệt mà lại dấy lên phân biệt, xa ĺa các nỗi khổ vô ích.
Người đời đă quen tranh luận và tranh chấp,
nhất là trong thời đại này, [lắm kẻ] coi đấu
tranh như một thứ lạc thú. Đấu với trời, đấu với đất,
đấu với người, nói chung là vui thú khôn cùng! Trên
thực tế, chẳng phải là như thế, [nếu
ưa thích tranh chấp] như vậy th́ đủ loại
nghiệp khổ trong hiện tại, nghiệp khổ trong
vị lai, nghiệp rốt ráo cũng là khổ. Nếu nghiệp
hiện tại của chúng ta thanh tịnh, mỗi khi đấu
tranh, ngờ vực, lo ngại, phiền năo vừa sanh khởi, bèn
tiêu trừ lập tức, giải quyết lập tức,
nhận biết lập tức, th́ quả báo trong hiện tại,
quả báo trong vị lai, quả báo rốt ráo tất nhiên
là thanh tịnh, b́nh đẳng, chân thật chẳng thể
nghĩ bàn!
Tu
hành pháp Ban Châu ngay trong hiện tiền, đừng quên đằng sau các danh từ ấy chính là các chuyện,
các tướng, các nhân duyên mà chúng ta đă gặp.
Ngay trong sát-na gặp gỡ những chuyện
ấy, phải kịp thời giải quyết ngay, đừng
để cách một niệm, một thời, hay để
cách ngày! Nếu quư vị có thể giải quyết chẳng
chậm một ngày nào, dẫu hành pháp Ban Châu phát triển chậm
chạp, trúc trắc đôi chút, vẫn đạt
được lợi ích do hành pháp Ban Châu.
Như thế th́ “chẳng cách thời” (giải quyết mọi phiền năo ngay khi chúng vừa
lên ngay lập tức, đừng chần chừ), có thể
nói là sẽ có lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Nếu
thật sự chẳng để cách niệm, niệm niệm
nối tiếp, người ấy đối với sức
tam-muội sẽ chẳng cần nhờ tới ngôn thuyết,
mà đă có thiện xảo và công đức chẳng thể
nghĩ bàn!
(Kinh)
Vân hà đương đắc vô gian nan hạnh, vô trụ
trước cố?
(經)云何當得無艱難行。無住著故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đạt được hạnh
chẳng khó khăn, v́ chẳng chấp trước?)
“Vô
gian nan hạnh” thật ra là sự khinh an, thiện xảo trong hành pháp. Người
thật sự học Phật chẳng cảm thấy có
gánh nặng, chẳng cảm thấy nặng nề, chẳng
cảm thấy đau khổ. Nặng nề, đau khổ
tức là biểu hiện của sự chẳng đạt
được lợi ích từ Phật pháp ngay trong hiện
tiền. Người thật sự có hai pháp Bi và Trí, chẳng
đắm nhiễm pháp, có ǵ là gian nan, trúc trắc? Nếu
tâm trí bị nhiều sự tướng che lấp, các nạn
duyên kích phát lẫn nhau, tức là sai mất rồi, sẽ nẩy sanh các nỗi khổ chẳng cần thiết!
Chẳng hạn như hiện thời học tập pháp
này, mọi người sẽ dần dần tiến đến
giai đoạn b́nh ổn, chúng ta cũng chẳng cần phải
hưng sư động chúng. Trong quá tŕnh này, mỗi
người chúng ta trong hiện tiền dẫu chẳng được
khích lệ, vẫn chẳng thoái thác trách
nhiệm học tập Phật pháp, thực hành Phật pháp
nhằm tự lợi. Tai chúng ta thường nghe đặc
nghẹt [những lời lẽ phê phán] kẻ khác như thế
nào, đạo tràng như thế nào, kẻ nọ như thế
nào, những kẻ phục vụ như thế nào… Nếu
nói “chính ḿnh phải nên làm như thế nào” th́ [những lời
phê phán] ấy sẽ ít đi. Có các vị Bồ Tát chẳng
nói nhiều cho mấy, như thế th́ sẽ đơn giản
hơn. Trên thực tế, mỗi khi chúng ta gặp chuyện
khó khăn phát sanh, trúc trắc, hăy quan sát nó sanh khởi từ
tự tâm của chính ḿnh, nó sẽ ngay lập tức chẳng
gây trở ngại nữa. Như thế là đích xác tu pháp Ban Châu,
đó là đạo thường hành. Nếu có chuyện nào
dẫn đến trục trặc, gian nan, tức là chúng ta
chẳng hành đạo, là phi đạo (trái đạo,
nghịch đạo), ác đạo. Nếu đích xác là chẳng
thể hướng dẫn hữu t́nh tiến nhập Bồ
Đề, vận dụng pháp tắc, vậy th́ pháp tắc
mà chúng ta đang học tập c̣n có tác dụng chi nữa?
Chẳng phải là rơi vào h́nh thức rỗng tuếch
ư?
Trong
mỗi thời khắc chúng ta học tập, đích xác là
phải tôn trọng cái tâm và duyên của chính ḿnh, tôn trọng
nghiệp tướng ngoại tại của chính ḿnh. Sự
tôn trọng ấy khiến cho tâm trí người khác khinh
an, chẳng đắm nhiễm, thường hành đạo
nghiệp trong hiện tiền, trọn chẳng có nghĩa là
chúng ta học thuần thục rồi mới “thường
hành đạo”. Cái gọi là “tu Ban Châu”, tức là
trong khi chúng ta nghe pháp, lúc nghỉ ngơi, lúc giao tiếp,
lúc gặp phải nạn duyên (các duyên gây khó khăn), lúc gặp
phải khốn khó, lúc nẩy sanh nhân ngă thị phi, sẽ
đều “vô trước trụ” (không chấp
trước). “Vô trước
trụ” là ǵ? Chớ nên
coi sự t́nh là thật, chớ nên quá quan trọng hóa sự t́nh. Đối
trước nghiệp duyên như huyễn, nghiệp duyên hiện
tiền, chúng ta cần phải xử lư chúng, hăy đừng khăng
khăng chấp đó là sự thật. Nếu cưỡng
chấp là sự thật, sau đó phải sám hối, lại
c̣n phải trừ sạch, lại c̣n phải sửa đổi,
như thế th́ sẽ rất tốn công sức! Giống
như đă dựng xong một căn nhà rồi phá sập
nó. Cưỡng chế chấp trước, chấp trước
những trúc trắc, sẽ cưỡng chế kiến lập
nghiệp tướng của ác nghiệp, sau đó toan lay
động nó, sẽ mười phần tốn sức. Nếu
trong sát-na khó khăn, nghiệp duyên và mâu thuẫn sanh khởi,
chúng ta hăy lập tức tu, lập tức hành pháp Ban Châu
để quan sát cẩn thận, đó cũng là “hành vô
gian nan”.
Mỗi
người chúng ta trong khoảng khắc gặp chuyện,
chuyện đó có thể
là nguồn gây ô nhiễm, mà cũng có thể là nguồn
thanh tịnh. Nếu đúng pháp duy tŕ, nó sẽ là nguồn thanh tịnh. Nếu truyền bá sự ô nhiễm
của nó th́ sẽ là ngọn nguồn ô nhiễm, là thứ
gây họa. Các vị Bồ Tát ơi! Chuyện này chẳng
cần phải nói, mỗi người chúng ta đều có
thể trông thấy, mà cũng đều có thể lư giải.
Do vậy, chúng ta đối với cơ chế và khái niệm
học pháp, vận dụng pháp, nhất định phải
thuần thục ngay trong mỗi niệm hiện tiền,
ngay nơi mỗi sự, ngay nơi mỗi người! Các
vị Bồ Tát ơi! Đó là duyên khởi tốt nhất
của hạnh Ban Châu, là duyên khởi
b́nh thường nhất, là duyên khởi chân thật nhất,
mà cũng là hành pháp Ban Châu dễ hành nhất. Trong Phật
giáo, như tông Thiên Thai đă phán định: “Trong hết thảy tam-muội, có bốn
loại tam-muội”. Tùy Ư tam-muội tu tŕ từ chỗ này, tức là trong hết
thảy ư niệm, lúc sự tướng hiện tiền,
lúc mất chánh niệm, sẽ lập tức nhận biết,
khiến cho tự tánh lưu lộ, hoặc là tự tánh
được tiếp nối, sanh khởi tác dụng.
Như thế th́ sẽ chẳng mê mất nơi sự
tướng thiện, ác, đúng, sai, có thể do Phổ
Đẳng tam-muội, hoặc là Tùy Ư tam-muội mà tùy lúc tu hành. Thường
hành đạo của Ban Châu cũng cần phải tu chứng
ngay trong mỗi niệm.
(Kinh)
Vân hà đương đắc tri ư Thật Tế, bất
phân biệt chư pháp cố.
(經)云何當得知於實際。不分別諸法故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ biết Thật Tế, chẳng
phân biệt các pháp?)
Một
trăm hai mươi hai điều “vân hà” đă bao gồm
các lợi ích thực tế do hành pháp Ban Châu dẫn xuất,
do Hiền Hộ Bồ Tát thay chúng ta khải vấn đức
Thế Tôn, và do đức Thế Tôn tuyên nói cho đại
chúng, khiến chúng ta có thể trụ trong an lạc, trụ trong chân thật, trụ trong
quan sát lợi ích nơi pháp tu này. “Vân hà
đương đắc tri ư Thật Tế”
(như thế nào th́ sẽ biết Thật Tế). Thật
Tế là ǵ? Trong nhân duyên hiện thực th́ có hai loại Thật
Tế: Một là cứu cánh Thật Tế, hai là hiện tiền
sự tướng Thật Tế. Chúng ta thường nghe
người khác nói: “Trên thực tế, có phải là t́nh huống
ấy hay không?”, hoặc “đấy là t́nh huống thực
tế ư?” Các sự t́nh
phát sanh, nhân duyên đă hiện tiền, được gọi
là hiện tướng thực tế (hiện tiền sự
tướng Thật Tế), tức là thực tế trong
hiện tại. Đương nhiên cũng có cứu cánh thực
tế (thực tế rốt ráo), tức là thực tế
do nương theo Lư để quan sát cẩn thận. Nếu
dựa trên hai pháp Lư Quán và Sự Quán để quán Thật Tế, sẽ có thể đạt
được thiện xảo. Chẳng hạn như
chúng ta dùng tâm trí “chẳng phân biệt các pháp”, th́ đó
cũng là tâm trí của Ban Châu hạnh, mà cũng là tâm trí thường
hành đạo. “Đạo” chính là chẳng phân biệt
các pháp trong thực tế hiện tiền, mà “các pháp”
chính là “các tâm”. “Các tâm” là các loại cảm giác,
các loại nghiệp tướng. Nếu trong các nghiệp
tướng, sẽ có các thứ sự tướng. Nếu
dựa theo rốt ráo để nói, y theo Lư để nói, quả
thật chẳng có ǵ để phân biệt, chẳng có ǵ
để tạo tác, chẳng có ǵ để sanh diệt.
Các
vị thiện tri thức ơi! Nhất định phải
dung nhập Phật pháp vào trong chỗ sâu thẳm nơi tâm
linh của chính ḿnh, dung nhập thực tế hiện tiền
của chính ḿnh, thật sự làm một vị trí giả,
người có ḷng bi, bậc tạo phương tiện, bậc
đạt được Bồ Đề tâm, làm một
hành giả trọn đủ đại bi, đại trí,
đại nguyện trong Phật pháp, chẳng cô phụ chính
ḿnh! Đừng cho rằng điều này cách biệt chúng
ta rất xa xôi. Nếu đúng như pháp thực hiện,
nó sẽ chẳng xa xôi. Nếu đùn đẩy cho người
khác, gán cho Phật, gán cho bậc hiền giả, gán cho thánh
nhân, như thế th́ sẽ chẳng liên can ǵ đến
chúng ta. Điều này rất rơ ràng, “tri ư Thật Tế”
(biết Thật Tế) có hai pháp Lư và Sự. Nói theo Lư, quả
thật chẳng có phân biệt. Nói theo sự tướng, đối với
chỗ phân biệt bèn vừa khéo dùng thiện xảo “chẳng
phân biệt” để quan sát và vận dụng, th́ sẽ
là người hành pháp thanh tịnh, lợi ích chân thật.
Chúng
ta thấy nhất quán từ đầu đến cuối
trong mấy chục câu hỏi, toàn bộ đều là nói
đến hành pháp như lư, tâm trí như lư, thủ hộ như
lư, xa ĺa đắm nhiễm và tranh căi, kiện cáo, xa ĺa trúc
trắc, xa ĺa thị phi, xa ĺa chấp trước [vạn
pháp] là thật, biết [vạn pháp] là huyễn hóa, biết
chúng chẳng thể đạt được. Các vị Bồ
Tát ơi! Chúng ta vứt bỏ nhân duyên gia đ́nh, vứt bỏ
hoàn cảnh sống quen thuộc của chính ḿnh, đến
nơi núi cao như thế này, phải nên có một mục
đích duy nhất: “Tới đây
để tu tập Phật pháp, học tập Phật pháp”. Chúng ta phải nhận thức rơ ràng, phải vứt
bỏ các tạp niệm và tạp duyên chẳng liên can, vô ư
nghĩa, chẳng cô phụ cơ chế và cơ duyên của
công đức thù thắng nơi các hiện duyên của chính ḿnh, cũng như các pháp tắc có
công đức thù thắng mà ta đă được nghe. Nếu chẳng
như thế, sẽ là khinh mạn chính ḿnh, khinh mạn
pháp tắc, khinh mạn hiện tại, khinh mạn sanh mạng
được mười phương dưỡng dục
của chính ḿnh, làm sao có thể đạt được
lợi ích như thế cho được?
Trong
Phật giáo, mọi người đều đề ra “sống
với ḷng biết ơn”, nói “hết
thảy chúng sanh đều là Phật, Bồ Tát, chỉ có
ta là phàm phu”, phải dùng tâm thái cảm ơn để đối đăi các hữu t́nh, phải
đối đăi với hiện duyên bằng ḷng cảm
ơn, phải đối đăi với hữu t́nh có tánh chất
xấu ác bằng ḷng cảm ơn, phải đối
đăi với các nhân duyên khổ nạn bằng ḷng cảm
ơn, do v́ lẽ nào? [Các thứ ấy] đều là sự
gia tŕ khiến cho đạo nghiệp tăng thượng
và là các bậc thầy tốt lành hướng dẫn tạo
lợi ích. Chúng ta há có thời gian
để tạo tác các pháp tắc chẳng tương ứng
nữa ư? Tôi nói những điều này, cũng vẫn
là hy vọng mọi người hăy vận dụng giáo pháp,
vận dụng kinh điển để xem xét kỹ càng khởi
tâm động niệm của chính ḿnh. Phải thấy rơ khởi tâm động niệm, nhận biết chuẩn
xác, nhất định đừng bỏ qua. Đừng
cho rằng ngoại trừ khởi tâm động niệm, c̣n có vật ǵ khác. Nếu có thể nắm giữ rơ
ràng pháp tắc này, vận dụng thành thục, sẽ
đúng là tṛng mắt của thế gian, là bậc thiện xảo
trong thế gian, là
ĺa khổ, là được vui, ban an lạc cho chúng sanh.
Do
vậy, “đắc tri ư Thật Tế, bất phân biệt
chư pháp cố” (được biết Thật Tế,
chẳng phân biệt các pháp). Trong Thật Thế Lư Địa, đối với
giác tri, chẳng nhiễm mảy trần, nương theo
pháp mà quan sát. Như thế th́ sẽ có các sự biến
hóa trong sự tướng, các thứ đắm nhiễm,
các loại thiện, các loại ác, thật sự đúng là
chúng ta đang hành đạo, biết tâm, biết cơ hội
thiện xảo của pháp và duyên tăng thượng, chẳng
tạo duyên đọa lạc, chẳng tạo duyên buông
lung, đừng
đắm ch́m trong sự hưng phấn và nghiệp lực
của chính ḿnh. “Hưng phấn” là ǵ vậy? Chúng ta
đều biết, rất nhiều kẻ hút ma túy, biết
rơ là độc hại, nhưng vẫn hút, v́ nó khiến họ
hưng phấn. Kẻ hút thuốc lá biết rơ thuốc lá
độc hại, nguy hại cho sức khỏe, nhưng vẫn
cứ hút v́ nó khiến cho họ hưng
phấn. Kẻ uống rượu biết rượu
không tốt cho con người, gây loạn tánh, vẫn cứ
uống. Có kẻ đánh nhau, ẩu đả, biết là
không tốt, vẫn cứ đánh nhau, ẩu đả, v́
hưng phấn! V́ sao có rất nhiều người biết
rơ là chuyện không tốt mà vẫn cứ làm?
Đă bị trúng độc, tức là đánh mất sự
thủ hộ đối với tâm trí ngay trong lúc ấy, đánh mất
duyên khởi thanh tịnh ngay trong lúc đó. Duyên khởi
đă chẳng thanh tịnh, các loại nghiệp tướng sẽ tiếp nối.
(Kinh)
Vân hà đương đắc thuyết nhất thiết
ngữ ngôn trí, linh chư chúng sanh trụ ư Đại Thừa
cố?
(經)云何當得說一切語言智。令諸衆生住於大乘故。
(Kinh:
Như thế nào th́ đạt được trí nói hết
thảy các ngôn ngữ, khiến cho các chúng sanh trụ trong
Đại Thừa?)
“Nhất
thiết ngữ ngôn trí” (trí biết hết thảy ngôn
ngữ): Chúng ta đều biết, trong trí tổng tướng,
Đà-la-ni giáo biểu đạt trí biết hết thảy
ngôn ngữ. Đà-la-ni là trọn hết thảy các
nghĩa, trọn hết thảy công đức, có đủ
hết thảy thiện xảo, đủ hết thảy
phương tiện, đủ hết thảy các pháp.
Đà-la-ni c̣n gọi là Tổng Tŕ, nhưng thường là
[từ ngữ này và nội dung của các Đà-la-ni đều] chẳng phiên dịch. Chẳng hạn
như trong công khóa [sáng sớm] nơi đất
Hán, chú Lăng Nghiêm là Đà-la-ni, mười tiểu chú là
Đà-la-ni, chú Đại Bi là Đà-la-ni. Lại như chúng
ta đọc kinh Viên Giác, trong ấy nói “thử thị
đại Đà-la-ni giáo” (đây là đại
đà-la-ni giáo), tức là giáo pháp Tổng Tŕ.
Nay
chúng ta niệm nam-mô A Di Đà Phật, hành Ban Châu, có phải
là Đà-la-ni giáo hay không? Có phải là trí hết thảy ngôn
ngữ sẽ khiến cho chúng sanh ai nấy đều có thể
sử dụng hay không? Chắc chắn là như thế. Các
vị thiện tri thức ơi! Chúng ta niệm Nam-mô A Di
Đà Phật, hồi thí thanh tịnh b́nh đẳng giác,
có thể khiến cho chúng sanh nhập Đại Thừa,
an trụ trong Đại Thừa, tức là b́nh đẳng
gánh vác. Lại c̣n như lạy Văng Sanh Lễ Tán, trong ấy,
cuối cùng có một câu: “Nguyện cộng chư chúng
sanh, văng sanh An Lạc quốc” (nguyện cùng các chúng sanh,
văng sanh cơi An Lạc). Đó là tâm trí Đại Thừa, pháp
tắc Đại Thừa, hiệu ứng Đại Thừa,
lợi ích chân thật của Đại Thừa được
hiển hiện, tức là nguyện cho pháp giới chúng sanh
cùng lúc đều đắc A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề. Nguyện cho hết thảy chúng sanh
đều cùng sanh về cơi Vô Lượng Quang Phật. Cơi
của A Di Đà Phật là cơi Phật vô lượng quang,
nguyện văng sanh liền văng sanh, tâm làm Phật, tâm là Phật.
Do công đức của A Di Đà Phật mà thành tựu Vô
Biên Quang, Vô Ngại Quang, Vô Đẳng Quang, Trí Huệ Quang,
đó là tướng quả đức trong công đức,
chiếu trọn khắp pháp giới. Nếu ai tín thuận,
sẽ liền được văng sanh. Đó gọi là “thập
vạn ức sát độ, nhất niệm tín tức thị”
(mười vạn ức cơi nước, một niệm
tin là được). Tín là tri kiến hiện thời của
chính ḿnh ngay lập tức dung nhập cơi Phật Vô Lượng
Quang, chẳng nhiễm, chẳng đắm, nhất thời
dùng quả đức trí huệ quang minh của Phật
để dung nhập tự tâm, tự tâm ấn khế, chẳng
hai, chẳng khác, sẽ ấn chứng và chứng thực
lợi ích văng sanh ngay trong hiện tiền. Nếu tiếp
nối như thế, người ấy sẽ đắc
trí quang minh, vô ngại, và giải thoát, trọn đủ hết
thảy các thiện xảo, gánh vác và lợi ích hết thảy
chúng sanh.
“Trụ
ư Đại Thừa” (trụ trong Đại Thừa): Tất cả ngôn thuyết
của chúng ta chẳng đều lợi ích trọn khắp
hữu t́nh ư? Sự thuyết giáo của Thanh Văn là
có đối đăi. Chẳng hạn như nói hàng xuất gia và tại
gia nếu phạm năm giới, tám giới, mười
giới, hành bất tịnh pháp, sẽ đọa trong các loại
khổ báo của ác nghiệp. Đó là cách nói đối ứng
căn cơ, chẳng phải là giáo ngôn rốt ráo, rộng
lớn của Đại Thừa. Nhưng giáo ngôn đối
ứng căn cơ ấy là sự quở trách và khuyến
hóa dành cho các loại hữu t́nh chẳng tŕ giới, phạm
giới. Chúng ta nói “nam-mô A Di Đà Phật” chiếu khắp
hết thảy hữu t́nh thiện ác trong mười
phương. Đấy là sự hồi thí b́nh đẳng
của Đại Thừa, b́nh đẳng lợi ích rộng
khắp hết thảy hiện duyên hữu t́nh, khiến
cho hết thảy hữu t́nh nghe xong, sẽ đều
được lợi ích b́nh đẳng, giống như
chiếc thuyền lớn chuyên chở. Giống như một
căn nhà lớn này của chúng ta, giả sử hiện thời
biến thành chiếc thuyền “A Di Đà Phật số
1” để mọi người đều văng sanh thế
giới Cực Lạc. Nhưng nếu chúng ta nói “người
xuất gia th́ đi, c̣n hàng tại gia lui ra” th́ sẽ trở
thành đối đăi căn cơ. Hoặc “đàn ông đứng
lại, đàn bà lui ra ngoài”, đó là đối ứng
căn cơ. Hoặc “thiện nhân đứng một bên,
ác nhân đứng một bên”, lại thành có căn cơ, chủng
loại khác biệt! Giáo pháp dựa theo căn cơ, có thể
nói là nhập Đại Thừa, có thể nói là Thanh Văn
Thừa, cũng có thể nói là phán định theo nhân thiên,
hoặc phán định theo thiện ác, cũng có thể chẳng
phải là Phật pháp. Chẳng hạn như nhân ngă thị
phi có thể chẳng phải là Phật pháp. Do vậy, ở
đây hy vọng mọi người đều có thể
thiện xảo tu tập pháp tắc Đại Thừa, sẽ
có phương tiện để tiến nhập.
(Kinh)
Vân hà đương đắc chí vô úy xứ, viễn ly khủng
bố, vĩnh vô nhất thiết mao thụ đẳng sự
cố?
(經)云何當得至無畏處。遠離恐怖永無一切毛豎等事故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đạt tới chỗ không sợ
hăi, xa ĺa sợ hăi, vĩnh viễn chẳng có hết thảy
chuyện rởn lông tóc?)
Người
khác nhau sẽ có cảm nhận khác nhau. Có người hành
Ban Châu, buổi tối trông thấy bóng tối cũng sợ
rởn cả lông tóc, sanh khởi sợ hăi. Có người ở
nơi đồng trống sẽ sanh khởi
sợ hăi. Có người đọc kinh sợ rởn da gà,
run rẩy. Có người thấy tướng ác bèn rởn
cả lông tóc. Có người thấy tượng Phật sẽ
rởn cả lông tóc, run rẩy. Có người nghe một
câu nói sẽ rởn cả lông tóc, run rẩy. Đấy
đều là do nghiệp quả chín muồi của mỗi
người, do Dị Thục Quả tiếp tục khích
phát biểu hiện ra.
“Mao
thụ tướng” (毛豎相, tướng rởn lông tóc), trên thực tế là do sợ
hăi. Một số vị cư sĩ trẻ tuổi tại
gia thích xem phim kinh dị, tức là mong được sợ hăi rởn da gà.
Đó là một nhân duyên. Ở đây, [chánh kinh] bảo chúng
ta như thế nào th́ sẽ có thể xa ĺa nhân duyên như
thế đó? “Đắc chí vô úy xứ” (đạt tới
chỗ không sợ hăi): Nếu chúng ta thường hành pháp
Ban Châu, sẽ ngay lập tức xử lư sạch sẽ, chẳng
đắm nhiễm, tâm chẳng vướng mắc, không
đầu, không cuối, chẳng thiện, chẳng ác, các
đối đăi tan hoại, há có sợ hăi ǵ nữa ư?
Do vậy, chỗ lợi ích công đức chân thật của
hành pháp Ban Châu là chắc chắn xa ĺa hết thảy sợ
hăi. Nếu chúng ta đích thân chứng tam-muội, đích
thân chứng tự tánh, c̣n sợ hăi chi nữa? V́ đối
đăi c̣n chẳng sanh khởi, há có nỗi sợ hăi và kẻ sợ
hăi ư? Há c̣n có cái người bị sợ hăi và chuyện
đáng để sợ hăi nữa ư? Do đó, hành pháp
Ban Châu chắc chắn có lợi ích chẳng thể nghĩ
bàn như thế, có thể khiến cho hữu t́nh đạt
tới chỗ chẳng sợ hăi.
Đây
là một câu hỏi rất hay! Hiền Hộ Bồ Tát
đến giúp chúng ta là những kẻ học Phật trong
thời Mạt Pháp, tức là các hữu t́nh luôn suy nghĩ
vô ích, quan sát vô ích, hoặc chẳng có sức để suy
xét, hoặc chẳng có sức để quan sát. Người
hiện thời nếu có vấn đề phải suy xét,
thường là rất tạp loạn! Rất nhiều
vị Bồ Tát hễ mở miệng ra toàn là ác tri ác kiến của chính ḿnh, chẳng liên quan ǵ tới
Phật pháp! Các hữu t́nh khéo tư duy niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng, niệm Khổ, Tập, Diệt, Đạo,
niệm tịch tĩnh Niết Bàn, niệm “vô ngă, vô thường”, tức là đă
nương theo pháp để tư duy, nương
theo pháp để trao đổi, nương theo pháp để
tu tập. Từ điều “vân hà” thứ nhất cho
đến điều “vân hà” chín mươi, mỗi
điều đều nhằm bảo chúng ta hăy tư duy đúng như lư, thực tập đúng
như lư, quan sát đúng như lư, khải giáo (khải thỉnh
giáo pháp) đúng như lư. Nhất định chớ nên xem
thường những văn tự ấy. Chớ nên xem nhẹ
kinh điển! Chúng ta quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng,
đấy cũng là chỗ quy y của chúng ta, giống hệt như đức Phật trụ thế
chẳng nghi, an ủi chúng ta. Nếu có thể y giáo phụng
hành, nhất định có thể đạt được
công đức và lợi ích chẳng thể nghĩ bàn! Chúng
ta thường nói “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”,
nhưng chỉ là nói ngoài miệng,
hay là trong tâm nghiệp hành xứ thật sự quy y? Khi
chúng ta nói chuyện thị phi, khi đánh lộn, khi gây chuyện
ồn náo, niệm nào cũng đều là quy y Phật, quy
y Pháp, quy y Tăng, sau đó mới cùng người khác
đấu tranh. Khi trong tâm chúng ta phiền năo, khi chẳng
có cách nào giải quyết vấn đề, khi tư duy chẳng
đúng pháp, niệm nào cũng đều là “Khổ, Vô Thường, Vô Ngă, tịch tĩnh Niết
Bàn”, sau đó sẽ cùng người khác biện luận
đúng, sai, nói hay, nói dở. Như thế th́ nhất định
sẽ có ư nghĩa. Đấy là tư duy đúng lư, phê phán
đúng lư, trao đổi đúng lư, như thế th́ chúng ta
sẽ đều có thể ĺa khổ, được vui. Nếu
không, sẽ đều là thành chẳng đúng pháp, nói chẳng đúng pháp, trao đổi chẳng
đúng pháp, lăng phí thời gian của chính ḿnh, lăng phí tinh lực
của kẻ khác, kết quả là c̣n rơi vào quả báo có tánh chất
xấu ác, thật sự chẳng tương ứng.
Đó là chỗ đáng sợ hăi.
Các
vị thiện tri thức ơi! Chúng ta thật sự phải
nên suy xét chỗ chúng ta sợ hăi là ǵ? Nếu thật sự
tư duy, hăy xét xem trong tâm ta có phải là có điều sợ
hăi hay không? Có chỗ hoảng sợ
hay không? Có người sợ cái này, có người sợ
cái kia. Nỗi sợ hăi đúng là khác nhau! Tôi
đă thấy có người sợ gia đ́nh chẳng duy
tŕ nổi, sợ chính ḿnh chẳng có người yêu, sợ
xuất gia… Thế nhưng, kẻ sợ đọa lạc
rất ít, kẻ sợ chẳng có tham, sân, si đặc biệt
nhiều! Dường như nếu chẳng có “tham, sân, si, mạn, nghi”, tợ hồ
là chuyện rởn da gà! Tôi chẳng dám cười chuyện
này, hy vọng mọi người thật sự tư duy
đúng như lư để suy nghĩ xem chính ḿnh sợ nhất
điều ǵ? Người sợ đọa lạc đúng là rất ít; đấy là chuyện
rất đáng sợ. Người sợ xuất gia quá nhiều!
Sợ xuất gia, sợ thoát khỏi tam giới, sợ chẳng
đắm nhiễm! Đúng là chẳng thể khiến cho
mọi người phải nghĩ lại, v́ đắm
nhiễm chính là mạng căn của chúng ta, mọi người
đă quá quen thuộc, quen nết mất rồi, [luôn
luôn] coi đó cũng là chuyện b́nh thường. Nhưng cái b́nh thường ấy lại đặc biệt
bất thường, v́ nó là cội rễ của luân hồi,
có thể ngăn lấp đạo nghiệp thành tựu,
là một thứ trần cấu đặc biệt sâu
đậm!
“Đương
đắc chí vô úy xứ” (sẽ đạt tới chỗ không sợ
hăi): Rốt ráo trong pháp ích, có thể nói Tứ Chánh Cần
là chỗ không sợ hăi, tức là chúng ta an trụ trong thiện
pháp cũng là chỗ không sợ hăi. Người xuất gia
thủ hộ giới luật là chỗ không sợ hăi, mà phạm
giới là chỗ sợ hăi. Hữu t́nh trong thế gian thủ
hộ thiện pháp là chỗ không sợ hăi. Sợ có ác danh trong ác pháp, cũng sẽ sanh ra sợ
hăi. Trong pháp xuất thế gian, có các thứ Thiền Định
thiện xảo, thần thông tự tại, là một chỗ
không sợ hăi. Có các thứ tản mạn, buông lung, không có sức tự khống chế, cũng là chỗ
sợ hăi. Từ Bát Địa Bồ Tát trở xuống,
thoái chuyển là chỗ sợ hăi. Bồ Tát từ Bát Địa
trở lên, bất thoái chuyển là chỗ không sợ hăi. Hữu
t́nh mà chưa đạt đến địa vị Phật
th́ đều có Kiến Tư Hoặc, Trần Sa Hoặc, và Vô Minh Hoặc, đó là
chỗ sợ hăi. Chư Phật Như Lai chứng thấu
triệt A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề,
pháp tánh trọn khắp, chẳng sợ hăi ǵ. Đó là chỗ không
sợ hăi. Các vị đại Bồ Tát vẫn có điều
sợ hăi! Nói tương đối, ai nấy đều sợ
hăi, chỉ có chư Phật xa ĺa hết thảy sợ hăi.
Chúng ta có thể vĩnh viễn chẳng sợ hăi hay không? Vậy th́ phải thành tựu Bồ Đề
rốt ráo, thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, nương
theo giáo ngôn trong tối thượng thừa để tu
tŕ, cho đến tiến nhập Vô Thượng Bồ
Đề, thật sự vĩnh viễn ĺa khỏi hết
thảy sợ hăi.
(Kinh)
Vân hà đương đắc tri Phật phương tiện
thuyết, thiện đạt nhất thiết Tu Đa La đẳng cố?
(經)云何當得知佛方便說。善達一切修多羅等故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ
biết Phật nói phương tiện, khéo thông đạt
hết thảy Tu Đa La b́nh đẳng).
Đức Phật thuyết pháp, đích xác
là có Quyền Giáo và Thật Giáo, có liễu nghĩa và bất
liễu nghĩa. Đời Mạt Pháp có bốn ngọn đèn
chiếu sáng thế gian, tức là pháp tắc Tứ Y.
Đó là bốn cách nói quyết định để làm chỗ
nương cậy cho thế gian, an ủi thế gian.
Đó chính là “y pháp, bất
y nhân. Y liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa. Y
trí, bất y thức. Y nghĩa, bất y ngữ”. Bốn
cách nói ấy là lời căn dặn của đức Thế
Tôn dành cho hữu t́nh học Phật trong thời Mạt Pháp, tức là dạy
chúng ta biết pháp tắc như thế nào để phán
định sự học tập của chính ḿnh? Phải
nên dựa theo pháp, đừng dựa theo một cá nhân nào.
Nương theo pháp liễu nghĩa, chẳng nương
theo pháp bất liễu nghĩa. Nương theo trí, chẳng
thuận theo thức. Nương theo ư nghĩa, đừng
nương theo từ ngữ. Dùng những điều này
để khiến cho chúng ta thâm nhập, đạt
được phương tiện hồi thí cho hữu
t́nh.
Chúng
ta hành Ban Châu, có thể biết đức Phật nói
phương tiện hay không? Nói phương tiện th́ có hai
cơ chế để kiến lập:
1)
Một là thuận duyên kiến lập.
2)
Hai là nhằm thỏa thích bổn hoài của đức
Phật, chiếu khắp, nhiếp trọn, rộng độ
hữu t́nh mà kiến lập.
Tức
là đối ứng căn cơ để thí giáo, khiến
cho hết thảy các loại căn cơ sẽ do pháp tắc
tương ứng với căn cơ mà được
độ thoát. [Đó là thuận duyên kiến lập]. C̣n pháp kia nhằm
thỏa thích bổn hoài của Phật, [tức hoài băo vốn có của
Phật là] phổ độ chúng sanh. Hai
loại phương tiện này, loại sau là đại
phương tiện, loại trước là phương tiện
để tiến nhập căn cơ thích hợp, tức
là đối với mỗi loại căn cơ, bèn nói một pháp nào đó. Nếu là v́ tạo thiện
xảo cho kẻ nương theo phước báo nhân thiên,
bèn nói phước báo nhân thiên. Nếu là v́ kẻ
nương theo giáo pháp Thanh Văn
đắc độ, bèn nói pháp Thanh Văn. Nếu là để
người nương theo Bồ Tát Thừa đắc
độ, bèn nói pháp Bồ Tát. [Đối với
người] nương theo Đại Thừa
đắc độ, bèn nói giáo ngôn Đại Thừa. Để độ người nương theo giáo ngôn
về tự tánh rất sâu, bèn nói giáo ngôn
Kim Cang Thừa về tự tánh, khiến cho chúng sanh đắc
độ. Đấy gọi là “phương tiện
nhiếp thọ, chế phục, tùy theo căn cơ mà thí
giáo”, nhưng đức Phật thuyết pháp bèn tự tại trong hết thảy các pháp.
Chúng
ta niệm Nam-mô A Di Đà Phật th́ sao? Thật sự là
đại phương tiện! Cái được gọi
là “đại phương tiện” chính là nhiếp thọ
trọn khắp, lợi ích rộng khắp, chẳng bỏ
sót. Một câu Nam-mô A Di Đà Phật dù phàm hay thánh, đều
cùng được văng sanh, được b́nh đẳng
nhiếp thọ, chẳng bị bỏ sót. Đó chính là
đại phương tiện giáo, là lời chân thật,
là lời thành thật, là tướng công đức thỏa
thích bổn hoài rộng lớn của Phật. Do đó nói:
Phương tiện ở đây có hai loại xếp đặt,
chúng ta niệm Nam-mô A Di Đà Phật chính là đại
phương tiện trong hai loại xếp đặt ấy.
Đó là có xuất xứ.
“Thiện
đạt nhất thiết Tu Đa La” tức là khéo
thông đạt hết thảy giáo ngôn Đại Thừa,
giáo ngôn liễu nghĩa, chọn lựa cho chúng sanh, chẳng
khiến cho hữu t́nh bị mông muội! V́ giáo ngôn bất
liễu nghĩa có thể khiến cho hữu t́nh mê mờ,
như nói “hóa thành” (tỷ dụ về cái thành
được biến hóa ra [trong kinh Pháp
Hoa], tức các pháp quyền biến), nói thiện và ác, lại
như chúng ta nay nương theo các thứ giới pháp mà d́u dắt, yêu thương, che chở hữu t́nh.
Đối với chuyện này, đều có thể
sử dụng cả ba thừa để phán định.
Nếu là đối với kẻ đắm nhiễm sự
được mất trong thế gian, hoặc đối
với người có công đức, th́ đấy là
phương tiện để nhiếp thọ, thủ hộ,
là cách nói chẳng rốt ráo, do nói theo công đức và lợi
ích, là nói tăng thượng, nhưng giới luật
cũng có thể nói vô lậu, nói rốt ráo chân thật, tŕ
giới có thể thành tựu Vô Thượng Bồ Đề.
Đấy là nói theo Tu Đa La, nói theo liễu nghĩa!
“Thiện
đạt nhất thiết Tu Đa La đẳng cố”
(Do khéo thông đạt Khế Kinh b́nh đẳng): Chữ
Đẳng này [hàm ư] hết thảy các pháp do đức Phật
đă nói chẳng có cao hay thấp, đều
là tâm trí cội nguồn của hết thảy chúng sanh, khiến
cho họ ngộ nhập tri kiến của Phật, thành tựu
Vô Thượng Bồ Đề. Do đó nói là “pháp b́nh
đẳng, chẳng có cao thấp”, xa ĺa tranh chấp,
kiện tụng. Pháp ví như chiếc bè, độ thoát
chúng sanh, thật sự chẳng có ǵ để đắc.
Nếu Bồ Tát đă dự vào Sơ Địa, sẽ biết
hết thảy các pháp giống như ngón tay chỉ mặt
trăng, ví như chiếc
bè, chỉ là thiện xảo để tiếp dẫn, là
phương tiện để tiếp dẫn, thật sự
chẳng có pháp nào để có thể đạt được! Nhưng hữu t́nh ngu si đắm nhiễm trong cao, thấp,
đắm nhiễm trong lớn, nhỏ, cho nên bươn bả
trong cao thấp. Hiện thời, “Giang Nam, Giang Bắc t́m
kiếm Bồ Đề, quốc nội, quốc ngoại
t́m kiếm Bồ Đề. Đất Hán, đất Tây Tạng
t́m kiếm Bồ Đề”, mọi nơi đều
là như thế. Người như thế trong tâm chẳng
công chánh, đối với pháp chẳng b́nh đẳng,
nghe người khác nói pháp này to lớn bèn tu pháp này, người
khác nói pháp kia mạnh mẽ, lại tu pháp kia. Dùng cái tâm
tăng thượng bất b́nh đẳng, cái tâm tham lợi
để cầu pháp, sẽ chẳng được yên
vui. V́ sao? Chẳng biết nguồn cội của pháp và căn bản của tâm trí, mê mất phát tâm, cầu
nơi cao, thấp, chạy ngược, chạy xuôi, chạy
đến nỗi thân thể mệt nhoài, chạy
đến nỗi một thân đầy phiền
năo, chạy thành một thân phỉ báng, chẳng đạt
được lợi ích nơi Phật pháp. Do đó, nếu
tâm trí nương theo liễu nghĩa, nương theo tâm Vô
Thượng Bồ Đề để quan sát hết thảy
các pháp, [sẽ thấy] hết thảy các pháp b́nh đẳng
một vị. Điều này chân thật, chẳng
dối. Trong hết thảy mọi lúc, mọi thời,
đều sanh khởi cái tâm cung kính to lớn, tôn trọng
to lớn, yêu thích to lớn, cho nên “thiện đạt nhất
thiết Tu Đa La” (khéo thông đạt hết
thảy Khế Kinh). “Hết thảy Tu
Đa La” chính là mỗi niệm hiện tiền, là nhân duyên trong
hiện tiền của chúng ta. Đừng nên xem thường
mỗi niệm hiện tiền trong hiện tại và cơ duyên trong hiện
tại. Nếu không, sẽ thật sự đáng
thương lắm! Chúng ta hằng ngày nghe những lời
như thế, lại ngược ngạo nghĩ rằng
rất xa xôi. Thật ra, chẳng phải vậy, nó giống
như hư không dung nạp, gánh vác, dưỡng dục quư
vị. Đừng nên bỏ mất pháp ích này!
(Kinh)
Vân hà đương đắc bất không sanh thế gian,
hằng nhập nhất thiết chúng sanh hoạch lợi cố?
(經)云何當得不空生世間。恆入一切衆生獲利故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đạt được chẳng
luống uổng sanh trong thế gian, luôn vào trong hết thảy
chúng sanh mà đạt
được lợi ích?)
Nếu
chúng ta nương theo Tứ Chánh Cần, nương theo
tâm trí “niệm A Di Đà Phật để lợi lạc
trọn khắp hết thảy” mà quan sát thế
gian này, sẽ sanh trong thế gian mà chẳng rơi vào hư
giả, chẳng rơi vào luân hồi, có lợi cho thế
gian, mà thế gian cũng có lợi cho đời này. Chúng ta
làm như thế nào để biến sanh mạng của chính
ḿnh trở thành có ư nghĩa đối với xă hội,
đối với Phật pháp, đối với hữu
t́nh? Tu tŕ vô ngă, chọn lựa vô ngă, phát tâm vô ngă, hết sức
trọng yếu! Niệm Nam-mô A Di Đà Phật, hành Ban
Châu, lập tức hành tŕ, th́ có ǵ để được
hay mất? Có ǵ để có thể thấy? Có ǵ
để đắm nhiễm? Có ǵ là cao hay thấp? Do vậy,
Không ở đây chính là Bất Không. Cái Không ấy chính là diệu dụng. Không là “chẳng có tự
tánh”. Có thể sanh trong thế gian mà khéo lợi ích thế
gian. Vào trong chúng sanh, hành các loại tự lợi và lợi
tha. V́ trong lúc lợi tha, ắt có thể tự
lợi; trong lúc tự lợi, ắt có thể lợi
tha. Chẳng hạn như không sát sanh, không ăn thịt
chúng sanh. Do v́ chẳng sát sanh, xét theo nhân quả, quư vị
có thể đạt được trường thọ.
Do không sát sanh, quư vị yêu mến các sanh mạng khác, các
sanh mạng khác sẽ được yên vui. Như thế
th́ đối với chính ḿnh lẫn kẻ
khác đều có lợi ích, đều có thể đạt được
lợi ích. Chẳng sát sanh, về bản chất là chẳng có
ǵ để có thể đạt được. Dẫu
trường thọ, cũng chẳng thể đạt
được. Tuy sanh ra các loại an ủi, cũng chẳng
thể được. Thế nhưng, an ủi chúng sanh
th́ chính ḿnh sẽ được an ủi, trường thọ
th́ tự được trường thọ, có sức th́
chính ḿnh tự được khỏe mạnh. Ở
đây, đừng rơi vào sự trống rỗng, phù phiếm để rồi tự
gạt ḿnh, do nhân quả tiếp nối, do nghiệp duyên
tiếp nối. Các vị thiện tri thức ơi! Nói theo
phía người học Phật chúng ta, dung thông Nhị
Đế (Chân Đế và Tục Đế) rất quan trọng,
nhất định phải khéo suy nghĩ, suy nghĩ không
ngừng, suy nghĩ chân thật. Một khi dung thông chỗ
này, người ấy sẽ tâm khai ư giải,
khéo quan sát pháp tắc thế gian và pháp tắc xuất thế
gian. Đối với xuất thế và nhập thế,
đều chẳng nẩy sanh mâu thuẫn; đối với
thế gian và xuất thế gian, đều
đạt được phương tiện.
(Kinh)
Vân hà đương đắc vi Nhất Thiết Trí giả,
ư nhất thiết thế gian ưng thọ cúng dường
đại danh văn cố?
(經)云何當得爲一切智者。於一切世間應受供養大名聞故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được là bậc Nhất Thiết Trí,
trong hết thảy thế gian đáng nhận cúng dường
và tiếng tăm to lớn?)
Đức
Thế Tôn nói hết thảy hành nhân Ban Châu sẽ được
hết thảy chư Phật thủ hộ, hết thảy
Bồ Tát cung kính, hết thảy
trời người đáng nên cúng dường. Chúng ta
đọc thấy trong phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh
Nguyện của kinh Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm có nói: “Nhược nhân tụng thử thập
đại nguyện vương, ưng thọ nhất thiết
nhân thiên chi cúng dường” (nếu ai đọc tụng
mười đại nguyện vương này, đáng nên
được hết thảy trời người cúng
dường). Trong kinh Vô Lượng Thọ có nói: “Nhược
nhân văn đắc Vô Lượng Thọ chi danh, chấp
tŕ giả, ưng thọ nhất thiết nhân thiên cúng
dường, thường sanh tôn quư gia, cụ đại
danh văn” (Nếu ai được nghe danh hiệu Vô
Lượng Thọ mà chấp tŕ, đáng nên được
hết thảy trời người cúng dường,
thường sanh trong nhà tôn quư, có tiếng tăm to lớn).
“Danh văn” ở đây và danh vọng trong thế tục
khác biệt như thế nào? Danh vọng trong thế tục
là do tích lũy mà đạt được, c̣n danh văn ở
đây là do Phật gia bị, hồi thí mà đạt
được. Trong hai thứ đạt được ấy,
thứ sau là đạt được hết thảy thiện
xảo mà chẳng có ǵ để đắc, c̣n thứ
trước là do tích lũy mà đạt được. Do
chấp trước mà đạt được tiếng
tăm, lợi dưỡng, sẽ khiến cho kẻ đó
bị đọa lạc, trầm luân! V́ thế, “đại
danh văn” và lợi dưỡng ở đây thật sự
được chư Phật chấp thuận, do chư Phật
ban tặng.
Chúng
ta hành Ban Châu, đáng nên được hết thảy trời, người cúng dường, là bạn bè của
chư Phật, Bồ Tát; trong phần sau
sẽ nói. Đối với điều này, quư vị chớ
nên ủy khuất. Ở đây, chư Phật Như Lai
cũng phụng sự, cúng dường người hành
pháp, trọn chẳng ủy khuất. V́ sao? V́ chư Phật
nghĩ đến nhau, v́ niệm Phật ắt thành Phật. Các vị thiện
tri thức ơi! Duyên ǵ sẽ thành quả đó, quư vị
đừng nên sợ hăi! Trước kia, tôi đă nghe kể
một câu chuyện cười, đúng là đối với chuyện “duyên ǵ thành quả đó” có thể giúp
chúng ta quan sát đôi chút:
Có
một người thợ rèn, kỹ thuật mười
phần nổi tiếng xa gần. Mọi người hễ
có chuyện ǵ cần đến sự tinh tế, đều
t́m tới ông ta. Ông ta có một đứa đồ đệ,
mười phần hiếu thuận. Mục đích duy nhất
của sự hiếu thuận là mong học được
tài khéo tuyệt học của thầy. Vị sư phụ
ấy nói: “Tuyệt học có một khẩu quyết,
nhưng chẳng thể dễ dàng dạy cho con!” V́ thế,
đứa học tṛ vẫn đi theo thầy, chờ măi
đến khi thầy đă già, không được rồi!
Cuối cùng, đồ đệ xin thầy: “Ôi trời
ơi! Thầy ơi! Thầy chớ nên đem tuyệt học
xuống mồ, thầy phải nói cho con biết!” Thầy
bảo: “Đúng lúc rồi! Thầy phải nên nói cho con biết”.
Sư phụ liền nói: “Trong nghề thợ rèn của
chúng ta, có một câu khẩu quyết là sắt nung đỏ
chẳng thể dùng tay cầm!” Đấy thật sự là
khẩu quyết! Chúng ta “học Phật, duyên Phật”,
“duyên Phật thành Phật” cũng là khẩu quyết.
V́ sắt nung đỏ, nếu lấy tay cầm, tay sẽ bị thiêu cháy, chẳng thể rèn sắt
được nữa! Đấy là khẩu quyết thật
sự, đừng cho là lời của kẻ ngu si nói ra. Quả
thật là kinh nghiệm giáo huấn từ suốt một đời rèn sắt của thợ rèn, là cảm nhận
chân thật, rất trí huệ từ sự thể nghiệm
mà ra! Vậy th́ “duyên Phật thành Phật” có phải
là rất trí huệ hay không? Các vị Bồ Tát ơi! “Duyên
Phật” có phải là danh lợi to lớn hay không? Có phải
là cúng dường to lớn hay không? Người niệm Phật
có phải là đáng nên được hết thảy trời
người cúng dường hay không? Đối với chuyện
này, quư vị chớ nên sanh tâm kiêu mạn, v́ công đức
niệm Phật là do chư Phật Như Lai hồi thí cho
quư vị. Quư vị tiếp nhận cúng dường dù hữu ư
hay vô ư, trời người đều hộ tŕ quư vị,
long thiên đều hộ tŕ quư vị, hữu t́nh đều
hộ tŕ quư vị
Ở
đây nói “vi Nhất Thiết Trí giả” (là bậc Nhất
Thiết Trí). V́ sao? Vứt bỏ hư luận, chỉ phan
duyên theo Phật. Trong phẩm Thập Hồi Hướng của
kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, có một
đoạn văn tự chuyên nói về chuyện phan duyên
Phật: “Các vị Bồ Tát và các hữu t́nh vứt bỏ
các hư luận, phan duyên Phật mà thành Phật”. Nghe danh hiệu
của chư Phật, xa ĺa hư luận, chân thật thủ
hộ; đấy là phương tiện trong hết thảy
Phật pháp. Kẻ muốn thành Phật th́ hăy niệm Phật
thành Phật, đó là trực tiếp nhất, chẳng nhờ
vào bất cứ phương tiện ǵ, xa ĺa hết thảy
ủy khuất! Ở đây chính là thiện
xảo tự thọ dụng.
Khi
chúng ta hành Ban Châu, niệm Nam-mô A Di Đà Phật nhất
quán từ đầu đến cuối, dù đă chứng, hay chưa chứng tam-muội, hoặc sơ phát tâm,
hoặc chưa phát tâm, hoặc liễu giải, hay chưa
liễu giải, hành giả như thế, đáng nên cúng
dường, đáng nên được hết thảy trời,
người cúng dường. Quư vị hăy an ḷng ăn
cơm của quư vị là được rồi! V́ sao?
Người niệm Phật thật sự có thể lợi
ích rộng khắp hữu t́nh trong chín pháp giới thuộc
mười phương. Do nương vào danh hiệu Phật
mà lợi lạc khắp mười phương, không sợ,
không hăi. Ở chỗ này, quư vị sợ hăi sẽ vô dụng,
giống như một người chẳng thể phát ra
điện, nhưng tay bật đèn pin th́ sẽ có thể
chiếu sáng, có thể phát ra quang minh y hệt! Quư vị chẳng
thể nói chính ḿnh không có năng lực, chiếc đèn pin
này chẳng thể tự tỏa sáng! Tuy
nó chẳng liên can ǵ với quư vị, nhưng quư vị có thể
bật đèn. Chúng ta tŕ danh hiệu quang minh oai đức
của chư Phật, là danh hiệu lợi ích trọn khắp
thế gian, là ma-ni bảo hiệu, nhuần thấm hết
thảy chúng sanh, là danh hiệu tuôn xuống hết thảy
các báu công đức, có thể phát xuất vô tận quang
minh phước đức thù thắng chẳng thể
nghĩ bàn! Do vậy, người xưng niệm có thể
ứng cúng, tiêu hóa được [các phẩm vật
cúng dường], đạt được danh và lợi to lớn, thiện
xảo to lớn, liền “ư nhất thiết thế
gian ưng thọ cúng dường, đại danh
văn cố” (trong hết thảy thế gian,
đáng nên nhận cúng dường và danh tiếng to lớn).
Niệm
Nam-mô A Di Đà Phật, quyết định danh rền
mười phương, v́ lẽ nào? Do pháp hiệu, danh hiệu
ấy lưu truyền rộng khắp mười
phương, chẳng bị ngăn chướng hay che lấp, thanh tịnh viên măn. Chúng ta nói một câu tạp
ngữ, một lời chẳng tương ứng, hoặc
lời tham, sân, si, mạn, nghi, nếu lời ấy truyền
khắp mười phương, sẽ rất khó tiêu trừ
được. Nhưng chúng ta niệm một câu Nam-mô A Di
Đà Phật là danh hiệu vô úy, lưu truyền rộng
khắp thế gian không sợ hăi, truyền bá trong bất cứ
sát-độ nào cũng chắc chắn là viên măn, thanh tịnh,
lợi ích, tịnh hóa! Chúng ta nói bất cứ câu nào, phát ra
cái tâm nào, dù tương ứng, hoặc chẳng
tương ứng, dù truyền bá nương theo pháp, hay chẳng
nương theo pháp, dù có thể chọn lựa, hay chẳng
thể chọn lựa, không ǵ chẳng phải là viên măn, rơ
ràng, chẳng sợ hăi. Do vậy, người niệm Phật
rất khó có. Người niệm Phật rất chẳng
thể nghĩ bàn, người hành Ban Châu rất chẳng
thể nghĩ bàn!
(Kinh)
Vân hà đương đắc vô biên tán thán công đức,
vi nhất thiết chúng sanh phước điền cố?
(經)云何當得無邊讚歎功德。爲一切衆生福田故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được tán thán công đức
vô biên, là ruộng phước của hết thảy chúng
sanh?)
Ở
đây, trực tiếp chọn lựa cho chúng ta ngay lập
tức tu hành hạnh Ban Châu, Giáo ngôn của Phật Di Đà xưa lẫn
nay đều là an lập thanh tịnh. “Vô
biên tán thán công đức” (tán thán công đức vô biên),
chúng ta biết: Trong tu nhân thuộc về Ngũ Niệm Môn
của Tịnh Độ [được nêu ra trong Văng Sanh Luận], môn tu tŕ thứ
hai là Tán Thán Môn, [tức là] tán dương quang minh và danh hiệu
A Di Đà Phật, tán thán đúng như thật. V́ cớ sao?
Khi chúng ta xưng niệm Nam-mô A Di Đà Phật, tức là
quang minh chiếu rạng thế gian, chiếu rạng pháp
giới, chiếu rạng hết thảy phàm thánh hữu
t́nh, tức hữu t́nh trong chín pháp giới, chân thật chẳng
dối. Do đại quang minh chiếu trọn khắp, cho
nên đấy thật sự là tán thán công đức của
Phật. Một mực xưng niệm, đạt
được thiện xảo do công đức tán thán Phật. V́ danh hiệu ấy có lợi ích, có thể nhiếp trọn
khắp chín pháp giới trong mười phương đều
tiến nhập Vô Thượng Bồ Đề. Đấy
là chỗ công đức chân thật, mà cũng có nghĩa là
quang minh và danh hiệu của A Di Đà Phật trọn
đủ vô lượng quang minh, vô lượng thiện xảo,
vô lượng công đức và trí huệ. Phàm phu chẳng
thể tán thán như thế, phải cậy vào Phật lực
và Phật nguyện để thuận theo mà tán thán. Chư
Phật Như Lai, Phật và Phật cùng tán thán, phàm phu thuận
theo công đức của Phật, nương theo danh
tướng để tán thán.
Khi
chúng ta xưng tán bảo hiệu công đức thù thắng
của A Di Đà Phật, sẽ có thể làm phước
điền xuất thế và nhập thế thật sự
cho hết thảy chúng sanh. Thường có kẻ nói: “Ôi
chao! Phước điền nhập thế tôi không tin! Xuất
thế phước điền chắc cũng có cơ hội
gặp gỡ”. Chẳng hạn như tôi gặp một vị
lăo nhân gia, v́ người khác nói “niệm Phật có thể
phát tài”, khẳng định đấy là phước
điền nhập thế, ông ta rất tin tưởng. Do
vậy, bèn mua một quyển vở, rất nghiêm túc, cứ niệm một câu bèn ghi một vạch. Niệm
đến mười vạn tiếng, vạch được
mười vạn dấu. Sau khi đă đánh dấu xong,
chờ phát tài sẽ xảy ra. Kết quả, chẳng thấy phát tài đưa tới, t́m tôi, hung
hăng nói: “Phật pháp gạt người! Ông X… nói niệm
Phật có đại phước báo. Tôi niệm mười
vạn tiếng, một xu cũng chẳng thấy!” Người
ấy có đại phước báo, v́ sao? Nói thành thật,
quả báo trong đời vị lai sẽ chẳng
thể nghĩ bàn! Do nhân duyên vô minh, ông ta niệm mười
vạn câu danh hiệu A Di Đà Phật, có công đức
thù thắng. Tuy là cầu phước; trong vị lai,
phước báo chắc chắn chín muồi. Cho nên nói
phước đức và nhân duyên của người ấy
trong vị lai sẽ là chẳng thể nghĩ bàn, nhưng
hiện thời, Dị Thục Quả chưa thể chín
muồi. Tôi rất tán thán ông ta, nói: “Ông tuyệt lắm. Ông
đă tích cóp mười vạn đồng khéo lắm, kẻ
khác chẳng lấy được! Bỏ trong ngân hàng, có khi c̣n có thể xảy ra chuyện! Bỏ trong ấy
(trong tạng thức), sẽ chẳng lấy ra được. Món của cải ấy đời đời kiếp
kiếp đều theo sát ông”.
Các
vị thiện tri thức ơi! Quư vị nhất định
phải thực hiện. Lời ấy chính là lời nói
thành thật về nhân quả, nhân quả chẳng lừa
dối. Nhân quả sanh khởi từ trong cái tâm của
chính ḿnh. Kẻ nào chỉ hướng tới phát tài, tuy hiện
tại chẳng có nhân quả như vậy, nhưng Phật
là đấng Nhất Thiết Trí, là đấng có đại bi thiện
xảo, là đấng thỏa măn nhu cầu của hết
thảy chúng sanh, đều là Dị Thục Quả sẽ
chín muồi đó thôi! Đời này chưa đạt được. Nếu
đời này mà đạt được, kẻ
đó sẽ trở thành cường đạo. A Di Đà
Phật trở thành lưỡi đao của kẻ cường
đạo! Đó là chẳng tương ứng với Phật
pháp, lầm lạc nhân quả. Do đó, trong nhập thế,
nhập thế thiện xảo có nhân quả tuần hoàn,
có quá tŕnh chín muồi, chẳng phải là nhân quả đồng
thời. Thiện xảo xuất thế gian là nhân quả
đồng thời, chẳng hạn như nói: “Chúng ta niệm
một câu A Di Đà Phật có thể tiêu trừ phiền
năo”. Quư vị lập tức nhận biết, có thể tiêu
trừ phiền năo, chân thật chẳng dối! Nói “lập
tức trọn đủ”, quư vị có thể lập tức
trọn đủ, chân thật chẳng dối! Nói “ta niệm
một câu A Di Đà Phật, trong tương lai, nhất
định thành Bồ Đề”, liền niệm một
câu; quư vị hăy an tâm, có bảo
đảm, đừng nên sợ hăi. Sợ hăi chỉ là v́ quư vị có lo ngại. Nhân quả ấy nhất
định chín muồi, như chủng tử kim cang Bồ
Đề, vĩnh viễn chẳng bị tan hoại!
“Vi
nhất thiết chúng sanh phước điền cố”
(làm ruộng phước cho hết thảy chúng sanh): “Hết
thảy chúng sanh” bao gồm thánh đạo chúng sanh, thiện
đạo chúng sanh, và ác đạo chúng sanh. Một câu Phật
hiệu đối với họ đều là phước
điền. Trong hành tŕ Ban Châu, chúng ta trọn đủ thiện
xảo như vậy. Tôi c̣n chưa từng nghe nói có ai hành
Ban Châu mà bị tổn hại, kẻ hối hận [bỏ
cuộc] th́ có, nhưng kẻ chịu thua thiệt [do hành
tŕ Ban Châu] th́ chẳng có; v́ đó là
phước điền của xuất thế và nhập
thế. V́ sao có kẻ sau đó hối hận? Có kẻ
đâm ra hối hận v́ đi riết đau chân, đau
lưng, [bèn nghĩ ngợi] “hăy nên nghỉ
sớm hơn một chút cho rồi!” Người
như thế trong vạn người chẳng có một.
Phần lớn mọi người đều sanh khởi
ư tưởng phước điền, sanh ư lạc tưởng,
có ư tưởng mong tiếp tục hành tŕ. Tôi đă gặp
rất nhiều người chưa học Phật sau khi
hành Ban Châu, quả thật đă rất nhanh chóng học Phật,
thật sự thâm nhập Phật pháp! Đă tu hành hay không,
rốt ráo đều thành tựu, nhưng điều then
chốt là phải dấn ḿnh tu tập. Có kẻ vận dụng tri kiến chẳng
tốt đẹp, như lăo nhân gia [niệm Phật cầu
phát tài] tôi vừa mới nêu. Ông ta chẳng đạt
được lợi ích trong hiện tại, sanh khởi
các phiền năo. Nếu ông ta biết đạo lư này, thiện
xảo và lợi ích tất nhiên sẽ hiện tiền.
(Kinh)
Vân hà đương đắc đại hoan hỷ, dũng dược vô lượng,
thường tại chư Như Lai sư tử ṭa hạ
cố?
(經)云何當得大歡喜踊躍無量。常在諸如來獅子座下故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được vô lượng
hoan hỷ, hớn hở to lớn, do thường ở
dưới ṭa sư tử của Như Lai?)
“Hoan
hỷ dũng dược” (vui mừng, hớn hở): Mừng
rỡ tràn ngập trong tâm. Chắc là các Bồ Tát có thể
hành pháp Ban Châu đều nhận biết loại cảm thọ
này. Tuy cảm thọ là vô thường, thay đổi,
nhưng dẫu sao nó mang đến cho người ta sự
hoan hỷ, mang lại niềm vui sướng chẳng thể
nghĩ bàn, mang lại niềm vui sướng chẳng thể
thay thế được, mang đến niềm vui sướng
tăng thượng. “Dũng dược vô lượng”
(hớn hở vô lượng): Hành Ban Châu đích xác là có thể
khiến cho chúng ta buông xuống gánh nặng từ vô thỉ
tới nay, đích xác là có lợi ích như thế đó.
“Thường
tại chư Như Lai sư tử ṭa hạ” (thường
ở dưới ṭa sư tử của các đức
Như Lai): Nếu là chứng đắc Thập
Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập
tam-muội, đó sẽ là nói như thật.
Nếu chưa chứng đắc, đấy cũng là nói
như thật. Thực tế là hết thảy chư Phật
chưa hề ĺa bỏ bọn chúng ta, thường chiếu
rạng chúng ta, nhiếp thọ chúng ta trọn khắp. V́
sao chúng ta chẳng thể thấy nghe? Chính là v́ tham, sân, si,
mạn, nghi che lấp tự tâm, che lấp nhục nhăn của
chính ḿnh, che lấp thiên nhăn của chính ḿnh, che lấp pháp
nhăn của chính ḿnh, che lấp Phật nhăn của chính ḿnh,
cho nên chỉ thấy tham, sân, si, mạn, nghi trước mắt,
bị chiếc lá che mắt.
Nói
theo pháp ích, “chư tướng phi tướng, tức kiến
Như Lai” (các tướng chẳng phải là tướng,
liền thấy Như Lai), trông thấy Pháp Thân Như Lai chẳng
thể nghĩ bàn! Quư vị nói xem, ta muốn thấy Báo Thân
của Như Lai, Ứng Hóa Thân của Như Lai, thấy
tướng quang minh, thấy sắc thân trọn đủ
của Như Lai, có được hay không? Pháp Ban Châu giải
quyết vấn đề ấy. Công đức rất sâu
của kinh Ban Châu Tam Muội là ở ngay chỗ này, khác biệt
với các kinh điển khác cũng ở ngay chỗ này. Rất
ít kinh điển đề ra pháp tắc như thế, khiến
cho hữu t́nh thấy trong hiện tiền, thấy trong
Định, thấy trong mộng, thấy rốt ráo trong vị
lai, đủ loại trông thấy, nhất định thấy
Phật. Công đức ấy rộng lớn trọn khắp,
chân thật chẳng dối.
Trong
Thiện Đạo Đại Sư Toàn Tập, có một
câu chuyện như thế này: Thuở đức Phật tại
thế, có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni nghiệp duyên sâu nặng,
có ưu-bà-tắc, ưu-bà-di nghiệp duyên sâu nặng, có những
kẻ phá giới, phạm giới nghiệp duyên sâu nặng,
khi họ thấy đức Thế Tôn, có người thấy
Ngài là một vị tỳ-kheo cao năm thước, mặt
vàng, có người thấy h́nh dạng Ngài như than
đen, nhưng A La Hán thấy đức Thế Tôn là kim thân cao trượng sáu, chư đại
Bồ Tát thấy Phật là thân vi tế diệu sắc cao
ngàn trượng, Pháp Thân đại sĩ có thể thấy
thân Phật thù thắng trang nghiêm vô biên quang. Chúng ta thấy
thân ǵ?
(Kinh)
Vân hà đương đắc thắng thượng biện
tài, năng vấn nhất thiết Phật pháp cố?
(經)云何當得勝上辯才。能問一切佛法故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đạt được biện
tài thù thắng bậc thượng, có thể hỏi hết
thảy Phật pháp?)
“Thắng
thượng biện tài”: Nếu hành pháp có thể thâm nhập,
th́ sẽ có ư nghĩa. Nếu hành pháp chẳng thể thâm nhập,
chỉ là nói suông, cũng dẫn đến phiền toái.
Chúng ta vốn là người đất Hán, có thể nói là “hiểu đạo”. Cho nên biện
tài rất khéo, có thể phá trừ nghi hoặc cho người
khác, th́ là thiện xảo. Nếu tăng thêm tri kiến [chấp
trước] cho người khác, sẽ là lầm
lỗi. Nếu có thể tăng thêm chánh tri kiến cho
người khác, th́ là thiện xảo. Nếu tăng thêm vốn
liếng cho người ta tranh căi th́ sẽ là lầm lỗi.
Nếu chúng ta khéo biện định, nhận biết, sẽ
“năng vấn nhất thiết Phật pháp” (có thể
hỏi hết thảy Phật pháp). Trong hành tŕ Ban Châu,
người tâm căn nhạy bén, thân căn nhạy bén, nhận
biết nhạy bén, cho nên có thể hỏi rất nhiều
câu nhạy bén. Đương nhiên hành Ban Châu th́ vẫn thật
sự mong mỏi mọi người hành nhiều, nói ít!
(Kinh)
Vân hà đương đắc ư bất khiếp nọa biện
tài, ư nhất thiết đại chúng trung vô bố úy cố?
(經)云何當得意不怯懦辯才。於一切大衆中無怖畏故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ đạt được biện
tài, ư chẳng hèn nhát, ở trong hết thảy đại
chúng chẳng sợ hăi?)
Chẳng
hạn như giảng pháp ở đây, sợ hăi là không
được, hèn nhát cũng chẳng được, v́
có người sẽ chất vấn [những điều
pháp sư hay giảng sư vừa nói]. Nếu
đối với pháp mà có chướng ngại, chẳng
thể tiếp tục duy tŕ, điều họ chất vấn
sẽ trở thành sự thật, quư vị sẽ sợ
hăi. Như thế nào th́ chúng ta mới có thể ở trong
đại chúng biện tài chẳng sợ hăi, khiến cho
chúng sanh trừ nghi hoặc, chẳng sợ hăi,
trao đổi Phật pháp chẳng sợ hăi? Hành Ban Châu là
phương pháp tốt nhất, trực tiếp nhất.
(Kinh)
Vân hà đương đắc nhất thiết luận
nghị biện, như sư tử vương, hàng phục
nhất thiết ngoại đạo, nhiếp thọ
chư dị luận sư cố?
(經)云何當得一切論議辯。如獅子王。降伏一切外道。攝受諸異論師故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được hết thảy
luận nghị biện tài như sư tử chúa, hàng phục hết
thảy ngoại đạo, nhiếp thọ các dị luận
sư?)
Đấy
là đề cao hành pháp Ban Châu đến tột cùng trong
pháp môn Tịnh Độ. Sau khi đă kinh hành Ban Châu một
khoảng thời gian, khi tâm trí thanh
lương, cùng người khác biện luận, sẽ chẳng
có chướng ngại. Trừ phi nêu ra tri kiến của
chính ḿnh, chứ nếu bàn về tri kiến của chư
Phật, sẽ chẳng chướng ngại tí nào! “Đắc
nhất thiết luận nghị biện, như sư tử
vương, hàng phục nhất thiết ngoại đạo,
nhiếp thọ chư dị luận sư cố”
(đạt được hết thảy luận nghị
biện tài như sư tử chúa hàng phục hết thảy
ngoại đạo, nhiếp thọ các dị luận
sư): “Dị luận sư” có thể rất nhiều,
đối với sự nhận thức về nội giáo
và ngoại giáo, chúng ta đều có thể biết. “Biện”
ở đây chẳng phải
là phỉ báng pháp ấy, mà là nhiếp thọ loài hữu t́nh
ấy, khiến cho họ tin phục pháp tắc.
Trước
kia, Thiện Đạo đại sư thường đến
tự viện của Tam Giai Giáo[14]
để biện luận, v́ giáo lư của Tam Giai Giáo phản
đối niệm Phật. Tam Giai Giáo rất hưng thịnh
vào đời Tùy - Đường, nó yêu cầu chịu khổ,
có những yêu cầu riêng biệt như mặc xiêm không dài
quá đầu gối, không ăn hơn một bữa v.v… Về
sau, bị quốc gia ngăn cấm, nhưng giáo nghĩa của
họ rất kiên cố, ảnh hưởng kéo dài cho đến
hiện thời. Chẳng thể nói Tam Giai Giáo là tốt hay
xấu, chỉ có thể nói là một thứ giáo nghĩa.
Giáo nghĩa ấy được truyền bá sớm nhất
tại chùa Bạch Tháp ở Tây An (Trường An), cực
thịnh một thời, cũng có oai đức rất lớn,
nhưng họ phản đối niệm Phật, Thiện
Đạo đại sư phải đến biện luận.
Khi Thiện Đạo đại sư biện luận
cùng kẻ khác, miệng phóng quang minh, chúng ta nhả ra thứ
ǵ? Chẳng phun ra lời thô ác là được rồi! Chẳng phun lời trái pháp, chẳng tổn
thương người khác là đă rất tốt rồi!
V́ sao Thiện Đạo đại sư có vô ngại biện
tài như vậy? Do Ngài niệm Phật! Sách sử đă ghi chép rất
nhiều về Thiện Đạo đại sư. Ngài
không chỉ hành Ban Châu, mà c̣n trong lúc b́nh thường, hễ
đến chánh điện, bèn quỳ trước Phật,
chắp tay, niệm đến tâm kiệt lực suy mới
chịu nghỉ ngơi. Bọn hậu nhân chúng ta làm sao sánh
bằng Ngài cho được? Ngài là bậc đă chứng
tam-muội, mà c̣n hành xử như thế, c̣n chúng ta ĺa tam-muội
quá xa. Nếu chẳng có cái tâm hướng vọng, tôn trọng,
lại c̣n có cái tâm chẳng tinh tấn, cái tâm khen ngợi
điều tốt lành, lại c̣n nói thị phi, lăng phí thời
gian, sẽ ĺa Phật pháp quá xa!
Hiện
thời, các dị luận sư đang phá diệt Tịnh
Độ. Người thủ hộ giáo ngôn Tịnh Độ
lại phá diệt các pháp tắc khác. Phá diệt lẫn nhau
càng nhiều hơn, lợi ích lẫn nhau thật sự ít ỏi!
Trên thực tế, chúng ta hăy nên làm cho đối
phương tin phục chân thật, ban cho lợi ích chân thật
rốt ráo, đừng khiến cho kẻ khác nghi hoặc,
điên đảo, đó là chẳng tương ứng. Thật
sự khiến cho người khác đạt được
sự chọn lựa chân thật trong Phật pháp, thành tựu
Vô Thượng Bồ Đề ngay trong một đời,
không nghi ngờ, chẳng lo lắng. Đó là thật sự
có ư nghĩa!
(Kinh)
Vân hà đương đắc bất hoại bổn thệ
trang nghiêm, dục thôi nhất thiết tà dị bằng
đảng cố?
(經)云何當得不壞本誓莊嚴。欲催一切邪異朋黨故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được bổn thệ
trang nghiêm bất hoại, muốn dẹp tan bè lũ tà dị?)
“Bất
hoại bổn thệ trang nghiêm”: Lành thay! Điều
này quá trọng yếu! Các cư sĩ và pháp sư xuất
gia đàm luận về pháp tắc, nhiều người
có ư muốn thay đổi, tôi rất
đau ḷng. Đau ǵ vậy? V́ chẳng có thệ nguyện,
chẳng có tín ngưỡng, chẳng có trang nghiêm, thường
xuyên là trạng thái “sanh non”, cũng có nghĩa là chuyện
vừa sắp h́nh thành, nó đă bị phá hoại! Ngày hôm
qua, từ rất sớm, một vị cư sĩ gọi
điện thoại tới, nói ông ta chẳng tu Tịnh
Độ nữa, muốn tu Mật Tông. Tôi nói: “Được
chứ! Chỉ là ông không có tín ngưỡng. Tu Mật
cũng chẳng có ǵ là không đúng! Nhưng trong quá khứ, ông đă siêng khổ tu tập pháp tắc này, v́ sao lại
phản bội thệ nguyện của chính ḿnh?” Ông ta nói:
“Con chẳng phản bội thệ nguyện, chỉ là do Tịnh
Độ chẳng có lợi ích!” Tôi nói: “Ông chớ nên phủ
định pháp tắc! Chỉ v́ ông chẳng
tu tập thâm nhập, cho nên Tịnh Độ như ông
đă nhận định chẳng phải là Tịnh Độ!”
Thệ
nguyện mười phần trọng yếu! Nó có thể
khiến cho tín ngưỡng kiên cố, hành pháp kiên cố, đạo đức
và thiện xảo được nhanh chóng chín muồi. Hiện
thời, người học pháp lung lay quá mức! Cứ dựa theo t́nh tự, cảm giác, [so đo] được
mất, dựa theo sự đánh giá của người
khác đối với chính ḿnh, nương theo “gió thổi, cỏ động” để tu tập pháp, kết quả là chẳng thể
thâm nhập một môn, chẳng thể thật sự “dẫu trăm điều thử
thách, vẫn hành
tŕ chẳng bị nhiễu loạn”, chẳng
thể thủ hộ một pháp tắc từ đầu đến
cuối, trước sau vẹn toàn hoàn thành thủ hộ và
truyền bá một giáo nghĩa. Do vậy, chẳng thể
trang nghiêm công đức, mà cũng chẳng đạt
được lợi ích chân thật.
Vừa
nghe nói người khác tán thán, hay hủy báng ta, nói tốt,
nói xấu, nói hành pháp này đúng hay sai, bèn dao động.
Phần lớn các vị Bồ Tát ấy chẳng thủ hộ
thệ nguyện, tâm trí chẳng có tín ngưỡng, phần
nhiều dựa theo t́nh tự của chính ḿnh, cảm nhận
hư vọng tự nẩy sanh, tự hư vọng phan
duyên, nỗi khổ ấy cũng chẳng có bờ bến!
V́ luôn có đôi chút tương tự thành tựu bèn phá hoại,
không ngừng nắm níu những thứ cao, lớn, mạnh
mẽ, chẳng biết chọn lựa tâm trí thanh tịnh,
chân thật, b́nh đẳng. Hiện thời, rất nhiều
vị ác tri thức thuộc Tạng truyền Phật giáo có ác ư truyền bá những thứ kỳ quái tại đất
Hán để mê hoặc hữu t́nh. Tôi đă nói chuyện với
rất nhiều vị lạt-ma, cái được gọi
là “ác ư” chính là dùng các thứ quái dị để mê hoặc, rối loạn
thế gian, ḥng chuốc danh lợi, chẳng phải là cái
tâm lợi ích thế gian, rất có tội ác. Bọn họ
đă phá hoại toàn thể cơ chế của Tạng
truyền Phật giáo để đổi lấy một
chút lợi ích hư giả trong hiện tiền cho chính
ḿnh. Chuyện này khiến cho người khác đau ḷng. Những
kẻ đó, miệng toàn rêu rao “pháp của ta vĩ đại
cỡ nào, lạt-ma của ta vĩ đại cỡ nào”.
Thật ra là cần người khác cúng dường, cần
quyến thuộc, cần danh lợi, chẳng phải là tạo
lợi ích chân thật cho người khác, tịnh hóa ḷng
người, cho nên làm nhiều chuyện lừa dối, sỉ
nhục! Đó là một mặt đen tối của Tạng
truyền Phật giáo, là một phương diện chẳng
đúng pháp, chẳng phải là nội dung chân thật
của Tạng truyền Phật giáo, lại giống
như nước lũ nhấn ch́m thiện căn
của rất nhiều người, rất tồi tệ!
Do
vậy, chúng ta học tập Phật pháp, nếu đi theo
con đường chẳng chuẩn xác, nhận thức chẳng
rơ ràng, sẽ không ngừng quẩn quanh trên đường.
Tôi quen biết một vị Bồ Tát sống ở đất
Tây Tạng mười một năm, cuối cùng chẳng ở
đó nữa. Tôi hỏi lư do, ông ta nói: “Các vị lạt-ma ở
đất Tạng tôi đă đều từng bái kiến,
tôi mười phần
kính ngưỡng, nhưng chẳng có pháp nào để có thể
thật sự tu được!” V́ sao? Càng ngày càng cảm
thấy chính ḿnh có tâm so đo, tâm phân biệt, vọng tâm nặng
nề. Ông ta thật sự đă lừa ḿnh, hoàn toàn chẳng
phải là khuyết điểm của Tạng truyền Phật
giáo! Nếu là người thật sự hoằng pháp, họ
đều nói pháp ấy (pháp họ đang hoằng truyền)
là “to lớn” để cổ
vũ, khích lệ, ban cho quư vị một con đường
để rốt cuộc đạt đến thiện xảo;
nhưng nếu v́ cướp đoạt cách tu theo pháp hệ
của người khác mà nói như thế, sẽ là phá
pháp, chẳng tương ứng. Bọn họ cũng có giới
luật không cho phép làm như vậy, cũng có nghĩa
cơ chế của mỗi pháp hệ đều có sự
thủ hộ, yêu thương và trang trọng của chính
ḿnh.
“Bổn
thệ trang nghiêm” rất quan trọng. Cả một
đời này, chúng ta học Phật, niệm Phật, hành
Ban Châu, nếu chẳng có thệ nguyện, kể cả thệ
nguyện tùy thuận Phật, hoặc kiến lập thệ
nguyện của chính ḿnh, chắc chắn là quư vị khó thể
thành tựu. Chẳng hạn như nói “nguyện văng sanh”
cũng là một thệ nguyện. “Nguyện hết thảy
chúng sanh đều văng sanh” là nguyện giống như
nguyện của Phật. Nói chung, quư vị phải có thệ
nguyện. Nếu chẳng có thệ nguyện, quư vị
mong dẹp tan, chế phục bè đảng tà dị, sẽ
tuyệt đối chẳng thể được! Đối
phương tùy tiện lôi kéo, sẽ lôi quư vị theo. Tôi
cũng thường gặp những kẻ tới lôi kéo
đoàn đội của tôi: “Hăy đến chỗ chúng
tôi, thượng sư của tôi tuyệt vời lắm,
là vị Phật lớn
nhất sẽ quán đảnh cho quư vị”. Tôi nói: “Vị Phật lớn
nhất tôi chưa từng thấy. Tôi học tập vị
Phật b́nh đẳng nhất. Quư vị tu theo vị Phật
lớn nhất của quư vị là được rồi,
v́ sao c̣n bàn đến chuyện này?” Do ảnh hưởng
của Tạng truyền Phật giáo, tại đất Hán
cũng xuất hiện rất nhiều nhân duyên chẳng
tương ứng. Chúng ta không thể nói sự truyền
giáo ấy là nguy hiểm. Tạng truyền Phật giáo có rất nhiều điểm tốt lành, rất nhiều
cơ chế rất thuận tiện, Hán truyền Phật
giáo cũng như thế. Nam truyền Phật giáo cũng
như thế, nhưng đồng thời [trong mỗi truyền thống]
cũng có bùn nhơ, nước đục [xen tạp vào]!
Chúng
ta biện định, nhận biết như thế nào?
Quư vị nhất định phải lập một thệ
nguyện. Trong hành tŕ Ban Châu, thệ nguyện mười
phần trọng yếu, hành pháp như vậy th́ mới có
thể thành thục. Chẳng có thệ nguyện, sẽ chẳng
thể thực hiện được! Làm ǵ cũng đều
cần có thệ nguyện. Bài văn phát nguyện
chính là muốn cho cho chúng ta hiểu rơ thệ nguyện của
chính ḿnh, thủ hộ sự trang nghiêm của chính ḿnh. Sự
trang nghiêm ấy chẳng phải là so đo thành hay bại,
chẳng phải là so do được hay mất, chẳng
phải là so đo thánh hay phàm, chẳng phải là so đo
thời gian dài hay ngắn, mà là ǵ? Quư vị có thệ nguyện
hay không? Quư vị có nương theo thệ nguyện mà hành
hay không? Điều này mười phần trọng yếu!
Nếu chẳng chuyển được chỗ này, chúng ta
sẽ so đo cao, thấp, nói lớn, nhỏ, nắm níu ưu, khuyết, so
đo phàm, thánh, như thế là chẳng khéo hành tŕ pháp môn Tịnh
Độ, sẽ chẳng thể thành tựu, chỉ biết
có tướng quái dị! Do đó, nay chúng ta hành Ban Châu, chẳng
phải v́ kết bè kéo đảng, mà
v́ thành tựu Bồ Đề, v́ tiêu trừ ngờ lo!
Rất
nhiều người đă hành Ban Châu, lại đi học
Tạng truyền Phật giáo. Tôi cũng cổ vũ họ
học, nhưng có một điều: Bất luận Tạng
truyền Phật giáo cũng thế, hay học bất luận
truyền thống Phật giáo nào cũng thế, quư vị
phát nguyện ǵ? Quư vị đừng nên dùng cái tâm ngạo nghễ để học là
được rồi, đừng nên dùng cái tâm so đo lớn
nhỏ để học, càng chớ nên dùng cái tâm thích chuyện
quái lạ để học, [nếu dùng những cái tâm
như thế để học] sẽ nẩy sanh chuyện
lớn! Rất nhiều kẻ dùng chuyện quái lạ
để kéo bè kết đảng, đó là lỗi lầm
rất lớn. Hiện thời, rất nhiều vị Kham
Bố[15] tại
các nơi như Ngũ Minh Phật Học Viện[16]
v.v… quan sát các nhân duyên ấy, bèn thực hiện rất nhiều công tác chủ động
tích cực. Chẳng hạn như học tập [Bồ Đề Đạo Thứ Đệ] Quảng Luận,
mọi người tự chủ động học tập,
thảo luận, học tập chánh kiến, chẳng
nương theo chuyện thần quái. Cho nên tôi cảm thấy
dần dần sẽ có những thứ tốt đẹp
du nhập đất Hán, nhưng rất nhiều nơi vẫn
rất hỗn loạn, rất nhiều kẻ gây tổn hại
cái tâm. Không ít kẻ truyền pháp ở đất Tạng, hễ thấy người khác bèn nói: “Ngươi hăy
làm đồ đệ của ta”. Trong ấy, tồn tại một vấn đề: Nếu thật
sự là bậc thành tựu, người ấy đúng là một vị đại
từ bi lỗi lạc. Nhưng nếu v́ tiếng tăm,
lợi dưỡng, chỉ có thể nói quư vị có nhiều
bầu bạn luân hồi mà thôi! Giáo ngôn của Hán truyền
Phật giáo là “y pháp, bất y nhân”, c̣n Tạng truyền
Phật giáo là “y pháp, y nhân”. Họ dạy trước
hết là y nhân, sau đó y pháp, cho nên c̣n có các điểm mù
mờ, đối lập ở chỗ này!
(Kinh)
Vân hà đương đắc thiện xảo thuyết
pháp, thường xử sư tử ṭa, nhất thiết
chư Phật ấn khả cố?
(經)云何當得善巧說法。常處獅子座。一切諸佛印可故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được thiện xảo
thuyết pháp, thường ở trên ṭa sư tử,
được hết thảy chư Phật ấn khả?)
Như
thế nào để thuyết pháp thiện xảo, như
thế nào sẽ khiến cho hữu t́nh trong thế gian tâm
khai ư giải, thường ngự trên ṭa sư tử, dùng
Phật ngữ để truyền bá Phật ngữ, dùng
Phật tâm để truyền bá Phật tâm, dùng Phật
giáo để truyền bá Phật giáo, dùng công đức của
Phật để truyền bá công đức của Phật,
chẳng tăng giảm Phật pháp, thủ hộ như
thế nào? Đấy thật sự là nguyện vọng của
chúng ta. Hết thảy kẻ giảng pháp, nghe pháp chúng ta đều
phải nên thủ hộ, đều phải nên xem xét kỹ
càng nguyện vọng ấy!
(Kinh)
Vân hà đương đắc viễn ly nhất thiết
thế gian vô nghĩa ngữ ngôn, dĩ thông đạt nhất
thiết chánh giáo cố.
(經)云何當得遠離一切世間無義語言。以通達一切正教故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được xa ĺa hết thảy
ngôn ngữ vô nghĩa của thế gian, do thông đạt
hết thảy chánh giáo?)
Nói
theo phía phàm phu hữu t́nh tu hành Phật pháp, xa ĺa ngôn ngữ
vô nghĩa của thế gian mười phần quan trọng!
Nay chúng ta không nghe lời ác rất khó, chẳng nghe lời
điên đảo, lời hắc ám, lời nặng nề, lời phiền
năo càng khó hơn nữa! “Vô nghĩa ngữ” là ǵ vậy? Chẳng
hạn như là hư luận chẳng tương ứng, khi
pháp sư giảng kinh trao đổi Phật pháp sợ nhất
là như thế. Tuy nói lời
tương tự, nhưng là thuyết pháp vô ích, chẳng
thể lợi ích hữu t́nh.
Trong
niệm Phật, khi lập một niệm, đoạn các
tưởng, “nam-mô A Di Đà Phật”, tự nhiên sẽ phá
tan lời lẽ vô nghĩa. Trong khi kinh hành, chúng ta chẳng
có lời lẽ vô nghĩa ǵ, có lẽ là trong tâm điên
đảo, nhưng khi niệm A Di Đà Phật, tự
nhiên sẽ xa ĺa khẩu nghiệp. Do vậy, câu hỏi đặt
ra ở đây đă thật sự tương ứng. “Viễn
ly nhất thiết thế gian vô nghĩa ngữ ngôn, dĩ
thông đạt nhất thiết chánh giáo cố” (xa ĺa hết
thảy ngôn ngữ vô nghĩa của thế gian, do thông
đạt hết thảy chánh giáo): Chúng ta thường muốn
nói lời có nghĩa lư, lời như pháp, lời từ ái,
lời thiện xảo, lời tăng thượng, đối
với hết thảy chúng sanh nói lời chọn lựa, lời
tiêu trừ nghi hoặc cho chúng sanh, như thế th́ là “có
ư nghĩa”. Đừng nên nói lời chẳng chứa
đựng thiện ư, lời hướng dẫn con
người tiến nhập khổ nạn. Đó là tạo
ác. Hành pháp Ban Châu, trực tiếp tránh né vấn đề
này! Trong một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, chúng ta không
được phép nói năng, nhiều nhất cũng chỉ là trao đổi bằng
văn tự. Như vậy th́ trong vị lai, khẩu nghiệp
tự nhiên được thuần thiện, mà người
thật sự niệm Phật một thời gian, ác khẩu
tự nhiên sẽ ít đi.
(Kinh)
Vân hà đương đắc thâm ái nhất thiết
chư Phật pháp, ư chư Như Lai sanh xứ hành cố?
(經)云何當得深愛一切諸佛法。於諸如來生處行故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được yêu mến sâu xa hết
thảy các Phật pháp, sẽ đi nơi chỗ sanh của
các Như Lai?)
“Thâm
ái nhất thiết chư Phật pháp” (yêu mến sâu xa hết
thảy các Phật pháp): Trong kinh điển có ghi chép, một vị Bồ Tát nói thế gian này có đủ
loại thuốc, một vị Bồ Tát khác nói: “Ông hăy
đến thế gian t́m một thứ ǵ đó chẳng phải
là thuốc”. Vị Bồ Tát ấy bèn t́m tới, t́m lui, t́m
trọn khắp, kết quả chẳng t́m được
vật nào không phải là thuốc. Ở trong thế gian
này, nếu chúng ta dùng tâm trí giác ngộ, tâm trí thanh tịnh
để quan sát, [sẽ thấy] vạn sự, vạn vật, không ǵ chẳng phải
là Phật. Quư vị sẽ yêu thích sâu xa hết thảy Phật
pháp, yêu thương, bảo vệ hết thảy hữu
t́nh trong thế gian, lợi ích hữu t́nh trong thế gian.
“Ư
chư Như Lai sanh xứ hành cố” (đi nơi chỗ
sanh của các đức Như Lai): Sanh vào nhà Như Lai, làm
bè bạn của các đức Như Lai. Người niệm
Phật là hoa Phân Đà Lợi (Puṇḍarīka, hoa sen trắng)
trong loài người, sanh trong nhà Như Lai, chuyển diệu
pháp luân, làm bạn lữ với Quán Âm, Thế Chí. Đây là
một quả báo riêng biệt của người niệm
Phật, những người hành tŕ các pháp môn đơn giản
khác sẽ rất khó có tổng tŕ thiện xảo như vậy.
(Kinh)
Vân hà đương đắc nhạo dục chân pháp, tri
chư Như Lai bất sanh cố?
(經)云何當得樂欲真法。知諸如來不生故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được ưa muốn
chân pháp, biết các đức Như Lai bất sanh?)
Chư
Phật Như Lai quả thật chẳng có thành hay chẳng
thành. V́ thế, các Ngài chuyển tịnh diệu pháp luân, rộng
độ hữu t́nh. Hữu t́nh do căn cơ khác biệt,
mà có sanh, có diệt, có kiến lập. “Đương
đắc nhạo dục chân pháp” (sẽ đạt
được ưa muốn chân pháp): Chữ Chân này [hàm
nghĩa] “có lợi ích thực tế”, ban cho chúng sanh công
đức chân thật. Nếu chúng ta dùng cái tâm siểm
khúc, tâm hư giả để trao đổi, sẽ khó thể
ban công đức chân thật cho người khác, sẽ chẳng
thể thật sự vui thích Phật pháp.
(Kinh)
Vân hà đương đắc bất giải mạn, thiện
thừa sự tri thức cố?
(經)云何當得不懈慢善承事知識故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ chẳng giải đăi, khinh mạn,
khéo thừa sự tri thức?)
“Bất
giải mạn” (chẳng giải đăi, kiêu mạn) là
một lời dạy rất quan trọng. Hiện thời,
người học Phật chúng ta cực dễ sanh khởi
tâm kiêu mạn. Hễ đạt được một chút lợi ích, liền coi thường thiên hạ, coi
thường sư trưởng, coi thường hữu
t́nh; đấy là một lỗi lầm lớn nhất.
Phật pháp tu trong cung kính, hành trong cung kính, thành tựu trong
cung kính. Sự cung kính ấy thật sự là thiện xảo
để xa ĺa giải đăi, kiêu mạn. “Cung kính” là
coi hết thảy chúng sanh đều là thiện tri thức,
xa ĺa kiêu căng, ngạo mạn, nhưng kiêu căng là v́ tự cho ḿnh là thiện
tri thức, người khác đều nên hướng theo ta học tập. Người như vậy rất khổ,
khổ chẳng có bờ bến, rất dễ dàng chán chường, mệt ngán, rất dễ
nẩy sanh trần lao, rất dễ chịu khổ báo!
“Bất
giải mạn” (chẳng giải đăi, kiêu mạn), điều chủ yếu nhất là “thiện
thừa sự tri thức” (khéo thừa sự thiện
tri thức). Tôi gặp gỡ không chỉ một hai vị
được mọi người công nhận là có thành tựu,
trong khi cùng nhau trao đổi, qua lại, họ sốt sắng phục vụ tôi một
số việc, hoặc nói là “thừa sự”. Chẳng
hạn như khi các lạt-ma thừa sự tôi, tôi rất
cảm động. Chẳng phải là cảm động
v́ họ làm ǵ, mà do nh́n từ pháp tắc, họ đă tiêu
trừ sự kiêu mạn của chính ḿnh. Tôi cũng gặp
các vị sư phụ xuất gia thuộc Nam truyền, chẳng
hạn như nói “tôi y chỉ sư trưởng”, họ thừa
sự ngược lại, dùng Tăng pháp, hoặc
đối đăi với quư vị giống hệt như họ
là thị giả của quư vị. Khi đó chỉ khiến
cho người ta có một lại cảm nhận, cảm
nhận ǵ vậy? Chúng ta được tiếp nhận
giáo huấn thanh tịnh. Giáo huấn ǵ vậy? Xa ĺa kiêu mạn
và giải đăi!
Những
người ở đất Hán chúng ta, hễ tu được
đôi chút pháp, tâm ngạo mạn nẩy sanh tràn trề, coi
thường người khác, coi rẻ sư trưởng,
coi rẻ pháp tắc, nẩy sanh nhiều sự siểm
khúc. Tôi đă gặp chuyện như thế này: Một vị cư
sĩ tiếp xúc tôi vài ngày. Ngày đầu tiên bèn đảnh
lễ trịnh trọng, dập đầu xuống đất
côm cốp. Tôi nói: “Bồ Tát! Xin hăy khoan đă, có ǵ hăy thong
thả nói!” Ông ta thưa: “Sư phụ ơi! Con ở
nơi rất xa được nghe đại danh của
thầy”. Tới ngày thứ hai, chẳng c̣n dập đầu
lễ nữa, nói: “Sư phụ! Tôi ngồi được
chứ?” Tôi nói: “Cứ ngồi!” Tới ngày thứ ba, nói:
“Pháp sư! Kể như tôi quen biết thầy”. Tôi đáp:
“Chắc chắn là quen biết! V́ tai nghe chẳng bằng mắt
thấy mà!” Chuyện như vậy đâm ra rất có phổ biến! Chung quanh tôi
thường có pháp sư như vậy, theo quư vị học
tập đôi chút, thoạt đầu,
rất tôn trọng, do v́ có pháp để có
thể học, nhưng dần dần cảm thấy quư vị
có đáng kể chi đâu? Vừa yếu đuối, vừa
lắm bệnh, phiền năo lại to ngần ấy: Hôm nay
nổi nóng, ngày mai chửi người khác. Dẫu đảnh lễ, vẫn chẳng có cách
nào, cái tâm siểm khúc, chẳng phải là cung kính!
Cung
kính là ǵ? Sư trưởng th́ vĩnh viễn là sư
trưởng. Ǵ là sư trưởng? Kiền thành. Hoàn toàn
chẳng phải là nói “người ấy là sư trưởng
của quư vị”. Các vị thiện
tri thức ơi! Kiền thành là chỗ công đức
chân thật tồn tại. Thừa sự thiện tri thức,
chẳng phải người nào đó là thiện tri thức,
mà cái tâm cung kính là thiện tri thức. Y báo nghiệp duyên
bên ngoài chỉ là sự tô đậm thêm mà thôi! Tạng truyền
Phật giáo nói Tứ Quy Y[17],
măi cho đến khi thành Phật, đều là Tứ
Quy Y, nơi đất Hán chẳng phải là như vậy.
Tôi cũng đă từng gặp người vừa học
nửa ngày, đă đến dạy tôi: “Thầy phải
nên làm như thế này, như thế nọ”. Tôi nói: “Quư vị
chẳng đủ tư cách! V́ sao? Cái tâm kiền
thành chẳng đủ! Những thứ khác đều
đủ. Tôi có thể hướng theo hết thảy mọi
người để học tập, nhưng khi quư vị
chẳng đủ tâm kiền thành, tôi sẽ không hướng
theo quư vị học tập, v́ quư vị là nguồn ô nhiễm”.
Hy vọng mọi người có thể tư duy. Hành pháp
Ban Châu có thể miễn trừ các lỗi lầm như thế
đó.
(Kinh)
Vân hà đương đắc bất nhiễm trước,
du hành nhất thiết thế gian cố?
(經)云何當得不染著。遊行一切世間故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được chẳng đắm
nhiễm, du hành trong hết thảy các thế gian?)
Trong
Phật pháp, chẳng đắm nhiễm là một pháp tắc
thanh tịnh duyên khởi, cũng là chỗ y chỉ cho khởi
tâm động niệm, cũng là một pháp tắc để
thủ hộ đức tướng. Phật pháp vốn
chẳng rườm rà, nó ở ngay trong khởi tâm động
niệm của chúng ta trong hiện tại.
Trong giáo ngôn Đại Thừa, điều này được
vận dụng mười phần thuần thục, mà hành
pháp Ban Châu lại càng trực tiếp hơn, nêu rơ ràng cái gọi
là “tu ngay trong hiện tiền”. Thường hành đạo,
tu ngay trong hiện tiền, cũng là nội hàm phiên dịch
của danh từ Ban Châu. Thập Phương Chư Phật
Tất Giai Hiện Tiền tam-muội là nội dung thực
chất và tướng công đức chín muồi của
nó. Do vậy, “bất nhiễm trước, du hành nhất
thiết thế gian” (chẳng đắm nhiễm, du
hành trong hết thảy các thế gian), thật sự là
duyên khởi trong mỗi thời khắc của hành pháp Ban
Châu, nhưng trong mỗi thế gian, không ǵ chẳng
nương theo vô tự tánh chẳng nhiễm đắm! Thế
gian được kiến lập từ tánh Không, cũng
có nghĩa là thuận theo duyên mà được thấy vô lượng sát-độ,
thuận theo cơ nghi mà du hóa trong mười
phương cơi Phật. Trong hết thảy hiện duyên, nếu
nhận biết bản chất ấy, sẽ đều chẳng
ĺa cơi nước trang nghiêm mầu nhiệm thù thắng của
chư Phật. V́ bị tham, sân, si, mạn, nghi che lấp
mà các thứ cơi đời ô trược và xấu ác được liên tục tồn tại. Do vậy nói “vạn
pháp chẳng rời nhất tâm”. Đừng coi đó là
một kiểu thuyết giáo, hăy nên coi nó như một pháp tắc thực tiễn
để tham chiếu, y chỉ, cũng như là giáo ngôn thật
sự để ấn khế tự tâm nơi khởi tâm
động niệm. Chuyện như thế sẽ biến
thành đơn giản hơn!
(Kinh)
Vân hà đương đắc nguyện hạnh cụ
túc, vị giáo hóa nhất thiết chúng sanh cố?
(經)云何當得願行具足。爲教化一切衆生故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được nguyện hạnh
trọn đủ v́ giáo hóa hết thảy chúng sanh?)
Truyền
bá hành pháp Ban Châu tại đất Hán có cội nguồn rất
sâu xa. Bất luận Giáo Hạ, Luật Tông, Thiền Tông,
Tịnh Độ Tông, cho đến các vị thiện tri thức
các phương, sau khi đă chứng lượng nhất
định, ắt sẽ hành tŕ pháp Ban Châu. Chuyện này
đă có một số lớn tài liệu văn hiến
ghi lại, chúng ta có thể thâm nhập khảo cứu.
Đương nhiên, pháp này cũng là một pháp tắc mà hết
thảy hữu t́nh b́nh phàm, ngu muội, dù thiện hay
ác đều có thể hành tŕ, v́ chúng ta học tập bản
kinh Ban Châu Tam Muội này, ngay từ đầu đă biểu
lộ: Chẳng phải là hành pháp của riêng một loại
hữu t́nh nào!
Hạnh
nguyện trọn đủ là tiền đề để
giáo hóa chúng sanh. Chúng ta hành Ban Châu, nếu hạnh nguyện chẳng
trọn đủ, chắc chắn là lợi ích thế gian
cũng chẳng có sức, chẳng có ư nghĩa! Hành pháp Ban
Châu này “lập một niệm, đoạn các tưởng”,
bản thân trọn đủ hết thảy các hạnh
nguyện, v́ “nguyện hạnh trọn đủ” là nội
hàm thực chất nơi quả đức của A Di
Đà Phật, mà cũng là nội hàm hồi thí nơi nguyện
lực của A Di Đà Phật, cũng như là nội
hàm thực chất của pháp tắc để thành tựu
pháp môn này. Thường là chúng ta đối với một pháp
môn, v́ chẳng thể chọn lựa hoàn chỉnh, chân thật,
rốt ráo, cho nên chẳng thể b́nh đẳng quan sát
đối với pháp ấy, chẳng thể thâm nhập một
pháp. Đấy là một khó khăn khá lớn trong sự tu
tập của người hiện thời. Do mê mờ
trong đủ loại pháp tắc, bèn tạo đủ loại
xem xét, mong ngóng băn khoăn, thường là chẳng thể
tu tập thâm nhập một pháp, phần nhiều là lo
được, lo mất. Cái tâm lo ngờ ấy đă tiêu
hao một lượng lớn sanh mạng, thời gian và
trí huệ của chúng ta!
Trọn
đủ nguyện hạnh lợi ích thế gian, cũng
là v́ khiến cho chúng sanh đạt được an lạc,
tức gọi là “đản vị chúng sanh đắc an
lạc, bất vị tự cầu” (chỉ v́ chúng sanh
đạt được an lạc, chẳng v́ cầu cho
chính ḿnh). Chẳng v́ cầu cho chính ḿnh chính là một yêu cầu
rơ ràng trong Phật pháp. Nói theo tâm trí của phàm phu trong thế
gian, cầu cho chính ḿnh chính là trạng thái thông thường,
cũng tức là chuyện thường t́nh của con người, khiến cho vô lượng
chúng sanh sanh tử luân hồi, chẳng ngừng, chẳng tận!
Do vậy, v́ giáo hóa hữu t́nh, hạnh nguyện trọn đủ. Như vậy th́ mới
có thể thật sự dính kết với pháp Ban Châu, tu tập
pháp Ban Châu. Người thiện căn chín muồi như
thế mới có thể thâm nhập pháp Ban Châu. Nếu thiện
căn chẳng chín muồi, đối với pháp này, rất
khó thể thật sự thiết thực sanh khởi nguyện
vọng tu tập, nguyện vọng học tập, cho
đến cơ hội được nghe c̣n chưa thể
đạt được! Hoàn toàn chẳng phải là pháp này
hữu duyên với chúng ta, chúng ta liền nói nó rất tôn
quư. Thật ra, nương theo trí huệ của Phật
pháp, nương theo lợi ích trong Phật pháp, nương
vào hiện duyên để xem xét, cơ hội của chúng
ta đích xác là rất trân quư, rất khó có, rất hy hữu,
nhất là cơ hội gặp gỡ Phật pháp. V́ trong đồng
hoang sanh tử luân hồi, gặp được các thứ
nhân duyên chẳng phải là việc khó, nhưng trên con
đường sanh tử, được gặp gỡ Phật pháp, gặp cơ hội tu tŕ,
học tập Phật pháp, đúng là chẳng dễ,
đúng là do đại thiện căn, đại nhân duyên xui
khiến!
Hành
tŕ pháp Ban Châu nếu vô nguyện, sẽ không có sức
để khích lệ, thành tựu, hạnh và nguyện
mười phần thiết thực cùng hành. Nếu chẳng
phối hợp kiểu ấy, nguyện chẳng hướng
dẫn hạnh, hạnh chẳng có nguyện dẫn
đường, rất khó thâm nhập tu tập! Hiện
thời, trong hành pháp Ban Châu, mọi người dần dần
có nhận thức: Chúng ta phải thật sự v́ hóa độ
hết thảy chúng sanh mà lập thệ nguyện
rộng lớn. Đó gọi là “chẳng chứng
tam-muội, chẳng đích thân thấy Phật” th́ chẳng thể
buông tay! Đó là một thệ nguyện. Nếu có thiện
căn chín muồi như thế, sẽ thấy Phật,
nghe pháp. Thật ra, chúng ta văng sanh thế giới Cực Lạc,
văng sanh cơi Phật ở phương khác, mục đích
cũng chẳng ngoài “thấy Phật,
nghe pháp, đích thân chứng Bồ Đề, dùng các thứ
thiện xảo chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, rộng lợi
ích thế gian, chẳng bị thoái đọa”.
V́
chúng ta thuộc địa vị phàm t́nh, cho nên rất khó
thật sự lợi ích hữu t́nh. Do vậy, từ địa
vị này tiến lên địa vị khác, người thật
sự lợi ích hữu t́nh chỉ có Phật và Phật có
thể gọi là “bậc lợi tha”. Hạnh của hết
thảy các vị Bồ Tát, hết thảy Thanh Văn,
Duyên Giác, cũng như những ǵ hết thảy hữu
t́nh dù phàm hay thánh đă làm, đều
là tự lợi tăng thượng. Chẳng cần phải
hoài nghi điều này! Chỉ có Phật Thế Tôn là giác rốt
ráo viên măn, có thể lợi
tha, sanh ra công đức chân thật. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát tiến nhập viên măn. Cho nên nói là “tu tŕ tự lợi”.
Trong cơ chế tu tŕ lợi tha, kiến lập tự
lợi dần dần hoàn thiện, thật sự hoàn thiện,
măi cho đến khi thành tựu Bồ
Đề. Nhưng các loại phàm phu tự hại ḿnh th́ có thừa,
tự lợi lẫn lợi tha vẫn chưa thể nghe, vẫn
chưa thể đạt được. Nếu không phải
là như thế, sẽ chẳng thể gọi là Phàm. Phàm
thánh khác biệt ở chỗ “tự lợi và lợi tha có
đắc lực hay là không”, chẳng phải là ăn nói
hư giả! Ở đây, thật sự có lợi, thật
sự có hại. Do vậy, nơi phàm phu hữu t́nh, có nhiều
thứ khổ năo, điên đảo, nhiều thứ Kiến
Tư Hoặc. Nơi các bậc thánh, bậc trí, phần nhiều
là bị Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc mê hoặc. Tuy
là như thế, các vị ấy đă thoát ly các loại
phiền năo bức bách, chỉ là giác ngộ viên măn thuần
tịnh, thuần thục, hướng đến hoàn thiện,
thậm chí rốt ráo. Chúng ta chớ nên không biết sự
khác biệt giữa phàm và thánh, chớ nên không suy nghĩ, chớ
nên không quan sát. Nếu chẳng phải là như thế, cứ dùng tâm trí b́nh phàm, kiêu mạn, tự phụ, tự cho
là đúng, sẽ chẳng thể thành tựu thiện xảo
chân thật rộng lớn. Có lúc, chúng ta sẽ nẩy sanh
những thứ tương tự thiện xảo,
tương tự cảm nhận, nhưng thật sự
giáo hóa và lợi ích chúng sanh th́ vẫn chẳng đắc lực.
Trong
pháp môn Tịnh Độ, khi hành tŕ và truyền
bá một câu bảo hiệu Nam-mô A Di Đà Phật, có thể
hữu ư hay vô ư tự lợi và lợi tha, hai điều lợi
đầy đủ. Có những kẻ nói suông, chẳng thật
tâm có thể lợi ích mười phương hữu t́nh,
cho nên chẳng đạt được tự lợi. Khi
các hữu t́nh truyền bá bảo hiệu thù thắng Nam-mô
A Di Đà Phật, thủ hộ nguyện tự lợi và
lợi tha, sẽ có thể trong khi lợi tha mà đạt
được tự lợi chân thật, đích thân chứng
được tự lợi và lợi tha. Chư Phật
Như Lai viên măn chân thật tự lợi và lợi tha, cho nên
chỉ có thiện xảo lợi tha, chẳng cầu tự
lợi, v́ vốn đă trọn đủ. Đă đích
thân chứng như thế, chẳng có bất cứ lo ngờ
nào, chẳng có bất cứ cái Ngă nào, Ngă Chấp, Pháp Chấp,
hết thảy các thứ gây mê loạn
đă gột trừ hết sạch. Khi chúng ta niệm
Nam-mô A Di Đà Phật, có thể vô t́nh hay hữu ư đạt
được tự lợi và lợi tha, lợi ích hữu
t́nh. Nếu trong tác ư, nếu dùng Phật nguyện làm bổn
mạng của chính ḿnh, như pháp sư Đàm Loan đă
tuyên nói, th́ trong hết thảy
các hành pháp, sẽ hết sức
đắc lực, có thể nhanh chóng đạt được
lợi ích và thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn.
Trong pháp môn Niệm Phật, xác thực là rất dễ dàng
thấu hiểu pháp ích hiện tiền vượt xa lẽ
thường, chẳng thể nghĩ bàn! Cái gọi là “vượt
xa lẽ thường” là vượt qua các sở hành thông thường, tức là hành công đức của ngài Phổ Hiền,
nương vào công đức lợi tha chân thật để
an trụ trong tự lợi chân thật. Người niệm
Phật chắc chắn sẽ có thể lợi tha, v́ lẽ
nào? Làm sứ giả của Phật, hồi thí Phật
đức, rộng lợi ích nhân thiên. Chúng ta có thể cảm
nhận và quan sát điều này.
Tại
Trung Quốc, Phật giáo thật sự được [nhà
nước] nới lỏng quản chế hơn hai
mươi năm qua. Do v́ Phật giáo [chân chánh] có một
khoảng thời gian bị gián đoạn, trong thế
gian đă xuất hiện rất nhiều hữu t́nh ngoại
đạo ăn bám Phật giáo, nhiễu loạn hữu
t́nh. V́ sao như thế? Chẳng huân tập mảy may Bồ
Đề tâm, chỉ dựa vào các kỹ xảo thế
gian để thực hành Phật pháp. Chẳng hạn trị
bệnh[18]
cho người khác, xem Phong Thủy, tiên đoán chuyện
chi đó, hoành hành trong thế gian, khiến cho hữu t́nh
mông muội, mê hoặc hữu t́nh, áp chế hữu t́nh, thậm
chí khiến cho họ điên cuồng. Nhiều năm qua,
trong Phật giáo Trung Hoa [hiện tượng đáng buồn ấy] đă mười
phần rộng khắp. Là một người học Phật,
chúng ta chớ nên mê mất Bồ Đề tâm của chính
ḿnh, hăy nên duy tŕ Pháp Thân huệ mạng của chính ḿnh. Nếu
không, rất dễ bị các mánh khóe mê hoặc, bị các thứ
ngôn từ, bị những thứ quư vị tưởng là
hay khéo trói buộc, đến nỗi mê mất nguyện vọng
của chính ḿnh, mê mất chánh hạnh Phật pháp. Lúc tôi mới
đến vùng Đông Bắc, đă gặp các vị sư
phụ xuất gia phần nhiều dọa dẫm các hữu
t́nh, cứ mở miệng ra là “quá khứ của quư vị
như thế nào, hiện tại như thế nào, vị
lai sẽ là như thế nào?” Do họ có thủ đoạn
ấy, quư vị chẳng có mánh khóe ấy, Bồ Đề
tâm của quư vị chẳng kiên cố, sẽ bị dao
động. Dao động như thế nào? Sanh khởi
tâm sợ hăi, đánh mất sự tiến nhập của
chính ḿnh đối với Phật pháp.
Hành tŕ pháp Ban Châu cũng rất dễ bị
những thứ như ấm cảnh lôi kéo, chế ngự,
bị các thứ thô, tế, lớn, nhỏ, nóng, lạnh
v.v… cho đến thấy hư huyễn, nghe hư huyễn,
cảm nhận hư huyễn, và các thứ tướng cảnh
giới lừa gạt. Hành Ban Châu là để “thấy
Phật, nghe pháp”. Nếu gặp loại hữu t́nh
như thế, chúng ta hăy dùng công đức của Phật
để hồi thí, độ thoát hết thảy chúng sanh,
giáo hóa hết thảy chúng sanh đừng sợ hăi! Nếu
chẳng như vậy, đối với đạo nghiệp
Bồ Đề chúng ta, sẽ chẳng có cách nào thật sự
tiến nhập, sẽ bị tạp duyên xâm đoạt rất
nhanh chóng. Bao nhiêu năm qua, cách đây mười ngày hay nửa
tháng vẫn c̣n có
người, nhất là thầy lang, nói với
tôi: “Ối chà! Thầy có vấn
đề này nọ?” Tôi nói: “Tôi không biết! Sắc thân này
chẳng thuộc về thầy thuốc như ông, mà
cũng chẳng thuộc về tôi. Nó chiếu theo một
pháp tắc, một nhân duyên, chẳng liên quan ǵ đến lời
ông nói!” V́ nếu dễ
dăi khư khư noi theo nó, tâm trí của quư vị sẽ mê mất
trong cảnh giới hiện duyên, trong hiện duyên lượng,
vô ích đối với sự tiến nhập Phật
pháp. V́ thường xuyên nghe người khác nói này, nói nọ,
tôi cũng quen rồi! Nhưng đối với người
học Phật trong hiện thời, nếu như tâm trí Bồ
Đề, tâm trí hành pháp chẳng rơ ràng, chỉ qua đôi ba câu nói, họ
sẽ trói buộc quư vị. Tôi gặp không ít vị sư
phụ xuất gia bị người khác nói mấy câu liền
rơi vào tṛng, suốt đời cũng chẳng thoát ra
được!
Thật
sự là một người học Phật, chúng ta nhận
thức con đường của chính ḿnh như thế
nào? Phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, chẳng sợ
hăi điều này. Nếu chẳng như vậy, sẽ
rơi vào t́nh cảnh đáng thương, mà cũng bị ấm
cảnh hiện tiền, ngôn từ, sự tướng, khó
khăn, thậm chí bị một nghiệp tướng bức
bách, che lấp. Như thế th́ quư vị chẳng có phần
với Vô Thượng Bồ Đề, rơi vào đầm
lầy hiện duyên. Trong ấy, chỗ nào cũng đều
là hầm hố lớn, hầm hố ấy
sâu cỡ nào? Chỉ cần tùy thuận nó, quư vị sẽ
vĩnh viễn chẳng có thuở thoát khỏi! Chúng ta là
người học Phật, hăy nên đối diện chuyện
này như thế nào? Tôi cảm thấy phát tâm là quan trọng nhất, phát tâm quan trọng hàng đầu.
Nhận biết cái gọi là “tâm xuất ly” quan trọng nhất. Tâm xuất ly là trong hết thảy
ngôn từ, cảnh sắc, trong đối đăi, đều
một đường thoát ra, quyết định chẳng
nhiễm. Cho nên nói “đương đắc bất nhiễm
trước, du hành nhất thiết thế gian” (sẽ
được chẳng đắm nhiễm, du hành hết
thảy thế gian). Nếu chẳng phải vậy, nó sẽ
xếp đặt quư vị trong một thế giới, chẳng
để quư vị thoát ra, sẽ xếp đặt quư vị
trong một pháp giới, khiến cho quư vị hoang mang.
Như thế th́ quư vị dạo chơi trong mười
phương cơi nước sẽ chẳng được
tự tại.
Năm
trước, cũng có một thầy lang có sức thần
thông đến bảo tôi: “Ối trời! Thân thể thầy
thế này, thế nọ. Thầy sẽ như thế này, sẽ
như thế nọ…” Tốt lẫn xấu đều có!
Tôi nói: - “Như thế
nào” là trong mắt của ông, là chuyện trong tâm lượng
của ông! Sự tướng trong mắt của ông xét theo
lời dạy “vạn pháp duy thức”, sẽ như
cá thấy nước sông là nhà cửa, người thấy
nước sông là thứ để giặt giũ, nước
uống, hoặc để sử dụng, Tu La thấy nước
có thể dùng làm vũ khí, chư thiên
thấy nước là đất báu lưu ly, ngạ quỷ
thấy nước là lửa cháy rực. Do vậy, đó
là Từ Pháp trong mắt ông. Nếu tôi duyên theo điều
đó, sẽ là duyên theo nghiệp lực của ông, sẽ
chẳng gọi là Từ Pháp, mà là Từ Pháp nói theo gịng nghiệp!
Như thế mà thôi!
Bởi
lẽ, chúng ta là người học Phật, chớ nên mê muội
bởi ngôn thuyết, chớ nên mê muội nơi hiện
lượng, đừng mê muội bởi nhân duyên, chớ
nên mê muội bởi tướng cảnh giới, chớ nên mê muội
bởi các thứ nhiễm duyên hiện tiền, mà hăy nên
như thế nào? Phát Vô Thượng Bồ Đề tâm. Tối
thiểu là phải có tâm xuất ly, tức là trong hết thảy
đối đăi, tâm trí đều chẳng đắm nhiễm,
b́nh đẳng quan sát, đừng nên chấp giữ nó, mà
cũng đừng nên xả nó. Nó chẳng liên quan ǵ đến
quư vị. Đó chỉ là Kiến Phần của chúng sanh
đấy thôi! Những kẻ có tiếng tăm sẽ nói:
“Ngươi thấy đó! Nói với ngươi mà ngươi
vẫn chẳng chịu nghe theo”. Tôi nói: “Trước nay,
tôi chẳng tùng phục thứ đó. Nếu thuận theo
những thứ đó, tôi đă chẳng xuất gia! Tôi chẳng
nghe theo khuôn sáo của quư vị. Nghe theo khuôn sáo đó, tôi sẽ
là thứ bỏ đi! V́ tôi là người học Phật,
tôi là kẻ tự biết ḿnh, tôi là người vâng theo lời
dạy của đức Phật mà hành tŕ”. Đối với
điều này, chư vị thiện tri thức nhất
định phải có sự liễu giải và nhận biết
rơ ràng.
(Kinh)
Vân hà đương đắc san hô chi tướng, đắc
chư tướng cố?
(經)云何當得珊瑚之相。得諸相故。
(Kinh: Như
thế nào th́ sẽ đạt được tướng
san hô, do đạt được các tướng?)
“San
hô chi tướng” (tướng san hô): San hô là một món
báu trong bảy báu. Có bạch san hô, hoàng san hô, hồng san hô,
tử san hô (san hô màu tím)… Tướng mạo của san hô
thật sự là so le, không đồng đều, nhưng
phần lớn là bạch san hô. V́ san hô ở dưới
đáy biển sâu, thời cổ rất khó thu thập [cho nên được coi là quư]. Hiện thời
có tàu ngầm, có thể thu hoạch một lượng lớn
san hô, nhưng san hô có màu sắc rực rỡ như hồng
san hô th́ vẫn rất
ít.
Nói
“đắc chư tướng” (đạt được
các tướng) là nói về của báu tâm trí. Ở đây là
nói tỷ dụ. V́ nó vốn là
pháp bảo, vốn là thiện xảo, vốn vô sở
đắc, vốn có thể lấy dùng trong các thứ tướng. Tuy lấy mà chẳng đắm nhiễm,
tự đạt được phương tiện. Kẻ
đắm nhiễm tất
nhiên có gánh nặng; “gánh nặng” là sẽ tạo thành gịng nghiệp mới. Cái gọi là “gịng
nghiệp” tức là gịng nghiệp đắm nhiễm.
Dùng mà chẳng nhiễm, đạt được
phương tiện; giống như
chúng ta cầm đèn pin soi đường, buổi tối
mang theo th́ được. Nếu có đèn điện th́
có thể chẳng cần tới nó. Nếu mặt trời
mọc th́ cũng không cần mang theo đèn pin, nhưng kẻ
đắm nhiễm cho rằng “ta cần mang theo đèn
pin”. V́ thế, thời thời khắc khắc đều
cầm theo món vật ấy. Nếu thứ ǵ cũng đều
mang theo, đồ vật này, đồ vật kia đều
giắt trên người, mang theo lâu ngày, kẻ đó sẽ bị
đồ vật này nọ tŕ kéo, nghiệp lực cũng lại như thế.
(Kinh)
Vân hà đương đắc như hư không, nhất
thiết pháp vô đắc tướng cố?
(經)云何當得如虛空。一切法無得相故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được như hư
không, đối với hết thảy các pháp đều chẳng
có tướng?)
Trong
phần trước đă nói “đắc
chư tướng” (đạt được
các tướng), dùng báu san hô để tỷ dụ, khiến
cho các hữu t́nh hành pháp Ban Châu có thể tiếp tục
an trụ trong sự ổn định liên tục và nghiệp tiếp
nối. Ở đây, nói “vô đắc tướng”, “như hư không”
là đối với các loại ổn định liên tục,
chẳng bị vướng
mắc, chẳng có ǵ để
đạt được, v́ dẫn
phát sự khinh an liên tục, cho đến đủ loại
pháp ích hiện tiền. Nếu đắm nhiễm khinh an,
người ấy ắt đọa lạc. Do đó, chẳng
đắm nhiễm trong việc tiến thú đại lợi vô thượng,
tức là chẳng đắm nhiễm các pháp.
Khi
chúng ta hành Ban Châu, nếu đắm nhiễm tướng
khinh an, người ấy sẽ đọa lạc. Nếu
đắm nhiễm tướng quang minh, tướng trang
nghiêm, sẽ xuất hiện vấn đề. Cho đến đắm nhiễm Phật tướng,
cũng sẽ xuất hiện vấn đề. Quư vị
nói: “Niệm Nam-mô A Di Đà Phật, đi tới, đi lui
(kinh hành) để cầu thấy Phật, đó chẳng
phải là đắm nhiễm tướng ư?” Chẳng phải
vậy! V́ chẳng thấy tướng th́ sẽ chẳng có ǵ để đắm nhiễm! Quư vị chẳng có tướng để thấy, lấy ǵ để đắm nhiễm?
Đừng nên tự dối ḿnh! Giống như người
đối trước hư không nói: “Ta chẳng mê tiền
tài!” Tài sản chất đống trước mặt quư vị,
thuộc về quư vị, nhưng quư vị chẳng
đắm nhiễm, th́ mới thật
sự là chẳng mê tiền tài. Hành pháp cũng giống
như thế. Thật sự đạt được lợi
ích nơi pháp mà quư vị chẳng đắm nhiễm, th́ mới
là thật sự chẳng đắm nhiễm. Sự t́nh hiện
tiền mà chẳng đắm nhiễm th́ mới là công
đức chân thật. Khi chúng ta nghèo rớt mồng
tơi, khi chẳng có vật ǵ hết, quư vị nói “ta chẳng
yêu mến thứ này, chẳng tham đắm thứ kia”.
Đó là lời lẽ tự dối gạt ḿnh!
Do
vậy, kinh văn ở đây là câu sau tiếp nối ư nghĩa
của câu trước. Trong phần trước là “đắc
như san hô, đắc chư tướng cố”
(được như san hô, v́ đắc
các tướng), tức là trong các pháp trân bảo, hưởng
thụ các thứ thọ dụng rơ ràng, thọ dụng khinh
an, thọ dụng
trang nghiêm, cho đến thọ dụng đoạn trừ phiền
năo. Sự thọ dụng ấy thật sự chẳng thể
nhiễm, thật sự chẳng thể đạt
được, tức là nói “đương đắc
như hư không, nhất thiết pháp vô đắc tướng
cố” (sẽ được như hư không, do chẳng
đạt được tướng của hết thảy
các pháp) trong phần sau. Các pháp sanh bởi nhân duyên, pháp tánh vốn
là Không; hết thảy chúng sanh đều phải nên hiểu
rơ chỗ này. Nếu chẳng biết pháp không, tánh không, các
nhân duyên tất nhiên bị ngăn trở. Do vậy, “tánh Không duyên khởi” là quan sát thiện
xảo. Biết các pháp, nhất định biết tánh
Không. Người biết tánh Không, nhất định
được thọ dụng nơi tướng bản
chất của các pháp. Do vậy, pháp là không có ǵ để
có thể đạt được, pháp tánh vốn Không,
sanh ra các pháp, pháp thật sự vô sanh. Nếu chẳng thiện
xảo quan sát pháp tắc thế gian và xuất thế gian như thế, chúng ta sẽ mê mất trong cái
được gọi là vô pháp và hữu pháp. “Vô pháp”
là không có ǵ để nương theo. “Hữu pháp” là
cho rằng thật sự có cái để đạt
được, [chấp trước vào hai điều ấy], sẽ đều chôn vùi
công đức lợi ích rộng lớn.
(Kinh) Vân hà đương đắc
như Bồ Tát, bất đoạn Phật chủng cố?
(經)云何當得如菩薩。不斷佛種故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được như Bồ Tát,
chẳng đoạn Phật chủng?)
“Bất
đoạn Phật chủng” (chẳng đoạn Phật
chủng) tức là nhập chủng
tánh Phật, tín thuận lời dạy của Phật. Khi
đạt được hay hiển lộ Tín Nhẫn và
Thuận Nhẫn, thành tựu chủng tánh Như Lai. Trong
khi chúng ta học tập Phật pháp, nếu chẳng thuộc
vào chủng tánh Như Lai, th́ sẽ là ngoại đạo,
gọi là “danh tự học Phật”.
Trong
giáo ngôn thù thắng của A Di Đà Phật, hữu t́nh
độn căn nghe danh hiệu Nam-mô A Di Đà Phật có
công đức thù thắng, đều đắc hai loại
Nhẫn, tức là Pháp Nhẫn của Bồ Tát, cũng thuộc
vào chủng tánh Như Lai. Điều này quả thật chẳng thể
nghĩ bàn! Tại đất Hán, bất luận nội hay
ngoại đạo, người học Phật rất nhiều,
khá nhiều hữu t́nh chẳng tự giác mà học Phật,
chẳng cần phải đeo danh xưng là “Phật giáo đồ”! V́ sao? Do chủng
tánh Như Lai gia tŕ. Nay chúng ta niệm
Nam-mô A Di Đà Phật, tức là không ngừng thúc giục
tâm trí của chúng sanh, khiến cho họ có thể thành tựu
hai môn Nhẫn ấy. Thông thường, nghe một hai lần, chủng
tử đă gieo xuống, nhưng chưa thành thục, cho nên hành tŕ Ban Châu có thể
khiến cho Phật chủng chẳng đoạn. Tu hành
trong Phật giáo, tiếp nối huệ mạng của Phật
mười phần quan trọng. Chúng ta niệm Nam-mô A Di
Đà Phật, hành Ban Châu, có thể khiến cho Phật chủng
chẳng đoạn, v́ công đức của danh hiệu
là ở đấy, nội hàm thực
chất ở đấy, quư vị chẳng cần
phải lo lắng! Rất nhiều người bận tâm
v́ sao vị Bồ Tát này chẳng khéo học Phật? V́ sao
người kia chẳng khéo học Phật? Quư vị cứ chăm chú niệm Nam-mô A Di Đà Phật, thanh tịnh,
b́nh đẳng hồi hướng, chẳng cần phải
băn khoăn! Hăy yên ḷng về chúng sanh, yên ḷng đối
với Phật, hăy yên ḷng đối với nguyện lực
của Phật, hồi thí pháp mà quư vị đă hành tŕ, hăy yên tâm triệt để hồi thí, chẳng lưu giữ
ǵ!
(Kinh)
Vân hà đương đắc bất hưu tức, hành
chư Bồ Tát đạo, vị tằng viễn ly Đại
Thừa cố?
(經)云何當得不休息。行諸菩薩道未曾遠離大乘故。
(Kinh:
Như thế nào th́ sẽ được chẳng ngưng
nghỉ, hành các đạo Bồ Tát, chưa từng xa ĺa
Đại Thừa?)
Pháp
Ban Châu đích xác là chuyên chở rộng lớn, chuyên chở
b́nh đẳng, chuyên chở không ngăn ngại! Chuyện
khá khó thực hiện trong học tập Tịnh Độ
là ǵ? Chẳng có oán đối. Điều khá khó thực hiện
hơn nữa là ǵ? Chẳng có lấy hay bỏ. Điều
khó thực hiện hơn nữa là ǵ? Chẳng bỏ hết
thảy hữu t́nh khổ năo, tội ác. Điều khá khó
thực hiện hơn nữa là ǵ? B́nh đẳng gánh vác hết
thảy. Điều khó thực hiện hơn nữa là ǵ?
Nói như thế nào, cũng làm đúng như thế ấy.
Điều này khó khăn hơn. V́ sao? Cái tâm của chúng
sanh lấy hay bỏ, yêu ghét, phân biệt mười phần
rơ ràng, mười phần mạnh mẽ, mười phần
thuần thục, mà tâm b́nh đẳng, tâm chẳng lấy
bỏ, tâm lợi ích người khác rộng lớn, tâm yêu
thích tạo lợi lạc cho hữu t́nh khổ nạn,
ngược lại khá lợt lạt, xa cách, thậm chí chẳng
đắc lực. Dẫu siêng khổ vun bồi, chẳng
thể sanh ḷng tin! Thường là đă vun bồi
được một khoảng thời gian, hễ gặp
cái duyên trái nghịch, liền muốn bỏ
pháp ấy, cảm thấy chẳng thể chịu đựng
nổi. Nhất là đối với chuyện “chẳng xả
hết thảy hữu t́nh khổ nạn, b́nh đẳng bố
thí, an trụ vô nghi”. Đó là chỗ khó nhận biết nhất
của pháp này
Giống
như khi chúng ta hành tŕ Ban Châu, khốn đốn
đưa đến, khổ sở đưa đến,
duyên gây khó khăn đưa đến, duyên trái nghịch
đưa đến, tức là tướng cảnh giới ác đưa đến, đều là
các thứ huyễn hiện của hết thảy hữu
t́nh khổ năo, đều là các tướng cảnh
giới hư huyễn diễn ra, nhân duyên duy nhất của
quư vị là thật sự hồi thí lợi ích cho họ,
khiến cho họ an lạc. Làm như thế nào? Tức là
chẳng bài xích, mà cũng chẳng thuận theo, cứ thanh tịnh niệm Phật, cứ một đường
mà đi. Hành tŕ như vậy, chưa từng xa ĺa
Đại Thừa. Nói “bất hưu tức” (chẳng
ngưng nghỉ) tức là trong khi đối diện các thứ
nhân duyên và khó khăn, đều chẳng sợ hăi. Khi tôi
xuất gia, tiếp xúc pháp môn Tịnh Độ trong ṿng
mười năm qua, [đă nhận thấy] đây là chỗ
khiến cho người ta bị thoái đọa nhiều
nhất. Đối với kẻ thương tổn quư vị,
kẻ không ngừng thương tổn quư vị, kẻ ô
nhục quư vị, kẻ chửi bới nhân cách của quư
vị, quư vị cảm thấy phải
lợi lạc kẻ đó, phải có tâm chẳng xả niệm
Phật hồi thí cho người ấy. Thoạt đầu,
sẽ rất khó sanh khởi [cái tâm ấy]. Thường là
sẽ tránh né chuyện tạo lợi lạc cho kẻ đó, tâm mong cho đối phương chẳng
bị ác báo là được rồi, đă cảm thấy
ḿnh chúc phước cho đối phương. C̣n như mong
mỏi đối phương thiện xảo, thành tựu,
thậm chí thành tựu c̣n sớm hơn ta, có lợi ích công
đức c̣n to hơn ta, thù thắng, chân thật, nhanh chóng đều
hơn ta, các nguyện vọng như vậy rất khó vun bồi!
V́ chủng tánh trong cái tâm của phàm phu là như thế
đó! Tức là yêu ghét phân minh, đúng sai phân minh, lấy bỏ
phân minh, nhưng sự phân minh ấy chỉ mang lại các
thứ khốn khó, khốn khó ǵ vậy? Hẹp ḥi, tự
lợi, cái tâm Tiểu Thừa, hoặc nói là cái tâm tịch
diệt, hoặc là một thứ tâm chán ĺa.
Đoạn
văn tự này đă cho chúng biết: Giống như Bồ
Tát chẳng nghỉ ngơi, tâm phàm phu luôn cần nghỉ
ngơi. Nhất là khi có tâm trí đối đăi sanh khởi,
nghiệp tướng đối đăi sanh khởi, bèn mong
lảng tránh, chẳng mong tiếp xúc nữa; cảm thấy
quá mệt mỏi, quá khổ sở, quá vô ư nghĩa! Thật
ra, chẳng phải vậy! Chư Phật Như Lai siêng gắng
chẳng bỏ ở chỗ này, thường hành chẳng
bỏ. Từ bao kiếp lâu xa đến nay, các Ngài chẳng
bỏ chúng ta. Chúng ta đích xác đều là hữu t́nh báng
pháp, hữu t́nh nghi pháp. Hoặc có thể nói là các hữu
t́nh sợ hăi Phật pháp, hoặc có thể nói là hữu
t́nh phá diệt, chôn vùi Phật pháp. Nếu không, chúng ta
đă không sanh trước Phật, hay sau Phật,
lọt vào tám nạn. Ở đây, quư vị chớ nên quá mức
tự tôn. Nhưng trong pháp môn Niệm Phật, nhất là
hành pháp Ban Châu, chẳng có ngưng nghỉ, chẳng ĺa
Đại Thừa. Nói đến “Bồ Tát đạo”,
chẳng thể ĺa đạo ấy trong phút chốc, mà
cũng không có ǵ để ĺa. Do không có ǵ để ĺa, tức
là hành Bồ Tát đạo. Do chẳng ngưng nghỉ th́ chính là hành Bồ Tát
đạo. Do thường
hành đạo, cho nên “chẳng bỏ hết thảy chúng
sanh, chẳng xả hết thảy các hạnh nguyện”. Những lời
này mười phần dễ nói, nhưng thực hiện nếu
tùy thuận Phật nguyện, tùy thuận Phật trí, tùy
thuận Phật hạnh, sẽ rất hoan hỷ, rất
vui sướng, sẽ là lợi ích chẳng thể nghĩ
bàn. Nếu tùy thuận nghiệp lực của chính ḿnh, tùy
thuận tâm trí phân biệt, chấp trước của
chính ḿnh, sẽ mười phần đau khổ, mười
phần khó chịu đựng, mười phần chẳng
tương ứng! Chúng ta nói: “Chẳng xả hết thảy
chúng sanh khổ năo, hồi hướng công đức rất
sâu của chư Phật, khiến cho chúng sanh nhanh chóng thành
tựu Vô Thượng Bồ Đề, đạt
được bất thoái chuyển”. Quư vị đem lợi
ích do pháp tắc của chính ḿnh hồi thí cho hết thảy
những kẻ hữu duyên trong hiện tiền, dù là thuận
duyên, hay ác duyên, đều b́nh đẳng hồi thí như
thế, sẽ thật sự là bậc thường hành
đạo, chẳng xả đạo nghiệp, hành Bồ
Tát đạo. Lời này hết sức dễ nói, nhưng
tâm trí phàm phu cần phải có một lượng chịu
đựng nhất định, cần phải có sự nỗ
lực nhất định của chính ḿnh, kiên tŕ và cổ
vũ, hoặc có thể nói là “tùy thuận”.
Chúng
ta đều biết, giáo ngôn Đại Thừa muốn
độ hết thảy chúng sanh thành tựu Bồ Đề.
Nếu nguyện “hết thảy chúng sanh sẽ thành Phật
trước tôi”, đó là một thệ nguyện mạnh
mẽ trong Đại Thừa. Nếu nguyện “cùng với hết thảy chúng
sanh cùng thành Phật”, đó là một tâm nguyện tùy thuận.
Nếu nguyện “ta thành Phật trước rồi mới
độ chúng sanh”, đó là tâm nguyện của bậc
Đại Thừa Bồ Tát nhuyễn tâm. Trong ba loại
tâm nguyện ấy, [tâm nguyện] “khiến cho hết thảy
chúng sanh thành Phật trước ta” là do cái tâm mạnh mẽ
tạo thành. Như vậy th́ quư vị sẽ yêu thích, tôn trọng
hết thảy thân duyên, sơ duyên, và các thứ nhân duyên trong phần trước. Quư vị sẽ
thật sự tôn trọng, bảo vệ nó. V́ lẽ nào? Do
hết thảy chúng sanh đều thành Phật trước
quư vị, cũng có nghĩa là hết thảy chúng sanh đều
là Phật, Bồ Tát, chỉ có ta là phàm phu. Ngày hôm qua, có một
đứa bé, khi gặp mặt chúng tôi, nó đă khóc ầm lên, trào
nước mắt. Nó nói: “Hôm nay con thật sự biết
hết thảy chúng sanh là Phật, Bồ Tát. Thật sự là một cơ hội đáng nên tôn trọng
hết thảy”. Ngay khi ấy, quả thật mọi
người đều rất cảm động, rất
nhiều người ứa nước mắt, v́ đứa
bé ấy chưa hề học Phật, vừa mới tiếp
xúc Phật giáo, đă nẩy sanh trạng thái tâm lư ấy,
khiến cho mọi người rất cảm động. Lời
nó nói là lời lẽ thành khẩn, cảm kích. Khi nó cảm
nhận được điều ấy, tâm linh thoải
mái và an lạc. Niềm xúc động rộng lớn, b́nh
ḥa và chân thật ấy đă cảm động chính ḿnh,
mà cũng cảm động người khác. Đó thật
sự là tâm Đại Thừa mạnh mẽ, nhạy bén,
mọi người đều thị hiện cho ta các thứ
ác tướng, thiện tướng, tướng thù thắng,
tướng yếu ớt, để làm ǵ? Mong cho ta sẽ
xuất ly! Chúng ta niệm “nguyện cộng chư chúng
sanh, văng sanh An Lạc quốc” (nguyện cùng các chúng sanh,
văng sanh cơi An Lạc). Đó là giáo ngôn về Đại Thừa
Ba La Mật Môn, quán thấu triệt hết thảy chúng
sanh như huyễn, hết thảy chúng sanh thiện ác
như huyễn, hết thảy phàm thánh như huyễn, hết
thảy các pháp là rốt ráo không,
không có ǵ để được hay mất, rốt ráo
văng sanh quốc độ của A Di Đà Phật, ngay lập
tức thành tựu! Đấy gọi là “đồng sanh
đồng Tây” (cùng sanh về Tây Phương), dùng trí
Văn Thù để nh́n thấu triệt, quan sát hết thảy
huyễn duyên là rốt ráo chẳng thể
được. Ở đây là “độ tận chúng sanh,
phương thành Phật đạo” (độ hết
chúng sanh rồi mới thành Phật đạo), tức là “tâm
Đại Thừa độ trọn hết chúng sanh chẳng
ngưng nghỉ”. Trong khi hành pháp Ban Châu, cũng giống
như thế. “Chẳng
ngưng nghỉ” là một pháp tắc hành pháp, tự ḿnh nhắc nhở
“chẳng thể nghỉ ngơi”. Thông thường, tâm
người hành Ban Châu sợ hăi chỗ này, nói [tu pháp Ban Châu] vốn mệt nhọc
lắm. Nếu chẳng nghỉ ngơi, c̣n tu tập nổi ư? Thật ra, hành
pháp chính là thật sự nghỉ ngơi! Trong chẳng nghỉ
ngơi mà thật sự nghỉ ngơi. V́ sao vậy?
Được tự tại nơi pháp, được tự
chủ chẳng đắm nhiễm sự nghỉ ngơi
chân thật, cùng lúc vứt bỏ sự đắm nhiễm
nghỉ ngơi và [ư niệm] đối đăi
[cần phải]
nghỉ ngơi của chúng sanh, thường luôn hành
đạo nghiệp!
(Kinh)
Vân hà đương đắc trước đại khải
giáp, chư Phật quảng đại giới trung quyết
định trụ cố?
(經)云何當得著大鎧甲。諸佛廣大戒中決定住故。
(Kinh:
Như thế nào sẽ được mặc giáp trụ lớn,
quyết định trụ trong giới rộng lớn của
chư Phật?)
“Quảng
đại giới” (giới rộng lớn): V́ trong hành
pháp Ban Châu, thệ nguyện thuộc địa vị bậc
nhất. Niệm Phật
trong một kỳ hạn mong thấy Phật, hoặc lợi
ích hữu t́nh v.v… đều do nương vào đại thệ
nguyện mà kiến lập. Đại thệ nguyện là
đại giới, là đại hiếu thuận. “Đại hiếu
thuận” là chí đạo
hiếu thuận, là giới. Do vậy, tùy thuận là giới.
Đại tùy thuận là giới! Giới ấy là giới
rộng lớn, giới thanh tịnh, giới chân thật. Tuy
là vô ngôn thuyết, nhưng là “lược giới”.
“Lược” là nhờ vào ngôn thuyết đơn giản,
bao gồm hết thảy thiện xảo lợi tha, tâm trí
lợi tha, chọn lựa lợi tha, quyết định
trụ trong giới, tức là dùng chuyện lợi lạc
chúng sanh để quyết định trụ, dùng tùy thuận
công đức thù thắng trong các pháp để quyết
định trụ, dùng tán thuận (tán thán và tùy thuận), dùng hiếu thuận
chư Phật, Bồ Tát, thánh nhân, và hết thảy hữu
t́nh để quyết định trụ. Đó cũng gọi là “thượng báo tứ trọng ân, hạ tế
tam đồ khổ” (trên đền bốn ân nặng,
dưới cứu khổ tam đồ). Mọi người
rất quen thuộc kiểu nói này, nhưng trong pháp tắc thực
tiễn, chúng ta hăy nên quan sát cặn kẽ chính ḿnh có
tương ứng với cách nói ấy hay
không? Trên thực tế, thủ hộ thệ nguyện sẽ
có thể bảo vệ chúng ta chẳng hứng chịu những
tổn thương do biến đổi trong
khi hành pháp, chẳng bị các nhân duyên đổi khác xâm
đoạt. Nếu chúng ta học tập, tu tập
pháp Ban Châu, sẽ có thể chân thật
sanh khởi cái tâm “chẳng bị thoái đọa”, rốt
ráo an trụ, chẳng bị tổn thương, tùy thuận
lợi ích thế gian, tùy thuận công đức rất sâu
của chư Phật, thuận theo thệ nguyện rộng
lớn của A Di Đà Phật, tùy thuận chọn lựa
an trụ trong thệ nguyện lợi ích chúng sanh rộng lớn.
Đó là một động lực lớn nhất để
hành pháp, cũng là bi trí song tu, mà cũng là nơi công đức
chân thật hiện diện.
Cơ
chế tâm lư của người hành pháp muôn ngàn sai khác. Tôi đă thấy mấy
trăm bài văn phát nguyện, khác biệt hết sức
to lớn. Có người viết ngắn gọn, có người
phức tạp, có người tự lợi, có người
nói về lợi tha, có
người nghi pháp, có người là pháp thù thắng, cho
đến có người cầu cảm ứng, có người
cầu xuất ly, người th́ cầu của cải, có
người cầu oai đức to lớn, có người
cầu thiện xảo, có người cầu chế ngự,
ước thúc kẻ khác, có người cầu lợi ích
người khác, có người cầu tăng thêm phước
báo cho xă hội. Hạng người nào cũng đều
có, lời nguyện ǵ cũng đều có; nhưng có một
điều: Một trăm hai mươi hai điều “vân
hà” thật sự là công đức và lợi ích chân thật
của Ban Châu!
Pháp Ban Châu là do Thích Ca
Mâu Ni Phật tuyên nói ở Trúc Lâm Tinh Xá tại thành
Vương Xá trong thế giới Sa Bà. Sau khi kinh điển
được kết tập, bản kinh này được
phiên dịch, truyền bá sang Trung Hoa trong thời Tùy -
Đường, một mực truyền bá đến tận
bây giờ. Đương nhiên là có rất nhiều kẻ
nghi ngờ, phỉ báng pháp này. Đức Thế Tôn v́ che chở
hạng người ấy, trước tiên đă nói:
“Đừng báng pháp này, kẻo phải hứng chịu khổ
báo to lớn, hứng chịu luân hồi xấu ác”. Trong
đoàn thể này của chúng ta, cũng có kẻ phỉ
báng pháp này, nói pháp này là giả, là pháp bất chánh, là tà pháp:
“Ngồi ở chỗ này nghe giảng th́ là chuyện chẳng
tương ứng. Tôi cảm thấy chẳng thích hợp,
là chẳng công bằng, là chẳng có ư nghĩa chi hết!”
Nói theo phía quư vị, sở dĩ [quư vị chê trách] pháp này
chẳng công bằng là v́ chúng ta thuộc vào t́nh huống ngờ
vực pháp tắc này, phỉ báng pháp tắc này. Cho nên [nhận
thấy pháp tắc này] chẳng công bằng đối với
chính ḿnh. [Hăy nên có tâm thái] “thà nguyện chính ḿnh bị vứt bỏ,
cũng chẳng bằng ḷng nghi ngờ, phỉ báng”. Nghi ngờ, phỉ
báng sẽ khiến cho chính ḿnh bị rất nhiều
thương tổn, giống như dùng trứng gà phang đá cuội,
kết quả cứ nghĩ liền biết. Đối với
chuyện này, trong kinh điển, đức Thế Tôn
đă có thọ kư, trong phần sau sẽ nói tới.
Nhưng
trong xă hội, kẻ trực tiếp quở mắng, chửi
bới kinh điển này, chửi bới hành pháp này rất
hung hăng th́ giống như trong kinh điển đă ghi
chép. Trong chúng thường trụ hiện tiền, tôi cảm
thấy làm như thế đối với bản thân quư vị,
sẽ là bất công, chẳng thích hợp. Nếu có kẻ
như thế, hăy nên lập tức sám hối. Nếu không,
hăy nên ĺa bỏ nơi này, có thể hành tŕ pháp tắc khác, sẽ
chẳng đến nỗi báng pháp, mà cũng chẳng đến
nỗi bị thương tổn. V́ đây là một đạo
tràng Ban Châu, nếu quư vị ngờ vực, hủy báng pháp
tắc này, th́ hăy nhanh chóng sám hối, hoặc mau chóng rời
đi. Cả hai cách ấy đều
được, sẽ có lợi, công bằng, tương ứng.
Pháp tắc mà chúng ta hành tŕ trong đạo tràng này có ư
nghĩa. Tán thán một pháp tắc là có ư nghĩa, c̣n ngờ
vực, hủy báng pháp tắc là do tâm ngờ vực, tâm hủy
báng của quư vị sanh khởi! Không chỉ chẳng
đạt được lợi ích trong Phật pháp, mà c̣n
có thể tổn thương chính ḿnh. Nhất là vẫn ở lỳ trong đạo tràng này th́ sẽ là chẳng thích hợp,
phạm lỗi gây rối loạn
đại chúng và hủy diệt đạo tràng. Đừng
nói là ai có thể cứu độ, chính ḿnh cũng chẳng
thể tha thứ cho chính ḿnh! V́ sao nói như vậy? Đó
cũng là chẳng xả hết thảy hữu t́nh, chẳng
tổn hại hết thảy hữu t́nh, v́ quư vị có thể
nói là chính ḿnh vô duyên đối với pháp này. Như thế
th́ cơ bản là chẳng báng pháp, chẳng ngờ vực,
hủy hoại pháp, cho nên chẳng sanh ra lầm lỗi, mà
cũng chẳng khiến cho hữu t́nh bị tổn
thương. Ở đây, thừa dịp học Phật,
học pháp này, tôi trịnh trọng nêu ra [những điều
cảnh tỉnh ấy], hy vọng mọi người hăy
khéo tư duy nhân duyên của chính ḿnh để chẳng
đến nỗi bị tổn thương không cần
thiết!
“Quảng đại giới trung quyết định trụ” (trụ quyết định trong giới rộng lớn): Trong thực tế, hiếu thuận là chí đạo. Nếu kiến lập thệ nguyện, nếu tùy thuận thệ nguyện, chúng ta đều nên tùy thuận pháp. Trong tùy thuận, sẽ có giới, giới đức, hộ tŕ pháp tắc mà chúng ta đă hành. Trong kinh điển, đức Thế Tôn đă nói giới ở chỗ nào? Ở nơi hiếu. Hiếu là chí đạo. Hiếu là ǵ? Hiếu là giới. Hiếu thuận là giới. Đấy chẳng phải là nô dịch chúng ta. Bản thân của giới có thể bảo vệ chúng ta, mang lại lợi ích không chi lớn bằng cho chúng ta. Nhưng trong thời đại này, ḷng người dễ phản nghịch, thường nói là hay rối loạn “tánh giới”, dĩ hạ phạm thượng. “Thượng” ở đây chẳng phải là thượng trong “thượng hạ” (trên dưới), mà [thượng] là chỗ đáng nên cung kính, chỗ đáng nên thủ hộ, chỗ đáng nên yêu thích. Nếu như chửi bới, lay động, va chạm những nơi ấy, sẽ sanh ra thương tổn. V́ thế, hiếu thuận là chí đạo (đạo cùng tột). Người Hoa đặc biệt nói tới hi