Đại Phương Đẳng Đại Tập

Hiền Hộ Kinh giảng kư

Phần 9

大方等大集賢護經講記

慈法法師

Chủ giảng: Pháp sư Từ Pháp

Địa điểm: Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam

Thời gian: Từ ngày 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

         

          (Kinh) Hiền Hộ! Dĩ thị nghĩa cố, chư Bồ Tát đẳng, nhược dục thành tựu tam-muội vương giả.

          ()賢護。以是義故。諸菩薩等。若欲成就三昧王者。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Do bởi nghĩa ấy, các vị Bồ Tát nếu muốn thành tựu tam-muội vương).

 

          Niệm Phật tam-muội là vua của các tam-muội; đây là nói quyết định, cho đến Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội cũng được thành tựu bởi Niệm Phật tam-muội. Công đức ấy chẳng hai, chẳng khác, chỉ là Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền do kinh Ban Châu Tam Muội tuyên nói (kinh Hiền Hộ mà nay chúng ta đang học là một bản dịch của kinh ấy) [đặc biệt ở chỗ] chẳng ĺa cơi này mà thấy mười phương chư Phật. Đây là một giáo pháp bất cộng. Các pháp môn khác cũng có giáo pháp [quán tưởng, hoặc xưng niệm danh hiệu] của một vị bổn tôn nào đó, một vị thiện tri thức nào đó, một vị Phật nào đó, hoặc [quán tưởng] một h́nh tượng nào đó, chỉ có [đối tượng để tu tŕ trong] pháp này là Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội. Lời dạy rộng lớn như thế chỉ có kinh Ban Châu Tam Muội lựa chọn và tuyên nói. Đây thật sự là một bảo điển, khó có, khó gặp! Có thể nghe lời dạy như vậy, t́m cầu sự tu tŕ như vậy th́ chính là chẳng thể nghĩ bàn. Như trong phần trước, chúng tôi đă nói công đức và lợi ích của Ban Châu tam-muội đối với người hướng đến, mong cầu được truyền dạy pháp này, đọc tụng kinh điển này, tuyên nói cho người khác, cho đến chứng đắc tam-muội này cũng là công đức chẳng thể nghĩ bàn, chư Phật dẫu tán thán cũng chẳng thể tận.

 

          (Kinh) Thường đương chuyên tâm tinh cần quán sát bỉ Tứ Niệm Xứ.

          ()常當專心精勤觀察。彼四念處。

          (Kinh: Thường nên chuyên tâm siêng ṛng quan sát Tứ Niệm Xứ).

 

          Tứ Niệm Xứ (Smṛtyupasthāna) ở đây khác với Tứ Niệm Xứ của Thanh Văn. Tứ Niệm Xứ [của Thanh Văn] “quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngă”. Tứ Niệm Xứ ở đây là quán như thế nào?

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Vân hà Bồ Tát quán Tứ Niệm Xứ? Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát thường đương chuyên tâm quán sát thân hạnh, tất cánh bất kiến nhất thiết chư thân.

          ()賢護。云何菩薩觀四念處。賢護。菩薩摩訶薩。常當專心觀察身行。畢竟不見一切諸身。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Thế nào là Bồ Tát quán Tứ Niệm Xứ? Này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát thường nên chuyên tâm quan sát thân hạnh, rốt ráo chẳng thấy hết thảy các thân).

 

          Ở đây là quan sát, chẳng phải là dễ dăi, hời hợt phủ nhận. Trong giáo ngôn của chư Phật Thế Tôn, chẳng buộc chúng ta dễ dăi, hời hợt chấp nhận một pháp tắc, cũng như dễ dăi mù quáng tuân theo một pháp tắc, mà để cho chúng ta tự ḿnh xét kỹ, quan sát, quan sát đúng như lư, quan sát đúng như lời dạy, quan sát bằng trí huệ, quan sát bằng từ bi, trọn chẳng quan sát giả dối, mù quáng. Quan sát như vậy có thể khiến cho chúng ta chọn lựa pháp tắc, có thể an trụ trong lợi ích chân thật.

 

          (Kinh) Thường đương chuyên tâm quan sát thọ hạnh, nhi diệc bất kiến nhất thiết chư thọ.

          ()常當專心觀察受行。而亦不見一切諸受。

          (Kinh: Thường nên chuyên tâm quan sát thọ hạnh, mà cũng chẳng thấy hết thảy các thọ).

 

          Một là quan sát thân hạnh, hai là quan sát thọ hạnh.

 

          (Kinh) Thường đương nhất tâm quán sát tâm hạnh, nhi diệc bất kiến nhất thiết chư tâm.

          ()常當一心。觀察心行。而亦不見一切諸心。

          (Kinh: Thường nên nhất tâm quán sát tâm hạnh, mà cũng chẳng thấy hết thảy các tâm).

         

          Thiện tri thức ơi! Chớ nên dễ dăi, hời hợt coi nhẹ môn Tứ Niệm Xứ này! Trong giáo ngôn của Thanh Văn, đức Thế Tôn đă có lời dạy thanh tịnh về Tứ Niệm Xứ dành cho các vị tỳ-kheo. Ngài nói: “Các thầy tỳ-kheo! Hăy nên an trụ trong Tứ Niệm Xứ như thế, hành các thiện pháp an lạc”. Tứ Niệm Xứ là pháp ắt phải tu của các vị sư phụ xuất gia trong quá khứ, “quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngă”. Quán như thế, sẽ đạt được tâm trí tịch tĩnh, trụ trong an lạc rốt ráo, xa ĺa thế gian, xa ĺa quá khứ, xa ĺa hết thảy đối đăi đắm nhiễm, có thể khiến cho tự tâm tịch diệt, có thể giải thoát ngay trong đời hiện tại. Môn Tứ Niệm Xứ này có ư nghĩa. Chúng ta chớ nên xem nhẹ nó. Nếu có thể tùy thuận pháp tắc như thế, chúng ta sẽ có thể thực hiện nó.

 

          (Kinh) Thường đương nhất tâm quán sát pháp hạnh, nhi diệc bất kiến nhất thiết chư pháp.

          ()常當一心觀察法行。而亦不見一切諸法。

          (Kinh: Thường nên nhất tâm quan sát pháp hạnh, mà cũng chẳng thấy hết thảy các pháp).

 

          Tứ Niệm Xứ ở đây khác với Tứ Niệm Xứ của Thanh Văn. Đấy là bốn phép Quán được lập ra cho các hữu t́nh hành Bồ Tát đạo. Nếu một khi đă có thể lựa chọn bốn phép Quán chẳng có tự tánh này, Định kiến (kiến giải do tu Định) sanh khởi, chúng ta có thể dùng ấn Thật Tướng để ấn khế vạn sự vạn vật, ḥng đạt được giải thoát. Như thế th́ trong hết thảy hiện duyên, có thể nói là thường luôn tu, tu cho đến hết thọ mạng, tu ngay trong hiện tiền, tu chẳng gián đoạn, tu chân thật, tu cung kính, thường nói là “như pháp tu hành, thành tựu Bồ Đề”.

 

          (Kinh) Hiền Hộ. Như thị đẳng sự, thùy năng tín giả.

          ()賢護。如是等事。誰能信者。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Chuyện như thế, ai có thể tin được?)

 

          Chuyện như vậy ai có thể tin tưởng? Trên thực tế, đức Thế Tôn vẫn nêu ra một tỷ dụ, chẳng phải là lựa chọn, để khiến cho mọi người trở về pháp vị như thế.

 

          (Kinh) Duy bỉ lậu tận A La Hán, cập dĩ A Tỳ Bạt Trí chư Bồ Tát đẳng.

          ()唯彼漏盡阿羅漢。及以阿毗跋致諸菩薩等。

          (Kinh: Chỉ có lậu tận A La Hán và các vị Bồ Tát A Tỳ Bạt Trí).

 

          A La Hán là bậc đạo nghiệp chẳng thoái chuyển; cho nên hoàn thành tất cả sự tu tập ngay trong một đời, phạm hạnh đă lập, không bị trói buộc bởi hậu hữu (thân sau). A Bệ Bạt Trí (A Tỳ Bạt Trí, Avaivartika) đă thành tựu công đức chân thật của ba thứ bất thoái, bao gồm Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, và chẳng thoái chuyển nơi pháp tắc. Chúng ta nói Bát Địa Bồ Tát trụ trong A Bệ Bạt Trí, đạt được chẳng thoái chuyển.

          Giáo ngôn Tịnh Độ từ đầu tới cuối đều tuyên nói: Nương vào nguyện lực của Phật, nương vào pháp giáo rất sâu của Phật, hồi thí quả địa, cho đến khiến cho Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội được thành tựu như thế. Đó cũng là hạnh của bậc A Bệ Bạt Trí. Nói theo phía phàm phu, mong đạt được thánh đạo hạnh của A Bệ Bạt Trí, sẽ chẳng thể đạt được ngay trong một đời. V́ sao? Không chỉ là một đời, một mạng, mà nhiều đời, nhiều kiếp, mới ḥng đạt được công đức chẳng thoái chuyển của A Bệ Bạt Trí. Muốn đạt được A Bệ Bạt Trí ngay trong một đời, trong đời này chỉ có cách nương theo Tịnh Độ, chỉ có nương theo giáo ngôn về quả địa là pháp Ban Châu có công đức chẳng thể nghĩ bàn như vậy th́ mới có thể thành tựu. Đương nhiên, cũng có các giáo thuyết khác, tức là “thành tựu ngay trong một đời” cũng thường tuyên nói trong các giáo pháp khác thuộc quả địa [như Mật Tông chẳng hạn]. Giáo ngôn Tịnh Độ là giáo ngôn thuộc về quả địa; đó là điều chắc chắn, chẳng thể nghi ngờ! [Giáo ngôn Tịnh Độ] muốn khiến cho hết thảy chúng sanh đắc A Bệ Bạt Trí ngay trong một đời, hoặc có thể nói là thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề trong một đời. V́ sau khi đă có thể đạt được công đức và lợi ích to lớn do văng sanh quốc độ Cực Lạc của A Di Đà Phật, [người đă văng sanh] sẽ có thọ mạng vô lượng liên tục rộng khắp đến tận đời vị lai, cho nên sẽ trực tiếp thành tựu Bồ Đề. Từ Sơ Phát Tâm cho tới khi thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, chẳng vượt khỏi một đời. Đó là tướng đại công đức. Tâm lực của Bồ Tát sẽ chẳng thể thấu đạt công đức ấy, hết thảy hiền thánh chẳng thể do sức của chính ḿnh mà biết nổi! Hết thảy Bồ Tát, hết thảy hiền thánh tụ tập cùng một chỗ, cùng nhau nghĩ bàn, phân tích cặn kẽ trí huệ chẳng thể nghĩ bàn ấy cũng đều chẳng thể bén mảng được!

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thị trung nhất thiết ngu hoặc phàm phu, ư bỉ Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội, thường đương tư duy chư Phật Thế Tôn, bất đắc sanh trước.

          ()賢護。是中一切愚惑凡夫。於彼唸佛現前三昧。常當思惟諸佛世尊。不得生著。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Hết thảy phàm phu ngu hoặc trong ấy, đối với Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội, hăy thường nên tư duy chư Phật Thế Tôn, đừng sanh chấp trước).

 

          Tư duy mà chẳng sanh chấp trước, lành thay! Lời này rất sâu, chẳng thể nghĩ bàn! V́ sao? Do chẳng thể nghĩ bàn, khiến cho chúng ta thường tư duy. Tư duy điều ǵ vậy? Tư duy về sự hồi thí, ân đức, diệu tướng, và lời dạy của đức Thế Tôn, nhưng chẳng đắm nhiễm. “Chẳng chấp trước” tức là chẳng chấp trước những thứ chúng sanh hay biết, những hành vi đă biết, sự được mất, cảm xúc, tức là chỗ bất khả đắc (chẳng thể đạt được) trong Tứ Niệm Xứ đă được nói trong phần trước: Không thấy hết thảy các pháp, không thấy hết thảy các Thọ, cho đến chẳng đắm nhiễm hết thảy thân, thọ, tâm, pháp v.v… Do đó, nói là “không thấy”. “Không thấy” có nghĩa là chẳng nhiễm. V́ thế, thường tư duy, thường quán mà chẳng nhiễm. Đây là một yêu cầu hành pháp, mà cũng là một pháp tắc đặc biệt trọng yếu.

          Thường là chúng ta đối với một hành pháp, hễ tư duy bèn đắm nhiễm, bèn chấp trước. V́ thế, “thị trung, nhất thiết ngu hoặc phàm phu, ư bỉ Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội, thường đương tư duy Phật Thế Tôn, bất đắc sanh trước” (ở trong ấy, hết thảy phàm phu ngu hoặc đối với Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội, thường nên tư duy chư Phật Thế Tôn mà chẳng sanh chấp trước). Tức là phàm phu ngu hoặc v́ ưa chấp trước, đó là “ngu hoặc”. Nếu chúng ta tư duy Niệm Phật tam-muội, tư duy cơ chế giáo ngôn của chư Phật Thế Tôn, tư duy về chư Phật Thế Tôn như thế mà chẳng sanh chấp trước. Đó là đă vượt khỏi phàm ngu, tức là đă vượt thoát sự chướng ngại trong tâm trí của phàm phu ngu hoặc.

          Trưa hôm nay, khi mọi người học Cổ Văn, đă bàn đến vấn đề quản lư và quản chế. Phật pháp chẳng quản chế chúng ta, mà là khiến cho chúng ta an lạc. Sự giáo dục và sự điều dưỡng đúng đắn th́ phải có thể khiến cho chúng ta an lạc nơi pháp, tâm trí điều phục, nhu thuận, chẳng cảm thấy bị ép bức, chẳng bị hạn chế, được an trụ trong công ước chung của cộng đồng. Đó là h́nh thức quản lư đúng lẽ, là quản lư có trí huệ, là một loại h́nh thức giao tiếp từ bi. C̣n quản chế th́ sao? Áp bức, dồn ép lẫn nhau, tổn hại và hạn chế lẫn nhau, khiến cho con người đau khổ. Đó chẳng phải là Phật pháp, nhưng trong nhân duyên hiện thời, phần đông là kẻ ham muốn quyền lợi, phần nhiều là kẻ chẳng biết pháp từ bi thiện xảo, phần nhiều đắm nhiễm. Do vậy, hạn chế lẫn nhau, [khiến cho] kẻ khác đau khổ, chẳng thể cảm nhận sự thủ hộ do trí huệ và từ bi của Phật pháp ban tặng. Nếu đă gặp gỡ Phật pháp, mà c̣n sanh ra các nỗi đau khổ ấy, th́ c̣n dính dáng ǵ đến Phật pháp nữa? Đó chính là trái nghịch chánh nhân xuất thế của Phật pháp. Chư Phật xuất thế nhằm dẹp khổ, ban vui, trí huệ, từ bi, và thiện xảo. Hiện thời, trong việc quản lư người xuất gia và tại gia, trong cơ chế học Phật, có nhiều sự hạn chế, c̣n chuyện mọi người giao tiếp trong t́nh huống yêu mến, bảo vệ, tôn trọng, cũng như những người cùng nhau điều hợp một pháp tắc, thủ hộ đạo tràng, thủ hộ một nguyên tắc cộng đồng th́ càng ngày càng thưa thớt! Trên cơ sở rất thưa thớt ấy, càng cần thiết chúng ta phải nên đứng ra, vận dụng hai pháp phương tiện bi và trí đối với hữu t́nh. Cũng có nghĩa là hiện thời, người tạo sự thuận tiện cho kẻ khác rất ít ỏi, mà người ước thúc kẻ khác rất nhiều. Trong cơ chế như thế, chúng ta càng phải nên thật sự đứng ra vận dụng trí huệ, vận dụng từ bi để lợi ích rộng khắp hiện tiền hữu t́nh! Tôn trọng hiện tiền chính là tôn trọng tự tâm. V́ sao? Do tâm cảnh nhất như. Đối với cảnh giới hiện tiền của chính ḿnh, chúng sanh hiển hiện trong cảnh giới hiện tiền cho đến hữu duyên biến hiện, nếu chẳng tôn trọng, sẽ là chẳng tôn trọng tự tâm, tức là từ trong pháp chẳng đối đăi mà nẩy sanh sự tổn hại do đối đăi. Quư vị sẽ gây nên mối hại vô cùng, đánh mất pháp ích thanh tịnh rộng lớn. Các vị thiện tri thức ơi! Phải khéo tư duy, khéo quan sát!

 

          (Kinh) Hựu diệc tư duy chư Phật Thế Tôn thuyết như tư pháp, nhi diệc bất trước.

          ()又亦思惟諸佛世尊。說如斯法。而亦不著。

          (Kinh: Lại cũng tư duy chư Phật Thế Tôn nói pháp như thế, nhưng cũng chẳng chấp trước).

 

          Đức Thế Tôn lặp đi lặp lại lời nhắc nhở này, trước là nói về pháp tắc của giáo nghĩa, sau là nói về lợi ích của pháp tắc giáo nghĩa, nhằm dạy chúng ta tư duy, dạy chúng ta pháp tắc để giảng nói Ban Châu tam-muội đúng lư bằng các lời lẽ chánh đáng, cũng như lợi ích chân thật của môn Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội này. Ngài dùng lời lẽ chẳng khác lạ, lời lẽ chẳng thêu dệt, lời lẽ chẳng phải chỉ có chính ḿnh hiểu nổi để đúng như thật truyền đạt giáo ngôn của đức Thế Tôn, nói giăi bày trọn vẹn, nói không che lấp, chẳng giấu giếm. Đó chính là điều chúng ta tu hành, mà cũng chính là chỗ tồn tại của công đức và lợi ích nơi chánh hạnh.

 

          (Kinh) Hựu diệc tư duy ngă thính văn pháp, nhất thiết sở vi, giai bất đắc trước. Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Chư pháp giai không, bổn lai vô sanh cố.

          ()又亦思惟我聽聞法。一切所爲。皆不得著。何以故。賢護。諸法皆空本來無生故。

          (Kinh: Cũng lại tư duy “ta nghe pháp, đối với hết thảy các việc làm đều chớ nên chấp trước”. V́ sao? Này Hiền Hộ! Các pháp đều là Không, do vốn chẳng sanh).

 

          Vốn vô sự! Thiên hạ vốn b́nh an, vốn chẳng nhuốm mảy trần. Do vậy, nếu khi có người khởi tâm, liền liễu giải ngôn từ và tâm trí của người ấy ở chỗ nào. Đó là sự quan sát thấy thấu suốt cảnh giới Nhất Thật. Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo thí giáo như thế, khiến cho thiện tri thức xét kỹ thế gian chẳng nhiễm, chẳng dính mắc, tức là xét quán kỹ cảnh giới Nhất Thật. Như trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo đă có nhắc nhở như thế, xem kỹ thế gian như thế nào, xem kỹ nhân quả như thế nào? Có Chiêm Sát Luân để chiêm sát ba nghiệp thân, khẩu, ư trong quá khứ, hiện tại, vị lai, cho đến nói Thập Thiện, Thập Ác, khiến cho người khác hiểu biết để chọn lựa nghiệp, xu hướng theo pháp, hoặc nói tới nguyên do v.v… Trong cảnh giới Nhất Thật là sự chọn lựa như thế, khởi tâm động niệm liền có thể biết rơ. V́ sao vậy? Do vốn vô sự, vốn chẳng nhuốm bụi, vốn chẳng có một pháp, vốn vô sanh. Chọn lựa như thế, các thiện tri thức sẽ đạt được đại thiện xảo, đại phương tiện. V́ vậy, trong thời hiện tiền, một khi sanh khởi, sẽ có thể biết rơ kết quả. V́ sao? Do hiện duyên sanh khởi, có duyên th́ sẽ ắt có tiếp tục. Hễ có sự tiếp tục, ắt sẽ có kết quả, chẳng nhờ vào bất cứ phương tiện nào mà trực tiếp thấu suốt bổn hoài, trực tiếp thấu suốt cội nguồn, trực tiếp liễu giải tướng nhân quả.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Chư pháp bất khả niệm, vô niệm xứ cố.

          ()賢護。諸法不可念。無念處故。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Các pháp chẳng thể niệm, do chẳng có niệm xứ).

 

          Lành thay! Chúng ta tạo niệm, dù thiện niệm hay ác niệm, dù là niệm hay phi niệm, dù sanh niệm, diệt niệm, dù là thánh niệm, hay phàm niệm, trong các thứ niệm đều là sanh sanh diệt diệt, tiếp nối trong từng sát-na. Nếu là niệm trong “chư pháp bất niệm” (các pháp chẳng niệm), chánh niệm hiện tiền như thế, các pháp chẳng nhiễm, sẽ vận dụng các pháp để thành tựu sự yêu mến và thủ hộ. V́ sao? Hiện duyên sanh khởi chính là pháp tướng, niệm mà vô niệm, chính là cách niệm thanh tịnh, lợi ích rộng khắp hữu t́nh. Chúng ta thường muốn dùng niệm để xua đuổi niệm. Xua đuổi niệm sẽ thường có cảm giác nặng nề, có sự sanh diệt tiếp nối, có sự khích lệ sanh diệt. Do vậy, trôi giạt trong biển sanh tử, chẳng thể tự thoát ra được, v́ sóng nghiệp ngập trời, hoặc ch́m xuống, hoặc nổi lên, quư vị chẳng có sức tự tại. “Chư pháp bất khả niệm” (các pháp chẳng thể niệm) là nói như thật, nói chân thật.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Chư pháp viễn ly, tuyệt tâm tưởng cố. Hiền Hộ! Chư pháp bất khả chấp tŕ, Chân Như vô đắc cố.

          ()賢護。諸法遠離。絕心想故。賢護。諸法不可執持。真如無得故。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Các pháp xa ĺa, do dứt bặt tâm tưởng. Này Hiền Hộ! Các pháp chẳng thể chấp tŕ, do chẳng đắc Chân Như).

 

          Lành thay! Đức Thế tôn dạy chúng ta trí huệ chân thật như thế, gột sạch trần cấu chẳng thể đạt được từ vô thỉ đến nay của chúng ta. V́ trần cấu chẳng thể đạt được chính là vọng nhiễm, chấp trước hư vọng, cho nên ngay lập tức gột rửa hết sạch! Nếu tùy thuận lời dạy, sẽ gột rửa cấu nhơ trong tâm. Nếu vẫn dùng tâm để tưởng, do những điều hay biết về sau, Phiền Năo Chướng sẽ che lấp tự tâm, trần cấu lại bừng bừng dấy lên. Giáo ngôn rất sâu như thế được tuyên nói như thật trong kinh Ban Châu Tam Muội, mọi người có thể thân cận giáo ngôn thù thắng, khó được nghe như thế, quả thật là do phước đức chín muồi. Nếu nhất niệm tùy thuận, công đức của người ấy chẳng thể nghĩ bàn, thậm chí chư Phật chẳng thể tán thán cùng tận!

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Chư pháp vô nhiễm, như hư không cố.

          ()賢護。諸法無染如虛空故。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Các pháp chẳng nhiễm v́ như hư không).

 

          Các thiện tri thức ơi! Hăy khéo tùy văn nhập quán, thuận theo kinh văn để ấn tâm, thuận theo kinh văn để biết cái tâm, chẳng nhờ vào giải thích, chẳng nhờ vào tăng giảm, chỉ thẳng thừng ấn khế là được rồi! V́ chúng ta do tập quán hay biết, do thói quen tư duy, khiến cho chúng ta luôn bị trói buộc trong suy nghĩ và những điều chính ḿnh đă biết, chẳng đạt được phương tiện tự tại rộng lớn. Nếu có thể như thật nương vào giáo ngôn thanh tịnh của đức Thế Tôn để ấn chứng tự tâm, tự tâm tất nhiên sẽ giống như tâm Phật, an trụ như thật.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Chư pháp thanh tịnh, viễn ly chúng sanh cố. Hiền Hộ! Chư pháp vô trược, nhân duyên diệt cố.

          ()賢護。諸法清淨。遠離衆生故。賢護。諸法無濁。因緣滅故。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Các pháp thanh tịnh v́ xa ĺa chúng sanh. Này Hiền Hộ! Các pháp chẳng vẩn đục v́ nhân duyên diệt).

 

          Nói “các pháp do nhân duyên sanh, duyên diệt, pháp cũng diệt”, thật sự chẳng có một pháp để đạt được. V́ do duyên sanh th́ sẽ theo duyên mà diệt. Các thứ nhân duyên quá khứ, hiện tại, vị lai sanh khởi từ một niệm trong hiện duyên; đấy chính là nhân duyên. Cái nhân duyên ấy rất thuận tiện, có thể thấy thấu suốt, có thể quan sát. Đối với nhân duyên trong quá khứ, nếu mê mờ trong ấy, đó chính là nghiệp tướng vô minh, chẳng thể hiểu rơ. Đối với các mong mỏi trong tương lai, nếu chẳng thể như thật, các mong mỏi trong tương lai cũng trở thành cơ duyên đọa lạc, chẳng có sức tự tại. Do vậy, “các pháp chẳng vẩn đục, v́ nhân duyên diệt”, duyên khởi, duyên diệt, thật sự là huyễn sanh, huyễn diệt. Đó chính là hiện duyên khích lệ. Chúng sanh từ vô thỉ tới nay, nếu lúc một niệm nẩy sanh, dù là tiếp tục tịnh, hay tiếp tục nhiễm, sẽ sanh ra hai thứ thế gian tịnh và nhiễm. Do đó, có Tịnh Độ của chư Phật. V́ chư Phật thông đạt pháp tánh, đích thân chứng pháp tánh, Tịnh Độ của chư Phật hiện. Chúng sanh do mê mất tâm trí thanh tịnh vốn sẵn có, cho nên từ Năng và Sở mà kiến lập thiện và ác. Do vậy, ngũ trược ác thế và các thứ ác thế, các thứ trược nhiễm trong thế gian sẽ cùng lúc sanh khởi, liên tục kiến lập. Chúng ta hăy khéo quan sát, khéo tư duy.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Chư pháp vô vi, Phú-già-la bất khả đắc cố.

          ()賢護。諸法無爲。富伽羅不可得故。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Các pháp vô vi, do Phú-già-la (Pudgala)[1] chẳng thể

được).

 

          Đối với tâm trí của hết thảy chúng sanh, chẳng thể chấp trước được!

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Chư pháp tức Niết Bàn tướng, bổn tánh thanh tịnh cố.

          ()賢護。諸法即涅槃相。本性清淨故。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Các pháp chính là tướng Niết Bàn, v́ bổn tánh thanh tịnh).

 

          “Chư pháp tức Niết Bàn tướng” (Các pháp chính là tướng Niết Bàn). V́ sao? Dựa theo bản chất để nói th́ do bổn tánh thanh tịnh, cho nên các pháp tịch diệt, tức là tướng Niết Bàn. Thiện tri thức có pháp nghĩa như thế để ấn khế tự tâm của chúng ta. Tâm trí của chúng ta vốn chẳng tạo tác, chỉ khi nào ấn khế như thật, sẽ có thể thanh tịnh biết rơ giáo ngôn của chư Phật. Ngày hôm qua, tôi nhận được điện thoại của một vị Bồ Tát. Ông ta đại khái đă tiếp xúc Phật pháp từ mười năm trước. Về sau, sanh khởi ngờ vực đối với Phật pháp; sau đó, nhờ học Phật, niệm Phật, nay đă có đôi chút cảm nhận. Ông ta nói: Đối với Nhất Thiết Trí, phải có tri kiến quyết định. “Tri kiến quyết định” chính là pháp chẳng có tự tánh, quyết định tùy thuận, sanh ḷng vui thích đối với pháp.

          “Chư pháp tức Niết Bàn” (các pháp chính là Niết Bàn), “phiền năo tức Bồ Đề”. Đây thật sự là dùng Phật ấn để ấn chứng, khiến cho chúng ta trực tiếp ấn khế hết thảy các hiện duyên. Đối với hết thảy hiện duyên, chỉ dùng Phật ấn để ấn, đừng dùng vọng tưởng để ấn khế sự cảm nhận. Đó là nghiệp ấn! Nghiệp ấn của phàm phu chỉ là nghiệp tướng liên tục. V́ thế, dùng nghiệp để kế tục nghiệp, kết quả giống như nước lũ, khiến cho quư vị bị cuốn vào biển sanh tử, chẳng phải là biển trí và biển đại trí nguyện của chư Phật. Do vậy, có biển nghiệp của chúng sanh, mà cũng có biển nguyện của chư Phật. Một niệm sai lầm, sẽ là biển nghiệp. Biển nghiệp vô biên, vùi dập vô tận trong biển sanh tử. Một niệm khác đi, sẽ là biển Chánh Biến Tri của chư Phật, an trụ nơi vô nghi, lợi ích thế gian rộng lớn. Biển nghiệp và biển nguyện vốn là một biển. V́ thế nói: “Vốn chẳng có biển đại tịch diệt để đạt được!” Trong biển đại tịch diệt, sẽ trông thấy bổn tánh.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Chư pháp vô sở hữu, nhất thiết vật bất khả đắc cố. Hiền Hộ! Thị cố, chư Bồ Tát đẳng, nhược dục tư duy thử tam-muội giả, bất khả dị tướng nhi năng đắc nhập.

          ()賢護。諸法無所有。一切物不可得故。賢護。是故諸菩薩等。若欲思惟此三昧者。不可異相而能得入。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Các pháp vô sở hữu, v́ hết thảy các vật chẳng thể được. Này Hiền Hộ! Do đó, các vị Bồ Tát nếu muốn tư duy tam-muội này, chẳng thể do tướng khác mà có thể nhập được!)

 

          Nếu nương vào điều thiện tạp loạn và tư duy vọng tưởng của chính ḿnh muốn nhập môn tam-muội này, sẽ chẳng thể thấy, chẳng thể nhập, chẳng thể thành tựu. Do vậy, chư Phật Như Lai đă có lời dạy “chánh ngôn” đối với tam-muội này, khiến cho chúng ta chánh tư duy, chánh khế nhập, chánh thiện xảo ḥng ấn khế tự tâm.

 

          (Kinh) Vô đắc tướng cố, đắc kiến chư Phật.

          ()無得相故。得見諸佛。

          (Kinh: Do chẳng đạt được tướng, cho nên được thấy chư Phật).

 

          Lành thay! Hai câu nói này rất trọng yếu! Thường là chúng ta sẽ dùng hai thứ đối đăi ấy. Trong tâm trí đối đăi, sanh khởi pháp tắc đối đăi; nhưng trong tâm trí chẳng đối đăi, lập tức viên dung. Pháp tắc “chẳng đối đăi” viên dung như thế nào? Trong kinh Kim Cang, đức Thế Tôn đă dạy: “Kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai” (thấy các tướng chẳng phải là tướng, liền thấy Như Lai); ở đây nói: “Vô đắc tướng cố, đắc kiến chư Phật” (Do chẳng đạt được tướng, cho nên được thấy chư Phật). Kinh khác nhau cùng nói giống nhau [về sự] lựa chọn chân thật. Đây là sự tuyên nói chân thật trong trí huệ chân thật. Đối với điều này, chúng ta thường sanh khởi sợ hăi; v́ trong tâm trí đối đăi, sẽ nhất định sanh khởi cảm nhận đối đăi: Một là vô tướng, hai là thấy chư Phật. Chư Phật là vô tướng. Nếu quư vị dám lựa chọn, sẽ ngay lập tức đạt được đại lợi. V́ chúng ta bị câu thúc bởi các tướng, cho nên chẳng thấy tướng của chư Phật. Nếu chẳng bị câu thúc bởi các tướng, sẽ thấy diệu tướng thanh tịnh của chư Phật.

          Chọn lựa như thế nào? Trọn chẳng thể nương vào tư duy của quư vị để hiểu. Cái được hiểu bởi tư duy chính là pháp đối đăi. Trong pháp đối đăi, sẽ rất khó khế nhập. Thiện tri thức ơi! Trong trí chẳng nghĩ bàn, muốn tư duy, suy nghĩ cưỡng chấp ư nghĩa, điều lợi ấy sẽ chẳng thể hiện tiền. Nếu một người đột phá chỗ này, tức là [đột phá] chỗ tri kiến đối đăi, người ấy sẽ đạt được nhân duyên thiện xảo. Hai người đột phá th́ hai người đạt được. Ba người đột phá th́ ba người đạt được. Nếu vô lượng chúng sanh đột phá, vô lượng chúng sanh sẽ đạt được. Nếu quư vị dùng tri kiến đối đăi mà muốn nghe giáo ngôn, như “vô đắc tướng cố, đắc kiến chư Phật” (do chẳng đạt được tướng, được thấy chư Phật); nếu trụ trong tâm trí đối đăi, sẽ vĩnh viễn chẳng thể nghe, dẫu nghe mà như chẳng nghe, chỉ là gieo chủng tử [vào tạng thức]! Khi lần sau lại được nghe, quư vị c̣n kêu: “Trời ạ! Câu này nói lần trước mâu thuẫn với lần sau!” Do vậy, trong tâm trí chẳng đối đăi, sẽ tự nhiên thuận theo, tùy văn nhập quán, đạt được pháp ích. Nhập quán ǵ vậy? Trí quán, quán chẳng đắm nhiễm, quán thanh tịnh, quán chẳng động tâm niệm, tức là cái được gọi là “quán như thật, chẳng tăng giảm”.

          Nhưng tâm trí phàm phu, từ vô thỉ đến nay, nương vào đối đăi mà kiến lập, nói tốt, nghe xấu, hoặc dựa vào xấu mà nói tốt, đều là an lập trong pháp đối đăi, lẩn quẩn trong hai loại Biên Kiến, rất khó dùng cái tâm viên dung, tâm chẳng đối đăi, tâm thanh tịnh, tâm ấn khế, tâm chẳng tăng giảm để như thật an trụ, tùy thuận pháp tắc. Do vậy, người y giáo phụng hành rất hiếm hoi. Tuy đức Thế Tôn khắp nơi dạy chúng ta “y giáo phụng hành”, nhưng chúng ta thường là “y giải phụng hành” (nương vào kiến giải của chính ḿnh để phụng hành), nương theo sự suy nghĩ của chính ḿnh, nương vào Phật pháp đă quả xử lư của chính ḿnh để phụng hành. V́ thế, phần nhiều chẳng thể đạt được lợi ích chân thật, do chẳng thể tùy thuận Phật trí, chẳng thể vào trong biển Phật trí. Do nương vào hạn lượng chính ḿnh vốn có, cho nên dùng hạn lượng để g̣ ép Phật pháp vào “khuôn khổ”. Phật pháp kiểu đó là Phật pháp do quư vị sửa đổi, là Phật pháp bị biến dạng, là Phật pháp do nương theo cái tâm tăng giảm của phàm phu, kết quả vẫn là tri kiến phàm phu. Do vậy, chẳng đạt được lợi ích nơi Phật pháp.

 

          (Kinh) Chánh niệm chư Phật ḥa hợp tương ứng, diệc đắc tư duy Trợ Bồ Đề Phần, niệm văn chánh pháp, tư lượng phân biệt, tuyển trạch Bồ Đề Phần, nhi bất kiến tự thân, diệc bất chứng chư pháp.

          ()正念諸佛。和合相應。亦得思惟助菩提分。念聞正法。思量分別。選擇菩提分。而不見自身。亦不證諸法。

          (Kinh: Chánh niệm chư Phật ḥa hợp tương ứng, cũng tư duy Trợ Bồ Đề Phần, nghĩ tưởng, nghe chánh pháp, suy lường, phân biệt, chọn lựa Bồ Đề Phần, mà chẳng thấy tự thân, cũng chẳng chứng các pháp).

 

          Đoạn văn tự này mười phần quan trọng! Chính là chuyển biến to lớn của tri kiến phàm hay thánh. Quư vị nhất định phải tự hỏi chính ḿnh có chuyển biến ở chỗ này hay không? Quư vị có thể khám nghiệm tri kiến của chính ḿnh là tri kiến thanh tịnh, tri kiến chẳng đối đăi, chánh tri, chánh kiến, hay là tri kiến ngu si, tri kiến điên đảo, tri kiến hư vọng, tri kiến đối đăi? Nếu là tri kiến thuộc loại sau, sẽ chẳng thể thành tựu Bồ Đề, v́ quư vị cưỡng chấp. Nếu buông xuống, liền nhập Phật trí. Chúng ta có thể dùng đoạn văn tự này để phán đoán, ấn khả tự tâm, dù phàm hay thánh, dù trí hay ngu, có thể tự ḿnh cân nhắc chỗ thuận theo và nương tựa trong tâm trí của chính ḿnh.

          Trong rất nhiều kinh điển, đức Thế Tôn đều nói như thế để khiến cho chúng sanh buông xuống tri kiến của chính ḿnh, tùy thuận chánh giáo của Như Lai, khế nhập lợi ích của Phật pháp. Đó gọi là “hồi quán tự tâm, vô nhiễm, vô trước” (quay lại quán tự tâm, chẳng nhiễm, chẳng chấp trước). Các cơ chế giáo ngôn ấy thật sự không ngừng ấn khế chúng ta. Các vị thiện tri thức trong quá khứ khi có khai ngộ, có chứng ngộ, hoặc đối với pháp mà cho rằng có ǵ để đắc, sẽ đến chỗ thiện tri thức để gột sạch tâm cấu, để thiện tri thức ấn khế cho ḿnh, chứng thực tri kiến của chính ḿnh, cũng như [ấn chứng] pháp tắc do chính ḿnh đă chứng thật sự tương ứng với lời dạy của Phật. Như Lục Tổ đại sư khi gặp tổ Hoằng Nhẫn, chân tâm Lục Tổ thường sanh hoan hỷ, trong hết thảy thiện duyên sanh khởi sự vô úy và yêu thích, tâm thường sanh quang minh chiếu sáng thế gian. Trong sự tối tăm của hết thảy hiện duyên, giống như đèn sáng trong cơi đời. Tuy là như thế, [Lục Tổ] vẫn cần pháp sư Hoằng Nhẫn dùng pháp nghĩa để ấn chứng, hứa khả, dùng kinh Kim Cang để ấn chứng, hứa khả, khiến cho Lục Tổ vô ngại rốt ráo. Cho nên Ngài đă diễn tả [bằng ba câu] “hà kỳ tự tánh, hà kỳ tự tánh, hà kỳ tự tánh” (nào ngờ tự tánh [vốn tự thanh tịnh], nào ngờ tự tánh [vốn chẳng sanh diệt], nào ngờ tự tánh [vốn tự trọn đủ]). Đoạn văn tự ở đây cũng là ngôn ngữ để ấn khế.

 

          (Kinh) Sở dĩ giả hà? Hiền Hộ! Thị trung, bất khả dĩ sắc tướng cố nhi đắc kiến Phật.          

          ()所以者何。賢護。是中不可以色相故而得見佛。

          (Kinh: V́ sao vậy? Này Hiền Hộ! V́ trong ấy, chẳng thể dùng sắc tướng để thấy Phật).          

 

          Ở đây, đă tổng kết rơ ràng. Đó là giáo ngôn mười phần rơ rệt, giáo ngôn mười phần như thật, giáo ngôn mười phần chẳng thể nghĩ bàn, là giáo ngôn xa ĺa đối đăi! Nếu quư vị nương vào tâm trí đối đăi, sẽ ngay lập tức đối đăi. V́ cớ sao? “Thị trung bất khả dĩ sắc tướng cố nhi đắc kiến Phật” (trong ấy, chẳng thể dùng sắc tướng để thấy Phật): Quả thật đă ban cho chúng ta một pháp tắc tu hành và sự lựa chọn tu hành rất rơ rệt. Vậy th́ quư vị có thể tu tập như thế hay không? Nhiều người đă lư giải chỗ này. Hễ lư giải [suông mà không tu tập] th́ chẳng thể đạt được lợi ích. Chỉ có người tu tập sẽ tất nhiên ấn khế tự tâm!

          Dùng giáo ngôn “không tăng giảm” để ấn khế tự tâm rất thuận tiện, như chúng ta dùng một cái ấn to để đóng dấu. Quư vị chẳng cần phải lư giải, cứ đóng dấu là được rồi! Chúng ta thấy một tay [trong ngàn cánh tay] của Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát cầm một cái ấn, ấn ǵ vậy? Chính là một chữ chủng tử (Bīja)[2] biểu thị Quán Thế Âm, biểu thị A Di Đà Phật, biểu thị ấn khế của mười phương chư Phật. Hễ áp [cái ấn ấy] xuống, liền thành lập. V́ thế, trong kinh điển Đại Thừa, khắp nơi có cách nói như thế này: “Cửu hành nhi bất chứng, phóng quang tức Bồ Đề” (Hành đă lâu ngày mà chẳng chứng, phóng quang chính là Bồ Đề). Cũng có nghĩa là: Một niệm tương ứng liền được khế nhập, liền được thành tựu, chẳng phải nhọc nhằn thực hiện! Chọn lựa ở chỗ này mười phần khó khăn! Khó ở chỗ nào? Khó buông xuống chấp trước hư vọng, khó buông xuống Ngă Chấp, khó buông xuống nhiễm tâm, khó buông xuống phân biệt đối đăi. Dẫu chỉ buông xuống trong sát-na, vẫn chẳng muốn buông bỏ! V́ sao? Sẽ sanh ḷng hoảng sợ. Chúng ta có thể khéo quan sát tâm linh của chính ḿnh. Có người nói: “Ta nghe pháp một niệm hoan hỷ”, v́ sao? Khi đó chẳng đắm nhiễm, chẳng chấp trước, chẳng có chỗ đối đăi, có thể vui sướng v́ thật sự ấn khế trong nháy mắt. Nếu có thể tiếp tục duy tŕ, sẽ liên tục thủ hộ sự thành tựu. Nếu chẳng thể liên tục, chỉ là tiếp xúc một phen, vẫn chưa thật sự ấn khế tự tâm. V́ nếu có thể ấn khế tự tâm, tất nhiên chẳng nghi!

 

          (Kinh) Bất khả dĩ thanh tướng cố, nhi đắc văn pháp.

          ()不可以聲相故而得聞法。

          (Kinh: Chẳng thể dùng thanh tướng để được nghe pháp).

 

          Nay chúng ta trao đổi Phật pháp, thật sự nhờ vào nhĩ căn, nhăn căn, và thân tiếp xúc của mọi người để kích phát tâm trí vốn sẵn có nơi mỗi người, tức là tâm trí “chẳng đến, chẳng đi” nhằm thuần thục tướng công đức và công đức tạng ấy. Thật sự chẳng có pháp nào nào để đạt được, chẳng có pháp nào để gặp, chẳng có pháp nào để có thể thành, đúng như thật mà biết tự tâm!

 

          (Kinh) Bất khả dĩ hy vọng tâm thành tựu Đàn Ba La Mật.

          ()不可以希望心成就檀波羅蜜

          (Kinh: Chẳng thể dùng cái tâm hy vọng để thành tựu Đàn Ba La Mật).

 

          “Đàn” (Dāna) là bố thí, có pháp bố thí, tài bố thí, và vô úy bố thí. Nếu hy vọng được đền đáp, do Đàn Ba La Mật là “chẳng dùng ǵ để thành tựu”, cho đến Lục Ba La Mật, tức Tŕ Giới, Tinh Tấn… cho đến Thập Ba La Mật, nếu có tâm cầu được đền đáp, sẽ khó thể đạt được lợi ích thanh tịnh trong Phật pháp, khó thể đạt tới bờ kia. V́ sao? Một khi đức Thế Tôn thuyết pháp, sẽ là tam luân thể không, chẳng có chỗ nào đắm nhiễm! Do vậy, bố thí mà chẳng có vật để bố thí, chẳng có đối tượng tiếp nhận sự bố thí, mà cũng chẳng có người hành bố thí, [đó là “tam luân thể không”], là Đàn Ba La Mật. Đối với pháp bố thí, cũng giống như thế. Nếu quư vị cho rằng chính ḿnh có ơn với người khác, đó là tà kiến! V́ sao? Do muốn t́m kiếm nhân duyên càng lớn hơn nữa! Người như vậy chẳng đạt được lợi ích từ Phật pháp. V́ thế, trong Phật pháp, Bố Thí, Tŕ Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, cho đến các loại trí huệ Ba La Mật, đều lấy “chẳng đắm nhiễm, chẳng chấp trước” làm phương tiện cội gốc!

          Hiện thời, trong tự viện, đạo tràng của chúng ta, hành pháp cũng thế, làm mọi việc cũng thế, duy tŕ đạo tràng cũng thế, xuất gia hay tại gia cũng thế, nếu có cái tâm đắm nhiễm, tâm mong được đền đáp, kẻ ấy sẽ chẳng đạt được lợi ích nơi Phật pháp. V́ sao? Giống như đă nói trong phần trước: Giống hệt như quư vị buôn bán. Bất quá, quư vị là một gă lái buôn trong Phật pháp, bán chác Như Lai, vụng trộm rỉa ráy từng chút một, vẫn chẳng thể chân chánh, đúng như thật thủ hộ truyền thừa gia nghiệp của Như Lai. V́ thế, “bất khả dĩ hy vọng tâm thành tựu Đàn Ba La Mật” (chẳng thể dùng cái tâm hy vọng để thành tựu Đàn Ba La Mật). Lúc chúng ta ban cho người khác pháp, tài vật, hoặc vô úy, tuyệt đối chẳng thể dùng cái tâm hư vọng, tức là cái tâm “mong được đền đáp” để hành tŕ. Nếu dùng cái tâm như thế, sẽ chẳng phải là người tu tập Phật pháp, cho nên chẳng thể thành tựu Đàn Ba La Mật, tức Bố Thí Ba La Mật. Hết thảy các thứ khác cũng giống như thế, nêu lên một sẽ suy ra ba, chúng ta có thể dùng cách loại suy (analogy)[3] để xem xét kỹ lưỡng rộng khắp!

          Hiện thời, có kẻ tạo chút thiện căn, chẳng hạn như v́ tự viện làm một tí việc, sẽ tính toán: “Ta đă làm bao nhiêu chuyện cho Phật pháp, phải ban cho ta chút ǵ chớ? Ta sẽ đạt được ǵ?” Kẻ như thế phải nên thật sự học Phật pháp, chớ nên kinh doanh Phật pháp! Có lắm kẻ đầu cơ bán chác Phật pháp, có kẻ biết, có kẻ chẳng biết. Kẻ biết tức là cố ư làm, sẽ là kẻ bại hoại, hủy diệt Phật pháp. Kẻ không biết là do ngu si cho nên chẳng biết, ngỡ Phật pháp cũng là buôn bán, khiến cho Phật pháp đọa vào thế tục. Rất nhiều kẻ thật sự lợi dụng kẽ hở trong Phật pháp, lợi dụng Phật pháp để bán chác Như Lai, mong đổi lấy các quả báo hư giả cho bản thân, nhưng trên thực tế là chẳng tương ứng, đâm ra, chẳng đạt được! V́ thế, đức Thế Tôn nói: “Nếu ai có thể tŕ giới, sẽ có thể đạt được ba thứ lợi”. Hoặc như trong giới Bồ Tát có nói: “Nếu ai có thể tŕ giới, sẽ đạt được năm loại lợi”. Năm loại lợi ấy chẳng cầu mà đạt được, nhưng người đời xấu ác mà cầu, tham cầu cho nhiều, thậm chí liều mạng cầu, vắt óc t́m mưu kế, nghĩ hết mọi biện pháp, sử dụng trọn mọi mánh khóe, để rồi sau đó hứng chịu toàn là quả báo của mánh khóe, quả báo v́ đă vắt óc t́m mưu kế, oan uổng hứng chịu khổ báo. Bởi lẽ, những ǵ đă tạo tác đều sanh khởi khổ duyên, chẳng phải là lợi ích thật sự tồn tại. Chư vị thiện tri thức ơi! Chúng ta hăy khéo tư duy, khéo quan sát!

 

          (Kinh) Bất khả dĩ nhạo trước chư hữu cụ túc Thi Ba La Mật.

          ()不可以樂著諸有具足屍波羅蜜。

          (Kinh: Chẳng thể yêu đắm các thứ đang có mà mong trọn đủ Tŕ Giới Ba La Mật).

 

          Nếu quư vị chấp trước “ta có các pháp tắc chi đó, “ta có giới và giới đức ǵ đó, như thế th́ sẽ chẳng đạt được Thi Ba La Mật (Thi La Ba La Mật, Tŕ Giới Ba La Mật, Sīla Pāramitā). Nếu có thiện tri thức khéo đọc tụng, th́ sẽ đạt được sự an ủi từ Đại Trí Độ Luận, v́ trong ấy, Long Thọ Bồ Tát đối với thời Mạt Pháp, đối với giới pháp, đă phân tích sâu sắc, nhất là đối với Thi Ba La Mật. Chúng ta hăy khéo tư duy, khéo quan sát.

          Hiện thời, rất nhiều hữu t́nh nói: “Chờ ta phát tâm thanh tịnh, viên măn rồi sẽ làm chuyện chi đó”. Thật ra là chẳng liễu giải tự tâm, chẳng liễu giải pháp thật ra chẳng có viên và bất viên, chỉ nên như thật liễu giải tự tâm. Tự tâm chưa viên, sự tướng sẽ chẳng viên. Nếu thấu triệt tự tâm thanh tịnh, hết thảy vốn viên! Trước kia, khi chùa Phóng Quang sắp kiến thiết, tôi nói với mọi người: “Đây là một đạo tràng Bổn Giác, vốn trọn đủ, chẳng cần phải tạo tác. Tất cả tạo tác đều là ư thức bị nhiễm về sau, là pháp sanh diệt, là pháp đối đăi, chẳng phải do đạo tràng Bổn Giác an lập”. V́ thế, chùa Phóng Quang đă được kiến thiết hoàn thành từ lâu, nay chúng ta chỉ là người sử dụng. Người nào sử dụng? Người thành tựu đạo nghiệp sử dụng! Ai tới thành tựu đạo nghiệp th́ là người sử dụng đạo tràng này, kiến thiết đạo tràng này. Do trong quá tŕnh kiến thiết ấy, đạo tràng này đă là một đạo tràng vốn trọn đủ. Nói “đạo tràng vốn trọn đủ” tức là vốn sẵn có, vốn an lập, vốn đă thành tựu. Do trong đạo tràng, chuyện làm nhiều hay làm ít đều có, nhưng tính toán hết sức nhiều! Có người dựng một gian nhà cũng tính, có người mua hai khối gỗ hay đá cũng tính, có người đảnh lễ ba mươi vạn lễ, mười vạn lễ, mua mấy quyển kinh cũng đều có thể tính. Tính toán ǵ vậy? Ta đă v́ Phật pháp làm các chuyện nhiều ngần ấy, ta có thể đạt được những ǵ? Loại người ấy rất đáng thẹn, rất đáng thương, nhưng nhân duyên ấy lại là sự biểu hiện rất chân thật phàm t́nh của phàm phu. Do vậy, tôi không ngừng đề cập “đây là một đạo tràng Bổn Giác, là một đạo tràng vốn đă kiến tạo hoàn thành”. Những người kiến thiết về sau đều là hưởng thụ phước đức chín muồi từ công đức vốn sẵn có ấy. Đạo tràng này chẳng cần chúng ta xây dựng. V́ sao? Tất cả các sự kiến thiết của chúng ta đều v́ duy tŕ Phật pháp, duy tŕ thành tựu, duy tŕ một cơ chế chân thật mà thôi, là phước đức chín muồi mà thôi, chỉ là như thế đó thôi!

          “Chư hữu trọn đủ” là một thứ tâm tham lam của hữu t́nh trong thế gian. Người như thế chẳng thể tŕ giới. Kinh thường nói: “Ta phải viên măn pháp thế gian, mà cũng phải viên măn pháp xuất thế gian”. Như thế th́ có lẽ chúng ta chẳng thể thành tựu trong một đời được, cần phải nhiều đời nhiều kiếp mới dần dần thành tựu. V́ nh́n từ tướng nhân quả của thế tục th́ sẽ là như thế. Nếu chúng ta muốn thành tựu pháp tắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ngay trong một đời, chớ nên giữ ư tưởng như thế. Nếu là có thể giữ, quư vị sẽ chẳng thể thành tựu được!

 

          (Kinh) Bất khả dĩ xan lận bí pháp nhi đắc Niết Bàn. Bất khả dĩ thâm trụ Phú Già La tưởng nhi hoạch đa văn.

          ()不可以慳吝祕法而得涅槃。不可以深住富伽羅想而獲多聞。

          (Kinh: Chẳng thể do keo tiếc pháp bí mật mà đắc Niết Bàn. Chẳng thể do trụ sâu nơi ư tưởng Phú Già La mà đạt được đa văn).

 

          Dùng tâm dục của chúng sanh để mong đạt được đa văn, sẽ là chuyện chẳng thể được!

 

          (Kinh) Bất khả dĩ phan duyên chư hạnh, nhi năng viễn ly chư sự.

          ()不可以攀緣諸行而能遠離諸事。

          (Kinh: Chẳng thể do nắm níu các hạnh mà có thể xa ĺa các sự).

 

          Đối với chuyện này, từ các pháp đối đăi, chúng ta có thể quan sát thấy.

 

          (Kinh) Bất khả dĩ nhạo trước trụ xứ, nhi đắc chứng quả.

          ()不可以樂著住處而得證果。

          (Kinh: Chẳng thể do yêu chấp chỗ ở mà được chứng quả).

 

          Trong Tứ Hướng Tứ Quả nơi pháp Thanh Văn, Tứ Quả chẳng có sở chứng, chẳng có ǵ để đắc. Bồ Tát từ Tín vị, Hiền vị, Trụ vị, Hạnh vị, cho đến các địa vị Hồi Hướng, cho đến Sơ Địa, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác, cũng chẳng chấp trước. Nếu có chấp trước, sẽ chẳng phải là quả vị.

          Trong hữu t́nh thế gian, có kẻ nói: “Ta đă chứng quả”. Tôi nói [với người ấy]: “Quư vị hăy t́m Phật ấn chứng”. Chứng quả ǵ vậy? Vẫn là tự ḿnh đạt được. Trong pháp “chẳng có ǵ để đạt được”, há có ǵ để chứng quả? Người ấy tâm đắm nhiễm, nhiễm ở chỗ nào? Ngỡ có sở đắc! V́ thế, người ấy sẽ bắt giữ một thứ ǵ đó. Nếu lầm lạc hứa khả cho kẻ đó, kẻ đó sẽ gây nguy hại cho thế gian. Có người nói: “Tôi đối với chỗ nào đó có ngộ xứ”. Ngộ xứ có thể coi là giải ngộ, chứng ngộ, có thể nương theo kinh điển, hoặc nương theo pháp tắc để ấn khế, nhưng nếu nói chính ḿnh chứng quả, điều này mười phần nguy hiểm! Hiện thời, cái tâm chứng quả (tức tự nghĩ là ḿnh đă chứng quả chi đó) rất nhiều; có người cho rằng chính ḿnh đă dự vào địa vị Bồ Tát chi đó. Tôi nói: “Quư vị chẳng cần nói chính ḿnh là Bồ Tát, chẳng cần nói chính ḿnh đă đăng địa! Quư vị chẳng biết chư vị Bồ Tát có thiện xảo to cỡ nào. Nếu hay biết, căn bản là quư vị sẽ chẳng ăn nói quàng xiên!” V́ Đăng Địa Bồ Tát vô lượng tam-muội thiện xảo cùng lúc hiện tiền, vô lượng tam-muội thiện xảo tự nhiên trọn đủ, vô lượng tam-muội thiện xảo tự nhiên vận dụng, vô lượng thần thông do đạt được hết thảy sức tự tại. Như Long Thọ Bồ Tát vừa mới nhập Hoan Hỷ Địa, liền tự đắc lực nơi trăm ngàn tam-muội. Khi thuyết pháp cho người khác, Ngài thường nhập Nguyệt Quang tam-muội, [người nghe] chỉ thấy ánh trăng thanh tịnh chiếu rọi, chẳng thấy thân Ngài. Chẳng phải là hễ quư vị nói chứng quả bèn chứng quả! Phải nên mười phần hiểu rơ chỗ này!

 

          (Kinh) Bất khả dĩ tùy thuận tham ái, ly chư quá phi. Bất khả dĩ thường nhạo đấu tránh, thành tựu chư Nhẫn.

          ()不可以隨順貪愛離諸過非。不可以常樂鬥諍成就諸忍。

          (Kinh: Chẳng thể tùy thuận tham ái để ĺa các lỗi sai. Chẳng thể do thường thích tranh đấu mà thành tựu các Nhẫn).

 

          Trong Lục Độ, công đức của pháp Nhẫn Nhục thâm nhập, rộng răi hơn so với Bố Thí và Tŕ Giới, v́ sao? Do thường chẳng tranh đấu, do ḥa hợp với thế gian, do lợi ích hữu t́nh. Ở đây, tâm trí lợi ích dễ dàng hiện tiền. Có người bố thí mà cũng có thể đấu tranh, chẳng hạn như có tâm mong được đền đáp, có tâm mong thành tựu mà bố thí. Người như vậy sẽ nẩy sanh tâm kiêu mạn, khiến cho các hữu t́nh mà kẻ ấy tiếp xúc cảm thấy hèn hạ, khiến cho trong tâm họ sanh ra áp lực, chẳng thoải mái. Có người tŕ giới mà cũng có thể đấu tranh, khiến cho kẻ được gọi là “phạm giới” sanh khởi ḷng sợ hăi, thương tổn. Người thật sự tŕ giới sẽ khiến cho kẻ chẳng tŕ giới hoặc kẻ chẳng biết giới đạt được an vui. V́ sao? Do giữ lấy, hướng theo giới đức th́ sẽ được an lạc. Nếu quư vị tŕ giới th́ sẽ an lạc, điều phục, nhu thuận, sẽ là chẳng đắm nhiễm, tức là dùng Thi La Ba La Mật để đạt được hai pháp bi và trí. Như vậy th́ kẻ chẳng tŕ giới và kẻ phạm giới sẽ hướng đến giới pháp, chẳng sanh ḷng sợ hăi đối với giới pháp. Rất nhiều người tŕ giới khiến cho kẻ khác sanh khởi sợ hăi. Như thế th́ chẳng phải là Thi La Ba La Mật, chẳng thể thành tựu Thi La Ba La Mật thiện xảo. Do vậy, hễ thường đấu tranh, sẽ chẳng thể thành tựu Nhẫn Ba La Mật.

          Trong các đối pháp ở đây, chúng ta có thể quán chiếu tâm trí của chính ḿnh mười phần rơ ràng. Hiện thời, có người nói chính ḿnh có bản lănh to nhiều, nhưng thường thích tranh đấu, chẳng có ǵ vẫn bới ra chuyện để tranh chấp, vô duyên cớ bới ra chuyện. Tôi cảm thấy mọi người phải nên ngăn trở hạng người ấy, hoặc là xa ĺa sự tướng, hoặc là khuyến hóa hạng người đó đừng ham sanh sự, v́ ham thích sanh sự là khổ nạn. Đối với kẻ ham thích sanh sự, mọi người phải tận lực giúp đỡ kẻ đó, tập thể giúp đỡ, tập thể quan tâm, yêu mến kẻ đó. Khi kẻ đó sanh sự, lập tức dẹp yên, đừng để cho các chuyện ấy lan truyền, v́ truyền bá các chuyện ấy sẽ rất khổ; nhất là khi truyền bá càng nhiều, càng mạnh mẽ, sẽ thương tổn cả ḿnh lẫn người. V́ thế, “vốn vô sự” chính là sự an trụ thanh tịnh trong Phật pháp. “Vốn nhàn” là sự an trụ chân thật trong Phật pháp. Như vậy th́ mới có thể lợi ích rộng khắp hữu t́nh, hiệp trợ đạo tràng, thành tựu đạo nghiệp. Nếu trong tâm tưng bừng nhốn nháo, náo nhiệt, chẳng có chuyện ǵ cứ bới ra chuyện. Hễ có chuyện bèn làm lớn chuyện, khiến cho mọi người bất an. Đối với người như thế, mọi người hăy nên tôn trọng, yêu mến, che chở, giúp đỡ kẻ đó, bất luận là ai. V́ chuyện như thế nếu quá nhiều, mọi người sẽ chịu chẳng nổi!

          Đối với bậc trí, có thể ngay lập tức xử lư thị phi. V́ sao? Do tâm trí của bậc trí vô nhiễm. Đối với chuyện đúng hay sai, chúng ta dựa theo sự tướng để xử lư là được rồi. Xử lư như thế nào? Chúng ta khiến cho hữu sự trở thành vô sự là được rồi, chẳng c̣n so đo chuyện ấy, chớ nên tranh chấp chuyện ấy! Chẳng tranh chấp, nhưng cần phải điều chỉnh. Có người biện giải nói chính ḿnh chẳng có chuyện ấy. Đó là do chẳng tự xét ḿnh, chẳng sanh khởi tâm thương xót chúng sanh. Đối với chúng sanh gây chuyện, chúng ta đều phải nên thương xót. Ai gây chuyện, mọi người đều nên thương xót kẻ đó. Do kẻ đó ngu si, điên đảo, do tâm trí tối tăm, mê muội. Tối thiểu là kẻ đó chẳng từ bi đối với chính ḿnh, chẳng từ bi đối với người khác. Vậy th́ mọi người chúng ta đều phải nên từ bi đối với kẻ như thế, thương xót kẻ như thế, thông cảm với kẻ như thế, ban cho kẻ đó một không gian rộng lớn, bảo kẻ đó thật sự là chẳng có chuyện ǵ. Cái tâm [khoan dung] ấy sẽ khiến cho sự nóng nảy, bực bội của mọi người sẽ lắng xuống; nhưng nếu quư vị tranh biện với kẻ đó, sẽ đúng là chẳng có trí, mà cũng chẳng có bi. Như thế sẽ khiến cho một cuộc tranh căi mới nổ ra! V́ thế, nếu đă có chuyện, mọi người lập tức xử lư, chẳng cần biện bác! Hễ cần điều chỉnh liền điều chỉnh. Điều chỉnh như thế nào? Để cho người có chuyện sẽ nêu ra, chúng ta sẽ điều chỉnh. Quư vị chẳng cần biện bác, bào chữa chính ḿnh chẳng có chuyện ấy. Nếu biện bác, sẽ sanh ra đấu tranh, như thế th́ mọi người cư xử với nhau sẽ mười phần gian nan. V́ thế, người trí chẳng biện bác. Do người trí vô nhiễm, cho nên chẳng dây dưa ở chỗ này.

          Vẫn hy vọng mọi người thật sự thành tựu đạo nghiệp, chẳng phải là thành tựu ai lớn, ai nhỏ, ai đúng, ai sai, ai mạnh, ai yếu”. [Tranh biện] kiểu đó vô ích, chẳng phải là Phật pháp. Do vậy, khi có đấu tranh thị phi, mọi người hăy cùng nhau yêu thương, che chở kẻ gây thị phi, mỗi người tạo cho kẻ ấy đôi chút cảm giác không thị phi là được rồi. Kẻ đó có thị phi, quư vị chẳng có thị phi là được rồi. Quư vị chẳng chấp trước vào đó, chuyện sẽ qua! Nếu thật sự cần phải giải quyết, vậy th́ giải quyết là xong. Chúng ta học Phật, nhất định phải khéo quan sát, khéo nhận biết, khéo thành tựu!

 

          (Kinh) Bất khả dĩ thường hành ác nghiệp nhi đắc thiện quả.

          ()不可以常行惡業而得善果。

          (Kinh: Chẳng thể do thường tạo ác nghiệp mà đạt được thiện quả).

 

          Kẻ chuộng thị phi là kẻ hành ác nghiệp, v́ nhiều thị phi th́ sẽ bị xâm hại nhiều. Nếu tâm trí thanh nhàn, xa ĺa thiện ác, sẽ là tướng giải thoát. Nếu tưởng thường làm việc thiện pháp, th́ là lạc tướng. Nếu thường từ bi lợi ích rộng khắp hữu t́nh, dẹp khổ, ban vui, tức là tướng từ bi. Nếu chẳng nhiễm, chẳng chấp trước, th́ là tướng trí huệ. Chúng ta dùng tướng ǵ vậy? Nếu chuộng đấu tranh, khiến cho người khác sợ hăi, khiến cho tâm người khác bất an, đấy thật sự là tướng ngu si, tướng ác nghiệp. Kẻ đó sắp bị rơi xuống giếng, mọi người hăy cấp tốc ch́a tay giúp đỡ. Hăy nên giúp đỡ người như thế, chớ nên tranh luận với họ!

 

          (Kinh) Bất khả dĩ Thanh Văn thừa nhân nhi chứng Bồ Tát Niệm Phật tam-muội.

          ()不可以聲聞乘人而證菩薩念佛三昧

          (Kinh: Người thuộc Thanh Văn Thừa chẳng thể chứng Bồ Tát Niệm Phật tam-muội).

 

          Hữu t́nh thuộc Thanh Văn Thừa chẳng thể thấy pháp tánh và Phật tánh, chỉ tùy thuận tịch diệt, chẳng hiểu rơ Phật tánh. Nếu thấu đạt Phật tánh, sẽ tiến nhập tâm trí rộng lớn của giáo ngôn Đại Thừa. Đó là sự sai biệt thuộc về cơ chế ngôn giáo.

 

          (Kinh) Diệc bất khả đắc chư Bồ Tát nhẫn.

          ()亦不可得諸菩薩忍。

          (Kinh: Cũng chẳng thể đắc các môn nhẫn của Bồ Tát).

 

          Nếu chúng ta vẫn ch́m đắm trong thị phi, vẫn tranh chấp thiện ác, sẽ ĺa khỏi Phật pháp quá ư là xa! Do vậy, chúng ta chớ nên đưa Phật pháp lên cao chót vót rồi chẳng dùng đến. Nếu như vậy, rất đáng tiếc. Chúng ta phải vận dụng Phật pháp vào tâm trí, sanh mạng, và nghiệp duyên của chính ḿnh. Nghiệp phiền năo đưa đến, vừa khéo vận dụng Phật pháp. Hữu t́nh gặp phải khổ năo đưa đến, vừa khéo vận dụng Phật pháp. Có kẻ nói chuyện thị phi, vừa khéo vận dụng Phật pháp, chẳng nhiễm, chẳng chấp trước. Nếu đối phương cưỡng chấp, ắt thương xót hồi thí, hăy nên dẹp trừ, cứu vớt sự khổ ấy, khiến cho kẻ đó an vui. Kẻ nói thị phi quá khổ, kẻ tạo thị phi càng khổ hơn. Kẻ cưỡng chấp thị phi, truyền đạt thị phi, chính là bị Khổ Khổ bức bách! Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta thấy rơ mà cũng cảm nhận rơ rệt chuyện này. Khi mọi người cộng trụ (cùng ở chung một chỗ), nếu ai nấy đều tiêu trừ thị phi, ai nấy đều tiêu trừ đắm nhiễm, mọi người đều là đạo hữu. Nếu ai nấy tranh nhau nói thị phi, nói thiện, nói ác, mày, tao, người nọ, kẻ khác, như thế th́ chắc chắn sẽ xảy ra vấn đề. Vấn đề ǵ vậy? [Chỗ cộng trụ của] mọi người chẳng phải là đạo tràng, mà là đấu tranh tràng, xa ĺa Phật pháp, chẳng mảy may liên quan đến Phật pháp. Chúng ta tiêu diệt Phật pháp, hay kiến lập lợi ích của Phật pháp? Hăy khéo tư duy, khéo quan sát chỗ này.

          “Bồ Tát nhẫn” là lúc nghịch hại bèn lợi ích rộng khắp hữu t́nh. Chúng ta đọc câu chuyện của vua Ca Lợi, trong lúc tu nhân, đức Thế Tôn đă bị vua Ca Lợi cắt đứt chân tay. Đức Thế Tôn bảo nhà vua: “Sau khi ta chứng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, sẽ độ ngươi đầu tiên”. Đó chính chư Phật, Bồ Tát hành nhẫn vậy!

 

          (Kinh) Diệc bất khả dĩ tật đố thủ trước nhi đắc Không tam-muội.

          ()亦不可以嫉妒取著而得空三昧。

          (Kinh: Cũng chẳng thể do ghen ghét, chấp trước mà đắc Không tam-muội được).

 

          Tức là giải thoát tam-muội của ba môn tam-muội Không, Vô Tướng, Vô Nguyện. Hoặc dùng Không tam-muội, hoặc dùng Vô Tướng tam-muội, hoặc dùng Vô Nguyện tam-muội mà đạt được ba môn giải thoát. Nói “giải thoát” tức là công đức chân thật, chẳng đắm nhiễm, chẳng chấp trước, chẳng vướng mắc. Có thể hành tam-muội như thế hay không? Thường tư duy, chánh quan sát, thuận theo pháp tánh để quan sát, sẽ đạt được sức tam-muội ấy!

 

          (Kinh) Diệc bất khả dĩ hành ái dục nhi nhập Xa-ma-tha.

          ()亦不可以行愛慾而入奢摩他。

          (Kinh: Cũng chẳng thể do hành ái dục mà nhập Chỉ).

 

          Tức là chẳng thể thành tựu Chỉ Quán, trong cách nói của Đại Thừa bèn tuyên nói như thế. Nói “ái dục” tức là tri kiến, tri kiến điên đảo của chúng sanh, sanh khởi từ tâm trí thiếu sót, là sự đắm nhiễm kéo dài. “Chỉ” là Chỉ trong “chỉ ác dương thiện” (止惡揚善, dứt điều ác, tuyên dương điều thiện), tự nhiên thành tựu Tỳ-bà-xá-na chẳng thể nghĩ bàn, tức pháp tắc thuộc về trí huệ hạnh và trí huệ quán. Do Chỉ Quán mà có thể nhập trí quán, khiến cho mọi người sanh chánh kiến, chánh niệm, đạt được tâm trí trí huệ.

 

          (Kinh) Diệc bất khả dĩ giải đăi, lăn nọa, chứng chư thánh đạo.

          ()亦不可以懈怠懶惰證諸聖道。

          (Kinh: Cũng chẳng thể dùng giải đăi, lười nhác để chứng các thánh đạo).

 

          Đây là lời dạy mười phần đơn giản, rơ ràng. Từ lời dạy đối pháp này, chúng ta có thể khéo ấn khế tự tâm, trọn chẳng thể dùng tri kiến tự đại, tự phụ để ấn khế tự tâm. Đó là chẳng tương ứng.

 

          (Kinh) Năi chí bất khả dĩ bất xả dị niệm chư vật, nhi năng thành tựu tư duy dă.

          ()乃至不可以不捨異念諸物而能成就思惟也。

          (Kinh: Cho đến chẳng thể do không xả ư niệm khác về các vật mà có thể thành tựu tư duy được).

 

          Sự tư duy này là chánh tư duy. Nếu chẳng tùy thuận tri kiến của Như Lai để chánh tư duy, tri kiến mà chúng ta nương vào đều là tư duy bất chánh! Nếu là tư duy bất chánh, sẽ tạo thành cái gọi là “tà kiến vọng tưởng”. Nếu chánh tư duy, chánh ngữ tất nhiên hiện tiền, chánh nghiệp chánh mạng tất nhiên thành tựu. Do sanh ra chánh niệm, sẽ có chánh định và chánh trí. V́ thế, tự nhiên thông suốt Bát Chánh Đạo, một mực thủ hộ.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thị cố, ngă kim dĩ thử tam-muội, phó chúc thế gian chư thiên vương bối, thọ tŕ, thủ hộ, diệc phó ư nhữ, đương lai tuyên bố, vật linh đoạn tuyệt.

          ()賢護。是故我今以此三昧。付囑世間諸天王輩。受持守護。亦付於汝。當來宣佈。勿令斷絕。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! V́ thế, ta nay đem tam-muội này phó chúc cho các vị thiên vương trong thế gian thọ tŕ, thủ hộ, cũng giao phó cho ông tuyên diễn, lưu truyền trong tương lai, đừng để đoạn tuyệt).

 

          Ở đây, đức Thế Tôn căn dặn các vị thiên vương. Đối với đạo tràng Ban Châu này, rất nhiều vị có Thiền Định thường quán nơi này, yêu mến, bảo vệ nơi này. Mọi người tự giác hoặc không tự giác từ các nơi trên toàn quốc gạt bỏ mọi việc, buông xuống thân t́nh để đến đạo tràng này, cũng phần nhiều là được các vị thiên thần, long thiên hộ pháp, thiện tri thức gia tŕ, mới có sức đến đây. Nếu chỉ dựa vào nghiệp duyên của chính ḿnh, chắc là người t́m đến rất thưa thớt! Đây là nói như thật. Nếu quư vị cho rằng [nói như vậy] là khoa trương, th́ đó là khoa trương. Nếu chẳng cho đó là khoa trương, tức là quư vị có thiện căn.

          Đức Thế Tôn căn dặn các vị thiên vương, v́ so với các hữu t́nh trong thế tục, so với các loại phàm phu hữu t́nh, thiên vương vẫn có oai đức hơn. Chư thiên hộ pháp muốn ảnh hưởng đến huyễn mộng của nhân loại, cho đến tạo nghiệp hết sức thiện xảo, đối với họ, [thực hiện các điều đó] rất đơn giản. V́ thế, trong quá khứ có Lục Niệm, tức “niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Huệ, niệm Tử, niệm Thiên”. Người tại gia đều niệm phước đức của chư thiên, v́ sao? V́ loại thiên chúng ấy phần nhiều được bậc Thập Địa Bồ Tát thủ hộ, ứng hóa trong thế gian, chư Phật phần nhiều giao phó [việc hộ pháp] cho họ.

          “Chúc lụy” (囑累) chính là căn dặn, truyền đạt, giao phó quư vị: Quư vị phải thủ hộ khiến cho pháp tắc này tiếp tục tồn tại. Ở đây, đức Thế Tôn một là căn dặn Hiền Hộ Bồ Tát truyền đạt pháp tắc này, khiến cho nó được tồn tại lâu dài. Hiền Hộ Bồ Tát là vị đứng đầu truyền đạt giáo ngôn này trong năm trăm vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cũng như là Thượng Thủ của mười sáu vị Chánh Sĩ, tám vị Đại Sĩ. V́ thế, đức Phật căn dặn vị này (Hiền Hộ Bồ Tát), thay v́ căn dặn năm trăm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di hoằng truyền pháp này, mà cũng là căn dặn tám vị Đại Sĩ, mà cũng là căn dặn mười sáu vị Chánh Sĩ. Hơn nữa, đức Thế Tôn minh xác căn dặn các vị thiên vương, họ cũng là người đại diện. Đức Thế Tôn dùng chư thiên để đại diện thiên long bát bộ, cho đến hàng nhân phi nhân, khiến cho họ thủ hộ rộng lớn.

 

          (Kinh) Ư thị, Thế Tôn thuyết tư pháp thời, hữu bát na-do-tha Dục Sắc Giới chư thiên tử, giai phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm.

          ()於是世尊說斯法時。有八那由他欲色界諸天子。皆發阿耨多羅三藐三菩提心。

          (Kinh: Ngay lúc đó, khi đức Thế Tôn nói pháp ấy, có tám na-do-tha các vị thiên tử trong Dục Giới và Sắc Giới đều phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm).

 

           Đối tượng để tuyên nói trong kinh Đại Tập là hai cơi Dục Giới và Sắc Giới, chẳng tuyên nói trong Vô Sắc Giới. Đại Tập bao gồm hai ư:

          - Một là chỉ hữu t́nh trong hai cơi Sắc Giới và Dục Giới, tuyên nói trong hàng trời, người.

          - Một ư nghĩa khác là nói đến chuyện mọi người tu tập nghe pháp, như đă trần thuật trong Tự Phần của kinh này: Chư thiên, các vị thánh nhân, các tỳ-kheo, các vị trưởng giả, con của các vị trưởng giả, quốc vương, chủng tánh Bà La Môn, chủng tánh Sát-đế-lợi, nhân phi nhân v.v… Các loại chúng sanh tập hợp tại Trúc Lâm Tinh Xá, nghe đức Thế Tôn tuyên nói giáo ngôn rất sâu này, dự vào chỗ tụ tập to lớn này.

          Hai ư nghĩa của Đại Tập được nêu rơ ở đây!

 

          (Kinh) Phục hữu vô lượng bách thiên nhân, diệc phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm. Nhiên nhi tư bối, giai ư vị lai quá Hằng sa kiếp, tận đắc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, giai đồng nhất hiệu, danh Chánh Giải Thoát Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, trụ thế giáo hóa, thọ mạng diệc đẳng.

          ()復有無量百千人。亦發阿耨多羅三藐三菩提心。然而斯輩。皆於未來過恆沙劫。盡得成就阿耨多羅三藐三菩提。皆同一號。名正解脫如來應供等正覺。住世教化。壽命亦等。

          (Kinh: Lại có vô lượng trăm ngàn người cũng phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nhưng những người ấy, trong vị lai, qua khỏi Hằng sa kiếp, trọn hết đều được thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đều có cùng một hiệu là Chánh Giải Thoát Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, trụ thế, giáo hóa, thọ mạng cũng như nhau).

 

          Giống như trong kinh Vô Lượng Thọ đă thọ kư danh hiệu Diệu Âm Như Lai. Người niệm Phật, người tu tŕ pháp tắc rộng lớn này, luôn cùng một ngàn vị Phật chẳng hề trở ngại lẫn nhau, ai nấy đều thành Phật, lợi ích hữu t́nh rộng khắp. Sự giáo hóa và lợi ích của các Ngài thật sự là như thế, giống như huấn luyện tập thể, chẳng ảnh hưởng tới chuyện quư vị thành Phật. Nếu quư vị nói: “Mọi người đều đă thành Phật, tôi chẳng thành Phật”, đó là nghiệp ngu si, tâm ngu si, hạnh điên đảo. Dẫu cho vô lượng chúng sanh thành Phật, ta vẫn thành Phật. V́ sao? V́ đấy là pháp tắc bản chất, chẳng phải là nghiệp duyên hư vọng.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Dĩ tư sơ phát Bồ Đề tâm cố.

          ()賢護。以斯初發菩提心故。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Do những người ấy mới phát Bồ Đề tâm).

 

          “Tư sơ phát Bồ Đề tâm” (những người đó mới phát Bồ Đề tâm). V́ sao? V́ gặp pháp này và giáo ngôn này. Nay chúng ta cũng gặp đức Thế Tôn nói pháp như thế, giáo ngôn như thế, chúng ta có phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề hay không? Phần văn tự sau đó đúng là đă khích lệ chúng ta cũng phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm, cũng tức là cái tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, xa ĺa siểm khúc, xa ĺa tri kiến đối đăi tự tha, xa ĺa thương tổn. Người học Phật nhất định chớ nên thương tổn chính ḿnh. Nói “gạt bỏ tự ngă” chẳng phải là tự hại. Nếu cưỡng chấp tự ngă, cho là có ngă, nhất định sẽ tự tàn hại chính ḿnh, hoặc bị hại v́ thiện pháp, hoặc do v́ [chấp trước] nặng nề mà bị hại, hoặc bị ác pháp hại, các thứ nguy hại đều gây nguy hại cho chính ḿnh.

          Chư vị thiện tri thức hăy khéo học Phật pháp, xa ĺa cái gọi là “tổn hại tự ngă”, tức cưỡng chấp tự ngă. Hai gánh nặng của chúng ta, một là gánh nặng trân bảo, tức là quư vị tự cho rằng chính ḿnh luôn đúng. Thứ kia là gánh nặng rác rưởi, tức quư vị cho rằng người khác đều sai be bét. Hai gánh nặng ấy sẽ đè chết người. Xưa kia, người Hoa có nói: “Thôi phiên liễu tam ṭa đại sơn” (xô đổ kềnh ba quả núi lớn). Trên thực tế, nay thân chúng ta bị đè bởi hai quả núi:

          - Một là những thứ trân bảo do chính ḿnh thâu thập, chẳng hạn trân bảo “ngỡ chính ḿnh là đúng”, trân bảo chánh kiến, trân bảo “ngỡ là có sở đắc”, chẳng phải là những thứ tốt đẹp, quư vị tuyệt đối chẳng thâu thập. Các thứ trân bảo ấy là một quả núi to, ở bên vai trái của quư vị.

          - Thứ kia là những điều xấu xa của kẻ khác: Người khác ác, người khác đúng, người khác sai, không ngừng thâu gom. Sau đấy, đúng là hai vai mỗi bên đều nặng trĩu, chẳng biết nó sẽ đè sụm chính ḿnh hay không? Quư vị gồng gánh lâu ngày, khi sụm xuống sẽ khổ lắm!

          Tác phẩm Phù Bản Truyện (蜉蝂傳) của Liễu Tông Nguyên[4] nhằm khen ngợi, ca tụng loại người ấy, nhưng người như thế ở quanh ta quá nhiều, chính là “hễ gặp vật ǵ bèn c̣ng lưng cơng”. Gặp thứ ǵ cũng đều tự ḿnh bắt lấy, để làm ǵ? Vác nặng mà đi, trọn chẳng vứt bỏ, bị đè sụm mới thôi! Sau đó trèo lên cao, để làm ǵ? Ngă chết mới thôi! Người học Phật kiểu đó đúng là đáng thương. V́ thế, “người ấy mang tiếng là danh nhân, thật ra là tiểu trùng mà thôi!” Mọi người hăy đọc [tác phẩm ấy], hăy nên tự răn nhắc chính ḿnh. Nếu chúng ta nay thật sự do nhân duyên này mà phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm, sẽ xa ĺa hết thảy các chuyện trái lương tâm, tức là chuyện nguy hại cho tự ngă, bỏ ĺa Ngă Chấp, tức t́nh kiến của chúng sanh, cũng chính là “Phú-già-la kiến” đă nói trong phần trước. Cái chúng sanh kiến này chính là vấn đề đầu tiên phải giải quyết trong Phật pháp, nhưng đối với khá nhiều hữu t́nh chẳng có tri kiến chánh đáng, đó là chướng ngại đầu tiên: “Chỉ có ta đúng, kẻ khác sai bét”, chẳng có lời thứ hai nào! Tất cả hành pháp đều vây quanh hai chữ “đúng, sai”, một đằng là ta, đằng kia là kẻ khác. Ta đúng, kẻ khác sai. Hai thứ đối ứng ấy chẳng hề ĺa bỏ, quá nặng nề! Tôi cảm thấy mọi người hăy nên che chở người như vậy, mạnh mẽ che chở. V́ sao? Người như vậy quá khổ, tạo nghiệp vô lượng, chẳng thể tu tập Phật pháp, lại c̣n chẳng thể phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm, đáng tiếc! Ở đây, kinh văn cổ vũ chúng ta phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm.

 

          (Kinh) Thượng đắc như thị vô lượng công đức, cụ túc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Huống phục ngă tích hành Bồ Đề thời, cúng dường ngă giả, bỉ ninh bất tốc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề dă.

          ()尚得如是無量功德。具足成就阿耨多羅三藐三菩提。況復我昔行菩提時。供養我者。彼寧不速成就阿耨多羅三藐三菩提也。

          (Kinh: C̣n đạt được vô lượng công đức như thế, thành tựu đầy đủ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Huống hồ những người trong khi ta hành Bồ Đề xưa kia, đă từng cúng dường ta, há họ chẳng nhanh chóng thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ư?)

 

          Nếu trong quá khứ có thiện căn, gặp được giáo ngôn như vậy, chỉ là Sơ Phát Tâm Bồ Đề mà có thể đạt được cái quả như thế. Huống hồ những người đă từng cúng dường đức Thế Tôn khi Ngài ứng thế? Do thiện căn rộng lớn ấy, quyết định xa ĺa khổ nạn, xa ĺa điên đảo, xa ĺa tự hại và hại người khác, phát tâm Bồ Đề thanh tịnh, chính là tâm Bồ Đề vô nhiễm, Thắng Nghĩa Đế Bồ Đề tâm, chẳng tạo tác Bồ Đề tâm. Nếu là tạo tác Bồ Đề tâm, sẽ thệ nguyện lợi ích hữu t́nh rộng lớn, chẳng nhiễm, chẳng chấp trước. Đó là lập thệ nguyện rộng lớn trong tạo tác Bồ Đề tâm phần, đại thệ nguyện ǵ vậy? “Chúng sanh độ hết, mới thành Phật đạo. Chúng sanh văng sanh, ta thành Bồ Đề”. Đấy là thật sự lấy Phật nguyện làm nguyện của chính ḿnh, phát thệ nguyện rộng lớn, yêu mến thế gian. Nếu nương theo nguyện như vậy, chúng ta có phiền năo ǵ? Có thị phi ǵ? Có thống khổ ǵ? Có ǵ chẳng thể chịu đựng? Quư vị có thể khéo quan sát, khéo tư duy.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh, văn thuyết thử pháp, đắc tịnh trí nhăn.

          ()賢護。復有無量無邊衆生。聞說此法得淨智眼。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Lại có vô lượng vô biên chúng sanh, nghe nói pháp này, bèn đạt được pháp nhăn thanh tịnh).

 

          “Đắc tịnh trí nhăn” tức là đạt được Pháp Nhăn tịnh, mở bừng con mắt thanh tịnh, sạch làu chẳng có một vật nào để có thể thành, chẳng có một pháp nào để có thể đạt được. V́ thế, đối với người tâm trí an lạc, đối với tất cả các vật trông thấy, đều chẳng sanh phiền năo. Tất cả đố kỵ, phiền năo, thị phi, nhân ngă lập tức tiêu tan trong trí nhăn thanh tịnh. V́ tâm chẳng thanh tịnh, mắt chẳng thanh tịnh, sự tướng cũng chẳng thanh tịnh. Do tâm chẳng thanh tịnh, mắt thanh tịnh, y phục thanh tịnh, các nhân duyên chung quanh an lạc thanh tịnh.

          Chư vị thiện tri thức! Chúng ta tới đây, khẳng định là để học Phật pháp, tu tập Phật pháp, thành tựu Bồ Đề, tự lợi lẫn lợi tha, nhất định phải nhận rơ mục tiêu này. Nếu chẳng nhận rơ, sẽ bị khá nhiều ác duyên nghiệp tập của chính ḿnh xâm hại đạo tràng. V́ thế, chúng ta ngàn dặm xa vời vợi, muôn dặm thăm thẳm đến nơi đây, phải nên phát khởi sự thủ hộ thanh tịnh đối với đạo nghiệp, tu tập thanh tịnh, phát nguyện thanh tịnh để thủ hộ đạo tràng, yêu mến đạo tràng. Đừng gieo quả báo xấu ác phá diệt đạo tràng. Rất nhiều kẻ chẳng biết, lầm tưởng là đúng. Quả báo ấy rất thê thảm. V́ thế, các vị thiện tri thức ơi! Yêu mến và bảo vệ đạo tràng rất trọng yếu, thủ hộ đạo tràng rất trọng yếu, có thể đạt được thiện xảo thanh tịnh nơi đạo nghiệp. Do vậy, rất là trọng yếu.

 

          (Kinh) Phục hữu bát bách chư tỳ-kheo đẳng, ư chư lậu trung, tâm đắc giải thoát.

          ()復有八百諸比丘等。於諸漏中心得解脫。
          (Kinh: Lại có tám trăm vị tỳ-kheo, đối với các lậu, tâm được giải thoát).

 

          Tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng, cho đến các Tùy phiền năo của chúng ta, đều là nghiệp tướng hữu lậu, là tâm trí đối đăi, đều là hữu lậu trong tâm trí sanh diệt! Thuở đức Thế Tôn tại thế, các phàm phu hữu t́nh nơi nơi cũng đều là như thế, nhưng khi nghe chánh pháp, họ sẽ thuận theo pháp mà hành, thuận theo pháp mà tư duy, thuận theo pháp mà tu tŕ, thuận theo pháp mà chứng đạo, thành tựu Bồ Đề. Khi nghe pháp, chúng ta phải nên quan sát như thế nào? Tư duy như thế nào? Hành tŕ như thế nào? Vẫn cần mọi người phải xét kỹ từ chánh diện.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Thùy đương thọ tŕ thử tam-muội, bỉ ư phước tụ bất khả lượng.

          ()爾時世尊爲重明此義。而說偈言。誰當受持此三昧。彼於福聚不可量。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn v́ nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Ai sẽ thọ tŕ tam-muội này, người ấy khối phước chẳng thể lường).

 

          Thật sự khích lệ chúng ta: “Thùy đương thọ tŕ thử tam-muội” (ai sẽ thọ tŕ tam-muội này), khẳng định là đại chúng hiện tiền! Người sẽ phát, đă phát, hăy nên phát nguyện, hăy nên thủ hộ như thế, hăy nên tu tập như thế.

          “Bỉ ư phước tụ bất khả lượng” (người ấy khối phước chẳng thể lường): Chẳng phải là đức Thế Tôn dùng khối phước để dụ chúng ta tiến nhập pháp tắc, mà thật sự là phước đức và nhân duyên như thế, quả thật là công đức và lợi ích chân thật. Quư vị có thể tu tập, có thể quan sát, có thể thủ hộ.

 

          (Kinh) Tư đẳng giới hạnh vô trần cấu, bổn tâm thanh tịnh do như kính.

          ()斯等戒行無塵垢。本心清淨猶如鏡。

          (Kinh: Bọn họ giới hạnh chẳng trần cấu, bổn tâm thanh tịnh ví như gương).

 

          Do bổn tâm thanh tịnh, có thể tŕ các giới hạnh. Do có thể tŕ các giới hạnh, bổn tâm thanh tịnh. V́ sao? Do pháp tương ứng.

 

          (Kinh) Thùy đương thọ tŕ thị tam-muội, đa văn thâm quảng vô biên nhai.

          ()誰當受持是三昧。多聞深廣無邊崖。

          (Kinh: Ai sẽ thọ tŕ tam-muội này, đa văn sâu rộng không ngằn mé).

 

          Ai thọ tŕ th́ người ấy đạt được lợi ích. Đức Thế Tôn nói như thật như thế, trực tiếp thúc đẩy chúng ta tiến nhập lợi ích của pháp tắc này.

 

          (Kinh) Trí huệ tự nhiên vô khuyết giảm, công đức thịnh măn nhược minh nguyệt.

          ()智慧自然無缺減。功德盛滿若明月。

          (Kinh: Trí huệ tương ứng chẳng khuyết giảm, công đức tràn đầy như trăng sáng).

 

          Đây là đối trước người thọ tŕ tam-muội mà trực tiếp tán thán, hứa khả, và ấn khế lợi ích của nó.

 

          (Kinh) Thùy đương thọ tŕ thị tam-muội, đắc đổ chư Phật bất tư nghị. Trí huệ quán sát hy hữu pháp, bất tư nghị nhân giai thủ hộ.

          ()誰當受持是三昧。得睹諸佛不思議。智慧觀察希有法。不思議人皆守護。
          (Kinh: Ai sẽ thọ tŕ tam-muội này, được thấy chư Phật chẳng nghĩ bàn. Trí huệ quan sát pháp hy hữu, người chẳng nghĩ bàn đều thủ hộ).

 

          “Bất tư nghị nhân giai thủ hộ” (người chẳng nghĩ bàn đều thủ hộ): Nói đến “tư nghị”, con người phần nhiều là nghĩ bàn tà kiến, nghĩ bàn ác kiến, tức là nghĩ bàn do cưỡng chấp Ngă. Nghĩ bàn cưỡng chấp sẽ rất đau khổ. V́ sao? Do chẳng có trí huệ. Dùng cái tâm đắm nhiễm để quan sát, rất đau khổ! Dùng cái tâm thanh tịnh vô nhiễm để quan sát, người ấy sẽ được giải thoát, trụ trong an lạc. “Trí huệ quán sát hy hữu pháp” (dùng trí huệ quan sát pháp hiếm có): Tức là quan sát thanh tịnh, chẳng nhiễm, chẳng chấp trước, quan sát rộng lớn chẳng nhiễm, chẳng chấp trước, quan sát rốt ráo chẳng nhiễm, chẳng chấp trước. Do đó, “trí huệ quán sát hy hữu pháp, bất tư nghị nhân giai thủ hộ” (trí huệ quan sát pháp hiếm có, người chẳng nghĩ bàn đều thủ hộ): Trí huệ vốn chẳng suy nghĩ, bàn luận pháp chẳng nghĩ bàn, nhưng do tập quán tư duy hư vọng của chúng sanh, đức Thế Tôn mới nói trí bất tư nghị, nói ra pháp tắc bất tư nghị, nói thiện xảo bất tư nghị, khiến cho chúng sanh tùy thuận tiến nhập.

 

          (Kinh) Thùy thường thọ tŕ thử tam-muội, tằng kiến vô lượng chư Thế Tôn.

          ()誰常受持此三昧。曾見無量諸世尊。

          (Kinh: Ai từng thọ tŕ tam-muội này, từng thấy vô lượng các Thế Tôn).

 

          Đức Thế Tôn không ngừng nêu ra “ai thường thọ tŕ tam-muội này”, chính là không ngừng nhắc nhở chúng ta. “Tằng kiến vô lượng chư Thế Tôn” (từng thấy vô lượng các Thế Tôn): Đây cũng là thọ kư. Nếu là người thọ tŕ tam-muội này, [người ấy đă] từng thấy vô lượng các đức Thế Tôn. Chúng ta gặp gỡ pháp tắc tam-muội như vậy, quả thật có thiện căn đă từng gặp vô lượng chư Phật. Nếu quư vị không tin, có thể đọc lời thọ kư trong kinh điển. Nếu quư vị nói: “Ta chẳng tin lời Phật”, vậy th́ chẳng cần xưng ḿnh là Phật tử nữa, quư vị đang chống trái Phật. Nếu chống trái Phật mà vẫn nói “ta đang học Phật”, sẽ quá đau khổ! Có kẻ không chỉ chống trái Phật, mà c̣n biến đổi Phật, thậm chí toan vượt hơn Phật. Trong giới cư sĩ lẫn người xuất gia, đều có kẻ nói sẽ “vượt xa Phật”. V́ sao? Chẳng lấy giáo ngôn của Phật làm pháp tắc, chỉ do tâm trí cuồng vọng của chính ḿnh mà nói “Phật nói như thế này, Phật nói như thế nọ”, đều là nói cưỡng chấp. Đức Phật nói lời thanh tịnh, lời từ bi, lời phương tiện, lời lợi ích rộng khắp, lời lợi ích chúng sanh, lời khiến cho chúng sanh ĺa khổ, được vui, c̣n loại hữu t́nh ấy (hữu t́nh toan vượt hơn Phật) nói ǵ? Lời điên đảo, lời cuồng vọng, lời tăng thượng mạn, lời khiến cho chúng sanh mê mất và sợ hăi. Loại hữu t́nh ấy tuy nói xoen xoét là học Phật, thật ra chẳng phải là người trong Phật pháp. Chúng ta biết: Người nhập chủng tánh Phật, Tín Nhẫn, Thuận Nhẫn, sẽ cùng lúc được thấy, v́ tôn trọng, yêu thích hữu t́nh, tôn trọng pháp tánh, biết hết thảy chúng sanh vốn là Phật, cho nên có thiện xảo Tín Nhẫn và Thuận Nhẫn. Pháp Tịnh Độ nói về thanh tịnh, b́nh đẳng, nói “hết thảy chúng sanh đều có thể văng sanh”. Chỉ có từ trong Tín Nhẫn và Thuận Nhẫn th́ mới có thể tùy thuận tri kiến như vậy, mới có thể nhập Phật tri kiến, mới có thể vào biển thệ nguyện của Phật. Nếu không, quư vị sẽ đi ngược đường, sẽ đề ra tà kiến “người ta có thể văng sanh bằng cách nào” như thế đó. V́ sao? Quư vị chẳng tin “hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh”. Lại càng chẳng tin “hết thảy chúng sanh vốn sẵn là Phật”, lại càng chẳng tin đại nguyện nghiệp lực của A Di Đà Phật thâu nhiếp trọn khắp mười phương chẳng vướng mắc, chẳng trở ngại, lại càng chẳng tin Phật là đấng Vô Úy Thí, là đấng phương tiện thí, là đấng bố thí rốt ráo, là đấng thí sự chọn lựa, là đấng thí lợi ích thanh tịnh. Người như vậy sẽ chẳng đạt được lợi ích nơi Phật pháp.

 

          (Kinh) Bỉ Phật thuyết pháp nan xưng lượng, giai đương phụng thừa tu cúng dường.

          ()彼佛說法難稱量。皆當奉承修供養。

          (Kinh: Phật thuyết pháp khó thể tính kể, đều nên phụng sự và cúng dường).

 

          Nếu chúng ta thật sự muốn cúng dường Phật pháp, hăy nên cung kính đảnh lễ đức Thế Tôn, cung kính Phật pháp, tu tập Phật pháp, thủ hộ Chân Như. V́ thế, nơi sự tướng, thường lễ kính chư Phật, dùng hoa tươi, đèn, đuốc, thức ăn ngon lành, và các thứ trân bảo để cúng dường, yêu mến, thủ hộ, tán thán không ngớt. Trong tâm trí, thủ hộ y hệt, chẳng có đối đăi, tôn trọng hết thảy hữu t́nh dường như chư Phật Thế Tôn. Đấy có phải là điểm chú trọng chủ chốt hay không? Bản thân chúng ta hăy xét kỹ tự tâm, quan sát pháp tắc được thủ hộ.

 

          (Kinh) Thùy năng thọ tŕ thử tam-muội, bỉ vi thế gian tác đăng quang.

          ()誰能受持此三昧。彼爲世間作燈光。

          (Kinh: Ai hay thọ tŕ tam-muội này, bèn làm đèn sáng cho thế gian).

 

          Chúng ta biết thế gian này đă bị các thứ như tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến che lấp, là thế gian hắc ám. Gọi là “hắc ám” là v́ nếu chúng sanh chẳng xa ĺa loại cát bụi này, sẽ bị khuất lấp. Nếu tâm trí trí huệ sanh khởi, sẽ có thể chiếu soi thế gian, làm ngọn đèn vô tận, từng ngọn đèn tiếp nối nhau, tiếp nối huệ mạng, lợi ích thế gian rộng lớn.

 

          (Kinh) Đại bi như tư bạt chúng sanh, sở hữu Thế Tôn tất cúng dường.

          ()大悲如斯拔衆生。所有世尊悉供養。

          (Kinh: Đại bi như thế cứu chúng sanh, tất cả Thế Tôn đều cúng dường).

 

          Đấy là pháp tắc thủ hộ của mười phương chư Phật. Nếu chúng ta thật sự tu tập pháp tắc này, chư Phật sẽ đều cúng dường quư vị. Nhưng nếu chúng ta muốn tạo thị phi, tranh đấu, dẫu một giọt nước cũng khó tiêu! Trong giáo ngôn, đức Thế Tôn đă dạy: Nếu ai tùy thuận pháp, thủ hộ pháp, tu tập pháp, vàng ṛng dày vạn trượng cũng có thể tiêu! Nếu đối với Phật pháp mà chẳng tu tập, chẳng thủ hộ, chẳng yêu mến, giọt nước cũng khó tiêu, bất luận quư vị là thân phận ǵ. Thân phận chẳng ăn nhập chi cả, pháp ích rất tương ứng. “Sở hữu Thế Tôn tất cúng dường” (Tất cả các đức Thế Tôn đều cúng dường), nhất định đừng nghĩ đây chỉ là một câu nói suông phù phiếm, tôi tin sâu chẳng nghi. Nếu không tin, chúng ta sẽ rất khó hành pháp. Nếu chẳng tin lời dạy của Phật, chúng ta rất khó làm đệ tử của Phật Đà! Bất luận hiện tướng ǵ, nếu chẳng phải là đệ tử của Phật Đà, làm thế nào mới có thể tiêu được thức ăn được cúng thí trong tự viện? Pháp tắc mà chúng ta thủ hộ đều là do phước đức của Phật Đà ban bố. Nếu quư vị nói chính ḿnh giỏi hơn đức Thế Tôn, quư vị hăy nên kiến lập một giáo pháp ngoài giáo pháp của đức Thế Tôn, chẳng thể kiến lập một [thứ dị thuyết] trong giáo pháp của đức Thế Tôn! V́ đức Phật đă giao phó hai mươi năm phước đức cho những người tu tập trong đời Mạt Pháp, đương nhiên Tăng chúng được đức Thế Tôn trân trọng hơn. Sự trân trọng ấy là v́ mong cho Phật pháp trụ thế. Do vậy, [Tăng chúng] là nội quyến thuộc thực thi giáo ngôn. Tuy là như thế, đối với mọi người hành pháp th́ đức Phật đều thật sự yêu thương, che chở y hệt như nhau. Nếu chúng ta chẳng thấy xác thực ở chỗ này, sẽ nẩy sanh cái tâm tăng thượng mạn, đâm ra chẳng thể tương ứng với pháp.

 

          (Kinh) Thùy năng thọ tŕ thử tam-muội, vị lai vô số chư thánh tôn, nhược hữu Bồ Tát dục kiến giả, thanh tịnh tín tâm tu cúng dường.

          ()誰能受持此三昧。未來無數諸聖尊。若有菩薩欲見者。清淨信心修供養。

          (Kinh: Ai hay thọ tŕ tam-muội này, vô số đức thánh đời vị lai, nếu có Bồ Tát muốn gặp gỡ, tín tâm thanh tịnh tu cúng dường).

 

          Bồ Tát, long thiên cũng sẽ đến cúng dường như thế. Trong phần trước, chúng ta đă học điều này. Trong pháp này, nếu có người cầu gặp pháp này, hoặc là người đọc tụng, thọ tŕ kinh điển này, v́ người khác giải nói, hoặc chứng đắc tam-muội này, lợi ích ấy rộng lớn bao trùm các loài nhân phi nhân, quỷ thần. Chư thiên, Bồ Tát, chư Phật Như Lai đều yêu thương, che chở, bảo vệ, nghĩ nhớ, hiện tiền v.v… Cho nên chẳng thể coi thường sự tu tŕ Niệm Phật tam-muội, Ban Châu tam-muội, Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội này. V́ sao? Thật sự thuộc về địa vị Phật, thật sự là Phật tánh, thật sự là pháp tánh, thật sự là Tăng tánh, thật sự là công đức tạng, thật sự là chỗ lợi ích chẳng thể nghĩ bàn!

 

          (Kinh) Thùy năng thọ tŕ thử tam-muội, bỉ thắng đắc lợi nan tư nghị, thiện năng hạ sanh ư nhân gian, thường đắc xuất gia thiện cầu thực.

          ()誰能受持此三昧。彼勝得利難思議。善能下生於人間。常得出家善求食。

          (Kinh: Ai hay thọ tŕ tam-muội này, được lợi thù thắng khó nghĩ bàn, khéo hay hạ sanh trong nhân gian, thường được xuất gia, khéo khất thực).

 

          Trong phần kệ rất ngắn này, đức Thế Tôn dùng câu “thùy năng thọ tŕ thử tam-muội” (ai có thể thọ tŕ tam-muội này) ở tám chỗ; sau đó, trần thuật khá nhiều công đức và lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của tam-muội này. Đấy là Ngài đă cảnh sách hiện tiền đại chúng và các hữu t́nh hữu duyên trong pháp này hăy tới thọ tŕ tam-muội này, tu tập tam-muội này. Tuy đức Thế Tôn đă rát miệng buốt ḷng như thế, chẳng ngừng tỉ mỉ tuyên nói trọn vẹn rộng khắp pháp ích và hành pháp cho chúng ta, nhưng trong tâm linh của chúng ta, có kẻ được kích phát sâu nặng, có kẻ mỏng ít, có kẻ trơ trơ vô cảm, cũng có kẻ lần đầu được nghe, cảm thấy trọn chẳng liên can ǵ đến ḿnh! Tuy là hoàn toàn chẳng liên can, vẫn là chủng tánh Bồ Đề, chân thật chẳng thể nghĩ bàn, hễ thoảng qua tai, vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo. Chư vị thiện tri thức ơi! Quyết định chớ nên bỏ phế ở chỗ này, chớ nên dễ dăi lướt qua. Nếu chúng ta được nghe một lần, hai lần, ba lần, hăy nên thật sự hành tŕ, tu tập nó.

          Có nhiều vị Bồ Tát đă sớm hành tŕ pháp này, cũng có thể là do thiện căn trong quá khứ, ví như Hiền Hộ Bồ Tát, tám vị Đại Sĩ, cho đến năm trăm vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đối trước đức Thế Tôn phát nguyện cho đến hết đời vị lai sẽ truyền bá pháp này, thủ hộ pháp này, tu tập pháp này, cho đến giải nói, giáo hóa hữu t́nh, khiến cho họ thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Cũng có thể là năm trăm vị ấy đang hiện diện nơi đây, ai biết? Phật biết. Ai biết? Người hoằng truyền biết. Ai biết? Nếu là người có tam minh tứ trí sẽ biết. Biết như thế nào? Chẳng mai một, mê muội tâm trí, chẳng xả thệ nguyện mà tiếp tục thực hiện đến tận tương lai. Chúng sanh do nghiệp tận Phần Đoạn Sanh Tử, sanh sanh tử tử, luân hồi chẳng ngơi. Bồ Tát dùng nguyện lực là chỗ nương tựa cho sanh mạng, kéo dài đến vị lai. Do hết thảy chư Phật an trụ trong đại nguyện, thành tựu chân thật, dùng tam-muội-da giới chiếu sáng mười phương, an trụ trên kim cang pháp ṭa, ngự trên Bồ Đề ṭa, lợi ích khắp mười phương mà chẳng ĺa pháp ṭa, đều do nương vào thệ nguyện mà kiến lập. V́ thế, chúng ta tu tập pháp này, nếu chẳng nương vào sức thệ nguyện để thủ hộ tam-muội lực này, hoặc là nếu chẳng thật sự yêu mến pháp tắc này, chúng ta sẽ chẳng thể giống như chư Phật, Bồ Tát lợi ích thế gian rộng khắp, cứu vớt chúng sanh khổ nạn, ban cho chúng sanh an lạc và vui sướng, ban cho chúng sanh phước đức để trang nghiêm. Nếu là một người học Phật như thế, muốn thật sự tương ứng, sẽ rất khó!

 

          (Kinh) Thùy năng hộ tŕ thử tam-muội, bỉ thọ đa phước bất tư nghị. Phục năng trụ tŕ ư tương lai, hoạch tư công đức tối hậu lợi.

          ()誰能護持此三昧彼受多福不思議復能住持於將來獲斯功德最後利

          (Kinh: Ai hay hộ tŕ tam-muội này, sẽ hưởng nhiều phước chẳng nghĩ bàn. Lại hay trụ tŕ trong tương lai, đạt được công đức lợi sau rốt).

 

          Vô thượng đại lợi, lợi ích rốt ráo chính là “tối hậu lợi”. “Phục năng trụ tŕ ư tương lai” (lại có thể trụ tŕ trong tương lai), tức là có thể khiến cho pháp này được tồn tại trong tương lai. Trong phần trước, đức Thế Tôn đă thọ kư, dạy chúng ta: Thuở đức Thế Tôn tại thế, có năm trăm vị [tăng ni, cư sĩ nam nữ], tám đại Chánh Sĩ phát nguyện hoằng truyền pháp này cho đến hết đời vị lai, thành tựu vô lượng vô biên chúng sanh, khiến cho họ đều do pháp tắc này mà đắc bất thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, cho đến có thể thành tựu. Nay chúng ta có hiện duyên này, tối thiểu là đă được nghe lời dạy như thế, giải nói giáo ngôn như thế, trao đổi giáo ngôn như thế, cho đến có nhiều vị thiện tri thức cũng đang tu tập giáo ngôn ấy, thật sự là phước đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn! Tuy là do oai đức của chư Phật gia tŕ khiến cho chúng ta thành thục, đó cũng là do cơ chế thiện căn thành thục, do công đức vốn sẵn có cũng thành tựu chẳng thể nghĩ bàn, cho nên hăy nên tự tôn (tự tôn trọng chân tánh của chính ḿnh, tôn trọng cơ hội trong hiện duyên), tự khéo thủ hộ, đừng v́ tri kiến [nông cạn, chấp trước] mà coi thường, hủy báng! Trong Phật pháp hiện thời, người tự tôn mười phần hiếm hoi! Nếu là kẻ trọn đủ hiện pháp, sẽ là Bồ Tát, sẽ là bậc giác ngộ, là bậc tự giác, giác tha, giác hạnh viên măn, người yêu mến thế gian, là người nhàn tản trong Phật pháp, là người tạo lợi ích trong Phật pháp, là người có thể lựa chọn tự tại nơi quả vị. Loại hữu t́nh như thế tuyệt đối lợi ích thế gian chẳng sợ hăi, rộng hoằng truyền Phật pháp mà chẳng chán ghét.

          Chư Phật Thế Tôn xuất hiện trong cơi đời, chẳng ngoài ư muốn khiến cho chúng sanh phát khởi niềm vui xuất thế rộng lớn thù thắng, như là “pháp lạc”, niềm vui do các Thiền Định, niềm vui từ bi, niềm vui trí huệ, niềm vui phương tiện, cho đến các niềm vui diễn tả mầu nhiệm, niềm vui lợi ích rộng khắp hữu t́nh. Các niềm vui ấy thật sự xa ĺa nỗi khổ v́ ngũ dục trong thế gian, nỗi khổ vô thường. Nhưng mọi người chúng ta thật sự đều ở trong tam đồ bát nạn, trong thế tục có nhiều khổ nạn, chúng sanh v́ chẳng có niềm vui Phật pháp, cho nên tham cầu niềm vui thế tục. Đó cũng là chuyện tất nhiên. Nếu có niềm vui trong Phật pháp, các niềm vui khác thật sự chẳng thể sánh bằng, tự nhiên sẽ bỏ qua niềm vui vô ích trong thế tục. V́ sao? Do tạo nhiều nghiệp, dù thiện hay ác, thoạt nh́n hơi vui sướng, chớp mắt liền hoại, lại thêm các nỗi khổ bức bách trong thời đại, càng khiến cho nghiệp luân hồi lừng lẫy!

          Do vậy, đối với nội hàm thực chất của pháp tắc này, vẫn mong mọi người sau khi học tập, có thể thật sự thâm nhập tu tập, cho đến thành tựu tam-muội, hoặc là đích thân thấy chư Phật, thấy Phật nghe pháp, thiện căn thật sự thành thục, sẽ lợi ích trời người rộng khắp, đạt được oai đức thiện xảo, bất luận là tâm trí hay lời nói, giáo pháp, tu tŕ, vô úy, của cải, hết thảy các thời, các chỗ, đều đạt được phương tiện. Vận dụng như thế chính là mục đích học tập Phật pháp, mà cũng là mục đích hành tŕ tam-muội của chúng ta.

 

14. Phẩm thứ mười: Cụ Túc Ngũ Pháp

 

          Kinh điển là chủng tử Bồ Đề, là chủng tử kim cang, mà cũng là Phật tánh, Pháp tánh, Tăng tánh, là chỗ căn bản để chúng ta ấn khế tự tánh. Phật pháp hoàn toàn được chọn lựa ở nơi ấy, cội nguồn ở đấy, là nơi có thể xuất sanh công đức của hết thảy chư Phật, có thể dưỡng dục hết thảy Bồ Tát, có thể lợi ích hết thảy chúng sanh. Nếu chúng ta khéo quan sát, khéo học tập, khéo thủ hộ, lợi ích ấy sẽ là chẳng thể nghĩ bàn!

          Chúng ta thường v́ hiện duyên mỏng ít, bèn coi duyên vị lai, hoặc cho rằng duyên thù thắng là sâu, phần nhiều đánh mất chỗ thật sự khế nhập Phật pháp của chính ḿnh, tức là [khế nhập] ngay trong hiện tiền, cũng như cơ chế thật sự thành thục Phật pháp vẫn ở ngay trong hiện tiền. Cũng như cơ chế hoàn thiện thật sự vẫn là ngay trong hiện tiền. Thật sự lựa chọn vẫn là ngay trong hiện tiền. Thật sự truyền bá, chấp nhận, vẫn chẳng ĺa hiện tiền. Hiện tiền tuy vẫn không ngừng tiếp nối, chẳng ngừng sanh diệt, thay đổi, nhưng đều chẳng rời hiện tiền! Đối với chuyện trong hiện tiền, niệm hiện tại, và bản thể của chính nó ngay trong hiện tiền, nếu nhận biết, chúng ta sẽ thấy phương tiện.

          Kinh điển không ǵ chẳng phải là một phương tiện giúp cho chúng ta dùng ngoại cảnh để ấn khế tự tâm. Nếu tự tâm nhận biết ngoại cảnh, lúc cảnh và tâm như một, toàn thể kinh điển là tâm địa. Kinh điển miêu tả tâm trí của chúng ta. Toàn thể tâm trí được miêu tả trong kinh điển, bất nhị như vậy mà duy tŕ pháp tắc này. Chấp nhận pháp tắc này, tu tập pháp tắc này, truyền đạt, giải nói pháp tắc này, cho đến thành tựu pháp tắc này, quư vị sẽ học tập Phật pháp đắc lực, sẽ thật sự đắc lực nơi pháp tắc này.

          Học Phật chẳng khó, nhưng ngay trong hiện tiền mà tôn trọng th́ rất khó, v́ phàm phu hữu t́nh phần nhiều dùng cái tâm mong mỏi cao xa đối với tương lai, chẳng biết sự chân thật trong hiện tại, phần nhiều coi hiện tại là yếu kém, phần nhiều v́ duyên của chính ḿnh yếu kém, bèn mong mỏi duyên khác, mong mỏi lúc khác, mong mỏi duyên thù thắng, mong mỏi quả thù thắng, mà đánh mất tự tôn, tự đắc, cũng như [đánh mất] Phật tánh tự nhiên trọn đủ. Đó chính là công đức vốn sẵn có của hết thảy chúng sanh. Đánh mất chính ḿnh trong một niệm hiện tiền, khinh miệt chính ḿnh, coi thường chính ḿnh, khinh phạm chính ḿnh. Trong quá tŕnh học tập, chúng ta trang nghiêm đạo tràng, nghiêm tŕ nghi quỹ, hoặc là mọi người dùng cái tâm trang trọng, tâm nghiêm túc, tĩnh lặng, như bệnh nhân đối trước bậc y vương, như người bệnh nặng đối trước thuốc hay, như người trúng độc đối diện cam lộ, dùng cái tâm nghĩ tưởng “vĩnh viễn chẳng có cơ hội lần nữa, vĩnh viễn chẳng có duyên lần nữa” để nghe pháp, để trao đổi Phật pháp, để liễu giải tâm trí, th́ tâm trí sẽ dễ được tỏ lộ.

          Tâm trí tỏ lộ vốn là chuyện tuyệt đối chẳng thể lặp lại, mà cũng chẳng có lư do lặp lại, v́ pháp chẳng có tự tánh, thời gian cũng chẳng có tự tánh, cho nên nó sẽ chẳng thể lặp lại. Chúng ta làm một việc, hoặc lao động, thoạt nh́n dường như lặp đi lặp lại. Thật ra, vẫn chỉ là cái tâm lặp lại, do vọng tâm nhận biết, chấp lấy, cho là có lặp lại! Học tập lần này cũng giống như thế! Hễ duyên này kết thúc, cũng sẽ chẳng thể lặp lại, bất luận chúng ta dùng tâm t́nh như thế nào, đều là hễ đi, sẽ chẳng trở lại. Trong đời người, nếu nhận biết điều này, đối với mỗi chuyện, ngay trong mỗi niệm, đối với bản thể của niệm ấy, nếu chúng ta dùng cái tâm viên măn, khi ấy sẽ ngay lập tức viên măn, ngay lập tức trọn đủ, chính là bản thể của nó. Nếu chẳng dùng tâm trí viên măn, chẳng duyên theo cái duyên ấy, mà duyên theo các thứ tưởng như vọng tưởng, tạp tưởng, nghiệp tập tưởng, ư tưởng chênh lệch chẳng đồng đều, ư tưởng mong làm chuyện cao xa, mong tưởng vị lai v.v… sẽ hứng chịu đủ thứ quả báo, đủ thứ nhân duyên, đủ thứ tiếp nối. Lần này, chúng thường trụ tại Hằng Dương Am đă tốn rất nhiều công sức, cũng tốn rất nhiều thời gian. Mỗi ngày [đều phải chuẩn bị] đèn, đuốc, hoa tươi để đưa đón cúng dường, thật sự là công sức chẳng luống uổng, lợi ích chẳng thể mai một! Chư Phật, Bồ Tát sẽ gia tŕ, hết thảy hiền thánh đều nghĩ tưởng, hết thảy long thiên hộ pháp cũng sẽ thủ hộ.

          Ngôn ngữ chẳng có cao hay thấp, sự cũng chẳng có lớn hay nhỏ, tâm trí tương ứng hay không mới là quan trọng nhất. V́ người học Phật chẳng ǵ để học, chỉ là liễu giải tự tâm. Người học Phật chẳng có pháp ǵ để có thể đắc, chỉ là sự chân thật nơi tri kiến chẳng có tự tánh. Người học Phật cũng chẳng có ǵ để sợ hăi, chỉ là đối diện với mỗi niệm hiện tiền như huyễn. Trong cái hiện tiền như huyễn, như mộng ấy, quư vị dùng ǵ để vận dụng sanh mạng? Dùng ǵ để vận dụng trí huệ? Dùng ǵ để vận dụng tâm trí? Thật sự là bản thân mỗi người chúng ta đều phải nên xét kỹ, phải nên quan sát, phải nên thủ hộ, phải nên nhận thức sâu sắc, phải nên thủ hộ sâu sắc, quan sát sâu sắc, tôn trọng như thật, thủ hộ như thật, vận dụng như thật. “Như thật” là như thế nào? Tức là tự tôn, nghĩa là tự tôn trọng hiện duyên của chính ḿnh giống hệt như tôn trọng chư Phật, tôn trọng hiện duyên giống hệt như tôn trọng lợi ích văng sanh của chính ḿnh. Điều này có mức độ khó khăn nhất định. Khó do nghiệp tập, khó do vọng tưởng che lấp. Nếu một khi trừ khử sự che lấp của phiền năo nghiệp tập, vậy th́ sẽ muôn dặm quang đăng, mặt trời rạng ngời chiếu rọi. Đó là tâm trí đă sáng suốt, chẳng vướng mắc ǵ, như mặt trời xoay chuyển trên không trung! Khi chúng ta học tập bản dịch kinh Ban Châu Tam Muội Đại Tập Hiền Hộ này cũng giống như thế. Bất quá nhờ vào sự tôn quư của kinh, nhờ vào sự chân thật của Pháp Bảo để liễu giải sự tôn quư và chân thật của tự tánh. Cũng như liễu giải sự tôn quư của nhất niệm hiện tiền, sự chân thật của nhất niệm hiện tiền, bản thể của hiện tiền. Quư vị sử dụng được th́ sẽ gọi là “chưa chứng tam-muội mà chẳng tách rời công đức của tam-muội”. Do vậy, quư vị có thể nhận biết rơ ràng, vận dụng thành thục giáo ngôn của hết thảy chư Phật.

 

          (Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập, Hiền Hộ Phần, Cụ Túc Ngũ Pháp phẩm đệ thập.

          ()大方等大集賢護分具足五法品第十。

          (Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, Hiền Hộ Phần, phẩm thứ mười: Đầy đủ năm pháp).

 

          Trong một phẩm này, đức Thế Tôn đă nhiều lượt nêu ra năm thứ pháp tắc để có thể thành tựu tam-muội này. Đấy là sau khi trọn đủ ứng cúng, bèn tuyên nói giáo ngôn chân thật, v́ trong cơ chế giáo ngôn của đức Thế Tôn, có pháp và có duyên th́ mới có thể thực thi, mới có thể thủ hộ thành tựu. Duyên ấy là do dùng nghiệp tướng để nói? Hay là dùng tâm trí dấy khởi ư niệm để nói? Hay là dùng phước đức đầy đủ để nói? Ở đây, đức Thế Tôn đă thực hiện sự diễn luyện. Chúng ta hăy xem Ngài diễn luyện như thế nào?

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát tùng ṭa nhi khởi, chỉnh lư y phục, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, cung kính hiệp chưởng, nhi bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Duy nguyện Thế Tôn, cập tỳ-kheo tăng, minh nhật thực thời, lâm cố ngă gia, thọ ngă cúng dường, lân mẫn ngă đẳng chư chúng sanh cố.

          ()爾時賢護菩薩。從坐而起。整理衣服。偏袒右肩。右膝着地。恭敬合掌。而白佛言。世尊。唯願世尊及比丘僧。明日食時。臨顧我家受我供養。憐愍我等諸衆生故。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh đốn y phục, trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất, cung kính chắp tay, bạch cùng đức Phật rằng; - Bạch Thế Tôn! Kính mong đức Thế Tôn và các vị tỳ-kheo vào giờ dùng bữa ngày mai, quang lâm nhà con, nhận sự cúng dường của con v́ thương xót bọn chúng sanh chúng con).

 

          Ở đây, Hiền Hộ cũng đại diện cho hết thảy hữu t́nh cầu pháp, hữu t́nh hành pháp, cho đến hữu t́nh thành tựu, đối trước đức Thế Tôn biểu đạt, biểu đạt điều ǵ vậy? Muốn thỉnh pháp, muốn được nghe pháp, cho đến thật sự thủ hộ và thành tựu. Đấy là một sự phát khởi. Tuy Hiền Hộ Bồ Tát cúng dường đức Phật và các vị tỳ-kheo tăng, nhưng Hiền Hộ Bồ Tát nói “lân mẫn ngă đẳng chư chúng sanh cố” (v́ thương xót bọn chúng sanh chúng con), tức là Hiền Hộ Bồ Tát v́ các chúng sanh mà cầu thỉnh đức Thế Tôn và các vị tỳ-kheo đến ứng cúng.

 

          (Kinh) Thế Tôn mặc nhiên, thọ Hiền Hộ thỉnh.

          ()世尊默然受賢護請。

          (Kinh: Đức Thế Tôn im lặng nhận lời thỉnh của Hiền Hộ).

 

          “Im lặng” là cách đức Thế Tôn thầm chấp thuận ứng cúng. V́ cớ sao? Đức Thế Tôn là đấng Nhất Thiết Trí, đối với hết thảy thức ăn, y phục, hết thảy vật dụng của thế gian, Ngài đều chẳng cần đến. Đối với pháp cũng như thế, v́ Ngài chẳng thiếu khuyết. Do vậy, chẳng nói là chấp nhận hay không chấp nhận, chỉ im lặng khế hợp sự phát tâm ấy, khiến cho người phát tâm đạt được sự đáp ứng thanh tịnh. V́ thế, im lặng thọ thực, hoặc im lặng thọ thỉnh, chẳng trả lời như [người b́nh phàm trong] thế gian. Hễ im lặng tức là đă đáp ứng.

 

          (Kinh) Thời bỉ Hiền Hộ tri Phật thọ dĩ.

          ()時彼賢護知佛受已。

          (Kinh: Khi đó, ngài Hiền Hộ biết Phật đă nhận lời).

 

          Hết thảy đệ tử của đức Phật Thế Tôn cũng giống như thế. Khi các vị tỳ-kheo thọ thỉnh, các Ngài chỉ im lặng th́ cũng là ngầm đồng ư. Trong Tăng pháp, có pháp tắc đa số im lặng chấp thuận. Chẳng hạn như đối với kẻ đă phạm lầm lỗi, phải nên chỉ ra. Nếu chẳng chỉ ra, tức là im lặng chấp nhận, hoặc có nghĩa là quư vị tùy hỷ. Nếu là ứng cúng th́ cũng giống như thế. Ngay như trao đổi lời lẽ, hoặc trao đổi pháp tắc, cũng có nhiều lúc im lặng. Sự im lặng ấy có nghĩa là tiếp nhận.

 

          (Kinh) Đảnh lễ tôn túc, hữu nhiễu tam táp. Ư thị từ hoàn, toại phục nghệ bỉ Ma Ha Ba Xà Ba Đề tỳ-kheo-ni sở.

          ()頂禮尊足。右繞三匝。於是辭還。遂復詣彼摩訶波闍波提比丘尼所。

          (Kinh: Đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn, nhiễu theo chiều phải ba ṿng. Liền đó, từ biệt quay về, bèn tới chỗ của tỳ-kheo-ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề).

 

          Tỳ-kheo-ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahāprajāpatī Gautamī) là tên [tiếng Phạn] chưa dịch nghĩa của tỳ-kheo-ni Đại Ái Đạo. Chúng ta biết đức Thế Tôn được di mẫu (d́) là bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề nuôi lớn. Sau khi đức Thế Tôn thành đạo, di mẫu và năm trăm thị nữ phát tâm theo đức Thế Tôn xuất gia, ba lượt thỉnh cầu đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn không chấp nhận, họ bèn từ trăm dặm [đi bộ], đuổi theo đức Thế Tôn. Ngài A Nan bất nhẫn trước tâm bi cảm thiết tha cầu pháp của bà Đại Ái Đạo [và các thị nữ], cho nên đă thay họ hướng về đức Thế Tôn cầu xin [cho phép nữ chúng] xuất gia. Do vậy, đức Thế Tôn nói: “Này A Nan! Sở dĩ đức Thế Tôn chẳng chấp thuận là v́ có ư nghĩa sâu xa”. Do A Nan ba lượt thỉnh cầu, đức Thế Tôn mới định ra tám pháp thanh tịnh[5] để cho phép nữ giới trở thành sa-môn trong giáo ngôn của Phật Thích Ca, hiện h́nh tướng sa-môn.

 

          (Kinh) Đáo dĩ, đảnh lễ Ba Xà Ba Đề tỳ-kheo-ni túc, nhi tức bạch ngôn: - Nguyện A-lê-da, cập chư ni chúng, lân mẫn ngă cố, thọ ngă minh triêu sở thiết vi cúng.

          ()到已。頂禮波闍波提比丘尼足。而即白言。願阿梨耶及諸尼衆。憐愍我故。受我明朝所設微供。

          (Kinh: Đă đến nơi, đảnh lễ dưới chân tỳ-kheo-ni Ba Xà Ba Đề, liền bạch rằng: - Kính mong A-lê-da và các ni chúng v́ thương xót con, chấp nhận lễ cúng dường nhỏ nhoi do con sắp đặt vào ngày mai).

 

          Đối với vị thủ lănh của các vị ni là ngài Ma Ha Ba Xà Ba Đề, [Hiền Hộ Bồ Tát] bèn dùng từ ngữ A-lê-da (Aryā, tôn quư) để xưng hô, tức là A-xà-lê (Ācārya), cũng là Quy Phạm Sư (規範師), có thể làm chỗ nương tựa cho chúng sanh, làm bậc dạy bảo, hướng dẫn, bố thí pháp, có thể thí vô úy cho chúng sanh, khiến cho chúng sanh an lạc. Hiện thời, tại vùng Vân Nam, trong dân gian c̣n có giáo ngôn của A Trát Lê[6], tức là bậc Quy Phạm Sư tại gia, từ Miến Điện, Thái Lan truyền qua đă lâu. Trên thực tế, [các vị A Trát Lê ấy] thuộc một pháp hệ của Mật Thừa được truyền bá [tại Vân Nam] rất sớm, c̣n sớm hơn Tạng truyền Phật giáo rất nhiều.

          “Lân mẫn ngă cố, thọ ngă minh triêu sở thiết vi cúng” (V́ thương xót con, chấp thuận lễ cúng dường nhỏ nhoi do con sắp đặt vào ngày mai). V́ sao nói là “vi cúng” (cúng dường nhỏ nhoi)? Đối trước các bậc thánh giả, trí giả ấy, cho đến đối với chư Phật, Bồ Tát là những vị đại oai đức thiện xảo, tất cả sự cúng dường trong thế gian chỉ có thể nói coi là “vi cúng”. V́ sao? Chư Phật Như Lai là bậc đạo sư của tam giới, là đấng được trời người cúng dường. Sự cúng dường của nhân loại hết sức nhỏ nhoi, đạm bạc, dẫu tận lực, cùng kiệt tài sản, vẫn là sự cúng dường nhỏ bé, đạm bạc. Nếu chẳng nói như thế, sẽ chẳng phải là như thật!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Ma Ha Ba Xà Ba Đề tỳ-kheo-ni mặc nhiên thọ thỉnh.

          ()爾時摩訶波闍波提比丘尼。默然受請。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, tỳ-kheo-ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề im lặng nhận thỉnh).

 

          Cũng giống như đức Thế Tôn im lặng nhận lời thỉnh.

 

          (Kinh) Hiền Hộ tri dĩ, đảnh lễ từ hoàn. Thời bỉ Hiền Hộ phục nghệ Bảo Đức Ly Xa Tử sở.

          ()賢護知已頂禮辭還。時彼賢護。復詣寶德離車子所。

          (Kinh: Hiền Hộ đă biết, đảnh lễ, từ biệt, quay về. Khi đó, ngài Hiền Hộ lại đến chỗ của Bảo Đức Ly Xa Tử).

 

          Thuở đức Thế Tôn tại thế, cũng có nhiều ngoại đạo được thành tựu, ở trong thế gian đă đạt được an lạc. Rất nhiều ngoại đạo tuy chưa rơ ràng quy y giáo ngôn của đức Thế Tôn, cũng thường đến chỗ đức Thế Tôn đang dạy bảo, hoặc tới pháp hội của Ngài để nghe giáo pháp, do sức bức xạ từ oai đức rộng lớn của đức Thế Tôn.

 

          (Kinh) Ngữ Bảo Đức ngôn: - Bảo Đức! Nhữ lai nhữ chi sở hữu thân thích, quyến thuộc, bằng hữu, tri thức, cập thử hội trung ưu-bà-tắc chúng, năi chí nhất thiết Vương Xá đại thành, cập dĩ tự dư thành ấp, tụ lạc, chư tân lai giả, vị ngă thỉnh viết: “Thọ ngă minh triêu sở thiết phạn thực”.

          ()語寶德言。寶德。汝來汝之所有親戚眷屬朋友知識。及此會中優婆塞衆。乃至一切王舍大城。及以自餘城邑聚落諸新來者。爲我請曰。受我明朝所設飯食。

          (Kinh: Nói với Bảo Đức rằng: - Này Bảo Đức! Ông đến chỗ tất cả thân thích, quyến thuộc, bạn bè, người quen biết của ông, và các vị ưu-bà-tắc trong hội này, cho tới hết thảy những người mới đến trong đại thành Vương Xá, và các thành ấp, xóm làng khác, v́ tôi mời như sau: “Ngày mai hăy đến dùng bữa cơm do tôi thết đăi”).

 

          V́ sao ở đây nói là “phạn thực” (bữa cơm), chẳng nói là “vi cúng” (cúng dường nhỏ nhoi)? Tương ứng với chuyện thí cho nhân loại th́ “phạn thực” là từ ngữ tương ứng. Ở đây, Hiền Hộ Bồ Tát mở pháp hội Vô Giá cúng dường thức ăn rộng lớn, khiến cho hết thảy kẻ hữu duyên đều được cúng dường. Không chỉ là người trong thành Vương Xá, mà cho đến các thành thị, làng xóm khác cũng nên thọ thỉnh (chấp thuận lời mời).

          V́ sao chỉ nhắc tới ưu-bà-tắc, chẳng nhắc tới ưu-bà-di? Đây là một phong tục tập quán của riêng Ấn Độ. Trong phần trước, chúng ta đă thấy, đức Thế Tôn thường nhắc tới khá nhiều long thiên hộ pháp, đủ loại quỷ thần, đủ loại trời, cho đến trưởng giả, chủng tánh Sát-lợi vương, Bà La Môn, ưu-bà-tắc, nhưng chẳng nói đến ưu-bà-di thọ thỉnh. Đó là tôn trọng cách nói theo phong tục của dân tộc ấy. V́ đức Thế Tôn sống trong thời đại có phong tục dân tộc như thế ấy, cho nên Ngài cũng chẳng bỏ phong tục dân tộc. Đó gọi là “thí giáo ư thế gian, bất hủy ư thế tục” (bố thí giáo pháp trong thế gian, chẳng hủy phong tục của thế gian). Nếu thí giáo trái nghịch với thế tục, hữu t́nh trong thế gian sẽ chẳng tiếp nhận. Đức Thế Tôn là bậc trí huệ trọn đủ, phương tiện thiện xảo, cho nên Ngài tùy thuận thế tục. Về sau, chúng ta đến nơi khác học pháp, dạy pháp, cũng phải nên chẳng xả loại phương tiện ấy, cũng chớ nên trái nghịch phong tục của dân chúng trong thế gian. Nếu vứt bỏ, sẽ bị xung đột và tổn thương, hoặc mâu thuẫn.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Bảo Đức Ly Xa Tử đồng tử thọ Hiền Hộ ngôn, tức cáo hội trung chư ưu-bà-tắc, thân thích, quyến thuộc đẳng viết: “Nhân bối đương tri, bỉ Hiền Hộ Bồ Tát linh ngă cáo nhữ. Minh nhật thực thời, thọ ngă vi cúng”. Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát, Bảo Đức Ly Xa Tử, cập Thiện Thương Chủ trưởng giả, Già Ha Ngập Đa cư sĩ tử, Na La Đạt Đa Ma Nạp, Thủy Thiên trưởng giả, tịnh cập nhất thiết chư dư quyến thuộc, bằng hữu, tri thức đẳng, đảnh lễ Phật túc dĩ, hoàn bỉ Hiền Hộ Bồ Tát xá trạch. Đáo dĩ, tá bỉ Hiền Hộ kinh doanh, tức ư kỳ dạ, ước sắc gia nhân, biện cụ chư chủng tinh diệu thượng soạn, sở vị thế gian phàm khả thực đạm, sắc, hương, mỹ vị, bách vật bị hữu. Năi chí ngoại quốc viễn lai bần cùng khất cái, diệc vị biện cụ chủng chủng tinh thiện, nhi cung cấp chi, dữ chư đại chúng, nhất đẳng vô dị.

          ()爾時寶德離車童子受賢護言。即告會中諸優婆塞親戚眷屬等曰。仁輩當知。彼賢護菩薩令我告汝。明日食時受我微供。爾時賢護菩薩。寶德離車子。及善商主長者。伽訶岌多居士子。那羅達多摩納水天長者。並及一切諸餘眷屬朋友知識等。頂禮佛足已。還彼賢護菩薩舍宅。到已。佐彼賢護經營。即於其夜。約敕家人。辦具諸種精妙上饌。所謂世間凡可食啖。色香美味百物備有。乃至外國遠來貧窮乞丐。亦爲辦具種種精膳而供給之。與諸大衆。一等無異。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đồng tử Bảo Đức Ly Xa Tử tiếp nhận lời dặn của Hiền Hộ, liền bảo các vị ưu-bà-tắc trong hội, thân thích, quyến thuộc v.v… rằng: “Các vị nhân giả hăy nên biết, Hiền Hộ Bồ Tát bảo tôi nói với các vị: Vào giờ dùng bữa ngày mai, hăy tiếp nhận sự cúng dường nhỏ nhoi của ông ta”. Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát, Bảo Đức Ly Xa Tử, và trưởng giả Thiện Thương Chủ, con trai cư sĩ Già Ha Ngập Đa, Na La Đạt Đa Ma Nạp, trưởng giả Thủy Thiên, và hết thảy các quyến thuộc, bằng hữu, kẻ quen biết khác, đảnh lễ dưới chân đức Phật xong, trở về nhà của Hiền Hộ Bồ Tát. Tới nơi, họ giúp Hiền Hộ lo liệu. Ngay trong đêm hôm ấy, căn dặn gia nhân, chuẩn bị đầy đủ các món ăn ngon khéo, tức là các thứ có thể ăn nuốt trong thế gian, sắc hương, vị ngon, trăm vật đều có đủ. Cho đến đối với những kẻ nghèo túng, ăn mày từ nước ngoài xa xôi t́m đến, cũng v́ họ chuẩn bị đầy đủ các thứ thức ăn ngon khéo để cung cấp, giống hệt chẳng khác các món đăi đằng đại chúng).

 

          Ở đây, chúng ta thấy tâm hạnh b́nh đẳng của Bồ Tát. Chúng ta tu pháp trong thế gian này, nếu dùng tâm b́nh đẳng yêu thích, tôn trọng hết thảy hữu duyên trong hiện tiền, thật sự là thiện xảo. Đó chính là tâm trí thiện xảo b́nh đẳng của Bồ Tát. Chúng ta chớ nên dùng cái tâm cao thấp, tâm chẳng b́nh đẳng, tâm yêu ghét, tâm thân sơ để tu tập pháp. Tu pháp [mà có các tâm] như vậy, nói chung chẳng tương ứng. Nếu chẳng có tâm rộng lớn, tâm b́nh đẳng, tâm chẳng thể như đại địa an trụ chúng sanh, khiến cho chúng sanh trụ trong an lạc. Như thế chính là cô phụ pháp tắc mà chính ḿnh đă gặp. Chúng ta ở trong đạo tràng này, cũng giống như thế. Nếu có thể dùng cái tâm b́nh đẳng, tâm chân thật để bảo ban, an ủi hữu t́nh trong thế gian, bảo ban, an ủi các nhân duyên hiện tiền chung quanh. Đó là chân thật thủ hộ tâm b́nh đẳng, tâm thanh tịnh. Tâm như đại địa, có thể chuyên chở hết thảy, đó là chỗ an ổn, hăy nên chọn lựa chân thật.

 

          (Kinh) Sở dĩ giả hà? Phàm chư Bồ Tát, tâm vô tăng ái, bất cảm khinh tha, ư chư chúng sanh, giai b́nh đẳng cố.

          ()所以者何。凡諸菩薩。心無憎愛。不敢輕他。於諸衆生皆平等故。

          (Kinh: V́ cớ sao vậy? V́ các vị Bồ Tát tâm chẳng yêu ghét, chẳng dám khinh người khác, đối với các chúng sanh đều b́nh đẳng).

 

          Chỗ này mười phần trọng yếu, v́ chúng sanh duyên theo tâm trí sai khác, nhưng cung kính và tôn trọng ai nấy đều cần thiết. Tâm trí yêu ghét thường khiến cho người khác sanh khởi cảm giác thân, sơ, bất b́nh đẳng, cho đến cảm giác ô nhiễm, phần nhiều có tâm khinh mạn và tôn quư. Như thế th́ sẽ khiến cho ḷng người bất b́nh đẳng, bị nhiều thương tổn. Chúng ta làm thế nào để vận dụng cái tâm b́nh đẳng trong thế gian bất b́nh đẳng như thế này, vận dụng tâm trí b́nh đẳng để bảo ban, an ủi hữu t́nh? Đó thật sự là tu tŕ hai pháp bi và trí, cũng là tu tŕ an trụ thanh tịnh b́nh đẳng. Đấy chính là một mắt xích trọng yếu mà tất cả những người tu tập Phật pháp chúng ta phải nên xem kỹ, phải nên quan sát, phải nên đúng lư xem xét kỹ càng, quán sát như lư, phải nên đúng lư tu tập pháp tắc, đúng lư thành tựu pháp tắc, rất trọng yếu, hết sức trọng yếu!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Sa Bà thế giới chủ Đại Phạm thiên vương.

          ()爾時娑婆世界主大梵天王。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, chủ của thế giới Sa Bà là Đại Phạm thiên vương).         

 

          Ở đây dịch Đại Phạm thiên vương là chủ của thế giới Sa Bà, cũng có khi dịch Đại Tự Tại Thiên là chủ của thế giới Sa Bà, nhưng Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật là đấng giáo hóa pháp tắc chủ của thế giới Sa Bà. Một tam thiên đại thiên thế giới ắt có một đức Thế Tôn trụ thế, khiến cho chúng sanh trong thế giới ấy được trụ trong an lạc. Nếu chẳng có Thế Tôn ngự, đức Thế Tôn sẽ dùng đủ mọi phương tiện, đủ mọi thân để thuyết giáo, trọn chẳng vứt bỏ, v́ chư Phật chẳng bỏ hết thảy thế giới và hết thảy chúng sanh.

 

          (Kinh) Năi chí Đao Lợi thiên vương, Thích Đề Hoàn Nhân, tứ thiên đại vương Đề Đầu Lại Trá đẳng, cập bỉ Thiện Đức thiên tử, dữ chư quyến thuộc, hàm vi nhân thân tán trợ kỳ sự.

          ()乃至忉利天王。釋提桓因。四天大王提頭賴吒等。及彼善德天子。與諸眷屬。咸爲人身贊助其事。

          (Kinh: Cho đến Đao Lợi thiên vương, Thích Đề Hoàn Nhân, tứ thiên đại vương như Đề Đầu Lại Trá (Dhṛtarāṣṭra, Tŕ Quốc thiên vương) v.v… cùng với thiên tử Thiện Đức và các quyến thuộc, đều dùng thân người để giúp đỡ chuyện ấy).

 

          Liền chuyển đổi thân tướng, dùng thân người thông thường để giúp Hiền Hộ, muốn làm cho chuyện cúng dường ấy được thành tựu. V́ đấy là chuyện cúng dường Phật Đà Thế Tôn, Tăng chúng, cho đến ngoại đạo, kẻ ăn mày, hết thảy nhân dân, đều là b́nh đẳng cúng dường trọn khắp, rộng lớn, thanh tịnh, cùng một vị, tức là sự cúng dường Vô Giá (無遮, không ngăn che). Loại cúng dường Vô Giá này quả thật là thứ mà tâm trí chúng ta, nhất là người trong thời Mạt Pháp thiếu khuyết nhất. Tại Ấn Độ có tập tục như thế này: Nếu trong lúc hành đạo, hoặc trong nhà có nạn duyên, bèn rộng hành bố thí, cho đến dốc cạn tài lực gia sản để bố thí. Trong tâm trí của người Hoa, đó là chuyện rất hiếm xảy ra. Nh́n từ các ghi chép lịch sử, từ các sự kiện lịch sử, chắc là người Hoa rất ít người có khái niệm làm như thế! Thậm chí c̣n cho rằng đấy là một chỗ rất đáng sợ hăi, v́ người Trung Hoa, nhất là người nơi đất Hán, coi trọng an cư lạc nghiệp, tích tụ gia sản dồi dào, cũng có thể nói là tâm trí “thành gia lập nghiệp, thủ hộ tổ nghiệp”. Giáo ngôn và tri kiến ấy một mực tuôn chảy trong huyết dịch của toàn thể dân tộc rất sâu dày. Nhưng trong dân tộc Tây Tạng, hoặc dân tộc du mục, phần nhiều có trạng thái tâm lư dốc cạn gia sản để bố thí. V́ họ thường xuyên xuất hiện t́nh huống trong một đêm ngay lập tức mất sạch gia sản. Chẳng hạn như một trận tuyết lớn có thể phủ trùm toàn bộ băi cỏ của trại chăn nuôi, cũng có thể là tất cả gia súc bị chết cóng hết sạch, hoặc một trận ôn dịch cũng sẽ khiến họ chẳng c̣n một vật nào. V́ thế, họ đă nếm đủ sự vô thường, nhưng người ở đất Hán v́ an cư lạc nghiệp, các thế hệ đều nối tiếp nhau sanh tồn trong cơ chế “thường pháp”, cho nên ư thức sai khác rất lớn. Nếu người ở đất Hán có thể tư duy chỗ này một lượt, sẽ là thuận tiện.

          Tôi nhớ khi tôi mới xuất gia, rất nhiều người hỏi: “Anh làm thế nào để bỏ hoàn cảnh sống quen thuộc? Làm thế nào để bỏ được công việc quen thuộc và gia đ́nh?” Họ cảm thấy chẳng thể nghĩ bàn, bỏ được bằng cách nào? Dẫu nhà nghèo cách mấy, giống như con chẳng chê mẹ xấu, người ta chẳng hiềm nhà nghèo. [Họ cho rằng]: Có nạn duyên chi đó, nhân duyên ǵ đó th́ mới có thể khiến cho quư vị chẳng sanh tồn trong nhà được, đành phải xuất gia? Thật ra, đối với khái niệm “xả gia”, người Hoa mười phần khó thể tiếp nhận. Xả gia là buông bỏ nhân duyên quá khứ, bất luận là giàu hay nghèo, là tốt hay xấu, là thiện hay ác, tức là buông xả một hoàn cảnh quen thuộc thôi, đối diện một hoàn cảnh hoàn toàn mới toanh, hoàn cảnh lạ lẫm, để như thật biết rơ có sợ hăi hay không, có như thật an trụ tự tâm trong hoàn cảnh mới toanh ấy hay không? Dùng chuyện ấy để tu tập sanh mạng. Đấy quả thật là một sự bố thí. Bản thân của chuyện xuất gia là bố thí, c̣n tại gia sẽ bố thí như thế nào? Quư vị có thể tư duy, nghĩ ngợi. Giả sử chính ḿnh bố thí toàn bộ, tâm lư sẽ là như thế nào? Quư vị chẳng cần bố thí, trước tiên hăy suy sâu nghĩ chín, suy tưởng th́ cũng là phương tiện. Dẫu cho quư vị tư duy như thế, trong tâm trí của người Hoa vẫn là mười phần khó khăn. Tôi cảm thấy chúng ta xả không được cũng không sao, thật sự là có thể cổ vũ, khích lệ chính ḿnh một phen. Trước hết, hăy thầm tưởng, thầm nghĩ, thầm quán th́ cũng là phương tiện. Đó cũng là một lần huấn luyện cái tâm, là một loại phương pháp tu hành mười phần trọng yếu. Nếu chúng ta chẳng thể buông bỏ tự ngă, cho đến hết thảy phước đức và nhân duyên trong đời hiện tại, mà mong thật sự khế hợp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, sẽ mười phần khó khăn! V́ sao? Do phần nhiều có nghiệp tập, có thế tục trói buộc, chẳng thể khiến cho quư vị thật sự khế hợp thanh tịnh, viên măn lợi ích trong Phật pháp.

          “Hàm vi nhân thân tán trợ kỳ sự” (đều dùng thân người để giúp đỡ chuyện ấy): Chư thiên dùng thân người để giúp đỡ, tức diệt quang minh, diệt oai đức của họ, dùng thân người làm bầu bạn. Có chư thiên có phương tiện như vậy, cũng có quỷ thần biến hóa cũng có phương tiện như thế. Người b́nh phàm nếu trông thấy chư thiên, sẽ đều té xỉu, hoặc có thể nói là mê loạn, v́ thân người và thân trời khác biệt quá lớn. Chẳng hạn như tướng mạo sai khác, loài người rất xấu xí, thô kệch. V́ chúng ta chẳng biết chư thiên có sắc thân tinh tế, mầu nhiệm, trọn đủ quang tướng, oai thần, trang nghiêm, cho nên c̣n thường tự cho ḿnh là xinh đẹp. Ngài Nan Đà do thấy tướng mạo của vợ quá đẹp, chẳng nỡ xuất gia! Đức Thế Tôn bèn đem Ngài lên thiên đường nh́n thử, [đă thấy dung mạo của các thiên nữ], Ngài bèn nguyện ư tu đạo. [Đức Phật lại đem Ngài] xuống địa ngục xem [những tội nhân thọ báo do phóng túng ái dục], Ngài liền bằng ḷng phát tâm xuất ly. Tướng mạo của con người nếu so sánh trong nhân loại th́ có thể vẫn c̣n đẹp đẽ. Nếu đem so với con khỉ, chúng ta cảm thấy [loài người] cũng rất đẹp, nhưng đem so với chư thiên, chúng ta quả thật rất xấu, chủ yếu là chẳng thể so sánh nổi!

          Lại như đối với trang phục của chúng ta, người xuất gia hiện thời đắp tấm khoác (y ca-sa) chính là tấm áo do Đại Phạm ban tặng, tức là “tùy ư y”. Đại Phạm có thể dùng tấm áo ấy làm nhà cửa, làm tấm che, làm thuyền, tùy ư sử dụng, nhưng chúng ta dùng tấm áo ấy th́ chỉ là một mảnh vải, mặc lâu ngày sẽ nồng sực mùi mồ hôi, sẽ dính tro bụi. Do chín lỗ của chúng ta thường tuôn chảy chẳng ngớt, y phục mặc mấy ngày chẳng giặt sẽ không được! Nhân loại thật sự đối diện rất nhiều khó khăn, đều là áp lực sanh tồn đối với bản thân chúng ta, là áp lực do nghiệp báo mang lại, nhưng con người vẫn thường tự cho là tốt đẹp, chủ yếu là vẫn chẳng so sánh. Trước kia, tôi sống trong núi, đă từng nửa năm chẳng giặt quần áo, nhưng nếu như tâm trí hơi đắm nhiễm, hơi dính thế tục, hơi động niệm, thậm chí hơi nghĩ đến thức ăn, hơi nghĩ đến ngủ nghê, sẽ chẳng được. Áo trời chẳng cần giặt giũ, v́ sao? Cơi trời chẳng có bụi bặm. Chúng ta đều biết, chư thiên có bốn suy tướng: Một khi phước báo đă hết, tràng hoa kết trên măo sẽ héo trước, dưới nách có mùi hôi, sau đó y phục mới có tro bụi. Nếu áo có vết bụi, phước báo của vị trời ấy đă hết, các quyến thuộc ngay lập tức ĺa bỏ kẻ đó. Khi đó, nếm mùi khổ sở gấp mấy lần địa ngục. V́ sao? B́nh thường có vô lượng quyến thuộc bầu bạn vui chơi, một khi bị ĺa bỏ, tâm trí chẳng thể chịu đựng nổi, cho nên khổ sở gấp mấy lần nỗi khổ trong địa ngục.

          Loài người chúng ta so sánh với chư thiên là như thế. Nếu so với súc sanh, chúng ta cảm thấy chính ḿnh thanh tịnh, trang nghiêm hơn nhiều. Nếu so với ác quỷ, địa ngục, sẽ càng tốt hơn nữa. V́ súc sanh chỉ lo trả nợ, ác quỷ chỉ hứng chịu khổ báo, địa ngục chỉ là chịu đựng trừng phạt, chẳng có duyên nào khác, nhưng nhân loại chúng ta c̣n có phương tiện để chọn lựa. Tuy vậy, con người rất khó biết chính ḿnh, cho nên thông thường dễ dung tục tự măn. V́ sao nói những điều trên đây? Nhằm khích lệ chúng ta đối với chính ḿnh phải có sự tự tôn, hoặc là phát tâm, nhưng đối với nghiệp xứ, phải biết [nghiệp chướng của] chính ḿnh trầm trọng, nặng gánh, đau khổ, bẩn thỉu, hoặc là nói chẳng thể tự khống chế, tức là nỗi khổ bất tịnh, nỗi khổ v́ vô thường ngắn ngủi tạm bợ. Nếu chẳng có chút tri kiến này, sẽ thường là sống suốt đời xoàng xĩnh, chẳng thể tự thoát, chẳng thể nhạy bén đối với pháp.

 

          (Kinh) Dục linh Hiền Hộ Bồ Đề quả báo tốc thành tựu cố. Nhĩ thời, Hiền Hộ dữ chư quyến thuộc, thiện hữu, tri thức đẳng, tảo sái kỳ gia, năi chí Vương Xá đại thành nhai, hạng, đạo lộ, xứ xứ giai tất huyền diệu phan, cái, quảng thiết chủng chủng chư trang nghiêm cụ nhi trang sức chi. Hựu dĩ chư chủng vi diệu hoa, hương, bố tán kỳ địa, phục thiêu thế gian đệ nhất danh hương nhi vi cúng dường.     ()欲令賢護。菩提果報速成就故。爾時賢護。與諸眷屬善友知識等。掃灑其家。乃至王舍大城街巷道路。處處皆悉懸妙幡蓋。廣設種種諸莊嚴具而莊飾之。又以諸種微妙華香。佈散其地。復燒世間第一名香而爲供養。

          (Kinh: V́ muốn khiến cho quả báo Bồ Đề của Hiền Hộ mau thành tựu. Lúc bấy giờ, Hiền Hộ và các quyến thuộc, thiện tri thức v.v… quét dọn nhà cửa, cho đến ngơ hẻm, đường sá trong đại thành Vương Xá, nơi nơi đều treo các phan, lọng đẹp đẽ, bày rộng khắp các thứ vật trang nghiêm để trang hoàng. Lại dùng các thứ hoa, hương vi diệu rắc rải trên mặt đất, lại đốt các thứ hương nổi tiếng bậc nhất trong thế gian để cúng dường).

 

          Hoa tươi, đốt hương cũng là một thứ phong tục, đều để cúng dường. Trong quá khứ, người Hoa, nhất là hoàng gia, trưởng giả, hiền giả, cũng rất coi trọng việc thắp hương!

 

          (Kinh) Thời bỉ Hiền Hộ như thị trang nghiêm Vương Xá đại thành, cập diệu thực dĩ, ư minh đán thời, dữ chư quyến thuộc, nghệ Thế Tôn sở, đầu diện lễ kính, nhi khải bạch ngôn: “Thế Tôn! Ngă sự dĩ biện, nguyện tri thử thời”. Nhĩ thời, Thế Tôn ư thần triêu thời, vị Hiền Hộ cố, trước y, tŕ bát, diệc bỉ vô lượng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, thiên, nhân đại chúng, tả hữu vi nhiễu, hướng bỉ Hiền Hộ Bồ Tát xá trạch.

          ()時彼賢護。如是莊嚴王舍大城及妙食已。於明旦時。與諸眷屬。詣世尊所。頭面禮敬而啓白言。世尊。我事已辦。願知此時。爾時世尊。於晨朝時。爲賢護故着衣持鉢。與彼無量比丘比丘尼優婆塞優婆夷天人大衆。左右圍繞。向彼賢護菩薩舍宅。

          (Kinh: Khi đó, Hiền Hộ trang nghiêm đại thành Vương Xá như thế và sắp đặt các thức ăn ngon lành xong, vào buổi sáng ngày hôm sau, cùng với quyến thuộc, tới chỗ đức Thế Tôn, đầu mặt lễ kính, thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Con đă lo xong chuyện, xin biết đă đến lúc”. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vào lúc sáng sớm, v́ Hiền Hộ bèn đắp y, cầm bát, cùng với vô lượng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, thiên, nhân đại chúng vây quanh hai bên, đến nhà của Hiền Hộ Bồ Tát).

 

          “Trước y” tức là đắp y, để trang nghiêm. Trong quá khứ, khi ứng cúng, khất thực, hoặc tuyên nói pháp, phải trọn đủ trang nghiêm. Chúng ta thấy rất nhiều tượng Phật của Phật giáo Nam Truyền đều đắp y. Cái y để đắp ấy là vật để thể hiện sự trang nghiêm.

 

          (Kinh) Ư thị, Hiền Hộ phát như tư niệm: - Ngă gia ải tiểu, bất thọ đa chúng.

          ()於是賢護髮如斯念。我家隘小。不受多衆。

          (Kinh: Trong lúc, ngài Hiền Hộ nghĩ như thế này: “Nhà ta nhỏ hẹp, chẳng chứa được nhiều người”).

 

          Hiền Hộ Bồ Tát thấy nhiều người như vậy thong thả đi tới, làm sao chứa hết? Ngài phải cầu nguyện. Quư vị nói đây chẳng phải là chuyện thần thoại ư? Chúng ta không quan tâm, nhưng cầu nguyện rất quan trọng, tức là tâm địa như thế, nếu nói: “Nhà tôi nhỏ hẹp, người đông như thế, quư vị đừng tới. Người khác đừng tới, Phật Đà tới ứng cúng là được rồi!” Đó là tâm địa nhỏ hẹp, chẳng phải là nhà cửa nhỏ hẹp. V́ thế, nhà cửa nhỏ hẹp, nhưng tâm trí rộng lớn, tâm địa của các vị Bồ Tát hành pháp tất nhiên rộng lớn như thế. Chúng ta hăy xem tiếp: Mở rộng tâm địa của chính ḿnh như thế nào? Quả báo của mở rộng tâm địa là ǵ?

 

          (Kinh) Tự phi Thế Tôn oai linh gia hộ, linh trạch khoan quảng, tận vi lưu ly, linh chư thành nội nhất thiết nhân dân, mạc bất minh kiến, diệc linh kim thử thiên nhân đại chúng tùy ư thọ dụng, vô sở phạp thiểu, bất diệc khoái hồ?

          ()自非世尊威靈加護。令宅寬廣。盡爲琉璃。令諸城內一切人民。莫不明見。亦令今此天人大衆。隨意受用。無所乏少。不亦快乎。

          (Kinh: Nếu chẳng do oai linh của đức Thế Tôn gia hộ, khiến cho nhà cửa rộng răi, toàn bằng lưu ly, khiến cho hết thảy nhân dân trong các thành, không ai chẳng thấy rơ, cũng khiến cho đại chúng trời người hiện nay thọ dụng, chẳng bị thiếu thốn, cũng chẳng vui lắm ư?)

 

          Đây là tâm địa rộng lớn. V́ sao? Do biết oai thần của đức Phật rộng lớn, trọn đủ, chân thật chẳng hai, chẳng bị trở ngại nơi pháp, cho nên dấy lên ư niệm như thế, phát tâm như thế.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn tri bỉ Hiền Hộ tâm sở niệm dĩ, tức dĩ thần lực, linh kỳ gia trạch nghiêm lệ, khoan quảng, sở hữu chúng cụ biến thành lưu ly, diệc linh thành nội nhất thiết nhân dân giai đắc đổ kiến, phân minh hiển liễu, túc linh đại chúng tùy ư dụng chi.

          ()爾時世尊知彼賢護心所念已。即以神力令其家宅嚴麗寬廣。所有衆具變成琉璃。亦令城內一切人民。皆得睹見。分明顯了。足令大衆隨意用之。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn biết tâm niệm của Hiền Hộ rồi, liền dùng sức thần thông khiến cho nhà của ông ta trang nghiêm, tráng lệ, rộng răi, tất cả các vật đều biến thành lưu ly, cũng khiến cho hết thảy nhân dân trong thành đều được trông thấy phân minh, rơ rệt, đủ để đại chúng tùy ư sử dụng).

 

          V́ sao? Phật là đấng Nhất Thiết Trí, do Nhất Thiết Trí chiếu soi, hay biết.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn nhập Hiền Hộ trạch, tùy kỳ sàng ṭa, an tường nhi tọa, diệc linh nhất thiết chư tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, nhân thiên đại chúng, tùy kỳ bộ loại, thứ đệ nhi tọa.

          ()爾時世尊入賢護宅。隨其牀座安詳而坐。亦令一切諸比丘比丘尼優婆塞優婆夷人天大衆。隨其部類次第而坐。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vào nhà của Hiền Hộ, an tường ngồi trên sàng ṭa, cũng để cho hết thảy các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, đại chúng trời người tùy thuộc bộ loại theo thứ tự mà ngồi).

 

          “Bộ loại” rất trọng yếu. Trong cảm nhận của người Trung Hoa, chắc là quan sát đối với bộ loại khá ít, nhưng tại các quốc gia như Ấn Độ, chủng tánh và bộ loại mười phần rơ rệt. Chẳng hạn như nói đến chủng loại Sát-lợi vương, th́ phải là Sát-lợi vương, trưởng giả tử là trưởng giả tử, trưởng giả là trưởng giả, Bà La Môn là Bà La Môn, tỳ-kheo là tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni là tỳ-kheo-ni, tŕnh tự rất rơ ràng, chẳng thể lẫn lộn, cho nên họ ngồi theo thứ tự.

 

          (Kinh) Thời bỉ Hiền Hộ, cập Bảo Đức Ly Xa Tử, Thiện Thương Chủ ưu-bà-tắc, Già Ha Ngập Đa trưởng giả tử, Na La Đạt Đa trưởng giả tử, kư kiến Thế Tôn, dữ bỉ tứ bộ thiên nhân đại chúng, giai an tọa dĩ. Ư thị, Hiền Hộ cung dĩ tự thủ, tŕ tối diệu thực phụng thượng Thế Tôn.

          ()時彼賢護。及寶德離車子。善商主優婆塞。伽訶岌多長者子。那羅達多長者子。既見世尊。與彼四部天人大衆。皆安坐已。於是賢護。躬以自手。持最妙食奉上世尊。

          (Kinh: Khi ấy, Hiền Hộ, và Bảo Đức Ly Xa Tử, ưu-bà-tắc Thiện Thương Chủ, con ông trưởng giả Già Ha Ngập Đa, con ông trưởng giả Na La Đạt Đa, đă thấy đức Thế Tôn và bốn bộ chúng trời người đều an tọa xong. Lúc đó, Hiền Hộ cung kính, đích thân đem thức ăn ngon lành nhất dâng lên đức Thế Tôn).

 

          “Phụng thượng” (奉上) là nâng cao khỏi đầu. Đây vẫn là một điều thuộc về phong tục, là một h́nh thức biểu đạt tâm trí của người dâng cúng.

 

          (Kinh) Thế Tôn thọ dĩ, nhiên hậu thọ dữ chư tứ bộ chúng, cập dữ nhất thiết thiên nhân đại chúng, chủng chủng thượng diệu hương mỹ vị thực, hàm linh tự tứ, tất giai phong măn.

          ()世尊受已。然後授與諸四部衆。及與一切天人大衆。種種上妙香美味食。咸令自恣。悉皆豐滿。

          (Kinh: Đức Thế Tôn thọ cúng xong, sau đó, [Hiền Hộ] dâng cho bốn bộ chúng và hết thảy trời, người đại chúng các thứ thức ăn thơm ngon, hay khéo nhất, khiến cho mọi người đều tùy ư lấy dùng, thảy đều phong phú, tràn đầy).

 

          “Tự tứ” (自恣) là tùy ư lấy dùng.

 

          (Kinh) Như thị nhất thiết phạn thực tư tất, tháo thủ, sấu khẩu, năi chí tẩy địch bát khí, tŕ cử giai cánh.

          ()如是一切飯食斯畢。澡手漱口。乃至洗滌鉢器。持舉皆竟

          (Kinh: Dùng cơm như thế xong xuôi, rửa tay, súc miệng, cho đến rửa sạch bát đựng, cất đi xong xuôi).

         

          Đây là nói đến quá tŕnh ăn uống của Ấn Độ. Họ dùng tay bốc thức ăn. Nếu dùng bát cỡ lớn, đủ cho sáu người ăn. Bát cỡ trung th́ đủ cho bốn người ăn. Dùng bát cỡ nhỏ th́ đủ cho hai người ăn. Sau khi bốc ăn, cần phải rửa tay. Ở đây, rửa tay, súc miệng, cho đến rửa sạch bát là một quá tŕnh sinh hoạt của Tăng nhân.

 

          (Kinh) Hiền Hộ ư thị biệt trí tiểu ṭa, tại Thế Tôn tiền, đầu diện đảnh lễ, nhiên hậu thoái tọa, nhất tâm chiêm ngưỡng.

          ()賢護於是別置小座。在世尊前。頭面頂禮。然後退坐。一心瞻仰。

          (Kinh: Hiền Hộ khi đó xếp riêng một chỗ ngồi nho nhỏ. Đối trước đức Thế Tôn, đầu mặt đảnh lễ đức Phật, sau đó, ngồi lui qua, nhất tâm chiêm ngưỡng).

 

          Cũng là một loại phong tục. V́ làm cho mắt từ bi của đức Thế Tôn nh́n rộng khắp hết thảy hữu t́nh, tâm quang chiếu soi, hộ tŕ. Cho nên v́ đức Phật lập một ṭa ngồi cao rộng, c̣n Hiền Hộ xếp đặt một ṭa nhỏ, biểu thị ḷng tôn trọng, cúng dường. “Nhất tâm chiêm ngưỡng” tức là chắp tay ngắm dung nhan kỳ diệu của đức Thế Tôn, trong tâm tán dương. Đó gọi là “cung kính nhiễu, chiêm ngưỡng”, tức là dùng tâm tôn trọng, tâm kiền thành để chiêm ngưỡng đức Thế Tôn.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn tức vị Hiền Hộ Bồ Tát, cập Bảo Đức Ly Xa Tử, Thiện Thương Chủ ưu-bà-tắc, Già Ha Ngập Đa trưởng giả tử, Na La Đạt Đa Ma Nạp đẳng, năi chí tứ bộ thiên nhân đại chúng đẳng, như ứng thuyết pháp, linh kỳ giải tri, khai đạo ủy dụ, linh kỳ hoan hỷ. Nhiên hậu, dữ chư tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, thiên, nhân đại chúng quy hoàn bổn sở. Thời bỉ Hiền Hộ Bồ Tát hậu thực tất dĩ.

          ()爾時世尊。即爲賢護菩薩。及寶德離車子。善商主優婆塞。伽訶岌多長者子。那羅達多摩納等。乃至四部天人大衆等。如應說法。令其解知。開導慰喻。令其歡喜。然後與諸比丘比丘尼天人大衆。歸還本所。時彼賢護菩薩後食畢已。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liền v́ Hiền Hộ Bồ Tát, và Bảo Đức Ly Xa Tử, ưu-bà-tắc Thiện Thương Chủ, con ông trưởng giả Già Ha Ngập Đa, Na La Đạt Đa Ma Nạp v.v… cho đến bốn đại chúng trời người thuyết pháp thích ứng, khiến cho họ hiểu biết, hướng dẫn, an ủi, khuyên nhủ, khiến cho hoan hỷ. Sau đó, các tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, trời, người đại chúng trở về chỗ ḿnh. Khi đó, Hiền Hộ Bồ Tát ăn sau xong xuôi).

 

          Hiền Hộ chăn sóc cho bốn bộ đại chúng ăn trước, sau đó mới tự ḿnh dùng bữa.

 

          (Kinh) Tương chư quyến thuộc, thiện hữu, tri thức, cập bách thiên chúng tả hữu vi nhiễu, chí Thế Tôn sở.

          ()將諸眷屬善友知識。及百千衆左右圍繞。至世尊所。

          (Kinh: Dẫn các quyến thuộc, thiện hữu tri thức, và trăm ngàn người vây quanh hai bên đến chỗ đức Thế Tôn).

 

          Hiền Hộ là vị đứng đầu của mười sáu Chánh Sĩ, là người đứng đầu tám vị Đại Sĩ, cho đến là người đứng đầu của năm trăm vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đối trước đức Thế Tôn phát nguyện thủ hộ pháp Ban Châu tam-muội. “Thủ” là người phát khởi trước, thủ hộ trước. V́ thế, Hiền Hộ dẫn mọi người tới chỗ đức Thế Tôn.

 

          (Kinh) Cung kính lễ bái, thoái tọa nhất diện, hồ quỳ, hiệp chưởng.

          ()恭敬禮拜。退坐一面胡跪合掌。

          (Kinh: Cung kính lễ bái, lui qua ngồi một phía, hồ quỳ, chắp tay).

 

          “Hồ quỳ” là quỳ một gối xuống đất.

 

          (Kinh) Nhi bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc kỷ pháp đương năng chứng thử hiện tiền tam-muội?

          ()而白佛言。世尊。菩薩摩訶薩具足幾法。當能證此現前三昧。

          (Kinh: Bèn bạch đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ mấy pháp th́ sẽ có thể chứng hiện tiền tam-muội này?)

 

          Bồ Tát ở đây chính là người thọ tŕ, yêu mến, tu tập pháp này, khéo thủ hộ pháp này, có thể chứng tam-muội. Bất luận xuất gia hay tại gia, đều dùng danh xưng Bồ Tát để gọi.

 

          (Kinh) Phật ngôn: - Hiền Hộ! Bồ Tát nhược năng thành tựu ngũ pháp, tắc tiện đắc thử hiện tiền tam-muội. Hà đẳng vi ngũ?

          ()佛言。賢護。菩薩若能成就五法。則便得此現前三昧。何等爲五

          (Kinh: Đức Phật nói: - Này Hiền Hộ! Bồ Tát nếu có thể thành tựu năm pháp, liền đạt được hiện tiền tam-muội này. Những ǵ là năm?)

 

          Đức Thế Tôn nhiều lượt nêu ra năm pháp. Dưới đây là pháp thứ nhất.

 

          (Kinh) Sở vị nhất giả cụ thậm thâm Nhẫn, diệt trừ chí tận.

          ()所謂一者具甚深忍。滅除至盡。

          (Kinh: Tức là: Một là trọn đủ nhẫn rất sâu, diệt trừ cho đến hết).

 

          “Thâm nhẫn” là nói đến Tín Nhẫn, Thuận Nhẫn, và Vô Sanh Nhẫn. Tức là đối với hết thảy các pháp, đều có thể tùy thuận, im lặng, nghe theo, tín thuận, tùy thuận, yêu thích. Nói “diệt trừ chí tận” tức là đối với các pháp, không có ǵ để đạt được, mà đối với vô sở đắc, cũng chẳng bị nhiễm ǵ. Đối với không đắm nhiễm, cũng là chẳng nói năng, cũng chẳng có ǵ để biết. Đấy thật sự là cội nguồn của phát tâm, là tướng mạo thanh tịnh của Vô Thượng Bồ Đề tâm. Năm pháp đầu tiên này đều là tướng tâm trí của cội nguồn Vô Thượng Bồ Đề tâm. Nếu chẳng phải là người khéo nói, có thể thuận theo lời này để khéo biểu đạt Vô Thượng Bồ Đề tâm, tức chẳng phải là tạo tác Bồ Đề tâm, mà là chân thật Bồ Đề tâm.

 

          (Kinh) Nhị giả, thật vô sở tận, vô hữu tận xứ.

          ()二者實無所盡。無有盡處。

          (Kinh: Hai là thật ra chẳng có để tận, chẳng có chỗ cùng tận).

 

          Pháp thứ hai tiếp nối của pháp thứ nhất. Đức Thế Tôn hướng dẫn theo thứ tự. Tuy chẳng có sâu hay cạn, vẫn khiến cho người đời có thể tuân theo. Biểu đạt chân tâm, Vô Thượng Bồ Đề tâm, Phật tâm, pháp tánh như thế, chính là có thể biểu đạt trọn đủ, hoàn toàn. Trong hành pháp Ban Châu tam-muội, điều này được nói đầu tiên. Bởi lẽ, muốn chứng tam-muội, năm pháp này là tâm trí phải chọn lựa đầu tiên, chính là cách phát tâm và vận dụng phải chọn lựa đầu tiên.

 

          (Kinh) Tam giả, bổn vô hữu loạn, diệt trừ chư loạn.

          ()三者本無有亂。滅除諸亂。

          (Kinh: Ba là vốn chẳng có loạn mà diệt trừ các loạn).

 

          Vốn là kẻ nhàn tản, vốn vô sự, v́ sao tạo tác? Vốn chẳng có sanh tử, hư vọng tự thiết lập giả dối. Vốn chẳng có phiền năo, kẻ tầm thường tự quấy nhiễu! Chúng ta hăy tự khéo quan sát, v́ vốn không có ǵ để loạn, cho nên khiến cho các loạn được trừ. V́ cớ sao? Các loạn hiện ra sau đó đều là vốn chẳng thể được, do chẳng có tự tánh. V́ thế, các loạn ngay lập tức trừ sạch. V́ sao? V́ vốn là vô sanh.

 

          (Kinh) Tứ giả, bổn vô hữu cấu, diệt trừ chư cấu.

          ()四者本無有垢。滅除諸垢。

          (Kinh: Bốn là vốn chẳng có cấu, diệt trừ các cấu).

 

          Các vị thiện tri thức ơi! Đây là giáo ngôn rất sâu, thanh tịnh, vô nhiễm, chân thật ấn khế tâm trí cội nguồn thanh tịnh của chúng sanh. Nếu sử dụng được, sẽ là phương tiện hiện tiền, chẳng nhờ vào tu chứng, cùng lúc trọn đủ! Đây là giáo ngôn an lập thực thi Vô Thượng Bồ Đề tâm, xa ĺa tạo tác.

 

          (Kinh) Ngũ giả, bổn vô hữu trần, đoạn ly chư trần.

          ()五者本無有塵。斷離諸塵。

          (Kinh: Năm là vốn chẳng có trần, đoạn ĺa các trần).

 

          Tợ hồ là “thuyết” mà chẳng thuyết, ngôn mà vô ngôn, “cấu” là vô cấu, loạn là chẳng loạn, sanh th́ vô sanh, trừ th́ vô trừ, diệt th́ vô diệt. Ngay lập tức gột rửa hết sạch, trọn chẳng có ǵ, ngay lập tức chân thật! Giải quyết từ chỗ căn bản, hết thảy nhân duyên huyễn hóa, ở nơi trí huệ, thanh tịnh, trong diệu dụng của pháp tánh. Đó gọi là “pháp tánh vốn tịch tĩnh, nhất thời diệu dụng sanh khởi”. Muốn chứng tam-muội này như thế, căn cơ rất chín muồi, sẽ chẳng khó khăn!

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc thành tựu Vô Sanh Nhẫn cố, nhi năng đắc thử hiện tiền tam-muội.

          ()賢護。是爲菩薩摩訶薩具足成就無生忍故。而能得此現前三昧。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Đó là Bồ Tát Ma Ha Tát do thành tựu đầy đủ Vô Sanh Nhẫn mà có thể đạt được hiện tiền tam-muội này).

 

          Năm pháp cần phải trọn đủ ấy đều dùng Vô Sanh Nhẫn để miêu tả, tức là nói chẳng đến, chẳng đi, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng thiện, chẳng ác, chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, cũng chẳng nói đến xanh, vàng đỏ, trắng. Cho nên hết thảy các cách nói đối đăi sẽ ngay lập tức tiêu mất, hết thảy giả thiết sẽ ngay lập tức vứt bỏ, hết thảy trần cấu ngay lập tức gột sạch sành sanh. V́ sao? Do vốn vô sanh. V́ vô sanh, cho nên cũng vô diệt, chẳng nhơ mà cũng chẳng tịnh. Trong chân tâm như thế, được thấy pháp tắc. Người hành pháp như thế tất nhiên tương ứng, ắt chứng Bồ Đề, ắt có thể chứng tam-muội hiện tiền này.

          Năm pháp ấy là v́ trọn đủ pháp, tức là vốn sẵn vô tánh, cũng là trọn đủ Vô Sanh Nhẫn. Ở đây, thoạt nh́n dường như ngôn thuyết quá cao, lư giáo quá cao, thật ra chẳng phải vậy! Cao hay thấp chỉ là do tâm tướng của chúng sanh. Nếu có thể tùy thuận, sẽ rất là thuận tiện! Ở đây, nếu muốn tư duy, giả thiết, muốn thông hiểu, sẽ rất khó khăn! Đây là giáo pháp ấn khế, giáo pháp chọn lựa, chẳng nhờ vào tư duy, chẳng cậy vào phương tiện, mà thẳng thừng ấn khế, tức là từ tướng của Vô Sanh Nhẫn, từ diện mạo của Vô Sanh Nhẫn, từ chỗ công đức và lợi ích của Vô Sanh Nhẫn, từ ngay năm pháp ấy mà có thể đắc hiện tiền tam-muội này!

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát phục hữu ngũ pháp năng đắc tam-muội.

          ()復次賢護。菩薩摩訶薩復有五法能得三昧。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát có lại có năm pháp để có thể đắc tam-muội).

 

          Đây là “năm pháp” thứ hai.

 

          (Kinh) Nhất giả, thâm yếm chư hữu, bất thọ chư hành.

          ()一者深厭諸有。不受諸行。

          (Kinh: Một là chán sâu xa các cơi, chẳng thọ các hành).

 

          Trong hết thảy các nhiễm pháp, chán ĺa sâu xa, chẳng có đối đăi. Đối với các hành, hiểu chúng là vô nhiễm, trọn chẳng có ǵ để đạt được!

 

          (Kinh) Nhị giả, nhất thiết sanh xứ, niệm Bồ Đề tâm.

          ()二者一切生處。念菩提心。

      (Kinh: Trong hết thảy chỗ sanh, đều nhớ tới tâm Bồ Đề).

 

          Dù là thiện niệm hay ác niệm, dù là niệm hay phi niệm, phàm niệm hay thánh niệm, trong hết thảy các niệm xứ, đều dùng Bồ Đề tâm để soi tỏ, nhận biết, đấy là chánh tu hành! V́ vậy, nơi pháp tắc thứ hai, chánh tu hành phát khởi, v́ đối với các hành đều chẳng thọ. Do vậy, trong hết thảy các chỗ, vận dụng Bồ Đề tâm, niệm Bồ Đề tâm, quán Bồ Đề tâm, hành Bồ Đề tâm, hiểu rơ Bồ Đề tâm, chế phục Bồ Đề tâm, trong hết thảy các chỗ sanh đă hiển hiện, chỉ dùng Bồ Đề tâm để chọn lựa hiện duyên.

 

          (Kinh) Tam giả, sở sanh thường kiến chư Phật Thế Tôn.

          ()三者所生常見諸佛世尊。

          (Kinh: Ba là đối với chỗ sanh, thường thấy chư Phật Thế Tôn).

 

          Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát hành hai pháp trước, chỗ nào cũng sẽ thấy Phật. Quư vị nói: “Ta đă phát Bồ Đề tâm, v́ sao chẳng thấy?” V́ quư vị chưa thường tu, rốt ráo tu, tu chẳng gián đoạn, tu vô nhiễm, chân thật hành Bồ Đề tâm, thấu hiểu Bồ Đề tâm, chế phục Bồ Đề tâm, chứng Bồ Đề tâm, trọn đủ Bồ Đề tâm. Nếu là như thế, niệm Bồ Đề tâm sẽ là chân thật. Do vậy, thường thấy chư Phật Thế Tôn.

 

          (Kinh) Tứ giả, chung bất đam trước ấm giới chư nhập.

          ()四者終不躭著陰界諸入。

          (Kinh: Bốn là trọn chẳng đắm chấp ấm, giới, các nhập).

 

          Trong các cảnh giới, cho đến thấy tướng quang minh, cho đến trông thấy chư Phật, cũng chẳng đắm nhiễm, càng chẳng cần phải nói tới ấm cảnh, mộng cảnh, huyễn cảnh, vọng cảnh trong thế gian, đều chẳng thể nhập. “Chẳng nhập” là như nh́n vật trong gương, giống như xem tuồng. Chúng ta chẳng cần diễn tuồng, chỉ nên xem tuồng. Nếu nhập vào trong tuồng, sợ rằng tự tâm sẽ mê, đánh mất thân phận! Tham gia làm diễn viên, một chốc buồn, một chốc vui, một chốc phàm, một chốc thánh, luân hồi chẳng ngơi trong sáu đường, mê mất tự tâm. V́ thế, “chẳng nhập” là chẳng trụ vào các cảnh, chẳng đánh mất các cảnh.

 

          (Kinh) Ngũ giả, chung bất ái trước thọ dục lạc sự. Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc ngũ pháp thành tựu tam-muội.

          ()五者終不愛著受欲樂事。賢護。是爲菩薩摩訶薩具足五法成就三昧。

          (Kinh: Năm là trọn chẳng yêu đắm, tiếp nhận các chuyện dục lạc. Này Hiền Hộ! Đó là Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ năm pháp thành tựu tam-muội).

 

          Đối với hữu t́nh trong Dục Giới, điều này rất khó! Khó ở chỗ nào? Dục Giới hữu t́nh lẩn quẩn trong ngũ dục. Chỗ này là chỗ chúng ta phải tự ḿnh xem xét kỹ càng. Khi niệm Phật, khi muốn thấy Phật, đối với niềm vui ngũ dục, hăy nên có tâm ĺa bỏ. V́ lẽ nào? Khi được thấy đức Thế Tôn, thiện căn sẽ thành thục, quư vị sẽ thấy rơ niềm vui ngũ dục trong thế gian quả thật là niềm vui chẳng tương ứng, v́ nó là vô thường!

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát phục hữu ngũ pháp năng đắc tam-muội.

          ()復次賢護。菩薩摩訶薩復有五法能得三昧。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát lại có năm pháp có thể tam-muội).

 

          Đây là “năm pháp” thứ ba.

 

          (Kinh) Nhất giả, thường đương tư niệm vô biên tế tâm.

          ()一者常當思念無邊際心。

          (Kinh: Một là thường nghĩ niệm tâm không ngằn mé).

         

          “Tâm” không bị hạn chế, chẳng có giới hạn.

 

          (Kinh) Nhị giả, thường năng thiện nhập Thiền Định tư duy.

          ()二者常能善入禪定思惟。

          (Kinh: Hai là thường có thể khéo nhập Thiền Định tư duy).

 

          “Chư Thiền Định Định tư duy” và cảm nhận, tư duy của chúng sanh về Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp sai khác tột bậc to lớn. Do tu tŕ bốn loại vô biên mà người ta sẽ đắc Thiền Định thiện xảo. V́ sao? V́ hết thảy thức tâm sẽ tiêu tan, ĺa thoát, không chấp trước ǵ!

 

          (Kinh) Tam giả, phân biệt tư duy nhất thiết chư pháp.

          ()三者分別思惟一切諸法。

          (Kinh: Ba là phân biệt, tư duy hết thảy các pháp).

 

          “Phân biệt” ở đây là khéo phân biệt, quan sát trong pháp tắc vô phân biệt. Vô phân biệt chính là nơi tự tánh tồn tại. Do khéo phân biệt mà liễu đạt tự tánh, chẳng có ǵ phân biệt. Trong vô phân biệt, hiện các thứ tướng phân biệt. V́ thế, nói là “khéo phân biệt hết thảy các pháp”.

 

          (Kinh) Tứ giả, ư chư chúng sanh vô hữu tránh tâm.

          ()四者於諸衆生無有諍心。

          (Kinh: Bốn là đối với các chúng sanh, chẳng có tâm tranh chấp).

         

          Trong pháp tắc tu tŕ Ban Châu tam-muội, cái tâm vô tránh rất quan trọng. Nó chính là căn bản để thủ hộ của người niệm Phật. Có kẻ nói chính ḿnh là người niệm Phật, nhưng chỗ nào cũng là người này đúng, người nọ sai. Như thế sẽ chẳng thể niệm Phật, v́ sao? Phật là đấng thanh tịnh, đấng b́nh đẳng, đấng chân thật, đấng lợi lạc rộng khắp chúng sanh, đấng yêu thương chúng sanh, đấng dẹp khổ cho chúng sanh, đấng ban vui cho chúng sanh, đấng ban phước huệ cho chúng sanh, sẽ chẳng tranh giành với người khác, sẽ chẳng có duyên cớ tranh chấp, sẽ chẳng có tâm tranh chấp, sẽ chẳng có ư tranh chấp!

 

          (Kinh) Ngũ giả, thường dĩ Tứ Nhiếp nhiếp thọ chúng sanh. Sở vị, bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc ngũ pháp thành tựu tam-muội.

          ()五者常以四攝攝受衆生。所謂佈施愛語利行同事。賢護。是爲菩薩摩訶薩具足五法成就三昧。

          (Kinh: Năm là thường dùng pháp Tứ Nhiếp để nhiếp thọ chúng sanh, tức là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Này Hiền Hộ! Đó là Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ năm pháp thành tựu tam-muội).

 

          Tứ Nhiếp Pháp, bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự là thiện xảo để giao tiếp, thiện xảo để nhiếp thọ chúng sanh, là thiện xảo để tôn trọng, là pháp tắc trọng yếu trong tu hành hết thảy Phật pháp, là điều mà hết thảy hữu t́nh học Phật phải nên quen thuộc, phải nên khéo thủ hộ, khéo tu tập. Như thế th́ đoàn thể Tăng chúng và đoàn thể cư sĩ sẽ ḥa hợp, sẽ có ư nghĩa. Trong Tăng chúng và trong cư sĩ hiện thời, tột bậc thiếu khuyết pháp tắc Tứ Nhiếp, lợi ích rộng khắp người khác ít ỏi, bố thí ít ỏi, đồng sự ít ỏi. Kẻ nói “ta cao minh, ta vĩ đại, ta trang nghiêm, ta chánh xác, ta chân thật” nhiều lắm. Đó chẳng phải là đồng sự với người khác. Đồng sự là vô ngă, vô ngă tướng, không có người khác, không có tướng người khác. Như thế th́ sẽ có thể tiêu trừ hết sạch cảm nhận bất b́nh đẳng, v́ có thể khéo thực hiện bố thí, ái ngữ, có thể lợi ích rộng khắp hữu t́nh.

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát phục hữu ngũ pháp năng đắc tam-muội.

          ()復次賢護。菩薩摩訶薩復有五法能得三昧。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát lại có năm pháp có thể đắc tam-muội).

 

          Đây là “năm pháp” thứ tư.

 

          (Kinh) Nhất giả, ư chư chúng sanh sở, thường hành từ tâm.

          ()一者於諸衆生所常行慈心。

          (Kinh: Một là đối với các chúng sanh, thường hành từ tâm).

 

          Các vị Bồ Tát ơi! Đừng coi thường lời dạy này! Chúng ta có thể dùng năm pháp này để đối chiếu với tâm trí và hành vi thường nhật của chính ḿnh xem có trọn đủ hay không? Quư vị sẽ biết v́ sao chính ḿnh chưa chứng tam-muội, chưa đắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền! Chúng ta dùng cái gương vi tế này để soi rọi nghiệp của chính ḿnh, v́ sao nghiệp chẳng chín muồi? V́ sao hành pháp chẳng tương ứng? Thường hành từ tâm đối với các chúng sanh, chẳng phải là một loại, chẳng phải nhân loại, chẳng phải thiên loại, chẳng phải đồng loại, chỉ là đối với chúng sanh thường hành từ tâm!

 

          (Kinh) Nhị giả, ư nhất thiết thời, niệm tu thánh hạnh.

          ()二者於一切時念修聖行。

          (Kinh: Hai là trong hết thảy các thời, nghĩ tu thánh hạnh).

 

          Đừng nên hành hạnh của phàm ngu, hoặc hạnh đọa lạc.

 

          (Kinh) Tam giả, thường hành nhẫn nhục, kiến phá giới giả, hằng sanh kính tâm.

          ()三者常行忍辱。見破戒者恆生敬心。

          (Kinh: Ba là thường hành nhẫn nhục, thấy kẻ phá giới luôn sanh tâm kính trọng).

 

          Điều này mười phần trọng yếu. V́ nhẫn nhục, cho nên thấy kẻ phá giới vẫn sanh ḷng tôn trọng, yêu mến. V́ sao nói như thế? Trong giáo ngôn Đại Thừa của đức Thế Tôn đă dạy: “Tŕ giới bất kính, phạm giới bất sỉ” (chẳng kính người tŕ giới, chẳng sỉ nhục kẻ phạm giới). V́ sao? Do cái tâm thanh tịnh, do b́nh đẳng, do có thể nhẫn nhục hết thảy sai biệt. Đây là một sự tu tŕ tâm lư hết sức trọng yếu, tức là tâm lư thanh tịnh, b́nh đẳng. Hăy nên tu tŕ như thế, sự tu tŕ ấy mười phần trọng yếu. V́ mọi phàm nhân hễ thấy kẻ khác có lỗi, tâm họ sẽ sanh sân oán, bài xích, ĺa bỏ. Đối với pháp như thế, chẳng thể đạt được an lạc thật sự và tâm từ bi rốt ráo, tâm b́nh đẳng chẳng thể chọn lựa sanh khởi.

 

          (Kinh) Tứ giả, ư tự ḥa thượng, A Xà Lê sở, bất thuyết kỷ năng.

          ()四者於自和尚阿闍梨所。不說己能。

          (Kinh: Bốn là đối với ḥa thượng, A Xà Lê của chính ḿnh, chẳng khoe tài năng của bản thân).

 

          Hết sức trọng yếu! V́ sao? Do tôn sư trọng đạo! V́ nếu đối với “tự ḥa thượng, A Xà Lê sở”, khoe tài năng của chính ḿnh, tức là khoe khoang, là khinh miệt thầy, là báng pháp. V́ sao? Do cái tâm kiêu mạn mà ra, do cái tâm tà kiến mà ra. Trong quá khứ, chuyện này được gọi“khi nhục sư trưởng” (dối gạt, làm nhục sư trưởng). Tôi nêu một thí dụ để mọi người dễ cảm nhận hơn. Chẳng hạn như có một người giúp kẻ khác buôn bán, cho kẻ đó mượn tiền, lót đường cho kẻ đó buôn bán. Sau đó, kẻ đó do buôn bán mà phát tài, bèn tới trước mặt người đă giúp đỡ hắn, bô bô: “Nay tao rất có tiền! Tao nói cho mày biết…” Tự huênh hoang dạy đời, khiến cho người kia cảm thấy kẻ đó chẳng tử tế, chẳng tương ứng. V́ sao? Kẻ đó chẳng được người khác giúp đỡ, đức hạnh sẽ chẳng thể an lập. Nếu có thể an lập, hăy nên thanh tịnh thủ hộ, cảm kích thủ hộ. V́ thế, chẳng khoe tài năng của chính ḿnh rất quan trọng.

          Tôi nhớ có lần tôi đến đạo tràng của vị ân sư thế độ. Sư phụ nói: “Nay con làm pháp sư, nghe nói con giảng kinh khá lắm, hăy đến đây giúp thầy giảng kinh”. Tôi thưa: “Thầy chớ nên giảm tổn đệ tử của chính ḿnh! Thầy nói như thế, con chỉ có nước đỏ mặt mà thôi!” Trước mặt sư phụ, đối đáp nhân duyên như thế làm sao được? Tôi chỉ có thể cảm ơn sư trưởng đă giáo huấn, d́u dắt, ban tặng, chẳng thể nói chi khác.

          V́ thế, đối trước ḥa thượng, A Xà Lê, chẳng thể khoe tài năng của chính ḿnh. Đấy là điều chúng ta phải tránh, phải chú ư chỗ này. Nếu không chú ư, sẽ có tâm tăng thượng mạn, thậm chí sanh tâm tà kiến, như thế th́ sẽ tổn hại thiện căn của quư vị. Sư trưởng sẽ không cho quư vị cơ hội, hoặc sẽ chẳng nói pháp giáo cho quư vị. Dẫu có giáo ngôn thiện xảo rất sâu, thầy cũng chẳng truyền dạy quư vị. V́ sao? Như thế sẽ khiến cho quư vị bị đọa lạc, thương tổn, giống như kẻ giàu có ăn nhậu, chơi bời, cờ bạc, chẳng tương ứng! V́ thế, người khéo ǵn giữ gia sản, sẽ để cho đứa con hiếu thuận thủ hộ gia sản, truyền thừa cho đời sau, hoặc lợi ích thế gian. Cũng giống như vậy, nếu chúng ta chẳng thể khéo vận dụng pháp tắc, sư trưởng sẽ ngăn trở nhân duyên của chúng ta. Đó là chuyện tất nhiên. Khinh mạn sư trưởng là chẳng tương ứng, bất cứ người học Phật nào cũng đều nên chú ư điểm này!

 

          (Kinh) Ngũ giả, ư nhất thiết xứ, bất cảm khinh tha. Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc ngũ pháp, tắc năng chứng thị hiện tiền tam-muội.

          ()五者於一切處不敢輕他。賢護。是爲菩薩摩訶薩具足五法則能證是現前三昧。

          (Kinh: Năm là trong hết thảy các chỗ, chẳng dám khinh mạn người khác. Này Hiền Hộ! Đó là Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ năm pháp sẽ có thể chứng hiện tiền tam-muội này).

 

          Càng trọng yếu hơn! Trong hành pháp Ban Châu, chớ nên coi thường hết thảy chúng sanh, dẫu là hữu t́nh tội ác tột bậc, điên đảo cùng cực, cuồng vọng cùng cực, phạm lầm lỗi cùng cực, cũng chớ nên khinh kẻ đó. Chúng ta chẳng có lư do ǵ để coi thường sự tồn tại và giá trị của bất cứ sanh mạng nào! V́ sao? Quư vị chẳng biết kẻ đó là do vị Bồ Tát nào thị hiện, do vị thiện tri thức nào thị hiện, hoặc do nhân duyên nào thị hiện, khi quư vị chẳng thấy thấu suốt, tuyệt đối phải nên tôn trọng hết thảy, trừ phi biết túc mạng trong bao kiếp lâu xa giống như đức Thế Tôn. Nếu không, quyết định chớ nên [khinh thường].

          Trong lúc đức Thế Tôn tại thế thuyết pháp, tôn giả Ca Diếp đă mấy lần thưa với đức Thế Tôn lời lẽ như thế. Có một lần, các vị đại A La Hán thấy một hữu t́nh già khọm muốn xuất gia, mỗi vị đều cho ông cụ đó chẳng có thiện căn để xuất gia. [Các Ngài quán thấy] suốt một kiếp, hai kiếp, cho đến tám vạn đại kiếp, xét theo nhân duyên, chẳng thấy ông lăo có mảy may thiện căn, làm sao có thể xuất gia cho được? Cụ già ấy được gặp đức Thế Tôn, đức Thế Tôn quán thấu triệt thiện căn, phước đức, nhân duyên của người ấy, biết bao kiếp lâu xa về trước, cụ là tiều phu. Có con cọp đói toan ăn thịt. Cụ liền trèo lên cây. Cọp đói quá sức, nhe nanh gặm cây. Cụ già trong ḷng hoảng hốt, bèn niệm một câu “nam-mô Phật”. Do thiện căn từ bao kiếp lâu xa về trước ấy, đức Thế Tôn cho phép cụ xuất gia. Khi cụ xuất gia, liền chứng A La Hán. Lúc ấy, các vị đại A La Hán đều khó hiểu, nói v́ sao vậy? “Bạch Thế Tôn! Người này trong tám vạn đại kiếp chẳng có mảy may thiện căn nào, v́ sao đức Thế Tôn vừa nói, ông ta lập tức chứng A La Hán? Rất là bất công!” Đức Thế Tôn bèn tuyên nói với các vị A La Hán từ bao kiếp lâu xa về trước, người tiều phu này thiện căn xưng “nam-mô Phật”. Do [thiện căn ấy] đă vượt ra ngoài tám vạn đại kiếp, các vị A La Hán chẳng thể suy xét sâu hơn, nhưng đức Thế Tôn có thể thấy thấu triệt, khiến cho thiện căn của người ấy thành thục. Ngay khi đó, tôn giả Ca Diếp đảnh lễ dưới chân đức Phật, tán thán rằng: “Lành thay! Đức Thế Tôn oai đức hy hữu, đă v́ con mở kho công đức thù thắng, khiến cho con được thấy chỗ vô tận thiện căn của chúng sanh. Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau, chúng con chẳng thể khinh báng hết thảy kẻ hữu duyên, sẽ coi hết thảy nhân duyên giống như Thế Tôn”. Đó là tôn giả Ca Diếp ở chỗ đức Thế Tôn, đối với chuyện đức Thế Tôn đă v́ chúng sanh chỉ ra lợi ích chân thật của bảo tạng trân quư, bèn ngay lập tức thốt ra lời cung kính thọ tŕ. Ngài nói ǵ vậy? Tôn trọng hết thảy hữu t́nh; đấy là bảo tạng.

          Chúng ta nói: “V́ chúng sanh mở kho báu vô tận”, kho báu vô tận ở chỗ nào? Chính là tôn trọng hết thảy. Các vị thiện tri thức ơi! Đừng coi các thứ duyên là tạp duyên, đừng coi các thứ duyên là ác duyên. Nếu chúng ta mở con mắt trí huệ, hết thảy các hiện duyên đều là duyên trí huệ. Nếu chúng ta mở con mắt “trọn đủ”, hết thảy các hiện duyên đều là trân bảo. V́ kẻ mù chẳng thể thấy, do pḥng tối đóng kín, cho nên bị nhiều thứ trân bảo làm bị thương. Trân bảo ở nơi đó cũng trở thành ác duyên. V́ sao là ác? Do con mắt trí huệ chẳng mở! Năm pháp trọn đủ ấy nhất là đối với chúng ta là những kẻ phàm ngu hữu t́nh đang hành tŕ Ban Châu lại càng trọng yếu, nhất là trong thời đại này, chúng ta tự ḿnh hèn kém, khiến cho kẻ khác hèn kém. Mọi người hăy nên tự khéo quan sát, thủ hộ bảo tạng ấy.

Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh giảng kư

Phần 9 hết

 



[1] Phú-già-la (Pudgala, Pudgalāstikāya) c̣n được phiên âm là Bổ Đặc Già La, Phúc Già La, Phất Già La, hay Phổ La. Đôi khi c̣n dịch nghĩa là Số Thủ Thú, Hữu T́nh, Chúng Sanh, hoặc Ngă, có ư nghĩa chánh yếu là chủ thể xoay chuyển luân hồi trong lục đạo, tức là cái Ngă đang bị vọng chấp, vô minh ràng buộc. Bộ phái Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ cho rằng Phú Già La chỉ là giả danh của Ngũ Ấm, chẳng có thực chất (Học phái Trung Quán kế thừa tư tưởng này). Độc Tử Bộ th́ chủ trương Phú Già La là một cái Uẩn “phi tức, phi ly”, chẳng thể nói là Ngă, nhưng nó mang theo các nghiệp từ đời trước đi luân hồi. Nó là chủ thể có tánh chất luân hồi, có kư ức, và là chủ thể của sáu thức.

[2] Chủng tử (Bīja, seed syllable) của A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát đều là chữ Hrī (ह्री) thường được dịch là Tâm. Trong Mật Tông, khi quán chủng tử của chữ này th́ dùng văn tự Tất Đàm (Siddhaṃ). Thông thường, để quán Bổn Tôn, hành giả quán tự tâm có một ṭa sen, trên đó, có mặt trời và mặt trăng xếp chồng lên nhau. Trên hai vầng nhật nguyệt ấy, xuất hiện chữ chủng tử. Chữ Hrī của Quán Thế Âm Bồ Tát là màu trắng, chữ Hrī của A Di Đà Phật là màu đỏ. Chữ ấy sẽ dần dần biến thành h́nh tượng Bổn Tôn trong pháp hành giả đang tu. Chẳng hạn như khi quán chú Lục Tự Đại Minh th́ quán chiếu chữ Hrī phóng quang minh sáu màu, mỗi màu chiếu vào một đường tương ứng trong lục đạo (chẳng hạn màu trắng ứng với thiên đạo, màu xanh ứng với A Tu La đạo…). Sau đó, chủng tử biến thành Quán Thế Âm Bồ Tát bốn tay, thân có màu trắng, ngồi xếp bằng trên ṭa sen, vai khoác da nai, mặc quần ngũ sắc, thiên y trắng có các dải lụa vờn quanh. Hai tay Ngài chắp trước ngực ôm châu Như Ư Ma Ni, hai tay kia giơ ngang vai, một tay cầm hoa sen, tay kia cầm tràng hạt, từ trong tâm Bổn Tôn lại hiện ra chủng tử, lưu xuất vô tận bổn tôn Quán Thế Âm Bồ Tát có h́nh dạng giống hệt như thế, trùng trùng vô tận… Mỗi hóa thân ấy lại ngự trên đỉnh đầu của mỗi chúng sanh, cảm hóa họ thấm đẫm trong tâm từ bi. Bản thân hành giả cũng trở thành Quán Thế Âm phóng quang cứu độ chúng sanh y hệt. Sau đó lại lần lượt quán các Bổn Tôn lưu xuất ấy hồi nhập vị Bổn Tôn chính. Vị Bổn Tôn chính lại trở thành chủng tử, chủng tử tan biến vào vầng nhật nguyệt nơi hoa sen trong tâm. Cuối cùng toàn thể biến thành không, rỗng rang chẳng c̣n ǵ.

[3] Suy luận loại suy là dựa trên hai sự vật giống nhau để suy ra các đặc tánh tương tự. Chẳng hạn như Trái Đất là hành tinh có khí quyển bao bọc, có chứa nước. Hỏa Tinh (Mars) cũng có khí quyển, và cũng là hành tinh. Suy ra, Hỏa Tinh cũng có thể có nước.

[4] Liễu Tông Nguyên (773-819), tự là Tử Hậu, là một văn học gia, tư tưởng gia thời Đường. Ông quê Hà Đông, tỉnh Sơn Tây, làm quan đến chức Giám Sát Ngự Sử đời Đường. Do tích cực tham dự cuộc cách tân do Vương Thúc Văn đề xướng dưới đời Đường Thuận Tông (băi bỏ quy chế cho phép thái giám can dự triều chánh, trừ bỏ các phe đảng thái giám trong triều đ́nh, bỏ chế độ tiến cống, băi bỏ nữ nhạc v.v…) Cuộc cách tân thất bại, ông bị biếm làm Tư Mă Vĩnh Châu (Hồ Nam), rồi bổ làm Thứ Sử Liễu Châu (nay thuộc Quảng Tây) và mất tại đó. Ông để lại tác phẩm Liễu Hà Đông Tập (45 quyển) và Cổ Kim Thi (gồm 140 bài). Thơ của ông được khen ngợi là t́nh cảm chân thành, thi pháp điêu luyện, có nhiều bài phê phán hiện thực xă hội thối nát thời bấy giờ. Ông được coi là người có ảnh hưởng mạnh nhất đến sáng tác văn xuôi của Trung Hoa.

[5] Tám pháp tức là Bát Kính Pháp (Aṭṭha-garudhamma) c̣n dịch là Bát Tôn Pháp, Bát Tôn Trọng Pháp, Bát Tôn Sư Pháp, Bát Kính Giới, Bát Tôn Kính Pháp, hoặc Bất Khả Việt Pháp, là các quy định tỳ-kheo-ni phải thể hiện sự tôn trọng đối với tỳ-kheo. Theo thánh điển Pali của Phật giáo Nam Truyền, khi đức Phật thành đạo vào năm thứ năm, vua Tịnh Phạn qua đời, bà Đại Ái Đạo đă xin xuất gia trong dịp đức Phật về thành Ca Tỳ La Vệ chủ tŕ tang lễ cho cha, nhưng đức Thế Tôn ba lần cự tuyệt. Sau đó, đức Phật đi sang thành Tỳ Xá Ly, bà Đại Ái Đạo dẫn theo mấy trăm thị nữ, đi bộ hơn 250 cây số theo chân Phật đến thành Tỳ Xá Ly. Họ đều tự cạo tóc, đắp y, cầu xin Phật cho phép xuất gia, kêu khóc ngoài cửa tinh xá. Ngài A Nan thương xót cầu xin ba lần, đức Phật đều từ chối. A Nan liền hỏi nữ chúng có thể chứng Tứ Hướng, Tứ Quả hay không? Đức Phật bảo được. A Nan liền nhắc đến ân dưỡng dục của bà Đại Ái Đạo để cầu xin. Đức Phật cho biết chánh pháp vốn dài một ngàn năm, nếu cho nữ chúng xuất gia, sẽ giảm mất 500 năm. Nếu nữ chúng tuân thủ Bát Kính Pháp, chánh pháp có thể tồn tại một ngàn năm. Nữ chúng phải hành Bát Kính Pháp th́ mới có đủ tư cách là tỳ-kheo-ni. Bát Kính Pháp như sau:

1. Dẫu tỳ-kheo-ni trăm tuổi, trông thấy tỳ-kheo mới xuất gia, vẫn phải đứng dậy nghênh đón, lễ bái, trải tọa cụ sạch sẽ, mời vị ấy ngồi.

2. Tỳ-kheo-ni không được an cư kết hạ tại một địa phương nếu không có tỳ-kheo ở gần đó.

3. Vào mỗi dịp bố-tát (uposattha, tụng giới), tỳ-kheo ni phải cử người sang chỗ tỳ-kheo cầu Tăng chúng sai một vị đến thuyết giới và dạy bảo.

4. Khi An Cư mùa Hạ kết thúc, phải cử người sang chỗ Tăng chúng cầu ba sự Tự Tứ thấy, nghe, và nghi.

5. Tỳ-kheo-ni không được phép mắng chửi tỳ-kheo.

6. Tỳ-kheo-ni không được cử tội của tỳ-kheo, rêu rao lỗi của họ, nhưng tỳ-kheo được quyền nói lỗi của tỳ-kheo-ni.

7. Thức-xoa-ma-na đă học giới (sáu pháp của Học Giới Nữ) phải cầu thọ đại giới từ chúng Tăng (tỳ-kheo và tỳ-kheo ni).

8. Tỳ-kheo ni hễ phạm Tăng Tàn, phải đối trước hai bộ Tăng sĩ (tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni) hành Ma Na Đỏa (ư hỷ) trong nửa tháng.

Hiện thời, tại Đài Loan có một số tỳ-kheo-ni do chịu ảnh hưởng của phong trào nữ quyền và tâm đấu tranh thế tục quá nặng, đă chủ trương Bát Kính Pháp là bất b́nh đẳng, trọng nam, khinh nữ, xướng suất phế trừ Bát Kính Pháp. Ngày 31 tháng 03 năm 2001, tỳ-kheo-ni Thích Chiêu Huệ ở Đài Nam đă xướng suất phong trào này, nêu ra luận thuyết Bát Kính Pháp không do đức Phật chế định, cũng như cho rằng những giới trong giới Tỳ Kheo Ni nhỏ nhặt có thể bỏ. Bà ta cho rằng Bát Kính Pháp kỳ thị nữ chúng, xâm phạm nữ quyền, tăng trưởng tâm kiêu mạn của tỳ-kheo.

[6] A Trát Lê là biến âm của chữ A Xà Lê trong ngôn ngữ người Thái tại Vân Nam, cũng giống như danh xưng Ajahn hoặc Acharn trong tiếng Thái Lan (để gọi các vị Tăng có từ mười tuổi hạ trở lên).