Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
Kinh
Khoa Chú, phần 1
地藏菩薩本願經科注
唐三藏沙門實叉難陀譯
古鹽匡菴青蓮苾芻靈椉父輯
Đời Đường, Tam Tạng sa-môn
Thật Xoa Nan Đà dịch
kinh
Đất Cổ Diêm, Khuông Am Thanh Liên bật-sô Linh Thừa
biên soạn
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ
tử Như Ḥa
(theo bản in trong tháng Bảy năm 2017
của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội,
Đài Loan)
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang
Lời tựa cho bộ
Địa Tạng Kinh Chú
Địa Tạng Kinh Chú do Vận Hà Thừa
Công, hiệu Thanh Liên pháp sư trước tác. Anh Ngài là ḥa
thượng Ngu Sơn thâm giao với tôi đă lâu; do vậy,
Ngài sai tôi viết lời tựa. Tôi tự nghĩ ḿnh trọn
chẳng thông thạo kinh sách nhà Phật, một khi miễn
cưỡng dùng những lời lẽ ḿnh không quen thuộc
để viết lời Tựa, há chẳng mâu thuẫn với
ư chỉ chân thành từ những lời lẽ trau chuốt
do Sư đă viết ư? Lại nhớ thuở tráng niên,
tôi từng theo tiên phụ đến thăm ngài Ngu Sơn,
gặp đúng dịp thầy Vận Hà cũng đến
thăm anh ḿnh. V́ thế, có dịp tiếp xúc mấy đêm,
thưa hỏi lẽ vô cùng. Cha tôi hết sức khen ngợi
Sư là bậc học rộng, căn cơ viên đốn,
cười bảo ngài Ngu Sơn: “Cổ nhân ca ngợi Vô
Trước và Thiên Thân, anh em ḥa thượng chẳng lẽ
không giống như vậy hay sao?” Tới nay, thoáng chốc
đă hơn ba mươi năm, nhớ lại thuở ấy,
hội Linh Sơn vẫn nghiễm nhiên chưa tan, khôn ngăn
nỗi buồn thương chưa báo đáp ân cha mà đă
côi cút. Ngài Ngu Sơn lại kể lời ngài Vận Hà tự
thuật [nguyên do soạn bộ chú giải ấy]: “Địa
Tạng Bổn Nguyện Kinh là hiếu kinh do đức Phật
đă nói. Do tự than thở đă lo du phương tham phỏng
bao năm, lỡ dịp phụng dưỡng song thân, bèn chú
giải kinh này để tạo phước trong cơi âm [cho
cha mẹ]”. Tôi đang ôm nỗi buồn đau suốt
kiếp, do nghe lời ấy, bèn nghẹn ngào, khóc lóc thất
thanh, phủ phục dưới đất chẳng thể
dậy nổi!
Trong bài Nguyên Đạo, ông Hàn Xương Lê
(Hàn Dũ) chỉ dùng những chuyện hành xử thường
nhật thuộc về nhân luân để tranh biện về
hai giáo (Nho và Phật), cho rằng “Nho có chuyện ấy (đạo hiếu), mà
giáo kia (đạo Phật) th́ bỏ sót; đạo Nho thông
suốt chuyện này, c̣n đạo Phật th́ khuất lấp”. Cũng như trong bài “Dữ
phù đồ Văn Sướng Tự” (lời tựa
cho tác phẩm của nhà sư Văn Sướng), ông ta lại
c̣n biện định: “Có những kẻ mang tiếng là Nho sĩ mà
hành theo Mặc Tử, có những kẻ theo thuyết Mặc
Tử mà hành xử theo đạo Nho”. Nay thầy Vận Hà ngoài việc du phương
[tham học], c̣n biết đến cội
gốc, mong có cái để báo đền đạo
hiếu, bèn sưu tập rộng răi,
sáng tối chẳng mệt. Kinh Thi có câu: “Túc mị, dạ
hưng, vô thiểm nhĩ sở sanh” (Dậy sớm, thức trễ; chẳng làm chuyện ǵ khiến
đấng sanh ra ta phải hổ thẹn). Tuy hành vi thể
hiện ḷng hiếu của thầy Vận Hà chẳng phải
là cách ứng xử theo đạo hiếu của Nho gia, nhưng
cái tâm ấy có khác ǵ đạo Nho hay chăng? Nay có những
kẻ suốt ngày tuân phụng giáo huấn của Nghiêu, Thuấn,
Vũ, Thang, Châu Công, Khổng Tử, nhưng [hành xử] cứ
như “xác sống, thinh lặng nh́n đời”, mong báo
đáo ân nghĩa lồng lộng mà chẳng biết làm cách
nào! Than ôi! Thiên kinh địa nghĩa là như thế nào mà
lại chẳng bằng một
vị áo thâm, ăn chay vậy thay! Xét ḷng tự hỏi: “Gần
như chưa xứng làm người, hơi đâu mà biện
định Nho hay Mặc nữa!”
Tăng Tử bảo: “Đạo hiếu
th́ cứ xét đến trọn hết biển Đông làm
chuẩn, xét đến trọn hết biển Tây làm chuẩn,
xét đến trọn hết biển Bắc làm chuẩn, xét
đến trọn hết biển Nam làm chuẩn”. Tây Trúc
ở ngoài Lưu Sa[1]
xa xôi, cách Trung Hoa chẳng biết mấy vạn dặm, nhưng
giáo pháp nhà Phật lấy vô tướng làm Tông, lấy Không
Vô Sở Hữu làm chân lư, chỉ riêng nói đạo hiếu
th́ thế gian lẫn xuất thế gian chẳng hề bỏ
phế được! Đấy gọi là “cùng một
tâm này, cùng một lư này”. Bản chú giải của thầy
Vận Hà đă nêu tỏ đạo của chính ḿnh, lại
c̣n giúp [hiển dương] kinh điển đạo Nho
chẳng cạn! Há tôi có thể nại cớ chẳng quen
học tập sách vở nhà Phật mà chẳng thốt một
lời tán dương ư? Ngài Ngu
Sơn thường sách tấn tôi: “Hăy nên thấu hiểu
tột cùng ư nghĩa của chuyện này”, đấy là đạo
hiếu đó chăng? Có phải chính là chuyện ấy hay chăng? Hay chẳng phải
vậy? Tôi đă là kẻ côi cút trơ trọi, có lắm nỗi thiếu sót, chỉ nghĩ
tới thuở theo cha đi lại đây đó, càng cảm
thấy anh em ngài Ngu Sơn anh xướng em họa du dương,
đồng tâm nhất trí, mỗi vị đều đáng
gọi là bậc rồng, hổ nơi kinh điển, giáo
nghĩa; c̣n tôi là kẻ kém cỏi, tài sơ, tuổi già lắm
bệnh, tinh thần suy lụn, buông lung, bất tài, chẳng
thể giải ngộ chút nào, thua kém đến mức nào?
V́ thế, lệ đẫm nghiên mực, giăi bày đôi điều.
Đầu mùa Hạ năm Đinh Măo (1687) đời
Khang Hy, cức nhân[2] Từ
Trác xông hương, tắm gội, lễ bái kính đề.
Lời tựa cho bộ
Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh Khoa Chú
Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh Khoa
Chú do Vận Hà Thừa Công Thanh Liên đại sư trước
tác, hậu duệ của ngài Thiên Thai Trí Giả là pháp sư Mẫn Hy t́m
kiếm suốt mười mấy năm mới t́m được, giao cho thợ khắc
ván in ra vào mùa Thu năm Tân Tỵ (1881), bảo tôi viết lời
tựa. Tôi từ tạ: “Lời tựa của ông Từ đă
trọn hết lẽ nhiệm, tôi c̣n nối đuôi làm ǵ nữa?”
Ngài Mẫn Hy bảo: “Đúng là vậy, nhưng cũng chưa
hoàn toàn đúng là như thế. Lời tựa ấy tuy
hay, nhưng chưa phơi bày trọn hết những điều
ẩn tàng. Ông là Nho sĩ mà hành đạo Thích, tuổi thiếu
niên đă đỗ Tiến Sĩ, làm quan chỗ nổi tiếng,
thông hiểu kinh sách hai nhà (Nho và Phật). Có một lời xác chứng của
ông, sẽ hơn vạn vạn lần [những lời đoan
quyết của] hàng Tăng sĩ!” Tôi thắp hương,
lặng lẽ đọc [bộ
sách chú giải này, nhận thấy]: “Đức Phật
đă lên trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẹ, lại
triệu vời Địa Tạng Đại Sĩ vĩnh
viễn làm U Minh giáo chủ, để những kẻ có cha
mẹ trong cơi đời, đều được báo đền
nguồn cội, truy tiến cho cha mẹ đều được
dự lên Cực Lạc”. Liền xếp sách, nức nở
nói: - Đây là hiếu kinh của đạo Nho vậy! Người
đời khinh mạn, chẳng suy xét, chỉ coi là kinh dạy
suông về nhân quả, lầm lạc lắm thay! Phàm là hiếu
như đạo Nho đă nói, th́ trên là làm quan cao chức cả
[khiến cho cha mẹ] được sắc phong vinh hiển,
dưới là t́m kiếm những món ngon béo để cung
phụng. Ngoài những chuyện ấy
ra th́ lặng thinh chẳng nghe nói chi khác nữa! So với đạo
Thích khăng khăng thành tựu chính ḿnh ngơ hầu thành tựu
cha mẹ, [khác biệt] há chỉ một trời, một vực!
Do người đời chẳng suy xét cặn kẽ dấu
vết xuất thế nơi tâm, chỉ thấy họ rời
ĺa cha mẹ để tham phỏng bậc danh sư liền
quở trách: “Đấy là cái học đoạn tuyệt
luân thường!” Chẳng biết như
người vượt biển, bỗng gặp băo lốc,
cả nhà ch́m đắm, mạng trong khoảnh khắc, có
một người đủ sức bơi được
vào bờ, kiếm được một chiếc tàu to, cứu
giúp người thân đều lên Cực Lạc. So với
chuyện một mực cùng nhau cam chịu đắm ch́m,
chẳng cầu thoát ra, để rồi cùng nhau chết sạch
là như thế nào vậy? Kinh này quả thật là hiếu
kinh của nhà Phật, chẳng phải là như kinh Thi đă
nói “hiếu tử bất quỹ, dận tích nhĩ loại”
(hiếu tử chẳng bị thiếu thốn, trời
cao vĩnh viễn ban ơn cho ngươi) đấy sao? V́
thế, viết lời tựa.
Ngày lành giữa tiết Thu năm Ất Dậu
(1885) đời Quang Tự, Tiến Sĩ xuất thân, được
ban thưởng cài hoa, bổ dụng làm tri phủ huyện
An Cát thuộc phủ Hồ Châu tỉnh Chiết Giang là Lư Tông
Nghiệp rửa tay kính soạn.
Lời tựa tái bản
bộ Địa Tạng Kinh Khoa Chú
Kẻ bất hiếu với cha mẹ, không
đáng làm người! Hiếu mà chẳng liễu
sanh tử, chẳng đáng coi là hiếu! V́ lẽ nào? Không ân
nào lớn hơn ân cha mẹ. Dẫu nhọc nhằn chăm sóc, phụng dưỡng,
chẳng bỏ sót một điều nhỏ nhặt nào, bất
quá [chỉ nhỏ nhặt như] một cân từ quả núi,
hoặc một giọt nước
biển! Không nỗi khổ nào bằng nỗi khổ sanh tử,
dẫu thành ư chánh tâm, cúi xuống, ngẩng lên đều chẳng
thẹn, khó tránh luân hồi trong các cơi, huống hồ con người
chưa chắc đă hiếu thảo! Dẫu hiếu thảo, chưa
chắc đă tinh thuần!
Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
Công Đức Kinh, gọi đại lược là kinh Địa
Tạng, chính là hiếu kinh xuất thế do đức Phật
nói ra. Từ khi thành đạo trở đi, đức Phật
ôm ḷng bi mẫn, rộng thực hiện hóa độ. Do v́
thời nhập Niết Bàn sắp đến, mà ân mẹ
chưa báo, Ngài bèn lên Đao Lợi, v́ mẹ thuyết pháp;
thừa dịp ấy phóng quang, triệu tập vô số phân
thân Địa Tạng tới cung trời, lại c̣n bốn lượt xưng dương,
rốt cuộc ân cần dặn ḍ, giao phó trách nhiệm độ
sanh nặng nề cho Bồ Tát. Bởi lẽ, lúc tu nhân, ngài
Địa Tạng từng là cô gái Bà-la-môn và nàng Quang Mục,
đều do cứu mẹ mới phát ra thệ nguyện vĩ
đại, giống như tâm Phật, phù hợp khít khao. V́
thế, [đức Phật] nói Địa Tạng Bồ
Tát Bổn Nguyện Công Đức Kinh để độ
Phật mẫu Ma Da phu nhân, cũng như khiến cho đệ
tử Phật trong mai sau, ai nấy đều hiếu thảo
với cha mẹ, cùng đều lên bờ kia, thoát khỏi biển
khổ sanh tử. Kinh này có hai bản dịch: Một là do
ngài Pháp Đăng và Pháp Cự dịch, niên đại lẫn
thời gian đều chẳng rơ. Bản kia do Tam Tạng
sa-môn xứ Vu Điền là Thật Xoa Nan Đà dịch vào
đời Đường. Từ ngữ tuy đại đồng tiểu
dị, nhưng Liên Tŕ đại sư phán quyết dùng bản
dịch đời Đường làm bằng chứng. Gồm
thâu những điểm cương yếu th́ mười
ba phẩm có thể chia thành bốn chương lớn:
1) Phẩm thứ nhất là Đao Lợi Thiên
Cung Thần Thông và phẩm thứ hai là Phân Thân Tập Hội,
nói rơ ngài Địa Tạng là vị hóa chủ, tức là Đại
Sĩ phân thân vô lượng, thâm nhập Nê Lê (Naraka, địa
ngục), là vị U Minh giáo chủ dùng ḷng hiếu để
giáo hóa, khiến [chúng sanh đang đọa địa ngục]
được sanh vào đường trời, người.
2) Phẩm thứ ba, tức Quán Chúng Sanh Nghiệp
Duyên, phẩm thứ tư tức Diêm Phù Chúng Sanh Nghiệp Cảm,
và phẩm thứ năm là Địa Ngục Danh Hiệu,
nói rơ căn cơ được giáo hóa bởi Địa
Tạng Bồ Tát, tức là những chúng sanh tội ác bất
hiếu với song thân, chẳng tôn kính Tam Bảo, do tham,
sân, si Hoặc mà tạo thân, khẩu, ư nghiệp, đang đọa
trong Vô Gián.
3) Phẩm thứ sáu, tức Như Lai Tán Thán,
phẩm thứ bảy là Lợi Ích Tồn Vong, phẩm thứ
tám là Diêm La Vương Chúng Tán Thán, nói về cái duyên độ
sanh, tức thắp hương, tụng kinh, tạo phan, tạc
tượng, trai tăng cúng dường đại chúng, các
thứ thiện duyên.
4) Phẩm thứ chín là Xưng Phật Danh
Hiệu, phẩm thứ mười là Giảo Lượng
Bố Thí Công Đức Duyên, phẩm thứ mười một
là Địa Thần Hộ Pháp, phẩm thứ mười
hai là Kiến Văn Lợi Ích, phẩm thứ mười
ba là Chúc Lụy Nhân Thiên, nói rơ cái nhân thành Phật, tức là
dạy mọi người chí thành cung kính, niệm danh hiệu
Phật, hoặc danh hiệu Bồ Tát, cho đến bố
thí tài hay bố thí pháp, đều là chánh nhân Bồ Đề
để độ trọn hết chúng sanh.
Nhân quả tường tận, rơ ràng, văn
từ sáng sủa, trôi chảy, phô bày trọn vẹn diệu
đế “tâm, Phật, chúng sanh, cả ba vô sai biệt”.
Của quư báu tột cùng trong đời Mạt Pháp không chi
hơn được kinh này! Đời nhà Thanh, vị cổ
đức trong tông Thiên Thai là pháp sư Thanh Liên đă soạn
bộ Khoa Chú gồm sáu quyển, dung thông Giáo Quán, lại c̣n
giải thích, giảng giải. Không chỉ khiến cho những
kẻ sơ cơ dù Tăng hay tục đối với ḷng
đại từ đại hiếu của đức Phật
và đại nguyện đại lực của ngài Địa
Tạng vừa mở sách ra bèn hiểu rành rành, chẳng c̣n
ẩn giấu mảy may, mà c̣n khiến cho những bậc
long tượng trong biển Giáo cũng nương theo “sơ
đồ hướng dẫn” này, tuân phụng như của
báu bí mật. Đối với
sự giáo hóa
của đức Phật, công lao của bản chú giải này há có bờ bến? Tiếc
là bản gốc do giấy đắt, giá thành cao, chẳng dễ phổ
cập. Những vị cùng chí hướng thuộc Tô Châu
Giác Xă đă thương lượng với Cổ Ngô Phật
Kinh Lưu Thông Xứ và Thượng Hải Phật Học
Thư Cục chiêu mộ rộng răi những vị cùng chí
hướng, in lại sách này mấy ngàn bộ để rộng
kết pháp duyên, mong sao những chốn hẻo lánh quê mùa đều
có được một bản, sẽ do ḷng hiếu thảo
với cha mẹ mà từ ḿnh nghĩ đến người
khác, ngơ hầu cha mẹ ba đời c̣n sống th́ nghiệp
tiêu, Hoặc tận, ĺa khổ được vui, đă khuất
th́ sẽ dự vào địa
vị Bất Thoái, chứng Vô Sanh Nhẫn. Đấy cũng
là Tăng Na[3] “địa
ngục chưa trống, thề chẳng thành Phật” đấy
chăng? Khôn ngăn hoan hỷ tán
thán, thuật bày duyên khởi như thế đó.
Đầu Hạ năm Bính Tư, tức năm
Dân Quốc 25 (1936), Quư Thánh Nhất kính cẩn viết lời
tựa.
Duyên khởi của Địa
Tạng Kinh Luân Quán Khoa Chú
Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh chính
là hiếu kinh do đức Phật đă nói. Nguyên do nói kinh
này là để ngăn dứt sự báng bổ sâu đậm
[rằng đạo Phật] chẳng biết ân nghĩa, ḥng
dạy sâu xa đạo báo ân là cái gốc to tát. V́ thế,
khi lửa ứng hóa của đức Phật sắp tắt,
Ngài bèn lên trời Đao Lợi giảng kinh cho mẹ, khiến
cho [chúng sanh] trông thấy dấu đạo ấy, chẳng
phải là đă chỉ bày đại hiếu xuất thế
ở ngay trong đạo Thích của chúng ta đó ư? Thừa
dịp ấy, đức Phật phóng quang, triệu tập
các phân thân của ngài Địa Tạng về cung trời,
phô bày dáng vẻ đại hiếu. Do khi c̣n tu nhân, Đại
Sĩ làm cô gái Bà-la-môn và cô Quang Mục, đều do cứu
mẹ mới phát khởi hoằng thệ, đồng tâm
nhất trí với tâm đức Phật. V́ thế, đức
Phật nói kinh Địa Tạng Bổn Nguyện. Hăy nên
biết kinh này: Trên trời Đao Lợi, đức Phật
căn dặn, giao phó trời, người trong tương
lai cho đức Địa Tạng, đợi tới khi
ngài Di Lặc tại rừng hoa [thành Chánh Giác]. Đúng là thuyền
Từ trong biển nghiệp,
là bó đuốc to trong nẻo tối, là đường tắt
để tiến nhập nhân thiên, là pháp môn trọng yếu
để nhập Phật đạo. Vứt bỏ pháp này,
sợ rằng sẽ lang thang không chốn quay về. Nay nêu
tường tận nguyên do, ngơ hầu [người đọc] sẽ thấy được
lẽ thật.
Tông yếu của cả bộ kinh, có thể
chia đại lược thành bốn chương:
1) Trước hết là chỉ rơ đấng
hóa chủ, tức là Đại Sĩ phân thân vào chốn Nê
Lê, dùng ḷng hiếu để giáo hóa, chủ yếu là khiến
cho chúng sanh được sanh trong đường trời
người.
2) Kế đó, nói rơ căn cơ được
Ngài giáo hóa, tức là những kẻ phạm tội bất
hiếu song thân, [bất kính] Tam Bảo, tạo ác đọa
khổ.
3) Thứ ba là nói rơ cái duyên độ thoát, tức
là khiến cho những ai đọc bản kinh hiếu thuận,
cúng dường tượng của bậc Đại Hiếu,
sẽ tạo thành cái duyên cơ cảm độ thoát.
4) Thứ tư là nêu ra cái nhân thành Phật, tức
là dạy họ hăy niệm danh hiệu của bậc hiếu
thuận trong nhà Phật, bố thí, thuận theo điều
phước, sẽ thành tựu Vô Thượng Bồ Đề.
V́ thế, kinh Phạm Vơng dạy: “Thích Ca Mâu Ni Phật thành
Vô Thượng Chánh Giác, đă kết quy điều đầu
tiên trong Ba La Đề Mộc Xoa (giới cấm) cho
hàng Bồ Tát là hiếu thuận cha mẹ, sư tăng, Tam
Bảo”. Há hạnh hiếu thuận chẳng phải là phần Chánh Tông của bộ kinh này? Phần Tự nhằm dẫn nhập điều này, phần
Lưu Thông nhằm lưu truyền điều này. Chặng
đầu, chặng giữa, chặng cuối đều tốt
lành, thuần nhất vô tạp; đấy chính là bổn hoài
xuất thế của đức giáo chủ, là đại
sự nhân duyên của chư Phật. Không chỉ là [kinh này]
có cùng công năng như kinh Pháp Hoa, mà đức c̣n to lớn
hơn, càng khó có hơn nữa! Cớ sao pháp hóa chưa hưng
thịnh mà pháp vận đă ngưng
lấp. Kể từ thuở kinh được dịch từ
tiếng Phạn vào đời Đường trở đi,
cho tới nay, vẫn chưa được soạn tập,
pháp môn rất thiếu sách vở, tiền nhân trọn chẳng
quan tâm, lại là v́ lẽ nào vậy?
Tôi xuất gia từ bé, chẳng được
phụng dưỡng song thân. Tới lớn lo đi tham học,
càng ít có dịp hỏi han, thăm viếng. Sau này, mong đón
về hầu hạ, cha mẹ đă hết nghiệp, ra đi,
chỉ đành buồn suông trước cảnh “cây muốn
lặng mà gió chẳng ngừng”, mong phụng dưỡng
mà chẳng có cách nào! Bèn vào cuối Đông năm Kỷ Mùi
trong niên hiệu Khang Hy, thắp hương, biên chép kỹ
càng một bộ, vào mỗi dịp Thập Trai, đắp
y, kính tụng một lượt để làm kế sách to
lớn ḥng ngầm giúp [cho hương hồn cha mẹ], dùng
đó làm thường khóa để đền đáp thâm ân.
Ngay trong lúc vừa mở kinh ra, phần lớn luôn có cảm
giác tươi mới tràn trề. Nay đă quá tuổi “nhĩ
thuận” (sáu mươi), quang âm sắp hết, nếu
chẳng ngay lập tức lập ngôn, sợ sẽ thành
nguyện niệm suông! Dẫu thiếu tài viết lách, phán định
cao tột, rất thiếu tinh lực và tâm tư để
tận lực t́m ṭi như chư tổ, nhưng đối
với bộ kinh viên măn này, đâu nỡ làm ngơ! Do vậy
bèn viết phần Luân Quán để giải thích tựa đề
kinh, lại c̣n soạn khoa chú để giải thích từng
câu kinh văn. Điều chánh yếu là tỏ rơ bi tâm của
đức Phật, tỏa rạng bổn nguyện của
đức Địa Tạng, bù đắp sự thiếu
thốn sách vở cho pháp môn này, khơi gợi ḷng hiếu
thảo cho hàng hậu học đó thôi! Hoàn thành bản cảo,
cho khắc ván, thỉnh giáo bậc cao minh, hiềm rằng am của tôi vốn
thiếu kinh điển, chẳng có người giúp sức,
sao tránh khỏi chuốc tiếng chê cười “nêu một
điều, thiếu sót cả vạn!” Những mong được
bậc thông đạt chỉ bày cặn kẽ, rủ ḷng
soi xét chí hướng ngu thành của tôi. Ngưỡng mong ai
nấy cùng tuân theo bổn nguyện, noi dấu độ
sanh, khiến cho Phật nhật măi treo, soi tan sự tăm tối giữa hai rặng Thiết
Vi, khiến cho cửa ải tối tăm luôn mở, tiêu
trừ nỗi chua xót ức kiếp chốn Nê Lê, ngơ hầu
chẳng phụ tấm ḷng bi hiếu của đức Phật
thuyết pháp, dặn ḍ Đại Sĩ chốn thiên cung. Đấy
chính là chỗ để chúng ta báo ân. V́ thế, trần thuật
duyên khởi để tŕnh bày đại lược đầu
mối vậy.
Từ ngày thượng nguyên năm Giáp Tư cho
đến ngày Phật thành đạo vào tháng Chạp năm Đinh Sửu
(1697) đời Khang Hy, người nối pháp Thiên Thai Giáo
Quán Chánh Tông đời thứ năm là Thanh Liên bật-sô Linh
Thừa soạn.
Địa Tạng Bồ
Tát Bổn Nguyện Kinh Luân Quán (地藏菩薩本願經綸貫)
I. Ngũ Trùng Huyền
Nghĩa
Bản thể của nhất niệm tự
tánh vốn tĩnh lặng, cái Dụng của tâm tự tánh
vốn rỗng rang, linh thông, vô tướng, vô danh, dứt
bặt nghĩ bàn, là chỗ y chỉ cho quần sanh, là cội
nguồn của muôn pháp, danh hiệu rốt ráo là Trung Đạo
Chánh Không, được xưng tụng là Đệ Nhất
Nghĩa Đế. Chư Phật ngộ điều này, ba
thân bèn hiển lộ trọn vẹn. Chúng sanh mê điều
này, bèn xoay vần trong sáu nẻo.
Tuy mê, ngộ cố nhiên sai khác, nhưng tâm tánh chẳng khác
biệt. V́ thế, cổ đức nói: “Hư không thế
giới toàn là tự tâm của chính ḿnh; xét báo ứng thiện
ác, toàn là do cái tâm mê hoặc”. Vốn là một tâm mà xuyên
suốt các pháp; v́ thế, trong pháp môn của đức Phật,
chỉ lấy tâm làm đạo. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm
như công họa sư, tạo chủng chủng Ngũ Uẩn,
nhất thiết thế gian trung, vô bất do tâm tạo”
(Tâm như thợ vẽ khéo, tạo các thứ Ngũ Uẩn,
trong hết thảy thế gian, không ǵ chẳng tâm tạo).
Luận Khởi Tín nói: “Có pháp có thể dấy khởi tín
tướng (tướng trạng tin tưởng) đối
với Ma Ha Diễn (Đại Thừa). Pháp vừa nói đó
chính là cái tâm của chúng sanh. Tâm ấy bao hàm hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian”, đều là nói
về ư này. Đấy chính là như Địa Tạng Bồ
Tát đă dạy: “Hết thảy các pháp đều khởi
từ tâm, cùng với tâm tạo ra tướng, ḥa hợp
mà có, cùng sanh, cùng diệt, đều cùng chẳng trụ.
Do trong hết thảy cảnh giới, chỉ tùy thuận
theo cái tâm duyên vào đâu, mà sẽ liên tục tồn tại
trong mỗi niệm, tạm thời hiện hữu”. Đấy
chính là Ngài đă chỉ dạy ư chỉ nơi pháp môn tâm địa
này.
Nay để ngộ lại đó, chỉ luận
về mê. Trời, người, A Tu La do thiện phẩm mà
nhẹ nhàng thăng tấn; c̣n địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh do ác nghiệp mà ch́m đắm, đọa lạc. Trong
số những loài quỷ hay súc sanh đọa lạc ấy,
lại chia thành nặng hay nhẹ [sai khác], c̣n kẻ ch́m đắm
trong địa ngục th́ chẳng có lớn nhỏ sai biệt!
Nói chung là do vô minh điên đảo, đến nỗi có địa
ngục chánh và phụ. V́ thế, phàm phu do mê muội nguồn
tâm, thuận theo vọng niệm, xằng bậy tạo ác
nghiệp, lầm lạc hứng chịu khổ báo. Chẳng
nhờ vào ḷng đại bi của bậc chí thánh, sao có thể
giải trừ nỗi khổ cùng cực bị treo ngược?
V́ thế, đức Địa Tạng từ vương
khăng khăng vào cơi U Minh, dùng ḷng từ bi đồng thể,
bao kiếp cứu vớt mà vẫn chưa xong. Thích Ca Văn
Phật đặc biệt lên cơi trời Đao Lợi báo đáp
ân đức thánh mẫu, ra rả căn dặn, giăi bày, khiến cho kẻ hướng
về Phật pháp dâng chút nước, chút hoa, đều
thoát khỏi nỗi khổ chốn u đồ, ngơ hầu kẻ
đối trước Đại Sĩ tạm chiêm ngưỡng,
hoặc lễ một lạy, đều được hưởng
niềm vui nơi địa vị thù thắng. Công không chi
lớn bằng, nghĩa há suy lường nổi ư? Linh
Thừa tôi tuy sanh vào lúc pháp vận đă mạt, may mắn
gặp gỡ chân thừa, bèn vâng theo ḷng tùy hỷ, viết
lách ḥng làm cơ sở tiếp dẫn, giăi bày tri kiến hẹp
ḥi, giải thích đại lược tựa đề
kinh, ngưỡng mong Tam Bảo thầm gia hộ, tổng hợp
các lời nhận định ḥng dung thông xuyên suốt. Nguyện
khắp những ai thấy nghe, đều tiến nhập
Cực Lạc.
Nay trước hết giải thích chung về
tựa đề kinh, kế đó là nêu tổng quát quán pháp,
điều thứ ba là giảng giải từng phần kinh
văn riêng biệt. Chuẩn theo khuôn phép thơm thảo giải
thích kinh điển của Trí Giả đại sư, trước
hết là nói về năm tầng huyền nghĩa: Một
là giải thích tên kinh, hai là biện định cái Thể, ba
là nêu rỏ Tông, bốn là luận định cái Dụng, năm
là phán định giáo tướng. Sở dĩ dùng năm tầng
để giải thích, là v́ đối với những nghĩa
lư u huyền trong kinh, [muốn khiến cho] người đọc
vừa xem liền có thể đối với cái danh năng
thuyên (tựa đề kinh) mà nhận biết cái Thể được
diễn tả bởi nó. Do muốn hiển lộ cái Thể
ấy, cần phải nêu rơ tông yếu. Tông đă thành, Thể
đă hiển lộ, diệu dụng đắc lực,
sau đấy mới phán định [bản kinh ấy] thuộc
thời nào, pháp vị nào, bộ nào, giáo nào, th́ nghĩa lư tông
chỉ sẽ rành rành, rạng ngời nơi tâm mục. Ví
như muốn xem núi ngắm sông, trước hết phải
xem xét bản đồ, đọc sách vở ghi chép, dẫu
chưa ra khỏi cửa, mà t́nh cảnh đă rành rành. Nay dùng
Nhân và Pháp chẳng thể nghĩ bàn để đặt tên
kinh, dùng tánh thức chẳng nghĩ bàn làm Thể, dùng hạnh
nguyện chẳng thể nghĩ bàn làm Tông, dùng phương
tiện chẳng thể nghĩ bàn làm Dụng, khơi mở
rạng rỡ vô thượng đề-hồ làm giáo tướng.
1.1. Thích Danh
Trong phần Thích Danh (giải thích tên kinh), sáu
chữ Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện là Biệt
Đề, v́ khác với các kinh. Một chữ Kinh trong tựa
đề là Thông Đề, v́ các kinh khác đều có. Trong Biệt Đề,
lại chia thành Nhân và Pháp. Địa Tạng Bồ Tát là Nhân,
Bổn Nguyện là Pháp. Đối với bản kinh này, đức
Phật vốn tự kết kinh danh thành ba loại [tên gọi]:
Một là Địa Tạng Bổn Nguyện, c̣n gọi là
Địa Tạng Bổn Hạnh, c̣n gọi là Địa
Tạng Bổn Thệ Lực Kinh. Nay chỉ nêu lên duy nhất
danh xưng Địa Tạng Bổn Nguyện, là v́ đă
có nguyện, ắt phải hành hạnh. Hạnh đă thành,
ắt sẽ có lực dụng cứu bạt. V́ thế, chỉ
nêu một ḿnh danh xưng Bổn Nguyện th́ sẽ tùy ư bao
hàm hai thứ kia.
Trong phần Nhân danh, lại chia thành Thông và
Biệt, Địa Tạng là Biệt, Bồ Tát là Thông. Đối
với danh xưng Địa Tạng, chuẩn theo Phật
Thuyết Bát Đại Bồ Tát Mạn Đà La Kinh, phải
nên đọc là Khất-sái Ha La Nhạ (Kṣitigarbha),
dịch nghĩa là Địa Tạng. Nếu dựa theo các
bản dịch khác, nên nói là Cù Tát (Kṣiti)
dịch là Địa, Câu Xá (Garbha) hoặc [c̣n phiên âm là] Tỷ
Ca, hay Trích Ca, dịch là Tạng. Kinh dạy: “Như địa
chư hữu t́nh, sở y nhất bất đoạn” (Như đất là nơi các hữu
t́nh nương tựa chẳng ngưng dứt). Đấy
là dựa trên thí dụ để đặt trên. Do đất
là một vật mà có thể chứa đựng vô lượng;
do vậy, nó đứng đầu Tứ Đại, là một
hành (tức hành Thổ) trong Ngũ Hành (Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, Thổ), sanh thành bởi nguyên khí, là tổ của vạn
vật. [Trong Bát Quái], Quái của nó là Khôn (坤), đức
của nó là Mẫu (mẹ). Sách Châu Dịch nói: “Chí tai Khôn
nguyên, vạn vật tư sanh, hàm hoằng quang đại,
phẩm vật hàm hanh” (Lớn lao thay đức Khôn, sanh thành muôn vật;
rộng chứa những điều tươi đẹp
nhất, muôn vật đều hanh thông). Thể và Dụng
rộng sâu, đức to lớn, khó thể diễn tả được!
Do vậy, đất có thể ǵn giữ, có thể nuôi dưỡng,
có thể chuyên chở, có thể sanh thành. Đấy là giải
thích dựa theo sách Nho. Nếu chuẩn theo phần giải
thích về Thập Địa trong Tứ Niệm Xứ th́:
“Từ Sơ Địa có ba nghĩa là trụ tŕ (ǵn giữ,
duy tŕ), sanh trưởng, và gánh vác”. Cho đến địa
vị rốt ráo sau cùng th́ cũng có ba nghĩa. Đấy chính
là coi Tánh là Địa. Nhân tu vạn hạnh, quả viên măn
muôn đức, đều trọn đủ ba nghĩa.
Kinh Thập Luân dạy: “Tùy sở tại
xứ, nhược chư hữu t́nh, dĩ chư chủng
tử, thực ư hoang điền, hoặc ư thục
điền trung. Nhược cần doanh vụ, hoặc bất
doanh vụ. Hữu năng chí tâm xưng danh, niệm tụng,
quy kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha
Tát giả, thử thiện nam tử công đức diệu
định, oai thần lực cố, linh bỉ nhất thiết
quả thật phong nẫm. Sở dĩ giả hà? Thử
thiện nam tử tằng quá vô lượng vô số đại
kiếp, ư quá số lượng Phật Thế Tôn sở,
phát đại tinh tấn, kiên cố thệ nguyện. Do thử
nguyện lực, vị dục thành thục chư hữu
t́nh cố, thường phổ trụ tŕ nhất thiết
đại địa, thường phổ trụ tŕ nhất
thiết chủng tử, năng linh đại địa
nhất thiết thảo mộc, căn, tu, nha, hành, chi, diệp,
hoa, quả, giai tất sanh trưởng. Dược cốc
miêu căn, hoa quả mậu thật, thành thục nhuận
trạch, hương khiết nhuyễn mỹ” (Ở bất cứ nơi
đâu, nếu các hữu t́nh đem các hạt giống gieo
xuống ruộng hoang, hoặc trong ruộng thục[4], hoặc
là siêng năng chăm bón, hoặc chẳng siêng năng chăm
bón. Nếu có thể chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy
kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát,
th́ vị thiện nam tử ấy (Địa Tạng Bồ
Tát) do công đức, diệu định và sức oai thần,
sẽ khiến cho hết thảy quả, hạt đều
sum suê, chín rộ. V́ lẽ nào vậy? Vị thiện nam tử
ấy đă từng trong vô lượng vô số đại
kiếp, từng ở nơi vượt quá số lượng
Phật Thế Tôn, phát ra thệ nguyện đại tinh tấn
kiên cố. Do nguyện lực ấy, v́ muốn thành thục
các hữu t́nh, thường trụ tŕ trọn khắp hết
thảy các đại địa, thường trụ tŕ
trọn khắp hết thảy các chủng tử, có thể
khiến cho hết thảy thảo mộc trên đại địa,
rễ, tua, mầm, thân, cành, lá, hoa, quả, thảy đều
sanh trưởng. Mầm rễ của thuốc, ngũ cốc,
hoa quả sum suê, chắc hạt, chín muồi, tươi mọng,
thơm sạch, mềm mại, ngon đẹp).
Lại nói: “Thí như đại địa,
nhất thiết chủng tử, thụ sơn, giá sắc,
địa thân chúng sanh chi sở y chỉ. Thử thiện
nam tử diệc phục như thị, nhất thiết thù
diệu Bồ Đề Phần pháp chi sở y chỉ. Lương
do Bồ Tát ư quá khứ bất khả thuyết, bất
khả thuyết vô số kiếp lai, tán ảnh phân h́nh, phóng
quang thuyết pháp, hằng xử u minh giới nội, thường
giáo lục đạo chúng sanh, hoặc dĩ thành Phật
đạo, hoặc cửu giai chân nhân, hoặc tạm trụ
Thanh Văn, Duyên Giác, hoặc tại thiên thượng, nhân
gian; năi chí vị lai chúng sanh, thiên cung chúc linh độ
thoát. Chánh như đại địa, nhất thiết lại
dĩ trụ tŕ, sanh trưởng, hà phụ” (Ví như
đại địa là chỗ nương tựa cho hết
thảy các hạt giống, cây cối, núi non, ngũ cốc,
ruộng vườn, và chúng sanh. Thiện nam tử này cũng
giống như thế, là chỗ nương tựa cho hết
thảy các pháp Bồ Đề phần thù thắng nhiệm
mầu. Ấy là v́ trong quá khứ bất khả thuyết
bất khả thuyết vô số kiếp đến nay, Bồ
Tát đă phân thân phóng quang, thuyết pháp, luôn ở trong cơi U Minh,
thường dạy lục đạo chúng sanh, [các chúng sanh
ấy] hoặc đă thành Phật đạo, hoặc đạt
lên địa vị chân nhân (cái nhân chân chánh, tức từ Sơ Địa
trở lên) đă lâu, hoặc tạm trụ nơi [các địa
vị] Thanh Văn, Duyên Giác, hoặc ở trên cơi trời hay
nhân gian, cho đến chúng sanh trong đời vị lai, Bồ
Tát đă được đức Phật căn dặn cứu
độ họ, giống hệt như hết
thảy đều nương cậy đại địa
để duy tŕ, sanh trưởng, gánh vác). V́ thế kinh dạy:
“Tâm như đại địa, năng an nhất thiết.
Dĩ cố Phật thuyết tâm lực vi đại” (Tâm như đại địa,
có thể an trụ hết thảy. V́ thế, đức Phật
nói tâm lực là to lớn). Đấy đều là dùng cái tâm
để minh thị chữ Địa vậy.
Tạng (藏) cũng là dựa theo
thí dụ để đặt tên; chính là dùng kho tàng bảy báu của thế gian
để sánh ví Tam Đức bí tạng xuất thế.
Kinh Niết Bàn dạy: “Như nhân thất bảo, bất
xuất dụng ngoại, danh chi vi Tạng. Kỳ nhân sở
dĩ tàng tích thử bảo, vị vị lai cố. Sở
vị cốc quư, tặc lai xâm quốc, trị ngộ ác vương,
vi dụng thục mạng, tài nan đắc thời, năi đương
xuất dụng. Chư Phật bí tạng, diệc phục
như thị” (Như người ta đối
với bảy báu chẳng đem sử dụng th́ gọi
là tích chứa. Sở dĩ người ta tích chứa những chất báu ấy
là để v́ tương lai, chẳng hạn như khi thóc
gạo đắt đỏ, giặc giă xâm lăng đất
nước, gặp phải vua ác, sẽ dùng những thứ
đó để chuộc mạng; hoặc khi tiền tài khó
khăn, sẽ lấy ra dùng. Bí tạng của chư Phật
cũng giống như thế đó). Do vậy, ngài Chương
An[5] nói:
“Do ẩn kín nên gọi là Bí, do che đậy nên gọi là Tạng.
Chúng sanh chẳng hiểu, nên gọi là Bí Mật. Bao hàm pháp
giới, nhiếp hết thảy pháp, dùng chẳng thể hết,
th́ gọi là Tạng. Do tánh của chúng sanh sẵn có của
báu tam thiên, khi bị sáu tên giặc phiền năo che lấp, bị
ác vương ư thức làm hại, bèn bỏ ra Tam Đức
bí tạng này để chuộc cái mạng thường trụ”.
Nay danh hiệu của ngài Địa Tạng chính là dùng những
ư nghĩa ấy để đặt tên. Tam Đức bí tạng
chất chứa trong thân tâm của hết thảy chúng sanh,
chư Phật do đă ngộ bèn chứng đắc, chúng
sanh do mê mất, bèn lưu chuyển. Nhưng bí tạng ấy
trọn chẳng dời đổi.
V́ thế, Địa Tạng Tát Đóa từ thuở ban sơ phát ra
hoằng nguyện, cho đến sau khi đă trụ trong địa
vị Đẳng Giác, tự hành, hóa độ người
khác, trọn chẳng ĺa khỏi bí tạng nơi cái tâm này.
Bí tạng nơi tâm ấy chính là Niết Bàn. Sách Phụ Hành
nói: “Bồ Tát sơ tâm thường quán Niết Bàn để
hành đạo; đó phép tu tự hành ban đầu, và cũng
khiến cho chúng sanh thường quán Niết Bàn ḥng hóa độ
những người khác mới tu, đặt yên các ông
trong tạng bí mật. Đó là sự tấn nhập sau khi
hóa độ người khác. Chẳng lâu sau, ta cũng tự
trụ trong ấy. Đó là sự tấn nhập sau khi tự
hành”. Do vậy biết: Sơ tâm th́ tự hay tha, không ǵ chẳng
đều tu. Hậu tâm tự hay tha, không ǵ chẳng đều
nhập. Nay chuẩn theo nghĩa này để giải thích
tên kinh.
Ma Ha Bát Niết Bàn Na (Mahānirvāṇa) trong tiếng Phạn, được
cơi này dịch là Đại Diệt Độ (大滅度). Đại chính là Pháp Thân, Diệt
chính là Giải Thoát, Độ tức Bát Nhă. Trong ba pháp ấy,
mỗi pháp đều có Thường, Lạc, Ngă, Tịnh;
v́ thế, gọi là Đức. Bốn đức ấy chẳng
ĺa khỏi tâm ta; bốn tạng ấy đều chẳng
vượt khỏi Địa. Như lúc ngài Di Lặc thành
Phật, cơi ấy có Chuyển Luân Vương tên là Nhương
Khư (Śaṃkha, c̣n gọi
là Sương Khư (霜佉). Cơi này dịch là Bối
(貝, vỏ ṣ), tức là
Kha Bối (珂貝). Kinh Hiền Ngu th́ [phiên
âm chữ này] là Thắng Già, 勝伽), sống ở thành Xí Đầu
Mạt. Khi đức Di Lặc thành Phật, có bốn đại
bảo tạng đồng thời hiển lộ. Mỗi đại
tạng đều có bốn ức tiểu tạng vây quanh.
Y Bát La đại tạng (kho vàng) ở nước Càn Đà
La, Ban Trục Ca đại
tạng (kho bạc) ở nước Di Đề La, Tân Già
La đại tạng (kho minh nguyệt châu) ở nước
Tu La Trá, Nhương Khư đại tạng (kho lưu ly,
c̣n gọi là kho Kha Bối) ở chỗ Cổ Tiên Sơn
thuộc nước Ba La Nại. Bốn kho ấy đều
thuộc cơi Diêm Phù Đề. Nay Tứ Đức ấy đều
có sẵn trong A Lại Da Thức. Vàng ví như Thường
đức v́ màu sắc chẳng thay đổi. Bạc ví
như Lạc đức v́ khiến cho người ta đẹp
ḷng. Minh châu ví như Ngă đức, v́ nó hiện sắc tự
tại. Lưu Ly ví như Tịnh đức, v́ trong ngoài đều
thấu suốt.
Lại hăy nên biết: Khi bốn tạng ấy
chưa hiển hiện, mỗi tạng đều có thần
long bảo vệ chặt chẽ, ǵn giữ chẳng để
mất mát. Sau khi đă mở ra, không có người thủ
hộ, mọi người trông thấy chẳng sanh ḷng tham
đắm. Điều này thật đúng như bảo tạng
trong tâm địa, tuy lúc mê, nó ẩn kín, nhưng chẳng mất
đi. Ngay trong khi ngộ, tuy chứng mà chẳng chấp trước.
V́ thế biết tâm tạng trọn đủ các thứ báu,
tức là “Không, Giả, Trung, không ǵ chẳng như ư. Tâm,
Phật, chúng sanh, cả ba không sai biệt”. Danh hiệu Địa
Tạng có ư nghĩa như thế đó.
Do vậy, trong kinh Thập Luân, đức Phật
bảo Hảo Nghi Vấn Bồ Tát: “Như thị Đại
Sĩ thành tựu như thị bất khả tư nghị
chư công đức pháp, thị chư thù thắng công
đức phục tạng, thị chư giải thoát trân
bảo xuất xứ. Sở dĩ giả hà? Địa Tạng
Bồ Tát lợi ích an lạc nhất thiết hữu t́nh;
sở nguyện măn túc như Như Ư bảo, diệc
như phục tạng. Như thị Đại Sĩ vị
dục thành thục chư hữu t́nh cố, cửu tu kiên
cố đại nguyện, đại bi, dũng mănh, tinh tấn,
quá chư Bồ Tát. Thị cố nhữ đẳng ưng
đương cúng dường” (Bậc Đại
Sĩ như vậy, thành tựu các pháp công đức chẳng
thể nghĩ bàn như thế đó, chính là các kho báu công đức
thù thắng, là chỗ sanh ra các món trân bảo giải thoát.
V́ sao vậy? Địa Tạng Bồ Tát lợi ích, an lạc
hết thảy hữu t́nh, sở nguyện viên măn, giống
như báu Như Ư, mà cũng giống như kho tàng. Bậc Đại
Sĩ như thế v́ muốn thành thục các hữu t́nh, cho
nên tu đại nguyện đại bi kiên cố từ lâu,
dũng mănh, tinh tấn, vượt trỗi các vị Bồ
Tát. Do vậy, các ông hăy nên cúng dường). Nay đức Phật
ở trên cung trời Đao Lợi, ân cần căn dặn
ngài Địa Tạng hăy khiến cho pháp giới chúng sanh trong
thế giới Sa Bà cho đến khi Di Lặc xuất thế
đều được giải thoát, vĩnh viễn ĺa
khỏi các khổ, gặp Phật thọ kư, chính là v́ muốn
khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật, đặt
yên trọn hết đại bảo Tứ Đức trong
bí mật tạng!
“Bồ Tát” nói đầy đủ phải
là Bồ Đề Tát Đỏa (Boddhisattva). Đại Luận
(Đại Trí Độ Luận) giảng: “Bồ Đề
là Phật đạo, Tát Đỏa dịch thành chúng sanh. Có
thể dùng trí để trên là cầu Bồ Đề, dưới
là dùng ḷng bi để cứu chúng sanh”. Tổ Thiên Thai nói:
“Do dùng đạo của chư Phật để thành tựu
chúng sanh, cho nên gọi là Bồ Đề Tát Đỏa”.
Nhưng danh xưng Bồ Tát có đủ cả bốn
giáo (Tạng, Thông, Biệt, Viên), nay nói rơ ràng th́ đích xác là
nói đến [bậc Bồ Tát] trong Viên Giáo, lại c̣n bao gồm
cả ư nghĩa “danh hiệu chung (thông danh, tức Bồ
Tát) của ngài Địa Tạng tuy là thông mà vẫn là biệt”.
Kế đó, giải thích pháp Bổn Nguyện.
Bổn tức là Bổn Tích. Từ ngữ Ni Tri trong tiếng
Phạn, được cơi này dịch là Nguyện, có ư nghĩa
diễn tả điều mong mỏi, cần thiết, có
chí hướng được thỏa măn. Đấy là v́
xưa kia Bồ Tát thuở làm cô gái Bà-la-môn và cô Quang Mục,
đă phát nguyện to lớn. Đấy cũng chính là bản
tánh, do Bồ Tát đă đặt vững cội rễ nơi
tánh địa, khiến cho cội gốc của nguyện
ấy được hưng thịnh, bền vững. Đấy
chính là ngước nh́n bậc đại giác bao kiếp độ
sanh đều trọn chẳng lười nhác, mệt mỏi,
ḥng thỏa măn cái nguyện nơi bổn địa vậy.
Đấy lại c̣n là lực dụng của bản tánh. Đại
Sĩ lập nguyện tương xứng với căn bản,
do tự tâm mà khởi tín, trở lại tin vào tự tâm. Ví
như cây cối do đất mà mọc rễ, rễ sâu, gốc
lớn, ắt cành lá sum suê, tươi tốt, hoa quả do
đó mà chi chít, lúc lỉu. Cuồng phong dẫu lớn, chẳng
thể động lay! Nguyện chẳng dựa trên Đế,
th́ gọi là “cuồng nguyện”. Đế chẳng
xuất phát từ tâm, th́ gọi là “tà đế”. Nay dùng
tâm làm đất, Đế làm rễ, nguyện làm gốc;
sau đấy, cây trong rừng pháp mới trổ cành Chánh Hạnh
sum suê, lá Trợ Đạo mới um tùm, hoa Thất Giác Tịnh
[nở rộ], kết quả Bát Chánh Đạo, kết hạt,
trang nghiêm vườn hoa Tổng Tŕ. V́ thế, cần phải tương xứng với
căn bản mà lập nguyện th́ mới có thể chế
ngự cái tâm. Dẫu gặp gió cảnh giới, nó vẫn
chẳng thể ngăn trở, phá hoại [cái nguyện ấy]
được. Đấy là những nét chánh yếu về
chuyện lập nguyện dựa theo căn bản vậy.
Nhưng nguyện có Thông và Biệt. Thông chính
là Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Đại Bi Sám có đoạn
viết như sau: “Phù Tứ Hoằng giả, y Tứ Đế
khởi. Tứ Đế giả, nhị thị thế
gian khổ nhân quả, nhị thị xuất thế lạc
nhân quả. Nhất thiết Bồ Tát dục bạt thử
khổ, dục dữ thử lạc; cố y chi lập Tứ
Thệ dă. Y Khổ Đế lập vân ‘chúng sanh vô biên thệ
nguyện độ’. Y Tập Đế lập vân ‘phiền
năo vô số thệ nguyện đoạn’. Y Đạo Đế
lập vân ‘pháp môn vô tận thệ nguyện tri’. Y Diệt Đế
lập vân: Phật đạo vô thượng thệ nguyện
thành” (Tứ Hoằng nương theo Tứ Đế mà
khởi. Trong Tứ Đế th́ hai Đế (Khổ và Tập)
nhằm chỉ dạy nhân quả của sự khổ
trong thế gian. Hai Đế (Diệt và Đạo) nhằm
chỉ dạy nhân quả của niềm vui xuất thế.
Hết thảy Bồ Tát muốn dẹp nỗi khổ ấy,
mong ban niềm vui ấy, cho nên dựa theo đó mà lập
ra Tứ Thệ. Do dựa theo Khổ Đế mà lập
nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Do dựa
trên Tập Đế mà lập nguyện: “Phiền năo vô số
thệ nguyện đoạn”. Dựa trên Đạo Đế
mà lập nguyện: “Pháp môn vô tận thệ nguyện biết”.
Nương theo Diệt Đế mà lập nguyện: “Phật
đạo vô thượng thệ nguyện thành”). Do hết
thảy Bồ Tát đều phát [bốn nguyện ấy],
nên gọi là Thông. Như trong kinh Thất Phật, hoặc là bốn nguyện, tám
nguyện, mười hai nguyện, và Phật Di Đà th́ bốn
mươi tám nguyện, ngài Quán Âm có mười sáu nguyện
v.v… [Những nguyện như vậy] riêng biệt nơi một
vị, cho nên gọi là Biệt. Nếu chuẩn theo kinh này,
cô gái Bà-la-môn và cô Quang Mục đều v́ mẹ mà phát tâm cứu
lục đạo, tức là dùng hiếu hạnh làm biệt
nguyện của Đại Sĩ khi tu cội gốc. Hơn
nữa, bổn nguyện do Địa Tạng Bồ Tát đă
phát gồm trọn Thông và Biệt. Tổng là dùng Tứ Hoằng
làm nguyện gốc, không lúc nào chẳng phát. Biệt là do bi
tâm mà khăng khăng chịu khổ thay cho chúng sanh, vĩnh
viễn làm U Minh giáo chủ. Do vậy, dù Thông hay Biệt, đều
xuất phát từ bản tánh. Tuy chia thành Thông và Biệt, không
ǵ chẳng phải là nhân quả để dẹp khổ trong
thế gian, là nhân quả để ban bố niềm vui xuất
thế. Đối với Quyền, Thật, Thiên, Viên, chú
trọng nơi Biệt. Ngài Tứ Minh[6] nói:
“Vẫn cần phải biết rơ các tướng đầu,
cuối, Thể và Tánh chính là lẫn nhau”. Ngài Kinh Khê[7] nói:
“Sơ tâm nhiếp trọn khắp, quán Hoặc pháp giới,
từ ngay nơi Hoặc mà thành trí, từ ngay nơi sanh mà
thành diệt, th́ gọi là Tứ Thệ của Viên Giáo”.
V́ thế, hiểu rơ hai thệ nguyện đầu [trong Tứ
Hoằng Thệ] chính là dẹp trừ nỗi khổ nơi
Tánh Đức; hai thệ nguyện sau là ban niềm vui thuộc
về Tánh Đức. Khổ hay vui thuộc về tánh, cần
ǵ phải dẹp trừ hay ban bố? Tức là vô tác thệ
nguyện vậy! Nay Địa Tạng Đại Sĩ từ
vô số kiếp trước, đă phát hoằng thệ
nguyện, gánh vác chúng sanh tội khổ trong lục đạo,
dạy họ trụ tŕ chánh pháp, sanh ra hết thảy công
đức, cam chịu khổ nạn, đại từ
đại bi. V́ thế, gọi là Địa Tạng Bồ
Tát Bổn Nguyện. Giải thích Biệt Danh đă xong.
“Kinh” là tên chung của thánh giáo. Trừ Luật
và Luận ra, đều gọi bằng danh xưng này. Sách
Tây Vực Kư chép [kinh trong] tiếng Phạn là Tô-đát-lăm (Sūtra). Có người
bảo không dịch [danh xưng này] v́ nó bao hàm năm nghĩa,
tức Dũng Tuyền (涌泉, suối phun trào, do nghĩa
vị vô tận), Xuất Sanh (出生, v́ sanh ra điều thiện
mầu nhiệm), Thằng Mặc (繩墨, dây dính mực dùng để
lấy dấu của thợ mộc, v́ có thể phân định
tà chánh rạch ṛi), Hiển Thị (顯示, v́ có thể chỉ bày
chánh lư), Kết Man (結鬘, xâu tràng hoa, v́ xuyên suốt
các pháp), do bao hàm nhiều nghĩa nên không dịch. Hoặc có
thuyết cho rằng có thể phiên dịch, dịch [Tô Đát
Lăm] là Kinh, dịch là Luận, dịch thành Pháp Bổn, dịch
là Tuyến, dịch là Thiện Ngữ Giáo; những danh xưng
ấy đều là dựa theo ư nghĩa để dịch.
Tông Thiên Thai th́ coi một danh xưng là đúng, chẳng khiến
cho đôi bên có điều ǵ bực tức. Từ xưa tới
nay, hễ dịch từ Phạn sang Hán, đều ghi là
Kinh. Do ở phương này, những lời dạy của
Châu Công, Khổng Tử đều gọi là Ngũ Kinh. Tuy các
kinh chỉ ghi tựa đề là Kinh, nhưng trong các bộ
luận, đều nói là Khế Kinh, ư nói: “Trên là khế
hợp lư Nhị Đế, dưới là khế hợp ba
loại căn cơ”. Lại xét theo các phương diện
Thường và Pháp để giải thích, th́ mỗi thứ
đều có ba nghĩa:
a) Ma và ngoại đạo chẳng thể thay
đổi là Giáo Thường. Chân chánh chẳng tạp là Hạnh
Thường. Trong lặng, bất động là Lư Thường.
b) Pháp có thể noi theo, Hạnh có thể noi
theo, Lư có thể noi theo.
Như Phật Địa Luận giải thích
Kinh là Quán Xuyên và Nhiếp Tŕ, tức là xét theo ư nghĩa Kết
Man và Tuyến (sợi chỉ). Ngài Từ Ân [Khuy Cơ] nói: “[Kinh]
là Thường, là Pháp, là Nhiếp, là Quán, khiến cho [chúng
sanh] cùng thoát bờ khổ, rốt cuộc trở về bờ
giác”. [Vận dụng] một loại Nhân và Pháp, hai tầng
Thông và Biệt, khéo mượn thí dụ mầu nhiệm để
lập ra tựa đề kinh; v́ thế, nói là Địa Tạng
Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh.
1.2. Biện Thể
Thứ hai là biện định tánh thức
chẳng thể nghĩ bàn là Thể, lập ra ba ư:
- Căn cứ theo kinh luận.
- Căn nguyên của mê và ngộ.
- Bổn thức của Bồ Tát.
1) Kinh này dạy: “Nhất thiết chúng sanh
vị giải thoát giả, tánh thức vô định, vi thiện,
vi ác, trục cảnh nhi sanh” (Hết thảy chúng sanh là những kẻ chưa
giải thoát th́ do tánh thức bất định, làm lành hay
làm ác, đều là do chạy theo cảnh mà sanh). Lại nói:
“Niệm Phật, Bồ Tát danh tự, lịch lâm chung
nhân nhĩ căn, hoặc văn tại bổn thức”
(Niệm danh tự của Phật, Bồ Tát, thoảng qua
tai của người lâm chung, hoặc nghe nơi bổn thức).
“Thức” ở đây là nói về thức thứ tám.
V́ thế, Tỳ Lô Tam Ma Địa Pháp và Kim Cang Đảnh
Liên Hoa Bộ Tâm đều nói: “Thị tâm vi hà vật?
Phiền năo tập chủng tử, thiện ác giai do tâm. Tâm
vi A Lại Da” (Tâm này là vật ǵ? Chủng tử tập
phiền năo, thiện ác đều do tâm, tâm là A Lại Da). Luận
Khởi Tín nói: “Tâm sanh diệt là do dựa trên Như Lai Tạng,
cho nên có tâm sanh diệt. Cái gọi là bất sanh bất diệt,
ḥa hợp cùng sanh diệt, chẳng một, chẳng khác, gọi
là A Lê Da Thức (A Lại Da Thức)”. Tức là vô
minh và pháp tánh cùng hợp làm nhân, chẳng phải là như vậy
hay sao? Ngài Chân Đế xét theo danh, nên dịch là Vô Một
Thức (無沒識, thức chẳng mất),
[tức là] dựa theo ư nghĩa “chẳng mất” [của A
Lại Da Thức]; c̣n ngài Huyền Trang xét theo nghĩa, bèn dịch
thức này là Tạng Thức (藏識, cái thức có công
năng chứa đựng), v́ nó có thể bao hàm chủng tử
của các pháp. Ấy là do bản thể của Thức này
bao gồm ba pháp Năng Tàng (có thể chứa đựng),
Sở Tàng (được chứa đựng), và Chấp
Tàng (có công năng chứa đựng chấp giữ), cho nên
gọi là Tạng. Do vậy, sách Tông Kính Lục nói: “Bổn
thức thứ tám rộng lớn vô biên, hiển lộ nguồn
tâm không ǵ ra ngoài được, thông suốt bao hàm trọn
khắp tánh tạng, chuyên ǵn giữ danh tự của chủng
tử, là cái chủ yếu của tổng báo, là cái Thể
để kiến lập hữu t́nh, là cái nhân để tạo
lập Niết Bàn”. Dựa theo đó để làm
Thể, th́ các pháp đều được thâu tóm, có thể
nói là nắm lấy cổ áo th́ [thân áo phải xuôi theo], nắm
lấy dây chài chính của cái lưới [th́ các mắt lưới
đều căng ra].
2) Nói đến “căn nguyên của mê và
ngộ” th́ Khởi Tín Luận có nói: “Nương theo A
Lê Da Thức bèn nói ‘có vô minh bất giác dấy lên, có thể
thấy, có thể hiện, có thể giữ lấy cảnh
giới’. Do vậy, gọi thức này là Sở Tri Y (cái dựa
vào để nhận biết), v́ nó có thể làm căn cứ
để có thể nhận biết các pháp là nhiễm hay tịnh.
Nó c̣n được gọi là Chủng Tử Thức v́ có
thể duy tŕ chủng tử của các pháp thế gian và xuất
thế gian”. Đấy chính là như kinh Duy Ma đă dạy:
“Tùng vô trụ bổn, lập nhất thiết pháp dă” (Từ cái gốc vô trụ mà lập
hết thảy các pháp). Ngài Kinh Khê giảng: “Vô minh làm
cội gốc của hết thảy các pháp. Vô minh chính là
pháp tánh, vô minh lại lấy pháp tánh làm gốc”. Hăy nên biết:
Các pháp cũng lấy pháp tánh làm gốc, pháp tánh chính là vô
minh, pháp tánh lại lấy vô minh làm gốc. Pháp tánh chính là vô
minh, pháp tánh không có trụ xứ. Vô minh chính là pháp tánh, vô
minh không có trụ xứ. Tuy vô minh và pháp tánh đều vô trụ,
nhưng chúng lại là cái gốc cho hết thảy các pháp. Đấy
chính là đối với lẽ thường “vô trụ,
vô tướng, Lư, Sự” v.v… mà lập ra hết thảy
các pháp mê hay ngộ sai khác. Do đó, kinh Chiêm Sát dạy: “Đản
tùng vô thỉ thế lai, dữ vô minh tâm câu, si ám nhân duyên huân
tập lực cố, hiện vọng cảnh giới. Dĩ
y vọng cảnh giới, huân tập nhân duyên cố, khởi
vọng tương ứng tâm, kế Ngă, Ngă Sở, tạo
tập chư nghiệp, thọ sanh tử khổ, thuyết
bỉ Pháp Thân, danh vi chúng sanh. Nhược như thị chúng
sanh trung, Pháp Thân huân tập nhi hữu lực giả, phiền
năo tiệm bạc, năng yếm thế gian, cầu Niết
Bàn đạo, tín quy nhất thật, tu Lục Ba La Mật
đẳng, nhất thiết Bồ Đề phần pháp,
danh vi Bồ Tát. Nhược như thị Bồ Tát trung,
tu hành nhất thiết thiện pháp, măn túc cứu cánh, đắc
ly vô minh thùy giả, chuyển danh vi Phật. Đương
tri như thị chúng sanh, Bồ Tát, Phật đẳng, đản
y thế gian giả danh ngôn thuyết cố, nhi hữu sai
biệt, nhi Pháp Thân chi Thể tất cánh b́nh đẳng, vô
hữu dị tướng” (Nhưng từ đời vô
thỉ tới nay, do chung đụng với cái tâm vô minh, do
sức huân tập của nhân duyên tăm tối mà hiện
ra cảnh giới hư vọng. Do nương theo nhân duyên
huân tập của cảnh giới hư vọng mà dấy
lên cái tâm tương ứng với vọng, so đo Ngă và
Ngă Sở, tạo tác, tích tập các nghiệp, hứng chịu
nỗi khổ sanh tử, nói tới cái Pháp Thân ấy th́ gọi
là chúng sanh. Nếu trong các chúng sanh như vậy, Pháp Thân huân
tập hữu lực th́ phiền năo mỏng dần, có thể
chán nhàm thế gian, cầu đạo Niết Bàn, tin tưởng,
quy hướng Nhất Thật, tu hết thảy các pháp
thuộc Bồ Đề phần như sáu Ba La Mật v.v…
bèn gọi là Bồ Tát. Nếu trong các vị Bồ Tát như
vậy, có vị nào tu hành hết thảy các thiện pháp viên
măn rốt ráo, ĺa khỏi giấc ngủ vô minh, sẽ đổi
tên là Phật. Hăy nên biết chúng sanh, Bồ Tát, Phật như
vậy, chỉ là nói theo giả danh của thế gian mà có sai
biệt. Chứ cái Thể của Pháp Thân rốt ráo b́nh
đẳng, chẳng có tướng trạng sai khác). Do vậy
biết: Chẳng thấu đạt thức tâm có đủ
các đức ấy th́ cần phải duyên theo lư Chân Như
để đoạn trừ chuyện tu nhiễm, tu ác
trong chín pháp giới, làm sao gọi là “chẳng thể
nghĩ bàn” cho được!
V́ thế, sách Tông Kính Lục nói: “Thức
này kiến lập hữu t́nh và vô t́nh, phát sanh nhiễm pháp
và tịnh pháp. Nếu có hay biết, ắt chúng sanh giới
sẽ dấy lên. Nếu chẳng suy tưởng, cái duyên của
cơi nước sẽ sanh. Do nhiễm pháp mà xoay vần trong
sáu nẻo, thuận theo tịnh pháp mà dự vào tứ thánh.
Có thể nói đó chính là cái gốc của phàm và thánh, là nguyên
do của căn khí. Hiểu rơ nguồn cội của cái thức
này, pháp nào chẳng phải là ngộ? Chứng tâm tánh này, cảnh
nào chẳng phải là thật!” Có thể nói là một môn
tuyệt học, là căn nhà để dưỡng thần.
Do vậy, lập cái Thể này làm cội nguồn của mê
và ngộ, th́ mới tỏ rơ [dụng tâm của] Đại
Sĩ đă phân thân trong các cơi nước nhiều như cát
sông Hằng, ở trong biển sanh tử mà tùy cơ hướng
dẫn, nhổ trừ tận gốc, cạn kiệt cái nguồn,
chuyển mê thành ngộ, chính là v́ muốn hiển thị cái
Thể pháp tánh chẳng sanh diệt này ở ngay trong vọng
tưởng sanh diệt vô minh! V́ thế, ngài Nam Nhạc nói:
“Đạo vốn chẳng xa, tánh hải chẳng xa, chỉ
cầu nơi chính ḿnh, đừng t́m từ nơi nào khác” chính
là nói đến điều này!
3) Nói đến “bổn thức của Bồ
Tát”, sách Kim Quang Minh Kinh Huyền Nghĩa nói: “A Lê Da Thức
chính là Vô Một Thức, tức thức thứ tám, giống
như có tùy miên phiền năo (do có Miên (phiền năo vi tế)
liên tục, nên gọi là Tùy Miên) ḥa hợp hoặc cách biệt
với vô minh mà phân định như vậy; đó là Bồ
Tát Thức”. Đại Luận nói: “Trong tâm Bồ Tát,
[thức thứ tám chẳng có phiền năo, vô minh], th́ gọi
là Bát Nhă” chính là nói về nghĩa này. Bởi lẽ, cái
thức này chính là cái gốc để Bồ Tát thấy tướng
thù thắng của Phật. Do thân tướng cao minh của
Như Lai đều có lượng bằng với hư không,
bèn dùng nghiệp thức để thấy, dùng trung trí để
quán. Do vậy, trên cung trời Đao Lợi, ngài Địa
Tạng hợp nhất các phân thân để thấy Phật,
chính là nhờ vào bổn thức này.
Hơn nữa, thức này lại là cái gốc
tương ứng với Trung Đạo, là cái nguồn để
khởi lên sự giáo hóa. Điều này được diễn
tả là “Xiển Đề chẳng đoạn điều
thiện thuộc về Tánh Đức. Hễ gặp duyên,
điều thiện sẽ phát khởi”. Đức Phật
cũng chẳng đoạn tánh ác, [thị hiện] giống
như ác để hóa độ. Nay Địa Tạng Đại
Sĩ đă liễu đạt những chuyện tu ác của
hạng Xiển Đề, toàn bộ cái Thể chính là lư “tánh
ác”. Dẫu lệch vào một bên hay tà vạy, không ǵ chẳng
phải là Trung Đạo, giải thoát từ ngay Ngũ Nghịch,
hiện sắc thân trọn khắp, vào các đường giáo
hóa, chỉ điểm nguồn mê này, khiến cho [chúng sanh]
biết là b́nh đẳng. Chính nhờ vào bổn thức này
mà dấy lên các sự hóa độ to lớn. Cái thức ấy
thuộc vào địa vị ban sơ th́ gọi chung là Lại
Da (A Lại Da Thức); đă dự vào quả vị th́ chỉ
được gọi là Vô Cấu, bao gồm Bổn Trí lẫn
Hậu Trí, là cửa nẻo để thành tựu lợi lạc
cho ta lẫn người, công ấy há cạn cợt, ít ỏi
ư? Do có ba nghĩa ấy, cho nên lập ra tánh thức chẳng
thể nghĩ bàn, nay lấy nó làm chánh thể của kinh này.
Hỏi: Có vị sư cho rằng: “Tánh thức
thuộc về Sự, chẳng nên coi nó là Thể! Phải
nên nói đến cái Lư của thức tánh th́ mới đúng
với ư nghĩa của Thể, ắt phải chuẩn
theo tánh thức của kinh để lập. Tánh ấy chính
là tập tánh hư vọng, sao có thể dựa vào đó để
coi nó là cái Thể của kinh cho được?” Lời ấy rất thích đáng,
thầy lại cho là chẳng phải như thế, tức
là dựa vào đâu để nói nhỉ?
Đáp: Ư chỉ “tánh thức
là Thể”, xét theo ư nghĩa th́ có bằng chứng. Lập tánh
thức [làm Thể] th́ có kinh văn để làm chứng.
Như ngài Thiên Thai giải thích chữ
“vô trụ bổn” của kinh Duy Ma, đă coi cả hai
thứ pháp tánh và vô minh đều là gốc. Điều này
đă được trích dẫn, cho nên không bàn tới nữa!
C̣n như sách Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa giải
thích hai Đế (Chân Đế và Tục Đế), đă coi pháp tánh là Chân Đế,
c̣n vô minh và mười hai nhân duyên là Tục Đế. Tục
ấy chẳng phải là Sự th́ là ǵ vậy? Đấy
chính là Sự từ ngay nơi Lư, đă gọi là “lư độc,
tánh ác”, cũng gọi là “tánh nhiễm tùy duyên”. V́ thế,
sách [Pháp Hoa Kinh Huyền Nghĩa] Thích Thiêm viết: “Vô
minh là khởi thủy của sự mê muội lẽ chân,
pháp tánh hoàn toàn diễn nói vô minh từ vô thỉ đến
nay có bao giờ chẳng phải là Chân!” Tục là bách giới
thiên như, Chân là đồng cư nhất niệm. Cần
phải biết do là cùng một tánh, cho nên mới có thể
đồng cư nhất niệm. Sách Phụ Hành nói “tam
thiên chẳng ngoài một niệm pháp tánh, tam thiên chẳng
ngoài một niệm vô minh” là nói về ư này. Huống chi
tông Thiên Thai giải thích chữ “tâm tạo” trong kinh Hoa
Nghiêm có hai ư:
1) Một là xét theo Lư, Tạo tức là trọn
đủ.
2) Hai là xét theo Sự, Tạo chính là tạo
thành sự biến đổi trong ba đời v.v…
Thế nhưng phải do Lư vốn đủ
th́ mới có Dụng về mặt Sự.
Do đó, pháp tánh nhờ vào sức của vô minh th́ mới thành
nhiễm pháp trong sáu đường. Nay lập “tánh thức
là Thể” chính là v́ người lợi căn sẽ từ
ngay nơi Sự mà hiển Lư. V́ vậy,
kinh Đại Thừa nói: “Mười hai nhân duyên được
gọi là Phật Tánh. Vô minh và ái là hai thứ trung gian, tức
là Trung Đạo”, nhưng Lư chẳng tồn tại riêng
biệt mà [hiện diện] trọn khắp trong Sự. Nay
toàn thể Sự đă là Lư th́ Thức chính là Tánh, sao không
thể chấp thuận coi nó là Thể được ư? V́ thế
biết thức tánh hay tánh thức đều có thể làm
Thể. Nhưng ở đây, lại xét theo khía cạnh mê của
A Lại Da thức, lấy vô minh làm gốc để lập
luận. [Như vậy] th́ đă phù hợp kinh luận, lại
c̣n chẳng trái nghịch lời bảo ban của Tổ. Nếu
cứ nói “tánh chất của tánh thức là tập
tánh hư vọng th́ là chưa đúng ư”, c̣n nói ǵ được
nữa? Bởi lẽ, tập tánh hư vọng một mực
vô định, nay lại c̣n quở trách nó là vô định ư?
Nó đă là hư vọng, th́ chí tánh tiếp đó do có tánh chất
vô định th́ cũng là hư vọng. Đă là tánh hư
vọng, dùng “chí” làm chi nữa? Cần phải biết
tánh ấy chính là pháp tánh. Pháp tánh đă bị vô minh che phủ,
toàn bộ Thể đều thuộc về vọng. Do vậy,
nói “tánh thức”, há chẳng phải là ư nghĩa “Chân Như
tùy duyên” ư? V́ thế, sách Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền
Nghĩa dẫn kinh Kim Quang Minh [để lập luận] như
sau: “Thể tướng của vô minh vốn tự chẳng
có, do vọng tưởng làm nhân duyên ḥa hợp mà có. Chẳng
khéo tư duy những ǵ được tạo tác bởi tâm
hạnh, như nhà ảo thuật ở ngă tư biến
huyễn các thứ như voi, ngựa, anh lạc, con người,
vật dụng v.v… Kẻ si bảo những thứ đó là
chân thật, người trí biết chúng chẳng thật. Vô
minh huyễn hóa y báo và chánh báo trong lục đạo”. Hăy
nên biết chúng vốn tự chẳng có, mà là do vô minh dấy
khởi. V́ thế nói “lục đạo sai biệt, chẳng
tự tại” v.v… đều là do cái một niệm tâm vô
minh lưu xuất. Do vậy, lấy điều này (tánh thức)
làm Thể, chính là nhằm chỉ điểm cái mê trước
kia, tạo thành cái ngộ trong hiện tại để giải
quyết hết sạch chuyện “tu nhiễm, tu ác” v.v… Tức là duyên theo Phật Tánh, theo đường
trở lại nhà, [đó] gọi là “chẳng thể
nghĩ bàn”. V́ thế biết: Dùng tánh thức làm Thể
th́ mới khiến cho lục đạo phá vỡ cái vỏ
vô minh, thành Pháp Tánh Thân. Do đó, trong phần khai thị
chung, tôi đă nói: “Nay hăy để ngộ lại đó, chỉ
luận định mê” chính là do ư này!
1.3. Minh Tông
Thứ ba là nêu rơ “[dùng] hạnh nguyện
chẳng thể nghĩ bàn làm Tông”. Trong kinh này, ngài Văn Thù hỏi
đức Phật: “Trong lúc tu nhân, Địa Tạng Bồ
Tát đă làm hạnh ǵ, lập nguyện ǵ, mà có thể thành
tựu chuyện chẳng thể nghĩ bàn?” Lại nữa,
trong quá khứ chẳng thể nói kiếp trước, Đại
Sĩ từng làm một vị đại trưởng giả,
do thấy tướng hảo trang nghiêm của Sư Tử
Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai; bèn hỏi
đức Phật ấy đă làm hạnh nguyện ǵ mà đạt
được tướng ấy? Lại như khi đức
Như Lai tự kết lại tên kinh, [đă dạy]: Một
là Địa Tạng Bổn Nguyện, hai là Địa Tạng
Bổn Hạnh. V́ thế biết hai pháp Hạnh và Nguyện
chính là tông yếu của kinh này. Nguyện đă được
giải thích như trong phần trên. Chữ Giá Lê Da (Cārya) trong
tiếng Phạn được cơi này dịch là Hạnh.
“Hai pháp (Hạnh và Nguyện) ắt cùng lập”
là như trong Đại Trí Độ Luận đă viết:
“Hỏi: Các vị Bồ Tát do nghiệp hạnh thanh tịnh,
[đáng lẽ] tự đắc báo thanh tịnh, v́ sao cần
phải lập nguyện rồi mới đạt được?
Ví như nhà nông [siêng năng cày cấy, vun xới bèn] thâu hoạch
ngũ cốc, há cần phải đợi nguyện! Đáp:
Làm phước mà chẳng có nguyện, sẽ chẳng có ǵ
để kiến lập. Nguyện là người hướng
dẫn, lèo lái, [do nguyện] sẽ có thể đạt được
thành tựu. Nay chuyện trang nghiêm Phật giới là chuyện
to lớn, chỉ hành công đức, sẽ chẳng thể
thành được. Cần phải có nguyện lực! Ví như
sức ḅ tuy có thể kéo xe, cần phải có người
điều khiển th́ mới có thể đến đích.
Nguyện thanh tịnh thế giới cũng giống như
vậy”. Nhưng các vị Bồ Tát thuộc tứ giáo có
hai loại nguyện Thông và Biệt; đối với sự
ban vui bèn không ǵ chẳng phải là thượng, trung, hạ
sai khác. Hạ nguyện sẽ tạo thành nhân duyên của sự
vui trong thế gian thuộc đời này. Trung nguyện là
nhân duyên tạo thành sự vui trong đời sau. Thượng
nguyện là nhân duyên ban
niềm vui Niết Bàn. Nay đă chỉ rơ bộ loại và giáo môn,
tâm yếu trong việc lập nguyện chỉ là “nương
theo Nhất Thừa tối thượng, khiến cho pháp giới
chúng sanh cùng đắc A Nậu Bồ Đề”.
Phát nguyện đă như vậy th́ hành hạnh
cũng thế, nhưng hạnh tướng có nhiều môn.
Nêu đại lược ba pháp là Giới, Định, Huệ,
đấy là chiếc thang hoặc thềm bậc để
xuất thế, là khuôn phép trong Phật pháp. Trụ trong ấy
th́ là Lục Độ. Kinh Pháp Hoa nói: “Vị cầu Bồ
Tát đạo giả thuyết, ưng Lục Ba La Mật, độ
sanh tử lưu, đăng Niết Bàn ngạn, quảng tắc
vạn hạnh, năi chí bách thiên vạn ức” (V́ người
cầu đạo Bồ Tát mà nói, th́ hăy nên [nói pháp] Lục
Ba La Mật, vượt gịng sanh tử, lên bờ Niết
Bàn, nói rộng th́ là vạn hạnh,
cho đến trăm ngàn vạn ức [pháp môn]). Đại
Luận nói: “Khi Bồ Tát hành Bát Nhă, tuy biết các pháp có cùng
một tướng, mà cũng có thể biết các thứ
tướng của hết thảy các pháp”. Nay đều
gom chung các pháp vào một bài kệ, cổ đức nói: “Nhận
biết xem xét ứng với thế gian, rộng nói cương
mục của muôn hạnh, suy tưởng khế hợp lư,
chỉ xướng lên bốn câu cương yếu”. [Bốn
câu ấy chính là như] Giới Kinh dạy: “Chư ác mạc
tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ư, thị
chư Phật giáo” (Đừng làm các điều ác, vâng
hành các điều thiện, tự thanh tịnh ư ḿnh, chư Phật dạy
như thế). Sách Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa
giảng: “Các điều ác tức là bảy chi tội lỗi,
nặng, nhẹ, chẳng đúng, chống trái. Giới ngăn
ngừa những điều ác như thế. Các điều
thiện chính là ba nghiệp thiện. Dù là tán thiện hay tĩnh
thiện, phương tiện trước sau, công đức
chi lâm[8]
thảy đều thăng tấn, cho nên gọi là thiện”.
“Tự tịnh kỳ ư” là phá các tà vạy,
điên đảo, biết pháp môn chánh trợ của nhân quả
thế gian và xuất thế gian. Có thể trừ tâm cấu
(chất nhơ trong tâm, tức phiền năo), trừ sạch
các tỳ vết, không ǵ hơn được Huệ. Ba thứ
ấy (Giới, Định, Huệ) bao trùm trọn hết
biển Phật pháp mênh mông, nhưng do quán sát căn cơ [mỗi
chúng sanh có sự] ưa thích [khác nhau] mà hành thiện khác biệt.
Do ứng theo cơ nghi của chúng sanh mà dạy hạnh [cho
mỗi chúng sanh] mỗi khác. Do xét theo căn tánh, mà chia ra tín
pháp sai khác, chỉ bày hành tướng, phân thành Biệt và Viên khác biệt. Nay trước
hết nói rơ Biệt Hạnh v́ nói đối ứng với
Viên. Sách Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa đă nêu ra
năm hạnh được nói trong kinh Niết Bàn:
1) Thánh Hạnh, ư nói Giới, Định, Huệ
là cái nhân để tự hành.
2) Phạm Hạnh, tức là từ, bi, hỷ,
xả, là sự hóa tha trong khi tu nhân (hai pháp này là hạnh nhân
của bậc Địa Tiền Bồ Tát).
3) Thiên Hạnh, nghĩa là từ Sơ Địa
trở lên, chứng lư thiên nhiên Đệ Nhất Nghĩa
Thiên. Từ lư thành hạnh, cho nên gọi là Thiên Hạnh (đây
là hạnh của bậc Địa Trụ).
4) Anh Nhi Hạnh, tức là thị hiện hạnh
giống như bảy phương tiện mà tam thừa đều
tu tập.
5) Bệnh Hạnh, tức là thị hiện
thân tướng có ba thứ chướng giống như chín
pháp giới (hai hạnh này đều là hạnh từ quả
mà ứng khởi. Do cùng sanh về bên thiện, nên gọi là
Anh Nhi Hạnh, do đại từ căn mà phát khởi. Do giống
như thuộc về bên phiền năo, nên gọi là Bệnh
Hạnh, phát khởi từ đại bi căn).
Nay Địa Tạng Đại Sĩ thấy
các chúng sanh phá giới, tạo tội, đánh mất sự
vui sướng trong nhân thiên và niềm vui Niết Bàn, tức
là biết Tập. Qua lại sanh tử, thọ báo trong ác
đạo, tức là biết Khổ. Khổ và Tập trái
nghịch Giới, Định, Huệ, tức là không có Đạo.
Do không có Đạo, cho nên chẳng đắc Niết Bàn, tức
là chẳng có Diệt. Bồ Tát muốn nhổ trừ Khổ
và Tập, bèn phát khởi đại bi, dấy lên hai thệ
nguyện. Do muốn ban bố Đạo và Diệt, mà dấy
khởi đại từ, hưng khởi hai thệ nguyện.
Đă phát thệ nguyện rồi, kế đó bèn tu hành Tam Học, Lục Độ.
Hạnh nguyện như thế đó để thành tựu
chúng sanh, thanh tịnh cơi Phật. Nhưng Hạnh được
gọi là tiến hướng; nếu chẳng có trí, sẽ
chẳng tiến lên trước được. Trí giải
hướng dẫn Hạnh, [hạnh tà vạy] chẳng phải
là do cảnh chẳng chánh. Trí là mắt, Hạnh là chân, đến
được ao thanh lương; nhưng Giải là cái gốc của Hạnh,
Hạnh có thể thành tựu Trí. V́ thế, Hạnh măn th́
Trí sẽ viên. Trí có thể hiển Lư, thấu tột Lư th́ Trí
sẽ dứt. Cần phải là như thế; nếu không,
sẽ chẳng phải là diệu hạnh. Nay Đại Sĩ
thông đạt “tu ác” tức là “tánh ác”. Tánh ác dung thông, tùy ư nhiếp tŕ tánh thiện
của Phật giới, chiếu hết thảy tội tướng,
không ǵ chẳng phải là Thật Tướng. Thập Ác, Ngũ
Nghịch, Tứ Trọng, Bát Tà[9] đều
là các pháp môn thuộc về “Lư độc”, đều
là tác dụng vốn có của tánh nhiễm. Dùng diệu hạnh
này để giáo hóa quần sanh. Hiểu tánh thức này là cảnh
thể được chiếu, được hiển lộ.
Dùng trí hạnh này làm diệu tông để có thể chiếu,
có thể hiển lộ. Thoạt đầu là duyên theo Thật
Tướng tạo cảnh th́ chính là Trung, không ǵ chẳng
chân thật. Pháp giới của chính ḿnh, Phật giới, và
chúng sanh giới cũng thế. Ấm và Nhập đều Như, chẳng
có khổ để có thể bỏ. Vô minh trần lao chính
là Bồ Đề, chẳng có Tập để có thể đoạn.
Lệch về một bên hay tà vạy đều là trung chánh, chẳng
có Đạo để có thể tu. Sanh tử tức Niết
Bàn, chẳng có Diệt để có thể chứng, thuần
nhất Thật Tướng, chẳng có pháp nào khác. Đấy
chính là lại có một hạnh gọi là Như Lai Hạnh,
một hạnh là hết thảy các hạnh. Dùng trí để
chiếu cảnh như thế, dùng cảnh để phát
khởi trí. Quán Thật Tướng của nghiệp, thấy
cội nguồn của tội. Pháp tánh vô minh, dung thông lẫn
nhau, cùng mất đi, há chẳng phải là cái có thể quán
chính là Nhất Tâm Tam Quán, cái được quán đều là
Tam Đế nhất cảnh? Một mà luận thành ba, tuy là ba mà luận thành một,
[tức là] ba pháp “cảnh, trí, hạnh” cùng gọi là Bí Tạng,
như ba con mắt của thiên vương, như ba chấm
của chữ Y [trong Phạn văn]. Dù một hay ba, đều
chẳng khuyết giảm; tức Thể là cái Thể trong Thiền Tông. Do vậy, lấy “hạnh
nguyện chẳng thể nghĩ bàn” làm Tông.
1.4. Luận Dụng
Điều thứ tư là luận định
tác dụng “phương tiện chẳng thể nghĩ
bàn”. Theo kinh này, đức Phật bảo Địa Tạng
Bồ Tát: “Ngô ư ngũ trược ác thế, giáo hóa cang
cường chúng sanh, linh tâm điều phục, phân thân thiên
bách ức, quảng thiết phương tiện” (Ta ở
trong đời ác ngũ trược, giáo hóa chúng sanh ương
ngạnh khiến cho tâm họ đều điều phục,
phân thân trăm ngàn ức, rộng lập các phương tiện).
Ngài lại bảo Tứ Thiên Vương rằng: “Như thị Bồ
Tát ư Sa Bà thế giới Diêm Phù Đề trung, bách thiên
vạn ức phương tiện nhi vi giáo hóa” (Bồ
Tát ở trong cơi Diêm Phù Đề của thế giới Sa Bà
dùng trăm ngàn ức phương tiện để giáo hóa
như thế đó). Ngài lại bảo đức Địa
Tạng: “Nhữ tu bách thiên phương tiện, khuyến
thị đẳng nhân” (Ông cần phải dùng trăm ngàn
phương tiện để khuyên những người ấy).
Lại nói: “Bồ Tát dĩ phương tiện lực,
bạt xuất căn bản nghiệp duyên. Hựu Bồ
Tát phương tiện lực cố, sử linh giải
thoát” (Bồ Tát dùng sức phương tiện để
dẹp trừ nghiệp duyên căn bản. Lại do sức
phương tiện của Bồ Tát khiến cho họ đều
được giải thoát). Ngài Địa Tạng tự
nói: “Ngă diệc bách thiên phương tiện, độ
thoát thị nhân đẳng” (Con cũng dùng trăm ngàn phương
tiện độ thoát những người ấy). V́ thế,
lấy phương tiện làm Dụng của kinh này.
Chữ Âu Ḥa Câu Xá La (Upāyakauśalya) trong
tiếng Phạn, được cơi này dịch là Phương
Tiện (方便). Tổ Trí Giả đă
dùng ba ư để giải thích từ ngữ này [trong phẩm
Phương Tiện của kinh Pháp Hoa]:
“1) Phương là phương pháp, Tiện
là dùng được; [ư nói] khéo dùng các pháp để thuận
theo căn cơ mà lợi lạc chúng sanh.
2) Phương Tiện là Môn, Môn có nghĩa là
‘có thể thông qua’, tức là thông đến (dẫn đến)
điều được thông. Phương Tiện là pháp
quyền biến nhằm mở ra lối dẫn đến
chân thật. Chân thật được hiển lộ nhờ
công của Phương Tiện.
3) Phương là bí mật, Tiện là diệu
(hay khéo). Khéo đạt nơi phương pháp, đó chính là
bí mật thật sự”.
Hai cách giải thích trước trọn chẳng
phải là ư của phẩm này; cách giải thích sau cùng chính
là ư nghĩa của phẩm này”.
[Đối với bộ kinh Địa Tạng
này], cũng có thể dùng trọn cả ba ư đó. Chẳng
hạn như những điều được nói trong
kinh Duy Ma là khởi đầu cho thời Phương Đẳng.
V́ thế, ngài Kinh Khê dùng chữ “tấn, thoái” để
giải thích [Phương Tiện], dung thông với lời
bàn định [Phương Tiện] là môn bí mật. Nay kinh
Địa Tạng cũng thế, tuy chủ yếu là những
đàm luận bí mật, mầu nhiệm, nhưng cũng nói
kèm theo pháp môn. Ba cách giải thích đều trọn đủ,
ngơ hầu có thể gồm trọn ư nghĩa chánh yếu của
kinh này. V́ sao nói vậy? Ấy là v́ Địa Tạng Đại
Sĩ trong các kiếp số nhiều như vi trần trước
kia, đă hiện thân giáo hóa, khéo léo phù hợp từng căn
cơ, chuyên dùng pháp thích ứng, đến khi thời cơ
để hiển lộ Thật pháp đă đến, từ Quyền môn mà có thể nhập,
phát khởi
Bồ Đề tâm ngay trong A Lại Da Thức, chỉ điểm
Như Lai Tạng trong cái tâm vô minh! Đấy là khéo léo thông
đạt phương tiện, chính là điều bí mật
chân thật của Pháp Hoa.
Lại c̣n “một sợi lông, một giọt
nước, một hạt cát, một hạt bụi, ta đều
dần dần độ thoát, khiến cho chúng sanh đạt
được lợi ích to lớn” [trong kinh Địa
Tạng] chẳng hề thua kém “giơ tay, cúi đầu,
vun cát thành tháp, đều là do những điều thiện
nhỏ nhặt mà thành Phật” trong kinh Pháp Hoa. Huống hồ
nhóm họp đại chúng nơi cung trời, và hợp lại
các phân thân [của Địa Tạng
Bồ Tát] c̣n nhiều
hơn cát sông Hằng, khiến cho ngài Văn Thù chẳng thể
suy lường được [số lượng] những
người đă thành Phật đạo [do Địa Tạng
Bồ Tát hóa độ], có khác ǵ “phân thân dưới các cội
cây, bậc thượng trụ Bồ Tát dường như
từ dưới đất vọt lên” [trong hội Pháp
Hoa].
V́ thế, cả ba cách giải thích [chữ
Phương Tiện] đều được gồm thâu,
cho nên biết Đại Sĩ xuất Giả để lợi
sanh, lấy phát Bồ Đề tâm làm nhân, vô duyên đại
bi làm căn, không ǵ chẳng là phương tiện để
rốt ráo lợi sanh. Nếu chẳng có phương tiện,
sẽ như cứu kẻ chết đuối mà chẳng
có thuyền; kẻ ấy đă khó thể thoát thân, mà chính ḿnh
cũng bị ch́m lỉm! Nếu có phương
tiện, sẽ ngồi thuyền cứu người chết
đuối, ta lẫn người đều ổn thỏa,
già trẻ đều vui vẻ. Suốt ngày cứu bạt
như vầng trăng báu dời chuyển chẳng ngừng
trên hư không. Ức kiếp độ người, hệt
như bóng nhạn bay qua nước, chẳng lưu lại dấu vết. Lại
là phương tiện khác lạ để giúp hiển thị
Đệ Nhất Nghĩa. Dụng có công năng thành tựu
Tông, Tông có sức hiển lộ Dụng. V́ thế, biết
phương tiện chính là diệu dụng của ḷng từ
bi ban bố và cứu bạt. Do vậy, lấy phương
tiện chẳng thể nghĩ bàn làm lực dụng [của
bộ kinh này].
1.5. Phán giáo
Điều thứ năm: “Phán định
đề-hồ vô thượng là giáo tướng”. Hễ nói đến giáo,
th́ đều nói theo đường lối chung, nhưng hễ
có sự chỉ bày, phân định, phán quyết, biện
luận, diễn tả th́ đều gọi là Giáo. Sách Tứ
Giáo Nghĩa nói: “Phàm nói đến Giáo th́ có nghĩa là nói đến
những ǵ có thể diễn tả Lư, giáo hóa chúng sanh, nói ra
cái Lư có thể diễn tả ḥng chuyển hóa cái tâm của
chúng sanh. V́ thế gọi là Giáo. Chuyển Hóa có ba nghĩa:
Một là chuyển ác thành thiện, hai là chuyển mê thành giải
(thấu hiểu), ba là chuyển phàm thành thánh”. Nay Địa
Tạng Đại Sĩ hiện thân trong lục đạo,
đối với bốn điều chẳng thể nói, bèn
dùng Tứ Tất Đàn để ứng duyên, tùy cơ thuyết
giáo, chuyển hóa cái tâm của chúng sanh, đại khái chẳng
ra ngoài ba điều ấy (ba thứ chuyển hóa vừa được
nói trên đây). V́ thế, dựa theo những điều ấy
để phán định giáo tướng.
Hỏi: Đại sư dùng Tam Chiếu[10]
của Hoa Nghiêm, tách ư nghĩa của b́nh địa (đất
bằng) thành ba nghĩa. Lại dùng ngũ vị của Niết
Bàn[11]
để đối ứng với Tam Chiếu của Hoa
Nghiêm. Hai nghĩa của hai kinh thành tựu lẫn nhau, dùng đó
để phán định giáo pháp suốt một đời
đức Phật gồm tất cả năm thời:
1) Thời Hoa Nghiêm (đặt tên dựa theo
kinh).
2) Thời Lộc Uyển (đặt tên dựa
theo nơi chốn).
3) Thời Phương Đẳng (đặt
tên theo pháp).
4) Thời Bát Nhă.
5) Thời Niết Bàn (đều dựa theo
kinh để đặt tên).
Bốn thời trước sau được
phán định theo vị [của sữa] th́ có nhất định;
những pháp chẳng thuộc vào thời trước hay thời
sau [của thời Phương Đẳng] đều phán
định thuộc thời Phương Đẳng, như
các kinh Kim Quang Minh, Thắng Man, Đại Tập, Lăng
Nghiêm v.v… thuộc về thể lệ này. Nay kinh Địa
Tạng Bổn Nguyện cũng đáng nên thuộc vào thời
thứ ba, tức thời Phương Đẳng, cớ ǵ
lại phán định thuộc loại đề-hồ vậy?
Đáp: Điều này có căn cứ. Dựa
theo sách Phật Tổ Thống Kỷ, đại sư [Chí Bàn] nói: “Vào năm thứ năm
mươi ba, tức năm Nhâm Thân (thời Châu Mục Vương)[12], đức
Phật trước hết đă lên trời Đao Lợi,
an cư ba tháng, sai ngài Văn Thù đến chỗ Phật mẫu,
[thỉnh Phật mẫu] tạm khuất ḿnh đến lễ
kính Tam Bảo. Phu nhân Ma Da nghe nói, sữa tự tuôn ra, chảy
thẳng tới miệng đức Phật; bà bèn cùng với
ngài Văn Thù đến
chỗ đức Phật. Đức Phật thuyết pháp
cho bà, khiến cho bà đắc quả Tu Đà Hoàn. Ba tháng sắp
hết, đức Phật sắp nhập Niết Bàn. V́ vậy,
Đế Thích biến ra ba cái thang báu. Đức Phật từ
biệt mẹ, dẫn theo đại chúng giáng hạ, trở
lại Kỳ Hoàn (tinh
xá Kỳ Viên)” (điều này trích từ
Phật Thăng Đao Lợi Kinh).
Ngài Đông Hồ[13] giảng:
“Theo kinh Hành Pháp, [đức Phật nói] ‘ba tháng nữa, ta
sẽ nhập Niết Bàn’. Do vậy suy ra Ngài bắt đầu
hành pháp là ngày Rằm tháng Mười Một năm Tân Mùi.
Theo kinh Thăng Đao Lợi, [đức Phật] an cư
ba tháng, cho nên suy ra hành pháp xong, Ngài ngay lập tức lên Đao
Lợi trong ngày hôm ấy. Xét theo kinh này, khi ba tháng sắp hết,
Ngài muốn nhập Niết Bàn, tức
là ngày Mười Bốn tháng Hai năm ấy, [từ trời
Đao Lợi] Ngài giáng hạ Diêm Phù Đề rồi nhập
Niết Bàn vào ngày Rằm. Do vậy, kinh Niết Bàn nói: - Ngày
Rằm tháng Hai sẽ nhập Niết Bàn”. Nay kinh này là do đức
Phật nói ra khi Ngài ở trên trời Đao Lợi, v́ mẹ
thuyết pháp, đại chúng vân tập, hiện điềm
lành, phân thân của ngài Địa Tạng nhóm họp. V́ thế,
rơ ràng là kinh này đích xác [được nói] sau kinh Pháp Hoa, trước
kinh Niết Bàn; chẳng thuộc vị đề-hồ th́ xếp vào vị ǵ đây?
Hỏi: Xếp kinh theo thời như vậy
th́ rất có căn cứ, nhưng xét ra kinh văn trước
sau trọn chẳng có từ ngữ nói rơ, sao có thể nói là
kinh này có cùng một thời, một vị với hai kinh
kia (Pháp Hoa và Niết Bàn) cho được?
Đáp: Pháp Hoa gồm thâu rộng lớn, Niết
Bàn chọn lọc, những ǵ đáng ghi chép đều đă
chép xong cả rồi. Nay đức Phật lên trời Đao
Lợi là v́ ba sự:
1) Một là v́ mẹ thuyết pháp ḥng báo ân sanh
dưỡng, đền đáp đức cù lao, ngơ hầu
khuyên nhắc những kẻ chẳng biết ân trong đời
sau.
2) Hai là v́ an ủi, từ biệt, để
báo đáp các thiên thần đă ủng hộ trong suốt
thời kỳ [đức Phật thị hiện thuyết
pháp trong thế gian], và phó chúc các tỳ-kheo trong đời Mạt cho họ, dặn họ
hăy bảo vệ cho các tỳ-kheo đừng gặp ma sự.
3) Ba là v́ lục đạo khổ sở, chẳng
có thuở mong thoát ra được mà phó chúc ngài Địa
Tạng dạy dỗ, bảo vệ họ, đợi cho đến
khi đức Di Lặc hạ sanh, chính là v́ hiển thị
ḷng từ bi của Phật thấu đến các kiếp
sau.
[Vậy th́] cần ǵ phải có những đoạn
văn nói rơ ràng, dứt khoát [thuộc về thời giáo nào]
th́ mới chấp nhận [kinh này] thuộc về vị đề-hồ! Hăy nên dùng các kinh như Tượng Pháp
Quyết Nghi, Hành Pháp v.v… để phỏng theo mà xem xét th́
các mối nghi sẽ tự dứt!
Hỏi: Ngài Cô Sơn phán định kinh Lăng
Nghiêm thuộc vị đề-hồ, v́ cái Nghe trong kinh ấy
giống như tri kiến của Phật trong kinh Diệu
Pháp Liên Hoa, tợ hồ [lập luận như thế] có căn
cứ. V́ sao ngài Đông Hồ chẳng nói “sự giáo hóa suốt một đời [đức
Phật] kết cục ở
chỗ khai hiển, mà sự hay khéo khai hiển được
quy vào công sức của Pháp Hoa?” C̣n như các kinh khác hễ nói đến viên pháp th́ đều là nghĩa lư đàm luận viên dung thuộc
về tứ giáo trong thời Phương Đẳng, thế mà ngài Cô Sơn lại
muốn coi kinh Lăng Nghiêm có cùng một vị đề-hồ với kinh Pháp Hoa, chẳng nghĩ
kinh ấy thuộc về thời Phương Đẳng,
tức là đă đánh mất ư chỉ “thuần nhất chẳng tạp” của Pháp Hoa! Nay xét ra, đức Địa Tạng tùy
cơ thuyết pháp, hoàn toàn đáng nên thuộc loại tứ
giáo cùng đàm luận [về lẽ viên dung] trong thời Phương
Đẳng; nhưng nay thầy lại phán định [kinh
Địa Tạng] giống như kinh Pháp Hoa, há chẳng
phải là phạm lỗi giống như ngài Cô Sơn ư?
Đáp: Trong kinh Lăng Nghiêm, phần kinh
văn [trần thuật] khách chủ gạn hỏi, biện
định cái Thấy nơi tâm, đích xác là tiếp nối
phong cách chỉ trích, quở trách [những kiến chấp
thiên, tiểu] của thời Phương Đẳng. Sau đó,
kinh dạy về ba khoa, bảy đại, hoàn
toàn phù hợp với cách nói “quét sạch các tướng”
của thời Bát Nhă. C̣n như do kinh ấy biện định
về cái Nghe mà bảo là [kinh Lăng Nghiêm] tương ứng
với kinh Diệu Liên Hoa, đáng thuộc về thời
Pháp Hoa sau đó, th́ đấy chính là nghĩa lư “[thời trước] dung thông với
thời sau trong năm thời”, há nên phán định
kinh ấy giống như kinh Pháp Hoa? Ngài Đông Hồ đă bác bỏ thuyết
ấy, văn lẫn nghĩa [trong lời biện định
của ngài Đông Hồ] đều thỏa đáng. Nay
kinh Địa Tạng này được thuyết trong một
thời tại thiên cung, tùy cơ mà chỉ dạy, chính là
những lời lẽ phô rơ Bổn và Tích[14],
giống hệt như Pháp Hoa tỏ lộ Tích để hành
Quyền, há giống như ngài Cô Sơn phạm lỗi [mâu
thuẫn ư chỉ] “thuần nhất chẳng tạp” ư?
[Vặn rằng]: Nếu là như vậy th́
kinh Du Hành trong Trường A Hàm cũng nói chẳng lâu sau, tức
là ba tháng sau, đức Như Lai sẽ bát Nê Hoàn
(nhập Niết Bàn), và cũng nói đến
những chuyện sau khi đức Phật nhập Niết
Bàn, sao không phán định kinh ấy cũng thuộc vị
đề-hồ vậy?
Đáp: Chẳng thể coi là cùng một lệ
được, v́ Tạng Giáo và Viên Giáo khác biệt vời
vợi. Huống hồ những chuyện sau khi đức
Phật nhập Niết Bàn trong thời A Hàm thuộc loại
kinh văn chung cho cả năm thời, cho nên có thể thâu nhập vào bộ
loại của kinh ấy (tức bộ A Hàm). Nay kinh này (kinh Địa
Tạng) trọn chẳng có ư nghĩa hai loại thông (thông
với thời sau và văn từ tương thông), sao có thể
nêu ra kinh kia để bắt
bẻ kinh này cho được? Do vậy biết kinh này nhất
định lấy chuyện khai hiển (chỉ bày, tỏ
lộ) vô thượng đề-hồ làm giáo tướng; nhưng
đều nói là “chẳng nghĩ bàn”. Chuẩn theo những
điều được nói trong kinh này th́ oai thần, thệ nguyện, trí huệ, biện tài, các thứ phương
tiện của vị Bồ Tát này đều là chẳng thể
nghĩ bàn. V́ thế, tên kinh, Thể, Tông, Dụng của
kinh này, mỗi điều đều xứng tánh, đều
dựa trên “chẳng thể nghĩ bàn” mà kiến lập.
II. Quán Pháp
Phần thứ hai là tŕnh bày chung về cách
quán. Phái Sơn Gia[15] [của
tông Thiên Thai] lập pháp bèn có Giáo và Quán. Giáo để mở
ra Giải, c̣n Quán là để khởi Hạnh, như dầu
và ánh sáng dựa vào nhau, như chân và mắt giúp nhau, sẽ
từ bốn cửa mà vào được ao thanh lương.
Những người truyền thừa giáo pháp này trong đời
sau, há có nên giữ suông văn từ, chẳng hiểu quán hạnh
ư? Một bánh xe, một cái cánh, sao có thể đi xa cho được? V́ thế, nay
tôi lược thuật những điều chánh yếu, ngơ
hầu [độc giả] xem kinh chẳng đến nỗi
nói suông, mà sẽ cùng trở về bí mật tạng vậy.
Giáo có Tạng, Thông, Biệt, Viên. Ba giáo trước
là Quyền, là thô, một giáo sau cùng (Viên) là Thật, là vi diệu.
Kinh này mở ra sự giải ngộ “viên thường,
chánh tín, diệu thật”, do Quyền là cái Thô được
khơi mở, c̣n Thật là cái Diệu có thể khơi mở.
Đấy chính v́ giản trừ ba thô, hiển lộ một
diệu. Quán có Tích Không Quán và Thể Không Quán, tức là Quán lần
lượt theo thứ tự và không có thứ tự. Nếu
xét theo thứ tự để đối ứng với tứ
giáo th́ ba giáo đầu là có thể nghĩ bàn, một giáo
sau là chẳng nghĩ bàn! V́ thế, nêu ra đủ cả bốn
giáo là v́ muốn loại trừ những giáo có thể nghĩ
bàn, ḥng hiển lộ giáo chẳng thể nghĩ bàn, nói trọn
đủ là như các pháp Chỉ Quán v.v…
Nay kinh này đă được nói sau kinh Pháp
Hoa, chỉ nói về thuần viên diệu giải, để
dấy lên diệu hạnh chẳng thể nghĩ ngợi!
Tức là trong mười chương của sách Ma Ha Chỉ Quán, sáu chương
đầu nhằm khai giải, bốn chương sau là khởi
hạnh, cũng giống như vậy đó. V́ thế, phần
kinh văn trong các phẩm như Quán Chúng Sanh Nghiệp Duyên,
Diêm Phù Nghiệp Cảm v.v… chính là dùng Không, Giả, Trung để
hiển thị chuyện chẳng thể nghĩ bàn của
đức Địa Tạng. Vậy th́ chủ thể để
quán (năng quán) không ǵ chẳng phải là Nhất Tâm Tam Quán,
đối tượng được quán (sở quán) không
ǵ chẳng phải là Tam Đế nhất cảnh. Xét theo ư
nghĩa, Tam Quán chỉ có ba loại:
1) Một là dựa theo hạnh, tức là chỉ
từ trong vạn cảnh mà quán nhất tâm. Vạn cảnh
tuy khác biệt, nhưng lư diệu quán b́nh đẳng.
Như quán các Ấm v.v… tức là xét theo ư nghĩa này.
2) Hai là dựa theo pháp tướng, như phần
kinh văn nói về quán Tứ Đế, Ngũ Hạnh. Nhập
vào một niệm tâm, dùng đó để quán trọn vẹn.
3) Ba là cậy vào sự tướng,
như Vương Xá và Kỳ Xà Quật đều là đặt
tên dựa trên Sự, mượn Sự để quán, ḥng
hướng dẫn t́nh kiến chấp trước. Như
[các pháp quán] Phương Đẳng, Phổ Hiền v.v… cứ
phỏng theo lệ này sẽ biết.
Giải thích cặn kẽ th́: Ư nghĩa của
ba loại quán pháp này được chứa đựng trong
các bộ sớ giải về kinh điển, tổ Thiên
Thai dựa theo các bộ kinh Đại Thừa, lập ra bốn
loại tam-muội, tu thập thừa quán pháp, trực tiếp
hướng đến Ấm và tâm [để quán], hiển
lộ pháp tam thiên. Đấy chính là ư nghĩa quán theo Hạnh
(tức loại thứ nhất). Lại nương theo các
kinh, từ các câu, chữ trong kinh mà xét theo pháp sự tướng,
nhập tâm thành quán. “Cậy
vào Sự” th́ tâm là cái có thể nương cậy (năng
thác) nơi sự, c̣n những sự thuộc về chánh báo
và y báo là đối tượng để nương cậy
(sở thác). “Nương cậy pháp” (phụ pháp, 附法) th́ tâm là cái có thể nương
dựa (năng phụ), các pháp môn là đối tượng
được nương cậy (sở phụ). Đấy
chính là ư nghĩa của hai loại quán Sự và quán pháp. Ngài
Kinh Khê khảo sát, suy lường ư nghĩa này, lập ra ba
loại tên v.v… Lại c̣n chỉ rơ: Phép quán sự tướng
cũng chỉ nhằm giúp cho phép Quán theo hạnh được
thành tựu đó thôi! Nay dựa theo đoạn văn ấy,
nêu đại lược ba nghĩa:
1) Nếu quán kinh này, tánh thức vốn là Như
Lai Tạng, một niệm trọn đủ mười
giới, trăm giới, ba ngàn tánh tướng. Điều
này giống như Chỉ Quán lược bớt Giới và
Nhập, chỉ c̣n quán gánh nặng Ngũ Ấm. Trong Ngũ
Ấm như thế, trước hết lược bớt
Sắc pháp, kế đó là lược bỏ các pháp tâm sở
thuộc Thọ, Tưởng, Hành, chỉ quán Tâm Vương
của thức thứ sáu, cho nên nói là “nhất niệm”.
Do năm thức trước ắt phải nương
theo thức thứ sáu là Ư Thức để đồng thời
dấy lên th́ mới có thể chấp giữ cảnh, tạo
nghiệp thiện hay ác. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Lục vi tặc
môi, tự kiếp gia bảo, Ư Căn, tặc chi cừ khôi
dă, công lực thậm đại. Dĩ đệ thất
thức vi sở y căn, dữ tiền ngũ căn tương
ứng ḥa hợp, tạo chư thiện ác chi nghiệp, giai
nạp đệ bát thức trung, như thương khố
thịnh vật, tùy thời xuất nạp” (Sáu thức
làm môi giới cho bọn giặc, tự cướp đoạt
của báu trong nhà. Ư Căn là thủ lănh của bọn chúng.
Do thức thứ bảy làm cái căn cho thức ấy, cùng
với năm thức trước (Nhăn, Nhĩ, Tỵ, Thức
v.v…) ḥa hợp, tạo ra các nghiệp thiện hay ác, đều
nạp vào thức thứ tám, như cái kho chứa các vật,
tùy thời lấy ra hay gởi vào).
Thức thứ bảy thường luôn chấp
giữ Kiến Phần của thức thứ tám làm nội
tự ngă. Ngă si, ngă kiến, ngă mạn, ngă ái, bốn loại
Hoặc thường tụ tập, nên gọi là Nhiễm Ô
Ư, v́ chúng nó nhuốm bẩn chân tánh, khiến cho thức thứ
tám được đặt tên là Hàm Tàng Thức, hoặc A
Lại Da Thức, nhằm chỉ rơ đây là tên gọi khi
nó bị mê bởi vô minh. Nay quán thể tướng của
vô minh vốn tự chẳng có, do nhân duyên vọng tưởng
ḥa hợp mà có. Thể của nhân duyên hư huyễn, tướng
của các pháp là vọng. Trung Luận
nói: “Pháp sanh bởi nhân duyên, ta nói chính là không, cũng gọi
là giả danh. Cũng gọi Trung Đạo nghĩa”.
Ngài Tứ Minh nói: “Trước hết, xét theo hạnh
th́ trực tiếp gom về một niệm quán mười
giới, trăm giới, diệu pháp thiên như. Tuy chính là một
niệm, ngàn pháp rành rành, nhưng toàn thể chính là Không, ở
ngay nơi đây chính là Giả, nhưng chẳng phải là
hai bên. Lại chính là song chiếu (chiếu cả Không lẫn
Hữu), chẳng thể nói là một hay nhiều, há có thể
suy nghĩ là Có hay Không? Dù là hai bên, hay chính giữa, đều
chẳng thể suy
tính được.
Do vậy, trong địa vị Quán Hạnh, nếu đă tiến
nhập sâu th́ thức thứ sáu và thứ bảy đều
chẳng chấp Ngă, chẳng phân biệt Ngă Không và Pháp Không,
chuyển thành vô lậu, cho nên Kiến Tư ô nhiễm, thô
cấu rơi rớt trước. Từ đấy, tiến
nhập Quán, giáo hóa chúng sanh, trở thành diệu Giả chẳng
thể nghĩ bàn, phá Trần Sa vô tri. Tiến lên là phá vô
minh, Ngă Chấp và Pháp Chấp bẩm sanh vĩnh viễn chẳng
thể dấy lên được, thành tựu Vô Sanh Nhẫn,
vô công dụng đạo, tùy ư lưu nhập, liền bỏ
cái danh xưng A Lại Da để riêng nhận cái tên thanh tịnh.
Nhưng phá Hoặc, hiển lộ tánh là do công năng của sáu thức”. Lời chỉ dạy
của ngài Tứ Minh gần gũi, nhưng trọng yếu,
là cái gốc của Sự, Lư, Giải, Hạnh. Như chặt
cây mà t́m được gốc, châm cứu chữa bệnh
t́m được đúng huyệt. Đây chính là cảnh chẳng
thể nghĩ bàn trong Sơ Quán của mười thừa,
gọi là “Quán dựa theo hạnh”.
Nếu như cậy vào Sự, hoặc nhờ
vào Pháp, th́ bèn dựa vào Nhân và Pháp trong tựa đề
chung (tổng đề) [của kinh này] tức là Địa
Tạng Bổn Nguyện để quán. Nay trước hết
quán Bồ Tát là Nhân, như trong lúc hành nhân chiêm ngưỡng,
lễ bái đức Địa Tạng, cúng dường
hoa, hương, chẳng biểu
thị quán pháp th́ dùng ǵ để dụng tâm? Nay chuẩn theo
kinh Phật Thuyết Bát Đại Bồ Tát Mạn Đà
La đă nói: “Ư Như Lai tiền, quán Địa Tạng
Bồ Tát, đầu quan, anh lạc, diện mạo hy di, tịch
nhiên mẫn niệm nhất thiết hữu t́nh. Tả thủ
an tễ hạ, thác bát, hữu thủ phục hiệp chưởng
hướng hạ. Đại chỉ niệp đầu
chỉ, tác an ủy nhất thiết chúng sanh tưởng”
(Ở trước đức Như Lai, quán Địa Tạng
Bồ Tát, đầu đội măo, đeo chuỗi ngọc,
diện mạo rạng rỡ, hoan hỷ, tĩnh lặng, nghĩ
thương xót hết thảy hữu t́nh. Tay trái đặt
phía dưới rốn ôm bát, tay phải th́ các ngón xếp khít
lại, hướng ḷng bàn tay xuống dưới. Ngón cái chạm
đầu ngón trỏ, tưởng Ngài đang an ủi hết
thảy chúng sanh).
Giải thích: Đầu chính là Nhất Thiết
Chủng Trí, măo chính là Tỳ Lô pháp tánh. Anh Lạc (tiếng
Phạn là Cát-do-la (Keyūra), hoặc Chỉ Do La), biểu
thị Tổng Tŕ Tứ Đà La Ni (một là Pháp, hai là Nghĩa,
ba là Chú Thuật, bốn là Nhẫn) nhằm biểu thị
Chủng Trí do Pháp Tánh mà thành. V́ thế, có thể tổng tŕ
hết thảy pháp môn. Diện mạo tươi sáng hoan hỷ,
biểu thị tướng mạo từ bi được
biểu hiện từ cái tâm; bởi đối với tướng
nơi toàn thân, mặt là quan trọng nhất. Các pháp lấy
Tâm làm Thể để nương tựa, tướng
theo tâm mà sanh. V́ thế, dùng tướng để biểu
thị cái tâm. “Tĩnh lặng”: Biểu thị Bồ
Tát tự trụ trong Tam-ma-địa (Samādhi, Chánh Định). Lục đạo dùng
khổ duyên để cảm; Bồ Tát dùng ḷng đại
bi để ứng. Hai tay trái và phải biểu thị hai
trí Quyền và Thật. Thật Trí tự chiếu Lư bên
trong, Quyền Trí soi xét căn cơ bên ngoài. Ôm bát ở dưới
rốn, biểu thị tánh thức trọn đủ Như
Lai Tạng. [Cái bát ấy] bên trong rỗng không, bên ngoài có h́nh
tṛn, biểu thị Tự và Tha đều cùng có Không Như
Lai Tạng, trọn vẹn như thái hư, chẳng bị
khuyết giảm. Bên trong [cái bát ấy] có thể chứa vật,
biểu thị Bất Không Như Lai Tạng, trọn đủ
tánh công đức nhiều như cát sông Hằng. Ngón cái chạm
ngón trỏ, biểu thị mê và ngộ giống hệt như
nhau, nhân và quả phù hợp để an ủi lục
đạo chúng sanh chớ ưu năo!
Kế đó, quán pháp Bổn Nguyện. Kinh Chiêm Sát dạy: “Nhược
dục y nhất thật cảnh giới tu tín giải giả,
ưng học tập nhị chủng quán đạo: Nhất,
Duy Tâm Thức Quán; nhị, Chân Như Thật Quán. Duy Tâm Thức
Quán giả, vị ư nhất thiết thời, nhất
thiết xứ, tùy thân khẩu ư, sở hữu tác nghiệp,
tất giai quán sát, tri duy thị tâm, tùy nhất thiết cảnh
giới, tùy tâm hữu sở duyên niệm, hoàn đương
sử tâm tùy trục bỉ niệm, linh tâm tự tri. Tri kỷ
nội tâm tự sanh tưởng niệm, phi nhất thiết
cảnh giới hữu niệm, hữu phân biệt dă, nhi
nhất thiết cảnh giới vị tằng hữu tưởng,
khởi ư phân biệt. Nhất thiết pháp duy tâm tưởng
sanh. Nhược sử ly tâm, tắc vô nhất pháp, nhất
tướng, nhi năng tự kiến hữu sai biệt dă.
Tri duy vọng niệm, vô thật cảnh giới, vật linh
hưu phế. Thị danh tu tập Duy Tâm Thức Quán. Chân
Như Thật Quán giả, tư duy tâm tánh, vô sanh, vô diệt,
bất trụ kiến, văn, giác, tri, vĩnh ly nhất
thiết phân biệt chi tưởng, tiệm tiệm năng
quá tứ không đẳng cảnh giới tướng, đắc
Tương Tự Không tam-muội. Đắc thử tam-muội,
Thức, Tưởng, Thọ, Hành năng phân biệt tướng,
bất hiện tại tiền. Tùng thử tu học, vị
thiện tri thức đại từ bi giả thủ hộ,
trưởng dưỡng, ly chư chướng ngại. Cần
tu bất phế, năng nhập Tâm Tịch tam-muội, phục
năng nhập Nhất Hạnh tam-muội. Nhập Nhất
Hạnh tam-muội dĩ, kiến Phật vô số, phát thâm
quảng tâm, trụ kiên tín vị. Ư Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na,
nhị chủng quán đạo, quyết định tín giải.
Tùy sở tu học chư Thiền tam-muội chi nghiệp,
vô sở nhạo trước, năi chí biến tu nhất thiết
thiện căn Bồ Đề phần pháp. Ư sanh tử
trung, vô sở khiếp úy, bất nhạo Nhị Thừa. Dĩ
y năng tập, hướng nhị quán tâm, tối diệu
xảo tiện, chúng trí sở y hành căn bản cố”
(Nếu muốn nương theo cảnh giới
Nhất Thật để tu tín giải, hăy nên học tập
hai loại quán đạo: Một là Duy Tâm Thức Quán, hai là
Chân Như Thật Quán.
1) Duy Tâm Thức Quán nghĩa là trong hết thảy
các thời, hết thảy các chỗ, đối với tất cả nghiệp đă tạo
nơi thân, miệng, ư, thảy đều quán sát, biết chúng
chỉ là tâm, thuận theo hết thảy cảnh giới, tùy
theo cái tâm duyên niệm, lại khiến cho cái tâm truy đuổi
niệm ấy, khiến cho cái tâm tự biết. Biết nó
là tưởng niệm tự sanh trong cái tâm của chính
ḿnh, chẳng phải là hết thảy cảnh giới có niệm,
có phân biệt. Nhưng hết thảy cảnh giới chưa
từng có tưởng, dấy lên phân biệt. Hết thảy
các pháp chỉ do tâm tưởng sanh. Nếu muốn ĺa tâm th́
chẳng có một pháp, một tướng mà có thể tự
thấy có sai biệt. Biết chỉ là vọng niệm, chẳng
có cảnh giới thật sự, đừng để cho
[sự quán sát ấy] ngưng bỏ. Đó gọi là tu tập
Duy Tâm Thức Quán.
2) Chân Như Thật Quán là tư duy tâm tánh vô
sanh, vô diệt, chẳng trụ trong “thấy, nghe, hay, biết”,
vĩnh viễn ĺa khỏi hết thảy các tưởng phân
biệt, dần dần có thể vượt khỏi tướng
cảnh giới của tứ không, đắc Tương Tự
Không tam-muội. Đắc tam-muội ấy th́ tướng
phân biệt của Thức, Tưởng, Thọ, Hành sẽ
chẳng hiện ra trước. Từ đấy tu học,
được thiện tri thức đại từ bi thủ
hộ, trưởng dưỡng, [cho nên] ĺa các chướng
ngại, siêng tu chẳng bỏ, có thể nhập Tâm Tịch
tam-muội, lại có thể nhập Nhất Hạnh tam-muội.
Đă nhập Nhất Hạnh tam-muội, thấy Phật vô
số, phát tâm sâu rộng, trụ nơi địa vị tín
tâm kiên cố. Đối với hai thứ quán đạo là
Xa-ma-tha (Chỉ) và Tỳ-bà-xá-na (Quán), quyết định
tín giải, thuận theo các nghiệp Thiền tam-muội mà
tu học, nhưng chẳng ưa đắm, cho đến
tu trọn hết thảy các pháp thuộc thiện căn Bồ
Đề phần. Ở trong sanh tử, chẳng khiếp
nhược, sợ hăi, chẳng ưa thích Nhị Thừa, do
có thể tu tập dựa theo hai thứ quán tâm. Hai thứ
quán tâm ấy là phương tiện xảo diệu nhất,
là căn bản để các trí nương vào mà hành).
Dựa trên hai pháp Quán ấy, cùng với ba thứ
quán pháp của tông này (tông Thiên Thai) sẽ chẳng có chút sai quấy nào.
Nương nhờ Sự, hoặc nương cậy pháp, hoặc
là Sự Quán dựa theo hạnh sẽ giống như Duy Tâm
Thức Quán. Lư Quán do dựa theo hạnh, sẽ giống như
Chân Như Thật Quán. Đấy chính là pháp tự tu của
đức Địa Tạng, lại c̣n dạy hết thảy
hăy tu theo. Quán ba chướng Hoặc, Nghiệp, Khổ, đều
là [quán] cái tâm này giống như cảnh, đều như huyễn
hóa, há có ǵ là sanh tử lưu chuyển nữa ư? Sách [Ma
Ha] Chỉ Quán nói: “Phát đại tâm (khuyên chúng sanh mê muội,
điên đảo hăy tỉnh ngộ, thượng cầu,
hạ hóa), tu đại hạnh (khuyên họ hăy mạnh mẽ,
tinh tấn dứt ác làm lành), cảm đại quả (cảm
quả sanh lên Phạm Thiên, quả báo mầu nhiệm khiến
cho cơi ḷng vui sướng), xé rách lưới lớn (kinh luận
mở mắt cho con người, dung thông giải trừ những
kết phược, thoát khỏi lồng giam), trở về
đại xứ (pháp giới chẳng có đầu hay cuối,
thông hay tắc, rỗng rang rạng ngời, chẳng bị
ngăn ngại)”. Đấy chính là pháp bổn nguyện
của đức Địa Tạng.
Nhân và Pháp như thế đều ở trong
một niệm tâm nhỏ nhoi, chính là Không, chính là Giả, chính
là Trung. Tâm ta đă là như thế, chúng sanh và Phật cũng
thế. Nhưng chúng sanh quá rộng, Phật pháp quá cao, sơ
tâm khó thực hiện được, chỉ quán sự cao
rộng nơi cái tâm của chính ḿnh, ḥng lănh ngộ sự
thánh ứng vô cùng. Do cơ đă thành thục, bèn dẫn đến
sự cảm vời, bèn đạt được đại
lợi; v́ thế, cần phải quán tâm. Sách Quán Âm Huyền
Nghĩa nói: “Trong Ma Ha Diễn (Đại Thừa), thoạt
đầu là từ sơ tâm cho đến cuối cùng là hậu
tâm, thường quán Nhân và Pháp đều Không. Do quán Nhân Không,
tức là chủng tử của liễu nhân; quán Pháp Không, tức
là chủng tử của duyên nhân”. V́ thế, Luận nói:
“Thoạt đầu là giác Nhân Không, cuối cùng giác Pháp Không.
Do quán Nhân và Pháp đều là Không, liền biết ba thứ
Phật Tánh. Phật từ sơ phát tâm, quán Nhân Không và Pháp
Không, tu ba thứ Phật Tánh, trải qua địa vị
Lục Tức, thành Lục Tức Nhân Pháp”. Nay quán Địa
Tạng tức là Nhân và Pháp của bậc Phần Chứng
Đẳng Giác. Hành nhân có thể quán Nhân và Pháp toàn là tự
tâm, giống như Như Ư Châu, không ǵ chẳng trọn đủ.
Tức là Không, Giả, Trung, khởi đầu từ Quán Hạnh
cho tới Phần Chứng, là một mà hai, tuy hai mà một
với bổn nguyện của đức Địa Tạng.
V́ thế nói: “Chẳng biểu thị quán pháp th́ sẽ dụng
tâm như thế nào?” Đấy chính là phương cách
to lớn của phép Quán nương cậy Sự hoặc
nương nhờ Pháp.
Tổng Đề (danh xưng chung của cả
bộ kinh, tức tên kinh này) đă là như vậy, th́ phần
Biệt Văn (kinh văn của cả bộ kinh) cũng
thế. Khởi đầu bằng Như Thị (như thị
ngă văn) cho đến cuối cùng là “nhi thoái” (bèn lui
ra), dù là Nhân hay Pháp, hoặc là thức tâm, hoặc thiện
hay ác, hoặc là phàm hay thánh, tịnh hay uế, nhân hay quả,
hương, hoa, ẩm thực, các
thứ pháp môn sai biệt trong ấy, không ǵ chẳng thể
nhập tâm thành Quán! Như phá vỡ một vi trần, xuất
hiện kinh quyển to bằng cơi đại thiên. V́ thế,
lắng nghe, đọc, tụng, lễ bái, cúng dường,
tâm chẳng duyên theo pháp khác, từ trong tâm hiển lộ,
phát khởi, mới xứng gọi là “toàn tánh khởi tu,
toàn tu nơi tánh”, khỏi bị chê cười là kẻ
nghèo kính trọng của báu [của người khác]. V́ thế,
trước khi học vào kinh văn bèn chỉ điểm,
dùng cái Thấy để lập giáo, chính là để quán tâm,
cặn kẽ th́ như trong một giáo, đối với các
bộ [kinh luận] lớn hay nhỏ,
nếu muốn tu tập, cần phải thân cận bậc
thầy tốt lành, diệu nhân Niết Bàn ở ngay nơi
ấy mà thôi!
III. Biệt giải kinh
văn
Phần thứ ba là giải thích riêng về
kinh văn. Kinh này được chia thành ba quyển, hoặc
chia thành hai quyển là Thượng và Hạ, đều do
ngài Thật Xoa Nan Đà dịch, gồm mười ba phẩm.
Nay trước hết là giải thích chung về tựa
đề các phẩm; sau đó, sẽ thuận theo kinh văn
mà giải thích ư nghĩa.
Trước hết, giải thích phẩm
Đao Lợi Thiên Cung Thần Thông chính là Tự Phần.
Nay không ghi là phẩm Tự mà gọi thẳng là phẩm Đao
Lợi Thiên Cung Thần Thông. Chữ “Tự” bao hàm ba loại [ư
nghĩa] là Thứ Tự, Tự Do, và Tự Thuật:
1) Phần đầu của kinh có năm sự,
theo thứ tự mà an lập, th́ là Thứ Tự (phần Tự
tŕnh bày sự việc theo thứ tự).
2) Đức Phật thăng lên trời Đao
Lợi v́ mẹ thuyết pháp, chư Phật, Bồ Tát như
mây tụ tập đến, ngầm muốn khởi phát nhân
duyên giáo hóa của đức Địa Tạng. V́ thế,
đức Như Lai mỉm cười, phóng quang, trong mây quang
minh lại phát ra âm thanh, lại triệu tập đại
chúng trời, rồng, quỷ thần v.v… nhằm hiển
phát nhân duyên độ thoát của đức Địa Tạng.
Những điều ấy đều là Tự Do (phần
Tự nhằm tŕnh bày duyên do của
pháp hội giảng kinh).
3) Đức Như Lai và Văn Thù hỏi đáp
về số lượng đại chúng, nêu bật nhân
duyên cứu độ mẹ của đức Địa
Tạng. Đấy là Tự Thuật (tŕnh bày công hạnh).
V́ thế, chỉ gọi [phẩm này] là Thần
Thông Phẩm.
Đao Lợi (忉利) nói cho đầy đủ
là Đa La Dạ Đăng Lăng Xá (Trayastriṃśa), cơi
này dịch là Tam Thập Tam (ba mươi ba). Tịnh Danh Sớ
giảng: “Như Đế Thích trong thế gian này vào thời
xưa kia, sau khi Phật Ca Diếp diệt độ, có một
nữ nhân phát tâm tu bổ tháp. Lại có ba mươi hai người
phát tâm giúp cô ta tu bổ. Do công đức tu bổ tháp, cô ta
được làm Đao Lợi Thiên Chúa. Những người
giúp tu bổ th́ làm quần thần pḥ tá. Vua và các đại
thần được gọi chung thành Tam Thập Tam Thiên”.
Điều này được nói trong Chánh Pháp Niệm Xứ
Kinh. Đế Thích trụ trong Thiện Pháp Đường
Thiên, ba mươi hai cơi trời ở trên bốn đỉnh
núi bao quanh, thường nói là Trụ Phong Thiên v.v… [Chư
thiên trong] tiếng Phạn là Đề Bà (Deva), cơi này dịch
là Thiên, [hàm nghĩa] “thiên nhiên, tự nhiên”, do họ hưởng
vui thù thắng, thân thù thắng.
“Cung” là “khung” (穹, kiến trúc cao vọt
lên), [hàm nghĩa] nhà xây có thể trông thấy vượt khỏi
tường vây, cao vọt lên. Trên th́ cao vót, dưới th́
[các gian nhà được xây] vây quanh, người sống
trong ấy. [Chữ Cung (宮)] trên là bộ Miên (宀, âm đọc là Miên, có
nghĩa là nhà có mái che dài ra) giống như riềm che, dưới
là hai chữ Khẩu (口), giống như giới
hạn giữa cách biệt giữa trong và ngoài. Sách Lập
Thế A Tỳ Đàm chép: “Thành Thiện Kiến trên trời
Đao Lợi, chu vi là bốn vạn mười ngàn do-tuần,
vàng ṛng làm thành. Bốn mặt thành là lầu ngàn cửa. Thành
vàng ở chính giữa là chỗ Đế Thích ở. Năm
trăm cửa, trang hoàng bằng các thứ báu chẳng thể
thuật trọn. Chính giữa thành là lầu báu gác chồng
(lầu có nhiều tầng), tên là B́ Thiền Diên Đa. Lầu
cao năm trăm do-tuần, rộng hai trăm năm mươi
do-tuần… Lầu nhiều tầng B́ Thiền Diên Đa cao
nhất, chính giữa là một căn nhà tṛn, rộng ba mươi
do-tuần, chu vi là chín mươi do-tuần, cao bốn
mươi lăm do-tuần, là chỗ ở của Đế
Thích, toàn là do lưu ly tạo thành, xen kín các thứ báu. Như
Lai lên ṭa ở nơi đây, v́ thánh hậu thuyết pháp, là
chỗ để Ngài hiện thần thông khi ấy”.
“Thần thông” có hai ư Thông và Biệt.
Kinh Dịch nói: “Dương Âm bất trắc chi vị Thần.
Tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông. Thiên
địa dữ đạo vi Thể dă. Kỳ diệu dụng
viết Thần” (Âm và Dương chẳng thể suy lường
được th́ gọi là Thần. Lặng lẽ, bất
động mà hễ cảm bèn thông. Trời, đất cùng
với đạo làm Thể, diệu dụng của nó gọi
là Thần). Đấy là cách giải thích theo thế tục.
Nay chuẩn theo kinh Anh Lạc dạy: “Thần danh thiên tâm,
Thông danh huệ tánh. Thiên nhiên chi huệ, triệt chiếu vô
ngại; cố danh Thần Thông” (Thần là cái tâm tự
nhiên, Thông là huệ tánh. Trí huệ tự nhiên, chiếu thấu
suốt vô ngại, nên gọi là Thần Thông). Thông có sáu loại:
Một là Như Ư, hai là Thiên Nhăn, ba là Thiên Nhĩ, bốn là Tha
Tâm, năm là Thức Túc Mạng Thông, sáu là Vô Lậu Thông. Ở
đây, [thần thông trong phẩm này] chính là [đức Như
Lai] mỉm cười, phóng quang, chư thiên cùng tụ tập,
đều là diệu dụng từ huệ tánh chẳng thể
nghĩ bàn của Như Lai. V́ thế gọi là Thần Thông.
Tiếng Phạn là Bạt Cừ (Varga), cơi này
dịch là Phẩm, có nghĩa là những thứ cùng loại,
tương đồng, được tụ tập trong
một đoạn, cho nên gọi là Phẩm. Chữ này cũng
là danh xưng chung [cho mỗi chương], do đức Phật
tự nói ra, hay do người kết tập [kinh điển]
đặt, hoặc do người dịch thêm vào. Nay xét cách
phân chia phẩm, dường như phần lớn là do các
vị dịch sư tự đặt. Do đây là phẩm
khởi đầu trong các phẩm, nên nói là “đệ nhất”
(dựa theo Phật Thăng Đao Lợi
Thuyết Pháp Kinh th́ đức Phật an cư suốt ba
tháng dưới cội cây Viên Sanh (Pārijāta,
Ba Lợi Chất Đa) trong vườn Hoan Hỷ,
tứ chúng vây quanh).
Duyên do đă khởi, chánh sự hăy nên phô bày.
Phân thân của đức Địa Tạng bèn thừa dịp
nhóm tới. Chuyện này không ǵ chẳng đều v́ đức
Địa Tạng. Do vậy, [phẩm thứ hai là Phân Thân
Tập Hội] là khởi đầu phần Chánh Tông. “Thân”
là cảnh vực, cung điện, là càn khôn riêng của mỗi
người. Quả tim dường như ở giữa thân,
là chủ tể của thân; nhưng chúng ta do nghiệp cảm vời, do
vậy mà ḥa hội, nương vào ba duyên để tạo
thành thể chất, gom Tứ Đại thành h́nh hài. Đấy
chính là cái nguồn của các điều ác, là cái gốc của
mọi nỗi khổ. Thân Bồ Tát sanh từ vô lượng
công đức, từ Trung Đạo nghiệp thức mà
hiện tướng hảo, quang minh, tức là Pháp Thân.
“Phân” (分) là “ban bố, khác biệt”. Ví như biển là một
nguồn, mà tách ra thành muôn gịng. Như một vầng trăng
trên bầu trời, hiện bóng nơi trăm sông. “Tập”
(集) là cùng nhau, là tụ lại; như trời sắp tối,
các loài chim đều quay về, tụ tập trên cây nghỉ
ngơi. “Hội” (會) là chung, là hợp lại.
Sách Châu Lễ chép: “Thời kiến viết Hội” (Có dịp gặp nhau th́ là hội). Bởi lẽ,
Phật nhật sắp lặn, đại địa sắp
tối tăm, Bồ Tát điểu vương dẫn các
loài cùng về chỗ đậu lại nghỉ ngơi, cùng
nhóm lại gặp gỡ. Bởi lẽ, phân tán vốn là từ
Thể khởi Dụng, từ Bổn hiện Tích. “Tập
hội” là gom Dụng về Thể, gom Tích hội về
Bổn. Đang trong khi phân tán, một là vô lượng. Nay tập
hội, vô lượng là một. “Một là vô lượng”
th́ một chẳng phải là một. “Vô lượng là một”
th́ nhiều chẳng phải là nhiều. Một và nhiều
vô ngại, cuộn lại (rút gọn lại) hay duỗi ra (mở rộng ra) tự do. Oai đức
thần thông chẳng thể nghĩ bàn, cảm ứng đạo
giao, chủ và khách nhóm hội tốt lành. V́ thế nói là phẩm
thứ hai, Phân Thân Tập Hội.
Phân thân của đức Địa Tạng
đă nhóm họp, đức Như Lai xoa đỉnh đầu
[Bồ Tát], bảo rằng: “Ông đă bao kiếp phân thân siêng
khổ”, tạo nhân duyên an ủi Bồ Tát hăy cứu tế
đời Mạt, nghĩ nhớ [đức Phật] đă
phó chúc trên cung trời. Bồ Tát bèn hợp các phân thân lại,
lănh nhận lời dạy, chờ cho đến khi gặp
Di Lặc thọ kư, sẽ trọn hết thân mạng hộ
tŕ. Ấy là v́ lục đạo chúng sanh trong pháp giới do Hoặc, Nghiệp, Khổ
mà quay cuồng trong ba đường, đến nỗi trôi lăn trong địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh tam đồ! Nhưng nơi chúng sanh thọ
khổ chính là cửa nẻo để Bồ Tát nhiếp hóa.
V́ thế, tiếp đó nêu ra ba phẩm nghiệp duyên, nghiệp
cảm, và danh hiệu địa ngục để làm đạo
trọng yếu cho đồng thể từ bi, tạo cái
duyên tốt lành cho đấng U Minh giáo chủ. V́ thế, nói
[Địa Tạng Bồ Tát] chính là Tăng Thượng Duyên
cho chúng sanh thành tựu Phật đạo, há phải là lời
suông ư? Kinh Duy Ma chép: “Chư Phật giải thoát, đương
ư chúng sanh tâm hạnh trung cầu” (Đạo giải
thoát của chư Phật hăy nên cầu từ trong tâm hạnh
của chúng sanh) là nói về điều này. Ba thứ chướng
ấy lại bắt nguồn từ nhau và thành tựu lẫn nhau: Do Hoặc
mà tạo nghiệp, do nghiệp mà chuốc khổ. Do vậy,
ba phẩm liên tiếp xít xao
theo thứ
tự mà có.
Nay trước hết là giải thích về
phẩm Quán Chúng Sanh Nghiệp Duyên. Chữ Bộc Hô Thiện
Na (Bahu-jana)
trong tiếng Phạn được cơi này dịch là Chúng
Sanh. Sách Pháp Hoa Văn Cú đă dựa theo ba cách giải thích
trong kinh Trung A Hàm [để giải thích chữ Chúng Sanh]:
1) Thuở kiếp sơ, Quang Âm Thiên hạ sanh
thế gian, không có nam, nữ, tôn quư, hèn hạ, mọi người cùng
sống trong cơi đời. V́ thế nói là Chúng Sanh. Đấy
là nói theo thuở tối sơ.
2) Nếu nắm giữ các Ấm bèn có “giả
danh chúng sanh”. Đấy là căn cứ trên một giai đoạn
thọ báo [để nói].
3) Nếu nói “thọ sanh khắp nơi
th́ gọi là chúng sanh”, đấy là dựa theo sự
lưu chuyển trong năm đường.
“Nghiệp”: Tác động th́ gọi là
Nghiệp. Sách Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa nói: “Tạo
tác, lo toan, vận dụng ba nghiệp, kiến lập các điều
ác th́ gọi là Tác”. Luận theo lẽ thật, Thể (bản
chất của nghiệp) chính là Tư (思, suy nghĩ), suy nghĩ
cho hành động nơi thân, suy nghĩ để nói năng,
và chính sự suy nghĩ ấy, ba thứ đều được
gọi là Nghiệp. V́ thế biết: Nơi thân không ǵ chẳng
phải là nghiệp. Do suy nghĩ mà có hành động nơi thân v.v… th́ mới gọi là Nghiệp.
“Duyên” là danh xưng để chỉ sự
bắt nguồn, nương nhờ lẫn nhau, gần gũi (tức là phụ trợ
cho) cái nhân có thể sanh khởi [ra cái quả th́ gọi là Duyên]. Thật
ra, nó chính là cái tâm vô minh điên đảo đó thôi. Do tâm mà
khởi nghiệp, do nghiệp mà thọ thân. Thân c̣n tạo
nghiệp để nhận lấy h́nh hài, h́nh hài lại
thuận theo sự sắp đặt của cái tâm mà thăng
trầm theo nghiệp, khổ hay lạc là do cái tâm! Như bóng do h́nh mà cong hay thẳng, tiếng vọng
do âm thanh mà to hay bé, chẳng sai sót mảy may! V́ thế, đức
Phật bảo Trường Trảo Phạm Chí (Dirghanakha Brahmacārin) rằng: “Thế do tự nghiệp, nghiệp vi năng
thọ. Nghiệp vi sanh xứ, nghiệp vi thân tộc, nghiệp
vi sở y” (Cơi đời là do tự nghiệp, nghiệp
là cái có thể nhận lănh. Nghiệp là chỗ sanh khởi,
nghiệp là thân tộc, nghiệp là chỗ để nương
vào). Kinh Đại Thừa nói: “Như mộc hữu hỏa,
ngộ duyên tức phát, tắc tri hiện thế khổ lạc,
do tiên thế nghiệp” (Như gỗ có sẵn lửa, gặp duyên bèn
phát khởi (bốc cháy). Cho nên biết khổ hay vui trong hiện
đời là do nghiệp từ đời trước). Nghiệp
do tham, sân, vô minh, cho nên gọi là Chúng Sanh Nghiệp Duyên. Nhưng
nghiệp có Thông và Biệt. Thông là khổ và lạc trong mười pháp giới.
Biệt th́ sự khổ dữ dội trong tam đồ, đều
là cảnh được quán bởi Bồ Tát. Chủ thể
có thể quán (năng quán) chính là trí tam quán của Bồ
Tát.
Trước hết, luận về Thông Quán,
nói chung chẳng ĺa khỏi tự tâm. Như Kim Quang Minh Kinh
Sớ viết: “Quán chắc thật một niệm tâm, tức
Không, tức Giả, tức Trung, tức là ba thân. V́ sao vậy?
Kinh Hoa Nghiêm nói: ‘Tâm như thợ vẽ khéo, tạo các thứ
Ngũ Ấm’. Nếu tâm duyên theo chuyện phá giới, tức
là thân địa ngục. Do không hổ thẹn, [lại
c̣n] kiêu, mạn, nóng giận v.v… tức là thân súc sanh. Do siểm
khúc [ḥng đạt được] tiếng tăm, nên là thân ngạ quỷ.
Do ganh tỵ, cạnh tranh, th́ chính là thân Tu La. Do hành Ngũ Giới,
ngăn ngừa Ngũ Ác, tức là thân người.
Do Thập Thiện, ngăn ngừa Thập Ác, hành Thiền
Định, ngăn ngừa tán loạn th́ là thân trời. Do
vô thường, khổ, không, không vô tướng nguyện,
tức là thân Nhị Thừa. Do từ bi, Lục Độ,
tức là thân Bồ Tát. Duyên theo Chân Như Thật Tướng, tức là thân Phật.
Thân trong mười pháp giới đều do tâm tạo; v́
thế, cần phải quán Duyên Khởi. Nếu quán riêng tam
đồ địa ngục chúng sanh lên núi đao, lên non gươm,
sẽ dẹp tan sắc tâm; quán
ngạ quỷ nuốt nước đồng, ăn ḥn sắt
nóng, uống máu, nuốt mủ, quán súc sanh đội mai, mang vảy nuốt
nhau, chở nặng, kéo xe, mắt Từ đă thấy, tâm Bi liền cứu. Đă chỉ
là do tâm tạo, vô tánh duyên sanh; tánh của duyên sanh vốn là
không th́ nghiệp trong mười pháp giới há có thể đạt được ư?”
V́ thế, quyển bốn mươi
tám của kinh Hoa Nghiêm có nói: “Bồ Tát tri chư nghiệp,
bất tùng tứ duy, thượng, hạ lai, nhi cộng tích
tập, chỉ trụ ư tâm, đản tùng điên đảo
sanh, vô hữu trụ xứ. Bồ Tát như thị quyết
định minh kiến, vô hữu nghi hoặc. Chủng chủng
chư nghiệp, nhi thật vô ngă, vô hữu ngă sở, lục
thú quả báo, thập phương thôi cầu, tất bất
khả đắc. Tùy hữu tu tập, tắc thọ kỳ
báo. Thí như huyễn sư, huyễn hoặc nhân nhăn. Nhữ
đẳng tích tại địa ngục, địa ngục
cập thân, phi thập phương lai, đản do ư
nhữ điên đảo ác nghiệp, ngu si triền phược,
sanh địa ngục thân. Thử vô căn bản, vô hữu
lai xứ. Kư quán nhất Ấm, không vô sở hữu, tắc
linh thập giới, giai bất khả đắc” (Bồ
Tát biết các nghiệp chẳng từ bốn phương,
trên, dưới mà đến, nhưng chúng cùng nhau tích tập,
an trụ nơi tâm, chỉ từ điên đảo mà sanh,
chẳng có chỗ trụ. Bồ Tát thấy rơ ràng quyết
định như thế, chẳng có nghi hoặc. Đủ
mọi các nghiệp thật sự vô ngă, chẳng có ngă sở,
đối với quả báo trong sáu đường bèn suy lường,
t́m ṭi khắp mười phương, nhưng đều
trọn chẳng thể được. Hễ có tu tập,
bèn hưởng quả báo. Ví như nhà ảo thuật huyễn
hoặc mắt người. Các ngươi trước kia
ở trong địa ngục, mang thân địa ngục,
chẳng do từ mười phương đến, chỉ
v́ các ngươi bị ác nghiệp điên đảo, ngu
si quấn trói, sanh làm thân địa ngục. Chuyện này
không có căn bản, chẳng có chỗ đến. Đă
quán một Ấm là “không, vô sở hữu”, th́ [sẽ nhận biết] mười
pháp giới đều chẳng thể được). Sách
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa nói: “Quán thân do tâm,
tâm do duyên khởi, sanh diệt nhanh chóng, chẳng thấy trụ
xứ, tướng mạo, chỉ có tên gọi, mà tên gọi
cũng là không. V́ thế, cần phải quán nghiệp duyên
của chúng sanh”.
Phẩm trên đây đă chỉ rơ “do Hoặc
mà tạo nghiệp”, phẩm kế tiếp bèn nêu rơ “do
nghiệp mà cảm quả” H́nh ngay th́ bóng thẳng, nguồn
bẩn ắt gịng chảy đục ngầu! Đạo cảm ứng chẳng
sai một mảy! Diêm Phù nói đầy
đủ th́ phải là Diêm Phù Đề (Jambudvīpa), cơi này dịch
là Thắng Kim (chất vàng thù thắng). Diêm Phù (Jambu) là
tên một loài cây, Đề (Dvīpa) là từ ngữ chỉ một
châu. Phía trên châu này có khu rừng mọc toàn loại cây ấy.
Trong rừng có con sông, đáy phủ cát bằng vàng, gọi
là Diêm Phù Đàn Kim (Jambunadasuvarṇa). Do cây Diêm Phù mà gọi [đại
châu này] là Diêm Phù Châu. Có năm trăm tiểu châu vây quanh, gọi
chung là Diêm Phù Đề.
Sách Tây Vực Kư nói: “Nam Thiệm Bộ Châu
(tức Nam Diêm Phù Đề), do cơi này [Trung Hoa] không có danh xưng
tương đương, cho nên chẳng dịch nghĩa.
Nếu chỉ ghi lại nghĩa theo văn tự mà dịch
thành Uế Thụ (cây nhơ bẩn) th́ không thể hiện
được ư nghĩa”. Nay chuẩn theo ngài Trường
Thủy[16] có nói: “Nước quả Diêm Phù
có thể biến vật khác thành vàng. Do nước ấy
nhỏ xuống sông, đá bị dính nước ấy, biến thành vàng. Do vậy,
lấy chuyện nước quả nhỏ giọt làm bẩn
để làm danh xưng đẹp đẽ, chẳng lấy
chuyện tiết Thu lá rụng bẩn ao để làm danh xưng
xấu xí”. Tôi tra
cứu, thấy Lập Thế
A Tỳ Đàm[17] nói:
“Xưa kia tại thành Vương Xá, có hai vị tỳ-kheo
có sức thần thông, cùng kết bạn với nhau để
đến xem cây ấy. V́ thế, họ đến chỗ
cây đó, thấy quả đă chín, rơi xuống đất
vỡ nát. Một vị tỳ-kheo bèn từ lỗ thủng
ở cái cuống của quả mà thọc ngón tay vào trong,
ngón dài nhất vẫn chưa chạm đến hạt, bèn
rút ngón tay ra. Do bị nhuốm nước quả, móng tay đều
đỏ. Khi đó, có một người tên là Trường
Hĩnh (cẳng dài), đi tới bên cây, hái một quả đem
về dâng lên đức Thế Tôn. Đức Phật nhận
lấy quả ấy, bẻ thành nhiều miếng, chia cho đại
chúng. Nước quả nhuốm tay Phật, đức Phật
bèn dùng tay chà lên vách đá, đến nay sắc đỏ vẫn
như xưa chẳng khác, vẫn ướt, chẳng khô,
vết tay rành rành. Do xưa kia [đức Phật] đă tách
quả thành từng miếng, nên gọi đá ấy là Phiến
Phiến Nham”. Đoạn văn này đủ để
chứng minh ư nghĩa “thấm nhuộm là Uế”.
“Cảm” (感) là thiên cơ xúc động.
Từ chữ Tâm (心) và chữ Hàm (咸) mà ghép thành chữ Cảm,
hàm nghĩa “cơ cảm lẫn
nhau”. Con người và vạn
vật trong trời đất có cùng một Thể. Chẳng
phải là hai th́ cái ǵ là cảm? Chẳng phải là một
th́ cái ǵ có thể cảm? Cảm sanh từ Tịch, v́ thế
nói là “tịch nhiên bất động”. Do cảm bèn thông,
tức là chủ vắng lặng mà cảm khách, người
học hăy nên đặt vững cái căn cội tự
nhiên này.
[Chữ Cảm lại do] Tâm và Hàm [ghép lại] th́ có nghĩa là ǵ? “Hàm”
là đều, tức là đều do trong tâm động mà có
cảm. Luận Khởi Tín nói: “Do chẳng biết pháp Chân
Như là một, cho nên bất giác tâm động. Hễ động
bèn có khổ, v́ quả chẳng ĺa nhân”. Ngài Nam Nhạc nói:
“Tùy duyên bất biến th́ gọi là Tánh. Bất biến
tùy duyên th́ gọi là Tâm; há chẳng phải là do tâm động
mà cảm ư?”. Kinh dạy: “Nhất thiết chúng
sanh vị giải thoát giả, tánh thức vô định, vi
thiện, vi ác, trục cảnh nhi sanh” (Hết thảy chúng
sanh là những kẻ chưa giải thoát, tánh thức bất
định, làm lành, làm ác, thuận theo cảnh mà sanh) là nói đến
ư này. Nếu luận định chung th́ chúng sanh trong mười
pháp giới đều là nghiệp cảm.
Sách Ma Ha Chỉ Quán viết: “Nghiệp có
ba loại là lậu nghiệp (của lục phàm), vô lậu
nghiệp (của Nhị Thừa), phi lậu phi vô lậu
nghiệp (của Bồ Tát), cảm vời ba cơi là Phần
Đoạn, Phương Tiện, và Thật Báo. Báo do ba thứ
phiền năo là Thủ Tướng (chấp giữ lấy tướng),
Trần Sa, và Vô Minh”. Dựa theo đó, Như
Lai đă đoạn Tam Hoặc, huệ nghiệp vô lậu
thanh tịnh, cảm sanh trong cơi Tịch Quang.
Sách Thập Di Kư nói: “Tông này khéo giải thích
‘tâm tạo’ của Hoa Nghiêm có hai nghĩa: Một là Lư tạo,
‘tạo’ tức là trọn đủ.
Hai là Sự tạo, thông cả ba đời, tạo thành mười
pháp giới, tức là quá khứ tạo thành hiện tại,
quá khứ và hiện tại tạo tương lai, hiện
tại tạo hiện tại, đều do Lư trọn đủ
th́ mới có Sự tạo. V́ thế, thân trong mười pháp
giới, mỗi mỗi đều là toàn tánh khởi tu. Tuy toàn
là tu, nhưng do nhân đă thành cảm quả, chẳng có sai
sót. V́ thế, thân trong mười pháp giới đều có
giả và thật, cùng với y báo, chẳng có một vật
nào tự dưng dấy lên”. Kinh nói: “Vị kiến tha
tác ngă thọ, ngă tác tha thọ, năi tự tác tự thọ
nhĩ. Cố Phật cáo Thủ Ca trưởng giả vân:
- Nhất thiết chúng sanh hệ thuộc ư nghiệp, y
chỉ ư nghiệp, tùy tự nghiệp chuyển, dĩ
thị nhân duyên, hữu thượng, trung, hạ sai biệt”
(Chưa thấy người khác làm mà ta hứng chịu, ta
làm mà người khác hứng chịu, mà là tự làm, tự
chịu đó thôi! V́ thế, đức Phật bảo trưởng
giả Thủ Ca rằng: “Hết thảy chúng sanh bị phụ thuộc, trói buộc bởi
nghiệp, nương cậy nghiệp, bị xoay chuyển
bởi nghiệp của chính ḿnh, do nhân duyên ấy mà có thượng,
trung, hạ sai khác”) là nói về ư này.
Hỏi: Nghiệp cảm thông thấu mười
pháp giới, v́ sao lại chỉ nói về chúng sanh trong Diêm
Phù?
Đáp: Bồ Tát nhất định dùng mười
loại thân[18] để
lợi lạc chúng sanh, dùng bốn cơi để nhiếp hóa
các hữu t́nh. Nay riêng nói Diêm Phù là v́ chúng sanh trong cơi này dễ
tạo nghiệp cảm vời sự khổ cùng cực. V́
thế, bi tâm của Đại Sĩ riêng hướng về
họ. V́ sao biết vậy? Trong các quốc độ khác,
hoặc thuần là Bồ Tát, hoặc ba thừa cùng cư
trụ, tức là phàm và thánh cùng chung sống, hoặc là tạo
nghiệp nhẹ ít. Chỉ có cơi Sa Bà, hễ là chúng sanh ác
nghịch không được mười phương quốc
độ dung chứa th́ đều thác sanh trong cơi này.
Lại nữa, đối với mỗi Tứ
Thiên Hạ, [chỉ nói đến tội nghiệp nặng
nề của Nam Diêm Phù Đề], trọn chẳng nói đến
ba châu kia. Như kinh Trường A Hàm nói người ở
châu Đông Phất Bà Đề (Pūrva-videha, Đông Thắng
Thần Châu), kẻ đa dục th́ trong một đời
chỉ hành dâm tới sáu, bảy lần; cũng có người
tu hành cho đến chết, trọn chẳng có dục sự.
Người ở Tây Châu (Apara-godānīya, Tây Ngưu Hóa Châu, Cù Đa
Ni Châu) tạo nghiệp rất ít. Thánh nhân không sanh vào
Bắc Châu (Uttara-kuru, Bắc Câu Lô Châu, Uất Đan Việt Châu);
chỉ có người ở Nam Châu (Nam Diêm Phù Đề) khởi
tâm động niệm, không ǵ chẳng phải là tội, dẫu
đạt được thiện lợi, phần nhiều
thoái thất cái tâm ban đầu. Nếu tạo ác duyên th́ niệm
niệm tăng trưởng. Do vậy, đặc biệt
nêu ra [nghiệp cảm của họ], càng thấy rơ đức
Địa Tạng đại thánh do ḷng Từ b́nh đẳng, phân thân
trong các cơi nhiều như cát sông Hằng, nhưng bi tâm riêng
hướng về hữu t́nh của Nam Châu. V́ thế, nói
ra phẩm thứ tư là Diêm Phù Chúng Sanh Nghiệp Cảm.
Nghiệm cảm được luận định
trong phần trên là luận chung mười pháp giới, nay
luận riêng trong lục đạo. Xét trong lục đạo,
ba đường lành khổ lạc xen kẽ, ba đường
ác thuần khổ chẳng vui! Ngay như trong tam đồ,
nỗi khổ của ngạ quỷ và súc sanh nhẹ hơn,
nỗi khổ trong địa ngục dữ dội nhất.
Kinh này nói: “Tội khổ chi sự, bất nhẫn xưng
thuyết, bách thiên tuế trung, tốt bạch nan cánh” (Chuyện
tội khô chẳng nỡ nói kể, dẫu nói trong trăm
ngàn năm cũng khó nói trọn hết được). V́
thế, ngài Phổ Hiền nghe phẩm Nghiệp Cảm xong,
liền hỏi tên gọi của địa ngục là do ư
này. Lập Thế A Tỳ Đàm Luận nói: “Địa
ngục, tiếng Phạn là Nê Lê
Da (Naraka), âm đúng là Na Lạc Ca, hoặc là Nại Lạc
Ca, cơi này dịch là Vô Hữu”. Tân Tỳ Bà Sa Luận
nói: “[Sở dĩ gọi tên như vậy là] v́ các hữu
t́nh ấy không vui vẻ, không yêu mến, vô vị, chẳng
có lợi ích, không vui sướng”. Cựu Tỳ Bà Sa Luận
gọi [địa ngục] là Bất Tự Tại, ư nói những
tội nhân ấy bị ngục tốt A Bàng[19]
câu thúc, chế ngự, chẳng được tự tại.
Đấy là dựa theo ư nghĩa của chánh báo mà phiên dịch.
Theo kinh này, địa ngục ở trong ba cái
biển. Theo Tân Tỳ Bà Sa Luận, địa ngục ở
phía dưới Thiệm Bộ
Châu (châu Nam Diêm Phù Đề) này. Sách Diệu Pháp Liên Hoa Kinh
Huyền Nghĩa nói: “Địa ngục chánh nằm sâu hai
vạn do-tuần dưới đất; c̣n các địa
ngục phụ, hoặc ở trên mặt đất, hoặc
ở trong khoảng giữa núi Thiết Vi”. Nay do nói theo đa
số, bèn gọi là địa ngục. Luận Tỳ Bà Sa
lại nói: “Nam Châu có các địa ngục chánh và phụ.
Hai châu Đông và Tây chỉ có địa ngục phụ, không
có địa ngục chánh. Bắc Châu th́ địa ngục
chánh lẫn phụ đều chẳng có. Người trong
ba châu nếu tạo trọng tội, đều đến
chánh ngục ở Nam Châu và các ngục phụ ở hai châu Đông
và Tây v́ địa ngục chánh th́ nặng nề, địa
ngục phụ th́ nhẹ nhàng hơn”.
“Danh hiệu” [ở đây] là danh xưng
của địa ngục. “Danh” là tự gọi, hay đặt
tên cho các vật. Xưa kia, Hoàng Đế đặt tên gọi
chánh thức cho trăm vật. Do coi [những danh xưng đă
đặt ấy] là lẽ đương nhiên, nên gọi
là Chánh. Nhưng trăm vật đông đảo, sao lại
từ Tịch (夕,buổi tối) và Khẩu
(口) [ghép thành chữ Danh (名)]? Sách
Châu Lễ nói: “Quan đại tư mă chưởng quản
các danh hiệu [trong quân đội] là v́ đối với việc
chỉ huy trong quân vào ban đêm, dẫu tối tăm [nhưng
do dựa vào khẩu lệnh khác nhau] vẫn có thể phân
biệt được”. “Hiệu” (號) là mệnh
lệnh triệu tập của bề trên dùng để công
bố tin tức quan trọng, giống như gió trong trời
đất vậy. Nếu chẳng như vậy, sẽ không
có ǵ để cổ vũ, hô hào mọi người, đó
cũng là tên chung để gọi muôn vật, gom những cái
khác biệt thành cái chung! Hay thay ư nghĩa tự đặt
tên! Vua Diêm La bảo các tội nhân: “Các ngươi tự làm
ác, chẳng phải là lỗi của cha mẹ, vua, trời,
sa-môn, hay đạo nhân. Tội do chính các ngươi tạo,
bất đắc dĩ v́ không đạt được
vui sướng cho nên mới thôi! Nay [các ngươi] phải
hứng chịu [những quả báo do tội lỗi ấy],
bèn [dùng tên gọi của những quả báo ấy] làm danh
xưng của địa ngục, đều là tự làm rồi
tự đặt tên vậy”. Hay thay! Truyền lệnh thông
báo tin như thế đấy!
Nếu Diêm Vương chẳng lập danh
hiệu địa ngục, sẽ dùng ǵ để cảnh
tỉnh, răn đe tội nhân? [Quả báo trong địa
ngục] tơ hào chẳng sai, [nêu ra danh hiệu địa
ngục] nhằm cổ vũ [chúng sanh] hăy sửa ác, theo lành!
Tuy ai nấy đều tạo tội riêng biệt, nhưng
nhất loạt đọa vào địa ngục chẳng sai!
Do gộp chung những điều khác biệt thành tương
đồng mà đều gọi là địa ngục. Nhưng
chữ Ngục (獄) do chữ Ngôn (言) và hai chữ Khuyển
(犬, chó) ghép lại, nhằm nói lên
điều ǵ? Tranh căi! Như hai con chó tranh tiếng
sủa. Đấy là nơi mất thân, mà cũng là nơi hồi
tâm. Than ôi! Trong nhân gian, một kẻ bị giam vào ngục,
sẽ khiến cho chín họ[20]
kinh hoàng, thảng thốt. Lục thân đọa vào địa
ngục, người nghe chuyện cứ ơ hờ, chẳng
hoảng sợ, chẳng cảnh tỉnh, nhọc nhằn đức
từ tôn Địa Tạng bao kiếp cứu bạt, ngục
nào, ngục nấy càng tăng thêm! Đức Phổ Hiền thưa hỏi,
xin [Địa Tạng Bồ Tát] nói ra, v́ thấy đại
hạnh chẳng ngưng nghỉ, biểu thị bi tâm [của
đức Địa Tạng] chẳng hề gián đoạn.
Đấy chính là thâm ư thưa hỏi danh hiệu địa
ngục vậy.
Trong những phần trên đă trần thuật
nghiệp duyên và nghiệp cảm của chính ḿnh, cho đến
phẩm này, cũng được gọi là tam đạo,
c̣n gọi là tam chướng. Sở dĩ nói ra điều
này là v́ muốn khai hiển tam đạo, hoặc [chỉ bày] tam chướng chính là
tam đức. Như sách Ma Ha Chỉ Quán viết: “Hỏi:
Tam chướng và tam đạo đều chướng ba
đức. Tam chướng khai thông tới cùng cực, th́ lẽ
ra tam đạo cũng phải được khai thông tới
cùng cực chứ? Đáp: Xét theo Sự, do Hoặc mà dấy
lên nghiệp, do nghiệp mà cảm khổ, do khổ lại
dấy lên Hoặc. Ba điều ấy là tu ác, tức là tánh
thành ba thứ. Tánh [ở đây] là nói đến ba chướng,
cho nên có đủ cả ba. Tu từ tánh mà thành, cho nên thành
ra ba pháp. V́ thế, tu ác trong tam đạo và tam ác trong tánh
dung thông, tùy ư thâu nhiếp tam đức tánh thiện trong Phật
giới”. Do đó, đại sư nói: “Hăy
nên biết tam đạo, Thể của chúng chính là chân Thường
Lạc Ngă Tịnh, chẳng hai, chẳng khác với ba đức”.
V́ thế, khổ đạo chính là Pháp Thân, phiền năo chính
là Bát Nhă, kết nghiệp chính là Giải Thoát. Nêu ra ba phẩm
ấy chính v́ muốn khai thông thô trí lâu xa trong tứ ác và thế trí của nhân
thiên; đừng mở
ra sắc tâm giả thật trong địa ngục. Nếu chẳng khai thông,
ắt tri kiến của Phật vĩnh viễn bị vùi
lấp trong bốn nẻo, mai một dài lâu trong đường
trời, người. Ba phẩm được khởi lên
khúc chiết, liên kết, một đạo khơi rạng
đă thành; v́ thế, sức oai thần của đức Địa
Tạng chẳng thể nghĩ bàn!
Ba phẩm Chúng Sanh Nghiệp Duyên v.v… trên đây
đă mở bày “tam đạo thành tam đức đều
là do sức oai thần chẳng thể nghĩ bàn của đức
Địa Tạng”. V́ thế, đức Như Lai
đối trước đại chúng trời, người,
đặc biệt giăi bày, tán thán. Một là nhằm hiển
thị thần lực từ bi của đức Địa
Tạng từ vô số kiếp đến nay. Hai là khuyên chúng
sanh trong đời vị lai cúng dường [Bồ Tát] sẽ
được phước. V́ vậy mà có phẩm này. Tiếng
Phạn Đa Đà A Già Đà (Tathāgata), hoặc [c̣n phiên âm] là Đát Thát A Kiệt,
Hán dịch là Như Lai. Như Lai là giả danh. Danh ắt
triệu vời cái thật, cho nên có Pháp, Báo, Hóa ba thân khác
nhau. Kinh Kim Cang nói: “Vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ,
cố danh Như Lai giả” (Không từ đâu đến, mà cũng không đi
đến đâu, cho nên gọi là Như Lai); đó là nói về
Pháp Thân. Nếu bảo “Đệ Nhất Nghĩa Đế
gọi là Như, Chánh Giác là Lai”, đấy là nói đến
Báo Thân. Nếu nói
“thừa như thật đạo, lai thành Chánh Giác” (nương
theo đạo như thật, đạt thành Chánh Giác) th́ gọi
là Như Lai; đấy là nói về Ứng Thân. Nay [kinh chép]
đức Phật tán thán ở cung trời là nói về thân
nào? Cần phải biết kinh này [được nói] sau
kinh Pháp Hoa, ắt đại chúng trong cung trời toàn là căn
cơ viên măn, đều dùng nghiệp thức để thấy
tướng, trụ trong thật lư Trung Đạo. Đấy
chính là sắc ứng, chính là thân tôn quư đặc biệt,
giống như long nữ [tám tuổi, thị hiện thành Phật
trong hội Pháp Hoa], gọi là Pháp Thân thanh tịnh vi diệu,
trọn đủ ba mươi hai tướng, mỗi tướng
đều như biển, chẳng cần phải hiện
khởi th́ mới gọi là “tôn đặc” (tôn quư, đặc
biệt), chính là cảnh bổn định thân của đức
Thích Ca, lại c̣n là chân thân của Viên Thật Bộ Chủ.
“Tán” (讚) là lời lẽ khen ngợi;
do văn từ trong phẩm này mà kết thành chương kinh.
“Thán” (歎) là than thở, chính là thuận
theo tiếng mà ca vịnh. Địa Tạng Đại
Sĩ oai đức vô cùng, từ bi thật lớn, tán dương
chẳng trọn hết những điều bao hàm, cho nên lại
thêm lời than thở. Hỏi: “V́ lẽ ǵ đức Phật
chẳng tán thán công đức Lục Độ của đức
Địa Tạng, mà riêng tán thán sức từ bi oai thần
vậy?” Đáp: Như Đại Luận nói: “Chúng sanh có
hai loại: Một là người thích thiện pháp, hai là người
thích quả báo của thiện pháp. V́ người thích thiện
pháp mà tán thán các công đức. V́ người thích quả báo
của thiện pháp mà tán thán đại thần lực”,
đúng là có cùng một ư với kinh này. V́ thế gọi là
phẩm thứ sáu, tức phẩm Như Lai Tán Thán.
Phẩm trên đây đă tán thán sức oai thần,
nay nói về sự lợi ích cho kẻ c̣n và người mất
để hiển thị sự thật. Bậc cổ thánh
nói: “Chỉ nói suông, chẳng bằng thấy sự thật”.
Nay nêu ra lợi ích cho kẻ c̣n, người mất, chính là
để thấy sự thật. “Lợi” là quan tâm đến
lợi ích của chính ḿnh. Chúng sanh ai nấy đều mong
được thỏa ư, sẽ dễ dẫn đến ích kỷ; [cho
nên] cổ nhân nghiêm cấm. Chữ Vật (𥝤) được ghép thêm
chữ Đao (刀) [thành chữ Lợi (利), hàm ư] “cầu lợi
th́ sẽ dẫn đến điều hại!” “Ích”
(益) là tăng tấn. Cân nhắc
khi rót nước vào bát, vừa đúng sức chứa của
nó bèn ngưng; hễ c̣n thiếu th́ vẫn có thể nhận
thêm, hễ đầy th́ sẽ chẳng chứa thêm nữa.
V́ thế, Ích c̣n là “lợi
ích rộng khắp”, chẳng phải là như thêm nước
vào sẽ tràn đầy. “Tồn” (存) là hăy
c̣n. Riêng giữ lấy chữ Tử (子) [bên trong
chữ Tại (在)], nhằm thể hiện
ḷng lo lắng đau đáu của cha mẹ. Ư nghĩa của
chữ Tồn này xét theo ư nghĩa của chữ Tài (才), tức
là cha mẹ sanh con, thường sợ hăi chẳng biết
con sẽ sống sót hay chết mất, may mà con chẳng chết
yểu, cho đến khi con thành tài, [cha mẹ] sẽ vui mừng.
[Từ chuyện này] mà có thể biết ư nghĩa [của Tồn]. “Vong” (亡) là mất
đi. Con cái hăy c̣n, cha mẹ đă mất. Cha mẹ đă
mất, đă chôn cất rồi, đứa con hiếu vẫn
như cha mẹ hăy c̣n nằm đó. Đă chôn rồi, đâm
ra dẫu cầu [cha mẹ sống lại] cũng chẳng
được! [Chữ Vong (亡) do Nhập (入) và Ẩn (乚) ghép lại, hàm ư: Cha mẹ
chết đi] như vào trong chỗ ẩn kín, bèn dùng tế
lễ để cầu, thờ người khuất y như
c̣n sống, giống như mong cha mẹ đă đi rồi
sẽ trở lại. Đấy là cách giải thích theo thế
tục.
Như sách Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền
Nghĩa nói: “Công đức lợi ích, một mà chẳng
khác. Nếu phân biệt th́ lợi ích cho chính ḿnh sẽ gọi là công
đức; lợi ích cho kẻ khác th́ gọi là Lợi Ích”. Nay Địa Tạng
Bồ Tát tự khuyên mọi người, hăy v́ bệnh nhân
tu phước niệm Phật, thận trọng, đừng
sát hại để bái tế quỷ thần. Ngài cùng ông trưởng
giả Đại Biện nêu rơ nhân duyên tụng kinh, cúng cỗ
chay khi sanh nở và khi có người đă khuất, đều
chẳng v́ chính ḿnh, mà chỉ v́ chúng sanh c̣n sống hay đă
khuất, nên chỉ gọi là “lợi ích”. Tức là nói
rơ có ba thứ lợi ích:
1) Một là viễn ích (lợi ích xa xôi), như
đại chúng nhóm họp tại cung trời, từ chư
Phật, Bồ Tát giải thoát đă lâu, cho tới các loại
thiên long bát bộ căn cơ đă chín muồi, nhưng chưa
giải thoát.
2) Hai là cận ích (lợi ích gần gũi):
Từ thời Câu Lưu Tôn Phật trong Hiền Kiếp cho
đến Phật Thích Ca, tức là từ bốn vị Phật
cho tới nay, những chúng sanh do Địa Tạng Bồ
Tát hóa độ có kẻ đă gieo thiện căn, có kẻ
căn cơ đă chín muồi, có kẻ đă được
độ thoát, họ đều là những người đến
thiên cung để nghe pháp.
3) Thứ ba là văn ích (lợi ích do được nghe
kinh này), tức là nghe xong phẩm
kinh này, ngàn vạn ức na-do-tha quỷ thần trong cơi Diêm
Phù đều phát vô lượng Bồ Đề tâm, và những
người nghe pháp trước sau đều do nghe pháp mà đạt
được lợi ích. Kinh này đă giống như kinh Pháp
Hoa, cũng nên chuẩn theo Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền
Nghĩa để nêu đại lược bảy thứ
lợi ích, hoặc mở rộng thành mười thứ lợi
ích. Nhưng từ xưa cho tới nay, luận định
về công năng khơi mở, hiển thị cao tột
th́ chỉ đề cao kinh Pháp Hoa, ngay cả Niết Bàn cũng
c̣n kém, há có thể đem lời phó chúc viên dung trên thiên cung sánh
ngang lời đàm luận khơi mở, hiển thị cùng
tột tại Linh Sơn? Ba món lợi ích gồm thâu căn
cơ, nghĩa ấy tự toàn vẹn. V́ thế, nói phẩm
thứ bảy là phẩm Lợi Ích Tồn Vong.
Phẩm Diêm Vương được xếp
ngay sau đó là v́ hai ư:
1) Một là từ đầu, khi các phân thân
của đức Địa Tạng lên trời Đao Lợi,
Diêm Vương và các loài quỷ đều cùng theo đến.
Họ chẳng được kể tên trong số đại
chúng vân tập v́ chủ khách thù tạc, sự tích liên quan,
chẳng rảnh để kể tên. V́ thế, trong phẩm
này, bèn thừa dịp mà kể ra.
2) Đă nghe sức oai thần của ngài Địa
Tạng, lại thấy đức Như Lai tán thán công
đức, bèn thầm nghĩ Đại Sĩ thực hiện
sự giáo hóa trong chốn U Minh, ta là bậc đàn chủ,
há chẳng thừa dịp hỏi rơ về chuyện độ
sanh cứu khổ của Ngài trong bao kiếp để
bày tỏ sự tán thán ư?
V́ thế, có phẩm thứ tám là Diêm La Vương
Chúng Tán Thán.
Diêm La nói đầy đủ là Diêm Ma La, hoặc
Dạ Ma Lô Ca (Yamarāja), cơi này
dịch là Tổng Tư (總司) của Song Thế Quỷ
Quan, hoặc là Diêm Ma La Xă, cơi này dịch là Song Vương.
Anh trai và em gái đều làm chúa cơi địa ngục, anh cai
quản chuyện của nam giới, em coi chuyện của
nữ nhân. Lại c̣n do phải nhận lănh khổ lẫn
lạc, cho nên gọi là Song. Nếu nói là Diêm La hay Diễm
Ma th́ chỉ là phiên âm sai khác. Vị này thuộc về đường
quỷ, hoặc thuộc về đường địa
ngục. Theo Tịnh Độ Tam Muội Kinh, xưa kia, Tỳ
Sa Quốc Vương cùng vua Duy Đà Như Sanh giao chiến,
binh lực không chống nổi địch thủ. [Vua Tỳ
Sa] bèn thề nguyền làm chúa địa ngục. Mười
tám người bầy tôi là thủ lănh của trăm vạn
quân sĩ, đầu có sừng, thảy đều phẫn
hận; do vậy, họ thề nguyền mai sau sẽ phù tá
[ngục chủ] trừng trị tội nhân. Vua Tỳ Sa nay
là Diêm La Vương; mười tám vị đại thần
nay là tiểu vương. Trăm vạn quân sĩ đều
là các A Bàng.
Kinh Trường A Hàm nói: “Diêm Phù Đề
Nam, hữu Kim Cang sơn, nội hữu Diêm La vương
cung, tung quảng lục thiên do-tuần (Vấn Địa
Ngục Kinh vân: “Trụ ngục gian, thành tung quảng
tam vạn lư, kim ngân sở thành”). Trú dạ tam thời, hữu
đại đồng hoạch, tự nhiên tại tiền.
Nhược hoạch nhập cung nội, vương kiến
bố úy, xả xuất cung ngoại. Nhược hoạch
xuất cung ngoại, vương nhập cung nội. Hữu
đại ngục tốt, ngọa vương nhiệt thiết
thượng, thiết câu tịch khẩu, dương đồng
quán chi, tùng yết triệt hạ, vô bất tiêu lạn. Sự
cánh, hoàn dữ thái nữ cộng tương ngu lạc. Bỉ
chư đại thần đồng thọ phước
giả, diệc phục như thị. Thị tắc Diêm Vương
dữ chúng thần tá, giai dục thoát minh giới chi khổ”
(Phía Nam của Diêm Phù Đề có núi Kim Cang, trong ấy có
cung điện của vua Diêm La, ngang dọc sáu ngàn do-tuần
(Vấn Địa Ngục Kinh nói: “Trụ trong ngục, thành
có kích thước ba vạn dặm, do vàng và bạc tạo
thành”). Ngày đêm ba thời, có vạc đồng lớn, tự
nhiên hiện ra trước mặt. Nếu vạc vào trong
cung, vua trông thấy sẽ kinh
sợ, bỏ ra ngoài cung. Nếu vạc ra ngoài cung, vua liền
vào trong cung. Có đại ngục tốt, đặt vua nằm
trên sắt nóng, dùng móc sắt căng miệng ra, rót nước
đồng sôi vào, từ cổ họng thấu xuống dưới,
không ǵ chẳng cháy tan. Xong việc, vua lại cùng các cung nữ
vui chơi. Các vị đại thần cùng hưởng phước
cũng [chịu khổ] giống như thế. V́ vậy,
Diêm Vương và các bầy tôi đều mong thoát khỏi
nỗi khổ chốn U Minh). Do đó, họ giăi bày, tán thán, phát Bồ
Đề tâm. Đấy là nói về những người thật
sự cảm sanh trong địa vị ấy. Chứ nếu
xét theo bổn tích của Chủ Mạng Quỷ Vương
trong phần kinh văn kế đó th́ Diêm Vương và các
quỷ đều là bậc Bồ Tát chẳng thể nghĩ
bàn, trụ trong Vương tam-muội, ứng hiện trong
ấy để độ thoát chúng sanh trong địa ngục.
Nếu không, há có thể dự hội trên thiên cung mà thưa
hỏi để giải quyết mối hoài nghi, giăi bày, tán
thán ư?
Các phẩm trên đây, hoặc là vạch rơ tướng
sai biệt trong lục đạo, hoặc tán thán sức
oai thần của Địa Tạng, hoặc giảng rộng
về lợi ích cho kẻ c̣n, người mất. Nếu
chẳng nêu rơ cái nhân thoát khổ thành Phật, th́ cái tâm cứu
bạt ban sơ, cái nguyện mong cho chúng sanh cùng thành Phật
quả của đức Địa Tạng sẽ chưa
toàn vẹn. Mong thành Phật quả, ắt phải xưng
niệm Phật. V́ thế có phẩm Xưng Phật Danh Hiệu.
Chữ Phật Đà (Buddha) trong tiếng Phạn, Hán dịch
là Tri Giả, v́ đối với hết thảy các pháp, Ngài
đều hay biết rơ ràng. Có khi dịch là Giác Giả, v́ Phật
là bậc tự giác, giác tha, giác hạnh viên măn. Ấy là v́ đối
với mê mà nói là Tri (biết), đối với ngu mà nói là
Giác. Triệu pháp sư (ngài Tăng Triệu) nói: “Phật
là như thế nào? Chính là tiếng xưng hô bậc cùng lư
tận tánh, đại giác”. Phàm là giấc ngủ sanh tử
dài dằng dặc, ai có thể tự thức giấc (tự
giác)? Đă tự giác, lại c̣n giác ngộ người khác,
chỉ có ḿnh đức Phật đó chăng? Triệu vời cái Thể th́
là Danh, biểu thị đức th́ là Hiệu; tức Danh
là Biệt, mà Hiệu là Thông. Hết thảy chư Phật
đều có đủ mười hiệu, vang rền nhân
thiên. Nếu nói ra cái danh mà không có công năng đạt được
vật, th́ sẽ chẳng có vật để cái danh xứng
với thật. Đấy là nói đến pháp nhân duyên trong
thế gian. Danh và vật đều vọng, cả hai đằng
đều chẳng đạt được! V́ thế nói
là đương nhiên! Nay danh hiệu của chư Phật
th́ danh và thật đều là chân thật. Do đó, hồng
danh vừa nêu, muôn đức toàn bộ đều trọn.
Vừa xưng danh hiệu tốt lành, các tội đều
tiêu!
Nhưng niệm Phật và xưng Phật có
chút sai khác. Niệm Phật đại khái là xét theo quán tâm,
thành tựu Niệm Phật tam-muội. Đại sư lập
ra bốn thứ tam-muội, đều gọi là Niệm
Phật. Niệm là diệu quán năng quán (chủ thể thực
hiện sự quán tưởng), Phật là diệu cảnh
sở quán (đối tượng để quán). Thiền
Bí Yếu Pháp Kinh chép: “Hữu Thiền Nan Đề A La
Hán vấn diệt tội pháp. Phật cáo Thiền Nan Đề,
cập sắc A Nan: - Nhữ đẳng đương
giáo vị lai chúng sanh tội nghiệp đa giả, vị
trừ tội cố, giáo sử niệm Phật. Dĩ niệm
Phật cố, trừ chư nghiệp chướng, báo
chướng, phiền năo chướng. Niệm Phật giả,
đương tiên đoan tọa, xoa thủ, bế mục,
cử thiệt hướng ngạc, nhất tâm hệ niệm.
Tâm tâm tương chú, sử bất phân tán. Tâm kư định
dĩ, tiên đương quán tượng” (Có vị A La
Hán tên là Thiền Nan Đề hỏi pháp diệt tội.
Đức Phật bảo ngài Thiền Nan Đề và sắc
truyền A Nan: - Các ông hăy dạy những chúng sanh nhiều
tội nghiệp trong đời tương lai, để
trừ tội th́ hăy dạy họ niệm Phật. Do v́ niệm
Phật mà trừ các nghiệp chướng, báo chướng,
và phiền năo chướng. Niệm Phật th́ trước
hết hăy nên ngồi ngay ngắn, đan các ngón tay vào nhau,
nhắm mắt, lưỡi co lên ṿm họng, một ḷng hệ
niệm. Tâm tâm chuyên chú, khiến cho nó chẳng phân tán. Tâm đă
định rồi, trước hết hăy nên quán tượng).
Đức Phật lại nói: “Phật diệt độ
hậu, nhược chúng sanh dục diệt tội giả,
Phật tuy bất tại, hệ niệm, đế quán h́nh
tượng giả, chư ác tội nghiệp tốc đắc
thanh tịnh” (Sau khi đức Phật diệt độ,
nếu chúng sanh muốn diệt tội th́ tuy đức Phật
chẳng tại thế, hăy hệ niệm, quán kỹ h́nh tượng,
các ác tội nghiệp sẽ nhanh chóng được thanh tịnh).
V́ thế, luận Bảo Vương nói: “Tắm trong biển
cả là đă dùng nước của trăm sông. Niệm danh
hiệu Phật, ắt thành tam-muội. Cũng ví như thanh
châu gieo vào nước đục, nước đục chẳng
thể không trong. Phật tưởng gieo vào loạn tâm, loạn
tâm chẳng thể không là Phật! Sau khi đă khế hợp,
tâm lẫn Phật cùng mất, vậy th́ vạn duyên, vạn
cảnh, không ǵ chẳng phải là tam-muội”.
Xưng Phật là như Tiểu
Di Đà Kinh dạy: “Văn thuyết A Di Đà Phật, chấp
tŕ danh hiệu, nhược nhất nhật, nhị nhật,
năi chí thất nhật, nhất tâm bất loạn…” (Nghe
nói A Di Đà Phật bèn chấp tŕ danh hiệu, hoặc là một
ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn…)
Từ Vân Sám Chủ nói: “Nói đến niệm Phật th́
hoặc chỉ xưng danh hiệu, chấp tŕ chẳng tán
loạn, sẽ cũng trong thân hiện đời bèn được
thấy Phật”. Trong cơi này, hiện thời, phần
nhiều xưng danh hiệu Phật là tốt nhất. Như
pháp sư Hoài Cảm một mực xưng danh hiệu A Di
Đà Phật, bèn đắc tam-muội, thấy Phật trong
hiện tiền. V́ thế, hiện thời, phổ biến
là dạy cách xưng danh hiệu Phật, ắt cần phải
chế ngự cái tâm, đừng để cho nó tán loạn.
Niệm niệm nối tiếp, duyên chắc theo danh hiệu.
Miệng từng tiếng gọi Phật, trong tâm từng
chữ rơ ràng, hoặc là một trăm câu, ngàn câu, vạn câu,
hoặc một ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày, cần
phải nhất tâm, nhất ư, tâm và miệng tiếp nối.
Như thế th́ mới đạt được “một
niệm diệt tội trong tám mươi ức kiếp sanh
tử”. Nếu không, rất khó diệt tội!
Đại sư giải thích nhất tâm xưng
danh có Sự và Lư. Nếu dụng tâm giữ cho cái niệm chẳng
gián đoạn, th́ gọi là Sự nhất tâm. Nếu đạt
được cái tâm ấy, bốn thứ chẳng sanh (tự, tha, đồng
(cùng), ly (ĺa), tức là bốn thứ so đo về tánh), tương
ứng với Không Huệ (đă ĺa bốn tánh, liền biết
Vô Sanh) th́ là Lư nhất tâm. Do vậy, niệm Phật và xưng
Phật tuy phân biệt mà chẳng phân biệt! Cho nên nói “pháp
chẳng có h́nh thể nhất định, muốn thật
sự hiểu rơ sự thần diệu của nó th́ phải
do mỗi người tự lănh hội!” Nhưng kinh này
riêng nêu danh hiệu của chư Phật, chứ các kinh khác
đều tán thán A Di Đà Phật, bởi lẽ [chư Phật
đều là] “một thân, một trí huệ, lực, vô
úy cũng thế”. Nếu chuyên niệm A Di Đà Phật,
sẽ giống như xưng danh hiệu của chư Phật;
nhưng vẫn là tùy theo ư thích của mỗi người, há
nên hạn cuộc nhất định! Bởi lẽ, danh
hiệu của chư Phật đều do vạn hạnh
vạn đức hợp thành. Dù niệm hay xưng, dù Sự
hay Lư, đều thoát khỏi ṿng khổ, cùng sanh về Tịnh
Độ! V́ thế nói phẩm thứ chín là phẩm Xưng
Phật Danh Hiệu.
Xưng danh hiệu Phật cố nhiên là căn
bản để thành Phật; nhưng nếu không có phước
giúp sức, cội sẽ không sâu, gốc sẽ chẳng lớn,
mong chi đơm hoa, kết trái ư? V́ thế, nói về
chuyện so sánh công đức bố thí để chỉ rơ
sự tạo duyên bổ trợ. “Giảo” (較) là không bằng nhau, “lượng”
(量) là rộng răi, rỗng rang, chứa
vật. Hễ là Lượng (đo lường) th́ đều
tính dung lượng theo cách đo của phép Hoàng Chung (tức
là Hoàng Chung (黃鍾) trong Lục Luật. Tháng
Mười Một được gọi là Chung (鍾), có nghĩa là rỗng không.
Trống rỗng bên trong th́ sẽ chứa được
nhiều, cho nên [phát ra] âm thanh lớn. Sách Bạch Hổ Thông[21]
viết: “Chung chi ngôn động giả” (Chung là nói đến
động). Khí Âm hoạt động, vạn vật sanh
thành). Thật sự là dùng hạt cự thử (hạt kê đen)
ở phương Bắc để ước tính [thành các
đơn vị] là Dược[22],
Hợp, Thăng, Đẩu, Hộc để đo lường
nhiều ít. Đơn vị Dược trong Hoàng Chung khởi
nguồn dùng nước giếng để chuẩn định
dung lượng của nó (Mạnh Khang nói: “Muốn chuẩn định
cho đúng th́ dùng nước để định đoạt.
Do nước giếng trong nên sẽ dễ thấy được
chuẩn mực”). Gom Dược thành Hợp (合, đúng ra phải đọc
là Cáp), mười Hợp là một Thăng, mười Thăng
là một Đẩu, mười Đẩu là một Hộc,
năm đơn vị đo lường đă tốt đẹp
rồi. Đo lường nhiều hay ít, chẳng đánh mất
khuê toát[23] (Khuê
là h́nh dáng tự nhiên, là khởi đầu của Âm Dương.
Bốn Khuê là một Toát, [Toát là số lượng] có thể
bốc lấy bằng ba ngón tay).
Bố thí là phước xuất thế; [kinh
Kim Cang dạy] “phước đức chẳng phải là
phước đức bèn gọi là phước đức”,
sao lại chú trọng so lường từng truy[24],
từng thù vậy? Hăy nên biết Bồ Tát Ma Ha Tát xét rơ [căn
cơ của] đại chúng dự hội, do vậy, mà có
lợi ích Tứ Tất Đàn. Do ḷng đại bi, Ngài bèn
dạy họ tu phước hạnh. Môn đầu tiên của
phước hạnh là trước hết hăy hành Bố Thí.
Bồ Tát hành Bát Nhă Ba La Mật, trí huệ sáng suốt, nhạy
bén, có thể phân biệt phước do bố thí. Tuy phước bố thí như nhau, nhưng phước
đức nhiều hay ít, tùy thuộc cái tâm thù thắng hay
kém cỏi; do vậy, cần phải so lường. “Bố”
(布) là rải. Sách Nhĩ Nhă ghi: “Tế
tinh[25]
viết Bố” (Cúng sao th́ gọi là rải
rác), ư nói rải thức ăn trên mặt đất, nhằm
mô phỏng sự rải rác [của các ngôi sao trên bầu trời].
“Thí” (施) là ban cho; nhưng có hai
hoặc ba loại bất đồng. Hai loại th́ là Tài
Thí và Pháp Thí. “Tài” (財) là nói đến ẩm
thực, y phục, thậm chí vợ con, thân mạng! Hễ
có người cần, thảy đều ban cho, đều
gọi là Tài Thí. Pháp tức là các thiện pháp thế gian và
xuất thế gian, dùng cái tâm thanh tịnh mà v́ người
khác diễn nói, đều gọi là Pháp Thí. Ba loại thí th́
là Tư Sanh (資生, những vật cần dùng cho cuộc sống),
Vô Úy, và Pháp Thí. Tư Sanh Thí chính là Tài Thí trên đây. Vô Úy Thí
là tŕ giới chẳng gây phiền năo cho người khác, chẳng
kết oán, nhẫn nhục, chẳng báo oán, cho nên Vô Úy (không sợ hăi). Pháp
Thí là Tinh Tấn, thuyết pháp chẳng mỏi mệt. Thiền Định tức là
thuyết pháp chẳng sai căn cơ. Trí Huệ là thuyết pháp chẳng
điên đảo, giống như Pháp Thí trong phần trên.
Nhưng bản thể của ba loại Thí này thông với Lục
Độ. Nếu hành Đàn Na (Bố Thí Độ), sẽ
bao gồm các độ kia. Đức Di Lặc có bài kệ
Bát Nhă như sau: “Đàn nghĩa nhiếp ư lục, tư
sanh, vô úy, pháp, thử trung nhất, nhị, tam, danh vi tu hành
trụ” (Thí nghĩa nhiếp sáu độ, tư sanh, vô úy,
pháp, một, hai, ba trong ấy, gọi là tu hành trụ), [nghĩa là]: Tư Sanh (Tài Thí) chính là một độ (tức
Bố Thí), Vô Úy bèn có hai (Nhẫn Nhục và Tŕ Giới), Pháp
Thí bèn có ba (Tinh Tấn, Thiền Định và Trí Huệ). V́
thế, hành môn trong Phật đạo tuy nhiều, nhưng
Bố Thí bao gồm trọn hết. Bố Thí có công năng
phá hết sáu điều tệ, có phẩm đức chứng
Tam Đức. V́ thế nói là Công Đức Bố Thí.
“Duyên” tức là nhân duyên, có ư nghĩa “giúp
cho sanh khởi”; tức là trong có tín tâm, ngoài có phước
điền, giữa có tài vật. Ba sự ḥa hợp, tâm
sanh Xả pháp, có thể phá keo kiệt và tham lam, th́ là Đàn
Na (bố thí). Nếu ba sự mà thiếu một, Thí chẳng
thành tựu. V́ thế, cần phải cậy vào duyên! Nếu
được duyên để hành Thí, phước sẽ vô
lượng. Do vậy, “so lường” là như ngài Địa
Tạng bạch Phật: “Ngă quán nghiệp đạo chúng
sanh, giảo lượng bố thí, hữu khinh, hữu trọng.
Hữu nhất sanh, thập sanh thọ phước, hữu
bách sanh, thiên sanh thọ đại phước lợi” (Con
xem chúng sanh trong nghiệp đạo, so lường về
sự bố thí th́ có nhẹ, có nặng. Có người hưởng
phước một đời, mười đời, có người
trăm đời, ngàn đời, hưởng đại phước
lợi). V́ thế, cần phải so lường. Một là
dựa theo phước điền để so lường;
hai là dựa theo tâm bố thí để so lường.
1) Xét theo phước điền, như kinh
Tu Đạt và Tứ Thập Nhị Chương Kinh v.v… đều
nói bố thí cho kẻ phàm phu trong cơi Diêm Phù, phước sao nhiều bằng
thí cho tiên nhân? Tuy thí cho tiên nhân, chẳng bằng thí cho một
vị Tu Đà Hoàn, cho đến tuy thí cho một trăm vị
Bích Chi Phật, không bằng cúng thí Như Lai, phước càng
nhiều hơn! Đại Luận nói: “Phước bố
thí là do phước điền. Như vị A La Hán tên là Ức Nhĩ, xưa
kia dùng một đóa hoa dâng cúng nơi tháp Phật, trong chín
mươi mốt kiếp hưởng vui sướng trong
cơi trời người. Do sức phước đức c̣n
thừa, bèn đắc A La Hán”. Do thí điền (施田, ruộng bố thí, tức đối tượng
nhận bố thí) mầu nhiệm mà đạt được
quả báo to lớn. Hăy nên biết phước to lớn
sanh từ ruộng tốt.
2) Xét theo tâm, Luận nói: “Bố thí có hai loại,
một là tịnh, hai là bất tịnh. Bất tịnh là chỉ
thí mà thôi, hoặc là v́ mất mát tài vật mà thí, hoặc v́
[người nhận bố thí là người] thân yêu nên bố
thí, hoặc là chẳng nhất tâm, chẳng cung kính, khinh rẻ
kẻ nhận bố thí, do trái nghịch với thanh tịnh,
th́ gọi là Bất Tịnh. Tịnh thí là do đối trị
cái tâm mà bố thí, do ư trang nghiêm mà bố thí, do v́ được
lợi bậc nhất mà bố thí, sanh tâm thanh tịnh, có
thể phân biệt, có thể giúp cho Niết Bàn cho nên bố
thí. Ví như hoa mới chưa héo, đẹp đẽ, lại
c̣n thơm tho. Tịnh tâm bố thí cũng giống như
thế. Như ngài Xá Lợi Phất đem một bát cơm
dâng lên Phật, đức Phật liền đem thí cho chó,
hỏi ngài Xá Lợi Phất: ‘Ông thí cơm cho ta, ta thí cơm
cho chó, ai được phước nhiều?’ Ngài Xá Lợi
Phất thưa: - Đức Phật thí cho chó được
phước nhiều hơn!” Do vậy biết: Đại
phước là do tâm, chẳng ở nơi phước điền,
v́ tâm là chủ của phước điền, phước
điền là chuyện bên ngoài! V́ thế, [bố thí] cho ruộng
phước tốt lành, tuy được phước nhiều,
nhưng chẳng bằng tâm, có sự sai biệt như vậy
đó. V́ vậy, cần phải so lường. Điều
cốt yếu là bốn tướng vốn là Không, đạt
tam luân (người thí, người nhận, vật thí) vốn
vắng lặng. Thấu hiểu Tài chính là Pháp, vô trụ
sanh tâm; đấy là Bố Thí Đệ Nhất Nghĩa Môn.
V́ thế, nói ra phẩm thứ mười là phẩm Giảo
Lượng Bố Thí Công Đức Duyên.
So lường phước bố thí giúp thành
tựu Phật đạo, tức là đại ư của Địa
Tạng bổn nguyện đă sáng tỏ rạng rỡ, phó
chúc đă xong, Đại Sĩ đă vâng lănh, tức là đại
sự trong phần Chánh Tông của một kinh đă xong. Ba phẩm
kế đó đều nhằm lưu thông kinh này. Địa
Thần đứng đầu những vị hộ pháp, v́
Nam Diêm Phù Đề do vị này làm chủ; cho nên Ngài dẫn
đầu hộ tŕ, khiến cho đời sau tu hành chẳng
có chướng ngại, [pháp môn này được] tuyên truyền,
lưu thông khắp nơi. Nay trước hết nêu nguyên
do có Đất; kế đó, giải thích ư nghĩa Địa
Thần. Sách Băo Phác Tử viết: “Đại cực sơ
cấu, thanh trược thỉ phân, cố thiên tiên thành,
nhi địa hậu định” (Thái cực vừa mới
h́nh thành, thanh và trược vừa mới chia, cho nên trời
h́nh thành trước rồi đất mới được
định lập sau). Ngụy Tử Tài chú thích: “Đại
khí là bản chất. Có người thường nói: Lúc hỗn
độn mới phân, cái nhẹ và trong là trời, c̣n cái nặng
nề, ô trược là đất”. [Giải thích kiểu
đó] tức là chẳng biết cội gốc vốn chẳng hai! Thiên chính là chỉ chung
cho toàn thể vũ trụ, ở quanh thân ta. Khí không có ngằn
mé, mà h́nh hài có ngằn mé. V́ thế, thân người bề
ngoài th́ có [xương thịt] bao bọc, nhưng trong tâm rỗng
rang. Đại khí của trời bao bọc vận chuyển,
không ǵ ra ngoài được. H́nh chất kết tụ trong
ấy thành đất. Vạn vật không ǵ chẳng được
trời và đất sanh dưỡng, cho nên nói là “Càn phụ,
Khôn mẫu” (cha trời, mẹ đất). Thật ra, trời
và đất là một thân. Đấy là ư nghĩa tinh vi
trong Nho gia; nhưng họ chẳng biết nguồn cội
của trời đất là do được h́nh thành từ
nghiệp cảm của chúng sanh!
Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Giác minh không muội,
tương đăi thành dao, cố hữu phong luân, chấp
tŕ thế giới. Nhân Không sanh dao, kiên minh lập ngại. Bỉ
kim bảo giả, minh giác lập kiên, cố hữu kim luân,
bảo tŕ quốc độ. Kiên giác bảo thành, dao minh
phong xuất. Phong kim tương ma, cố hữu hỏa quang,
vi biến hóa tánh. Bảo minh sanh nhuận, hỏa quang thượng
chưng; cố hữu thủy luân, hàm thập phương
giới. Năi chí giao vọng phát sanh, đệ tương vi
chủng, dĩ thị nhân duyên, thế giới tương
tục” (Do chân giác đă khởi tướng sáng hư vọng,
nên Chân Không biến thành tướng ngoan không tối tăm,
[do vậy] sáng và tối đối đăi, tạo thành sự
dao động, cho nên có phong luân ǵn giữ thế giới.
Do Chân Không đă sanh dao động [tạo thành phong luân], do
cái vọng tâm chấp trước, khăng khăng chấp
giữ cái tướng sáng hư vọng ấy mà thành ra ngăn
ngại, [tạo thành Địa Đại]. Chất vàng báu
[từ trong Địa Đại] là do vô minh vọng giác kiên
cố, tạo thành tướng cứng chắc, ngăn ngại,
cho nên có kim luân bảo vệ, ǵn giữ cơi nước. Từ
các chất báu do vọng giác kiên cố tạo thành ấy, do
vọng minh và tối tăm khuynh đảo lẫn nhau, tạo
thành gió, khiến các chất báu
chà xát với nhau, cho nên có ánh lửa, biến
thành tánh biến hóa. Bản thể của chất báu sáng sạch,
gặp phải hơi nóng, bèn sanh ra nước. Ánh sáng từ
hỏa đại hun đốt nước ấy, khiến
nó bốc hơi lên, cho nên có thủy luân chứa trong khắp
mười phương cơi nước… Những hiện tượng
ấy liên tục biến hóa, lần lượt phát sanh Tứ
Đại Chủng. Do nhân duyên ấy mà thế giới được
duy tŕ liên tục)[26]
chính là nói về ư này.
Đă có đất, ắt có vị thần
chủ tŕ cơi đất. “Thần” có nghĩa là “chúa tể”, do được khí Dương
của trời mà linh thông. Nhưng địa thần rất
nhiều; nếu là chủ của Nam Diêm Phù Đề th́ gọi
là Kiên Lao Địa Thần (Pṛthvī). Nếu xét theo pháp môn
để nói, dựa theo lời thưa hỏi của Tứ
Thiên Vương trong phần Chánh Tông trước đó th́ các
vị ấy trụ trong đạo Thiện Quyền, làm
pháp phụ của chúng sanh, c̣n vị Địa Thần ở
đây là lưu thông, tán dương, khuyên lơn, trụ
trong đạo Thiện Thật Trí, làm pháp mẫu của chúng
sanh. Do Thiên Vương là Dương, nên là cha, Địa
Thần là Âm, nên ví như mẹ. Đấy là dựa theo Thế
Giới Tất Đàn để giải thích. Ví như Âm, Dương,
chở che cây cỏ. Trí Độ dưỡng dục, xuất
sanh các điều thiện. Đấy là dựa theo Vị
Nhân Tất Đàn để giải thích. Các Độ (Ba La
Mật) khác đều có điều
chủ yếu, c̣n Thật Trí th́ chiếu soi, vô tướng,
vô danh. Đấy là giải thích dựa theo Đối Trị
Phá Ác Tất Đàn. Các Độ khác th́ có những pháp bằng
hoặc cao hơn, chứ Trí Độ (Bát Nhă Ba La Mật) là
vô thượng (không ǵ cao hơn), vô đẳng (không ǵ sánh bằng), là cứu cánh độ
(là môn Ba La Mật rốt ráo). Đấy là dựa theo Đệ
Nhất Nghĩa Tất Đàn để giải thích. Do có đủ
bốn nghĩa Tất Đàn, cho nên có thể làm thần, làm chủ Diêm Phù
Đề để hộ tŕ pháp môn Bổn Nguyện. V́ thế
nói phẩm thứ mười một là Địa Thần
Hộ Pháp.
Phẩm trước là hộ pháp, mở đầu
sự lưu thông. Dù thấy hay nghe, đều được
thấm đẫm lợi ích. Mắt nh́n thấy th́ gọi
là Kiến, Kiến thuộc về mắt. Từ tai thấm
vào ḷng th́ gọi là Văn (nghe); Văn thuộc về tai.
Do tác dụng mạnh nhất của tâm được thể hiện nơi tai và mắt, chưa hề có
chuyện mắt và tai hẹp ḥi mà tâm rộng răi được.
Chữ Kiến (見) do Mục (目) và Nhân (人) ghép thành, chủ của
nó là Tâm, khiến cho h́nh hài của sự vật được
nghe thấy (cảm nhận) bằng cách theo mắt, theo cửa
mà vào (Chữ Văn (聞) do Mục (目) và Môn (門) ghép thành). Đấy là
dạy mọi người hăy mở rộng tấm ḷng, đóng
bốn cửa, dùng tai của thiên hạ làm tai của chính
ḿnh, mở rộng thành “cả thiên hạ là một nhà”. Tuy
đây là cách giải thích theo thế tục, nhưng hết
sức dung hội với đạo Phật của chúng
ta. Nếu chúng ta trong lúc thấy sắc, nghe tiếng, biết
rơ mỗi mỗi đều do tâm, tâm c̣n chẳng thể được,
há c̣n có thấy nghe ǵ nữa hay chăng? Tức là sự thấy
nghe ấy chẳng phải là thấy nghe. Trong cái không thấy
ấy, bèn trông thấy các thứ luân quang của Như Lai.
Trong cái không nghe ấy, bèn nghe chuyện chẳng thể
nghĩ bàn của đức Địa Tạng; tức là cái
thấy nghe ấy chẳng phải là Không, chẳng phải
là Giả, mà cũng là Không, là Giả. Chiếu hai bên, ngăn
dứt hai bên, dứt nghĩ, dứt bàn. V́ thế, trong lúc
thấy nghe, tức là đối trước thanh, sắc,
bèn chế phục trọn vẹn Ngũ Trụ, dự lên địa
vị Ngũ Phẩm, hoặc là trước hết rơi
rụng hai thứ cấu để lục căn được
thanh tịnh, hoặc nhanh chóng phá trừ vô minh để khai
tri kiến của Phật, hoặc đoạn sạch vô
minh để mau chóng trọn vẹn Phật quả. Tự
ích (lợi ích tương tự), chân ích, nhân ích, quả ích,
tiền lợi, hậu lợi, lợi cạn, lợi sâu
như thế hoàn toàn do thấy nghe mà tu, mà chứng. V́ thế
nói phẩm thứ mười hai là phẩm Kiến Văn Lợi
Ích.
[Hai phẩm] Địa Thần Hộ Pháp và
Kiến Văn Lợi Ích trên đây đều nhằm lưu
thông kinh này. Điều cốt yếu của Lưu Thông là
chuyên v́ lục đạo chúng sanh. V́ khi pháp tịch (pháp hội
kinh Địa Tạng) sắp chấm dứt, [đức
Phật] bèn chúc lụy đại chúng nhân thiên cho Địa
Tạng Bồ Tát cứu vớt lũ mê trong đời Mạt, đợi Di Lặc
trong thuở tương lai. Đấy chính là ư nghĩa nhắc
lại Tông Thú của bản kinh này. V́ lẽ nào vậy? Trước
đó, đức Phật đă triệu tập phân thân của
đức Địa Tạng chính là v́ chúng sanh trong đời
Mạt Kiếp. Nay đức Như Lai sắp rời thiên
cung để nhập diệt, lại
đem trời người giao cho Bồ Tát, v́ thế có phẩm
Chúc Lụy Nhân Thiên. Chuẩn theo sách Pháp Hoa Văn Cú, có ba cách
giải thích [chữ Chúc Lụy]:
1) Chúc (囑) là đức Phật phó
chúc (付囑, giao phó, căn dặn). Lụy
(累) là làm phiền ông hăy tuyên truyền.
Đây là do thánh chỉ (ư chỉ của đức chí thánh,
tức Phật) mà có tên như vậy.
2) Chúc là đảnh lễ, nhận lấy lời
căn dặn, Lụy là cam ḷng thực hiện chẳng mệt
mỏi. Đấy là từ ḷng kính thuận của Bồ
Tát mà thành tên như vậy.
3) Chúc là do miệng vàng của đức Như
Lai căn dặn, Lụy là Bồ Tát son sắt kính cẩn gánh
vác.
Nay gộp chung việc truyền trao và tiếp
nhận lại để luận định, sẽ có đủ
cả ba ư ấy, cho nên gọi là Chúc Lụy. Trong kinh này, đức
Như Lai xoa đầu [đức Địa Tạng] giao
phó, căn dặn; đức Địa Tạng quỳ thẳng,
vâng nhận, cũng trọn đủ ba ư này. V́ thế, gọi
là phẩm thứ mười ba, tức phẩm Chúc Lụy
Nhân Thiên.
“Thiên” được giải thích như
trong phần trước. “Nhân” trong tiếng Phạn là
Ma Nậu Xa (Manuṣya), cơi này dịch là Ư. Xưa kia, Đảnh
Sanh Vương mới hóa hiện, đối với các hành
động đều khéo suy nghĩ, khéo tính toán, khéo nghĩ
nhớ. Tức là đúng như giáo pháp của vương đạo,
đối với các việc làm, trước hết đều
suy lường, nghĩ nhớ, [cân nhắc rồi mới làm]; v́ thế, gọi
Người là Ư. Nhân lại c̣n có thể hiểu là Nhẫn,
đối với những chuyện thuận, nghịch
trong cơi đời, con người có thể chịu đựng
được. Nhưng nhân thiên trong mười
phương thế giới nhóm họp tại cung trời Đao
Lợi nhiều như cát sông Hằng, làm sao có thể nêu trọn
cho được? Nay nói theo một cơi Sa Bà th́ như luận
Tỳ Bà Sa đă nói: “Thiên có ba mươi hai loại. Dục
Giới có mười loại, Sắc Giới có mười
tám loại, Vô Sắc Giới có bốn loại, hợp thành
ba mươi hai loại trời. Mười loại ở
Dục Giới: Một là Thủ Thiên (có thuyết nói là Kiên
Thủ), hai là Tŕ Hoa Man Thiên, ba là Thường Phóng Dật Thiên
(c̣n gọi là Hằng Kiêu), bốn là Nhật Nguyệt Tinh Tú
Thiên, năm là Tứ Thiên Vương Thiên, những vị
trời khác như kinh đă nêu. Mười tám loại trời
của Sắc Giới cũng như kinh đă kể. Bốn
loại trời của Vô Sắc Giới: Một là Không Xứ,
hai là Thức Xứ, ba là Vô Sở Hữu Xứ, bốn là
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ”.
Số lượng nhân loại càng nhiều,
càng khó thuật trọn. Nếu nói theo phương vị
th́ có người trong Tứ Thiên Hạ. Nếu nói theo trụ
xứ th́ gộp lại có bốn ngàn tám chỗ, tức là
có bốn ngàn tám giống người. Nếu trực tiếp
nói theo một phương là Diêm Phù Đề th́ như kinh
Lâu Thán đă nói, nói chung là có ba mươi sáu đại quốc,
con người cũng giống như vậy. Nếu nói riêng
biệt th́ có hai ngàn năm trăm tiểu quốc, con người
cũng giống như thế. Lại trong mỗi một nước,
chủng loại bao nhiêu đó, Phiên, Hán, Khương, Hồ,
Man, Di, Sở, Việt, mỗi loài tùy theo địa phương,
sắc loại bất đồng. Lại nữa, chủng
loại sai biệt trong Diêm Phù Đề gộp lại th́
có sáu ngàn bốn trăm loại người. Nay chỉ nêu
loài người trong Diêm Phù Đề v́ đó là chỗ bi tâm
của đức Phật riêng hướng về; do chúng sanh
trong Nam Diêm Phù Đề chí tánh vô định, kẻ quen thói
ác đông đảo. Dẫu phát khởi thiện tâm th́ trong
phút chốc bèn lui sụt. Do v́ lẽ ấy, [đức Phật]
ân cần phó chúc chúng trời người cho ngài Địa
Tạng. Lại riêng nêu đại chúng trời người
mà chẳng nhắc đến bốn đường ác là
v́ lẽ ǵ? Ấy v́ trời người tiếp nhận giáo
hóa dễ dàng, bốn đường ác tiếp nhận sự
giáo hóa khó khăn. Sách Pháp Hoa Văn Cú trích dẫn kinh rằng:
“Phả hữu phát nguyện, linh ngũ đạo đồng
nhật thành Phật phủ? Phật ngôn: ‘Bất khả dĩ
phi khí chi thân thành Vô Thượng Đạo. Yếu tiên hóa
tam thú, linh đắc nhân thiên. Nhiên hậu năi khả như
nguyện, tam thú phi thiện đạo, hà năng thành Phật?
Như nhân cầu bảo tụ, bất ư không trung cầu.
Thị dĩ Phật Phật giai vân: - Ngă ư thiên nhân chúng
trung, đắc Bồ Đề, chuyển pháp luân, nhập
Niết Bàn dă” (Có ai phát nguyện khiến cho năm đường
cùng thành Phật trong một ngày hay chăng? Đức Phật
nói: “Chẳng thể khiến cho cái thân chẳng phải là
căn khí thành Vô Thượng Đạo được. Phải
là trước hết hóa độ ba đường, khiến
cho họ được sanh trong đường trời người;
sau đấy mới có thể như nguyện. Ba đường
chẳng phải là thiện đạo, làm sao có thể thành
Phật cho được? Như người cầu đống
của báu, chẳng thể cầu trong hư không được!
V́ thế, đức Phật nào cũng đều nói: “Ta ở
trong chúng trời người, đắc Bồ Đề, chuyển pháp luân, nhập
Niết Bàn”).
[Nói] người trước trời sau lại
là như thế nào? Đại Luận quyển thứ hai
mươi bốn chép: “Nếu thiện nam tử có thể
hành Bát Nhă Ba La Mật sâu xa, hăy nên biết người ấy
từ trong loài người mà sanh đến. V́ cớ sao vậy?
Trong ba ác đạo, do nhiều tội khổ, chẳng thể
hành Bát Nhă sâu xa được. Chư thiên Dục Giới đắm
chấp ngũ dục thanh tịnh mầu nhiệm, tâm bèn cuồng
hoặc; cho nên không thể hành. Chư thiên Sắc Giới
chấp sâu xa mùi vị Thiền Định, cho nên không thể
hành. Chư thiên Vô Sắc Giới do vô h́nh nên không thể hành”.
Do vậy, trong lời tựa cho bộ Viên Giác Lược
Sớ, ông Bùi Hưu viết: “Than ôi! Sanh linh sở dĩ lui
tới là do lục đạo. Quỷ thần ch́m trong nỗi
khổ u sầu, chim thú ôm nỗi xót xa phải bay, chạy,
Tu La th́ sân hận, chư thiên đang bận vui sướng.
Có thể điều chỉnh tâm tư suy nghĩ, hướng
đến Bồ Đề, chỉ có loài người là có
thể mà thôi!” Do vậy, nói người trước, trời
sau. Bốn đường ác nếu được lợi
ích, liền sanh trong trời, người, th́ cũng thuộc
vào trong số chúng sanh được phó chúc, không phải
chỉ là phó chúc trời người!
Hỏi: Đại Luận nói: “Phật
đă đoạn pháp ái, cho đến [chứng đắc]
Nhất Thiết Chủng Trí Niết Bàn, chẳng chấp,
chẳng giữ lấy tướng”. Nay do v́ lẽ ǵ mà
ân cần chúc lụy nhân thiên, giống như yêu đắm
vậy? Đáp: Tâm chư Phật đại từ bi, từ
sơ phát ư cho đến Niết Bàn môn, thường chẳng
ĺa bỏ. Nơi Sa La Song Thụ, Ngài dùng Kim Cang tam-muội,
v́ chúng sanh mà nát thân hạt mè, hạt gạo. Do sự giải
thoát của chư Phật từ chúng sanh mà có. V́ thế, khi
sắp nhập Niết Bàn, [đức Phật] lại chúc
lụy ngài Địa Tạng cứu hộ!
Hỏi: V́ cớ ǵ chẳng căn dặn các
vị như Văn Thù, Di Lặc, Quán Âm v.v… mà chỉ phiền
một ḿnh Địa Tạng Bồ Tát? Đáp: Luận nói:
“Chư đại Bồ Tát sau khi đức Phật diệt
độ, mỗi vị đều phân tán tới các cơi nước
có các chúng sanh đáng độ. Ngài Di Lặc trở về
trời Đâu Suất, ngài Văn Thù cũng tới chỗ
chúng sanh đáng được hóa độ, chỉ riêng ngài
Địa Tạng phát nguyện làm U Minh giáo chủ, ḷng Bi
riêng hướng đến Nam Diêm Phù Đề, đối
tượng giáo hóa và căn cơ được giáo hóa
đều hiện diện, cho nên đặc biệt phó chúc.
Như cha lâm chung, sẽ chẳng giao phó [gia nghiệp, trách
nhiệm] cho những đứa con đang du học. Đặc
biệt giao phó những đứa con thơ cho trưởng
nam đang ở nhà; ắt đứa con ấy sẽ dạy
dỗ [các em] thành tài, chẳng tổn hại ḷng ta thương
yêu”. Đấy là ư nghĩa chúc lụy nhân thiên vậy.
Sự sanh khởi đề mục của
các phẩm như trên đây, giống như Luân Quán xuyên suốt,
ǵn giữ, một câu pháp ngôn, các vọng tiêu rớt. Các công
đức đă tu tập, chẳng v́ tự cầu, nguyện
cho pháp giới chúng sanh cùng hướng đến Liên Tŕ Hải
Hội, trang nghiêm Tịnh Độ, đích thân được
thọ kư, sau đấy trở
vào Sa Bà, phân thân
trong các cơi nhiều như vi trần, cũng giống như
đức Địa Tạng Tát Đỏa rủ ḷng ứng
hóa, cứu khổ chúng
sanh trong lục đạo. Hư không hữu tận, nguyện
của con vô cùng.
Triều Hoàng Thanh, năm Khang Hy 22 (1683), tức
năm Quư Hợi, nhằm tiết Đại Hàn, vị đầu
đà mắc bệnh là Linh Thừa viết tại Ưu Bát
La Thất của Khuông Am ở Vũ Nguyên (huyện Hải
Diêm).
Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
Kinh Quyển Thượng Khoa Chú
Pháp sư Thanh Liên Linh Thừa tại Khuông Am,
đất Cổ Diêm soạn
古鹽匡菴青蓮苾芻靈椉父輯
Đại lược chia thành ba phần:
1. Giải thích
tên kinh
Giải thích cặn kẽ th́ như trong phần trên
đă nói.
2. Người
dịch
Đường, Vu Điền quốc, Tam Tạng sa-môn Thật
Xoa Nan Đà dịch.
唐‧于闐國‧三藏沙門‧實叉難陀‧譯。
(Đời Đường, Tam
Tạng sa-môn Thật Xoa Nan Đà người xứ Vu Điền dịch).
Đường là tên triều đại do
họ Lư đặt sau khi có được thiên hạ. Do họ
khởi nghiệp tại Tấn Dương là kinh đô cũ
của Đào Đường Thị[27],
nên lấy quốc hiệu là Đường (ông nội của
Lư Uyên là Lư Hổ, phù tá Châu Mẫn Đế (Vũ Văn Giác)
thời Tây Ngụy [trước khi Mẫn Đế làm vua
nhà Châu], được nhà Tây Ngụy truy tặng tước
Đường quốc công. Lư Hổ sanh ra Lư Bỉnh, Lư Bỉnh
sanh Lư Uyên, đều được kế tập, phong là Đường
Công, bèn dùng phong hiệu ấy để lập quốc).
Vu Điền (Khotan), đọc đúng âm phải
là Cù Tát Đát Na (Gosthana)[28],
Hán dịch là Địa Nhũ (sữa của đất).
Do vua chưa có con nối dơi, liền cầu đảo trước
tượng Tỳ Sa Môn (Vaiśravaṇa, Đa Văn thiên vương).
Từ trên trán [tượng thần] bèn nứt ra, sanh một
đứa bé, chẳng uống sữa người. Đất
trước tượng thần bỗng đùn lên giống
như một cái vú, đứa con của thần bú mút sữa
từ đó cho đến khi trưởng thành. V́ thế, đặt
tên nước như thế. [Vu Điền] lại c̣n gọi
là Hoán Na, Ư Độn, Hoát Thư, hoặc Khuất Đan,
đều là những cách
phiên âm khác
nhau của nước này. Trong Đại Tập Nguyệt
Tạng Kinh, đức Thế Tôn phó chúc Nan Thắng Thiên Tử và một ngàn quyến
thuộc, cùng với Tán Chi Đại Dạ Xoa (Pāñcika, Samjñeya) v.v… [cũng như] Tỳ
Sa Môn thiên vương cùng hộ tŕ nước Vu Điền,
v́ xứ ấy có nhiều bậc thánh hiền xuất hiện.
Đấy chính là sanh quán của vị dịch sư.
Tam Tạng tiếng Phạn là Câu Xá, cơi này dịch
là Tạng, như kho tàng trong cơi đời để chất
chứa tiền tài. Tam Tạng trong Phật pháp để
chứa đựng văn nghĩa. Tam Tạng bao gồm ba
danh xưng, mỗi danh xưng đều chứa đựng
hết thảy văn lư, cho nên gọi là Tạng. A Hàm (Āgama) tức
là Định Tạng, Tỳ Ni (Vinaya) tức là Giới Tạng,
A Tỳ Đàm (Abhidaharma) tức là Huệ Tạng.
Sa-môn (Śramaṇa), âm đúng là Thất-ma-na-noa,
cơi này dịch là Công Lao, ư nói người tu đạo có công, lại nhiều vất vả.
C̣n dịch là Tức Tâm (息心, dứt ḷng vọng tưởng).
Kinh Thụy Ứng nói: “Tức tâm đạt bổn nguyên,
cố hiệu vi Sa-môn” (Dứt ḷng thấu đạt nguồn cội
căn bản, cho nên hiệu là Sa-môn) là nói tới ư này. Nhưng
các vị dịch kinh đều được gọi là
Pháp Sư. Nay xưng là Sa-môn tức là đức khiêm cung của
vị dịch chủ.
Thật Xoa Nan Đà (Śikṣānanda), Hán dịch là Học Hỷ (學喜). Thuở ấy nhằm lúc Thiên Hậu (Vũ
Tắc Thiên)[29] đề
cao, tuyên dương Phật nhật, kính trọng Đại
Thừa, do các xứ và các hội trong bản dịch cũ
của kinh Hoa Nghiêm (bản dịch đời Tấn, tức
Lục Thập Hoa Nghiêm) chưa hoàn bị, nghe nói xứ Vu Điền
có bản tiếng Phạn của kinh ấy, bèn sai sứ
nghênh thỉnh. Ngài Thật Xoa và kinh cùng đến [Trung
Hoa]. Sư đến đất Lạc Dương dịch
lại [kinh Hoa Nghiêm].
3. Tùy văn diễn nghĩa
(thuận
theo kinh văn mà diễn giải ư nghĩa)
Gồm ba phần: Tự, Chánh Tông, và Lưu Thông:
- Phẩm thứ nhất là Tự Phần.
- Chín phẩm từ phẩm Phân Thân Tập Hội
đến phẩm Giảo Lượng Bố Thí là phần
Chánh Thuyết (Chánh Tông).
- Ba phẩm từ phẩm Địa Thần
Hộ Pháp cho đến hết kinh là phần Lưu Thông.
Hỏi: Mỉm cười, phóng quang có thể
gọi là Phát Khởi, phần vấn đáp nhân địa
(hạnh nguyện khi c̣n đang tu nhân), trưởng giả
phát tâm, thánh nữ cứu mẹ, theo đúng lư th́ thuộc
phần Chánh Tông. C̣n như Địa Thần hộ pháp, và
thấy nghe được lợi ích, đáng lẽ phải
thuộc vào kinh văn của phần Chánh Tông, chỉ có phẩm
Chúc Lụy đáng gọi là Lưu Thông. Nay chẳng [phán định]
như vậy là do căn cứ vào nghĩa nào?
Đáp: Tổ của chúng ta là ngài Trí Giả
dạy: “Phân đoạn kinh văn vốn thuộc về
t́nh chấp của con người. Theo thói quen, người
ta cho phần Tự chưa biện định đạo,
phần Lưu Thông là để kết thúc, chẳng luận
nhân quả. Thế nhưng ba đoạn (Tự, Chánh Tông,
Lưu Thông) chẳng thể đứt rời, cách tuyệt!
Phần Tự vốn là để dẫn nhập phần
Chánh Tông. Phần Chánh Tông vốn là để tŕnh bày những
pháp chánh yếu cho phần Tự và Lưu Thông. Phần Lưu
Thông khiến cho phần Chánh Tông và Tự được lưu
truyền thông suốt. Mỗi đoạn đều có ba
nghĩa “sơ, trung, hậu thiện” (chặng đầu,
chặng giữa và chặng cuối đều tốt lành).
Nếu chúng bị đứt đoạn, cách biệt, há c̣n
gọi là Thiện nữa chăng? Sao có thể chấp nhận
phần Tự vô vị, phần Lưu Thông chỉ là kết
thúc kinh ư?”
Nay [trong phẩm thứ nhất],
ngài Văn Thù do đại chúng nhóm họp đông đảo,
bèn hỏi về hạnh nguyện xưa, đức Thế
Tôn giải đáp chuyện ấy, chính là phần dẫn khởi
cho chuyện phân thân nhóm họp, há có thể nói [phẩm thứ
nhất chẳng] thuộc về Tự ư? Địa Thần
hộ pháp, lợi ích do thấy nghe chính là điều trọng
yếu trong Lưu Thông, sao lại nói vẫn thuộc về
phần Chánh Tông, chẳng xét đến lời đại sư
đă nói vậy? Chúng sanh đắc đạo, căn tánh
bất định! Trong phần Tự nói đến Chánh th́
cũng chẳng ngăn ngại ǵ! Trong phần Lưu Thông
có [những nghĩa lư đáng thuộc phần] Chánh Tông, sẽ
càng thêm đốc thúc, khích lệ [học nhân] tuyên dương,
hành tŕ, chẳng trái nghịch ư kinh. Nay chuẩn theo lời
Tổ răn dạy, há nên thuận theo thói đời ư?
3.1. Giải thích phẩm
Tự
3.1.1. Giải thích tên gọi
và nội dung chánh yếu của phẩm kinh này
Đao Lợi Thiên Cung Thần Thông phẩm
đệ nhất.
(Phẩm thứ nhất: Thần thông trên cung
trời Đao Lợi).
Giải thích [tên gọi và nội dung] của
phẩm này như trong phần Luân Quán. Những phần sau
sẽ phỏng theo lệ này.
3.1.2. Tự phần
3.1.2.1. Thông Tự
Do các kinh đều có [phần này, nên gọi
là Thông Tự], c̣n gọi là Chứng Tín Tự, gồm có năm
chuyện ấy th́ người ta mới tin tưởng. Cũng
gọi là Kinh Tiền Tự (phần tựa trước hết
của kinh), v́ được nêu ra đầu tiên trong một
bản kinh. Lại c̣n gọi là Kinh Hậu Tự v́ do các vị
kết tập xếp đặt. Từ “nhĩ thời thập
phương” (lúc bấy giờ, mười
phương…) là Biệt Tự, tức lời tựa riêng
của kinh này, c̣n gọi là Phát Khởi Tự, nhằm khởi
đầu cho phần chánh thuyết.
Chứng Tín Tự lại gồm hai phần:
- Nêu ra năm sự để chứng tín.
- Nêu ra những ǵ đức Phật đă làm
trong ba tháng an cư tại cung trời Đao Lợi.
3.1.2.1.1. Nêu ra năm sự
để chứng tín
3.1.2.1.1.1. Sở văn
pháp thể (Pháp thể của cái được
nghe)
(Kinh) Như thị.
(經) 如是。
(Kinh: Như thế).
Đại sư (Trí Giả đại
sư) ngộ sâu xa kinh Pháp Hoa, xiển dương, tỏ rơ
ư chỉ mầu nhiệm, dùng năm tầng để giải
thích tựa đề kinh, dùng bốn cách giải thích để
chú giải từng câu kinh văn. Nay kinh này đă cùng thuộc
vị đề-hồ, lời giải thích há sơ
sài được ư? Huống hồ pháp được
xướng suất đứng đầu các kinh chính là lời
luận đàm cùng tột của Pháp Hoa. Ngài Nam Nhạc [Huệ
Tư] chuyển đọc kinh văn ba lượt, Thiên Thai
nhất niệm quán trọn đủ. Lư đă là một Thể,
văn gồm bốn phen. Xét v́ người đời sau quen
thói đơn giản, kẻ căn độn đời
Mạt ngại phiền; v́ thế, nay tôi chọn cách trung dung, chỉ
[chọn lọc] ba, hai, hoặc một ư [từ cách giải
thích của cổ nhân], cốt sao [người đọc]
lănh hội ư nghĩa, đỡ phải tốn công bút mực!
Như Thị là Tín Thành Tựu. Biển cả
Phật pháp, do Tín có thể nhập. Tâm có tịnh tín (niềm
tin trong sạch) bèn có thể vào biển pháp. V́ thế, kẻ
không tin bèn nói “sự bất như thị” (chuyện chẳng
phải là như thế), như da trâu chưa mềm, chẳng
thể gập lại được! Kẻ đă tin bèn nói
“sự như thị” (chuyện đúng như thế
đó), như da trâu đă mềm, có thể tùy ư sử dụng.
Đă tin th́ sẽ thuận theo Lư được nói, hễ
thuận th́ đạo giữa thầy tṛ được thành.
V́ thế, nêu ra điều này trước hết.
Lại nữa, Như là “chẳng khác”,
Thị là “không sai”. Ngài A Nan truyền lại kinh viên măn
do đức Phật đă nói, ví như rót nước từ
b́nh này sang b́nh khác chẳng khác [chẳng sót một giọt]. Những nghĩa lư
trong kinh văn thích đáng, không sai, cho nên văn th́ Như (chẳng
khác ǵ chính lời đức Phật đă nói) mà Lư th́ Thị
(chẳng sai); cho nên nói là Như Thị. Chỉ là Như Thị
(đúng như thế ấy), không ǵ chẳng đều tương
đồng. Do tánh thức chẳng thể nghĩ bàn chính là
Thật Tướng của các pháp. Thể ĺa bốn câu (Có,
Không, Cũng Có Cũng Không, Chẳng Phải Có Chẳng Phải
Không), tướng tuyệt bách phi; tâm, Phật,
chúng sanh, cả ba chẳng sai biệt. Huống chi đầu
các kinh do đức Phật để lại đều là
như thế, vậy th́ đầu bản kinh này cũng
phải giống như thế. Đại Luận nói: “Quá
khứ pháp như, tức là vị lai, hiện tại pháp
như. Hiện tại pháp như tức là quá khứ, vị
lai pháp như. Vị lai pháp như, tức là quá khứ hiện
tại pháp như. V́ cớ sao vậy? Do giống hệt như
nhau, chẳng khác”. V́ thế, đức Địa Tạng
Bồ Tát từ lúc mới phát tâm ban đầu cho đến
nay vâng lănh lời phó chúc trên cung trời, đều là do Như
Thị viên măn mà tự tu, cũng dùng Như Thị viên măn để
lợi tha, gieo chủng tử, thành thục các căn cơ
để họ thoát khỏi tam đồ, luôn luôn chẳng
phế bỏ, không chuyện ǵ chẳng đều giống
hệt như những chuyện thuộc về Bổn Tích
của đức Phật th́ mới gọi là sự Như
Thị được hiển lộ trong kinh này. Hành nhân có
thể dùng Chánh Đế viên thường này để quán
cái tâm “một niệm trọn đủ”. Từ
ngay cái tâm trọn đủ ấy mà dấy lên tu ác th́ là tánh
ác, được gọi là “ác pháp giới”, không pháp nào
chẳng gồm thâu. Thể là Tam Đức, c̣n gọi là
Tam Đế. Quán tương xứng với Đế, chiếu
cảnh chẳng sai khác, th́ gọi là Như. Cảnh
và Quán cùng mất, vĩnh viễn dứt tuyệt lầm lỗi,
sai trái th́ gọi là Thị. Tin như thế th́ Tín được
thành tựu!
3.1.2.1.1.2. Năng văn
chi nhân (người nghe)
(Kinh) Ngă văn.
(經) 我聞。
(Kinh: Tôi nghe).
Ngă Văn là Văn Thành Tựu. Đây là ngài A
Nan tự biểu lộ chính ḿnh được đích thân
truyền thừa, vĩnh viễn khác với ngoại đạo.
Ngă ở đây có nghĩa là “chủ tể”. Ngă đứng
đầu mười sáu thứ Kiến, là nguồn cội
của năm Lợi Sử. Cho nên trong Nhân và Pháp, phàm phu và hàng
Tiểu Thừa chấp Ngă, c̣n ngài A Nan là bậc Bồ Tát truyền
pháp, trong hội Pháp Hoa được dự vào những vị
được thọ kư, truyền bộ kinh viên măn này, khéo
thuận với Nhị Không (Nhân Không và Ngă Không), sao cũng
nói là Ngă? Cần phải biết hàng phàm phu trọn đủ
ba thứ Ngă Kiến, Ngă Mạn, và Ngă Danh Tự, ngài A Nan
đă chẳng có Kiến và Mạn, chỉ thuận theo tên
gọi trong thế tục. Do không Ngă và không Nghe th́ đạo
giáo hóa bị dứt tuyệt. V́ thế, tuy biết là Vô Ngă,
nhưng v́ truyền thừa hóa đạo mà thuận theo cách
nói giả danh của thế gian. Như trong cách mua bán, đem
tiền bạc đổi lấy đồng, chẳng ai cười
cợt.
Văn (nghe) là Nhĩ Căn chẳng hoại,
tiếng ở nơi có thể nghe. Vận tâm lắng nghe, nhân
duyên ḥa hợp, cho nên có thể nghe. Đáng lẽ phải nói
là “tai nghe”, nhưng v́ Ngă là chủ thể của cái Nghe,
Nghe là Dụng của Ngă. Chủ là giả nhân (do mỗi người
là Tứ Đại và Ngũ Uẩn ḥa hợp mà có, nên “người”
là giả pháp), Dụng là thật pháp. Nếu hiểu ư nghĩa
của Chủ, nghĩa của chữ Văn sẽ tự
hiển lộ; nhưng Chủ là tổng luận duyên khởi,
[nói] Văn chính để phân biệt với Thính Thuyết
(nghe nói), không ǵ chẳng sai khác đôi chút. [Văn là] nay ngài
A Nan thẳng thừng dấy khởi Chân Ngă trong pháp tánh để
nghe bằng cái tâm, khiến cho kẻ khác thẳng thừng
ngộ nhập. Nhưng Chân Ngă chẳng có ngă và ngă sở; tâm
nghe th́ không có nghe và chẳng nghe. V́ lưu truyền, giáo hóa bất tuyệt, nên nói
là Ngă
Văn, Văn đă được thành tựu!
3.1.2.1.1.3. Văn tŕ chi
thời (lúc nghe nói, thọ tŕ)
(Kinh) Nhất thời.
(經) 一時。
(Kinh:
Một thời).
Điều này tương ứng với chuyện
ghi chép năm tháng; nay nói “nhất thời” là do Chánh Sóc
(正朔, ngày đầu năm) của
hai cơi (Trung Hoa và Ấn Độ) không giống nhau! [Thời
điểm] nói kinh có trước, có sau sai khác; do vậy, dùng
“nhất thời” để thâu nhiếp chung. Nhưng
Nhất chính là thống thể (bản thể chung) của
đạo, là thiên đức tinh thuần, là nguồn cội
của h́nh và khí, là khởi điểm của số, là điều
lạ lùng nơi Dịch. Sanh trời, sanh đất, vạn
vật nhờ vào nó, chẳng có ǵ không khởi đầu từ
Nhất. V́ thế, trong Hào và Quái của Phục Hy, trong văn
tự của Thương Hiệt[30],
đều bắt đầu từ Nhất. Nhất là đại
mẫu của chữ, ở trên th́ như h́nh dáng che chở
của trời. Ở dưới th́ như h́nh thể đất
nâng chở. Ở giữa th́ dường như h́nh thể
con người gánh vác.
“Thời” là biến đổi. Tạo
hóa ngầm chuyển dời, loài người nhận biết,
cái [thay đổi] có thể thấy ngay được th́
không ǵ bằng ngày. Cho nên phải dùng ngày để tính toán,
tức là [chữ Thời (時) có chữ Nhật (日)] thuộc loại hội ư. Do bản thể của trời quá lớn, điều
mầu nhiệm nằm ở chỗ vận dụng
ngay nơi ngày. Vào thời đức Phật, nói đến
Thời th́ có hai loại:
1) Một là Ca La (Kalā), tức là Đoản Thời,
hoặc Thật Thời, để dạy hàng nội đệ
tử theo đúng thời mà dùng cơm, ǵn giữ minh tướng[31]
v.v…
2) Hai là Tam Ma Da (Samaya), tức là Trường
Thời, hoặc Giả Thời. Ngoại đạo chấp
Thời là thật; v́ thế, hiển thị Thời là giả.
Sách Phụ Hành nói: “Các kinh ghi chép, phần
nhiều nói chung là Nhất Thời, nhằm dẹp sạch
[các t́nh chấp] dài, ngắn, nhiếp trọn sự tinh, thô”
là nói về ư này. Nay nói pháp vận của đức Giác Hoàng
sắp chấm dứt, nhằm thuở pháp hội cao đẹp
chốn thiên cung, người nghe cảm đức Phật
thuyết pháp cho họ, người nói ứng cơ mà luận
đàm. Nghe và nói xong xuôi, gọi chung là Nhất Thời. Tóm
lại, chính là lúc khiến cho những chúng sanh căn cơ
chín muồi trong lục đạo quy về nhất tâm. Đại
sư nói: “Nếu là trước nghĩ, sau giác, th́ đấy là hai, chẳng phải
là một. Suy nghĩ, giác lẫn vọng đều đoạn
th́ là lúc hoát nhiên khai ngộ”, nay [Nhất Thời] ở đây
cũng thế.
3.1.2.1.1.4. Phật cập
trụ xứ (Phật và chỗ Ngài trụ)
(Kinh) Phật tại Đao Lợi Thiên.
(經) 佛在忉利天。
(Kinh: Đức Phật tại trời Đao Lợi).
Ngài Thiên Thai đă dạy Lục Tức Phật,
nay xét theo nghĩa Cứu Cánh [Tức Phật] th́ Phật có
ba thứ:
- Nương theo Nhất Thiết Trí bèn có Phật
thân cao trượng sáu.
- Nương theo Đạo Chủng Trí bèn có
Phật thân tôn quư, đặc biệt, cao một trượng
sáu.
- Nương theo Nhất Thiết Chủng Trí
bèn có Pháp Thân Phật.
Ba loại Phật chẳng một, chẳng
khác, chẳng phải là một hay khác mà chính là một và khác.
Nay đă mở toang tạng Tổng Bí Mật, cùng là một vị
Phật viên măn th́ một và khác đều mất, tạm
thời nói là Tại. Dừng lại ở lâu một nơi
nào th́ gọi là Trụ, thường là nói như vậy.
Nay dựa theo lời giải thích về chữ Trụ trong
Đại Luận để giải thích chữ Tại. Trụ
là một trong bốn oai nghi. Phật là người có thể
trụ (năng trụ), c̣n cơi trời Đao Lợi là chốn
để trụ (sở trụ). Trụ xứ có hai thứ:
- Một là cảnh giới xứ, tức là
chỗ để đi qua, là chỗ để giáo hóa tục
nhân.
- Hai là y chỉ xứ, tức là chỗ để
thống nhiếp chúng xuất gia.
Nay [Xứ ở đây] chính là cảnh giới
xứ, nhưng Năng Trụ có bốn loại, tức là Thiên,
Phạm, Thánh và Phật:
- Thiên Trụ là cơi trời Lục Dục, cái
nhân của trụ xứ này là thiện tâm Thí, Giới.
- Phạm Trụ: Từ Sơ Thiền cho đến
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng. Cái nhân của trụ xứ
này là Tứ Vô Lượng Tâm.
- Thánh Trụ tức những vị thuộc
tam thừa (Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát). Cái nhân của
trụ xứ này là ba môn tam-muội.
- Phật Trụ, tức Thủ Lăng
Nghiêm, một trăm lẻ tám môn tam-muội v.v…
Nhưng ắt phải nương vào Đế
mà Trụ, v́ thế nói là “thân Phật cao một trượng
sáu, trụ Chân Đế”. Toàn thân Phật trụ trong Chân
Đế, Pháp Thân Phật th́ trụ trong Trung Đạo. Như
vậy th́ trong nhất tâm, chúng ta tu trọn cả ba Quán, niệm
niệm chẳng ngưng nghỉ, luôn luôn trụ trong Tam Đế,
tức là Quán Hạnh Trụ. V́ thế biết là có thể
thấu hiểu thần diệu tâm tánh, trong mỗi niệm,
quả Bồ Đề đều viên măn, mới khởi ư
đôi chút, tác dụng lớn lao đă hiện tiền. Chẳng
đạt được, chẳng
nương cậy, chẳng lấy, chẳng bỏ, từ
Chân mà khởi Hạnh, Thể và Dụng cùng thâu nhiếp, dùng
Hạnh để khế hợp Chân, trong lúc cuộn duỗi[32],
tâm nào cũng tự nhiên hợp
đạo, niệm nào cũng ngầm hợp lẽ Chân. Đối
với từ ngữ Đao Lợi Thiên, hăy xem phần giải
thích tựa đề của phẩm này [trong phần Luân Quán].
3.1.2.1.2. Điểm tam
nguyệt sở vi (chỉ ra những việc đức
Phật đă làm trong ba tháng An Cư trên Đao Lợi Thiên)
Lập ra khoa này là v́ lẽ nào? Do câu “v́ mẹ
thuyết pháp” tuy kinh văn thuộc phần Chứng Tín,
nhưng lại bao hàm ư nghĩa Phát Khởi. Câu này chẳng
thể xếp vào phần Thông Tự, mà cũng chẳng thể
coi là thuộc phần Biệt Tự, cho nên lập riêng một
khoa. Câu này chính là cội nguồn tông chỉ của việc
đức Như Lai thăng lên Đao Lợi, an cư ba tháng,
chính là v́ để phô rơ đức Địa Tạng đă
từng v́ mẹ phát nguyện. Một là v́ ngăn trở sự
hoài nghi, gièm báng của Lục Sư ngoại đạo. Kế
đó là phát khởi ḷng hiếu thảo cho tứ chúng trong đời
sau. Tuy nói đại lược, nhưng ư thật bao la!
(Kinh) Vị mẫu thuyết pháp.
(經) 為母說法。
(Kinh: V́ mẹ thuyết pháp).
Theo kinh Quán Phật Tam Muội
Hải, phụ vương bạch
Phật: “Ngài sẽ tới Đao Lợi Thiên v́ mẹ thuyết
pháp ư?” Đức Phật bảo: “Sẽ như hành
pháp của Luân Vương chào hỏi vị Đàn Việt
(thí chủ)”. Theo kinh Tăng Nhất A Hàm, do Đế Thích thỉnh cầu, thưa: “Chư Phật
đều thăng lên Đao Lợi v́ mẹ thuyết pháp.
Đức Như Lai cũng nên v́ thánh mẫu thuyết pháp”. Do vậy, đức Như
Lai cùng với một ngàn vị tỳ-kheo, ở bên thành Khúc
Nữ (Kānyakubja)
thuộc nước An Đạt La (Andhra), thăng lên trời
Đao Lợi, v́ mẹ thuyết pháp nhằm báo ân sanh hạ.
Ma Ha Ma Da (Mahāmāyā)
trong tiếng Phạn, Hán dịch là Đại Thuật, hoặc
Đại Huyễn; kinh Trường A Hàm dịch là Đại
Hóa. Sách Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa nói: “Bà Ma
Da là mẹ của một ngàn đức Phật, thuộc địa
vị Đại Quyền Pháp Thân. Há có phàm phu nào mà có thể
hoài thai một vị Na La Diên Bồ Tát ư?” V́ thế,
trong kinh Hoa Nghiêm, bản dịch đời Tấn (Lục
Thập Hoa Nghiêm), Ma Da phu nhân đă trả lời Thiện
Tài rằng: “Ta đă thành tựu pháp môn Đại Nguyện
Trí Huyễn. Do đắc pháp môn này, làm mẹ của Lô Xá Na
Như Lai. Ở trong cơi Diêm Phù Đề, nơi thành Ca Tỳ
La, trong cung vua Tịnh Phạn, từ hông phải sanh ra Thái
Tử Tất Đạt, hiển hiện thần lực tự
tại chẳng thể nghĩ bàn!” Đấy là cha mẹ
[của đức Phật] được nói theo Tiểu
Thừa.
Nếu xét theo Viên Tông, sẽ đều là
như huyễn hiện. Như đức Phật bảo
thiên tử Nguyệt Thị rằng: “Kỳ Bồ Tát giả,
bất niệm ư sanh, diệc vô sở khởi. Dụng
bổn nguyện cố, hiện hữu sở sanh. Thiên vấn:
‘Bồ Tát bất niệm sở sanh, diệc bất văng sanh,
vân hà Như Lai thùy niệm sở sanh chi thân, thượng Đao
Lợi Thiên, nhất thời tam nguyệt. Như Lai bất
vị tùng vương hậu Ma Da nhi do sanh hồ?’ Phật
cáo thiên tử: - Bồ Tát bất tùng vương hậu Ma Da
sở sanh, tùng Trí Huệ Độ vô cực sanh. Sở dĩ
giả hà? Kỳ tam thập nhị đại nhân tướng,
Thập Lực, Tứ Vô Sở Úy, Thập Bát Bất Cộng,
năi chí hư không Phật nhăn, thần túc thiện quyền, tư
chư công đức, tất vi bất tùng vương hậu
Ma Da nhi sanh, tắc tùng Trí Huệ Độ vô cực nhi sanh”
(“Bồ Tát chẳng nghĩ
tới sanh, cũng chẳng dấy lên [ư niệm thị hiện
giáng sanh]. Do dùng bổn nguyện, nên thị hiện được
sanh ra”. Vị trời bèn hỏi:
“Bồ Tát chẳng nghĩ tới được sanh, mà cũng
chẳng sanh đến, cớ sao Như Lai rủ ḷng nghĩ
tới người sanh ra thân ḿnh mà lên trời Đao Lợi
một phen suốt cả ba tháng? Há Như Lai chẳng phải là do vương hậu Ma Da sanh
ra hay sao?” Đức Phật bảo thiên tử: “Bồ Tát chẳng
từ vương hậu Ma Da sanh ra, mà từ Trí Huệ Độ
(Bát Nhă Ba La Mật) vô cực sanh. V́ cớ sao vậy? Ba mươi
hai tướng đại nhân, Thập Lực, Tứ Vô Sở
Úy, Thập Bát Bất Cộng, cho đến hư không Phật
nhăn, thần túc thiện quyền, các công đức ấy đều
chẳng do vương hậu Ma Da sanh ra, mà sanh từ Trí Huệ
Độ vô cực”). Đấy chính là pháp do đức Phật
đă nói khi Ngài thăng lên trời Đao Lợi v́ thánh hậu
(Ma Da phu nhân) mà thuyết pháp. Kinh có ba quyển, đều là
đàm luận xứng với Bổn.
3.1.2.2. Biệt Tự
Kinh văn thuộc phần Phát Khởi do chẳng
liên quan đến các kinh khác nên gọi là Biệt. Phần
này chia thành ba đoạn:
- Phần thứ nhất là Quả Nhân Tập
Tán Tự (Quả (chư Phật) và Nhân (Bồ Tát) vân tập,
tán thán Phật Thích Ca).
- Từ “thời Như Lai” (khi ấy, đức
Như Lai) trở đi là phần Tự nói về chuyện
Hiện Tướng Tập Chúng (hiện tướng thần
thông để triệu tập đại chúng).
- Từ chữ “Thích Ca” trở đi là
phần Vấn Đáp Thích Nghi (vấn đáp để giải
trừ nghi hoặc).
3.1.2.2.1. Quả nhân tập
tán tự (Quả (chư Phật) và Nhân
(Bồ Tát) vân tập, tán thán Phật Thích Ca)
Nếu xét theo thứ tự lần lượt
sanh khởi, th́ từ phần chư Phật và các Bồ Tát
nhóm họp, tán thán nhân hạnh của đức Phật Thích
Ca, nhờ đức Thế Tôn phóng quang, các vị trời,
rồng v.v… nhóm họp. Do đại chúng nhóm họp đông
đảo, đức Thế Tôn bèn hỏi ngài Văn Thù về
số lượng đại chúng. Ngài Văn Thù sanh nghi bèn
thưa hỏi, đức Như Lai thuật
chuyện xưa. Tức là “vấn đáp giải trừ
nghi hoặc” là do “Phật hiện tướng triệu tập
đại chúng:” [mà có]; “hiện tướng triệu tập
đại chúng” là v́ “chư Phật và Bồ Tát vân tập,
tán thán Phật Thích Ca”. Nghịch thuận sanh khởi, nối
liền nhau như mắt xích. Nếu duyên khởi lật tới
lật lui chỉ là như thế, sẽ giống như một
căn nhà trống, nhân duyên chưa được giải
thích trọn vẹn; chuyện dựa theo Bổn Tích trong giáo
để quán tâm sẽ trọn không có chỗ để tiến
đến, hướng về được! Cần biết
ba phần Tự (trong đoạn Biệt Tự này) thuộc
về “tứ nhất”[33]
của Chánh Tông và Tự Phần: [Phần kinh văn nói về]
“chư Phật và Bồ Tát vân tập tán thán Phật Thích Ca”
và “đại chúng [trời, rồng] nhóm họp” nhằm
thuật bày “nhân nhất”. Hiện điềm lành nhằm
trần thuật “lư nhất”. Nhân quả tán dương
lẫn nhau, ngài Văn Thù nẩy sanh nghi niệm là phần
trần thuật “hạnh nhất”. Phần vấn đáp
[giữa đức Phật và ngài Văn Thù] là “giáo nhất”.
Đấy chính là phần giải thích về nhân duyên.
Nếu xét theo Giáo, chẳng phải là Tam Tạng
thông hay biệt, mà phần Tự nhằm giới thiệu,
dẫn nhập phần Chánh Tông, tức là phần Tự nhằm
làm cho phần Chánh Tông được viên măn. Nếu xét theo
Bổn Tích, ngài Địa Tạng từ thuở ban sơ thuộc
bất khả thuyết kiếp trước [đă phát nguyện],
cho đến nay vâng lănh lời phó chúc trên cung trời, tùy ư
hành “tứ nhất”. Quán tâm [dựa theo đó] cũng
sẽ biết, chẳng cần phải nhắc lại.
Hỏi: Pháp Hoa là vua trong các kinh, cho nên có tác dụng
“tứ nhất”, nay kinh này sao có thể coi là giống
như Pháp Hoa cho được?
Đáp: Miệng vàng của đức Như
Lai tán thán đức Địa Tạng trí huệ, thần
thông v.v… đều chẳng thể
nghĩ bàn. Đại sư nói: “Diệu danh chẳng thể
nghĩ bàn”. Vậy th́ chẳng chấp thuận [kinh Địa
Tạng này] trần thuật “tứ nhất” ư? Nếu
xét theo phần luận định Bổn và Tích đều
có mười thứ diệu trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền
Nghĩa, Bổn Tích trong kinh này cũng đáng phải nên có
mười điều chẳng thể nghĩ bàn; nhưng
do [chúng sanh] đời Mạt chuộng đơn giản,
cho nên tôi để lại đó chẳng bàn tới! Cần
phải biết là đối với kinh viên đốn, đừng
nên giải thích theo cách nào khác!
Phần Quả Nhân Tập Tán Tự (chư Phật
(quả) và các Đại Bồ Tát (nhân) nhóm họp, tán thán đức
Phật Thích Ca) này được chia làm hai:
3.1.2.2.1.1. Đồng
lai tập hội (những vị cùng đến
nhóm họp)
(Kinh) Nhĩ thời thập
phương vô lượng thế giới, bất khả
thuyết bất khả thuyết nhất thiết chư Phật,
cập đại Bồ Tát Ma Ha Tát giai lai tập hội.
(經)爾時十方無量世界‧不可說不可說一切諸佛‧及大菩薩摩訶薩皆來集會。
(Kinh: Lúc bấy giờ, mười
phương vô lượng thế giới, bất khả
thuyết bất khả thuyết hết thảy chư Phật
và các vị đại Bồ Tát Ma Ha Tát đều cùng nhóm đến).
“Nhĩ thời” (爾時, lúc bấy giờ) chính là lúc đức Như
Lai v́ thánh mẫu thuyết pháp. Chư Phật đông đảo,
khó thể biện định từng cơi nước riêng
biệt được, cho nên nói chung là “thập
phương vô lượng thế giới”. Vô Lượng
là chẳng thể đo lường được, làm sao
tính toán được? “Thế” (世) là đổi dời,
Giới (界) là phương vị.
Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới là Giới. Quá khứ,
vị lai, hiện tại là Thế. Có hai loại: Một là
Chúng Sanh Thế Giới, tức chánh báo. Hai là Khí Thế Giới,
tức y báo. To lớn thay! Y báo và chánh báo số lượng
quá nhiều, chẳng thể nói được! Bất Khả
Thuyết[34] là một
trong một trăm hai mươi lăm con số được
nói trong phẩm A Tăng Kỳ của kinh Hoa Nghiêm.
Trọn khắp là Nhất (一), tột cùng ngằn mé
là Thiết (切), chẳng phải một
th́ là Chư (諸, các), tôn quư tột bậc
là Phật. Mỗi vị Phật mang theo một vị đại
Bồ Tát làm thị giả, cho nên nói là “cập” (及, cùng với). Bồ (菩, Giác) là đạo, Tát (薩) là tâm, tự hành đạo
này, lại có thể hóa độ người khác. Dựa trên
địa vị thù thắng mà lập hạnh thù thắng;
chính là bậc đại nhân trong Viên Giáo, cho nên nói là Đại
Bồ Tát Ma Ha Tát. Chủ và bạn cùng tụ họp, nhân
theo quả mà nhóm họp. Chủ chẳng khác bạn, bạn
chẳng khác chủ. Chủ chính là bạn, bạn chính là chủ,
chẳng khác, chẳng đồng. Đến th́ cùng nhau đến,
nhóm họp th́ cùng nhau tụ họp. V́ thế nói là “giai lai
tập hội” (đều cùng nhóm đến). Lúc bấy
giờ, giống như quang minh từ các hạt châu nơi cái lưới của
Thiên Đế, trùng trùng vô tận; hành nhân một niệm
thầm khế hợp trong ấy th́ Thỉ Giác Trí và Bổn
Giác Trí sẽ dung thông hợp nhất; vô minh tâm và Bồ
Đề tâm cùng lưu lộ lẫn nhau; cho nên vô biên cơi nước
nhiều như biển chẳng cách biệt mảy lông. Mười
đời xưa nay, chẳng ĺa một niệm trong hiện
tại. Tâm là chủ của tổng tŕ, viên quán chẳng thể
tạm ĺa, xin mọi người hăy suy nghĩ đi!
3.1.2.2.1.2. Cộng thân tán
thán (cùng
nhau thốt lời tán thán)
3.1.2.2.1.2.1. Đồng
tán Thích Ca nan sự (cùng tán thán Phật Thích Ca đă
làm những chuyện khó khăn)
(Kinh) Tán thán Thích Ca Mâu Ni Phật, năng
ư ngũ trược ác thế, hiện bất khả tư
nghị đại trí huệ thần thông chi lực, điều
phục cang cường chúng sanh tri khổ lạc pháp.
(經)讚歎釋迦牟尼佛‧能於五濁惡世‧現不可思議大智慧神通之力‧調伏剛強眾生知苦樂法。
(Kinh: Tán thán Thích Ca Mâu Ni Phật có thể
ở trong đời ác, hiện sức thần thông đại
trí huệ chẳng thể nghĩ bàn, điều phục chúng
sanh ương ngạnh khiến cho họ biết pháp khổ
và vui).
Thích Ca (Śākya) là họ. Kinh Bổn Khởi
dịch thành Năng Nhân (能仁). Theo kinh Trường
A Hàm, xưa kia vua Cam Giá (đây là họ), nghe lời sàm tấu
của thứ phi, đuổi bốn Thái Tử. Họ tới
phía Bắc Tuyết Sơn, tự lập thành quách để
ở, dùng đức chiêu mộ đại chúng. Chẳng đầy
mấy năm, đất nước hưng thịnh, trở
thành cường quốc. Phụ vương sai sứ triệu
hồi, bốn người con từ chối không về.
Phụ vương ba lượt than thở: “Con ta Thích Ca (có
thể dùng ḷng nhân nhiếp hóa dân chúng)”. Do vậy, lấy
chữ Thích Ca làm họ.
Mâu Ni (Muni) là tên; kinh Bổn Hạnh dịch
là Tịch Mặc (寂默). Do những người
họ Thích kiêu mạn, lắm miệng, nhưng hễ trông
thấy Thái Tử thảy đều nín lặng. Vua bảo
hăy gọi tên tự của [Thái Tử] là “Mâu Ni”. Họ
[Thích Ca] là do ḷng từ bi lợi lạc chúng sanh; v́ thế,
chẳng trụ Niết Bàn, c̣n tên th́ mang ư nghĩa trí huệ
ngầm khế hợp Lư; do đó, chẳng trụ trong sanh tử.
Khởi đầu [chư Phật và các
vị đại Bồ Tát] tán thán chữ Năng [trong tên
họ Năng Nhân] chính là do ư này.
“Ngũ trược ác thế”: Ví như
nước trong, ném bụi đất vào, trở thành đục
ngầu, th́ gọi là Trược (濁). Trược có năm
tướng, tức là Kiếp Trược (Kiếp Trược
không có cái Thể riêng, do bốn thứ trược kia mà thành
tên), Kiến Trược (năm Lợi Sử làm Thể),
Phiền Năo Trược (năm Độn Sử làm Thể),
Chúng Sanh Trược (do lấy quả báo của Kiến, Mạn
mà đặt tên), Mạng Trược (liên tục giữ sắc
và tâm làm Thể). Ngũ Trược lấy phiền năo và Kiến
làm căn bản. Từ hai thứ Trược này mà h́nh thành
chúng sanh. Từ chúng sanh mà có thọ mạng được
duy tŕ liên tục; khi đă có bốn thứ Trược ấy
th́ gọi là Kiếp Trược. Kiếp Trược loạn
thời, chúng sanh cấu (phiền năo) nặng nề, keo kiệt,
tham lam, ganh ghét, thành tựu các bất thiện căn; v́ thế
gọi là Ác Thế.
Trong kinh Bi Hoa, Tịch Ư Bồ Tát hỏi: “Kim
ngă Thế Tôn, hà nhân, hà duyên xử tư bất tịnh, ngũ
trược ác thế chi trung, thành A Nậu Bồ Đề,
thuyết tam thừa pháp. Hà duyên bất thủ thanh tịnh
thế giới, viễn ly ngũ trược ác thế? Phật
cáo Tịch Ư: - Bồ Tát dĩ bổn nguyện cố, thủ
tịnh diệu quốc; diệc bổn nguyện cố,
thủ bất tịnh độ. Bồ Tát thành tựu
đại bi, thủ tư tệ ác bất tịnh độ
nhĩ. Thị cố, ngă dĩ bổn nguyện, xử thử
bất tịnh uế ác thế giới, thành A Nậu Bồ
Đề” (“Nay đức Thế Tôn do nhân duyên ǵ mà ở
trong cơi bất tịnh, đời ác ngũ trược này,
thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nói pháp tam thừa?
Do duyên ǵ mà chẳng lấy cơi thế giới thanh tịnh,
xa ĺa đời ác ngũ trược?” Đức Phật bảo
Tịnh Ư Bồ Tát: “Bồ Tát do bổn nguyện mà lấy
cơi nước tịnh diệu, cũng do bổn nguyện
mà giữ lấy cơi bất tịnh. Bồ Tát thành tựu
đại bi, giữ lấy cơi tệ ác, bất tịnh này.
V́ thế, ta do bổn nguyện, ở trong thế gian bất
tịnh, dơ bẩn, xấu ác này, thành Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác”). Đại Luận nói: “Ḷng đại
bi của chư Phật thấu triệt xương, tủy,
chẳng v́ thế giới tốt hay xấu, tùy theo người
đáng độ mà giáo hóa; như từ mẫu thương
con, tuy con ch́m lỉm trong hầm cầu, vẫn siêng gắng
t́m cách cứu vớt, chẳng ngại bẩn thỉu!”
V́ thế, chư Phật, Bồ Tát tán thán [Phật Thích Ca]
có thể ở trong đời ác ngũ trược điều
phục bọn chúng sanh ương ngạnh!
“Hiện” là nói theo hóa nghi (h́nh thức, phương pháp giáo hóa
chúng sanh), vốn
là thân trưởng giả đeo toàn anh lạc mà hiện
thân xấu xí, dơ bẩn, tức là trụ trong Đại
để hành Tiểu vậy. Xét theo ư Phật, vốn là Viên Phật, mà hiện tướng
mới thành Phật trong Tam Tạng (tức tướng thành
Phật theo Tiểu Giáo), chính là ẩn Thật để hành
Quyền. “Đại trí huệ thần thông”: Theo Đại
Luận th́ “có thể hàng phục các vị thầy luận
nghị hàng đầu của ngoại đạo và Thích Phạm
thiên vương, cho nên gọi là đại trí huệ”. Theo
kinh Hiền Ngu, đức Phật hàng phục lục sư
xong, B́nh Sa Vương (Bimbisāra, Tần
Bà Sa La) bạch
Phật: “Bọn lục sư là lũ mê, chẳng biết
lượng sức ḿnh, cứ đ̣i đức Thế Tôn
thi đấu thần lực”. Đức Phật hiện
thần biến mầu nhiệm khó nghĩ bàn! Bọn lục
sư bó tay, chẳng thể thi thố một pháp thuật
nào, gieo ḿnh xuống nước mà chết, đồ đệ
của họ tan tác. V́ thế gọi là Đại Thần
Thông. “Lực” là sức công đức nơi thân Phật,
vượt xa mười vạn bạch hương tượng
bảo. Đấy là sức nơi thân thể do cha mẹ
sanh ra. Nếu là sức thần thông công đức, sẽ
là vô lượng, vô hạn. Sức thần
thông đại trí huệ như thế, tam thừa chẳng
biết, nhân thiên khó suy đoán, cho nên gọi là “bất khả
tư nghị” (chẳng thể nghĩ bàn).
Dùng sức trí huệ thần thông này để
điều phục chúng sanh ương ngạnh. Cư sĩ
Duy Ma nói: “Thử độ chúng sanh kiên cường nan hóa,
cố Phật vị thuyết cang cường chi ngữ dĩ
điều phục chi. Ngôn thị địa ngục, thị
súc sanh, thị ngạ quỷ, năi chí thị ngu si, thị ngu
si báo đẳng, dĩ nan hóa chi nhân, tâm như viên hầu,
hựu như tượng, mă, long lệ bất điều.
Gia chư sở độc, năi chí triệt cốt, nhiên hậu
điều phục như thị cang cường nan hóa chúng
sanh. Cố dĩ nhất thiết khổ thiết chi ngôn, năi
khả nhập luật. Cố ngă Phật, xưng Điều
Ngự Thiên Nhân Sư” (Chúng sanh trong cơi này ương ngạnh,
khó giáo hóa, cho nên đức Phật phải nói lời cứng
rắn để điều phục họ. Ngài nói họ
là địa ngục, là súc sanh, là ngạ quỷ, cho đến
là ngu si, là quả báo của ngu si v.v… Bởi lẽ, kẻ
khó giáo hóa tâm như khỉ vượn, lại như voi, ngựa,
rất hung ác. Phải hành hạ chúng, thậm chí đánh đ̣n
tới thấu xương, th́ sau đó mới điều
phục được bọn chúng sanh ương ngạnh,
khó giáo hóa như thế. V́ vậy, [đức Phật] dùng hết thảy lời
lẽ khổ sở, thống thiết [để răn dạy] th́ họ mới đi
vào khuôn phép được. Do đó, đức Phật ta được gọi là bậc
Điều Ngự Thiên Nhân Sư).
“Khổ lạc”: Tức là Sanh Diệt
Tứ Đế trong Tam Tạng. Do mê Chân nặng nề, thuận
theo những ǵ đă làm mà hứng chịu [quả báo] tương
xứng. Nhưng Khổ Tập là một pháp, do phân định
theo nhân quả bèn thành hai. Đạo Diệt cũng thế.
Do hai Đế (Khổ và Tập) là nhân quả của sự
khổ trong thế gian, hai Đế (Đạo và Diệt)
là nhân quả của xuất thế lạc; v́ thế, chỉ nói là “khổ,
lạc”.
“Pháp” có nghĩa là quỹ tŕ (軌持, khuôn khổ, pháp tắc).
Do pháp Tứ Đế chẳng do Phật, trời, người,
sa-môn, Bà-la-môn tạo ra. Chỉ là do cái tâm vô minh điên đảo
trong quá khứ, tạo tác các hành, đương nhiên là có
thể tạo ra khổ quả nơi lục đạo trong
đời này, tự nhiên là tốt xấu khác nhau!
“Tri” (知, biết): Tức là khi
tam chuyển pháp luân nơi Lộc Uyển, [đức Phật] đă hiện tướng
mà nói: “Đây là Khổ, các ngươi nên biết”. Đấy
là lúc Tiểu Giáo và Thỉ Giáo mới được thành lập,
trước hết là hành phương tiện để điều
phục căn tánh tam thừa. Dùng Tứ Đế để
điều phục Thanh Văn, dùng nhân duyên để
điều phục Duyên Giác, dùng Lục Độ để
điều phục Bồ Tát. Đế, duyên, và hoằng
thệ đều nương theo Tứ Đế. V́ thế, nói chung là “tri khổ lạc
pháp” (biết pháp khổ và vui). Đấy là bản lănh
của đức Phật Thích Ca, cho nên Phật và Bồ
Tát cùng nhau tán thán.
3.1.2.2.1.2.2. Các khiển
thị giả vấn tấn (chư Phật đều sai thị
giả thưa hỏi)
(Kinh) Các khiển thị giả vấn tấn
Thế Tôn.
(經) 各遣侍者‧問訊世尊。
(Kinh: Mỗi vị Phật đều
sai thị giả thưa hỏi đức Thế Tôn).
“Thị giả” (侍者) là người thân cận vâng mạng mà làm
việc. Trường A Hàm gọi Thị Giả là Chấp
Sự (執事), tức là “chư đồng
bộc” (các tôi tớ) trong kinh Pháp Hoa. Sớ nói: “Đồng
bộc là những người hầu hạ. Ví như phương
tiện tri kiến, đều đă đầy đủ,
ḥa quang trong lục đạo, khéo tùy thuận mọi căn
cơ, tức là đồng bộc của Thật Trí vậy.
Do Thật Trí làm chủ bên trong, cho nên có thể sai khiến.
Quyền Trí ở bên ngoài, cho nên bị sai khiến”.
“Vấn tấn” (問訊): “Vấn” là hỏi về cuộc sống
thường ngày, “Tấn” là hỏi han mọi chuyện.
Như [trong hội Pháp Hoa], phân thân chư Phật đều
sai thị giả, thưa hỏi rằng: “Thiểu bệnh,
thiểu năo, khí lực an lạc, cập Bồ Tát, Thanh
Văn chúng tất an ổn phủ?” (Ít bệnh, ít năo, khí
lực an lạc, và đại chúng Bồ Tát, Thanh Văn
đều an ổn hay không?) Do cùng ứng hiện trong đời
ác ngũ trược, cho nên hỏi về chuyện
bệnh tật, phiền năo, khí lực, v́ Phật thị
hiện giống như loài người vậy.
3.1.2.2.2. Hiện tướng
tập chúng (hiện tướng thần
thông, triệu tập đại chúng)
3.1.2.2.2.1. Hiện thụy
(hiện
điềm tốt lành)
“Thụy” (瑞, điềm lành) chỉ
là tướng. Quả báo bí mật là Thụy, khác lạ là
Tướng. Tướng biểu thị điều ǵ? Chỗ
sâu kín của diệu lư, rất khó diễn tả. Con người
vốn quen thói hời hợt, chẳng thể tôn trọng.
Đáng cần phải dấy động thần thông, hiện
ra thụy tướng, ngầm biểu thị Lư. Người
đời cứ nghĩ nhện chăng tơ là sắp có
chuyện vui, chim khách hót tức là có người từ xa đến;
chuyện nhỏ nhặt mà c̣n có điềm báo, chuyện lớn
sao chẳng có tướng lành? Dùng gần để biểu
thị xa, cũng đáng nên như thế. Hiện tướng
lành chia làm hai phần:
- Tỏa mây quang minh.
- Phát ra âm thanh vi diệu.
[Những điều này nhằm] biểu thị
đức Phật hiện
thân thuyết
pháp, do muốn diễn bày
duyên do của đức Địa Tạng, bèn trước hết dùng thần thông để
[đại chúng] kinh hăi, chấn động; sau đó, dùng trí
huệ biện tài để tuyên dương.
3.1.2.2.2.1.1. Phóng quang minh
vân (tỏa
ra mây quang minh)
3.1.2.2.2.1.1.1. Tổng thị
(nêu chung)
(Kinh) Thị thời, Như Lai hàm tiếu,
phóng bách thiên vạn ức đại quang minh vân.
(經) 是時如來含笑‧放百千萬億大光明雲。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Như
Lai mỉm cười, tỏa ra trăm ngàn vạn ức mây
đại quang minh).
“Thị thời” (khi ấy) là cảm ứng
đạo giao, phát khởi Tích để hiển thị Bổn, là dịp để đức
Như Lai phó chúc, Đại Sĩ vâng mạng nhận lănh
trách nhiệm cứu vớt, nay đúng phải lúc. Như
hoa Ưu Đàm đúng thời bèn hiện; nay đă đúng thời, cho nên
đức Phật mỉm cười, phóng quang.
“Hàm” (含) là ngậm lại, tức
ngậm miệng lại. Theo Đại Luận, Cười
là từ miệng phát ra, hết thảy các lỗ chân lông đều
mở ra, cho nên gọi là Cười. Do miệng cười
hoan hỷ, hết thảy các lỗ chân lông đều mở
ra. Nhưng vị Phật nào cũng đều có Thường
Quang, Phóng Quang là trong những trường hợp riêng biệt.
Thường Quang là bốn phía của thân Phật có quang
minh chiếu xa một trượng, vừa sanh ra đă có tướng
này. Đó là một trong ba mươi hai tướng, được
gọi là Trượng Quang Tướng (丈光相, tướng quang minh chiếu
xa một trượng). Các cơi khác th́ Thường Quang vô lượng;
do [trong cơi Sa Bà này], chúng sanh bạc phước không thể
chịu nổi ánh sáng ấy, nên Phật Thích Ca nhận lấy
thân tỏa quang minh một trượng. [Phóng quang minh] trong
đoạn kinh văn này là Phóng Quang, nhằm biểu thị
ứng theo căn cơ mà lập ra giáo pháp, phá Hoặc trừ
nghi, từ Thể khởi Dụng.
Nhưng trong các kinh, [thường thấy là]
đă tỏa ra quang minh xong, ắt sẽ thâu lại
quang minh; nay không thấy đoạn kinh văn nói đức
Phật thâu lại quang minh; v́ phóng quang chiếu sự trong
hiện tại, thâu quang minh nhằm thể hiện chuyện
trong tương lai. Nay kinh nói về chuyện trong hiện
tại của đức Địa Tạng, nên lược
đi phần nói về thâu quang. Sách Kim Quang Minh Kinh Huyền
Nghĩa nói: “Bà-pha-bà (Prabhā) dịch là Quang. Uất-đa-ma
(Uttama) dịch là Minh”.
“Vân” (雲, mây) là khí của núi sông,
là cái được hiển hiện trên bầu trời.
Âm Dương tụ lại thành mây, bồng bềnh giăng
bủa ở bên trên, tự nhiên tạo thành h́nh dáng khác biệt.
Sách Nội Kinh viết: “Hơi đất bốc lên là mây,
khí trời rơi xuống là mưa”. V́ thế, từ chữ
Vũ (雨, mưa) và Vân (云), ghép lại thành chữ
Vân (雲), giống như h́nh thái xoay
chuyển, biến đổi giáp ṿng, biểu thị đức
Như Lai hiện thân như mây, thuyết pháp như mưa.
Do mây vô tâm mà ra khỏi hang núi, phiêu tán trên không, chẳng để
lại dấu tích. Mây phủ dầy đặc,
mưa ngọt dầm dề, chính nhằm hiển thị Vô
Phân Biệt Trí của Như Lai duyên theo [chúng sanh] cảm mà
hiện thân, hễ có căn cơ thích ứng bèn thuyết
pháp, khiến cho mầm Bồ Đề của chúng sanh tự
nhiên sanh trưởng.
“Bách thiên vạn ức” (Trăm ngàn vạn ức) là nói
số lượng mây quang minh khá nhiều! Đại Luận
nói: “Thân Quang là cái gốc của các quang minh. Từ gốc
mà tỏa ra vô lượng vô số. Ví như con trùng Ca La Cầu
La (Kalākula) thân nó bé tí, nếu trời nổi
gió, sẽ chuyển thành to lớn. Quang minh cũng giống
như thế, gặp chúng sanh có thể độ, bèn chuyển thành tăng trưởng
vô hạn”. V́ thế
có trăm ngàn vạn ức. Cần biết quang minh của
Như Lai vốn từ trí tâm lưu xuất, vậy th́ một
niệm tâm của chúng ta vốn sẵn đủ ba ngàn tánh
tướng, bách giới, thiên như. Tâm quang lần lượt
trọn đủ trăm ngàn vạn ức như thế,
chẳng hai, chẳng khác với trí quang của Như Lai. V́
thế, tam thừa đều nhóm đến, lục đạo
cùng mở ra, cùng một quang minh này, chẳng thể
nghĩ bàn!
3.1.2.2.2.1.1.2. Biệt
minh (nói từng
quang minh riêng biệt)
(Kinh) Sở vị đại viên măn quang
minh vân.
(經)所謂大圓滿光明雲。
(Kinh: Tức là mây
quang minh đại viên măn).
“Sở vị” (所謂) là từ ngữ dùng để
chỉ ra (liệt kê). Xét theo kinh văn ở đây, “sở
vị” là nói đến mười loại mây quang minh.
Xét theo ư, [mười thứ mây quang minh ấy] là nói về
Tánh Đức của chúng sanh, muốn cho chúng sanh quán h́nh
mà biết ư, tận mắt thấy đạo ở chỗ
nào, toàn tánh khởi tu, từ ngay nơi nhân mà thành quả, mới
thấy đức Tỳ Lô Giá Na Phật trọn khắp hết
thảy các chỗ. Tâm, Phật, chúng sanh, ba thứ chẳng
sai biệt. V́ thế, trong tông này, thêm vào thập thừa
quán pháp [trong sách Ma Ha Chỉ
Quán] nhằm
đối ứng với mười loại mây quang minh,
khiến cho người tu kiếm được cửa,
chẳng uổng công nh́n ngó. V́ thế, ngài Tứ Minh nói: “Mười
pháp ấy tuy là dường như tổ Trí Giả thay Phật
tuyên dương, nhưng nếu ĺa mười pháp ấy,
sẽ chẳng có pháp nào để tu”. Nay chuẩn theo ư ấy
để giải thích kinh văn, ngơ hầu mười pháp
trở thành những cỗ xe để
chở về chỗ có của báu.
“Đại viên măn quang minh vân” đứng
đầu mười loại quang minh, lưu xuất chín
loại quang minh kia, tương ứng với cảnh chẳng
thể nghĩ bàn, đứng đầu mười Thừa,
là cái gốc của chín Thừa kia. “Đại viên măn”
là ba thân nơi quả đức của Như Lai, cùng với
nhất niệm tam thiên của chúng sanh trọn đủ,
chẳng giảm bớt. Từ ngay nơi cảnh ấy,
không có pháp chẳng trọn đủ, cho nên nói là “viên măn”.
Cỗ xe lớn trong kinh Pháp Hoa chẳng phải là ở
ngay nơi đây hay sao? V́ thế, dùng ngay thừa thứ nhất
để đối ứng.
(Kinh) Đại từ bi quang minh vân.
(經)大慈悲光明雲。
(Kinh: Mây quang minh đại từ bi).
Mây quang minh đại từ
bi đối ứng với người chân chánh phát Bồ
Đề tâm. Đă quán diệu cảnh, dùng ǵ để
phát tâm? Mười pháp này tuy đều là viên thường,
nhưng viên nhân (người thuộc căn cơ Viên Giáo)
lại có ba loại căn tánh khác nhau. Thượng căn
th́ một pháp duy nhất, trung căn th́ hoặc hai, hoặc
bảy; hạ căn th́ mới đủ mười. Nay
căn cơ trung hạ, quán cảnh chẳng ngộ, cần
phải thêm vào phát tâm. V́ thế, nương theo diệu cảnh,
phát ra Vô Tác Tứ Hoằng Thệ Nguyện, xót ḿnh,
thương người, thượng cầu, hạ hóa, tức
là đức Như Lai từ bi dẹp khổ, ban vui, tức
là cái tâm Bồ Đề do chúng ta đă phát. Tôi chẳng
đối chiếu với kinh Pháp Hoa v́ sợ quá rườm
rà, những phần dưới đây đều lược
đi [không đối chiếu].
(Kinh) Đại trí huệ quang minh vân.
(經)大智慧光明雲。
(Kinh: Mây quang minh đại trí huệ).
Mây quang minh đại trí huệ ứng với
thừa thứ ba là “thiện xảo an tâm Chỉ Quán”.
Nhân là Chỉ Quán, quả là Định Huệ. Do Huệ
từ Định, nên gọi là “đại trí huệ”.
Đại Luận nói: “Trí huệ biết trọn khắp,
không pháp nào chẳng tận. Trí lớn th́ quang minh lớn,
như hộp to th́ nắp cũng to”. Cho nên biết Phật
trí nơi Phật quả là vô lượng, do nhân tâm (cái tâm làm
nhân) mà khéo an lập Chỉ Quán. Quả và nhân hiển lộ
lẫn nhau, Tu và Chứng thành tựu lẫn nhau. V́ thế,
dùng [thừa thứ ba trong thập thừa quán pháp] để
đối ứng.
(Kinh) Đại Bát Nhă quang minh vân.
(經)大般若光明雲。
(Kinh: Mây quang minh Đại Bát Nhă).
Mây quang minh Đại Bát Nhă, đối ứng
với pháp thứ tư “phá pháp trọn khắp”. Tức
là Tam Quán nhất tâm, không Hoặc (phiền năo) nào chẳng
phá. Đây là nói lấy Bát Nhă làm chánh tu. Bởi lẽ, pháp môn trong các giáo, đều
lấy Vô Sanh làm đầu. Phá trọn khắp các Hoặc,
lại dùng Vô Sanh để nhập các môn. Dọc lẫn
ngang đều phá, khiến cho biết Thể là trọn khắp.
Biết Thể trọn khắp chính là Thật Tướng
Bát Nhă. “Nhập các môn” là quán chiếu Bát Nhă. Dọc lẫn
ngang đều phá là Văn Tự Bát Nhă. Do vậy, dùng quán
pháp này để đối ứng.
(Kinh) Đại tam-muội quang minh vân.
(經)大三昧光明雲。
(Kinh: Mây quang minh đại tam-muội).
Mây quang minh đại tam-muội đối
ứng với pháp Quán thứ năm, tức Thức Thông Tắc
(biết là Thông hay Tắc). Đây chính là dùng Vương tam-muội,
chiếu soi Khổ và Tập trong Tứ Đế, mười
hai nhân duyên, cũng như sự bế tắc của sáu thứ
ngăn lấp[35],
trần sa, vô minh, không ǵ chẳng đều trở thành Đạo
và Diệt. Diệt do duyên theo Trí, Lục Độ, Nhất
Tâm Tam Quán thông suốt. Pháp thông bèn ǵn giữ, pháp tắc bèn
phá trừ. Không pháp bế tắc nào chẳng phá trừ th́
gọi là đại tam-muội. Tam-muội ngầm khế
hợp Huệ, không pháp tắc nào chẳng thông! V́ thế, dùng pháp Quán này để
đối ứng.
(Kinh) Đại cát tường quang minh
vân.
(經)大吉祥光明雲。
(Kinh: Mây quang minh đại cát tường).
Mây quang minh đại cát tường đối
ứng với pháp Quán thứ sáu là Đạo Phẩm Điều
Thích. Đại sư nói: “Cát tường là từ ngữ
nói về nghĩa lợi. Lợi ích trong hiện tại là Nghĩa. Lợi ích trong tương lai là Lợi”. Kinh Đại Bi Không Trí nói: “Cát
tường là nói tới trí bất nhị”. Nay vô tác đạo phẩm,
mỗi mỗi đều được điều ḥa thích
đáng, tùy nghi tiến nhập. Nay dùng vô lậu Bát Nhă để
hướng dẫn Đế duyên ḥng độ hết thảy vạn hạnh, ḥng đạt
đến Tát Bà Nhă (Sarvajña, Nhất Thiết Trí). Bát
Nhă hướng dẫn hạnh, tức là do trí Bất Nhị
mà đạt đến Tát Bà Nhă, đạt được
nghĩa lợi. V́ thế, dùng phép Quán này để đối
ứng.
(Kinh) Đại phước đức
quang minh vân.
(經)大福德光明雲。
(Kinh: Mây quang minh đại phước
đức).
Mây quang minh đại phước đức
ứng với phép Quán thứ bảy là Đối Trị
Trợ Khai (đối trị để giúp cho chánh đạo
được khơi mở). “Phước đức”
tức là các trợ đạo như bố thí v.v… Vô Lậu
Bát Nhă là chánh đạo. Do chánh đạo có nhiều chướng, viên lư
chẳng khai, cần phải tu phước về mặt Sự
để giúp khơi mở. Kinh Niết Bàn nói: “Chúng sanh
phiền năo phi nhất chủng, Phật thuyết vô lượng
đối trị môn” (Phiền năo của chúng sanh không
phải là một loại, đức Phật nói vô lượng
môn đối trị). Phàm kẻ nào chẳng tin có cách đối
trị, th́ hăy nên biết kẻ đó chưa hiểu chánh hạnh.
V́ thế, dùng phép Quán này để đối ứng.
(Kinh) Đại công đức quang minh
vân.
(經)大功德光明雲。
(Kinh: Mây quang minh công đức to lớn).
Mây quang minh công đức to lớn, đối
ứng với pháp Quán thứ tám, tức là “Biết Địa
Vị và Thứ Tự”, ư nói: Người tu hành [phải
biết địa vị và thứ tự] ḥng tránh khỏi
Tăng Thượng Mạn. Bởi mây quang minh này hễ ai
trông thấy đều có công năng diệt ác, có đức
sanh thiện, chẳng có quán trí cạn hay sâu, sáng suốt
hay tăm tối sai khác! Kẻ Tăng Thượng Mạn
cho ḿnh đă bằng Phật, thật sự chưa chứng
đắc mà tự nói là đă chứng đắc, không chỉ
đánh mất địa vị, mà c̣n đọa vào Nê Lê (địa
ngục). Nếu biết chúng sanh và Phật cùng một Thể,
nhưng thật sự giống như nhân quả, trước
sau chẳng xâm lạm, ắt sẽ trong th́ siêng tu tập
Tam Quán, ngoài th́ thêm pháp Ngũ Hối[36],
ḥng tránh khỏi Tăng Thượng Mạn, thành tựu công
đức to lớn. V́ thế dùng phép Quán này để đối
ứng.
(Kinh) Đại quy y quang minh vân.
(經)大歸依光明雲。
(Kinh: Mây quang minh đại quy y).
Mây quang minh đại quy y đối ứng
phép Quán thứ chín là “Có Thể An Nhẫn”, tức là đối
với những chuyện nghịch hay thuận, đều
an nhiên bất động, sách tấn ngũ phẩm để
nhập sáu căn. Do hành nhân viên quán mới dự vào ngoại
phàm, ngoài chuốc lấy danh lợi, trong dấy động
túc chướng; do vậy, bèn bị
phá bại,
há có thể tăng tấn nơi đạo ư? Nay thấy
mây quang minh thị hiện h́nh tượng quy y, liền trở
về tự tánh, nương cậy Tam Bảo, nhất thể
quang nghiêm (trang nghiêm bằng quang minh thanh tịnh nhất thể),
an trụ Vô Sanh, mặc ḷng mà tiến. V́ thế, dùng phép Quán
này để đối ứng.
(Kinh) Đại tán thán quang minh vân.
(經)大讚歎光明雲。
(Kinh: Mây quang minh đại tán thán).
Mây quang minh đại tán thán ứng với
phép Quán thứ mười là Ly Thuận Đạo Pháp Ái, ư
nói: Đừng chấp vào đạo tương tự Thập
Tín, cần phải nhập lư Sơ Trụ chân thật. Do đă
tu ly ái (ĺa ái nhiễm), tiến nhập địa vị Đồng
Luân (Thập Trụ), phân thân trong trăm cơi, một và nhiều
chính là lẫn nhau, tự nhiên tùy ư lưu nhập biển Tát
Bà Nhă, liền được tam thế Như Lai không vị
nào chẳng tán thán, an ủi. V́ thế, dùng phép Quán này để
đối ứng.
Hỏi: Mười thứ mây quang minh là Dụng
của Quả Giác thần thông. Thập thừa quán pháp là
pháp môn để người sơ tâm tấn tu trong Viên Giáo,
đem quả đối
ứng với nhân th́ sự tu chứng
đă mâu thuẫn mất rồi!
Đáp: Phàm luận về quán pháp; nếu chẳng
dùng Quả Giác làm Thể, sẽ chẳng phải là viên hạnh.
Nếu chẳng dùng ngay tánh của Quả Giác làm cảnh được
chiếu th́ chẳng phải là diệu cảnh, chẳng phải
là lư tột cùng! Nay chẳng chấp nhận sơ tâm và Quả
Giác đồng thể, th́ mây quang minh của Như Lai liên
quan ǵ đến chúng sanh để rồi trời, rồng,
quỷ thần đều nương theo quang
minh mà nhóm đến trọn khắp? Nếu biết thuở
đầu và lúc sau chẳng hai th́ mới tỏ rơ “nhân quả
cùng một đường”. Đó gọi là đức Phật
nơi Tánh Đức của chúng sanh, chẳng phải tự,
chẳng phải tha, chẳng phải nhân, chẳng phải
quả, tức là cái Thể viên thường đại giác.
V́ thế biết cái Thể viên minh của Quả Phật chính
là Tánh Đức mà bọn phàm phu chúng ta vốn sẵn có. Vậy
th́ nói đến mây quang minh của Quả Phật chẳng
phải là diệu dụng của sơ tâm trong Viên Giáo ư?
Địa Tạng Bồ Tát Bổn
Nguyện Kinh Khoa Chú, quyển thượng,
phần 1 hết
[1] Lưu Sa vốn là thành
ngữ chỉ hiện tượng cát lún (quicksand), tức
là những vùng cát mà người hoặc vật
bước lên đó sẽ bị lún sâu xuống, chết ngộp
trong cát. Thuở trước, từ ngữ này
thường được dùng để chỉ vùng sa mạc
thuộc Tây Vực.
[2] Cức nhân (棘人, người đau
đớn như bị gai đâm trong ḷng) là từ ngữ
chỉ người đang trong giai đoạn cư tang
cha hoặc mẹ.
[3] Tăng Na (Saṃnāha-saṃnaddha),
c̣n phiên âm là Tăng Na Tăng Niết, là từ ngữ chỉ
Tứ Hoằng Thệ Nguyện của Bồ Tát. Tăng Na
là áo giáp, c̣n Tăng Niết là trang nghiêm. Do vậy, từ ngữ
này có nghĩa là “khoác lấy giáp trụ thệ nguyện để
trang nghiêm”.
[4] “Ruộng thục”: Ruộng cày cấy
đă lâu, đă gieo trồng nhiều năm.
[5] Chương An tức là ngài Chương An
Quán Đảnh (561-632), tự là Pháp Vân, pháp hiệu là Quán
Đảnh, người xứ Chương An (tỉnh Chiết
Giang), đồ đệ của tổ Trí Giả đại
sư, được tôn xưng là tổ thứ tư của
tông Thiên Thai, có cống hiến rất lớn trong việc
hệ thống, hoàn bị giáo nghĩa của tông Thiên Thai.
Những trước tác của Ngài được đánh
giá rất cao như các bộ Niết Bàn Huyền Nghĩa,
Niết Bàn Kinh Sớ, Quán Tâm Luận, Thiên Thai Bát Giáo Đại
Ư…
[6] Tứ Minh là ngài Tri Lễ (960-1028),
pháp hiệu Pháp Trí, cao tăng tông Thiên Thai. Do quê ở Tứ
Minh (thuộc huyện Cận, tỉnh Chiết Giang) nên
thường được gọi là Tứ Minh Tôn Giả.
Sư cùng với đại
sư Tuân Thức là những nhân vật chủ chốt của
Thiên Thai Xuất Gia Phái, đối lập với Sơn Ngoại
Phái của Ngộ Ân, Hồng Mẫn, Nguyên Thanh v.v… Sư
chuyên tu Pháp Hoa Sám. Mỗi kỳ tu tập là hai mươi mốt
ngày đêm hành tŕ liên tục. Sư c̣n chuyên tu Di Đà Sám
Pháp năm mươi lần. Sư từng đốt ba
ngón tay cúng Phật, mỗi năm tổ chức pháp hội
niệm Phật thí giới. Sư trước tác rất
nhiều, hiện c̣n giữ được các bộ Quán
Kinh Sớ Diệu Tông Sao, Kim Quang Minh Kinh Văn Cú Kư, Giải
Báng Tư, Đại Bi Sám Nghi, Tu Sám Yếu Chỉ, Quang Minh
Sám Nghi, Quán Vô Lượng
Thọ Phật Kinh Dung Tâm Giải, Quán Âm Biệt Hành Huyền
Nghĩa Kư, Quán Âm Biệt Hành Sớ Kư…
[7] Ngài Kinh Khê Trạm Nhiên (711-782), pháp hiệu
Trạm Nhiên, người xứ Kinh Khê, thuộc Tấn
Lăng, Thường Châu (nay là huyện Nghi Hưng, tỉnh
Giang Tô), là một vị cao tăng thuộc tông Thiên Thai. Ngài
được tôn làm tổ thứ chín của tông Thiên Thai với
mỹ hiệu Diệu Lạc đại sư. Ngài theo học
Chỉ Quán từ bé với ngài Phương Nham, đến
năm 20 tuổi, làm môn hạ của ngài
Tả Khê Huyền Lăng, nhưng
đến năm 38 tuổi mới thọ Cụ Túc Giới.
Những trước tác nổi tiếng của Ngài là Pháp
Hoa Văn Cú Kư, Pháp Hoa Kinh Huyền Nghĩa Thích Thiêm, Chỉ
Quán Phụ Hành Truyền Văn Hoằng Quyết (tức sách
Phụ Hành thường được ngài Thanh Liên Linh Thừa
nhắc đến trong cuốn Khoa Chú này), Chỉ Quán Sưu
Yếu Kư, Chỉ Quán Đại Ư v.v…
[8] Chi lâm công đức (支林功德) chính là công đức
do Thiền Định. Nói đại lược th́ đó là
mười tám thứ pháp công đức thuộc về Tứ
Thiền, chẳng hạn như Sơ Thiền có năm chi
là Giác Chi, Quán Chi, Hỷ Chi, Lạc Chi, Nhất Tâm Chi v.v…
[9] Tứ Trọng là giết, trộm, dâm, dối.
Theo bài Tây Phương và Thập Ác Bát Tà của Siêu
Dương Phật Học Hội (không đề tên tác giả),
th́ Bát Tà là: Mắt tham sắc đẹp, tai mê nghe âm thanh
hay, mũi ham ngửi mùi thơm, miệng ham ăn vật
ngon ngọt, thân tham an nhàn, thích mặc áo đẹp, ư suy
nghĩ tà vạy, làm chuyện phi lư phi nghĩa. Theo Đàn
Kinh Tiên Chú của Đinh Phước Bảo th́ Bát Tà là tám
pháp tương phản với Bát Chánh Đạo.
[10] Tam Chiếu là một thuật ngữ do
tông Thiên Thai đặt ra để phán định kinh Hoa
Nghiêm ḥng làm y cứ cho thuyết Ngũ Thời Phán Giáo. Theo
đó:
1. Chiếu
cao sơn: Mặt trời vừa mới mọc bèn chiếu
đến núi cao trước, ví như đức Phật
sau khi thành đạo bèn nói kinh Hoa Nghiêm cao nhất, chỉ
tiếp độ bậc tối thượng căn Bồ
Tát.
2. Chiếu u
cốc: Ánh nắng mặt trời chiếu đến hang
tối. Đây là thời A Hàm, độ căn cơ Tiểu
Thừa.
3. Chiếu
b́nh địa: Như mặt trời chiếu khắp
đại địa. Đây là các thời từ
Phương Đẳng cho đến Pháp Hoa - Niết Bàn,
lần lượt độ Quyền Tiểu quy hướng
Viên Đốn.
[11] Trong kinh Niết Bàn, đức Phật dùng
năm vị của sữa để phân định các thời
thuyết pháp trong giáo pháp suốt một đời Ngài:
1. Sanh
nhũ: Vị sữa tươi vừa vắt từ ḅ ra
th́ nhạt, ví như khi đức Phật thuyết kinh Hoa
Nghiêm khi mới thành đạo, căn cơ của chúng
sanh chưa chín muồi, cho nên không lănh hội kinh Hoa Nghiêm được!
2. Lạc: Tức
thời A Hàm, nhằm đối ứng căn cơ Tiểu
Thừa.
3. Sanh Tô:
Chính là thời Phương Đẳng, sữa đă chế
luyện, chuyển căn cơ đă chín muồi từ Tiểu
Giáo sang Thông Giáo.
4. Thục
Tô: Chính là thời Bát Nhă, chuyển từ căn cơ Thông
Giáo chín muồi sang Đại Thừa Biệt Giáo.
5. Đề
Hồ: Chính là thời Pháp Hoa và
Niết Bàn. Căn cơ Biệt Giáo đă chín muồi, chuyển
thành Viên Giáo.
Khi nói
một kinh thuộc vị Đề Hồ,
tức là nói kinh ấy thuộc pháp Viên Đốn.
[12] Châu Mục Vương
(Cơ Măn) làm vua từ năm 976-922 trước Công Nguyên.
Như vậy là năm thứ mươi ba đời Châu
Mục Vương là năm 921 trước Công Nguyên.
[13] Đông Hồ là tôn hiệu của ngài Tứ
Minh Chí Bàn (không rơ năm sanh và năm mất), pháp hiệu là Đại
Thạch. Sư là cao tăng tông Thiên Thai, tác giả bộ
Phật Tổ Thống Kỷ. Thuở bé, Sư theo học
với ngài Viên Cơ, về sau xuất gia theo Thiền Tông,
nhưng chuyên tinh nghiên cứu Thiên Thai Giáo Quán, là truyền
nhân của ngài Nhân Nhạc thuộc phái Sơn Ngoại của
tông Thiên Thai. Trước tác của Sư chỉ c̣n Phật
Tổ Thống Kỷ và bộ Pháp Giới Phàm Thánh Thủy
Lục Thắng Hội Tu Trai Nghi Quỹ.
[14] Bổn Tích là nói tắt của Bổn
Địa Thùy Tích. Hàng Pháp Thân Bồ Tát từ Sơ Địa
trở lên đều có thể từ thân của chính ḿnh
bèn biến hóa nhiều thân ứng hóa để thích ứng
các căn cơ ḥng thuận tiện độ sanh. Thân chân
thật là Bổn Địa, thân ứng hóa là Thùy Tích (thị hiện dấu
vết). Có thể hiểu theo nghĩa rộng Bổn là
Pháp Thân, Báo Thân, c̣n Tích là Ứng Thân. Khi nói đến Bổn
Môn và Tích Môn th́ những ǵ giảng dạy nhằm dẫn đến
pháp Viên Đốn tối hậu sẽ gọi là Tích Môn,
c̣n pháp dạy thẳng thừng vào Viên Đốn th́ gọi
là Bổn Môn.
[15] Vào cuối đời Đường, do
chiến tranh liên miên, quân phiệt cát cứ thường đánh
lẫn nhau, khiến cho tự viện điêu linh, một số
lớn kinh sách của tông Thiên Thai bị thất lạc. Đến
đầu thời Tống, có những vị đại đức
t́m lại được các tài liệu ấy từ Triều
Tiên hay Nhật Bản đem về, phục hưng tông Thiên
Thai. Cuộc tranh luận bùng nổ trong tông Thiên Thai khởi
nguồn từ bộ Kim Quang Minh Kinh Huyền Nghĩa của Trí
Giả đại sư, v́ tác phẩm này có hai văn bản
gọi là Lược Bản và Quảng Bản. Do các
môn nhân trong tông phái có quan điểm
bất đồng, dẫn đến sự phân liệt thành
hai phái. Phái ủng hộ Quảng Bổn tự xưng là Sơn
Gia (hàm nghĩa họ là Thiên Thai Tông chính thống), gọi
những người không tán thành quan điểm của họ
là Sơn Ngoại.
[16] Trường
Thủy là mỹ hiệu của Lăng Nghiêm đại
sư (967-1038). Sư họ Trịnh, người xứ Tiền
Đường, Hàng Châu, hiệu là Đông B́nh Tử Toàn,
thường được tôn xưng là Trường Thủy
tôn giả. Sư bẩm tánh thông minh hơn người. Lúc
chín tuổi, Sư theo xuất gia với ngài Khế Tông chùa
Phổ Huệ, học tập kinh Lăng Nghiêm. Mười
hai tuổi, được thọ giới Sa Di, tṛn hai mươi
bèn được đặc cách thọ Cụ Túc Giới.
Về sau, Sư lại đến chùa Linh Quang ở Tú Châu để
học thêm Lăng Nghiêm với Hồng Mẫn, có sở ngộ,
được ngài Hồng Mẫn ấn chứng. Về
sau, Sư trụ tại chùa Trường Thủy, khai giảng
kinh Lăng Nghiêm, Tăng tục theo học mấy ngàn người.
Năm Thiên Thánh thứ tám (1030), Sư soạn bộ Lăng
Nghiêm Nghĩa Sớ, lại soạn Kim Cang Kinh Toản Yếu
Khoa, Khởi Tín Luận Bút Tước Kư. Sau đó, Sư giảng
các bộ Hạnh Nguyện Sao, Pháp Giới Quán, Viên Giác Kinh,
Thập Lục Quán Kinh… mỗi loại mười mấy
lượt. Năm Đại Trung Tường Phù thứ sáu
(1013), Sư được vua ban áo cà sa tía và mỹ hiệu
Trường Thủy Sớ Chủ Lăng Nghiêm Đại
Sư.
[17] Bộ sách này có tên gọi đầy đủ
là Phật Thuyết Lập Thế A Tỳ Đàm Luận,
thể hiện vũ trụ quan Phật giáo, gồm hai
mươi lăm phẩm. Luận này được ngài
Chân Đế dịch sang tiếng Hán thành mười quyển
vào đời Trần. Đôi khi sách c̣n được gọi
bằng các danh xưng như Thiên Địa Kư Kinh, Lập
Thế A Tỳ Đàm Tạng…
[18] Mười
loại thân là thân của Phật, Bồ Tát dùng để giáo
hóa chúng sanh. Tùy theo từng địa vị mà có nhiều
thân khác nhau. Ở đây, chỉ tạm nêu mười thân
của Bát Địa Bồ Tát, tức chúng sanh thân, quốc
độ thân, nghiệp báo thân, Thanh Văn thân, Độc
Giác thân, Bồ Tát thân, Như Lai thân, trí thân, Pháp Thân, hư
không thân. Thập Nhẫn Bồ Tát th́ có Bồ Đề thân,
nguyện thân, hóa thân, trụ tŕ thân, tướng hảo trang
nghiêm thân, thế lực thân, như ư thân, phước đức
thân, trí thân, Pháp Thân v.v…
[19] A Bàng (阿傍), c̣n gọi là A Bàng La Sát, là tên gọi của
lính canh địa ngục. Theo Ngũ Khổ Chương
Cú Kinh, A Bàng có h́nh đầu trâu, tay người, hai chân có
móng như chân trâu, sức khỏe có thể lật ngược
núi, tay cầm chĩa ba bằng sắt nung, xiên trăm ngàn
vạn tội nhân quăng vào chảo dầu sôi.
[20] Chín họ bao gồm bốn họ bên cha,
ba họ bên mẹ và hai họ bên vợ. Bốn họ bên
cha bao gồm họ của ông nội, họ của bà nội,
họ hàng thân quyến của anh em trai cha, họ hàng thân
quyến của chị em cha. Ba họ bên mẹ là họ của
ông ngoại, họ của bà ngoại, và họ của các
anh em mẹ. Hai họ bên vợ là họ của bố vợ
và họ của mẹ vợ. Cho đến đời
Thanh mới có án tru di cửu tộc. Trên thực tế, khi
một người phạm tội bị kết án tru di cửu
tộc, sẽ xử trảm chính người ấy, cha, mẹ,
vợ con, anh chị em (kể cả anh chị em nuôi) và con
cái của họ, ông ngoại, bà ngoại, các d́, các cậu
và con cái của họ, cùng với bố mẹ vợ.
[21] Sách này có tên gọi đầy đủ là
Bạch Hổ Thông Nghĩa. Vào năm Kiến Sơ thứ
tư (79) đời Hán Chương Đế
(Lưu Đát), một hội
nghị được mở ra tại Bạch Hổ Quán ở
kinh đô Lạc Dương, triệu tập các quan thái
thường, tướng quốc, đại phu, bác
sĩ, nghị lang, lang quan, và các Nho sinh hữu
danh để tŕnh bày các
kiến giải
cũng như giảng giải
về sự
khác biệt giữa Ngũ Kinh của Nho gia. Hán Chương
Đế đích thân phê khảo các tấu chương nghị
luận về chủ đề này. Những điều
được hội nghị tán thành được ghi lại
thành một bộ
sách, đặt trên là Bạch Hổ Thông Nghĩa hay Bạch
Hổ Thông Đức Luận. Sách này được coi là tác
phẩm cơ sở để hiểu kinh điển Nho
gia, đồng thời để thiết lập tính chủ
đạo chánh thống của Nho gia trong xă hội.
[22] Theo Hán Thư, cổ nhân
dùng hạt ngũ cốc làm chuẩn để đo lường.
Một hạt kê đen (秬黍, cự thử, c̣n gọi
là hắc thử) ở phương Bắc, nếu xét theo bề
rộng của nó, coi đó là một Phân (分). Mười phân là một
Thốn (寸, tấc), mười
Thốn là một Xích (尺, thước), mười
Xích là một Trượng (丈). Hoàng Chung (黃鐘) là chín mươi phân
(từ đó mà phân định cao độ, trường
độ của các nốt nhạc). Về dung lượng
th́ vật ǵ có thể chứa được một ngàn
hai trăm hạt Cự Thử th́ gọi là một Dược
(龠), hai Dược là một
Hợp (合). Mười Hợp là
một Thăng (升, thưng), mười
Thăng là một Đẩu (斗, đấu), ba
Thăng là Đại Thăng (大升), ba Đẩu là một
Đại Đẩu (大斗), mười Đại
Đẩu là một Hộc (斛). Đối với trọng
lượng th́ trọng lượng của một trăm
hạt Cự Thử là một Thù (銖), hai mươi bốn
Thù là một Lạng (兩), mười sáu Lạng
là một Cân (斤) v.v…
[23] Khuê, Toát là hai đơn
vị đo lường cực nhỏ trong dung lượng.
Một Khuê (圭) là sáu mươi tư
hột kê. Toát (撮) là bốn Khuê.
[24] Truy (錙) là một đơn vị
đo lường về trọng lượng. Một Truy
là nửa lạng.
[25] Tế Tinh (祭星), hay c̣n gọi là Thuận
Tinh là một nghi thức tế lễ của thời cổ
mang tánh chất nông nghiệp, thường cử hành vào
ngày mồng Tám tháng Giêng. Xưa kia, vào ngày ấy, hoàng đế
đích thân ra Đông Giao (phía Đông kinh thành) lập đàn
thắp đèn tế sao, nhằm cầu mưa thuận gió ḥa, mùa
màng bội thu. Có lẽ v́ vậy mà thành h́nh thói quen cúng sao Hội sau này trong lễ nhương tinh giải
hạn đầu năm.
[26] Chúng tôi dịch đoạn này dựa theo lời
giải thích của pháp sư Viên Anh trong bộ Đại
Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng
Nghĩa.
[27] Đào Đường Thị (陶唐氏) vốn là tên gọi chánh quyền của
Đế Nghiêu (con trai thứ hai của Đế Khốc
và Khánh Đô). Vua Nghiêu họ Y Kỳ, tên là Phóng Huân. Năm mười ba tuổi,
vua Nghiêu đă phù
tá Đế Chí, do có công, nên lúc mười lăm
tuổi, được phong ở đất Đào rồi
chuyển sang đất Đường (nay là Lâm Phần tỉnh
Sơn Tây). V́ thế, sử gọi chánh quyền của vua Nghiêu là Đào Đường
Thị.
[28] Đây cũng là cách
đọc biến âm, âm nguyên thủy là Godana hoặc Godaniya
rồi diễn biến thành Khotan.
[29] Trong giai đoạn đầu, khi
Đường Cao Tông (Lư Trị) bạc nhược,
lười biếng chánh sự, Vũ Tắc Thiên đă
giúp vua phê duyệt tấu
chương. Càng về sau, nhà vua càng bị bà ta chi phối,
hoàn toàn trở thành con rối trong tay bà ta. Cho đến
năm Hiển Khánh thứ năm (660), khi đi tuần du ở
quê nhà, Đường Cao Tông phát bệnh, đau đầu rất
nặng. Do vậy, bà
ta đă dùng danh nghĩa của
nhà vua để xuống chiếu cho phép chính ḿnh ngồi song
song với vua nghe các quan tấu
tŕnh khi lâm triều. Sử gọi giai đoạn này là Nhị
Thánh Lâm Triều cho đến khi Cao Tông chết (năm
683). Trong giai đoạn đó, vào năm Thượng Nguyên
nguyên niên (674), tháng Tám, dưới sự đạo diễn
của Vũ Hậu, Đường Cao Tông xuống chiếu,
tự xưng là Thiên Hoàng, gọi Vũ Hậu là Thiên Hậu.
[30] Theo thần thoại Trung Hoa, Thương
Hiệt (倉頡) là người sáng tạo chữ Hán, nên ông
được người đời xưng tụng là Thương
Hiệt tiên sư, hoặc Thương Hiệt thánh nhân,
Thương Hiệt Chí Thánh, Hữu Sử Sáng Thánh Nhân v.v… Tương
truyền, ông làm quan Hữu Sử của
Hoàng Đế, sáng chế văn tự để ghi chép những
sự việc quan trọng trong thời đó, thay cho lối
thắt nút để ghi nhớ sự kiện trước đó. Theo thần
thoại, do nh́n vào vết chân chim (có thuyết nói là do nh́n
vào các đường vằn trên mai rùa) mà Thương
Hiệt dấy khởi ư nghĩ sáng chế
văn tự.
[31] Minh Tướng (tướng trời sáng):
Thường được tính từ lúc trời sáng có thể
trông thấy rơ đường chỉ trên bàn tay cho đến
lúc trời xẩm tối. Hàng đệ tử Phật
không được dùng bữa điểm tâm trước
khi trời có minh tướng.
[32] Cuộn duỗi
ở đây phải hiểu là lúc khởi tác dụng (duỗi)
và trở về tịch tĩnh (cuộn).
[33] Tứ Nhất là một khái niệm do tông Thiên
Thai đề ra nhằm đề cao đặc tánh độc
đáo siêu việt của kinh Pháp Hoa:
1. Tất cả
những lời dạy trong kinh Pháp Hoa nhằm xiển
dương, chỉ dạy Nhất Thừa, đó là Giáo Nhất.
2. Các hạnh
được dạy trong kinh Pháp Hoa đều là hạnh
của Đại Thừa Bồ Tát, đó là Hạnh Nhất.
3. Tất cả
những lời dạy đều nhằm khiến cho thính
chúng đều khai thị ngộ nhập tri kiến của
Phật, tức là trở thành cùng một căn tánh, đều
hành Bồ Tát đạo, đó là Nhân Nhất.
4. Do tu theo
kinh Pháp Hoa, sở chứng là lư Thật Tướng, đó
là Lư Nhất.
[34] Bất Khả Thuyết Bất Khả Thuyết
lại là một con số gấp bội lần của Bất
Khả Thuyết. Bất Khả Thuyết lần Bất Khả
Thuyết là một Bất Khả Thuyết Chuyển, Bất
Khả Thuyết Chuyển lần Bất Khả Thuyết
Chuyển là một Bất Khả Thuyết Bất Khả
Thuyết. Một Bất
Khả Thuyết Bất Khả Thuyết là sau số 1 sẽ
có 18.609.191.940.988.822.220.653.298.843.924.824.064
con số 0.
[35] Sáu thứ ngăn lấp (Lục Tế):
Sáu thứ phiền năo che lấp cái tâm thanh tịnh: Tham, phá
giới, sân khuể, giải đăi, tán loạn, và ngu si.
[36] Ngũ Hối (五悔):
Năm chi của pháp Sám Hối dựa theo tinh thần tu tập
Pháp Hoa Tam Muội, bao gồm: Sám Hối (phát lộ tội
đă tạo, thề chẳng trái phạm), Khuyến Thỉnh
(thỉnh mười phương Như Lai chuyển pháp
luân), Tùy Hỷ, Hồi Hướng và Phát Nguyện. Mở
rộng ra, về sau, tu bất cứ pháp Quán nào, dù Hiển
hay Mật, nghi thức luôn bao gồm Ngũ Hối. Chẳng
hạn như Tịnh Độ Sám Nguyện của ngài Từ
Vân, hay phương pháp tu Chuẩn Đề hoặc Ngũ
Bộ Chú đều có Ngũ Hối.