Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng kư
Phần
3
大方等大集賢護經講記
慈法法師
Chủ giảng:
Pháp sư Từ Pháp
Địa điểm:
Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ
ngày 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt:
Đức Phong và Huệ Trang
(Kinh) Thế Tôn! Thí như kim thời thánh
giả A Nan.
(經)世尊。譬如今時聖者阿難。
(Kinh: Bạch Thế Tôn! Ví như thánh
giả A Nan trong hiện thời).
“Thánh giả A Nan” là thánh nhân Sơ Quả.
Trong giáo ngôn Thanh Văn, Tứ Quả và Tứ
Hướng là tám bậc thánh nhân. Địa vị Sơ Quả
là bậc thiện xảo chứng đắc thánh quả đầu
tiên.
(Kinh) Ư Thế Tôn tiền, thân văn
pháp dĩ, giai tất thọ tŕ, như thuyết phụng hành.
(經)於世尊前親聞法已。皆悉受持。如說奉行。
(Kinh: Đối
trước đức Thế Tôn, đích
thân nghe pháp xong, thảy đều thọ tŕ, phụng hành đúng
như lời dạy).
Ở đây, nêu thí dụ ngài A Nan là bậc đa
văn bậc nhất. Khi chúng ta hành pháp Ban Châu, nếu đạt
được tam-muội Thập Phương Chư Phật
Tất Giai Hiện Tiền Lập như thế, sẽ có
thể đạt được lợi ích như thế
nào? Có thể là nghe điều này, quên mất điều
kia hay không? Ở đây, [ngài Hiền Hộ] nêu ra một điều
lợi ích để an ủi, khiến cho chúng ta sanh ḷng tin
quyết định, tức là [người
chứng đắc Ban Châu] sẽ giống
như ngài A Nan, nghe rồi chẳng quên, nghe xong bèn hành tŕ chánh
đáng, nghe rồi bèn thọ tŕ.
(Kinh) Bỉ chư Bồ Tát, thân cư thử
độ, bất chí bỉ giới, nhi năng biến đổ
chư Phật Thế Tôn, thính văn pháp dĩ, tất năng
thọ tŕ, như thuyết tu hành, diệc phục như thị.
Năi chí mộng trung, hàm nhược tư dă.
(經)彼諸菩薩。身居此土不至彼界。而能遍睹諸佛世尊。聽聞法已。悉能受持如說修行。亦復如是。乃至夢中。咸若斯也。
(Kinh: Các vị Bồ Tát ấy
thân ở trong cơi này, chẳng đến cơi kia, mà có thể
thấy trọn khắp chư Phật Thế Tôn, được
nghe pháp xong, đều có thể thọ tŕ, tu hành đúng như
lời dạy, cũng giống như vậy. Thậm chí
trong mộng, cũng đều như thế).
Đây là nêu câu hỏi về lợi ích cũng
giống như thế. Pháp như thế nào th́ sẽ có thể
đạt được lợi ích như thế nào? Trong
phần sau, đức Thế Tôn sẽ bố thí quyết
định, thật sự ban bố sự an ủi không
chi lớn bằng cho hết thảy hữu t́nh dù thánh hay
phàm. Nhất là đối với phàm phu hữu t́nh chưa
chứng công đức Lục Thông xuất thế, chưa
chứng Ngũ Thông thế gian thiện xảo, cho đến
những kẻ thuộc địa vị phàm ngu muốn hành
pháp, Phật đều ban sự an ủi tột bậc to
lớn, khiến cho họ tiến nhập pháp này. Đối
với lợi ích và công đức của pháp tắc này, dù
là liễu nghĩa hay bất liễu nghĩa, dù là chân thật
hay chẳng chân thật, dù là rộng lớn hay chẳng rộng
lớn, cho đến thù thắng hay không thù thắng, tâm trí
phàm phu chẳng thể liễu giải. Tối đa là suy đoán, [tức là] nhờ
vào sự
tri kiến mà chính ḿnh có thể thấy biết để
suy đoán pháp tắc này, rất khó liễu giải hoàn thiện,
hoàn chỉnh được, khó thể thấy toàn thể. Trong lời
giải đáp của đức Thế Tôn đối với
một trăm hai mươi hai điều
“vân hà” (như thế nào) ấy, hoặc có thể nói
là một trăm hai mươi hai câu hỏi của Hiền
Hộ Bồ Tát đă hoàn toàn tỏ lộ lợi ích và công
đức chân thật của pháp tắc này, tỏ
rơ pháp này được phàm thánh đồng tu. Dẫu là kẻ
hữu t́nh c̣n chưa đạt được công đức
xuất thế, hay công đức nhập thế, hễ tiến
nhập pháp này, cũng đều có thể thấy Phật, cũng đều
có thể nghe pháp, cũng đều có thể tu hành đúng
như thật. Đấy chính là mở cho chúng ta một
con đường rộng răi để tiến thẳng vào
Niết Bàn. Nếu một trăm hai mươi
hai câu hỏi
này chẳng được tuyên nói, chúng ta làm sao có thể
hiểu biết thực chất của công đức Ban
Châu tam-muội cho được? Do vậy, Hiền Hộ
Bồ Tát đúng là đại sư của chúng ta, đúng là bậc ban ân huệ cho chúng ta, có ơn dưỡng dục
chúng ta, ban cho chúng ta tư lương hành pháp Ban Châu, ban cho
oai đức, ban cho cơ duyên!
Dưới đây, đức Thế Tôn sẽ
trả lời một trăm hai mươi hai điều “vân
hà” của Hiền Hộ Bồ Tát về công đức,
lợi ích, thiện xảo, tức là đối với pháp
tắc như thế nào, th́ sẽ có thể đạt được
công đức và lợi ích thù thắng, khó thể
diễn nói như thế ấy? Đức Thế Tôn đều
giải đáp.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Hiền
Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: - Thiện tai! Thiện tai! Hiền
Hộ! Nhữ kim năi năng thỉnh vấn Như Lai như
thị diệu nghĩa. Nhữ vị lợi ích nhất
thiết thế gian chư chúng sanh cố, diệc vị an
lạc chư chúng sanh cố, phục vị lân mẫn chư
thiên nhân cố, phục vị nhiếp thọ vị lai thế
trung chư Bồ Tát cố. Hiền Hộ! Nhi nhữ văng tích
dĩ tằng cúng dường vô lượng chư Phật,
chủng chư thiện căn, thính văn chánh pháp, thọ
tŕ chánh pháp, ái nhạo chánh pháp, kính trọng chánh pháp. Nhữ
kim đản dĩ Ma Ha Ca Diếp giáo hóa hạnh cố, thiểu
dục, tri túc,
hằng nhạo nhàn tĩnh A Lan Nhă xứ, hoặc cư trủng
gian, hoặc tại thụ hạ, diệc lộ địa
tọa, thường tọa bất ngọa, nhất phu bất
di, thọ khất thực pháp, nhất thực bất tái,
hoặc nhất tọa thực, hoặc duy nhất đoàn,
duy súc tam y, cập phấn tảo y, tán thán Đầu
Đà, khuyến thỉnh chư Bồ Tát, giáo Bồ Tát hành
pháp, linh chư Bồ Tát hỷ, ha trách chư Bồ Tát, giáo
thị chư Bồ Tát, thành tựu chư Bồ Tát, năng
vi lợi ích hành đại từ bi. Ư chư chúng sanh, sanh b́nh đẳng tâm, hàm đắc tự tại đáo
ư bỉ ngạn, tùy ư đắc kiến nhất thiết
chư Phật, phát quảng đại nguyện, hành thâm diệu
hạnh, nhạo Nhất Thiết Trí Bồ Đề
lương trụ, thiện năng tùy thuận Như Lai chủng
tánh. Phát Bồ Đề tâm, do
như kim cang. Thông đạt thế gian chúng sanh sở niệm,
quảng đại diệu hạnh bất khả giảo
toán, bất khả xưng lượng, thường tại
nhất thiết chư Phật mục tiền. Hiền Hộ!
Ư nhữ công đức trung, vị thuyết thiểu phần
dă!
(經)爾時世尊告賢護菩薩摩訶薩言。善哉善哉。賢護。汝今乃能請問如來如是妙義。汝爲利益一切世間諸衆生故。亦爲安樂諸衆生故。復爲憐愍諸天人故。復爲攝受未來世中諸菩薩故。賢護。而汝往昔已曾供養無量諸佛種諸善根。聽聞正法。受持正法。愛樂正法。敬重正法。汝今但以摩訶迦葉教化行故。少欲知足。恆樂閒靜阿蘭若處。或居冢間。或在樹下。亦露地坐。常坐不臥一敷不移。受乞食法一食不再。或一坐食。或唯一摶。唯畜三衣及糞掃衣。讚歎頭陀。勸請諸菩薩。教菩薩行法。令諸菩薩喜。訶責諸菩薩。教示諸菩薩。成就諸菩薩。能爲利益行大慈悲。於諸衆生生平等心。鹹得自在到於彼岸。隨意得見一切諸佛。發廣大願行深妙行。樂一切智菩提樑柱。善能隨順如來種性。發菩提心猶如金剛。通達世間衆生所念。廣大妙行不可校算。不可稱量。常在一切諸佛目前。賢護。於汝功德中未說少分也。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế
Tôn bảo Hiền Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: - Lành
thay! Lành thay! Này Hiền Hộ! Ông nay có thể thưa hỏi
Như Lai diệu nghĩa như thế. Ông v́ lợi ích hết
thảy các chúng sanh trong thế gian, cũng v́ khiến cho các
chúng sanh yên vui, lại v́ thương xót các vị trời,
lại v́ nhiếp thọ các vị Bồ Tát trong đời
vị lai. Này Hiền Hộ! Trong quá khứ, ông đă từng
cúng dường vô lượng chư Phật, gieo các thiện
căn, lắng nghe chánh pháp, thọ tŕ chánh pháp, yêu thích chánh
pháp, kính trọng chánh pháp. Ông nay chỉ
hành theo sự giáo hóa của Ma Ha Ca Diếp, ít ham muốn,
biết đủ, thường thích chốn A Lan Nhă thanh vắng,
hoặc ở nơi mồ mả, hoặc ở dưới
gốc cây, cũng ngồi nơi đất trống, thường
ngồi chẳng nằm. Hễ trải tọa cụ ra, sẽ
chẳng dời chỗ, lănh nhận pháp khất thực chỉ
xin một bữa, hoặc chỉ ăn một bữa, ăn
duy nhất một nắm cơm, chỉ chứa ba y và y phấn
tảo, tán thán hạnh Đầu Đà, khuyến thỉnh
các Bồ Tát, dạy Bồ Tát hành pháp, khiến cho các Bồ
Tát vui mừng, quở trách các Bồ Tát, chỉ dạy các Bồ
Tát, thành tựu các Bồ Tát, có thể v́ lợi ích mà hành đại
từ bi. Đối với các chúng sanh, sanh tâm b́nh đẳng,
[khiến cho họ] đều được tự tại, đạt
tới bờ kia, tùy ư được thấy hết thảy
chư Phật, phát nguyện rộng lớn, hành hạnh sâu
mầu, vui thích nơi rường cột của Nhất Thiết
Trí Bồ Đề, khéo có thể tùy thuận chủng tánh
của Như Lai. Phát Bồ Đề tâm ví như kim cang. Thông
đạt ư niệm của chúng sanh trong thế gian. Diệu
hạnh rộng lớn chẳng thể so lường, chẳng
thể đếm kể, thường ở trước mắt
hết thảy chư Phật. Này Hiền Hộ! Trong công đức của ông, chưa thể
nói chút phần được!)
V́ sao gọi là Hiền Hộ Bồ Tát Ma Ha
Tát? Hiền Hộ Bồ Tát thật sự là bậc đại
Bồ Tát. V́ lẽ nào? Ngài lợi ích thế gian rộng
khắp, nhiếp
thọ thế gian rộng khắp, nhuần
thấm chúng sanh hữu duyên trong thế gian rộng khắp, khiến
cho họ đạt được lợi ích chân thật.
Đức Thế Tôn tán thán rằng: “Thiện tai! Thiện
tai! Hiền Hộ! Nhữ kim năi năng thỉnh vấn Như
Lai như thị diệu nghĩa. Nhữ vị lợi ích nhất
thiết thế gian chư chúng sanh cố, diệc vị an
lạc chư chúng sanh cố. Phục vị lân mẫn chư
thiên nhân cố. Phục vị nhiếp thọ vị lai thế
trung chư Bồ Tát cố” (Lành thay! Lành thay! Này Hiền
Hộ! Ông nay có thể thưa hỏi Như Lai diệu
nghĩa như thế. Ông v́ lợi ích hết thảy các chúng
sanh trong thế gian, cũng v́ khiến cho các chúng sanh được
yên vui, lại v́ thương xót các vị trời, lại v́
nhiếp thọ các vị Bồ Tát trong đời vị
lai). Lời dạy này mười phần trọng yếu.
Hết thảy các lời khải thỉnh về giáo pháp của
Hiền Hộ Bồ Tát cũng như hết thảy các vị
Bồ Tát Ma Ha Tát, đều là nương vào oai thần của
chư Phật gia bị, khiến cho các Ngài từ
chỗ ngồi đứng lên, v́ phát khởi lợi
ích cho hết
thảy chúng sanh mà khải vấn. Nếu chẳng như
thế, ngài Hiền Hộ
cũng khó thể khải vấn. V́ sao? Công đức và lợi
ích do chư Phật đă chứng, tạng công đức
của chư Phật, chỉ có Phật và Phật có thể
biết, hết thảy các Bồ Tát chẳng thể hiểu biết!
“Vị lợi ích nhất thiết thế
gian chư chúng sanh cố” (v́ lợi ích hết thảy các
chúng sanh trong thế gian): [“Chúng sanh” ở đây] là hết
thảy phàm thánh hữu t́nh. Pháp Tịnh Độ rất sâu
chẳng thể nghĩ bàn, hoàn
toàn là ở chỗ này: “Phàm thánh
đồng tu” là một giáo
ngôn đặc biệt của pháp Tịnh Độ. Tuy hành
pháp Ban Châu là một pháp tắc phụ thuộc của pháp Tịnh Độ,
nhưng nó có thể hiển lộ rơ rệt chỗ quy kết của tâm tủy
và tâm trí trong pháp tắc Tịnh
Độ, tức là [phô bày] chỗ then chốt và trọng
yếu ở nơi nào! Dựa theo sự chỉ dạy của
kinh Vô Lượng Thọ đối với chúng sanh, chúng
ta học tập giáo ngôn của A Di Đà Phật, nương
theo nguyện lực của Phật mà được độ
thoát. Ở đây, do nương theo hành pháp
Ban Châu tam-muội mà được thành tựu, tuy sở hành
và sở nhiếp[1] vẫn có khác biệt,
nhưng thật ra, tướng công đức và lợi ích
[của pháp Ban Châu so với pháp Tŕ Danh trong hai kinh
Vô Lượng Thọ và kinh Di Đà] vẫn là chân thật
y hệt. Hiền Hộ Bồ Tát nêu ra một trăm hai
mươi hai câu hỏi, [nội dung
của] mỗi câu hỏi đều là lợi ích thực chất
của hành pháp [Ban Châu], đều là nội hàm chân thật
mà mỗi hành giả thật sự tu tập sẽ có thể đạt được.
V́ thương xót hữu t́nh dù phàm hay thánh, kể cả trời, người chưa
được tiếp xúc công đức và lợi ích chân
thật của Ban Châu tam-muội mà chân thật bố thí,
khiến cho họ sanh khởi sự lựa chọn lợi
ích. Do đó, Ngài tuyên thuyết như thế. Hễ tuyên
thuyết th́ không chỉ nhiếp hóa (nhiếp thọ, hóa độ)
các hữu t́nh phàm phu ngu muội, mà c̣n nhiếp hóa các vị
Bồ Tát trong đời vị lai. “Phàm thánh
đều cùng tu” được
hiển hiện toàn vẹn ở nơi đây. Trong các hành
pháp, có pháp chỉ thâu nhiếp phàm phu, có pháp nhiếp thọ
thánh nhân, nhưng hành pháp Tịnh Độ, thậm chí hành
pháp Ban Châu, nhiếp trọn phàm và thánh, đúng là đại
công đức tạng! Pháp này là pháp tạng, là công đức
tạng của Như Lai. Trong đoạn kinh văn này, đă
biểu đạt mười phần rơ rệt cái được
gọi là “lợi ích nhất thiết thế gian chư chúng
sanh” (lợi ích các chúng sanh trong hết thảy các thế
gian), bất luận là phàm phu hay thánh nhân, bất luận là
nhân loại hay thiên chúng.
“Đản y Ma Ha Ca Diếp tôn giả giáo
hóa hạnh cố” (chỉ nương theo hạnh giáo hóa
của tôn giả Ma Ha Ca Diếp): Mọi người hăy
quan sát. [Đức Phật] căn dặn Hiền Hộ Bồ
Tát ở đây, thật sự là căn dặn hết thảy
đại chúng hiện tiền. Hiền Hộ Bồ Tá là
tại gia Bồ Tát. Dù tại
gia, hay xuất gia, đều dùng thân Bồ Tát để biểu
đạt. Cũng có nghĩa là phàm thánh cùng tu, xuất gia
hay tại gia, xuất thế hay nhập thế, nội
dung thiện xảo chân thật chẳng thể nghĩ bàn,
nhiếp thọ trọn khắp, b́nh đẳng trọn khắp.
V́ sao chúng ta có thể học tập kinh điển này ở
dưới cửa Hoa Thủ[2] của núi Kê Túc, là nơi tôn
giả Ma Ha Ca Diếp ǵn giữ y [ca-sa của đức Phật],
nhập Định [chờ Phật Di Lặc xuất thế]?
Nhất định là có cơ chế phước đức
và nhân duyên thù thắng chẳng thể nghĩ bàn gia bị.
Cũng có người hỏi chúng tôi v́ sao hành Ban Châu ở đây?
Tôi đáp: “Tôi cũng không hiểu cho lắm! Phải nên hỏi
tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Phải nên thỉnh Ngài xuất Định
[để thưa hỏi] do cái duyên mạnh mẽ nào mà nhiếp
hóa chúng ta hành tŕ Ban Châu? V́ sao mọi người tới nơi
này để hành Ban Châu?” V́ trong các đệ tử của
đức Thế Tôn, tôn giả Ma Ha Ca Diếp đă thành tựu
pháp này. Trong đời Mạt Pháp này, Ngài dùng công đức
Thiền Định chẳng thể nghĩ bàn để ǵn
giữ áo ca-sa kim sắc của đức Thế Tôn, giữ
ǵn y bát để truyền lại cho Di Lặc Phật là vị
sẽ chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề vào năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn
năm trong vị lai, ḥng lợi ích rộng khắp nhân thiên trong
ba hội Long Hoa. Cơ chế truyền bá như thế do
tôn giả Ma Ha Ca Diếp thủ hộ.
Nay chúng ta đến dưới chân tôn giả
Ca Diếp, đến tu hành pháp này, dường như là lẽ
đương nhiên, dường như là nhân duyên chín muồi,
dường như là dấu hiệu trọng yếu chứng
tỏ thiện
căn và thiện duyên đă chín muồi.
Có phải là như thế hay không? Các vị thiện tri thức
hăy khéo quan sát, khéo suy nghĩ. V́ một pháp tắc chẳng
thể một ḿnh tự
dấy lên được, phải đều là do các duyên
ḥa hợp mà triển hiện trong hiện duyên của chúng
ta, hoặc là chẳng chín muồi, hoặc chẳng chín muồi!
Chúng ta tới dưới cửa Hoa Thủ là nơi tôn giả
Ca Diếp giữ y, nhập Định. Phóng Quang Tự và Hằng
Dương Am đều được oai đức của
tôn giả Ca Diếp che chở, nhiếp thọ. Ngài gia bị
chúng ta, thúc giục chúng ta tu hành để thiện căn
chín muồi. Nếu không như vậy, tôi cảm thấy sẽ
rất khó được nghe danh tự “hành pháp Ban Châu”,
nội hàm công đức và lợi ích của pháp ấy càng
khó được nghe hơn. Đối với công đức
và lợi ích hoàn thiện, trọn đủ, sâu đậm,
rộng lớn, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể
diễn tả như thế, đúng là chẳng dám léo hánh,
mà cũng chẳng dám tưởng tượng. Nhưng chúng ta có phước
đức và nhân duyên thù thắng như thế, đến
cuộc đất thù thắng của Phật giáo là núi Kê Túc
này, ở ngay dưới ánh mắt từ ái của tôn giả
Ca Diếp để hành Ban Châu, chẳng phải là có đại
nhân duyên ư? Chư vị thiện tri thức ơi! Hăy tự
khéo suy nghĩ tinh tế, quan sát tinh tế, đừng để
luống qua!
“Thiểu dục tri túc” (Ít ham muốn,
biết đủ): Dưới đây là tham chiếu hành pháp
của tôn giả Ma Ha Ca Diếp để phô bày nội hàm
của pháp Ban Châu. “Hằng nhạo nhàn tĩnh A Lan Nhă xứ”
(luôn ưa thích chỗ A Lan Nhă thanh vắng): Xa ĺa các ồn
náo đối với thân tâm, xa ĺa ồn náo đối với
chính ḿnh và kẻ khác, đến A Lan Nhă (Araṇya), tức là chỗ
tịch tĩnh để giữ ǵn sự an lạc. Người
học Phật hiện thời chuộng ồn ào, náo nhiệt,
đúng là đáng thương! Quư vị nói xem, [ham chuộng
ồn ào, náo nhiệt như thế], ta ở trong pháp tắc
Đại Thừa, hoặc trong các công đức thù thắng,
dùng ư nhạo để tu pháp có được hay không? Như
thế th́ sẽ có chỗ chẳng tương ứng hành
pháp Ban Châu tam-muội. Đối với hành pháp này, trụ
nơi tịch tĩnh nhất định là phương tiện
tăng thượng. Chúng ta vào rừng rậm nguyên thủy,
hoặc đến các cuộc đất khá rộng răi, thông
thoáng, nguyên sơ, mộc mạc, có hoàn cảnh tương
đối tịch tĩnh, tức là hoàn cảnh y báo [thanh
vắng] như thế. Sau đó, quư vị điều chỉnh
tâm trí của chính ḿnh, khiến cho nó tịch tĩnh, xa ĺa các
ồn náo do tham, sân, si, mạn, nghi, và tri kiến
chẳng chánh đáng từ vô thỉ đến nay đem lại.
Các thứ ấy quấy nhiễu chúng ta, khiến cho tâm trí
ta phiền bực. Đó là một loại
thiện xảo để
tiến nhập tịch tĩnh và an lạc, được
thấy chư Phật.
“Hoặc cư trủng gian, hoặc tại
thụ hạ, diệc lộ địa tọa, thường
tọa bất ngọa, nhất phu bất di, thọ khất
thực pháp nhất thực bất tái, hoặc nhất tọa
thực, hoặc duy nhất đoàn. Duy súc tam y, cập
phấn tảo y, tán thán Đầu Đà” (hoặc
ở trong nơi mồ mả, hoặc dưới gốc
cây, cũng ngồi nơi đất trống. Thường
ngồi chẳng nằm. Hễ trải ngọa cụ ra, bèn
chẳng dời chỗ. Nhận lănh pháp khất thực chỉ
đi khất thực một bữa, hoặc chỉ ăn
một bữa, hoặc chỉ ăn một vắt cơm.
Chỉ chứa ba y và y phấn tảo. Tán thán hạnh Đầu
Đà): Ở đây, nêu ra mười hai pháp tắc
thuộc về hạnh Đầu Đà. Chúng ta biết tôn
giả Ca Diếp là vị hành giả Đầu Đà bậc
nhất. Trong giáo hóa của đức Thế Tôn về pháp
Đầu Đà, chữ Đầu Đà (Dhūta) có thể
phiên dịch thành rất nhiều danh từ. Đẩu Tẩu
(抖擻) là một
danh từ [phiên âm của Dhūta] được
biết đến khá nhiều. Chẳng hạn như khi chúng
ta giữa trưa hôn trầm, bèn vực dậy tinh thần,
phấn chấn thể xác, mở to mắt, chà xát tai, cũng
là để tỉnh táo, chẳng ngủ gục. Nếu chúng
ta thêm vào một ư niệm như: “Ôi chao! Sao lại chóng mặt
thế này?” Vừa cúi đầu xuống, sẽ ngủ ngay.
Hai chữ Đẩu Tẩu hàm nghĩa trên thân chúng ta có tro
bụi th́ phải giũ, lắc đôi chút, [hàm nghĩa] phải phấn chấn
lên. Từ ngữ Đầu Đà c̣n được phiên
âm là Đỗ Đa, thường là rất ít dịch nghĩa
trực tiếp, cơ bản đều là phiên âm thành hai
chữ Đầu Đà, dùng như một danh từ chuyên
biệt trong Phật giáo. Có mười hai hạnh Đầu
Đà, chúng tôi nêu ra đôi chút, hy vọng mọi người
sẽ có tri kiến lư giải:
1) Trụ A Lan Nhă: [A Lan Nhă (Araṇya)] dịch
là Nhàn Tĩnh Xứ (閒靜處), hàm
nghĩa “thân ĺa ồn
náo, tâm ĺa Dục Cái”. Chúng ta
đều biết: Dục gồm có năm món Dục, tức
là đắm nhiễm
đối với Sắc, Thanh, Hương,
Vị, Xúc, Pháp,
được gọi là “niềm vui ngũ dục”. “Cái”
có năm món Cái, tức là tài, sắc, danh vọng, ăn uống,
và ngủ nghê.
2) Thường khất thực:
Nghĩa là ĺa các tham cầu. Chẳng nhận lời thỉnh
[tới nhà thọ trai, hay cúng
dường riêng] của người khác. Chẳng phân biệt
thức ăn ngon, dở, chẳng
ngại đói khát, thiếu thốn. Ôm bát khất thực
là một phương pháp thù thắng để xa ĺa tham cầu.
Người học Phật nếu lăng phí quá nhiều thời
gian đối với chuyện ăn uống th́ chẳng
thích đáng. Nhưng nếu chẳng ăn uống theo lẽ
thường th́ cũng chẳng thích đáng. Khất thực,
dẫu xin được hay không, được bố thí
đầy đủ hay không, do nhân duyên mà có sai biệt rất
lớn. Tức là do túc duyên chín muồi, dị duyên chín muồi,
[mà có] các thứ sai khác như trong kinh điển nhà Phật
đă ghi chép: Có vị A La Hán đi khất thực thường
được cúng dường phong phú. Có vị
A La Hán chẳng xin được, thường xuyên là bụng
rỗng, bát không! Ở đây, [đối với người
tŕ hạnh Đầu Đà], dù đủ hay chẳng đủ,
đều chẳng sao hết, đều dùng đó để
tăng thượng đạo nghiệp!
3) Khất thực theo thứ tự:
Tức là chẳng đắm chấp mùi vị, chẳng chọn
lựa nhà giàu hay nghèo, b́nh đẳng theo thứ tự mà khất
thực. Khất thực th́ chớ nên chọn lựa [nhà
thí chủ] giàu hay nghèo. Nếu nói “người vùng này giàu có,
ta đến chỗ này khất thực. Vùng kia nghèo mạt
rệp, ta tránh xa”; đó là chẳng tương ứng.
4) Ăn một bữa: Tỳ-kheo
v́ tu đạo, dứt hẳn thói quen ăn nhiều lần,
tuân theo quy định ăn một bữa. Trước
kia, đă có người hỏi tôi v́ sao chẳng thể ăn
hai bữa? Tôi đáp: “Ăn
hai bữa rất cực nhọc!” Do vậy,
trước đó đă phát nguyện: Ăn một bữa
để báo ân dưỡng dục của cha mẹ, học
theo cách làm của các vị lăo ḥa thượng thuở trước,
mà cũng học đ̣i các vị tỳ-kheo trong bốn mươi
chín năm giáo hóa của
đức Thế Tôn đều dùng cách “ăn một bữa”
để tăng thượng, xa ĺa cách ăn nhiều lần.
V́ ăn nhiều bữa sẽ lăng phí tinh lực của con
người rất lớn.
5) Ăn có chừng mực: Tỳ-kheo
có được thức ăn, chia thành ba phần: Một
phần thí cho người đói kém, lại giảm một
phần thí cho chim thú, c̣n một phần để tự ăn.
Dẫu không thấy người đói thiếu th́ chỉ ăn
hai phần ba thức ăn trong bát. Trong quá khứ, nếu xin
được ba vắt cơm, trước hết sẽ
thí một vắt cho “đại bằng kim xí điểu,
khoáng dă quỷ thần, chúng La Sát, Quỷ Tử Mẫu, cam
lộ hỷ sung măn” (Chim đại bàng cánh vàng, quỷ
thần trong chốn đồng trống, các La Sát, Quỷ
Tử Mẫu đều được hưởng cam lộ,
ngập tràn niềm vui). Đương nhiên là chuyện này
có xuất xứ. Như đại bằng kim xí điểu
(大鵬金翅鳥, Garuḍa,
Ca Lâu La) thân thể rất lớn. Nó sải cánh ra, có thể
tách nước biển làm đôi để bắt rồng
ăn thịt, giống như gà nuốt giun đất vậy.
Long vương phải đến chỗ đức Thế
Tôn, thưa: “Con cháu ngày càng giảm ít, khẩn thỉnh đức Thế Tôn bảo vệ sanh mạng chúng nó,
kéo dài sanh mạng chúng nó”. Đức Thế Tôn liền bảo
các vị tỳ-kheo: “Các thầy từ nay về sau, khất
thực xong, hăy dùng một
vắt cơm thí cho Kim Xí
Điểu v.v… để chúng nó xa ĺa sát nghiệp”. Và [đức
Phật] cũng truyền trao giới “chẳng sát sanh”
cho Đại Bằng Kim Xí Điểu. V́ thế, người
xuất gia trước khi ăn, nhất định phải
thí một miếng cơm, dẫu chỉ là một miếng
thức
ăn to bằng cái móng tay cũng phải bố thí, để
Đại Bằng Kim Xí Điểu có thức ăn, xa ĺa
cái duyên sát nghiệp[3]. Lại v́ thân thể
của chúng nó to lớn, phải niệm chân ngôn để
chúng nó được ăn uống no đủ.
Lại như mẹ của quỷ La Sát,
Quỷ Tử Mẫu (Hārītī) đều
ăn máu thịt của loài có sanh mạng. Trong Phật giáo, có câu chuyện
về bà mẹ
của các quỷ. Bà ta hằng ngày ăn thịt con nít của
các hữu t́nh trong thế gian. Mỗi ngày ăn một đứa.
Đức Thế Tôn bèn dùng sức thần thông, đem
giấu đứa con bà ta yêu thích nhất ở một nơi.
Bà ta liền giống như điên cuồng, t́m kiếm con
ḿnh khắp nơi. T́m cách nào cũng chẳng thấy, liền
quỳ tại đó, khẩn cầu: “Ai có thể t́m được
con ta, bảo ta làm ǵ cũng đều được!” Lúc
đó, đức Thế Tôn hiện ra, bảo: “Từ nay về
sau, ngươi phải giữ giới chẳng sát sanh, bảo
vệ sanh mạng của hữu t́nh trong thế gian”. Bà ta
thưa: “Con sống sót bằng cách nào đây? Chẳng sát
sanh th́ con ăn ǵ? Những đứa con này chẳng phải
sẽ chết sạch ư?” Đức Thế Tôn lại
bảo các tỳ-kheo: “Các thầy từ nay về sau, khi khất
thực, phải nên chia một vắt cơm cho La Sát quỷ
tử mẫu, khiến họ xa ĺa sát nghiệp”. Do vậy,
Tăng chúng xuất gia ở đâu cũng thường hành
nghiệp từ bi, lợi ích trời, người rộng khắp, nhất
định đừng khinh rẻ thân phận của chúng
ta. Thông thường, khi niệm bài kệ cúng dường,
rất nhiều người chẳng để tâm, không được
rồi!
6) Sau giữa trưa, không được
“uống các chất tương”: “Tương” (漿) chính các
thứ nước ép trái cây, mật ong v.v… Trong giáo pháp tỳ-kheo
có yêu cầu như thế. Như trong tự viện Thiền
Tông Trung Hoa cho phép ăn dược thực[4], thật sự là v́
có bối cảnh lịch sử đặc biệt!
7) Mặc “tệ nạp
y” (弊納衣, áo ca-sa chằm các
mảnh vải rách nát): Chẳng tham phục sức, chính là
y phấn tảo. Người đời rất ít ai biết
y phấn tảo (糞掃) là ǵ? Đó
chính là những thứ y phục bằng chất vải bị
người đời vứt đi, như vải bọc
thi thể, là những thứ vải mười phần dơ
bẩn. Sau khi nhặt lấy, bèn giặt sạch, đập thẳng
ra, chằm kết thành y.
8) Chỉ có ba y: Tỳ-kheo thiểu
dục tri túc, ngoài ba y ca-sa ra, chẳng chứa y dư.
9) Ngồi nơi mồ mả: Thường quán
các phép Vô Thường, Khổ, Không v.v… v́ cầu xuất
ly.
10) Ngồi dưới cội cây:
Như đức Phật
đắc đạo cũng ngồi dưới cội cây.
11) Ngồi nơi đất trống:
Ngồi dưới cội cây gần giống như có nhà,
sợ sanh ḷng tham ái, cho nên ngồi nơi đất trống.
12) Thường ngồi chẳng nằm:
Sợ tham ngủ nghỉ. V́ thế, hông chẳng chạm
chiếu (chẳng nằm xuống).
Trên đây là mười hai hạnh Đầu
Đà. Người thiểu dục tri túc sẽ hành Đầu
Đà. Trong quá khứ, những người có trí, thánh nhân, người
có oai đức, và người trọn đủ phương
tiện thiện xảo sẽ ǵn giữ hạnh Đầu
Đà. Hiện thời, người hành như vậy rất
ít. Mười hai pháp Đầu Đà thành tựu lẫn
nhau, chẳng thể bại hoại, cũng có nghĩa là chẳng
thể chăm chú điều này mà đánh mất điều
khác. Hăy nên thủ hộ thanh tịnh.
“Khuyến thỉnh chư Bồ Tát, giáo Bồ
Tát hành pháp, linh chư Bồ Tát hỷ, ha trách chư Bồ
Tát, giáo thị chư Bồ Tát, thành tựu chư Bồ
Tát” (khuyến thỉnh các Bồ Tát, dạy Bồ Tát hành
pháp, khiến cho các Bồ Tát vui mừng, quở trách các Bồ
Tát, chỉ dạy các Bồ Tát, thành tựu các Bồ Tát): “Ha
trách chư Bồ Tát” (quở trách các Bồ Tát), v́ sao lại
nói đến chuyện quở trách? Nhằm cổ vũ,
thúc giục. “Giáo thị chư Bồ Tát” (chỉ dạy
các Bồ Tát): Như hiện thời, chúng ta được
nghe nội dung của
một trăm hai mươi hai món lợi ích của Ban Châu,
đó gọi là “giáo thị phàm thánh hữu t́nh”, [tức là] chỉ
dạy chúng ta, khiến cho chúng ta được thấy, được
nghe. Nếu chúng ta chẳng đích thân nghe nội hàm chân thật
của giáo ngôn này, làm sao có thể suy nghĩ, quan sát công đức
và lợi ích chân thật rộng lớn của hành pháp Ban Châu
cho được? Đấy là “giáo thị” (教示, chỉ dạy).
“Thành tựu chư Bồ Tát” tức là nương
theo pháp, khiến cho các Bồ Tát có thể thành tựu.
“Năng vị lợi ích, hành đại
từ bi, ư chư chúng sanh, sanh b́nh đẳng tâm” (có thể
v́ lợi ích mà hành đại từ bi. Đối với các
chúng sanh, sanh tâm b́nh đẳng): Trong tu tŕ Phật pháp, tâm từ
bi và tâm b́nh đẳng rất quan trọng, là chỗ tột
bậc của Phật pháp.
“Hàm đắc tự tại, đáo ư
bỉ ngạn. Tùy ư đắc kiến nhất thiết chư
Phật” (đều được tự tại đạt
tới bờ kia. Tùy ư được thấy hết thảy
chư Phật): Tùy ư được thấy, hoặc là thấy
trong mộng, thấy trong hiện
tại, hoặc thấy trong cảnh giới, hoặc thấy
khi xả báo, lúc nào, chỗ nào cũng đều được
thấy. Bốn loại thấy Phật thật sự là
thấy trọn khắp, tùy ư được thấy. Nếu
chúng ta có thể tập luyện thuần thục, thường
hành pháp tắc như thế, sẽ chẳng có tâm trí buông
lung, giải đăi, nẩy sanh hối hận sau khi đă hành
tŕ, và lăng phí
thời gian oan uổng, sẽ tôn trọng sanh mạng và pháp
tắc của chính ḿnh
“Phát quảng đại nguyện, hành thâm
diệu hạnh, nhạo Nhất Thiết Trí Bồ Đề
lương trụ” (phát nguyện rộng lớn, hành hạnh
sâu mầu, ưa thích rường cột Nhất Thiết
Trí Bồ Đề): “Bồ Đề lương trụ”
(rường cột Bồ Đề) [là nói tỷ dụ],
giống như một căn nhà phải có kèo cột.
“Thiện năng tùy thuận Như Lai chủng
tánh, phát Bồ Đề tâm do như kim cang” (khéo có thể
tùy thuận chủng tánh của Như Lai. Phát Bồ Đề
tâm ví như kim cang): Bồ Đề tâm giống như kim
cang. Bồ Đề tâm đă phát, chẳng ngại phát lần
nữa, chân thật nhận biết. Độ chúng sanh, thành
Bồ Đề, hễ phát tâm, sẽ thật sự thủ
hộ cho đến hết đời vị lai, chẳng
nhờ vào tăng giảm. Trong tâm nguyện như thế,
hành hết thảy các pháp, tiêu hết thảy các nghiệp,
hành hết thảy các duyên, lợi lạc hết thảy chúng
sanh, như thế th́ ắt sẽ đạt tới Bồ
Đề, chẳng bị thoái chuyển. Thành tựu tâm trí
như thế, sẽ
là tâm trí kim cang, tâm nguyện như thế sẽ là tâm nguyện
Bồ Đề.
“Thông đạt thế gian chúng sanh sở
niệm. Quảng đại diệu hạnh bất khả
giảo toán, bất khả xưng lượng, thường
tại nhất thiết chư Phật mục tiền. Hiền
Hộ! Ư nhữ công đức trung, vị
thuyết thiểu phần dă” (Thông đạt
tâm niệm của chúng sanh trong thế gian, diệu hạnh
rộng lớn chẳng thể so lường, chẳng thể
đếm kể, thường ở trước mắt của
hết thảy chư Phật. Này Hiền Hộ! Trong công đức của ông, chưa
thể nói chút phần được): Một trăm hai mươi
hai câu hỏi ấy, tuy Hiền Hộ Bồ Tát đă mở mắt cho chúng ta, khiến
cho chúng ta đều biết, đều nghe lợi ích rộng
lớn rất sâu chẳng thể nghĩ bàn của hành pháp
Ban Châu. Nhưng đức Thế Tôn nói: Trong biển hạnh
nguyện rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn ấy,
những điều lợi ích như ông đă hỏi chỉ
là chút phần, thậm chí c̣n chưa nói được chút phần,
chỉ là nói được một phần bé như giọt
nước vậy!
(Kinh) “Hiền Hộ! Kim hữu Bồ
Tát tam-muội danh viết Tư Duy Chư
Phật Hiện Tiền tam-muội. Nhược hữu Bồ
Tát, cụ túc tu tập như thị tam-muội, đương
đắc thành tựu như thượng sở vấn chư
công đức đẳng. Hiền Hộ đương tri,
cánh hữu vô lượng vô biên thắng thượng công
đức, thuyết bất khả tận”. Nhĩ thời,
Hiền Hộ Bồ Tát phục bạch Phật ngôn: “Thiện
tai Thế Tôn! Duy nguyện thuyết thử Bồ Tát Niệm
Nhất Thiết Phật Hiện Tiền tam-muội, linh thử
thế gian thiên, nhân, Phạm, Ma, sa-môn, Bà La Môn, chư long, Dạ
Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân
phi nhân đẳng, đa hoạch lợi ích, đa thọ
an lạc cố. Diệc linh đương lai vô lượng
chúng sanh đa đắc lợi ích, thọ an lạc cố.
Hựu vị vị lai chư Bồ Tát bối, tác đại
quang minh, thừa Phật oai lực cố. Hựu nguyện
hiện tại, vị lai chư Bồ Tát đẳng, phổ
đắc văn thử Niệm Nhất Thiết Phật Hiện
Tiền tam-muội. Bỉ kư văn dĩ, giai tất thọ
tŕ. Kư thọ tŕ dĩ, nhất thiết giai đương
như thật tu học, như giáo phụng hành. Kư học hành
dĩ, đương linh đắc bất thoái chuyển ư
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Hiện tiền
tức năng cụ túc thành tựu như thị công đức,
cập dư thắng thượng công đức đẳng”.
Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ
Tát ngôn: “Hiền Hộ! Như nhữ ngôn giả, nhữ đương
đế thính, thiện tư niệm chi, ngô kim vị nhữ
phân biệt giải thoát”. Hiền Hộ phục ngôn: “Thiện
tai, Thế Tôn! Ngă thâm nhạo văn Như Lai sở thuyết”.
(經)賢護。今有菩薩三昧名曰思惟諸佛現前三昧。若有菩薩。具足修習如是三昧。當得成就如上所問諸功德等。賢護當知。更有無量無邊勝上功德說不可盡。爾時賢護菩薩復白佛言。善哉世尊。唯願說此菩薩念一切佛現前三昧。令此世間天人梵魔沙門婆羅門。諸龍夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽人非人等。多獲利益多受安樂故。亦令當來無量衆生多得利益受安樂故。又爲未來諸菩薩輩作大光明。承佛威力故。又願現在未來諸菩薩等。普得聞此念一切佛現前三昧。彼既聞已皆悉受持。既受持已一切皆當如實修學如教奉行。既學行已當令得不退轉於阿耨多羅三藐三菩提。現前即能具足成就如是功德及餘勝上功德等。爾時世尊復告賢護菩薩言。賢護。如汝言者。汝當諦聽善思念之。吾今爲汝分別解脫。賢護復言。善哉世尊。我深樂聞如來所說。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Nay có tam-muội
của hàng Bồ Tát tên là Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền
tam-muội. Nếu có Bồ Tát tu tập trọn đủ
tam-muội như thế, sẽ được thành tựu
các công đức như đă hỏi trên đây. Hiền Hộ
hăy nên biết, lại có vô lượng vô biên công đức
thắng thượng, chẳng thể nói hết được”.
Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát lại bạch
cùng đức Phật rằng: “Lành thay Thế Tôn! Xin hăy nói
môn tam-muội Bồ Tát Niệm Nhất Thiết Phật Hiện
Tiền ấy, khiến
cho trời, người, Phạm vương, Ma, sa-môn,
Bà La Môn, các loài rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La,
Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… trong thế gian
này đạt được nhiều lợi ích, hưởng
nhiều an vui. Cũng khiến cho vô lượng chúng sanh trong
đời vị lai được nhiều lợi ích, hưởng
an lạc. Lại làm đại quang minh cho các hàng Bồ Tát
trong vị lai, do nương
vào oai lực của Phật. Lại nguyện các vị Bồ
Tát trong hiện tại và vị lai đều được nghe môn
Niệm Nhất Thiết Phật Hiện Tiền tam-muội
này, đă nghe xong, thảy đều thọ tŕ. Đă thọ
tŕ rồi, hết thảy đều sẽ như thật
tu học, phụng hành đúng như lời dạy. Đă
học và hành rồi, sẽ khiến cho họ được
chẳng thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề. Hiện tiền liền có thể thành
tựu đầy đủ các công đức như thế
và các công đức thắng thượng khác”. Lúc đó, đức
Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: “Này
Hiền Hộ! Như ông đă nói, hăy nên lắng nghe, khéo
suy nghĩ lấy, ta nay sẽ v́ ông phân biệt giải
thoát”. Hiền Hộ lại thưa: “Lành thay! Bạch Thế
Tôn! Con ưa thích sâu xa được nghe lời dạy của
đức Như Lai”).
Lành thay! Thuận theo văn tự, chúng ta có
thể thâm nhập, phân tích tâm trí hiện tiền của chính
ḿnh, ấn khế pháp tắc Thập Phương Chư Phật
Hiện Tiền, mở mang cái đạo nơi tâm địa
của chúng ta, mở kho pháp tạng trong tâm địa của
chúng ta, khải phát tâm trí Như Lai, cũng là tâm trí cội
nguồn của hết thảy chúng sanh, khiến cho công đức
tạng của hết thảy chúng sanh có thể thật sự
nương cậy vào oai đức trong giáo ngôn của đức
Phật mà chín muồi.
“Kim hữu Bồ Tát tam-muội, danh viết Tư
Duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội” (Nay có
môn tam-muội của hàng Bồ Tát, tên là Tư
Duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội). Hai chữ Tư
Duy hết sức trọng yếu! Hành pháp Ban Châu cũng có khi
được phiên dịch là Định Ư tam-muội. Chữ
Tư Duy này khiến
cho chúng ta có thể khá linh động cảm nhận chỗ
y chỉ trong cách tu môn tam-muội này.
“Nhược hữu Bồ Tát cụ túc tu
tập như thị tam-muội, đương đắc
thành tựu như thượng sở vấn chư công
đức đẳng” (Nếu có Bồ Tát tu tập trọn
đủ tam-muội như thế, sẽ được thành
tựu các công đức như đă hỏi trong phần
trước), cũng có nghĩa là tam-muội như thế
có thể trọn vẹn tất cả các công đức được đề cập trong một
trăm hai mươi hai câu hỏi do Hiền Hộ Bồ
Tát đă nêu ra.
“Hiền Hộ đương tri, cánh hữu
vô lượng vô biên thắng thượng công đức,
thuyết bất khả tận” (Hiền Hộ hăy nên biết:
Cũng có vô lượng vô biên công đức thắng thượng,
chẳng thể nói trọn hết được). Ở đây,
đức Thế Tôn trả lời rơ ràng: Hiền Hộ! Ông
nêu ra một trăm hai mươi hai câu hỏi về công
đức thù thắng. Thật ra, đó chỉ là chút phần
công đức của Ban Châu tam-muội, hoặc nói cách khác
là Tư Duy Phật Hiện Tiền tam-muội, thậm chí
chưa được một chút phần nữa!
Pháp Ban Châu tam-muội quả thật có công đức chẳng
thể diễn tả được, có ư nghĩa rộng
lớn rốt ráo, chỉ có Phật đích thân hay biết.
Kinh này tuyên nói chút phần của một ít phần lợi ích
rốt ráo ấy để chúng ta được nghe, được
biết.
“Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát
phục bạch Phật ngôn: - Thiện tai Thế Tôn. Duy
nguyện thuyết thử Bồ Tát Niệm Nhất Thiết
Phật Hiện Tiền tam-muội” (Lúc bấy giờ,
Hiền Hộ Bồ Tát lại bạch cùng đức Phật
rằng: - Lành thay, bạch Thế Tôn! Xin Ngài hăy nói tam-muội
Bồ Tát Niệm Nhất Thiết Phật Hiện Tiền
ấy): Có công đức và lợi ích rộng lớn như
thế, xin đức Thế Tôn hăy tuyên nói cho chúng con.
“Linh thử thế gian thiên, nhân, Phạm, Ma,
Sa-môn, Bà La Môn, chư long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La,
Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng, đa
hoạch lợi ích, đa thọ an lạc cố” (Khiến
cho trời, người, Phạm vương, Ma, Sa-môn
Bà La Môn, các rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn
Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… trong thế gian này, được
hưởng nhiều lợi ích, hưởng nhiều yên vui):
Đồng thời ban lợi ích chân thật rốt ráo rộng
khắp
cho đủ loại sanh mạng khác biệt. Chư Phật,
Bồ Tát xuất hiện trong cơi đời, chỉ do một
đại sự nhân duyên: “Muốn khiến cho chúng sanh ngộ
nhập tri kiến của Phật, thành tựu đạo
nghiệp thanh tịnh”. Điều đó được diễn
tả là “viên thành Bồ Đề, ĺa khổ, được
vui”. Thành tựu lợi ích chân thật, khiến cho lợi
ích của sanh mạng được tiếp tục vận dụng nơi pháp tánh,
pháp tánh tác dụng vào sanh mạng, xa ĺa sự mờ mịt
v́ vô minh, khiến cho hết thảy chúng sanh đắc Vô
Ngại Trí.
“Diệc linh đương lai vô lượng
chúng sanh đa đắc lợi ích, thọ an lạc cố”
(v́ cũng khiến cho vô lượng chúng sanh trong tương
lai đạt được nhiều lợi ích, hưởng
an lạc): Không chỉ hữu ích cho hữu t́nh hiện tại,
tức hữu t́nh trong đời này, mà c̣n khiến cho hữu
t́nh trong đời vị lai, trong đời mai sau, đều
đạt được các sự yên vui.
“Hựu vị vị lai chư Bồ Tát bối, tác đại
quang minh, thừa Phật oai lực cố” (Lại
làm quang minh to lớn cho các hàng Bồ Tát trong đời mai
sau, do nương vào oai lực của Phật): Tức là tạo
duyên khởi thanh tịnh. Trong pháp Niệm Phật, bước
khởi đầu là đại quang minh tạng bố thí
như thế, đại trang nghiêm an trụ như thế,
trọn đủ công đức thủ hộ, thuận tùng
như thế. Tức là do duyên khởi đại quang minh tạng,
xa ĺa các nghiệp tướng sai biệt của hết thảy
chúng sanh, trực tiếp tiến nhập quang minh tạng! Quang
minh tạng ấy chính là trong
sát-na khởi tâm động niệm, trong sát-na động tướng
của pháp giới thể tánh vốn trọn đủ, động
tướng ấy c̣n chưa bị nhuốm bẩn, cũng
có nghĩa là duyên khởi ấy chính là duyên khởi thanh tịnh,
chẳng phải là duyên khởi đắm nhiễm. Đối
với tâm niệm của bọn phàm phu chúng ta trong hiện
tiền, toàn thể khởi tâm động niệm nối tiếp
trong gịng nghiệp, tiếp nối trong tri kiến mông muội,
tiếp nối trong nghiệp tập (nghiệp chướng,
tập khí) “tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến”, chẳng biết
pháp tánh từ vô thỉ tới nay chưa hề bị ô nhiễm,
chẳng tạo, chẳng tác, nhưng tất cả tạo
tác quả thật là hư giả, thật sự là vô
thường, vô ngă. Trong các nghiệp vô thường, vô ngă hư
giả ấy, oan uổng hứng chịu luân hồi, cưỡng
chấp luân hồi, đúng là oan uổng! Chư Phật
Như Lai thương xót hữu t́nh, ban cho lợi ích chân thật
từ Phật pháp, khiến cho họ thấy tự tâm, lựa
chọn sự an lạc rốt ráo. V́ thế, “hựu vị
vị lai chư Bồ Tát bối, tác đại
quang minh, thừa Phật oai lực cố” (lại
làm quang minh to lớn cho các hàng Bồ Tát trong đời vị
lai, do nương vào
oai lực của Phật). Công đức nhân duyên thù thắng
nhất của hết thảy Phật pháp chính là “duyên Phật
thành Phật”. Đây là chỗ quy kết của công đức
chủng tánh chân thật chẳng thể nghĩ bàn!
Có nhiều chúng sanh hư vọng, kiêu ngạo,
điên cuồng, tà kiến, cho rằng chính ḿnh có pháp để
có thể tu, có Phật để có thể thành, có lợi ích
để tự đạt được, chẳng biết
hết thảy công đức và lợi ích xuất phát từ
sự bố thí chiếu kiến do chính chư Phật, Bồ
Tát đă đích thân chứng đắc, khiến cho chủng
tánh thành thục. Nếu chẳng như thế, sẽ mê mất
trong sự đặt bày giả dối hư vọng của
chính ḿnh, chẳng thành tựu đạo nghiệp Bồ
Đề. Trong Hán truyền Phật giáo, có nhiều hữu
t́nh tự phụ, tự cho là đúng, chẳng nhận lănh
công đức. V́ cớ sao? Chẳng tùy thuận sự gia
bị từ oai lực của chư Phật Như Lai, chẳng
tiếp nhận sự hồi thí từ chủng tánh của
chư Phật, chẳng tiếp nhận sự nhiếp hóa
thanh tịnh của chư Phật. Đối với pháp
chưa đạt được mà lại tự phụ là
đă đạt được, cho nên đau khổ hứng
chịu luân hồi. Trong nỗi khổ luân hồi, lại đèo
thêm một nỗi khổ v́ có pháp để có thể đạt
được, cưỡng chấp là tự đạt được.
Đấy quả thật là một vấn đề khá lớn
mà chúng ta cần phải cảnh giác trong học Phật.
“Hựu nguyện hiện tại, vị
lai chư Bồ Tát đẳng, phổ đắc văn thử
Niệm Nhất Thiết Phật Hiện Tiền tam-muội”
(Lại nguyện trọn khắp các Bồ Tát trong hiện
tại và vị lai đều được nghe môn tam-muội
Niệm Nhất Thiết Phật Hiện Tiền này): Được
nghe trọn khắp là v́ môn tam-muội này b́nh đẳng hồi
thí cho phàm lẫn thánh, hết thảy hữu t́nh đều
được hành tŕ, chẳng chọn lựa căn tánh. Quư
vị nói người thân thể không khỏe làm sao
có thể hành tŕ hành pháp Ban Châu ư? Vừa khéo là tôi có thấy
một số tài liệu nói ở Đài Loan, thường
là những người thực tập kinh hành Ban Châu, phần
lớn đều là những bệnh nhân nan y. Họ chẳng
c̣n con đường nào khác, bèn hành tŕ pháp này. V́ thế, pháp
này đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Bệnh nhân vẫn
có thể hành tŕ, bệnh nan y mà vẫn có thể hành tŕ, chúng
ta thuộc loại khỏe mạnh th́ sao? Chúng ta là những
người hướng đến Phật pháp th́ sao? Chúng
ta là những người đang c̣n trẻ tuổi, thân thể
tráng kiện th́ sao?
“Bỉ kư văn dĩ, giai tất thọ
tŕ. Kư thọ tŕ dĩ, nhất thiết giai đương
như thật tu học, như giáo phụng hành. Kư học hành
dĩ, đương linh đắc bất thoái chuyển ư
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Hiện tiền
tức năng cụ túc thành tựu như thị công đức,
cập dư thắng thượng công đức đẳng” (Họ
đă nghe, thảy đều thọ tŕ. Đă thọ tŕ rồi,
hết thảy đều sẽ được tu học
như thật, phụng hành
đúng như lời dạy. Đă học và hành rồi, sẽ
được bất thoái chuyển nơi A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Hiện tiền liền
có thể thành tựu trọn đủ công đức như
thế, và các công đức thắng thượng khác). Hành
pháp Ban Châu cho đến hành pháp Tịnh Độ, chính là
pháp thành tựu hoàn tất trong một đời, quả
thật là giáo pháp rộng lớn rốt ráo thỏa thích bổn hoài xuất thế của
chư Phật. Do vậy, chúng ta hễ nói đến Tịnh
Độ, sẽ nói “phổ độ chúng sanh là bổn
hoài xuất thế của chư Phật, thỏa thích bổn
hoài của Phật chỉ được hiển lộ qua
pháp Tịnh Độ”. V́ sao? Sự giáo hóa trọn khắp
rộng lớn như thế, các pháp môn khác chẳng thể
thâu nhiếp. Chẳng phải là tán thán thiên vị, ai nấy
đều thủ hộ giáo pháp này.
“Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền
Hộ Bồ Tát: - Như nhữ ngôn giả, nhữ đương
đế thính, thiện tư niệm chi. Ngô kim vị nhữ
phân biệt giải thoát” (Lúc bấy giờ, đức Thế
Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát: - Như lời ông
đă nói, ông hăy nên lắng nghe, khéo suy nghĩ lấy. Ta nay
sẽ v́ ông phân biệt giải thoát): “Nhữ” ở đây
là đại chúng hiện tiền. Đừng nên bỏ lỡ
nhân duyên, ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ. “Nhữ”
được nói ở đây có phải là các vị Bồ
Tát và thiện tri thức nhóm họp về Trúc Lâm Tinh Xá thuở
đức Thế Tôn tại thế hay chăng? Chẳng phải!
Chính là đại chúng hiện tiền chúng ta!
“Hiền Hộ phục ngôn: - Thiện tai Thế
Tôn! Ngă thâm nhạo văn Như Lai sở thuyết” (Hiền
Hộ lại thưa: - Lành thay, bạch Thế Tôn! Con ưa
thích sâu xa nghe lời Như Lai dạy): Hiện tiền đại
chúng nghe giáo pháp thù thắng, rất quan trọng!
(Kinh) Phật phục cáo ngôn: - Hiền Hộ!
Vân hà danh vi Bồ Tát Tư Duy Nhất Thiết Chư Phật
Hiện Tiền tam-muội?
(經)佛復告言。賢護。云何名爲菩薩思惟一切諸佛現前三昧。
(Kinh: Đức Phật lại bảo
rằng: - Này Hiền Hộ! Thế nào là Bồ Tát Tư
Duy Nhất Thiết Chư Phật Hiện Tiền tam-muội?)
V́ sao nói “chúng ta học
tập kinh Ban Châu Tam Muội là phân tích tâm địa”? V́ hết
thảy các ngôn thuyết đều từ tâm địa của
chư Phật, mà cũng là từ tâm địa của chúng
sanh. Biển hết thảy các nghiệp phiền năo do tâm địa
của chúng sanh hiển hiện, do biển Chánh Biến Tri
và tâm trí của hết thảy chư Phật hiển hiện,
mà cũng là tự tánh tâm trí của chúng ta hiển hiện.
Trong pháp môn tâm địa này, kinh giáo mà chúng ta đọc cũng
phát xuất từ tâm địa, phân tích tâm địa, khiến
cho tự được thọ dụng.
“Phật phục cáo ngôn: - Hiền Hộ! Vân
hà danh vi Bồ Tát Tư Duy Nhất Thiết Chư Phật Hiện
Tiền tam-muội” (Đức Phật lại bảo rằng:
- Này Hiền Hộ! Như thế nào là Bồ Tát Tư Duy
Nhất Thiết Chư Phật Hiện Tiền tam-muội?):
Nay chúng ta đang học phẩm Tư Duy. Hai chữ Tư
Duy được đặt vào vị trí rất quan trọng,
v́ bước khởi đầu của hành pháp Ban Châu là do
được oai thần của chư Phật gia bị,
khiến cho chúng ta khéo tư duy, quan sát. “Thiện” là nương
theo lời dạy của đức Phật, nương
theo công đức từ oai thần
của đức Phật, nương theo sự gia bị
của Phật Như Lai để khéo quan sát, khéo tư
duy, chẳng phải do nghiệp tập và sự suy lường
vọng tưởng của chính ḿnh mà quan sát, tư duy. Do vậy,
hăy nên niệm Phật tư duy như thế. Nương
theo công đức thù thắng của Phật để tư
duy. Nương vào sự
gia bị của công đức chẳng
thể nghĩ bàn từ lời dạy của đức Phật
để tư duy. Buông bỏ tâm niệm tạp nhiễm
và bất b́nh đẳng của chính ḿnh để tư
duy.
(Kinh) Nhược hữu Bồ Tát cụ
túc thành tựu thử tam-muội giả, tức hoạch như
tiền chư công đức sự, diệc đắc kỳ
dư thù dị công đức.
(經)若有菩薩具足成就此三昧者。即獲如前諸功德事。亦得其餘殊異功德。
(Kinh: Nếu có Bồ Tát thành tựu
trọn đủ tam-muội này, sẽ liền đạt
được các chuyện công đức như trên, và cũng
đạt được các công đức thù thắng, lạ
lùng khác).
Do vậy, công đức và lợi ích được
nêu trong một trăm hai mươi hai câu hỏi trên đây
là chân thật, chẳng dối. “Kỳ dư thù dị
công đức” (các công đức thù thắng, lạ lùng
khác): Chẳng phải chỉ bao gồm một trăm hai
mươi hai công đức, mà là trong công đức rộng
lớn vô tận, một trăm hai mươi hai công đức
[như ngài Hiền Hộ đă hỏi] chỉ là chút phần,
thậm chí c̣n chưa xứng là chút phần nữa!
(Kinh) Sở vị tâm niệm chư Phật
giai hiện tại tiền. Kỳ tâm bất loạn, bất
xả tác nghiệp, cầu thắng thượng trí, dũng
mănh tinh cần, hà phụ trọng đảm, độ thoát
chúng sanh.
(經)所謂心念諸佛皆現在前。其心不亂。不捨作業。求勝上智。勇猛精勤。荷負重擔。度脫衆生。
(Kinh: Có nghĩa là tâm nghĩ chư Phật
đều đang ở trước mặt, tâm chẳng loạn,
chẳng xả nghiệp đang tạo, cầu trí tối
thượng thù thắng, dũng mănh, siêng ṛng, gánh vác gánh nặng
độ thoát chúng sanh).
Hết thảy các pháp tắc trong lời dạy
của đức Phật, không ǵ chẳng nhằm độ
thoát chúng sanh, gánh vác gia nghiệp thật sự của Như
Lai.
(Kinh) Thừa sự, cung cấp
chư thiện tri thức, thường tu không tịch quảng
đại tư duy.
(經)承事供給諸善知識。常修空寂廣大思惟。
(Kinh: Phụng
sự, cung cấp các vị thiện tri thức. Thường
tu tư duy không tịch rộng lớn).
“Không tịch quảng đại tư duy”
và “thừa sự cung cấp thiện tri thức” có mối
nhân duyên ǵ? “Thừa sự thiện tri thức” là đối
với hết thảy chúng sanh bèn sanh ư tưởng cung kính,
sanh ư tưởng họ là thiện tri thức, sanh ư tưởng
khó gặp gỡ. Đối với hết thảy các cơ
duyên, sanh ư tưởng tôn quư, tức là thừa sự thiện
xảo. Thường là chúng ta chọn lựa điều lành
khi có cơ hội, chẳng biết điều lành ngay
trong một niệm hiện tiền. Do vậy “điều
thiện trong thiện tâm là hoàn thiện, là điều thiện
chân thật của chúng ta”. Nếu phát khởi cái tâm cung
kính, tôn trọng, thừa sự hết thảy thiện tri
thức, tức là hết thảy đại chúng hiện
tiền đều nên thừa sự. Sự thừa sự
ấy chẳng phải là làm, hoặc chẳng làm, mà chỉ
là dùng tấm ḷng chân thành để nêu bày Phật pháp cho
nhau, yêu mến, tôn trọng lẫn nhau. Sự thừa sự
này mười phần trọng yếu. Đương nhiên
cũng có thừa sự về mặt vật chất, thừa
sự h́nh tượng, thừa sự bằng cách cung kính, lễ
bái, nhưng các chuyện thừa sự ấy chỉ giả
đặt ra, là một thứ phương tiện! Hăy như
thật thừa sự; đó là lợi ích chân thật trong Phật
pháp, là công đức tự lợi và lợi tha chân thật.
(Kinh) Thân thiện tri thức, diệt trừ
chư Cái.
(經)親善知識。滅除諸蓋。
(Kinh: Thân
cận thiện tri thức, diệt trừ các Cái).
Điều này mười phần trọng
yếu. Trong hành pháp tại đất Hán, chuyện này bị
bỏ mất khá nhiều. Chúng ta thường coi nó như
một câu nói suông, chẳng biết đấy chính là pháp tắc!
Khi chúng ta nghĩ đến ân đức của cha mẹ đối
với chúng ta lúc chính ḿnh c̣n là trẻ thơ, sẽ thường
đau ḷng rơi lệ. Đau ḷng rơi nước mắt
có thể tiêu trừ khá nhiều chướng ngại nơi
tâm lư. Thậm chí khi nghĩ nhớ sự gia bị của đức
Phật đối với chúng ta, chúng ta sẽ đau ḷng trào
lệ, sẽ cảm ơn đội đức. Do vậy, cũng có thể tiêu trừ các
Cái như hôn trầm, vô kư, cùng với tài, sắc, danh vọng,
ăn uống, ngủ nghê, nhất thời [các món Cái bị]
gột rửa hết sạch. Từ trong nỗi niềm cảm
kích ấy, từ trong cái tâm thanh tịnh, có thể gột rửa
Cái Chướng của
chúng ta. Nếu nhờ vào các pháp khác [để gột rửa],
sẽ rất khó khăn!
V́ lẽ đó mà nói “thân cận thiện
tri thức có thể trừ Cái Chướng”. Đấy là
một kỹ xảo trong tu hành đă có từ xưa. Nói “kỹ
xảo” th́ có phải là chỉ chăm chú đạt được
lợi ích, bất cần hậu quả hay chăng? Chẳng
phải! Ắt cần phải hành như vậy th́ mới
có thể trừ các Cái. Chẳng hạn như có kẻ do tâm
kiêu mạn mà nhiều hôn trầm, hoặc do tùy phiền năo[5] lừng lẫy mà nhiều
hôn trầm; hoặc do chẳng hổ thẹn mà nhiều hôn
trầm; hay do chẳng đạt được lợi ích
trong Phật pháp mà nhiều hôn trầm. Nếu chúng ta dùng phương
pháp để trừ khử hôn trầm, ngăn chặn sự
hôn trầm, sẽ rất khó trừ, rất khó ngăn chặn.
Nhưng nếu chúng ta sanh khởi một niệm tâm cung
kính thật sự mạnh mẽ, sanh tâm khó được,
khó gặp gỡ, th́ sẽ
có thể trừ [các Cái Chướng].
Giống như khi chúng ta mất công tốn sức rất
lớn để xin gặp một ai đó, sẽ chẳng
hôn trầm, cũng sẽ chẳng lao chao, cũng sẽ chẳng
vô kư. V́ sao? Do tôn trọng, do yêu mến, do ngưỡng mộ,
do quư trọng, do thủ hộ như thế, sẽ chẳng
bị Hôn Cái (cái chướng hôn trầm) che lấp.
Trong tu pháp hiện tiền, nhất là trong Tăng
chúng, dễ bị hôn trầm nhất! V́ sao? Đă lâu ngày, thiện
tâm, tức cái tâm cung kính thiện tri thức, tâm cung kính thiện
duyên, tâm tôn trọng sẽ dần dần đều bị
tiêu mất. Kết quả, đa số trở thành hôn trầm,
vô kư! Chẳng phải là người ấy không muốn tiến
nhập pháp tắc, nhưng do có chỗ
tiêu mất, cho nên tùy phiền năo sẽ bừng
bừng! Hôn trầm là một món Cái. Ngủ nghê trong “tài, sắc,
danh vọng, ăn uống, ngủ nghê” biểu hiện
thành hôn trầm hiện tiền trong cái chướng, nhưng
nếu quư vị sanh khởi cái tâm
tôn trọng, khó gặp gỡ, hy hữu, sẽ chẳng
hôn trầm. Giống như quư vị chuẩn bị suốt
ba ngày, mong gặp
mặt một người đă nhiều năm khát vọng gặp gỡ,
dù là thiện tri thức cũng thế, mà thân nhân cũng
thế, quư vị sẽ chẳng hôn trầm, buồn ngủ,
mà cũng chẳng mê mất tự tâm.
Trong tùy phiền năo, lười nhác và cẩu
thả chính là cái tâm giải đăi. Tướng phiền
năo này dễ sanh khởi nhất. Thường là khó khắc
phục nhất vào mùa Hạ. Trong mùa Hạ, nó dễ biểu
hiện nhất: Đầu gục xuống, mắt nḥa đi,
ngủ tít luôn. Ngày này qua ngày nọ, cứ
thế mà qua đi. Đấy là một hiện tượng
rất phổ biến, bị cái chướng che lấp rồi!
Tiêu trừ bằng cách nào? Hăy thân cận thiện tri thức,
[sanh tâm] khó được, khó gặp, sanh ḷng tôn trọng, quư
vị sẽ chẳng bị [hôn trầm] như vậy! Giả
thiết là vào thời đại đế vương trong
quá khứ, v́ các thứ nhân duyên, quư vị muốn gặp đế
vương, v́ chuyện ấy, phải chuẩn bị rất
lớn, thông qua rất nhiều phương pháp th́ mới
có thể gặp. Nếu gặp đế vương mà quư
vị ḅ toài ra đất rồi ngủ kh́, chẳng thể
nào có chuyện như thế được! Lại chẳng
hạn như chúng ta đến chỗ rất xa xôi để
cầu thiện tri thức, cầu pháp, [trải qua] ngàn vạn
nỗi cay đắng, nhọc nhằn, trải qua lắm
phen gian nan, [khi được gặp gỡ], quư vị sẽ
chẳng ngủ. V́ sao? Do cái tâm cung kính thúc giục, cái tâm cảm
nhận khó có thôi thúc, quư vị sẽ chẳng thể hôn trầm
được!
V́ vậy, khi chúng ta hành pháp Ban Châu, phải thật
sự sanh khởi ư tưởng
như đối trước chư Phật,
tưởng như Phật đang hiện tiền. Quư vị
ngủ kh́ trước Phật là v́ chẳng muốn gặp
Phật! Một vị Bồ Tát đă bảo tôi: “Trời ơi!
Tôi muốn hành Ban Châu, chuẩn bị kinh hành ba ngày ba
đêm. Nay tôi đă ngủ suốt bốn ngày”. Tôi hỏi: “V́
sao?” Người ấy nói: “Ngủ đẫy giấc, ngủ
đầy đủ rồi”. Tôi nói: “Quư vị có ngủ tám
trăm năm cũng chẳng ngủ đủ! Cứ nghĩ
ngủ đẫy giấc ở nhà để đủ sức
tới đây hành Ban Châu ư? Nếu nói ngủ đủ
giấc sẽ bù đắp được th́ là chẳng tương
ứng!”
(Kinh) Viễn ly ác hữu, tức thế
ngữ ngôn.
(經)遠離惡友。息世語言。
(Kinh: Xa ĺa
bạn ác, dứt bặt các ngôn từ
thế gian).
“Ác hữu” (bạn ác) là kẻ
dùng ngôn ngữ thế tục để bầu bạn, xâm
hại lẫn nhau, ai nấy đều mê hoặc. Kẻ ăn
nói thao thao, nhưng tâm trí phiền năo, bộp chộp, th́ chính
là “ác hữu”; nhất định phải khéo xa ĺa. Đó
cũng là yêu thương, che chở đối phương,
v́ mọi người tụ lại, nói các chuyện thế
tục, sẽ xâm đoạt lẫn nhau, khiến cho tâm trí
mê hoặc. Tâm trí càng ngày càng khổ. Đó là bầu bạn
với ác hữu!
Các vị thiện tri thức ơi! Phải
nên thật sự hành tŕ pháp tắc! Hành pháp trong quá
khứ, “chỉ ngữ” (止語, không nói
chuyện) là quy định nhất định. Tới đạo
tràng, ít nói năng, niệm Phật nhiều, có thể trao đổi
về pháp tắc, đừng nói các ngôn luận thế tục,
để khỏi chịu nhiều đau khổ, bị
nhiều thương tổn! Càng nói nhiều, sẽ tạo
ác càng nhiều, thương tổn càng to! Mai sau quư vị sám hối,
quả thật khó thể sám trừ. Chẳng hạn như
thốt ra một lời ác trước mặt mười
người, dẫu đă sám hối trước chín người,
khi chẳng sám hối đối với một người
c̣n lại, ác nghiệp của quư vị vẫn c̣n đó! Ác
ngữ dễ tổn thương kẻ khác, dễ khiến
cho kẻ khác xa cách, sợ sệt, do ác nghiệp sẽ tự
phải hứng chịu [quả báo]. Một
ḿnh quư vị tạo ác nghiệp, làm th́ đă làm rồi, quư
vị tự làm, tự chịu, nhưng ác ngữ lưu truyền
rộng khắp. Đó gọi là “ác ngữ huân nhiễm”,
thương tổn mọi người, khó thể sám hối!
Thốt ra một câu ác ngữ, nó sẽ được lan
truyền rất rộng. Quư vị nói [câu ấy] rất
khoái trá, nhưng sám trừ rất khó, v́ kẻ nghe nói, kẻ
truyền đạt, quư vị chẳng thể sám trừ với
từng người được. Kẻ truyền đạt
ác ngữ đông lắm, kẻ truyền đạt sự
sám hối của quư vị ít ỏi, các Bồ Tát ơi! V́
thế, nhất định phải chú ư điều này!
(Kinh) Tắc chư căn môn, sơ,
trung, hậu dạ, giảm tổn thụy miên, bất tham
y phục, ẩm thực, thang dược, đường,
pḥng, ốc vũ, sàng, ṭa chúng cụ, hằng nhạo không nhàn,
trụ A Lan Nhă, bất ái kỷ thân, bất trọng ngă mạng,
bất trước h́nh sắc, bất túng kỳ tâm.
(經)塞諸根門。初中後夜減損睡眠。不貪衣服飲食湯藥堂房屋宇牀座衆具。恆樂空閒。住阿蘭若。不愛己身。不重我命。不着形色。不縱其心。
(Kinh: Đóng lấp các căn, đầu
đêm, giữa đêm, cuối đêm, giảm bớt ngủ
nghê, chẳng tham đắm y phục, thức ăn, thuốc men, ṭa viện,
nhà cửa, giường, ṭa các vật, luôn thích thanh vắng,
trụ trong A Lan Nhă, chẳng yêu mến thân ḿnh, chẳng coi
trọng mạng ḿnh, chẳng chấp trước h́nh sắc,
chẳng buông lung cái tâm).
“Bất trước h́nh sắc” (Chẳng
chấp trước h́nh sắc): Đừng nên tham đắm
h́nh sắc của chính ḿnh. H́nh sắc của chúng ta rốt
cuộc sẽ bị sanh, lăo, bệnh, tử, rốt cuộc
sẽ tan hoại, rốt cuộc là bất tịnh. Nhiều
hữu t́nh tham đắm sắc tướng và sắc thân
của chính ḿnh. Hành pháp cũng thế, làm chuyện ǵ cũng
thế, đều xoay chuyển quanh nó, xoay tới, xoay lui,
chỉ rơi vào tà mạn, ngă chấp, khổ chẳng thể
nói nổi. Đó gọi là “dục đắc kỳ dung,
phản thọ kỳ hại” (muốn được h́nh
dung đẹp đẽ, đâm ra mắc hại).
“Bất túng kỳ tâm” (chẳng buông
lung cái tâm): Đừng dung túng nghiệp tập (nghiệp
chướng và tập khí) của chính ḿnh. Hăy nên vâng theo
pháp để hành, đừng đắm nhiễm!
(Kinh) Tu dĩ từ tâm, huân dĩ bi hạnh.
(經)修以慈心。薰以悲行。
(Kinh: Dùng từ tâm để tu, dùng
bi hạnh để huân tập).
Đừng coi các giáo ngôn ấy như lời
nói suông, hăy biến chúng thành quang minh nơi tâm địa, thành
âm thanh nơi tâm địa, thành cảm nhận nơi tâm
địa, thành sự thuần thục nơi tâm địa,
thủ hộ tâm địa của chính ḿnh! Các vị thiện
tri thức ơi! Chúng ta có thể y giáo mà hành như thế.
Lời ấy chẳng phải do đức Phật nói, mà
là tâm địa nói. Chẳng phải do đức Phật dạy,
mà là do tâm địa nẩy mầm, tâm địa thành thục.
Các vị thiện tri thức ơi! Đừng coi đó là
Phật nói. Nếu coi là Phật nói, đùn đẩy cho Phật,
quư vị độ thoát sao được? Có liên quan ǵ đến
quư vị đâu chứ? Nếu chẳng liên can ǵ đến
quư vị, vậy th́ quư vị ngồi ở đây để
làm ǵ? Có ư nghĩa thực tế chi đâu? Do vậy, lời
của chư Phật không ǵ chẳng phải là tiếng ḷng
của chúng sanh. Lời Phật dạy, không ǵ chẳng phải
là quang minh chân thật trong tâm địa!
(Kinh) Nhất thiết thời hỷ, thường
hành xả tâm.
(經)一切時喜。常行舍心。
(Kinh: Vui
mừng trong hết thảy mọi lúc, thường hành tâm
xả).
Hữu t́nh thời Mạt Pháp tham cầu các
dục, ít chú trọng tịnh hạnh. Đấy là sự
hiển hiện do cộng nghiệp của chúng ta trong thời
đại này, chẳng phải là lỗi của một ai.
Quư vị cũng chẳng cần phải sợ hăi, v́ hữu
t́nh thời Mạt Pháp phước
đức mỏng ít. Do đó, phải cậy vào vật tư,
phải cậy vào hoàn cảnh, để khiến cho tự
tâm được an lạc. Quả thật, [những thứ
đó] chẳng đáng tin cậy, chẳng tương ứng!
Trong quá khứ, hành pháp của tỳ-kheo là “ba y, một bát”,
ít so đo những chuyện vặt vănh, an trụ trong pháp ích,
trong các thứ tự tại thiện xảo, dùng các sức
thần thông để rạng rỡ thế gian. Nhưng
hiện thời, dùng đủ loại vật chất để
“trang nghiêm chói ḷa” thế gian: Hăy coi ta có bao nhiêu món đồ, có bao nhiêu của
cải, có bao nhiêu căn nhà, bao nhiêu chiếc xe, có sự
nghiệp ǵ, có thân thể trẻ trung chi đó, tướng
mạo đẹp đẽ. Những thứ ấy vô dụng,
chẳng có lợi ích thực tế, rốt cuộc chúng sẽ
tan hoại, là vô thường, là nhân duyên tụ tập nhất
thời, trọn chẳng phải là công đức an lạc
to tát!
(Kinh) Phá hoại phiền năo, thành tựu
chư Thiền.
(經)破壞煩惱。成就諸禪。
(Kinh: Phá hoại
phiền năo, thành tựu các môn Thiền).
Thiện tri thức ơi! Chúng ta muốn đạt
được công đức và lợi ích chân thật trong
Phật pháp, nhưng các Thiền Định chẳng hiện
tiền, đừng nên nói suông! Dẫu chúng ta nói nhiều cách
mấy, vẫn là ngày này qua ngày nọ như thế, luống
uổng của tín thí, chẳng thể thâm nhập pháp tắc
thiện xảo rộng lớn! Như thế th́ có được
hay chăng? Được chứ! Nhưng sau đó, quư vị
phải trả nợ! Trả nợ trong đời này, hoặc
trả nợ trong đời khác. Đời đời kiếp
kiếp nợ nần vô tận, khó sạch nợ được!
Nay chúng ta thấy trâu, ngựa, lạc đà, lừa chở
nặng; cát, đá, vôi vữa chúng nó đều phải chở.
Ai chuyên chở? Cái tâm mắc nợ, tất nhiên phải trả
nợ. V́ lẽ nào vậy? Mười phương tín thí mong
cho chúng ta thành tựu đạo nghiệp, chọn lựa
pháp tắc xuất thế, tạo thành phước điền thật
sự thanh tịnh. Nguyện vọng tốt đẹp và công
đức của tín thí đặt vào đấy, nếu
chúng ta nhờ vào tín thí của kẻ khác để dưỡng
dục tham, sân, si, mạn, nghi, và nghiệp
lực của chính ḿnh, tất nhiên sẽ là kẻ mắc
nợ. Món nợ ấy là v́ chẳng đảm đương cái nghiệp
của tín thí vậy.
(Kinh) Ư trung tư duy, bất trước
tư vị, quan sát sắc tưởng, duy đắc không
tâm, bất loạn chánh niệm.
(經)於中思惟。不着滋味。觀察色想。唯得空心。不亂正念。
(Kinh: Tư
duy trong ấy, chẳng chấp trước mùi vị, quan
sát sắc tưởng, tâm chỉ là rỗng rang, chánh niệm
chẳng loạn).
Nếu chẳng nương theo các môn Thiền
Định hoặc Niệm Phật để nhất tâm
tu tŕ, các điều tư duy sẽ chẳng tương ứng.
Có kẻ tư duy phiền năo, có kẻ tư duy cố chấp,
tức là cưỡng chấp cách nghĩ “ta luôn đúng”, “ta
luôn chánh xác”. Có kẻ tư duy kiêu mạn, cho là chính ḿnh có công
đức. Do vậy, sẽ thuận theo công đức của
chính ḿnh mà quẩn quanh, lẩn quẩn, giống như con
lừa đi ḷng ṿng kéo cối xay. Tuy đi rất đúng,
bước nào cũng đều đúng, nhưng vĩnh viễn
chẳng thoát khỏi cái ṿng lẩn quẩn! Càng tự bào
chữa, càng chịu khổ, chịu hại, chẳng thể
sanh khởi lợi ích rộng lớn, tự xâm đoạt
cái tâm của chính ḿnh. V́ thế, chẳng thể chánh quán, chẳng
thể như thật quán, chẳng thể như thật tư
duy. Có các Bồ Tát tư duy hỗn loạn, tư duy cứng
ngắc, tư duy hẹp ḥi, tư duy tự phụ, rất
đáng thương, giống như hữu t́nh mười
phần ương bướng, ngu độn, ngồi xổm nơi góc tường,
tự tung hô chính ḿnh: “Ta luôn đúng”. Kẻ đó đối
trước bức tường nói một vạn vạn năm,
vẫn là “ta luôn đúng”, nhưng bất cứ hữu t́nh nào
trong thế gian cũng đều chẳng đạt được
lợi ích, đối với chính ḿnh cũng chẳng có lợi
ích!
Đối với những người hữu
duyên hành pháp trong hiện tiền, hạng Bồ Tát như
thế đặc biệt nhiều! Làm một tí sự tướng,
liền tự cho là có công đức to đùng. Sau đấy,
đối trước góc tường, cũng là đối
trước cái tâm của chính ḿnh, tự ḿnh mê muội, nói:
“Ta luôn đúng! Ta làm chẳng ít chuyện”. Hằng ngày nghĩ
tới chuyện ấy, nói ta làm được nhiều thứ
lắm, hồi thí [công đức,
phước đức cho người khác] ít ỏi,
hoặc tự phụ về những thứ chết cứng!
“Thứ chết cứng” là ǵ vậy? Vô kư, hôn trầm! Chẳng
thể có thiện xảo tiến nhập Phật pháp, phần
nhiều giữ lấy những thứ “thiện xảo”
nhỏ nhặt! C̣n Thường
Tinh Tấn Bồ Tát từ các kiếp nhiều như cát sông
Hằng đến nay thường tinh tấn, chẳng nghỉ
ngơi! Ngài chẳng cho đó
là công đức của chính ḿnh, chỉ tán thán chư Phật
gia bị. Nay chúng ta là bọn hữu t́nh căn cơ mỏng
tanh, ít phước, đạt được một tí đă
sướng rơn, làm một tí đă nghĩ là được
rồi, tự phụ chính ḿnh đă chứng đắc. Kết
quả là nhọc nhằn, bất
an, hẹp ḥi, yếu kém, chẳng thể phát khởi lợi
ích rộng lớn. Đối với chuyện này, các vị
thiện tri thức nhất định phải sốt sắng
trừ khử tự ngă. Nếu
chẳng trừ khử tự ngă, quư vị sẽ đối
trước góc tường, tự phạt ḿnh trong cái góc
chết ấy! “Góc chết” ǵ vậy? Chính là giống như
con lừa kéo cối xay vậy! Quư vị tự bịt mắt
ḿnh mà nói: “Ta đi đúng chóc, ta đi chánh xác”. Quư vị vĩnh
viễn đi đúng lắm, nhưng
vĩnh viễn chẳng đi ra khỏi cái ṿng luẩn quẩn
ấy! Ṿng luẩn quẩn ǵ thế? Tự ngă! Tức cái
ṿng “tự cho chính ḿnh là đúng”. Ṿng càng tṛn, quư vị càng
chẳng thoát ra được! Đúng là rất đáng thương
xót. V́ thế, người có mắt thanh tịnh trông thấy,
hiểu biết, thương xót hạng hữu t́nh ấy.
Loại hữu t́nh ấy thường là hai mắt
bị bịt kín, chẳng thể tự thấy. V́ lẽ
nào? Chẳng có con mắt trí huệ, chẳng có từ bi, chỉ
v́ mắt đă bị bịt kín bởi thói tự đại.
Quả thật phải nên cảnh giác! Hiện thời, rất
nhiều người hành pháp đă bị hạn chế, ước
thức ở chỗ này, đ́nh trệ chẳng thể tiến lên được,
hôn trầm, điệu cử, vô kư, vô lực, chẳng c̣n
tiến lên được nữa, chẳng có sức mạnh
và nguyện vọng tăng tấn!
(Kinh) Bất thủ chư Ấm.
(經)不取諸陰。
(Kinh: Chẳng
giữ lấy các Ấm).
Chẳng hạn như có người có thọ
giác, cho đến có thần biến, có thiện xảo, mà
cũng chấp lấy các cái nhân. Thật sự là chẳng
có pháp nào để có thể đạt được, chỉ
thẳng thừng tiến nhập, hành các pháp đạt được
niềm vui, nhưng
chẳng đắm nhiễm, chẳng vướng bận,
chớ nên quay lại! Hễ quay đầu lại, nói chung
sẽ chẳng đạt được pháp ích. Những
kẻ hành pháp mà lo trước ngại sau, sẽ giậm
chân tại chỗ, hăy nên quở trách chính ḿnh nặng nề, phải thoát khỏi
chỗ ấy. Muốn thoát khỏi chỗ
ấy! Nếu
chẳng thoát ra được, sẽ hăm nhập trong trạng
thái nào đó. Năm này qua năm khác, ngày này qua ngày nọ như
thế, thực tế là đọa trong giải đăi, chẳng
hề hổ thẹn! Hiện thời, trong cơ chế
chung quanh chúng ta, trạng thái như vậy khá phổ biến.
V́ thế, siêng ṛng, khích lệ sẽ là mười phần
trọng yếu.
(Kinh) Bất trước chư Nhập.
(經)不着諸入。
(Kinh: Chẳng chấp các Nhập).
“Chư nhập”: Có mười hai Nhập
pháp, hoặc có sáu Nhập
pháp, đều có xuất xứ.
(Kinh) Bất tư chư giới, bất
tham sanh xứ.
(經)不思諸界。不貪生處。
(Kinh: Chẳng nghĩ các giới, chẳng
tham chỗ sanh).
Đối với tam hữu giới (tam giới),
dù là trong Thiền Định, hay trong các pháp thiện ác, hoặc
trong Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, chớ nên tham đắm
các chỗ ấy. Phi Tưởng Phi Phi Tưởng c̣n chớ
nên tham đắm, các món Thiền Định mà c̣n chẳng thể
tham đắm, huống hồ tham, sân, si, mạn, nghi ư?
Huống hồ tri kiến bất chánh ư? Quư vị đắm
chấp nơi đó, khổ và chẳng khổ, chính ḿnh tự
biết ngay!
(Kinh) Điều phục mạn cao, bất
đố tha tài.
(經)調伏慢高。不妒他財。
(Kinh: Điều
phục tâm ngạo mạn, kiêu căng, không ghen ghét tài sản
của kẻ khác).
Quả thật, đây là chỗ người
hành pháp trong thời đại này phải nên quan sát cặn
kẽ. Tôi đă gặp một vị Bồ Tát, là phụ nữ,
sau ba mươi ngày hành pháp, rất mạnh
mẽ. Từ ngàn dặm xa xôi tới đây, mười phầm
khiêm cung, lễ kính, thưa: “Bạch pháp sư! Con nghe đại
danh của thầy đă lâu. Thầy tu pháp Ban Châu, chúng con từ
chỗ X… đến tham bái thầy. Thầy có thể khai
thị cho chúng con hay không?” Tôi thấy vị Bồ Tát ấy
ăn nói khiêm nhường, trong tâm kiêu căng, bèn nói: “Thưa
Bồ Tát! Quả thật tôi chẳng tu pháp Ban Châu, tôi niệm
Phật một ngày một đêm thôi”. Vị Bồ Tát ấy
đổi sắc mặt ngay lập tức, nói: “Ủa! Thầy
chưa tu Ban Châu à?” Tôi đáp: “Quư vị cứ thong thả
uống nước, chờ đôi chút. Ở đây chúng tôi
có vị Bồ Tát Y… đă hành Ban Châu. Các vị có thể
trao đổi với nhau”. Bà ta ngay lập tức lột mặt
liền, tâm trí gặp bậc tri thức và gặp
phàm phu sai khác quá to! Vừa mới gặp th́ thấy rất cung kính,
thật ra, chẳng phải vậy! Trong tâm tràn ngập kiêu
mạn. Sự
kiêu mạn ấy được
biểu hiện như thế nào? Do tri kiến tăng thượng
của chính ḿnh, trọn chẳng phải là thật sự
đến cầu pháp, hoặc đến tiêu
trừ ngạo mạn. Cuối cùng, tôi bảo bà ta: “Trước
hết, bà hăy rót nước uống đi!” Vị Bồ
Tát ấy nói: “Ủa! Thầy chẳng tu Ban Châu th́ ngồi ở
đây làm ǵ chớ?” Tôi đáp: “Mọi người cùng nhau
học tập, cùng nhau thực hành Phật pháp!” Bà ta bắt
đầu giáo huấn tôi, bảo thầy phải làm thế
này thế nọ. Một là, hai là, ba là, bốn là… Chẳng
thể nói bà ta kiêu căng, cao ngạo,
bà ta cảm thấy ǵ? “Ta mạnh hơn ngươi!
V́ nhà ngươi mới niệm một ngày một đêm, c̣n
ta đă niệm ba mươi ngày rồi!” Nhưng lúc rời đi,
bà ta bảo tôi: “Ối trời ơi! Ban Châu khổ quá, tàn
nhẫn quá!” V́ sao lọt vào t́nh trạng thân tâm bị bức
bách, chẳng tăng trưởng pháp ích như thế? Do kiêu
mạn!
Trong pḥng tôi, có giữ một tấm h́nh lăo
ḥa thượng Diệu Liên ở Đài Loan do người
khác tặng. Chẳng biết Ngài bao nhiêu tuổi, hẳn là
phải bảy tám mươi tuổi rồi, nhưng hễ
ai trông thấy bức h́nh ấy đều nói: “Đây là vị pháp
sư nào vậy? Chắc ba bốn mươi tuổi?” Là v́
trong suốt mười mấy năm, Ngài đều như
một ngày mà hành Ban Châu, đạt được lợi ích
và thiện xảo của hành pháp. Gần đây, tôi biết
các vị hành Ban
Châu, kể cả các vị lăo nhân thường trụ trong
các tự viện ở phương Nam, sau khi họ kinh hành
Ban Châu, tuy đều đă bảy, tám mươi
tuổi, chín mươi tuổi, vẫn c̣n rất phong nhă,
hào hoa, rất trẻ trung. Có các vị thiện tri thức,
chúng tôi không dám nhắc đến, sợ thế tục
kinh hăi. Có các vị thiện tri thức đích xác là trụ
thế chẳng đổi! Trước kia, tôi đă ở
chung với một vị thiện tri thức. Có người
từ nơi rất xa đến lễ kính vị ấy.
Tôi nói: “Nếu mọi người yêu mến vị thiện
tri thức này, hăy hỏi pháp với vị ấy cho nhiều,
giảm bớt lễ kính. Lễ kính vị ấy nhiều
quá, sợ rằng sẽ xui khiến vị ấy nẩy
sanh kiêu mạn. Xui khiến ǵ vậy? Tự cầu tăng
thượng mạn, chẳng cầu pháp tắc”. Tăng thượng
mạn là ǵ? Chẳng giải quyết vấn đề của
chính ḿnh th́ gọi là tăng thượng mạn, chỉ tăng
thêm kiến thức của chính ḿnh, chẳng tăng thêm lợi
ích cho chính ḿnh. Lợi ích ǵ vậy? Lợi ích nơi pháp tắc,
tức là tiêu trừ phiền năo của chính ḿnh, tiêu trừ
nghi hoặc và chướng ngại nơi pháp tắc, chẳng phải là mong
tăng thêm sự quen biết, khoe: “Tôi đă
gặp vị nào đó”, “tôi đă lễ bái vị thầy
nào đó”, chỉ tổ tăng thêm kiêu mạn!
Có người hỏi: “Thầy đă gặp những vị
thiện tri thức nào?” Tôi đáp: “Ai nấy đều là
thiện tri thức”. Có những vị thật sự là bậc
hành pháp thiện xảo rất chẳng thể nghĩ bàn trong
thế gian, chúng tôi quả thật chẳng dám dễ dăi nói
với người đời. V́ sao? Sẽ quấy nhiễu,
xâm hại họ. V́ tâm địa của chúng ta hiện thời
đă tự vun bồi sự kiêu mạn của chính ḿnh quá
nhiều, vun bồi danh phận của chính ḿnh th́ nhiều,
mà giải quyết phiền năo, nghiệp tập của chính
ḿnh th́ ít, mười phần ít ỏi! Như thế đâm
ra chẳng tương ứng. Rất nhiều vị Bồ
Tát hành pháp đạt được lợi ích chẳng thể
nghĩ bàn, nhưng mười người th́ có tới tám
người do được kẻ khác đến cúng
dường, tán thán, đề cao họ, kết quả là xong
luôn! Bị chết tươi trong sự tán thán, ca ngợi
ấy! Cũng có rất nhiều vị hành pháp có công đức
và lợi ích đúng là rất chẳng thể nghĩ bàn, nhưng
họ rất b́nh phàm. Cho nên tôi đặc biệt kính ngưỡng
và quư mến loại thiện tri thức ấy!
Do đó, ở đây, [đức Thế
Tôn] nêu ra “điều phục cao mạn, bất đố
tha tài” (điều phục kiêu căng, ngạo mạn,
chẳng ghen ghét của cải của người khác). Cái
tâm đố kỵ và tâm kiêu mạn là cộng nghiệp hiển
hiện trong thời đại này. Các vị thiện tri thức
ơi! Hành tŕ Ban Châu mà nếu chẳng
sanh khởi sự chọn lựa và tùy thuận đối
với pháp tắc tùy hỷ, sẽ khó thể hành tŕ Ban Châu!
V́ cái tâm chẳng tịch tĩnh. Như thế th́ quư vị
sẽ ganh ghét hữu t́nh. Do cái tâm kiêu mạn, sẽ khiến
cho chính ḿnh nhiệt năo, tâm trí chẳng đạt được
cân bằng, chẳng thể thanh lương,
chẳng tĩnh được, chẳng an ổn được.
Chúng ta khéo tư duy, khéo quan sát, hăy nên khéo điều chỉnh,
khéo xuất ly đối với cộng nghiệp trong thời
đại này!
(Kinh) Vị chư thế gian, đa tác nhiêu
ích.
(經)爲諸世間。多作饒益。
(Kinh: V́ các
thế gian, tạo nhiều lợi ích).
Học tập kinh điển, thật sự
là phân tích tự tâm, chẳng ĺa ư niệm hiện tiền, chuyện
trong hiện tại, người trong hiện tại. Chúng
ta hăy như thật
ấn khế tự tâm có tương ứng với pháp tắc
hay không? Có khế cơ, khế
lư với Phật pháp hay chăng? Có thể thật sự vận
dụng mỗi niệm hiện tại của chính ḿnh hay chăng,
khiến cho Phật pháp ấn khế cuộc sống, cuộc
sống ấn khế tự tâm, tự tâm sẽ như Phật
pháp tiếp nối trong thế gian, tiêu trừ lo ngờ, lợi ích rộng
răi hữu t́nh hay
không? Lợi ích và nội hàm thực chất của pháp Ban
Châu đă được trần thuật khá nhiều trong
một trăm hai mươi hai câu “vân hà”, ở đây,
[đức Phật] lại chỉ dạy tổng quát, nhằm
khiến cho hữu t́nh phát khởi ư nguyện ưa thích tu
tŕ đối với hành pháp Ban Châu, tức Thập
Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập
tam-muội, cũng như nhận thức công đức này.
(Kinh) Ư chư chúng sanh, khởi b́nh
đẳng tâm.
(經)於諸衆生起平等心。
(Kinh: Khởi
tâm b́nh đẳng đối với chúng sanh).
Công đức sanh khởi từ cái tâm b́nh đẳng
ắt có thể lợi ích rộng răi các thế
gian. Hết thảy hữu t́nh đều do mê muội tâm
trí b́nh đẳng, cho nên dấy lên sự phân biệt cao, thấp, lấy, bỏ, tri kiến
phàm thánh khác biệt, nhuốm bẩn tự tâm, khuất lấp
tự tâm, phần nhiều đánh mất sự an trụ
trong an lạc thanh tịnh, tạo thành
sự nguy hại lẫn nhau, tức là bị
phân biệt và chấp trước năo loạn, mê hoặc.
Sanh khởi tâm trí b́nh đẳng, tức là đối trước
hết thảy các tướng sai biệt của hết thảy
chúng sanh, bèn thủ hộ
b́nh đẳng như thật, ban cho chúng sanh công đức
thiện xảo chân thật. Tiếp đó, đức Thế
Tôn nêu ra các thí dụ.
(Kinh) Hựu ư chúng sanh, sanh phụ mẫu
tưởng.
(經)又於衆生生父母想。
(Kinh: Lại sanh ư tưởng coi chúng
sanh như cha mẹ).
Hết thảy chư Phật Như Lai tưởng
hết thảy hữu t́nh như cha mẹ, cảm ơn cuộc
sống, cảm ơn mỗi niệm hiện tiền, cảm
ơn hết thảy hữu duyên; điều này chân thật,
chẳng giả. V́ sao? Do thấu triệt cội nguồn,
liễu giải tự tâm chẳng khác. Trong cuộc sống
b́nh phàm, trong sự cảm nhận của chúng ta, nếu dựa
theo phàm t́nh, nếu dựa theo nghiệp tập, nếu dựa
theo tri kiến phân biệt, thường là chẳng thể
sanh khởi tâm trí cảm ơn hết thảy chúng sanh, nhưng
ở đây chư Phật Như Lai lựa chọn, đối
với hết thảy hữu t́nh, “sanh phụ mẫu tưởng”
(sanh ư tưởng coi như cha mẹ). “Sanh tưởng”
tức là khởi ư niệm nghĩ như
thế, hay là như thật mà tưởng? Nếu dựa
theo sự kiện từ vô lượng kiếp tới nay, đời
đời kiếp kiếp luân hồi; như thế th́ “hết
thảy hữu t́nh đều là cha mẹ lẫn nhau” chính
là lời thành thật. Nếu xét theo đời này, đời
kia, nhiều đời, th́ ở đây sẽ là nói theo sự
tưởng tượng, nói thí dụ, nói giả thiết,
có thể khiến cho chúng sanh rốt ráo an lạc. Thiết
lập như thế sẽ có thể
khiến cho chúng sanh đạt được an lạc rốt
ráo và thủ hộ tâm trí b́nh đẳng, báo đáp ân đức
của hết thảy hữu t́nh như cha mẹ. Do vậy,
chư Phật Như Lai là người tri ân, người báo
ân, thực hành ân đức, cho nên nói “trọn đủ
ân đức”. Tam đức[6] trong công đức thù
thắng trụ thế của chư Phật Như Lai, ân đức
trọn đủ nhất. Khi tiếp
xúc hết thảy hữu t́nh, đều chẳng bỏ lỡ
thời cơ ban bố lợi ích chân thật cho chúng sanh, ḥng
báo ân chúng sanh. V́ sao vậy? Chư Phật Như Lai coi hết
thảy chúng sanh như cha mẹ từ vô thỉ đến
nay, dùng nhân duyên ấy để báo đáp ân dưỡng dục
lẫn nhau.
(Kinh) Diệc ư chúng sanh sở tác nhất
tử tâm.
(經)亦於衆生所作一子心。
(Kinh: Tâm
cũng coi chúng sanh như con một).
Trong nhất tâm như thế, tôn trọng hết
thảy, lợi lạc rộng răi hết thảy hữu t́nh.
Trong tâm trí phàm phu, do thường dùng sức biện định, nhận biết từ
nghiệp tập để xem xét, sẽ
cho chuyện này là lời lẽ quá lố, hoặc ăn
nói lớn lối, hoặc lời lẽ chẳng tương
ứng, là lời lẽ khoa trương sự cao minh. Thật
ra, chẳng phải vậy! Chư Phật Như Lai Thế
Tôn đă chọn lựa như thế. Chúng ta là hạng phàm
phu lè tè sát đất, nếu thuận theo cách suy nghĩ và nh́n nhận
của chư Phật Như Lai để tư duy, nh́n nhận,
thuận theo tri kiến của chư Phật để hiểu
biết, thuận theo nhận thức của chư Phật
để nhận thức, dẫu tùy thuận trong khoảng
sát-na, sẽ đạt được sự gia tŕ chẳng
thể nghĩ bàn và sự biến đổi nơi tâm trí,
ấn khế tâm trí. Ở đây, cũng có thể coi là sự
giả thiết, quư vị chẳng ngại thử xem, chẳng
ngại quan sát, chẳng ngại vận dụng. Chỗ “chẳng
ngại” tức là chỗ ấn tâm. Do đó, tiếp xúc, va
chạm, in vào, quư vị sẽ liễu đạt “tự
tâm, Phật tâm, chúng sanh tâm, cả ba chẳng sai biệt”.
V́ lẽ nào? Tự tâm, Phật tâm, chúng sanh tâm, tâm nào cũng
đều vốn là nhất tâm, nhưng sử dụng hư
vọng, sử dụng chánh đáng, sử dụng phân biệt,
sử dụng viên măn, sử dụng sai biệt,
sử dụng tà vạy, sử dụng chân thật, sử
dụng rốt ráo, mỗi cách dùng khác biệt. “Khác biệt”
là v́ chấp trước. Chư Phật Như Lai đă
sớm nhận biết diệu dụng chân thật vô sai biệt,
cho nên dùng cái tâm b́nh đẳng để lợi ích rộng khắp hết
thảy chúng sanh.
(Kinh) Nhất thiết pháp trung, vô hữu
tránh tưởng.
(經)一切法中無有諍想。
(Kinh: Trong hết thảy các pháp, chẳng
có ư tưởng tranh chấp).
Trong kinh điển, đức Thế Tôn đă
dạy “pháp này b́nh đẳng, pháp chẳng cao thấp”.
Chư Phật Như Lai ban bố các lời dạy, khiến
cho hết thảy chúng sanh thấy thấu suốt hiện
duyên như mộng, như huyễn, chẳng có thực chất,
nhưng tự tánh trọn đủ các loại tác nghiệp
có diệu dụng duy tŕ liên tục. Chúng sanh do nhận thức
hư vọng, ngỡ tướng của
nghiệp lưu là Ngă. Chư Phật Như Lai dùng các
thứ tác dụng duy tŕ tiếp nối của bi trí và nguyện
lực để lợi ích chúng sanh rộng răi, nhưng chẳng
có Ngă để có thể đạt được. Do đó,
đạt được tự tại vô tránh, nhập Vô Tránh
tam-muội để rộng lợi ích thế gian.
(Kinh) Tuy niệm tŕ giới, nhi bất chấp
trước.
(經)雖念持戒而不執着。
(Kinh: Tuy nghĩ đến
tŕ giới, nhưng chẳng chấp trước).
Tâm trí của
chư Phật Như Lai rộng lớn viên măn rốt ráo. Hết
thảy những người hành pháp cũng nên như thế,
tức là tŕ giới mà chẳng chấp trước, tạo
lợi ích cho hữu t́nh trọn khắp, nhưng thật sự
chẳng có chúng sanh để tạo lợi ích. Đấy
chính là khuôn phép và lợi
ích của tâm trí b́nh đẳng trong cái tâm chẳng đắm
nhiễm. Nếu người tŕ giới cho rằng chính
ḿnh thật sự tŕ giới, th́ sẽ là phạm giới.
V́ sao? Do tâm trí bị ô nhiễm, do tâm trí có cao, thấp, do có
tướng ta, tướng người, kẻ đó sẽ
trầm luân trong sanh tử mê muội, trong Ngă Kiến và Ngă
Chấp.
(Kinh) Thường tại Thiền Định,
diệc vô đam nhiễm.
(經)常在禪定。亦無躭染。
(Kinh: Thường
ở trong Thiền Định mà cũng chẳng đắm
nhiễm).
Phần văn tự dưới đây diễn
tả sự thủ hộ vi tế và vô tạo
tác đối với pháp tắc này. Nếu hơi có tạo
tác, chắc chắn sẽ đắm nhiễm.
(Kinh) Hảo nhạo đa văn, bất
khởi phân biệt.
(經)好樂多聞。不起分別。
(Kinh: Ưa
thích đa văn, chẳng dấy lên phân biệt).
Tức là thanh tịnh vui sướng tiếp
nhận đa văn, rộng tu tập các pháp, chẳng sanh
tâm ngạo mạn. Hữu t́nh thời Mạt Pháp phần
nhiều trái nghịch đạo. Do vậy, chúng ta dùng kinh điển
để gột rửa trần cấu nơi thân tâm của
chính ḿnh, ưa thích đa văn, nhưng chẳng kiêu mạn.
Điều này rất trọng yếu. Nếu chẳng như
thế, chúng ta sẽ sanh đắm nhiễm. Đối với
các văn tự ấy, chúng ta có thể dùng để đối
chiếu với tâm niệm hiện tiền của chính ḿnh,
đối chiếu với nghiệp do chính ḿnh tạo tác
trong hiện tiền. Đừng nghĩ tưởng chi khác.
Chúng ta chớ đếm của báu giùm kẻ khác, cũng
chẳng đem Phật pháp đùn đẩy cho người
khác. Nếu đùn đẩy cho họ, nói chung là chẳng
thể khế nhập, nói chung là chẳng khởi tác dụng,
nói chung là chẳng liên can! Bánh vẽ nói chung chẳng thể
no ḷng, chẳng có cơ hội dung nhập.
(Kinh) Giới tụ bất khuyết.
(經)戒聚不缺。
(Kinh: Giới
tụ chẳng khuyết).
“Giới tụ” là ba tụ giới, tức
là Oai Nghi Giới, Thiện Pháp Giới, và Nhiêu Ích Hữu T́nh
Giới. “Giới tụ bất khuyết” tức là
trong ba giới tụ, chẳng hề bỏ sót giới nào.
Trong nhận thức thông thường của chúng ta đối
với giới pháp, ai nấy có cách ǵn giữ khác biệt. Nếu
là Thanh Văn giới tụ th́ chú trọng oai nghi. Nếu là
Bồ Tát giới tụ th́ chú trọng thiện pháp. Nếu
đối với giáo ngôn vô thượng thừa th́ chú trọng
nhiều hơn nơi Nhiêu Ích Hữu T́nh. Chọn lựa như
thế, trong ba giới tụ, chẳng có khiếm khuyết,
chẳng phạm, chẳng nghi ngờ, chẳng báng bổ
lẫn nhau! “Khuyết phạm” là sanh khởi lắm
nghi báng, v́ tam tụ tịnh giới đều có chỗ
dung thông. Kẻ phàm phu xằng bậy chê trách. Có kẻ khi
tŕ giới Thanh Văn th́ bèn phạm giới Bồ Tát, khi tŕ
giới Bồ Tát lại phạm giới Thanh Văn. Ở
đây, [“bất khuyết”] là chẳng có chỗ nào sai
phạm; nhưng v́ lợi ích hữu t́nh, chỉ v́ dùng oai
nghi trụ thế, [cho nên] đều có thể tŕ giới,
chẳng phạm. Hễ phạm bèn sám, [hễ đă sám trừ
thanh tịnh th́] cũng là chẳng phạm, cũng có lợi
ích, cũng thanh tịnh!
(Kinh) Định tụ bất động.
(經)定聚不動。
(Kinh: Định
tụ bất động).
Trong các thứ pháp tắc Thiền Định thuộc
về Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, và Tứ
Thiền, hữu t́nh thâm nhập pháp vị của Thiền
pháp, vượt khỏi tất cả các đắm nhiễm
của bọn hữu t́nh chúng ta trong Dục Giới, có sức
tự tại đối với Sắc Giới. Tức là đối
với thế gian thuộc Sắc Giới, phần nhiều
được du hư tự tại, trang nghiêm tự tâm. “Định
tụ bất động” có nghĩa là trong các môn Định cũng
chẳng bị đắm nhiễm. Nói “bất động”
tức là chẳng ra ngoài giới này, chẳng vào giới
kia, chỉ trụ trong niềm vui sướng của pháp vị.
(Kinh) Trí tụ bất vọng.
(經)智聚不妄。
(Kinh: Trí tụ
chẳng vọng).
Thông thường, Trí được quy nạp
theo ba cách nói: Chư Phật đích thân chứng Nhất Thiết
Chủng Trí, chư đại A La Hán đích thân chứng Nhất
Thiết Trí, chư Bồ Tát phương tiện vận dụng
Đạo Chủng Trí. Trong ba trí ấy, chớ nên lầm
loạn. Chẳng hạn như trong Nhất Thiết Trí, dùng
Tổng Tướng để thấy, nhưng chẳng diệt
mất trí phân biệt, [trí phân biệt] tức là Đạo
Chủng Trí. Tâm trí an lạc như thế. Có kẻ dễ
mê mất tự tâm nơi sự tướng, hư vọng
sanh phân biệt, nói cao, nói thấp. Thật ra, Tổng Tướng
và Biệt Tướng nói chung đều là tướng danh
tự, chứ tâm trí chẳng khác, đều lưu xuất
từ Như Lai Tạng Tánh, đều trọn đủ trang
nghiêm. Mỗi trí đều
là nói phương tiện.
(Kinh) Chư pháp vô nghi.
(經)諸法無疑。
(Kinh:
Chẳng nghi ngờ các pháp).
Chúng ta tu tập Phật pháp, có ngờ vực
hay không? Có chướng ngại hay không?
(Kinh) Bất bối chư Phật.
(經)不背諸佛。
(Kinh: Chẳng trái nghịch chư Phật).
Chư Phật Như Lai ban bố giáo ngôn rộng
lớn, tám vạn bốn ngàn pháp tắc để đối
ứng tám vạn bốn ngàn tâm trí của chúng sanh, mà cũng
là đối trị tám vạn bốn ngàn loại chấp
trước. Những điều này đều là danh từ,
danh tướng. Các danh từ ấy nói thật ra, đều
chẳng phải là thật sự có, cũng chẳng phải
là cụ thể, nhưng nói thí dụ giả thiết. “Tám
vạn bốn ngàn” nhằm biểu thị vô cùng, mà cũng
có thể biểu đạt một niệm hiện tiền
của chúng ta.
(Kinh) Bất báng chánh pháp.
(經)不謗正法。
(Kinh: Chẳng phỉ báng chánh
pháp).
Thời đại Mạt Pháp, lắm kẻ
báng pháp, v́ sao? Do tâm trí ô nhiễm, xằng bậy tự phân
biệt, lấy bỏ, xằng bậy tự cho là “đúng, sai”, diệt
mất chánh kiến!
(Kinh) Bất hoại chúng Tăng.
(經)不壞衆僧。
(Kinh: Chẳng
phá hoại chư Tăng).
“Bất hoại chúng Tăng” là ḥa hợp
với thế gian, chẳng cho chính ḿnh là đúng, chẳng
chê người khác sai bét. V́ sao phải thủ hộ như
thế? Ḥa hợp với thế gian, gánh vác cái nghiệp của
chúng sanh. Dành chuyện tốt cho người khác, tự ḿnh
nhận lấy chuyện tệ ác, khen ngợi thiện đức
của kẻ khác, sám hối lầm lỗi của kẻ
khác. Do vậy, chánh hạnh của Bồ Tát có thể khiến
cho Tăng chúng hưng thịnh trong đạo tràng của
thế gian.
(Kinh) Bất háo quai ly.
(經)不好乖離。
(Kinh: Chẳng
thích chống trái).
“Chống trái” th́ sẽ ruồng bỏ
thiện duyên, phần nhiều sẽ trái nghịch đạo,
buông lung pháp tắc.
(Kinh) Thân cận chúng thánh, viễn ly ngu si.
(經)親近衆聖。遠離愚癡。
(Kinh: Thân
cận chư thánh, xa ĺa ngu si).
Thường thân cận
thiện tri thức, sẽ đạt được nhiều
diệu dụng. Thường ở chung với kẻ ngu,
sẽ mê mất tự tâm. V́ sao? Kẻ mê hướng dẫn
kẻ mê, kẻ mù dắt dẫn người mù, ai nấy ví
như kẻ mù sờ voi, tranh căi với nhau, nhưng chẳng
chính mắt trông thấy! Bậc trí, bậc thánh có thể hướng
dẫn chúng ta, mở mang mắt ta, xa ĺa ngu si, mở con mắt
trí huệ, khiến cho chúng ta trông thấy toàn bộ con voi,
ngay lập tức trọn đủ. Người đời
tham cầu Phật pháp, cũng giống như kẻ mù sờ
voi, chạm được một tí ti đă tự phụ,
cứ nghĩ ḿnh đúng. Kết quả, đánh mất toàn
thể, chẳng đạt được công đức chân
thật trong Phật pháp.
(Kinh) Bất chí cầu xuất thế. Tuy
văn ngữ ngôn, ư bất nhạo thính, diệc bất đam
trước thế gian lục vị.
(經)不志求出世。雖聞語言。意不樂聽。亦不耽著世間六味。
(Kinh: Chí chẳng mong cầu xuất
thế. Tuy nghe ngôn ngữ, ư chẳng chuộng nghe, cũng
chẳng đắm nhiễm sáu vị của thế gian).
Chẳng cầu xuất thế, mà chẳng
nhập thế. Đó là phương tiện của định
tâm, là phương tiện chẳng đắm nhiễm. Đó
gọi là sức công đức trí huệ chân thật chẳng
đắm nhiễm. Chẳng xuất thế, chẳng nhập
thế, chẳng vào sanh tử, cũng chẳng chấp Niết
Bàn, chẳng nhập phiền năo, cũng chẳng chứng Bồ
Đề, chân thật an trụ, trí huệ quang minh. Đấy
là thiện xảo để huân tập pháp ngũ giải
thoát[7].
(Kinh) Tập cận huân tu ngũ giải
thoát pháp.
(經)習近薰修五解脫法。
(Kinh: Tu tập
thân cận, huân tu năm pháp giải thoát).
Giải thoát và giải thoát tri kiến là do dùng
Giới, Định, Huệ để thanh tịnh an lập.
Chúng ta học tập Phật pháp, nếu chẳng tùy thuận
năm pháp giải thoát, cũng như ba môn tam-muội Không,
Vô Tướng, Vô Nguyện, sẽ khó thể tiến nhập.
(Kinh) Trừ diệt Thập Ác, niệm
tu Thập Thiện.
(經)除滅十惡。念修十善。
(Kinh: Trừ
diệt Thập Ác, niệm tu Thập Thiện).
Cái gọi là Thập Ác chính là giết, trộm,
tà dâm, ác khẩu, nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều,
tham, sân, si. Thập Thiện th́ tương phản, không giết,
không trộm, không tà dâm, không ác khẩu, không nói dối, không
nói thêu dệt, không nói đôi chiều, không tham, không sân,
không si. Những điều này thật sự là chỗ an ổn
vui sướng cho cả thế gian lẫn xuất thế
gian. V́ sao có thể nói thiện pháp là chỗ vui sướng?
Xuất thế gian có thể vui với thiện pháp bằng
cách nào? Chúng ta đều biết, trong Tục Đế có nói
“do Ngũ Giới, Thập Thiện, sẽ
sanh trong thiện đạo”. Nh́n từ
đó, Thập Thiện và Thập Ác có thiện xảo xuất
thế như thế nào? Chính là nói bổn tướng của
hai Đế (Chân Đế và Tục Đế) dung thông, chỉ
là nói hư giả. Trong các thứ khổ, kẻ ngu hứng
chịu, thánh nhân cũng hứng chịu, nhưng thánh nhân từ
trong khổ mà đắc lạc. Lạc ǵ vậy? Ở trong
khổ mà được giải thoát, ở trong khổ mà
thành tựu Bồ Đề, nhưng chúng sanh khổ nạn
bị Khổ Khổ bức bách, Khổ Khổ tiếp
nối, mê muội trong khổ. V́ thế, chẳng được
giải thoát. Do đó, khổ cũng là thiện xảo để
xuất thế. Trong mười thiện pháp, cũng giống
như thế. Pháp tắc Thập Thiện và Thập Ác chính
là cơ sở an ổn trong cuộc đời. Khi nào mất
đi cơ sở ấy, sẽ bị nhiều nỗi khổ
sở bức bách, tăng thêm nhiều nguồn khổ. Bậc
trí nương vào Khổ Khổ mà xuất ly, kẻ ngu nương
theo Khổ Khổ
mà trầm luân. Do vậy, trong khổ tất nhiên là khổ tướng,
trong lạc tất nhiên là lạc tướng. Đó là chuyện
tất nhiên, tức là Thọ th́ chẳng thể thay thế.
Các vị đại thánh, bậc trí, và bậc
thiện xảo dạo chơi tự tại trong các khổ
và lạc, diệu dụng ở chỗ này. Phàm nhân sẽ
trầm luân ở nơi đây chẳng
nghi, chẳng thể tự thoát ra được, như thế
mà thôi!
(Kinh) Đoạn diệt chúng sanh cửu chủng
năo xứ.
(經)斷滅衆生九種惱處。
(Kinh: Đoạn
diệt chín chỗ năo hại cho chúng sanh).
Chín chỗ khổ năo là nhân duyên trong quá khứ
của đức Thế Tôn. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật
do nương vào sự nhiếp thọ của năm trăm
lời nguyện, mới có thể thành Phật trong đời
ác ngũ trược này, nhưng vẫn thị hiện chín
loại năo hại.
1) Sáu năm khổ hạnh: Đức Thế
Tôn bỏ trời Đâu Suất, giáng sanh trong vương
cung, bỏ ngôi vị xuất gia, sáu năm khổ hạnh.
Sáu năm khổ hạnh thật sự là khổ sở; đó
là sự khổ năo thứ nhất. V́ sao có sự khổ năo
này? Đức Phật nói: “Xưa kia, có hai thiếu niên, một
người tên là Hỏa Man thuộc gịng Bà La Môn. Người
kia tên là Hộ Hỷ, là con của thợ ngơa, tức con
trai của thợ nề. Hộ Hỷ rủ Hỏa Man cùng
đến gặp Ca Diếp Như Lai. Chúng ta đều biết
Ca Diếp Như Lai (Kāśyapa) là đức Thế
Tôn thứ ba trong Hiền Kiếp. Bốn vị Phật trong
Hiền lần lượt là Câu Lưu Tôn (Krakucchaṃda), Câu Na
Hàm Mâu Ni (Kanakamuni), Ca Diếp, và Thích
Ca Văn (Shakyamuni, Thích Ca
Mâu Ni Phật). Khi Ca Diếp Phật xuất thế, con người
thọ hai vạn tuổi. “Hỏa Man viết: - Hà dụng
kiến thử thốc đầu đạo nhân? Hộ Hỷ
cưỡng chi tái tam,
thỉ cộng kiến Ca Diếp Như Lai. Hỏa Man kiến
Phật tướng hảo, tâm sanh hoan hỷ, xuất gia học
đạo. Phật ngôn: - Thời
Hỏa Man giả ngă thân thị. Dĩ báng Phật nhân duyên,
thọ khổ vô lượng. Kim lâm thành Phật, dư ương
vị tận, phục thọ lục niên khổ hạnh” (Hỏa
Man nói: “Đến gặp đạo nhân trọc đầu
ấy để làm ǵ?” Hộ Hỷ cưỡng ép đôi
ba lượt, [Hỏa Man] mới cùng [Hộ Hỷ] đến
gặp Ca Diếp Như Lai. Hỏa Man thấy tướng
hảo của Phật, tâm sanh hoan hỷ, xuất gia học
đạo. Đức Phật nói: “Hỏa Man khi ấy chính
là thân ta. Do nhân duyên báng Phật, chịu khổ vô lượng.
Nay sắp thành Phật, dư ương chưa hết, lại
chịu sáu năm khổ hạnh”). Đó là nguyên do của sáu
năm khổ hạnh, là điều khổ năo thứ nhất.
Đức Thế Tôn tu hành, muốn khiến
cho tất cả các Phật tử hữu duyên miễn trừ
chín điều khổ năo. Hiện thời có các hữu t́nh
nói: “Thích Ca
Mâu Ni Phật hứng chịu bao nhiêu khổ sở, chúng ta cũng
hứng chịu bao nhiêu khổ sở!” Đấy chẳng phải là nguyện lực xuất
thế của Thích Ca Mâu Ni Phật, mà cũng chẳng phải
là công đức xuất thế thực tế của Thích
Ca Mâu Ni Phật. V́ sao? Nêu một tỷ dụ dễ hiểu.
Ví như cha mẹ trong thế gian sanh nở con cái, muốn
cho đứa con của chính ḿnh tránh khỏi những nỗi
khổ mà chính ḿnh đă hứng chịu, bèn siêng năng, nhọc nhằn làm việc,
kiến lập gia nghiệp. Chư Phật Như Lai cũng
giống như thế, coi hết thảy hữu t́nh hữu
duyên như con một, dùng tất cả phước đức,
công đức, nhân duyên của chính ḿnh để nhiếp
thọ, thủ hộ đứa con một ấy, khiến
cho nó ĺa khỏi nỗi khổ ấy. Do đó, chư Phật
Như Lai v́ diệt trừ hết
thảy khổ năo cho chúng sanh nên xuất thế, tức là [diệt trừ] khổ
năo luân hồi, khổ năo “sanh, lăo, bệnh, tử”, khổ
năo v́ Phần Đoạn Tử và Biến Dịch Tử, để
rốt cuộc tiến nhập A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề. Hỏa Man do một lời báng bổ
Ca Diếp Phật mà chịu vất vả sáu năm. Đức Phật Thích Ca nói ra
duyên khởi ấy, đúng là muốn khiến cho các
hữu t́nh hữu duyên tránh khỏi nỗi khổ sáu năm
ấy.
Tôi tới một tùng lâm, có người bảo
tôi: “Thế Tôn làm gương cho chúng ta để chúng ta khổ
tu”. Tôi đáp: “Đức Thế Tôn bố thí giải thoát cho
chúng ta, bố thí Giới, Định, Huệ, bố thí trí
huệ và từ
bi để chúng ta xa ĺa khổ năo”. Rốt cuộc giáo ngôn
ấy có phải là như thế hay không? Chúng ta hăy xem sự
liên tục trong giáo ngôn của đức Thế Tôn, sẽ
thấy: Thật ra, sáu năm khổ hạnh chính là do đức
Phật phương tiện thị hiện, chẳng phải
là Ngài thật sự thọ báo. Tuy là như thế, khó tránh
khỏi báo ấy, nhưng các vị đại Bồ Tát do
nương vào công đức rất sâu bèn thấy đức
Phật nhập định suốt sáu năm, chẳng có chuyện
khổ. Thích Ca Mâu Ni Phật đă thành Phật từ bao kiếp
lâu xa, đă ở trong thế gian này tám ngàn lần, qua lại
thế gian này độ thoát hữu t́nh hữu duyên, độ
thoát hữu t́nh có phước đức nhân duyên chín muồi.
Nếu [hữu t́nh nào] phước đức nhân duyên chưa
chín muồi, đức Thế Tôn chẳng thể độ
thoát, chỉ tạo các thứ phương tiện gia tŕ cho tới thành thục thiện căn.
2) Hai là dâm nữ Tôn Đà Lợi (Sundarī)
báng Phật. Đây là loại khổ năo thứ hai. Đức
Phật nói: “Xưa kia có người cờ bạc tên là Tịnh
Nhăn, có dâm nữ tên là Lộc Tướng. Tịnh Nhăn dụ
Lộc Tướng ra ngoài thành vui chơi. Khi đó, có vị
Bích Chi Phật tu đạo trong rừng. Tịnh Nhăn giết
chết Lộc Tướng, vu cáo Bích Chi Phật, đến
nỗi Bích Chi Phật [bị bắt và bị tra khảo] gần
chết. Sau đó, lương tâm của Tịnh Nhăn nổi
dậy, liền tự nhận tội. Quốc vương
giết chết Tịnh Nhăn. Đức Phật nói: “Tịnh
Nhăn khi ấy chính là thân ta, c̣n Lộc Tướng là Tôn Đà
Lợi. Ta do nhân duyên ấy, chịu vô lượng khổ.
Nay tuy thành Phật, do dư ương ấy, vẫn bị
kẻ nữ phỉ báng”. Đó là nói do từ vô lượng
kiếp tới nay, do giết Lộc Tướng và vu báng Bích
Chi Phật, do hai pháp ấy mà chịu vô lượng khổ.
Khi đă thành Phật, vẫn thị hiện hứng chịu
dư ương “bị nữ nhân phỉ báng”. Chư Phật
Như Lai do mười tám pháp Bất Cộng, biết hết
thảy chuyện quá khứ, vị lai, thấu suốt triệt
để. Do vậy, trong Tam Minh và Tứ Trí có Lậu Tận
Minh, Thiên Nhăn Minh, Túc Mạng Minh, có thể biết thấu đáo
hết thảy, nh́n thấy hết thảy rốt ráo chẳng
chướng ngại.
3) Bị cái giáo bằng gỗ đâm vào chân.
Đức Phật nói: - Xưa kia có hai người thủ
lănh các lái buôn vào trong biển thu nhặt chất báu. Về
sau, do nước lụt, tranh giành thuyền, chiến đấu
với nhau. Người thủ lănh thứ hai cầm mâu đâm
người thứ nhất bị thương, người
ấy liền mạng chung. Đức Phật bảo: Người
thủ lănh lái buôn thứ hai khi đó chính là thân ta, c̣n người
thủ lănh lái buôn thứ nhất là Đề Bà Đạt
Đa. Do nhân duyên ấy, hứng chịu các khổ báo. Nay tuy
được thành Phật, nhưng do tàn duyên ấy, vẫn
bị cái giáo gỗ đâm vào chân”. Đấy là nhân duyên khiến
cho đức Thế Tôn bị thương ở chân tại
núi Linh Thứu (Gṛdhrakūṭa, núi Kỳ Xà Quật). Chúng
ta đều biết Thích Ca Mâu Ni Phật chứng đắc
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề trong thế
giới Sa Bà, tuy thị hiện ứng hóa thân, vẫn đạt
được sức vô ngại, v́ cớ ǵ mà hứng chịu
sự suy năo này? Thật ra là khiến cho dư ương hiển
nhiên trong thế gian, ngơ hầu chúng sanh được thấy, được
nghe, cho đến biết chư Phật cũng có nhân quả
tiếp nối. Do đó, có thể yêu mến Tu Đức,
xa ĺa nỗi kiêu mạn tầm thường. Nếu không, hết
thảy phàm phu hữu t́nh sẽ đều chửi bới
Như Lai: “Chư Phật Như Lai các ông là kẻ hóa hiện,
là người biến hóa, chẳng phải là người
thật sự, không cha, không mẹ”. Do vậy, họ sẽ đọa
địa ngục, oan uổng hứng chịu nỗi khổ
ấy, chẳng có cơ hội thân cận [Phật]!
Đấy là điều khổ năo thứ
ba trong chín loại khổ năo. V́ sao ở đây nói tới chín
điều khổ năo ấy? Đoạn chín điều khổ
năo cho chúng ta chính là nhân duyên xuất thế của đức
Phật Thích Ca. Nếu chẳng như vậy, đức
Phật Thích Ca xuất thế đúng là chẳng từ bi, đúng
là chẳng có trí huệ. Nếu là bậc có trí, biết nghiệp
của chúng sanh từ vô thỉ tới nay, tuy có đủ
loại khổ nghiệp, nhưng nương theo sự hồi
thí của pháp tánh thanh tịnh, sẽ khiến cho chúng sanh
trông thấy, trực tiếp thoát khỏi sự xâm hại
của nghiệp lực. Như thế là cái tâm có trí huệ.
Khiến cho chúng sanh chẳng hề lặp lại nỗi
khổ hứng chịu nghiệp báo; điều đó được
gọi là “bi tâm”. Nếu
chẳng trọn đủ hai pháp Bi và Trí, Phật sẽ chẳng
thể gọi là Phật. Chúng ta chớ nên dùng tâm trí của
chính ḿnh để suy lường Phật. Nếu Phật có
thể suy lường được, sẽ chẳng gọi
là Phật nữa!
4)
Ba tháng ăn lúa mạch dành cho ngựa. Đức Phật nói:
Xưa kia trong thời Tỷ Bà Diệp Như Lai cùng với
các tỳ-kheo nhóm họp tại thành Bàn Đầu Ma Bạt.
Vua Bàn Đầu cúng dường to lớn. Khi ấy, trong
thành có Bà La Môn dẫn dắt năm trăm đứa bé
trai, thấy Phật ứng cúng, dấy ḷng ghen tỵ, nói: “Bọn
sa-môn trọc đầu đáng phải nên ăn lúa mạch
dành cho ngựa, chẳng nên ăn các món ngon lành”. Bà La Môn thuở
đó chính là thân ta. Năm trăm đứa bé trai tức là
năm trăm vị
La Hán. Do nhân duyên ấy, chịu các khổ báo. Nay tuy đă
thành Phật, do tàn duyên ấy, trong ba tháng An Cư, chẳng
được cúng dường, chỉ ăn lúa mạch dành
cho ngựa”. Bà Diệp Như Lai chẳng phải là vị Như
Lai trong Hiền Kiếp, mà là vị Thế Tôn cuối cùng
trong Trang Nghiêm Kiếp. Thích Ca Thế Tôn có quả báo ba tháng
ăn lúa mạch dành cho ngựa là v́ có quốc vương
nói: “Bạch Thế Tôn! Con sẽ dâng thực phẩm cúng
dường trong ba tháng An Cư mùa Hạ”. Đức Thế
Tôn im lặng [chấp thuận lời thỉnh]. Nhà vua ấy
biết đức Thế Tôn đă đáp ứng tiếp
nhận cúng dường trong ba tháng. Sau khi về cung, quên bẵng
lời hứa ấy. Do đă chấp thuận [được
nhà vua] cúng dường trong ba tháng ấy, [Tăng đoàn] chẳng
có nhân duyên ứng cúng khác. Có kẻ lái buôn ngựa thấy đức
Thế Tôn chẳng có ai cúng dường, bèn dùng
lúa mạch dành cho ngựa ăn dâng cúng. Ngài A Nan sanh nghi, nói:
“Đức Thế Tôn đă có thể thành thục, có thể
thành tựu, có thể an trụ A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề. V́ cớ ǵ lại chẳng có phước
đức viên măn?” Đức Thế Tôn bảo: “Đến
đây!” Ngài A Nan bèn tiến đến. Đức Thế
Tôn bảo: “Hăy lấy lúa mạch dành cho ngựa ăn”. Ngài
A Nan liền bỏ lúa mạch dành cho ngựa ăn vào bát của
đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn bảo A Nan ăn.
A Nan liền ăn, suốt một tháng chẳng biết đói
khát, giống như uống cam lộ. Đấy thật sự
là công đức bí mật của chư Phật Như Lai.
Do đó, ba tháng ăn lúa mạch dành cho ngựa,
tuy là tướng khổ báo, nhưng thật ra là để
khiến cho chúng sanh tăng thêm hiểu biết. Nếu chẳng
hiểu biết, hữu t́nh trong thế gian sẽ cho rằng
chẳng có nhân quả, mê mất cái tâm nhân quả, cho rằng
chẳng có tự tánh, xằng bậy sanh Đoạn Diệt
Kiến, hủy diệt pháp tắc thế gian, nẩy sanh đại
tà kiến, chịu khổ luân hồi. V́ tránh cho chúng sanh nẩy
sanh tà kiến, cho nên đức Thế Tôn vẫn giữ dư
tập, dư báo, để khiến cho chúng sanh được trụ
trong an lạc. Chúng ta thấy đức Thế Tôn c̣n có báo,
tâm được an ổn. Quư vị đừng cho đó
là hư giả. Nếu đức Thế Tôn chẳng thọ
báo, quư vị sẽ chẳng có duyên để nắm níu, chẳng
có pháp để thâu nhiếp, chẳng có ǵ để trao đổi,
cho nên chín thứ khổ năo này thật sự là do đức
Phật đại bi trí huệ, thuận theo căn cơ mà
thị hiện.
5) Vua Lưu Ly (Virūḍhaka)[8] sát hạt
gịng họ Thích Ca. Đức Phật nói: Xưa kia, tại thành
La Duyệt (Rājagṛiha,
Vương Xá), có thôn đánh cá. Nhằm
lúc đói kém, trong thôn có cái ao nhiều cá, mọi người
đều bắt cá ăn. Trong
ao, có hai con
cá [thủ lănh], một tên là Phu, hai tên là Đa Thiệt, đều
ôm ḷng báo oán. Khi đó, có một đứa trẻ ở trên
bờ, thấy cá nhảy lên, bèn dùng gậy đập đầu
cá. Người ở La Duyệt thuở ấy nay là những
người họ Thích. Con cá tên Phu nay là vua Lưu Ly. Cá Đa
Thiệt nay là Phạm Chí Háo Khổ (ông ta xúi vua Lưu Ly giết
gịng họ Thích Ca). Đứa nhỏ là thân ta. Do nhân duyên ấy,
vua Lưu Ly giết họ Thích Ca, ta bị đau đầu.
Đức Thế Tôn đập đầu cá ba lượt,
về sau bị đau đầu ba ngày. Vua Lưu Ly diệt
gịng họ Thích Ca, đức Thế Tôn ngăn trở ba lần
chẳng được. Đấy là chỗ khổ năo thứ
năm. Chúng ta đừng cho rằng thật sự có quả
báo này. Nếu đức Thế Tôn chẳng thị hiện
như thế, dùng đại oai đức che chở gịng
họ Thích Ca, khiến cho nhân quả ấy chẳng tiếp
nối, tuy ai nấy đều được thoát ĺa, nhưng
Phật pháp sẽ bị diệt mất trong thế gian! Do
vậy, tuy ngài Đại Mục Kiền Liên chẳng nỡ
ḷng thấy tộc Thích Ca nhất thời bị diệt chủng,
bèn chứa năm trăm người thuộc họ Thích
Ca trong bát, ngơ hầu
vua Lưu Ly chẳng thể sát hại họ. Sau khi vua Lưu
Ly tàn sát thành tŕ, ngài Mục Kiền Liên đổ những người
ấy từ bát ra. Kết quả là họ đều hóa thành
máu loăng! V́ sao nhân quả tiếp nối như thế? Muốn
cho hữu t́nh chưa thoát khỏi đối đăi, sẽ sanh tri
kiến quyết định. Tri kiến quyết định
ấy hoàn toàn chẳng phải là nhân quả quyết định,
mà là “tin sâu nhân quả, chẳng lầm lạc nhân quả”.
Chẳng lầm lạc nhân quả, tiến hướng pháp
tánh, trực tiếp thoát khỏi sanh tử. Nhưng nếu
chẳng tin nhân quả, chúng sanh sẽ sanh tử không nơi
nương tựa! Thậm chí thuyết pháp cũng chẳng
có chỗ y cứ. Do vậy, đấy là mấu chốt
trong việc diệt trừ chín điều khổ năo.
6) Khất thực, bát trống rỗng: Đức
Phật từng vào làng xóm Bà La Môn khất thực mà chẳng
được ǵ, ôm bát rỗng trở về. Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn đi khất thực trong một thôn
xóm Bà La Môn. Một ngày, hai ngày, ba ngày chẳng xin được
thức ăn, ôm bát rỗng trở về. Có một tỳ-kheo
tự bán cái bát, nói: “Đức Thế Tôn là đấng Nhất
Thiết Trí, do lẽ nào mà chẳng có thức ăn? Tôi thà
nguyện bán y bát để đổi lấy thức ăn, khiến cho đức
Thế Tôn chẳng bị suy yếu, khổ năo v́ thức ăn!”
Do đó, thầy ấy dâng một bát cơm cúng dường
đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nói: “Này tỳ-kheo!
Ta chẳng tiêu nổi thức ăn này. Thầy hăy nên cúng dường
thức ăn này lên cha mẹ thầy. V́ sao? Do cha mẹ
sanh dưỡng thân thầy”. Vị tỳ-kheo ấy nói: “Đức
Thế Tôn là đấng Nhất Thiết Trí, là đấng thủ
hộ hết thảy các công đức, là tṛng mắt của
trời, người,
là đạo sư của trời, người, đầy đủ hết thảy các phước
đức, lẽ nào chẳng thể tiêu nổi thức ăn
này?” Đức Thế Tôn bảo: “Ta thúc đẩy
sự sanh thành Pháp Thân
huệ mạng của hết thảy chúng sanh, chẳng xuất sanh sắc
thân của thầy như thế. Cho nên hăy nên dâng cúng cha mẹ.
Nếu sau khi đă khiến cho cha mẹ thầy thọ Tam
Quy th́ có thể dùng thức ăn này”. Đấy là nỗi
khổ năo ba ngày bát rỗng không của đức Thế
Tôn. Các tỳ-kheo chúng ta trong hiện thời, trong nhân duyên
thông thường, sẽ chẳng bị cái ăn bức bách.
Đức Thế Tôn sức trí đức đă viên măn, là đạo
sư của trời người, là tṛng mắt của thế
gian, là đấng đáng được trời người
cúng dường, v́ sao có ba ngày bát rỗng như thế? Thật
ra, chẳng phải là như thế. Ngài thật sự v́ muốn
khiến cho hữu t́nh thật sự trông thấy nhân quả
có tác dụng tiếp nối như thế, cho nên dùng phương
tiện để chỉ dạy.
7) Cô Chiên Trà (Ciñca Mānavika)[9] báng Phật.
Khi đức Phật đang thuyết pháp cho đại
chúng, có Đa Thiệt đồng nữ buộc cái bát vào bụng,
báng Phật rằng: “Sa-môn v́ sao chẳng nói đến chuyện
nhà, mà cứ nói chuyện khác? Ông trước đă ăn nằm
với ta, nay cần phải lo liệu bơ, dầu để
nuôi con thơ chứ!” Đức Phật tự thuật
chuyện bổn sanh như sau: Xưa kia có đức Phật
tên là Tận Thắng. Có hai tỳ-kheo, một vị tên là Vô
Thắng, vị kia tên là Thường Hoan. Khi ấy, tại
thành Ba La Nại có vợ của ông trưởng giả Đại
Ái tên là Thiện Huyễn. Hai tỳ-kheo cùng đến nhà ông
ta để nhận cúng dường. Tỳ-kheo Vô Thắng
do đă đoạn hữu lậu, cho nên được cúng
dường chẳng thiếu khuyết. Tỳ-kheo Thường
Hoan chưa đoạn kết sử, cúng dường có thiếu
sót. Thường Hoan dấy ḷng ganh tỵ, vu báng Vô Thắng
lẹo tẹo với Thiện Huyễn. Thường Hoan
khi đó là thân ta, c̣n bà Thiện Huyễn nay là Chiên Trà. Do nhân
duyên ấy, chịu các khổ báo. Do dư ương ấy,
bị đồng nữ phỉ báng”.
8) Điều Đạt (Đề Bà Đạt
Đa) đẩy đá. Đức Phật nói: Xưa kia tại
thành La Duyệt, có trưởng giả tên Tu Đàn, có con tên
là Tu Ma Đề. Sau khi cha chết, Tu Ma Đề có đứa
em cùng cha khác mẹ tên là Tu Da Xá. Tu Ma Đề sợ phải
chia tài sản cho em, lừa em lên núi Kỳ Xà Quật, đẩy
cho rơi xuống vách đá, lấy đá phang chết. Trưởng
giả Tu Đàn [hiện thời] là phụ vương ta. Tu
Ma Đề là thân ta. Tu Da Xá là Đề Bà Đạt
Đa. Do tàn duyên ấy, Đề Bà Đạt Đa dùng đá
gieo xuống đầu ta, sơn thần dùng tay đón lấy
đá, có mảnh đá nhỏ làm ngón chân ta bị thương”.
9) Gió lạnh đắp y. Đức Thế
Tôn ở trong rừng A La Bà Già, đêm lạnh, từng phải
đắp ba y chống lạnh. Đối với tỳ-kheo
th́ dùng cái y nào để chống lạnh? Đầu đêm
th́ dùng y năm điều sẽ có thể chống lạnh.
Giữa đêm dùng y bảy điều. Cuối đêm có cảm
giác rét mướt th́ dùng đại y (y tăng-già-lê). Ba loại
y để chống lạnh. Do vậy, đức Thế
Tôn nói ba y của tỳ-kheo đủ để tránh giá lạnh,
đủ để hành đạo. Cho nên hành tŕ pháp “ba y, một bát”.
Chín chỗ khổ năo ấy là sở chứng
của đức Thế Tôn, do nhân quả hiển hiện,
tức là tướng
nhân quả hiển hiện sau khi chứng đắc Bồ
Đề. Nếu phàm phu hữu t́nh chúng ta chẳng tin nhân
quả, sẽ chẳng thể siêng
năng hành các pháp. Như đối với pháp Ban Châu, sẽ
nói “biết đạo
lư là được rồi, chẳng thể hành tŕ”, nhưng nhân
quả chẳng sai mảy may. Do đó, chúng ta thường
hành một đạo, tâm niệm chư Phật, đích thân
chứng Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện
Tiền tam-muội, được nghe chư Phật dạy
bảo, hiện tiền sẽ chẳng
thoái chuyển đối với Vô Thượng Bồ
Đề. V́ sao? Do đích thân thấy tự tánh, chọn lựa
pháp tắc, do thấy Phật ngộ Vô Sanh, do được
Phật đích thân thọ kư.
(Kinh) Tâm thường bất ly cửu tưởng
quán môn.
(經)心常不離九想觀門。
(Kinh: Tâm
thường chẳng ĺa Cửu Tưởng Quán Môn).
Cửu Tưởng chính là một thứ thiện
xảo trong pháp tu của tỳ-kheo, là một loại thiện
xảo để quán Bất Tịnh, muốn trừ cái tâm
tham dục của hết thảy chúng sanh, tiêu trừ các nghiệp.
Nghiệp ǵ vậy? Nghiệp đắm nhiễm, nghiệp
tham dục. V́ tham dục mà sanh ra hai nghiệp sân và ngu. Trong
Cửu Tưởng, một là tưởng trương phềnh,
hai là tưởng xanh bầm, ba là tưởng hư nát, bốn
là tưởng máu tóe tràn lan, năm là tưởng rữa nát,
sáu là tưởng gịi trùng đục khoét, bảy là tưởng
tan nát, tám là tưởng [thịt đă rữa hết, chỉ c̣n] xương,
chín là tưởng bị đốt cháy. Đấy là chín
loại phép quán bất tịnh, người xuất gia
trong Phật giáo Nam Truyền tất nhiên sẽ tu pháp như
thế. Các hành giả Du Già tại Tây Tạng cho đến
các hành giả thật sự, phần nhiều tu pháp này ở chỗ rét mướt
để cái tâm xuất ly có thể thật sự thành tựu,
nhưng Tăng nhân nơi
đất Hán ít hành tŕ pháp này, hư vọng xưng là Đại
Thừa, ai nấy
đều trưng ra giáo ngôn Đại Thừa, nhưng trong tâm
chẳng có sự
thiện xảo của Đại Thừa. Lợi ích
trong Thanh Văn Thừa c̣n chưa
thể đạt được, hư giả lập bày Đại Thừa. Đấy chính là biểu hiện
của nghiệp tướng phần
nào rỗng tuếch nơi đất Hán!
(Kinh) Thường tư khí quyên bát chủng
giải đăi.
(經)常思棄捐八種懈怠。
(Kinh: Thường
nghĩ vứt bỏ tám thứ giải đăi).
Trong Phật pháp có Bát Chánh Đạo, tức
Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh
Mạng, Chánh Niệm, Chánh Định, Chánh Trí. Có thể nói
Bát Chánh Đạo là một pháp siêng ṛng. Chẳng thủ hộ
pháp này, tức là chẳng
thích tu tŕ Bát Chánh Đạo, sẽ sanh ra tám thứ giải
đăi.
(Kinh) Nhất tâm tu tập bát đại
nhân giác.
(經)一心修習八大人覺。
(Kinh: Nhất
tâm tu tập tám điều giác ngộ của bậc đại
nhân).
Có một bản kinh là kinh Bát Đại Nhân
Giác, kinh rất ngắn. Tám điều giác ngộ của bậc
đại nhân: Một là thiểu dục, hai là biết đủ,
ba là xa ĺa, bốn là tinh tấn, năm là chánh ức niệm,
sáu là định tâm, bảy là trí huệ, tám là chẳng hư
luận. Thiểu dục và tri túc có ǵ khác biệt?
V́ sao nói như thế? Người thiểu dục tự
có pháp dụng thiểu dục, người tri túc tự có
pháp dụng tri túc. Thường là bọn phàm phu hữu t́nh
chúng ta do có phiền năo thô trọng, Kiến Tư Hoặc
thô trọng nhiễu loạn, phần nhiều chẳng biết
chỗ vi tế! Nói theo chỗ vi tế th́ là sự giác ngộ
của bậc đại nhân, là sự giác ngộ của người
trí, Bồ Tát phải nên thủ hộ, phàm phu thường
mê mất ở chỗ này!
(Kinh) Bất trước Thiền vị.
(經)不著禪味。
(Kinh: Chẳng
chấp trước Thiền vị).
Nếu là người có các Thiền Định
thiện xảo, chớ nên đắm chấp Thiền vị.
Trong thực tế, pháp vị dễ khiến người hành
tŕ mê đắm nhất. Trong giáo ngôn của đức Thế
Tôn, theo các kinh điển ghi chép, v́ điều này mà các tỳ-kheo
đọa lạc trong sự vui sướng,
hoan lạc của thế tục rất nhiều. Cận đại,
có một câu chuyện rằng có một sa-di theo Nam Truyền.
Vị sa-di ấy có thần thông thiện xảo rộng lớn,
do Thiền Định mà đạt được. Về
sau, do nhiễm đắm mà đọa lạc vào thế tục,
thậm chí khi đủ tuổi bèn xả giới hoàn tục.
Vị sa-di ấy đại khái là người Thái Lan, rất
nổi tiếng. Sức thần thông của ông ta to cỡ
nào? Có lần, sư phụ của ông ta nói: “Ngày mai là thánh đản
của đức Thế Tôn, chúng ta nên cúng dường”. Ông
ta bèn dùng sức thần thông đến một hang núi bên Ấn
Độ hái rất nhiều hoa, khiến cho đạo tràng
khắp nơi tràn ngập các lẵng hoa. Sức thần thông rất lớn, tự tại
trong không gian. Sư phụ chẳng có thần thông, nhưng
tin sâu nhân quả, có sức quan sát rất khéo léo. Ḥa thượng
nói: “Sa-di ơi! Chỉ thủ hộ tự tâm, đừng
đắm nhiễm Thiền vị”. Ông ta chẳng nghe lời
thầy dạy, đại khái là vào lúc hai mươi tuổi,
v́ đắm nhiễm Thiền vị, thậm chí do sức
thần thông, tham đắm đủ loại vui sướng
Tự
Thọ Dụng, có cái tâm đắm nhiễm.
Trong sát-na tâm đắm nhiễm sanh khởi, nghiệp duyên
Dị Thục Quả chín muồi,
người nữ hữu duyên trong đời trước
bèn xuất hiện trước mặt ông ta, thoáng đến,
thoáng đi, ông ta chẳng thể kiềm chế chính ḿnh bèn
xả giới hoàn tục. Đấy là một câu chuyện
rất nổi tiếng!
(Kinh) Bất thị đa văn.
(經)不恃多聞。
(Kinh: Chẳng
cậy đa văn).
Có nhiều kẻ kiêu mạn, do tu hành mà kiêu
mạn, do đa văn mà kiêu mạn, do có các thứ thiện
xảo mà kiêu mạn, lừa dối tự tâm, khinh rẻ người
khác.
(Kinh) Tồi phục ngă mạn.
(經)摧伏我慢。
(Kinh: Dẹp
tan ngă mạn).
Có kẻ do đa văn mà sanh tâm kiêu mạn,
có người do tu hành nhiều mà sanh tâm
kiêu mạn, có kẻ do có nhiều tài sản mà sanh tâm kiêu mạn,
có kẻ do có quyền thế mà sanh tâm kiêu mạn. Do có chủng
tánh ngă mạn, cho nên phải đập tan ngă mạn.
(Kinh) Nhất tâm thính thọ, cầu pháp
ân trọng, tu đạo chứng tri, lân mẫn chúng sanh, ly
ngă phân biệt, cầu thọ mạng tưởng, tất
cánh nan đắc.
(經)一心聽受。求法殷重,修道證知。憐愍衆生。離我分別。求壽命想。畢竟難得。
(Kinh: Nhất
tâm nghe nhận, ân cần, trân trọng cầu pháp, tu đạo
chứng biết, thương xót chúng sanh, ĺa sự phân biệt
v́ chấp ngă, có ư tưởng mong cầu thọ mạng, rốt
cuộc khó được).
Thọ mạng khó được v́ vô thường,
vô ngă. Trong kiến địa quy y, vô thường, vô ngă, khổ,
không là các pháp ắt phải tu, mà cũng là các pháp ắt phải
hành đối với hết thảy mọi người trong
Phật pháp. Ấn khế tự tâm như thế th́ là Tam Quy Y, mà cũng là
kiến địa quy y, hoặc nói là trí địa quy y, giải
địa quy y, thuận địa quy y. Sự quy y ấy
là bất hoại quy y. Danh tự quy y là như cầm lấy
một tờ điệp quy y chi đó. Ta xuất gia làm sa-môn
v.v… th́ có phải là quy y hay không? Nếu chẳng dùng bốn
pháp ấn[10] để
ấn khế tự tâm, chẳng thể coi là quy y. Do đó
nói: Trong kiến địa, phải nên quy y. “Cầu thọ
mạng tưởng, tất cánh nan đắc” (tưởng
cầu thọ mạng, rốt ráo khó được). Điều
này rất quan trọng, do chúng ta
phần nhiều v́ trường thọ, hy vọng sống
lâu, cứ ngỡ sắc
thân bất hoại, hoặc muốn cho sắc thân này bất
hoại, nào có biết hết thảy chúng sanh chẳng ai tránh
khỏi sanh, lăo, bệnh, tử; rất công bằng!
(Kinh) Quán sát chư Ấm, vô hữu vật
tưởng, bất trụ Niết Bàn, bất trước
sanh tử.
(經)觀察諸陰。無有物想。不住涅槃。不著生死。
(Kinh: Quán
sát các Ấm, chẳng có ư tưởng là “có sự vật”, chẳng trụ
trong Niết Bàn, chẳng chấp sanh tử).
Chẳng trụ Niết Bàn, chẳng chấp
trước sanh tử, hành nhân Đại Thừa phải
nên thủ hộ điều này.
(Kinh) Chư hành phiền năo luân, phát đại
khủng bố tưởng.
(經)諸行煩惱輪。發大恐怖想。
(Kinh: Phát
khởi ư tưởng sợ hăi to lớn đối với
các hành phiền năo luân).
Đối với phiền năo luân, sanh sợ
hăi to lớn; đối với sanh tử luân, sanh ḷng sợ
hăi to lớn. Hiện thời, rất nhiều phàm phu hữu
t́nh, phiền năo hữu t́nh chẳng sợ phiền năo, chẳng
sợ sanh tử, đúng là kẻ lỗ măng! Khi sanh tử bức
bách, đúng là chẳng thể tự dẹp trừ được.
Lúc phiền năo bức bách, quả thật không thể xuất
ly. Do vậy, trong lúc b́nh thời, trọn đủ các nhân
duyên, hăy nên đoạn phiền năo, trừ sanh tử. Đó
là nhiệm vụ trọng yếu, tức nhiệm vụ
trọng yếu của hết thảy người học
Phật. Quư vị nói: “Tôi cầu phước báo nhân thiên,
chuyện ấy chẳng trở thành nhiệm vụ trọng
yếu!” Nhưng chúng ta là người học Phật th́ phải
khéo chọn lựa lợi ích trong Phật pháp.
(Kinh) Chư Ấm oán gia tưởng.
(經)諸陰怨家想。
(Kinh: Tưởng
các Ấm như oán gia).
Ấm (陰), dịch
theo lối cũ (cách phiên dịch trước thời ngài
Huyền Trang) là Ấm, dịch theo lối mới là Uẩn
(蘊). Nói “Ngũ
Uẩn giai Không” (năm uẩn đều là không), bao gồm
Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức [đều là Không]. “Chư
Ấm oán gia tưởng” tức là tưởng Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều là oán gia. Hết
thảy phàm phu không ai chẳng mê muội
trong ấy. Đối với các Ấm hay các Uẩn, đều
chẳng thể tự kiềm chế được!
(Kinh) Chư Nhập không trạch tưởng,
chư Giới độc xà tưởng.
(經)諸入空宅想。諸界毒蛇想。
(Kinh: Tưởng các Nhập như
nhà trống, tưởng các Giới như rắn độc).
“Chư giới”: Giới là ǵ? Nếu
thuộc vào một địa vị mà cho đó là thật,
th́ sẽ có giới (giới hạn). Giới bao gồm mười
tám giới, tức là sáu căn, sáu trần, sáu thức diễn
bày, huyễn hóa thành mười tám giới. Hăy nên coi mười
tám giới như rắn độc, đừng nên đắm
chấp!
(Kinh) Tam giới suy năo tưởng.
(經)三界衰惱想。
(Kinh: Tưởng tam giới là suy bại,
khổ năo).
Có hữu t́nh nói: “Ta chẳng trụ trong Dục
Giới”, tức là nói phải dùng Sơ Thiền, Nhị
Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, cho đến Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng để nhập Vô Sắc Giới. Trong
thế gian có cách tu tập như thế. Tôi đă gặp một
số pháp môn [tuyên truyền] kết ấn chi đó, niệm
một chân ngôn đặc biệt chi đó, vào Mạn Đà
La thọ quán đảnh, sẽ rất nhanh chóng tiến nhập
cái được gọi là “Thiền Định thiện
xảo”, thậm chí nói là sẽ đạt được
đại phương tiện. Đối với những
điều ấy, chớ nên chấp trước. Hễ
chấp trước, vẫn bị tam giới suy bại,
khổ năo bức bách y hệt. Chúng ta ở trong Dục Giới,
c̣n chưa thoát ĺa
thiện ác, vẫn c̣n nhiễm thị phi, cho nên chẳng thể đắc Thiền Định, cũng có nghĩa là
chưa thể tiến nhập Sắc Giới! V́ Sắc Giới
là nương vào các tầng trời Thiền Định mà
kiến lập. Các loài hữu t́nh thiện ác, các loài hữu
t́nh tŕ giới hay phạm giới
sẽ chẳng thể nhập. Hữu t́nh chấp trước
thị phi, tâm sanh phân biệt, khó thể nhập được!
Hiện thời, có rất nhiều người học Phật,
đối với Thiền thiên (các tầng
trời thuộc Tứ Thiền Thiên) c̣n chẳng
ưa thích, đắm nhiễm thị phi, chấp trước
đối đăi, cho
nên chẳng đắc Thiền Định. Do đó,
người tu pháp trong hiện thời khá đáng thương,
khá khổ sở, khá hẹp ḥi!
(Kinh) Niết Bàn lợi an tưởng.
(經)涅槃利安想。
(Kinh: Tưởng Niết Bàn là lợi
ích, an ổn).
Chư Phật Như Lai đích thân chứng
các thứ thiện xảo. Trong các thứ thiện xảo ấy,
giải thoát, trí huệ, và Niết Bàn là ba pháp tồn tại
theo thế chân vạc. “Thế chân vạc” là ǵ? Chính là
toàn thể Phật pháp. Nếu thiếu một pháp [trong ba
pháp trên đây], sẽ là Niết Bàn của ngoại
đạo. Nếu thiếu một pháp, sẽ là trí huệ
của
ngoại đạo. Nếu thiếu một pháp, sẽ
là giải thoát của
ngoại đạo. Các thứ ngoại đạo ấy,
tức là trong chín mươi sáu loại ngoại đạo
tại Ấn Độ đều có [các pháp ấy, nhưng
chẳng đồng thời trọn đủ ba pháp]. Trọn
đủ ba pháp (trí huệ, giải thoát, và Niết Bàn) chính
là chánh hạnh của Phật pháp. Đối với ba điều
ấy, chẳng thể phế bỏ điều nào, giống
như ba chân của cái đỉnh; bỏ
một, sẽ hoàn toàn
hỏng. Do đó, trong kinh Đại Bát Niết Bàn, đức
Thế Tôn đă bảo: Giải thoát, trí huệ, Niết
Bàn, như ba chân của cái đỉnh, chống đỡ Phật
pháp.
(Kinh) Quán
chư dục ác, do như thóa thế, thâm nhạo xuất
gia, bất vi Phật giáo. Ư chúng sanh sở, khuyến hành
công đức. Ư chư thế giới, vô phục nhiễm
tâm, kiến nhất thiết Phật, giai tất hiện tiền.
(經)觀諸欲惡。猶如唾涕。深樂出家。不違佛教。於衆生所勸行功德。於諸世界。無復染心。見一切佛。皆悉現前。
(Kinh: Quán các dục ác ví như đờm
răi, rất thích xuất gia, chẳng trái lời Phật dạy.
Đối với các chúng sanh, khuyên hành công đức. Trong
các thế giới, chẳng c̣n tâm đắm nhiễm, thấy
hết thảy Phật thảy đều hiện tiền).
Đối với chuyện hành tŕ Ban Châu tam-muội,
các thứ hướng dẫn này đều quy kết về
công đức to lớn Kiến Nhất Thiết Chư Phật
Tất Giai Hiện Tiền (thấy hết thảy chư Phật
thảy đều hiện tiền) nhằm thành thục
thiện căn.
(Kinh) Thọ nhất thiết thân, giai nhược
huyễn mộng, nhất thiết chư tướng, quán sát
diệt trừ.
(經)受一切身。皆若幻夢。一切諸相。觀察滅除。
(Kinh: Thọ
hết thảy các thân đều như huyễn mộng. Quan
sát, diệt trừ hết thảy các tướng).
[Nếu thấy] các tướng chẳng phải
là tướng, sẽ thấy diệu dụng của trí huệ,
sẽ thấy diệu dụng của Như Lai. Biết hết
thảy các nghiệp đều là huyễn hóa, biết hết
thảy các thân đều là huyễn hóa, chẳng có thực
chất. Chúng ta hiện thời có phải là huyễn tướng
hay không? Do huyễn duyên như thế sanh ra huyễn tướng,
kết cục hư huyễn, chẳng có thực chất.
(Kinh) Tư duy văng lai, bất kiến tam
thế.
(經)思惟往來。不見三世。
(Kinh: Tư
duy qua lại, chẳng thấy tam thế).
Do một niệm ba đời, một niệm
chân tâm chớm nẩy, chẳng
mê mất tướng cảnh giới nơi pháp giới,
chính là “hồi quy”. Khi mê mất, Năng và Sở kiến
lập, sanh ra các thứ thế giới, các cảm giác thô nặng
đều kiến lập, tam hữu, tam giới cùng lúc sanh
khởi.
(Kinh) Ư tín thanh tịnh, thâm tín chân diệu,
niệm nhất thiết Phật, tam thế b́nh đẳng.
(經)於信清淨。深信真妙。念一切佛。三世平等。
(Kinh: Tín tâm
thanh tịnh, tin sâu lẽ chân diệu, niệm hết thảy
chư Phật, ba đời b́nh đẳng).
Quá khứ, hiện tại, vị lai, một
niệm có thể tỏ lộ. “Tam thế vi nhất niệm,
nhất niệm vi tam thế” (một niệm là ba đời,
ba đời là một niệm), chẳng cần nói cặn
kẽ, chỉ nên quan sát.
(Kinh) Vô hữu động chuyển, nhi
năng tŕ chư thiện căn, nhất thiết chư Phật
tam-muội tự tại, chung bất nhiễm trước
chư Phật tướng thân.
(經)無有動轉。而能持諸善根。一切諸佛三昧自在。終不染著諸佛相身。
(Kinh: Chẳng có động chuyển
mà có thể tŕ các thiện căn, hết thảy chư Phật
tam-muội tự tại, trọn chẳng đắm nhiễm
thân tướng của chư Phật).
V́ trong sự tu tŕ hết thảy các tam-muội, thấy các tướng
hết sức thiện xảo, hết sức an lạc. Sự
thiện xảo an lạc ấy có thể khiến cho hết
thảy chúng sanh thấy chư Phật, muốn thấy bèn
thấy. Do sức tam-muội. muốn xuất bèn xuất, [tức
là] xuất các Thiền Định. Chớ nên đắm
nhiễm chỗ này, mà cũng chớ nên hủy hoại. V́
sao? Chẳng có đến, đi, chẳng có pháp thật sự, chẳng có Thật
Tướng, do nhân duyên mà tu, tâm tịnh bèn thấy. Người
hiện thời dùng các loại thuốc gây huyễn tưởng
(hallucinogen) rất mạnh
mẽ, có kẻ đắm nhiễm Thiền vị cũng bị trúng độc
giống như dùng thuốc gây huyễn tưởng vậy.
Hễ dùng thuốc gây huyễn tưởng, tưởng ǵ
bèn thấy đó. Những người thiện xảo
trong Thiền Định tam-muội cũng giống như
thế, muốn thấy ǵ bèn thấy điều đó, do
sức Chánh Thọ, sức b́nh đẳng, sức vô ngại
cùng gia tŕ, sẽ nẩy sanh thành sự thật. Nếu đắm
nhiễm các duyên ấy, người ta sẽ trúng độc,
đọa vào niềm vui thế tục.
(Kinh) Ư nhất thiết pháp, giai tất
b́nh đẳng, bất dữ
nhất thiết thế gian cộng tránh. Sở khả ưng
tác, bất tương vi bội, thông đạt thậm thâm
Thập Nhị Nhân Duyên.
(經)於一切法皆悉平等不與一切世間共諍。所可應作。不相違背。通達甚深十二因緣。
(Kinh: Trong hết thảy các pháp thảy
đều b́nh đẳng, chẳng tranh chấp cùng hết
thảy các thế gian. Chẳng chống trái các chuyện đáng
nên làm, thông đạt rất sâu mười hai nhân duyên).
Do trong hết thảy các tam-muội, nói theo
quả th́ quả là tướng thành thục, hễ động
tâm bèn thấy. Nói theo nhân, cái nhân là siêng năng, phấn chấn
tư duy. Chẳng có nhân, sẽ chẳng
thấy quả. Khéo lập th́ nhân quả
đồng thời, thiện căn chín muồi, nhanh chóng đạt
được diệu dụng. Kẻ thiện căn mỏng
ít, nhân quả sai khác rất lớn, sức tiếp nối
sẽ kéo dài. Nói là “kéo dài” thật ra là một huyễn
giác (cảm nhận hư huyễn), thật sự chẳng
phải là thật, do huyễn hóa nối tiếp như thế,
tiếp nối liên tục như thế.
“Ư nhất thiết pháp, giai tất b́nh
đẳng, bất dữ nhất thiết thế gian cộng
tránh. Sở khả ưng tác, bất tương vi bội,
thông đạt thậm thâm thập nhị nhân duyên”
(trong hết thảy các pháp thảy đều b́nh đẳng,
chẳng tranh chấp cùng hết thảy thế gian. Chẳng
chống trái các chuyện đáng nên làm. Thông đạt rất
sâu mười hai nhân duyên): Mười hai nhân duyên được
tu tŕ rộng khắp trong Phật pháp, nhưng tại đất
Hán, chúng ta khá ít bén
mảng tới. Nhiều người cho rằng: “Đó là
pháp để riêng hàng Duyên Giác ngộ, chẳng phải dành
cho người có tâm Đại Thừa như chúng ta”. Thật
ra, đó là hiểu lầm! Nếu muốn trừ phiền
năo, ngoại trừ dùng tâm trí hiện tiền, th́ mười
hai nhân duyên rất thuận tiện. Tuy nói Nam truyền Phật
giáo là Thanh Văn Phật giáo, hoặc Tiểu Thừa Phật
giáo, nhưng họ có rất nhiều thiện xảo, chúng ta tuyệt
đối có thể suy xét để nương cậy, có
thể vận dụng, đừng nên tự xưng xằng
bậy [ta là kẻ tu học] Đại Thừa, [không cần
biết đến pháp Tiểu Thừa]. Do vậy, nếu
có nhân duyên, mọi người cần phải nên học tập
pháp Mười Hai Nhân Duyên. Nếu quư vị nói, ta hành pháp
Ban Châu, sẽ chẳng học pháp ấy, có được
hay không? Nếu nghe nhiều pháp này, chẳng đắm chấp,
chẳng sanh kiêu mạn, đa văn cũng là phương
tiện, đa văn cũng là thiện căn chín muồi!
(Kinh) Cùng tận nhất thiết Như
Lai đạo địa, đắc thắng thượng
nhẫn, nhập chân pháp giới, kiến chúng sanh giới.
(經)窮盡一切如來道地。得勝上忍。入真法界。見衆生界。
(Kinh: Cùng tận hết thảy các
địa vị thuộc đạo Như Lai, đắc
nhẫn thắng thượng, nhập pháp giới chân thật,
thấy chúng sanh giới).
“Nhập chân pháp giới, kiến chúng sanh
giới” (nhập pháp giới chân thật, thấy chúng
sanh giới). V́ lẽ
nào? Do chư Phật Như Lai nhập Pháp Giới Thể
Tánh Trí, mười pháp giới rạng ngời. Nay chúng ta
nh́n vào thế giới này, do mỗi giới cách biệt với
các giới khác, chúng ta nh́n vào thế giới của loài
người, chín giới kia sẽ mất đi. Quư vị
nói: “Ta có thể thấy súc sanh giới”, nhưng quư vị
thật sự chẳng thấy súc sanh giới, chỉ thấy
sanh mạng của súc sanh, chẳng biết tâm của súc
sanh, Cho nên nói “chẳng thấy giới ấy”. Có người
nói: “Tôi có thể biết quỷ giới, thiên giới”. Quư
vị chỉ nghe danh tự, chẳng thấy h́nh sắc của
họ. Do vậy, một pháp giới hiển, chín pháp giới
mất, mất trong điều ǵ? Mất trong vô trí. Chư
Phật Như Lai hiển lộ triệt để nơi
bốn đức (thường, lạc, ngă, tịnh) mà hết thảy chúng sanh đều cùn có, chúng ta
cũng trọn đủ trí câu sanh (trí bẩm sanh, trí sẵn có) ấy,
nơi thánh chẳng tăng, nơi phàm chẳng giảm. Pháp
giới đă có sẵn trong trí câu sanh của chúng ta, nhưng
phàm phu chẳng dùng được. “Nhập chân pháp giới,
kiến chúng sanh giới” (Vào chân pháp giới, thấy chúng
sanh giới): V́ mười pháp giới chỉ do tâm sanh. Nếu
câu sanh trí hiện tiền, sẽ có thể liễu đạt,
giác tri cái tâm ấy. Nếu không, ắt là một giới hiển,
chín giới mất. Nếu quư vị nói: “Nhập Thanh
Văn giới, có thể thấy người, trời, A Tu
La, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh”, do Thanh Văn
đă vượt thoát tam giới, có thể thấy tam giới
như huyễn, biết tam giới như huyễn, cho nên
chẳng bị xâm nhiễu. Nhập Niết Bàn, hữu dư
lẫn vô dư đồng thời tiến nhập. Người
ấy sẽ có thể ĺa bỏ thế gian, nhưng vẫn
là một pháp giới hiển lộ, chín pháp giới mất
đi.
(Kinh) Tánh vô sanh diệt, kiến Niết
Bàn giới.
(經)性無生滅。見涅槃界。
(Kinh: Tánh
chẳng sanh diệt, thấy Niết Bàn giới).
“Tánh vô sanh diệt”, nhất tâm tịch
tĩnh. Thủ hộ như thế, tịch diệt hiện
tiền.
(Kinh) Bổn lai hiện tiền, huệ
nhăn thanh tịnh, quán pháp vô nhị.
(經)本來現前。慧眼清淨。觀法無二。
(Kinh: Vốn sẵn hiện tiền,
huệ nhăn thanh tịnh, quán pháp chẳng hai).
“Huệ nhăn thanh tịnh, quán pháp vô nhị”:
Trong thế giới này, nỗi khổ lớn nhất của
bọn phàm phu chúng ta là “nhị nguyên đối đăi”,
nhất là nhân loại hữu t́nh, v́ Tu La lo đấu tranh,
chẳng quản được họ. Chư thiên buông
lung, cũng chẳng quản được họ. Chúng
sanh trong địa ngục, ngạ quỷ, [súc sanh] đang
chịu khổ, đang ở trong tối tăm, không có sức
tự thoát. Như chúng sanh trong địa ngục đang chịu
h́nh phạt, súc sanh đạo đang bị xua đuổi,
bị giết chóc, ngạ quỷ đang bị đói khát
bức năo, bọn họ chẳng có thời gian nào khác. Chỉ
có nhân đạo vốn nhiều tinh lực để làm ǵ
vậy? Đối đăi nhị nguyên, lẩn quẩn trong
ấy, được, mất, thiện, ác, đúng, sai, tŕ
giới, phạm giới, nam, nữ, lớn, nhỏ, vô
lượng vô biên nhị nguyên như thế đó! Đó là
chỗ lẩn quẩn, khổ năo, loanh quanh của nhân loại
hữu t́nh, siêng khổ trong đó. Nhưng huệ nhăn thanh
tịnh, quán các pháp chẳng hai, th́ sẽ vĩnh viễn đoạn
dứt mệt nhọc, xuất ly đối đăi nhị
nguyên ấy. Ở trong đối đăi mà chẳng thấy
có đối đăi để có thể đạt được,
liền ngay lập tức
thanh lương, ngay lập tức an trụ!
(Kinh) Bỉ Bồ Đề tâm, vô trung, vô biên.
(經)彼菩提心。無中無邊。
(Kinh: Tâm Bồ
Đề ấy chẳng ở chính giữa, chẳng ở
bờ mé).
Tâm Bồ Đề rộng lớn, chẳng
tạo tác, quả thật là bổn tâm sáng suốt làu làu,
do bổn tâm ấy chẳng lay động, chẳng tăng
giảm.
(Kinh) Nhất
thiết chư Phật
thể vô sai dị, nhập ư vô ngại thanh tịnh trí
môn, minh kiến Bồ Đề tự nhiên giác trí, ư thiện
tri thức, khởi chư Phật
tưởng.
(經)一切諸佛體無差異。入於無礙清淨智門。明見菩提自然覺智。於善知識起諸佛想。
(Kinh: Thể
của hết thảy chư Phật chẳng sai khác, nhập
vào trí môn thanh tịnh vô ngại, thấy rơ giác trí Bồ
Đề tự nhiên. Đối với thiện tri thức,
dấy lên ư tưởng coi họ
như là Phật).
Hết thảy thiện tri thức và chư
Phật khác biệt ở chỗ nào? Chẳng có sai khác! Do thiện
tri thức có thể hướng dẫn tâm trí của chúng
sanh, nên gọi là “thiện tri thức”. Thiện tri thức
vô danh, vô tướng, dùng danh tướng để an lập.
Chúng ta nói người nào đó là “đại thiện tri
thức”, [là v́ người ấy] có chứng ngộ, đích
thân chứng pháp tắc, có các thiện xảo, có các bi tâm, lợi
ích hữu t́nh rộng khắp. Nếu chúng sanh được
gặp gỡ, sẽ tạo thành sự hướng dẫn
tăng thượng nơi Vô Thượng Bồ Đề,
có thể an trụ trong pháp. Vậy th́ hết thảy hữu
t́nh th́ sao? Cũng là thiện tri thức. Nói “thiện tri
thức” là [nói theo phương diện] thấu triệt
bản chất, thiện tri thức trông thấy [bản chất
của các pháp]. Chẳng thấu triệt bản chất,
chúng ta nói có ác hữu t́nh, thiện hữu t́nh, có ác tri thức,
có thiện tri thức. Nếu nh́n từ cái tâm b́nh đẳng,
sẽ thấy hết thảy chúng sanh đều là thiện
tri thức.
(Kinh) Ư Bồ Tát sở, bất
niệm quai ly, dĩ ư sanh tử, phá hoại ma quân, nhất
thiết chúng sự, giai tất như hóa.
(經)於菩薩所不念乖離。已於生死破壞魔軍。一切衆事。皆悉如化。
(Kinh: Đối với Bồ Tát, chẳng
nghĩ chống trái, do trong sanh tử, phá hoại ma quân. Đối
với hết thảy các sự, thảy
đều như hóa).
Trong tu pháp ở đất Hán, tư tưởng
chủ thể để mọi người y chỉ là tư
tưởng Bát Nhă, tức là tu tŕ như huyễn. Trong hành pháp
Ban Châu, nếu siêng năng, sốt sắng tu tŕ, chẳng
nghỉ ngơi, sẽ rất dễ đạt được
như huyễn. Điểm cốt lơi, trọng yếu
trong hành pháp Ban Châu là “chẳng ngưng nghỉ”, cho nên
chẳng để cho bản thân mong mỏi ngơi nghỉ.
Nếu nghỉ ngơi, tức là chúng ta tránh né hiện duyên,
chẳng thể xuất ly. Trong chướng ngại mà hành
vô ngại, sẽ thấy chư Phật. Chướng ngại
ǵ vậy? Bị mệt mỏi chính là chướng ngại.
Đau đớn là chướng ngại. Đói bụng là
chướng ngại. Bị lạnh là chướng ngại.
Khổ sở là chướng ngại. Từ trong các chướng
ngại ấy mà hành vô ngại. Chẳng có ư niệm nghỉ
ngơi! V́ hễ có ư niệm nghỉ ngơi, hành nhân sẽ
ngay lập tức ngưng nghỉ. Nếu là như thế,
khó ḷng dẹp tan ma quân, khó thể tiến nhập như
huyễn, như hóa.
Nói thông thường, nếu thật sự
nghiêm khắc, chẳng nghỉ ngơi hành Ban Châu ba ngày, tri
kiến đều chẳng dấy lên, sẽ có đôi chút
giống như si, như say. V́ dốc sức nhẫn nại
vào đó, chỉ cần hành tŕ như thế, ngày hôm sau, ư
thức sẽ lập tức trống rỗng, vô lực. Hiện
thời, người hành pháp sợ hăi điều này, chẳng
thể buông xuống chuyện ngơi nghỉ, cho nên ma quân sẽ
quấy nhiễu, [dấy lên tâm niệm] mong được
an nhàn. An nhàn chính là chất dinh dưỡng ma quân ban cho quư
vị. Chân đă mỏi rồi, đứng lại, mệt
th́ ngủ một giấc, đói th́ bổ sung chất ǵ đó,
lạnh th́ mặc thêm áo. Hăy đừng nghĩ tới những
điều đó, [nếu nghĩ
tới], sẽ chẳng đánh bại mỗi tên ma quân được!
Trong chướng ngại bèn có chướng ngại, chướng
ngại sẽ liên tục tiếp nối. V́ sao? Quư vị không
chỉ có chướng ngại, mà c̣n khiến cho chướng
ngại chín muồi. Đă mệt bèn ngủ, đói th́ ăn
thứ ǵ đó, lạnh th́ mặc thêm áo; đó chính là trong chướng
ngại bèn sanh thêm chướng ngại. Như thế th́ sẽ
khó phá ma quân, khó nhập như huyễn. Đói có phải là
như huyễn hay không? Chúng ta thường nghe nói: “Đói
quá sức, chẳng thể ăn nổi”, c̣n nói: “V́ sao chẳng
ngủ được? Ôi chao! Buồn
ngủ quá!” Dẫu b́nh thường chẳng hành Ban Châu, chúng
ta luôn có cảm giác như thế. Cảm giác như huyễn,
cảm giác như hóa. Nếu chúng ta đói bụng, sẽ ăn;
mệt nhọc sẽ ngủ. Đó là chướng ngại
trong chướng ngại. Nếu trong chướng ngại
mà sợ chướng ngại th́ vẫn là cái tâm phàm phu.
Trong chướng ngại mà chẳng bị ngăn ngại,
tự đạt được giải thoát. Trong chướng
ngại mà chẳng ngăn ngại, tự đạt được
pháp lạc. Pháp lạc chẳng thể chọn lựa từ
đâu khác, phải từ ngay trong chướng ngại. V́
thế, chúng tôi nói “vô ngại trong chướng ngại”
rất quan trọng!
(Kinh) Kiến chư Như Lai, như kính
trung tượng, ưng đương cầu bỉ Bồ
Đề chi tâm.
(經)見諸如來。如鏡中像。應當求彼菩提之心。
(Kinh: Thấy các Như Lai như h́nh
bóng trong gương. Hăy nên cầu cái tâm Bồ Đề ấy).
Thấy Như Lai để làm ǵ? Chẳng v́
sắc tướng trang nghiêm mà cầu, chẳng v́ diệu
dụng mà cầu, chẳng cầu thần thông, chỉ cầu
Bồ Đề tâm, cho nên có thể hỏi pháp. Điều
này rất quan trọng. Chúng ta thấy chư Phật, mà nếu
chẳng hỏi pháp, đúng là đáng tiếc! Có người
hành Ban Châu, thấy Phật liền hoan hỷ, chỉ lo cười,
chẳng biết hỏi pháp! Như thế là đă mê mất
chánh nhân hành pháp của chính ḿnh. Thiện căn chín muồi
là do hỏi pháp. Thiện căn chín muồi là do tu pháp. Thiện
căn chín muồi là do ấn khế tự tâm, đó chính là
quán đảnh. Quư vị có thể nói như thế này: “Đức
Thế Tôn ơi! Hăy quán đảnh cho con, truyền dạy
pháp cho con, thọ kư con khi nào sẽ xả báo, khi nào thành tựu?”
Quư vị phải yêu cầu. Nếu chẳng yêu cầu, thiện
căn của quư vị sẽ chẳng chín muồi. Có người
thấy Phật, chỉ lo mừng, chỉ lo khóc, chỉ lo
cười, có kẻ đến nỗi trợn mắt, cứng
họng, kết quả là đă đánh
mất pháp ích.
Trước kia, khi niệm chân ngôn Dược
Sư, tôi đă nẩy sanh sự sợ hăi to lớn. Lúc ấy,
tôi niệm Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, kết
quả là bảy đức Thế Tôn[11] theo thứ tự
xuất hiện. Tôi sợ rởn cả lông tóc, sợ hăi,
trốn vào pḥng đi ngủ, chẳng dám niệm nữa. V́
niệm một vị Phật Dược Sư, cớ sao
bảy vị Phật xuất hiện? Sanh khởi ḷng sợ
hăi. Thật ra là do
phước đức và nhân duyên chẳng chín muồi. Đă
chín muồi, sẽ vui thích đức Thế Tôn, thấy Phật,
nghe pháp. Chẳng thành thục th́ sao? Sẽ ngay lập tức
sanh tâm sợ hăi! Khi ác tánh của tôi chín muồi, có lần
niệm A Di Đà Phật, thấy tướng sắc thân
mầu nhiệm của Dược Sư Phật, tâm sanh phiền
năo. Tôi nói: “Con chẳng cầu thấy Ngài, v́ sao con lại
thấy?” Tuy có nhân duyên thấy Phật, nhưng chẳng có
thiện căn thấy Phật, cũng chẳng có ước
muốn thấy Phật. Lúc ấy, tôi đang tưởng
niệm A Di Đà Phật, v́ sao Dược Sư Phật
đến làm ǵ? Đấy quả thật là trong tâm trí có
lắm tri kiến mông muội. Do vậy, lúc b́nh thời, chúng ta phải
làm sao cho tri kiến rơ ràng. Nếu không, quư vị tu pháp, sẽ nẩy
sanh nhiều chướng ngại. Chẳng hạn như có
một lần tôi ở trong ṭa nhà hiện thời tôi đang dùng, đi
tới, đi lui (kinh hành), bỗng dưng thế giới xuất
hiện tướng quang minh. Quang minh ấy khó thể diễn
tả, thí dụ được. Tầng tầng lớp lớp
đều là quang minh. Lúc đó, tâm sanh sợ hăi, sợ mất
đi, sợ tiến vào, ngay lập tức đứng đờ
ra đó, chẳng dám động đậy! Tâm niệm chẳng
dám động, thân thể chẳng dám động, thậm
chí thế giới đều ngưng lặng trong trạng
thái ấy. Đó là sự sợ hăi cực lớn, v́ tri kiến
bất chánh. Nếu nương theo cái tâm chẳng đắm
nhiễm, tâm cảm ơn, tâm niệm Phật, há có ǵ đáng
kể đâu? Do đó, tri kiến rất quan trọng. Thông
qua thực tiễn của một số pháp, tôi mới biết
tri kiến là quan trọng nhất, là sự dẫn đường.
Các vị Bồ Tát ơi! Gặp chuyện mà hoảng hốt,
gặp chuyện mà mê muội, gặp chuyện mà điên
đảo. Thật ra, chuyện này và chuyện b́nh thường
giống nhau, quả thật chẳng sai biệt. Chẳng
có chút sai biệt nào! Do vậy, “ưng đương cầu
bỉ Bồ Đề tâm” (hăy nên cầu Bồ Đề
tâm ấy), cầu Bồ Đề tâm của ai? Cầu Bồ
Đề tâm của Phật!
(Kinh) Chư Ba La Mật mạc bất b́nh
đẳng, Thật Tế vô tận, tập Phật công đức.
Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Tư Duy Chư Phật
Hiện Tiền tam-muội.
(經)諸波羅蜜莫不平等。實際無盡。集佛功德。賢護。是爲菩薩思維諸佛現前三昧。
(Kinh: Các Ba La Mật không ǵ chẳng b́nh
đẳng, Thật Tế vô tận, tu tập công đức
của Phật. Này Hiền Hộ! Đó là Bồ Tát Tư
Duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội).
Tư Duy tam-muội
hết sức trọng yếu. Nay chúng ta đang học phẩm
Tư Duy. Nếu chúng ta chẳng siêng năng tư duy, chẳng
thể nào thấy được cái quả tam-muội. V́
trước đó, chẳng có nhân duyên tư duy đúng lư, tôi
đă bị mấy lần chấn động
to lớn, thiếu chút nữa là điên rồi! Mấy lần
bế quan, vừa thấy cảnh giới to lớn, thần
kinh gần đứt luôn, tâm trí sẽ trở thành điên
mất. Do đó, sau đấy chẳng chú trọng siêng ṛng
tu tŕ, mà chú tâm huân tu tri kiến, đặc biệt coi trọng
tri kiến. V́ sao? Chẳng nắm vững tri kiến, hễ
gặp phải đại cảnh giới, con người
sẽ trở thành điên cuồng,
tiến vào trạng thái điên cuồng. Nguy hiểm quá!
Trong lúc ấy, có một chiêu cứu mạng là ngưng dứt
nhân duyên đó. Nếu không, người ấy sẽ thật
sự bị điên, thậm chí giết chết sanh mạng
của chính ḿnh. Trước kia, thầy đương gia
chùa Kim Đảnh [tại núi Kê Túc] có kể với tôi. Họ
có một vị xuất gia sư phụ, siêng năng tọa
Thiền, xuất hiện cảnh giới rất lớn.
Sau đó, [thầy ấy] từ Hoa Thủ Môn nhảy xuống.
Tôi cảm thấy thầy ấy thấy tướng cảnh
giới diệu sắc. Nhảy xuống th́ kết quả
là ǵ? Người khác cho là thầy ấy tự gieo ḿnh xuống
vách đá. Thật ra, thầy ấy chuộng ngồi thiền,
thấy tướng cảnh giới xuất
hiện, bèn theo tướng cảnh giới mà đi!
Trong hành pháp Ban Châu, [những trường hợp] bị
chuyển theo ấm cảnh, chúng tôi đă thấy quá nhiều.
Chẳng hạn như một lần, có vị
cư sĩ hành pháp ở Lư Sơn, hộ pháp quả thật
chẳng thể ngăn trở ấm cảnh của người
hành pháp. Nói như thế nào cũng đều chẳng được,
quư vị nói với kẻ đó một đằng, kẻ
đó trả lời quư vị một nẻo. Bởi lẽ,
một đằng nói theo ấm cảnh, một đằng
nói theo hiện thực. Hai đằng
chẳng thể trao đổi với nhau! Tôi đọc kinh
ở đó, tôi nói hai người ấy đang diễn tuồng,
tuồng ǵ vậy? Một người diễn tuồng ấm
cảnh. Người kia diễn cảnh hiện duyên, chẳng
thể trao đổi với nhau, ai nấy giữ riệt
cái lư của chính ḿnh! Các cảnh ấy thật ra đều
là như thật. Gọi là “như thật” v́ mỗi đằng
đều trọn đủ nhân quả báo ứng. Kẻ
kia là ấm cảnh báo ứng, c̣n quư vị là hiện duyên
báo ứng. Nếu cho là có thật, sẽ chẳng thể
trao đổi. Do vậy, nếu có chánh kiến, sẽ lập
tức có thể trao đổi, lựa chọn.
Trong pháp tắc Ban Châu, huân tập chánh kiến
rất quan trọng! Trong phần trước, chúng ta đă
học một trăm hai mươi hai điều “vân hà”,
đều là huân tập chánh tri kiến. Nay học tập
tất cả các giáo ngôn trong phẩm Tư Duy, [những giáo
ngôn ấy] đều nhằm sanh khởi tư duy chánh tri kiến,
tư duy chánh quán sát, đừng lọt vào trong ấm cảnh,
thấy chư Phật, gặp Phật nghe pháp, thiện
căn chín muồi! Nhất định phải nhớ kỹ
khẩu quyết này: “Thấy Phật, nghe pháp”. Đừng
nên thấy Phật mà sanh ư tưởng khác, đừng sanh
ư tưởng tội ác giống như tôi, sanh ư tưởng
sợ hăi. Ở đây, tôi chẳng dám gạt gẫm mọi
người. Trước kia, tôi niệm A Di Đà Phật,
thấy Dược Sư Phật, liền sanh sân tâm, nói: “Chẳng
mong thấy Ngài. Ngài tới làm ǵ?” Có nghĩa là: Tôi mong thấy
A Di Đà Phật, Ngài (Phật Dược Sư) tới làm
chi? Đấy
là tà kiến. Do vậy, ngày Ba Mươi tháng Chín là thánh đản
của Phật Dược Sư. Có người đưa
tôi đến chùa Long Hưng tại huyện Chánh Định,
tỉnh Hà Bắc để triều yết Phật Dược
Sư, v́ tượng Dược Sư Phật và A Di Đà
Phật cùng một thân thể, cùng hiện hai tướng.
V́ thế, tôi biết khi đó là báng Phật, trực tiếp
báng Phật, phá hoại thiện căn nhiều kiếp của
tôi. V́ sao? Chẳng có chánh kiến. Gặp Phật chẳng
khó, chánh kiến khó lập! Thiện căn thành thục
cũng rất dễ dàng, nhưng nếu quư vị chẳng
vận dụng thiện căn, cũng sanh ra tà kiến. Đối
với chỗ này, nhất định phải chánh tư
duy, chánh quán sát, chánh kiến, Bồ Đề tâm, tư duy
tỉ mỉ, quan sát tỉ mỉ, tư duy chọn lựa,
quan sát chọn lựa! Như thế th́ chúng ta do tam-muội
thành thục, sẽ thấy chư Phật rất thuận
tiện. Khi rất nhiều người nói “khó gặp Phật”,
tôi cảm thấy đích xác là người như vậy rất
ngu si, hư vọng tự đặt
ra chướng ngại. Các vị thiện tri thức ơi!
Chúng ta cách Phật chẳng xa, v́ lẽ nào? Do Phật nhiếp
trọn hữu t́nh trong pháp giới, hết thảy chúng
sanh đều trụ trong quang minh của Phật. Hết
thảy chư Phật Như Lai đều hàm nhiếp hết
thảy chúng sanh, phóng đại quang minh trong tâm trí của hết
thảy chúng sanh.
Chúng ta dựa theo văn tự để ấn
khế tự tâm, phân tích pháp tắc, tùy thuận nhân duyên
để thâm nhập quan sát A Di Đà Phật, cho đến
pháp tắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai
Hiện Tiền Lập như thế. Kinh điển
cũng chẳng phải là lời lẽ ngoài tâm. Sở chứng
của chư Phật đều chẳng phải là lời nói ngoài tâm. Các vị
thiện tri thức ơi! Chúng ta có nhân duyên học tập,
nhận biết kinh điển này, hoặc nói tới pháp tắc
này, đều là do thiện căn trong tâm địa chín muồi.
Do chín muồi, cho nên chiêu cảm tướng cảnh giới
hiện tiền. Cảnh ấy và tâm trí nơi bổn tâm của
chúng chẳng hai, chẳng khác. Đừng nhận sai nhân
duyên. Mỗi ngôn từ đều có vô lượng ư, tùy theo
tâm duyên của chính ḿnh mà chọn dùng, tức là dùng kinh Ban
Châu Tam Muội, hay kinh Đại Phương Đẳng Đại
Tập Hiền Hộ để nói, những điều được
khai hiển [trong các kinh ấy] không ǵ chẳng ngoài “khiến
cho hiện tiền hữu t́nh nhập tri kiến của Phật”,
hoặc có thể đích thân chứng Thập Phương Chư
Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội như thế.
Nói là “tam-muội” th́ đó chính
là tên gọi khác của Chánh Thọ. Đó cũng là “giác thọ” (nhận biết,
cảm nhận) như thật chân chánh
trong tâm địa của chúng ta, chẳng bị che lấp,
là giác thọ như ư chẳng bị lừa dối, hoặc
là giác thọ được thuần thục bởi sức
tự tại, nguyện thấy Phật sẽ thấy Phật,
nguyện thấy mười phương Phật sẽ thấy
mười phương Phật, nguyện nghe pháp th́ sẽ
được nghe pháp.
V́ sao? Nương vào pháp tắc này để tu tŕ, thâm nhập thực
tiễn!
Có người sẽ nêu ra nghi vấn như
thế này: “Chúng tôi tu tập hành pháp Ban Châu đă có một
thời gian nhất định rồi, v́ sao chưa thấy
Phật?” Đây quả thật là một vấn đề
cần phải xem xét kỹ càng! Hoặc có thể
nói là một vấn đề cần phải xem xét thẳng thừng. Nhân
duyên và thiện căn nghe pháp chín muồi th́ chẳng thể
nghĩ bàn, nhưng nghe pháp có tương ứng với thiện
căn đă chín muồi hay không, quả thật vẫn phải
do các vị thiện tri thức tự ḿnh thông qua hành pháp để
nghiệm chứng, người khác chẳng thể làm thay được!
Nếu chúng ta chẳng thể như thật quan sát pháp tắc
mà chính ḿnh được tiếp
xúc, tu tập thâm nhập, sẽ
khó thể thật sự nhanh chóng tương ứng. V́ tự
tánh tuy b́nh đẳng nhất vị, tức là như chúng
ta thường nói: “Nơi Phật chẳng tăng, nơi
phàm chẳng giảm”. Nhưng nói theo Tu Đức, nói
theo sự vận dụng, sẽ là muôn
ngàn sai khác! Trong ngàn vạn sai biệt ấy, tuy không có một
vật để có thể đạt được, nhưng
do đă huân tập từ
vô thỉ đến nay, chúng ta thường cho là thật sự
có sai biệt. Khi thật sự có ư thức sai biệt
ấy, sẽ khó vượt qua, nó sẽ hạn chế mức
độ cảm
nhận, hay biết của chúng
ta trong hiện tại, khiến cho chúng ta thường lẩn quẩn trong nhân duyên của sự hay biết, chẳng
thể tự dẹp trừ được, thường
cho nó là có thật, thường cho là nó chân thật. Thông qua
học tập và tu tập kinh Ban Châu, chúng ta có thể lột bỏ sự
mông muội ấy, [trừ khử] sự mông muội
của chính ḿnh lẫn người khác!
(Kinh) Nhược hữu Bồ Tát Ma Ha
Tát, dục cụ thành tựu như thị tam-muội, đương
tiên thành tựu như thị công đức.
(經)若有菩薩摩訶薩欲具成就如是三昧。當先成就如是功德。
(Kinh: Nếu có Bồ Tát Ma Ha Tát muốn
thành tựu trọn đủ tam-muội như thế, hăy
nên trước hết thành tựu công đức như thế).
Công đức như thế, tức là thủ
hộ một trăm hai mươi hai công đức như
đă tuyên thuyết trong phần trước, cũng tức
là như đức Thế Tôn đă tuyên nói: Công đức
và lợi ích được nêu ra trong một trăm hai mươi
hai câu hỏi về Ban Châu tam-muội, hay gọi cách khác là
Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền, vẫn chưa nêu được
chút phần thật sự, chỉ là nêu ra chút phần cho mọi
người được thấy, được nghe.
(Kinh) Hiền Hộ! Đương tri cánh
hữu vô lượng công đức, nhiên diệc duyên thử
tam-muội nhi sanh.
(經)賢護。當知更有無量功德。然亦緣此三昧而生。
(Kinh: Này Hiền
Hộ! Hăy nên biết c̣n có vô lượng công đức cũng
do tam-muội này mà sanh).
Chúng ta học Phật, đều biết câu
nói: “Các pháp do nhân duyên sanh”. “Các pháp do nhân duyên sanh” có
thể khiến cho hết thảy hữu t́nh đều có
pháp để duyên theo, nương tựa. Đă do nhân duyên
sanh, hễ duyên mất, pháp sẽ diệt. Cho nên chẳng đắm
nhiễm, tự tánh vốn là không. Trong pháp tắc duyên khởi
tánh Không, hữu t́nh có thể thật sự sanh khởi diệu
dụng nhưng vô nhiễm, trong vô nhiễm thường
sanh diệu dụng, chẳng sợ hăi nhân duyên vị lai,
hiện tiền, chẳng sợ hăi nhân duyên quá khứ, đối
với nhân duyên giải thoát sạch làu, tâm chẳng vướng
mắc. Do vậy, “diệc duyên thử tam-muội nhi sanh”
(cũng do tam-muội này mà sanh), sanh ra ǵ vậy? Như dưới
đây [sẽ nói].
(Kinh) Phật phục cáo Hiền Hộ
ngôn.
(經)佛復告賢護言。
(Kinh: Đức
Phật lại bảo Hiền Hộ rằng).
[Nghe đức Phật dặn ḍ] Hiền Hộ,
đừng đùn đẩy cho Bồ Tát. Thật ra, Ngài tượng
trưng cho mỗi người nghe pháp và tu tập pháp trong
hiện tiền!
(Kinh) Thị trung, hà đẳng tam-muội
năng sanh như thị chư công đức hạnh? Sở
vị Bồ Tát Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội,
năng sanh như thị chư công đức pháp. Phục
thứ Hiền Hộ! Vân hà danh vi Bồ Tát Tư Duy Chư
Phật Hiện Tiền tam-muội dă? Hiền Hộ! Nhược
hữu tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di thanh
tịnh tŕ giới, cụ túc chư hạnh, độc xử
không nhàn, như thị tư duy. Ư nhất thiết xứ,
tùy hà phương sở, tức nhược Tây
Phương A Di Đà Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng Chánh Giác. Thị
nhân nhĩ thời, như sở văn dĩ, tức ưng
tự tác như thị tưởng niệm: Như ngă sở
văn, bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng
Chánh Giác, kim tại Tây phương, kinh đồ khứ thử
bách thiên ức chư Phật quốc độ, bỉ hữu
thế giới, danh viết An Lạc. Như thị Như
Lai, kim hiện tại bỉ, vị chư Bồ Tát châu táp
vi nhiễu, xử đại chúng trung, thuyết pháp giáo
hóa. Nhiên nhi thị nhân y sở văn cố, hệ niệm
tư duy, quán sát bất dĩ, liễu liễu phân minh, chung
hoạch kiến bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng
Chánh Giác dă.
(經)是中何等三昧能生如是諸功德行。所謂菩薩思惟諸佛現前三昧。能生如是諸功德法。復次賢護。云何名爲菩薩思惟諸佛現前三昧也。賢護。若有比丘比丘尼優婆塞優婆夷。清淨持戒。具足諸行。獨處空閒如是思惟。於一切處。隨何方所。即若西方阿彌陀如來應供等正覺。是人爾時。如所聞已。即應自作如是想念。如我所聞。彼阿彌陀如來應供等正覺。今在西方。經途去此過百千億諸佛國土。彼有世界。名曰安樂。如是如來。今現在彼。爲諸菩薩周匝圍繞。處大衆中說法教化。然而是人依所聞故。繫念思惟。觀察不已。了了分明。終獲見彼阿彌陀如來應供等正覺也。
(Kinh: Trong ấy, tam-muội như thế
nào th́ sẽ có thể sanh ra hạnh công đức như thế?
Đó là nói Bồ Tát Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền
tam-muội có thể sanh ra các pháp công đức như thế.
Lại này Hiền Hộ! Thế nào là Bồ Tát Tư Duy Chư
Phật Hiện Tiền tam-muội? Này Hiền Hộ! Nếu
có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di tŕ giới
thanh tịnh, trọn đủ các hạnh, ở một ḿnh
nơi thanh vắng, tư duy như thế này: Trong hết
thảy các chốn, ở bất
cứ phương nào, đều
như [đối trước] Tây Phương A Di Đà Như
Lai, Ứng
Cúng, Đẳng
Chánh Giác. Lúc đó, người ấy đúng như những
điều đă được nghe, liền tự tưởng
niệm như thế này: Như con được nghe A Di
Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng
Chánh Giác nay đang ở Tây phương, cách nơi đây trăm
ngàn ức các cơi Phật. Nơi đó có thế giới tên
là An Lạc. Đức Như Lai như thế, nay đang ở
đó, được các vị Bồ Tát vây quanh, ở trong
đại chúng, thuyết pháp giáo hóa. Người ấy
nương theo điều đă được nghe mà hệ
niệm, tư duy, quán sát chẳng thôi, rành rẽ, phân minh, rốt
cuộc được thấy A Di Đà Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng
Chánh Giác).
Đoạn văn tự này chỉ dạy
chúng ta, pháp tắc trong ấy có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di, tức là một pháp dành cho tứ chúng tu tập,
chẳng riêng hiền thánh, chẳng riêng tại gia hay xuất
gia, mà là dù tại gia hay xuất gia, mọi
loài phàm thánh đều có thể an trụ, hành theo, đều
có thể hành tŕ như thế, nhưng có một phương
tiện tiền đề[12]! Đó chính là “thanh
tịnh tŕ giới, cụ túc chư hạnh, độc xử
không nhàn, như thị tư duy” (tŕ giới thanh tịnh,
đầy đủ các hạnh, ở một ḿnh chỗ
thanh vắng, tư duy như thế).
Ở nơi tư duy như
thế, lúc ở một ḿnh như thế, trên thực tế
là xa ĺa tâm địa ồn náo, cũng như sự ồn
náo nơi y báo và chánh báo.
Xa ĺa ồn náo mười phần quan trọng
đối với hành pháp tam-muội. Dẫu cho chúng ta tĩnh
lặng, xa ĺa ồn náo dù chỉ một phút, tịch tĩnh đọc đoạn
kinh văn này, quán sát
chỉ trong một phút đồng hồ, quư vị đă
gieo chủng tử chẳng thể nghĩ bàn. “Xa ĺa ồn
náo” tức là ĺa hết thảy cái tâm nắm níu, tâm xả
duyên, tâm ở trong tịch tĩnh. “Tâm xử tịch tĩnh”
(tâm trụ trong tịch tĩnh) là ở trong chỗ ồn
náo mà chẳng có ồn náo để có thể thấy, ở
chỗ tịch tĩnh mà chẳng có tịch tĩnh để
có thể thấy. Nếu ở chỗ tịch tĩnh mà thấy
có tịch tĩnh th́ chẳng gọi là [người
trụ trong] A Lan Nhă, mà là kẻ buông lung. V́ lẽ nào? Chúng ta thường
thấy có người đến rừng sâu núi thẳm để
tu tŕ. Nếu tham tịch tĩnh, sẽ chẳng phải là
người tu tŕ trụ trong A Lan Nhă, dẫu hành pháp mà chẳng
đạt được lợi ích to lớn. Quư vị hăy khéo
quan sát! Nếu người sống trong đời hiện
tại mà tâm nhàn tĩnh, thủ hộ pháp tắc, dẫu ở
trong chỗ ồn náo mà chẳng nhiệt năo, ở trong chỗ
nhàn tĩnh mà chẳng nắm níu, sẽ là người thật
sự đạt được tịch tĩnh, thâm nhập
và quan sát pháp, ắt sẽ đạt được lợi
ích chẳng thể nghĩ bàn. Đấy là tư tưởng
Trung Quán trong tu hành Phật pháp, hoặc có thể nói là tư
tưởng chánh quán!
Người tu hành hiện thời thích hướng
đến ồn náo. V́ lẽ nào? Do chẳng đạt được
lợi ích nơi pháp tắc tịch tĩnh. Hoặc là hướng
tới tịch tĩnh để xa ĺa ồn náo, tham cầu
tịch tĩnh. Kẻ tham cầu nhiệt náo, kẻ tham cầu
náo nhiệt phần nhiều là hạng người sợ
hăi tịch tĩnh, sợ đọa vào đoạn diệt
tịch tĩnh. C̣n kẻ hướng đến cuộc sống
tịch tĩnh, là do hy vọng xa ĺa ồn náo, tham cầu cảnh
tĩnh lặng. Những hạng người ấy đều
bị ma biến đổi, chẳng thuộc vào [hạng người
được hưởng] lợi ích
trong Phật pháp. Nếu chẳng quan sát như thế, phần
nhiều sẽ sanh ra tự ngă phiền năo. Rất nhiều
người t́m cầu khắp nơi một đạo tràng
tịch tĩnh, thần thánh, hy hữu, nhưng do tâm địa
chẳng tương ứng, cho nên tới một đạo
tràng như thế, cũng sẽ thường nẩy sanh ư
kiến, cho rằng đạo tràng ấy chẳng phải
như người ta nói, v́ chẳng tương ứng. Nếu
tâm địa chẳng tương ứng, tâm địa ồn
náo, sẽ ở nơi tịch tĩnh mà chẳng tịch tĩnh.
Nếu tâm địa tịch tĩnh, sạch làu, chẳng
có một chuyện ǵ, dẫu ở trong ồn náo, nhưng chẳng
bị ồn náo hay nhiệt năo bức
bách. Các vị thiện tri thức ơi! Hăy tự khéo quan sát.
Một ḿnh ta có thể ngồi lặng lẽ nơi
thanh vắng. Chỗ
thanh vắng ấy xa ĺa hết thảy nắm níu, xa ĺa hết
thảy các duyên tụ tập. Chỗ thanh vắng ấy chẳng
có dấu vết, chẳng có ǵ để đạt được,
có phải là yêu cầu quá cao hay không? Chỗ ấy không cao!
Nếu làm như thế, sẽ đạt được phương
tiện. Quan sát như thế liền đạt được
thanh tịnh. Tùy thuận như thế liền được
an lạc. Thực tập như thế, tất nhiên thành tựu.
Có nhiều vị tri thức t́m Bồ Đề khắp
Giang Nam, Giang Bắc, truy t́m đạo tràng, t́m kiếm tri thức,
nào có biết đă đánh mất tri thức thật sự,
đạo tràng thật sự, pháp tắc thật sự, tịch
tĩnh thật sự ngay trong hiện tiền! T́m nhiều
nơi chốn, nắm níu nơi chốn khá nhiều, có nhiều
điều lấy bỏ, kết quả là tu pháp càng ngày càng xa, chẳng
đạt được lợi ích, sanh khởi hoạn nạn
phiền năo, do chẳng lập chánh kiến, hư vọng
vun đắp tâm trí phân biệt, chấp trước. Muốn
đạt được pháp tắc thanh tịnh an lạc,
pháp tắc b́nh đẳng, pháp tắc thiện xảo trong
tâm trí chấp trước, cũng giống như nấu cát
mong thành cơm hay cháo vậy!
Chúng ta học giáo ngôn Bát Nhă Ba La Mật, sự tịch tĩnh
trong núi rừng chẳng phải là tịch tĩnh thật
sự. Có thể coi sự tịch tĩnh nơi núi rừng
là tịch tĩnh, [cũng như quán] các thứ ồn náo chẳng phải là ồn náo. Có thể gây nên ồn
náo là v́ chúng chẳng có tự tánh. Thấy “chẳng có tự
tánh” chính là thủ hộ tịch tĩnh, xa ĺa nắm níu, xa
ĺa duyên sợ hăi, chẳng
sợ hăi nhân duyên cũng chính là “trụ trong an lạc
tịch tĩnh”. Thoạt nh́n lời này dường như
rất cao, thật ra là yêu cầu rất b́nh thường.
Hăy khéo tư duy, khéo quan sát!
“Ư nhất thiết xứ, tùy hà phương
sở, tức nhược Tây Phương A Di Đà Như
Lai, Ứng
Cúng, Đẳng
Chánh Giác. Thị nhân nhĩ thời, như sở văn dĩ,
tức ưng tự tác như thị tưởng niệm” (Trong hết
thảy mọi nơi, ở bất cứ phương nào, đều
như đối trước A Di Đà Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng
Chánh Giác. Khi đó, người ấy đúng như những
ǵ đă được nghe, hăy nên tưởng niệm như
thế này). Chúng ta thấy
văn tự trong phẩm này toàn là hướng dẫn mọi
người vận
dụng tư duy chánh đáng, quan sát b́nh thường, chẳng
có ǵ là pháp tắc đặc thù, chẳng thể nghĩ
bàn, huyền diệu, mà toàn là tột bậc b́nh thường,
chánh quán tư duy thật thà, chánh quán quan sát.
“Như ngă sở văn, bỉ A Di Đà
Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng
Chánh Giác, kim tại Tây Phương” (như
con được nghe, đức A Di Đà Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng
Chánh Giác nay ở phương Tây): Đối với phương
Tây, Quán Kinh đă chép mười phần cụ thể, đó
là phương hướng mặt trời lặn. Chúng tôi đến
núi Linh Thứu, nơi đức Thế Tôn giảng kinh Vô
Lượng Thọ, nơi giảng đài Linh Thứu, phương
hướng đối trước đại chúng chính là
phương hướng mặt trời lặn. Đức
Thế Tôn đối diện phương Đông. Thiện
Đạo đại sư miêu tả phương Tây càng
tiêu chuẩn hơn! Chẳng hạn như Ngài nói: Trong hai mùa
Đông và Hè, mặt trời chênh về hướng Nam hay hướng
Bắc, chẳng thể coi là hướng chánh Đông hay chánh
Tây. Nhưng tại Trung Hoa vào hai mùa Xuân và Thu, quỹ tích quỹ
đạo của mặt trời cũng khá đúng tiêu chuẩn.
Lúc đó, coi phương vị của mặt
trời lặn chính là phương
Tây. Đấy thật sự vẫn là v́ khiến cho mọi
người đặt ư niệm nơi đó. V́ thế, các
vị thiện tri thức và người niệm Phật trong
quá khứ, chẳng xoay lưng về phía Tây.
Giữ ư niệm đối diện như
thế, dùng làm phương tiện để tư duy tu hành,
dù đắc tam-muội hay chẳng đắc tam-muội.
Ví như người xuất gia chúng ta lúc từ biệt thân
nhân, sắp xuống tóc, thọ giới sa-di, hăy nên
lễ kính cha mẹ. Nếu cha mẹ hiện tiền, bèn lễ
kính ngay trong hiện
tiền. Nếu [cha mẹ] chẳng hiện tiền, liền
hướng về phương hướng nơi cha mẹ
đang ở mà lễ kính từ biệt. Sự từ biệt
ấy rất có ư nghĩa. Lễ kính hướng vọng về
phương hướng ấy cũng là mười phần
có ư nghĩa. V́ lẽ nào? Do là nơi nghiệp báo. Do cái này có
mà cái kia có, chân thật chẳng dối. Nếu quư vị tưởng
là hư vọng, sẽ chẳng được tương
ứng. Nếu tưởng là hư vô, tưởng là đoạn
diệt, sẽ chẳng có công đức chân thật. Giống
như hiện thời chúng ta thấy Dược Sư Phật,
hay thấy A Di Đà Phật, quư vị phải có cái gọi
là “phương hướng, đối tượng để
quan sát” th́ mới có thể khiến cho quư vị được
thấy, được biết, chẳng phải là sử
dụng tâm trí vọng tưởng. Như vậy th́ khi quư vị
thấy, sẽ chẳng phải là vọng tưởng, sẽ
có thể như thật được thấy, được
nghe nơi hiện duyên. Tuy bản chất [của các cảnh giới được
thấy] là vô tự tánh, nhưng khi quan sát, liền sanh diệu
dụng. Khi tương ứng, chắc chắn nghe pháp. Khi
được gia tŕ, chắc chắn sẽ đạt được
phương tiện vô úy, và sức thần thông tự tại
rộng lớn. Ở đây, trọn chẳng thể luông
tuồng, qua quít, chẳng có mảy may nào mê mờ. Có nhiều
kẻ dùng “tánh Không” để phê phán giáo ngôn Tịnh
Độ, thật sự là [những ngôn
luận] vô ư nghĩa! V́ sao? Chúng sanh trong thế gian, báo đức
có sai khác. Tịnh độ và trược độ (uế
độ) rốt cuộc là do các nghiệp [sai khác] mà hiển hiện
sai biệt. Sự sai biệt ấy tuy xét
theo bản chất th́ chẳng
khác, nhưng khởi dụng (dấy lên tác dụng), ắt cũng có khác biệt. Do vậy, khiến cho chúng
sanh ai nấy đều xả trừ nghiệp khổ năo,
tiến hướng pháp tắc thanh tịnh an lạc, quốc
độ an lạc, chọn lựa pháp như thế, thành
tựu Bồ Đề, đắc bất thoái chuyển
ngay trong một đời. Các vị thiện tri thức
ơi! Phải như thật tư duy, như thật quan
sát, nương theo lời dạy của đức Thế
Tôn, đừng nương theo vọng tưởng, đừng
vâng theo lời của ai khác! Nếu chúng ta chẳng tùy thuận
kinh điển để chánh tư duy, quan sát, sẽ nương
theo cách nghĩ của chính ḿnh mà tư duy, quan sát. Nhưng
chúng ta từ vô thỉ đến nay, tư duy phần nhiều
là bị tham, sân, si, mạn, nghi, và tri kiến chẳng chánh
đáng sai khiến, bị che lấp bởi tập khí của
chính ḿnh, tức là tư duy trong nghiệp tướng của
Ngũ Cái, Nhị Chướng, và Tam Chướng[13], chẳng thể
sanh khởi lợi ích thật sự thanh tịnh trong học
Phật.
“Kinh đồ khứ thử quá bách thiên ức
chư Phật quốc độ. Bỉ hữu thế giới,
danh viết An Lạc. Như thị
Như Lai, kim hiện tại bỉ, vị chư Bồ Tát
châu táp vi nhiễu, xử đại chúng trung, thuyết pháp
giáo hóa” (Cách đây trăm ngàn ức các cơi Phật, nơi đó có thế
giới tên là An Lạc. Đức Như Lai như thế
nay đang ở đó, được các vị Bồ Tát vây
quanh, ở trong đại chúng, thuyết pháp giáo hóa). Đấy
đều là nội dung quan sát thực tế. Quán Kinh mô tả
càng cụ thể hơn. Ở đây là đức Thế
Tôn nói kinh giáo để chúng ta tư duy. Chúng ta tùy thuận
lời dạy của đức Phật để chánh tư
duy. Tư duy như thế rất trọng yếu. Trong việc
tu tŕ tam-muội, do tu tŕ tam-muội, dẫu chưa thấy
Phật, nhưng đă gieo chủng tử thấy Phật,
đă an lập thanh tịnh, chẳng khác ǵ thấy Phật.
Người
quán như thế th́ sẽ được an lạc.
“Nhiên nhi thị nhân y sở văn cố,
hệ niệm tư duy” (nhưng người ấy do nương
theo điều đă được nghe mà hệ
niệm, tư duy): Đấy là từng bước hướng
dẫn chúng ta tư duy đúng như lời dạy. Hiện
thời, thiện tri thức tư duy đúng như giáo pháp
càng ngày càng ít. Vọng tưởng tơi
bời! Nói cái ǵ mà “tôi niệm Phật, nhưng tôi không tin thế
giới Cực Lạc, cũng chẳng hướng đến
thế giới Cực Lạc”. Chẳng biết nỗi khổ
luân hồi trong thế giới Sa Bà, chẳng biết nỗi
khó khăn điên đảo trong thế giới Sa Bà này. Giống
như ṭa điện đường này, chúng ta không ngừng
trang nghiêm nó, nhưng bất luận trang nghiêm như thế
nào đi nữa, sử
dụng một khoảng thời gian, tất nhiên nó sẽ bị
suy hoại, tất
nhiên sẽ mất đi. Cũng
giống như vậy, sanh mạng của chúng ta có thể
là rất trẻ trung, khỏe mạnh, nhưng sẽ già đi
rất nhanh, chết đi. Tướng vô thường ấy
trong cuộc sống của ai cũng đều luôn luôn biểu
hiện, đừng nghĩ là có cái thường hằng. Nếu
người nào chẳng cho là thường hằng, tất
nhiên sẽ hướng đến một pháp tắc, pháp tắc
ǵ vậy? Liễu giải pháp tắc bản chất của
hết thảy vạn sự vạn vật, tức là tiến
hướng đạo nghiệp Bồ Đề. Đối
với đạo nghiệp, sẽ phần nhiều chọn
lựa. Như thế th́ sẽ trọn chẳng tham nhiễm
thế giới Sa Bà, hoặc là sẽ sợ
hăi thế giới Sa Bà này mà sanh về Cực Lạc. V́ lẽ
nào? Do có thể độ thoát hữu t́nh trầm luân trong thế
giới Sa Bà. Chúng ta cầu văng sanh cũng thế, chính ḿnh và
người khác cùng văng sanh cũng thế, hoặc khiến
cho chúng sanh văng sanh trước, c̣n bản thân sẽ văng
sanh cuối cùng cũng thế, hoặc khiến cho hết
thảy chúng sanh văng sanh thành Phật trước, bản thân
ta thành Phật cuối
cùng cũng thế, trong các thứ pháp tắc, đều là
lợi ích chân thật, lợi ích như thật, như đức
Thế Tôn đă tuyên nói trong khắp các kinh.
Trong đoạn văn tự này, đức
Thế Tôn đă đối trước Hiền Hộ Bồ
Tát tuyên nói một phương pháp chánh tư duy quan sát, cũng
là một pháp tắc để mong đạt được Tư
Duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội. Pháp tắc này
mười phần đơn giản, giống như pháp
tắc để tu tŕ ḥng thấy Phật trong mộng do Thiện
Đạo đại sư đă dạy. Tôi gặp rất
nhiều vị xuất gia và tại gia học tập Tịnh
Độ, nhưng coi thường pháp tắc ấy! Khéo sao, pháp tắc ấy
lại là một pháp tắc rất then chốt! Tư
duy như thế, quán sát cặn kẽ như thế, mười
phần trọng yếu! Thông thường, các vị Bồ
Tát học Phật ở đất Hán đa số tôn sùng
tri kiến cao thượng, tức là cái được gọi
là Không Kiến,
hay giải thoát tri kiến v.v… Thật ra, chính ḿnh chẳng
thể thiết lập một pháp tắc cao thượng,
lại chẳng thể có một pháp tắc như thật
để rành rẽ quan sát kỹ càng, chẳng thể như
thật thâm nhập để quán sát chánh đáng, vi tế, thuần thục!
“Quán sát bất dĩ, liễu liễu phân
minh, chung hoạch kiến bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng
Chánh Giác dă” (quán sát chẳng ngơi,
rành rẽ phân minh, rốt cuộc thấy A Di Đà Như
Lai, Ứng
Cúng, Đẳng
Chánh Giác): Trong đoạn văn tự này, đức Thế
Tôn ân cần dặn ḍ đại chúng, tức hiện tiền
đại chúng, quư vị hăy nên chọn lựa như thế
nào? Vẫn là phải nên từ bỏ lối tư duy tạp
loạn, chẳng rơ ràng của chính ḿnh. Đừng tư
duy về chuyện huyền diệu hay chẳng huyền diệu,
tư duy cao thấp, tư duy thiện ác, tư duy tương
ứng hay chẳng tương ứng. Hăy nương theo
giáo ngôn của đức Thế Tôn mà tư duy, sẽ rất
thuận tiện, trực tiếp. Đó gọi là do y giáo
mà đạt được lợi ích nơi Phật pháp.
Do tín thuận giáo, cho nên công đức chẳng thể
nghĩ bàn. Do tùy thuận Phật lực nên trừ khử các
chướng hiện tiền. Hiện thời, chúng ta có chướng
ǵ vậy? Sở Tri Chướng và Phiền Năo Chướng.
Hơn nữa, người Hán có chấp
trước Sở Tri Chướng tột bậc sâu dầy,
ngoan cố, rất nặng nề! V́ nhân duyên giao thiệp của
người Hán mười phần rộng khắp, nhất
là trong t́nh trạng hiện thời, Nam Bắc xuyên suốt,
tùy ư di chuyển, tham học chẳng trở ngại, học
pháp chẳng trở ngại. Tuy là chẳng trở ngại,
nhưng khắp nơi chẳng hiển hiện công đức
và lợi ích! Chỉ là học tạp, học cho cố vào, chẳng thể
thâm nhập, tâm trí ră rời, giống như nước lũ,
chẳng thể đắc lực trong ấy. V́ thế,
tham học càng rộng mà nếu
chẳng thể tập trung vào một pháp môn, tức là có vấn
đề về sự thâm nhập, tu tập, quan sát. Kết
quả là tự tâm rời ră, lăng phí nhân duyên sanh mạng. Các
vị thiện tri thức ơi! Nhất định phải
tư duy sâu xa, tinh tế điều này!
Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng kư
Phần
3 hết
[1] Có thể tạm hiểu là cách hành
tŕ và đối tượng thích hợp cho một pháp tu.
[2] Hoa Thủ (華首) là một vách đá hiểm
trở ở phía Tây Nam ngọn Thiên Trụ trong rặng Kê
Túc. Vách đá thẳng đứng như dao cắt, chính giữa
vách đá ấy,
các gờ đá
lơm vào có h́nh dáng như một khung cửa lớn. “Khung cửa”
ấy có chiều cao 40 mét, rộng 20 mét, chính giữa “khung cửa” lại có vết cắt
thẳng đứng trông như hai cánh cửa đá khép chặt.
Núi Kê Túc thuộc huyện Tân Xuyên, thành phố Đại Lư
tỉnh Vân Nam. Do rặng núi này gồm bốn quả núi, ba
ngọn núi phía trước chơe ra thành ba nhánh, một nhánh núi kéo dài về phía sau, khiến cho toàn thể rặng núi có h́nh dáng giống
như chân gà, cho nên người Hán thời cổ cho rằng
đây chính là núi Kê Túc (Kukkatapadagiri) trong
kinh Phật. Núi Kê Túc ở Vân Nam được coi là thánh
địa của Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Bắc
Tông, và Phật giáo Nam Truyền.
[3] Đấy là nói về nghi thức Quá Đường (tức nghi thức
cúng dường thập phương Tam Bảo trước
khi dùng cơm
trưa). Trong khi thọ trai,
thường là vị trụ tŕ, hoặc
vị đương gia, hoặc vị đứng đầu trường hạ, sẽ sớt cơm trong chén, thầm chú nguyện: “Pháp
lực bất tư nghị, từ bi vô chướng ngại,
thất lạp biến thập phương, phổ thí châu
sa giới, quỷ tử mẫu khoáng dă, thần kim xí
điểu vương, tất giai linh bảo măn, Án độ
lợi ích tóa ha” (Pháp lực không nghĩ bàn, từ bi chẳng chướng ngại. Bảy hạt khắp mười
phương, cho khắp vô lượng cơi. Mẹ con quỷ đồng nội,
cánh vàng vua thần điểu, hết thảy đều
no đủ) rồi trao cho vị
thí giả. Vị thí giả bưng chén cơm ấy ra
nơi đất trống (có nơi bày một cái bàn riêng
để cúng, gọi là bàn Xuất Sanh), đọc bài kệ:
“Đại bàng kim xí điểu….” để thí thực.
Trong các đạo tràng Trung Hoa, dù thọ trai hay không, dù có pháp sư hay không, mỗi ngày
đều phải xuất thực ba lần: Công khóa sáng,
giữa trưa, và trước công khóa tối. Thời sáng
khóa và trưa dùng cơm hay thực phẩm cúng Phật
để thí xuất sanh (thường gọi là nghi thức
xuất thực), sử dụng bài kệ giống nhau. Buổi
tối th́ dùng một bài kệ khác, chỉ dùng bảy hạt
gạo và nước để cúng thí.
[4] Dược thực
(藥食, thức ăn như thuốc để
chữa cơn đói). Từ ngữ này bắt nguồn từ
chữ Dược Thạch, tức là theo truyền thống, các tỳ-kheo thường dùng một viên đá hấp nóng, đặt lên bụng cho khỏi
sôi bụng v́ đói. Về sau, do khí hậu lạnh, tại Trung Hoa, Nhật
Bản, Đại Hàn, bữa chiều là những thứ c̣n sót lại của
buổi trưa, hay cháo loăng, một món ḿ trộn
đơn giản, hay súp loăng cho khỏi đói dành cho
người chưa quen chỉ ăn ngọ.
[5] Tùy phiền năo (Upakleśa)
là các phiền năo phụ thuộc so với căn bản
phiền năo (tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến). Tùy phiền
năo bao gồm hai mươi món phiền năo, tức phẫn,
hận, phú (giấu giếm), năo (làm kẻ khác khó chịu,
khổ sở, quấy rối kẻ khác), tật (ghen ghét),
xan (keo kiệt), cuống (lừa dối), siểm (nịnh
bợ), kiêu (kiêu căng), hại (làm hại, gây tổn hại
cho kẻ khác), vô tàm (chẳng hổ), vô quư (chẳng thẹn),
hôn trầm, điệu cử (lao chao, xáo động), bất
tín (chẳng tin tưởng), giải đăi, phóng dật
(buông lung), thất niệm (đánh mất chánh niệm), tán
loạn, bất chánh tri (tri kiến chẳng chánh đáng).
[6]
Tam đức là ân đức, trí đức, và đoạn
đức.
[8] Vua Lưu Ly gọi đầy đủ
là Tỳ Lưu Ly, hoặc phiên âm là Tỳ Lô Trá Ca, là con trai
của vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) nước Kiều Tát
La (Kośala, nay là vùng Awadh
của tiểu bang Utattar Pradesh). Vua Ba Tư Nặc muốn
cưới một công chúa của gịng họ Thích Ca. Nhưng
gịng họ Thích Ca cao ngạo, cho là Ba Tư Nặc không xứng
lấy công chúa của họ, bèn chọn một tỳ nữ
xinh đẹp, nói dối cô ta là
con gái của vương tử Ma Ha Nam, đặt tên là Phược
Sa Bà Sát Lỵ (Vāsabhakhattiyā). Bà này trở thành vương
phi, sanh hạ hoàng tử Tỳ Lưu Ly. Khi c̣n bé, Tỳ Lưu
Ly về thăm quê ngoại ở thành Ca Tỳ La Vệ, bị người
hầu của
vương tộc Thích Ca khinh rẻ là con của kẻ hạ tiện. Tỳ
Lưu Ly
phẫn hận, thề sẽ báo thù. Lúc tṛn hai mươi
tuổi, Tỳ Lưu Ly đảo chánh, khiến vua cha phải
lưu vong rồi chết nơi quê người. Ông ta giết
chết anh ruột là thái tử Kỳ Đà (Jeta),
tự lên ngôi vua. Sau khi ổn định t́nh h́nh trong nước, Tỳ Lưu Ly xua quân tấn công
Ca Tỳ La Vệ, đức Phật ba lần xuất hiện
ngăn trở, khiến Tỳ Lưu Ly phải rút quân. Lần
cuối cùng, vẫn tiếp tục tấn công, tàn sát thành
Ca Tỳ La Vệ. Sau đó, vua hoang dâm tửu sắc, say rượu
ngủ vùi bên sông, bị nước lụt cuốn trôi. Nước
Kiều Tát La bị vua A Xà Thế nước Ma Kiệt Đà
thôn tính, xóa tên trên bản đồ.
[9] Cô này c̣n được phiên âm là Chiến
Giá Ma Na, hoặc Chiên Xà, hoặc Giá Ma Na, dịch nghĩa là
Đa Thiệt (lắm lưỡi). Theo Hưng Khởi Hạnh
Kinh, cô ta nhét một cái bát sắt vào bụng
buộc lại, giả vờ có mang. Khi đến vu cáo đức
Phật, đức Phật trả lời: “Chuyện này chỉ
có ta biết và cô biết rơ, chẳng cần phải
nhiều lời!” Đại chúng xôn xao, Đế Thích
đang đứng hầu quạt cho Phật, bèn hóa ra hai
con chuột chui vào áo cô ta, cắn đứt dây buộc, bát
sắt rơi đánh choang xuống đất, khiến cô
ta xấu hổ, phải tháo chạy trong nhục nhă.
[10] Tứ pháp ấn là các hành vô thường,
các lậu là khổ, các pháp vô ngă, và Niết Bàn tịch tĩnh.
[11]
Theo kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bổn
Nguyện Công Đức Kinh (do ngài Nghĩa Tịnh dịch
vào đời Đường), phuơng Đông lần
lượt có bảy vị Phật cũng v́ chúng sanh mà
phát nguyện tiêu tai, diên thọ, trừ bệnh khổ, nên
gọi chung là Dược Sư Thất Phật. Danh
xưng của các vị ấy như sau:
1. Thiện
Danh Xưng Cát Tường Vương Như Lai trong thế
giới Vô Thắng, cách thế giới Sa Bà bốn Hằng
hà sa quốc độ, phát ra tám đại nguyện.
2. Bảo Nguyệt
Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai ở thế
giới Diệu Bảo, cách thế giới Sa Bà năm Hằng
Hà sa quốc độ, cũng phát tám đại nguyện.
3. Kim Sắc Bảo
Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai ở thế giới
Viên Măn Hương Tích, cách thế giới Sa Bà sáu Hằng
hà sa quốc độ, phát ra bốn đại nguyện.
4. Vô Ưu Tối
Thắng Cát Tường Như Lai ở thế giới Vô
Ưu, cách thế giới Sa Bà bảy Hằng hà sa quốc
độ, phát ra bốn đại nguyện.
5. Pháp Hải
Lôi Âm Như Lai trong thế giới Pháp Tràng cách thế giới
Sa Bà tám Hằng hà sa quốc độ, phát ra bốn đại
nguyện.
6. Pháp Hải
Thắng Huệ Du Hư Thần Thông Như Lai trong thế giới
Thiện Trụ Bảo Hải, cách thế giới Sa Bà chín
Hằng hà sa quốc độ, phát bốn đại nguyện.
7. Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai (Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja),
trong thế giới Tịnh Lưu Ly (Vaiḍūryanirbhāsa), cách thế giới
Sa Bà mười Hằng hà sa quốc độ, phát ra
mười hai đại nguyện.
Xét ra, phần
cuối quyển thượng và quyển hạ của Dược
Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bổn Nguyện Công
Đức Kinh đại đồng tiểu dị so với
bản kinh Dược Sư do ngài Huyền Trang dịch.
Trong các bức
vẽ thangka của Phật giáo Tây Tạng, thường là
vẽ Dược Sư Phật ở trung tâm, màu xanh
dương đậm (màu ngọc lưu ly, tay cầm bát,
trong bát có quả Ha Lê Lặc (Harītaki), và nhánh cỏ thuốc chiêu liêu (Myrobalan,
ha tử), vây quanh là sáu vị Phật trên đây. Đôi khi,
phía trên Phật Dược Sư, vẽ thêm Thích Ca Mâu Ni Phật,
gọi là Bát Dược Sư Phật. Đôi khi họ chỉ
vẽ Dược Sư Phật đơn lẻ, hay vẽ
Duợc Sư Phật có hai vị Nhật Quang và Nguyệt
Quang Bồ Tát đứng hầu hai bên.
[12]
Có thể hiểu như điều kiện cần phải
có để tu tập thành công pháp này.
[13] Nhị Chướng là Sở Tri
Chướng và Phiền Năo Chướng. Tam Chướng
là Phiền Năo Chướng, Nghiệp Chướng và Báo
Chướng (đây là giáo nghĩa được nói trong
kinh Đại Bát Niết Bàn). Tuy vậy, sách Hoa Nghiêm Khổng
Mục (tức sách Hoa Nghiêm Kinh Nội Chương Môn Đẳng
Tạp Khổng Mục Chương của ngài Trí Nghiễm)
lại phán định ba loại Phiền Năo Chướng
như sau, và cũng gọi chúng là Tam Chướng:
1. B́ Phiền Năo Chướng (phiền
năo chướng ngoài da), tức là Tư Hoặc trong tam giới
như tham, sân, si… do đối ứng với lục trần
mà sanh khởi phiền năo.
2. Nhục Phiền Năo Chướng
(phiền năo chướng trong thịt), tức Kiến Hoặc,
như các kiến chấp đoạn, thường v.v…
đều do nội tâm sanh khởi phân biệt.
3. Tâm Phiền Năo Chướng tức
là căn bản vô minh. Do mê chân tâm mà có loại phiền năo
này, nên gọi là Tâm Phiền Năo Chướng.