Đại
Phương Đẳng Đại Tập
Hiền
Hộ Kinh giảng kư
Phần
9
大方等大集賢護經講記
慈法法師
Chủ giảng:
Pháp sư Từ Pháp
Địa điểm:
Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ
ngày 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt:
Đức Phong và Huệ Trang
(Kinh)
Hiền Hộ! Dĩ thị nghĩa cố, chư Bồ
Tát đẳng, nhược dục thành tựu tam-muội
vương giả.
(經)賢護。以是義故。諸菩薩等。若欲成就三昧王者。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Do bởi nghĩa ấy, các vị Bồ Tát nếu muốn
thành tựu tam-muội vương).
Niệm
Phật tam-muội là vua của các tam-muội; đây là nói
quyết định, cho đến Thập Phương
Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội cũng được thành tựu
bởi Niệm Phật tam-muội. Công đức ấy chẳng
hai, chẳng khác, chỉ là Thập Phương Chư Phật
Tất Giai Hiện Tiền do kinh Ban Châu Tam Muội tuyên nói
(kinh Hiền Hộ mà nay chúng ta đang học là một bản
dịch của kinh ấy) [đặc biệt ở chỗ] chẳng ĺa cơi
này mà thấy mười phương chư Phật.
Đây là một giáo pháp bất cộng. Các pháp môn khác
cũng có giáo pháp [quán tưởng, hoặc xưng niệm
danh hiệu] của một vị bổn tôn nào đó, một
vị thiện tri thức nào đó, một vị Phật
nào đó, hoặc [quán tưởng] một h́nh tượng
nào đó, chỉ có [đối tượng để tu tŕ
trong] pháp này là Thập Phương Chư Phật Tất
Giai Hiện Tiền tam-muội. Lời dạy rộng lớn
như thế chỉ có kinh Ban Châu Tam Muội lựa chọn
và tuyên nói. Đây thật sự là một bảo điển,
khó có, khó gặp! Có thể nghe lời dạy như vậy,
t́m cầu sự tu tŕ như vậy th́ chính là chẳng thể
nghĩ bàn. Như trong phần trước, chúng tôi đă
nói công đức và lợi ích của Ban Châu tam-muội
đối với người hướng đến, mong
cầu được truyền dạy pháp này, đọc
tụng kinh điển này, tuyên nói cho người khác, cho
đến chứng đắc tam-muội này cũng là công
đức chẳng thể nghĩ bàn, chư Phật dẫu
tán thán cũng chẳng thể tận.
(Kinh)
Thường đương chuyên tâm tinh cần quán sát bỉ
Tứ Niệm Xứ.
(經)常當專心精勤觀察。彼四念處。
(Kinh: Thường
nên chuyên tâm siêng ṛng quan sát Tứ Niệm Xứ).
Tứ
Niệm Xứ (Smṛtyupasthāna) ở đây khác với Tứ Niệm Xứ của
Thanh Văn. Tứ Niệm Xứ [của Thanh Văn] là “quán thân bất
tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán
pháp vô ngă”. Tứ Niệm Xứ ở đây là quán
như thế nào?
(Kinh)
Hiền Hộ! Vân hà Bồ Tát quán Tứ Niệm Xứ? Hiền
Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát thường đương chuyên
tâm quán sát thân hạnh, tất cánh bất kiến nhất
thiết chư thân.
(經)賢護。云何菩薩觀四念處。賢護。菩薩摩訶薩。常當專心觀察身行。畢竟不見一切諸身。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Thế nào là Bồ Tát quán Tứ Niệm
Xứ? Này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát thường nên
chuyên tâm quan sát thân hạnh, rốt ráo chẳng thấy hết
thảy các thân).
Ở
đây là quan sát, chẳng phải là dễ dăi, hời hợt
phủ nhận. Trong giáo ngôn của chư Phật Thế
Tôn, chẳng buộc chúng ta dễ dăi, hời hợt chấp
nhận một pháp tắc, cũng như dễ dăi mù quáng
tuân theo một pháp tắc, mà là để cho chúng ta tự
ḿnh xét kỹ, quan sát, quan sát đúng như lư, quan sát đúng
như lời dạy, quan sát bằng trí huệ, quan sát bằng
từ bi, trọn chẳng quan sát giả dối, mù quáng.
Quan sát như vậy có thể khiến cho chúng ta chọn lựa
pháp tắc, có thể an trụ trong lợi ích chân thật.
(Kinh)
Thường đương chuyên tâm quan sát thọ hạnh,
nhi diệc bất kiến nhất thiết chư thọ.
(經)常當專心觀察受行。而亦不見一切諸受。
(Kinh:
Thường nên chuyên tâm quan sát thọ hạnh, mà cũng chẳng
thấy hết thảy các thọ).
Một là quan sát
thân hạnh, hai là quan sát thọ hạnh.
(Kinh)
Thường đương nhất tâm quán sát tâm hạnh,
nhi diệc bất kiến nhất thiết chư tâm.
(經)常當一心。觀察心行。而亦不見一切諸心。
(Kinh:
Thường nên nhất tâm quán sát tâm hạnh, mà cũng chẳng
thấy hết thảy các tâm).
Thiện
tri thức ơi! Chớ nên dễ dăi, hời hợt coi nhẹ
môn Tứ Niệm Xứ này! Trong giáo ngôn của Thanh Văn,
đức Thế Tôn đă có lời dạy thanh tịnh về
Tứ Niệm Xứ dành cho các vị tỳ-kheo. Ngài nói: “Các
thầy tỳ-kheo! Hăy nên an trụ trong Tứ Niệm Xứ
như thế, hành các thiện pháp an lạc”. Tứ Niệm
Xứ là pháp ắt phải tu của các vị sư phụ
xuất gia trong quá khứ, “quán thân bất tịnh, quán thọ
là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngă”. Quán
như thế, sẽ đạt được tâm trí tịch
tĩnh, trụ trong an lạc rốt ráo, xa ĺa thế gian,
xa ĺa quá khứ, xa ĺa hết thảy đối đăi
đắm nhiễm, có thể khiến cho tự tâm tịch
diệt, có thể giải thoát ngay trong đời hiện
tại. Môn Tứ Niệm Xứ này có ư nghĩa. Chúng ta chớ
nên xem nhẹ nó. Nếu có thể tùy thuận pháp tắc
như thế, chúng ta sẽ có thể thực hiện nó.
(Kinh)
Thường đương nhất tâm quán sát pháp hạnh,
nhi diệc bất kiến nhất thiết chư pháp.
(經)常當一心觀察法行。而亦不見一切諸法。
(Kinh:
Thường nên nhất tâm quan sát pháp hạnh, mà cũng chẳng
thấy hết thảy các pháp).
Tứ
Niệm Xứ ở đây khác với Tứ Niệm Xứ
của Thanh Văn. Đấy là bốn phép Quán được
lập ra cho các hữu t́nh hành Bồ Tát đạo. Nếu
một khi đă có thể lựa chọn bốn phép Quán chẳng
có tự tánh này, Định kiến (kiến giải do tu
Định) sanh khởi, chúng ta có thể dùng ấn Thật
Tướng để ấn khế vạn sự vạn
vật, ḥng đạt được giải thoát. Như thế
th́ trong hết thảy hiện duyên, có thể nói là thường
luôn tu, tu cho đến hết thọ mạng, tu ngay trong hiện
tiền, tu chẳng gián đoạn, tu chân thật, tu cung kính, thường nói là “như pháp tu
hành, thành tựu Bồ Đề”.
(Kinh)
Hiền Hộ. Như thị đẳng sự, thùy
năng tín giả.
(經)賢護。如是等事。誰能信者。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Chuyện như thế, ai có thể tin
được?)
Chuyện
như vậy ai có thể tin tưởng? Trên thực tế,
đức Thế Tôn vẫn nêu ra một tỷ dụ,
chẳng phải là lựa chọn, để khiến cho mọi
người trở về pháp vị như thế.
(Kinh)
Duy bỉ lậu tận A La Hán, cập dĩ A Tỳ Bạt
Trí chư Bồ Tát đẳng.
(經)唯彼漏盡阿羅漢。及以阿毗跋致諸菩薩等。
(Kinh:
Chỉ có lậu tận A La Hán và các vị Bồ Tát A Tỳ
Bạt Trí).
A
La Hán là bậc đạo nghiệp chẳng thoái chuyển;
cho nên hoàn thành tất cả sự tu tập ngay trong một
đời, phạm hạnh đă lập, không bị trói buộc
bởi hậu hữu (thân sau). A Bệ Bạt Trí (A Tỳ
Bạt Trí, Avaivartika) đă thành tựu
công đức chân thật của ba thứ bất thoái, bao gồm Vị Bất Thoái, Hạnh
Bất Thoái, và chẳng thoái chuyển nơi pháp tắc.
Chúng ta nói Bát Địa Bồ Tát trụ trong A Bệ Bạt
Trí, đạt được chẳng thoái chuyển.
Giáo
ngôn Tịnh Độ từ đầu tới cuối
đều tuyên nói: Nương vào nguyện lực của
Phật, nương vào pháp giáo rất sâu của Phật, hồi
thí quả địa, cho đến khiến cho Thập
Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền
tam-muội được thành tựu như thế. Đó
cũng là hạnh của bậc A Bệ Bạt Trí. Nói theo
phía phàm phu, mong đạt được thánh đạo hạnh
của A Bệ Bạt Trí, sẽ chẳng thể đạt
được ngay trong một đời. V́ sao? Không chỉ
là một đời, một mạng, mà nhiều đời,
nhiều kiếp, mới ḥng đạt được công
đức chẳng thoái chuyển của A Bệ Bạt
Trí. Muốn đạt được A Bệ Bạt Trí
ngay trong một đời, trong đời này chỉ có cách nương theo Tịnh Độ, chỉ có
nương theo giáo ngôn về quả địa là pháp Ban Châu có công đức chẳng thể nghĩ bàn
như vậy th́ mới có thể thành tựu.
Đương nhiên, cũng có các giáo thuyết khác, tức
là “thành tựu ngay trong một đời” cũng
thường tuyên nói trong các giáo pháp khác thuộc quả
địa [như Mật Tông chẳng hạn]. Giáo ngôn Tịnh
Độ là giáo ngôn thuộc về quả địa;
đó là điều chắc chắn, chẳng thể
nghi ngờ! [Giáo ngôn Tịnh Độ] muốn khiến cho hết
thảy chúng sanh đắc A Bệ Bạt Trí ngay trong một
đời, hoặc có thể nói là thành tựu A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề trong một đời.
V́ sau khi đă có thể đạt được công đức
và lợi ích to lớn do văng sanh quốc độ Cực Lạc
của A Di Đà Phật, [người đă văng sanh] sẽ
có thọ mạng vô lượng liên tục rộng khắp
đến tận đời vị lai, cho nên sẽ trực
tiếp thành tựu Bồ Đề. Từ Sơ Phát Tâm
cho tới khi thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề, chẳng vượt khỏi một đời.
Đó là tướng đại công đức. Tâm lực của
Bồ Tát sẽ chẳng thể thấu đạt công
đức ấy, hết thảy hiền thánh chẳng thể
do sức của chính ḿnh mà biết nổi! Hết thảy
Bồ Tát, hết thảy hiền thánh tụ tập cùng một chỗ, cùng nhau nghĩ bàn, phân tích cặn kẽ
trí huệ chẳng thể nghĩ bàn ấy cũng đều
chẳng thể bén mảng được!
(Kinh)
Hiền Hộ! Thị trung nhất thiết ngu hoặc phàm
phu, ư bỉ Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội,
thường đương tư duy chư Phật Thế
Tôn, bất đắc sanh trước.
(經)賢護。是中一切愚惑凡夫。於彼唸佛現前三昧。常當思惟諸佛世尊。不得生著。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Hết thảy phàm phu ngu hoặc trong ấy, đối với Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội, hăy
thường nên tư duy chư Phật Thế Tôn, đừng
sanh chấp trước).
Tư
duy mà chẳng sanh chấp trước, lành thay! Lời này rất
sâu, chẳng thể nghĩ bàn! V́ sao? Do chẳng thể
nghĩ bàn, khiến cho chúng ta thường tư duy. Tư
duy điều ǵ vậy? Tư duy về sự hồi thí,
ân đức, diệu tướng, và lời dạy của
đức Thế Tôn, nhưng chẳng đắm nhiễm.
“Chẳng chấp trước” tức là chẳng chấp
trước những thứ chúng sanh hay biết, những
hành vi đă biết, sự được mất, cảm
xúc, tức là chỗ bất khả đắc (chẳng thể đạt được) trong Tứ Niệm
Xứ đă được nói trong phần trước:
Không thấy hết thảy các pháp, không thấy hết thảy
các Thọ, cho đến chẳng đắm nhiễm hết
thảy thân, thọ, tâm, pháp v.v… Do đó, nói là “không thấy”.
“Không thấy” có nghĩa là “chẳng nhiễm”. V́ thế, thường tư duy, thường quán mà
chẳng nhiễm. Đây là một yêu cầu hành pháp, mà cũng là một pháp tắc đặc biệt trọng
yếu.
Thường
là chúng ta đối với một hành pháp, hễ tư duy
bèn đắm nhiễm, bèn chấp trước. V́ thế, “thị
trung, nhất thiết ngu hoặc phàm phu, ư bỉ Niệm
Phật Hiện Tiền tam-muội, thường
đương tư duy Phật Thế Tôn, bất đắc
sanh trước” (ở trong ấy, hết thảy phàm
phu ngu hoặc đối với Niệm Phật Hiện Tiền
tam-muội, thường nên tư duy chư Phật Thế
Tôn mà chẳng sanh chấp trước). Tức là phàm phu ngu
hoặc v́ ưa chấp trước, đó là “ngu hoặc”.
Nếu chúng ta tư duy Niệm Phật tam-muội, tư
duy cơ chế giáo ngôn của chư Phật Thế Tôn,
tư duy về chư Phật Thế Tôn như thế mà chẳng
sanh chấp trước. Đó là đă vượt khỏi
phàm ngu, tức là đă vượt thoát sự chướng
ngại trong tâm trí của phàm phu ngu hoặc.
Trưa
hôm nay, khi mọi người học Cổ Văn, đă
bàn đến vấn đề quản lư và quản chế.
Phật pháp chẳng quản chế chúng ta, mà là khiến
cho chúng ta an lạc. Sự giáo dục và sự điều
dưỡng đúng đắn th́ phải có thể khiến
cho chúng ta an lạc nơi pháp, tâm trí điều phục,
nhu thuận, chẳng cảm thấy bị ép bức, chẳng
bị hạn chế, được an trụ trong công
ước chung của cộng đồng. Đó là h́nh thức
quản lư đúng lẽ, là quản lư có trí huệ, là một
loại h́nh thức giao tiếp từ bi. C̣n quản chế th́ sao?
Áp bức, dồn ép lẫn nhau, tổn hại và hạn chế
lẫn nhau, khiến cho con người đau khổ.
Đó chẳng phải là Phật pháp, nhưng trong nhân duyên
hiện thời, phần
đông là kẻ ham muốn quyền lợi, phần nhiều
là kẻ chẳng biết pháp từ bi thiện xảo, phần
nhiều đắm nhiễm. Do vậy, hạn chế lẫn
nhau, [khiến cho] kẻ khác đau khổ, chẳng thể
cảm nhận sự thủ hộ do trí huệ và từ
bi của Phật pháp ban tặng. Nếu đă gặp gỡ
Phật pháp, mà c̣n sanh ra các nỗi đau khổ ấy, th́
c̣n dính dáng ǵ đến Phật pháp nữa? Đó chính là
trái nghịch chánh nhân xuất thế của Phật pháp.
Chư Phật xuất thế nhằm dẹp khổ, ban
vui, là trí huệ, từ bi, và thiện xảo. Hiện thời,
trong việc quản lư người xuất gia và tại
gia, trong cơ chế học Phật, có nhiều sự hạn
chế, c̣n chuyện mọi người giao tiếp trong t́nh huống
yêu mến, bảo vệ, tôn trọng, cũng như những
người cùng nhau điều hợp một pháp tắc, thủ
hộ đạo tràng, thủ hộ một nguyên tắc cộng
đồng th́ càng ngày càng thưa thớt!
Trên cơ sở rất thưa thớt ấy, càng cần
thiết chúng ta phải nên đứng ra, vận dụng
hai pháp phương tiện bi và trí đối với hữu
t́nh. Cũng có nghĩa là hiện thời, người tạo
sự thuận tiện cho kẻ khác rất ít ỏi, mà người
ước thúc kẻ khác rất nhiều.
Trong cơ chế như thế, chúng ta càng phải nên thật
sự đứng ra vận dụng trí huệ, vận dụng
từ bi để lợi ích rộng khắp hiện tiền
hữu t́nh! Tôn trọng hiện tiền chính là tôn trọng
tự tâm. V́ sao? Do tâm cảnh nhất như. Đối với
cảnh giới hiện tiền của chính ḿnh, chúng sanh hiển
hiện trong cảnh giới hiện tiền cho đến
hữu duyên biến hiện, nếu chẳng tôn trọng, sẽ
là chẳng tôn trọng tự tâm, tức là từ trong pháp
chẳng đối đăi mà nẩy sanh sự tổn hại
do đối đăi. Quư vị sẽ gây nên mối hại vô
cùng, đánh mất pháp ích thanh tịnh rộng lớn. Các vị
thiện tri thức ơi! Phải khéo tư duy, khéo quan sát!
(Kinh)
Hựu diệc tư duy chư Phật Thế Tôn thuyết
như tư pháp, nhi diệc bất trước.
(經)又亦思惟諸佛世尊。說如斯法。而亦不著。
(Kinh: Lại
cũng tư duy chư Phật Thế Tôn nói pháp như thế,
nhưng cũng chẳng chấp trước).
Đức
Thế Tôn lặp đi lặp lại lời nhắc nhở này,
trước là nói về pháp tắc của giáo nghĩa, sau
là nói về lợi ích của pháp tắc giáo nghĩa, nhằm
dạy chúng ta tư duy, dạy chúng ta pháp tắc để
giảng nói Ban Châu tam-muội đúng lư bằng các lời lẽ chánh đáng, cũng như lợi
ích chân thật của môn Thập
Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền
tam-muội này. Ngài dùng lời lẽ chẳng khác lạ, lời lẽ
chẳng thêu dệt, lời lẽ chẳng phải chỉ
có chính ḿnh hiểu nổi để đúng như thật truyền đạt giáo ngôn của
đức Thế Tôn, nói giăi bày trọn vẹn, nói không che
lấp, chẳng giấu giếm. Đó chính là điều
chúng ta tu hành, mà cũng chính là chỗ tồn tại của
công đức và lợi ích nơi chánh hạnh.
(Kinh)
Hựu diệc tư duy ngă thính văn pháp, nhất thiết
sở vi, giai bất đắc trước. Hà dĩ cố?
Hiền Hộ! Chư pháp giai không, bổn lai vô sanh cố.
(經)又亦思惟我聽聞法。一切所爲。皆不得著。何以故。賢護。諸法皆空本來無生故。
(Kinh: Cũng lại
tư duy “ta nghe pháp, đối với hết thảy các việc
làm đều chớ nên chấp trước”. V́ sao? Này Hiền
Hộ! Các pháp đều là Không, do vốn chẳng sanh).
Vốn
vô sự! Thiên hạ vốn b́nh an, vốn chẳng nhuốm
mảy trần. Do vậy, nếu khi có người khởi
tâm, liền liễu giải ngôn từ và tâm trí của
người ấy ở chỗ nào. Đó là sự quan sát
thấy thấu suốt cảnh giới Nhất Thật.
Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo thí giáo như thế, khiến
cho thiện tri thức xét kỹ thế gian chẳng nhiễm,
chẳng dính mắc, tức là xét quán kỹ cảnh giới
Nhất Thật. Như trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo đă có nhắc nhở như thế, xem kỹ thế
gian như thế nào, xem kỹ nhân quả như thế
nào? Có Chiêm Sát Luân để chiêm sát ba nghiệp thân, khẩu,
ư trong quá khứ, hiện tại, vị lai, cho đến
nói Thập Thiện, Thập Ác, khiến cho người
khác hiểu biết để chọn lựa nghiệp, xu hướng
theo pháp, hoặc nói tới nguyên do v.v… Trong cảnh giới
Nhất Thật là sự chọn lựa như thế, khởi
tâm động niệm liền có thể biết rơ. V́ sao vậy?
Do vốn vô sự, vốn chẳng nhuốm bụi, vốn
chẳng có một pháp, vốn vô sanh. Chọn lựa như
thế, các thiện tri thức sẽ đạt được
đại thiện xảo, đại phương tiện.
V́ vậy, trong thời hiện tiền, một khi sanh khởi,
sẽ có thể biết rơ kết quả. V́ sao? Do hiện
duyên sanh khởi, có duyên th́ sẽ ắt có tiếp tục.
Hễ có sự tiếp tục, ắt sẽ có kết quả,
chẳng nhờ vào bất cứ phương tiện nào mà
trực tiếp thấu suốt bổn hoài, trực tiếp
thấu suốt cội nguồn, trực tiếp liễu
giải tướng nhân quả.
(Kinh)
Hiền Hộ! Chư pháp bất khả niệm, vô niệm
xứ cố.
(經)賢護。諸法不可念。無念處故。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Các pháp chẳng thể niệm, do chẳng
có niệm xứ).
Lành
thay! Chúng ta tạo niệm, dù thiện niệm hay ác niệm,
dù là niệm hay phi niệm, dù sanh niệm, diệt niệm,
dù là thánh niệm, hay phàm niệm,
trong các thứ niệm đều là sanh sanh diệt diệt,
tiếp nối trong từng sát-na. Nếu là niệm trong “chư
pháp bất niệm” (các pháp chẳng niệm), chánh niệm
hiện tiền như thế, các pháp chẳng nhiễm, sẽ
vận dụng các pháp để thành tựu sự yêu mến
và thủ hộ. V́ sao? Hiện duyên sanh khởi chính là pháp
tướng, niệm mà vô niệm, chính là cách niệm thanh tịnh,
lợi ích rộng khắp hữu t́nh. Chúng ta thường
muốn dùng niệm để xua đuổi niệm. Xua
đuổi niệm sẽ thường có cảm giác nặng
nề, có sự sanh diệt tiếp nối, có sự khích lệ
sanh diệt. Do vậy, trôi giạt trong biển sanh tử,
chẳng thể tự thoát ra được, v́ sóng nghiệp
ngập trời, hoặc ch́m xuống, hoặc nổi lên,
quư vị chẳng có sức tự tại. “Chư pháp bất
khả niệm” (các pháp chẳng thể niệm) là nói
như thật, nói chân thật.
(Kinh)
Hiền Hộ! Chư pháp viễn ly, tuyệt tâm tưởng
cố. Hiền Hộ! Chư pháp bất khả chấp
tŕ, Chân Như vô đắc cố.
(經)賢護。諸法遠離。絕心想故。賢護。諸法不可執持。真如無得故。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Các pháp xa ĺa, do dứt bặt tâm tưởng.
Này Hiền Hộ! Các pháp chẳng thể chấp tŕ, do chẳng
đắc Chân Như).
Lành
thay! Đức Thế tôn dạy chúng ta trí huệ chân thật
như thế, gột sạch trần cấu chẳng thể
đạt được từ vô thỉ đến nay của
chúng ta. V́ trần cấu
chẳng thể đạt được chính là vọng nhiễm,
chấp trước hư vọng, cho nên ngay lập tức
gột rửa hết sạch! Nếu tùy thuận
lời dạy, sẽ gột rửa cấu nhơ trong tâm.
Nếu vẫn dùng tâm để tưởng, do những
điều hay biết về sau, Phiền Năo Chướng sẽ che lấp tự
tâm, trần cấu lại bừng bừng dấy lên. Giáo
ngôn rất sâu như thế được tuyên nói như
thật trong kinh Ban Châu Tam Muội, mọi người có thể
thân cận giáo ngôn thù thắng, khó được nghe
như thế, quả thật là do phước đức
chín muồi. Nếu nhất niệm tùy thuận, công đức
của người ấy chẳng thể nghĩ bàn, thậm chí chư Phật chẳng thể tán
thán cùng tận!
(Kinh)
Hiền Hộ! Chư pháp vô nhiễm, như hư không cố.
(經)賢護。諸法無染如虛空故。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Các pháp chẳng nhiễm v́ như hư không).
Các
thiện tri thức ơi! Hăy khéo tùy văn nhập quán, thuận
theo kinh văn để ấn tâm, thuận theo kinh văn
để biết cái tâm, chẳng nhờ vào giải thích,
chẳng nhờ vào tăng giảm, chỉ thẳng thừng
ấn khế là được rồi! V́ chúng ta do tập
quán hay biết, do thói quen tư duy, khiến cho chúng ta luôn bị
trói buộc trong suy nghĩ và những điều chính ḿnh
đă biết, chẳng đạt được
phương tiện tự tại rộng lớn. Nếu
có thể như thật nương vào giáo ngôn thanh tịnh
của đức Thế Tôn để ấn chứng tự
tâm, tự tâm tất nhiên sẽ giống như tâm Phật,
an trụ như thật.
(Kinh)
Hiền Hộ! Chư pháp thanh tịnh, viễn ly chúng sanh cố.
Hiền Hộ! Chư pháp vô trược, nhân duyên diệt cố.
(經)賢護。諸法清淨。遠離衆生故。賢護。諸法無濁。因緣滅故。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Các pháp thanh tịnh v́ xa ĺa chúng sanh. Này Hiền
Hộ! Các pháp chẳng vẩn đục v́ nhân duyên diệt).
Nói
“các pháp do nhân duyên sanh, duyên diệt, pháp cũng diệt”, thật sự chẳng
có một pháp để đạt được. V́ do duyên sanh th́ sẽ theo
duyên mà diệt. Các thứ nhân duyên quá khứ, hiện tại,
vị lai sanh khởi từ một niệm trong hiện
duyên; đấy chính là nhân duyên. Cái nhân
duyên ấy rất thuận tiện, có thể thấy thấu
suốt, có thể quan sát. Đối với nhân duyên trong
quá khứ, nếu mê mờ trong ấy, đó chính là nghiệp
tướng vô minh, chẳng thể hiểu rơ. Đối với
các mong mỏi trong tương lai, nếu
chẳng thể như thật, các mong mỏi trong
tương lai cũng trở thành cơ duyên đọa lạc,
chẳng có sức tự tại. Do vậy, “các pháp chẳng
vẩn đục, v́ nhân duyên diệt”, duyên khởi,
duyên diệt, thật sự là huyễn sanh, huyễn
diệt. Đó chính là hiện duyên khích lệ. Chúng sanh từ
vô thỉ tới nay, nếu lúc một niệm nẩy sanh,
dù là tiếp tục tịnh, hay tiếp tục nhiễm, sẽ
sanh ra hai thứ thế gian tịnh và nhiễm. Do đó, có Tịnh
Độ của chư Phật. V́ chư Phật thông
đạt pháp tánh, đích thân chứng pháp tánh, Tịnh Độ
của chư Phật hiện. Chúng sanh do mê mất tâm trí
thanh tịnh vốn sẵn có, cho nên từ Năng và Sở
mà kiến lập thiện và ác. Do vậy, ngũ trược
ác thế và các thứ ác thế, các thứ trược nhiễm
trong thế gian sẽ cùng lúc sanh khởi, liên tục kiến
lập. Chúng ta hăy khéo quan sát, khéo tư duy.
(Kinh)
Hiền Hộ! Chư pháp vô vi, Phú-già-la bất khả đắc
cố.
(經)賢護。諸法無爲。富伽羅不可得故。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Các pháp vô vi, do Phú-già-la (Pudgala)[1]
chẳng thể
được).
Đối
với tâm trí của hết thảy chúng sanh, chẳng thể chấp trước được!
(Kinh) Hiền Hộ! Chư pháp tức Niết
Bàn tướng, bổn tánh thanh tịnh cố.
(經)賢護。諸法即涅槃相。本性清淨故。
(Kinh: Này
Hiền Hộ! Các pháp chính là tướng Niết Bàn, v́ bổn
tánh thanh tịnh).
“Chư pháp tức Niết Bàn tướng”
(Các pháp chính là tướng Niết Bàn). V́ sao? Dựa theo
bản chất để nói th́ do bổn tánh thanh tịnh,
cho nên các pháp tịch diệt, tức là tướng Niết
Bàn. Thiện tri thức có “pháp
nghĩa” như
thế để ấn khế tự tâm của chúng ta. Tâm
trí của chúng ta vốn chẳng tạo tác, chỉ khi nào ấn
khế như thật, sẽ có thể thanh tịnh biết
rơ giáo ngôn của chư Phật. Ngày hôm qua, tôi nhận
được điện thoại của một vị Bồ
Tát. Ông ta đại khái đă tiếp xúc Phật pháp từ
mười năm trước. Về sau, sanh khởi ngờ
vực đối với Phật pháp; sau đó, nhờ học
Phật, niệm Phật, nay đă có đôi chút cảm nhận.
Ông ta nói: “Đối với
Nhất Thiết Trí, phải có tri kiến quyết định”. “Tri kiến
quyết định” chính là “pháp chẳng
có tự tánh”, quyết
định tùy thuận, sanh ḷng vui thích đối với
pháp.
“Chư
pháp tức Niết Bàn” (các pháp chính là Niết Bàn), “phiền
năo tức Bồ Đề”. Đây thật sự là dùng
Phật ấn để ấn chứng, khiến cho chúng
ta trực tiếp ấn khế hết thảy các hiện duyên. Đối
với hết thảy hiện duyên, chỉ dùng Phật ấn
để ấn, đừng dùng vọng tưởng để
ấn khế sự cảm nhận. Đó là nghiệp ấn!
Nghiệp ấn của phàm phu chỉ là nghiệp tướng
liên tục. V́ thế, dùng nghiệp để kế tục
nghiệp, kết quả giống như nước lũ,
khiến cho quư vị bị cuốn vào biển sanh tử,
chẳng phải là biển trí và biển đại trí nguyện
của chư Phật. Do vậy, có biển nghiệp của
chúng sanh, mà cũng có biển nguyện của chư Phật.
Một niệm sai lầm, sẽ là biển nghiệp. Biển
nghiệp vô biên, vùi dập vô tận trong biển sanh tử.
Một niệm khác đi, sẽ là biển Chánh Biến Tri
của chư Phật, an trụ nơi vô nghi, lợi ích thế
gian rộng lớn. Biển nghiệp và biển nguyện vốn
là một biển. V́ thế nói: “Vốn chẳng có biển
đại tịch diệt để đạt được!”
Trong biển đại tịch diệt, sẽ trông thấy
bổn tánh.
(Kinh)
Hiền Hộ! Chư pháp vô sở hữu, nhất thiết
vật bất khả đắc cố. Hiền Hộ! Thị
cố, chư Bồ Tát đẳng, nhược dục
tư duy thử tam-muội giả, bất khả dị
tướng nhi năng đắc nhập.
(經)賢護。諸法無所有。一切物不可得故。賢護。是故諸菩薩等。若欲思惟此三昧者。不可異相而能得入。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Các pháp vô sở hữu, v́ hết thảy các vật chẳng
thể được. Này Hiền Hộ! Do đó, các vị
Bồ Tát nếu muốn tư duy tam-muội này, chẳng
thể do tướng khác mà có thể nhập được!)
Nếu
nương vào điều thiện tạp loạn và tư
duy vọng tưởng của chính ḿnh mà muốn nhập
môn tam-muội này, sẽ chẳng thể thấy, chẳng
thể nhập, chẳng thể thành tựu. Do vậy,
chư Phật Như Lai đă có lời dạy “chánh ngôn”
đối với tam-muội này, khiến cho chúng ta chánh
tư duy, chánh khế nhập, chánh thiện xảo ḥng ấn khế tự tâm.
(Kinh)
Vô đắc tướng cố, đắc kiến chư
Phật.
(經)無得相故。得見諸佛。
(Kinh: Do chẳng
đạt được tướng, cho nên được
thấy chư Phật).
Lành
thay! Hai câu nói này rất trọng yếu! Thường là
chúng ta sẽ dùng hai thứ đối đăi ấy. Trong
tâm trí đối đăi, sanh khởi pháp tắc đối
đăi; nhưng trong tâm trí chẳng đối đăi, lập
tức viên dung. Pháp tắc “chẳng đối đăi”
viên dung như thế nào? Trong kinh Kim Cang, đức Thế
Tôn đă dạy: “Kiến chư tướng phi tướng,
tức kiến Như Lai” (thấy các tướng chẳng
phải là tướng, liền thấy Như Lai); ở đây nói: “Vô đắc tướng cố,
đắc kiến chư Phật” (Do chẳng đạt
được tướng, cho nên được thấy
chư Phật). Kinh khác nhau cùng nói giống nhau [về
sự] lựa chọn chân thật. Đây là sự tuyên nói
chân thật trong trí huệ chân thật. Đối với
điều này, chúng ta thường sanh khởi sợ hăi;
v́ trong tâm trí đối đăi, sẽ nhất định sanh
khởi cảm nhận đối đăi: Một là vô
tướng, hai là thấy chư Phật. Chư Phật là
vô tướng. Nếu quư vị dám lựa chọn, sẽ
ngay lập tức đạt được đại lợi.
V́ chúng ta bị câu thúc bởi các tướng, cho nên chẳng
thấy tướng của chư Phật. Nếu chẳng
bị câu thúc bởi các tướng, sẽ thấy diệu
tướng thanh tịnh của chư Phật.
Chọn
lựa như thế nào? Trọn chẳng thể
nương vào tư duy của quư vị để hiểu.
Cái được hiểu bởi tư duy chính là pháp
đối đăi. Trong pháp đối đăi, sẽ rất
khó khế nhập. Thiện tri thức
ơi! Trong trí chẳng nghĩ bàn, muốn tư duy, suy
nghĩ cưỡng chấp ư nghĩa, điều lợi ấy
sẽ chẳng thể hiện tiền. Nếu một
người đột phá chỗ này, tức là [đột
phá] chỗ tri kiến đối đăi, người ấy
sẽ đạt được nhân duyên thiện xảo.
Hai người đột phá th́ hai người đạt
được. Ba người đột phá th́ ba người
đạt được. Nếu vô lượng chúng sanh
đột phá, vô lượng chúng sanh sẽ đạt
được. Nếu quư vị dùng tri kiến đối
đăi mà muốn nghe giáo ngôn, như “vô đắc tướng
cố, đắc kiến chư Phật” (do chẳng
đạt được tướng, được thấy
chư Phật); nếu trụ trong tâm
trí đối đăi, sẽ vĩnh viễn chẳng thể
nghe, dẫu nghe mà như chẳng nghe, chỉ là gieo chủng
tử [vào tạng thức]! Khi lần sau lại được
nghe, quư vị c̣n kêu: “Trời ạ! Câu này nói lần trước
mâu thuẫn với lần sau!” Do vậy, trong
tâm trí chẳng đối đăi, sẽ tự nhiên thuận
theo, tùy văn nhập quán, đạt được pháp
ích. Nhập quán ǵ vậy? Trí quán, quán chẳng đắm
nhiễm, quán thanh tịnh, quán chẳng động tâm niệm,
tức là cái được gọi là “quán như thật,
chẳng tăng giảm”.
Nhưng tâm trí phàm phu, từ vô thỉ đến
nay, nương vào đối đăi mà kiến lập, nói tốt,
nghe xấu, hoặc dựa vào xấu mà nói tốt, đều
là an lập trong pháp đối đăi, lẩn quẩn trong
hai loại Biên Kiến, rất khó dùng cái tâm viên dung, tâm chẳng
đối đăi, tâm thanh tịnh, tâm ấn khế, tâm chẳng
tăng giảm để như thật an trụ, tùy thuận
pháp tắc. Do vậy, người y giáo phụng hành rất
hiếm hoi. Tuy đức Thế Tôn khắp
nơi dạy chúng ta “y giáo phụng hành”, nhưng chúng
ta thường là “y giải phụng hành” (nương
vào kiến giải của chính ḿnh để phụng hành),
nương theo sự suy nghĩ của chính ḿnh, nương vào Phật pháp đă
quả xử lư của chính ḿnh để phụng hành. V́ thế, phần
nhiều chẳng thể đạt được lợi
ích chân thật, do chẳng thể tùy thuận Phật trí,
chẳng thể vào trong biển Phật trí. Do nương
vào hạn lượng mà chính ḿnh vốn có, cho nên dùng hạn lượng để
g̣ ép Phật pháp vào “khuôn khổ”. Phật pháp kiểu đó
là Phật pháp do quư vị sửa đổi, là Phật pháp
bị biến dạng, là Phật pháp do nương theo cái
tâm tăng giảm của phàm phu, kết quả vẫn là
tri kiến phàm phu. Do vậy, chẳng đạt được
lợi ích nơi Phật pháp.
(Kinh)
Chánh niệm chư Phật ḥa hợp tương ứng,
diệc đắc tư duy Trợ Bồ
Đề Phần, niệm văn chánh pháp,
tư lượng phân biệt, tuyển trạch Bồ
Đề Phần, nhi bất kiến tự
thân, diệc bất chứng chư pháp.
(經)正念諸佛。和合相應。亦得思惟助菩提分。念聞正法。思量分別。選擇菩提分。而不見自身。亦不證諸法。
(Kinh:
Chánh niệm chư Phật ḥa hợp tương ứng,
cũng tư duy Trợ Bồ Đề Phần, nghĩ
tưởng, nghe chánh pháp, suy lường, phân biệt, chọn
lựa Bồ Đề Phần, mà chẳng thấy
tự thân, cũng chẳng chứng các pháp).
Đoạn
văn tự này mười phần quan trọng! Chính là
chuyển biến to lớn của tri kiến phàm hay thánh. Quư vị nhất định
phải tự hỏi chính ḿnh có chuyển biến ở chỗ
này hay không? Quư vị có thể khám nghiệm tri kiến của
chính ḿnh là tri kiến thanh tịnh, tri kiến chẳng
đối đăi, chánh tri, chánh kiến,
hay là tri kiến ngu si, tri kiến điên đảo, tri kiến
hư vọng, tri kiến đối đăi? Nếu là tri kiến
thuộc loại sau, sẽ chẳng thể thành tựu Bồ
Đề, v́ quư vị cưỡng chấp. Nếu buông xuống,
liền nhập Phật trí. Chúng ta có thể dùng đoạn
văn tự này để phán đoán, ấn khả
tự tâm, dù phàm hay thánh, dù trí hay ngu, có thể tự ḿnh cân
nhắc chỗ thuận theo và nương tựa trong tâm
trí của chính ḿnh.
Trong
rất nhiều kinh điển, đức Thế Tôn đều
nói như thế để khiến cho chúng sanh buông xuống
tri kiến của chính ḿnh, tùy thuận chánh giáo của
Như Lai, khế nhập lợi ích của Phật pháp.
Đó gọi là “hồi quán tự tâm, vô nhiễm, vô
trước” (quay lại quán tự tâm, chẳng nhiễm,
chẳng chấp trước). Các cơ chế giáo ngôn ấy
thật sự không ngừng ấn khế chúng ta. Các vị
thiện tri thức trong quá khứ khi có khai ngộ, có chứng
ngộ, hoặc đối với pháp mà cho rằng có ǵ
để đắc, sẽ đến chỗ thiện tri
thức để gột sạch tâm cấu, để thiện
tri thức ấn khế cho ḿnh, chứng thực tri kiến
của chính ḿnh, cũng như [ấn chứng] pháp tắc do
chính ḿnh đă chứng thật sự tương ứng với
lời dạy của Phật. Như Lục Tổ đại
sư khi gặp tổ Hoằng Nhẫn, chân tâm Lục Tổ
thường sanh hoan hỷ, trong hết thảy thiện
duyên sanh khởi sự vô úy và yêu thích, tâm thường sanh
quang minh chiếu sáng thế gian. Trong sự tối tăm của
hết thảy hiện duyên, giống như đèn sáng trong
cơi đời. Tuy là như thế, [Lục Tổ] vẫn cần
pháp sư Hoằng Nhẫn dùng pháp nghĩa để ấn
chứng, hứa khả, dùng kinh Kim Cang để ấn chứng,
hứa khả, khiến cho Lục Tổ vô ngại rốt
ráo. Cho nên Ngài đă diễn tả [bằng ba câu] “hà kỳ
tự tánh, hà kỳ tự tánh, hà kỳ tự tánh” (nào
ngờ tự tánh [vốn tự thanh
tịnh], nào ngờ tự tánh [vốn chẳng sanh diệt],
nào ngờ tự tánh [vốn tự trọn đủ]). Đoạn
văn tự ở đây cũng là ngôn ngữ để ấn
khế.
(Kinh)
Sở dĩ giả hà? Hiền Hộ! Thị trung, bất
khả dĩ sắc tướng cố nhi đắc kiến
Phật.
(經)所以者何。賢護。是中不可以色相故而得見佛。
(Kinh: V́ sao vậy?
Này Hiền Hộ! V́ trong ấy, chẳng thể
dùng sắc tướng để thấy Phật).
Ở
đây, đă tổng kết
rơ ràng. Đó là giáo ngôn mười phần rơ rệt, giáo
ngôn mười phần như thật, giáo ngôn mười
phần chẳng thể nghĩ bàn, là giáo ngôn xa ĺa đối
đăi! Nếu quư vị nương vào tâm trí đối đăi,
sẽ ngay lập tức đối đăi. V́ cớ sao? “Thị
trung bất khả dĩ sắc tướng cố nhi
đắc kiến Phật” (trong ấy, chẳng thể
dùng sắc tướng để thấy Phật): Quả
thật đă ban cho chúng ta một pháp tắc tu hành và sự
lựa chọn tu hành rất rơ rệt. Vậy th́ quư vị
có thể tu tập như thế hay không? Nhiều người
đă lư giải chỗ này. Hễ lư giải [suông mà không tu
tập] th́ chẳng thể đạt được lợi
ích. Chỉ có người tu tập sẽ tất nhiên ấn
khế tự tâm!
Dùng
giáo ngôn “không tăng giảm” để ấn khế
tự tâm rất thuận tiện, như chúng ta dùng một
cái ấn to để đóng dấu. Quư vị chẳng cần
phải lư giải, cứ đóng dấu là được
rồi! Chúng ta thấy một tay [trong ngàn cánh tay] của Thiên Thủ
Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát cầm một cái ấn, ấn
ǵ vậy? Chính là một chữ chủng tử (Bīja)[2]
biểu thị Quán Thế Âm, biểu thị A Di Đà Phật,
biểu thị ấn khế của mười
phương chư Phật. Hễ áp [cái ấn ấy] xuống,
liền thành lập. V́ thế, trong kinh điển Đại
Thừa, khắp nơi có cách nói như thế này: “Cửu
hành nhi bất chứng, phóng quang tức Bồ Đề”
(Hành đă lâu ngày mà chẳng chứng, phóng quang chính là Bồ
Đề). Cũng có nghĩa là: Một niệm
tương ứng liền được khế nhập,
liền được thành tựu, chẳng phải nhọc
nhằn thực hiện! Chọn lựa ở chỗ này
mười phần khó khăn! Khó ở chỗ nào? Khó buông
xuống chấp trước hư vọng, khó buông xuống
Ngă Chấp, khó buông xuống nhiễm tâm, khó buông xuống
phân biệt đối đăi. Dẫu chỉ buông xuống
trong sát-na, vẫn chẳng muốn buông bỏ! V́ sao? Sẽ
sanh ḷng hoảng sợ. Chúng ta có thể khéo quan sát tâm linh của
chính ḿnh. Có người nói: “Ta nghe pháp một niệm hoan hỷ”,
v́ sao? Khi đó chẳng đắm nhiễm, chẳng chấp
trước, chẳng có chỗ đối đăi, có thể
vui sướng v́ thật sự ấn khế trong nháy mắt.
Nếu có thể tiếp tục duy tŕ, sẽ liên tục thủ
hộ sự thành tựu. Nếu chẳng thể liên tục,
chỉ là tiếp xúc một phen, vẫn chưa thật sự
ấn khế tự tâm. V́ nếu có thể ấn khế tự
tâm, tất nhiên chẳng nghi!
(Kinh)
Bất khả dĩ thanh tướng cố, nhi đắc
văn pháp.
(經)不可以聲相故而得聞法。
(Kinh: Chẳng thể dùng thanh tướng để
được nghe pháp).
Nay
chúng ta trao đổi Phật pháp, thật sự nhờ vào
nhĩ căn, nhăn căn, và thân tiếp xúc của mọi
người để kích phát tâm trí vốn sẵn có
nơi mỗi người, tức là tâm trí “chẳng
đến, chẳng đi” nhằm thuần thục
tướng công đức và công đức tạng ấy.
Thật sự chẳng có pháp nào nào để đạt được,
chẳng có pháp nào để gặp, chẳng có pháp nào để
có thể thành, đúng như thật mà biết tự tâm!
(Kinh)
Bất khả dĩ hy vọng tâm thành tựu Đàn Ba La Mật.
(經)不可以希望心成就檀波羅蜜。
(Kinh: Chẳng thể
dùng cái tâm hy vọng để thành tựu Đàn Ba La Mật).
“Đàn”
(Dāna)
là bố thí, có pháp bố thí, tài bố thí, và vô úy bố
thí. Nếu hy vọng được đền đáp, do
Đàn Ba La Mật là “chẳng dùng ǵ để thành tựu”,
cho đến Lục Ba La Mật, tức Tŕ Giới,
Tinh Tấn… cho đến Thập Ba La Mật, nếu có tâm
cầu được đền đáp, sẽ khó thể
đạt được lợi ích thanh tịnh trong Phật
pháp, khó thể đạt tới bờ kia. V́ sao? Một
khi đức Thế Tôn thuyết pháp, sẽ là tam luân thể
không, chẳng có chỗ nào đắm nhiễm! Do vậy, bố
thí mà chẳng có vật để bố thí, chẳng có
đối tượng tiếp nhận sự bố thí, mà
cũng chẳng có người hành bố thí, [đó là “tam
luân thể không”], là Đàn Ba La Mật. Đối với
pháp bố thí, cũng giống như thế. Nếu quư vị
cho rằng chính ḿnh có ơn với người khác, đó
là tà kiến! V́ sao? Do muốn t́m kiếm nhân duyên càng lớn
hơn nữa! Người như vậy chẳng đạt
được lợi ích từ Phật pháp. V́ thế, trong Phật pháp, Bố Thí, Tŕ Giới, Nhẫn
Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, cho đến các
loại trí huệ Ba La Mật, đều lấy “chẳng
đắm nhiễm, chẳng chấp trước” làm
phương tiện cội gốc!
Hiện
thời, trong tự viện, đạo tràng của chúng ta,
hành pháp cũng thế, làm mọi việc cũng thế,
duy tŕ đạo tràng cũng thế, xuất gia hay tại
gia cũng thế, nếu có cái tâm đắm nhiễm, tâm
mong được đền đáp, kẻ ấy sẽ
chẳng đạt được lợi ích nơi Phật
pháp. V́ sao? Giống như đă nói trong phần trước:
Giống hệt như quư vị buôn bán. Bất quá, quư vị
là một gă lái buôn trong Phật pháp, bán chác Như Lai, vụng trộm rỉa ráy từng chút một, vẫn
chẳng thể chân chánh, đúng như thật thủ hộ và truyền thừa gia nghiệp của Như Lai. V́ thế,
“bất khả dĩ hy vọng tâm thành tựu Đàn Ba
La Mật” (chẳng thể dùng cái
tâm hy vọng để thành tựu Đàn Ba La Mật). Lúc
chúng ta ban cho người khác pháp, tài vật, hoặc vô úy,
tuyệt đối chẳng thể dùng cái tâm hư vọng,
tức là cái tâm “mong được đền đáp”
để hành tŕ. Nếu dùng cái tâm như thế, sẽ chẳng
phải là người tu tập Phật pháp, cho nên chẳng
thể thành tựu Đàn Ba La Mật, tức Bố Thí Ba
La Mật. Hết thảy các thứ khác cũng giống như thế, nêu lên một sẽ suy ra ba, chúng ta có
thể dùng cách loại suy (analogy)[3] để xem xét kỹ lưỡng rộng khắp!
Hiện
thời, có kẻ tạo chút thiện căn, chẳng hạn
như v́ tự viện làm một tí việc, sẽ tính
toán: “Ta đă làm bao nhiêu chuyện cho Phật pháp, phải ban cho ta chút ǵ chớ? Ta sẽ đạt
được ǵ?” Kẻ như thế phải nên thật
sự học Phật pháp, chớ nên kinh doanh Phật pháp!
Có lắm kẻ đầu cơ bán chác Phật pháp, có kẻ
biết, có kẻ chẳng biết. Kẻ biết tức
là cố ư làm, sẽ là kẻ bại hoại, hủy diệt
Phật pháp. Kẻ không biết là do ngu si cho nên chẳng biết,
ngỡ Phật pháp cũng là buôn bán, khiến cho Phật
pháp đọa vào thế tục. Rất nhiều kẻ thật
sự lợi dụng kẽ hở trong Phật pháp, lợi dụng Phật pháp để bán chác Như Lai, mong
đổi lấy các quả báo hư giả cho bản
thân, nhưng trên thực tế là chẳng tương ứng,
đâm ra, chẳng đạt được ǵ! V́ thế, đức Thế Tôn nói: “Nếu ai có thể
tŕ giới, sẽ có thể đạt được ba thứ
lợi”. Hoặc như trong giới Bồ Tát có nói:
“Nếu ai có thể tŕ giới, sẽ đạt
được năm loại lợi”. Năm loại lợi
ấy chẳng cầu mà đạt được,
nhưng người đời xấu ác mà cầu, tham cầu
cho nhiều, thậm chí liều mạng cầu, vắt óc
t́m mưu kế, nghĩ hết mọi biện pháp, sử
dụng trọn mọi mánh khóe, để rồi sau đó
hứng chịu toàn là quả báo của mánh khóe, quả báo
v́ đă vắt óc t́m mưu kế, oan uổng hứng chịu
khổ báo. Bởi lẽ, những ǵ đă tạo tác đều
sanh khởi khổ duyên, chẳng phải là lợi ích thật
sự tồn tại. Chư vị thiện tri thức
ơi! Chúng ta hăy khéo tư duy, khéo quan sát!
(Kinh)
Bất khả dĩ nhạo trước chư hữu cụ
túc Thi Ba La Mật.
(經)不可以樂著諸有具足屍波羅蜜。
(Kinh: Chẳng thể yêu đắm các thứ
đang có mà mong trọn đủ
Tŕ Giới Ba La Mật).
Nếu
quư vị chấp trước “ta có các pháp tắc chi đó”, “ta có giới
và giới đức ǵ đó”, như thế th́ sẽ chẳng đạt được
Thi Ba La Mật (Thi La Ba La Mật, Tŕ Giới Ba La Mật, Sīla Pāramitā). Nếu
có thiện tri thức khéo đọc tụng, th́
sẽ đạt được sự an ủi từ
Đại Trí Độ Luận, v́ trong ấy, Long Thọ
Bồ Tát đối với thời Mạt Pháp, đối với
giới pháp, đă phân tích sâu sắc, nhất là đối
với Thi Ba La Mật. Chúng ta hăy khéo tư duy, khéo quan sát.
Hiện
thời, rất nhiều hữu t́nh nói: “Chờ ta phát tâm
thanh tịnh, viên măn rồi sẽ làm chuyện chi đó”. Thật
ra là chẳng liễu giải tự tâm, chẳng liễu giải
pháp thật ra chẳng có viên và bất viên, chỉ nên
như thật liễu giải tự tâm. Tự tâm chưa
viên, sự tướng sẽ chẳng viên. Nếu thấu
triệt tự tâm thanh tịnh, hết thảy vốn viên!
Trước kia, khi chùa Phóng Quang sắp kiến thiết,
tôi nói với mọi người: “Đây là một đạo
tràng Bổn Giác, vốn trọn đủ, chẳng cần
phải tạo tác. Tất cả tạo tác đều là ư thức bị nhiễm
về sau, là pháp sanh diệt, là pháp đối đăi, chẳng
phải do đạo tràng Bổn Giác an lập”. V́ thế,
chùa Phóng Quang đă được kiến thiết hoàn thành
từ lâu, nay chúng ta chỉ là người sử dụng.
Người nào sử dụng? Người thành tựu
đạo nghiệp sử dụng! Ai tới thành tựu
đạo nghiệp th́ là người sử dụng đạo
tràng này, kiến thiết đạo tràng này. Do trong quá tŕnh
kiến thiết ấy, đạo tràng này đă là một
đạo tràng vốn trọn đủ. Nói “đạo
tràng vốn trọn đủ” tức là vốn sẵn
có, vốn an lập, vốn đă thành tựu. Do trong đạo
tràng, chuyện làm nhiều hay làm ít đều có, nhưng tính toán hết sức nhiều! Có người
dựng một gian nhà cũng tính, có người mua hai khối
gỗ hay đá cũng tính, có người đảnh lễ
ba mươi vạn lễ, mười vạn lễ, mua mấy
quyển kinh cũng đều có thể tính. Tính toán ǵ vậy?
Ta đă v́ Phật pháp làm các chuyện nhiều ngần ấy, ta có thể
đạt được những ǵ? Loại người
ấy rất đáng thẹn, rất đáng thương,
nhưng nhân duyên ấy lại là sự biểu hiện rất
chân thật phàm t́nh của phàm phu. Do vậy,
tôi không ngừng đề cập “đây là một đạo
tràng Bổn Giác, là một đạo tràng vốn đă kiến
tạo hoàn thành”. Những người kiến thiết
về sau đều là hưởng thụ phước
đức chín muồi từ công đức vốn
sẵn có ấy. Đạo tràng này chẳng cần chúng ta
xây dựng. V́ sao? Tất cả các sự kiến thiết
của chúng ta đều v́ duy tŕ Phật pháp, duy tŕ thành tựu,
duy tŕ một cơ chế chân thật mà thôi, là phước
đức chín muồi mà thôi, chỉ là như thế đó
thôi!
“Chư
hữu trọn đủ” là một thứ tâm tham lam của
hữu t́nh trong thế gian. Người như thế chẳng
thể tŕ giới. Kinh thường nói: “Ta phải viên
măn pháp thế gian, mà cũng phải viên măn pháp xuất thế
gian”. Như thế th́ có lẽ chúng ta chẳng thể
thành tựu trong một đời được, cần
phải nhiều đời nhiều kiếp mới dần
dần thành tựu. V́ nh́n từ tướng nhân quả của
thế tục th́ sẽ là như thế.
Nếu chúng ta muốn thành tựu pháp tắc A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ngay trong một
đời, chớ nên giữ ư tưởng như thế.
Nếu là có thể giữ, quư vị
sẽ chẳng thể thành tựu được!
(Kinh) Bất khả dĩ xan lận bí pháp
nhi đắc Niết Bàn. Bất khả dĩ thâm trụ Phú Già
La tưởng nhi hoạch đa văn.
(經)不可以慳吝祕法而得涅槃。不可以深住富伽羅想而獲多聞。
(Kinh: Chẳng thể do keo tiếc pháp bí mật mà đắc
Niết Bàn. Chẳng thể do trụ
sâu nơi ư tưởng Phú Già La mà
đạt được đa văn).
Dùng
tâm dục của chúng sanh để mong đạt
được đa văn, sẽ là
chuyện chẳng thể được!
(Kinh)
Bất khả dĩ phan duyên chư hạnh, nhi năng viễn
ly chư sự.
(經)不可以攀緣諸行而能遠離諸事。
(Kinh: Chẳng thể
do nắm níu các hạnh mà có thể xa ĺa các sự).
Đối
với chuyện này, từ các pháp đối đăi, chúng ta
có thể quan sát thấy.
(Kinh)
Bất khả dĩ nhạo trước trụ xứ, nhi đắc
chứng quả.
(經)不可以樂著住處而得證果。
(Kinh: Chẳng thể
do yêu chấp chỗ ở mà được chứng quả).
Trong
Tứ Hướng và Tứ Quả
nơi pháp Thanh Văn, Tứ Quả chẳng có sở chứng,
chẳng có ǵ để đắc. Bồ Tát từ Tín vị,
Hiền vị, Trụ vị, Hạnh vị, cho đến
các địa vị Hồi Hướng, cho đến
Sơ Địa, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu
Giác, cũng chẳng chấp trước. Nếu có chấp
trước, sẽ chẳng phải là quả vị.
Trong
hữu t́nh thế gian, có kẻ nói: “Ta đă chứng quả”. Tôi
nói [với người ấy]: “Quư vị hăy t́m Phật ấn
chứng”. Chứng quả ǵ vậy? Vẫn là tự ḿnh
đạt được. Trong pháp “chẳng có ǵ để
đạt được”, há có ǵ để chứng quả?
Người ấy tâm đắm nhiễm, nhiễm ở
chỗ nào? Ngỡ là có sở đắc!
V́ thế, người ấy sẽ bắt giữ một thứ
ǵ đó. Nếu lầm lạc hứa khả cho kẻ
đó, kẻ đó sẽ gây nguy hại cho thế gian. Có
người nói: “Tôi đối với chỗ nào đó có ngộ
xứ”. Ngộ xứ có thể coi là giải ngộ, chứng
ngộ, có thể nương theo kinh điển, hoặc
nương theo pháp tắc để ấn khế,
nhưng nếu nói chính ḿnh chứng quả, điều này mười
phần nguy hiểm! Hiện thời, cái tâm chứng quả
(tức tự nghĩ là ḿnh đă chứng quả chi
đó) rất nhiều; có người
cho rằng chính ḿnh đă dự vào địa vị Bồ
Tát chi đó. Tôi nói: “Quư vị chẳng cần nói chính ḿnh là
Bồ Tát, chẳng cần nói chính ḿnh đă đăng
địa! Quư vị chẳng biết chư vị Bồ
Tát có thiện xảo to cỡ nào. Nếu hay biết,
căn bản là quư vị sẽ chẳng ăn nói quàng xiên!” V́ Đăng Địa Bồ Tát có vô lượng tam-muội
thiện xảo cùng lúc hiện tiền, vô lượng
tam-muội thiện xảo tự nhiên trọn đủ, vô
lượng tam-muội thiện xảo tự nhiên vận
dụng, vô lượng thần thông do đạt được hết thảy
sức tự tại. Như Long Thọ Bồ Tát vừa mới
nhập Hoan Hỷ Địa, liền tự đắc lực
nơi trăm ngàn tam-muội. Khi thuyết pháp cho người
khác, Ngài thường nhập Nguyệt Quang tam-muội, [người nghe] chỉ thấy ánh
trăng thanh tịnh chiếu rọi, chẳng thấy thân
Ngài. Chẳng phải là hễ quư vị nói chứng quả
bèn chứng quả! Phải nên mười phần hiểu rơ chỗ này!
(Kinh)
Bất khả dĩ tùy thuận tham ái, ly chư quá phi. Bất khả dĩ thường nhạo
đấu tránh, thành tựu
chư Nhẫn.
(經)不可以隨順貪愛離諸過非。不可以常樂鬥諍成就諸忍。
(Kinh: Chẳng thể
tùy thuận tham ái để ĺa các lỗi sai. Chẳng thể
do thường thích tranh đấu mà thành tựu các Nhẫn).
Trong
Lục Độ, công đức của pháp Nhẫn Nhục
thâm nhập, rộng răi hơn so với
Bố Thí và Tŕ Giới, v́ sao? Do thường chẳng tranh
đấu, do ḥa hợp với thế gian, do lợi ích hữu
t́nh. Ở đây, tâm trí lợi ích dễ dàng hiện tiền.
Có người bố thí mà cũng có thể đấu
tranh, chẳng hạn như có tâm mong được đền
đáp, có tâm mong thành tựu mà bố thí. Người
như vậy sẽ nẩy sanh tâm kiêu mạn, khiến cho
các hữu t́nh mà kẻ ấy
tiếp xúc cảm thấy hèn hạ, khiến cho trong tâm họ sanh ra áp lực, chẳng thoải mái. Có người
tŕ giới mà cũng có thể đấu tranh, khiến cho
kẻ được gọi là “phạm giới” sanh
khởi ḷng sợ hăi, thương tổn. Người thật sự tŕ giới sẽ khiến cho kẻ chẳng tŕ giới hoặc kẻ chẳng biết giới đạt
được an vui. V́ sao? Do giữ lấy, hướng
theo giới đức th́ sẽ được an lạc.
Nếu quư vị tŕ giới th́ sẽ an lạc,
điều phục, nhu thuận, sẽ là chẳng
đắm nhiễm, tức là dùng Thi La Ba La Mật để đạt được
hai pháp bi và trí. Như vậy th́ kẻ chẳng
tŕ giới và kẻ phạm giới sẽ hướng
đến giới pháp, chẳng sanh ḷng sợ hăi đối
với giới pháp. Rất nhiều người tŕ giới
khiến cho kẻ khác sanh khởi sợ hăi. Như thế
th́ chẳng phải là Thi La Ba La Mật, chẳng
thể thành tựu Thi La Ba La Mật thiện
xảo. Do vậy, hễ thường đấu tranh, sẽ
chẳng thể thành tựu Nhẫn Ba La Mật.
Trong
các đối pháp ở đây, chúng ta có thể quán chiếu
tâm trí của chính ḿnh mười phần rơ ràng. Hiện thời,
có người nói chính ḿnh có bản lănh to nhiều, nhưng
thường thích tranh đấu, chẳng có ǵ vẫn
bới ra chuyện để tranh chấp, vô duyên cớ bới ra chuyện. Tôi cảm thấy
mọi người phải nên ngăn trở hạng
người ấy, hoặc là xa ĺa sự tướng, hoặc
là khuyến hóa hạng người đó đừng ham sanh sự, v́ ham thích
sanh sự là khổ nạn. Đối với kẻ ham thích sanh sự,
mọi người phải tận lực giúp đỡ kẻ
đó, tập thể giúp đỡ, tập thể quan tâm,
yêu mến kẻ đó. Khi kẻ đó sanh sự, lập tức
dẹp yên, đừng để cho các chuyện
ấy lan truyền, v́ truyền bá các chuyện ấy sẽ rất
khổ; nhất là khi truyền bá càng nhiều, càng mạnh mẽ,
sẽ thương tổn cả ḿnh lẫn người.
V́ thế, “vốn vô sự” chính là sự an trụ
thanh tịnh trong Phật pháp. “Vốn nhàn” là sự an
trụ chân thật trong Phật pháp. Như vậy th́ mới
có thể lợi ích rộng khắp hữu t́nh, hiệp trợ
đạo tràng, thành tựu đạo nghiệp. Nếu
trong tâm tưng bừng nhốn nháo, náo nhiệt, chẳng có
chuyện ǵ cứ bới ra chuyện. Hễ có chuyện bèn
làm lớn chuyện, khiến cho mọi người bất
an. Đối với người như thế, mọi
người hăy nên tôn trọng, yêu mến, che chở, giúp
đỡ kẻ đó, bất luận là ai. V́ chuyện
như thế nếu quá nhiều, mọi người sẽ
chịu chẳng nổi!
Đối
với bậc trí, có thể ngay lập tức xử lư thị
phi. V́ sao? Do tâm trí của bậc trí vô nhiễm. Đối
với chuyện đúng hay sai, chúng ta dựa theo sự
tướng để xử lư là được rồi. Xử
lư như thế nào? Chúng ta khiến cho hữu sự trở
thành vô sự là được rồi, chẳng c̣n so đo
chuyện ấy, chớ nên tranh chấp chuyện ấy! Chẳng tranh chấp, nhưng cần phải điều
chỉnh. Có người biện giải nói chính ḿnh chẳng có
chuyện ấy. Đó là do chẳng tự xét ḿnh, chẳng
sanh khởi tâm thương xót chúng sanh. Đối với chúng
sanh gây chuyện, chúng ta đều phải nên thương
xót. Ai gây chuyện, mọi người đều nên thương xót kẻ đó. Do kẻ đó ngu si,
điên đảo, do tâm trí tối tăm, mê muội. Tối
thiểu là kẻ đó chẳng từ bi đối với
chính ḿnh, chẳng từ bi đối với người
khác. Vậy th́ mọi người chúng ta đều phải
nên từ bi đối với kẻ như thế,
thương xót kẻ như thế, thông cảm với kẻ
như thế, ban cho kẻ đó một không gian rộng lớn,
bảo kẻ đó thật sự là chẳng có chuyện
ǵ. Cái tâm [khoan dung] ấy sẽ khiến cho sự nóng nảy,
bực bội của mọi người sẽ lắng xuống; nhưng nếu quư vị
tranh biện với kẻ đó, sẽ đúng là chẳng
có trí, mà cũng chẳng có bi. Như thế sẽ khiến
cho một cuộc tranh căi mới nổ ra! V́ thế, nếu đă có chuyện, mọi người lập tức xử
lư, chẳng cần biện bác! Hễ cần điều chỉnh
liền điều chỉnh. Điều chỉnh như thế
nào? Để cho người có chuyện sẽ nêu ra, chúng
ta sẽ điều chỉnh. Quư vị chẳng cần biện
bác, bào chữa chính ḿnh chẳng có chuyện ấy. Nếu
biện bác, sẽ sanh ra đấu tranh, như thế th́ mọi
người cư xử với nhau sẽ mười phần
gian nan. V́ thế, người trí chẳng biện bác. Do
người trí vô nhiễm, cho nên chẳng dây dưa ở
chỗ này.
Vẫn
hy vọng mọi người thật sự thành tựu
đạo nghiệp, chẳng phải là thành tựu “ai lớn, ai nhỏ, ai đúng, ai sai, ai mạnh, ai yếu”. [Tranh biện] kiểu đó vô ích, chẳng phải là Phật
pháp. Do vậy, khi có đấu tranh thị phi, mọi
người hăy cùng nhau yêu
thương, che chở kẻ gây thị phi, mỗi người
tạo cho kẻ ấy đôi chút cảm giác không thị
phi là được rồi. Kẻ đó có thị phi, quư vị
chẳng có thị phi là được rồi. Quư vị chẳng
chấp trước vào đó, chuyện sẽ qua! Nếu
thật sự cần phải giải quyết, vậy th́
giải quyết là xong. Chúng ta học Phật, nhất
định phải khéo quan sát, khéo nhận biết, khéo
thành tựu!
(Kinh)
Bất khả dĩ thường hành ác nghiệp nhi đắc
thiện quả.
(經)不可以常行惡業而得善果。
(Kinh: Chẳng thể
do thường tạo ác nghiệp mà đạt được
thiện quả).
Kẻ
chuộng thị phi là kẻ hành ác nghiệp, v́ nhiều thị
phi th́ sẽ bị xâm hại nhiều. Nếu tâm trí thanh
nhàn, xa ĺa thiện ác, sẽ là tướng giải thoát. Nếu
tưởng thường làm việc thiện pháp, th́ là lạc
tướng. Nếu thường từ bi lợi ích rộng
khắp hữu t́nh, dẹp khổ, ban vui, tức là tướng
từ bi. Nếu chẳng nhiễm, chẳng chấp trước,
th́ là tướng trí huệ. Chúng ta dùng tướng ǵ vậy?
Nếu chuộng đấu tranh, khiến cho người
khác sợ hăi, khiến cho tâm người khác bất an,
đấy thật sự là tướng ngu si, tướng
ác nghiệp. Kẻ đó sắp bị rơi xuống giếng,
mọi người hăy cấp tốc ch́a tay giúp đỡ.
Hăy nên giúp đỡ người như thế, chớ nên
tranh luận với họ!
(Kinh)
Bất khả dĩ Thanh Văn thừa nhân nhi chứng Bồ
Tát Niệm Phật tam-muội.
(經)不可以聲聞乘人而證菩薩念佛三昧。
(Kinh:
Người thuộc Thanh Văn Thừa chẳng thể chứng
Bồ Tát Niệm Phật tam-muội).
Hữu
t́nh thuộc Thanh Văn Thừa chẳng thể thấy
pháp tánh và Phật tánh, chỉ tùy thuận tịch diệt,
chẳng hiểu rơ Phật tánh. Nếu thấu đạt
Phật tánh, sẽ tiến nhập tâm trí rộng lớn của
giáo ngôn Đại Thừa. Đó là sự sai biệt thuộc
về cơ chế ngôn giáo.
(Kinh) Diệc bất khả đắc
chư Bồ Tát nhẫn.
(經)亦不可得諸菩薩忍。
(Kinh: Cũng chẳng thể đắc
các môn nhẫn của Bồ Tát).
Nếu chúng ta vẫn ch́m đắm trong thị
phi, vẫn tranh chấp thiện ác, sẽ ĺa khỏi Phật
pháp quá ư là xa! Do vậy, chúng ta chớ nên đưa Phật
pháp lên cao chót vót rồi chẳng dùng đến. Nếu
như vậy, rất đáng tiếc. Chúng ta phải vận
dụng Phật pháp vào tâm trí, sanh mạng, và nghiệp duyên
của chính ḿnh. Nghiệp phiền năo đưa đến,
vừa khéo vận dụng Phật pháp. Hữu t́nh gặp
phải khổ năo đưa đến, vừa khéo vận
dụng Phật pháp. Có kẻ nói chuyện thị phi, vừa
khéo vận dụng Phật pháp, chẳng nhiễm, chẳng
chấp trước. Nếu đối phương cưỡng
chấp, ắt thương xót hồi thí, hăy nên dẹp trừ, cứu vớt sự khổ
ấy, khiến cho kẻ đó an vui. Kẻ nói thị phi
quá khổ, kẻ tạo thị phi càng khổ hơn. Kẻ
cưỡng chấp thị phi, truyền đạt thị
phi, chính là bị Khổ Khổ bức bách! Các vị thiện
tri thức ơi! Chúng ta thấy rơ mà cũng cảm nhận
rơ rệt chuyện này. Khi mọi người cộng trụ (cùng ở chung một
chỗ), nếu ai nấy đều tiêu trừ
thị phi, ai nấy đều tiêu trừ
đắm nhiễm, mọi người đều là đạo
hữu. Nếu ai nấy tranh nhau nói thị phi, nói thiện,
nói ác, mày, tao, người nọ, kẻ khác, như thế
th́ chắc chắn sẽ xảy ra vấn đề. Vấn
đề ǵ vậy? [Chỗ cộng trụ của] mọi
người chẳng phải là đạo tràng, mà là đấu
tranh tràng, xa ĺa Phật pháp, chẳng mảy may liên quan đến
Phật pháp. Chúng ta tiêu diệt Phật pháp, hay kiến lập
lợi ích của Phật pháp? Hăy khéo tư duy, khéo quan sát chỗ
này.
“Bồ
Tát nhẫn” là lúc nghịch hại bèn lợi ích rộng
khắp hữu t́nh. Chúng ta đọc câu chuyện của
vua Ca Lợi, trong lúc tu nhân, đức Thế Tôn đă bị
vua Ca Lợi cắt đứt chân tay. Đức Thế
Tôn bảo nhà vua: “Sau khi ta chứng A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề, sẽ độ ngươi đầu
tiên”. Đó chính chư Phật, Bồ Tát hành nhẫn vậy!
(Kinh)
Diệc bất khả dĩ tật đố thủ
trước nhi đắc Không tam-muội.
(經)亦不可以嫉妒取著而得空三昧。
(Kinh:
Cũng chẳng thể do ghen ghét, chấp trước mà
đắc Không tam-muội được).
Tức
là giải thoát tam-muội của ba môn tam-muội Không, Vô
Tướng, Vô Nguyện. Hoặc dùng Không tam-muội, hoặc
dùng Vô Tướng tam-muội, hoặc dùng Vô Nguyện tam-muội
mà đạt được ba môn giải thoát. Nói “giải
thoát” tức là công đức chân thật, chẳng đắm
nhiễm, chẳng chấp trước, chẳng vướng
mắc. Có thể hành tam-muội như thế hay không?
Thường tư duy, chánh quan sát, thuận theo pháp tánh
để quan sát, sẽ đạt được sức
tam-muội ấy!
(Kinh)
Diệc bất khả dĩ hành ái dục nhi nhập
Xa-ma-tha.
(經)亦不可以行愛慾而入奢摩他。
(Kinh:
Cũng chẳng thể do hành ái dục mà nhập Chỉ).
Tức
là chẳng thể thành tựu Chỉ Quán, trong cách nói của
Đại Thừa bèn tuyên nói như
thế. Nói “ái dục” tức là tri kiến, tri kiến
điên đảo của chúng sanh, sanh khởi từ tâm trí
thiếu sót, là sự đắm nhiễm
kéo dài. “Chỉ” là Chỉ trong “chỉ ác dương
thiện” (止惡揚善, dứt điều
ác, tuyên dương điều thiện), tự nhiên thành tựu
Tỳ-bà-xá-na chẳng thể nghĩ bàn, tức pháp tắc
thuộc về trí huệ hạnh và trí huệ quán. Do Chỉ
Quán mà có thể nhập trí quán, khiến cho mọi người
sanh chánh kiến, chánh niệm, đạt được
tâm trí trí huệ.
(Kinh)
Diệc bất khả dĩ giải đăi, lăn nọa, chứng chư
thánh đạo.
(經)亦不可以懈怠懶惰證諸聖道。
(Kinh:
Cũng chẳng thể dùng giải đăi, lười nhác
để chứng các thánh đạo).
Đây
là lời dạy mười phần đơn giản, rơ
ràng. Từ lời dạy đối pháp này, chúng ta có thể
khéo ấn khế tự tâm, trọn chẳng thể dùng tri
kiến tự đại, tự phụ để ấn
khế tự tâm. Đó là chẳng tương ứng.
(Kinh)
Năi chí bất khả dĩ bất xả dị niệm
chư vật, nhi năng thành tựu tư duy dă.
(經)乃至不可以不捨異念諸物而能成就思惟也。
(Kinh:
Cho đến chẳng thể do không xả ư niệm khác về các vật mà có thể thành
tựu tư duy được).
Sự
tư duy này là chánh tư duy. Nếu chẳng tùy thuận tri
kiến của Như Lai để chánh tư duy, tri kiến
mà chúng ta nương vào đều là tư duy bất chánh!
Nếu là tư duy bất chánh, sẽ tạo thành cái gọi
là “tà kiến vọng tưởng”. Nếu chánh tư
duy, chánh ngữ tất nhiên hiện tiền, chánh nghiệp và chánh mạng tất nhiên thành tựu. Do sanh ra chánh niệm,
sẽ có chánh định và chánh trí. V́ thế, tự nhiên
thông suốt Bát Chánh Đạo, một mực thủ hộ.
(Kinh)
Hiền Hộ! Thị cố, ngă kim dĩ thử
tam-muội, phó chúc thế gian chư thiên vương bối,
thọ tŕ, thủ hộ, diệc phó ư nhữ,
đương lai tuyên bố, vật linh đoạn tuyệt.
(經)賢護。是故我今以此三昧。付囑世間諸天王輩。受持守護。亦付於汝。當來宣佈。勿令斷絕。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! V́ thế, ta nay đem tam-muội này phó
chúc cho các vị thiên vương trong thế gian thọ tŕ,
thủ hộ, cũng giao phó cho ông tuyên diễn, lưu truyền
trong tương lai, đừng để đoạn tuyệt).
Ở
đây, đức Thế Tôn căn dặn các vị thiên
vương. Đối với đạo tràng Ban Châu này, rất
nhiều vị có Thiền Định thường quán
nơi này, yêu mến, bảo vệ nơi này. Mọi
người tự giác hoặc không tự giác từ các
nơi trên toàn quốc gạt bỏ mọi việc, buông
xuống thân t́nh để đến đạo tràng này,
cũng phần nhiều là được các vị thiên thần,
long thiên hộ pháp, thiện tri thức gia tŕ, mới có sức
đến đây. Nếu chỉ dựa vào nghiệp duyên của
chính ḿnh, chắc là người t́m đến rất
thưa thớt! Đây là nói như thật. Nếu quư vị
cho rằng [nói như vậy] là khoa trương, th́ đó
là khoa trương. Nếu chẳng cho đó là khoa trương,
tức là quư vị có thiện căn.
Đức
Thế Tôn căn dặn các vị thiên vương, v́ so với
các hữu t́nh trong thế tục, so với các loại phàm
phu hữu t́nh, thiên vương vẫn có oai đức
hơn. Chư thiên hộ pháp muốn ảnh
hưởng đến huyễn mộng của nhân loại,
cho đến tạo nghiệp hết sức thiện xảo,
đối với họ, [thực hiện các điều
đó] rất đơn giản. V́ thế, trong quá khứ
có Lục Niệm,
tức “niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm
Giới, niệm Huệ, niệm Tử, niệm Thiên”.
Người tại gia đều niệm phước
đức của chư thiên, v́ sao? V́ loại thiên chúng ấy
phần nhiều được bậc Thập Địa Bồ
Tát thủ hộ, ứng hóa trong thế gian, chư Phật
phần nhiều giao phó [việc hộ pháp] cho họ.
“Chúc
lụy” (囑累) chính là căn dặn,
truyền đạt, giao phó quư vị: Quư vị phải thủ
hộ khiến cho pháp tắc này tiếp tục
tồn tại. Ở đây, đức Thế Tôn một
là căn dặn Hiền Hộ Bồ Tát truyền đạt
pháp tắc này, khiến cho nó được tồn tại
lâu dài. Hiền Hộ Bồ Tát là vị đứng đầu
truyền đạt giáo ngôn này trong năm trăm vị tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cũng như là Thượng Thủ của mười
sáu vị Chánh Sĩ, tám vị Đại Sĩ. V́ thế,
đức Phật căn dặn vị này (Hiền Hộ
Bồ Tát), thay v́ căn dặn năm trăm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di hoằng truyền pháp này, mà
cũng là căn dặn tám vị Đại Sĩ, mà cũng là căn dặn mười sáu vị
Chánh Sĩ. Hơn nữa, đức Thế Tôn minh xác
căn dặn các vị thiên vương, họ cũng là
người đại diện. Đức Thế Tôn dùng
chư thiên để đại diện thiên long bát bộ,
cho đến hàng nhân phi nhân, khiến cho họ thủ hộ
rộng lớn.
(Kinh)
Ư thị, Thế Tôn thuyết tư pháp thời, hữu
bát na-do-tha Dục Sắc Giới chư thiên tử, giai phát
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm.
(經)於是世尊說斯法時。有八那由他欲色界諸天子。皆發阿耨多羅三藐三菩提心。
(Kinh: Ngay lúc
đó, khi đức Thế Tôn nói pháp ấy, có tám na-do-tha
các vị thiên tử trong Dục Giới và Sắc Giới
đều phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề
tâm).
Đối tượng để
tuyên nói trong kinh Đại Tập là hai cơi Dục Giới và Sắc Giới, chẳng tuyên
nói trong Vô Sắc Giới. Đại Tập bao gồm hai
ư:
-
Một là chỉ hữu t́nh trong hai cơi Sắc Giới và Dục Giới,
tuyên nói trong hàng trời, người.
-
Một ư nghĩa khác là nói đến chuyện mọi
người tu tập nghe pháp, như đă trần thuật
trong Tự Phần của kinh này: Chư thiên, các vị thánh
nhân, các tỳ-kheo, các vị trưởng giả, con của
các vị trưởng giả, quốc vương, chủng
tánh Bà La Môn, chủng tánh Sát-đế-lợi,
nhân phi nhân v.v… Các loại chúng sanh tập hợp tại Trúc
Lâm Tinh Xá, nghe đức Thế Tôn tuyên nói giáo ngôn rất
sâu này, dự vào chỗ tụ tập to lớn này.
Hai
ư nghĩa của Đại Tập được nêu rơ ở
đây!
(Kinh)
Phục hữu vô lượng bách thiên nhân, diệc phát A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm. Nhiên nhi tư bối,
giai ư vị lai quá Hằng sa kiếp, tận đắc
thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề,
giai đồng nhất hiệu, danh Chánh Giải Thoát
Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, trụ thế
giáo hóa, thọ mạng diệc đẳng.
(經)復有無量百千人。亦發阿耨多羅三藐三菩提心。然而斯輩。皆於未來過恆沙劫。盡得成就阿耨多羅三藐三菩提。皆同一號。名正解脫如來應供等正覺。住世教化。壽命亦等。
(Kinh: Lại có vô
lượng trăm ngàn người cũng phát tâm A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nhưng những
người ấy, trong vị lai, qua khỏi Hằng sa kiếp,
trọn hết đều được thành A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đều có cùng một
hiệu là Chánh Giải Thoát Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng
Chánh Giác, trụ thế, giáo hóa, thọ mạng cũng như
nhau).
Giống như
trong kinh Vô Lượng Thọ đă thọ kư danh hiệu
Diệu Âm Như Lai. Người niệm
Phật, người tu tŕ pháp tắc rộng lớn này,
luôn cùng một ngàn vị Phật chẳng hề trở ngại
lẫn nhau, ai nấy đều thành Phật, lợi ích hữu
t́nh rộng khắp. Sự giáo hóa và lợi ích của các
Ngài thật sự là như thế, giống như huấn
luyện tập thể, chẳng ảnh hưởng tới
chuyện quư vị thành Phật. Nếu quư vị nói: “Mọi
người đều đă thành Phật, tôi chẳng thành
Phật”, đó là nghiệp ngu si, tâm ngu si, hạnh điên
đảo. Dẫu cho vô lượng chúng sanh thành Phật,
ta vẫn thành Phật. V́ sao? V́ đấy là pháp tắc bản
chất, chẳng phải là nghiệp duyên hư vọng.
(Kinh)
Hiền Hộ! Dĩ tư sơ phát Bồ Đề tâm cố.
(經)賢護。以斯初發菩提心故。
(Kinh: Này Hiền Hộ!
Do những người ấy mới phát Bồ Đề
tâm).
“Tư
sơ phát Bồ Đề tâm” (những người
đó mới phát Bồ Đề tâm). V́ sao? V́ gặp pháp
này và giáo ngôn này. Nay chúng ta cũng gặp đức Thế
Tôn nói pháp như thế, giáo ngôn như thế, chúng ta có phát
tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề hay không?
Phần văn tự sau đó đúng là đă khích lệ
chúng ta cũng phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề tâm, cũng tức là cái tâm Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác, xa ĺa siểm khúc, xa ĺa tri kiến
đối đăi tự tha, xa ĺa thương tổn.
Người học Phật nhất định chớ nên
thương tổn chính ḿnh. Nói “gạt bỏ tự ngă”
chẳng phải là tự hại. Nếu cưỡng chấp
tự ngă, cho là có ngă, nhất định sẽ tự tàn hại
chính ḿnh, hoặc bị hại v́ thiện pháp, hoặc do v́
[chấp trước] nặng nề mà bị hại, hoặc
bị ác pháp hại, các thứ nguy hại đều gây
nguy hại cho chính ḿnh.
Chư
vị thiện tri thức hăy khéo học Phật pháp, xa ĺa
cái gọi là “tổn hại tự ngă”, tức cưỡng chấp tự ngă. Hai gánh nặng
của chúng ta, một là gánh nặng trân bảo, tức là quư
vị tự cho rằng chính ḿnh luôn đúng. Thứ kia là
gánh nặng rác rưởi, tức quư vị cho rằng
người khác đều sai be bét. Hai gánh nặng
ấy sẽ đè chết người. Xưa kia, người
Hoa có nói: “Thôi phiên liễu tam ṭa đại sơn” (xô
đổ kềnh ba quả núi lớn). Trên thực tế,
nay thân chúng ta bị đè bởi hai quả núi:
-
Một là những thứ trân bảo do chính ḿnh thâu thập,
chẳng hạn trân bảo “ngỡ chính ḿnh là đúng”, trân
bảo chánh kiến, trân bảo “ngỡ là có sở đắc”,
chẳng phải là những thứ tốt đẹp, quư vị
tuyệt đối chẳng thâu thập. Các thứ trân bảo
ấy là một quả núi to, ở bên vai trái của quư vị.
-
Thứ kia là những điều xấu xa của kẻ
khác: Người khác ác, người khác đúng, người
khác sai, không ngừng thâu gom. Sau đấy, đúng là hai vai
mỗi bên đều nặng trĩu, chẳng biết nó sẽ
đè sụm chính ḿnh hay không? Quư vị gồng gánh lâu ngày,
khi sụm xuống sẽ khổ lắm!
Tác
phẩm Phù Bản Truyện (蜉蝂傳) của Liễu
Tông Nguyên[4] nhằm
khen ngợi, ca tụng loại người ấy, nhưng
người như thế ở quanh ta quá nhiều, chính là “hễ
gặp vật ǵ bèn c̣ng lưng cơng”. Gặp thứ ǵ cũng
đều tự ḿnh bắt lấy, để làm ǵ? Vác nặng
mà đi, trọn chẳng vứt bỏ, bị đè sụm
mới thôi! Sau đó trèo lên cao, để làm ǵ? Ngă chết
mới thôi! Người học Phật kiểu đó
đúng là đáng thương. V́ thế, “người ấy
mang tiếng là danh nhân, thật ra là tiểu trùng mà thôi!”
Mọi người hăy đọc [tác phẩm ấy], hăy nên tự
răn nhắc chính ḿnh. Nếu chúng ta nay thật sự do
nhân duyên này mà phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề tâm, sẽ xa ĺa hết thảy các chuyện trái
lương tâm, tức là chuyện nguy hại cho tự ngă,
bỏ ĺa Ngă Chấp, tức t́nh kiến của chúng sanh,
cũng chính là “Phú-già-la kiến” đă nói trong phần
trước. Cái chúng sanh kiến này chính là vấn đề
đầu tiên phải giải quyết trong Phật pháp,
nhưng đối với khá nhiều hữu t́nh chẳng
có tri kiến chánh đáng, đó là chướng ngại
đầu tiên: “Chỉ có ta đúng, kẻ khác sai bét”, chẳng
có lời thứ hai nào! Tất cả hành pháp đều vây
quanh hai chữ “đúng, sai”, một đằng là ta, đằng kia là kẻ khác. Ta
đúng, kẻ khác sai. Hai thứ đối ứng ấy
chẳng hề ĺa bỏ, quá nặng nề!
Tôi cảm thấy mọi người hăy nên che chở
người như vậy, mạnh mẽ che chở. V́ sao?
Người như vậy quá khổ, tạo nghiệp vô
lượng, chẳng thể tu tập Phật pháp, lại
c̣n chẳng thể phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề tâm, đáng tiếc! Ở đây, kinh văn cổ
vũ chúng ta phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề
tâm.
(Kinh)
Thượng đắc như thị vô lượng công
đức, cụ túc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề. Huống phục ngă tích hành Bồ
Đề thời, cúng dường ngă giả, bỉ ninh bất
tốc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề dă.
(經)尚得如是無量功德。具足成就阿耨多羅三藐三菩提。況復我昔行菩提時。供養我者。彼寧不速成就阿耨多羅三藐三菩提也。
(Kinh:
C̣n đạt được vô lượng công đức
như thế, thành tựu đầy đủ A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Huống hồ những
người trong khi ta hành Bồ Đề xưa kia, đă
từng cúng dường ta, há họ chẳng nhanh chóng thành
tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề
ư?)
Nếu
trong quá khứ có thiện căn, gặp được
giáo ngôn như vậy, chỉ là Sơ Phát Tâm Bồ Đề
mà có thể đạt được cái quả như thế.
Huống hồ những người đă từng cúng
dường đức Thế Tôn khi Ngài ứng thế? Do
thiện căn rộng lớn ấy, quyết định
xa ĺa khổ nạn, xa ĺa điên đảo, xa ĺa tự hại
và hại người khác, phát tâm Bồ Đề thanh tịnh,
chính là tâm Bồ Đề vô nhiễm, Thắng Nghĩa
Đế Bồ Đề tâm, chẳng tạo tác Bồ
Đề tâm. Nếu là tạo tác Bồ Đề tâm, sẽ
thệ nguyện lợi ích hữu t́nh rộng lớn, chẳng
nhiễm, chẳng chấp trước. Đó là lập thệ
nguyện rộng lớn trong tạo tác Bồ Đề
tâm phần, đại thệ nguyện ǵ vậy? “Chúng
sanh độ hết, mới thành Phật đạo. Chúng
sanh văng sanh, ta thành Bồ Đề”. Đấy là thật
sự lấy Phật nguyện làm nguyện của chính
ḿnh, phát thệ nguyện rộng lớn, yêu mến thế
gian. Nếu nương theo nguyện như vậy, chúng ta
có phiền năo ǵ? Có thị phi ǵ? Có thống khổ ǵ? Có ǵ
chẳng thể chịu đựng? Quư vị có thể
khéo quan sát, khéo tư duy.
(Kinh)
Hiền Hộ! Phục hữu vô lượng vô biên chúng
sanh, văn thuyết thử pháp, đắc tịnh trí nhăn.
(經)賢護。復有無量無邊衆生。聞說此法得淨智眼。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Lại có vô lượng vô biên chúng sanh,
nghe nói pháp này, bèn đạt được pháp nhăn thanh tịnh).
“Đắc
tịnh trí nhăn” tức là đạt được Pháp
Nhăn tịnh, mở bừng con mắt thanh tịnh, sạch
làu chẳng có một vật nào để có thể thành, chẳng
có một pháp nào để có thể đạt được.
V́ thế, đối với người tâm trí an lạc,
đối với tất cả các vật trông thấy, đều chẳng sanh phiền năo. Tất cả
đố kỵ, phiền năo, thị phi, nhân ngă lập tức
tiêu tan trong trí nhăn thanh tịnh. V́ tâm chẳng thanh tịnh,
mắt chẳng thanh tịnh, sự tướng cũng chẳng
thanh tịnh. Do tâm chẳng thanh tịnh, mắt thanh tịnh,
y phục thanh tịnh, các nhân duyên chung quanh an lạc thanh tịnh.
Chư
vị thiện tri thức! Chúng ta tới đây, khẳng
định là để học Phật pháp, tu tập Phật
pháp, thành tựu Bồ Đề, tự lợi lẫn lợi
tha, nhất định phải nhận rơ mục tiêu này. Nếu
chẳng nhận rơ, sẽ bị khá nhiều ác duyên nghiệp
tập của chính ḿnh xâm hại đạo tràng. V́ thế,
chúng ta ngàn dặm xa vời vợi, muôn dặm thăm thẳm
đến nơi đây, phải nên phát khởi sự thủ
hộ thanh tịnh đối với đạo nghiệp,
tu tập thanh tịnh, phát nguyện thanh tịnh để
thủ hộ đạo tràng, yêu mến đạo tràng.
Đừng gieo quả báo xấu ác phá diệt đạo
tràng. Rất nhiều kẻ chẳng biết, lầm tưởng
là đúng. Quả báo ấy rất thê thảm. V́ thế, các
vị thiện tri thức ơi! Yêu mến và bảo vệ
đạo tràng rất trọng yếu, thủ hộ đạo
tràng rất trọng yếu, có thể đạt được
thiện xảo thanh tịnh nơi đạo nghiệp. Do vậy, rất là trọng
yếu.
(Kinh)
Phục hữu bát bách chư tỳ-kheo đẳng, ư
chư lậu trung, tâm đắc giải thoát.
(經)復有八百諸比丘等。於諸漏中心得解脫。
(Kinh: Lại
có tám trăm vị tỳ-kheo, đối với các lậu,
tâm được giải thoát).
Tham, sân, si, mạn, nghi,
tri kiến chẳng chánh đáng, cho đến các Tùy phiền năo của chúng ta, đều
là nghiệp tướng hữu lậu, là tâm trí đối
đăi, đều là hữu lậu trong tâm trí sanh diệt!
Thuở đức Thế Tôn tại thế, các phàm phu hữu
t́nh nơi
nơi cũng đều là như thế, nhưng khi nghe chánh
pháp, họ sẽ thuận
theo pháp mà hành, thuận theo pháp mà tư duy, thuận theo pháp
mà tu tŕ, thuận theo pháp mà chứng đạo, thành tựu
Bồ Đề. Khi nghe pháp, chúng ta phải nên quan sát
như thế nào? Tư duy như thế nào? Hành tŕ như
thế nào? Vẫn cần mọi người phải xét kỹ
từ chánh diện.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa,
nhi thuyết kệ ngôn: - Thùy đương thọ tŕ thử
tam-muội, bỉ ư phước tụ bất khả
lượng.
(經)爾時世尊爲重明此義。而說偈言。誰當受持此三昧。彼於福聚不可量。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn v́ nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ
rằng: - Ai sẽ thọ tŕ tam-muội này, người ấy
khối phước chẳng thể lường).
Thật
sự khích lệ chúng ta: “Thùy đương thọ tŕ
thử tam-muội” (ai sẽ thọ tŕ tam-muội này),
khẳng định là đại chúng hiện tiền!
Người sẽ phát, đă phát, hăy nên phát nguyện, hăy
nên thủ hộ như thế, hăy nên tu tập như thế.
“Bỉ
ư phước tụ bất khả lượng”
(người ấy khối phước chẳng thể lường):
Chẳng phải là đức Thế Tôn dùng khối phước
để dụ chúng ta tiến nhập pháp tắc, mà thật
sự là phước đức và nhân duyên như thế,
quả thật là công đức và lợi ích chân thật.
Quư vị có thể tu tập, có thể quan sát, có thể thủ
hộ.
(Kinh)
Tư đẳng giới hạnh vô trần cấu, bổn
tâm thanh tịnh do như kính.
(經)斯等戒行無塵垢。本心清淨猶如鏡。
(Kinh:
Bọn họ giới hạnh chẳng trần cấu, bổn
tâm thanh tịnh ví như gương).
Do
bổn tâm thanh tịnh, có thể tŕ các giới hạnh. Do có thể tŕ các giới hạnh,
bổn tâm thanh tịnh. V́ sao? Do pháp tương
ứng.
(Kinh)
Thùy đương thọ tŕ thị tam-muội, đa
văn thâm quảng vô biên nhai.
(經)誰當受持是三昧。多聞深廣無邊崖。
(Kinh:
Ai sẽ thọ tŕ tam-muội này, đa văn sâu rộng
không ngằn mé).
Ai thọ tŕ th́
người ấy đạt được lợi ích.
Đức Thế Tôn nói như thật như thế, trực
tiếp thúc đẩy chúng ta tiến nhập lợi ích của
pháp tắc này.
(Kinh)
Trí huệ tự nhiên vô khuyết giảm, công đức thịnh măn nhược minh
nguyệt.
(經)智慧自然無缺減。功德盛滿若明月。
(Kinh: Trí huệ
tương ứng chẳng khuyết giảm, công đức
tràn đầy như trăng sáng).
Đây
là đối trước người thọ tŕ tam-muội
mà trực tiếp tán thán, hứa khả, và ấn khế lợi
ích của nó.
(Kinh) Thùy đương thọ
tŕ thị tam-muội, đắc đổ chư Phật
bất tư nghị. Trí huệ quán sát hy hữu pháp, bất
tư nghị nhân giai thủ hộ.
(經)誰當受持是三昧。得睹諸佛不思議。智慧觀察希有法。不思議人皆守護。
(Kinh: Ai sẽ thọ
tŕ tam-muội này, được thấy chư Phật chẳng
nghĩ bàn. Trí huệ quan sát pháp hy hữu, người chẳng
nghĩ bàn đều thủ hộ).
“Bất
tư nghị nhân giai thủ hộ” (người chẳng
nghĩ bàn đều thủ hộ): Nói đến “tư
nghị”, con người phần nhiều là nghĩ bàn
tà kiến, nghĩ bàn ác kiến, tức là nghĩ bàn do
cưỡng chấp Ngă. Nghĩ bàn cưỡng chấp sẽ
rất đau khổ. V́ sao? Do chẳng có trí huệ. Dùng cái
tâm đắm nhiễm để quan sát, rất đau khổ!
Dùng cái tâm thanh tịnh vô nhiễm để quan sát, người
ấy sẽ được giải thoát, trụ trong an lạc.
“Trí huệ quán sát hy hữu pháp” (dùng trí huệ quan sát
pháp hiếm có): Tức là quan sát thanh tịnh, chẳng nhiễm,
chẳng chấp trước, quan sát rộng lớn chẳng
nhiễm, chẳng chấp trước, quan sát rốt ráo chẳng
nhiễm, chẳng chấp trước. Do đó, “trí huệ
quán sát hy hữu pháp, bất tư nghị nhân giai thủ hộ”
(trí huệ quan sát pháp hiếm có, người chẳng
nghĩ bàn đều thủ hộ): Trí huệ vốn chẳng
suy nghĩ, bàn luận pháp chẳng nghĩ bàn, nhưng do tập
quán tư duy hư vọng của chúng sanh, đức Thế
Tôn mới nói trí bất tư nghị, nói ra pháp tắc bất
tư nghị, nói thiện xảo bất tư nghị, khiến
cho chúng sanh tùy thuận tiến nhập.
(Kinh)
Thùy thường thọ tŕ thử tam-muội, tằng kiến
vô lượng chư Thế Tôn.
(經)誰常受持此三昧。曾見無量諸世尊。
(Kinh: Ai từng thọ
tŕ tam-muội này, từng thấy vô lượng các Thế
Tôn).
Đức
Thế Tôn không ngừng nêu ra “ai thường thọ tŕ
tam-muội này”, chính là không ngừng nhắc nhở chúng
ta. “Tằng kiến vô lượng chư Thế Tôn”
(từng thấy vô lượng các Thế Tôn): Đây
cũng là thọ kư. Nếu là người thọ tŕ tam-muội
này, [người ấy
đă] từng thấy vô lượng các đức Thế
Tôn. Chúng ta gặp gỡ pháp tắc tam-muội như vậy,
quả thật có thiện căn đă từng gặp vô
lượng chư Phật. Nếu quư vị không tin, có thể
đọc lời thọ kư trong kinh điển. Nếu quư
vị nói: “Ta chẳng tin lời Phật”, vậy th́ chẳng
cần xưng ḿnh là Phật tử nữa, quư vị
đang chống trái Phật. Nếu chống trái Phật mà
vẫn nói “ta đang học Phật”, sẽ quá đau khổ!
Có kẻ không chỉ chống trái Phật, mà c̣n biến
đổi Phật, thậm chí toan vượt hơn Phật.
Trong giới cư sĩ lẫn người xuất gia,
đều có kẻ nói sẽ “vượt xa Phật”. V́
sao? Chẳng lấy giáo ngôn của
Phật làm pháp tắc, chỉ do tâm trí cuồng vọng của
chính ḿnh mà nói “Phật nói như thế này, Phật nói
như thế nọ”, đều là nói cưỡng chấp.
Đức Phật nói lời thanh tịnh, lời từ
bi, lời phương tiện, lời lợi ích rộng khắp,
lời lợi ích chúng sanh, lời khiến cho chúng sanh ĺa khổ,
được vui, c̣n loại hữu t́nh ấy (hữu
t́nh toan vượt hơn Phật) nói ǵ? Lời điên
đảo, lời cuồng vọng, lời tăng thượng
mạn, lời khiến cho chúng sanh mê mất và sợ hăi.
Loại hữu t́nh ấy tuy nói xoen xoét là học Phật,
thật ra chẳng phải là người trong Phật pháp.
Chúng ta biết: Người nhập chủng tánh Phật,
Tín Nhẫn, Thuận Nhẫn, sẽ cùng lúc được
thấy, v́ tôn trọng, yêu thích hữu t́nh, tôn trọng pháp
tánh, biết hết thảy chúng sanh vốn là Phật, cho
nên có thiện xảo Tín Nhẫn và Thuận Nhẫn. Pháp Tịnh
Độ nói về thanh tịnh, b́nh đẳng, nói “hết
thảy chúng sanh đều có thể văng sanh”. Chỉ có
từ trong Tín Nhẫn và Thuận Nhẫn th́ mới có thể
tùy thuận tri kiến như vậy, mới có thể nhập
Phật tri kiến, mới có thể vào biển thệ nguyện
của Phật. Nếu không, quư vị sẽ đi ngược đường, sẽ đề ra tà
kiến “người ta có thể văng sanh bằng cách nào”
như thế đó. V́ sao? Quư vị chẳng tin “hết
thảy chúng sanh đều có Phật tánh”. Lại càng chẳng
tin “hết thảy chúng sanh vốn sẵn là Phật”,
lại càng chẳng tin đại nguyện nghiệp lực
của A Di Đà Phật thâu nhiếp trọn khắp
mười phương chẳng vướng mắc, chẳng
trở ngại, lại càng chẳng tin Phật là đấng
Vô Úy Thí, là đấng phương tiện thí, là đấng
bố thí rốt ráo, là đấng thí sự chọn lựa,
là đấng thí lợi ích thanh tịnh. Người như vậy
sẽ chẳng đạt được lợi ích nơi
Phật pháp.
(Kinh)
Bỉ Phật thuyết pháp nan xưng lượng, giai
đương phụng thừa tu cúng dường.
(經)彼佛說法難稱量。皆當奉承修供養。
(Kinh: Phật thuyết
pháp khó thể tính kể, đều nên phụng sự và
cúng dường).
Nếu
chúng ta thật sự muốn cúng dường Phật pháp,
hăy nên cung kính đảnh lễ đức Thế Tôn, cung
kính Phật pháp, tu tập Phật pháp, thủ hộ Chân
Như. V́ thế, nơi sự tướng, thường lễ
kính chư Phật, dùng hoa tươi, đèn, đuốc,
thức ăn ngon lành, và các thứ trân bảo để cúng
dường, yêu mến, thủ hộ, tán thán không ngớt.
Trong tâm trí, thủ hộ y hệt, chẳng có đối
đăi, tôn trọng hết thảy hữu t́nh dường
như chư Phật Thế Tôn. Đấy có phải là điểm chú trọng chủ chốt
hay không? Bản thân chúng ta hăy xét kỹ tự tâm, quan sát pháp
tắc được thủ hộ.
(Kinh)
Thùy năng thọ tŕ thử tam-muội, bỉ vi thế
gian tác đăng quang.
(經)誰能受持此三昧。彼爲世間作燈光。
(Kinh: Ai hay thọ
tŕ tam-muội này, bèn làm đèn sáng cho thế gian).
Chúng
ta biết thế gian này đă bị các thứ như tham,
sân, si, mạn, nghi, tà kiến che lấp, là thế gian hắc
ám. Gọi là “hắc ám” là v́ nếu chúng sanh chẳng
xa ĺa loại cát bụi này, sẽ bị khuất lấp. Nếu
tâm trí trí huệ sanh khởi, sẽ có thể chiếu soi thế
gian, làm ngọn đèn vô tận, từng ngọn đèn tiếp
nối nhau, tiếp nối huệ mạng, lợi ích thế
gian rộng lớn.
(Kinh)
Đại bi như tư bạt chúng sanh, sở hữu Thế
Tôn tất cúng dường.
(經)大悲如斯拔衆生。所有世尊悉供養。
(Kinh: Đại
bi như thế cứu chúng sanh, tất cả Thế Tôn
đều cúng dường).
Đấy
là pháp tắc thủ hộ của mười phương
chư Phật. Nếu chúng ta thật sự tu tập pháp tắc
này, chư Phật sẽ đều cúng dường quư vị.
Nhưng nếu chúng ta muốn tạo thị phi, tranh đấu,
dẫu một giọt nước cũng khó tiêu! Trong giáo
ngôn, đức Thế Tôn đă dạy: Nếu ai tùy thuận
pháp, thủ hộ pháp, tu tập pháp, vàng ṛng dày vạn
trượng cũng có thể tiêu! Nếu đối với
Phật pháp mà chẳng tu tập, chẳng thủ hộ, chẳng
yêu mến, giọt nước cũng khó tiêu, bất luận
quư vị là thân phận ǵ. Thân phận chẳng ăn nhập
chi cả, pháp ích rất tương ứng. “Sở hữu
Thế Tôn tất cúng dường” (Tất cả các
đức Thế Tôn đều cúng dường), nhất
định đừng nghĩ đây chỉ là một câu
nói suông phù phiếm, tôi tin sâu chẳng nghi. Nếu không tin,
chúng ta sẽ rất khó hành pháp. Nếu chẳng tin lời
dạy của Phật, chúng ta rất khó làm đệ tử
của Phật Đà! Bất luận hiện tướng
ǵ, nếu chẳng phải là đệ tử của Phật
Đà, làm thế nào mới có thể tiêu được thức
ăn được cúng thí trong tự viện? Pháp tắc
mà chúng ta thủ hộ đều là do phước đức
của Phật Đà ban bố. Nếu quư vị nói chính
ḿnh giỏi hơn đức Thế Tôn, quư vị hăy nên kiến
lập một giáo pháp ngoài giáo pháp của đức Thế
Tôn, chẳng thể kiến lập một [thứ dị
thuyết] trong giáo pháp của đức Thế Tôn! V́ đức
Phật đă giao phó hai mươi năm phước đức
cho những người tu tập trong đời Mạt
Pháp, đương nhiên Tăng chúng được đức
Thế Tôn trân trọng hơn. Sự trân trọng ấy là
v́ mong cho Phật pháp trụ thế. Do vậy, [Tăng chúng] là
nội quyến thuộc thực thi giáo ngôn. Tuy là như thế,
đối với mọi người hành pháp th́ đức
Phật đều thật sự yêu thương, che chở
y hệt như nhau. Nếu chúng ta chẳng thấy xác thực
ở chỗ này, sẽ nẩy sanh cái tâm tăng thượng
mạn, đâm ra chẳng thể tương
ứng với pháp.
(Kinh)
Thùy năng thọ tŕ thử tam-muội, vị lai vô số
chư thánh tôn, nhược hữu Bồ Tát dục kiến
giả, thanh tịnh tín tâm tu cúng dường.
(經)誰能受持此三昧。未來無數諸聖尊。若有菩薩欲見者。清淨信心修供養。
(Kinh: Ai hay thọ
tŕ tam-muội này, vô số đức thánh đời vị
lai, nếu có Bồ Tát muốn gặp gỡ, tín tâm thanh tịnh
tu cúng dường).
Bồ
Tát, long thiên cũng sẽ đến cúng dường
như thế. Trong phần trước, chúng ta đă học
điều này. Trong pháp này, nếu có người cầu gặp
pháp này, hoặc là người đọc tụng, thọ
tŕ kinh điển này, v́ người khác giải nói, hoặc
chứng đắc tam-muội này, lợi ích ấy rộng
lớn bao trùm các loài nhân phi nhân, quỷ thần. Chư
thiên, Bồ Tát, chư Phật Như Lai đều yêu
thương, che chở, bảo vệ, nghĩ nhớ, hiện
tiền v.v… Cho nên chẳng thể coi thường sự tu
tŕ Niệm Phật tam-muội, Ban Châu tam-muội, Thập
Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền
tam-muội này. V́ sao? Thật
sự thuộc về địa vị Phật, thật sự
là Phật tánh, thật sự là pháp tánh, thật sự là Tăng tánh, thật sự là công đức tạng, thật
sự là chỗ lợi ích chẳng thể nghĩ bàn!
(Kinh)
Thùy năng thọ tŕ thử tam-muội, bỉ thắng
đắc lợi nan tư nghị, thiện năng hạ
sanh ư nhân gian, thường đắc xuất gia thiện
cầu thực.
(經)誰能受持此三昧。彼勝得利難思議。善能下生於人間。常得出家善求食。
(Kinh: Ai hay thọ
tŕ tam-muội này, được lợi thù thắng khó
nghĩ bàn, khéo hay hạ sanh trong nhân gian, thường
được xuất gia, khéo khất thực).
Trong
phần kệ rất ngắn này, đức Thế Tôn dùng
câu “thùy năng thọ tŕ thử tam-muội” (ai có thể
thọ tŕ tam-muội này) ở tám chỗ; sau đó, trần
thuật khá nhiều công đức và lợi ích chẳng thể
nghĩ bàn của tam-muội này. Đấy là Ngài đă cảnh
sách hiện tiền đại chúng và các hữu t́nh hữu
duyên trong pháp này hăy tới thọ tŕ tam-muội này, tu tập tam-muội này. Tuy đức Thế Tôn
đă rát miệng buốt ḷng như thế, chẳng ngừng
tỉ mỉ tuyên nói trọn vẹn rộng khắp pháp ích
và hành pháp cho chúng ta, nhưng trong tâm linh của chúng ta, có kẻ
được kích phát sâu nặng, có kẻ mỏng ít, có kẻ
trơ trơ vô cảm, cũng có kẻ lần đầu
được nghe, cảm thấy trọn chẳng liên can
ǵ đến ḿnh! Tuy là hoàn toàn chẳng liên can, vẫn là chủng
tánh Bồ Đề, chân thật chẳng thể nghĩ
bàn, hễ thoảng qua tai, vĩnh viễn trở thành hạt
giống đạo. Chư vị thiện tri thức
ơi! Quyết định chớ nên bỏ phế ở
chỗ này, chớ nên dễ dăi lướt qua. Nếu chúng
ta được nghe một lần, hai lần, ba lần,
hăy nên thật sự hành tŕ, tu tập nó.
Có
nhiều vị Bồ Tát đă sớm hành tŕ pháp này,
cũng có thể là do thiện căn trong quá khứ, ví
như Hiền Hộ Bồ Tát, tám vị Đại Sĩ,
cho đến năm trăm vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đối trước đức
Thế Tôn phát nguyện cho
đến hết đời vị lai sẽ truyền bá
pháp này, thủ hộ pháp này, tu tập pháp này, cho đến
giải nói, giáo hóa hữu t́nh, khiến cho họ thành A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Cũng có thể là
năm trăm vị ấy đang hiện
diện nơi đây, ai biết? Phật biết. Ai biết?
Người hoằng truyền biết. Ai biết? Nếu
là người có tam minh tứ trí sẽ biết. Biết
như thế nào? Chẳng mai một, mê muội tâm trí, chẳng
xả thệ nguyện mà tiếp tục thực hiện
đến tận tương lai. Chúng sanh do nghiệp tận
Phần Đoạn Sanh Tử, sanh sanh tử tử, luân hồi
chẳng ngơi. Bồ Tát dùng nguyện lực là chỗ
nương tựa cho sanh mạng, kéo dài đến vị
lai. Do hết thảy chư Phật an trụ trong đại
nguyện, thành tựu chân thật, dùng tam-muội-da giới
chiếu sáng mười phương, an trụ trên kim cang
pháp ṭa, ngự trên Bồ Đề ṭa, lợi ích khắp
mười phương mà chẳng ĺa pháp ṭa, đều do
nương vào thệ nguyện mà kiến lập. V́ thế,
chúng ta tu tập pháp này, nếu chẳng nương vào sức
thệ nguyện để thủ hộ tam-muội lực
này, hoặc là nếu chẳng thật sự yêu mến pháp
tắc này, chúng ta sẽ chẳng thể giống như
chư Phật, Bồ Tát lợi ích thế gian rộng khắp,
cứu vớt chúng sanh khổ nạn, ban cho chúng sanh an lạc
và vui sướng, ban cho chúng sanh phước đức
để trang nghiêm. Nếu là một người học
Phật như thế, muốn thật sự tương ứng,
sẽ rất khó!
(Kinh)
Thùy năng hộ tŕ thử tam-muội, bỉ thọ
đa phước bất tư nghị. Phục năng trụ
tŕ ư tương lai, hoạch tư công đức tối
hậu lợi.
(經)誰能護持此三昧。彼受多福不思議。復能住持於將來。獲斯功德最後利。
(Kinh: Ai hay hộ
tŕ tam-muội này, sẽ hưởng nhiều phước
chẳng nghĩ bàn. Lại hay trụ tŕ trong tương
lai, đạt được công đức lợi sau rốt).
Vô
thượng đại lợi, lợi ích rốt ráo chính
là “tối hậu lợi”. “Phục năng trụ
tŕ ư tương lai” (lại có thể trụ tŕ trong
tương lai), tức là có thể khiến cho pháp này
được tồn tại trong tương lai. Trong phần
trước, đức Thế Tôn đă thọ kư, dạy
chúng ta: Thuở đức Thế Tôn tại thế, có
năm trăm vị [tăng ni, cư sĩ nam nữ], tám
đại Chánh Sĩ phát nguyện hoằng truyền pháp
này cho đến hết đời vị lai, thành tựu
vô lượng vô biên chúng sanh, khiến cho họ đều
do pháp tắc này mà đắc bất thoái chuyển nơi A
Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, cho đến
có thể thành tựu. Nay chúng ta có hiện duyên này, tối
thiểu là đă được nghe lời dạy như
thế, giải nói giáo ngôn như thế, trao đổi giáo
ngôn như thế, cho đến có nhiều vị thiện
tri thức cũng đang tu tập giáo ngôn ấy, thật
sự là phước đức thù thắng chẳng thể
nghĩ bàn! Tuy là do oai đức
của chư Phật gia tŕ khiến cho chúng ta thành thục,
đó cũng là do cơ chế thiện căn thành thục,
do công đức vốn sẵn có cũng thành tựu chẳng
thể nghĩ bàn, cho nên hăy nên tự tôn (tự tôn trọng chân tánh của
chính ḿnh, tôn trọng cơ hội trong hiện duyên), tự khéo thủ
hộ, đừng v́ tri kiến [nông cạn, chấp
trước] mà coi thường, hủy báng! Trong Phật
pháp hiện thời, người tự tôn mười phần
hiếm hoi! Nếu là kẻ
trọn đủ hiện pháp, sẽ là Bồ Tát, sẽ là
bậc giác ngộ, là bậc tự giác, giác tha, giác hạnh
viên măn, là người yêu
mến thế gian, là người nhàn tản trong Phật
pháp, là người tạo lợi ích trong Phật pháp, là
người có thể lựa chọn tự tại nơi
quả vị. Loại hữu t́nh như thế tuyệt
đối lợi ích thế gian chẳng sợ hăi, rộng
hoằng truyền Phật pháp mà chẳng chán ghét.
Chư Phật Thế Tôn xuất hiện
trong cơi đời, chẳng ngoài ư muốn
khiến cho chúng sanh phát khởi niềm vui xuất thế
rộng lớn thù thắng, như là “pháp lạc”, niềm
vui do các Thiền Định, niềm vui từ bi, niềm vui
trí huệ, niềm vui phương tiện, cho đến
các niềm vui diễn tả mầu nhiệm, niềm vui lợi ích rộng khắp hữu
t́nh. Các niềm vui ấy thật sự xa ĺa nỗi khổ
v́ ngũ dục trong thế gian, nỗi khổ vô thường.
Nhưng mọi người chúng ta thật sự đều
ở trong tam đồ bát nạn, trong thế tục có nhiều
khổ nạn, chúng sanh v́ chẳng có niềm vui Phật
pháp, cho nên tham cầu niềm vui thế tục. Đó
cũng là chuyện tất nhiên. Nếu có niềm vui trong Phật
pháp, các niềm vui khác thật sự chẳng thể sánh bằng,
tự nhiên sẽ bỏ qua niềm vui vô ích trong thế tục.
V́ sao? Do tạo nhiều nghiệp, dù thiện hay ác, thoạt
nh́n hơi vui sướng, chớp mắt liền hoại,
lại thêm các nỗi khổ bức bách trong thời đại,
càng khiến cho nghiệp luân hồi lừng lẫy!
Do
vậy, đối với nội hàm thực chất của pháp tắc này, vẫn mong mọi người
sau khi học tập, có thể thật sự thâm nhập
tu tập, cho đến thành tựu tam-muội, hoặc là đích thân thấy chư Phật, thấy Phật nghe pháp, thiện
căn thật sự thành thục, sẽ lợi ích trời
người rộng khắp, đạt được oai
đức thiện xảo, bất luận là tâm trí hay lời
nói, giáo pháp, tu tŕ, vô úy, của cải, hết thảy các thời,
các chỗ, đều đạt được
phương tiện. Vận dụng như thế chính là mục
đích học tập Phật pháp, mà cũng là mục
đích hành tŕ tam-muội của chúng ta.
14. Phẩm thứ
mười: Cụ Túc Ngũ Pháp
Kinh
điển là chủng tử Bồ
Đề, là chủng tử kim cang, mà cũng là Phật
tánh, Pháp tánh, Tăng tánh, là chỗ căn bản để chúng ta ấn
khế tự tánh. Phật pháp hoàn toàn được chọn
lựa ở nơi ấy, cội nguồn ở đấy,
là nơi có thể xuất sanh công đức của hết
thảy chư Phật, có thể dưỡng dục hết
thảy Bồ Tát, có thể lợi ích hết thảy chúng
sanh. Nếu chúng ta khéo quan sát, khéo học tập, khéo thủ
hộ, lợi ích ấy sẽ là chẳng thể nghĩ
bàn!
Chúng
ta thường v́ hiện duyên mỏng ít, bèn coi duyên vị
lai, hoặc cho rằng duyên thù thắng là sâu, phần nhiều
đánh mất chỗ thật sự khế nhập Phật
pháp của chính ḿnh, tức là [khế nhập] ngay trong hiện
tiền, cũng như cơ chế thật sự thành thục
Phật pháp vẫn ở ngay trong hiện tiền. Cũng
như cơ chế hoàn thiện thật sự vẫn là
ngay trong hiện tiền. Thật sự lựa chọn vẫn
là ngay trong hiện tiền. Thật sự truyền bá, chấp
nhận, vẫn chẳng ĺa hiện tiền. Hiện tiền tuy vẫn không ngừng tiếp
nối, chẳng ngừng sanh diệt, thay đổi,
nhưng đều chẳng rời hiện tiền! Đối
với chuyện trong hiện tiền, niệm hiện tại,
và bản thể của chính
nó ngay trong hiện tiền, nếu nhận biết, chúng ta
sẽ thấy phương tiện.
Kinh điển không ǵ chẳng phải là một
phương tiện giúp cho chúng ta dùng ngoại cảnh
để ấn khế tự tâm. Nếu tự tâm nhận
biết ngoại cảnh, lúc cảnh và tâm
như một, toàn thể kinh điển là tâm địa.
Kinh điển miêu tả tâm trí của chúng ta. Toàn thể
tâm trí được miêu tả trong kinh điển, bất
nhị như vậy mà duy tŕ pháp tắc này. Chấp nhận pháp tắc này, tu tập pháp tắc này, truyền
đạt, giải nói pháp tắc này, cho đến thành tựu
pháp tắc này, quư vị sẽ học tập Phật pháp
đắc lực, sẽ thật sự đắc lực
nơi pháp tắc này.
Học
Phật chẳng khó, nhưng ngay trong hiện tiền mà tôn
trọng th́ rất khó, v́ phàm phu hữu t́nh phần nhiều
dùng cái tâm mong mỏi cao xa đối với tương
lai, chẳng biết sự chân thật trong
hiện tại, phần nhiều
coi hiện tại là yếu kém, phần nhiều
v́ duyên của chính ḿnh yếu kém, bèn mong mỏi duyên
khác, mong mỏi lúc khác, mong mỏi duyên thù thắng, mong mỏi
quả thù thắng, mà đánh mất tự tôn, tự đắc,
cũng như [đánh mất] Phật tánh tự nhiên trọn
đủ. Đó chính là công đức vốn sẵn có của hết
thảy chúng sanh. Đánh mất chính ḿnh trong một niệm
hiện tiền, khinh miệt chính ḿnh, coi thường chính
ḿnh, khinh phạm chính ḿnh. Trong quá tŕnh học tập, chúng
ta trang nghiêm đạo tràng, nghiêm tŕ nghi quỹ, hoặc là
mọi người dùng cái tâm trang trọng, tâm nghiêm túc,
tĩnh lặng, như bệnh nhân đối trước
bậc y vương, như người bệnh nặng
đối trước thuốc hay, như người
trúng độc đối diện cam lộ, dùng cái tâm
nghĩ tưởng “vĩnh viễn chẳng có cơ hội
lần nữa, vĩnh viễn chẳng
có duyên lần nữa” để nghe pháp,
để trao đổi Phật pháp, để liễu giải tâm trí, th́ tâm trí sẽ
dễ được tỏ lộ.
Tâm
trí tỏ lộ vốn là chuyện tuyệt đối chẳng
thể lặp lại, mà cũng chẳng có lư do lặp lại,
v́ pháp chẳng có tự tánh, thời gian cũng chẳng có tự
tánh, cho nên nó sẽ chẳng thể lặp lại. Chúng ta
làm một việc, hoặc lao động, thoạt nh́n
dường như lặp đi lặp lại. Thật ra,
vẫn chỉ là cái tâm lặp lại, do vọng tâm nhận
biết, chấp lấy, cho là có lặp lại! Học tập
lần này cũng giống như thế! Hễ duyên này kết
thúc, cũng sẽ chẳng thể lặp lại, bất
luận chúng ta dùng tâm t́nh như thế nào, đều là “hễ đi, sẽ chẳng trở
lại”. Trong đời
người, nếu nhận biết điều này, đối
với mỗi chuyện, ngay trong mỗi niệm, đối
với bản thể của niệm ấy, nếu chúng ta
dùng cái tâm viên măn, khi ấy sẽ ngay lập tức viên măn,
ngay lập tức trọn đủ, chính là bản thể
của nó. Nếu chẳng dùng tâm trí viên măn, chẳng duyên
theo cái duyên ấy, mà duyên theo các thứ tưởng như
vọng tưởng, tạp tưởng, nghiệp tập
tưởng, ư tưởng chênh lệch chẳng đồng
đều, ư tưởng mong làm chuyện cao xa, mong tưởng
vị lai v.v… sẽ hứng chịu đủ thứ quả
báo, đủ thứ nhân duyên, đủ thứ tiếp nối.
Lần này, chúng thường trụ tại Hằng
Dương Am đă tốn rất nhiều công sức,
cũng tốn rất nhiều thời gian. Mỗi ngày [đều phải chuẩn bị] đèn, đuốc,
hoa tươi để đưa đón cúng dường,
thật sự là công sức chẳng luống uổng, lợi ích chẳng thể mai một! Chư Phật,
Bồ Tát sẽ gia tŕ, hết thảy hiền thánh đều
nghĩ tưởng, hết thảy long thiên hộ pháp
cũng sẽ thủ hộ.
Ngôn
ngữ chẳng có cao hay thấp, sự cũng chẳng có
lớn hay nhỏ, tâm trí tương ứng hay không mới
là quan trọng nhất. V́ người học Phật chẳng
ǵ để học, chỉ là liễu giải tự tâm.
Người học Phật chẳng có pháp ǵ để có thể
đắc, chỉ là sự chân thật nơi tri kiến
chẳng có tự tánh. Người học Phật cũng
chẳng có ǵ để sợ hăi, chỉ là đối diện
với mỗi niệm hiện tiền như huyễn.
Trong cái hiện tiền như huyễn, như mộng ấy,
quư vị dùng ǵ để vận dụng sanh mạng? Dùng ǵ để vận dụng trí huệ? Dùng
ǵ để vận dụng tâm trí? Thật sự là bản
thân mỗi người chúng ta đều phải nên xét kỹ,
phải nên quan sát, phải nên thủ hộ, phải nên nhận
thức sâu sắc, phải nên thủ
hộ sâu sắc, quan sát sâu sắc, tôn trọng như thật,
thủ hộ như thật, vận dụng như thật.
“Như thật” là như thế nào? Tức là “tự
tôn”, nghĩa
là tự tôn trọng hiện duyên của chính ḿnh giống
hệt như tôn trọng chư Phật, tôn trọng hiện
duyên giống hệt như tôn trọng lợi ích văng sanh của
chính ḿnh. Điều này có mức độ khó khăn nhất
định. Khó do nghiệp tập, khó do vọng tưởng
che lấp. Nếu một khi trừ khử sự che lấp
của phiền năo nghiệp tập, vậy th́ sẽ muôn dặm
quang đăng, mặt trời rạng ngời chiếu rọi.
Đó là tâm trí đă sáng suốt, chẳng vướng mắc
ǵ, như mặt trời xoay chuyển trên không trung! Khi chúng
ta học tập bản dịch kinh Ban Châu Tam Muội Đại
Tập Hiền Hộ này cũng giống như thế. Bất
quá nhờ vào sự tôn quư của kinh, nhờ vào sự chân
thật của Pháp Bảo để liễu
giải sự tôn quư và chân thật của tự tánh.
Cũng như liễu giải sự tôn quư của nhất
niệm hiện tiền, sự chân thật của nhất
niệm hiện tiền, bản thể của hiện tiền.
Quư vị sử dụng được th́ sẽ gọi là
“chưa chứng tam-muội mà chẳng tách rời công
đức của tam-muội”. Do vậy, quư vị có thể
nhận biết rơ ràng, vận dụng thành thục giáo ngôn
của hết thảy chư Phật.
(Kinh)
Đại Phương Đẳng Đại Tập, Hiền Hộ Phần, Cụ Túc
Ngũ Pháp phẩm đệ thập.
(經)大方等大集賢護分具足五法品第十。
(Kinh:
Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập,
Hiền Hộ Phần, phẩm thứ mười: Đầy
đủ năm pháp).
Trong
một phẩm này, đức Thế Tôn đă nhiều
lượt nêu ra năm thứ pháp tắc để có thể
thành tựu tam-muội này. Đấy là sau khi trọn đủ
ứng cúng, bèn tuyên nói giáo ngôn chân thật, v́ trong cơ chế
giáo ngôn của đức Thế Tôn, có pháp và có duyên th́ mới
có thể thực thi, mới có thể thủ hộ thành tựu.
Duyên ấy là do dùng nghiệp tướng để nói? Hay là dùng tâm trí dấy
khởi ư niệm để nói? Hay là dùng phước đức
đầy đủ để nói? Ở đây, đức
Thế Tôn đă thực hiện sự diễn luyện. Chúng
ta hăy xem Ngài diễn luyện như thế nào?
(Kinh)
Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát tùng ṭa nhi khởi,
chỉnh lư y phục, thiên đản hữu kiên, hữu tất
trước địa, cung kính hiệp chưởng, nhi bạch
Phật ngôn: - Thế Tôn! Duy nguyện Thế Tôn, cập tỳ-kheo
tăng, minh nhật thực thời, lâm cố ngă gia, thọ
ngă cúng dường, lân mẫn ngă đẳng chư chúng
sanh cố.
(經)爾時賢護菩薩。從坐而起。整理衣服。偏袒右肩。右膝着地。恭敬合掌。而白佛言。世尊。唯願世尊及比丘僧。明日食時。臨顧我家受我供養。憐愍我等諸衆生故。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
Hiền Hộ Bồ Tát từ chỗ ngồi đứng
dậy, chỉnh đốn y phục, trật vai áo phải,
gối phải đặt sát đất, cung kính chắp
tay, bạch cùng đức Phật rằng; - Bạch Thế
Tôn! Kính mong đức Thế Tôn và các vị tỳ-kheo vào
giờ dùng bữa ngày mai, quang lâm nhà con, nhận sự cúng
dường của con v́ thương xót bọn chúng sanh
chúng con).
Ở
đây, Hiền Hộ cũng đại diện cho hết
thảy hữu t́nh cầu pháp, hữu t́nh hành pháp, cho đến
hữu t́nh thành tựu, đối trước đức
Thế Tôn biểu đạt, biểu đạt điều
ǵ vậy? Muốn thỉnh pháp, muốn được nghe
pháp, cho đến thật sự thủ hộ và thành tựu.
Đấy là một sự phát khởi. Tuy Hiền Hộ
Bồ Tát cúng dường đức Phật và các vị tỳ-kheo
tăng, nhưng Hiền Hộ Bồ Tát nói “lân mẫn
ngă đẳng chư chúng sanh cố” (v́ thương xót
bọn chúng sanh chúng con), tức là Hiền Hộ Bồ Tát
v́ các chúng sanh mà cầu thỉnh đức Thế Tôn và các
vị tỳ-kheo đến ứng cúng.
(Kinh)
Thế Tôn mặc nhiên, thọ Hiền Hộ thỉnh.
(經)世尊默然受賢護請。
(Kinh: Đức
Thế Tôn im lặng nhận lời thỉnh của Hiền
Hộ).
“Im
lặng” là cách đức Thế Tôn thầm chấp thuận
ứng cúng. V́ cớ sao? Đức Thế Tôn là đấng
Nhất Thiết Trí, đối với hết thảy thức
ăn, y phục, và hết thảy
vật dụng của thế gian, Ngài đều chẳng
cần đến. Đối với pháp cũng như thế,
v́ Ngài chẳng thiếu khuyết. Do vậy, chẳng nói là
chấp nhận hay không chấp nhận, chỉ im lặng
khế hợp sự phát tâm ấy, khiến cho người
phát tâm đạt được sự đáp ứng thanh
tịnh. V́ thế, im lặng thọ thực, hoặc im lặng
thọ thỉnh, chẳng trả lời như [người
b́nh phàm trong] thế gian. Hễ im lặng tức là đă đáp ứng.
(Kinh)
Thời bỉ Hiền Hộ tri Phật thọ dĩ.
(經)時彼賢護知佛受已。
(Kinh: Khi đó,
ngài Hiền Hộ biết Phật đă nhận lời).
Hết
thảy đệ tử của đức Phật Thế
Tôn cũng giống như thế. Khi các vị tỳ-kheo thọ
thỉnh, các Ngài chỉ im lặng th́ cũng là ngầm đồng ư.
Trong Tăng pháp, có pháp tắc đa số im lặng chấp
thuận. Chẳng hạn như đối với kẻ
đă phạm lầm lỗi, phải nên chỉ ra. Nếu
chẳng chỉ ra, tức là im lặng chấp nhận, hoặc
có nghĩa là quư vị tùy hỷ. Nếu là ứng cúng th́
cũng giống như thế. Ngay như trao đổi lời lẽ, hoặc trao
đổi pháp tắc, cũng có nhiều lúc im lặng. Sự
im lặng ấy có nghĩa là tiếp nhận.
(Kinh)
Đảnh lễ tôn túc, hữu nhiễu tam táp. Ư thị
từ hoàn, toại phục nghệ bỉ Ma Ha Ba Xà Ba Đề
tỳ-kheo-ni sở.
(經)頂禮尊足。右繞三匝。於是辭還。遂復詣彼摩訶波闍波提比丘尼所。
(Kinh: Đảnh
lễ dưới chân đức Thế Tôn, nhiễu theo
chiều phải ba ṿng. Liền đó, từ biệt quay về,
bèn tới chỗ của tỳ-kheo-ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề).
Tỳ-kheo-ni
Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahāprajāpatī Gautamī) là tên [tiếng
Phạn] chưa dịch nghĩa của tỳ-kheo-ni Đại
Ái Đạo. Chúng ta biết đức Thế Tôn được
di mẫu (d́) là bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề nuôi lớn. Sau khi
đức Thế Tôn thành đạo, di mẫu và năm
trăm thị nữ phát tâm theo đức Thế Tôn xuất
gia, ba lượt thỉnh cầu đức Thế Tôn.
Đức Thế Tôn không chấp nhận, họ bèn từ
trăm dặm [đi bộ], đuổi theo đức Thế
Tôn. Ngài A Nan bất nhẫn trước tâm bi cảm thiết
tha cầu pháp của bà Đại Ái Đạo [và các thị nữ], cho nên đă
thay họ hướng về
đức Thế Tôn cầu xin [cho phép nữ chúng] xuất
gia. Do vậy, đức Thế Tôn nói: “Này A Nan! Sở
dĩ đức Thế Tôn chẳng chấp thuận là v́
có ư nghĩa sâu xa”. Do A Nan ba lượt thỉnh cầu,
đức Thế Tôn mới định ra tám pháp thanh tịnh[5] để cho
phép nữ giới trở thành sa-môn trong giáo ngôn của Phật
Thích Ca, hiện h́nh tướng sa-môn.
(Kinh)
Đáo dĩ, đảnh lễ Ba Xà Ba Đề tỳ-kheo-ni
túc, nhi tức bạch ngôn: - Nguyện A-lê-da, cập chư
ni chúng, lân mẫn ngă cố, thọ ngă minh triêu sở thiết
vi cúng.
(經)到已。頂禮波闍波提比丘尼足。而即白言。願阿梨耶及諸尼衆。憐愍我故。受我明朝所設微供。
(Kinh: Đă đến
nơi, đảnh lễ dưới chân tỳ-kheo-ni Ba Xà
Ba Đề, liền bạch rằng: - Kính mong A-lê-da và các
ni chúng v́ thương xót con, chấp nhận lễ cúng
dường nhỏ nhoi do con sắp đặt vào ngày mai).
Đối
với vị thủ lănh của các vị ni là ngài Ma Ha Ba Xà
Ba Đề, [Hiền Hộ Bồ Tát] bèn dùng từ ngữ
A-lê-da (Aryā, tôn quư) để
xưng hô, tức là A-xà-lê (Ācārya),
cũng là Quy Phạm Sư (規範師), có thể làm chỗ nương tựa cho chúng sanh,
làm bậc dạy bảo, hướng dẫn, bố thí pháp,
có thể thí vô úy cho chúng sanh, khiến cho chúng sanh an lạc.
Hiện thời, tại vùng Vân Nam, trong dân gian c̣n có giáo ngôn
của A Trát Lê[6],
tức là bậc Quy Phạm Sư tại gia, từ Miến
Điện, Thái Lan truyền qua đă lâu. Trên thực tế,
[các vị A Trát Lê ấy] thuộc một pháp hệ của
Mật Thừa được truyền bá [tại Vân Nam] rất
sớm, c̣n sớm hơn Tạng truyền Phật giáo rất
nhiều.
“Lân
mẫn ngă cố, thọ ngă minh triêu sở thiết vi cúng”
(V́ thương xót con, chấp thuận lễ cúng dường
nhỏ nhoi do con sắp đặt vào ngày mai). V́ sao nói là “vi
cúng” (cúng dường nhỏ nhoi)? Đối trước
các bậc thánh giả, trí giả ấy, cho đến
đối với chư Phật, Bồ Tát là những vị
đại oai đức thiện xảo, tất cả sự
cúng dường trong thế gian chỉ có thể nói coi là “vi
cúng”. V́ sao? Chư Phật Như Lai là bậc đạo
sư của tam giới, là đấng được trời
người cúng dường. Sự cúng dường của
nhân loại hết sức nhỏ nhoi, đạm bạc, dẫu
tận lực, cùng kiệt tài sản, vẫn là sự cúng
dường nhỏ bé, đạm bạc. Nếu chẳng
nói như thế, sẽ chẳng phải là như thật!
(Kinh)
Nhĩ thời, Ma Ha Ba Xà Ba Đề tỳ-kheo-ni mặc
nhiên thọ thỉnh.
(經)爾時摩訶波闍波提比丘尼。默然受請。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
tỳ-kheo-ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề im lặng nhận thỉnh).
Cũng
giống như đức
Thế Tôn im lặng nhận lời thỉnh.
(Kinh) Hiền Hộ tri dĩ, đảnh
lễ từ hoàn. Thời bỉ Hiền Hộ phục nghệ
Bảo Đức Ly Xa Tử sở.
(經)賢護知已頂禮辭還。時彼賢護。復詣寶德離車子所。
(Kinh: Hiền Hộ
đă biết, đảnh lễ, từ biệt, quay về.
Khi đó, ngài Hiền Hộ lại đến chỗ của
Bảo Đức Ly Xa Tử).
Thuở đức Thế Tôn tại thế,
cũng có nhiều ngoại đạo được
thành tựu, ở trong thế gian đă đạt được
an lạc. Rất nhiều ngoại đạo tuy chưa rơ
ràng quy y giáo ngôn của đức Thế Tôn, cũng thường
đến chỗ đức Thế Tôn đang dạy bảo, hoặc
tới pháp hội của Ngài để nghe
giáo pháp, do sức bức xạ từ oai đức rộng
lớn của đức Thế Tôn.
(Kinh)
Ngữ Bảo Đức ngôn: - Bảo Đức! Nhữ
lai nhữ chi sở hữu thân thích, quyến thuộc, bằng
hữu, tri thức, cập thử hội trung ưu-bà-tắc
chúng, năi chí nhất thiết Vương Xá đại thành,
cập dĩ tự dư thành ấp, tụ lạc, chư
tân lai giả, vị ngă thỉnh viết: “Thọ ngă minh
triêu sở thiết phạn thực”.
(經)語寶德言。寶德。汝來汝之所有親戚眷屬朋友知識。及此會中優婆塞衆。乃至一切王舍大城。及以自餘城邑聚落諸新來者。爲我請曰。受我明朝所設飯食。
(Kinh:
Nói với Bảo Đức rằng: - Này Bảo Đức!
Ông đến chỗ tất cả thân thích, quyến thuộc,
bạn bè, người quen biết của ông, và các vị
ưu-bà-tắc trong hội này, cho tới hết thảy những
người mới đến trong đại thành
Vương Xá, và các thành ấp,
xóm làng khác, v́ tôi mời như sau: “Ngày mai hăy đến dùng
bữa cơm do tôi thết đăi”).
V́
sao ở đây nói là “phạn thực” (bữa
cơm), chẳng nói là “vi cúng” (cúng dường nhỏ
nhoi)? Tương ứng với chuyện thí cho nhân loại
th́ “phạn thực” là từ ngữ tương ứng.
Ở đây, Hiền Hộ Bồ Tát mở pháp hội Vô
Giá cúng dường thức ăn rộng lớn, khiến
cho hết thảy kẻ hữu duyên đều được
cúng dường. Không chỉ là người trong thành
Vương Xá, mà cho đến các thành thị, làng xóm khác
cũng nên thọ thỉnh (chấp thuận lời mời).
V́
sao chỉ nhắc tới ưu-bà-tắc, chẳng nhắc
tới ưu-bà-di? Đây là một phong tục tập quán của
riêng Ấn Độ. Trong phần trước, chúng ta
đă thấy, đức Thế Tôn thường nhắc tới
khá nhiều long thiên hộ pháp, đủ loại quỷ thần,
đủ loại trời, cho đến trưởng giả,
chủng tánh Sát-lợi vương, Bà La Môn, ưu-bà-tắc,
nhưng chẳng nói đến ưu-bà-di thọ thỉnh.
Đó là tôn trọng cách nói theo phong tục của dân tộc
ấy. V́ đức Thế Tôn sống trong thời đại có phong tục dân tộc
như thế ấy, cho nên Ngài cũng chẳng bỏ phong
tục dân tộc. Đó gọi là “thí giáo ư thế
gian, bất hủy ư thế tục” (bố thí giáo
pháp trong thế gian, chẳng hủy phong tục của thế
gian). Nếu thí giáo trái nghịch với thế tục, hữu
t́nh trong thế gian sẽ chẳng tiếp nhận. Đức
Thế Tôn là bậc trí huệ trọn đủ,
phương tiện thiện xảo, cho nên Ngài tùy thuận
thế tục. Về sau, chúng ta đến nơi khác học
pháp, dạy pháp, cũng phải nên chẳng xả loại
phương tiện ấy, cũng chớ nên trái nghịch
phong tục của dân chúng trong thế gian. Nếu vứt bỏ,
sẽ bị xung đột và tổn thương, hoặc
mâu thuẫn.
(Kinh)
Nhĩ thời, Bảo Đức Ly Xa Tử đồng tử
thọ Hiền Hộ ngôn, tức cáo hội trung chư
ưu-bà-tắc, thân thích, quyến thuộc đẳng viết:
“Nhân bối đương tri, bỉ Hiền Hộ Bồ
Tát linh ngă cáo nhữ. Minh nhật thực thời, thọ
ngă vi cúng”. Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát, Bảo
Đức Ly Xa Tử, cập Thiện Thương Chủ
trưởng giả, Già Ha Ngập Đa cư sĩ tử,
Na La Đạt Đa Ma Nạp, Thủy Thiên trưởng
giả, tịnh cập nhất thiết chư dư quyến
thuộc, bằng hữu, tri thức đẳng, đảnh
lễ Phật túc dĩ, hoàn bỉ Hiền Hộ Bồ Tát
xá trạch. Đáo dĩ, tá bỉ Hiền Hộ kinh doanh, tức
ư kỳ dạ, ước sắc gia nhân, biện cụ
chư chủng tinh diệu thượng soạn, sở vị
thế gian phàm khả thực đạm, sắc,
hương, mỹ vị, bách vật bị
hữu. Năi chí ngoại quốc viễn lai bần cùng khất
cái, diệc vị biện cụ chủng chủng tinh thiện,
nhi cung cấp chi, dữ chư đại chúng, nhất
đẳng vô dị.
(經)爾時寶德離車童子受賢護言。即告會中諸優婆塞親戚眷屬等曰。仁輩當知。彼賢護菩薩令我告汝。明日食時受我微供。爾時賢護菩薩。寶德離車子。及善商主長者。伽訶岌多居士子。那羅達多摩納水天長者。並及一切諸餘眷屬朋友知識等。頂禮佛足已。還彼賢護菩薩舍宅。到已。佐彼賢護經營。即於其夜。約敕家人。辦具諸種精妙上饌。所謂世間凡可食啖。色香美味百物備有。乃至外國遠來貧窮乞丐。亦爲辦具種種精膳而供給之。與諸大衆。一等無異。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
đồng tử Bảo Đức Ly Xa Tử tiếp nhận
lời dặn của Hiền
Hộ, liền bảo các vị ưu-bà-tắc trong hội,
thân thích, quyến thuộc v.v… rằng: “Các vị nhân giả
hăy nên biết, Hiền Hộ Bồ Tát bảo tôi nói với
các vị: Vào giờ dùng bữa ngày mai, hăy tiếp nhận
sự cúng dường nhỏ nhoi của ông ta”. Lúc bấy
giờ, Hiền Hộ Bồ Tát, Bảo Đức Ly Xa Tử,
và trưởng giả Thiện Thương Chủ, con trai
cư sĩ Già Ha Ngập Đa, Na La Đạt Đa Ma Nạp,
trưởng giả Thủy Thiên, và hết thảy các quyến
thuộc, bằng hữu, kẻ quen biết khác, đảnh
lễ dưới chân đức Phật xong, trở về
nhà của Hiền Hộ Bồ Tát. Tới nơi, họ
giúp Hiền Hộ lo liệu. Ngay trong đêm hôm ấy,
căn dặn gia nhân, chuẩn bị đầy đủ
các món ăn ngon khéo, tức là các thứ có thể ăn nuốt
trong thế gian, sắc hương, vị ngon, trăm vật
đều có đủ. Cho đến đối với những
kẻ nghèo túng, ăn mày từ nước ngoài xa xôi t́m
đến, cũng v́ họ chuẩn bị đầy đủ các thứ thức ăn ngon khéo để cung cấp,
giống hệt chẳng khác các món đăi đằng
đại chúng).
Ở
đây, chúng ta thấy tâm hạnh b́nh đẳng của Bồ
Tát. Chúng ta tu pháp trong thế gian này, nếu dùng tâm b́nh
đẳng yêu thích, tôn trọng hết thảy hữu duyên
trong hiện tiền, thật sự là thiện xảo.
Đó chính là tâm trí thiện xảo b́nh đẳng của Bồ
Tát. Chúng ta chớ nên dùng cái tâm cao thấp, tâm chẳng b́nh
đẳng, tâm yêu ghét, tâm thân sơ để tu tập
pháp. Tu pháp [mà có các tâm] như vậy, nói chung chẳng
tương ứng. Nếu chẳng có tâm rộng lớn,
tâm b́nh đẳng, tâm chẳng thể như đại
địa an trụ chúng sanh, khiến cho chúng sanh trụ
trong an lạc. Như thế chính là cô phụ pháp tắc mà
chính ḿnh đă gặp. Chúng ta ở trong đạo tràng này,
cũng giống như thế. Nếu có thể dùng cái tâm
b́nh đẳng, tâm chân thật để bảo ban, an ủi
hữu t́nh trong thế gian, bảo ban, an ủi các nhân duyên
hiện tiền chung quanh. Đó là chân thật thủ hộ
tâm b́nh đẳng, tâm thanh tịnh. Tâm như đại
địa, có thể chuyên chở hết thảy, đó là
chỗ an ổn, hăy nên chọn lựa chân thật.
(Kinh)
Sở dĩ giả hà? Phàm chư Bồ Tát, tâm vô tăng ái,
bất cảm khinh tha, ư chư chúng sanh, giai b́nh đẳng
cố.
(經)所以者何。凡諸菩薩。心無憎愛。不敢輕他。於諸衆生皆平等故。
(Kinh:
V́ cớ sao vậy? V́ các vị Bồ Tát tâm chẳng yêu
ghét, chẳng dám khinh người khác, đối với các
chúng sanh đều b́nh đẳng).
Chỗ
này mười phần trọng yếu, v́ chúng sanh duyên theo
tâm trí sai khác, nhưng cung kính và tôn trọng ai nấy đều
cần thiết. Tâm trí yêu ghét thường khiến cho
người khác sanh khởi cảm giác thân, sơ, bất
b́nh đẳng, cho đến cảm giác ô nhiễm, phần
nhiều có tâm khinh mạn và tôn quư. Như thế th́ sẽ
khiến cho ḷng người bất b́nh đẳng, bị
nhiều thương tổn. Chúng ta làm thế nào để
vận dụng cái tâm b́nh đẳng trong thế gian bất
b́nh đẳng như thế này, vận dụng tâm trí b́nh
đẳng để bảo ban, an ủi hữu t́nh?
Đó thật sự là tu tŕ hai pháp bi và trí, cũng là tu tŕ
an trụ thanh tịnh b́nh đẳng. Đấy chính là một
mắt xích trọng yếu mà tất cả những người
tu tập Phật pháp chúng ta phải nên xem kỹ, phải
nên quan sát, phải nên đúng lư xem xét kỹ càng, quán sát như
lư, phải nên đúng lư tu tập pháp tắc, đúng lư thành
tựu pháp tắc, rất trọng yếu, hết sức
trọng yếu!
(Kinh)
Nhĩ thời, Sa Bà thế giới chủ Đại Phạm
thiên vương.
(經)爾時娑婆世界主大梵天王。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
chủ của thế giới Sa Bà là Đại Phạm
thiên vương).
Ở
đây dịch Đại Phạm thiên vương là chủ
của thế giới Sa Bà, cũng có khi dịch Đại
Tự Tại Thiên là chủ của thế giới Sa Bà,
nhưng Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật là đấng giáo
hóa pháp tắc chủ của thế giới Sa Bà. Một
tam thiên đại thiên thế giới ắt có một
đức Thế Tôn trụ thế, khiến cho chúng sanh
trong thế giới ấy được trụ trong an lạc.
Nếu chẳng có Thế Tôn ngự, đức Thế Tôn
sẽ dùng đủ mọi phương tiện, đủ
mọi thân để thuyết giáo, trọn chẳng vứt
bỏ, v́ chư Phật chẳng bỏ hết thảy thế
giới và hết thảy chúng sanh.
(Kinh)
Năi chí Đao Lợi thiên vương, Thích Đề Hoàn
Nhân, tứ thiên đại vương Đề Đầu
Lại Trá đẳng, cập bỉ Thiện Đức
thiên tử, dữ chư quyến thuộc, hàm vi nhân thân tán
trợ kỳ sự.
(經)乃至忉利天王。釋提桓因。四天大王提頭賴吒等。及彼善德天子。與諸眷屬。咸爲人身贊助其事。
(Kinh:
Cho đến Đao Lợi thiên vương, Thích Đề
Hoàn Nhân, tứ thiên đại vương như Đề
Đầu Lại Trá (Dhṛtarāṣṭra,
Tŕ Quốc thiên vương) v.v… cùng với
thiên tử Thiện Đức và các quyến thuộc,
đều dùng thân người để giúp đỡ chuyện
ấy).
Liền
chuyển đổi thân tướng, dùng thân người
thông thường để giúp Hiền Hộ, muốn làm
cho chuyện cúng dường ấy được thành tựu.
V́ đấy là chuyện cúng dường Phật Đà Thế
Tôn, Tăng chúng, cho đến ngoại đạo, kẻ
ăn mày, hết thảy nhân dân, đều là b́nh đẳng
cúng dường trọn khắp, rộng lớn, thanh tịnh,
cùng một vị, tức là sự cúng dường Vô Giá (無遮, không ngăn
che). Loại cúng dường Vô Giá này quả thật là thứ
mà tâm trí chúng ta, nhất là người trong thời Mạt
Pháp thiếu khuyết nhất. Tại Ấn Độ có tập
tục như thế này: Nếu trong lúc hành đạo, hoặc
trong nhà có nạn duyên, bèn rộng hành bố thí, cho đến
dốc cạn tài lực gia sản để bố
thí. Trong tâm trí của người Hoa, đó là chuyện rất
hiếm xảy ra. Nh́n từ các ghi chép lịch sử, từ
các sự kiện lịch sử, chắc là người Hoa
rất ít người có khái niệm làm như thế! Thậm
chí c̣n cho rằng đấy là một chỗ rất
đáng sợ hăi, v́ người Trung Hoa, nhất là người
nơi đất Hán, coi trọng an cư lạc nghiệp,
tích tụ gia sản dồi dào, cũng có thể nói là tâm
trí “thành gia lập nghiệp, thủ hộ tổ nghiệp”.
Giáo ngôn và tri kiến ấy một mực tuôn chảy trong
huyết dịch của toàn thể dân tộc rất sâu
dày. Nhưng trong dân tộc Tây Tạng, hoặc dân tộc du
mục, phần nhiều có trạng thái tâm lư dốc cạn
gia sản để bố thí. V́ họ thường xuyên
xuất hiện t́nh huống trong một đêm ngay lập
tức mất sạch gia sản. Chẳng hạn như một
trận tuyết lớn có thể phủ trùm toàn bộ băi
cỏ của trại chăn nuôi, cũng có thể là tất
cả gia súc bị chết cóng hết sạch, hoặc một
trận ôn dịch cũng sẽ khiến họ chẳng
c̣n một vật nào. V́ thế, họ đă nếm đủ
sự vô thường, nhưng người ở đất
Hán v́ an cư lạc nghiệp, các thế hệ đều
nối tiếp nhau sanh tồn trong cơ chế “thường
pháp”, cho nên ư thức sai khác rất lớn. Nếu
người ở đất Hán có thể tư duy chỗ
này một lượt, sẽ là thuận tiện.
Tôi
nhớ khi tôi mới xuất gia, rất nhiều người
hỏi: “Anh làm thế nào để bỏ hoàn cảnh sống
quen thuộc? Làm thế nào để bỏ được
công việc quen thuộc và gia đ́nh?” Họ cảm thấy
chẳng thể nghĩ bàn, bỏ được bằng
cách nào? Dẫu nhà nghèo cách mấy, giống như con chẳng
chê mẹ xấu, người ta chẳng hiềm nhà nghèo. [Họ cho rằng]: Có nạn duyên
chi đó, nhân duyên ǵ đó th́ mới có thể
khiến cho quư vị chẳng sanh tồn trong nhà được, đành phải xuất gia? Thật ra, đối
với khái niệm “xả gia”, người Hoa mười
phần khó thể tiếp nhận. Xả gia là buông bỏ
nhân duyên quá khứ, bất luận là giàu hay nghèo, là tốt
hay xấu, là thiện hay ác, tức là buông xả một
hoàn cảnh quen thuộc mà thôi, đối
diện một hoàn cảnh hoàn toàn mới toanh, hoàn cảnh
lạ lẫm, để như thật biết rơ có sợ
hăi hay không, có như thật an trụ tự tâm trong hoàn cảnh
mới toanh ấy hay không? Dùng chuyện ấy
để tu tập sanh mạng. Đấy quả thật
là một sự bố thí. Bản thân của chuyện xuất
gia là bố thí, c̣n tại gia sẽ bố thí như thế
nào? Quư vị có thể tư duy, nghĩ ngợi. Giả sử
chính ḿnh bố thí toàn bộ, tâm lư sẽ là như thế
nào? Quư vị chẳng cần bố thí, trước tiên hăy
suy sâu nghĩ chín, suy tưởng th́ cũng là phương
tiện. Dẫu cho quư vị tư duy như thế, trong
tâm trí của người Hoa vẫn là mười phần
khó khăn. Tôi cảm thấy chúng ta xả không được
cũng không sao, thật sự là có thể cổ vũ,
khích lệ chính ḿnh một phen. Trước hết, hăy thầm
tưởng, thầm nghĩ, thầm quán th́ cũng là
phương tiện. Đó cũng là một lần huấn
luyện cái tâm, là một loại phương pháp tu hành mười
phần trọng yếu.
Nếu chúng ta chẳng thể buông bỏ tự ngă, cho
đến hết thảy phước đức và nhân
duyên trong đời hiện tại, mà mong thật sự khế
hợp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, sẽ mười phần khó khăn! V́ sao? Do phần nhiều
có nghiệp tập, có thế tục trói buộc, chẳng
thể khiến cho quư vị thật sự khế hợp
thanh tịnh, viên măn lợi ích trong Phật pháp.
“Hàm
vi nhân thân tán trợ kỳ sự” (đều dùng thân
người để giúp đỡ chuyện ấy):
Chư thiên dùng thân người để giúp đỡ, tức là diệt quang minh, diệt oai đức của họ,
dùng thân người làm bầu bạn. Có chư thiên có
phương tiện như vậy, mà cũng có quỷ thần
biến hóa cũng có phương tiện như thế.
Người b́nh phàm nếu trông thấy chư thiên, sẽ
đều té xỉu, hoặc có thể nói là mê loạn, v́ thân người và thân trời khác biệt quá lớn.
Chẳng hạn như tướng mạo sai khác, loài
người rất xấu xí, thô kệch. V́ chúng ta chẳng
biết chư thiên có sắc thân tinh tế, mầu nhiệm,
trọn đủ quang tướng, oai thần, trang nghiêm,
cho nên c̣n thường tự cho ḿnh là xinh đẹp. Ngài
Nan Đà do thấy tướng mạo của vợ quá
đẹp, chẳng nỡ xuất gia! Đức Thế
Tôn bèn đem Ngài lên thiên đường nh́n thử, [đă
thấy dung mạo của các thiên nữ], Ngài bèn nguyện
ư tu đạo. [Đức Phật lại đem Ngài] xuống
địa ngục xem [những tội nhân thọ báo do
phóng túng ái dục], Ngài liền bằng ḷng phát tâm xuất
ly. Tướng mạo của con người nếu so sánh
trong nhân loại th́ có thể vẫn c̣n đẹp đẽ.
Nếu đem so với con khỉ, chúng ta cảm thấy
[loài người] cũng rất đẹp, nhưng đem
so với chư thiên, chúng ta quả thật rất xấu,
chủ yếu là chẳng thể so sánh nổi!
Lại
như đối với trang phục của chúng ta, người
xuất gia hiện thời đắp tấm khoác (y ca-sa)
chính là tấm áo do Đại Phạm ban tặng, tức là
“tùy ư y”. Đại Phạm có thể dùng tấm áo ấy
làm nhà cửa, làm tấm che, làm thuyền bè, tùy ư sử dụng,
nhưng chúng ta dùng tấm áo ấy th́ chỉ là một mảnh
vải, mặc lâu ngày sẽ nồng sực mùi mồ hôi, sẽ dính
tro bụi. Do chín lỗ của chúng ta thường tuôn chảy
chẳng ngớt, y phục mặc mấy ngày chẳng giặt
sẽ không được! Nhân loại thật sự đối
diện rất nhiều khó khăn, đều là áp lực
sanh tồn đối với bản thân chúng ta, là áp lực
do nghiệp báo mang lại, nhưng con người vẫn
thường tự cho là tốt đẹp, chủ yếu
là vẫn chẳng so sánh. Trước kia, tôi sống trong núi,
đă từng nửa năm chẳng giặt quần áo,
nhưng nếu như tâm trí hơi đắm nhiễm,
hơi dính thế tục, hơi động niệm, thậm
chí hơi nghĩ đến thức ăn, hơi nghĩ
đến ngủ nghê, sẽ chẳng được. Áo trời
chẳng cần giặt giũ, v́ sao? Cơi trời chẳng
có bụi bặm. Chúng ta đều biết, chư thiên có bốn
suy tướng: Một khi phước báo đă hết,
tràng hoa kết trên măo sẽ héo trước, dưới
nách có mùi hôi, sau đó y phục mới có tro bụi. Nếu
áo có vết bụi, phước báo của vị trời ấy
đă hết, các quyến thuộc ngay lập tức ĺa bỏ
kẻ đó. Khi đó, nếm mùi khổ
sở gấp mấy lần địa ngục. V́ sao? B́nh
thường có vô lượng quyến thuộc bầu bạn
vui chơi, một khi bị ĺa bỏ, tâm trí chẳng thể
chịu đựng nổi, cho nên khổ sở gấp mấy
lần nỗi khổ trong địa ngục.
Loài
người chúng ta so sánh với chư thiên là như thế.
Nếu so với súc sanh, chúng ta cảm thấy chính ḿnh thanh
tịnh, trang nghiêm hơn nhiều. Nếu so với ác quỷ,
địa ngục, sẽ càng tốt hơn nữa. V́ súc
sanh chỉ lo trả nợ, ác quỷ chỉ hứng chịu
khổ báo, địa ngục chỉ là chịu đựng
trừng phạt, chẳng có duyên nào khác, nhưng nhân loại
chúng ta c̣n có phương tiện để chọn lựa.
Tuy vậy, con người rất khó biết chính ḿnh, cho
nên thông thường dễ dung tục tự măn. V́ sao nói những
điều trên đây? Nhằm khích lệ chúng ta đối
với chính ḿnh phải có sự tự tôn, hoặc là phát
tâm, nhưng đối với nghiệp xứ, phải biết
[nghiệp chướng của] chính ḿnh trầm trọng, nặng
gánh, đau khổ, bẩn thỉu, hoặc là nói “chẳng thể tự
khống chế”, tức là nỗi
khổ bất tịnh, nỗi khổ v́ vô thường ngắn
ngủi tạm bợ. Nếu chẳng có chút tri kiến
này, sẽ thường là sống suốt đời xoàng
xĩnh, chẳng thể tự thoát, chẳng thể nhạy
bén đối với pháp.
(Kinh)
Dục linh Hiền Hộ Bồ Đề quả báo tốc
thành tựu cố. Nhĩ thời, Hiền Hộ dữ chư quyến thuộc, thiện hữu,
tri thức đẳng, tảo sái kỳ gia, năi chí
Vương Xá đại thành nhai, hạng, đạo lộ,
xứ xứ giai tất huyền diệu phan, cái, quảng
thiết chủng chủng chư trang nghiêm cụ nhi trang sức
chi. Hựu dĩ chư chủng vi diệu hoa, hương,
bố tán kỳ địa, phục thiêu thế gian đệ
nhất danh hương nhi vi cúng dường. (經)欲令賢護。菩提果報速成就故。爾時賢護。與諸眷屬善友知識等。掃灑其家。乃至王舍大城街巷道路。處處皆悉懸妙幡蓋。廣設種種諸莊嚴具而莊飾之。又以諸種微妙華香。佈散其地。復燒世間第一名香而爲供養。
(Kinh:
V́ muốn khiến cho quả báo Bồ Đề của Hiền
Hộ mau thành tựu. Lúc bấy giờ, Hiền Hộ và
các quyến thuộc, thiện tri thức v.v… quét dọn nhà
cửa, cho đến ngơ hẻm, đường sá trong
đại thành Vương Xá, nơi nơi đều treo
các phan, lọng đẹp đẽ, bày rộng khắp
các thứ vật trang nghiêm để trang hoàng. Lại dùng
các thứ hoa, hương vi diệu rắc rải trên mặt
đất, lại đốt các thứ hương nổi
tiếng bậc nhất trong thế gian để cúng
dường).
Hoa
tươi, đốt hương cũng là một thứ
phong tục, đều để cúng dường. Trong quá
khứ, người Hoa, nhất là hoàng gia, trưởng giả,
hiền giả, cũng rất coi trọng việc thắp
hương!
(Kinh)
Thời bỉ Hiền Hộ như thị trang nghiêm
Vương Xá đại thành, cập diệu thực
dĩ, ư minh đán thời, dữ chư quyến thuộc,
nghệ Thế Tôn sở, đầu diện lễ kính, nhi khải bạch
ngôn: “Thế Tôn! Ngă sự dĩ biện, nguyện tri thử
thời”. Nhĩ thời, Thế Tôn ư thần triêu thời,
vị Hiền Hộ cố, trước y, tŕ bát, diệc
bỉ vô lượng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di, thiên, nhân đại chúng, tả hữu vi nhiễu,
hướng bỉ Hiền Hộ Bồ Tát xá trạch.
(經)時彼賢護。如是莊嚴王舍大城及妙食已。於明旦時。與諸眷屬。詣世尊所。頭面禮敬而啓白言。世尊。我事已辦。願知此時。爾時世尊。於晨朝時。爲賢護故着衣持鉢。與彼無量比丘比丘尼優婆塞優婆夷天人大衆。左右圍繞。向彼賢護菩薩舍宅。
(Kinh:
Khi đó, Hiền Hộ trang nghiêm đại thành
Vương Xá như thế và sắp đặt các thức
ăn ngon lành xong, vào buổi sáng ngày hôm sau, cùng với quyến
thuộc, tới chỗ
đức Thế Tôn, đầu mặt lễ
kính, thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Con đă lo xong
chuyện, xin biết đă đến lúc”. Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn vào lúc sáng sớm, v́ Hiền Hộ bèn
đắp y, cầm bát, cùng với vô lượng tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, thiên, nhân đại
chúng vây quanh hai bên, đến nhà của Hiền Hộ Bồ
Tát).
“Trước
y” tức là đắp y, để trang nghiêm. Trong quá khứ,
khi ứng cúng, khất thực, hoặc tuyên nói pháp, phải
trọn đủ trang nghiêm. Chúng ta thấy rất nhiều
tượng Phật của Phật giáo Nam Truyền đều
đắp y. Cái y để đắp ấy là vật
để thể hiện sự trang nghiêm.
(Kinh)
Ư thị, Hiền Hộ phát như tư niệm: - Ngă
gia ải tiểu, bất thọ đa chúng.
(經)於是賢護髮如斯念。我家隘小。不受多衆。
(Kinh:
Trong lúc, ngài Hiền Hộ nghĩ như thế này: “Nhà ta
nhỏ hẹp, chẳng chứa được nhiều người”).
Hiền
Hộ Bồ Tát thấy nhiều người như vậy
thong thả đi tới, làm sao chứa hết? Ngài phải
cầu nguyện. Quư vị nói đây chẳng phải là
chuyện thần thoại ư? Chúng ta không quan tâm, nhưng
cầu nguyện rất quan trọng, tức là tâm địa
như thế, nếu nói: “Nhà tôi nhỏ hẹp, người
đông như thế, quư vị đừng tới. Người khác đừng tới,
Phật Đà tới ứng cúng là được rồi!” Đó là tâm địa
nhỏ hẹp, chẳng phải là nhà cửa nhỏ hẹp.
V́ thế, nhà cửa nhỏ hẹp, nhưng tâm trí rộng
lớn, tâm địa của các vị Bồ Tát hành pháp tất
nhiên rộng lớn như thế. Chúng ta hăy xem tiếp: Mở rộng
tâm địa của chính ḿnh như thế nào? Quả báo của
mở rộng tâm địa là ǵ?
(Kinh)
Tự phi Thế Tôn oai linh gia hộ, linh trạch khoan quảng,
tận vi lưu ly, linh chư thành nội nhất thiết
nhân dân, mạc bất minh kiến, diệc linh kim thử
thiên nhân đại chúng tùy ư thọ dụng, vô sở phạp
thiểu, bất diệc khoái hồ?
(經)自非世尊威靈加護。令宅寬廣。盡爲琉璃。令諸城內一切人民。莫不明見。亦令今此天人大衆。隨意受用。無所乏少。不亦快乎。
(Kinh: Nếu chẳng
do oai linh của đức Thế Tôn gia hộ, khiến
cho nhà cửa rộng răi, toàn bằng lưu ly, khiến cho
hết thảy nhân dân trong các thành, không ai chẳng thấy
rơ, cũng khiến cho đại chúng trời người
hiện nay thọ dụng, chẳng bị thiếu thốn,
cũng chẳng vui lắm ư?)
Đây
là tâm địa rộng lớn. V́ sao? Do biết
oai thần của đức Phật rộng lớn, trọn
đủ, chân thật chẳng hai, chẳng bị trở
ngại nơi pháp, cho nên dấy lên ư niệm như thế,
phát tâm như thế.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn tri bỉ Hiền Hộ tâm sở
niệm dĩ, tức dĩ thần lực, linh kỳ gia
trạch nghiêm lệ, khoan quảng, sở hữu chúng cụ
biến thành lưu ly, diệc linh thành nội nhất thiết
nhân dân giai đắc đổ kiến, phân minh hiển liễu,
túc linh đại chúng tùy ư dụng chi.
(經)爾時世尊知彼賢護心所念已。即以神力令其家宅嚴麗寬廣。所有衆具變成琉璃。亦令城內一切人民。皆得睹見。分明顯了。足令大衆隨意用之。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn biết tâm niệm
của Hiền Hộ rồi, liền dùng sức thần
thông khiến cho nhà của ông ta trang nghiêm, tráng lệ, rộng
răi, tất cả các vật đều biến thành lưu
ly, cũng khiến cho hết thảy nhân dân trong thành đều
được trông thấy phân minh, rơ rệt, đủ
để đại chúng tùy ư sử dụng).
V́
sao? Phật là đấng Nhất Thiết Trí, do Nhất
Thiết Trí chiếu soi, hay biết.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn nhập Hiền Hộ trạch,
tùy kỳ sàng ṭa, an tường nhi tọa, diệc linh nhất
thiết chư tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di, nhân thiên đại chúng, tùy kỳ bộ loại, thứ
đệ nhi tọa.
(經)爾時世尊入賢護宅。隨其牀座安詳而坐。亦令一切諸比丘比丘尼優婆塞優婆夷人天大衆。隨其部類次第而坐。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vào nhà của Hiền
Hộ, an tường ngồi trên sàng ṭa, cũng để
cho hết thảy các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di, đại chúng trời người tùy thuộc bộ loại theo thứ tự mà
ngồi).
“Bộ
loại” rất trọng yếu. Trong cảm nhận của
người Trung Hoa, chắc là quan sát đối với bộ
loại khá ít, nhưng tại các quốc gia như Ấn
Độ, chủng tánh và bộ loại mười phần
rơ rệt. Chẳng hạn như nói đến chủng loại
Sát-lợi vương, th́ phải là Sát-lợi vương,
trưởng giả tử là trưởng giả tử, trưởng
giả là trưởng giả, Bà La Môn là Bà La Môn, tỳ-kheo
là tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni là tỳ-kheo-ni, tŕnh tự rất
rơ ràng, chẳng thể lẫn lộn, cho nên họ ngồi
theo thứ tự.
(Kinh)
Thời bỉ Hiền Hộ, cập Bảo Đức Ly
Xa Tử, Thiện Thương Chủ ưu-bà-tắc, Già Ha Ngập Đa trưởng giả
tử, Na La Đạt Đa trưởng giả tử, kư
kiến Thế Tôn, dữ bỉ tứ bộ thiên nhân đại
chúng, giai an tọa dĩ. Ư thị, Hiền Hộ cung dĩ tự thủ, tŕ tối diệu
thực phụng thượng Thế Tôn.
(經)時彼賢護。及寶德離車子。善商主優婆塞。伽訶岌多長者子。那羅達多長者子。既見世尊。與彼四部天人大衆。皆安坐已。於是賢護。躬以自手。持最妙食奉上世尊。
(Kinh: Khi ấy,
Hiền Hộ, và Bảo Đức Ly Xa Tử, ưu-bà-tắc
Thiện Thương Chủ, con ông trưởng giả Già
Ha Ngập Đa, con ông
trưởng giả Na La Đạt Đa, đă thấy đức
Thế Tôn và bốn bộ chúng trời người đều
an tọa xong. Lúc đó, Hiền Hộ cung kính, đích thân đem
thức ăn ngon lành nhất dâng lên đức Thế Tôn).
“Phụng
thượng” (奉上) là nâng cao khỏi đầu.
Đây vẫn là một điều thuộc về phong tục,
là một h́nh thức biểu đạt tâm trí của
người dâng cúng.
(Kinh)
Thế Tôn thọ dĩ, nhiên hậu thọ dữ chư tứ
bộ chúng, cập dữ nhất thiết thiên nhân đại
chúng, chủng chủng thượng diệu hương mỹ
vị thực, hàm linh tự tứ, tất giai phong măn.
(經)世尊受已。然後授與諸四部衆。及與一切天人大衆。種種上妙香美味食。咸令自恣。悉皆豐滿。
(Kinh: Đức
Thế Tôn thọ cúng xong, sau đó, [Hiền Hộ] dâng cho
bốn bộ chúng và hết thảy trời, người
đại chúng các thứ thức ăn thơm ngon, hay khéo
nhất, khiến cho mọi người đều tùy ư lấy dùng, thảy đều phong phú, tràn đầy).
“Tự
tứ” (自恣) là tùy ư lấy dùng.
(Kinh)
Như thị nhất thiết phạn thực tư tất,
tháo thủ, sấu khẩu, năi chí tẩy địch bát
khí, tŕ cử giai cánh.
(經)如是一切飯食斯畢。澡手漱口。乃至洗滌鉢器。持舉皆竟。
(Kinh: Dùng cơm
như thế xong xuôi, rửa tay, súc miệng, cho đến
rửa sạch bát đựng, cất đi xong xuôi).
Đây
là nói đến quá tŕnh ăn uống của Ấn Độ.
Họ dùng tay bốc thức ăn. Nếu dùng bát cỡ lớn,
đủ cho sáu người ăn. Bát cỡ trung th́ đủ
cho bốn người ăn. Dùng bát cỡ nhỏ th́ đủ
cho hai người ăn. Sau khi bốc ăn, cần phải
rửa tay. Ở đây, rửa tay, súc miệng, cho đến
rửa sạch bát là một quá tŕnh sinh hoạt của
Tăng nhân.
(Kinh)
Hiền Hộ ư thị biệt trí tiểu ṭa, tại Thế
Tôn tiền, đầu diện đảnh lễ, nhiên hậu
thoái tọa, nhất tâm chiêm ngưỡng.
(經)賢護於是別置小座。在世尊前。頭面頂禮。然後退坐。一心瞻仰。
(Kinh:
Hiền Hộ khi đó xếp riêng một chỗ ngồi
nho nhỏ. Đối trước đức Thế Tôn,
đầu mặt đảnh lễ đức Phật,
sau đó, ngồi lui qua, nhất tâm chiêm ngưỡng).
Cũng
là một loại phong tục. V́ làm cho mắt từ bi của
đức Thế Tôn nh́n rộng khắp hết thảy hữu
t́nh, tâm quang chiếu soi, hộ tŕ. Cho nên v́ đức Phật
lập một ṭa ngồi cao rộng, c̣n Hiền Hộ xếp
đặt một ṭa nhỏ, biểu thị ḷng tôn trọng,
cúng dường. “Nhất tâm chiêm ngưỡng” tức
là chắp tay ngắm dung nhan kỳ diệu của đức
Thế Tôn, trong tâm tán dương. Đó gọi là “cung
kính nhiễu, chiêm ngưỡng”, tức là dùng tâm tôn trọng,
tâm kiền thành để chiêm ngưỡng đức Thế
Tôn.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn tức vị Hiền Hộ Bồ
Tát, cập Bảo Đức Ly Xa Tử, Thiện
Thương Chủ ưu-bà-tắc, Già Ha Ngập Đa
trưởng giả tử, Na La Đạt Đa Ma Nạp
đẳng, năi chí tứ bộ thiên nhân đại chúng
đẳng, như ứng thuyết pháp, linh kỳ giải
tri, khai đạo ủy dụ, linh kỳ hoan hỷ. Nhiên
hậu, dữ chư tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, thiên, nhân
đại chúng quy hoàn bổn sở. Thời bỉ Hiền
Hộ Bồ Tát hậu thực tất dĩ.
(經)爾時世尊。即爲賢護菩薩。及寶德離車子。善商主優婆塞。伽訶岌多長者子。那羅達多摩納等。乃至四部天人大衆等。如應說法。令其解知。開導慰喻。令其歡喜。然後與諸比丘比丘尼天人大衆。歸還本所。時彼賢護菩薩後食畢已。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liền v́ Hiền
Hộ Bồ Tát, và Bảo Đức Ly Xa Tử, ưu-bà-tắc
Thiện Thương Chủ, con ông trưởng giả Già
Ha Ngập Đa, Na La Đạt Đa Ma Nạp v.v… cho
đến bốn đại chúng trời người thuyết
pháp thích ứng, khiến cho họ hiểu biết, hướng
dẫn, an ủi, khuyên nhủ, khiến cho hoan hỷ. Sau
đó, các tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, trời, người
đại chúng trở về chỗ ḿnh. Khi đó, Hiền
Hộ Bồ Tát ăn sau xong xuôi).
Hiền
Hộ chăn sóc cho bốn bộ đại chúng ăn
trước, sau đó mới tự ḿnh dùng bữa.
(Kinh)
Tương chư quyến thuộc, thiện hữu, tri thức,
cập bách thiên chúng tả hữu vi nhiễu, chí Thế Tôn
sở.
(經)將諸眷屬善友知識。及百千衆左右圍繞。至世尊所。
(Kinh:
Dẫn các quyến thuộc, thiện hữu tri thức, và
trăm ngàn người vây quanh hai bên đến chỗ
đức Thế Tôn).
Hiền
Hộ là vị đứng đầu của mười
sáu Chánh Sĩ, là người đứng đầu
tám vị Đại Sĩ, cho đến là người đứng đầu của
năm trăm vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di đối trước đức Thế Tôn phát
nguyện thủ hộ pháp Ban Châu tam-muội. “Thủ”
là người phát khởi trước, thủ hộ
trước. V́ thế, Hiền Hộ dẫn mọi
người tới chỗ đức Thế Tôn.
(Kinh)
Cung kính lễ bái, thoái tọa nhất diện, hồ quỳ,
hiệp chưởng.
(經)恭敬禮拜。退坐一面胡跪合掌。
(Kinh:
Cung kính lễ bái, lui qua ngồi một phía, hồ quỳ,
chắp tay).
“Hồ
quỳ” là quỳ một gối xuống đất.
(Kinh)
Nhi bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát cụ
túc kỷ pháp đương năng chứng thử hiện
tiền tam-muội?
(經)而白佛言。世尊。菩薩摩訶薩具足幾法。當能證此現前三昧。
(Kinh:
Bèn bạch đức Phật rằng: - Bạch Thế
Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ mấy pháp th́ sẽ
có thể chứng hiện tiền tam-muội này?)
“Bồ Tát” ở đây chính là người thọ
tŕ, yêu mến, tu tập pháp này, khéo thủ hộ pháp này, có
thể chứng tam-muội. Bất luận xuất gia hay tại
gia, đều dùng danh xưng Bồ Tát để gọi.
(Kinh)
Phật ngôn: - Hiền Hộ! Bồ Tát nhược năng
thành tựu ngũ pháp, tắc tiện đắc thử hiện
tiền tam-muội. Hà đẳng vi ngũ?
(經)佛言。賢護。菩薩若能成就五法。則便得此現前三昧。何等爲五。
(Kinh: Đức
Phật nói: - Này Hiền Hộ! Bồ Tát nếu có thể
thành tựu năm pháp, liền đạt được
hiện tiền tam-muội này. Những ǵ là năm?)
Đức
Thế Tôn nhiều lượt nêu ra năm pháp. Dưới
đây là pháp thứ nhất.
(Kinh)
Sở vị nhất giả cụ thậm thâm Nhẫn, diệt
trừ chí tận.
(經)所謂一者具甚深忍。滅除至盡。
(Kinh: Tức là: Một
là trọn đủ nhẫn rất sâu, diệt trừ cho
đến hết).
“Thâm
nhẫn” là nói đến Tín Nhẫn, Thuận Nhẫn,
và Vô Sanh Nhẫn. Tức là đối với hết thảy
các pháp, đều có thể tùy thuận, im lặng, nghe
theo, tín thuận, tùy thuận, yêu thích. Nói “diệt trừ
chí tận” tức là đối với các pháp, không có ǵ
để đạt được, mà đối với
vô sở đắc, cũng chẳng bị nhiễm ǵ.
Đối với không đắm nhiễm, cũng là chẳng
nói năng, cũng chẳng có ǵ để biết. Đấy
thật sự là cội nguồn của phát tâm, là tướng
mạo thanh tịnh của Vô Thượng Bồ Đề
tâm. Năm pháp đầu tiên này đều là tướng
tâm trí của cội nguồn Vô Thượng Bồ Đề tâm. Nếu chẳng phải
là người khéo nói, có thể thuận theo lời này
để khéo biểu đạt Vô Thượng Bồ
Đề tâm, tức chẳng phải là tạo tác Bồ
Đề tâm, mà là chân thật Bồ Đề tâm.
(Kinh)
Nhị giả, thật vô sở tận, vô hữu tận xứ.
(經)二者實無所盡。無有盡處。
(Kinh: Hai là thật
ra chẳng có để tận, chẳng có chỗ cùng tận).
Pháp
thứ hai tiếp nối của pháp thứ nhất. Đức
Thế Tôn hướng dẫn theo thứ tự. Tuy chẳng
có sâu hay cạn, vẫn khiến cho người đời
có thể tuân theo. Biểu đạt chân tâm, Vô Thượng
Bồ Đề tâm, Phật tâm, pháp tánh như thế, chính là có thể biểu
đạt trọn đủ, hoàn toàn. Trong hành pháp Ban Châu
tam-muội, điều này được nói đầu
tiên. Bởi lẽ, muốn chứng tam-muội, năm pháp
này là tâm trí phải chọn lựa đầu tiên, chính là
cách phát tâm và vận dụng phải chọn lựa đầu
tiên.
(Kinh)
Tam giả, bổn vô hữu loạn, diệt trừ chư
loạn.
(經)三者本無有亂。滅除諸亂。
(Kinh: Ba là vốn
chẳng có loạn mà diệt trừ các loạn).
Vốn
là kẻ nhàn tản, vốn vô sự, v́ sao tạo tác? Vốn
chẳng có sanh tử, hư vọng tự thiết lập
giả dối. Vốn chẳng có phiền năo, kẻ tầm
thường tự quấy nhiễu! Chúng ta hăy tự khéo
quan sát, v́ vốn không có ǵ để loạn, cho nên khiến
cho các loạn được trừ. V́ cớ sao? Các loạn
hiện ra sau đó đều là vốn chẳng thể
được, do chẳng có tự tánh. V́ thế, các loạn
ngay lập tức trừ sạch. V́ sao? V́ vốn là vô sanh.
(Kinh)
Tứ giả, bổn vô hữu cấu, diệt trừ
chư cấu.
(經)四者本無有垢。滅除諸垢。
(Kinh:
Bốn là vốn chẳng có cấu, diệt trừ các cấu).
Các
vị thiện tri thức ơi! Đây là giáo ngôn rất
sâu, thanh tịnh, vô nhiễm, chân thật ấn khế tâm
trí cội nguồn thanh tịnh của chúng sanh. Nếu sử
dụng được, sẽ là phương tiện hiện
tiền, chẳng nhờ vào tu chứng, cùng lúc trọn
đủ! Đây là giáo ngôn an lập thực thi Vô Thượng
Bồ Đề tâm, xa ĺa tạo tác.
(Kinh)
Ngũ giả, bổn vô hữu trần, đoạn ly
chư trần.
(經)五者本無有塵。斷離諸塵。
(Kinh:
Năm là vốn chẳng có trần, đoạn ĺa các trần).
Tợ
hồ là “thuyết” mà chẳng thuyết, ngôn mà vô ngôn,
“cấu” là vô cấu, loạn là chẳng loạn, sanh
th́ vô sanh, trừ th́ vô trừ, diệt th́ vô diệt. Ngay lập
tức gột rửa hết sạch, trọn chẳng có
ǵ, ngay lập tức chân thật! Giải quyết từ
chỗ căn bản, hết thảy nhân duyên huyễn hóa, ở
nơi trí huệ, thanh tịnh, trong diệu dụng của
pháp tánh. Đó gọi là “pháp tánh vốn tịch tĩnh,
nhất thời diệu dụng sanh khởi”. Muốn chứng
tam-muội này như thế, căn cơ rất chín muồi,
sẽ chẳng khó khăn!
(Kinh)
Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc thành tựu
Vô Sanh Nhẫn cố, nhi năng đắc thử hiện
tiền tam-muội.
(經)賢護。是爲菩薩摩訶薩具足成就無生忍故。而能得此現前三昧。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Đó là Bồ Tát Ma Ha Tát do thành tựu
đầy đủ Vô Sanh Nhẫn mà có thể đạt
được hiện tiền tam-muội này).
Năm
pháp cần phải trọn đủ ấy đều dùng
Vô Sanh Nhẫn để miêu tả, tức là nói “chẳng đến, chẳng
đi, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng thiện, chẳng
ác, chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng”, cũng chẳng nói
đến xanh, vàng đỏ, trắng. Cho nên hết thảy
các cách nói đối đăi sẽ ngay lập tức tiêu mất,
hết thảy giả thiết sẽ ngay lập tức vứt
bỏ, hết thảy trần cấu ngay lập tức gột
sạch sành sanh. V́ sao? Do vốn vô sanh. V́ vô sanh, cho nên cũng vô diệt, chẳng nhơ mà cũng chẳng
tịnh. Trong chân tâm như thế, được thấy
pháp tắc. Người hành pháp như thế tất nhiên
tương ứng, ắt chứng Bồ Đề, ắt
có thể chứng tam-muội hiện tiền này.
Năm
pháp ấy là v́ trọn đủ pháp, tức là vốn sẵn
vô tánh, cũng là trọn đủ Vô Sanh Nhẫn. Ở
đây, thoạt nh́n dường như ngôn thuyết quá cao,
lư giáo quá cao, thật ra chẳng phải vậy! Cao hay thấp
chỉ là do tâm tướng của chúng sanh. Nếu có thể
tùy thuận, sẽ rất là thuận tiện! Ở
đây, nếu muốn tư duy, giả thiết, muốn
thông hiểu, sẽ rất khó khăn! Đây là giáo pháp ấn
khế, giáo pháp chọn lựa, chẳng nhờ vào tư
duy, chẳng cậy vào phương tiện, mà thẳng thừng
ấn khế, tức là từ tướng của Vô Sanh Nhẫn,
từ diện mạo của Vô Sanh Nhẫn, từ chỗ
công đức và lợi ích của Vô Sanh Nhẫn, từ
ngay năm pháp ấy mà có thể đắc hiện tiền
tam-muội này!
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát phục hữu
ngũ pháp năng đắc tam-muội.
(經)復次賢護。菩薩摩訶薩復有五法能得三昧。
(Kinh: Lại này Hiền
Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát có lại có năm pháp để có
thể đắc tam-muội).
Đây
là “năm pháp” thứ hai.
(Kinh)
Nhất giả, thâm yếm chư hữu, bất thọ
chư hành.
(經)一者深厭諸有。不受諸行。
(Kinh:
Một là chán sâu xa các cơi, chẳng thọ các hành).
Trong
hết thảy các nhiễm pháp, chán ĺa sâu xa, chẳng có
đối đăi. Đối với các hành, hiểu chúng là
vô nhiễm, trọn chẳng có ǵ để đạt
được!
(Kinh)
Nhị giả, nhất thiết sanh xứ, niệm Bồ
Đề tâm.
(經)二者一切生處。念菩提心。
(Kinh: Trong hết
thảy chỗ sanh, đều nhớ tới tâm Bồ
Đề).
Dù
là thiện niệm hay ác niệm, dù là niệm hay phi niệm,
phàm niệm hay thánh niệm, trong hết thảy các niệm
xứ, đều dùng Bồ Đề tâm để soi tỏ,
nhận biết, đấy là chánh tu hành! V́ vậy, nơi
pháp tắc thứ hai, chánh tu hành phát khởi, v́ đối
với các hành đều chẳng thọ. Do vậy, trong hết
thảy các chỗ, vận dụng Bồ Đề tâm, niệm
Bồ Đề tâm, quán Bồ Đề tâm, hành Bồ
Đề tâm, hiểu rơ Bồ Đề tâm, chế phục
Bồ Đề tâm, trong hết thảy các chỗ sanh
đă hiển hiện, chỉ dùng Bồ Đề tâm để
chọn lựa hiện duyên.
(Kinh)
Tam giả, sở sanh thường kiến chư Phật
Thế Tôn.
(經)三者所生常見諸佛世尊。
(Kinh: Ba là đối
với chỗ sanh, thường thấy chư Phật Thế
Tôn).
Nếu
Bồ Tát Ma Ha Tát hành hai pháp trước, chỗ nào cũng
sẽ thấy Phật. Quư vị nói: “Ta đă phát Bồ
Đề tâm, v́ sao chẳng thấy?” V́ quư vị chưa
thường tu, rốt ráo tu, tu chẳng gián đoạn, tu
vô nhiễm, chân thật hành Bồ Đề tâm, thấu hiểu
Bồ Đề tâm, chế phục Bồ Đề tâm, chứng
Bồ Đề tâm, trọn đủ Bồ Đề
tâm. Nếu là như thế, niệm Bồ Đề tâm sẽ
là chân thật. Do vậy, thường thấy chư Phật
Thế Tôn.
(Kinh)
Tứ giả, chung bất đam trước ấm giới
chư nhập.
(經)四者終不躭著陰界諸入。
(Kinh: Bốn là trọn
chẳng đắm chấp ấm, giới, các nhập).
Trong
các cảnh giới, cho đến thấy tướng quang
minh, cho đến trông thấy chư Phật, cũng chẳng
đắm nhiễm, càng chẳng cần phải nói tới
ấm cảnh, mộng cảnh, huyễn cảnh, vọng
cảnh trong thế gian, đều chẳng thể nhập.
“Chẳng nhập” là như nh́n vật trong
gương, giống như xem tuồng. Chúng ta chẳng cần
diễn tuồng, chỉ nên xem tuồng. Nếu nhập vào
trong tuồng, sợ rằng tự tâm sẽ mê, đánh mất
thân phận! Tham gia làm diễn
viên, một chốc buồn, một chốc vui, một chốc
phàm, một chốc thánh, luân hồi chẳng ngơi trong
sáu đường, mê mất tự tâm. V́ thế, “chẳng
nhập” là chẳng trụ vào các cảnh, chẳng
đánh mất các cảnh.
(Kinh)
Ngũ giả, chung bất ái trước thọ dục lạc
sự. Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc
ngũ pháp thành tựu tam-muội.
(經)五者終不愛著受欲樂事。賢護。是爲菩薩摩訶薩具足五法成就三昧。
(Kinh: Năm là trọn
chẳng yêu đắm, tiếp nhận các chuyện dục
lạc. Này Hiền Hộ! Đó là Bồ Tát Ma Ha Tát trọn
đủ năm pháp thành tựu tam-muội).
Đối
với hữu t́nh trong Dục Giới, điều này rất
khó! Khó ở chỗ nào? Dục Giới hữu t́nh lẩn
quẩn trong ngũ dục. Chỗ này là chỗ chúng ta phải
tự ḿnh xem xét kỹ càng. Khi niệm Phật,
khi muốn thấy Phật, đối với niềm vui
ngũ dục, hăy nên có tâm ĺa bỏ. V́ lẽ nào? Khi
được thấy đức Thế Tôn, thiện
căn sẽ thành thục, quư vị sẽ thấy rơ niềm
vui ngũ dục trong thế gian quả thật là niềm
vui chẳng tương ứng, v́ nó là vô thường!
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát phục hữu
ngũ pháp năng đắc tam-muội.
(經)復次賢護。菩薩摩訶薩復有五法能得三昧。
(Kinh: Lại này Hiền
Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát lại có năm pháp có thể tam-muội).
Đây
là “năm pháp” thứ ba.
(Kinh)
Nhất giả, thường đương tư niệm
vô biên tế tâm.
(經)一者常當思念無邊際心。
(Kinh: Một là
thường nghĩ niệm tâm không ngằn mé).
“Tâm”
không bị hạn chế, chẳng có giới hạn.
(Kinh)
Nhị giả, thường năng thiện nhập Thiền
Định tư duy.
(經)二者常能善入禪定思惟。
(Kinh:
Hai là thường có thể khéo nhập Thiền Định
tư duy).
“Chư
Thiền Định Định tư duy” và cảm nhận,
tư duy của chúng sanh về Sắc, Thanh, Hương, Vị,
Xúc, Pháp sai khác tột bậc to lớn. Do tu tŕ
bốn loại vô biên mà người ta sẽ đắc Thiền Định
thiện xảo. V́ sao? V́ hết thảy thức tâm sẽ
tiêu tan, ĺa thoát, không chấp trước ǵ!
(Kinh)
Tam giả, phân biệt tư duy nhất thiết chư
pháp.
(經)三者分別思惟一切諸法。
(Kinh: Ba là phân biệt, tư duy
hết thảy các pháp).
“Phân
biệt” ở đây là khéo phân biệt, quan sát trong pháp tắc
vô phân biệt. Vô phân biệt chính là nơi tự tánh tồn
tại. Do khéo phân biệt mà liễu đạt tự tánh,
chẳng có ǵ phân biệt. Trong vô phân biệt, hiện các thứ
tướng phân biệt. V́ thế, nói là “khéo phân biệt
hết thảy các pháp”.
(Kinh)
Tứ giả, ư chư chúng sanh vô hữu tránh tâm.
(經)四者於諸衆生無有諍心。
(Kinh:
Bốn là đối với các chúng sanh, chẳng có tâm tranh
chấp).
Trong
pháp tắc tu tŕ Ban Châu tam-muội, cái tâm vô tránh rất quan
trọng. Nó chính là căn bản để thủ hộ của
người niệm Phật. Có kẻ nói chính ḿnh là người
niệm Phật, nhưng chỗ nào cũng là “người này đúng, người nọ sai”. Như thế sẽ chẳng thể niệm Phật,
v́ sao? Phật là đấng thanh tịnh, đấng b́nh
đẳng, đấng chân thật, đấng lợi lạc
rộng khắp chúng sanh, đấng yêu thương chúng
sanh, đấng dẹp khổ cho chúng sanh, đấng ban
vui cho chúng sanh, đấng ban phước huệ cho chúng
sanh, sẽ chẳng tranh giành với người khác, sẽ
chẳng có duyên cớ tranh chấp, sẽ chẳng có tâm tranh
chấp, sẽ chẳng có ư tranh chấp!
(Kinh)
Ngũ giả, thường dĩ Tứ Nhiếp nhiếp
thọ chúng sanh. Sở vị, bố thí, ái ngữ, lợi
hành, đồng sự. Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát
Ma Ha Tát cụ túc ngũ pháp thành tựu tam-muội.
(經)五者常以四攝攝受衆生。所謂佈施愛語利行同事。賢護。是爲菩薩摩訶薩具足五法成就三昧。
(Kinh:
Năm là thường dùng pháp Tứ Nhiếp để nhiếp
thọ chúng sanh, tức là bố thí, ái ngữ, lợi hành,
đồng sự. Này Hiền Hộ! Đó là Bồ Tát Ma
Ha Tát trọn đủ năm pháp thành tựu tam-muội).
Tứ
Nhiếp Pháp, bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự
là thiện xảo để giao tiếp, thiện xảo
để nhiếp thọ chúng sanh, là thiện xảo để
tôn trọng, là pháp tắc trọng yếu trong tu hành hết
thảy Phật pháp, là điều mà hết thảy hữu
t́nh học Phật phải nên quen thuộc, phải nên khéo
thủ hộ, khéo tu tập. Như thế th́ đoàn thể
Tăng chúng và đoàn thể cư sĩ sẽ ḥa hợp,
sẽ có ư nghĩa. Trong Tăng chúng và
trong cư sĩ hiện thời, tột bậc thiếu
khuyết pháp tắc Tứ Nhiếp, lợi ích rộng khắp
người khác ít ỏi, bố thí ít ỏi, đồng sự
ít ỏi. Kẻ nói “ta cao minh, ta vĩ đại, ta trang
nghiêm, ta chánh xác, ta chân thật” nhiều lắm. Đó chẳng
phải là đồng sự với người khác. Đồng
sự là vô ngă, vô ngă tướng, không có người khác,
không có tướng người khác. Như thế th́ sẽ
có thể tiêu trừ hết sạch cảm nhận bất
b́nh đẳng, v́ có thể khéo thực hiện bố thí,
ái ngữ, có thể lợi ích rộng khắp hữu t́nh.
(Kinh)
Phục thứ Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát phục hữu
ngũ pháp năng đắc tam-muội.
(經)復次賢護。菩薩摩訶薩復有五法能得三昧。
(Kinh: Lại này Hiền
Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát lại có năm pháp có thể đắc
tam-muội).
Đây
là “năm pháp” thứ tư.
(Kinh)
Nhất giả, ư chư chúng sanh sở, thường
hành từ tâm.
(經)一者於諸衆生所常行慈心。
(Kinh: Một là
đối với các chúng sanh, thường hành từ tâm).
Các
vị Bồ Tát ơi! Đừng coi thường lời
dạy này! Chúng ta có thể dùng năm pháp này để
đối chiếu với tâm trí và hành vi thường nhật
của chính ḿnh xem có trọn đủ hay không? Quư vị sẽ
biết v́ sao chính ḿnh chưa chứng tam-muội, chưa
đắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai
Hiện Tiền! Chúng ta dùng cái gương vi tế này để
soi rọi nghiệp của chính ḿnh, v́ sao nghiệp chẳng
chín muồi? V́ sao hành pháp chẳng tương ứng?
Thường hành từ tâm đối với các chúng sanh, chẳng
phải là một loại, chẳng phải nhân loại, chẳng
phải thiên loại, chẳng phải đồng loại,
chỉ là đối với chúng sanh thường hành từ
tâm!
(Kinh)
Nhị giả, ư nhất thiết thời, niệm tu
thánh hạnh.
(經)二者於一切時念修聖行。
(Kinh: Hai là trong hết
thảy các thời, nghĩ tu thánh hạnh).
Đừng
nên hành hạnh của phàm ngu, hoặc hạnh đọa lạc.
(Kinh)
Tam giả, thường hành nhẫn nhục, kiến phá giới
giả, hằng sanh kính tâm.
(經)三者常行忍辱。見破戒者恆生敬心。
(Kinh: Ba là thường
hành nhẫn nhục, thấy kẻ phá giới luôn sanh tâm
kính trọng).
Điều
này mười phần trọng yếu. V́ nhẫn nhục,
cho nên thấy kẻ phá giới vẫn sanh ḷng tôn trọng,
yêu mến. V́ sao nói như thế? Trong giáo ngôn Đại Thừa
của đức Thế Tôn đă dạy: “Tŕ giới bất
kính, phạm giới bất sỉ” (chẳng kính người
tŕ giới, chẳng sỉ nhục kẻ phạm giới).
V́ sao? Do cái tâm thanh tịnh, do b́nh đẳng, do có thể
nhẫn nhục hết thảy sai biệt. Đây là một
sự tu tŕ tâm lư hết sức trọng yếu, tức là
tâm lư thanh tịnh, b́nh đẳng. Hăy nên tu tŕ như thế,
sự tu tŕ ấy mười phần trọng yếu. V́ mọi
phàm nhân hễ thấy kẻ khác có lỗi, tâm họ sẽ
sanh sân oán, bài xích, ĺa bỏ.
Đối với pháp như thế, chẳng thể đạt
được an lạc thật sự và tâm từ bi rốt
ráo, tâm b́nh đẳng chẳng thể chọn lựa sanh
khởi.
(Kinh)
Tứ giả, ư tự ḥa thượng, A Xà Lê sở, bất
thuyết kỷ năng.
(經)四者於自和尚阿闍梨所。不說己能。
(Kinh: Bốn là
đối với ḥa thượng, A Xà Lê của chính ḿnh, chẳng
khoe tài năng của bản thân).
Hết
sức trọng yếu! V́ sao? Do tôn sư trọng đạo!
V́ nếu đối với “tự ḥa thượng, A Xà
Lê sở”, khoe tài năng của chính ḿnh, tức là khoe
khoang, là khinh miệt thầy, là báng pháp. V́ sao? Do cái tâm kiêu mạn
mà ra, do cái tâm tà kiến mà ra. Trong quá khứ, chuyện này được gọi là “khi nhục sư
trưởng” (dối gạt, làm nhục sư trưởng).
Tôi nêu một thí dụ để mọi người dễ
cảm nhận hơn. Chẳng hạn như có một
người giúp kẻ khác buôn bán, cho kẻ đó mượn
tiền, lót đường cho kẻ đó buôn bán. Sau
đó, kẻ đó do buôn bán mà phát
tài, bèn tới trước mặt người đă giúp
đỡ hắn, bô bô: “Nay tao rất có tiền! Tao nói cho
mày biết…” Tự huênh hoang dạy đời, khiến cho
người kia cảm thấy kẻ đó chẳng tử
tế, chẳng tương ứng. V́ sao? Kẻ đó chẳng
được người khác giúp đỡ, đức hạnh
sẽ chẳng thể an lập. Nếu có thể an lập,
hăy nên thanh tịnh thủ hộ, cảm kích thủ hộ.
V́ thế, chẳng khoe tài năng của chính ḿnh rất
quan trọng.
Tôi
nhớ có lần tôi đến đạo tràng của vị
ân sư thế độ. Sư phụ nói: “Nay con làm pháp
sư, nghe nói con giảng kinh khá lắm, hăy đến
đây giúp thầy giảng kinh”. Tôi thưa: “Thầy chớ
nên giảm tổn đệ tử của chính ḿnh! Thầy
nói như thế, con chỉ có nước đỏ mặt
mà thôi!” Trước mặt sư phụ, đối đáp
nhân duyên như thế làm sao được? Tôi chỉ có thể
cảm ơn sư trưởng đă giáo huấn, d́u dắt,
ban tặng, chẳng thể nói chi khác.
V́
thế, đối trước ḥa thượng, A Xà Lê, chẳng
thể khoe tài năng của chính ḿnh. Đấy là điều
chúng ta phải tránh, phải chú ư chỗ này. Nếu không chú
ư, sẽ có tâm tăng thượng mạn, thậm chí sanh tâm
tà kiến, như thế th́ sẽ tổn hại thiện
căn của quư vị. Sư trưởng sẽ không cho
quư vị cơ hội, hoặc sẽ chẳng nói pháp giáo
cho quư vị. Dẫu có giáo ngôn thiện xảo rất sâu,
thầy cũng chẳng truyền dạy quư vị. V́ sao? Như thế sẽ khiến cho quư
vị bị đọa lạc, thương tổn, giống
như kẻ giàu có ăn nhậu, chơi bời, cờ bạc,
chẳng tương ứng! V́ thế, người khéo ǵn
giữ gia sản, sẽ để cho đứa con hiếu
thuận thủ hộ gia sản, truyền thừa cho
đời sau, hoặc lợi ích thế gian. Cũng giống
như vậy, nếu chúng ta chẳng thể khéo vận dụng
pháp tắc, sư trưởng sẽ ngăn trở nhân
duyên của chúng ta. Đó là chuyện tất nhiên. Khinh mạn
sư trưởng là chẳng tương ứng, bất cứ
người học Phật nào cũng đều nên chú ư
điểm này!
(Kinh)
Ngũ giả, ư nhất thiết xứ, bất cảm
khinh tha. Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Ma Ha Tát cụ
túc ngũ pháp, tắc năng chứng thị hiện tiền
tam-muội.
(經)五者於一切處不敢輕他。賢護。是爲菩薩摩訶薩具足五法則能證是現前三昧。
(Kinh: Năm là
trong hết thảy các chỗ, chẳng dám khinh mạn
người khác. Này Hiền Hộ! Đó là Bồ Tát Ma Ha
Tát trọn đủ năm pháp sẽ có thể chứng hiện
tiền tam-muội này).
Càng
trọng yếu hơn! Trong hành pháp Ban Châu, chớ nên coi
thường hết thảy chúng sanh, dẫu là hữu t́nh
tội ác tột bậc, điên đảo cùng cực, cuồng
vọng cùng cực, phạm lầm lỗi cùng cực,
cũng chớ nên khinh kẻ đó. Chúng ta chẳng có lư do
ǵ để coi thường sự tồn tại và giá trị
của bất cứ sanh mạng nào! V́ sao? Quư vị chẳng
biết kẻ đó là do vị Bồ Tát nào thị hiện,
do vị thiện tri thức nào thị hiện, hoặc do
nhân duyên nào thị hiện, khi quư vị chẳng thấy thấu
suốt, tuyệt đối phải nên tôn trọng hết
thảy, trừ phi biết túc mạng trong bao kiếp lâu xa
giống như đức Thế Tôn. Nếu không, quyết
định chớ nên [khinh thường].
Trong
lúc đức Thế Tôn tại thế thuyết pháp, tôn giả
Ca Diếp đă mấy lần thưa với đức Thế
Tôn lời lẽ như thế. Có một lần, các vị
đại A La Hán thấy một hữu t́nh già khọm muốn
xuất gia, mỗi vị đều cho ông cụ đó chẳng
có thiện căn để xuất gia. [Các Ngài quán thấy]
suốt một kiếp, hai kiếp, cho đến tám vạn
đại kiếp, xét theo nhân duyên, chẳng thấy ông lăo
có mảy may thiện căn, làm sao có thể xuất gia cho
được? Cụ già ấy được gặp
đức Thế Tôn, đức Thế Tôn quán thấu triệt
thiện căn, phước đức, nhân duyên của
người ấy, biết bao kiếp lâu xa về trước,
cụ là tiều phu. Có con cọp đói toan ăn thịt.
Cụ liền trèo lên cây. Cọp đói quá sức, nhe nanh gặm
cây. Cụ già trong ḷng hoảng hốt, bèn niệm một
câu “nam-mô Phật”. Do thiện căn từ bao kiếp
lâu xa về trước ấy, đức Thế Tôn cho phép
cụ xuất gia. Khi cụ xuất gia, liền chứng A
La Hán. Lúc ấy, các vị đại A La Hán đều khó
hiểu, nói v́ sao vậy? “Bạch Thế
Tôn! Người này trong tám vạn đại
kiếp chẳng có mảy may thiện căn nào, v́ sao đức
Thế Tôn vừa nói, ông ta lập tức chứng A La Hán? Rất
là bất công!” Đức Thế Tôn bèn tuyên nói với các vị
A La Hán từ bao kiếp lâu xa về trước,
người tiều phu này có thiện căn
xưng “nam-mô Phật”. Do [thiện căn ấy]
đă vượt ra ngoài tám vạn đại kiếp, các vị
A La Hán chẳng thể suy xét sâu hơn, nhưng đức
Thế Tôn có thể thấy thấu triệt, khiến cho
thiện căn của người ấy thành thục. Ngay
khi đó, tôn giả Ca Diếp đảnh lễ dưới
chân đức Phật, tán thán rằng: “Lành thay! Đức
Thế Tôn oai đức hy hữu, đă v́ con mở kho công
đức thù thắng, khiến cho con được thấy
chỗ vô tận thiện căn của chúng sanh. Bạch Thế
Tôn! Từ nay về sau, chúng con chẳng thể khinh báng hết
thảy kẻ hữu duyên, sẽ coi hết thảy nhân
duyên giống như Thế Tôn”. Đó là tôn giả Ca Diếp
ở chỗ đức Thế Tôn, đối với chuyện
đức Thế Tôn đă v́ chúng sanh chỉ ra lợi ích
chân thật của bảo tạng trân quư, bèn ngay lập tức
thốt ra lời cung kính thọ tŕ. Ngài nói ǵ vậy? Tôn trọng
hết thảy hữu t́nh; đấy là bảo tạng.
Chúng
ta nói: “V́ chúng sanh mở kho báu vô tận”, kho báu vô tận
ở chỗ nào? Chính là tôn trọng hết thảy. Các vị
thiện tri thức ơi! Đừng coi các thứ duyên là
tạp duyên, đừng coi các thứ duyên là ác duyên. Nếu
chúng ta mở con mắt trí huệ, hết thảy các hiện
duyên đều là duyên trí huệ. Nếu chúng ta mở con mắt
“trọn đủ”, hết thảy các hiện duyên đều
là trân bảo. V́ kẻ mù chẳng thể thấy, do pḥng tối
đóng kín, cho nên bị nhiều thứ trân bảo làm bị
thương. Trân bảo ở nơi đó cũng trở thành ác duyên. V́ sao là ác? Do con mắt trí huệ chẳng
mở! Năm pháp trọn đủ ấy nhất là đối
với chúng ta là những kẻ phàm ngu hữu t́nh đang hành tŕ Ban Châu lại càng trọng
yếu, nhất là trong thời đại này, chúng ta tự
ḿnh hèn kém, khiến cho kẻ khác hèn kém. Mọi người
hăy nên tự khéo quan sát, thủ hộ bảo tạng ấy.
Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng kư
Phần
9 hết
[1] Phú-già-la (Pudgala, Pudgalāstikāya)
c̣n được phiên
âm là Bổ Đặc Già La, Phúc Già La, Phất Già La, hay Phổ
La. Đôi
khi c̣n dịch nghĩa là Số Thủ Thú, Hữu T́nh, Chúng
Sanh, hoặc Ngă, có ư nghĩa chánh yếu là “chủ
thể xoay chuyển luân hồi trong lục đạo”, tức là
cái Ngă đang bị vọng chấp, vô minh ràng buộc. Bộ phái Thuyết Nhất
Thiết Hữu Bộ cho rằng Phú Già La chỉ là giả
danh
của Ngũ Ấm, chẳng có thực chất (Học phái
Trung Quán kế thừa tư tưởng này). Độc Tử
Bộ th́ chủ trương Phú Già La là một cái Uẩn “phi
tức, phi ly”, chẳng thể nói là Ngă, nhưng nó mang
theo các nghiệp từ đời trước đi luân hồi.
Nó là chủ thể có tánh chất luân
hồi, có kư ức, và là chủ thể của sáu thức.
[2] Chủng tử (Bīja, seed syllable) của A Di Đà Phật
và Quán Thế Âm Bồ Tát đều là chữ Hrī (ह्री) thường
được dịch là Tâm. Trong Mật Tông, khi quán chủng
tử của chữ này th́ dùng văn tự Tất Đàm
(Siddhaṃ). Thông thường, để quán Bổn Tôn, hành
giả quán tự tâm có một ṭa sen, trên đó, có mặt
trời và mặt trăng xếp chồng lên nhau. Trên hai vầng nhật nguyệt ấy, xuất hiện
chữ chủng tử. Chữ Hrī của Quán Thế Âm
Bồ Tát là màu trắng, chữ Hrī của A Di Đà Phật
là màu đỏ. Chữ ấy sẽ dần dần biến
thành h́nh tượng Bổn Tôn trong pháp hành giả đang
tu. Chẳng hạn
như khi quán chú
Lục Tự Đại Minh th́ quán chiếu chữ Hrī phóng
quang minh sáu màu, mỗi
màu chiếu vào một đường tương ứng trong lục đạo (chẳng hạn màu trắng ứng với thiên đạo,
màu xanh ứng với A Tu La đạo…). Sau đó,
chủng tử biến thành Quán Thế Âm Bồ Tát bốn
tay, thân có màu trắng, ngồi xếp bằng trên ṭa sen, vai
khoác da nai, mặc quần ngũ sắc, thiên y trắng có các
dải lụa vờn quanh. Hai tay Ngài chắp trước ngực ôm châu
Như Ư Ma Ni, hai tay kia giơ ngang vai, một tay cầm hoa
sen, tay kia cầm tràng hạt, từ trong tâm Bổn Tôn lại
hiện ra chủng tử, lưu xuất vô tận bổn
tôn Quán Thế Âm Bồ Tát có h́nh dạng giống hệt như
thế, trùng trùng vô tận… Mỗi hóa thân ấy
lại ngự trên đỉnh đầu của mỗi chúng
sanh, cảm hóa họ thấm đẫm trong tâm từ bi. Bản
thân hành giả cũng trở thành Quán Thế Âm phóng quang cứu
độ chúng sanh y hệt. Sau đó lại lần
lượt quán các Bổn Tôn lưu xuất ấy hồi nhập
vị Bổn
Tôn chính. Vị
Bổn Tôn chính lại trở thành chủng tử, chủng
tử tan biến vào vầng nhật nguyệt nơi hoa sen
trong tâm.
Cuối cùng toàn thể biến thành không, rỗng rang chẳng
c̣n ǵ.
[3] “Suy luận loại suy” là dựa trên hai sự
vật giống nhau để suy ra các đặc tánh
tương tự. Chẳng hạn như Trái Đất là
hành tinh có khí quyển bao bọc, có chứa nước. Hỏa
Tinh (Mars) cũng có khí quyển, và cũng là
hành tinh. Suy ra, Hỏa Tinh cũng có thể có nước.
[4]
Liễu Tông Nguyên (773-819), tự là Tử Hậu, là một
văn học gia, tư tưởng gia thời Đường.
Ông quê Hà Đông, tỉnh Sơn Tây, làm quan đến chức
Giám Sát Ngự Sử đời Đường. Do tích cực
tham dự cuộc cách tân do Vương Thúc Văn đề
xướng dưới đời Đường Thuận
Tông (băi bỏ quy chế cho phép thái giám can dự triều
chánh, trừ bỏ các phe đảng thái giám trong triều đ́nh,
bỏ chế độ tiến cống, băi bỏ nữ
nhạc v.v…) Cuộc cách tân thất bại, ông bị biếm
làm Tư Mă Vĩnh Châu (Hồ Nam), rồi bổ làm Thứ
Sử Liễu Châu (nay thuộc Quảng Tây) và mất tại
đó. Ông để lại tác phẩm Liễu Hà Đông Tập
(45 quyển) và Cổ Kim Thi (gồm 140 bài). Thơ của
ông được khen ngợi là t́nh cảm chân thành, thi pháp
điêu luyện, có nhiều bài phê phán hiện thực xă hội
thối nát thời bấy giờ. Ông được coi là
người có ảnh hưởng mạnh nhất đến
sáng tác văn xuôi của Trung Hoa.
[5] Tám pháp tức là Bát Kính Pháp (Aṭṭha-garudhamma) c̣n
dịch là Bát Tôn Pháp, Bát Tôn Trọng Pháp, Bát Tôn Sư Pháp, Bát
Kính Giới, Bát Tôn Kính Pháp, hoặc Bất Khả Việt
Pháp, là các quy định tỳ-kheo-ni phải thể hiện
sự tôn trọng đối với tỳ-kheo. Theo thánh
điển Pali của Phật giáo Nam Truyền, khi đức
Phật thành đạo vào năm thứ năm, vua Tịnh
Phạn qua đời, bà Đại Ái Đạo đă xin xuất
gia trong dịp đức Phật về thành Ca Tỳ La Vệ
chủ tŕ tang lễ cho cha, nhưng đức Thế Tôn ba lần
cự tuyệt. Sau đó, đức Phật đi sang thành
Tỳ Xá Ly, bà Đại Ái Đạo dẫn theo mấy
trăm thị nữ, đi bộ hơn 250 cây số theo chân Phật đến thành Tỳ Xá Ly. Họ đều tự
cạo tóc, đắp y, cầu xin Phật cho phép xuất
gia, kêu khóc ngoài cửa tinh xá. Ngài A Nan thương
xót cầu xin ba lần, đức Phật đều từ
chối. A Nan liền hỏi nữ chúng có thể chứng
Tứ Hướng, Tứ Quả hay không? Đức Phật bảo
được. A Nan liền nhắc đến ân dưỡng
dục của bà Đại Ái Đạo để cầu xin. Đức Phật cho biết chánh pháp vốn
dài một ngàn năm, nếu cho nữ chúng xuất gia, sẽ
giảm mất 500 năm. Nếu nữ chúng tuân thủ Bát
Kính Pháp, chánh pháp có thể tồn tại một ngàn năm.
Nữ chúng phải hành Bát Kính Pháp th́ mới có đủ
tư cách là tỳ-kheo-ni. Bát Kính Pháp như sau:
1. Dẫu tỳ-kheo-ni trăm tuổi,
trông thấy tỳ-kheo mới xuất gia, vẫn phải
đứng dậy nghênh đón, lễ bái, trải tọa cụ
sạch sẽ, mời vị ấy ngồi.
2. Tỳ-kheo-ni không được
an cư kết hạ tại một địa phương
nếu không có tỳ-kheo ở gần đó.
3. Vào mỗi dịp bố-tát
(uposattha, tụng giới), tỳ-kheo ni phải cử
người sang chỗ tỳ-kheo cầu Tăng chúng sai một vị đến
thuyết giới và dạy bảo.
4. Khi An Cư mùa Hạ kết thúc,
phải cử người sang chỗ Tăng chúng cầu
ba sự Tự Tứ thấy, nghe, và nghi.
5. Tỳ-kheo-ni không được
phép mắng chửi tỳ-kheo.
6. Tỳ-kheo-ni không được cử
tội của tỳ-kheo, rêu rao lỗi của họ,
nhưng tỳ-kheo được quyền nói lỗi của
tỳ-kheo-ni.
7. Thức-xoa-ma-na đă học giới
(sáu pháp của Học Giới Nữ) phải cầu thọ
đại giới từ chúng Tăng (tỳ-kheo và tỳ-kheo ni).
8. Tỳ-kheo ni hễ phạm
Tăng Tàn, phải đối trước hai bộ Tăng sĩ (tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni)
hành Ma Na Đỏa (ư hỷ) trong nửa tháng.
Hiện thời, tại Đài Loan
có một số tỳ-kheo-ni do chịu ảnh
hưởng của phong trào nữ quyền và tâm đấu
tranh thế tục quá nặng, đă chủ trương Bát Kính Pháp là bất b́nh đẳng,
trọng nam, khinh nữ, xướng suất phế trừ
Bát Kính Pháp. Ngày 31 tháng 03 năm 2001, tỳ-kheo-ni
Thích Chiêu Huệ ở Đài Nam đă xướng suất
phong trào này, nêu ra luận thuyết Bát Kính Pháp không do đức
Phật chế định, cũng như cho rằng những
giới trong giới Tỳ Kheo Ni nhỏ nhặt có thể bỏ. Bà ta cho rằng Bát Kính Pháp kỳ thị nữ chúng, xâm phạm nữ
quyền, tăng trưởng tâm kiêu mạn của tỳ-kheo.
[6]
A Trát Lê là biến âm của chữ A Xà Lê trong ngôn ngữ
người Thái tại Vân Nam, cũng giống như danh
xưng Ajahn hoặc Acharn trong tiếng Thái Lan (để gọi
các vị Tăng có từ mười tuổi hạ trở
lên).