Địa Tạng Bồ
Tát Bổn Nguyện Kinh Khoa Chú, phần 2
地藏菩薩本願經科注
古鹽匡菴青蓮苾芻靈椉父輯
Cổ Diêm, Khuông Am
Thanh Liên bật-sô Linh Thừa biên soạn
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
(theo bản in trong tháng
Bảy năm 2017
của Phật Đà
Giáo Dục Cơ Kim Hội, Đài Loan)
Giảo chánh: Đức
Phong và Huệ Trang
3.1.2.2.2.1.2. Xuất vi diệu âm (phát ra âm thanh vi diệu)
3.1.2.2.2.1.2.1. Kết tiền khởi hậu (kết phần trước, dẫn khởi phần
sau)
(Kinh) Phóng như thị đẳng bất
khả thuyết quang minh vân dĩ, hựu xuất chủng
chủng vi diệu chi âm.
(經)放如是等不可說光明雲已‧又出種種微妙之音。
(Kinh: Đă tỏa ra bất khả thuyết
mây quang minh như thế rồi, lại phát ra các thứ âm
thanh vi diệu).
Từ chữ “phóng” (放) trở đi, kết
luận phần trước. Từ chữ “hựu” (又) trở đi, mở ra phần sau. Bà Xà
Ni Sa Bà Lâm [trong tiếng Phạn], cơi này dịch là “âm
thanh”. Theo kinh Ma Nhiễu Loạn, chữ Tỳ Lâu trong
tiếng Phạn dịch là “âm thanh”; sau này dịch là Hồng
Âm (洪音, âm thanh to lớn, đây là tên
đệ tử của Câu Lâu Tần Phật, tức Krakucchanda Buddha). Sách Bạch Hổ
Thông nói: “Thanh là tiếng kêu. Âm là Ẩm (uống). Cứng,
mềm, trong, đục, ḥa hợp cùng uống”. Tinh Uẩn
nói: “Âm là do các tiếng phát triển
thành. Lan
truyền, phân tán là Thanh. Nếu chẳng phải vậy, sẽ
chẳng thể chấn động. Hàm súc có thừa mà chẳng
bộc lộ hết th́ là Âm. Nếu chẳng phải vậy,
nó sẽ chẳng thể ḥa quyện vào nhau. Hô hai chữ [âm
thanh] sẽ trọn đủ ư nghĩa khai phát và thâu tàng”. Nay [kinh văn] nói
đến âm thanh diễn tả các lư, [ở đây, những
âm thanh ấy] được gọi là Âm. Tiếng do đức
Phật phát ra, ngôn từ thanh nhă, người nghe không chán,
nghe măi chẳng đủ; có thể tạo thành nhân duyên “ban
vui, dẹp khổ” cho hết thảy chúng sanh, không ǵ hữu
ích bằng nghe tiếng. Tức là Ngài đă dùng ḷng Từ
để tu cái miệng, cho nên có “bát âm”: Một là cực
hảo âm (âm thanh hay nhất), hai là nhu nhuyễn âm (âm thanh dịu
dàng), ba là ḥa thích âm (âm thanh ḥa hợp, thích đáng), bốn
là tôn huệ âm (âm thanh cao quư, tràn đầy trí huệ),
năm là bất nữ âm (âm thanh không có giọng nữ), sáu
là bất ngộ âm (âm thanh không lầm lạc), bảy là
thâm viễn âm (âm thanh vang vọng sâu xa), tám là bất kiệt
âm (âm thanh không cạn rè).
“Chủng chủng vi diệu” (các thứ
vi diệu): Trong đời trước, đức Phật
đă gieo nhân duyên âm thanh tốt lành, cho nên đạt
được yết hầu có Tứ Đại vi diệu,
có thể phát ra các thứ âm thanh xa, gần, mầu nhiệm
hay đẹp nhất, trọn khắp mười
phương thế giới nhiều như cát sông Hằng.
Nay mây quang minh phát ra âm thanh vốn sẵn tuyên dương,
lưu bố, dứt bặt các t́nh kiến thuộc về
tâm duyên lự, hiển lộ sự thần thông trí huệ
vô phân biệt. Ḥa hợp vang vọng lẫn nhau th́ gọi
là Vi, đây kia chẳng xen tạp là Diệu. Điều
này biểu thị đức Địa Tạng tùy loại
hiện thân, ứng cơ thuyết pháp. Cảnh đă chẳng
phải là một, [cho nên] âm thanh cũng rất nhiều.
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Chư quang minh trung xuất diệu âm, phổ
biến thập phương nhất thiết quốc, diễn
thuyết Phật tử chư công đức, năng nhập
Bồ Đề chi diệu đạo” (Trong các quang minh
phát ra âm thanh mầu nhiệm trọn khắp mười
phương hết thảy các cơi, diễn thuyết các công đức của Phật tử
(Bồ Tát), có thể nhập đạo mầu Bồ
Đề) chính là nói đến chuyện này!
3.1.2.2.2.1.2.2. Chánh
minh chúng âm (nói rơ các âm thanh)
(Kinh) Sở vị Đàn Ba La Mật âm,
Thi Ba La Mật âm, Sạn Đề Ba La Mật âm, Tỳ Ly
Da Ba La Mật âm, Thiền Ba La Mật âm, Bát Nhă Ba La Mật
âm.
(經)所謂檀波羅蜜音‧尸波羅蜜音‧羼提波羅蜜音‧毗離耶波羅蜜音‧禪波羅蜜音‧般若波羅蜜音。
(Kinh: Tức là tiếng Đàn Ba La Mật,
tiếng Thi Ba La Mật, tiếng Sạn Đề Ba La Mật,
tiếng Tỳ Ly Da Ba La Mật, tiếng Thiền Ba La Mật,
tiếng Bát Nhă Ba La Mật).
“Tuyên thuyết Lục Độ” có hai
ư:
- Một là biểu thị thân của Phật,
Bồ Tát, tức Pháp Thân, sanh từ công đức của
các pháp môn.
- Hai là biểu thị Phật, Bồ Tát thuyết
pháp chẳng ra ngoài pháp môn như Lục Độ v.v… Dùng
đại trí huệ để làm sư tử hống, giăng mây, rền sấm, khiến
cho muôn vật tươi nhuận, đại chúng nghiêm túc.
Đàn Na (Dāna) trong tiếng Phạn, Hán dịch
là Bố Thí. “Đàn” là kho báu, là phước điền
phú quư, an ổn. “Đàn” có thể phá
khổ, ví như chiếc bè để đắc đạo
Niết Bàn. Do lợi ích đặc biệt nhiều, cho nên
dùng mây quang minh để tán thán đầu tiên.
Thi La (Śīla,
Giới) dịch là Tánh Thiện, lại dịch là
Chỉ Đắc (止得, ngưng dứt), ư nói “dứt
ác, làm lành”. Nếu người nào cầu đại thiện
lợi, hăy nên giữ vững giới, như tiếc của
báu to lớn, như bảo vệ thân mạng. Ví như
đại địa làm chỗ nương tựa cho hết
thảy muôn vật, Giới là trụ xứ của hết
thảy các thiện pháp. Do vậy, dùng mây quang minh để
tuyên dương, lưu truyền.
Sạn Đề (Kṣānti) dịch
là Nhẫn Nhục; có Sanh Nhẫn và Pháp Nhẫn. Bồ Tát hành
Sanh Nhẫn, đạt được vô lượng phước
đức. Hành Pháp Nhẫn đạt được vô
lượng trí huệ. Phước đức và trí huệ
trọn đủ, mọi sự đều được
như sở nguyện. V́ thế, dùng quang minh và âm thanh để
tuyên dương, lưu truyền Nhẫn Độ.
Tỳ Lê Da (Virya)[1] dịch là
Tinh Tấn. Thân tinh tấn, siêng tu thiện pháp. Tâm tinh tấn,
siêng hành thiện đạo. Ấy là v́ muốn thành Phật
đạo, th́ có hai môn: Một là phước đức, tức
Thí, Giới, Nhẫn. Hai là trí huệ, tức Thật Tướng
Bát Nhă. Nhập phước đức môn, trừ hết thảy
các tội, các sở nguyện đều đạt
được. Nhập trí huệ môn, chẳng chán sanh tử,
chẳng ưa Niết Bàn. Muốn nhập Bát Nhă th́ phải
do Thiền Định. Muốn tu Thiền Định, ắt
cần phải tinh tấn. Do vậy, dùng mây quang minh để
tuyên dương rộng lớn ḥng phát khởi mọi
người tu tập Tinh Tấn Độ môn.
Thiền Na (Dhyāna),
dịch là Tư Duy Tu. Lúc Bồ Tát hành Thiền, năm Ba La
Mật ḥa hợp, giúp cho Thiền Độ thành tựu.
Trong mỗi môn Thiền, hành đại từ bi, dẹp tội
trong vô lượng kiếp, đạt được trí
Thật Tướng nơi các pháp. V́ thế, được
mười phương chư Phật và đại Bồ
Tát hộ niệm. Do đó, dùng quang minh và âm thanh để
tuyên diễn ḥng phát khởi môn Thiền Định cho mọi
người.
Bát Nhă (Prajñā) dịch là Trí Huệ. Soi tỏ “hết thảy
các pháp đều chẳng thể đạt được”, nhưng có thể thông
đạt hết thảy vô ngại th́ gọi là Trí Huệ.
Chư Bồ Tát từ sơ phát tâm cầu Nhất Thiết
Chủng Trí, sẽ học hết thảy các pháp, đạt
được hết thảy trí huệ. Do vậy, quang minh
và âm thanh tuyên dương điều này ḥng phát khởi căn
cội trí huệ cho chúng sanh.
Lục Độ tuy thông bốn
giáo (Tạng, Thông, Biệt, Viên), nhưng do những Lư Sự
vừa được triển khai trên đây, đều cùng
trở thành Lục Độ thuần viên thuận lư.
(Kinh) Từ bi âm, hỷ xả âm.
(經)慈悲音‧喜捨音。
(Kinh: Tiếng từ bi, tiếng hỷ
xả).
“Từ bi âm, hỷ xả âm”: Đây là
tuyên dương Tứ Vô Lượng Tâm, các vị Bồ
Tát thuộc bốn giáo đều tu [bốn tâm vô lượng
ấy]. Có thể ban vui cho người khác th́ gọi là “từ
tâm”. Có thể dẹp khổ cho người khác th́ gọi
là “bi tâm”. Mừng v́ người khác được
vui sướng th́ là “hỷ tâm”. Chẳng ghét, chẳng
yêu, th́ gọi là “xả tâm”. Từ có ba loại:
1) Duyên Chúng Sanh: Quán sát hết thảy chúng
sanh, tưởng họ như cha mẹ.
2)
Duyên Pháp: Thấy hết thảy các pháp đều sanh từ
duyên.
3) Vô Duyên: Chẳng trụ vào Pháp Tướng
và Chúng Sanh Tướng.
Bi cũng có ba loại, tên gọi giống
như Từ. Đấy là Tứ Vô Lượng Tâm của
Như Lai, cho nên mỗi tâm đều gọi là Đại.
Thật sự có thể ban vui, dẹp khổ cho những
người trên đây, chẳng phải là giả tưởng.
Nay kể ra hai âm, [là v́] Từ Bi là căn bản của đạo
Phật, Hỷ Xả do từ bi mà sanh, cho nên tách rời,
v́ thấy Từ Bi là trọng yếu. Nay mây quang minh tuyên
nói, chính là v́ bốn tâm Quyền Tiểu trên đây đều
trở thành tứ đại
vô lượng tâm duyên theo Thật Tướng của
Như Lai.
(Kinh) Giải thoát âm, vô lậu âm.
(經)解脫音‧無漏音。
(Kinh: Tiếng giải thoát, tiếng
vô lậu).
“Giải Thoát Âm”: Từ ngữ Mục
Đế La trong tiếng Phạn, cơi này dịch là Giải
Thoát. Tịnh Danh Sớ nói: “Một là chân tánh, hai là thật
huệ, ba là phương tiện”. Kinh dạy: “Chư
Phật Bồ Tát hữu giải thoát, danh bất tư nghị.
Nhược Bồ Tát trụ thử giải thoát giả,
năng dĩ Tu Di chi cao quảng nạp giới tử
đẳng, tức thị tam chủng giải thoát bất
tư nghị nghĩa. Hà giả? Bồ Tát giải thoát tức
thị chân tánh, Bồ Tát trụ thử tức thị thật
huệ. Tu Di nạp giới, tức thị phương tiện”
(Chư Phật Bồ Tát có môn giải thoát tên là Chẳng
Nghĩ Bàn. Nếu Bồ Tát trụ trong môn giải thoát ấy,
có thể nhét núi Tu Di cao rộng vào trong hạt cải, tức
là ư nghĩa “ba loại giải thoát
chẳng thể nghĩ bàn”. V́ sao? Giải thoát của Bồ Tát là chân
tánh, Bồ Tát trụ trong ấy chính là thật huệ. Tu
Di nhét vào trong hạt cải tức là phương tiện).
Nay quang minh tuôn ra diệu âm, biểu thị diệu dụng
thần thông chẳng thể nghĩ bàn của đức
Địa Tạng.
“Vô lậu âm”: Ở đây,
đáng lẽ phải nói là Nhân Duyên Tứ Đế và ba
mươi bảy đạo phẩm; nay dùng Vô Lậu
để gồm thâu. Ô Ba hoặc Tát Giá trong tiếng Phạn, cơi này dịch là Hữu.
Hữu nghĩa là ǵ? Chính là hết
thảy các pháp hữu lậu. Ở đây, chẳng xét theo Sanh Diệt
Tứ Đế của Tiểu Thừa, coi Khổ và Tập
là nhân quả hữu lậu, Đạo và Diệt là nhân quả
vô lậu. Vô Lậu ở đây là Vô Lậu trong Viên Giáo, tức
là bảy phương tiện[2] đều
gọi là Hữu Lậu! Do lục phàm rơi rớt bên Hữu,
lưỡng giáo Nhị Thừa (Thanh Văn và Duyên Giác) rơi rụng bên Không,
tam giáo Bồ Tát (Tạng, Thông, Biệt)
rơi
rớt hai bên. Nay mây quang minh tuyên dương, lưu truyền
âm thanh vô lậu chân thật, gom bảy phương tiện
đều trụ trong Trung Đạo, vĩnh viễn chẳng
ṛ rỉ, rơi rớt hai bên nữa!
(Kinh) Trí huệ âm, đại trí huệ
âm.
(經)智慧音‧大智慧音。
(Kinh: Tiếng trí huệ, tiếng đại
trí huệ).
“Trí huệ âm, đại trí huệ âm”:
Trí dùng sự thấu hiểu tột cùng những điều
kín nhiệm để đặt tên, Huệ dùng sự chọn
lựa dứt khoát để đặt tên. Nêu ra hai âm thanh
này v́ tiếng trí huệ thông với bảy phương tiện.
Như sách Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa trong phần
luận về “trí diệu” đă nêu ra hai mươi loại
trí. “Đại trí huệ âm” là hai trí Quyền và Thật
của Như Lai, tức là trí huệ rất sâu vô lượng
của chư Phật Như Lai như kinh Pháp Hoa đă nói.
Hỏi: Trong phần trên đă nói đến
Bát Nhă trong tiếng Phạn, Hán dịch là Trí Huệ, nay lại
liệt kê Trí Huệ, há chẳng phải là trùng lặp
ư?
Đáp: Kinh Đại Phẩm Bát Nhă đă
nói: “Dục đắc Đạo Huệ, Đạo Chủng
Huệ, Nhất Thiết Trí, Nhất Thiết Chủng Trí,
đương học Bát Nhă Ba La Mật” (Muốn đạt được
Đạo Huệ, Đạo Chủng Huệ, Nhất Thiết
Trí, Nhất Thiết Chủng Trí, hăy nên học Bát Nhă Ba La Mật);
tức là Bát Nhă có thể sanh
ra trí huệ. V́ thế, dùng chữ ấy để phiên dịch,
tức là ư nghĩa “như mẹ có thể sanh ra con, bèn
dùng con để đặt tên cho mẹ”. Sách Phụ
Hành nói: “Chủng Trí Bát Nhă tự trọn đủ các
pháp, có thể dứt bặt các tướng”. Tức là
Bát Nhă vốn có đủ cả ba danh xưng như Thật
Tướng v.v… nhưng trí huệ không ǵ chẳng phải
là hai ư nghĩa như “nhân, quả”, “Quyền, Thật”
v.v… cho nên chẳng trùng lặp. Nay quang minh và âm thanh tuyên nói
pháp này, chính là khơi mở “các
trí Quyền, Tiểu, Thiên, không ǵ phải chẳng phải
là diệu trí như thật của Trung Đạo”. Đại Luận nói: “Mười
phương ba đời chư Phật, thân phóng đại
quang minh, chiếu trọn khắp mười phương,
phá các tối tăm. Tâm tỏa ra quang minh trí huệ, phá vô
minh tối tăm của chúng sanh”, chính là v́ ư này!
(Kinh) Sư tử hống âm, đại
sư tử hống âm.
(經)師子吼音‧大師子吼音。
(Kinh: Tiếng sư tử rống, tiếng
sư tử rống lớn).
Tăng Già (Siṃha) trong tiếng Phạn,
dịch là “tiểu sư tử”. Danh xưng Tăng
Già Bỉ trong tiếng Phạn dịch là sư tử, hoặc “đại
sư tử”. Đại Luận nói: “Như
vua sư tử, sanh trong gịng giống thanh tịnh, ở
trong hang to nơi núi sâu”.
“Hống” (吼) là rít gào. Dùng miệng dũi
đất, thể hiện đại oai thế, biểu
thị sức mạnh của sư tử vương. Nay
kinh nói “sư tử âm” chính là v́ tam thừa mà nói pháp
Quyền, Tiểu. “Đại sư tử hống” là
v́ Biệt, Viên mà nói pháp Đại Thừa. Nói chung [sư tử hống] là biểu lộ sự
vô úy. Kinh Tân Hoa Nghiêm (Bát Thập Hoa Nghiêm) nói: “Thí như
đại sư tử hống, tiểu sư tử
văn tất giai dũng kiện. Nhất thiết cầm thú,
viễn tỵ, thoán phục. Phật sư tử hống,
chư Bồ Tát đẳng nhược văn, tán thán Bồ
Đề tâm thanh, trưởng dưỡng Pháp Thân. Vọng
kiến chúng sanh, tàm phục thoái tán” (Ví như đại
sư tử cất tiếng rống, các sư tử bé nghe
tiếng đều mạnh mẽ, cứng cáp. Hết thảy
các loài cầm thú tránh xa, ẩn núp. Nếu các vị Bồ
Tát được nghe sư tử hống của đức
Phật, đều tán thán Bồ Đề
tâm thanh, nuôi lớn Pháp Thân. Chúng sanh t́nh kiến hư vọng
đều hổ thẹn, khuất phục, lui tan). Đại
Luận nói: “Ví như sư tử có thể khiến cho
các loài thú khiếp sợ, khuất phục” là ư này. Nay
quang minh tuyên dương, lưu bố, tức là muốn
tuyên diễn các pháp như Lục Độ v.v… ắt có
đủ đại trí huệ. Đại trí huệ đă
đủ, sẽ hiện sư tử hống, chúng sanh [nghe rồi được] nhuần thấm. V́ thế,
dùng Vân Lôi Âm để kết thúc [các âm thanh phát ra từ mây
quang minh].
(Kinh) Vân lôi âm, đại vân lôi âm.
(經)雲雷音‧大雲雷音。
(Kinh: Tiếng mây sấm, tiếng mây sấm
lớn).
“Vân lôi âm, đại vân lôi âm”: Kinh Pháp
Hoa nói: “Thí như đại vân, biến phú nhất thiết,
huệ vân hàm nhuận, điện quang hoảng diệu,
lôi thanh viễn chấn, linh chúng duyệt dự. Kỳ
vũ phổ đẳng, suất thổ sung hiệp” (Ví
như mây to che phủ khắp hết thảy, mây trí huệ
chứa đựng đầy nước, ánh chớp lóe
chói ngời, tiếng sấm rền xa, khiến cho đại
chúng vui sướng. Mưa ấy tưới xuống b́nh
đẳng, cả cơi đất đều được
thấm đẫm). Mây ví như Ứng Thân nói mười
hai bộ loại kinh, nên nói là “huệ vân” (mây trí huệ).
Thân tỏa ra quang minh lớn, miệng rền bốn biện
tài như chớp lóe sáng, sấm ầm ́, tuyên xối
mưa pháp, [khiến cho muôn loài] đều được
lợi ích nhuần thấm, nhưng [mỗi loài chúng sanh]
đạt được lợi ích sai khác. V́ thế, mây
và sấm khác nhau, nhưng đều do cùng một đất
sanh ra, một trận mưa thấm đẫm, sai biệt
chính là vô sai biệt. Phần Hiện Tướng đă
xong.
3.1.2.2.2.2. Tập
chúng (triệu tập đại chúng)
3.1.2.2.2.2.1. Kết
tiền khởi hậu (kết lại
phần trước, mở ra phần sau)
(Kinh) Xuất như thị đẳng, bất khả thuyết
bất khả thuyết âm dĩ, Sa Bà thế giới cập
tha phương quốc độ, hữu vô lượng ức
thiên, long, quỷ, thần diệc tập đáo Đao Lợi
thiên cung.
(經)出如是等‧不可說不可說音已‧娑婆世界‧及他方國土‧有無量億天龍鬼神‧亦集到忉利天宮。
(Kinh: Phát ra bất khả thuyết bất
khả thuyết âm thanh như thế xong, thế giới Sa
Bà và các quốc độ ở phương khác, có vô lượng
ức trời, rồng, quỷ, thần cũng nhóm đến
cung trời Đao Lợi).
Sách Tây Vực Kư chép: “Tam thiên đại
thiên quốc độ thuộc thế giới Sách Ha là chỗ
nhiếp hóa của một đức Phật; trước
kia dịch là Sa Bà”. Kinh Bi Hoa nói: “Hà danh Sa Bà? Thị
trung chúng sanh, nhẫn thọ Tam Độc, cập chư
phiền năo. Năng nhẫn tư ác, cố danh Nhẫn
Độ” (Sao gọi là Sa Bà? Chúng sanh trong đó chịu
đựng Tam Độc và các phiền năo. Do có thể chịu
đựng sự ác ấy, nên gọi là Nhẫn Độ).
Lại nữa, vào lúc kiếp sơ, có Phạm vương
tên là Nhẫn, cho nên đặt tên cơi này theo tên nhà vua ấy.
V́ thế, kinh Lăng Già dịch [thế giới này] là
Năng Nhẫn (có thể chịu đựng).
Quốc độ trong tiếng Phạn gọi
là Sát-ma, âm đúng là Xế-đa-la (Kṣetra), cơi này dịch là Thổ Điền.
Vạn cảnh bất đồng, cũng gọi là
Sát (剎), [tức là] lấy sự trang
nghiêm sai biệt để đặt tên. “Quốc” (國) là một lănh thổ, nhỏ
th́ gọi là Bang (邦), lớn th́ gọi là
Quốc. Vua thời cổ lập quốc để dân
chúng sống, cân nhắc sao cho ứng hợp với trời
đất, an định sao cho Âm Dương ḥa hợp. V́
thế nói là Quốc Độ. Nhưng Pháp Thân chẳng giống
như vậy, há có cuộc đất giả huyễn nào
để cư trụ? Do ứng với muôn vật mà có
h́nh tướng, cho nên tùy theo từng nước mà hóa hiện.
Đại Luận nêu ra bốn loại
Thiên:
1) Danh Thiên (vị trời chỉ có danh
xưng suông). Nay quốc
vương xưng là Thiên Tử, đời Châu xưng là
Thiên Vương).
2) Sanh Thiên, tức là các vị sống trên hai
mươi tám tầng trời.
3) Tịnh Thiên: Thánh nhân trong loài người.
4) Tịnh Sanh Thiên: Các thánh nhân trong Dục Giới
Thiên, Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, năm loại A Na Hàm trong
Sắc Giới, và một loại A Na Hàm trong Vô Sắc.
Chữ Na Già (Nāga) trong tiếng Phạn, cơi này dịch là
Long (rồng), là loài có vảy, thân dài, có thể ẩn, có thể
hiện, có thể lớn, có thể bé, có thể dài, có thể
ngắn. Tiết Xuân Phân, bèn bay lên trời, tiết Thu Phân bèn
xuống vực. Loài rồng có vảy gọi là Giao Long (蛟龍), loài có cánh gọi là Ứng
Long (應龍), có sừng gọi là Cầu
Long (虬龍), không có sừng là Ly Long (螭龍), chưa bay lên trời
th́ gọi là Bàn Long (蟠龍). Rồng thuộc về
Thiên chúng; v́ thế, trong kinh luận, “thiên, long” luôn
được nêu chung. Ngũ Phần Luật không tính rồng
thuộc loại súc sanh v́ nó có thể bảo vệ, giữ
an ổn cho người dân trong nước, ủng hộ
chánh pháp.
“Quỷ thần”: Trịnh Huyền[3] nói: “Tinh
và Khí của thánh nhân là Thần. Tinh và Khí của hiền
nhân là Quỷ”, đây cũng là một cách giải thích.
V́ thế, Thi Tử[4] nói: “Thiên
thần gọi là Linh, địa thần gọi là Kỳ,
nhân thần gọi là Quỷ”. Quỷ (鬼) là quy (歸, trở về), v́ cổ
nhân coi chết là trở về. Quỷ c̣n có nghĩa là Úy (畏, sợ), hoặc Oai (威). Bản thân quỷ tự
khiếp hăi, nhiều nỗi sợ, lại có thể khiến
cho kẻ khác sợ oai của chúng. “Thần” là
Năng (能, có khả năng). Thần
có sức lớn th́ sẽ có thể dời núi, lấp biển,
sức nhỏ th́ có thể biến hóa ẩn, hiện. [Thần
và Quỷ] đều thuộc về quỷ đạo.
Nhưng các quốc độ ở
phương khác chẳng phải là chỗ giáo hóa của
đức Phật ta, cớ sao trời, rồng, quỷ thần cũng [từ đó] vân tập?
Điều này có hai ư:
1) Một là do phân thân hóa hiện của
đức Địa Tạng chẳng lúc nào ngưng hóa
độ mọi người. Những kẻ ấy do thiện căn trong đời trước đă chín muồi, thiên
tánh vốn sẵn tương quan. Do vậy,
họ trông thấy quang minh, nghe âm thanh, bèn cùng lúc nhóm đến.
2) Hai là những người ấy
được dự pháp hội, hăy nên xét theo bốn câu luận về
Thừa và Giới, thiên thần cùng nhóm
đến tức là “Thừa và Giới đều gấp”,
rồng và quỷ cũng đến, tức là “Thừa
và Giới đều hoăn” v.v… Đều cùng là khinh báo Nê
Lê, sao chẳng cầu độ thoát? Số ấy chẳng
cùng tận, v́ thế nói là “hữu vô lượng ức”
(có vô lượng ức).
3.1.2.2.2.2.2. Chánh
tập đại chúng (đại chúng
vân tập)
Phần này chia thành ba đoạn:
- Đại chúng trời, rồng v.v…
- Hết thảy các vị thần.
- Các vị đại Quỷ Vương.
3.1.2.2.2.2.2.1. Thiên
long đẳng chúng (đại chúng trời,
rồng v.v…)
3.1.2.2.2.2.2.1.1. Biệt
liệt tam giới thiên chúng (kể riêng các
vị trời trong tam giới)
Diệu Pháp Liên
Hoa Kinh Huyền Nghĩa nói: “Người thuộc địa
vị Thiên Thừa tu Thập Thiện đạo tùy ư thuần
thục, đều là cái nhân để sanh thiên. Nếu tu
thêm Thiền Định, sẽ thăng tấn vào cơi cao
hơn”. Quả
trời trong ba cơi cao thấp khác nhau, tu nhân ắt có sâu, cạn sai khác. Trong phần này,
lại chia thành ba tiểu đoạn:
3.1.2.2.2.2.2.1.1.1.
Lục Dục Thiên
Kinh Lăng
Nghiêm dạy: “Như thị lục thiên, h́nh
tuy xuất động, tâm tích thượng giao. Tự thử
dĩ hoàn, danh vi Dục Giới” (Sáu tầng trời
như thế, tuy về h́nh (tức sắc thân khi sanh lên cơi
trời) đă thoát khỏi sự dao động của dục
vọng (tức là không do cha mẹ hành dâm sanh ra, không ở
trong thai tạng, hoàn toàn là hóa sanh), nhưng tâm vẫn có dấu
vết dính mắc cảnh (chưa hoàn toàn thoát khỏi dục
niệm). Từ đó trở xuống, gọi là Dục Giới)[5]. V́ thế,
luận Câu Xá nói: “Sáu tầng trời cơi Dục [lần
lượt từ thấp lên cao] lấy chuyện giao phối,
ôm nhau, nắm tay, nh́n nhau cười là hành dâm” (Sách Phụ
Hành giải thích: “Địa Cư Thiên thật sự
giao phối, Đao Lợi coi chuyện gió thoát ra [từ thân thể sau khi hành dâm] là xong, Dạ Ma th́
ôm ấp, Đâu Suất th́ nắm tay, Hóa Lạc là nh́n nhau
cười, trời Tha Hóa chỉ cần nh́n nhau”). Tuy giữ lấy
cảnh khác nhau, nhưng đều là chưa ĺa t́nh dục!
V́ thế, gọi chung là Lục Dục Thiên.
(Kinh) Sở vị Tứ Thiên
Vương Thiên, Đao Lợi Thiên, Tu Diễm Ma Thiên,
Đâu Suất Đà Thiên, Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Tự Tại
Thiên.
(經)所謂四天王天‧忉利天‧須燄摩天‧兜率陀天‧化樂天‧他化自在天。
(Kinh: Đó chính là Tứ Thiên
Vương Thiên, Đao Lợi Thiên, Tu Diễm Ma Thiên,
Đâu Suất Đà Thiên, Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Tự Tại
Thiên).
Tứ Thiên Vương Thiên (Caturmahārājakāyikā)
là cơi trời đầu tiên khi thăng lên thiên giới, là tầng
trời thứ nhất so với hạ giới, ở ngang
lưng núi Tu Di, gần mặt trời, mặt trăng.
[Thiên vương trong tầng trời này] là ngoại thần
(bầy tôi bên ngoài của Đế Thích), tức là bốn
vương gia trấn giữ bốn phương. Danh tự
của họ sẽ được giải thích trong phần
sau. Kinh Trường A Hàm nói: “Tứ Thiên Vương
đều kết hôn, hành dục giống như loài người
(nam nữ căn tiếp xúc), con thơ hóa sanh ở trên
đầu gối như đứa trẻ năm tuổi
(trời Đao Lợi th́ đứa bé hóa sanh ấy như
trẻ sáu tuổi, cho đến trời Tha Hóa th́ như
mười tuổi). Chẳng lâu sau, tự nhiên đồ đựng
bằng chất báu cảm trăm vị, nó ăn chất
cam lộ của cơi trời. Ăn xong, thân h́nh nó to bằng chư thiên”. Thân lượng
và thọ mạng của chư thiên trong sáu tầng trời
như trong Câu Xá Tụng đă nói: “Dục Thiên câu-lô-xá, tứ
phần nhất nhất tăng” (ư nói: Một phần
tư của Câu-Lô-Xá (Krośa) là nửa dặm. Trong
tầng trời thứ nhất, thân cao nửa dặm,
năm tầng trời sau đó, cứ lên cao hơn một
tầng th́ cao thêm nửa dặm). Năm mươi năm
trong nhân gian bằng một ngày một đêm trong tầng
trời thấp nhất (Tứ Thiên Vương Thiên). Theo
cách tính đó, họ thọ năm trăm năm. Năm tầng
trời trên đó lần lượt gấp bội lần
lên (Tứ Thiên Vương Thiên thọ năm trăm
năm, mà năm mươi năm trong nhân gian bằng một
ngày trong cơi đó. Cho đến Tha Hóa Thiên thọ mười
sáu ngàn năm, coi một ngàn sáu trăm năm trong nhân gian là
một ngày. Họ cũng lấy ba mươi ngày làm một
tháng, mười hai tháng làm một năm). Nếu bố
thí, giữ giới chẳng giết chóc, thanh tịnh thù thắng
đôi chút, chán nhàm gia nghiệp, ưa thích nghe pháp, cúng
dường người lành, sẽ sanh vào Tứ Thiên
Vương Thiên.
Đao Lợi Thiên như đă nói trong phần
trên. Đại Luận nói: “Thích Ca Đề Bà Nhân Đề
(Śakra-Devānām-Indra), Hán dịch là Năng Thiên
Chúa. Lúc làm người đă bố thí, lại c̣n giữ giới
chẳng trộm cắp, cúng dường, và tôn trọng cha
mẹ, tâm mong cầu thù thắng, sanh vào Tam Thập Tam
Thiên, ở trên đỉnh núi Tu Di. Bốn phía đỉnh
núi có ba mươi hai cơi trời”. Đối với hai
tầng trời trên đây, chỉ tu Thượng Phẩm
Thập Thiện là được sanh vào đó.
Tu Diễm Ma Thiên (Suyāma, Dạ Ma Thiên): Đại
Luận nói: “Tên của Dạ Ma Thiên vương được
dịch sang tiếng Hán là Diệu Thiện, do vua luôn kêu
‘sung sướng quá’, tuy hưởng thụ cảnh ngũ
dục, nhưng biết thời hạn. Đấy là do bố
thí, cộng thêm tŕ giới chẳng dâm, tâm ư nhu ḥa, bèn sanh
vào Dạ Ma Thiên. Lại do khi c̣n ở trong nhân gian, động
ít, tĩnh nhiều; sau khi mạng chung, an trụ rành rành
trong hư không. Quang minh của mặt trời và mặt
trăng c̣n chẳng chiếu tới. Những vị trời
ấy tự có quang minh”. Đây là tầng trời
đầu tiên thuộc về Không Cư Thiên.
Đâu Suất Đà Thiên (Tuṣita), dịch theo lối mới[6]
là Đổ Sử Đa. Đại Luận nói: “Tên của
San Đâu Suất Đà thiên vương được dịch
sang tiếng Hán là Diệu Túc, do đối với ngũ dục
bèn biết đủ mà ngưng nghỉ. Do xưa kia bố
thí, cộng thêm giữ cho miệng chẳng phạm bốn
lỗi, ưa thích đa văn, phân biệt tốt, xấu,
yêu chuộng Niết Bàn, nhưng tâm chấp vào công đức.
Sau khi mạng chung, thăng lên cơi tinh vi, chẳng tiếp nhận
cảnh nhân thiên thuộc những cơi dưới. Cho đến
khi Kiếp Hoại, Tam Tai không gây hại tới. Đấy
là chỗ ở của bậc Bổ Xứ Bồ Tát. V́ thế,
Phật Địa Luận gọi [cơi trời này] là Hỷ
Túc v́ hậu thân Bồ Tát giáo hóa trong ấy, phần nhiều
tu Hỷ Túc”. “Tam Tai không lan tới
nơi ấy” là nói theo Nội Viện,
chứ Ngoại Viện của cơi trời ấy vẫn hứng
chịu Tam Tai.
Hóa Lạc Thiên (Nirmāṇarati): Đại Luận nói: “Tu Niết
Mật Đà, dịch sang tiếng Hán là Hóa Lạc, v́ tự
hóa hiện ngũ trần để hưởng vui sướng.
Đấy là do tâm bố thí sâu xa, tŕ giới, đa văn,
tự lực sinh hoạt, sẽ sanh vào Hóa Lạc Thiên”.
Tha Hóa Tự Tại Thiên (Para-nirmita-vaśa-vartin): Tiếng Phạn
là Bà Xá Bạt Đề. Do chư thiên cơi này đoạt lấy
sự biến hóa của người khác để tự
hưởng vui sướng [nên gọi là Tha Hóa Tự Tại].
Do xưa kia, lúc bố thí thanh tịnh, tŕ giới càng sâu, ưa
chuộng đa văn, nhưng có lắm t́nh kiến quư trọng
chính ḿnh, chẳng thể tự chịu khổ, cầu sự
vui sướng từ kẻ khác, ḷng luôn suy nghĩ siêng tu tập
phương tiện ḥng đoạt lấy ngũ dục
do người khác biến hóa ra để chính ḿnh hưởng
thụ tự tại. V́ thế, Biệt Hành Sớ viết:
“[Cơi trời này] là cơi trời cao nhất của Dục
Giới, biến những thứ do người khác tạo
tác thành sự vui sướng của chính ḿnh, tức là Ma
Vương”. Sách Thùy Dụ Kư[7] lại chép:
“Trên tầng trời thứ sáu, có một cơi trời dành
riêng cho Ma La ở, thuộc Tha Hóa Thiên”. Kinh luận nói
khác nhau [như vậy đó].
Bốn cơi trời Không Cư trên đây, tu
thượng phẩm Thập Thiện, kiêm tọa Thiền
chưa đắc Định, bèn được sanh vào
trong các cơi ấy. Sách Tướng Luật Cảm Thông Truyện[8] chép: “Đế
Thích là chúa các tầng trời Địa Cư. Ma
Vương là chúa tầng trời lục dục. Đế
Thích và bốn thiên vương muốn hành Phật pháp, ma
không chế ngự được!”
Hỏi: Hai cơi trời Địa Cư chủ
yếu trụ trên đỉnh núi, các bầy tôi sống ở
chân núi. Bốn tầng trời thuộc Không Cư dựa
vào đâu để an lập?
Đáp: Theo Đại Luận, đất bảy
báu của các cơi trời như Dạ Ma v.v… ở trong
hư không, có phong luân giữ cho
chúng an trụ. Cho đến trời Tịnh Cư cũng
giống như thế. Nghiệp Sớ[9] lại nói:
“Trên Đệ Tứ Thiền, mây phủ nhẹ mỏng, rải
rác như sao, chẳng tụ tập dầy đặc
như các tầng trời phía dưới”. Do vậy biết:
Tuy là Không Cư, ắt phải nương vào mây, nhờ
vào gió để duy tŕ. Do phước nghiệp mà được
như vậy đấy!
3.1.2.2.2.2.2.1.1.2.
Sắc Giới Thiên
(Kinh) Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ
Thiên, Đại Phạm Thiên.
(經)梵眾天‧梵輔天‧大梵天。
(Kinh: Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ
Thiên, Đại Phạm Thiên).
Đại Luận nói: “Dục Giới tâm
tán loạn, hành giả nương vào địa nào, do phương
tiện nào để đắc? Hăy nên nương vào các môn Thiền Định thuộc
Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Đối với Tứ
Vô Lượng Tâm, Bát Bội Xả, Bát Thắng Xứ, Cửu
Thứ Đệ Định, Thập Nhất Thiết Xứ
Thí Tâm, biết nhu nhuyễn tự tại có như ư hay
không? Ví
như người huấn luyện thử ngựa, [cho đến khi ngựa
đă] có thể điều khiển tùy ư, th́ mới dùng nó để ra
trận. V́ thế, thế gian và xuất thế gian dùng những
món Thiền ấy làm căn bản”.
“Phạm” (梵) là thanh tịnh, chẳng
có dục nhiễm. Mười tám tầng trời đều
thanh tịnh, vô dục. Trước tên của các cơi trời
này đều có chữ Phạm. Phạm Chúng (Brahma-pāriṣadya-deva) là dân, Phạm Phụ (Brahma-purohita) là quần thần. Phạm Phụ c̣n gọi
là Phạm Phú Lâu, cơi này dịch Tiền Ích Thiên (前益天), do họ thường đi
trước Phạm Thiên, luôn suy nghĩ lợi ích của
Phạm Thiên. Đại Phạm (Mahā-brahmā) tức là vua. V́ thế, sách Thứ
Đệ Thiền Môn[10] nói: “Đức
Phật v́ các nhân vương nói mười tám cơi trời
Phạm, cũng phải nên có dân và chúa khác nhau”. Theo đấy,
sau đó cũng nên tách ra thành dân chúng, các quan, và vua. Nhưng
sách Pháp Uyển Châu Lâm luận định về chư
thiên sang hèn, [từ Tứ Thiên Vương Thiên cho đến các tầng] trời Sắc Giới,
chỉ riêng ba cơi trời Sơ Thiền là có sang hèn, Đại
Phạm Thiên là vua… Chư thiên từ đây trở lên đều
thọ báo b́nh đẳng như nhau, chẳng có sang hèn. Căn
cứ theo đó, đối với ba cơi trời có chữ
Quang và ba cơi trời có chữ Tịnh trong Sắc Giới,
phải dùng công hạnh để luận định
ưu việt hay kém cỏi. Đại Luận quyển chín
nói: “Trời Phạm Thế, đối với sanh xứ
th́ có ba loại: Một là Phạm Chúng Thiên, là nơi sống
của các tiểu phạm. Hai là Phạm Phụ Thiên, là chỗ
sanh của các Phạm thiên sang quư. Ba là Đại Phạm
Thiên, là chỗ sanh của bậc trung gian Thiền”.
Hỏi: Cùng ly dục giống nhau, sao lại
có quư hèn khác chỗ?
Đáp: Ba loại trời
trong Sơ Thiền: Tu Hạ Thiền sanh vào Phạm Chúng,
tu Trung Thiền sanh vào Phạm Phụ, tu Thượng Thiền
sanh vào Đại Phạm. Hạnh về ḷng Từ cũng
như vậy. Dùng đệ nhất thanh tịnh tâm để
tu thượng Từ, bèn sanh làm Đại Phạm,
thống lănh đại thiên, làm bậc Thế Chủ (chúa
tể của thế gian). Nhưng nói chung, có vạn ức
Phạm Vương, nhưng trong cơi đại thiên này, Phạm
Vương tên là Thi Khí (Śikhin),
dịch sang tiếng Hán là Đảnh Kế (頂髻, búi tóc trên đỉnh đầu),
làm chúa cơi đại thiên (đấy là nói theo chiều
ngang). Lại nữa, Sơ Thiền v́ bên trong có giác quán, cho
nên bên ngoài sẽ có ngôn ngữ để thuận tiện
thống lănh các địa vị thấp hơn. Như Ma
Hê Thủ La (Maheśvara),
tuy được gọi là Đại Tĩnh Vương
(ngài Quán Đảnh nói vị thiên vương này có tên là Oai
Linh Đế), sống ở trên đỉnh của Sắc
Giới, có quả báo thù thắng, cho nên làm chúa, nhưng
không có ư nghĩa là một vị vua thống lănh. Hai tầng
Thiền Thiên trên đó không có pháp ngôn ngữ! V́ thế, các
Thiền Thiên chỉ coi người có quả báo thù thắng
là chúa, chẳng phải là bậc thống lănh, cai trị
(đấy là luận định theo chiều dọc). Như
Niết Bàn Sớ viết: “Chúa của thế giới Sa
Bà thật sự là Ma Hê Thủ La, Phạm Vương chỉ
thống lănh tiểu thiên mà thôi”. Đấy chính là cách
nói của các vị cổ đức, chẳng phải là
chánh ư trong tông này. Đại Luận nói: “Có người
bố thí, tŕ giới, khi người ấy tu bố thí, tấm
ḷng vui sướng. Nếu thí nhiều, niềm vui cũng
nhiều. Tư duy như thế, bỏ ngũ dục, trừ
ngũ cái, nhập Sơ Thiền; cho đến Phi Hữu
Tưởng Phi Vô Tưởng Thiên cũng giống như
thế!”
(Kinh) Thiểu Quang Thiên, Vô Lượng
Quang Thiên, Quang Âm Thiên.
(經)少光天‧無量光天‧光音天。
(Kinh: Thiểu Quang Thiên, Vô Lượng Quang Thiên,
Quang Âm Thiên).
Nhị Thiền có ba tầng trời: Thiểu
Quang (Parīttābha) là do quang minh ít ỏi.
Vô Lượng Quang (Apramāṇābha) là quang minh tăng nhiều
hơn, chẳng có hạn lượng. Quang Âm (Ābhāsvara, dịch theo lối mới
là Cực Quang), v́ dùng quang minh làm âm thanh, ngôn ngữ! Đại
Luận, quyển thứ ba mươi ba chép: “Như kinh
nói tâm thanh tịnh thù thắng hay kém cỏi, cho nên quang minh
có thượng, trung, hạ. Tâm chư thiên thanh tịnh, bố
thí, tŕ giới; cho nên thân có quang minh. Lại có người
đốt đèn ở chỗ tối, và cũng cúng dường
tôn tượng, tháp, chùa. Lại thường tu từ tâm,
nghĩ tới trọn khắp chúng sanh. Lại tu Niệm
Phật tam-muội, niệm quang minh thần đức của
chư Phật. Lại tu Hỏa Nhất Thiết Nhập. Lại
dùng quang minh trí huệ giáo hóa chúng sanh ngu ám, tà kiến. Do bởi
nhân duyên của nghiệp ấy, đạt
được ánh sáng trí huệ trong tâm, thân cũng có quang
minh”. V́ thế,
A Tỳ Đàm Luận nói: “Tướng báo thân của
chư thiên đều chẳng có xương, thịt,
cũng chẳng có đại tiểu tiện bất tịnh.
Thân tỏa ra quang minh, chẳng phân biệt ngày hay đêm,
đạt được quả báo Ngũ Thông, sắc
thân không chướng ngại!” V́ thế biết: Luận
định về quang minh trong ba cơi trời, nghĩa đă
trọn khắp trước sau. Luận về tịnh
trong Tam Thiền, ư nghĩa cũng giống như thế.
Nói chung là tùy theo hạnh cao hay thấp mà đạt
được địa vị cạn hay sâu!
(Kinh) Thiểu Tịnh Thiên, Vô Lượng
Tịnh Thiên, Biến Tịnh Thiên.
(經)少淨天‧無量淨天‧徧淨天。
(Kinh: Thiểu Tịnh Thiên, Vô Lượng
Tịnh Thiên, Biến Tịnh Thiên).
Ba tầng trời thuộc Tam Thiền:
- Thiểu Tịnh (Parīttaśubha), ly hỷ thọ lạc
là Tịnh, do chẳng bằng địa vị cao hơn
nên là Thiểu.
- Vô Lượng Tịnh (Apramāṇaśubha): Do tịnh thù thắng
hơn tầng trời trước (Thiểu Tịnh) chẳng
thể lường được.
- Biến Tịnh (Śubhakṛtsna): Lạc thọ tối
thắng, tịnh trọn khắp.
V́ sao Tam Thiền được gọi là Tịnh?
Đại Luận nói: “Do duyên tịnh, nên là Tịnh. Tám
sắc[11] là tịnh
pháp, chưa bị luyện sẽ chẳng tịnh. Nay pháp
Tam Thiền và Tứ Thiền dấy khởi, đều
xúc chạm tám sắc ấy để làm tịnh duyên”.
Nói “pháp Tam Thiền, Tứ Thiền” v.v… là nói tới
cái sắc cực tịnh trong Sắc Giới, dùng nó để
duyên Xúc, tám sắc càng tịnh. V́ thế nói là “do duyên tịnh,
cho nên tịnh”. Niềm vui ấy cảm thọ trọn
khắp toàn thân, nên biết là Tịnh do Tam Thiền. Sách Ma
Ha Chỉ Quán nói: “Niềm vui trong Tam Thiền như
đá giữa suối, sanh từ ngay trong nước. Niềm
vui do Phạm hạnh cũng giống như thế. Niềm
vui trong hai giới chẳng thể hơn [niềm vui trong]
Tam Thiền được! Hễ cầu sanh lên trời, hăy
lấy lạc làm gốc. V́ thế, gọi lạc thù thắng
là Thiên”.
(Kinh) Phước Sanh Thiên, Phước
Ái Thiên, Quảng Quả Thiên, Vô Tưởng Thiên, Vô Phiền
Thiên, Vô Nhiệt Thiên, Thiện Kiến Thiên, Thiện Hiện
Thiên, Sắc Cứu Cánh Thiên.
(經)福生天‧福愛天‧廣果天‧無想天‧無煩天‧無熱天‧善見天‧善現天‧色究竟天。
(Kinh: Phước Sanh Thiên, Phước
Ái Thiên, Quảng Quả Thiên, Vô Tưởng Thiên, Vô Phiền
Thiên, Vô Nhiệt Thiên, Thiện Kiến Thiên, Thiện Hiện
Thiên, Sắc Cứu Cánh Thiên).
Chín tầng trời thuộc Tứ
Thiền: Ba tầng là trụ xứ của phàm phu, là chỗ
ở của Vô Tưởng ngoại đạo, năm tầng
trời là chỗ ở của [thánh nhân] Tam Quả. Đối
với ba tầng trời của phàm phu, kinh luận nói
hơi sai khác. Như kinh Nhân Vương nói “cửu Phạm”,
tức ba tầng trời được gọi là Tịnh
(Thiểu Tịnh, Vô Lượng Tịnh, Biến Tịnh),
ba tầng trời được gọi là Quang (Thiểu Quang,
Vô Lượng Quang, và Quang Âm), và ba tầng trời Phạm
(Phạm Chúng, Phạm Phụ, và Đại Phạm),
năm tầng Hỷ Lạc Thiên. Sớ giải lại nói
Vô Vân Thiên (Anabhraka) là khởi đầu
[của Tứ Thiền], không có Phước Ái Thiên. Nay kinh
này và kinh Lăng Nghiêm đều chẳng nhắc tới Vô
Vân, mà đều coi Phước Ái là tầng trời thứ
hai. Ấy là v́ các vị dịch sư dịch thuật
hơi sai khác vậy.
Phước Sanh (Puṇyaprasava): Do tướng thô nặng
đă diệt, phước tánh thanh tịnh sanh ra. Đặt
tên như vậy nhằm nêu tỏ cái nhân. Phước Ái: Xả
tâm viên dung, ngộ giải thù thắng thanh tịnh. Trong cái
phước chẳng bị ngăn che, đạt
được sự tùy thuận mầu nhiệm. Cơi trời
trước coi xả lạc là phước; nay xả tâm
chuyển biến càng thù thắng hơn, yêu thích phước
ấy. So với Phước Sanh, sâu, cạn khác biệt! Quảng Quả (Bṛhatphala): Quả của phàm phu
chẳng thể thù thắng hơn được. Vô Tưởng
(Asaṃjñasattva): Trong một khoảng
thời gian, tâm tưởng chẳng hiện hành.
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tùng thị thiên trung,
hữu nhị kỳ lộ. Nhược ư tiên tâm, vô lượng
tịnh quang, phước đức viên minh, tu chứng nhi
trụ, danh Quảng Quả Thiên. Nhược ư tiên tâm,
song yếm khổ lạc, thân tâm câu diệt, kinh ngũ bách
kiếp giả, danh Vô Tưởng Thiên. Thử tứ thắng
lưu, nhất thiết thế gian chư khổ lạc cảnh,
sở bất năng động. Tuy phi vô vi chân bất
động địa, hữu sở đắc tâm, công dụng
thuần thục, danh vi Tứ Thiền. Thử trung phục
hữu ngũ Bất Hoàn Thiên, ư hạ giới trung, cửu
phẩm tập khí câu thời diệt tận, khổ lạc
song vong, hạ vô bốc cư. Cố ư xả tâm chúng
đồng phận trung, an lập cư xử” (Từ
trong cơi trời này, có hai con đường rẽ. Nếu
đối với cái tâm trước đó, do vô lượng
tịnh quang, phước đức viên minh, tu chứng bèn
trụ [trong ấy] th́ gọi là Quảng Quả Thiên. Nếu
đối với cái tâm trước đó, chán ghét cả
khổ lẫn lạc, thân lẫn tâm đều diệt, trải
qua năm trăm kiếp, th́ gọi là Vô Tưởng Thiên.
Đối với bốn gịng thù thắng ấy, hết thảy
các cảnh khổ vui trong thế gian đều chẳng thể
động. Tuy chẳng phải là địa vị bất
động vô vi thật sự, nhưng do tâm có sở đắc, công
dụng thuần thục, nên gọi là Tứ Thiền. Trong ấy lại
có Ngũ Bất Hoàn Thiên, tức là cùng lúc diệt sạch chín
phẩm tập khí thuộc về hạ giới, khổ và
lạc cùng mất, chẳng chọn lựa chỗ ở trong các cơi dưới đó nữa.
V́ thế trong Chúng Đồng Phận của xả tâm mà
an lập, ở yên).
Đại Luận gọi [Bất Hoàn Thiên] là
Tịnh Sanh Thiên (Śuddhāvāsa). Sắc Giới có
năm loại A Na Hàm, Bất Hoàn Thiên là [nơi mà các vị
thánh nhân Tiểu Quả sẽ] chẳng trở lại nơi ấy, tức
là họ sẽ ở trong ấy mà đắc A La Hán. Tiếng
Phạn [gọi Bất Hoàn Thiên] là Thủ Đà Bà (Śuddhāvāsa), dịch sang tiếng Hán là Tịnh Cư
Thiên. V́ sao gọi là Tịnh Cư Thiên? Do Tứ Thiền có
tám loại th́ năm loại là trụ xứ của A Na Hàm, tức là Tịnh Cư, là
nơi mà ba loại thánh nhân phàm phu[12] cùng ở.
Do Tịnh Cư Thiên thường thương xót chúng sanh,
họ thường khuyên thỉnh đức Phật thuyết
pháp.
Vô Phiền (Avṛha): Chẳng xen tạp Kiến Tư
phiền năo, đối với hai đằng khổ và lạc,
tâm chẳng có ư tưởng dính dáng đến chúng. Vô Nhiệt
(Atapa): Chỉ có dấy khởi hoặc thâu tóm ư niệm, chẳng
hề nghiên cứu niệm tâm, hoặc xen tạp ư niệm, chẳng có
trái nghịch hay tùy thuận, ĺa khỏi nhiệt năo. Vô Phiền
dứt bặt ngoại cảnh, Vô Nhiệt dứt bặt
nội tâm, sâu cạn khác hẳn! Thiện Kiến (Sudarśana): Đối với
mười phương thế giới, đều thấy
mầu nhiệm viên măn, lắng trong, mà cũng chẳng có
h́nh bóng trần cảnh, cái Thấy tột bậc sáng suốt,
thấu triệt. Thiện Hiện (Sudṛśa): Cái Thấy tinh diệu
đă hiện tiền, nặn đúc vô ngại (ư nói sức
Định Huệ có thể tùy ư thành tựu vô ngại
như người thợ gốm hoặc thợ đúc tùy
tâm chế tác các vật), h́nh sắc càng thù thắng hơn,
do có thể khéo biến hóa. Sắc Cứu Cánh (Akaniṣṭha): Hiểu rốt ráo mọi
căn cơ, thấy tột cùng tánh của sắc tánh, nhập
vô biên tế, là tối cực trong sắc pháp. A Ca Ni Trá, hoặc
A Ca Ni Sa trong tiếng Phạn, Hán dịch là Chất Ngại
Cứu Cánh (質礙究竟) tức nói về cơi trời
này vậy.
(Kinh) Ma Hê Thủ La Thiên.
(經)摩醯首羅天。
(Kinh: Ma Hê Thủ La Thiên).
Ma Hê Thủ La Thiên (Maheśvara), Đại Luận
dịch là Đại Tự Tại. Chánh âm là Ma Ha Mạc Hê
Y Thấp Phạt La (Mahā-īśvara)[13], tám tay, ba mắt,
cưỡi trâu trắng. Nhưng Phổ Môn Sớ nói: “Kinh
Lâu Thán gọi [vị trời này] là A Ca Ni Trá, kinh Hoa Nghiêm gọi
là Sắc Cứu Cánh Thiên”. Như vậy th́ Ma Hê Thủ
La chính là Sắc Cứu Cánh Thiên; nay kể riêng biệt th́
như kinh Bảo Vũ chép: “Phục hữu Tịnh
Cư thiên chúng, Ma Hê Thủ La nhi vi thượng thủ”
(Lại có thiên chúng Tịnh Cư, Ma Hê Thủ La làm thượng
thủ). Nay kinh này nêu riêng tên vị này, nhằm tôn xưng vị
chủ cơi trời ấy. Cũng có người cho rằng
Ma Hê Thủ La là chúa cơi trời thứ sáu trong Dục Giới,
nhưng các kinh luận phần đông gọi vị này là
Đại Tự Tại, [ngự] trên đỉnh của Sắc
Giới. Thích Luận nói: “Qua khỏi tám chỗ ấy, có
trụ xứ của Thập Trụ Bồ Tát, c̣n gọi
là Tịnh Cư, [vị Bồ Tát ấy] hiệu là Đại
Tự Tại thiên vương, là chủ của cơi đại
thiên thế giới”. Kinh Thập Trụ
nói: “Đại Tự Tại Thiên quang minh thắng nhất
thiết chúng sanh. Cố Thế Tôn Niết Bàn hiến cúng,
Đại Tự Tại Thiên tối thắng” (Đại
Tự Tại Thiên quang minh vượt xa hết thảy
chúng sanh. V́ thế, lúc đức Thế Tôn nhập Niết
Bàn, Đại Tự Tại Thiên hiến cúng thù thắng nhất).
Do vậy biết Đại Tự Tại Thiên chẳng phải
là Đệ Lục Thiên. Nay nói đến Tha Hóa Tự Tại
th́ ông ta nhờ vào những thứ do người khác biến
hóa để tự ḿnh hưởng thụ,
được đại tự tại nơi cảnh giới,
c̣n Ma Hê Thủ La ở tột đỉnh của Sắc Giới,
huân tu Thiền tối thắng, đắc đại tự
tại nơi Định. Một đằng là từ thế
lực, Ma Vương thuộc vào Lục Thiên. Một đằng
là từ Thiền Định, tôn quư tột bậc, đáng
nên ngự tại tột đỉnh của Sắc Giới.
Huống hồ Ba Tuần (Ma vương) thường cầu đức
Thế Tôn nhập diệt, c̣n Tịnh Cư thường
thỉnh Như Lai chuyển pháp luân. Vậy th́ danh hiệu
Tự Tại cố nhiên là giống như nhau, nhưng chuyện
tự tại vĩnh viễn khác biệt. [Đại Tự
Tại Thiên] chẳng phải là Lục Dục Thiên, những
điều vừa nói đủ làm chứng cớ rồi.
Tỳ Bà Sa Luận nói: “Phàm những ai sanh
về cơi trời ấy, nếu là kẻ tiến hướng
quả A Na Hàm, thân đạt được Tứ Thiền,
phát khởi vô lậu, dấy lên huân tập Thiền nghiệp,
hoặc khởi một phẩm cho đến chín phẩm
th́ mới được sanh [về đó]. Phàm phu chẳng
được huân
tập bởi Thiền nghiệp này, cho nên chẳng
được sanh về đó”. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Thử
Bất Hoàn Thiên, bỉ chư Tứ Thiền
tứ vị thiên vương, độc hữu khâm văn,
bất năng tri kiến. Như kim thế gian khoáng dă, thâm
sơn, thánh đạo tràng địa, giai A La Hán sở trụ
tŕ cố, thế gian thô nhân, sở bất năng kiến
dă” (Bất
Hoàn Thiên và bốn vị
thiên vương thuộc Tứ Thiền đều riêng có
thể nghe nhận, vâng hành ư chỉ của Phật, [người
khác] chẳng thể thấy biết họ được.
Như nơi đồng hoang, núi sâu, hoặc nơi thánh
địa đạo tràng, đều có A La Hán duy tŕ,
nhưng kẻ thô thiển trong thế gian chẳng thể
trông thấy).
3.1.2.2.2.2.2.1.1.3.
Vô Sắc Giới Thiên
Nhàm chán sâu xa cái lồng Sắc, tu Tứ Không
Định, sanh vào Tứ Không Thiên, gọi là Vô Sắc Giới
(Ārūpya-dhātu). Do bốn cơi trời
này chỉ có bốn Uẩn (không có Sắc Uẩn), cho nên gọi tên
như vậy. Sách Phụ Hành, quyển sáu có chép: “Từ
Đệ Tứ Thiền, muốn nhập Không Xứ, ắt
phải hành phương tiện, diệt ba thứ Sắc.
Một là Khả Kiến Khả Đối Sắc (Sắc
Trần), hai là Bất Khả Kiến
Khả Đối Sắc (năm căn, bốn trần),
ba là Bất Khả Kiến Vô Đối Sắc (chút phần
của pháp nhập, tức là Vô Biểu Sắc)[14].
Ba thứ Sắc này hoàn toàn thuộc trong Sắc Giới,
cho nên [Vô Sắc Giới] diệt ba thứ ấy, nhưng
chỉ là không có thô sắc, chẳng phải là không có tế
sắc”. V́ thế,
Diệu Lạc nói: “Vô Sắc tuy chẳng có sắc
được tạo ra bởi Tứ Đại, nhưng
những ǵ tạo tác bởi Định quả [trong Tứ
Không Định] đều là tường vách” (đại
sư dùng chữ “tường vách” trong kinh Pháp Hoa để
ví von Ư Thức). Tam giới đều dùng Ư Thức để
duy tŕ. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Thị Tứ Không Thiên, thân tâm
diệt tận, Định tánh hiện tiền, vô nghiệp
quả sắc. Tùng thử đăi chung, danh Vô Sắc Giới”
(Tứ Không Thiên thân tâm diệt sạch, Định tánh
hiện tiền, là vô nghiệp quả sắc. Từ đó
cho đến khi mạng chung th́ gọi là Vô Sắc Giới).
Ngài Cô Sơn giảng rằng: “[Nói là] vô nghiệp quả
sắc, cho thấy có Định quả sắc”.
(Kinh) Năi chí Phi Tưởng Phi Phi Tưởng
Xứ Thiên.
(經)乃至非想非非想處天。
(Kinh: Cho đến Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng Xứ Thiên).
“Năi chí” (乃至, cho đến) là từ
ngữ chỉ sự tỉnh lược. Trong ấy,
đáng lẽ phải kể ra đầy đủ tên của bốn cơi trời, do v́ giản
tiện, nên nói là “năi chí”.
Không Xứ Thiên (Ākāśānantyāyatana): Vừa mới ĺa ba
thứ Sắc, tâm duyên theo hư không, đă tương ứng
với Vô Sắc, cho nên gọi là Hư Không Định.
Thức Xứ Thiên (Vijñānānantyāyatana): Xả Không, duyên Thức,
lấy Thức làm nơi chốn. Chính là đặt tên theo
chỗ sở duyên, cho nên gọi là Thức Xứ.
Vô Sở Hữu Xứ Thiên (Ākiṃcanyāyatana): Hành giả chán nhàm Thức
Xứ vô biên. Do vậy, bèn bỏ nó, nhập vào Vô Sở Hữu
Xứ, c̣n gọi là Bất Dụng Xứ. Khi tu môn Định
này, chẳng dùng hết thảy cảnh giới trong hay
ngoài (ngoại cảnh gọi là Không, nội cảnh gọi
là Thức). Bỏ cả hai cảnh ấy, v́ thế nói là Bất
Dụng Xứ.
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên
(Naivasaṃjñānāsaṃjñāyatana)
là tầng trời thứ tư: Môn Định này chẳng
duyên theo Thức Xứ, nên là phi tưởng (chẳng có
tưởng); do nó chẳng duyên Bất Dụng Xứ, nên
là phi phi tưởng (chẳng phải là không có tưởng).
Cổ nhân đối với tầng trời này có nhiều
cách hiểu khác nhau. Nay dựa theo sách Ma Ha Chỉ Quán, bèn thấy
[Trí Giả] đại sư tuy chưa được xem
kinh Lăng Nghiêm, nhưng những điều Ngài giải
thích khéo hợp ư kinh. Ngài nói: “Thức tánh bất động,
do diệt trừ sự nghiên cứu đến tột cùng,
nên là phi tưởng”, há chẳng phải là không duyên theo Thức Xứ ư?
“Trong cái vô tận, phát khởi, tuyên thuyết cùng tận
tánh, chính là phi phi tưởng”, há chẳng phải là
không duyên theo Bất Dụng Xứ ư? Lại nói: “Giống
như tồn tại mà chẳng tồn tại, tức là
Phi Tưởng. Như là tận mà chẳng tận, tức
là Phi Phi Tưởng”. V́ thế, Thiền môn nói: “Trong
Định này, chẳng thấy hết thảy tướng
mạo; cho nên nói là Phi Tưởng. Nếu cứ bảo là
một mực chẳng có tưởng th́ chẳng khác gỗ,
đá, v́ sao có thể biết là vô tưởng, cho nên nói là
Phi Phi Tưởng”. Giải thích ư nghĩa như thế, tự nhiên phù hợp
khít khao. Nếu [Trí Giả đại sư] chẳng phải
là bậc cổ Phật tái lai, sao có thể phát lộ ư
nghĩa mầu nhiệm này? Gần đây, có kẻ do thấy
đại sư không được xem kinh Lăng Nghiêm, [bèn vội vă cho là] Ngài hiểu sai
nghĩa “lục căn” trong kinh Pháp Hoa, thốt lời
bắt bẻ, phỉ báng, há chẳng phải là lưỡi
[của những kẻ đó] sẽ bị nát trong
miệng ư? Sách Phụ Hành, quyển chín nói: “Nếu
đối chiếu hai cơi Sắc và Vô Sắc th́ Sắc Giới
gọi là Thiền, Vô Sắc Giới được gọi
là Định. Nếu so sánh chung hai giới trên với Dục
Giới ở dưới, th́ cả hai giới trên đều
được gọi là Định Địa, hạ giới
(Dục Giới) là Tán”.
Những điều giải thích trên đây
từ Tứ Thiên Vương cho đến Phi Phi Tưởng
tuy phân biệt là Định hay Tán, nhưng sanh tử chẳng
khác ǵ nhau, há tránh khỏi luân chuyển trong tam đồ,
khó trốn khỏi thăng trầm trong bảy đường!
Tuy dùng hai môn Hân Yếm (ưa thích Tịnh Độ, chán
nhàm Sa Bà), vừa thấy tướng lành của mây quang
minh, liền như chim ưng, chim cắt bay liệng, cùng
nhóm đến cung trời!
3.1.2.2.2.2.2.1.2. Tổng
chỉ bát bộ đẳng chúng (nói chung về
đại chúng như thiên long bát bộ v.v…)
(Kinh) Nhất thiết thiên chúng, long
chúng, quỷ thần đẳng chúng, tất lai tập hội.
(經)一切天眾‧龍眾‧鬼神等眾‧悉來集會。
(Kinh: Hết thảy đại chúng
trời, rồng, quỷ thần v.v… đều cùng nhóm
đến).
Đây là nói chung đại chúng thuộc bát
bộ ở trong cơi này và các phương khác để kết
lại phần vân tập này. Chữ Sa Bà (Sarva) trong tiếng
Phạn, dịch sang tiếng Hán là Nhất Thiết (一切, hết thảy) có hai loại: Một là
Danh Tự Nhất Thiết, hai là Thật Nhất Thiết;
nay gồm thâu cả hai loại ấy. Trời, rồng, quỷ
thần là giả danh. Danh mà có Ngũ Ấm th́ là thật pháp.
“Chúng” (眾) nghĩa là “đông nhiều”.
Cổ nhân dùng ư nghĩa “công cộng” để áp dụng
vào chữ “𥅫” (chữ Chúng theo lối cổ).
V́ thế, Chúng (眾) là do Ngâm (乑) và Mục (目, mắt) ghép thành, [hàm
nghĩa] “mọi người đều cùng thấy”. Thiên
chúng có năm loại:
1) Thiên vương trên thượng giới
như Ma Hê Thủ La v.v…
2) Chư thiên dạo chơi trong hư không
như Nhật Thiên Tử (thần cai quản mặt trời)
v.v…
3) Chư thiên sống trong hư không như
Ma Vương v.v…
4) Địa Cư Thiên như chủ tạng
thiên v.v…
5) Địa Hạ Thiên[15] như Phược
La Hứ Thiên (縛囉呬天) v.v…
Mỗi loài đều có vô lượng thiên
nam, thiên nữ, các quyến thuộc v.v...
“Long chúng”: Biệt Hành Sớ nói: “Có bốn
loại rồng: Một là loài giữ ǵn cho cung trời khỏi
rơi xuống. Hai là loại nổi mây tuôn mưa, có ích cho loài người. Ba là địa long,
đào sông, khơi ng̣i. Bốn là loài chuyên canh giữ kho tàng
thuộc về phước báo của Chuyển Luân
Vương”. Mỗi loài đều có rồng con, rồng
cháu, các quyến thuộc.
“Quỷ thần đẳng chúng”: Theo
kinh Chánh Pháp Niệm Xứ, nói chung là có ba mươi sáu loài
quỷ đói. Kinh Ma Ni La Đàn Chú liệt kê tên của chín
mươi ba loại quỷ. Do hạnh nhân khác nhau, thọ
báo mỗi loài mỗi khác. Sách Thuận Chánh Lư[16] lại nói
[ngạ quỷ có ba loại] là Vô Tài, Thiểu Tài, và Đa
Tài[17], trong mỗi
loại lại có ba loại. V́ thế, sách Trích Hoa Sao[18] nói [ngạ
quỷ] gồm ba phẩm, chín loại. Du Già Sư Địa
Luận nói [ngạ quỷ] gồm Nội Chướng, Ngoại
Chướng, và Vô Chướng, mỗi loài đều có
quyến thuộc thống thuộc.
Nay nói “bát bộ” (Aṣṭasenā)
th́ do
bộ loại khác nhau, bèn nói đại lược là tám bộ:
- Một là Trời (Devas).
- Hai là rồng (Nāga).
- Ba là Dạ Xoa (Yakşa).
-
Bốn
là Càn Thát Bà (Gandharva).
- Năm là A Tu La (Asura, Hán
dịch là Vô Đoan Chánh).
- Sáu là Ca Lâu La (Garuḍa, dịch sang tiếng Hán
là Kim Xí (金翅) – cánh vàng).
- Bảy là Khẩn Na La (Kiṁnara, dịch sang tiếng Hán
là Nghi Thần (疑神), do đầu có sừng,
khiến cho người ta sanh nghi [chẳng biết họ
có phải là thần hay không]. Họ là thần tấu âm nhạc
của Thiên Đế).
- Tám là Ma Hầu La Già
(Mahoraga, dịch sang tiếng Hán là Đại Phúc Hành (大腹行, loài trùng lớn đi bằng
bụng), tức là loài
địa
long ḅ trườn).
Nêu ra trời và rồng trước hết
v́ họ tôn quư, có thế lực lớn, quỷ thần
đáng nên xếp thành sáu bộ sau đó,
v́ thấy
hạnh của họ thua kém, cho nên thuộc địa vị
thấp hơn. Sở dĩ nêu ra tám bộ này v́ đức
Phật ta rủ ḷng giáo hóa, hướng dẫn, cứu vớt
trăm loài hàm linh, thuyết pháp lợi người, ḷng Từ trưởng dưỡng
muôn phẩm. Ngài đi ra th́ Đế Thích Thiên dẫn
đường đằng trước; vào th́ Phạm
Vương đi theo đằng sau. Tả phụ đại
tướng, hữu bật Kim Cang, tam thừa hiền thánh
đều quy phục, tám bộ quỷ thần chầu hầu,
bảo vệ. Người từ các phương khác thấy
mây lành bèn như các loài chim về rừng. Người trong
cơi này nghe âm thanh phát ra từ quang minh mà như nước dồn
vào hang nguồn. Do nay được cảm vời mà đều
cùng đến, do cái duyên xưa kia mà nhóm họp trọn khắp.
3.1.2.2.2.2.2.2. Nhất
thiết thần chúng (hết thảy các
vị thần)
(Kinh) Phục hữu tha phương quốc
độ cập Sa Bà thế giới, hải thần, giang
thần, hà thần.
(經)復有他方國土及娑婆世界‧海神‧江神‧河神。
(Kinh: Lại có các quốc độ ở
phương khác và thế giới Sa Bà, thần biển, thần
sông cái, thần sông nhỏ).
Những vị thần này đều có chức
trách, hoặc do nghiệp mà thật sự sanh [làm thần],
hoặc do hóa độ mà quyền biến thị hiện.
[Thần cai quản] biển, sông cái, sông con đều là thủy
thần. Tích khí Âm làm nước, bốc lên trời thành
sương, móc, ở dưới đất là sông ng̣i. Đại
Luận nói: “Trong hết thảy các vật, nước
là lớn nhất. Do trên, dưới, bốn bên của đại
địa, không chỗ nào chẳng có nước. Nếu hộ
thế thiên vương chẳng hạn chế lượng
mưa của trời, rồng, lại chẳng có tiêu thủy
châu th́ trời đất đều bị ch́m ngập! Lại
do nước làm nhân duyên, những loài chúng sanh và chẳng phải
chúng sanh trong thế gian đều được sanh
trưởng. V́ thế, nước là lớn nhất”.
Nhưng biển là vua của trăm hang hốc; cho nên nói tới
biển trước.
“Hải” là hối (晦, tối tăm), chủ
yếu là nhận lănh những thứ uế trược,
nên nước đen như bóng tối. V́ thế, Tôn Khanh Tử
nói: “Chẳng chứa các gịng nước nhỏ nhặt,
sẽ không có ǵ để tạo thành biển”. Nếu
chỉ xét theo tứ thiên hạ này, Sa Kiệt La (Sāgara) trong tiếng Phạn,
được phương này dịch là Hàm Hải (鹹海, biển mặn), bốn
châu đều ở trong ấy. V́ thế, sách Bác Vật
Chí[19] viết: “Trời
đất bốn phương, nuớc biển đều
tương thông, đất ở trong ấy. Nhung, Man, Di,
Địch[20] h́nh
loại khác nhau”. Nói tổng quát là “tứ hải”. Thần
biển là Hải Nhược (海若). Sách Sơn Hải Kinh
nói: “Vị thần ở hang Triêu Dương tên là Thiên
Ngô, là thủy thần. Ông ta thuộc loài thú, mười tám
đuôi, tám đầu, tám mặt, tám chân”. Trang Tử
nói: “Ba Thần, tức là thần của sóng to, tên là
Dương Hầu, thần sóng nhỏ tên là Linh Tư”.
“Giang thần”: Giang (江) là công (公, chung), [ngụ ư] gịng nước đổ
vào sông sẽ thành của chung. [Giang] c̣n được giải
thích là Cống (貢, dâng cống), [ư nói] những
vật quư sanh từ sông có thể dùng để hiến tặng,
dâng lên. Dưới đây, chỉ nói theo cơi Chấn Đán
(Trung Hoa). Xét ra, các sách Thủy Kinh Chú và Kinh Châu Kư nói: “Trường
Giang (sông Dương Tử) từ Mân Sơn chảy ra, nguồn
sông giống như miệng ṿ, có thể là chỗ phát nguyên
của nó”. Sách Châu Quan viết: “Sông [Trường
Giang] ở Dương Châu gồm ba con sông”. Phần
Địa Lư Chí của sách Hán Thư chú thích như sau: “Mân
giang (chi lưu bên bờ trái của Trường Giang) là
sông lớn. Cửu giang là sông vừa. Từ Lăng là Bắc
Giang. Ấy là từ một nguồn mà thành ba chi lưu”.
Ở các địa phương, khó khảo cứu tên của
vị thần này. Ở phương này (Trung Hoa), các vị
như Khuất Nguyên, Tiền Liêu, Hoắc Quang v.v… đều
là những vị thần sông nhỏ.
“Hà thần”: Hà (河) là hạ (下), ư nói: Theo thế đất
mà chảy xuống. Hà thần là thủy thần. Trên là ứng
với Thiên Hán (Ngân Hà), Hoàng Hà cùng với ba con sông Trường
Giang, Hoài, và Tế hợp thành Tứ Độc (四瀆); chúng c̣n được
gọi là Hà Tông, tức là bốn con sông lớn chánh yếu.
Theo Thủy Kinh Chú, [các con sông ấy] bắt nguồn từ
vùng đồi núi Côn Luân. Theo Tây Vực Kư: “Trong cuộc
đất của Thiệm Bộ Châu, tại phía Bắc ao
A Na Bà Đáp Đa (Anavatapta, dịch sang tiếng Hán là Vô Nhiệt
Năo), nơi cửa khẩu Sư Tử bằng pha lê, chảy
ra sông Tỷ Đa (Sītā), cuộn quanh ao một
ṿng, chảy vào biển Đông Bắc. Hoặc là nói nó chảy
ngầm dưới đất rồi chảy ra Tích Thạch
Sơn, tức là gịng sông Tỷ Đa, là khởi nguồn của
các con sông tại Trung Hoa”. Sách Phật Tổ Thống Kỷ
dùng thuyết này; nhưng sách Vũ Cống Quảng Lăm nói: “Tích
Thạch Sơn không phải là đầu nguồn, nó là chỗ
sông bắt đầu chảy trên mặt đất, cho nên
nói sông bắt nguồn từ Tích Thạch, hoặc nói là
sông chảy từ Tích Thạch”. Bài tựa cho bộ
Hưng Khởi Hạnh Kinh lại viết: “Núi Côn Luân ở
chính giữa cuộc đất của Diêm Phù Lợi (Diêm
Phù Đề), suối lớn A Nậu, phía ngoài được
núi Thiết Vi vây quanh, đất trong núi bằng phẳng,
suối nằm nơi đó, con sông từ cửa Tượng Khẩu
chảy ra chính là Hoàng Hà”. V́ thế, sách Vũ Cống
Quảng Lăm nói: “Sông phát xuất từ núi Côn Luân, Hoàng Hà
chảy theo hướng Tây Nam (Hoàng Hà có nhiều mạch ngầm,
nói sông tưới tắm theo hướng Tây Nam là nói về
gịng chảy có thể trông thấy [trên mặt đất])”.
Tôi do thuyết này, bên cạnh bản đồ chung [của
cả Trung Hoa], bèn ghi chú ba chữ “Hoàng
Hà nguyên” (nguồn sông Hoàng Hà).
Từ phía Nam của ao [Vô Nhiệt Năo], theo cửa
Tượng Khẩu bằng chất vàng, chảy ra sông Tín
Độ (Sindhu), đổ vào biển Tây Nam, do phù hợp
với chuyện tưới tắm vùng Tây Nam; cho nên [đoạn
văn này] phải là nói về chỗ bắt nguồn của
Hoàng Hà. Thần tên là Mật Phi (theo Trường A Hàm, do
duyên cớ nào mà có sông ng̣i? Do mặt trời và mặt
trăng có sức nóng, do hơi nóng mà [nước] bị
nung nấu. Do bị nung nấu bèn có hơi nước. Do
hơi nước mà tạo ra sông ng̣i).
(Kinh) Thụ thần, sơn thần,
địa thần.
(經)樹神‧山神‧地神。
(Kinh: Thần cây, thần núi, thần
đất).
“Thụ thần”: “Thụ” (樹) là tên gọi chung của
cây cối. Tăng Kỳ Luật chép: “Phật ngôn: - Tả
hữu hữu thụ mộc dữ nhân đẳng giả,
tiện vi tháp miếu. Thị cố thần kỳ nhạo
lai y chỉ” (Đức Phật nói: - Chung quanh chỗ ở
mà có cây cối cao bằng thân người th́ được
coi là tháp miếu. V́ thế, thần kỳ thích đến
đó nương gá). Tứ Phần Luật cũng không cho
phép chặt cây cối được coi là chỗ ở của
thần. Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói: “Đại thụ,
Dạ Xoa, La Sát chi sở y chỉ, y thụ thọ lạc.
Vô thụ tắc khổ. Nhược tŕ giới nhân, khuyến
bất chước phạt, mạng chung sanh Hoan Lạc
Thiên, dữ thiên nữ hoan lạc.
Tùng thiên mạng chung, nhược đắc nhân thân, an ổn,
cự phú” (Cây
to là chỗ nương ở của Dạ Xoa hoặc La
Sát. Họ nương vào cây mà hưởng vui, không có cây sẽ
khổ sở. Nếu là người tŕ giới, khuyên
lơn đừng đốn, chặt, sau khi mất, sẽ
sanh về cơi trời Hoan Lạc, cùng thiên nữ hoan lạc.
Khi tuổi thọ trong cơi trời đă hết, nếu
được làm thân người, sẽ an ổn, giàu to).
Phải nên tôn xưng
vị thần cây [đứng đầu] Diêm Phù Đề là thần
của thụ vương ở Nam Châu vậy.
“Sơn thần”: Chữ Thế La (Śaila) trong
tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Sơn (núi). Sách
Dật Nhă[21]
giải thích Sơn là Sản (產, sanh ra), c̣n Thuyết
Văn Giải Tự giảng Sơn là Tuyên (宣), [đều có nghĩa
là] “tuyên khí” (dương khí) sanh ra muôn vật. Ngũ
Nhạc[22]
trấn giữ cơi đất, sách vở của Trung Hoa cố
nhiên nói cặn kẽ. Bảy rặng núi vàng bao quanh [Tu Di],
sách vở xứ Thiên Trúc có nói tường tận. Loại
thần này được gọi tên theo núi. Thần núi Kỳ
Xà Quật tên là Tỳ La.
“Địa thần”: Địa là
đáy. Do bản thể của đất là ở dưới
đáy, chuyên chở muôn vật. [Địa] c̣n có nghĩa
là Đế (諦, chân thật). Sanh ra
năm cơi, không ai chẳng tin chắc thật. Thần đất
được gọi là Kỳ (祗, [hàm nghĩa] an ổn,
to lớn), c̣n gọi là Hậu Thổ (后土)[23]. Vị thần
đất làm chủ cơi Diêm Phù tên là Kiên Lao (堅牢).
(Kinh) Xuyên trạch thần, miêu giá thần.
(經)川澤神‧苗稼神。
(Kinh: Thần sông chằm, thần lúa mạ).
“Xuyên trạch thần”: [Xuyên trạch]
là chỗ nước nhỏ. Xuyên (川) là xuyên qua; [hàm ư sông rạch]
chảy xuyên qua đất. Tây Chinh Kư chép: “V́ thế, Tam
Xuyên của đất Tần (Thiểm Tây) chính là nói tới các con sông
Hoàng Hà, Lạc, và Y”. Chỗ nước đọng
tràn trề là Trạch (澤, cái chằm). Người
ở Duyện Châu (nay là Tế Ninh thuộc tỉnh Sơn
Đông) gọi Trạch là Chưởng (掌, bàn tay), v́ nước
dồn tụ giống như bàn tay. Chữ Trạch c̣n
được giảng là Nhuận (潤), v́ nhuần thấm vạn
vật không ǵ hơn được nước! Loại thần
này đều thuận theo tên của Xuyên hay Trạch mà
đặt tên.
“Miêu giá thần”: Sách Thuyết Văn Giải
Tự giảng [Miêu (苗) là]: “Cỏ mọc
trên ruộng”. Thương Hiệt giảng [Miêu là]: “Lúa
c̣n chưa trưởng thành”. Sách [Lạc Hà] Tinh Uẩn
biện định [Miêu là]: “Lúa mới sanh”; ư nói: Lúa mới
trổ một nửa, đem cấy xuống
đồng (gieo mạ). Xưa kia giảng Miêu là Thảo,
sai mất rồi! Phàm những thứ thảo mộc gây hại
cho ngũ cốc, [nông dân] bèn gọi là Thảo, nhổ trừ
c̣n sợ chẳng kịp. Coi Miêu là Thảo, rất có hại
cho ư nghĩa. Hơn nữa, gieo trồng là Giá (稼), thâu hoạch là Sắc
(穡). Nêu lên từ ngữ Miêu Giá tức
là trăm loài ngũ cốc đều gồm thâu. Vị thần
[Miêu Giá] trong cơi này phải là Hậu Tắc (后稷)[24], tức là
vị tổ dạy dân trồng trọt, gặt hái vậy.
(Kinh) Trú thần, dạ thần.
(經)晝神‧夜神。
(Kinh: Thần ban ngày, thần ban
đêm).
“Trú thần, dạ thần”: Trú (晝) là
chánh ngọ. Thánh nhân ước định trời, dùng Tư,
Ngọ, Măo, Dậu để hạn định. Thánh nhân
đo lường đất, dùng Đông, Tây, Nam, Bắc
để định. Ngày và đêm giáp ranh nhau, sáng và tối
giáp ranh nhau. [Thoạt đầu], chữ Trú được
viết là Trứu (𣅯), hàm nghĩa [mặt trời]
sáng rực giữa bầu trời, [tức là chữ Nhật
(日) được bọc] trong
chữ Khẩu (囗), nhằm chỉ rơ
trên, dưới, trái, phải; giới hạn của chữ
Trú tự sáng tỏ. Đời sau thêm vào chữ Duật (聿), ư nghĩa [của chữ
Trú] đâm ra ṿng vèo, tối tăm. Loại thần này
(như trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm của kinh
Hoa Nghiêm có nói) khi mặt trời đă lặn, một ngày đă
kết thúc, trong tối tăm làm sao mắt thấy
được, phải nhờ vào công năng của
đèn lửa hay ánh trăng [để thấy]. [Chữ Dạ
thời cổ] gồm chữ Nhân (人), ư nói nhà cửa, ghép với
Hỏa (火, lửa), ánh sáng nho nhỏ
để chiếu trong nhà. Ghép thêm chữ Nguyệt (月), [hàm ư] sáng bừng. Ánh
sáng ấy [từ đèn, lửa] chiếu hắt ra từ
trong nhà, tức là đêm đă bắt đầu. Cơi đất
coi giờ Tư là đúng giữa đêm, bầu trời một
màu đen kịt. Ban ngày th́ hết sức thông thuận, ban
đêm th́ luôn tĩnh lặng; đấy chính là thiên đức
chuyển vận vậy. Loại thần này th́ như [trong
kinh phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm có nói]
Thiện Tài tham học với các vị như Chủ Dạ
Thần Bà San Bà Diễn Để (Vasanta-vayanti) v.v… có tất cả
chín vị.
(Kinh) Không thần, thiên thần.
(經)空神‧天神。
(Kinh: Thần hư không, thiên thần).
“Không thần”: Kinh Niết Bàn nói: “Vật
thể chất ngại, không tánh hư thông” (bản thể
của vật là do có sắc chất ngăn ngại, tánh
Không th́ rỗng rang, thông suốt). Tiểu Thừa coi “sáng,
tối” là Thể, Đại Thừa coi “hiển sắc của
hư không” là Thể. Vị thần này
có tên là Thuấn Nhă Đa (Śūnyatā).
Duyện Sớ nói: “Chưa thấy chú giải cặn kẽ,
nhưng đáng phải nên là vị thần chưởng quản
hư không, nhưng [vị thần này] không có thân thô tướng;
tuy vậy, cũng có sắc thân vi diệu. V́ thế, cũng
tạm hiện thân trong quang minh của Như Lai”.
“Thiên thần”: Thiên là “hiển nhiên, cao
vời, rạng rỡ”. Lại c̣n là “b́nh thản, thản
nhiên, cao, xa”. Sách Ngũ Kinh Thông Nghĩa viết: “Vị
thần lớn nhất là Hạo Thiên Thượng Đế
(tức là diệu phách bảo, c̣n gọi là Thiên Hoàng
Đại Đế, cũng gọi là Thái Nhất). Bầy
tôi của Ngài là Ngũ Đế (Đông phương Thanh
Đế Linh Oai Ngưỡng, Nam phương Xích Đế
Xích Tiêu Nộ, Tây phương Bạch Đế Bạch
Chiêu Cự, Bắc phương Hắc Đế Diệp
Quang Kỷ, Trung Ương Hoàng Đế Hàm Xu Nữu)”.
(Kinh) Ẩm thực
thần, thảo mộc thần.
(經)飲食神‧草木神。
(Kinh: Thần ẩm thực, thần
cây cỏ).
“Ẩm thực thần”: Ẩm (飲) là yểm (奄), [tức là] dùng miệng
nuốt xuống họng. Thực (食) là thực (殖, trồng trọt); do
nó có sự sanh trưởng. V́ thế, Phật Địa
Luận nói: “Ǵn giữ gọi là Thực, ư nói là [do ăn
uống] có thể duy tŕ sắc thân, trưởng dưỡng
thiện pháp. Thân nương vào ăn uống mà duy tŕ, mạng
nhờ vào ăn uống để tồn tại”. Vị
thần này chính là Táo Quân Hoàng Đế.
“Thảo mộc thần”: Thảo (艸) là thứ
thực vật yếu ớt, dễ mọc, nhưng rễ
chẳng vững. Mùa Đông chết sạch. V́ thế, chỉ
dường như là thân, lá sanh trưởng um tùm, nhưng
chẳng bén rễ chắc chắn. Mộc là do khí sanh
trưởng mà phát sanh, có phẩm đức là Nhân, ở giữa
th́ là thân cây ngay thẳng, dưới th́ thể hiện cội
rễ sâu chắc, phía trên th́ cành tỏa x̣e ra. Hễ thảo
mộc tăng trưởng tươi tốt, ắt sẽ
có quỷ thần nương gá; nhưng ắt phải tôn
vị thần cỏ Nhẫn Nhục ở Tuyết Sơn
và vị thần cây Bồ Đề làm tông chủ.
(Kinh) Như thị đẳng thần,
giai lai tập hội.
(經)如是等神‧皆來集會。
(Kinh: Các vị thần như thế
đều cùng nhóm đến).
Những vị thần được kể
ra trên đây đều là nêu tên chung. Số lượng các
vị thần trong ấy tính ra đă nhiều như cát
sông Hằng; huống hồ c̣n có [các vị thần chưởng
quản] gió, lửa, sấm, chớp, thuyền, xe, nhà cửa,
quần áo, các món đồ đạc, cầu, đ́nh, cổ
miếu, cổng làng, cửa thôn, đồi, g̣... V́ thế
nói là “như thị đẳng” (giống như thế
đó). Không có ai chẳng do trông thấy
mây quang minh, thích nghe mưa pháp, mà đều đến tụ
tập tại đại hội chốn thiên cung.
3.1.2.2.2.2.2.3. Đại
Quỷ Vương chúng (các vị đại
Quỷ Vương)
(Kinh) Phục hữu tha phương quốc
độ cập Sa Bà thế giới, chư đại Quỷ
Vương.
(經)復有他方國土及娑婆世界‧諸大鬼王。
(Kinh: Lại có các vị đại
Quỷ Vương trong các quốc độ ở
phương khác và thế giới Sa Bà).
Luận Tỳ Bà Sa nói: “Có oai đức
th́ là quư, không có oai đức th́ là hèn. Lại nữa, kẻ
làm vua th́ là quư, kẻ bị sai sử th́ là hèn”. Nay nói là “đại
Quỷ Vương” tức là bậc cao quư có oai đức,
giàu có, dư dật, đẹp đẽ, cơm áo tự
nhiên, thân mặc áo trời, miệng xơi thức ăn
cơi trời. Thân h́nh thường đẹp đẽ, thoải
mái, cỡi ngựa, ngồi xe thong dong, mặc sức vui
chơi, có khác ǵ chư thiên? Đấy là do đời
trước đă hành bố thí to lớn, cho
nên đạt được quả báo oai vệ. Lại
do đời trước siểm khúc, chẳng thật, cho
nên thọ thân trong quỷ đạo.
(Kinh) Sở vị Ác Mục Quỷ
Vương, Đạm Huyết Quỷ Vương, Đạm
Tinh Khí Quỷ Vương, Đạm Thai Noăn Quỷ
Vương.
(經)所謂惡目鬼王‧噉血鬼王‧噉精氣鬼王‧噉胎卵鬼王。
(Kinh: Đó là Ác Mục Quỷ
Vương, Đạm Huyết Quỷ Vương, Đạm
Tinh Khí Quỷ Vương, Đạm Thai Noăn Quỷ
Vương).
Ác Mục Quỷ Vương: Chữ Đát
La (Tra) trong tiếng Phạn,
phương này dịch là Mục (mắt), tức là đồng
tử (瞳子, tṛng mắt). Sự thần
minh trong tâm được tỏ lộ nơi mắt. Thất
khiếu là cửa ngơ của gan. Tṛng mắt được
trưởng dưỡng bởi thận, thận ngấm
ngầm dưỡng thần. Mắt đẹp hay xấu
là do ḷng từ nhẫn trong tâm. Vị Quỷ Vương này do ôm ḷng
cứng cỏi, cố chấp, mắt toát ra vẻ hung ác.
Kinh Diệu Tư nói: “Sân mục thị chi, năi chí phá hoại
thân mạng” (Giận dữ trừng
mắt nh́n cho đến phá hoại thân mạng) là nói về
ư này.
Đạm Huyết Quỷ Vương: Chánh
Pháp Niệm Xứ Kinh gọi [Quỷ Vương] này là Thực
Huyết Quỷ (食血鬼, quỷ ăn máu). Do
sát sanh ăn thịt uống máu, chẳng thí cho vợ con, sẽ
thọ thân quỷ này. Dùng máu bôi lên để cúng th́ quỷ
mới ăn được. Như đứa con nhỏ nhất
của quỷ mẫu Ha Lợi (Hāriti) tên là Tất Lợi Diêm Ca
La Dạ Xoa, do ác tâm thường uống máu con người.
Kinh Thập Luân nói: “Thập tam triệu Dược
Xoa, hằng đạm chư huyết nhục” (Mười ba triệu quỷ
Dược Xoa (Dạ Xoa) thường ăn các
máu thịt) là nói về loài quỷ này.
Đạm Tinh Khí Quỷ Vương: Tiếng
Phạn là Tỳ Xá Xà (Piśāca), cơi này dịch là Đạm
Tinh Khí (噉精氣, ăn nuốt tinh khí),
tức là ăn nuốt tinh khí của con người và
ngũ cốc, tức là Điên Quỷ (顛鬼, quỷ gây nên chứng điên cuồng).
Kinh Nguyệt Tạng nói: “Địa tinh
khí, chúng sanh tinh khí, chánh pháp thắng vị cam lộ tinh
khí” (Tinh khí của đất,
tinh khí của chúng sanh, tinh khí của cam lộ vị thù thắng
chánh pháp) là nói tới điều này!
Đạm Thai Noăn Quỷ
Vương: “Thai” là khởi đầu. Phụ nữ
cấn nghén ba tháng, thai mới thành h́nh, nhưng h́nh thể
vẫn chưa trọn vẹn. Chữ Thai (胎) là từ chữ Nguyệt
(月) và Thai (台) ghép lại, h́nh thành
âm đọc đó. Khi ấy, sanh khí chưa ổn định,
hễ cảm điều tốt lành bèn là thiện, cảm
điều ác bèn là ác. Cổ nhân có thuyết “thai giáo” (dạy con từ khi c̣n trong
thai) nhằm bảo vệ thai trong khi c̣n hỗn độn
[là v́ lẽ
này]. Noăn (trứng) ở đây phải hiểu là nhau thai
(placenta). Như trứng gà trong cơi đời, khi ḷng đỏ
và ḷng trắng chưa phân, giống như một khối hỗn
độn. Sau khi trẻ được sanh ra, sẽ có vô
số ác quỷ ăn nuốt nhau thai như trong phần
sau [sẽ nói].
(Kinh) Hành Bệnh Quỷ Vương, Nhiếp
Độc Quỷ Vương.
(經)行病鬼王‧攝毒鬼王。
(Kinh: Hành Bệnh Quỷ Vương,
Nhiếp Độc Quỷ Vương).
Hành Bệnh Quỷ Vương: Sứ giả
gieo rắc ôn dịch, đều do Đông Nhạc Phủ
Quân sai khiến, như loài Phú Đan Na (Pūtana) chuyên gây nhiệt bệnh
trong nhân gian. Kinh Văn Thù Bảo Tạng Đà La Ni nói: “Ư
hậu, Phật pháp diệt thời, ác pháp tăng trưởng,
chủng chủng chư tai lưu hành ư thế. Ác quỷ
hạ giáng, biến vi nữ thân, dữ chư chúng sanh tác
chủng chủng chư tạp đẳng bệnh” (Sau
này, lúc Phật pháp diệt, ác pháp tăng trưởng,
đủ thứ tai ương lưu hành trong cơi đời.
Ác quỷ giáng xuống, biến thành thân nữ, gây tạo
các thứ bệnh cho chúng sanh) là nói đến chuyện
này.
Nhiếp Độc Quỷ Vương:
Như [quỷ vương] Di Lật Đầu Kiền Già
Địa, cơi này dịch là Thiện Phẩm,
chuyên về cổ độc, tức là đối với
các thứ nọc rắn, các chất độc từ vàng,
bạc v.v... vị này đều có thể thâu nhiếp. Quỷ
vương này chính là A Tu Luân Vương (A Tu La vương). Đối với
các loài độc khí của rồng, nếu con người
cầu nguyện, vị này sẽ khiến cho nó chẳng ảnh
hưởng đến con người. V́ thế, [danh hiệu
của Ngài] là từ đức mà lập danh.
(Kinh) Từ Tâm Quỷ Vương,
Phước Lợi Quỷ Vương, Đại Ái Kính Quỷ
Vương.
(經)慈心鬼王‧福利鬼王‧大愛敬鬼王。
(Kinh: Từ Tâm Quỷ Vương,
Phước Lợi Quỷ Vương, Đại Ái Kính Quỷ
Vương).
Từ Tâm Quỷ Vương: Như A La Nan
Đà, đời Lương dịch là Hoan Hỷ, Tô Nê
Đát La (Sunetra), cơi này dịch là Diệu Mục, đều
là những vị từ tâm quỷ vương, thường
ban bố chuyện vui, niệm niệm yêu thương, che
chở chúng sanh. V́ thế, họ được gọi bằng
danh xưng đẹp đẽ ấy.
Phước Lợi Quỷ Vương:
Phước đối lập với họa, lợi đối
lập tổn. Vị quỷ vương này chuyên ban bố
chuyện lợi ích cho con người, chẳng giáng tai họa,
chẳng gây hao tổn. Kinh Quỷ Tử Mẫu nói: “Dục
tùng Quỷ Tử Mẫu cầu nguyện giả, danh Phù
Đà Ma Ni Bát, thiên thượng thiên hạ quỷ, tứ hải
nội thuyền xa, trị sanh tài sản, giai thuộc kỳ
chủ. Ma Ni Bát dữ Phật kết yếu thọ giới,
hộ nhân tài vật. Cố hữu Phước Lợi chi
danh” (Muốn cầu nguyện từ Quỷ Tử Mẫu, [hăy nên biết]
vị ấy có tên là Phù Đà Ma Ni Bát. Quỷ ở trên trời, dưới đất,
thuyền, xe trong bốn biển, tài sản để
mưu sinh, đều do vị này làm chủ. Ma Ni Bát đă
cam kết, thọ giới với Phật bảo vệ tài
vật của con người. V́ thế, có danh xưng là
Phước Lợi).
Đại Ái Kính Quỷ Vương: Ái chính
là ái niệm (nghĩ nhớ, thương yêu); Kính tức
kính trọng. Như kinh Diệu Tư đă nói: “Nhược
hữu hành nhân tu thử pháp giả, bỉ nhất thiết
thiên, Dược Xoa, tŕ minh đại tiên, năi chí Ca Lâu La
đẳng, nhược hữu kiến giả, cung kính, lễ
bái, hiệp chưởng, tác ngôn: - Hy hữu! Hy hữu!
Đại từ bi giả, mẫn niệm nhất thiết
chư hữu t́nh đẳng”. (Nếu có hành nhân tu
pháp này, th́ hết thảy chư thiên, Dược Xoa, tŕ
minh đại tiên, cho đến Ca Lâu La v.v… Nếu có ai
trông thấy, [sẽ đều] cung kính, lễ bái, chắp
tay thưa: “Hiếm có! Hiếm có! Đấng đại từ
bi nghĩ thương hết thảy các hữu t́nh”). Vị
thiện quỷ vương này cũng giống như thế,
cho nên có danh xưng này.
(Kinh) Như thị đẳng Quỷ
Vương, giai lai tập hội.
(經)如是等鬼王‧皆來集會。
(Kinh: Các Quỷ Vương như thế
đều đến nhóm hội).
Tiếp đó là tổng kết đại
chúng đến nhóm hội. “Như
thị đẳng” (Như thế đó): Đặt tên thiện
ác bất đồng, hành hạnh Từ hay nhẫn sai khác, nhưng đều
dùng thân quỷ đến nghe pháp. “Thừa cấp Giới
hoăn” như sách Ma Ha Chỉ Quán đă nói là dùng thân tam
đồ để thấy Phật, nghe kinh; hoặc như trong Hoa Nghiêm và
Niết Bàn, quỷ, thần, rồng, súc sanh đều dự
vào đại chúng [nghe pháp]. Nhân quả hơn kém như thế,
thăng trầm chẳng phải một, lẽ đâu cật
vấn rằng chỉ giữ giới theo Lư là đă đắc
đạo, cần ǵ phải giữ giới theo sự
tướng? May mắn được làm trời người
lănh nhận đạo, lẽ nào đành chịu khổ vào tam đồ
ư? Đấy chính là ư chỉ v́ sao kinh lại liệt kê
đại chúng vậy!
3.1.2.2.3. Vấn
đáp thích nghi tự (phần Tựa hỏi
đáp để giải trừ nỗi nghi)
3.1.2.2.3.1. Lược
vấn đáp dĩ phát khởi (hỏi đáp
đại lược để phát khởi)
3.1.2.2.3.1.1. Vấn
đáp sở tập chúng số (hỏi đáp
về số lượng đại chúng đă nhóm họp)
3.1.2.2.3.1.1.1. Như Lai dĩ chúng số
vấn (Như Lai hỏi về số lượng
đại chúng)
(Kinh) Nhĩ thời Thích Ca Mâu Ni Phật
cáo Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ Tát
Ma Ha Tát: “Nhữ quán thị nhất thiết chư Phật,
Bồ Tát, cập thiên, long, quỷ thần, thử thế
giới, tha thế giới, thử quốc độ, tha
quốc độ. Như thị kim lai tập hội
đáo Đao Lợi Thiên giả, nhữ tri số phủ?
(經)爾時釋迦牟尼佛‧告文殊師利法王子菩薩摩訶薩‧汝觀是一切諸佛菩薩‧及天龍鬼神‧此世界‧他世界‧此國土‧他國土。如是今來集會到忉利天者‧汝知數不。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật
bảo Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ
Tát Ma Ha Tát: “Ông quán hết thảy chư Phật, Bồ
Tát, và trời, rồng, quỷ thần trong thế giới
này, thế giới khác, quốc độ này, quốc độ
khác, những vị như thế nay nhóm họp đến
trời Đao Lợi, ông có biết số lượng hay
không?”)
“Nhĩ thời” (Lúc bấy giờ) chính là lúc trời,
rồng, quỷ thần đều nhóm đến. Đă là
pháp hội nhân quả đầy nghẹt thiên cung, và phàm
thánh xen lẫn, đại chúng hiện diện khi đó
đều kinh ngạc, nghi hoặc, ai có thể nêu ra lời
hỏi? V́ thế, đức Giác Hoàng bi tâm thương xót
chúng sanh, mắt từ quán sát căn cơ, dơi mắt nh́n trọn
khắp, ai có thể ứng đối với ta? Chỉ có
ông Văn Thù này nổi tiếng đại trí đă lâu là có thể đối đáp về chuyện
oai thần của đức Địa Tạng trong kiếp
số nhiều như cát, cho nên đặc biệt bảo ban.
Phạn ngữ là Văn Thù Sư Lợi (Mañjuśrī), cơi này dịch là Diệu
Đức, do Ngài đă thấy thấu
suốt tam đức Phật tánh, chẳng dọc, chẳng
ngang. Chữ Cưu Ma La Già (Kumāra-bhūta)
trong
tiếng Phạn, được cơi này dịch là Đồng
Chân (童真, chân thật như trẻ
thơ). Nội chứng chân thường, nhưng chẳng
chấp trước, như trẻ thơ trong cơi đời
tâm chẳng nhiễm ái, tức là danh hiệu Pháp
Vương Tử vậy. Đại Luận nói: “Văn
Thù Sư Lợi, Thập Lực, Tứ Vô Sở Úy v.v…
đều trọn đủ Phật sự. V́ thế, trụ
nơi địa vị Cưu Ma La Già (Đồng Chân)”.
Ngài La Thập nói: “Diệu Đức thân dạo khắp
nơi, chẳng biết Ngài sanh ở nơi đâu. Ngài lại
đến dự vào địa vị Bổ Xứ thành Phật,
cho nên gọi là Pháp Vương Tử”. Ngài Kinh Khê viết:
“Hỏi: Kinh gọi ngài Văn Thù là Pháp Vương Tử,
nhưng các vị Bồ Tát, có vị nào chẳng phải là
Pháp Vương Tử? Đáp: Có hai nghĩa: Một là từ
trong các vương tử, đề cao đức của
ngài Văn Thù. Hai là trong các kinh, ngài Văn Thù là Thượng Thủ của các vị Bồ
Tát. V́ thế gọi là Pháp Vương Tử”.
Nói “nhữ quán” (ông xem) chẳng phải
là chuyện dễ dàng! Bởi lẽ, chẳng phải là do
trí nhăn (mắt trí huệ) của Văn Thù Sư Lợi mà
có thể quán được! Đấy chính là tiếng
xưng hô hoan hỷ, thân mật vậy. Từ “nhất
thiết chư Phật” (hết thảy chư Phật)
trở đi, kết lại phần chánh báo trên đây. Từ
chữ “thử thế giới” (thế giới này) kết
lại phần y báo. “Như thị đẳng” kết
lại phần số lượng đại chúng, hỏi
ngài Văn Thù có thể biết hay không?
3.1.2.2.3.1.1.2. Văn
Thù dĩ thần
lực đáp (ngài Văn Thù dùng thần lực
để đáp)
(Kinh) Văn Thù Sư Lợi bạch Phật
ngôn: - Thế Tôn! Nhược dĩ ngă thần lực, thiên
kiếp trắc độ, bất năng đắc tri!
(經)文殊師利白佛言‧世尊‧若以我神力‧千劫測度‧不能得知。
(Kinh: Văn Thù
Sư Lợi bạch Phật rằng: - Bạch Thế Tôn!
Nếu dùng thần lực của con để suy lường
trong một ngàn kiếp, vẫn chẳng thể biết
được).
Đại Luận quyển
ba mươi ba chép: “Văn Thù Bồ Tát dùng hai loại sức
thần thông, tức là quả báo thần thông và tu đắc
thần thông (thần thông do tu được) để trụ
trong ấy. Dùng sức phước đức phương
tiện, sức quang minh thần túc v.v… các thứ nhân duyên
để khơi mở, hóa độ chúng sanh”. Nay do v́
lẽ nào mà [Ngài thưa] “dùng
thần lực của con để suy lường trong một
ngàn kiếp vẫn chẳng thể biết” vậy? Đại chúng vân tập khó biết nổi,
chính là v́ hiển thị thần lực khó thể nghĩ
ngợi của đức Địa Tạng!
Hỏi: Thiên cung tuy to, v́ sao
có thể dung nạp đại chúng nhiều như thế?
Đáp: Đức Phật và
ngài Địa Tạng có thần lực chẳng thể nghĩ
bàn, [lại c̣n] có sức phước nghiệp tự nhiên
của chư thiên. Ví như cái thất rộng một
trượng của ngài Duy Ma, chứa đựng [ba vạn hai ngàn] ṭa sư tử có khó
khăn chi? Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói: “Thí như nhất
thất, nhiên ngũ bách đăng, quang minh bất tương
bức bách. Chư thiên thủ trung, trí ngũ bách thiên, diệc
phục như thị, bất trách, bất ngại” (Ví
như trong một căn pḥng, thắp năm trăm ngọn
đèn, ánh sáng của chúng chẳng bức bách lẫn nhau.
Trong tay chư thiên, đặt năm trăm vị trời
cũng giống như thế, chẳng chật hẹp, chẳng
ngăn ngại). Lại nói: “Bỉ Dạ Ma Thiên hoặc
nhất bách, nhất thiên, cộng tụ tại nhất
liên hoa tu đồng tọa, bất ải, bất trách,
dĩ thiện nghiệp cố, tự nghiệp lực cố”
(Các vị trời Dạ Ma kia hoặc số đến một
trăm, hoặc một ngàn, cùng tụ họp, ngồi trên
một cái tua nhụy hoa sen cũng chẳng hẹp, chẳng
chật, là do sức thiện nghiệp và nghiệp lực
của chính họ). Đại Trí Độ Luận nói: “Tầng
trời thứ ba là Biến Tịnh Thiên, sáu mươi vị
trời cùng ngồi trên đầu một cái kim để
nghe pháp, chẳng trở ngại nhau”. Nghiệp lực của
chư thiên c̣n như thế đó, huống hồ sức
chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, hăy tự nên
tin tưởng, ngưỡng mộ!
3.1.2.2.3.1.1.3. Thế
Tôn dĩ Phật nhăn chứng (đức Thế Tôn dùng Phật nhăn
xác chứng)
(Kinh) Phật cáo Văn Thù Sư Lợi:
- Ngô dĩ Phật nhăn quán cố, do bất tận số.
(經)佛告文殊師利‧吾以佛眼觀故‧猶不盡數。
(Kinh: Đức Phật bảo ngài
Văn Thù Sư Lợi: - Ta dùng Phật nhăn để quán mà
c̣n chẳng thấy hết số lượng ấy).
Chữ Đa La (Tra) trong tiếng Phạn dịch
sang tiếng Hán là Nhăn (mắt). Du Già Sư Địa Luận
viết: “Nhiều lượt xem các sắc, xem xong lại
bỏ. V́ thế gọi là Nhăn, tức là ư nghĩa chiếu
chúc (soi tỏ)”. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhăn tự bồ
đào đóa” (Mắt như quả nho). Hoặc nói: “Như
thu tuyền tŕ, hữu ngũ chủng: Nhục, thiên, huệ,
pháp, Phật” (Như ao hoặc suối nước mùa Thu, có năm loại
là nhục nhăn, thiên nhăn, huệ nhăn, pháp nhăn, và Phật nhăn).
Đại Luận nói: “Phật nhăn không chuyện ǵ chẳng
biết, không chuyện ǵ chẳng nghe, không chuyện ǵ chẳng
thấy, trong hết thảy các pháp, Phật nhăn thường
chiếu”. Nay nói “ta dùng Phật nhăn để quán vẫn
chẳng thấy hết số đó” chính là đè thấp
cái quả ḥng đề cao cái nhân, hạ
ḿnh, đề cao người khác, càng tỏ rơ đại chúng
được đức Địa Tạng hóa độ
trùng trùng vô tận! Phật mà c̣n khó biết, huống hồ
ngài Văn Thù, huống hồ những người khác ư?
3.1.2.2.3.1.2. Điểm
thị năng độ bổn tôn (chỉ ra vị
bổn tôn có thể hóa độ)
(Kinh) Thử giai thị Địa Tạng
Bồ Tát, cửu viễn kiếp lai, dĩ độ,
đương độ, vị độ, dĩ thành tựu,
đương thành tựu, vị thành tựu.
(經)此皆是地藏菩薩‧久遠劫來‧已度‧當度‧未度‧已成就‧當成就‧未成就。
(Kinh: Đấy đều là do Địa
Tạng Bồ Tát từ bao kiếp lâu xa đến nay
đă độ, đang độ, sẽ độ, đă
thành tựu, đang thành tựu, sẽ thành tựu).
Chỉ ra Bồ Tát đă trải nhiều kiếp
độ người vô lượng. “Độ” (度) là pháp,
mà cũng là độ thoát. Chữ Tất Địa (Siddhi)
trong tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Thành Tựu.
Sách Dật Nhă viết: “Thành là hưng thịnh, Tựu là cao”. Chữ Tựu (就) do Kinh (京) và Vưu (尤) ghép lại, ư nói là chỗ
người ưu tú, cao quư tụ tập. Nay xét theo Lễ
Kư: “Thiên tử hiếu viết Tựu, tựu chi vi ngôn Thành dă. Thiên tử đức bị
thiên hạ, trạch cập vạn vật, thỉ chung
thành tựu, tắc kỳ thân hoạch an” (Ḷng hiếu của
thiên tử gọi là Tựu, thực hiện hạnh hiếu
th́ gọi là Thành. Đức của thiên tử trọn khắp
thiên hạ, thấm nhuần muôn vật, thành tựu từ
đầu đến cuối, cho nên thân được yên
vui). Nay đức Địa Tạng dùng hiếu đạo
xuất thế, khiến cho ai nấy vượt thoát sông
sanh tử, thành đạo Niết Bàn, chuyển phàm nhập
thánh, làm bậc cao nhân, lên nơi cao. V́ thế nói là “thành
tựu”.
“Đă độ, đă thành tựu” chính
là bất khả thuyết chư Phật trong mười
phương thế giới. “Đang độ, đang
thành tựu” chính là bất khả thuyết chư Bồ
Tát trong mười phương thế giới. “Chưa
độ, chưa thành tựu” chính là vô lượng ức
trời, rồng, quỷ thần trong thế giới Sa Bà
và mười phương quốc độ. Đó gọi
là “chủng thục thoát tam, thời thời bất phế”
(luôn luôn chẳng bỏ chuyện gieo thiện căn, khiến
cho thiện căn chín muồi ḥng thoát khỏi tam đồ).
Do căn cơ có nhanh chóng hay chậm lụt mà độ có
trước hay sau. Đại Luận nói: “Ví như rung
cây để hái quả, quả chín sẽ rụng trước.
Nếu quả nào chưa chín, [sẽ đợi cho nó chín] rồi
mới rung cây sau. Lại như bắt cá, thả lưới
lần trước không hết, giăng lưới lần
sau sẽ bắt được”.
3.1.2.2.3.2. Quảng
vấn đáp dĩ phát khởi (hỏi đáp
rộng răi để phát khởi)
3.1.2.2.3.2.1. Văn
Thù thiết nghi vấn nhân địa (Văn Thù khởi nghi,
hỏi về nhân địa của Địa Tạng Bồ
Tát)
Hai chương này chính là chuyện trọng
yếu trong việc tu hành, là căn cội to lớn trong
phép lợi sanh. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhân địa bất
chân, quả chiêu vu khúc” (Tu nhân chẳng chân thật, sẽ chuốc lấy
cái quả cong quẹo). V́ thế, khởi đầu bèn hỏi
ngay chuyện này, v́ đó là đầu mối khẩn yếu.
Phần này chia thành hai:
- Nêu ra câu hỏi.
- Từ chữ “duy nguyện” trở
đi, là xin Phật hăy nói hạnh nguyện.
3.1.2.2.3.2.1.1. Thiết
từ hưng vấn (nêu ra câu hỏi)
3.1.2.2.3.2.1.1.1. Minh
kỷ trí tín (nói rơ chính ḿnh do trí huệ
đă tin tưởng [sức thệ nguyện và sự nghiệp
hóa độ của Địa Tạng Bồ Tát])
(Kinh) Văn Thù Sư Lợi bạch Phật
ngôn: - Thế Tôn! Ngă dĩ quá khứ cửu tu thiện
căn, chứng vô ngại trí, văn Phật sở ngôn, tức
đương tín thọ.
(經)文殊師利白佛言‧世尊‧我已過去久修善根‧證無礙智‧聞佛所言‧即當信受。
(Kinh: Văn Thù Sư Lợi bạch Phật
rằng: - Bạch Thế Tôn! Con do trong quá khứ tu thiện
căn đă lâu, chứng vô ngại trí, nghe lời Phật
dạy, con liền tin nhận).
Cậy vào đức Văn Thù nêu lời hỏi
là v́ các vị tiểu Bồ Tát c̣n chưa trừ sạch nỗi
sợ gian khổ, chẳng thể hỏi Phật. Chỉ
có ngài Văn Thù biết rơ quyền biến, trí sáng xét soi, biết
căn cơ, biết thời tiết, có thể khơi
động, phát khởi, thành tựu lợi ích, như voi lớn
bẻ cây khiến cho voi con được no bụng. V́ thế,
đức Phật tán thán ngài Văn Thù rằng: “Ông nay thật
sự là mẹ của ba đời Phật, hết thảy
các Như Lai trong khi c̣n đang tu hành, đều từng
được ông hướng dẫn mà phát khởi tín tâm
ban đầu. Do nhân duyên ấy, những vị thành Chánh
Giác trong mười phương quốc độ đều
tôn Văn Thù là mẹ. Nhưng nay thân ông, do sức bổn
nguyện mà hiện tướng Bồ Tát”. Đó là bằng
chứng Ngài tu thiện căn đă lâu.
Vô Ngại Trí: Theo Phật Tánh Luận, trí có
hai loại tướng:
- Một là vô trước (không chấp
trước), tức là thấy chúng sanh giới tự tánh
thanh tịnh, là như lư trí tướng.
- Hai là vô ngại, có thể quán thông đạt
vô biên thế giới, là như lượng trí tướng.
Nay đă quán đại chúng vân tập, bèn
dùng Vô Ngại Trí. Tam Tạng pháp sư Huyền Trang đời
Đường đă nói: “Quán Hữu mà chẳng trụ
Hữu, quán Không mà chẳng trụ Không. Nghe danh mà chẳng
bị mê hoặc bởi danh, thấy tướng mà chẳng
thuận theo tướng. Tâm chẳng thể động, cảnh
chẳng thể chuyển, động hay chuyển chẳng
rối loạn lẽ chân được!” Có thể nói đó
là vô ngại trí huệ. Bởi lẽ, ngài Văn Thù vốn
là một vị cổ Phật, nay v́ giúp đỡ [đức Phật] tuyên dương pháp
hóa, liền quyền biến thị hiện h́nh hài đồng
tử (bé trai). V́ thế, đức Phật nói ra chuyện
độ sanh của ngài Địa Tạng, lẽ đâu
Văn Thù Bồ Tát chẳng ngưỡng mộ, tin chắc,
tự nhiên thông đạt vô ngại?
3.1.2.2.3.2.1.1.2.
Cử chúng nghi báng (nêu ra sự nghi hoặc,
gièm báng của đại chúng)
(Kinh) Tiểu quả Thanh Văn, thiên
long bát bộ, cập vị lai thế chư chúng sanh đẳng,
tuy văn Như Lai thành thật chi ngữ, tất hoài nghi hoặc.
Thiết sử đảnh thọ, vị miễn hưng
báng.
(經)小果聲聞‧天龍八部‧及未來世諸眾生等‧雖聞如來誠實之語‧必懷疑惑。設使頂受‧未免興謗。
(Kinh: Tiểu quả Thanh
Văn, trời rồng tám bộ, và các chúng sanh trong đời
vị lai, tuy nghe lời thành thật của Như Lai, ắt ôm ḷng ngờ
vực. Dẫu có vâng nhận, chưa khỏi dấy ḷng
báng bổ).
Trước hết, nêu ra những căn
cơ hoài nghi, phỉ báng; kế đó, nêu ra ư dấy ḷng phỉ
báng. Ấy là do Tiểu Quả chỉ nghe Tứ Đế
và Thập Nhị Nhân Duyên, kẻ huệ cạn giống
như vết chân trâu, kẻ căn hẹp há biết biển
thẳm! Trời rồng tám bộ, tạp loại, hạ
cơ (căn cơ bậc hạ), Thừa lẫn Giới
đều thiếu vận dụng, mong chi họ biết
sâu xa đại đạo? Chúng sanh đời vị lai th́
chí tánh chẳng kiên cố, nghiệp chướng buộc
ràng khó thoát, há biết suy lường oai thần? V́ thế
biết là ba loại người ấy tuy nghe lời thành
thật của đức Như Lai, ắt sẽ ôm ḷng hồ
nghi, rối ren, mê hoặc! Nói ngược lại, th́ tuy là [tỏ vẻ vâng nhận lời Phật
dạy] như
thế, chuyện có đúng như vậy hay chăng? Bề
ngoài tỏ vẻ kính cẩn nhận lănh để hành tŕ,
trong tâm ắt ngược ngạo sanh ḷng gièm chê, phỉ
báng. Nghi hoặc, phỉ báng là tội khiên nặng nề, ắt
đọa vào A Tỳ! V́ thế, cần phải hỏi rơ
nguyên do nơi nhân địa, xiển dương, phát khởi
những chuyện thuộc về hạnh nguyện, th́ mới khiến cho ba loại
căn cơ nhất tâm tiếp nhận, chẳng đọa
vào Xiển Đề, vĩnh viễn đạt đến
Phật đạo.
3.1.2.2.3.2.1.2. Nguyện
thuyết hạnh nguyện (xin đức
Phật hăy nói hạnh nguyện của Địa Tạng
Bồ Tát)
(Kinh) Duy nguyện Thế Tôn, quảng
thuyết Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát nhân địa,
tác hà hạnh, lập hà nguyện, nhi năng thành tựu bất
tư nghị sự?
(經)唯願世尊‧廣說地藏菩薩摩訶薩因地‧作何行‧立何願‧而能成就不思議事。
(Kinh: Kính mong đức Thế Tôn nói rộng
về nhân địa của Bồ Tát Ma Ha Tát, Ngài đă làm
hạnh ǵ, đă lập nguyện ǵ mà có thể thành tựu
chuyện chẳng thể nghĩ bàn).
“Nhân” (因) có nghĩa là gieo
trồng. “Địa” (地) biểu thị tự
tâm. Do vốn sẵn có ba cái nhân là chủng tử của Phật
tánh, do Liễu Nhân chưa từng phát tâm, Duyên Nhân chưa từng
gia hạnh, cho nên tánh và
duyên cùng được gọi là Chánh Nhân, tức là ba cái
nhân nơi Lư tánh vậy. Nay hỏi: “Vị Địa Tạng Bồ Tát này thoạt
đầu nơi nhân địa phát tâm, chẳng biết Ngài
đă làm hạnh môn ǵ, lập nguyện niệm ǵ mà có thể
thành tựu chuyện chẳng thể nghĩ bàn ấy?” Hai chữ Hà (何) [trong đoạn chánh
kinh trên đây] là từ nghi vấn. Bởi lẽ, Bồ
Tát trong tứ giáo, không ai chẳng tu hành phát nguyện.
Như ba giáo trước đều là hạnh nguyện
Thiên, Quyền, đều thuộc nhân duyên sanh diệt. Nếu
dùng cái tâm sanh diệt làm gốc để tu nhân, sao có thể
thành tựu viên măn tánh bất sanh diệt nơi quả
địa cho được? V́ thế, xin hăy nói rộng
cái nhân ấy, khiến cho hàng tiểu quả tin nhận, chẳng
dấy tâm nghi ngờ, phỉ báng! [Hai chữ] “hạnh
nguyện” đă được giải thích trong phần
trước. Ắt phải hỏi cả hai điều là
v́ Nguyện có thể dẫn khởi, Hạnh là thực hiện.
Nếu có Nguyện mà chẳng có Hạnh, Nguyện sẽ hư dối. Nếu
có Hạnh nhưng thiếu
Nguyện, Hạnh sẽ trơ trọi.
Do có Nguyện cho nên Hạnh chẳng trơ trọi; do có Hạnh nên Nguyện chẳng
rỗng tuếch! Nguyện và Hạnh giúp nhau, chứng quả
càng nhanh chóng. V́ thế, phải hỏi cả hai!
3.1.2.2.3.2.2. Thế
Tôn cử nhân đáp độ nhân (Thế Tôn nêu
cái nhân để đáp về người hóa độ)
Phần này chia
thành hai:
- Lược tán công đức
(tán thán đại lược công đức).
- Quảng thuyết hạnh
nguyện (nói cặn kẽ về đại nguyện).
3.1.2.2.3.2.2.1. Lược
tán công đức (tán thán đại lược
về công đức)
3.1.2.2.3.2.2.1.1. Minh
đại tiểu quả vị công đức (nói rơ công đức
nơi quả vị lớn, nhỏ)
3.1.2.2.3.2.2.1.1.1.
Cử dụ (nêu thí dụ)
(Kinh) Phật cáo Văn Thù Sư Lợi:
- Thí như tam thiên đại thiên thế giới, sở hữu
thảo, mộc, tùng lâm, đạo, ma, trúc, vi, sơn thạch,
vi trần, nhất vật nhất số, tác nhất Hằng
hà. Nhất Hằng hà sa, nhất
sa nhất giới. Nhất giới chi nội, nhất trần
nhất kiếp, nhất kiếp chi nội sở tích trần
số, tận sung vi kiếp.
(經)佛告文殊師利‧譬如三千大千世界‧所有草木叢林‧稻麻竹葦‧山石微塵‧一物一數‧作一恆河。一恆河沙‧一沙一界。一界之內‧一塵一劫。一劫之內所積塵數‧盡充為劫。
(Kinh: Đức Phật bảo ngài
Văn Thù Sư Lợi: - Ví như trong tam thiên đại
thiên thế giới, tất cả cỏ, cây, rừng rậm,
lúa, mè, tre, lau, đá núi, vi trần, cứ coi mỗi vật
là một con số, mỗi số coi như một sông Hằng. Đối với cát trong một
sông Hằng, coi một hạt cát là một thế giới.
Trong mỗi thế giới đó, coi một hạt bụi
là một kiếp, số lượng bụi tích tụ
trong một kiếp đều được coi là kiếp
hết cả).
Đại Luận viết: “Hỏi: Tam
thiên đại thiên thế giới là như thế nào?
Đáp: Nói phân biệt theo kinh Tạp A Hàm, một ngàn mặt trời,
một ngàn mặt trăng, một ngàn Diêm Phù Đề, cho
đến một ngàn Đại Phạm Thiên, được
gọi là một tiểu thiên thế giới, tức là một
Châu Lợi (chính là “tiểu thiên” trong tiếng Phạn). Coi
một ngàn Châu Lợi thế giới là một đơn vị,
đếm từ một tới một ngàn, th́ gọi là nhị
thiên trung thế giới. Coi nhị thiên trung thế giới
là một đơn vị, đếm từ một đến
một ngàn, gọi là tam thiên đại thiên thế giới.
Một ngàn thế giới là tiểu thiên, nhị thiên là
trung thiên, loại thứ ba là đại thiên, do một ngàn
nhân lên một ngàn nhân với một ngàn, nên gọi là đại
thiên. Do hai lượt [một ngàn] đă nhân với nhau, lại
nhân lên một ngàn nữa, nên nói là Tam Thiên (ba lần một
ngàn nhân với nhau), tức là đặt tên theo cách kết
hợp. Trăm ức nhật nguyệt, cho đến
trăm ức Đại Phạm Thiên, gọi là tam thiên
đại thiên thế giới”. Đại thiên thế
giới ở trong hư không, nước ở trên gió,
đất ở trên nước, người ở trên
đất. Các loài thảo mộc v.v… ở trên mặt
đất.
“Tùng” (叢) là tụ tập. Cây cối
tụ tập gọi là Lâm (林, rừng). “Đạo,
ma, trúc, vi” (lúa, mè, tre, lau): Thí dụ có hai loại, một
là giả dụ; hai là dùng sự thật làm thí dụ. Ở
đây là giả dụ. Do bốn thứ ấy sanh trưởng
rậm rạp, chi chít, chủng loại lại nhiều,
người ta lại thường thấy, dễ tin
tưởng. Đá núi, vi trần cũng thế. Nay trong khá
nhiều vật như thế, tùy ư lấy một vật
coi là một số, coi đó là một sông Hằng. Vật đă là vô
lượng, [số lượng] sông làm sao có thể cùng tận
cho được? Đây là dùng vật để coi là sông,
sông làm sao có thể cùng tận cho được? Lại từ
số lượng cát trong một sông Hằng (có bản nói
là “sông Hằng chứa đầy cát”), tùy ư lấy một
hạt cát, coi đó là một thế giới. Cát đă khó thể cùng tận [số lượng],
há [số lượng] thế giới có thể cùng tận
ư? Đấy là dùng cát để đếm thế giới,
thế giới chẳng thể cùng tận vậy! Lại
trong mỗi thế giới thuộc số thế giới
nhiều như cát ấy, tùy ư lấy một hạt bụi,
coi đó là một kiếp. Số lượng bụi
đă là khó biết, số lượng kiếp há tính lường
nổi ư? Đấy là dùng số lượng bụi
trong một thế giới để đếm kiếp,
kiếp chẳng thể cùng tận! Nay lại từ số
bụi tích tập trong một kiếp, coi hết số
lượng ấy là kiếp. Thời gian trải qua đă
lâu, số lượng bụi tích tụ rất nhiều. Dựa
theo số kiếp nhiều như số bụi ấy, làm
sao có thể tính nổi số lượng? Kiếp số
chẳng thể nghĩ bàn! Tầng tầng ví dụ nêu tỏ
như thế chính là v́ để thấy Địa Tạng
đại sĩ từ thuở ban đầu thệ nguyện
phát tâm tới nay, dẫu bậc thầy về tính toán, hay
học tṛ của các bậc thầy tính toán, đối với
con số như trong thí dụ trên đây, cùng nhau mong dùng cái
trí lanh lợi và tài khéo để tính toán, rốt cuộc vẫn
chẳng thể biết nổi!
Ắt phải nêu ra Hằng hà [làm thí dụ]
là v́ sông Hằng có nhiều cát. Hơn nữa, nơi đức
Phật sống, nơi Ngài du hành, đệ tử chính mắt
thấy [sông Hằng]. Hơn nữa, sông Hằng lớn nhất
trong bốn con sông [ở xứ Ấn], mọi người đều
coi đó là con sông phước đức, cát tường,
cho rằng “vào trong đó tắm gội,
tội cấu đều tiêu trừ”. Do mọi người
kính trọng, tôn thờ con sông ấy, đều cùng nhận
biết. Lại do [người đời] thích đổi
tên các con sông, nhưng sông Hằng đời đời chẳng
đổi tên. V́ thế, lấy sông Hằng làm thí dụ.
Hỏi: Số lượng cát
trong sông Hằng là bao nhiêu? Đáp: Hết thảy tính toán
đều chẳng thể biết, chỉ có Phật và
Pháp Thân Bồ Tát có thể biết.
Chữ Kiếp Ba (Kalpa) trong
tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Phân Biệt Thời
Tiết, có tiểu kiếp, trung kiếp, đại kiếp
khác nhau! Nay dựa theo đại kiếp để nói!
3.1.2.2.3.2.2.1.1.2.
Chánh minh (nói rơ nhân địa)
(Kinh) Địa Tạng Bồ Tát chứng
Thập Địa quả vị dĩ lai, thiên bội
đa ư thượng dụ, hà huống Địa Tạng
Bồ Tát tại Thanh Văn, Bích Chi Phật địa.
(經)地藏菩薩證十地果位已來‧千倍多於上喻。何況地藏菩薩在聲聞‧辟支佛地。
(Kinh: Kể từ khi Địa Tạng
Bồ Tát chứng quả vị Thập Địa đến
nay, [thời gian ấy] đă ngàn lần nhiều hơn thí
dụ trên đây, huống hồ [thời gian] Địa Tạng
Bồ Tát c̣n thuộc các địa vị Thanh Văn và Bích
Chi Phật).
Trong đoạn kinh văn này, trước hết
là nêu thí dụ về Đại Thừa, sau là nói “huống
hồ khi Ngài c̣n đang tu Tiểu Quả”. Chỉ nêu ra
Thập Địa, lược đi các hiền vị
(địa vị Tam Hiền) như Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng, tức là chỉ dựa
theo các địa vị chứng đắc trong Thập Thánh (từ Sơ Địa cho đến
Thập Địa) để so sánh. Đấy là luận
định dựa theo Biệt Giáo. Nếu xét theo Viên Giáo, từ
Sơ Trụ cho đến Đẳng Giác có tất cả
bốn mươi mốt địa vị đều là “chân
nhân vị” (địa vị chân thật trong khi c̣n
đang tu nhân). Nay vẫn nói theo Biệt Giáo: Một là Hoan Hỷ
Địa, từ đây trở đi dùng Trung Đạo
Quán, phá một phần vô minh, hiển lộ một phần
Tam Đức (Pháp Thân, Bát Nhă, Giải Thoát). Đấy là
địa vị Kiến Đạo, lại c̣n là địa
vị Vô Công Dụng. Làm Phật
trong trăm thế giới, [thị hiện] tám tướng
thành đạo, lợi ích chúng sanh, đi năm trăm
do-tuần, mới nhập Thật Tướng vô chướng
ngại độ, mới vào bảo sở (chỗ có của
báu, tức đạt đến quả vị rốt ráo),
cho nên gọi là Hoan Hỷ. Hai là Ly Cấu, ba là Phát Quang, bốn
là Diễm Huệ, năm là Nan Thắng, sáu là Hiện Tiền,
bảy là Viễn Hành, tám là Bất Động, chín là Thiện
Huệ, mười là Pháp Vân. Mỗi địa vị
đều đoạn một phẩm vô minh, chứng một
phần Trung Đạo… Nhưng Địa Tạng Bồ
Tát chứng nhập như thế, dù Biệt hay Viên, đều
thuộc quả vị Thập Địa. Cho đến hiện
tại, kiếp số ấy dài lâu hơn số kiếp
tính bằng số lượng bụi tích tập trong các thế
giới trên đây không chỉ vượt quá ngàn lần! Huống
hồ [thời gian Ngài trụ] trong các địa vị Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng của
Đại Thừa, huống hồ trong các tiểu quả
thuộc những địa vị Thanh Văn, Bích Chi Phật
ư?
Nghe âm thanh nói về Tứ Đế Khổ
Tập Diệt Đạo bèn chứng quả th́ gọi là
Thanh Văn (Śrāvaka), nhưng trong ấy
có Quyền và Thật. Thật là như thường (là Thanh
Văn thật sự). Quyền th́ như kinh Thập Luân có
nói Địa Tạng Bồ Tát và tám mươi trăm ngàn
na-dữu-đa (nayutaḥ) tần-bạt-la (vimvara)[25] Bồ Tát do sức
thần thông, hiện h́nh tượng Thanh Văn từ phương
Nam đến, lễ Phật, tán thán. Dựa theo hiện tại
để ước đoán xưa kia, há chẳng phải
là như vậy ư?
Chữ Bích Chi Ca La (Pratyekabuddha)
trong tiếng Phạn được phương này dịch
là Duyên Giác, [hàm ư] do quán duyên mà ngộ đạo. C̣n dịch
là Độc Giác, do vị ấy ra đời trong khi
không có Phật. [Đối với Duyên Giác] cũng đáng
nên luận định Quyền, Thật [như trên]. Ở
đây, chẳng xét theo Đại, Tiểu để so
sánh, chỉ nhằm tỏ rơ “đă trải qua thời
gian lâu xa”. Nhân địa như thế, ai có thể tính
lường là lâu xa hay gần đây cho được!
3.1.2.2.3.2.2.1.1.3.
Kết hiển (kết lại phần
hiển thị thời gian tu nhân)
(Kinh) Văn Thù Sư Lợi, thử Bồ
Tát oai thần thệ nguyện, bất khả tư
nghị.
(經)文殊師利‧此菩薩威神誓願‧不可思議。
(Kinh: Này Văn Thù Sư Lợi! Oai thần
và thệ nguyện của vị Bồ Tát này chẳng thể
nghĩ bàn).
Đoạn này kết lại oai lực và thần
thông “hàng ma, chế phục ngoại đạo”, nguyện
tâm hoằng thệ rộng độ các phẩm vị [của Địa Tạng Bồ Tát] đều là hàng Tiểu
Thừa chẳng thể suy lường được, những
kẻ thuộc các địa vị thấp hơn sẽ
chẳng thể nói được. V́ thế, trong kinh Thập
Luân, đức Phật đă bảo Hảo Nghi Vấn Bồ
Tát: “Như thị Đại Sĩ công đức thiện
căn, nhất thiết thế giới thiên nhân đại
chúng, giai bất năng trắc kỳ lượng thiển
thâm. Nhược Như Lai quảng thuyết như thị
Đại Sĩ công đức thiện căn, nhất thiết
thế gian thiên nhân đại chúng giai sanh mê muộn, hoặc
bất tín thọ. Như thị Đại Sĩ thành tựu
vô lượng bất khả tư nghị thù thắng công
đức, thiện năng ngộ nhập Như Lai cảnh
giới, ư chư Phật pháp dĩ đắc tự tại,
vị dục thành thục nhất thiết hữu t́nh, sở
tại Phật quốc tất giai chỉ trụ” (Công
đức và thiện căn của vị Đại
Sĩ như thế, đại chúng trời người
trong hết thảy các thế giới đều chẳng
thể tính lường sâu hay cạn được! Nếu
đức Như Lai rộng nói công đức và thiện căn
của vị Đại Sĩ như thế, đại chúng
trời người trong hết thảy các thế gian
đều mê man, hoặc chẳng tin nhận. Vị Đại
Sĩ như thế thành tựu vô lượng công đức
thù thắng chẳng thể nghĩ bàn, khéo có thể ngộ
nhập cảnh giới của Như Lai, đă được
tự tại trong pháp của chư Phật, v́ muốn
thành thục hết thảy hữu t́nh thảy đều
an trụ trong các cơi Phật).
Đại Luận gọi “bất khả
tư nghị” là Bất Quyết Định, do chẳng
thể quyết định chuyện giáo hóa ấy. V́ thế
gọi là Bất Khả Tư Nghị (chẳng thể
nghĩ bàn).
3.1.2.2.3.2.2.1.2.
Thị văn tán cúng tượng công đức (chỉ ra công
đức do tán thán, cúng dường tượng Bồ Tát)
(Kinh) Nhược vị lai thế, hữu
thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thị Bồ
Tát danh tự. Hoặc tán thán, hoặc
chiêm lễ, hoặc xưng danh, hoặc cúng dường, năi
chí thái họa, khắc lũ, tố tất h́nh tượng. Thị nhân
đương đắc bách phản sanh ư Tam Thập
Tam Thiên, vĩnh bất đọa ác đạo.
(經)若未來世‧有善男子‧善女人‧聞是菩薩名字。或讚歎‧或瞻禮‧或稱名‧或供養‧乃至彩畫刻鏤‧塑漆形像。是人當得百返生於三十三天‧永不墮惡道。
(Kinh: Nếu trong đời vị
lai, có thiện nam tử, thiện nữ nhân, nghe danh tự
của vị Bồ Tát này mà hoặc tán thán, hoặc chiêm lễ,
hoặc xưng danh, hoặc cúng dường, cho đến
vẽ vời, chạm khắc, đắp, sơn h́nh
tượng, người ấy sẽ được
trăm lần sanh trong Tam Thập Tam Thiên, vĩnh viễn chẳng
đọa ác đạo).
“Nhược” (若) là từ ngữ bất
định, bởi kẻ làm ác th́ nhiều, người
hành thiện th́ ít; mà cũng là lời lẽ diễn tả
vui mừng khi gặp gỡ. Tức là nếu có nam
nữ tu thiện, nghe danh tự của Địa Tạng
Bồ Tát bèn cung kính, người ấy ắt sẽ
vĩnh viễn đạt được phước to lớn.
Chuyện này không hạn cuộc trong hai chúng tại gia,
như trong kinh Thập Luân, Địa Tạng Bồ Tát
được gọi là “thiện nam tử”, tức
là cả bảy chúng[26] trong ba thừa đều có thể
xưng hô như vậy. Do “chẳng làm các điều ác,
vâng làm các điều thiện”, phàm là trong Phật pháp,
có ai mà chẳng tuân hành? “Nghe danh hiệu Bồ Tát…”,
nghe danh hiệu bèn gieo chủng tử, có cảm bèn ứng.
Ví như hồng chung treo trên giá, hễ gơ liền kêu. Giải
thích về chữ Danh th́ như trong phần Luân Quán. Tự
(字) [nghĩa gốc là] “có sữa”.
Trai có vợ, gái có chồng, sau đó sanh con đẻ cái. Do
chữ Miên (宀, giống như nhà cửa)
và Tử (子) [ghép lại thành chữ
Tự (字), diễn tả ư “người
đàn bà đă có con, cơ thể sanh ra sữa”], thuộc loại
Hội Ư. Nay mượn làm chữ Tự trong Danh Tự. Cổ
nhân nói chuyện với nhau, nếu gọi thẳng tên là
cách nói chất phác, người đời Châu đă chuộng
gọi nhau bằng Tự, coi đó là cách nói bóng bẩy.
Nhưng danh tự của Bồ Tát, tuy do đức mà lập,
vẫn là giả đặt bày. Kinh Đại Phẩm Bát Nhă
nói: “Bát Nhă Ba La Mật, đản hữu danh tự. Bồ
Tát, diệc đản hữu danh tự. Thị danh tự
bất tại nội, ngoại, trung gian, ḥa hợp cố
hữu. Bất sanh, bất diệt, đản dĩ thế
gian danh tự cố thuyết” (Bát Nhă Ba La Mật chỉ
có danh tự. Bồ Tát cũng chỉ có danh tự. Danh tự
ấy chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở
chặng giữa, do ḥa hợp mà có. Chẳng sanh, chẳng
diệt, chỉ v́ danh tự thế gian mà nói). Do vậy biết
danh tự ấy vốn là Không. Đă biết là không tịch,
cho nên cảm ứng đạo giao. V́ thế, nghe danh tự
của vị Bồ Tát này, hoặc dùng ngôn từ để
tán thán, hoặc chiêm ngưỡng h́nh tướng thù thắng
của bậc tôn thánh mà lễ bái, hoặc chuyên xưng danh tự, hoặc kiền thành tu cúng
dường, hoặc chọn lựa tinh tế năm màu
để vẽ vời, hoặc khéo đẵn các loại
gỗ để chạm khắc, hoặc nhờ vào đất
sạch để đắp nặn, hoặc nhờ vào keo
sơn để tô phết, tạo thành h́nh tượng
Ngài để cung kính. Người ấy trong đời tương
lai, nhất định sẽ trăm lượt sanh vào Tam
Thập Tam Thiên, vĩnh viễn chẳng đọa vào chốn
tam ác đạo.
Tam Thập Tam Thiên th́ có hai thuyết. Theo
Chánh Pháp Niệm Xứ Kinh, Đao Lợi dịch là Tam Thập
Tam. Đấy là một tầng trời thuộc Địa
Cư Thiên. Nếu sanh vào đó một trăm lần, tức
là địa vị thấp kém, nơi chốn hẹp ḥi,
há có thể hiển lộ oai thần thệ nguyện chẳng
thể nghĩ bàn của đức Địa Tạng
ư? Phải hiểu là ba mươi ba cơi trời như
trong Quán Đảnh Chú Kinh đă liệt kê th́ mới phù hợp
kinh văn! Những cơi trời ấy chính là Cận Tế,
Phổ Quán, Khoái Kiến, Vô Kết Ái, Sắc Cứu Cánh, Tịnh
Quang, Phổ Đẳng, Ái Thắng, Phước Ái, Cực
Diệu, Quảng Diệu, Vi Diệu, Thủ Diệu, Tịnh
Minh, Biến Tịnh, Ước Tịnh, Thủy Ứng Phạm,
Thủy Vô Lượng Phạm, Thủy Vi Phạm, Thủy
Hành Phạm, Ma Ha Phạm, Phạm Phụ Lộc, Phạm
Chúng Diệu, Hóa Tự Tại, Hóa Ứng Thanh, Bất Kiêu Lạc,
Đâu Suất Đà, Diêm Ma La, Đao Lợi, Tỳ Sa Môn,
Duy Chiêm Văn, Tỳ Lâu Lặc, Đề Đầu Lại
Trá. Đấy là các tầng trời thuộc Dục Giới
và Sắc Giới, từ Tứ Vương Thiên lên đến
Ngũ Tịnh Cư, lại từ Ngũ Tịnh Cư trở
xuống Tứ Thiên Vương Thiên, lần lượt
sanh vào các tầng trời trong ấy, trong mỗi tầng trời
đều hưởng hết thọ mạng trong tầng
trời ấy. Một trăm lượt như thế,
hưởng tột cùng niềm vui trên cơi trời. Tu nhân ít
mà thọ báo nhiều, trải qua thời gian ngắn mà hưởng
phước lâu xa, mới hiển lộ thần lực chẳng
thể nghĩ bàn của đức Địa Tạng. Nếu
là như thế, há có nên sanh lên trời hưởng phước,
lại c̣n vĩnh viễn ĺa khỏi ác đạo hay
chăng? Hăy nên biết người căn cơ viên đốn,
như vương tử ở trong thai, vừa nghe danh, tạc
tượng, bèn sanh lên trời, ĺa ác. Đấy gọi là “Thập
Thiện Bồ Tát phát đại tâm, vĩnh viễn giă biệt
biển khổ trong tam giới”, đó là ư chỉ của
bản kinh này vậy.
3.1.2.2.3.2.2.2. Quảng
thuyết hạnh nguyện (rộng nói về
hạnh nguyện)
3.1.2.2.3.2.2.2.1.
Trưởng giả cầu Phật tướng hảo (trưởng
giả cầu tướng hảo của Phật)
3.1.2.2.3.2.2.2.1.1.
Đằng tích kiến Phật phát nguyện (nêu rơ chuyện
thấy Phật phát nguyện trong quá khứ)
3.1.2.2.3.2.2.2.1.1.
Tự viễn kiếp Phật hiệu (trần thuật
danh hiệu Phật trong kiếp lâu xa)
(Kinh) Văn Thù Sư
Lợi! Thị Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát, ư quá khứ cửu viễn bất khả
thuyết bất khả thuyết kiếp tiền, thân vi
đại trưởng giả tử. Thời thế hữu
Phật, hiệu viết Sư Tử Phấn Tấn Cụ
Túc Vạn Hạnh Như Lai.
(經)文殊師利‧是地藏菩薩摩訶薩‧於過去久遠不可說不可說劫前‧身為大長者子。時世有佛‧號曰師子奮迅具足萬行如來。
(Kinh: Này Văn Thù Sư Lợi! Địa
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát trong bất khả thuyết bất
khả thuyết kiếp trước lâu xa trong đời
quá khứ, làm thân đại trưởng giả. Lúc ấy,
trong cơi đời có Phật, hiệu là Sư Tử Phấn
Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai).
Đoạn này trần thuật nguyên do phát
tâm tối sơ. Chữ Tiền (前) [trong chánh kinh] mà coi là
chữ đầu tiên trong câu kế tiếp th́ chẳng hay
như là chữ cuối trong câu trước đó. “Đại
trưởng giả” là danh xưng chung của bậc tuổi
cao đức trọng trong cả hai cơi. Như cuối
đời Xuân Thu, nước ta có Trịnh trưởng giả.
Những nhà có thế lực ở Tây Trúc đều
được gọi là Trưởng Giả. Sách Pháp Hoa
Văn Cú nói [trưởng giả] có mười đức:
- Một là gịng họ tôn quư ([chẳng hạn
như] hậu duệ của hoàng đế, nhà quan lại).
- Hai là địa vị cao (bậc Thừa
Tướng phụ bật (phù tá của nhà vua), là bậc
hiền tài rường cột, quan dạy các hoàng tử).
- Ba là giàu to (núi đồng, hang vàng, giàu có,
dư dật, chẳng thiếu thứ ǵ).
- Bốn là oai mănh (nghiêm nghị, trang trọng,
tự nhiên có oai).
- Năm là trí sâu (bụng như kho vũ khí
(ư nói có tài dụng binh), quyền biến kỳ diệu, tài
nghệ nổi bật).
- Sáu là tuổi cao (tóc đă hoa râm, nhưng sắc
bén, phong thái được mọi người nể phục).
- Bảy là hạnh thanh tịnh (ngọc khuê
trắng không tỳ vết, làm đúng như lời nói).
- Tám là trọn đủ lễ tiết (chừng
mực tường tận, là tấm gương cho cơi
đời nh́n vào).
- Chín là được người trên ca ngợi
(được bề trên kính trọng).
- Mười là kẻ dưới quy phục
(bốn biển quy phục).
Có đủ mười đức ấy
th́ mới gọi là Trưởng Giả. Tử (子) là tiếng
tôn xưng, như trong cơi đời nói Khổng Tử, Lăo
Tử v.v… [Trưởng giả tử] chẳng phải là
con của ông trưởng giả!
Sư Tử Phấn Tấn là mượn
dùng thí dụ để lập danh hiệu Phật, chẳng
phải là sư tử thật sự. Như sư tử
riêng là loài không sợ hăi trong các loài thú bốn chân, có thể
chế phục hết thảy; Phật cũng giống
như thế. Trong chín mươi sáu thứ ngoại đạo,
Ngài hàng phục hết thảy, không sợ hăi, cho nên
được gọi là Sư Tử. Phấn (奮) là phấn chấn. Tấn
(迅) là nhanh chóng; mượn thí dụ
để hiển thị pháp. Như sư tử trong cơi
đời, phấn tấn có hai chuyện: Một là chân
đạp tung bụi; hai là có thể đi trước, chạy
nhanh, nhanh nhẹn khác hẳn các loài thú khác. Môn tam-muội
này cũng giống như vậy, một là quét sạch những
thứ Hoặc (phiền năo) vô tri vi tế gây chướng cho Định;
hai là có thể xuất nhập nhanh chóng, chẳng gián đoạn.
Cụ Túc Vạn Hạnh: Kinh Đại Phẩm
Bát Nhă nói “nhất tâm cụ vạn hạnh” (nhất
tâm có đủ muôn hạnh) là nói về ư này. Một chính là
hết thảy các danh đều trọn
đủ; hết thảy chính là một
danh trọn đủ. Đă trừ các thứ Hoặc gây
chướng ngại cho Định, xuất nhập tam-muội
nhanh chóng, tức là trong một có vô lượng, trong vô
lượng có một. Do vậy biết Sư Tử Phấn
Tấn tam-muội có thể trọn đủ muôn hạnh.
Nếu là hành nhân sơ tâm, nắm được cái quả
để thành tựu cái nhân, như kinh Niết Bàn dạy:
“Kim Cang bảo tạng, cụ túc vô giảm, đản hữu
thiển thâm minh muội chi thù” (Kho báu Kim Cang trọn
đủ, chẳng giảm, chỉ có cạn, sâu, thông hiểu,
mê muội sai khác).
3.1.2.2.3.2.2.2.1.1.2.
Chánh vấn nhân phát nguyện (thưa hỏi
cái nhân rồi phát nguyện)
Gồm hai phần:
- Hỏi do cái nhân nào mà [đức
Phật] có được tướng [thù thắng].
- Phát nguyện độ
sanh.
3.1.2.2.3.2.2.2.1.1.2.1.
Vấn đắc tướng chi nhân (thưa hỏi
do cái nhân nào mà [đức Phật] đạt được
tướng thù thắng)
3.1.2.2.3.2.2.2.1.1.2.1.1.
Trưởng giả vấn Phật (trưởng
giả hỏi Phật)
(Kinh) Thời trưởng giả tử,
kiến Phật tướng hảo, thiên phước trang
nghiêm, nhân vấn bỉ Phật
tác hà hạnh nguyện, nhi đắc thử tướng?
(經)時長者子‧見佛相好‧千福莊嚴。因問彼佛作何行願‧而得此相。
(Kinh: Khi ấy, ông trưởng giả
thấy tướng hảo của Phật, ngàn phước
trang nghiêm, do đó bèn hỏi đức Phật ấy
đă làm hạnh nguyện ǵ mà đạt được
tướng ấy?)
“Kiến Phật” (Thấy Phật) tức là gặp
gỡ giữa đường, thấy tướng hảo
của Ứng Thân Phật, giống như “quán Phật
tướng hảo bèn phát tâm” trong sách Ma Ha Chỉ Quán. Nói
“nếu thấy thân do cha mẹ sanh ra của Như Lai,
thân tướng rạng rỡ, tướng hảo dầy
đặc, thượng cầu, hạ hóa, phát Bồ Đề
tâm” chính là nói đến chuyện này. Nh́n vào có thể phân
biệt được th́ gọi là Tướng; trông thấy
đáng yêu mến th́ gọi là Hảo. Tướng là đại
tướng hải, c̣n Hảo là tiểu tướng hải.
Nếu Tướng không có Hảo, sẽ chẳng viên măn; Hảo
mà không có tướng, sẽ chẳng thể hiển lộ
rạng rỡ được! Tướng và Hảo trang
nghiêm lẫn nhau, Pháp Thân hiển lộ trọn vẹn.
“Thiên phước”: Dùng thân, khẩu, ư
nghiệp thuộc điều thiện hữu lậu để
tu hành Lục Độ, thành tựu một trăm phước
đức. Dùng một trăm phước đức để
thành tựu một tướng, dùng chuyện này để
làm nghiệp nhân của ba mươi hai tướng. Sách Phụ
Hành nói: “Bồ Tát tu Thập Thiện, mỗi điều
thiện đều có năm tâm, tức là hạ, trung,
thượng, thượng thượng, thượng trung
thượng (điều tốt nhất trong bậc
thượng). Thoạt đầu là phát năm tâm, cho đến
trọn đủ năm tâm. Một trăm tâm như thế
được gọi là trăm phước”. Nhưng
phước có nhiều nghĩa, khó thể phán định
dứt khoát! Có thuyết cho rằng “chữa cho người
mù trong đại thiên thế giới đều được sáng mắt” là một phước
v.v… Nói chung, dùng ba ngàn hai trăm phước để thành
tựu ba mươi hai tướng đại nhân; v́ thế
nói là “thiên phước trang nghiêm” (ngàn phước trang
nghiêm). Đại Luận nói: “Dùng ba mươi hai tướng
và tám mươi tùy h́nh hảo để trang nghiêm, bên trong th́
có vô lượng công đức Phật pháp. Cho nên nh́n Phật
không chán. Người thấy thân Phật sẽ quên bẵng
ngũ dục trong cơi đời, chẳng nhớ tới
muôn sự. Nếu thấy một chỗ trên thân Phật sẽ
yêu thích, không chán, chẳng thể dời mắt được”.
Công đức nơi thân Phật là như thế, cho nên
ông trưởng giả trông thấy, sanh ḷng hoan hỷ cùng cực, ḷng khát ngưỡng
sâu xa; do vậy, thưa hỏi đức Phật ấy.
Tướng hảo ấy chính là báo quả (cái quả do
phước báo tạo thành) nơi thân Phật, quả ắt có nhân.
Chẳng biết Ngài đă làm hạnh nguyện ǵ mà có thể
đạt được tướng thù thắng, nhiệm
mầu như thế?
3.1.2.2.3.2.2.2.1.1.2.1.2.
Phật thị trưởng giả (Phật dạy
trưởng giả)
(Kinh) Thời Sư Tử Phấn
Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai, cáo trưởng
giả tử: “Dục chứng thử thân, đương
tu cửu viễn độ thoát nhất thiết thọ khổ
chúng sanh”.
(經)時師子奮迅具足萬行如來‧告長者子。欲證此身‧當須久遠度脫一切受苦眾生。
(Kinh: Khi ấy, Sư Tử Phấn Tấn
Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai bảo ông trưởng
giả: “Muốn chứng thân này, hăy nên tu lâu dài phép độ
thoát hết thảy chúng sanh đang chịu khổ”).
Đây là dạy cách cầu tướng. Ba
mươi hai tướng ấy chính là quả báo của
ḷng đại bi. V́ thế, cần phải độ thoát
chúng sanh để làm căn bản cho tướng hảo!
Đấy là các kinh Đại Thừa rộng nói về
tướng trạng trải bao kiếp tu hành của Bồ
Tát. Đă là thực hiện dài lâu, hành theo thứ tự
cách biệt, th́ chính là pháp tu chứng của Đại Thừa
Biệt Giáo. Kinh Niết Bàn nói: “Tứ Đế nhân duyên
hữu vô lượng tướng, phi Thanh Văn, Duyên Giác
sở tri” (Nhân duyên của Tứ Đế có vô lượng
tướng, hàng Thanh Văn, Duyên Giác chẳng thể biết
được). V́ thế nói là “cửu viễn” (久遠, lâu xa).
Hỏi: Ngài Địa Tạng phát tâm đă
là Biệt, nay v́ sao phán giáo [pháp môn này] giống như Viên?
Đáp: Phát tâm vốn là Viên, nhờ vào Biệt
để nói. Kinh Duy Ma dạy: “Tuy tri chư Phật quốc,
cập dữ chúng sanh không, nhi thường tu Tịnh Độ,
giáo hóa ư quần sanh. Chư hữu chúng sanh loại, h́nh
thanh cập oai nghi, vô úy lực Bồ Tát, nhất thời
năng tận hiện” (Tuy biết các cơi Phật và chúng sanh đều
là không, nhưng thường tu Tịnh Độ, giáo hóa
các quần sanh. Đối với các loài chúng sanh trong các cơi, bậc Bồ Tát có sức vô
úy đều có thể trong cùng một lúc mà hiện trọn
hết các h́nh tướng, âm thanh
và oai nghi). “Hạnh Biệt, tâm Viên” đă được
nói rơ trong đoạn kinh văn ấy. Nhưng Phần Viên
chính là Biệt, dung thông Biệt th́ chính là Viên, chẳng thể
luận định ư nghĩa theo kiểu nhất loạt
được!
3.1.2.2.3.2.2.2.1.1.2.2.
Phát độ sanh chi nguyện (phát nguyện độ
sanh)
(Kinh) Văn Thù Sư Lợi! Thời trưởng giả
tử nhân phát nguyện ngôn: “Ngă kim tận vị lai tế,
bất khả kế kiếp, vị thị tội khổ
lục đạo chúng sanh, quảng thiết phương
tiện, tận linh giải thoát, nhi ngă tự thân,
phương thành Phật đạo.
(經)文殊師利‧時長者子因發願言‧我今盡未來際‧不可計劫‧為是罪苦六道眾生‧廣設方便‧盡令解脫。而我自身‧方成佛道。
(Kinh: Này Văn Thù Sư Lợi! Khi ấy,
ông trưởng giả do vậy bèn phát nguyện: “Cho đến
hết đời vị lai chẳng thể tính kiếp,
con sẽ v́ các chúng sanh tội khổ trong lục đạo
mà rộng lập bày phương tiện, khiến cho họ
được giải thoát rồi bản thân con mới
thành Phật đạo”).
Đây là nêu ra lời phát nguyện trong thuở
xưa của vị trưởng giả. Hai câu kể từ
“ngă kim” (con nay) nêu rơ lúc [bắt đầu] độ
sanh. Câu “vị thị tội khổ” (v́ những
người tội khổ này) nói rơ căn cơ được
hóa độ. Bốn câu từ “quảng thiết” (rộng
lập bày) nêu bày điều Ngài phát nguyện. “Tội khổ
lục đạo”: Kinh Pháp Hoa nói: “Kiến lục
đạo chúng sanh, bần cùng vô phước huệ, nhập
sanh tử hiểm đạo, tương tục khổ bất
đoạn” (Thấy lục đạo chúng sanh, nghèo
túng, không phước huệ, vào đường hiểm
sanh, liên tục khổ chẳng ngừng). Tuy [sáu đường]
phân chia thành thiện hay ác, nhưng đều chẳng tránh
khỏi nỗi khổ sanh, lăo, bệnh, tử!
“Quảng thiết phương tiện”
(Rộng lập phương
tiện) là chuyện trọng yếu để xuất Giả.
Sách Ma Ha Chỉ Quán viết: “Nhân duyên để nhập
Giả, nói đại lược th́ có năm điều:
Một là tâm từ bi sâu nặng. Hai là nhớ đến thệ
nguyện của chính ḿnh. Ba là trí huệ nhạy bén. Bốn
là phương tiện hay khéo. Năm là sức đại
tinh tấn”. Nếu đối chiếu những điều
trên đây với đoạn kinh văn ở đây th́ mỗi
mỗi đều trọn đủ. Căn cơ đă chẳng
phải là một loại th́ pháp cũng có nhiều môn. V́ thế, rộng
lập phương tiện khiến cho bốn môn đều
nhập. Đối với giải thoát mà nói là “tận
linh” (khiến cho trọn hết) th́ như kinh Tiểu
Phẩm Bát Nhă đă nói: “Nhược thai, noăn, thấp,
hóa đẳng, ngă giai linh nhập Vô Dư Niết Bàn”
(Đối với các loài sanh bằng thai, trứng, thấp
sanh, hóa sanh v.v… ta đều khiến cho họ nhập Vô
Dư Niết Bàn) chính là ư này. Kinh Phổ Diệu dạy: “Vô
ngũ thú, ngũ ấm, lục suy, tắc thị Nê Hoàn”
(Chẳng có năm
đường, năm ấm, sáu điều suy[27], th́ chính là Niết Bàn), đấy
chính là ư chỉ của kinh này. “Ngă phương thành Phật
đạo” (Ta mới thành Phật
đạo): Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tự vị đắc
độ, tiên độ chúng sanh giả, Bồ Tát phát tâm dă”
(Chính ḿnh chưa đắc độ mà đă độ
chúng sanh trước, đó là Bồ Tát phát tâm). Năm
điều trong sách Ma Ha Chỉ Quán [như vừa trích dẫn
trên đây] đă giải thích đại lược chuyện
này. Nếu có tâm mong muốn như thế, dẫu ở
trong sanh tử phiền năo, vẫn chẳng thể tổn
hại trí huệ của ta được, [những thứ]
ngăn chướng, gây nạn càng giúp cho hóa đạo [mạnh
mẽ] vậy!
3.1.2.2.3.2.2.2.1.2.
Thị kim nhân vị độ sanh (chỉ ra sự
độ sanh trong địa vị tu nhân trong hiện thời)
(Kinh) Dĩ thị ư bỉ Phật
tiền, lập tư đại nguyện. Ư kim bách
thiên vạn ức na-do-tha bất khả thuyết kiếp
thượng vi Bồ Tát.
(經)以是於彼佛前‧立斯大願。於今百千萬億‧那由他不可說劫‧尚為菩薩。
(Kinh: Do Ngài đối trước đức
Phật ấy, lập ra đại nguyện đó, cho đến nay, trong trăm
ngàn vạn ức na-do-tha bất khả thuyết kiếp vẫn
làm Bồ Tát).
Trong kinh Hoa Nghiêm, Hiền Thủ Bồ Tát
nói: “Nhược hữu Bồ Tát sơ phát tâm, thệ cầu
đương chứng Phật Bồ Đề, bỉ
chi công đức vô biên tế, bất khả xưng lượng,
vô dữ đẳng! Hà huống vô lượng vô biên kiếp,
cụ tu địa độ chư công đức, Thập
Lực nhất thiết chư Như Lai, tất cộng
xưng dương bất năng tận. Dĩ thử Bồ
Tát văn viên pháp, khởi viên tín, lập viên hạnh,
trụ viên vị, dĩ viên công đức nhi tự trang
nghiêm, dĩ viên lực dụng kiến lập chúng sanh”
(Nếu có Bồ Tát sơ phát tâm, thề cầu chứng quả
Bồ Đề của Phật, công đức của người
ấy chẳng có ngằn mé, chẳng thể kể lường,
chẳng sánh bằng! Huống hồ trong vô lượng vô
biên kiếp, tu đủ các công đức thuộc các địa
vị và các độ (Ba La Mật) th́ mười
phương hết thảy các đức Như Lai đều
cùng ca ngợi chẳng thể cùng tận. Do vị Bồ
Tát ấy nghe pháp viên măn, dấy ḷng tin viên măn, lập hạnh
viên măn, trụ nơi địa vị viên măn, dùng công đức
viên măn để tự trang nghiêm, dùng sức viên măn để
kiến lập chúng sanh). Sơ tâm c̣n như thế, huống
hồ trung, hậu tâm. V́ thế, sách Tứ Giáo Nghĩa viết:
“Do vậy, giảng kinh, thuyết pháp trong một tông, ắt
cần phải khéo léo cởi gỡ [những nghi vấn]
cho hàng sơ tâm. Nếu là người thuộc địa
vị sâu xa của bậc hiền thánh, chỉ cần chỉ
vẽ đôi chút là được rồi. Người học
Phật đạo, chớ nên không biết!”
3.1.2.2.3.2.2.2.2.
Thị thánh nữ ức mẫu cảm Phật (dạy về
thánh nữ nhớ mẹ cảm Phật)
Phần này chia thành hai:
- Nêu bày hạnh nguyện.
- Từ “Phật cáo Văn
Thù” (đức Phật bảo Văn Thù) trở đi,
kết lại chuyện xưa nay.
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.
Đằng tích hạnh nguyện (nêu rơ hạnh
nguyện xưa)
Phần này chia
thành hai:
- Nêu ra chuyện đă làm
trong lúc tu nhân.
- Tỏ rơ Bồ Tát phát nguyện
rộng lớn.
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.
Cử sở hành nhân sự (nêu ra chuyện
đă làm trong lúc tu nhân)
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.1.
Cử Phật hiệu kiếp thọ (nêu ra danh hiệu
Phật, kiếp số, và thọ lượng)
(Kinh) Hựu ư quá khứ bất khả
tư nghị A-tăng-kỳ kiếp, thời thế hữu
Phật, hiệu viết Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Như Lai.
(經)又於過去不可思議阿僧祇劫‧時世有佛‧號曰覺華定自在王如來。
(Kinh: Lại trong quá khứ chẳng
thể nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp, thuở ấy,
trong cơi đời có Phật, hiệu là Giác Hoa Định
Tự Tại Vương Như Lai).
A-tăng-kỳ (Asaṃkhyeya), hoặc
A-tăng-xí-da, cơi này dịch là Vô Ương Số (Ương
(央) là cùng tận). Kinh Bồ
Tát Địa Tŕ nói: “Nhất giả, nhật, nguyệt,
trú, dạ, tuế số vô lượng. Nhị giả,
đại kiếp vô lượng, danh A-tăng-kỳ” (Một
là ngày, tháng, ban đêm, ban ngày, năm, số lượng của
chúng đều đến vô lượng. Hai là đại
kiếp vô lượng, gọi là A-tăng-kỳ). Ư
nghĩa của chữ Kiếp như đă nói trong phần
trên. Nhưng A-tăng-kỳ kiếp chẳng thể nghĩ
bàn như thế, đức Phật ta (Thích Ca Mâu Ni Phật)
thấy giống như trong hiện thời. Sức Túc Mạng
Trí há nghĩ bàn được ư? Như xưa kia, vua
Phân Ḥa Đàn đấu trí với đức Phật, đức
Phật bảo nhà vua: “Dùng nước biển làm nghiên mực,
chặt cây làm bút để viết những kinh ta biết.
Dù nước biển cạn khô, chặt sạch cây cối,
kinh của ta chẳng hết. V́ cớ sao vậy? Phật có ba đạt trí (trí
thông đạt), từ xưa đến nay không ǵ chẳng
thông đạt”. Đây là chuyện trong kiếp quá khứ
nhiều như số vi trần, [Như Lai thấy rơ ràng]
như nh́n quả Am-ma-lặc (quả xoài) đặt trong
ḷng bàn tay.
Giác Hoa Định Tự Tại Vương
là dùng Định để đặt tên. Kinh Duy Ma nói: “Giác
ư tịnh diệu hoa” (Hoa giác ư thanh tịnh, mầu nhiệm). “Giác”
chính là tánh Bổn Giác. Nhục đoàn tâm (quả tim thịt)
h́nh dạng như đóa hoa sen có tám cánh, tức là biểu
thị tám thức Tâm Vương, mỗi cánh là một vị
Như Lai. Kinh Như Lai Tạng nói: “Phật quán nhất
thiết phiền năo tâm trung, hữu Như Lai kết già phu
tọa, nghiễm nhiên bất động, đức tướng
cụ túc” (Phật quán trong hết thảy cái tâm phiền
năo có một vị Như Lai ngồi xếp bằng, nghiễm
nhiên bất động, đức tướng trọn
đủ). Đấy chính là thiên nhiên Tánh Đức mà các hàm
linh vốn sẵn có. Hễ mê th́ là phàm, ngộ th́ là thánh.
Trong lúc tu nhân, đức Phật ấy thường quán
giác hoa đó trong tam-muội. Vị Phật nào cũng đều
đang ở trong Định. Giác tánh hiển lộ trọn
vẹn, tâm hoa nở ngay lập tức. Hoặc là từ một
căn mà nhập Chánh Thọ, từ các căn mà xuất
Định. Hoặc từ các căn nhập Chánh Thọ, từ
một căn xuất Định. Hoặc từ một
căn vừa xuất vừa nhập, hoặc chẳng xuất
nhập. Hoặc từ một căn, một trần liền
xuất nhập, liền vừa xuất vừa nhập, hoặc
chẳng xuất nhập. Cho đến các phương
khác, cũng giống như thế. Dù y báo hay chánh báo, đều
đắc đại tự tại, tức là Tam Muội
Vương, cho nên hiệu là Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Như Lai, tức là Báo Thân Phật, do Đệ
Nhất Nghĩa Đế mà gọi là Như, do Chánh Giác mà gọi
là Lai.
(Kinh) Bỉ Phật thọ mạng tứ
bách thiên vạn ức A-tăng-kỳ kiếp.
(經)彼佛壽命‧四百千萬億阿僧祇劫。
(Kinh: Thọ mạng của đức
Phật ấy là bốn trăm ngàn vạn ức
A-tăng-kỳ kiếp).
“Bỉ Phật thọ mạng” (Thọ mạng của đức
Phật ấy): Phàm là Phật, ắt phải luận định
ba thân, đối với mỗi thân, đều nói đến
thọ mạng. Pháp Thân chẳng có thọ và phi thọ, chẳng
phải là có số lượng, chẳng phải là không có
số lượng. Nay đă luận về kiếp số
th́ chẳng phải là Pháp Thân. Ứng Thân nhiều lượt
hiện sanh, hiện diệt. Nay đă nói “bốn trăm
ngàn vạn ức A-tăng-kỳ kiếp”, tức
chẳng phải là Ứng Thân. Đây là nói về Báo Thân, cảnh
và trí tương ứng th́ gọi là Thọ, trí huệ là Mạng.
Dùng Như Như Trí để khế hợp cảnh
Như Như; Cảnh phát khởi Trí là Báo, Trí ngầm hợp
Cảnh là Thọ. Cảnh đă là vô lượng biên,
thường trụ bất diệt, Trí cũng như thế.
Hộp to th́ nắp cũng to. Nói “ngă trí lực như thị,
cửu tu nghiệp sở đắc, huệ quang chiếu
vô lượng, thọ mạng vô số kiếp” (trí lực
ta như thế, nghiệp tu lâu bèn đắc, huệ quang
chiếu vô lượng, thọ mạng vô số kiếp)
chính là thọ lượng của cái mạng Báo Thân Trí Huệ.
Do vậy, đức Phật có thọ mạng lâu xa như
thế đó.
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.
Thuật thánh nữ nhân hạnh (tường
thuật nhân hạnh của thánh nữ)
Phần này gồm
hai phần:
- Trần thuật, khi mẹ
c̣n sống, thánh nữ đă khuyên mẹ sanh chánh kiến.
- Trần thuật sau khi mẹ
chết, bèn nhớ mẹ, mong biết chỗ mẹ sẽ
sanh về.
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.1.
Thuật sanh tiền khuyến mẫu chánh kiến (trần thuật,
khi mẹ c̣n sống, thánh nữ đă khuyên mẹ sanh chánh
kiến)
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.1.1.
Thánh nữ phước hậu (thánh nữ phước
sâu dày)
(Kinh) Tượng Pháp chi trung, hữu nhất
Bà-la-môn nữ, túc phước thâm hậu, chúng sở khâm
kính, hành, trụ, tọa, ngọa, chư thiên vệ hộ.
(經)像法之中‧有一婆羅門女‧宿福深厚‧眾所欽敬。行住坐臥‧諸天衛護。
(Kinh: Trong đời Tượng Pháp,
có một cô gái thuộc giai cấp Bà-la-môn, phước
xưa sâu dày, được mọi người khâm phục,
cung kính, đi, đứng, ngồi, nằm, chư thiên bảo
vệ).
Chỉ rơ sau khi đức Phật nhập
diệt, vào đời Tượng Pháp kiên cố. Tượng
(像) tức là có h́nh dạng
hơi giống. Hàn Tử nói: “Tượng (象, voi) là một loài thú lớn
ở phương Nam, Trung Quốc chẳng biết, chỉ
thấy h́nh vẽ rồi viết về nó. V́ thế,
mượn nghĩa này nhằm giải thích ư nghĩa
tương tự”. Đừng hiểu Tượng
[trong Tượng Pháp] phải viết là Tượng (像), [nếu hiểu
như vậy] th́ sai mất rồi! Nhưng do thói quen
lưu truyền đă lâu, khó thể sửa đổi, [cho
nên vẫn viết Tượng Pháp là “像法”].
Chữ Bà-la-môn (Brahman) được Phổ Môn Sớ dịch là Tịnh
Hạnh. Chủng tộc này có từ thời kiếp sơ,
tự hưởng thanh nhàn trong núi non, đồng vắng,
nên mọi người gọi họ là Tịnh Hạnh. Trong
tiếng Phạn, nữ được gọi là Na, ở đây
dịch là Nữ, tức là cô gái chưa kết hôn. Câu này nhằm
nêu ra chủng loại, câu kế tiếp tán thán đức
hạnh. “Túc phước thâm hậu” nói rơ cái nhân thù thắng
trong quá khứ. Đại Luận nói: “Quả báo là phước.
Nói đại lược th́ có ba loại: Một
là bố thí phước, tương phản cái tâm keo kiệt.
Hai là tŕ giới phước, tương phản với ác
nghiệp. Ba là tu Định phước, tương phản
với sân loạn trong Dục Giới”. Vị thánh
nữ này trong đời quá khứ đă tu ba phước
sâu dầy, khiến cho thân thích, họ hàng, người nhà,
làng nước đều khâm phục, cung kính. Kinh Pháp Hoa
nói: “Đoan
chánh hữu tướng chi nữ, túc thực đức bổn,
chúng nhân ái kính” (Người nữ có tướng
đoan chánh, đời trước đă gieo cội đức,
được mọi người kính yêu) chính là nói về
ư này. Há chỉ là được mọi người khâm phục,
cung kính? Phàm là trong bốn oai nghi, hết thảy chư
thiên, thần, quỷ, không ai chẳng vây quanh bảo vệ,
ủng hộ! Bởi lẽ phước lấy Bi và Kính làm
khởi nguồn. Bi là thương xót những kẻ gian
nan, cay đắng trong đường khổ, mong cứu
giúp họ thoát ĺa. Kính là biết Phật pháp khó thể gặp
gỡ, lắng ḷng tin tưởng, ngưỡng mộ rộng
lớn. Do vậy, tuy là thiếu nữ, đă trọn đủ
nguyện tâm của bậc Đại Sĩ, cho nên cảm
chư thiên bảo vệ, ủng hộ!
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.1.2.
Tà mẫu tội trọng (mẹ tà kiến,
tội nặng)
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.1.2.1.
Thánh nữ phương tiện khuyến mẫu (thánh nữ dùng
phương tiện khuyên mẹ)
(Kinh) Kỳ mẫu tín tà, thường
khinh Tam Bảo. Thị thời thánh nữ, quảng thiết
phương tiện, khuyến dụ kỳ mẫu, linh
sanh chánh kiến.
(經)其母信邪‧常輕三寶。是時聖女‧廣設方便‧勸誘其母‧令生正見。
(Kinh: Mẹ cô ta tin theo tà thuyết,
thường khinh Tam Bảo. Khi ấy, thánh nữ rộng
lập phương tiện để khuyên nhủ mẹ,
khiến bà sanh chánh kiến).
Tín là sự chân thật nơi tâm. Ngũ Thường,
Bách Hạnh, hễ tin th́ sẽ thật sự có lư ấy.
Chẳng tin bèn quên bẵng! Bà ta đă tin tà, chánh tín đă mất.
“Tà” (邪) là tà kiến, tâm rong ruổi
vượt ra ngoài lư. Bên trong đă chấp vào tà kiến,
cho nên [thể hiện ra] ngoài là khinh miệt
Tam Bảo, trở thành Nhất Xiển Đề (Icchantika),
tạo tội Ngũ Vô Gián. Thuần Đà (Cunda Kammāraputra) hỏi Phật:
“Nhất Xiển Để có nghĩa là như thế nào?”
Đức Phật dạy: “Nhược hữu tứ chúng, phát thô ác ngôn, phỉ
báng chánh pháp, ngôn vô Phật pháp chúng, bất tín nhân quả, bất
tín nghiệp báo, bất thân thiện hữu, bất tùy
chư Phật giáo giới, danh Nhất Xiển Đề” (Nếu có tứ chúng
thốt lời thô ác, phỉ báng chánh pháp, bảo là không có
những người tin theo Phật pháp, chẳng tin nhân quả,
chẳng tin nghiệp báo, chẳng thân cận bạn lành, chẳng
tuân theo lời răn dạy của chư Phật, th́ gọi
là Nhất Xiển Đề). Bởi lẽ, Nhất Xiển
(Icchan) là Tín, Đề (Tika) là “chẳng trọn đủ”.
Ḷng tin đă không trọn đủ th́ gọi là Nhất Xiển
Đề. Chẳng có ḷng tin, tự nhiên sẽ thường
khinh rẻ Tam Bảo, tội nghiệp sâu dầy. Thánh nữ
biết mẹ tà hạnh, ắt ch́m đắm trong biển
khổ. Do vậy, thiết tha kề cận, ân cần sáng tối,
rộng nói pháp khéo léo, khuyến hóa, dẫn dụ, ắt
khiến cho mẹ thường giữ được chánh
kiến, tin tưởng, tôn trọng Tam Bảo để
tránh khỏi nỗi khổ về sau. Ấy là v́ Chánh Kiến
đứng đầu Bát Chánh Đạo.
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.1.2.2.
Tà mẫu tội trọng đọa khổ (bà mẹ tà kiến
do tội nặng, đọa trong đường khổ)
(Kinh) Nhi thử nữ mẫu,
vị toàn sanh tín, bất cửu mạng chung, hồn thần
đọa tại Vô Gián địa ngục.
(經)而此女母‧未全生信。不久命終‧魂神墮在無間地獄。
(Kinh: Nhưng mẹ của
cô gái ấy chưa hoàn toàn sanh ḷng tin tưởng, chẳng
lâu sau, mạng chung, hồn thần đọa trong địa
ngục Vô Gián).
Chữ A Ma trong tiếng Phạn,
cơi này dịch là “nữ mẫu” (mẹ của cô gái).
[Bà mẹ] do tạm thời được khuyên dụ mà
tin đôi chút, nhưng vẫn theo thói cũ mà c̣n mang tâm tà kiến.
Ác nghiệp đă sâu, tín tâm tự khuyết. Chẳng bao lâu
sau, thọ mạng chấm dứt. Làm lành th́ sanh lên trời,
tạo ác ắt sa xuống vực. Do ác nghiệp đă chín
muồi, hồn thần tám thức theo nghiệp đọa
vào Vô Gián. Phật Thuyết Ha Điêu A Na Hàm Kinh có
nói: “Bạch y bất tín Phật ngữ giả, tiện
đương đọa Nê Lê trung” (Kẻ bạch y
(người tại gia) chẳng tin lời Phật, sẽ
đọa trong địa ngục). Ngục Nê Lê trọn chẳng
gọi người, người theo nghiệp mà tự hiện
thân trong đó!
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.
Thuật tử hậu ức mẫu sanh giới (trần thuật
sau khi mẹ chết, con nhớ mẹ, chẳng biết mẹ
sanh trong cơi nào)
Phần này gồm
hai đoạn:
- Bán nhà để cúng dường,
cảm trên không có tiếng an ủi, khuyên bảo.
- Vâng lời dạy niệm Phật,
mộng thấy Quỷ Vương chỉ dạy.
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.1.
Mại trạch hưng cúng (bán nhà để
cúng dường)
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.1.1.
Vị mẫu mại trạch hưng cúng (v́ mẹ bèn bán
nhà để cúng dường)
(Kinh) Thời Bà-la-môn nữ, tri mẫu tại
thế, bất tín nhân quả, kế đương tùy nghiệp,
tất sanh ác thú, toại mại gia trạch, quảng cầu
hương hoa, cập chư cúng cụ, ư tiên Phật
tháp tự, đại hưng cúng dường.
(經)時婆羅門女‧知母在世‧不信因果‧計當隨業‧必生惡趣。遂賣家宅‧廣求香華‧及諸供具。於先佛塔寺‧大興供養。
(Kinh: Khi ấy, cô Bà-la-môn biết mẹ
lúc c̣n sống, chẳng tin nhân quả, xét theo nghiệp, ắt
phải sanh trong đường ác, liền bán nhà cửa
để mua sắm nhiều thứ hương, hoa, và các
vật cúng, đối trước chùa, tháp thờ đức
Phật trên đây mà cúng dường trọng thể).
Chữ Tri (知, biết) chính là cội
nguồn để cứu mẹ. Thiện ác đắp
đổi, tội phước đối địch nhau!
Ác th́ gục xuống, đọa lạc, thiện th́
thăng lên thơ thới. Do vậy, các pháp tội ác chớ
nên chẳng trừ khử; công phước thiện há chẳng
nên tạo? Hoằng dương điều thiện, nêu rơ
sự vui sướng chốn thiên đường. Trừng
phạt sự sai trái, tỏ rơ sự chua xót, đắng
cay nơi địa ngục! Hiềm rằng kẻ tà kiến
dấy lên kiến chấp đoạn diệt, thốt lời
bài bác nhân quả; cội nguồn do căn bệnh mê si. Bởi
lẽ, kẻ ngu si chẳng biết nhân quả, lầm lạc
dấy lên tà kiến, phá pháp thiện, ác, gọi là “đoạn
thiện căn”, chắc chắn đọa vào địa
ngục A Tỳ. Nay thánh nữ biết mẹ lúc c̣n sống,
bệnh mê si đă nặng, thường khinh miệt Tam Bảo,
suy ra chết đi, ắt sẽ theo nghiệp, sanh trong đường ác.
Từ ngữ A Ba Na Già Đê (Aparagati) trong tiếng Phạn,
cơi này dịch là “ác thú” (惡趣, đường ác).
Đoạn này nói rơ bà mẹ mang tội, nghiệp chướng
nặng nề; sau đó, nói ra phương pháp cứu mẹ.
Người ta có nhà cửa là để an thân, nay v́ cứu
mẹ, rảnh đâu mà tiếc thân, cho nên bán sạch của cải để lấy tiền
lo liệu ḥng mua sắm rộng răi các món vật cúng.
Hương, hoa là những thứ đứng đầu
để dâng cúng, là bước đầu để biểu
lộ ḷng thành. Hương có thể khử ô uế, hoa trọn
đủ cái nhân viên măn. Thiên tử Phí Thị[28] đă nói: “Hơi
thối trong loài người đă xông lên tận hư
không, chư thiên thanh tịnh không ai chẳng chán ghét, nhưng
do vâng nhận lời đức Phật dặn ḍ, giao phó,
chư thiên chẳng dám không đến”. V́ thế, trong
Phật pháp, hương là sứ giả của Phật.
Hương, hoa đă đầy đủ, bèn soạn bày
các món ăn ngon. Treo phan, lọng phất phơ, giăng chuỗi
ngọc lóng lánh trước tháp thờ đức Phật
đă nhập diệt là Giác Hoa Định Tự Tại
Vương, khởi lên sự cúng dường rộng lớn
trong pháp giới.
Tháp Bà (Stūpa)
là danh xưng trong tiếng Phạn,
chính là nơi chôn giấu xương Phật. “Tự”
(寺) là Tự (嗣, nối tiếp), [ư nói]
là chỗ những người lo liệu công việc sẽ
tiếp nối nhau trong ấy[29], mà cũng
là từ ngữ chỉ chung cảnh giới để hết
thảy chúng tăng tu đạo trong mười
phương.
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.1.2.
Kiến tượng, mặc niệm, không thị (thấy tượng,
thầm niệm, trên không có tiếng chỉ dạy)
Phần này chia
thành hai đoạn:
-
Thấy Phật nổi ḷng nghi.
- Trên hư không có tiếng chỉ dạy nơi
chốn.
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.1.2.1.
Kiến Phật hưng nghi (thấy Phật
nổi ḷng nghi)
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.1.2.1.1.
Kiến Phật lễ kính (thấy Phật
bèn lễ kính)
(Kinh) Kiến Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Như Lai, kỳ h́nh tượng tại nhất
tự trung, tố họa oai dung, đoan nghiêm tất bị.
Thời Bà-la-môn nữ, chiêm lễ tôn dung, bội sanh kính
ngưỡng.
(經)見覺華定自在王如來‧其形像在一寺中‧塑畫威容‧端嚴畢備。時婆羅門女‧瞻禮尊容‧倍生敬仰。
(Kinh: Thấy h́nh tượng của
Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai trong
một ngôi chùa, dung nhan oai thần được đắp
vẽ trọn đủ đoan nghiêm. Khi ấy, cô gái Bà-la-môn chiêm ngưỡng, lễ
bái tôn dung, sanh ḷng kính ngưỡng bội phần).
Đoạn này nói [cô gái Bà-la-môn] đến
chùa cúng dường, ngẩng đầu nh́n tượng Phật:
Kim dung chói ngời, trang nghiêm hiển lộ đẹp
đẽ. Trong lúc chiêm ngưỡng, lễ bái, kính ngưỡng
bội phần. Cần phải biết: Chiêm ngưỡng,
lễ bái tượng Phật, công đức khó nghĩ
tưởng! Như kinh
Quán Phật
Tam Muội nói: “Quá khứ hữu Phật, hiệu Bảo
Oai Đức Thượng Vương Như Lai. Thời hữu
tỳ-kheo, dữ cửu đệ tử văng nghệ Phật
tháp, kiến nhất bảo tượng, lễ dĩ tán
thán. Hậu thời mạng chung, tất sanh Đông
phương Bảo Oai Đức Thượng Vương
Phật quốc, đại liên hoa trung, hốt nhiên hóa sanh,
tịnh tu phạm hạnh, đắc Niệm Phật
tam-muội hải. Phật vị thọ kư, các đắc
thành Phật. Kim Đông phương Thiện Đức Phật
thị kỳ sư. Cửu phương Vô Ưu Đức
Phật đẳng thị cửu đệ tử. Hựu
Không Vương Như Lai Niết Bàn hậu, hữu tứ
tỳ-kheo, đồng học Phật pháp, phiền năo phú
tâm, bất năng kiên tŕ, đa bất thiện nghiệp,
đương đọa ác đạo. Không trung hữu
thanh, ngữ tỳ-kheo ngôn: ‘Nhữ đẳng kim khả
nhập tháp quán tượng, dữ Phật tại thế
đẳng vô hữu dị’. Văn không thanh dĩ, nhập
tháp quán tượng mi gian hào tướng, tức tác niệm
ngôn: ‘Như Lai tại thế, quang minh, sắc thân, dữ
thử hà dị? Phật đại nhân tướng, nguyện
trừ ngă tội’. Do nhập tháp quán tượng hào tướng,
sám hối nhân duyên, hậu bát thập ức A-tăng-kỳ
kiếp, bất đọa ác đạo, thường kiến
chư Phật, thọ kư thành Phật. Kim Đông
phương A Súc, Nam phương Bảo Sanh, Tây
phương Vô Lượng Thọ, Bắc phương Vi
Diệu Thanh, tức tứ tỳ-kheo thị” (Trong quá khứ
có Phật, hiệu là Bảo Oai Đức Thượng
Vương Như Lai. Khi ấy có vị tỳ-kheo và chín
đệ tử đi đến tháp thờ Phật, thấy
một tượng báu, lễ xong bèn tán thán. Về sau, mạng
chung, đều sanh vào cơi của Bảo Oai Đức
Thượng Vương Phật tại phương
Đông, ở trong hoa sen lớn, bỗng dưng hóa sanh, tịnh
tu phạm hạnh, đạt được biển Niệm
Phật tam-muội. Đức Phật thọ kư cho các vị
ấy đều được thành Phật. Nay Thiện
Đức Phật ở phương Đông là vị thầy
ấy, các vị như Vô Ưu Đức Phật v.v… ở
chín phương là chín vị đệ tử. Lại nữa,
sau khi Không Vương Như Lai nhập Niết Bàn, có bốn
tỳ-kheo cùng học Phật pháp, do phiền năo che lấp
tâm, chẳng thể kiên tŕ, tạo nhiều nghiệp bất
thiện, sắp đọa ác đạo. Trong hư không có
tiếng bảo các vị tỳ-kheo: “Nay các ông có thể vào
tháp quán tượng, sẽ chẳng khác ǵ Phật c̣n tại
thế”. Nghe tiếng nói trên hư không xong, họ bèn vào
tháp, quán hào tướng giữa hai mày của tượng
Phật, bèn suy nghĩ rằng: “Đức Như Lai tại
thế th́ quang minh và sắc thân khác với tượng này
như thế nào? Phật là đấng có tướng
đại nhân, nguyện trừ tội cho con”. Do nhân duyên
vào tháp quán tướng bạch hào của Phật và sám hối,
tám mươi ức A-tăng-kỳ kiếp sau, chẳng
đọa ác đạo, thường thấy chư Phật,
được thọ kư thành Phật. Nay Phật A Súc ở
phương Đông, Phật Bảo Sanh ở phương
Nam, Phật Vô Lượng Thọ ở phương Tây, Phật
Vi Diệu Thanh ở phương Bắc chính là bốn vị
tỳ-kheo). Do nhân duyên này, hành giả phải nên nhiều
lượt quán Phật. V́ thế biết: Cúng dường,
quán tượng, bà mẹ có tội được sanh lên trời
chẳng nghi!
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.1.2.1.2.
Tư niệm nghi t́nh (tự suy nghĩ, dấy
ḷng nghi)
(Kinh) Tư tự niệm ngôn: “Phật
danh đại giác, cụ Nhất Thiết Trí. Nhược
tại thế thời, ngă mẫu tử hậu, thảng
lai vấn Phật, tất tri xứ sở”.
(經)私自念言‧佛名大覺‧具一切智。若在世時‧我母死後‧儻來問佛‧必知處所。
(Kinh: Riêng tự nghĩ rằng: “Đức
Phật là đấng Đại Giác, trọn đủ Nhất
Thiết Trí. Nếu Ngài c̣n trên đời, sau khi mẹ tôi mất,
nếu như tôi đến hỏi Phật, ắt sẽ
biết nơi chốn”).
“Tư” (私) là trong tâm tự hoài niệm,
người khác chẳng biết. Tâm niệm Phật
như tỉnh giấc mộng lớn, đối với hết
thảy các pháp, thấy biết vô ngại. Cao tột bậc
nhất, gọi là Nhất Thiết Trí. Nếu như đức Phật c̣n trụ
thế, mẹ ta đă khuất, nếu ta đến hỏi
Ngài chỗ mẹ sanh về, thăng, trầm, cao, thấp, nam, nữ,
sang, hèn, ắt Ngài sẽ rủ ḷng Từ chỉ dạy,
an ủi ta.
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.1.2.2.
Không thanh thị xứ (tiếng nói trên
hư không dạy nơi chốn)
Phần này chia
làm hai:
- Khóc lóc, luyến mộ, nghe
tiếng nói.
- Nghe tiếng nói, tự gieo
ḿnh xuống đất.
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.1.2.2.1. Khấp luyến văn thanh (khóc lóc, luyến
mộ, nghe tiếng nói)
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.1.2.2.1.1.
Không thanh an ủy dụ (tiếng nói trên
hư không an ủi, phủ dụ)
(Kinh) Thời Bà-la-môn nữ, thùy khấp
lương cửu, chiêm luyến Như Lai.
(經)時婆羅門女‧垂泣良久‧瞻戀如來。
(Kinh: Khi ấy, cô Bà-la-môn lệ đẫm
một lúc lâu, chiêm ngưỡng, luyến mộ Như Lai).
Trước hết, trần thuật nỗi
khổ tâm của thánh nữ. Không phát ra tiếng mà chảy
nước mắt là Khấp (泣), tức là khóc thầm.
“Chiêm” (瞻) là ngẩng lên nh́n, “luyến”
(戀) là quyến luyến, hâm mộ.
Lệ đẫm hồi lâu, chiêm ngưỡng, quyến luyến,
chẳng rời đi, “mong Phật ắt dạy
cho con biết mẹ đă sanh về đâu để độ
thoát”. Kinh Quyết Định
Tỳ Ni nói: “Phật cáo Xá Lợi Phất: - Nhược
trừ Như Lai trí huệ, cánh vô dư thừa nhi đắc
độ thoát, đáo ư Niết Bàn, năng thị chúng
sanh giải thoát chi đạo, năng linh chúng sanh viễn
ly tà đạo, thị hiện thánh đạo. Dĩ thị
nghĩa cố, cố danh Như Lai” (Đức Phật
bảo Xá Lợi Phất: “Chỉ trừ trí huệ của
Như Lai, trọn chẳng do thừa nào khác mà được
độ thoát, đạt đến Niết Bàn, có thể
dạy cho chúng sanh đạo giải thoát, có thể khiến
cho họ xa ĺa tà đạo, thị hiện thánh đạo.
Do v́ nghĩa này mà gọi là Như Lai”). V́ thế, chiêm
ngưỡng, luyến mộ, mong sẽ ứng hiện cho
con.
(Kinh) Hốt văn không trung thanh viết:
“Khấp giả thánh nữ,
vật chí bi ai, ngă kim thị nhữ mẫu chi khứ xứ”.
(經)忽聞空中聲曰‧泣者聖女‧勿至悲哀。我今示汝母之去處。
(Kinh: Bỗng nghe không trung có tiếng
nói: “Này thánh nữ đang
khóc lóc, đừng đau buồn quá mức! Ta nay sẽ dạy
cho ngươi biết chỗ mẹ sanh về”).
Kế đó, trần thuật
chuyện tiếng nói trên không trung an ủi, phủ dụ.
Đang ngay trong lúc [thánh nữ] sướt mướt, chiêm
ngưỡng, luyến mộ, bỗng dưng trong hư
không có tiếng an ủi rằng: “Thánh nữ! Đừng
buồn khóc, bi ai, quyến luyến quá mức! Ngươi
đă hành đại hiếu, dốc sạch của cải
trong nhà để cúng dường, khóc lóc, luyến mộ, chiêm
ngưỡng, nương cậy, ngấm ngầm mong
được cảm thông chỉ dạy chỗ mẹ
đă sanh về. Ta là bậc Đại Giác, trọn đủ
Nhất Thiết Trí, sẽ dạy ngươi chỗ mẹ
đă sanh về, cần ǵ phải bi ai không ngơi vậy?”
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.1.2.2.1.2.
Vấn không hà thần (hỏi trên không trung
là vị thần nào)
(Kinh) Bà-la-môn nữ hiệp chưởng
hướng không, nhi bạch không viết: “Thị hà thần
đức, khoan ngă ưu lự? Ngă tự thất mẫu
dĩ lai, trú dạ ức luyến, vô xứ khả vấn,
tri mẫu sanh giới”.
(經)婆羅門女合掌向空‧而白空曰‧是何神德‧寬我憂慮。我自失母已來‧晝夜憶戀‧無處可問‧知母生界。
(Kinh: Cô gái Bà-la-môn chắp tay, hướng
lên không trung bạch rằng: “Là vị thần đức
nào vơi bớt nỗi lo nghĩ cho con? Kể từ khi
con mất mẹ đến nay, ngày đêm nghĩ nhớ,
không nơi nào để hỏi ḥng biết chỗ mẹ
sanh về”).
“Chắp tay hướng lên không trung”: Cảm
kích tột bậc, vui mừng cùng cực. Như người
đánh mất đồ vật, được chỉ dẫn
bèn kiếm lại
được; như người lạc đường
được dẫn dắt quay về. Ư nghĩa của
chữ Thần (神) như đă giải
thích trong phần tựa đề kinh. Đức (德) là điều thiện
vốn sẵn có, trực tâm là đức, là sự chánh trực
vốn sẵn có trong tánh mạng. V́ thế, thuận theo lẽ
trời là Thần, đều là bậc thông minh, chánh trực.
“Khoan” (寬) là rộng, là thư thả.
Trước kia, do nghĩ ngợi chốn mẹ sanh về,
lo âu như bị vướng mắc vật
ǵ; nay nghe tiếng nói trên hư không dạy bảo chỗ ấy,
như vật thoát khỏi ngực, nhẹ nhàng, thơ thới
vậy!
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.1.2.2.1.3.
Không thanh cáo thị (tiếng nói trên không
trung dạy bảo)
(Kinh) Thời không trung hữu thanh, tái
báo nữ viết: “Ngă thị nhữ sở chiêm
lễ giả, quá khứ Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Như Lai, kiến nhữ ức mẫu, bội
ư thường t́nh chúng sanh chi phần, cố lai cáo thị”.
(經)時空中有聲‧再報女曰‧我是汝所瞻禮者‧過去覺華定自在王如來。見汝憶母‧倍於常情眾生之分‧故來告示。
(Kinh: Lúc bấy giờ, trên hư không
có tiếng nói, lại bảo thánh nữ rằng: “Ta là
người mà ngươi đang chiêm ngưỡng, lễ
bái, tức quá khứ Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Như Lai, do thấy ngươi nhớ mẹ
gấp bội các chúng sanh thường t́nh, nên đến dạy
bảo”).
Có âm thanh mà không hiện tướng, hiển
thị “sanh mà vô sanh”. Không có tướng mà có âm thanh,
thị hiện “diệt mà bất diệt”. Nhớ mẹ
gấp mấy lần thường t́nh, khen nàng chí hiếu,
cho nên cảm Phật đến dạy bảo. Nhưng mẹ
chết mà con tưởng nhớ th́ cũng là chuyện
đương nhiên. Ngay khi con c̣n ở trong thai, mẹ
đă chịu nỗi khổ mười tháng thai nghén. Tới
khi con sanh ra, mẹ nhọc nhằn bú mớm suốt ba
năm. Mao Thi[30] có viết:
“Ai ai phụ mẫu, sanh ngă cù lao, vô phụ hà hỗ, vô mẫu
hà thị, xuất tắc hàm tuất, nhập tắc mị
chí. Phụ hề sanh ngă, mẫu hề cúc ngă, phủ ngă,
súc ngă, trưởng ngă, dục ngă, cố ngă, phúc ngă, xuất
nhập phúc ngă. Dục báo chi đức, hạo thiên vơng cực”
(Xót thay cha mẹ, sanh ta nhọc nhằn. Không cha cậy ai?
Không mẹ nhờ ai? Ta ra khỏi cửa, cha mẹ âu lo.
Con về, yên dạ. Cha sanh ra ta, mẹ vỗ về ta, ẵm
bồng, bú mớm, nuôi lớn thân ta, chăm sóc cho ta, ra vào
bồng bế. Muốn báo ân đức, trời cao khôn thấu).
V́ thế, Tăng Tử nói: “Thân dă giả, phụ mẫu
chi di thể dă” (Thân ta là h́nh hài do cha mẹ để lại).
Đă cùng là một Thể với cha mẹ, mẹ đă chết,
chẳng trở lại nữa, há con chẳng tưởng
nhớ mẹ luôn nghĩ đến con ư? Nhưng thánh nữ
đă bán nhà để cúng dường, lễ Phật cầu
biết [chỗ mẹ sanh về], nhờ phước bố
thí để hồi hướng cho mẹ, cậy vào ḷng Từ của Phật chỉ dạy
nơi chốn. Cố nhiên là hạng thường t́nh chẳng
thể mong sánh bằng, cho nên Phật thị hiện âm
thanh trên không trung để bảo chỗ mẹ sanh về.
Than ôi! Ḷng thuần hiếu động trời, ḷng chí thành
cảm Phật. Xem ra, vị thánh nữ này hiển nhiên là
như thế đấy!
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.1.2.2.2.
Văn thanh tự phác (nghe tiếng bèn gieo ḿnh
xuống đất)
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.1.2.2.2.1.
Cầu thuyết mẫu sanh giới (xin nói chỗ
mẹ sanh về)
(Kinh) Bà-la-môn nữ văn kỳ thanh
dĩ, cử thân tự phác, chi tiết giai tổn, tả hữu
phù thị, lương cửu phương tô, nhi bạch
không viết: “Nguyện Phật từ mẫn, tốc thuyết
ngă mẫu sanh giới. Ngă kim thân tâm tương tử bất
cửu”.
(經)婆羅門女聞此聲已‧舉身自撲‧支節皆損。左右扶侍‧良久方蘇。而白空曰‧願佛慈愍‧速說我母生界。我今身心‧將死不久。
(Kinh: Cô gái Bà-la-môn nghe tiếng ấy
xong, toàn thân tự gieo xuống đất, chân tay đều
bị tổn thương, người chung quanh nâng đỡ,
hồi lâu mới tỉnh, bèn hướng lên không trung, bạch
rằng: “Nguyện Phật từ bi xót thương, mau nói
chỗ mẹ con sanh về. Nay con thân tâm không lâu sau sẽ
chết”).
T́nh dấy lên bên trong, tiếng cảm bên
ngoài, toàn thân gieo sụp xuống lễ bái như Thái Sơn
sụp lở! Nôn nóng muốn biết chỗ mẹ sanh về,
đâu rảnh để tiếc nuối h́nh hài, đến
nỗi các đốt xương nơi chân tay đều bị
tổn hoại mà ngất lịm đi. “Tả hữu
phù thị”: “Tả” (bên trái) là chỗ thiên đạo
dấy lên, là nơi địa đạo ngưng nghỉ.
[Chữ Tả (左) và chữ Hữu (右)] đều thể hiện
ư nghĩa “gần với thân thể” giống như h́nh thế
đưa tay nâng đỡ. Tay trái không thuận tiện,
cho nên mang ư nghĩa xa thân [hơn tay phải]. Tay phải thuận
thế, dùng sức nhiều hơn. [Trong chữ Hữu] lại
thêm chữ Khẩu (口), [nhằm thể hiện
ư nghĩa] giúp đỡ lẫn nhau. Do các thị tỳ (những
người hầu gái, đầy tớ gái) vốn quanh quẩn
bên chủ nhân, nên họ liền nâng [cô chủ] dậy,
chăm sóc. Tô (蘇) là chết rồi sống
lại. Kinh Hoàng Đ́nh nói: “Lâm tuyệt hô chi diệc phục
tô” (Đă chết ngất rồi,
kêu gọi bèn tỉnh lại). Theo thói quen thường viết
Tô thành “甦” là sai. Đoạn này là vị
trùng tuyên kinh thuật chuyện, kế đó là [thánh nữ]
xin [đức Phật hăy] nói chỗ mẹ sanh về,
nhưng cô ta nóng ruột, xin hăy mau nói, v́ tự biết thân
tàn, tâm khổ, không lâu sau sẽ chết.
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.1.2.2.2.2.
Thị phản xá niệm Phật (dạy hăy trở
về nhà niệm Phật)
(Kinh) Thời Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Như Lai cáo thánh nữ viết: “Nhữ cúng
dường tất, đản tảo phản xá, đoan tọa
tư duy ngô chi danh hiệu, tức đương tri mẫu
sở sanh khứ xứ”.
(經)時覺華定自在王如來‧告聖女曰‧汝供養畢‧但早返舍。端坐思惟吾之名號‧即當知母所生去處。
(Kinh: Khi ấy, Giác Hoa Định Tự
Tại Vương Như Lai bảo thánh nữ rằng:
“Ngươi cúng dường xong, hăy mau trở về nhà, ngồi
ngay ngắn, tư duy danh hiệu của ta, sẽ liền biết
chốn mẹ sanh về”).
“Tảo phản xá” (Sớm quay về nhà), “phản”
(返) là trở lại. Xét theo Sự,
đức Phật bảo cô hăy nhanh chóng quay về nhà. Xét
theo pháp, Xá biểu thị Ngũ Ấm, [tức là] dạy
cô ta hăy trở lại quán Ngũ Ấm, th́ Tâm Vương Trí
Độ Mẫu sẽ ngay lập tức tự hiện,
cho nên bảo hăy “đoan tọa tư duy”. “Đoan tọa”
(端坐) tức là ngồi theo thế
Kim Cang Chánh Tọa (Vajrāsana), c̣n gọi là Toàn Già (Padmāsana, ngồi theo tư thế
hoa sen, ngồi kiết già), hoặc Bán Già. Thiền Na (Dhyāna) được gọi
là Tư Duy Tu, dụng ư dạy cô ta hăy tu Niệm Phật
tam-muội. V́ thế, “ngồi suy nghĩ danh
hiệu của ta, sẽ biết ngay chỗ mẹ đă
sanh về!”
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.
Thọ giáo niệm Phật, mộng Quỷ Vương chỉ
thị (vâng lời dạy niệm Phật,
mộng thấy Quỷ Vương chỉ dạy)
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.1.
Quy xá ức mẫu niệm Phật (về nhà, nhớ mẹ niệm Phật)
(Kinh) Thời Bà-la-môn nữ tầm lễ
Phật dĩ, tức quy kỳ xá. Dĩ ức mẫu cố,
đoan tọa niệm Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Như Lai, kinh nhất nhật, nhất dạ.
(經)時婆羅門女尋禮佛已‧即歸其舍。以憶母故‧端坐念覺華定自在王如來‧經一日一夜。
(Kinh: Khi ấy, cô Bà-la-môn vừa lễ
Phật xong, liền trở về nhà ḿnh. Do v́ nhớ mẹ,
ngồi ngay ngắn niệm Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Như Lai qua một ngày một đêm).
Vừa lễ xong bèn trở về, biểu
thị chuyển mê thành ngộ nhanh chóng. “Niệm” là
Quán Huệ. Giác Hoa là tâm Phật (vị Phật ở trong
tâm). Do vậy, quán điều này, “mẫu” chính là tâm mẫu,
Phật tức tâm Phật. Tâm là mẹ, là Phật, tuy một
mà ba, tuy ba mà một. Ǵ là tâm ta, ǵ là Phật, hay mẹ vậy thay? Kinh Phổ Hiền Quán dạy:
“Nhược dục sám hối giả, đoan tọa niệm
Thật Tướng, chúng tội như sương lộ,
huệ nhật năng tiêu trừ” (Nếu muốn sám hối, hăy
ngồi ngay ngắn, nghĩ tới Thật Tướng,
các tội như sương, móc, mặt trời trí huệ
có thể tiêu trừ). V́ thế, mặt trời biểu thị
sự giác ngộ của thánh nữ chiếu rạng ngời
như ban ngày. Đêm biểu thị sự mê muội của
người mẹ đang mắc tội, tối tăm
như đêm thâu. “Nhất” nói chung là biểu thị
cái tâm, là cội gốc của mê và ngộ. Bà mẹ có tội
tin theo tà kiến, bị vô minh che lấp cái tâm, xuôi theo trần
lao, trái nghịch giác. Thánh nữ cúng dường, chánh trí nhập
tâm, hợp cùng giác, trái nghịch trần lao. Tâm vốn là một,
do mê hay ngộ mà sai khác!
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.
Đáo ngục tri mẫu sanh xứ (đến địa
ngục biết chỗ mẹ sanh về)
Hỏi: Đức Phật chẳng dạy
ngay chỗ sanh về, cứ buộc thánh nữ đích thân
đến địa ngục là v́ lẽ nào?
Đáp: Ấy là do người đời bị
vô minh che lấp, chẳng biết thiện ác nhân quả.
Cho nên cậy thánh nữ chính mắt trông thấy chuyện
khổ, ḥng cảnh tỉnh kẻ ngu độn,
ương bướng trong cơi đời. Như trong kinh
Chánh Hạnh của bộ A Hàm [có nói] đức Phật
tĩnh tọa, nghĩ đến con người do si, cho
nên có sanh tử. Sao gọi là Si? Vốn từ si sanh đến,
đời này làm người vẫn si! Tâm chẳng giải
ngộ, chẳng mở mang, chẳng biết chết rồi
sẽ hướng về đâu! Gặp Phật chẳng hỏi,
thấy kinh chẳng đọc, thấy sa-môn chẳng thừa
sự, thấy cha mẹ chẳng kính, chẳng nghĩ thế
gian khổ, chẳng biết trong Nê Lê tra khảo, trừng
trị dữ dội, nên gọi là Si. V́ thế, có sanh tử
chẳng ngơi! Do vậy, thánh nữ đích thân vào địa
ngục, mới biết “ác chớ nên làm, thiện phải
nên làm!” Kinh văn được chia thành ba phần:
- Đích thân đến cái biển có địa
ngục.
- Quỷ Vương đón chào, tán thán.
- Hỏi đáp về chuyện trong ngục.
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.1.
Thân đáo ngục hải (đích thân đến
chỗ cái biển có địa ngục)
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.1.1.
Kiến ngục hải ác tướng (thấy tướng
ác trong biển địa ngục)
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.1.1.1.
Ác thú phi tŕ thực đạm (ác thú bay đuổi,
ăn nuốt)
(Kinh) Hốt kiến tự thân, đáo
nhất hải biên. Kỳ thủy dũng phí, đa chư
ác thú, tận phục thiết thân, phi tẩu hải thượng,
đông tây tŕ trục. Kiến chư nam tử, nữ nhân,
bách thiên vạn số, xuất một hải trung, bị
chư ác thú, tranh thủ thực đạm.
(經)忽見自身‧到一海邊。其水涌沸‧多諸惡獸‧盡復鐵身‧飛走海上‧東西馳逐。見諸男子女人‧百千萬數‧出沒海中。被諸惡獸‧爭取食噉。
(Kinh: Bỗng thấy thân ḿnh đến
một bờ biển. Nước biển sôi trào, có nhiều
ác thú, toàn thân bằng sắt, bay, chạy trên mặt biển,
đuổi bắt đông, tây. Thấy các người nam,
kẻ nữ, số đến trăm, ngàn, vạn, thoạt
ch́m, thoạt nổi trong biển,
bị các ác thú giành nhau bắt lấy ăn nuốt).
Đoạn này tường thuật: Trong
Định, thấy tướng nơi cơi âm. Tự đến
bên bờ biển là thần thức xuất từ Định
[mà đến đó]. Nước biển sôi trào, ác thú bay chạy,
đều là cảnh tương tự từ trong thức
tâm, theo nghiệp mà phát khởi. Đấy là do sự thức
của chúng sanh tạo tội đến nỗi mắc những
khổ báo ấy. Kinh Lăng Già nói: “Thí như cự hải
lăng, tư do mănh phong khởi, hồng ba cổ minh hác, vô hữu
đoạn tuyệt thời” (Thí như sóng biển lớn, là do gió mạnh
thổi, sóng to vỗ hang tối, chẳng lúc nào ngừng
nghỉ). Há chẳng phải là do trong biển tạng thức
nổi gió, dậy sóng, cho nên nay cảm biển nghiệp
sôi sục như canh đang sôi. Ác thú và Dạ Xoa cũng từ
nghiệp cảm. Do khi c̣n sống đă buông lung tham, sân, si, lại c̣n tạo
đủ giết, trộm, dâm, dối, cho nên tới địa
ngục, cảnh giới tự hiện. Nếu thấu
đạt cảnh, tâm rỗng rang, biển cũng tự lặng.
Tâm lẫn cảnh đều lặng,
không chuyện ǵ chẳng chiếu. Giống như biển
cả không có gió, sâm la rạng ngời minh bạch. Kinh Bảo
Tích nói: “Nhất thiết pháp hư vọng như mộng,
dĩ duy niệm cố” (Hết thảy các pháp đều
hư vọng như mộng, chỉ là niệm). V́ thế
biết là nếu thấu đạt duy tâm, các cảnh sẽ
như huyễn hóa!
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.1.1.2.
Dạ Xoa h́nh dị úy thị (quỷ Dạ
Xoa h́nh dáng lạ lùng, trông đáng sợ)
(Kinh) Hựu kiến Dạ Xoa, kỳ
h́nh các dị, hoặc đa thủ, đa nhăn, đa túc,
đa đầu, khẩu nha ngoại xuất, lợi nhẫn
như kiếm, khu chư tội nhân, sử cận ác thú. Phục
tự bác quặc, đầu túc tương tựu. Kỳ
h́nh vạn loại, bất cảm cửu thị.
(經)又見夜叉‧其形各異。或多手多眼‧多足多頭‧口牙外出‧利刃如劍。驅諸罪人‧使近惡獸。復自搏攫‧頭足相就。其形萬類‧不敢久視。
(Kinh: Lại thấy Dạ Xoa h́nh dáng mỗi
tên mỗi khác, hoặc nhiều tay, nhiều mắt, nhiều
chân, nhiều đầu, răng ch́a ra ngoài miệng, bén nhọn
như gươm, xua đuổi các tội nhân đến
gần bọn ác thú. Lại c̣n tự tay tóm bắt khiến
họ đầu và chân quặp vào nhau, h́nh dáng vạn loại,
chẳng dám nh́n lâu).
Dạ Xoa (Yakşa) có nghĩa là Tật
Tiệp (疾捷, nhanh nhẹn),
tức là quỷ trong địa ngục. Đầu của
chúng như trâu, ngựa, sư tử, voi, hổ, báo, sói, h́nh
thù mỗi con quỷ mỗi khác. Hoặc là có hai tay, cho đến ngàn tay; hoặc chỉ
có một mắt, cho đến ngàn mắt. Đầu và
chân cũng phỏng theo đó [mà biết]. Răng nanh ch́a ra
ngoài miệng, môi túm ngược lên, lộ cả chân
răng, răng sắc bén như mũi dao, nhọn hoắt
tựa gươm. Sách Pháp Uyển Châu Lâm nói: “Đầu
trâu, trợn mắt hung ác; ngục tốt nhe răng hung
hăng” là nói về chuyện này. “Xua đuổi tội
nhân đến gần thú dữ” là để cho chúng nó
ăn nuốt. Bác (搏) là dùng tay tóm lấy. Quặc
(攫) là dùng móng vuốt giữ lấy,
hoặc quăng chụp. Trang Tử nói: “Tay trái chụp lấy”.
Ở đây là nói đến các loài Dạ Xoa không chỉ
xua đuổi tội nhân đến gần bọn ác thú
cho chúng nó ăn, lại c̣n dùng tay chụp, vươn móng vuốt
nắm giữ, khiến cho tội nhân đầu và chân quặp
vào nhau, trở thành h́nh thể rúm ró, đùa bỡn với
thân h́nh của họ, hoặc có thể lúc làm cho thân họ
to ra, hoặc ép nhỏ lại, hoặc vo nặn cho ngắn
củn lại, hoặc kéo duỗi dài ra, tung ngang, ném dọc,
trong khoảnh khắc là muôn thứ [hành hạ], chẳng thể
nh́n lâu! Đấy chính là do tâm biến khởi, chẳng
chân thật! Như Chánh Pháp Niệm Xứ Kinh có nói: “Diêm
Ma La nhân, thị phi chúng sanh. Tội nhân kiến chi, vị
thị chúng sanh. Thủ trung chấp tŕ diễm nhiên thiết
kiềm. Bỉ địa ngục nhân ác nghiệp kư tận,
bất phục kiến Diêm La ngục tốt, như du chú tận,
tắc vô hữu đăng. Nghiệp tận diệc
nhĩ, bất phục kiến ư Diêm La ngục tốt” (Người
trong cơi Diêm Ma La chẳng phải là chúng sanh, nhưng tội
nhân trông thấy, cho đó là chúng sanh, [thấy họ] trong
tay cầm nắm ḱm sắt cháy rực. Những tội
nhân trong địa ngục khi ác nghiệp đă hết, chẳng
c̣n thấy ngục tốt Diêm La nữa, như dầu và bấc
đă cháy hết, chẳng c̣n đèn nữa! Nghiệp hết
cũng giống như thế, chẳng c̣n thấy Diêm La ngục
tốt). Nay ác nghiệp của chúng sanh chưa hết, tự
nhiên là từ trong không có ǵ mà hư vọng thấy [như
thế đó].
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.1.2.
Niệm Phật lực vô cụ (do sức niệm
Phật bèn chẳng sợ hăi)
(Kinh) Thời Bà-la-môn nữ, dĩ niệm
Phật lực cố, tự nhiên vô cụ.
(經)時婆羅門女‧以念佛力故‧自然無懼。
(Kinh: Khi ấy, cô Bà-la-môn do sức niệm
Phật, tự nhiên chẳng sợ hăi).
“Dĩ” (以) là “v́, do bởi”. Do sức
niệm Phật, tuy thấy các thứ h́nh dáng [kinh khủng],
tự nhiên không sợ hăi. Ấy là v́ biết các cảnh do
tâm, tâm do cảnh hiện. Tâm đă vốn là không, cảnh
cũng làm sao có? Tâm t́nh đă mất, sợ hăi do đâu mà
sanh? Trong kinh Tâm Địa Quán, đức Phật bảo
ngài Văn Thù rằng: “Thí
như tùng lâm mông mật mậu thịnh, sư tử, bạch
tượng, hổ, lang, ác thú, tiềm trụ kỳ trung,
độc phát hại nhân, huưnh tuyệt hành tích. Thời hữu
trí giả, dĩ hỏa thiêu lâm, chư đại ác thú, vô
phục di dư. Tâm không, kiến diệt, diệc
phục như thị” (Ví như rừng rậm, um
tùm, tươi tốt, sư tử, voi trắng, cọp,
sói, ác thú, ẩn nấp trong ấy, tỏa chất độc
hại người mất bặt dấu vết. Khi ấy,
có người trí dùng lửa đốt rừng, các loài ác
thú to chẳng c̣n sót ǵ. Tâm không, kiến diệt, cũng giống
như thế). Lại như kinh Ma Ha Diễn Bảo Nghiêm
nói: “Thí như họa sư, tác quỷ thần tượng,
tức tự khủng cụ. Như thị Ca Diếp,
chư phàm ngu nhân tự tạo sắc, thanh, hương, vị, tế, hoạt chi pháp,
luân chuyển sanh tử. Bất tri thử pháp, diệc phục
như thị” (Ví như thợ vẽ tạo ra h́nh tượng
quỷ thần rồi tự sợ hăi. Này Ca Diếp,
cũng như thế đó, những kẻ phàm ngu tự tạo
ra các pháp sắc, thanh, hương, vị, mịn, trơn rồi luân
chuyển trong sanh tử, chẳng biết những pháp ấy
cũng giống như thế). Nay thánh nữ hiểu rơ hết
thảy các pháp đều là do ư mà sanh ra h́nh tượng, do
tâm mà hiện tướng, biết tâm như huyễn, chẳng
có ư nghĩa nhất định, những ǵ ta thấy sai
khác đều tùy tâm sanh diệt. Đă biết là như huyễn,
há c̣n sợ hăi ư?
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.2.
Quỷ vương nghênh tán (Quỷ vương
đón tiếp, tán thán)
(Kinh) Hữu nhất Quỷ Vương,
danh viết Vô Độc, khể thủ lai nghênh, bạch thánh
nữ viết: “Thiện tai Bồ Tát! Hà duyên
lai thử?”
(經)有一鬼王‧名曰無毒‧稽首來迎。白聖女曰‧善哉菩薩‧何緣來此。
(Kinh: Có một Quỷ Vương, tên
là Vô Độc, đảnh lễ đến đón tiếp,
bạch với thánh nữ: - Lành thay Bồ Tát! Do duyên ǵ mà
đến nơi đây?)
“Độc” (毒) là hại. Trong cơi
đời, có một loài cỏ hại người,
được gọi là Đồ Măng (荼莽, thuộc loại dây
leo dại), pháp hại người được gọi
là Tam Độc. Vị quỷ vương này ôm ḷng
thương xót chúng sanh, quyền biến hiện thân quỷ,
tâm chẳng độc hại, nên có danh hiệu tốt lành
ấy để biểu thị. Nhưng trong kinh văn phần
trước có [danh hiệu quỷ vương] Nhiếp
Độc, phần sau có Ác Độc. Tuy cùng tên là Độc,
nhưng dụng ư đều khác biệt; bởi lẽ, họ
vốn lợi người, chẳng sai khác! Lễ Kư chép: “Hú
chi, ẩu chi, Xuân Hạ sở dĩ sanh trưởng dă.
Sương chi, tuyết chi, Thu Đông sở dĩ thành thục
dă, mạc phi thiên chi giáo dă” (Sở dĩ Xuân và Hạ
ấm áp là v́ [để cho muôn vật] sanh trưởng.
Thu Đông có sương, tuyết để [ngũ cốc,
trái cây] chín muồi, không ǵ chẳng là sự dạy bảo
của trời vậy).
“Khể thủ” (稽首) là dùng đầu chạm
đất (dập đầu lạy) trong chốc lát. Quỷ
Vương lạy để tiếp đón v́ trông thấy
thánh nữ h́nh tướng phi phàm, oai nghi khác hẳn mọi
người, suy đoán người này chẳng do mang tội
mà đến, ắt là nhờ thần thông mà tới. V́ thế
nói: “Lành thay Bồ Tát! Do duyên ǵ mà đến nơi đây?”
Chữ Sa Độ (Sadhu) trong tiếng Phạn, cơi này dịch
là Thiện Tai (lành thay), chính là pháp môn của Hoan Hỷ
Vương Bồ Tát. Nếu hành nhân hằng ngày đối
trước Phật xưng niệm một ngàn lượt,
sẽ đạt được tâm thanh tịnh, được
hết thảy Như Lai khen ngợi, tất cả các pháp
đều được thành tựu. Chuyện này
được chép tường tận trong bộ Thí Thực
Thuyên Thứ Hương Nhũ Kư.
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.
Vấn đáp ngục xứ (hỏi đáp
về nơi chốn của địa ngục)
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.
Thông vấn địa ngục hữu vô (hỏi chung là
có địa ngục hay không)
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.1.
Lược vấn đáp (hỏi đáp
đại lược)
(Kinh) Thời Bà-la-môn nữ, vấn Quỷ
Vương viết: “Thử thị hà xứ?” Vô Độc
đáp viết: “Thử thị đại Thiết Vi
sơn, Tây diện đệ nhất trùng hải”.
(經)時婆羅門女‧問鬼王曰‧此是何處。無毒答曰‧此是大鐵圍山‧西面第一重海。
(Kinh: Khi ấy, cô gái Bà-la-môn hỏi Quỷ
Vương rằng: “Đây là chỗ nào?” Vô Độc
đáp rằng: “Đây là tầng biển thứ nhất ở
phía Tây núi Đại Thiết Vi”).
Trước hết, thánh nữ hỏi [nơi
đây] là chỗ nào, là lời lẽ kinh nghi, v́ nơi này khác
với [những nơi chính ḿnh] thường thấy. Kế
đó, Quỷ Vương đáp lời. Chữ Chá Ca La (Cakravāda-parvata)
trong tiếng Phạn, được dịch là Luân Sơn,
hoặc dịch theo lối cũ là Thiết Vi. “Vi” (圍) có nghĩa là “vây
quanh”. Theo kinh Trường A Hàm, hoặc kinh Khởi Thế
v.v… chính giữa bốn đại châu là núi Tu Di (Sumeru). Bên ngoài núi Tu
Di có tám rặng núi khác. Cho đến ngoài núi là biển
nước mặn, rộng răi không ngằn mé. Ngoài biển
có núi, chính là Đại Thiết
Vi Sơn. Theo Lập Thế A Tỳ Đàm Luận, ngoài biển
nước mặn lớn có núi, tên là Thiết Vi, [chân] núi
ch́m sâu trong nước đến ba trăm mười hai
do-tuần, phần nổi lên trên mặt nước
cũng thế, cũng rộng dường ấy. Từ
phía Nam của Diêm Phù Đề, cách núi Thiết Vi ba ức
sáu vạn sáu trăm sáu mươi ba do-tuần. Từ núi
Thiết Vi, nước mở rộng đến phía cực
Tây, vùng nước được bao bọc bởi núi Thiết
Vi có đường kính là mười hai ức hai ngàn tám
trăm hai mươi lăm do-tuần. Chu vi của vùng
nước vây phủ núi Thiết Vi là ba mươi sáu ức tám ngàn bốn trăm bảy
mươi lăm do-tuần. Tầng biển thứ nhất
nằm ở trong đó (theo các kinh luận, cung của vua
Diêm La ở ngoài ranh giới, cho nên biển nghiệp
cũng thế, tức là Hàm Thủy Nê Lê được nói
trong kinh Nê Lê vậy).
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2.
Quảng vấn đáp (hỏi đáp
chi tiết)
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2.1.
Vấn đáp địa ngục hữu vô (hỏi đáp
địa ngục có hay không?)
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2.1.1.
Vấn đáp địa ngục sự thật phủ (hỏi đáp
địa ngục có phải là sự thật hay không)
(Kinh) Thánh nữ vấn viết: “Ngă
văn Thiết Vi chi nội, địa ngục tại trung,
thị sự thật phủ?” Vô Độc đáp viết:
“Thật hữu địa ngục”.
(經)聖女問曰‧我聞鐵圍之內‧地獄在中‧是事實不。無毒答曰‧實有地獄。
(Kinh: Thánh nữ hỏi rằng: “Tôi
nghe nói trong núi Thiết Vi, địa ngục ở trong
đó, có phải là sự thật hay không?” Vô Độc
đáp rằng: “Thật có địa ngục”).
Trước tiên là thánh nữ hỏi: “Tôi
nghe kinh nói trong núi Thiết Vi có địa ngục, có phải
là thật hay không?” Kế đó, Quỷ Vương đáp:
“Chuyện ấy chân thật chẳng dối”. Ấy là v́
địa ngục vốn hư huyễn, con người tự
biến địa ngục thành thật! Như trong kinh Thiết
Thành Nê Lê, đức Phật răn các sa-môn rằng: “Ngă
dĩ thiên nhăn, thị thiên hạ nhân sanh tử hảo xú,
đắc hảo đạo giả, đắc ác đạo
giả, nhân ư thế gian, thân tác ác, khẩu ngôn ác, tâm niệm
ác, thường hảo phanh sát, từ tự quỷ thần
giả, thân tử đương nhập Nê Lê trung” (Ta
dùng thiên nhăn thấy người trong thiên hạ sống chết,
tốt, xấu, được sanh vào đường lành,
được sanh vào đường ác là v́ người
ta ở trong thế gian, thân làm ác, miệng nói lời ác, tâm
nghĩ chuyện ác, thường thích giết chóc để
nấu nướng, cúng tế quỷ thần, thân chết
đi sẽ vào trong Nê Lê), há chẳng phải là tự biến
địa ngục thành sự thật ư?
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2.1.2.
Vấn đáp ngă hà đáo ngục (hỏi đáp
v́ sao tôi đến địa ngục được)
(Kinh)
Thánh nữ vấn viết: “Ngă kim vân hà đắc đáo ngục
sở?” Vô Độc đáp viết: “Nhược phi oai thần,
tức tu nghiệp lực. Phi thử nhị sự, chung bất
năng đáo”.
(經)聖女問曰‧我今云何得到獄所。無毒答曰‧若非威神‧即須業力。非此二事‧終不能到。
(Kinh: Thánh nữ hỏi rằng: “Nay tôi
v́ sao đến chỗ địa ngục?” Vô Độc đáp
rằng: “Nếu chẳng do oai thần, th́ phải do nghiệp
lực. Chẳng do hai chuyện ấy, trọn chẳng thể
đến được”).
Thoạt đầu, thánh nữ kinh nghi, tự nghĩ địa
ngục là chốn lao ngục bắt giữ tội nhân. Tôi
tự xét ḷng, kính tin Tam Bảo, một thân vô tội, do duyên
ǵ mà nay tôi cũng đến chốn địa ngục
này? Kế đó, Quỷ Vương đáp: “Phàm những ai
đến đây th́ có hai loại người: Một là
người có oai đức, thần thông, hoặc v́ cứu
độ, hoặc v́ đến thăm. Hai là kẻ ác nghiệp
chín muồi, đáng chịu thân địa ngục, do vậy
mà đến. Trừ hai loại đó ra, trọn chẳng có ai có thể đến được!”
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2.1.3.
Vấn đáp ngục hải khổ cảnh (hỏi đáp
về cảnh khổ trong biển địa ngục)
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2.1.3.1.
Ước cảnh nghi vấn (xét theo cảnh
mà nổi ḷng nghi hỏi han)
(Kinh) Thánh nữ hựu vấn: “Thử
thủy hà duyên, nhi năi dũng phí, đa chư tội nhân, cập
dĩ ác thú?”
(經)聖女又問‧此水何緣‧而乃涌沸‧多諸罪人‧及以惡獸。
(Kinh: Thánh nữ lại hỏi:
Do duyên ǵ mà nước biển sôi sùng sục, có nhiều tội
nhân và ác thú vậy?)
Đây là trần thuật cảnh giới
trông thấy tại ven biển. [Hỏi về] nước
biển là hỏi chung. “Hà duyên” (Duyên ǵ) là từ ngữ nghi vấn.
[Thánh nữ] nghi hoặc, một là
do
duyên ǵ mà nước này sôi trào? Hai là nghi do duyên ǵ mà trong
nước biển có nhiều tội nhân? Ba là nghi do
duyên ǵ mà tại ven nước biển có nhiều loài ác thú?
Theo kinh Thủ Lăng Nghiêm, đấy đều là do tự
nghiệp của các chúng sanh ấy cảm vời, tạo
mười tập nhân (tập khí làm cái nhân), thọ sáu giao
báo. Nước sôi sùng sục v́ mạn tập (tập khí
kiêu mạn), phát khởi thành sự dựa dẫm, rong ruổi
chẳng ngơi. V́ thế có chuyện tung vọt lên, rảo
chạy, tích sóng thành nước; cũng do tập khí cuồng
ngạo khinh khi lẫn nhau, đến nỗi có các chuyện
như chết ch́m, tung quật, bay lên, rơi xuống, phiêu
giạt. Ác thú là do xúc báo mà chuốc vời ác quả. V́ thế
dẫn đến thần thức [của tội nhân] trông
thấy, nhận biết [địa ngục có các h́nh
tướng như] thành sắt lớn, rắn lửa, chó
lửa, hổ, sói, sư tử v.v… là do như thế
đó.
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2.1.3.2.
Cứ sự trực đáp (theo sự việc
mà trả lời thẳng thừng)
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2.1.3.2.1.
Chánh đáp (đáp thẳng vào câu
hỏi)
(Kinh) Vô Độc đáp viết: “Thử thị Diêm Phù
Đề tạo ác chúng sanh, tân tử chi giả, kinh tứ
thập cửu nhật hậu, vô nhân kế tự, vị
tác công đức, cứu bạt khổ nạn. Sanh thời
hựu vô thiện nhân, đương cứ bổn nghiệp,
sở cảm địa ngục, tự nhiên tiên độ
thử hải”.
(經)無毒答曰‧此是閻浮提‧造惡眾生‧新死之者。經四十九日後‧無人繼嗣‧為作功德‧救拔苦難。生時又無善因‧當據本業‧所感地獄‧自然先渡此海。
(Kinh: Vô Độc đáp rằng: -
Đây là chúng sanh tạo ác trong Diêm Phù Đề, là những
kẻ mới chết, sau bốn mươi chín ngày mà không
có người nối dơi v́ họ làm công đức để
cứu dẹp khổ nạn. Lúc sống lại chẳng
có nhân lành, cứ theo nghiệp của họ mà cảm vời
địa ngục, tự nhiên qua cái biển này trước).
“Diêm Phù Đề”: Kinh Trường A
Hàm nói: “Tu Di sơn Nam, hữu thiên hạ danh Diêm Phù Đề,
kỳ thổ Nam hiệp, Bắc quảng, tung quảng thất
thiên do-tuần. Hữu đại thụ vương, danh
Diêm Phù Đề, vi thất do-tuần, cao bách do-tuần,
chi diệp tứ bố ngũ thập do-tuần” (Phía
Nam núi Tu Di có thiên hạ gọi là Diêm Phù Đề. Cuộc
đất ấy phía Nam hẹp, phía Bắc rộng,
kích thước là bảy ngàn do-tuần. Có một thụ
vương to tên là Diêm Phù Đề, chu vi bảy do-tuần,
cao một trăm do-tuần, cành lá x̣e ra bốn phía, rộng
năm mươi do-tuần). Kinh Khởi Thế nói hơi
khác. “Tạo ác chúng sanh” tức là kẻ tạo đủ
Thập Ác. Chữ Cưu Na La (Kunāla) trong tiếng
Phạn được cơi này dịch là Ác Nhân, cũng chẳng
phải là người tốt. Có thể diệt các căn th́ gọi là
Tử. V́ thế, kinh Niết Bàn nói: “Tử giả, xả
sở thọ thân, hữu nhị chủng: Nhất giả,
mạng tận tử, hữu tam. Nhất, mạng tận,
phi thị phước tận. Nhị, phước tận,
phi thị mạng tận. Tam, phước mạng câu tận.
Nhị giả, ngoại duyên tử, diệc hữu tam. Nhất,
phi phận tự hại tử. Nhị, hoạnh vi tha tử.
Tam, câu tử. Phục hữu tam chủng tử: Nhất, phóng
dật tử. Nhị, phá giới tử. Tam, hoại mạng
căn tử” (Chết là bỏ cái thân đă thọ. Có
hai loại: Một là chết v́ mạng đă hết, [trong
loại này] lại có ba loại: Một là mạng hết,
chẳng phải là phước hết. Hai là phước hết,
chẳng phải là mạng hết. Ba là phước lẫn
mạng đều hết. Hai là do ngoại duyên mà chết,
cũng có ba loại: Một là chẳng phải đến
số mà tự hại chết. Hai là chết ngang xương
v́ bị kẻ khác hại chết. Ba là chết v́ cả
hai nguyên nhân ấy. Lại có ba loại chết: Một là
chết v́ buông lung. Hai là chết v́ phá giới. Ba là chết v́ mạng
căn bị hư hoại).
“Bốn mươi chín ngày”: Theo Du Già
Sư Địa Luận, người đă chết bèn có
thân Trung Hữu (Trung Hữu chính là Trung Ấm Thân (Antarābhava). Nếu là người
cực thiện liền sanh về Tịnh Độ, hay
sanh lên trời. Kẻ cực ác liền đọa địa
ngục. [Hai hạng người ấy] đều không trải
qua thân Trung Ấm. Nếu thiện ác bất định, liền
thọ thân Trung Ấm, phải trải qua các ty trong cơi âm).
Nếu chưa có duyên tái sanh, tối đa là [thân Trung Ấm]
tồn tại bảy ngày, chết rồi lại sanh [một
thân Trung Ấm khác]. Sống chết xoay vần như thế,
tới bốn mươi chín ngày, quyết định
được tái sanh. Nếu có duyên được sanh
[trước khi tṛn bốn mươi chín ngày] th́ không nhất
định. Sách Thích Thị Yếu Lăm nói: “Nay đối
với người chết, cứ mỗi bảy ngày ắt
phải lo liệu cỗ chay để tạo phước
cho người đă mất, gọi là “trai thất”, khiến
cho trong thời gian ấy, [người mất sẽ] có chủng
tử chẳng chuyển sanh trong đường ác”. Nay
sau khi đă trải qua bốn mươi chín ngày, hoàn toàn chẳng
có người kế tục, thừa tự v́ người
đă mất làm công đức,
khiến cho người ấy được diệt ác,
sanh thiện, ai sẽ cứu bạt khổ nạn? Đấy
là nói những người đă chết, không có người
v́ ḿnh tạo phước trong cơi âm, ắt sẽ đến
nỗi đọa trong cảnh khổ.
Kế đó là nói người đă chết
lúc c̣n sống tự ḿnh chẳng tu mảy may điều
thiện nào, ắt sẽ phải đọa trong cảnh
khổ. Cho đến khi vua cơi âm tra xét, so lường thiện
ác, sẽ căn cứ theo nghiệp [do kẻ ấy] đă
tạo từ trước th́ kẻ đáng đọa vào
địa ngục ắt sẽ vào địa ngục. Kinh
Na Tiên Tỳ Kheo Sở Vấn nói: “Nhân sở tác thiện
ác tùy nhân, như h́nh ảnh tùy thân. Nhân tử, đản
vong kỳ thân, bất vong kỳ hạnh. Thí như nhiên hỏa
dạ thư, hỏa diệt tự tồn, hỏa chí phục
thành. Kim thế tác hạnh, hậu thế thành chi” (Chuyện
thiện ác do một người đă làm sẽ đi theo
người đó, như h́nh bóng theo thân. Người chết,
chỉ mất cái thân, chứ những ǵ đă làm chẳng
mất. Ví như ban đêm đốt lửa viết
chữ, lửa tắt, chữ c̣n. Thắp lửa lên, chữ
lại hiện ra. Những ǵ đời này đă làm sẽ
thành [cái quả] trong đời sau) là nói về ư này. “Tự
nhiên” [thể hiện] ư nghĩa trọn chẳng có nhờ
cậy, miễn cưỡng. Diêm Vương quở trách tội nhân: “Tội
do chính ngươi tạo, nay phải hứng chịu”.
Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói: “Nhữ tà kiến ngu si, si
quyến sở phược nhân, kim đọa thử địa
ngục, tại ư đại khổ hải”
(Ngươi tà kiến, ngu si, lưới si trói buộc
người, nay đọa trong địa ngục này ở
trong biển khổ lớn). V́ thế nói là “tự nhiên
tiên độ thử hải” (tự nhiên trải qua cái
biển này trước).
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2.1.3.2.2.
Chỉ loại (chỉ dạy các loại
địa ngục)
(Kinh) Hải đông thập vạn do-tuần,
hựu hữu nhất hải, kỳ khổ bội thử.
Bỉ hải chi Đông, hựu hữu nhất hải, kỳ
khổ phục bội.
(經)海東十萬由旬‧又有一海‧其苦倍此。彼海之東‧又有一海‧其苦復倍。
(Kinh: Ở phía Đông của biển này,
cách đây mười vạn do-tuần, lại có một cái
biển, sự khổ gấp bội nơi đây. Phía
Đông của biển đó, lại có một biển nữa,
sự khổ gấp bội).
Trong phần trước đă nói [chỗ
thánh nữ gặp quỷ vương Vô Độc] là tầng
biển thứ nhất ở phía Tây núi Thiết Vi, đă bao
hàm hai tầng này. “Sự khổ tăng gấp bội”:
Kinh Nê Lê nói: “Hàm thủy Nê Lê tung hoành sổ thiên lư thủy,
hàm thủy như diêm, nhiệt phí dũng dược. Thủy
trung hữu điểu, uế như thiết sanh, trác nhân
cơ, giảo nhân cốt, nhân bất năng nhẫn thị
thống, tiện độ thủy khứ. Thủ Nê Lê quỷ
ngôn: ‘Tử ác nhân, nhữ hà đẳng cầu sách?’ Nhân
ngôn: ‘Ngă khổ cơ khát’. Quỷ tức dĩ câu, câu kỳ
thượng hạ ngân, khẩu giai tha khai. Phục dĩ
tiêu đồng, quán nhập khẩu trung, thần thiệt
yết phúc giai tiều tận, đồng tiện hạ
khứ. Kỳ nhân bất năng phục nhẫn, hoàn nhập
phí hàm thủy trung. Kỳ nhân b́nh sanh, ư thế gian tác ác
thậm, cố cầu giải bất đắc giải,
tùy ba thượng hạ, hồi phục trầm một. Kỳ
khổ bội tăng, khả thắng ngôn tai” (Địa
ngục nước mặn có kích thước đến mấy
ngàn dặm nước, nước mặn như muối,
nóng sôi sùng sục. Trong nước có chim, mỏ như bằng
sắt, mổ bắp thịt con người, nhai xương
người, tội nhân chẳng thể
chịu nổi sự đau đớn ấy, liền
vượt nước mà chạy. Quỷ giữ Nê Lê nói:
‘Những kẻ ác đă chết kia, ngươi t́m cầu
điều ǵ?’ Người nói: “Tôi khổ sở v́ đói
khát”. Quỷ liền dùng cái móc, móc vào nướu răng
trên và dưới để vạch miệng [tội nhân]
ra, lại dùng nước đồng sôi rót vào trong miệng,
môi lưỡi, họng, bụng đều cháy rụi,
nước đồng liền chảy xuống dưới.
Người ấy chẳng chịu nổi nữa, lại
gieo ḿnh vào nước mặn đang sôi sục. Kẻ ấy
khi sống, ở trong thế gian làm ác quá đáng, cho nên cầu
được thoát khỏi mà chẳng thể thoát khỏi,
dập dềnh theo sóng, nổi lên, ch́m xuống. Nỗi khổ
tăng gấp bội, sao có thể nói trọn cho được).
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2.1.3.2.3.
Kết danh (kết lại tên gọi)
(Kinh) Tam nghiệp ác nhân chi sở chiêu cảm,
cộng hiệu “nghiệp hải”, kỳ xứ thị dă.
(經)三業惡因之所招感‧共號業海。其處是也。
(Kinh: Do cái nhân cả ba nghiệp
đều ác cảm vời, cùng gọi là “biển nghiệp”,
chính là chỗ này vậy).
“Tam nghiệp ác nhân” chính là ba chi thân, khẩu,
ư trong mười ác nghiệp. Do v́ cái nhân ấy, chuốc lấy
quả báo trong biển địa ngục. Nhưng chiêu là tự
chiêu, cảm là tự cảm. Kinh Hưng Khởi Hạnh
nói: “Tiên thế tự tạo thử duyên, yếu
đương thọ chi, vô khả đào tỵ xứ”
(Đời trước đă tự tạo duyên này th́ sẽ
phải hứng chịu, không có chỗ trốn tránh). Điều
này đúng lắm, cũng chẳng do cha làm, mẹ làm, vua
làm, trời làm, mà cũng chẳng do sa-môn, Bà-la-môn làm ra; vốn
do ta tự tạo, nay tự hứng chịu. V́ thế,
đức Phật dạy chúng sanh có hai điều trọng
yếu: Một là làm cái ǵ sẽ hứng chịu cái đó.
Hai là chẳng làm cái ǵ th́ không bị hứng chịu cái
đó. Tội cấu khổ năo trong năm đường
của tam giới chẳng ĺa hành vi tạo tác, hết thảy
đều chẳng phải là bỗng dưng mà có! Tội
phước đă tạo như bóng theo h́nh, như tiếng
vang ứng với âm thanh, chẳng hề mất đi như
râu tóc. V́ thế, ba nơi ấy đều gọi là Nghiệp
Hải. Trước kia thánh nữ đă từng nghe nói, nay
đích thân đến chỗ này.
3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2.2.
Vấn đáp địa ngục hà tại (hỏi đáp
địa ngục ở chỗ nào)
(Kinh) Thánh nữ hựu vấn Quỷ
Vương Vô Độc viết: “Địa ngục hà tại?”
Vô Độc đáp viết: “Tam hải chi nội thị
đại địa ngục. Kỳ số bách thiên, các các
sai biệt”.
(經)聖女又問鬼王無毒曰‧地獄何在。無毒答曰‧三海之內‧是大地&