Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng kư
Phần
5
大方等大集賢護經講記
慈法法師
Chủ giảng:
Pháp sư Từ Pháp
Địa điểm:
Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ
ngày 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt:
Đức Phong và Huệ Trang
5. Phẩm thứ hai:
Tam Muội Hạnh
(Kinh)
Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền
Hộ Phần, Tam Muội Hạnh Phẩm đệ nhị.
(經)大方等大集賢護分三昧行品第二。
(Kinh:
Kinh Đại
Phương Đẳng Đại Tập, Hiền Hộ
Phần, phẩm thứ hai: Tam Muội Hạnh).
Phẩm
này thuyết minh cơ sở của hành pháp tam-muội.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ
Tát Ma Ha Tát ngôn.
(經)爾時世尊。復告賢護菩薩摩訶薩言。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ
Bồ Tát Ma Ha Tát rằng).
Sau
danh tự Bồ Tát, thêm từ ngữ Ma Ha Tát v́ để phát khởi lợi ích rộng lớn, giác
ngộ rộng lớn kẻ hữu duyên.
(Kinh) Hiền Hộ! Nhược chư Bồ
Tát Ma Ha Tát, cụ hành tứ pháp, tắc năng đắc
thị hiện tiền tam-muội.
(經)賢護。若諸菩薩摩訶薩。具行四法。則能得是現前三昧。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát hành trọn bốn pháp, sẽ có
thể đắc hiện tiền tam-muội này).
Tức
là hành trọn đủ bốn pháp, sẽ có thể đắc
môn hiện tiền tam-muội này.
(Kinh)
Hà đẳng vi tứ? Nhất giả, bất hoại tín
tâm.
(經)何等爲四。一者不壞信心。
(Kinh:
Những ǵ là bốn? Một là chẳng hoại tín tâm).
Tín
tâm quyết định bất hoại, đó gọi là Tín
Nhẫn thành tựu, đối với pháp chẳng nghi ngờ,
lựa chọn thuận theo. Điều này quả thật
là chuyện chẳng thể nghĩ bàn! Bất hoại tín
tâm dẫn đường
cho hết thảy các pháp. Bởi lẽ, “Tín vi công
đức mẫu” (Tín là mẹ công đức). Trong giáo
ngôn của Thanh Văn Thừa, người đạt quyết
định tín là quả Tu Đà Hoàn; v́ lẽ nào? Đạt
được tấm gương pháp nhăn, soi rơ, nhận biết
tướng chân thật trong thế gian, cho nên sanh ḷng tin
chân thật. Ở đây, chúng ta tùy thuận tín tâm bất
hoại, lập thệ chọn lựa, ắt thấy
chư Phật, chẳng lùi sụt, chẳng đọa!
(Kinh)
Nhị giả, bất phá tinh tấn.
(經)二者不破精進。
(Kinh: Hai là
chẳng phá tinh tấn).
Đối
với pháp tắc, siêng khổ ǵn giữ, đạt tới
địa vị rốt ráo, xa ĺa giải đăi và buông
lung. Trong những người hành pháp hiện
thời, người giải đăi th́ nhiều, kẻ
buông lung đông đảo, cơ hội phá hoại tinh tấn
quá nhiều! Chúng ta có thật sự vận dụng sao cho mỗi thời,
mỗi khắc đều siêng khổ, thâm nhập tu tập
pháp tắc hay chăng? Cái được gọi là “buông
lung” chính là cái khiến cho tâm trí bị tán hoại trong tạp
duyên, chẳng có sức thâm nhập pháp tắc. V́ đối
với mỗi hữu t́nh, hai loại tạp duyên nơi chính ḿnh và người khác đều rất
lừng lẫy. Nếu chưa lắng đọng cái tâm,
trong tu pháp mà hơi buông lung, sẽ phá hoại tinh tấn. Nếu
chẳng hổ, chẳng thẹn, tất nhiên sẽ buông
lung!
(Kinh)
Tam giả, trí huệ thù thắng.
(經)三者智慧殊勝。
(Kinh:
Ba là trí huệ thù thắng).
Chẳng
nương cậy, chẳng đắm nhiễm, chẳng
tạo tác. Dùng cái tâm như thế để hành các pháp.
(Kinh)
Tứ giả, cận thiện tri thức. Hiền Hộ!
Thị vi Bồ Tát cụ túc tứ pháp, tắc đắc
thành tựu hiện tiền tam-muội dă.
(經)四者近善知識。賢護。是爲菩薩具足四法。則得成就現前三昧也。
(Kinh:
Bốn là thân cận thiện tri thức. Này Hiền Hộ!
Đó là Bồ Tát trọn đủ bốn pháp, sẽ
được thành tựu hiện tiền tam-muội).
“Thân
cận thiện tri thức” để trừ nghi hoặc
cho ḿnh lẫn người, là pháp tắc để trừ
nghi hoặc!
(Kinh)
Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát phục hữu tứ pháp,
năng cụ túc hành, tắc năng thành tựu hiện tiền
tam-muội. Hà đẳng vi tứ? Nhất giả, năi chí
ư sát-na thời, vô chúng sanh tưởng.
(經)賢護。菩薩摩訶薩。復有四法。能具足行。則能成就現前三昧。何等爲四。一者乃至於剎那時無衆生想。
(Kinh: Này Hiền
Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát lại có bốn pháp, có thể hành
trọn đủ, th́ sẽ có thể thành tựu hiện
tiền tam-muội. Những ǵ là bốn? Một là thậm
chí trong một sát-na, chẳng có chúng sanh tưởng).
Chẳng
hạn như chúng ta đi vào đạo tràng, hoặc xuất
gia, trợn mắt nh́n, ôi chao! [Thấy các
chuyện] đúng nhiều ngần ấy, sai nhiều
ngần ấy! Đó là chúng sanh tưởng! Đó gọi
là “tạp nhiễm chúng sanh”, khi dùng sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp để tiếp xúc, sẽ
đều là chúng sanh huyễn hiện. V́ thế, chúng sanh
là do tâm đắm nhiễm, chuyện ǵ cũng đắm
nhiễm, chỗ nào cũng đắm nhiễm. Do vậy,
tướng chúng sanh sanh khởi, tâm trí phiền năo, lắm
nỗi chán chường, mệt mỏi, v́ bị các phiền
năo tạp duyên che lấp, người ta sẽ sanh khởi
tướng trần lao. Nếu có chúng sanh tưởng, hăy nên tu tŕ như thế
nào? Nam-mô A Di Đà Phật [có công năng] hồi thí rộng
khắp, [khiến cho mỗi chúng sanh] đều nhập bổn
vị, tức là đều được văng sanh. Quang
minh thanh tịnh viên măn của A Di Đà Phật chiếu trọn
khắp, không đâu chẳng chiếu thấu. Do vậy, hết
thảy sự sai biệt của chúng sanh đă bị
ngăn che. Nói “ngăn che” tức là chẳng thấy
chúng sanh tướng, chỉ có sức niệm Phật vô ngại!
(Kinh)
Nhị giả, ư tam nguyệt nội, bất tạm thụy
miên.
(經)二者於三月內不暫睡眠。
(Kinh: Hai là
trong ba tháng, chẳng tạm ngủ nghê).
Hiện
thời, rất nhiều vị Bồ Tát trong một ngày một
đêm, một ngày hai đêm, hoặc bảy ngày bảy
đêm hành pháp. Tri kiến và tâm trí “bất tạm thụy
miên” (chẳng tạm ngủ nghê) biến thành mười
phần trọng yếu. Hoàn toàn chẳng phải
là nói quư vị ngủ hay không ngủ, mà là quư vị chớ
nên tạo tác tâm niệm như thế. Nhân duyên ngủ nghê
trong quá khứ đă thành thục, quư vị chẳng thể
không ngủ, không thể chẳng mệt, nhưng hiện tại
th́ sao? Đừng nên tiếp tục tạo tác nghiệp
và nghiệp tướng như thế nữa! Ở đây
là sự tu tŕ chẳng thể nghĩ bàn, là tu tập Phật
pháp chẳng thể nghĩ bàn. V́ quư vị chẳng thể
thay thế nghiệp quá khứ, chẳng thể ngăn trở
nó. Như hoàn cảnh y báo, sắc thân trong hiện tại của
chúng ta, cho đến phước đức và nhân duyên sai
biệt, đều là do
Dị Thục Quả chín muồi. Hăy ở trong nhân duyên ấy,
đừng nên tạo tác ngủ và mê ngủ, chớ nên
tăng mạnh nhân duyên ngủ nghê. Phải thấy thấu
suốt bản chất của nó. Trước kia, thầy
Đại Hùng đă nói trong khi hành Ban Châu như sau: “Hôn
trầm ở trong chỗ tối”, thật sự
cũng là một sự quan sát thuận duyên, ai nấy đều trở về bổn vị
(vị trí, địa vị vốn có của chính ḿnh)[1],
chẳng c̣n tạo tác nữa! Hễ hôn trầm xảy
đến th́ vẫn là hôn trầm, nhưng người ấy
chẳng c̣n chấp trước mạnh mẽ nữa,
cũng chẳng c̣n bài xích nó, nhưng cũng chẳng c̣n thuận
theo nó. Quan sát kỹ càng đúng lư như thế, lâu dần,
người ấy sẽ có thể thật sự vượt
thoát hôn trầm. Nhưng nếu quư vị nói “ta vun bồi hôn trầm”,
đó chẳng phải là điều tốt đẹp! “Vun
bồi” là ǵ? Tức là hễ hôn trầm xảy đến,
bèn dung túng nó. Nếu hôn trầm thật sự xảy đến,
chẳng dùng sức, chẳng thuận theo sức ấy, chẳng
ra sức tác động, tức là chẳng cự tuyệt,
chẳng nghênh tiếp. Đó là chỗ dụng công vừa
khéo!
(Kinh)
Tam giả, tam nguyệt kinh hành, duy trừ tiện lợi.
(經)三者三月經行唯除便利。
(Kinh: Ba là
suốt ba tháng kinh hành, chỉ trừ lúc bài tiết).
Hành
pháp Ban Châu yêu cầu thời gian khá dài là ba tháng. Trong ba
tháng, chỉ đi kinh hành, bỏ sạch các pháp khác, chỉ
trừ lúc bài tiết là làm chuyện khác.
(Kinh)
Tứ giả, nhược ư thực thời, bố thí
dĩ pháp, bất cầu danh lợi, vô vọng báo tâm. Hiền
Hộ! Thị vi Bồ Tát cụ túc tứ pháp, tắc
đắc thành tựu hiện tiền tam-muội dă.
(經)四者若於食時佈施以法。不求名利無望報心。賢護。是爲菩薩具足四法。則得成就現前三昧也。
(Kinh:
Bốn là nếu lúc ăn, bèn bố thí đúng pháp. Chẳng
cầu danh lợi, chẳng có tâm mong được báo
đáp. Này Hiền Hộ! Đó gọi là Bồ Tát trọn
đủ bốn pháp, sẽ được thành tựu hiện
tiền tam-muội).
Nếu
có thức ăn, nếu tạo tác nghiệp, đều
tương ứng với pháp tắc, cho nên đừng
tham đắm các mùi vị. Tôi thường nghe người
kinh hành Ban Châu nói: “Ối trời! C̣n đói quá đi! Lần
sau ăn một bữa thật no”. Tu hành theo
kiểu đó, sẽ có chướng ngại ngay trong hiện
đời, tự ḿnh xếp đặt chướng ngại.
“Bất
cầu danh lợi, vô vọng báo tâm” (Chẳng cầu
danh lợi, chẳng có tâm mong được báo đáp): Có
người kinh hành Ban Châu v́ để đạt
được tướng mạo tốt đẹp, hay
khí sắc tốt đẹp. Trong hành pháp này, mỗi bữa
cơm bèn ăn nhiều hơn, ăn các thứ có chất
dinh dưỡng, thứ này bổ, thứ kia bổ. Bổ
tới, bổ lui để làm ǵ cơ chứ? [Có kẻ]
kinh hành Ban Châu để người khác thấy ḿnh dễ
coi, có tinh thần, trang nghiêm, [đó là tu
hành v́] ham cầu danh lợi hư giả, đánh mất sự
thanh tịnh nơi tự tâm, chẳng thể tương ứng
với pháp. Hiện thời, kẻ như thế này nhiều
lắm: Trước khi đi kinh hành Ban Châu, chuẩn bị
rất nhiều thứ bổ dưỡng,
mong trong khi hành Ban Châu sẽ phấn chấn, tỏa sáng một
phen. Đấy là chẳng tương ứng!
(Kinh)
Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát phục hữu tứ pháp,
năng cụ túc hành, tắc đắc thành tựu hiện
tiền tam-muội. Hà đẳng vi tứ? Nhất giả,
khuyến tha kiến Phật.
(經)賢護。菩薩摩訶薩。復有四法。能具足行。則得成就現前三昧。何等爲四。一者勸他見佛。
(Kinh: Này Hiền
Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát lại có bốn pháp, nếu có thể
hành trọn đủ, liền được thành tựu
hiện tiền tam-muội. Những ǵ là bốn? Một là
khuyên người khác thấy Phật).
Đừng
xem nhẹ điều này! Khuyên người khác, sẽ chuốc
lấy phiền năo. Thường sẽ có nghĩa là: Quư vị
thấy người này là đúng, kẻ kia là sai; đó là
do khuyên người khác mà chuốc lấy phiền năo.
[Khuyên người khác trong pháp môn Tịnh Độ] là khiến
cho người khác biết hết thảy các pháp rốt
ráo chẳng có ǵ để đạt được, do
nhân duyên mà sanh, chẳng có thực chất. Khiến cho kẻ
khác thấy Phật, dù là trí huệ Pháp Thân Phật, hay Báo
Thân Phật, đều có phương tiện. Đừng
ô nhiễm tâm kẻ khác, đừng hủy diệt tự
tâm, đối với chuyện kẻ khác thấy Phật,
chẳng đắm nhiễm!
(Kinh)
Nhị giả, giáo nhân thính pháp.
(經)二者教人聽法。
(Kinh: Hai
là dạy người khác nghe pháp).
Khuyên người khác nghe pháp, quả thật
là công đức chẳng thể nghĩ bàn và quả báo thiện
xảo chẳng thể nghĩ bàn. Phá hoại pháp duyên của
người khác, diệt pháp nhăn của kẻ khác, chướng
ngại cơ hội xuất ly của người khác, thật
sự là đáng thương! Có lúc, chúng tôi khá
đau ḷng v́ chuyện này: Đối với cơ hội học
Phật của người tại gia hay xuất gia,
người khi
chưa thành thục vẫn khát vọng, mà kẻ gặp lúc
cơ hội thành thục lại thường khinh mạn.
Khinh mạn như thế chính là khinh mạn nhân duyên trong hiện
tiền của chính ḿnh! Hiện tiền trân quư nhất! Muốn
cầu pháp thù thắng nơi khác, muốn cầu duyên thù thắng
nơi khác, đúng là tâm trí thiếu sót, kém cỏi, chẳng
biết phát tâm. Các vị thiện tri thức ơi! Hăy nên
khéo quan sát!
(Kinh)
Tam giả, tâm vô tật đố.
(經)三者心無嫉妒。
(Kinh:
Ba là tâm chẳng ghen tỵ).
Ghen
tỵ là ǵ? Đối với chuyện này, mọi người
đều liễu giải khá dễ dàng! Tức là chẳng
thích thấy người khác nổi bật, chẳng thích
người khác tôn quư, chẳng thích người khác
được vui sướng hơn ḿnh, chẳng thích
người khác có công đức. Đấy là tội ác
trong thời Mạt Pháp. Tội ác phổ biến nhất của
chúng ta trong thời đại này là thường chẳng
có tâm tùy hỷ, thường bầu bạn với cái tâm
đố kỵ. Tâm trí hẹp ḥi, kém cỏi, chẳng có
tâm vui mừng khi người khác được lợi. Do
vậy, người như thế phải nên thường
tu tâm tùy hỷ, tâm tán thán, tâm cúng dường, tâm cung kính,
ḥng có thể miễn trừ cái tâm ghen tỵ ấy. Ghen tỵ
th́ không ǵ chẳng ngoài hẹp ḥi, không muốn người
khác hơn ḿnh, không ǵ chẳng ngoài xa ĺa cung kính, tâm trí chẳng
có lễ kính, tâm sanh kiêu mạn, chẳng ngoài [lư do] ít có ḷng tùy hỷ, thường hay thấy lỗi của
kẻ khác! Hễ kẻ nào dấy ḷng ghen tỵ, sẽ nói
chuyện rất khó nghe, rất dấm dẳng, rất hẹp
ḥi, giống như mây đen che phủ mặt trời, che
phủ quang minh của cái tâm!
(Kinh)
Tứ giả, khuyến tha phát Bồ Đề tâm. Hiền
Hộ! Thị vi Bồ Tát cụ túc tứ pháp, tắc
đắc thành tựu hiện tiền tam-muội dă.
(經)四者勸他發菩提心。賢護。是爲菩薩具足四法。則得成就現前三昧也。
(Kinh:
Bốn là khuyên người khác phát Bồ Đề tâm. Này
Hiền Hộ! Đấy là bốn pháp nếu Bồ Tát trọn
đủ, sẽ được thành tựu hiện tiền
tam-muội).
Càng
trọng yếu hơn nữa! Nếu chính ḿnh chẳng yêu
thích Bồ Đề tâm, khi khuyên người khác phát Bồ
Đề tâm, cũng sẽ được Bồ Đề
tâm huân nhiễm, huân tập, bèn hướng tới và thủ hộ Bồ
Đề tâm, thậm chí thành tựu [Bồ Đề tâm].
Do vậy, khuyên phát Bồ Đề tâm trọng yếu nhất.
Dù khuyên chính ḿnh phát, hay khuyên người khác phát, chuyện khuyên phát Bồ Đề
tâm rất quan trọng!
(Kinh)
Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát phục hữu tứ pháp
thành tựu tam-muội. Hà đẳng vi tứ? Nhất giả,
tạo Phật h́nh tượng, khuyến hành cúng dường.
(經)賢護。菩薩摩訶薩。復有四法成就三昧。何等爲四。一者造佛形像。勸行供養。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát lại có bốn pháp
thành tựu tam-muội. Những ǵ là bốn? Một là tạo
Phật h́nh tượng, khuyên hành cúng dường).
Chẳng
hạn như chúng ta trong mấy ngày ngắn ngủi học
tập kinh Hiền Hộ này, mọi người đă
không ngừng chăm bẵm trang nghiêm tượng Phật.
Tuy chẳng phải là chuyện to lớn ǵ, nhưng nó thật
sự có tác dụng. Quư vị chẳng tin, có thể vẽ
một bức tượng vẽ, hoặc tưởng nhớ
một bức tượng Phật, tạo nhân duyên nơi tượng
Phật ấy, hăy có tâm tùy hỷ, cúng
dường, tán thán cho nhiều, đương nhiên tốt
nhất là dùng bức tượng nào khiến cho quư vị
ưa thích nhất. Tượng nào có thể khiến cho
người ta vui thích? Có người th́ tượng vẽ
trên vải thô đă có thể khiến cho người ấy
hoan hỷ. Có người tượng rất tinh xảo mới
có thể khiến cho người ấy hoan hỷ. Có người
th́ tượng phải rất oai đức trang nghiêm, có
người tượng rất trân quư mới có thể khiến
cho người ấy hoan hỷ. Bất luận loại
tượng nào, không ǵ chẳng nhằm đánh thức niềm hoan hỷ và trí
huệ trong tâm linh của chúng ta. V́ thế, công đức
tạo tượng chẳng thể nghĩ bàn, như trong
kinh Địa Tạng đă nói tạo tượng Địa
Tạng Vương có công đức như thế nào, có thể
diệt tội Ngũ Vô Gián v.v… Tạo hết thảy các
tượng Phật khác cũng giống như thế. V́ tạo
tượng, ắt phải dụng tâm, từ cái tâm mà tạo
tượng. Đó gọi là “duyên Phật thành Phật”,
chúng ta tạo tượng Phật th́ trong tâm có Phật. Chẳng có Phật th́ tạo
tượng để làm ǵ? Do vậy, công
đức tạo tượng chẳng thể nghĩ bàn!
“Khuyến
hành cúng dường”, tạo tượng để làm
ǵ? Khiến cho hữu t́nh trong thế gian cúng dường
các pho tượng, khiến
cho chúng sanh vun trồng phước đức, hoặc sẽ
như thật biết tự tâm, thành tựu lợi ích
trong Phật pháp.
(Kinh)
Nhị giả, thư tả thị kinh, linh tha độc
tụng.
(經)二者書寫是經。令他讀誦。
(Kinh:
Hai là biên chép kinh này, khiến cho người khác đọc
tụng).
Nay
chúng ta in bản kinh này ra, lúc vừa mới từ Trầm
Dương đưa tới chùa Bảo An, sau đó, đem hai ba bản
đến đây, mọi người trông thấy rất
hoan hỷ. Nhưng hiện thời đă có nhiều, tôi thấy kinh sách đặt
khắp nơi, nhưng cũng chẳng có ai xem! Hễ
có nhiều, tuy kinh sách là pháp bảo vô thượng, cũng
chẳng cho là quư báu nữa! V́ trong quá tŕnh chúng ta học tập
lần này, đều là tùy ư mà ngồi, một là khá tự
nhiên, hai là cũng khá thoải mái, nhưng khi mọi người
bước ra, tốt nhất là đừng nên bước
qua kinh điển, hăy đi nhiễu quanh sẽ tốt
hơn! Đó là chuyện có ư nghĩa, nhất định
phải chú ư một chút. Nếu không, bản thân chúng ta sẽ
phạm lỗi khinh pháp!
(Kinh)
Tam giả, mạn pháp chúng sanh, giáo linh phát tâm.
(經)三者慢法衆生。教令發心。
(Kinh: Ba là dạy
kẻ khinh mạn pháp hăy phát tâm).
“Mạn
pháp” là đối với pháp, chẳng sanh hoan hỷ.
Ngày hôm qua, có mấy người công nhân quy y, tôi bảo họ:
“Các vị kiếm được món tiền này có thể
tiêu hết, nhưng nếu có thể đến quy y, học
Phật, kết nhân duyên với Phật pháp, đúng là có ư
nghĩa hơn kiếm tiền nhiều lắm. Lao động
dựng nhà cửa cho đạo tràng, làm chút chuyện cho
Tam Bảo, quư vị có phước đức và nhân duyên,
nhưng trọng yếu nhất vẫn là Tam Quy Y. V́ có nhân
duyên Tam Quy Y, sẽ có thể thật sự vào nhà Như
Lai, thật sự có thể học Phật”. Chẳng biết
bản thân nữ chúng trong Hằng Dương Am có sức
chiêu cảm to cỡ nào mà ảnh hưởng khá nhiều
công nhân đến học Phật. Chúng ta chẳng cần
biết công nhân tốt hay xấu, tánh cách như thế nào,
ăn ǵ, dùng ǵ, chẳng cần bận tâm, nhưng họ
có thể đến quy y, điều ấy thật sự
chẳng thể nghĩ bàn, đúng là chẳng thể
nghĩ bàn! Cảm động rất nhiều công nhân
như thế đến học Phật, chuyện này có lợi
ích chẳng thể nghĩ bàn. Lợi ích chẳng thể
nghĩ bàn ǵ vậy? Khuyên kẻ chưa tin sanh ḷng tin, chẳng
thể nghĩ bàn! Khiến cho kẻ mạn pháp, kẻ chẳng
biết pháp sanh ḷng tin. Các vị thiện tri thức ơi!
Chuyện này c̣n hơn dựng đạo tràng. Nếu một
đạo tràng mà chẳng có ai đến tu tập pháp, đạo
tràng ấy có ư nghĩa ǵ hay không? Dựng một vạn gian nhà
mà chẳng có pháp tắc, chẳng có Phật pháp, chẳng
tu tập Phật pháp, há có ư nghĩa ǵ chăng? Chúng ta chẳng
tu tập, lại có ư nghĩa ǵ hay không? Nhưng có một
người tới quy y, tùy thuận đạo tràng của
ta, đó là cơ chế tu pháp thành thục. V́ thế, “mạn
pháp chúng sanh, giáo linh phát tâm” (dạy cho chúng sanh khinh mạn
pháp phát tâm) chính là pháp tắc huân tu cụ thể phải
nên tu tập đối với chúng ta là những kẻ
đang mong tu tập Thập Phương Chư Phật Tất
Giai Hiện Tiền tam-muội trong lúc b́nh thời. Bốn
pháp trong phần sau này khá dễ thực hiện, tạo
tượng, cúng dường, biên chép, đọc tụng,
khuyên người khinh mạn pháp phát Bồ Đề tâm,
cho đến điều thứ tư kế tiếp là “hộ
tŕ chánh pháp, linh đắc cửu trụ” (hộ tŕ
chánh pháp, khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài).
(Kinh)
Tứ giả, hộ tŕ chánh pháp, linh đắc cửu trụ.
(經)四者護持正法。令得久住。
(Kinh:
Bốn là hộ tŕ chánh pháp khiến cho tồn tại lâu
dài).
Ai
tới hộ tŕ? Chỗ nào có
chánh pháp? Do một niệm thủ hộ tâm trí Bồ Đề
của quư vị, duy tŕ đạo tràng, đạo tràng ấy
sẽ có chánh pháp, quư vị đang thủ hộ chánh pháp.
Chúng ta mê mất Bồ Đề tâm, lo ǵn giữ mấy
căn nhà, chăm bẵm mấy câu [xă giao] “chào ông, chào
bà!” Đó là chẳng có chánh pháp, chẳng có chánh pháp để
có thể đạt được! Chúng ta có thể thật
sự thủ hộ tâm trí Bồ Đề của chính
ḿnh, duy tŕ đạo tràng, duy tŕ các hữu t́nh bên cạnh
ḿnh hay không? Có như thế th́ quư vị mới thật sự
là người thủ hộ chánh pháp, khiến cho chánh pháp tồn
tại lâu dài [trong thế gian]. Ai đến trụ lâu dài?
V́ sao Phật pháp có thể trụ lâu dài? Trụ ở
nơi đâu? Dùng vào nơi đâu? Một niệm trong hiện
tiền chọn lựa Bồ Đề tâm, chẳng sợ,
chẳng hăi!
(Kinh)
Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát cụ túc tứ pháp tắc,
đắc thành tựu hiện tiền tam-muội dă.
(經)賢護。是爲菩薩具足四法則。得成就現前三昧也。
(Kinh: Này Hiền
Hộ! Đó là Bồ Tát trọn đủ bốn pháp tắc,
sẽ được thành tựu hiện tiền tam-muội).
Đấy
là các thứ pháp tắc bổ trợ Ban Châu tam-muội hiện
tiền. Từ bốn pháp ấy, đức Thế Tôn
tuyên nói các điều kiện trọn đủ. Các điều
kiện ấy [thật ra] chẳng phải là điều
kiện, chỉ là thọ dụng ở chỗ nào! Rất
nhiều người nói: “V́ sao niệm Phật chẳng chứng
tam-muội?” Đầu óc quư vị đầy ắp vọng
tưởng, hành vi hư giả, làm sao có thể chứng
tam-muội cho được? Tâm trí đắm nhiễm, hễ
gặp chuyện liền nhiễm vào đúng, nhiễm vào
sai, nhiễm vào thiện, nhiễm vào ác, làm sao có thể thấy
chư Phật cho được? Chư Phật là đức
tướng nơi tự tâm thanh tịnh, làm sao quư vị
có thể thấy được? Do đó, tâm chẳng tự
thấy Phật Lập Hiện Tiền. Hễ hiểu rơ tự
tâm, do biết tự
tâm thanh tịnh, sẽ được
thấy chư Phật.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa,
nhi thuyết kệ viết:
(經)爾時世尊爲重明此義。而說偈曰。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, đức Thế Tôn v́ nêu tỏ nghĩa này lần
nữa, bèn nói kệ rằng).
Sau
phần Trường Hàng là Kệ Tụng; đây là cách thức
thông thường trong kinh điển, nhất là kinh điển
Đại Thừa. Kệ Tụng dùng các lời lẽ
đơn giản, rơ ràng hơn để nhắc lại
nghĩa ấy, khiến cho tâm trí của chúng ta sáng suốt.
(Kinh)
Nhữ đẳng đương trụ Phật pháp trung,
vật tàng chánh ngôn cập ngă pháp. Niệm cần, tinh tấn,
trừ thụy cái, tam nguyệt bất tọa, duy kinh hành.
(經)汝等當住佛法中。勿藏正言及我法。念勤精進除睡蓋。三月不坐唯經行。
(Kinh: Các ông
nên trụ trong Phật pháp, đừng giấu chánh ngôn và
Phật pháp, niệm siêng, tinh tấn, trừ ngủ nghỉ,
ba tháng chẳng ngồi, chỉ kinh hành).
Hiện
thời, trong nước có rất nhiều người
hành pháp Ban Châu, nhưng có khi là có lạy, có ngồi, tuy mang
tên là Ban Châu, nhưng là một thứ biến tướng của
hành pháp Ban Châu. Nếu dựa theo kinh giáo để nói, phải
nên là Thường Lập tam-muội (tam-muội thường
đứng), tức là kinh hành chẳng lười nhác, chẳng
ngồi, chẳng nằm. Đó chính là một yêu cầu cụ
thể trong hành pháp Ban Châu tam-muội.
Có
người nói “không cho ngồi xuống” th́ quá tàn khốc,
có thể cho người ấy nghỉ ngơi! Trong quá khứ,
người hành pháp Ban Châu có đai treo, có thể treo ḿnh
vào đó để nghỉ ngơi dăm ba phút, đó gọi
là “nghỉ ngơi mà chẳng nghỉ ngơi”, v́ chẳng
thể ám thị chính ḿnh nghỉ ngơi, có thể tạm
dừng [kinh hành] một lát. Có
khi, hễ cái tâm được ám thị, sẽ nẩy
sanh kết quả nghỉ ngơi, sẽ kéo dài thời gian
hôn trầm và mê mất. Do vậy, khi thân thể đă đạt
đến cực hạn, có thể chuyển ḿnh đến
chỗ treo thân thể một chốc, thư giăn một
chút cho thân thể khỏi hư nhược, nhưng chớ
nên ám thị chính ḿnh nghỉ ngơi!
Hành
pháp này lấy “không nghỉ ngơi” làm chuẩn tắc,
vừa khéo là nhân loại chúng ta vẫn chưa dám vượt
qua vấn đề nghỉ ngơi này. Nghỉ ngơi là sự
điều chỉnh nẩy sanh trong tâm trí đối
đăi, có thể nghĩ bàn của chúng ta đối với
sự mệt nhọc, mà cũng là quá tŕnh điều chỉnh
đối đăi. Chẳng nghỉ ngơi chính là trạng
thái chẳng tạo tác, an phận, thuộc về bổn
phận. Do vậy, trong khi trao đổi về hành pháp Ban
Châu, chuyện được bàn luận nhiều nhất
là những thứ được tạo thành bởi nghỉ
ngơi và phiền năo. Cái được gọi là “phiền
năo” tức là v́ đói bụng, mệt nhọc, nhọc
nhằn chẳng thể khống chế được mà
tạo thành khổ năo. Một điều
khác là “ám thị nghỉ ngơi”, chẳng hạn
như tự nhủ: “Ôi trời ơi! Người khác chẳng
ở đây, ta nghỉ một chút thôi!” Thật sự là lừa
ḿnh, dối người. “Dối” tức là ảnh
hưởng tới lợi ích chân thật nơi hành pháp Ban
Châu của chính ḿnh, tức lợi ích của Thập
Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập
[tam-muội]. Quư vị lăng phí thời gian của chính ḿnh.
Nhưng trong tâm trí của bọn phàm phu chúng ta, thường
là khó thể lựa chọn. Hễ nhắc đến vấn
đề “không nghỉ ngơi”, sẽ sanh tâm sợ hăi, v́
từ lâu đă có sự so sánh đối đăi giữa
siêng khổ tạo tác và nghỉ ngơi, cho nên muốn cho một người không
nghỉ ngơi rất khó! Thật ra, thường là khi
chúng ta thật sự lựa chọn một chuyện, rất
có thể là chẳng có ư niệm “không nghỉ ngơi”. “Nghỉ
ngơi” là một loại tri kiến, tức là một loại tri kiến
đối đăi khiến cho chính ḿnh mù quáng, mà cũng là
phương pháp cân bằng tâm lư của chính ḿnh nẩy sanh
trong tâm trí tư duy của thường nhân đó thôi. Nó chẳng
thật, v́ hết thảy các pháp chẳng có tự tánh.
Trong pháp nghỉ ngơi ấy, há có ǵ là tự tánh?
(Kinh)
Thực thời quảng thuyết nhi thí tha, tuyên
dương chư Phật vô tỷ pháp.
(經)食時廣說而施他。宣揚諸佛無比法。
(Kinh: Khi
ăn, rộng nói thí kẻ khác. Tuyên dương pháp chư
Phật khôn sánh).
Khi
chúng ta hành tŕ như pháp, nói “như pháp” chính là khởi
tâm động niệm của chính ḿnh trong mỗi thời
khắc, ngay cả trong lúc ăn uống, cũng đều
chẳng lăng quên pháp tắc. Hiện thời, trong thời khóa,
dẫu chỉ cho nghỉ mười phút, rất nhiều
người sẽ đều buông lung trong chốc lát. “Buông
lung” là như thế nào? Tán hoại sự duy tŕ học
Phật và học pháp của chính ḿnh, ngay lập tức tán
gẫu, nói những chuyện chẳng liên can. Thứ này
hay, thứ kia dở ngay lập tức xuất hiện!
Trong thời gian mười phút, luôn tận lực lợi
dụng mọi cơ hội để gieo ḿnh vào thế tục,
dấn thân vào tạp duyên, huống hồ c̣n sa đà vào
đó! Trước kia, tôi gặp một số vị sư
phụ xuất gia, hoặc cư sĩ, trong lúc tu tập, hễ
có thời gian liền ngủ. Tôi hỏi v́ sao phải ngủ
như thế? Họ nói chẳng được nghỉ
ngơi! Dùng toàn bộ thời gian rảnh rỗi để
ngủ, nhưng có thể nghỉ ngơi hay không? Bất
quá là một thứ ám thị và cân bằng tâm lư đó thôi!
Nếu như vậy mà có thể nghỉ ngơi thật sự,
chúng ta sẽ ngủ cả vạn năm! Như thế th́
thật sự có ư nghĩa hay không? Các vị thiện tri thức
ơi! Chớ nên tự dối gạt
ḿnh!
(Kinh)
Bất cầu danh văn cập lợi dưỡng, vô sở
trước cố đắc thử Thiền.
(經)不求名聞及利養。無所著故得此禪。
(Kinh: Chẳng
cầu tiếng tăm và lợi dưỡng, do chẳng chấp
trước đắc Thiền này).
“Bất
cầu danh văn cập lợi dưỡng” (Chẳng
cầu tiếng tăm và lợi dưỡng): Trong hành pháp
Ban Châu, tiếng tăm và lợi dưỡng là mối nguy
hại to lớn tột bậc cho cái tâm. Đọa lạc
trong ấy, bị tổn hại trong t́nh huống ấy,
khá dễ nẩy sanh. V́ sao vậy? Pháp ấy mạnh mẽ,
có sức nối kết mạnh mẽ!
Hễ chẳng chú ư đôi chút, tâm mạn, tâm kiêu sẽ sanh
khởi, gây nguy hại cho ḿnh lẫn người. Nhưng
nếu là cái tâm lợi tha, tâm chẳng v́ lợi dưỡng,
ắt sẽ được thân tâm điều phục, mềm
mỏng, trọn đủ bi và trí.
“Vô
sở trước cố, đắc thử Thiền”
(do chẳng chấp trước nên đạt được
môn Thiền này): Lợi ích thật sự của pháp này chính là lưu xuất
quang minh và thiện xảo từ tâm trí tịch diệt.
(Kinh)
Mạc sanh tật đố cập sân khuể,
đương tư giải thoát chư dục tâm, nhạo
thử tam-muội cầu trụ giả, cần niệm vô
giải nhĩ năi đắc, kim sắc bách phước
trang nghiêm tướng, đoan chánh viên măn nhược hoa
vinh.
(經)莫生嫉妒及瞋恚。當思解脫諸欲心。樂此三昧求住者。勤念無懈爾乃得。金色百福莊嚴相。端正圓滿若華榮。
(Kinh: Đừng
sanh ghen tỵ và nóng giận, hăy nghĩ giải thoát các dục
tâm. Ưa thích, cầu trụ tam-muội này, siêng niệm,
chẳng lười, bèn đạt được. Tướng
sắc vàng trăm phước trang nghiêm,
đoan chánh, viên măn, đẹp rạng rỡ).
Đấy
là tỷ dụ tướng của đức Thế Tôn.
(Kinh)
Thế gian nhạo kiến quang minh thể, thường
đổ chư Phật tại hiện tiền.
(經)世間樂見光明體。常睹諸佛在現前。
(Kinh:
Thế gian ưa thấy thể quang minh, thường thấy
chư Phật đang hiện tiền).
Niệm
tướng hảo của Phật chính là phương tiện
tu tŕ để quán sắc tướng. Trước kia, tôi
đă theo một vài vị thiện tri thức học
phương pháp như vậy, rất dễ thấy Phật
tướng, rất dễ dàng, tột bậc dễ dàng!
Nhưng rất nhiều người tu theo pháp ấy lại
cho là rất khó, chẳng biết v́ sao? Do vấn đề
trong khái niệm, hay là có vấn đề về tri kiến?
Hay là vấn đề về nhân duyên? Chẳng hạn
như muốn quán tướng của Như Lai, quư vị
đảnh lễ một trăm lẻ tám lần, tướng
ấy sẽ hiện tiền. Chỉ cần quư vị cung
kính, từ đầu đến cuối đều như
nhau, liên tục lễ bái. Không tin th́ chúng ta có thể thí nghiệm.
Đối trước một bức tượng khá đúng
pháp, trang nghiêm, quư vị hăy như thật lễ bái, ca ngợi.
Cũng có nghĩa là trong khi lễ bái, trong tâm thốt lên lời
ca ngợi, cho đến nói ra miệng
cũng được. Khi lễ A Di Đà Phật, niệm
Nam-mô A Di Đà Phật cũng được, hoặc lạy Dược Sư Phật, niệm
Dược Sư Phật. Lạy vị Phật nào, niệm
vị Phật đó, chỉ cần quư vị nhất quán từ
đầu đến cuối, hoặc bốn mươi
chín lần, hoặc hai mươi mốt lần, thậm
chí bảy lần. Nếu là người
siêng ṛng, người thủ hộ th́ cũng được
thấy. “Được thấy” chính là thấy mà
như chẳng thấy; đó chính là “được thấy”.
Thấy
Phật chẳng khó, giống như chúng ta thấy các vật
khác. Sự vật đều do tâm mà hiện. Các thứ
khác dễ thấy, v́ sao chẳng dễ thấy Phật?
Trong tâm chúng ta có sợ hăi, trong tâm có khoảng cách, trong tâm
chẳng có sự liên tục. Mọi người có thể
thí nghiệm nhé! Hăy t́m một bức tượng Phật
mà quư vị ưa thích nhất. Trong hoàn cảnh đơn
nhất (tức là chỉ xếp đặt một nơi
chỉ thờ bức tượng ấy), liên tục lễ
một trăm lẻ tám lạy. Quư vị nghiêm túc lễ
bái, ca ngợi, cúng dường vị Phật ấy, có thể
làm như thế đó. Tôi đă gặp rất nhiều
người nói: “Ôi chao! Tôi niệm Phật đă nhiều
năm ngần ấy, chẳng thấy Phật lần nào cả!”
Quư vị chẳng có tí xíu tâm cổ vũ nào, một tí tâm
tiếp nối (tâm liên tục nghĩ tưởng Phật)
cũng chẳng có, một tí tâm ca ngợi cũng chẳng
có luôn! Như thế th́ làm sao có thể hữu dụng cho được? Nêu một thí dụ
đơn giản nhất, tôi chẳng khen ngợi ḿnh, mà
cũng chẳng phỉ báng ḿnh. Nếu tôi thấy diệu
tướng của Phật, chỗ gia tŕ trong công đức
do thấy Phật là tuyệt đối chẳng tiếc
nuối tiếc bất cứ vật ǵ để cúng
dường. Lúc tôi nghèo túng nhất, thật sự
là áo đang mặc cũng cởi ra để cúng dường
Phật. Ở đây chẳng phải là nói hư giả,
tuyệt đối chẳng có bất cứ do dự nào!
Đó chẳng phải là vấn đề có thiện
căn hay không, mà là quư vị có tâm trí vui thích, ngưỡng
mộ, thủ hộ, cúng dường như thế hay
không? Nếu chẳng có tâm trí ấy, làm sao quư vị thấy
Phật cho được? Nếu quư vị gặp Phật
mà c̣n suy nghĩ tính trù trừ: “Con cúng dường Ngài có
thích đáng hay không? Con lễ Ngài có hợp lẽ hay không?”
[Nếu cứ băn khoăn, so đo như thế], làm
sao có thể thấy Phật cho nổi?
Thấy
Phật chẳng khó, chỉ do tâm hiện. Cái tâm thành kính,
liên tục, nhất định sẽ trông thấy. Đó chẳng
phải là nói cao minh đâu nhé! Như trong phần văn tự
thuộc phần trước
đă nói, tâm chẳng thể tự thấy, cho nên Như
Lai chính là tâm ta! V́ cớ sao vậy? Tâm làm Phật, tâm là Phật.
V́ sao chúng ta có thể thấy chúng sanh tướng, mà chẳng
thể thấy Phật
tướng? Trên thực tế, có bất cứ chúng sanh
tướng nào chẳng phải là Phật tướng
ư? Tất cả các tướng mà ta được thấy và
Phật tướng lại có ǵ khác biệt? Chỉ do tâm
hiện, chẳng có chút nào khác biệt! Nhưng chúng ta có thể thấy chúng sanh
tướng, v́ sao chẳng thể thấy Phật tướng?
Có thể thấy các thứ tướng tạp uế,
tướng đắm nhiễm, tướng điên đảo,
v́ sao chẳng thể thấy Phật
tướng? Chư vị thiện tri thức ơi! Nhất
định phải cổ vũ, khích lệ chính ḿnh, hăy tu
tập pháp tắc ở đây! Nếu quư vị chẳng
tu tập, cứ lo nghe kẻ khác nói cho lắm vào, nói chung
là chẳng tương ứng!
Trước
kia, có một lần tôi nói: “Tối hôm nay tôi niệm Quán Thế
Âm Bồ Tát. Nếu chẳng được trông thấy,
tôi sẽ nhảy lầu”. Bức bách chính ḿnh một phen!
V́ sao? Nay ác báo của tôi đă chín muồi. Chẳng thấy
Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ chẳng thể tiêu trừ
nghiệp duyên ấy, hoặc là chết phứt đi, hoặc
thấy Quán Âm. Niệm Quán Thế Âm Bồ Tát một
hơi hai tiếng đồng hồ như thế, Quán Thế
Âm liền thuận theo cơ nghi mà hiện tướng. Chẳng
phải là nói tôi hay ho ǵ, mà là cách vận dụng mạnh mẽ!
Nếu tâm trí của quư vị chẳng có khát vọng
như thế, làm sao có thể thấy cho được?
Tôi nêu ra thí dụ này, chẳng nhằm nêu ra pháp tắc ấy
[để xúi giục quư vị làm theo
cách cực đoan ấy], mà có ư nói: Quư vị nhất định
phải khích lệ chính ḿnh, [đặt ḿnh vào hoàn cảnh]
chẳng c̣n có đường lui! Nếu quư vị c̣n có đường
lui, làm sao có thể thấy Phật cho được? Quư vị
có đường lui, sẽ thấy tạp duyên và tạp
nghiệp trong hiện tiền của chính ḿnh. Người
học Phật hiện thời có quá nhiều đường
lui, không chỉ là một con đường lui, mà chắc là có cả
tám trăm con đường lui! Vậy th́ sẽ chẳng
thể thấy Phật được! Chẳng sanh quyết
định đối với pháp mà! Tôi kể với mọi
người chuyện này, chẳng phải là cổ vũ mọi người làm giống như tôi,
mà là nêu một thí dụ cho quư vị. Thật ra, chuyện
tôi làm chẳng có ư nghĩa thực chất, cũng chẳng
phải là tôi khoe khoang nguyện vọng của chính ḿnh.
Chuyện đó cũng chẳng có ư nghĩa cho hết, bởi
lẽ ai cũng đều có thể làm được! Ai
nấy đều làm như vậy, pháp tắc b́nh đẳng,
chân thật mà!
(Kinh) Văng cổ chư Phật cập
tương lai, hiện tại nhất thiết nhân trung thắng,
nhữ đẳng nhất tâm cung kính lễ, diệc thường
chuyên niệm, tu cúng dường.
(經)往古諸佛及將來。現在一切人中勝。汝等一心恭敬禮。亦常專念修供養。
(Kinh: Chư
Phật xưa, nay, và tương lai, trong hết thảy người thù thắng
nhất, các ông nhất tâm cung kính lễ, cũng
thường chuyên niệm, tu cúng dường).
Lễ
bái và cúng dường, rất là trọng yếu! Sự cúng
dường ấy không chỉ là nói suông, mà là từ tâm
địa sanh khởi sự ngưỡng vọng và yêu
thích. Có người nói: “Con người tôi tham tiền, keo
kiệt, muốn thấy Phật, được hay không?”
Nhất định là không được! Quư vị c̣n có
cái giữ lại, tức là c̣n giữ chặt nghiệp
tướng, quư vị sẽ thường trông thấy nghiệp
tướng của chính ḿnh, chẳng thấy thân tướng
diệu sắc thanh tịnh của chư Phật.
Tôi thường nghe một số Bồ Tát nói: “Ôi chao!
Người khác nói họ thấy Phật, thấy Bồ
Tát này nọ. Tôi hằng ngày lạy
Phật, niệm Phật, cớ sao chẳng thấy?”
Trước hết là do chẳng có cái tâm cung kính. Bản
thân những câu nói đó chính là chẳng có tâm cung kính. V́ sao?
Nếu quư vị thật sự dốc ḷng cung kính, căn bản
là sẽ chẳng ăn nói kiểu đó! Quư vị sẽ
tôn trọng cái tâm của chính ḿnh, dù thấy hay chẳng thấy,
cái tâm cung kính đă là chân thật. Tâm cung kính sẽ chẳng
có chuyện đối đăi [thấy ḿnh đă] dốc
ḷng, làm sao có chuyện quư vị suy xét chính ḿnh có được
hồi báo hay là không! Do vậy, đánh mất cái tâm cung kính, th́ đa số là lợi ích và hiệu
quả sẽ bị khuất lấp!
(Kinh)
Nhữ nhược cúng dường bỉ chư Phật,
ưng dĩ hoa, hương, cập đồ hương,
huệ thí mỹ thực khởi tịnh tâm, chứng thử
tam-muội thù phi nan!
(經)汝若供養彼諸佛。應以華香及塗香。慧施美食起淨心。證此三昧殊非難。
(Kinh: Nếu
ông cúng dường chư Phật ấy, nên dùng hoa,
hương và hương bôi, khéo thí món ngon, khởi tâm
tịnh, chứng tam-muội ấy thật chẳng khó).
Ở
đây, đức Thế Tôn bảo chúng ta: Chẳng phải
là chuyện khó! V́ quư vị kiền thành, điều phục,
nhu ḥa, liên tục ca ngợi, cúng dường, quan sát, tùy thuận,
trong lúc ấy, tuy không thấy chư Phật, Phật
đă hay biết. V́ lẽ nào? Do tâm trí điều ḥa, nhu
thuận, cung kính cúng dường, tâm trí tự đạt
được điều phục, nhu thuận. Dẫu
chưa thấy Phật mà lợi ích do thấy Phật
đă hiện tiền! Nếu quư vị chẳng cầu
được báo đền th́ được rồi! Có
người nói: “Tôi ở đây ngoài lễ bái, tán thán, ca ngợi,
c̣n có cái tâm cầu thấy Phật, có được hay
không?” Hễ dấy lên cái tâm ấy, hăy buông xuống, sẽ
là như thật cúng dường, tán thán, tùy thuận.
Đó là có ư nghĩa. Nếu quư vị lạy Phật hai lạy,
đă nói: “Phật ơi! Sao Ngài chẳng hiện tiền?”
Đó là quư vị nói với ai vậy? Nói điều kiện
ǵ vậy? Dẫu rải các cánh hoa ở đó, vẫn là người khác mua cho quư vị,
quư vị ngỡ chính ḿnh có thể thấy Phật ư?
Quư vị có một phần tâm chân thành thật sự hay
chăng? Chân thành là ǵ? Nó sanh khởi từ tâm trí chẳng đối
đăi! Trong trước tác của Ngài, Thiện Đạo
đại sư đă nói: “Nếu là người niệm
Phật, dù thấy, hay không thấy [Phật hiện thân],
đều biết ân Phật”. Chẳng thấy Phật
cũng là Phật ân; thấy Phật cũng là Phật ân. Ở
đây là tâm cung kính, tâm chân thật, tâm liên tục! Nếu
quư vị chẳng có các tâm như thế, sẽ giống hệt
như buôn bán, thời thời khắc khắc tính toán
được mất, làm sao có thể thấy Phật cho
được? Cái tâm ô nhiễm đă che lấp chính ḿnh mất
rồi!
(Kinh)
Chư Phật tháp tiền tác chúng nhạc, loa, cổ, chinh,
đạc, chư diệu âm, hoan hỷ dũng dược
nan xưng lượng, tất đương thành tựu
thử tam-muội.
(經)諸佛塔前作衆樂。螺鼓鉦鐸諸妙音。歡喜踊躍難稱量。必當成就此三昧。
(Kinh:
Trước tháp chư Phật, tấu các nhạc. Ốc[2],
trống, chiêng, linh, các diệu âm. Hoan hỷ, hớn hở,
khó tính kể, ắt sẽ thành tựu tam-muội này).
Đối
trước Phật, Bồ Tát, chúng ta có thật sự
vui thích cúng dường hay không? Công khóa đều chẳng
muốn tham dự. Niệm vài câu Nam-mô A Di Đà Phật
đă nói: “Niệm nhanh lên cho xong!” Tán Phật, lễ mấy
lạy liền cảm thấy mệt mỏi, nhọc nhằn,
chẳng muốn lạy nữa. Vậy th́ làm sao có thể
thấy Phật cho nổi? Quư vị tán Phật để
thân tâm của chính ḿnh an lạc đấy chăng? Quư vị
tán Phật ư? Chẳng phải là quư vị bồi đắp
cảm nhận của chính ḿnh ư? Quư vị mong muốn
thấy Phật à? Quư vị thật sự chẳng màng sanh
mạng để được thấy Phật à? Chẳng
màng nghiệp duyên của chính ḿnh để thấy Phật
à?
Tôi
gặp một số thiện tri thức tu hành Phật
pháp, thật sự là bậc dũng mănh. Thấy Phật
đối với họ chẳng có ǵ là khó! Chớ nên giải
đăi và buông lung, lại càng chớ nên chẳng [tu tập,
ức niệm] liên tục. Người tu hành nơi đất
Hán mắc cái tật lớn là không liên tục!
Chẳng hạn như đến chánh điện bèn tu
pháp, ra khỏi chánh điện, khỏi tu luôn! Chẳng tu
pháp trong lúc ngoài công khóa th́ lên chánh
điện [dẫu có ra vẻ tu hành] cũng chẳng tu. Buổi
tối [tu hành] rất sốt sắng, sáng ra lên chánh điện
ngủ gục! Rời khỏi chánh điện th́ “A Di
Đà Phật, A Di Đà Phật”, lên tụng niệm công khóa
chẳng có ai hết. Như vậy mà có thể thấy Phật
được sao? Đó là tu tự ngă, tự
đại mà thôi, làm sao có thể thấy Phật
cho nổi? Phật ở nơi đâu? Dùng ǵ để duy tŕ liên
tục? Do vậy, trong tu pháp, chúng ta nhất định phải
khéo nhận biết, khéo quan sát.
Hiện
thời, trong hành pháp Ban Châu, xuất hiện cái duyên trái nghịch
ở chỗ này. Trong tâm suy tưởng “ta phải tu pháp! Kệ
xác đạo tràng!” Đạo tràng là để làm ǵ? Đối
với đạo tràng, quư vị có chút yêu quư; tu pháp ở
đó, sẽ có ư nghĩa. Nếu chẳng mến tiếc
đạo tràng này mà muốn tu
pháp ở đó, quư vị tu pháp bằng cách nào? Do cái tâm ấy,
quư vị sẽ chẳng có cách nào tu pháp! Tâm ấy là tâm ǵ vậy?
Màu xanh ư? Màu xanh ở chỗ nào? Do vậy, chúng ta học
Phật, nhất định phải lôi ra cái tâm kiền
thành, tâm cung kính. Sau đó, dù làm chuyện ǵ cho người
khác, làm chuyện của đạo tràng, hay làm chuyện của
chính ḿnh, đều là đang tu hành! Nếu chẳng có cái
tâm cung kính, tâm kiền thành, chính ḿnh sẽ dưới là tu
hành nhằm vun bồi ngă mạn, trên là tu buông lung, giải
đăi, như thế th́ làm sao có thể thành tựu cho
được? Thừa sự giả dối, làm sao có thể
thành tựu cho nổi? Các vị thiện tri thức ơi!
Phải nhận cho đúng chỗ này! Hăy nhận thức
cho đúng, vận dụng cho đúng nhé!
(Kinh)
Khuyến tạo tôn tượng vô tỷ thân, thái họa trang
nghiêm, cụ túc tướng. Kim sắc quang đại, vô
hà cấu, chứng thử tam-muội lương phi nan. Các
các thường niệm tu pháp thí, thanh tŕ cấm giới cập
đa văn, tinh cần, dũng mănh, trừ giải
đăi, đắc thử tam-muội chung bất cửu.
(經)勸造尊像無比身。彩畫莊嚴具足相。金色光大無瑕垢。證此三昧良非難。各各常念修法施。清持禁戒及多聞。精勤勇猛除懈怠。得此三昧終不久。
(Kinh:
Khuyên tạo tôn tượng thân khôn sánh, vẽ vời trang
nghiêm, tướng trọn đủ. Kim sắc sáng ngời,
không tỳ vết. Chứng tam-muội này thật chẳng
khó. Ai nấy thường nghĩ tu pháp thí, tŕ giới thanh
tịnh và đa văn, siêng ṛng, dũng mănh, trừ giải
đăi, đắc tam-muội này trọn chẳng lâu!)
Nay
chúng ta ở đất Hán, tu pháp liên tục và dũng mănh
đúng là rất khó khăn. Thường là nói chính ḿnh mong
đạt được lợi ích ấy, vẫn là chẳng
nỡ xả “thân, tâm, thế giới và cảm nhận” của
chính ḿnh. Rất nhiều người v́ an nhàn mà tu pháp, v́
danh dự mà tu pháp, vậy th́ làm sao có thể thấy thiện
xảo và công đức rộng lớn chẳng thể
nghĩ bàn của chư Phật cho được? Tức
là thiện xảo và công đức vô ngă, thiện xảo
và công đức bi trí. Bất luận tu pháp hay học tập,
làm ǵ cũng chỉ v́ một chữ Ngă! “Đổi
đầu, thay mặt” chẳng ĺa khỏi Ngă! Vậy
th́ quư vị làm sao có thể thấy Phật cho nổi
cơ chứ!
(Kinh)
Bất ưng tha sở hoài độc tâm, diệc xả thế
gian chư dục sự. Thường dĩ từ bi niệm
nhất thiết. Tam-muội khởi viễn tại hiện
tiền. Ư pháp sư sở thường tùy hỷ. Tôn trọng
cung kính đẳng Như Lai, mạc sanh khinh mạn dữ
xan tham, hỷ tâm cúng dường trừ tật đố.
Vô lượng chư Phật cộng xưng dương,
nhữ đản cần cầu tự đương đắc.
(經)不應他所懷毒心。亦舍世間諸欲事。常以慈悲念一切。三昧豈遠在現前。於法師所常隨喜。尊重恭敬等如來。莫生輕慢與慳貪。喜心供養除嫉妒。無量諸佛共稱揚。汝但勤求自當得。
(Kinh: Đừng
ôm ḷng ác với người khác, cũng xả thế gian
các dục sự, thường nghĩ từ bi với hết
thảy, tam-muội hiện tiền há có xa? Đối với
pháp sư luôn tùy hỷ. Tôn trọng, cung kính hệt Như
Lai. Đừng sanh khinh mạn và keo tham, hoan hỷ cúng dường
trừ ghen tỵ, vô lượng chư Phật cùng xưng
tán, ông chỉ siêng cầu, tự đạt được).
Đây
chẳng phải là chuyện của người khác! Chúng
ta đếm trân bảo mà ḿnh sẵn có, tức là siêng
năng tu pháp. Nếu v́ pháp mà hy sinh thân mạng th́ sắc
thân này của chúng ta có
ư nghĩa. Nếu không, thân này là thân đang tạo nghiệp. Từ
vô thỉ đến nay, ta tạo ác nghiệp, như trong
phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện đă nói: “Nếu
[các ác nghiệp ấy] có h́nh sắc, pháp giới khó thể
chứa đựng”. Thế gian khó thể chứa nổi,
chẳng lẽ c̣n chưa đủ nhiều ư?
(Kinh)
Thế Tôn trịnh trọng diễn thuyết tư, vị
tu như thị diệu pháp cố.
(經)世尊鄭重演說斯。爲修如是妙法故。
(Kinh: Thế
Tôn trịnh trọng nói điều đó, v́ tu diệu pháp
như thế ấy).
Do
vậy, đức Thế Tôn trịnh trọng tuyên nói pháp
tắc khó được, khó nghe như vậy, khiến
cho chúng ta đạt được Thập Phương
Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền dễ dàng! Nói
giáo pháp như thật, khiến cho chúng sanh có thể vận dụng. Do vậy,
được nghe pháp khó nghe, dễ đạt được
hiệu quả và lợi ích nơi tam-muội, quả thật
là bổn hoài xuất thế của chư Phật.
“Vị
tu như thị diệu pháp cố” (v́ tu diệu pháp
như thế): Đức Thế Tôn trịnh trọng tuyên
nói giáo pháp này, xét ra, mục đích vẫn là khuyên hữu
t́nh tu nơi hiện duyên. Vậy th́ chúng ta học tập
cũng giống như thế, chẳng có ư ǵ khác. Nếu
chẳng vậy, chúng ta học tập siêng khổ nhọc
nhằn, nhưng mọi người lăng phí thời gian,
đúng là chẳng có ích ǵ cho cả ḿnh lẫn người.
Vậy th́ hăy nên sám hối!
6. Phẩm thứ ba: Kiến
Phật
Chúng
ta tiếp tục dùng văn tự để ấn khế
tâm địa, đừng dùng chi khác! Kinh điển
đích xác là quang minh tạng để gột rửa tối
tăm trong tâm chúng ta, là cam lộ để gột rửa
chất độc trong tâm ta, cũng đích xác là pháp tắc
để ấn khế tâm địa tốt nhất, trực
tiếp nhất, là pháp tắc thỏa đáng nhất,
đắc lực nhất để chỉ đạo cuộc sống khỏe mạnh
và hoàn thiện, tiến nhập hoàn thiện, thành tựu
hoàn thiện, an trụ hoàn thiện. Kinh điển là một thứ ngôn thuyết trí huệ
nhất, từ bi nhất, thiện xảo nhất phun trào
từ tâm địa của chúng ta, là âm thanh đẹp
đẽ nhất lưu xuất từ tâm trí thiện xảo
nhất, từ bi nhất, nghiêm cẩn nhất của mỗi
chúng sanh, chẳng phải do kẻ khác nói. Bất quá là Phật
tuyên nói, các vị đại Bồ Tát, thiện tri thức
kết tập [các ngôn thuyết ấy (các lời dạy của
Phật)], chúng ta lại dùng nó để dẫn đường,
ấn khế tự tâm. Tâm tương ứng với tâm
như thế, đèn này truyền sang đèn khác như thế,
tuyệt đối chẳng có tơ hào tăng giảm. Nó là
chân thật, chân thật chẳng thể nghĩ bàn, đích
xác là có thể lợi ích rộng răi hữu t́nh trong thế
gian. Nếu như thật gột rửa tâm cấu, thắp
đèn trí huệ, vận dụng phương tiện từ
bi, chiếu sáng thế gian, vậy th́ người học tập
kinh điển chúng ta cũng giống như Phật, Bồ
Tát, hoặc bậc trí an trụ trong thế gian này. Nếu
không, chúng ta dùng tri kiến ngu si, nghiệp ngu si, nghiệp
lưu liên tục mà trầm luân trong biển sanh tử vô
cùng, chẳng thể tự thoát ra được.
Mục
đích học tập của chúng ta cũng là ấn khế
tự tâm, trực tiếp thoát khỏi sanh tử, chẳng
nhờ vào phương tiện! Sanh tử vốn chẳng
thể được, chúng sanh hư vọng tự tạo
tác, kiến lập nghiệp sanh tử hư vọng và nghiệp
tương tục (sự liên tục của
nghiệp), khiến cho chúng ta trầm luân, chẳng thể xuất
ly. Nay chúng ta dùng pháp tắc, kinh điển, và giáo ngôn này để ấn khế và nhận thức tự tâm
chân thật, chẳng tăng giảm. Đó cũng là trực
tiếp thoát khỏi sanh tử. Ở đây, chẳng có sợ
hăi. Thường là sợ hăi v́ tâm phân biệt che lấp, hoặc
do chấp trước che lấp, như bị che lấp bởi
[các chấp trước đối đăi] cao, thấp, lớn,
nhỏ, thiện, ác, đúng, sai, phàm, thánh, cũng như
nghiệp tạo tác bởi tất cả các hành vi của
cái Ngă trước kia. Do đó, cơng nặng trĩu
gánh nặng lịch sử, bị che lấp bởi tập
nhiễm sâu dầy từ vô thỉ tới nay, chính ḿnh khó
thể thoát khỏi được, giống như bị hăm trong đầm lầy
vậy! Chúng ta làm thế nào để thoát ra? Cần phải
nhờ vào kinh giáo, nhất là trong lúc trước khi hoặc
sau khi Phật trụ thế, đức Thế Tôn kế
tiếp chưa giáng sanh trong cơi đời, mà đức Thế
Tôn trước đó đă nhập diệt, nhưng di giáo
của Ngài vẫn c̣n ảnh hưởng chúng ta. Chúng ta tôn
trọng di giáo ấy như thế nào? Di giáo do các vị thầy
đời đời truyền thừa, di giáo chẳng
tăng giảm. Như vậy th́ [di giáo] sẽ có thể chỉ
đạo tâm trí của chúng ta, xa ĺa các thứ tri kiến
độc hại của ngoại đạo, hoặc là
tri kiến bất chánh độc hại. Như thật biết
tự tâm chẳng phải là pháp nào khác, chẳng từ
nơi nào khác đến, mà cũng chẳng đi nơi
khác. Thiện và ác chẳng có đến hay đi, pháp tắc
phàm thánh cũng chẳng đến hay đi. V́ hết thảy
các pháp vốn chẳng có tự tánh, chọn lựa ngay
trong hiện tiền. Tâm làm Phật, tâm chính là Phật. Ở
ngay chỗ này, chớ duyên theo nơi khác. Pháp tắc
đích xác đơn giản, rơ ràng như thế đó! Phật
pháp là vốn chẳng có nhiều ư chỉ! Cố ư biến
Phật pháp thành rất thâm áo, rất huyền diệu, rất
xa xôi, sẽ là chuyện chẳng tương ứng.
Nhưng nếu coi Phật pháp là rất thấp thỏi,
hèn kém, th́ cũng chẳng tương ứng! V́ thế,
chúng ta dùng h́nh thức trang trọng và nghiêm túc để
khích lệ tự tâm tôn trọng, và thủ hộ một
cách tôn trọng. Đó cũng là pháp tắc này và pháp tắc
kia ấn khế lẫn nhau!
(Kinh)
Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh,
Hiền Hộ Phần, Kiến Phật phẩm đệ
tam.
(經)大方等大集經賢護分見佛品第三。
(Kinh: Kinh
Đại Phương Đẳng Đại Tập, phần
Hiền Hộ, phẩm thứ ba: Thấy Phật).
Khoa
phán là để mọi người nhận thức chỗ
trọng yếu trong đoạn văn tự này. Đó gọi
là “cương cử mục trương” (nắm lấy
dây chài chính của cái lưới giơ lên, các mắt
lưới sẽ căng ra). Cái “mục” (mắt
lưới, điểm trọng yếu) sẽ có thể
khiến cho chúng ta thấy rơ ràng nội dung thực tế của văn tự.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ
Tát ngôn: - Hiền Hộ! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha
Tát dục đắc thành tựu thử tam-muội giả,
đương ưng ư bỉ thuyết pháp sư sở,
sanh chư Phật tưởng.
(經)爾時世尊復告賢護菩薩言。賢護。若諸菩薩摩訶薩欲得成就此三昧者。當應於彼說法師所。生諸佛想。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ
Bồ Tát rằng: - Này Hiền Hộ! Nếu các Bồ Tát
Ma Ha Tát muốn được thành tựu tam-muội này,
hăy nên đối với vị thầy thuyết pháp, sanh tâm
tưởng như chư Phật).
Công
đức của chư Phật được thí trọn
vẹn cho một người, quả thật là thiện xảo
quan sát, cũng là thông qua hoặc nhờ cậy nhân duyên trợ
giúp của thầy để trở về căn bản
giáo hóa thanh tịnh viên măn của chư Phật. Đây thật
sự là một sự khải phát và giáo dục chẳng thể
nghĩ bàn, mà cũng là một sự hướng dẫn chẳng thể nghĩ bàn.
Sự hướng dẫn ấy chính là “y pháp, bất y
nhân” (nương theo pháp, chẳng dựa dẫm theo
người khác). V́ sao vậy? Ở đây, đức Thế
Tôn đă nói mười phần rơ ràng, “Ưng ư bỉ
thuyết pháp sư sở, sanh chư Phật tưởng”
(đối với vị thầy thuyết pháp ấy, hăy
sanh tâm tưởng như chư Phật). Chư Phật trọn
đủ bi trí, trọn đủ phương tiện, khiến
cho hết thảy chúng sanh nhập tri kiến của Phật,
thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Đó là chánh nhân duy nhất của chư Phật.
Chúng
ta đều biết, trong giáo ngôn được thủ hộ
bởi hết thảy ngoại đạo, đều có một
Thượng Đế, hay một vị Chúa chi đó, tức
là có một đấng sáng tạo nhân loại có sức mạnh
to lớn. Phật giáo chẳng tuyên nói như thế. Phật
giáo nói: “Hết thảy chúng sanh đều có thể thành
Phật”, hoặc: “Hết thảy chúng sanh vốn là
Phật”. Nói “chúng sanh vốn là Phật”, nhưng do
chúng sanh mê mờ, cho nên [chư Phật] tạo lập
đủ thứ pháp tắc ḥng hướng dẫn chúng ta
thật sự lựa chọn chánh tri kiến. Kinh Viên Giác
nói “hết thảy chúng sanh vốn là Phật”; do vậy,
có Bồ Tát bèn hỏi: “Hết thảy chúng sanh vốn là Phật,
vậy th́ chư Phật Như Lai cớ ǵ lại sanh kiến giải điên đảo, trở
thành chúng sanh đọa lạc vậy?” Đấy là chỗ
khiến cho hết thảy chúng sanh ngờ vực, là chỗ
đích thân chứng đắc của chư Phật. Tất
cả các công đức nơi chư Phật chẳng
tăng, tại phàm phu chẳng giảm. Điều như
thế được gọi là Phật Tánh. Chắc là
đối với pháp tắc như vậy, chúng ta nẩy
sanh nhiều nỗi nghi hoặc. “Nghi hoặc” như vừa
nói đó là do cái tâm phân biệt, chấp trước, vọng
tưởng từ vô thỉ tới nay tạo ra. Tức là
cảm giác khác biệt và nghiệp báo sai biệt do các pháp tắc
thiện hay ác được tạo thành bởi phân biệt
và chấp trước từ vô thỉ tới nay, nẩy
sanh cái gọi là “sự thật nghiệp tướng”,
tức là cái nghiệp tướng mà mọi người hiện
thời có thể trông thấy hay cảm nhận. Kết quả
là khiến cho hữu t́nh trầm luân, đeo gánh nặng
trong tự tâm!
Đối
với thầy, hăy nên sanh tâm tưởng như chư Phật.
Đối với chuyện này, chúng ta phải nhận biết
v́ sao chư Phật xuất thế, v́ sao thí giáo, v́ sao lợi lạc chúng sanh? V́ lẽ ấy, trong kinh Pháp Hoa, đức Thế Tôn đă nói về
một đại sự nhân duyên duy nhất khiến cho
chư Phật Như Lai xuất hiện trong cơi đời.
Đó là phán quyết tối hậu, xác định mục
đích xuất thế chân thật của chư Phật là
để lợi lạc thế gian, v́ tạo lợi ích rộng
răi cho hữu t́nh, v́ khiến cho chúng sanh quay về, nhập
vào bổn vị của hết thảy chư Phật. Ở
đây, sẽ khiến cho chúng sanh có ba loại nghi hoặc:
Nói “hết thảy chúng sanh vốn là Phật”, sẽ
khiến cho chúng sanh nẩy sanh nghi hoặc, nói “đại
sự nhân duyên duy nhất khiến chư Phật Như Lai
xuất hiện trong cơi đời”, có thể là mọi
người c̣n nghi hoặc. Khi sanh nghi hoặc th́ là lúc vừa khéo học Phật pháp.
(Kinh)
Khởi tôn trọng tâm, vật sanh kiêu mạn.
(經)起尊重心。勿生憍慢。
(Kinh:
Dấy ḷng tôn trọng, đừng sanh kiêu căng, ngạo
mạn).
Tâm
hết thảy phàm phu đều cho rằng các nghiệp do
chính ḿnh đă tạo tác đều là như thật, những ǵ chính ḿnh thấy là như thật, chính
ḿnh cảm nhận đúng như thật, tức là [chấp
trước] tri kiến của chính ḿnh là chánh xác, nghiệp
do chính ḿnh đă tạo là chánh xác, tư tưởng của
chính ḿnh là chánh xác. Đó gọi là “phàm phu tâm”. Trong tâm
của chư Phật, Bồ Tát, chẳng có một pháp nào
để có thể thành, chẳng có một pháp nào để
có thể lập, tuy lợi ích thế
gian mà vô vi, vô nhiễm, chẳng đắm chấp! Như
nguyện vọng đại bi của Quán Thế Âm Bồ
Tát, đáng nên dùng thân ǵ để độ, vị Bồ Tát ấy liền ứng hiện
thân đó. Trong đó, chẳng có đúng, sai, thiện, ác
để tuyên nói, nhưng v́ có thể khiến cho chúng sanh độ
thoát, thành tựu Bồ Đề [mà hiện thân
tương ứng]. Rất nhiều kẻ tại gia, xuất
gia học Phật b́nh phàm chúng ta, khởi tâm động niệm
là ǵ vậy? Cảm giác đầu tiên là “ta luôn chánh xác”. Cảm
giác thứ hai là “kẻ khác sai be bét”. Cảm giác thứ ba là
phải “thuyết phục kẻ khác [suy nghĩ cùng một
kiểu như ta]”, đem “tri kiến chánh xác” của ta nói
cho người khác. Chuyện này chẳng ăn nhập ǵ với
Phật pháp! Chúng ta có thể quan sát đôi chút, sẽ thấy
nỗ lực chinh phục người khác đúng là vô
nghĩa! Chư Phật, Bồ Tát xuất thế đều
nhằm hướng dẫn chúng sanh “ĺa khổ,
được vui, thành tựu Bồ Đề”. Các vị
thiện tri thức ơi! Chúng ta phải khéo so sánh giữa
sự sai biệt của chính ḿnh và sự không sai biệt của
chư Phật, Bồ Tát! Cái “sai biệt mà chẳng sai biệt
ấy” có phải là do bản thân chúng ta cưỡng chấp
tạo tác mà xuất hiện hay chăng?
V́
thế, “khởi tôn trọng tâm, vật sanh kiêu mạn”
(dấy ḷng tôn trọng, đừng sanh tâm kiêu
căng, ngạo mạn): Sự kiêu mạn ấy chính là do
quư vị chấp trước “chính ḿnh là chánh xác” nên
mới xuất hiện. Quư vị ngỡ chính ḿnh mười
phần chánh xác, cho nên mới mười phần kiêu mạn!
Ngỡ chính ḿnh mười phần phước đức,
quư vị mới mười phần kiêu mạn! Rất nhiều
người tại gia học Phật than với tôi:
“Người học Phật hiện thời coi bộ không
được! Quá kiêu mạn!” Đích xác là làm cho kẻ
khác cảm thấy [người học Phật] quá kiêu mạn,
cũng có nghĩa là [người học Phật có thói quen]
dùng sở học của chính ḿnh để chỉ trích kẻ khác, cho rằng kẻ khác chẳng tu tập, cứ
ngỡ người khác chẳng có thiện căn, ngỡ
người khác mê mất! Kết quả là ăn nói kiêu mạn,
chẳng phải là lời lẽ lợi lạc người
khác. Đức Phật dạy pháp Tứ Nhiếp để
nhiếp thọ chúng sanh, tức đồng sự, ái ngữ,
bố thí, lợi ích rộng răi (c̣n gọi là lợi hành).
Đồng sự là chẳng nói kẻ khác tốt hay xấu.
Ái ngữ là quan tâm, tạo lợi ích cho đối
phương. Bố thí: Người khác cần “chẳng sợ hăi” bèn bố thí vô
úy cho họ. Cần tiền bạc, tài vật, bèn tài bố
thí. Cần pháp tắc, bèn ban cho pháp tắc (pháp bố thí), khiến cho họ an
lạc, tiến nhập đạo nghiệp Bồ Đề.
Sau đấy mới là công đức thật sự tạo
lợi ích rộng răi. Do vậy, sự khác biệt là dùng
cái tâm thế tục để học Phật, vẫn phải
dùng chuyện lợi ích người khác để học
Phật. Tứ Nhiếp Pháp là một tấm gương
trao đổi khá tốt đẹp.
Mọi
người khi bàn luận chuyện ǵ đó, kẻ tâm
đă điều phục, mềm mỏng, bèn cười
vui vẻ, chẳng nói chuyện thị phi. Nhưng kẻ
mà bản thân có chút “tu chứng”, có chút “pháp tắc”, [do kiêu
mạn, chấp trước], vừa mở đầu liền
phán những điều
chính ḿnh nói rất chánh xác,
như thế th́ phải có nhiều công đức. Kết
quả là [cho rằng] kẻ khác dẫu siêng gắng vẫn
chẳng làm tốt, mạn tâm sanh khởi, [cứ ngỡ bản thân cao siêu lắm, kẻ khác] chẳng thể
rớ tới được, chẳng tiếp xúc
được, chẳng thấy được, chẳng
thể diễn tả được! Quư vị đối
với người khác chẳng cung
kính, chẳng cúng dường, chẳng lễ bái, người
ta sẽ chẳng tiếp nhận quư vị. V́ sao
xuất hiện cái tâm kiêu mạn như thế? Đó là v́
chẳng có duyên khởi điều phục nhu ḥa được
truyền thừa từ vị thầy này sang vị thầy
khác. Duyên khởi ấy ở ngay trong cái tâm hiện tại,
chúng ta phải bỏ gánh nặng “thiện, ác, nghèo hèn, cao, thấp, phàm,
thánh, như pháp, chẳng như pháp” từ vô thỉ tới
nay của chính ḿnh. Các thứ ấy đều là các thứ
nặng nề do Sở Tri Chướng của quư vị
đem lại! Nó sẽ bức bách quư vị, và cũng sẽ
bức bách các hữu duyên hữu t́nh khác, quư vị hăy khéo
quan sát.
Các
vị thiện tri thức ơi! Chúng ta học Phật là
để vận dụng pháp tắc, đích xác là để
giải trừ sự đau khổ
nơi tâm linh của chính ḿnh, giải trừ chướng
ngại nơi tâm linh của chính ḿnh, khiến cho thân tâm của
chính ḿnh thật sự mạnh khỏe, chẳng phải là
để phô trương “ta chánh xác”. Lập nhăn hiệu,
in nhăn hiệu cầu chứng, bộ quư vị
tính làm “đồ hiệu nổi tiếng” (brand name) ư?
[Làm như thế] có ư nghĩa ǵ chăng? Điều này thật
sự chẳng có ư nghĩa cho mấy, thường là chẳng
thể mang lại an lạc cho chính ḿnh, mà cũng khiến
cho kẻ khác hoang mang, đau khổ. Điều này
tương phản với Phật pháp, chắc là vấn
đề thuộc về nhân duyên. Tôi thường nghe hai
ba người tranh luận, rất ít khi nghe người ta
nói: “Tôi xử lư vấn đề này chẳng thỏa
đáng, tôi sám hối. Chỉ cần mọi người có
thể học Phật, tôi nhất định sám hối”.
Rất ít khi nghe lời lẽ sám hối như thế,
cơ bản đều là: “Tôi đúng”. Đối với
một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy… hoặc nhiều
hơn, có thể nói là mười mấy điều “tôi chánh xác”, “người
khác sai”. Sai sót ở điều thứ nhất, hai, ba, bốn,
năm, sáu, bảy… Nếu lại nêu ra tiếp, th́ có thể
nêu ra mười mấy điều [để chứng tỏ]
kẻ khác sai lầm. Trao đổi Phật pháp kiểu ấy
là đă đi ngược đường. Điều này
giống như hai bên lập trận công kích nhau, kiến lập
sự đối chọi, chẳng có mảy may tương
ứng với Phật pháp. Như thế th́ sẽ giống
như luyện nắm đấm trong Phật pháp, coi thử
ai có nắm đấm cứng hơn. Coi ai có thể chiến
thắng đối phương! Duyên khởi ấy chẳng
tương ứng. Hễ kẻ nào chiến thắng đối
phương, sẽ vạch ra rất nhiều “quá khứ”
của đối phương. “Quá khứ” là nói đến
lầm lỗi, “quá khứ” là vạch ra lầm lỗi.
[Đồng thời], nêu ra rất nhiều quá khứ của
chính ḿnh. Quá khứ [của chính ḿnh] là nhân duyên thiện pháp,
chánh tri kiến, hành vi, cho đến phước đức
và nhân duyên [của chính ḿnh]. V́ sao sanh ra trạng thái học
tập Phật pháp mà lại nghịch đạo như thế?
Đối với điều này, các vị thiện tri thức
tại gia và xuất gia, hăy đều nên nghiêm túc điều
phục nhu ḥa các hiện duyên
nơi tâm trí của chính ḿnh. Cũng có nghĩa là [hăy tự
xét] một niệm hiện tiền của quư vị rốt
cuộc là duyên theo điều ǵ? Đối với khởi
tâm của quư vị trong hiện thời, bản thân quư vị
duyên theo điều ǵ? Đừng nên quan sát người
khác trước! Điều thiết yếu là hăy như thật
biết chính ḿnh trong hiện tiền, biết một niệm
hiện tiền, như thế th́ quư vị sẽ có thể
đạt được duyên khởi thanh tịnh để
giải trừ những cái nặng nề trong quá khứ, tức
là tạo duyên khởi ngay trong hiện tiền, như thế
th́ sẽ có cơ hội tiến nhập thấu triệt,
học tập Phật pháp.
Ở đây, “dục đắc
thành tựu thử tam-muội giả, ư bỉ thuyết
pháp sư sở, sanh chư Phật tưởng, khởi
tôn trọng tâm” (người muốn được
thành tựu tam-muội này th́ đối với vị thầy
thuyết pháp, hăy sanh tâm tưởng như chư Phật,
dấy ḷng tôn trọng), chẳng phải là có nghĩa khởi
đầu th́ có tâm tôn trọng; sau đó, chẳng c̣n tôn trọng
nữa! Có nhiều vị Bồ Tát tu theo kiểu này: Lần
đầu tiên gặp gỡ quư vị th́ tâm bèn tôn trọng,
lần thứ hai đă quen thuộc rồi, chẳng cần
tôn trọng nữa. Lần thứ ba th́ sao? Cảm thấy
chẳng khác biệt lắm! Lần thứ tư là lên mặt
dạy bảo người ta liền! Đấy là đă
đánh mất cái tâm thanh tịnh và tâm điều nhu của chính ḿnh trong hiện thời!
Tôn trọng bèn nhất định lễ bái, cúng dường.
Hoàn toàn chẳng phải là h́nh thức! Thật sự [tôn
trọng] là tâm địa như thật quang minh và yêu thích,
đích xác là khiến cho đối phương, khiến cho
hiện duyên hữu t́nh đạt được tâm từ
bi an lạc, tâm trí huệ. Đó là bổn tâm chẳng đắm
nhiễm và vô cấu, chiếu rạng ngời hữu t́nh
trong cơi đời
hiện tại, khiến cho họ nhận biết
bổn tâm, chẳng đánh mất tự tâm. Có thể làm
như vậy th́ mới là thật sự cung kính.
Đương nhiên, các h́nh thức lễ bái, h́nh thức
trao đổi, thứ tự chỗ ngồi thật sự
chẳng v́ người ấy mà xếp đặt, mà là do
nghiệp tướng tụ tập. Trước kia, đă
có Bồ Tát hỏi tôi như thế này: “V́ sao mọi
người phải cúng dường, lễ kính người
này, mà chẳng cúng dường, lễ kính người khác?
Hoặc là chẳng tùy thuận người kia?” Tôi nói: Chỉ
là do nghiệp lực khiến thành như thế, do hiện duyên khiến thành như thế. Hoàn toàn chẳng
do con người cưỡng chế,
an bài. Nếu cưỡng chế an bài, sẽ rất mệt
mỏi. Nó chỉ là một thứ biểu đạt hiện
duyên thuận lư thành chương của mọi người.
Thật ra chẳng trọng yếu cho lắm! Nếu hiện
thời, chúng ta đối với chỗ này, bất luận
hàng Bồ Tát xuất gia hay tại gia, thật sự cho rằng
tri kiến của chính ḿnh có thể lợi ích rộng răi hữu
t́nh trong thế gian, quang minh thật sự sẽ khó thể
ngăn che! Bậc thiện tri thức như vậy, nếu
chư Phật, Bồ Tát chẳng đề cao, long thiên hộ
pháp cũng sẽ đề cao quư vị. Nếu
long thiên hộ pháp chẳng đề cao
quư vị, th́ hiện tiền đại chúng cũng sẽ
nâng quư vị lên! V́ sao? Do nhu cầu của thế gian. Chúng
ta có thể trông thấy điều cần thiết trong thế
gian này: Người trong thế gian này mê muội, tâm trí chẳng
có chỗ an lạc, chẳng có pháp
tắc rơ ràng để nương cậy, chẳng có
phương tiện lợi tha, chẳng chọn lựa
phương tiện tự lợi, mọi người
đều cần đến pháp tắc!
V́
thế, “vật sanh kiêu mạn, khởi tôn trọng tâm”
(đừng sanh kiêu căng, ngạo mạn, hăy dấy ḷng
tôn trọng) ở đây quả thật là cái tâm đáng nên
dấy khởi trong hiện duyên hiện tại. Tức là
chúng ta hằng ngày đều phải thực hiện nghi
quỹ lễ thỉnh để làm ǵ? Hằng ngày xướng
bài kệ tán chi đó, niệm chư Phật, hải hội
Phật, Bồ Tát chi đó để làm chi vậy? Mỗi
lần chúng ta đều phải làm giống hệt
như lần đầu tiên, cung kính đảnh lễ
hiện duyên của chính ḿnh, nhận biết tự tâm!
(Kinh)
Năi chí vô hữu tránh cạnh, vi nghịch, bất thuận
tâm cố.
(經)乃至無有諍競違逆不順心故。
(Kinh: Cho đến chẳng có tâm
tranh đua, kèn cựa, trái nghịch, chẳng thuận
tùng).
“Thừa sự sư trưởng”
trong giáo ngôn của cả
ba thừa đều rất trọng yếu. [Phải hiểu]
“sư trưởng” chẳng phải là một người
hay một vật chi đó, đó là một sự biểu
trưng. Chẳng hạn như có người nói, tôi đối
với bức tượng Phật này sanh khởi tâm tưởng
cung kính và thừa sự, vậy th́ hiện thời quư vị
có thể dâng nước, dâng hoa và thức ăn, cho đến
dùng âm thanh đẹp đẽ niệm tụng. Thật
ra, đấy chẳng phải là h́nh thức. Rất nhiều
chân ngôn đều là các bài kệ tán tụng rất hay
đẹp, nội dung mười phần nồng hậu,
hàm súc, nhưng đều là những lời lẽ rất xác
đáng, hoặc là ca ngợi chư Phật Thế Tôn, là
các ngôn từ cúng dường chư Phật Thế Tôn sâu xa
nhất, toàn vẹn nhất, hoặc là các thệ nguyện,
hoặc là các lời ca ngợi thệ nguyện, ca ngợi
công đức hồi thí bởi các thệ nguyện. Nếu
phiên dịch ra, đúng là mười phần tuyệt diệu,
nội dung mười phần lạ
lùng đặc biệt! Nhưng chân ngôn thuộc
loại Ngũ Bất Phiên (五不翻, năm thứ
không phiên dịch)[3].
Do [mỗi chữ trong chân ngôn] có nhiều nghĩa, nếu dịch
ra, sẽ khiến cho chúng sanh nghi ngờ. V́ thế, chẳng
dám phiên dịch. Nếu quư vị đối với một
bức tượng, sanh khởi ḷng tôn trọng, thừa sự,
tưởng như thấy chư Phật, bức tượng
ấy cũng sẽ mở miệng nói năng! Nếu lúc một
người thật sự đạt đến trạng
thái cực hạn, thứ ǵ cũng đều có thể
nói năng. Người có ḷng thành, đá c̣n gật đầu,
huống hồ chúng ta đối trước tượng
Phật, huống hồ chúng ta đối trước h́nh
dung giả để cầu h́nh dung thật ư?
Do
vậy, ở đây, tôn kính người khác, trong đó “người”
bất quá là một thứ biểu đạt mà thôi. Bất
quá, dùng “người” để biểu đạt th́
có vài thứ phương tiện. Chẳng hạn như “đồng
khí” (同氣), tức là mọi người hô hấp giống nhau,
đều là loài người mà! Lại như cảm nhận
tương đồng, trong sáu pháp tức mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, và ư, mọi người có tốc
độ tiến nhập giống nhau. Do đó, dễ cùng
lúc thấu hiểu, dễ cảm
giác tương ứng. V́ thế, nếu có nhận biết,
sẽ có thể xa ĺa yêu ghét, đúng pháp thủ hộ, chẳng
tăng giảm đối với Phật pháp, chẳng tổn
giảm lời dạy của đức Thế Tôn, có thể
nương theo sức truyền thừa của pháp và kinh
để hồi thí cho hữu t́nh trong hiện duyên, đáng nên tôn trọng, bất luận là ai, chẳng
do danh tự như thế nào!
Đất
Hán khá khuyết thiếu một cơ chế giáo dục của
sư trưởng. Trước kia, khi thầy tôi c̣n sống,
tôi nương theo thầy học giới luật, rất
cẩn trọng. Thầy thường xuyên quở trách quư vị,
dù quư vị làm đúng hay sai, đều bị quở mắng
như nhau, khiến cho trong tâm của kẻ khác [đều cảm thấy] vị sư trưởng
ấy đối với ai cũng như thế, chỉ nên cúng dường, chỉ cung kính, chỉ b́nh đẳng
một mực thủ hộ. Quư vị chẳng có cơ hội
đánh giá đúng hay sai, chẳng có cơ hội biện bạch.
Nếu có cơ hội biện bạch, tức là người
ấy chẳng cung kính. Như vậy th́ quư vị làm sao có thể
cung kính cho được? Hiếu thuận từ đâu mà
dấy lên? Hiếu thuận là ǵ? Chính là “sư trưởng
nói như thế nào cũng đều đúng”, như thế
th́ sẽ có thể diệt trừ cái tâm đối đăi
đúng sai của quư vị, ban cho quư vị ư nghĩa hoàn chỉnh
của việc sư phụ trụ thế lâu dài. Quư vị
nói: “Đấy chẳng phải là xâm đoạt tâm trí của
người khác ư? Như thế th́ sẽ khiến
cho người khác chẳng khéo biện
bạch”. Chẳng phải vậy! Nếu chúng ta thật sự
sanh khởi cái tâm cung kính, tâm b́nh đẳng, tâm hiếu thuận,
chính quư vị sẽ thể nghiệm, sẽ thấu hiểu,
hay nói cách khác là thâm nhập, khế nhập một bầu
trời đất rất rộng lớn, như thật,
thanh tịnh. Quư vị sẽ khế nhập một thế
giới trí huệ, mười phần mênh mông, mới mẻ!
Chẳng cần tới thế giới ở phương
khác, tâm linh của quư vị đă thật sự khế nhập,
cảm nhận, hoặc nhận thức một thế giới
khác. Có phải là như thế hay không? Các thiện tri thức
cần phải phân định.
(Kinh)
Nhiên hậu, ư thử thắng tam-muội trung, tinh cần
tu học, phương năng khắc chứng.
(經)然後於此勝三昧中。精勤修學。方能克證。
(Kinh: Sau đó, đối
với tam-muội thù thắng này, siêng ṛng tu học th́ mới
có thể quyết định chứng đắc).
Hiện
thời người tu pháp quả thật đông đảo,
v́ người hướng về Phật pháp cũng
đông, nhưng dường như chẳng có một ai tu
chứng! Đối với người xuất gia chỉ
có h́nh thức, lợi ích và thiện căn nơi Phật
pháp đều chẳng chín muồi. Tới rất nhiều
nơi, mọi người luôn thắc mắc vấn đề
này, tuy chỉ có thể “tương tự” giải
quyết một số vấn đề, nhưng mọi
người rất cần thiết [giải trừ thắc
mắc ấy], nhưng điều càng cần thiết
hơn nữa là thật sự tu chứng! Đại bộ
phận những người đang hiện diện, nh́n từ
công đức và phước đức hiện thực
để nói, so ra đều mạnh mẽ hơn tôi ngàn vạn
lần! Chỉ là mọi người chẳng thật sự
dẫn phát [công đức và phước đức ấy
tỏ lộ], chẳng vận dụng thỏa đáng, chẳng
thành thục [công đức và phước đức] thỏa
đáng, cũng tức là vẫn mai một trong những cái
gọi là “tâm trí đúng, sai, phàm, thánh, thiện, ác,
được, mất” của chính ḿnh. Một khi quư vị
chẳng bị mai một, tôi cảm thấy rất nhiều
vị thiện tri thức có thiện căn, phước
đức và nhân duyên mạnh hơn tôi ngàn vạn lần.
V́ sao chúng ta ở sai vị trí[4]?
Chỉ là do nhân duyên!
Khi
quư vị chẳng để cho “thiện, ác,
đúng, sai” che lấp tự tâm, tâm trí quang minh của quư vị
nhất định sẽ sanh ra, mà nó cũng hiện rơ
trong thế gian, chói ngời thế gian, lợi ích hữu t́nh,
chẳng bị sợ hăi! Ở đây, chẳng phải là
do kiêu mạn và tà kiến mà có thể làm được
đâu nhé! V́ kiêu mạn và tà kiến sẽ rất nhanh chóng
làm khổ chính ḿnh, sẽ
làm cho chính ḿnh mệt mỏi và thương tổn rất
nhanh chóng. Đại khái trong ṿng mười năm trước,
chúng tôi cùng theo sư phụ xuất gia, đương
nhiên là chẳng thể nói tốt hay xấu. Từng người
một hoặc giảng pháp, hoặc chẳng giảng pháp,
trụ tŕ tự viện hay chẳng trụ tŕ tự viện,
học giới, chẳng học giới, niệm Phật,
chẳng niệm Phật… Đủ loại nhân duyên! Nh́n lại,
quả thật là mắt thấy tâm kinh hoảng, hễ
pháp tắc và tri kiến sai kém một chút, khái niệm và hành
vi sai sót một tí, rất nhiều vị thiện tri thức
đă thật sự bị mông muội, rất nhiều
người thành thục thiện xảo và pháp tắc bị
ch́m đắm. Đích xác là trong số đó, có khá nhiều
người rất thiện xảo, kết quả là do
đeo nặng trĩu chấp trước của chính ḿnh, do cơng gánh nặng thiện
ác thị phi của chính ḿnh mà chẳng thành tựu!
Rất
nhiều Bồ Tát học Phật, đích xác là mỗi ngày
nhặt nhạnh một chút rác rưởi. Có rác rưởi
của chính ḿnh, có rác rưởi của kẻ khác. [Họ
thấy] rác rưởi của chính ḿnh là thứ tốt đẹp, bèn cất chứa; rác rưởi
của người khác là những thứ xấu xa. Đeo
một cái bao rác chứa “những thứ xấu xa của
người khác”, lại đeo nặng bao rác chứa “các
thứ tốt đẹp của chính ḿnh”, tức là vừa
thâu thập những thứ tốt đẹp của chính
ḿnh, vừa gom góp cái xấu của
người khác. Hai cái bao rác khoác trên hai vai, bước
đi mười phần lặc lè! Đó là một bức
tranh biếm họa! Có kẻ đă bị đè đổ
sụp, có kẻ về cơ bản
đă bị đè sụp, có kẻ sắp bị đè sụp, có
kẻ thâu thập “vốn liếng” để bị đè
ép. V́ sao người ta lại chẳng tương ứng,
ngu si như thế cơ chứ? Đó là v́ “các thứ tốt
đẹp của ta” càng chất chứa càng nhiều, coi
đó là một cái đăy đựng trân bảo, [hay nói cách
khác là] nhà tù bằng trân bảo, c̣n đeo theo cái ba lô đựng
tội ác và lỗi lầm của người khác. Hằng
ngày đều gom góp, cất chứa, ngày này qua ngày khác,
năm này qua năm khác, đúng là hết sức cẩn trọng!
V́ lẽ nào vậy? Do chẳng có hai pháp Bi và Trí. Nếu có
trí huệ, chẳng đắm nhiễm cái gọi là đăy
chứa đựng “đồ tốt của ḿnh”, v́ rốt
ráo không có một pháp để có thể đạt
được! Do vậy, siêng năng tu tập hết thảy
các pháp chẳng đắm nhiễm, chỉ hồi thí cho
chúng sanh. Tức là do muốn độ chúng sanh, muốn lợi
ích hữu t́nh trong thế gian, cho nên tu tập hết thảy
các pháp tắc. Như thế th́ sẽ chẳng có gánh nặng
nào phải mang vác, v́ chẳng so đo với chúng sanh, đối
với hết thảy hiện duyên và tội ác, lỗi lầm
của chúng sanh, thảy đều chẳng
bận ḷng. V́ sao vậy? Chỉ sanh tâm thương xót, tâm
tạo lợi ích, c̣n có ǵ để so đo nữa? Do vậy,
gánh nặng rác rưởi trên vai bèn dỡ xuống. Nếu
đă có thể trút bỏ hai gánh nặng ấy, thân thể
quư vị bèn nhẹ nhàng, trọn đủ phương tiện. V́ thế, từ bi và
trí huệ ắt đạt được phương tiện.
Kẻ biết trút bỏ gánh nặng sẽ biết vận
dụng phương tiện ấy, c̣n kẻ mang vác gánh nặng
sẽ đánh mất phương tiện, sẽ ĺa khỏi
đại chúng ngày càng xa, ngày càng cô độc, ngày càng khó
khăn! Nhất định phải khéo quan sát, chọn lựa
hợp lư!
Do
đó, “tinh cần tu học” (siêng ṛng tu học) là
để thấy Phật, nghe pháp, lợi ích thế gian,
nhất định phải khéo quan sát điều này. Đối
với các động tác được miêu tả trong bức
tranh châm biếm vừa nói trên đây, đích xác là có rất nhiều Bồ Tát đang siêng khổ, chẳng
tiếc sanh mạng để thực hiện “pháp tắc”
ấy. Sanh mạng của chúng ta hằng ngày bị hao tổn,
hằng ngày bị phủ lấp không chống đỡ
được trong hao tổn. Quư vị đang làm ǵ? Quư vị
có thật sự đặt sanh mạng của chính ḿnh
nơi trọng điểm trí huệ “chiếu rạng
thế gian” hay không? Quư vị có đặt sanh mạng của
chính ḿnh nơi trọng điểm “thương xót chúng
sanh, cứu vớt chúng sanh” hay không? Quư vị có thật
sự vận dụng sanh mạng của chính ḿnh vào
phương tiện “chẳng bỏ lỡ thời
cơ an ủi thế gian này” hay không? Nếu
chẳng có, đúng là chúng ta vẫn phải nương theo
chánh kiến để học tập Phật pháp. Đó gọi
là “tinh cần tu học, phương năng khắc chứng”
(siêng ṛng tu học th́ mới có thể quyết định
chứng đắc).
(Kinh)
Hiền Hộ! Nhược nhân ư bỉ thuyết pháp pháp sư sở, hoặc tỳ-kheo
sở, khởi bất thiện tâm, cẩu vi dị tâm,
tránh cạnh chi tâm, cố lăng nhục tâm, chư bất
tịnh tâm, năi chí bất sanh như chư Phật tưởng.
Như thị Bồ Tát, giả linh tu hành, chung bất năng chứng như thị diệu định.
(經)賢護。若人於彼說法法師所。或比丘所。起不善心。苟違異心。諍競之心。故陵辱心。諸不淨心。乃至不生如諸佛想。如是菩薩。假令修行。終不能證。如是妙定。
(Kinh: Này Hiền
Hộ! Nếu có ai đối với vị pháp sư thuyết pháp, hoặc đối với tỳ-kheo mà dấy
ḷng chẳng lành, nếu có tâm trái nghịch, khác lạ, tâm
ganh đua, tâm cố ư lăng nhục, có các thứ tâm bất tịnh, cho đến chẳng
sanh ḷng tưởng như chư Phật. Hàng Bồ Tát
như thế, dẫu có tu hành, sẽ trọn chẳng thể
chứng đắc diệu định như thế).
Ở
đây, [kinh văn] nói rất rơ ràng, nói hạng Bồ Tát
như thế chẳng thể chứng Thập
Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền
tam-muội. Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta học
Phật th́ nhất định phải hiểu rơ mục
đích, xử sự th́ tâm địa duyên khởi nhất
định phải trong sạch, nhất định phải
chân thật, nhất định phải như thật tự
biết!
(Kinh)
Nhược đắc chứng giả, vô hữu thị xứ.
(經)若得證者。無有是處。
(Kinh: Nếu
chứng đắc th́ chẳng có lẽ ấy).
Đức
Thế Tôn đă bít chặt đường lui của chúng
ta, ngăn chặn toàn bộ mấy trăm ngơ rẽ, mở
cho quư vị một xa lộ cao tốc, khiến cho quư vị
đi theo con đường ấy. Nay chúng ta có quá nhiều
đường, kết quả là lẩn quẩn nơi các
pháp, chẳng thể quyết định. Đối với
pháp bèn nửa tin, nửa ngờ,
đối với pháp có trạng thái dường như
đúng, dường như sai, [cứ phân vân] có thể hành
hay chẳng nên hành!
(Kinh)
Hiền Hộ! Thí như thanh tịnh hư không, vô chư
vân ế, hữu minh mục nhân, ư tĩnh dạ thời,
ngưỡng quán không trung, vô lượng tinh tú, khu biệt
phương sở, h́nh sắc các dị, liễu liễu
phân minh.
(經)賢護。譬如清淨虛空。無諸雲翳。有明目人。於靜夜時仰觀空中。無量星宿。區別方所。形色各異。了了分明。
(Kinh: Này Hiền
Hộ! Ví như hư không thanh tịnh, chẳng bị mây
che phủ, có người mắt sáng, trong đêm thanh tĩnh, ngửa mặt nh́n không trung, vô
lượng tinh tú có phương vị khác biệt, h́nh sắc
mỗi ngôi mỗi khác, [người ấy đều thấy]
rành rẽ phân minh).
Đây
là nêu một thí dụ, đối trước hư không
thanh tịnh, tức là trên hư không chẳng có mây đen
[che phủ], người có mắt rất thanh tịnh, trong đêm tối, một ḿnh ngắm tinh tú, tất nhiên là rành rẽ
phân minh.
(Kinh) Như thị Hiền Hộ! Bồ Tát Ma
Ha Tát tư duy quán bỉ pháp tánh hư không, dĩ tưởng
thành cố, kiến chư
Như Lai, kỳ sự nhược thử.
(經)如是賢護。菩薩摩訶薩。思惟觀彼法性虛空。以想成故。見諸如來。其事若此。
(Kinh:
Như thế đó Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát tư
duy, quán pháp tánh hư không. Do tưởng đă thành, thấy các Như Lai
cũng giống như thế).
Đây
là một phương pháp quan sát tương tự. Có bầu
trời thanh tịnh, cùng với mắt sáng, lúc ấy, xem xét các hiện tượng thiên văn, các loại
tinh ṭa (các cḥm sao), các thứ tinh tướng, quư vị
đều thấy rành rẽ, phân minh. Bồ Tát Ma Ha Tát
cũng giống như thế. “Tư duy quán bỉ pháp
tánh hư không” (tư duy, quán pháp tánh hư không): Tâm địa
của chúng ta chính là pháp tánh hư không. Tâm địa sạch
làu, chẳng có một vật, đó là hư không thanh tịnh.
Lúc đó, quư vị quan sát cặn kẽ, các ngôi sao nhiều ngần
ấy, các đốm sao chi chít đều sáng ngời, quư
vị có thể nhận biết rơ ràng, tâm trí an lạc. Do vậy,
“kiến chư Như Lai, kỳ sự nhược thử”
(thấy các Như Lai, chuyện ấy cũng giống
như thế). Đây là nói tương tự, trong tâm chúng
ta có thật sự “chẳng nhiễm một vật” hay không, chẳng
vướng mắc vật nào hay không? Các vị thiện
tri thức ơi! Hăy khéo quan sát! Trong tâm của quư vị có
phải là rác rưởi trân bảo, mây đen trân bảo
hay không? Có phải là có mây đen, bụi nhơ “lỗi lầm
của kẻ khác” hay không? Có phải là bị màng mộng
“nh́n thấy trân bảo của chính ḿnh” che phủ con mắt
của chính ḿnh hay không? Có phải là bị màng mộng “thấy
lỗi lầm của người khác” phủ lấp con mắt
của chính ḿnh hay không? Quả thật, chúng ta phải nên
nghiêm túc quan sát!
(Kinh)
Nhiên bỉ Bồ Tát quán Đông phương thời, đa
kiến chư Phật, đa kiến bách Phật, đa kiến
thiên Phật, đa kiến bách thiên Phật, đa kiến ức
Phật, đa kiến ức bách thiên Phật, đa kiến
ức bách thiên na-do-tha Phật, bất giả tác ư, tự
nhiên hiện tiền.
(經)然彼菩薩觀東方時。多見諸佛。多見百佛。多見千佛。多見百千佛。多見億佛。多見億百千佛。多見億百千那由他佛。不假作意自然現前。
(Kinh: Nhưng
vị Bồ Tát ấy khi quán phương Đông, thấy
nhiều vị Phật, thấy cả trăm vị Phật,
thấy cả ngàn vị Phật, thấy cả trăm
ngàn vị Phật, thấy cả ức vị Phật, thấy
cả ức trăm ngàn vị Phật, thấy cả ức
trăm ngàn na-do-tha Phật, chẳng cần tác ư mà tự
nhiên hiện tiền).
“Tự
nhiên hiện tiền” ở đây giống như thí dụ
do đức Thế Tôn đă nêu trong phần trên: Mắt
sáng, hư không thanh tịnh, hai pháp tương ứng; khi
đó, xem tinh tướng, quyết định là rành rẽ,
phân minh. Cũng giống như thế, khi tâm trí pháp tánh của
chúng ta chẳng vướng mắc vật ǵ, chẳng nhiễm
đắm vật ǵ, lúc ấy, quư vị sẽ là “tâm
tưởng sự thành”, muốn quán Như Lai, chắc
chắn nh́n thấy!
Pháp
tương tự này quả thật rất có ư nghĩa. V́ nếu
đức Thế Tôn chẳng dùng hiện tượng mà
chúng ta có thể nh́n thấy, hoặc hiện tượng
mà ta cảm nhận được để tỷ dụ,
chúng ta sẽ rất khó tùy thuận pháp tắc này, dung nhập
pháp tắc này, thành tựu thực tiễn pháp tắc này.
Đối với chuyện “tư duy quán bỉ pháp tánh
hư không. Dĩ tưởng thành cố, kiến chư Như Lai” (tư duy quán
pháp tánh hư không. Do tưởng đă thành, thấy các Như Lai), đức Thế Tôn dùng tỷ dụ để
giải thích. Vậy th́ thấy ngàn vị Phật, vạn
vị Phật, ức vị Phật, cho đến trăm
ngàn vạn ức vị Phật th́ sao? Cũng giống
như thế, [đều là] tự nhiên hiện tiền,
chẳng cần nhờ vào tác ư (dấy lên ư niệm suy
nghĩ). Như chúng ta từ trong hư không, thấy đủ
loại tinh ṭa, chẳng phải do chúng ta tưởng niệm
mà có! Báo đức do chư Phật Như Lai đă tu là
chân thật, chiếu rạng mười phương thế
giới, cũng chẳng phải do sự tưởng
tượng trong tâm chúng ta kiến lập. Do pháp tánh thanh tịnh,
sự tưởng tượng ấy có thể kiến lập.
Do pháp tánh tư duy bất tịnh, sự tưởng
tượng ấy chẳng thể thành lập, giống
như mây đen phủ kín không trung. Chúng ta ngửa mặt nh́n, bất luận mắt
tốt đến mấy, muốn thấy các thứ tinh
ṭa, cũng chẳng thấy được. Chúng ta có thể
tư duy quan sát như thế, cũng có thể thật sự
quan sát thái dương. Vầng mặt trời sáng chói ngần
ấy, khi bị mây đen che phủ, chúng ta cũng chẳng
thấy ánh sáng mặt trời, huống hồ có thể thấy
ánh sáng của từng ngôi sao chi chít hay ánh sáng mặt
trăng ư?
Do
vậy, khi chúng ta tư duy “bỉ pháp tánh hư không”,
trong quá tŕnh tư duy, quan sát, một khi tâm trí chẳng
vướng mắc vật ǵ, chẳng có yêu, ghét, chẳng có thiện, ác, chẳng có đúng, sai, như thế th́ sẽ
có thể “tâm tưởng sự thành”. Thành ǵ vậy?
Thấy tâm nguyện của chư Phật. Đích xác là gột
sạch hết thảy tâm cấu, tỏa rạng sáng sạch,
giác liễu pháp tánh, khi ấy, sẽ có thể “tâm làm Phật,
tâm là Phật”. Khi cái “tâm làm Phật” thấy Phật,
nhất định sẽ thấy Phật. Đó là sự
an bài trong tâm địa của quư vị. “Tâm làm Phật”
thấy chuyện ǵ, vật ǵ, nhất định sẽ
sanh khởi. V́ sao hữu t́nh trong thế gian hiện thời
chống trái lẫn nhau, khinh mạn lẫn nhau? Đều
do trong tâm sanh khởi chủng tử “khinh mạn lẫn
nhau, nghi hoặc lẫn nhau” đă chín muồi, do người
khác [làm trợ duyên] mà tỏ lộ đó thôi! Chúng ta nhận
biết hư không pháp tánh cũng giống như thế,
cho nên thấy trăm vị Phật, ngàn vị Phật,
trăm ngàn vạn vị Phật, cho tới ngàn vạn ức
vị Phật, cũng giống như thế, chẳng nhờ
vào tác ư, tức là quư vị chẳng cần tốn sức,
tự nhiên hiện tiền.
(Kinh)
Nhi bỉ Bồ Tát kư tác như thị quán Đông
phương dĩ, thứ quán Nam phương, cập Tây, Bắc
phương, tứ duy thượng hạ, thập
phương thế giới, các đa kiến Phật. Sở
vị đa kiến bách Phật, đa kiến thiên Phật,
đa kiến bách thiên Phật, đa kiến ức Phật,
đa kiến ức bách thiên Phật, đa kiến ức
bách thiên na-do-tha Phật, bất giả công dụng, giai hiện
tại tiền.
(經)而彼菩薩既作如是觀東方已。次觀南方。及西北方。四維上下。十方世界。各多見佛。所謂多見百佛。多見千佛。多見百千佛。多見億佛。多見億百千佛。多見億百千那由他佛。不假功用。皆現在前。
(Kinh:
Vị Bồ Tát ấy đă quán phương Đông như
thế xong; kế đó,
quán phương Nam, và phương Tây, Bắc, bốn
phương trên dưới, mười phương thế
giới, nơi mỗi phương đều thấy nhiều
vị Phật, tức là thấy cả trăm vị Phật,
cả ngàn vị Phật, cả trăm ngàn vị Phật,
thấy cả ức Phật, thấy cả ức trăm
ngàn vị Phật, thấy cả ức trăm ngàn na-do-tha
vị Phật, chẳng nhờ vào công dụng, đều
hiện ra trước).
Đây
là đối với sự quan sát mà nêu lên một thí dụ,
nhằm bảo chúng ta có thể tư duy, quan sát như thế
đó! Có nhiều người nói: “Trong khi hành Ban Châu, tôi thấy
này, thấy nọ”, thật ra, cơ bản đều là
chủng tử trong tâm địa. Tôi có gặp một vị
Bồ Tát sau khi kinh hành đến ngày thứ ba, liền “tới”
đất Tây Tạng! Ông ta nói: “Ối trời ơi! Nay
tôi đến được đại thảo nguyên!” Tôi
bảo ông ta: “Không cần nói! Ông cứ tự ḿnh lẳng lặng
kinh hành là được rồi! Chuyện ấy liên quan tới
huyễn giác của ông”. Ông ta nói: “Thật sự đang ở
trên thảo nguyên, mao ngưu (牦牛, ḅ yak) nhiều
ngần ấy, có lều trại, c̣n có lạt-ma đắp
y đỏ, quư vị xem họ đang mở pháp hội
ḱa!” Tôi nói: “Ông ngậm miệng là được rồi!
Hăy cứ như thật mà giữ các thứ đó”. C̣n có
người nói chính ḿnh trông thấy cải trắng, củ
cải chi đó. Có người thấy bánh ḿ. Có người
thấy việc làm ăn của chính ḿnh càng ngày càng tốt
đẹp. Có người th́ thấy thứ chi đó thuộc
về tâm linh của chính ḿnh. Đủ mọi kiểu dáng
đều có! V́ sao? Chủng tử trong tâm địa chín
muồi, chẳng liên can ǵ đến người khác, giống
như thí dụ đă nêu trong đoạn trước. “Tư
duy quán bỉ pháp tánh hư không”. Quư vị đối với
pháp tánh hư không chẳng nhập quán, vẫn chưa có thiện
xảo; khi đó, chủng tử của chính ḿnh bồng bột,
chẳng thể chiếu kiến thế gian này rành rẽ,
phân minh, chỉ có thể chiếu kiến các chủng tử
trong tâm địa của chính ḿnh.
Tôi
thường gặp những kẻ thích thị phi, không có
việc ǵ, bèn đến nói: “Trời ạ! Chẳng phải
là nên đuổi cái gă Trương Tam đi hay sao? Cái thằng
Lư Tứ phạm lỗi quá nhiều! Cái thằng Trần Nhị
có vấn đề”. Vấn đề
ǵ vậy? Rốt cuộc là gă ăn vụng vật chi
đó. “Cái tên Vương Ngũ cũng có vấn đề.
Thầy coi đó, nó đích xác là thứ không làm ǵ ra hồn, làm sao có thể xuất gia, làm sao có thể học Phật
được chớ? Gă cư sĩ này
sao có thể ở chỗ này cho được? Thầy thấy
nó làm chuyện ǵ chưa? Nó làm chuyện chẳng ra người
nữa…” Kẻ đó cứ đảo tới đảo
lui các thứ đó, cũng là cơng gánh nặng khuyết
điểm của kẻ khác, có nên hay chăng? Cứ việc
cơng đi! Nhưng nếu quư vị dứt bỏ gánh nặng
ấy, vác đến chỗ tôi, tôi thật sự mừng
giùm quư vị. Chỉ sợ sau khi đă vác đến chỗ
tôi, quư vị cảm thấy mất mát, lại cơng về!
Cũng có nghĩa là cơ chế quán “pháp giới tánh
Không” của chúng ta chẳng thành thục. Một khi đă
đạt tới chỗ thành thục, đem đến chỗ
tôi “đổ rác” là tốt nhất! Trước kia có
người đến tố khổ, tôi nói: “Được!
Tôi là một cái thùng rác lớn vô hạn. Quư vị cứ
đổ vào đó là được rồi, cứ tùy tiện
đổ. Quư vị có bao nhiêu rác cứ tận t́nh đổ,
nhưng đừng nên mang đi. Nhất định là
đổ xong chẳng c̣n lưu lại một tí nào hết!
Khi quư vị trở về, rác đă sạch sành sanh th́
được!” Nhưng rất nhiều người một
túi rác đổ mấy chục lần, đổ rồi lại
nhặt lên đem đi! Tôi cảm thấy mệt quá, tôi
nói: “Bồ Tát ơi! Quư vị đúng là [rảnh rang quá], vứt
đi sẽ tốt hơn! Rác rưởi lại chẳng phải
là thứ tốt đẹp ǵ, nó làm lụy quư vị, cứ
gồng gánh nó làm chi?”
V́
sao nói điều này? Là do hiện thời pháp tắc “khéo
quán” của chúng ta chẳng đủ. Do vậy, các vị
thiện tri thức học Phật, nhất định phải
trút bỏ hai gánh nặng ấy. Sau khi tôi đọc bản dịch
gốc[5]
của kinh Vô Lượng Thọ, trong ấy, đă có một
đoạn đức Thế Tôn nói với ngài A Dật
Đa, tôi đă bị chấn động cực lớn! “Phật
cáo A Dật Đa: - Như Lai sở tác, ưng tác, dĩ
tác, nhữ đẳng an trụ vô nghi, mạc trụ trân bảo
thành tựu lao ngục” (Đức Phật bảo ngài A
Dật Đa: - Đối với chuyện Như Lai làm,
nên làm, đă làm, các ông hăy an trụ chẳng nghi trong ấy.
Đừng ở trong tù ngục do các thứ quư báu hợp
thành). Đấy là đức Thế Tôn nói với ngài Di Lặc
là một vị Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, nói
điều ǵ? Đừng ở trong lao ngục do các thứ
quư báu hợp thành. Chuyện Như Lai thực hiện, nên
làm, đă làm chính là “buông tâm địa Bồ Tát của ông
xuống, trở vào trong pháp tắc an lạc rốt ráo của
Như Lai Thế Tôn”. Ông chẳng cần tạo tác chi hết,
cứ tùy thuận là được rồi! Tôi mười
phần chấn động,
khiếp sợ, v́ đức Phật đă tuyên nói với
A Dật Đa là vị Thế Tôn trong tương lai
như thế! Chẳng biết chúng ta có rất nhiều
rác rưởi “quư báu” hay không? Có rất nhiều thiết
trí trân bảo đó chăng? Quá nhiều! Hôm nay ở
nơi đây học một sở trường, ngày mai học
ở chỗ kia một sở trường khác! Trong chốc
lát này, học kỹ thuật ở đây; nhoáng một lúc
sau, lại đến học ưu thế ở chỗ nọ!
Tôi đă thấy các vị Bồ Tát trong thế gian, có kẻ
tự đại nhưng chẳng làm cao được, v́
chẳng có ai cho phép kẻ đó làm cao. Thấp th́ tuyệt
đối chẳng muốn làm, v́ cảm thấy “đại
tài tiểu dụng” (tài lớn dùng vào việc vặt
vănh), cho nên trở thành kẻ vô tích sự, lăng phí cả
đời! Người kiểu đó quá nhiều! Trong
tăng chúng, người người học đ̣i kiểu
ăn nói “cao minh” càng nhiều hơn, càng chẳng thể
làm nên tṛ trống ǵ. Gánh nước, làm chuyện nhỏ, sẽ
cảm thấy chẳng thích hợp, v́ cho rằng chính ḿnh
là “đại nhân vật”. V́ sao làm
việc nhỏ liền cảm giác không thích hợp? V́ cho rằng chính ḿnh là “đại nhân vật”. V́ sao như thế? V́ miệng toàn thốt lời
đao to búa lớn, nhưng chẳng hề thật sự
làm chuyện ǵ, chẳng thể như thật chất phác
như hồi mới phát tâm, trầm tĩnh làm việc.
Tôi
thường so sánh, trong quá khứ, tôi đă thưa với
thầy tôi như thế, mà hiện thời vẫn nói như
thế. Một khoảng thời gian trước khi sư
phụ của tôi ngă bệnh, tuổi Ngài đă rất cao,
thân thể rất yếu, nhưng đối với hai thời
công khóa sáng tối, Ngài nhất quyết chẳng
bỏ sót buổi nào. Tôi so sánh, thưa với thầy:
“Sư phụ! Nghiệp chướng của con nặng nề
như vậy. Hễ muốn lên tụng
niệm công khóa cùng đại chúng, liền có vấn đề,
có chuyện đưa tới [phải giải quyết] liền, làm như thế
nào đây?” Đích xác là rất nhiều lần đều
như vậy! Ngay tại chùa Phóng Quang, tôi đă thử rất
nhiều lần. Tính lên chánh điện tụng kinh, liền
có chuyện cần phải lo liệu, chẳng thể không
làm. Sư phụ bảo: ‘Nghiệp chướng đấy!
Đó là nghiệp quả do nhiều đời nhiều kiếp
chẳng tu phước báo mang lại”. Trước kia, tôi
theo sư phụ xuất gia, đối với công khóa,
sư phụ yêu cầu mười phần nghiêm ngặt.
Tôi nghe người khác nói: Lúc đó, Hiệp Hội Phật giáo
[Trung Quốc] cho người thỉnh Ngài trở về[6],
cũng là v́ để Ngài hướng dẫn
tăng sĩ toàn quốc cách đánh pháp khí và tụng niệm
công khóa. Thuở đó, trong nước các vị xuất
gia sư phụ đặc biệt ít. Lăo ḥa thượng
đặc biệt tinh thông quy củ. V́ thế, các vị thuộc
Hiệp Hội Phật giáo thuở
ấy như cụ Triệu Phác Sơ v.v… mời Ngài về
nước. Ngài đối với công khóa mười phần
nghiêm túc. Thường là những người khác học công khóa với
Ngài đều mười phần nghiêm túc, nhưng tôi khá
buông lung. Trước nay, chưa hề nghiêm túc học, mà cũng
chẳng thể thông thuộc. Thuở ấy, [có quy định]
trong ba tháng mà chẳng thể thông thuộc công khóa, [học tăng] phải kư đơn
[xin trở về thế tục], tức là người xuất
gia sau khi đă xuất gia phải như thế này: Trong ba
tháng, ắt phải học thuộc ngũ đường
công khóa[7].
Nếu không, quư vị phải trở về nhà. Nếu chẳng
như vậy, quư vị đến đây để làm ǵ?
Hiện thời, tôi đối với tăng chúng chẳng
dám yêu cầu như thế, v́ tôi cũng chẳng làm
được! Trước kia, tôi cũng chẳng làm như
thế! Nhưng chúng ta có cần đ̣i hỏi chính ḿnh [phải
làm được như thế] hay không? V́ nhân duyên ấy,
trước kia, tôi lên tụng niệm công khóa vẫn được,
ở trong các ngôi chùa nhỏ đơn giản hơn, hoặc
làm chấp sự trong một ngôi tùng lâm đại chúng, vẫn
rất đơn giản, nhưng hiện thời tạp
duyên tíu tít, muốn lên chánh điện tụng kinh [đúng
thời khóa] rất khó khăn. Tôi thường lẩn quẩn
trong điện đường, vừa tính tham dự công
khóa th́ mới năm phút sau đă có điện thoại, chẳng
thể tham dự được, cảm thấy rất
đau khổ, trong tâm cũng có mâu thuẫn. Đó là nghiệp
tướng, nghiệp báo sai khác vậy.
Mặt
khác, nh́n vào cảm nhận đối với công khóa của
một số vị sư phụ xuất gia khác, tôi cũng
so sánh. Nhân duyên phước báo là ǵ? Tôi cảm thấy
tăng nhân làm chuyện của chính ḿnh là phước báo lớn
nhất. Tôi là một tăng nhân, tôi niệm tụng, học
tập pháp tắc của chính ḿnh. Đấy là phước
báo lớn nhất. Nếu là cư sĩ, cung kính Tam Bảo,
yêu mến đạo tràng, cũng là phước báo lớn
nhất. Làm chuyện thuộc về bổn phận của
chính ḿnh là đủ dùng rồi, cần
ǵ phải vô cớ tạo tác thêm các chuyện khác nữa?
Ngài A Dật Đa (Di Lặc Bồ Tát) có lao ngục bằng
trân bảo, bọn chúng ta hiện thời có [lao ngục giống
như thế] hay không? Trong tâm trí có phải là thật sự
tư duy, quan sát “bỉ pháp tánh hư không” hay chăng?
Hăy tư duy vấn đề này, so sánh vấn đề
này. V́ thế, so sánh giữa thế hệ của chính ḿnh
và thế hệ của sư phụ tôi, chúng tôi thua kém
mười vạn tám ngàn dặm! Xét theo đạo đức,
tu tŕ, đều mười phần thua kém rất lớn.
Tôi thường xuyên tư duy, quan sát chuyện này, có khi [tự
cảm thấy chính ḿnh] bị nghiệp báo bức bách, hổ
thẹn vô dụng. Nói cách khác, rất hổ thẹn
cũng vô dụng, làm thế nào đây? Chỉ có thể sám
hối nghiệp báo của chính ḿnh, tận lực thủ
hộ các pháp tắc Phật giáo mà chính ḿnh khá ưa thích,
nhưng rất khó. V́ sao? Nghiệp
báo đă chín muồi, nghiệp lực bức bách, thường
là các t́nh huống tôi cảm thấy rất
khó vượt qua. V́ sao? V́ nếu thật sự chứng
đắc cái gọi là “tư duy bỉ pháp tánh hư
không”, hiện duyên của chúng ta, duyên khởi ngay trong hiện
tại sẽ chẳng khiếm khuyết, sẽ là chọn
lựa thanh tịnh, chẳng có bất cứ tiếc nuối
nào! Nói như vậy, tức là quư vị có thể chọn
lựa trong hiện tại, chẳng cần bất cứ
gánh nặng nào! Chẳng hạn như tôi vừa nhắc
đến điện thoại, điện thoại ǵ nữa
chẳng trả lời, thích lên chánh điện tụng
kinh tôi liền lên chánh điện, chẳng có vấn đề
ǵ, chẳng cần bận tâm, xa ĺa hết thảy các chọn
lựa đau khổ, đời người sẽ
đơn giản hơn, đó là pháp tánh quang đăng! Chẳng
lo được, lo mất, chẳng cơng Dị Thục Quả bởi nghiệp duyên của chính ḿnh từ vô thỉ
đến nay, chẳng đèo
theo gánh nặng ấy, chẳng đèo theo lao
ngục bằng trân bảo. Đó vẫn là sự cổ
vũ, chống đỡ trong sanh mạng, quư vị có thể
vượt qua nó, vượt qua như thế nào? Ngay trong
một niệm hiện tiền này. Nếu chẳng thiếu
sót, thanh tịnh trọn đủ, dùng duyên khởi ấy
để làm việc, quan sát hiện duyên, đối với
hành pháp quả địa sẽ là “tu ngay lập tức”,
“hành ngay lập tức”, “lựa chọn lập tức”.
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Như bỉ A Di Đà
Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, kỳ thế giới
trung, chư Bồ Tát đẳng, sanh bỉ quốc giả,
ư sơ nhất nhật, quán sát Đông phương, đa
kiến chư Phật, đa kiến bách Phật, năi chí
đa kiến bách thiên ức na-do-tha Phật dĩ. Nhiên hậu,
ư đệ nhị nhật, quán sát Nam phương,
như thị năi chí thập phương, sự giai nhược
thử. Như thị Hiền Hộ! Nhược Bồ
Tát Ma Ha Tát thành tựu Bồ Tát Tư Duy Chư Phật Hiện
Tiền tam-muội.
(經)復次賢護。如彼阿彌陀如來應供等正覺。其世界中。諸菩薩等。生彼國者。於初一日。觀察東方。多見諸佛。多見百佛。乃至多見百千億那由他佛已。然後於第二日。觀察南方。如是乃至十方。事皆若此。如是賢護。若菩薩摩訶薩。成就菩薩思惟諸佛現前三昧。
(Kinh: Lại
này Hiền Hộ! Như đức A Di Đà Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng Chánh Giác, các hàng Bồ Tát trong thế giới
ấy, sanh vào cơi của Ngài, trong ngày đầu tiên, quan sát
phương Đông thấy nhiều vị Phật, thấy
cả trăm vị Phật, cho đến thấy cả
trăm ngàn ức na-do-tha vị Phật. Sau đó, trong ngày
thứ hai, quan sát phương Nam, như thế cho đến
mười phương đều là như vậy. Như
thế đó, Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu
Bồ Tát Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội
như thế ấy).
Trọng
điểm của phẩm này là thấy Phật và
phương pháp thấy Phật. Tỷ dụ xem
tinh tú trong phẩm này có thể hướng dẫn chúng ta
cách tư duy “quán bỉ pháp tánh hư không, dĩ tưởng
thành cố” (quán pháp tánh hư không ấy, do tưởng đă thành). Đấy là duyên khởi
thanh tịnh để thấy chư Phật Thế Tôn và
pháp tắc “tâm làm Phật, tâm là Phật”. V́ sao người hiện thời nẩy sanh chướng
ngại đối với chuyện thấy Phật? Hoặc nói hai loại
rác rưởi, hoặc mây đen che lấp như thế
nào? Đó gọi là mây đen “những điều tốt
đẹp của bản thân” và mây đen “những điều
xấu xa của kẻ khác”. Hai thứ mây đen ấy, một
thứ là bạch chướng, thứ kia là hắc chướng.
Ác nghiệp của kẻ khác là hắc chướng che lấp
tự tâm. Thiện nghiệp và thiện duyên của chính
ḿnh, tức các thứ được gọi
là “tốt đẹp”, chính là bạch
chướng, cũng che lấp tự
tâm, có thể khiến cho tâm trí con người ngu mê y hệt.
V́ thế, do hai loại chướng duyên ấy mà chẳng thể thấy Phật. Nếu ai có công phu
Thiền Định, sẽ thấy sự việc cặn
kẽ hơn! Chẳng hạn như trong một số pháp
tu Thiền Định, năm loại chướng tất
nhiên sẽ hiện tiền, tức hắc chướng,
hoàng chướng, bạch chướng… Đó là ngũ sắc
chướng, theo thứ tự khởi lên, che lấp tâm
trí, khiến cho chúng ta có mắt mà chẳng thể nhận
biết, cũng chẳng thể quan sát cặn kẽ thế
gian! Có người trong lúc Thiền Định trông thấy
cảnh giới bỗng dưng xuất hiện hoàng chướng,
bạch chướng, hắc chướng che lấp cảnh
ấy. Trên thực tế, [các thứ chướng ấy]
chính là nghiệp của chính ḿnh từ
vô thỉ đến nay, do chấp trước vào nghiệp
mà tạo thành sự thật. Người thường hút
thuốc nếu tu các môn Thiền Định, sẽ có
chướng giống như một tấm vải đen rất
dễ phủ xuống, giống như một bức màn rất
dày! Nhưng nếu chúng ta quan sát pháp ích thanh tịnh, sẽ
gọi là “thấy Phật mà chẳng cần phải dụng
công, thảy đều hiện tiền”.
Ở
đây, kinh văn đă nói mười phần rơ ràng, chủ
yếu là tư duy, quan sát, tức là tư duy Chư Phật
Hiện Tiền tam-muội. Chúng ta học kinh Ban Châu đến
chỗ này, thấy điều chủ yếu trong văn tự là hướng dẫn
chúng ta tư duy, quan sát sức mạnh của môn tam-muội
này. Chúng ta thấy Quán được nói trong Quán Kinh chính là
quán tướng (觀相, quán các tướng),
như tướng hảo của Phật là như thế
này, như thế nọ, đất trong thế giới
Cực Lạc như thế nào, tràng báu như thế nào,
Quán Âm, Thế Chí, A Di Đà Phật như thế nào, quán
các tướng như thế. C̣n ở đây thuần túy
là quán tưởng cơi ấy. Tư duy quán tưởng, tức
là quư vị dùng ngay tâm tưởng của phàm phu trong hiện
tiền, dùng tâm tưởng tạp loạn để
tưởng thế giới Cực Lạc, để quan sát
thế giới Cực Lạc. Như trong chương
Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông của kinh
Lăng Nghiêm, đức Thế Tôn đă nói như thế
này: “Nhược chúng sanh tâm, ức Phật, niệm Phật,
hiện tiền, đương
lai, tất định kiến Phật, khứ Phật bất
viễn” (nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật,
hiện tiền, tương lai, nhất định thấy
Phật, cách Phật chẳng xa), hoàn toàn chẳng phải
là bảo chúng ta đừng dùng cái tâm chúng sanh để niệm
Phật, nhớ Phật, vẫn là dùng cái tâm hiện tiền
của chúng ta. “Tưởng” ở đây cũng giống
như thế, dùng cái tâm chúng sanh để “tưởng”
thế giới Cực Lạc, tư duy cơi ấy, tư duy
A Di Đà Phật, tư duy Thập Phương Chư Phật
Tất Giai Hiện Tiền tam-muội. Chúng ta chẳng cần
kiếm một tư tưởng nào khác, cứ từ
tư tưởng hiện tiền của chúng ta mà có thể
tư duy, có thể quan sát!
(Kinh)
Như thị Bồ Tát, ư tự độ trung, quán sát
thập phương, đa kiến chư Phật, đa kiến
bách Phật, năi chí đa kiến bách thiên ức na-do-tha
chư Phật dă.
(經)如是菩薩。於自土中。觀察十方。多見諸佛。多見百佛。乃至多見百千億那由他諸佛也。
(Kinh: Bồ
Tát như thế, ở trong cơi của chính ḿnh, quan sát
mười phương, thấy nhiều vị Phật,
thấy cả trăm vị Phật, cho đến thấy
cả trăm ngàn ức na-do-tha chư Phật).
“Tự
độ” của chúng ta trong hiện thời, nay chúng ta
là hữu t́nh trong Diêm Phù Đề của thế giới
Sa Bà, chẳng cần nhờ vào phương tiện,
cũng chẳng đến cơi khác. Phật trong cơi khác
cũng chẳng đến cơi này. Chỉ là mỗi vị
Phật đều nương vào thần biến thiện
xảo, tỏa quang minh lớn, khiến cho tâm
trí [của hành nhân] thanh tịnh bèn thấy Phật, như
thế mà thôi! Giống như gương soi vật, [h́nh ảnh
hiện ra] trong gương chẳng đến, chẳng
đi. Điều này rất dễ lư giải! Chúng ta lấy
một tấm gương đem soi, thứ ǵ đến
trước gương, gương bèn hiện bóng thứ
ấy, nhưng trong cái gương ấy thật sự chẳng có ǵ đến đi, chỉ hiển hiện như thế mà thôi! Nếu
chẳng có các thứ cảnh tướng (tướng cảnh giới), gương chỉ hiện hư không. Nếu
đủ loại h́nh ảnh đối
trước gương, đủ loại h́nh ảnh cùng hiện bóng. Gương ấy
chẳng giảm, chẳng tăng, cũng chẳng tạo
tác, mà dung nạp hết thảy. Tâm trí như gương,
chiếu liễu, giác tri thế gian. Trong Phật giáo có nói
Đại Viên Măn Kính Trí, tức là một loại trí huệ
như thế. Trí ấy hết
thảy chúng sanh đều sẵn có, được gọi
là Câu Sanh Trí (俱生智, trí bẩm sanh, sanh ra đă có), chẳng
do tu thành, chẳng hủy hoại được, có người
biết dùng, có kẻ chẳng biết dùng. “Biết dùng”
là kéo toang cái màn chướng ngại ra, Đại Viên Kính Trí sẽ
hiển lộ, sẽ thật sự quan sát “pháp tánh
hư không” của pháp giới, sạch làu chẳng có tí
mây đùn che đậy nào. Do vậy, chúng ta có thể quan
sát thế gian.
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Như chư Như Lai thành
tựu Phật nhăn, như thị kiến dĩ, ư nhất
thiết xứ, tất như thị tri, tất như thị
kiến. Như thị Hiền Hộ! Nhược Bồ
Tát Ma Ha Tát diệc kư thành tựu Bồ Tát Tư Duy Nhất
Thiết Chư Phật Hiện Tiền tam-muội dĩ, tự
nhiên măn bỉ Đàn Ba La Mật, Thi Ba La Mật, Sạn
Đề Ba La Mật, Tỳ Lê Da Ba La Mật, Thiền Ba
La Mật, Bát Nhă Ba La Mật, năi chí măn bỉ nhất thiết
Bồ Tát chư công đức đẳng.
(經)復次賢護。如諸如來成就佛眼。如是見已。於一切處。悉如是知。悉如是見。如是賢護。若菩薩摩訶薩。亦既成就菩薩思惟一切諸佛現前三昧已。自然滿彼檀波羅蜜。屍波羅蜜。羼提波羅蜜。毗梨耶波羅蜜。禪波羅蜜。般若波羅蜜。乃至滿彼一切菩薩諸功德等。
(Kinh:
Lại này Hiền Hộ! Như các Như Lai thành tựu Phật
nhăn, đă thấy như thế, trong hết thảy mọi
nơi, đều biết như thế, đều thấy
như thế. Như thế đó Hiền Hộ! Nếu Bồ
Tát Ma Ha Tát cũng đă thành tựu Bồ Tát Tư Duy Nhất
Thiết Chư Phật Hiện Tiền tam-muội, tự
nhiên viên măn Đàn Ba La Mật, Thi Ba La Mật, Sạn Đề
Ba La Mật, Tỳ Lê Da Ba La Mật, Thiền Ba La Mật,
Bát Nhă Ba La Mật, cho đến hết thảy các công
đức của hàng Bồ Tát).
Ở
đây nhắc tới sáu loại Ba La Mật, phiên dịch
thành những [danh từ] mọi người quen thuộc
th́ là Bố Thí Ba La Mật (Dāna-Pāramitā, Đàn
Na Ba La Mật), Tŕ Giới Ba La Mật (Śīla-Pāramitā,
Thi La Ba La Mật), Nhẫn Nhục Ba La Mật (Kṣānti-Pāramitā,
Sạn Đề Ba La Mật), Tinh Tấn Ba La Mật
(Vīrya-Pāramitā,
Tỳ Lê Da Ba La Mật), Thiền Định
Ba La Mật (Dhyāna-Pāramitā, Thiền Na Ba La
Mật), và Trí Huệ Ba
La Mật (Prajñā-Pāramitā,
Bát Nhă Ba La Mật). Ba La Mật (Pāramitā) dịch gượng là [Đáo] Bỉ Ngạn ([đến] bờ bên kia), đó là nơi an ổn, là
chốn chân thật. Lục Ba La Mật có nghĩa là thông
qua Thiền Định để đạt tới bờ
bên kia, thông qua trí huệ để đạt tới bờ
bên kia v.v… Có khi phiên dịch thật sự rất bất lực, v́ từ ngữ chẳng thể thấu
đạt ư ấy, chẳng thể biểu đạt viên
măn ư nghĩa ấy, thường là giới thiệu điều
trước, đánh mất điều sau, giới thiệu
điều sau, lại đánh mất điều trước,
nói điều trên chẳng nhắc đến điều
dưới, thường là luôn mất mát.
Sáu
loại Ba La Mật, thật sự là một thứ tu tŕ
ḥng đạt tới chỗ an trụ, đạt tới
chỗ phương tiện tự tại, là sự tu tŕ ḥng thủ hộ “bờ
bên kia” (bỉ ngạn). Tu tŕ như thế
nào? Đạt lợi ích ngay trong hiện tiền. Chẳng hạn
như bố thí th́ sẽ đạt được lợi
ích do bố thí. Như trong kệ tụng của đức
Phật có nói: “Sở vị bố thí giả, tất hoạch
kỳ lợi ích, nhược vi nhạo bố thí, hậu
tất đắc an lạc” (Như nói tới bố
thí, ắt đạt được lợi ích, nếu vui
thích bố thí, về sau ắt an lạc). Đấy là
như thật ngữ, là lời dạy của đức
Thế Tôn dành cho kẻ chẳng thông thạo cách diễn
đạt bằng ngôn ngữ, là bốn câu nói dành cho kẻ
chẳng thông thạo kệ tán, khiến cho họ khi
được người khác bố thí, có thể nói bốn
câu kệ tán này để tán thán chuyện bố thí. Tŕ giới
th́ sao? Tinh tấn th́ sao? Nhẫn nhục th́ sao? Cũng sẽ
đạt được an lạc, giống như đối
với bố thí bèn nói “hậu tất đắc an lạc”
(về sau ắt an lạc), tŕ giới cũng giống
như thế, “hậu tất đắc an lạc”.
Nhẫn nhục, tinh tấn cũng sẽ “hậu
tất đắc an lạc” y hệt. Hành tŕ Lục Ba
La Mật, tất nhiên sẽ được an lạc. Sự
an lạc ấy chân thật, chẳng dối. Đối với
các loại lợi ích của Lục Ba La Mật, hăy nên
như thật tuyên nói. Trong kinh điển nhà Phật
đă chuyên tuyên nói, dùng rất nhiều ngôn từ hay đẹp,
công đức chân thật, giáo ngôn như thật, khiến
cho người tu tŕ sẽ thủ hộ Lục Ba La Mật.
“Tự
nhiên măn bỉ” (tự nhiên viên măn) Lục Ba La Mật.
Chúng ta có thể thấy chư Phật, tức là thiện
căn [của chính ḿnh đă] thành thục. Đối với
công đức đạt được do chấp tŕ Lục
Ba La Mật, chúng ta đều có thể thật sự ấn
khế trong Thập Phương Chư Phật Tất Giai
Hiện Tiền tam-muội, sẽ tương ứng đạt
được. “Đạt được” là không có
ǵ để đạt, dùng vô sở đắc xứ
(không thấy có ǵ để đạt được) mà
thanh tịnh an trụ, cho nên đạt được. Cái
“đắc” ấy lợi ích chúng sanh, [chẳng hạn
như] thân thể khinh an, chẳng vướng mắc, chẳng
phải là cái Đắc theo kiểu “có điều ǵ để
đạt được” của thế gian, tức là cho
rằng [ta làm như thế nào đó], ta sẽ đạt
được như thế nào đó. Kiểu đó là cơng
vác gánh nặng, là hữu t́nh chấp trước. Hữu
t́nh chấp trước phần nhiều đọa trong tà
kiến. Chúng ta đă biết, mà cũng đă thấy, giống
như gánh nặng trân bảo và rác rưởi trong thí dụ
trên đây, c̣ng lưng cơng gánh nặng “những thứ tốt
đẹp của ta”, chẳng hạn như nói “ta tŕ giới, ta tinh tấn,
ta Thiền Định” v.v…
Trước
kia, căn bệnh này của tôi đặc biệt nặng
nề. Nếu tôi lên tham dự công khóa, mà thấy người
khác không tham dự, không được rồi, sẽ t́m
người đó cằn nhằn. Ngay như trong hiện
thời, căn bệnh ấy vẫn c̣n rất lớn! Hễ
thấy kẻ nào học Phật chẳng siêng gắng, [tôi
liền bực bội, phiền trách] “vừa mới phát
tâm giống như vừa mới nhập học, v́ sao chẳng
học tập?” [Kẻ sơ học
mà chẳng siêng năng tu tập] là v́ tỵ nạnh
với thầy, nhưng thầy đă tốt nghiệp,
đă dạy rất nhiều tṛ tốt nghiệp. [Thế
mà] quư vị vẫn so đo: “Kẻ khác chẳng học, ta
chẳng học”, vậy là đi sai đường mất
rồi! Hiện thời, rất nhiều người vừa
mới vào chùa, cạo tóc xong, đắp y
xong, làm ǵ? Tỵ nạnh với sư phụ. Nay tôi lên
chánh điện ḍm thử, toàn là những người bắt
chước tôi: “Ngươi không lên tụng niệm công
khóa, ta cũng không lên tụng niệm công khóa!” Nhưng giống
như chúng ta mới vào Tiểu Học, phải siêng
năng học tập, phải làm bài tập cho lớp Một,
lớp Hai, lớp Ba, lớp Bốn, lớp Năm. Quư vị
chớ nên tỵ nạnh thầy giáo dạy Tiểu
Học chẳng làm bài tập, có nên tỵ
nạnh hay không? Nếu [tỵ nạnh rồi chẳng
làm ǵ hết] như vậy, quư vị chẳng học
được bất cứ môn văn hóa chi hết,
thật sự khiến cho chính ḿnh lỡ làng!
Các
vị thiện tri thức ơi! Trong quá tŕnh An Cư này,
chúng ta thực hiện trọn hết bổn phận
của chính ḿnh như thế nào? Mỗi người chúng
ta đều có chuyện thuộc về bổn phận của
chính ḿnh. Chẳng hạn như quư vị là người mới
học, nhất định phải tuân theo nhân duyên sơ học
của chính ḿnh. Là một sa-di, hăy thật thà thực hiện công khóa
của sa-di, thực hiện ngũ đường công khóa
của chính ḿnh, học tập giới
luật của chính ḿnh. Là tỳ-kheo th́ hăy khéo học tập
giới luật tỳ-kheo của chính ḿnh, đấy là bổn
phận! Nếu quư vị cứ muốn so đo, sẽ rất
phiền năo! Vừa mới xuất gia, chẳng học công
khóa, chẳng học giới luật, chẳng học pháp
khí, chẳng học quy củ trong tự viện. Theo lối
xưa, toàn là người đă thành niên (trưởng thành)
xuất gia. Trong Phật giáo Nam Truyền, th́ toàn là trẻ
nhỏ xuất gia. Trưởng thành xuất gia vốn có rất
nhiều khuyết điểm: Tri kiến đă định,
nghiệp tập đă định, thói quen đă định,
bản thân sẽ rất khó vượt qua. Chẳng dùng
đại lực cường duyên, căn bản là chúng ta chẳng
thể thay đổi chính ḿnh. Kết quả là xuất gia
uổng công chịu khổ, mà chẳng tương ứng.
Thật sự là như thế đó! V́ đây là công khóa An
Cư, tôi thừa dịp này mà nói trọng điểm,
mong mọi người rộng dung, nhưng quư vị phải
cảnh giác đôi chút.
Tôi
thường suy nghĩ chuyện này, v́ sao sa-di chẳng lên
chánh điện tụng niệm công khóa? V́ sao vị sư
phụ vừa mới xuất gia không học tập công khóa? Trong các
vị sư phụ xuất gia, có [các vị nắm
các chức vụ] đại liêu, có duy na, có tri khách,
cũng có vị làm đương gia, nếu mọi
người cứ lo so đo, toàn bộ
sẽ đều rối loạn. Sa-di chẳng làm chuyện
của sa-di, cứ tỵ nạnh với các tỳ-kheo: “Họ
ngủ, ta cũng ngủ. Họ buông lung, ta cũng buông lung. Họ không học,
ta cũng khỏi học”… Được rồi! Học tập
Phật pháp kiểu đó tức là chúng ta chẳng giữ
bổn phận, ai nấy đều cùng bại hoại!
Cho nên nh́n vào những người xuất gia trong hiện
thời, tôi thật sự mười phần
đau ḷng! Cư sĩ th́ sao? Đương nhiên là có chuyện
thuộc bổn phận của cư sĩ, chẳng hạn
như tôn trọng Tam Bảo, thủ hộ pháp tắc của
chính ḿnh, tu tập pháp tắc của chính ḿnh, bỏ phiền
năo tri kiến của chính ḿnh, cũng đều là có nhân
duyên riêng biệt của chính ḿnh.
Cho
nên tôi cảm thấy, mọi người đều phải
nên chú ư chuyện thuộc bổn phận của chính ḿnh. Nếu
ta làm chẳng được, ta phải nên sám hối!
Mọi người chẳng làm nổi chuyện thuộc bổn
phận của chính ḿnh, cũng nên sám hối, đừng
xâm đoạt lẫn nhau! Nếu không, chúng ta vào chùa miếu
để làm ǵ? Ưu thế của tự viện là ǵ?
Ưu thế của tại gia là ǵ? Ưu thế của xuất
gia là ǵ? Ưu thế của sa-di là ǵ? Nếu quư vị chỉ
v́ đeo cái danh hiệu ấy mà đến đây, quả
thật đáng tiếc quá, mà cũng là có lỗi với
chính ḿnh, chỉ là khoác thêm một lớp áo bên ngoài[8],
vô ích! Chẳng có một tí ư nghĩa nào! Tối đa là thêm
hai cân phân lượng đó thôi! Khi tôi đắp y lần
đầu, đại khái là sau khi đă thọ giới bảy
tháng, khi niệm bài kệ Đắp Y[9],
đúng là cảm thấy chính ḿnh lún sâu xuống ba thước
đất, ch́m lỉm, khó thể chống đỡ, chẳng thể nhận
lănh trách nhiệm, không thể gánh vác áp lực do đắp
y. Nhưng hiện thời, mọi người đều
vội vă tiến cao hơn, muốn có cái danh thôi! Chúng ta có
thể mở cuộc thi để khảo hạch, quư vị
có thật sự trúng cách làm h́nh đồng sa-di[10],
sa-di, tỳ-kheo hay không? Quư vị có nội hàm ǵ? Lại
như cư sĩ đến chùa, sẽ coi chùa ấy có
ưu thế ǵ, cư sĩ chúng ta sẽ tán trợ ưu thế ấy để vận
dụng pháp tắc ǵ? Thành thục thiện căn như thế
nào? Tôi cảm thấy những điều ấy đều
cần phải tư duy quan sát. Ở đây, chẳng có mảy
may chỉ trích nào; đấy là chuyện thuộc bổn
phận của chính mỗi người mà!
Ngẫu
Ích đại sư nói một câu khiến cho tôi một mực chấn động
rất sâu. Trong Linh Phong Tông Luận, Ngẫu Ích đại sư
nói: “Đa hữu nhân pháp tắc vị tập, mạn
tràng tiên lập” (Lắm kẻ pháp tắc chưa tu tập,
đă dựng tràng kiêu mạn trước). “Tràng kiêu mạn”
là ǵ? Chẳng coi ai ra ǵ, chính ḿnh muốn nổi bật lên,
nói năng đă đổi giọng, vẻ mặt đă biến
đổi. Quá khứ là kẻ thế tục, nay đă
thành Phật rồi! Phật ǵ vậy? Do cái tâm kiêu mạn
mà tự ḿnh nhận định đó thôi! Đối với
chuyện này, người xuất gia phải nên chú ư người
xuất gia, cư sĩ nên chú ư cư sĩ, đấy là một
hiện tượng đặc biệt phổ biến. V́
hiện thời là thời gian An Cư, mọi người
hăy xét kỹ chuyện này. Nếu chẳng có chuyện
như vậy, hăy nên tu tŕ nhẫn nhục, nhưng chúng ta
có thể thật sự tư duy hay không? Làm một người
xuất gia, quư vị là sa-di, hăy trọn hết nghĩa vụ
sa-di, thật sự hành tŕ hạnh sa-di, lại tiến nhập
tỳ-kheo. Quư vị đă là tỳ-kheo, thật sự làm tốt
chuyện của tỳ-kheo, mọi người nhất
định sẽ để cho quư vị làm chuyện khác,
chẳng cần phải sốt ruột. Có một ngày, tôi
đi trong chùa, đi một ṿng trên lẫn dưới, tôi
liền suy nghĩ: “Hiện thời, tạo lập ngôi chùa này có c̣n tất
yếu hay không? Người khác nói dựng ṭa nhà này, dựng
ṭa nhà kia, chiêu tập càng nhiều người th́ sao? Nay
chúng ta đang ở đây có đạt được pháp
ích hay không? Nếu thật sự chẳng thể nắm
được lợi ích thực chất, xây dựng chùa
có ư nghĩa ǵ đâu?” Tôi tự vấn: “Chúng ta dựng tự viện này
để làm ǵ?” V́ trước kia điều tôi không thể
chịu đựng được nhất là chùa trống.
Đến một ngôi chùa trống (chẳng có người
tu hành), sẽ chẳng thể chịu được. V́
đó vốn là đạo tràng, nay dành cho quỷ ở, là
nhà trống, người không ở th́ quỷ ở! Nơi
này của chúng ta có phải là đạo
tràng hay không? Đạo nghiệp của mọi người
ở chỗ nào vậy? Có phải là trong tâm trí mỗi
người chúng ta đều thật sự sanh khởi
ḷng tôn trọng [đạo nghiệp] hay không? Hay là vẫn
nóng ḷng nơi hiệu quả và lợi ích của việc
ngay lập tức thay đổi thân phận của chính
ḿnh ḥng nhanh chóng thành tựu thứ ǵ vậy? Có phải là đúng thật thực hiện
nơi thân tâm của chính ḿnh hay không? Tôi cảm thấy mọi
người đều cần phải như thật tự
hỏi ḷng ḿnh, hỏi người khác vô ích! Tự viện
hiện thời vẫn là rất nhiều. Nếu chúng ta thật
sự chẳng học tập ở nơi
đây, chỉ là biểu hiện h́nh thức, nhằm thay
đổi thân phận tại đó. Điều ấy chẳng
cần thiết, thân phận có thể thay đổi bất
cứ lúc nào. Chúng ta phải rất nghiêm túc quan sát đạo
nghiệp của chính ḿnh như thế, đạo nghiệp
thành thục, xét xem chính ḿnh có chịu trách nhiệm đối
với chính ḿnh hay không? Trước hết, đừng quản
người khác. Tín thí có đến cũng chẳng thay
đổi, coi xem chúng ta có nghiêm túc sử dụng
ṭa điện đường này hay không? Đạo nghiệp
của chúng ta có thật sự nghiêm túc hay không? Nay chúng ta
ăn, dùng, c̣n có hoàn cảnh, đích xác đều chẳng
thể nói là xấu xa, nhưng đạo
nghiệp của chúng ta có tiến nhập như thật
hay không? Đối với chuyện này, bất luận chúng
ta quan sát theo phương diện nhẫn nhục, hay quan
sát theo phương diện Bát Nhă cũng thế, quan sát theo
giới luật cũng thế, chẳng quan sát là không
được!
V́
nói đến Lục Ba La Mật, ở đây, tôi nhắc
nhở đại chúng thường trụ, hy vọng chúng
ta quư tiếc nhân duyên của chính ḿnh. Có một sa-di từ
nơi khác đến, tôi hỏi ngôi chùa ông ta đang ở
như thế nào, ông ta đáp: “Hiện thời là An Cư,
chờ an cư xong, chắc chắn kẻ nên đi th́ sẽ
đi, kẻ nên đến th́ sẽ đến”. Tôi nói: “Như thế đó, chùa miếu là
như thế đó. Duyên nhóm họp th́ tụ tập, duyên
tán th́ tan đàn xẻ nghé”. An cư là do được chư
Phật, Bồ Tát gia bị, khiến cho mọi người
có thể cùng nhau học tập, tu tập một pháp tắc,
có thể trật tự, hệ thống, theo từng tầng
cấp mà học tập. Một khi an cư đă
kết thúc, ai nấy tất bật với chuyện của
riêng ḿnh, có khi tất bật v́ nghiệp lực, có khi tất
bật v́ pháp tắc, lập tức sức ngưng tụ
chẳng c̣n nữa. Hiện thời, do được Tam Bảo,
chư Phật, chư Bồ Tát gia bị, chúng ta có sức
ngưng tụ này. Nếu chẳng phải như vậy,
chẳng biết mọi người đă dời đến
nơi nào đó ở trời Nam biển Bắc
từ khuya rồi, lại càng chẳng cần phải nhắc
tới chuyện học tập hay không! Do vậy, trong thời
gian an cư học tập, tôi mười phần quư tiếc
cơ hội này! Thực tế là ngay trong hiện tiền,
trong mỗi cơ hội, chúng ta đều phải nên trân
quư, chỉ là biểu hiện không giống nhau đó thôi!
Nhắc
tới Lục Ba La Mật, tuy tôi nói nặng nề một
chút, thô tháp một chút, chỉ hy vọng mọi người
hăy dùng mắt trí huệ để quan sát chuyện này, dùng
giáo ngôn trí huệ của chư Phật để gột sạch
sự trúc trắc ấy. Đừng nên nẩy sanh trúc trắc,
v́ trúc trắc có thể là do nghiệp lực
hiển hiện, chúng ta thật sự phải vượt
qua sự trói buộc của nghiệp lực và nhân quả,
tôn trọng nhân quả, tạo lợi ích cho nghiệp lực
hữu t́nh! Quả thật đáng phải nên như vậy!
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa,
dĩ kệ tụng viết: “Do như tĩnh dạ trừ
vân vụ, hữu minh nhăn giả ngưỡng quán không”.
(經)爾時世尊。爲重明此義。以偈頌曰。猶如靜夜除雲霧。有明眼者仰觀空。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn v́ để nói rơ lại
nghĩa này, bèn dùng kệ tụng để nói: - Ví như
đêm thanh, sạch mây mù. Người mắt sáng ngẩng
nh́n hư không).
Nhất
định phải hiểu đây là lời dạy về
quán Phật, là một pháp tắc để
thấy Phật.
(Kinh)
Kiến bỉ chúng tinh quá bách thiên, trú niệm minh liễu
diệc vô thất.
(經)見彼衆星過百千。晝念明了亦無失。
(Kinh:
Thấy hơn trăm ngàn các tinh tú, ban ngày nhớ rơ, chẳng
quên mất).
Buổi
tối, chúng ta thấy trời đầy sao. Ban ngày tất
nhiên cũng có thể nhớ lại, quư vị sẽ nói:
“Đêm qua sao rất sáng! Ngày hôm qua trời rất quang
đăng!” V́ sao vậy? Sự ức niệm và tư duy của
quư vị có tánh chất tiếp nối.
(Kinh)
Bồ Tát như thị đắc định dĩ, đa
kiến vô lượng ức thiên Phật.
(經)菩薩如是得定已。多見無量億千佛。
(Kinh:
Bồ Tát đắc định như thế rồi, thấy
nhiều vô lượng ức ngàn Phật).
Bốn
câu kệ trong phần trước là tỷ dụ về thấy
Phật, ở đây nói: Nếu đă đắc định
như thế, sẽ thấy chư Phật nhiều đến
vô lượng ức ngàn vị. Nếu quư vị
tương ứng, sẽ khởi lên tác dụng như thế.
(Kinh)
Phục ư khởi tư tam-muội hậu, hoàn vị
đại chúng diễn tối tôn, như ngă Phật nhăn
thanh tịnh cố, vô hữu chướng ngại kiến
thế gian.
(經)復於起斯三昧後。還爲大衆演最尊。如我佛眼清淨故。無有障礙見世間。
(Kinh:
Lại sau khi đă khởi tam-muội, c̣n v́ đại chúng
diễn tối tôn, như mắt của Phật luôn
thanh tịnh, trông thấy thế
gian chẳng chướng ngại).
“Như
ngă Phật nhăn thanh tịnh cố, vô hữu chướng
ngại kiến thế gian” (như do Phật nhăn của
ta thanh tịnh, cho nên thấy thế gian chẳng có chướng
ngại): Chúng ta đều biết công đức của
hành pháp Ban Châu tam-muội, tức Thập Phương
Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập khi đă
thành tựu, người chưa đắc Thiên Nhăn mà trông
thấy các thế gian.
Chưa đắc Thần Túc, chẳng cần bay đến
phương khác, chẳng ĺa cơi này mà được thấy
chư Phật, được thấy sự trang nghiêm
trong cơi khác.
(Kinh)
Thị chư Phật tử Bồ Tát môn, xuất thử
tam-muội tối thắng quán, dĩ vô tướng tưởng
tư Như Lai, nhi kiến thập phương chư
Đẳng Giác.
(經)是諸佛子菩薩們。出此三昧最勝觀。以無相想思如來。而見十方諸等覺。
(Kinh: Các
hàng Phật tử, Bồ Tát ấy; ra khỏi tam-muội tối
thắng quán, dùng vô tướng tưởng nghĩ Như
Lai, mà thấy mười phương các Đẳng Giác).
“Dĩ
vô tướng tưởng tư Như Lai, nhi kiến thập
phương chư Đẳng Giác” (dùng vô tướng
tưởng nghĩ Như Lai, mà thấy mười phương
các Đẳng Giác): Vô tướng tư và vô tướng
tưởng ở đây mười phần trọng yếu.
Đó gọi là “pháp giới tận
hư không”, hoặc “pháp tánh tận hư không”. Nếu chẳng
tư duy như thế, cái tâm của quư vị sẽ chẳng
phải là “tâm làm Phật, tâm là Phật”, chẳng thể
thành lập “tâm làm Phật, tâm là Phật”. Do bị chấp
trước hư vọng khuất lấp, những điều
quư vị chấp trước lại che phủ quư vị.
(Kinh)
Phá trừ năo độc cập chư tưởng, nhữ
thính Bồ Tát diệu công đức, nhược thính bỉ
pháp thanh lương tâm, năng nhập không tịch vô úy xứ.
(經)破除惱毒及諸想。汝聽菩薩妙功德。若聽彼法清涼心。能入空寂無畏處。
(Kinh: Phá
độc phiền năo và các tưởng, ông nghe Bồ Tát
diệu công đức, nếu nghe pháp ấy, tâm thanh
lương, bèn nhập chỗ không tịch, chẳng sợ).
“Nhược
thính bỉ pháp thanh lương tâm. Năng nhập không tịch,
vô úy xứ” (nếu nghe pháp ấy, tâm thanh lương, bèn
nhập chỗ không tịch, chẳng sợ): Hết thảy
phàm phu ở nơi trống vắng, hoặc nơi không biết,
sẽ sanh sợ hăi to lớn. Cho nên hết thảy chư
Phật Như Lai mỗi vị đều kiến lập
quốc độ thanh tịnh và mầu nhiệm để
chúng sanh tiến nhập, xa ĺa sợ hăi. Nếu chúng ta không
có quốc độ trang nghiêm, thanh tịnh, vô tận diệu
dụng ấy, tiến thẳng vào chỗ trống vắng,
sẽ nẩy sanh sợ hăi.
“Không tịch” là tột cùng của cái tâm tự tại. Quư vị chẳng
có cơ sở ấy, hễ đến chỗ không tịch, chỗ không biết, sẽ sanh ḷng sợ
hăi. Sợ hăi như thế nào? Sợ hăi đoạn diệt,
sợ hăi v́ vô tri, sợ hăi v́ chẳng có ǵ để đạt
được, sợ hăi v́ chẳng có đối đăi, sợ
hăi v́ không có chỗ chụp nắm. Nhất thời, [các nỗi
sợ hăi ấy] đều dâng lên. V́ thế, chư Phật
Như Lai kiến lập công đức thù thắng, cho tới
các loại thọ dụng, là v́ muốn khiến cho chúng
sanh an lạc tiến nhập loại thiện xảo “không
tịch vô úy” này. Hiện thời, chúng ta đừng nói
là “chẳng sợ hăi chỗ không tịch”, mà ngay cả
đối với cơi thật sự tồn tại, tức
văng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc là một
quốc độ trang nghiêm, thù thắng, trọn đủ
các thứ thọ dụng, rất nhiều người vẫn
chưa hiển lộ rơ ràng nguyện vọng này. Đó là một
pháp tắc chuyển biến liên tục[11].
Quư vị có thể quán kỹ càng tâm lư của chính ḿnh. Nếu
chẳng phải nắm giữ đồ vật chi đó,
tâm quư vị có thật sự an lạc, sáng suốt, không sợ
hăi hay chăng? Nếu thật sự ở chỗ không tịch mà
có thể an lạc, chẳng sợ hăi, người ấy
đắc pháp nhăn thiện xảo. Nếu có thể thấy
thấu suốt pháp tánh, sẽ đạt được tự
tại ngay trong hiện tiền. Sức tự tại ấy
chỉ có Phật đích thân chứng đắc, chỉ có
Bồ Tát khéo nhận biết, khéo vận dụng! Đoạn
văn tự này mười phần đáng chú ư!
(Kinh)
Như ngă đương kim thuyết tư pháp, vị linh
chúng sanh chứng Bồ Đề, như bỉ an lạc
chư Bồ Tát, đa kiến vô lượng Phật Thế
Tôn, Bồ Tát như thị nhập tư duy, diệc kiến
bách thiên đa Điều Ngự, như thử tỳ-kheo
duy A Nan, nhất văn ngă thuyết tất năng thọ,
Bồ Tát như thị đắc tam-muội, thính nhất
thiết pháp năng tổng tŕ.
(經)如我當今說斯法。爲令衆生證菩提。如彼安樂諸菩薩。多見無量佛世尊。菩薩如是入思惟。亦見百千多調御。如此比丘唯阿難。一聞我說悉能受。菩薩如是得三昧。聽一切法能總持。
(Kinh: Như ta nay đang nói pháp
này, v́ khiến chúng sanh chứng Bồ Đề. Như các
Bồ Tát an lạc ấy, thấy Phật Thế Tôn nhiều
vô lượng. Bồ Tát nhập tư duy như thế,
cũng thấy hơn trăm ngàn Điều Ngự,
như trong tỳ-kheo riêng A Nan, vừa nghe ta nói đều
vâng nhận, Bồ Tát đắc tam-muội như thế,
nghe hết thảy pháp đều tổng tŕ).
“Bồ
Tát như thị đắc tam-muội. Thính nhất thiết
pháp năng tổng tŕ” (Bồ Tát đắc tam-muội
như thế, nghe hết thảy pháp đều tổng
tŕ): Tổng Tŕ là dịch nghĩa của
Đà La Ni. Pháp môn tổng tŕ được phiên dịch
thành hai chữ Tổng Tŕ, có phần nào quá sơ sài. Nói “Đà
La Ni môn” mọi người liền cảm thấy trọn
đủ rất nhiều nội dung. Do vậy, thường
là Đà La Ni chẳng phiên dịch. Ở đây, v́ sự
đối ứng trong từ ngữ, bèn dịch thành Tổng
Tŕ.
(Kinh)
Thành tựu tín tàm, cụ tam-muội,
tất xả nhất thiết thế ngôn ngữ.
(經)成就信慚具三昧。悉舍一切世語言。
(Kinh: Thành tựu
tín, thẹn, đủ tam-muội, đều xả hết
thảy tiếng thế gian).
“Thế
gian ngữ” là ngôn ngữ ǵ vậy? Lời thị
phi, lời thiện ác, lời phàm thánh v.v… Hết thảy
các ngôn ngữ sanh từ chỗ đối đăi đều
là “thế gian ngữ”. “Thế gian” là do đối
đăi mà an lập. Nếu ai thốt lời trong lặng, lời
từ bi, lời lợi ích rộng răi, lời điều
nhu, phần nhiều sẽ tiêu trừ đối đăi, khiến cho chúng sanh ĺa
khổ, được vui. Cho nên khi chúng ta há mồm thốt
lời thị phi, nhất định phải nghĩ chính
ḿnh có phải là người thế tục, có cái tâm thế
tục hay không? Người học Phật thốt lời
thế gian, tức là phi ngữ, thốt lời nhân ngă thị
phi là mong làm ǵ vậy? Cái tâm như thế chẳng phải
là tâm của người tu hành. Nhưng nếu nói: “Ta cần
xử trí vấn đề, ta có thể nói ra hay không?” Như vậy th́ được, chẳng
hạn như nói “vấn nạn sở trệ”, tức
là có vấn đề vướng mắc tại chỗ
đó th́ phải nên nói. “Nói” ở
đây là phương tiện để tiêu trừ thị
phi, chẳng phải là nói thị phi, sẽ chẳng phải
là lời lẽ thế gian, mà là thiện xảo ngữ,
điều nhu ngữ, là lời lẽ khiến cho chúng sanh
tiêu trừ đối đăi nghi hoặc.
Người học Phật hiện thời,
dù xuất gia hay
tại gia, phần nhiều nói lời thế tục, lời
thế gian, lời điên đảo, lời đối
đăi, lời đấu tranh, lời lẽ nhấn mạnh
cái Ta… V́ sao? V́ chẳng tương ứng. Chúng ta đọc
nguyện vọng của chư Phật Thế Tôn, như A
Di Đà Phật phát ra bốn mươi tám nguyện, mỗi
nguyện đều là điều nhu ngữ, chân thật
ngữ, lợi ích ngữ, trí huệ ngữ, chẳng có lời
lẽ thế tục! Chúng ta xem lời nguyện của
Văn Thù Bồ Tát, xem lời nguyện của Quán Thế
Âm Bồ Tát, xem năm trăm đại nguyện của
Phật Thích Ca, lại đọc lời nguyện của
Phật Dược Sư, như nguyện thứ nhất:
“Nguyện ngă lai thế, đắc A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề thời, tự thân quang minh xí
nhiên, chiếu diệu vô lượng, vô tận, vô biên thế
giới, dĩ tam thập nhị đại trượng
phu tướng, bát thập tùy h́nh trang nghiêm kỳ thân, linh
nhất thiết hữu t́nh như ngă vô dị” (Nguyện
ta trong đời sau, khi đắc A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề, bản thân quang minh chói lọi, chiếu
rọi vô lượng, vô tận, vô biên thế giới, dùng
ba mươi hai tướng đại trượng, tám
mươi tùy h́nh hảo để trang nghiêm thân ấy, khiến
cho hết thảy hữu t́nh giống như ta chẳng
khác). Khiến cho chúng sanh đạt được thân
đại quang minh, đó là chỗ đạt tới của
nguyện vọng. Thành tựu Bồ Đề chính là nguyện
vọng duy nhất, những điều khác đều là bổ
trợ.
(Kinh)
Thường dĩ từ tâm huệ tha thuyết, yếu
đương đáo tư tịch tĩnh xứ.
(經)常以慈心慧他說。要當到斯寂靜地。
(Kinh:
Thường dùng từ huệ bảo người khác, sẽ đạt đến chốn tịch
tĩnh ấy).
Đối
với chỗ được mất của bản thân,
bèn tịch tĩnh, chẳng nhiễm, đối với
người khác chỉ đạt được lợi
ích hồi thí. Đó là chỗ khác biệt giữa Phật
giáo và các pháp tắc khác. Chúng ta đều biết có rất
nhiều lời dạy trong các tôn giáo khác cũng đều
là lợi tha, cũng đều là bác ái, nhưng Phật
giáo có ǵ? Tịch tĩnh nơi tự thân, không tịnh
nơi tự thân, dùng làm phương tiện lợi ích
người khác, chỉ có hồi thí. Đó là chỗ quy kết
của oai đức rốt ráo, tự tại, giải
thoát. Các vị thiện tri thức ơi! Nếu chúng ta tu tập
pháp chẳng thuận theo kinh giáo, mà dựa theo thói quen tại gia của chính ḿnh, vậy th́ chỉ là tiếp nối
tập quán đă tích lũy từ vô thỉ cho đến nay mà
thôi! Bất luận
mang cái danh tự Phật thế nào đi nữa, đeo danh xưng Phật, đeo danh hiệu Phật pháp, đeo khoác
h́nh tượng xuất gia hay tại gia chi nữa, nội
dung vẫn là thế tục, vẫn lấy cái Ta làm trung
tâm, rơi vào Ngă Chấp và Pháp Chấp. Chúng ta chẳng thoát
khỏi hai thứ chấp ấy, sẽ cách biệt Phật
pháp rất xa, thật sự chẳng liên can. Hiện thời,
thế gian đánh giá người học Phật chúng ta, chẳng
hạn như hiện thời cư sĩ đánh giá người
xuất gia, người chẳng học Phật đánh giá
người học Phật, tuy chẳng phải là mười
phần công bằng, nhưng chúng ta cũng phải nên kiểm
điểm tự thân. Nguồn gốc căn bản nhất
để phát xuất “không công bằng” là do người
học Phật, người xuất gia chúng ta chẳng đủ
tâm lợi tha! Do vậy, chư vị thiện tri thức
ơi! Quả thật hăy nên phản tỉnh tự tâm!
Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng kư
Phần
5 hết
[1]
Nói “bổn vị” ở đây có thể hiểu theo
nhiều hàm nghĩa: Tận hết trách nhiệm thuộc bổn
phận của ḿnh như tổ Ấn Quang thường dạy
“đôn luân, tận phận”. Đó là hiểu theo
nghĩa lư thế gian. C̣n nói rộng hơn theo pháp xuất
thế gian th́ là phải nhận biết mỗi người
chúng ta đều có Phật tánh, ai nấy đều là Phật
trong vị lai, hăy tu tập sao cho chẳng cô phụ vị
Phật sẵn có trong tâm tánh của chính ḿnh.
[2] Loa ở đây là loại
vỏ ốc dùng làm tù và để thổi.
[3]
Gọi đầy đủ th́ là Ngũ Chủng Bất
Phiên do ngài Huyền Trang đề ra trong lư luận về
phiên dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán, tức
là năm trường hợp sẽ chỉ bảo lưu
cách phiên âm, chứ không dịch nghĩa một từ ngữ
tiếng Phạn:
1. Do bí mật
chẳng dịch, như các chữ trong Đà La Ni. Do một
chữ chân ngôn có thể bao hàm vô lượng nghĩa bí mật,
nếu dịch nghĩa ra sẽ trở thành ngô nghê và đánh
mất tác dụng của chú ngữ.
2. Do chứa
đựng nhiều nghĩa nên không phiên dịch, như chữ
Bạc Già Bà (Bhagavān) có
sáu nghĩa là “tự tại, xí thịnh, đoan nghiêm, thiện
danh xưng, cát tường, tôn quư”, nên nếu chỉ dịch
là Thế Tôn th́ đă đánh mất ư nghĩa.
3. Do trong cơi này (Trung Hoa) không có, cho nên không dịch.
Chẳng hạn như cây Diêm Phù, Càn Thát Bà, Ca Lâu La, Ca Lăng
Tần Già…
4. Do thuận theo cổ nhân nên không phiên dịch,
như A Nậu Bồ Đề, A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề.
5. Do sanh điều thiện nên không phiên dịch,
như Bát Nhă nếu dịch thành Trí Huệ th́ người
đời sẽ coi thường, không chú ư tới ư nghĩa
“trí huệ chân thật, chẳng đối đăi, siêu việt
t́nh kiến” của từ ngữ
ấy.
[4] Ư nói phước đức, thiện
căn, nhân duyên của những người đến nghe
giảng mạnh hơn pháp sư Từ Pháp ngàn vạn lần,
đáng lẽ họ phải là người hướng dẫn,
d́u dắt pháp sư tu học, thay v́ pháp sư là người
hướng dẫn họ tu học như trong hiện thời.
[5] Tức chẳng phải bản hội
tập như các bản hội tập của Vương
Long Thư, Ngụy Mặc Thâm, hay Hạ Liên Cư. Câu kinh Vô Lượng
Thọ trên đây trích từ bản Ngụy dịch, tức
bản dịch của ngài Khang Tăng Khải vào thời
Tào Ngụy.
[6] Sư phụ của pháp sư Từ
Pháp là Hoằng Xuyên Luật Sư, được mời từ
Đài Loan trở về Hoa Lục vào năm 1984. Khi đó, Trung Cộng vừa cho phép tái lập các hoạt
động tu tŕ sau một thời gần 30 năm nghiêm cấm,
cho nên rất ít tăng sĩ, cũng như người thông
thạo quy củ Thiền môn, phạm bái khá hiếm hoi. Bởi
lẽ, Mao Trạch Đông đóng cửa các tự viện
tại vùng quê, chỉ cho mở cửa các chùa như địa
điểm du lịch, tăng sĩ người bị đuổi
về hoàn tục, người bị đi cải tạo
khổ sai. Các tăng sĩ già cả hoặc bị tù đày,
hoặc bị giam lỏng tại chỗ, nghiêm cấm tụng
niệm. Hầu như các tăng sĩ chỉ c̣n niệm
thầm, hay tham Thiền sau các buổi học chính trị mà
thôi.
[7] Ngũ đường công khóa là
năm thời khóa thường nhật trong Thiền môn
Trung Hoa: Công khóa sáng, công khóa tối, công khóa thọ trai buổi
sáng, thọ trai buổi trưa (quá đường), và cúng Ngọ. Tuy nhiên, c̣n một
cách hiểu khác, tức ngũ đường công khóa là hai đường
khóa sáng, và ba đường khóa tối. Hai đường
khóa sáng là chú Lăng Nghiêm và Thập Chú. Ba đường
khóa tối là kinh Di Đà (và niệm Phật, kinh hành, tối
thiểu là niệm 108 câu danh hiệu), Đại Sám Hối
Văn (Hồng Danh Bảo Sám), và Mông Sơn Thí Thực. Riêng sau khóa sáng, có nghi cúng Phật
và xuất sanh (thí thực cho quỷ thần và cô hồn).
Khóa chiều th́ thí thực trong khi tụng Mông Sơn. Sau khi
tụng xong Mông Sơn, các tùng lâm luôn tụng chú Đại
Bi một lượt và tán Già Lam Bồ Tát. Các tông phái khác có
thể thay bằng các kinh chú khác, nhưng xuất sanh trong
hai thời khóa và cúng Ngọ không được thiếu. Vật
phẩm cúng Ngọ có thể đơn giản là một
chén cơm trắng (hoặc cháo, hoặc ḿ sợi v.v…), xớt lấy bảy hạt
cơm hoặc một miếng cơm để thí cho quỷ
thần.
[8] Ư nói người xuất gia mà không
tu tập, sửa đổi tâm trí, hành vi và thói quen của
chính ḿnh cho tốt đẹp hơn th́ chỉ là khoác thêm một
lớp tăng bào, hoàn toàn chẳng phải là tăng sĩ.
[9] Tức là bài “善哉解脫服,缽吒禮懺衣,我今頂戴受,禮佛求懺悔” (thiện tai giải thoát phục, bát tra lễ sám y, ngă
kim đảnh đới thọ, lễ Phật cầu sám
hối, tạm dịch: Lành thay áo giải thoát, áo phước
điền lễ sám, nay con kính cẩn thọ, lễ Phật
cầu sám hối). Theo Phật Học Từ Điển,
Bát Tra (Paṭṭa) là một loại tăng y, gồm nhiều
miếng ghép lại, trông như các mảnh ruộng liên tiếp nhau, nên gọi là Điền Tướng Y. Lễ sám y trong bài kệ chính là mạn
y, tức y không có điều, dành cho sa-di hay cư sĩ đă thọ
Ngũ Giới. Bài kệ trên đây là bài kệ đắp
y sử dụng theo truyền thống trong các tông phái Trung
Hoa, nhưng khi dành cho cư sĩ học đắp y trong thời gian xuất gia đoản kỳ (xuất gia ngắn hạn,
chẳng hạn như
tại đạo tràng Phật Quang Sơn), sẽ sửa
thành “thiện tai giải thoát phục, trân quư lễ sám y,
ngă kim đảnh đới thọ, lễ Phật cầu
sám hối”. Tuy vậy, theo Tỳ Ni Nhật Dụng
Thiết Yếu, bài kệ Đắp Y chia thành bốn loại:
1) Khi đắp y năm điều
th́ bài kệ sẽ là “thiện tai giải thoát phục,
vô thượng phước điền y, ngă kim đảnh
đới thọ, thế thế bất xả ly”.
2) Khi đắp y bảy điều
sẽ là “thiện tai giải thoát phục, vô thượng
phước điền y, ngă kim đảnh đới thọ,
thế thế thường đắc phi”.
3) Khi đắp đại y (y
tăng già lê), sẽ là “thiện tai giải thoát phục,
vô thượng phước điền y, phụng tŕ Như
Lai mạng, quảng độ chư chúng sanh”.
4) Đắp mạn y sẽ là “đại
tai giải thoát phục, vô tướng
phước điền y, phi phụng như giới hạnh,
quảng độ chư chúng sanh” (lớn thay áo giải thoát, áo ruộng phước
vô tướng, mặc đúng như giới hạnh, rộng
độ các chúng sanh).
[10] H́nh đồng sa-di (形同沙彌) có nghĩa là h́nh
tướng giống như sa-di, nhưng chưa phải là
sa-di thật sự. Tức là khi xuất gia, đă xuống
tóc, nhưng chưa thọ giới sa-di.
[11] Tức là phải liên tục tu tập,
chế ngự hoặc đào thải tập khí của
chính ḿnh, luôn có tâm niệm cầu sanh, luôn giữ vững niềm
tin kiên cố nơi bổn nguyện tiếp độ của
A Di Đà Phật, đồng thời hành tŕ không biếng
trễ, gián đoạn.