Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng kư
Phần
6
大方等大集賢護經講記
慈法法師
Chủ giảng:
Pháp sư Từ Pháp
Địa điểm:
Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ
ngày 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt:
Đức Phong và Huệ Trang
8. Phẩm thứ tư: Chánh Tín
(Kinh) Đại
Phương Đẳng Đại Tập, Hiền Hộ
Phần, Chánh Tín phẩm đệ tứ.
(經)大方等大集賢護分正信品第四。
(Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng
Đại Tập, Hiền Hộ Phần, phẩm thứ
tư: Chánh Tín).
Văn tự trong phẩm này
nhằm tuyên nói chánh tín. Để khích lệ chánh tín, đức
Phật nói đủ loại tỷ dụ, như tỷ dụ
về báu ma-ni, tỷ dụ hương Chiên Đàn, tỷ
dụ chiếc thuyền báu, khiến cho chúng ta sanh khởi chánh
tín, yêu thích, thủ hộ, tu tập, truyền bá pháp tắc
này, muốn cho hữu duyên hữu t́nh đạt được
công đức và lợi ích quư báu như thế đó.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế
Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: - Hiền Hộ!
Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát, vị cầu như
thị tam-muội bảo cố, đương ưng
dũng mănh, phát cần tinh tấn, tự nhiên tốc
năng nhập thử tam-muội dă.
(經)爾時世尊。復告賢護菩薩言。賢護。若諸菩薩摩訶薩。爲求如是三昧寶故。當應勇猛。發勤精進。自然速能入此三昧也。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ
Tát rằng: - Này Hiền Hộ! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát
v́ cầu báu tam-muội như thế, hăy nên dũng mănh,
phát khởi siêng năng tinh tấn, sẽ tự nhiên có thể
nhanh chóng nhập tam-muội này).
Đây là một câu nói về
sự lựa chọn rất rơ ràng.
(Kinh) Hiền Hộ! Thí
như hữu nhân thừa ngự đại thuyền, nhập
ư đại hải, tứ ư tải măn chúng diệu trân
bảo, dĩ quá nhất thiết chư đại nạn
xứ, thùy chí thử ngạn, vị kỷ chi gian, thuyền
hốt phá hoại, chúng bảo trầm một.
Đương nhĩ chi thời, Diêm Phù Đề nhân phát
đại khiếu thanh, sanh đại bi khổ, dĩ thất
như thị vô giá bảo cố.
(經)賢護。譬如有人乘御大船。入於大海。恣意載滿衆妙珍寶。已過一切諸大難處。垂至此岸。未幾之間。船忽破壞。衆寶沉沒。當爾之時閻浮提人。發大叫聲。生大悲苦。以失如是無價寶故。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Ví như có người ngồi chiếc thuyền to, vào
trong biển cả, mặc sức chở đầy các thứ
trân bảo mầu nhiệm, đă vượt qua hết thảy
các chỗ nạn lớn, sắp đến bờ này. Trong
phút chốc, thuyền bỗng hư hoại, các thứ báu
ch́m đắm. Ngay trong lúc đó, người trong Diêm Phù Đề
kêu gào ầm ĩ, sanh ḷng buồn khổ to lớn, do bị
mất các thứ báu vô giá như thế).
Thí dụ này nói thuyền
chở các thứ trân bảo đă sắp đến bờ,
lại bỗng dưng ch́m lỉm, khiến cho mọi
người sanh ḷng đau khổ như thế.
(Kinh) Hiền Hộ!
Hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân diệc phục
như thị, nhĩ văn như tư thắng tam-muội
bảo, bất năng thư tả, độc tụng, thọ tŕ. Phục
bất năng tư duy như pháp nhi trụ. Hiền Hộ!
Đương tri nhĩ thời, nhất thiết thế
gian chư thiên thần đẳng, diệc ưng như thị
phát đại khiếu hô, sanh đại bi năo, tác như thị
ngôn: “Thị chư chúng sanh thâm khả lân mẫn, vân hà
ư thử chư Phật Thế Tôn thắng tam-muội bảo,
nhất thiết chư Phật chi sở xưng
dương, nhất thiết chư Phật chi sở ấn
khả, nhất thiết chư Phật chi sở giáo giới,
nhất thiết chư Phật tối thượng công
đức, cụ túc thành tựu, viên măn vô khuyết, Bồ
Tát văn dĩ, đương ưng cần cầu, phản
cánh viễn ly, bất khẳng thư tả, bất nhạo
độc tụng, bất năng thọ tŕ, giải thích
nghĩa lư, bất năng tư duy, như pháp nhi trụ.
Như thị phóng dật, giải đăi chúng sanh, vị lai
tất đương thọ đại tổn giảm”. Hiền Hộ! Hà đẳng danh
vi chúng sanh tổn giảm? Sở vị ư như thị
tam-muội bảo trung, văn dĩ viễn ly, bất
năng thư tả, độc tụng, thọ tŕ, bất
năng giải thuyết, tư duy nghĩa lư, bất
như pháp trụ, chuyên niệm tu hành, táng diệt công đức.
Thị vi giảm tổn.
(經)賢護。有善男子善女人。亦復如是。耳聞如斯勝三昧寶不能書寫讀誦受持。復不能思惟如法而住。賢護。當知爾時一切世間諸天神等。亦應如是發大叫呼。生大悲惱。作如是言。是諸衆生。深可憐愍。云何於此諸佛世尊勝三昧寶。一切諸佛之所稱揚。一切諸佛之所印可。一切諸佛之所教誡。一切諸佛最上功德。具足成就。圓滿無缺。菩薩聞已。當應勤求。反更遠離。不肯書寫。不樂讀誦。不能受持解釋義理。不能思惟如法而住。如是放逸懈怠衆生。未來必當受大損減。賢護。何等名爲衆生損減。所謂於如是三昧寶中。聞已遠離。不能書寫讀誦受持。不能解說思惟義理。不如法住。專念修行。喪滅功德。是爲減損。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Có thiện nam tử, thiện nữ nhân cũng giống
như thế, tai được nghe báu tam-muội thù thắng
như thế mà chẳng thể biên chép, đọc tụng,
thọ tŕ. Lại chẳng thể tư duy, đúng pháp mà
trụ. Này Hiền Hộ! Hăy nên biết, lúc ấy hết
thảy các hàng thiên thần trong thế gian cũng nên kêu gào
to lớn như thế, sanh ḷng buồn rầu, áo năo to lớn,
nói như thế này: “Các chúng sanh này đáng thương xót
quá mức! Sao lại đối với báu tam-muội thù thắng
như thế của chư Phật Thế Tôn, là pháp
được hết thảy chư Phật ca ngợi,
được hết thảy chư Phật ấn khả,
được hết thảy chư Phật răn dạy,
là công đức tối thượng của hết thảy
chư Phật, thành tựu trọn đủ, viên măn chẳng
khuyết, Bồ Tát nghe xong, hăy nên siêng cầu, [thế mà
các chúng sanh này] lại ngược ngạo xa ĺa, chẳng
chịu biên chép, chẳng thích đọc tụng, chẳng
thể thọ tŕ, giải thích nghĩa lư, chẳng thể
tư duy đúng như pháp mà trụ? Chúng sanh buông lung, giải
đăi như thế, trong tương lai, ắt sẽ bị
tổn giảm to lớn”. Này Hiền Hộ! Những ǵ gọi
là “tổn giảm” của chúng sanh? Chính là đă nghe báu
tam-muội như thế xong bèn xa ĺa, chẳng thể biên
chép, đọc tụng, thọ tŕ, chẳng thể giải
nói, tư duy nghĩa lư, chẳng đúng như pháp mà trụ,
chuyên niệm tu hành, chôn vùi, diệt mất công đức.
Đó là “tổn giảm”).
Sự “tổn giảm” ấy
được kinh văn diễn tả mười phần rơ ràng, nêu ra pháp tắc và tỷ dụ
hết sức thẳng thừng, rơ rệt như thế
đó.
(Kinh) Hiền Hộ! Thị
giải đăi nhân, ác chúng sanh bối, ư tư pháp trung,
đắc lợi ích giả, vô hữu thị xứ!
(經)賢護。是懈怠人惡衆生輩。於斯法中。得利益者。無有是處。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Bọn người giải
đăi, chúng sanh ác ấy mà đạt được lợi
ích trong pháp này th́ chẳng có lẽ ấy).
Đây là lời quở trách!
Đối với những kẻ buông lung, chửi bới
pháp này, đức Thế Tôn bèn quở trách. Sau khi tôi đă
được tiếp xúc pháp Ban Châu, trước kia tôi chẳng
kể với ai khác, cũng chẳng dám nói với ai. Về
sau, do có nhiều người hành tŕ, dần dần h́nh thành một số lượng [hành nhân] nhất
định, tôi mới nói [về pháp Ban Châu] trong thế gian,
nhưng vẫn gặp vẫn rất nhiều kẻ hoài
nghi, nói kiểu ǵ cũng đều có. “Ngươi làm cái tṛ
ǵ vậy? Phô trương bản thân hả? Chẳng có chuyện
bới chuyện ra à?”… Nhưng phần nhiều là v́ người
ta chẳng hiểu, chẳng biết, chưa gặp pháp
này. Do vậy, đúng như lư tuyên nói, truyền bá, khiến cho người khác biết rơ pháp này, cũng là chức
trách của chúng ta, mà cũng là hành vi thủ hộ đối
với pháp của một Phật giáo đồ.
(Kinh) Phục thứ Hiền
Hộ! Thí như hữu nhân, tŕ xích chiên đàn, thị ngu
si nhân, nhi bỉ si nhân, dĩ ngu si cố, ư xích đàn
hương, khởi xú uế tưởng.
(經)復次賢護。譬如有人。持赤栴檀。示愚癡人。而彼癡人。以愚癡故。於赤檀香起臭穢想。
(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Ví như có người
cầm chiên đàn đỏ đưa cho kẻ ngu thấy. Kẻ ngu si
đó do ngu si, đối với đàn hương đỏ,
lại dấy lên ư tưởng cho là hôi thối).
Nay chúng ta học Phật, do
có nhân duyên phước đức mà được gặp
gỡ pháp tắc như thế này, nhưng người thật sự sanh tín tâm cực
hiếm hoi! Ngay như đă tiến nhập, hành tŕ pháp tắc
này, có phải là người có tín tâm hay không? Người nếm
thử, nh́n ngó th́ nhiều, kẻ thật sự sanh khởi
tín tâm để lựa chọn quả thật rất hy hữu!
“Hy hữu” có nghĩa là: Một là ít ỏi, hai là rất
khó phát khởi. V́ sao? Đối với pháp này, chúng ta vẫn
phần nhiều sợ hăi. Nay mọi người do
được cổ vũ, trong quá tŕnh hành pháp một ngày
một đêm, cái tâm sợ hăi sẽ dần dần, từ
từ tiêu trừ. Khá nhiều người có thể dần
dần tiếp nhận. Trước kia, hễ nói đến
Ban Châu, phần đông chẳng thể tiếp nhận,
đều nghi ngờ. Trải qua một khoảng thời
gian học tập, nhận thức, trong xă hội hiện
thời, rất nhiều nơi đang tu tập Ban Châu. Tuy
trong hành tŕ, có đủ loại thời gian dài hay ngắn,
có đủ loại trạng thái tương ứng hay
không tương ứng, đúng pháp hay chẳng đúng pháp,
nhưng đă tiếp xúc pháp tắc này, quả thật là
phước đức nhân duyên chẳng thể nghĩ bàn!
Chúng ta có thể thật sự dũng mănh tu tập pháp tắc
này, thành thục Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện
Tiền tam-muội hay không? Chuyện này vẫn thật sự
đ̣i hỏi chúng ta phải lột bỏ từng tầng
sợ hăi!
(Kinh) Thời chủ trí
nhân mại đàn hương giả, cáo ngu nhân viết: -
Nhữ kim bất ưng ư diệu chiên đàn, sanh xú ác tưởng. Hà dĩ cố?
Thị đàn tối tinh, hương khí đệ nhất.
(經)時主智人賣檀香者。告愚人曰。汝今不應於妙栴檀生臭惡想。何以故。是檀最精。香氣第一。
(Kinh: Khi ấy,
người chủ có trí bán đàn hương bảo kẻ
ngu rằng: - Nay ngươi chớ nên đối với chiên đàn mầu nhiệm mà sanh ư tưởng
thối ác. V́ sao vậy? Đàn hương này tinh diệu
nhất, mùi thơm bậc nhất).
Nay chúng ta
dùng hương, thường là bạch đàn (santalum
album), hoặc hoàng
đàn (dalbergia hupeana), rất ít dùng các loại gỗ
đàn khác. Chiên Đàn hương (candana, sirium myrtifolium) có màu đỏ. Trước
kia, khi tôi ở Phước Kiến, có người chở
đến một loại hương từ Phi Châu, giống
như những cái tai nhỏ
của động vật. Từng khối, từng khối,
do cắt từ các vết sẹo trên thân một loại
cây. Mỗi năm chỉ có thể cắt được rất
ít, mười phần quư giá. Nhưng loại hương ấy
chỉ cần đốt một tí trong lư hương, ngay
lập tức mùi mồ hôi rất nồng của mấy trăm người
đang đả thất sẽ bay sạch chẳng c̣n! Nay
trong chùa miếu của chúng ta, mùi lạ cũng ít, tạp
duyên cũng ít, tương đối rất thanh tịnh,
v́ mọi người một mực đốt đàn
hương, hoặc
trầm hương (agarwood), sức tịnh hóa chẳng thể
nghĩ bàn. Một là hộ pháp thiện thần thích mùi vị
ấy, hai là bản thân chúng ta cũng tịnh hóa không khí ở
nơi đây. Cho nên mùi lạ chẳng xâm nhiễu. Nếu
không, hơi hướng nơi thân thể mỗi người chúng ta đều
khác nhau, do nghiệp lực bất đồng, hơi
hướng sẽ phiền nhiễu lẫn nhau, mọi
người chẳng thể an trụ. Người đời
có rất nhiều kẻ do nghiệp lực bức bách khổ
sở, bèn dùng thuốc lá, rượu, thịt để
cân bằng chính ḿnh. Chúng ta là người học Phật,
dùng ǵ để cân bằng chính ḿnh? Dùng hai pháp Bi và Trí, sẽ
thuận tiện. Đối với mùi hôi thối hay
thơm tho, ai nấy cảm nhận khác biệt. Người
đời phần nhiều cho mùi hôi thối là thơm tho.
Mọi người có thể tư duy tỷ dụ trong
đoạn này nhiều hơn!
Hương trước kia,
hễ chạm tay vào, mùi hương luôn nồng đậm,
hiện thời rất khó nói. Đó là v́ phước đức
và nhân duyên của con người biến hóa, trăm vị
đều thoái giảm. Ngay như trái cây trong hiện thời,
dẫu thế nào đi nữa, cũng đều chẳng
có hương vị như thuở [chúng ta] c̣n bé,
dẫu ngọt cũng chẳng phải là hương vị như thuở đó. Thật
ra, chẳng phải do hương vị, mà do tâm trí của
con người giảm thấp, thiện duyên đang suy giảm!
Có người nói phước báo của người hiện
thời to lớn, người thuở trước chẳng
có xe hơi, nay chúng ta có xe hơi. Người thuở
trước sống trong những căn nhà bé tí tẹo, quư vị thấy nay chúng ta ở
trong nhà như thế nào. Người thuở trước
làm ǵ, nay chúng ta làm ǵ… Thật ra, đó là một kiểu ỷ lại vào vật
chất ở bên ngoài. Khi tâm địa sâu nặng dần dần
biến thành [coi trọng] vật chất, sự tự vui
sướng, sự hàm dưỡng, và thọ dụng tự tại trong tâm trí của
chúng ta sẽ dần dần mất đi, v́ vật chất
mà mất đi. Nếu vật chất cũng có, nội
tâm sâu nặng cũng có, quá tốt đẹp! Nhưng rất
nhiều người trong hiện thời cứ mù quáng so đo vật chất, đă mất hẳn sự sâu nặng [trong tâm
trí], mà cũng đánh mất giá trị của vật chất.
Khi đó, vật chất quả thật chẳng có giá trị
ǵ, chỉ là một thứ ước định để
so đo mù quáng mà thôi. Thật sự chẳng có quá tŕnh hưởng thụ,
mà cũng chẳng có nội hàm!
(Kinh) Nhữ kim hà cố
phản vi xú ác? Nhược bất tín giả, ưng tiên khứu
thường, vi xú, vi hương? Hựu nhữ nhăn minh, diệc
ưng dĩ mục quán sát, thị đàn quang sắc,
văn thái, vi sấu, vi ph́, vi thiện, vi ác? Nhiên bỉ ngu
giả, tuy văn trí nhân như thị ngữ ngôn, chủng
chủng xưng tán, dĩ ngu si cố, chuyển sanh tăng
ố, dĩ thủ niệp tỵ, bất dụng khứu
văn, yểm bế kỳ mục, bất khẳng quán thị.
(經)汝今何故反爲臭惡。若不信者。應先齅嘗。爲臭爲香。又汝眼明。亦應以目觀察。是檀光色文彩。爲瘦爲肥。爲善爲惡。然彼愚者。雖聞智人如是語言。種種稱讚。以愚癡故。轉生憎惡。以手捻鼻。不用齅聞。掩閉其目。不肯觀視。
(Kinh: Ông nay v́ sao lại ngược ngạo cho
là hôi thối? Nếu chẳng tin, trước hết hăy
nên ngửi nếm xem là thối
hay thơm. Lại do ông mắt sáng, cũng nên dùng mắt
để xem xét màu sắc, vân gỗ của loại Chiên
Đàn này là mỏng hay đậm, đẹp hay xấu?
Nhưng kẻ ngu ấy, tuy nghe người trí dùng lời
lẽ như thế để ca ngợi đủ mọi
cách, nhưng do ngu si, đâm ra ghét bỏ, dùng tay bịt
mũi, chẳng chịu ngửi thử, bịt chặt mắt
chẳng chịu xem ngó).
Người học Phật
thường xuyên gặp phải t́nh huống này, nhất
là khi mới phát tâm, cảm thấy gặp gỡ Phật
pháp rất hoan hỷ, cảm thấy chính ḿnh thật sự
được lợi ích, mong nói cho người nhà, người
chung quanh, và đồng nghiệp hay biết,
kết quả là rất nhiều kẻ nói: “Cút xéo đi! Chẳng
cần phải nói với tao như thế!” Đối với
chuyện này, mọi người rất có cảm xúc. “Dĩ
thủ niệp tỵ, bất dụng khứu văn, yểm
bế kỳ mục, bất khẳng quán thị” (Dùng
tay bịt mũi chẳng chịu ngửi thử; bịt
chặt con mắt chẳng chịu nh́n ngó). Khi chúng ta chấp
trước tri kiến của chính ḿnh, chẳng tiếp nhận
Phật pháp, đích xác là có nghiệp tướng như thế
đó!
(Kinh) Như thị Hiền
Hộ! Đương lai chi thế, hữu ác tỳ-kheo,
tăng ố thị kinh, kỳ sự diệc nhĩ. Bỉ
ác nhân bối, bất tri tu tập thân giới, tâm huệ,
ngu si, vô trí, do như bạch dương, ngoan ngăi, ngận
tệ. Bỉ chư ác nhân, hựu bạc
phước cố, tuy phục đắc văn như thị
diệu điển, chánh niệm Chư Phật Hiện Tiền
tam-muội, bất dụng thư tả, bất năng
độc tụng, bất năng thọ tŕ, bất
năng tư duy, bất năng vị nhân tuyên dương,
quảng thuyết. Hựu diệc bất năng quảng
sanh tùy hỷ. Vân hà năng đắc như thuyết tu
hành? Nhược bỉ ác nhân, năng thuyết hành giả,
vô hữu thị xứ!
(經)如是賢護。當來之世。有惡比丘。憎惡是經。其事亦爾。彼惡人輩。不知修習身戒心慧。愚癡無智。猶如白羊。頑騃佷弊。彼諸惡人。又薄福故。雖復得聞如是妙典。正念諸佛現前三昧。不用書寫。不能讀誦。不能受持。不能思惟。不能爲人宣揚廣說。又亦不能廣生隨喜。云何能得如說修行。若彼惡人。能說行者。無有是處。
(Kinh: Như thế đó Hiền Hộ! Trong
đời tương lai, có ác tỳ-kheo ghét bỏ kinh này
cũng giống như thế! Bọn người ác ấy
chẳng biết tu tập giới nơi thân và trí huệ nơi
tâm, ngu si, vô trí, giống như con dê trắng, ngu độn, hung tợn, tệ hại. Những kẻ ác
đó lại do bạc phước, tuy lại được
nghe kinh điển mầu nhiệm như thế, chánh niệm
Chư
Phật Hiện Tiền tam-muội, chẳng chịu biên
chép, chẳng thể đọc tụng, chẳng thể thọ
tŕ, chẳng thể tư duy, chẳng thể v́ người
khác tuyên dương, diễn nói rộng răi. Lại cũng
chẳng thể sanh ḷng tùy hỷ to lớn, làm sao có thể
tu hành đúng như lời dạy cho được? Nếu
kẻ ác ấy có thể nói và hành th́ chẳng có lẽ ấy).
Chúng
ta là Phật tử, phải nên đối đăi theo pháp tắc
như thế nào? Mọi người phải nên xét kỹ
chuyện này, nhất là đối với kinh điển,
phải nên tôn trọng, yêu mến, bảo vệ như thế nào? V́ kinh
Ban Châu này là kinh điển được lưu truyền
rộng khắp, từ xưa đến nay đă sớm
được các vị đại thiện tri thức tu
tập. Như đức Thế Tôn đă nói: Trong các đệ
tử của ta, Ma Ha Ca Diếp đă đích thân chứng
đắc. Sau đó, nhất là các vị đại thiện
tri thức nơi đất Hán và các vị thành tựu từ
xưa đến nay, đối với pháp này, về
cơ bản cũng đều đă từng tu tập.
(Kinh)
Hựu phục văn dĩ, cánh hưng phỉ báng, đô
vô tín tâm, vị vi chân thật, tuy văn đa thuyết,
chung vô khai giải. Phục tác thị ngôn: “Nhược
tư pháp giả, đản vi hư luận cố, thần dị
kỳ sự. Hựu vị xí thịnh ngôn giáo cố, quá sức
kỳ từ, dụ cuống thế gian, tạo tư kinh
điển. Khởi đắc phương tỷ thánh giả
A Nan, chư tỳ-kheo bối, hiện tại thế thời
tuyên thuyết như thị chư Tu Đa La dă”.
(經)又復聞已。更興誹謗。都無信心。謂爲真實。雖聞多說。終無開解。復作是言。若斯法者。但爲戲論故。神異其事。又爲熾盛言教故。過飾其詞。誘誑世間。造斯經典。豈得方比聖者阿難諸比丘輩。現在世時宣說如是諸修多羅也。
(Kinh: Lại c̣n nghe xong, càng thêm
dấy ḷng phỉ báng, đều chẳng có
tín tâm, chẳng cho là chân thật. Tuy nghe nói nhiều lượt,
trọn chẳng khai giải. Lại nói như thế này:
“Pháp như thế ấy chỉ là do hư luận mà thần dị
chuyện ấy. Lại v́ để cho ngôn giáo rạng rỡ
mà dùng từ ngữ tô vẽ quá mức, dụ dỗ, dối
gạt thế gian, tạo ra kinh điển này. Há có lẽ nào sánh bằng các Tu Đa La được
các
vị như thánh giả A Nan và các vị tỳ-kheo lúc đang trụ thế đă
tuyên nói như
thế ư?”)
Đấy
là dựa theo kinh để báng kinh, dẫn dụng thánh giả
A Nan [để báng bổ].
(Kinh)
Hựu ư dị thời, phát như thị ngôn: “Thử
Tu Đa La phi Phật sở thuyết, năi thị ác nhân tự
tạo văn chương, vọng ngôn kinh nhĩ”.
(經)又於異時。發如是言。此修多羅。非佛所說。乃是惡人自造文章。妄言經耳。
(Kinh: Lại trong lúc khác, thốt
lời như thế này: “Tu Đa La (khế kinh) này chẳng
do đức Phật nói, mà là do kẻ ác tự tạo
văn chương, nói dối là Kinh”).
Ở
đây, nhất định phải chú ư, v́ nếu quư vị
chẳng đủ tín tâm, lời lẽ ấy sẽ có thể
khống chế quư vị, v́ pháp Tịnh Độ
thường bị kẻ khác công kích, bị nhiều
người hoài nghi. Pháp Ban Châu càng
biểu
hiện rơ rệt như thế đó!
(Kinh)
Hiền Hộ đương tri, như tư ác nhân trường
dạ viễn ly như thị vi diệu vô thượng
đại bảo. Như bỉ si nhân, kiến diệu
hương dĩ, yểm nhăn, tắc tỵ, bất dụng
kiến văn. Như thị Hiền Hộ! Bỉ ngu ác bối,
văn thử diệu kinh tam-muội bảo dĩ, bất
dục thư tả, bất nhạo độc tụng, bất
niệm thọ tŕ, bất năng tuyên thuyết, sở vị
vô tâm thân cận, bất nguyện văn cố.
(經)賢護當知。如斯惡人。長夜遠離如是微妙無上大寶。如彼癡人。見妙香已。掩眼塞鼻。不用見聞。如是賢護。彼愚惡輩。聞此妙經三昧寶已。不欲書寫。不樂讀誦。不念受持。不能宣說。所謂無心親近。不願聞故。
(Kinh:
Hiền Hộ nên biết: Kẻ ác như thế trong
đêm dài xa ĺa vô thượng đại bảo vi diệu
như thế. Kẻ si như vậy đă thấy
hương mầu nhiệm rồi, bịt mắt,
bịt mũi, chẳng chịu nh́n, ngửi. Như thế
đó, Hiền Hộ! Lũ ngu ác ấy đă nghe báu tam-muội
trong bản kinh mầu nhiệm này, chẳng muốn biên
chép, chẳng thích đọc tụng, chẳng nghĩ thọ
tŕ, chẳng thể tuyên nói. Đó gọi là không có tâm thân cận
v́ chẳng muốn nghe).
Trong
đoạn văn tự này, chúng ta thấy đức Thế
Tôn quở trách loại hữu t́nh tạo tác ác nghiệp, hoặc tạo tác dị thuyết
trong đời Mạt Pháp. Kẻ dùng tâm thức để
hướng dẫn pháp tắc, phần nhiều sẽ phỉ
báng như thế! Chư vị thiện tri thức ơi!
Đối với chỗ này, chúng ta hăy khéo tư duy, khéo
quan sát, yêu mến thủ hộ kinh này, đọc
tụng kinh này, tu tập kinh này, tuyên nói kinh này.
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Thí như hữu nhân mại
ma-ni bảo. Hữu ngu si nhân, kiến bỉ bảo dĩ,
tức tiện vấn ngôn: “Nhân giả tư bảo, kỳ
giá vân hà?” Bảo chủ đáp ngôn: “Nhữ kim
đương tri, thị bảo tinh thắng, thế gian
sở vô, phi khả tạo thứ dĩ thế giá luận
dă. Ngô kim thả thuyết thử bảo công năng, oai
đức, lực dụng, thô vi ước nhĩ. Khanh
nhược dục tri thử ma-ni bảo, quang minh sở
chiếu, cận viễn nhược can. Khanh kim nhược
tu, đương dĩ chân kim bố măn tư địa,
nhĩ năi tương dữ”. Bỉ ngu si nhân, văn thị
ngữ dĩ, tiện đại sủy tiếu, chủng
chủng tử hủy, thị ma-ni bảo, cánh bất thù
giá.
(經)復次賢護。譬如有人賣摩尼寶。有愚癡人。見彼寶已。即便問言。仁者斯寶。其價云何。寶主答言。汝今當知。是寶精勝。世間所無。非可造次以世價論也。吾今且說此寶功能。威德力用。粗爲約耳。卿若欲知此摩尼寶。光明所照。近遠若干。卿今若須。當以真金佈滿斯地。爾乃相與。彼愚癡人。聞是語已。便大嗤笑。種種呰毀。是摩尼寶。竟不酬價。
(Kinh: Lại này Hiền Hộ!
Ví như có người bán báu ma-ni. Có kẻ ngu si đă trông
thấy báu ấy, liền hỏi rằng: “Vật báu này của
nhân giả giá trị ra sao?” Chủ vật báu trả lời:
“Ông nay nên biết, vật báu này tinh ṛng, thù thắng, thế
gian chẳng có. Chớ nên bộp chộp dùng giá trị
trong thế gian để luận định. Nay tôi lại
nói đại lược thô thiển về công năng, oai
đức, và lực dụng
của món báu này. Nếu ông muốn biết quang minh của
báu ma-ni này chiếu xa hay gần cỡ nào, nếu nay ông cần đến, phải nên lấy vàng ṛng trải
khắp cuộc đất này th́ tôi mới trao cho ông”. Kẻ
ngu si đó nghe lời ấy rồi, liền hết sức
cười nhạo, chê bai, hủy báng đủ mọi lẽ:
“Báu ma-ni ấy trọn
chẳng đáng giá”).
Trong
phẩm Chánh Tín, đức Thế Tôn nêu lên rất nhiều
để tỷ dụ sự trân quư của pháp Ban Châu
tam-muội, khó được, khó gặp. Nếu chẳng
nhận biết, chúng ta sẽ bỏ lỡ sát-na [gặp gỡ]
món báu to lớn.
(Kinh)
Như thị Hiền Hộ! Bỉ vị lai thế, chư ác tỳ-kheo, văn thử kinh
trung thắng tam-muội bảo, vô hữu tín tâm, đa sanh
sủy tiếu, cánh hưng phỉ báng. Kỳ sự diệc
nhĩ. Hoặc hữu tỳ-kheo, tín căn thâm hậu, huệ
căn minh lợi, dĩ ư quá khứ chư Như Lai sở,
thân cận, thừa sự, thính văn chánh pháp, như giáo
tu hành, chủng chư thiện căn. Bỉ đẳng
văn thử Bồ Tát Niệm Phật Hiện Tiền
tam-muội, tức năng độc tụng, tư duy
nghĩa lư, vị nhân quảng thuyết, năng đa lợi
ích nhất thiết thế gian. Sở vị quảng tuyên
lưu bố, sanh đại tín tâm, phát đại trí huệ,
thành tựu thuần trực, cụ túc oai nghi, thường
hành tàm quư, bố úy chúng tội, tu tŕ cấm giới, bất
thọ chư dục, tín thậm thâm pháp, năng đa thọ
văn, đắc thâm trí nhẫn, thường hành từ
bi. Nhiên nhi tư đẳng tín căn thâm cố, hành thị
tam-muội. Đắc tam-muội dĩ, du chư
phương quốc, vị tha quảng thuyết, giải
thích nghĩa lư, thường tác thị nguyện, linh thử
Bồ Tát Niệm Phật tam-muội, thậm thâm kinh điển,
quảng hành lưu bố, thường trụ ư thế.
Hoặc hữu chúng sanh, thiện căn vi bạc, phước
đức tiển thiểu, quá khứ vị tằng thân cận
chư Phật, cúng dường, thừa sự,
thính văn chánh pháp, đản vị ngă mạn sở hàng,
tật đố sở đạo, lợi dưỡng sở
phú, danh văn sở khiên, quảng hành phóng dật, bất
tŕ giới thiện, thường nhạo loạn tâm, bất
tu Thiền Định, viễn ly kinh
giáo, bất cầu đa văn, vị ngộ thiện
sư, duy phùng ác hữu. Tư nhân như thị văn thử
tam-muội, phỉ báng khinh hủy, vô nhất tín tâm, vị
vi bất thật, chí tánh ngoan ngu, ư vô khai giải, phục tác
thị ngôn: “Như tư kinh điển, phi Phật sở
thuyết, năi thị thế
gian độn căn tỳ-kheo, ngu si, tà kiến, tự tác
văn chương, nghiêm sức từ cú. Nhược xử
chúng trung, ưng như thị thuyết, diệc như thị
giáo: “Nhữ chư chúng sanh đương tri kim thử Tu Đa
La điển phi Phật sở thuyết”. Như thị si
nhân bất tri thân cận chư Phật Thế Tôn, bất
chủng thiện căn, bất tu cúng dường, tập
cận ác hữu, đa tác chúng ác. Đương tri thị
nhân viễn ly vô thượng thâm diệu pháp bảo, vĩnh thất vô
thượng tối thắng pháp lợi dă!” Phật cáo Hiền
Hộ: - Ngô phục ngữ nhữ, ngă kim hiện tại nhất
thiết thế gian Phạm, ma, sa-môn, Bà La Môn, cập
chư thiên, nhân, A Tu La đẳng, chư đại chúng tiền,
tuyên thuyết như thị diệu tam-muội thời,
nhược bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân,
văn dĩ tùy hỷ, độc tụng, thọ tŕ Niệm
Phật tam-muội, tư duy, tín giải, tối dĩ vi
chân, phát như thị ngôn: ‘Thị vi chân thật chư Phật
thuyết giả’. Đương tri bỉ nhân sở hoạch
phước tụ, bất khả tư nghị. Hiền Hộ!
Nhược phục hữu chư thiện nam tử, thiện
nữ nhân tŕ măn tam thiên đại thiên thế giới chủng
chủng trân bảo, dĩ dụng cúng dường nhất
thiết chư Phật Như Lai Ứng Cúng Đẳng
Chánh Giác sở đắc công đức, tuy vi quảng
đại, nhiên vọng tŕ kinh sở hoạch phước
tụ, bách thiên vạn phần, bất cập kỳ nhất,
năi chí cánh dĩ vô lượng vô biên A-tăng-kỳ chư
phước đức tụ, diệc bất cập nhất
dă.
(經)如是賢護。彼未來世諸惡比丘。聞此經中勝三昧寶。無有信心。多生嗤笑。更興誹謗。其事亦爾。或有比丘。信根深厚。慧根明利。已於過去諸如來所親近承事聽聞正法。如教修行。種諸善根。彼等聞此菩薩唸佛現前三昧。即能讀誦思惟義理。爲人廣說。能多利益一切世間。所謂廣宣流佈。生大信心。發大智慧。成就純直。具足威儀。常行慚愧。怖畏衆罪。修持禁戒。不受諸欲。信甚深法。能多受聞。得深智忍。常行慈悲。然而斯等信根深固。行是三昧。得三昧已。遊諸方國。爲他廣說。解釋義理。常作是願。令此菩薩唸佛三昧。甚深經典。廣行流佈。常住於世。或有衆生。善根微薄。福德尠少。過去未曾親近諸佛。供養承事。聽聞正法。但爲我慢所降。嫉妒所導。利養所覆。名聞所牽。廣行放逸。不持戒善。常樂亂心。不修禪定。遠離經教。不求多聞。未遇善師。唯逢惡友。斯人如是聞此三昧。誹謗輕毀。無一信心。謂爲不實。志性頑愚。意無開解。復作是言。如斯經典。非佛所說。乃是世間鈍根比丘。愚癡邪見。自作文章。嚴飾詞句。若處衆中。應如是說。亦如是教。汝諸衆生。當知今此修多羅典。非佛所說。如是癡人。不知親近諸佛世尊。不種善根。不修供養。習近惡友。多作衆惡。當知是人。遠離無上深妙法寶。永失無上最勝法利也。佛告賢護。吾復語汝。我今現在一切世間梵魔沙門婆羅門及諸天人阿修羅等諸大衆前。宣說如是妙三昧時。若彼善男子善女人。聞已隨喜。讀誦受持唸佛三昧。思惟信解最以爲真。發如是言。是爲真實諸佛說者。當知彼人所獲福聚。不可思議。賢護。若復有諸善男子善女人。持滿三千大千世界種種珍寶。以用供養一切諸佛如來應供等正覺。所得功德。雖爲廣大。然望持經所獲福聚。百千萬分。不及其一。乃至更以無量無邊阿僧祇諸福德聚。亦不及一也。
(Kinh:
“Như thế đó Hiền Hộ! Các ác tỳ-kheo ấy
trong đời vị lai nghe báu tam-muội thù thắng trong
kinh này, chẳng có tín tâm, phần nhiều sanh ḷng cười
nhạo, lại c̣n sanh phỉ báng cũng
giống như thế đó. Hoặc có tỳ-kheo tín
căn sâu dày, huệ căn sáng suốt, nhạy bén, do trong
quá khứ đă ở nơi các đức Như Lai thân cận,
thừa sự, lắng nghe chánh pháp, tu hành đúng như lời
dạy, gieo các căn lành. Bọn họ nghe Bồ Tát Niệm
Phật Hiện Tiền tam-muội này, liền có thể
đọc tụng, tư duy nghĩa lư, v́ người khác
rộng nói, có thể tạo nhiều lợi ích cho hết
thảy thế gian, tức là tuyên nói, truyền bá rộng
răi, sanh tín tâm to lớn, phát khởi trí huệ lớn, thành
tựu trực tâm tinh thuần, trọn đủ oai nghi, thường
giữ ḷng hổ thẹn, sợ hăi các tội, tu tŕ cấm
giới, chẳng nhận lănh các dục, tin pháp rất sâu,
có thể tiếp nhận, nghe nhiều,
đắc trí nhẫn sâu xa, thường hành từ bi. Nhưng họ do tín căn sâu chắc mà hành tam-muội này. Đă
đắc tam-muội, dạo chơi trong quốc độ
các phương, v́ người khác nói rộng răi, giải
thích nghĩa lư, thường nguyện như thế này: ‘Khiến cho kinh điển
Bồ Tát Niệm Phật tam-muội rất sâu này sẽ
được lưu truyền rộng răi, thường trụ
trong cơi đời’. Hoặc có chúng sanh thiện căn mỏng
ít, phước đức thưa thớt, trong quá khứ
chưa từng thân cận chư Phật, cúng dường,
thừa sự, lắng nghe chánh pháp, chỉ v́ bị ngă mạn
đè nén, ghen tỵ chỉ huy, lợi dưỡng che lấp,
danh vọng trói buộc, làm đủ mọi chuyện buông
lung, chẳng giữ giới thiện, thường thích loạn
tâm, chẳng tu Thiền Định, xa ĺa kinh giáo, chẳng
cầu đa văn, chưa gặp thầy lành, chỉ gặp
bạn ác. Kẻ đó nghe tam-muội như thế này bèn
phỉ báng, khinh rẻ, hủy nhục, chẳng có chút tín
tâm nào, bảo là [kinh này] chẳng thật.
Kẻ đó chí tánh ương bướng, ngu độn,
ư chẳng khai giải, lại
nói như thế này: ‘Kinh điển như thế này chẳng
do đức Phật nói, mà là do độn căn tỳ-kheo
trong thế gian, ngu si, tà kiến, tự soạn văn
chương, trau chuốt câu chữ’. Nếu ở trong
đại chúng, cũng sẽ nói như thế, cũng dạy
như thế này: ‘Chúng sanh các ngươi hăy nên biết kinh
điển Tu Đa La này chẳng phải do đức Phật
nói’. Kẻ si như thế chẳng biết thân cận
chư Phật Thế Tôn, chẳng gieo thiện căn, chẳng
tu cúng dường, thân cận bạn ác, làm nhiều điều
ác. Hăy nên biết kẻ ấy xa ĺa pháp bảo vô thượng
sâu xa, mầu nhiệm, vĩnh viễn đánh mất lợi
ích vô thượng tối thắng nơi pháp”. Đức
Phật bảo ngài Hiền Hộ: - Ta lại bảo ông,
nay trong lúc ta đối trước hết thảy Phạm
vương, ma, sa-môn, Bà La Môn, và các trời, người, A
Tu La v.v… các đại chúng trong thế gian hiện tại,
tuyên nói tam-muội mầu nhiệm như thế, nếu
các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy nghe xong tùy hỷ, đọc tụng,
thọ tŕ Niệm Phật tam-muội, tư duy, tin hiểu,
cho là chân thật nhất, thốt lời như thế này:
‘Đây là kinh thật sự do chư Phật nói’. Hăy nên biết
người ấy đạt được khối
phước chẳng thể nghĩ bàn. Này Hiền Hộ!
Nếu lại có các thiện nam tử, thiện nữ nhân
dùng các thứ trân bảo đầy ắp
tam thiên đại thiên thế giới để cúng dường
hết thảy chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng
Chánh Giác th́ người ấy đạt được công
đức tuy rộng lớn, nhưng so với khối phước
đạt được của người
tŕ kinh th́ chẳng bằng một phần trong trăm ngàn vạn
phần, thậm chí cũng chẳng bằng một phần
của vô lượng vô biên A-tăng-kỳ các khối
phước đức).
Lành
thay! Trong đoạn văn tự này, đức Thế Tôn
đă nêu bày phương tiện chánh tín, dường như
chỉ nói về tỳ-kheo, nhưng [thật ra] cũng bao
gồm thiện nam tử, thiện nữ nhân. Tỳ-kheo
đứng đầu trong chín chúng[1]
nghe thuyết pháp, cho nên chỉ nói về tỳ-kheo là đă
bao gồm hết thảy các đại chúng học Phật.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa,
nhi thuyết kệ ngôn: - Tà khúc ngu hoặc nhân, phóng dật,
căn bất thục.
(經)爾時世尊。爲重明此義。而說偈言。邪曲愚惑人。放逸根不熟。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức
Thế Tôn để nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ
rằng: - Kẻ tà khúc, ngu hoặc, buông lung, căn chẳng
thuần).
Nhận
biết một pháp tắc th́ như trong kinh Đại Bát
Niết Bàn, đức Thế Tôn đă dạy: Nếu gieo các thiện căn, thừa
sự, cúng dường Phật, hoặc là một vị Phật,
hai vị Phật, ba vị Phật, cho đến đối
với một hằng hà sa số chư Phật đều
cúng dường, nghe kinh điển Đại Thừa mà
chẳng phỉ báng; thiện căn ấy như thật!
Nghe pháp Ban Châu mà chẳng sanh nghi báng, đă là rất khó có
trong tam giới. Nếu nghe pháp rồi mà có thể sanh ḷng
tin, nghe pháp rồi có thể tu tập, nghe pháp xong có thể
thành tựu, truyền bá, người ấy rất chẳng
thể nghĩ bàn! Người đó chẳng chỉ cúng
dường một hằng sa, hai hằng sa, ba hằng sa
chư Phật, thừa sự, mà là đều
đă
cúng dường chư Phật, phát Bồ Đề tâm. V́
lẽ nào? Do thiện căn của người ấy chín
muồi, do công đức và lợi ích chẳng thể nghĩ
bàn! Kẻ thiện căn chẳng thuần thục, từ
vô thỉ tới nay chưa hề thân cận chư Phật để
phát Bồ Đề tâm, hoặc siêng tu cúng dường,
đối với pháp chẳng thể sanh ḷng chánh tín, chẳng
thể ưa thích, đối với loại hữu t́nh ấy,
hăy nên thương xót, cổ vũ, khiến cho thiện
căn của họ chín muồi. Đấy là bi tâm mà hết
thảy người tu tập Phật
pháp đều nên tu tŕ.
(Kinh)
Ác hữu chi sở hoại, vô hữu chánh tín tâm. Phá giới
tạo chúng tội, thâm trước ư ngă mạn.
(經)惡友之所壞。無有正信心。破戒造衆罪。深着於我慢。
(Kinh: Bị bạn ác phá hoại,
chẳng có tâm chánh tín, phá giới, tạo các tội, đắm
sâu nơi ngă mạn).
Tu
loại pháp này, nếu dùng cái tâm ngă mạn để tu tŕ,
pháp này đă diệt! Nếu dùng cái tâm tà kiến, v́ danh vọng,
lợi dưỡng, sẽ như trong chánh kinh trên đây
đă nói “tật đố sở đạo, lợi dưỡng
sở phú, danh văn sở khiên, quảng hành phóng dật”
(bị ghen tỵ hướng dẫn, lợi dưỡng
che lấp, danh vọng trói buộc, làm đủ mọi
chuyện buông lung). Dẫu trong lúc hành pháp, vẫn là đang
phóng dật! Trong hành pháp Ban Châu, có các vị Bồ Tát tự
ḿnh cũng có thể cảm nhận chính ḿnh đang t́m cầu
phương tiện phóng dật ở khắp mọi chỗ!
“Bất tŕ giới thiện, thường nhạo loạn
tâm, bất tu Thiền Định, viễn ly kinh giáo, bất
cầu đa văn, vị ngộ thiện sư, duy phùng
ác hữu” (Chẳng tŕ giới thiện, thường
thích loạn tâm, chẳng tu Thiền Định, xa ĺa kinh
giáo, chẳng cầu đa văn, chưa gặp thầy
lành, chỉ gặp bạn ác). “Bạn ác” là ǵ? A dua, bợ
đỡ, hư giả đối với pháp, chẳng có
thực chất. Chẳng phải là thâm nhập tu tập
pháp tắc, phần nhiều là dối trá, bợ đỡ,
nắm níu lẫn nhau, phần nhiều chẳng thật. Nếu
là như thế, sẽ xa ĺa pháp tắc này, tuy niệm Phật
mà đă đánh mất cam lộ vị, v́ chẳng có thành tựu
chân thật. Nay mọi người chúng ta khi tu tập pháp
này, nhất định phải thâm nhập quan sát nghiệp
duyên của chính ḿnh trong hiện tại sanh khởi và thủ
hộ như thế nào? Tu tập bằng cách nào? V́ sao phải
dùng pháp này? V́ sao phải thủ hộ pháp này?
(Kinh)
Bỉ các ngôn thử kinh, phi thị chư Phật thuyết,
thử chư Tu Đa La, phi thị pháp vương giáo, bỉ
bối tự ư ngôn, ngă hà năng thuyết thử?
(經)彼各言此經。非是諸佛說。此諸修多羅。非是法王教。彼輩自意言。我何能說此。
(Kinh:
Họ đều nói kinh này, chẳng do chư Phật nói.
Các Tu Đa La này, chẳng do pháp vương dạy, bọn
họ tự ư nói, ta làm sao nói được?)
“Tự
ư ngôn” là hư vọng suy lường, dựa theo ư
nghĩ của riêng ḿnh, tức là dùng tâm thức hư vọng
của chính ḿnh để suy lường pháp tắc rồi
phỉ báng.
(Kinh)
Nhược kiến Đại Điều Ngự, Thế
Tôn phóng quang minh, ngă vị bỉ quảng tuyên, bỉ diệc
năng truyền thuyết, kỳ hoặc ư thử kinh,
văn dĩ sanh hoan hỷ.
(經)若見大調御。世尊放光明。我爲彼廣宣。彼亦能傳說。其或於此經。聞已生歡喜。
(Kinh:
Nếu thấy Đại Điều Ngự, Thế Tôn phóng
quang minh, ta v́ họ rộng nói, họ cũng sẽ truyền
nói, hoặc đối với kinh này, nghe xong sanh hoan hỷ).
“Văn
dĩ sanh hoan hỷ” (nghe xong sanh hoan hỷ): Đúng là chẳng
thể nghĩ bàn! Chúng ta có thể không ngừng xét kỹ
và quan sát chỗ này: Nếu có hữu t́nh đối với
kinh giáo, cho đến đối với h́nh tượng
Tam Bảo, chẳng sanh hoan hỷ, phần nhiều là kẻ
tự kiêu mạn, tự cao tự đại, tự phụ.
Nếu là kẻ thiện căn thành thục, đối với
một kinh, một sách, thậm chí một lời nói, sẽ
đều kính vâng, thủ hộ.
(Kinh)
Tư nhân vô nghi vơng, bất ngôn phi Phật thuyết.
(經)斯人無疑網。不言非佛說。
(Kinh:
Kẻ đó chẳng nghi hoặc, chẳng bảo “Phật không nói”).
V́
sao? Đức Thế Tôn nói hết thảy các pháp. Do hết
thảy các pháp tắc thế gian và xuất thế gian,
không pháp nào đức Thế Tôn chẳng nói, cho nên Ngài là Thế
Tôn. V́ sao nói thế? Trong hết thảy các môn đà-la-ni thiện
xảo, không pháp ǵ chẳng nói, không pháp ǵ chẳng hiển
lộ. Nhưng nếu đức Phật chẳng nói loại
giáo ngôn này th́ [giáo pháp ấy] làm sao tỏ lộ được?
Làm sao biết rơ được?
(Kinh)
Như hữu giới thanh tịnh, sở kiến năng
liễu tri.
(經)如有戒清淨。所見能了知。
(Kinh:
Nếu có giới thanh tịnh, trông thấy
bèn biết rơ).
Trong
cơ chế tŕ giới, nếu mọi người chẳng
có tâm hiếu thuận, tŕ giới bằng cách nào đây? Vẫn
là dùng cái tâm khinh mạn để tŕ giới! Hành pháp mà nếu
dựa vào cái tâm khinh mạn, hành pháp để làm ǵ cơ
chứ? Vẫn là cái nghiệp danh vọng, lợi dưỡng
hư giả, vẫn sanh tử y hệt! V́ thế, trong quá
tŕnh chúng ta tu tập pháp tắc này, đối với hành
vi trong một niệm hiện tiền của chính ḿnh, nhất
định phải tư duy và quan sát rơ ràng.
(Kinh)
Kính pháp khởi trọng tâm, ngă vị thử trần thuyết,
nhược dĩ tam thiên bảo, tŕ phụng chư Như
Lai, vị cầu đại Bồ Đề, kỳ
phước bất khả thuyết. Nhược hữu
chư tỳ-kheo, thuyết Phật sở thán định.
(經)敬法起重心。我爲此陳說。若以三千寶。持奉諸如來。爲求大菩提。其福不可說。若有諸比丘。說佛所嘆定。
(Kinh:
Kính pháp, tâm trân trọng. Ta v́ kẻ đó nói: Dùng báu đầy
tam thiên, dâng hiến các Như Lai, để cầu đại
Bồ Đề, phước ấy chẳng thể nói. Nếu
có các tỳ-kheo, nói môn Định Phật khen).
“Phật
sở thán định” (môn Định được
đức Phật khen ngợi) chính là Ban Châu tam-muội, tức
Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền,
tu tŕ loại Định Ư tam-muội ấy.
(Kinh)
Văn giả sanh tín tâm, thử phước quá ư bỉ.
(經)聞者生信心。此福過於彼。
(Kinh: Nghe rồi sanh tín tâm,
phước ấy vượt hơn hẳn).
Đức
Thế Tôn tán thán phước đức ấy. Thật ra,
chẳng có phước đức nào để có thể
đạt được, chỉ v́ chúng sanh tiến nhập,
yêu thích pháp tắc Bồ Đề. Nói kiểu này thật
sự là để gia tŕ chúng ta trọn đủ tâm nguyện
hành pháp.
9. Phẩm thứ năm: Thọ Tŕ
(Kinh)
Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền
Hộ Phần, Thọ Tŕ phẩm đệ ngũ.
(經)大方等大集賢護分受持品第五。
(Kinh: Kinh Đại
Phương Đẳng Đại Tập, phần Hiền
Hộ, phẩm thứ năm: Thọ Tŕ).
Đối với bất cứ
giáo pháp nào, nếu chẳng dựa theo kinh điển để
tu tŕ, tu tập, quan sát, chúng ta sẽ không có chỗ để
nương tựa. Nhất là sau khi đức Thế Tôn
đă diệt độ, kinh điển là cội nguồn
pháp bảo duy nhất để chúng ta nương tựa.
Tuy có các vị thiện tri thức khác lập giáo, cũng
chẳng ĺa kinh điển. Nếu chẳng phải là
như thế, sẽ chẳng được đức Thế
Tôn ấn khả, chẳng do đức Thế Tôn trực
tiếp tuyên nói, sẽ có nhiều chỗ chẳng đáng
tin! V́ vậy, kinh điển là chỗ nương cậy,
bảo vệ chúng ta, là chỗ nương cậy cho chúng
ta tu tập, là chỗ nương cậy, bảo vệ
chúng ta thành tựu, thoát khỏi trầm luân. Ở đây,
chúng ta hăy xem phẩm Thọ Tŕ dùng điều ǵ để
tuyên nói, giáo hóa.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế
Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: - Hiền Hộ!
Thử chúng hữu nhân, kim tại ngă tiền, thân văn ngă
thuyết như thị tam-muội, ư ngă diệt hậu,
kỳ sở sanh xứ, hoàn phục đắc văn thị
tam-muội bảo, tuy văn bất tín, phỉ báng, hủy tử, viễn ly thiện hữu,
tùy trục ác nhân. Hiền Hộ! Phục hữu nhất
nhân, ư thiện nhân sở, văn thị tam-muội thâm
diệu kinh điển, thượng bất sanh tín, bất
dĩ vi thật, bất năng khai giải. Huống ác nhân
xứ, văn thị kinh điển, ninh năng sanh tín, nhi
phục khai giải. Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Chư
Phật Như Lai sở ngôn nan tín. Chư Phật Thế
Tôn trí huệ nan tri cố. Hiền Hộ! Nhược
đương thành tựu như thị tam-muội, nhiên hậu
năi năng ư đương lai thế, dữ chư
chúng sanh tăng trưởng Phật pháp.
(經)爾時世尊。復告賢護菩薩言。賢護。此衆有人。今在我前。親聞我說如是三昧。於我滅後。其所生處。還復得聞是三昧寶。雖聞不信。誹謗毀呰。遠離善友。隨逐惡人。賢護。復有一人。於善人所。聞是三昧。深妙經典。尚不生信。不以爲實。不能開解。況惡人處聞是經典。寧能生信而復開解。何以故。賢護。諸佛如來。所言難信。諸佛世尊。智慧難知故。賢護。若當成就如是三昧。然後乃能於當來世。與諸衆生。增長佛法。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại
bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: - Này Hiền Hộ!
Trong đại chúng đây, nay đang ở trước ta,
có kẻ đích thân nghe ta nói tam-muội như thế, sau
khi ta diệt độ, người ấy sanh ra vẫn lại
được nghe báu tam-muội như thế, [nhưng kẻ
ấy] tuy nghe mà chẳng tin, phỉ báng, hủy nhục,
chê bai, xa ĺa bạn lành, thuận theo kẻ ác. Này Hiền Hộ!
Lại có kẻ từ nơi người lành được
nghe kinh điển tam-muội sâu xa, mầu nhiệm như
thế mà c̣n chẳng sanh ḷng tin, chẳng cho là thật, chẳng
thể thông hiểu, huống hồ từ nơi kẻ ác
được nghe kinh điển này, mà lại có thể sanh
ḷng tin, lại thông hiểu ư? V́ sao vậy? Này Hiền Hộ!
Lời chư Phật Như Lai nói khó tin, trí huệ của
chư Phật Thế Tôn khó biết. Này Hiền Hộ! Nếu
có thể thành tựu tam-muội như thế, sau đó, sẽ
có thể ở trong đời tương lai cùng với
các chúng sanh tăng trưởng Phật pháp).
Ở đây, đức Thế
Tôn nói lời thọ kư. Ba ngàn năm sau khi đức Phật
diệt độ, chúng ta có thể ở nơi đây
đọc tụng, học tập kinh Ban Châu Tam Muội, thậm
chí tu tập pháp Ban Châu, quả thật là do oai đức
của đức Thế Tôn gia tŕ, do thiện căn trong
đời trước của chúng ta hiển hiện.
Đừng nên hiểu hời hợt lời thọ kư này của
đức Thế Tôn! Mà cũng đừng nên suy đoán
hư vọng chi khác, chỉ nên xét xem
thiện căn có thành thục hay không và lợi ích có hiện
tiền hay không. Điều này rất trọng yếu!
Đức Thế Tôn thọ kư như thế nhằm tạo
phương tiện tăng thượng cho chúng ta, v́ chỉ
có sức tam-muội như thế th́ mới có thể thật
sự đắc lực trong thế gian, thật sự lợi
ích rộng răi các hữu t́nh thế tục trong thế gian.
Trong thế gian này, có nhiều kẻ học Phật dù tại
gia hay xuất gia, muốn lợi ích hữu t́nh mà chẳng
đắc lực, v́ lẽ nào vậy? Do chẳng có sức
tam-muội, chẳng có sức trí huệ, chẳng có sức
từ bi!
Sức
tam-muội chính là công đức chân thật khiến cho Phật
pháp đắc lực trong thế gian. Đó gọi là “nhân
thiên chi trung, mạc quá ư định lực sở nhiếp”
(trong trời người, không ǵ hơn sự nhiếp
thọ của định lực), tức là nói do sức của
Chỉ nơi chính ḿnh mà có thể khiến cho trời,
người được an lạc. Hữu t́nh trong chín
pháp giới khắp mười phương,
ai nấy đều có chỗ để tiến nhập. [Xét
ra], nhân loại chọn lựa pháp tắc này thuận tiện
nhất, sẽ là loại sanh mạng có sự chọn lựa
rộng lớn nhất. V́ loại sanh mạng
này (nhân loại) có sức kư ức vượt hẳn lẽ
thường, nhiều loại sanh mạng
khác chẳng thể sánh bằng! Do vậy, sự chọn lựa
này đặc biệt rộng lớn. Khi phát tâm “tu tập
Bồ Đề tâm”, chọn lựa pháp tắc sẽ rất
thuận tiện. Nếu dùng định lực để
nhiếp thọ, nhân loại sẽ đạt được
đại an lạc, xa ĺa nỗi khổ phải băn
khoăn lựa chọn. Nỗi khổ ấy chính là sự
hao tổn tự ngă lớn nhất của nhân loại,
thường là có lúc quyết định, hoặc chẳng
quyết định, làm hoặc chẳng làm, hoặc
được, hoặc mất, hoặc đúng, hoặc
sai, hoặc phàm, hoặc thánh… Nói chung là băn khoăn lựa
chọn trong ấy, có người lăng phí cả đời
v́ chuyện này, nhưng chẳng có chuyện
nào thật sự quyết định được, v́ cứ
lo được, lo mất. Chư thiên cũng giống
như thế. Chư thiên phần nhiều say đắm niềm
vui ngũ dục, mê đắm ngũ dục, thỏa
thích ngũ dục, chẳng thể tự thoát ra được.
Nếu là kẻ có định lực to lớn, hay có sức
thần thông, có thể dùng thiện xảo để nhiếp
hóa chư thiên, khiến cho họ hướng về
[người ấy]. V́ sao vậy? Quang minh của định
lực vượt xa quang minh của chư thiên.
Thân tướng của chư
thiên đều sẵn có quang minh, chẳng nhờ vào ánh
sáng của mặt trời, mặt trăng, chẳng giống
như hữu t́nh thuộc nhân loại cần phải nhờ
vào ánh sáng của đèn, ánh sáng của mặt trời, mặt
trăng giúp đỡ để đi lại, làm các sự
nghiệp! Chư thiên chẳng cần. Nếu là người
có Thiền Định thiện xảo, hoặc tam-muội
thiện xảo, có thể dùng quang minh to lớn để
chiếu thấu loài hữu t́nh ấy, khiến cho họ
tiến nhập. V́ thế nói những người có Thiền
Định, đại oai quang rạng rỡ, chiếu rọi tam
thiên đại thiên thế giới, khiến cho chư thiên
cũng đến quy thuận. Do vậy, người hành tŕ Ban Châu tam-muội
có thể lợi ích thế gian, dù trời hay người,
đều có thể lợi ích. Cho nên đối với các
loài hữu t́nh thuộc các đường khác, chắc chắn
sẽ có thể thiện xảo hồi thí công đức
và lợi ích chân thật. Như Tu La đạo thích tranh
đấu, sanh tâm ghen tỵ, chẳng được an ổn,
nếu có các sức công đức tam-muội, sẽ có thể
khiến cho họ đạt được niềm vui an ổn,
xa ĺa các nỗi khổ tranh đấu và ghen tỵ. Đấy
đúng là rất khổ. Lại như đối với
các hữu t́nh trong ba ác đạo, cũng giống như
thế. Đối với điều này, chúng ta rất dễ
quan sát thấy.
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Hữu chư Bồ Tát Ma Ha
Tát, nhược tại gia, nhược xuất gia, văn
thử tam-muội, bất bố, bất kinh, bất hối,
bất thoái, bất báng, bất hủy, văn dĩ tùy hỷ,
sanh tín kính tâm, quyết định chân thật, vô phục
nghi vơng, độc tụng, thọ tŕ, tư duy nghĩa
thú.
(經)復次賢護。有諸菩薩摩訶薩。若在家。若出家。聞此三昧。不怖不驚。不悔不退。不謗不毀。聞已隨喜。生信敬心。決定真實。無復疑惘。讀誦受持。思惟義趣。
(Kinh:
Lại này Hiền Hộ! Có các Bồ Tát Ma Ha Tát dù tại
gia, hay xuất gia, nghe tam-muội này, chẳng sợ, chẳng
kinh hăi, chẳng hối hận, chẳng lui sụt, chẳng
báng, chẳng hủy, nghe rồi tùy hỷ, sanh tâm kính tín,
quyết định chân thật, chẳng c̣n ngờ vực,
đọc tụng, thọ tŕ, tư duy nghĩa lư).
Chẳng
hạn như chúng ta nay đang An Cư, có khá nhiều vị
thiện tri thức thích đọc tụng, nhưng cũng có
khá nhiều vị Bồ Tát chẳng thích đọc tụng. Đọc tụng mà c̣n chẳng muốn, làm sao có thể hành tŕ pháp tắc này? Đấy
là do thiện
căn của chúng ta c̣n bị nghi hoặc che lấp, do nghi
hoặc sẽ sanh ra nhiều ác duyên, chẳng thể sanh
tín tâm thủ hộ thiện pháp, chẳng thích pháp này, phần
nhiều dùng cái tâm buông lung để làm các sự nghiệp, cho nên đánh mất
món báu
ma-ni này. Mọi người hăy nên khéo quan sát
tự tâm, đừng lo phê phán kẻ khác. Như thế sẽ
là thuận tiện nhất!
Trước
kia, ở trong tự viện khác, tôi thường hỏi
các vị xuất gia sư phụ: “Quư vị thích niệm tụng,
hay thích niệm Phật, hay thích tu tŕ các thứ Thiền
pháp, hay thích làm các sự nghiệp?” Chín mươi phần
trăm là thích làm các sự nghiệp, nhưng sự nghiệp
tản mạn, thuận theo ḷng ham muốn, phần nhiều
tỏ lộ tập khí, cũng tức là để an lạc
trong tập khí của chính ḿnh, có thể thỏa thích ḷng ham
muốn của chính ḿnh, thỏa măn nguyện vọng của
chính ḿnh, thuận theo sự ham muốn của chính ḿnh mà
làm các việc! Do đó, họ chẳng thích các
tam-muội, chẳng thích niệm Phật, chẳng thích công
khóa của thường trụ, phần nhiều chuộng
phước đức, siêng năng làm đủ mọi
chuyện xen tạp. Đó là một hiện tượng
đặc biệt nổi bật trong hiện thời, thật
sự là chín mươi phần trăm [người tu hành]
chẳng thích tu tập pháp tắc, phần nhiều thích
buông lung tự tâm! Chỉ cần có sự nghiệp
bèn khinh thường chuyện đọc tụng hoặc
hành tŕ pháp tắc, coi trọng sự nghiệp, coi đó là
chánh yếu. Các sự nghiệp cũng đều
cần có người thực hiện, vậy th́ ai sẽ
thủ hộ chuyện tụng niệm và hành pháp? Nếu
chúng ta thật sự hộ tŕ Tam Bảo để làm các sự
nghiệp, do cái tâm chẳng buông lung, cũng sẽ
đạt được lợi ích chẳng thể
nghĩ bàn. Nhưng nếu v́ buông lung tự tâm mà làm các sự
nghiệp th́ chúng ta cần phải khéo quan sát tự tâm, tức
là tự tâm đă khởi tâm động niệm những
ǵ? Phải tự biết, tự hiểu rơ!
(Kinh)
Hiền Hộ! Như thị đẳng nhân, Thế Tôn tất
kiến, tất tri, tất thức dă.
(經)賢護。如是等人。世尊悉見悉知悉識也。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Hạng
người như thế, Thế Tôn đều biết,
đều thấy, đều rơ).
Lời
này chẳng thể nghĩ bàn! Sức gia tŕ ấy chẳng
thể nghĩ bàn! Có nhiều chúng sanh nếu là tại gia
th́ học tập kinh điển nhà Phật, nhưng xuất
gia mấy năm, do chẳng đạt được lợi
ích trong Phật pháp, vướng mắc nơi mâu thuẫn,
phần nhiều nẩy sanh kiêu mạn, chẳng thể
tăng thượng thiện căn. V́ lẽ nào vậy? Do chẳng
được chư Phật gia bị, do cự tuyệt
tăng trưởng thiện căn. Có kẻ c̣n trực
tiếp phủ nhận sự gia tŕ của Tam Bảo, tự
dùng cách
tu tŕ kiêu mạn để tăng thượng, tức là tự
cao tự đại, tự phụ. Chẳng được
Tam Bảo gia tŕ, dẫu tu tŕ bao kiếp dài lâu, vẫn giống
như tảng đá, chẳng thể tăng trưởng
thiện căn, chẳng thể nuôi lớn sanh mạng chân
thật được! Thật ra, từ sơ phát tâm tu
tŕ, cho đến lúc chúng ta thành Đẳng Chánh Giác, đều
chẳng ĺa Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo gia tŕ. Nếu rời
ĺa, người ấy làm sao có thể thành tựu cho nổi? Bất quá là tự kiêu mạn, tự
phụ là đă thành tựu đó thôi! Nơi đất Hán,
lắm kẻ tự phụ “tự tánh vốn sẵn trọn
đủ”, chẳng biết công đức chân thật
do được Tam Bảo gia tŕ tăng trưởng thiện
căn ở chỗ nào. Cho nên có lắm nỗi ngờ vực
đối với đại thiện căn và oai đức
do chư Phật Như Lai đă tu tŕ trong bao kiếp lâu xa!
Phần nhiều bị tự kiêu mạn, tà tâm, tà kiến
làm hại, dẫu nhiều năm dường như học
pháp, nhưng chẳng thể tăng trưởng thiện
căn, khiến cho kẻ khác rất tiếc hận!
(Kinh)
Hiền Hộ! Chư Phật Thế Tôn vân hà kiến
tư chư thiện nam tử, cập thiện nữ nhân,
phục vân hà tri? Hựu vân hà thức? Hiền Hộ!
Nhược hữu năng độc tụng, thọ tŕ,
tư niệm thử tam-muội môn, như thị chi nhân,
chung bất vi ác.
(經)賢護。諸佛世尊。云何見斯諸善男子及善女人。復云何知。又云何識。賢護。若能讀誦受持思念此三昧門。如是之人。終不爲惡。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Chư Phật Thế Tôn thấy các thiện
nam tử và các thiện nữ nhân ấy như thế nào?
Lại biết như thế nào? Lại hiểu
như thế nào? Này Hiền Hộ! Nếu có người
có thể đọc tụng, thọ tŕ, nghĩ nhớ môn
tam-muội này, người như thế trọn chẳng
làm ác).
Ở
đây, đức Thế Tôn trực tiếp nêu ra: Người thường đọc tụng,
tư duy kinh điển như thế, hành tŕ pháp tắc
như thế, y giáo phụng hành, sẽ trọn chẳng
làm ác.
(Kinh)
Bất phá tịnh giới, bất hoại chánh tín, bất
nhập tà tụ.
(經)不破淨戒。不壞正信。不入邪聚。
(Kinh:
Chẳng phá giới pháp thanh tịnh, chẳng hủy hoại
chánh tín, chẳng rơi vào Tà Định Tụ).
Trong
thế gian, đức Thế Tôn đă chia hữu t́nh thành
ba “loại tụ”:
1) Những ai thuộc về tam thánh đạo,
tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, được gọi
là Chánh Định Tụ.
2)
Các hữu t́nh thiện hay ác trong ba thiện đạo, c̣n
chưa chọn lựa dứt khoát, c̣n đang băn khoăn
th́ thuộc về Bất Định Tụ. Như phàm phu
hữu t́nh chúng ta, phần nhiều là Bất Định Tụ.
3) Lại
c̣n có các tà kiến hữu t́nh, ắt đọa vào ác đạo.
Cho nên hữu t́nh trong ba ác đạo là Tà Định Tụ.
Tà Định là các sự nghiệp tà ác đều đă
thành tựu, chẳng thể thoát khỏi các thứ khổ
nạn!
(Kinh)
Hiền Hộ! Thị chư thiện nam tử, thiện nữ
nhân đẳng, tất định thâm tín, thành tựu
tư duy, năng phân biệt, thành tựu tư duy. Ư thị
pháp trung, cụ túc tín tâm, thường năng độc tụng,
nhiếp tŕ thị pháp. Hiền Hộ! Đương tri thị
nhân, quyết bất cầu thiểu công đức, diệc
bất chủng thiểu thiện căn.
(經)賢護。是諸善男子善女人等。必定深信。成就思惟。能分別成就思惟。於是法中。具足信心。常能讀誦。攝持是法。賢護。當知是人。決不求少功德。亦不種少善根。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Các thiện
nam tử, thiện nữ nhân ấy nhất định là
tin sâu, thành tựu tư duy, có thể phân biệt, thành tựu
tư duy. Ở trong pháp này, trọn đủ
tín tâm, thường có thể đọc tụng, nhiếp
tŕ pháp này. Này Hiền Hộ! Hăy nên biết người ấy
chắc chắn chẳng cầu công đức ít ỏi, mà
cũng chẳng gieo thiện căn ít ỏi).
Chẳng
tham
cầu thành tựu Thanh Văn hay Duyên Giác, chẳng tham cầu
sự vui thế gian, tức chẳng phải là “ít thiện
căn”.
(Kinh)
Hiền Hộ! Thị thiện nam tử, thiện nữ
nhân, phàm sở sanh xứ, hoặc phạp tư nhu, nhiên chư thiện
căn, quảng đại bất thiểu.
(經)賢護。是善男子善女人。凡所生處或乏資需。然諸善根。廣大不少。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Các thiện
nam tử và thiện nữ nhân ấy, phàm là ở nơi
sanh ra có thể thiếu thốn các thứ cần
thiết, nhưng các thiện căn đều rộng lớn
chẳng ít).
Tuy
biểu hiện có thiếu thốn, nhưng thực chất
biểu hiện là “quảng đại bất thiểu”
(rộng lớn chẳng ít).
(Kinh)
Hiền Hộ! Thị cố, tư chư thiện nam tử,
thiện nữ nhân, dĩ ư quá khứ chư Như Lai sở,
tu hành, cúng dường, chủng chư thiện căn.
(經)賢護。是故斯諸善男子善女人。已於過去諸如來所。修行供養。種諸善根。
(Kinh: Này Hiền Hộ! V́ thế,
các thiện nam tử và thiện nữ nhân ấy trong quá khứ
đă từng tu hành, cúng dường, gieo các thiện
căn nơi các đức Như Lai).
Chúng
ta hoàn toàn có thể thành thục thiện căn trong đời
trước của chính ḿnh, hành tŕ pháp này. Nếu chôn vùi
thiện căn đời trước, bỏ phế thiện
căn đời trước, được gặp gỡ
pháp tắc như thế này mà chẳng sanh
ḷng vui thích, lại nẩy sanh nhiều nỗi
hoài nghi, báng bổ. Đối với chuyện hành tŕ pháp
Ban Châu, chúng ta phải khéo quan sát tự tâm, khéo quan sát những
kẻ hữu duyên chung quanh ḿnh, đúng như kinh điển
nhà Phật đă nói, mười phần hiểu rơ trạng
thái thiện căn, trạng thái thành tựu, và nghiệp
tướng được thủ hộ trong cơi đời.
(Kinh)
Hiền Hộ đương tri! Thử bối phi ư nhất
Như Lai sở, tu hành, cúng dường, chủng chư thiện
căn dă, diệc phi ư nhị, tam, tứ, ngũ, năi chí
thập Như Lai sở, chủng chư thiện căn dă.
Diệc phi ư bách thiên ức số chư Như Lai sở,
chủng chư thiện căn dă. Hiền Hộ!
Đương tri thử chư thiện nam tử, thiện
nữ nhân dĩ ư quá bách thiên số vô lượng vô
biên chư Như Lai sở, tu hành, cúng dường, chủng
chư thiện căn, phương đắc văn thử
Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội.
(經)賢護當知。此輩非於一如來所。修行供養。種諸善根也。亦非於二三四五乃至十如來所。種諸善根也。亦非於百千億數諸如來所。種諸善根也。賢護。當知此諸善男子善女人。已於過百千數無量無邊諸如來所。修行供養。種諸善根。方得聞此念佛現前三昧。
(Kinh: Hiền Hộ hăy nên biết:
Những người ấy chẳng phải là đă tu
hành, cúng dường, gieo các thiện căn nơi một vị
Như Lai, cũng chẳng phải là đă gieo các thiện
căn nơi hai, ba, bốn, năm, cho đến mười
vị Như Lai. Cũng chẳng phải là gieo các thiện
căn nơi trăm ngàn ức số các vị Như Lai.
Hiền Hộ hăy nên biết, các thiện nam tử, thiện
nữ nhân ấy tu hành, cúng dường, gieo các thiện
căn nơi nhiều hơn
con số trăm ngàn vô lượng, vô biên các
đức Như Lai th́ mới được nghe Niệm
Phật Hiện Tiền tam-muội này).
Sự
thọ kư này chính là sự gia tŕ chẳng thể nghĩ bàn,
là sức công đức to lớn d́u dắt và thúc đẩy.
Nếu là kẻ tín thuận, sẽ đều thành đạo
vô thượng, đạt được phương tiện
trợ duyên nơi vô thượng đạo, trở thành
phương tiện trợ duyên cho sự phát tâm trong tâm
trí. Phương tiện này do được đức Phật
thọ kư, có oai đức lớn, có sức to lớn.
Nếu chẳng tin tưởng chỗ này, sẽ đánh mất
loại công đức đại thiện xảo này!
(Kinh)
Văn dĩ sanh tín, tâm khai ư giải, tức dĩ vi thật,
vô phục nghi vơng. Kư hoạch văn dĩ, nhạo dục
thư tả, độc tụng, thọ tŕ, năi chí vị
tha quảng tuyên thị nghĩa.
(經)聞已生信。心開意解。即以爲實。無復疑惘。既獲聞已。樂欲書寫讀誦受持。乃至爲他廣宣是義。
(Kinh:
Nghe rồi sanh ḷng tin, tâm ư mở mang, thấu hiểu, coi
đó là thật, chẳng c̣n nghi ngờ. Đă được
nghe rồi bèn ưa thích, biên chép, đọc tụng, thọ
tŕ, cho đến v́ người khác rộng nói).
Nếu
cho là thật, người ấy ắt sẽ thủ hộ,
hành tŕ. Nếu chẳng coi là thật, ắt sẽ sanh khởi
ngờ vực. Do vậy, kẻ ở trong tham, sân, si, tri kiến
bất chánh, nghi căn sâu nặng, sẽ chẳng
thể chọn lựa pháp, chẳng thể thâm nhập
pháp, chẳng thể hành tŕ pháp. Hiện tiền đại
chúng hăy quán tự tâm sâu xa. Nếu chẳng phải v́ danh vọng
và lợi dưỡng, chẳng phải v́ cái tâm kiêu mạn,
chẳng phải v́ ghen tỵ, háo thắng mà hành tŕ, thủ
hộ pháp tắc như vậy, người ấy rất
chẳng thể nghĩ bàn. Cái tâm rất chẳng thể
nghĩ bàn ấy đều được chư Phật
biết, thấy. Nếu chúng ta v́ cái tâm kiêu mạn, tâm ghen
tỵ, tâm ham hố danh vọng lợi dưỡng, tâm
thích gây chuyện mà tu tŕ pháp này th́ cũng chẳng
tương ứng với Phật pháp.
Chư
vị thiện tri thức ơi! Nhất định phải
khéo quan sát tự tâm, chớ nên nhận định qua loa.
Có người nói: “Tôi cũng hành pháp này, v́ sao chẳng
được đạt được lợi ích to lớn?”
Quư vị hăy xét xem chính ḿnh có phải là cái tâm danh vọng, tâm
lợi dưỡng, tâm ghen tỵ, tâm kiêu mạn mà tu tŕ
pháp tắc này hay không? Tu pháp như thế này, đích xác là
phải nên phát tâm uốn nắn cho đúng, tín giải
đúng như thật, tu tŕ chân thật, th́ sẽ có thể
thoát ĺa tam giới, lợi ích trời người rộng
răi. Nếu chẳng như thế, sẽ hăm nhập trong
cái tâm kiêu mạn hẹp ḥi và cái tâm cầu danh lợi của
chính ḿnh. Hiện thời, tôi thường
gặp các cư sĩ nói như thế này: “Ái chà! Tôi kinh
hành Ban Châu, trở về nhà sẽ phú quư lắm, sẽ ít
có chướng ngại, sẽ có cuộc sống thế tục
càng tốt đẹp hơn”. Chuyện này giống như
trong phần trước đức Thế Tôn đă nói: Hệt như dùng một
viên báu ma-ni để đổi lấy một con trâu! Hữu
t́nh giống như vậy quá nhiều. Tuy họ tối thiểu
kết mối thiện duyên với pháp tắc này, nhưng
tới khi nào th́ mới có thể đạt được
lợi ích rốt ráo nơi vô thượng đạo?
Đó quả thật là một dấu hỏi!
(Kinh)
Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Tư chư thiện nam tử,
thiện nữ nhân, văng tích dĩ ư chư Như Lai tiền,
văn thị tam-muội, độc tụng, thọ tŕ.
Dĩ thị nghĩa cố, Như Lai diệt hậu,
ư tối mạt thế ngũ bách niên chung, pháp dục
diệt thời, pháp tương hoại thời, hoàn
đương đắc văn như thị tam-muội,
văn tức sanh tín, vô hữu kinh nghi, bất thoái, bất
một, sanh đại hoan hỷ, biến măn thân tâm.
(經)何以故。賢護。斯諸善男子善女人。往昔已於諸如來前。聞是三昧。讀誦受持。以是義故。如來滅後。於最末世五百年終。法欲滅時。法將壞時。還當得聞如是三昧。聞即生信。無有驚疑。不退不沒。生大歡喜。遍滿身心。
(Kinh: V́ sao vậy? Này Hiền Hộ!
Các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy xưa kia
đă ở trước các đức Như Lai nghe tam-muội
này, đọc tụng, thọ tŕ. Do bởi nghĩa ấy,
sau khi đức Như Lai diệt độ, vào năm
trăm năm cuối của đời Mạt Pháp, khi pháp
sắp diệt, khi pháp sắp hoại, vẫn sẽ
được nghe tam-muội như thế này, nghe rồi
liền tin, chẳng có kinh hăi, ngờ vực, chẳng thoái
chuyển, chẳng mất đi, sanh niềm vui to lớn
tràn ngập thân tâm).
Trong
rất nhiều kinh điển, đức Thế Tôn
đă nói “hỷ duyệt biến măn thân tâm” (vui sướng
tràn ngập thân tâm) như thế. Nếu ai trong một
đời, hoặc là nhiều đời, nhiều kiếp,
siêng khổ thủ hộ thiện căn, cúng dường chư
Phật Như Lai, phát Bồ Đề tâm, cho đến
nghe lời dạy về tam-muội này, lại sanh ḷng hoan hỷ
to lớn, sự vui sướng ấy đầy ngập
thân, tâm, và thế giới, người ấy sẽ rất
dễ dàng tương ứng với tam-muội. Lại có
các chúng sanh nghe các pháp tắc “tham,
sân, si, mạn, nghi, tà kiến”
mà sanh tâm hoan hỷ. Lại có những kẻ hiếu sự
trong tự viện, tạo ra các ác sự, ác duyên mà sanh ḷng
hớn hở, hoan hỷ. Đó gọi là “căn
tánh khác nhau”. Có kẻ nghe pháp bèn vui mừng, nghe dạy bảo
bèn hoan hỷ; đó là do thiện căn đă chín
muồi. Có người th́ nghe nhân duyên xấu ác bèn sanh ḷng
hoan hỷ, hoặc lúc trời người đều bi ai,
kẻ đó cũng sanh hoan hỷ. V́ sao? Ác tánh đă thành thục
rồi!
(Kinh)
Độc tụng, thọ tŕ, tư duy kỳ nghĩa, vị
tha giải thuyết, năi chí nhất nhật, nhất dạ,
hành thị tam-muội.
(經)讀誦受持。思惟其義。爲他解說。乃至一日一夜。行是三昧。
(Kinh: Đọc tụng, thọ
tŕ, tư duy ư nghĩa, v́ kẻ khác giải nói, cho đến
trong một ngày, một đêm hành tam-muội này).
Hiện
thời, v́ sao chúng tôi phải đề xướng hành
pháp Ban Châu một ngày một đêm? Đương nhiên là có
rất nhiều người phủ định chuyện
này. Chẳng hạn như trước kia, tôi đến một
số tự viện, dẫu là các tự viện khá lớn,
cũng bị phủ định. Thậm chí có rất nhiều
vị thiện tri thức có danh vọng cũng mở miệng
phủ nhận pháp này. Vậy th́ tại sao đức Thế Tôn lại nhắc đi nhắc lại
tánh chất trọng yếu của pháp này, cũng như
tánh chất trọng yếu của việc tu tập? Chính
là v́ thành thục thiện căn cho chúng ta! Nhất là trong
thời Mạt Pháp, các chúng sanh thiện căn mỏng ít,
ít có kẻ tu tập các pháp tắc tam-muội. Kẻ tu tŕ
các sức thần thông càng ít hơn nữa, đă ít lại
càng ít hơn! Như Địa Tạng Vương Bồ
Tát đă tuyên nói trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo,
trong thời Mạt Pháp, các chúng sanh chẳng hiểu sự
thiện xảo của sức thần thông, chẳng tu tập,
phần nhiều
ưa
chuộng nói năng, phần nhiều đọa trong sự
tướng, siêng khổ nơi sự tướng, chẳng
thể thâm nhập pháp tắc, chẳng đạt
được lợi ích chân thật trong Phật pháp.
(Kinh)
Hiền Hộ! Nhược phục hữu nhân, văn thử
tam-muội, vô hữu kinh bố, diệc bất thoái một,
bất sanh báng hủy, văn dĩ tùy hỷ, tức dĩ
vi thật, tư duy, phân biệt, tâm khai ư giải.
(經)賢護。若復有人聞此三昧。無有驚怖。亦不退沒。不生謗毀。聞已隨喜。即以爲實。思惟分別。心開意解。
(Kinh: Này Hiền Hộ! Nếu
lại có người nghe tam-muội mà chẳng kinh sợ,
cũng chẳng thoái thất, chẳng sanh hủy báng, nghe rồi
bèn tùy hỷ, cho là thật, tư duy, phân biệt, tâm ư thông
hiểu).
Tùy
hỷ có công đức chẳng thể nghĩ bàn! V́ thiện
căn, phước đức, nhân duyên có chín muồi và chẳng
chín muồi, có tương ứng và chẳng tương ứng.
Quư vị chẳng hành tŕ pháp tắc này, vẫn hoàn toàn
được, nhưng nhất định chớ nên chửi
bới, ngăn cấm người khác hành tŕ pháp tắc. Nếu
làm như thế (ngăn cản, chửi bới), lầm lỗi
sẽ vô lượng vô biên, v́ lỗi lầm ấy giống
hệt như đă ngăn lấp đạo Niết Bàn của
người khác, bức bách người khác tiến vào
đường ác. Do lỗi lầm sâu nặng, cho nên các vị
thiện tri thức nhất định phải khéo quan sát,
tư duy, đừng nên đánh mất lợi ích to lớn
trong Phật pháp, v́ ḷng tin hời hợt và tâm kiêu mạn mà
nghi ngờ, báng bổ Phật pháp, hủy hoại giáo pháp
thù thắng! Tội lỗi xả pháp và báng pháp rất lớn!
Chúng ta chẳng hành pháp, chớ nên trở ngại kẻ
khác, càng chớ nên gây chướng ngại, phá hoại nhân
duyên hành pháp của kẻ khác. Chư vị thiện tri thức
ơi! Chuyện này thoạt nh́n dễ dàng, thật ra, chúng
ta vẫn phải rất chú tâm cẩn thận quan sát khởi
tâm động niệm của chính ḿnh ở chỗ này. Có
thể là có người suốt đời chỉ có một
lần có nguyện vọng hành pháp duy nhất, đă tích tụ
thiện căn tư lương của chính ḿnh lâu ngày, sau
khi người ấy đă bị trở ngại, đă bị
công kích một lượt, suốt đời sẽ khó
hành! Chúng ta là người tu tập, thủ hộ Phật
pháp, có nhân duyên và phước đức thành tựu đạo
nghiệp cho người khác, thiện căn ấy chẳng
thể nghĩ bàn! Nhưng nếu hủy
diệt cơ chế thiện căn và hành pháp của
người khác, ác nghiệp ấy sao có thể miêu tả
cho được?
Các
vị thiện tri thức ơi! Chúng ta không thể chẳng
tư duy, không thể chẳng quan sát. Xuất gia cũng thế
mà tại gia cũng thế, mọi sự đều có thể
làm bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào. Thật
ra, chúng ta đời đời kiếp kiếp đều
ở trong sự nghiệp, trong các sự nghiệp ấy,
có ác sự nghiệp, có thiện sự nghiệp, mà cũng
có cái được gọi là vô lậu sự nghiệp, có
sự nghiệp lợi ích thế gian và tăng ích thế
gian, đích xác là cũng có sự nghiệp buông lung vô độ,
phóng túng theo ḷng ham muốn, có sự nghiệp tội ác và
luân hồi, cũng có sự nghiệp hủy diệt Phật
pháp, phỉ báng Tam Bảo. Rốt cuộc là chúng ta làm sự
nghiệp ǵ vậy? Hăy khéo như thật nh́n thấu tự
tâm, ḍ xét sự phát tâm trong chỗ sâu thẳm của tâm
linh. Đó là điều trọng yếu nhất!
(Kinh)
Đản năng vị tha tạm thời xưng thiện,
sở hoạch phước tụ, thượng bất khả
lượng, huống năng độc tụng, thọ
tŕ, cần tư nhi hành, vị tha quảng thuyết, chí nhất
nhật dạ.
(經)但能爲他暫時稱善。所獲福聚。尚不可量。況能讀誦受持。勤思而行。爲他廣說。至一日夜。
(Kinh:
Chỉ có thể v́ người khác tạm thời khen ngợi
điều lành, sẽ đạt được khối
phước c̣n chẳng thể lường, huống hồ
có thể đọc tụng, thọ tŕ, siêng năng suy
nghĩ để hành tŕ, v́ người khác rộng nói cho
đến một ngày đêm).
Chẳng
sanh nghi báng, người ấy có thiện căn chẳng
thể nghĩ bàn. Nếu có thể nói cho kẻ khác biết,
người ấy tất nhiên sẽ có tâm trí tán thán và tùy hỷ
công đức của chư Phật.
(Kinh)
Hiền Hộ đương tri thị thiện nam tử,
thiện nữ nhân, nhân thị sự cố, tức tiện
hoạch đắc quá ư vô lượng A-tăng-kỳ
đại công đức tụ, toại đắc trụ
ư bất thoái chuyển địa, tùy sở nguyện dục,
như ư tức thành.
(經)賢護當知。是善男子善女人。因是事故。即便獲得。過於無量阿僧祇大功德聚。遂得住於不退轉地。隨所願欲。如意即成。
(Kinh:
Hiền Hộ hăy nên biết: Thiện nam tử, thiện nữ
nhân do v́ chuyện này liền đạt được khối
công đức vượt quá con số vô lượng
A-tăng-kỳ, liền trụ trong trong địa vị
bất thoái chuyển, tùy theo ḷng mong muốn liền thành tựu
như ư).
Đây
là tán thán công đức chẳng thể nghĩ bàn của
Phật pháp, tức là hiển hiện lợi ích chẳng
thể nghĩ bàn của công đức do tùy hỷ. Trong tu
tŕ mười đại nguyện vương, có tu tŕ tùy
hỷ công đức, chẳng báng duyên của người
khác, hăy tùy hỷ đối với sự tu tŕ, người
như thế sẽ có nhiều thiện căn tăng
thượng. Như mọi người ở trong tự
viện có các thứ phát tâm, nhân duyên khác nhau, nhưng cái tâm
tùy hỷ chớ nên diệt mất, cái tâm báng pháp chớ
nên sanh khởi. Có người do một niệm tâm nhạy
bén, sẽ sanh khởi nghi hoặc, báng bổ. Cái gọi là “tâm
nhạy bén” ấy chính là tự đại, tự kiêu mạn,
tự phụ. Hễ sanh khởi cái tâm như thế, sẽ
phỉ báng pháp tắc. Đó gọi là tâm trí quá khích!
Pháp
Ban Châu quả thật dễ bị kẻ khác nghi ngờ, hủy
báng nhất! V́ nhiều hành giả chẳng thể nhanh
chóng đích thân chứng tam-muội này. Hoặc là tuy có thiện
căn tương tự, nhưng chẳng thể liên tục
thủ hộ, phần nhiều sẽ khiến cho các hữu
t́nh chẳng hành pháp bèn sanh khởi nghi hoặc. Tôi đă so
sánh, như có những nơi, mọi người khá siêng khổ,
nghiêm cẩn thủ hộ, liên tục tu tập pháp tắc
này, có người dùng cái tâm điều nhu, tâm tùy hỷ, tâm
tán thán để thủ hộ, cúng dường người
khác hành pháp. Như thế th́ những người chung quanh
cũng sanh khởi ḷng yêu thích, ngưỡng mộ, vui thích
pháp ấy, nhưng lại có hữu t́nh khác dẫu hành pháp
lại khiến cho người ta ngờ vực,
phỉ
báng, chửi bới, là v́ lẽ nào? Suy rộng ra, trong quá
tŕnh hành tŕ pháp tắc ấy, phần nhiều sanh ḷng lo ngờ,
cái tâm dao động, phần nhiều v́ tâm danh lợi thúc
đẩy mà truyền bá và thực hiện pháp tắc này.
Do vậy, khiến cho chúng sanh ngờ vực. Đối với
điều này, nhất định phải quan sát cẩn
thận.
Thích
Ca Mâu Ni Thế Tôn thọ kư: Pháp do Ngài truyền
lại, sẽ có pháp vận là một vạn hai
ngàn năm. Sau một vạn năm của
thời Mạt Pháp, giáo pháp của
Ngài liền diệt sạch, phải đợi năm
mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm sau, Di Lặc
Phật Thế Tôn giáng thế, truyền
pháp rộng lớn. Sự thọ kư này chính là nói về
người có thiện căn trong quá tŕnh [Phật pháp] dần
dần tiêu vào lúc giảm
kiếp (tuổi thọ con người dần dần giảm
đi). Trong thời Chánh Pháp, thiện căn của chúng sanh
thành thục, nghe pháp liền chứng đạo. Nay chúng ta
đă bước vào một vạn năm của thời Mạt
Pháp, cũng có nghĩa là trong năm trăm năm cuối
cùng, tức là vào lúc cuối cùng
của chánh pháp, thiện căn của hữu t́nh mỏng
ít, bại hoại, phần nhiều sanh ḷng kiêu mạn và tà
kiến. Nói “tà kiến” tức là do tự đắm
nhiễm nơi pháp, tự chấp trước pháp, tự
phụ nơi pháp mà đọa vào tà kiến. Nhưng do trong lúc cuối của chánh pháp, chánh pháp của đức Thế
Tôn vẫn nghiễm nhiên lưu truyền trong thế gian,
người thiện căn chín muồi vẫn đạt
được lợi ích rốt ráo. Chỉ v́ có nhiều hữu t́nh
thiện căn mỏng ít, khiến cho gịng pháp bị nghẽn
tắc trong hiện tiền, cho nên gọi là “Chánh Pháp mạt
quư” (cuối thời Chánh Pháp).
“Mạt” là v́ có nhiều
chúng sanh ngờ vực, báng bổ pháp tắc, sanh ḷng kiêu mạn,
chẳng tin kinh giáo, chẳng tu tập pháp, hoặc phần
nhiều là dựa hơi Phật pháp, thật sự là tâm
trí ngoại đạo. Đức Thế Tôn thọ kư Phật
pháp trong thời đại ấy, những kẻ dựa
hơi Phật pháp để kiếm sống rất
đông, rất nhiều. Lại c̣n có Ba Tuần và đệ
tử của hắn phát ra thệ nguyện tội ác, rất
nhiều ngoại đạo dựa dẫm Phật giáo.
Chúng ta cứ nh́n vào mọi chuyện trong thế gian sẽ
biết ngay. Do vậy, những người xuất gia
chúng ta phải nên cảnh giác. Nếu là đệ tử của
Phật mà chẳng có thệ nguyện thủ hộ giáo
pháp của Phật Thích Ca, duy tŕ Phật pháp, ắt sẽ là
con cái của Ba Tuần! Dùng điều ǵ để chọn
lựa? Trên thực tế, toàn là ư hướng thiện
căn trong tâm niệm của quư vị!
Thông
thường, thọ kư trong kinh điển là do đức
Thế Tôn quan sát pháp nhân duyên. Đương nhiên,
đấy chẳng phải là pháp cố định, v́ thiện
căn của hết thảy chúng sanh bất định.
Có những hữu t́nh phát ra một niệm tâm trí Bồ
Đề mạnh mẽ, có thể thoát khỏi sự mê muội
trong nhiều đời nhiều kiếp sanh tử. Như
Thích Ca Mâu Ni Phật khi tu nhân, trông thấy tướng hảo
quang minh của Phất Sa Phật Thế Tôn khi Ngài nhấc một chân, trong suốt bảy
ngày tán tụng “thiên thượng, thiên hạ vô như Phật,
thập phương thế giới diệc vô tỷ, thế
gian ngă kim giai tận kiến, nhất thiết vô hữu
như Phật giả” (trên trời, dưới đất
Phật khôn sánh, mười phương thế gian đều
chẳng bằng, con nay thấy trọn khắp thế
gian, hết thảy chẳng ai được như Phật).
Tùy hỷ, tán thán công đức của Phật chẳng hề
chán ngán. Do công đức tinh tấn như thế, vượt
thoát chín kiếp, thành Phật trước ngài Di Lặc!
Di Lặc
Thế Tôn từng bước tu tập rất ổn. [Ngài
giáng thế] nhằm lúc nhân loại thọ tám vạn bốn
ngàn năm, là lúc phước
đức tụ tập, lúc thiện căn chín muồi.
Ngài giáng sanh trong cơi đời, thành tựu A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề, thị hiện đại
oai đức. Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn có nhiều nỗi ủy
khuất, tuy đă thành Phật, có rất nhiều ủy
khuất, v́ nhân loại thọ một trăm năm. Đời
người ngắn ngủi, phước đức mỏng
ít, hết sức đáng thương xót. Mười
phương thế giới đều coi thường bọn
chúng sanh chúng ta, chỉ trong thời gian liếc mắt,
chúng ta đều đă diệt mất, chẳng có cách nào
quan tâm chúng ta được. Do vậy, nếu chúng ta chẳng
siêng ṛng nơi pháp tắc, lại dùng cái tâm kiêu mạn
để lăng phí sanh mạng của chính ḿnh, đúng là rất
đáng tiếc, v́ trải bao kiếp lâu xa, khó thể gặp
gỡ! Con người thọ trăm tuổi, có Thích Ca Thế
Tôn giáo hóa trong thế giới ác trược này, chúng ta có
phước đức, được nghe giáo ngôn như
thế, nhất là vào cuối thời
giáo pháp của Phật Thích Ca, sẽ càng khó
khăn hơn! Lời dạy rất sâu này khiến cho chúng
ta chẳng thoái chuyển, mười phần chẳng dễ!
Tuy có rất nhiều hành pháp, nhưng nếu muốn đắc
bất thoái chuyển ngay trong một đời, khó khăn
mười phần. Nói “bất thoái” chính là Vị Bất
Thoái, Hạnh Bất Thoái, và Niệm Bất Thoái. Bát Địa
Bồ Tát mới có công đức này, nhưng người
thật sự niệm Phật, thật sự thuận
tùng, hướng theo Niệm Phật tam-muội để
tu tŕ, sẽ có thể đắc bất thoái chuyển ngay
trong một đời. Trên thực tế, chính là có cùng
một ư nghĩa, nhưng sử dụng từ ngữ
khác biệt so với “tức thân thành tựu” (thành tựu
ngay trong thân này). V́ ba loại Bất Thoái chính là công
đức thành Phật, được gọi là A Bệ Bạt
Trí. So ra, đối với tín niệm, ư thích,
và nguyện vọng của người hiện thời, nếu mong
đắc Bồ Tát Chuyển ngay trong một đời,
mà chẳng hành tŕ pháp Niệm Phật, sẽ mười
phần khó thể đạt được! Có nhiều
người trong cơi đời
ngoài
việc nghi hoặc pháp tắc này, cứ lẩn quẩn
trong gịng nghiệp của chính ḿnh, mười phương
chư Phật đều thương xót loại hữu
t́nh ấy! Nếu chẳng gặp gỡ pháp tắc th́
thôi, nhưng nếu đă gặp pháp tắc mà ngăn che tự
tâm, che lấp pháp tắc, hoặc ngăn trở người
khác, lỗi lầm như thế mười phần to lớn.
Ở đây, đức Thế Tôn đă nêu bày như thế!
Đối với mỗi năm trăm
năm, đức Thế Tôn đều có thọ kư, cho đến một vạn
năm của thời Mạt Pháp, con người tu tŕ rất
khó khăn. V́ sao khó khăn? V́ bạch pháp bị ch́m đắm,
đấu tranh kiên cố, tự kiêu mạn, tự phụ.
Đấy là t́nh thế trong thời đại này,
nhưng ở đây, [đức Thế Tôn] nói tổng
quát: Có nhiều chúng sanh ngu si, tăng cường tự
ngă, cho rằng [kiêu mạn, tự phụ, ngu si] chính là tự
ngă, coi những thứ đó là chính ḿnh. Như thế
chính là đă tự xác định cuối thời Mạt
Pháp cho chính ḿnh, xác định tâm trí của chính ḿnh. Nếu
là như thế, tu pháp sẽ rất khó khăn! Đúng thế,
chúng ta đang sống trong thời Mạt Pháp, nhưng phải
nên nhận biết, vâng giữ pháp tắc này như thế
nào, hoàn toàn phụ thuộc vào sự phát tâm. Chúng ta nước
chảy bèo trôi, vật vờ qua ngày, có phải là như thế
hay không, ai nấy hăy nên xét kỹ!
“Toại
đắc trụ ư Bất Thoái Chuyển địa” (bèn được trụ trong địa vị Bất Thoái Chuyển):
Bất Thoái Chuyển ở đây thuộc về Bát Địa Bồ Tát.
Chúng ta thường nói có hai loại cầu thiện xảo
A Bệ Bạt Trí:
- Một
là tự ḿnh tu tŕ, đoạn trừ hai thứ Kiến Hoặc và Tư Hoặc nơi bản thân, chứng
đắc quả A La Hán, đạt được Bất
Thoái Chuyển. V́ cớ sao? Có cơ chế chẳng thoái
chuyển, trụ trong địa vị Ứng Cúng.
- Loại
kia là ở trong Bồ Tát đạo, tùy thuận Phật
nguyện, tùy thuận Phật lực, tu tập giáo ngôn Tịnh
Độ, an trụ trong sự che chở do Phật lực
nhiếp hóa, nương vào sự duy tŕ của Phật lực.
Do Phật lực chẳng thoái chuyển, khiến cho chúng
sanh tiến nhập Vô Thượng Bồ Đề, chẳng
bị thoái chuyển. Đó gọi là Dị Hành Đạo
của pháp môn Tịnh Độ.
Đương
nhiên cũng có hành pháp tự lực của Bồ Tát,
như kinh Nhân Quả đă tuyên nói: Bồ Tát trong ba đại
A-tăng-kỳ kiếp siêng khổ tu tŕ, hành tŕ chẳng xả,
chẳng bị mê mất, cũng có thể đạt
được ba thứ thoái chuyển giống hệt.
Đấy là kết quả của việc siêng khổ huân
tu trong ba đại A-tăng-kỳ kiếp.
(Kinh)
“Hiền Hộ! Kỳ sự tuy nhĩ, ngă kim vị nhữ,
cánh tuyên thí dụ, minh hiển thử nghĩa dă. Phục thứ
Hiền Hộ! Thí như hữu nhân, thủ thử tam thiên
đại thiên thế giới nhất thiết đại
địa, tận mạt vi trần. Phục thủ nhất
thiết thảo mộc chi diệp, bất vấn đại
tiểu, giai vi vi trần. Bỉ nhân nhĩ thời, ư bỉ
trần tụ, thủ nhất vi trần, phá hoại phân
tích, hoàn linh đắc tác nhĩ hứa vi trần. Nhiên hậu,
phục thủ bỉ nhất thiết trần, thứ
đệ phân tích, giai linh đẳng bỉ sơ vi trần
số. Hiền Hộ! Ư ư vân hà? Thị vi trần số,
khả vị đa phủ?” Hiền Hộ đáp viết:
“Thậm đa Thế Tôn!” Phật ngôn: “Hiền Hộ!
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân,
thủ tiền nhĩ hứa vi trần số Phật sát,
thịnh măn chúng bảo, tŕ dụng bố thí. Hiền Hộ!
Ư ư vân hà? Bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân sở
hoạch phước tụ, phục vi đa phủ?” Hiền
Hộ báo viết: “Thậm đa Thế Tôn! Nhiên bỉ thiện
nam tử, thiện nữ nhân, nhân thị sự cố, hoạch
đắc quá bỉ vô lượng vô biên A-tăng-kỳ
phước tụ”. Phật phục cáo ngôn: “Hiền Hộ!
Ngô cánh ngữ nhữ! Như bỉ thiện nam tử, thiện
nữ nhân, dĩ nhĩ hứa trần số Phật sát thịnh
măn thất bảo, tŕ dụng bố thí, hoạch như
tư phước. Phục hữu thiện nam tử, thiện
nữ nhân, văn thử Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội,
tạm sanh tùy hỷ, tín tâm, phân biệt, dĩ vi chân thật,
tâm khai ư giải, độc tụng, thọ tŕ, năi chí tạm
thời vị tha giải thuyết, thị thiện nam tử,
thiện nữ nhân sở hoạch phước tụ, thắng
tiền thí phước vô lượng, vô biên, phi khả xưng toán, phi khả giảo kế,
phi khả tư lượng. Hiền Hộ! Như thị
thiện nam tử, thiện nữ nhân văn thử tam-muội,
sanh tùy hỷ tâm, năi chí tạm thời, vị tha giải
thuyết, thượng hoạch vô lượng, vô biên phước tụ. Hà huống
thị thiện nam tử, thiện nữ nhân, ư thử
tam-muội Tu Đa La trung, như văn nhi tín, như tín nhi
thọ, như thọ nhi thuyết, như thuyết nhi hành
dă.
(經)賢護。其事雖爾。我今爲汝更宣譬喻。明顯此義也。復次賢護。譬如有人。取此三千大千世界一切大地。盡末爲塵。復取一切草木枝葉。不問大小皆爲微塵。彼人爾時。於彼塵聚。取一微塵。破壞分析。還令得作爾許微塵。然後復取彼一切塵。次第分析。皆令等彼初微塵數。賢護。於意云何。是微塵數。可謂多不。賢護答曰。甚多世尊。佛言賢護。若有善男子善女人。取前爾許微塵數佛剎。盛滿衆寶。持用佈施。賢護。於意云何。彼善男子善女人。所獲福聚。復爲多不。賢護報曰。甚多世尊。然彼善男子善女人。因是事故。獲得過彼無量無邊阿僧祇福聚。佛復告言。賢護。吾更語汝。如彼善男子善女人。以爾許塵數佛剎。盛滿七寶。持用佈施。獲如斯福。復有善男子善女人。聞此唸佛現前三昧。暫生隨喜。信心分別。以爲真實。心開意解。讀誦受持。乃至暫時爲他解說。是善男子善女人。所獲福聚。勝前施福。無量無邊。非可稱算。非可校計。非可思量。賢護。如是善男子善女人。聞此三昧。生隨喜心。乃至暫時爲他解說。尚獲無量無邊福聚。何況是善男子善女人。於此三昧修多羅中。如聞而信。如信而受。如受而說。如說而行也。
(Kinh: “Này Hiền Hộ! Chuyện
ấy tuy là như thế, nay ta sẽ v́ ông lại nói thí dụ
để làm sáng tỏ nghĩa ấy. Lại này Hiền Hộ!
Ví như có người đem hết thảy đại
địa trong tam thiên đại thiên thế giới này
đều nghiền nát thành bụi. Lại lấy hết
thảy cành lá của cỏ cây, bất luận lớn hay
nhỏ, đều nghiền thành vi trần. Khi đó,
người ấy, lại đối với lượng
bụi đó, lấy mỗi hạt vi trần, chia chẻ,
phá vỡ, lại khiến cho nó tách thành chừng đó hạt
vi trần. Sau đó, lại lấy hết thảy các hạt
bụi đó, theo thứ tự
chia chẻ, đều khiến cho chúng nó bằng với số
lượng các hạt vi trần thuở đầu. Này Hiền
Hộ! Ư ông nghĩ sao? Số vi trần ấy thể nói là
nhiều hay chăng?” Hiền Hộ thưa rằng: “Bạch
Thế Tôn, rất nhiều!” Đức Phật nói: “Này Hiền
Hộ! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân lấy
các cơi Phật bằng với số lượng vi trần
trên đây, chứa đầy các thứ báu, dùng để
bố thí. Này Hiền Hộ! Ư ông nghĩ sao? Thiện nam tử,
thiện nữ nhân ấy đạt được khối
phước, há có nhiều chăng?” Hiền Hộ thưa
rằng: “Bạch đức Thế Tôn, rất nhiều!
Nhưng thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy do v́
chuyện này, đạt được khối phước
vượt quá con số vô lượng vô biên A-tăng-kỳ”.
Đức Phật lại bảo rằng: “Này Hiền Hộ!
Ta lại nói với ông. Như thiện nam tử, thiện
nữ nhân ấy dùng các cơi Phật nhiều như số vi
trần để chứa đầy bảy báu đem bố
thí, đạt được phước như thế. Lại
có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe tam-muội Niệm
Phật Hiện Tiền này, tạm sanh ḷng tùy hỷ, tín
tâm, phân biệt, cho là chân thật, tâm ư thông hiểu, đọc
tụng, thọ tŕ, cho đến tạm thời v́ người
khác giải nói. Thiện nam tử,
thiện nữ nhân ấy đạt được khối
phước nhiều hơn phước bố thí của
người trước vô lượng,
vô biên, chẳng thể tính kể, chẳng thể so sánh, chẳng
thể suy lường. Này Hiền Hộ! Thiện nam tử,
thiện nữ nhân như thế, nghe tam-muội này, sanh tâm
tùy hỷ, cho đến tạm thời v́ người khác
giải nói, c̣n đạt được vô lượng vô
biên khối phước. Huống hồ thiện nam tử,
thiện nữ nhân ấy đối với Khế Kinh tam-muội này, có thể đúng
như điều đă được nghe mà sanh ḷng tin,
đúng như ḷng tin mà thọ tŕ, đúng như sự thọ
tŕ mà giải nói, đúng như đă giải nói mà hành vậy).
Đức Phật
là đấng nói lời chân thật, đấng
nói lời như thật, đấng chẳng nói lời
khác lạ. Có nhiều hữu t́nh do thiện căn mỏng
ít, đối với lời dạy của đức Thế
Tôn chẳng sanh ḷng vui thích, cứ ngỡ sự suy lường
do vọng tưởng của chính ḿnh là chân thật. Do
đó, chẳng đạt được thiện căn,
chẳng đạt được phước đức,
chẳng thể thành thục tự thân, V́ sao? Do chẳng
tùy thuận lời dạy của đức Phật, do chẳng
thuận sự hướng
dẫn của Phật, do chẳng tùy thuận lời
Phật nói. Đúng
là đă đến núi báu mà trở về tay không, chẳng
lấy được ǵ! Kinh điển Đại Thừa
lưu truyền rộng khắp, quả thật là kho báu của
Như Lai, mà cũng là kho báu trong tâm trí, tức là Như Lai Tạng Tánh
trong tâm trí của hết thảy chúng sanh được hiển
lộ. Nếu mở bản kinh này ra, hoan hỷ, hớn hở,
thủ hộ, tu tập, th́ chính là đă mở toang và thành thục
Như Lai Tạng
Tánh
của chính ḿnh. Nếu đối với chỗ này mà quư vị
nghi hối, khinh mạn, chẳng coi là đúng, thiện
căn sẽ lập tức bị tán hoại.
Có
thể thành thục thiện căn ở
chỗ nào? Các vị thiện tri thức hăy nên quan sát, hăy
khéo tư duy. Nơi đất Hán, có một hiện tượng
đặc biệt bất b́nh thường là coi
thường kinh điển, coi thường lời dạy
của đức Thế Tôn. Đối với
ngôn giáo của đức Thế Tôn, phần
nhiều chẳng sanh chánh tín, không thể yêu thích, thủ hộ,
khinh rẻ, coi thường kinh điển chẳng phải
là trân bảo. Kết quả là đối với giáo pháp trân bảo do đức Như Lai đă nói,
dẫu nghe mà cũng như không nghe, dẫu xem mà cũng
như chẳng xem! Đúng là chẳng biết do nhân duyên
nào? Nếu nói thiện căn chẳng thành thục, cớ
sao lại được gặp gỡ? Hy vọng các vị
thiện tri thức hăy khích lệ chính ḿnh thành thục thiện
căn, cổ vũ chính ḿnh buông xuống tri kiến, cổ
vũ chính ḿnh yêu thích Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo. Nếu
yêu thích Tam Bảo, quư vị nhất định sẽ sanh
khởi ư tưởng coi kinh điển là trân bảo, là
khó gặp, sanh ư tưởng nghe xong sẽ siêng năng tu tập.
Quả
thật là phải nên chủ động phát khởi vậy!
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh tư nghĩa,
dĩ kệ tụng viết: - Nhược dĩ tam thiên
đại thiên giới, thịnh măn thất bảo dụng
hành Đàn, ngă thuyết bỉ phước tuy vi đa, bất
như văn kinh thiểu công đức.
(經)爾時世尊。爲重明斯義。以偈頌曰。若以三千大千界。盛滿七寶用行檀。我說彼福雖爲多。不如聞經少功德。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn v́ muốn nhắc
lại nghĩa này, bèn dùng kệ tụng nói: - Nếu dùng tam
thiên đại thiên cơi, đựng đầy bảy báu
để bố thí, ta nói phước ấy tuy khá nhiều,
chẳng bằng nghe kinh chút công đức).
“Đàn”
là Đàn Ba La Mật (Dāna-pāramitā), có nghĩa là bố thí. Dùng bảy
báu đầy ắp các tam thiên đại thiên thế giới
số lượng nhiều vi trần để cúng dường,
chẳng bằng công đức của người nghe kinh
này. Đức Phật nói lời thành thật như thế.
Nếu thiện căn của chúng ta chẳng thành thục,
chẳng thể sanh ḷng tin, có nhiều nỗi ngờ vực,
đến nỗi dẫu nghe mà cũng như chẳng nghe.
Có người nghe pháp đúng là rởn cả lông tóc, v́ lẽ
nào? Thiện căn chín muồi, vui mừng v́ được
thấy, cũng sanh khởi ư niệm coi trọng. V́ sao
chúng ta nghe pháp mà chẳng thể sanh ḷng hoan hỷ? Phần
nhiều là v́ cái tâm thế tục huân nhiễm, do tri kiến
của chính ḿnh che lấp tự tâm, cự tuyệt sự
tưới nhuần của chánh pháp, cho nên cái tâm phước
đức khô cằn của chúng ta chẳng được
thấm nhuần!
(Kinh)
Bồ Tát vị cầu đa phước tụ, tín giải,
độc tụng, phục tư duy.
(經)菩薩爲求多福聚。信解讀誦復思惟。
(Kinh: Bồ Tát v́ cầu nhiều
khối phước, tín giải, đọc tụng, lại
tư duy).
Tức
là được nghe pháp tắc như vậy, hăy nên “độc
tụng, phục tư duy” (đọc tụng, lại
tư duy), đấy là khích lệ và gia tŕ, hướng dẫn
chúng ta tiến nhập đại thiện căn, phước
đức, nhân duyên. Trên thực tế, đức Thế
Tôn đúng là dùng hết thảy các pháp, dùng hết thảy
các thiện xảo, dùng hết thảy lời chân thật
để hướng dẫn chúng ta trừ khử tự
ngă.
(Kinh)
Giải thuyết, tu hành Niệm tam-muội, tư sở hoạch
phước quá ư bỉ. Mạt tam thiên giới tận
vi trần, phục phân nhất trần đẳng tiền
số. Tận thủ như thị chư trần sát, thịnh
măn trân bảo dĩ hành Đàn. Chư Phật sở tán
tam-muội kinh, đơn dĩ nhất kệ vị tha
thuyết, ngă ngôn tư nhân hoạch công đức, siêu bỉ
đàn phước bất khả lượng. Nhược
phục vị tha cụ túc thuyết, hạ chí nhất cấu
ngưu nhũ gian, tư duy tăng quảng chư thiện
căn, hà huống trường viễn vô lượng
phước. Nhất thiết chúng sanh tận tác Phật, tịnh
huệ chung cánh chứng bỉ như.
(經)解說修行念三昧。斯所獲福過於彼。末三千界盡爲塵。復分一塵等前數。盡取如是諸塵剎。盛滿珍寶以行檀。諸佛所贊三昧經。單以一偈爲他說。我言斯人獲功德。超彼檀福不可量。若復爲他具足說。下至一𤚲牛乳間。思惟增廣諸善根。何況長遠無量福。一切衆生盡作佛。淨慧終竟證彼如。
(Kinh: Giải nói, tu hành Niệm
tam-muội, đạt được phước đức
hơn số đó. Nghiền hết tam thiên thành vi trần,
lại chia mỗi trần bằng số trước. Lấy
hết các cơi bằng số trần,
chứa đầy trân bảo để bố thí. Với
kinh tam-muội chư Phật khen, chỉ dùng một kệ
bảo người khác, ta nói người ấy được
công đức, hơn phước bố thí chẳng thể
lường. Nếu lại nói trọn với người
khác, thậm chí trong khoảng vắt sữa ḅ, tư duy các
thiện căn rộng lớn, hà huống vô lượng
phước dài lâu, hết thảy chúng sanh trọn thành Phật,
tịnh huệ chứng trọn hệt như vậy).
“Nhất
thiết chúng sanh tận tác Phật, tịnh huệ chung
cánh chứng bỉ như” (Hết thảy chúng sanh đều
trọn thành Phật, rốt cuộc chứng đắc trí huệ thanh tịnh giống như thế):
Pháp tắc như thế chính là Thập Phương Chư
Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập tam-muội. Hết
thảy chúng sanh nếu có thể tương ứng với
nhân duyên này, th́ sẽ “nhất thiết chúng sanh tận
tác Phật” (hết thảy đều thành Phật hết).
V́ sao có phước đức nhân duyên to lớn như thế?
Đó chính là nội hàm vốn có của giáo nghĩa rộng
lớn chẳng thể nghĩ bàn trong pháp này.
(Kinh)
Giả ư ức số đa kiếp trung, thuyết
tư kệ phước bất khả tận.
(經)假於億數多劫中。說斯偈福不可盡。
(Kinh: Giả sử trong nhiều
ức số kiếp, phước nói kệ này chẳng thể
tận).
Như
Thích Ca Thế Tôn trong khi tu nhân đă nói bài kệ “thiên thượng,
thiên hạ vô như Phật”, bèn thành Phật trước
ngài Di Lặc chín kiếp. Đó là tấm gương về
sự phát tâm dũng mănh thành tựu Bồ Đề. Nay
đang trong thời Mạt Pháp, người phát tâm dũng
mănh rất thưa thớt. Khi tôi mới xuất gia, đă
gặp rất nhiều vị xuất gia ngày đêm chẳng
ngơi nghỉ. Mọi người
cảm thấy chuyện tiến nhập Phật pháp là chuyện
rất tự nhiên, là chuyện thuộc bổn phận của
chính ḿnh. Là
người xuất gia bèn chuyên môn tu đạo, chứng
tam-muội, chứng Bồ Đề, chứng sức thần
thông, chứng thiện xảo. Đấy là sự nghiệp
chuyên biệt, là chuyện rất tự nhiên. Dần dần
về sau, tôi thấy rất nhiều vị xuất gia
sư phụ dường như coi chuyện hành pháp là chuyện
để cho kẻ khác làm, học Phật là để cho
kẻ khác học. Trong mấy năm ngắn
ngủi, sai biệt rất lớn! Sự tu tŕ của
thế hệ sau so với thế hệ trước, sai
khác rất lớn. V́ thế, người trong quá khứ
điều phục, nhu thuận. Trước kia, trong tự
viện,
tôi gặp một số vị lăo Bồ Tát, họ đều
suốt đêm lạy Phật, thế mà sáng ra, bất luận
tụng niệm công khóa cũng thế, chấp tác cũng
thế, phục vụ trong tự viện cũng thế, tất
cả đều theo đại chúng, cũng là ăn một
bữa y hệt, họ rất tự nhiên siêng gắng canh
tác, rất hoan hỷ, mà cũng rất b́nh đạm
thủ hộ chuyện ấy, coi đó là bổn phận.
Chúng ta trong hiện thời th́ sao? Hễ tu pháp một chút,
tâm kiêu mạn sanh khởi. Hơi dụng công đôi chút, bèn
sanh ḷng tự đại. Do vậy, chẳng thể thâm nhập
pháp, sẽ gặp phải trở ngại rất mau chóng!
Chẳng
biết v́ sao thời đại này biến hóa dữ dội
như thế? Sự phát tâm yêu mến đối với
pháp tắc biến hóa dữ dội, quả thật khiến
cho người ta chẳng thể tiếp nhận! Kẻ
dũng mănh đối với pháp càng ngày càng hiếm, kẻ
tự đại, tự kiêu thân phận mười phần
mạnh mẽ. Cũng
có nghĩa là [người xuất gia chẳng lo tu
tŕ đạo nghiệp, mà] mong biến đổi
thân phận của chính ḿnh. Cái tâm mong trở
thành thứ chi đó mười phần mạnh mẽ!
Trước kia, người hành sa-di suốt mười
năm, tám năm rất nhiều. Họ đích xác
là rất dụng công nơi pháp, mười phần quan tâm
đạo nghiệp của chính ḿnh [tiến triển]
như thế nào, chẳng đặt chuyện biến
đổi thân phận của bản thân làm điều mong
mỏi của chính ḿnh. Đó là các thứ do sư trưởng
và đạo hữu đốc thúc. Thời đại này
th́ sao? Mười phần bận tâm đến thân phận
của chính ḿnh, chẳng thèm đoái hoài đạo nghiệp
của chính ḿnh! Đó là chỗ khiến cho mọi người
rúng động nhất! Thân phận dẫu biến đổi
thế nào đi nữa, nhưng nếu chẳng có thực
chất, lại có ư nghĩa ǵ chăng? Vờ vịt đặt
ra mà thôi! Giống như bong bóng kinh tế vậy, dù có thổi
phồng to lớn cách mấy, vẫn cần phải thực
tiễn!
Vẫn
mong mọi người thật sự tu tập pháp tắc,
đích thân chứng nhập, nhất định phải nỗ
lực, siêng gắng nỗ lực! Các phương diện
khác có thể thong dong, chẳng cần phải dụng sức
quá mức. Nhất là đối với chuyện thay
đổi thân phận, tôi khuyên các vị chớ nên dốc
sức nơi đó. Dốc sức vào đó th́ giống hệt
như người trong xă hội: Ông Giáp tậu một
căn biệt thự, ông Ất sắm một chiếc xe.
Người sau bắt đầu so kè với người
trước, dẫu ta phải vay nợ, cũng phải sắm
xe, cũng phải mua nhà, so b́ với kẻ khác mà! Trong t́nh
huống thiện căn chẳng chín muồi, quư vị mong
có thân phận [cao quư hơn], sẽ là vay
mượn, phải cơng gánh nặng to lớn, v́ thiện
căn của quư vị chẳng thể như thật, chẳng
thể thành thục! Rất nhiều người bị
nghiền ép ở ngay chỗ này, bị đả kích nặng
nề, dăm ba năm vẫn chẳng thể khôi phục.
V́ sao tôi nêu ra chuyện này? Tôi cảm thấy mọi người
học Phật cần phải tự biết đúng lẽ
thật, đừng nên thùng rỗng kêu to! Kêu to cho lắm, vẫn
phải trở về cày cấy từ đầu, tu tập
lại từ đầu, vẫn phải quay trở lại. V́
lẽ nào? Quư vị cứ vùn vụt xông lên trước,
đằng sau là một mảnh hoang vu, chẳng có ǵ thật
sự tồn tại cả!
Mọi
người nhất định phải chú ư chỗ này,
phước báo tuyên nói một bài kệ của đức
Thế Tôn chẳng thể cùng tận. Ở đây, đức
Phật Thích Ca đă đích xác tu tập, nếu chúng ta chẳng
suy nghĩ sâu xa về sự phát tâm của chính ḿnh, đắm
nhiễm nơi nghiệp tướng, sẽ phải đi
rất nhiều đường ṿng!
(Kinh)
Kỳ gian bỉ Phật giai diệt dĩ, đa ức số
kiếp thường quảng tuyên. Chung diệc bất tận
bỉ phước biên, duyên thử thâm kinh tứ cú kệ.
Nhất thiết sở hữu chư thế giới, tứ
phương, thượng, hạ, cập tứ
duy, măn trung chúng bảo tŕ dữ tha, vị cầu thắng
phước phụng chư Phật. Bỉ chư công đức
nan khả lượng, xưng kế dữ chư thế
giới đẳng. Kỳ hữu văn thọ thị
tam-muội, thiện năng tuyên thuyết phước quá
tiền. Nhược nhân ư thử vô tŕ nghi, kỳ ư
chư pháp diệc minh liễu, bỉ tắc vĩnh tuyệt
chư ác thú, năng nhập thắng tịch tam-muội Thiền.
(經)其間彼佛皆滅已。多億數劫常廣宣。終亦不盡彼福邊。緣此深經四句偈。一切所有諸世界。四方上下及四維。滿中衆寶持與他。爲求勝福奉諸佛。彼諸功德難可量。稱計與諸世界等。其有聞受是三昧。善能宣說福過前。若人於此無遲疑。其於諸法亦明了。彼則永絕諸惡趣。能入勝寂三昧禪。
(Kinh: Phật trong thuở ấy
đều diệt hết, nhiều ức số kiếp
thường rộng nói, vẫn trọn chẳng hết phước báo ấy. Nhờ bốn
câu kệ kinh sâu này, hết thảy tất cả các thế
giới, bốn phương, trên, dưới, và bốn
góc, chứa đầy các báu thí người khác, v́ cầu
thắng phước, dâng chư Phật. Các công đức
ấy chẳng thể lường, tính kể sánh bằng
các thế giới. Có ai nghe nhận tam-muội này, khéo hay
tuyên nói, phước hơn trước. Ai với pháp này chẳng
do dự, cũng lại hiểu rơ các pháp khác. Vĩnh viễn
dứt mất các đường ác, hay nhập Thiền
Định thắng tịch
diệt).
Trong
bộ kinh này, đức Thế Tôn đă một mực bảo
chúng ta pháp tắc này là giáo ngôn để đắc bất
thoái ngay trong một đời, là đà-la-ni giáo. Cho
nên có thể hiểu rơ các pháp, tổng tŕ hết thảy
các thiện xảo. V́ thế, có thể vĩnh viễn chấm
dứt hết thảy các đường ác, có thể nhập
vào tam-muội Thiền thù thắng tịch tĩnh.
(Kinh)
Bỉ nhược thường năng cúng dường
ngă, tất thọ đa phước bất tư nghị,
tăng trưởng đa văn chứng Bồ Đề,
do tư chư Phật sở tán Định. Kim ngă ngữ
nhữ thành thật ngôn, đương niệm tinh tấn,
mạc phóng dật.
(經)彼若常能供養我。必受多福不思議。增長多聞證菩提。由思諸佛所贊定。今我語汝誠實言。當念精進莫放逸。
(Kinh:
Nếu ai thường hay cúng dường ta, ắt
được phước nhiều chẳng nghĩ bàn,
tăng trưởng đa văn, chứng Bồ Đề,
do nghĩ định được chư Phật khen. Nay
ta nói lời thật với ông, hăy nghĩ tinh tấn, đừng
phóng dật).
Đối
với sự buông lung trong thế gian hiện thời, mọi
người chúng ta đều có thể như thật suy
tưởng, xem xét. Người trong thời đại này
giỏi buông lung, kẻ có tâm trí tinh tấn hiếm hoi.
Thường là chỉ cần có cơ hội, sẽ
nghĩ lắm cách để buông lung!
(Kinh)
Nhất tâm hoan hân phát dũng mănh, tự nhiên tốc chứng
bỉ Bồ Đề. Bỉ vị cúng dường bách số
Phật, năi năng thọ thị tam-ma-đề.
(經)一心歡欣發勇猛。自然速證彼菩提。彼爲供養百數佛。乃能受是三摩提。
(Kinh: Một ḷng vui sướng,
khởi dũng mănh, tự nhiên mau chứng đắc Bồ
Đề. Người đă cúng dường trăm vị
Phật, mới được thọ dụng
chánh định này).
Đức
Thế Tôn c̣n thọ kư cho chúng ta. Nếu chứng đắc
tam-muội nơi pháp tắc này, sẽ gọi là “Tam-ma-ba-đề
thọ tŕ giả” (người thọ tŕ Đẳng
Chí). An trụ trong công đức của tam-muội, đó
là Tam-ma-đề.
Tam-ma-ba-đề (Samāpatti,
Đẳng Chí) tức là thành tựu an trụ chân thật,
vô công dụng thiện xảo thành tựu, trọn đủ
hết thảy các tam-muội, chẳng cần phải dụng
công. Ở đây là nói đến sự tiến nhập.
(Kinh)
Giả ư hậu thế khủng bố thời, tự
đương tốc chứng vi diệu định.
Nhược hữu kiến ngă dữ tỳ-kheo, cập nhữ
Đại Sĩ Hiền Hộ đẳng, như thị
Bồ Tát nhạo đa văn, quyết định
đương đắc thử tam-muội. Nhược
đắc văn thử thánh tam-muội, vị tha giải
thích hoặc thư tả.
(經)假於後世恐怖時。自當速證微妙定。若有見我與比丘。及汝大士賢護等。如是菩薩樂多聞。決定當得此三昧。若得聞此聖三昧。爲他解釋或書寫。
(Kinh:
Giả sử đời sau khi sợ hăi, sẽ tự mau chứng Định vi diệu. Nếu ai thấy
ta và tỳ-kheo, cùng các Đại Sĩ như Hiền Hộ…
Bồ Tát như thế chuộng đa văn, quyết
định sẽ đắc tam-muội này. Nếu
được nghe thánh tam-muội này, giảng cho người
khác và biên chép).
Đối
với sức mạnh của môn tam-muội này, đức
Thế Tôn dùng những lời ca ngợi như báu tam-muội,
thánh tam-muội v.v… Chẳng phải là nói hư dối,
mà cũng chẳng phải là nói quá lố. Thật sự là
lời tán thán tương ứng và đúng sự thật.
(Kinh)
Thị đà-la-ni Thế Tôn thán, năng chứng nhất
thiết Phật Bồ Đề.
(經)是陀羅尼世尊嘆。能證一切佛菩提。
(Kinh: Thế Tôn khen đà-la-ni
này, có thể chứng trọn Phật Bồ Đề).
Tu
tŕ pháp Ban Châu, tức Thập Phương Chư
Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, trọn
đủ hết thảy các pháp, trọn đủ hết
thảy oai đức. V́ sao vậy? Thấy hết thảy
chư Phật, sẽ trọn đủ hết thảy
các thiện căn, trọn đủ hết thảy các
pháp, v́ hết thảy chư Phật trọn đủ hết
thảy các pháp, được hết thảy chư Phật
tổng tŕ, được hết thảy chư Phật
truyền đạt. Do thấy hết thảy chư Phật,
có thể thành tựu hết thảy các pháp, cho nên nói là “nhập
đà-la-ni môn”. Đấy là lời chân thật, lời
thành thật, chẳng phải là lập bày hư giả. Có
nhiều kẻ băn khoăn nơi pháp, gặp pháp này phải
nên sanh ḷng tin, phải nên thủ hộ, phải nên tu tập.
“Năng
chứng nhất thiết Phật Bồ Đề” (Có
thể chứng Bồ Đề của hết thảy
chư Phật): Do là Thập Phương Chư Phật Tất
Giai Hiện Tiền tam-muội, là pháp tắc có đại
oai đức như thế, trong đời này chúng ta
được nghe, phước đức đă là chẳng
thể nghĩ bàn, được chư Phật tán thán. Nếu
được nghe mà có thể tin tưởng, tiếp nhận,
phước đức sẽ chẳng thể nghĩ bàn! Nếu
chúng ta có thể tu tập thành tựu, đó là công đức
như thế nào? Mỗi hữu t́nh chúng ta hăy nên quán kỹ
càng như thật, đừng nên khinh dễ bỏ qua! V́
được nghe pháp như thế này rất khó, nay mọi
người đă có thể thấy nghe, đích xác là thiện
căn chín muồi. Nếu Pháp Bảo hiện tiền, quư vị
chẳng thể thuận tùng, nhất định là quư vị
đă noi theo vọng tưởng của chính ḿnh!
Người
trong quá khứ vốn rất khó để đạt
được một pháp. Chúng ta đều biết: Đức
Thế Tôn v́ nửa câu kệ mà xả thân. Nếu coi đó
như tṛ cười, chúng ta sẽ trọn chẳng sanh khởi
mảy may tôn trọng đối với pháp, coi pháp bảo
khác nào cặn bă! Chúng ta đều biết: Có một vị Tam Tạng
pháp sư tới núi Thiên Thai, bảo Trí Giả đại
sư: “Thầy viết bộ Ma Ha Chỉ Quán rất
tương ứng với kinh Lăng Nghiêm”. Trí Giả
đại sư thưa: “Thật sự có kinh điển
như thế ư?” Tam Tạng pháp sư nói: “Có chứ! Tên
bộ kinh ấy là Đại Phật Đảnh Thủ
Lăng Nghiêm Kinh”. V́ thế, Trí Giả đại sư liền
lập bái kinh đài, hướng về phương Tây, lễ
bái suốt mười tám năm, mong thấy kinh ấy,
nhưng chẳng được thấy! Nay chúng ta nhà nào mà
chẳng có kinh Lăng Nghiêm? Nhưng lại có mấy ai trân
quư, yêu mến hay chăng? Kinh điển mà chúng ta
được đọc trong hiện thời là các kinh
điển do những bậc tiên hiền
trong quá khứ đă v́ học pháp mà vượt ngàn núi vạn
sông sang phương Tây thỉnh về. Trăm người
đi, chỉ một hai vị trở lại! Chúng ta có thật
sự tôn trọng pháp hay không? Các vị thiện tri thức
ơi! Quư vị có thật sự coi trọng nhân duyên của
chính ḿnh hay chăng? “Trọng” là tự trọng, “tôn”
là tự tôn. “Khinh” là tự khinh, “mạn” là tự
lừa gạt ḿnh. Vẫn mong chúng ta hăy tự lay tỉnh sự
giác ngộ từ chỗ thẳm sâu trong tâm linh của chính
ḿnh, lay tỉnh sự yêu mến pháp của chính ḿnh. Đừng
nên qua quưt, lăng phí sanh mạng của chính ḿnh, ngày này qua ngày
khác đọa lạc, buông lung! Người trong thời Mạt
Pháp gặp pháp khó lắm! Ai sẽ nâng đỡ quư vị?
Ai sẽ thành tựu quư vị?
(Kinh)
Nhược nhân thiện tư thử tam-muội, nhất
thiết chư Phật hàm cộng xưng, đương
đắc chủng tánh cập đa văn, chư Phật
thứ đệ nhi diễn thuyết.
(經)若人善思此三昧。一切諸佛鹹共稱。當得種姓及多聞。諸佛次第而演說。
(Kinh: Nếu ai khéo nghĩ tam-muội
này, hết thảy chư Phật cùng ca ngợi, sẽ
được chủng tánh và đa văn, chư Phật
lần lượt đều diễn nói).
“Đắc
chủng tánh” là dự vào chủng tánh Như Lai, trụ
nơi địa vị Bất Thoái Chuyển
trong Phật pháp, bất luận là Vị Bất Thoái Chuyển,
Hạnh Bất Thoái Chuyển, hay Niệm Bất Thoái Chuyển,
ba loại Bất Thoái ấy chỉ có A Bệ Bạt Trí thủ
hộ, chỉ có người niệm Phật thành tựu.
Phẩm
này tuyên giảng về sự thọ tŕ, chỉ do tư duy
và chánh tín mà có thể thọ tŕ. Nếu chúng ta quư trọng
Pháp Bảo, sẽ nhất định có thể như thật
thọ tŕ. Nếu chẳng trân trọng pháp này, sẽ giống
như đạp đất vượt qua, pháp này chẳng
thể chuyên chở quư vị. V́ thế, các vị thiện
tri thức ơi! Chúng ta có thể gặp pháp bảo này, hăy
nên quư trọng, hăy nên yêu mến, hăy nên thủ hộ, hăy nên
tu tập!
10. Phẩm thứ sáu: Quán Sát
Hết thảy phương
tiện văn tự, không ǵ chẳng ấn khế tự
tâm như thế. Nếu tự tâm chẳng tiếp nhận,
văn tự làm sao an lập cho được? Chúng ta có thể
tụ tập nơi đây học tập kinh Hiền Hộ,
cũng tức là thiện căn trong đời trước
đối với Thập Phương Chư Phật Tất
Giai Hiện Tiền tam-muội đă chín muồi, nhân duyên
chín muồi, cho nên có thể có cơ chế phước
đức như vậy, dùng tâm địa của chư
Phật Như Lai để ấn khế tâm địa vốn
chẳng có ǵ để ấn khế của chúng ta. V́ sao vậy?
Tâm chẳng thể tự thấy. Dùng tri kiến của Phật
Như Lai để dẫn phát chánh tri kiến của chúng
ta, an trụ trong pháp và tri kiến, cho tới liên tục tiếp
nối đến đời vị lai, tạo lợi ích rộng
răi cho hữu t́nh.
(Kinh)
Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền
Hộ Phần, Quán Sát phẩm đệ lục.
(經)大方等大集賢護分觀察品第六。
(Kinh: Kinh Đại
Phương Đẳng Đại Tập, Hiền Hộ
Phần, phẩm thứ sáu: Quán Sát).
Từ
văn tự trong phần trước, chúng ta có thể cảm
nhận thân thiết đức Thế Tôn đang dần dần
hướng dẫn chúng ta đúng như lư quan sát nội
hàm, động thái, chỗ nương cậy, và chỗ thuận
theo của pháp tắc này.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ
Tát ngôn: - Hiền Hộ! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha
Tát tức dục tư duy thử tam-muội giả,
đương vân hà tư? Hiền Hộ! Bỉ chư Bồ
Tát, dục tư duy giả, tức ưng đương
tác như thị tư duy.
(經)爾時世尊復告賢護菩薩言。賢護。若諸菩薩摩訶薩即欲思惟此三昧者。當云何思。賢護。彼諸菩薩。欲思惟者。即應當作如是思惟。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức
Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng:
- Này Hiền Hộ! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát muốn
tư duy tam-muội này, hăy nên nghĩ như thế nào? Này
Hiền Hộ! Các vị Bồ Tát ấy nếu muốn
tư duy, hăy nên tư duy như thế này).
Ở
đây, đức Thế Tôn trực tiếp dạy Bồ
Tát Ma Ha Tát hăy nên khéo tư duy như thế nào, chẳng
để cho chúng ta dùng vọng tưởng, hoặc tri kiến
của chính ḿnh để suy lường pháp tắc nào, hoặc
tiếp tục duy tŕ một tư tưởng nào! Ngài trực
tiếp dạy chúng ta tư duy. Ví như đức Thế
Tôn đă nói Tam Thập Ngũ Phật Kinh. Kinh Tam Thập
Ngũ Phật là do đức Thế Tôn trực tiếp dạy
cho hết thảy các vị Bồ Tát Ma Ha Tát một pháp tắc
để thực hành sám hối, Ngài trực tiếp chế
định cho các vị đại Bồ Tát. Lại
như chúng ta thọ Tam Quy, Ngũ Giới, Bát Giới, Thập
Giới, cho đến giới tỳ-kheo, giới Bồ
Tát, tam-muội-da giới[2],
các thứ giới pháp, không ǵ chẳng phải do đức
Thế Tôn khéo ban bố, khéo chọn lựa, khiến cho hết
thảy các hữu t́nh chẳng cần phải nhờ đến
phương tiện chọn lựa để tùy thuận,
trong sự tùy thuận bèn tự nhiên chọn lựa, tức
là nói đến sự lựa chọn pháp, trực tiếp
tiến nhập Vô Thượng Bồ Đề, đạt
được bất thoái chuyển. V́ thế, “ưng
đương tác như thị tư duy” (hăy nên tư
duy như thế), tức là đức Thế Tôn đă trực
tiếp chọn lựa cho chúng ta, chẳng cần chúng ta phải
dùng đến phương tiện phân tích.
(Kinh)
Như ngă Thế Tôn, kim giả hiện tại thiên nhân chúng
trung, tuyên thuyết pháp yếu. Hiền Hộ! Bồ Tát
như thị nhất tâm tư duy, chư Phật Như
Lai, tọa sư tử ṭa, tuyên thuyết
chánh pháp.
(經)如我世尊。今者現在天人衆中。宣說法要。賢護。菩薩如是一心思惟。諸佛如來。坐師子座宣說正法。
(Kinh: Như đức Thế
Tôn ta nay đang ở trong đại chúng trời, người,
tuyên nói pháp yếu. Này Hiền Hộ! Bồ Tát nhất tâm
tư duy như thế, chư Phật Như Lai ngồi
trên ṭa sư tử, tuyên nói chánh pháp).
Chúng
ta thấy các loại tượng Phật đều có
đài sen hoặc ṭa sư tử, hoặc là các vị Bồ
Tát mỗi vị đều có tọa kỵ (坐騎, con vật để
cưỡi), như Phổ Hiền Bồ Tát có voi trắng
sáu ngà, Văn Thù Sư Lợi có sư tử xanh, Địa
Tạng Vương Bồ Tát có Đế Thính, Quán Thế
Âm Bồ Tát cũng cưỡi [con vật] mang tướng
oai đức là Kim Mao Hống[3].
Mỗi vị đều an lập như thế, nhằm
biểu hiện điều ǵ? V́ muốn khiến cho hết
thảy chúng sanh tùy thuận, tin phục, như mưa to có
thể nhuần thấm rộng khắp thế gian. Lại
như sấm lớn có thể rung chuyển thế gian, khiến
cho chúng sanh thức tỉnh. Chư Phật Như Lai tuyên
nói chánh pháp cũng lại như thế.
(Kinh)
Cụ túc thành tựu nhất thiết tướng hảo,
tối diệu, tối cực, thù đặc đoan nghiêm,
nhạo quán vô yếm.
(經)具足成就一切相好。最妙最極。殊特端嚴。樂觀無厭。
(Kinh: Thành tựu trọn đủ
hết thảy các tướng hảo, mầu nhiệm nhất,
tột bậc nhất, đoan nghiêm thù thắng đặc
biệt, ưa nh́n chẳng chán).
Phần trước là quan sát từ sự
thuyết pháp, ở đây là quan sát diệu tướng.
Đức Thế Tôn dùng bốn pháp để rộng
độ hữu t́nh trong thế gian, khiến cho hết thảy
chúng sanh trụ trong an lạc. Diệu tướng trang
nghiêm là pháp tắc thù thắng nhất, trực tiếp tiếp
dẫn chúng sanh. Phật giáo chẳng phải là tôn giáo thờ
ngẫu tượng, nhưng chẳng quên dùng các loại
phương tiện như ba mươi hai tướng,
tám mươi thứ hảo, khiến cho chúng sanh được
thấy, được nghe, biết đến pháp tắc
chẳng thể nghĩ bàn như thế, tùy thuận diệu
tướng mà lợi ích to lớn vô thượng!
(Kinh)
Như thị quán sát chư đại nhân tướng,
ư nhất nhất tướng, ưng đương
chí tâm, tức đắc minh liễu kiến chư Như
Lai Ứng Đẳng Chánh Giác. Kư đắc kiến dĩ,
đương tiên tư vấn bất kiến đảnh
tướng.
(經)如是觀察諸大人相。於一一相。應當至心。即得明了見諸如來應等正覺。既得見已。當先諮問不見頂相。
(Kinh: Quan sát các tướng
đại nhân như thế. Đối với mỗi
tướng, hăy nên chí tâm, liền được thấy
rơ ràng các đức Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác.
Đă được thấy rồi, trước hết
hăy nên thưa hỏi về tướng đỉnh đầu
chẳng thể trông thấy [của Như Lai]).
“Tư
vấn” (諮問) là v́ hết thảy
chư Phật Như Lai do đại công đức tùy thuận
thành tựu chân thật mà nhập vào hết thảy biển
Như Lai Tạng Tánh, hết thảy Bồ Tát đều
chẳng thể suy lường. Thanh Văn và Duyên Giác
cũng như thế, các loài phàm phu càng chẳng có dấu vết
để t́m ṭi. Do vậy, phải thưa hỏi chư Phật
Như Lai các thứ pháp nghĩa. Trong kinh điển,
thường nói như thế này: Khi ấy, vị Bồ
Tát nào đó nương theo oai thần của đức Phật,
từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ
dưới chân Phật, thưa hỏi giáo ngôn nào đó. V́
lẽ nào? Nếu chư Phật Như Lai chẳng dùng oai
thần và trí đức gia bị, hết thảy các vị
Bồ Tát chẳng thể rời khỏi chỗ ngồi
để thưa hỏi, tức là chẳng thể ĺa khỏi
tri kiến của chính ḿnh để dẫn phát công đức
chân thật của giáo ngôn vô thượng.
(Kinh)
Kư đắc vấn dĩ, nhiên hậu thứ đệ biến
quán chư tướng, giai linh minh liễu. Như thị
quán dĩ, cánh phục tư duy, chư Phật Như Lai
chúng tướng vi diệu, thị vi hy hữu!
(經)既得問已。然後次第遍觀諸相皆令明了。如是觀已。更復思惟。諸佛如來衆相微妙。是爲希有。
(Kinh: Đă được
thưa hỏi rồi, sau đó theo thứ tự, quán trọn
khắp các tướng, sao cho đều rành rẽ. Quán
như thế xong, lại tư duy các tướng vi diệu
của chư Phật Như Lai là hy hữu).
Trong
quá tŕnh chúng ta học tập tu tŕ Phật pháp, nghe lời dạy
thù thắng của đức Phật, nếu nghe xong bèn
hành tŕ, nghe xong bèn hoan hỷ, nghe xong rồi kính cẩn tiếp
nhận, ắt sẽ đạt được lợi ích
to lớn. Thấy diệu tướng của chư Phật,
nếu tùy thuận quan sát, kiến lập nguyện vọng
thanh tịnh th́ cũng sẽ tương ứng. Sau đó
chính là sự hướng dẫn và cách quan sát tương ứng
với nguyện vọng quán tướng.
(Kinh)
Nguyện ngă vị lai, hoàn đắc như thị cụ
túc thành tựu chư diệu tướng thân.
(經)願我未來。還得如是具足成就諸妙相身。
(Kinh: Nguyện tôi trong đời
vị lai cũng được thành tựu trọn đủ
thân có các diệu tướng như thế).
Trong
các cách tu Quán Phật tam-muội, nương theo một loại,
hai loại quán pháp để quán vô kiến đảnh
tướng của Như Lai. Cho đến quán
tướng tóc xanh biếc có ánh đỏ, tướng
lông tóc đều cuộn theo chiều phải, tướng
da đầu như sắc vàng ṛng, tướng
xương đầu như bạch hạc, tướng
năo như lưu ly, trong năo có mười bốn mạch, mỗi
mạch có mười bốn luồng sáng,
mỗi luồng sáng đều chiếu sáng rực mười
phương pháp giới, lợi ích rộng lớn hết
thảy hữu t́nh… Cho đến tướng bánh xe vạn
căm dưới ḷng bàn chân, theo thứ tự mà quan sát. Dù
thuận quán hay nghịch quán, quán sát như thế, sẽ
được ấn khế sâu xa, an lạc thanh tịnh,
xa ĺa các nạn, thân tâm an lạc. Đó là quán diệu tướng
trọn đủ công đức.
(Kinh)
Nguyện ngă vị lai, diệc đắc như thị
thanh tịnh cấm giới, cụ túc oai nghi.
(經)願我未來。亦得如是清淨禁戒具足威儀。
(Kinh: Nguyện tôi trong đời
vị lai, cũng đạt được giới cấm
thanh tịnh như thế, trọn đủ oai nghi).
Hết
thảy diệu tướng đều đến từ
giới đức chánh đáng, thanh tịnh. Đối với
điều này, chư Phật Như Lai đều có sự che
chở, bảo vệ như thế. V́ nếu nói ba
mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo
chính là Như Lai th́ Kim Luân Vương cũng là Như Lai!
V́ sao Phật trọn đủ ba mươi hai tướng
và tám mươi thứ hảo lại được gọi
là Như Lai? V́ Ngài trọn đủ công đức của
hết thảy các giới, có đại oai đức thiện
xảo lợi ích trọn khắp thế gian. Tuy Kim Luân
Vương cũng trọn đủ ba mươi hai
tướng và tám mươi loại hảo, nhưng v́ chẳng
có trí vô lậu, chẳng có thập lực, mười tám
pháp bất cộng, tứ vô úy, cho nên chẳng thể gọi
là Phật. Như Lai Thế Tôn dùng đủ loại cảnh
giới, đủ loại oai nghi, đủ loại
phương tiện thiện xảo để lợi ích
trời người rộng lớn. Cho nên các Luân
Vương chẳng thể tương tự! Dẫu
tướng Luân Vương cũng thanh tịnh, viên
măn, trang nghiêm, chỉ là xét theo pháp th́ chẳng
trọn đủ như Phật, cho nên chứng đắc
chẳng đồng nhất.
(Kinh)
Nguyện ngă vị lai, diệc đắc như thị cụ
túc tam-muội. Nguyện ngă vị lai, diệc đắc
như thị cụ túc trí huệ. Nguyện ngă vị lai,
diệc đắc như thị cụ túc giải thoát.
Nguyện ngă vị lai, diệc đắc như thị giải
thoát tri kiến. Nguyện ngă vị lai, thành măn như thị chư tướng
thân dĩ, tức đắc thành tựu A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề.
(經)願我未來。亦得如是具足三昧。願我未來。亦得如是具足智慧。願我未來。亦得如是具足解脫。願我未來。亦得如是解脫知見。願我未來。成滿如是諸相身已。即得成就阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh: Nguyện ta trong đời
vị lai, cũng đắc trọn đủ tam-muội
như thế. Nguyện ta trong đời vị lai,
cũng đắc trọn đủ trí huệ như thế.
Nguyện ta trong đời vị lai, cũng đắc trọn
đủ giải thoát như thế. Nguyện ta trong đời
vị lai, cũng đắc giải thoát tri kiến như
thế. Nguyện ta trong đời vị lai, thành tựu viên măn thân có các tướng
như thế rồi, sẽ liền được thành tựu
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề).
Đây
là từ năm phần Pháp Thân, tức Giới, Định,
Huệ, Giải Thoát, và Giải Thoát Tri Kiến,
mà khế nhập biển Chánh Biến Tri của chư Phật,
sáng ngời thế gian.
(Kinh)
Kư thành Phật dĩ, diệc đương như thị,
xử bỉ thiên nhân đại chúng chi trung, cụ túc tuyên
thuyết như tư diệu pháp. Bồ Tát như thị
cụ túc quán sát chư Phật Như Lai, năi chí thành tựu
Nhất Thiết Chủng dĩ, phục ưng cánh tác
như thị tư duy, thị trung hà giả thị ngă?
(經)既成佛已。亦當如是。處彼天人大衆之中。具足宣說如斯妙法。菩薩如是具足觀察諸佛如來。乃至成就一切種已。復應更作如是思惟。是中何者是我。
(Kinh: Đă thành Phật rồi,
cũng sẽ như thế. Ở trong đại chúng trời
người, tuyên nói đầy đủ diệu pháp
như thế, Bồ Tát quan sát trọn đủ chư Phật
Như Lai như thế, cho đến thành tựu Nhất
Thiết Chủng Trí rồi, lại nên tư duy như thế
này: Trong ấy, thứ ǵ là ta?)
V́
sao? Nếu an lập công đức bổn tôn thành tựu,
lợi ích rộng khắp thế gian, chẳng nhiễm
đắm vào đâu, sẽ là lợi ích chân thật của
diệu tướng trang nghiêm thanh tịnh rộng lớn.
Nếu có đắm nhiễm, sẽ là ngă mạn. Ngă mạn tiếp nối,
ắt sẽ thuộc vào tăng thượng mạn.
Tăng thượng mạn th́
ắt
sẽ thuộc vào đại vọng ngữ, tăng tấn
dần dần, sẽ đọa vào thế gian. Nếu
chúng ta chẳng tùy thuận sự quan sát thiện xảo của
chư Phật Như Lai, dẫu tu thiện pháp đôi chút,
đạt được đôi chút lợi ích, đạt
được khinh an đôi chút, đạt được
tướng quang minh đôi chút, cho đến
đạt được tự tại thần thông
đôi chút, sẽ rơi vào ngă mạn, tức là thuộc
vào tăng thượng mạn. Thậm chí dần
dần tiếp nối, ngỡ chính ḿnh thật sự có sở
đắc, ngỡ đă đắc pháp nơi pháp chưa
đắc, chưa chứng mà nói là chứng, hư vọng
nhận biết. Sau đấy, tất nhiên trở thành kẻ
đáng gọi là “quyến thuộc của ma”, nguy hại
thế gian! Chúng ta nhất định phải chú trọng
điều này!
“Thị
trung hà giả vi ngă” (trong ấy thứ ǵ là ta): Đấy
là thiện xảo để quán nhằm phá bổn tôn[4].
V́ thế, bổn tôn quán phải nên khéo đạt
được lợi ích nơi Phật pháp mà chẳng
đắm nhiễm. Nếu có đắm nhiễm, tất
nhiên sẽ đọa lạc, nhất định phải
chú ư. Đó là sự chuyển biến thanh tịnh trong Phật
pháp, mà cũng là vận dụng thiện xảo rộng lớn,
nhưng chẳng đắm nhiễm, thuộc vào sức mạnh
của trí huệ.
(Kinh)
Thùy vi ngă sở pháp? Thùy năng đắc thành chư Phật
Bồ Đề? Vi thân đắc da? Vi tâm đắc da?
(經)誰爲我所法。誰能得成諸佛菩提。爲身得耶。爲心得耶。
(Kinh: Ai là pháp của ta? Ai có thể
thành tựu Bồ Đề của chư Phật? Là thân
đắc ư? Là tâm đắc ư?)
Từng
bước hướng dẫn chúng ta tùy văn nhập
quán.
(Kinh)
Nhược thân đắc giả, thị thân ngoan ngăi, vô
giác, vô tri, do như thảo mộc, thạch bích, kính tượng.
(經)若身得者。是身頑騃無覺無知。猶如草木。石壁鏡像。
(Kinh: Nếu là thân đắc
th́ thân này ngu độn, vô giác, vô tri, ví như cỏ cây,
vách đá, h́nh bóng trong gương).
Sắc
thân này của chúng ta do Tứ Đại hợp thành. Địa,
Thủy, Hỏa, Phong có tác dụng là ǵ? Sắc thân của
chúng ta, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, nếu bỏ
đi ư thức, chẳng phải là như cỏ cây ư?
Hăy nên khéo quan sát.
(Kinh)
Nhiên bỉ Bồ Đề, vô sắc, vô h́nh, phi tượng,
phi tướng, bất khả kiến tri, bất khả
xúc chứng.
(經)然彼菩提。無色無形。非像非相。不可見知。不可觸證。
(Kinh: Nhưng Bồ Đề ấy
vô sắc, vô h́nh, chẳng phải là h́nh tượng, chẳng
phải là tướng, chẳng thể thấy biết, chẳng
thể chạm để nhận biết).
Chúng
ta thường từ trong danh tướng và ngôn thuyết đàm luận mà biểu đạt
tâm phần Bồ Đề, biểu đạt tướng
mạo của Bồ Đề. Nói “chẳng đến,
chẳng đi, chẳng nhơ, chẳng sạch, từ vô
thỉ tới nay rộng lớn vi diệu, nhiếp thọ
thế gian rộng lớn, chẳng có bụi bặm, chẳng
có đắm nhiễm, chẳng ĺa một pháp”. Đối
với chỗ chẳng thể nói năng này mà cưỡng
lập ngôn thuyết, khiến cho chúng sanh có phương tiện
văn tự và ngôn ngữ để khế nhập, có thể
biết rơ sự liễu tri trong “bất khả kiến
tri” (chẳng thể thấy biết). Trong biển Chánh
Biến Tri, cái tâm trí nguồn cội ấy chẳng tạo
tác
mà đạt được, chẳng thể mất
đi. V́ thế, chư Phật chứng đắc A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nhưng đối
với pháp này bèn chẳng có ǵ để có thể chứng,
phàm phu hữu t́nh ngu si điên đảo trầm luân
nơi đây chẳng thể tước giảm!
(Kinh)
Vân hà cánh dĩ ngoan ngăi, vô tri, vô kiến, vô thức, vô sở
phân biệt, vô tác chi thân, đắc bỉ Bồ Đề?
(經)云何更以頑騃無知無見無識。無所分別無作之身。得彼菩提。
(Kinh: Sao có thể dùng cái thân ngu
độn, chẳng biết, chẳng thấy, chẳng nhận
biết, chẳng phân biệt, chẳng tạo tác để
đạt được Bồ Đề?)
Đây
là phá trừ hết thảy chấp trước và hết
thảy cái tâm sở đắc. “Đắc Bồ Đề”
th́ dùng ǵ để đắc Bồ Đề? Thông thường,
những ai đă học giáo ngôn về tạng tánh, đều có thể liễu giải
“hết thảy chúng sanh vốn là Phật”, “hết
thảy chúng sanh đều có đầy đủ trí huệ
và đức tướng của Như Lai”. Đối
với các lời lẽ sâu mầu như thế, lời
chân thật rộng lớn rất sâu như thế, dùng ǵ
để có thể ấn khế vạn pháp duy tâm? Dùng ǵ
để liễu tri cảnh giới Nhất Thật?
(Kinh)
Bồ Đề như thị kư vô h́nh sắc, phi tướng,
phi tượng, bất khả kiến
tri, bất khả xúc chứng, thùy phục
ư trung nhi hành chứng giả? Nhược tâm đắc
giả, thị tâm vô sắc, bất khả đắc kiến.
Thị tâm vô tướng, bất khả đắc tri. Thử
tâm như thị đồng ư huyễn hóa.
(經)菩提如是既無形色。非相非像。不可見知。不可觸證。誰復於中而行證者。若心得者。是心無色。不可得見。是心無相。不可得知。此心如是同於幻化。
(Kinh: Bồ Đề đă chẳng
có h́nh sắc như thế, chẳng phải tướng,
chẳng phải h́nh tượng, chẳng thể thấy biết, chẳng thể đụng chạm
để chứng biết, ai lại có thể chứng biết
trong ấy? Nếu là tâm đắc [Bồ Đề], th́
cái tâm ấy vô sắc, chẳng thể trông thấy. Cái tâm ấy
vô tướng, chẳng thể biết được. Cái
tâm ấy giống như huyễn hóa như thế đó).
Hết
thảy sự nhận biết không ǵ chẳng phải do
nhân duyên mà sanh, chẳng thể chạm đến, chẳng
thể thấy biết!
(Kinh)
Nhiên bỉ Bồ Đề diệc nhĩ, vô sắc bất
khả kiến, vô tướng bất khả tri, vô lậu,
vô vi, diệc đồng huyễn hóa.
(經)然彼菩提亦爾。無色不可見。無相不可知。無漏無爲。亦同幻化。
(Kinh: Nhưng Bồ Đề
cũng thế, chẳng có sắc chẳng thể thấy,
chẳng có tướng chẳng thể biết, vô lậu,
vô vi, cũng giống như huyễn hóa).
Đức Thế Tôn phán định
tướng mạo của Bồ Đề như thế,
khiến cho chúng ta có một cái gọi là sự hay biết
[giống như] “ấn hoại văn thành” (ấn nát,
nhưng nét khắc nơi ấn đă hiện ra) là sự
hay biết vô nhiễm, là sự hay biết viên măn, là sự
hay biết triệt để phát khởi tự tại
trong hiện tại.
(Kinh)
Vân hà khả chứng, vân hà giác tri, nhi ngôn thân tâm đắc
Bồ Đề da?
(經)云何可證。云何覺知。而言身心得菩提耶。
(Kinh: Làm thế nào để có
thể chứng? Làm thế nào để hay biết mà nói
thân tâm đắc Bồ Đề ư?)
Quan
sát như thế, tư duy như thế. Đấy là
đức Như Lai Thế Tôn dùng trí chẳng thể
nghĩ bàn để hướng dẫn chúng sanh chánh quan
sát, khéo quan sát, như lư quan sát, chân thật quan sát, chẳng
tăng giảm mà quan sát. Nếu chúng ta dùng vọng tâm quan
sát, sẽ chẳng thể
được. Dùng cái tâm do chính ḿnh xếp đặt
để quan sát, cũng chẳng thể
được. V́ thế, đức Thế Tôn hướng
dẫn chúng ta hăy khéo quan sát.
(Kinh)
Bỉ Bồ Tát Ma Ha Tát như thị quán thời, phân minh
liễu liễu, kiến thị thân tướng, bất
đắc Bồ Đề, diệc tri thị tâm bất
đắc Bồ Đề. Hà dĩ cố? Chư pháp vô hữu
dĩ sắc chứng sắc, dĩ tâm chứng tâm cố.
(經)彼菩薩摩訶薩。如是觀時。分明了了。見是身相。不得菩提。亦知是心不得菩提。何以故。諸法無有以色證色。以心證心故。
(Kinh: Khi vị Bồ Tát Ma Ha
Tát ấy quán như thế, rành rẽ, phân minh, thấy thân
tướng này chẳng đắc Bồ Đề,
cũng biết là tâm chẳng đắc Bồ Đề.
V́ lẽ nào? Do các pháp chẳng có pháp nào dùng sắc để
chứng sắc, dùng tâm để chứng tâm).
Giống
như Tâm Kinh đă nói, “vô trí diệc vô đắc, dĩ
vô sở đắc cố, Bồ Đề Tát Đỏa”
(không có trí mà cũng chẳng đạt được. Do
chẳng có ǵ để đạt được, nên Bồ Tát…)
Trong giáo ngôn của chư Phật, chọn lựa pháp vô tự
tánh th́ chẳng có một pháp nào để
có thể thành, thật sự là chẳng có pháp nào để
có thể lập, thế mà rộng lập các pháp, lợi
ích hữu t́nh đắm nhiễm trong thế gian, khiến
cho họ tiêu trừ hết thảy chấp trước
huyễn chướng, khiến cho họ thành tựu lợi
ích to lớn vô thượng.
(Kinh)
Nhiên bỉ ư ngôn thuyết trung, tri nhất thiết pháp,
tuy vô sắc, vô h́nh, vô tướng, vô lậu, vô khả
đổ kiến, vô hữu chứng tri, diệc phi vô chứng.
(經)然彼於言說中。知一切法。雖無色無形。無相無漏。無可睹見。無有證知。亦非無證。
(Kinh: Nhưng trong ngôn thuyết,
họ biết hết thảy các pháp tuy vô sắc, vô h́nh, vô
tướng, vô lậu, chẳng thể trông thấy, chẳng
có chứng biết, mà cũng chẳng phải là vô chứng).
V́ lẽ
nào? Nói chứng và chẳng chứng như thế, thật
sự là hư luận. Có thể đắc và chẳng thể đắc,
đúng, sai, hết thảy ngôn thuyết đối đăi ở
đây đều lặng thinh không có tiếng. V́ trong tâm trí
nhị nguyên của bọn phàm phu chúng ta, cứ đối
đăi liên tục. Nếu trừ sạch đối
đăi, tâm trí A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề
thanh tịnh vốn sẵn có sẽ ngay lập tức sáng
rực thế gian, chẳng cần tạo tác.
(Kinh)
Hà dĩ cố? Dĩ nhất thiết chư Như Lai thân
vô hữu lậu cố. Hựu chư Như Lai thân vô lậu
cố, tâm diệc vô lậu. Hựu chư Như Lai tâm vô lậu
cố, sắc diệc vô lậu.
(經)何以故。以一切諸如來身。無有漏故。又諸如來。身無漏故。心亦無漏。又諸如來。心無漏故。色亦無漏。
(Kinh: V́ cớ sao? Do thân của
hết thảy các Như Lai chẳng có hữu lậu. Lại
do thân của chư Như Lai vô lậu, nên tâm cũng vô lậu.
Lại do tâm của chư Như Lai vô lậu, sắc
cũng vô lậu).
“Vô lậu” là chẳng tạo
tác, thanh tịnh, xa ĺa hết thảy công dụng, tức
là xa ĺa hết thảy tác ư đối đăi. Trong quá tŕnh học
Phật pháp, chúng ta đều biết một danh từ, tức
là hàng Bồ Tát chưa đạt đến Bát Địa, đều gọi là “bất tịnh
ư Bồ Tát”. “Bất tịnh ư” tức là có tác ư, có
sự tác ư liên tục. Phàm phu hữu t́nh nếu chẳng
tác ư, tâm chẳng có chỗ nào ràng buộc. Nếu tâm chẳng
ràng buộc,
ư thức sẽ mờ mịt, thậm chí là mê mất. V́ thế,
hàng Bồ Tát chưa đạt đến Bát Địa, vẫn
cần phải tác ư, tạo tác tăng thượng thiện
xảo, siêng năng tu pháp chánh đáng như thế, tức
là “trừ hết thảy ác, hành hết thảy thiện,
điều thiện chưa sanh khiến nẩy sanh, điều
ác đă sanh bèn sám hối”. Người siêng năng
chánh đáng như thế chính là tác ư thiện xảo.
Nhưng chư Phật Như Lai và hàng Bồ Tát từ Bát
Địa trở lên th́ tâm ư vô công dụng, chẳng
cần tạo tác, chẳng cần đối đăi, Thật
Tướng hiện tiền, thanh tịnh hồi thí công
đức chân thật, dùng điều đó để an
trụ. Đấy là điều sẵn có của Báo Đức,
do thiện căn thật sự viên măn thành thục, chẳng
phải do nương vào Tu Đức mà cưỡng chấp.
Phàm phu hữu t́nh nếu chẳng nhờ sự tu tŕ hậu
thiên (sự tu tŕ sau khi đă tín giải), sẽ thường
chẳng thể chấp nhận pháp tánh chân thật. Nếu
ở trong các sự, các tướng, thuận ứng hiện
duyên, thuận ứng pháp tánh, hai pháp cùng nêu, Tu Đức và
Tánh Đức cùng lúc trọn đủ, khi ấy có thể
nói là “tu pháp phần”. Như thế th́ chúng ta sẽ có
thể có cơ chế an trụ nơi đạo nghiệp
vô thượng, cho đến có cơ duyên tu tập.
Đoạn
văn tự này đă ban cho chúng ta một cơ chế
hướng dẫn quan sát và tư duy. Chương trước
là phẩm Thọ Tŕ, dùng thọ tŕ để chuyển tiếp,
hướng dẫn chúng ta đạt đến chánh quan
sát. Trước phẩm Thọ Tŕ có phẩm Chánh Tín. Trước
đó,
lại có phẩm Tư Duy, tức là dùng tư duy để
khế nhập chánh tín, dùng chánh tín để khế nhập
thọ tŕ, dùng nhân duyên thọ tŕ để khéo quan sát pháp tắc,
khéo quan sát tâm địa. Đức Thế Tôn giáo hóa chúng
ta như thế, tuyên nói giáo pháp như thế, khiến cho
chúng ta thiết thực tư duy, khéo thủ hộ!
Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng kư
Phần
6 hết
[1]
Chín chúng, tức là chúng sanh trong chín pháp giới.
[2] Tam-muội-da giới (Samaya) là một loại giới
pháp của Mật Tông, c̣n gọi là Phật Tánh Trí Tam-muội-da
giới, hoặc Bí Mật Tam-muội-da giới, dùng trí huệ
và đức tướng sẵn có của chúng sanh làm giới
pháp, quy nhiếp toàn bộ giới pháp của Hiển giáo
(ngũ giới, bát giới, thập giới…) vào trí huệ
của chư Phật. Phẩm Cụ Duyên trong kinh Đại
Nhật giảng: “Đó là tam thế vô ngại trí giới,
bao gồm bốn trọng giới, thường chẳng
nên xả pháp, đừng ĺa bỏ Bồ Đề tâm,
đừng keo tiếc hết thảy các pháp, đừng
chẳng làm chuyện lợi ích chúng sanh”. Sách Vô Úy Tam Tạng
Thiền Yếu lại triển khai thành mười giới, như chẳng lui sụt Bồ Đề tâm, chẳng
xả Tam Bảo, chẳng sanh tà kiến, chẳng tự
xưng ta đă trọn đủ vô
thượng đạo v.v… Đại Nhật Kinh Sớ lại
có cách diễn giải khác, chẳng hạn như chẳng
nên xả chánh pháp, chẳng báng hết thảy giáo pháp tam thừa,
chẳng sanh tà kiến báng bổ không có nhân quả, chẳng
bố thí vật gây hại cho người khác…
[3] Kim Mao
Hống (金毛犼), c̣n gọi
là Đặng Long, Vọng Thiên Hống, Triều Thiên Hống,
là một thần thú có h́nh dáng giống như kỳ lân, rất
dũng mănh, hung tợn, có thể đánh nhau ngang sức với rồng,
ăn óc rồng. Theo truyền thuyết, nó là một trong
các đứa con của long vương, có tập quán canh
gác. Do nó hay ngửa mặt lên trời, rống to rúng động trời đất, cho nên gọi là Vọng
Thiên Hống hay Triều Thiên Hống. V́ thế, nó thường
được đắp trên các trụ đá (hoa biểu)
quanh các đền đài, cung điện, lăng tẩm, với
ước nguyện tấu lên thiên đ́nh ước vọng
của con người, và trấn áp xua đuổi tà khí, quỷ
quái. Có lẽ h́nh thức đắp các con nghê (giống
như sư tử) hay con sấu trên các cột đá tại các kiến trúc cổ của
Việt Nam cũng là h́nh thức khác của Hống. Theo cổ
thư, Hống có mười đặc điểm: Sừng
hươu, đầu lạc đà, tai mèo, mắt tôm, mơm lừa,
lông như sư tử, cổ rắn, bụng như con Thận
(một loài ṣ lớn ngoài biển, hơi thở của nó
có thể tạo thành huyễn cảnh lâu đài, thành thị
trên biển), vảy như cá chép vàng, vuốt chim ưng,
chân sau giống như chân hổ. Theo Thuật Dị Kư, Hống
có thể phun lửa gần cả trăm mét.
[4] “Bổn tôn” trong câu này chính là ư niệm
chấp trước, cho rằng có một cái Thật Ngă, là
Ngă Chấp, ngỡ bản ngă của chính ḿnh tôn quư, cho là
ḿnh chứng đắc cao hơn người khác. C̣n bổn
tôn trong câu “an lập bổn tôn công đức thành tựu”
trong đoạn trước chính là nói về chân tâm thanh tịnh,
là Phật Tánh, là tạng tánh. An trụ bổn tôn là nhận
biết chính ḿnh sẵn có Phật tánh, chứng nhập chân
tâm Thật Tướng v.v…