Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh giảng kư

Phần 2

大方等大集賢護經講記

慈法法師

Chủ giảng: Pháp sư Từ Pháp

Địa điểm: Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam

Thời gian: Từ ngày 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc thống lănh đại chúng, giáo chiếu đạo thị cố?

          ()云何當得統領大衆。教詔導示故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được thống lănh đại chúng, dạy dỗ, hướng dẫn, chỉ y?)

 

          “Thống lănh đại chúng” là như các vị xuất gia nơi chùa miếu, hoặc các vị hữu t́nh duy tŕ và truyền bá Phật pháp. Nay chúng ta là kẻ phàm phu, chẳng thể thống lănh đại chúng, nhưng có thể học Tứ Nhiếp Pháp. Tứ Nhiếp Pháp là [pháp môn mà] hết thảy chúng sanh đều có thể tu tập. Khi chúng ta hành Ban Châu, pháp này vốn thống lănh đại chúng. Một câu Phật hiệu rơ ràng, rành rẽ, chẳng được, chẳng mất mà niệm, quư vị chẳng cần chào hỏi người khác mà đă là chào đón, đă là thống lănh đại chúng, đích xác là có thể khiến cho các hữu t́nh chung quanh yêu thích, hướng về, chân thật nương cậy.

          Sự tu hành của chúng thường trụ tại Hằng Dương Am ảnh hưởng tới các công nhân đang xây cất tại tự viện. Có cư sĩ tới nói: “Công nhân Hằng Dương Am muốn quy y, có được hay không?” Tôi nói: “Được chứ! Nhất định là chuyện tốt! Chuyện này so ra có công đức, có ư nghĩa hơn xây dựng Hằng Dương Am, có ư nghĩa hơn xây dựng pḥng ốc nhiều! Dẫu tốn một ngàn vạn đều chẳng mua được, hăy để cho toàn thể họ đều quy y!” Ngày các công nhân ấy đến quy y, trời đổ mưa to, tuy thân họ toàn mùi mồ hôi và mùi thuốc lá nồng nặc, nhưng họ đúng là rất tuyệt diệu, phước đức và nhân duyên rất lớn, rất chẳng thể nghĩ bàn! Ngay lúc đó, tôi có cảm giác vui sướng hơn kiến thiết mấy gian nhà, thật sự là vượt xa hơn xây dựng rất nhiều thứ, có ư nghĩa rất nhiều. V́ sao vậy? Quy y khiến cho thiện căn của các hữu t́nh thô kệch ấy được chín muồi! Chính là v́ các vị nữ cư sĩ thường ngày luôn niệm Phật, hành Ban Châu, cứ đi tới đi lui như thế đă cảm động, ảnh hưởng họ. Đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Khi họ tới quy y, tôi nói: “Kiến lập đạo tràng này đáng giá lắm, v́ sao? Cảm động các hữu t́nh thô tháp hết sức khó khăn. Chúng ta do một câu Phật pháp, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật đă cảm động họ!”

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc bất nhạo sanh nhất thiết chúng sanh trung, bất động ư nhất thiết chúng sanh cố?

          ()云何當得不樂生一切衆生中。不動於一切衆生故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được chẳng ưa thích sanh trong hết thảy chúng sanh, bất động đối với hết thảy chúng sanh?)

 

          Nếu có các thiện tri thức phát ra thệ nguyện “vĩnh viễn chẳng luân hồi”, sẽ v́ hết thảy chúng sanh đang luân hồi mà mở ra một vùng đất rộng lớn, khiến cho hết thảy chúng sanh có sức tự tại mà chẳng xâm đoạt thế gian. Quư vị nói “ta chẳng muốn luân hồi nữa”, bèn giống như đưa chúng sanh tới một không gian khác. Tức là giống như quư vị nói “ta chẳng cần thứ này”, sẽ chẳng chiếm hữu thứ ấy nữa, giống như bố thí vậy. Không sát sanh giống như phóng sanh. Chúng ta chẳng muốn sanh trong chúng sanh nữa, vậy th́ chẳng thể khuấy động chúng sanh, nhất định sẽ an lập thế gian này. Người hành Ban Châu hăy nên lập thệ nguyện như thế, chẳng đến, chẳng đi, thủ hộ thanh tịnh, chẳng tăng, chẳng giảm, chân thật thủ hộ, tâm trụ trong pháp giới, dùng công dụng của pháp giới để lợi ích các hữu t́nh trong pháp giới. Như thế th́ quư vị sẽ có thiện xảo.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc bất vị nhất thiết ngoại đạo hàng phục, thiên ma hoặc loạn cố?

          ()云何當得不爲一切外道降伏。天魔惑亂故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ chẳng bị hết thảy ngoại đạo hàng phục, thiên ma mê hoặc?)

 

          Trong hành pháp Ban Châu, đă tiến nhập thanh tịnh th́ thiên ma chẳng thể lừa dối, mê hoặc, ngoại đạo chẳng thể xâm phạm. Nếu chẳng như thế, chúng ta rất khó vượt thoát ngoại đạo và thiên ma. Khi chúng tôi đả Phật thất, đă có một lần gặp phải thiên ma quấy nhiễu. Trước kia, đối với các cơ chế truyền thừa, tôi chẳng hiểu rơ lắm. Chẳng hạn như nói các chỗ điện đường, thiền đường, nơi bế quan đều phải có ba tầng mành. Khi đả thất, cũng phải kéo mành xuống để bảo vệ, che chắn, sợ trong tâm mọi người có điều bận ḷng, nhưng để che chắn điều ǵ, tôi cũng chẳng hiểu cho lắm! Có một ngày, niệm Phật miết, mà mọi người đều chẳng thể niệm, tôi nh́n xem v́ sao đại chúng ở phía dưới đều chẳng niệm? Chính tôi muốn niệm cũng chẳng thể niệm được! Một bầu thinh lặng, là chuyện ǵ thế? Tôi nh́n th́ ra lớp mành ngoài cùng không kéo xuống. V́ sao một tầng mành không kéo xuống mà bị trở ngại như thế? V́ “thiên chúng bất quá tam”, [tức là] có một tầng trở ngại, họ c̣n có thể lướt qua; đến tầng trở ngại thứ ba, họ sẽ chẳng vượt qua. Đấy là do phước báo của họ, họ chẳng phải đón nhận khó khăn. Kẻ đón nhận khó khăn th́ chẳng phải là phước báo, mà là khổ báo. V́ lúc đó chỉ có hai lớp mành, họ vượt qua lớp thứ nhất rồi lại vượt qua lớp thứ hai, thấy chúng tôi đang niệm rồi lại niệm, thân họ có quang tướng quá lớn, khiến cho mọi người bị soi trúng, câm nín hết. Cho đến khi buông mành đàng hoàng rồi, mọi người lại bắt đầu niệm được. Đó là bị thiên ma gây khó dễ. Vị trời ấy chưa chắc là ma, nhưng sức mạnh của vị ấy lớn hơn chúng ta, chúng ta chẳng thể vượt thắng vị ấy, vị ấy sẽ giống như ma. Lúc đó, chủ yếu là sức mạnh ngoài ư muốn, mọi người đều khá mệt mỏi. Trong t́nh huống chí nguyện chẳng rơ ràng, bị họ làm khó, buông mành xuống là được rồi. Do vậy, nhất định phải biết: Lịch đại tổ sư, thiện tri thức chế định nghi quỹ, đều có nội hàm riêng, chân thật chẳng dối. Đối với người thật sự hành Ban Châu, những thứ đó sẽ chẳng gây khó khăn hay quấy nhiễu họ được! V́ một câu Nam-mô A Di Đà Phật là vạn đức hoằng danh (萬德宏名, danh hiệu rộng lớn có vạn đức), là danh hiệu trọn đủ công đức lợi ích hữu t́nh trong chín pháp giới, lợi ích chúng sanh trong mười phương, bao gồm chư thiên, ngoại đạo, bao gồm hết thảy Thanh Văn, Bồ Tát, hết thảy người có trí. Đương nhiên là hết thảy phàm ngu hữu t́nh cũng được bao gồm trong ấy. V́ thế nói là “lợi ích trọn khắp hữu t́nh trong chín pháp giới mười phương, do một câu danh hiệu đều hồi thí viên măn, an ủi thanh tịnh, lợi ích chân thật, quư vị chẳng có ǵ phải sợ hăi!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc đại biện tài, ư nhất thiết pháp quyết liễu tri cố?

          ()云何當得大辯才。於一切法決了知故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đắc đại biện tài, quyết định biết rơ hết thảy các pháp?)

 

          Người hiện thời niệm Phật đều niệm rất trơn tru, nhưng điều đó và biện tài chẳng ăn nhập ǵ với nhau! Biện tài có thể tiêu trừ lo ngờ cho chúng sanh, trừ nghi hoặc cho chúng sanh, kiến lập pháp ích, ban thiện xảo cho chúng sanh. Hành pháp Ban Châu quyết định là như thế, đối với hết thảy các pháp, sẽ quyết đoán, sẽ có thể chọn lựa, có thể biết rơ, có thể ban cấp sự thiện xảo cho chúng sanh.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc nhất thiết Phật pháp, bất tùy tha hành cố?

          ()云何當得一切佛法。不隨他行故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được trong hết thảy Phật pháp, chẳng ngả theo người khác?)

 

          Trong sự chọn lựa để học Phật của chúng ta, chẳng xuôi theo ư của người khác. Người niệm Phật có thể bị kẻ khác dao động hay chăng? Người tu hành các pháp môn khác cũng có thể chẳng bị người niệm Phật lay động, nhưng có một điều: Thâm nhập một môn hết sức trọng yếu! Thay đổi hạnh tu là nghiệp chướng của chúng sanh, là tướng trạng thiện căn chẳng chín muồi, là tướng do dự, băn khoăn, là tướng chọn lựa chẳng dứt khoát, phước đức chẳng trọn đủ. Do vậy, thâm nhập một pháp là thiện căn đă chín muồi!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc đại kiên cố tín, vô khả thôi hoại cố?

          ()云何當得大堅固信。無可催壞故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đạt được niềm tin vững chắc to lớn, chẳng thể phá hoại?)

         

          Đối với hành pháp Ban Châu, công đức và lợi ích ấy là chuyện tất nhiên.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc đại từ lực tín, bất khả động cố?

          ()云何當得大慈力信。不可動故。

          (Kinh: Như thế nào sẽ đạt được niềm tin đại từ lực chẳng thể động?)

 

          V́ hành pháp Ban Châu “lập một niệm, đoạn các tưởng”, trong tu tŕ Định Ư tam-muội, “bất khả động” (chẳng thể lay động) là chuyện tất nhiên. Trong loại tín lực chẳng thể hủy hoại này, trong pháp tắc chẳng thể dao động này, “bất khả động” có khá nhiều phương tiện: Phương tiện tri kiến, phương tiện hành pháp, phương tiện lợi ích, phương tiện chọn lựa pháp môn, phương tiện vận dụng Bi và Trí v.v… đều có sức chẳng thể nghĩ bàn.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc thâm nhập tín, vô sở hành cố?

          ()云何當得深入信。無所行故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đạt được niềm tin thâm nhập, chẳng có sở hành?)

 

          Ở đây là nói về pháp tùy thuận, thực hiện mà chẳng có dấu vết.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc nhuận trạch tín, ư nhất thiết pháp trung, đa hoan hỷ cố?

          ()云何當得潤澤信。於一切法中多歡喜故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được niềm tin nhuần thấm, nhiều hoan hỷ trong hết thảy các pháp?)

 

          Nhuận trạch chúng sanh là pháp phương tiện, hành pháp tuyệt đối là lợi ích thế gian. Tôi hỏi rất nhiều người: “V́ sao hành Ban Châu?” Có người nói: “Ôi chao! Chân tôi bị phong thấp. Tôi mong hết bệnh phong thấp”. Có được hay không? Được chứ! Trong hai loại lợi ích tự lợi và lợi tha đều có thể đạt được, đích xác là tôi cũng thấy chân người ấy khỏi bệnh phong thấp, nhưng như thế th́ cũng quá đáng thương, sẽ giống như thí dụ “năng mậu ngưu hồ” (có thể đổi lấy trâu hay không) trong kinh Ban Châu, tức là thắc mắc có thể đổi báu ma-ni lấy một con trâu hay không? Nếu ai chỉ v́ thân thể khỏe mạnh hơn mà hành pháp [Ban Châu], sẽ giống như dùng báu ma-ni để đổi lấy trâu, chẳng cần báu ma-ni nữa!

          Trong khi chúng ta tu pháp, Tín rất trọng yếu, lợi ích thế gian rất trọng yếu. Sanh hoan hỷ đối với hết thảy các pháp rất trọng yếu. Bất luận hành pháp Ban Châu, hay hành hết thảy các pháp khác, vui sướng, hoan hỷ rất quan trọng. Rất nhiều người nói v́ chính ḿnh rất khổ, cho nên mới đến hành pháp. Có được hay không? Điểm xuất phát của cái tâm có vấn đề! Do chính ḿnh đau khổ, buồn thương mà hành pháp, như vậy th́ sẽ khá khổ sở. Nếu biết chẳng có khổ để t́m được, chẳng có lạc để có thể đạt được, do hành pháp sẽ có thể đạt được tâm trí Vô Thượng Bồ Đề thanh tịnh, có thể đối trị khổ, có thể sanh khởi các thứ lạc. “Lạc” đây chẳng phải là lạc trong “tham lạc” (niềm vui sướng v́ thỏa măn ḷng tham), mà là niềm vui chẳng đắm nhiễm, niềm vui chẳng đối đăi, dẫu trong khổ cũng được vui. Thọ giác (受覺, sự nhận biết, cảm nhận) chẳng có thực chất, quư vị coi nó như một loại lạc th́ sẽ là lạc, coi nó là khổ th́ sẽ thành khổ. Quư vị kêu: “Rành rành là khổ mà!” Chẳng phải vậy!Rành rành là khổ” là một thứ nhận biết của quư vị. Nếu nói “ta sợ nỗi khổ này”, sẽ khổ càng thêm khổ, tức là bị Khổ Khổ bức bách. Nói: “Tôi mong cho nỗi khổ này chấm dứt”, cũng là bị Khổ Khổ bức bách. Khổ đă hiện tiền, quư vị nhận biết nó, đó là lạc trong khổ, là sự thọ dụng trong khổ, là thiện xảo trong khổ. Trong khổ bèn có thiện xảo, nhưng mọi người thường chẳng biết. Chẳng hạn như kẻ đặc biệt khổ, từ trong khổ có thể sanh ra đại thiện xảo, v́ khổ cũng là của cải chẳng thể thay thế được! Trước kia, có người nói với tôi: “Pháp sư ơi! Tôi thấy thầy quá khổ”. Tôi nói: - Tôi cũng biết khổ, nhưng người khác chẳng thể thay thế được. Quư vị đă chẳng thay cho tôi được, mà tôi cũng chẳng thay cho quư vị được. Mỗi người có “của cải” riêng, có của cải khổ, mà cũng có của cải lạc. Chớ nên đánh mất của cải của chính ḿnh!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc tối thắng tín, cúng dường, thừa sự nhất thiết chư Phật vô yếm túc cố?

          ()云何當得最勝信。供養承事一切諸佛無饜足故。

          (Kinh: Làm thế nào để đạt được niềm tin tối thắng, cúng dường, phụng sự hết thảy chư Phật chẳng chán đủ?)

 

          Hành Ban Châu rất dễ kích phát điều này. Nếu không, chúng ta vẫn chưa tu đạo, chẳng có sức tam-muội chân thật! Thật sự thành tựu, quư vị sẽ ưa thích hết thảy cơ hội cúng Phật, hết thảy cơ hội lợi ích chúng sanh; đấy là điều chân thật, chẳng dối. Nếu vẫn c̣n trong buông lung, giải đăi, hoặc c̣n vướng trong phân biệt, lấy bỏ, quư vị chẳng phải là hành giả của pháp Ban Châu, chẳng phải là người thật sự chứng pháp ích, chẳng phải là người b́nh đẳng an trụ.

          (Kinh) Vân hà đương đắc chủng chủng nhập tín, chủng chư thiện căn cố?

          ()云何當得種種入信。種諸善根故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đạt được các thứ nhập tín, gieo các thiện căn?)

         

          “Chủng chủng nhập tín” (Các thứ nhập tín): Trong các thứ tín, có sự sai biệt quá lớn. Chúng ta ở trong tham, sân, si, mạn, nghi, trong vô kư, khi Tam Độc sanh khởi, lúc ba nghiệp thân, khẩu, ư sanh khởi, nếu nhận biết tự tánh, tín lực sẽ nhanh chóng sanh khởi. Nếu chẳng nhận biết tự tánh, trôi nổi theo gịng nghiệp, sẽ nhanh chóng bị vô minh bức bách. Chẳng hạn như sân tâm sanh khởi, hễ nhận biết tự tánh của sân tâm, sẽ lập tức sanh ḷng tin đối với Phật, chánh tín hiện tiền, tự biết “sân chẳng có tự tánh”, liền đạt được phương tiện. Trong giáo ngôn của Mật giáo, từ trong tham, sân, si, mạn, nghi, sẽ ngay lập tức chọn lựa năm loại trí[1]. Ở đây là sự chọn lựa nơi tự tánh, tức là sự chọn lựa nơi tổng tướng, tột bậc thuận tiện. Một khi tiến vào phân tích tỉ mỉ, người ta sẽ dễ hỗn loạn. Tham sanh khởi, [nhận biết nó] chẳng có tự tánh, chánh tín sẽ sanh khởi. Lúc các thứ sân, mạn, nghi, tà kiến sanh khởi, quư vị chớ lưu chuyển theo chúng nó, sẽ lập tức sanh khởi chánh tín. Chẳng cần trừ khử tham, sân, si, mạn, nghi, chúng ta nói “gieo các thiện căn”, các thiện căn ấy ở nơi đâu? Sanh khởi từ ngay trong sát-na tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng. Đó là thiện căn, thiện căn ǵ vậy? Hiểu rơ tự tánh, hiểu rơ tự tánh của tham, sân, si, mạn, nghi, thiện căn sẽ chín muồi! V́ sao? Lập tức tu. Hành Ban Châu chính là tu ngay lập tức trong hiện tiền. Tu ǵ vậy? Hiểu rơ tự tánh! Ở đây là chân thật chẳng dối, cho nên nói “chủng chủng nhập tín”. V́ các thứ nhân duyên hiện tiền, tất nhiên sẽ sanh khởi chánh tín. Chánh tín ǵ vậy? Ngay trong lúc tham, sân, si, mạn, nghi, cho tới buông lung, vô kư, chẳng hổ, chẳng thẹn, hôn trầm sanh khởi, do các duyên ấy mà hiểu rơ các pháp chẳng có tự tánh, tức là khi thiện căn đă chín muồi. Đó là thiện căn thật sự. Chúng ta nói “hoa sen mọc từ bùn lầy mà chẳng nhuốm bẩn”. Nếu quư vị gạt bỏ bùn lầy, hoa sen sẽ sanh từ đâu? Từ tham, sân, si, mạn, nghi, sanh trưởng hoa sen thanh tịnh. Hoa sen tồn tại nơi bùn nhơ nước đục “tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến”, bản chất của nó là thanh tịnh vô nhiễm! Các vị thiện tri thức hăy khéo quan sát nhé!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc chân diệu tín, tăng trưởng vô hư ngụy hạnh cố?

          ()云何當得真妙信。增長無虛僞行故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đạt được niềm tin chân thật, mầu nhiệm, tăng trưởng hạnh chẳng hư ngụy?)

 

          Thông thường, đối với hư ngụy và chân thật, chúng ta có nghi ngờ. Thật ra, mười phương hết thảy hữu t́nh, không ai chẳng phải là liên tục hư ngụy! Hết thảy người thủ hộ công đức Tam Bảo, không ai chẳng an lập trong nghiệp chân thật. Đối với chuyện này, chúng ta phải xác định vị trí của chính ḿnh. Nếu chẳng xác định vị trí [của chính ḿnh], sẽ nẩy sanh vấn đề. Do vậy, người học Phật chúng ta khuyên hết thảy chúng sanh: “Muốn hành Phật pháp, trước hết phải thọ Tam Quy Y”. Tam Quy Y là duyên khởi của nghiệp chân thật, là thủ hộ nghiệp chân thật, là an trụ trong nghiệp chân thật. Trong Lục Niệm Trụ[2], đều phải niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Đó là đối tượng được niệm của nghiệp chân thật, nhất định chớ nên hàm hồ! Trong t́nh huống hàm hồ, chúng ta có thể tưởng là trong tâm của chính ḿnh vẫn có thể sanh khởi nghiệp chân thật, nhưng thật ra, nếu chẳng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, chúng ta sẽ chẳng đạt tới, chẳng thể thành tựu nghiệp chân thật được!

          “Vân hà đắc chân diệu tín” (Như thế nào để đạt được diệu tín thật sự)? Cũng là chọn lựa diệu tín. Chọn lựa ǵ vậy? Thân, khẩu, ư tam nghiệp của hết thảy phàm phu không ǵ chẳng phải là nghiệp hư ngụy! Quư vị phải vứt bỏ [các nghiệp hư ngụy ấy]! Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng là sanh khởi nghiệp chân thật, an lập nghiệp chân thật, tùy thuận nghiệp chân thật. Đấy là “tăng trưởng vô hư ngụy hạnh”. Nhất định phải chọn lựa [nghiệp hạnh chân thật]. Nếu chẳng chọn lựa, chân diệu tín sẽ chẳng thể sanh khởi.

          Rất nhiều kẻ trẻ tuổi hay nói: “Tôi học Phật chẳng tin vào h́nh thức, chỉ tin tưởng tâm địa”. Tôi nói: “Quư vị lấy tâm địa ra cho tôi xem là ǵ đi? Là màu vàng, màu trắng, hay là màu lam? Họ chẳng nói rơ được, rất mơ hồ. Một khi chọn lựa Tam Quy Y, sẽ rơ ràng, Phật, Pháp, Tăng, chân thật chẳng dối. Tăng là “lợi ích thế gian rộng lớn, ḥa hợp hữu t́nh”. Pháp là gột sạch thế gian, nhuần thấm thế gian, khiến cho chúng sanh trụ trong an lạc. Phật là từ bi lợi ích rộng lớn, làm chỗ nương cậy chân thật cho chúng sanh. Nhất Chân pháp giới cũng thế, chân thật chẳng tăng giảm cũng thế, tâm địa viên măn cũng thế, cũng đều giống như vậy. Đó là hạnh nghiệp chân thật. Bồ Tát nhất định phải xem xét kỹ ở chỗ này, chớ nên chần chờ. Có khi chúng ta vẫn giả thiết chính ḿnh có thể có chút bản lănh, vậy th́ nhất định sẽ đi lầm đường, đọa lạc trong ngă mạn, ngă kiến, ngă chấp. Chẳng tin th́ hăy tự phân tích chính ḿnh thử xem! Ngoài các nghiệp hư ngụy, sẽ là ngă nghiệp. Ngoài ngă nghiệp ra th́ ương ngạnh chấp chặt, giữ ǵn nghiệp vô thường. Như thế là khổ đấy các vị Bồ Tát và thiện tri thức ạ!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc tịnh hỷ tín, trừ diệt nhất thiết kỵ đố cấu cố?

          ()云何當得淨喜信。除滅一切忌妒垢故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đạt được niềm tin hoan hỷ thanh tịnh, trừ diệt hết thảy cấu uế ghen ghét?)

 

          Tâm đố kỵ tức là phàm phu chẳng có cái tâm tùy hỷ, chính là tâm trí đấu tranh Ngă Chấp, Ngă Kiến. Trong thời Mạt Pháp, tâm trí ấy mạnh mẽ nhất. Cái tâm Tu La chính là tuyệt đối chẳng cho phép kẻ khác mạnh mẽ hơn ta. Ngươi mạnh hơn ta, ta vĩnh viễn chẳng chịu thua! Đó là cái tâm đố kỵ, cho nên Tu La tranh chấp, giết chóc vô cùng, măi cho tới khi sanh mạng kết thúc, chẳng hề nghỉ ngơi! C̣n nhân loại chúng ta th́ sao? Trong mười đại nguyện vương, phải “tùy hỷ công đức”. Đức Phật dạy “hồi hướng công đức”, “hồi thí công đức”. Tu tŕ cái tâm tùy hỷ mười phần quan trọng đối với hữu t́nh.

          Trong khi hành tŕ Ban Châu, cái tâm tùy hỷ cũng thường sanh khởi, sẽ xa ĺa đố kỵ, cho nên đạt được niềm tin hoan hỷ thanh tịnh. Nếu có cái tâm tùy hỷ, tâm sẽ rất an lạc, rất sạch làu, rất đơn giản, quư vị chẳng cần phải dụng công! Hễ người khác có chuyện tốt lành, chuyện vui sướng, quư vị tự nhiên sanh hoan hỷ, tự nhiên sanh khởi trợ duyên, sẽ chẳng do dự, lại càng chẳng muốn khiến cho họ đau khổ. Nếu muốn tạo duyên gây khó khăn cho họ, đó là chẳng tương ứng. V́ thế, tâm trí tùy hỷ sanh khởi vui sướng, trụ trong an lạc. Nhân duyên như thế được gọi là “tịnh hỷ tín”, trừ diệt hết thảy cấu uế đố kỵ.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc thanh tịnh tín, đắc Nhất Thiết Chủng Trí quang minh cố?

          ()云何當得清淨信。得一切種智光明故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đạt được niềm tin thanh tịnh, đạt được quang minh Nhất Thiết Chủng Trí?)

 

          Nhất Thiết Chủng Trí là một danh từ riêng trong Phật giáo. Người thành tựu Tứ Quả A La Hán là người thành tựu Nhất Thiết Trí, Bồ Tát th́ có Đạo Chủng Trí. Chư Phật Như Lai th́ có quang minh Nhất Thiết Chủng Trí (Sarvathāāna). Nhất Thiết Trí là tổng tướng trí, Đạo Chủng Trí là phân biệt trí. Hai loại này được gọi là hai đại trí tướng trong Phật giáo, tức là nói theo hai phương diện Tổng và Biệt. Chư Phật Như Lai trọn đủ Nhất Thiết Chủng Trí, tức là hết thảy tổng tướng trí và biệt tướng trí đều trọn đủ. Hành Ban Châu sẽ có thể đạt được thiện xảo như vậy. Từ tự tánh thanh tịnh lưu xuất cái được gọi là “thanh tịnh tín”, cũng là quang minh Nhất Thiết Trí lưu xuất từ tự tánh. Quang minh lưu xuất từ tự tánh là chẳng thể nghĩ bàn. Hành Ban Châu có thể khơi gợi, phát khởi loại quang minh tâm trí này, tổng tướng lẫn biệt tướng đồng thời đều trọn đủ. Hành pháp Ban Châu đồng hành với sự thiện xảo của Bát Địa [Bồ Tát], thuộc về Bát Địa Bồ Tát, cho nên đạt được chẳng thoái chuyển. Rất nhiều người xem nhẹ Ban Châu. Sau khi chúng ta học bộ kinh Ban Châu này, sẽ có thể thấy pháp Ban Châu v́ sao khó có, khó nghe, khó gặp. [Được nghe pháp này], quả thật là đại phước đức chín muồi! Thoạt nh́n, tưởng chừng đơn giản, nhưng học tập, thực hiện pháp tắc này rất khó, hết sức chẳng dễ. Trong phần sau, chúng tôi sẽ nói, như khi đức Phật c̣n tu nhân, muốn nghe pháp này, phải trải qua bao nhiêu ngàn năm cúng dường Phật, vẫn là mong được nghe mà chẳng thể nghe, muốn hành tŕ mà chẳng thể hành tŕ được!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc hỷ lạc hạnh tín, trừ diệt chư cái chướng ác cố?

          ()云何當得喜樂行信。除滅諸蓋障惡故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được hỷ lạc hạnh tín v́ trừ diệt các cái chướng ác?)

 

          Lợi ích thật sự của hành pháp Ban Châu là tiêu trừ cái chướng. Bản thân hành pháp hỷ lạc có sức chẳng thể nghĩ bàn, bản thân nó có sự thiện xảo trừ khử cấu chướng. Nếu quư vị chẳng ưa thích pháp, chẳng ưa thích hành pháp, tất nhiên sẽ ưa thích thế tục. Đối với chuyện này, chẳng cần phê phán, v́ tâm nghiệp tiếp nối, quư vị chẳng thể phủ định. Đối với điều này, chúng ta hăy nên khéo quan sát: Quư vị chẳng ưa thích Phật pháp, tất nhiên sẽ ưa chuộng thế tục. Quư vị nói: “Ta không ưa thích Phật pháp, mà cũng chẳng ưa thích thế tục”, vậy th́ tất nhiên là quư vị ưa thích vô kư, giải đăi, buông lung, vẫn là thế tục, khó thoát khỏi lưới rập!

          Ưa thích hành tŕ giáo ngôn của chư Phật, ưa thích hành tŕ pháp, hết thảy ác duyên tự nhiên tán hoại, hữu ư hay vô ư túc duyên của chúng ta tiếp nối, chẳng thể cắt đứt, phá tan sự liên tục của Dị Thục Quả[3]. Đương nhiên, chủng tử ác vẫn thúc đẩy quư vị, nhưng trong khi hành pháp Ban Châu, niệm Phật và tu tập Phật pháp đă phá tan rất nhiều ngoại duyên có tánh ác. Đồng thời, tuy ngoại duyên có tánh chất ác bị phá hoại, vẫn c̣n có rất nhiều nhân duyên của Dị Thục Quả có tánh chất ác đă chín muồi, nhưng chỉ cần quư vị chẳng thuận theo chúng, trong khi niệm Phật, trong khi tu pháp, trong yêu mến pháp, trong ưa thích pháp, sẽ phá tan nghiệp duyên của Dị Thục Quả. Thế nhưng nghiệp duyên của Dị Thục Quả vẫn tiếp nối, chúng ta gọi chúng là “hành khổ tương tục” (hành khổ tiếp nối), Bồ Tát đều chẳng thể trốn khỏi, đừng mong chúng ta có thể trốn thoát được!

          Đối với những cái gọi là “tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê, là năm cái rễ của địa ngục”, hành tŕ Ban Châu sẽ khiến cho quư vị giảm bớt ăn uống, [v́ pháp Ban Châu] chẳng cho phép quư vị ngủ nghê, cứ đi tới, đi lui (kinh hành) như thế, danh ǵ cũng chẳng có, lợi ǵ cũng chẳng có, sắc ǵ cũng chẳng có, chân thật, chẳng dối, trọn đủ viên măn. Do vậy, có thể phá trừ các chướng, các Cái; [hay nói cách khác] Cái lẫn Chướng đều trừ. “Tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê” được gọi là Ngũ Cái. Chướng th́ Thân Chướng (chướng ngại nơi thân), Sở Tri Chướng, Phiền Năo Chướng v.v… quá nhiều! Quư vị thấy một người khi phiền năo vừa mới dấy lên, chuyện ǵ cũng đều chẳng quản. T́nh tự vừa dấy lên, chuyện ǵ cũng đều chẳng hỏi tới. Vừa xoa mặt, chuyện ǵ cũng đều chẳng thấy, chẳng phải là chướng ư? Chướng ngại ai vậy? Chẳng có ǵ có thể gây chướng ngại th́ sẽ chẳng chướng. Hễ có thứ ǵ có thể gây chướng ngại, th́ sẽ là Kế Tục Chướng (chướng ngại liên tục, tiếp nối).

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc trí hỷ tín, nhiếp thọ chư Phật cảnh giới cố?

          ()云何當得智喜信。攝受諸佛境界故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đắc trí hỷ tín để nhiếp thọ cảnh giới của chư Phật?)

 

          Trong mười phương pháp giới, cảnh giới của chư Phật là Nhất Chân b́nh đẳng, viên măn, Nhất Chân rộng lớn, Nhất Chân thanh tịnh, Nhất Chân như thật. Cho nên trong Nhất Chân pháp giới, chúng ta nói là Phật pháp trí. Chúng ta đọc phẩm Nhập Bất Tư Nghị Cảnh Giới của Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, đó là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật. Nếu thật sự thường xuyên đọc, chẳng cầu cảnh giới của chư Phật mà quư vị thường có cảnh giới của chư Phật. Do vậy, năm nay chùa Phóng Quang tụng kinh Hoa Nghiêm, tôi cảm thấy mười phần vui mừng, an ủi, v́ đă gia bị khiến cho sơn thần, thổ địa, long thiên, hộ pháp cả một vùng này, cũng như các vị thiện tri thức đến và đi đều được hưởng sự gia tŕ từ cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật.

          Trước kia, tôi đă gặp một số vị thiện xảo sau khi đă hành pháp, có chứng ngộ, ắt đều đọc Hoa Nghiêm. V́ sao? Họ đă tiến nhập cảnh giới tam-muội rất sâu, rơ ràng, an lạc, rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn. Khi đó, họ sẽ sợ nhận sai đường lối, cho nên bèn tiến nhập cảnh giới chư Phật để xem xét: “Ồ! Hết thảy chứng ngộ vốn chẳng qua là tướng sai biệt nơi cảnh giới đó thôi! Thật ra, chẳng có cảnh giới rộng lớn, rốt ráo, trang nghiêm của chư Phật”. Do vậy, chính họ sẽ sanh khởi cái tâm khiêm hạ và tâm điều phục, nhu ḥa niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, sẽ giống như Long Thọ Bồ Tát. Chúng ta đều biết Long Thọ Bồ Tát dùng chín mươi ngày để đọc tụng trọn hết văn tự trong Diêm Phù Đề, cảm thấy trong thiên hạ chẳng có ǵ lỗi lạc! [Tự cho rằng] “đức Thế Tôn cũng bất quá chỉ là như thế, chính ḿnh cũng có thể lập giáo, có thể chế giới, sửa đổi”. Khi đó, Long Vương Bồ Tát bèn mời Ngài đến long cung. Ngài vừa tụng thượng, trung, hạ phẩm của Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh bèn trở thành kẻ thật thà. V́ sao vậy? V́ cảnh giới của chư Phật thật sự chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể nói năng, chẳng thể trái nghịch, chẳng thể giữ lấy, rộng lớn rốt ráo. “Bất tư nghị, bất khả ngôn” (chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể nói), trong kinh Hoa Nghiêm, các ngôn từ như vậy rất nhiều. Chẳng có hạn lượng, sẽ đạt được đại phương tiện. Đối với cảnh giới có thể nghĩ bàn, cảnh giới hữu lượng, người đă hiểu không có hạn lượng sẽ chẳng nghĩ các cảnh giới ấy là đúng. Nhưng đối với người chỉ biết hữu lượng, sẽ câu nệ trong sự hạn lượng ấy. Câu nệ ở chỗ nào vậy? Câu nệ là v́ tự cho ḿnh là đúng!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc trang nghiêm hạnh tín, thắng nhất thiết thế gian anh lạc trang nghiêm, Phật quốc thanh tịnh thành tựu cố?

          ()云何當得莊嚴行信。勝一切世間瓔珞莊嚴。佛國清淨成就故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đạt niềm tin được trang nghiêm bởi các hạnh, hơn hẳn hết thảy các sự trang nghiêm bởi các chuỗi anh lạc trong thế gian, thành tựu sự thanh tịnh nơi cơi Phật?)

 

          Chúng ta đều biết: Hành Ban Châu có thể khiến cho mười phương chư Phật thảy đều hiện tiền. Những điều được nói ở đây đều là nội hàm thực chất của tam-muội “mười phương chư Phật thảy đều hiện tiền”. “Thắng nhất thiết thế gian anh lạc trang nghiêm” (Hơn hẳn sự trang nghiêm bởi hết thảy các chuỗi anh lạc trong thế gian): Trong pháp của chư Phật, anh lạc (các chuỗi đeo kết bằng châu báu) biểu thị sự sám hối. Trong quá khứ, người giảng kinh ngực đeo chuỗi anh lạc, tay cầm anh lạc hoặc như ư[4], nhằm biểu thị Phật pháp trang nghiêm, tôn quư, khiến cho tâm trí của chúng sanh chiếu kiến. Anh lạc chẳng phải để trang nghiêm tự thân, tự thân dùng ǵ để trang nghiêm? Cái thân xú uế, thân vô thường, thân Tứ Đại tụ tập, thân suy bại trong mỗi lúc, do v́ trang nghiêm Phật pháp ḥng biểu thị pháp, cho nên phải đeo chuỗi anh lạc. Thật ra, trước khi giảng kinh, sẽ có các thứ vật trang nghiêm để cúng dường. Các thứ vật trang nghiêm cúng dường ấy nhằm biểu thị ḷng mong cầu pháp như thật, thủ hộ pháp như thật, nhận thức, vâng giữ pháp như thật, chẳng nhằm trang nghiêm một người nào, mà là [để biểu lộ] ḷng kính ngưỡng, lễ kính, tán thán, thuận tùng của mọi người. Chẳng hạn như trong Tạng Truyền Phật giáo, hễ mở một pháp hội lớn, sẽ phải xếp đặt rất nhiều thứ vật cúng dường trang nghiêm, để làm ǵ? Muốn cho bậc thiện xảo, bậc thiện tri thức sẽ ban bố sự hoan hỷ, ban bố Tất Địa (Siddhi, thành tựu) cho chúng ta, khiến cho mọi người được trụ trong an lạc. Do vậy, trên thực tế, [trang nghiêm bằng vật phẩm cúng dường] chẳng phải là v́ mọi người coi trọng một người hay không, mà là để biểu thị mọi người nhận biết pháp ấy có trọng yếu hay không.

          “Phật quốc thanh tịnh cố” (v́ thanh tịnh cơi Phật): Chúng ta hành Ban Châu, thấy quốc độ trang nghiêm, mười phần như ư, hoặc là trong hiện tiền, hoặc là trong Định cảnh, hoặc trong mộng, hoặc lúc xả báo, chẳng khó! Đích xác là chẳng khó. Người nói tới cảnh giới rất nhiều, nhất là người niệm Phật; chớ nên v́ cái tâm tăng thượng mạn mà kể lể cảnh giới này nọ! Nếu do nương vào sức thanh tịnh mà được thấy [các cảnh giới ấy] th́ hữu dụng. Đó là do sức thiện xảo và sức phước đức nhân duyên chín muồi!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc thanh tịnh giới hạnh, vĩnh diệt nhất thiết Thanh Văn, Bích Chi Phật tâm cố?

          ()云何當得清淨戒行。永滅一切聲聞辟支佛心故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đạt được giới hạnh thanh tịnh, vĩnh viễn diệt hết thảy cái tâm Thanh Văn và Bích Chi Phật?)

 

          “Thanh tịnh giới hạnh”: Đức Phật tán thán quả Thanh Văn, quả Bích Chi Phật, quở trách tâm Thanh Văn và tâm Bích Chi Phật. Quở trách là để ngăn chặn. Chúng ta hành Ban Châu cũng nhằm ngăn trở cái tâm Thanh Văn, tâm Bích Chi Phật như thế, tán thán lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của quả đức. Trong giáo ngôn Đại Thừa, nếu [hành nhân đă chứng quả địa Thanh Văn, tức là] chứng Thật Tế lư địa, bị chư Phật quở trách chính là quở trách cái tâm [chấp trước an trụ trong quả địa ấy, chẳng phát nguyện rộng độ chúng sanh] như vậy, chứ chẳng phải là quở trách cái quả như thế. V́ quả Thanh Văn hay Bích Chi Phật thật sự là tự lợi viên măn chẳng thể nghĩ bàn. Tuy đức Phật nói theo sự so sánh, th́ [các quả vị ấy] chẳng có thiện xảo lợi tha, nhưng đă tự lợi viên măn. Chúng ta nhất định chẳng dám khinh rẻ, chê trách quả Thanh Văn, chỉ có thể chê trách tâm Thanh Văn. Nếu chính ḿnh đă phát tâm Thanh Văn, sẽ phải quở trách. V́ sao? Tâm Thanh Văn hạn hẹp, đắm ch́m trong tự lợi, sa vào chấp giữ Diệt Độ, sa vào chấp trước Thật Tế, đáng nên bị quở trách.

          “Vĩnh diệt Bích Chi Phật tâm” (vĩnh viễn diệt trừ cái tâm Bích Chi Phật): Trước kia, tôi đă đọc thấy Long Thọ Bồ Tát có nói: “Thà đọa địa ngục một kiếp, hai kiếp, ba kiếp, chẳng sanh một niệm tâm Thanh Văn”, tôi cảm thấy rất khiếp sợ! May mắn là tôi chẳng phát tâm Thanh Văn. Thuở ấy, tôi thật sự nghĩ: Chính ḿnh có thể chứng đôi chút lợi ích là đă tuyệt diệu lắm rồi, c̣n mong tưởng chi nữa? Do vậy, sanh cái tâm kém cỏi, v́ lợi ích của chính ḿnh, v́ tránh né sanh tử mà cầu Niết Bàn. Thuở đó, [cái tâm hèn kém ấy] rất mạnh mẽ. Về sau, bị thiện tri thức quở trách, lại do xem các kinh điển, biết cái tâm đó thật sự là lợi ích hẹp ḥi. Quả thật cảm kích tâm trí rộng lớn của Long Thọ Bồ Tát đă khích lệ tôi thành thục [cái tâm Đại Thừa]. V́ nếu quư vị thật sự có cái tâm Thanh Văn, Ngài sẽ khích lệ quư vị [dũng mănh tiến cao hơn]. Nếu quư vị chẳng có cái tâm Thanh Văn, Ngài sẽ khiến cho quư vị thấy thấu suốt cái tâm Thanh Văn.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc trang nghiêm đại thệ, nhất thiết sở tác giai cứu cánh cố.

          ()云何當得莊嚴大誓。一切所作皆究竟故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đạt được đại thệ trang nghiêm, hết thảy việc làm đều rốt ráo?)

                   

          Chúng ta thường nói Thanh Văn Bồ Đề tâm, Bồ Tát Bồ Đề tâm, và Vô Thượng Bồ Đề tâm. “Đại thệ trang nghiêm” được nói ở đây chính là Vô Thượng Bồ Đề tâm, v́ “nhất thiết sở tác giai cứu cánh cố” (hết thảy việc làm đều rốt ráo) cũng chính là huân tập Vô Thượng Bồ Đề. Vô Thượng Bồ Đề tâm chẳng nhờ vào đến, đi, chẳng nhờ vào tu chứng, biểu đạt bằng cách nào? V́ thế nói “quả địa giác, nhân địa tâm”, có thể vận dụng thích đáng Vô Thượng Bồ Đề tâm. Do nương vào nguyện lực của chư Phật nơi quả địa, chúng ta có thể tùy thuận Vô Thượng Bồ Đề tâm, có thể thanh tịnh thành tựu, cho nên nói là “trang nghiêm đại thệ”. Thệ nguyện của chư Phật Như Lai không ǵ chẳng phải là đại thệ nguyện, “độ tận chúng sanh, phương thành Phật đạo” (độ hết sạch chúng sanh th́ mới thành Phật đạo), rộng lợi ích hữu t́nh, chân thật chẳng dối, như “văn ngă danh hiệu, câu lai ngă sát” (nghe danh hiệu của ta, đều sanh về cơi ta). Đấy đều là lời chân thật, lời thành thật. Nếu nói A Di Đà Phật phát nguyện là “văn ngă danh hiệu, nhược lai ngă quốc, nhược bất lai ngă quốc” (nghe danh hiệu của ta mà có thể sanh về cơi ta, hay chẳng sanh về cơi ta), ta sẽ chẳng tin tưởng. Đấy chẳng phải là lời thành thật, chẳng phải là lời chân thật, chẳng phải là lời lẽ dứt bặt đối đăi. V́ thế, đức Phật dùng lời thành thật để nhiếp thọ rộng khắp hữu t́nh.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc vi nhất thiết chúng sanh trung thượng thủ, dục hành chư thiện pháp cố?

          ()云何當得爲一切衆生中上首。欲行諸善法故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được là bậc thượng thủ trong hết thảy đại chúng v́ muốn hành các thiện pháp?)

 

          Trong Phật giáo, “thượng thủ giáo ngôn” tức là lời dạy của bậc Bồ Tát trụ thế. Trong cơ chế của giáo ngôn ấy, thường là dùng các vị thị giả thân cận chư Phật Thế Tôn làm đại biểu cho thượng thủ của chúng sanh. Như trong kinh Hoa Nghiêm, Văn Thù và Phổ Hiền làm thượng thủ trong đại chúng. Hoặc trong thế giới Cực Lạc, Quán Âm và Thế Chí làm thượng thủ của đại chúng. Dược Sư Như Lai th́ có Nhật Quang Bồ Tát và Nguyệt Quang Bồ Tát làm thượng thủ của đại chúng. Bậc thượng thủ như thế hướng dẫn hữu t́nh tiến hướng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, phụ trợ đức Thế Tôn, tạo thành cơ chế giáo ngôn không khiếm khuyết, ban bố sự thanh tịnh rộng lớn. “Chúng trung thượng thủ” (bậc thượng thủ trong đại chúng) là v́ muốn hành các thiện pháp. “Thiện” ở đây chẳng phải là điều thiện tương đối trong thế gian, mà bao hàm điều thiện do đối ứng với ác trong thế gian, khiến cho hết thảy chúng sanh tấn nhập, hoàn thiện rốt ráo A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Do vậy, nói hai thiện pháp xuất thế gian và thế gian cùng lúc trọn đủ, làm bậc thượng thủ dẫn dắt, mong thực hiện. Muốn hành cái pháp ấy, bậc Bồ Tát làm thượng thủ của đại chúng dùng bi, hoặc dùng trí, hoặc dùng oai đức, hoặc dùng thệ nguyện để lập các thứ thiết chế, khiến cho hết thảy kẻ hữu duyên do thiết chế thanh tịnh ấy bèn được hướng dẫn tăng thượng sự thành tựu.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc vô hữu b́ quyện, vị dục giáo thọ nhất thiết Bồ Tát sở học chư Ba La Mật cố?

          ()云何當得無有疲倦。爲欲教授一切菩薩所學諸波羅蜜故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được chẳng mệt mỏi v́ muốn dạy bảo các môn Ba La Mật mà hết thảy Bồ Tát đă học?)

 

          V́ thành tựu Ban Châu tam-muội sẽ gồm thâu hết thảy các chuyện thuộc Bát Địa, đối với vô công dụng, sẽ đạt được thiện xảo rộng lớn, chọn lựa tâm trí của hết thảy Bồ Tát, không sợ hăi ǵ. Do đó, chẳng chán ngán, mệt mỏi đối với pháp. Chúng ta có thể thấy sự sai biệt trong tạo tác nghiệp giữa phàm và thánh: Phàm phu hữu t́nh v́ tâm lượng hữu hạn, rất dễ dàng mệt mỏi, chán ngán. Thoạt đầu th́ nẩy sanh cảm giác hiếu kỳ, mới mẻ, hấp dẫn, bị lôi cuốn, sẽ tiến nhập pháp tắc. Nhưng thường là đă quen thuộc rồi, sẽ nẩy sanh cảm giác mỏi mệt, chán chường, buông bỏ, chán ĺa. Các vị Bồ Tát dùng đủ mọi thiện xảo để lợi ích thế gian trọn khắp, do mong mỏi nhiếp hóa nên chẳng có mệt chán. Cho nên nói “chúng sanh vô tận, phiền năo vô tận”, tạo tác các nghiệp để ban bố lợi ích cho hữu t́nh trong thế gian, dạy bảo các hữu t́nh trong thế gian chẳng hề chán mệt. Tâm trí như thế, tác dụng như thế, hành pháp như thế, lợi ích thế gian như thế, công đức chân thật ấy chẳng phải là nói suông, mà thật sự là hành vi chân thật, tương ứng với cái tâm.

          “Dục giáo thọ nhất thiết Bồ Tát sở học chư Ba La Mật” (muốn dạy bảo các môn Ba La Mật mà hết thảy các Bồ Tát đă học): Tại đất Hán, chúng ta thường nói tới Thập Ba La Mật[5], Nam Truyền Phật giáo có ba mươi môn Ba La Mật. Vô lượng vô biên Ba La Mật đều thuộc vào môn trí huệ thiện xảo, có thể tiếp độ chúng sanh thành tựu tâm trí Vô Thượng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Tại đất Hán, chúng ta phần nhiều dùng Ba La Mật môn làm thiện xảo để nhiếp hóa chúng sanh, trong hết thảy mọi lúc, hết thảy mọi nơi, đều như huyễn quán sát, như huyễn liễu tri, như huyễn đích thân chứng đắc. Ví như làm việc trong mộng chẳng vướng mắc, thiết lập phương tiện, do chẳng có được mất, cho nên khéo léo cân nhắc, thủ hộ tự tâm. Đó là đại oai đức thiện xảo tự nhiên chiêu cảm thành thục, cho nên “giáo thọ nhất thiết Bồ Tát sở học chư Ba La Mật” (dạy bảo các môn Ba La Mật mà hết thảy các Bồ Tát đă học) chẳng hề chán mệt.

          Trong hai pháp mệt và chán của hữu t́nh, hai pháp giải đăi và buông lung, hai pháp hôn trầm và vô kư là tùy phiền năo, tất nhiên chúng sẽ tiếp tục chín muồi. Tuy xa ĺa tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng, nhưng v́ chán mệt, hôn trầm, vô kư, vô lực, cho nên [hành giả] chẳng đắc lực nơi các tam-muội, chẳng thể thủ hộ thanh tịnh, do tác dụng trí huệ thần thông thiện xảo rộng lớn chẳng thể trọn đủ, đă tiến nhập th́ sẽ phần nhiều sanh chán mệt. Đó là chuyện chẳng ngờ chi nữa! Mang thân phận phàm phu hữu t́nh, chúng ta đều nhận biết và quan sát sâu đậm chuyện này!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc bất thoái chuyển, đa cầu nhất thiết Phật pháp cố?

          ()云何當得不退轉。多求一切佛法故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được bất thoái chuyển, cầu nhiều hết thảy Phật pháp?)

 

          Bất luận chúng ta đă tiếp xúc rất nhiều tài liệu về Ban Châu cũng thế, hoặc trong các cách nói theo sự truyền thừa trong lịch sử cũng thế, hoặc người cận đại quan sát thực tiễn cũng thế. Nói chung, nội hàm được thâu nhiếp trong hành pháp Ban Châu là “bất thoái ngay trong một đời”, cũng có nghĩa là công đức của bậc Bát Địa Bồ Tát. Do các địa vị thấp hơn Bát Địa Bồ Tát vẫn c̣n có khả năng bị thoái chuyển. Nói theo giáo ngôn Tịnh Độ là pháp môn tu nơi quả địa, nếu hết thảy chúng sanh duyên theo pháp này, trong một đời, chắc chắn đắc bất thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề! Đối với chuyện này, đức Thế Tôn đă từng chuyên biệt thọ kư, thọ kư rộng khắp, thọ kư đúng như thật. Đối với hết thảy các vị Bồ Tát có thể thật sự liễu giải, tiếp xúc, tu tập, thủ hộ pháp môn Tịnh Độ, sự thọ kư ấy là thọ kư như thật. Nếu là [cái nhân] như thế, ắt sẽ đắc cái quả như thế, nguyện như thế, thành tựu như thế!

          “Vân hà đương đắc bất thoái chuyển” (như thế nào th́ sẽ đạt được chẳng thoái chuyển) ư? Nếu chúng ta nương vào tự lực để kiên tŕ hành tŕ, th́ từ ngữ “bất thoái chuyển” sẽ rất khó tuyên nói, càng chẳng cần nói tới sự thành tựu nơi pháp ích. Nhưng nếu dựa theo sức phước đức thù thắng của Phật, khi hiện duyên chín muồi, sẽ thấy chư Phật, Bồ Tát, cho tới được chư Phật đích thân đến dạy bảo. Như thế th́ “bất thoái chuyển ngay trong một đời” chẳng phải là chuyện khó! V́ cơ duyên và pháp chẳng đồng nhất, giáo pháp bèn thiết lập Quyền và Thật. Do vậy, trong pháp Vô Thượng Thừa, căn cơ to lớn, tác dụng to lớn, thành tựu ngay trong một đời, đúng là chẳng thể nghĩ bàn!

          “Đa cầu nhất thiết Phật pháp cố” (v́ cầu nhiều hết thảy Phật pháp): Ở đây, trong việc thủ hộ tổng tướng của pháp môn, tức là trong giáo ngôn về quả địa, đă bao hàm, dung nạp hết thảy các pháp, ngầm hộ tŕ hết thảy các pháp, duyên theo, thành tựu hết thảy các pháp. Đó là vạn đức trọn đủ.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc bất khả hoại, bất vị nhất thiết ngoại đạo, tà sư sở phá cố.

          ()云何當得不可壞。不爲一切外道邪師所破故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được chẳng thể hoại, chẳng bị hết thảy ngoại đạo và tà sư phá hoại?)

 

          Nói theo hành pháp Ban Châu, tất cả các cầu nguyện và hành pháp của chúng ta, chỉ có Phật và Phật là có thể biết, chỉ có Phật và Phật là có thể thấy. Chỉ dựa vào thấy Phật làm phương tiện tăng thượng, vứt bỏ hết thảy các tạp duyên, cho nên hết thảy ngoại đạo, tà sư chẳng thể đụng chạm, chẳng thể hủy hoại được! V́ cớ sao? Do chẳng có cái duyên ấy! Khi chúng ta tu pháp Ban Châu, lập một niệm, đoạn các tưởng, niệm một phương, do nguyện lực và công đức thù thắng của A Di Đà Phật gia tŕ, do sức thần thông gia tŕ, do sức nguyện lực nhiếp hóa, khiến cho sức công đức sẵn có của chúng sanh được thành tựu, được đích thân chứng đắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền, nghe giáo pháp thù thắng, chọn lựa giáo huấn tối thượng của chư Phật Như Lai, quán tự tánh của các pháp “chẳng đến, chẳng đi”, đích thân chứng tự tánh chân thật, xa ĺa hết thảy sự quẩn quanh trong sanh tử và nghi lự đắm nhiễm!

          “Tà sư” là kẻ chẳng nói giáo pháp rốt ráo, chẳng rộng ban cho chúng sanh lợi ích chân thật, chẳng thể khiến cho hữu t́nh đạt được bất thoái chuyển ngay trong một đời. Trong các pháp đối đăi, phần nhiều thuộc về tà sư. Nói là “tà” tức là chẳng thể khiến cho chúng sanh nhập chánh tri, chánh kiến, chánh nghiệp, chánh mạng, thành tựu chánh trí, chánh định, cho đến rốt ráo thành tựu Bồ Đề. Thậm chí rơi vào sự tướng, quẩn quanh nơi nhân địa. Trong kiếp giảm, các hữu t́nh phần nhiều chẳng thể sanh vui thích nơi pháp, chẳng thể sanh ḷng tin đối với pháp, cho nên phần nhiều bị tri kiến bất chánh xúi giục, sai khiến, rơi vào tà lưu ác kiến, trầm luân trong thế gian, chẳng thể tự thoát ra được, nhưng công đức của hành pháp Ban Châu tam-muội tuyệt đối chẳng thể phá hoại, dẫu ngoại đạo lẫn tà sư cũng đều chẳng thể phá được!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc thâm tín nhất thiết chư Phật, bất xả thử niệm, thường kiến chư Phật cố.

          ()云何當得深信一切諸佛。不捨此念常見諸佛故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ tin sâu hết thảy chư Phật, chẳng bỏ niệm ấy, thường thấy chư Phật?)

 

          Tam-muội Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập được gọi là tu tŕ Định Ư tam-muội, tức là thủ hộ và tiếp nối ư niệm định ư do sự gia tŕ và thuần thục của Phật lực, Phật nguyện, sức thần thông, sức công đức, mà có thể chẳng bỏ thân hạnh này, được thấy chư Phật. Tu hành pháp Ban Châu nếu chẳng bỏ tạp duyên, tức là tri kiến của ngoại đạo, tri kiến của tà sư, hoặc các thứ tri kiến chẳng như thật, sẽ bị các thứ tri kiến và các thứ tư tưởng nhiễu loạn, như thế th́ Định Ư tam-muội sẽ khó thể thành tựu được!

          Mấy năm qua, rất nhiều người tu tập hành pháp Ban Châu hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bảy ngày, hoặc thời gian lâu hơn, đối với chuyện này đều có quan sát, nhưng người có thể giữ nhất quán Định Ư tam-muội từ đầu đến cuối rất ít. Thậm chí người có thể nhất quán trong một ngày một đêm rất hiếm hoi, tột bậc hiếm hoi! Có người thiện căn đă chín muồi, có thể nhất quán trong một ngày một đêm như thế, thân tâm biến hóa khó thể diễn tả, thí dụ được, phước đức và nhân duyên chín muồi khó thể diễn đạt được! Nếu trong một ngày một đêm giữ được định ư nhất quán từ đầu đến cuối, người ấy chẳng thể nghĩ bàn, được mười phương chư Phật thủ hộ, tán thán, hứa khả, được hết thảy Bồ Tát yêu mến, tôn trọng, cúng dường. Thật đấy, chẳng giả! Trong pháp tắc này, chúng ta hăy nên như thật quan sát tâm trí của chính ḿnh, trọn chớ nên có cái tâm viện cớ che đậy, hư ngụy, dối lừa. Nếu thật sự trong một ngày một đêm chẳng đánh mất niệm, chẳng đánh mất chánh niệm, không có ư niệm sai lầm, hành tŕ pháp tắc như thế, sẽ sanh ra tâm trí thiện xảo cực lớn, khó thể thí dụ diễn nói được.

          Do Định Ư tam-muội th́ có thấy Phật hay không? Nếu là “tin sâu hết thảy chư Phật, chẳng bỏ niệm này”, tức là chúng ta là người thật sự tin Phật, nhất quán từ đầu đến cuối, giữ ǵn định ư, đoạn trừ các tưởng, nhưng do niệm một phương, do được gia tŕ bởi nguyện lực, sức thần thông, sức vô ngại của Phật và do công đức vốn có của chúng ta chín muồi, sẽ nhất định có thể thấy Phật, nghe lời dạy thù thắng của chư Phật, giải trừ hết thảy nghi ngờ lo lắng, giải trừ những thứ pḥng ngự và gánh nặng trầm trọng. Đó gọi là thật sự đắc đại tự tại, đích thân chứng quang minh nơi tự tánh, hiểu tách bạch bản chất của tự tánh, ĺa hết thảy che đậy, lấp liếm, tỏ lộ diện mục chân thật, nhập Thật Tế lư địa, an trụ trong pháp tắc chân thật.

          Đối với điều này, chúng ta hăy nên quan sát; hiện thời, pháp tắc này được tu tập rất rộng, rất phổ cập trong nước. “Phổ cập” ở đây chẳng thể nói là phổ cập như các hành pháp niệm Phật đơn giản khác, nhưng người hành tŕ cũng đông, đă được hữu t́nh tiếp nhận trong thực tế. Thoạt đầu, mọi người không chấp nhận hành tŕ pháp Ban Châu, nhiều kẻ phỉ báng, nghi ngờ, hủy báng; nhưng qua sự tu tập và quan sát của mọi người trong mấy năm qua, nhất là do nương theo giáo pháp, nương theo kinh điển để tu tập đúng như thật, đă dần dần có thể quan sát thấy: Căn tánh của hữu t́nh trong hiện thời là kém cỏi; điều xuyên suốt từ đầu đến cuối là thiện xảo chẳng thể thành thục. Do vậy, không ngừng tu tập pháp này. Như các vị cư sĩ thường trụ tại Hằng Dương Am đă hành tŕ liên tục pháp tắc này hơn một năm qua, một ngày một đêm, hoặc một ngày hai đêm, hoặc thời gian dài hơn đôi chút, nhưng có thể trong một ngày một đêm “lập một niệm, đoạn các tưởng” nhất quán từ đầu đến cuối, chẳng thất niệm, chẳng đánh mất ư niệm, người thủ hộ thanh tịnh như thế có được mấy người? Đối với điều này, những người tu tập ai nấy tự có thiện căn chín muồi, tự vận dụng, tự được chư Phật Như Lai thủ hộ.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc như phụ tưởng, thiệu long nhất thiết Phật pháp cố.

          ()云何當得如父想。紹隆一切佛法故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ tưởng như cha, để tiếp nối hưng thịnh hết thảy Phật pháp?)

 

          “Phụ” (cha) có nghĩa là người thúc đẩy sanh khởi hết thảy công đức. V́ thế, trong trước tác của Long Thọ Bồ Tát, Ngài đă tán thán hành pháp Ban Châu là “cha của hết thảy chư Phật”, Bát Nhă là mẹ của hết thảy chư Phật. Hành pháp Ban Châu là cha của hết thảy chư Phật, v́ có thể thúc đẩy sanh khởi công đức “nhập thế gian, rộng độ hết thảy hữu t́nh” của hết thảy chư Phật. Bát Nhă là mẹ ấp ủ, nuôi nấng hết thảy công đức, dưỡng dục pháp tắc của hết thảy chư Phật, chứa đựng thế gian rộng khắp.

          “Thiệu long nhất thiết hành pháp” (tiếp nối hưng thịnh hết thảy các hành pháp): Hành pháp Ban Châu thật sự trọn đủ oai đức này, trọn đủ thiện xảo này, trọn đủ nội hàm chân thật này. Nếu có người thành tựu biết, nếu người thiện xảo biết, nếu người tu tập như thật biết, nếu là người chọn lựa như thế th́ sẽ quyết định thủ hộ, thủ hộ không ngờ vực. V́ hữu t́nh trong thời đại này mê hoặc, lẩn quẩn trong sự cảm nhận dựa trên tri kiến của chính ḿnh. Từ trong ngoại duyên hư vọng, tức sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê mà họ đă cảm nhận, họ chẳng thể chọn lựa một pháp tắc, chẳng thể tu tập thanh tịnh, chẳng thể bỏ ĺa hết thảy tạp duyên để tu tập một pháp tắc, cho nên cơ hội thành thục thiện căn như thế lại càng ít ỏi. Do vậy, chúng tôi không ngừng dựa theo pháp tắc để cổ vũ, khích lệ, khuyến hóa, hướng dẫn, tăng thượng, xúc tiến thành lập một cơ chế ngoại vi, nhưng cơ chế nội tại th́ vẫn đích xác là mỗi hữu t́nh cần phải phát tâm.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc Phật lực gia tŕ, ư nhất thiết Phật pháp quang minh trung sanh cố?

          ()云何當得佛力加持。於一切佛法光明中生故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được Phật lực gia tŕ để sanh trong hết thảy quang minh của Phật pháp?)

 

          Đây là một cơ chế riêng biệt của hành pháp Ban Châu. Trong giáo ngôn về quả địa của pháp môn niệm Phật, nương theo nguyện lực của Phật để trực tiếp tiến nhập quang minh tạng, thanh tịnh b́nh đẳng, hết thảy chúng sanh đều được văng sanh trong tâm trí quang minh b́nh đẳng, đạt được sự thủ hộ thanh tịnh. Do duyên khởi niệm Phật, cho nên hễ khởi lên, đều là quang minh. Quang minh b́nh đẳng, chẳng hề vướng mắc, đều được văng sanh, chẳng có đối đăi. Chọn lựa mười hai thứ quang minh [của A Di Đà Phật], tức là Vô Lượng Quang, Vô Biên Quang, Vô Ngại Quang, Vô Đối Quang, Diễm Vương Quang, Thanh Tịnh Quang, Hoan Hỷ Quang, Trí Huệ Quang, Bất Đoạn Quang, Nan Tư Quang, Vô Xưng Quang, Siêu Nhật Nguyệt Quang. Dùng hết thảy các loại quang minh chẳng thể diễn nói chiếu rạng thế gian để tiêu trừ hết thảy t́nh chấp đối đăi, t́nh chấp thánh phàm. Hành pháp Ban Châu cũng giống như thế, do được Phật lực chẳng thể nghĩ bàn gia tŕ, tức là do được Phật quả đức lực gia tŕ, sẽ diệt trừ tâm trí sai biệt của hết thảy chúng sanh, nhập quang minh tạng b́nh đẳng, quang minh tạng chẳng thể nghĩ bàn, miễn trừ hết thảy quang minh tạng đối đăi. Ở trong quang minh tạng như thế, có thể thúc đẩy sanh khởi hết thảy công đức, tức là các thứ trang nghiêm quốc độ, các thứ trang nghiêm cho bậc đương cơ trong hiện tại, cho nên nói là ban bố cho chúng sanh lợi ích tối thượng thừa, khiến cho hết thảy các chúng sanh đều b́nh đẳng giác ngộ.

          Hành pháp Ban Châu đích xác là chẳng thể nghĩ bàn như thế. Khi ấm cảnh hiện tiền, đúng là dịp bố thí sự thủ hộ b́nh đẳng. Trong hành pháp Ban Châu, đa số hữu t́nh chẳng thể tự thoát khỏi ấm cảnh, cũng có nghĩa là đọa lạc, trầm luân trong sự tướng, chẳng thể giác ngộ. Từ kinh nghiệm bản thân, tôi đă biết rất nhiều người tu hành, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày trong khi thực hành pháp này, có nhiều ấm cảnh, nhiều người bị ấm cảnh vây hăm, chiết phục, lôi kéo, khống chế, chẳng thể tự thoát ra được, bèn chấp giữ ấm cảnh. V́ cớ sao? Do chưa thoát khỏi mộng, chưa thoát khỏi tri kiến và giác thọ của chính ḿnh, chưa cậy nhờ trí b́nh đẳng, trí quang minh, trí vô ngại, và sự gia tŕ và hồi thí thanh tịnh viên măn của đức Phật, chỉ dựa trên sự cảm nhận về sự tướng của chính ḿnh, tức là do trần nhiễm đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, sanh ra giác, thọ, tưởng, hành, thức, quẩn quanh mơ màng trong ấm cảnh, nhận biết sai lầm tâm trí của chính ḿnh, nhận biết sai lầm pháp tắc, chẳng có sức để nhất quán từ đầu đến cuối đối với “lập một niệm, đoạn các tưởng”, chẳng nhiễm, chẳng chấp, không vướng, không mắc, trực tiếp chọn lựa thấy Phật, cho nên phần nhiều rơi vào ấm cảnh, chẳng đạt được quang minh. V́ nếu thật sự được Phật lực gia tŕ, sẽ có thể khiến cho hết thảy ngăn chướng nơi hết thảy ấm cảnh bị tiêu trừ.

          Các vị thiện tri thức! Nếu dùng tâm trí chẳng đối đăi làm bước khởi đầu để tu tập hành pháp này, tức là thủ hộ Định Ư tam-muội, nương theo tâm trí nơi vô ngại quả đức của Phật, tâm trí Vô Thượng Bồ Đề, tâm trí chẳng mong mỏi, chỉ cầu thấy Phật, lập một niệm ấy, tất nhiên sẽ tiến nhập quang minh tạng. Ở trong biển quang minh tạng ấy mà gột rửa vô minh, hắc ám, trần cấu vốn là những thứ chẳng để đạt được, ḥng được thấy chư Phật Như Lai. Hăy nên biết Phật lực! Hăy nên niệm phương ấy (phương vị của đức Phật được chọn làm bổn tôn trong hành pháp Ban Châu)! Hăy nên biết nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn của Phật! Sự hồi thí nơi quả địa của Phật chẳng thể nghĩ bàn! Nhân duyên giáo hóa rất sâu của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn! Ở đây, giải thích mười phần rơ ràng. “Tại Phật pháp quang minh trung sanh” (sanh trong quang minh của Phật pháp), thúc đẩy sanh khởi các công đức. Nhưng phàm phu hữu t́nh phần nhiều tăng ích đạo đức và thiện căn nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp qua sự cảm nhận của chính ḿnh, cho nên đâm ra phần nhiều chẳng tương ứng khít khao với pháp tắc này, chẳng có duyên tương ứng. Quả thật hăy nên nhờ vào sự gia tŕ của Phật lực, từ trong quang minh của Phật mà xúc tiến sanh khởi Pháp Thân huệ mạng và các thứ thiện xảo của chính ḿnh. Phải mười phần chú ư điều này!

          Do thứ tự đặt câu hỏi ở đây là “đương như phụ tưởng” (hăy nên nghĩ như cha), tức là tiếp tục thúc đẩy công đức sanh khởi. “Phật pháp quang minh” cũng là hiển thị “trí Bát Nhă là mẹ của công đức, là mẹ của chư Phật”. Đừng coi thường những lời này! Nếu quư vị nhận biết đúng mực, sẽ biết chọn lựa chân thật trong hết thảy các nghiệp duyên như huyễn, sẽ trụ trong phương tiện thiện xảo rộng lớn. Nếu chúng ta thật sự nhận biết hết thảy các pháp hữu vi như mộng, như huyễn, ở trong huyễn duyên, trong mộng duyên, chúng ta sẽ làm ǵ? Ai nấy đều có thể chọn lựa; trong cái nhân duyên mộng huyễn hiện thời, chọn lựa cái tâm, nghiệp, và duyên của chính ḿnh như thế nào? Chúng ta c̣n cần tô son, trát phấn, cần trang điểm chi nữa? C̣n cần những thứ hư giả, chứng ǵ, thành tựu ǵ nữa ư? Như thế th́ chúng ta sẽ thật sự đối diện tâm địa của chính ḿnh để chọn lựa, an bài sanh mạng và khát vọng của chính ḿnh.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc vô chướng ngại, nhất thiết Phật pháp tất hiện tại tiền cố?

          ()云何當得無障礙。一切佛法悉現在前故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được chẳng chướng ngại, hết thảy Phật pháp đều hiện ra trước?)

 

          “Đương đắc vô ngại” (sẽ được vô ngại): Trong quá tŕnh học tập Phật pháp, sẽ có những ǵ chướng ngại chúng ta? Không ǵ chẳng ngoài được hay mất. Thứ ǵ sẽ chướng ngại chúng ta? Không ǵ chẳng ngoài thánh hay phàm. Điều ǵ có thể trở ngại chúng ta? Không ǵ chẳng ngoài hết thảy đối đăi lấy hay bỏ. Ngă Chấp, Ngă Kiến chướng ngại hữu t́nh. Có nghĩa là Phiền Năo Chướng và Sở Tri Chướng khiến cho chúng sanh mê mất tự tâm, do mỗi thứ chướng pháp ấy mà chẳng đạt được thiện xảo, chẳng đắc lực. Như thế th́ pháp của chư Phật chẳng thể hiện tiền! Nhưng hành Ban Châu chính là tu ngay trong mỗi niệm hiện tại, tu ngay trong mỗi niệm hiện tiền, tức là khi các chuyện, các nhân, các duyên hiện tiền, sẽ nương vào sức vô ngại, nương vào sức báo đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật để quan sát, cũng tức là nương theo tự tánh vô nhiễm, tự tánh không chấp trước, sức vô tự tánh [mà chính ḿnh] vốn sẵn có để quan sát ngay trong mỗi niệm, cho đến nương vào sức công đức của danh hiệu Phật để nhanh chóng thành tựu quang minh của tự tánh, chiếu rơ, nhận biết hết thảy các pháp vốn đă trọn đủ, hết thảy các pháp vốn sẵn trang nghiêm, hết thảy chư Phật vốn sẵn an lập, hết thảy sự trang nghiêm trong biển pháp giới thanh tịnh an lập vốn chẳng rời ĺa trong khoảng sát-na, thành tựu vô lượng pháp tắc thiện xảo!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc như huyễn nhân, ư nhất thiết pháp vô tư niệm cố?

          ()云何當得如幻人。於一切法無思念故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được như kẻ huyễn hóa, trong hết thảy các pháp, chẳng suy nghĩ?)

 

          Tại Ấn Độ, có các huyễn sư có thể dùng các thủ đoạn như chú thuật, phù lục (bùa phép) v.v… khiến cho các chúng sanh tiến nhập huyễn cảnh, sanh ra đủ loại mừng sợ, [trông thấy] đủ loại trang nghiêm. Hiện thời, chúng ta là huyễn nhân, hay người như thật? Nếu hiểu rơ “pháp chẳng có tự tánh”, có nhân duyên của hữu t́nh nào chẳng phải là nhân duyên nhất thời ḥa hợp biến hiện? Có thực chất ǵ vậy? Quư vị từ vô thỉ đến nay, thiện ác, lớn nhỏ, đúng sai, có thứ ǵ để có thể đạt được? Đều là các thứ nhân duyên tụ hợp, quả thật chẳng sanh, mà cũng chẳng hiện, chỉ là do cưỡng chấp duy tŕ, sẽ nẩy sanh các thứ lực và tác dụng. Lực và dụng ấy không ǵ chẳng phải là tác dụng của pháp tánh, nhưng khi mê mất, chấp trước, sẽ nẩy sanh tướng nghiệp lưu hư vọng. Nếu từ trong hết thảy được, mất, chúng ta thấy thấu suốt bản chất của chúng, há c̣n đắm nhiễm nơi được mất ư? V́ thế, huyễn nhân chẳng cầu được, mất, chẳng sợ được, mất; có ai chẳng phải là huyễn nhân? Có ǵ là biết như thật? Chúng ta tu hành pháp Ban Châu, nhất định sẽ có sự quan sát như thế.

          các vị xuất gia và cư sĩ tu hành pháp Ban Châu, sanh ra cảm nhận được gọi là hư huyễn. Nếu trong t́nh huống thông thường, sẽ bị tổn thương rất lớn; nhưng khi hành tŕ Ban Châu, nó chẳng gây tổn giảm cho người ấy. Hễ khôi phục thái độ b́nh thường th́ chẳng sao cả! Tôi nhớ khi mọi người hành tŕ pháp này ở vùng Đông Bắc[6], do nhân duyên khác, tôi bèn rút lui, muốn đến Bản Nạp (Sipsong Panna)[7]. Khi ở trạm xe và phi trường, cảm thấy rất yếu ớt, chẳng phải là không biết rơ, nhưng chẳng có cách nào dùng ư niệm để điều khiển nhân duyên của chính ḿnh, v́ bất cứ tâm niệm nào cũng đều chẳng đắc lực. Khi đó, nếu nói là bị thất niệm th́ quả thật chẳng thất niệm, chỉ là chẳng thể dùng sức. Thông thường, sau khi hành Ban Châu ba ngày, tư duy muốn dùng sức sẽ rất khó. Thật sự tu tập, sẽ rất khó thể dùng những cái gọi là ư nghĩ, ư niệm của chính ḿnh. Ư nghĩ và ư niệm đều là hư vọng tạo tác, cơ bản là đă tiến nhập một trạng thái nghỉ ngơi đặc biệt; đó là một hiện tượng khá phổ biến. Đương nhiên là nếu “niệm trong một kỳ hạn, niệm một phương”, chẳng mê muội cái tâm đă phát ban đầu của chính ḿnh, nhất quán từ đầu đến cuối, người như vậy nếu có thể hành một ngày, hai ngày, ba ngày, nhân duyên ấy cũng khó thể diễn tả, chỉ có hành giả biết, theo đúng pháp mà ấn khế.

          Giữa nhiều người tu tập như vậy, v́ sao có người tương ứng, có người chẳng tương ứng, kết quả sai lệch bất đồng? Đó là do nguyện vọng và tâm trí của mỗi cá nhân [khác biệt]. Rất nhiều người hành pháp trong khi kinh hành, cũng như trong quá tŕnh kinh hành, phần nhiều nẩy sanh tâm lư muốn nghỉ ngơi, tránh né, chẳng muốn đi nữa, hoặc là cuồng vọng, tự đại, cho nên tinh thần sa sút, chẳng mong hành tŕ nữa, bèn hôn trầm, nghỉ ngơi. Loại người ấy là kẻ tránh né, chẳng thể tương ứng với pháp, mà kẻ tâm trí cuồng vọng, hợm ḿnh, sôi nổi cực độ giống như mắc chứng cuồng tưởng cũng chẳng thể tương ứng. Do vậy, nếu tri kiến có thể đúng như thật nhất quán từ đầu đến cuối, liền gặp Phật, nghe pháp, tin sâu Phật lực chẳng thể nghĩ bàn, tin sâu công đức gột rửa của danh hiệu Phật thanh tịnh và quang minh thanh tịnh, người ấy sẽ có thể trong một ngày, hai ngày, ba ngày, bảy ngày đạt được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Có lợi ích như vậy hay không? Thật sự là người tu tập th́ sẽ biết. Nội hàm thực chất của hành pháp Ban Châu thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Có người nói: “Chúng ta chẳng sanh ra lợi ích trong hiện thời, vậy th́ lợi ích trong vị lai rốt cuộc là như thế nào?” Lợi ích của hành pháp Ban Châu trong vị lai đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta chẳng thể dùng lợi ích để dụ dỗ hữu t́nh, nhưng trong hơn một trăm hai mươi câu hỏi được đặt ra ở đây, quả thật [đă diễn tả] nội dung thực chất của lợi ích do hành tŕ Ban Châu. Nội dung ấy chính là lời thành thật, lời chân thật của đức Phật ban bố cho chúng sanh.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc như hóa giả, quán nhất thiết pháp vô sanh diệt cố?

          ()云何當得如化者。觀一切法無生滅故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đạt được như hóa, quán hết thảy các pháp chẳng sanh diệt?)

 

          Trong hành tŕ Ban Châu, có thể là có các hữu t́nh hành pháp đối với cảm giác như hóa đă có sự nhận biết sâu sắc. “Quán nhất thiết pháp vô sanh diệt cố” (v́ quán hết thảy các pháp chẳng sanh diệt): Pháp vốn chẳng sanh diệt, nhưng nương vào các thứ hiện duyên và các thứ nhân duyên tiếp nối mà hiển lộ rành rành các thứ vật chất như huyễn, cho nên là “không, vô sở hữu”. Các loại hữu t́nh trong các loại pháp giới cho rằng pháp giới là có thật, nhưng thật ra, chẳng có pháp nào để có thể đạt được! Trong pháp chẳng thể được, chúng sanh vẫn tiếp tục duy tŕ các thứ cảm nhận, các thứ tri kiến, các thứ sanh mạng, và các thứ thiện ác của chính ḿnh, sáng lập Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, cho tới mười pháp giới. Mỗi giới đều phô bày công đức, đều hiển lộ tác dụng của pháp tánh. V́ thế, đức Phật nói “pháp giới duy tâm”, thật sự chẳng sanh diệt, nhưng do nương theo tâm trí tạo tác, tâm trí manh động, tâm trí nhân duyên mà liên tục xuất hiện các chọn lựa và các thứ tác dụng.

          Hết thảy các pháp thật sự chẳng sanh diệt. Trong khi hành tŕ Ban Châu, chúng ta có thể quan sát rơ ràng: Khi lập một niệm, các thứ ấm cảnh, các thứ cảm giác, đau, ngứa, ấm cảnh, cho đến cảnh quang minh, cho đến cảnh thấy Phật, cảnh hỏi pháp cũng đều là chẳng thể được, cũng là chẳng có sanh diệt, nhưng do tâm trí trói buộc, nguyện lực nêu bày, hành pháp sẽ hiển hiện tương ứng. Sự hiển hiện ấy như huyễn, như hóa, chẳng có thực chất. Hành giả sẽ đạt được diệu dụng, c̣n người nhiễm đắc sẽ trầm trọng, sẽ vướng mắc hệ lụy.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc như mộng, quán sát tam thế vô lai khứ cố?

          ()云何當得如夢。觀察三世無來去故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được như mộng, quan sát ba đời chẳng đến, đi?)

 

          Đối với loại cảm nhận này, có lẽ rất nhiều người đă tu hành pháp này, đọc tới đây, sẽ cảm thấy rất thân thiết. Thông thường, đối với người đă hành [Ban Châu] từ bảy ngày trở lên, đối với hết thảy hiện duyên hiện cảnh, phần nhiều chẳng sanh sợ hăi. Tôi đă thấy khá nhiều người tu hành pháp này từ bảy ngày trở lên, nếu chẳng mê mất trong ấm cảnh của chính ḿnh, có thể dựa theo giáo lư để thanh tịnh quan sát cặn kẽ, đối với những ngôn từ như “ba đời như mộng”, “ba đời như huyễn”, “tam thế nhất niệm”, “ba đời b́nh đẳng”, đều có thể cảm nhận. Thoạt đầu, trong khi tu hành pháp này, nhất là ở vùng Đông Bắc, có rất nhiều người hành Ban Châu, sau khi xuất quan đều nói: “Cảnh giới ấy tôi đă sớm từng thấy. Rất lâu trước kia, tôi đă biết quang cảnh ấy, đều đă thể nghiệm tinh thần ấy” v.v… Quả thật là nhất niệm chuyển dùng lẫn nhau!

          “Ba đời” là do chúng sanh hư vọng tự ấn định, trọn chẳng phải là như thật. V́ vậy, người có trí huệ, do có Thiên Nhăn Minh, Túc Mạng Minh, Lậu Tận Minh, sẽ có thể chuyển đổi giữa ba đời, hoán chuyển diệu dụng, nương vào lúc sức công đức thành tựu để chuyển hoán tới lúc túc duyên của chính ḿnh chưa thành tựu, ḥng lợi ích các hữu t́nh trong thế gian thuở chưa thành tựu, khiến cho họ được an lạc. Hoặc trước hết tiến nhập công đức thành Phật ḥng bố thí cho thế gian đang trầm luân, khiến cho những kẻ trầm luân trong hiện duyên của đời quá khứ nơi thế gian đều được độ thoát. Ba đời dùng lẫn cho nhau, vốn chẳng có chướng ngại. Trong sự tu chứng của Phật pháp, nếu đối với cái gọi là Bổn Tôn[8] Quán, hoặc Bổn Tôn Thí Giáo mà đích thân chứng đắc giáo nghĩa, sẽ có thể nương theo tâm trí của Bổn Tôn, giáo ngôn của Bổn Tôn, và pháp tắc của Bổn Tôn để lợi ích trời, người rộng lớn, nhưng Bổn Tôn thật sự chẳng có lúc trước hay lúc sau. Do vậy, “tam thế vô lai khứ” (ba đời chẳng đến đi), đến hay đi là do chúng sanh sử dụng, cũng như để cho bậc thiện xảo sử dụng. Bậc thiện xảo vào trong ba đời, “một niệm nhập ba đời, ba đời làm một niệm”, ai nấy đều đạt được phương tiện. Chúng ta đọc kinh Hoa Nghiêm, trong cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, quả thật chẳng có pháp nào để có thể đạt được, đúng là như huyễn, như hóa, thật sự là đạt được sức tự tại trong huyễn hóa. Thật sự là kẻ trí th́ sử dụng, c̣n kẻ ngu th́ mê muội!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc như kính tượng, nhất thiết thế giới tư hiện thân trung cố.

          ()云何當得如鏡像。一切世界斯現身中故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được như h́nh tướng trong gương, để hiện thân trong hết thảy các thế giới?)

 

          Trong việc tu tŕ môn tam-muội Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền này, chiếu soi, nhận biết hết thảy thế gian, hiện ra các thứ phương tiện trong sát độ thế giới, đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Đấy chẳng phải là sở chứng của bậc thánh, mà cũng chẳng phải là pháp tắc nào khác, mà là sở chứng của người có mong muốn thanh tịnh, do được chư Phật, Bồ Tát gia tŕ, sanh ra sự thiện xảo nơi tâm trí giống như tấm gương có thể chiếu soi thế gian.

          Trước kia, trong quá tŕnh tŕ chân ngôn Dược Sư, tôi đối với chuyện này có cảm xúc mười phần to lớn. Muốn vào địa ngục giới, muốn vào súc sanh giới, muốn vào quỷ pháp giới, nhân pháp giới, thiên pháp giới, Thanh Văn Duyên Giác pháp giới, đều có thể đạt được sức tự tại. Sức tự tại ấy chính là nương nhờ sức của chân ngôn, có thể chuyển vận cảm giác từ tâm trí vào trong các loại thế giới, thấy các phương tiện. Nếu thủ hộ đầu gối (chú tâm quán chủng tử của chân ngôn hiện ra nơi đầu gối), sẽ có thể khéo vào súc sanh pháp giới. Trong quá tŕnh tŕ chân ngôn Dược Sư, nhanh chóng tiến nhập súc sanh pháp giới, trông thấy đủ loại súc sanh, đủ loại luân hồi, đủ loại sanh mạng tiếp nối, đủ loại nguồn cội, cho đến đủ loại mong cầu, đủ loại khát vọng, đủ loại khổ nạn. Trong nhất thời, muốn biết sự thủ hộ của quỷ thần, bèn quán nơi rốn, dùng chân ngôn Dược Sư gia tŕ, sẽ tiến nhập tâm giới của các loại quỷ thần, trông thấy nhu cầu, tác dụng, thành tựu, sự đến đi, khát vọng, nỗi sợ hăi, tránh né của đủ loại quỷ thần. Đó là then chốt, là đàn tràng, và mấu chốt của quỷ thần. Nếu muốn quán nhân pháp giới, bèn quán nơi ngực, phần nhiều là quán sát thanh tịnh nơi ức, dùng sức chân ngôn để gia tŕ, sẽ có thể tiến nhập các thứ nhân loại, các thứ tâm trí, khát vọng, nhu cầu, băn khoăn, chọn lựa, sanh đây chết kia, chết đây sanh kia của con người. Đó là phương tiện. Nếu quán nơi lông mày, có thể trông thấy các thứ thiện xảo, vui chơi, hướng đến, trở về, trầm luân của chư thiên. Điều này chẳng khó, cũng có nhiều phương tiện. Nếu quán cảnh tướng địa ngục, hăy quán sát nơi bàn chân cho nhiều, nương theo chân ngôn thúc đẩy, sẽ thấy các thứ lửa, các thứ băng, các thứ gió, các thứ nạn, các thứ hành h́nh tàn khốc, các thứ gào khóc áo năo, các thứ nạn duyên chẳng thể nghĩ bàn cùng lúc hiện tiền. Các thứ chẳng thể nghĩ bàn ấy chỉ nương vào sức thúc đẩy của chân ngôn mà đều có thể cảm nhận, biết rơ!

          Thật sự là hết thảy thế gian rốt ráo như huyễn, đủ loại gương, cùng với điều then chốt và thực tiễn, đă được truyền thừa lâu đời từ xưa, cũng có vị thí giáo, cũng có người tu tập. Trong hành pháp Ban Châu, chúng ta muốn đạt được phương tiện thiện xảo này, cũng có thể khế nhập để tu tŕ trong một luân ấy (tức các chỗ vừa nói trong phần trên, như ngực, bụng, đầu gối v.v…) để làm thiện xảo. Quư vị nói: “Tôi tu pháp trong sự vui chơi, tôi chẳng thấy Phật”. Cũng có thể tu tŕ như thế, bất quá như thế th́ là đâm đầu vào ngơ rẽ, khiến cho người ấy sợ hăi mà đọa lạc, hoặc nói “chẳng thể [chứng đắc] ngay trong một đời”, cho đến sân hận, hoặc nẩy sanh kiêu mạn. Nếu đă đạt được sức tự tại th́ có thể hành tŕ pháp này.

          “Vân hà đương đắc như kính tượng, nhất thiết thế giới tư hiện thân trung cố” (Như thế nào th́ sẽ được như h́nh tượng trong gương để hết thảy thế giới đều hiện thân trong ấy): Đối với chuyện này, mọi người có thể tự chứng thực. Tôi chẳng cần phải giới thiệu phương pháp cho mọi người, chỉ nêu ra với mọi người, mỗi chỗ trong thân luân đều có phương tiện, đều có thể tiến nhập. Chẳng hạn như muốn thấy chư thiên, hăy quán nơi lông mày, sẽ rất dễ trông thấy. Nhưng nơi ấy cũng rất dễ gây ra thương tổn chẳng thể nghĩ bàn đối với sanh mạng, v́ nếu đối với các thứ tu tŕ mà đắm nhiễm, sẽ có thể thậm chí đánh mất sanh mạng, hoặc sanh ra bệnh tật. Do đó, đối với các pháp tắc như thế, hăy hết sức chớ nên coi thường, dễ dăi vận dụng. Ở đây, tôi chỉ nhằm thuyết minh câu kinh văn này mà thôi!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc như hưởng thanh, nhất thiết pháp vô tác, vô vi, nhân duyên sanh cố?

          ()云何當得如響聲。一切法無作無爲因緣生故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được như tiếng vọng, hết thảy các pháp vô tác, vô vi, do nhân duyên sanh?)

 

          Chúng ta chọn lựa như thế nào? Giáo ngôn của tam thừa đều công nhận các pháp nhân duyên. V́ sao vậy? Do nó hiển hiện trong thế gian mà chẳng hoại Tục Đế, có thể tạo lợi ích và lợi lạc cho chúng sanh, có thể khiến cho chúng sanh trông thấy và sử dụng. V́ thế, “chư pháp nhân duyên sanh, duyên tạ pháp hoàn diệt, ngă sư đại sa-môn, thường tác như thị thuyết” (các pháp nhân duyên sanh, duyên hết, pháp cũng diệt, thầy ta đại sa-môn, thường nói như thế đó), điều này được các hữu t́nh tiếp nhận. Nói “pháp sanh bởi nhân duyên”, có thể trừ sạch hai pháp Đoạn và Thường, cũng có nghĩa là Thường Kiến và Đoạn Kiến có thể cùng lúc tiêu mất!

          Bởi lẽ, hết thảy các pháp vô tác, vô vi, do nhân duyên mà hiển hiện, đó gọi là “từ trong cái vốn chẳng sanh diệt, do nhân duyên mà hiển hiện”. Nhân duyên ấy từ đâu đến? Đi về đâu? Thật sự chẳng có nhân duyên để có thể được! Chúng sanh do đắm nhiễm, chúng sanh do nhất niệm mê muội chân tánh xúc động mà tướng động hiện tiền, Năng và Sở được kiến lập, kiến lập thế giới hải[9]. Cho nên các thứ sát-độ (các cơi Phật) do vậy mà sanh, tức là do chân tánh manh động, bèn liên tục xuất hiện các thứ sát-độ. Các sát-độ ấy là vô tác, vô khởi, tất nhiên là loạn khởi, loạn diệt, chẳng có thực chất, v́ đều do nhân duyên sanh.

          Hành Ban Châu sẽ nhất định có cơ chế thiện xảo như vậy. Chư vị thiện tri thức nếu có thể khéo quan sát, sẽ có thể chọn lựa pháp nhân duyên. Nhị Đế (Chân Đế và Tục Đế) dung thông, từ trong pháp Thắng Nghĩa Đế chẳng có tự tánh mà có thể chọn lựa an trụ, có thể an lập, trụ trong hết thảy các pháp nhân duyên thuộc Tục Đế, quan sát rất sâu, thật sự là vô sanh, vô diệt. Các loại nhân duyên sanh ra các loại pháp, từ trong các loại pháp mà hư huyễn dấy lên hay tiêu diệt, chẳng có thực chất, trở lại quy nạp trong Thắng Nghĩa Đế chân thật.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc như h́nh ảnh, ư nhất thiết sanh pháp, tự vô tâm thủ xả cố?

          ()云何當得如形影。於一切生法自無心取捨故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được như h́nh ảnh, trong hết thảy các pháp sanh khởi, tự chẳng có tâm lấy bỏ?)

 

          “Như h́nh ảnh”: Chúng ta sẽ chẳng nắm bắt sự được mất nơi h́nh bóng, nhưng có nhiều hữu t́nh ngu si từ trong hết thảy các pháp tắc huyễn duyên như h́nh bóng, lại hư vọng chấp giữ thiện ác, hư vọng chấp giữ được mất, hư vọng chấp giữ ta người, trầm luân trong thế gian. Nếu thật sự biết “hết thảy các pháp ví như h́nh bóng, chẳng mất, chẳng được”, há có đắm nhiễm? Hữu t́nh tất nhiên không lấy bỏ, từ “không lấy bỏ” mà đạt được B́nh Đẳng Trí, Diệu Quán Sát Trí, Đại Viên Măn Trí, Pháp Giới Thể Tánh Trí. Bốn loại trí bẩm sanh ấy cùng lúc chín muồi, quan sát thế gian chẳng hề sợ hăi!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc không, vô sở hữu, viễn ly nhất thiết chư vật tưởng cố?

          ()云何當得空無所有。遠離一切諸物想故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được không, vô sở hữu, xa ĺa hết thảy các ư tưởng về mọi vật?)

 

          Đối với mỗi vật chất trong thế gian, chúng ta đều nhận biết. Nếu dùng Thật Tướng ấn để nhận biết, giữ lấy, sẽ mười phần thuận tiện. Đó gọi là “sự nhận biết và chọn lựa đối với pháp vô tự tánh”, nhưng chúng ta thường dễ mê mất điều này. Quan sát như thế nào? Có thể thấy sắc tướng và nhân duyên của vật chất. Chẳng hạn như tấm vải là do các sợi bông vải (cotton) dệt thành. Nay treo tại đó, nếu bỏ nó vào lửa, vải sẽ chẳng c̣n. Đối với vạn sự, vạn vật, chúng ta đều có thể quán như thế. Lại như bức tượng bằng đồng này, sau khi bỏ vào ḷ nung chảy, sẽ chẳng gọi là tượng nữa! Lúc Kiếp Hỏa thiêu đốt, đại thiên thế giới nhất loạt bị lửa đốt tụi. Khi Thủy Đại thành thục, tức là lúc Thủy Kiếp, lại nhất loạt bị nước nhấn ch́m, mênh mông không bờ mé! Vạn sự vạn vật đều không ngừng nghỉ, do vô tự tánh mà biểu hiện thành các thứ nhân duyên. V́ thế, các pháp đều do sức nhân duyên mà hiển hiện.

          V́ sao nói “không, vô sở hữu, viễn ly nhất thiết chư vật tưởng” (không, vô sở hữu, xa ĺa suy tưởng về hết thảy các vật): Bản dịch này ghi là “chư vật” (các vật), tôi thấy có bản dịch khác ghi là “viễn ly nhất thiết chư Phật tưởng” (xa ĺa ư tưởng về hết thảy chư Phật). Trên thực tế, chư vật và chư Phật vốn chẳng khác biệt! Tuy là du hư nơi văn tự, nhưng nói về thực chất, chư Phật Như Lai xuất hiện trong cơi đời, và các vật ứng hiện trong thế gian, đều do nhân duyên mà hiện. Thật sự là pháp nhất như! Hoàn toàn chẳng có một vật tồn tại trong thế gian, đều là do các thứ pháp tắc, các thứ nhu cầu mà tạo tác các thứ biểu đạt đó thôi! Ở đây, các thứ ấy rất khéo léo xuất hiện sự sai biệt, một bản kinh mà có hai cách dịch [khác nhau], chúng tôi bèn dựa theo “chư vật” để nói. Chúng ta có thể quan sát trong lúc chính ḿnh giơ tay, giở chân, đụng chạm các vật, xem xét các vật, cảm nhận các vật, quả thật chẳng có tự tánh. Nếu quan sát cặn kẽ, chẳng có một vật thật sự nào có thể thường tồn tại, cho nên nói “về bản chất cũng là không, chẳng có ǵ”, do nhân duyên tụ hợp mà hư vọng biểu hiện, tạm thời biểu hiện. Đối với sự biểu hiện ấy, người khéo dùng sẽ đạt được thiện xảo, đạt được an lạc, đắc lực. Kẻ một mực chấp trước, sẽ trở thành trầm trọng, bị bức bách, bị khổ nạn. Các thứ pháp không ǵ chẳng là như thế!

           Nói “viễn ly nhất thiết chư vật tưởng” (xa ĺa ư tưởng về hết thảy các vật), trong phần trước là quan sát cặn kẽ các pháp tắc “như huyễn, như hóa, như mộng, như h́nh bóng trong gương”, chúng ta có thể thấy thấu suốt “vạn sự, vạn vật chẳng có tự tánh”, có thể chọn lựa tánh “vô tự tánh”. Như thế th́ sẽ có thể đúng như thật ấn khế vạn sự, vạn pháp trong thế gian, đương nhiên là kể cả chư Phật! Quư vị đừng sợ hăi! Mười phương uế độ như mộng, như huyễn, mười phương Tịnh Độ cũng lại như mộng, như huyễn. Nói như vậy chẳng phải là khiến cho chúng sanh chẳng có chỗ nương cậy ư? Chẳng phải vậy! Nếu chúng ta chẳng quán kỹ càng triệt để như mộng, như huyễn, sẽ chẳng đạt được trí huệ thiện xảo, chẳng xuất ly thiện xảo, chẳng có hữu lực thiện xảo, chẳng có thiện xảo triệt để vượt thoát sự lấy bỏ, tức là chẳng thể thúc đẩy sanh khởi các thứ công đức, chẳng thể nhập Ba La Mật môn. Đối với “viễn ly nhất thiết chư vật tưởng” (xa ĺa ư tưởng về hết thảy các vật), do hành Ban Châu, chúng ta sẽ có thể đạt được thiện xảo và phương tiện như thế.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc vô tướng, quán nhất thiết pháp vô hữu nhị cố?

          ()云何當得無相。觀一切法無有二故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được vô tướng, quán hết thảy các pháp chẳng hai?)

 

          Pháp tắc này thẳng thừng đoạt hết tâm trí đối đăi của chúng sanh, [khiến cho họ] nhập pháp môn Bất Nhị. Các tướng thật sự chẳng có tướng, chỉ do nhân duyên mà hiển hiện các tướng. Như căn nhà này của chúng ta là do gỗ thông chất chứa lại, thông qua người thợ đẵn chặt, cưa xẻ, ghép mộng mà thành. Trước khi đẵn chặt th́ nó là một cây thông. Cây được xẻ thành tấm ván; sau đấy, trở thành h́nh dạng như hiện thời. Cho đến khi nhân duyên đă tận, cũng có thể biến thành một nhúm lửa, hoặc một nhúm tro, chẳng có thực chất. Chỉ có thể nói theo nhân duyên mà mọi người hiện thời đang sử dụng, nó hiển hiện thành một căn nhà để chúng ta tránh nắng, đụt mưa, khiến cho mọi người an trụ trong ấy mà tu hành.

          “Vân hà đương đắc vô tướng, quán nhất thiết pháp vô hữu nhị cố” (như thế nào để được vô tướng, quán hết thảy các pháp chẳng hai): Hết thảy các pháp chẳng có đối đăi, chẳng có tánh chất tồn tại liên tục. Chúng là bất sanh, bất diệt. Từ trong cái chẳng sanh diệt ấy, do nhân duyên mà hiện. Căn nhà này là như thế, cái đệm chúng ta đang ngồi cũng lại giống như thế, cái y chúng ta đang đắp cũng là như thế. Cái y này đắp lên thân, thị hiện màu đỏ, màu vàng, nhằm biểu hiện tướng trạng của pháp. Nhưng nếu quăng nó vào đống lửa, nó sẽ hóa thành một nắm tro, chẳng phải là màu đỏ, màu vàng chi hết, thật sự chẳng có thực chất, thật sự chẳng có tướng để có thể đạt được, do nhân duyên mà có, do nhân duyên mà hiện. Cho nên bản chất của nó là bất nhị.

          Đối với sự chọn lựa tâm trí vô nhị, hành Ban Châu sẽ dễ nẩy sanh [tâm trí] ấy nhất. V́ lẽ nào? Nếu có đối đăi, sẽ dễ bị nặng nề, mệt chán, khó thể hành tŕ! Chúng ta đi tới đi lui, đi lui đi tới, hễ hơi có [ư niệm so đo] được mất, hễ hơi có đối đăi, [sẽ cảm thấy] nặng nề, khó thể chịu nổi, khó thể duy tŕ hành vi đơn giản suốt một ngày một đêm. Suốt một ngày một đêm lập một niệm ǵ vậy? Ư niệm chẳng đối đăi, ư niệm như huyễn, ư niệm vô tướng.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc pháp giới biên tế, Bồ Đề tâm vô hạn lượng cố?

          ()云何當得法界邊際。菩提心無限量故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đạt được bờ mé của pháp giới, do tâm Bồ Đề chẳng có hạn lượng?)

 

          Cái tâm Bồ Đề ở nơi đây là cái tâm Bồ Đề chẳng tạo tác, chẳng đối đăi, chẳng đến, chẳng đi, chẳng có đầu, chẳng có cuối, chẳng phải phàm, chẳng phải thánh. Chọn lựa tâm tánh rộng lớn như thế th́ Vô Thượng Bồ Đề tâm chẳng có hạn lượng, là vô lượng trong vô lượng, chẳng thể nói năng, chẳng thể đề cập, chẳng thể biểu đạt. Nương vào các thứ nhân duyên để biểu đạt chính là tạo tác Bồ Đề tâm phần, như cổ nhân đă nói năm phần Pháp Thân, tức Giới, Định, Huệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến có thể biểu đạt Bồ Đề tâm phần. Lại như cổ nhân nói “phát Bồ Đề tâm, hiểu rơ Bồ Đề tâm, quy phục Bồ Đề tâm, cho đến chứng Bồ Đề tâm, trọn đủ Bồ Đề tâm, các thứ Bồ Đề tâm”, th́ vẫn là các phần của Bồ Đề tâm. Có người nói Bồ Đề tâm thuộc vào đại nguyện, đại bi, đại trí, hễ trọn đủ sẽ là Vô Thượng Bồ Đề tâm. Đấy chính là tướng của Bồ Đề tâm. Tướng ấy vô tướng, cưỡng lập một tướng, khiến cho chúng sanh được thấy công đức đại lực, đại trí, đại bi vô hạn. Thông qua ngôn thuyết để biểu đạt nội dung ấy [để chúng sanh] có thể tiến nhập. Do đó, pháp giới chẳng có ngằn mé, chẳng có hiện lượng. Bồ Đề tâm chẳng có ngằn mé, mà cũng chẳng có hiện lượng. Cái tâm ấy chẳng phải là tâm tạo tác, mà cũng chẳng phải là tâm ĺa tạo tác. Trong tâm phần của tâm tạo tác, nếu chẳng cưỡng chấp, cũng khó thể dùng ngôn ngữ để suy lường, khó thể nói trọn!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc bất khởi trước, nhất thiết thế giới tánh vô sai biệt cố?

          ()云何當得不起著。一切世界性無差別故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ chẳng dấy lên chấp trước, do tánh của hết thảy các thế giới chẳng sai biệt?)

 

          “Đương đắc bất khởi trước” (sẽ chẳng dấy lên chấp trước): Điều này lại dung nhập về chuyện tự tánh chẳng khởi tác dụng, tự tánh chẳng tạo tác. Tự tánh là cội nguồn sáng suốt, tự tánh an lạc, tự tánh vốn trọn đủ tánh chất liễu đạt, liễu thoát hết thảy nỗi khổ sanh tử, kiến lập thiện xảo trong hết thảy các thế giới hải. “Bất khởi” ở đây chính là pháp giới chân tế[10], là tướng mạo của Thật Địa (Thật Tế lư địa), là sự chân thật của tâm trí bất động, là sự trang nghiêm nơi Nhất Chân pháp giới. Nhưng trong các thứ cơ chế, tâm trí của phàm phu hữu t́nh sẽ manh động đối với các nhân duyên, đó gọi là “tướng động hiện tiền”, tâm sẽ thường xuyên lay động. Động như thế nào? Bị gió nghiệp thổi lay động, vọng duyên thổi rung động, bị cảm giác thổi lay động, mà thổi bùng lên ư niệm được mất, thổi lên ư niệm thiện ác, thổi lên ư niệm về công đức lợi ích. Hễ động th́ Năng và Sở bèn được kiến lập. Năng và Sở đă được kiến lập, sẽ có các thứ sai biệt trong thế giới lượng nhiều như biển. Tuy là hư vọng, nhưng mỗi chúng sanh đều chấp lấy để sử dụng, lưu chuyển, an trụ, đều cho có thật. “Vô khởi trước” (chẳng dấy chấp trước) thật ra chính là tiêu quy về Thật Tế, là tướng mạo vốn sẵn có. Ở đây, có sự lưu xuất và tác dụng của tự tánh quang minh. Tác dụng ấy là vô công dụng mà có thể rộng lợi ích thế gian, chẳng được, chẳng mất.

          Do “chẳng chấp trước” nên “nhất thiết thế gian tánh vô sai biệt” (tánh của hết thảy thế gian chẳng khác biệt). Đối với bản chất của hết thảy thế gian cho đến bản chất của mười pháp giới, nương theo thể tánh trí của pháp giới để quan sát sâu xa, chúng sẽ hiện tiền rạng ngời, nhưng chẳng có một vật nào để có thể đạt được. Do vậy, tâm trí Nhất Chân chân thật đă được chư Phật đích thân chứng rốt ráo, có thể hiển hiện biển các chủng tử trong mười phương, biển các cơi nước trong các thế gian khắp mười phương, [những điều ấy được] gồm thâu trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta có thể khéo quan sát. Tuy nhập thế, thật sự chẳng có thế gian sai biệt nào để có thể đạt được, hoặc có thực chất tồn tại. Nếu nương theo pháp nhân duyên, có thể diễn đạt bằng văng sanh thế giới Cực Lạc, đạt được các an vui. Nếu nương theo pháp nhân duyên, có thể hiện tạo các thứ nghiệp, ch́m đắm, tiêm nhiễm trong các loại thế gian trược ác, chịu đủ mọi nỗi khổ. Hữu ấy là cái ắt có, chân thật chẳng dối, chẳng phải là cái Hữu thường hằng, mà cũng chẳng phải là cái Vô đoạn diệt. V́ thế, nói “nhân duyên sanh” th́ sẽ xa ĺa đoạn diệt và thường kiến.

          Nhất định phải nhận biết rơ ràng pháp nhân duyên, xa ĺa tri kiến của ngoại đạo. Nếu là người trong Phật pháp, xa ĺa phương tiện của ngoại đạo, sanh khởi sự chọn lựa đối với pháp nhân duyên, dung thông Nhị Đế, trừ bỏ hai thứ Biên Kiến, tức Đoạn Kiến và Thường Kiến. Chúng ta đều biết, tứ cú bách phi chẳng thâu nhiếp Phật pháp; nhưng Phật pháp tuyệt đối thâu nhiếp tứ cú bách phi, thành tựu trọn khắp thế gian, rộng lợi ích hữu t́nh. “Bất khởi trước” (Chẳng dấy lên chấp trước) ở đây chính là nơi Thật Tế lư địa chẳng có mảy trần, chẳng nhiễm trước, chẳng tạo tác. Vô sắc, vô tướng, chẳng đến, chẳng đi như thế, quang minh trong cái tâm chân thật chiếu sáng rực thế gian!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc vô ngại hạnh, biến du nhất thiết chư Phật sát trung cố.

          ()云何當得無礙行。遍遊一切諸佛剎中故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đắc vô ngại hạnh, dạo chơi trọn khắp hết thảy các cơi Phật?)

 

          “Vô ngại hạnh”: Người hành Ban Châu hết sức dễ biết hai chữ Vô Ngại này, v́ pháp Thường Hành Đạo niệm nào cũng đều là như thế, niệm nào cũng chẳng nhiễm, niệm nào cũng chẳng chấp. Do chẳng chấp mà đạt được sự vô ngại này. V́ thế, từ trong “bất khởi trước” (chẳng dấy lên chấp trước) mà đạt được thiện xảo chẳng dụng công, xa ĺa hết thảy tạo tác sanh diệt và đối đăi, an trụ trong Thật Tế lư địa chân thật, tức là được chiếu rạng ngời bởi tâm trí Vô Thượng Bồ Đề, xa ĺa hết thảy sự xâm đoạt của sanh diệt, xâm đoạt của phàm thánh, xâm đoạt của được mất. Chẳng dấy lên chấp trước chính là cơ sở của hạnh vô ngại. Dạo chơi trọn khắp các cơi Phật, chính là diệu dụng tánh chẳng sai biệt của hết thảy thế giới. Quán thấu triệt một trăm hai mươi hai điều “vân hà” (như thế nào) này, sẽ thấy mỗi điều đều được sử dụng hỗ trợ, nhằm nêu tỏ trọn đủ hết thảy các pháp công đức và lợi ích rất sâu chẳng thể nghĩ bàn của pháp Ban Châu, trọn đủ Nhất Thiết Trí, trọn đủ hết thảy Đạo Chủng Trí, rốt ráo thành tựu an trụ trong Nhất Thiết Đạo Chủng Trí.

          V́ tánh của biển hết thảy các cơi nước của chư Phật là vô sai biệt, cho nên có thể dạo chơi tự tại. Bậc A La Hán trong Thanh Văn Thừa như tôn giả Mục Kiền Liên đạt được phương tiện dạo khắp một đại thiên thế giới, nhưng chưa có phương tiện dạo chơi trong biển vô tận tam thiên đại thiên thế giới khắp mười phương. Đó gọi là quả Thanh Văn có phương tiện để chọn lựa trong một đại thiên thế giới. Nếu dùng sức thần thông để ĺa bỏ tam thiên đại thiên thế giới này, đều phải dựa theo sức nhiếp thọ từ công đức nơi danh hiệu đức Bổn Sư để quay về [thế giới Sa Bà]. Nếu không như thế, họ sẽ bị lạc lối trong vô tận cơi nước, chẳng thể quay về. Nếu chúng ta lấy quốc độ của A Di Đà Phật làm quốc độ của bổn sư, làm bổn quốc của chính ḿnh, xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật, sẽ tất nhiên văng sanh quốc độ ấy. V́ lẽ nào? Như con nhớ mẹ, như mẹ nhớ con, mẹ con chẳng trái nghịch nhau, như trở về quê nhà, chẳng c̣n mê mất, chọn lựa chẳng nghi, tâm trí an trụ, xa ĺa sợ hăi. Kẻ bị lạc đường sẽ sợ hăi. V́ sao lại lạc mất quê nhà, lạc mất nước ḿnh, sao không sợ hăi cho được? Do vậy, nếu tŕ danh hiệu có công đức thù thắng của từ phụ A Di Đà Phật nơi thế giới Cực Lạc, khi xưng niệm chính là lúc chọn lựa văng sanh, chẳng sợ hăi. V́ sao vậy? Đă nhận biết quê nhà, nước ḿnh. Do đă nhận biết, sẽ như chúng ta trở về nhà của chính ḿnh, chẳng có ǵ mê mất nữa, chẳng có ǵ nghi hoặc, chẳng có ǵ bàng hoàng, băn khoăn, cũng chẳng có điều kiện ǵ, đă trọn đủ rồi! Bất luận nhà của quư vị xa xôi cách nào đi nữa, dẫu ngàn dặm, vạn dặm, quư vị luôn nhận biết nhà ḿnh, chẳng có nỗi sợ hăi không nhà! Thế giới Cực Lạc là quê nhà, là bổn quốc của hết thảy chúng sanh. Nếu nhận biết, nguyện văng sanh, sẽ nhất định văng sanh. Văng sanh thế giới Cực Lạc sẽ rất thuận tiện sanh vào các cơi nước trong mười phương. Do vậy nói: “Xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật có thể dạo chơi các cơi nước trong mười phương, chẳng ngăn ngại ǵ!”

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc chư Đà-la-ni, văn nhất tri vạn, thiện đạt nhất thiết văn tự phân biệt thuyết cố.

          ()云何當得諸陀羅尼。聞一知萬善達一切文字分別說故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đắc các Đà-la-ni, nghe một, biết vạn, khéo thông đạt hết thảy văn tự để nói phân biệt?)

 

          Thành tựu Đà-la-ni, có thể trọn đủ giáo ngôn thiện xảo của hết thảy các tổng tŕ, phân biệt ngôn từ thiện xảo, ngôn từ sai biệt thiện xảo, tổng tướng ngôn từ thiện xảo, vô dụng công văn tự thiện xảo, hữu dụng công văn tự thiện xảo. Đà-la-ni như thế tổng tŕ hết thảy các pháp, an ủi chúng sanh, thuần thục chúng sanh, thiện xảo bố thí chúng sanh.

          Đối với cái gọi là “thiện đạt nhất thiết văn tự phân biệt thuyết” (khéo thông đạt hết thảy văn tự để nói phân biệt), hết thảy văn tự thật sự chẳng nói phân biệt. Kiến lập nói phân biệt chỉ nhằm tạo thuận tiện cho chúng sanh. V́ lẽ nào? Hết thảy các pháp vốn chẳng phân biệt, do thiện xảo mà kiến lập phân biệt. Được kiến lập là do thiện xảo mà kiến lập, chẳng phải là chấp trước cái được kiến lập. Hễ chấp trước th́ sẽ chẳng có ǵ để kiến lập, phần nhiều bị mê mờ bởi sự tướng. Cho nên chẳng thể nào tự tại kiến lập được!

          Hành pháp Ban Châu, đối với hết thảy các giáo ngôn Đà-la-ni, chắc chắn sẽ sanh khởi sự chọn lựa, như trong các thệ nguyện của A Di Đà Phật có nguyện: Hữu t́nh ở phương khác được nghe danh hiệu của Ngài, đều nhập Đà-la-ni môn, cũng là đắc Tổng Tŕ Môn. Trong bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật có nói đến nguyện này. Chư Phật là đấng nói lời thành thật, nói đúng sự thật, đích thân chứng đắc công đức và lợi ích, đạt được lợi ích như thật. Cho nên chúng sanh nghe danh hiệu của các Ngài, đều nhập hết thảy Đà-la-ni môn, đạt được thiện xảo, ngoại trừ kẻ ngờ vực, băn khoăn, báng pháp, nghi pháp. “Ngoại” có nghĩa là trừ lợi ích ra, trừ chẳng được hồi thí công đức ra. Tuy là [chư Phật] b́nh đẳng bố thí công đức, nhưng quư vị chẳng dùng được. Tuy chẳng dùng được, Phật vẫn nhiếp thọ kẻ nghi pháp, báng pháp, khiến cho họ cũng được lợi ích.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc như chư pháp sư, thiện tri nhất thiết Phật pháp cố?

          ()云何當得如諸法師。善知一切佛法故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được như các pháp sư khéo biết hết thảy Phật pháp?)

 

          Chư Phật Như Lai thành tựu viên măn Tam Minh, Tứ Trí, Ngũ Nhăn, Lục Thông, mười tám pháp Bất Cộng, Thập Lực, Tứ Vô Úy, các thứ chọn lựa thiện xảo, là bậc pháp sư. Pháp sư trong thế gian hiện thời phần nhiều là pháp sư dựa hơi, hoặc là danh tự pháp sư! Pháp sư đúng thực chất chỉ có Phật Thế Tôn mới xứng danh, [do Phật] trọn đủ hết thảy đại thiện xảo, tự tại trong hết thảy các pháp, đạt được phương tiện, rộng truyền dạy hết thảy các pháp, lợi ích hết thảy chúng sanh, không sợ hăi, chẳng bỏ sót thời cơ để khiến cho chúng sanh đều được giải thoát, thành tựu. Nếu chúng ta muốn thành pháp sư giống như chư Phật Như Lai, trọn đủ phương tiện thiện xảo, biết hết thảy các pháp, sử dụng hết thảy các pháp, thành tựu hết thảy các pháp, truyền bá hết thảy các pháp, chân thật an trụ trong hết thảy các pháp, chẳng đắm nhiễm các pháp ích, lợi ích trời người rộng khắp, th́ hành Ban Châu sẽ đạt được lợi ích và thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn như thế!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc nhất thiết chư Phật sở hộ niệm, nhất thiết Phật oai đức gia tŕ cố?

          ()云何當得一切諸佛所護念,一切佛威德加持故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được hết thảy chư Phật hộ niệm, oai đức của hết thảy chư Phật gia tŕ?)

 

          Hành pháp Ban Châu cũng giống như thế, được hết thảy chư Phật khéo hộ niệm. Hết thảy chư Phật dùng thần quang, dùng hào quang chiếu nhiếp người ấy, khiến cho người ấy tăng trưởng thiện căn, thành tựu phước đức, nhanh chóng thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, thành tựu viên măn ngay trong một đời. Pháp Tịnh Độ chọn lựa như thế, trong một đời, chắc chắn các thứ thiện căn sẽ chín muồi, công đức và lợi ích chẳng thể nghĩ bàn đều được oai thần của chư Phật gia bị mà chín muồi, đều do tự tâm chân thật ấn khế mà chín muồi, tức là công đức trong bổn tánh sẽ chín muồi. Nếu chẳng chọn lựa pháp thích hợp căn cơ to lớn, có tác dụng to lớn, mà muốn thành thục Vô Thượng Bồ Đề ngay trong một đời, đúng là rất khó thành công. V́ sao vậy? Căn cơ nhỏ, pháp nhỏ, sẽ khó thể thành tựu! Phát khởi cái tâm Thanh Văn, Duyên Giác, cho đến cái tâm cầu phước báo nhân thiên, sẽ khó thể thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, v́ tâm trí chẳng tương ứng, v́ chẳng ấn khế chư Phật. Do đó, ai nấy đều nên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, dùng cái quả của Vô Thượng Bồ Đề tâm để đích thân chứng, ấn chứng chư Phật Như Lai trong khoảng sát-na, sẽ biết các pháp thật sự chẳng đến đi, thật sự chẳng có người chứng, mà cũng chẳng được hay mất, hết thảy chúng sanh vốn sẵn đủ. Như khi chứng ngộ, Phật Thích Ca đă nói: “Lành thay! Chúng sanh trong đại địa đều sẵn có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, ấn khế cái tâm Vô Thượng Bồ Đề của hết thảy chúng sanh như thế đó!

          Chúng sanh do vọng tưởng, chấp trước mà mê muội tự tâm, chẳng thể ấn chứng, chẳng thể nhận biết, chẳng thể sanh khởi hết thảy diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn. Chư Phật Như Lai phát khởi Tu Đức rộng lớn để chứng thực cho loại hữu t́nh ấy, khiến cho loại hữu t́nh ấy có chỗ nương cậy, có tác dụng. Chư Phật nói tám vạn bốn ngàn pháp, hành đủ loại công đức lợi ích, dùng Tu Đức và Tánh Đức để nhiếp hóa hữu t́nh, đều là thuận theo chúng sanh. Quả thật, chẳng có một pháp nào có thể kiến lập. Do đó, hết thảy chư Phật hộ niệm hết thảy chúng sanh niệm Phật, nhiếp thọ chẳng bỏ, ấn chứng, hứa khả hết thảy chúng sanh niệm Phật. Đối với kẻ báng Phật, nghi Phật, Ngài vẫn nhiếp thọ. Kẻ phỉ báng là do chẳng biết, giống như kẻ đang ngủ mê, dẫu vầng mặt trời chiếu trọn khắp, vẫn chẳng thấy quang minh. Do kẻ đó ở trong hôn ám, chẳng thể sử dụng được, nhưng quang minh [của vầng mặt trời] vẫn chiếu thấu thân người ấy.

          Do vậy, “nhất thiết Phật oai thần gia bị” (oai thần của hết thảy chư Phật gia bị). Khi chúng ta niệm danh hiệu A Di Đà Phật, [đó là danh hiệu] có công đức thù thắng, A Di Đà Phật là vua trong các vị Phật, quang minh tôn quư nhất, có oai đức thiện xảo, sẽ đồng thời tập trung công đức của chư Phật nơi một thân, chiếu trọn khắp hết thảy chúng sanh, khiến cho hết thảy chúng sanh được thấy công đức của chư Phật. V́ thế, mười phương chư Như Lai nhiều như cát sông Hằng đều cùng tán thán oai thần và công đức thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn của Vô Lượng Thọ Phật. Oai thần công đức thiện xảo ấy quả thật trọn đủ oai thần và thiện xảo của hết thảy chư Phật. Do vậy, khi chúng ta lập một niệm, đoạn các tưởng, xưng niệm danh hiệu quư báu ma-ni công đức thanh tịnh của A Di Đà Phật, sẽ được trọn khắp oai thần của hết thảy chư Phật gia bị, được hết thảy chư Phật thủ hộ, nhiếp thọ, có thể khiến cho thiện căn chín muồi, thấy rơ tự tâm.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc hùng mănh, bất khiếp nọa, xuất thanh như đại ngưu vương, đại sư tử vương bộ cố?

          ()云何當得雄猛不怯懦。出聲如大牛王大獅子王步故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được hùng mănh, chẳng hèn nhát, phát ra tiếng như trâu chúa, hay sư tử chúa bước đi?)

 

          Trong pháp Ban Châu, hễ hơi sợ hăi, người ấy sẽ khó hành tŕ, sẽ khó thực hiện. Do vậy, đích xác là người có tâm trí ôm ấp chí nguyện “đại hùng, đại lực, đại từ, đại bi”. Người khâm ngưỡng, người quy y, người tùy thuận th́ mới có thể hành pháp này! Người thiện căn chín muồi nghe pháp này, bèn có thể siêng năng hành tŕ, chẳng báng bổ, chẳng ngờ vực, người như vậy rất hy hữu, được chư Phật hộ niệm, gia tŕ. Cho nên sẽ oai mănh, chẳng nhát sợ. Kẻ chẳng nhát sợ là do tự tâm đă an lập, v́ nhát sợ đều là do [tâm trạng] được mất, đối đăi, chọn lựa lấy bỏ của chúng sanh tạo thành.

          “Như đại ngưu vương” (như trâu chúa lớn): Trâu chúa lớn là tướng sức mạnh to lớn, có sức mạnh, thiện xảo, oai mănh. Người Ấn Độ coi trâu là thần ngưu, mọi người đều kính ngưỡng, tránh né, chẳng thể xâm phạm.

          “Như đại sư tử vương bộ” (như sư tử chúa to lớn bước đi): Sư tử chúa ra khỏi hang, chắc chắn chẳng có bầu bạn. Người hành Ban Châu không nương dựa, không nhờ vào phương tiện mà chỉ thẳng A Di Đà Phật trong tâm ḿnh! Hành công đức to lớn, đúng là trọn đủ. Chẳng nhờ vào gia tŕ mà được chân thật gia tŕ, Chẳng nương cậy mà quyết định được nương cậy, chẳng phải là dựa hơi, quyết định trở về [quê nhà Cực Lạc sẵn có], như sư tử chúa chẳng có bầu bạn, tâm trí chọn lựa dứt khoát, phá tan hết thảy các trói buộc khiếp sợ, nhút nhát, kiến lập thành tựu sự tu tŕ vô thượng chẳng thể nghĩ bàn!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc vô úy, linh nhất thiết thế giới hoan hỷ cố?

          ()云何當得無畏。令一切世界歡喜故

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được vô úy, khiến cho hết thảy thế giới hoan hỷ?)

 

          Trong khi hành pháp này, đă khiến cho hết thảy thế gian được an ủi, an ủi hết thảy hữu t́nh. Nếu tu ngay, hành ngay, thường hành đạo này, chẳng bỏ lỡ thời cơ, ví như chư Phật Như Lai, hoặc ví như hết thảy bậc hiền thánh, hay bậc trọn đủ công đức lợi ích thế gian rộng khắp, chẳng sợ hăi, v́ lẽ nào? Tâm thanh thản, tâm an nghỉ, chẳng phải dụng tâm. Cái tâm ấy do trọn đủ, chẳng phải là tạo tác, chẳng phải là tu hay không tu. Do vậy, lợi ích trời người rộng khắp, chẳng sợ hăi, khiến cho hết thảy chúng sanh được hoan hỷ, khiến cho hết thảy thế gian được hoan hỷ. Đấy là tu ngay trong mỗi niệm hiện tại, thường xuyên tu, tu cho đến hết thọ mạng, chân thật như ư mà tu. Sự tu tập ấy trong hết thảy nhân duyên chẳng bỏ lỡ thời cơ, chẳng sợ hăi, chẳng vướng mắc, chẳng đón ư nói hùa, chẳng siểm khúc, như thế th́ hết thảy hữu t́nh chắc chắn sanh hoan hỷ. V́ cớ sao? Đấy là người bố thí, người nương cậy cho thế gian, là người tạo lợi ích rộng răi, là người thiện xảo thành tựu, là người bố thí pháp ích, là tṛng mắt của chúng sanh.

          Hành pháp Ban Châu thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Các thứ công đức, các thứ phương tiện, các thứ nhân duyên trong một trăm hai mươi hai câu hỏi này, đều đề cập tới tâm trí của chúng ta, khiến cho chúng ta thấy rơ, chọn lựa tâm trí, hành pháp thành tựu. Công đức và lợi ích nhiều ngần ấy, nếu chẳng hành, pháp ích sẽ chẳng hiện tiền, giống như bày một bữa ăn ngon trước mặt, nếu chẳng ăn, sẽ chẳng thể biết vị ngon được! Đức Thế Tôn nói các phương tiện thiện xảo nhiều ngần ấy, muốn khiến cho hết thảy hữu t́nh hữu duyên thâm nhập, tu tập pháp này, khiến cho họ thành tựu Ban Châu tam-muội, có thể an trụ trong các thứ lợi ích chẳng thể nghĩ bàn, đúng như thật mà an trụ. Nếu chẳng phải là người tu tập, sẽ chẳng thể dùng được!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc vô nghi hoặc, ư nhất thiết Phật b́nh đẳng vô nhị cố?

          ()云何當得無疑惑。於一切佛平等無二故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được chẳng nghi hoặc, đối với hết thảy chư Phật b́nh đẳng chẳng hai?)

 

          Trong phần trước đă nói tới “vô nhị”, v́ sao ở đây lại nói “vô nhị”? Có khi thoạt nh́n dường như trùng lặp vấn đề; thật ra, chẳng lặp lại! Trong hết thảy các Phật pháp, chọn lựa Vô Nhị là để khiến cho chúng sanh xa ĺa đối đăi, tâm trí chẳng đối đăi, rốt ráo b́nh đẳng, tâm trí chẳng đối đăi rốt ráo an lạc, tâm trí chẳng đối đăi rốt ráo giải thoát. Tâm trí chẳng đối đăi tất nhiên là trọn đủ hai pháp Bi và Trí.

          “Vô nghi hoặc”: Chúng ta đều biết có Kiến Tư Hoặc, Trần Sa Hoặc, có Vô Minh Hoặc. Trong ba loại mê hoặc ấy, Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc chúng sanh chẳng có phần, hai loại Hoặc ấy hàng Bồ Tát hoặc thánh giả phải thủ hộ, nhận biết, quan sát, chứ phàm phu hữu t́nh chỉ nghe danh. Kiến Hoặc và Tư Hoặc là thứ chúng sanh chấp giữ, không lúc nào chẳng dùng tới. Như tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến bất chánh chính là các danh tướng thuộc vào Kiến Tư Hoặc. Trong hai pháp Kiến Hoặc và Tư Hoặc, chúng sanh phần nhiều sợ hăi. Để đoạn Kiến Tư Hoặc th́ thuận tiện nhất chính là trí b́nh đẳng, thuận tiện nhất là Diệu Quan Sát Trí, thuận tiện nhất là Pháp Giới Thể Tánh Trí, thuận tiện nhất là Đại Viên Măn Kính Trí, thuận tiện nhất là A Di Đà Phật, thuận tiện nhất là lập một niệm, thuận tiện nhất là chẳng đến đi, thuận tiện nhất là đúng như pháp mà hành, thuận tiện nhất là lập tức chọn lựa, thuận tiện nhất là thường kinh hành, thuận tiện nhất là Ban Châu!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc thông đạt Như Như, diệt trừ nghi hoặc, bất trước chư pháp cố?

          ()云何當得通達如如。滅除疑惑不著諸法故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được thông đạt Như Như, diệt trừ nghi hoặc, chẳng chấp các pháp?)

 

          Hết thảy các pháp vốn chẳng chấp trước. Do các thứ đắm nhiễm của các loại chúng sanh tạo thành cái gọi là “nghi hoặc”. V́ thế nghi hoặc là do chấp tướng. Chúng ta dùng cái tâm Như Như[11], tâm b́nh đẳng, tâm bất nhị, đúng như các cách nói trong phần trước, chẳng dấy lên cái tâm chấp trước, tâm thông đạt hết thảy các pháp chẳng có tự tánh, chẳng sợ hăi, sẽ thấu đạt sâu xa thiện xảo “chẳng chấp các pháp” này. Hành pháp Ban Châu sẽ tiếp tục quyết định là như thế, thâm nhập, tu tập, quan sát từng điều một.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc chứng thâm pháp giới, thiện năng giải thích sở vấn nghĩa cố?

          ()云何當得證深法界。善能解釋所問義故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ chứng pháp giới sâu xa, có thể khéo giải thích các nghĩa được hỏi?)

 

          Pháp giới khác biệt rành rành trước mắt, chúng sanh mỗi người tự chấp giữ. Như chúng ta tuy cùng ở trong căn nhà này, nhưng sự nhận biết đối với pháp tắc, đối với sự nhận biết về cảm giác, nhận biết về tri kiến, quan điểm về sanh mạng, mỗi người mỗi khác. Sự sai khác ấy khó thể nói năng, thí dụ được! Chư Phật Như Lai dùng pháp tắc thanh tịnh để soi tỏ, thấu hiểu các thứ sai biệt. Do vậy, khéo nói phương tiện, khéo nói pháp sai biệt mà vô sai biệt cho chúng sanh, khiến cho chúng sanh tiến nhập trí b́nh đẳng, trí thanh tịnh, trí chẳng nghĩ bàn! “Thâm pháp giới” là pháp giới rộng lớn, hết thảy các pháp giới. Các thứ nghi vấn, các loại đặt bày, hết thảy các pháp giới đều thuộc về trần nhiễm, chấp trước, hư vọng chấp giữ của chúng sanh, mà cũng chính là do những cái được gọi là Kiến Tư Hoặc, Trần Sa Hoặc, và Vô Minh Hoặc tạo nên. “Hoặc” () có nghĩa là sanh khởi. “Hoặc” có nghĩa là ngưng trệ, “Hoặc” có nghĩa là “tưởng nó là thật”.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc sư lợi ích tha, cụ túc đại từ cố?

          ()云何當得師利益他。具足大慈故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được làm thầy lợi ích người khác, trọn đủ ḷng đại từ?)

 

          Trong pháp Tịnh Độ, nếu có thể thật sự đúng như pháp thực hành một ngày, hai ngày, chín mươi ngày, cho đến thường hành pháp này măi cho rốt ráo thuở vị lai, đều nương vào pháp lợi ích người khác để thành tựu. V́ sao? Do thật sự chẳng có pháp nào để đạt được, do chẳng đắm nhiễm, do chẳng thể chấp giữ, cho nên nói “đại từ cố” (do đại từ). Chúng ta nói “đồng thể đại bi, vô duyên đại từ”, “vô duyên” có nghĩa là thật sự chẳng có pháp nào để có thể đạt được, không có duyên nào có thể sanh. Pháp nhân duyên thuộc về Thế Tục Đế, bởi trong Thắng Nghĩa Đế chẳng có một pháp nào để có thể được, chẳng có duyên nào để có thể sanh, chẳng có duyên nào để có thể diệt. Trong trần duyên, hư vọng sanh ra nhân quả. Trong Tục Đế, mỗi thứ đều hiển lộ được, mất. Muốn lợi ích loại hữu t́nh này, cho nên dùng “đại từ” để lợi ích hữu t́nh rộng lớn. Trong Tạng truyền Phật giáo, có cách tu hoán vị từ tâm, tức là tự thân gánh lấy tội ác của hết thảy chúng sanh, hồi thí sự thọ dụng thanh tịnh vô nhiễm của chính ḿnh cho hết thảy hữu t́nh trược ác, khổ nạn, khiến cho họ trụ trong an lạc, trụ trong trí huệ, trụ trong trang nghiêm, trụ trong niềm vui sướng rộng lớn.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc diệt trừ lăn nọa, hằng nhạo thuyết pháp cố?

          ()云何當得滅除懶惰。恆樂說法故。

          (Kinh: Như thế nào để diệt trừ lười biếng, luôn thích thuyết pháp?)

 

          “Diệt trừ lăn nọa” (diệt trừ lười biếng): Chẳng hạn như lần này, cùng với mọi người học tập kinh Ban Châu, quả thật là nhờ vào phước đức của mọi người, nhờ chư Phật gia tŕ, nhờ các cư sĩ ở Hằng Dương Am hành tŕ đúng pháp, nhờ vào đại chúng hành tŕ an lạc tăng thượng hướng dẫn, cho nên chúng ta có pháp hội lần này. Đương nhiên là cũng nhờ vào Tăng chúng an cư tại Phóng Quang Tự ban bố từ bi, ban bố pháp, mọi người cùng góp sức, bằng ḷng tới đây nghe pháp. Quả thật là nhân duyên chẳng thể nghĩ bàn, v́ chúng tôi khiến cho đại chúng nhọc nhằn, tới lui lên xuống[12], đúng là vất vả. Nhưng nói theo pháp, quả thật là đáng nên làm, thật sự là cơ hội để cúng dường pháp, mà cũng là trao đổi[13] để cúng dường pháp, là thiện xảo để thực hành pháp, chúng ta cũng chỉ nên coi chuyện lên xuống ấy đều là đang hành Ban Châu. Vậy th́ lười nhác chỉ là nhân duyên của cá nhân tôi, một mực thoái thác, đối với kinh điển một mực rất ít xem, mà cũng rất ít đọc, rất ít tu tập. Chúng thường trụ một mực đọc kinh điển này, do thầy Đức Viên đă cho in văn tự [trong bộ kinh này ra], tôi mới quyết định cùng mọi người học tập phẩm Hiền Hộ của kinh Đại Tập.

          Trước kia, tôi cứ một mực băn khoăn giữa mấy loại bản dịch, hoặc là một quyển, hay ba quyển, để so sánh coi giảng bản nào sẽ tiện lợi hơn. Các bậc thiện xảo, các vị đại thiện tri thức từ xưa như Viễn công đại sư, Trí Giả đại sư, Đạo Tuyên luật sư, phần nhiều y chỉ kinh Ban Châu Tam Muội bản ba quyển. Bản năm quyển này phân lượng khá lớn, các vị thiện tri thức từ xưa đến nay phần nhiều chẳng nghiên cứu kinh này, do [bản dịch này] ngôn từ giản dị, thong dong, vừa đọc liền biết ngay, chẳng cần phải nghiên cứu, cầm lấy đă có thể sử dụng rồi. Do nỗi băn khoăn ấy, chẳng biết học tập bản nào sẽ thuận tiện hơn. V́ thế, cứ một mực bất định. Pháp sư Đức Viên đă tạo thiện xảo cho tôi, trực tiếp đem bản năm quyển in ra, phân phát. Tôi bèn thuận duyên. Một là [bản dịch này] văn tự khá suông sẻ, ngôn từ khá lưu loát, mọi người có thể đọc tụng. Hơn nữa, tôi không có sức để giảng, không có sức để tuyên thuyết, phần nhiều ôm ḷng lười nhác. V́ sắc thân do nhiều ác nghiệp từ vô thỉ tới nay đă chín muồi, thân thể mệt chán, niềm vui nơi pháp thù thắng chẳng thể hiện tiền, không chuộng thuyết pháp. V́ thế, thường sanh ḷng hổ thẹn. Người thật sự hành Ban Châu sẽ tiêu trừ loại lười nhác này, v́ lẽ nào? Do ngày đêm đi kinh hành. Đối với các vị Bồ Tát ngày đêm kinh hành tại Hằng Dương Am, tôi thật sự muốn quỳ sụp xuống đất đảnh lễ các bà, v́ trong khi tôi ngủ, các bà vẫn đi kinh hành. Mỗi lần xuống đây, tôi đều ôm ḷng kính ngưỡng, mới có thể bước xuống đây. Nếu chẳng có tâm kính ngưỡng, tôi tuyệt đối chẳng dám xuống. V́ sao? Người kinh hành, người niệm Phật chính là đang thuyết pháp, là đang trừ khử lười nhác, ở ngay trong thế gian thay Phật tuyên nói cho hết thảy hữu t́nh, khiến cho pháp trụ thế lợi ích rộng khắp trời người, hữu t́nh trong chín pháp giới do vậy mà đạt được lợi ích to lớn! Quư vị chẳng kính ngưỡng, tôi kính ngưỡng. Tôi hy vọng mọi người ai nấy đều kính ngưỡng, yêu mến, tôn trọng những người thật sự tu tập Phật pháp. Họ chẳng phải là những kẻ thủ hộ Phật pháp bằng cách nói suông, thủ hộ bằng cái tâm hư vọng, tự cao tự đại, tự lợi.        

          “Hằng nhạo thuyết pháp” (luôn ưa thích thuyết pháp): Ngay trong khi niệm Phật là đă tuyên nói giáo ngôn tổng tŕ, lợi lạc rộng khắp hết thảy hữu t́nh trong thế gian dù phàm hay thánh, mười pháp giới đều được b́nh đẳng nhiếp thọ. Tŕ bảo hiệu quang minh oai đức A Di Đà Phật, đúng là tṛng mắt của trời người, là sứ giả của chư Phật, chớ nên coi thường! “Hằng nhạo thuyết pháp” (Thường thích thuyết pháp): Pháp ấy là pháp như thật, pháp chân thật, pháp chẳng tăng, chẳng giảm, có thể lợi lạc hữu t́nh, chẳng đắm nhiễm. “Nam-mô A Di Đà Phật” thanh tịnh chân thật, oai đức tự tại, lợi ích rộng khắp trời người. Do vậy, hành pháp Ban Châu sẽ đạt được công đức và lợi ích như thế đó!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc như pháp trụ, bất xả nhất thiết chúng sanh cố?

          ()云何當得如法住。不捨一切衆生故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được đúng pháp mà trụ, chẳng bỏ hết thảy chúng sanh?)

 

          Hành giả như thế, ngày này qua ngày khác, năm này sang năm khác, đi tới, đi lui (kinh hành), tán thán Phật đức, hồi thí chúng sanh, tán thán sanh mạng trọn đủ đức tướng của Như Lai. Đó là trụ trong Như Như, trụ trong như pháp, chẳng xả hết thảy chúng sanh. Người niệm Phật chẳng xả hết thảy hữu t́nh, chẳng xả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, quyết định nhiếp thọ, hộ tŕ thánh đạo tam thừa, khiến cho họ đạt tới rốt ráo Bồ Đề. Đối với ba thiện đạo, tức nhân, thiên, Tu La, quyết định khiến cho kẻ buông lung tránh khỏi tai ương do buông lung, kẻ đấu tranh tránh khỏi hoạn nạn do đấu tranh, người chọn lựa sẽ tránh khỏi nỗi khổ băn khoăn. V́ sao vậy? Do chẳng xả chúng sanh, siêng gắng, tích cực niệm Phật, khiến cho hết thảy chúng sanh có thể trụ trong an lạc b́nh đẳng. Các vị Bồ Tát ơi! Niệm Phật đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Đối với thánh đạo, thiện đạo c̣n có công đức này, mà đối với tam ác đạo, tam đồ hữu t́nh, đúng là công đức to lớn, đại quang minh an ủi! Do vậy, người niệm Phật nhiếp trọn khắp chín giới, lợi lạc trọn khắp hết thảy hữu t́nh. Người hành Ban Châu cũng có công đức này, đại bi huân tập, oai đức huân tập, chân thật trọn đủ.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc bất siểm khúc, tánh thuần trực cố?

          ()云何當得不諂曲。性淳直故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được chẳng siểm khúc, tánh thuần thẳng thắn?)

 

          Người niệm Phật tâm địa thuần hậu, lợi ích khắp thế gian, chân thật chẳng dối, xa ĺa tạo tác, chúng ta lúc nào cũng có thể trông thấy. Quư vị nói xem, người ấy hiện thời đang hành đạo Ban Châu mà buồn ngủ là do nghiệp tập hiện ra, chẳng phải quang minh nơi tâm tánh hiển hiện, chẳng phải do công đức của A Di Đà Phật hiển hiện. Nếu do bản chất Nhất Như hiển hiện, hiển hiện như thế, sẽ thấy Phật. V́ thế, chúng ta phải thật sự thấy Phật, đừng thấy huyễn tướng nghiệp lực của chúng sanh, đừng nghĩ nghiệp duyên của chúng sanh là điều chính ḿnh trông thấy. [Nếu chấp nghiệp duyên của chúng sanh chính là điều chính ḿnh trông thấy], kiến giải kiểu đó sẽ bị rơi vào tà kiến.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc như nhăn mục, vi nhất thiết thế gian đăng minh cố?

          ()云何當得如眼目。爲一切世間燈明故。

          (Kinh: Như thế nào để sẽ được như mắt, là đèn sáng của hết thảy thế gian?)

 

          Người niệm Phật nương vào pháp để chọn lựa, giống như con mắt của hết thảy chúng sanh. V́ sao? V́ mở to mắt trí huệ, do chẳng lấy, chẳng bỏ. Các thứ được tuyên nói, các thứ ngôn thuyết trong phần trước đều như con mắt, lợi ích thế gian. V́ sao chúng sanh hôn ám, mê muội trụ trong chỗ tối tăm? Những cái được gọi là “tối tăm” trong thế gian đều do nương theo Kiến Tư Hoặc, Trần Sa Hoặc, và Vô Minh Hoặc. Trong Văng Sanh Luận có nói: “Hóa Phật, Bồ Tát nhật, trừ thế si ấm minh” (vầng mặt trời hóa Phật và hóa Bồ Tát trừ tối tăm do ngu si trong cơi đời). Ai đến làm hóa Phật? Ai đến trừ tối tăm do ngu si cho cơi đời? Kẻ tối tăm v́ ngu si chỉ bao gồm [chúng sanh trong] chín pháp giới, chẳng phải là vầng mặt trời hóa Phật, Bồ Tát. V́ sao bao gồm chín pháp giới? Chẳng có Phật nhật luân, dùng ǵ để chiếu soi ḥng trừ bỏ tối tăm do ngu si trong chín pháp giới? Do vậy, khi chúng ta niệm bảo hiệu vạn đức quang minh “Nam-mô A Di Đà Phật”, sẽ soi tỏ pháp giới, ban tṛng mắt cho chúng sanh. Nếu có mắt mà chẳng có ánh sáng, dùng ǵ để thấy? V́ thế nói “tác dĩ thế gian đăng minh” (làm đèn sáng cho thế gian). Trong tối tăm, mắt có tác dụng ǵ? Do đó, hữu t́nh trong chín pháp giới đều dựa vào quang minh nơi vầng mặt trời của chư Phật để chiếu rọi, hướng dẫn mà thành tựu Bồ Đề. Từ địa vị Sơ Tín Bồ Tát măi cho đến Đẳng Giác, đều nương vào niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng để tăng thượng mà thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Các vị Bồ Tát ơi! Đừng coi rẻ niệm Phật!

          vậy, hành Ban Châu có lợi ích chẳng thể nghĩ bàn như thế, làm đèn sáng cho thế gian, rộng lợi ích hữu t́nh. Đèn sáng là nói tỷ dụ, thật sự là vầng mặt trời. Vầng mặt trời vẫn là nói tỷ dụ! Pháp quang minh oai đức của chư Phật chiếu khắp thế gian, vầng mặt trời sao có thể sánh ví cho được? Chỉ đều là nói tỷ dụ đó thôi

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc bất khả khinh miệt, thắng xuất nhất thiết tam giới cố?

          ()云何當得不可輕蔑。勝出一切三界故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đạt được chẳng thể khinh miệt do thù thắng vượt khỏi hết thảy tam giới?)

 

          Trong cơi này (thế giới Sa Bà) có tam giới, thế gian ở phương khác cũng có tam giới, tức Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới. Cơi này là một tiểu thế giới, trung thế giới, đại thế giới, đại thiên thế giới, là quốc độ tồn tại các loại thế giới. Trong các loại tam giới, làm thế nào để “thắng xuất nhất thiết tam giới” (thù thắng vượt khỏi hết thảy tam giới). “Bất khinh miệt” (chẳng khinh miệt) thù thắng hơn hẳn, đúng là chẳng thể nghĩ bàn. Do vậy, đối với hết thảy chúng sanh, chớ nên khinh miệt, hủy báng, chớ nên chửi bới. Đối với hết thảy pháp thế gian, chớ nên khinh mạn, chớ nên coi rẻ, hăy nên tôn trọng hết thảy. Cái tâm “tôn trọng hết thảy” là tâm b́nh đẳng. Cái tâm tôn trọng hết thảy là tâm vui sướng thù thắng. Cái tâm tôn trọng hết thảy là tâm chân thật. Cái tâm tôn trọng hết thảy là tâm tri ân. Cái tâm tôn trọng hết thảy là Phật tâm! Thẳng thừng vượt thoát tam giới, không nhờ vào phương tiện, tự tâm hiện tiền diệu dụng. Chúng ta tu ngay trong hiện tiền, vận dụng trong hiện tiền, ngay trong lúc tu hành, đă thù thắng vượt thoát tam giới, tức là ngay trong một niệm phương tiện hiện tiền, liền có thể chọn lựa. Nếu mở rộng đến vị lai, sẽ thành tựu an trụ, lợi ích thế giới rộng khắp, tự lợi lẫn lợi tha.

          “Bất khả khinh miệt” (chẳng thể khinh miệt) hết sức quan trọng. Có nhiều vị hành pháp do kiêu mạn mà lấn hiếp người khác. Có nhiều vị hành pháp do kiêu mạn mà rơi vào tà kiến. Có nhiều vị hành pháp do tự cho là chẳng đúng pháp, nẩy sanh cái tâm ty tiện, khinh miệt ḿnh lẫn người. Có nhiều người hành pháp do chẳng biết “pháp chẳng có tự tánh”, bèn vọng nhiễm, vọng chấp, vọng thức, cho rằng có được, có mất, lầm lạc sanh ḷng lấn hiếp. Từ trong pháp vô sở đắc, hư vọng cho là có cái để đắc, phần nhiều trở thành kẻ tăng thượng mạn, dẫu có thái độ siêng khổ [tu hành], vẫn chẳng thể thân cận pháp ích, chẳng có bi trí thiện xảo, diệt mất phương tiện, chấp trước mạnh mẽ đối với thế giới, bị các nỗi khổ của chính ḿnh lẫn người khác bức bách. Những kẻ đọa lạc như thế là các chúng sanh được chư Phật, Bồ Tát thương xót, [bởi họ đă] đánh mất cam lộ vị trong niệm Phật. Do vậy, họ đều là những người đáng nên gấp rút cứu vớt, v́ họ chẳng thuận theo pháp, phá hoại pháp. Chúng ta phải khéo tư duy, khéo quan sát điều này, chớ nên hủy nhục người khác. Các vị thiện tri thức ơi! Khi chúng ta hành pháp, nhất định phải tôn trọng hết thảy hữu t́nh, hết thảy cơ chế, hết thảy nhân duyên. Tôn trọng như thế, sẽ có thể vượt thoát tam giới, lợi ích tam giới!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc vô tránh luận, như giáo thuyết hành cố?

          ()云何當得無諍論。如教說行故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được không tranh căi, đúng như lời dạy mà hành?)

 

          “Vô tránh luận” là căn bản của pháp Tịnh Độ, là cội rễ của giáo ngôn chư Phật, là căn bản để lợi ích trọn khắp hữu t́nh. Căn bản ấy chính là tướng trọn đức, chẳng tạo tác, là trí b́nh đẳng bất nhị, vốn như thế đó. Vốn chẳng thể tranh chấp, do chúng sanh phân biệt, chấp trước, mà tạo lập đủ loại kiến giải tranh chấp, nghị luận tranh chấp, các pháp tranh chấp, [những thứ hư vọng ấy đều] do thế gian sốt sắng tạo nên. Khi A Di Đà Phật tu nhân địa, đă lập ba thệ nguyện. Điều được thệ nguyện căn bản ǵn giữ duy tŕ chính là “vô tránh nguyện”, được Vô Tránh tam-muội nhiếp tŕ, thủ hộ, ban bố không tranh chấp cho hết thảy chúng sanh, khiến cho hết thảy chúng sanh đạt được trí thanh tịnh, b́nh đẳng. Thanh tịnh b́nh đẳng giác cũng là nơi an trụ của Vô Lượng Thọ Phật. Đấy chính là bố thí thuốc để cứu chữa chúng sanh, cứu chữa cái tâm vô thường sanh diệt và cái tâm tạo tác sanh tử đối đăi của chúng sanh. Do vậy, vô tránh là cội rễ của pháp Tịnh Độ, mà cũng là chỗ quy kết của các thiện xảo trong hết thảy Phật pháp. Nếu nẩy sanh đối đăi, tất nhiên sẽ dấy lên tranh chấp. Nếu dấy lên tranh chấp, tất nhiên bối rối v́ sanh tử hiện tiền, [khi đó], dẫu nương theo giáo pháp để tu hành, sẽ không có chỗ để nương cậy. Do vậy, trong ba thệ nguyện bí mật do A Di Đà Phật đă lập ra, lợi ích căn bản là “chẳng tranh chấp”. Nếu nhận biết căn bản chẳng tranh luận, sẽ thấy trí thanh tịnh b́nh đẳng của A Di Đà Phật, sẽ thấy sự liên tục của Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang.

          Trong thời đại này, có thể là mọi người khá khốn đốn v́ thói xấu “thuyết pháp nhiều, hành pháp ít” như thế đó! Pháp tắc được thực hiện trong một đạo tràng, phần nhiều là chẳng thể đạt đến mười phần đúng mức thật sự tương ứng, thường sẽ nẩy sanh các tranh luận do chấp trước nơi t́nh kiến. Nhưng nếu y theo giáo pháp để hành, sẽ có thể tiêu trừ các so đo t́nh chấp của chính ḿnh, đạt được sự thực hiện đúng như pháp, thành tựu ḿnh lẫn người, lợi ích thế gian. Nói theo giáo ngôn Tịnh Độ, dùng “diệt tránh” (diệt trừ tranh chấp, căi cọ) làm phương tiện tối thắng. Người đời do tạo tác tranh luận, nẩy sanh thói quen tạo nghiệp trái nghịch, tàn hại, thậm chí c̣n khá hào hứng làm chuyện đó. Trong một đạo tràng, hoặc trong quá tŕnh tu pháp, nếu mỗi người đều nói chuyện thị phi, sẽ dễ sanh ḷng vui thích; nhưng nếu bàn tới các nhu cầu để đạt tới vô sự, an tịnh, th́ người ta thường chẳng cảm thấy yên vui cho lắm. Đó là cái tâm của phàm phu, mà cũng là tâm phân biệt, tâm chấp trước. Trong khi hành Ban Châu, tức là pháp Thường Hành đạo, đích xác là hăy nên đối trước mỗi chuyện, mỗi thời khắc quan trọng, mỗi nhân duyên xảy đến với chúng ta, tâm trí đều biết rơ như thật, chẳng tranh chấp, tâm trí b́nh đẳng, tiêu trừ kiến giải luôn phân biệt những thứ vốn chẳng cần thiết phải phân biệt mà lại dấy lên phân biệt, xa ĺa các nỗi khổ vô ích. Người đời đă quen tranh luận và tranh chấp, nhất là trong thời đại này, [lắm kẻ] coi đấu tranh như một thứ lạc thú. Đấu với trời, đấu với đất, đấu với người, nói chung là vui thú khôn cùng! Trên thực tế, chẳng phải là như thế, [nếu ưa thích tranh chấp] như vậy th́ đủ loại nghiệp khổ trong hiện tại, nghiệp khổ trong vị lai, nghiệp rốt ráo cũng là khổ. Nếu nghiệp hiện tại của chúng ta thanh tịnh, mỗi khi đấu tranh, ngờ vực, lo ngại, phiền năo vừa sanh khởi, bèn tiêu trừ lập tức, giải quyết lập tức, nhận biết lập tức, th́ quả báo trong hiện tại, quả báo trong vị lai, quả báo rốt ráo tất nhiên là thanh tịnh, b́nh đẳng, chân thật chẳng thể nghĩ bàn!

          Tu hành pháp Ban Châu ngay trong hiện tiền, đừng quên đằng sau các danh từ ấy chính là các chuyện, các tướng, các nhân duyên chúng ta đă gặp. Ngay trong sát-na gặp gỡ những chuyện ấy, phải kịp thời giải quyết ngay, đừng để cách một niệm, một thời, hay để cách ngày! Nếu quư vị có thể giải quyết chẳng chậm một ngày nào, dẫu hành pháp Ban Châu phát triển chậm chạp, trúc trắc đôi chút, vẫn đạt được lợi ích do hành pháp Ban Châu. Như thế th́ “chẳng cách thời (giải quyết mọi phiền năo ngay khi chúng vừa lên ngay lập tức, đừng chần chừ), có thể nói là sẽ có lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Nếu thật sự chẳng để cách niệm, niệm niệm nối tiếp, người ấy đối với sức tam-muội sẽ chẳng cần nhờ tới ngôn thuyết, mà đă có thiện xảo và công đức chẳng thể nghĩ bàn!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc vô gian nan hạnh, vô trụ trước cố?

          ()云何當得無艱難行。無住著故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đạt được hạnh chẳng khó khăn, v́ chẳng chấp trước?)

 

          “Vô gian nan hạnh” thật ra là sự khinh an, thiện xảo trong hành pháp. Người thật sự học Phật chẳng cảm thấy có gánh nặng, chẳng cảm thấy nặng nề, chẳng cảm thấy đau khổ. Nặng nề, đau khổ tức là biểu hiện của sự chẳng đạt được lợi ích từ Phật pháp ngay trong hiện tiền. Người thật sự có hai pháp Bi và Trí, chẳng đắm nhiễm pháp, có ǵ là gian nan, trúc trắc? Nếu tâm trí bị nhiều sự tướng che lấp, các nạn duyên kích phát lẫn nhau, tức là sai mất rồi, sẽ nẩy sanh các nỗi khổ chẳng cần thiết! Chẳng hạn như hiện thời học tập pháp này, mọi người sẽ dần dần tiến đến giai đoạn b́nh ổn, chúng ta cũng chẳng cần phải hưng sư động chúng. Trong quá tŕnh này, mỗi người chúng ta trong hiện tiền dẫu chẳng được khích lệ, vẫn chẳng thoái thác trách nhiệm học tập Phật pháp, thực hành Phật pháp nhằm tự lợi. Tai chúng ta thường nghe đặc nghẹt [những lời lẽ phê phán] kẻ khác như thế nào, đạo tràng như thế nào, kẻ nọ như thế nào, những kẻ phục vụ như thế nào… Nếu nói “chính ḿnh phải nên làm như thế nào” th́ [những lời phê phán] ấy sẽ ít đi. Có các vị Bồ Tát chẳng nói nhiều cho mấy, như thế th́ sẽ đơn giản hơn. Trên thực tế, mỗi khi chúng ta gặp chuyện khó khăn phát sanh, trúc trắc, hăy quan sát nó sanh khởi từ tự tâm của chính ḿnh, nó sẽ ngay lập tức chẳng gây trở ngại nữa. Như thế là đích xác tu pháp Ban Châu, đó là đạo thường hành. Nếu có chuyện nào dẫn đến trục trặc, gian nan, tức là chúng ta chẳng hành đạo, là phi đạo (trái đạo, nghịch đạo), ác đạo. Nếu đích xác là chẳng thể hướng dẫn hữu t́nh tiến nhập Bồ Đề, vận dụng pháp tắc, vậy th́ pháp tắc mà chúng ta đang học tập c̣n có tác dụng chi nữa? Chẳng phải là rơi vào h́nh thức rỗng tuếch ư?

          Trong mỗi thời khắc chúng ta học tập, đích xác là phải tôn trọng cái tâm và duyên của chính ḿnh, tôn trọng nghiệp tướng ngoại tại của chính ḿnh. Sự tôn trọng ấy khiến cho tâm trí người khác khinh an, chẳng đắm nhiễm, thường hành đạo nghiệp trong hiện tiền, trọn chẳng có nghĩa là chúng ta học thuần thục rồi mới “thường hành đạo”. Cái gọi là “tu Ban Châu”, tức là trong khi chúng ta nghe pháp, lúc nghỉ ngơi, lúc giao tiếp, lúc gặp phải nạn duyên (các duyên gây khó khăn), lúc gặp phải khốn khó, lúc nẩy sanh nhân ngă thị phi, sẽ đều “vô trước trụ” (không chấp trước). Vô trước trụ là ǵ? Chớ nên coi sự t́nh là thật, chớ nên quá quan trọng hóa sự t́nh. Đối trước nghiệp duyên như huyễn, nghiệp duyên hiện tiền, chúng ta cần phải xử lư chúng, hăy đừng khăng khăng chấp đó là sự thật. Nếu cưỡng chấp là sự thật, sau đó phải sám hối, lại c̣n phải trừ sạch, lại c̣n phải sửa đổi, như thế th́ sẽ rất tốn công sức! Giống như đă dựng xong một căn nhà rồi phá sập nó. Cưỡng chế chấp trước, chấp trước những trúc trắc, sẽ cưỡng chế kiến lập nghiệp tướng của ác nghiệp, sau đó toan lay động nó, sẽ mười phần tốn sức. Nếu trong sát-na khó khăn, nghiệp duyên và mâu thuẫn sanh khởi, chúng ta hăy lập tức tu, lập tức hành pháp Ban Châu để quan sát cẩn thận, đó cũng là “hành vô gian nan”.

          Mỗi người chúng ta trong khoảng khắc gặp chuyện, chuyện đó có thể là nguồn gây ô nhiễm, mà cũng có thể là nguồn thanh tịnh. Nếu đúng pháp duy tŕ, nó sẽ nguồn thanh tịnh. Nếu truyền bá sự ô nhiễm của nó th́ sẽ là ngọn nguồn ô nhiễm, là thứ gây họa. Các vị Bồ Tát ơi! Chuyện này chẳng cần phải nói, mỗi người chúng ta đều có thể trông thấy, mà cũng đều có thể lư giải. Do vậy, chúng ta đối với cơ chế và khái niệm học pháp, vận dụng pháp, nhất định phải thuần thục ngay trong mỗi niệm hiện tiền, ngay nơi mỗi sự, ngay nơi mỗi người! Các vị Bồ Tát ơi! Đó là duyên khởi tốt nhất của hạnh Ban Châu, là duyên khởi b́nh thường nhất, là duyên khởi chân thật nhất, mà cũng là hành pháp Ban Châu dễ hành nhất. Trong Phật giáo, như tông Thiên Thai đă phán định: “Trong hết thảy tam-muội, có bốn loại tam-muội”. Tùy Ư tam-muội tu tŕ từ chỗ này, tức là trong hết thảy ư niệm, lúc sự tướng hiện tiền, lúc mất chánh niệm, sẽ lập tức nhận biết, khiến cho tự tánh lưu lộ, hoặc là tự tánh được tiếp nối, sanh khởi tác dụng. Như thế th́ sẽ chẳng mê mất nơi sự tướng thiện, ác, đúng, sai, có thể do Phổ Đẳng tam-muội, hoặc là Tùy Ư tam-muội tùy lúc tu hành. Thường hành đạo của Ban Châu cũng cần phải tu chứng ngay trong mỗi niệm.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc tri ư Thật Tế, bất phân biệt chư pháp cố.

          ()云何當得知於實際。不分別諸法故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ biết Thật Tế, chẳng phân biệt các pháp?)

 

          Một trăm hai mươi hai điều “vân hà” đă bao gồm các lợi ích thực tế do hành pháp Ban Châu dẫn xuất, do Hiền Hộ Bồ Tát thay chúng ta khải vấn đức Thế Tôn, và do đức Thế Tôn tuyên nói cho đại chúng, khiến chúng ta có thể trụ trong an lạc, trụ trong chân thật, trụ trong quan sát lợi ích nơi pháp tu này. “Vân hà đương đắc tri ư Thật Tế” (như thế nào th́ sẽ biết Thật Tế). Thật Tế là ǵ? Trong nhân duyên hiện thực th́ có hai loại Thật Tế: Một là cứu cánh Thật Tế, hai là hiện tiền sự tướng Thật Tế. Chúng ta thường nghe người khác nói: “Trên thực tế, có phải là t́nh huống ấy hay không?”, hoặc “đấy là t́nh huống thực tế ư?” Các sự t́nh phát sanh, nhân duyên đă hiện tiền, được gọi là hiện tướng thực tế (hiện tiền sự tướng Thật Tế), tức là thực tế trong hiện tại. Đương nhiên cũng có cứu cánh thực tế (thực tế rốt ráo), tức là thực tế do nương theo Lư để quan sát cẩn thận. Nếu dựa trên hai pháp Lư Quán và Sự Quán để quán Thật Tế, sẽ có thể đạt được thiện xảo. Chẳng hạn như chúng ta dùng tâm trí “chẳng phân biệt các pháp”, th́ đó cũng là tâm trí của Ban Châu hạnh, mà cũng là tâm trí thường hành đạo. “Đạo” chính là chẳng phân biệt các pháp trong thực tế hiện tiền, mà “các pháp” chính là “các tâm”. “Các tâm” là các loại cảm giác, các loại nghiệp tướng. Nếu trong các nghiệp tướng, sẽ có các thứ sự tướng. Nếu dựa theo rốt ráo để nói, y theo Lư để nói, quả thật chẳng có ǵ để phân biệt, chẳng có ǵ để tạo tác, chẳng có ǵ để sanh diệt.

          Các vị thiện tri thức ơi! Nhất định phải dung nhập Phật pháp vào trong chỗ sâu thẳm nơi tâm linh của chính ḿnh, dung nhập thực tế hiện tiền của chính ḿnh, thật sự làm một vị trí giả, người có ḷng bi, bậc tạo phương tiện, bậc đạt được Bồ Đề tâm, làm một hành giả trọn đủ đại bi, đại trí, đại nguyện trong Phật pháp, chẳng cô phụ chính ḿnh! Đừng cho rằng điều này cách biệt chúng ta rất xa xôi. Nếu đúng như pháp thực hiện, nó sẽ chẳng xa xôi. Nếu đùn đẩy cho người khác, gán cho Phật, gán cho bậc hiền giả, gán cho thánh nhân, như thế th́ sẽ chẳng liên can ǵ đến chúng ta. Điều này rất rơ ràng, “tri ư Thật Tế” (biết Thật Tế) có hai pháp Lư và Sự. Nói theo Lư, quả thật chẳng có phân biệt. Nói theo s tướng, đối với chỗ phân biệt bèn vừa khéo dùng thiện xảo “chẳng phân biệt” để quan sát và vận dụng, th́ sẽ là người hành pháp thanh tịnh, lợi ích chân thật.

          Chúng ta thấy nhất quán từ đầu đến cuối trong mấy chục câu hỏi, toàn bộ đều là nói đến hành pháp như lư, tâm trí như lư, thủ hộ như lư, xa ĺa đắm nhiễm và tranh căi, kiện cáo, xa ĺa trúc trắc, xa ĺa thị phi, xa ĺa chấp trước [vạn pháp] là thật, biết [vạn pháp] là huyễn hóa, biết chúng chẳng thể đạt được. Các vị Bồ Tát ơi! Chúng ta vứt bỏ nhân duyên gia đ́nh, vứt bỏ hoàn cảnh sống quen thuộc của chính ḿnh, đến nơi núi cao như thế này, phải nên có một mục đích duy nhất: Tới đây để tu tập Phật pháp, học tập Phật pháp. Chúng ta phải nhận thức rơ ràng, phải vứt bỏ các tạp niệm và tạp duyên chẳng liên can, vô ư nghĩa, chẳng cô phụ cơ chế và cơ duyên của công đức thù thắng nơi các hiện duyên của chính ḿnh, cũng như các pháp tắc có công đức thù thắng mà ta đă được nghe. Nếu chẳng như thế, sẽ là khinh mạn chính ḿnh, khinh mạn pháp tắc, khinh mạn hiện tại, khinh mạn sanh mạng được mười phương dưỡng dục của chính ḿnh, làm sao có thể đạt được lợi ích như thế cho được?

          Trong Phật giáo, mọi người đều đề ra “sống với ḷng biết ơn”, nói “hết thảy chúng sanh đều là Phật, Bồ Tát, chỉ có ta là phàm phu”, phải dùng tâm thái cảm ơn để đối đăi các hữu t́nh, phải đối đăi với hiện duyên bằng ḷng cảm ơn, phải đối đăi với hữu t́nh có tánh chất xấu ác bằng ḷng cảm ơn, phải đối đăi với các nhân duyên khổ nạn bằng ḷng cảm ơn, do v́ lẽ nào? [Các thứ ấy] đều là sự gia tŕ khiến cho đạo nghiệp tăng thượng và là các bậc thầy tốt lành hướng dẫn tạo lợi ích. Chúng ta há có thời gian để tạo tác các pháp tắc chẳng tương ứng nữa ư? Tôi nói những điều này, cũng vẫn là hy vọng mọi người hăy vận dụng giáo pháp, vận dụng kinh điển để xem xét kỹ càng khởi tâm động niệm của chính ḿnh. Phải thấy rơ khởi tâm động niệm, nhận biết chuẩn xác, nhất định đừng bỏ qua. Đừng cho rằng ngoại trừ khởi tâm động niệm, c̣n có vật ǵ khác. Nếu có thể nắm giữ rơ ràng pháp tắc này, vận dụng thành thục, sẽ đúng là tṛng mắt của thế gian, là bậc thiện xảo trong thế gian, là ĺa khổ, là được vui, ban an lạc cho chúng sanh.

          Do vậy, “đắc tri ư Thật Tế, bất phân biệt chư pháp cố” (được biết Thật Tế, chẳng phân biệt các pháp). Trong Thật Thế Lư Địa, đối với giác tri, chẳng nhiễm mảy trần, nương theo pháp mà quan sát. Như thế th́ sẽ có các sự biến hóa trong sự tướng, các thứ đắm nhiễm, các loại thiện, các loại ác, thật sự đúng là chúng ta đang hành đạo, biết tâm, biết cơ hội thiện xảo của pháp và duyên tăng thượng, chẳng tạo duyên đọa lạc, chẳng tạo duyên buông lung, đừng đắm ch́m trong sự hưng phấn và nghiệp lực của chính ḿnh. “Hưng phấn” là ǵ vậy? Chúng ta đều biết, rất nhiều kẻ hút ma túy, biết rơ là độc hại, nhưng vẫn hút, v́ nó khiến họ hưng phấn. Kẻ hút thuốc lá biết rơ thuốc lá độc hại, nguy hại cho sức khỏe, nhưng vẫn cứ hút v́ nó khiến cho họ hưng phấn. Kẻ uống rượu biết rượu không tốt cho con người, gây loạn tánh, vẫn cứ uống. Có kẻ đánh nhau, ẩu đả, biết là không tốt, vẫn cứ đánh nhau, ẩu đả, v́ hưng phấn! V́ sao có rất nhiều người biết rơ là chuyện không tốt vẫn cứ làm? Đă bị trúng độc, tức là đánh mất sự thủ hộ đối với tâm trí ngay trong lúc ấy, đánh mất duyên khởi thanh tịnh ngay trong lúc đó. Duyên khởi đă chẳng thanh tịnh, các loại nghiệp tướng sẽ tiếp nối.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc thuyết nhất thiết ngữ ngôn trí, linh chư chúng sanh trụ ư Đại Thừa cố?

          ()云何當得說一切語言智。令諸衆生住於大乘故。

          (Kinh: Như thế nào th́ đạt được trí nói hết thảy các ngôn ngữ, khiến cho các chúng sanh trụ trong Đại Thừa?)

         

          “Nhất thiết ngữ ngôn trí” (trí biết hết thảy ngôn ngữ): Chúng ta đều biết, trong trí tổng tướng, Đà-la-ni giáo biểu đạt trí biết hết thảy ngôn ngữ. Đà-la-ni là trọn hết thảy các nghĩa, trọn hết thảy công đức, có đủ hết thảy thiện xảo, đủ hết thảy phương tiện, đủ hết thảy các pháp. Đà-la-ni c̣n gọi là Tổng Tŕ, nhưng thường là [từ ngữ này và nội dung của các Đà-la-ni đều] chẳng phiên dịch. Chẳng hạn như trong công khóa [sáng sớm] nơi đất Hán, chú Lăng Nghiêm là Đà-la-ni, mười tiểu chú là Đà-la-ni, chú Đại Bi là Đà-la-ni. Lại như chúng ta đọc kinh Viên Giác, trong ấy nói “thử thị đại Đà-la-ni giáo” (đây là đại đà-la-ni giáo), tức là giáo pháp Tổng Tŕ.

          Nay chúng ta niệm nam-mô A Di Đà Phật, hành Ban Châu, có phải là Đà-la-ni giáo hay không? Có phải là trí hết thảy ngôn ngữ sẽ khiến cho chúng sanh ai nấy đều có thể sử dụng hay không? Chắc chắn là như thế. Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta niệm Nam-mô A Di Đà Phật, hồi thí thanh tịnh b́nh đẳng giác, có thể khiến cho chúng sanh nhập Đại Thừa, an trụ trong Đại Thừa, tức là b́nh đẳng gánh vác. Lại c̣n như lạy Văng Sanh Lễ Tán, trong ấy, cuối cùng có một câu: “Nguyện cộng chư chúng sanh, văng sanh An Lạc quốc” (nguyện cùng các chúng sanh, văng sanh cơi An Lạc). Đó là tâm trí Đại Thừa, pháp tắc Đại Thừa, hiệu ứng Đại Thừa, lợi ích chân thật của Đại Thừa được hiển hiện, tức là nguyện cho pháp giới chúng sanh cùng lúc đều đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Nguyện cho hết thảy chúng sanh đều cùng sanh về cơi Vô Lượng Quang Phật. Cơi của A Di Đà Phật là cơi Phật vô lượng quang, nguyện văng sanh liền văng sanh, tâm làm Phật, tâm là Phật. Do công đức của A Di Đà Phật mà thành tựu Vô Biên Quang, Vô Ngại Quang, Vô Đẳng Quang, Trí Huệ Quang, đó là tướng quả đức trong công đức, chiếu trọn khắp pháp giới. Nếu ai tín thuận, sẽ liền được văng sanh. Đó gọi là “thập vạn ức sát độ, nhất niệm tín tức thị” (mười vạn ức cơi nước, một niệm tin là được). Tín là tri kiến hiện thời của chính ḿnh ngay lập tức dung nhập cơi Phật Vô Lượng Quang, chẳng nhiễm, chẳng đắm, nhất thời dùng quả đức trí huệ quang minh của Phật để dung nhập tự tâm, tự tâm ấn khế, chẳng hai, chẳng khác, sẽ ấn chứng và chứng thực lợi ích văng sanh ngay trong hiện tiền. Nếu tiếp nối như thế, người ấy sẽ đắc trí quang minh, vô ngại, và giải thoát, trọn đủ hết thảy các thiện xảo, gánh vác và lợi ích hết thảy chúng sanh.

          “Trụ ư Đại Thừa” (trụ trong Đại Thừa): Tất cả ngôn thuyết của chúng ta chẳng đều lợi ích trọn khắp hữu t́nh ư? Sự thuyết giáo của Thanh Văn là có đối đăi. Chẳng hạn như nói hàng xuất gia và tại gia nếu phạm năm giới, tám giới, mười giới, hành bất tịnh pháp, sẽ đọa trong các loại khổ báo của ác nghiệp. Đó là cách nói đối ứng căn cơ, chẳng phải là giáo ngôn rốt ráo, rộng lớn của Đại Thừa. Nhưng giáo ngôn đối ứng căn cơ ấy là sự quở trách và khuyến hóa dành cho các loại hữu t́nh chẳng tŕ giới, phạm giới. Chúng ta nói “nam-mô A Di Đà Phật” chiếu khắp hết thảy hữu t́nh thiện ác trong mười phương. Đấy là sự hồi thí b́nh đẳng của Đại Thừa, b́nh đẳng lợi ích rộng khắp hết thảy hiện duyên hữu t́nh, khiến cho hết thảy hữu t́nh nghe xong, sẽ đều được lợi ích b́nh đẳng, giống như chiếc thuyền lớn chuyên chở. Giống như một căn nhà lớn này của chúng ta, giả sử hiện thời biến thành chiếc thuyền “A Di Đà Phật số 1” để mọi người đều văng sanh thế giới Cực Lạc. Nhưng nếu chúng ta nói “người xuất gia th́ đi, c̣n hàng tại gia lui ra” th́ sẽ trở thành đối đăi căn cơ. Hoặc “đàn ông đứng lại, đàn bà lui ra ngoài”, đó là đối ứng căn cơ. Hoặc “thiện nhân đứng một bên, ác nhân đứng một bên”, lại thành có căn cơ, chủng loại khác biệt! Giáo pháp dựa theo căn cơ, có thể nói là nhập Đại Thừa, có thể nói là Thanh Văn Thừa, cũng có thể nói là phán định theo nhân thiên, hoặc phán định theo thiện ác, cũng có thể chẳng phải là Phật pháp. Chẳng hạn như nhân ngă thị phi có thể chẳng phải là Phật pháp. Do vậy, ở đây hy vọng mọi người đều có thể thiện xảo tu tập pháp tắc Đại Thừa, sẽ có phương tiện để tiến nhập.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc chí vô úy xứ, viễn ly khủng bố, vĩnh vô nhất thiết mao thụ đẳng sự cố?

          ()云何當得至無畏處。遠離恐怖永無一切毛豎等事故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đạt tới chỗ không sợ hăi, xa ĺa sợ hăi, vĩnh viễn chẳng có hết thảy chuyện rởn lông tóc?)

 

          Người khác nhau sẽ có cảm nhận khác nhau. Có người hành Ban Châu, buổi tối trông thấy bóng tối cũng sợ rởn cả lông tóc, sanh khởi sợ hăi. Có người ở nơi đồng trống sẽ sanh khởi sợ hăi. Có người đọc kinh sợ rởn da gà, run rẩy. Có người thấy tướng ác bèn rởn cả lông tóc. Có người thấy tượng Phật sẽ rởn cả lông tóc, run rẩy. Có người nghe một câu nói sẽ rởn cả lông tóc, run rẩy. Đấy đều là do nghiệp quả chín muồi của mỗi người, do Dị Thục Quả tiếp tục khích phát biểu hiện ra.

          “Mao thụ tướng” (毛豎, tướng rởn lông tóc), trên thực tế là do sợ hăi. Một số vị cư sĩ trẻ tuổi tại gia thích xem phim kinh dị, tức là mong được sợ hăi rởn da gà. Đó là một nhân duyên. Ở đây, [chánh kinh] bảo chúng ta như thế nào th́ sẽ có thể xa ĺa nhân duyên như thế đó? “Đắc chí vô úy xứ” (đạt tới chỗ không sợ hăi): Nếu chúng ta thường hành pháp Ban Châu, sẽ ngay lập tức xử lư sạch sẽ, chẳng đắm nhiễm, tâm chẳng vướng mắc, không đầu, không cuối, chẳng thiện, chẳng ác, các đối đăi tan hoại, há có sợ hăi ǵ nữa ư? Do vậy, chỗ lợi ích công đức chân thật của hành pháp Ban Châu là chắc chắn xa ĺa hết thảy sợ hăi. Nếu chúng ta đích thân chứng tam-muội, đích thân chứng tự tánh, c̣n sợ hăi chi nữa? V́ đối đăi c̣n chẳng sanh khởi, há có nỗi sợ hăi và kẻ sợ hăi ư? Há c̣n có cái người bị sợ hăi và chuyện đáng để sợ hăi nữa ư? Do đó, hành pháp Ban Châu chắc chắn có lợi ích chẳng thể nghĩ bàn như thế, có thể khiến cho hữu t́nh đạt tới chỗ chẳng sợ hăi.

          Đây là một câu hỏi rất hay! Hiền Hộ Bồ Tát đến giúp chúng ta là những kẻ học Phật trong thời Mạt Pháp, tức là các hữu t́nh luôn suy nghĩ vô ích, quan sát vô ích, hoặc chẳng có sức để suy xét, hoặc chẳng có sức để quan sát. Người hiện thời nếu có vấn đề phải suy xét, thường là rất tạp loạn! Rất nhiều vị Bồ Tát hễ mở miệng ra toàn là ác tri ác kiến của chính ḿnh, chẳng liên quan ǵ tới Phật pháp! Các hữu t́nh khéo tư duy niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Khổ, Tập, Diệt, Đạo, niệm tịch tĩnh Niết Bàn, niệm vô ngă, vô thường, tức là đă nương theo pháp để tư duy, nương theo pháp để trao đổi, nương theo pháp để tu tập. Từ điều “vân hà” thứ nhất cho đến điều “vân hà” chín mươi, mỗi điều đều nhằm bảo chúng ta hăy tư duy đúng như lư, thực tập đúng như lư, quan sát đúng như lư, khải giáo (khải thỉnh giáo pháp) đúng như lư. Nhất định chớ nên xem thường những văn tự ấy. Chớ nên xem nhẹ kinh điển! Chúng ta quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, đấy cũng là chỗ quy y của chúng ta, giống hệt như đức Phật trụ thế chẳng nghi, an ủi chúng ta. Nếu có thể y giáo phụng hành, nhất định có thể đạt được công đức và lợi ích chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta thường nói “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”, nhưng chỉ là nói ngoài miệng, hay là trong tâm nghiệp hành xứ thật sự quy y? Khi chúng ta nói chuyện thị phi, khi đánh lộn, khi gây chuyện ồn náo, niệm nào cũng đều là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, sau đó mới cùng người khác đấu tranh. Khi trong tâm chúng ta phiền năo, khi chẳng có cách nào giải quyết vấn đề, khi tư duy chẳng đúng pháp, niệm nào cũng đều là Khổ, Vô Thường, Vô Ngă, tịch tĩnh Niết Bàn, sau đó sẽ cùng người khác biện luận đúng, sai, nói hay, nói dở. Như thế th́ nhất định sẽ có ư nghĩa. Đấy là tư duy đúng lư, phê phán đúng lư, trao đổi đúng lư, như thế th́ chúng ta sẽ đều có thể ĺa khổ, được vui. Nếu không, sẽ đều là thành chẳng đúng pháp, nói chẳng đúng pháp, trao đổi chẳng đúng pháp, lăng phí thời gian của chính ḿnh, lăng phí tinh lực của kẻ khác, kết quả là c̣n rơi vào quả báo có tánh chất xấu ác, thật sự chẳng tương ứng. Đó là chỗ đáng sợ hăi.

          Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta thật sự phải nên suy xét chỗ chúng ta sợ hăi là ǵ? Nếu thật sự tư duy, hăy xét xem trong tâm ta có phải là có điều sợ hăi hay không? Có chỗ hoảng sợ hay không? Có người sợ cái này, có người sợ cái kia. Nỗi sợ hăi đúng là khác nhau! Tôi đă thấy có người sợ gia đ́nh chẳng duy tŕ nổi, sợ chính ḿnh chẳng có người yêu, sợ xuất gia… Thế nhưng, kẻ sợ đọa lạc rất ít, kẻ sợ chẳng có tham, sân, si đặc biệt nhiều! Dường như nếu chẳng có tham, sân, si, mạn, nghi, tợ hồ là chuyện rởn da gà! Tôi chẳng dám cười chuyện này, hy vọng mọi người thật sự tư duy đúng như lư để suy nghĩ xem chính ḿnh sợ nhất điều ǵ? Người sợ đọa lạc đúng là rất ít; đấy là chuyện rất đáng sợ. Người sợ xuất gia quá nhiều! Sợ xuất gia, sợ thoát khỏi tam giới, sợ chẳng đắm nhiễm! Đúng là chẳng thể khiến cho mọi người phải nghĩ lại, v́ đắm nhiễm chính là mạng căn của chúng ta, mọi người đă quá quen thuộc, quen nết mất rồi, [luôn luôn] coi đó cũng là chuyện b́nh thường. Nhưng cái b́nh thường ấy lại đặc biệt bất thường, v́ nó là cội rễ của luân hồi, có thể ngăn lấp đạo nghiệp thành tựu, là một thứ trần cấu đặc biệt sâu đậm!

          “Đương đắc chí vô úy xứ” (sẽ đạt tới chỗ không sợ hăi): Rốt ráo trong pháp ích, có thể nói Tứ Chánh Cần là chỗ không sợ hăi, tức là chúng ta an trụ trong thiện pháp cũng là chỗ không sợ hăi. Người xuất gia thủ hộ giới luật là chỗ không sợ hăi, mà phạm giới là chỗ sợ hăi. Hữu t́nh trong thế gian thủ hộ thiện pháp là chỗ không sợ hăi. Sợ có ác danh trong ác pháp, cũng sẽ sanh ra sợ hăi. Trong pháp xuất thế gian, có các thứ Thiền Định thiện xảo, thần thông tự tại, là một chỗ không sợ hăi. Có các thứ tản mạn, buông lung, không có sức tự khống chế, cũng là chỗ sợ hăi. Từ Bát Địa Bồ Tát trở xuống, thoái chuyển là chỗ sợ hăi. Bồ Tát từ Bát Địa trở lên, bất thoái chuyển là chỗ không sợ hăi. Hữu t́nh mà chưa đạt đến địa vị Phật th́ đều có Kiến Tư Hoặc, Trần Sa Hoặc, Vô Minh Hoặc, đó là chỗ sợ hăi. Chư Phật Như Lai chứng thấu triệt A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, pháp tánh trọn khắp, chẳng sợ hăi ǵ. Đó là chỗ không sợ hăi. Các vị đại Bồ Tát vẫn có điều sợ hăi! Nói tương đối, ai nấy đều sợ hăi, chỉ có chư Phật xa ĺa hết thảy sợ hăi. Chúng ta có thể vĩnh viễn chẳng sợ hăi hay không? Vậy th́ phải thành tựu Bồ Đề rốt ráo, thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, nương theo giáo ngôn trong tối thượng thừa để tu tŕ, cho đến tiến nhập Vô Thượng Bồ Đề, thật sự vĩnh viễn ĺa khỏi hết thảy sợ hăi.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc tri Phật phương tiện thuyết, thiện đạt nhất thiết Tu Đa La đẳng cố?

          ()云何當得知佛方便說。善達一切修多羅等故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ biết Phật nói phương tiện, khéo thông đạt hết thảy Tu Đa La b́nh đẳng).

 

          Đức Phật thuyết pháp, đích xác là có Quyền Giáo và Thật Giáo, có liễu nghĩa và bất liễu nghĩa. Đời Mạt Pháp có bốn ngọn đèn chiếu sáng thế gian, tức là pháp tắc Tứ Y. Đó là bốn cách nói quyết định để làm chỗ nương cậy cho thế gian, an ủi thế gian. Đó chính“y pháp, bất y nhân. Y liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa. Y trí, bất y thức. Y nghĩa, bất y ngữ”. Bốn cách nói ấy là lời căn dặn của đức Thế Tôn dành cho hữu t́nh học Phật trong thời Mạt Pháp, tức là dạy chúng ta biết pháp tắc như thế nào để phán định sự học tập của chính ḿnh? Phải nên dựa theo pháp, đừng dựa theo một cá nhân nào. Nương theo pháp liễu nghĩa, chẳng nương theo pháp bất liễu nghĩa. Nương theo trí, chẳng thuận theo thức. Nương theo ư nghĩa, đừng nương theo từ ngữ. Dùng những điều này để khiến cho chúng ta thâm nhập, đạt được phương tiện hồi thí cho hữu t́nh.

          Chúng ta hành Ban Châu, có thể biết đức Phật nói phương tiện hay không? Nói phương tiện th́ có hai cơ chế để kiến lập:

          1) Một là thuận duyên kiến lập.

          2) Hai là nhằm thỏa thích bổn hoài của đức Phật, chiếu khắp, nhiếp trọn, rộng độ hữu t́nh mà kiến lập.

          Tức là đối ứng căn cơ để thí giáo, khiến cho hết thảy các loại căn cơ sẽ do pháp tắc tương ứng với căn cơ mà được độ thoát. [Đó là thuận duyên kiến lập]. C̣n pháp kia nhằm thỏa thích bổn hoài của Phật, [tức hoài băo vốn có của Phật là] phổ độ chúng sanh. Hai loại phương tiện này, loại sau là đại phương tiện, loại trước là phương tiện để tiến nhập căn cơ thích hợp, tức là đối với mỗi loại căn cơ, bèn nói một pháp nào đó. Nếu là v́ tạo thiện xảo cho kẻ nương theo phước báo nhân thiên, bèn nói phước báo nhân thiên. Nếu là kẻ nương theo giáo pháp Thanh Văn đắc độ, bèn nói pháp Thanh Văn. Nếu là để người nương theo Bồ Tát Thừa đắc độ, bèn nói pháp Bồ Tát. [Đối với người] nương theo Đại Thừa đắc độ, bèn nói giáo ngôn Đại Thừa. Để độ người nương theo giáo ngôn về tự tánh rất sâu, bèn nói giáo ngôn Kim Cang Thừa về tự tánh, khiến cho chúng sanh đắc độ. Đấy gọi là phương tiện nhiếp thọ, chế phục, tùy theo căn cơ mà thí giáo, nhưng đức Phật thuyết pháp bèn tự tại trong hết thảy các pháp.

          Chúng ta niệm Nam-mô A Di Đà Phật th́ sao? Thật sự là đại phương tiện! Cái được gọi là “đại phương tiện” chính là nhiếp thọ trọn khắp, lợi ích rộng khắp, chẳng bỏ sót. Một câu Nam-mô A Di Đà Phật dù phàm hay thánh, đều cùng được văng sanh, được b́nh đẳng nhiếp thọ, chẳng bị bỏ sót. Đó chính là đại phương tiện giáo, là lời chân thật, là lời thành thật, là tướng công đức thỏa thích bổn hoài rộng lớn của Phật. Do đó nói: Phương tiện ở đây có hai loại xếp đặt, chúng ta niệm Nam-mô A Di Đà Phật chính là đại phương tiện trong hai loại xếp đặt ấy. Đó là có xuất xứ.

          “Thiện đạt nhất thiết Tu Đa La” tức là khéo thông đạt hết thảy giáo ngôn Đại Thừa, giáo ngôn liễu nghĩa, chọn lựa cho chúng sanh, chẳng khiến cho hữu t́nh bị mông muội! V́ giáo ngôn bất liễu nghĩa có thể khiến cho hữu t́nh mê mờ, như nói “hóa thành” (tỷ dụ về cái thành được biến hóa ra [trong kinh Pháp Hoa], tức các pháp quyền biến), nói thiện và ác, lại như chúng ta nay nương theo các thứ giới pháp d́u dắt, yêu thương, che chở hữu t́nh. Đối với chuyện này, đều có thể sử dụng cả ba thừa để phán định. Nếu là đối với kẻ đắm nhiễm sự được mất trong thế gian, hoặc đối với người có công đức, th́ đấy là phương tiện để nhiếp thọ, thủ hộ, là cách nói chẳng rốt ráo, do nói theo công đức và lợi ích, là nói tăng thượng, nhưng giới luật cũng có thể nói vô lậu, nói rốt ráo chân thật, tŕ giới có thể thành tựu Vô Thượng Bồ Đề. Đấy là nói theo Tu Đa La, nói theo liễu nghĩa!

          “Thiện đạt nhất thiết Tu Đa La đẳng cố” (Do khéo thông đạt Khế Kinh b́nh đẳng): Chữ Đẳng này [hàm ư] hết thảy các pháp do đức Phật đă nói chẳng có cao hay thấp, đều là tâm trí cội nguồn của hết thảy chúng sanh, khiến cho họ ngộ nhập tri kiến của Phật, thành tựu Vô Thượng Bồ Đề. Do đó nói là “pháp b́nh đẳng, chẳng có cao thấp”, xa ĺa tranh chấp, kiện tụng. Pháp ví như chiếc bè, độ thoát chúng sanh, thật sự chẳng có ǵ để đắc. Nếu Bồ Tát đă dự vào Sơ Địa, sẽ biết hết thảy các pháp giống như ngón tay chỉ mặt trăng, như chiếc bè, chỉ là thiện xảo để tiếp dẫn, là phương tiện để tiếp dẫn, thật sự chẳng có pháp nào để có thể đạt được! Nhưng hữu t́nh ngu si đắm nhiễm trong cao, thấp, đắm nhiễm trong lớn, nhỏ, cho nên bươn bả trong cao thấp. Hiện thời, “Giang Nam, Giang Bắc t́m kiếm Bồ Đề, quốc nội, quốc ngoại t́m kiếm Bồ Đề. Đất Hán, đất Tây Tạng t́m kiếm Bồ Đề”, mọi nơi đều là như thế. Người như thế trong tâm chẳng công chánh, đối với pháp chẳng b́nh đẳng, nghe người khác nói pháp này to lớn bèn tu pháp này, người khác nói pháp kia mạnh mẽ, lại tu pháp kia. Dùng cái tâm tăng thượng bất b́nh đẳng, cái tâm tham lợi để cầu pháp, sẽ chẳng được yên vui. V́ sao? Chẳng biết nguồn cội của pháp căn bản của tâm trí, mê mất phát tâm, cầu nơi cao, thấp, chạy ngược, chạy xuôi, chạy đến nỗi thân thể mệt nhoài, chạy đến nỗi một thân đầy phiền năo, chạy thành một thân phỉ báng, chẳng đạt được lợi ích nơi Phật pháp. Do đó, nếu tâm trí nương theo liễu nghĩa, nương theo tâm Vô Thượng Bồ Đề để quan sát hết thảy các pháp, [sẽ thấy] hết thảy các pháp b́nh đẳng một vị. Điều y chân thật, chẳng dối. Trong hết thảy mọi lúc, mọi thời, đều sanh khởi cái tâm cung kính to lớn, tôn trọng to lớn, yêu thích to lớn, cho nên “thiện đạt nhất thiết Tu Đa La” (khéo thông đạt hết thảy Khế Kinh). “Hết thảy Tu Đa La” chính là mỗi niệm hiện tiền, là nhân duyên trong hiện tiền của chúng ta. Đừng nên xem thường mỗi niệm hiện tiền trong hiện tại cơ duyên trong hiện tại. Nếu không, sẽ thật sự đáng thương lắm! Chúng ta hằng ngày nghe những lời như thế, lại ngược ngạo nghĩ rằng rất xa xôi. Thật ra, chẳng phải vậy, nó giống như hư không dung nạp, gánh vác, dưỡng dục quư vị. Đừng nên bỏ mất pháp ích này!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc bất không sanh thế gian, hằng nhập nhất thiết chúng sanh hoạch lợi cố?

          ()云何當得不空生世間。恆入一切衆生獲利故

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đạt được chẳng luống uổng sanh trong thế gian, luôn vào trong hết thảy chúng sanh đạt được lợi ích?)

 

          Nếu chúng ta nương theo Tứ Chánh Cần, nương theo tâm trí “niệm A Di Đà Phật để lợi lạc trọn khắp hết thảy” mà quan sát thế gian này, sẽ sanh trong thế gian mà chẳng rơi vào hư giả, chẳng rơi vào luân hồi, có lợi cho thế gian, mà thế gian cũng có lợi cho đời này. Chúng ta làm như thế nào để biến sanh mạng của chính ḿnh trở thành có ư nghĩa đối với xă hội, đối với Phật pháp, đối với hữu t́nh? Tu tŕ vô ngă, chọn lựa vô ngă, phát tâm vô ngă, hết sức trọng yếu! Niệm Nam-mô A Di Đà Phật, hành Ban Châu, lập tức hành tŕ, th́ có ǵ để được hay mất? Có ǵ để có thể thấy? Có ǵ để đắm nhiễm? Có ǵ là cao hay thấp? Do vậy, Không ở đây chính là Bất Không. Cái Không ấy chính là diệu dụng. Không là “chẳng có tự tánh”. Có thể sanh trong thế gian mà khéo lợi ích thế gian. Vào trong chúng sanh, hành các loại tự lợi và lợi tha. V́ trong lúc lợi tha, ắt có thể tự lợi; trong lúc tự lợi, ắt có thể lợi tha. Chẳng hạn như không sát sanh, không ăn thịt chúng sanh. Do v́ chẳng sát sanh, xét theo nhân quả, quư vị có thể đạt được trường thọ. Do không sát sanh, quư vị yêu mến các sanh mạng khác, các sanh mạng khác sẽ được yên vui. Như thế th́ đối với chính ḿnh lẫn kẻ khác đều có lợi ích, đều có thể đạt được lợi ích. Chẳng sát sanh, về bản chất là chẳng có ǵ để có thể đạt được. Dẫu trường thọ, cũng chẳng thể đạt được. Tuy sanh ra các loại an ủi, cũng chẳng thể được. Thế nhưng, an ủi chúng sanh th́ chính ḿnh sẽ được an ủi, trường thọ th́ tự được trường thọ, có sức th́ chính ḿnh tự được khỏe mạnh. Ở đây, đừng rơi vào sự trống rỗng, phù phiếm để rồi tự gạt ḿnh, do nhân quả tiếp nối, do nghiệp duyên tiếp nối. Các vị thiện tri thức ơi! Nói theo phía người học Phật chúng ta, dung thông Nhị Đế (Chân Đế và Tục Đế) rất quan trọng, nhất định phải khéo suy nghĩ, suy nghĩ không ngừng, suy nghĩ chân thật. Một khi dung thông chỗ này, người ấy sẽ tâm khai ư giải, khéo quan sát pháp tắc thế gian và pháp tắc xuất thế gian. Đối với xuất thế và nhập thế, đều chẳng nẩy sanh mâu thuẫn; đối với thế gian và xuất thế gian, đều đạt được phương tiện.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc vi Nhất Thiết Trí giả, ư nhất thiết thế gian ưng thọ cúng dường đại danh văn cố?

          ()云何當得爲一切智者。於一切世間應受供養大名聞故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được là bậc Nhất Thiết Trí, trong hết thảy thế gian đáng nhận cúng dường và tiếng tăm to lớn?)

 

          Đức Thế Tôn nói hết thảy hành nhân Ban Châu sẽ được hết thảy chư Phật thủ hộ, hết thảy Bồ Tát cung kính, hết thảy trời người đáng nên cúng dường. Chúng ta đọc thấy trong phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện của kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm có nói: “Nhược nhân tụng thử thập đại nguyện vương, ưng thọ nhất thiết nhân thiên chi cúng dường” (nếu ai đọc tụng mười đại nguyện vương này, đáng nên được hết thảy trời người cúng dường). Trong kinh Vô Lượng Thọ có nói: “Nhược nhân văn đắc Vô Lượng Thọ chi danh, chấp tŕ giả, ưng thọ nhất thiết nhân thiên cúng dường, thường sanh tôn quư gia, cụ đại danh văn” (Nếu ai được nghe danh hiệu Vô Lượng Thọ mà chấp tŕ, đáng nên được hết thảy trời người cúng dường, thường sanh trong nhà tôn quư, có tiếng tăm to lớn). “Danh văn” ở đây và danh vọng trong thế tục khác biệt như thế nào? Danh vọng trong thế tục là do tích lũy mà đạt được, c̣n danh văn ở đây là do Phật gia bị, hồi thí mà đạt được. Trong hai thứ đạt được ấy, thứ sau là đạt được hết thảy thiện xảo mà chẳng có ǵ để đắc, c̣n thứ trước là do tích lũy mà đạt được. Do chấp trước mà đạt được tiếng tăm, lợi dưỡng, sẽ khiến cho kẻ đó bị đọa lạc, trầm luân! V́ thế, “đại danh văn” và lợi dưỡng ở đây thật sự được chư Phật chấp thuận, do chư Phật ban tặng.

          Chúng ta hành Ban Châu, đáng nên được hết thảy trời, người cúng dường, là bạn bè của chư Phật, Bồ Tát; trong phần sau sẽ nói. Đối với điều này, quư vị chớ nên ủy khuất. Ở đây, chư Phật Như Lai cũng phụng sự, cúng dường người hành pháp, trọn chẳng ủy khuất. V́ sao? V́ chư Phật nghĩ đến nhau, niệm Phật ắt thành Phật. Các vị thiện tri thức ơi! Duyên ǵ sẽ thành quả đó, quư vị đừng nên sợ hăi! Trước kia, tôi đă nghe kể một câu chuyện cười, đúng là đối với chuyện “duyên ǵ thành quả đó” có thể giúp chúng ta quan sát đôi chút:

          Có một người thợ rèn, kỹ thuật mười phần nổi tiếng xa gần. Mọi người hễ có chuyện ǵ cần đến sự tinh tế, đều t́m tới ông ta. Ông ta có một đứa đồ đệ, mười phần hiếu thuận. Mục đích duy nhất của sự hiếu thuận là mong học được tài khéo tuyệt học của thầy. Vị sư phụ ấy nói: “Tuyệt học có một khẩu quyết, nhưng chẳng thể dễ dàng dạy cho con!” V́ thế, đứa học tṛ vẫn đi theo thầy, chờ măi đến khi thầy đă già, không được rồi! Cuối cùng, đồ đệ xin thầy: “Ôi trời ơi! Thầy ơi! Thầy chớ nên đem tuyệt học xuống mồ, thầy phải nói cho con biết!” Thầy bảo: “Đúng lúc rồi! Thầy phải nên nói cho con biết”. Sư phụ liền nói: “Trong nghề thợ rèn của chúng ta, có một câu khẩu quyết là sắt nung đỏ chẳng thể dùng tay cầm!” Đấy thật sự là khẩu quyết! Chúng ta “học Phật, duyên Phật”, “duyên Phật thành Phật” cũng là khẩu quyết. V́ sắt nung đỏ, nếu lấy tay cầm, tay sẽ bị thiêu cháy, chẳng thể rèn sắt được nữa! Đấy là khẩu quyết thật sự, đừng cho là lời của kẻ ngu si nói ra. Quả thật là kinh nghiệm giáo huấn từ suốt một đời rèn sắt của thợ rèn, là cảm nhận chân thật, rất trí huệ từ sự thể nghiệm mà ra! Vậy th́ “duyên Phật thành Phật” có phải là rất trí huệ hay không? Các vị Bồ Tát ơi! “Duyên Phật” có phải là danh lợi to lớn hay không? Có phải là cúng dường to lớn hay không? Người niệm Phật có phải là đáng nên được hết thảy trời người cúng dường hay không? Đối với chuyện này, quư vị chớ nên sanh tâm kiêu mạn, v́ công đức niệm Phật là do chư Phật Như Lai hồi thí cho quư vị. Quư vị tiếp nhận cúng dường dù hữu ư hay vô ư, trời người đều hộ tŕ quư vị, long thiên đều hộ tŕ quư vị, hữu t́nh đều hộ tŕ quư vị

          Ở đây nói “vi Nhất Thiết Trí giả” (là bậc Nhất Thiết Trí). V́ sao? Vứt bỏ hư luận, chỉ phan duyên theo Phật. Trong phẩm Thập Hồi Hướng của kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, có một đoạn văn tự chuyên nói về chuyện phan duyên Phật: “Các vị Bồ Tát và các hữu t́nh vứt bỏ các hư luận, phan duyên Phật mà thành Phật”. Nghe danh hiệu của chư Phật, xa ĺa hư luận, chân thật thủ hộ; đấy là phương tiện trong hết thảy Phật pháp. Kẻ muốn thành Phật th́ hăy niệm Phật thành Phật, đó là trực tiếp nhất, chẳng nhờ vào bất cứ phương tiện ǵ, xa ĺa hết thảy ủy khuất! Ở đây chính là thiện xảo tự thọ dụng.

          Khi chúng ta hành Ban Châu, niệm Nam-mô A Di Đà Phật nhất quán từ đầu đến cuối, dù đă chứng, hay chưa chứng tam-muội, hoặc sơ phát tâm, hoặc chưa phát tâm, hoặc liễu giải, hay chưa liễu giải, hành giả như thế, đáng nên cúng dường, đáng nên được hết thảy trời, người cúng dường. Quư vị hăy an ḷng ăn cơm của quư vị là được rồi! V́ sao? Người niệm Phật thật sự có thể lợi ích rộng khắp hữu t́nh trong chín pháp giới thuộc mười phương. Do nương vào danh hiệu Phật mà lợi lạc khắp mười phương, không sợ, không hăi. Ở chỗ này, quư vị sợ hăi sẽ vô dụng, giống như một người chẳng thể phát ra điện, nhưng tay bật đèn pin th́ sẽ có thể chiếu sáng, có thể phát ra quang minh y hệt! Quư vị chẳng thể nói chính ḿnh không có năng lực, chiếc đèn pin này chẳng thể tự tỏa sáng! Tuy nó chẳng liên can ǵ với quư vị, nhưng quư vị có thể bật đèn. Chúng ta tŕ danh hiệu quang minh oai đức của chư Phật, là danh hiệu lợi ích trọn khắp thế gian, là ma-ni bảo hiệu, nhuần thấm hết thảy chúng sanh, là danh hiệu tuôn xuống hết thảy các báu công đức, có thể phát xuất vô tận quang minh phước đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy, người xưng niệm có thể ứng cúng, tiêu hóa được [các phẩm vật cúng dường], đạt được danh lợi to lớn, thiện xảo to lớn, liền “ư nhất thiết thế gian ưng thọ cúng dường, đại danh văn cố” (trong hết thảy thế gian, đáng nên nhận cúng dường và danh tiếng to lớn).

          Niệm Nam-mô A Di Đà Phật, quyết định danh rền mười phương, v́ lẽ nào? Do pháp hiệu, danh hiệu ấy lưu truyền rộng khắp mười phương, chẳng bị ngăn chướng hay che lấp, thanh tịnh viên măn. Chúng ta nói một câu tạp ngữ, một lời chẳng tương ứng, hoặc lời tham, sân, si, mạn, nghi, nếu lời ấy truyền khắp mười phương, sẽ rất khó tiêu trừ được. Nhưng chúng ta niệm một câu Nam-mô A Di Đà Phật là danh hiệu vô úy, lưu truyền rộng khắp thế gian không sợ hăi, truyền bá trong bất cứ sát-độ nào cũng chắc chắn là viên măn, thanh tịnh, lợi ích, tịnh hóa! Chúng ta nói bất cứ câu nào, phát ra cái tâm nào, dù tương ứng, hoặc chẳng tương ứng, dù truyền bá nương theo pháp, hay chẳng nương theo pháp, dù có thể chọn lựa, hay chẳng thể chọn lựa, không ǵ chẳng phải là viên măn, rơ ràng, chẳng sợ hăi. Do vậy, người niệm Phật rất khó có. Người niệm Phật rất chẳng thể nghĩ bàn, người hành Ban Châu rất chẳng thể nghĩ bàn!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc vô biên tán thán công đức, vi nhất thiết chúng sanh phước điền cố?

          ()云何當得無邊讚歎功德。爲一切衆生福田故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được tán thán công đức vô biên, là ruộng phước của hết thảy chúng sanh?)

 

          Ở đây, trực tiếp chọn lựa cho chúng ta ngay lập tức tu hành hạnh Ban Châu, Giáo ngôn của Phật Di Đà xưa lẫn nay đều là an lập thanh tịnh. “Vô biên tán thán công đức” (tán thán công đức vô biên), chúng ta biết: Trong tu nhân thuộc về Ngũ Niệm Môn của Tịnh Độ [được nêu ra trong Văng Sanh Luận], môn tu tŕ thứ hai là Tán Thán Môn, [tức là] tán dương quang minh và danh hiệu A Di Đà Phật, tán thán đúng như thật. V́ cớ sao? Khi chúng ta xưng niệm Nam-mô A Di Đà Phật, tức là quang minh chiếu rạng thế gian, chiếu rạng pháp giới, chiếu rạng hết thảy phàm thánh hữu t́nh, tức hữu t́nh trong chín pháp giới, chân thật chẳng dối. Do đại quang minh chiếu trọn khắp, cho nên đấy thật sự là tán thán công đức của Phật. Một mực xưng niệm, đạt được thiện xảo do công đức tán thán Phật. V́ danh hiệu ấy có lợi ích, có thể nhiếp trọn khắp chín pháp giới trong mười phương đều tiến nhập Vô Thượng Bồ Đề. Đấy là chỗ công đức chân thật, mà cũng có nghĩa là quang minh và danh hiệu của A Di Đà Phật trọn đủ vô lượng quang minh, vô lượng thiện xảo, vô lượng công đức và trí huệ. Phàm phu chẳng thể tán thán như thế, phải cậy vào Phật lực và Phật nguyện để thuận theo mà tán thán. Chư Phật Như Lai, Phật và Phật cùng tán thán, phàm phu thuận theo công đức của Phật, nương theo danh tướng để tán thán.

          Khi chúng ta xưng tán bảo hiệu công đức thù thắng của A Di Đà Phật, sẽ có thể làm phước điền xuất thế và nhập thế thật sự cho hết thảy chúng sanh. Thường có kẻ nói: “Ôi chao! Phước điền nhập thế tôi không tin! Xuất thế phước điền chắc cũng có cơ hội gặp gỡ”. Chẳng hạn như tôi gặp một vị lăo nhân gia, v́ người khác nói “niệm Phật có thể phát tài”, khẳng định đấy là phước điền nhập thế, ông ta rất tin tưởng. Do vậy, bèn mua một quyển vở, rất nghiêm túc, cứ niệm một câu bèn ghi một vạch. Niệm đến mười vạn tiếng, vạch được mười vạn dấu. Sau khi đă đánh dấu xong, chờ phát tài sẽ xảy ra. Kết quả, chẳng thấy phát tài đưa tới, t́m tôi, hung hăng nói: “Phật pháp gạt người! Ông X… nói niệm Phật có đại phước báo. Tôi niệm mười vạn tiếng, một xu cũng chẳng thấy!” Người ấy có đại phước báo, v́ sao? Nói thành thật, quả báo trong đời vị lai sẽ chẳng thể nghĩ bàn! Do nhân duyên vô minh, ông ta niệm mười vạn câu danh hiệu A Di Đà Phật, có công đức thù thắng. Tuy là cầu phước; trong vị lai, phước báo chắc chắn chín muồi. Cho nên nói phước đức và nhân duyên của người ấy trong vị lai sẽ là chẳng thể nghĩ bàn, nhưng hiện thời, Dị Thục Quả chưa thể chín muồi. Tôi rất tán thán ông ta, nói: “Ông tuyệt lắm. Ông đă tích cóp mười vạn đồng khéo lắm, kẻ khác chẳng lấy được! Bỏ trong ngân hàng, có khi c̣n có thể xảy ra chuyện! Bỏ trong ấy (trong tạng thức), sẽ chẳng lấy ra được. Món của cải ấy đời đời kiếp kiếp đều theo sát ông.

          Các vị thiện tri thức ơi! Quư vị nhất định phải thực hiện. Lời ấy chính là lời nói thành thật về nhân quả, nhân quả chẳng lừa dối. Nhân quả sanh khởi từ trong cái tâm của chính ḿnh. Kẻ nào chỉ hướng tới phát tài, tuy hiện tại chẳng có nhân quả như vậy, nhưng Phật là đấng Nhất Thiết Trí, là đấng đại bi thiện xảo, là đấng thỏa măn nhu cầu của hết thảy chúng sanh, đều là Dị Thục Quả sẽ chín muồi đó thôi! Đời này chưa đạt được. Nếu đời này mà đạt được, kẻ đó sẽ trở thành cường đạo. A Di Đà Phật trở thành lưỡi đao của kẻ cường đạo! Đó là chẳng tương ứng với Phật pháp, lầm lạc nhân quả. Do đó, trong nhập thế, nhập thế thiện xảo có nhân quả tuần hoàn, có quá tŕnh chín muồi, chẳng phải là nhân quả đồng thời. Thiện xảo xuất thế gian là nhân quả đồng thời, chẳng hạn như nói: “Chúng ta niệm một câu A Di Đà Phật có thể tiêu trừ phiền năo”. Quư vị lập tức nhận biết, có thể tiêu trừ phiền năo, chân thật chẳng dối! Nói “lập tức trọn đủ”, quư vị có thể lập tức trọn đủ, chân thật chẳng dối! Nói “ta niệm một câu A Di Đà Phật, trong tương lai, nhất định thành Bồ Đề”, liền niệm một câu; quư vị hăy an tâm, có bảo đảm, đừng nên sợ hăi. Sợ hăi chỉ là v́ quư vị có lo ngại. Nhân quả ấy nhất định chín muồi, như chủng tử kim cang Bồ Đề, vĩnh viễn chẳng bị tan hoại!

          “Vi nhất thiết chúng sanh phước điền cố” (làm ruộng phước cho hết thảy chúng sanh): “Hết thảy chúng sanh” bao gồm thánh đạo chúng sanh, thiện đạo chúng sanh, và ác đạo chúng sanh. Một câu Phật hiệu đối với họ đều là phước điền. Trong hành tŕ Ban Châu, chúng ta trọn đủ thiện xảo như vậy. Tôi c̣n chưa từng nghe nói có ai hành Ban Châu mà bị tổn hại, kẻ hối hận [bỏ cuộc] th́ có, nhưng kẻ chịu thua thiệt [do hành tŕ Ban Châu] th́ chẳng có; v́ đó là phước điền của xuất thế và nhập thế. V́ sao có kẻ sau đó hối hận? Có kẻ đâm ra hối hận v́ đi riết đau chân, đau lưng, [bèn nghĩ ngợi] “hăy nên nghỉ sớm hơn một chút cho rồi!” Người như thế trong vạn người chẳng có một. Phần lớn mọi người đều sanh khởi ư tưởng phước điền, sanh ư lạc tưởng, có ư tưởng mong tiếp tục hành tŕ. Tôi đă gặp rất nhiều người chưa học Phật sau khi hành Ban Châu, quả thật đă rất nhanh chóng học Phật, thật sự thâm nhập Phật pháp! Đă tu hành hay không, rốt ráo đều thành tựu, nhưng điều then chốt là phải dấn ḿnh tu tập. Có kẻ vận dụng tri kiến chẳng tốt đẹp, như lăo nhân gia [niệm Phật cầu phát tài] tôi vừa mới nêu. Ông ta chẳng đạt được lợi ích trong hiện tại, sanh khởi các phiền năo. Nếu ông ta biết đạo lư này, thiện xảo và lợi ích tất nhiên sẽ hiện tiền.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc đại hoan hỷ, dũng dược vô lượng, thường tại chư Như Lai sư tử ṭa hạ cố?

          ()云何當得大歡喜踊躍無量。常在諸如來獅子座下故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được vô lượng hoan hỷ, hớn hở to lớn, do thường ở dưới ṭa sư tử của Như Lai?)

 

          “Hoan hỷ dũng dược” (vui mừng, hớn hở): Mừng rỡ tràn ngập trong tâm. Chắc là các Bồ Tát có thể hành pháp Ban Châu đều nhận biết loại cảm thọ này. Tuy cảm thọ là vô thường, thay đổi, nhưng dẫu sao nó mang đến cho người ta sự hoan hỷ, mang lại niềm vui sướng chẳng thể nghĩ bàn, mang lại niềm vui sướng chẳng thể thay thế được, mang đến niềm vui sướng tăng thượng. “Dũng dược vô lượng” (hớn hở vô lượng): Hành Ban Châu đích xác là có thể khiến cho chúng ta buông xuống gánh nặng từ vô thỉ tới nay, đích xác là có lợi ích như thế đó.

          “Thường tại chư Như Lai sư tử ṭa hạ” (thường ở dưới ṭa sư tử của các đức Như Lai): Nếu là chứng đắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập tam-muội, đó sẽ là nói như thật. Nếu chưa chứng đắc, đấy cũng là nói như thật. Thực tế là hết thảy chư Phật chưa hề ĺa bỏ bọn chúng ta, thường chiếu rạng chúng ta, nhiếp thọ chúng ta trọn khắp. V́ sao chúng ta chẳng thể thấy nghe? Chính là v́ tham, sân, si, mạn, nghi che lấp tự tâm, che lấp nhục nhăn của chính ḿnh, che lấp thiên nhăn của chính ḿnh, che lấp pháp nhăn của chính ḿnh, che lấp Phật nhăn của chính ḿnh, cho nên chỉ thấy tham, sân, si, mạn, nghi trước mắt, bị chiếc lá che mắt.

          Nói theo pháp ích, “chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai” (các tướng chẳng phải là tướng, liền thấy Như Lai), trông thấy Pháp Thân Như Lai chẳng thể nghĩ bàn! Quư vị nói xem, ta muốn thấy Báo Thân của Như Lai, Ứng Hóa Thân của Như Lai, thấy tướng quang minh, thấy sắc thân trọn đủ của Như Lai, có được hay không? Pháp Ban Châu giải quyết vấn đề ấy. Công đức rất sâu của kinh Ban Châu Tam Muội là ở ngay chỗ này, khác biệt với các kinh điển khác cũng ở ngay chỗ này. Rất ít kinh điển đề ra pháp tắc như thế, khiến cho hữu t́nh thấy trong hiện tiền, thấy trong Định, thấy trong mộng, thấy rốt ráo trong vị lai, đủ loại trông thấy, nhất định thấy Phật. Công đức ấy rộng lớn trọn khắp, chân thật chẳng dối.

          Trong Thiện Đạo Đại Sư Toàn Tập, có một câu chuyện như thế này: Thuở đức Phật tại thế, có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni nghiệp duyên sâu nặng, có ưu-bà-tắc, ưu-bà-di nghiệp duyên sâu nặng, có những kẻ phá giới, phạm giới nghiệp duyên sâu nặng, khi họ thấy đức Thế Tôn, có người thấy Ngài là một vị tỳ-kheo cao năm thước, mặt vàng, có người thấy h́nh dạng Ngài như than đen, nhưng A La Hán thấy đức Thế Tôn là kim thân cao trượng sáu, chư đại Bồ Tát thấy Phật là thân vi tế diệu sắc cao ngàn trượng, Pháp Thân đại sĩ có thể thấy thân Phật thù thắng trang nghiêm vô biên quang. Chúng ta thấy thân ǵ?

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc thắng thượng biện tài, năng vấn nhất thiết Phật pháp cố?

          ()云何當得勝上辯才。能問一切佛法故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đạt được biện tài thù thắng bậc thượng, có thể hỏi hết thảy Phật pháp?)

 

          “Thắng thượng biện tài”: Nếu hành pháp có thể thâm nhập, th́ sẽ có ư nghĩa. Nếu hành pháp chẳng thể thâm nhập, chỉ là nói suông, cũng dẫn đến phiền toái. Chúng ta vốn là người đất Hán, có thể nói là “hiểu đạo”. Cho nên biện tài rất khéo, có thể phá trừ nghi hoặc cho người khác, th́ là thiện xảo. Nếu tăng thêm tri kiến [chấp trước] cho người khác, sẽ là lầm lỗi. Nếu có thể tăng thêm chánh tri kiến cho người khác, th́ là thiện xảo. Nếu tăng thêm vốn liếng cho người ta tranh căi th́ sẽ là lầm lỗi. Nếu chúng ta khéo biện định, nhận biết, sẽ “năng vấn nhất thiết Phật pháp” (có thể hỏi hết thảy Phật pháp). Trong hành tŕ Ban Châu, người tâm căn nhạy bén, thân căn nhạy bén, nhận biết nhạy bén, cho nên có thể hỏi rất nhiều câu nhạy bén. Đương nhiên hành Ban Châu th́ vẫn thật sự mong mỏi mọi người hành nhiều, nói ít!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc ư bất khiếp nọa biện tài, ư nhất thiết đại chúng trung vô bố úy cố?

          ()云何當得意不怯懦辯才。於一切大衆中無怖畏故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đạt được biện tài, ư chẳng hèn nhát, ở trong hết thảy đại chúng chẳng sợ hăi?)

 

          Chẳng hạn như giảng pháp ở đây, sợ hăi là không được, hèn nhát cũng chẳng được, v́ có người sẽ chất vấn [những điều pháp sư hay giảng sư vừa nói]. Nếu đối với pháp mà có chướng ngại, chẳng thể tiếp tục duy tŕ, điều họ chất vấn sẽ trở thành sự thật, quư vị sẽ sợ hăi. Như thế nào th́ chúng ta mới có thể ở trong đại chúng biện tài chẳng sợ hăi, khiến cho chúng sanh trừ nghi hoặc, chẳng sợ hăi, trao đổi Phật pháp chẳng sợ hăi? Hành Ban Châu là phương pháp tốt nhất, trực tiếp nhất.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc nhất thiết luận nghị biện, như sư tử vương, hàng phục nhất thiết ngoại đạo, nhiếp thọ chư dị luận sư cố?

          ()云何當得一切論議辯。如獅子王。降伏一切外道。攝受諸異論師故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được hết thảy luận nghị biện tài như sư tử chúa, hàng phục hết thảy ngoại đạo, nhiếp thọ các dị luận sư?)

 

          Đấy là đề cao hành pháp Ban Châu đến tột cùng trong pháp môn Tịnh Độ. Sau khi đă kinh hành Ban Châu một khoảng thời gian, khi tâm trí thanh lương, cùng người khác biện luận, sẽ chẳng có chướng ngại. Trừ phi nêu ra tri kiến của chính ḿnh, chứ nếu bàn về tri kiến của chư Phật, sẽ chẳng chướng ngại tí nào! “Đắc nhất thiết luận nghị biện, như sư tử vương, hàng phục nhất thiết ngoại đạo, nhiếp thọ chư dị luận sư cố” (đạt được hết thảy luận nghị biện tài như sư tử chúa hàng phục hết thảy ngoại đạo, nhiếp thọ các dị luận sư): “Dị luận sư” có thể rất nhiều, đối với sự nhận thức về nội giáo và ngoại giáo, chúng ta đều có thể biết. “Biện” đây chẳng phải là phỉ báng pháp ấy, mà là nhiếp thọ loài hữu t́nh ấy, khiến cho họ tin phục pháp tắc.

          Trước kia, Thiện Đạo đại sư thường đến tự viện của Tam Giai Giáo[14] để biện luận, v́ giáo lư của Tam Giai Giáo phản đối niệm Phật. Tam Giai Giáo rất hưng thịnh vào đời Tùy - Đường, nó yêu cầu chịu khổ, có những yêu cầu riêng biệt như mặc xiêm không dài quá đầu gối, không ăn hơn một bữa v.v… Về sau, bị quốc gia ngăn cấm, nhưng giáo nghĩa của họ rất kiên cố, ảnh hưởng kéo dài cho đến hiện thời. Chẳng thể nói Tam Giai Giáo là tốt hay xấu, chỉ có thể nói là một thứ giáo nghĩa. Giáo nghĩa ấy được truyền bá sớm nhất tại chùa Bạch Tháp ở Tây An (Trường An), cực thịnh một thời, cũng có oai đức rất lớn, nhưng họ phản đối niệm Phật, Thiện Đạo đại sư phải đến biện luận. Khi Thiện Đạo đại sư biện luận cùng kẻ khác, miệng phóng quang minh, chúng ta nhả ra thứ ǵ? Chẳng phun ra lời thô ác là được rồi! Chẳng phun lời trái pháp, chẳng tổn thương người khác là đă rất tốt rồi! V́ sao Thiện Đạo đại sư có vô ngại biện tài như vậy? Do Ngài niệm Phật! Sách sử đă ghi chép rất nhiều về Thiện Đạo đại sư. Ngài không chỉ hành Ban Châu, mà c̣n trong lúc b́nh thường, hễ đến chánh điện, bèn quỳ trước Phật, chắp tay, niệm đến tâm kiệt lực suy mới chịu nghỉ ngơi. Bọn hậu nhân chúng ta làm sao sánh bằng Ngài cho được? Ngài là bậc đă chứng tam-muội, mà c̣n hành xử như thế, c̣n chúng ta ĺa tam-muội quá xa. Nếu chẳng có cái tâm hướng vọng, tôn trọng, lại c̣n có cái tâm chẳng tinh tấn, cái tâm khen ngợi điều tốt lành, lại c̣n nói thị phi, lăng phí thời gian, sẽ ĺa Phật pháp quá xa!

          Hiện thời, các dị luận sư đang phá diệt Tịnh Độ. Người thủ hộ giáo ngôn Tịnh Độ lại phá diệt các pháp tắc khác. Phá diệt lẫn nhau càng nhiều hơn, lợi ích lẫn nhau thật sự ít ỏi! Trên thực tế, chúng ta hăy nên làm cho đối phương tin phục chân thật, ban cho lợi ích chân thật rốt ráo, đừng khiến cho kẻ khác nghi hoặc, điên đảo, đó là chẳng tương ứng. Thật sự khiến cho người khác đạt được sự chọn lựa chân thật trong Phật pháp, thành tựu Vô Thượng Bồ Đề ngay trong một đời, không nghi ngờ, chẳng lo lắng. Đó là thật sự có ư nghĩa!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc bất hoại bổn thệ trang nghiêm, dục thôi nhất thiết tà dị bằng đảng cố?

          ()云何當得不壞本誓莊嚴。欲催一切邪異朋黨故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được bổn thệ trang nghiêm bất hoại, muốn dẹp tan bè lũ tà dị?)

 

          “Bất hoại bổn thệ trang nghiêm”: Lành thay! Điều này quá trọng yếu! Các cư sĩ và pháp sư xuất gia đàm luận về pháp tắc, nhiều người có ư muốn thay đổi, tôi rất đau ḷng. Đau ǵ vậy? V́ chẳng có thệ nguyện, chẳng có tín ngưỡng, chẳng có trang nghiêm, thường xuyên là trạng thái “sanh non”, cũng có nghĩa là chuyện vừa sắp h́nh thành, nó đă bị phá hoại! Ngày hôm qua, từ rất sớm, một vị cư sĩ gọi điện thoại tới, nói ông ta chẳng tu Tịnh Độ nữa, muốn tu Mật Tông. Tôi nói: “Được chứ! Chỉ là ông không có tín ngưỡng. Tu Mật cũng chẳng có ǵ là không đúng! Nhưng trong quá khứ, ông đă siêng khổ tu tập pháp tắc này, v́ sao lại phản bội thệ nguyện của chính ḿnh?” Ông ta nói: “Con chẳng phản bội thệ nguyện, chỉ là do Tịnh Độ chẳng có lợi ích!” Tôi nói: “Ông chớ nên phủ định pháp tắc! Chỉ v́ ông chẳng tu tập thâm nhập, cho nên Tịnh Độ như ông đă nhận định chẳng phải là Tịnh Độ!”

          Thệ nguyện mười phần trọng yếu! Nó có thể khiến cho tín ngưỡng kiên cố, hành pháp kiên cố, đạo đức và thiện xảo được nhanh chóng chín muồi. Hiện thời, người học pháp lung lay quá mức! Cứ dựa theo t́nh tự, cảm giác, [so đo] được mất, dựa theo sự đánh giá của người khác đối với chính ḿnh, nương theo gió thổi, cỏ động để tu tập pháp, kết quả là chẳng thể thâm nhập một môn, chẳng thể thật sự dẫu trăm điều thử thách, vẫn hành tŕ chẳng bị nhiễu loạn, chẳng thể thủ hộ một pháp tắc từ đầu đến cuối, trước sau vẹn toàn hoàn thành thủ hộ và truyền bá một giáo nghĩa. Do vậy, chẳng thể trang nghiêm công đức, mà cũng chẳng đạt được lợi ích chân thật.

          Vừa nghe nói người khác tán thán, hay hủy báng ta, nói tốt, nói xấu, nói hành pháp này đúng hay sai, bèn dao động. Phần lớn các vị Bồ Tát ấy chẳng thủ hộ thệ nguyện, tâm trí chẳng có tín ngưỡng, phần nhiều dựa theo t́nh tự của chính ḿnh, cảm nhận hư vọng tự nẩy sanh, tự hư vọng phan duyên, nỗi khổ ấy cũng chẳng có bờ bến! V́ luôn có đôi chút tương tự thành tựu bèn phá hoại, không ngừng nắm níu những thứ cao, lớn, mạnh mẽ, chẳng biết chọn lựa tâm trí thanh tịnh, chân thật, b́nh đẳng. Hiện thời, rất nhiều vị ác tri thức thuộc Tạng truyền Phật giáo có ác ư truyền bá những thứ kỳ quái tại đất Hán để mê hoặc hữu t́nh. Tôi đă nói chuyện với rất nhiều vị lạt-ma, cái được gọi là “ác ư” chính là dùng các thứ quái dị để mê hoặc, rối loạn thế gian, ḥng chuốc danh lợi, chẳng phải là cái tâm lợi ích thế gian, rất có tội ác. Bọn họ đă phá hoại toàn thể cơ chế của Tạng truyền Phật giáo để đổi lấy một chút lợi ích hư giả trong hiện tiền cho chính ḿnh. Chuyện này khiến cho người khác đau ḷng. Những kẻ đó, miệng toàn rêu rao “pháp của ta vĩ đại cỡ nào, lạt-ma của ta vĩ đại cỡ nào”. Thật ra là cần người khác cúng dường, cần quyến thuộc, cần danh lợi, chẳng phải là tạo lợi ích chân thật cho người khác, tịnh hóa ḷng người, cho nên làm nhiều chuyện lừa dối, sỉ nhục! Đó là một mặt đen tối của Tạng truyền Phật giáo, là một phương diện chẳng đúng pháp, chẳng phải là nội dung chân thật của Tạng truyền Phật giáo, lại giống như nước lũ nhấn ch́m thiện căn của rất nhiều người, rất tồi tệ!

          Do vậy, chúng ta học tập Phật pháp, nếu đi theo con đường chẳng chuẩn xác, nhận thức chẳng rơ ràng, sẽ không ngừng quẩn quanh trên đường. Tôi quen biết một vị Bồ Tát sống ở đất Tây Tạng mười một năm, cuối cùng chẳng ở đó nữa. Tôi hỏi lư do, ông ta nói: “Các vị lạt-ma ở đất Tạng tôi đă đều từng bái kiến, tôi mười phần kính ngưỡng, nhưng chẳng có pháp nào để có thể thật sự tu được!” V́ sao? Càng ngày càng cảm thấy chính ḿnh có tâm so đo, tâm phân biệt, vọng tâm nặng nề. Ông ta thật sự đă lừa ḿnh, hoàn toàn chẳng phải là khuyết điểm của Tạng truyền Phật giáo! Nếu là người thật sự hoằng pháp, họ đều nói pháp ấy (pháp họ đang hoằng truyền) là to lớn để cổ vũ, khích lệ, ban cho quư vị một con đường để rốt cuộc đạt đến thiện xảo; nhưng nếu v́ cướp đoạt cách tu theo pháp hệ của người khác mà nói như thế, sẽ là phá pháp, chẳng tương ứng. Bọn họ cũng có giới luật không cho phép làm như vậy, cũng có nghĩa cơ chế của mỗi pháp hệ đều có sự thủ hộ, yêu thương và trang trọng của chính ḿnh.

          “Bổn thệ trang nghiêm” rất quan trọng. Cả một đời này, chúng ta học Phật, niệm Phật, hành Ban Châu, nếu chẳng có thệ nguyện, kể cả thệ nguyện tùy thuận Phật, hoặc kiến lập thệ nguyện của chính ḿnh, chắc chắn là quư vị khó thể thành tựu. Chẳng hạn như nói “nguyện văng sanh” cũng là một thệ nguyện. “Nguyện hết thảy chúng sanh đều văng sanh” là nguyện giống như nguyện của Phật. Nói chung, quư vị phải có thệ nguyện. Nếu chẳng có thệ nguyện, quư vị mong dẹp tan, chế phục bè đảng tà dị, sẽ tuyệt đối chẳng thể được! Đối phương tùy tiện lôi kéo, sẽ lôi quư vị theo. Tôi cũng thường gặp những kẻ tới lôi kéo đoàn đội của tôi: “Hăy đến chỗ chúng tôi, thượng sư của tôi tuyệt vời lắm, là vị Phật lớn nhất sẽ quán đảnh cho quư vị”. Tôi nói: “Vị Phật lớn nhất tôi chưa từng thấy. Tôi học tập vị Phật b́nh đẳng nhất. Quư vị tu theo vị Phật lớn nhất của quư vị là được rồi, v́ sao c̣n bàn đến chuyện này?” Do ảnh hưởng của Tạng truyền Phật giáo, tại đất Hán cũng xuất hiện rất nhiều nhân duyên chẳng tương ứng. Chúng ta không thể nói sự truyền giáo ấy là nguy hiểm. Tạng truyền Phật giáo có rất nhiều điểm tốt lành, rất nhiều cơ chế rất thuận tiện, Hán truyền Phật giáo cũng như thế. Nam truyền Phật giáo cũng như thế, nhưng đồng thời [trong mỗi truyền thống] cũng có bùn nhơ, nước đục [xen tạp vào]!

          Chúng ta biện định, nhận biết như thế nào? Quư vị nhất định phải lập một thệ nguyện. Trong hành tŕ Ban Châu, thệ nguyện mười phần trọng yếu, hành pháp như vậy th́ mới có thể thành thục. Chẳng có thệ nguyện, sẽ chẳng thể thực hiện được! Làm ǵ cũng đều cần có thệ nguyện. Bài văn phát nguyện chính là muốn cho cho chúng ta hiểu rơ thệ nguyện của chính ḿnh, thủ hộ sự trang nghiêm của chính ḿnh. Sự trang nghiêm ấy chẳng phải là so đo thành hay bại, chẳng phải là so do được hay mất, chẳng phải là so đo thánh hay phàm, chẳng phải là so đo thời gian dài hay ngắn, mà là ǵ? Quư vị có thệ nguyện hay không? Quư vị có nương theo thệ nguyện mà hành hay không? Điều này mười phần trọng yếu! Nếu chẳng chuyển được chỗ này, chúng ta sẽ so đo cao, thấp, nói lớn, nhỏ, nắm níu ưu, khuyết, so đo phàm, thánh, như thế là chẳng khéo hành tŕ pháp môn Tịnh Độ, sẽ chẳng thể thành tựu, chỉ biết có tướng quái dị! Do đó, nay chúng ta hành Ban Châu, chẳng phải v́ kết bè kéo đảng, mà v́ thành tựu Bồ Đề, v́ tiêu trừ ngờ lo!

          Rất nhiều người đă hành Ban Châu, lại đi học Tạng truyền Phật giáo. Tôi cũng cổ vũ họ học, nhưng có một điều: Bất luận Tạng truyền Phật giáo cũng thế, hay học bất luận truyền thống Phật giáo nào cũng thế, quư vị phát nguyện ǵ? Quư vị đừng nên dùng cái tâm ngạo nghễ để học là được rồi, đừng nên dùng cái tâm so đo lớn nhỏ để học, càng chớ nên dùng cái tâm thích chuyện quái lạ để học, [nếu dùng những cái tâm như thế để học] sẽ nẩy sanh chuyện lớn! Rất nhiều kẻ dùng chuyện quái lạ để kéo bè kết đảng, đó là lỗi lầm rất lớn. Hiện thời, rất nhiều vị Kham Bố[15] tại các nơi như Ngũ Minh Phật Học Viện[16] v.v… quan sát các nhân duyên ấy, bèn thực hiện rất nhiều công tác chủ động tích cực. Chẳng hạn như học tập [Bồ Đề Đạo Thứ Đệ] Quảng Luận, mọi người tự chủ động học tập, thảo luận, học tập chánh kiến, chẳng nương theo chuyện thần quái. Cho nên tôi cảm thấy dần dần sẽ có những thứ tốt đẹp du nhập đất Hán, nhưng rất nhiều nơi vẫn rất hỗn loạn, rất nhiều kẻ gây tổn hại cái tâm. Không ít kẻ truyền pháp ở đất Tạng, hễ thấy người khác bèn nói: “Ngươi hăy làm đồ đệ của ta”. Trong ấy, tồn tại một vấn đề: Nếu thật sự là bậc thành tựu, người ấy đúng là một vị đại từ bi lỗi lạc. Nhưng nếu v́ tiếng tăm, lợi dưỡng, chỉ có thể nói quư vị có nhiều bầu bạn luân hồi mà thôi! Giáo ngôn của Hán truyền Phật giáo là “y pháp, bất y nhân”, c̣n Tạng truyền Phật giáo là “y pháp, y nhân”. Họ dạy trước hết là y nhân, sau đó y pháp, cho nên c̣n có các điểm mù mờ, đối lập ở chỗ này!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc thiện xảo thuyết pháp, thường xử sư tử ṭa, nhất thiết chư Phật ấn khả cố?

          ()云何當得善巧說法。常處獅子座。一切諸佛印可故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được thiện xảo thuyết pháp, thường ở trên ṭa sư tử, được hết thảy chư Phật ấn khả?)

 

          Như thế nào để thuyết pháp thiện xảo, như thế nào sẽ khiến cho hữu t́nh trong thế gian tâm khai ư giải, thường ngự trên ṭa sư tử, dùng Phật ngữ để truyền bá Phật ngữ, dùng Phật tâm để truyền bá Phật tâm, dùng Phật giáo để truyền bá Phật giáo, dùng công đức của Phật để truyền bá công đức của Phật, chẳng tăng giảm Phật pháp, thủ hộ như thế nào? Đấy thật sự là nguyện vọng của chúng ta. Hết thảy kẻ giảng pháp, nghe pháp chúng ta đều phải nên thủ hộ, đều phải nên xem xét kỹ càng nguyện vọng ấy!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc viễn ly nhất thiết thế gian vô nghĩa ngữ ngôn, dĩ thông đạt nhất thiết chánh giáo cố.

          ()云何當得遠離一切世間無義語言。以通達一切正教故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được xa ĺa hết thảy ngôn ngữ vô nghĩa của thế gian, do thông đạt hết thảy chánh giáo?)

 

          Nói theo phía phàm phu hữu t́nh tu hành Phật pháp, xa ĺa ngôn ngữ vô nghĩa của thế gian mười phần quan trọng! Nay chúng ta không nghe lời ác rất khó, chẳng nghe lời điên đảo, lời hắc ám, lời nặng nề, lời phiền năo càng khó hơn nữa! “Vô nghĩa ngữ” là ǵ vậy? Chẳng hạn như là hư luận chẳng tương ứng, khi pháp sư giảng kinh trao đổi Phật pháp sợ nhất là như thế. Tuy nói lời tương tự, nhưng là thuyết pháp vô ích, chẳng thể lợi ích hữu t́nh.

          Trong niệm Phật, khi lập một niệm, đoạn các tưởng, nam-mô A Di Đà Phật”, tự nhiên sẽ phá tan lời lẽ vô nghĩa. Trong khi kinh hành, chúng ta chẳng có lời lẽ vô nghĩa ǵ, có lẽ là trong tâm điên đảo, nhưng khi niệm A Di Đà Phật, tự nhiên sẽ xa ĺa khẩu nghiệp. Do vậy, câu hỏi đặt ra ở đây đă thật sự tương ứng. “Viễn ly nhất thiết thế gian vô nghĩa ngữ ngôn, dĩ thông đạt nhất thiết chánh giáo cố” (xa ĺa hết thảy ngôn ngữ vô nghĩa của thế gian, do thông đạt hết thảy chánh giáo): Chúng ta thường muốn nói lời có nghĩa lư, lời như pháp, lời từ ái, lời thiện xảo, lời tăng thượng, đối với hết thảy chúng sanh nói lời chọn lựa, lời tiêu trừ nghi hoặc cho chúng sanh, như thế th́ là “có ư nghĩa”. Đừng nên nói lời chẳng chứa đựng thiện ư, lời hướng dẫn con người tiến nhập khổ nạn. Đó là tạo ác. Hành pháp Ban Châu, trực tiếp tránh né vấn đề này! Trong một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, chúng ta không được phép nói năng, nhiều nhất cũng chỉ trao đổi bằng văn tự. Như vậy th́ trong vị lai, khẩu nghiệp tự nhiên được thuần thiện, mà người thật sự niệm Phật một thời gian, ác khẩu tự nhiên sẽ ít đi.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc thâm ái nhất thiết chư Phật pháp, ư chư Như Lai sanh xứ hành cố?

          ()云何當得深愛一切諸佛法。於諸如來生處行故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được yêu mến sâu xa hết thảy các Phật pháp, sẽ đi nơi chỗ sanh của các Như Lai?)

 

          “Thâm ái nhất thiết chư Phật pháp” (yêu mến sâu xa hết thảy các Phật pháp): Trong kinh điển có ghi chép, một vị Bồ Tát nói thế gian này có đủ loại thuốc, một vị Bồ Tát khác nói: “Ông hăy đến thế gian t́m một thứ ǵ đó chẳng phải là thuốc”. Vị Bồ Tát ấy bèn t́m tới, t́m lui, t́m trọn khắp, kết quả chẳng t́m được vật nào không phải là thuốc. Ở trong thế gian này, nếu chúng ta dùng tâm trí giác ngộ, tâm trí thanh tịnh để quan sát, [sẽ thấy] vạn sự, vạn vật, không ǵ chẳng phải là Phật. Quư vị sẽ yêu thích sâu xa hết thảy Phật pháp, yêu thương, bảo vệ hết thảy hữu t́nh trong thế gian, lợi ích hữu t́nh trong thế gian.

          “Ư chư Như Lai sanh xứ hành cố” (đi nơi chỗ sanh của các đức Như Lai): Sanh vào nhà Như Lai, làm bè bạn của các đức Như Lai. Người niệm Phật là hoa Phân Đà Lợi (Puṇḍarīka, hoa sen trắng) trong loài người, sanh trong nhà Như Lai, chuyển diệu pháp luân, làm bạn lữ với Quán Âm, Thế Chí. Đây là một quả báo riêng biệt của người niệm Phật, những người hành tŕ các pháp môn đơn giản khác sẽ rất khó có tổng tŕ thiện xảo như vậy.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc nhạo dục chân pháp, tri chư Như Lai bất sanh cố?

          ()云何當得樂欲真法。知諸如來不生故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được ưa muốn chân pháp, biết các đức Như Lai bất sanh?)

 

          Chư Phật Như Lai quả thật chẳng có thành hay chẳng thành. V́ thế, các Ngài chuyển tịnh diệu pháp luân, rộng độ hữu t́nh. Hữu t́nh do căn cơ khác biệt, có sanh, có diệt, có kiến lập. “Đương đắc nhạo dục chân pháp” (sẽ đạt được ưa muốn chân pháp): Chữ Chân này [hàm nghĩa] “có lợi ích thực tế”, ban cho chúng sanh công đức chân thật. Nếu chúng ta dùng cái tâm siểm khúc, tâm hư giả để trao đổi, sẽ khó thể ban công đức chân thật cho người khác, sẽ chẳng thể thật sự vui thích Phật pháp.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc bất giải mạn, thiện thừa sự tri thức cố?

          ()云何當得不懈慢善承事知識故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ chẳng giải đăi, khinh mạn, khéo thừa sự tri thức?)

 

          “Bất giải mạn” (chẳng giải đăi, kiêu mạn) là một lời dạy rất quan trọng. Hiện thời, người học Phật chúng ta cực dễ sanh khởi tâm kiêu mạn. Hễ đạt được một chút lợi ích, liền coi thường thiên hạ, coi thường sư trưởng, coi thường hữu t́nh; đấy là một lỗi lầm lớn nhất. Phật pháp tu trong cung kính, hành trong cung kính, thành tựu trong cung kính. Sự cung kính ấy thật sự là thiện xảo để xa ĺa giải đăi, kiêu mạn. “Cung kính” là coi hết thảy chúng sanh đều là thiện tri thức, xa ĺa kiêu căng, ngạo mạn, nhưng kiêu căng là tự cho ḿnh là thiện tri thức, người khác đều nên hướng theo ta học tập. Người như vậy rất khổ, khổ chẳng có bờ bến, rất dễ dàng chán chường, mệt ngán, rất dễ nẩy sanh trần lao, rất dễ chịu khổ báo!

          “Bất giải mạn” (chẳng giải đăi, kiêu mạn), điều chủ yếu nhất“thiện thừa sự tri thức” (khéo thừa sự thiện tri thức). Tôi gặp gỡ không chỉ một hai vị được mọi người công nhận là có thành tựu, trong khi cùng nhau trao đổi, qua lại, họ sốt sắng phục vụ tôi một số việc, hoặc nói là “thừa sự”. Chẳng hạn như khi các lạt-ma thừa sự tôi, tôi rất cảm động. Chẳng phải là cảm động v́ họ làm ǵ, mà do nh́n từ pháp tắc, họ đă tiêu trừ sự kiêu mạn của chính ḿnh. Tôi cũng gặp các vị sư phụ xuất gia thuộc Nam truyền, chẳng hạn như nói “tôi y chỉ sư trưởng”, họ thừa sự ngược lại, dùng Tăng pháp, hoặc đối đăi với quư vị giống hệt như họ là thị giả của quư vị. Khi đó chỉ khiến cho người ta có một lại cảm nhận, cảm nhận ǵ vậy? Chúng ta được tiếp nhận giáo huấn thanh tịnh. Giáo huấn ǵ vậy? Xa ĺa kiêu mạn và giải đăi!

          Những người ở đất Hán chúng ta, hễ tu được đôi chút pháp, tâm ngạo mạn nẩy sanh tràn trề, coi thường người khác, coi rẻ sư trưởng, coi rẻ pháp tắc, nẩy sanh nhiều sự siểm khúc. Tôi đă gặp chuyện như thế này: Một vị cư sĩ tiếp xúc tôi vài ngày. Ngày đầu tiên bèn đảnh lễ trịnh trọng, dập đầu xuống đất côm cốp. Tôi nói: “Bồ Tát! Xin hăy khoan đă, có ǵ hăy thong thả nói!” Ông ta thưa: “Sư phụ ơi! Con ở nơi rất xa được nghe đại danh của thầy”. Tới ngày thứ hai, chẳng c̣n dập đầu lễ nữa, nói: “Sư phụ! Tôi ngồi được chứ?” Tôi nói: “Cứ ngồi!” Tới ngày thứ ba, nói: “Pháp sư! Kể như tôi quen biết thầy”. Tôi đáp: “Chắc chắn là quen biết! V́ tai nghe chẳng bằng mắt thấy mà!” Chuyện như vậy đâm ra rất có phổ biến! Chung quanh tôi thường có pháp sư như vậy, theo quư vị học tập đôi chút, thoạt đầu, rất tôn trọng, do v́ có pháp để có thể học, nhưng dần dần cảm thấy quư vị có đáng kể chi đâu? Vừa yếu đuối, vừa lắm bệnh, phiền năo lại to ngần ấy: Hôm nay nổi nóng, ngày mai chửi người khác. Dẫu đảnh lễ, vẫn chẳng có cách nào, cái tâm siểm khúc, chẳng phải là cung kính!

          Cung kính là ǵ? Sư trưởng th́ vĩnh viễn là sư trưởng. Ǵ là sư trưởng? Kiền thành. Hoàn toàn chẳng phải là nói người ấy là sư trưởng của quư vị. Các vị thiện tri thức ơi! Kiền thành là chỗ công đức chân thật tồn tại. Thừa sự thiện tri thức, chẳng phải người nào đó là thiện tri thức, mà cái tâm cung kính là thiện tri thức. Y báo nghiệp duyên bên ngoài chỉ là sự tô đậm thêm mà thôi! Tạng truyền Phật giáo nói Tứ Quy Y[17], măi cho đến khi thành Phật, đều là Tứ Quy Y, nơi đất Hán chẳng phải là như vậy. Tôi cũng đă từng gặp người vừa học nửa ngày, đă đến dạy tôi: “Thầy phải nên làm như thế này, như thế nọ”. Tôi nói: “Quư vị chẳng đủ tư cách! V́ sao? Cái tâm kiền thành chẳng đủ! Những thứ khác đều đủ. Tôi có thể hướng theo hết thảy mọi người để học tập, nhưng khi quư vị chẳng đủ tâm kiền thành, tôi sẽ không hướng theo quư vị học tập, v́ quư vị là nguồn ô nhiễm”. Hy vọng mọi người có thể tư duy. Hành pháp Ban Châu có thể miễn trừ các lỗi lầm như thế đó.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc bất nhiễm trước, du hành nhất thiết thế gian cố?

          ()云何當得不染著。遊行一切世間故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được chẳng đắm nhiễm, du hành trong hết thảy các thế gian?)

 

          Trong Phật pháp, chẳng đắm nhiễm là một pháp tắc thanh tịnh duyên khởi, cũng là chỗ y chỉ cho khởi tâm động niệm, cũng là một pháp tắc để thủ hộ đức tướng. Phật pháp vốn chẳng rườm rà, nó ở ngay trong khởi tâm động niệm của chúng ta trong hiện tại. Trong giáo ngôn Đại Thừa, điều này được vận dụng mười phần thuần thục, mà hành pháp Ban Châu lại càng trực tiếp hơn, nêu rơ ràng cái gọi là “tu ngay trong hiện tiền”. Thường hành đạo, tu ngay trong hiện tiền, cũng là nội hàm phiên dịch của danh từ Ban Châu. Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội là nội dung thực chất và tướng công đức chín muồi của nó. Do vậy, “bất nhiễm trước, du hành nhất thiết thế gian” (chẳng đắm nhiễm, du hành trong hết thảy các thế gian), thật sự là duyên khởi trong mỗi thời khắc của hành pháp Ban Châu, nhưng trong mỗi thế gian, không ǵ chẳng nương theo vô tự tánh chẳng nhiễm đắm! Thế gian được kiến lập từ tánh Không, cũng có nghĩa là thuận theo duyên được thấy vô lượng sát-độ, thuận theo cơ nghi du hóa trong mười phương cơi Phật. Trong hết thảy hiện duyên, nếu nhận biết bản chất ấy, sẽ đều chẳng ĺa cơi nước trang nghiêm mầu nhiệm thù thắng của chư Phật. V́ bị tham, sân, si, mạn, nghi che lấp mà các thứ cơi đời ô trược và xấu ác được liên tục tồn tại. Do vậy nói “vạn pháp chẳng rời nhất tâm”. Đừng coi đó là một kiểu thuyết giáo, hăy nên coi nó như một pháp tắc thực tiễn để tham chiếu, y chỉ, cũng như là giáo ngôn thật sự để ấn khế tự tâm nơi khởi tâm động niệm. Chuyện như thế sẽ biến thành đơn giản hơn!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc nguyện hạnh cụ túc, vị giáo hóa nhất thiết chúng sanh cố?

          ()云何當得願行具足。爲教化一切衆生故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được nguyện hạnh trọn đủ v́ giáo hóa hết thảy chúng sanh?)

 

          Truyền bá hành pháp Ban Châu tại đất Hán có cội nguồn rất sâu xa. Bất luận Giáo Hạ, Luật Tông, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, cho đến các vị thiện tri thức các phương, sau khi đă chứng lượng nhất định, ắt sẽ hành tŕ pháp Ban Châu. Chuyện này đă có một số lớn tài liệu văn hiến ghi lại, chúng ta có thể thâm nhập khảo cứu. Đương nhiên, pháp này cũng là một pháp tắc mà hết thảy hữu t́nh b́nh phàm, ngu muội, dù thiện hay ác đều có thể hành tŕ, v́ chúng ta học tập bản kinh Ban Châu Tam Muội này, ngay từ đầu đă biểu lộ: Chẳng phải là hành pháp của riêng một loại hữu t́nh nào!

          Hạnh nguyện trọn đủ là tiền đề để giáo hóa chúng sanh. Chúng ta hành Ban Châu, nếu hạnh nguyện chẳng trọn đủ, chắc chắn là lợi ích thế gian cũng chẳng có sức, chẳng có ư nghĩa! Hành pháp Ban Châu này “lập một niệm, đoạn các tưởng”, bản thân trọn đủ hết thảy các hạnh nguyện, v́ “nguyện hạnh trọn đủ” là nội hàm thực chất nơi quả đức của A Di Đà Phật, mà cũng là nội hàm hồi thí nơi nguyện lực của A Di Đà Phật, cũng như là nội hàm thực chất của pháp tắc để thành tựu pháp môn này. Thường là chúng ta đối với một pháp môn, v́ chẳng thể chọn lựa hoàn chỉnh, chân thật, rốt ráo, cho nên chẳng thể b́nh đẳng quan sát đối với pháp ấy, chẳng thể thâm nhập một pháp. Đấy là một khó khăn khá lớn trong sự tu tập của người hiện thời. Do mê mờ trong đủ loại pháp tắc, bèn tạo đủ loại xem xét, mong ngóng băn khoăn, thường là chẳng thể tu tập thâm nhập một pháp, phần nhiều là lo được, lo mất. Cái tâm lo ngờ ấy đă tiêu hao một lượng lớn sanh mạng, thời gian và trí huệ của chúng ta!

          Trọn đủ nguyện hạnh lợi ích thế gian, cũng là v́ khiến cho chúng sanh đạt được an lạc, tức gọi là “đản vị chúng sanh đắc an lạc, bất vị tự cầu” (chỉ v́ chúng sanh đạt được an lạc, chẳng v́ cầu cho chính ḿnh). Chẳng v́ cầu cho chính ḿnh chính là một yêu cầu rơ ràng trong Phật pháp. Nói theo tâm trí của phàm phu trong thế gian, cầu cho chính ḿnh chính là trạng thái thông thường, cũng tức là chuyện thường t́nh của con người, khiến cho vô lượng chúng sanh sanh tử luân hồi, chẳng ngừng, chẳng tận! Do vậy, v́ giáo hóa hữu t́nh, hạnh nguyện trọn đủ. Như vậy th́ mới có thể thật sự dính kết với pháp Ban Châu, tu tập pháp Ban Châu. Người thiện căn chín muồi như thế mới có thể thâm nhập pháp Ban Châu. Nếu thiện căn chẳng chín muồi, đối với pháp này, rất khó thể thật sự thiết thực sanh khởi nguyện vọng tu tập, nguyện vọng học tập, cho đến cơ hội được nghe c̣n chưa thể đạt được! Hoàn toàn chẳng phải là pháp này hữu duyên với chúng ta, chúng ta liền nói nó rất tôn quư. Thật ra, nương theo trí huệ của Phật pháp, nương theo lợi ích trong Phật pháp, nương vào hiện duyên để xem xét, cơ hội của chúng ta đích xác là rất trân quư, rất khó có, rất hy hữu, nhất là cơ hội gặp gỡ Phật pháp. V́ trong đồng hoang sanh tử luân hồi, gặp được các thứ nhân duyên chẳng phải là việc khó, nhưng trên con đường sanh tử, được gặp gỡ Phật pháp, gặp cơ hội tu tŕ, học tập Phật pháp, đúng là chẳng dễ, đúng là do đại thiện căn, đại nhân duyên xui khiến!

          Hành tŕ pháp Ban Châu nếu vô nguyện, sẽ không có sức để khích lệ, thành tựu, hạnh và nguyện mười phần thiết thực cùng hành. Nếu chẳng phối hợp kiểu ấy, nguyện chẳng hướng dẫn hạnh, hạnh chẳng có nguyện dẫn đường, rất khó thâm nhập tu tập! Hiện thời, trong hành pháp Ban Châu, mọi người dần dần có nhận thức: Chúng ta phải thật sự v́ hóa độ hết thảy chúng sanh mà lập thệ nguyện rộng lớn. Đó gọi “chẳng chứng tam-muội, chẳng đích thân thấy Phật” th́ chẳng thể buông tay! Đó là một thệ nguyện. Nếu có thiện căn chín muồi như thế, sẽ thấy Phật, nghe pháp. Thật ra, chúng ta văng sanh thế giới Cực Lạc, văng sanh cơi Phật ở phương khác, mục đích cũng chẳng ngoài “thấy Phật, nghe pháp, đích thân chứng Bồ Đề, dùng các thứ thiện xảo chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, rộng lợi ích thế gian, chẳng bị thoái đọa”.

          V́ chúng ta thuộc địa vị phàm t́nh, cho nên rất khó thật sự lợi ích hữu t́nh. Do vậy, từ địa vị này tiến lên địa vị khác, người thật sự lợi ích hữu t́nh chỉ có Phật và Phật có thể gọi là “bậc lợi tha”. Hạnh của hết thảy các vị Bồ Tát, hết thảy Thanh Văn, Duyên Giác, cũng như những ǵ hết thảy hữu t́nh dù phàm hay thánh đă làm, đều là tự lợi tăng thượng. Chẳng cần phải hoài nghi điều này! Chỉ có Phật Thế Tôn là giác rốt ráo viên măn, có thể lợi tha, sanh ra công đức chân thật. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát tiến nhập viên măn. Cho nên nói là “tu tŕ tự lợi”. Trong cơ chế tu tŕ lợi tha, kiến lập tự lợi dần dần hoàn thiện, thật sự hoàn thiện, măi cho đến khi thành tựu Bồ Đề. Nhưng các loại phàm phu tự hại ḿnh th́ có thừa, tự lợi lẫn lợi tha vẫn chưa thể nghe, vẫn chưa thể đạt được. Nếu không phải là như thế, sẽ chẳng thể gọi là Phàm. Phàm thánh khác biệt ở chỗ “tự lợi và lợi tha có đắc lực hay là không”, chẳng phải là ăn nói hư giả! Ở đây, thật sự có lợi, thật sự có hại. Do vậy, nơi phàm phu hữu t́nh, có nhiều thứ khổ năo, điên đảo, nhiều thứ Kiến Tư Hoặc. Nơi các bậc thánh, bậc trí, phần nhiều là bị Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc mê hoặc. Tuy là như thế, các vị ấy đă thoát ly các loại phiền năo bức bách, chỉ là giác ngộ viên măn thuần tịnh, thuần thục, hướng đến hoàn thiện, thậm chí rốt ráo. Chúng ta chớ nên không biết sự khác biệt giữa phàm và thánh, chớ nên không suy nghĩ, chớ nên không quan sát. Nếu chẳng phải là như thế, cứ dùng tâm trí b́nh phàm, kiêu mạn, tự phụ, tự cho là đúng, sẽ chẳng thể thành tựu thiện xảo chân thật rộng lớn. Có lúc, chúng ta sẽ nẩy sanh những thứ tương tự thiện xảo, tương tự cảm nhận, nhưng thật sự giáo hóa và lợi ích chúng sanh th́ vẫn chẳng đắc lực.

          Trong pháp môn Tịnh Độ, khi hành tŕ và truyền bá một câu bảo hiệu Nam-mô A Di Đà Phật, có thể hữu ư hay vô ư tự lợi và lợi tha, hai điều lợi đầy đủ. Có những kẻ nói suông, chẳng thật tâm có thể lợi ích mười phương hữu t́nh, cho nên chẳng đạt được tự lợi. Khi các hữu t́nh truyền bá bảo hiệu thù thắng Nam-mô A Di Đà Phật, thủ hộ nguyện tự lợi và lợi tha, sẽ có thể trong khi lợi tha mà đạt được tự lợi chân thật, đích thân chứng được tự lợi và lợi tha. Chư Phật Như Lai viên măn chân thật tự lợi và lợi tha, cho nên chỉ có thiện xảo lợi tha, chẳng cầu tự lợi, v́ vốn đă trọn đủ. Đă đích thân chứng như thế, chẳng có bất cứ lo ngờ nào, chẳng có bất cứ cái Ngă nào, Ngă Chấp, Pháp Chấp, hết thảy các thứ gây mê loạn đă gột trừ hết sạch. Khi chúng ta niệm Nam-mô A Di Đà Phật, có thể vô t́nh hay hữu ư đạt được tự lợi và lợi tha, lợi ích hữu t́nh. Nếu trong tác ư, nếu dùng Phật nguyện làm bổn mạng của chính ḿnh, như pháp sư Đàm Loan đă tuyên nói, th́ trong hết thảy các hành pháp, sẽ hết sức đắc lực, có thể nhanh chóng đạt được lợi ích và thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn. Trong pháp môn Niệm Phật, xác thực là rất dễ dàng thấu hiểu pháp ích hiện tiền vượt xa lẽ thường, chẳng thể nghĩ bàn! Cái gọi là “vượt xa lẽ thường” là vượt qua các sở hành thông thường, tức là hành công đức của ngài Phổ Hiền, nương vào công đức lợi tha chân thật để an trụ trong tự lợi chân thật. Người niệm Phật chắc chắn sẽ có thể lợi tha, v́ lẽ nào? Làm sứ giả của Phật, hồi thí Phật đức, rộng lợi ích nhân thiên. Chúng ta có thể cảm nhận và quan sát điều này.

          Tại Trung Quốc, Phật giáo thật sự được [nhà nước] nới lỏng quản chế hơn hai mươi năm qua. Do v́ Phật giáo [chân chánh] có một khoảng thời gian bị gián đoạn, trong thế gian đă xuất hiện rất nhiều hữu t́nh ngoại đạo ăn bám Phật giáo, nhiễu loạn hữu t́nh. V́ sao như thế? Chẳng huân tập mảy may Bồ Đề tâm, chỉ dựa vào các kỹ xảo thế gian để thực hành Phật pháp. Chẳng hạn trị bệnh[18] cho người khác, xem Phong Thủy, tiên đoán chuyện chi đó, hoành hành trong thế gian, khiến cho hữu t́nh mông muội, mê hoặc hữu t́nh, áp chế hữu t́nh, thậm chí khiến cho họ điên cuồng. Nhiều năm qua, trong Phật giáo Trung Hoa [hiện tượng đáng buồn ấy] đă mười phần rộng khắp. Là một người học Phật, chúng ta chớ nên mê mất Bồ Đề tâm của chính ḿnh, hăy nên duy tŕ Pháp Thân huệ mạng của chính ḿnh. Nếu không, rất dễ bị các mánh khóe mê hoặc, bị các thứ ngôn từ, bị những thứ quư vị tưởng là hay khéo trói buộc, đến nỗi mê mất nguyện vọng của chính ḿnh, mê mất chánh hạnh Phật pháp. Lúc tôi mới đến vùng Đông Bắc, đă gặp các vị sư phụ xuất gia phần nhiều dọa dẫm các hữu t́nh, cứ mở miệng ra là “quá khứ của quư vị như thế nào, hiện tại như thế nào, vị lai sẽ là như thế nào?” Do họ có thủ đoạn ấy, quư vị chẳng có mánh khóe ấy, Bồ Đề tâm của quư vị chẳng kiên cố, sẽ bị dao động. Dao động như thế nào? Sanh khởi tâm sợ hăi, đánh mất sự tiến nhập của chính ḿnh đối với Phật pháp.

          Hành tŕ pháp Ban Châu cũng rất dễ bị những thứ như ấm cảnh lôi kéo, chế ngự, bị các thứ thô, tế, lớn, nhỏ, nóng, lạnh v.v… cho đến thấy hư huyễn, nghe hư huyễn, cảm nhận hư huyễn, và các thứ tướng cảnh giới lừa gạt. Hành Ban Châu là để “thấy Phật, nghe pháp”. Nếu gặp loại hữu t́nh như thế, chúng ta hăy dùng công đức của Phật để hồi thí, độ thoát hết thảy chúng sanh, giáo hóa hết thảy chúng sanh đừng sợ hăi! Nếu chẳng như vậy, đối với đạo nghiệp Bồ Đề chúng ta, sẽ chẳng có cách nào thật sự tiến nhập, sẽ bị tạp duyên xâm đoạt rất nhanh chóng. Bao nhiêu năm qua, cách đây mười ngày hay nửa tháng vẫn c̣n có người, nhất là thầy lang, nói với tôi: “Ối chà! Thầy có vấn đề này nọ?” Tôi nói: “Tôi không biết! Sắc thân này chẳng thuộc về thầy thuốc như ông, mà cũng chẳng thuộc về tôi. Nó chiếu theo một pháp tắc, một nhân duyên, chẳng liên quan ǵ đến lời ông nói!” V́ nếu dễ dăi khư khư noi theo nó, tâm trí của quư vị sẽ mê mất trong cảnh giới hiện duyên, trong hiện duyên lượng, vô ích đối với sự tiến nhập Phật pháp. V́ thường xuyên nghe người khác nói này, nói nọ, tôi cũng quen rồi! Nhưng đối với người học Phật trong hiện thời, nếu như tâm trí Bồ Đề, tâm trí hành pháp chẳng rơ ràng, chỉ qua đôi ba câu nói, họ sẽ trói buộc quư vị. Tôi gặp không ít vị sư phụ xuất gia bị người khác nói mấy câu liền rơi vào tṛng, suốt đời cũng chẳng thoát ra được!

          Thật sự là một người học Phật, chúng ta nhận thức con đường của chính ḿnh như thế nào? Phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, chẳng sợ hăi điều này. Nếu chẳng như vậy, sẽ rơi vào t́nh cảnh đáng thương, mà cũng bị ấm cảnh hiện tiền, ngôn từ, sự tướng, khó khăn, thậm chí bị một nghiệp tướng bức bách, che lấp. Như thế th́ quư vị chẳng có phần với Vô Thượng Bồ Đề, rơi vào đầm lầy hiện duyên. Trong ấy, chỗ nào cũng đều là hầm hố lớn, hầm hố ấy sâu cỡ nào? Chỉ cần tùy thuận nó, quư vị sẽ vĩnh viễn chẳng có thuở thoát khỏi! Chúng ta là người học Phật, hăy nên đối diện chuyện này như thế nào? Tôi cảm thấy phát tâm là quan trọng nhất, phát tâm quan trọng hàng đầu. Nhận biết cái gọi là “tâm xuất ly” quan trọng nhất. Tâm xuất ly là trong hết thảy ngôn từ, cảnh sắc, trong đối đăi, đều một đường thoát ra, quyết định chẳng nhiễm. Cho nên nói “đương đắc bất nhiễm trước, du hành nhất thiết thế gian” (sẽ được chẳng đắm nhiễm, du hành hết thảy thế gian). Nếu chẳng phải vậy, nó sẽ xếp đặt quư vị trong một thế giới, chẳng để quư vị thoát ra, sẽ xếp đặt quư vị trong một pháp giới, khiến cho quư vị hoang mang. Như thế th́ quư vị dạo chơi trong mười phương cơi nước sẽ chẳng được tự tại.

          Năm trước, cũng có một thầy lang có sức thần thông đến bảo tôi: “Ối trời! Thân thể thầy thế này, thế nọ. Thầy sẽ như thế này, sẽ như thế nọ…” Tốt lẫn xấu đều có! Tôi nói: - “Như thế nào” là trong mắt của ông, là chuyện trong tâm lượng của ông! Sự tướng trong mắt của ông xét theo lời dạy “vạn pháp duy thức”, sẽ như cá thấy nước sông là nhà cửa, người thấy nước sông là thứ để giặt giũ, nước uống, hoặc để sử dụng, Tu La thấy nước có thể dùng làm vũ khí, chư thiên thấy nước là đất báu lưu ly, ngạ quỷ thấy nước là lửa cháy rực. Do vậy, đó là Từ Pháp trong mắt ông. Nếu tôi duyên theo điều đó, sẽ là duyên theo nghiệp lực của ông, sẽ chẳng gọi là Từ Pháp, mà là Từ Pháp nói theo gịng nghiệp! Như thế mà thôi!

          Bởi lẽ, chúng ta là người học Phật, chớ nên mê muội bởi ngôn thuyết, chớ nên mê muội nơi hiện lượng, đừng mê muội bởi nhân duyên, chớ nên mê muội bởi tướng cảnh giới, chớ nên mê muội bởi các thứ nhiễm duyên hiện tiền, mà hăy nên như thế nào? Phát Vô Thượng Bồ Đề tâm. Tối thiểu là phải có tâm xuất ly, tức là trong hết thảy đối đăi, tâm trí đều chẳng đắm nhiễm, b́nh đẳng quan sát, đừng nên chấp giữ nó, mà cũng đừng nên xả nó. Nó chẳng liên quan ǵ đến quư vị. Đó chỉ là Kiến Phần của chúng sanh đấy thôi! Những kẻ có tiếng tăm sẽ nói: “Ngươi thấy đó! Nói với ngươi mà ngươi vẫn chẳng chịu nghe theo”. Tôi nói: “Trước nay, tôi chẳng tùng phục thứ đó. Nếu thuận theo những thứ đó, tôi đă chẳng xuất gia! Tôi chẳng nghe theo khuôn sáo của quư vị. Nghe theo khuôn sáo đó, tôi sẽ là thứ bỏ đi! V́ tôi là người học Phật, tôi là kẻ tự biết ḿnh, tôi là người vâng theo lời dạy của đức Phật mà hành tŕ”. Đối với điều này, chư vị thiện tri thức nhất định phải có sự liễu giải và nhận biết rơ ràng.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc san hô chi tướng, đắc chư tướng cố?

          ()云何當得珊瑚之相。得諸相故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ đạt được tướng san hô, do đạt được các tướng?)

 

          “San hô chi tướng” (tướng san hô): San hô là một món báu trong bảy báu. Có bạch san hô, hoàng san hô, hồng san hô, tử san hô (san hô màu tím)… Tướng mạo của san hô thật sự là so le, không đồng đều, nhưng phần lớn là bạch san hô. V́ san hô ở dưới đáy biển sâu, thời cổ rất khó thu thập [cho nên được coi là quư]. Hiện thời có tàu ngầm, có thể thu hoạch một lượng lớn san hô, nhưng san hô có màu sắc rực rỡ như hồng san hô th́ vẫn rất ít.

          Nói “đắc chư tướng” (đạt được các tướng) là nói về của báu tâm trí. Ở đây là nói tỷ dụ. V́ nó vốn là pháp bảo, vốn là thiện xảo, vốn vô sở đắc, vốn có thể lấy dùng trong các thứ tướng. Tuy lấy mà chẳng đắm nhiễm, tự đạt được phương tiện. Kẻ đắm nhiễm tất nhiên có gánh nặng; gánh nặng” là sẽ tạo thành gịng nghiệp mới. Cái gọi là “gịng nghiệp” tức là gịng nghiệp đắm nhiễm. Dùng mà chẳng nhiễm, đạt được phương tiện; giống như chúng ta cầm đèn pin soi đường, buổi tối mang theo th́ được. Nếu có đèn điện th́ có thể chẳng cần tới nó. Nếu mặt trời mọc th́ cũng không cần mang theo đèn pin, nhưng kẻ đắm nhiễm cho rằng “ta cần mang theo đèn pin”. V́ thế, thời thời khắc khắc đều cầm theo món vật ấy. Nếu thứ ǵ cũng đều mang theo, đồ vật này, đồ vật kia đều giắt trên người, mang theo lâu ngày, kẻ đó sẽ bị đồ vật này nọ tŕ kéo, nghiệp lực cũng lại như thế.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc như hư không, nhất thiết pháp vô đắc tướng cố?

          ()云何當得如虛空。一切法無得相故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được như hư không, đối với hết thảy các pháp đều chẳng có tướng?)

 

          Trong phần trước đă nói “đắc chư tướng” (đạt được các tướng), dùng báu san hô để tỷ dụ, khiến cho các hữu t́nh hành pháp Ban Châu có thể tiếp tục an trụ trong sự ổn định liên tục và nghiệp tiếp nối. Ở đây, nói “vô đắc tướng”, “như hư không” là đối với các loại ổn định liên tục, chẳng bị vướng mắc, chẳng có ǵ để đạt được, v́ dẫn phát sự khinh an liên tục, cho đến đủ loại pháp ích hiện tiền. Nếu đắm nhiễm khinh an, người ấy ắt đọa lạc. Do đó, chẳng đắm nhiễm trong việc tiến thú đại lợi vô thượng, tức là chẳng đắm nhiễm các pháp.

          Khi chúng ta hành Ban Châu, nếu đắm nhiễm tướng khinh an, người ấy sẽ đọa lạc. Nếu đắm nhiễm tướng quang minh, tướng trang nghiêm, sẽ xuất hiện vấn đề. Cho đến đắm nhiễm Phật tướng, cũng sẽ xuất hiện vấn đề. Quư vị nói: “Niệm Nam-mô A Di Đà Phật, đi tới, đi lui (kinh hành) để cầu thấy Phật, đó chẳng phải là đắm nhiễm tướng ư?” Chẳng phải vậy! V́ chẳng thấy tướng th́ sẽ chẳng có ǵ để đắm nhiễm! Quư vị chẳng có tướng để thấy, lấy ǵ để đắm nhiễm? Đừng nên tự dối ḿnh! Giống như người đối trước hư không nói: “Ta chẳng mê tiền tài!” Tài sản chất đống trước mặt quư vị, thuộc về quư vị, nhưng quư vị chẳng đắm nhiễm, th́ mới thật sự là chẳng mê tiền tài. Hành pháp cũng giống như thế. Thật sự đạt được lợi ích nơi pháp mà quư vị chẳng đắm nhiễm, th́ mới là thật sự chẳng đắm nhiễm. Sự t́nh hiện tiền mà chẳng đắm nhiễm th́ mới là công đức chân thật. Khi chúng ta nghèo rớt mồng tơi, khi chẳng có vật ǵ hết, quư vị nói “ta chẳng yêu mến thứ này, chẳng tham đắm thứ kia”. Đó là lời lẽ tự dối gạt ḿnh!

          Do vậy, kinh văn ở đây là câu sau tiếp nối ư nghĩa của câu trước. Trong phần trước là “đắc như san hô, đắc chư tướng cố” (được như san hô, v́ đắc các tướng), tức là trong các pháp trân bảo, hưởng thụ các thứ thọ dụng rơ ràng, thọ dụng khinh an, thọ dụng trang nghiêm, cho đến thọ dụng đoạn trừ phiền năo. Sự thọ dụng ấy thật sự chẳng thể nhiễm, thật sự chẳng thể đạt được, tức là nói “đương đắc như hư không, nhất thiết pháp vô đắc tướng cố” (sẽ được như hư không, do chẳng đạt được tướng của hết thảy các pháp) trong phần sau. Các pháp sanh bởi nhân duyên, pháp tánh vốn là Không; hết thảy chúng sanh đều phải nên hiểu rơ chỗ này. Nếu chẳng biết pháp không, tánh không, các nhân duyên tất nhiên bị ngăn trở. Do vậy, tánh Không duyên khởi là quan sát thiện xảo. Biết các pháp, nhất định biết tánh Không. Người biết tánh Không, nhất định được thọ dụng nơi tướng bản chất của các pháp. Do vậy, pháp là không có ǵ để có thể đạt được, pháp tánh vốn Không, sanh ra các pháp, pháp thật sự vô sanh. Nếu chẳng thiện xảo quan sát pháp tắc thế gian và xuất thế gian như thế, chúng ta sẽ mê mất trong cái được gọi là vô pháp và hữu pháp. “Vô pháp” là không có ǵ để nương theo. “Hữu pháp” là cho rằng thật sự có cái để đạt được, [chấp trước vào hai điều ấy], sẽ đều chôn vùi công đức lợi ích rộng lớn.

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc như Bồ Tát, bất đoạn Phật chủng cố?

          ()云何當得如菩薩。不斷佛種故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được như Bồ Tát, chẳng đoạn Phật chủng?)

 

          “Bất đoạn Phật chủng” (chẳng đoạn Phật chủng) tức là nhập chủng tánh Phật, tín thuận lời dạy của Phật. Khi đạt được hay hiển lộ Tín Nhẫn và Thuận Nhẫn, thành tựu chủng tánh Như Lai. Trong khi chúng ta học tập Phật pháp, nếu chẳng thuộc vào chủng tánh Như Lai, th́ sẽ là ngoại đạo, gọi là “danh tự học Phật”.

          Trong giáo ngôn thù thắng của A Di Đà Phật, hữu t́nh độn căn nghe danh hiệu Nam-mô A Di Đà Phật có công đức thù thắng, đều đắc hai loại Nhẫn, tức là Pháp Nhẫn của Bồ Tát, cũng thuộc vào chủng tánh Như Lai. Điều này quả thật chẳng thể nghĩ bàn! Tại đất Hán, bất luận nội hay ngoại đạo, người học Phật rất nhiều, khá nhiều hữu t́nh chẳng tự giác mà học Phật, chẳng cần phải đeo danh xưng là “Phật giáo đồ”! V́ sao? Do chủng tánh Như Lai gia tŕ. Nay chúng ta niệm Nam-mô A Di Đà Phật, tức là không ngừng thúc giục tâm trí của chúng sanh, khiến cho họ có thể thành tựu hai môn Nhẫn ấy. Thông thường, nghe một hai lần, chủng tử đă gieo xuống, nhưng chưa thành thục, cho nên hành tŕ Ban Châu có thể khiến cho Phật chủng chẳng đoạn. Tu hành trong Phật giáo, tiếp nối huệ mạng của Phật mười phần quan trọng. Chúng ta niệm Nam-mô A Di Đà Phật, hành Ban Châu, có thể khiến cho Phật chủng chẳng đoạn, v́ công đức của danh hiệu là ở đấy, nội hàm thực chất ở đấy, quư vị chẳng cần phải lo lắng! Rất nhiều người bận tâm v́ sao vị Bồ Tát này chẳng khéo học Phật? V́ sao người kia chẳng khéo học Phật? Quư vị cứ chăm chú niệm Nam-mô A Di Đà Phật, thanh tịnh, b́nh đẳng hồi hướng, chẳng cần phải băn khoăn! Hăy yên ḷng về chúng sanh, yên ḷng đối với Phật, hăy yên ḷng đối với nguyện lực của Phật, hồi thí pháp mà quư vị đă hành tŕ, hăy yên tâm triệt để hồi thí, chẳng lưu giữ ǵ!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc bất hưu tức, hành chư Bồ Tát đạo, vị tằng viễn ly Đại Thừa cố?

          ()云何當得不休息。行諸菩薩道未曾遠離大乘故。

          (Kinh: Như thế nào th́ sẽ được chẳng ngưng nghỉ, hành các đạo Bồ Tát, chưa từng xa ĺa Đại Thừa?)

 

          Pháp Ban Châu đích xác là chuyên chở rộng lớn, chuyên chở b́nh đẳng, chuyên chở không ngăn ngại! Chuyện khá khó thực hiện trong học tập Tịnh Độ là ǵ? Chẳng có oán đối. Điều khá khó thực hiện hơn nữa là ǵ? Chẳng có lấy hay bỏ. Điều khó thực hiện hơn nữa là ǵ? Chẳng bỏ hết thảy hữu t́nh khổ năo, tội ác. Điều khá khó thực hiện hơn nữa là ǵ? B́nh đẳng gánh vác hết thảy. Điều khó thực hiện hơn nữa là ǵ? Nói như thế nào, cũng làm đúng như thế ấy. Điều này khó khăn hơn. V́ sao? Cái tâm của chúng sanh lấy hay bỏ, yêu ghét, phân biệt mười phần rơ ràng, mười phần mạnh mẽ, mười phần thuần thục, mà tâm b́nh đẳng, tâm chẳng lấy bỏ, tâm lợi ích người khác rộng lớn, tâm yêu thích tạo lợi lạc cho hữu t́nh khổ nạn, ngược lại khá lợt lạt, xa cách, thậm chí chẳng đắc lực. Dẫu siêng khổ vun bồi, chẳng thể sanh ḷng tin! Thường là đă vun bồi được một khoảng thời gian, hễ gặp cái duyên trái nghịch, liền muốn bỏ pháp ấy, cảm thấy chẳng thể chịu đựng nổi. Nhất là đối với chuyện “chẳng xả hết thảy hữu t́nh khổ nạn, b́nh đẳng bố thí, an trụ vô nghi”. Đó là chỗ khó nhận biết nhất của pháp này

          Giống như khi chúng ta hành tŕ Ban Châu, khốn đốn đưa đến, khổ sở đưa đến, duyên gây khó khăn đưa đến, duyên trái nghịch đưa đến, tức là tướng cảnh giới ác đưa đến, đều là các thứ huyễn hiện của hết thảy hữu t́nh khổ năo, đều là các tướng cảnh giới hư huyễn diễn ra, nhân duyên duy nhất của quư vị là thật sự hồi thí lợi ích cho họ, khiến cho họ an lạc. Làm như thế nào? Tức là chẳng bài xích, mà cũng chẳng thuận theo, cứ thanh tịnh niệm Phật, cứ một đường mà đi. Hành tŕ như vậy, chưa từng xa ĺa Đại Thừa. Nói “bất hưu tức” (chẳng ngưng nghỉ) tức là trong khi đối diện các thứ nhân duyên và khó khăn, đều chẳng sợ hăi. Khi tôi xuất gia, tiếp xúc pháp môn Tịnh Độ trong ṿng mười năm qua, [đă nhận thấy] đây là chỗ khiến cho người ta bị thoái đọa nhiều nhất. Đối với kẻ thương tổn quư vị, kẻ không ngừng thương tổn quư vị, kẻ ô nhục quư vị, kẻ chửi bới nhân cách của quư vị, quư vị cảm thấy phải lợi lạc kẻ đó, phải có tâm chẳng xả niệm Phật hồi thí cho người ấy. Thoạt đầu, sẽ rất khó sanh khởi [cái tâm ấy]. Thường là sẽ tránh né chuyện tạo lợi lạc cho kẻ đó, tâm mong cho đối phương chẳng bị ác báo là được rồi, đă cảm thấy ḿnh chúc phước cho đối phương. C̣n như mong mỏi đối phương thiện xảo, thành tựu, thậm chí thành tựu c̣n sớm hơn ta, có lợi ích công đức c̣n to hơn ta, thù thắng, chân thật, nhanh chóng đều hơn ta, các nguyện vọng như vậy rất khó vun bồi! V́ chủng tánh trong cái tâm của phàm phu là như thế đó! Tức là yêu ghét phân minh, đúng sai phân minh, lấy bỏ phân minh, nhưng sự phân minh ấy chỉ mang lại các thứ khốn khó, khốn khó ǵ vậy? Hẹp ḥi, tự lợi, cái tâm Tiểu Thừa, hoặc nói là cái tâm tịch diệt, hoặc là một thứ tâm chán ĺa.

          Đoạn văn tự này đă cho chúng biết: Giống như Bồ Tát chẳng nghỉ ngơi, tâm phàm phu luôn cần nghỉ ngơi. Nhất là khi có tâm trí đối đăi sanh khởi, nghiệp tướng đối đăi sanh khởi, bèn mong lảng tránh, chẳng mong tiếp xúc nữa; cảm thấy quá mệt mỏi, quá khổ sở, quá vô ư nghĩa! Thật ra, chẳng phải vậy! Chư Phật Như Lai siêng gắng chẳng bỏ ở chỗ này, thường hành chẳng bỏ. Từ bao kiếp lâu xa đến nay, các Ngài chẳng bỏ chúng ta. Chúng ta đích xác đều là hữu t́nh báng pháp, hữu t́nh nghi pháp. Hoặc có thể nói là các hữu t́nh sợ hăi Phật pháp, hoặc có thể nói là hữu t́nh phá diệt, chôn vùi Phật pháp. Nếu không, chúng ta đă không sanh trước Phật, hay sau Phật, lọt vào tám nạn. Ở đây, quư vị chớ nên quá mức tự tôn. Nhưng trong pháp môn Niệm Phật, nhất là hành pháp Ban Châu, chẳng có ngưng nghỉ, chẳng ĺa Đại Thừa. Nói đến “Bồ Tát đạo”, chẳng thể ĺa đạo ấy trong phút chốc, mà cũng không có ǵ để ĺa. Do không có ǵ để ĺa, tức là hành Bồ Tát đạo. Do chẳng ngưng nghỉ th́ chính là hành Bồ Tát đạo. Do thường hành đạo, cho nên “chẳng bỏ hết thảy chúng sanh, chẳng xả hết thảy các hạnh nguyện”. Những lời này mười phần dễ nói, nhưng thực hiện nếu tùy thuận Phật nguyện, tùy thuận Phật trí, tùy thuận Phật hạnh, sẽ rất hoan hỷ, rất vui sướng, sẽ là lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Nếu tùy thuận nghiệp lực của chính ḿnh, tùy thuận tâm trí phân biệt, chấp trước của chính ḿnh, sẽ mười phần đau khổ, mười phần khó chịu đựng, mười phần chẳng tương ứng! Chúng ta nói: “Chẳng xả hết thảy chúng sanh khổ năo, hồi hướng công đức rất sâu của chư Phật, khiến cho chúng sanh nhanh chóng thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, đạt được bất thoái chuyển”. Quư vị đem lợi ích do pháp tắc của chính ḿnh hồi thí cho hết thảy những kẻ hữu duyên trong hiện tiền, dù là thuận duyên, hay ác duyên, đều b́nh đẳng hồi thí như thế, sẽ thật sự là bậc thường hành đạo, chẳng xả đạo nghiệp, hành Bồ Tát đạo. Lời này hết sức dễ nói, nhưng tâm trí phàm phu cần phải có một lượng chịu đựng nhất định, cần phải có sự nỗ lực nhất định của chính ḿnh, kiên tŕ và cổ vũ, hoặc có thể nói là tùy thuận.

          Chúng ta đều biết, giáo ngôn Đại Thừa muốn độ hết thảy chúng sanh thành tựu Bồ Đề. Nếu nguyện “hết thảy chúng sanh sẽ thành Phật trước tôi”, đó là một thệ nguyện mạnh mẽ trong Đại Thừa. Nếu nguyện “cùng với hết thảy chúng sanh cùng thành Phật”, đó là một tâm nguyện tùy thuận. Nếu nguyện “ta thành Phật trước rồi mới độ chúng sanh”, đó là tâm nguyện của bậc Đại Thừa Bồ Tát nhuyễn tâm. Trong ba loại tâm nguyện ấy, [tâm nguyện] “khiến cho hết thảy chúng sanh thành Phật trước ta” là do cái tâm mạnh mẽ tạo thành. Như vậy th́ quư vị sẽ yêu thích, tôn trọng hết thảy thân duyên, sơ duyên, các thứ nhân duyên trong phần trước. Quư vị sẽ thật sự tôn trọng, bảo vệ nó. V́ lẽ nào? Do hết thảy chúng sanh đều thành Phật trước quư vị, cũng có nghĩa là hết thảy chúng sanh đều là Phật, Bồ Tát, chỉ có ta là phàm phu. Ngày hôm qua, có một đứa bé, khi gặp mặt chúng tôi, nó đă khóc ầm lên, trào nước mắt. Nó nói: “Hôm nay con thật sự biết hết thảy chúng sanh là Phật, Bồ Tát. Thật sự là một cơ hội đáng nên tôn trọng hết thảy”. Ngay khi ấy, quả thật mọi người đều rất cảm động, rất nhiều người ứa nước mắt, v́ đứa bé ấy chưa hề học Phật, vừa mới tiếp xúc Phật giáo, đă nẩy sanh trạng thái tâm lư ấy, khiến cho mọi người rất cảm động. Lời nó nói là lời lẽ thành khẩn, cảm kích. Khi nó cảm nhận được điều ấy, tâm linh thoải mái và an lạc. Niềm xúc động rộng lớn, b́nh ḥa và chân thật ấy đă cảm động chính ḿnh, mà cũng cảm động người khác. Đó thật sự là tâm Đại Thừa mạnh mẽ, nhạy bén, mọi người đều thị hiện cho ta các thứ ác tướng, thiện tướng, tướng thù thắng, tướng yếu ớt, để làm ǵ? Mong cho ta sẽ xuất ly! Chúng ta niệm “nguyện cộng chư chúng sanh, văng sanh An Lạc quốc” (nguyện cùng các chúng sanh, văng sanh cơi An Lạc). Đó là giáo ngôn về Đại Thừa Ba La Mật Môn, quán thấu triệt hết thảy chúng sanh như huyễn, hết thảy chúng sanh thiện ác như huyễn, hết thảy phàm thánh như huyễn, hết thảy các pháp rốt ráo không, không có ǵ để được hay mất, rốt ráo văng sanh quốc độ của A Di Đà Phật, ngay lập tức thành tựu! Đấy gọi là “đồng sanh đồng Tây” (cùng sanh về Tây Phương), dùng trí Văn Thù để nh́n thấu triệt, quan sát hết thảy huyễn duyên rốt ráo chẳng thể được. Ở đây là “độ tận chúng sanh, phương thành Phật đạo” (độ hết chúng sanh rồi mới thành Phật đạo), tức là “tâm Đại Thừa độ trọn hết chúng sanh chẳng ngưng nghỉ”. Trong khi hành pháp Ban Châu, cũng giống như thế. Chẳng ngưng nghỉ là một pháp tắc hành pháp, tự ḿnh nhắc nhở “chẳng thể nghỉ ngơi”. Thông thường, tâm người hành Ban Châu sợ hăi chỗ này, nói [tu pháp Ban Châu] vốn mệt nhọc lắm. Nếu chẳng nghỉ ngơi, c̣n tu tập nổi ư? Thật ra, hành pháp chính là thật sự nghỉ ngơi! Trong chẳng nghỉ ngơi mà thật sự nghỉ ngơi. V́ sao vậy? Được tự tại nơi pháp, được tự chủ chẳng đắm nhiễm sự nghỉ ngơi chân thật, cùng lúc vứt bỏ sự đắm nhiễm nghỉ ngơi và [ư niệm] đối đăi [cần phải] nghỉ ngơi của chúng sanh, thường luôn hành đạo nghiệp!

 

          (Kinh) Vân hà đương đắc trước đại khải giáp, chư Phật quảng đại giới trung quyết định trụ cố?

          ()云何當得著大鎧甲。諸佛廣大戒中決定住故。

          (Kinh: Như thế nào sẽ được mặc giáp trụ lớn, quyết định trụ trong giới rộng lớn của chư Phật?)

 

          “Quảng đại giới” (giới rộng lớn): V́ trong hành pháp Ban Châu, thệ nguyện thuộc địa vị bậc nhất. Niệm Phật trong một kỳ hạn mong thấy Phật, hoặc lợi ích hữu t́nh v.v… đều do nương vào đại thệ nguyện mà kiến lập. Đại thệ nguyện là đại giới, là đại hiếu thuận. Đại hiếu thuận là chí đạo hiếu thuận, là giới. Do vậy, tùy thuận là giới. Đại tùy thuận là giới! Giới ấy là giới rộng lớn, giới thanh tịnh, giới chân thật. Tuy là vô ngôn thuyết, nhưng là “lược giới”. “Lược” là nhờ vào ngôn thuyết đơn giản, bao gồm hết thảy thiện xảo lợi tha, tâm trí lợi tha, chọn lựa lợi tha, quyết định trụ trong giới, tức là dùng chuyện lợi lạc chúng sanh để quyết định trụ, dùng tùy thuận công đức thù thắng trong các pháp để quyết định trụ, dùng tán thuận (tán thán và tùy thuận), dùng hiếu thuận chư Phật, Bồ Tát, thánh nhân, và hết thảy hữu t́nh để quyết định trụ. Đó cũng gọi “thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ” (trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ tam đồ). Mọi người rất quen thuộc kiểu nói này, nhưng trong pháp tắc thực tiễn, chúng ta hăy nên quan sát cặn kẽ chính ḿnh có tương ứng với cách nói ấy hay không? Trên thực tế, thủ hộ thệ nguyện sẽ có thể bảo vệ chúng ta chẳng hứng chịu những tổn thương do biến đổi trong khi hành pháp, chẳng bị các nhân duyên đổi khác xâm đoạt. Nếu chúng ta học tập, tu tập pháp Ban Châu, sẽ có thể chân thật sanh khởi cái tâm “chẳng bị thoái đọa”, rốt ráo an trụ, chẳng bị tổn thương, tùy thuận lợi ích thế gian, tùy thuận công đức rất sâu của chư Phật, thuận theo thệ nguyện rộng lớn của A Di Đà Phật, tùy thuận chọn lựa an trụ trong thệ nguyện lợi ích chúng sanh rộng lớn. Đó là một động lực lớn nhất để hành pháp, cũng là bi trí song tu, mà cũng là nơi công đức chân thật hiện diện.

          Cơ chế tâm lư của người hành pháp muôn ngàn sai khác. Tôi đă thấy mấy trăm bài văn phát nguyện, khác biệt hết sức to lớn. Có người viết ngắn gọn, có người phức tạp, có người tự lợi, có người nói về lợi tha, có người nghi pháp, có người là pháp thù thắng, cho đến có người cầu cảm ứng, có người cầu xuất ly, người th́ cầu của cải, có người cầu oai đức to lớn, có người cầu thiện xảo, có người cầu chế ngự, ước thúc kẻ khác, có người cầu lợi ích người khác, có người cầu tăng thêm phước báo cho xă hội. Hạng người nào cũng đều có, lời nguyện ǵ cũng đều có; nhưng có một điều: Một trăm hai mươi hai điều “vân hà” thật sự là công đức và lợi ích chân thật của Ban Châu!

          Pháp Ban Châu là do Thích Ca Mâu Ni Phật tuyên nói ở Trúc Lâm Tinh Xá tại thành Vương Xá trong thế giới Sa Bà. Sau khi kinh điển được kết tập, bản kinh này được phiên dịch, truyền bá sang Trung Hoa trong thời Tùy - Đường, một mực truyền bá đến tận bây giờ. Đương nhiên là có rất nhiều kẻ nghi ngờ, phỉ báng pháp này. Đức Thế Tôn v́ che chở hạng người ấy, trước tiên đă nói: “Đừng báng pháp này, kẻo phải hứng chịu khổ báo to lớn, hứng chịu luân hồi xấu ác”. Trong đoàn thể này của chúng ta, cũng có kẻ phỉ báng pháp này, nói pháp này là giả, là pháp bất chánh, là tà pháp: “Ngồi ở chỗ này nghe giảng th́ là chuyện chẳng tương ứng. Tôi cảm thấy chẳng thích hợp, là chẳng công bằng, là chẳng có ư nghĩa chi hết!” Nói theo phía quư vị, sở dĩ [quư vị chê trách] pháp này chẳng công bằng là v́ chúng ta thuộc vào t́nh huống ngờ vực pháp tắc này, phỉ báng pháp tắc này. Cho nên [nhận thấy pháp tắc này] chẳng công bằng đối với chính ḿnh. [Hăy nên có tâm thái] “thà nguyện chính ḿnh bị vứt bỏ, cũng chẳng bằng ḷng nghi ngờ, phỉ báng”. Nghi ngờ, phỉ báng sẽ khiến cho chính ḿnh bị rất nhiều thương tổn, giống như dùng trứng phang đá cuội, kết quả cứ nghĩ liền biết. Đối với chuyện này, trong kinh điển, đức Thế Tôn đă có thọ kư, trong phần sau sẽ nói tới.

          Nhưng trong xă hội, kẻ trực tiếp quở mắng, chửi bới kinh điển này, chửi bới hành pháp này rất hung hăng th́ giống như trong kinh điển đă ghi chép. Trong chúng thường trụ hiện tiền, tôi cảm thấy làm như thế đối với bản thân quư vị, sẽ là bất công, chẳng thích hợp. Nếu có kẻ như thế, hăy nên lập tức sám hối. Nếu không, hăy nên ĺa bỏ nơi này, có thể hành tŕ pháp tắc khác, sẽ chẳng đến nỗi báng pháp, mà cũng chẳng đến nỗi bị thương tổn. V́ đây là một đạo tràng Ban Châu, nếu quư vị ngờ vực, hủy báng pháp tắc này, th́ hăy nhanh chóng sám hối, hoặc mau chóng rời đi. Cả hai cách ấy đều được, sẽ có lợi, công bằng, tương ứng. Pháp tắc mà chúng ta hành tŕ trong đạo tràng này có ư nghĩa. Tán thán một pháp tắc là có ư nghĩa, c̣n ngờ vực, hủy báng pháp tắc là do tâm ngờ vực, tâm hủy báng của quư vị sanh khởi! Không chỉ chẳng đạt được lợi ích trong Phật pháp, mà c̣n có thể tổn thương chính ḿnh. Nhất là vẫn ở lỳ trong đạo tràng này th́ sẽ là chẳng thích hợp, phạm lỗi gây rối loạn đại chúng và hủy diệt đạo tràng. Đừng nói là ai có thể cứu độ, chính ḿnh cũng chẳng thể tha thứ cho chính ḿnh! V́ sao nói như vậy? Đó cũng là chẳng xả hết thảy hữu t́nh, chẳng tổn hại hết thảy hữu t́nh, v́ quư vị có thể nói là chính ḿnh vô duyên đối với pháp này. Như thế th́ cơ bản là chẳng báng pháp, chẳng ngờ vực, hủy hoại pháp, cho nên chẳng sanh ra lầm lỗi, mà cũng chẳng khiến cho hữu t́nh bị tổn thương. Ở đây, thừa dịp học Phật, học pháp này, tôi trịnh trọng nêu ra [những điều cảnh tỉnh ấy], hy vọng mọi người hăy khéo tư duy nhân duyên của chính ḿnh để chẳng đến nỗi bị tổn thương không cần thiết!

          “Quảng đại giới trung quyết định trụ” (trụ quyết định trong giới rộng lớn): Trong thực tế, hiếu thuận là chí đạo. Nếu kiến lập thệ nguyện, nếu tùy thuận thệ nguyện, chúng ta đều nên tùy thuận pháp. Trong tùy thuận, sẽ có giới, giới đức, hộ tŕ pháp tắc mà chúng ta đă hành. Trong kinh điển, đức Thế Tôn đă nói giới ở chỗ nào? Ở nơi hiếu. Hiếu là chí đạo. Hiếu là ǵ? Hiếu là giới. Hiếu thuận là giới. Đấy chẳng phải là nô dịch chúng ta. Bản thân của giới có thể bảo vệ chúng ta, mang lại lợi ích không chi lớn bằng cho chúng ta. Nhưng trong thời đại này, ḷng người dễ phản nghịch, thường nói là hay rối loạn “tánh giới”, dĩ hạ phạm thượng. “Thượng” ở đây chẳng phải là thượng trong “thượng hạ” (trên dưới), mà [thượng] là chỗ đáng nên cung kính, chỗ đáng nên thủ hộ, chỗ đáng nên yêu thích. Nếu như chửi bới, lay động, va chạm những nơi ấy, sẽ sanh ra thương tổn. V́ thế, hiếu thuận là chí đạo (đạo cùng tột). Người Hoa đặc biệt nói tới hi