Địa Tạng
Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Khoa Chú, phần 6
地藏菩薩本願經科注
古鹽匡菴青蓮苾芻靈椉父輯
Cổ Diêm, Khuông Am Thanh Liên bật-sô
Linh Thừa biên soạn
Chuyển ngữ: Bửu Quang
Tự đệ tử Như Ḥa
(theo bản in trong tháng Bảy
năm 2017
của Phật Đà Giáo Dục
Cơ Kim Hội, Đài Loan)
Giảo chánh: Đức Phong
và Huệ Trang
3.2.3.1.2. Lợi ích tồn vong (lợi ích cho kẻ c̣n
lẫn người mất)
3.2.3.1.2.1. Phẩm đề (tên gọi của phẩm
này)
(Kinh)
Lợi ích tồn vong phẩm đệ thất.
(經)利益存亡品第七。
(Kinh:
Phẩm thứ bảy: Lợi ích kẻ c̣n lẫn người
mất).
3.2.3.1.2.2. Phẩm văn (kinh văn trong phẩm
này)
3.2.3.1.2.2.1. Địa Tạng
chánh minh (ngài Địa Tạng nói rơ)
3.2.3.1.2.2.1.1. Thông thị chúng
sanh thiện thoái, ác tăng (chỉ ra: Thông thường,
chúng sanh lui sụt điều lành, tăng trưởng điều
ác)
3.2.3.1.2.2.1.1.1. Pháp thị (chỉ dạy về
pháp)
(Kinh)
Nhĩ thời, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát bạch
Phật ngôn: “Thế Tôn! Ngă quán thị Diêm Phù chúng sanh, cử
tâm động niệm, vô phi thị tội, thoát hoạch thiện
lợi, đa thoái sơ tâm. Nhược ngộ ác duyên, niệm
niệm tăng ích”. (經)爾時地藏菩薩摩訶薩白佛言‧世尊‧我觀是閻浮眾生‧舉心動念‧無非是罪。脫獲善利‧多退初心。若遇惡緣‧念念增益。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát bạch
cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con thấy chúng
sanh trong cơi Diêm Phù này, khởi tâm dấy niệm, không ǵ chẳng
phải là tội. Nếu đạt được điều
thiện lợi, phần nhiều lui sụt cái tâm ban đầu.
Nếu gặp ác duyên, niệm niệm tăng thêm”).
“Tâm niệm”
chỉ sáu thức. “Cử động” là công năng.
Do thức thứ sáu và thức thứ bảy ḥa hợp, nhuốm
bẩn, rối loạn vị chủ nhân là thức thứ
tám. Thức thứ tám lại khiến cho năm thức trước
(nhăn thức, nhĩ thức…) tham tiếng, chấp sắc,
nếm vị, ngửi hương, thân đụng chạm
các thứ mềm mịn, duyên theo các chỗ, nên nói “vô phi
thị tội” (không ǵ chẳng phải là tội)!
Hai câu “thoát
hoạch thiện lợi” (nếu đạt được
điều lợi lành) ư nói: Chẳng thể giữ nổi cái tâm kiên cố.
Kinh Tăng Hộ chép: “Diêm Phù Đề nhân, vi tánh nan tín.
Do hành thiện nhi hoạch lợi ích, tự nghi tấn công
vô gián, năi nhân hoạch lợi, phản thoái sơ tâm” (Chúng
sanh trong Diêm Phù Đề tánh t́nh khó thể tin tưởng được!
Do làm lành mà đạt được lợi ích, đáng lẽ
phải nên đổ công dốc sức chẳng gián đoạn,
lại ngược ngạo lui sụt cái tâm ban đầu).
V́ thế, Phật Thuyết Bảo Vũ Kinh chép: “Bồ
Tát kiến nhất thiết hữu t́nh thọ chư khổ
năo, tuy phục thành tựu vi thiểu thiện căn, tạm
thời phi cửu” (Bồ Tát thấy hết thảy hữu
t́nh chịu các khổ năo, dẫu thành tựu chút ít thiện
căn th́ chỉ là tạm thời, chẳng lâu dài) chính là nói
đến chuyện này!
“Nhược
ngộ ác duyên” (nếu gặp ác duyên), ư nói: [Tấm thân]
Tứ Đại là vật dụng chứa chất độc,
có uế ác đầy dẫy trong đó. Sáu tên giặc (nhăn
thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân
thức, ư thức) khiến chủ (thức thứ tám) phát
cuồng, tức là đối với cảnh đều chấp
trước, chẳng c̣n có thuở ngược gịng được,
chỉ đành xuôi theo gịng luân chuyển, trôi nổi vật
vờ trong sanh tử, chấp chặt hữu vi! V́ lẽ này,
chư Phật nhíu mày; bởi đó, Bồ Tát khóc ra máu mắt!
Đấy là do cái tâm chấp trước bất định
đến nỗi có chuyện ác ấy. V́ thế, đại
sư nói: “Hăy nên biết các thân đều do tâm tạo. Ví
như đại địa là một, mà có thể sanh ra các
thứ mầm” là nói về điều này.
Kinh Tịnh
Độ Tam Muội dạy: “Tội phước tương
lụy, trùng số phân minh. Hậu đương thọ tội
phước chi báo, nhất nhất bất thất. Nhất
niệm thọ nhất thân, thiện niệm thọ thiên thượng
nhân trung thân, ác niệm thọ tam ác đạo thân. Bách niệm
thọ bách thân, thiên niệm thiên thân. Nhất nhật, nhất
dạ, chủng sanh tử căn, hậu đương thọ
bát ức ngũ thập vạn tạp loại chi thân. Bách
niên chi trung, chủng hậu thế tài, thậm vi nan số.
Hồn thần trục chủng thọ h́nh, biến tam
thiên đại thiên sát độ. Thể cốt b́ mao biến
đại thiên sát độ địa, gián vô không xứ”
(Tội và phước liên quan với nhau theo tầng lớp
và số lượng phân minh. Về sau, sẽ thọ quả
báo của tội hay phước, mỗi mỗi đều
chẳng mất. Một niệm thọ một thân. Do thiện
niệm thọ thân trên trời hay trong loài người; ác niệm
thọ thân trong ba đường ác. Trăm niệm thọ
trăm thân, ngàn niệm thọ ngàn thân. Gieo căn cội sanh
tử trong một ngày một đêm, sau đó, sẽ thọ
tám ức năm mươi vạn thân các loại. Trong một
trăm năm, gieo ươm chủng tử cho đời
sau, [sẽ thọ thân] rất nhiều, khó thể tính trọn!
Hồn thần theo chủng tử mà thọ thân, trọn khắp
các cơi nước trong tam thiên đại thiên thế giới.
Xương, da, lông nơi thân trọn khắp cơi đất
của các cơi trong đại thiên, chẳng có chỗ trống
hở, gián đoạn nào).
Kinh Xử
Thai lại nói: “Ngô tùng vô số kiếp, văng lai sanh tử
đạo, xả thân, phục thọ thân, bất ly bào thai
pháp. Thuần tác bạch cẩu h́nh, tích cốt ức Tu Di.
Hà huống tạp sắc cẩu, kỳ số bất khả
lượng” (Tôi từ vô số kiếp qua lại trong đường
sanh tử, xả thân rồi lại thọ thân, chẳng ĺa
bào thai. Thuần làm thân chó trắng, xương chất như
một ức núi Tu Di, huống hồ làm thân những con chó
có màu sắc khác, số ấy
chẳng thể tính toán được). V́ thế, kinh Hiền
Ngu nói: “Nhân thân nan đắc, ngộ ác nhân duyên, tắc
tiện dị thất. Dĩ ác đa, thiện thiểu, nhất
nhật chi trung, tội niệm bách thiên, thiện niệm
vô nhất” (Thân người khó được, gặp nhân
duyên ác liền dễ mất đi. Do ác nhiều, thiện ít,
trong một ngày, ư niệm gây tội cả trăm ngàn, thiện
niệm chẳng được một). V́ thế biết:
Người có thể chế phục cái tâm, hành đạo,
sẽ có sức mạnh nhiều nhất. Hiềm rằng chúng
sanh trong cơi Diêm Phù ư niệm xen tạp tơi bời, chẳng
thể giữ vững! Thiện sụt, ác tăng, chẳng
phải là đă quen thói ư?
3.2.3.1.2.2.1.1.2. Dụ hiển (dùng thí dụ để
chỉ rơ)
(Kinh)
Thị đẳng bối nhân, như lư nê đồ, phụ
ư trọng thạch, tiệm khổn, tiệm trọng, túc
bộ thâm thúy.
(經)是等輩人‧如履泥塗‧負於重石‧漸困漸重‧足步深邃。
(Kinh:
Những kẻ như thế như đi trên đường
bùn lầy, vác đá nặng, càng lúc càng khốn đốn,
càng lúc càng nặng hơn, bước chân càng lún sâu).
Trước
hết, sánh ví chúng sanh trong Nam Châu lui sụt thiện, tăng
trưởng ác; như đi trên đường bùn lầy,
thường ở trong cơi sanh tử. Bùn đă sâu, đường
c̣n xa thăm thẳm, mong thoát ra khó lắm!
3.2.3.1.2.2.1.1.3. Sự minh (dùng sự để chỉ
rơ)
(Kinh)
Nhược đắc ngộ tri thức, thế dữ giảm
phụ, hoặc toàn dữ phụ. Thị tri thức hữu
đại lực cố, phục tương phù trợ, khuyến
linh lao cước. Nhược đạt b́nh địa,
tu tỉnh ác lộ, vô tái kinh lịch.
(經)若得遇知識‧替與減負‧或全與負。是知識有大力故‧復相扶助‧勸令牢腳。若達平地‧須省惡路‧無再經歷。
(Kinh:
Nếu được gặp bậc tri thức, vác bớt
giùm cho, hoặc vác cả cho. Vị tri thức ấy có sức
mạnh to lớn, lại c̣n nâng đỡ, khuyên người
ấy hăy vững chân. Nếu đến được chỗ
đất bằng, bèn khuyên người ấy hăy tỉnh
ngộ, biết đó là con đường ác hiểm, đừng
đi vào nữa).
“Nhược
đắc” (nếu được) chứa đựng
hai ư nghĩa may mắn và bất hạnh, tức là nếu người
ấy có điều thiện nhỏ nhoi, liền gặp tri
thức, may mắn chi bằng? Nếu chẳng có thiện
duyên, trọn chẳng gặp một ai, bất hạnh quá đỗi!
Tri thức có gần và xa. “Gần” là nói đến cha
mẹ, quyến thuộc chính là những người v́ ta làm các phước sự. “Xa”
là Phật, Bồ Tát v.v… là những vị tiêu diệt tội.
“Thế” (替) là thay cho. “Phụ”
(負) là mang vác đồ vật. “Giảm
phụ, toàn phụ” (vác bớt cho, vác hết cả): Luận
định về công năng của chuyện làm phước
th́ có bán phần và toàn phần. Khiến cho người đă
mất giảm tội chính là “giảm phụ” (vác bớt
giùm cho). Nếu toàn thể tội đều tiêu th́ là “toàn
phụ” (vác hết cho). Kế đó, giải thích ư nghĩa
“năng phụ” (có thể mang vác), tức là bậc
tri thức có sức mạnh to lớn. Kinh Tăng Nhất
A Hàm nói do người có năm lực (Tín, Tấn, Niệm
v.v… ngũ lực) mà Phật quả có mười
lực. Theo Đại Luận, Bồ Tát cũng có đủ
mười lực. Do có sức mạnh ấy, không chỉ
là vác giùm cho, mà c̣n có thể nâng, d́u, giúp đỡ, khiến
cho người ấy vững chân. Nếu té nhào xuống đường
bùn lầy, sẽ khó thể đứng dậy được!
Lại khuyên người ấy nếu đến được
chỗ b́nh ổn, hăy nên hồi tỉnh trước đó đă
sa chân vào đường ác, chớ nên lại đi vào đó
nữa! “Nâng đỡ” ví như dạy Thập Thiện.
“Vững chân” ví như tâm chẳng lui sụt. “Đường
bằng phẳng” ví như thoát ra, thăng lên đường
trời, người. “Tỉnh ngộ đường ác”
ví như nghĩ tới nỗi khổ trong tam đồ. “Lại
đi vào đó” ví như lại bước vào đường
khổ!
3.2.3.1.2.2.1.2. Chánh thị tập
ác, nghi vi thiết phước (chỉ dạy: Do [chúng
sanh] quen thói ác, hăy nên làm phước)
3.2.3.1.2.2.1.2.1. Tổng thị (chỉ chung)
(Kinh)
Thế Tôn! Tập ác chúng sanh, tùng tiêm hào gian, tiện chí vô lượng.
(經)世尊‧習惡眾生‧從纖毫間‧便至無量。
(Kinh:
Bạch Thế Tôn! Chúng sanh tập quen thói ác từ những
điều vụn vặt dần dần đến vô
lượng).
Đoạn
này nhằm ứng hợp với đoạn văn “cử
tâm động niệm” trong phần trước, ư nói: V́
sao mà khởi tâm động niệm cho đến gặp điều
ác bèn tăng thêm? Do đă quen thói ác! “Ác tập” (惡習, tập khí ác) chỉ chủng
tử, c̣n “tập ác” (習惡, những điều ác
đă quen làm) chỉ hiện hành. Do có chủng tử của
ác tập, khiến cho tập ác hiện hành, từ nhỏ
tí tẹo cho đến vô lượng. Kinh Chiêm Sát dạy: “Cầu
tâm h́nh trạng, vô nhất khu phân, nhi khả đắc giả,
đản dĩ chúng sanh vô minh si ám huân tập nhân duyên, hiện
vọng cảnh giới, linh tâm niệm trước. Ư chủng
chủng pháp thượng, vọng sanh chủng chủng
pháp tưởng. Vị hữu, vị vô, vị bỉ, vị
thử, vị thị, vị phi, vị hảo, vị ác, năi
chí vọng sanh vô lượng vô biên pháp tưởng” (Cầu
h́nh dạng của tâm th́ không có một h́nh dạng riêng biệt
nào để có thể đạt được, chỉ v́
chúng sanh do nhân duyên vô minh si ám huân tập, hiện ra cảnh
giới hư vọng, khiến cho cái tâm nghĩ nhớ, chấp
trước. Đối với các pháp, lầm lạc sanh
ra đủ mọi pháp tưởng, cho là có, cho là không, cho
là kia, cho là đây, cho là đúng, cho là sai, cho là tốt, cho là
xấu, cho đến lầm lạc sanh ra vô lượng
vô biên pháp tưởng).
V́ thế,
Kim Quang Minh Huyền Nghĩa viết: “Lên cao th́ khó, rơi
xuống dễ dàng, phần nhiều là do duyên theo các thân ác”.
Quang Minh Kư viết: “Ấy là v́ chúng sanh đă huân tập
từ vô thỉ, ác nhiều, thiện ít, khiến cho tâm niệm
hay duyên theo các thân ác. Chưa ngồi trên xe năm thừa, mà
đă vào bốn nẻo trước. Lên cao th́ khó, rơi xuống
dễ dàng, có ai mà chẳng như vậy! Hành giả tu Quán đối
với các tâm trong mười pháp giới, phải thường
nên cảnh tỉnh, chớ nên không biết. V́ thế, Chỉ
Quán loại trừ những cái chẳng thuộc vào chân tâm”.
3.2.3.1.2.2.1.2.2. Biệt thích (giải thích riêng)
3.2.3.1.2.2.1.2.2.1. Thiết phước,
tồn vong lợi ích (làm phước, lợi ích
cho kẻ c̣n lẫn người mất)
3.2.3.1.2.2.1.2.2.1.1. Lâm chung thiết
phước (lâm chung làm phước)
3.2.3.1.2.2.1.2.2.1.1.1. Thị ư (chỉ bày ư nghĩa)
(Kinh)
Thị chư chúng sanh, hữu như thử tập, lâm mạng
chung thời, phụ mẫu, quyến thuộc nghi vị thiết
phước, dĩ tư tiền lộ.
(經)是諸眾生‧有如此習‧臨命終時‧父母眷屬宜為設福‧以資前路。
(Kinh:
Những chúng sanh ấy có thói quen như thế, khi lâm chung,
cha mẹ, quyến thuộc hăy tạo phước để
giúp cho tương lai của người ấy).
Hai câu đầu
nhằm nói lên ư nghĩa “tu phước, kiêng giết”.
Do chúng sanh có thói quen xấu ác như thế, chủng tử
và hiện hành huân tập lẫn nhau, nhân và quả tương
cảm. Nếu quyến thuộc chẳng v́ kẻ đó làm
phước, sẽ nhờ vào đâu để giúp đỡ
cho con đường phía trước (tương lai)? Bài
kệ Vô Thường có nói: “Thường cầu chư
dục cảnh, bất hành ư thiện sự, tử vương
thôi tứ mạng, thân thuộc đồ tương thủ,
chư thức giai hôn muội, hành nhập hiểm thành trung.
Tương chí Diễm Ma vương, tùy nghiệp nhi thọ
báo. Thắng nhân sanh thiện đạo, ác nghiệp đọa
Nê Lê. Duy hữu Phật Bồ Đề, thị chân quy trượng
xứ” (Thường t́m cầu cảnh dục, chẳng
làm một chuyện lành. Thần chết đ̣i bắt mạng,
thân thuộc khó chở che. Các thức đều tăm tối,
đi vào trong hiểm thành, đến chỗ vua Diễm Ma,
theo nghiệp mà thọ báo. Nhân tốt sanh đường lành,
ác nghiệp đọa địa ngục. Chỉ có Phật
Bồ Đề, chốn nương về chân thật). V́
thế, hăy nên tạo phước lành để giúp cho tương
lai của kẻ mất.
3.2.3.1.2.2.1.2.2.1.1.2. Thiết phước
(làm phước)
(Kinh) Hoặc huyền phan cái, cập nhiên du
đăng. Hoặc chuyển độc tôn kinh. Hoặc cúng
dường Phật tượng, cập chư thánh tượng.
Năi chí niệm Phật, Bồ Tát, cập Bích Chi Phật danh tự, nhất danh,
nhất hiệu, lịch lâm chung nhân nhĩ căn, hoặc
văn tại bổn thức.
(經)或懸旛蓋‧及然油燈。或轉讀尊經。或供養佛像‧及諸聖像。乃至念佛菩薩‧及辟支佛名字。一名一號‧歷臨終人耳根‧或聞在本識。
(Kinh:
Hoặc treo phan, lọng, và thắp đèn dầu, hoặc
chuyển đọc tôn kinh, hoặc cúng dường tượng
Phật, và các thánh tượng. Cho đến niệm danh hiệu
của Phật, Bồ Tát, và Bích Chi Phật, sao cho một
danh, một hiệu lọt vào tai của người lâm
chung, hoặc khiến cho thần thức của người
ấy nghe được).
Tu phước
ở đây, sẽ vun bồi hai loại quả: Một là
cái quả do tu phước theo mặt Sự, như treo
phan, bày lọng, thắp đèn; hai là cái quả do tôn kính Tam
Bảo, tức đọc kinh, cúng dường tượng,
xưng danh hiệu. Kinh Phổ Quảng có chép: “Nhược
tứ bối nam nữ, nhược lâm chung thời, nhược
dĩ quá mạng, ư kỳ vong nhật, tạo tác hoàng
phan, huyền trước sát thượng, sử hoạch phước
đức, ly bát nạn khổ, đắc sanh thập
phương chư Phật Tịnh Độ. Phan cái cúng
dường, tùy tâm sở nguyện, chí thành Bồ Đề.
Phan tùy phong chuyển, phá toái đô tận, chí thành vi trần.
Phan nhất chuyển thời, Chuyển Luân Vương vị.
Năi chí xuy trần, tiểu vương chi vị. Kỳ báo vô
lượng. Nhiên đăng cúng dường, chiếu chư
u minh khổ thống chúng sanh, mông thử quang minh, đắc
hỗ tương kiến. Duyên thử phước đức,
bạt bỉ chúng sanh, tất đắc hưu tức”
(Nếu tứ chúng nam nữ, vào lúc lâm chung, hoặc đă
qua đời, mà trong ngày mất, [thân quyến v́ người
ấy] tạo tác lá phan màu vàng, treo ở trên chùa, sẽ khiến
cho người ấy đạt được phước
đức, ĺa khổ tám nạn, được sanh vào Tịnh
Độ của mười phương chư Phật.
Phan, lọng cúng dường, tùy theo tâm nguyện, cho tới
khi thành Bồ Đề. Phan theo gió lay, tan nát hết sạch,
đến mức nát thành bụi nhỏ. Khi phan lay động
một cái, [người ấy] sẽ đạt địa
vị Chuyển Luân Vương. Cho đến thổi tung
bụi, liền thành ngôi vị tiểu vương. Quả
báo ấy vô lượng. Thắp đèn cúng dường,
chiếu các chúng sanh đang đau khổ trong u minh, khiến
cho họ do quang minh ấy mà trông thấy lẫn nhau. Nhờ
phước đức ấy, cứu bạt những chúng
sanh đều được ngơi nghỉ). Do có phước
lợi này, cho nên treo phan, thắp đèn.
“Cúng tượng”
(thờ phụng, hoặc cúng dường tượng) như
đă giải thích trong phần trước. “Niệm Phật”
như sẽ giải thích trong phần sau. Trong kinh Chánh Pháp
Niệm Xứ, Dạ Ma Thiên Vương đă v́ chư thiên
nói kệ như sau: “Nhược nhân tâm niệm Phật,
thị danh thiện mạng nhân, bất ly niệm Phật
cố, thị vi mạng trung mạng” (Nếu ai tâm niệm
Phật, th́ là người mạng lành. Do chẳng ĺa niệm
Phật, nên mạng trường thọ nhất). Niệm Pháp,
niệm Tăng cũng như thế, khiến cho danh hiệu
ấy lọt qua tai, nạp vào trong thức thứ tám, trọn
chẳng bị hủy hoại. Ví như kim cang lọt vào bụng,
lâu ngày chẳng tan, ắt sẽ xuyên ruột lọt ra. V́
thế, cần phải huân văn Phật chủng (dùng lắng
nghe để huân tập chủng tử Phật). Đó gọi
là “pháp âm lọt qua tai, công đức, phước báo trải
nhiều kiếp; một phen thoảng qua tai, vĩnh viễn
thành hạt giống đạo”. A Lê Da Thức chính là bổn
thức. Do nó là cái gốc cho sự sanh tử, nên gọi là
“bổn”.
3.2.3.1.2.2.1.2.2.1.1.3. Đắc ích
(được
lợi ích)
(Kinh)
Thị chư chúng sanh, sở tạo ác nghiệp, kế kỳ
cảm quả, tất đọa ác thú. Duyên thị quyến
thuộc, vị lâm chung nhân, tu thử thánh nhân, như thị
chúng tội, tất giai tiêu diệt.
(經)是諸眾生‧所造惡業‧計其感果‧必墮惡趣。緣是眷屬‧為臨終人修此聖因‧如是眾罪‧悉皆銷滅。
(Kinh:
Các chúng sanh ấy do ác nghiệp đă tạo, xét theo quả
báo cảm vời, ắt đọa trong đường ác.
Do nhờ quyến thuộc đă v́ người lâm chung tu nhân
duyên thánh đạo ấy, các tội như thế thảy
đều tiêu diệt).
Điều
này ứng hợp với ư nghĩa “gặp thiện tri thức
vác giùm hết cho” trong đoạn trước. Người
chết đă quen thói làm nhiều điều ác, chẳng thể
không bị nghiệp quấn trói. Nhân quả chẳng sai sót,
làm ác ắt mắc ương họa. Nếu chẳng có cái nhân “tu thánh phước”, sao
có thể tránh khỏi cái quả trong tương lai? Luận
A Tỳ Đàm nói: “Thú (趣) là đạt đến,
cũng gọi là Đạo, nghĩa là do con đường
nghiệp nhân thiện hay ác ấy mà bị chuyển đến
chỗ thọ sanh, cũng có thể nhờ vào nghiệp đă
tạo để tiến hướng chỗ thọ sanh. Thú
(趣) lại có nghĩa là quy hướng
(hướng về), nghĩa là do nghiệp đă tạo, sẽ
hướng về cơi trời hay đi vào địa ngục”. Như trong kinh Đại
Thừa Đồng Tánh, vua Lăng Già (Lankāvatāra) bạch cùng đức Phật:
“V́ sao chúng sanh bỏ thọ mạng này, nhận lấy thọ
mạng kia? Bỏ thân cũ này, nhận lấy thân mới
kia?” Đức Phật dạy: “Chúng sanh xả thử thân
dĩ, nghiệp phong lực xuy, di thức tương khứ,
tự sở thọ nghiệp, nhi thọ kỳ quả”
(Chúng sanh bỏ thân này xong, do sức của gió nghiệp thổi,
dời thức đi, theo nghiệp đă thọ mà nhận
lấy cái quả). V́ thế, Khuê Phong đại sư nói: “Muốn
kiểm nghiệm lâm chung thọ sanh tự tại hay không,
chỉ cần kiểm nghiệm trong những việc làm thường
ngày, tâm có tự do hay không. Trong mười hai thời, hăy
thường nên tự kiểm điểm bản thân”.
Ngài dạy đúng lắm thay! Đă tạo ác nghiệp,
ắt đọa trong đường ác. Nay được
thoát khỏi, do nhờ quyến thuộc tu đủ mọi
thứ nhân duyên thánh đạo, khiến cho các tội như
thế giống như gió mạnh thổi tan mây trôi, giống
như nước lũ dập tắt lửa nhỏ. V́ thế
biết: Các tội tiêu diệt chính là nhờ bậc tri thức
rất mạnh gánh vác toàn bộ cho!
3.2.3.1.2.2.1.2.2.1.2. Tử hậu
tạo thiện (làm lành sau khi người ấy
đă chết)
(Kinh)
Nhược năng cánh vị thân tử chi hậu, thất
thất nhật nội, quảng tạo chúng thiện, năng
sử thị chư chúng sanh, vĩnh ly ác thú, đắc sanh
nhân thiên, thọ thắng diệu lạc. Hiện tại quyến
thuộc, lợi ích vô lượng.
(經)若能更為身死之後‧七七日內‧廣造眾善。能使是諸眾生‧永離惡趣‧得生人天‧受勝妙樂。現在眷屬‧利益無量。
(Kinh:
Nếu sau khi những người ấy đă chết, lại
có thể trong bốn mươi chín ngày v́ người ấy
rộng làm các điều thiện, sẽ có thể khiến
cho những chúng sanh ấy vĩnh viễn ĺa khỏi đường
ác, được sanh trong cơi trời, người, hưởng
sự vui thù thắng, mầu nhiệm, quyến thuộc
trong hiện tại sẽ được lợi ích vô
lượng).
Điều
này ứng hợp với năm câu “lại c̣n nâng d́u, giúp
đỡ” [trong đoạn trước]; tức là vị tri thức có sức
mạnh không chỉ vác giùm toàn bộ đá nặng, lại
c̣n có thể nâng đỡ người ấy đến chỗ
đất bằng phẳng. Đoạn này chỉ dạy
thẳng thừng: Sau khi người ấy đă chết,
hăy tu phước cho người ấy. Chữ Mạt Lạt
Nẫm (Maraṇa)
trong tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Tử (chết).
Như kinh Thập Nhị Phẩm Sanh Tử nói, người
chết đi có mười hai phẩm loại. V́ thế,
kinh Pháp Cú dạy: “Phù thân giả, chúng khổ chi bổn, hoạn họa chi nguyên. Ngô ngă phược
trước, sanh tử bất tức, giai do thân dư?” (Thân là gốc của các
khổ, là cội nguồn của họa hoạn. Cái Tôi trói
buộc, sanh tử chẳng ngơi, đều do cái thân đấy
chăng?) Nay muốn ĺa cội khổ trong thế gian, hăy nên
v́ người ấy tạo tác thiện sự. “Bốn mươi
chín ngày” sẽ giải thích trong phần sau.
Ví như
nắng hạn đă lâu, ắt mong được mưa
ngọt nhuần thấm. Nếu lắm tai ương, bệnh
tật, ắt mong đợi thuốc của bậc lương
y. Bệnh mà có thuốc để an thân, nắng hạn được
mưa dầm để đất nhuần thấm. V́ thế,
vĩnh viễn ĺa khỏi đường ác, được
sanh làm trời, người, giống như đến được chỗ đất bằng.
Đă sanh lên trời, măi măi hưởng phước; hoặc
ở trong nhân gian, hưởng quyền quư, giàu có dài lâu. Lúc hưởng niềm vui thù
thắng, nhiệm mầu, cũng cần phải nhớ lại
đường ác ấy. V́ thế, ǵn giữ cái tâm kiên cố,
sao cho chẳng lui sụt, chẳng đánh mất thiện niệm,
kẻo lại sa vào nẻo ác ấy! Kinh Ưu Bà Tắc Giới
dạy: “Vị vong truy phước, thí dĩ mạng
chung, thị nhân phước đức, tùy sở thí vật,
nhậm dụng cửu cận, phước đức thường
sanh. Thị phước truy nhân, như ảnh tùy h́nh” (V́
người đă mất làm phước để thí cho người
đă mạng chung, phước đức của kẻ [làm
phước ấy] tùy theo những vật đă cúng thí mà sẽ
tùy ư hưởng dụng lâu hay mau, phước đức thường
sanh. Phước ấy theo sát con người, như bóng
theo h́nh). Chắc là có kẻ nói: “Chết rồi là hết!”
Nghĩa ấy chẳng đúng, v́ cớ sao? Vật (tức
xác thân) đă hư hoại, chẳng dùng được! [Xác
thân] mất đi là mất giữa hai lúc (lúc c̣n sống và lúc
tái sanh trong đời sau), chứ không phải là mạng đă
mất hết! V́ thế, [người đă mất] được
giúp đỡ bèn sanh lên trời hay làm người, hưởng
sự vui thù thắng nhiệm mầu! Không chỉ là người
chết được hưởng sự vui sướng
siêu thăng, mà ngay cả người c̣n sống cũng đạt
được lợi ích vô lượng!
3.2.3.1.2.2.1.2.2.2. Tạo ác, vong
nhân tăng tội (tạo ác th́ người đă
mất càng thêm tội)
3.2.3.1.2.2.1.2.2.2.1. Pháp thị (dạy về pháp)
3.2.3.1.2.2.1.2.2.2.1.1. Nhiếp tiền
chánh khuyến (gộp chung ư nghĩa trong phần
trước để khuyên bảo)
(Kinh)
Thị cố ngă kim đối Phật Thế Tôn, cập
thiên long bát bộ, nhân, phi nhân đẳng, khuyến ư Diêm
Phù Đề chúng sanh, lâm chung chi nhật, thận vật sát
hại, cập tạo ác duyên, bái tế quỷ thần, cầu
chư vơng lượng.
(經)是故我今‧對佛世尊‧及天龍八部‧人非人等。勸於閻浮提眾生‧臨終之日‧慎勿殺害‧及造惡緣‧拜祭鬼神‧求諸魍魎。
(Kinh:
V́ thế, con nay đối trước đức Phật
Thế Tôn và trời rồng tám bộ, cùng với nhân, phi
nhân v.v… khuyên chúng sanh trong Diêm Phù Đề, trong ngày lâm chung,
hăy cẩn thận đừng giết hại, và tạo các
ác duyên, cúng tế quỷ thần, cầu các loài quỷ quái[1]).
Đây là
nhờ khi lâm chung tu phước, người mất lẫn
kẻ c̣n đều được lợi ích, nên bèn khuyên nhủ.
Nói “ngă kim” (con nay) thể hiện ư nghĩa: Một tay gánh vác chuyện
lợi ích kẻ c̣n lẫn người mất. Đối
với ngày lâm chung, kinh Tứ Tự Xâm dạy: “Ngũ dục
chi lạc, bất khả thường đắc. Bệnh
trước sàng thời, nhiễu động bất an. Tử
mạng hốt chí, thân đương bại hoại, an đắc
cửu hồ?” (Niềm vui ngũ dục chẳng thể
thường đạt được. Bệnh nằm mọp
trên giường, vật vă, bất an. Số chết bỗng
đến, thân sẽ hư nát, há giữ lâu dài ư?)
“Thận
vật” (hăy cẩn thận, đừng nên): “Thận”
(慎) là luôn cẩn trọng. Ḷng người
giả dối, [bề ngoài] rành rành là tu hành, [nhưng thật
ra] ngấm ngầm phóng đăng. Chỉ có Thận (thận
trọng) là chân tâm; v́ thế [chữ Thận] do Tâm (心) và Chân (真) ghép lại. “Vật”
(勿, đừng), hàm ư răn
cấm. Đă cẩn thận, lại răn cấm, kiên quyết
thề chẳng sát hại! “Ác duyên” là những chuyện
giúp cho sát hại được thành. “Bái tế quỷ thần”:
“Bái” (拜) là phủ phục, tỏ
ḷng tôn kính. Người ta bái bèn khom ḿnh, [chữ Bái] riêng chỉ
hai tay của người hành lễ (chữ Bái do hai chữ
Thủ (手) ghép lại), v́ tay và vẻ
mặt thể hiện sự cung kính, là điều tốt
đẹp trong lễ nghi. Sách Thuyết Uyển[2] nói: “Tế
(祭) là Tác (索). Tác là trọn hết,
tức là đứa con hiếu trọn hết tấm ḷng đối
với cha mẹ”. Tế phát sanh từ cái tâm muốn báo
đền nguồn cội; ḷng xót xa, lo làm sao có thể thực
hiện? Do vậy, bèn dùng cỗ bàn để hiến dâng,
mong sao [người đă khuất] có thể hưởng,
do ḷng tinh thành mà ra. Nay bái tế quỷ thần, vơng lượng,
điều này đă được nói tường tận
trong bộ [Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu Hương]
Nhũ Kư (trong kinh Phổ Diệu, ngài Ca Diếp nói: “Tự
niệm từ tự lai, dĩ lịch bát thập niên, phụng
phong, thủy, hỏa thần, nhật, nguyệt, chư sơn,
xuyên, túc dạ bất giải phế, tâm trung vô tha niệm,
chí cánh vô sở hoạch, trị Phật năi an ninh” (Con tự
nghĩ từ lúc cúng bái đến nay đă suốt tám mươi
năm, thờ phụng các thần gió, nước, lửa,
mặt trời, mặt trăng, các núi sông, ngày đêm chẳng
lười nhác, sơ sót. Trong tâm không có ư niệm nào khác, rốt
cuộc, vẫn không đạt được ǵ, [thế
nhưng] gặp Phật bèn yên ổn) là nói về chuyện
này).
3.2.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2. Chuyển thích
sở dĩ (giải thích nguyên do)
3.2.3.1.2.1.1.2.2.2.1.2.1. Trực thích
(giải
thích thẳng vào vấn đề)
(Kinh)
Hà dĩ cố? Nhĩ sở sát hại, năi chí bái tế, vô
tiêm hào chi lực, lợi ích vong nhân, đản kết tội
duyên, chuyển tăng thâm trọng.
(經)何以故。爾所殺害‧乃至拜祭‧無纖毫之力‧利益亡人。但結罪緣.轉增深重。
(Kinh:
V́ sao vậy? V́ giết hại, cho đến cúng lễ quỷ
thần đó, chẳng có mảy may sức
lợi ích nào cho người chết, chỉ kết thành tội
duyên tăng thêm sâu nặng hơn).
Kinh Thập
Phương Thí Dụ nói: “Thiên thượng, thiên hạ quỷ
thần, tri nhân thọ mạng, tội phước,
đương chí, vị chí, bất năng hoạt nhân, bất
năng sát nhân, bất năng sử nhân phú quư, bần tiện,
đản dục sử nhân tác ác, phạm sát, nhân nhân suy
hao nhi văng loạn chi, ngữ kỳ họa phước,
linh nhân thiết từ tự nhĩ” (Quỷ thần trên
trời, dưới đất biết thọ mạng, tội
phước của con người sẽ xảy ra, hay chưa
xảy đến, nhưng chẳng thể khiến cho con người
sống sót, chẳng thể giết người, chẳng
thể khiến cho con người phú quư, nghèo hèn, chỉ có
thể mong cho con người làm ác, phạm tội giết
chóc, rồi do con người bị suy sụp, hao tán, mà đến
quấy nhiễu, nói chuyện họa phước của họ,
ép họ cúng bái). V́ thế biết, cúng bái quỷ thần vô
ích, chẳng có mảy may tác dụng ǵ lợi ích cho người
đă mất! Kinh Quán Đảnh cũng dạy: “Tạp
vật chi tinh, phù du nhân thôn, kư kỳ vô thực, tác chư
biến quái, phiến động nhân tâm. Hoặc hữu bạt
mị tà sư, dĩ y vi phước, mịch chư phước
hựu, dục đắc trường sanh. Ngu si, tà kiến,
sát sanh từ tự. Tử nhập địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh, vô hữu xuất thời, khả bất thận
chi” (Tinh linh nơi các vật dật dờ trong các thôn làng.
Do chúng không có cái ăn, bèn biến hiện các thứ quái đản,
khiến cho ḷng người xao động [phải cúng bái
chúng]. Hoặc có những tà sư thờ phụng yêu quái, cho
là chúng có thể tạo phước, mong chúng ban phước,
mong được trường sanh. Do ngu si, tà kiến, họ
bèn sát sanh để cúng tế. Họ chết đi bèn vào địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chẳng có lúc thoát ra, há chẳng
cẩn thận ư?) V́ thế, chỉ kết tội duyên
tăng thêm sâu nặng hơn! Do vậy, kinh Tứ Tự Xâm
dạy: “Hữu sự thiên, địa, thủy, hỏa,
nhật, nguyệt, sơn, xuyên chư quỷ thần giả,
vĩnh vô sở ích. Cố tại châu toàn sanh tử chi lư, bất
năng thoát xuất la vơng lao ngục” (Có những kẻ
thờ trời, đất, nước, lửa, mặt trời,
mặt trăng, các quỷ thần nơi sông núi, vĩnh viễn
vô ích! V́ thế, tuần hoàn trong ṿng sanh tử, chẳng thể
thoát khỏi lưới rập, lao ngục). Các kinh đă nói
cặn kẽ chuyện này, tiếc là người đời
chẳng tin tưởng!
3.2.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2.2. Phức sớ
(giải
thích cặn kẽ)
3.2.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2.2.1. Ưng báo
thiện giả, phản đắc ác (người đáng lẽ
được hưởng quả báo lành đâm ra mắc
phải quả báo ác)
(Kinh)
Giả sử lai thế, hoặc hiện tại sanh, đắc
hoạch thánh phần, sanh nhân thiên trung, duyên thị lâm chung,
bị chư quyến thuộc tạo thị ác nhân, diệc
linh thị mạng chung nhân, ương lụy đối
biện, văn sanh thiện xứ.
(經)假使來世‧或現在生‧得獲聖分‧生人天中。緣是臨終‧被諸眷屬造是惡因‧亦令是命終人‧殃累對辯‧晚生善處。
(Kinh: Giả sử đời
sau, hoặc trong đời hiện tại, người đó
có phần đắc thánh quả, sẽ sanh vào cơi trời
hay cơi người, nhưng do lúc lâm chung, bị các quyến
thuộc tạo cái nhân ác ấy, cũng khiến cho người
mạng chung bị phiền lụy phải đối chất,
chậm sanh vào chốn lành).
Đoạn
kinh văn này chia làm hai tiểu đoạn:
- Đoạn thứ nhất, [nói đến
chuyện người mất] đáng lẽ sanh vào chốn
lành.
- Đoạn thứ hai, do điều
ác lôi kéo mà chẳng thể sanh!
“Thánh
phần” tức Thất Bồ Đề Phần, hoặc
Bát Thánh Đạo Phần, Bồ Tát quả phần, hoặc
là cũng giống như chữ Phần trong kinh Pháp Hoa, [ngài A Nan, La Hầu La v.v… nói] “ngă
đẳng diệc ưng hữu phần” (chúng con cũng
nên có phần) [khi cầu đức Phật thọ kư cho hàng
hữu học Thanh Văn]. Tức là người chết lúc
b́nh nhật đă có thiện nhân, đáng nên có phần đạt
được thiện quả, và sanh làm trời, người.
Chỉ v́ lúc lâm chung, bị quyến thuộc gây tạo nghiệp
nhân giết chóc, do những chúng sanh đă bị giết đ̣i
mạng, [người mất] ắt phải trải qua sự
đối chất, tranh biện trong âm ty. Tuy ương lụy
[cuối cùng] cũng được giải quyết ổn
thỏa, nhưng duyên sanh về [chốn tốt lành] đă bị
chậm trễ. Sư Đạo Thế nói: “Cha mẹ khuất
núi, [con cái] giết nhiều sanh mạng [để cúng bái],
cha ch́m ngập trong nỗi khổ nặng nề, mẹ riêng
hứng chịu vạc sôi, than hồng tăng thêm. V́ thế,
trôi lăn trong tam giới, dằng dai măi trong lục đạo,
bốn đường dễ về, vạn kiếp khó thoát.
U linh mẹ hiền đau đớn v́ sự độc dữ
do con cái ngỗ nghịch gây
ra” chính
là nói về chuyện này, chẳng đáng xót xa lắm ư?
3.2.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2.2.2. Ưng thọ
ác giả, cánh tăng nghiệp (người đáng phải
chịu ác, sẽ tăng thêm nghiệp)
(Kinh)
Hà huống lâm mạng chung nhân, tại sanh vị tằng hữu
thiểu thiện căn, các cứ bổn nghiệp, tự
thọ ác thú, hà nhẫn quyến thuộc, cánh vi tăng nghiệp?
(經)何況臨命終人‧在生未曾有少善根。各據本業‧自受惡趣。何忍眷屬‧更為增業。
(Kinh:
Huống chi người sắp mạng chung, lúc sống chưa
hề có chút thiện căn nào, xét theo nghiệp của người
ấy, sẽ tự thọ thân trong đường ác, quyến
thuộc sao nhẫn tâm tăng thêm nghiệp cho người
ấy?)
Ư “hà huống”
trong đoạn này là: Trong phần trên là nói những người
có thiện nghiệp, đáng sanh về chốn tốt lành,
mà c̣n bị ác nghiệp lôi kéo, chậm sanh về chốn tốt
lành. Huống hồ những kẻ bản thân chẳng có
thiện căn, đáng thọ thân trong đường ác!
Nay lại tăng thêm nghiệp sát hại, há người chết
chẳng bị tăng thêm ác nghiệp nặng nề ư?
Ví như ôm đá ch́m sâu dưới vực, người khác
lại ném thêm nhiều vật để d́m xuống, mong
thoát ra, khó khăn lắm thay! V́ thế, kinh Ưu Bà Tắc
Giới dạy: “Nhược phụ táng dĩ, đọa
ngạ quỷ trung, tử vi truy phước, đương
tri tức đắc. Nhược thuyết sát sanh từ tự
đắc phước, thị nghĩa bất nhiên! Hà dĩ
cố? Bất kiến thế nhân chủng Y Lan tử, sanh Chiên Đàn thụ! Đoạn
chúng sanh mạng, nhi đắc phước đức. Nhược
dục tự giả, đương dụng hương,
hoa, nhũ, lạc, tô, quả, vị vong truy phước” (Nếu cha đă mất,
đọa trong ngạ quỷ, con v́ cha làm phước truy tiến,
hăy nên biết cha sẽ hưởng được. Nếu
nói sát sanh cúng quải mà được phước, nghĩa
ấy chẳng phải đúng! V́ sao vậy? Chẳng thấy
người đời gieo hạt Y Lan[3] mà được
cây Chiên Đàn; đoạn mạng chúng sanh mà được
phước đức ư? Nếu muốn cúng quải, hăy
nên dùng hương, hoa, sữa, bơ, kem, trái cây để
làm phước truy tiến cho người đă khuất).
V́ thế, hai chữ “hà nhẫn” (sao lại nhẫn tâm)
trở đi có ư “nhẫn tâm quá đỗi, tăng thêm nghiệp
[cho người chết]”!
3.2.3.1.2.2.1.2.2.2.2. Dụ hợp
(nêu thí
dụ để làm rơ nghĩa)
(Kinh)
Thí như hữu nhân, tùng viễn địa lai, tuyệt
lương tam nhật, sở phụ đảm vật, cường
quá bách cân, hốt ngộ lân nhân, cánh phụ thiểu vật,
dĩ thị chi cố, chuyển phục khổn trọng.
(經)譬如有人‧從遠地來‧絕糧三日。所負擔物‧強過百觔。忽遇隣人‧更附少物。以是之故‧轉復困重。
(Kinh:
Ví như có người từ nơi xa đến, cạn
hết lương thực đă ba ngày, mang vác đồ vật
nặng hơn trăm cân, bỗng gặp kẻ hàng xóm nhờ
mang thêm chút vật. Do bởi lẽ đó, người ấy
càng khốn khổ, nặng nề hơn).
“Hữu
nhân” (có người) ví như chúng sanh trong Diêm Phù. “Tùng
viễn địa lai” (từ xứ xa đến): Ví như
sanh tử bao nhiêu đại kiếp kể từ vô thỉ
đến nay, thiếu sót tư lương ba thiện
căn đă lâu, có thể biết là bụng rỗng, sức
ṃn! Lại mang vác gánh nặng Ngũ Ấm nặng hơn
trăm cân. Đấy là nói chẳng biết pháp Ngũ Ấm
vốn là Không, lầm lạc so đo “ta, người”, tạo
đủ Thập Ác. Mỗi thứ đều trọn đủ
như gánh nặng trăm cân. Chuyện này giống hệt
như bản thân người sắp mạng chung chẳng
có thiện căn. Từ chữ “hốt ngộ” (bỗng
gặp) trở đi, ứng với câu “xét theo nghiệp
của kẻ đó”, “lân nhân” (kẻ hàng xóm) ứng
với quyến thuộc. “Thấu hiểu tâm” là thân hữu.
Không thấu hiểu tâm th́ là “lân nhân”. “Cánh phụ thiểu
vật” (nhờ mang thêm chút vật), ví như lâm chung, [quyến
thuộc] lại c̣n sát hại. “Chuyển phục khốn
trọng” (trở thành khốn khổ, nặng nề hơn):
Ứng với chuyện càng tăng thêm nghiệp.
3.2.3.1.2.2.1.3. Kết hiển tu
thiện đa thiểu tự đắc (tiểu kết và chỉ
rơ tu thiện nhiều hay ít th́ chính ḿnh đều tự đạt
được)
(Kinh)
Thế Tôn! Ngă quán Diêm Phù chúng sanh, đản năng ư chư
Phật giáo trung, năi chí thiện sự, nhất mao, nhất
đế, nhất sa, nhất trần, như thị lợi
ích, tất giai tự đắc.
(經)世尊‧我觀閻浮眾生‧但能於諸佛教中‧乃至善事‧一毛一渧‧一沙一塵‧如是利益悉皆自得。
(Kinh:
Bạch đức Thế Tôn! Con thấy chúng sanh Diêm Phù chỉ
có thể ở trong giáo pháp của chư Phật mà làm thiện
sự, dẫu chỉ bằng một mảy lông, một giọt
nước, một hạt cát, một hạt bụi, sẽ
đều tự đạt được lợi ích như
thế).
Đây là
nói tu tập thiện sự trong Phật pháp, dẫu chỉ
bằng một sợi lông, một giọt nước v.v…
cũng đều tự đạt được lợi
ích. Kinh Đại Bi dạy: “Nhược hữu chúng sanh,
ư chư Phật sở, nhất phát tín tâm, như thị
thiện căn, chung bất bại vong. Như nhân tích nhất
mao vi bách phần, thủ nhất phần mao, triêm nhất
trích thủy, tŕ kư ngă sở, ngôn ‘mạc linh thử thủy
nhi hữu tăng giảm’. Như Lai tức thọ bỉ
kư, trí Hằng hà trung. Như thị thủy trích bất
tăng, bất giảm, cộng đại thủy tụ,
tiệm nhập đại hải. Giả sử thị nhân
trụ thế nhất kiếp, ngă diệc đắc trụ
nhất kiếp. Bỉ nhân chí kiếp tận thời, nhi
lai ngă sở, tác như thị ngôn: ‘Ngă bổn kư thủy,
kim hữu vô da?’ Như Lai nhĩ thời, tri bỉ thủy
trích tại đại hải trung, kiến tri trụ xứ,
bất tăng, bất giảm, b́nh đẳng như cố,
tŕ hoàn bỉ nhân. A Nan! Như Lai hữu đại thần
thông, ư thọ kư nhân trung tối tôn, tối thắng. Nhược
ư Phật sở kư phó như thị vi tế thủy trích,
kinh ư cửu viễn, nhi bất khuy tổn. Tế mao, dụ
tâm ư thức. Hằng hà, dụ sanh tử lưu. Nhất trích
thủy, dụ nhất phát tâm vi thiểu thiện căn. Đại
hải dụ Như Lai. Sở kư nhân dụ thanh tín đẳng.
Trụ nhất kiếp, dụ Như Lai thọ bỉ kư thủy,
chung bất khuy tổn. Như thị A Nan! Nhược ư
Phật sở, nhất phát tín tâm, thiện căn bất thất.
Hà huống chư dư thắng diệu thiện căn? Ngă
thuyết thị nhân, nhất thiết tất thị thú Niết
Bàn quả” (Nếu có chúng sanh ở nơi chư Phật
vừa phát tín tâm, thiện căn như thế trọn chẳng
hư mất. Như người chẻ một sợi lông
làm trăm phần; lấy một phần lông ấy, thấm
một giọt nước, cầm đến gởi ta, nói
“đừng để cho lượng nước này có tăng
hay giảm”. Như Lai liền nhận lấy, đặt nó
trong sông Hằng. Giọt nước như thế chẳng
tăng, chẳng giảm, ở chung với lượng nước
to [của sông Hằng], dần dần vào trong biển cả.
Giả sử người ấy sống một kiếp, ta
cũng trụ thế một kiếp. Người ấy cho
đến khi kiếp tận, đến chỗ ta, nói như
thế này: “Nước tôi vốn gởi đó, nay có hay không?”
Lúc bấy giờ, Như Lai biết giọt nước ấy
ở trong biển cả, biết chỗ ở của nó, chẳng
tăng, chẳng giảm, b́nh đẳng như cũ, đem
trả cho người ấy. Này A Nan! Như Lai có đại
thần thông, là bậc tối tôn tối thắng trong những
người nhận lời gởi gắm. Nếu ở nơi
Phật, gởi gắm giọt nước vi tế như
thế, trải qua thời gian lâu xa mà chẳng hao hụt. Sợi
lông nhỏ ví như tâm ư thức. Sông Hằng ví như gịng sanh
tử. Một giọt nước ví như thiện căn
phát tâm nhỏ bé. Biển cả ví như Như Lai. Người
gởi gắm ví như hàng thanh tín nam, nữ. Trụ một
kiếp ví như Như Lai nhận nước gởi gắm
ấy, trọn chẳng hao hụt. Như thế đó A
Nan, nếu phát tín tâm nơi Phật, thiện căn chẳng
mất. Huống hồ các thiện căn thù thắng nhiệm
mầu khác! Ta nói người ấy hết thảy đều
hướng đến quả Niết Bàn).
3.2.3.1.2.2.2. Đại Biện
trợ hiển (trưởng giả Đại
Biện giúp hiển thị giáo pháp)
3.2.3.1.2.2.2.1. Đại Biện
hưng vấn (Đại Biện nêu câu hỏi)
(Kinh)
Thuyết thị ngữ thời, hội trung hữu nhất
trưởng giả, danh viết Đại Biện. Thị
trưởng giả cửu chứng Vô Sanh, hóa độ thập
phương, hiện trưởng giả thân.
(經)說是語時‧會中有一長者‧名曰大辯。是長者久證無生‧化度十方‧現長者身。
(Kinh:
Khi nói lời ấy, trong hội có một vị trưởng
giả, tên là Đại Biện. Vị trưởng giả
này chứng Vô Sanh từ lâu, hóa độ mười phương,
hiện thân trưởng giả).
Trước
hết, người trùng tuyên kinh trần thuật lời tán
thán, kế đó là trưởng giả thưa hỏi. “Trưởng
giả” (Śresthin) như trong phần trước
đă giải thích. Chữ Bát Để Bà (Vākpaṭutva)
trong tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Biện Tài.
Biện (辯) là nói. Xoay chuyển không
vướng mắc, biện định rơ ràng, cho nên nói là “biện
tài vô ngại”. Có bốn loại: Một là Nghĩa, hai là
Pháp, ba là Từ, bốn là Nhạo Thuyết. Trưởng
giả trọn đủ bốn đức ấy, nên tên là
Đại Biện. Biện mà nói là Đại th́ là: Từ
trong một nghĩa mà diễn giải vô lượng nghĩa,
từ trong một pháp diễn thành vô lượng pháp, từ
trong một từ ngữ diễn thành vô lượng từ
ngữ, cho đến tột cùng đời vị lai thích
nói ba pháp môn này, cho nên có danh xưng tốt lành ấy. Đây
là nêu danh, kế tiếp là ca ngợi phẩm đức. “Cửu
chứng Vô Sanh” (chứng Vô Sanh đă lâu): “Vô” nghĩa
là không. Thường nói là các pháp chẳng sanh, Bát Nhă chẳng
sanh, “bất sanh” chẳng sanh, th́ gọi là Đại
Niết Bàn. Vị này đă chứng đắc Niết Bàn
như thế từ lâu. Địa vị cao rộng, thuộc
hàng Đẳng Giác, v́ muốn hóa độ mười phương,
cho nên hiện thân trưởng giả.
(Kinh)
Hiệp chưởng cung kính, vấn Địa Tạng Bồ
Tát ngôn: “Đại sĩ! Thị Nam Diêm Phù Đề chúng sanh
mạng chung chi hậu, tiểu đại quyến thuộc
vị tu công đức, năi chí thiết trai, tạo chúng thiện
nhân”.
(經)合掌恭敬‧問地藏菩薩言‧大士‧是南閻浮提眾生命終之後‧小大眷屬為修功德‧乃至設齋‧造眾善因。
(Kinh:
Chắp tay, cung kính, hỏi Địa Tạng Bồ Tát rằng:
“Thưa đại sĩ! Chúng sanh
trong cơi Nam Diêm Phù Đề này sau khi mạng chung, các quyến
thuộc lớn nhỏ v́ người ấy tu các công đức,
cho đến sắp đặt cỗ chay, tạo các nhân lành”).
Trong lời
hỏi, [ông Đại Biện hỏi] “thị Nam Diêm Phù
Đề” (cơi Nam Diêm Phù Đề này) v́ phần kinh
văn trước đó đă nói cặn kẽ: Khi lâm chung
và sau khi đă mất, hăy nên tu phước, cho nên ông dùng
ngay ư ấy để hỏi. “Công đức” là những
việc như treo phan v.v… “Thiết trai” (sắp đặt
cỗ chay) tức là dâng cơm cho chư Tăng. “Thiện
nhân” (nhân lành) là như bố thí, tạo tượng v.v…
(Kinh)
Thị mạng chung nhân, đắc đại lợi ích, cập
giải thoát phủ?
(經)是命終人‧得大利益‧及解脫不。
(Kinh:
Người mạng chung có được lợi ích to lớn
và giải thoát hay chăng?)
Từ “mạng
chung” trở đi là phần
nghi vấn
chánh yếu. “Mạng” [theo
quan niệm thông thường của Nho gia và Đạo giáo]
là “sự tốt lành do trời ban”, là cội rễ tự
nhiên nơi tánh, người học cần phải nắm
vững. Khí chất bẩm thọ từ trời, cũng được
gọi là Mạng. Do “trong, đục, dầy,
mỏng” sai khác, mà “trí, ngu, hiền,
chẳng ra ǵ” tách biệt. Khí số (vận mạng) nơi
trời cũng gọi là Mạng. Hễ cái ǵ có sanh th́ “thọ,
yểu, giàu, nghèo, sang, hèn” đều đă định sẵn.
Đấy đều là những ư nghĩa vay mượn của
Mạng. Vua hạ lệnh cũng gọi là Mạng. Chữ
Mạng (命) được ghép từ
chữ Lệnh (令) và Khẩu (口), thuộc loại Hội
Ư. Vua được tôn trọng như trời, vạn vật
nghe theo mạng trời, vạn sự tuân theo lệnh vua. V́
thế nói là Mạng. Do vậy, Châu Văn Công nói: “Mạng
giống như lệnh”. Đấy là những ư nghĩa
tinh diệu về Mạng trong đạo Nho.
Nhưng họ
chẳng biết cội nguồn của Mạng chính là do nhân
duyên của nghiệp từ đời trước. Khi
Trung Hữu (Trung Ấm) nương gá vào thai, thức thứ
tám gieo vào trong ấy, mỗi hơi thở đều theo mẹ
hít ra thở vào, vận mạng được thành lập
ngay trong lúc đó. Do vậy, hễ thức c̣n nương gá
th́ thân c̣n tồn tại, mạng ở trong ấy. Cho nên nói
“sắc và tâm duy tŕ lẫn nhau chẳng dứt th́ gọi
là Mạng”. Nếu một hơi thở không hít vào được
nữa, sắc chất hư nát, hồn thần sẽ rời
đi, gọi là “mạng chung”. Như vậy th́ Sanh chẳng
phải là do mạng trời mà sanh, kết thúc cũng chẳng
do trời đoạt mà chấm dứt; mà là “duyên hội
tụ bèn sanh, duyên hết bèn chết”. “Tạo” là tạo
tác. Phàm làm các thiện sự, ắt phải cậy vào bảy
chi nơi thân và miệng để tạo tác, lo toan, nhưng
ắt cần phải do cái tâm dấy lên. “Được
lợi ích và giải thoát” tức là [thắc mắc] người
nơi dương trần tu phước, có thể khiến
cho người chết thật sự đạt được
lợi ích, giải thoát sanh tử hay không? Hay là chẳng được
lợi ích, mà cũng chẳng thoát khỏi sanh tử?
3.2.3.1.2.2.2.2. Địa Tạng
thùy đáp (ngài Địa Tạng rủ ḷng trả lời)
3.2.3.1.2.2.2.2.1. Hứa thuyết
(hứa
nói)
(Kinh)
Địa Tạng đáp ngôn: “Trưởng giả! Ngă kim
vị vị lai, hiện tại nhất thiết chúng sanh,
thừa Phật oai lực, lược thuyết thị sự”.
(經)地藏答言‧長者‧我今為未來現在一切眾生‧承佛威力‧略說是事。
(Kinh:
Ngài Địa Tạng đáp rằng: “Này trưởng giả!
Tôi nay v́ hết thảy chúng sanh trong đời vị lai và
hiện tại, nương theo oai lực của Phật mà
nói đại lược chuyện ấy”).
Ư nghĩa
dễ hiểu.
3.2.3.1.2.2.2.2.2. Đáp thị (trả lời, chỉ
dạy)
3.2.3.1.2.2.2.2.2.1. Lâm chung văn
danh tất thoát (lâm chung nghe danh hiệu [chư Phật, Bồ Tát, Bích Chi Phật] đều được
giải thoát)
(Kinh)
Trưởng giả! Vị lai, hiện tại
chư chúng sanh đẳng, lâm mạng chung nhật, đắc
văn nhất Phật danh, nhất Bồ Tát danh, nhất Bích
Chi Phật danh, bất vấn hữu tội, vô tội, tất
đắc giải thoát.
(經)長者‧未來現在諸眾生等‧臨命終日‧得聞一佛名‧一菩薩名‧一辟支佛名‧不問有罪無罪‧悉得解脫。
(Kinh:
Này trưởng giả! Các chúng sanh trong đời vị
lai và hiện tại, vào ngày sắp mạng chung, được
nghe danh hiệu của một vị Phật, một vị
Bồ Tát, hoặc một vị Bích Chi Phật, chẳng cần
biết là có tội hay vô tội, đều được
giải thoát).
Đă nói
“lâm chung được nghe”, có thể biết là người
ấy lúc thường nhật không niệm. Đă nói “văn
nhất danh” (được nghe một danh hiệu), chẳng
nói đến những chuyện khác, th́ lại có thể biết
[người ấy vốn chẳng nghe Phật pháp]. Nhưng
chẳng luận có tội hay vô tội, đều được giải
thoát; v́ sao công lực
lại thần diệu dường ấy? Ấy là v́ sự
cấp bách mà tâm chuyên chú. Như người bị đưa
đi tử h́nh, hoặc bị giam chặt trong lao ngục,
hoặc bị oán tặc truy bắt, hoặc bị nước
lửa bức bách, một ḷng cầu thoát khỏi nỗi khổ
ấy; cho nên chỗ mong tưởng liền thành tựu.
Niệm vào lúc b́nh thường th́ lời nói và hành vi không tương
xứng, hoặc tín lực nhẹ, ít, tâm chẳng liên tục,
ư có gián đoạn. V́ thế, công phu thường nhật đâm
ra lơi là, c̣n ư niệm lúc lâm chung chóng thành tựu. Như
trước kia, quốc vương hỏi sa-môn Na Tiên (Nāgasenā) rằng: “Người trong thế
gian làm ác, tới lúc trăm tuổi, lâm chung niệm Phật.
Sau khi chết, được sanh về nước Phật,
ta không tin lời ấy!” Ngài Na Tiên nói: “Như chất một
trăm khối đá to lên thuyền, nhờ thuyền nên đá
chẳng bị ch́m. Người tuy vốn ác, niệm Phật
nhất thời, chẳng vào trong Nê Lê. Đá nhỏ bị
ch́m, như người làm ác, chẳng biết niệm Phật,
liền vào Nê Lê”. Há chẳng phải là do sự cấp bách, tâm chuyên, cho nên công năng vượt xa lúc b́nh thường
ư? Như người vào trận, chẳng tiếc thân mạng,
th́ được gọi là “kiện nhân” (健人, người mạnh mẽ).
V́ thế biết thiện, ác không nhất định, bản
thể của nhân duyên là Không. Xét theo h́nh tích th́ có thăng,
trầm, nh́n theo Sự bèn có hơn, kém. Một lạng vàng
quư hơn trăm lượng bông g̣n. Ánh sáng yếu ớt của
một bó đuốc, hơn hẳn cỏ chất cao vạn
nhận[4]. Hăy
xem chuyện lâm chung của ông Trương Chung (tức Trương
Thiện Ḥa, c̣n có tên là Quỳ), liền tin lời giải
thoát như kinh này đă dạy!
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2. Thị chung hậu
tạo phước hoạch nhất (dạy sau khi đă mất mà tạo
phước th́ người chết hưởng một phần)
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.1. Lược
minh (nêu đại
lược)
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.1.1. Trực minh
chung hậu hoạch nhất (nói thẳng: Sau khi mất, người chết
hưởng một phần phước)
(Kinh) Nhược hữu
nam tử, nữ nhân, tại sanh bất tu thiện nhân, đa
tạo chúng tội. Mạng chung chi hậu, quyến thuộc
tiểu, đại, vị tạo phước lợi. Nhất
thiết thánh sự, thất phần chi trung, nhi năi hoạch
nhất. Lục phần công đức, sanh giả tự lợi.
(經)若有男子女人‧在生不修善因‧多造眾罪。命終之後‧眷屬小大‧為造福利。一切聖事‧七分之中‧而乃獲一。六分功德‧生者自利。
(Kinh: Nếu có nam
tử, nữ nhân, lúc sống chẳng tu nhân lành, tạo nhiều
các tội. Sau khi mạng chung, quyến thuộc lớn nhỏ
v́ người ấy tạo phước để làm lợi.
Trong hết thảy các thánh sự, bảy phần th́ người
mất hưởng một phần, sáu phần công đức
người sống tự hưởng).
Đức
Phật v́ đại chúng thế tục thuyết pháp, ắt
trước hết sẽ bàn về giới, bàn về bố
thí, bàn về sanh thiên. Do Thí và Giới chính là thiện nhân để
sanh lên trời. Hiềm rằng hết thảy chúng sanh chẳng
hiểu “tất cả những
ǵ có trong thế gian rốt cuộc đều là không”, chẳng có ǵ cả! Lúc an ổn,
muôn sự vạn mối, chẳng v́ thân toan tính mà đă chuốc
lấy muôn tội. Ương họa ứng theo [nghiệp
nhân đă tạo] như tiếng vang ứng theo âm thanh, vô
thường đưa tới, trói buộc lôi theo, chẳng
ĺa tù ngục Ngũ Ấm, Lục Suy[5]. V́ thế nói
“bất tu thiện nhân, đa tạo chúng tội” (chẳng
tu nhân lành, tạo nhiều các tội). Từ “mạng
chung” trở đi, [chánh
kinh nói đến chuyện] v́ người đă mất tu
phước tạo lợi ích. Treo phan, bày lọng, thắp
đèn, đều là phước nghiệp. Hồi hướng
phước nghiệp ấy để giúp [người mất]
sanh lên trời hưởng phước, hoặc sanh vào chỗ
có phước trong nhân gian. V́ thế nói là “phước lợi”.
“Thánh sự”:
“Thánh” có nghĩa là Chánh. Tụng kinh, cúng dường tượng,
niệm Phật v.v… đều là những việc chánh đáng
trong pháp môn, có thể giúp xuất thế, đạt được
thánh quả trong tam thừa. V́ thế nói là “thánh sự”.
“Bảy phần được một” là [người
chết] được hưởng rất ít, nhưng chẳng
uổng phí công lao! Người sống tự được
hưởng sáu phần! V́ thế, kinh Văng Sanh dạy: “Vong
hậu tác phước, tử giả thất phần hoạch
nhất, dư giả thuộc hiện tại giả”
(Chết rồi làm phước th́ người chết được
một phần [công đức], những phần c̣n lại
thuộc về người c̣n sống). Hai kinh dạy giống
nhau.
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.1.2. Phản hiển
tự tu tất đắc (chỉ ngược lại: Tự
tu tập th́ [những công đức đă làm] đều đạt
được)
(Kinh)
Dĩ thị chi cố, vị lai, hiện tại thiện
nam nữ đẳng, văn kiện tự tu, phần phần
kỷ hoạch.
(經)以是之故‧未來現在善男女等‧聞健自修‧分分己獲。
(Kinh:
Do v́ lẽ ấy, các thiện nam thiện nữ trong vị
lai và hiện tại, [đang trong lúc] tai nghe thông tỏ, thân
thể mạnh mẽ, hăy tự tu th́ mỗi phần [công
đức, phước đức đă tu] chính ḿnh đều
được hưởng).
Nối
tiếp ư câu trên, nói ngược lại nhằm dạy rơ:
Nếu chính ḿnh tự tu th́ sẽ đạt được
toàn bộ lợi ích. “Văn kiện” (聞健) là trong lúc tai nghe thông tỏ,
thân thể mạnh mẽ. “Kiện” (健) là “kiến” (建, tạo dựng), hàm ư
có thể tạo dựng. Đây là khuyên mọi người
hăy tu hành thật sớm. Bởi lẽ, [theo kinh Dịch] Kiện
là phẩm đức của quẻ Càn, là tinh túy của thuần
dương. [Chữ Kiện (健)] do Nhân (人) và Kiến (建) ghép lại, tức là phỏng
theo đạo trời mà lập chí. Chí đă lập, khí sẽ
thuận theo. Kinh Dịch chép: “Thiên hành kiện, quân tử
dĩ tự cường bất tức” (đạo trời
vận hành mạnh mẽ, [do đó], quân tử cũng tự
phải không ngừng gắng sức trau luyện cho ḿnh tốt
đẹp hơn) là nói đến ư này. V́ thế, trong kinh
Tùy Nguyện Văng Sanh, Phổ Quảng Bồ Tát bạch cùng đức
Phật: “Nhược thiện nam nữ, vị chung chi thời,
nghịch tu sanh thất, nhiên đăng, huyền phan, thỉnh
tăng chuyển kinh, đắc phước đa phủ?”
(Nếu thiện nam nữ, lúc chưa mất, đă lo tu
sanh thất, [tức là] thắp đèn, treo phan, thỉnh tăng
đọc kinh [trong khi c̣n sống suốt bảy ngày] th́ có
được phước nhiều hay không?) Đức Phật
dạy: “Kỳ phước vô lượng” (Phước
ấy vô lượng). Bồ Tát lại hỏi: “Phụ
mẫu, thân tộc mạng chung thọ khổ, vị kỳ
tu phước, đắc phước đa phủ?” (Cha
mẹ, thân tộc mạng chung chịu khổ, v́ họ tu
phước, có được phước nhiều hay chăng?)
Đức Phật dạy: “Thất phần hoạch nhất,
duyên tiền sanh bất tín đạo đức cố. Nhược
dĩ vong giả nghiêm thân chi cụ, ốc trạch, viên lâm,
dĩ thí Tam Bảo, khả bạt địa ngục chi khổ”
(Bảy phần phước [th́ người chết] được
hưởng một phần, do họ lúc c̣n sống chẳng
tin theo đạo đức. Nếu dùng những món trang sức,
nhà cửa, vườn, rừng của người chết
để cúng thí Tam Bảo, sẽ có thể dẹp trừ
nỗi khổ trong địa ngục). Như trong Di Kiên Chí[6] có chép truyện
Vương Ôn ở Ngạc Chử gởi kho, sai đầy
tớ là Lư Đại viết rồi điểm chỉ. Tự
tu trong lúc tai nghe thông suốt, thân thể khỏe mạnh,
chớ nên không làm! Người đời có kẻ làm “sanh
thất” (cúng thất trong khi c̣n sống), có kẻ gởi
kho sẵn, đừng cho là chuyện vọng tưởng
của mấy bà già quê mùa, si dại, để rồi khinh
thường vậy!
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.2. Tường
thị (dạy cặn kẽ)
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.2.1. Thị vong nhân
vọng cứu (cho biết người đă
mất mong được cứu giúp)
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.2.1.1. Tội phước
vị định (tội phước chưa
quyết định)
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.2.1.1.1. Cầu cứu
chi ư (người
chết có ư mong được cứu)
(Kinh)
Vô thường đại quỷ, bất kỳ nhi đáo,
minh minh du thần, vị tri tội phước, thất thất
nhật nội, như si, như lung.
(經)無常大鬼‧不期而到。冥冥遊神‧未知罪福。七七日內‧如癡如聾。
(Kinh:
Quỷ lớn vô thường đến bất ngờ, hồn
thơ thẩn trong chốn tối tăm, chưa biết tội
phước. Trong bốn mươi chín ngày, như si, như
điếc).
Từ ngữ
Tát Ca Da Tát trong tiếng Phạn được cơi này dịch
là Vô Thường. Đại Luận nói: “Hết thảy
các pháp hữu vi đều thuộc về nhân duyên, luôn sanh
diệt đổi mới, cho nên nói là Vô Thường. Một
là vô thường v́ pháp liên tục hư hoại. Hai là vô thường
v́ sanh diệt trong mỗi niệm”. Tông Kính Lục chia [vô
thường] thành hai loại và bốn tướng:
- Một
là nói theo quả báo thô, tức sanh, lăo, bệnh, tử.
- Hai là nói
theo Hoặc Nghiệp vi tế, tức sanh, trụ, dị,
diệt.
Hai thứ
này giống như hai thứ vô thường trong Đại
Luận.
“Đại
quỷ”: Theo sách Hiếu Kinh Viện Thần Khế đă
nói, thần Thái Sơn là cháu nội của Thiên Đế,
chủ tŕ việc triệu hồn người (phủ Đông
Nhạc (Thái Sơn) có Thái Bảo chuyên trách truy nhiếp hồn
người sống là Ngạc nguyên soái, truy nhiếp hồn
người chết là Mạnh nguyên soái, Phong Đô Cửu
Khúc truy hồn trảm
quỷ Vi nguyên
soái. Do vậy, kinh Thanh Linh nói: “Người và vật chết
rồi, đều có hồn”. Như Minh Báo Kư chép Lư Sơn
Long ở Phùng Dực giữ chức Hiệu Úy đời Đường.
Trong niên hiệu Vũ Đức[7], bỗng chết
đột ngột, nhưng tim chẳng lạnh, nên người
nhà chưa khâm liệm. Bảy ngày sau, ông ta sống lại, tự nói ḿnh
bị cơi âm bắt đi. Ông được dẫn tới
trước bệ của nhà vua (Diêm vương), vua truyền
ông hăy lên ṭa tụng kinh Pháp Hoa. Sơn Long vừa tụng tựa
đề kinh, một ngàn người cùng tội nhờ phước
ấy mà đều thoát tội. Vua sai sứ đưa về.
Có ba người nói với Sơn Long: “Vua đă thả ngài,
có thể cho chúng tôi chút ít được hay không?” Họ nói:
“Sứ giả đi bắt ngài khi trước th́ một là
Thằng Chủ (người quản lư dây trói), dùng dây đỏ
trói ngài. Một là Bổng Chủ, dùng gậy đánh vào đầu
ngài. Người nữa là Đại Chủ, dùng cái đăy
thâu hơi thở của ngài. Nay thấy ngài được trở về,
cho nên xin lại những vật ấy”).
V́ thế,
kinh Hoa Nghiêm dạy: “Nhân dục chung thời, kiến
Trung Ấm tướng, nhược hành ác nghiệp giả,
kiến Diêm La tŕ chư binh trượng, tù chấp
tương khứ” (người sắp lâm chung, thấy
tướng Trung Ấm. Nếu là kẻ làm ác, sẽ thấy
Diêm La cầm các vũ khí, bắt giữ lôi đi). V́ thế
nói là “vô thường đại quỷ”. Kinh Chánh Pháp
Niệm Xứ nói: “Hữu ư thai trung tử, hữu
sanh thời mạng chung, hữu tài hành tiện vong, hữu
năng tẩu hốt tốt” (Có kẻ chết trong thai,
có kẻ sanh ra liền chết, có kẻ vừa mới biết
đi liền chết. Có kẻ đă đi được
bỗng chết). V́ thế nói “bất kỳ nhi đáo”
(bất ngờ mà đến). Nội Đức Luận[8] viết: “Trăm
tuổi dễ hết, năm phước khó thường
hằng. Gịng sông mạng trôi như ánh chớp qua đi. Đất
nghiệp lâu dài như trời cao” là nói về ư này!
“Thần”
(thần thức, thần hồn): Đại Luận nói: “Phàm
phu do nhớ nghĩ, phân biệt, tùy theo cái tâm ta chấp tướng,
cho nên so đo là có thần thức, tức Trung Ấm Thân”.
Như vị trời tên là Lục Huyền Sướng đă
nói [với ngài Đạo Tuyên luật sư]: “Con người
bẩm thọ bảy thức, mỗi thức đều có
thần, tâm thức làm chủ. Trong chốn tối tăm,
du hành trong hư không, đó gọi là tam đồ tột bậc
truân chiên, mù mịt. Bốn gịng mênh mông không ngằn mé”.
V́ thế nói là “minh minh du thần” (thần hồn
thơ thẩn trong chỗ tối tăm). “Tội phước”
tức là Thập Ác, Thập Thiện. Hồn thần đă
chẳng biết chính ḿnh tội phước như thế
nào, cho nên trong bốn mươi chín ngày như si cuồng,
vô tri, như kẻ tai điếc chẳng nghe. Đấy
là lúc mới chết.
(Kinh)
Hoặc tại chư ty, biện luận nghiệp quả.
Thẩm định chi hậu, cứ nghiệp thọ sanh.
Vị trắc chi gian, thiên vạn sầu khổ, hà huống đọa ư
chư ác thú đẳng.
(經)或在諸司‧辯論業果。審定之後‧據業受生。未測之間‧千萬愁苦。何況墮於諸惡趣等。
(Kinh:
Hoặc ở tại các ty, biện luận nghiệp quả.
Sau khi thẩm định, căn cứ theo nghiệp mà thọ
sanh. Trong khi chưa quyết định, đă là ngàn vạn
sầu khổ; huống hồ khi đọa vào các đường
ác).
Từ “hoặc
tại” (hoặc ở trong) trở đi, nói đến
sự tra xét sau khi chết. Theo Đạo Tạng, “chư
ty” có nhiếp phách, truy hồn, tróc sanh (bắt kẻ sống),
lạc tử (bắt người chết), thưởng
thiện, phạt ác, sát quá (phán xét lỗi lầm), củ
phi (uốn nắn những sai trái). Hiển Ứng Thái Bảo
Nhiếp Hồn thuộc Nhạc phủ (Đông Nhạc phủ
của thần núi Hoa Sơn, tức Đông Nhạc Đế
Quân) là Châu Tướng Quân. Cũng có phán quan lo việc tróc
nă, áp tải, truy án, có các
vị án chủ trông coi việc quản thúc, bắt giữ
tội nhân đối chiếu với các chứng cớ. Theo kinh Tịnh Độ
Tam Muội, dưới vua Diêm La có năm vị quan. Một
là Tiễn Quan cấm sát, hai là Thủy Quan cấm đạo
(nghiêm cấm trộm cắp), ba là Thiết Quan cấm dâm,
bốn là Thổ Quan cấm lưỡng thiệt, năm là
Thiên Quan cấm rượu. Đấy đều là các ty
trong cơi âm.
“Biện
luận nghiệp quả”: Thiện ác mỗi loại đều
có ba phẩm. Khi tạo th́ tâm cảnh khác nhau, tùy theo từng
việc đă làm mà nhận được quả báo. Trời
chẳng phán định oan uổng quá mức, b́nh đẳng,
chánh trực bất nhị. Dựa theo việc đă làm mà
mà lưới trời xử trị. V́ thế, cần phải
biện luận. Nếu sau khi thẩm định, căn cứ
theo nghiệp mà thọ sanh, như Luận nói: “Hết thảy
những điều bất thiện đều là cái nhân của
địa ngục. Ngoài những điều bất thiện
ấy, sanh vào súc sanh, ngạ quỷ v.v…” Theo Minh Tường
Kư, Triệu Thái sau khi chết, được phủ quân (Đông
Nhạc Đế Quân) sai làm Thủy Quan Đô Đốc
trông coi các chuyện trong địa ngục. Ông ta thấy một
cái thành vuông vắn hơn
hai trăm dặm, gọi là Thọ Biến H́nh Thành (thành thọ
thân biến h́nh). Những kẻ đă chịu tra khảo,
trừng trị trong địa ngục xong, sẽ ở
trong thành này chịu quả báo biến đổi. Triệu
Thái vào trong thành ấy, thấy mấy trăm nha lại thuộc
các ty cục đang so sánh đối chiếu văn thư,
nói kẻ sát sanh sẽ làm con phù du, sáng sanh, tối chết. Kẻ trộm
cướp sẽ làm lợn, dê, bị người ta mổ,
xẻ. Kẻ dâm dật sẽ làm chim hạc, c̣, cheo, hoẵng.
Kẻ nói đôi chiều, sẽ làm diều, cú vọ, cú mèo.
Kẻ trốn nợ sẽ làm lừa, la, trâu, ngựa. V́
thế nói là “cứ nghiệp thọ sanh” (căn cứ
theo nghiệp mà thọ sanh).
Theo kinh Chánh
Pháp Niệm Xứ và luận Câu Xá, đúng là do tội nhân v́
ác nghiệp hun đúc cái tâm, khiến cho tâm đổi khác,
từ trong Không mà lầm lạc thấy có. Thật ra không
có Diêm La trong ấy phán xét các tội nhân; nhưng đă do nghiệp huân tập,
liền hư vọng thấy những cảnh ấy, tội
nhân cho là thật, chẳng hư huyễn. V́ thế, sau khi người
ấy mới chết, trước lúc thẩm định,
chẳng suy lường được tội phước
của chính ḿnh nhiều ít ra sao, đă ngàn muôn lo lắng, ưu
sầu, khổ sở lắm nỗi, đă là chẳng thể
nói nổi! Huống hồ đọa vào các đường
ác, nỗi khổ sở ấy càng quá hơn nữa!
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.2.1.1.2. Cầu cứu
chi thời (đấy là lúc cầu cứu)
(Kinh)
Thị mạng chung nhân, vị đắc thọ sanh, tại
thất thất nhật nội, niệm niệm chi gian, vọng
chư cốt nhục quyến thuộc, dữ tạo phước
lực cứu bạt.
(經)是命終人‧未得受生‧在七七日內‧念念之間‧望諸骨肉眷屬‧與造福力救拔。
(Kinh:
Người mạng chung ấy chưa được thọ
sanh, trong ṿng bốn mươi chín ngày, trong mỗi niệm
đều mong ngóng các quyến thuộc ruột thịt giúp
tạo phước lực để cứu vớt).
Sách Phật
Tổ Thống Kỷ nói cúng trai trong bốn mươi chín
ngày. Du Già Sư Địa Luận nói người chết đi,
thân Trung Hữu nếu chưa có duyên được thọ
sanh, sẽ tồn tại nhiều nhất là bảy ngày bèn
chết đi, rồi lại sanh. Lần lượt sống
chết như thế cho tới bốn mươi chín ngày,
quyết định được thọ sanh. Nếu có duyên
để thọ sanh [sớm hơn] th́
không nhất định. Kinh nói những kẻ cực thiện
hoặc cực ác, không có thân Trung Hữu (Trung Hữu (Antarābhava) c̣n gọi là Trung
Ấm. Cực thiện liền sanh Tịnh Độ, kém hơn
th́ sanh làm trời, người. Cực ác liền đọa
địa ngục ngay trong ngày tử vong, không trải qua giai
đoạn Trung Ấm). Sách lại dẫn Thích Thị
Yếu Lăm[9]
nói: Nay người đă chết, cứ mỗi bảy ngày, ắt phải sắp đặt
cỗ chay làm phước truy tiến, gọi là “trai thất”,
khiến cho Trung Hữu có chủng tử, chẳng chuyển
sanh vào đường ác. Nay người đời trong bốn
mươi chín ngày làm công đức, chính là để an ủi
ḷng mong mỏi được cứu vớt của người
đă mất.
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.2.1.2. Thẩm định
thọ báo (thẩm định, hứng
chịu báo ứng)
(Kinh)
Quá thị nhật hậu, tùy nghiệp thọ báo. Nhược
thị tội nhân, động kinh thiên bách tuế trung, vô
giải thoát nhật. Nhược thị Ngũ Vô Gián tội,
đọa đại địa ngục, thiên kiếp, vạn
kiếp, vĩnh thọ chúng khổ.
(經)過是日後‧隨業受報。若是罪人‧動經千百歲中‧無解脫日。若是五無間罪‧墮大地獄‧千劫萬劫‧永受眾苦。
(Kinh:
Sau ngày ấy, sẽ theo nghiệp thọ báo. Nếu là tội
nhân, sẽ trải qua trăm ngàn năm, chẳng có ngày giải
thoát. Nếu là tội Ngũ Vô Gián, đọa trong đại
địa ngục ngàn kiếp, vạn kiếp, hứng chịu
các khổ măi măi).
“Theo
nghiệp thọ báo”: Nhân quả chẳng mất. Sách Pháp
Uyển Châu Lâm nói: “Có h́nh sẽ hiện bóng; có âm thanh, ắt
có tiếng vang. Chẳng thấy h́nh c̣n mà bóng mất, [chẳng thấy] âm thanh vẫn tiếp tục
mà tiếng vọng lặng câm! Thiện ác báo đền là
lẽ đương nhiên. Mong hăy tin sâu, đừng suy đoán
đến nỗi lỡ làng!” Theo kinh, có hiện báo,
sanh báo, và hậu báo khác nhau. Trong kinh Trường A Hàm quyển
sáu, đức Phật dạy: “Phù bất thiện hạnh,
hữu bất thiện báo, vi hắc minh hạnh, tắc hữu
hắc minh báo. Phù hành thiện pháp, tất hữu thiện
báo. Hành thanh bạch hạnh, tất hữu bạch báo” (Phàm
là do hạnh bất thiện, sẽ có quả báo bất thiện.
Làm hạnh tối tăm, sẽ có quả báo tối tăm.
Phàm làm thiện pháp, ắt có thiện báo. Làm hạnh trắng
sạch, ắt có quả báo trắng sạch). Các tội nhân
ấy sẽ thọ quả báo tối đen. Những kẻ
thuộc trung hạ phẩm sẽ đọa trong biên tiểu
địa ngục (các địa ngục nhỏ và phụ),
ngạ quỷ, súc sanh, xoay vần trong tam đồ. Cho nên trải
qua trăm ngàn năm, chẳng có ngày giải thoát! Tội Ngũ
Vô Gián chính là thượng phẩm Thập Ác, cho nên vĩnh
viễn chẳng có lúc thoát ra. Kinh Tứ Thỉ nói: “Thân hạnh
bất thiện, khẩu hạnh bất thiện, ư hạnh
bất thiện, thân hoại mạng chung, cực thọ khổ
báo” (Thân hạnh bất thiện, khẩu hạnh bất
thiện, ư hạnh bất thiện, thân hoại, mạng
chung, chịu khổ báo cùng cực) là nói về chuyện này!
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.2.2. Khuyến quyến
thuộc tu trai (khuyên quyến thuộc làm chay
cúng dường Tam Bảo)
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.2.2.1. Thị doanh
trai pháp (dạy cách chuẩn bị cỗ chay)
(Kinh)
Phục thứ trưởng giả! Như thị tội
nghiệp chúng sanh, mạng chung chi hậu, quyến thuộc
cốt nhục vị tu doanh trai, tư trợ nghiệp đạo.
Vị trai thực cánh, cập doanh trai chi thứ, mễ cam,
thái diệp, bất khí ư địa. Năi chí chư thực,
vị hiến Phật, Tăng, vật đắc tiên thực.
(經)復次長者‧如是罪業眾生命終之後‧眷屬骨肉為修營齋‧資助業道。未齋食竟‧及營齋之次‧米泔菜葉不棄於地。乃至諸食‧未獻佛僧‧勿得先食。
(Kinh:
Lại này ông trưởng giả! Chúng sanh tội nghiệp
như thế, sau khi mạng chung, quyến thuộc cốt
nhục v́ người ấy sắp đặt cơm chay cúng
dường, để giúp cho nghiệp đạo của người
đó. Lúc chư tăng chưa thọ trai xong, và sau khi nấu
xong cỗ chay, nước gạo, lá rau, đừng vứt
bỏ nơi đất. Thậm chí các món ăn nếu chưa
dâng lên Phật và Tăng, đừng nên ăn trước).
Đầu
tiên là khuyên nên làm cỗ chay dâng cúng [Tam Bảo]. Đấy là nói rơ dâng cơm lên Tam Bảo,
chẳng phải là “không ăn quá Ngọ th́ gọi là Trai”.
Nước gạo, lá rau đừng vứt bỏ nơi đất,
hăy nên chứa trong đồ đựng. Sau khi cúng trai tăng
xong, sẽ thí cho súc sanh. Theo Phật Thuyết Hộ Tịnh
Kinh, cần phải giữ cho tay sạch sẽ khi vo gạo,
rửa rau, cũng đừng nên dùng tay bất tịnh chạm
vào đồ ăn thanh tịnh. “Vị hiến” (lúc
chưa dâng cúng) là dạy về cách trai tăng. Đại
Luận dẫn kinh nói: Phật là thân kim cang, không cần phải
ăn uống, nhưng v́ độ chúng sanh, hiện có ăn
uống, chứ Ngài thật sự không ăn. Dâng thức ăn
lên Phật, mà Phật chưa dùng, người khác sẽ chẳng
thể tiêu. V́ thế, chưa dâng cúng lên Phật, Tăng, đừng
ăn trước! Kinh Hộ Tịnh nói: “Nhất thiết
hiền giả thí thiết phước hội, ư tiên thường
xuyết, thử thực đô tác tàn thực. Đường
tác thử hội, bất như bất tác. Hà cố? Chư
thiên bất hoan, quỷ thần bất hỷ. Thử nhân ư
tiên thường giả, ngũ bách thế trung, thọ ngạ
quỷ khổ, cố giới đoạn vật tiên thực
dă” (Hết thảy các vị hiền giả làm pháp hội
trai tăng cầu phước, mà ăn hoặc nếm đồ
ăn trước, những món ăn ấy đều thành
đồ thừa. Uổng công làm pháp hội ấy, chẳng
bằng không làm. V́ sao vậy? Chư thiên chẳng vui, quỷ
thần chẳng mừng. Người nếm trước ấy
sẽ trong năm trăm đời chịu khổ làm ngạ
quỷ. V́ thế, răn dạy đừng ăn trước).
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.2.2.2. Minh cúng dường
lực (nói về sức cúng dường)
(Kinh)
Như hữu vi thực, cập bất tinh cần, thị
mạng chung nhân, liễu bất đắc lực. Như
tinh cần hộ tịnh, phụng hiến Phật, Tăng,
thị mạng chung nhân, thất phần hoạch nhất.
(經)如有違食‧及不精勤‧是命終人‧了不得力。如精勤護淨‧奉獻佛僧。是命終人‧七分獲一。
(Kinh:
Nếu ăn trái phép, và chẳng tinh sạch, siêng gắng,
người mạng chung ấy trọn chẳng nhờ cậy
được. Nếu chuyên ṛng, siêng gắng, giữ ǵn sạch
sẽ, dâng cúng Phật, Tăng, người mạng chung ấy
sẽ được hưởng một phần bảy công
đức).
Trước
hết là nói [cách sắp đặt, chuẩn bị trai tăng]
không đúng pháp; kế đến là nói về chuyện có
thể làm đúng pháp. “Tinh cần hộ tịnh” (siêng
gắng, tinh ṛng giữ cho thanh
tịnh): Kinh dạy: “Chư hữu thiết thực chi
xứ, nhất thiết như pháp tác trai phạn, bất
khả bất thận. Tự kim dĩ hậu, dục
đắc phước giả, như pháp tác trai thực, khả
đắc phước đức. Chư thiên hoan hỷ, bách
thần khánh duyệt, thiên thần ủng hộ, kinh bất
hư ngôn, phước báo như ảnh hưởng” (Ở
các nơi có sắp đặt thức ăn [để cúng
dường Tam Bảo], hết thảy đều theo đúng
pháp để cúng dường cơm chay, chớ nên không cẩn
thận. Từ nay trở đi, những ai muốn được
phước, hăy theo đúng pháp để chuẩn bị thức
ăn, sẽ đạt được phước đức.
Chư thiên hoan hỷ, trăm thần vui mừng, thiên thần
ủng hộ, kinh chẳng nói lời hư dối, phân biệt
như bóng theo h́nh, như tiếng vọng theo âm thanh). Kinh văn
đă dạy rơ như thế, tiếc là người đời
chẳng biết tin tưởng!
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.2.2.3. Kết tồn
vong ích (tổng kết về sự ích lợi cho kẻ
c̣n, người mất)
(Kinh)
Thị cố trưởng giả! Diêm Phù chúng sanh, nhược
năng vị kỳ phụ mẫu, năi chí quyến thuộc
mạng chung chi hậu, thiết trai cúng dường, chí tâm
cần khẩn. Như thị chi nhân, tồn vong hoạch lợi.
(經)是故長者‧閻浮眾生‧若能為其父母‧乃至眷屬命終之後‧設齋供養‧志心勤懇。如是之人‧存亡獲利。
(Kinh:
V́ thế, này ông trưởng giả! Chúng sanh trong Diêm Phù nếu
có thể v́ cha mẹ, cho đến quyến thuộc, sau
khi họ mạng chung, sắp đặt cỗ chay cúng
dường [Tam Bảo], chí tâm siêng năng, khẩn thiết.
Người như thế th́ kẻ c̣n lẫn người
mất đều được lợi).
“Chí tâm
cần khẩn” tức là siêng gắng, chuyên ṛng, ǵn giữ
thanh tịnh. Chỉ tinh thành th́ mới có thể chí tâm. “Tinh”
là công phu đạt đến tột đỉnh. Chữ
Tinh (精) do Mễ (米) và Thanh (青) ghép lại. Gạo vừa
thoát khỏi vỏ trấu hăy c̣n vàng, c̣n thô. Gạo giă tróc cám,
sẽ có màu gần hơi xanh. Đấy là ư nghĩa được
bao hàm trong chữ này: Cái tinh túy nhất của thiên chân. Ân cần,
thành khẩn như thế, sẽ tự đạt “người
mất lẫn kẻ c̣n đều được lợi ích”.
Phần trưởng giả Đại Biện giúp hiển
phát ư nghĩa đă xong.
3.2.3.1.2.2.2.3. Quỷ thần phát
tâm (quỷ
thần phát tâm)
(Kinh)
Thuyết thị ngữ thời, Đao Lợi thiên cung, hữu
thiên vạn ức na-do-tha Diêm Phù quỷ thần, tất
phát vô lượng Bồ Đề chi tâm.
(經)說是語時‧忉利天宮‧有千萬億那由他閻浮鬼神‧悉發無量菩提之心。
(Kinh:
Lúc nói lời ấy, trên cung trời Đao Lợi có ngàn vạn
ức na-do-tha quỷ thần trong cơi Diêm Phù đều phát tâm
Bồ Đề vô lượng).
V́ sao đến
đây quỷ thần mới phát tâm? Trong phần trên đă
nói rơ “tế lễ quỷ thần vô ích, chỉ khiến
cho người ta tạo nghiệp”. Quỷ cũng có lương
tâm, há chẳng hổ thẹn ư? V́ thế, phát tâm làm quỷ
thần hộ pháp. Hỏi: Quỷ thần tự phát tâm,
hay là do đức Phật và ngài Địa Tạng dạy
họ phát tâm? Đáp: Tự, tha, cộng, ly[10] đều chẳng
thể được, nhưng do cảm ứng đạo giao bèn luận
định về phát tâm đó thôi!
3.2.3.1.2.2.3. Trưởng giả
lễ thoái (trưởng giả làm lễ
lui ra)
(Kinh)
Đại Biện trưởng giả, tác lễ nhi thoái.
(經)大辯長者‧作禮而退。
(Kinh:
Trưởng giả Đại Biện làm lễ lui ra).
Đă là
cùng một hội, lui về nơi nào? Do lúc hỏi pháp, ra
khỏi chỗ ngồi, tiến đến trước làm
lễ. Hỏi đáp đă xong, làm lễ, lui về chỗ
ngồi, tức là biểu thị ai nấy tự trụ trong
Tam Ma Địa.
3.2.3.2. Diêm La hưng vấn, tán
thán (Diêm
La thưa hỏi, tán thán)
3.2.3.2.1. Phẩm đề (tên gọi của phẩm
này)
(Kinh)
Diêm La Vương chúng tán thán phẩm đệ bát.
(經)閻羅王眾讚歎品第八。
(Kinh:
Phẩm thứ tám: Các vua Diêm La tán thán).
3.2.3.2.2. Phẩm văn (kinh văn của phẩm
này)
3.2.3.2.2.1. Kinh gia tự (người trùng tuyên
kinh trần thuật)
3.2.3.2.2.1.1. Chủ bạn lai
nghi (chủ và bạn cùng đến
dự)
(Kinh)
Nhĩ thời, Thiết Vi sơn nội, hữu vô lượng
quỷ vương, dữ Diêm La thiên tử, câu nghệ Đao
Lợi, lai đáo Phật sở.
(經)爾時鐵圍山內‧有無量鬼王‧與閻羅天子‧俱詣忉利‧來到佛所。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, trong núi Thiết Vi, có vô lượng quỷ
vương và Diêm La thiên tử cùng đến Đao Lợi,
đi đến chỗ đức Phật).
Trụ xứ
của cung thành vua Diêm La (Yamarāja) đă được nói
rơ trong phần trước. Diêm La là vị tổng lănh các
quỷ quan, vô lượng quỷ vương đều thống
thuộc vị này. Vua đă đi, ắt quần thần đi theo; chủ đă
đến, ắt bạn theo hộ vệ. V́ thế, cùng đến
Đao Lợi, cùng đến chỗ đức Phật. Đây
là họ nương theo quang minh, âm thanh của đức
Thế Tôn, và oai thần của đức Địa Tạng
(Theo Đại Trí Độ Luận, hết thảy quỷ
thần nơi hết thảy núi, sông, rừng, cây cối, đất
đai, thành quách đều do Tứ Thiên Vương cai quản.
V́ thế, họ đều theo đến).
3.2.3.2.2.1.2. Liệt quỷ vương
hiệu (nêu danh hiệu các quỷ vương)
(Kinh)
Sở vị Ác Độc quỷ vương.
(經)所謂惡毒鬼王。
(Kinh:
Như là Ác Độc quỷ vương).
Ác Độc
chính là vị đứng đầu các quỷ vương,
cho nên được nêu tên đầu tiên. Ác Độc tức
là Thập Ác, Tam Độc. Đă ác, lại c̣n độc,
đặt danh xưng xấu xí như vậy. Tam Độc
thuộc về Ư, là cội gốc của bảy điều
ác nơi thân và miệng (tức ba điều ác nơi thân
(giết, trộm, dâm), và bốn điều ác nơi miệng:
Ác khẩu, nói dối v.v…) Gốc lẫn ngọn đều
nêu rơ, nên gọi là Ác Độc. Nhưng những vị quỷ
vương này đều là hàng Bồ Tát đại quyền
ứng hóa chẳng thể nghĩ bàn; dùng ác để tấn công ác, lấy độc
trị độc! Dụng ư nhằm làm cho ai nấy đều
hiểu: “Tu ác chính là tánh ác, thấu
hiểu sự độc chính là lư độc”. V́ thế, dùng ác độc làm
pháp môn để giáo hóa. Tức là có ư nghĩa như thí dụ
cái trống bôi thuốc độc trong kinh Đại Thừa,
mà cũng như “đ́nh độc” trong sách thế
gian. Liệt Tử[11] nói: “Sanh
chi, dục chi, đ́nh chi, độc chi” (sanh thành, nuôi nấng,
chăm chút h́nh dáng, thành tựu thể chất). Người
đời chỉ biết “độc” là đại bất
thiện, nào có biết nó c̣n có nghĩa là “đốc”
(篤, đốc thúc, chữ Độc
(毒) đọc theo Khứ Thanh thành
Đốc, cùng nghĩa với chữ Đốc - 篤), chính là đại thiện
vậy.
(Kinh)
Đa Ác quỷ vương, Đại Tránh quỷ
vương.
(經)多惡鬼王。大諍鬼王。
(Kinh:
Đa Ác quỷ vương, Đại Tránh quỷ vương).
“Đa
Ác”: Một niệm có trọn đủ các điều ác;
nói rộng ra, sẽ là nhiều vô lượng. Ngoài hiện
tướng ác phẫn nộ, giận dữ, trong th́ dấy
lên thiện tâm từ bi.
“Đại
Tránh”: Tránh là đấu tránh (鬬諍, đấu đá, tranh căi). Trong
kinh Trường A Hàm, đức Phật bảo Đế
Thích: “Oán kết chi sanh giai do tham, tật, cố sử chúng
sanh đẳng đao trượng tương gia” (Oán kết
đều do tham lam, ghen ghét sanh ra, cho nên khiến cho chúng
sanh dùng đao, trượng đánh nhau). Đế Thích bạch
rằng: “Thật nhĩ! Tham tật chi sanh, hà do
nhi khởi?” (Đúng vậy!
Sanh ra
tham lam, ghen ghét, do đâu mà dấy lên?) Đức Phật dạy:
“Tham tật chi sanh, giai do ái tắng” (Sanh ra tham lam, ganh
ghét, đều do yêu, ghét). V́ thế, tổ sư dạy: “Chỉ
cần ĺa yêu, ghét, sẽ hiểu rơ rỗng rang”. Nhưng
người đời chẳng hiểu “Ngũ Uẩn vốn là Không”, cho nên ganh đua miệng lưỡi
để thỏa giận bởi những chuyện không đáng.
Trang Tử gọi đó là “phụ cô bột hề” (婦姑勃谿, mẹ chồng, con dâu căi lộn).
Đấy là do tâm là chủ của sự độc địa,
miệng là dụng cụ gây họa. Chẳng có h́nh dạng
tranh căi, thưa kiện, chống trái, ḷng luôn tâm niệm giáo
hóa lớn lao. Do vậy, quỷ vương dùng pháp môn Đại
Tránh (tranh căi dữ dội) để giáo hóa mọi người
đừng tranh căi.
(Kinh)
Bạch Hổ quỷ vương, Huyết Hổ quỷ
vương, Xích Hổ quỷ vương. (經)白虎鬼王。血虎鬼王。赤虎鬼王。
(Kinh:
Bạch Hổ quỷ vương, Huyết Hổ quỷ
vương, Xích Hổ quỷ vương).
Bạch Hổ,
Huyết Hổ, Xích Hổ: Hổ là loài thú trong núi, c̣n gọi
là Đại Trùng (大蟲), dũng mănh, có oai, chậm
răi, nhưng hung bạo. Bạch Hổ là thú ở phương
Tây. Huyết Hổ miệng như chậu máu. Xích Hổ lông
đỏ như lửa. Đầu quỷ như hổ,
cho nên mỗi vị đều dùng chữ Hổ để
đặt tên.
(Kinh)
Tán Ương quỷ vương, Phi Thân quỷ
vương.
(經)散殃鬼王。飛身鬼王。
(Kinh:
Tán Ương quỷ vương, Phi Thân quỷ
vương).
Tán Ương:
Ương (殃) là lỗi lầm, tai họa.
Kinh Đông Nhạc nói: “Thế gian chúng sanh bất tín nhân
duyên, thiện ác quả báo, bất kính thiên địa, bất
hiếu phụ mẫu, bất tôn sư trưởng, khi phụ
thần lư, bối tiền, diện hậu, khẩu thị,
tâm phi, dĩ bị Nhạc Phủ tào quan thánh chúng, thần
tịch khảo giảo, kỷ lục tội cữu, trí
linh tai họa hoành sanh, quan tư lao ngục, lũy tuế
kinh niên, bất năng an thái, gia môn thu tức, mỗi ngộ
hung suy, đạo tặc xâm khi, hy kiến thái b́nh” (Chúng
sanh trong thế gian chẳng tin nhân duyên, quả báo thiện
ác, chẳng kính trời đất, chẳng hiếu thảo
cha mẹ, chẳng tôn trọng sư trưởng, lừa
dối thần thánh, vâng dạ trước mặt, chống
trái sai lưng, miệng đúng, tâm sai, đă bị tào quan
thánh chúng của Nhạc Phủ sớm tối tra xét, so lường,
ghi chép tội lỗi, đến nỗi tai họa nẩy
sanh đột ngột, bị quan lại tra vấn, tống
giam lâu năm chầy tháng, chẳng thể yên vui, cửa nhà
đ́u hiu, thường gặp chuyện hung hiểm, suy bại,
giặc cướp xâm lấn, hiếp đáp, ít có lúc được
b́nh yên). V́ thế, khiến cho quỷ vương phải đến
gia đ́nh ấy, cho nên có những chuyện ương họa.
Phi Thân thuộc loại Dạ Xoa phi hành.
(Kinh)
Điện Quang quỷ vương, Lang Nha quỷ vương.
(經)電光鬼王。狼牙鬼王。
(Kinh:
Điện Quang quỷ vương, Lang Nha quỷ vương).
Điện
Quang là mắt như tia chớp chói ḷa, khiến cho người
khác trông thấy hoảng hốt. Lang Nha (nanh sói): Sói to như
chó, lông xanh, giỏi săn thú. Cách thức chế tạo [lang
nha bổng] thời cổ là dùng các khối gỗ bằng
gốc ḥe hay bộng táo, cắm răng sói chung quanh. Do thể
hiện ư nghĩa linh trí của loài sói, cho nên [cổ nhân chế ra chữ
Lang (狼, sói) từ chữ Lương
(良) [và Khuyển (犭) ghép lại]. Quỷ này
răng nhọn hoắt, ch́a ra ngoài như nanh sói. Theo Bạch
Trạch Đồ[12], tinh linh nơi
mồ mả có tên là Lang Quỷ (quỷ sói), thích chiến đấu
với con người. Lấy mũi tên bằng gỗ đào
gắn đuôi tên bằng lông chim diều hâu bắn nó, nó sẽ
hóa thành gió bay đi. Cởi guốc đuổi nó, nó sẽ
chẳng thể biến hóa được.
(Kinh)
Thiên Nhăn quỷ vương, Đạm Thú quỷ
vương, Phụ Thạch quỷ vương.
(經)千眼鬼王。噉獸鬼王。負石鬼王。
(Kinh:
Thiên Nhăn quỷ vương, Đạm Thú quỷ
vương, Phụ Thạch quỷ vương).
Thiên Nhăn (ngàn
mắt): Quán Âm tay có ngàn mắt, ngục tốt có sáu mươi
bốn con mắt nơi sừng. Quỷ này ngàn mắt, chẳng
biết xếp đặt như thế nào!
Đạm
Thú (ăn các loài thú): Do quỷ này ăn thịt các loài thú,
nhưng quỷ cũng là thú. Tỳ Bà Sa Luận nói h́nh dạng
trong đường quỷ phần nhiều giống như
con người, cũng có quỷ mặt giống như lợn,
hoặc giống như các loài cầm thú ác khác.
Phụ
Thạch chính là vác đá, gánh cát, lấp sông, lấp biển
v.v…
(Kinh)
Chủ Hao quỷ vương, Chủ Họa quỷ
vương.
(經)主耗鬼王。主禍鬼王。
(Kinh:
Chủ Hao quỷ vương, Chủ Họa quỷ
vương).
Chủ Hao
và Chủ Họa, hai sự
tướng có cùng
một cái nhân. V́ thế, Thái Thượng nói: “Trong trời
đất có thần trông coi tội lỗi, tùy theo con người
phạm lỗi nặng hay nhẹ mà giảm bớt tuổi
thọ. Tuổi thọ bị giảm, sẽ bần cùng,
hao tán, hay gặp chuyện phải lo lắng, ai nấy đều
ghét, h́nh phạt, tai họa theo đến, chuyện tốt
lành, vui mừng tránh xa, ác tinh gieo tai ương” là nói đến
ư này (Xưa kia, quan đô úy xứ Lịch Dương là Quách
Tầm làm quan mà không được thăng chuyển, đường
làm quan trắc trở, truân chiên, lận đận. Đụng
tới chuyện ǵ cũng bị chống trái, ngay cả thân thích, bạn bè thân thiết cũng dần dần lợt
lạt, chê trách. Thường có hai con vật, h́nh dáng giống
như vượn hay khỉ, nhảy nhót quẩn quanh, thường
theo ông ta ra vào. Một tối, ông đang nằm mơ màng, rầu
rĩ, bỗng chúng nó đến cáo biệt, bảo: “Chúng tôi
chính là quỷ chủ tŕ sự hư hao trong cơi đời.
Ông do ngấm ngầm phạm lỗi, mắc tội, nên thần
sai chúng tôi đến gây tai ách cho ông. Nay hạn số đă
măn, sẽ phải ra đi, ông có thể hưởng yên vui
rồi”).
(Kinh)
Chủ Thực quỷ vương, Chủ Tài quỷ
vương.
(經)主食鬼王。主財鬼王。
(Kinh:
Chủ Thực quỷ vương, Chủ Tài quỷ
vương).
Chủ
Thực: “Thực” ở đây chính là
lộc trong đời người. Người lành được
hưởng, người ác bị giảm bớt. V́ thế,
kẻ vứt bỏ ngũ cốc bừa băi, Thái Thượng
ghét bỏ, thâu lại hoa lợi, cuộc đời kẻ
ấy sẽ gặp nhiều cảnh đói kém. Cũng như
kẻ tàn sát bừa băi các sanh vật, thường chết
v́ đói rét.
Chủ Tài:
Tại Nhạc Phủ có án chủ trông coi tài vật. Phù Đà
Ma Ni Bát[13]
chuyên bảo vệ tài vật của con người. V́ thế,
kẻ có tiền của mà chẳng bố thí, quỷ ở
bên cạnh trông thấy bèn ghen ghét; nhưng Thái Thượng
nghiêm cấm tước đoạt ngang xương tài vật
của người khác; cho nên vợ con, người nhà của
kẻ đó sẽ dần dần lâm vào cảnh chết chóc.
Nếu chẳng chết chóc, ắt có những chuyện như
nước, lửa, giặc cướp, đồ đạc
mất mát, bệnh tật, thưa kiện [khiến cho tài
vật của kẻ đó suy hao. Làm như vậy] để
ngăn ngừa chuyện đoạt lấy bừa băi. Mỗi
thứ tài vật đều có chủ.
(Kinh)
Chủ Súc quỷ vương, Chủ Cầm quỷ
vương, Chủ Thú quỷ vương.
(經)主畜鬼王。主禽鬼王。主獸鬼王。
(Kinh:
Chủ Súc quỷ vương, Chủ Cầm quỷ
vương, Chủ Thú quỷ vương).
Chủ Súc:
Súc sanh có bốn cách sanh (noăn, thai, thấp, hóa), chỗ ở
th́ có ba chỗ (dưới nước, trên đất, trên
hư không). Nhạc Phủ có thần cai quản thai, noăn,
thấp, hóa, và thủy tộc.
Chủ Cầm
và Chủ Thú đều là thần của Nhạc Phủ. Biết
bay th́ gọi là Cầm (禽), Cầm là tên gọi
chung của loài có lông vũ; ư nói do chúng bị loài người
giam cầm, chế ngự, nên gọi là Cầm. Loài động
vật chạy [trên mặt đất] th́ gọi là Thú, Thú (獸) là tên gọi chung của
những loài có lông. Nhằm diễn tả ư tốn sức
nhiều mà khó bắt giữ được, phải vây giữ
mới bắt được, cho nên gọi là Thú. Các loài cầm
thú ấy đều có các quỷ vương chủ quản.
Như sách Ma Ha Chỉ Quán trích dẫn mười hai loại
thời thú (mười hai con giáp)
được
nói trong kinh Đại Tập. Sách Phụ Hành viết: “Trong
Ngũ Hành, kể tên mười hai tiếu (con vật làm biểu
tượng)”. Tiếu (肖) là tương tự,
do mười hai biểu tượng ấy giống như
những con vật tương ứng. Theo Đại Tập,
[mười hai tiếu được kể như sau]: Trong
núi Lưu Ly ở biển Đông có hổ, thỏ[14], rồng. Núi
Pha Lê ở biển Nam có rắn, ngựa, dê. Núi Bạch Ngân
ở biển Tây có khỉ, gà, chó. Núi Hoàng Kim ở biển
Bắc có lợn, chuột, trâu (đối với hang nơi
chúng sống, kinh đều có kể tên). Mỗi một phương
đều có hai La Sát nữ cúng dường ba vị thần
(tức các tiếu ấy). Hang của chúng ở đều
là trụ xứ của Bồ Tát. Mỗi con thú đều
tu ḷng Từ của Thanh Văn, từng phát nguyện nơi
quá khứ Phật. Mỗi con thú [lần lượt] trong một
ngày đêm dạo khắp Diêm Phù Đề, những con thú
khác th́ ở yên, tu ḷng Từ. Từ ngày mồng
Một tháng Bảy, chuột khởi đầu. Ngày mồng
Hai là trâu, cho đến ngày thứ mười ba, lại bắt
đầu từ chuột. Đấy chính là thú vương
Bồ Tát, cho nên họ được các phương khác cung kính.
(Kinh)
Chủ Mị quỷ vương, Chủ Sản quỷ vương.
(經)主魅鬼王。主產鬼王。
(Kinh:
Chủ Mị quỷ vương, Chủ Sản quỷ vương).
Chủ Mị:
Mị (魅) là Lỵ Mị (魑魅, yêu quái trong rừng núi),
là những vật thành tinh đă lâu, được chép tường
tận trong bộ Hương Nhũ Kư[15].
Chủ Sản:
Trong Đông Nhạc Sám có đoạn viết: “Kết điều
tốt đẹp thành thai, bẩm thọ lưỡng nghi
tạo hóa, giúp cho sanh thành, bảo vệ sanh nở, chính là
giềng mối của hai vị thánh, phổ độ, cứu
giúp trọn khắp. Cửu Thiên Giám Sanh Minh Tố Chân Quân, đông
con trai, lắm con gái. Cửu Thiên Vệ Pḥng Thánh Mẫu
Nguyên Quân”. Lại nữa, chị của Quỷ Mẫu
tên là Chá Nặc cũng chủ tŕ việc sanh nở của
nhân loại.
(Kinh)
Chủ Mạng quỷ vương, Chủ Tật quỷ
vương, Chủ Hiểm quỷ vương.
(經)主命鬼王。主疾鬼王。主險鬼王。
(Kinh:
Chủ Mạng quỷ vương, Chủ Tật quỷ
vương, Chủ Hiểm quỷ vương).
Chủ Mạng:
Theo kinh Phật, Tỳ Sa Môn (Vaiśravaṇa, Đa Văn thiên vương)
chuyên trách bảo vệ mạng người trong tứ thiên
hạ. Nhạc Phủ có phán quan cai quản hồ sơ sanh
tử trong thiên hạ, lại có Bảo Sanh Chân Nhân[16], Bích Hà Nguyên
Quân.
Chủ Tật
như đă giải thích trong phần trên.
Chủ Hiểm:
Núi cao chót vót, biển cả sâu thăm thẳm, là những
chỗ hiểm nạn đối với thân mạng. Người
đáng chết th́ ghi chép, người chưa đáng chết
th́ che chở. Đấy vẫn là chỗ hiểm nạn
nhỏ nhặt. Theo Đại Luận, địa ngục
có hai bộ: Một là hàn băng (寒冰, băng lạnh), hai là
viêm hỏa (炎火, lửa nóng), đều
do Thân Xúc mà thọ tội. Nơi đấy gọi là chỗ
đại hắc ám, đường hiểm nguy nan chính là
nơi chủ quản của quỷ này vậy.
(Kinh)
Tam Mục quỷ vương, Tứ Mục quỷ vương,
Ngũ Mục quỷ vương. (經)三目鬼王。四目鬼王。五目鬼王。
(Kinh:
Tam Mục quỷ vương, Tứ Mục quỷ
vương, Ngũ Mục quỷ vương).
Tam Mục:
Giữa hai mắt có một một con mắt xếp dọc,
như h́nh dạng của Ma Hê Thủ La Thiên (Mahesvara). Tứ
Mục: Trên trán lại có hai mắt nằm ngang, giống như
Thương Hiệt. Ngũ Mục: Trên, dưới, chính
giữa đều sanh một con mắt nằm dọc.
(Kinh)
Kỳ Lợi Thất Vương, Đại Kỳ Lợi
Thất Vương, Kỳ Lợi Xoa Vương, Đại
Kỳ Lợi Xoa Vương.
(經)祁利失王‧大祁利失王。祁利叉王‧大祁利叉王。
(Kinh:
Kỳ Lợi Thất Vương, Đại Kỳ Lợi
Thất Vương, Kỳ Lợi Xoa Vương, Đại
Kỳ Lợi Xoa Vương).
Kỳ Lợi
Thất Vương v.v… chưa thấy phiên dịch [từ
chữ Phạn nào]. Kinh Kim Quang Minh có nói về Tát Đa Kỳ
Lê, dịch nghĩa là là Đại Lực Thiên. Bộ Danh Nghĩa
Tập có chép danh hiệu Ác Kỳ Ni (Agni), cơi này dịch là
Hỏa Thần. Nhưng xét theo Lập Thế A Tỳ Đàm
th́ là tên núi. Phẩm Dạ Xoa trong luận ấy chép: “Khi
ấy, trong Diêm Phù Đề, có hai rặng núi. Núi ở phía
Nam sông Hằng, tên là núi Bà Đa Kỳ Lợi. Núi ở phía
Bắc sông Hằng tên là núi Hê Ma Bạt Đa (Himavanta). Hết
thảy các thần sống ở phía Nam sông đều có tên
là Bà Đa Kỳ Lợi. Những vị sống ở núi phía Bắc sông Hằng đều
tên là Hê Ma Bạt Đa. Hết thảy các thần sống trong
rặng Bà Đa Kỳ Lợi ở phía Nam sông Hằng và hết thảy các thần
sống trong rặng Ma Hê Bạt Đa ở phía Bắc sông Hằng, đều được
gọi là Vương”. Nay cơi của Diêm Vương
đă ở phía Nam của Diêm Phù, núi Kỳ Lợi lại ở
phía Nam sông Hằng. Nam thuộc quẻ Ly là Hỏa. V́ thế,
Kỳ Ni Kỳ Lợi được dịch thành Đại
Lực Hỏa Thần, đều thuộc về Hỏa
Thiên. Chữ Thất chưa rơ nghĩa. Chữ Xoa nói đầy
đủ là Xoa Da (Kṣaya), dịch sang tiếng Hán là Tận,
tức là Đại Lực Tận Vương, thống lănh
các tiểu vương quỷ thần.
(Kinh)
A Na Trá vương, Đại A Na Trá vương.
(經)阿那吒王‧大阿那吒王。
(Kinh:
A Na Trá vương, Đại A Na Trá vương).
Theo kinh Đại
Thừa, A Na Trá có phải là Na Trá (Naṭa)[17] tám tay, tức lực sĩ trên cơi trời hay không, chưa thể nói đích xác được,
nhưng đă cùng tên, cho nên cũng chưa biết [có phải
là cùng một vị hay không] (Na Trá tức là trưởng tử
của Đa Văn Thiên Vương).
3.2.3.2.2.1.3. Thừa lực câu
lai (nương
theo thần lực đều cùng đến)
(Kinh)
Như thị đẳng đại quỷ vương,
các các dữ bách thiên chư tiểu quỷ vương, tận
cư Diêm Phù Đề, các hữu sở chấp, các hữu
sở chủ.
(經)如是等大鬼王‧各各與百千諸小鬼王‧盡居閻浮提‧各有所執‧各有所主。
(Kinh:
Các vị đại quỷ vương như thế, mỗi
vị đều có trăm ngàn các tiểu
quỷ vương, đều trong Diêm Phù Đề, ai nấy
đều có chức trách, đều có sự vụ phải
quản trị).
Ba mươi
bốn vị trên đây đều là đại quỷ
vương. Dưới mỗi một vị vương, đều
có các tiểu vương làm quyến thuộc, số đến
trăm ngàn. Họ chẳng phải là quỷ ở phương
khác, đều sống trong Nam Châu. “Các hữu chấp giả”:
Chấp (執) là “tuân thủ pháp tắc”,
tức là nói đến chuyện “bắt những kẻ có
tội, xử trị công chánh, mẫu mực theo đúng luật
pháp”. Trong thiên văn có các [tinh quan] chấp pháp[18], thay trời
thảo phạt kẻ có tội, há dung túng lẽ riêng tư
ư? [“Các hữu sở chấp”] là nói những vị
có những chức trách duy tŕ pháp luật. Thái Thượng
cũng nói: “Trong trời đất có thần coi sóc tội
lỗi, tùy thuộc mỗi người phạm lỗi nặng
hay nhẹ mà tước giảm tuổi thọ của họ”
chính là nói về chuyện này. Nói là “chủ” (主) th́ trong cách chế tạo
chữ thời cổ, chữ Chủ (、) hàm ư sự sáng suốt thần
diệu làm chủ cái tâm, đấy chính là vị chủ nhân
thật sự của cái thân ta. [Chữ Vương (王)] ở trong ấy, bất
động mà ứng với vạn vật, giống như
h́nh thể vị vua trời ngồi yên trong điện. Chữ
Chủ (、) trên đầu chữ
Vương chính là thần, chẳng có h́nh thể, sẽ chẳng
hiển lộ. V́ thế, phải phối hợp với chữ
khác để thành h́nh. Do đó, đem Chủ (、) ghép với Vương
[thành chữ Chủ (主)]. Vương là vua. Vạn
vật trong trời đất, đều gom về một.
Tâm của vua mà chẳng có Chủ (、), ngay cả thân cũng không thể trị, lấy ǵ
để trị v́ thiên hạ cho được? Nay các vị
quỷ vương, trong tâm đều có Chủ, cho nên có thể
làm chủ vạn vật, như quỷ bắt người
đem gông xiềng, điều động quỷ thần,
truy hồn, trảm phách, bắt người
sống, truy người chết, và các vị xét án, các vị
tư pháp, lục sự (thư kư) v.v… Cho nên nói là “các hữu
sở chấp, các hữu sở chủ” (đều có
chức trách, đều có sự vụ phải quản trị).
(Kinh)
Thị chư quỷ vương dữ Diêm La thiên tử,
thừa Phật oai thần, cập Địa Tạng Bồ
Tát Ma Ha Tát lực, câu nghệ Đao Lợi, tại nhất
diện lập.
(經)是諸鬼王與閻羅天子‧承佛威神‧及地藏菩薩摩訶薩力‧俱詣忉利‧在一面立。
(Kinh: Các vị quỷ
vương ấy cùng với Diêm La thiên tử, nương
theo oai thần của đức Phật và sức của Địa
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, đều đến trời Đao
Lợi, đứng qua một phía).
Từ “thị
chư” (các vị ấy) trở đi, nêu rơ ư nghĩa v́
sao họ có thể đến. Quỷ vương chốn
u minh v́ sao có thể thăng lên Đao Lợi? Đấy là
nhờ vào sức oai thần của đức Phật và
ngài Địa Tạng. “Tại nhất diện lập”
(đứng qua một phía): Đứng là Lập. Con người
kể từ khi sanh ra, hễ đứng bèn đội trời
đạp đất, có dáng vẻ nghiễm nhiên chánh trực.
V́ thế, thể hiện ư nghĩa “trụ vững trên đại
địa mà kính Phật, tôn quân”, cho nên đứng chứ
không ngồi!
3.2.3.2.2.2. Chánh hưng vấn (thưa hỏi)
3.2.3.2.2.2.1. Diêm La hưng vấn
chánh thán (Diêm La thưa hỏi, tán thán)
3.2.3.2.2.2.1.1. Kinh gia đề
khởi (người trùng tuyên kinh dẫn khởi)
(Kinh)
Nhĩ thời, Diêm La thiên tử, hồ quỳ, hiệp chưởng.
(經)爾時閻羅天子‧胡跪合掌。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Diêm La thiên tử, hồ quỳ, chắp
tay).
Dựa theo
[danh sách] Thập Điện Diêm Vương do ḥa thượng
Đạo Minh[19] truyền lại,
Diêm La thiên tử thuộc ngũ điện. Sách Phật Tổ
Thống Kỷ chép: “Danh tự của mười vua từ
trong kinh tạng, truyện, kư, có thể khảo chứng sáu
vị, tức Diêm La, Ngũ Quan (hai danh hiệu này có thể
thấy trong mục Tam Trường Trai (ba tháng ăn chay trường),
trích từ kinh Đề Vị), B́nh Đẳng (từ Hoa
Nghiêm Cảm Ứng Truyện: Quách Thần Lượng bị
sứ giả bắt tới chỗ B́nh Đẳng Vương.
Do ông ta tụng bài kệ “nhược nhân dục liễu
tri” (nếu ai muốn hiểu rơ)[20],
liền được thả về). Thái Sơn (theo Dịch
Kinh Đồ Kỷ[21],
ngài Pháp Cự dịch bộ Kim Cống Thái Sơn Thục
Tội Kinh), Sơ Giang[22]
(theo Di Kiên Chí, Quách Sanh mộng thấy vào cơi âm, vua vái chào, mời
ngồi, bảo: “Ta là Vương Lang ở Tây Môn, cơi âm xét
thấy ta trung hiếu, chánh trực, chẳng hại muôn vật,
được làm Sơ Giang Vương một kỷ[23]”),
Tần Quảng (theo Di Kiên Chí, Trần Sanh ở Nam Kiếm
đă chết. Con gái của em trai ông ta thấy hai con quỷ
dẫn tới một cung điện, [biển ngạch] đề
là Tần Quảng Vương. Vua bảo: “Ngươi muốn
cứu bác ngươi, hăy nên tụng kinh Bát Sư”. Cô gái tỉnh
giấc, bảo người nhà t́m được kinh, thỉnh
Tăng tụng một ngàn lượt. Anh ông ta mộng thấy
em trai đến cảm tạ: “Đă được sanh lên
trời”). Nay chỉ có ḿnh vua Diêm La thưa hỏi,
đại khái là vị vua cai quản điện thứ năm,
thống nhiếp các vua, cho nên đặc biệt thêm vào hai
chữ “thiên tử” [sau danh xưng]. Do Đế Thích
Thiên là phụ vương, sai Diêm La làm thiên tử, chủ
tŕ, thống nhiếp minh ty. Vị này thường được
gọi là “địa hạ Phược La Hứ Thiên”.
3.2.3.2.2.2.1.2. Thiên tử thuật
ư (thiên
tử trần thuật tâm ư)
(Kinh)
Bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Ngă đẳng kim giả, dữ
chư quỷ vương, thừa Phật oai thần, cập
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát lực, phương
đắc nghệ thử Đao Lợi đại hội,
diệc thị ngă đẳng hoạch thiện lợi cố”.
(經)白佛言‧世尊‧我等今者‧與諸鬼王‧承佛威神‧及地藏菩薩摩訶薩力‧方得詣此忉利大會‧亦是我等獲善利故。
(Kinh:
Bạch đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Nay
chúng con và các vị quỷ vương nương vào oai thần
của đức Phật và sức của Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát mới đến được đại
hội trên cung Đao Lợi này, cũng tức là chúng con được
thiện lợi to lớn vậy”).
Trước
hết, trần thuật ư nghĩa v́ sao đến [tham dự
pháp hội]. “Đẳng” có nghĩa là không chỉ có các
vị ngục vương thuộc chín điện khác. Theo
kinh Trường A Hàm, tiểu
thiên thế giới có một ngàn vua Diêm La, huống hồ
tam thiên đại thiên, huống hồ là các vị Diêm La trong
các tam thiên đại thiên nhiều như cát sông Hằng
trong mười phương ư? Nhưng đức Phật
xuất thế trong Nam Châu, cho nên minh vương (冥王, vua cơi âm) trong cơi này đóng
vai tṛ chánh yếu. Từ “diệc thị” (cũng là)
trở đi, chính là lời lẽ diễn tả sự vui
mừng. Do Diêm La, quỷ vương v.v… đều do nghiệp
duyên mà cảm báo, chịu khổ suốt ba thời. Như
trong kinh Đệ Tử Tử Phục Sanh (đệ tử
chết rồi sống lại), sứ giả tâu với
vua: “Đại vương phụng tŕ tịnh giới của
Phật ư?” Vua đáp: “Do ta không kính phụng Phật, phải
theo tội mới đến làm vua trong địa ngục
này”. Nay họ tới cung trời thấy Phật, nghe pháp,
tự nhiên đạt được thiện lợi tăng
thượng. V́ thế, thốt lời
vui mừng ấy.
(Kinh)
Ngă kim hữu tiểu nghi sự, cảm vấn Thế Tôn,
duy nguyện Thế Tôn, từ bi tuyên thuyết.
(經)我今有小疑事‧敢問世尊。唯願世尊‧慈悲宣說。
(Kinh:
Con nay có chuyện nghi ngờ nhỏ, dám xin hỏi đức
Thế Tôn. Kính mong đức Thế Tôn từ bi tuyên nói).
Từ “ngă
kim” (con nay) trở đi, là lời thỉnh cầu. Tuy nói
là “tiểu nghi”, nó sẽ chướng ngại tín tâm rất
lớn. V́ thế, cần phải hỏi rơ. Chỉ mong do ḷng
đại từ bi, đức Phật sẽ tuyên thuyết
ư chỉ ấy cho con, ḥng tạo nhân duyên “ban vui, dẹp khổ”.
3.2.3.2.2.2.1.3. Hứa vấn vị
thuyết (chấp thuận giải đáp
câu hỏi)
(Kinh)
Phật cáo Diêm La thiên tử: “Tứ nhữ sở vấn,
ngô vị nhữ thuyết”. (經)佛告閻羅天子‧恣汝所問‧吾為汝說。
(Kinh:
Đức Phật bảo Diêm La thiên tử: “Cho phép ông hỏi,
ta sẽ nói cho ông”).
“Tứ” (恣) là hăy buông lỏng, ư nói:
Phàm có điều ngờ vực nào, chẳng cần phải
ẩn giấu. Cứ mặc sức mà hỏi, ta không điều
ǵ chẳng nói cho ông! Như hồng chung treo trên giá, hễ gơ
bèn kêu, biểu thị tâm Phật từ bi chẳng có ngằn
hạn!
3.2.3.2.2.2.1.4. Thân nghi trí thỉnh
(giăi bày
điều nghi cần hỏi)
3.2.3.2.2.2.1.4.1. Tự nghi (trần thuật lễ
nghi thưa thỉnh)
(Kinh)
Thị thời, Diêm La thiên tử, chiêm lễ Thế Tôn, cập
hồi thị Địa Tạng Bồ Tát.
(經)是時閻羅天子‧瞻禮世尊‧及迴視地藏菩薩。
(Kinh:
Khi ấy, Diêm La thiên tử chiêm ngưỡng, lễ bái đức
Thế Tôn, và quay sang nh́n Địa Tạng Bồ Tát).
Chiêm ngưỡng,
lễ bái là nghi thức biểu thị kính Phật, cầu
pháp. “Hồi thị” (quay sang nh́n): Sự việc có chỗ
chuyên chú. Do v́ lẽ nào mà quay lại nh́n? Theo lễ nghi thưa
hỏi pháp, ắt phải đối trước đức
Phật làm lễ. Đang đứng tại chính giữa,
như vậy là Bồ Tát ở bên cạnh; do đó, quay đầu
nh́n Ngài.
3.2.3.2.2.2.1.4.2. Thân thỉnh (thưa bày sự thỉnh
cầu)
3.2.3.2.2.2.1.4.2.1. Trực thán thần
thông (trực
tiếp ca ngợi thần thông)
(Kinh)
Nhi bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Ngă quán Địa Tạng
Bồ Tát, tại lục đạo trung, bách thiên phương
tiện nhi độ tội khổ chúng sanh, bất từ
b́ quyện. Thị đại Bồ Tát, hữu như thị
bất khả tư nghị thần thông chi sự”.
(經)而白佛言‧世尊‧我觀地藏菩薩‧在六道中‧百千方便而度罪苦眾生‧不辭疲倦。是大菩薩‧有如是不可思議神通之事。
(Kinh:
Bèn bạch đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn!
Con thấy Địa Tạng Bồ Tát ở trong lục
đạo, trăm ngàn phương tiện để độ
chúng sanh tội khổ, chẳng nài mệt nhọc. Vị đại
Bồ Tát này có những chuyện thần thông chẳng thể
nghĩ bàn như thế”).
“Tại
lục đạo trung” (ở trong lục đạo):
Kinh Chiêm Sát dạy: “Y bổn nguyện tự tại lực
cố, quyền xảo hiện hóa, ảnh ứng thập
phương, nhi ư ngũ trược ác thế, hóa ích thiên
hậu, xảo diễn thuyết pháp, năng thiện khai
đạo. Thử giai phương tiện lực dă. Đại
yếu hiện Phạm Thiên, linh trừ kiêu mạn. Hóa nhân
đạo, linh tu Thí, Giới. Địa ngục đại
kỳ thọ khổ, ngạ quỷ linh kỳ bảo măn,
Tu La điều phục ác tâm, súc sanh sử đắc trí huệ.
Tịnh linh câu xuất khổ luân, đồng đáo trí
địa. Vô lượng kiếp lai, bất từ b́ quyện”
(Nương vào sức bổn nguyện tự tại, quyền
biến khéo hiện hóa, ứng hiện phân thân trong mười
phương, ở trong đời ác năm trược, giáo
hóa, tạo lợi ích càng thêm sâu dầy. Khéo diễn nói pháp,
khéo có thể khơi gợi, hướng dẫn. Đấy
đều là sức phương tiện. Nói chung là hiện
thân Phạm Thiên để trừ kiêu mạn, hóa hiện thân
người để dạy tu bố thí, giữ giới.
Chịu khổ thay cho chúng sanh trong địa ngục, khiến
cho ngạ quỷ được no đủ, điều
phục tâm ác của Tu La, khiến cho súc sanh đạt được
trí huệ, cũng như khiến cho họ đều thoát
khỏi khổ sở, cùng đạt đến trí địa.
Từ vô lượng kiếp đến nay, chẳng nề
hà mệt nhọc). Đấy chính là trí huệ dũng mănh,
thần thông chẳng thể nghĩ bàn.
Nói “sự”
(𠭏) [tức là chữ Sự (事) viết theo lối cổ], tức là việc làm của con người.
[Chữ Sự theo lối cổ] trên là Chi (㞢) dưới là Hựu
(又, tức chữ Hữu (右) viết theo lối xưa),
nắm giữ chữ Trung (中) ở chính giữa, có ư nghĩa
ǵ? Ư nói vạn sự trong thiên hạ đều vốn phát
xuất từ ḷng người, chẳng có ǵ khác! Ḷng người
chính là khuôn phép tự nhiên. Sự việc đưa đến,
cứ dùng tấm ḷng của ta mà đối đăi, nhất
quán muôn điều như một, không thái quá, mà cũng chẳng
bất cập, đó gọi là “thiên tắc” (天則, khuôn phép của trời).
Nay đức Địa Tạng dùng trăm ngàn
phương tiện, hiện đủ loại thần thông,
đều vốn là dùng Trung Đạo nhất tâm để
ứng với mọi chuyện thuộc muôn mối. Độ
chúng sanh khổ sở đều quy vào Trung Đạo. Đấy
là đại sự nhân duyên có thể nghĩ bàn nổi chăng?
3.2.3.2.2.2.1.4.2.2. Chuyển thân
nghi sự (tŕnh bày sự việc nghi hoặc)
3.2.3.2.2.2.1.4.2.2.1. Chánh trần
nghi bổn (nêu thẳng nguyên do sinh nghi)
(Kinh)
Nhiên chư chúng sanh, thoát hoạch tội báo, vị cửu
chi gian, hựu đọa ác đạo.
(經)然諸眾生‧脫獲罪報‧未久之間‧又墮惡道。
(Kinh:
Nhưng các chúng sanh vừa thoát tội báo, không lâu sau lại
đọa vào đường ác).
Nói “vị
cửu” (chưa lâu) là nói so sánh với tuổi thọ
trong địa ngục Đẳng Hoạt, hoặc tuổi
thọ của Tứ Thiên Vương. Năm mươi năm
trong nhân gian bằng một ngày một đêm trên trời. Dẫu
[trong nhân gian] đă qua một trăm năm, nơi cơi âm chỉ
mới là hai ngày, há chẳng phải là [tội nhân] vừa
mới thoát ra liền trở lại ngay, [cơi âm] rất chán
ngán họ chẳng ngại phiền!
3.2.3.2.2.2.1.4.2.2.2. Phú thân nghi sự
(nêu bày
chuyện nghi ngờ)
(Kinh)
Thế Tôn! Thị Địa Tạng Bồ Tát kư hữu như
thị bất khả tư nghị thần lực, vân hà chúng
sanh nhi bất y chỉ thiện đạo, vĩnh thủ giải
thoát.
(經)世尊‧是地藏菩薩既有如是不可思議神力‧云何眾生而不依止善道‧永取解脫。
(Kinh:
Bạch Thế Tôn! Vị Địa Tạng Bồ Tát này đă
có thần lực chẳng thể nghĩ bàn như vậy,
cớ sao chúng sanh chẳng nương cậy thiện đạo
để được giải thoát vĩnh viễn).
Trong ư thưa
hỏi ở đây, có hai tầng nghi vấn được
nêu lên:
- Một
là Bồ Tát đă có thần lực như vậy, đáng lẽ
phải khiến cho họ nương theo thiện đạo,
măi măi được giải thoát.
- Hai, chúng
sanh trong lục đạo đă được Đại
Sĩ giáo hóa, cũng phải nên an trụ trong thiện đạo
để được giải thoát măi măi.
Nay chẳng
phải như vậy, có phải là do thần lực của
đức Địa Tạng chưa đủ mức? Hay
là do tâm lực của chúng sanh chẳng tương xứng?
Chữ Nị Địa (Nidhi) trong tiếng Phạn,
dịch sang tiếng Hán là Y (依, nương cậy). Kinh Duy
Ma dạy: “Thập Thiện thị Bồ Tát Tịnh
Độ, chúng sanh năng y Thập Thiện, tự nhiên giải
thoát sanh tử” (Thập Thiện là Tịnh Độ của
Bồ Tát, chúng sanh có thể nương theo Thập Thiện,
tự nhiên giải thoát sanh tử).
3.2.3.2.2.2.1.4.3. Nguyện thuyết
(xin hăy
nói)
(Kinh)
Duy nguyện Thế Tôn, vị ngă giải thuyết.
(經)唯願世尊‧為我解說。
(Kinh:
Kính mong đức Thế Tôn hăy giải nói cho con).
3.2.3.2.2.2.1.5. Đáp thị hiển
đức (trả lời, chỉ dạy,
nêu rơ đức)
3.2.3.2.2.2.1.5.1. Tổng thị
nan hóa (nêu tổng quát: Chúng sanh khó hóa độ)
(Kinh)
Phật cáo Diêm La thiên tử: “Nam Diêm Phù Đề chúng sanh, kỳ
tánh cang cường, nan điều, nan phục”.
(經)佛告閻羅天子‧南閻浮提眾生‧其性剛強‧難調難伏。
(Kinh:
Đức Phật bảo Diêm La thiên tử: “Chúng sanh Nam Diêm
Phù Đề, tánh khí ương ngạnh, khó điều phục”).
“Kỳ
tánh” (tánh của họ) tức là tập tánh, cho nên nói là
“cang cường” (ương ngạnh). Nếu là pháp
tánh th́ vốn sẵn nhu ḥa. “Cang” (剛) là cứng cỏi. Đấy
chẳng phải là sự cứng cỏi (cương nghị)
trung chánh, thuần túy, mà là sự cứng đầu, táo bạo
do bẩm tánh nóng nảy. Ví như voi ác, ngựa hèn, khó thể
điều phục!
3.2.3.2.2.2.1.5.2. Biệt tán phương
tiện (riêng tán thán phương tiện)
3.2.3.2.2.2.1.5.2.1. Dĩ pháp trực
thị (dùng pháp để chỉ thẳng)
3.2.3.2.2.2.1.5.2.1.1. Ước Địa
Tạng phương tiện cứu bạt (xét theo phương tiện
cứu vớt của ngài Địa Tạng)
(Kinh)
Thị đại Bồ Tát ư bách thiên kiếp, đầu
đầu cứu bạt như thị chúng sanh, tảo linh
giải thoát. Thị tội báo nhân, năi chí đọa đại
ác thú. Bồ Tát dĩ phương tiện lực, bạt
xuất căn bản nghiệp duyên, nhi khiển ngộ túc
thế chi sự.
(經)是大菩薩‧於百千劫‧頭頭救拔如是眾生‧早令解脫。是罪報人‧乃至墮大惡趣。菩薩以方便力‧拔出根本業緣‧而遣悟宿世之事。
(Kinh:
Vị đại Bồ Tát ấy trong trăm ngàn kiếp đă
luôn luôn cứu vớt chúng sanh như thế, khiến cho họ
sớm giải thoát. Những kẻ tội báo ấy, thậm
chí đọa vào trong đường ác lớn, Bồ Tát dùng
sức phương tiện dẹp trừ nghiệp duyên căn
bản, khiến cho họ ngộ những chuyện thuộc
đời trước).
Chúng sanh
tánh tuy ương ngạnh, khó thể điều phục,
nhưng Địa Tạng Bồ Tát chẳng xả ḷng đại
từ, mà luôn luôn cứu vớt. “Đầu đầu”
c̣n nói là “xứ xứ”, ư nói “ngàn chốn, vạn nơi”.
Câu “như thị chúng sanh” (chúng sanh như thế) chỉ
rơ kẻ khó điều phục. Đối với kẻ ương
bướng th́ dùng mềm mỏng để dạy, khiến
cho kẻ khó điều phục sẽ điều phục.
Như Vương Lương và Tạo Phụ[24] khéo điều
phục tánh ngựa, ắt khiến cho chúng nó đi vào khuôn
khổ mới thôi! Nay đối với Tam Bảo, Thí, Giới,
ắt đều làm cho họ tu tŕ. Giới thanh tịnh đă sanh, bèn đạt
được giải thoát thanh tịnh. V́ thế, đối
với kẻ tội báo nhẹ, nhỏ, bèn lập tức
cứu vớt. Nếu phạm tội nặng, đáng đọa
vào A Tỳ là chốn đường ác to lớn, Ngài cũng
dùng sức phương tiện khéo léo để dẹp trừ
nghiệp duyên căn bản của họ.
Từ ngữ
A Phù Ha Na (Apattivyutthānaṁ) trong tiếng Phạn, dịch
sang tiếng Hán là Bạt Trừ Tội Căn. Cần biết
các điều ác, theo nghiệp thọ báo đều lấy
Tam Độc làm gốc. Trong Tam Độc, tham ái là cội
rễ. Như nắm lấy một đầu tấm vải,
những phần c̣n lại đều xuôi theo. Đại
Trí Độ Luận nói: “Nếu chẳng đoạn ái,
ái bèn sanh trưởng tươi tốt. V́ thế, tứ
sanh đều do ái khởi”. Do vậy, Thành Thật
Luận viết: “Như chẳng nhổ rễ cây, cây vẫn
c̣n sống. Rễ tham chẳng nhổ, cây khổ thường
c̣n đó”. V́ thế biết tham ái là cái gốc của sanh
tử. Nếu diệt tham dục th́ gọi là Đệ
Tam Đế (tức Diệt Đế). Kinh Thập Luân dạy:
“Diệt trừ nhất thiết Hoặc chướng tập khí,
do như liệt nhật tiêu thích khinh băng” (Diệt trừ hết
thảy Hoặc chướng, tập
khí, ví như mặt trời chói rực làm tan ngay băng mỏng).
V́ thế, bài kệ Vô Thường có đoạn viết: “Minh
nhăn, vô quá huệ, hắc ám, bất quá si” (Mắt sáng chẳng
hơn huệ; tối tăm chẳng hơn si). Nay nghiệp
duyên căn bản đă nhổ trừ, tự ngộ những
chuyện thuộc về đời trước. Ví như
lau đi lau lại gương cổ, ánh sáng thường
hằng của nó sẽ tự hiện.
3.2.3.2.2.2.1.5.2.1.2. Ước chúng
sanh ác tập nan thoát (nói theo phía chúng sanh khó thoát tập
khí ác)
(Kinh)
Tự thị Diêm Phù chúng sanh kết ác tập trọng, toàn
xuất, toàn nhập, lao tư Bồ Tát cửu kinh kiếp
số, nhi tác độ thoát.
(經)自是閻浮眾生‧結惡習重‧旋出旋入。勞斯菩薩‧久經劫數‧而作度脫。
(Kinh:
Chính v́ chúng sanh trong cơi Diêm Phù kết sử và tập khí ác nặng
nề, vừa mới thoát ra, lập tức trở vào, nhọc
nhằn Bồ Tát trải qua kiếp số lâu xa độ
thoát họ).
Chữ “Tự”
hàm ư: Phương tiện cứu vớt như thế, đáng
lẽ họ phải là nơi nào cũng đều được
giải thoát. Nay không thể như thế là v́ chúng sanh tự
tạo ác nghiệp, tự ḿnh trói ḿnh, chẳng phải là lỗi
của Bồ Tát! “Kết ác tập trọng” (kết
sử và tập khí ác nặng nề) chính là từ ngữ
khẩn yếu: Cội nguồn sanh tử nói đại lược
là Tam Kết, tức Thân Kiến, Giới Thủ, và Nghi, nói
rộng là tám mươi tám Sử v.v… Do Kết Ác mà tạo
mười tập nhân, tức tập, tham, mạn, sân, trá
(dối trá), cuống (lừa dối), oán, kiến (chấp
vào kiến giải, có thành kiến), uổng (làm chuyện
oan uổng), tụng tập (quen thói thưa kiện, tranh chấp),
thọ sáu giao báo[25]. Do vậy,
họ vừa mới ra khỏi tam đồ, lại lập
tức trở vào chỗ khổ sở cùng cực, đến
nỗi nhọc công ngài Địa Tạng trải qua nhiều
kiếp đă lâu như số vi trần,
khởi vô lượng phương tiện để tạo
nhân duyên độ thoát. Há chẳng phải là do tập khí ác
của chúng sanh lôi kéo, vướng
vất đến
nỗi Bồ Tát nhọc nhằn giáo hóa đă lâu mà chẳng
thể kết thúc ư?
3.2.3.2.2.2.1.5.2.2. Dĩ dụ thích
minh (dùng
thí dụ để giải thích rơ)
3.2.3.2.2.2.1.5.2.2.1. Mê nhập hiểm
đạo (mê muội đi vào đường
hiểm)
(Kinh)
Thí như hữu nhân, mê thất bổn gia, ngộ nhập hiểm
đạo.
(經)譬如有人‧迷失本家‧誤入險道。
(Kinh:
Ví như có kẻ mê mất nhà ḿnh, đi lầm vào đường
hiểm).
Đoạn
này chia làm ba tiểu đoạn. Đầu tiên là do mê cội
gốc mà vào đường hiểm. “Hữu nhân” (có kẻ):
Ví như chúng sanh trong ác đạo. “Nhân quả chẳng quên”
là Có. “Kẻ” [ở đây] chính là người chịu
đựng, tức chịu đựng nỗi khổ ngũ
trược. Cơi Thường Tịch Quang là “bổn gia”
(nhà của chính ḿnh). Chúng sanh Thập Ác vốn là con của
Như Lai; chỗ khổ sở trong tam đồ, không ǵ chẳng
phải là “nhà thường tịch”! Do chẳng biết pháp
Chân Như là một, gió bất giác vô minh thổi lên, phiêu bạt
nơi nước lạ, đọa lạc chốn quê người!
Đă quên quê hương, bèn mê mất lối về. Mải
mê đuổi theo cảnh, dấn thân vào đường hiểm.
Sách Pháp Hoa Văn Cú giải thích câu “hiểm nạn ác
đạo” (đường ác hiểm nạn) trong kinh
Pháp Hoa là cách nói sánh ví tổng quát về nhân quả sanh tử
trong chín pháp giới. V́ thế nói là Phần Đoạn và
Biến Dịch, tức là sự hiểm nạn nơi cái
quả. Kiến Tư ngũ trụ chính là sự hiểm nạn
nơi cái nhân. Do nhân duyên ấy, cho nên nói là “ác đạo”.
Nay dựa theo câu kinh văn trong phần tiếp theo, tức
câu “sanh nhân thiên trung, linh thọ diệu lạc” (khiến
cho họ sanh trong cơi trời, người, hưởng niềm
vui mầu nhiệm), sẽ thấy: Tam đồ được
coi là “đường hiểm” là v́ chẳng nương
theo lời dạy hành Thí, Giới để sanh thiện, đến
nỗi lầm lạc đọa vào ba ác đạo!
(Kinh)
Kỳ hiểm đạo trung, đa chư Dạ Xoa, cập
hổ, lang, sư tử, nguyên, xà, phúc, yết.
(經)其險道中‧多諸夜叉‧及虎狼師子‧蚖蛇蝮蠍。
(Kinh:
Trong đường hiểm ấy, có nhiều Dạ Xoa, và
cọp, sói, sư tử, cắc kè, rắn, độc trùng,
ḅ cạp).
Đoạn
thứ hai là đường hiểm có nhiều sự ác, do
có nhiều Dạ Xoa v.v… Dạ Xoa, có trí, có thần thông, bay
đi nhanh chóng; ví như Lợi Sử, tà kiến, báng bổ
vô nhân quả, có trí biện tài nhanh chóng. Chánh Tâm Địa
Quán nói: “Tâm như Dạ Xoa v́ có thể ăn các thứ pháp
công đức”. “Hổ, sói”: Súc sanh ngu độn, ương
bướng, ví như Độn Sử. Theo Câu Xá Luận, do
kiêu mạn lừng lẫy, sẽ sanh trong loài sư tử,
hổ, sói. Do sân khuể lừng lẫy, sanh trong loài nguyên,
xà, phúc, yết. Như vậy th́ hổ, sói, sư tử đều
ví như Mạn Sử. Nay xét ra, Tam Độc là cái gốc
của thân, khẩu, cho nên hổ được sánh ví như
Mạn Sử. Như kinh Phân Biệt Thiện Ác đă dạy:
“Kiêu ngạo thường mạn nhân, hậu sanh vi mănh hổ
cố dă” (Kẻ kiêu ngạo, thường khinh mạn,
về sau, sanh làm cọp dữ). Sói ví như Tham Sử, do sói
mong cầu thức ăn, không no bụng sẽ không ngừng;
cho nên nói là “tham lang” (貪狼, tham lam, hung tàn). Sư
tử biểu thị Si Sử, do xưa kia tŕ giới tuy
nghiêm ngặt, nhưng chẳng có huệ thanh tịnh, chấp vào giới mà khinh mạn
kẻ khác, cho nên đọa làm súc sanh. Do sức của giới
mà làm vua các loài thú. Không có huệ tức là si, cho nên dùng sư
tử để sánh ví Si Sử.
Nguyên, xà,
phúc, yết ví như Sân Sử. “Nguyên” (蚖) là Thủ Cung (守宮, cắc kè), loài sống
trên tường th́ gọi là Yển Đ́nh (蝘蜓, cắc kè đốm),
sống nơi băi sông gọi là Tích Dịch (蜥蜴, thằn lằn cát, hoặc
con giông). Do loài này sẵn có rất nhiều chất độc, không đụng
đến nó vẫn cắn, cho nên sánh ví như giận dữ
phi lư. Dương Tử nói: “Cắc kè không nể nang ai”.
Phúc (蝮) là Đào Diên (蜪蝝), [tức một loại
độc trùng], hễ nó chích vào tay th́ phải chặt tay,
chích vào chân th́ phải chặt chân; có hại cho thân. Yết
hổ (蠍虎, ḅ cạp) là một loại độc
trùng chích người. Nhưng đụng vào nó th́ nó mới
chích, nên ví như kẻ chấp vào lư mà sân. Chẳng dùng rết
để sánh ví sự sân hận v́ hư luận, do trong tam đồ
không có hư luận.
(Kinh)
Như thị mê nhân, tại hiểm đạo trung, tu du chi
gian, tức tao chư độc.
(經)如是迷人‧在險道中‧須臾之間‧即遭諸毒。
(Kinh:
Kẻ mê như thế, ở trong đường hiểm,
trong khoảnh khắc sẽ bị các thứ độc làm
hại).
Đoạn
thứ ba là ở trong đường hiểm đụng
phải các thứ độc. “Như thị mê nhân” (Kẻ
mê như thế): Ư nói kẻ mê muội thật nặng, chẳng
biết Tứ Đế, đến nỗi lưu lạc
trong đường hiểm Thập Sử. “Tu du tao độc”
(Trong khoảnh khắc, sẽ gặp phải các thứ độc):
Do một niệm có chín mươi sát-na, trong một sát-na có
chín trăm lần sanh diệt. Giảm tổn trong mỗi
niệm, chẳng hề tăng trưởng, ví như thác
nước trên núi, [cứ tuôn chảy] chẳng thể ngưng
dứt; cũng như sương sớm, chẳng tồn
tại lâu dài! V́ thế, nói là “trong khoảnh khắc, sẽ
gặp gỡ các thứ độc”.
“Các thứ
độc”: Theo kinh Niết Bàn, rắn có bốn thứ
độc là kiến độc (trông thấy nó liền bị
trúng độc), xúc độc (chạm vào nó liền bị
trúng độc), khiết độc (bị nó cắn mà trúng
độc), thích độc (bị nó mổ mà trúng độc).
Hổ, sói, sư tử, gấu nâu, gấu ngựa, mèo, chồn,
chim ưng, diều hâu, có đủ các thứ độc hại,
nếu chẳng phải là đường hiểm th́ là ǵ
vậy?
3.2.3.2.2.2.1.5.2.2.2. Tri thức chỉ
mê (tri thức
chỉ điểm kẻ mê)
(Kinh)
Hữu nhất tri thức, đa giải đại thuật,
thiện cấm thị độc, năi cập Dạ Xoa,
chư ác độc đẳng.
(經)有一知識‧多解大術‧善禁是毒‧乃及夜叉諸惡毒等。
(Kinh:
Có một vị tri thức hiểu nhiều phương tiện
rộng lớn, khéo ngăn cấm các độc ấy và Dạ
Xoa, các thứ ác độc v.v…)
“Tri thức”
chỉ đức Địa Tạng, thường nói là “chỉ
có ḿnh ta là có thể cứu vớt, che chở”, cho nên nói là “nhất”.
Kinh Tư Ích nói: “Ư đọa tà đạo chúng sanh, sanh
đại bi tâm, linh nhập chánh đạo, bất cầu
ân báo, thị danh đạo sư” (Đối với chúng
sanh đọa vào đường tà, bèn sanh tâm đại
bi, khiến cho họ nhập chánh đạo, chẳng cầu
báo ân, nên gọi là đạo sư), đấy chính là tri thức. Do “đa giải
đại thuật, thiện cấm thị độc”
(hiểu nhiều phương tiện rộng lớn, khéo
ngăn cấm các thứ độc) cho nên gọi là tri thức.
Dùng phương tiện nhiệm mầu dể tùy cơ gợi
mở, hướng dẫn, rộng nói các luận thuyết
Thí, Giới, sanh thiên, chỉ dạy rộng khắp các môn Đế,
duyên, đạo phẩm. Trí huệ rộng sâu th́ gọi là
“đa giải” (hiểu nhiều). Phương tiện
xảo diệu gọi là “đại thuật”. “Thiện
cấm độc” (khéo cấm chế các thứ độc)
là nói Đạo phẩm để đối trị các chất
độc của Tập Đế, như đối với
kẻ tham nhiều, liền dạy
họ quán bất tịnh v.v… (Theo kinh Thiện Tín, có một
vị thần cây thuốc, tên là Ma La Đà Kỳ, chuyên khắc
chế vạn độc trong thiên hạ. Có con rắn thần,
thân dài một trăm hai mươi thước, ḅ đi kiếm
ăn. Có con trùng đầu đen, thân dài một trượng
năm thước, chạm mặt rắn, rắn liền
ngóc đầu mổ trùng. Nghe mùi thuốc, rắn liền
gục đầu muốn ḅ đi. Thân nó vướng vào cây
thuốc, đứt ra làm hai đoạn. Phần đầu
sống sót, ḅ mất, phần đuôi thối nát. Các loài độc
vật nghe mùi thối của rắn, các thứ khí độc
ác thảy đều tiêu diệt).
(Kinh)
Hốt phùng mê nhân, dục tấn hiểm đạo, nhi ngữ
chi ngôn: “Đốt tai nam tử! Vị hà sự cố, nhi
nhập thử lộ? Hữu hà dị thuật, năng
chế chư độc?”
(經)忽逢迷人‧欲進險道。而語之言‧咄哉‧男子。為何事故‧而入此路。有何異術‧能制諸毒。
(Kinh:
Chợt gặp kẻ mê muốn vào con đường hiểm,
bèn bảo rằng: “Ô hay ông kia! V́ duyên sự ǵ mà vào đường
này? Ông có pháp thuật lạ có thể ngăn trừ các thứ
độc hay chăng?”)
Từ “hốt
phùng” (chợt gặp) trở đi, nói rơ Đại Sĩ
chỉ ra phương cách thoát khỏi tam đồ. Không
quen biết mà gặp gỡ th́ gọi là “hốt phùng”
(忽逢). Sắp vào nhưng chưa
vào th́ bảo là “dục tấn” (欲進), tương phản
với “ngoa nhập” (譌入, đă lầm lạc
tiến vào). “Ngữ chi” (語之) là bảo ban. Ấy là
v́ xưa kia đă hóa độ khiến cho kẻ ấy thoát
khổ, hiềm rằng [kẻ ấy] chí tánh bất định,
lại tạo ác nghiệp, lại vào tam đồ. V́ thế,
lo sầu, kinh hăi mà bảo ban. “Đốt tai” (咄哉) là từ ngữ cảnh tỉnh. “Nam tử”
hàm ư cảnh giác. Nam tử là trượng phu, kinh Đại
Thừa nói: “Có thể thấy Phật tánh th́ gọi là trượng
phu”. Nay đă mê Phật tánh, cho nên dùng từ ngữ “nam
tử” để cảnh tỉnh người ấy nhận
biết [Phật tánh] vốn sẵn có. Kinh Thập Luân nói: “Như
mê phương giả, sở phùng thị đạo” (như
kẻ mê phương hướng, gặp người chỉ
đường) là nói về chuyện này. “Hà sự”
(chuyện ǵ) là kinh ngạc hỏi han. “Thử lộ”
(đường này) chỉ tam đồ. Đức Phật
dạy: “Chúng sanh dĩ tam ác đạo vi gia” (chúng sanh
lấy ba ác đạo làm nhà), cho nên nói “thử lộ”. Do có hai hạng
người sẽ vào con đường ấy, tức là người
có oai thần, hay người theo nghiệp lực. Chẳng
phải là hai chuyện ấy, sẽ trọn chẳng thể
đến được! V́ thế, kinh ngạc hỏi: “Là
do thần thông cứu khổ mà vào? Hay là do nghiệp cảm
báo mà đến?” “Hữu hà dị thuật?” (Có pháp
thuật lạ ǵ) là lời căn vặn, ư nói: Ông có pháp thuật
lạ lùng nào, có sức có thể chế ngự các thứ độc
hay chăng? Chữ “dị thuật” biểu thị phương
tiện lạ, đối trị các pháp môn ác, trợ hiển
Đệ Nhất Nghĩa Đế.
3.2.3.2.2.2.1.5.2.2.3. Mê cầu xuất
lộ (người mê cầu thoát khỏi đường
hiểm)
3.2.3.2.2.2.1.5.2.2.3.1. Mê văn thoái
bộ cầu lộ (người mê nghe nói bèn lùi bước,
cầu thoát khỏi đường ấy)
(Kinh)
Thị mê lộ nhân, hốt văn thị ngữ, phương
tri ác đạo, tức tiện thoái bộ, cầu xuất
thử lộ.
(經)是迷路人‧忽聞是語‧方知惡道。即便退步‧求出此路。
(Kinh:
Người lạc đường ấy bỗng nghe lời
đó, mới biết là ác đạo, liền lùi bước,
mong thoát khỏi đường ấy).
“Hốt
văn” (bỗng nghe) là nghe Tứ Đế. Do trước
kia chưa nghe, nay bỗng được nghe! Điều này
giống như ông Tu Đạt (trưởng giả Cấp
Cô Độc) lúc mới được nghe chữ Phật,
toàn thân rởn da gà, bỗng thấy quang minh. “Tri ác đạo”
(Biết là ác đạo), tức là sợ Khổ Tập. Sách
Phụ Hành viết: “Trong mỗi niệm đều luôn biện
định đúng, sai. Nếu dấy lên cái tâm sai trái, phải
nên làm cho cái tâm ấy diệt mất, v́ tâm sai trái chính là đường
hiểm”. Kinh Bảo Vũ dạy: “Vị chư hữu
t́nh an trụ thế gian, cụ túc điên đảo, trụy
hiểm ác lộ, đọa ư phi xứ. Ngă kim linh bỉ
chư hữu t́nh đẳng, nhập chân thật lộ.
Do thị Như Lai vị chư hữu t́nh khởi ư đại
bi” (Tức là các hữu t́nh an trụ trong thế gian, trọn
đủ điên đảo, rơi vào đường hiểm
ác, đọa vào chốn sai trái. Ta nay sẽ làm cho các hữu
t́nh ấy vào trong đường chân thật. Do vậy, Như Lai v́ các hữu t́nh mà dấy
ḷng đại bi) chính là nói đến ư này. “Tiện thoái
bộ” (Liền lùi bước) tức là ngừng dứt
Thập Ác, tu Thập Thiện. “Cầu xuất lộ”
(mong ra khỏi đường ấy) chính là cầu sanh
trong trời, người.
3.2.3.2.2.2.1.5.2.2.3.2. Tri thức
tiếp dẫn, cáo ngữ (tri thức tiếp dẫn,
bảo ban)
3.2.3.2.2.2.1.5.2.2.3.2.1. Tiếp dẫn
(tiếp
dẫn)
(Kinh)
Thị thiện tri thức, đề huề tiếp thủ,
dẫn xuất hiểm đạo, miễn chư ác độc,
chí ư hảo đạo, linh đắc an lạc.
(經)是善知識‧提携接手‧引出險道‧免諸惡毒。至於好道‧令得安樂。
(Kinh:
Vị thiện tri thức ấy nắm tay d́u dắt, dẫn
ra khỏi đường hiểm, thoát khỏi các thứ ác
độc, đến con đường tốt, khiến
được an lạc).
Theo kinh Niết
Bàn, người trọn đủ các phạm hạnh, tự
tu các thứ thiện pháp, khiến cho các học nhân dần
dần xa lánh ác pháp, tăng trưởng thiện pháp th́ gọi
là “thiện tri thức”. “Đề huề tiếp thủ” (nắm tay d́u dắt):
Giống như “phục tương phù trợ” (lại
c̣n nâng đỡ) trong phần trước. Nâng, dắt, nắm
tay kéo đi, dẫn ra khỏi đường hiểm, ĺa
khỏi chuyện khổ trong tam đồ. Thoát khỏi các
thứ ác độc, đoạn kết sử quen thói làm ác,
sanh trong đường lành trời, người, đạt
được Niết Bàn an lạc. Kinh Thập Luân dạy:
“Thí như minh nguyệt, ư dạ phần trung, năng
thị nhất thiết thất đạo chúng sanh b́nh thản
chánh lộ, tùy kỳ dục văng, giai linh đắc chí. Thử
thiện nam tử, diệc phục như thị, ư vô
minh dạ, năng thị nhất thiết mê tam thừa đạo,
tŕ sính sanh tử khoáng dă chúng sanh, tam thừa chánh lộ, tùy
kỳ sở ưng, phương tiện an lập, linh đắc
xuất ly” (Ví như trăng sáng trong ban đêm có thể
soi chỉ con đường ngay ngắn, phẳng phiu cho hết
thảy chúng sanh lạc đường, tùy theo họ muốn
tới đâu đều được tới đích. Vị
thiện nam tử này cũng giống như vậy, trong đêm
tối vô minh, có thể dạy con đường tam thừa
chánh đáng cho hết thảy những kẻ mê mất đạo
tam thừa đang chạy quàng trong đồng hoang sanh tử,
tùy theo căn tánh đáng nên đắc đạo quả nào
của mỗi người mà dùng phương tiện an lập
họ, khiến cho họ được thoát ĺa). Dựa
theo đó, cũng nên xét theo nhân quả trong chín pháp giới
để giảng về đường hiểm, [cũng
giống như trong phẩm Hóa Thành Dụ của kinh Pháp Hoa,
vị đạo sư dẫn mọi người] vượt
qua năm trăm do-tuần đến được chỗ
có của báu Niết Bàn th́ mới là an ổn. Nay chỉ xét
theo tam đồ, trời, người để luận định
khít khao, v́ hóa độ những kẻ đang mê muội
trong ngũ trược là chuyện trọng yếu. Trước
hết, dùng tiểu pháp để tiếp dẫn; kế đó,
làm cho họ nhập Đại Thừa. [Phải hiểu đấy
là] phương tiện hay khéo, thích hợp và sự hóa độ
hay khéo thuận theo cơ nghi, chớ nói kinh này chỉ [giúp
cho chúng sanh] được sanh trong đường trời,
người! Hăy chú trọng điều này, những điều
trước và sau đó đều phỏng theo lệ này.
3.2.3.2.2.2.1.5.2.2.3.2.2. Cáo ngữ
(bảo
ban)
3.2.3.2.2.2.1.5.2.2.3.2.2.1. Chánh cáo mê
nhân (dạy
bảo kẻ mê)
(Kinh)
Nhi ngữ chi ngôn: “Đốt tai! Mê nhân, tự kim dĩ hậu,
vật lư thị đạo, Thử lộ nhập giả,
tốt nan đắc xuất, phục tổn tánh mạng”.
Thị mê lộ nhân, diệc sanh cảm trọng.
(經)而語之言‧咄哉迷人‧自今已後‧勿履是道。此路入者‧卒難得出‧復損性命。是迷路人‧亦生感重。
(Kinh:
Mà nói như thế này: “Ôi chao! Này kẻ lạc đường!
Từ nay trở đi, đừng bước vào con đường
ấy nữa. Vào con đường ấy, rất khó thoát
ra, lại c̣n tổn hại tánh mạng”. Người lạc
đường ấy cũng sanh tâm cảm kích sâu nặng).
“Ngữ
ngôn” (bảo ban) nhằm khuyên tu đạo tốt lành. “Đốt
tai” (ô hay, ôi chao) ngụ ư cảnh tỉnh lần nữa.
Ta phải dùng hết sạch sức phương tiện mới
khiến cho ông thoát khỏi ác đạo; v́ thế, cảnh
tỉnh lần nữa: “Ông hăy nên nghĩ sâu xa nỗi khổ
này, đừng nên tạo ác nghiệp lần nữa, để
rồi lại phải vào tam đồ!” Do vậy, bèn khuyến
cáo: “Than ôi! Ác huệ tà tu, tự cam tâm ở trong đường
hiểm!” Gặp cảnh giới ấy, há có thể lặng
câm? Nghĩ kẻ đó ngu si, há đành điềm nhiên ngồi
nh́n? Huống hồ đức Thế Tôn bi tâm phó chúc, lưu
lại đại nguyện cứu tế trọn khắp nơi
bến mê. Bồ Tát y giáo phụng hành, thị hiện hạnh
Đồng Sự để hóa độ
họ đều cùng thành Phật. Nếu thấy kẻ lạc
lối mà chẳng chỉ nẻo chánh, từ bi ở chỗ
nào? Ngó kẻ đắm ch́m mà chẳng nghĩ cách cứu vớt,
phương tiện c̣n đâu? V́ thế, bảo ban như thế
này: “Con đường sanh tử này, hễ lọt vào sẽ
khó thoát ra, lại c̣n tổn hại Pháp Thân huệ mạng,
đúng là chỗ hiểm nguy!” Kẻ mê cũng cảm kích sâu
nặng, v́ trót chẳng biết, lầm lẫn vào chỗ sanh
tử nguy hiểm, nay bỗng được nhắc nhở,
lại được lên chốn quê nhà an lạc. Như kẻ
lênh đênh, bỗng chốc trở về nhà; như kẻ
đang ch́m dưới vực
thẳm, bỗng được lên bờ, há chẳng cảm
kích sâu đậm, tột bậc trân trọng ư? Đại
Luận nói: “Trước hết, hăy nên dùng mắt để
thấy đạo rồi sau đó mới hành. Khi hành, hăy nên
siêng năng, chuyên ṛng. Khi hành siêng năng, chuyên ṛng, thường
nghĩ đúng như vị đạo sư đă dạy.
Nghĩ rồi, nhất tâm lên đường, chẳng thuận
theo phi đạo” chính là nói về chuyện này.
3.2.3.2.2.2.1.5.2.2.3.2.2.2. Chúc linh
chuyển cáo (dặn nói lại với người
khác)
(Kinh) Lâm
biệt chi thời, tri thức hựu ngôn: “Nhược kiến
thân tri, cập chư lộ nhân, nhược nam, nhược
nữ, ngôn ư thử lộ đa chư độc ác, táng
thất tánh mạng, vô linh thị chúng, tự thủ kỳ
tử”.
(經)臨別之時‧知識又言‧若見親知及諸路人‧若男若女‧言於此路多諸毒惡‧喪失性命。無令是眾‧自取其死。
(Kinh:
Lúc chia tay, tri thức lại nói: “Nếu thấy người
thân, kẻ quen biết, và những người đi đường,
dù nam hay nữ, hăy nói với họ: Trong con đường
này có nhiều thứ độc ác khiến cho tánh mạng bị
chôn vùi, đừng để cho họ tự rước lấy
cái chết”).
Khi chia
tay bèn dạy kẻ ấy giáo hóa người khác, dạy hăy
khuyên người khác, mong sao họ sẽ lần lượt
truyền đạt, giáo hóa măi chẳng dứt. “Thân tri”
(người thân, kẻ quen biết) là những người
đă tiếp nhận đạo nhưng chưa giải
thoát. “Lộ nhân” (người qua đường) là
những người chưa tiếp nhận đạo, c̣n
đang sanh tử. Nói “nam, nữ” biểu thị truyền
trao Định, Huệ. Nói “thử lộ” (con đường
này), nghĩa là lại dùng Khổ Tập dạy lại những
người trên đây. Do con đường có nhiều thứ
ác độc, [lầm đi vào đó], ắt sẽ đánh
mất tánh mạng. V́ thế, cần biết Khổ đoạn
Tập, hâm mộ Diệt, tu Đạo, chẳng tự đánh
mất Pháp Thân huệ mạng. Trên đây là vị tri thức dạy [kẻ lạc
đường] hăy nói lại với người khác, kế
đó nêu ra dụng ư [v́ sao] phải nói lại. Nói “thị
chúng” (những chúng sanh ấy), có nghĩa là: Họ khác ǵ
người ruột thịt của ta? Nói “thủ tử”
(rước lấy cái chết) chính là hăy thiết thực
nghĩ họ giống như ta, nhấn mạnh ư nghĩa
trong câu “thủ tử”! Như kinh Ngũ Khổ Chương Cú có nói: “Tích Diêm
La vương hữu hoằng phổ chi Từ, chư đọa địa
ngục giả, hiện thân vấn chi: ‘Nhữ đẳng hà vi thị
gian?’ Tội nhân đối
viết: ‘Ngă đẳng tử thời,
bất tri hành chư ác, tự nhiên truy trục, tống ngă
lai đáo thị gian’. Vương viết: - Tự
nhữ sở tác, kim đương thọ chi, ngô bất uổng
nhữ” (Xưa
kia, vua Diêm La có ḷng Từ rộng lớn trọn
khắp, đối với những kẻ đọa địa
ngục, vua bèn hiện thân hỏi han: “V́ sao các ngươi đến
nơi đây?” Tội nhân thưa: “Khi chúng tôi chết, chẳng
biết kẻ nào làm các điều ác, tự nhiên xua đuổi,
đẩy chúng tôi đến nơi này”. Vua nói: “Do các ngươi
tự làm, nay phải hứng chịu, ta chẳng oan uổng
các ngươi”). Há chẳng phải là tự rước lấy
cái chết ư? Ví như ôm đá gieo ḿnh xuống vực, tự
ch́m, tự rơi. Con thiêu thân gieo ḿnh vào lửa, tự đốt,
tự tan nát, chẳng phải do người hay trời gây
ra!
3.2.3.2.2.2.1.5.2.3. Dĩ pháp hợp
hiển (phối ứng thí dụ với pháp để
làm rơ nghĩa)
3.2.3.2.2.2.1.5.2.3.1. Phương
tiện cứu bạt (phương tiện cứu
vớt)
3.2.3.2.2.2.1.5.2.3.1.1. Trực dĩ
pháp hợp (trực tiếp kết hợp
thí dụ với pháp)
(Kinh)
Thị cố Địa Tạng Bồ Tát cụ đại
từ bi, cứu bạt tội khổ chúng sanh, sanh nhân
thiên trung, linh thọ diệu lạc. Thị chư tội
chúng, tri nghiệp đạo khổ, thoát đắc xuất
ly, vĩnh bất tái lịch.
(經)是故地藏菩薩具大慈悲‧救拔罪苦眾生‧生人天中‧令受妙樂。是諸罪眾‧知業道苦‧脫得出離‧永不再歷。
(Kinh:
V́ thế, Địa Tạng Bồ Tát trọn đủ ḷng
đại từ bi cứu vớt chúng sanh tội khổ,
khiến cho họ được sanh làm trời, người,
được hưởng sự vui sướng mầu nhiệm.
Các chúng sanh mắc tội ấy biết nghiệp đạo
là khổ, đă được thoát ĺa rồi bèn vĩnh viễn
chẳng trở vào nữa).
Đây là
dựa trên thí dụ về con đường hiểm để
phối ứng với pháp, ḥng giảng rơ ư nghĩa. “Cụ
đại từ bi” (trọn đủ ḷng
đại từ bi): Do đồng thể nên nói là
“cụ” (具, trọn đủ). Ban
vui tức là dẹp khổ, dẹp khổ chính là ban vui, cho
nên nói là Đại. Từ cái Thể trọn đủ nơi
Lư, khởi ra thần thông tạo tác nơi Sự để
cứu bạt. “Sanh trong trời, người”: Hiển
lộ tác dụng thật sự của ḷng từ bi. “Trời, người” chính là căn khí để tiếp
nhận đạo. V́ thế, trước hết cần phải
sanh trong trời, người, hưởng các sự vui sướng.
Điều này phối ứng với phần trước
th́ chính là đoạn kinh văn “thiện tri thức nắm
tay d́u dắt”, cho đến “khiến cho được
an vui” trong phần trước. Từ “thị chư”
(các chúng sanh ấy) trở đi, nói tới những chúng
sanh có tội biết hối. Các chúng sanh có tội chính là căn
cơ được hóa độ, biết nghiệp khổ
do đă đích thân trải qua. V́ thế, nguyện được
thoát ĺa, vĩnh viễn chẳng trải qua chuyện ấy
nữa.
Theo kinh
Khởi Thế, vua Diêm La sau khi chịu nỗi khổ bị
nước đồng sôi rót vào miệng, tự phát nguyện
rằng: “Nguyện từ nay xả thân này xong, khi thọ
thân khác, chỉ thọ sanh trong nhân gian, tin hiểu pháp của
Như Lai, cạo bỏ râu tóc, đắp y ca-sa. Đă xuất
gia, nguyện chứng đắc đạo, chẳng c̣n thọ
sanh trong đời sau nữa”. Diêm Vương c̣n như
thế, huống hồ những kẻ khác ư? V́ thế,
trong kinh Quán Phật Tam Muội, các vị Bồ Tát quở trách
ngạ quỷ: “Nhữ ư tiền thân vô lượng
thế thời, tác vô hạn tội, phỉ báng, bất tín,
đọa A Tỳ ngục, thọ chư khổ năo, bất
khả cụ thuyết. Nhữ kim ưng đương phát
từ bi tâm” (Các ngươi trong những thân thuộc vô
lượng đời trước, đă tạo vô hạn
tội, phỉ báng, bất tín, đọa vào ngục A Tỳ,
chịu các khổ năo, chẳng thể nói trọn! Nay các ngươi hăy nên phát tâm
từ bi). Các ngạ quỷ nghe xong, xưng “Nam-mô Phật”, ngay lập tức mạng
chung, sanh về chỗ Tứ Thiên Vương. Hối lỗi,
tự trách, phát Bồ Đề tâm; tâm quang của chư Phật
chẳng bỏ những kẻ ấy. Nhiếp thọ những
kẻ ấy như La Hầu La, dạy họ tránh khỏi
địa ngục, như yêu mắt, tai. Nay ngài Địa
Tạng cũng thế, cho nên những chúng sanh tội khổ
phát tâm hối hận ấy hoàn toàn phù hợp với đoạn
kinh văn “đốt tai mê nhân” (ô hay! Này người mê) cho đến
“tự thủ kỳ tử” (tự rước lấy
cái chết).
3.2.3.2.2.2.1.5.2.3.1.2. Pháp dụ hợp
thích (gộp
chung pháp và thí dụ để giải thích) 3.2.3.2.2.2.1.5.2.3.1.2.1.
Hợp mê nhân nhập hiểm (kết hợp với thí
dụ người lạc lối đi vào đường
hiểm)
(Kinh)
Như mê lộ nhân, ngộ nhập hiểm đạo.
(經)如迷路人‧誤入險道。
(Kinh:
Như kẻ lạc đường, đi lầm vào đường
hiểm).
Ứng hợp
với đoạn văn từ “thí như hữu nhân” (ví
như có người) cho đến “tức tao chư độc”
(sẽ bị các thứ độc làm hại) trong phần
trên.
3.2.3.2.2.2.1.5.2.3.1.2.2. Hợp tri
thức chỉ mê (đối ứng với phần
tri thức chỉ bảo kẻ mê)
3.2.3.2.2.2.1.5.2.3.1.2.2.1. Mê nhân tự
xuất (người mê tự ra khỏi)
(Kinh)
Ngộ thiện tri thức, dẫn tiếp linh xuất, vĩnh
bất phục nhập.
(經)遇善知識‧引接令出‧永不復入。
(Kinh:
Gặp thiện tri thức dẫn dắt ra khỏi, vĩnh
viễn chẳng c̣n vào trong đó nữa).
Tương
ứng với đoạn kinh văn từ “hữu nhất
tri thức” (có một vị tri thức) cho đến “diệc
sanh cảm trọng” (cũng sanh ḷng cảm kích sâu nặng).
3.2.3.2.2.2.1.5.2.3.1.2.2.2. Chuyển
cáo tha nhân (nói lại với người
khác)
(Kinh)
Phùng kiến tha nhân, phục khuyến mạc nhập, tự
ngôn nhân thị mê cố, đắc giải thoát cánh, cánh bất
phục nhập.
(經) 逢見他人‧復勸莫入。自言因是迷故‧得解脫竟‧更不復入。
(Kinh:
Gặp người khác, lại khuyên họ đừng vào,
tự nói chính ḿnh do mê muội [nên vào đó, nay] đă được
giải thoát rồi, chẳng c̣n vào nữa).
Tương
ứng với đoạn kinh văn “lâm biệt chi thời”
(khi sắp chia tay) cho đến “tự thủ kỳ
tử” (tự rước lấy cái chết). Phần kết
hợp với phương tiện cứu bạt đă
xong.
3.2.3.2.2.2.1.5.2.3.2. Hợp ác tập
nan thoát (kết hợp phần kinh văn nói về
chuyện khó thoát khỏi tập khí ác)
3.2.3.2.2.2.1.5.2.3.2.1. Dụ hợp
(kết
hợp với phần thí dụ)
(Kinh)
Nhược tái lư tiễn, do thượng mê ngộ, bất
giác cựu tằng sở lạc hiểm đạo, hoặc
trí thất mạng, như đọa ác thú.
(經)若再履踐‧猶尚迷誤‧不覺舊曾所落險道。或致失命‧如墮惡趣。
(Kinh:
Nếu lại đi vào, tức là vẫn c̣n mê lầm, chẳng
biết trước kia đă từng rơi vào đường
hiểm, hoặc đến nỗi phải mất mạng,
như đọa trong đường ác).
Tương
ứng với đoạn kinh văn [chúng sanh] “nan điều,
nan phục, kết ác tập trọng, toàn xuất, toàn nhập”
(khó điều phục, kết sử, tập khí ác nặng
nề, vừa mới thoát ra lại trở vào ngay) trong phần
trước. Ư nói: Đă thoát khỏi tam đồ, đă
sanh làm trời, người, đáng lẽ nên tự chuyên ṛng,
siêng năng tu tập. Hiềm rằng tập khí ác chưa
trừ, lại tạo ác nghiệp, lại vào trong tam đồ.
Do vẫn mê cái gốc, lầm lạc vào đường hiểm,
chẳng biết xưa kia đă từng lăn lóc trong đường
ác hiểm nạn. Hoặc có kẻ rơi vào cảnh hiểm,
nhưng chẳng mất mạng, do có chút điều lành
thuở trước, thoát hiểm cũng nhanh chóng. Hoặc có lúc rơi vào cảnh
hiểm đến nỗi mất mạng, giống như đọa
trong đường ác. Không chỉ là chẳng dẹp trừ
nghiệp duyên căn bản, mà c̣n mê muội chuyện trong đời
trước!
3.2.3.2.2.2.1.5.2.3.2.2. Pháp hợp (kết hợp với
pháp)
(Kinh)
Địa Tạng Bồ Tát phương tiện lực cố,
sử linh giải thoát, sanh nhân thiên trung, toàn hựu tái nhập.
Nhược nghiệp kết trọng, vĩnh xử địa
ngục, vô giải thoát thời.
(經)地藏菩薩方便力故‧使令解脫‧生人天中。旋又再入。若業結重‧永處地獄‧無解脫時。
(Kinh:
Địa Tạng Bồ Tát dùng sức phương tiện
khiến cho họ được giải thoát, sanh làm trời,
người, nhưng rồi họ lại đọa vào. Nếu
nghiệp kết nặng nề, sẽ ở măi trong địa
ngục, chẳng có lúc giải thoát).
Ba câu từ
“Địa Tạng” trở đi, xa là ứng hợp
với phần kinh văn từ “Bồ Tát dĩ phương
tiện lực” (Bồ Tát dùng sức phương tiện)
cho đến “khiển ngộ túc thế chi sự” (khiến
cho người ấy ngộ chuyện thuộc đời
trước); gần th́ ứng hợp với đoạn kinh
văn từ “Địa Tạng Bồ Tát cụ đại
từ bi” (Địa Tạng Bồ Tát trọn đủ
ḷng đại từ bi) cho đến “linh thọ diệu
lạc” (khiến cho họ hưởng sự vui sướng
mầu nhiệm). Câu “toàn hựu tái nhập” (nhưng
rồi họ lại đọa vào), tương ứng với
đoạn kinh văn từ “tự thị chúng sanh kết
ác tập trọng” (các chúng sanh ấy kết sử, tập
khí ác nặng nề) cho đến “nhi tác độ thoát”
(làm cho họ độ thoát). V́ thế, kinh Ương
Quật chép: “Ngă diệc bất vi phụ trái chi nhân, như
Thân Đầu La, tốc văng tốc phản” (ta cũng
chẳng phải là kẻ mắc nợ, giống như Thân
Đầu La, đi nhanh rồi trở lại cũng nhanh),
phù hợp khít khao với đoạn kinh văn ở đây
(Thân Đầu La (Sindūra) là người ảo thuật
của ngoại quốc. Họ diễn tṛ người bay,
có thể bay tới bay lui trên hư không, qua lại rất
nhanh). Đó là loại người nghiệp kết nặng
nề, tạo thượng phẩm Thập Ác; đă kết
nghiệp ấy, há mong chi giải thoát ư? Bởi lẽ,
trong pháp vô ngă, họ lại chấp hữu, tạo nghiệp,
đă mê Chân Đế, tự trái nghịch lư không tịch.
V́ thế nói: “Trói do ta tự trói, cởi do ta tự cởi”.
Nếu đối với mỗi pháp đều cầu Không,
tự nhiên môn nào cũng đều giải thoát. Phần kinh
văn Diêm La tán thán đă xong.
3.2.3.2.2.2.2. Quỷ vương
hộ trợ (quỷ vương giúp hộ
tŕ)
3.2.3.2.2.2.2.1. Ác Độc ủng
hộ (Ác Độc quỷ vương ủng hộ)
3.2.3.2.2.2.2.1.1. Quỷ vương
hộ thế (quỷ vương hộ tŕ
thế gian)
3.2.3.2.2.2.2.1.1.1. Tự kỷ hành
xứ (trần thuật chỗ du hành của chính
ḿnh)
(Kinh)
Nhĩ thời, Ác Độc quỷ vương hiệp chưởng,
cung kính bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă đẳng
chư quỷ vương, kỳ số vô lượng, tại
Diêm Phù Đề.
(經)爾時惡毒鬼王‧合掌恭敬白佛言‧世尊‧我等諸鬼王‧其數無量‧在閻浮提。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Ác Độc quỷ vương chắp
tay, cung kính, bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Hàng quỷ
vương chúng con số nhiều vô lượng ở trong
Diêm Phù Đề).
Ác Độc là thủ
lănh của các quỷ vương, cho nên đứng ra thưa
bày trước tiên. Trước hết, trần thuật số
lượng và trụ xứ của các quỷ. “Số vô
lượng”: Bao gồm các tinh linh thuộc các nhà, miếu
trong chín châu, vạn quốc, hoặc là thủy phủ sơn
tinh (các loài tinh quái ở dưới nước hoặc núi
non), là thần gió, thần mưa, ba ngàn quyến thuộc, năm
trăm đồ đảng. Đó là số lượng,
chẳng thể tính đếm. Nếu bàn đến trụ
xứ th́ có chánh và phụ khác nhau. Chánh xứ (trụ xứ
chánh yếu) th́ ở năm trăm do-tuần phía dưới
Diêm Phù Đề, do Diêm La thống lănh, c̣n những trụ
xứ phụ th́ bất định. Quỷ có oai đức
th́ ở trong hang núi, trên hư không, bờ biển, đều
có cung điện. Kẻ chẳng có oai đức bèn nương
vào chỗ bất tịnh, phân nhơ, cỏ cây, mồ mả,
nhà tiêu, g̣ mộ cũ, họ đều
chẳng có nhà cửa, đều ở trong Diêm Phù Đề.
(Kinh)
Hoặc lợi ích nhân, hoặc tổn hại nhân, các các bất
đồng.
(經)或利益人‧或損害人‧各各不同。
(Kinh:
Hoặc tạo lợi ích, hoặc tổn hại con người,
mỗi mỗi khác nhau).
Từ “hoặc
lợi ích” trở đi, nói rơ hạnh nghiệp của
quỷ. Trong kinh Trường A Hàm, đức Phật bảo
các tỳ-kheo: “Nhất thiết nam nữ sanh thời, giai
quỷ thần tùy trục thủ hộ. Kim nhân hà cố hữu
vị quỷ thần sở xúc nhiễu giả, hữu bất vị quỷ thần sở
xúc nhiễu giả? Dĩ thế nhân vi phi pháp, hành tà
kiến, tác Thập Ác nghiệp, như thị bách thiên nhân,
năi hữu nhất thần hộ nhĩ. Nhược tu thiện
pháp, kiến chánh tín, tu Thập Thiện nghiệp, như thị
nhất nhân hữu bách thiên thần hộ. Cố hữu vị
quỷ thần xúc nhiễu, hữu bất vị xúc nhiễu” (Hết thảy nam nữ
lúc sanh ra, đều có quỷ thần theo sát thủ hộ.
Nay con người v́ sao có kẻ bị quỷ thần quấy
nhiễu? Có kẻ chẳng bị
quỷ thần quấy nhiễu? Là do người đời
làm điều phi pháp, hành tà kiến, tạo nghiệp Thập
Ác. Trăm ngàn người như thế mới có một vị
hộ thần bảo vệ. Nếu tu thiện pháp, kiến
giải chánh tín, tu Thập Thiện nghiệp, người
như thế được trăm ngàn vị thần bảo
vệ. Do vậy, có kẻ bị quỷ thần quấy nhiễu,
có người chẳng bị quấy nhiễu). V́ thế,
thiện quỷ thần lợi ích người rất nhiều,
ác quỷ thần tổn hại người rất nhiều.
Phàm bàn đến
phương cách của quỷ thần th́ họ đặc
biệt yêu thích chỗ yêu mị, tà vạy, tối tăm, kín
đáo, hoặc ở trong vách đá tối tăm, hoặc
nương vào g̣ cao, hoặc ở trong suối vắng, rừng
sâu, chốn đồng hoang, băi vắng. Họ có âm thanh khác
lạ, h́nh thế đặc biệt lạ lùng, khiến
cho thần thức của phàm ngu xáo động, sanh ḷng sợ
hăi. Nếu họ có oai quang, sẽ giả dối hiện tướng
quái lạ, tự tiện ra oai, giáng họa, xằng bậy
làm chuyện tổn hại hay tăng ích, làm ngàn vạn những
chuyện khác biệt.
(Kinh)
Nhiên thị nghiệp báo, sử ngă quyến thuộc, du hành
thế giới, đa ác, thiểu thiện.
(經)然是業報‧使我眷屬‧遊行世界‧多惡少善。
(Kinh:
Nhưng do nghiệp báo, khiến cho quyến thuộc của
con du hành trong thế giới, ác nhiều, thiện ít).
Từ “nhiên
thị” (nhưng do) trở đi, nói đến quả
báo cảm vời bởi loài quỷ. Theo kinh Chánh Pháp Niệm
Xứ, nhân hạnh của quỷ là do tham lam, ghen ghét, tà nịnh,
siểm khúc, lừa dối, gạt gẫm, tích góp tài vật
chẳng bố thí. Nương vào nghiệp nhân ấy, quả
báo là sanh trong quỷ đạo. Ác tâm huân tập, tạo thành
chủng tử, rất khó ăn năn, sửa đổi.
V́ thế, quyến thuộc của quỷ vương du hành
trong thế gian, ác nhiều, thiện ít. Sách thế gian nói
quỷ thần chính là sự chứng nghiệm nhằm tỏ
rơ họa phước trong cơi đời (Đạo Tuyên luật
sư hỏi vị trời Lục Huyền Sướng về
dấu vết xưa của chùa Tương Tư ở Phù
Châu. Đáp: “Vào thời đức Phật Ca Diếp, sơn
thần La Tử Minh là đệ tử đức Phật,
sanh ḷng căm ghét những kẻ phá giới, bèn phát nguyện
làm ác quỷ ăn thịt những kẻ phá giới. Do lời
nguyện, bèn thọ thân làm thần núi ấy. Cuộc đất do ông cai quản rộng hơn bảy ngàn dặm,
trong mỗi năm ăn thịt hơn một vạn người.
Đức Phật Ca Diếp giáo hóa, điều phục, ông
ta bèn thọ Ngũ Giới. Do vậy, chẳng ăn thịt
người nữa. Do sợ về sau, ông ta sẽ biến
đổi cái tâm, cho nên Phật để lại dấu tích
ấy. Lại nữa, tại Bắc Sơn thuộc Tuần
Châu ở Nam Hải, có chùa Linh Khám tại ranh giới huyện
Hưng Ninh, có nhiều chuyện linh ứng. Đấy là
do đệ tử của ngài Văn Thù làm thần núi ấy.
Thần tạo nhiều ác nghiệp. Ngài Văn Thù xót thương,
giáo hóa, sơn thần liền biết túc mạng, thỉnh
Bồ Tát lưu lại dấu tích để ông ta lễ bái,
phụng sự ḥng ĺa các ác. Ngài Văn Thù liền thị hiện,
đến nay vẫn c̣n. Vào năm Trinh Quán thứ ba (629), sơn
thần mạng chung, sanh lên trời Đâu Suất. Có một
quỷ khác đến sống ở đó, tức là người
nhà của vị thần cũ, tạo ác lớn lao. Vị
thần cũ xót thương, thỉnh ngài Văn Thù hiện
dấu tích nhỏ. Vị thần sau lại noi theo chánh pháp.
V́ thế, có dấu tích thị hiện lớn nhỏ tại
đó).
3.2.3.2.2.2.2.1.1.2. Hộ nhân tu vi
(hộ
vệ người tu hành)
3.2.3.2.2.2.2.1.1.2.1. Sở lịch
thiện xứ (đi qua chỗ tốt lành)
(Kinh)
Quá nhân gia đ́nh, hoặc thành, ấp, tụ lạc, trang
viên, pḥng xá.
(經)過人家庭‧或城邑聚落‧莊園房舍。
(Kinh:
Đi qua nhà của người ta, hoặc thành, ấp, xóm
làng, trang viên, nhà cửa).
Trước
hết, nói về chỗ quỷ thần đi qua. Tôi trộm
cho rằng: Người đời làm lành kín đáo, được
báo rơ rệt, người đời gọi đó là Âm Đức,
ai nấy đều tin tưởng. Làm ác rơ rệt, bị
quả báo ngấm ngầm, lư ấy rành rành, sao chẳng chịu
tin? V́ thế, thánh nhân phơi bày phước để khuyến
thiện, chỉ bày họa để răn ác. Phàm họa
phước vốn có căn cội, chẳng thể không có
nhân mà xằng bậy xảy đến được! Do
thiện hay ác mà sẽ đạt được quả
báo, ắt chẳng phải là “không đáng có mà bỗng dưng
hứng chịu”. Trong quyển hai mươi của kinh Trường
A Hàm, đức Phật bảo các tỳ-kheo: “Nhất
thiết nhân dân sở cư xá trạch, giai hữu quỷ
thần, vô hữu không giả” (nơi nhà cửa của
hết thảy nhân dân đều có quỷ thần, chẳng
chỗ nào không có). Huống hồ c̣n có chư thiên đi trên
không trung và các loài quỷ dạo trong thế gian!
Theo Minh Tường
Kư ghi chép, đời Tấn, Triệu Thái (tự là Văn Ḥa,
người xứ Bối Khưu, Thanh Hà) bị đau tim
chết đi. Có hai người dẫn ông ta tới Thái Sơn,
theo phía Nam vào một cái cửa đen. Có người mặc
áo đỏ chót, ngồi trong một căn nhà to. [Các người
hầu] theo thứ tự gọi tên, tra hỏi tội phước
lúc c̣n sống, [răn đe]: “Các ngươi hăy nói thật.
Chốn này luôn sai sứ giả thuộc lục bộ thường
ở trong nhân gian, ghi chép cặn kẽ thiện, ác đầy
đủ từng điều một. Chẳng thể dối
trá được đâu!” V́ thế, Thái Thượng nói: “Thiên
địa hữu tư quá chi thần. Hựu hữu Tam Thai,
Bắc Đẩu thần quân, Tam Thi thần, Táo thần.
Phàm nhân hữu quá, đại tắc đoạt kỷ, tiểu
tắc đoạt toán” (Trong trời đất có thần
chuyên soi xét tội lỗi. Lại có Tam Thai, Bắc Đẩu
thần quân, thần Tam Thi, Táo thần. Hễ kẻ nào có lỗi,
lớn th́ giảm thọ mười hai năm, nhỏ th́
giảm bớt tuổi thọ). V́ thế, chẳng thể
không cẩn thận!
(Kinh)
Hoặc hữu nam tử, nữ nhân, tu mao phát thiện sự,
năi chí huyền nhất phan, nhất cái, thiểu hương,
thiểu hoa, cúng dường Phật tượng, cập Bồ
Tát tượng. Hoặc chuyển độc tôn kinh, thiêu
hương, cúng dường nhất cú, nhất kệ. (經)或有男子女人‧修毛髮善事。乃至懸一旛一蓋‧少香少華‧供養佛像‧及菩薩像。或轉讀尊經‧燒香供養‧一句一偈。
(Kinh:
Hoặc có nam tử, nữ nhân tu thiện sự bằng mảy
lông tóc, thậm chí treo một lá phan, một cái lọng, dùng
chút hương, chút hoa cúng dường tượng Phật
và tượng Bồ Tát, hoặc đọc tụng tôn kinh,
thắp hương cúng dường một câu, một bài kệ).
Kế đó,
nói đến những việc thiện đă tu tập. Bất
luận nhiều hay ít, thậm chí việc thiện cực
nhỏ như sợi lông, cực bé như cái tóc. Lại c̣n
bất luận là lo liệu kiến tạo chốn già-lam trang nghiêm, trang hoàng, tô đắp
thánh tượng, thậm chí treo một lá phan hay một cái
lọng, thắp chút hương, rải chút hoa để cúng
dường tượng Phật, Bồ Tát. Như Triệu
Thái đi vào địa
ngục, ra khỏi cửa ngục, thấy có hai người
cầm văn thư đến, bảo với viên nha lại coi ngục: “Có ba người mà nhà
của họ đă treo phan, thắp hương nơi chùa,
tháp để giải cứu tội cho họ, họ có thể
ra khỏi ngục, đến phước xá”. Trong khoảnh
khắc, ông ta thấy có ba người từ trong ngục
ra, tự nhiên đă có y phục hoàn chỉnh nơi
thân, đi về phía Nam, đến một
ṭa nhà lớn sáng bừng, ông Thái cũng theo vào. Trên giường vàng ngọc, thấy một
vị thần, phi thường đẹp đẽ. Phủ
Quân (Đông Nhạc đại đế) cung kính làm lễ.
Ông Thái hỏi: “Ai thế?” Nha lại bảo: “Danh hiệu của
Ngài là Thế Tôn, là vị thầy độ người.
Ngài có nguyện khiến cho người trong ác đạo
đều được thoát ra, nghe kinh”. Khi ấy, có một
trăm vạn chín ngàn người đều ra khỏi địa
ngục.
V́ thế,
kinh Đại Phẩm Bát Nhă dạy: “Nhất hoa tán không,
năi chí tất khổ, kỳ phước bất tận”
(rải một đóa hoa lên không trung [để cúng dường
Tam Bảo], cho đến khi hết khổ, phước ấy
bất tận). Luận rằng: “Nói ‘chí tất khổ’
(cho đến khi hết sạch khổ) tức là khi hai thứ
tử (Phần Đoạn và Biến Dịch) đều hết
sạch. Ấy là nói: Cho đến khi đă thành Phật,
phước do rải hoa ấy vẫn c̣n chưa tận!”
Chuyện về phước do thắp hương rất
nhiều. Hoặc tụng đọc kinh Địa Tạng
Bồ Tát này, và các kinh Đại Thừa, thắp hương,
cúng dường, bất luận đọc hết một bộ,
hay hết một quyển, thậm chí một câu, một bài
kệ! Ngài Kinh Khê nói “nhất cú, nhất kệ, tăng tấn
Bồ Đề, nhất sắc, nhất hương,
vĩnh vô thoái chuyển” (một câu, một kệ, tăng
tấn Bồ Đề. Một sắc, một hương,
vĩnh viễn chẳng lui sụt) chính là nói về điều
này đấy chăng?
3.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2. Lệnh hộ
ác sự (truyền lệnh bảo vệ đừng
để chuyện ác xảy đến cho nhà đó)
(Kinh)
Ngă đẳng quỷ vương, kính lễ thị nhân, như
quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật; sắc
chư tiểu quỷ, các hữu đại lực, cập
thổ địa phần, tiện linh vệ hộ.
(經)我等鬼王‧敬禮是人‧如過去‧現在‧未來諸佛。敕諸小鬼‧各有大力‧及土地分‧便令衛護。
(Kinh:
Hàng quỷ vương chúng con kính lễ người ấy
như quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật;
sắc truyền các tiểu quỷ, mỗi quỷ đều
có oai lực lớn và các thần trực thuộc cuộc đất
ấy hộ tŕ, bảo vệ người ấy).
Câu “ngă
đẳng” (chúng con) cho thấy quỷ vương kính trọng
điều thiện. Từ “sắc chư…” (sắc
truyền các tiểu quỷ) trở đi, chỉ rơ [quỷ
vương] sai khiến thuộc hạ hộ tŕ, trừ ác.
Hỏi: Quỷ là loài ác, sao lại có thể trông thấy người
làm lành bèn kính lễ như tam thế Phật vậy? Đáp:
Nói tới Phật th́ Ngài là đấng tu hết thảy thiện
pháp mà chứng đắc. Nay các nam nữ tu các thiện sự,
đó là họ đang vun bồi Phật quả, cho nên quỷ
thần tôn kính. Họ có cùng một Thể chẳng hai với
một ngàn vị Phật trong Quá Khứ Trang Nghiêm Kiếp,
một ngàn vị Phật trong Hiện Tại Hiền Kiếp,
và một ngàn vị Phật trong Vị Lai Tinh Tú Kiếp, há
chẳng kính lễ như Phật ư? Nay họ có thể
trừ bỏ các điều ác, là do các quỷ vương
liền sai các tiểu quỷ, quỷ nào cũng có sức mạnh
to lớn và các “thổ địa phần” ủng hộ,
bảo vệ môn hộ. Vùng đất trực thuộc quyền
cai quản của các ty sở [trong cơi âm] được gọi
là “thổ địa phần”, tức là các vị thần
quản trị địa phương vậy.
(Kinh)
Bất linh ác sự, hoạnh sự, ác bệnh, hoạnh bệnh,
năi chí bất như ư sự, cận ư thử xá đẳng
xứ, hà huống nhập môn!
(經)不令惡事橫事‧惡病橫病‧乃至不如意事‧近於此舍等處。何況入門。
(Kinh:
Chẳng để cho những chuyện ác, chuyện ngang
trái, bệnh ác, bệnh ngang trái, cho đến những chuyện
chẳng như ư đến gần nhà cửa thuộc chốn
ấy, huống hồ là vào cửa!)
“Ác sự,
hoạnh sự” như kinh La Vân Nhẫn Nhục có nói: “Nguyện
dữ phước vi, dạ thường ác mộng, yêu
quái thủ vĩ, phi họa tung hoành” (Điều ước
nguyện mà trái nghịch với phước th́ đêm thường
gặp ác mộng, yêu quái lộn đầu trở đuôi,
bay lượn tung hoành gieo họa). Nay đă tu phước,
chẳng có chuyện ác ngang trái, cuộc sống thường
an ổn, các họa tiêu diệt. “Ác bệnh, hoạnh bệnh”:
Tiếng Phạn là Ca Ma La (Kāmalā), cơi này dịch là Hoàng Bệnh
(黃病), c̣n dịch là Ác Cấu (惡垢), hoặc Lại Bệnh
(癩病, bệnh
cùi). San Nhược Bà, cơi này dịch là Phế Phong Bệnh,
hễ phát ra sẽ không đứng dậy nổi. A Tát Xà (Asādhya), cơi này dịch là Bất Khả Trị Bệnh
(bệnh không thể chữa được). Hoằng Minh
Tập[26]
viết: “Bệnh ắt phải chết th́ dù thánh cũng
chẳng thể trừ hết được. Bệnh có
thể chữa trị sẽ do thuốc men mà lành”. Trên đây
đều là những chứng bệnh dữ, không thể
trị được.
Cũng có
bệnh do ôn tai, tật dịch tiêm nhiễm, xâm nhập, khiến
cho hao tài, hoặc đến nỗi mất mạng. Như
đời Tống, Tư Mă Văn Tuyên khá tin tưởng Phật
pháp. Em trai ông ta chết hơn một tháng, bỗng có một
con quỷ dựa vào linh ṭa. Khi ấy, có tăng chúng thuộc hai chùa
Nam Lâm và Linh Vị đàm luận cặn kẽ với quỷ.
Quỷ nói: “Xưa kia, tôi là người tôn quư, do phạm các
điều ác, phải làm thân quỷ này. Từ năm Dần,
có bốn trăm bộ quỷ gây tật dịch to lớn.
Tai họa giáng xuống, theo đúng lẽ, chẳng gây phiền
lụy cho người tu hành. Nhưng có những quỷ thừa
cơ làm xằng rất đông, phần nhiều nhũng lạm
phước thiện, nên sai ta đến giám sát”. Như vậy
th́ những kẻ bị bệnh ngang trái đều là do không
tu thiện mà ra. Nay đă tu phước, thân mạnh khỏe,
ít bệnh, tài phước đều vinh hiển, tôn quư. “Chẳng
như ư” là như gia nghiệp suy đồi, hao tán, mọi
sự chẳng hài ḥa, chỗ ở không yên ổn, tâm thường
sợ hăi. Nay đă tu phước, quỷ thần hộ vệ,
lại c̣n chẳng để cho các điều ác đến
gần chỗ ở, huống c̣n vào tận cửa ư?
3.2.3.2.2.2.2.1.2. Như Lai tán hỷ
(Như
Lai tán thán, hoan hỷ)
(Kinh)
Phật tán quỷ vương: “Thiện tai! Thiện tai! Nhữ
đẳng cập dữ Diêm La, năng như thị ủng
hộ thiện nam nữ đẳng, ngô diệc cáo Phạm
Vương, Đế Thích, linh vệ hộ nhữ”.
(經)佛讚鬼王‧善哉善哉。汝等及與閻羅‧能如是擁護善男女等‧吾亦告梵王帝釋‧令衛護汝。
(Kinh:
Đức Phật khen ngợi quỷ vương: “Lành
thay! Lành thay! Các ông và Diêm La có thể ủng hộ hàng thiện
nam nữ như thế, ta cũng bảo Phạm Vương,
Đế Thích hộ tŕ, bảo vệ các ông”).
V́ sao đức
Như Lai tán thán, hoan hỷ? Bởi quỷ vương đa
số hung ác, như một ngàn đứa con của Quỷ
Tử Mẫu, năm trăm đứa ở trên trời
nhiễu hại chư thiên, năm trăm đứa ở
trong nhân gian, nhiễu hại các nhân dân, tột bậc ghen
ghét, ác hại, khiến cho người khác phải giết
chóc, nấu nướng cúng tế chúng, khiến cho họ
phải vào địa ngục. Nay các quỷ vương và Diêm
La thiên tử đă có thể ủng hộ nam nữ tu thiện
như thế, khiến cho chẳng có ác sự, chuyện
ngang trái, bệnh ác, và chuyện chẳng như ư đến
gần nhà họ, có thể nói là tốt lành tột bậc!
V́ một điều tốt lành là họ cải ác hộ
tŕ cơi đời; điều thiện thứ hai là họ
trừ tai ương ngang trái để tăng thêm điều
tốt lành, cho nên đức Phật khen ngợi hai lần.
[Đức Phật bảo] ta nay cũng sai người thống
lănh tiểu thiên thế giới là Đại Phạm, người
chủ tŕ Dục Giới là Thích Đề Hoàn Nhân (Đế
Thích) cùng nhau dùng sức trời để bảo vệ, ǵn
giữ các ông, chuyển đổi giường sắt, nước
đồng sôi là những thứ tai ách trong hiện tại,
[khiến cho các ông] thoát khỏi túc duyên chủ tŕ cơi u minh. [Những
báo ứng tốt lành ấy] hoàn toàn do hộ pháp, bảo vệ
điều thiện mà ra!
3.2.3.2.2.2.2.2. Chủ Mạng trợ
tu (Chủ
Mạng giúp tu tập)
3.2.3.2.2.2.2.2.1. Đương
cơ bạch sự (bậc đương cơ
thưa bày sự việc)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1. Chủ Mạng
thuật ư (Chủ Mạng trần thuật
tâm ư)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.1. Trần ngă
nghiệp duyên chủ mạng (trần thuật nghiệp
duyên của tôi là trông coi về sanh mạng)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.1.1. Kinh gia tự
danh (người
trùng tuyên kinh trần thuật danh hiệu)
(Kinh)
Thuyết thị ngữ thời, hội trung hữu nhất
quỷ vương, danh viết Chủ Mạng.
(經)說是語時‧會中有一鬼王‧名曰主命。
(Kinh:
Khi nói lời ấy, trong hội có một quỷ vương
tên là Chủ Mạng).
Ác Độc
quỷ vương thưa chuyện đă xong, Chủ Mạng
lại ra khỏi chỗ thưa tŕnh chuyện của chính ḿnh,
v́ sao vậy? Do cuộc sống của người đời
có mạng mà thôi! Người tu thiện th́ gọi là “vệ
sanh” (衛生, bảo vệ sanh mạng);
kẻ làm ác th́ gọi là “tường sanh” (戕生, tàn hại sanh mạng).
Thiên sách Thành Công[27] trong kinh Xuân
Thu có nói: “Dân thọ thiên địa chi trung dĩ sanh, sở
vị mạng dă” (dân được sống trong ṿng trời
đất, đó gọi là Mạng). Do vậy, có khuôn phép về động
tác, lễ nghĩa, oai nghi để định mạng. Người
có thể tuân thủ những quy tắc ấy bèn dưỡng
mạng, được phước; kẻ chẳng thể
tuân thủ bèn bại mạng, mắc họa. Người đời
nay chẳng hiểu ư quỷ vương bảo vệ con người,
chỉ noi theo lề thói ác độc, có thể nói là tự
tàn sát sanh mạng, nghịch thiên quá đỗi! Nhưng mạng
trọng yếu ở trong lúc sanh tử; sống là mạng
c̣n, chết là mạng tuyệt. Kinh Bảo Vũ dạy: “Như
nhân phong lực, hữu xuất nhập tức, năng linh
nhất thiết hữu t́nh hoạt mạng” (Như do sức
gió mà có thở ra, hít vào, có thể khiến cho hết thảy
hữu t́nh sống sót). Nhưng sự sanh tử của cái
mạng như mặt trời, mặt trăng mọc, lặn,
nghiệp thiện và nghiệp ác như bóng theo sát h́nh. V́ thế,
trong lúc sanh tử, ắt cần phải tu thiện để
bảo vệ sanh mạng. Chủ Mạng thưa bày sự
việc, dụng ư ở tại chỗ này. Nhưng nói là Chủ,
bất quá là ông ta trông coi mạng c̣n hay mất, há có thể
ban cho hay đoạt mạng người
ta, khiến cho họ được sống hay chết ư? Chức trách của những
vị coi sóc án từ sanh tử trong địa ngục là như
vậy đấy!
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.1.2. Quỷ vương
trần sự (quỷ vương tŕnh bày sự
việc)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.1.2.1. Trần kỷ
sở chủ sự (thưa tŕnh sự việc do chính
ḿnh cai quản)
(Kinh)
Bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Ngă bổn nghiệp duyên, chủ
Diêm Phù nhân mạng, sanh thời, tử thời, ngă giai chủ
chi”.
(經)白佛言‧世尊‧我本業緣‧主閻浮人命。生時死時‧我皆主之。
(Kinh:
Bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn!
Nghiệp duyên của con vốn là chủ tŕ sanh mạng của
Diêm Phù Đề, lúc sanh ra, lúc chết đi, con đều
làm chủ”).
Trước
hết, nêu ra nghiệp duyên, do hết thảy chúng sanh bị
chuyển theo nghiệp của chính ḿnh. Nếu tạo tác ác
hạnh keo kiệt, tham lam tăng thượng nơi thân,
ngữ, ư, sẽ sanh vào cơi Diễm Ma (琰摩, cơi của vua Diêm La), cảm vời nghiệp
đói khát trải qua trăm ngàn năm, chẳng nghe tên nước,
há có thể trông thấy, huống hồ c̣n được
chạm vào ư? Đấy là ngạ quỷ thuộc loại
hèn kém nhất. Nếu là kẻ trong khi làm ác, lại kiêm hành cái nhân bố thí, sẽ sanh vào đường
quỷ, rất có oai đức, làm các quỷ vương.
Tuy làm một vị vua oai đức, nhưng luôn bị chư
thiên sai khiến, giữ cửa, tuần pḥng, dẫn đường,
hầu hạ, vẫn là bị trói buộc bởi nghiệp.
Chức trách của vị Chủ Mạng này cũng là theo
nghiệp mà làm, v́ thế nói “ngă bổn nghiệp duyên chủ
Nam Châu nhân mạng” (nghiệp duyên của con vốn là chủ
tŕ sanh mạng loài người trong Nam châu). Lúc sống, lúc
chết của họ trực thuộc chức trách coi sóc của
con, chẳng thể trái nghịch được!
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.1.2.2. Minh nhân bất
hội ư (nói rơ: Người đời chẳng hiểu
ư)
(Kinh)
Tại ngă bổn nguyện, thậm dục lợi ích, tự
thị chúng sanh bất hội ngă ư, trí linh sanh tử câu bất
đắc an.
(經)在我本願‧甚欲利益。自是眾生‧不會我意。致令生死‧俱不得安。
(Kinh:
Bổn nguyện của con là muốn cho họ đạt được
lợi ích rất lớn, nhưng do chúng sanh chẳng hiểu
ư con, đến nỗi khi sanh cùng tử đều chẳng
được an ổn).
“Ư”
là nói đến sự suy lường, nghĩa là tâm con vốn
suy tính mong [lợi ích chúng sanh] như thế, hiềm rằng
người đời chẳng thấu hiểu tâm con, chống
trái ư con. Đă trái phạm tâm con, khiến cho con chẳng thể
che chở cho họ được. V́ thế đến nỗi
kẻ sanh nở hoặc người chết đi đều
chẳng được an lạc! Đấy chính là con người
tự chuốc lấy ương họa, chẳng phải
là tội lỗi của con!
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2. Chuyển thích
nhân bất hội ư (giải thích người
đời không hiểu ư quỷ vương như thế
nào)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.1. Cấm sanh
thời sát hại (răn cấm lúc sanh nở đừng
giết hại)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.1.1. Tu thiện
đắc lạc (tu thiện được an
vui)
(Kinh)
Hà dĩ cố? Thị Diêm Phù Đề nhân, sơ sanh chi thời,
bất vấn nam nữ, hoặc dục sanh thời, đản
tác thiện sự, tăng ích xá trạch, tự linh thổ
địa vô lượng hoan hỷ, ủng hộ tử mẫu,
đắc đại an lạc, lợi ích quyến thuộc.
(經)何以故。是閻浮提人‧初生之時‧不問男女‧或欲生時‧但作善事‧增益舍宅。自令土地無量歡喜‧擁護子母‧得大安樂‧利益眷屬。
(Kinh:
V́ sao vậy? Người trong cơi Diêm Phù Đề này, lúc mới
sanh ra, chẳng cần biết là trai hay gái, hoặc lúc sắp
sanh, chỉ nên làm chuyện lành để tăng thêm ích lợi
cho nhà cửa, sẽ khiến cho thổ địa hoan hỷ
vô lượng, ủng hộ mẹ lẫn con đều được
an lạc to lớn, lợi ích quyến thuộc).
Lần lượt
giải thích “ư” [của Chủ Mạng quỷ vương]
là như thế nào? Phàm con người đầu thai, đều
do nương theo túc nghiệp. Kinh Tu Hành Đạo Địa
dạy: “Nhân hạnh bất thuần, hoặc thiện,
hoặc ác. Đương chí nhân đạo phụ mẫu
hợp hội, tinh bất thất thời, tử lai ứng
sanh. Kỳ mẫu thai thông, vô sở câu ngại. Tâm hoài hoan
hỷ, phụ thời tinh hạ, tức thất Trung Ấm,
tắc nhập bào thai” (Con người do hạnh chẳng
thuần là thiện hay ác, đến khi cha mẹ trong loài người
giao hợp, tinh chẳng bị ṛ rỉ mất, con bèn đến
sanh vào đó. Thai mẹ thông suốt, không bị trở ngại
ǵ. [Người đầu thai] ôm ḷng hoan hỷ, khi cha xuất
tinh, [thần thức của con] sẽ mất đi thân
Trung Ấm, liền gá vào trong bào thai). V́ thế, khuyên trong lúc
ấy, chỉ nên làm chuyện lành, sẽ tăng thêm oai
quang cho nhà cửa, tăng niềm hoan hỷ cho thổ địa.
“Xá”
(舍) [theo nghĩa gốc] là có thể
thở ra thoải mái trong ấy, Trạch (宅) là “trạch” (擇, chọn lựa), tức
là chọn nơi tốt lành để kiến tạo. “Thổ”
(土) là Thổ (吐, phun ra), hàm ư sanh ra vạn
vật. Địa (地) là Đế (諦, chắc chắn). Do năm
loại đất[28] sanh ra th́ không
ai chẳng tin chắc thật!
Theo kinh Trường
A Hàm, lúc con người mới sanh [trên đại địa],
tranh căi đúng sai, lớp đất cứng [trên mặt đất]
chưa hiện ra, họ cùng nhau lấy gạo tẻ ăn
vào, thân thể trở nên thô xấu, biến thành có h́nh dạng nam, nữ. Nh́n ngó
lẫn nhau, bèn sanh dục tưởng, cùng ở chỗ kín
đáo, làm chuyện bất tịnh. [Nam nhân] bị người
khác quở trách, tự hối lỗi nói: “Ta đă làm sai”,
liền gieo ḿnh xuống đất. Nữ nhân thấy người
nam đó gieo ḿnh xuống đất, chẳng đứng dậy,
liền đưa thức ăn cho. V́ vậy, thế gian bèn
có danh xưng bất thiện “chồng làm chủ”, gọi
kẻ đưa thức ăn cho chồng là vợ. Sau đấy,
chúng sanh bèn làm chuyện dâm dật, nhằm để tự
che chắn, bèn tạo nhà cửa. Do nhân duyên ấy, mới có
danh xưng “xá” (nhà). Dâm dật càng mạnh hơn, bèn thành
vợ chồng. Có những chúng sanh khác, do tuổi thọ đă
hết, phước đă tận, từ Quang Âm Thiên (Ābhāsvara) mạng chung, sanh vào
thế gian này, ở trong thai mẹ. Do vậy, thế gian mới
có danh xưng “xử thai” (ở trong thai mẹ). Đấy
là nguồn gốc của vợ chồng, nhà cửa, thai sản.
Thổ địa là người chủ tŕ việc bảo
vệ nhà cửa, bảo vệ con người. Họ đă
hoan hỷ, sẽ tự đến ủng hộ, khiến
cho mẹ lẫn con đều được đại
an lạc, lại c̣n lợi ích quyến thuộc. Lợi
ích có hai điều:
- Lúc sanh nở, mẹ không bị
tai biến ǵ, trước hết là khiến cho cả nhà hoan
hỷ.
- Con đă được tăng
thêm nhiều phước thiện, sau này, sẽ có thể
khiến cho gia đ́nh vẻ vang, thịnh vượng.
Kẻ trước
kia đă làm việc lành, càng tăng thêm phước thọ.
Kẻ xưa kia làm ác, cũng tiêu tội ấy.
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.1.2. Tác ác thọ
hại (làm ác mắc hại)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.1.2.1. Trực
thị vật sát (dạy thẳng thừng đừng
giết chóc)
(Kinh)
Hoặc dĩ sanh hạ, thận vật sát hại, thủ
chư tiễn vị, cung cấp sản mẫu, cập quảng
tụ quyến thuộc, ẩm tửu, thực nhục, ca
nhạc huyền quản, năng linh tử mẫu, bất
đắc an lạc.
(經)或已生下‧慎勿殺害‧取諸鮮味‧供給產母。及廣聚眷屬‧飲酒食肉‧歌樂絃管。能令子母‧不得安樂。
(Kinh:
Hoặc nếu đă sanh xong, hăy cẩn thận đừng
sát hại để lấy vị tươi cung cấp
cho người mẹ, và tụ hội quyến thuộc đông
đảo, uống rượu, ăn thịt, ca nhạc, đàn
sáo, khiến cho mẹ lẫn con đều chẳng được
an lạc).
Đối
với chuyện sát hại, xưa nay đều cùng thương
xót. Không ǵ chẳng phải là thấu hiểu tấm ḷng hiếu
sanh của thiên đạo, giữ ǵn sanh mạng rất khó
có của con người. Há có nên v́ sướng miệng và
thân ta, do đăi đằng mừng sanh con mà thương tổn
sanh vật, đoạn mạng của chúng, mổ bụng,
lóc vảy, trái nghịch ḷng nhân của trời, chọc thần
giận dữ ư? V́ thế, Vân Thê đại sư (tổ
Liên Tŕ) nói: “Sanh con chớ nên sát sanh. Người không con
th́ buồn, có con ắt vui. Chẳng nghĩ hết thảy
cầm thú cũng đều yêu thương con của chúng
nó. Mừng con ta sanh ra, khiến con chúng nó bị chết, tâm
há yên chăng? Phàm trẻ thơ mới sanh, chẳng v́ nó tích
tụ phước, mà lại ngược ngạo sát sanh tạo
nghiệp, cũng ngu quá đỗi thay! Xưa kia, học sĩ
Châu Dự đă từng nấu lươn, thấy nó cong
thân hướng lên trên, c̣n đầu đuôi đều bị
ngập trong nước
nóng. Mổ
ra, thấy trong bụng nó có lươn con, mới
biết lươn cong ḿnh tránh canh nóng v́ yêu thương
con. Than ôi! Tuy người và loài vật bất đồng,
tấm ḷng yêu con như một. Sao nỡ mừng nhà ta mẹ
vừa sanh con, khiến cho mẹ con nó ôm đau khổ mà chết,
ôm ḷng bi thương mà thác! Đă bị mổ, chặt, lại
bị nấu, đun, đau khổ khó thể nói được!
Thấu xương, lọt tủy! Ngay trong lúc ấy, ḷng
nhân bé tí của ta mất sạch, oán khí vô cùng của chúng
trường tồn. Muốn đời sau chúng nó chẳng
truy t́m đ̣i trả báo, tôi chẳng tin!”
“Quảng
tụ quyến thuộc” (tụ tập quyến thuộc
đông đảo) là để mừng con mới sanh. Chủ
Mạng răn cấm “đừng giết chóc”, bởi lẽ
[không sát sanh] sẽ tăng thêm phước thọ cho con. Cổ
nhân nói: “Rượu là thuốc để ḥa dịu tâm thần,
thịt là thức ăn để khỏi đói”. Xưa
nay cùng một lẽ, nay sao lại coi thường? Ấy là
v́ thịt do sát hại sanh mạng mà có, rượu có thể
làm loạn tâm thần. Chẳng ăn là lư, há nên làm càn! Trong
kinh Ương Quật, đức Phật dạy: “Nhất
thiết chúng sanh, sanh tử luân chuyển, vô phi phụ, mẫu, huynh, đệ, tỷ, muội, do như kỹ nhi,
biến dịch vô thường” (Hết thảy chúng
sanh trôi lăn sanh tử, không ai chẳng phải là cha, mẹ, anh em trai, chị em gái
của nhau, giống như đào kép đổi vai chẳng
thường hằng). Thịt ta hay thịt chúng nó, đều
cùng là thịt. V́ thế, chư Phật đều chẳng
ăn thịt. Hơn nữa, uống rượu đoạn
chủng tử trí huệ, ăn thịt đoạn chủng
tử từ bi. Chủng tử trong tương lai c̣n bị
đoạn mất, sao bảo đảm chủng tử hiện
tại chẳng bị đoạn dứt ư? Nếu tuân
theo lời giáo huấn của Chủ Mạng, không chỉ
là tiêu tai, hết lỗi, mà c̣n có thể gom góp phước,
kéo dài tuổi thọ. Xin hăy suy nghĩ kỹ lưỡng, đừng
câu nệ thói tục!
“Ca nhạc”
như đă giải thích trong phần trước. “Huyền
quản” là tiếng tơ, tiếng trúc. Ngay cả những
thứ ấy (ca nhạc, đàn địch) cũng phải
kiêng, bởi lẽ, uống rượu, ăn thịt đă
loạn tánh, lại c̣n tổn thương ḷng Từ; ca nhạc đàn sáo khiến
cho t́nh thức phóng đăng, ư chí buông lung. Đă trái nghịch
ḷng nhân đức của trời đất, lại trái
nghịch rất lớn ḷng Từ của Chủ Mạng, khiến cho nhà
cửa bị giảm oai quang, xúc phạm ư hộ tŕ của
thổ địa, mẹ con chẳng được an lạc,
lỗi ấy quy về ai đây?
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.1.2.2. Chuyển
thích kỳ ư (giải thích ư ấy)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.1.2.2.1. Sản
thời ác quỷ đạm huyết (khi sanh nở, ác quỷ
ăn máu)
(Kinh)
Hà dĩ cố? Thị sản nạn thời, hữu vô số
ác quỷ, cập vơng lượng tinh mị, dục thực
tinh huyết.
(經)何以故。是產難時‧有無數惡鬼‧及魍魎精魅‧欲食腥血。
(Kinh:
V́ sao vậy? Do lúc sản nạn, có vô số ác quỷ và vơng
lượng tinh mị muốn ăn tinh huyết).
Giải
thích thêm ư nghĩa, tức là có ác quỷ muốn ăn tinh
huyết. Do lúc sanh nở, quỷ mị đến vây quanh nơi
máu rơi trên đất và chỗ hôi thối bộc lộ.
Các loài tà vạy gây điên khùng, đụng chạm tử
thi, các loài quỷ gây điên đảo do cổ độc
đều đến ngấm nghé, toan xâm phạm. Như các
mẩu thịt rơi nơi ngă tư đường, chim,
diều hâu, ưng, sói đều cùng tranh giành. Các loài yêu quỷ
tà vạy muốn ăn chất bài tiết của trẻ vây
đầy chung quanh cũng giống như thế. Kinh Hộ
Tịnh dạy: “Ngạ quỷ thường thủ bộ
phụ nữ sản tạng huyết bất tịnh dĩ
vi ẩm thực” (Các loài quỷ đói thường cướp
lấy máu và các chất bất tịnh nơi tử cung của
phụ nữ mới sanh nở để làm thức ăn).
Bài kệ trong kinh Phân Biệt Thiện Ác chép: “Hiếu điều
nhiễu lăo thiểu, khất nhi dữ bệnh nhân, hậu
vi tao ngạ quỷ, thực sản nhũ ác lộ” (thích
quấy nhiễu già, trẻ, ăn mày, và bệnh nhân. Chết đi
thành ngạ quỷ, ăn chất dơ bà đẻ). Ác
nghiệp của quỷ thật quá đáng thương!
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.1.2.2.2. Ngă lệnh
thổ địa hà hộ (con ra lệnh cho thổ
địa che chở)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.1.2.2.2.1. Hộ
linh an lạc (che chở cho họ được
an vui)
(Kinh)
Thị ngă tảo linh xá trạch thổ địa, linh kỳ,
hà hộ tử mẫu, sử linh an lạc, nhi đắc lợi
ích.
(經)是我早令舍宅土地靈祇‧荷護子母‧使令安樂‧而得利益。
(Kinh:
Con đă sớm sai thổ địa và thần kỳ chủ
quản nhà cửa ấy bảo vệ mẹ lẫn con, khiến
cho họ được an vui, đạt được lợi
ích).
Chủ Mạng
tự nói: “Con đă chủ quản sanh mạnh, người
sắp sanh có can hệ đến con. V́ thế, trước
đó đă sai thổ địa che chở mẹ con họ”.
Đấy chính là giống như [thí dụ] đội vác giùm
vật nặng trong phần trước, khiến cho người
ấy chẳng bị vấp té. Cho nên nói là “hà hộ”
(荷護, gánh vác, bảo vệ). Hê Ma Bạt
Đà (Haimavata) dịch là Xá Chủ (舍主, chủ nhà) e rằng là
tên của vị thần bảo hộ nhà cửa. “An lạc,
lợi ích”: Khiến cho họ được sanh nở
an ổn. Nghe tiếng con khóc lọt ḷng, cha mừng nhà có thêm
con, chẳng phải lo gịng dơi đoạn tuyệt. V́ thế,
thổ địa bảo vệ, thật ra là do Chủ Mạng
hạ lệnh. Theo Đạo Tạng, khi nhân gian sanh con cái,
Cửu Thiên Huyền Nữ[29] sai thiên thần
ở trong hư không xướng danh về những điều
kính phụng. Sanh con trai th́ xướng lên một ngàn sáu trăm
câu như: “Mong cho đứa trẻ này ở nhà th́ phụng
dưỡng cha mẹ, ra làm quan sẽ phụng sự vua”.
Sanh con gái cũng xướng lời cung chúc một ngàn sáu
trăm câu, khiến cho khi nó về nhà chồng, sẽ kính
phụng bố mẹ chồng và chồng. Khi [các thiên thần]
sắp xướng lên lời chúc tụng, cát hung chỉ
ngay trong khoảnh khắc ấy. Chuyện ấy được
nói ở đây vậy.
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.1.2.2.2.2. Bất
tri thiết phước (chẳng biết làm phước)
(Kinh)
Như thị chi nhân, kiến an lạc cố, tiện hợp
thiết phước, đáp chư thổ địa, phiên
vi sát hại, tập tụ quyến thuộc.
(經)如是之人‧見安樂故‧便合設福‧答諸土地。翻為殺害‧集聚眷屬。
(Kinh:
Người như thế, do thấy [mẹ con sanh nở]
an lạc, lẽ ra phải nên làm phước để đáp
tạ các thổ địa, lại ngược ngạo giết
hại, tụ họp quyến thuộc).
Câu đầu
tiên chỉ ra: Gia đ́nh vừa mới sanh con trai hay con gái,
đă thấy sanh nở an vui, hăy nên nghĩ: Được
an vui là do công của thổ địa, đáng phải nên
làm chuyện phước thiện để đền áp ơn
trạch chủ. Nay lại ngược ngạo sát hại
sanh linh, tụ tập quyến thuộc, uống rượu,
ăn thịt, ca nhạc, đàn sáo, chọc giận thần
thánh, thiếu suy nghĩ quá đáng! Xưa kia, vào năm Vạn
Lịch 33 (1605) nhà Minh, ông Thái Ḥe Đ́nh (húy Thừa Thực)
làm thái thú ở Gia Hưng, đă hạ lệnh cấm sát
sanh cúng thần. Ở đây, tôi trích đại lược
lời phủ dụ như sau: “Quỷ thần hưởng
dụng khác với nhân gian. Con người chuộng rượu,
thịt, liền dùng rượu, thịt để cúng thần.
Ví như gịi ăn phân, liền dâng phân cho người, há chẳng
mắc tội với người ư? Do thần minh thanh
tịnh, ngửi mùi rượu, thịt ô uế của nhân
gian, ghét bỏ c̣n chẳng xuể, há chịu xét soi hưởng
dụng ư? V́ thế, tế Nam Giao[30]
chỉ dùng rượu nhạt, người đứng tế
kiêng rượu, ăn chay, có thể suy ra mà hiểu ư ấy!
C̣n như ngạ quỷ chẳng thể uống nước,
sao có thể ăn thịt cho được? Ngài Mục Liên
cứu mẹ, có thể theo đó mà xét soi. Phàm cúng tế thần
minh, hăy nên dâng hương, sửa soạn cỗ chay, và tụng
một quyển kinh Kim Cang, thần sẽ tự xét soi, thâu
nhận. Âm ty hết sức coi trọng kinh ấy. Nếu
vẫn như cũ, sát sanh làm ô uế thần, không chỉ
vô ích, lại c̣n bị trách tội!” Tôi cho ông Thái Minh Phủ
đúng là [bậc Bồ Tát] hiện thân tể quan, v́ vạn
quỷ, vạn dân mà thuyết pháp. Tiếc rằng người
đời chẳng biết tín phụng, tự chuốc lấy
tội lỗi, biết làm sao được nữa!
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.1.2.2.2.2. Kết
thị hại tổn (kết lại lời dạy
về sự tổn hại)
(Kinh)
Dĩ thị chi cố, phạm ương tự thọ, tử
mẫu câu tổn.
(經)以是之故‧犯殃自受‧子母俱損。
(Kinh:
Do bởi lẽ ấy, đă phạm lỗi phải tự
chịu tai ương, mẹ lẫn con đều bị tổn
hại).
“Phạm
ương tự thọ” (phạm lỗi, tự gánh chịu
họa ương): Kinh dạy: “Hữu Dạ Xoa, La Sát,
thường hỷ đạm nhân thai, năng linh nhân vô tử,
thương hại ư bào thai, cập sanh thời đoạt
mạng, vị kỳ tác nhiễu hại” (Có Dạ Xoa,
La Sát, thường thích ăn thai người, khiến cho người
không con, tổn hại đến bào thai. Lúc sanh th́ đoạt
mạng, quấy nhiễu và làm hại). Như vậy th́ sanh
con ra mà con bị chết yểu là do người ta sát hại
tự gây nên, chẳng phải là v́ thổ địa không che chở!
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.2. Khuyến tử
thời tu thiện (khuyên lúc chết nên tu thiện)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.2.1. Trần kỷ
bổn ư (trần thuật ư ḿnh)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.2.1.1. Thị
thiện ác câu siêu (thiện hay ác đều được
siêu thoát)
(Kinh)
Hựu Diêm Phù Đề lâm mạng chung nhân, bất vấn
thiện ác, ngă dục linh thị mạng chung chi nhân, bất
lạc ác đạo, hà huống tự tu thiện căn, tăng
ngă lực cố.
(經)又閻浮提臨命終人‧不問善惡‧我欲令是命終之人‧不落惡道。何況自修善根‧增我力故。
(Kinh:
Lại nữa, người Diêm Phù Đề lúc sắp mạng
chung, bất luận thiện hay ác, con đều muốn
cho người mạng chung ấy chẳng rơi vào ác
đạo, huống hồ là người tự tu thiện
căn sẽ tăng thêm sức cho con).
Kinh Pháp Cú
dạy: “Mạng như hoa quả thục, thường khủng
hội linh lạc. Dĩ sanh giai hữu khổ, thục năng
trí bất tử” (Mạng như hoa quả chín, thường
sợ sẽ rơi rụng. Đă sanh đều có khổ,
có ai được bất tử?) V́ thế nói: “Sanh th́
tám thức nâng đỡ, tử th́ Tứ Đại tan ĺa.
Trăm tuổi thoáng chốc, rốt cuộc đều ṃn
diệt! Xoay vần trong ba cơi, lưu chuyển chẳng hề
ngừng”. Do vậy, kinh dạy: “Hữu thỉ, hữu
chung, kư sanh tắc diệt, thùy năng cấm kỳ bất
tử da?” (Có khởi đầu th́ có kết thúc, đă
có sanh th́ có diệt, ai có thể ngăn cấm khiến cho chính
ḿnh chẳng chết ư?) Nhưng lúc lâm chung, cái nghiệp
thiện ác đă tạo lúc b́nh thời sẽ cùng lúc nhanh chóng
hiện ra, [người chết phải] theo nghiệp mà thọ
sanh. Kinh Pháp Cú dạy: “Nhân tác thiện ác, ương phước
tùy nhân, tuy cánh sanh tử, bất khả đắc miễn”
(Người làm thiện ác, họa phước theo người.
Dẫu qua sanh tử, chẳng thể tránh khỏi). Nhưng
trong ư con (Chủ Mạng), chẳng cần biết người
ấy thường nhật làm lành hay làm ác, con đều làm
cho người ấy sanh vào chốn lành, chẳng để
cho người ấy rơi vào đường ác. Huống
hồ người ấy vốn chẳng làm ác, tự tu Thí,
Giới; do thiện căn đă tu thành của người
ấy sẽ khiến cho oai đức của con cũng tăng
thêm mạnh mẽ. Khi người ấy cảm báo, ắt
sanh lên cơi trời, hoặc sanh trong nhân gian.
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.2.1.2. Quỷ
thần biến ác (quỷ thần biến hiện
chuyện ác)
(Kinh)
Thị Diêm Phù Đề hành thiện chi nhân, lâm mạng
chung thời, diệc hữu bách thiên ác đạo quỷ
thần, hoặc biến tác phụ mẫu, năi chí chư quyến
thuộc, dẫn tiếp vong nhân, linh lạc ác đạo,
hà huống bổn tạo ác giả.
(經)是閻浮提行善之人‧臨命終時‧亦有百千惡道鬼神‧或變作父母‧乃至諸眷屬‧引接亡人‧令落惡道。何況本造惡者。
(Kinh:
Người làm lành trong Diêm Phù Đề, khi sắp mạng
chung, cũng có trăm ngàn quỷ thần trong đường
ác, hoặc biến thành cha mẹ, cho đến các quyến
thuộc, tiếp dẫn người mất, khiến họ
rơi vào ác đạo, huống hồ kẻ vốn làm ác).
Kinh Tịnh
Độ Tam Muội nói: “Nhược nhân tạo thiện
ác nghiệp, sanh thiên, đọa ngục, các hữu nghênh nhân.
Bệnh dục tử thời, nhăn tự kiến lai nghênh. Ưng
sanh thiên thượng giả, thiên thần tŕ thiên y, kỹ
nhạc lai nghênh. Ưng sanh tha phương giả, nhăn kiến
tôn nhân vị thuyết diệu ngôn. Nhược vi ác, đọa
địa ngục giả, nhăn kiến binh sĩ, tŕ đao,
thuẫn, mâu, kích, sách vi nhiễu. Sở kiến bất
đồng, khẩu bất năng ngôn, các tùy sở tác, các
đắc kỳ quả” (Nếu ai tạo nghiệp thiện,
ác, sanh lên trời, hay đọa vào địa ngục, đều
có người đến đón tiếp. Khi người bệnh
sắp chết, mắt tự thấy có người đến
đón. Người đáng sanh lên trời, thiên thần cầm
áo trời, kỹ nhạc đến đón. Người đáng
sanh vào phương khác, mắt sẽ thấy người tôn
quư v́ người ấy nói lời mầu nhiệm. Nếu
là kẻ làm ác đọa địa ngục, mắt thấy
binh sĩ cầm đao, thuẫn, mâu, kích, dây trói vây quanh. Mỗi
người thấy khác nhau, miệng chẳng thể nói được,
mỗi người đều thuận theo những ǵ đă
làm mà tự đạt được cái quả). V́ thế,
khi lâm chung, quả thật có ác quỷ nhiễu loạn. Dẫu
cho người một mực làm lành, vẫn khó tránh khỏi
bị quấy nhiễu. Hoặc là [ác quỷ thần] biến
thành cha, mẹ, anh, em, chú, bác, cô, d́, khiến cho tâm người
ấy (người sắp chết) yêu mến, tinh thần
nhiễu loạn. Quỷ liền dùng thân giống như cha
mẹ v.v… dẫn người ấy vào đường ác,
huống hồ chính người ấy tạo ác. Bởi lẽ,
người sắp chết, Thiên Đế truyền văn
thư xuống. Người ấy chưa đến lúc chết,
quỷ thần Thái Sơn bèn xúi giục kẻ ấy tạo
tội, khiến cho người ấy rơi vào ác đạo.
Hăy nên biết là những quỷ thần đó giở tṛ, chứ
c̣n ai nữa?
V́ thế, Đại Luận dẫn kinh Phân Biệt Nghiệp như sau: “Phật cáo A Nan: ‘Hành ác nhân, hảo xứ sanh; hành thiện nhân, ác xứ sanh’. A Nan viết: ‘Thị sự vân hà?’ Phật ngôn: - Ác nhân kim thế tội nghiệp vị thục, túc thế thiện nghiệp dĩ thục, cố kim tuy vi ác, nhi sanh hảo xứ. Hoặc lâm tử thời, thiện tâm tâm số pháp sanh, diệc sanh hảo xứ. Hành thiện nhân sanh ác xứ giả, kim thế thiện vị thục, quá khứ ác dĩ thục. Cố kim tuy vi thiện, nhi sanh ác xứ. Hoặc lâm tử thời, bất thiện tâm tâm số pháp sanh, diệc sanh ác xứ” (Đức Phật bảo A Nan: “Người làm ác sanh về chỗ tốt đẹp, người làm lành sanh về chỗ ác”. Ngài A Nan hỏi: “Chuyện ấy là như thế nào?” Đức Phật dạy: “Kẻ ác do tội nghiệp đời này chưa chín muồi, thiện nghiệp đời trước đă chín muồi, cho nên nay tuy làm ác mà sanh về chốn tốt đẹp. Hoặc khi sắp chết, các tâm số pháp của thiện tâm sanh khởi, cũng sanh về chỗ tốt đẹp. Kẻ làm lành mà sanh về chỗ ác, là v́ điều thiện đời này chưa chín muồi, điều ác trong quá khứ đă chín muồi, cho nên nay tuy làm lành mà sanh vào chốn ác. Hoặc lúc sắp chết, các pháp tâm số của tâm bất thiện sanh khởi, cho nên cũng sanh vào chỗ ác). V́ thế, luận Câu Xá nói: “Nếu người lâm chung dấy lên tâm tà kiến, là do các điều bất thiện tr