Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh giảng kư

Phần 5

大方等大集賢護經講記

慈法法師

Chủ giảng: Pháp sư Từ Pháp

Địa điểm: Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam

Thời gian: Từ ngày 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

5. Phẩm thứ hai: Tam Muội Hạnh

 

          (Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần, Tam Muội Hạnh Phẩm đệ nhị.

          ()大方等大集賢護分三昧行品第二

          (Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, Hiền Hộ Phần, phẩm thứ hai: Tam Muội Hạnh).

 

          Phẩm này thuyết minh cơ sở của hành pháp tam-muội.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn.

          ()爾時世尊。復告賢護菩薩摩訶薩言。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát rằng).

 

          Sau danh tự Bồ Tát, thêm từ ngữ Ma Ha Tát để phát khởi lợi ích rộng lớn, giác ngộ rộng lớn kẻ hữu duyên.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát, cụ hành tứ pháp, tắc năng đắc thị hiện tiền tam-muội.

          ()賢護。若諸菩薩摩訶薩。具行四法。則能得是現前三昧。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát hành trọn bốn pháp, sẽ có thể đắc hiện tiền tam-muội này).

 

          Tức là hành trọn đủ bốn pháp, sẽ có thể đắc môn hiện tiền tam-muội này.

 

          (Kinh) Hà đẳng vi tứ? Nhất giả, bất hoại tín tâm.

          ()何等爲四。一者不壞信心。

          (Kinh: Những ǵ là bốn? Một là chẳng hoại tín tâm).

 

          Tín tâm quyết định bất hoại, đó gọi là Tín Nhẫn thành tựu, đối với pháp chẳng nghi ngờ, lựa chọn thuận theo. Điều này quả thật là chuyện chẳng thể nghĩ bàn! Bất hoại tín tâm dẫn đường cho hết thảy các pháp. Bởi lẽ, “Tín vi công đức mẫu” (Tín là mẹ công đức). Trong giáo ngôn của Thanh Văn Thừa, người đạt quyết định tín là quả Tu Đà Hoàn; v́ lẽ nào? Đạt được tấm gương pháp nhăn, soi rơ, nhận biết tướng chân thật trong thế gian, cho nên sanh ḷng tin chân thật. Ở đây, chúng ta tùy thuận tín tâm bất hoại, lập thệ chọn lựa, ắt thấy chư Phật, chẳng lùi sụt, chẳng đọa!

 

          (Kinh) Nhị giả, bất phá tinh tấn.

          ()二者不破精進。

          (Kinh: Hai là chẳng phá tinh tấn).

 

          Đối với pháp tắc, siêng khổ ǵn giữ, đạt tới địa vị rốt ráo, xa ĺa giải đăi và buông lung. Trong những người hành pháp hiện thời, người giải đăi th́ nhiều, kẻ buông lung đông đảo, cơ hội phá hoại tinh tấn quá nhiều! Chúng ta có thật sự vận dụng sao cho mỗi thời, mỗi khắc đều siêng khổ, thâm nhập tu tập pháp tắc hay chăng? Cái được gọi là “buông lung” chính là cái khiến cho tâm trí bị tán hoại trong tạp duyên, chẳng có sức thâm nhập pháp tắc. V́ đối với mỗi hữu t́nh, hai loại tạp duyên nơi chính ḿnh và người khác đều rất lừng lẫy. Nếu chưa lắng đọng cái tâm, trong tu pháp mà hơi buông lung, sẽ phá hoại tinh tấn. Nếu chẳng hổ, chẳng thẹn, tất nhiên sẽ buông lung!

 

          (Kinh) Tam giả, trí huệ thù thắng.

          ()三者智慧殊勝。

          (Kinh: Ba là trí huệ thù thắng).

 

          Chẳng nương cậy, chẳng đắm nhiễm, chẳng tạo tác. Dùng cái tâm như thế để hành các pháp.

 

          (Kinh) Tứ giả, cận thiện tri thức. Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát cụ túc tứ pháp, tắc đắc thành tựu hiện tiền tam-muội dă.

          ()四者近善知識。賢護。是爲菩薩具足四法。則得成就現前三昧也。

          (Kinh: Bốn là thân cận thiện tri thức. Này Hiền Hộ! Đó là Bồ Tát trọn đủ bốn pháp, sẽ được thành tựu hiện tiền tam-muội).

 

          “Thân cận thiện tri thức” để trừ nghi hoặc cho ḿnh lẫn người, là pháp tắc để trừ nghi hoặc!

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát phục hữu tứ pháp, năng cụ túc hành, tắc năng thành tựu hiện tiền tam-muội. Hà đẳng vi tứ? Nhất giả, năi chí ư sát-na thời, vô chúng sanh tưởng.

          ()賢護。菩薩摩訶薩。復有四法。能具足行。則能成就現前三昧。何等爲四。一者乃至於剎那時無衆生想。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát lại có bốn pháp, có thể hành trọn đủ, th́ sẽ có thể thành tựu hiện tiền tam-muội. Những ǵ là bốn? Một là thậm chí trong một sát-na, chẳng có chúng sanh tưởng).

 

          Chẳng hạn như chúng ta đi vào đạo tràng, hoặc xuất gia, trợn mắt nh́n, ôi chao! [Thấy các chuyện] đúng nhiều ngần ấy, sai nhiều ngần ấy! Đó là chúng sanh tưởng! Đó gọi là “tạp nhiễm chúng sanh”, khi dùng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp để tiếp xúc, sẽ đều là chúng sanh huyễn hiện. V́ thế, chúng sanh là do tâm đắm nhiễm, chuyện ǵ cũng đắm nhiễm, chỗ nào cũng đắm nhiễm. Do vậy, tướng chúng sanh sanh khởi, tâm trí phiền năo, lắm nỗi chán chường, mệt mỏi, v́ bị các phiền năo tạp duyên che lấp, người ta sẽ sanh khởi tướng trần lao. Nếu có chúng sanh tưởng, hăy nên tu tŕ như thế nào? Nam-mô A Di Đà Phật [có công năng] hồi thí rộng khắp, [khiến cho mỗi chúng sanh] đều nhập bổn vị, tức là đều được văng sanh. Quang minh thanh tịnh viên măn của A Di Đà Phật chiếu trọn khắp, không đâu chẳng chiếu thấu. Do vậy, hết thảy sự sai biệt của chúng sanh đă bị ngăn che. Nói “ngăn che” tức là chẳng thấy chúng sanh tướng, chỉ có sức niệm Phật vô ngại!

 

          (Kinh) Nhị giả, ư tam nguyệt nội, bất tạm thụy miên.

          ()二者於三月內不暫睡眠。

          (Kinh: Hai là trong ba tháng, chẳng tạm ngủ nghê).

 

          Hiện thời, rất nhiều vị Bồ Tát trong một ngày một đêm, một ngày hai đêm, hoặc bảy ngày bảy đêm hành pháp. Tri kiến và tâm trí “bất tạm thụy miên” (chẳng tạm ngủ nghê) biến thành mười phần trọng yếu. Hoàn toàn chẳng phải là nói quư vị ngủ hay không ngủ, mà là quư vị chớ nên tạo tác tâm niệm như thế. Nhân duyên ngủ nghê trong quá khứ đă thành thục, quư vị chẳng thể không ngủ, không thể chẳng mệt, nhưng hiện tại th́ sao? Đừng nên tiếp tục tạo tác nghiệp và nghiệp tướng như thế nữa! Ở đây là sự tu tŕ chẳng thể nghĩ bàn, là tu tập Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn. V́ quư vị chẳng thể thay thế nghiệp quá khứ, chẳng thể ngăn trở nó. Như hoàn cảnh y báo, sắc thân trong hiện tại của chúng ta, cho đến phước đức và nhân duyên sai biệt, đều là do Dị Thục Quả chín muồi. Hăy ở trong nhân duyên ấy, đừng nên tạo tác ngủ và ngủ, chớ nên tăng mạnh nhân duyên ngủ nghê. Phải thấy thấu suốt bản chất của nó. Trước kia, thầy Đại Hùng đă nói trong khi hành Ban Châu như sau: “Hôn trầm ở trong chỗ tối”, thật sự cũng là một sự quan sát thuận duyên, ai nấy đều trở về bổn vị (vị trí, địa vị vốn có của chính ḿnh)[1], chẳng c̣n tạo tác nữa! Hễ hôn trầm xảy đến th́ vẫn là hôn trầm, nhưng người ấy chẳng c̣n chấp trước mạnh mẽ nữa, cũng chẳng c̣n bài xích nó, nhưng cũng chẳng c̣n thuận theo nó. Quan sát kỹ càng đúng lư như thế, lâu dần, người ấy sẽ có thể thật sự vượt thoát hôn trầm. Nhưng nếu quư vị nói “ta vun bồi hôn trầm”, đó chẳng phải là điều tốt đẹp! “Vun bồi” là ǵ? Tức là hễ hôn trầm xảy đến, bèn dung túng nó. Nếu hôn trầm thật sự xảy đến, chẳng dùng sức, chẳng thuận theo sức ấy, chẳng ra sức tác động, tức là chẳng cự tuyệt, chẳng nghênh tiếp. Đó là chỗ dụng công vừa khéo!

 

          (Kinh) Tam giả, tam nguyệt kinh hành, duy trừ tiện lợi.

          ()三者三月經行唯除便利。

          (Kinh: Ba là suốt ba tháng kinh hành, chỉ trừ lúc bài tiết).

 

          Hành pháp Ban Châu yêu cầu thời gian khá dài là ba tháng. Trong ba tháng, chỉ đi kinh hành, bỏ sạch các pháp khác, chỉ trừ lúc bài tiết là làm chuyện khác.

 

          (Kinh) Tứ giả, nhược ư thực thời, bố thí dĩ pháp, bất cầu danh lợi, vô vọng báo tâm. Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát cụ túc tứ pháp, tắc đắc thành tựu hiện tiền tam-muội dă.

          ()四者若於食時佈施以法。不求名利無望報心。賢護。是爲菩薩具足四法。則得成就現前三昧也。

          (Kinh: Bốn là nếu lúc ăn, bèn bố thí đúng pháp. Chẳng cầu danh lợi, chẳng có tâm mong được báo đáp. Này Hiền Hộ! Đó gọi là Bồ Tát trọn đủ bốn pháp, sẽ được thành tựu hiện tiền tam-muội).

 

          Nếu có thức ăn, nếu tạo tác nghiệp, đều tương ứng với pháp tắc, cho nên đừng tham đắm các mùi vị. Tôi thường nghe người kinh hành Ban Châu nói: “Ối trời! C̣n đói quá đi! Lần sau ăn một bữa thật no”. Tu hành theo kiểu đó, sẽ có chướng ngại ngay trong hiện đời, tự ḿnh xếp đặt chướng ngại.

          “Bất cầu danh lợi, vô vọng báo tâm” (Chẳng cầu danh lợi, chẳng có tâm mong được báo đáp): Có người kinh hành Ban Châu v́ để đạt được tướng mạo tốt đẹp, hay khí sắc tốt đẹp. Trong hành pháp này, mỗi bữa cơm bèn ăn nhiều hơn, ăn các thứ có chất dinh dưỡng, thứ này bổ, thứ kia bổ. Bổ tới, bổ lui để làm ǵ cơ chứ? [Có kẻ] kinh hành Ban Châu để người khác thấy ḿnh dễ coi, có tinh thần, trang nghiêm, [đó là tu hành v́] ham cầu danh lợi hư giả, đánh mất sự thanh tịnh nơi tự tâm, chẳng thể tương ứng với pháp. Hiện thời, kẻ như thế này nhiều lắm: Trước khi đi kinh hành Ban Châu, chuẩn bị rất nhiều thứ bổ dưỡng, mong trong khi hành Ban Châu sẽ phấn chấn, tỏa sáng một phen. Đấy là chẳng tương ứng!

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát phục hữu tứ pháp, năng cụ túc hành, tắc đắc thành tựu hiện tiền tam-muội. Hà đẳng vi tứ? Nhất giả, khuyến tha kiến Phật.

          ()賢護。菩薩摩訶薩。復有四法。能具足行。則得成就現前三昧。何等爲四。一者勸他見佛。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát lại có bốn pháp, nếu có thể hành trọn đủ, liền được thành tựu hiện tiền tam-muội. Những ǵ là bốn? Một là khuyên người khác thấy Phật).

 

          Đừng xem nhẹ điều này! Khuyên người khác, sẽ chuốc lấy phiền năo. Thường sẽ có nghĩa là: Quư vị thấy người này là đúng, kẻ kia là sai; đó là do khuyên người khác mà chuốc lấy phiền năo. [Khuyên người khác trong pháp môn Tịnh Độ] là khiến cho người khác biết hết thảy các pháp rốt ráo chẳng có ǵ để đạt được, do nhân duyên mà sanh, chẳng có thực chất. Khiến cho kẻ khác thấy Phật, dù là trí huệ Pháp Thân Phật, hay Báo Thân Phật, đều có phương tiện. Đừng ô nhiễm tâm kẻ khác, đừng hủy diệt tự tâm, đối với chuyện kẻ khác thấy Phật, chẳng đắm nhiễm!

 

          (Kinh) Nhị giả, giáo nhân thính pháp.

          ()者教人聽法。

          (Kinh: Hai là dạy người khác nghe pháp).

 

          Khuyên người khác nghe pháp, quả thật là công đức chẳng thể nghĩ bàn và quả báo thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn. Phá hoại pháp duyên của người khác, diệt pháp nhăn của kẻ khác, chướng ngại cơ hội xuất ly của người khác, thật sự là đáng thương! Có lúc, chúng tôi khá đau ḷng v́ chuyện này: Đối với cơ hội học Phật của người tại gia hay xuất gia, người khi chưa thành thục vẫn khát vọng, mà kẻ gặp lúc cơ hội thành thục lại thường khinh mạn. Khinh mạn như thế chính là khinh mạn nhân duyên trong hiện tiền của chính ḿnh! Hiện tiền trân quư nhất! Muốn cầu pháp thù thắng nơi khác, muốn cầu duyên thù thắng nơi khác, đúng là tâm trí thiếu sót, kém cỏi, chẳng biết phát tâm. Các vị thiện tri thức ơi! Hăy nên khéo quan sát!

 

          (Kinh) Tam giả, tâm vô tật đố.

          ()三者心無嫉妒。

          (Kinh: Ba là tâm chẳng ghen tỵ).

 

          Ghen tỵ là ǵ? Đối với chuyện này, mọi người đều liễu giải khá dễ dàng! Tức là chẳng thích thấy người khác nổi bật, chẳng thích người khác tôn quư, chẳng thích người khác được vui sướng hơn ḿnh, chẳng thích người khác có công đức. Đấy là tội ác trong thời Mạt Pháp. Tội ác phổ biến nhất của chúng ta trong thời đại này là thường chẳng có tâm tùy hỷ, thường bầu bạn với cái tâm đố kỵ. Tâm trí hẹp ḥi, kém cỏi, chẳng có tâm vui mừng khi người khác được lợi. Do vậy, người như thế phải nên thường tu tâm tùy hỷ, tâm tán thán, tâm cúng dường, tâm cung kính, ḥng có thể miễn trừ cái tâm ghen tỵ ấy. Ghen tỵ th́ không ǵ chẳng ngoài hẹp ḥi, không muốn người khác hơn ḿnh, không ǵ chẳng ngoài xa ĺa cung kính, tâm trí chẳng có lễ kính, tâm sanh kiêu mạn, chẳng ngoài [lư do] ít có ḷng tùy hỷ, thường hay thấy lỗi của kẻ khác! Hễ kẻ nào dấy ḷng ghen tỵ, sẽ nói chuyện rất khó nghe, rất dấm dẳng, rất hẹp ḥi, giống như mây đen che phủ mặt trời, che phủ quang minh của cái tâm!

 

          (Kinh) Tứ giả, khuyến tha phát Bồ Đề tâm. Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát cụ túc tứ pháp, tắc đắc thành tựu hiện tiền tam-muội dă.

          ()四者勸他發菩提心。賢護。是爲菩薩具足四法。則得成就現前三昧也。

          (Kinh: Bốn là khuyên người khác phát Bồ Đề tâm. Này Hiền Hộ! Đấy là bốn pháp nếu Bồ Tát trọn đủ, sẽ được thành tựu hiện tiền tam-muội).

 

          Càng trọng yếu hơn nữa! Nếu chính ḿnh chẳng yêu thích Bồ Đề tâm, khi khuyên người khác phát Bồ Đề tâm, cũng sẽ được Bồ Đề tâm huân nhiễm, huân tập, bèn hướng tới thủ hộ Bồ Đề tâm, thậm chí thành tựu [Bồ Đề tâm]. Do vậy, khuyên phát Bồ Đề tâm trọng yếu nhất. Dù khuyên chính ḿnh phát, hay khuyên người khác phát, chuyện khuyên phát Bồ Đề tâm rất quan trọng!

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát phục hữu tứ pháp thành tựu tam-muội. Hà đẳng vi tứ? Nhất giả, tạo Phật h́nh tượng, khuyến hành cúng dường.

          ()賢護。菩薩摩訶薩。復有四法成就三昧。何等爲四。一者造佛形像。勸行供養。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát lại có bốn pháp thành tựu tam-muội. Những ǵ là bốn? Một là tạo Phật h́nh tượng, khuyên hành cúng dường).

 

          Chẳng hạn như chúng ta trong mấy ngày ngắn ngủi học tập kinh Hiền Hộ này, mọi người đă không ngừng chăm bẵm trang nghiêm tượng Phật. Tuy chẳng phải là chuyện to lớn ǵ, nhưng nó thật sự có tác dụng. Quư vị chẳng tin, có thể vẽ một bức tượng vẽ, hoặc tưởng nhớ một bức tượng Phật, tạo nhân duyên nơi tượng Phật ấy, hăy có tâm tùy hỷ, cúng dường, tán thán cho nhiều, đương nhiên tốt nhất là dùng bức tượng nào khiến cho quư vị ưa thích nhất. Tượng nào có thể khiến cho người ta vui thích? Có người th́ tượng vẽ trên vải thô đă có thể khiến cho người ấy hoan hỷ. Có người tượng rất tinh xảo mới có thể khiến cho người ấy hoan hỷ. Có người th́ tượng phải rất oai đức trang nghiêm, có người tượng rất trân quư mới có thể khiến cho người ấy hoan hỷ. Bất luận loại tượng nào, không ǵ chẳng nhằm đánh thức niềm hoan hỷ và trí huệ trong tâm linh của chúng ta. V́ thế, công đức tạo tượng chẳng thể nghĩ bàn, như trong kinh Địa Tạng đă nói tạo tượng Địa Tạng Vương có công đức như thế nào, có thể diệt tội Ngũ Vô Gián v.v… Tạo hết thảy các tượng Phật khác cũng giống như thế. V́ tạo tượng, ắt phải dụng tâm, từ cái tâm mà tạo tượng. Đó gọi là “duyên Phật thành Phật”, chúng ta tạo tượng Phật th́ trong tâm có Phật. Chẳng có Phật th́ tạo tượng để làm ǵ? Do vậy, công đức tạo tượng chẳng thể nghĩ bàn!

          “Khuyến hành cúng dường”, tạo tượng để làm ǵ? Khiến cho hữu t́nh trong thế gian cúng dường các pho tượng, khiến cho chúng sanh vun trồng phước đức, hoặc sẽ như thật biết tự tâm, thành tựu lợi ích trong Phật pháp.

 

          (Kinh) Nhị giả, thư tả thị kinh, linh tha độc tụng.

          ()二者書寫是經。令他讀誦。

          (Kinh: Hai là biên chép kinh này, khiến cho người khác đọc tụng).

 

          Nay chúng ta in bản kinh này ra, lúc vừa mới từ Trầm Dương đưa tới chùa Bảo An, sau đó, đem hai ba bản đến đây, mọi người trông thấy rất hoan hỷ. Nhưng hiện thời đă có nhiều, tôi thấy kinh sách đặt khắp nơi, nhưng cũng chẳng có ai xem! Hễ có nhiều, tuy kinh sách là pháp bảo vô thượng, cũng chẳng cho là quư báu nữa! V́ trong quá tŕnh chúng ta học tập lần này, đều là tùy ư mà ngồi, một là khá tự nhiên, hai là cũng khá thoải mái, nhưng khi mọi người bước ra, tốt nhất là đừng nên bước qua kinh điển, hăy đi nhiễu quanh sẽ tốt hơn! Đó là chuyện có ư nghĩa, nhất định phải chú ư một chút. Nếu không, bản thân chúng ta sẽ phạm lỗi khinh pháp!

 

          (Kinh) Tam giả, mạn pháp chúng sanh, giáo linh phát tâm.

          ()三者慢法衆生。教令發心。

          (Kinh: Ba là dạy kẻ khinh mạn pháp hăy phát tâm).

 

          “Mạn pháp” là đối với pháp, chẳng sanh hoan hỷ. Ngày hôm qua, có mấy người công nhân quy y, tôi bảo họ: “Các vị kiếm được món tiền này có thể tiêu hết, nhưng nếu có thể đến quy y, học Phật, kết nhân duyên với Phật pháp, đúng là có ư nghĩa hơn kiếm tiền nhiều lắm. Lao động dựng nhà cửa cho đạo tràng, làm chút chuyện cho Tam Bảo, quư vị có phước đức và nhân duyên, nhưng trọng yếu nhất vẫn là Tam Quy Y. V́ có nhân duyên Tam Quy Y, sẽ có thể thật sự vào nhà Như Lai, thật sự có thể học Phật”. Chẳng biết bản thân nữ chúng trong Hằng Dương Am có sức chiêu cảm to cỡ nào mà ảnh hưởng khá nhiều công nhân đến học Phật. Chúng ta chẳng cần biết công nhân tốt hay xấu, tánh cách như thế nào, ăn ǵ, dùng ǵ, chẳng cần bận tâm, nhưng họ có thể đến quy y, điều ấy thật sự chẳng thể nghĩ bàn, đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Cảm động rất nhiều công nhân như thế đến học Phật, chuyện này có lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Lợi ích chẳng thể nghĩ bàn ǵ vậy? Khuyên kẻ chưa tin sanh ḷng tin, chẳng thể nghĩ bàn! Khiến cho kẻ mạn pháp, kẻ chẳng biết pháp sanh ḷng tin. Các vị thiện tri thức ơi! Chuyện này c̣n hơn dựng đạo tràng. Nếu một đạo tràng mà chẳng có ai đến tu tập pháp, đạo tràng ấy có ư nghĩa ǵ hay không? Dựng một vạn gian nhà mà chẳng có pháp tắc, chẳng có Phật pháp, chẳng tu tập Phật pháp, há có ư nghĩa ǵ chăng? Chúng ta chẳng tu tập, lại có ư nghĩa ǵ hay không? Nhưng có một người tới quy y, tùy thuận đạo tràng của ta, đó là cơ chế tu pháp thành thục. V́ thế, “mạn pháp chúng sanh, giáo linh phát tâm” (dạy cho chúng sanh khinh mạn pháp phát tâm) chính là pháp tắc huân tu cụ thể phải nên tu tập đối với chúng ta là những kẻ đang mong tu tập Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội trong lúc b́nh thời. Bốn pháp trong phần sau này khá dễ thực hiện, tạo tượng, cúng dường, biên chép, đọc tụng, khuyên người khinh mạn pháp phát Bồ Đề tâm, cho đến điều thứ tư kế tiếp là “hộ tŕ chánh pháp, linh đắc cửu trụ” (hộ tŕ chánh pháp, khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài).

 

          (Kinh) Tứ giả, hộ tŕ chánh pháp, linh đắc cửu trụ.

          ()四者護持正法。令得久住。

          (Kinh: Bốn là hộ tŕ chánh pháp khiến cho tồn tại lâu dài).

 

          Ai tới hộ tŕ? Chỗ nào có chánh pháp? Do một niệm thủ hộ tâm trí Bồ Đề của quư vị, duy tŕ đạo tràng, đạo tràng ấy sẽ có chánh pháp, quư vị đang thủ hộ chánh pháp. Chúng ta mê mất Bồ Đề tâm, lo ǵn giữ mấy căn nhà, chăm bẵm mấy câu [xă giao] “chào ông, chào bà!” Đó là chẳng có chánh pháp, chẳng có chánh pháp để có thể đạt được! Chúng ta có thể thật sự thủ hộ tâm trí Bồ Đề của chính ḿnh, duy tŕ đạo tràng, duy tŕ các hữu t́nh bên cạnh ḿnh hay không? Có như thế th́ quư vị mới thật sự là người thủ hộ chánh pháp, khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài [trong thế gian]. Ai đến trụ lâu dài? V́ sao Phật pháp có thể trụ lâu dài? Trụ ở nơi đâu? Dùng vào nơi đâu? Một niệm trong hiện tiền chọn lựa Bồ Đề tâm, chẳng sợ, chẳng hăi!

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát cụ túc tứ pháp tắc, đắc thành tựu hiện tiền tam-muội dă.

          ()賢護。是爲菩薩具足四法則。得成就現前三昧也。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Đó là Bồ Tát trọn đủ bốn pháp tắc, sẽ được thành tựu hiện tiền tam-muội).

 

          Đấy là các thứ pháp tắc bổ trợ Ban Châu tam-muội hiện tiền. Từ bốn pháp ấy, đức Thế Tôn tuyên nói các điều kiện trọn đủ. Các điều kiện ấy [thật ra] chẳng phải là điều kiện, chỉ là thọ dụng ở chỗ nào! Rất nhiều người nói: “V́ sao niệm Phật chẳng chứng tam-muội?” Đầu óc quư vị đầy ắp vọng tưởng, hành vi hư giả, làm sao có thể chứng tam-muội cho được? Tâm trí đắm nhiễm, hễ gặp chuyện liền nhiễm vào đúng, nhiễm vào sai, nhiễm vào thiện, nhiễm vào ác, làm sao có thể thấy chư Phật cho được? Chư Phật là đức tướng nơi tự tâm thanh tịnh, làm sao quư vị có thể thấy được? Do đó, tâm chẳng tự thấy Phật Lập Hiện Tiền. Hễ hiểu rơ tự tâm, do biết tự tâm thanh tịnh, sẽ được thấy chư Phật.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa, nhi thuyết kệ viết:

          ()爾時世尊爲重明此義。而說偈曰。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn v́ nêu tỏ nghĩa này lần nữa, bèn nói kệ rằng).

 

          Sau phần Trường Hàng là Kệ Tụng; đây là cách thức thông thường trong kinh điển, nhất là kinh điển Đại Thừa. Kệ Tụng dùng các lời lẽ đơn giản, rơ ràng hơn để nhắc lại nghĩa ấy, khiến cho tâm trí của chúng ta sáng suốt.

 

          (Kinh) Nhữ đẳng đương trụ Phật pháp trung, vật tàng chánh ngôn cập ngă pháp. Niệm cần, tinh tấn, trừ thụy cái, tam nguyệt bất tọa, duy kinh hành.

          ()汝等當住佛法中。勿藏正言及我法。念勤精進除睡蓋。三月不坐唯經行。

          (Kinh: Các ông nên trụ trong Phật pháp, đừng giấu chánh ngôn và Phật pháp, niệm siêng, tinh tấn, trừ ngủ nghỉ, ba tháng chẳng ngồi, chỉ kinh hành).

 

          Hiện thời, trong nước có rất nhiều người hành pháp Ban Châu, nhưng có khi là có lạy, có ngồi, tuy mang tên là Ban Châu, nhưng là một thứ biến tướng của hành pháp Ban Châu. Nếu dựa theo kinh giáo để nói, phải nên là Thường Lập tam-muội (tam-muội thường đứng), tức là kinh hành chẳng lười nhác, chẳng ngồi, chẳng nằm. Đó chính là một yêu cầu cụ thể trong hành pháp Ban Châu tam-muội.

          Có người nói “không cho ngồi xuống” th́ quá tàn khốc, có thể cho người ấy nghỉ ngơi! Trong quá khứ, người hành pháp Ban Châu có đai treo, có thể treo ḿnh vào đó để nghỉ ngơi dăm ba phút, đó gọi là “nghỉ ngơi mà chẳng nghỉ ngơi”, v́ chẳng thể ám thị chính ḿnh nghỉ ngơi, có thể tạm dừng [kinh hành] một lát. Có khi, hễ cái tâm được ám thị, sẽ nẩy sanh kết quả nghỉ ngơi, sẽ kéo dài thời gian hôn trầm và mê mất. Do vậy, khi thân thể đă đạt đến cực hạn, có thể chuyển ḿnh đến chỗ treo thân thể một chốc, thư giăn một chút cho thân thể khỏi hư nhược, nhưng chớ nên ám thị chính ḿnh nghỉ ngơi!

          Hành pháp này lấy “không nghỉ ngơi” làm chuẩn tắc, vừa khéo là nhân loại chúng ta vẫn chưa dám vượt qua vấn đề nghỉ ngơi này. Nghỉ ngơi là sự điều chỉnh nẩy sanh trong tâm trí đối đăi, có thể nghĩ bàn của chúng ta đối với sự mệt nhọc, mà cũng là quá tŕnh điều chỉnh đối đăi. Chẳng nghỉ ngơi chính là trạng thái chẳng tạo tác, an phận, thuộc về bổn phận. Do vậy, trong khi trao đổi về hành pháp Ban Châu, chuyện được bàn luận nhiều nhất là những thứ được tạo thành bởi nghỉ ngơi và phiền năo. Cái được gọi là “phiền năo” tức là v́ đói bụng, mệt nhọc, nhọc nhằn chẳng thể khống chế được mà tạo thành khổ năo. Một điều khác là “ám thị nghỉ ngơi”, chẳng hạn như tự nhủ: “Ôi trời ơi! Người khác chẳng ở đây, ta nghỉ một chút thôi!” Thật sự là lừa ḿnh, dối người. “Dối” tức là ảnh hưởng tới lợi ích chân thật nơi hành pháp Ban Châu của chính ḿnh, tức lợi ích của Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập [tam-muội]. Quư vị lăng phí thời gian của chính ḿnh. Nhưng trong tâm trí của bọn phàm phu chúng ta, thường là khó thể lựa chọn. Hễ nhắc đến vấn đề “không nghỉ ngơi”, sẽ sanh tâm sợ hăi, v́ từ lâu đă có sự so sánh đối đăi giữa siêng khổ tạo tác và nghỉ ngơi, cho nên muốn cho một người không nghỉ ngơi rất khó! Thật ra, thường là khi chúng ta thật sự lựa chọn một chuyện, rất có thể chẳng có ư niệm “không nghỉ ngơi”. “Nghỉ ngơi” là một loại tri kiến, tức là một loại tri kiến đối đăi khiến cho chính ḿnh mù quáng, mà cũng là phương pháp cân bằng tâm lư của chính ḿnh nẩy sanh trong tâm trí tư duy của thường nhân đó thôi. Nó chẳng thật, v́ hết thảy các pháp chẳng có tự tánh. Trong pháp nghỉ ngơi ấy, há có ǵ là tự tánh?

 

          (Kinh) Thực thời quảng thuyết nhi thí tha, tuyên dương chư Phật vô tỷ pháp.

()食時廣說而施他。宣揚諸佛無比法。

          (Kinh: Khi ăn, rộng nói thí kẻ khác. Tuyên dương pháp chư Phật khôn sánh).

 

          Khi chúng ta hành tŕ như pháp, nói “như pháp” chính là khởi tâm động niệm của chính ḿnh trong mỗi thời khắc, ngay cả trong lúc ăn uống, cũng đều chẳng lăng quên pháp tắc. Hiện thời, trong thời khóa, dẫu chỉ cho nghỉ mười phút, rất nhiều người sẽ đều buông lung trong chốc lát. “Buông lung” là như thế nào? Tán hoại sự duy tŕ học Phật và học pháp của chính ḿnh, ngay lập tức tán gẫu, nói những chuyện chẳng liên can. Thứ này hay, thứ kia dở ngay lập tức xuất hiện! Trong thời gian mười phút, luôn tận lực lợi dụng mọi cơ hội để gieo ḿnh vào thế tục, dấn thân vào tạp duyên, huống hồ c̣n sa đà vào đó! Trước kia, tôi gặp một số vị sư phụ xuất gia, hoặc cư sĩ, trong lúc tu tập, hễ có thời gian liền ngủ. Tôi hỏi v́ sao phải ngủ như thế? Họ nói chẳng được nghỉ ngơi! Dùng toàn bộ thời gian rảnh rỗi để ngủ, nhưng có thể nghỉ ngơi hay không? Bất quá là một thứ ám thị và cân bằng tâm lư đó thôi! Nếu như vậy mà có thể nghỉ ngơi thật sự, chúng ta sẽ ngủ cả vạn năm! Như thế th́ thật sự có ư nghĩa hay không? Các vị thiện tri thức ơi! Chớ nên tự dối gạt ḿnh!

 

          (Kinh) Bất cầu danh văn cập lợi dưỡng, vô sở trước cố đắc thử Thiền.

          ()不求名聞及利養。無所著故得此禪。

          (Kinh: Chẳng cầu tiếng tăm và lợi dưỡng, do chẳng chấp trước đắc Thiền này).

 

          “Bất cầu danh văn cập lợi dưỡng” (Chẳng cầu tiếng tăm và lợi dưỡng): Trong hành pháp Ban Châu, tiếng tăm và lợi dưỡng là mối nguy hại to lớn tột bậc cho cái tâm. Đọa lạc trong ấy, bị tổn hại trong t́nh huống ấy, khá dễ nẩy sanh. V́ sao vậy? Pháp ấy mạnh mẽ, có sức nối kết mạnh mẽ! Hễ chẳng chú ư đôi chút, tâm mạn, tâm kiêu sẽ sanh khởi, gây nguy hại cho ḿnh lẫn người. Nhưng nếu là cái tâm lợi tha, tâm chẳng v́ lợi dưỡng, ắt sẽ được thân tâm điều phục, mềm mỏng, trọn đủ bi và trí.

          “Vô sở trước cố, đắc thử Thiền” (do chẳng chấp trước nên đạt được môn Thiền này): Lợi ích thật sự của pháp này chính là lưu xuất quang minh và thiện xảo từ tâm trí tịch diệt.

 

          (Kinh) Mạc sanh tật đố cập sân khuể, đương tư giải thoát chư dục tâm, nhạo thử tam-muội cầu trụ giả, cần niệm vô giải nhĩ năi đắc, kim sắc bách phước trang nghiêm tướng, đoan chánh viên măn nhược hoa vinh.

          ()莫生嫉妒及瞋恚。當思解脫諸欲心。樂此三昧求住者。勤念無懈爾乃得。金色百福莊嚴相。端正圓滿若華榮。

          (Kinh: Đừng sanh ghen tỵ và nóng giận, hăy nghĩ giải thoát các dục tâm. Ưa thích, cầu trụ tam-muội này, siêng niệm, chẳng lười, bèn đạt được. Tướng sắc vàng trăm phước trang nghiêm, đoan chánh, viên măn, đẹp rạng rỡ).

 

          Đấy là tỷ dụ tướng của đức Thế Tôn.

 

          (Kinh) Thế gian nhạo kiến quang minh thể, thường đổ chư Phật tại hiện tiền.

          ()世間樂見光明體。常睹諸佛在現前。

          (Kinh: Thế gian ưa thấy thể quang minh, thường thấy chư Phật đang hiện tiền).

 

          Niệm tướng hảo của Phật chính là phương tiện tu tŕ để quán sắc tướng. Trước kia, tôi đă theo một vài vị thiện tri thức học phương pháp như vậy, rất dễ thấy Phật tướng, rất dễ dàng, tột bậc dễ dàng! Nhưng rất nhiều người tu theo pháp ấy lại cho là rất khó, chẳng biết v́ sao? Do vấn đề trong khái niệm, hay là có vấn đề về tri kiến? Hay là vấn đề về nhân duyên? Chẳng hạn như muốn quán tướng của Như Lai, quư vị đảnh lễ một trăm lẻ tám lần, tướng ấy sẽ hiện tiền. Chỉ cần quư vị cung kính, từ đầu đến cuối đều như nhau, liên tục lễ bái. Không tin th́ chúng ta có thể thí nghiệm. Đối trước một bức tượng khá đúng pháp, trang nghiêm, quư vị hăy như thật lễ bái, ca ngợi. Cũng có nghĩa là trong khi lễ bái, trong tâm thốt lên lời ca ngợi, cho đến nói ra miệng cũng được. Khi lễ A Di Đà Phật, niệm Nam-mô A Di Đà Phật cũng được, hoặc lạy Dược Sư Phật, niệm Dược Sư Phật. Lạy vị Phật nào, niệm vị Phật đó, chỉ cần quư vị nhất quán từ đầu đến cuối, hoặc bốn mươi chín lần, hoặc hai mươi mốt lần, thậm chí bảy lần. Nếu là người siêng ṛng, người thủ hộ th́ cũng được thấy. “Được thấy” chính là thấy mà như chẳng thấy; đó chính là “được thấy”.

          Thấy Phật chẳng khó, giống như chúng ta thấy các vật khác. Sự vật đều do tâm mà hiện. Các thứ khác dễ thấy, v́ sao chẳng dễ thấy Phật? Trong tâm chúng ta có sợ hăi, trong tâm có khoảng cách, trong tâm chẳng có sự liên tục. Mọi người có thể thí nghiệm nhé! Hăy t́m một bức tượng Phật mà quư vị ưa thích nhất. Trong hoàn cảnh đơn nhất (tức là chỉ xếp đặt một nơi chỉ thờ bức tượng ấy), liên tục lễ một trăm lẻ tám lạy. Quư vị nghiêm túc lễ bái, ca ngợi, cúng dường vị Phật ấy, có thể làm như thế đó. Tôi đă gặp rất nhiều người nói: “Ôi chao! Tôi niệm Phật đă nhiều năm ngần ấy, chẳng thấy Phật lần nào cả!” Quư vị chẳng có tí xíu tâm cổ vũ nào, một tí tâm tiếp nối (tâm liên tục nghĩ tưởng Phật) cũng chẳng có, một tí tâm ca ngợi cũng chẳng có luôn! Như thế th́ làm sao có thể hữu dụng cho được? Nêu một thí dụ đơn giản nhất, tôi chẳng khen ngợi ḿnh, mà cũng chẳng phỉ báng ḿnh. Nếu tôi thấy diệu tướng của Phật, chỗ gia tŕ trong công đức do thấy Phật là tuyệt đối chẳng tiếc nuối tiếc bất cứ vật ǵ để cúng dường. Lúc tôi nghèo túng nhất, thật sự là áo đang mặc cũng cởi ra để cúng dường Phật. Ở đây chẳng phải là nói hư giả, tuyệt đối chẳng có bất cứ do dự nào! Đó chẳng phải là vấn đề có thiện căn hay không, mà là quư vị có tâm trí vui thích, ngưỡng mộ, thủ hộ, cúng dường như thế hay không? Nếu chẳng có tâm trí ấy, làm sao quư vị thấy Phật cho được? Nếu quư vị gặp Phật mà c̣n suy nghĩ tính trù trừ: “Con cúng dường Ngài có thích đáng hay không? Con lễ Ngài có hợp lẽ hay không?” [Nếu cứ băn khoăn, so đo như thế], làm sao có thể thấy Phật cho nổi?

          Thấy Phật chẳng khó, chỉ do tâm hiện. Cái tâm thành kính, liên tục, nhất định sẽ trông thấy. Đó chẳng phải là nói cao minh đâu nhé! Như trong phần văn tự thuộc phần trước đă nói, tâm chẳng thể tự thấy, cho nên Như Lai chính là tâm ta! V́ cớ sao vậy? Tâm làm Phật, tâm là Phật. V́ sao chúng ta có thể thấy chúng sanh tướng, mà chẳng thể thấy Phật tướng? Trên thực tế, có bất cứ chúng sanh tướng nào chẳng phải là Phật tướng ư? Tất cả các tướng mà ta được thấy và Phật tướng lại có ǵ khác biệt? Chỉ do tâm hiện, chẳng có chút nào khác biệt! Nhưng chúng ta có thể thấy chúng sanh tướng, v́ sao chẳng thể thấy Phật tướng? Có thể thấy các thứ tướng tạp uế, tướng đắm nhiễm, tướng điên đảo, v́ sao chẳng thể thấy Phật tướng? Chư vị thiện tri thức ơi! Nhất định phải cổ vũ, khích lệ chính ḿnh, hăy tu tập pháp tắc ở đây! Nếu quư vị chẳng tu tập, cứ lo nghe kẻ khác nói cho lắm vào, nói chung là chẳng tương ứng!

          Trước kia, có một lần tôi nói: “Tối hôm nay tôi niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Nếu chẳng được trông thấy, tôi sẽ nhảy lầu”. Bức bách chính ḿnh một phen! V́ sao? Nay ác báo của tôi đă chín muồi. Chẳng thấy Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ chẳng thể tiêu trừ nghiệp duyên ấy, hoặc là chết phứt đi, hoặc thấy Quán Âm. Niệm Quán Thế Âm Bồ Tát một hơi hai tiếng đồng hồ như thế, Quán Thế Âm liền thuận theo cơ nghi mà hiện tướng. Chẳng phải là nói tôi hay ho ǵ, mà là cách vận dụng mạnh mẽ! Nếu tâm trí của quư vị chẳng có khát vọng như thế, làm sao có thể thấy cho được? Tôi nêu ra thí dụ này, chẳng nhằm nêu ra pháp tắc ấy [để xúi giục quư vị làm theo cách cực đoan ấy], mà có ư nói: Quư vị nhất định phải khích lệ chính ḿnh, [đặt ḿnh vào hoàn cảnh] chẳng c̣n có đường lui! Nếu quư vị c̣n có đường lui, làm sao có thể thấy Phật cho được? Quư vị có đường lui, sẽ thấy tạp duyên và tạp nghiệp trong hiện tiền của chính ḿnh. Người học Phật hiện thời có quá nhiều đường lui, không chỉ là một con đường lui, mà chắc là có cả tám trăm con đường lui! Vậy th́ sẽ chẳng thể thấy Phật được! Chẳng sanh quyết định đối với pháp mà! Tôi kể với mọi người chuyện này, chẳng phải là cổ vũ mọi người làm giống như tôi, mà là nêu một thí dụ cho quư vị. Thật ra, chuyện tôi làm chẳng có ư nghĩa thực chất, cũng chẳng phải là tôi khoe khoang nguyện vọng của chính ḿnh. Chuyện đó cũng chẳng có ư nghĩa cho hết, bởi lẽ ai cũng đều có thể làm được! Ai nấy đều làm như vậy, pháp tắc b́nh đẳng, chân thật mà!

 

          (Kinh) Văng cổ chư Phật cập tương lai, hiện tại nhất thiết nhân trung thắng, nhữ đẳng nhất tâm cung kính lễ, diệc thường chuyên niệm, tu cúng dường.

          ()往古諸佛及將來。現在一切人中勝。汝等一心恭敬禮。亦常專念修供養。

          (Kinh: Chư Phật xưa, nay, và tương lai, trong hết thảy người thù thắng nhất, các ông nhất tâm cung kính lễ, cũng thường chuyên niệm, tu cúng dường).

 

          Lễ bái và cúng dường, rất là trọng yếu! Sự cúng dường ấy không chỉ là nói suông, mà là từ tâm địa sanh khởi sự ngưỡng vọng và yêu thích. Có người nói: “Con người tôi tham tiền, keo kiệt, muốn thấy Phật, được hay không?” Nhất định là không được! Quư vị c̣n có cái giữ lại, tức là c̣n giữ chặt nghiệp tướng, quư vị sẽ thường trông thấy nghiệp tướng của chính ḿnh, chẳng thấy thân tướng diệu sắc thanh tịnh của chư Phật. Tôi thường nghe một số Bồ Tát nói: “Ôi chao! Người khác nói họ thấy Phật, thấy Bồ Tát này nọ. Tôi hằng ngày lạy Phật, niệm Phật, cớ sao chẳng thấy?” Trước hết là do chẳng có cái tâm cung kính. Bản thân những câu nói đó chính là chẳng có tâm cung kính. V́ sao? Nếu quư vị thật sự dốc ḷng cung kính, căn bản là sẽ chẳng ăn nói kiểu đó! Quư vị sẽ tôn trọng cái tâm của chính ḿnh, dù thấy hay chẳng thấy, cái tâm cung kính đă là chân thật. Tâm cung kính sẽ chẳng có chuyện đối đăi [thấy ḿnh đă] dốc ḷng, làm sao có chuyện quư vị suy xét chính ḿnh có được hồi báo hay là không! Do vậy, đánh mất cái tâm cung kính, th́ đa số là lợi ích và hiệu quả sẽ bị khuất lấp!

 

          (Kinh) Nhữ nhược cúng dường bỉ chư Phật, ưng dĩ hoa, hương, cập đồ hương, huệ thí mỹ thực khởi tịnh tâm, chứng thử tam-muội thù phi nan!

          ()汝若供養彼諸佛。應以華香及塗香。慧施美食起淨心。證此三昧殊非難。

          (Kinh: Nếu ông cúng dường chư Phật ấy, nên dùng hoa, hương và hương bôi, khéo thí món ngon, khởi tâm tịnh, chứng tam-muội ấy thật chẳng khó).

 

          Ở đây, đức Thế Tôn bảo chúng ta: Chẳng phải là chuyện khó! V́ quư vị kiền thành, điều phục, nhu ḥa, liên tục ca ngợi, cúng dường, quan sát, tùy thuận, trong lúc ấy, tuy không thấy chư Phật, Phật đă hay biết. V́ lẽ nào? Do tâm trí điều ḥa, nhu thuận, cung kính cúng dường, tâm trí tự đạt được điều phục, nhu thuận. Dẫu chưa thấy Phật mà lợi ích do thấy Phật đă hiện tiền! Nếu quư vị chẳng cầu được báo đền th́ được rồi! Có người nói: “Tôi ở đây ngoài lễ bái, tán thán, ca ngợi, c̣n có cái tâm cầu thấy Phật, có được hay không?” Hễ dấy lên cái tâm ấy, hăy buông xuống, sẽ là như thật cúng dường, tán thán, tùy thuận. Đó là có ư nghĩa. Nếu quư vị lạy Phật hai lạy, đă nói: “Phật ơi! Sao Ngài chẳng hiện tiền?” Đó là quư vị nói với ai vậy? Nói điều kiện ǵ vậy? Dẫu rải các cánh hoa ở đó, vẫn là người khác mua cho quư vị, quư vị ngỡ chính ḿnh có thể thấy Phật ư? Quư vị có một phần tâm chân thành thật sự hay chăng? Chân thành là ǵ? Nó sanh khởi từ tâm trí chẳng đối đăi! Trong trước tác của Ngài, Thiện Đạo đại sư đă nói: “Nếu là người niệm Phật, dù thấy, hay không thấy [Phật hiện thân], đều biết ân Phật”. Chẳng thấy Phật cũng là Phật ân; thấy Phật cũng là Phật ân. Ở đây là tâm cung kính, tâm chân thật, tâm liên tục! Nếu quư vị chẳng có các tâm như thế, sẽ giống hệt như buôn bán, thời thời khắc khắc tính toán được mất, làm sao có thể thấy Phật cho được? Cái tâm ô nhiễm đă che lấp chính ḿnh mất rồi!

 

          (Kinh) Chư Phật tháp tiền tác chúng nhạc, loa, cổ, chinh, đạc, chư diệu âm, hoan hỷ dũng dược nan xưng lượng, tất đương thành tựu thử tam-muội.

          ()諸佛塔前作衆樂。螺鼓鉦鐸諸妙音。歡喜踊躍難稱量。必當成就此三昧。
          (Kinh: Trước tháp chư Phật, tấu các nhạc. Ốc[2], trống, chiêng, linh, các diệu âm. Hoan hỷ, hớn hở, khó tính kể, ắt sẽ thành tựu tam-muội này).

 

          Đối trước Phật, Bồ Tát, chúng ta có thật sự vui thích cúng dường hay không? Công khóa đều chẳng muốn tham dự. Niệm vài câu Nam-mô A Di Đà Phật đă nói: “Niệm nhanh lên cho xong!” Tán Phật, lễ mấy lạy liền cảm thấy mệt mỏi, nhọc nhằn, chẳng muốn lạy nữa. Vậy th́ làm sao có thể thấy Phật cho nổi? Quư vị tán Phật để thân tâm của chính ḿnh an lạc đấy chăng? Quư vị tán Phật ư? Chẳng phải là quư vị bồi đắp cảm nhận của chính ḿnh ư? Quư vị mong muốn thấy Phật à? Quư vị thật sự chẳng màng sanh mạng để được thấy Phật à? Chẳng màng nghiệp duyên của chính ḿnh để thấy Phật à?

          Tôi gặp một số thiện tri thức tu hành Phật pháp, thật sự là bậc dũng mănh. Thấy Phật đối với họ chẳng có ǵ là khó! Chớ nên giải đăi và buông lung, lại càng chớ nên chẳng [tu tập, ức niệm] liên tục. Người tu hành nơi đất Hán mắc cái tật lớn là không liên tục! Chẳng hạn như đến chánh điện bèn tu pháp, ra khỏi chánh điện, khỏi tu luôn! Chẳng tu pháp trong lúc ngoài công khóa th́ lên chánh điện [dẫu có ra vẻ tu hành] cũng chẳng tu. Buổi tối [tu hành] rất sốt sắng, sáng ra lên chánh điện ngủ gục! Rời khỏi chánh điện th́ “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, lên tụng niệm công khóa chẳng có ai hết. Như vậy mà có thể thấy Phật được sao? Đó tu tự ngă, tự đại mà thôi, làm sao có thể thấy Phật cho nổi? Phật ở nơi đâu? Dùng ǵ để duy tŕ liên tục? Do vậy, trong tu pháp, chúng ta nhất định phải khéo nhận biết, khéo quan sát.

          Hiện thời, trong hành pháp Ban Châu, xuất hiện cái duyên trái nghịch ở chỗ này. Trong tâm suy tưởng “ta phải tu pháp! Kệ xác đạo tràng!” Đạo tràng là để làm ǵ? Đối với đạo tràng, quư vị có chút yêu quư; tu pháp ở đó, sẽ có ư nghĩa. Nếu chẳng mến tiếc đạo tràng này mà muốn tu pháp ở đó, quư vị tu pháp bằng cách nào? Do cái tâm ấy, quư vị sẽ chẳng có cách nào tu pháp! Tâm ấy là tâm ǵ vậy? Màu xanh ư? Màu xanh ở chỗ nào? Do vậy, chúng ta học Phật, nhất định phải lôi ra cái tâm kiền thành, tâm cung kính. Sau đó, dù làm chuyện ǵ cho người khác, làm chuyện của đạo tràng, hay làm chuyện của chính ḿnh, đều là đang tu hành! Nếu chẳng có cái tâm cung kính, tâm kiền thành, chính ḿnh sẽ dưới là tu hành nhằm vun bồi ngă mạn, trên là tu buông lung, giải đăi, như thế th́ làm sao có thể thành tựu cho được? Thừa sự giả dối, làm sao có thể thành tựu cho nổi? Các vị thiện tri thức ơi! Phải nhận cho đúng chỗ này! Hăy nhận thức cho đúng, vận dụng cho đúng nhé!

 

          (Kinh) Khuyến tạo tôn tượng vô tỷ thân, thái họa trang nghiêm, cụ túc tướng. Kim sắc quang đại, vô hà cấu, chứng thử tam-muội lương phi nan. Các các thường niệm tu pháp thí, thanh tŕ cấm giới cập đa văn, tinh cần, dũng mănh, trừ giải đăi, đắc thử tam-muội chung bất cửu.

          ()勸造尊像無比身。彩畫莊嚴具足相。金色光大無瑕垢。證此三昧良非難。各各常念修法施。清持禁戒及多聞。精勤勇猛除懈怠。得此三昧終不久。

          (Kinh: Khuyên tạo tôn tượng thân khôn sánh, vẽ vời trang nghiêm, tướng trọn đủ. Kim sắc sáng ngời, không tỳ vết. Chứng tam-muội này thật chẳng khó. Ai nấy thường nghĩ tu pháp thí, tŕ giới thanh tịnh và đa văn, siêng ṛng, dũng mănh, trừ giải đăi, đắc tam-muội này trọn chẳng lâu!)

 

          Nay chúng ta ở đất Hán, tu pháp liên tục và dũng mănh đúng là rất khó khăn. Thường là nói chính ḿnh mong đạt được lợi ích ấy, vẫn là chẳng nỡ xả “thân, tâm, thế giới và cảm nhận” của chính ḿnh. Rất nhiều người v́ an nhàn mà tu pháp, v́ danh dự mà tu pháp, vậy th́ làm sao có thể thấy thiện xảo và công đức rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật cho được? Tức là thiện xảo và công đức vô ngă, thiện xảo và công đức bi trí. Bất luận tu pháp hay học tập, làm ǵ cũng chỉ v́ một chữ Ngă! “Đổi đầu, thay mặt” chẳng ĺa khỏi Ngă! Vậy th́ quư vị làm sao có thể thấy Phật cho nổi cơ chứ!

 

          (Kinh) Bất ưng tha sở hoài độc tâm, diệc xả thế gian chư dục sự. Thường dĩ từ bi niệm nhất thiết. Tam-muội khởi viễn tại hiện tiền. Ư pháp sư sở thường tùy hỷ. Tôn trọng cung kính đẳng Như Lai, mạc sanh khinh mạn dữ xan tham, hỷ tâm cúng dường trừ tật đố. Vô lượng chư Phật cộng xưng dương, nhữ đản cần cầu tự đương đắc.

          ()不應他所懷毒心。亦舍世間諸欲事。常以慈悲念一切。三昧豈遠在現前。於法師所常隨喜。尊重恭敬等如來。莫生輕慢與慳貪。喜心供養除嫉妒。無量諸佛共稱揚。汝但勤求自當得。

          (Kinh: Đừng ôm ḷng ác với người khác, cũng xả thế gian các dục sự, thường nghĩ từ bi với hết thảy, tam-muội hiện tiền há có xa? Đối với pháp sư luôn tùy hỷ. Tôn trọng, cung kính hệt Như Lai. Đừng sanh khinh mạn và keo tham, hoan hỷ cúng dường trừ ghen tỵ, vô lượng chư Phật cùng xưng tán, ông chỉ siêng cầu, tự đạt được).

 

          Đây chẳng phải là chuyện của người khác! Chúng ta đếm trân bảo mà ḿnh sẵn có, tức là siêng năng tu pháp. Nếu v́ pháp mà hy sinh thân mạng th́ sắc thân này của chúng ta có ư nghĩa. Nếu không, thân này là thân đang tạo nghiệp. Từ vô thỉ đến nay, ta tạo ác nghiệp, như trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện đă nói: “Nếu [các ác nghiệp ấy] có h́nh sắc, pháp giới khó thể chứa đựng”. Thế gian khó thể chứa nổi, chẳng lẽ c̣n chưa đủ nhiều ư?

 

          (Kinh) Thế Tôn trịnh trọng diễn thuyết tư, vị tu như thị diệu pháp cố.

          ()世尊鄭重演說斯。爲修如是妙法故。

          (Kinh: Thế Tôn trịnh trọng nói điều đó, v́ tu diệu pháp như thế ấy).

 

          Do vậy, đức Thế Tôn trịnh trọng tuyên nói pháp tắc khó được, khó nghe như vậy, khiến cho chúng ta đạt được Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền dễ dàng! Nói giáo pháp như thật, khiến cho chúng sanh có thể vận dụng. Do vậy, được nghe pháp khó nghe, dễ đạt được hiệu quả và lợi ích nơi tam-muội, quả thật là bổn hoài xuất thế của chư Phật.

          “Vị tu như thị diệu pháp cố” (v́ tu diệu pháp như thế): Đức Thế Tôn trịnh trọng tuyên nói giáo pháp này, xét ra, mục đích vẫn là khuyên hữu t́nh tu nơi hiện duyên. Vậy th́ chúng ta học tập cũng giống như thế, chẳng có ư ǵ khác. Nếu chẳng vậy, chúng ta học tập siêng khổ nhọc nhằn, nhưng mọi người lăng phí thời gian, đúng là chẳng có ích ǵ cho cả ḿnh lẫn người. Vậy th́ hăy nên sám hối!         

 

6. Phẩm thứ ba: Kiến Phật

 

          Chúng ta tiếp tục dùng văn tự để ấn khế tâm địa, đừng dùng chi khác! Kinh điển đích xác là quang minh tạng để gột rửa tối tăm trong tâm chúng ta, là cam lộ để gột rửa chất độc trong tâm ta, cũng đích xác là pháp tắc để ấn khế tâm địa tốt nhất, trực tiếp nhất, là pháp tắc thỏa đáng nhất, đắc lực nhất để chỉ đạo cuộc sống khỏe mạnh và hoàn thiện, tiến nhập hoàn thiện, thành tựu hoàn thiện, an trụ hoàn thiện. Kinh điển là một thứ ngôn thuyết trí huệ nhất, từ bi nhất, thiện xảo nhất phun trào từ tâm địa của chúng ta, là âm thanh đẹp đẽ nhất lưu xuất từ tâm trí thiện xảo nhất, từ bi nhất, nghiêm cẩn nhất của mỗi chúng sanh, chẳng phải do kẻ khác nói. Bất quá là Phật tuyên nói, các vị đại Bồ Tát, thiện tri thức kết tập [các ngôn thuyết ấy (các lời dạy của Phật)], chúng ta lại dùng nó để dẫn đường, ấn khế tự tâm. Tâm tương ứng với tâm như thế, đèn này truyền sang đèn khác như thế, tuyệt đối chẳng có tơ hào tăng giảm. Nó là chân thật, chân thật chẳng thể nghĩ bàn, đích xác là có thể lợi ích rộng răi hữu t́nh trong thế gian. Nếu như thật gột rửa tâm cấu, thắp đèn trí huệ, vận dụng phương tiện từ bi, chiếu sáng thế gian, vậy th́ người học tập kinh điển chúng ta cũng giống như Phật, Bồ Tát, hoặc bậc trí an trụ trong thế gian này. Nếu không, chúng ta dùng tri kiến ngu si, nghiệp ngu si, nghiệp lưu liên tục mà trầm luân trong biển sanh tử vô cùng, chẳng thể tự thoát ra được.

          Mục đích học tập của chúng ta cũng là ấn khế tự tâm, trực tiếp thoát khỏi sanh tử, chẳng nhờ vào phương tiện! Sanh tử vốn chẳng thể được, chúng sanh hư vọng tự tạo tác, kiến lập nghiệp sanh tử hư vọng và nghiệp tương tục (sự liên tục của nghiệp), khiến cho chúng ta trầm luân, chẳng thể xuất ly. Nay chúng ta dùng pháp tắc, kinh điển, và giáo ngôn này để ấn khế và nhận thức tự tâm chân thật, chẳng tăng giảm. Đó cũng là trực tiếp thoát khỏi sanh tử. Ở đây, chẳng có sợ hăi. Thường là sợ hăi v́ tâm phân biệt che lấp, hoặc do chấp trước che lấp, như bị che lấp bởi [các chấp trước đối đăi] cao, thấp, lớn, nhỏ, thiện, ác, đúng, sai, phàm, thánh, cũng như nghiệp tạo tác bởi tất cả các hành vi của cái Ngă trước kia. Do đó, cơng nặng trĩu gánh nặng lịch sử, bị che lấp bởi tập nhiễm sâu dầy từ vô thỉ tới nay, chính ḿnh khó thể thoát khỏi được, giống như bị hăm trong đầm lầy vậy! Chúng ta làm thế nào để thoát ra? Cần phải nhờ vào kinh giáo, nhất là trong lúc trước khi hoặc sau khi Phật trụ thế, đức Thế Tôn kế tiếp chưa giáng sanh trong cơi đời, mà đức Thế Tôn trước đó đă nhập diệt, nhưng di giáo của Ngài vẫn c̣n ảnh hưởng chúng ta. Chúng ta tôn trọng di giáo ấy như thế nào? Di giáo do các vị thầy đời đời truyền thừa, di giáo chẳng tăng giảm. Như vậy th́ [di giáo] sẽ có thể chỉ đạo tâm trí của chúng ta, xa ĺa các thứ tri kiến độc hại của ngoại đạo, hoặc là tri kiến bất chánh độc hại. Như thật biết tự tâm chẳng phải là pháp nào khác, chẳng từ nơi nào khác đến, mà cũng chẳng đi nơi khác. Thiện và ác chẳng có đến hay đi, pháp tắc phàm thánh cũng chẳng đến hay đi. V́ hết thảy các pháp vốn chẳng có tự tánh, chọn lựa ngay trong hiện tiền. Tâm làm Phật, tâm chính là Phật. Ở ngay chỗ này, chớ duyên theo nơi khác. Pháp tắc đích xác đơn giản, rơ ràng như thế đó! Phật pháp là vốn chẳng có nhiều ư chỉ! Cố ư biến Phật pháp thành rất thâm áo, rất huyền diệu, rất xa xôi, sẽ là chuyện chẳng tương ứng. Nhưng nếu coi Phật pháp là rất thấp thỏi, hèn kém, th́ cũng chẳng tương ứng! V́ thế, chúng ta dùng h́nh thức trang trọng và nghiêm túc để khích lệ tự tâm tôn trọng, và thủ hộ một cách tôn trọng. Đó cũng là pháp tắc này và pháp tắc kia ấn khế lẫn nhau!

 

          (Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh, Hiền Hộ Phần, Kiến Phật phẩm đệ tam.

          ()大方等大集經賢護分見佛品第三。

          (Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, phần Hiền Hộ, phẩm thứ ba: Thấy Phật).

 

          Khoa phán là để mọi người nhận thức chỗ trọng yếu trong đoạn văn tự này. Đó gọi là “cương cử mục trương” (nắm lấy dây chài chính của cái lưới giơ lên, các mắt lưới sẽ căng ra). Cái “mục” (mắt lưới, điểm trọng yếu) sẽ có thể khiến cho chúng ta thấy rơ ràng nội dung thực tế của văn tự.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: - Hiền Hộ! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát dục đắc thành tựu thử tam-muội giả, đương ưng ư bỉ thuyết pháp sư sở, sanh chư Phật tưởng.

          ()爾時世尊復告賢護菩薩言。賢護。若諸菩薩摩訶薩欲得成就此三昧者。當應於彼說法師所。生諸佛想。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: - Này Hiền Hộ! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát muốn được thành tựu tam-muội này, hăy nên đối với vị thầy thuyết pháp, sanh tâm tưởng như chư Phật).

 

          Công đức của chư Phật được thí trọn vẹn cho một người, quả thật là thiện xảo quan sát, cũng là thông qua hoặc nhờ cậy nhân duyên trợ giúp của thầy để trở về căn bản giáo hóa thanh tịnh viên măn của chư Phật. Đây thật sự là một sự khải phát và giáo dục chẳng thể nghĩ bàn, mà cũng là một sự hướng dẫn chẳng thể nghĩ bàn. Sự hướng dẫn ấy chính là “y pháp, bất y nhân” (nương theo pháp, chẳng dựa dẫm theo người khác). V́ sao vậy? Ở đây, đức Thế Tôn đă nói mười phần rơ ràng, “Ưng ư bỉ thuyết pháp sư sở, sanh chư Phật tưởng” (đối với vị thầy thuyết pháp ấy, hăy sanh tâm tưởng như chư Phật). Chư Phật trọn đủ bi trí, trọn đủ phương tiện, khiến cho hết thảy chúng sanh nhập tri kiến của Phật, thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Đó là chánh nhân duy nhất của chư Phật.

          Chúng ta đều biết, trong giáo ngôn được thủ hộ bởi hết thảy ngoại đạo, đều có một Thượng Đế, hay một vị Chúa chi đó, tức là có một đấng sáng tạo nhân loại có sức mạnh to lớn. Phật giáo chẳng tuyên nói như thế. Phật giáo nói: “Hết thảy chúng sanh đều có thể thành Phật”, hoặc: “Hết thảy chúng sanh vốn là Phật”. Nói “chúng sanh vốn là Phật”, nhưng do chúng sanh mê mờ, cho nên [chư Phật] tạo lập đủ thứ pháp tắc ḥng hướng dẫn chúng ta thật sự lựa chọn chánh tri kiến. Kinh Viên Giác nói “hết thảy chúng sanh vốn là Phật”; do vậy, có Bồ Tát bèn hỏi: “Hết thảy chúng sanh vốn là Phật, vậy th́ chư Phật Như Lai cớ ǵ lại sanh kiến giải điên đảo, trở thành chúng sanh đọa lạc vậy?” Đấy là chỗ khiến cho hết thảy chúng sanh ngờ vực, là chỗ đích thân chứng đắc của chư Phật. Tất cả các công đức nơi chư Phật chẳng tăng, tại phàm phu chẳng giảm. Điều như thế được gọi là Phật Tánh. Chắc là đối với pháp tắc như vậy, chúng ta nẩy sanh nhiều nỗi nghi hoặc. Nghi hoặc” như vừa nói đó là do cái tâm phân biệt, chấp trước, vọng tưởng từ vô thỉ tới nay tạo ra. Tức là cảm giác khác biệt và nghiệp báo sai biệt do các pháp tắc thiện hay ác được tạo thành bởi phân biệt và chấp trước từ vô thỉ tới nay, nẩy sanh cái gọi là “sự thật nghiệp tướng”, tức là cái nghiệp tướng mà mọi người hiện thời có thể trông thấy hay cảm nhận. Kết quả là khiến cho hữu t́nh trầm luân, đeo gánh nặng trong tự tâm!

          Đối với thầy, hăy nên sanh tâm tưởng như chư Phật. Đối với chuyện này, chúng ta phải nhận biết v́ sao chư Phật xuất thế, v́ sao thí giáo, v́ sao lợi lạc chúng sanh? V́ lẽ ấy, trong kinh Pháp Hoa, đức Thế Tôn đă nói về một đại sự nhân duyên duy nhất khiến cho chư Phật Như Lai xuất hiện trong cơi đời. Đó là phán quyết tối hậu, xác định mục đích xuất thế chân thật của chư Phật là để lợi lạc thế gian, v́ tạo lợi ích rộng răi cho hữu t́nh, v́ khiến cho chúng sanh quay về, nhập vào bổn vị của hết thảy chư Phật. Ở đây, sẽ khiến cho chúng sanh có ba loại nghi hoặc: Nói “hết thảy chúng sanh vốn là Phật”, sẽ khiến cho chúng sanh nẩy sanh nghi hoặc, nói “đại sự nhân duyên duy nhất khiến chư Phật Như Lai xuất hiện trong cơi đời”, có thể là mọi người c̣n nghi hoặc. Khi sanh nghi hoặc th́ là lúc vừa khéo học Phật pháp.

 

          (Kinh) Khởi tôn trọng tâm, vật sanh kiêu mạn.

          ()起尊重心。勿生憍慢。

          (Kinh: Dấy ḷng tôn trọng, đừng sanh kiêu căng, ngạo mạn).

 

          Tâm hết thảy phàm phu đều cho rằng các nghiệp do chính ḿnh đă tạo tác đều là như thật, những ǵ chính ḿnh thấy như thật, chính ḿnh cảm nhận đúng như thật, tức là [chấp trước] tri kiến của chính ḿnh là chánh xác, nghiệp do chính ḿnh đă tạo là chánh xác, tư tưởng của chính ḿnh là chánh xác. Đó gọi là “phàm phu tâm”. Trong tâm của chư Phật, Bồ Tát, chẳng có một pháp nào để có thể thành, chẳng có một pháp nào để có thể lập, tuy lợi ích thế gian mà vô vi, vô nhiễm, chẳng đắm chấp! Như nguyện vọng đại bi của Quán Thế Âm Bồ Tát, đáng nên dùng thân ǵ để độ, vị Bồ Tát ấy liền ứng hiện thân đó. Trong đó, chẳng có đúng, sai, thiện, ác để tuyên nói, nhưng v́ có thể khiến cho chúng sanh độ thoát, thành tựu Bồ Đề [mà hiện thân tương ứng]. Rất nhiều kẻ tại gia, xuất gia học Phật b́nh phàm chúng ta, khởi tâm động niệm là ǵ vậy? Cảm giác đầu tiên là “ta luôn chánh xác”. Cảm giác thứ hai là “kẻ khác sai be bét”. Cảm giác thứ ba là phải “thuyết phục kẻ khác [suy nghĩ cùng một kiểu như ta]”, đem “tri kiến chánh xác” của ta nói cho người khác. Chuyện này chẳng ăn nhập ǵ với Phật pháp! Chúng ta có thể quan sát đôi chút, sẽ thấy nỗ lực chinh phục người khác đúng là vô nghĩa! Chư Phật, Bồ Tát xuất thế đều nhằm hướng dẫn chúng sanh “ĺa khổ, được vui, thành tựu Bồ Đề”. Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta phải khéo so sánh giữa sự sai biệt của chính ḿnh và sự không sai biệt của chư Phật, Bồ Tát! Cái “sai biệt mà chẳng sai biệt ấy” có phải là do bản thân chúng ta cưỡng chấp tạo tác mà xuất hiện hay chăng?

          V́ thế, “khởi tôn trọng tâm, vật sanh kiêu mạn” (dấy ḷng tôn trọng, đừng sanh tâm kiêu căng, ngạo mạn): Sự kiêu mạn ấy chính là do quư vị chấp trước “chính ḿnh là chánh xác” nên mới xuất hiện. Quư vị ngỡ chính ḿnh mười phần chánh xác, cho nên mới mười phần kiêu mạn! Ngỡ chính ḿnh mười phần phước đức, quư vị mới mười phần kiêu mạn! Rất nhiều người tại gia học Phật than với tôi: “Người học Phật hiện thời coi bộ không được! Quá kiêu mạn!” Đích xác là làm cho kẻ khác cảm thấy [người học Phật] quá kiêu mạn, cũng có nghĩa là [người học Phật có thói quen] dùng sở học của chính ḿnh để chỉ trích kẻ khác, cho rằng kẻ khác chẳng tu tập, cứ ngỡ người khác chẳng có thiện căn, ngỡ người khác mê mất! Kết quả là ăn nói kiêu mạn, chẳng phải là lời lẽ lợi lạc người khác. Đức Phật dạy pháp Tứ Nhiếp để nhiếp thọ chúng sanh, tức đồng sự, ái ngữ, bố thí, lợi ích rộng răi (c̣n gọi là lợi hành). Đồng sự là chẳng nói kẻ khác tốt hay xấu. Ái ngữ là quan tâm, tạo lợi ích cho đối phương. Bố thí: Người khác cần chẳng sợ hăi bèn bố thí vô úy cho họ. Cần tiền bạc, tài vật, bèn tài bố thí. Cần pháp tắc, bèn ban cho pháp tắc (pháp bố thí), khiến cho họ an lạc, tiến nhập đạo nghiệp Bồ Đề. Sau đấy mới là công đức thật sự tạo lợi ích rộng răi. Do vậy, sự khác biệt là dùng cái tâm thế tục để học Phật, vẫn phải dùng chuyện lợi ích người khác để học Phật. Tứ Nhiếp Pháp là một tấm gương trao đổi khá tốt đẹp.

          Mọi người khi bàn luận chuyện ǵ đó, kẻ tâm đă điều phục, mềm mỏng, bèn cười vui vẻ, chẳng nói chuyện thị phi. Nhưng kẻ mà bản thân có chút “tu chứng”, có chút “pháp tắc”, [do kiêu mạn, chấp trước], vừa mở đầu liền phán những điều chính ḿnh nói rất chánh xác, như thế th́ phải có nhiều công đức. Kết quả là [cho rằng] kẻ khác dẫu siêng gắng vẫn chẳng làm tốt, mạn tâm sanh khởi, [cứ ngỡ bản thân cao siêu lắm, kẻ khác] chẳng thể rớ tới được, chẳng tiếp xúc được, chẳng thấy được, chẳng thể diễn tả được! Quư vị đối với người khác chẳng cung kính, chẳng cúng dường, chẳng lễ bái, người ta sẽ chẳng tiếp nhận quư vị. V́ sao xuất hiện cái tâm kiêu mạn như thế? Đó là v́ chẳng có duyên khởi điều phục nhu ḥa được truyền thừa từ vị thầy này sang vị thầy khác. Duyên khởi ấy ở ngay trong cái tâm hiện tại, chúng ta phải bỏ gánh nặng “thiện, ác, nghèo hèn, cao, thấp, phàm, thánh, như pháp, chẳng như pháp” từ vô thỉ tới nay của chính ḿnh. Các thứ ấy đều là các thứ nặng nề do Sở Tri Chướng của quư vị đem lại! Nó sẽ bức bách quư vị, và cũng sẽ bức bách các hữu duyên hữu t́nh khác, quư vị hăy khéo quan sát.

          Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta học Phật là để vận dụng pháp tắc, đích xác là để giải trừ sự đau khổ nơi tâm linh của chính ḿnh, giải trừ chướng ngại nơi tâm linh của chính ḿnh, khiến cho thân tâm của chính ḿnh thật sự mạnh khỏe, chẳng phải là để phô trương “ta chánh xác”. Lập nhăn hiệu, in nhăn hiệu cầu chứng, bộ quư vị tính làm “đồ hiệu nổi tiếng” (brand name) ư? [Làm như thế] có ư nghĩa ǵ chăng? Điều này thật sự chẳng có ư nghĩa cho mấy, thường là chẳng thể mang lại an lạc cho chính ḿnh, mà cũng khiến cho kẻ khác hoang mang, đau khổ. Điều này tương phản với Phật pháp, chắc là vấn đề thuộc về nhân duyên. Tôi thường nghe hai ba người tranh luận, rất ít khi nghe người ta nói: “Tôi xử lư vấn đề này chẳng thỏa đáng, tôi sám hối. Chỉ cần mọi người có thể học Phật, tôi nhất định sám hối”. Rất ít khi nghe lời lẽ sám hối như thế, cơ bản đều là: “Tôi đúng”. Đối với một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy… hoặc nhiều hơn, có thể nói là mười mấy điều “tôi chánh xác”, “người khác sai”. Sai sót ở điều thứ nhất, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy… Nếu lại nêu ra tiếp, th́ có thể nêu ra mười mấy điều [để chứng tỏ] kẻ khác sai lầm. Trao đổi Phật pháp kiểu ấy là đă đi ngược đường. Điều này giống như hai bên lập trận công kích nhau, kiến lập sự đối chọi, chẳng có mảy may tương ứng với Phật pháp. Như thế th́ sẽ giống như luyện nắm đấm trong Phật pháp, coi thử ai có nắm đấm cứng hơn. Coi ai có thể chiến thắng đối phương! Duyên khởi ấy chẳng tương ứng. Hễ kẻ nào chiến thắng đối phương, sẽ vạch ra rất nhiều “quá khứ” của đối phương. “Quá khứ” là nói đến lầm lỗi, “quá khứ” là vạch ra lầm lỗi. [Đồng thời], nêu ra rất nhiều quá khứ của chính ḿnh. Quá khứ [của chính ḿnh] là nhân duyên thiện pháp, chánh tri kiến, hành vi, cho đến phước đức và nhân duyên [của chính ḿnh]. V́ sao sanh ra trạng thái học tập Phật pháp mà lại nghịch đạo như thế? Đối với điều này, các vị thiện tri thức tại gia và xuất gia, hăy đều nên nghiêm túc điều phục nhu ḥa các hiện duyên nơi tâm trí của chính ḿnh. Cũng có nghĩa là [hăy tự xét] một niệm hiện tiền của quư vị rốt cuộc là duyên theo điều ǵ? Đối với khởi tâm của quư vị trong hiện thời, bản thân quư vị duyên theo điều ǵ? Đừng nên quan sát người khác trước! Điều thiết yếu là hăy như thật biết chính ḿnh trong hiện tiền, biết một niệm hiện tiền, như thế th́ quư vị sẽ có thể đạt được duyên khởi thanh tịnh để giải trừ những cái nặng nề trong quá khứ, tức là tạo duyên khởi ngay trong hiện tiền, như thế th́ sẽ có cơ hội tiến nhập thấu triệt, học tập Phật pháp.

           Ở đây, “dục đắc thành tựu thử tam-muội giả, ư bỉ thuyết pháp sư sở, sanh chư Phật tưởng, khởi tôn trọng tâm” (người muốn được thành tựu tam-muội này th́ đối với vị thầy thuyết pháp, hăy sanh tâm tưởng như chư Phật, dấy ḷng tôn trọng), chẳng phải là có nghĩa khởi đầu th́ có tâm tôn trọng; sau đó, chẳng c̣n tôn trọng nữa! Có nhiều vị Bồ Tát tu theo kiểu này: Lần đầu tiên gặp gỡ quư vị th́ tâm bèn tôn trọng, lần thứ hai đă quen thuộc rồi, chẳng cần tôn trọng nữa. Lần thứ ba th́ sao? Cảm thấy chẳng khác biệt lắm! Lần thứ tư là lên mặt dạy bảo người ta liền! Đấy là đă đánh mất cái tâm thanh tịnh và tâm điều nhu của chính ḿnh trong hiện thời! Tôn trọng bèn nhất định lễ bái, cúng dường. Hoàn toàn chẳng phải là h́nh thức! Thật sự [tôn trọng] là tâm địa như thật quang minh và yêu thích, đích xác là khiến cho đối phương, khiến cho hiện duyên hữu t́nh đạt được tâm từ bi an lạc, tâm trí huệ. Đó là bổn tâm chẳng đắm nhiễm và vô cấu, chiếu rạng ngời hữu t́nh trong cơi đời hiện tại, khiến cho họ nhận biết bổn tâm, chẳng đánh mất tự tâm. Có thể làm như vậy th́ mới là thật sự cung kính. Đương nhiên, các h́nh thức lễ bái, h́nh thức trao đổi, thứ tự chỗ ngồi thật sự chẳng v́ người ấy mà xếp đặt, mà là do nghiệp tướng tụ tập. Trước kia, đă có Bồ Tát hỏi tôi như thế này: “V́ sao mọi người phải cúng dường, lễ kính người này, mà chẳng cúng dường, lễ kính người khác? Hoặc là chẳng tùy thuận người kia?” Tôi nói: Chỉ là do nghiệp lực khiến thành như thế, do hiện duyên khiến thành như thế. Hoàn toàn chẳng do con người cưỡng chế, an bài. Nếu cưỡng chế an bài, sẽ rất mệt mỏi. Nó chỉ là một thứ biểu đạt hiện duyên thuận lư thành chương của mọi người. Thật ra chẳng trọng yếu cho lắm! Nếu hiện thời, chúng ta đối với chỗ này, bất luận hàng Bồ Tát xuất gia hay tại gia, thật sự cho rằng tri kiến của chính ḿnh có thể lợi ích rộng răi hữu t́nh trong thế gian, quang minh thật sự sẽ khó thể ngăn che! Bậc thiện tri thức như vậy, nếu chư Phật, Bồ Tát chẳng đề cao, long thiên hộ pháp cũng sẽ đề cao quư vị. Nếu long thiên hộ pháp chẳng đề cao quư vị, th́ hiện tiền đại chúng cũng sẽ nâng quư vị lên! V́ sao? Do nhu cầu của thế gian. Chúng ta có thể trông thấy điều cần thiết trong thế gian này: Người trong thế gian này mê muội, tâm trí chẳng có chỗ an lạc, chẳng có pháp tắc rơ ràng để nương cậy, chẳng có phương tiện lợi tha, chẳng chọn lựa phương tiện tự lợi, mọi người đều cần đến pháp tắc!

          V́ thế, “vật sanh kiêu mạn, khởi tôn trọng tâm” (đừng sanh kiêu căng, ngạo mạn, hăy dấy ḷng tôn trọng) ở đây quả thật là cái tâm đáng nên dấy khởi trong hiện duyên hiện tại. Tức là chúng ta hằng ngày đều phải thực hiện nghi quỹ lễ thỉnh để làm ǵ? Hằng ngày xướng bài kệ tán chi đó, niệm chư Phật, hải hội Phật, Bồ Tát chi đó để làm chi vậy? Mỗi lần chúng ta đều phải làm giống hệt như lần đầu tiên, cung kính đảnh lễ hiện duyên của chính ḿnh, nhận biết tự tâm!

 

          (Kinh) Năi chí vô hữu tránh cạnh, vi nghịch, bất thuận tâm cố.

          ()乃至無有諍競違逆不順心故。

          (Kinh: Cho đến chẳng có tâm tranh đua, kèn cựa, trái nghịch, chẳng thuận tùng).

 

          “Thừa sự sư trưởng” trong giáo ngôn của cả ba thừa đều rất trọng yếu. [Phải hiểu] “sư trưởng” chẳng phải là một người hay một vật chi đó, đó là một sự biểu trưng. Chẳng hạn như có người nói, tôi đối với bức tượng Phật này sanh khởi tâm tưởng cung kính và thừa sự, vậy th́ hiện thời quư vị có thể dâng nước, dâng hoa và thức ăn, cho đến dùng âm thanh đẹp đẽ niệm tụng. Thật ra, đấy chẳng phải là h́nh thức. Rất nhiều chân ngôn đều là các bài kệ tán tụng rất hay đẹp, nội dung mười phần nồng hậu, hàm súc, nhưng đều là những lời lẽ rất xác đáng, hoặc là ca ngợi chư Phật Thế Tôn, là các ngôn từ cúng dường chư Phật Thế Tôn sâu xa nhất, toàn vẹn nhất, hoặc là các thệ nguyện, hoặc là các lời ca ngợi thệ nguyện, ca ngợi công đức hồi thí bởi các thệ nguyện. Nếu phiên dịch ra, đúng là mười phần tuyệt diệu, nội dung mười phần lạ lùng đặc biệt! Nhưng chân ngôn thuộc loại Ngũ Bất Phiên (五不翻, năm thứ không phiên dịch)[3]. Do [mỗi chữ trong chân ngôn] có nhiều nghĩa, nếu dịch ra, sẽ khiến cho chúng sanh nghi ngờ. V́ thế, chẳng dám phiên dịch. Nếu quư vị đối với một bức tượng, sanh khởi ḷng tôn trọng, thừa sự, tưởng như thấy chư Phật, bức tượng ấy cũng sẽ mở miệng nói năng! Nếu lúc một người thật sự đạt đến trạng thái cực hạn, thứ ǵ cũng đều có thể nói năng. Người có ḷng thành, đá c̣n gật đầu, huống hồ chúng ta đối trước tượng Phật, huống hồ chúng ta đối trước h́nh dung giả để cầu h́nh dung thật ư?

          Do vậy, ở đây, tôn kính người khác, trong đó “người” bất quá là một thứ biểu đạt mà thôi. Bất quá, dùng “người” để biểu đạt th́ có vài thứ phương tiện. Chẳng hạn như “đồng khí” (同氣), tức là mọi người hô hấp giống nhau, đều là loài người mà! Lại như cảm nhận tương đồng, trong sáu pháp tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ư, mọi người có tốc độ tiến nhập giống nhau. Do đó, dễ cùng lúc thấu hiểu, dễ cảm giác tương ứng. V́ thế, nếu có nhận biết, sẽ có thể xa ĺa yêu ghét, đúng pháp thủ hộ, chẳng tăng giảm đối với Phật pháp, chẳng tổn giảm lời dạy của đức Thế Tôn, có thể nương theo sức truyền thừa của pháp và kinh để hồi thí cho hữu t́nh trong hiện duyên, đáng nên tôn trọng, bất luận là ai, chẳng do danh tự như thế nào!

          Đất Hán khá khuyết thiếu một cơ chế giáo dục của sư trưởng. Trước kia, khi thầy tôi c̣n sống, tôi nương theo thầy học giới luật, rất cẩn trọng. Thầy thường xuyên quở trách quư vị, dù quư vị làm đúng hay sai, đều bị quở mắng như nhau, khiến cho trong tâm của kẻ khác [đều cảm thấy] vị sư trưởng ấy đối với ai cũng như thế, chỉ nên cúng dường, chỉ cung kính, chỉ b́nh đẳng một mực thủ hộ. Quư vị chẳng có cơ hội đánh giá đúng hay sai, chẳng có cơ hội biện bạch. Nếu có cơ hội biện bạch, tức là người ấy chẳng cung kính. Như vậy th́ quư vị làm sao có thể cung kính cho được? Hiếu thuận từ đâu mà dấy lên? Hiếu thuận là ǵ? Chính là “sư trưởng nói như thế nào cũng đều đúng”, như thế th́ sẽ có thể diệt trừ cái tâm đối đăi đúng sai của quư vị, ban cho quư vị ư nghĩa hoàn chỉnh của việc sư phụ trụ thế lâu dài. Quư vị nói: “Đấy chẳng phải là xâm đoạt tâm trí của người khác ư? Như thế th́ sẽ khiến cho người khác chẳng khéo biện bạch”. Chẳng phải vậy! Nếu chúng ta thật sự sanh khởi cái tâm cung kính, tâm b́nh đẳng, tâm hiếu thuận, chính quư vị sẽ thể nghiệm, sẽ thấu hiểu, hay nói cách khác là thâm nhập, khế nhập một bầu trời đất rất rộng lớn, như thật, thanh tịnh. Quư vị sẽ khế nhập một thế giới trí huệ, mười phần mênh mông, mới mẻ! Chẳng cần tới thế giới ở phương khác, tâm linh của quư vị đă thật sự khế nhập, cảm nhận, hoặc nhận thức một thế giới khác. Có phải là như thế hay không? Các thiện tri thức cần phải phân định.

 

          (Kinh) Nhiên hậu, ư thử thắng tam-muội trung, tinh cần tu học, phương năng khắc chứng.

          ()然後於此勝三昧中。精勤修學。方能克證。

          (Kinh: Sau đó, đối với tam-muội thù thắng này, siêng ṛng tu học th́ mới có thể quyết định chứng đắc).

 

          Hiện thời người tu pháp quả thật đông đảo, v́ người hướng về Phật pháp cũng đông, nhưng dường như chẳng có một ai tu chứng! Đối với người xuất gia chỉ có h́nh thức, lợi ích và thiện căn nơi Phật pháp đều chẳng chín muồi. Tới rất nhiều nơi, mọi người luôn thắc mắc vấn đề này, tuy chỉ có thể “tương tự” giải quyết một số vấn đề, nhưng mọi người rất cần thiết [giải trừ thắc mắc ấy], nhưng điều càng cần thiết hơn nữa là thật sự tu chứng! Đại bộ phận những người đang hiện diện, nh́n từ công đức và phước đức hiện thực để nói, so ra đều mạnh mẽ hơn tôi ngàn vạn lần! Chỉ là mọi người chẳng thật sự dẫn phát [công đức và phước đức ấy tỏ lộ], chẳng vận dụng thỏa đáng, chẳng thành thục [công đức và phước đức] thỏa đáng, cũng tức là vẫn mai một trong những cái gọi là “tâm trí đúng, sai, phàm, thánh, thiện, ác, được, mất” của chính ḿnh. Một khi quư vị chẳng bị mai một, tôi cảm thấy rất nhiều vị thiện tri thức có thiện căn, phước đức và nhân duyên mạnh hơn tôi ngàn vạn lần. V́ sao chúng ta ở sai vị trí[4]? Chỉ là do nhân duyên!

          Khi quư vị chẳng để cho thiện, ác, đúng, sai che lấp tự tâm, tâm trí quang minh của quư vị nhất định sẽ sanh ra, mà nó cũng hiện rơ trong thế gian, chói ngời thế gian, lợi ích hữu t́nh, chẳng bị sợ hăi! Ở đây, chẳng phải là do kiêu mạn và tà kiến mà có thể làm được đâu nhé! V́ kiêu mạn và tà kiến sẽ rất nhanh chóng làm khổ chính ḿnh, sẽ làm cho chính ḿnh mệt mỏi thương tổn rất nhanh chóng. Đại khái trong ṿng mười năm trước, chúng tôi cùng theo sư phụ xuất gia, đương nhiên là chẳng thể nói tốt hay xấu. Từng người một hoặc giảng pháp, hoặc chẳng giảng pháp, trụ tŕ tự viện hay chẳng trụ tŕ tự viện, học giới, chẳng học giới, niệm Phật, chẳng niệm Phật… Đủ loại nhân duyên! Nh́n lại, quả thật là mắt thấy tâm kinh hoảng, hễ pháp tắc và tri kiến sai kém một chút, khái niệm và hành vi sai sót một tí, rất nhiều vị thiện tri thức đă thật sự bị mông muội, rất nhiều người thành thục thiện xảo và pháp tắc bị ch́m đắm. Đích xác là trong số đó, có khá nhiều người rất thiện xảo, kết quả là do đeo nặng trĩu chấp trước của chính ḿnh, do cơng gánh nặng thiện ác thị phi của chính ḿnh mà chẳng thành tựu!

          Rất nhiều Bồ Tát học Phật, đích xác là mỗi ngày nhặt nhạnh một chút rác rưởi. Có rác rưởi của chính ḿnh, có rác rưởi của kẻ khác. [Họ thấy] rác rưởi của chính ḿnh là thứ tốt đẹp, bèn cất chứa; rác rưởi của người khác là những thứ xấu xa. Đeo một cái bao rác chứa “những thứ xấu xa của người khác”, lại đeo nặng bao rác chứa “các thứ tốt đẹp của chính ḿnh”, tức là vừa thâu thập những thứ tốt đẹp của chính ḿnh, vừa gom góp cái xấu của người khác. Hai cái bao rác khoác trên hai vai, bước đi mười phần lặc lè! Đó là một bức tranh biếm họa! Có kẻ đă bị đè đổ sụp, có kẻ về cơ bản đă bị đè sụp, có kẻ sắp bị đè sụp, có kẻ thâu thập “vốn liếng” để bị đè ép. V́ sao người ta lại chẳng tương ứng, ngu si như thế cơ chứ? Đó là v́ “các thứ tốt đẹp của ta” càng chất chứa càng nhiều, coi đó là một cái đăy đựng trân bảo, [hay nói cách khác là] nhà tù bằng trân bảo, c̣n đeo theo cái ba lô đựng tội ác và lỗi lầm của người khác. Hằng ngày đều gom góp, cất chứa, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, đúng là hết sức cẩn trọng! V́ lẽ nào vậy? Do chẳng có hai pháp Bi và Trí. Nếu có trí huệ, chẳng đắm nhiễm cái gọi là đăy chứa đựng “đồ tốt của ḿnh”, v́ rốt ráo không có một pháp để có thể đạt được! Do vậy, siêng năng tu tập hết thảy các pháp chẳng đắm nhiễm, chỉ hồi thí cho chúng sanh. Tức là do muốn độ chúng sanh, muốn lợi ích hữu t́nh trong thế gian, cho nên tu tập hết thảy các pháp tắc. Như thế th́ sẽ chẳng có gánh nặng nào phải mang vác, v́ chẳng so đo với chúng sanh, đối với hết thảy hiện duyên và tội ác, lỗi lầm của chúng sanh, thảy đều chẳng bận ḷng. V́ sao vậy? Chỉ sanh tâm thương xót, tâm tạo lợi ích, c̣n có ǵ để so đo nữa? Do vậy, gánh nặng rác rưởi trên vai bèn dỡ xuống. Nếu đă có thể trút bỏ hai gánh nặng ấy, thân thể quư vị bèn nhẹ nhàng, trọn đủ phương tiện. V́ thế, từ bi và trí huệ ắt đạt được phương tiện. Kẻ biết trút bỏ gánh nặng sẽ biết vận dụng phương tiện ấy, c̣n kẻ mang vác gánh nặng sẽ đánh mất phương tiện, sẽ ĺa khỏi đại chúng ngày càng xa, ngày càng cô độc, ngày càng khó khăn! Nhất định phải khéo quan sát, chọn lựa hợp lư!

          Do đó, “tinh cần tu học” (siêng ṛng tu học) là để thấy Phật, nghe pháp, lợi ích thế gian, nhất định phải khéo quan sát điều này. Đối với các động tác được miêu tả trong bức tranh châm biếm vừa nói trên đây, đích xác là có rất nhiều Bồ Tát đang siêng khổ, chẳng tiếc sanh mạng để thực hiện “pháp tắc” ấy. Sanh mạng của chúng ta hằng ngày bị hao tổn, hằng ngày bị phủ lấp không chống đỡ được trong hao tổn. Quư vị đang làm ǵ? Quư vị có thật sự đặt sanh mạng của chính ḿnh nơi trọng điểm trí huệ “chiếu rạng thế gian” hay không? Quư vị có đặt sanh mạng của chính ḿnh nơi trọng điểm “thương xót chúng sanh, cứu vớt chúng sanh” hay không? Quư vị có thật sự vận dụng sanh mạng của chính ḿnh vào phương tiện “chẳng bỏ lỡ thời cơ an ủi thế gian này hay không? Nếu chẳng có, đúng là chúng ta vẫn phải nương theo chánh kiến để học tập Phật pháp. Đó gọi là “tinh cần tu học, phương năng khắc chứng” (siêng ṛng tu học th́ mới có thể quyết định chứng đắc).

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Nhược nhân ư bỉ thuyết pháp pháp sư sở, hoặc tỳ-kheo sở, khởi bất thiện tâm, cẩu vi dị tâm, tránh cạnh chi tâm, cố lăng nhục tâm, chư bất tịnh tâm, năi chí bất sanh như chư Phật tưởng. Như thị Bồ Tát, giả linh tu hành, chung bất năng chứng như thị diệu định.

          ()賢護。若人於彼說法法師所。或比丘所。起不善心。苟違異心。諍競之心。故陵辱心。諸不淨心。乃至不生如諸佛想。如是菩薩。假令修行。終不能證。如是妙定。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Nếu có ai đối với vị pháp sư thuyết pháp, hoặc đối với tỳ-kheo mà dấy ḷng chẳng lành, nếu có tâm trái nghịch, khác lạ, tâm ganh đua, tâm cố ư lăng nhục, các thứ tâm bất tịnh, cho đến chẳng sanh ḷng tưởng như chư Phật. Hàng Bồ Tát như thế, dẫu có tu hành, sẽ trọn chẳng thể chứng đắc diệu định như thế).

 

          Ở đây, [kinh văn] nói rất rơ ràng, nói hạng Bồ Tát như thế chẳng thể chứng Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội. Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta học Phật th́ nhất định phải hiểu rơ mục đích, xử sự th́ tâm địa duyên khởi nhất định phải trong sạch, nhất định phải chân thật, nhất định phải như thật tự biết!

 

          (Kinh) Nhược đắc chứng giả, vô hữu thị xứ.

          ()若得證者。無有是處

          (Kinh: Nếu chứng đắc th́ chẳng có lẽ ấy).

 

          Đức Thế Tôn đă bít chặt đường lui của chúng ta, ngăn chặn toàn bộ mấy trăm ngơ rẽ, mở cho quư vị một xa lộ cao tốc, khiến cho quư vị đi theo con đường ấy. Nay chúng ta có quá nhiều đường, kết quả là lẩn quẩn nơi các pháp, chẳng thể quyết định. Đối với pháp bèn nửa tin, nửa ngờ, đối với pháp có trạng thái dường như đúng, dường như sai, [cứ phân vân] có thể hành hay chẳng nên hành!

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thí như thanh tịnh hư không, vô chư vân ế, hữu minh mục nhân, ư nh dạ thời, ngưỡng quán không trung, vô lượng tinh tú, khu biệt phương sở, h́nh sắc các dị, liễu liễu phân minh.

          ()賢護。譬如清淨虛空。無諸雲翳。有明目人。於靜夜時仰觀空中。無量星宿。區別方所。形色各異。了了分明。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Ví như hư không thanh tịnh, chẳng bị mây che phủ, có người mắt sáng, trong đêm thanh tĩnh, ngửa mặt nh́n không trung, vô lượng tinh tú có phương vị khác biệt, h́nh sắc mỗi ngôi mỗi khác, [người ấy đều thấy] rành rẽ phân minh).

 

          Đây là nêu một thí dụ, đối trước hư không thanh tịnh, tức là trên hư không chẳng có mây đen [che phủ], người có mắt rất thanh tịnh, trong đêm tối, một ḿnh ngắm tinh tú, tất nhiên là rành rẽ phân minh.

 

          (Kinh) Như thị Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát tư duy quán bỉ pháp tánh hư không, dĩ tưởng thành cố, kiến chư Như Lai, kỳ sự nhược thử.

          ()如是賢護。菩薩摩訶薩。思惟觀彼法性虛空。以想成故。見諸如來。其事若此。

          (Kinh: Như thế đó Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát tư duy, quán pháp tánh hư không. Do tưởng đă thành, thấy các Như Lai cũng giống như thế).

 

          Đây là một phương pháp quan sát tương tự. Có bầu trời thanh tịnh, cùng với mắt sáng, lúc ấy, xem xét các hiện tượng thiên văn, các loại tinh ṭa (các cḥm sao), các thứ tinh tướng, quư vị đều thấy rành rẽ, phân minh. Bồ Tát Ma Ha Tát cũng giống như thế. “Tư duy quán bỉ pháp tánh hư không” (tư duy, quán pháp tánh hư không): Tâm địa của chúng ta chính là pháp tánh hư không. Tâm địa sạch làu, chẳng có một vật, đó là hư không thanh tịnh. Lúc đó, quư vị quan sát cặn kẽ, các ngôi sao nhiều ngần ấy, các đốm sao chi chít đều sáng ngời, quư vị có thể nhận biết rơ ràng, tâm trí an lạc. Do vậy, “kiến chư Như Lai, kỳ sự nhược thử” (thấy các Như Lai, chuyện ấy cũng giống như thế). Đây là nói tương tự, trong tâm chúng ta có thật sự chẳng nhiễm một vật hay không, chẳng vướng mắc vật nào hay không? Các vị thiện tri thức ơi! Hăy khéo quan sát! Trong tâm của quư vị có phải là rác rưởi trân bảo, mây đen trân bảo hay không? Có phải là có mây đen, bụi nhơ “lỗi lầm của kẻ khác” hay không? Có phải là bị màng mộng “nh́n thấy trân bảo của chính ḿnh” che phủ con mắt của chính ḿnh hay không? Có phải là bị màng mộng “thấy lỗi lầm của người khác” phủ lấp con mắt của chính ḿnh hay không? Quả thật, chúng ta phải nên nghiêm túc quan sát!

 

          (Kinh) Nhiên bỉ Bồ Tát quán Đông phương thời, đa kiến chư Phật, đa kiến bách Phật, đa kiến thiên Phật, đa kiến bách thiên Phật, đa kiến ức Phật, đa kiến ức bách thiên Phật, đa kiến ức bách thiên na-do-tha Phật, bất giả tác ư, tự nhiên hiện tiền.

          ()然彼菩薩觀東方時。多見諸佛。多見百佛。多見千佛。多見百千佛。多見億佛。多見億百千佛。多見億百千那由他佛。不假作意自然現前。

          (Kinh: Nhưng vị Bồ Tát ấy khi quán phương Đông, thấy nhiều vị Phật, thấy cả trăm vị Phật, thấy cả ngàn vị Phật, thấy cả trăm ngàn vị Phật, thấy cả ức vị Phật, thấy cả ức trăm ngàn vị Phật, thấy cả ức trăm ngàn na-do-tha Phật, chẳng cần tác ư mà tự nhiên hiện tiền).

 

          “Tự nhiên hiện tiền” ở đây giống như thí dụ do đức Thế Tôn đă nêu trong phần trên: Mắt sáng, hư không thanh tịnh, hai pháp tương ứng; khi đó, xem tinh tướng, quyết định là rành rẽ, phân minh. Cũng giống như thế, khi tâm trí pháp tánh của chúng ta chẳng vướng mắc vật ǵ, chẳng nhiễm đắm vật ǵ, lúc ấy, quư vị sẽ là “tâm tưởng sự thành”, muốn quán Như Lai, chắc chắn nh́n thấy!

          Pháp tương tự này quả thật rất có ư nghĩa. V́ nếu đức Thế Tôn chẳng dùng hiện tượng mà chúng ta có thể nh́n thấy, hoặc hiện tượng mà ta cảm nhận được để tỷ dụ, chúng ta sẽ rất khó tùy thuận pháp tắc này, dung nhập pháp tắc này, thành tựu thực tiễn pháp tắc này. Đối với chuyện “tư duy quán bỉ pháp tánh hư không. Dĩ tưởng thành cố, kiến chư Như Lai” (tư duy quán pháp tánh hư không. Do tưởng đă thành, thấy các Như Lai), đức Thế Tôn dùng tỷ dụ để giải thích. Vậy th́ thấy ngàn vị Phật, vạn vị Phật, ức vị Phật, cho đến trăm ngàn vạn ức vị Phật th́ sao? Cũng giống như thế, [đều là] tự nhiên hiện tiền, chẳng cần nhờ vào tác ư (dấy lên ư niệm suy nghĩ). Như chúng ta từ trong hư không, thấy đủ loại tinh ṭa, chẳng phải do chúng ta tưởng niệm mà có! Báo đức do chư Phật Như Lai đă tu là chân thật, chiếu rạng mười phương thế giới, cũng chẳng phải do sự tưởng tượng trong tâm chúng ta kiến lập. Do pháp tánh thanh tịnh, sự tưởng tượng ấy có thể kiến lập. Do pháp tánh tư duy bất tịnh, sự tưởng tượng ấy chẳng thể thành lập, giống như mây đen phủ kín không trung. Chúng ta ngửa mặt nh́n, bất luận mắt tốt đến mấy, muốn thấy các thứ tinh ṭa, cũng chẳng thấy được. Chúng ta có thể tư duy quan sát như thế, cũng có thể thật sự quan sát thái dương. Vầng mặt trời sáng chói ngần ấy, khi bị mây đen che phủ, chúng ta cũng chẳng thấy ánh sáng mặt trời, huống hồ có thể thấy ánh sáng của từng ngôi sao chi chít hay ánh sáng mặt trăng ư?

          Do vậy, khi chúng ta tư duy “bỉ pháp tánh hư không”, trong quá tŕnh tư duy, quan sát, một khi tâm trí chẳng vướng mắc vật ǵ, chẳng có yêu, ghét, chẳng có thiện, ác, chẳng có đúng, sai, như thế th́ sẽ có thể “tâm tưởng sự thành”. Thành ǵ vậy? Thấy tâm nguyện của chư Phật. Đích xác là gột sạch hết thảy tâm cấu, tỏa rạng sáng sạch, giác liễu pháp tánh, khi ấy, sẽ có thể “tâm làm Phật, tâm là Phật”. Khi cái “tâm làm Phật” thấy Phật, nhất định sẽ thấy Phật. Đó là sự an bài trong tâm địa của quư vị. “Tâm làm Phật” thấy chuyện ǵ, vật ǵ, nhất định sẽ sanh khởi. V́ sao hữu t́nh trong thế gian hiện thời chống trái lẫn nhau, khinh mạn lẫn nhau? Đều do trong tâm sanh khởi chủng tử “khinh mạn lẫn nhau, nghi hoặc lẫn nhau” đă chín muồi, do người khác [làm trợ duyên] mà tỏ lộ đó thôi! Chúng ta nhận biết hư không pháp tánh cũng giống như thế, cho nên thấy trăm vị Phật, ngàn vị Phật, trăm ngàn vạn vị Phật, cho tới ngàn vạn ức vị Phật, cũng giống như thế, chẳng nhờ vào tác ư, tức là quư vị chẳng cần tốn sức, tự nhiên hiện tiền.

 

          (Kinh) Nhi bỉ Bồ Tát kư tác như thị quán Đông phương dĩ, thứ quán Nam phương, cập Tây, Bắc phương, tứ duy thượng hạ, thập phương thế giới, các đa kiến Phật. Sở vị đa kiến bách Phật, đa kiến thiên Phật, đa kiến bách thiên Phật, đa kiến ức Phật, đa kiến ức bách thiên Phật, đa kiến ức bách thiên na-do-tha Phật, bất giả công dụng, giai hiện tại tiền.

          ()而彼菩薩既作如是觀東方已。次觀南方。及西北方。四維上下。十方世界。各多見佛。所謂多見百佛。多見千佛。多見百千佛。多見億佛。多見億百千佛。多見億百千那由他佛。不假功用。皆現在前。

          (Kinh: Vị Bồ Tát ấy đă quán phương Đông như thế xong; kế đó, quán phương Nam, và phương Tây, Bắc, bốn phương trên dưới, mười phương thế giới, nơi mỗi phương đều thấy nhiều vị Phật, tức là thấy cả trăm vị Phật, cả ngàn vị Phật, cả trăm ngàn vị Phật, thấy cả ức Phật, thấy cả ức trăm ngàn vị Phật, thấy cả ức trăm ngàn na-do-tha vị Phật, chẳng nhờ vào công dụng, đều hiện ra trước).

 

          Đây là đối với sự quan sát mà nêu lên một thí dụ, nhằm bảo chúng ta có thể tư duy, quan sát như thế đó! Có nhiều người nói: “Trong khi hành Ban Châu, tôi thấy này, thấy nọ”, thật ra, cơ bản đều là chủng tử trong tâm địa. Tôi có gặp một vị Bồ Tát sau khi kinh hành đến ngày thứ ba, liền “tới” đất Tây Tạng! Ông ta nói: “Ối trời ơi! Nay tôi đến được đại thảo nguyên!” Tôi bảo ông ta: “Không cần nói! Ông cứ tự ḿnh lẳng lặng kinh hành là được rồi! Chuyện ấy liên quan tới huyễn giác của ông”. Ông ta nói: “Thật sự đang ở trên thảo nguyên, mao ngưu (, ḅ yak) nhiều ngần ấy, có lều trại, c̣n có lạt-ma đắp y đỏ, quư vị xem họ đang mở pháp hội ḱa!” Tôi nói: “Ông ngậm miệng là được rồi! Hăy cứ như thật mà giữ các thứ đó”. C̣n có người nói chính ḿnh trông thấy cải trắng, củ cải chi đó. Có người thấy bánh ḿ. Có người thấy việc làm ăn của chính ḿnh càng ngày càng tốt đẹp. Có người th́ thấy thứ chi đó thuộc về tâm linh của chính ḿnh. Đủ mọi kiểu dáng đều có! V́ sao? Chủng tử trong tâm địa chín muồi, chẳng liên can ǵ đến người khác, giống như thí dụ đă nêu trong đoạn trước. “Tư duy quán bỉ pháp tánh hư không”. Quư vị đối với pháp tánh hư không chẳng nhập quán, vẫn chưa có thiện xảo; khi đó, chủng tử của chính ḿnh bồng bột, chẳng thể chiếu kiến thế gian này rành rẽ, phân minh, chỉ có thể chiếu kiến các chủng tử trong tâm địa của chính ḿnh.

          Tôi thường gặp những kẻ thích thị phi, không có việc ǵ, bèn đến nói: “Trời ạ! Chẳng phải là nên đuổi cái gă Trương Tam đi hay sao? Cái thằng Lư Tứ phạm lỗi quá nhiều! Cái thằng Trần Nhị có vấn đề”. Vấn đề ǵ vậy? Rốt cuộc là gă ăn vụng vật chi đó. Cái tên Vương Ngũ cũng có vấn đề. Thầy coi đó, nó đích xác là thứ không làm ǵ ra hồn, làm sao có thể xuất gia, làm sao có thể học Phật được chớ? cư sĩ này sao có thể ở chỗ này cho được? Thầy thấy nó làm chuyện ǵ chưa? Nó làm chuyện chẳng ra người nữa…” Kẻ đó cứ đảo tới đảo lui các thứ đó, cũng là cơng gánh nặng khuyết điểm của kẻ khác, có nên hay chăng? Cứ việc cơng đi! Nhưng nếu quư vị dứt bỏ gánh nặng ấy, vác đến chỗ tôi, tôi thật sự mừng giùm quư vị. Chỉ sợ sau khi đă vác đến chỗ tôi, quư vị cảm thấy mất mát, lại cơng về! Cũng có nghĩa là cơ chế quán pháp giới tánh Không của chúng ta chẳng thành thục. Một khi đă đạt tới chỗ thành thục, đem đến chỗ tôi “đổ rác” là tốt nhất! Trước kia có người đến tố khổ, tôi nói: “Được! Tôi là một cái thùng rác lớn vô hạn. Quư vị cứ đổ vào đó là được rồi, cứ tùy tiện đổ. Quư vị có bao nhiêu rác cứ tận t́nh đổ, nhưng đừng nên mang đi. Nhất định là đổ xong chẳng c̣n lưu lại một tí nào hết! Khi quư vị trở về, rác đă sạch sành sanh th́ được!” Nhưng rất nhiều người một túi rác đổ mấy chục lần, đổ rồi lại nhặt lên đem đi! Tôi cảm thấy mệt quá, tôi nói: “Bồ Tát ơi! Quư vị đúng là [rảnh rang quá], vứt đi sẽ tốt hơn! Rác rưởi lại chẳng phải là thứ tốt đẹp ǵ, nó làm lụy quư vị, cứ gồng gánh nó làm chi?”

          V́ sao nói điều này? do hiện thời pháp tắc “khéo quán” của chúng ta chẳng đủ. Do vậy, các vị thiện tri thức học Phật, nhất định phải trút bỏ hai gánh nặng ấy. Sau khi tôi đọc bản dịch gốc[5] của kinh Vô Lượng Thọ, trong ấy, đă có một đoạn đức Thế Tôn nói với ngài A Dật Đa, tôi đă bị chấn động cực lớn! “Phật cáo A Dật Đa: - Như Lai sở tác, ưng tác, dĩ tác, nhữ đẳng an trụ vô nghi, mạc trụ trân bảo thành tựu lao ngục” (Đức Phật bảo ngài A Dật Đa: - Đối với chuyện Như Lai làm, nên làm, đă làm, các ông hăy an trụ chẳng nghi trong ấy. Đừng ở trong tù ngục do các thứ quư báu hợp thành). Đấy là đức Thế Tôn nói với ngài Di Lặc là một vị Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, nói điều ǵ? Đừng ở trong lao ngục do các thứ quư báu hợp thành. Chuyện Như Lai thực hiện, nên làm, đă làm chính là “buông tâm địa Bồ Tát của ông xuống, trở vào trong pháp tắc an lạc rốt ráo của Như Lai Thế Tôn”. Ông chẳng cần tạo tác chi hết, cứ tùy thuận là được rồi! Tôi mười phần chấn động, khiếp sợ, v́ đức Phật đă tuyên nói với A Dật Đa là vị Thế Tôn trong tương lai như thế! Chẳng biết chúng ta có rất nhiều rác rưởi “quư báu” hay không? Có rất nhiều thiết trí trân bảo đó chăng? Quá nhiều! Hôm nay ở nơi đây học một sở trường, ngày mai học ở chỗ kia một sở trường khác! Trong chốc lát này, học kỹ thuật ở đây; nhoáng một lúc sau, lại đến học ưu thế ở chỗ nọ! Tôi đă thấy các vị Bồ Tát trong thế gian, có kẻ tự đại nhưng chẳng làm cao được, v́ chẳng có ai cho phép kẻ đó làm cao. Thấp th́ tuyệt đối chẳng muốn làm, v́ cảm thấy “đại tài tiểu dụng” (tài lớn dùng vào việc vặt vănh), cho nên trở thành kẻ vô tích sự, lăng phí cả đời! Người kiểu đó quá nhiều! Trong tăng chúng, người người học đ̣i kiểu ăn nói “cao minh” càng nhiều hơn, càng chẳng thể làm nên tṛ trống ǵ. Gánh nước, làm chuyện nhỏ, sẽ cảm thấy chẳng thích hợp, v́ cho rằng chính ḿnh là “đại nhân vật”. V́ sao làm việc nhỏ liền cảm giác không thích hợp? V́ cho rằng chính ḿnh là “đại nhân vật. V́ sao như thế? V́ miệng toàn thốt lời đao to búa lớn, nhưng chẳng hề thật sự làm chuyện ǵ, chẳng thể như thật chất phác như hồi mới phát tâm, trầm tĩnh làm việc.

          Tôi thường so sánh, trong quá khứ, tôi đă thưa với thầy tôi như thế, mà hiện thời vẫn nói như thế. Một khoảng thời gian trước khi sư phụ của tôi ngă bệnh, tuổi Ngài đă rất cao, thân thể rất yếu, nhưng đối với hai thời công khóa sáng tối, Ngài nhất quyết chẳng bỏ sót buổi nào. Tôi so sánh, thưa với thầy: “Sư phụ! Nghiệp chướng của con nặng nề như vậy. Hễ muốn lên tụng niệm công khóa cùng đại chúng, liền có vấn đề, có chuyện đưa tới [phải giải quyết] liền, làm như thế nào đây?” Đích xác là rất nhiều lần đều như vậy! Ngay tại chùa Phóng Quang, tôi đă thử rất nhiều lần. Tính lên chánh điện tụng kinh, liền có chuyện cần phải lo liệu, chẳng thể không làm. Sư phụ bảo: ‘Nghiệp chướng đấy! Đó là nghiệp quả do nhiều đời nhiều kiếp chẳng tu phước báo mang lại”. Trước kia, tôi theo sư phụ xuất gia, đối với công khóa, sư phụ yêu cầu mười phần nghiêm ngặt. Tôi nghe người khác nói: Lúc đó, Hiệp Hội Phật giáo [Trung Quốc] cho người thỉnh Ngài trở về[6], cũng là v́ để Ngài hướng dẫn tăng sĩ toàn quốc cách đánh pháp khí và tụng niệm công khóa. Thuở đó, trong nước các vị xuất gia sư phụ đặc biệt ít. Lăo ḥa thượng đặc biệt tinh thông quy củ. V́ thế, các vị thuộc Hiệp Hội Phật giáo thuở ấy như cụ Triệu Phác Sơ v.v… mời Ngài về nước. Ngài đối với công khóa mười phần nghiêm túc. Thường là những người khác học công khóa với Ngài đều mười phần nghiêm túc, nhưng tôi khá buông lung. Trước nay, chưa hề nghiêm túc học, mà cũng chẳng thể thông thuộc. Thuở ấy, [có quy định] trong ba tháng mà chẳng thể thông thuộc công khóa, [học tăng] phải kư đơn [xin trở về thế tục], tức là người xuất gia sau khi đă xuất gia phải như thế này: Trong ba tháng, ắt phải học thuộc ngũ đường công khóa[7]. Nếu không, quư vị phải trở về nhà. Nếu chẳng như vậy, quư vị đến đây để làm ǵ? Hiện thời, tôi đối với tăng chúng chẳng dám yêu cầu như thế, v́ tôi cũng chẳng làm được! Trước kia, tôi cũng chẳng làm như thế! Nhưng chúng ta có cần đ̣i hỏi chính ḿnh [phải làm được như thế] hay không? V́ nhân duyên ấy, trước kia, tôi lên tụng niệm công khóa vẫn được, ở trong các ngôi chùa nhỏ đơn giản hơn, hoặc làm chấp sự trong một ngôi tùng lâm đại chúng, vẫn rất đơn giản, nhưng hiện thời tạp duyên tíu tít, muốn lên chánh điện tụng kinh [đúng thời khóa] rất khó khăn. Tôi thường lẩn quẩn trong điện đường, vừa tính tham dự công khóa th́ mới năm phút sau đă có điện thoại, chẳng thể tham dự được, cảm thấy rất đau khổ, trong tâm cũng có mâu thuẫn. Đó là nghiệp tướng, nghiệp báo sai khác vậy.

          Mặt khác, nh́n vào cảm nhận đối với công khóa của một số vị sư phụ xuất gia khác, tôi cũng so sánh. Nhân duyên phước báo là ǵ? Tôi cảm thấy tăng nhân làm chuyện của chính ḿnh là phước báo lớn nhất. Tôi là một tăng nhân, tôi niệm tụng, học tập pháp tắc của chính ḿnh. Đấy là phước báo lớn nhất. Nếu là cư sĩ, cung kính Tam Bảo, yêu mến đạo tràng, cũng là phước báo lớn nhất. Làm chuyện thuộc về bổn phận của chính ḿnh là đủ dùng rồi, cần ǵ phải vô cớ tạo tác thêm các chuyện khác nữa? Ngài A Dật Đa (Di Lặc Bồ Tát) có lao ngục bằng trân bảo, bọn chúng ta hiện thời có [lao ngục giống như thế] hay không? Trong tâm trí có phải là thật sự tư duy, quan sát “bỉ pháp tánh hư không” hay chăng? Hăy tư duy vấn đề này, so sánh vấn đề này. V́ thế, so sánh giữa thế hệ của chính ḿnh và thế hệ của sư phụ tôi, chúng tôi thua kém mười vạn tám ngàn dặm! Xét theo đạo đức, tu tŕ, đều mười phần thua kém rất lớn. Tôi thường xuyên tư duy, quan sát chuyện này, có khi [tự cảm thấy chính ḿnh] bị nghiệp báo bức bách, hổ thẹn vô dụng. Nói cách khác, rất hổ thẹn cũng vô dụng, làm thế nào đây? Chỉ có thể sám hối nghiệp báo của chính ḿnh, tận lực thủ hộ các pháp tắc Phật giáo mà chính ḿnh khá ưa thích, nhưng rất khó. V́ sao? Nghiệp báo đă chín muồi, nghiệp lực bức bách, thường là các t́nh huống tôi cảm thấy rất khó vượt qua. V́ sao? V́ nếu thật sự chứng đắc cái gọi là “tư duy bỉ pháp tánh hư không”, hiện duyên của chúng ta, duyên khởi ngay trong hiện tại sẽ chẳng khiếm khuyết, sẽ là chọn lựa thanh tịnh, chẳng có bất cứ tiếc nuối nào! Nói như vậy, tức là quư vị có thể chọn lựa trong hiện tại, chẳng cần bất cứ gánh nặng nào! Chẳng hạn như tôi vừa nhắc đến điện thoại, điện thoại ǵ nữa chẳng trả lời, thích lên chánh điện tụng kinh tôi liền lên chánh điện, chẳng có vấn đề ǵ, chẳng cần bận tâm, xa ĺa hết thảy các chọn lựa đau khổ, đời người sẽ đơn giản hơn, đó là pháp tánh quang đăng! Chẳng lo được, lo mất, chẳng cơng DThục Quả bởi nghiệp duyên của chính ḿnh từ vô thỉ đến nay, chẳng đèo theo gánh nặng ấy, chẳng đèo theo lao ngục bằng trân bảo. Đó vẫn là sự cổ vũ, chống đỡ trong sanh mạng, quư vị có thể vượt qua nó, vượt qua như thế nào? Ngay trong một niệm hiện tiền này. Nếu chẳng thiếu sót, thanh tịnh trọn đủ, dùng duyên khởi ấy để làm việc, quan sát hiện duyên, đối với hành pháp quả địa sẽ là “tu ngay lập tức”, “hành ngay lập tức”, “lựa chọn lập tức”.

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Như bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, kỳ thế giới trung, chư Bồ Tát đẳng, sanh bỉ quốc giả, ư sơ nhất nhật, quán sát Đông phương, đa kiến chư Phật, đa kiến bách Phật, năi chí đa kiến bách thiên ức na-do-tha Phật dĩ. Nhiên hậu, ư đệ nhị nhật, quán sát Nam phương, như thị năi chí thập phương, sự giai nhược thử. Như thị Hiền Hộ! Nhược Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Bồ Tát Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội.

          ()復次賢護。如彼阿彌陀如來應供等正覺。其世界中。諸菩薩等。生彼國者。於初一日。觀察東方。多見諸佛。多見百佛。乃至多見百千億那由他佛已。然後於第二日。觀察南方。如是乃至十方。事皆若此。如是賢護。若菩薩摩訶薩。成就菩薩思惟諸佛現前三昧。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Như đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, các hàng Bồ Tát trong thế giới ấy, sanh vào cơi của Ngài, trong ngày đầu tiên, quan sát phương Đông thấy nhiều vị Phật, thấy cả trăm vị Phật, cho đến thấy cả trăm ngàn ức na-do-tha vị Phật. Sau đó, trong ngày thứ hai, quan sát phương Nam, như thế cho đến mười phương đều là như vậy. Như thế đó, Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Bồ Tát Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội như thế ấy).

 

          Trọng điểm của phẩm này là thấy Phật và phương pháp thấy Phật. Tỷ dụ xem tinh tú trong phẩm này có thể hướng dẫn chúng ta cách tư duy “quán bỉ pháp tánh hư không, dĩ tưởng thành cố” (quán pháp tánh hư không ấy, do tưởng đă thành). Đấy là duyên khởi thanh tịnh để thấy chư Phật Thế Tôn và pháp tắc “tâm làm Phật, tâm là Phật”. V́ sao người hiện thời nẩy sanh chướng ngại đối với chuyện thấy Phật? Hoặc nói hai loại rác rưởi, hoặc mây đen che lấp như thế nào? Đó gọi là mây đen “những điều tốt đẹp của bản thân” và mây đen “những điều xấu xa của kẻ khác”. Hai thứ mây đen ấy, một thứ là bạch chướng, thứ kia là hắc chướng. Ác nghiệp của kẻ khác là hắc chướng che lấp tự tâm. Thiện nghiệp và thiện duyên của chính ḿnh, tức các thứ được gọi là tốt đẹp, chính là bạch chướng, cũng che lấp tự tâm, có thể khiến cho tâm trí con người ngu mê y hệt. V́ thế, do hai loại chướng duyên ấy mà chẳng thể thấy Phật. Nếu ai có công phu Thiền Định, sẽ thấy sự việc cặn kẽ hơn! Chẳng hạn như trong một số pháp tu Thiền Định, năm loại chướng tất nhiên sẽ hiện tiền, tức hắc chướng, hoàng chướng, bạch chướng… Đó là ngũ sắc chướng, theo thứ tự khởi lên, che lấp tâm trí, khiến cho chúng ta có mắt mà chẳng thể nhận biết, cũng chẳng thể quan sát cặn kẽ thế gian! Có người trong lúc Thiền Định trông thấy cảnh giới bỗng dưng xuất hiện hoàng chướng, bạch chướng, hắc chướng che lấp cảnh ấy. Trên thực tế, [các thứ chướng ấy] chính là nghiệp của chính ḿnh từ vô thỉ đến nay, do chấp trước vào nghiệp mà tạo thành sự thật. Người thường hút thuốc nếu tu các môn Thiền Định, sẽ có chướng giống như một tấm vải đen rất dễ phủ xuống, giống như một bức màn rất dày! Nhưng nếu chúng ta quan sát pháp ích thanh tịnh, sẽ gọi là “thấy Phật mà chẳng cần phải dụng công, thảy đều hiện tiền”.

          Ở đây, kinh văn đă nói mười phần rơ ràng, chủ yếu là tư duy, quan sát, tức là tư duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội. Chúng ta học kinh Ban Châu đến chỗ này, thấy điều chủ yếu trong văn tự là hướng dẫn chúng ta tư duy, quan sát sức mạnh của môn tam-muội này. Chúng ta thấy Quán được nói trong Quán Kinh chính là quán tướng (觀相, quán các tướng), như tướng hảo của Phật là như thế này, như thế nọ, đất trong thế giới Cực Lạc như thế nào, tràng báu như thế nào, Quán Âm, Thế Chí, A Di Đà Phật như thế nào, quán các tướng như thế. C̣n ở đây thuần túy là quán tưởng cơi ấy. Tư duy quán tưởng, tức là quư vị dùng ngay tâm tưởng của phàm phu trong hiện tiền, dùng tâm tưởng tạp loạn để tưởng thế giới Cực Lạc, để quan sát thế giới Cực Lạc. Như trong chương Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm, đức Thế Tôn đă nói như thế này: “Nhược chúng sanh tâm, ức Phật, niệm Phật, hiện tiền, đương lai, tất định kiến Phật, khứ Phật bất viễn” (nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền, tương lai, nhất định thấy Phật, cách Phật chẳng xa), hoàn toàn chẳng phải là bảo chúng ta đừng dùng cái tâm chúng sanh để niệm Phật, nhớ Phật, vẫn là dùng cái tâm hiện tiền của chúng ta. “Tưởng” ở đây cũng giống như thế, dùng cái tâm chúng sanh để “tưởng” thế giới Cực Lạc, tư duy cơi ấy, tư duy A Di Đà Phật, tư duy Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội. Chúng ta chẳng cần kiếm một tư tưởng nào khác, cứ từ tư tưởng hiện tiền của chúng ta mà có thể tư duy, có thể quan sát!

 

          (Kinh) Như thị Bồ Tát, ư tự độ trung, quán sát thập phương, đa kiến chư Phật, đa kiến bách Phật, năi chí đa kiến bách thiên ức na-do-tha chư Phật dă.

          ()如是菩薩。於自土中。觀察十方。多見諸佛。多見百佛。乃至多見百千億那由他諸佛也。

          (Kinh: Bồ Tát như thế, ở trong cơi của chính ḿnh, quan sát mười phương, thấy nhiều vị Phật, thấy cả trăm vị Phật, cho đến thấy cả trăm ngàn ức na-do-tha chư Phật).

 

          “Tự độ” của chúng ta trong hiện thời, nay chúng ta là hữu t́nh trong Diêm Phù Đề của thế giới Sa Bà, chẳng cần nhờ vào phương tiện, cũng chẳng đến cơi khác. Phật trong cơi khác cũng chẳng đến cơi này. Chỉ là mỗi vị Phật đều nương vào thần biến thiện xảo, tỏa quang minh lớn, khiến cho tâm trí [của hành nhân] thanh tịnh bèn thấy Phật, như thế mà thôi! Giống như gương soi vật, [h́nh ảnh hiện ra] trong gương chẳng đến, chẳng đi. Điều này rất dễ lư giải! Chúng ta lấy một tấm gương đem soi, thứ ǵ đến trước gương, gương bèn hiện bóng thứ ấy, nhưng trong cái gương ấy thật sự chẳng có ǵ đến đi, chỉ hiển hiện như thế mà thôi! Nếu chẳng có các thứ cảnh tướng (tướng cảnh giới), gương chỉ hiện hư không. Nếu đủ loại h́nh ảnh đối trước gương, đủ loại h́nh ảnh cùng hiện bóng. Gương ấy chẳng giảm, chẳng tăng, cũng chẳng tạo tác, dung nạp hết thảy. Tâm trí như gương, chiếu liễu, giác tri thế gian. Trong Phật giáo có nói Đại Viên Măn Kính Trí, tức là một loại trí huệ như thế. Trí ấy hết thảy chúng sanh đều sẵn có, được gọi là Câu Sanh Trí (俱生智, trí bẩm sanh, sanh ra đă có), chẳng do tu thành, chẳng hủy hoại được, có người biết dùng, có kẻ chẳng biết dùng. “Biết dùng” là kéo toang cái màn chướng ngại ra, Đại Viên Kính Trí sẽ hiển lộ, sẽ thật sự quan sát “pháp tánh hư không” của pháp giới, sạch làu chẳng có tí mây đùn che đậy nào. Do vậy, chúng ta có thể quan sát thế gian.

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Như chư Như Lai thành tựu Phật nhăn, như thị kiến dĩ, ư nhất thiết xứ, tất như thị tri, tất như thị kiến. Như thị Hiền Hộ! Nhược Bồ Tát Ma Ha Tát diệc kư thành tựu Bồ Tát Tư Duy Nhất Thiết Chư Phật Hiện Tiền tam-muội dĩ, tự nhiên măn bỉ Đàn Ba La Mật, Thi Ba La Mật, Sạn Đề Ba La Mật, Tỳ Lê Da Ba La Mật, Thiền Ba La Mật, Bát Nhă Ba La Mật, năi chí măn bỉ nhất thiết Bồ Tát chư công đức đẳng.

          ()復次賢護。如諸如來成就佛眼。如是見已。於一切處。悉如是知。悉如是見。如是賢護。若菩薩摩訶薩。亦既成就菩薩思惟一切諸佛現前三昧已。自然滿彼檀波羅蜜。屍波羅蜜。羼提波羅蜜。毗梨耶波羅蜜。禪波羅蜜。般若波羅蜜。乃至滿彼一切菩薩諸功德等。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Như các Như Lai thành tựu Phật nhăn, đă thấy như thế, trong hết thảy mọi nơi, đều biết như thế, đều thấy như thế. Như thế đó Hiền Hộ! Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát cũng đă thành tựu Bồ Tát Tư Duy Nhất Thiết Chư Phật Hiện Tiền tam-muội, tự nhiên viên măn Đàn Ba La Mật, Thi Ba La Mật, Sạn Đề Ba La Mật, Tỳ Lê Da Ba La Mật, Thiền Ba La Mật, Bát Nhă Ba La Mật, cho đến hết thảy các công đức của hàng Bồ Tát).

 

          Ở đây nhắc tới sáu loại Ba La Mật, phiên dịch thành những [danh từ] mọi người quen thuộc th́ là Bố Thí Ba La Mật (Dāna-Pāramitā, Đàn Na Ba La Mật), Tŕ Giới Ba La Mật (Śīla-Pāramitā, Thi La Ba La Mật), Nhẫn Nhục Ba La Mật (Kṣānti-Pāramitā, Sạn Đề Ba La Mật), Tinh Tấn Ba La Mật (Vīrya-Pāramitā, Tỳ Lê Da Ba La Mật), Thiền Định Ba La Mật (Dhyāna-Pāramitā, Thiền Na Ba La Mật), và Trí Huệ Ba La Mật (Prajñā-Pāramitā, Bát Nhă Ba La Mật). Ba La Mật (Pāramitā) dịch gượng là [Đáo] Bỉ Ngạn ([đến] bờ bên kia), đó là nơi an ổn, là chốn chân thật. Lục Ba La Mật có nghĩa là thông qua Thiền Định để đạt tới bờ bên kia, thông qua trí huệ để đạt tới bờ bên kia v.v… Có khi phiên dịch thật sự rất bất lực, v́ từ ngữ chẳng thể thấu đạt ư ấy, chẳng thể biểu đạt viên măn ư nghĩa ấy, thường là giới thiệu điều trước, đánh mất điều sau, giới thiệu điều sau, lại đánh mất điều trước, nói điều trên chẳng nhắc đến điều dưới, thường là luôn mất mát.

          Sáu loại Ba La Mật, thật sự là một thứ tu tŕ ḥng đạt tới chỗ an trụ, đạt tới chỗ phương tiện tự tại, là sự tu tŕ ḥng thủ hộ “bờ bên kia” (bỉ ngạn). Tu tŕ như thế nào? Đạt lợi ích ngay trong hiện tiền. Chẳng hạn như bố thí th́ sẽ đạt được lợi ích do bố thí. Như trong kệ tụng của đức Phật có nói: “Sở vị bố thí giả, tất hoạch kỳ lợi ích, nhược vi nhạo bố thí, hậu tất đắc an lạc” (Như nói tới bố thí, ắt đạt được lợi ích, nếu vui thích bố thí, về sau ắt an lạc). Đấy là như thật ngữ, là lời dạy của đức Thế Tôn dành cho kẻ chẳng thông thạo cách diễn đạt bằng ngôn ngữ, là bốn câu nói dành cho kẻ chẳng thông thạo kệ tán, khiến cho họ khi được người khác bố thí, có thể nói bốn câu kệ tán này để tán thán chuyện bố thí. Tŕ giới th́ sao? Tinh tấn th́ sao? Nhẫn nhục th́ sao? Cũng sẽ đạt được an lạc, giống như đối với bố thí bèn nói “hậu tất đắc an lạc” (về sau ắt an lạc), tŕ giới cũng giống như thế, “hậu tất đắc an lạc”. Nhẫn nhục, tinh tấn cũng sẽ “hậu tất đắc an lạc” y hệt. Hành tŕ Lục Ba La Mật, tất nhiên sẽ được an lạc. Sự an lạc ấy chân thật, chẳng dối. Đối với các loại lợi ích của Lục Ba La Mật, hăy nên như thật tuyên nói. Trong kinh điển nhà Phật đă chuyên tuyên nói, dùng rất nhiều ngôn từ hay đẹp, công đức chân thật, giáo ngôn như thật, khiến cho người tu tŕ sẽ thủ hộ Lục Ba La Mật.

          “Tự nhiên măn bỉ” (tự nhiên viên măn) Lục Ba La Mật. Chúng ta có thể thấy chư Phật, tức là thiện căn [của chính ḿnh đă] thành thục. Đối với công đức đạt được do chấp tŕ Lục Ba La Mật, chúng ta đều có thể thật sự ấn khế trong Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, sẽ tương ứng đạt được. “Đạt được” là không có ǵ để đạt, dùng vô sở đắc xứ (không thấy có ǵ để đạt được) mà thanh tịnh an trụ, cho nên đạt được. Cái “đắc” ấy lợi ích chúng sanh, [chẳng hạn như] thân thể khinh an, chẳng vướng mắc, chẳng phải là cái Đắc theo kiểu “có điều ǵ để đạt được” của thế gian, tức là cho rằng [ta làm như thế nào đó], ta sẽ đạt được như thế nào đó. Kiểu đó là cơng vác gánh nặng, là hữu t́nh chấp trước. Hữu t́nh chấp trước phần nhiều đọa trong tà kiến. Chúng ta đă biết, mà cũng đă thấy, giống như gánh nặng trân bảo và rác rưởi trong thí dụ trên đây, c̣ng lưng cơng gánh nặng “những thứ tốt đẹp của ta”, chẳng hạn như nói ta tŕ giới, ta tinh tấn, ta Thiền Định v.v…

          Trước kia, căn bệnh này của tôi đặc biệt nặng nề. Nếu tôi lên tham dự công khóa, mà thấy người khác không tham dự, không được rồi, sẽ t́m người đó cằn nhằn. Ngay như trong hiện thời, căn bệnh ấy vẫn c̣n rất lớn! Hễ thấy kẻ nào học Phật chẳng siêng gắng, [tôi liền bực bội, phiền trách] “vừa mới phát tâm giống như vừa mới nhập học, v́ sao chẳng học tập?” [Kẻ sơ học mà chẳng siêng năng tu tập] là v́ tỵ nạnh với thầy, nhưng thầy đă tốt nghiệp, đă dạy rất nhiều tṛ tốt nghiệp. [Thế mà] quư vị vẫn so đo: “Kẻ khác chẳng học, ta chẳng học”, vậy là đi sai đường mất rồi! Hiện thời, rất nhiều người vừa mới vào chùa, cạo tóc xong, đắp y xong, làm ǵ? Tỵ nạnh với sư phụ. Nay tôi lên chánh điện ḍm thử, toàn là những người bắt chước tôi: “Ngươi không lên tụng niệm công khóa, ta cũng không lên tụng niệm công khóa!” Nhưng giống như chúng ta mới vào Tiểu Học, phải siêng năng học tập, phải làm bài tập cho lớp Một, lớp Hai, lớp Ba, lớp Bốn, lớp Năm. Quư vị chớ nên tỵ nạnh thầy giáo dạy Tiểu Học chẳng làm bài tập, có nên tỵ nạnh hay không? Nếu [tỵ nạnh rồi chẳng làm ǵ hết] như vậy, quư vị chẳng học được bất cứ môn văn hóa chi hết, thật sự khiến cho chính ḿnh lỡ làng!

          Các vị thiện tri thức ơi! Trong quá tŕnh An Cư này, chúng ta thực hiện trọn hết bổn phận của chính ḿnh như thế nào? Mỗi người chúng ta đều có chuyện thuộc về bổn phận của chính ḿnh. Chẳng hạn như quư vị là người mới học, nhất định phải tuân theo nhân duyên sơ học của chính ḿnh. Là một sa-di, hăy thật thà thực hiện công khóa của sa-di, thực hiện ngũ đường công khóa của chính ḿnh, học tập giới luật của chính ḿnh. Là tỳ-kheo th́ hăy khéo học tập giới luật tỳ-kheo của chính ḿnh, đấy là bổn phận! Nếu quư vị cứ muốn so đo, sẽ rất phiền năo! Vừa mới xuất gia, chẳng học công khóa, chẳng học giới luật, chẳng học pháp khí, chẳng học quy củ trong tự viện. Theo lối xưa, toàn là người đă thành niên (trưởng thành) xuất gia. Trong Phật giáo Nam Truyền, th́ toàn là trẻ nhỏ xuất gia. Trưởng thành xuất gia vốn có rất nhiều khuyết điểm: Tri kiến đă định, nghiệp tập đă định, thói quen đă định, bản thân sẽ rất khó vượt qua. Chẳng dùng đại lực cường duyên, căn bản chúng ta chẳng thể thay đổi chính ḿnh. Kết quả là xuất gia uổng công chịu khổ, mà chẳng tương ứng. Thật sự là như thế đó! V́ đây là công khóa An Cư, tôi thừa dịp này nói trọng điểm, mong mọi người rộng dung, nhưng quư vị phải cảnh giác đôi chút.

          Tôi thường suy nghĩ chuyện này, v́ sao sa-di chẳng lên chánh điện tụng niệm công khóa? V́ sao vị sư phụ vừa mới xuất gia không học tập công khóa? Trong các vị sư phụ xuất gia, có [các vị nắm các chức vụ] đại liêu, có duy na, có tri khách, cũng có vị làm đương gia, nếu mọi người cứ lo so đo, toàn bộ sẽ đều rối loạn. Sa-di chẳng làm chuyện của sa-di, cứ tỵ nạnh với các tỳ-kheo: “Họ ngủ, ta cũng ngủ. Họ buông lung, ta cũng buông lung. Họ không học, ta cũng khỏi học”… Được rồi! Học tập Phật pháp kiểu đó tức là chúng ta chẳng giữ bổn phận, ai nấy đều cùng bại hoại! Cho nên nh́n vào những người xuất gia trong hiện thời, tôi thật sự mười phần đau ḷng! Cư sĩ th́ sao? Đương nhiên là có chuyện thuộc bổn phận của cư sĩ, chẳng hạn như tôn trọng Tam Bảo, thủ hộ pháp tắc của chính ḿnh, tu tập pháp tắc của chính ḿnh, bỏ phiền năo tri kiến của chính ḿnh, cũng đều là có nhân duyên riêng biệt của chính ḿnh.

          Cho nên tôi cảm thấy, mọi người đều phải nên chú ư chuyện thuộc bổn phận của chính ḿnh. Nếu ta làm chẳng được, ta phải nên sám hối! Mọi người chẳng làm nổi chuyện thuộc bổn phận của chính ḿnh, cũng nên sám hối, đừng xâm đoạt lẫn nhau! Nếu không, chúng ta vào chùa miếu để làm ǵ? Ưu thế của tự viện là ǵ? Ưu thế của tại gia là ǵ? Ưu thế của xuất gia là ǵ? Ưu thế của sa-di là ǵ? Nếu quư vị chỉ v́ đeo cái danh hiệu ấy mà đến đây, quả thật đáng tiếc quá, mà cũng là có lỗi với chính ḿnh, chỉ là khoác thêm một lớp áo bên ngoài[8], vô ích! Chẳng có một tí ư nghĩa nào! Tối đa là thêm hai cân phân lượng đó thôi! Khi tôi đắp y lần đầu, đại khái là sau khi đă thọ giới bảy tháng, khi niệm bài kệ Đắp Y[9], đúng là cảm thấy chính ḿnh lún sâu xuống ba thước đất, ch́m lỉm, khó thể chống đỡ, chẳng thể nhận lănh trách nhiệm, không thể gánh vác áp lực do đắp y. Nhưng hiện thời, mọi người đều vội vă tiến cao hơn, muốn có cái danh thôi! Chúng ta có thể mở cuộc thi để khảo hạch, quư vị có thật sự trúng cách làm h́nh đồng sa-di[10], sa-di, tỳ-kheo hay không? Quư vị có nội hàm ǵ? Lại như cư sĩ đến chùa, sẽ coi chùa ấy có ưu thế ǵ, cư sĩ chúng ta sẽ tán trợ ưu thế ấy để vận dụng pháp tắc ǵ? Thành thục thiện căn như thế nào? Tôi cảm thấy những điều ấy đều cần phải tư duy quan sát. Ở đây, chẳng có mảy may chỉ trích nào; đấy là chuyện thuộc bổn phận của chính mỗi người mà!

          Ngẫu Ích đại sư nói một câu khiến cho tôi một mực chấn động rất sâu. Trong Linh Phong Tông Luận, Ngẫu Ích đại sư nói: “Đa hữu nhân pháp tắc vị tập, mạn tràng tiên lập” (Lắm kẻ pháp tắc chưa tu tập, đă dựng tràng kiêu mạn trước). “Tràng kiêu mạn” là ǵ? Chẳng coi ai ra ǵ, chính ḿnh muốn nổi bật lên, nói năng đă đổi giọng, vẻ mặt đă biến đổi. Quá khứ là kẻ thế tục, nay đă thành Phật rồi! Phật ǵ vậy? Do cái tâm kiêu mạn mà tự ḿnh nhận định đó thôi! Đối với chuyện này, người xuất gia phải nên chú ư người xuất gia, cư sĩ nên chú ư cư sĩ, đấy là một hiện tượng đặc biệt phổ biến. V́ hiện thời là thời gian An Cư, mọi người hăy xét kỹ chuyện này. Nếu chẳng có chuyện như vậy, hăy nên tu tŕ nhẫn nhục, nhưng chúng ta có thể thật sự tư duy hay không? Làm một người xuất gia, quư vị là sa-di, hăy trọn hết nghĩa vụ sa-di, thật sự hành tŕ hạnh sa-di, lại tiến nhập tỳ-kheo. Quư vị đă là tỳ-kheo, thật sự làm tốt chuyện của tỳ-kheo, mọi người nhất định sẽ để cho quư vị làm chuyện khác, chẳng cần phải sốt ruột. Có một ngày, tôi đi trong chùa, đi một ṿng trên lẫn dưới, tôi liền suy nghĩ: Hiện thời, tạo lập ngôi chùa này có c̣n tất yếu hay không? Người khác nói dựng ṭa nhà này, dựng ṭa nhà kia, chiêu tập càng nhiều người th́ sao? Nay chúng ta đang ở đây có đạt được pháp ích hay không? Nếu thật sự chẳng thể nắm được lợi ích thực chất, xây dựng chùa có ư nghĩa ǵ đâu? Tôi tự vấn: “Chúng ta dựng tự viện này để làm ǵ?” V́ trước kia điều tôi không thể chịu đựng được nhất là chùa trống. Đến một ngôi chùa trống (chẳng có người tu hành), sẽ chẳng thể chịu được. V́ đó vốn là đạo tràng, nay dành cho quỷ ở, là nhà trống, người không ở th́ quỷ ở! Nơi này của chúng ta có phải là đạo tràng hay không? Đạo nghiệp của mọi người ở chỗ nào vậy? Có phải là trong tâm trí mỗi người chúng ta đều thật sự sanh khởi ḷng tôn trọng [đạo nghiệp] hay không? Hay là vẫn nóng ḷng nơi hiệu quả và lợi ích của việc ngay lập tức thay đổi thân phận của chính ḿnh ḥng nhanh chóng thành tựu thứ ǵ vậy? Có phải là đúng thật thực hiện nơi thân tâm của chính ḿnh hay không? Tôi cảm thấy mọi người đều cần phải như thật tự hỏi ḷng ḿnh, hỏi người khác vô ích! Tự viện hiện thời vẫn là rất nhiều. Nếu chúng ta thật sự chẳng học tập ở nơi đây, chỉ là biểu hiện h́nh thức, nhằm thay đổi thân phận tại đó. Điều ấy chẳng cần thiết, thân phận có thể thay đổi bất cứ lúc nào. Chúng ta phải rất nghiêm túc quan sát đạo nghiệp của chính ḿnh như thế, đạo nghiệp thành thục, xét xem chính ḿnh có chịu trách nhiệm đối với chính ḿnh hay không? Trước hết, đừng quản người khác. Tín thí có đến cũng chẳng thay đổi, coi xem chúng ta có nghiêm túc sử dụng ṭa điện đường này hay không? Đạo nghiệp của chúng ta có thật sự nghiêm túc hay không? Nay chúng ta ăn, dùng, c̣n có hoàn cảnh, đích xác đều chẳng thể nói là xấu xa, nhưng đạo nghiệp của chúng ta có tiến nhập như thật hay không? Đối với chuyện này, bất luận chúng ta quan sát theo phương diện nhẫn nhục, hay quan sát theo phương diện Bát Nhă cũng thế, quan sát theo giới luật cũng thế, chẳng quan sát là không được!    

          V́ nói đến Lục Ba La Mật, ở đây, tôi nhắc nhở đại chúng thường trụ, hy vọng chúng ta quư tiếc nhân duyên của chính ḿnh. Có một sa-di từ nơi khác đến, tôi hỏi ngôi chùa ông ta đang ở như thế nào, ông ta đáp: “Hiện thời là An Cư, chờ an cư xong, chắc chắn kẻ nên đi th́ sẽ đi, kẻ nên đến th́ sẽ đến”. Tôi nói: “Như thế đó, chùa miếu là như thế đó. Duyên nhóm họp th́ tụ tập, duyên tán th́ tan đàn xẻ nghé”. An cư là do được chư Phật, Bồ Tát gia bị, khiến cho mọi người có thể cùng nhau học tập, tu tập một pháp tắc, có thể trật tự, hệ thống, theo từng tầng cấp mà học tập. Một khi an cư đă kết thúc, ai nấy tất bật với chuyện của riêng ḿnh, có khi tất bật v́ nghiệp lực, có khi tất bật v́ pháp tắc, lập tức sức ngưng tụ chẳng c̣n nữa. Hiện thời, do được Tam Bảo, chư Phật, chư Bồ Tát gia bị, chúng ta có sức ngưng tụ này. Nếu chẳng phải như vậy, chẳng biết mọi người đă dời đến nơi nào đó ở trời Nam biển Bắc từ khuya rồi, lại càng chẳng cần phải nhắc tới chuyện học tập hay không! Do vậy, trong thời gian an cư học tập, tôi mười phần quư tiếc cơ hội này! Thực tế là ngay trong hiện tiền, trong mỗi cơ hội, chúng ta đều phải nên trân quư, chỉ là biểu hiện không giống nhau đó thôi!

          Nhắc tới Lục Ba La Mật, tuy tôi nói nặng nề một chút, thô tháp một chút, chỉ hy vọng mọi người hăy dùng mắt trí huệ để quan sát chuyện này, dùng giáo ngôn trí huệ của chư Phật để gột sạch sự trúc trắc ấy. Đừng nên nẩy sanh trúc trắc, v́ trúc trắc có thể là do nghiệp lực hiển hiện, chúng ta thật sự phải vượt qua sự trói buộc của nghiệp lực và nhân quả, tôn trọng nhân quả, tạo lợi ích cho nghiệp lực hữu t́nh! Quả thật đáng phải nên như vậy!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa, dĩ kệ tụng viết: “Do như tĩnh dạ trừ vân vụ, hữu minh nhăn giả ngưỡng quán không”.

          ()爾時世尊。爲重明此義。以偈頌曰。猶如靜夜除雲霧。有明眼者仰觀空。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn v́ để nói rơ lại nghĩa này, bèn dùng kệ tụng để nói: - Ví như đêm thanh, sạch mây mù. Người mắt sáng ngẩng nh́n hư không).

  

          Nhất định phải hiểu đây là lời dạy về quán Phật, là một pháp tắc để thấy Phật.

 

          (Kinh) Kiến bỉ chúng tinh quá bách thiên, trú niệm minh liễu diệc vô thất.

          ()見彼衆星過百千。晝念明了亦無失

          (Kinh: Thấy hơn trăm ngàn các tinh tú, ban ngày nhớ rơ, chẳng quên mất).

 

          Buổi tối, chúng ta thấy trời đầy sao. Ban ngày tất nhiên cũng có thể nhớ lại, quư vị sẽ nói: “Đêm qua sao rất sáng! Ngày hôm qua trời rất quang đăng!” V́ sao vậy? Sự ức niệm và tư duy của quư vị có tánh chất tiếp nối.

 

          (Kinh) Bồ Tát như thị đắc định dĩ, đa kiến vô lượng ức thiên Phật.

          ()菩薩如是得定已。多見無量億千佛。

          (Kinh: Bồ Tát đắc định như thế rồi, thấy nhiều vô lượng ức ngàn Phật).

 

          Bốn câu kệ trong phần trước là tỷ dụ về thấy Phật, ở đây nói: Nếu đă đắc định như thế, sẽ thấy chư Phật nhiều đến vô lượng ức ngàn vị. Nếu quư vị tương ứng, sẽ khởi lên tác dụng như thế.

 

          (Kinh) Phục ư khởi tư tam-muội hậu, hoàn vị đại chúng diễn tối tôn, như ngă Phật nhăn thanh tịnh cố, vô hữu chướng ngại kiến thế gian.

          ()復於起斯三昧後。還爲大衆演最尊。如我佛眼清淨故。無有障礙見世間。

          (Kinh: Lại sau khi đă khởi tam-muội, c̣n v́ đại chúng diễn tối tôn, như mắt của Phật luôn thanh tịnh, trông thấy thế gian chẳng chướng ngại).

 

          “Như ngă Phật nhăn thanh tịnh cố, vô hữu chướng ngại kiến thế gian” (như do Phật nhăn của ta thanh tịnh, cho nên thấy thế gian chẳng có chướng ngại): Chúng ta đều biết công đức của hành pháp Ban Châu tam-muội, tức Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập khi đă thành tựu, người chưa đắc Thiên Nhăn mà trông thấy các thế gian. Chưa đắc Thần Túc, chẳng cần bay đến phương khác, chẳng ĺa cơi này mà được thấy chư Phật, được thấy sự trang nghiêm trong cơi khác.

 

          (Kinh) Thị chư Phật tử Bồ Tát môn, xuất thử tam-muội tối thắng quán, dĩ vô tướng tưởng tư Như Lai, nhi kiến thập phương chư Đẳng Giác.

          ()是諸佛子菩薩們。出此三昧最勝觀。以無相想思如來。而見十方諸等覺。

          (Kinh: Các hàng Phật tử, Bồ Tát ấy; ra khỏi tam-muội tối thắng quán, dùng vô tướng tưởng nghĩ Như Lai, mà thấy mười phương các Đẳng Giác).

 

          “Dĩ vô tướng tưởng tư Như Lai, nhi kiến thập phương chư Đẳng Giác” (dùng vô tướng tưởng nghĩ Như Lai, mà thấy mười phương các Đẳng Giác): Vô tướng tư và vô tướng tưởng ở đây mười phần trọng yếu. Đó gọi là pháp giới tận hư không, hoặc pháp tánh tận hư không. Nếu chẳng tư duy như thế, cái tâm của quư vị sẽ chẳng phải là “tâm làm Phật, tâm là Phật”, chẳng thể thành lập “tâm làm Phật, tâm là Phật”. Do bị chấp trước hư vọng khuất lấp, những điều quư vị chấp trước lại che phủ quư vị.

 

          (Kinh) Phá trừ năo độc cập chư tưởng, nhữ thính Bồ Tát diệu công đức, nhược thính bỉ pháp thanh lương tâm, năng nhập không tịch vô úy xứ.

          ()破除惱毒及諸想。汝聽菩薩妙功德。若聽彼法清涼心。能入空寂無畏處。

          (Kinh: Phá độc phiền năo và các tưởng, ông nghe Bồ Tát diệu công đức, nếu nghe pháp ấy, tâm thanh lương, bèn nhập chỗ không tịch, chẳng sợ).

 

          “Nhược thính bỉ pháp thanh lương tâm. Năng nhập không tịch, vô úy xứ” (nếu nghe pháp ấy, tâm thanh lương, bèn nhập chỗ không tịch, chẳng sợ): Hết thảy phàm phu ở nơi trống vắng, hoặc nơi không biết, sẽ sanh sợ hăi to lớn. Cho nên hết thảy chư Phật Như Lai mỗi vị đều kiến lập quốc độ thanh tịnh mầu nhiệm để chúng sanh tiến nhập, xa ĺa sợ hăi. Nếu chúng ta không có quốc độ trang nghiêm, thanh tịnh, vô tận diệu dụng ấy, tiến thẳng vào chỗ trống vắng, sẽ nẩy sanh sợ hăi.

          Không tịch là tột cùng của cái tâm tự tại. Quư vị chẳng có cơ sở ấy, hễ đến chỗ không tịch, chỗ không biết, sẽ sanh ḷng sợ hăi. Sợ hăi như thế nào? Sợ hăi đoạn diệt, sợ hăi v́ vô tri, sợ hăi v́ chẳng có ǵ để đạt được, sợ hăi v́ chẳng có đối đăi, sợ hăi v́ không có chỗ chụp nắm. Nhất thời, [các nỗi sợ hăi ấy] đều dâng lên. V́ thế, chư Phật Như Lai kiến lập công đức thù thắng, cho tới các loại thọ dụng, là v́ muốn khiến cho chúng sanh an lạc tiến nhập loại thiện xảo “không tịch vô úy” này. Hiện thời, chúng ta đừng nói là “chẳng sợ hăi chỗ không tịch”, mà ngay cả đối với cơi thật sự tồn tại, tức văng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc là một quốc độ trang nghiêm, thù thắng, trọn đủ các thứ thọ dụng, rất nhiều người vẫn chưa hiển lộ rơ ràng nguyện vọng này. Đó là một pháp tắc chuyển biến liên tục[11]. Quư vị có thể quán kỹ càng tâm lư của chính ḿnh. Nếu chẳng phải nắm giữ đồ vật chi đó, tâm quư vị có thật sự an lạc, sáng suốt, không sợ hăi hay chăng? Nếu thật sự ở chỗ không tịch mà có thể an lạc, chẳng sợ hăi, người ấy đắc pháp nhăn thiện xảo. Nếu có thể thấy thấu suốt pháp tánh, sẽ đạt được tự tại ngay trong hiện tiền. Sức tự tại ấy chỉ có Phật đích thân chứng đắc, chỉ có Bồ Tát khéo nhận biết, khéo vận dụng! Đoạn văn tự này mười phần đáng chú ư!

 

          (Kinh) Như ngă đương kim thuyết tư pháp, vị linh chúng sanh chứng Bồ Đề, như bỉ an lạc chư Bồ Tát, đa kiến vô lượng Phật Thế Tôn, Bồ Tát như thị nhập tư duy, diệc kiến bách thiên đa Điều Ngự, như thử tỳ-kheo duy A Nan, nhất văn ngă thuyết tất năng thọ, Bồ Tát như thị đắc tam-muội, thính nhất thiết pháp năng tổng tŕ.

          ()如我當今說斯法。爲令衆生證菩提。如彼安樂諸菩薩。多見無量佛世尊。菩薩如是入思惟。亦見百千多調御。如此比丘唯阿難。一聞我說悉能受。菩薩如是得三昧。聽一切法能總持。

          (Kinh: Như ta nay đang nói pháp này, v́ khiến chúng sanh chứng Bồ Đề. Như các Bồ Tát an lạc ấy, thấy Phật Thế Tôn nhiều vô lượng. Bồ Tát nhập tư duy như thế, cũng thấy hơn trăm ngàn Điều Ngự, như trong tỳ-kheo riêng A Nan, vừa nghe ta nói đều vâng nhận, Bồ Tát đắc tam-muội như thế, nghe hết thảy pháp đều tổng tŕ).

 

          “Bồ Tát như thị đắc tam-muội. Thính nhất thiết pháp năng tổng tŕ” (Bồ Tát đắc tam-muội như thế, nghe hết thảy pháp đều tổng tŕ): Tổng Tŕ là dịch nghĩa của Đà La Ni. Pháp môn tổng tŕ được phiên dịch thành hai chữ Tổng Tŕ, có phần nào quá sơ sài. Nói “Đà La Ni môn” mọi người liền cảm thấy trọn đủ rất nhiều nội dung. Do vậy, thường là Đà La Ni chẳng phiên dịch. Ở đây, v́ sự đối ứng trong từ ngữ, bèn dịch thành Tổng Tŕ.

 

          (Kinh) Thành tựu tín tàm, cụ tam-muội, tất xả nhất thiết thế ngôn ngữ.

          ()成就信慚具三昧。悉舍一切世語言。

          (Kinh: Thành tựu tín, thẹn, đủ tam-muội, đều xả hết thảy tiếng thế gian).

 

          “Thế gian ngữ” là ngôn ngữ ǵ vậy? Lời thị phi, lời thiện ác, lời phàm thánh v.v… Hết thảy các ngôn ngữ sanh từ chỗ đối đăi đều là “thế gian ngữ”. “Thế gian” là do đối đăi mà an lập. Nếu ai thốt lời trong lặng, lời từ bi, lời lợi ích rộng răi, lời điều nhu, phần nhiều sẽ tiêu trừ đối đăi, khiến cho chúng sanh ĺa khổ, được vui. Cho nên khi chúng ta há mồm thốt lời thị phi, nhất định phải nghĩ chính ḿnh có phải là người thế tục, có cái tâm thế tục hay không? Người học Phật thốt lời thế gian, tức là phi ngữ, thốt lời nhân ngă thị phi là mong làm ǵ vậy? Cái tâm như thế chẳng phải là tâm của người tu hành. Nhưng nếu nói: “Ta cần xử trí vấn đề, ta có thể nói ra hay không?” Như vậy th́ được, chẳng hạn như nói “vấn nạn sở trệ”, tức là có vấn đề vướng mắc tại chỗ đó th́ phải nên nói. “Nói” ở đây là phương tiện để tiêu trừ thị phi, chẳng phải là nói thị phi, sẽ chẳng phải là lời lẽ thế gian, mà là thiện xảo ngữ, điều nhu ngữ, là lời lẽ khiến cho chúng sanh tiêu trừ đối đăi nghi hoặc.

          Người học Phật hiện thời, xuất gia hay tại gia, phần nhiều nói lời thế tục, lời thế gian, lời điên đảo, lời đối đăi, lời đấu tranh, lời lẽ nhấn mạnh cái Ta… V́ sao? V́ chẳng tương ứng. Chúng ta đọc nguyện vọng của chư Phật Thế Tôn, như A Di Đà Phật phát ra bốn mươi tám nguyện, mỗi nguyện đều là điều nhu ngữ, chân thật ngữ, lợi ích ngữ, trí huệ ngữ, chẳng có lời lẽ thế tục! Chúng ta xem lời nguyện của Văn Thù Bồ Tát, xem lời nguyện của Quán Thế Âm Bồ Tát, xem năm trăm đại nguyện của Phật Thích Ca, lại đọc lời nguyện của Phật Dược Sư, như nguyện thứ nhất: “Nguyện ngă lai thế, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề thời, tự thân quang minh xí nhiên, chiếu diệu vô lượng, vô tận, vô biên thế giới, dĩ tam thập nhị đại trượng phu tướng, bát thập tùy h́nh trang nghiêm kỳ thân, linh nhất thiết hữu t́nh như ngă vô dị” (Nguyện ta trong đời sau, khi đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, bản thân quang minh chói lọi, chiếu rọi vô lượng, vô tận, vô biên thế giới, dùng ba mươi hai tướng đại trượng, tám mươi tùy h́nh hảo để trang nghiêm thân ấy, khiến cho hết thảy hữu t́nh giống như ta chẳng khác). Khiến cho chúng sanh đạt được thân đại quang minh, đó là chỗ đạt tới của nguyện vọng. Thành tựu Bồ Đề chính là nguyện vọng duy nhất, những điều khác đều là bổ trợ.

         

          (Kinh) Thường dĩ từ tâm huệ tha thuyết, yếu đương đáo tư tịch tĩnh xứ.

          ()常以慈心慧他說。要當到斯寂靜地。

          (Kinh: Thường dùng từ huệ bảo người khác, sẽ đạt đến chốn tịch tĩnh ấy).

 

          Đối với chỗ được mất của bản thân, bèn tịch tĩnh, chẳng nhiễm, đối với người khác chỉ đạt được lợi ích hồi thí. Đó là chỗ khác biệt giữa Phật giáo và các pháp tắc khác. Chúng ta đều biết có rất nhiều lời dạy trong các tôn giáo khác cũng đều là lợi tha, cũng đều là bác ái, nhưng Phật giáo có ǵ? Tịch tĩnh nơi tự thân, không tịnh nơi tự thân, dùng làm phương tiện lợi ích người khác, chỉ có hồi thí. Đó là chỗ quy kết của oai đức rốt ráo, tự tại, giải thoát. Các vị thiện tri thức ơi! Nếu chúng ta tu tập pháp chẳng thuận theo kinh giáo, mà dựa theo thói quen tại gia của chính ḿnh, vậy th́ chỉ là tiếp nối tập quán đă tích lũy từ vô thỉ cho đến nay mà thôi! Bất luận mang cái danh tự Phật thế nào đi nữa, đeo danh xưng Phật, đeo danh hiệu Phật pháp, đeo khoác h́nh tượng xuất gia hay tại gia chi nữa, nội dung vẫn là thế tục, vẫn lấy cái Ta làm trung tâm, rơi vào Ngă Chấp và Pháp Chấp. Chúng ta chẳng thoát khỏi hai thứ chấp ấy, sẽ cách biệt Phật pháp rất xa, thật sự chẳng liên can. Hiện thời, thế gian đánh giá người học Phật chúng ta, chẳng hạn như hiện thời cư sĩ đánh giá người xuất gia, người chẳng học Phật đánh giá người học Phật, tuy chẳng phải là mười phần công bằng, nhưng chúng ta cũng phải nên kiểm điểm tự thân. Nguồn gốc căn bản nhất để phát xuất “không công bằng” là do người học Phật, người xuất gia chúng ta chẳng đủ tâm lợi tha! Do vậy, chư vị thiện tri thức ơi! Quả thật hăy nên phản tỉnh tự tâm!

Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh giảng kư

Phần 5 hết

 

 

 



[1] Nói “bổn vị” ở đây có thể hiểu theo nhiều hàm nghĩa: Tận hết trách nhiệm thuộc bổn phận của ḿnh như tổ Ấn Quang thường dạy “đôn luân, tận phận”. Đó là hiểu theo nghĩa lư thế gian. C̣n nói rộng hơn theo pháp xuất thế gian th́ là phải nhận biết mỗi người chúng ta đều có Phật tánh, ai nấy đều là Phật trong vị lai, hăy tu tập sao cho chẳng cô phụ vị Phật sẵn có trong tâm tánh của chính ḿnh.

[2] Loa ở đây là loại vỏ ốc dùng làm tù và để thổi.

[3] Gọi đầy đủ th́ là Ngũ Chủng Bất Phiên do ngài Huyền Trang đề ra trong lư luận về phiên dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán, tức là năm trường hợp sẽ chỉ bảo lưu cách phiên âm, chứ không dịch nghĩa một từ ngữ tiếng Phạn:

1. Do bí mật chẳng dịch, như các chữ trong Đà La Ni. Do một chữ chân ngôn có thể bao hàm vô lượng nghĩa bí mật, nếu dịch nghĩa ra sẽ trở thành ngô nghê và đánh mất tác dụng của chú ngữ.

2. Do chứa đựng nhiều nghĩa nên không phiên dịch, như chữ Bạc Già Bà (Bhagavān) có sáu nghĩa là “tự tại, xí thịnh, đoan nghiêm, thiện danh xưng, cát tường, tôn quư”, nên nếu chỉ dịch là Thế Tôn th́ đă đánh mất ư nghĩa.

3. Do trong cơi này (Trung Hoa) không có, cho nên không dịch. Chẳng hạn như cây Diêm Phù, Càn Thát Bà, Ca Lâu La, Ca Lăng Tần Già…

4. Do thuận theo cổ nhân nên không phiên dịch, như A Nậu Bồ Đề, A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

5. Do sanh điều thiện nên không phiên dịch, như Bát Nhă nếu dịch thành Trí Huệ th́ người đời sẽ coi thường, không chú ư tới ư nghĩa “trí huệ chân thật, chẳng đối đăi, siêu việt t́nh kiến” của  từ ngữ ấy.

[4] Ư nói phước đức, thiện căn, nhân duyên của những người đến nghe giảng mạnh hơn pháp sư Từ Pháp ngàn vạn lần, đáng lẽ họ phải là người hướng dẫn, d́u dắt pháp sư tu học, thay v́ pháp sư là người hướng dẫn họ tu học như trong hiện thời.

[5] Tức chẳng phải bản hội tập như các bản hội tập của Vương Long Thư, Ngụy Mặc Thâm, hay Hạ Liên Cư. Câu kinh Vô Lượng Thọ trên đây trích từ bản Ngụy dịch, tức bản dịch của ngài Khang Tăng Khải vào thời Tào Ngụy.

[6] Sư phụ của pháp sư Từ Pháp là Hoằng Xuyên Luật Sư, được mời từ Đài Loan trở về Hoa Lục vào năm 1984. Khi đó, Trung Cộng vừa cho phép tái lập các hoạt động tu tŕ sau một thời gần 30 năm nghiêm cấm, cho nên rất ít tăng sĩ, cũng như người thông thạo quy củ Thiền môn, phạm bái khá hiếm hoi. Bởi lẽ, Mao Trạch Đông đóng cửa các tự viện tại vùng quê, chỉ cho mở cửa các chùa như địa điểm du lịch, tăng sĩ người bị đuổi về hoàn tục, người bị đi cải tạo khổ sai. Các tăng sĩ già cả hoặc bị tù đày, hoặc bị giam lỏng tại chỗ, nghiêm cấm tụng niệm. Hầu như các tăng sĩ chỉ c̣n niệm thầm, hay tham Thiền sau các buổi học chính trị mà thôi.

[7] Ngũ đường công khóa là năm thời khóa thường nhật trong Thiền môn Trung Hoa: Công khóa sáng, công khóa tối, công khóa thọ trai buổi sáng, thọ trai buổi trưa (quá đường), và cúng Ngọ. Tuy nhiên, c̣n một cách hiểu khác, tức ngũ đường công khóa là hai đường khóa sáng, và ba đường khóa tối. Hai đường khóa sáng là chú Lăng Nghiêm và Thập Chú. Ba đường khóa tối là kinh Di Đà (và niệm Phật, kinh hành, tối thiểu là niệm 108 câu danh hiệu), Đại Sám Hối Văn (Hồng Danh Bảo Sám), và Mông Sơn Thí Thực. Riêng sau khóa sáng, có nghi cúng Phật và xuất sanh (thí thực cho quỷ thần và cô hồn). Khóa chiều th́ thí thực trong khi tụng Mông Sơn. Sau khi tụng xong Mông Sơn, các tùng lâm luôn tụng chú Đại Bi một lượt và tán Già Lam Bồ Tát. Các tông phái khác có thể thay bằng các kinh chú khác, nhưng xuất sanh trong hai thời khóa và cúng Ngọ không được thiếu. Vật phẩm cúng Ngọ có thể đơn giản là một chén cơm trắng (hoặc cháo, hoặc ḿ sợi v.v…), xớt lấy bảy hạt cơm hoặc một miếng cơm để thí cho quỷ thần.

[8] Ư nói người xuất gia mà không tu tập, sửa đổi tâm trí, hành vi và thói quen của chính ḿnh cho tốt đẹp hơn th́ chỉ là khoác thêm một lớp tăng bào, hoàn toàn chẳng phải là tăng sĩ.

[9] Tức là bài 善哉解脫服,缽吒禮懺衣,我今頂戴受,禮佛求懺悔 (thiện tai giải thoát phục, bát tra lễ sám y, ngă kim đảnh đới thọ, lễ Phật cầu sám hối, tạm dịch: Lành thay áo giải thoát, áo phước điền lễ sám, nay con kính cẩn thọ, lễ Phật cầu sám hối). Theo Phật Học Từ Điển, Bát Tra (Paṭṭa) là một loại tăng y, gồm nhiều miếng ghép lại, trông như các mảnh ruộng liên tiếp nhau, nên gọi là Điền Tướng Y. Lễ sám y trong bài kệ chính là mạn y, tức y không có điều, dành cho sa-di hay cư sĩ đă thọ Ngũ Giới. Bài kệ trên đây là bài kệ đắp y sử dụng theo truyền thống trong các tông phái Trung Hoa, nhưng khi dành cho cư sĩ học đắp y trong thời gian xuất gia đoản kỳ (xuất gia ngắn hạn, chẳng hạn như tại đạo tràng Phật Quang Sơn), sẽ sửa thành “thiện tai giải thoát phục, trân quư lễ sám y, ngă kim đảnh đới thọ, lễ Phật cầu sám hối”. Tuy vậy, theo Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu, bài kệ Đắp Y chia thành bốn loại:

1) Khi đắp y năm điều th́ bài kệ sẽ là “thiện tai giải thoát phục, vô thượng phước điền y, ngă kim đảnh đới thọ, thế thế bất xả ly”.

2) Khi đắp y bảy điều sẽ là “thiện tai giải thoát phục, vô thượng phước điền y, ngă kim đảnh đới thọ, thế thế thường đắc phi”.

3) Khi đắp đại y (y tăng già lê), sẽ là “thiện tai giải thoát phục, vô thượng phước điền y, phụng tŕ Như Lai mạng, quảng độ chư chúng sanh”.

4) Đắp mạn y sẽ là “đại tai giải thoát phục, vô tướng phước điền y, phi phụng như giới hạnh, quảng độ chư chúng sanh” (lớn thay áo giải thoát, áo ruộng phước vô tướng, mặc đúng như giới hạnh, rộng độ các chúng sanh).

[10] H́nh đồng sa-di (形同沙彌) có nghĩa là h́nh tướng giống như sa-di, nhưng chưa phải là sa-di thật sự. Tức là khi xuất gia, đă xuống tóc, nhưng chưa thọ giới sa-di.

[11] Tức là phải liên tục tu tập, chế ngự hoặc đào thải tập khí của chính ḿnh, luôn có tâm niệm cầu sanh, luôn giữ vững niềm tin kiên cố nơi bổn nguyện tiếp độ của A Di Đà Phật, đồng thời hành tŕ không biếng trễ, gián đoạn.