Đại
Phương Đẳng Đại Tập
Hiền
Hộ Kinh giảng kư
Phần
8
大方等大集賢護經講記
慈法法師
Chủ giảng:
Pháp sư Từ Pháp
Địa điểm:
Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ
ngày 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt:
Đức Phong và Huệ Trang
12. Phẩm thứ tám:
Xưng Tán Công Đức
Pháp
vốn trọn đủ, chẳng cần chúng ta phải bỏ
thêm công sức. Thông qua một pháp hội,
chỉ là biểu hiệu một phần, hoặc ít phần nội
dung thực tế, v́ muốn khiến
cho các hữu duyên hữu t́nh trong hiện tiền sẽ nhờ
vào cơ chế ấy mà thành thục thiện căn của
chính ḿnh, có thể tu chứng, cho đến thành tựu
tam-muội này.
Đối
với pháp tu tŕ Ban Châu tam-muội, muốn đắc Thập
Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền
tam-muội như thế, quả thật chẳng
khó! Khó ở chỗ phát tâm, khó ở chỗ như thật
liễu giải toàn thể cơ chế của pháp này, khó ở
chỗ thệ nguyện quyết định thủ hộ.
Trong cơi đời, vốn chẳng có hai pháp khó và dễ, hoặc
có chuyện khó hay dễ, chỉ tùy thuộc vào tư
lương có đầy đủ hay không, pháp duyên có đủ
hay không! Các chuyện đều trọn đủ nhân duyên,
khó và dễ là nói tương đối! Thật ra, chẳng
có ǵ có thể chướng ngại cơ hội khiến
cho chúng ta đích thân chứng tam-muội như vậy.
Chúng ta có cơ hội học tập và coi trọng nó, tất
nhiên cũng có cơ hội thành tựu. Hết thảy
đại chúng hiện tiền đừng ngờ vực điều
này. Chư Phật là đấng nói lời thành thật,
đấng nói lời chân thật, chúng ta có thể như
lư, như pháp học tập, nhận thức pháp tắc
này, hiểu rơ sự phát tâm. Như thế th́ đối với
công đức và lợi ích chân thật của tam-muội
Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền
như thế, sẽ thật sự không xa! “Xa” chỉ
v́ dụng tâm khác nhau, do cảm nhận nghiệp tướng
[khác biệt]. Nếu chúng ta thoát khỏi sự cưỡng
chấp nghiệp tướng từ vô thỉ tới nay của
chính ḿnh, thật sự liễu giải pháp tắc “vạn
pháp duy thức”, liễu giải giáo nghĩa chân thật
“tánh Không duyên khởi”. Lại nh́n pháp này, sẽ thật sự
giống như vật trong ḷng bàn tay. Điều chủ yếu nhất
trong tu tập Phật pháp là phát tâm, nhân duyên tối sơ ở
chỗ phát tâm. Sự tiếp nối tu tập sau đó
chính là sự chứng thực và xác lập của phát tâm.
Nay
đang trong thời gian An Cư, năm nay có tháng Bảy nhuận,
có thể là ba tháng an cư, mà cũng có thể bốn tháng
an cư. Chúng thường trụ chùa Phóng Quang nhất trí
yêu cầu bốn tháng an cư. V́ sao trong ṿng một tháng của
tháng Bảy nhuận chúng ta học tập pháp này? Điều chủ yếu nhất là v́ muốn cho
mọi người sau khi An Cư kết thúc, sẽ có một
pháp để tiếp tục [tu tập], có một pháp
để thực hành. V́ một khi An Cư kết thúc, mỗi
cá nhân đối với sự y chỉ và nhận thức
pháp tắc sẽ có thể là muôn
ngàn sai khác, nhưng sau khi chúng ta đă học tập, vừa
khéo là mỗi người sẽ dựa theo nhân duyên [riêng biệt
của chính ḿnh] để tu tập pháp tắc này, thâm nhập
pháp tắc này, cho đến thành tựu lợi ích chân thật
nơi tam-muội.
(Kinh)
Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền
Hộ Kinh, quyển đệ tứ.
Hiền Hộ Phần, Xưng Tán Công Đức, phẩm đệ
bát.
Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát, cập
Bảo Đức Ly Xa Tử, Thiện Thương Chủ
trưởng giả, Già Ha Ngập Đa cư sĩ tử,
Na La Đạt Đa Ma Nạp, Thủy Thiên trưởng
giả, dữ ngũ bách đồ chúng đẳng, văn
Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ, tức
dĩ ngũ bách thượng y phục, phụng phú Thế
Tôn. Phục dĩ đa chủng cúng cụ, cúng dường
Thế Tôn, tâm nhạo pháp cố.
(經)大方等大集賢護經卷第四。
賢護分稱讚功德品第八。
爾時賢護菩薩。及寶德離車子。善商主長者。伽訶岌多居士子。那羅達多摩納。水天長者與五百徒衆等。聞佛所說。皆大歡喜。即以五百上衣服。奉覆世尊。復以多種供具。供養世尊。心樂法故。
(Kinh: Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ
Kinh, quyển thứ tư.
Hiền
Hộ Phần, phẩm thứ tám: Khen ngợi công đức.
Lúc
bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát, và Bảo Đức
Ly Xa Tử, trưởng giả Thiện Thương Chủ, con của cư sĩ Già Ha Ngập Đa, Na La Đạt
Đa Ma Nạp, trưởng giả Thủy Thiên, và năm
trăm đồ chúng v.v… nghe lời Phật dạy, đều
hết sức hoan hỷ, liền dùng năm trăm y phục
thượng diệu dâng lên che đức Thế Tôn. Lại
dùng nhiều loại vật cúng để cúng dường
đức Thế Tôn v́ tâm vui thích pháp).
“Tâm
nhạo pháp cố” (do tâm ưa thích pháp): Bốn chữ
này đă nêu rơ năm trăm đồ chúng dùng năm
trăm bộ y phục thượng diệu để dâng
cúng đức Thế Tôn, ḥng biểu lộ sự vui thích
đối với pháp, biểu lộ sự vui sướng,
hớn hở trong nội tâm.
“Đa
chủng cúng cụ” (nhiều loại vật cúng): Không vật
dụng nào chẳng phải là các vật dụng được người cúng
dường hoan hỷ, tôn trọng, yêu thích. Phong tục tập
quán của Ấn Độ là như thế đó. Nhằm biểu lộ
tâm t́nh vui sướng, tâm t́nh tôn trọng của chính ḿnh,
bèn dùng các phẩm vật mà chính ḿnh tôn trọng, yêu thích làm
phương thức biểu lộ. Xá-lợi răng Phật
hay xá-lợi xương Phật ở Trung Hoa thường
được đưa triển lăm tại nước
ngoài, nhất là đến các nước như Miến
Điện, Thái Lan v.v… Các chỗ xe chở xá-lợi đi
qua, người ta đều đem các thứ mà chính ḿnh nghĩ
là quư trọng nhất ném lên
xe. Y phục của các vị pháp sư thủ hộ xe chở
xá-lợi đều bị đè nặng trĩu! Đấy
là một thứ phong tục tập quán của họ.
Người Hoa nếu tôn trọng thứ chi đó, có thể
là tán thán mấy câu, nói mấy lời rất hoan hỷ là
được rồi, “điểm đến th́ dừng”,
chắc chắn chẳng đem những món đồ quư trọng
rải lên đó! Chẳng có thói quen ấy, chẳng có phong
tục ấy! Nhưng tại các quốc gia như Ấn
Độ và Đông Nam Á, họ sẽ biểu hiện có phần
cụ thể hơn!
(Kinh)
Các dĩ kỷ thân phụng thừa Như Lai.
(經)各以己身奉承如來。
(Kinh: Ai nấy
đều dùng thân của chính ḿnh để phụng sự
Như Lai).
Tức
là lễ bái, tán thán, tùy thuận lời dạy của tổ
sư. Như một ngàn hai trăm năm mươi vị
tỳ-kheo thường theo đức Thế Tôn du hóa,
cũng là dùng thân tâm để cúng dường đức
Thế Tôn, dùng công đức quyến thuộc để
trang nghiêm đức Phật.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn cáo A Nan ngôn: - Thị Hiền Hộ
Bồ Tát thường ư bỉ đẳng ngũ bách
đồ chúng, nhi tác nghĩa sư.
(經)爾時世尊告阿難言。是賢護菩薩。常於彼等五百徒衆。而作義師。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn bảo ngài A Nan rằng: - Vị Hiền
Hộ Bồ Tát này thường làm thầy dạy về
nghĩa lư cho năm trăm đồ chúng ấy).
“Nghĩa
sư” là vị hướng dẫn phát tâm, hướng
dẫn về pháp tắc, cho đến hướng dẫn
về cách thành tựu và xác định pháp tu.
(Kinh)
Thuyết chư pháp yếu, giáo hóa ủy dụ.
(經)說諸法要。教化慰喻。
(Kinh: Nói các pháp yếu,
giáo hóa, an ủi, huấn dụ).
Các
vị thiện tri thức thường nói tỷ dụ, muốn
cho chúng sanh hướng tới pháp, tạo thành cơ hội
tăng thượng để thoát ĺa các nạn duyên đối
với pháp. Có khi chúng ta tu pháp sẽ gặp đủ loại
trở ngại, chẳng đủ tư lương, cho
đến nẩy sanh sợ hăi, sanh tâm thoái đọa. V́
thế, hết thảy Bồ Tát và thiện tri thức
đều an ủi, khuyên dụ, thành thục thiện
căn cho người đó, khiến cho người đó
tiến nhập Bồ Đề.
(Kinh)
Linh bỉ hoan hỷ. Dĩ hoan hỷ cố, bỉ bối
tức đắc tùy thuận chi tâm, chân thật chi tâm,
thanh tịnh chi tâm, ly dục chi tâm, trừ chư phiền
năo, vô phục Cái Triền.
(經)令彼歡喜。以歡喜故。彼輩即得隨順之心。真實之心。清淨之心。離欲之心。除諸煩惱。無復蓋纏。
(Kinh: Khiến
cho họ hoan hỷ. Do hoan hỷ, nên họ liền có tâm
tùy thuận, tâm chân thật, tâm thanh tịnh, tâm ly dục,
trừ các phiền năo, chẳng c̣n có Cái và Triền).
“Đắc”
trong từ ngữ “tức đắc” chính là “có thể
thành tựu”. Trong quá tŕnh chúng ta học tập giáo ngôn
Ban Châu, nếu có thể thường xuyên sanh vui mừng
đối với pháp này, thích cúng dường pháp tắc
này, cho đến lễ bái kinh điển, tán thán người
hành pháp, cúng dường người hành pháp, thủ hộ
đạo tràng hành pháp, sẽ đạt được lợi
ích chẳng thể nghĩ bàn nơi Phật pháp, cho tới
thành tựu tín thuận, tùy thuận lợi ích của pháp tắc
này!
“Vô
phục Cái Triền” (Chẳng c̣n có Cái và Triền): Hai
pháp Cái và Triền là nghiệp tướng của chúng sanh. Ở
đây, chúng tôi không ngại nêu ra. Phàm phu trọn đủ
hai pháp Cái và Chướng (tên gọi khác của Triền). “Cái”
được chia thành năm món Cái. Cổ nhân nói [danh tướng của các món Cái] không đồng
nhất. Có người nói [Ngũ Cái] là tài, sắc, danh vọng,
ăn uống, ngủ nghê. Cũng có người cho rằng
[Ngũ Cái] là Tham Dục Cái, Sân Khuể Cái, Điệu Cử
Cái, Thụy Miên Cái (chướng
ngại do ngủ nghê gây ra), và Nghi Cái. “Cái” (蓋) có nghĩa là
khiến cho chúng sanh chẳng thấy được vầng
mặt trời trí huệ, chẳng đạt được
phương tiện trí huệ, trong tâm tối tăm, phần
nhiều chẳng trọn đủ thiện xảo.
Ngũ Cái che lấp tâm thức, khiến cho chánh pháp mai một;
do vậy, chẳng thể đạt được các thiện
xảo nơi thế gian và xuất thế gian.
“Triền”
th́ có Thập Triền, phiền năo nhập tâm. Do nó khiến cho hành nhân chẳng có sức tự tại,
cho nên gọi là Triền (纏, trói buộc). “Cái”
trong phần trước là phiền năo thô nặng, c̣n Triền trong phần sau là Tùy Phiền Năo. Thập
Triền phổ biến nhất nơi con người hiện
thời. Mười loại Triền bao gồm: Một là vô tàm
(chẳng xấu hổ), hai là vô quư (chẳng biết thẹn).
Kẻ chẳng hổ, chẳng thẹn sẽ không có cách
nào tiến nhập pháp tắc, phần nhiều đọa
trong hạng tầm thường, tự thỏa măn, đạt
được chút ít đă cho là đủ. Trong lúc đức
Thế Tôn giảng kinh Pháp Hoa, có năm ngàn người rời
đi. Đức Thế Tôn nói những kẻ tăng
thượng mạn ấy rời đi, rất tốt! V́ sao? V́ họ chứng đắc chút ít đă cho là
đủ, tự cho là đúng. Ba là ngủ nghê, bốn là hậu
hối (làm rồi bèn hối hận), năm là xan (慳, keo kiệt), sáu là tật
(嫉, ganh ghét), bảy là
điệu (掉, lao chao), tám là miên (眠, trầm mê), chín là phẫn
(忿, căm phẫn), mười
là phú (覆, giấu giếm).
Mười Triền pháp do nghiệp phần của chúng
sanh mà hiện. Hiện thời, nếu chúng ta chẳng sử
dụng hành pháp Ban Châu mà mong đối trị Thập Triền
và Ngũ Cái th́ hầu như không có cách nào, rất khó trực
tiếp nhận biết chúng, hoặc điều chỉnh
chúng, nhưng hành pháp Ban Châu tiêu trừ các món Cái và Triền
Phược ấy rất dễ dàng!
Đối
với điều thứ ba là Thụy (睡, ngủ nghê) trong Thập Triền, phải nên nhắc
tới đôi chút. Thông thường, chúng ta cho rằng nhắm
mắt là ngủ. Ngủ gây chướng ngại cho việc sử dụng sức tự tại
của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ư, tức
năm căn bế tắc th́ gọi là Ngủ. Có người
tu pháp trong mộng[1],
người ấy chẳng gọi là Ngủ. V́ sao? Người
ấy đang tu pháp. Nếu chúng ta đă biết pháp tắc
trong Phật pháp, mà vẫn buông lung vô độ, tham ngủ
nghê, th́ về sau sẽ hối hận. Về sau hối hận ǵ
vậy? Luống uổng một đêm, luống uổng một
ngày, ngày này qua ngày nọ luống uổng như thế
đó. Trong một đời người, ta dùng mất nửa
thời gian để ngủ; thực tế là thuộc vào
trạng thái chẳng thể tự chủ. Ban ngày, khi mặt
trời mọc, chúng ta trông thấy tướng quang minh,
toàn thể nhân loại đều được ánh sáng mặt
trời soi rọi, khá có tinh thần, các thứ hành vi có thể
rơ ràng hơn, tự chủ hơn. Khi mặt trời lặn,
khi màn đêm buông xuống, sẽ dễ buồn ngủ, tâm
trí mất đi sự tự chủ. Đó là tướng
biểu hiện của cộng nghiệp.
Trong
tướng biểu hiện của cộng nghiệp, chúng
ta sẽ cảm nhận, và cũng có thể trông thấy:
Lúc ngủ, sức tự chủ của chúng ta bị vùi lấp
bởi sự bức bách của nghiệp, bị đè nén
bởi cảm nhận, bị vô minh đè nén. Do bị đè nén mà chẳng
đắc lực. V́ thế, trong khi mơ ngủ, phần
nhiều chẳng tự chủ. “Dạ” (ban đêm) có
ư nghĩa “tối tăm
che phủ”. Thật ra, ban
ngày chúng ta có tự chủ hay chăng? Chẳng phải là
thường bị tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến sai
khiến ư? Nếu là như vậy, trong lúc ban ngày và
trong mộng, chúng ta đều chẳng thể tự chủ,
kết quả là một kẻ thường mơ màng,
tăm tối!
“Tứ
hối” (Điều thứ tư là Hối): Đối
với Hối (悔), trong Phật
giáo thường nói đến sám hối, chẳng có duyên
gây ra hậu hối (後悔, hối hận
sau khi đă làm chuyện ǵ đó). Hậu hối phần
nhiều là v́ nhân duyên “kết quả
đạt được chẳng tương ứng với
ḷng mong mỏi của chính ḿnh”, bèn nẩy sanh một thứ
tướng phiền năo. Do vậy, gọi là Triền,
cũng gọi là Tùy Phiền Năo. Người hậu hối
sẽ thường nói: “Ôi trời ơi! Ta chẳng nên làm
chuyện này, ta chẳng thể làm chuyện kia…” Người
như thế suốt đời chẳng thành tựu chuyện
ǵ! Những người có trí huệ đă sớm biết
duyên khởi, quá tŕnh và kết quả, chọn lựa rơ
ràng pháp tắc như thế, sẽ tuyệt đối chẳng
khiến cho chính ḿnh bị che lấp mê mờ, cũng sẽ
chẳng bị sự tướng che lấp, càng chẳng
bị mê mờ v́ điều được, lẽ mất!
“Ngũ
xan” (Điều thứ năm là Xan): “Xan” (慳, keo kiệt) là chẳng
nỡ bỏ các vật. Đối với tài vật, chính
ḿnh c̣n chẳng thể dùng, huống hồ cho người
khác ư? Hữu t́nh thời Mạt Pháp ích kỷ, keo kiệt
rất nghiêm trọng!
“Lục
tật” (điều thứ sáu là ghen ghét): Chẳng muốn
kẻ khác hơn ḿnh, đó là Tật (嫉, ghen ghét). V́ thế, do cái tâm hiếu thắng, sẽ
có lắm điều ghen tỵ. Người ghen tỵ cần
phải hành pháp tùy hỷ cho nhiều, thường hành pháp
tùy hỷ khiến cho tâm trí của chính ḿnh sáng sủa, an trụ
trong lợi ích rộng lớn, coi sự thành tựu của
người khác như sự thành tựu của chính ḿnh.
Như thế th́ thiện duyên sẽ trọn đủ, tự
thân an lạc. Trong thời đại này, cái tâm so đo, háo
thắng khá nhiều. Do vậy, chính là thời đại
đấu tranh kiên cố, cái tâm ghen tỵ mười phần
phổ biến. Chúng ta phải nên tự khéo tư duy, tiêu trừ nó (tâm ghen tỵ) từ nghiệp
tướng của chính ḿnh. Dùng tâm trí tùy
hỷ và tán thán để tùy hỷ công đức và thiện
duyên của người khác, tùy hỷ phước báo
và thành tựu của người khác. Như thế th́
chúng ta sẽ đạt được sự an vui rộng
lớn, v́ lúc quư vị tùy hỷ sự thành tựu của
người khác, nếu thấy người khác thành tựu
cũng giống như chính ḿnh đạt được. Như vậy
th́ sẽ nẩy sanh sự vui sướng và an lạc, sẽ
sống hết sức ḥa b́nh, rộng lớn, xa ĺa các khổ
năo bức bách trong tâm. Có nhiều hữu t́nh muốn hơn
người khác đă lâu, vĩnh viễn mong luôn ở trong
trạng thái tôn quư, giỏi giang hơn người khác.
Đó là tâm trí Tu La. Kết quả của tâm trí như thế
là cuộc sống đấu tranh chẳng ngơi, quá khó
khăn, quá khổ sở. Cuộc sống như vậy sẽ
khá bức bách!
“Thất
điệu” (điều thứ bảy là lao chao): “Điệu
cử” (掉舉, trạo cử)
là tâm trí bộp chộp, thiện căn
khá mỏng ít, là kẻ hư vọng chấp giữ “lấy,
bỏ”, rất khó có tâm trí trầm tĩnh, b́nh thản. Tâm
trí chẳng an, chẳng thể thủ hộ điều
ǵ, chẳng được an vui trong các cảnh giới.
Đó gọi là chẳng thể Chỉ, tức là tu tŕ
Xa-ma-tha sẽ khó thể thành tựu. Hôn trầm và điệu
cử là một cặp pháp đối ứng. Hữu t́nh
trong thời Mạt Pháp nếu chưa đắc Thiền
Định, phần nhiều chẳng hôn trầm th́ sẽ
đọa vào điệu cử. Chẳng điệu cử,
ắt sẽ rơi
vào hôn trầm, chẳng thể thoát ra, chẳng có con
đường thứ ba để đi! Nhưng con
đường thứ ba chính là Chỉ Quán thành tựu,
đạt được niềm vui tam-muội.
“Bát
miên” (Điều thứ tám là Miên): Mê ngủ có tính chất
hôn trầm kéo dài, chẳng thể tự khống chế.
“Cửu
phẫn” (Món Triền thứ chín là phẫn): V́ tâm chẳng
tương ứng, chẳng thể sanh ra lợi lạc,
bèn sanh sân hận. Cổ nhân nói “phẫn phẫn bất
b́nh”. Tuy chẳng kịch liệt như Sân Hận,
nhưng cũng là một thứ phiền năo. V́ vậy, nói
Phẫn là Năo Hoạn.
“Thập
phú” (món triền phược thứ mười là Giấu
Giếm): Thường che giấu khuyết điểm của
chính ḿnh, mong tự bào chữa, v́ sợ mất danh dự.
Danh dự đúng là hư giả, nhưng rất nhiều
người v́ danh dự hư dối, chẳng tiếc sức
giấu giếm. Người thời Mạt Pháp, nghiệp
duyên hừng hực, tạp duyên hừng hực, thường
xuyên qua lại với người khác, suốt đời
siêng năng tạo lỗi, tức là cơ hội phạm
phải lầm lỗi rất nhiều. Chỉ cần tỏ
lộ th́ sẽ được an lạc, giống như
phương tiện vứt bỏ rác rưởi, nhưng
nếu che giấu khuyết điểm, sẽ giống
như tiếc nuối, cất giấu rác rưởi! Có
các vị Bồ Tát suốt đời siêng năng tom góp rác
rưởi, thường hay tự bào chữa, luôn mong tô vẽ
cho chính ḿnh có bộ dạng rất viên măn, rất thiện
lương, rất nghiêm túc. Kết quả là tự thân hứng
chịu tràn trề các lỗi lầm v́ chẳng như thật!
V́ lỗi lầm chẳng có tự tánh, cho nên hễ sám hối
bèn được an lạc!
V́
sao phải nêu ra hai loại Triền và Cái? Chính là do chúng ta sống
trong thời Mạt Pháp, trong khi tu tập, chẳng nhận
biết rơ ràng, nhưng đấy lại là một nghiệp
tướng đặc biệt trọng yếu. “Tham, sân,
si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng” khá thô nặng,
thông thường chúng ta có thể thấy được,
nhưng các món Triền sau đó như vô tàm, vô quư, hôn trầm, điệu cử, hậu hối, keo tham, ghen tỵ,
mọi người chẳng để ư. Thật ra, chúng nó
đều có thể sanh khởi căn bản phiền năo
giống y hệt như năm món trước (tham, sân, si,
mạn, nghi). Hễ hơi nặng hơn th́ “tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh
đáng” là sáu món căn bản phiền năo sẽ bộc lộ.
Sáu căn bản phiền năo ấy mười phần thô
nặng! Nhưng người học Phật trong hiện
thời, đội cái mũ “là người học Phật”
th́ đông, chỉ là đeo đội để trang sức,
chứ thật ra chẳng phải vậy. Nếu chẳng
đối trị thích đáng “tham, sân, si, mạn, nghi, tri
kiến chẳng chánh đáng” của chính ḿnh, tiêu trừ
nó, chuyển hóa nó, sẽ chẳng trở thành người
học Phật! Chẳng thể tiêu trừ Tùy Phiền Năo
của chính ḿnh, quư vị học Phật để làm ǵ?
Có ư nghĩa chi đâu? Nhưng người hiện thời
khoác lấy danh xưng học Phật đông lắm, kẻ
tiêu trừ phiền năo của chính ḿnh ít ỏi! Do vậy, “ĺa
khổ, được vui” ít kẻ đạt
được! V́ nỗi khổ phiền năo, nỗi khổ
do Sở Tri Chướng, bất luận là phiền năo thô
nặng, hay Tùy Phiền Năo, đều đem đến nỗi
khổ cho chúng ta là chuyện rất rơ ràng, xác đáng! Chẳng
hạn như chúng ta có thể trực tiếp cảm nhận
nỗi khổ tham, sân, si. Nếu chúng ta thông qua học tập
và tu tập Phật pháp, khéo điều chỉnh, khéo nhận
thức, thoát khỏi chúng, sẽ có thể ĺa khổ,
được vui, mà cũng có thể khiến cho người
khác ĺa khổ, được vui, cũng chính là tự lợi
và lợi tha, tự giúp ḿnh, giúp đỡ người khác.
Nhắc
nhở những điều này là v́ người học Phật
trong hiện thời tự giát vàng đông lắm, tự
ḿnh trang hoàng cho bản thân càng ngày càng “giống”, tức là
bề ngoài càng ngày càng giống [người
đang tu hành] Phật pháp, nhưng nội dung càng
ngày càng đậm phiền năo! Có kẻ Sở Tri Chướng
càng ngày càng nhiều, có kẻ phiền năo càng ngày càng nặng,
học Phật như thế chính là đi ngược
đường. V́ thế, đa văn càng lắm, chỉ
ăn nói tăng thêm lưu loát, khinh mạn kẻ khác, phiền
năo lừng lẫy, tạo các ác nghiệp, đời này khổ
nạn, đời sau ắt hẳn sẽ bị nhiều
quả báo ác, tất nhiên sẽ đọa lạc, chẳng
được nghe danh tự Tam Bảo. V́ sao vậy? V́ vận
dụng Phật pháp hư giả, chẳng chân thật.
Như thế th́ quả thật là vô nghĩa. Các vị thiện tri thức ơi! Đối với
chuyện này, chúng ta nhất định phải đích thân
khéo quan sát nhé!
(Kinh)
Thời ngũ bách nhân, nhất tâm hiệp chưởng,
cung kính đảnh lễ, thoái trụ nhất diện.
Nhĩ thời, Hiền Hộ tức bạch Phật ngôn;
- Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc kỷ pháp, nhi
năng đắc thử Niệm Phật tam-muội dă?
(經)時五百人。一心合掌。恭敬頂禮。退住一面。爾時賢護即白佛言。世尊。菩薩摩訶薩具足幾法。而能得此唸佛三昧也。
(Kinh: Khi đó,
năm trăm người nhất tâm chắp tay, cung kính
đảnh lễ, đứng lui qua một phía. Lúc bấy
giờ, ngài Hiền Hộ liền bạch cùng đức
Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát trọn
đủ mấy pháp sẽ có thể đắc Niệm Phật
tam-muội này?)
Khắp
nơi trong kinh điển đều khơi gợi mọi
người liễu giải chỗ y chỉ cơ bản để tu tŕ ḥng thành tựu môn Niệm Phật tam-muội
này.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Hiền Hộ ngôn: - Hiền Hộ!
Nhược Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc tứ pháp, đắc
thị tam-muội.
(經)爾時世尊。告賢護言。賢護。若菩薩摩訶薩。具足四法。得是三昧。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn bảo Hiền Hộ rằng: - Này Hiền
Hộ! Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ bốn
pháp, sẽ đắc
tam-muội này).
“Cụ
túc tứ pháp” tức là có thể tương ứng với
bốn pháp.
(Kinh)
Hà đẳng vi tứ? Nhất giả, bất trước
nhất thiết ngoại đạo ngữ ngôn.
(經)何等爲四。一者不著一切外道語言。
(Kinh: Những ǵ
là bốn? Một là chẳng chấp trước các lời
lẽ của ngoại đạo).
“Nhất
thiết ngoại đạo ngữ ngôn” (hết thảy
lời lẽ của ngoại đạo) không ǵ chẳng
phải là cầu pháp ngoài tâm, tâm trí hư vọng tăng giảm,
tâm trí tạo tác, đáng gọi là pháp tắc hữu lậu
của các tạp duyên hừng hực trong sự liên tục
đối đăi nhị nguyên, là pháp tắc sanh diệt, là
pháp tắc thiện ác, là các loại như thế. Chúng ta
biết: Trong giáo ngôn, đức Thế Tôn đă nói lời
như thật, lời chân thật, lời vô lậu, lời
trí huệ, lời từ bi, lời phương tiện.
Các lời lẽ như thế
đều là cơ sở y chỉ của việc chứng
tam-muội. V́ sao rất nhiều người niệm Phật, hoặc tŕ chân ngôn, dẫu hằng ngày niệm tám vạn
câu Phật hiệu, hoặc sáu vạn câu Phật hiệu,
tŕ chân ngôn mấy ngàn biến, mấy vạn biến,
nhưng phiền năo vẫn hừng hực y như cũ?
Điều chủ yếu nhất là do chẳng nắm chắc
một điểm, chẳng nhận biết, tức là nói
dối, nói thêu dệt chưa ngưng dứt. Ác tâm, hư
ngụy tâm, mạn tâm chưa ngưng dứt. Tu tŕ như
thế th́ chân ngôn chẳng thể thành tựu, niệm Phật
chẳng thể tương ứng. Nếu chúng ta chẳng
biết khéo ǵn giữ khẩu nghiệp, chân ngôn sẽ chẳng
thể nào thành tựu được! Nếu chúng ta chẳng
khéo thủ hộ tâm trí, sẽ không có cách ǵ thành tựu niệm
Phật được! Do vậy, là người niệm
Phật cũng thế, mà người tŕ chân ngôn cũng thế,
hăy nói lời thành thật, lời chân thật, thủ hộ
tâm địa nhất như, càng là trọng yếu! Đừng
nên dùng cái tâm hư vọng, tâm hư giả tạo nhiều
khẩu nghiệp. Nếu cứ như thế mà mong có thành
tựu, sẽ chẳng tương ứng. Đối với
chuyện này, chúng ta nhất định phải tự ḿnh
chú tâm coi trọng.
(Kinh)
Nhị giả, bất nhạo nhất thiết chư ái dục
sự.
(經)二者不樂一切諸愛慾事。
(Kinh: Hai là chẳng
ưa thích hết thảy các chuyện ái dục).
Chuyện ái dục
mười phần rộng khắp. Có người nói:
Trong Dục Giới này, do có t́nh thức
mà yêu mến lẫn nhau. T́nh yêu mến ấy do v́ lẽ ǵ
mà yêu mến? Do nghiệp vô minh thôi thúc, sai khiến, chẳng
thể tự khống chế được. Có kẻ say
mê tiền tài, có người say mê thế lực, có kẻ
say sưa danh vọng, có kẻ yêu mến oai đức. Cho
đến người học Phật bèn yêu chuộng [cái
danh] “ta là người học Phật”. Xét tới nhân duyên
thực tế, lợi ích thực tế, [các thứ đó]
có phải là tồn tại hay không? Cái
được gọi là “ái dục” là v́ mê mất mà
kiến lập, do thiếu khuyết mà kiến lập, tức
là tâm trí chẳng đầy đủ, chẳng trọn
đủ, chẳng biết cội nguồn, mà tạo thành
một sự khúc xạ trong pháp đối đăi, đó là điều
hữu t́nh trong Dục Giới đều cùng có. Nếu xa
ĺa ái dục, các môn Thiền Định, tức Sắc Giới
thiện xảo, sẽ tự nhiên hiện tiền, sanh vào
Sắc Giới Thiên, hoặc là ở trong nhân gian mà hưởng
thụ đủ loại vui sướng của Sắc Giới
Thiên. Chúng ta có thể khéo quan sát chuyện này.
(Kinh)
Tam giả, thường bất viễn ly Đầu Đà
công đức.
(經)三者常不遠離頭陀功德。
(Kinh: Ba là thường
chẳng xa ĺa công đức Đầu Đà).
Đó
gọi là “thiểu dục, tri túc” để nuôi thân,
như thật thủ hộ pháp tắc tịch tĩnh, yêu
thích chốn A Lan Nhă, cho đến buông bỏ các duyên trong
tâm và các duyên bên ngoài. “Xả” là chẳng nắm níu,
đúng như thật mà tiến nhập, thủ hộ tịch tĩnh.
(Kinh)
Tứ giả, thường yếm tam giới chư hữu
sanh xứ.
(經)四者常厭三界諸有生處。
(Kinh: Bốn là
thường chán các chỗ “có sanh” trong tam giới).
Tam
giới là Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới.
Chúng ta nói người tu pháp hiện thời phần nhiều
phiền năo thô nặng, cho đến đối với Tùy
Phiền Năo, chẳng thể tiêu trừ, chuyển hóa tướng
phiền năo, nghiệp phiền năo, và nỗi khổ phiền
năo của chính ḿnh. Căn bản là chẳng thể nói
đến chuyện thoát tam giới được, v́ chẳng
mảy may dính líu đến xuất tam giới. Nếu
chúng ta nhờ vào Phật pháp để kết duyên th́
cũng là có ư nghĩa! Nhưng nếu hiện thời gặp
gỡ Phật pháp mà không trừ phiền năo nơi tự
thân, cũng như phiền năo của người khác, bất
luận là căn bản phiền năo, hay Tùy Phiền Năo,
chúng ta đều phải nên xét kỹ Phật pháp rốt
cuộc làm ǵ? Phật pháp
xuất hiện trong cơi đời là v́ muốn trừ Sở
Tri Chướng và Phiền Năo Chướng, thành tựu Bồ
Đề cho chúng sanh. Người tu tập Phật pháp, nếu
tâm sân hận sâu nặng, tâm đố kỵ sâu nặng,
tâm phiền năo sâu nặng, tâm tham dục sâu nặng, chẳng
thể tự kiềm chế, thậm chí khổ chẳng
thể nói nổi. Khi đó, cần phải điều chỉnh,
nhận thức chính ḿnh và pháp tắc đă học, để
coi xem chính ḿnh có phải là
người thật sự tu tập, ứng dụng, thành
tựu pháp tắc hay không? Nếu chẳng như vậy, sẽ
vẫn là một kẻ khoác lấy danh tiếng Phật
pháp hư giả, giống như kẻ nắm giữ báu ma-ni
có thể xuất sanh vạn vật mà lại đi ăn
mày. Nói theo cách nói phổ biến nhất trong quá khứ th́
là “nă trước kim oản khứ yếu phạn” (cầm
chén vàng đi xin ăn)!
(Kinh)
Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc tứ
pháp, đắc thử tam-muội.
(經)賢護。是爲菩薩摩訶薩具足四法。得此三昧。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Đó là Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ bốn pháp,
đắc tam-muội này).
Chúng
ta hăy khéo quan sát, khéo tu tập, có thể tương ứng
trọn đủ bốn pháp ấy, ắt chứng tam-muội
sẽ chẳng phải là chuyện khó. Nếu chẳng trọn
đủ [bốn pháp ấy], đối với tam-muội
này, chẳng cần phải bàn tới, chẳng dính dáng, v́
vẫn c̣n cách biệt quá xa, vẫn phải nên buông bỏ rất
nhiều thứ!
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Nhược hữu thiện
nam tử, thiện nữ nhân độc tụng, thọ
tŕ thị tam-muội điển, hoặc thời phục
năng vị tha giải thuyết, hiện tiền tức
hoạch ngũ chủng công đức.
(經)復次賢護。若有善男子善女人。讀誦受持是三昧典。或時復能爲他解說。現前即獲五種功德。
(Kinh: Lại này Hiền
Hộ! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân
đọc tụng, thọ tŕ kinh điển tam-muội
này, hoặc có khi lại có thể v́ người khác giải
nói, hiện tiền sẽ đạt được
năm loại công đức).
Đây
là hai pháp. Một là tự ḿnh đọc tụng, thọ
tŕ kinh điển tam-muội này, đạt được
năm thứ công đức và lợi ích. Hai là khi v́ người
khác giải nói, sẽ liền đạt được
năm thứ công đức trong hiện tiền. Chúng ta có
thể nghiệm chứng năm loại công đức ấy
và lợi ích của chúng. V́ báng pháp th́ sẽ có nỗi khổ
do báng pháp, chửi bới sẽ tự có nỗi khổ do
chửi bới, hành pháp sẽ tự có niềm vui do hành
pháp. Đối với lạc, chúng ta có thể như thật quan sát. Đức Thế Tôn dạy: Tŕ
tụng kinh điển này, cho đến v́ người
khác giải nói, sẽ có năm thứ
công đức. Sau khi chúng ta đă có nhân duyên tự ḿnh
đọc tụng, do nhân duyên trao đổi, giải nói với người khác, sẽ có thể thấy
năm thứ công đức ấy tương ứng hay
không? Nếu tương ứng, tức là chư Phật nói
lời thành thật. Nếu chẳng tương ứng, lẽ
nào Phật chẳng nói lời thành thật ư? Hăy nên tự
hỏi ngược lại
chính ḿnh, xét xem chính ḿnh có phải là thật sự
đọc tụng kinh điển này, v́ người khác giải
nói hay không? Như thế chính là hành chân thật!
(Kinh)
Hà đẳng vi ngũ? Nhất giả, nhất thiết
chúng độc bất năng tổn hại.
(經)何等爲五。一者一切衆毒不能損害。
(Kinh:
Những ǵ là năm? Một là hết thảy các chất
độc chẳng thể tổn hại).
Do
công đức hành pháp hoặc tụng kinh, hết thảy
các chất độc chẳng thể tổn hại. Quư vị
nói: “Tôi cố ư t́m các chất độc đến thử
xem sao?” Tâm trí kiểu đó chẳng tương ứng!
Cũng có nghĩa là: Nếu chúng ta thật sự tu tập
pháp tắc này, hết thảy các thứ độc hại
do thiếu ư thức, hoặc các thứ độc hại
của người khác đều chẳng thể làm hại
chúng ta!
(Kinh)
Nhị giả, nhất thiết binh trượng bất
năng phá thương.
(經)二者一切兵仗不能破傷。
(Kinh: Hai là hết
thảy các thứ vũ khí chẳng thể gây thương
tổn).
Chẳng
bị vũ lực, hung khí gây thương tổn. Ở
đây, đức Thế Tôn nói đến lợi ích và công
đức trong hiện tiền. Chúng ta chớ nên sợ hăi
lợi ích, mà cũng đừng nên tham cầu lợi ích;
chỉ nên như thật đối diện lợi ích này!
(Kinh)
Tam giả, nhất thiết chư thủy bất năng
phiêu một.
(經)三者一切諸水不能漂沒。
(Kinh: Ba là hết
thảy các thứ nước chẳng thể trôi ch́m được).
Đương
nhiên đây chẳng phải là để cho chúng ta thí nghiệm,
chẳng hạn như nói: “Ta nhảy xuống nước
xem sao?” Nhất định đừng nên có loại tâm lư
chẳng tương ứng ấy. Đức Thế Tôn
nói các pháp ấy, hoàn toàn chẳng v́ để cho chúng ta
thách thức các nạn duyên ấy, mà nhằm bảo chúng ta:
Giả sử nhằm lúc có nạn
duyên ấy hiện tiền, công đức và lợi ích ấy
sẽ hiện tiền.
(Kinh)
Tứ giả, nhất thiết mănh hỏa bất năng
phần thiêu. Ngũ giả, ác vương, huyện quan bất
năng đắc tiện.
(經)四者一切猛火不能焚燒。五者惡王縣官不能得便。
(Kinh:
Bốn là hết thảy lửa mạnh chẳng thể
thiêu đốt. Năm là vua ác và quan huyện chẳng thể
có dịp làm hại).
Kẻ
ác không ǵ chẳng v́ tâm trí chỉ quan tâm đến lợi ích
hiện tiền. Ở đây, nói cách khác là chẳng bị
kẻ nắm giữ quyền cao chức trọng nô dịch,
sai sử.
(Kinh)
Sở dĩ giả hà? Do thị tam-muội từ tâm lực
cố.
(經)所以者何。由是三昧慈心力故。
(Kinh: V́ cớ sao
vậy? Do sức từ tâm của tam-muội này vậy).
Đọc
tụng hoặc v́ người khác giải nói, sức từ
tâm của tam-muội này sẽ tự nhiên tương ứng.
Tuy chưa chứng tam-muội, sức ấy đă sanh khởi. Cũng có nghĩa là: Tuy đă giải nói
cho người khác, tam-muội vẫn chưa tương ứng,
nhưng sức tam-muội đă sanh khởi chủng tánh chín
muồi trong tâm Từ, cho đến có thể
nói là cơ chế hoàn thiện. Do vậy sẽ đắc
lực, tức là sẽ đắc lực khi nạn duyên
hiện tiền.
(Kinh) Hiền Hộ! Nhược bỉ thiện
nam tử, thiện nữ nhân, nhất tâm cần
cầu thị tam-muội thời, độc tụng, thọ
tŕ thị tam-muội thời, tư duy tu tập thị tam-muội
thời, vị tha giải thích thị tam-muội thời.
(經)賢護。若彼善男子善女人。一心勤求是三昧時。讀誦受持是三昧時。思惟修習是三昧時。爲他解釋是三昧時。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy khi nhất
tâm siêng cầu tam-muội này, khi đọc tụng, thọ
tŕ tam-muội này, khi tư duy, tu tập tam-muội này, khi
v́ người khác giải thích tam-muội này).
Đây
là bốn loại chúng sanh, tức là các chúng sanh dùng bốn
loại phương pháp để tiếp xúc giáo ngôn của
tam-muội này: Có người là cầu tam-muội này, có
người th́ đọc tụng, thọ tŕ tam-muội
này, có người tu tập, tư duy tam-muội này, có
người v́ kẻ khác giải nói tam-muội này. Bốn
loại hữu t́nh ấy đạt được công
đức và lợi ích như sau…
(Kinh)
Nhược hữu chúng độc, cập dĩ binh
trượng, nhất thiết thủy, hỏa, ác
vương, huyện quan năng thương hại giả,
vô hữu thị xứ!
(經)若有衆毒及以兵仗。一切水火惡王縣官。能傷害者。無有是處。
(Kinh:
Nếu có các thứ chất độc, cùng
với vũ khí, hết thảy nước, lửa, vua ác,
quan huyện có thể tổn thương [người hành
tŕ, đọc tụng, tư duy, tu tập,
v́ người khác giải nói tam-muội này],
chẳng có lẽ ấy).
V́
sao đức Thế Tôn cổ vũ chúng ta như vậy?
Thật ra, Ngài như thật bảo cho chúng ta biết lợi
ích do tư duy tam-muội này, lợi ích do giải nói tam-muội
này, lợi ích do siêng cầu tam-muội này, lợi ích do
đọc tụng, thọ tŕ tam-muội này. Trong bốn loại
cơ chế, lợi ích đều giống hệt như
nhau!
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Giả sử thế gian Hoại Kiếp chi hỏa,
thế giới diễm hách, thiên địa đỗng
nhiên. Nhược bỉ thọ tŕ thử tam-muội điển,
chư thiện nam tử cập thiện nữ nhân, thiết
linh đọa lạc đại kiếp hỏa trung, tam-muội
oai thần, bỉ hỏa tức diệt.
(經)復次賢護。假使世間壞劫之火。世界焰赫。天地洞然。若彼受持此三昧典。諸善男子及善女人。設令墮落大劫火中。三昧威神。彼火即滅。
(Kinh:
Lại này Hiền Hộ! Giả sử khi thế gian bốc
lửa Hoại Kiếp, thế giới cháy sáng rực, trời
đất rỗng tuếch, nếu các thiện nam tử
và thiện nữ nhân thọ tŕ kinh điển tam-muội
này, dù rơi vào lửa đại kiếp, do sức oai thần
của tam-muội, lửa ấy bèn tắt).
Trong
phần trước, đức Thế Tôn đă thọ kư
mười phần rơ rệt, nơi một ngàn đức
Phật trong Hiền Kiếp, cho đến tột cùng
đời vị lai, có năm trăm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cho đến tám vị Đại
Sĩ v.v… đều thủ hộ sự thiện xảo của
tam-muội này, chẳng để kinh điển bị mai
một trong thế gian, độ nhiều chúng sanh, lợi ích rộng
khắp nhiều hữu t́nh. Đời đời tiếp
tục như thế, Ngài lại c̣n nói: Khi Di Lặc Phật
Thế Tôn giáng thế, pháp này cũng được thanh tịnh
tiếp nối, lưu truyền rộng khắp trong thế
gian. Do vậy, sức của môn tam-muội này chẳng phải
là pháp riêng biệt, hoặc phương pháp giải thoát
riêng biệt của đức Thế Tôn, mà đều có
thể truyền bá rộng khắp trong các nơi chốn của
mười phương chư Phật, khiến cho hết
thảy hữu t́nh hữu duyên đều có thể đạt
được lợi ích chân thật rộng lớn.
Chư vị thiện tri thức ơi! Chúng ta liên tưởng
văn tự trong phần trước, sẽ có cảm nhận
và quan sát rành rẽ đối với lời dạy của
đức Thế Tôn.
(Kinh)
Hiền Hộ! Hựu như anh thủy năng diệt tiểu
hỏa. Như thị Hiền Hộ! Giả sử tŕ kinh
chư thiện nam tử, cập thiện
nữ nhân, lạc bỉ hỏa trung, tam-muội
lực cố, đại hỏa tùy diệt. Nhược bất
diệt giả, vô hữu thị xứ.
(經)賢護。又如罌水能滅小火。如是賢護。假使持經諸善男子及善女人。落彼火中。三昧力故。大火隨滅。若不滅者。無有是處。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Lại như nước từ cái ṿ có
thể diệt lửa nhỏ. Như thế đó Hiền
Hộ! Giả sử các thiện nam tử và thiện nữ
nhân tŕ kinh rơi vào lửa ấy, do sức của tam-muội,
lửa lớn liền tắt. Nếu chẳng tắt, chẳng
có lẽ ấy).
Bọn
phàm phu b́nh phàm chúng ta chẳng thể thấy biết kiếp
hỏa. Nếu kiếp hỏa xảy ra, sanh mạng sẽ
không có chỗ nào nương nhờ. Ở đây, đức
Phật nói tướng đại công đức có thể
diệt kiếp hỏa khi kiếp hỏa xảy ra. Đức
Thế Tôn là đấng nói lời thành thật, muốn khiến
cho chúng sanh thật sự nhận thức lợi ích của
pháp tắc này trong Phật pháp, cho đến lợi ích của
tam-muội.
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Nhược bỉ thiện
nam tử, thiện nữ nhân thọ tŕ kinh thời, nhược
bỉ ác vương, nhược ác huyện quan, nhược
kiếp tặc, nhược sư tử, nhược hổ
lang, nhược độc xà, nhược năng tác
chướng ngại giả, vô hữu thị xứ.
(經)復次賢護。若彼善男子善女人受持經時。若彼惡王。若惡縣官。若劫賊。若師子。若虎狼。若毒蛇。若能作障礙者。無有是處。
(Kinh:
Lại này Hiền Hộ! Nếu thiện nam tử, thiện
nữ nhân ấy lúc thọ tŕ kinh mà hoặc là vua ác, hoặc
quan huyện ác, hoặc giặc cướp, hoặc sư
tử, hoặc cọp, sói, hoặc rắn độc giả sử có thể gây chướng
ngại th́ chẳng có lẽ ấy).
Không
chỉ là chẳng bị kiếp hỏa tổn hoại, mà
các ác duyên cũng chẳng thể thành tựu, cũng chẳng
có lẽ ấy!
(Kinh)
Hựu thiết bỉ đẳng hành thị kinh thời,
nhược bị dạ-xoa, nhược
La-sát, nhược
ngạ quỷ, nhược Cưu Bàn Trà,
nhược Tỳ Xá Xà, năi chí nhất thiết phi nhân năng
vi chướng ngại, diệc vô hữu
thị xứ.
(經)又設彼等行是經時。若被夜叉。若羅剎。若餓鬼。若鳩槃茶。若毗舍闍。乃至一切非人。能爲障礙。亦無有是處。
(Kinh:
Lại giả sử những người ấy khi tu hành
kinh này, nếu bị dạ-xoa, hoặc la-sát, hoặc ngạ
quỷ, hoặc Cưu Bàn Trà, hoặc Tỳ Xá Xà, cho đến
hết thảy phi nhân có thể gây chướng ngại th́
cũng chẳng có lẽ ấy).
Trong
phần trước đă nói thế gian chẳng thể
xâm hại; ở đây nói quỷ thần cũng chẳng
thể xâm hại.
(Kinh)
Hựu nhược bỉ nam tử, nữ nhân độc
tụng kinh thời, chánh tư duy thời, vị tha thuyết
thời, nhập tam-muội thời.
(經)又若彼男子女人讀誦經時。正思惟時。爲他說時。入三昧時。
(Kinh:
Lại nếu người nam kẻ nữ ấy khi đọc
tụng kinh, khi chánh tư duy, khi v́ người khác nói, khi
nhập tam-muội).
Trong
bốn loại cơ chế ở đây, hoặc là khi
đọc tụng, khi v́ người khác giảng nói, khi
tư duy, khi nhập tam-muội, lợi ích đều giống
nhau. Chẳng phải là đă chứng đắc tam-muội
th́ mới có lợi ích như thế. Khi đọc tụng,
lợi ích cũng giống hệt. Khi tư duy, lợi ích cũng
giống như hệt. Khi nói cho người khác, lợi
ích giống hệt. Khi nhập tam-muội, lợi ích giống
hệt. Dù là khi tu nhân, hay khi vừa mới hướng
đến, hay được tiếp xúc, cho đến một
niệm tùy hỷ, cũng đạt được lợi
ích chẳng thể nghĩ bàn này. Như thế th́ chúng ta sẽ
yêu mến pháp tắc này, tiếp xúc tam-muội này sẽ
phát khởi duyên khởi rộng lớn, thanh tịnh, chân
thật, tức là duyên khởi lợi ích thế gian, ta lẫn
người đều được lợi.
(Kinh)
Hành phạm hạnh thời, nhược thất y, nhược
thất bát, năi chí hữu chư chướng ngại sự
giả, vô hữu thị xứ.
(經)行梵行時。若失衣若失鉢。乃至有諸障礙事者。無有是處。
(Kinh:
Khi hành phạm hạnh, nếu mất y, hoặc là mất
bát, cho đến có các chuyện chướng ngại th́ chẳng
có lẽ ấy).
Đức
Thế Tôn nói công đức và lợi ích của pháp tắc
này đến chỗ cực vi tế, thậm chí những
chi tiết vặt vănh trong cuộc sống, như các chuyện
nhỏ nhặt như mất y, mất bát v.v… Ngài đều
nhắc nhở chúng ta: “Do hành pháp này, sẽ chẳng có
chướng ngại như thế”. Trước kia, khi tôi
ở trong núi, thường có kẻ hỏi: “Ở trong núi
có ǵ ăn? Dùng ǵ đây?” Thật ra, nếu chúng ta thật
sự nương theo lời giáo huấn của Thích Ca Thế
Tôn, bất luận sống ở chỗ hẻo lánh tới
mấy đi nữa, chẳng cần phải lo nghĩ v́
cơm áo. Quư vị có thể thí nghiệm thử xem! Quư vị
hành tŕ đúng pháp, đọc tụng đúng pháp, thâm nhập
pháp tắc đúng pháp, chánh tư duy quan sát pháp tắc này,
quư vị sẽ đạt được lợi ích chẳng
thể nghĩ bàn. Trước kia, vị thầy quy y của
tôi khi vừa mới tiếp xúc Phật pháp, thầy thường
ở trong núi. Mỗi ngày, hai giờ sáng thầy
thức dậy, trèo lên núi để tu tŕ pháp mà thầy
nghĩ là đáng nên tu tŕ. Có khi tới các chỗ rất hẻo
lánh, nơi chẳng có người sống để tu tập
pháp tắc, thường chẳng có cơm ăn. Chẳng
phải là chính thầy không có cơm ăn, mà là do Ngài
thường chẳng có ư nghĩ nấu cơm. [Thế
nhưng] cứ mỗi khi thầy cảm thấy đói bụng,
sẽ thường có người đưa thức ăn
tới. Thầy gặp rất nhiều chuyện như thế.
Sau đó, tôi ở trong núi, cũng đích thân thể nghiệm
như thế rất nhiều. Không chỉ là sự ăn uống
và tiêu dùng của chính ḿnh, mà cho đến pháp tắc, cho
đến các nhân duyên khác, đều có chư Phật, Bồ
Tát, hộ pháp long thiên, thiện tri thức dùng oai thần
nhiếp thọ, hộ tŕ, khiến cho hiện duyên của
quư vị nhanh chóng chuyển hóa. Quư vị có tin hay không? Phải
tu tập! Chẳng tu tập, sẽ chẳng được!
Quư
vị nói xem, lợi ích nhiều như thế có thật
hay không? Trong quá tŕnh kinh hành Ban Châu, quư vị cứ thong thả
quan sát, tu tập, chẳng v́ lợi ích mà kinh hành; nhưng quư vị phải quan sát chuyện
này, phải quan sát vi tế. Chẳng quan sát các lợi ích ấy,
sẽ chẳng thể liễu giải Ban Châu. Quư vị nói:
“Tôi là người vừa mới phát tâm cầu tam-muội
này, có lợi ích như thế hay không?” Có chứ! Quư vị
nói: “Tôi vừa mới đọc tụng kinh điển
này, có lợi ích như thế hay không?” Có chứ! Quư vị
nói: “Tôi vừa mới giải nói cho người
khác, chính tôi chẳng chứng đắc tam-muội như
thế, có lợi ích như thế hay không?” Có chứ! Nếu
đă chứng đắc tam-muội như thế, sẽ
chẳng mảy may hoài nghi lợi ích ấy, tự
nhiên sẽ có thiện xảo rộng lớn!
Do
vậy, trong bốn loại cơ chế ấy, lợi ích
giống nhau, chỉ là nói theo phương diện chủ
động hay bị động. Chẳng hạn như
đối với người đă chứng đắc
tam-muội th́ là chủ động. Lại như chúng ta
hướng tới pháp tắc này, cũng là chủ động,
chỉ là phẩm lượng chủ động
có khác biệt. Tuy là như thế, nhưng nói theo cơ chế
hành pháp chủ động th́ lợi ích giống hệt
nhau. Nếu nhận thức điều này, chúng ta đối
với pháp sẽ chẳng có chuyện chẳng yêu mến,
chẳng truyền bá, chẳng thực tập. Chúng ta đă
gặp món trân bảo này, chớ nên bỏ mất, nhất
là pháp này có thể hành, có thể biết, có kinh điển
để có thể nương cậy, có pháp để có
thể tu tập!
(Kinh)
Duy trừ túc ương bất khả chuyển giả.
(經)唯除宿殃不可轉者。
(Kinh: Chỉ trừ
[trường hợp đă có] ương hoạn từ
đời trước chẳng thể chuyển được).
Đối
với câu nói này, có những Bồ Tát chắc
là nẩy sanh lo ngờ. Cớ sao nêu ra điểm này? Chúng
tôi nêu ra một thí dụ. Chẳng hạn như một
người mà phước đức và nhân duyên đă tới
tột cùng, tức là nghiệp đă đến chỗ cùng
tận, định nghiệp đă hiện, vốn nên sống
tới sáu mươi tuổi. Quư vị nói: “Kinh hành Ban Châu
sẽ có thể sống tới một trăm hai
mươi tuổi”. Đây chắc là một cách nói chẳng
tương ứng cho lắm, v́ trong nghiệp báo có
định nghiệp. Như sắc thân này của chúng ta có
định nghiệp “ắt phải chết”, v́ chúng
ta là Phần Đoạn sanh tử. Cái ngày sanh ra đời
chính là một chỉ dấu “sắc thân này ắt phải
tử vong”. Đó là định nghiệp xứ. Ngoại
trừ loại nghiệp duyên này, các chướng duyên khác [do công đức hành Ban Châu] đều có thể
tiêu trừ. Quư vị nói: “Tôi kinh hành Ban Châu có thể sống
tới vạn vạn năm hay không?” Sắc thân của quư
vị không được, nhưng thiện duyên của quư
vị có thể tiếp nối. Chẳng thể nói là “Ngă
tiếp nối”, v́ nếu nói như thế, chẳng phải
đă trở thành thường pháp hay sao? Chính là “nghiệp tiếp
nối”, chẳng phải “Ngă tiếp nối!”
Có
hữu t́nh chấp trước pháp tắc “có Ngă”. Ta có thể
sống khá lâu, hoặc là nói “trong vị lai, Ngă là như thế
nào?” Đó đều là nói giả thiết, v́ Ngă có dấu
hiệu là ǵ? Có người nói dùng Tứ Đại làm dấu
hiệu, người ấy đă chết th́ cái Ngă làm sao an
lập cho được? Có người coi ư thức là
Ngă. Ư thức biến đổi, Ngă làm sao tồn tại
cho được? Thật ra, Phật pháp quan sát rất thấu
triệt, quan sát chân thật: Pháp là vô ngă, con người
cũng là vô ngă. Sự vật, ư thức,
cho đến hết thảy các thứ đều chẳng
có tự tánh, chúng ta phải
quan sát như thật. Biểu hiện của
sắc thân và ư thức chỉ là biểu hiện của
nhân duyên mà thôi! Do nhân duyên liên tục, bèn miễn cưỡng
gọi nghiệp tướng là Ngă. Rất nhiều người
nói: Trong Tạng truyền Phật giáo, có người này
chuyển thế bao nhiêu đời, người kia chuyển
thế bao nhiêu đời, đó chẳng phải là Ngă
ư? Chẳng phải. Đó là một thệ nguyện,
nghiệp tướng liên tục đó thôi! Nếu thật
sự là một cái Ngă, sẽ chẳng gọi là Hoạt Phật
(Phật sống). Họ cũng chẳng “hoạt”
được, mà cũng chẳng có ư nghĩa! Do vậy,
chúng ta từ sự tiếp nối nghiệp vô ngă, tiếp
nối nhân duyên vô ngă, mà trông thấy sự tiếp tục
của từng pháp tắc đó thôi!
Bàn
tới Vô Ngă, chớ nên sanh ḷng sợ hăi, phải dám quan
sát, v́ trong giáo ngôn của đức Thế Tôn, pháp là vô ngă,
pháp là vô thường. Ắt cần phải nhận thức
điều ấy. Nếu quư vị chẳng liễu giải,
cứ mong né tránh điều này, sẽ nẩy sanh rất
nhiều nỗi sợ hăi, hoảng hốt, cho đến
chẳng dám léo hánh các chuyện này!
Như thế th́ sẽ chẳng đạt được
giải thoát, trí huệ, và phương tiện rốt ráo.
Đối với điều này, chúng ta nhất định
phải khéo tư duy và quan sát.
V́
thế, “duy trừ túc ương bất khả chuyển
hóa” (chỉ trừ ương hoạn từ đời
trước chẳng thể chuyển hóa), tức là dị
duyên (cái duyên của Dị Thục Quả) nối tiếp
chín muồi, tức là mạng của người ấy
được chuyển tới chỗ này. Đó có phải
là Túc Mạng Luận hay không? Chẳng phải! Chỉ bất
quá là nhân duyên của nó chín muồi, chín muồi như thế
đó. Vậy th́ chúng ta phải biến đổi điều
ǵ? Trên thực tế là trừ phiền năo, trừ chướng
ngại, ĺa các nỗi khổ hậu hoạn. Cũng có
nghĩa là chẳng c̣n tạo tác các nỗi khổ hậu hữu.
Đó là sự thiện xảo của Phật pháp trong hiện
đời. Nếu quư vị mong cho nỗi khổ trước
kia cũng ngưng dứt, tức là có tâm vị lai, tâm quá
khứ, tâm hiện tại. Nếu cưỡng chấp an lập
ba cái tâm ấy, người như thế sẽ luân hồi
chẳng ngớt, v́ loại tâm đối đăi ấy tất
nhiên là có nghiệp tướng luân hồi.
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Nhược bỉ thọ
tŕ tam-muội kinh điển, chư thiện nam tử, thiện
nữ nhân bối nhược hoạn nhăn, nhược hoạn
nhĩ, nhược hoạn tỵ, nhược hoạn thiệt,
nhược hoạn thân, nhược hoạn tâm. Phục hữu
chư dư chủng chủng hoạn nạn, năi chí mạng
nạn, phạm hạnh nạn giả, diệc vô thị xứ.
Phục thứ Hiền Hộ! Nhược bỉ nam tử,
nữ nhân, ư thử kinh trung, đắc như thị
văn, đắc như thị kiến, đắc như
thị tri, như thị cụ túc dĩ, nhược bất
trị Phật, nhược báng chánh pháp, phá ḥa hợp
Tăng, bối Phật Bồ Đề giả, diệc vô thị xứ!
(經)復次賢護。若彼受持三昧經典。諸善男子善女人輩。若患眼。若患耳。若患鼻。若患舌。若患身。若患心。復有諸餘種種患難。乃至命難梵行難者。亦無是處。復次賢護。若彼男子女人。於此經中。得如是聞。得如是見。得如是知。如是具足已。若不值佛。若謗正法。破和合僧。背佛菩提者。亦無是處。
(Kinh:
Lại này Hiền Hộ! Nếu các vị thiện nam tử,
thiện nữ nhân thọ tŕ kinh điển tam-muội ấy,
hoặc bị bệnh mắt, hoặc bị bệnh tai,
hoặc bị bệnh mũi, hoặc bị bệnh lưỡi,
hoặc bị bệnh về thân, hoặc bệnh về
tâm. Lại có các thứ hoạn nạn khác, cho đến nạn
về tánh mạng, chướng nạn về phạm hạnh
th́ cũng chẳng có lẽ ấy. Lại này Hiền Hộ!
Nếu nam tử, nữ nhân ấy ở trong kinh này
được nghe như thế, được thấy
như thế, được biết như thế, trọn
đủ như thế, mà nếu chẳng gặp Phật,
hoặc báng chánh pháp, phá ḥa hợp Tăng, trái nghịch Bồ
Đề của Phật th́ cũng chẳng có lẽ ấy).
Đoạn
văn tự này từ các hoạn nạn nơi thân thể
mà nói đến chuyện không có các hoạn nạn. Một
là từ chỗ hoạn nạn thuộc về pháp duyên và
chỗ hoạn nạn thuộc về thiện pháp để
nói tới chuyện không có các hoạn nạn, tức là sẽ
miễn trừ các loại bệnh tật nơi thân thể,
[hai là] cũng sẽ tránh khỏi các thứ mạng nạn
thuộc về phạm hạnh nhờ sức của tam-muội.
“Nhược
bất trị Phật, vô hữu thị xứ” (nếu
chẳng gặp Phật, chẳng có lẽ ấy), nghĩa
là nhất định sẽ gặp Phật. V́ lẽ nào?
Tu tŕ Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện
Tiền Lập tam-muội, dù là đắc hay chẳng
đắc, do đă gieo cái nhân, hễ quả đă thành, tức là tam-muội
hiện tiền, mười phương chư Phật
đều hiện tiền, sẽ được trông thấy,
sẽ vận dụng. Chẳng hiện tiền th́ cái nhân ấy vẫn chân thật, chẳng dối; trong tương
lai sẽ đạt được cái quả ấy. Nếu
quư vị nói: “Tôi chẳng cầu trong tương lai, mà muốn
cầu ngay trong hiện tại, có được hay không?”
Muốn vậy th́ quư vị hăy đích thân chứng tam-muội,
sẽ được thấy chư Phật, đích thân
được nghe dạy bảo.
“Nhược
báng chánh pháp, phá ḥa hợp Tăng, bối Phật Bồ
Đề giả, diệc vô hữu thị xứ” (nếu
báng chánh pháp, phá ḥa hợp Tăng, trái nghịch Bồ Đề
của Phật, cũng chẳng có lẽ ấy): Chúng ta thật
sự nương tựa giáo điển như thế, mà
nếu báng pháp, phá ḥa hợp Tăng, trái nghịch
Bồ Đề, chẳng thể có lẽ ấy. Đừng
nên xem thường trạng thái trong xă hội hiện thời!
Hiện thời, kẻ phá hoại Tăng pháp, phá hoại
pháp Bồ Đề của Phật, phỉ báng chánh pháp
thường lừng lẫy trong những người học
Phật, chứ ngoại đạo chẳng thể phá! Do
vậy nói: “Ngoại thú chẳng thể xâm phạm, quấy nhiễu sư tử
vương. Chỉ có trùng sanh trong bụng sư tử mới
có thể khiến cho xương cốt, thể chất của
sư tử bị tan hoại, sắc thân tan hoại”. Phật pháp
cũng giống như thế đó! Tuy Phật pháp đă
thể hiện tướng trạng Mạt Pháp, thân tướng
sư tử rất oai hùng, dũng mănh, ngoại đạo
vẫn chẳng dám xâm phạm, quấy nhiễu,
nhưng Ba Tuần đă lập thệ nguyện, chúng ta
cũng chớ nên quên! Tức là hắn sẽ từ trong nội
bộ của Phật pháp mà bại hoại, tàn diệt Phật
pháp, hủy diệt tự viện, hủy diệt đạo
tràng. Có kẻ thích làm cho đạo tràng tu pháp chẳng
được an lạc, chẳng được yên
tĩnh. Mọi người tu tập Phật pháp chẳng
có thứ tự. Đối với những kẻ phá diệt
đạo tràng ấy, chúng ta hăy nên dùng lời thệ nguyện
của Ba Tuần cảnh tỉnh họ, khiến cho họ
bỏ ác duyên “trở thành quyến
thuộc của Ba Tuần”. Đấy là ác
duyên, nếu quư vị chẳng nhắc tới chuyện ấy,
sẽ có kẻ đến tự viện để gây họa
hại cho tự viện, phá hoại sự kiến thiết
của quư vị.
Chúng
ta đều biết: Trong Bồ Tát giới, chỗ nào
cũng đều bảo chúng ta, đối với chuyện
kiến lập tháp miếu, dựng lập tượng Phật,
khiến cho chúng sanh có chỗ để tu pháp, hành pháp, nghe
giảng, và trao đổi Phật pháp. Nhân duyên phước
đức như thế chúng ta đều phải thực
hiện. Các vị tăng sĩ là người phải nên
thủ hộ tự viện, thủ hộ đạo
tràng, siêng năng tu tập các pháp trong đạo tràng, cho
đến thành tựu các pháp. Hàng Bồ Tát và các vị
Thanh Văn tuy thọ tŕ và truyền bá [các pháp môn] sai khác,
nhưng bất luận xuất gia hay tại gia, đều
phải bảo vệ đạo tràng, thực hiện pháp
tắc, tôn trọng ḥa hợp, chẳng trái nghịch Bồ
Đề. Đấy là con đường chánh đáng tất
nhiên, là điều có ư nghĩa. Đối với kẻ
trái nghịch, chúng ta nhất định phải cảnh tỉnh chính ḿnh và người
khác: “Đừng đọa lạc thành quyến thuộc của
Ba Tuần, phá hoại đạo tràng, hủy hoại Phật
pháp, khiến cho việc kiến thiết đạo tràng gặp
nhiều duyên trái nghịch, thậm chí chẳng thể thành
tựu”. [Nếu làm các hành vi phá hoại] như thế th́
quư vị đắp y của Như Lai mà phá hoại pháp của
Như Lai, ăn cơm của Như Lai mà diệt giáo pháp của Như Lai! Đó
gọi là “đệ tử
của Ba Tuần”, v́ Ba Tuần đă lập thệ nguyện như thế
này: Vào lúc đức Thế Tôn sắp diệt độ, hắn
đă đối trước đức Thế Tôn thốt
ra lời ác như sau: “Thế Tôn!
Sau khi Ngài nhập diệt, ta sẽ sai quyến thuộc của
ta đắp y của Ngài, ăn cơm của Ngài, ở
trong chùa của Ngài, phá hoại pháp của Ngài”. Ở
trong chùa miếu, chúng ta phải cảnh tỉnh chính ḿnh, cảnh
tỉnh người khác như thế nào? Nếu gặp phải
kẻ hoại pháp, hủy diệt ḥa hợp, khiến cho tự
viện chẳng kiến thiết tương ứng, chửi
bới Tăng chúng, rủa xả Phật pháp, hăy nên nhắc
nhở kẻ đó đừng đọa lạc thành quyến thuộc
của Ba Tuần, chớ làm quyến thuộc của Ba Tuần.
Đó là chuyện có lợi, có ư nghĩa, có xuất xứ.
Nếu trong quá tŕnh chúng ta thật sự hành tŕ pháp tắc
tam-muội, sẽ chẳng hành tŕ các pháp tắc [phá hoại
Phật pháp, phá ḥa hợp Tăng như thế].
Nếu thật sự yêu mến pháp tắc tam-muội, sẽ
chẳng có cơ hội để tạo tác các nghiệp
duyên ấy! Cho nên nói là “vô hữu thị xứ” (chẳng
có lẽ ấy, không thể nào xảy ra được).
(Kinh)
Hiền Hộ! Đương tri tức bỉ tŕ kinh nam tử,
nữ nhân, như thượng chư sự mạc năng
vi ngại, duy trừ túc ương bất năng chuyển
nhĩ!
(經)賢護。當知即彼持經男子女人。如上諸事莫能爲礙。唯除宿殃不能轉耳。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Hăy nên biết các chuyện trên đây chẳng thể trở
ngại, người nam, kẻ nữ tŕ kinh được,
chỉ trừ ương họa trong đời trước
chẳng thể chuyển mà thôi!)
Có
các vị Bồ Tát tuy đến tu tập pháp, nhưng tâm
trí chẳng tương ứng, hoặc là trong tâm chẳng
tiếp nhận. Đối với chuyện này, trong các
kinh Đại Thừa, đức Thế Tôn đă thọ
kư khiến cho mọi người vui mừng, được cổ vũ. Sau khi Ba Tuần đă phát ác thệ
như trên, đức Thế Tôn dùng tâm trí quang minh rộng
lớn, thọ kư cho Ba Tuần và con cái của hắn: “Lành
thay! Ông đă phát ra ác nguyện, nhưng v́ công đức
oai thần chẳng thể nghĩ bàn của Phật
pháp, quyến thuộc của ông do đắp y Như Lai,
ăn cơm của Như Lai, hành pháp của Như Lai, ở
trong chùa của Như Lai, bèn được thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề”. Ở đây, chúng ta cũng có thể
nhắc nhở: Chẳng hạn như có kẻ tạo nhiều
duyên trái nghịch, gây nguy hại cho Tăng chúng, nguy
hại đạo tràng, nguy hại ḥa hợp, nguy hại
người khác học pháp tắc trong Phật pháp, lời
thọ kư này của đức Thế Tôn cũng có thể
nhắc nhở kẻ đó tín thuận lời đức Phật dạy như thế,
thủ hộ lời dạy của đức Thế Tôn,
có thể thoát ĺa sanh tử y hệt.
V́ thế, đối với chỗ thiện xảo rộng
lớn trong lời dạy của đức Thế Tôn, cho
đến các loại hữu t́nh nếu hữu duyên với
Phật pháp, ắt sẽ thành tựu.
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Bỉ thiện nam tử,
thiện nữ nhân tŕ thị kinh giả, thường vị
nhất thiết chư thiên xưng tán.
(經)復次賢護。彼善男子善女人持是經者。常爲一切諸天稱讚。
(Kinh: Lại này Hiền
Hộ! Thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy do tŕ
kinh này, thường được hết thảy chư
thiên ca ngợi).
Sau
đó, đức Thế Tôn bảo chúng ta: Hành pháp tắc
này, sẽ được hết thảy hữu t́nh trong thế
gian ca ngợi, kính yêu, thủ hộ, mong gặp gỡ, quan tâm chiếu cố. Tức là Ngài đă từ đủ mọi
khía cạnh để nêu ra công đức thù
thắng, công đức chẳng thể nghĩ bàn, công
đức viên măn rộng lớn rốt ráo của pháp tắc
này. Ở đây, Ngài nói theo phương diện “xưng
tán”.
(Kinh) Diệc vị nhất thiết chư
long xưng tán, hựu vị nhất thiết Dạ Xoa
xưng tán. Hựu vị nhất thiết Càn Thát Bà đẳng
chi sở xưng tán. Hựu vị nhất thiết A Tu La
đẳng chi sở xưng tán. Hựu vị nhất thiết
Ca Lâu La đẳng chi sở xưng tán. Hựu vị nhất
thiết Khẩn Na La đẳng chi sở xưng tán. Hựu
vị nhất thiết Ma Hầu La Già chi sở xưng tán.
Hựu vị nhất thiết nhân phi nhân đẳng chi sở
xưng tán. Hựu vị nhất thiết tứ đại thiên vương chi sở
xưng tán. Hựu vị nhất thiết Đế Lợi
Thiên Vương chi sở
xưng tán. Hựu vị nhất thiết Đại Phạm
Thiên Vương chi sở xưng tán. Như thị năi chí
thường vị nhất thiết chư Phật Thế
Tôn chi sở xưng tán dă.
(經)亦爲一切諸龍稱讚。又爲一切夜叉稱讚。又爲一切乾闥婆等之所稱讚。又爲一切阿修羅等之所稱讚。又爲一切迦樓羅等之所稱讚。又爲一切緊那羅等之所稱讚。又爲一切摩睺羅伽之所稱讚。又爲一切人非人等之所稱讚。又爲一切四大天王之所稱讚。又爲一切帝利天王之所稱讚。又爲一切大梵天王之所稱讚。如是乃至常爲一切諸佛世尊之所稱讚也。
(Kinh:
Cũng được hết thảy các rồng khen ngợi,
lại được hết thảy Dạ Xoa khen ngợi.
Lại được hết thảy Càn Thát Bà ca ngợi.
Lại được hết thảy A Tu La ca ngợi. Lại
được hết thảy Ca Lâu La ca ngợi. Lại
được hết thảy Khẩn Na La ca ngợi. Lại
được hết thảy Ma Hầu La Già ca ngợi. Lại
được hết thảy nhân phi nhân ca ngợi. Lại
được hết thảy tứ đại thiên vương ca ngợi. Lại được hết
thảy Đế Lợi Thiên Vương ca ngợi. Lại được hết
thảy Đại Phạm Thiên Vương ca ngợi.
Như thế cho đến thường được hết
thảy chư Phật Thế Tôn ca ngợi).
Nói
theo phương diện khen ngợi: [Người thọ
tŕ kinh điển này] được hết thảy hữu
t́nh trong thế gian, cho đến chư Phật, Bồ Tát
đều khen ngợi. Đức Thế Tôn dùng thiện xảo
đại oai đức như thế để khích lệ
chúng ta yêu mến, đọc tụng, tu tập, truyền
bá, giải nói, đích thân chứng
đắc pháp tắc này.
(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Hựu
bỉ chư thiện nam tử, thiện nữ nhân tŕ thị
kinh giả, thường vị nhất thiết chư
thiên ái kính. Như thị năi
chí thường vị nhất thiết chư long, Dạ
Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già,
nhân phi nhân đẳng chi sở ái kính. Hựu vị nhất
thiết tứ thiên đại vương chi sở ái
kính. Như thị thường vị nhất thiết
Đế Lợi Thiên Vương, năi chí nhất
thiết Đại Phạm Thiên Vương chi sở ái
kính. Như thị thường vị nhất thiết
chư Bồ Tát bối, năi chí nhất thiết chư Phật
Thế Tôn chi sở ái niệm dă.
(經)復次賢護。又彼諸善男子善女人持是經者。常爲一切諸天愛敬。如是乃至常爲一切諸龍夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽人非人等之所愛敬。又爲一切四天大王之所愛敬。如是常爲一切帝利天王乃至一切大梵天王之所愛敬。如是常爲一切諸菩薩輩乃至一切諸佛世尊之所愛念也。
(Kinh: Lại này Hiền
Hộ! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân tŕ kinh này
lại thường được hết thảy chư
thiên yêu kính. Như thế cho đến thường
được hết thảy các rồng, Dạ Xoa, Càn
Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi
nhân v.v… yêu kính. Lại được hết thảy tứ thiên đại vương yêu
kính. Như thế thường được cho đến
hết thảy Đế Lợi Thiên Vương, cho tới hết thảy Đại Phạm
Thiên Vương yêu kính. Thường
được hết thảy các hàng Bồ Tát cho tới hết
thảy chư Phật Thế Tôn yêu mến, nghĩ nhớ
như thế).
Ngài
dùng hai pháp tán thán và ái kính như trên để viên măn bảo
chúng ta: Người cầu được truyền dạy
pháp Ban Châu tam-muội, người đọc tụng,
người giải nói, người đích thân chứng
đắc như thế, sẽ đạt được
tướng công đức rộng lớn, rốt ráo chẳng
thể nghĩ bàn, được hết thảy hữu
t́nh trong thế gian yêu kính, cho đến được hết
thảy chư Phật, Bồ Tát yêu mến, tưởng nhớ.
Chuyện này quả thật chẳng thể nghĩ bàn. Nếu
chư Phật, Bồ Tát yêu mến, nghĩ nhớ một
ai, hoặc yêu mến, nghĩ nhớ một pháp tắc, sẽ
có lợi ích như thế nào? Tâm trí của quư vị giống
như một chiếc cell phone, trong ấy chứa đầy
các dăy số của chư Phật, Bồ Tát. Quư vị tùy
tiện nhấn số nào, cũng đều nhận được
lời chúc phước
trí huệ của Phật, Bồ Tát, chúc phước quư vị cát
tường, khỏe mạnh, oai đức, chúc phước
vô tận pháp tắc và gia tŕ. Bởi đó, quư vị sẽ
nhận được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn!
Nhưng có kẻ do bị La Sát thâu nhiếp, ác quỷ thâu
nhiếp, chẳng hạn như kẻ nhằm lúc hành tham, sân,
si, mạn, nghi, tà kiến, bị lục đạo ác tánh thâu nhiếp, sẽ biểu lộ thành phiền năo thô nặng!
Sắc thân này của chúng ta nếu chẳng được
thiện hay ác thâu nhiếp, sẽ đều là tướng
“không lập” (tồn tại rỗng tuếch), tức
là giống như một cái bát, trong đó chẳng đựng
chi hết, rỗng không. Một khi nghiệp báo của sắc
thân này sắp tận, thiện thần lẫn ác thần
đều buông bỏ, thân thể rỗng tuếch, người
ấy sẽ chết! V́ thế, đừng nên cho rằng
sắc thân này là cái Ta chi cả! Muốn đem nó giả dạng
thành thứ ǵ, quư vị giả dạng chẳng đầy
vài chục năm, nó sẽ mất đi. Chẳng cần
biết quư vị trau chuốt nó cỡ nào, nó sẽ tan hoại.
Thật sự chẳng có thứ ǵ vĩnh hằng, mà
cũng chẳng có một cái Ngă bất hoại! Chúng ta phải
như thật nhận thức tánh chất vô thường ấy!
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Hựu bỉ
chư thiện nam tử, cập thiện nữ nhân, dĩ
kinh lực cố, thường vị nhất thiết
chư thiên thủ hộ.
(經)復次賢護。又彼諸善男子及善女人。以經力故。常爲一切諸天守護。
(Kinh: Lại này Hiền
Hộ! Các thiện nam tử, và thiện nữ nhân ấy,
do sức của kinh, lại thường được hết
thảy chư thiên thủ hộ).
Trong
phần trước là khen ngợi, yêu kính, ở đây nói
đến chuyện thủ hộ.
(Kinh)
Như thị thường vị nhất thiết chư
long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu
La Già, cập nhân phi nhân chi sở thủ hộ. Hựu vị
nhất thiết tứ thiên đại vương, như thị Đế
Lợi Thiên Vương, năi chí Đại Phạm
Thiên Vương chi sở thủ hộ. Như thị
thường vị nhất thiết chư Bồ Tát bối,
năi chí nhất thiết chư Phật Thế Tôn tất giai
phú hộ.
(經)如是常爲一切諸龍夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽及人非人之所守護。又爲一切四天大王如是帝利天王乃至大梵天王之所守護。如是常爲一切諸菩薩輩乃至一切諸佛世尊。悉皆覆護。
(Kinh: Thường
được hết thảy các rồng, Dạ Xoa, Càn
Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, và nhân phi
nhân thủ hộ như thế. Lại được hết
thảy tứ thiên đại
vương, Đế Lợi Thiên Vương như thế, cho đến Đại Phạm
Thiên Vương thủ hộ. Thường được
hết thảy các vị Bồ Tát cho đến hết thảy
chư Phật Thế Tôn thảy đều che chở, bảo
vệ như thế).
Trong
phần trước nói là “thủ hộ”, v́ sao đến
chỗ chư Phật, Bồ Tát bèn đổi thành “phú hộ”?
Nếu c̣n nói “thủ hộ” sẽ chẳng
tương ứng, khiến cho chúng sanh có tâm tăng thượng
mạn; cho nên liền thay đổi một từ
ngữ, nói là “phú hộ” (覆護), hàm ư chư Phật,
Bồ Tát dùng đại oai đức chân thật thành tựu,
chẳng chấp tướng mà che chở, bảo vệ.
Trừ Phật, Bồ Tát ra, hết thảy Đại Phạm
Thiên Vương, Đế Lợi Thiên (Trāyastriṃśa, Đao
Lợi Thiên), tứ thiên vương, cho đến Càn Thát
Bà, A Tu La, các rồng, Dạ Xoa, Khẩn Na La, Ma Hầu La
Già, nhân phi nhân v.v… đều là đối tượng được
lợi ích do niệm Phật, cho nên nói “họ đến thủ hộ
quư vị”. V́ lẽ nào? Niệm
Phật có thể ban cho họ lợi ích chân thật; cho nên
nói “họ sẽ
đến ca ngợi, đến yêu kính”, cho
tới “đến
thủ hộ”. Ở
đây, chư Phật Thế Tôn như thật khen ngợi,
yêu mến, nghĩ nhớ,
che chở, bảo vệ, chư Bồ
Tát cũng giống như thế. Đối với chuyện
này, tôi cảm thấy mọi người tu tập pháp này vẫn
là thuận tiện nhất. Mỗi người chúng ta thật
sự tu tập pháp tắc này, lợi ích chân thật sẽ
thấm vào sanh mạng của
chúng ta, sẽ như thật tồn tại trong sự duy
tŕ sanh mạng, sẽ thiết thực khiến cho chúng ta cảm
nhận, vận dụng được!
(Kinh)
Thập phương thế giới vô lượng
A-tăng-kỳ thế giới trung, hiện tŕ pháp giả.
(經)十方世界無量阿僧祇世界中。現持法者。
(Kinh: Những người
đang tŕ pháp trong vô lượng
A-tăng-kỳ thế giới khắp mười phương
thế giới).
Mười
phương chư Phật, Bồ Tát che chở, bảo vệ
người đang tŕ pháp trong vô lượng A-tăng-kỳ
thế giới trong mười phương thế giới.
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Hựu bỉ chư thiện
nam tử, thiện nữ nhân, dĩ kinh oai lực
cố.
(經)復次賢護。又彼諸善男子善女人。以經威力故。
(Kinh: Lại này Hiền
Hộ! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy lại
do oai lực của kinh).
Chúng
ta nhất định phải chú ư đôi chút. Quư vị
được che chở, bảo vệ, yêu mến, tưởng
nhớ, ca ngợi, đều là do đọc tụng, cầu
được truyền trao, cho đến giải nói kinh điển
và đích thân chứng đắc sức tam-muội, cho nên mới có lợi ích tương ứng ấy. Chúng ta nhất định
đừng nên vứt bỏ cội nguồn: “Dĩ kinh
oai lực cố” (do sức oai đức của kinh).
Do sức của kinh, mỗi đoạn [kinh văn] đều có
ngôn từ như vậy để nhắc nhở chúng ta. Nếu
chẳng nương theo pháp tắc này, chẳng nương
theo kinh điển này, chẳng thể
thọ tŕ kinh điển này, chẳng giải nói, truyền
đạt, tu tập kinh điển này, chẳng thủ hộ
tam-muội này, các lợi ích ấy sẽ chẳng thể tương ứng.
Có
người v́ chính ḿnh đă tu tập pháp tắc đôi
chút, đạt được đôi chút tương tự
lợi ích, bèn quăng kinh điển và pháp tắc qua một
bên, do tham cầu oai đức cho chính ḿnh, ngỡ chính
ḿnh có oai đức, người như thế sẽ hứng
chịu quả báo ác. Nêu một thí dụ đơn giản
nhất để nói, chẳng hạn như chúng ta ngồi
trong xe thiết giáp, súng ống b́nh thường chẳng bắn
trúng ta. Khi đó, chúng ta nói: “Ối chà! Ta thật sự có
oai đức, súng chẳng bắn trúng ta được!”
Sau đó, từ trong xe thiết giáp xông ra ngoài, kết quả là súng vừa bắn
liền thủng toang. Chúng ta chớ nên cậy vào oai đức
của thiện pháp để biểu lộ nghiệp duyên
hư vọng của chính ḿnh. Có người có thể mặc
áo giáp chống đạn, bị người khác bắn
trúng, liền nói: “Các ngươi thấy đó, ta trúng đạn
mà chẳng chết!” Nhưng nếu kẻ đó cởi áo
chống đạn ra, súng vừa bắn trúng sẽ chết
tươi! Chúng ta đạt được các thứ
phước đức, nhân duyên, đều nhờ vào sức
tam-muội này, nhờ vào sức của kinh điển này, nhờ
vào đọc tụng, truyền đạt, hướng
đến, cho đến do thành tựu pháp tắc này mà
đạt được lợi ích chân thật. Ở
đây, chẳng thể
nói suông, chẳng thể khoe mẽ giả dối được!
Rất nhiều kẻ chẳng đạt được
lợi ích trong Phật pháp là v́ đă khoe mẽ giả
dối như thế, cũng như dựa vào h́nh tượng
hư giả “ta học Phật” mà mong đạt
được nội dung thực chất, nhưng thật
sự hoàn toàn chẳng thật sự tu tập Phật
pháp; cho nên lợi ích chẳng tương ứng. Rất
nhiều kẻ học tập Phật pháp, nhưng chẳng tu tập
pháp tắc, chỉ trộm cái danh, trộm lấy ngôn thuyết
để sau đó đi khoe với người
khác, có được hay chăng? Khi nói với người
khác, đạt được lợi ích, nhưng v́ cái tâm
hư giả, khi muốn bản thân chiếm hữu lợi
ích ấy, lập tức vứt bỏ kinh điển và
pháp tắc, sẽ bị thương tổn. Chúng ta có thể
khéo quan sát, phải như thật nhận biết tánh chất
liên tục của pháp này.
(Kinh)
Nhất thiết chư thiên giai dục kiến chi.
(經)一切諸天皆欲見之。
(Kinh: Hết thảy
chư thiên đều muốn trông thấy).
Ở
đây, lại dùng pháp “dục kiến” (muốn thấy)
để bảo cho chúng ta biết công đức quang minh
chân thật và công đức trang nghiêm rộng lớn của
pháp tắc tam-muội này. Đó gọi là “lợi ích chân
thật”, tức là lợi ích được an lập
trong hết thảy thế gian, bất luận là Sắc Giới,
hay Dục Giới, cho đến Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát giới, chư Phật giới, lợi ích của
người hành pháp đều là trực tiếp khế hợp
với sự biểu đạt này. Đó là lợi ích rộng
lớn rốt ráo như thật, an trụ viên măn chân thật,
là chân thật chẳng dối!
(Kinh)
Như thị nhất thiết chư long, Dạ Xoa, Càn Thát
Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, cập nhân
phi nhân đẳng, giai tư dục kiến.
(經)如是一切諸龍夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽及人非人等。皆思欲見。
(Kinh: Cũng
như thế, hết thảy các rồng, Dạ Xoa, Càn Thát
Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, và nhân phi nhân
v.v… đều nghĩ muốn trông thấy).
V́
sao? Do thiện xảo hồi thí, do sức oai đức của
kinh, do tạo phương tiện cho hết thảy chúng
sanh, do mở kho báu lớn cho hết thảy chúng sanh, do hồi
thí chân thật cho hết thảy chúng sanh, thường nói
là “vị chúng khai pháp tạng, quảng thí công đức
bảo” (v́ chúng mở kho pháp, rộng thí báu công đức).
Người niệm Phật bất luận là thân phàm, thân
thánh, thân ngu si, hay thân điên đảo,
chỉ nương theo danh hiệu của Phật, có thể
lợi lạc trọn khắp hữu t́nh thuộc chín pháp
giới trong mười phương, khiến cho thiện
nghiệp của hữu t́nh trong thiện đạo hừng
hực, khiến cho hữu t́nh trong thánh đạo thành tựu
viên măn, khiến cho hữu t́nh ngu si, tội ác thoát ĺa tổn
thương trong chốn u minh. Đó là
chân thật chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải là
nói tùy tiện, chẳng phải là ngôn thuyết vô nghĩa,
hoặc khoa trương vô nghĩa. Pháp tắc ấy chân thật
lợi ích trọn khắp hữu t́nh thuộc chín pháp giới
trong mười phương, an trụ trong công đức
rộng lớn như thật nơi thế gian, cho nên là
đại phước đức, oai đức thù thắng
thành thục! Chúng ta chớ nên v́ được gặp gỡ
mà coi rẻ, buông bỏ nó. Càng chớ nên v́ đă được
gặp gỡ mà chẳng coi là thật, để rồi
tham lam các pháp tắc khác. [Nếu hành xử như thế],
đúng là chỗ đáng buồn, đáng đau khổ của hết
thảy trời, người, v́ thế gian đă đánh mất
trân bảo này. Nếu chúng ta đánh mất ma-ni trân bảo
lợi ích hết thảy thế gian này th́ chư thiên, quỷ
thần, cho tới chư Phật, Bồ Tát sẽ đều
v́ chúng ta buồn bă than thở. Ở đây, hăy nên như thật
xét kỹ pháp tắc này!
(Kinh)
Hựu bỉ nhất thiết tứ thiên đại
vương, như thị nhất thiết Đao Lợi Thiên Vương, năi
chí nhất thiết Đại Phạm Thiên Vương, giai
tư dục kiến. Như thị nhất thiết
chư Bồ Tát bối, năi chí nhất thiết chư Phật
Thế Tôn, các dục kiến chi.
(經)又彼一切四天大王。如是一切忉利天王乃至一切大梵天王。皆思欲見。如是一切諸菩薩輩。乃至一切諸佛世尊。各欲見之。
(Kinh: Lại nữa,
hết thảy tứ thiên đại vương, hết
thảy Đao Lợi Thiên Vương cho tới hết thảy Đại Phạm
Thiên Vương,
đều nghĩ muốn trông thấy
như thế. Cũng như thế, hết thảy các vị
Bồ Tát, cho đến hết
thảy chư Phật Thế Tôn đều muốn trông thấy).
Phân
lượng ở đây rất nặng, nói hết thảy
hữu t́nh trong thế gian, dù thánh, hay phàm, người
trí, kẻ ngu, cùng với hết thảy chư Phật
đều muốn trông thấy. V́ Ban Châu tam-muội vốn
có tên là Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện
Tiền, hiện tiền như thế nào? Nếu chẳng
muốn thấy quư vị, quư vị làm sao có thể thấy
được? Do vậy, “đắc kiến”
(được thấy) là do oai thần của chư Phật
gia bị, do nhân duyên ấy mà sanh ra thiện xảo.
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Hựu bỉ chư thiện
nam tử, thiện nữ nhân, dĩ kinh oai cố, nhất
thiết chư thiên thường chí kỳ sở, thân kiến
kỳ h́nh, linh bỉ quán đổ.
(經)復次賢護。又彼諸善男子善女人。以經威故。一切諸天。常至其所。親見其形。令彼觀睹。
(Kinh:
Lại này Hiền Hộ! Các thiện nam tử, thiện nữ
nhân ấy lại do oai lực của kinh mà hết thảy
chư thiên thường đến chỗ người ấy,
đích thân hiện h́nh dáng của họ để cho những
người ấy được trông thấy).
Ở
đây, phân lượng càng lớn hơn nữa! Chúng ta thấy
“dục kiến” (muốn thấy) cũng thế, “tán
thán” cũng thế, cho đến “ái niệm”
cũng thế, vẫn có cảm giác cách biệt. Ở
đây, đức Thế Tôn trực tiếp bảo chúng
ta: “Dĩ kinh oai cố, nhất thiết chư thiên,
thường chí kỳ sở” (Do oai lực của kinh,
hết thảy chư thiên thường tới chỗ
người ấy). Chỗ người ấy là chỗ nào
vậy? Chính là chỗ người hành pháp, người yêu
mến pháp, chỗ người muốn cầu pháp này,
người đọc tụng kinh điển, người
giải nói cho kẻ khác, người đích thân chứng
tam-muội. Chỗ của những người như thế
đó!
Khi
tôn giả Hỗ Ba (Khruba Bonchum) đến
đây[2],
đă nhắc tôi rất nhiều lần: Chỗ này của
chúng ta tụ tập rất nhiều vị trời. Tôi chẳng
nghi ngờ chuyện ấy, v́ điều ấy đúng
như kinh điển đă nói. Đó là chuyện rất
như thật, rất chuẩn xác, rất chân thật. Tôi
tin tưởng kinh giáo sâu đậm, mà cũng tin vào con mắt
của các bậc trí giả. Đương nhiên mọi
người sẽ nói: “V́ sao tôi chẳng trông thấy?” Vậy
th́ quư vị cứ từ từ, nếu quư vị có các thiện
xảo như thiên nhăn, pháp nhăn, huệ nhăn, chuyện này
cũng chẳng khó. Nếu nương theo kinh điển,
cũng là cảm nhận thấy rất thuận tiện,
v́ ở đây mọi người đều niệm Phật,
hành Ban Châu hơn một năm qua, ngày đêm chẳng gián
đoạn, rất cảm động người trong thế
gian. Chúng ta trong tiếng niệm Phật, trong đạo
tràng, dấy khởi đủ thứ chủng tử có
tánh ác hay tánh thiện, nhân duyên tốt, nhân duyên xấu,
nhưng nhất định là nhân duyên chẳng thể
nghĩ bàn. V́ sao vậy? Đạo nghiệp, đạo
tràng sẽ chuyển hóa loại nhân duyên ấy, chẳng hạn
như khi chư thiên, quỷ thần đến làm chứng
cho chúng ta, sẽ trực tiếp gia tŕ chúng ta thiện xảo
tăng thượng. Như vậy th́ ác duyên sẽ bị
tiêu trừ.
(Kinh)
Như thị nhất thiết chư long, Dạ Xoa, Càn Thát
Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân
đẳng, giai kiến kỳ h́nh, tùy nghi lợi ích. Hựu bỉ nhất
thiết tứ thiên đại vương, Đế Lợi
Thiên Vương, năi
chí nhất thiết Đại Phạm Thiên Vương đẳng,
giai thân lâm thị.
(經)如是一切諸龍夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽人非人等。皆見其形。隨宜利益。又彼一切四天大王。帝利天王。乃至一切大梵天王等。皆親臨視。
(Kinh: Cũng
như thế, hết thảy các rồng, Dạ Xoa, Càn Thát
Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v…
đều hiện thân h́nh, tùy nghi tạo lợi ích. Lại
nữa, hết thảy tứ thiên đại vương,
Đế Lợi Thiên Vương, cho đến hết thảy Đại
Phạm Thiên Vương v.v… đều đích thân giáng lâm cho thấy).
Các
thiện tri thức ơi! Lời nói này có phân lượng rất nặng. Nó từng chút
dẫn dắt chúng ta, sợ chúng ta sẽ kinh hoảng. Nếu
ngày nào đó, quư vị thật sự trông thấy, đừng
nên sợ hăi! Có người đột nhiên trông thấy
thân to lớn sẽ sanh sợ hăi, v́ thân vi tế của
chư thiên đều rất cao lớn, hoặc rất
sáng ngời, rất trang nghiêm, rất oai đức. Lại
các loài như rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn
Na La, Ma Hầu La Già, thiên long bát bộ, có nhiều loài khiến
nhân loại trông thấy sẽ sợ hăi, kinh hoảng. Hàng
Bồ Tát phần nhiều đều là bậc thiện
căn thuần thục, hoặc có rất nhiều vị
là Thập Địa, hoặc Bát Địa Bồ Tát. Do
các nhân duyên như thế mà đích thân hiện trước
chúng ta, gia tŕ thủ hộ đạo nghiệp của
đạo tràng này, thật sự là chuyện chẳng thể
nghĩ bàn. Họ cũng là bậc hồi thí lợi ích do
hành pháp, lợi ích lẫn nhau. Như thế th́ chúng ta dần
dần cũng có thể tập quen, sẽ chẳng hoảng
sợ!
(Kinh)
Như thị nhất thiết chư Bồ Tát bối, năi
chí nhất thiết chư Phật Thế Tôn, phi đản
trú nhật, hoặc ư mộng trung, vị hiện h́nh
tượng, tự xưng danh hiệu, ma đảnh ủy an, xưng
dương, khuyến phát dă.
(經)如是一切諸菩薩輩。乃至一切諸佛世尊。非但晝日。或於夢中。爲現形像。自稱名號。摩頂慰安。稱揚勸發也。
(Kinh: Cũng
như thế, hết thảy các vị Bồ Tát cho đến
hết thảy chư Phật Thế Tôn, không chỉ là
trong ban ngày, mà hoặc là c̣n trong mộng bèn hiện h́nh
tượng, tự xưng danh hiệu, xoa đầu an ủi,
khen ngợi, khuyên phát tâm).
Đối
với đoạn văn tự này, chúng ta phải nên
mười phần cẩn thận đọc tụng, liễu
giải, hướng tới pháp tắc này, mong cầu pháp tắc
này, đọc tụng kinh điển này, v́ người
khác giải nói, đích thân chứng tam-muội, cho đến
đối với người cùng được tiếp
xúc, thủ hộ pháp này và kinh điển này, sẽ d́u dắt
họ đúng như kinh điển đă dạy, sẽ
đều đạt được sự nghĩ nhớ
yêu mến, thủ hộ, che chở chẳng thể
nghĩ bàn, cho đến đích thân giáng lâm, các thứ công
đức như thế. Chúng ta nhất
định sẽ nhận biết rơ ràng, tư duy cặn kẽ.
Như thế th́ đối diện với tướng cảnh
giới, trông thấy quỷ, thần, trời, Bồ Tát,
Phật, sẽ chẳng kinh hăi, chẳng sanh ḷng hoảng hốt,
chẳng đến nỗi mai một, đắm nhiễm
bởi nhân duyên ấy, có thể trụ trong an lạc, có thể
thấy Phật để hỏi pháp, trực
tiếp tiến nhập, đích thân chứng tam-muội, tức
Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền
tam-muội.
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Hựu bỉ chư thiện
nam tử, thiện nữ nhân, tuy vị tằng văn
chư dư kinh điển, dĩ thị tam-muội oai thần
lực cố, tự nhiên hữu nhân lai chí kỳ sở,
năi chí mộng trung, vị kỳ tuyên thuyết, linh bỉ
đắc văn, ức tŕ bất thất dă.
(經)復次賢護。又彼諸善男子善女人。雖未曾聞諸餘經典。以是三昧威神力故。自然有人來至其所。乃至夢中。爲其宣說。令彼得聞憶持不失也。
(Kinh: Lại này Hiền
Hộ! Lại nữa, các thiện nam tử, thiện nữ
nhân ấy tuy chưa từng nghe các kinh điển khác, do sức
oai thần của tam-muội này, tự nhiên có người
đến chỗ kẻ đó, thậm chí trong mộng, v́
kẻ đó tuyên nói, khiến cho kẻ đó nghe rồi sẽ
ghi nhớ, vâng giữ, chẳng quên mất).
Đức Thế Tôn nói Tam Tạng
mười hai bộ loại, hoặc là hiển thuyết,
hoặc mật thuyết, các thứ giáo ngôn, do oai thần của
sức tam-muội này, đối với
những người chưa nghe pháp này, chưa tu tập
kinh điển này, sẽ khiến cho họ được
nghe, vâng giữ chẳng quên!
Pháp
Tịnh Độ vốn ngầm hộ tŕ tam thừa, ngầm
hành tŕ pháp tắc tam thừa, v́ trong lúc tu nhân, A Di Đà Phật
Thế Tôn đă dùng sức thệ nguyện đại chủng
tử đà-la-ni của Ngài, khiến cho hết thảy
chúng sanh đạt được sức vô ngại, đạt
được tự tại trong hết thảy các pháp.
Chúng ta thường cho rằng pháp Niệm Phật chỉ
đơn giản là tŕ danh hiệu Phật, thật ra chẳng
phải vậy! V́ chủng tử
thiện xảo ấy, có thể khiến cho hết thảy
chúng sanh nhập tâm trí của bốn loại vô ngại lực,
đạt được tự tại trong hết thảy
các pháp tắc, có thể thực hành, hộ tŕ rộng lớn
hết thảy các pháp, đích thân chứng hết thảy
các pháp. V́ một câu Nam-mô A Di Đà Phật thật sự gồm
trọn bổn nghĩa chân thật trong giáo ngôn thanh tịnh
của hết thảy chư Phật, được hết
thảy chư Phật như thật tuyên nói, có thể triển
khai các phương diện tỉ mỉ, vi tế, tối
thắng, sai biệt trong giáo ngôn của hết thảy
Như Lai. Có sức chẳng thể nghĩ bàn như thế, phàm
t́nh chẳng thể suy lường được! Nếu
có thể thâm nhập pháp tắc này, vô lượng pháp môn sẽ
được tự tại thiện xảo, nhập vào sức
tự tại vô ngại. Đó là thệ nguyện do A Di
Đà Phật Thế Tôn đă phát trong khi tu nhân. Trong kinh Vô
Lượng Thọ và phẩm Vô Lượng Thọ Như
Lai Hội của kinh Đại Bảo Tích, đức Phật
cũng đối trước A Dật Đa Bồ Tát thọ
kư nhiều lượt: Nếu có các chúng sanh sanh khởi tín
tâm đối với pháp môn này, hành tŕ, thủ hộ, sẽ
sanh khởi phương tiện oai đức rộng lớn,
có sức tự tại chọn lựa đối với
vô lượng pháp môn. V́ thế, trong ấy có nội hàm của
cơ chế thọ kư, thệ nguyện, và huân tu.
Trong
giáo ngôn Tịnh Độ được truyền bá trên thực
tế tại Trung Hoa, có nhiều vị Bồ Tát truyền
bá pháp tắc “chuyên tu, chuyên niệm A Di Đà Phật”,
quả thật là v́ mong lợi lạc hữu t́nh đang mê
mất, hữu t́nh đang tán loạn, hữu t́nh đa
nghi, hữu t́nh tự coi là hèn kém và thiện căn chẳng
thành thục sẽ có thể đối với một pháp
môn mà tùy thuận tự tại, tùy thuận khế nhập,
đối với một pháp môn sẽ đạt
được nhân duyên cổ vũ, khích lệ, giáo
hóa. Nhưng có nhiều hữu t́nh hiểu lầm, hoặc
có thể nói là hữu t́nh ngu si, mê muội, điên đảo,
cưỡng chấp một pháp, cho nên thường nẩy
sanh những giáo thuyết quá khích gây ngăn trở, thậm
chí diệt pháp, báng pháp, hủy pháp. Đó là sự tuyên nói
chẳng tương ứng với pháp tắc do thời
đại này tạo thành. Nếu đối với hữu
t́nh trong thời Mạt Pháp không có sức tu tŕ, hữu t́nh
thiện căn chưa thành thục, hữu t́nh nhiều lo
ngờ, hữu t́nh chẳng khéo tu tập pháp tắc, mà hướng
dẫn các loại hữu t́nh ấy thâm nhập một môn,
sẽ là rất thiện xảo, là sự lựa chọn
có ư nghĩa. Có nhiều hữu t́nh do tâm tham, tâm tạp loạn, tâm kiêu mạn, tâm tà kiến, dẫu muốn
tu pháp thành tựu mà chẳng thể thành tựu, chẳng
thể thâm nhập, chẳng thể chọn lựa. V́ vậy,
đức Thế Tôn cho đến các vị thiện tri thức
truyền pháp trong đời sau, đều dùng đủ mọi
thiện xảo để dẫn dụ, hướng dẫn
chúng ta thâm nhập một môn, ngơ hầu thành tựu sự
lựa chọn trong hết thảy các pháp, cho đến thành tựu Vô
Thượng Bồ Đề, đắc Bất Thoái Chuyển
ngay trong một đời. Quả thật, chẳng có pháp
cố định, mà cũng chẳng có pháp để
phỉ báng các duyên khác, hoặc ngôn thuyết thật sự để gây trở ngại
cho duyên khác. Những thứ như thế
chỉ là phương tiện nhất thời để
ngăn che, bảo vệ. Hiện thời, trong thế gian
này, chúng ta thường nghe nói kiểu truyền bá Phật
pháp chẳng tương ứng, tức là “dùng một pháp để diệt các pháp” như thế
đó. [Kiểu nói ấy thúc giục hành nhân hăy] thực
hiện giáo ngôn dựa theo các ngôn thuyết quá khích, mâu thuẫn
với nội hàm thực chất rộng lớn, “nhiếp
trọn khắp ba căn, lợi ích rộng khắp hết
thảy hữu t́nh” của giáo ngôn Tịnh Độ[3].
Nói theo nội hàm chân thật của giáo ngôn
Tịnh Độ, thật sự là “chẳng bỏ hết
thảy các pháp, chứa đựng rộng khắp hết
thảy các pháp, trọn đủ nội dung chân thật của
hết thảy các pháp, có thể lợi ích rộng khắp
hết thảy hữu t́nh trong pháp giới”. Đó là nội
hàm công đức chân thật của pháp Tịnh Độ.
Công đức và lợi ích của Ban Châu tam-muội
cũng là như thế.
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Ngă nhược thuyết bỉ
chư thiện nam tử, cập thiện nữ nhân tạm
tŕ tam-muội vi diệu kinh điển, sở đắc
công đức, thiết kinh kiếp số, chung bất
năng tận. Ngă chi trí biện, tuy phục vô cùng, diệc
bất năng thuyết, hà huống bỉ bối, văn
thử tam-muội, y giáo tu hành, như pháp nhi trụ dă.
(經)復次賢護。我若說彼諸善男子及善女人。暫持三昧微妙經典。所得功德。設經劫數。終不能盡。我之智辯。雖復無窮。亦不能說。何況彼輩。聞此三昧。依教修行如法而住也。
(Kinh: Lại này Hiền
Hộ! Nếu ta nói công đức đạt được
do các thiện nam tử, và thiện nữ nhân ấy tạm
tŕ kinh điển tam-muội vi diệu, dẫu trải qua
bao kiếp số, trọn chẳng thể nói hết được.
Biện tài trí huệ của ta tuy vô cùng, vẫn chẳng thể
nói! Huống hồ bọn họ nghe tam-muội này, y giáo tu
hành, an trụ đúng pháp).
Trong
nhiều kiếp, vô cùng kiếp, đức Thế Tôn tán
thán chẳng thể trọn hết, huống hồ hết
thảy các vị Bồ Tát, các vị Thanh Văn, các vị
Duyên Giác, cho đến hết thảy hàng phàm phu mà có thể
tán thán cùng tận ư? Công đức đạt được
do tạm nghe, cho đến tạm tŕ kinh điển này,
Phật c̣n chẳng thể tán thán trọn hết, huống
hồ [công đức do] tu tŕ, thâm nhập tu tập pháp
như thế ư? Đức Thế Tôn nêu ra một so
sánh, một lời khuyên dạy
như vậy để xưng tụng, tán thán công đức
và lợi ích của pháp này, mong cho hết thảy chúng sanh hữu
duyên sẽ thật sự liễu giải công đức và
lợi ích chân thật của pháp này, tức là nêu ra tướng
công đức to lớn cho đến lợi ích rốt ráo
chẳng thể nghĩ bàn của Thập Phương
Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội!
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa,
nhi thuyết kệ viết.
(經)爾時世尊。爲重明此義而說偈曰。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn v́ muốn nêu rơ lại nghĩa này bèn
nói kệ rằng).
Trùng
tuyên các công đức do thọ tŕ, cầu truyền dạy,
giải nói, cho đến đích thân chứng đắc
Ban Châu tam-muội.
(Kinh)
Nhược nhân hữu năng giải thích tư, chư Phật
đại tịch thắng tam-muội. Giả linh ngă kim
thuyết công đức, do bỉ Hằng hà thủ nhất
sa. Nhược năng vị tha thuyết tam-muội, thủy
bất năng nịch, hỏa bất thiêu. Đao, trượng,
độc hại sở bất thương. Vương,
tặc, ác quan bất đắc tiện. Nhược
năng độc tụng tam-muội kinh, bất úy nhất
thiết khủng bố sự. Như bỉ đại xà,
chư đại độc, thử đẳng kinh lực
năng diệt trừ. Nhược hữu thọ tŕ thị
kinh điển, bất úy nhất thiết chư ác nhân. Dạ
Xoa, La Sát, cập chư long, bỉ đồ chung vô đắc
kỳ tiện. Nhược thường thủ hộ,
cúng dường giả, tiện tại Lan Nhă vi bằng loại.
Sư tử, hổ, lang, chư thú đẳng, tê ngưu,
sài, báo, cập dă ngưu, nhược năng hộ tŕ thử
tam-muội, bỉ hữu oai lực bất khả
đương, viễn ly nhất thiết ác tâm nhân, cập
chư Dạ Xoa đạm tinh khí.
(經)若人有能解釋斯。諸佛大寂勝三昧。假令我今說功德。猶彼恆河取一沙。若能爲他說三昧。水不能溺火不燒。刀杖毒害所不傷。王賊惡官不得便。若能讀誦三昧經。不畏一切恐怖事。如彼大蛇諸大毒。此等經力能滅除。若有受持是經典。不畏一切諸惡人。夜叉羅剎及諸龍。彼徒終無得其便。若常守護供養者。便在蘭若爲朋類。師子虎狼諸獸等。犀牛豺豹及野牛。若能護持此三昧。彼有威力不可當。遠離一切惡心人。及諸夜叉啖精氣。
(Kinh: Nếu ai giải
thích môn tam-muội, thù thắng đại tịch của
chư Phật, nếu nay ta nói công đức ấy,
như nhặt hạt cát từ sông Hằng. Nếu v́
người khác nói tam-muội, nước chẳng nhấn
ch́m, lửa chẳng đốt. Đao, trượng, độc
hại chẳng thương tổn. Vua, giặc, quan ác chẳng
hại được! Nếu hay đọc tụng kinh
tam-muội, chẳng sợ hết thảy chuyện kinh
hăi. Như rắn lớn, chất độc rất mạnh,
do sức kinh này diệt trừ ngay. Nếu ai thọ tŕ
kinh điển này, chẳng sợ hết thảy các kẻ
ác. Dạ Xoa, La Sát, và các rồng, chúng chẳng thừa
cơ gây hại được. Nếu thường thủ
hộ, cúng dường kinh, khác nào trụ trong A Lan Nhă.
Sư tử, cọp, sói, các loài thú, tê giác, sài, báo, và trâu rừng.
Nếu hay hộ tŕ tam-muội này, oai lực người ấy
thật khôn sánh. Xa ĺa hết thảy kẻ tâm ác, và các Dạ
Xoa nuốt tinh khí).
“Viễn
ly nhất thiết ác tâm nhân” (Xa ĺa hết thảy kẻ
tâm ác): Thật sự là do sức tam-muội mà có thể khiến cho kẻ có tâm ác chuyển thành thiện.
Đó là chân thật, chẳng dối. Trước đó,
đă nhắc tới tê giác, sài[4],
báo, cọp, sói, các loài thú cũng do sức tam-muội này khiến
cho ác tâm mănh liệt của chúng ngưng dứt tạo tác,
cho đến chuyển sang thủ hộ những
người hành pháp này. Rất nhiều người hành
pháp trong quá tŕnh tu hành, đă thấy các sanh mạng, các thứ
tướng cảnh giới, các thứ cảm nhận,
nhân loại, phi nhân loại, loài thú, loài chẳng phải
thú, thiên, phi thiên, các vị hiền thánh, Bồ Tát, thảy
đều trông thấy, nhưng chẳng đắm nhiễm.
V́ sao? Duyên theo sức tam-muội chiếu kiến. Đối
với chuyện này, cũng chớ nên sợ hăi, v́ giống
như huyễn lực, như vật soi bóng trong
gương, như sương, như tia chớp, như mộng
huyễn, chẳng có thực chất. Nếu người
hành pháp chọn lựa như thế, sẽ thẳng một
đường mà đi, chẳng ngoái cổ lại, sẽ
đạt được niềm vui thù thắng của
pháp ích từ các lợi ích do pháp đem lại, rốt ráo
an trụ trong pháp tắc như thế.
Các
vị Bồ Tát đang hiện diện ơi! Đối với
pháp tắc này, có vị hành tŕ sâu hơn, có vị hành cạn
hơn, có v́ hành lâu hơn, có vị vừa mới tiếp
xúc, có vị thậm chí c̣n chưa tiếp xúc, có vị chỉ
nghe nói, yêu mến pháp tắc như thế, công đức ấy
đều chẳng thể nghĩ bàn. V́ công đức ấy
trọn đủ chặng đầu, trọn đủ
chặng giữa, và trọn đủ chặng
cuối cùng. Phát tâm cầu được truyền dạy,
đọc tụng kinh điển đều chẳng thể
nghĩ bàn. Giải nói cho người khác, tuyên nói kinh điển
này, đích thân chứng tam-muội, chẳng thể nghĩ
bàn!
“Cập chư Dạ Xoa đạm tinh khí” (và các Dạ Xoa nuốt tinh khí): Đấy
là những quỷ thần ác theo sát chúng sanh trong thế
gian. Loại quỷ ăn nuốt tinh khí này đoạt mạng
con người, đoạt tâm trí của con người,
đoạt sắc thân của con người, nhất là
người hiện thời uống rượu, hút thuốc,
ăn hành tỏi, các thứ tanh tưởi, do ngũ huân
khiến cho thân thể con người tỏa ra hơi
hướng xấu ác. Do vậy, các loài quỷ ăn tinh
khí sẽ thường theo sát. Có nhiều hữu t́nh bị
các chứng hôn trầm, lăng quên v.v… phần nhiều v́
[nguyên nhân] như thế mà phát sanh, tức là bị quỷ
thần ác ŕnh rập, khiến
cho tâm thần vô lực. Đó là nạn duyên có tánh chất
ác do quỷ ăn tinh khí tạo thành. Khi tâm trí quư vị
thanh tịnh, tạp duyên yếu ớt, nhất là do nhân
duyên chẳng ăn, chẳng dùng các thứ hôi tanh v.v… liên tục
đă lâu, hôn trầm sẽ nhanh chóng giảm thiểu. Vậy
th́ người xuất gia, người tu pháp đă tu tập
lâu ngày, v́ sao vẫn lắm hôn trầm? V́ các chủng tử
trong quá khứ chẳng dễ ǵ thoát được!
Sắc thân của chúng ta vốn chẳng bị
hôn trầm, chẳng bị sức hôn trầm khống chế,
[bị hôn trầm hay không] đều là do ác
thần hay thiện thần
bầu bạn. Mỗi người sanh ra đều có hai vị
thần tụ tập, tức là hai thiên thần bầu bạn
từ lúc c̣n sống cho đến khi chết đi, bầu
bạn suốt cuộc đời. Nếu hai vị thần
ĺa bỏ, thân thể sẽ tiêu vong. Có người đến
bệnh viện, trông thấy người sống đời
thực vật, thân thể c̣n sống, nhưng chẳng có
ư thức hay cảm giác, tức là thân thể chỉ có
tướng trạng rỗng không. Trong t́nh huống thông
thường, thân thể trống rỗng sẽ chẳng dễ
duy tŕ sanh mạng, nhưng có bệnh nhân dựa vào các thứ
như được truyền dịch dinh dưỡng
v.v… để kéo dài sanh mạng,
nhưng cảm giác đă chẳng c̣n, do hai vị thiện và
ác thần đă đều ĺa bỏ. Người bị ác
thần sai sử, sẽ hiện tướng hung ác, cố
ư làm chuyện hung ác, cho đến làm các chuyện thuộc
về ác duyên và ác tướng. Nếu thiện thần thủ
hộ, người ấy sẽ làm các chuyện thiện xảo,
làm các thứ thiện duyên, nói những lời mềm mỏng,
làm các chuyện mềm mỏng và lợi ích. Đối với
điều này, trong kinh điển, đức Thế Tôn
đă chỉ rơ, nhưng nếu quư vị thật sự
đạt được tâm trí Bồ Đề thanh tịnh,
xa ĺa tam giới, sẽ chẳng bị chuyện này quấy
nhiễu, chẳng thuộc vào loại này.
Thông
thường, sau khi đă ngồi nghe giảng mười
lăm phút ở đây, chủng tử của con người
sẽ xuất hiện. Càng hành pháp lâu ngày, khi đạt
đến mức mấp mé, sẽ càng cảm thấy có
t́nh huống như thế này: Nếu được nhắc
nhở th́ không sao, chẳng được nhắc nhở
th́ con người sẽ rất nhanh chóng buồn ngủ. Nhất là đối với những
người tu pháp đă đạt được an ổn
đôi chút. Người ấy cứ ngỡ ngoại duyên
đă an ổn, cho nên sẽ buông lung. Hễ buông lung, sẽ
buồn ngủ liền. T́nh huống ấy xảy đến
rơ rệt nhất trong khi đang tu pháp; chứ lúc b́nh thời,
ở trong ngũ dục, hoặc là trong khi làm các thứ nghề nghiệp, sẽ chẳng
bị hôn trầm, v́ người đang làm việc, do thân
tâm an lạc, hoặc phải suy nghĩ, bàn bạc; c̣n trong
khi tu pháp th́ lại bị che lấp. Sự che lấp ấy
phần nhiều là v́ ác quỷ thần che lấp. Kẻ
càng tự nghĩ chính ḿnh hành pháp đắc lực, có thọ
dụng tốt đẹp, sẽ càng bị che lấp! Do
chủng tử nổi dậy, tâm kiêu mạn sanh khởi, sẽ
bị che lấp. Có khi tôi thấy trong khi đả thất,
nhất là vào trong nội viện, [hành nhân] ngủ gục hết.
Nếu là người sáng suốt, bèn hét to một tiếng
để xua đuổi loại hữu t́nh ác ấy. Ai
đă chèo kéo các hữu t́nh tánh ác ấy? Do các hữu t́nh hôn
trầm chuốc vời! Họ dưỡng dục
chúng nó, dùng sanh mạng của chính ḿnh để dưỡng
dục. Kẻ hút thuốc, ăn hành tỏi, có khi từ xa
đă khiến cho người khác cảm thấy có mùi vị
khó ngửi, hoặc khiến cho người khác có cảm
giác không ưa thích. Thật ra, kẻ
ấy đă bị quỷ thần ác xâm phạm. Thông
thường, chúng ta sẽ cho rằng
nói như vậy chẳng tương ứng, nhưng trong
kinh điển nhà Phật, trong giáo ngôn về sự tu tŕ,
trong nghi quỹ, đều đ̣i hỏi rất nghiêm ngặt.
Đối với hai thứ điệu cử và hôn trầm, đều quở
trách, thống trách! Kẻ tự xưng là “tu pháp” trong hiện
thời, nhất là kẻ tự đắc ư, tức là kẻ
ngỡ chính ḿnh tu pháp có thành tựu, sẽ hôn trầm nhiều
nhất. Chúng ta chỉ nên phê phán đôi chút, mười phần
th́ tám chín phần đang hôn trầm! Trước kia, trong
xă hội, tôi đă gặp một số người nói:
“Ông X… tu hành rất khá, bà Y… tu hành rất thiện xảo!”
Tôi nói: “Tạm thời không cần bàn luận. Cứ ngồi
xuống là biết ngay!” Chẳng hạn như ngồi hai
tiếng đồng hồ. Họ vừa ngồi xuống,
chừng năm mười phút đă hôn trầm, hai
mươi phút bèn điệu cử. [Nếu đă hôn trầm
trong khi tĩnh tọa], trong các lúc khác, sẽ chẳng thể
nói là như thật được! Nếu có thể thật
sự ngồi thanh tịnh, thân tâm khinh an, sự khinh an từ
bên trong phát ra, tịch tĩnh khinh an, đó là người
thật sự tu hành Phật pháp. Nếu không, sẽ là kẻ
hôn trầm, ngồi đó làm chi? Tiếp nhận mười
phương cúng dường, chính ḿnh hôn trầm, cứ
lăng phí từng lúc như thế. Kẻ sơ phát tâm, tinh tấn
dũng mănh, phần nhiều có thể xa rời tật này.
Người tu hành “lăo đạo” ngược lại,
sẽ hăm nhập sâu đậm trong ấy! Từ chúng xuất
gia hay chúng tại gia, đều có thể
thấy chuyện này! Pháp Ban Châu nếu
phát tâm dũng mănh, sẽ có thể tránh khỏi nhân duyên này.
V́ trừ phi nương dựa vào một chỗ nào đó
[để tạm nghỉ], chỉ cần đang đi
kinh hành, hễ hôn trầm sẽ ngă chỏng gọng,
hoặc quư vị dùng phương pháp tự dối gạt
khi bị hôn trầm, sẽ chẳng thể được,
sẽ ngay lập tức lảo đảo. V́ thế,
phương pháp này mười phần chẳng thể nghĩ
bàn!
(Kinh)
Nhược năng giải thuyết thử tam-muội, bỉ
vô chư bệnh, cập chướng tai. Sở sanh báo nhăn
chung bất suy, ngôn từ thanh diệu, hữu đại
biện.
(經)若能解說此三昧。彼無諸病及障災。所生報眼終不衰。言詞清妙有大辯。
(Kinh: Nếu hay giải
nói tam-muội này, chẳng có các bệnh và tai chướng,
Báo nhăn vốn có chẳng hề suy, ngôn từ thanh diệu,
đại biện tài).
“Sở
sanh báo nhăn chung bất suy” (con mắt được sanh
bởi quả báo chẳng hề bị kém đi): Đối
với người hành Ban Châu, có người nói: “Chẳng
ngủ trong một thời gian dài, sợ mắt sẽ bị
hỏng”. Chẳng phải như vậy! Người thật
sự hành Ban Châu, mắt chẳng bị ảnh hưởng,
thường là mắt rất sáng. Nhưng người hiện
thời tin sâu pháp này rất ít, ngờ vực th́ nhiều,
v́ đă dùng phàm t́nh để biện định, cho nên bị
ngăn trở, rất khó tùy thuận sức tam-muội, chẳng
đạt được nguyện lực và sức thần
thông chẳng thể nghĩ bàn của Phật gia tŕ, cho
đến chẳng được phước đức
bất cộng gia tŕ, chẳng thể tùy thuận [các sức
gia tŕ ấy], chỉ tùy thuận nghiệp duyên của chính
ḿnh, đọa trong hiện duyên của chính ḿnh, chẳng thể
tự thoát được!
(Kinh)
Nhược nhân chứng tri thâm tịch Thiền, thân thể
hùng kiện vô chúng bệnh, nhất sanh vĩnh tuyệt
chư ác sắc, hậu chung bất úy địa ngục
đạo.
(經)若人證知深寂禪。身體雄健無衆病。一生永絕諸惡色。後終不畏地獄道。
(Kinh:
Nếu người chứng biết Thiền sâu lắng,
thân thể khỏe mạnh, chẳng bệnh tật. Suốt
đời dứt bặt các ác sắc, chết đi, chẳng
sợ đường địa ngục).
Trong
sự tu tŕ hiện tiền của chúng ta, sẽ sanh khởi
sự lựa chọn vô úy. Đă là vô úy ngay trong hiện tiền,
sao c̣n có thể sợ hăi địa ngục? Cho tới
đối với lục đạo, đều chẳng sợ
hăi. V́ sao? Người ấy đă lập tức lựa chọn
dứt khoát, lựa chọn ngay trong một niệm này, chọn lựa trong một niệm kia. Niệm
nào cũng lựa chọn dứt khoát, tu ngay trong lập tức,
tu ngay nơi mỗi niệm, được gọi là “người
thường hành đạo”, cho nên chẳng
sợ hăi lục đạo. Các vị thiện tri thức
ơi! Nếu chúng ta thật sự nương theo pháp
để tu tŕ, nương theo pháp để hành,
nương theo giáo để tu tŕ, nương theo giáo
để hành, có thể hướng đến, tùy thuận
tam-muội này, mong cho mỗi niệm hiện tiền đều
là duyên khởi thanh tịnh, duyên khởi b́nh thản, duyên
khởi viên măn, duyên khởi vô ngại, duyên khởi chân thật,
duyên khởi vô úy, duyên khởi thanh tịnh, từ bi, trí huệ
giống hệt như Phật. Trong mỗi duyên khởi,
đều tu ngay trong mỗi niệm hiện tiền, tức
là nếu có thể tiếp nối duyên khởi, chẳng tạo
tác, người ấy chắc chắn sẽ tương ứng
với tam-muội. Cho nên đích thân chứng tam-muội chẳng
khó!
(Kinh)
Nhược hữu năng độc tam-muội điển,
chư thiên thủ hộ cập long thần. Dạ Xoa, La
Sát, dữ oán cừu,
bỉ tuy ác lâm, bất kinh cụ. Nhược năng vị
tha thuyết tư kinh, thiên, long, Dạ Xoa giai hoan hỷ.
(經)若有能讀三昧典。諸天守護及龍神。夜叉羅剎與怨仇。彼雖惡臨不驚懼。若能爲他說斯經。天龍夜叉皆歡喜。
(Kinh:
Nếu ai đọc kinh điển tam-muội, chư
thiên, long thần đều thủ hộ, Dạ Xoa, La Sát,
và oán cừu, tuy hiện tướng ác, chẳng sợ hăi.
Nếu v́ người khác nói kinh này, trời, rồng, Dạ
Xoa đều hoan hỷ).
“Thiên
long Dạ Xoa giai hoan hỷ” (trời, rồng, Dạ Xoa
đều hoan hỷ): V́ khi chúng ta niệm Phật, thân
tướng quang minh. Có nhiều người niệm Phật,
hành pháp, sau khi đă như thật hành tŕ, sau khi kinh hành, sắc thân sẽ
biến hóa. Nếu trong khi hành đạo Ban Châu, cứ t́m
kiếm cơ hội để ngủ, người như
thế sau khi kinh hành xong, khí sắc chẳng có ǵ! Nhưng nếu
thật sự như lư, như pháp hành tŕ suốt một
ngày một đêm, ấn định kỳ hạn để
cầu chứng, trong một ngày một đêm yêu mến, bảo
vệ, trân trọng mỗi niệm hiện tiền, tu tŕ
đúng pháp trong một ngày một đêm ấy, sắc
tướng của người đó sẽ rực rỡ
chẳng thể nghĩ bàn, có thể chiếu pháp giới.
V́ thế, sẽ như trong phần Trường Hàng
trước đó đă nói: Do được chư thiên,
quỷ thần, cho tới các vị Bồ Tát, chư Phật
nghĩ tưởng, đích thân giáng lâm, yêu thương che
chở, hộ niệm, bảo bọc, cho nên quang minh chói ngời
chẳng thể nghĩ bàn! V́ sao có hữu t́nh sau khi kinh hành Ban Châu lại đâm ra chẳng tương ứng?
V́ trong khi hành Ban Châu, đă nhất định ngủ thiếp
đi. Quư vị chớ nên trách lỗi người ấy,
mà cũng chẳng cần phải tới hỏi người
ấy, cứ để cho người ấy tự ḿnh
sám hối là đúng. Chẳng thể đ̣i hỏi! V́ hành
pháp hoàn toàn dựa vào sự hướng về pháp của chính ḿnh, cũng như
sự nhận thức phát tâm của chính ḿnh. Nếu quư vị
chẳng phát tâm, chẳng thật sự niệm Phật, vậy
th́ khí sắc và quang tướng của quư vị sẽ ảm
đạm. Nếu quư vị dối gạt kẻ
khác, hoặc nội tâm dấy lên sân tâm, mạn tâm, cho tới
tâm tà kiến, tâm báng pháp, chính ḿnh sẽ mắc hại. V́
sao? Rồng, trời, quỷ thần, La Sát, cho đến
oán đối sẽ đích thân kéo đến, quư vị sẽ
bị lừa dối, làm nhục, đích xác là chẳng thể
nghĩ bàn như thế! Nếu lúc các ác quỷ thần
đó, cho đến trời, rồng, kẻ oán, người thân v.v… đều đích thân kéo đến,
hăy nói kinh cho họ. Dẫu chỉ niệm Phật cũng
được, hoàn toàn chẳng phải là quư vị phải
tuyên giảng ǵ cho họ! Chỉ dùng Phật
hiệu, tức sáu chữ chân ngôn (nam-mô A Di Đà Phật)
đă trọn đủ hết thảy kinh giáo rộng lớn
và Tam Tạng mười hai bộ loại, chỉ sợ
quư vị chẳng tŕ niệm. Nếu quư vị dùng cái tâm chẳng
ô nhiễm để niệm tụng sáu chữ chân ngôn, sẽ
là pháp môn tổng tŕ lợi ích trời, người rộng
khắp, chẳng hề thiếu khuyết. Rồng, trời
sẽ đều hoan hỷ.
Pháp
tắc này do chính ḿnh khám nghiệm, chẳng cần người
khác uốn nắn, kiểm soát chi cả! Chúng ta có thể tự
quan sát chính ḿnh hành pháp có như pháp hay không, tương ứng
hay không, chân thật hay không? Sự phát tâm của chúng ta và kết
quả tuyệt đối tương ứng; đó là chân
thật chẳng giả. V́ ở đây, đức Thế
Tôn đă nói như thế, và cũng có rất nhiều người
không ngừng tu tập tại đây. Ta tiếp xúc
hành giả như pháp, từ sự phát nguyện cho đến
hành pháp, măi cho tới khi kết thúc, cho đến ngày kế tiếp vẫn
giữ vững hoặc hộ tŕ, nếu [người ấy] chẳng tùy ư ngủ mất,
hoặc nói những lời tạp nhạp v.v… Người có thể ǵn giữ như thế, liên tục
hành tŕ, diện mạo sẽ mỗi ngày một mới mẻ.
Đó là điều chắc chắn, chẳng ngờ!
Đương nhiên cũng có hành giả chẳng đúng
pháp, chẳng hạn như tuy phát tâm hành Ban Châu một ngày
một đêm, nhưng phần nhiều tinh thần sa sút, vọng
tưởng, thậm chí lười nhác. Sau khi ra khỏi
đạo tràng, nói năng tạp nhạp rất nhiều,
vọng tưởng tơi bời, người khác sẽ
hiểu lầm pháp tắc này, chê bai pháp tắc này.
Nhưng [các lỗi lầm ấy] đích xác là do nghiệp
duyên thúc đẩy tạo thành, chẳng phải là khuyết
điểm của pháp tắc này. Chúng ta nhất định
phải nhận rơ điều này!
Ngoài
ra, trong hành pháp này, nếu có lúc được
thấy, nghe, tiếp xúc những ǵ, nhất định chớ
nên sợ hăi. V́ lẽ nào? Quư vị là người
nương theo Phật, là người niệm Phật,
lập một niệm, đoạn các tưởng, chẳng
sợ hăi Ấm cảnh hiện tiền. Đối với
cảnh quang minh, cho đến cảnh trang nghiêm, chư Phật
hiện tiền, đều chớ nên sợ hăi. Chỉ nên
do thấy Phật mà được nghe pháp, đừng
nên làm chi khác. Như thế th́ sẽ có thể trực tiếp
tiến nhập Bồ Đề, chẳng bị thoái chuyển.
Trong thứ tự tu hành, hiện thời có một số
người bị Ấm cảnh đánh bại. Thật
ra là do họ phát tâm chẳng rơ ràng, cũng tức là vừa
mới ra khỏi cửa, trông thấy quang cảnh tốt
đẹp, [do đắm đuối phong cảnh], chẳng
tới được chỗ muốn đến, bèn nói: “Ối
trời! Chỗ định đến cũng chẳng có
chi hết, chỗ này đă rất tốt rồi!” Đó là
bị Ấm cảnh trói buộc, bị cảnh tướng
hiện duyên trói buộc, chẳng thể vượt qua. Cảnh
giới quang minh, cảnh giới trang nghiêm, cảnh giới
chư Phật hiện tiền đều trọn chẳng
thể được. V́ sao? Do quư vị chẳng tiến
nhập pháp tắc.
Có
nhiều người bị Ấm cảnh lừa gạt.
Tôi đă gặp người hành pháp bảy ngày tám đêm,
thường là hễ trông thấy cảnh quang minh, tức
là tướng cảnh giới hơi tốt đẹp
đôi chút, liền bị hăm rất sâu vào đó. Kẻ
thoát ra rất ít. Thường là người hành pháp từ
ba ngày trở xuống, người thoát khỏi Ấm cảnh
rất ít, nhưng người thật sự phát tâm rơ rệt,
chẳng đắm nhiễm cảnh giới. Đương nhiên là cũng có người chẳng có cảnh
giới, v́ sức tự chủ vẫn đủ, cho nên chẳng
có cảnh giới ǵ! Nếu thật sự chẳng đắm
nhiễm cảnh giới, chẳng sợ cảnh giới,
sẽ chẳng hâm mộ cảnh giới,
mà cũng chẳng sợ hăi cảnh giới. Hành pháp như
thế là thuận tiện nhất, sẽ là chuyện
nước chảy thành sông. Thấy Phật chẳng phải
là cưỡng cầu! Đă phát ra cái nguyện như thế,
niệm Phật mà muốn thấy chư Phật là để nghe pháp, hễ phát nguyện
liền đạt được, chẳng c̣n tiếp tục
dùng ư niệm để quấy nhiễu chính ḿnh, chỉ hành pháp niệm Phật là được rồi! Như thế th́ sẽ rất thuận
tiện. Nếu trong mỗi niệm [đều mong mỏi]
“ta muốn thấy Phật, ta muốn thấy Phật”,
có được hay không? Sợ rằng [cứ mong ước
như thế], sẽ trở thành gánh nặng, đâm ra bị
nó trói buộc, bị tri kiến ấy trói buộc, bị tŕ hoăn
trong trạng thái ấy, sẽ nẩy sanh cái
nguyện chẳng tương ứng. Chúng tôi phải nên nhắc
nhở đôi chút về chuyện này.
(Kinh)
Chư thiên trú dạ thường ca thán, nhất thiết Thế
Tôn ái nhược tử, nhược nhân vị tha thường
chuyển độc, nhất thiết pháp trung vô hữu
nghi.
(經)諸天晝夜常歌嘆。一切世尊愛若子。若人爲他常轉讀。一切法中無有疑。
(Kinh: Chư thiên
ngày đêm thường ca ngợi, hết thảy Thế
Tôn thương như con. Nếu v́ người khác thường
chuyển đọc, trong hết thảy pháp đều chẳng
nghi).
“Nhược
nhân vị tha thường chuyển độc, nhất thiết
pháp trung vô hữu nghi” (nếu ai v́ người khác
thường đọc tụng, trong hết thảy các
pháp chẳng có ǵ nghi ngờ): Không chỉ riêng chính ḿnh hành
pháp tắc này! Nếu có thể truyền
đạt cho người khác, cho đến lần lượt
hướng dẫn hữu t́nh học tập, tu tập,
đọc tụng kinh điển như thế, th́ trong hết
thảy các pháp, sẽ chẳng nghi ngờ, chẳng bị
ngăn ngại, chẳng thể có tâm trí và cơ hội
như thế!
Đối
với kinh điển Ban Châu Tam Muội này, sau khi chúng ta
đă học, tôi thấy người vứt bỏ pháp bảo
này, pháp tắc này th́ nhiều, người trân quư đă hiếm
lại càng hiếm hơn. Cũng có nghĩa là người
coi pháp bảo này như tṛng mắt của chính ḿnh ít lắm.
Thật ra, pháp này c̣n trọng yếu hơn tṛng mắt rất
nhiều! V́ mắt có thể sanh, có thể diệt, có thể tốt,
có thể xấu. Trăm năm cũng kết thúc, nhưng
pháp bảo này th́ sao? Cho đến hết đời vị
lai, luôn tồn tại rộng răi trong thế gian, lợi
ích rộng khắp vô lượng chúng sanh thành tựu A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Chúng ta có yêu mến
thủ hộ pháp bảo này như trân bảo hay không? Đối
với chuyện này, chúng ta cần phải tự phản tỉnh,
quan sát. Chính quư vị c̣n chẳng trân quư, quư tiếc pháp này, há c̣n có thể tuyên nói với người khác, truyền
đạt kinh điển này ư? Khi tôi được gặp
kinh Ban Châu Tam Muội lần đầu tiên, mười phần
rúng động! V́
khá nhiều vấn đề nghi nan trong việc hành Ban Châu
đều được nhắc tới, và cũng đều
giải quyết hết! Bởi thế, tôi rất kích
động, mang kinh này từ miền Đông Bắc tới
đây, hy vọng chúng ta sẽ có cơ hội học tập
như thế. Lúc ấy, tôi học tập vẫn chưa phải là bản kinh này, mà chỉ coi nó
như một tài liệu tham khảo, v́ giáo ngôn trong kinh này
hết sức tỉ mỉ, thanh tịnh, toàn vẹn, giải
quyết các nghi nan đối với chuyện hành tŕ Ban Châu trong hiện tiền,
bất cứ vấn đề ǵ cũng đều chẳng
bỏ sót! Quư vị có thể thường xuyên đọc,
nhất là đối với người thường hành Ban Châu, có thể thật sự đọc th́ rất nhiều
vấn đề căn bản là chẳng cần phải
hỏi ai khác, chỉ cần hỏi kinh điển là có thể
giải quyết.
(Kinh)
Bỉ chư dung sắc vô đẳng luân, khởi ư Bồ
Đề hữu thoái giảm? Nhược năng chuyển
giáo chư chúng sanh, tao trị ác vương, nhân dân loạn,
thời niên kháng hạn, cốc giá quư, chung vô thọ tệ
cập cơ hoang.
(經)彼諸容色無等倫。豈於菩提有退減。若能轉教諸衆生。遭值惡王人民亂。時年亢旱谷價貴。終無受弊及饑荒。
(Kinh:
Người ấy dung mạo đă khôn sánh, há có thoái giảm
nơi Bồ Đề? Nếu hay dạy lại các chúng
sanh, gặp gỡ vua ác và dân loạn, nhằm lúc hạn hán, giá gạo
cao, trọn chẳng chịu khổ và đói kém).
“Thời
niên khang hạn, cốc giá quư. Chung vô thọ tệ cập
cơ hoang” (gặp lúc hạn hán, giá gạo cao, trọn
chẳng chịu khổ và đói kém): Nhằm năm đói
kém, cho đến bị tai ương hạn hán, lũ lụt,
giá gạo cao v.v… chúng ta đều chẳng gặp phải
các nỗi nguy hại như thế. Có thể là nhân loại
phải đối diện các vấn đề mà chẳng
hay biết. Nếu hay biết, sẽ có thể giải quyết.
Giống như hiện thời, chúng ta hành pháp Ban Châu gặp
các vấn đề, nếu thật sự biết, nếu
liễu giải chánh xác, cũng sẽ chẳng trở thành
vấn đề. Điều chánh yếu là khi chúng ta gặp
phải vấn đề mà chẳng hiểu biết vấn
đề, đó là vô minh, là lúc nguy hiểm nhất.
Hiện
thời, nhân loại sanh tồn trên quả địa cầu
này trong không gian, chúng ta gặp các tai nạn có thể nhận
biết và không thể nhận biết. Tai nạn có thể
nhận biết th́ có thể dự pḥng; tai nạn không thể
nhận biết luôn ấp ủ trong ư thức sanh mạng
của chúng ta tột bậc chẳng thể
nghĩ bàn. Tôi chẳng mong nói bất cứ điều ǵ
đem lại sự bất an cho đại chúng, nhưng
sâu thẳm trong tâm linh của toàn thể nhân loại, toàn là các nhân duyên chẳng
an ổn, cho đến các nhân duyên có tánh chất xấu ác
cực đoan như ích kỷ, tội
ác, tà kiến. Sau đó, [các nhân duyên xấu ác ấy] sẽ
dẫn đến các quả báo đúng là chẳng thể
nghĩ bàn!
Tôi
đă trải qua vài lần nhân duyên tai nạn khá lớn ở
Trung Hoa trong thời gần đây. Chẳng hạn như
đại thủy tai, động đất, bệnh SARS (severe acute respiratory syndrome, hội chứng hô
hấp cấp tính nghiêm trọng) v.v... Lúc dịch
SARS dữ dội nhất là ở Quảng Châu, tôi trực
tiếp đến Quảng Châu. Lúc ấy, cũng là lúc Quảng
Châu rối loạn nhất, mọi người sợ hăi bệnh
SARS đă đến mức cùng cực. Sau khi nhân duyên ở
Quảng Châu đă giảm xuống, tôi đến Bắc
Kinh đúng ngay lúc t́nh h́nh dịch ở Bắc Kinh bắt
đầu nghiêm trọng. Khi nhân loại đối
diện nỗi kinh hoảng trước tai nạn không biết
rơ, quả thật rất đáng thương. V́ sao? V́ chẳng
hiểu biết! Tôi nói: “Tôi dùng sanh mạng
của chính ḿnh để thể nghiệm SARS đôi chút
xem rốt cuộc nó là ǵ?” Về sau, tôi
nói: “SARS là một con rắn. Hễ trông thấy, ắt phải
chết”. Lúc ấy, có rất nhiều người hỏi
tôi, tôi đều nói như thế. V́ sao người ta thấy
nó ắt sẽ chết? Con người phần nhiều sợ
hăi nó, mà chẳng hiểu biết nó!
Tôi
cảm thấy nỗi sợ hăi là một thứ lớn nhất
trong sanh mạng, sợ hăi đối với vô minh, sợ
hăi đối với nghiệp báo. Như chúng ta kinh hành Ban
Châu, rất dễ gặp các nhân duyên trước kia
chưa từng gặp, hoặc các tướng cảnh giới
trước kia chưa hề biết. Như thế th́ hữu
t́nh tà kiến sẽ đắm nhiễm. Ở trong đó,
bèn nói cao, nói thấp, nói sợ hăi, nói chẳng sợ hăi. Nếu
là người trí, đối với họ, đó chỉ
là một quang cảnh, tùy duyên trông thấy, trọn chẳng
liên can. V́ thế, họ an trụ trong thanh tịnh, hồi
thí giáo ngôn thanh tịnh cho người khác, khiến cho chúng
sanh thẳng thừng tiến nhập Bồ Đề, thấy
chư Phật thanh tịnh thí giáo. Đó là pháp tắc chẳng
thể nghĩ bàn! Khi nạn SARS bùng nổ khá dữ dội
tại Trung Hoa, tôi thật sự cảm nhận tâm lư
mười phần sợ hăi của nhân loại ngu si đối
với vô minh. Đương nhiên cũng có một số
ít, một số người cực ít chẳng sợ hăi
chuyện này; nhưng đại đa số th́ trong chỗ
thẳm sâu của tâm lư đều sợ hăi, không thể
đè nén được. Nỗi sợ hăi ấy chẳng
thể diễn tả được! Thật ra, thật sự
là chẳng có ǵ, chủ yếu là nỗi sợ hăi trong tâm
trí, là ma nạn do vô minh đem lại. Phần lớn mọi
người chẳng có duyên với thứ ấy, nhưng
họ đều sợ hăi.
So
với các nghiệp duyên mà nhân loại phải đối
diện mai sau, chắc là SARS yếu ớt nhất. Giống
như một trận gió phất qua thế gian nhiệt năo này, bất quá trận gió
ấy u ám mà thôi. Chắc là có liên quan đến bất cứ
một người nào đó, hoặc đều chẳng
liên quan. Nếu một người ẩn núp trong căn
pḥng “khỏe mạnh, điều nhu, chẳng sát sanh” của chính ḿnh, chắc là cơn gió đen đúa ấy
chẳng thổi qua quư vị. Nhưng nếu kẻ nào
đang thuộc trong nghiệp duyên của sát nghiệp, ác
nghiệp, vô minh nghiệp hừng hực mà chẳng có ǵ
ngăn đón, sẽ rất khó chẳng bị
thương tổn! Đối với quả báo trong
tương lai, rất nhiều người đă dự
đoán chuyện này. Chuyện này cũng chẳng cần phải
dự đoán! Đó là nhân duyên mà nhân loại chúng ta phải
đối diện, đ̣i hỏi mỗi cá nhân chúng ta, tức
là những người đang sống, từng người
trong thế gian hiện thời, đối với chỗ
thẳm sâu trong tâm linh của chính ḿnh, cần phải khéo
quan sát xem nó có khỏe mạnh hay không? Có cần điều
trị hay không? Nó là từ bi, trí huệ, hay là vô minh,
điên đảo? Là thương xót thế gian, yêu mến
thế gian, bố thí cho thế gian, hay là xâm hại thế
gian, nhiễu loạn thế gian, rối loạn thế
gian? Các vị thiện tri thức ơi! Hăy tự khéo quan
sát, khéo tư duy, đừng nghe lời kẻ khác. Người
khác nói tốt hay xấu đều vô ích. Chẳng hạn
như trên núi Kê Túc đă ba lần có băo lốc lớn, có
người bèn mua cho chúng tôi một lều trại và chiếc
xuồng loại thổi lên được [để sử
dụng thoát hiểm]; nhưng chuyện ấy thật sự
chẳng liên quan đến chúng tôi. Người khác dự
báo tai nạn, vốn chẳng liên quan đến quư vị.
V́ sao? Trong cộng nghiệp c̣n có biệt nghiệp. Nếu
quư vị nhớ Phật, niệm Phật, có ǵ sợ hăi?
Quư vị có thể dùng gạo để ngăn chặn tai
nạn hay không? Quư vị có thể dùng bè cao su để ngăn
chặn kiếp thủy (nước lụt trong lúc hoại
kiếp) hay không? Quư vị có thể dùng lều trại
để ở tại nơi không thể ở hay
chăng? Đây thật sự là tâm trí đang bị tướng
cảnh giới dao động rất đáng thương,
nhưng trong thế gian này, nỗi sợ hăi lan truyền rất
mạnh mẽ!
Nếu
chúng ta hành pháp, hộ pháp, nương theo pháp để
hành, thâm nhập tu tập, đích thân chứng tướng
đại công đức của Chư Phật Hiện Tiền tam-muội
như thế, sẽ chẳng sợ hăi các tai nạn ấy.
Quư vị chỉ có thể trừ diệt Kiếp Hỏa,
diệt tai nạn, lợi ích rộng khắp các hữu
t́nh đang mắc nạn, chẳng sợ hăi, làm nơi chốn
an ổn cho chúng sanh đang mắc tai nạn. Đấy chẳng
phải là nói suông, mà thật sự phải nên là như thế.
Đó là tâm địa chân thật, tâm địa rộng lớn,
tâm địa an lạc, tâm địa chọn lựa, mà
cũng là tâm địa bi trí vô úy. Ở chỗ này, chúng ta
hăy nên thật sự tu tập pháp tắc này. Chẳng hạn
như khi người khác bị tai nạn, khi thế gian
có nguy nạn, chúng ta hăy nên thật sự đứng ra, thật
sự tu pháp ở nơi đó, bố thí vô úy, bố thí an
lạc cho chúng sanh ở nơi đó. Chẳng phải là trốn
tránh, hoặc là hời hợt nói về tai nạn!
Chín
năm trước, tôi nói chỗ chúng ta đang ở này sẽ
dần dần thích hợp cho nhân loại sống. Nay chúng
ta đă đạt được đôi chút thể nghiệm.
Trước kia, hễ đến mùa mưa, ắt là
người xuất gia ở chùa Phóng Quang không ai chẳng
khoác áo bông. Hễ mưa xuống, ẩm ướt và rét buốt
rất khó chịu đựng, nhưng hiện thời trên
cơ bản là một lớp áo. Buổi sáng thức dậy,
mặc thêm đôi chút là được rồi. Lại sau mấy
năm, chỗ này đă dần dần trở thành ấm
áp, vừa thích hợp cho con người sống sót.
Nhưng ở rất nhiều nơi khác, cuộc sống của
nhân loại phải đối diện vấn đề
thích ứng với nhiệt độ rất cao! Quư vị
thấy tại Ấn Độ, hay khu nhiệt đới
ở Bản Nạp, rất nóng, người ta vẫn sống
được. Chúng tôi nói theo trạng thái thông thường,
đương nhiên là con người không ngừng dùng máy
điều ḥa không khí để điều ḥa hoàn cảnh
sống. Nhưng trong hoàn cảnh hiện thời của
chúng ta, nếu nhân duyên của mọi người đầy
đủ, xây được ao phóng sanh ở phía trước
chùa, phước đức của người sống ở
nơi đây sẽ khá an ổn, chúng ta chẳng cần phải
điều chỉnh chi khác, mà có thể sống b́nh thường,
yên ổn. Đương nhiên, chẳng phải v́ sanh tồn
mà chúng ta tới chỗ này, nhưng hoàn cảnh như vậy
đối với sự dụng công tu đạo khá thích hợp.
Hoàn cảnh như vậy ở trong nước ngày càng ít.
Rất nhiều nơi hoàn cảnh đă trở thành mười
phần náo nhiệt, chẳng ai muốn bàn đến chuyện
tu tŕ, chỉ cần có cơ chế bảo đảm sanh
mạng là được rồi. Cũng có nghĩa là quư vị
có thể tiếp nối sanh mạng, chẳng phải bực
bội, chẳng cần giăy giụa, đừng bị tật
bệnh, tai nạn là được rồi. Nhưng hoàn cảnh
của chúng ta ở đây khá thích hợp, khá rộng răi, thong dong, mọi người
có thể tụng kinh, kinh hành, cho đến học tập
pháp ǵ [cũng được]. Có thể nói đó là các chuyện
chẳng thể thực hiện được trong hoàn cảnh
náo nhiệt, bức bách, hoặc hoàn cảnh đă mất
cân bằng, [thế mà] chúng ta có thể thực hiện ở
nơi đây.
Đây
là một nhắc nhở liên quan đến khu vực. Lại
c̣n v́ sao mọi người kinh hành Ban Châu ở nơi
đây? Tôi cảm thấy nơi này được phước
đức hộ tŕ. Ở chỗ khác, chẳng phải là
không thể kinh hành Ban Châu được. Nhưng nếu
đi kinh hành Ban Châu tại chỗ có “đất mỏng”,
đại địa sẽ bị chấn động,
quỷ thần bất an, họ sẽ nhiễu loạn quư
vị. Có người nói “cảnh giới ở chỗ này
nhiều như vậy”. Chẳng hạn như có người
sống tại Chung Nam Sơn (tỉnh Thiểm Tây), cảnh
giới hết sức nhiều, sống ở chỗ X… c̣n
có hữu t́nh bị quỷ thần công kênh chạy ṿng ṿng.
Đó là v́ ở chỗ “đất mỏng”, là nơi quỷ
thần, ác La Sát cư trụ!
Nếu quư vị làm thiện pháp cho họ, niệm Phật,
tụng kinh, bái sám, hồi hướng cho họ, họ sẽ
hoan hỷ, thủ hộ quư vị. Nhưng nếu
quư vị tạo ác nghiệp ở
đó, ăn uống phóng túng, vui chơi buông lung, quư vị
sẽ lănh quả báo ác tương ứng, thậm chí có thể
bị tàn hại sanh mạng. Hiện thời, có nhiều kẻ
sống trong tự viện, ở trong núi, do phóng dật mà
đâm ra mắc hại khá nhiều, v́ chẳng biết tu
hành đúng pháp, tức là do chẳng biết đúng pháp cúng
dường, thủ hộ, hồi thí, cho nên mắc nhiều
họa hại!
Tự
viện của chúng ta ở trong vùng núi rừng này, vẫn
mong mọi người hăy quư tiếc nhân duyên hành pháp của
chính ḿnh. Nếu quư vị trở về nhà, chúng tôi chẳng
nói tới, nhưng nếu đă ở nơi đây, hăy quư tiếc mỗi ngày của
chính ḿnh. Đó thật sự là chuyện có ư nghĩa! Chẳng
phải là cưỡng ép chính ḿnh, mà là phải tôn trọng
nhân duyên của chính ḿnh. Cưỡng ép chính ḿnh sẽ chẳng
có ư nghĩa chi hết! Chẳng hạn như nếu quư vị
mười phần chẳng muốn làm chuyện này, hăy nên
trở về nhà nghỉ ngơi, an dưỡng. Nhưng nếu
đă hành pháp, tự viện quả thật là một
nơi chốn thích hợp, là
chuyện có ư nghĩa. Chúng ta ở ngay nơi vùng địa
chấn của Vân Nam mà c̣n có cơ chế hành pháp an ổn,
phải nên quư trọng! [Có trường hợp, tuy] có chỗ
để kinh hành Ban Châu, nhưng thật sự chẳng
làm được. Chẳng hạn tại nơi có cơ
chế ác duyên trong gia đ́nh khá nhiều, để kinh hành
Ban Châu sẽ cần phải có sức đột phá chướng
ngại khá lớn! Nhưng kinh hành Ban Châu trong các đạo
tràng sẽ khá thuần tịnh, đơn giản, hoặc
tại nơi nhà cửa đơn giản, yên ổn, vẫn
là rất có ư nghĩa! Nếu thời gian kinh hành Ban Châu khá
dài th́ ở trên lầu cũng chẳng thích hợp cho lắm.
Trước kia, kinh hành Ban Châu tại chùa Bảo An, tầng
hai bị rúng động, rất nhiều người
đều cảm thấy giống như đang ở trên
chiếc thuyền tṛng trành. Đó là vấn đề thuộc
về cơ chế tải trọng. Chùa Bảo An ở
trên một quả núi có tên là Thố Thạch Sơn (厝石山), là một khối
đá, hễ kinh hành, cả quả núi rúng động. Nếu
chúng ta ngủ tại đó th́ không bị
lay động, nhưng khi chúng ta niệm Phật kinh hành
chính là truyền bá đại oai đức. Sức đại oai
đức được tiếp nối, nội hàm thực
chất của sức oai đức đều được
biểu hiện trong quá tŕnh chúng ta niệm Phật kinh hành.
Nếu quư vị quan sát tỉ mỉ, tu tập như thật,
như vậy th́ chúng ta sẽ khế nhập nội hàm thực
chất của pháp tắc này, sẽ chẳng thoát lệch
kinh điển, chẳng cách biệt quá lớn đối
với pháp tắc.
(Kinh)
Nhược nhân giải thuyết thử tam-muội, sở
hữu công đức bất tư nghị. Giả tuy ma
nhiễu chư chúng sanh, bất năng động tư nhất
mao phát. Ngă tiền thuyết bỉ tŕ kinh nhân, chúng hoạn
khủng bố cập phiền năo, bỉ chung bất
năng gia tổn hại, duy trừ văng nghiệp tiên định
ương.
(經)若人解說此三昧。所有功德不思議。假雖魔嬈諸衆生。不能動斯一毛髮。我前說彼持經人。衆患恐怖及煩惱。彼終不能加損害。唯除往業先定殃。
(Kinh: Nếu ai giải
nói tam-muội này, tất cả công đức chẳng
nghĩ bàn. Dẫu cho ma nhiễu loạn chúng sanh. Chẳng động mảy tóc, lông người ấy.
Trước kia, ta nói người tŕ kinh, ương
hoạn, sợ hăi, và phiền năo, trọn chẳng thể
tổn hại người ấy. Chỉ trừ định
nghiệp gây ương hoạn).
“Ngă
tiền thuyết bỉ tŕ kinh nhân, chúng hoạn khủng bố
cập phiền năo. Bỉ chung bất năng gia tổn hại,
duy trừ văng nghiệp tiên định ương”
(Trước kia, ta đă nói người tŕ kinh ấy, các sự
họa hoạn, kinh sợ và phiền năo trọn chẳng
thể gây tổn hại cho người ấy, chỉ trừ
các tai ương do định nghiệp từ trước).
V́ sao nói như thế? Có nhiều hữu t́nh bạc phước
ít đức, chẳng thể sám hối, chẳng thể
tiến nhập một pháp tắc, phần nhiều dùng tà
kiến, tâm kiêu mạn, tâm lừa dối để hành
pháp. Có khi c̣n có các chướng duyên hiện tiền! Nếu chúng ta có chướng duyên hiện tiền, hăy
sám hối, niệm Phật, vứt bỏ tạp duyên ác
tánh của chính ḿnh, nhất tâm niệm Phật, thủ hộ
pháp tắc ấy, th́ hết thảy ác duyên sẽ trọn
chẳng thể gia hại. Đích xác là có hữu t́nh bạc
phước, hữu t́nh ác duyên đă chín muồi, hữu
t́nh có thiện duyên chẳng đầy đủ, gặp
pháp này, sẽ nẩy sanh ác phiền năo và ác kiến, đâm
ra mắc hại. Nỗi hại ấy là họa hại nhất
thời, nhưng nói rốt ráo th́ vẫn là kết duyên thù
thắng chân thật với Vô Thượng Bồ Đề.
(Kinh)
Nhược hữu hộ tŕ ư thử kinh, thị tắc
ư ngô vi trưởng tử.
(經)若有護持於此經。是則於吾爲長子。
(Kinh: Nếu ai hộ
tŕ kinh điển này, người ấy là con cả của
ta).
Trong
giáo ngôn Tịnh Độ, đức Thế Tôn một mực
dạy: Người niệm Phật chẳng phải là Tiểu
Thừa, mà là trưởng tử của ta. Nói “trưởng
tử” tức là một pháp tắc tôn quư, thù thắng. “Một
pháp tôn quư, thù thắng” chẳng phải do chúng ta tự
xưng. Nếu chúng ta tự xưng, sẽ xuất hiện
vấn đề, nhưng đức Thế Tôn có thể
tuyên nói như thế. Bảo Vương tam-muội như
thế dung nạp hết thảy các tam-muội, trọn
đủ hết thảy các tam-muội, thành tựu hết
thảy tam-muội, v́ là Thập Phương Chư Phật
Tất Giai Hiện Tiền Lập, cho nên nói trọn hết
thảy các pháp. V́ trong hết thảy các pháp, Phật là chủ
của hết thảy các pháp, Ngài có thể tuyên nói hết
thảy các pháp. Hễ thấy hết thảy chư Phật,
sẽ trọn đủ hết thảy các pháp. V́ thế,
được gọi là Bảo Vương tam-muội,
chân thật, không giả! Đây là nói vô úy, nói chân thật,
chẳng phải v́ khuyến dụ chúng sanh mà nói giả thiết.
V́ thế, từ xưa tới nay, kinh Ban Châu Tam Muội là
một pháp bổn bất cộng, được các vị
đại thiện tri thức trải các đời thủ
hộ, tu tập, tôn sùng. Các vị thành tựu trải các
đời đều thâm nhập tu tập kinh điển
này, thâm nhập quan sát. Các Ngài thật sự tu tập thành
tựu, thủ hộ. Bất luận Giáo Hạ, Luật
Tông, Tịnh Độ Tông, cơ bản là lịch đại
tổ sư của các tông, các thiện tri thức phần
nhiều đều hành tŕ pháp này. Nhất là các vị thiện
tri thức thuộc Luật Tông, các thiện tri thức Tịnh
Độ Tông, các thiện tri thức thuộc Giáo Hạ
đă hành tŕ pháp này khá trọn khắp. Cơ bản là
đến cuối cùng, các Ngài ắt đều hành pháp này.
Do vậy, “thị tắc
ư ngô vi trưởng tử” (v́ thế, chính là con cả
của ta). Đức Thích Ca Thế Tôn đă như thật
tuyên nói với chúng ta như thế, v́ trong tám vạn bốn
ngàn pháp, pháp này như biển cả, hết thảy các pháp
đều quy về pháp này, thường nói là “Tịnh
Độ vi quy” (Tịnh Độ là chỗ quay về).
Đó chính là một cơ chế giáo ngôn được các
vị thiện tri thức trong hết thảy các pháp môn từ
xưa đến nay đă đề ra. Chẳng nói như
thế tức là đă trái nghịch lợi ích chân thật của
giáo ngôn Đại Thừa, ĺa khỏi cơ chế chân thật
của giáo ngôn Đại Thừa. Trong quyển thứ tám
mươi mốt [của kinh Hoa Nghiêm], tức phẩm Phổ
Hiền Hạnh Nguyện, đức Thế
Tôn đă nêu ra như thế. Các vị Pháp Thân đại
sĩ như Văn Thù, Phổ Hiền, quy kết đến
cuối cùng, đều phát nguyện văng sanh quốc độ
Cực Lạc của A Di Đà Phật. Phát nguyện ǵ vậy?
“Nguyện tôi lâm chung chẳng chướng ngại, văng
sanh cơi Vô Lượng Quang của A Di Đà Phật”. V́
sao phải phát ra thệ nguyện
như thế? Bậc Pháp Thân đại sĩ, Phổ Hiền
đă thành Phật, cho đến vị đă sớm thành
Phật là Văn Thù Sư Lợi, các bậc đại
sĩ như thế đều hướng dẫn về Cực
Lạc, v́ muốn cho hết thảy hành giả có trí huệ,
hành giả được hưởng pháp ích rộng lớn, sẽ thành Phật
ngay trong một đời.
(Kinh) Ngă dĩ xưng tán ư bỉ
đẳng, đương lai chi thế diệc phục
nhiên.
(經)我已稱讚於彼等。當來之世亦復然。
(Kinh: Ta
đă xưng tán những người ấy, trong đời
tương lai cũng giống vậy).
Ở đây, đức Thế Tôn khen ngợi,
tán thán người ấy, cho đến vị lai Phật
cũng xưng tán. V́ sao? Chư Phật trụ thế, không
vị nào chẳng tán thán giáo ngôn này, v́ muốn thấy Phật. Phật tán
thán loại hữu t́nh ấy, rốt cuộc đều
thành tựu Phật đạo, công đức chẳng
nghĩ bàn!
(Kinh) Nhược năng hộ tŕ như tư pháp,
tự ưng hằng phát hoan hỷ tâm, hàm cộng tuyên thông
vật phóng xả, ngă kim vị nhữ như thị thuyết.
(經)若能護持如斯法。自應恆發歡喜心。咸共宣通勿放舍。我今爲汝如是說。
(Kinh: Nếu hay hộ
tŕ pháp như thế, hăy nên luôn phát tâm hoan hỷ, đều
cùng tuyên nói, đừng buông bỏ, ta nay v́ ông nói như thế).
Kinh
điển từ lúc bắt đầu tuyên nói măi cho đến
hiện tại, đức Thế Tôn đều nói như
thế, khuyên chúng ta thủ hộ, tu tập, thâm nhập
pháp tắc này. Các vị thiện tri thức ơi! Hăy khéo
tư duy, khéo quan sát!
13. Phẩm thứ chín:
Nhiêu Ích
(Kinh)
Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền
Hộ Phần, Nhiêu Ích phẩm đệ cửu.
(經)大方等大集賢護分饒益品第九。
(Kinh:
Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập,
Hiền Hộ Phần, phẩm thứ chín: Lợi Ích Rộng
Khắp).
Phẩm
này nêu bày Nhất Thiết Chư Phật Tất Giai Hiện
Tiền tam-muội có trọn đủ các công đức
và lợi ích, cho nên gọi là phẩm Nhiêu Ích.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền
Hộ Bồ Tát ngôn: - Hiền Hộ! Ngă niệm văng tích, quá
ư vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, thời hữu
nhất Phật, hiệu Vô Úy Vương Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, xuất hưng ư
thế.
(經)爾時世尊。復告賢護菩薩言。賢護。我念往昔過於無量阿僧祇劫。時有一佛。號無畏王如來。應供。等正覺。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。出興於世。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền
Hộ Bồ Tát rằng: - Này Hiền Hộ! Ta nhớ xưa
kia, quá vô lượng
A-tăng-kỳ kiếp, khi đó, có một vị Phật hiệu
là Vô Úy Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh
Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật Thế Tôn xuất hiện trong cơi đời).
Đức
Thế Tôn thuyết pháp, dùng chuyện này để tuyên nói
nội hàm trang nghiêm tâm trí rộng lớn của hết thảy
chúng sanh. Quá khứ, hiện tại, vị lai, cùng lúc lựa
chọn. Nếu dựa theo báo đức sai biệt, đức
Thế Tôn đă từng trong vô lượng kiếp xuất
hiện nơi cơi đời để lợi ích thế
gian rộng khắp. Nay khi chúng ta học Phật, hễ tâm
trí dấy khởi một niệm, nếu dùng vô úy thiện
xảo để chân thật thủ hộ, tức là khi
tùy thuận Thập Phương Chư Phật Tất Giai
Hiện Tiền tam-muội này, th́ cũng giống như Vô
Úy Vương Như Lai xuất hiện trong cơi đời,
trọn chẳng khác biệt! Do một niệm chọn lựa,
phát tâm giống như chư Phật, trí giống như
chư Phật, oai đức giống như chư Phật,
tiếp nối thanh tịnh như thế, quyết định
đích thân chứng đắc. Hết thảy chư Phật
đều tuyên nói như thế, chẳng hề có cao thấp,
không có lời nào khiến cho chúng sanh sợ hăi, khiến cho
chúng sanh lựa chọn pháp chân thật. Nói theo phía Thế
Tôn, báo đức là như thế. Nói theo lư tánh của pháp
tắc, trong sát-na chúng sanh sanh khởi một niệm tối
sơ, vô úy như thế, chọn lựa tùy thuận hành
pháp Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện
Tiền tam-muội như thế, yêu mến thủ hộ
th́ sẽ có thể lợi ích thế gian rộng khắp y
hệt!
(Kinh)
Đương nhĩ chi thời, hữu trưởng giả
tử, danh Tu Đạt Đa, dữ nhị vạn nhân,
câu nghệ bỉ Phật Vô Úy Vương sở. Đáo
dĩ, đảnh lễ bỉ Thế Tôn túc.
(經)當爾之時。有長者子。名須達多。與二萬人。俱詣彼佛無畏王所。到已頂禮彼世尊足。
(Kinh: Trong thuở
đó, có con ông trưởng giả, tên là Tu Đạt
Đa, cùng với hai vạn người cùng đến chỗ
đức Phật Vô Úy Vương ấy. Đă đến
nơi bèn đảnh lễ dưới chân đức Thế
Tôn ấy).
Lễ
dưới chân đức Thế Tôn. “Túc” là Lưỡng
Túc Tôn. Nếu tùy thuận Thế Tôn Lưỡng Túc Tôn, tùy
thuận giáo ngôn của Thế Tôn Lưỡng Túc Tôn, tùy thuận
sự tu tŕ của Lưỡng Túc Tôn, tùy thuận sự hồi
thí của Lưỡng Túc Tôn, sẽ đều đạt
được hai con mắt phước và huệ. Lúc này, chúng
ta đang học pháp, có phải thật sự là tâm và thân
giống hệt nhau mà lễ kính đấng Lưỡng Túc Tôn hay không? Hữu t́nh trong hiện thời,
phần nhiều
lễ kính nghiệp duyên, hiện duyên của chính ḿnh,
cho đến tùy thuận nghiệp tập của chính ḿnh,
bất luận là túc nghiệp hay hiện nghiệp. Đó gọi
là trong cái cảm nhận sai khác hoặc tương tự
đối với sự huân tập
đắm nhiễm, chẳng phải là
oai đức của chư Phật. V́ thế, chẳng có
tự ngă để vứt bỏ, chẳng thể tùy thuận
giáo ngôn của Như Lai Lưỡng Túc Tôn.
(Kinh)
Kính lễ tất dĩ, thoái tọa nhất diện.
(經)敬禮畢已。退坐一面。
(Kinh: Kính lễ
xong xuôi, lui qua ngồi một phía).
Do
cơ chế giáo ngôn, khiến cho hết thảy chúng sanh vứt
bỏ tự ngă, lễ kính dưới chân đức Phật,
có thể thanh tịnh an lập, trọn đủ hiện
duyên.
(Kinh)
Thời Tu Đạt Đa tức tiện thỉnh bỉ
Vô Úy Vương Như Lai quảng tuyên như thị tam-muội
thâm nghĩa.
(經)時須達多。即便請彼無畏王如來。廣宣如是三昧深義。
(Kinh: Khi đó, Tu
Đạt Đa liền thỉnh đức Vô Úy
Vương Như Lai tuyên nói rộng khắp nghĩa sâu của
tam-muội như thế).
Ở
đây, chúng ta thấy sự biểu hiện rơ rệt của các vị
thiện tri thức xuất hiện trong cơi đời thuở
quá khứ, cho đến nói về lúc Nhiên Đăng Cổ
Phật (Dīpaṃkara) vừa mới phát tâm, dùng thân phận của trưởng
giả tử Tu Đạt Đa để xuất hiện
lễ kính dưới chân đức Thế Tôn, thưa hỏi đức Thế Tôn giáo ngôn Thập
Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền
tam-muội rất sâu, nhằm dẫn dắt
chúng ta là bọn hữu t́nh trong đời Mạt Pháp tùy
thuận cầu thỉnh như thế, giáo ngôn như thế,
tu tŕ như thế.
(Kinh)
Hiền Hộ! Nhĩ thời, bỉ Vô Úy
Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác tri
trưởng giả tử hữu thâm tín tâm.
(經)賢護。爾時彼無畏王如來應供等正覺。知長者子有深信心。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Lúc bấy giờ, Vô Úy Vương Như Lai, Ứng Cúng,
Đẳng Chánh Giác biết trưởng giả tử có
tín tâm sâu đậm).
“Tri”
là thấy ông ta cung kính, lễ bái, như thật tùy thuận,
như thật khải thỉnh giáo pháp, cho nên yêu thích, thủ
hộ. Hiện tiền chúng ta hành pháp này, hoặc một
ngày, hoặc trong ba năm, năm năm, mười
năm, chẳng đạt được lợi ích
như đă nói, phần nhiều sanh ḷng thoái khuất, thậm
chí sanh tâm phỉ báng, ngờ vực, tâm dè bỉu. V́
sao như thế? Do cái tâm thâm tín chẳng đủ! Nói
đến “tâm thâm tín”, tức là biết pháp tánh đầy đủ và chẳng
đầy đủ, có phải là vận dụng pháp hiển
hiện hay không. Nếu tin sâu pháp tánh, há có đầy đủ
hay chẳng đầy đủ? Nếu có tâm thâm tín, há có
pháp tắc tương ứng hay chẳng tương ứng
ư? Phần nhiều là cái tâm hư giả, tâm siểm
khúc, tâm chú trọng lợi ích bất cần thủ đoạn,
tâm chẳng tương ứng, hoặc là tâm thích lọc lừa
mưu mô, hoặc cái tâm xu phụ lợi ích, chẳng thể
thuận theo pháp
tánh, chẳng thể tin sâu thuận theo pháp tắc, chẳng
thể tùy thuận công đức do lợi ích thế gian,
phần nhiều là chạy theo lợi lộc, cái tâm chỉ
biết cầu lợi bất cần thủ đoạn. V́ thế, chẳng thể
thâm nhập một pháp, chẳng thể thành tựu!
Đấy
là căn bệnh chung của người tu tập trong thời
đại này. Hằng ngày thay đầu, mỗi giờ sửa
mặt, sáng ba, tối bốn,
luôn luôn chẳng tương ứng! V́ thế, thông thường
chúng ta hành pháp, tốt nhất là đừng nên thay đổi
đường lối, chớ nên hành tŕ khác lạ, cứ một
môn thâm nhập như thế. Nếu chọn lựa một
pháp nghĩa, sẽ có thể liễu đạt hết thảy
pháp tắc. V́ sao? V́ pháp nào cũng đều b́nh đẳng,
nhưng phải thấy chân tâm, dùng chân tâm để lựa
chọn. Nếu chẳng phải như vậy, sáng ba, tối
bốn, nói chung là chẳng liên quan ǵ cả, nói chung là cái tâm
vô thường, cái tâm biến hóa. Đó gọi là cái tâm
hư giả, chỉ chú trọng lợi ích bất cần
thủ đoạn, như thế th́ sẽ là tặc tâm, sẽ
là bất lợi nhất trong Phật pháp. Nói “đại
lợi” tức là cái tâm chọn lựa.
(Kinh)
Nhạo dục thính văn như thị tam-muội, ứng
thời tùy thuận nhi vị phu diễn.
(經)樂欲聽聞如是三昧。應時隨順而爲敷演。
(Kinh: Vui thích nghe
nói tam-muội như thế, sẽ ngay lập tức tùy
thuận mà diễn giảng rộng khắp).
“Phu
diễn” (敷演) là tiếp nối rộng
khắp, diễn thuyết pháp tắc này.
(Kinh)
Hiền Hộ! Thời Tu Đạt Đa ư bỉ Phật
sở, văn tam-muội dĩ, độc tụng, thọ
tŕ, tư duy kỳ nghĩa, tức như thuyết hành. Kư
tu hành dĩ, hoàn tức ư bỉ Vô Úy Vương Như
Lai pháp trung, xả gia, xuất gia, thế trừ tu phát, phục
ca-sa y.
(經)賢護。時須達多。於彼佛所。聞三昧已。讀誦受持。思惟其義。即如說行。既修行已。還即於彼無畏王如來法中。舍家出家。剃除鬚髮。服袈裟衣。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Khi đó, Tu Đạt Đa ở nơi đức Phật
ấy, nghe tam-muội xong, đọc tụng, thọ tŕ,
tư duy nghĩa lư, liền tu hành đúng như lời dạy.
Đă tu hành rồi, lại c̣n ở trong pháp của Vô Úy
Vương Như Lai, bỏ nhà xuất gia, cạo bỏ
râu tóc, mặc áo ca-sa).
Chúng
ta thấy duyên khởi này là như thế nào? Từ kiền
thành lễ kính dưới chân đức Phật, sau
đó, lui qua ngồi một phía, khải vấn đức
Thế Tôn dạy bảo như thế. Tức là thưa hỏi
pháp tắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai
Hiện Tiền tam-muội. Hỏi xong, đức Thế
Tôn thâm nhập quan sát, biết ông ta yêu mến, bèn tuyên nói cho
ông ta. Ông ta nghe xong, có thể đọc tụng, thọ
tŕ, tư duy nghĩa lư, đúng như lời dạy hành
tŕ, c̣n ở ngay trong pháp của Vô Úy Vương Như Lai,
bỏ nhà xuất gia.
Người
hành pháp trong quá khứ triệt để tùy thuận, chẳng
giữ lại ǵ, nhất tâm quy mạng, cung kính, trân trọng
thọ tŕ. Trong hiện thời, người xuất gia lẫn
tại gia chúng ta phần nhiều có giữ lại. “Giữ
lại” tức là ǵ vậy? Chính là chẳng dám xả
thân, hoàn toàn phó ḿnh cho một pháp tắc, có lắm
nỗi sợ hăi; nhưng các vị
thiện căn thành thục chẳng hề sợ hăi ǵ,
đối với pháp bèn dũng mănh, chẳng
tiếc nuối sanh mạng!
(Kinh)
Kinh bát vạn tuế, tư duy trụ tŕ như thị
tam-muội.
(經)經八萬歲。思惟住持。如是三昧。
(Kinh:
Trải qua tám vạn năm, tư duy trụ tŕ tam-muội
như thế).
Hiện
thời, những người tu pháp chúng ta thường có
những kẻ thoạt đầu rất dũng mănh t́m đến, nhưng ba ngày sau bèn
nói: “Ối trời ơi! Chúng tôi vẫn chẳng thích hợp
pháp này, tôi vẫn nên tu pháp khác vậy”. Nếu có thể
dùng tám vạn năm để tư duy, thủ hộ pháp
tắc này, chắc là vẫn có ư nghĩa. V́ sao? Có kẻ
dăm ba ngày, mười ngày, tám bữa đều kiên tŕ
chẳng nổi, sẽ nẩy sanh ḷng nghi ngờ đối
với pháp. C̣n có người chừng một năm, nửa
năm, hoặc bảy ngày, nửa tháng, chẳng biết
chính ḿnh là ǵ! Tâm kiêu mạn sanh khởi, tà tâm sanh khởi,
tâm tội ác cũng sanh khởi. Cái tâm tham cầu lợi
dưỡng và tiếng tăm cũng sanh khởi, bèn đi
giáo hóa người khác.
Chúng
ta thấy ông Tu Đạt Đa, tức Nhiên
Đăng Cổ Phật thuở tu nhân, suốt tám vạn năm tư duy, tu tŕ, thủ hộ tam-muội này
như thế. Chúng ta phải so sánh, đối với pháp
phải phát khởi sự thủ hộ chân thật và lựa
chọn thủ hộ rộng lớn trong vị lai. Nếu
dăm ba ngày, một năm, nửa năm, đă nóng ḷng mong đạt
được hiệu quả và lợi ích; đó chẳng phải
là người tu pháp, sẽ chẳng đạt được
lợi ích trong Phật pháp, chỉ đáng gọi là kẻ trộm
ở trong Phật pháp, vênh vang một thời, sau đó sẽ
phải hối hận. V́ sao? Quư vị chẳng chân thật
tu tập, thủ hộ pháp tắc, mà là mong giành lấy lợi
ích nơi pháp. Giành lấy lợi ích ǵ vậy? Chính là nhờ
vào pháp để hoàn thành lợi ích riêng tư của chính
ḿnh. Như thế th́ sẽ chẳng đạt được
sự chân thật trong Phật pháp. Trong pháp tắc này, có
nhiều hữu t́nh thuộc loại đắm nhiễm,
v́ thiện căn và phước đức của hữu
t́nh trong thời ác trược mỏng ít, bèn dựa vào pháp
tắc để nuôi nấng tà kiến và danh lợi của
chính ḿnh. Như thế th́ sẽ gặp nhiều họa hại.
Họa hại ấy là họa hại ngay trong đời
hiện tại, có ư nghĩa rốt ráo, chúng ta chẳng thể
phủ nhận. Nhưng dù là họa hại
trong đời hiện tại, cũng có [các trường hợp] có thể miễn
trừ, tức là những ai có thiện căn thành thục và cơ chế thành thục.
(Kinh)
Hựu phục tại bỉ Vô Úy
Vương Như Lai sở, văn nhất thiết pháp,
giai tất thọ tŕ.
(經)又復在彼無畏王如來所。聞一切法。皆悉受持。
(Kinh: Lại ở
chỗ Vô Úy Vương Như Lai, nghe hết thảy pháp,
thảy đều thọ tŕ).
Do
công đức trong tám vạn năm tư duy, trụ tŕ tam-muội này, cho nên sau đó, lại tu tập
hết thảy các giáo pháp của Vô Úy Vương Như
Lai. Nếu ta có thể chọn lựa thuần thục một
pháp tắc, vậy th́ tất nhiên sẽ thủ hộ hết
thảy các pháp. Chẳng hạn như nếu chúng ta thật
sự chọn lựa lợi ích của pháp tắc Niệm
Phật này, vậy th́ hành tŕ hết thảy các pháp cũng
là chọn lựa, là vô úy. Đương nhiên, nếu trong
các pháp tắc khác, thật sự chọn lựa lợi ích
th́ cũng sẽ yêu mến, tu tập hết thảy các
pháp tắc. V́ sao? Hễ chọn lựa một pháp tắc,
sẽ chẳng sợ hăi, chẳng có ǵ thoái thất, chẳng
có ǵ được hay mất, chẳng có ǵ tán hoại.
Đó là tu tập rộng lớn, tu tập thanh tịnh, tu
tập chân thật, đối với không gian rộng lớn để tạo tác các nghiệp trong tâm địa, sẽ ngay lập tức
vượt qua. Trong quá khứ, bị tội ác nghiệp, điên đảo nghiệp,
phiền năo nghiệp, vô minh nghiệp, đối đăi
nghiệp, phan duyên nghiệp, đủ loại nghiệp lấp
đầy không gian và thời gian, cùng lúc vọt ra, từ
đó mà phát khởi rộng lớn đến vị lai,
trong hết thảy các pháp, nẩy sanh diệu dụng thanh
tịnh. Do vậy, chúng ta nói “tâm trí rộng lớn
đă thật sự thành thục”. Đó là chỗ
thiện xảo vô úy trong Phật pháp.
(Kinh)
Thị hậu phục kinh chư Như Lai sở, văn
thuyết tư pháp.
(經)是後復經諸如來所。聞說斯法。
(Kinh: Sau đó, lại
từ chỗ các đức Như Lai, nghe nói pháp này).
Không
chỉ nghe nói giáo ngôn Thập Phương Chư Phật Tất
Giai Hiện Tiền tam-muội từ một đức
Như Lai, mà c̣n đến chỗ các đức Như Lai để nghe nói kinh pháp này.
(Kinh)
Diệc giai năng tŕ. Ư chư Phật sở, chủng
chư thiện căn, năng quảng thành tựu bất
tư nghị dĩ. Nhiên hậu xả mạng, tức
đắc thượng sanh Tam Thập Tam Thiên, đồng
thọ quả báo, tức bỉ kiếp trung, hoàn phục
trị ngộ đệ nhị Như Lai, nhi bỉ Như
Lai, tùng sát-lợi sanh, xuất gia thành đạo, danh viết
Điện Đức Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng
Chánh Giác. Nhi phục ư bỉ Điện Đức
Như Lai pháp trung, xuất gia tu hành, kinh bát vạn tứ
thiên tuế, hoàn phục tư duy như thị tam-muội,
nhi cánh trị ngộ đệ tam Như Lai. Bỉ đệ
tam Phật, ư Bà La Môn gia sanh dĩ, diệc xuất gia
thành đạo, hiệu viết Quang Vương Như Lai,
Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Phục ư bỉ Như
Lai sở, xuất gia tu hành, diệc ư bát vạn tứ
thiên tuế trung, thường đắc tư duy như thị
tam-muội.
(經)亦皆能持。於諸佛所。種諸善根。能廣成就不思議已。然後捨命。即得上生三十三天。同受果報。即彼劫中。還復值遇第二如來。而彼如來。從剎利生。出家成道。名曰電德如來應供等正覺。而復於彼電德如來法中。出家修行。經八萬四千歲。還復思惟如是三昧。而更值遇第三如來。彼第三佛。於婆羅門家生已。亦出家成道。號曰光王如來應供等正覺。復於彼如來所。出家修行。亦於八萬四千歲中。常得思惟如是三昧。
(Kinh: Cũng đều
có thể thọ tŕ. Ở chỗ chư Phật, gieo các thiện
căn, đă có thể thành tựu rộng khắp chẳng
thể nghĩ bàn. Sau đó, xả mạng, liền
được sanh lên Tam Thập Tam Thiên, cùng hưởng
quả báo, liền ngay trong kiếp ấy, lại
được gặp gỡ vị Như Lai thứ hai. Vị
Như Lai ấy sanh trong chủng tánh Sát-đế-lợi,
xuất gia, thành đạo,
tên là Điện Đức Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng
Chánh Giác. [Tu Đạt Đa] lại ở
trong pháp của Điện Đức Như Lai xuất gia
tu hành, trải qua tám vạn bốn ngàn năm, vẫn
lại tư duy tam-muội như thế, lại được
gặp gỡ đức Như Lai thứ ba. Vị Phật
thứ ba ấy, sanh trong gia đ́nh Bà La Môn, cũng xuất
gia thành đạo, hiệu là Quang Vương Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng Chánh Giác. Lại ở chỗ Như Lai ấy,
xuất gia tu hành, cũng trong tám vạn bốn ngàn năm
thường được tư duy tam-muội như thế).
Đây
là Nhiên Đăng Cổ Phật trong khi tu nhân, đă gặp giáo ngôn của chư Phật. Ở chỗ
vị Phật thứ nhất, trải qua tám vạn
năm. Nơi vị Phật thứ hai, trải qua tám vạn
bốn ngàn năm, nơi vị Phật thứ ba lại
trong tám vạn bốn ngàn năm thường tư duy
tam-muội như thế. Các vị thiện tri thức
ơi! Chúng ta hăy xem chính ḿnh hành tŕ tam-muội này, thời
gian yêu mến được mấy năm, hay mấy ngày?
Đối với tam-muội này, tin sâu hay vẫn sợ
hăi? Hay là thủ hộ rốt ráo? Tôi thường nghe có Bồ
Tát t́m đến đây phát nguyện, phát nguyện xong bèn
thoái đọa. Thoạt đầu v́ ở nhà chịu khổ,
chịu nạn, do t́nh cảm thế tục dây dưa, nghiệp
duyên chằng néo, áp lực cuộc sống trói buộc,
đủ thứ trói buộc, chẳng được rồi!
Tính đến tự viện để chứng tam-muội,
nói: “Tôi chẳng thể nào không chứng tam-muội này!”
Được ít lâu bèn nói: “Không được rồi! Tôi
tu tŕ thời gian dài ngần ấy mà chẳng thể
tương ứng!” Nếu so với tám vạn năm, hay
tám vạn bốn ngàn năm, như thế nào th́ mới
tương ứng? Đức Thế Tôn chẳng dùng số
năm để ảnh hưởng chúng ta, chỉ nói chúng
ta dùng tâm trí và lập ư nguyện rộng lớn rốt ráo,
tin sâu và yêu mến, như thế th́ mới có thể chọn lựa, xác lập ư hướng rộng lớn. Nếu quư vị
chẳng lập, phước đức mỏng ít, nông cạn
đối với pháp, tín tâm nông cạn, hành pháp nông cạn,
phát tâm lẫn phước đức lẫn nhân duyên đều nông cạn, pháp duyên nông cạn.
Nông cạn ở chỗ nào? Một niệm hiện tiền
của quư vị vừa động, đă văng tuốt
qua nơi khác. Vừa mới mon men, đă dấy nghi tâm, chẳng
hề có thâm tín. Nhiên Đăng Cổ Phật đă v́ chúng
ta chọn lựa như thế: Ngài thường tu tập
một pháp, chẳng thoái đọa, ắt được
thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Nếu chúng ta đối với pháp thường xuyên tán hoại,
mà mong đạt được lợi ích thế tục
trong pháp ấy, cho đến v́ nhân duyên tà kiến, sẽ
là chẳng tương ứng.
(Kinh)
Hiền Hộ! Thời bỉ trưởng giả tử
Tu Đạt Đa tự thị chi hậu, quá bách dư kiếp,
tức đắc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề.
(經)賢護。時彼長者子須達多。自是之後。過百餘劫。即得成就阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Trưởng giả tử Tu Đạt
Đa từ thuở đó về
sau, trải qua hơn một trăm kiếp, liền
được thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam
Bồ Đề).
Trăm
kiếp thành Phật, thật khó! Thông thường, nói theo
quy củ thông thường, sẽ là ba đại
A-tăng-kỳ kiếp bèn thành tựu Phật đạo.
Nhiên Đăng Cổ Phật thị hiện trong một
trăm kiếp đă thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề, đúng là chẳng thể nghĩ bàn!
Trong khi tu nhân, Thích Ca Văn Như Lai (Thích Ca Mâu Ni
Phật) do cái tâm mạnh mẽ, tán thán Phất Sa Phật suốt
bảy ngày bảy đêm, chỉ nói: “Thiên thượng
thiên hạ vô như Phật, thập phương thế giới
diệc vô tỷ, thế gian sở hữu ngă tận kiến,
nhất thiết vô hữu như Phật giả”, bèn vượt qua chín kiếp, thành Phật trước
ngài Di Lặc. Đó là sự thiện xảo khích lệ
được thành tựu bởi cái tâm mạnh mẽ.
Trong khi hành pháp này, chúng ta có nhận biết như thế
hay không?
Có
người nói: “Nếu trăm kiếp thành Phật, tôi chẳng
hành pháp này. V́ niệm A Di Đà Phật, văng sanh thế giới
Cực Lạc, đắc bất thoái chuyển ngay trong một
đời, thành Phật ngay trong một đời, tôi vẫn
nên cầu sanh về thế giới Cực Lạc”,
cũng rất tốt lành! Chúng ta đối với pháp so
sánh như thế, v́ sao đức Thế Tôn muốn làm cho
hết thảy chúng sanh thành Phật ngay trong một đời
mà thiết lập một pháp tắc chân thật, thù thắng rộng lớn
như thế? Để cho chúng ta so sánh. Trong quá khứ,
chư Phật đă siêng khổ tu tŕ trong bao kiếp lâu xa,
muốn khiến cho chúng sanh đạt được lợi
ích chân thật. V́ lẽ nào? Do lập tức thành tựu Phật
đạo, do xa ĺa các khổ. V́ nếu chúng ta chẳng lập
tức thành tựu Phật đạo, nhiều đời
mê muội, một hai ngày c̣n mê muội, huống hồ nhiều
kiếp, huống hồ chẳng thể nói cùng tận kiếp,
lẽ nào chẳng mê muội ư? Suốt đời này,
chúng ta có bao nhiêu thứ gây mê hoặc? Mê muội đối
với pháp, mê muội đối với tín tâm, mê muội
đối với tương lai, mê muội trong tu hành. Quư
vị có thể thật sự như thật thọ tŕ
ư? Tiến nhập như pháp ư? Chẳng cần ầm
ĩ phô trương cái tâm của chính ḿnh! Quư vị
hăy như thật quán sát chính ḿnh có phải là thâm tín hay
không? Nếu chẳng tin sâu, dẫu ầm ĩ phô
trương th́ vẫn là cái tâm sanh diệt, tâm
đối đăi! Nó chẳng liên tục, v́ sao? Thật sự chẳng có sự nương tựa
liên tục, v́ trong cái tâm sanh diệt mà muốn liên tục, ắt
cần phải thanh tịnh phát khởi thâm tín, chẳng có con đường thứ hai! Nếu lập
ra một con đường khác, sẽ là luân hồi. Các vị
thiện tri thức ơi! Nhất định phải khéo
quan sát, khéo tư duy.
(Kinh)
Hiền Hộ! Nhữ ưng đương tri, nhĩ thời,
bỉ trưởng giả tử Tu Đạt Đa giả,
khởi dị nhân hồ? Tức bỉ quá khứ Nhiên
Đăng Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác thị
dă. Hiền Hộ! Thị cố đương tri, bỉ
trưởng giả tử Tu Đạt Đa giả,
dĩ hữu như thị ái nhạo pháp cố. Phục hữu
như thị cầu pháp hành cố, năng tốc thành tựu
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề dă.
(經)賢護。汝應當知。爾時彼長者子須達多者。豈異人乎。即彼過去然燈如來應供等正覺是也。賢護是故當知。彼長者子須達多者。以有如是愛樂法故。復有如是求法行故。能速成就阿耨多羅三藐三菩提也。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Ông hăy nên biết, trưởng giả tử Tu Đạt
Đa thuở ấy, há có phải ai khác? Chính là quá khứ
Nhiên Đăng Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác vậy.
Này Hiền Hộ! V́ thế, hăy nên biết: Trưởng giả
tử Tu Đạt Đa do yêu mến pháp như thế, lại
do cầu pháp hành như thế mà có thể mau
chóng thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề).
Chúng
ta đều biết Thích Ca Văn Phật được
thọ kư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề từ
chỗ Nhiên Đăng Cổ Phật. Chư Phật đă
thành tựu trong quá khứ phần nhiều đều là ở
nơi chư Phật, đích thân được thọ kư
là “sẽ đích thân chứng đắc A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề”. Nếu đă đích thân được thọ kư, chắc chắn
sẽ chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ
Đề, chẳng có nghi tâm, sẽ hành tŕ chẳng chần
chừ. Đó là lúc oai đức và thiện xảo thành thục
chẳng thể nghĩ bàn. Nếu là người chưa
được thọ kư, sẽ có nhiều nỗi hoài nghi!
Trong
kinh Kim Cang, đức Thế Tôn đă nói: Nếu đối
với hành pháp mà có sở đắc, th́ Nhiên Đăng Cổ
Phật đă chẳng thọ kư. Nay chúng ta có phải là có sở
đắc hay chăng? Đức Phật có thọ kư cho
chúng ta hay không? Chúng ta có yêu mến hành pháp Ban Châu, hay là có
hành pháp sở cầu hay không? Nếu quư vị chẳng yêu mến pháp như thế,
thích pháp như thế, mà yêu thích những thứ khác, quư vị
phải cẩn thận, có thể là đă đi lệch
đường mất rồi!
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Nhữ kim đương
quán thị tam-muội vương, vị chư Bồ Tát, cập chúng sanh bối, nhi tác kỷ
hứa đại hoằng ích sự.
(經)復次賢護。汝今當觀是三昧王。爲諸菩薩及衆生輩。而作幾許大弘益事。
(Kinh: Lại này Hiền
Hộ! Ông nay hăy nên quán tam-muội vương này, v́ các Bồ
Tát và chúng sanh thực hiện chừng đó chuyện lợi
ích to lớn).
Ở
đây, đức Phật dạy ngài Hiền Hộ quán. [Trong đoạn kinh văn này, phải hiểu] Hiền Hộ
là hữu t́nh cầu pháp, ưa thích pháp, yêu mến pháp, khéo thủ hộ trong hiện tiền, chẳng phải
là nói đến một vị Bồ Tát. Thượng Thủ của hết
thảy các vị Bồ Tát đều là Hiền Hộ Bồ
Tát, mà Thượng Thủ của hết
thảy Bồ Tát đều là hữu t́nh yêu mến pháp,
ưa thích pháp trong hiện tiền. Nếu quư vị yêu mến
pháp, ưa thích pháp, hướng về pháp, sẽ giống
như ngài Hiền Hộ, thuộc về cùng một pháp vị
với ngài Hiền Hộ, là Thượng Thủ của mười
sáu vị Chánh Sĩ. “Thủ” là yêu mến pháp, ưa
thích pháp, hành pháp, thủ hộ sự thành tựu của
pháp, truyền bá pháp, như vậy chính là người đứng
đầu của hết thảy các vị Chánh Sĩ, bất
luận xuất gia hay tại gia. Đây là nói chân thật
theo tỷ dụ, cũng là nói tới sự thiện xảo
trụ thế của Hiền Hộ Bồ Tát, cũng có phần
trụ trong an lạc nơi sự tùy thuận của Hiền
Hộ Bồ Tát trong đời Mạt Pháp. V́ tùy thuận
tâm trí và sự thủ hộ của Hiền Hộ Bồ
Tát, sẽ nhất định có thể thành tựu công
đức chẳng thể nghĩ bàn này!
Đối
với “tam-muội vương”, chớ nên quá bận
tâm về danh tự này. Thêm vào một chữ Vương, tức
là chẳng dám khinh dễ hứa khả cho hữu t́nh. Trong
phần sau, đối với sự tán thán về lai lịch,
cũng nói tột bậc. Tất cả các ngôn từ đều
vận dụng tới cực hạn, chẳng phải là
khoa trương. Thế nào là tột bậc? Chính là tuyên nói
như thật!
(Kinh)
Sở vị đương đắc nhất thiết
chư Phật trí địa cố.
(經)所謂當得一切諸佛智地故。
(Kinh:
Được gọi là sẽ đạt được
trí địa của hết thảy chư Phật).
Các
vị thiện tri thức ơi! Đối với pháp tắc
này, nếu có thể tương ứng, quyết định
sẽ chẳng thoái chuyển đối với trí địa
của chư Phật! V́ trí Nhất Thiết Trí của
chư Phật, nói theo phía Như Lai, sẽ là chẳng có ǵ
để nói năng. Nếu xét theo danh xưng, như trong
phần sau, đối với các thứ trí đều có nhắc
tới, nhưng các thứ trí ấy đều yếu ớt
so với trí của chư Phật, v́ danh hiệu trí huệ
của chư Phật, nội dung của danh tự, nếu
muốn xưng thuyết, sẽ có thể ngập tràn toàn
thể trần sa, toàn thể thế giới hải, cho
đến thế giới chủng tử hải. V́ sao? Mỗi
trí của chư Phật đều trọn khắp chân thật,
chẳng có ǵ không bao hàm trong ấy.
(Kinh)
Phục năng nhiếp thọ nhất thiết chư Phật
đa văn hải cố.
(經)復能攝受一切諸佛多聞海故。
(Kinh: Lại có thể
nhiếp thọ biển đa văn của hết thảy
chư Phật).
Tam-muội
vương ấy chính là trí địa của hết thảy
chư Phật, cũng là biển đa văn của
chư Phật. Chư Phật dùng trí trọn khắp để
nghe hết thảy các pháp, hành hết thảy các pháp, trọn
đủ công đức của hết thảy các pháp. Cho
nên chúng ta dùng công đức chân thật của một pháp,
một tam-muội để nhập biển trí của hết
thảy chư Phật, nhập biển đa văn của
hết thảy chư Phật.
(Kinh)
Hiền Hộ! Thị cố nhữ đẳng
đương ưng cần cầu như thị tam-muội,
thường nhạo thính văn, độc tụng thọ
tŕ, tư duy tu hành. Kư văn thọ dĩ, đương
phục vị tha độc tụng, thọ tŕ, giải
thích nghĩa lư, linh tha cần cầu, hàm đắc văn
thọ, chánh niệm tư duy, như thuyết tu hành. Sở
dĩ giả hà? Hiền Hộ! Nhược năng cần
cầu, độc tụng, thọ tŕ, chánh
niệm tu hành, quảng tuyên lưu bố thị tam-muội
giả, bất cửu đương đắc chứng
chư Phật trí, chư Như Lai trí, đại tự tại
trí, bất tư nghị trí, bất khả xưng trí, vô
đẳng đẳng trí, Nhất Thiết Trí trí, năi chí
đắc bỉ bất cộng tha trí cố. Hiền Hộ!
Nhược phục hữu nhân, năng thiện tuyên thuyết,
bỉ ưng chánh ngôn.
(經)賢護是故汝等。當應勤求如是三昧。常樂聽聞。讀誦受持。思惟修行。既聞受已。當復爲他讀誦受持。解釋義理。令他勤求。咸得聞受。正念思惟。如說修行。所以者何。賢護。若能勤求讀誦受持。正念修行。廣宣流佈。是三昧者。不久當得證諸佛智。諸如來智。大自在智。不思議智。不可稱智。無等等智。一切智智。乃至得彼不共他智故。賢護。若復有人。能善宣說。彼應正言。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! V́ thế, các ông hăy nên siêng cầu tam-muội
như thế, thường ưa thích nghe, đọc, tụng,
thọ tŕ, tư duy tu hành. Đă nghe nhận rồi, sẽ
lại v́ người khác đọc, tụng, thọ tŕ,
giải thích nghĩa lư, khiến cho người khác siêng cầu,
đều được nghe, nhận, chánh niệm tư
duy, tu hành đúng như lời dạy. V́ sao vậy? Này Hiền
Hộ! Nếu có thể siêng cầu, đọc tụng, thọ
tŕ, chánh niệm tu hành, tuyên nói, truyền bá rộng răi tam-muội
này, chẳng lâu sau, sẽ chứng
chư Phật trí, chư Như Lai trí, trí đại tự
tại, trí chẳng nghĩ bàn, trí chẳng thể diễn
nói, trí không sánh bằng, trí Nhất Thiết Trí, cho đến
trí mà mọi người khác đều chẳng có. Này Hiền
Hộ! Nếu lại có ai có thể khéo tuyên nói, người
ấy hăy nên tuyên nói chánh đáng).
“Chánh
ngôn” ở đây là tuyên nói như thật, tuyên nói chẳng
tăng giảm, chẳng tuyên nói những điều
được thiết lập hư giả.
(Kinh)
Kim thử tam-muội tức thị nhất thiết
chư Bồ Tát nhăn.
(經)今此三昧。即是一切諸菩薩眼。
(Kinh:
Nay tam-muội này chính là mắt của hết thảy các Bồ
Tát).
Trí
huệ là mắt của Bồ Tát, tức Bát Nhă Ba La Mật.
(Kinh)
Chư Bồ Tát phụ.
(經)諸菩薩父。
(Kinh: Cha của Bồ
Tát).
Do
có thể sanh ra các Bồ Tát.
(Kinh)
Chư Bồ Tát mẫu.
(經)諸菩薩母。
(Kinh: Mẹ của
các Bồ Tát).
Do
dưỡng dục các Bồ Tát.
(Kinh)
Năng dữ nhất thiết chư Bồ Tát bối
chư Phật trí giả. Hiền Hộ! Như thị thuyết
giả, thị vi thiện thuyết thời, thiện thuyết
thị tam-muội dă. Hiền Hộ! Nhược phục hữu
chư nam tử, nữ nhân năng thiện thuyết thời,
bỉ đương chánh ngôn.
(經)能與一切諸菩薩輩諸佛智者。賢護。如是說者。是爲善說時善說是三昧也。賢護。若復有諸男子女人。能善說時。彼當正言。
(Kinh:
Có thể ban trí của chư Phật cho các hết thảy
các vị Bồ Tát. Này Hiền Hộ! Nói như thế th́
là lúc khéo nói, sẽ khéo nói tam-muội này. Này Hiền Hộ!
Nếu nhằm lúc các nam tử, nữ nhân có thể khéo nói,
họ hăy nên tuyên nói chánh đáng).
Lần
thứ hai đề cập “chánh ngôn” đối với
tam-muội này. “Chánh ngôn” là nói như thật về
công đức chân thật, lợi ích chân thật, và pháp tắc
chân thật được chứa đựng trong tam-muội này.
(Kinh)
Thị tam-muội giả, tức thị Phật tánh, tức
thị pháp tánh, tức thị Tăng tánh, tức
thị Phật địa.
(經)是三昧者。即是佛性。即是法性。即是僧性。即是佛地。
(Kinh: Tam-muội
này chính là Phật tánh, chính là pháp tánh, chính là Tăng tánh,
chính là Phật địa).
Lành
thay! Đối với giáo ngôn quá sâu này, đối với
lời ấn khế này, chúng ta phải nên khéo tư duy,
khéo quan sát, khéo thủ hộ, khéo truyền bá! Trong kinh Hiền
Hộ, đức Thế Tôn đă như thật bảo
chúng ta: Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện
Tiền tam-muội chính là Phật tánh, mà cũng là triệt
để, như thật tuyên nói lợi ích và công đức
chân thật của pháp tắc này, biểu đạt chẳng
chiết khấu pháp này chính là Phật
tánh, là Pháp tánh, là Tăng tánh, cho đến Phật địa.
Nếu chứng đắc Thập Phương Chư Phật
Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, tức là có thể
thấy Phật. Thấy Phật th́ sẽ có thể
nghe pháp, nghe pháp sẽ có thể hiểu rơ công đức của pháp là chân thật, chẳng có tự tánh, tức là an trụ nơi lợi
ích chân thật do thấy chư Phật, đối
với Vô Sanh Pháp Nhẫn bèn tùy thuận. Cho nên “tức thị
Phật địa” (chính là Phật địa). Đấy
là nói vô úy, chỉ có đức Thế Tôn có thể nói
như thế.
(Kinh)
Thị đa văn hải, thị vô tận tạng Đầu
Đà, thị vô tận tạng Đầu Đà công đức.
(經)是多聞海。是無盡藏頭陀。是無盡藏頭陀功德。
(Kinh:
Là biển đa văn, là vô tận tạng Đầu
Đà, là vô tận tạng Đầu Đà công đức).
Đầu Đà (Dhūta) là nói
theo kiểu chẳng dịch nghĩa, có rất nhiều cách
dịch. [Dịch Đầu Đà thành] Đẩu Tẩu (抖擻) là một
cách dịch khá phổ
biến. Đẩu Tẩu h́nh dung chúng ta giũ sạch tro
bụi trên y phục. Hạnh Đầu Đà có thể
giũ sạch nghiệp tướng trần lao của hết
thảy các nghiệp thiện ác từ vô thỉ tới nay,
tâm trí thanh tịnh. Trong biển vô tận cơi nước,
đó là chỗ quy kết của hết thảy các thứ
nỗ lực tiến lên, hoặc là chỗ quy kết
của sức công đức thanh tịnh để triệt
để trở về cội nguồn. Điều đó được
gọi là “vô tận tạng Đầu Đà công đức”.
(Kinh)
Thị vô tận tạng chư Phật công đức.
(經)是無盡藏諸佛功德。
(Kinh:
Là vô tận tạng công đức của chư Phật).
Hai
chữ “vô tận” rất dễ lư giải. “Tạng”
được tuyên nói như thế nào? Chính là công đức
vốn sẵn có của hết thảy chúng sanh và hết
thảy chư Phật, chẳng phải do tạo tác mà có.
Nói “vô tận tạng chư Phật công đức’”
là v́ muốn ngăn trở ḷng kiêu mạn b́nh phàm của hết
thảy chúng sanh mà nói như thế. Trong vô tận tạng,
hết thảy công đức của chư Phật và công
đức của hết thảy chúng sanh vốn b́nh đẳng
như nhau. V́ ngăn che cái tâm kiêu mạn của chúng sanh, v́
thật sự ban cấp lợi ích của Phật pháp, cho nên nói như thế!
(Kinh)
Thị vô tận tạng năng sanh thâm nhẫn.
(經)是無盡藏能生深忍。
(Kinh: Là vô tận
tạng có thể sanh ra nhẫn sâu).
Vô
Sanh Pháp Nhẫn là môn Nhẫn khó nhất trong hết thảy
các môn Nhẫn, chẳng sanh, chẳng diệt, bất cấu,
bất tịnh, chẳng đến, chẳng đi, nhất
tâm chân thật như thế, phô bày sự an trụ
trong công đức chân thật của Vô Sanh Pháp Nhẫn. Hết
thảy hữu t́nh, cho đến hết thảy Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát ở nơi đây chẳng thể sanh khởi quyết định. Như Bồ Tát c̣n
có hạnh nguyện để an lập, Thanh Văn c̣n có sự
tịch diệt, Niết Bàn c̣n có thể cầu chứng, bậc
trí th́ c̣n có trí huệ để thủ hộ, người
từ bi th́ c̣n có từ bi phải nên thực hiện, phàm
phu hữu t́nh th́ c̣n có tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến bất
chánh, cho đến các Tùy Phiền Năo thường bầu bạn,
cho nên đối với Vô Sanh Nhẫn chẳng thể lựa
chọn.
(Kinh)
Thị năng sanh đại từ, năng sanh đại
bi.
(經)是能生大慈。能生大悲。
(Kinh:
Có thể sanh đại từ, có thể sanh đại
bi).
Đồng
thể đại bi, vô duyên đại từ. V́ sao nói như
thế? Pháp từ bi chính là dẹp khổ, ban vui. Hết thảy
các bậc thiện xảo, hết thảy những người
học Phật đều nên tu tập pháp này, nương
vào trí huệ làm gốc, dùng tâm trí bất động, chẳng
tăng, chẳng giảm, phát khởi thiện xảo oai
đức rộng lớn. Oai đức thiện xảo ấy
phát khởi từ chỗ nào? Từ cái được gọi
là “tâm chẳng có chuyện ǵ”, từ trong cái tâm chẳng
tạo tác, từ trong cái tâm chẳng có đến, đi,
đối đăi. Nếu trong tâm chúng ta có đối
đăi, cho đến có cái đắm nhiễm, sẽ trọn
chẳng thể đạt được đại từ
và đại bi.
(Kinh)
Năng sanh Bồ Đề dă.
(經)能生菩提也。
(Kinh:
Có thể sanh Bồ Đề).
Trong
kinh giáo, đức Thế Tôn đă tuyên nói có Thanh Văn Bồ
Đề, Duyên Giác Bồ Tát, và tối thượng thừa
Bồ Đề của chư Phật. Trong hết thảy
các giáo ngôn về Bồ Đề, chẳng ĺa ba tâm Bồ
Đề ấy. Nếu là phước báo nhân thiên, sẽ
chẳng thể dùng Bồ Đề để an lập,
chẳng thể dùng Bồ Đề để nói năng,
v́ đó chẳng phải là pháp thủ hộ bởi lục đạo chúng sanh. Bởi lẽ,
Bồ Đề phần là xuất thế thiện xảo,
là tướng công đức thiện xảo lợi ích thế
gian.
(Kinh)
Hiền Hộ! Thị vi bỉ năng thiện thuyết
thời, thuyết thị tam-muội dă. Hiền Hộ!
Nhược phục hữu nhân năng thiện tuyên thuyết
thị tam-muội thời, bỉ ưng chánh ngôn!
(經)賢護。是爲彼能善說時說是三昧也。賢護。若復有人。能善宣說是三昧時。彼應正言。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Đó là người khi khéo nói bèn nói
tam-muội này. Này Hiền Hộ! Nếu lại có người
khi khéo tuyên nói tam-muội này, người ấy phải nên
nói năng chánh đáng).
Đối
với “chánh ngôn”, đức Thế Tôn không ngừng uốn
nắn chúng ta phải nên tuyên nói Thập Phương
Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội bằng ngôn ngữ chánh
giáo, chánh pháp tắc, lời lẽ chân thật, lời lẽ
chẳng đùa cợt, lời lẽ như thật, lời
lẽ chẳng tăng giảm như thế nào. Tức là đối
với tam-muội này, bèn nói như thật. Đức Thế
Tôn đích thân dạy chúng ta tuyên nói với người khác như thế
nào, chẳng phải là dùng lời lẽ tăng giảm, lời
lẽ do quư vị tự suy nghĩ, lư giải, hoặc là lời
lẽ xuất phát từ sự chứng lượng[5].
Sự chứng lượng của quư vị ở đây
chẳng dấy lên tác dụng. V́ sao? Do đức Thế Tôn
đích thân dạy bảo, đúng như đức Thế
Tôn đă chế giới. Hết thảy các giới pháp do
đức Thế Tôn chế định, chẳng phải
do các vị Bồ Tát hoặc hiền thánh nào khác có thể
an lập! V́ thế, lời dạy ở đây giống
như giới pháp, chẳng thể tăng giảm, do chính
miệng của đức Phật tuyên thuyết.
(Kinh)
Thị tam-muội vương, năng phá nhất thiết
chư pháp hắc ám, năng tác nhất thiết đại
pháp quang minh.
(經)是三昧王。能破一切諸法黑暗。能作一切大法光明。
(Kinh: Tam-muội
vương này có thể phá sự tối tăm nơi hết
thảy các pháp, có thể làm quang minh cho hết thảy các đại
pháp).
Trong
công đức chân thật nơi đại quang minh tạng
của chư Phật Như Lai, trong sự lợi ích chân
thật rộng khắp của Nhất Chân pháp giới, hết
thảy hữu t́nh trong chín pháp giới dù thánh hay phàm, đều
là tối tăm, chỉ do mức độ sai biệt mà
nói là ảm đạm, tối tăm, hay âm u như thế
đó thôi. Âm u là thứ được chúng sanh trong ba ác đạo
thủ hộ, tối tăm là thứ được ba thiện
đạo thủ hộ, ảm đạm là các thứ Hoặc
vi tế của chư Bồ Tát, tức là nhân duyên do Trần
Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc mang lại. Trong đại quang
minh tạng do chư Phật đích thân chứng đắc,
chẳng có ǵ hắc ám, chẳng có pháp tắc nào đối
đăi.
(Kinh)
Hiền Hộ! Thị vi bỉ năng thiện thuyết
tam-muội dă.
(經)賢護。是爲彼能善說三昧也。
(Kinh: Này Hiền
Hộ! Đó là người có thể khéo nói tam-muội).
Ở
đây, đức Thế Tôn đă khiến cho chúng ta trực
tiếp thuận theo giáo ngôn của đức Thế Tôn
để tuyên nói công đức của môn tam-muội này.
(Kinh)
Hiền Hộ! Nhữ nghi quán thử Bồ Tát Niệm Phật
Hiện Tiền tam-muội, vị chư chúng sanh, tác đại
lợi ích, năi chí nhất thiết chư Bồ Tát bối,
trụ ư thử độ, biến kiến thập
phương nhất thiết thế giới chư Phật
Thế Tôn, đáo chư Phật sở, cung kính lễ bái,
thính văn chánh pháp, cúng dường chúng Tăng, diệc bất tham trước.
(經)賢護。汝宜觀此菩薩唸佛現前三昧。爲諸衆生。作大利益。乃至一切諸菩薩輩。住於此土。遍見十方一切世界諸佛世尊。到諸佛所。恭敬禮拜。聽聞正法。供養衆僧。亦不貪著。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Ông nên quán tam-muội Bồ Tát Niệm Phật Hiện Tiền
này, v́ các chúng sanh tạo lợi ích to lớn, cho đến
hết thảy các vị Bồ Tát ở trong cơi này, thấy
trọn khắp chư Phật Thế Tôn nơi hết thảy
các thế giới trong mười phương, tới chỗ
chư Phật, cung kính lễ bái, lắng nghe chánh pháp, cúng
dường chúng Tăng mà cũng chẳng tham đắm).
Đây
là nói theo thứ tự. “Trụ ư thử độ”
(trụ trong cơi này) rất quan trọng. V́ tu tŕ pháp tắc
này chính là “chẳng ĺa cơi
ḿnh, mà thấy mười phương chư Phật”. Kinh văn rất rạch ṛi, rất rơ ràng bảo
chúng ta: Các vị Bồ Tát nếu hành pháp này, sẽ đạt
được lợi ích ấy. Lợi ích ấy được biểu lộ ở chỗ nào? Chính là
“trụ ư thử độ, biến kiến thập
phương nhất thiết thế giới chư Phật
Thế Tôn” (trụ trong cơi này, thấy trọn khắp
chư Phật Thế Tôn nơi hết thảy các thế
giới trong mười phương). Trông thấy chư
Phật, do chư Phật thảy đều hiện tiền,
cho nên “đáo chư Phật sở” (đến chỗ
chư Phật), sau đó “cung kính lễ bái”. Đấy
là một pháp. “Thính văn chánh pháp” lại là một pháp
nữa. “Cúng dường chúng Tăng” lại là một
pháp nữa. “Diệc bất tham trước” (cũng
chẳng tham đắm) là quy kết về căn bản.
Nếu
tham đắm chỗ này, sẽ gọi là kẻ tăng
thượng mạn, là kẻ đắm nhiễm, tất
nhiên sẽ đọa nhập “dĩ vi hữu sở
đắc” (cho là có cái để đạt được).
Kết quả là chỗ nào cũng đều dùng cái tâm
tăng thượng mạn để tuyên nói pháp tắc “cho
là có pháp để có thể đạt được”
khiến cho chúng sanh mê mất. V́ thế, thông thường
hành Ban Châu tam-muội hoặc hành Niệm Phật tam-muội, trông thấy chư Phật, lắng nghe giáo huấn của
chư Phật, phần nhiều thủ hộ nghiêm mật
tam nghiệp, nhất là khẩu nghiệp phải nên thủ hộ nghiêm mật
nhất, trọn chẳng dễ dăi tuyên nói với kẻ
khác. V́ sao vậy? Để khỏi
tăng thượng mạn, để chẳng tham đắm,
v́ chẳng có một pháp để có thể đạt
được, v́ thấy Phật, nghe pháp, liễu đạt
tự tánh, chẳng đắm nhiễm, v́ chẳng
tăng, chẳng giảm. Do nhân duyên này, “diệc vô tham
trước” (cũng chẳng tham đắm) rất
quan trọng, đó là chỗ quy kết.
Sự quy kết ấy chính là chỗ lợi ích chân thật,
tức là nghe giáo pháp của chư Phật, [liễu giải]
pháp chẳng có tự tánh. Nếu chẳng phải là như
vậy, Phật pháp cũng là có đắm nhiễm!
Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng kư
Phần
8 hết
[1] Đây là pháp tu quán tưởng và
điều khiển ư thức trong mộng của Mật
Tông Tây Tạng, thường được biết đến
với tên gọi là Dream Yoga (Svapnadarśanta trong tiếng Sankrit,
hay
Milam Naljor trong tiếng Tây Tạng). Pháp tu nổi tiếng
nhất gọi là Lục Pháp của Naropa do tôn giả Naropa
đề xướng. Tôn giả Gamgopa đề xướng
các bước căn bản như sau:
1. Nắm
bắt giấc mộng: Nhận thức sinh động
trong giấc mơ. Để thực hiện điều này,
hành giả phải quán mọi cảm nhận trong cuộc
sống hằng ngày đều như giấc mơ, để
đến khi ngủ, khi nằm nghiêng bên phải, họ thật
sự nhận biết chính ḿnh đang bắt đầu tiến
vào mộng, đồng thời mật niệm chân ngôn, quán
tưởng ư thức h́nh thành từ từng
chủng tử trong tâm trí trước khi ngủ thiếp đi.
2. Huấn
luyện giấc mộng: Hành giả phải tập luyện
sao cho tâm trí nhận biết chính ḿnh đang nằm mộng,
đối diện với mọi cảnh tượng trong
mộng đều chẳng hoan hỷ hay sợ hăi.
3. Quán tưởng:
Hành giả kiểm nghiệm tự tâm trong giấc mộng,
luôn nhận biết chính ḿnh đang nằm
mộng, trừ khử mọi ư niệm vi tế sợ hăi
hay chấp trước, luôn nhận thức cái tâm vô ngại.
4. Thiền
Định: Hành giả phân tích mọi tŕnh tự của giấc
mộng, biết đó chỉ là sự phản chiếu của
mọi ư niệm vi tế ẩn tàng trong tạng thức. Nếu
tán tâm hay hôn trầm trong giai đoạn này, khi thức
giấc hành giả phải lập tức quán chiếu các
chủng tự (bija) của các chân ngôn tương ứng và
thực hành phép quán Đại Thủ Ấn (Mahamudra) khi vừa
thức dậy.
Mỗi tông
phái trong Tạng truyền Phật giáo có các bước quán
tưởng về giấc mộng sai khác đôi
chút, nhưng chẳng rời ngoài bốn giai đoạn chánh
yếu như trên. Các vị thầy có thẩm quyền về
pháp tu này đều khuyến cáo: Để tu pháp này, phải
được truyền thừa, hướng dẫn,
và giám hộ bởi một vị đạo sư có kinh nghiệm
thực chứng, không thể tự tiện học qua sách
vở hay tài liệu v́ dễ đi sai đường, hay bị tẩu
hỏa nhập ma. Cũng như nếu không cẩn thận,
học nhằm pháp tu của đạo Bon cũng có danh xưng
tương tự, sẽ rơi vào cảnh giới của
thần đạo, hay quỷ đạo,
chẳng
phải là Kim Cang Thừa.
[2] Tôn giả Khruba Bonchum được
mời đến chùa Phóng Quang ở Kê Túc vào tháng Tư
năm 2006 (chú thích của người ghi lại
lời giảng).
[3]
Tức là các “giáo thuyết” do hiểu lệch lạc kinh
nghĩa, hoặc muốn lập dị, nhằm tạo sắc
thái “đặc biệt” cho đường lối của chính
ḿnh ḥng lôi kéo tín đồ, chỉ gây thêm hoang mang cho người
tu Tịnh Độ trong hiện thời, như đề
xướng phải niệm A Mi Đà Phật th́ mới
được văng sanh, niệm A Di Đà Phật là sai. Hoặc
bịa chuyện bảo chư tổ Việt Nam kiêng không niệm
A Mi Đà Phật v́ Mi là tên của một công nương nào
đó phải, kiêng húy, tuy chẳng nêu ra được tên
của vị công nương đó. Hoặc dù đă quy y, phải
t́m một vị pháp sư Tịnh Tông quy y lại để
được đặt pháp danh là Diệu Âm th́ mới
đúng là hành giả Tịnh Độ! Hoặc phải
hành tŕ theo lời dạy của Tổ Thiện Đạo
(tuy cách hành tŕ ấy do họ hiểu lệch lạc lời
dạy của Tổ) mới đúng là giáo nghĩa Tịnh
Độ chân chánh, coi các lời dạy của chư tổ
Tịnh Độ sau đó là lệch đường, hoặc
quá khích đến nỗi đề xướng
“chỉ cần tin và phát nguyện văng sanh là đủ, không
cần tam quy, ngũ giới” v.v…
[4] Sài (豺, dhole, mountain
wolf, whistling dog, c̣n gọi là sài cẩu,
hồng lang, sài khuyển) tức là một loài chó hoang tại châu Á, thường
được người Việt gọi là sói lửa,
hay sói đỏ. Loài động vật ăn thịt hoạt
động về đêm này rất hung bạo, thường
ăn thịt các loài nai, hươu, lợn rừng,
nhưng khi quá
đói, chúng có thể tấn công cả trâu, ḅ, ngựa. Chúng
thường sống thành bày đàn, từ năm bảy
con cho đến năm mươi con.
[5]
Chứng lượng ở đây phải hiểu là tŕnh
độ, mức độ chứng ngộ của một
cá nhân.