Địa Tạng
Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Khoa Chú, phần 9
地藏菩薩本願經科注
古鹽匡菴青蓮苾芻靈椉父輯
Cổ Diêm, Khuông Am Thanh Liên bật-sô
Linh Thừa biên soạn
Chuyển ngữ: Bửu Quang
Tự đệ tử Như Ḥa
(theo bản in trong tháng Bảy
năm 2017
của Phật Đà Giáo Dục
Cơ Kim Hội, Đài Loan)
Giảo chánh: Đức Phong
và Huệ Trang
3.3.1.3. Chúc lụy nhân
thiên lưu thông (phần lưu thông: Dặn Ḍ trời người)
Những phần [Lưu Thông]
trên đây được gọi là Biệt v́ dành riêng cho
kinh này. Ở đây, [phần lưu thông này] được
gọi là Thông, v́ kinh nào cũng chúc lụy. Tuy vậy, do nó
thuộc vào kinh này, nên tuy thông mà vẫn là biệt. Phần
này lại được chia thành hai phần:
3.3.1.3.1 Phẩm đề
(tựa
đề của phẩm này)
(Kinh) Chúc lụy nhân thiên phẩm đệ
thập tam.
(經)囑累人天品第十三。
(Kinh: Phẩm thứ mười ba: Dặn
ḍ trời người).
3.3.1.3.2. Phẩm văn (kinh văn trong phẩm
này)
3.3.1.3.2.1. Hóa chủ ưu
thiên nhân chúc lụy (đấng hóa chủ lo lắng
cho trời người nên căn dặn)
3.3.1.3.2.1.1. Thế Tôn ma
đảnh phó chúc (đức Thế Tôn xoa đầu,
căn dặn)
3.3.1.3.2.1.1.1. Hô danh đại
tán công đức (gọi tên, nồng nhiệt
khen ngợi công đức)
3.3.1.3.2.1.1.1.1. Tự cử
tư ma đảnh (trần thuật chuyện đức
Phật giơ tay xoa đầu [Địa Tạng Bồ
Tát])
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cử kim
sắc tư, hựu ma Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đảnh.
(經)爾時世尊舉金色臂‧又摩地藏菩薩摩訶薩頂。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế
Tôn lại giơ cánh tay sắc vàng xoa đỉnh đầu
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát).
“Nhĩ” (爾) ở đây có nghĩa
là “tức” (ngay lập tức); tức là ngay sau khi đức Phật giảng
cho ngài Quán Âm về lợi ích do thấy nghe [Địa Tạng
Bồ Tát] đă xong, chính là lúc sẽ đem trời, người
giao phó cho Địa Tạng (đấy chính là Thế Giới
Tất Đàn). Hơn nữa, đại hội đă nghe
hai lượt lưu thông của địa thần và Quán Âm,
đă được hoan hỷ rồi, đúng là lúc hăy nên
nghe [đức Phật] dặn ḍ [Bồ Tát giúp cho] trời
người sanh trưởng điều lành (đấy chính
là Vị Nhân Tất Đàn). Lại nghe những chuyện lợi
ích chẳng thể nghĩ bàn trên đây, chính là cái duyên để
phá trừ các pháp ác đọa khổ; khi ấy, chính là lúc đại
chúng càng muốn nghe [đức Phật] dặn ḍ ngài Địa
Tạng cứu bạt, ḥng vĩnh viễn đối trị
các điều ác (đấy là Đối Trị Tất Đàn).
Lại do đă nghe hai phen nói về những chuyện chẳng
thể nghĩ bàn trên đây mà đắc đạo đă
xong, nay là lúc nên nghe phó chúc giúp cho đại chúng trong pháp hội
không ai chẳng ngộ lư (đấy là Đệ Nhất
Nghĩa Tất Đàn). Do có bốn nhân duyên Tất Đàn để
tuyên nói sự phó chúc lần nữa, cho nên nói là “nhĩ thời”
(lúc bấy giờ).
“Cử kim sắc tư” (giơ cánh tay sắc
vàng): Kim sắc vốn có màu vàng, biểu thị Trung Đạo.
Cánh tay có công năng nâng đỡ, biểu thị d́u dắt
lục đạo đều cùng về Trung Đạo nhất
tánh, cho nên lại giơ lên. Trong những phần trước,
[đức Phật] xoa đỉnh đầu nhằm ủy
lạo Bồ Tát độ sanh vất vả; nay xoa đỉnh
đầu [với dụng ư]: Chúc lụy Bồ Tát hăy nhọc
công cứu bạt. Một tay xoa đầu của vô lượng
Bồ Tát trong phần trước biểu thị “một,
nhiều tự tại”. Nay tay xoa một đỉnh đầu,
biểu thị “vốn cùng một đạo”, tức
là lục đạo và chín pháp giới trọn chẳng phải
là hai đạo!
3.3.1.3.2.1.1.1.2. Thán chúng đức
phả tư (tán thán các công đức chẳng
thể nghĩ)
(Kinh) Nhi tác thị ngôn: - Địa Tạng!
Địa Tạng! Nhữ chi thần lực bất khả
tư nghị. Nhữ chi từ bi bất khả tư nghị.
Nhữ chi trí huệ bất khả tư nghị. Nhữ
chi biện tài bất khả tư nghị.
(經)而作是言‧地藏‧地藏。汝之神力‧不可思議。汝之慈悲‧不可思議。汝之智慧‧不可思議。汝之辯才‧不可思議。
(Kinh: Mà nói như thế này: - Địa
Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông chẳng
thể nghĩ bàn. Ḷng từ bi của ông chẳng thể
nghĩ bàn. Trí huệ của ông chẳng thể nghĩ bàn.
Biện tài của ông chẳng thể nghĩ bàn).
Đức Thế Tôn đặc biệt đối
trước đại hội trời, người, liên tiếp
gọi tên của đức Địa Tạng, đúng là yêu
mến sâu đậm, gởi gấm sâu nặng. Như đại
vương của một nước sắp băng hà, trữ
quân (儲君, người nối ngôi, tức
Thái Tử) non nớt, ngu hèn, muốn kư thác con côi cho bậc
đại thần phù tá, ắt nắm tay, nhiều lần
gọi “ái khanh”. Do con thơ ấu mà đất nước
to rộng, ngày tháng dài lâu, tâm vời vợi, đầy ắp
trong dạ nỗi niềm chẳng thể nói trọn hết
được. V́ thế, đức Phật giơ cánh tay
xoa đầu, gọi tên Bồ Tát hai lượt. Từ “nhữ
chi thần lực” (thần lực của ông) trở đi,
đức Phật tự tán thán công đức của Bồ
Tát. Như quốc vương phó thác sự việc, trước hết cũng tán
thán phẩm đức của vị lăo thần. Nay chúng
sanh trong cơi Diêm Phù chí tánh vô định, nếu không cậy vào
bậc tài năng siêu quần, sao có thể cứu cơi âm lẫn
cơi dương trong các quốc độ số nhiều như
cát?
V́ thế, các đức được tán
thán tiếp đó, chẳng ra ngoài “năng hóa tam luân”[1]. Câu đầu
tiên, tán thán thân luân hiện thần thông. Các thánh chẳng thể
lường được th́ gọi là Thần. Bát tự
tại ngă[2]
th́ gọi là Lực. “Bất khả tư nghị” (chẳng
thể nghĩ bàn): Theo Đại Luận, có năm sự chẳng
thể nghĩ bàn, tức là: Chúng sanh số lượng nhiều
hay ít, quả báo của nghiệp, sức của người
tọa Thiền, sức của các con rồng, và sức của
chư Phật. Phật lực chẳng thể nghĩ bàn nhất!
Bồ Tát nhập Thiền Định, sanh ra thần thông chẳng
thể nghĩ bàn (tức thần thông nhanh chóng trọn khắp
như ư). V́ thế, trong một niệm, đều có thể
đến các thế giới Phật trong mười
phương, hiện vô lượng thân. Hết thảy hiền
thánh chẳng thể hành, chẳng thể đạt đến,
cho nên chẳng thể nghĩ bàn!
Nhưng thân luân hiện thần thông, ắt
do ư luân soi xét căn cơ mà khởi. Ư luân chính là từ bi
ban vui, dẹp khổ. Nếu muốn ban vui và dẹp khổ,
ắt phải hiện thần thông, cho nên nói “thân luân do ư”.
Đấy chính là Địa Tạng đại từ,
đại bi, thật sự có thể trong cùng một lúc mà
thực hiện ban vui và dẹp khổ trọn khắp, cho
nên chẳng thể nghĩ bàn. Nhưng tuy nói là “nội giám,
ngoại hiện” (trong tâm xét soi, ngoài hiện thần thông),
mà nếu chẳng có trí huệ, biện tài, sao có thể thuyết
pháp phù hợp căn cơ? V́ thế biết: “Trí huệ
biện tài” chính là tán thán khẩu luân. Bởi lẽ, thần
thông nơi thân nếu chẳng phải do trí huệ th́ sẽ
chẳng thể chuyển!
V́ vậy, Long Thọ Bồ Tát nói: “Do v́ sức
trí huệ, có thể chuyển hết thảy các pháp. Tức
là nhỏ có thể biến thành lớn, lớn có thể biến
thành nhỏ. Có thể coi ngàn vạn vô lượng kiếp
như một ngày, lại có thể biến một ngày thành
ngàn vạn kiếp. Vị Bồ Tát ấy là chủ của
thế gian, mong muốn tự tại, có nguyện nào chẳng
thỏa. Do nhân duyên ấy, Bồ Tát nương vào sức thần
thông, có thể nhanh chóng vượt thoát mười
phương thế giới”. Há chẳng phải trí huệ
chính là cội gốc của thần thông ư? Kinh Thập
Luân dạy: “Trí huệ thâm quảng, do như đại
hải, biện tài vô trệ, như thủy khích luân, cố
bất khả tư nghị” (Trí huệ sâu rộng, ví
như biển cả; biện tài không úng trệ, như nước
đẩy guồng quay nước. Cho nên chẳng thể
nghĩ bàn). Đấy là do Đại Sĩ trọn đủ
tam luân bí mật, cho nên có thể hiện thân trong các cơi nhiều
như cát. Đức Phật tán thán công đức của Địa
Tạng, há có phải là uổng công ư?
(Kinh) Chánh sử thập phương
chư Phật, tán thán tuyên thuyết nhữ chi bất tư
nghị sự, thiên vạn kiếp trung bất năng đắc
tận.
(經)正使十方諸佛‧讚歎宣說汝之不思議事‧千萬劫中不能得盡。
(Kinh: Dẫu mười phương chư
Phật tán thán, tuyên nói những chuyện chẳng thể
nghĩ bàn của ông trong ngàn kiếp, vẫn chẳng thể
trọn hết được).
Từ chữ “chánh sử” (dẫu cho,
giả sử) trở đi, tuyên thuyết chư Phật cũng
[tán thán] giống như thế. “Chánh” là nói đối
ứng với “giả”. Nếu nói là “giả sử”
th́ vẫn có phần nào mang ư nghĩa phù phiếm, cho nên nói “chánh
sử” th́ mới là lời lẽ biểu lộ sự chân
thật; nhưng v́ sao Địa Tạng Đại Sĩ
lại có thể khiến cho mười phương chư
Phật tán thán? Như Đại Luận có nói: “Nếu có
vị Bồ Tát nào trọn đủ vô lượng Phật
pháp thanh tịnh như Lục Ba La Mật, Thập Lực,
Tứ Vô Sở Úy, Tứ Vô Ngại Trí, Thập Bát Bất Cộng
v.v… nơi Thập Địa, do v́ chúng sanh mà trụ dài lâu
trong sanh tử, chẳng giữ lấy A Nậu Bồ
Đề để rộng độ chúng sanh, th́ vị Bồ
Tát như thế sẽ được chư Phật tán thán”.
Chính v́ lẽ này, chư Phật đồng thanh tán thán. Nhưng
lại v́ lẽ nào mà tán thán, diễn nói chuyện ấy
trong ngàn vạn kiếp vẫn chẳng thể trọn hết?
Cũng như luận đă nói: “Bồ Tát thoát khỏi tam
giới, biến hóa vô ương số[3]
thân, vào trong sanh tử giáo hóa chúng sanh. Chuyện hy hữu như
thế đều sanh từ trí huệ Bát Nhă Ba La Mật rất
sâu”. Đấy chính là ư nghĩa tán thán chẳng thể
trọn hết ở đây!
3.3.1.3.2.1.1.2. Hô danh tái chúc
nhân thiên (gọi tên, phó chúc nhân thiên lần nữa)
3.3.1.3.2.1.1.2.1. Trường
Hàng
3.3.1.3.2.1.1.2.1.1. Hỏa
trạch chúng sanh vật linh đọa khổ (đừng để chúng
sanh trong nhà lửa đọa khổ)
3.3.1.3.2.1.1.2.1.1.1. Chánh dĩ
tam giới thiên nhân phó chúc (phó chúc trời, người
trong tam giới)
(Kinh) Địa Tạng! Địa Tạng!
Kư ngô kim nhật tại Đao Lợi thiên trung, ư bách thiên
vạn ức bất khả thuyết bất khả thuyết
nhất thiết chư Phật, Bồ Tát, thiên, long bát bộ
đại hội chi trung.
(經)地藏‧地藏‧記吾今日在忉利天中。於百千萬億‧不可說不可說‧一切諸佛菩薩‧天龍八部‧大會之中。
(Kinh: Địa Tạng! Địa Tạng!
Hăy nhớ ta hôm nay, ở trên trời Đao Lợi, giữa
đại hội của trăm ngàn vạn ức bất
khả thuyết bất khả thuyết hết thảy chư
Phật, Bồ Tát, trời rồng tám bộ).
Gọi tên lần trước là tiếng vui
mừng ái ngữ; c̣n gọi tên trong đoạn này là tiếng
buồn thương, đau khổ. Trong phần trên là tán
thán công đức, c̣n nay là phó chúc sự việc. Từ chữ
“kư ngô” (hăy nhớ ta) trở đi là lời dặn ḍ
mai sau đừng quên; như di mạng của cha, hiếu
tử hăy khắc cốt chớ quên! Nói “đại hội”
là nhờ đại chúng chứng minh, nêu rơ đây là đại
sự, chẳng phải là chuyện vặt vănh! Chuyện này
khác với chuyện trong hội Pháp Hoa, ông trưởng giả
tụ tập thân tộc để tuyên bố giao gia nghiệp
cho con. V́ sao? [Trong hội Pháp Hoa, đứa con] là căn cơ
đă được [ông trưởng giả] giáo hóa lâu ngày.
Tới lúc ấy, đại công đă thành tựu, tụ tập
đại chúng giao phó gia nghiệp là chuyện thuận theo
t́nh thế đă đi vào khuôn khổ, có khó khăn ǵ? Trong
hội này, giao phó những chúng sanh chưa được điều
phục, ngơ hầu Phật chủng chẳng bị gián đoạn,
giống như cứu con rơi vào nước lửa, trọn
chẳng biết kết cục sẽ như thế nào? V́
thế khác nhau!
(Kinh) Tái dĩ nhân thiên chư chúng sanh
đẳng, vị xuất tam giới, tại hỏa trạch
trung giả, phó chúc ư nhữ, vô linh thị chư chúng sanh
đọa ác thú trung, nhất nhật, nhất dạ, hà huống
cánh lạc Ngũ Vô Gián, cập A Tỳ địa ngục
động kinh thiên vạn ức kiếp, vô hữu xuất
kỳ.
(經)再以人天諸眾生等‧未出三界‧在火宅中者‧付囑於汝。無令是諸眾生墮惡趣中‧一日一夜。何況更落五無間‧及阿鼻地獄。動經千萬億劫‧無有出期。
(Kinh: Lại đem trời, người,
các chúng sanh v.v… là những kẻ chưa thoát khỏi ba cơi, đang
ở trong nhà lửa, giao phó cho ông, đừng để
cho các chúng sanh ấy đọa vào đường ác dẫu
chỉ một ngày một đêm, huống hồ c̣n rơi
vào Ngũ Vô Gián và địa ngục A Tỳ trải qua ngàn
vạn ức kiếp, chẳng có thuở thoát ra!)
Nói “tái dĩ” (再以, lại đem), “dĩ”
(以) hàm nghĩa “sẽ”. Trước
đó, [đức Phật] đă đem trời, người
giao phó, nay lại đem những người ấy làm phiền
[Bồ Tát] lần nữa. “Vị xuất” (chưa thoát
khỏi): Kể từ sau khi đức Phật nhập diệt
cho tới khi ngài Di Lặc thành đạo, trong khoảng thời
gian đó, phàm những ai đang ở trong nhà lửa ngũ
dục nơi tam giới, nay ta đều dặn
ḍ, phó thác cho ông, đừng để cho những kẻ ấy
đọa vào ba ác đạo, dẫu chỉ tối thiểu
trong thời gian một ngày một đêm, huống hồ chẳng
vội vă cứu giúp, khiến cho họ lại đọa
lạc vào đại địa ngục Vô Gián A Tỳ đau
khổ cùng cực ngàn vạn ức kiếp, khó có lúc thoát khỏi! Mong sao các
vị hiền nhân, đừng cô phụ ơn Phật, hăy
sớm cầu thoát khổ, gấp vượt lên bờ yên
vui, hăy gắng lên!
3.3.1.3.2.1.1.2.1.1.2. Phục
minh sanh tánh vô định phân h́nh (lại nói rơ chúng sanh chí tánh vô định,
Phật phải phân thân hóa độ)
(Kinh) Địa Tạng! Thị Nam Diêm
Phù Đề chúng sanh, chí tánh vô định, tập ác giả
đa, túng phát thiện tâm, tu du tức thoái. Nhược ngộ
ác duyên, niệm niệm tăng trưởng. Dĩ thị chi
cố, ngô phân thị h́nh, bách thiên ức hóa độ, tùy kỳ
căn tánh nhi độ thoát chi.
(經)地藏‧是南閻浮提眾生‧志性無定‧習惡者多。縱發善心‧須臾即退。若遇惡緣‧念念增長。以是之故‧吾分是形‧百千億化度‧隨其根性而度脫之。
(Kinh: Này Địa Tạng! Chúng sanh
trong cơi Nam Diêm Phù Đề này chí tánh vô định, phần
nhiều quen theo thói ác. Dẫu phát khởi thiện tâm, trong
khoảnh khắc liền lui sụt. Nếu gặp ác duyên,
sẽ niệm niệm tăng trưởng. Do bởi cớ
ấy, ta phân thân h́nh, trăm ngàn ức hóa độ, tùy
theo căn tánh của họ để độ thoát).
Đoạn kinh văn này bất quá nhắc
lại chuyện trong phần trước, nhằm nói rơ dụng
ư phó chúc của đức Phật. “Thị Nam Diêm” (cơi
Nam Diêm này): Xa là nhắc đến đoạn kinh văn nói
“hết thảy chúng sanh chưa giải thoát, tánh thức
vô định” trong phẩm Diêm Phù Chúng Sanh Nghiệp Cảm,
gần là như trong phẩm Lợi Ích Tồn Vong, ngài Địa
Tạng đă bạch: “Ngă quán thị Diêm Phù chúng sanh”
(con quán chúng sanh trong cơi Diêm Phù này).
Từ chữ “dĩ thị” (do v́ cớ
ấy) trở đi, nói rơ đức Phật tự phân thân,
ngầm phản ánh hai đoạn kinh văn nói về chuyện
ngài Địa Tạng hóa thân. Chuyện này giống như kinh
Phó Pháp Tạng đă nói: “Nhất thiết chúng sanh, chí tánh
vô định, tùy sở nhiễm tập. Nhược cận
ác hữu, tiện tạo ác nghiệp, lưu chuyển sanh
tử, vô hữu biên tế. Nhược cận thiện hữu,
kính tâm thính pháp, tất ly tam đồ, thọ tối thắng
lạc” (Hết thảy chúng sanh chí tánh vô định, tùy
theo tập khí tiêm nhiễm [mà làm lành hay làm ác]. Nếu thân cận
bạn ác, sẽ tạo ác nghiệp, lưu chuyển sanh tử,
chẳng có ngằn mé. Nếu gần gũi bạn lành, tâm cung
kính nghe pháp, ắt ĺa tam đồ, hưởng sự vui tối
thắng). Như con voi trắng ở nước Hoa Thị,
nghe pháp bèn sanh ḷng Từ, thấy giết chóc bèn tăng thêm
sự họa hại. Huống chi con người mà chẳng
bị ảnh hưởng bởi tập khí tiêm nhiễm ư?
Nhưng làm lành giống như trèo núi, đương nhiên là
khó thể lên cao hơn. Ác giống như sụp lở, rất
dễ chuyển dời! Đấy chính là cung trời rộng
mênh mông, ít kẻ đạt tới; lồng giam địa
ngục, người ta cứ tranh nhau chen vào. Do vậy, hăy
nhận biết nguyên do v́ sao ta phân thân hóa độ!
3.3.1.3.2.1.1.2.1.2. Thiểu
thiện chúng sanh vật linh thoái thất (đừng để
cho chúng sanh ít điều thiện bị lui sụt)
3.3.1.3.2.1.1.2.1.2.1. Chủng
thiểu thiện ủng hộ vật thoái (hăy ủng hộ khiến
cho những người ít gieo thiện căn đừng lui
sụt)
(Kinh) Địa Tạng, ngô kim ân cần
dĩ thiên nhân chúng, phó chúc ư nhữ. (經)地藏‧吾今殷勤以天人眾‧付囑於汝。
(Kinh: Này Địa Tạng! Ta nay ân cần
phó chúc chúng trời người cho ông).
Hai câu đầu nhắc lại chuyện trên
đây, nhưng thấy hai chữ “ân cần”, bất
giác tuôn lệ! “Ân” (殷) là tràn trề. “Cần”
(勤) là nhọc nhằn, tâm phải
khéo léo suy xét sao cho thích ứng căn cơ, tức là cái tâm
lo lắng cho những chuyện được kể sau đó.
Thân hết sức vất vả, tâm phải xét suy cặn kẽ,
khăng khăng vâng giữ chu toàn, chẳng dám lơi lỏng
chút nào! Nay đức Phật v́ chúng sanh trong đời vị
lai, khuất thân cao quư, [thị hiện] kém cỏi [giống
như chúng sanh], khuất phần cao thượng để
ḥa đồng với những căn cơ bậc hạ,
chẳng biết phải diễn tả như thế nào [ḷng
cảm kích của ta]?
(Kinh) Vị lai chi thế, nhược hữu
thiên nhân, cập thiện nam tử, thiện nữ nhân, ư
Phật pháp trung chủng thiểu thiện căn, nhất mao,
nhất trần, nhất sa, nhất đế, nhữ dĩ
đạo lực, ủng hộ thị nhân, tiệm tu vô
thượng, vật linh thoái thất.
(經)未來之世‧若有天人‧及善男子‧善女人‧於佛法中種少善根‧一毛一塵‧一沙一渧。汝以道力‧擁護是人‧漸修無上‧勿令退失。
(Kinh: Trong đời vị lai, nếu
có trời, người, và thiện nam tử, thiện nữ
nhân, gieo chút ít thiện căn trong Phật pháp, dẫu chỉ
bằng một sợi lông, một hạt bụi, một hạt
cát, một giọt nước, ông hăy dùng đạo lực
ủng hộ người ấy, dần dần tu đạo
vô thượng, đừng để lui sụt).
Từ “vị lai” trở đi, nêu rơ ư
phó chúc, tức là: Hết thảy chúng sanh đều cùng có Phật
tánh. Xiển Đề tuy ác, tánh thiện vẫn trọn đủ.
Nếu trong đời vị lai, có các vị trời, thiện
nam nữ v.v… chẳng mê muội ư niệm nguyên sơ, có thể
gieo chút ít duyên nhỏ nhặt nơi ruộng phước vô
thượng trong Phật pháp để tạo lập thiện
căn, bất luận nhỏ nhặt chừng bằng sợi
lông, hạt bụi, hạt cát, giọt nước, ông hăy nên
dùng Quyền Trí đạo lực, ủng hộ những người
ít thiện sự ấy, khiến cho họ dần dần
tu tập A Nậu Bồ Đề (Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác). Như kinh Bồ Tát Bổn Hạnh đă dạy:
“Nhược hữu nhân năng ư Phật pháp, thiểu
tác vi thiện như mao phát hứa, sở sanh chi xứ, thọ
báo hoằng đại, vô hữu cùng tận” (nếu có
người có thể làm điều thiện nhỏ nhặt
trong Phật pháp chừng bằng sợi lông, mảy tóc, sẽ
thọ báo to rộng nơi chỗ thọ sanh, chẳng có cùng
tận). V́ thế biết: Phước bố thí do cái tâm, há
liên quan vật dùng để bố thí là lớn hay nhỏ!
Do vậy, ta dặn ḍ ông hăy ủng hộ, chớ để
họ thoái thất giữa chừng. Như kinh Xử Thai đă
dạy: “Manh quy phù mộc khổng, thời thời do khả
trị. Nhân nhất thất mạng căn, ức kiếp
phục nan thị. Hải thủy thâm quảng đại,
tam bách tam thập lục, nhất châm đầu hải
trung, cầu chi thượng khả đắc. Nhất thất
nhân thân mạng, nan đắc quá ư thị” (Con rùa mù
gặp được bộng cây nổi, vẫn là chuyện
có thể thường gặp, chứ người một
khi đă đánh mất mạng căn, ức kiếp khó có
lại được. Nước biển sâu rộng lớn
cả ba trăm ba mươi sáu dặm, gieo một cái kim vào
biển, vẫn c̣n có thể t́m được. Vừa đánh
mất thân người, t́m lại khó hơn thế!) V́ thế
biết: Hễ lui sụt, sẽ mất mát chẳng nhỏ.
Nay nguyện Địa Tạng hăy như mẹ hiền nuôi
nấng con thơ, ắt khiến cho con được trưởng
thành, chẳng lười nhác tí nào để đến nỗi
con chết yểu! Do vậy, đó là nỗi khổ tâm ta
nay trong đại hội trên cung trời Đao Lợi, ân
cần đem đại chúng trời người phó chúc
cho ông.
3.3.1.3.2.1.1.2.1.2.2. Niệm
Phật kinh toái ngục sanh thiên (do niệm kinh Phật mà
địa ngục tan vỡ, sanh lên trời)
3.3.1.3.2.1.1.2.1.2.2.1. Tùy
nghiệp đọa lạc ác thú (theo nghiệp mà phải
đọa lạc trong đường ác)
(Kinh) Phục thứ Địa Tạng!
Vị lai thế trung, nhược thiên, nhược nhân,
tùy nghiệp báo ứng, lạc tại ác thú.
(經)復次地藏‧未來世中‧若天若人‧隨業報應‧落在惡趣。
(Kinh: Lại này Địa Tạng!
Trong đời vị lai, dù trời hay người, theo nghiệp
báo ứng rơi vào trong đường ác).
Kinh dạy: “Giả sử bách thiên kiếp,
sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời,
quả báo hoàn tự thọ” (giả sử trăm ngàn
kiếp, nghiệp đă tạo chẳng mất, khi nhân duyên
hội ngộ, vẫn tự chịu quả báo). V́ thế
biết: Như bóng theo h́nh, ai có thể trốn tránh? Xưa
kia có người chết đi, tới chỗ Diêm Vương,
tra xét tội ác của kẻ đó, đáng đọa vào
thiết thành. Chị của người ấy chính là chánh
phi của vua, bèn năn nỉ vua: “Hăy nghĩ tưởng tôi
là em vua, chớ trị tội ấy”. Vua dặn người
ấy: “Hăy ở trong cung của ta, đừng ra ngoài, kẻo
bị ngục lại (獄吏, những
kẻ chấp pháp trong địa ngục) bắt đi. Kẻ
đó bất giác tự đến thiết thành, vua chẳng
thể cứu được! Theo nghiệp thọ báo, chẳng
hề miễn cưỡng mảy may! Theo kinh Nghiệp Báo
Sai Biệt, đọa vào bốn đường ác, mỗi
đường có mười nghiệp.
3.3.1.3.2.1.1.2.1.2.2.2. Thần
lực phương tiện cứu bạt (dùng thần lực để
tạo phương tiện cứu vớt)
(Kinh) Lâm đọa thú trung, hoặc chí môn
thủ, thị chư chúng sanh nhược năng niệm đắc
nhất Phật danh, nhất Bồ Tát danh, nhất cú, nhất
kệ Đại Thừa kinh điển. Thị chư chúng
sanh, nhữ dĩ thần lực phương tiện cứu
bạt. Ư thị nhân sở, hiện vô biên thân, vị toái
địa ngục, khiển linh sanh thiên, thọ thắng diệu
lạc.
(經)臨墮趣中‧或至門首。是諸眾生若能念得一佛名‧一菩薩名‧一句一偈大乘經典。是諸眾生‧汝以神力方便救拔。於是人所‧現無邊身‧為碎地獄。遣令生天‧受勝妙樂。
(Kinh: Ở trong đường ác, hoặc
đến cửa ngơ, các chúng sanh ấy nếu có thể niệm
một danh hiệu Phật, một danh hiệu Bồ Tát, một
câu một kệ kinh điển Đại Thừa, ông hăy
dùng thần lực tạo phương tiện cứu bạt
các chúng sanh ấy. Ở chỗ người ấy, hiện
vô biên thân, v́ họ phá nát địa ngục, khiến cho người
ấy sanh lên trời, hưởng vui sướng thù thắng,
nhiệm mầu).
“Lâm đọa, chí môn thủ” (đă
bị đọa, đến cửa ngơ): Nếu đă đến
địa ngục, rất khó thoát ra. V́ thế, lúc sắp
vào đó, liền dạy họ niệm Phật để
tránh khổ. Như kinh Thí Dụ có dạy: “Tích hữu quốc
vương, thí phụ tự lập. Hữu A La Hán, tri vương
dư mạng, bất quá thất nhật. Mạng chung, tất
đọa A Tỳ nhất kiếp thọ khổ, tầm
văng hóa chi, giáo chí tâm xưng nam-mô Phật, thất nhật mạc
tuyệt. Lâm khứ, trùng cáo: ‘Thận vật vong thử’. Vương
tiện xoa thủ, nhất tâm xưng thuyết, trú dạ bất
phế. Chí thất nhật mạng chung, hồn thần cánh
chí A Tỳ. Thừa tiền niệm Phật, tri thị địa
ngục, tức tiện đại
thanh xưng Nam-mô Phật. Ngục trung tội nhân, văn
xưng Phật thanh, nhất thời đồng xưng,
mănh hỏa tức diệt, giai đắc giải thoát, xuất
sanh nhân trung. Hậu A La Hán trùng vị thuyết pháp, đắc
Tu Đà Hoàn” (Xưa kia có quốc vương,
giết cha để tự làm vua. Có một vị A La Hán
biết vua c̣n sống chẳng quá bảy ngày; sau khi chết,
ắt đọa vào A Tỳ chịu khổ một kiếp,
liền đến giáo hóa. Dạy vua hăy chí tâm xưng “nam-mô
Phật” trong suốt bảy ngày, đừng để
dứt tuyệt. Lúc sắp ra đi, Ngài lại căn dặn:
“Hăy cẩn thận, đừng quên chuyện này”. Vua bèn chắp
tay, nhất tâm xưng nói, ngày đêm chẳng bỏ. Tới
hết ngày thứ bảy, vua mạng chung, hồn thần
bèn đến A Tỳ. Do sức niệm Phật trước
kia, biết đó là địa ngục, liền lớn tiếng
xưng Nam-mô Phật. Tội nhân trong ngục nghe tiếng
niệm Phật, đồng thời cùng xưng. Lửa dữ
liền tắt, họ đều được sanh trong loài
người. Về sau, họ lại được A La Hán
thuyết pháp, đắc quả Tu Đà Hoàn).
Kinh Quán Phật Tam Muội lại chép: Đức
Phật bảo các tỳ-kheo: “Ngă diệt độ hậu,
nhược xưng ngă danh, nam-mô chư Phật, sở hoạch
phước đức, vô lượng vô biên” (Sau khi ta
diệt độ, nếu xưng danh ta, hoặc Nam-mô chư
Phật, sẽ đạt được phước
đức vô lượng vô biên). Trong kinh Đại Từ,
đức Phật bảo A Nan: “Nam-mô Phật giả, thử
thị quyết định chư Phật Thế Tôn danh hiệu
âm thanh. Cố xưng ngôn nam-mô chư Phật” (Nam-mô Phật,
đấy chính là âm thanh danh hiệu quyết định của
chư Phật Thế Tôn. V́ thế, xưng “nam-mô chư Phật”). Kinh Tăng Nhất A Hàm dạy:
“Chúng sanh tam nghiệp tạo ác, lâm chung ức niệm Như
Lai công đức giả, tất ly ác đạo thú, đắc
sanh thiên thượng. Chánh sử cực ác chi nhân, dĩ niệm
Phật cố, diệc đắc sanh thiên” (Chúng sanh ba
nghiệp làm ác, lâm chung nghĩ nhớ công đức của
Như Lai, ắt ĺa khỏi đường ác, được
sanh lên trời. Dẫu là kẻ cực ác, nhưng do niệm
Phật, cũng được sanh lên trời).
“Nhất Bồ Tát danh” (danh hiệu của
một vị Bồ Tát) như Văn Thù, Biến Cát, Quán Âm,
Thế Chí v.v… liền được độ thoát, chẳng
thể nêu trọn. “Nhất cú, nhất kệ” (một
câu, một bài kệ): Phổ Hiền Quán Kinh dạy: “Nhược
tụng Đại Thừa kinh, tư Đệ Nhất Nghĩa,
thậm thâm không pháp. Ư nhất đàn chỉ khoảnh,
trừ bách vạn ức na-do-tha Hằng hà sa kiếp sanh tử
chi tội” (Nếu tụng kinh Đại Thừa, nghĩ
pháp Không rất sâu thuộc Đệ Nhất Nghĩa, trong
khoảng khảy ngón tay, trừ tội trong trăm vạn
ức na-do-tha Hằng hà sa kiếp sanh
tử).
Minh Báo Kư chép: Một người họ Vương
sắp đọa địa ngục, bỗng gặp một
vị Tăng, xưng là Địa Tạng Bồ Tát, dạy
ông ta tụng thuộc bài kệ “nhược nhân dục
liễu tri” (nếu ai muốn biết rơ), sẽ có thể
tránh khỏi địa ngục. Trong chốc lát, ông ta bị
gọi đến trước Diêm Vương. Vua hỏi: “Có
công đức ǵ không?” Thưa: “Tôi chỉ tŕ một bài kệ”.
Vua bảo tụng ra, tiếng tụng vang khắp địa
ngục. Tội nhân nghe tiếng, đều được
giải thoát. Vua liền sai thả về. Chàng họ Vương
bèn gắng sức tu thiện. Đấy chẳng phải là
điều chứng nghiệm đức Địa Tạng
hiện thần lực làm tan địa ngục, sanh thiên,
hưởng vui ư? V́ thế biết: Niệm danh hiệu
Phật, danh hiệu Bồ Tát, và tụng kinh kệ, đều
được siêu thoát, hưởng niềm vui nhiệm mầu,
thù thắng!
3.3.1.3.2.1.1.2.2. Kệ tụng
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết
kệ ngôn: “Hiện tại, vị lai thiên nhân chúng, ngô kim ân
cần phó chúc nhữ. Dĩ đại thần thông phương
tiện độ, vật linh đọa tại chư ác
thú”.
(經)爾時世尊而說偈言。現在未來天人眾‧吾今慇勤付囑汝。以大神通方便度‧勿令墮在諸惡趣。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức
Thế Tôn nói kệ như sau: “Chúng trời người hiện
tại, vị lai, ta nay ân cần phó chúc ông. Dùng đại
thần thông, phương tiện độ, đừng để
đọa vào các đường ác”).
Trời người trong hiện tại và vị
lai tánh đă vô định, có thể sẽ tạo ác nghiệp,
lại rơi vào tam đồ, đều trông cậy ngài Địa
Tạng thi triển thần thông to lớn, dùng phương
tiện lạ, khiến cho họ đều được
độ thoát, chẳng bị lưu chuyển nữa!
3.3.1.3.2.1.2. Địa Tạng
hỗ quỳ[4] thừa
chỉ (ngài Địa Tạng quỳ lạy, vâng
lănh chỉ dụ)
3.3.1.3.2.1.2.1. Kinh sơ tự
nghi (người
trùng tuyên trần thuật)
(Kinh) Nhĩ thời, Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát hồ quỳ, hiệp chưởng.
(經)爾時地藏菩薩摩訶薩‧胡跪合掌。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát hồ quỳ, chắp tay).
3.3.1.3.2.1.2.2. Đại
Sĩ lănh mạng (Đại Sĩ nhận lệnh)
3.3.1.3.2.1.2.2.1. An ủy
Thế Tôn (an ủi đức Thế
Tôn)
(Kinh) Bạch Phật ngôn: “Thế Tôn!
Duy nguyện Thế Tôn, bất dĩ vi lự”.
(經)白佛言‧世尊‧唯願世尊‧不以為慮。
(Kinh: Bạch cùng Phật rằng: “Bạch
Thế Tôn! Kính xin đức Thế Tôn đừng lo lắng”).
Những câu này đều dễ hiểu.
3.3.1.3.2.1.2.2.2. Độ
thoát chúng sanh
3.3.1.3.2.1.2.2.2.1. Thiểu
thiện giải thoát sanh tử ([hứa sẽ] giải
thoát sanh tử cho những kẻ ít thiện căn)
(Kinh) Vị lai thế trung, nhược
hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, ư Phật
pháp trung, nhất niệm cung kính, ngă diệc bách thiên phương
tiện độ thoát thị nhân, ư sanh tử trung, tốc
đắc giải thoát.
(經)未來世中‧若有善男子‧善女人‧於佛法中一念恭敬‧我亦百千方便度脫是人‧於生死中速得解脫。
(Kinh: Trong đời vị lai, nếu
có thiện nam tử, thiện nữ nhân đối với
Phật pháp một niệm cung kính, con cũng dùng trăm ngàn
phương tiện độ thoát người ấy, khiến
cho họ trong đường sanh tử mau được
giải thoát).
Cái tâm nhỏ bé trong hiện tiền, quá nhỏ,
quá mỏng manh; v́ thế nói là “nhất niệm”. Phật
Thuyết Tứ Tự Xâm Kinh chép: “Vị kiến quần
loại, cẩu hoài nhất giới, chí bất chuyển dịch.
Giả sử hữu nhân, chí tâm dục độ, đương
đế tư kế, nhất tâm hành đạo, đương
tri vô thường. Giả tá thị thân, vạn vật quy
không, giai phi ngă sở. Hiểu tri vô giả, tắc độ
thiên hạ thập phương nhân dân. Cố tri thiên niệm,
vạn niệm, thỉ hồ sơ niệm” (Chưa thấy
các loài, nếu ôm ấp một niệm nhỏ nhoi, chí chẳng
chuyển đổi. Giả sử có người, chí tâm muốn
cứu độ, hăy nên suy tính kỹ càng, nhất tâm hành đạo.
Hăy nên biết là vô thường. Hư giả cậy vào tấm
thân này, vạn vật đều là Không, chẳng phải là
cái thuộc về ta. Đă hiểu biết là Không, bèn độ
nhân dân trong mười phương khắp thiên hạ. V́
thế biết: Ngàn niệm hay vạn niệm, đều bắt
nguồn từ một niệm ban đầu). Chỉ do một
niệm ấy liền cảm ḷng từ bi thích che chở của
đức Địa Tạng và xót thương muôn loài quần
sanh, Ngài sẽ khiến cho họ mau chóng được giải
thoát khỏi sanh tử, há c̣n ngờ chi!
3.3.1.3.2.1.2.2.2.2. Thâm tu bất
thoái đạo quả (tu đạo quả bất
thoái sâu xa)
(Kinh) Hà huống văn chư thiện sự,
niệm niệm tu hành, tự nhiên ư vô thượng đạo,
vĩnh bất thoái chuyển.
(經)何況聞諸善事‧念念修行。自然於無上道‧永不退轉。
(Kinh: Hà huống những người nghe
nói các thiện sự, niệm niệm tu hành, tự nhiên sẽ
vĩnh viễn chẳng thoái chuyển nơi vô thượng
đạo).
“Hà huống” trong đoạn kinh văn
này có nghĩa là: Do một niệm cung kính rất bé c̣n được
giải thoát sanh tử, huống hồ những ai nghe các điều
thiện, niệm niệm tu hành chẳng gián đoạn ư?
Kinh Tứ Tự Xâm dạy: “Đạo nhân quán sát khả
phủ chi sự. Nội tự tỉnh thân, thí như mộng
huyễn. Dụ như quân chinh, bách vạn chi chúng, thị
hỗ danh tướng, dĩ khước oán địch. Đạo
nhân phục tâm chế ư, tu pháp, phụng đạo, thuận
hành giới cấm, thân ư thanh bạch, bố ân, thí đức,
trừ khí phẫn nộ, kiêu, xa, tránh tụng, chuyên tinh hành
đạo, vô đắc, vô ngại, chí tại quỹ tích.
Nhược tướng soái chúng dă, tiên tự chánh tâm, nhĩ
năi thân hành. Thân tâm câu chánh, tắc vô sở thất. Dĩ vô
sở thất, đắc đạo tuyệt khứ” (Người
tu đạo xem xét chuyện có thể thực hiện hay
không. Trong là tự xét lại bản thân ví như mộng
huyễn. Giống như đi đánh trận, trăm vạn
người cậy nhờ vị danh tướng để
chống lại oán địch. Người tu đạo chế
phục tâm ư, tu pháp, vâng theo đạo, vâng giữ giới cấm,
thân ư trong sạch, ban ân, thí đức, trừ bỏ phẫn
nộ, kiêu căng, xa xỉ, tranh căi, chuyên ṛng hành đạo,
không thấy có ǵ để đạt được, không
có ǵ trở ngại, dốc chí noi theo đường lối
tu tập. Như vị tướng thống lănh đại
chúng, trước hết tự chánh cái tâm của ḿnh. Do vậy,
cái thân sẽ tuân theo. Thân lẫn tâm đều chánh, cho nên
chẳng có lầm lỗi. Do không có lầm lỗi, chắc
chắn đạt đạo). Do vậy, kinh Thập Luân dạy:
“Chiếu hành thiện giả, do như lăng nhật” (chiếu
soi người làm lành giống như mặt trời rạng
rỡ). V́ thế, có thể khiến cho hành nhân vĩnh viễn
chẳng thoái chuyển vô thượng đạo!
3.3.1.3.2.2. Không Tạng vấn
chiêm lễ phước lợi (ngài Hư Không Tạng
hỏi về phước lợi do chiêm ngưỡng, lễ
bái)
3.3.1.3.2.2.1. Thuật tán
vấn phước lợi (trần thuật chuyện
tán thán, thưa hỏi phước lợi)
3.3.1.3.2.2.1.1. Kinh gia đề
danh (người
trùng tuyên kinh nêu ra danh hiệu của vị thỉnh vấn)
(Kinh) Thuyết thị ngữ thời, hội
trung hữu nhất Bồ Tát, danh Hư Không Tạng.
(經)說是語時‧會中有一菩薩‧名虛空藏。
(Kinh: Khi nói lời ấy, trong hội có
một vị Bồ Tát tên là Hư Không Tạng).
Tiếng Phạn là Nga Nga Nẵng Hiến Nhạ (Gaganagañja)[5], phương này dịch là Hư Không Tạng.
Kinh này khởi đầu bằng lời thưa hỏi của
đức Văn Thù, hàm ư: Chẳng phải là bậc đại
trí, sẽ chẳng thể biết nổi đầu mối
của đức Địa Tạng. Kết thúc bằng
ngài Hư Không Tạng tổng kết kinh, hàm ư: Chẳng phải
là thái hư, sao có thể ẩn mất dấu tích hóa hiện
của Đại Sĩ! Đấy chính là ư nghĩa “gom
Hữu về Không, toàn thể Giả chính là Không” vậy.
Ngài Hư Không Tạng hỏi về phước
lợi, tức là ư nghĩa “từ Không mà bàn luận Hữu,
toàn thể Không chính là Giả”. Không và Giả bất nhị,
bản thể của chúng là Trung, viên dung diệu hạnh, đồng
quy bí tạng. V́ thế, kết thúc bằng ngài Hư Không Tạng.
Theo kinh Hư Không Tạng Bồ Tát, ở phía
Tây của Sa Bà, qua khỏi tám mươi Hằng hà sa thế
giới, có cơi Phật tên là Nhất Thiết Hương Tập
Y, chúng sanh trong ấy thành tựu Ngũ Trược. Đức
Phật tên là Thắng Hoa Phu Tạng Như Lai. Cơi ấy có Bồ
Tát tên là Hư Không Tạng; trên đỉnh đầu có bảo
châu Như Ư, vô lượng báu Thích Ca Tỳ Lăng Già vây
quanh. Quang minh của châu ấy che lấp những quang minh khác,
khiến chúng đều ẩn mất chẳng sót. Tất
cả công đức của Ngài, chỉ trừ Như Lai,
không ai sánh bằng. Theo Mật Bộ, Ngài chính là một
trong bốn vị Bồ Tát thân cận Tỳ Lô Như Lai,
từ Bảo Ba La Mật lưu xuất Nam phương Bảo
Sanh Bộ. Đấy chính là vị Bồ Tát đang được
nói trong kinh này.
3.3.1.3.2.2.1.2. Đương
cơ phát vấn (bậc đương cơ
thưa hỏi)
3.3.1.3.2.2.1.2.1. Văn thán
trí thỉnh (nghe tán thán bèn thưa hỏi)
3.3.1.3.2.2.1.2.1.1. Thuật
văn thần lực phả tư (trần thuật chuyện
nghe thần lực chẳng thể nghĩ [của Địa
Tạng Bồ Tát])
(Kinh) Bạch Phật ngôn: - Thế Tôn!
Ngă tự chí Đao Lợi, văn ư Như Lai tán thán Địa
Tạng Bồ Tát oai thần thế lực bất khả
tư nghị.
(經)白佛言‧世尊‧我自至忉利‧聞於如來讚歎地藏菩薩威神勢力‧不可思議。
(Kinh: Bạch cùng đức Phật rằng:
- Bạch đức Thế Tôn! Con từ lúc tới trời
Đao Lợi, được
nghe đức Như Lai tán thán oai thần và thế lực
chẳng thể nghĩ bàn của Địa Tạng Bồ
Tát).
Mở đầu kinh, khi [đức Phật]
phóng quang minh và phát ra âm thanh trọn khắp, ngài Hư Không
Tạng liền đến thiên cung. Do vậy, nghe trọn
vẹn từ đầu đến cuối những chuyện
Như Lai tán thán ngài Địa Tạng. “Thế lực”
là như kinh Tư Ích nói: “Ngă đầu túc chi xứ, chấn
động tam thiên đại thiên thế giới cập ma
cung điện” (chỗ ta đặt chân chấn động
tam thiên đại thiên thế giới và cung điện của
ma). Quán Kinh nói: “Dĩ trí huệ quang, phổ chiếu nhất
thiết, linh ly tam đồ, đắc vô thượng lực”
(dùng quang minh trí huệ chiếu trọn khắp hết thảy,
khiến cho họ ĺa tam đồ, đạt được
sức vô thượng). V́ thế nói là “thế lực”.
“Bất khả tư nghị” (Chẳng thể nghĩ
bàn): Đấy là hành xứ rất sâu của Bồ Tát. Tuy
thí cho vạn hữu,
khiến cho chúng sanh được
lợi ích, đều đạt được cái vốn
sẵn có, nhưng chẳng có thật pháp, giống như hóa
nhân hóa hiện các sự biến hóa, bất quá khiến cho người
khác được vui sướng. Ngài Hư Không Tạng kết
thúc kinh là do dụng ư này.
3.3.1.3.2.2.1.2.1.2. Nhân vấn
phước lợi kỷ chủng (nhân đó, hỏi có mấy
loại phước lợi)
(Kinh) Vị lai thế trung, nhược
hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, năi cập nhất
thiết thiên long, văn thử kinh điển, cập Địa
Tạng danh tự, hoặc chiêm lễ h́nh tượng, đắc
kỷ chủng phước lợi?
(經)未來世中‧若有善男子‧善女人‧乃及一切天龍‧聞此經典‧及地藏名字‧或瞻禮形像‧得幾種福利。
(Kinh: Trong đời vị lai, nếu
có thiện nam tử, thiện nữ nhân, và hết thảy
trời, rồng nghe kinh điển này và danh tự Địa
Tạng, hoặc chiêm ngưỡng, lễ bái h́nh tượng,
sẽ được mấy loại phước lợi?)
Theo kinh Địa Tŕ, phước chính là bố
thí, tŕ giới, và nhẫn nhục. Nương theo Thiền
và Tinh Tấn để tu hành bốn thứ vô lượng
như Thí, Giới… th́ gọi là “phước
phần”. Bởi lẽ, điều thiện được
gọi là “phước lợi”, cảm báo vui sướng.
Nay đă đọc kinh, nghe danh hiệu, chiêm ngưỡng,
lễ bái h́nh tượng, ắt đạt được
phước lợi, chẳng biết có mấy loại? Cần
biết: Phước lợi do tâm, tâm có thể tạo phước,
nhưng tâm c̣n chẳng thể được, phước
lợi há c̣n? Nhưng trong phương tiện giáo hóa, nhằm
dẫn dắt chúng sanh mong cầu, hướng về, th́
phước lợi là điều trọng yếu! Huống
hồ trong Mật Bộ, phàm các pháp cúng dường đều
thuộc về Hư Không Khố Tạng, cho nên chuyện
phước lợi càng là chuyện ngài Hư Không Tạng chuyên
trách, đáng nên thưa hỏi.
3.3.1.3.2.2.1.2.2. Nguyện
vị chúng lược thuyết (mong hăy v́ đại
chúng nói đại lược)
(Kinh) Duy nguyện Thế Tôn, vị vị
lai, hiện tại
nhất thiết chúng đẳng, lược nhi thuyết
chi.
(經)唯願世尊‧為未來現在一切眾等‧略而說之。
(Kinh: Kính mong đức Thế Tôn hăy v́
hết thảy chúng sanh trong vị lai và hiện tại, nói
đại lược cho).
Ắt cầu [đức Phật] nói đại
lược, hướng dẫn cửa nẻo trọng yếu
để sanh ra những điều tốt lành cho chúng sanh.
Kinh Thư có lời giáo huấn “tác thiện giáng tường”
(làm lành th́ cát tường sẽ giáng xuống), kinh Dịch
dạy rơ “tích thiện dư khánh” (chất chứa điều
lành th́ niềm vui có thừa). Nếu chẳng trần thuật
cặn kẽ phước lợi, chẳng khỏi ngăn
trở, cách tuyệt thiện môn, cho nên mong [đức Phật]
dạy đại lược. C̣n như nghiêm ngặt cầu
khẩn, cúng bái để mong quỷ thần giáng phước;
theo lẽ nhân quả, sợ rằng sẽ phải chịu
quả báo trong chốn âm ty. Đấy chính là cái tâm cầu
lợi, mong cầu tà vạy, há có thể nói là cùng một
loại [với những điều phước lợi ở
đây] ư?
3.3.1.3.2.2.2. Hứa thuyết
thị lợi ích (hứa sẽ nói, dạy lợi
ích)
3.3.1.3.2.2.2.1. Giới thính,
hứa thuyết (răn dạy lắng nghe, hứa
sẽ nói)
(Kinh) Phật cáo Hư Không Tạng Bồ
Tát: - Đế thính! Đế thính! Ngô đương vị
nhữ, phân biệt thuyết chi.
(經)佛告虛空藏菩薩‧諦聽諦聽‧吾當為汝‧分別說之。
(Kinh: Đức Phật bảo Hư
Không Tạng Bồ Tát: - Lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ
v́ ông mà phân biệt nói).
Phàm là người khéo thuyết pháp, sẽ là
“không nói, không dạy”; người khéo nghe pháp sẽ là “không
đạt được, không nghe”. Há có phân biệt dạy
riêng “hăy lắng nghe” ư? Nhưng nếu cứ một mực
ngầm ứng hợp lẽ Chân, sợ sẽ trở thành
Đoạn Kiến. Nếu luôn luôn thuận theo Hữu, sợ
sẽ thành Thường Kiến! Đoạn lẫn Thường
đều là lệch lạc, tà vạy, cách xa Trung Đạo!
Phải ngay trong lúc nêu ra Không mà Phi Không, nhằm lúc bàn Hữu
mà Bất Hữu, chẳng dính dáng đến ngôn từ diễn
tả mà lưỡi thường chuyển, chẳng ĺa âm
hưởng tánh Nghe vốn là Không! Đó gọi là “khéo có
thể phân biệt các pháp tướng, bất động
nơi Đệ Nhất Nghĩa Đế”. Đấy
chính là ư chỉ phân biệt của Như Lai, và là dụng ư
lắng nghe của ngài Hư Không Tạng.
3.3.1.3.2.2.2.2. Biệt phân
lợi ích (phân chia từng loại lợi
ích riêng biệt)
3.3.1.3.2.2.2.2.1. Kiến tượng
văn kinh cung tán lợi ích (lợi ích do thấy tượng,
nghe kinh, cúng dường, tán thán)
3.3.1.3.2.2.2.2.1.1. Tổng
thị tu nhân (dạy chung về cách tu nhân)
(Kinh) Nhược vị lai thế, hữu
thiện nam tử, thiện nữ nhân, kiến Địa
Tạng h́nh tượng, cập văn thử kinh, năi chí độc
tụng, hương, hoa, ẩm thực, y phục, trân bảo,
bố thí, cúng dường, tán thán, chiêm lễ.
(經)若未來世‧有善男子‧善女人‧見地藏形像‧及聞此經。乃至讀誦‧香華飲食‧衣服珍寶‧布施供養‧讚歎瞻禮。
(Kinh: Nếu trong đời vị
lai, có thiện nam tử, thiện nữ nhân thấy h́nh tượng
Địa Tạng và nghe kinh này, cho đến đọc tụng,
dùng hương, hoa, thức ăn, y phục, những vật
quư báu để bố thí, cúng dường, tán thán, chiêm ngưỡng,
lễ bái).
Ư nghĩa dễ hiểu.
3.3.1.3.2.2.2.2.1.2. Biệt
liệt ích số (kể riêng từng loại lợi
ích)
(Kinh) Đắc nhị thập bát chủng
lợi ích: Nhất giả, thiên long hộ niệm.
(經)得二十八種利益。一者天龍護念。
(Kinh: Đạt được hai mươi
tám thứ lợi ích: Một là trời rồng hộ niệm).
Câu đầu tiên là nêu tổng quát, sau đó,
liệt kê từng điều riêng biệt.
“Thiên long” nắm cán cân tạo hóa, cai quản âm dương.
Nước nhà nhờ ân đức bảo vệ b́nh an của
họ, lê dân ngưỡng mộ công sức chở che. Nay đă
đọc kinh, tŕ danh, chiêm ngưỡng, lễ bái, cúng
dường, cho nên cảm trời rồng che chở, nghĩ
nhớ, khiến cho thiện quả, thánh nhân (cái nhân của
thánh quả) do đấy mà tăng trưởng. Gia duyên, thế
sự, do vậy mà được hài ḥa. V́ thế, nêu ra đầu
tiên nhằm chỉ bày cái gốc của phước lợi.
(Kinh) Nhị giả, thiện quả nhật
tăng. Tam giả, tập thánh thượng nhân. Tứ giả,
Bồ Đề bất thoái.
(經)二者善果日增。三者集聖上因。四者菩提不退。
(Kinh: Hai là thiện quả ngày một
tăng. Ba là nhóm họp cái nhân bậc thượng của
thánh nhân. Bốn là chẳng thoái thất Bồ Đề).
Các sự lợi ích hai, ba, và bốn có liên quan
với nhau nơi dấu tích thuộc về Sự. Quả
do nhân mà tăng tấn, nhân nhờ quả mà tích tập. Nhân
quả giúp đỡ lẫn nhau, tự nhiên chẳng lui sụt
Bồ Đề. Như trong kinh Thập Luân, Địa Tạng
bạch Phật rằng: “Ngô đương tế độ
thử tứ châu chử Thế Tôn đệ tử, nhất
thiết bật-sô, cập bật-sô-ni, ổ-ba-sách-ca, ổ-ba-tư-ca,
linh kỳ tăng trưởng giác phần, Thánh Đế
quang minh, tăng trưởng thú nhập Đại Thừa
thánh đạo, tăng trưởng thành thục hữu t́nh
đại từ đại bi, tăng trưởng ngũ
nhăn, quán đảnh, sanh thiên, Niết Bàn. Như thị thiện
quả, nhật nhật tăng trưởng” (Con sẽ
tế độ các đệ tử của đức Thế
Tôn trong bốn châu lục này, hết thảy các tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, khiến cho họ
tăng trưởng giác phần và quang minh của Tứ Thánh
Đế, tăng trưởng tiến nhập Đại
Thừa thánh đạo, tăng trưởng thành thục đại
từ đại bi cho hữu t́nh, tăng trưởng ngũ
nhăn, quán đảnh, sanh lên trời, chứng Niết Bàn.
Thiện quả như vậy tăng trưởng hằng
ngày).
“Tập” (集) là tụ tập. Đại
Luận viết: “Gặp gỡ kinh pháp, tu thiện, tŕ giới,
bố thí, lễ kính v.v… chính là gieo nhân duyên Niết Bàn”.
Cái nhân thánh thượng như thế, ai cũng tích tập.
Cái nhân thuộc về thánh đạo thiện quả, đă
tăng trưởng mỗi ngày, tự nhiên đạo tâm
kiên cường, thệ lực mạnh mẽ. Tự nhiên chẳng
thoái chuyển Vị, Hạnh, Niệm. “Tăng” là từ
nhỏ nhiệm đạt tới hiển nhiên, mong sao trọn
đủ. “Tập” là từ ít đến nhiều, những
điều mong mỏi được thành tựu. Trong khoảng
giữa ấy (trong lúc c̣n đang tu nhân), chẳng thoái thất
Bồ Đề.
(Kinh) Ngũ giả, y thực phong túc. Lục
giả, tật dịch bất lâm.
(經)五者衣食豐足。六者疾疫不臨。
(Kinh: Năm là cơm áo dư dật. Sáu
là chẳng bị bệnh dịch).
Điều thứ năm là cơm áo dư dật,
pháp trợ đạo được trọn đủ. Áo
để che thân, thức ăn để duy tŕ tánh mạng.
Thân được yên, đạo sẽ hưng thịnh, nhờ
vào cơm áo! Điều này tuy là tiểu duyên, nhưng có thể
thành tựu đại sự. Đói rét bất an, làm sao duy
tŕ đạo pháp cho nổi? V́ thế, kinh Thập Luân dạy:
“Nhất thiết giai đắc như pháp sở cầu,
y phục, bảo bối, y dược, sàng phu, cập
chư tư cụ, vô bất bị túc” (Hết thảy
đều đạt được như ḷng mong cầu
đúng pháp: Quần áo, vật báu, thuốc men, giường
nệm, và các thứ vật cần dùng cho cuộc sống,
không ǵ chẳng đầy đủ).
Điều thứ sáu “chẳng mắc bệnh
dịch” chính là chuyện trọng yếu trong tu đạo.
Bệnh chính là cái duyên khiến cho đạo bị tụt lùi, có thể khiến
cho sắc lực tổn giảm. Theo kinh Trường A Hàm,
[tật dịch] là do từ thế giới ở phương
khác có quỷ thần đến nơi đây. Quỷ thần
ở trong cơi này buông lung, dâm loạn, chẳng thể bảo
vệ con người. Quỷ thần từ phương
khác xâm lấn, quấy nhiễu người trong thế
gian này, đánh đấm, đập quất, cướp
lấy tinh khí [của con người], khiến cho ḷng người
rối loạn. V́ thế, có tai họa dịch bệnh. Kinh
Thập Luân dạy: “Nhược chư hữu t́nh, ác quỷ
sở tŕ, thành chư bệnh giả, hữu năng cúng
dường Địa Tạng Bồ Tát, nhất thiết
giai đắc giải thoát vô úy, thân tâm an thích” (Nếu các
hữu t́nh bị ác quỷ khống chế, thành ra các thứ
bệnh, mà nếu có người cúng dường Địa
Tạng Bồ Tát, th́ hết thảy đều được
giải thoát, không sợ hăi, thân tâm an ổn, thoải mái). V́
thế, ắt cần phải “chẳng mắc bệnh dịch”.
(Kinh) Thất giả, ly thủy hỏa
tai. Bát giả, vô đạo tặc ách.
(經)七者離水火災。八者無盜賊厄。
(Kinh: Bảy là ĺa khỏi tai nạn nước
lửa. Tám là không bị tai ác trộm cướp).
Điều thứ bảy là ĺa khỏi tai nạn
nước và lửa. Bệnh tật là nội chướng,
tai họa là ngoại chướng. Tả Truyện coi “nhân
hỏa” (lửa do con người đốt) là Hỏa,
coi “thiên hỏa” (lửa do thiên nhiên gây ra) là Tai (trong cách
viết theo lối chữ Triện, chữ Xuyên (巛) thêm chữ Nhất ở dưới,
Xuyên (巛) và Xuyên (川) giống nhau), [hàm ư] sông
bị úng tắc là Tai (tai họa). Sách Thuyết Văn Giải
Tự ghép chữ Miên (宀), có nghĩa là nhà với
Hỏa (火) tạo thành chữ Tai
(灾), [hàm ư] lửa gây tai họa
cho nhà cửa. Ở đây là nói nước bất ngờ
tràn ngập, lửa đốt rực cánh đồng, tổn
hại muôn vật, thương vong chúng sanh, đều là
thiên tai. Kinh Thập Luân dạy: “Nhược chư hữu
t́nh, vị hỏa sở phần, vị thủy sở nịch,
hữu năng cúng dường Địa Tạng Bồ Tát,
nhất thiết giai đắc ly chư nguy nạn, an ổn
vô tổn” (Nếu các hữu t́nh bị lửa thiêu đốt,
bị nước nhấn ch́m, mà có thể cúng dường
Địa Tạng Bồ Tát th́ hết thảy đều được
ĺa các nỗi nguy hiểm, tai nạn, an ổn, chẳng bị
tổn hại). Ở đây, chẳng cần phải nói đến
nước lửa trong Đại Tam Tai.
Điều thứ tám là không bị tai ách v́ đạo
tặc, [tức là] ĺa khỏi chuyện oán đối đời
trước. Kinh Thập Luân dạy: “Nhược chư
hữu t́nh vị chư oán tặc, quân trận, cập dư
chủng chủng chư bố úy sự chi sở triền
nhiễu, thân tâm chương hoàng, cụ thất thân mạng,
hữu năng cúng dường, cung kính Địa Tạng Bồ
Tát, nhất thiết giai đắc ly chư bố úy, bảo
toàn thân mạng” (Nếu các hữu t́nh bị các thứ
oán tặc, chiến tranh, và đủ mọi sự sợ
hăi vây quấn, thân tâm hoảng hốt, kinh hăi, sợ mất
thân mạng, mà có thể cúng dường, cung kính Địa
Tạng Bồ Tát, hết thảy sẽ đều được
ĺa các nỗi sợ hăi, giữ toàn vẹn thân mạng).
(Kinh) Cửu giả, nhân kiến khâm
kính. Thập giả, thần quỷ trợ tŕ.
(經)九者人見欽敬。十者神鬼助持。
(Kinh: Chín là người khác trông thấy
sẽ kính trọng. Mười là thần, quỷ đều
giúp đỡ, bảo vệ).
Điều thứ chín là người khác trông
thấy khâm phục, kính trọng. Kinh Địa Tŕ dạy:
“Bồ Tát chủng tánh cụ túc cố, chúng sở kính trọng,
cúng dường, tán thán, ngôn tất thọ hành, vô sở vi
phạm” (Do chủng tánh của Bồ Tát trọn đủ,
nên được mọi người kính trọng, cúng
dường, tán thán. Lời lẽ nói ra họ đều
tiếp nhận, làm theo, chẳng trái phạm). Nay đă cúng
dường Địa Tạng Bồ Tát, cho nên đạt
được phước lợi ấy.
Điều thứ mười là “thần,
quỷ giúp đỡ, hộ tŕ”; càng là điều lợi
tốt đẹp cho việc tu hành trong đời Mạt
Pháp. Kinh Trường A Hàm, quyển thứ hai mươi chép:
“Nhược hữu tu hành thiện pháp, kiến chánh tín hạnh,
tu Thập Thiện nghiệp. Như thị nhất nhân, hữu
bách thiên thần hộ” (Nếu có người tu hành thiện
pháp, kiến giải [chân chánh], có hạnh chánh tín, tu Thập
Thiện nghiệp, th́ người như thế sẽ có trăm
ngàn vị thần hộ tŕ). Nay đă cúng dường Địa
Tạng Bồ Tát, cho nên được quỷ thần giúp
đỡ, hộ tŕ, tu hành chẳng bị chướng ngại!
(Kinh) Thập nhất giả, nữ chuyển
nam thân. Thập nhị giả, vi vương thần nữ.
Thập tam giả, đoan chánh tướng hảo.
(經)十一者女轉男身。十二者為王臣女。十三者端正相好。
(Kinh: Mười một là nữ chuyển
thành nam. Mười hai là làm con gái của vua hay quan. Mười
ba là tướng hảo đoan chánh).
Điều thứ mười một là nữ
chuyển thành nam, điều thứ mười hai là làm
con gái của vua, quan; điều thứ mười ba là tướng
hảo đoan chánh, ư nghĩa đều như trong các phần
trước (tức là như đă giảng cặn kẽ
trong phẩm thứ sáu, tức phẩm Như Lai Tán Thán).
(Kinh) Thập tứ giả, đa sanh
thiên thượng. Thập ngũ giả, hoặc vi đế
vương. Thập lục giả, túc trí mạng thông.
(經)十四者多生天上。十五者或為帝王。十六者宿智命通。
(Kinh: Mười bốn là phần nhiều
sanh lên trời. Mười lăm là hoặc làm đế vương.
Mười sáu là túc trí mạng thông).
Điều thứ mười bốn là phần
nhiều sanh lên trời. Theo kinh Biện Ư, có năm sự sanh
thiên (tức Ngũ Giới). Kinh Thập Luân dạy: “Tùy
kỳ sở ưng, an trí sanh thiên, Niết Bàn chi đạo”
(Tùy theo căn cơ thích đáng, mà xếp đặt cho họ
được sanh lên trời, hay an trụ trong đạo
Niết Bàn). Điều thứ mười
lăm là làm đế vương (Ở Tây Vực th́ như
Thắng Quân (tức vua Ba Tư Nặc,
Prasenajit), Ưu Điền
(Udayana) v.v… Đông Độ
th́ như ngũ đế, tam vương v.v…) Điều
thứ mười sáu là Túc Trí Mạng Thông, tức là thấu
đạt nguyên do của vận mạng. Kẻ sĩ có trăm
hạnh, trí này làm đầu. Do đọc kinh và xưng
danh làm sức liễu nhân vậy!
(Kinh) Thập thất giả, hữu cầu
giai tùng. Thập bát giả, quyến thuộc hoan lạc.
(經)十七者有求皆從。十八者眷屬歡樂。
(Kinh: Mười bảy là có điều
ǵ nguyện cầu cũng đều được thỏa.
Mười tám là quyến thuộc vui sướng).
Điều thứ mười bảy là có điều
ǵ mong cầu đều được thỏa. Kinh Thập
Luân dạy: “Nhược chư hữu t́nh hoặc vị
chủng chủng thế xuất thế gian chư lợi lạc
sự, ư tấn cầu thời, nhược năng cung
kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát, ư nguyện
măn túc” (Nếu các hữu t́nh v́ muốn làm các thứ chuyện
lợi lạc thuộc thế gian hay xuất thế gian, khi
sắp làm mà nếu có thể cung kính, cúng dường Địa
Tạng Bồ Tát, ư nguyện sẽ được thỏa
măn). Điều thứ mười tám “quyến thuộc
vui sướng” tức là tri thức ngoại hộ
trong sự tu hành. Kinh Thập Luân dạy: “Nhược chư
hữu t́nh, ái nhạo biệt ly, oán tắng hợp hội,
hữu năng cung kính, cúng dường Địa Tạng Bồ
Tát, nhất thiết giai đắc ái nhạo hợp hội,
oán tắng biệt ly” (Nếu các hữu t́nh [gặp cảnh]
người yêu thích phải biệt ly, kẻ oán ghét cứ
tụ họp, mà có thể cung kính, cúng dường Địa
Tạng Bồ Tát, th́ hết thảy đều được
người yêu thích sẽ tụ họp, xa ĺa kẻ oán ghét).
(Kinh) Thập cửu giả, chư hoạnh
tiêu diệt. Nhị thập giả, nghiệp đạo vĩnh
trừ.
(經)十九者諸橫消滅。二十者業道永除。
(Kinh: Mười chín là các sự ngang trái
tiêu diệt. Hai mươi là nghiệp đạo vĩnh viễn
trừ diệt).
Điều thứ mười chín là “các sự
ngang trái tiêu diệt” như đă giải thích trong những
phần trước. Điều thứ hai mươi, “nghiệp
đạo vĩnh viễn trừ diệt”, do tu tập
các nghiệp vô lậu như đọc kinh v.v… cho nên các
nghiệp đạo hữu lậu trong tam giới đều
nhất loạt trừ diệt.
(Kinh) Nhị thập nhất giả, khứ
xứ tận thông. Nhị thập nhị giả, dạ mộng
an lạc.
(經)二十一者去處盡通。二十二者夜夢安樂。
(Kinh: Hai mươi mốt là đi đến
đâu đều thông suốt. Hai mươi hai là đêm mộng
yên vui).
Điều thứ hai mươi mốt là đi
đến đâu đều thông suốt. Kinh Địa Tŕ
dạy: “Nhân cụ túc cố, nam tướng thành tựu,
kham vi nhất thiết công đức pháp khí, ư nhất
thiết thời, tự tại du hư, nhất thiết chúng
sanh, văng lai đồng sự. Nhân gian khoáng dă, tùy ư vô ngại”
(Do con người trọn đủ, thành tựu tướng
nam tử, kham làm pháp khí cho hết thảy công đức.
Trong hết thảy thời, vui chơi tự tại. Lui tới
đồng sự với hết thảy chúng sanh. Nơi đồng
trống trong nhân gian, tùy ư vô ngại). Nay đă tu cúng dường
Địa Tạng Bồ Tát, cho nên được đi lại,
ra vào, đến khắp nơi đều thông đạt.
Điều thứ hai mươi là “đêm ngủ, nằm
mộng an lạc” đă được giải thích
trong phần trước. Những điều trên dây đều
là phước lợi đối với bản thân.
(Kinh) Nhị thập tam giả, tiên vong
ly khổ. Nhị thập tứ giả, túc phước thọ
sanh.
(經)二十三者先亡離苦。二十四者宿福受生。
(Kinh: Hai mươi ba là người
đă mất thoát khổ. Hai mươi bốn là do túc phước
mà thọ sanh).
Điều thứ hai mươi ba là người
đă khuất thoát khổ, chính là có thể giúp tổ tiên
như đă nói trong phần trước. Điều kế
đó là phước lợi trong tương lai. Điều
thứ hai mươi bốn là “túc phước thọ
sanh”. Kinh Tư Ích dạy: “Bồ Tát hữu tứ pháp,
đắc tiên nhân lực, bất thất thiện căn,
nhất kiến tha nhân khuyết, bất dĩ vi quá. Nhị,
ư nộ nhân thường tu từ tâm. Tam, đương
thuyết chư pháp nhân duyên. Tứ, thường niệm Bồ
Đề” (Bồ Tát có bốn pháp khiến cho túc nhân đắc
lực, chẳng mất thiện căn: Một là thấy
khuyết điểm của kẻ khác, chẳng coi đó là
lầm lỗi. Hai, đối với kẻ nóng giận, thường
tu từ tâm. Ba, sẽ nói các pháp nhân duyên. Bốn, thường
niệm Bồ Đề). Nay nhờ phước tŕ tụng,
cúng dường đức Địa Tạng từ đời
trước, sẽ thọ sanh trên cơi trời, hay trong nhân
gian, lại c̣n hưởng phước lạc như ư.
(Kinh) Nhị thập ngũ giả, chư
thánh tán thán. Nhị thập lục giả, thông minh, lợi
căn.
(經)二十五者諸聖讚歎。二十六者聰明利根。
(Kinh: Hai mươi lăm, chư thánh tán
thán. Hai mươi sáu, thông minh, căn tánh nhạy bén).
Điều thứ hai mươi lăm là “chư
thánh tán thán”. Do tu phước thù thắng, tiếng thơm
truyền xa. Đại Luận viết: “Bồ Tát nghe Phật
pháp rất sâu chẳng thể nghĩ bàn, có thể định
tâm tin ưa, chẳng sanh nghi ngờ, hối hận. Vị
Bồ Tát như thế được chư Phật ca ngợi”.
Nay đă tin nhận chuyện chẳng thể nghĩ bàn
của đức Địa Tạng, cho nên cảm vời
chư thánh tán thán. Điều thứ hai mươi sáu là “thông
minh, căn tánh nhạy bén”: Như Tuân Tử nói: “Mắt
chẳng nh́n hai lần mà biết rơ, tai chẳng nghe hai lượt
mà thông suốt”. Nay do nhất tâm đọc kinh, thành tựu
căn cơ hành pháp (tu tập giáo pháp). Do vậy, nghĩa lư
lọt vào tai, chẳng cần nghe lần nữa! Kinh sách lướt
qua mắt, há phải đọc thêm một lần! Tâm ngầm
hiểu biết, thông suốt, căn tánh hơn hẳn người
khác!
(Kinh) Nhị thập thất giả, nhiêu
từ mẫn tâm. Nhị thập bát giả, tất cánh thành
Phật.
(經)二十七者饒慈愍心。二十八者畢竟成佛。
(Kinh: Hai mươi bảy, giàu ḷng từ
mẫn. Hai mươi tám, rốt ráo thành Phật).
Điều thứ hai mươi bảy “giàu
ḷng từ mẫn”; đây chính là hạnh trọng yếu
để lợi sanh. Do ḷng Từ có năm điều lợi:
Đao chẳng gây thương tổn được, độc
chẳng hại được, lửa chẳng đốt
được, nước không nhấn ch́m được,
kẻ sân ác trông thấy bèn vui mừng. Kinh Địa Tŕ dạy:
“Bồ Tát dĩ an ổn lạc, nhiêu ích chúng sanh. Phi an ổn
lạc, giáo linh trừ đoạn” (Bồ Tát dùng sự
vui an ổn để lợi ích chúng sanh. Dạy họ đoạn
trừ những sự vui nếu chúng chẳng an ổn) là
nói về chuyện này.
Điều thứ hai mươi tám “rốt
ráo thành Phật”; đây là lợi ích rốt ráo. Gom Trường
Giang, Hoàng Hà, Hoài Thủy, Tế Thủy đều đổ
vào biển, cùng có một vị mặn, cùng nung chảy b́nh,
mâm, thoa, xuyến trong ḷ, đều thành vàng ṛng cả! Đấy
chính là cái tâm phó chúc của đức Phật, là ư chỉ
ngài Địa Tạng vâng mạng. Đó gọi là “chỉ
có một sự thật này, những thứ khác hễ có
hai th́ đều chẳng thật”. V́ thế, hai đoạn
văn [lưu thông] trước đó đều được
kết thúc bằng phần này.
3.3.1.3.2.2.2.2.2. Văn
kinh, lễ h́nh, tán thán lợi ích (lợi ích do nghe kinh, lễ
h́nh tượng, tán thán)
3.3.1.3.2.2.2.2.2.1. Tổng
thị tu nhân (dạy chung về cái nhân tu tập)
(Kinh) Phục thứ Hư Không Tạng Bồ
Tát! Nhược hiện tại, vị lai, thiên, long, quỷ,
thần, văn Địa Tạng danh, lễ Địa Tạng
h́nh, hoặc văn Địa Tạng bổn nguyện sự
hạnh, tán thán, chiêm lễ.
(經)復次虛空藏菩薩‧若現在未來‧天龍鬼神‧聞地藏名‧禮地藏形。或聞地藏本願事行‧讚歎瞻禮。
(Kinh: Lại này Hư Không Tạng Bồ
Tát! Nếu trời, rồng, quỷ, thần trong hiện tại
và vị lai, nghe danh hiệu Địa Tạng, lễ h́nh
tượng Địa Tạng, hoặc nghe bổn nguyện
và sự hạnh của Địa Tạng mà tán thán, chiêm
ngưỡng, lễ bái).
Tu nhân ở đây gần tương tự
với phần trên, v́ sao tách ra thành hai phần kinh văn? Cần
biết: Trong phần trên c̣n có thêm cúng dường các thứ,
tức là duyên nhân và liễu nhân đều cùng tu. Phần này
chỉ là nghe danh hiệu, lễ bái, tán thán, [tức là] chỉ thực hiện
liễu nhân. Do chỗ sai khác đôi chút này, cho nên liệt kê
riêng biệt, nhằm nêu rơ: Do nghe danh hiệu mà c̣n được
lợi ích như thế, huống hồ kèm thêm tu duy, tu tập
ư?
3.3.1.3.2.2.2.2.2.2. Biệt
liệt ích số (liệt kê từng điều
lợi ích riêng biệt)
(Kinh) Đắc thất chủng lợi
ích: Nhất giả, tốc siêu thánh địa.
(經)得七種利益。一者速超聖地。
(Kinh: Được bảy thứ lợi
ích: Một là mau vượt lên địa vị thánh).
Lợi ích trước sau đều luận
theo Viên giáo. Một là mau vượt lên địa vị thánh,
tức là thánh chủng tánh của Thập Địa trong Viên Giáo. Do người căn
cơ viên đốn nhạy bén, mạnh mẽ, cho nên từ
các địa vị Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, sẽ mau chóng vượt lên, dự vào
địa vị thánh (Thập Địa).
(Kinh) Nhị giả, ác nghiệp tiêu diệt.
(經)二者惡業消滅。
(Kinh: Hai là ác nghiệp tiêu diệt).
Điều thứ hai là ác nghiệp tiêu diệt;
ác nghiệp là nói đối ứng với thiện nghiệp.
Đă nghe chuyện chẳng thể nghĩ bàn của đức
Địa Tạng, sẽ hiểu rơ “tu nhiễm, tu ác, toàn
thể chính là tánh nhiễm, tánh ác”. V́ thế, trong Ngũ
Phẩm Quán Hạnh, chế phục trọn vẹn Ngũ Trụ,
tiến nhập Tín vị, Kiến Tư Hoặc mất trước,
sẽ là từ đấy vĩnh viễn ĺa khỏi Phần
Đoạn sanh tử. V́ thế biết: Tuy nói là [tiêu diệt] ác nghiệp, nhưng
[thật ra], tự đạt được
cả ba chướng đều
tiêu trừ trọn vẹn.
(Kinh) Tam giả, chư Phật hộ
lâm.
(經)三者諸佛護臨。
(Kinh: Ba là chư Phật đến
hộ tŕ).
Điều thứ ba là chư Phật đến
hộ tŕ. Đă thuộc địa vị Tương Tự,
đă gần với cái nhân chân thật, đă có khí phận
của Phật pháp, bèn cảm chư Phật đến hộ
tŕ. “Lâm” là đến, có cùng nghĩa với “Thượng Đế lâm nhữ” (Thượng Đế giáng lâm chỗ của ngươi). Chữ Lâm (臨) ghép bởi chữ Phẩm
(品), [ngụ ư] “đông nhiều”
và chữ Ngọa (臥), [hàm ư] vô vi. Từ trên
giáng lâm, chẳng tự vận dụng mà dùng người khác.
V́ thế, có thể cho phép đối tượng thực
hiện, c̣n chính ḿnh chẳng làm. Nay chư Phật giáng lâm, đúng
như vầng trăng in bóng trên sông, cố nhiên chẳng phải
nhọc ḷng trong ấy.
(Kinh) Tứ giả, Bồ Đề bất
thoái.
(經)四者菩提不退。
(Kinh: Bốn là chẳng thoái thất Bồ
Đề).
Điều thứ tư là chẳng thoái thất
Bồ Đề như đă giải thích trong phần trên.
(Kinh) Ngũ giả, tăng trưởng
bổn lực.
(經)五者增長本力。
(Kinh: Năm là tăng trưởng sức
ḿnh).
Điều thứ năm, “tăng trưởng
bổn lực” tức là ngoài tu nhân ra, c̣n huân tập, tăng
trưởng Chân Như bổn lực, do hàng Bồ Tát hạnh
sâu đều được tăng trưởng trọn đủ cả Bi lẫn Trí, cho
nên bổn lực càng được tăng nhiều.
(Kinh) Lục giả, túc mạng giai thông.
(經)六者宿命皆通。
(Kinh: Sáu là đều biết túc mạng).
Điều thứ sáu là đối với Túc
Mạng đều thông hiểu. Theo các bộ luận, điều
đó có nghĩa là đối với chỗ đă sanh về,
tự tánh có thể biết quá khứ, Túc Mạng và Tha Tâm.
Nếu các hữu t́nh thí cho người ấy các thứ thức
ăn ngon quư, do nghiệp lực đó, có thể dẫn khởi
trí này. Như kinh A Ma Trú dạy: “Vô minh vĩnh diệt, đại
minh pháp sanh. Ám minh tiêu diệt, quang diệu pháp sanh” (Vô minh
vĩnh viễn diệt, pháp đại minh sanh ra. Tối tăm
tiêu diệt, pháp sáng ngời sanh ra). V́ thế có thể biết
chuyện thuộc túc mạng trong vô số kiếp.
(Kinh) Thất giả, tất cánh thành Phật.
(經)七者畢竟成佛。
(Kinh: Bảy là rốt ráo thành Phật).
Điều thứ bảy là “rốt ráo thành
Phật”. Kinh Địa Tŕ nói: “Bồ Tát y trí cố,
nhiếp thọ chánh phước chủng chủng xảo
tiện, vị chư chúng sanh, năi chí Vô Thượng Bồ
Đề. Nhược báo, nhược báo nhân, nhược
báo quả, nhất thiết y phước khởi, phước
y trí khởi. Thử nhị cụ túc, tối thắng vô thượng,
đắc Vô Thượng Bồ Đề. Nhược phước
trí bất cụ, chung bất năng đắc” (Do Bồ
Tát nương vào trí mà nhiếp thọ các thứ phương
tiện thiện xảo thuộc về chánh phước, v́
các chúng sanh cho đến Vô Thượng Bồ Đề.
Dù là quả báo, dù là báo nhân hay báo quả, hết thảy đều
nương vào phước mà dấy lên, phước nương
vào trí mà dấy lên. Hai thứ đó trọn đủ, tối
thắng vô thượng, đắc Vô Thượng Bồ
Đề. Nếu phước và trí chẳng đủ, sẽ
trọn chẳng thể đạt được). Nay do tu
tập cái trí bằng cách đọc kinh và tŕ danh, cũng như
do phước chiêm ngưỡng, lễ bái h́nh tượng,
cho nên được thành Phật. Đây gọi là lợi ích
bao gồm nhân, quả, tự, tha. Phần Biệt Lưu Thông
đă xong.
3.3.2. Tổng Lưu Thông
(phần
lưu thông chung)
3.3.2.1. Nhân quả thánh phàm
văn tán trí thán (nhân, quả, thánh phàm, nghe xưng
dương đều tán thán)
(Kinh) Nhĩ thời, thập phương
nhất thiết chư lai bất khả thuyết bất
khả thuyết chư Phật Như Lai cập đại
Bồ Tát, thiên long bát bộ, văn Thích Ca Mâu Ni Phật,
xưng dương tán thán Địa Tạng Bồ Tát,
đại oai thần lực bất khả tư nghị,
thán vị tằng hữu.
(經)爾時十方一切諸來‧不可說不可說‧諸佛如來及大菩薩‧天龍八部‧聞釋迦牟尼佛‧稱揚讚歎地藏菩薩‧大威神力不可思議‧歎未曾有。
(Kinh: Lúc bấy giờ, mười phương
hết thảy bất khả thuyết bất khả thuyết
chư Phật Như Lai và đại Bồ Tát, thiên long bát
bộ đến dự hội, nghe Thích Ca Mâu Ni Phật
xưng dương tán thán sức oai thần to lớn chẳng
thể nghĩ bàn của Địa Tạng Bồ Tát, đều
khen là chưa từng có).
Từ “mười phương” cho đến
“bát bộ”, tổng kết đại chúng vân tập trên
đây. Chư Phật, Bồ Tát đă nhóm họp trước
khi Phật Thích Ca phóng quang, đó chính là căn nguyên phát khởi.
Trời rồng tám bộ nhóm họp sau khi Phật Thích Ca phóng
quang, là đại chúng chánh yếu để phát khởi. Từ
“nghe Phật Thích Ca” trở đi, tổng kết những
chuyện chẳng thể nghĩ bàn đă được tán
thán trước đó. Nhưng người khác cũng tán thán,
mà nay chỉ nói ḿnh đức Phật Thích Ca tán thán là do có
hai ư:
- Một, nêu ra chủ để gồm thâu
bạn, như lời lẽ của quần thần đều
phát xuất từ mạng lệnh của vua, đều nói
là “vương luân” (王綸, ư chỉ của vua).
- Hai là quy công đức về bậc hóa chủ,
như tam công mưu tính sách lược. Sau khi thành công, sẽ
quy kết những điều tốt đẹp về thiên
tử.
Những điều khác dễ hiểu.
3.3.2.2. Thiên chúa, chúng hội
cúng dường, lễ thoái (các vị chúa trời, đại
chúng trong hội cúng dường, làm lễ, lui ra)
(Kinh) Thị thời, Đao Lợi Thiên
vũ vô lượng hương, hoa, thiên y, châu anh, cúng
dường Thích Ca Mâu Ni Phật, cập Địa Tạng
Bồ Tát dĩ.
(經)是時忉利天‧雨無量香華‧天衣珠瓔‧供養釋迦牟尼佛‧及地藏菩薩已。
(Kinh: Khi ấy, Đao Lợi Thiên mưa
vô lượng hương, hoa, áo trời, chuỗi bảo châu,
cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật và Địa Tạng Bồ
Tát xong).
Riêng ḿnh Đao Lợi thiên vương cúng dường
là v́ ông ta đă là đàn-việt (thí chủ), pháp hội lại
ở trong cung của ông ta, cho nên được chuyên trách. Hương biểu
thị “nhân thông thấu biển quả, thành tựu Ngũ
Phần Pháp Thân”. Hoa biểu thị “cái nhân viên măn, ắt đạt
được quả, trọn đủ bốn mươi
mốt địa vị”. Áo trời từ cây sanh ra, nhẹ,
mịn tự nhiên, biểu thị “chứng Tịch Diệt Nhẫn”. Đối với “châu anh”,
Biệt Hành Sớ giảng: “Hoặc là các chuỗi báu, hoặc
là chuỗi bảo châu”. Nay chuỗi ở đây do bảo
châu kết thành, nên gọi là “châu anh” (珠瓔), biểu thị “đắc bốn pháp thù thắng”. Kinh Đại Tập nói “Giới,
Định, Huệ, Đà La Ni, dĩ vi anh lạc, trang nghiêm
Pháp Thân” (dùng Giới, Định, Huệ, Đà La Ni làm chuỗi
anh lạc để trang nghiêm Pháp Thân) là nói tới chuyện
này. Nhưng chuỗi bảo châu đeo ở cổ, cổ
là chỗ được trang nghiêm, biểu thị tánh đức
Trung Đạo. Hạnh này xứng tánh, như chuỗi anh
lạc đeo ở cổ mà có thể trang nghiêm. Đều
nói là “vũ” (mưa, tuôn xuống) tức là từ chánh
không Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Thiên mà phấp
phới rơi xuống.
“Vô lượng”: Pháp nhân quả hoàn toàn
do nhất tâm. Liễu đạt cái tâm ấy vốn trọn
đủ hằng sa pháp tánh công đức, há có hạn lượng!
Dùng vô lượng các pháp ấy để cúng dường Phật
Thích Ca là đấng giáo chủ thuyết pháp, và ngài Địa
Tạng là bậc nguyện vương có thể hành. Do tâm
có điều chuyên chú, cho nên không nói đến những vị
khác. “Dĩ” (đă), ư nói: Những vật có thể cúng
dường đều ngầm hợp Thật Tế, đấng
được cúng dường vốn trụ trong Tam-ma-địa
(chánh định). Năng và Sở đă là không, cảm ứng
do vậy cũng mất. Chủ và khách ḥa quyện với
nhau thành một, tài và pháp đều dứt bặt tung tích,
chẳng c̣n dấu vết, cho nên nói là “dĩ”. Trên đây
là nói về chuyện cúng dường.
(Kinh) Nhất thiết chúng hội, câu phục
chiêm lễ, hiệp chưởng nhi thoái.
(經)一切眾會‧俱復瞻禮‧合掌而退。
(Kinh: Hết thảy đại chúng trong
hội đều chiêm ngưỡng, lễ bái lần nữa,
chắp tay, lui ra).
Sau đấy là “lễ thoái” (lễ tạ,
lui ra). “Nhất thiết chúng hội” (hết thảy đại
chúng trong hội) tức là các đại chúng đă nhóm họp
trước đó, nay ai nấy đều trở về chỗ
ḿnh cư trụ. “Câu phục chiêm ngưỡng” (lại
đều chiêm ngưỡng): Tôn sư trọng đạo,
quyến luyến chẳng quên. Lễ bái lần nữa, tấm
ḷng tôn kính pháp chẳng hề gián đoạn. “Hiệp chưởng”
(chắp tay) biểu thị mười pháp giới đều
có cùng một Thể. “Nhi thoái” (liền lui ra) hiển
lộ vạn loại đồng quy, nhưng chẳng giống
những kinh khác kết thúc bằng câu “giai đại
hoan hỷ” (đều hoan hỷ to lớn), v́ từ đại
chúng trong đại hội, ta thấy họ từ đây
tăng thêm cái tâm thù thắng phỏng theo hoằng thệ của
đức Địa Tạng cứu vớt tam đồ chẳng
ngơi, tuân theo lời chúc lụy của đức Thích Ca
Văn Phật, hoằng dương kinh này vô cùng. Trên là đă
có cùng nỗi ưu sầu với thánh mẫu, hoặc buồn
bă than thở như thiên vương, nay nghe pháp bèn hết sức
hoan hỷ, cho nên trong tâm uẩn tàng hoài băo, càng lo cứu thế
ân cần. Do những điều này đă bộc lộ rơ
ràng, vị trùng tuyên kinh chẳng cần phải trần thuật
những lời ấy để biểu lộ ư kiến thông
qua ngôn ngữ nữa.
Địa Tạng Bồ
Tát Bổn Nguyện Kinh Khoa Chú, quyển hạ hết
* Hậu bạt (lời bạt cuối
sách)
Vốn do bi nguyện mà Đại Sĩ phân
thân trong vô lượng kiếp chẳng thể lường,
Nay Cửu Hoa chính là một hạt thóc trong kho lương to
lớn[6], tôi thường
lo nghĩ v́ những chỗ chưa được tra cứu,
khảo chứng trong bộ [Cửu Hoa] Sơn Chí khiến
cho những chuyện ứng tích của Bồ Tát chưa được
truyền tụng. Ngài vốn là Thái Tử của vua nước
Tân La. Lúc hai mươi bốn tuổi, dẫn theo con chó trắng
Thiện Thính, vượt biển đến đây, trụ
trong thạch động của núi Cửu Tử nhiều năm.
Khi ấy, có vị các lăo[7] là Mẫn Công,
luôn ôm ấp thiện niệm. Mỗi lần trai tăng, đều
thỉnh một trăm vị, [lần ấy cúng trai tăng],
bị thiếu một vị. Do vậy bèn thỉnh vị
Tăng ở trong động tham dự cho đủ số.
Sư bèn xin một mảnh đất rộng bằng tấm
áo ca-sa, ông chấp thuận. Y phủ khắp chín ngọn núi,
ông hoan hỷ thí hết. Con trai ông xin xuất gia, tức là
ḥa thượng Đạo Minh. Về sau, ông cũng xả
tục, lại thỉnh con trai làm thầy của ḿnh. Do vậy,
nay đắp tượng [Địa Tạng Bồ Tát], bên
trái là Đạo Minh, bên phải là Mẫn Công để nêu
rơ nguyên do. Chẳng rơ quê quán, ḍng họ, tên húy của Mẫn
Công. Trong bộ Đường Thi Tuyển Danh Anh Hoa Tập
được lưu hành trong cơi đời, có bài thơ Kim
Địa Tạng Tống Đồng Tử Hoàn Gia (Kim Địa
Tạng tiễn đứa trẻ về nhà) như sau:
Không môn tịch mịch, nhữ tư gia,
Lễ biệt vân pḥng, hạ Cửu Hoa,
Ái hướng trúc lan kỵ trúc mă.
Lăn ư kim địa bố kim sa.
Thiêm b́nh giản để hưu chiêu nguyệt.
Chử mính âu trung băi lộng hoa.
Hảo khứ, bất tu tần hạ lệ,
Lăo tăng tương bạn hữu yên hà.
(Cửa không vắng lặng, con nhớ nhà,
Giă biệt pḥng mây, rời Cửu Hoa,
Con chuộng cưỡi tre[8] bên rào trúc,
Đất vàng lười nhác rải kim sa,
Đáy suối quăng ṿ[9] mặc trăng
rọi,
Nấu trà bỏ đó, giỡn cùng hoa,
Hăy chóng về nhà, đừng nhỏ lệ,
Bạn cùng khói ráng lăo quen rồi).
Chép thêm vào đây để tặng cho những
người cùng yêu thích.
* Ghi thêm những bài kệ
tán thán kinh này
Quyển thứ nhất: Phật
thăng Đao Lợi, vị báo từ thân, phóng quang Địa
Tạng tập phân thân, duyên cảm nghiệp tuyên trần,
quảng thuyết hoằng nhân, lịch kiếp độ
trầm luân.
佛升忉利。為報慈親。放光地藏集分身。緣感業宣陳。廣說弘因。歷劫度沈淪。
(Phật lên trời Đao Lợi, nhằm báo
đáp từ ân, phóng quang Địa Tạng hội phân thân,
duyên cảm nghiệp tuyên bày, rộng nói nhân sâu, bao kiếp
độ trầm luân).
Quyển thứ hai: Ngục danh khải
vấn, khổ sở kham ai, Như Lai tán thán phước
môn khai, quỷ chủ tất giai lai, Phật hiệu kỳ
tai, tồn một ly trần ai.
獄名啟問。苦楚堪哀。如來讚歎福門開。鬼主悉皆來。佛號奇哉。存沒離塵埃。
(Thưa hỏi tên địa ngục, khổ
sở buồn khôn kham, Như Lai tán thán mở cửa phước,
chúa quỷ đều đến ngay, Phật hiệu kỳ
diệu thay, sống thác ĺa trần ai).
Quyển thứ ba: Địa Tạng
thỉnh giảo, bố thí nhân duyên, Kiên Lao hộ pháp tán công
huyền, văn kiến lợi vô biên, chúc lụy nhân thiên,
thế thế quảng lưu truyền.
地藏請較。布施因緣。堅牢護法歎功玄。聞見利無邊。囑累人天。世世廣流傳。
(Địa Tạng thỉnh so lường,
phước nhân duyên bố thí, Kiên Lao hộ pháp tán công mầu,
thấy nghe lợi vô biên, chúc lụy khắp trời người,
đời đời rộng lưu truyền).
* Lời bạt
Bậc thiền đức là Bảo Tŕ Chân
Thường ngẫu nhiên có được bản Khoa Chú này,
hoan hỷ, hớn hở, liền muốn truyền bá rộng
răi trong cơi đời, chẳng ngại nỗi nguy hiểm
nơi sóng cả, rừng sâu, nhanh chóng từ Khi Dương
(Nagasaki)[10]
vượt đường xa đến kinh thành. Khi ấy,
Sư vừa mới khỏi cơn bệnh trầm kha, thân
thể vẫn chưa khỏe hẳn, nhưng dũng mănh
phát khởi quyết chí như thế, có thể gọi là “hoằng
pháp lợi sanh, sẵn sàng hy sinh thân mạng”. Do vậy,
Sư sai tôi lo việc chấm câu, chú thích, ấn hành. Tôi vốn
trọn một bề quy hướng Địa Tạng Bồ
Tát, hễ rảnh rang lại đọc tụng kinh này, thường
buồn lo v́ kinh này thiếu chú sớ đă lâu, nay may mắn
gặp duyên thù thắng hy hữu này. Đúng là như trong tối
tăm có đèn, như kẻ nghèo được của báu,
vui mừng cảm kích chen lẫn, bất giác tay múa, chân nhảy,
chỉ mong bản chú giải này sớm được lưu
hành, ḥng thành tựu chí nguyện của ngài Chân Thường,
khiến cho khắp chúng sanh cùng được lợi lạc.
Do vậy, chẳng nài bản thân nông cạn, thô lậu, ngông
cuồng khuyên điểm bản này rồi đem khắc
in.
Năm Nguyên Lộc[11] thứ ba
(1690), tức năm Canh Ngọ, đầu tháng Mười
Hai, sa-môn Diệu Tràng Tịnh Huệ kính cẩn viết lời
Bạt
Phụ Lục 1:
Phật Thuyết Diên Mạng
Địa Tạng Bồ Tát Kinh
佛說延命地藏菩薩經
Bất
Không Tam Tạng phụng chiếu dịch
不空三藏奉詔譯
(Kinh) Như thị ngă văn: Nhất thời,
Phật tại Khư La Đà sơn, dữ đại tỳ-kheo
chúng vạn nhị thiên nhân câu, Bồ Tát tam vạn lục
thiên nhân câu. Nhất thiết chư thiên cập long, Dạ Xoa,
nhân, phi nhân đẳng, Kim Luân, Ngân Luân, chư Luân Vương
đẳng, tùng thập phương lai. Nhĩ thời, Thế
Tôn thuyết thị Đại Thừa Vô Y Hạnh dĩ, thời
hữu Đế Thích danh Vô Cấu Sanh, bạch Phật ngôn:
- Thế Tôn! Ngă dục hộ thế, nhược Phật
diệt hậu, pháp mạt chúng sanh, đương hà bạt
tế?
(經)如是我聞:一時,佛在佉羅陀山,與大比丘眾萬二千人俱,菩薩三萬六千人俱。一切諸天及龍、夜叉、人、非人等,金輪、銀輪、諸輪王等,從十方來。爾時,世尊說是大乘無依行已,時有帝釋名無垢生,白佛言:「世尊!我欲護世,若佛滅後,法末眾生,當何拔濟?」
(Kinh: Tôi nghe như thế này: Một
thời, đức Phật ngự tại núi Khư La Đà,
cùng với một vạn hai ngàn vị tỳ-kheo và ba vạn
sáu ngàn vị Bồ Tát cùng nhóm họp. Hết thảy chư
thiên và rồng, Dạ Xoa, nhân, phi nhân v.v… Kim Luân, Ngân Luân, các
Luân Vương v.v… từ mười phương đến.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói hạnh Vô Y của
Đại Thừa xong, khi đó, có Đế Thích tên là Vô Cấu
Sanh, bạch cùng đức Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con muốn hộ tŕ thế
gian, nếu sau khi Phật diệt độ, hăy nên cứu giúp
chúng sanh trong đời pháp mạt như thế nào?)
(Kinh) Phật cáo Đế Thích: - Hữu
nhất Bồ Tát, danh viết Diên Mạng Địa Tạng
Bồ Tát, mỗi nhật thần triêu, nhập ư chư
Định, du hóa lục đạo, bạt khổ dữ lạc.
Nhược tại tam đồ, ư thử Bồ Tát kiến
thể, văn danh, sanh ư nhân thiên, hoặc sanh Tịnh
Độ. Tại tam thiện đạo, văn kỳ danh
giả, đắc hiện quả báo, hậu sanh Phật độ,
hà huống ức niệm, tâm nhăn đắc khai, quyết
định thành tựu. Ức thị Bồ Tát, đắc
thập chủng phước: Nhất giả, nữ nhân thái
sản. Nhị giả, thân căn cụ túc. Tam giả, chúng
bệnh tất trừ. Tứ giả, thọ mạng trường
viễn. Ngũ giả, thông minh trí huệ. Lục giả,
tài bảo doanh dật. Thất giả, chúng nhân ái kính. Bát giả,
cốc mễ thành thục. Cửu giả, thần minh gia hộ.
Thập giả, chứng đại Bồ Đề. Diệc
trừ bát đại bố: Nhất giả, phong vũ tùy
thời. Nhị giả, tha quốc bất khởi. Tam giả,
tự giới bất bạn. Tứ giả, nhật nguyệt
bất thực. Ngũ giả, tinh tú bất biến. Lục
giả, quỷ thần bất lai. Thất giả, cơ khát
bất phát. Bát giả, nhân dân vô bệnh.
(經)佛告帝釋:「有一菩薩,名曰延命地藏菩薩,每日晨朝入於諸定,遊化六道拔苦與樂。若在三途,於此菩薩見體聞名,生於人天或生淨土。在三善道聞其名者,得現果報,後生佛土。何況憶念,心眼得開決定成就。憶是菩薩得十種福:一者女人泰產,二者身根具足,三者眾病悉除,四者壽命長遠,五者聰明智慧,六者財寶盈溢,七者眾人愛敬,八者穀米成熟,九者神明加護,十者證大菩提。亦除八大怖:一者風雨隨時,二者他國不起,三者自界不叛,四者日月不蝕,五者星宿不變,六者鬼神不來,七者饑渴不發,八者人民無病。」
(Kinh: Đức Phật bảo Đế
Thích:
- Có một vị Bồ Tát tên là Diên Mạng
Địa Tạng Bồ Tát. Sáng sớm mỗi ngày, Ngài nhập
các Định, du hóa trong sáu đường dẹp khổ,
ban vui. Nếu kẻ nào trong tam đồ mà thấy thân Ngài,
nghe danh hiệu Ngài, sẽ sanh trong trời, người, hoặc
sanh về Tịnh Độ. Người trong ba đường
lành nghe danh hiệu của Ngài, sẽ được quả
báo trong hiện tại. Về sau, sanh vào cơi Phật, hà huống
ức niệm th́ tâm nhăn được mở mang, quyết
định thành tựu.
Nghĩ nhớ vị Bồ Tát ấy, sẽ
được mười loại phước: Một là
nữ nhân sanh nở yên vui. Hai là các căn nơi thân đầy
đủ. Ba là các bệnh đều trừ. Bốn là thọ
mạng lâu dài. Năm là thông minh trí huệ. Sáu là tài vật,
của báu dồi dào. Bảy là mọi người yêu kính.
Tám là lúa gạo chín rộ. Chín là thần minh gia hộ. Mười
là chứng đại Bồ Đề.
Cũng trừ tám nỗi sợ hăi lớn: Một
là gió mưa đúng thời. Hai là nước khác chẳng xâm
lấn. Ba là trong nước ḿnh chẳng dấy loạn. Bốn
là chẳng có nhật thực và nguyệt thực. Năm là
tinh tú chẳng biến đổi. Sáu là quỷ thần chẳng
đến. Bảy là chẳng xảy ra nạn đói khát.
Tám là nhân dân không bệnh tật).
(Kinh) Phật cáo Đế Thích: - Ư vị
lai thế, nhược hữu chúng sanh thọ tŕ thử
kinh, cung kính cúng dường thị Bồ Tát giả, bách
do-tuần nội, vô chư tai hoạn, ác mộng, ác tướng,
chư bất cát tường, vơng lượng, quỷ thần,
Cưu Bàn Trà đẳng vĩnh bất đắc tiện.
Thiên cẩu, thổ công, Thái Tuế thần cung, sơn thần,
mộc thần, giang hải thần, thủy thần, hỏa
thần, cẩn ngạ thần, trủng thần, xà thần,
chú trớ thần, linh thần, lộ thần, táo trạch
thần đẳng, nhược văn thử kinh, thị
Bồ Tát danh, thổ chư tà khí, tự ngộ bổn không,
tốc chứng Bồ Đề.
(經)佛告帝釋:「於未來世,若有眾生受持此經,恭敬供養是菩薩者,百由旬內無諸災患、惡夢、惡相、諸不吉祥,魍魎、鬼神、鳩槃荼等永不得便。天狗土公、太歲神宮、山神、木神、江海神、水神、火神、饉餓神、塚神、蛇神、咒詛神、靈神、路神、灶宅神等,若聞此經是菩薩名,吐諸邪氣,自悟本空速證菩提。」
(Kinh: Đức Phật bảo Đế
Thích:
- Trong đời vị lai, nếu có chúng
sanh thọ tŕ kinh này, cung kính cúng dường vị Bồ
Tát ấy, th́ trong ṿng một trăm do-tuần, không có các
tai ương, họa hoạn, ác mộng, ác tướng. Các
thứ chẳng tốt lành, vơng lượng, quỷ thần,
Cưu Bàn Trà v.v… vĩnh viễn chẳng thể thừa dịp
làm hại. Thiên cẩu, thổ công[12],
Thái Tuế thần cung, thần núi, thần cây, thần sông
biển, thần nước, thần lửa, thần đói
kém, thần mồ mả, thần rắn, thần nguyền
rủa, linh thần, thần đường sá, thần bếp
núc nhà cửa v.v… nếu nghe kinh này và danh hiệu Bồ Tát ấy,
sẽ mửa các tà khí, tự ngộ vốn là không, nhanh chóng
chứng Bồ Đề).
(Kinh) Nhĩ thời, Đế Thích bạch
Phật ngôn: “Thế Tôn! Diên Mạng Bồ Tát hà hóa lục
đạo đắc độ chúng sanh?” Phật cáo Đế
Thích: - Thiện nam tử! Chư pháp không tịch, bất trụ
sanh diệt, tùy duyên sanh cố, sắc thân bất đồng,
tánh dục vô lượng. Phổ vị đắc độ,
Diên Mạng Bồ Tát hoặc hiện Phật thân, hoặc
hiện Bồ Tát thân, hoặc hiện Bích Chi Phật thân,
hoặc hiện Thanh Văn thân, hoặc hiện Phạm Vương
thân, hoặc hiện Đế Thích thân, hoặc hiện Diễm
Ma Vương thân, hoặc hiện Tỳ Sa-môn thân, hoặc
hiện nhật nguyệt thân, hoặc hiện ngũ tinh
thân, hoặc hiện thất tinh thân, hoặc hiện cửu
tinh thân, hoặc hiện Chuyển Luân Thánh Vương thân,
hoặc hiện chư tiểu vương thân, hoặc hiện
trưởng giả thân, hoặc hiện cư sĩ thân,
hoặc tể quan thân, hoặc hiện phụ nữ thân,
hoặc hiện tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di
thân, hoặc hiện thiên, long, Dạ Xoa, nhân, phi nhân đẳng
thân. Hoặc hiện y vương thân, hoặc hiện
dược thảo thân, hoặc hiện thương nhân thân,
hoặc hiện nông nhân thân, hoặc hiện tượng
vương thân, hoặc hiện sư tử vương thân,
hoặc hiện ngưu vương thân, hoặc hiện mă h́nh
thân, hoặc hiện đại địa h́nh, hoặc hiện
sơn vương h́nh, hoặc hiện đại hải
h́nh, tam giới sở hữu tứ sanh ngũ h́nh, vô sở
bất biến. Diên Mạng Bồ Tát như thị Pháp Thân,
tự thể biến cố, hiện chủng chủng
thân, du hóa lục đạo, độ thoát chúng sanh, năng
dĩ nhất thiện phá tam giới hữu, tất dĩ tâm
thiện. Vị lai chúng sanh bất năng phát tâm, đản
đương nhất tâm lễ bái cúng dường Diên Mạng
Bồ Tát, đao trượng bất gia, độc bất
năng hại, yếm mị, chú trớ, khởi thi quỷ
đẳng hoàn trước bổn nhân như thiên thổ
thóa, hướng phong đầu hôi, hoàn phận kỳ thân!
(經)爾時,帝釋白佛言:「世尊!延命菩薩何化六道得度眾生?」佛告帝釋:「善男子!諸法空寂不住生滅,隨緣生故色身不同,性慾無量普為得度。延命菩薩或現佛身,或現菩薩身,或現辟支佛身,或現聲聞身,或現梵王身,或現帝釋身,或現琰魔王身,或現毘沙門身,或現日月身,或現五星身,或現七星身,或現九星身,或現轉輪聖王身,或現諸小王身,或現長者身,或現居士身,或宰官身,或現婦女身,或現比丘、比丘尼、優婆塞、優婆夷身,或現天、龍、夜叉、人、非人等身,或現醫王身,或現藥草身,或現商人身,或現農人身,或現象王身,或現獅子王身,或現牛王身,或現馬形身,或現大地形,或現山王形,或現大海形,三界所有四生五形,無所不變。延命菩薩如是法身,自體遍故現種種身,遊化六道度脫眾生。能以一善破三界有,悉以心善。
未來眾生不能發心,但當一心禮拜供養延命菩薩,刀杖不加,毒不能害,厭魅、咒詛、起屍鬼等還著本人如天吐唾,向風投灰還坋其身。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Đế Thích
bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn!
Diên Mạng Bồ Tát hóa hiện trong lục đạo như
thế nào để độ chúng sanh?”
Đức Phật bảo Đế Thích:
- Này thiện nam tử! Các pháp không tịch, chẳng
trụ trong sanh diệt. Do thuận theo duyên sanh mà có sắc
thân khác nhau, tánh chất và ưa muốn vô lượng. Để
độ trọn khắp, Diên Mạng Bồ Tát hoặc hiện
thân Phật, hoặc hiện thân Bồ Tát, hoặc hiện
thân Bích Chi Phật, hoặc hiện thân Thanh Văn, hoặc
hiện thân Phạm Vương, hoặc hiện thân Đế
Thích, hoặc hiện thân Diễm Ma Vương, hoặc hiện
thân Tỳ Sa-môn, hoặc hiện thân mặt trời, mặt
trăng, hoặc hiện thân ngũ tinh, hoặc hiện
thân thất tinh, hoặc hiện thân cửu tinh, hoặc hiện
thân Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc hiện thân các tiểu
vương, hoặc hiện thân trưởng giả, hoặc
hiện thân cư sĩ, hoặc thân tể quan, hoặc hiện
thân phụ nữ, hoặc hiện thân tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, hoặc hiện các thân trời,
rồng, Dạ Xoa, nhân, phi nhân v.v… Hoặc hiện thân y
vương, hoặc hiện thân dược thảo, hoặc
hiện thân thương nhân, hoặc hiện thân nông dân, hoặc
hiện thân voi chúa, hoặc hiện thân sư tử
vương, hoặc hiện thân trâu chúa, hoặc hiện thân
h́nh ngựa, hoặc hiện thân đại địa, hoặc
hiện h́nh núi chúa, hoặc hiện h́nh biển cả, tất
cả h́nh thể của chúng sanh trong năm đường
thuộc bốn cách sanh trong ba cơi, không ǵ chẳng biến
ra.
Pháp Thân của Diên Mạng Bồ Tát như
thế, do tự thể biến ra, nên có thể hiện đủ
mọi thân, du hóa trong sáu đường độ thoát
chúng sanh, có thể khéo phá các cơi trong tam giới đều bằng
thiện tâm. Chúng sanh trong đời vị lai chẳng thể
phát tâm th́ chỉ nên nhất tâm lễ bái, cúng dường Diên
Mạng Bồ Tát, sẽ chẳng bị đao, trượng
làm hại, độc chẳng hại được. [Các
thứ] trù ếm, nguyền rủa, quỷ nhập tràng v.v…
sẽ quay trở lại quấy nhiễu kẻ sai khiến
chúng, giống như ngửa mặt phun nhổ lên trời,
hoặc ngược gió tung tro, sẽ làm bẩn kẻ đó).
(Kinh) Nhĩ thời, Đế Thích bạch
Phật ngôn: “Thế Tôn! Hà cố danh viết Diên Mạng Bồ Tát?
Kỳ tướng vân hà?” Phật cáo Thiên Đế: “Thiện
nam tử! Chân thiện Bồ Tát tâm minh viên, cố danh Như
Ư Luân. Tâm vô quái ngại, cố danh Quán Tự Tại. Tâm vô
sanh diệt, cố danh Diên Mạng. Tâm vô tồi phá, cố
danh Địa Tạng. Tâm vô biên tế, cố danh Đại
Bồ Tát. Tâm vô sắc tướng, cố danh Ma Ha Tát. Nhữ
đẳng tín thọ, tâm vô sở biệt, mạc linh vong
thất”. Nhĩ thời, đại địa lục chủng
chấn động, Diên Mạng Bồ Tát tùng địa xuất
hiện, hữu tất khúc lập, tư chưởng thừa
nhĩ, tả tất thân hạ, thủ tŕ tích trượng,
bạch Phật ngôn: “Ngă mỗi nhật thần triêu nhập
chư định, nhập chư địa ngục linh ly
khổ, vô Phật thế giới độ chúng sanh. Kim thế,
hậu thế, năng dẫn đạo. Nhược Phật
diệt hậu, nhất thiết nam nữ dục đắc
ngă phước, bất vấn nhật hung, bất luận
bất tịnh, hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng
sự sư trưởng, ngôn sắc thường ḥa, bất
uổng nhân dân, bất đoạn sanh mạng, bất phạm
tà dâm, nhược lục trai nhật, nhược thập
trai nhật, nhược thập bát nhật, nhược
nhị thập tứ nhật, đản tự tâm chánh,
chuyển độc thử kinh, xưng ngă danh giả, ngă dĩ
pháp nhăn oai thần lực cố, tức chuyển nghiệp
báo linh đắc hiện quả, trừ vô gián tội, đương
đắc Bồ Đề. Ngă tùng quá khứ vô lượng
kiếp lai, kiến chư lục đạo nhất thiết
chúng sanh, pháp tánh đồng thể, vô thỉ, vô chung, vô dị,
vô biệt, vô tướng, dị tướng, sanh, trụ,
dị, diệt, thị đắc, thị thất, khởi
bất thiện niệm, tạo chư ác nghiệp, luân hồi
lục thú, sanh sanh phụ mẫu, thế thế huynh đệ,
tất thành Phật đạo. Hậu ngă thành Phật, nhược
tàn nhất nhân, ngă bất thành Phật. Nhược tri thử
nguyện, nhị thế sở cầu, tất bất thành
giả, bất thủ Chánh Giác”.
(經)爾時,帝釋白佛言:「世尊!何故名曰延命菩薩?其相云何?」佛告天帝:「善男子!真善菩薩心明圓,故名如意輪;心無罣礙故名觀自在;心無生滅故名延命;心無摧破故名地藏;心無邊際故名大菩薩;心無色相故名摩訶薩。汝等信受,心無所別,莫令忘失。」爾時,大地六種震動,延命菩薩從地出現,右膝曲立,臂掌承耳,左膝申下,手持錫杖,白佛言:「我每日晨朝入諸定,入諸地獄令離苦,無佛世界度眾生,今世後世能引導。若佛滅後,一切男女欲得我福,不問日兇,不論不淨,孝養父母,奉事師長,言色常和,不枉人民,不斷生命,不犯邪淫,若六齋日,若十齋日,若十八日,若二十四日,但自心正轉讀此經稱我名者,我以法眼威神力故,即轉業報令得現果,除無間罪當得菩提。我從過去無量劫來,見諸六道一切眾生,法性同體,無始無終,無異無別,無相異相,生住異滅,是得是失,起不善念,造諸惡業,輪回六趣,生生父母、世世兄弟,悉成佛道,後我成佛,若殘一人,我不成佛。若知此願,二世所求,悉不成者,不取正覺。」
(Kinh: Lúc bấy giờ, Đế Thích
bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn!
V́ sao gọi là Diên Mạng Bồ Tát? Tướng trạng ấy
như thế nào?”
Đức Phật bảo Thiên Đế: - Này
thiện nam tử! Bậc chân thiện Bồ Tát, tâm tṛn sáng,
nên gọi là Như Ư Luân. Do tâm chẳng vướng mắc,
nên tên là Quán Tự Tại. Do tâm chẳng sanh diệt, nên tên
là Diên Mạng. Do tâm chẳng bị phá dẹp, nên tên là Địa
Tạng. Do tâm chẳng có ngằn mé, nên tên là Đại Bồ
Tát. Do tâm không có sắc tướng, nên gọi là Ma Ha Tát. Các
ông hăy tin nhận, tâm đừng nghĩ ǵ khác, đừng để
quên mất.
Lúc bấy giờ, đại địa chấn
động sáu cách, Diên Mạng Bồ Tát từ dưới
đất xuất hiện, gập đầu gối phải,
bàn tay đỡ tai, gối trái duỗi thẳng sát đất,
tay cầm tích trượng, bạch với đức Phật:
- Con vào lúc sáng sớm mỗi ngày, nhập các
Định, vào trong các địa ngục khiến họ ĺa
khổ, và độ chúng sanh trong thế giới không có Phật.
Đời này, đời sau, có thể hướng dẫn
họ. Như sau khi đức Phật nhập diệt, hết
thảy nam nữ muốn được hưởng phước
từ con, chẳng cần biết là ngày xấu, chẳng luận
bất tịnh, [chỉ cần] hiếu thảo, phụng
dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng,
lời lẽ và sắc mặt thường ḥa dịu, chẳng
khiến người khác bị oan uổng, chẳng dứt
sanh mạng [của chúng sanh], chẳng phạm tà dâm, hoặc
trong sáu ngày trai, hoặc trong mười ngày trai, hoặc vào
ngày Mười Tám, hoặc ngày Hai Mươi Bốn, chỉ
nên tự chánh tâm, chuyển đọc kinh này, xưng danh hiệu
của con, do sức oai thần pháp nhăn của con, [người
ấy] liền chuyển nghiệp báo, đạt được
cái quả trong hiện tại, trừ diệt tội Vô Gián,
sẽ đắc Bồ Đề. Con từ quá khứ vô
lượng kiếp đến nay, thấy hết thảy
chúng sanh trong sáu đường, pháp tánh có cùng một Thể,
chẳng khởi đầu, không kết thúc, không khác, chẳng
riêng biệt, chẳng có tướng, hay tướng khác biệt,
sanh, trụ, dị, diệt, là được, hay là mất,
dấy lên ư niệm bất thiện, tạo các ác nghiệp,
luân hồi trong sáu đường, cha mẹ trong mỗi đời,
anh em trong mỗi kiếp đều thành Phật đạo.
Sau này, con thành Phật mà nếu c̣n sót một người,
con sẽ chẳng thành Phật. Nếu ai biết nguyện
này mà sự mong cầu trong đời này và đời sau đều
chẳng thành tựu, con chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác”).
(Kinh) Nhĩ thời, Phật tán Diên Mạng
Bồ Tát: “Thiện tai! Thiện tai! Chân thiện nam tử!
Ngă diệt độ hậu, vị lai ác thế, tội khổ
chúng sanh, phó chúc ư nhữ. Kim thế, hậu thế, thiện
năng dẫn đạo, đàn chỉ chi khoảnh, bất
đọa ác thú, huống đọa Vô Gián A Tỳ địa
ngục”. Diên Mạng Bồ Tát nhi bạch Phật ngôn: “Thế
Tôn bất lự! Ngă đương bạt tế lục
đạo chúng sanh, nhược hữu trọng khổ, ngă
đại thọ khổ. Nhược bất nhĩ giả,
bất thủ Chánh Giác”. Thời Thế Tôn trùng dĩ kệ
tán viết: “Thiện tai, thiện tại! Diên Mạng Bồ
Tát, hữu t́nh thân hữu, chúng sanh sanh thời, vị kỳ
thân mạng, diệt vi đạo sư, chúng sanh bất tri,
đoản mạng vô phước. Ngă diệt độ hậu,
ư Mạt Pháp trung, quốc độ tai khởi, nhân
vương chánh loạn, tha phương tặc lai, đao binh
kiếp khởi, đản đương ức tưởng,
Diên Mạng Bồ Tát, kim thế, hậu thế, sở cầu
bất măn, ngă sở thuyết pháp, vô hữu thị xứ”.
(經)爾時,佛讚延命菩薩:「善哉!善哉!真善男子!我滅度後,未來惡世,罪苦眾生,付囑於汝。今世後世善能引導,彈指之頃不墮惡趣,況墮無間阿鼻地獄。」延命菩薩而白佛言:「世尊不慮!我當拔濟六道眾生,若有重苦,我代受苦。若不爾者,不取正覺。」時世尊重以偈讚曰:「善哉!善哉!延命菩薩,有情親友,眾生生時,為其身命,滅為導師,眾生不知,短命無福。我滅度後,於末法中,國土災起,人王政亂,他方賊來,刀兵劫起,但當憶想,延命菩薩,今世後世,所求不滿,我所說法,無有是處。」
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật
khen ngợi Diên Mạng Bồ Tát: “Lành thay! Lành thay! Chân thiện
nam tử! Sau khi ta diệt độ, phó chúc chúng sanh tội
khổ trong đời mai sau cho ông. Đời này, đời
sau, hăy khéo dẫn dắt, đừng để họ đọa
vào đường ác trong khoảng khảy ngón tay, huống
hồ đọa vào địa ngục Vô Gián A Tỳ”.
Diên Mạng Bồ Tát liền bạch với
đức Phật: “Đức Thế Tôn đừng lo.
Con sẽ cứu bạt, giúp đỡ chúng sanh trong sáu đường.
Nếu có kẻ nào khổ sở nặng nề, con sẽ
chịu khổ thay. Nếu chẳng như vậy, con chẳng
giữ lấy ngôi Chánh Giác”.
Khi đó, đức Thế Tôn lại dùng kệ
tán thán: “Lành thay! Lành thay! Diên Mạng Bồ Tát, ông là bạn
thân của các hữu t́nh, chúng sanh lúc sống, v́ thân mạng
họ, dùng Diệt hướng dẫn. Chúng sanh chẳng biết,
đoản mạng, vô phước. Ta diệt độ rồi,
trong thời Mạt Pháp, nước dấy tai ương,
vua không sáng suốt, giặc ngoài xâm lấn, chiến sự
nổi lên, chỉ nên nhớ tưởng, Diên Mạng Bồ
Tát, đời này, đời sau, sở cầu chẳng thỏa,
ta sẽ nói ngay: Chẳng có lẽ ấy!”)
(Kinh) Nhĩ thời, tam thiên đại thiên
thế giới lục biến chấn động, Văn Thù
Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Kim Cang Tạng
Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Thánh Quán Tự Tại
Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, dị khẩu đồng âm,
nhi bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Vị lai chúng sanh, nhược
văn thử kinh, thị Bồ Tát danh, ngă đẳng giai đương
tùy thuận thị nhân, tác tâm nhăn minh, hiện kỳ nhân tiền,
sở cầu viên măn. Nhược bất nhĩ giả, bất
thủ Chánh Giác”. Nhĩ thời, Phạm Vương, Đế
Thích, tứ đại thiên vương vũ chư thiên hoa,
cúng dường Như Lai, bạch Phật ngôn: “Thế Tôn!
Vị lai chúng sanh, nhược tự tâm chánh, bất uổng
thị phi, bất xả thưởng phạt, tŕ thị
kinh giả, niệm thử Bồ Tát, ngă đẳng quyến
thuộc ủng hộ thị nhân, bất ly nhật dạ,
linh kỳ quốc độ bách do-tuần nội, vô chư
tai nạn. Kỳ quốc nhân dân linh đắc an ổn, cốc
giá thành thục, sở cầu măn túc. Nhược bất nhĩ
giả, bất danh hộ thế, bất hoàn Bổn Giác”.
(經)爾時,三千大千世界六變震動,文殊師利菩薩、普賢菩薩、金剛藏菩薩、虛空藏菩薩、聖觀自在菩薩摩訶薩等,異口同音而白佛言:世尊!未來眾生若聞此經是菩薩名,我等皆當隨順是人,作心眼明,現其人前,所求圓滿。若不爾者,不取正覺。」爾時,梵王、帝釋、四大天王雨諸天華,供養如來,白佛言:「世尊!未來眾生若自心正,不枉是非,不捨賞罰,持是經者念此菩薩,我等眷屬擁護是人,不離日夜,令其國土百由旬內,無諸災難。其國人民令得安穩,穀稼成熟,所求滿足。若不爾者,不名護世,不還本覺。
(Kinh: Lúc bấy giờ, tam thiên đại
thiên thế giới sáu lượt chấn động. Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Kim Cang
Tạng Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Thánh Quán Tự
Tại Bồ Tát Ma Ha Tát v.v… khác miệng cùng tiếng bạch
cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng sanh
đời vị lai nếu nghe kinh này, và danh hiệu vị
Bồ Tát này, chúng con sẽ đều tùy thuận người
ấy, làm cho tâm và mắt người ấy sáng tỏ, hiện
ra trước người ấy, [khiến cho] những điều
mong cầu của người ấy viên măn. Nếu chẳng
như vậy, chẳng giữ lấy Chánh Giác”.
Lúc bấy giờ, Phạm Vương, Đế
Thích, tứ đại thiên vương mưa các hoa trời
cúng dường Như Lai, bạch với Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Chúng sanh trong đời vị lai nếu
tự chánh cái tâm, chẳng bẻ cong phải trái, chẳng bỏ
thưởng phạt, tŕ kinh này, niệm vị Bồ Tát này,
hàng quyến thuộc chúng con sẽ ủng hộ người
ấy ngày đêm chẳng ĺa, khiến cho quốc độ
ấy trong ṿng một trăm do-tuần không có các tai nạn.
Nhân dân trong cơi ấy được an ổn, hoa màu chín rộ,
mong cầu được thỏa măn. Nếu chẳng được
vậy, chúng con chẳng được gọi là Hộ Thế,
chẳng chứng Bổn Giác”).
(Kinh) Thời nhị đồng tử
thị lập tả hữu, nhất danh Chưởng Thiện, tại tả,
bạch sắc, tŕ bạch liên hoa, điều ngự pháp tánh.
Nhất danh Chưởng Ác, tại hữu, xích sắc, tŕ kim
cang xử, hàng phục vô minh. Phật cáo đại chúng: “Nhữ
đẳng đương tri! Thị nhị đồng tử
pháp tánh, vô minh, lưỡng thủ, lưỡng túc, Diên Mạng
Bồ Tát trung tâm bất động, A tự bản thể.
Nhược hữu chúng sanh tri thị tâm giả, quyết
định thành tựu, tức diệt tam độc đắc
tự tại lực. Nguyện sanh Phật độ, tùy
nguyện đắc sanh. Nhược vị lai thế nhất
thiết chúng sanh, cung kính cúng dường Diên Mạng Bồ
Tát, bất sanh nghi hoặc, hiện thế sở cầu
giai linh măn túc. Hậu sanh Tịnh Độ, đắc Vô
Sanh Nhẫn”. Phật thuyết thử kinh dĩ, nhất
thiết đại hội, tâm đại hoan hỷ, tín thọ
phụng hành. Phật Thuyết Diên Mạng Địa Tạng
Bồ Tát Kinh.
(經)時二童子侍立左右,一名掌善,在左,白色,持白蓮華,調御法性。一名掌惡,在右,赤色,持金剛杵,降伏無明。佛告大眾:「汝等當知!是二童子法性無明,兩手兩足,延命菩薩中心不動,阿字本體。若有眾生知是心者,決定成就,即滅三毒得自在力。願生佛土隨願得生。若未來世一切眾生,恭敬供養延命菩薩,不生疑惑,現世所求皆令滿足。後生淨土得無生忍。」佛說此經已,一切大會,心大歡喜,信受奉行。佛說延命地藏菩薩經。
(Kinh: Khi ấy, hai đồng tử đứng
hầu hai bên. Một tên là Chưởng Thiện ở bên
trái, màu trắng, cầm hoa sen trắng, điều ngự
pháp tánh. Người kia tên là Chưởng Ác, ở bên phải,
màu đỏ, cầm chày kim cang, hàng phục vô minh. Đức
Phật bảo đại chúng:
- Các ông nên biết: Hai đồng tử này
là pháp tánh và vô minh, [ví như] hai chân và hai tay, Diên Mạng Bồ
Tát ở chính giữa bất động là bản thể của
chữ A. Nếu có chúng sanh biết cái tâm này, sẽ quyết
định thành tựu, liền diệt tam độc, đắc
sức tự tại. Nguyện sanh về cơi Phật, sẽ
tùy theo nguyện được sanh. Nếu hết thảy
chúng sanh trong vị lai cung kính cúng dường Diên Mạng Bồ
Tát, chẳng sanh ngờ vực, những điều mong cầu
trong đời này sẽ đều được thỏa
măn. Về sau, sanh vào Tịnh Độ, đắc Vô Sanh Nhẫn.
Đức Phật nói kinh này xong, hết thảy
đại hội, tâm hết sức hoan hỷ, tin nhận,
vâng làm theo. Phật Thuyết Diên Mạng Địa Tạng
Bồ Tát Kinh hết).
Phụ lục 2:
Khuyên khắp các đạo
lữ Tịnh Tông tŕ tụng thêm kinh Địa Tạng
Hoằng Nhất đại
sư giảng thuật vào ngày khánh đản đức Địa
Tạng
năm Canh Th́n (1940) tại Vĩnh
Xuân[13]
Vương Mộng Tỉnh
ghi
Tôi đến Vĩnh Xuân tới nay đă một
năm rưỡi. Mùa Hạ năm trước, cư sĩ
Vương Mộng Tỉnh gởi thư đến, nói tính
cùng các vị như cư sĩ Lâm Tử Kiên v.v… đến
chùa Phổ Tế, thỉnh tôi giảng kinh. Khi đó, tôi từng
gởi thư trả lời: “Đợi đến lúc trời
sang tiết Thu mát mẻ, sẽ vào thành giảng đại
ư kinh Kim Cang ba ngày”. Tới tháng Bảy mùa Thu, tôi do bế
quan tu Thiền, chẳng đến được. Hôm qua,
cư sĩ Mộng Tỉnh và các vị nhân giả vào núi thăm
viếng, do bị mưa, ở lại tự viện vài ngày.
Hôm nay nhằm đúng dịp khánh đản Địa Tạng
Bồ Tát, nên tôi nương theo cái duyên thù thắng này, nói về
ư chỉ trọng yếu “các đạo lữ Tịnh Tông
nên tŕ tụng thêm kinh Địa Tạng” để làm kỷ
niệm.
Pháp tu tŕ của các đạo lữ Tịnh
Tông cố nhiên lấy ba kinh Tịnh Độ làm chủ.
Ngoài ba kinh ra, có lẽ nên tụng thêm kinh Địa Tạng
làm trợ hạnh, v́ Địa Tạng Bồ Tát có đại
nhân duyên với chúng sanh cơi này, kinh Địa Tạng Bổn
Nguyện lại càng khế hợp sâu xa với căn khí của
bọn thường nhân chúng ta. Do vậy, nay tôi khuyên khắp
các đạo lữ Tịnh Tông hăy nên tŕ tụng kinh Địa
Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện kèm thêm. Tôi kính cẩn trần thuật
chỉ thú như sau để các đạo lữ Tịnh
Tông chọn lựa.
1) Từ xưa tới nay, Tịnh Tông có nhân
duyên sâu nhất đối với đức Địa Tạng.
Vị tổ thứ tám của chúng ta là Liên Tŕ đại
sư viết bài tựa cho kinh Địa Tạng Bổn
Nguyện, ca ngợi, khuyên lơn lưu thông. Đến vị
tổ thứ chín là Ngẫu Ích đại sư, Ngài suốt
đời phụng sự Địa Tạng Bồ Tát, càng
tận lực tán thán, hoằng dương. Ngài sống tại
núi Cửu Hoa rất lâu, tự xưng là “Địa Tạng
chi cô thần” (bầy tôi côi cút của đức Địa
Tạng), cũng như suốt cả đời siêng năng
lễ Địa Tạng Sám Nghi, thường tŕ Địa
Tạng chân ngôn ḥng sám trừ nghiệp chướng, cầu
sanh Cực Lạc. Hơn nữa, vị Thái Sơn Bắc Đẩu
đương thời của Tịnh Độ Tông là pháp
sư Ấn Quang tận lực hoằng truyền, lưu
thông Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh, cho khắc in mấy
vạn bản để học nhân Tịnh nghiệp chí tâm
đọc tụng, y giáo hành tŕ. Nay tôi trộm tuân theo quy củ
đă thành lập của chư Tổ Tịnh Tông, khuyên khắp
các đồng nhân hăy tu tập kèm thêm. Duyên thù thắng tập
hợp, vốn chẳng phải là ngẫu nhiên!
2) Pháp môn Địa Tạng lấy ba kinh làm
chủ. Ba kinh là Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
Kinh, Địa Tạng Bồ Tát Thập Luân Kinh, và Địa
Tạng Nhị Thừa Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh.
Tuy kinh Bổn Nguyện chưa nói rơ nghĩa lư văng sanh, nhưng
hai kinh kia đều có. Kinh Thập Luân dạy: “Đương
sanh tịnh Phật quốc, đạo sư chi sở cư”
(sẽ sanh cơi Phật tịnh, là chỗ đạo sư
ngự). Kinh Chiêm Sát dạy: “Nhược nhân dục sanh
tha phương hiện tại tịnh quốc giả, ưng
đương tùy bỉ thế giới Phật chi danh tự,
chuyên ư niệm tụng, nhất tâm bất loạn, như thượng
quán sát giả, quyết định đắc sanh bỉ Phật
tịnh quốc” (nếu ai muốn sanh vào cơi tịnh trong
hiện tại ở phương khác, hăy nên chuyên tâm niệm
tụng danh tự của vị Phật trong thế giới
ấy, nhất tâm bất loạn, quán sát như trên, chắc
chắn sẽ được sanh vào Phật tịnh quốc
ấy). V́ thế, vị tổ thứ chín của Liên Tông
chúng ta trong bài văn phát nguyện khi lễ Địa Tạng
Bồ Tát Chiêm Sát Sám đă viết: “Xả thân tha thế,
sanh tại Phật tiền, diện phụng Di Đà, lịch
sự chư Phật, thân mông thọ kư, hồi nhập trần
lao, phổ hội quần mê, đồng quy bí tạng” (Bỏ
thân sanh sang đời khác, ở trước đức Phật,
tận mặt phụng sự đức Di Đà, lần lượt
phụng sự chư Phật, đích thân được
thọ kư, trở vào trần lao, khiến cho khắp các quần
mê đều về kho tàng bí mật). Nh́n từ chỗ này,
pháp môn Địa Tạng có quan hệ rất sâu với Tịnh
Tông, há chỉ là khác lối nhưng cùng về một chỗ,
mà c̣n là phát khởi và hướng đến đều nhất
trí.
3) Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật coi
tu ba phước là chánh nhân của Tịnh nghiệp. Điều
đầu tiên trong ba phước là “hiếu dưỡng
phụ mẫu”, mà trong kinh Địa Tạng Bổn
Nguyện đă trần thuật cặn kẽ ḷng hiếu
thảo trong đời trước của đức Địa
Tạng. V́ thế, cổ đức gọi kinh Địa
Tạng là “hiếu kinh của Phật môn” rất hữu
lư! Phàm những vị đồng nhân với
tôi, hăy nên
thường đọc tụng kinh Địa Tạng Bổn
Nguyện ḥng tương ứng với ư chỉ hiếu dưỡng
của Quán Kinh, cũng như vâng theo lời dạy tận
lực thực hiện, đặc biệt tôn sùng hiếu đạo
để báo ân cha mẹ, tu phước thù thắng.
4) Trong hiện thời, pháp sư Ấn Quang
dạy mọi người tŕ danh hiệu Phật, cầu
sanh Tây Phương, ắt khuyên mọi người trước
hết hăy tin nhân quả báo ứng, đừng làm các điều
ác, vâng làm các điều thiện, sau đấy mới nói:
“Cậy vào từ lực của Phật, đới nghiệp
văng sanh”. Nhưng trong kinh Địa Tạng Bổn Nguyện,
đă nói rộng về nhân quả báo ứng tột bậc
tường tận. Phàm những vị đồng nhân, hăy
nên thường đọc kinh Địa Tạng Bổn Nguyện,
y giáo phụng hành để giúp cho Tịnh nghiệp. Nếu
chưa thể tin sâu nhân quả báo ứng, chẳng chú trọng
thiết tha giữ ǵn luân thường đạo đức,
há không chỉ là chưa thể sanh Tây, mà c̣n cũng có phần
trong tam đồ! Nay tôi trộm dựa theo ư ấy, khuyên
khắp những ai tu Tịnh nghiệp, ắt cần phải
tin sâu nhân quả, thường kiểm điểm những
chuyện đă làm trong thường nhật, chân thành sám hối,
nỗ lực sửa lỗi. Lại c̣n tiến cao hơn là
tu tŕ Ngũ Giới, Thập Thiện v.v… để làm trợ
hạnh cho niệm Phật, ḥng làm tư lương sanh Tây.
5) Người tu Tịnh nghiệp chúng ta, nếu
có thể trong hoàn cảnh hiện tại, đối với
khổ, vui, thuận, nghịch hết thảy đều buông
xuống, chẳng vướng mắc, dùng khổ cảnh để
tiêu trừ Thân Kiến, dùng nghịch duyên để kiên cố
tịnh nguyện th́ đúng là rất tốt. Nhưng người
như thế, trong ngàn vạn người, hiếm được
một, hai. V́ chúng ta thuộc địa vị phàm phu, tuy
biết tùy phần tùy sức tu tập Tịnh nghiệp, nhưng
vẫn chưa thể triệt để thấy thấu
suốt thân, tâm, thế giới, chưa thể chẳng cần
thiết áo cơm, chỗ ở v.v…, cũng chẳng thể
không lo nghĩ v́ thiên tai nhân họa như nước, lửa,
đao binh, đói kém v.v… Nếu cuộc sống khó khăn,
tai họa liên tiếp dấy lên, sẽ lập tức trở
thành chướng ngại to lớn cho tu hành. Nay nếu có thể
quy y, tin tưởng Địa Tạng Bồ Tát, sẽ không
có những nỗi lo ấy. Dựa theo những điều
ghi chép trong kinh Địa Tạng, sẽ có thể khiến
cho chúng ta áo cơm sung túc, bệnh dịch không xảy đến,
nhà cửa măi măi yên ổn, điều mong cầu được
toại ư, thọ mạng gia tăng, trừ sạch hư
hao, ra vào có thần minh bảo vệ, ĺa khỏi các tai nạn
v.v… Cổ đức nói: “Thân yên rồi đạo mới
hưng thịnh” tức là nói về chuyện này! Đấy
là yếu chỉ khuyên người tu Tịnh nghiệp hăy nên
quy hướng, tin tưởng đức Địa Tạng
vậy.
Trên đây, tôi đă lược thuật chỉ
thú tŕ tụng kinh Địa Tạng, tuy nghĩa lư chưa
thể tường tận, cũng có thể thấy được
đại khái. Chỉ mong các đạo lữ Tịnh Tông
hăy lưu truyền rộng răi, chí tâm tŕ tụng kinh Địa
Tạng, do công sức ấy, sẽ đạt được
lợi ích thù thắng!
(Trích từ Hoằng Nhất Đại Sư
Diễn Giảng Tập)
Phụ lục 3:
Địa Tạng Bồ
Tát Chân Ngôn
Thông thường,
trong các khóa tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn
Nguyện đang lưu hành, khi kết kinh, sẽ có hai bài
chú. Một là Diệt Định Nghiệp Chân Ngôn và Địa
Tạng Bồ Tát Tâm Chú. Diệt Định Nghiệp Chân Ngôn
vốn trích từ quyển thứ sáu của Đà La Ni Tập
Kinh (thuộc tập thứ 18, kinh số 901 của Đại
Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh), tên gọi chánh yếu là Địa Tạng Bồ Tát
Pháp Thân Chú. Đà La Ni Tập Kinh (Dhāraṇī-samuccaya) được
ngài A Địa Cù Đa (Atikūṭa)
xứ Thiên Trúc dịch ra tiếng Hán vào đời Đường,
nội dung toàn là nói về các ấn chú và nghi quỹ của
nhiều vị tôn thánh như Thích Ca Mâu Ni Phật, Tỳ Lô
Giá Na Phật, A Di Đà Phật, Dược Sư Phật
v.v… C̣n Địa Tạng Tâm Chú phát xuất từ phẩm Mật
Ấn của
kinh Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến
Gia Tŕ (kinh Đại Nhật, tức kinh số
848 trong tập 18 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng
Kinh).
*
Chú Diệt Định Nghiệp Chân Ngôn:
Om
pramardane svāhā
(Án,
bát la mạt lân đà ninh, sa bà ha,
Hoặc:
Án, ba ra mạt đà nễ, sa ha).
*
Địa Tạng Bồ Tát Tâm Chú:
Om
hahaha vismaye svāhā.
(Án,
ha ha ha tỳ xă duệ, sa ha).
Hoặc:
Namaḥ
samanta-buddhānāṃ hahaha vismaye svāhā.
(Nam mô tam măn da bột đà nẫm, ha ha ha,
vi sa ma duệ sa ha)
Đại
sư Ngẫu Ích đặc biệt coi trọng chú Diệt
Định Nghiệp, đă viết bài Bổ Tổng Tŕ Diệt
Định Nghiệp Chân Ngôn Sớ, mở đầu bằng
lời tán thán: “Kính lễ Từ Tôn Địa Tạng Vương,
thần chú khéo trừ diệt định nghiệp. Cứu
khắp vô biên ngũ trược khổ, tiếp gịng Tam Bảo
hưng thịnh chẳng đoạn tuyệt”. Đại
sư tự nói chính ḿnh và chúng sanh “mê cái tâm vốn tịnh,
đă tạo định nghiệp” cho nên cùng chịu khổ
báo. Nếu chúng sanh cung kính niệm Diệt Định Nghiệp
Chân Ngôn, “chắc chắn có thể dẹp trừ tam chướng
khổ, thí tam đức lạc” (bài viết này đă được
đưa vào Cửu Hoa Sơn Chí trong tổng tập Trung Quốc
Phật Tự Sử Chí Vựng San, tập số 72).
Ngoại
trừ kiên định và chuyên tâm tŕ tụng chú này, nếu
mong trừ diệt định nghiệp, cần phải có
chánh tri chánh kiến. Do đó, đại sư đặc
biệt nhấn mạnh: Chúng sanh phải “biết rơ đúng
sai, thấu đạt tà chánh, tin sâu nhân quả, hiểu Đệ
Nhất Nghĩa”. Đại sư nói: “Dùng nguyện làm
tṛng mắt của chúng sanh, lấy thân làm tường thành
cho Phật pháp”, “thường v́ người khác nói cái
nhân xa là Pháp Tạng, cái quả hiện tại là Di Đà, khiến
cho các hữu t́nh đều thoát khổ luân, rốt cuộc
đạt an lạc”. Đại sư dạy rơ: Người
tŕ chú này, không chỉ v́ chính ḿnh, mà c̣n phải v́ chúng sanh th́
mới tương ứng, mới mong đạt được
hiệu quả. Tức là dù Hiển hay Mật, dù tu bất
cứ pháp môn nào, đều phải lấy Bồ Đề
tâm làm căn bản.
Đă
nói là Diệt Định Nghiệp Chân Ngôn, ắt sẽ có người
vặn: “Đă là định nghiệp, lẽ đâu có thể
tiêu trừ? Thường nói là ‘nhân như thế nào, quả
như thế ấy’, hễ có nhân tạo ác nghiệp như
vậy, dĩ nhiên sẽ hứng chịu ác quả, làm sao có
ngoại lệ cho được?” Hăy xem đức Phật
khai thị trong phẩm Nghiệp của Ưu Bà Tắc Giới
Kinh: “Hà nhân duyên cố danh quả báo định? Thường
tác vô hối cố, chuyên tâm tác cố, hỷ nhạo tác cố,
lập thệ nguyện cố, tác dĩ hoan hỷ cố,
thị cố thị nghiệp đắc quả báo định.
Trừ thị dĩ ngoại, tất danh bất định”
(Do nhân duyên nào mà gọi là quả báo nhất định? Do
thường làm mà chẳng hối hận, do chuyên tâm làm, do
ưa thích làm, do lập thệ nguyện mà làm, do làm xong hoan
hỷ. Do đó, nghiệp ấy sẽ đạt được
quả báo cố định. Trừ những điều ấy
ra, đều gọi là bất định). Nh́n từ đây,
hành nhân tịnh nghiệp thường tu tập pháp môn Niệm
Phật với năm tâm thái ấy, chắc chắn sẽ
đạt được cái quả nơi Tây Phương
Cực Lạc.
Trở
lại với vấn đề ác nghiệp, chủng tử
của những ác nghiệp đă tạo sẽ tồn trữ
trong Tạng Thức. Trước khi chết, những chủng
tử ấy chưa chuyển thành chủng tử Dị Thục
th́ vẫn c̣n có cơ hội để chuyển biến chúng.
Chẳng hạn như phát lộ sám hối, nỗ lực
gieo thiện nhân và thiện duyên ngơ hầu chuyển biến
ác quả trong tương lai. Cũng trong phẩm Nghiệp
của kinh Ưu Bà Tắc Giới, đức Phật dạy:
“Nhược quả báo định, ưng hậu thọ
giả, thị nghiệp khả chuyển hiện tại
thọ chi, hà dĩ cố? Thiện tâm trí huệ nhân duyên lực
cố, ác quả định giả diệc khả chuyển
khinh” (nếu đối với quả nhất định,
đáng phải hứng chịu cái quả sau này, nghiệp ấy
có thể chuyển thành cái quả phải thọ trong hiện
tại. V́ lẽ nào? Do sức nhân duyên của thiện tâm và
trí huệ, ác quả nhất định cũng có thể
chuyển thành nhẹ). Nghĩa là dùng nhân duyên của thiện
tâm và trí huệ, sẽ có thể chuyển biến định
nghiệp thành bất định nghiệp. Nhờ đó, cũng
có thể chuyển ác quả nặng nề thành nhẹ nhàng
hơn.
Trong
phẩm Sư Tử Hống của kinh Đại Bát Niết
Bàn, Sư Tử Hống Bồ Tát đă từng hỏi đức
Phật: “Nếu quả báo trở thành định nghiệp,
chẳng thể chuyển đổi, vậy th́ kẻ hủy
báng kinh điển Đại Thừa, phạm tội Ngũ
Nghịch, cho đến kẻ Nhất Xiển Đề chẳng
tin quả báo, hoàn toàn không có tâm hối hận, hổ thẹn,
sẽ hoàn toàn chẳng thể chứng Bồ Đề, trọn
chẳng thể thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác ư?” Đức Phật đă dạy rơ: Trong quá
khứ, Ngài nói định nghiệp là v́ quá nhiều chúng
sanh không tin vào nghiệp duyên quả báo, khinh mạn đối
đăi. V́ đoạn trừ tà kiến này, đức Phật
mới phương tiện nói “hết thảy các nghiệp
đă làm, không ǵ chẳng có quả
báo nhất định”. Tới hội Niết Bàn, đức Phật
mới chỉ rơ nghiệp bất định và quyết
định. Do vậy có thể nói: Nghiệp trở thành định
nghiệp v́ người tạo nghiệp không biết sửa
đổi, chẳng biết sám hối, chẳng biết bổ
cứu. Thật ra, ngay trong kinh Ưu Bà Tắc Giới, đức
Phật đă khai thị rơ ràng: “Như hữu tu thân, tu Giới,
tu tâm, tu Huệ, định tri thiện ác nghiệp đương
hữu quả báo, thị nhân năng chuyển trọng nghiệp
vi khinh, khinh giả bất thọ. Nhược tao phước
điền, ngộ thiện tri thức, tu đạo, tu
thiện, thị nhân năng chuyển hậu thế trọng
tội, hiện thế khinh thọ” (Nếu có kẻ tu
thân, tu Giới, tu tâm, tu Huệ, biết chắn do nghiệp
thiện ác sẽ có quả báo, người ấy có thể
chuyển nghiệp nặng thành nhẹ, chẳng hứng chịu
quả báo do nghiệp nhẹ. Nếu gặp phước
điền, gặp thiện tri thức, tu đạo, tu
thiện, người ấy có thể chuyển trọng tội
trong đời sau thành quả báo nhẹ trong đời này).
Đấy chẳng phải là đức Phật đă dạy
rất rơ: Có thể chuyển biến định nghiệp
đấy sao?
Ngoài
ra, điều chủ yếu là tâm phải chân thật sám hối.
Nếu chỉ tŕ tụng chân ngôn suông, không hề có tâm sám hối,
không thực sự sửa đổi, dẫu tụng chân
ngôn bao nhiêu đi nữa, hay tụng toàn bộ kinh tạng,
định nghiệp vẫn chẳng thể sửa đổi
được. Trong kinh Phật Vị Thủ Ca Trưởng
Giả Thuyết Nghiệp Báo Sai Biệt, đức Phật
cũng dạy rơ: “Nhược nhân tạo trọng tội,
tác dĩ thâm tự trách, sám hối cánh bất tạo, năng
bạt căn bản nghiệp” (Nếu ai tạo trọng
tội, đă làm rồi bèn tự trách sâu xa, sám hối, chẳng
làm nữa, sẽ có thể nhổ trừ nghiệp căn
bản). Nghiệp căn bản chính là định nghiệp!
Ngoài
ra, từ các vị tôn thánh trong Địa Tạng Viện
của Thai Tạng Mạn Đồ La, ta thấy có sáu vị
Địa Tạng tương ứng với lục đạo,
tức là các phân thân của Địa Tạng Bồ Tát
để giáo hóa chúng sanh trong sáu đường:
1)
Đàn Đà Địa Tạng: Đàn Đà (Daṇḍa) c̣n dịch là Độc Lâu
Trượng, tức là một loại gậy có h́nh đầu
lâu. Ngài tay trái cầm trượng này, tay phải kết Cam
Lộ Ấn, chuyên cứu giúp chúng sanh trong địa ngục.
2) Bảo
Châu Địa Tạng: Tay trái cầm bảo châu, tay phải
kết Cam Lộ Ấn, chuyên cứu độ chúng sanh trong
ngạ quỷ đạo.
3) Bảo
Ấn Địa Tạng: Tay trái cầm tích trượng,
tay phải kết Như Ư Bảo Ấn, chuyên cứu tế
chúng sanh trong súc sanh đạo.
4)
Tŕ Địa Địa Tạng: Tay trái cầm kim cang tràng,
tay phải kết Thí Vô Úy Ấn, chuyên tế độ A Tu
La đạo.
5)
Trừ Cái Chướng Địa Tạng: Tay trái cầm tích
trượng, tay phải kết Dữ Nguyện Ấn,
chuyên tế độ loài người.
6)
Nhật Quang Địa Tạng: Tay trái cầm Như Ư châu,
tay phải Thuyết Pháp Ấn, chuyên tế độ chư
thiên.
Hơn nữa, trong Mật Tông, Ngài c̣n
có mật hiệu là Bi Nguyện Kim Cang, Dữ Nguyện Kim
Cang, và Bi Phồn Kim Cang. Trong Kim Cang Giới Mạn Đà
La, Ngài được biết dưới danh xưng là Tràng
Bồ Tát, là thị giả của Bảo Sanh Như Lai ở
phương Nam. Sách Dữ Nguyện Kim Cang Địa Bồ
Tát Bí Kư trích dẫn kinh Liên Hoa Tam Muội Kinh cho biết Pháp
Thân của Ngài chính là Bảo Sanh Như Lai (Ratna-sambhava, c̣n có các
danh xưng khác là Bảo Tướng Như Lai, Bảo Thắng
Như Lai. Khai Phu Hoa Vương Như Lai).
Về h́nh tượng của Ngài, trước
thời Đường, Địa Tạng Bồ Tát thường
được tạc tượng, hoặc vẽ (nhất
là các tượng tạc tại Đôn Hoàng, hoặc Long Môn
Thạch Quật) dưới dạng một vị Bồ Tát
có dáng vóc một vị trời đoan nghiêm, đeo anh lạc,
đội bảo quan như các vị Bồ Tát khác. Tiêu chí
để nhận biết là tay Ngài cầm
bảo châu. Các bức thangka vẽ Địa Tạng Bồ
Tát trong Tạng Truyền Phật giáo cũng vẽ theo h́nh
thức này. Từ đời Đường trở đi,
sau khi ḥa thượng Kim Kiều Giác viên tịch, do Ngài được
coi là hóa thân của Địa Tạng Bồ Tát, cũng như
do căn cứ theo sự mô tả trong kinh Thập Luân, h́nh
tượng Địa Tạng Bồ Tát từ đó trở
về sau luôn được vẽ dưới h́nh tướng
tỳ-kheo, đắp y ca-sa, đầu trần, tay cầm
tích trượng và bảo châu. Đôi khi vẽ Ngài đội
Ngũ Phật Bảo Quan hay măo Tỳ Lô. Càng về sau, tượng Ngài dưới h́nh dạng tỳ-kheo
đội măo Ngũ Phật phổ biến hơn. Trong các
tranh vẽ, ngoài hai vị thị giả là Đạo Minh và
Mân Công, có lúc hai vị này thường được thay
thế bằng Mục Liên tôn giả và Kiên Lao Địa Thần.
Tại Đài Loan, có nơi vẽ thị giả là Vô Độc
quỷ vương và Diện Nhiên quỷ vương, hoặc
thị giả là Dẫn Hồn Bồ Tát và Mục Liên tôn
giả. Có khi c̣n vẽ phức tạp hơn, Bồ Tát có đến
sáu vị thị giả là Diễm Ma sứ giả (hóa độ
địa ngục), Tŕ Bảo đồng tử (hóa độ
ngạ quỷ), Đại Lực sứ giả (hóa độ
súc sanh đạo), Đại Từ
thiên nữ (hóa độ Tu La), Bảo Tạng thiên nữ
(hóa độ loài người), và Nhiếp Thiên sứ giả
(hóa độ thiên chúng); hoặc vẽ Địa Tạng Bồ
Tát có ba mươi bốn vị quỷ vương (tức
Ác Độc quỷ vương, Đa Ác quỷ vương…
nói trong phẩm thứ chín) làm thị giả. Phật giáo
Nhật Bản lại có hai h́nh tượng Địa Tạng
Bồ Tát đặc biệt là:
1) Diên Mạng Bồ Tát có h́nh tướng tỳ-kheo,
hai thị giả là Chưởng Thiện (Căng Gia La, Kiṃkara)
và Chưởng Ác đồng tử (Chế Đa Ca, Ceṭaka).
2) Thiên Thai Tông Nhật Bản lại có h́nh tượng
Thắng Quân Địa Tạng đầu đội mũ
đâu mâu, mặc áo giáo, lưng giắt đao, tay cầm
tràng phan và bảo kiếm, biểu thị đại nhẫn
nhục và tinh tấn, đoạn trừ phiền năo.
Hiện
thời, các kinh điển nói về Địa Tạng Bồ
Tát có các bộ sau đây:
1)
Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh (do ngài Pháp
Đăng dịch. Một bản dịch khác của ngài
Thật Xoa Nan Đà).
2)
Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh (do ngài Bồ Đề
Đăng xứ Thiên Trúc dịch).
3)
Đại Thừa Đại Tập Địa Tạng Thập
Luân Kinh (do ngài Huyền Trang dịch)
4)
Đại Phương Quảng Thập Luân Kinh (mất tên
người dịch).
5)
Địa Tạng Bồ Tát Nghi Quỹ (do ngài Thâu Bà Ca La dịch).
6)
Phật Thuyết Địa Tạng Bồ Tát Đà La Ni Kinh
(mất tên người dịch).
7)
Kim Cang Tam Muội Kinh (phẩm Tổng Tŕ - mất tên người
dịch).
8)
Bách Thiên Tụng Đại Tập Kinh Địa Tạng Bồ
Tát Thỉnh Vấn Pháp Thân Tán (do ngài Bất Không dịch).
9)
Phật Thuyết Diên Mạng Bồ Tát Kinh (Đại Chánh
Tạng ghi là không rơ người dịch, nhưng theo truyền
thống, Phật giáo Trung Hoa ghi là bản này do ngài Bất Không
dịch).
Phụ lục 4:
Địa Tạng Bồ
Tát Linh Cảm Lục
Pháp sư Tâm Nhiên biên thuật
1. Vẽ phỏng theo h́nh
tượng bèn được thoát nạn
Đời Lương, tại chùa Thiện
Tịch ở huyện Đức Dương, Hán Châu, nơi
vách của đông lang, có tượng Địa Tạng Bồ
Tát do Trương Tăng Diêu[14] vẽ, h́nh
dạng giống như một vị Tăng ngồi nghiêm
nghị. Khi ấy, có ánh sáng lạ chói ngời. Trong năm đầu
của niên hiệu Lân Đức[15] đời
Đường, tăng sĩ trong chùa vẽ phỏng theo,
lại thấy tỏa sáng. Năm Lân Đức thứ ba (665),
khi Vương Kư đến làm Tư Châu Thứ Sử, thường
tinh thành cúng dường bức tranh vẽ phỏng theo. Có
mười chiếc thuyền cùng đi, giữa đường
bỗng gặp gió băo, chín chiếc đều ch́m lỉm,
chỉ có thuyền của Vương Kư chẳng bị sợ
hăi mảy may, liền biết là do Bồ Tát từ bi gia bị.
Năm Thùy Củng thứ ba (687), thiên hậu (Vũ Tắc
Thiên) nghe chuyện ấy, liền sắc truyền họa
sĩ vẽ phỏng theo, tranh lại tỏa sáng như trước.
Tới năm Đại Lịch nguyên niên (766), có vị đại
đức tại chùa Bảo Thọ ở trong đạo
tràng, lại thấy tướng lạ phóng quang, liền
viết biểu tâu lên. Vua bèn kiền thành đảnh lễ,
tán thán cùng cực! Ngay trong lúc Bồ Tát hiện quang, đất
nước thường an khang, càng thêm cát tường.
Lại có vợ của một thương
nhân, có thai đă hai mươi tám tháng chẳng sanh. Một
hôm, bỗng thấy quang minh của Bồ Tát, bà ta liền
nhất tâm phát nguyện sẽ vẽ mô phỏng h́nh tượng.
Ngay trong đêm ấy, sanh một trai tướng hảo đoan
nghiêm, ai trông thấy cũng đều hoan hỷ. Do vậy,
cả cơi đời gọi [tượng ấy] là Phóng Quang
Bồ Tát.
2. Tượng vẽ phóng
quang
Vào đời Đường, chùa Pháp Tụ
tại Quách Hạ thuộc Ích Châu có tượng vẽ Địa
Tạng Bồ Tát ngồi trên giường dây[16], thơng chân xuống,
cao tám hay chín tấc. Tượng ấy vốn do Trương
Tăng Diêu vẽ. Tới tháng Bảy năm Lân Đức
thứ hai, Tăng sĩ trong chùa vẽ phỏng theo một
bản, tượng liền tỏa sáng giống như ṿng
vàng, chợt tỏa ra, chợt ẩn mất, gần như
là quang minh nơi bản vẽ gốc. Lần lượt
vẽ nhiều bản sao như thế, cũng đều
phóng quang y hệt. Tháng Tám năm ấy, được lệnh
dâng lên một bản đưa vào cung để cúng dường.
Phàm tăng tục trong ngoài kinh thành, vẽ lại để
cúng dường, cũng đều thấy phóng quang, tin biết
là Phật lực chẳng thể suy lường.
3. Nghe tiếng, thoát khỏi
gông cùm
Đời Đường, tại huyện
Hộ ở Ung Châu, có người con gái họ Lư, chuyên ăn
chay thờ Phật, rất có tín tâm. Trong nhà, thờ phụng
tượng Địa Tạng Bồ Tát tạc bằng gỗ,
cao một thước sáu tấc khá linh dị. Cô Lư có mụ
đầy tớ tuổi ngoài năm mươi, tà kiến,
chẳng tin chánh pháp. Một hôm, mụ chờ Lư Thị đi
nơi khác, dời tượng vứt ra ngoài đồng hoang
xa khỏi khu nhà. Lư Thị trở về nhà, khóc lóc đi t́m.
Bỗng dưng thấy tượng phóng quang ngoài đồng
hoang, hoan hỷ đón về, chẳng biết do mụ đầy
tớ đă làm. Hôm sau, mụ đầy tớ bỗng chết
ngất đi, bất tỉnh nhân sự. Kế đó, bỗng
tỉnh dậy, khóc lóc sám hối, tự kể chuyện
trong chốn u đồ như sau:
- Khi tôi chết, thấy hai viên quan cưỡi
ngựa, đọc quan điệp bảo: “Mụ đầy
tớ hủy nhục thánh tượng, đă phạm tội
lớn”. Trói lại, giải đến chỗ Diêm Vương,
bị vua giận dữ, quở trách, phán tội đáng vào
địa ngục chịu khổ. Khi ấy, có một vị
sa-môn đến sảnh đường. Vua liền xuống
khỏi bệ, cung nghênh, hỏi nguyên do. Sa-môn nói: “Người
này là tớ gái trong nhà thí chủ của ta. Tuy ghét tượng
của ta, ta chẳng bỏ bà ta. Mong nhà vua rủ ḷng thương,
ban cho thọ mạng”. Vua thưa: “Xin nghe theo lệnh thầy”.
Khi ấy, tôi nghe xong, tâm sám hối, bất giác xướng
rằng: “Nam-mô Địa Tạng đại Bồ Tát”.
Ngay lập tức, các tội nhân đang hiện diện
trong sảnh đường, tiếng niệm truyền tới
đâu, gông cùm đều tự thoát. Vị sa-môn liền nắm
tay tôi, dẫn ra khỏi sảnh đường. Do vậy,
tôi liền sống lại.
Lư Thị nghe nói, càng thêm kính trọng tượng
ấy. Do vậy, trong cả một huyện, không ai chẳng
đều sanh ḷng tin tưởng, ngưỡng mộ.
4. Giúp cha sanh lên trời
Đời Đường, vợ của thứ
sử[17]
Phủ Châu là Tổ Thị quy kính Địa Tạng Đại
Sĩ, tín tâm chân thật, thiết tha, chỉ có cha mẹ ruột
của bà ta vẫn chưa sanh ḷng tin. Tổ Thị bèn v́
cha mẹ xuất tiền và lụa, tạo một bức
tượng Địa Tạng Bồ Tát kim sắc cao ba thước,
dốc hết ḷng thành, cung kính thờ phụng. Khi ấy,
cha bà do có chuyện phải đi xa, mẹ bà ở nhà một
ḿnh. Ban đêm, có kẻ ác tặc lén ḍm qua khe cửa, toan ăn
trộm quần áo, thấy Địa Tạng Bồ Tát ngồi
ngay ngắn, nên chẳng dám tiến vào. Hôm sau, gă giặc
thay đổi quần áo đến nhà ấy, thấy bà cụ
quần áo chỉnh tề ngồi đó, trọn chẳng
thấy thánh tượng, tâm trộm lấy làm lạ, bèn tự
thố lộ tội lỗi, ḥng biểu lộ ḷng hổ thẹn,
hối lỗi, kể lại điều đă thấy
trong đêm.
Về sau, cha bà ta sang Phủ Châu, giữa đường
gặp oán gia rút đao xông đến chém. Bỗng có một
sa-môn kim sắc dùng tay ngăn mũi đao, dùng đầu
nhận lấy mũi nhọn, bị hại ngă lăn ra đất.
Khi đó, kẻ oán tưởng là ḿnh đă giết hại,
bèn bỏ chạy. Cha bà ta tránh khỏi bị giết hại,
cảm thấy rất kỳ lạ! Đến nhà con gái, kể
đầy đủ chuyện trên đây, sanh ḷng hy hữu.
Cùng nhau đến chỗ thờ tượng lễ bái, thấy
trên đầu tượng có ba vết đao, màu vàng biến
đổi chút ít, dường như bị chảy máu. Tổ
Thị liền biết là Địa Tạng Bồ Tát đă
chịu đao thay, cứu cha ḿnh thoát nạn. Cha bà ta liền
sanh chánh tín, lại đón mẹ sang nhà, ba người ngày đêm
lễ cúng. Cha bà ta đến bảy mươi chín tuổi
mới mất.
Suốt ba mươi lăm ngày, Tổ Thị
mộng thấy cha ḿnh thân có quang minh, bay trên không trung tự
tại, phi hành tới lui. Bà ta sanh tâm hy hữu, vọng bái hỏi
cha sanh về đâu? Đáp: “Ta sanh lên tầng trời thứ
tư, cùng phụng sự đấng Bổ Xứ. Người
sanh về cơi trời ấy, đa số được Địa
Tạng Đại Sĩ dẫn dắt. Mười ba năm
sau, mẹ con hết tuổi thọ, sẽ sanh về đó.
C̣n chính con th́ hai mươi lăm năm sau mới sanh. Chồng
con th́ hai mươi tám năm sau mới sanh”. Nói xong ẩn
mất. Về sau, mẹ và vợ chồng Tổ Thị đều
đúng như lời cha nói. Từ đấy về sau, trong
cả một châu, người tạo tượng, vẽ tượng,
lễ bái, cúng dường rất đông, rất nhiều người
được cảm ứng.
5. Tụng kệ phá ngục
Đời Tống, Thích Tăng Tuấn, họ
ngoài đời là Vương, người ở kinh đô.
Sau khi xuất gia, chẳng tuân thủ giới luật,
chưa từng tu điều lành, mắc bệnh nhẹ, chết
đi. Ba ngày sau sống lại, khóc lóc sám hối. Tự nói
khi sắp chết, có hai viên quan từ cơi âm bắt tới
trước cửa một ṭa thành lớn. Bỗng có một
vị Tăng nói: “Ta là Địa Tạng Bồ Tát. Ngươi
ở kinh thành đă từng vẽ phỏng theo một bức
họa của ta. Dẫu chưa từng lễ bái, cúng
dường, bỏ ở sau chùa, ta vẫn báo đáp công đức
ngươi vẽ lại tượng”. Bèn dạy
một bài kệ rằng: “Nhược nhân dục liễu
tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng tác như thị
quán, tâm tạo chư Như Lai (nếu ai muốn biết rơ,
ba đời hết thảy Phật, hăy nên quán thế này: Tâm
tạo các Như Lai). Tụng bài kệ ấy, có thể đóng
cửa địa ngục, có thể mở đường
Tịnh Độ, có thể thông với sanh mạng đạt
được do quả báo”. Nói xong liền ẩn mất.
Tăng Tuấn bèn vào trong thành, gặp vua Diêm
Ma. Vua hỏi: “Ngươi gặp gỡ pháp trong đời
này, có công đức ǵ không?” Đáp: “Chỉ thọ tŕ một
bài kệ bốn câu”. Vua nói: “Nay ngươi tụng được
không?” Thưa: “Tôi nhớ nằm ḷng”, bèn tụng bài kệ
trên đây. Khi ấy, những chỗ tiếng tụng vang đến,
người chịu khổ đều được giải
thoát. Vua nói: “Thôi! Thôi! Chẳng cần nói nữa”, thả ông
ta về nhân gian. Do vậy, ông ta sống lại. Tra duyệt,
t́m ṭi th́ mới biết bài kệ ấy được nói
trong kinh Hoa Nghiêm khi vô lượng Bồ Tát vân tập trên
cung trời Dạ Ma, tức là bài kệ do Giác Lâm Bồ Tát
nói. Tăng Tuấn kể lại với các vị Tăng
trong chùa. Người nghe đều phát tâm, tin nhận kinh Hoa
Nghiêm.
6. Khuyến phát Bồ
Đề
Đời Tống, sư Thích Định Pháp
chùa Không Quán cùng với Tăng Tuấn chuyên dốc ḷng thành
quy mạng Địa Tạng Bồ Tát. Vào ngày trai mỗi
tháng, Sư vẽ mô phỏng tượng Địa Tạng,
nhất tâm lễ bái, cúng dường, cầu thỉnh Bồ
Tát ứng hiện. Tṛn ba năm, [một hôm] có một tiểu
sa-môn xin ngủ trọ nơi hành lang của chùa. Định
Pháp nghe chuyện, cung kính ra khỏi pḥng chào hỏi, nói chuyện
một đôi câu, bỗng chẳng thấy [tiểu sa-môn] đâu
nữa. Mọi người lấy làm lạ, hỏi Định
Pháp: “Sa-môn nói ǵ thế?” Đáp: “Sa-môn bảo: Diệu nguyện
đă măn, sao ư khí ngắn ngủi như thế?” Người
nghe đều nói: “Ông cầu thấy đức Địa
Tạng, nhưng chẳng niệm lẽ xuất yếu, cho
nên Bồ Tát hiện thân nói sao mà ư khí ngắn ngủi như
thế?” Định Pháp nói: ‘Đă được ứng
hiện, tôi sẽ phát Bồ Đề tâm, vui sướng
cầu đạo quả vô thượng”.
Sư nằm mộng, thấy Bồ Tát nói: “Vị
sa-môn đó chính là Địa Tạng Bồ Tát. Ngươi
cầu thấy ta hiện thân, nhưng chẳng phát Bồ
Đề tâm. V́ thế ta đến cảnh tỉnh ngươi.
Ngươi vẽ mô phỏng tượng ta khá nhiều, vĩnh
viễn chẳng đọa trong ba ác đạo. Xả thọ,
sẽ sanh lên Đâu Suất Thiên, lúc đức Từ Tôn (Di
Lặc) hạ sanh, ngươi sẽ được thọ
kư thành Phật. Ta tùy thuận ngươi như bóng theo h́nh,
như nước thuận theo h́nh dạng của đồ
đựng mà có h́nh dáng khác nhau”. Sư tỉnh giấc,
cảm kích, tuôn lệ như mưa, liền bỏ y, bát, tiền
riêng, tạo tượng Bồ Tát cao bằng thân người,
điêu khắc thân tượng đẹp đẽ, lại
c̣n thâu thập những tượng ḿnh đă vẽ mô phỏng
nhiều năm để lễ bái, cúng dường. Tượng
phóng quang minh, linh nghiệm rơ rệt.
7. Đuổi ma trừ
bệnh
Đời Đường, cư sĩ Lư Tín
Tư người xứ Lô Thủy. Nhà ông ta nam nữ ba mươi
mấy người đều bị ác quỷ quấy nhiễu,
lần lượt bị bệnh, hoặc hộc ra máu tươi,
hoặc đến nỗi chết ngất. Khi ấy, Tín Tư
lo lắng, sầu năo, hỏi Tăng cách giải cứu. Sa-môn
tư duy hồi lâu rồi bảo: “Xưa kia, thuở đức Như Lai tại
thế, dưới chân núi Tỳ Phú La (Vipula) nước Ma
Yết Đề (Magadha), trong nhà trưởng giả Kiều
Đề cũng bị ác quỷ gây phiền năo. Cả năm
trăm người trong nhà ấy đều chết ngất, mười ngày chẳng tỉnh. Khi ấy, Địa
Tạng Bồ Tát du hóa các nước, tới nhà trưởng
giả, sanh tâm đại bi, nói chú để cứu. Trong
chốc lát, hết thảy đều được trừ
sạch. Ông nên làm theo cách ấy, quy y Địa Tạng Đại
Sĩ, nhất tâm xưng danh”. Tín Tư hoan hỷ làm theo,
vẽ tượng Bồ Tát. Từ đấy, huyện Lô
Thủy suốt năm mươi năm thoát khỏi nỗi
sợ bệnh tật.
8. Vâng hành pháp, sống lại
Đời Đường, chùa Khai Thiện
ở Chung Sơn có tượng Địa Tạng Bồ
Tát cao ba thước, quang minh quanh thân to bốn thước
năm tấc, do đă nhiều năm, chẳng biết do
ai tạo. Về sau, Đô Đốc xứ Dương Châu
là Đặng Tông, lúc sáu mươi mốt tuổi, mắc
bệnh nhẹ, chết đi. Do nơi
tim vẫn c̣n ấm, nên [người nhà] chưa nhập liệm. Sau một
ngày đêm, ông sống lại, buồn khóc không nói ǵ, sai con
cháu d́u đến chùa Khai Thiện, thưa cùng tăng chúng: “Trong
chùa này có tượng Địa Tạng Bồ Tát cao khoảng
ba thước, thông quang[18] to bốn
thước năm tấc hay không? Tôi muốn lễ bái, cúng
dường”. Chư Tăng chẳng biết ở chỗ
nào, cứ theo lời mà t́m, rốt cuộc t́m được.
Đặng Tông lễ kính, lại muốn thỉnh tượng.
Tăng hỏi ông điều ông ấp ủ, ông đáp:
- Lúc tôi chết, thấy một vị quan tứ
phẩm bắt lôi đến trước vua. Vua nói: “Ngươi
không thể chết. Lại v́ ngươi lấy việc
phụng sự Phật pháp làm gia nghiệp, hăy nên sớm trở
về nhân gian, nhưng cơi âm đáng sợ, người ta chẳng
hay biết. Ngươi có muốn thấy địa ngục
hay không?” Đáp: “Tôi muốn thấy”. Vua liền sai một
viên quan mặc áo xanh dẫn đi xem. Tôi theo người ấy
ra khỏi thành, đi chừng năm sáu dặm về phía Đông
Bắc, có một ṭa thành lớn bằng sắt, cửa sắt
đóng kín. Dần dần, tôi thấy trong thành lửa dữ
sáng ḷa, ngọn lửa như thiêu đốt. Trăm ngàn tội
nhân chịu khổ trong ấy. Khi đó, có một vị sa-môn
vào trong ngục, chế ngự lửa dữ, giáo hóa tội
nhân, ngọn lửa bèn tạm tắt.
Tiến lên trước, lại thấy một
cái thành bằng sắt, mười tám địa ngục ở
trong đó. Tướng trạng chịu khổ chẳng thể
nói trọn. Lại thấy sa-môn răn dạy tội nhân
giống như trước. Tôi đến xem mỗi nơi
xong hết rồi mới trở về. Sa-môn từ địa
ngục trở ra, hỏi: “Ông có biết tôi là ai hay không?” Thưa: “Không biết”.
Sa-môn nói: “Tôi là Địa Tạng Bồ Tát ở chùa Khai
Thiện. Xưa kia có sa-môn Trí Tạng pháp sư. Đệ
tử của Sư là pháp sư Trí Măn, v́ muốn cứu chúng
sanh thọ khổ trong tam đồ, cho nên chạm khắc
tượng của tôi. Tôi thuận theo lời thỉnh của
Sư, mỗi ngày một thời, vào mười tám địa
ngục và vô lượng tiểu địa ngục, răn
dạy, chỉ bảo. Những kẻ do xưa kia đă gieo
thiện căn, thiện lực khá mạnh, hễ phát tâm
liền được thoát khổ. Kế đó, những
kẻ thiện lực yếu hơn, chỉ gieo cái nhân thoát
khổ. Kẻ đoạn thiện căn tà kiến đă
sâu, sẽ chẳng hay, chẳng biết, trọn chẳng có
tâm thoát khổ. Nếu ở trong nhân gian, kẻ thiện
căn mỏng manh c̣n dễ hóa độ. Nếu vừa vào
ác đạo, thánh lực chẳng thể cứu bạt, v́
họ trơ ra như gỗ, đá. Những kẻ chẳng
giác ngộ ấy, chờ cho đến khi thoát ra, do chủng
tử trước kia hơi mạnh hơn, sẽ có thể
phát tâm sám hối. Ông do sức vâng phụng pháp, thoát khỏi
nỗi khổ địa ngục, hăy sớm trở về
nhân gian, tuyên cáo với đại chúng”. Do vậy, tôi ngước
mắt chiêm ngưỡng sa-môn, [thấy Ngài] thân cao ba
thước, quang minh quanh thân bị hư nát. Sa-môn liền
trao cho hai bài kệ như sau:
Nhược tại nhân gian khả tu đạo,
Xiển Đề hữu tâm thượng khả
phát,
Nhược nhập ác đạo, nghiệp
dĩ thục,
Tâm vô phân biệt, bất khả cứu.
Như suy lăo nhân dục hành lộ,
Nhược động kỳ túc, phù dị
tấn,
Thảng ngọa bất động, lực
bất cập,
Chúng sanh định nghiệp diệc phục
nhiên.
(Nếu trong nhân gian dễ tu đạo,
Xiển Đề vẫn có thể phát tâm.
Nếu vào đường ác, nghiệp chín
muồi,
Tâm vô phân biệt chẳng thể cứu.
Như người già yếu muốn đi đường,
Nếu chân cử động, d́u đi được,
Nếu nằm bất động, chẳng
giúp nổi.
Chúng sanh định nghiệp cũng thế
đó).
Nói kệ xong liền ẩn mất. Tôi trong
khi mơ màng, nhớ kỹ chuyện ấy. Do chưa chứng
thực, nên không nói với ai khác. Nay thấy tượng này,
hoàn toàn giống như tôi đă thấy. Do nhân duyên ấy
cho nên muốn thỉnh”. Tăng nghe nói xong, hoan hỷ tán thán:
“Chỉ có thể vẽ phỏng theo, không thể thỉnh được!”
Ông bèn cậy thợ khéo tạc phỏng theo, để tượng
cũ tại đó.
9. Cả thành được
xá tội
Đời Đường, tại huyện
Kim Thủy thuộc Giản Châu, có quan thị lang[19] họ Đặng
chuyên tâm tin Phật. Một hôm ở trên đường, ông
thấy có một cây gậy bị găy, có khắc h́nh vị
Tăng nên đem về, dựng dựa vào vách, lễ kính rồi
bỏ đi, không nhớ tới nữa. Ba năm sau, bỗng
bị bệnh chết, ngực vẫn c̣n hơi ấm, người
nhà nghi ngờ, không tẩn liệm. Sau một ngày đêm, ông
sống lại, ứa nước mắt nói:
- Lúc mới chết, hai kẻ cưỡi ngựa
lôi tôi vào trong cửa một ṭa thành lớn. Tới trước
sảnh đường của nhà vua, thấy trong điện
có trăm ngàn vạn người bị gông cùm. Vua đang
giận dữ, toan quở trách tôi. Khi ấy, có một vị
sa-môn, h́nh dạng xấu xí, tới trước sảnh đường.
Vua cung kính đứng dậy, chắp tay, hồ quỳ, bạch
rằng: “Đại thánh! V́ sao Ngài bỗng tới đây?”
Sa-môn nói: “Thị lang là thí chủ của tôi, Ngài hăy nên đặc
xá”. Vua thưa: “Nghiệp đă quyết định, mạng
lẫn lộc đều hết, e rằng khó thể xá miễn
được”. Sa-môn: “Xưa kia, ở trong Thiện Pháp Đường
của Tam Thập Tam Thiên, ta được đức Phật
phó chúc, có thể cứu các hữu t́nh ác có định nghiệp,
chẳng phải là nay mới làm như vậy. Huống chi
thị lang chẳng phạm trọng tội, há chẳng thể
cứu ư?” Vua thưa: “Đại Sĩ đại nguyện,
kiên cố bất động, như núi kim cang. Con xin lập
tức tuân lời, thả ông ta về nhân gian”.
Sa-môn hoan hỷ, nắm tay thị lang, dẫn
vào đường sống. Lúc sắp từ biệt, thị
lang thưa hỏi: “Sa-môn cứu con, là đại ân nhân, xin
dạy cho biết pháp hiệu của người?” Sa-môn đáp
viết: “Ta là Địa Tạng Bồ Tát. Xưa kia, ông ở
nhân gian, bên đường thấy tượng của ta mà
chưa từng hay biết, cầm về, dựng bên vách tường.
Đấy là do trẻ nhỏ giỡn chơi khắc tượng
trên cây gậy, chỉ khắc đầu mặt, không có những
tướng khác, cho nên h́nh tướng xấu xí. Ông có thể
nhớ lại hay không?” Nói lời ấy xong, bỗng dưng
chẳng thấy đâu nữa!
Sau khi tỉnh lại, thị lang thấy tượng
nơi cây gậy dựng ở góc tường trong nhà. Gậy
đă găy ở giữa, ông bèn dùng gỗ đàn hương,
sửa đổi thành tượng cao năm tấc. Khi ấy,
tượng phóng quang minh, chiếu sáng ngời cả nhà. Thị
lang lại tạo tượng lớn, biến nhà thành chùa,
đặt tên là Địa Tạng Đài, thờ phụng
tượng nhỏ trong ấy. Mọi người xa gần
đến chiêm ngưỡng đông như hội!
10. Lơi gỗ chế ngự
hổ
Đời Đường, vị Tăng tên
Pháp Thượng chùa Huệ Nhật ở Hoa Châu xuất gia
lúc ba mươi bảy tuổi. Xưa kia, lúc c̣n tại gia, Sư từng
làm nghề săn bắn. Một hôm, thấy trong lùm cây ngoài
rừng hoang có tia sáng tỏa ra, tâm hết sức hiếu kỳ!
Buộc ngựa vào lục xem, chỉ thấy một khối
gỗ mục, chỉ dài hơn một thước, bèn cầm
về để trong nhà. Đi săn lần sau, vẫn thấy
chỗ ấy tỏa sáng. Tâm lấy làm lạ, bèn đem cái
lơi của khối gỗ mục đặt trên gốc cây rồi
quay về. Trên đường gặp hổ, ông ta thúc ngựa
đuổi theo. Dây cung đứt đoạn, chẳng thể
bắn, mănh hổ quay lại đuổi. Ông ta sợ hăi bỏ
chạy, ngựa lồng lên, khiến ông té khỏi ngựa,
tự nghĩ chắc sẽ bị hổ cắn, e rằng
khó thể thoát nạn, thất thần như đang nằm
mộng, thấy một vị sa-môn h́nh dạng xấu xí đến
đuổi hổ dữ. Ông hỏi: “Ngài là ai?” Đáp: “Ta là
Địa Tạng Bồ Tát. Khối gỗ mục trong rừng
hoang chính là thân ta. Cụ cố của ông đă lập chùa,
tạc tượng tại đó. Chùa đă hư nát, tượng
ta bị hư mục, chỉ c̣n cái lơi gỗ. Ông là cháu chắt
của cụ, thấy quang minh của ta, nên nay ta cứu ông”.
Hồi lâu sau, ông ta choàng tỉnh, thấy ngựa
đứng hư [gần đó]. Mănh hổ chẳng thấy
tung tích đâu nữa. Ông tự
hối trách sâu xa, bèn tạo dựng tinh xá tại
chỗ tỏa ánh sáng trước đó. Từ khối gỗ
mục dính bùn, ông tạc tượng Địa Tạng, tiếp
nối đèn pháp, [xay dựng chùa] tức Huệ Nhật
tinh xá. Lúc Pháp Thượng bảy mươi tám tuổi, vào
ngày Hai Mươi Bốn tháng Hai năm ấy, Sư bảo
các đồng bạn:
- Địa Tạng Bồ Tát đến nhà
tôi, từng nói: “Ông chính là người sẽ đắc đạo
trong hội thứ hai thuộc ba hội thuyết pháp của
Từ Thị Như Lai. Hôm nay xả thọ, liền sanh lên
Đao Lợi”. Tôi bạch cùng Đại Sĩ: “Cảnh giới
ngũ dục trên cơi trời vui sướng khôn sánh, mê mất
Bồ Đề. Muốn sau này lại gặp Phật, thời
gian vẫn lâu lắm, con chỉ nguyện sanh về Tây
Phương An Lạc thế giới”. Bồ Tát đáp: “Thuận
theo ư nguyện của ông. Nếu muốn văng sanh Tịnh
Độ, hăy nên niệm A Di Đà Phật một ngày một
đêm, chuyên tâm, dốc chí, liền được văng sanh”.
Tôi nghe theo lời dạy ấy, bắt đầu từ
ngày hôm qua, chuyên niệm A Di Đà Phật, nay văng sanh Tịnh
Độ”.
Nói xong, Sư chắp tay hướng về Tây,
qua đời.
11. Khắc tượng
truy tiến mẫu thân
Đời Đường, con gái út của viên
đô đốc họ Trần mất mẹ từ bé, ngày
đêm luyến mộ. Do chưa thể thấy, định
t́m cái chết. Đô đốc an ủi: “Cha cũng là người
thân của con. Mẹ con tuy mất, cha con hăy c̣n, v́ sao không màng
ăn uống, muốn tự t́m cái chết? Nếu con tưởng
nhớ người mẹ đă khuất, hăy nên tạo thánh
tượng Địa Tạng ḥng cầu nguyện cứu
khổ cho mẹ”. Cô ta liền bỏ ra năm trăm đồng,
thuê thợ kính cẩn khắc tượng cao ba thước.
Cô gái thưa với cha: “Con chỉ muốn đặt tượng
ở chỗ mẹ đă nằm trước kia. Nếu muốn
thấy mẹ, sẽ liền thấy tượng này”. Cha sanh
tâm xót thương, sai dẹp bỏ pḥng ngủ để đặt
tôn tượng ấy.
Cô gái ngày đêm lễ bái, cúng dường, cầu
cứu khổ cho mẹ. Một đêm, thấy một vị
sa-môn bảo: “Khi ta mang thân nữ, cha tên là Thi La Thiện Hiện,
mẹ tên là Duyệt Đế Lợi. V́ mẹ sau khi chết
phải chịu khổ trong địa ngục, do vậy,
ta phát Bồ Đề tâm, thề cứu bạt tội khổ
của chúng sanh. Ta cảm tấm ḷng hiếu thảo của
con, đích thân vào địa ngục, phóng quang thuyết
pháp, mẹ con đă được thoát khổ, sanh lên trời
Đao Lợi”. Cô gái họ Trần thấy sa-môn xiêm y cháy
lam nham, bèn hỏi nguyên cớ. Sa-môn đáp: “Khi xuống địa
ngục, lửa dữ táp cháy mà ra”. Cô gái họ Trần tỉnh
giấc, khôn ngăn buồn vui lẫn lộn! Người
nhà tụ lại, thấy xiêm y của tượng đổi
màu như bị cháy, đều than hy hữu! Người
nghe kể lại phần nhiều sao vẽ tượng ấy
để cứu khổ cho cha mẹ.
12. Ngạ quỷ sanh lên
trời
Đời Tống, con gái của thứ sử
Trương Kiện ở Dương Châu, sau khi mẹ mất,
đă được mẹ báo mộng: “V́ nuôi con mà mẹ đă
mặc t́nh tham dục, kiêu mạn quá đáng. Do vậy, cảm
báo làm ngạ quỷ, khổ chẳng thể chịu nổi!”
Con gái hỏi tướng trạng khổ sở. Mẹ đáp:
- Ngạ quỷ phần nhiều ăn thịt
con ḿnh, hễ sanh ra liền ăn. Ta làm con của quỷ, ngày
đêm sống chết. Trông thấy mẹ đẻ như
đại ác quỷ; nhưng trong một tháng của nhân
gian, có một ngày chẳng thể ăn ta. Đó là ngày Hai Mươi
Bốn trong tháng, sáng sớm có tăng nhân vào thành, thí thực
cho no đủ. Những ngày khác chẳng thể tránh khỏi
nỗi khổ này. Ngày hôm ấy, vị sa-môn xướng rẳng:
“Ta là Địa Tạng Bồ Tát, nay vào thành ngạ quỷ,
có thể thí đại an lạc. Các ngươi hăy nên phát Bồ
Đề tâm”. Tuy nghe lời ấy, do nghiệp báo trói
buộc, chẳng thể phát tâm. Chỉ có một ngày được
ăn no. Con muốn cứu khổ cho mẹ, hăy nên tạo
tượng Địa Tạng Bồ Tát.
Cô gái tỉnh giấc mộng, dùng hết tài
sản của mẹ để tạo tượng Địa
Tạng Bồ Tát cao bằng thân người. Cô lại mộng
thấy mẹ, thân tỏa quang minh, đứng trên hư
không, bảo: “Ta do sức công đức tu thiện của
con, mau chóng được sanh lên trời. Con hăy dụng tâm
cung kính lễ bái, cúng dường, mai sau sẽ cùng [hội ngộ] tại chỗ Từ Thị Bồ
Tát, lại c̣n cùng thấy Phật, nghe pháp”. Cô tỉnh giấc,
bi cảm! Người nghe kể chuyện đều đến
cúng, ai nấy đều được lợi ích!
13. Không lo lắng trong khi
đại dịch
Đời Đường, thứ sử Lộ
Châu là Khang Cư Thông, chánh tín, chân thành, phụng sự Địa
Tạng Bồ Tát đă nhiều năm. Lại c̣n phát tâm vẽ
tôn tượng Bồ Tát, chưa tô màu mà quang minh đă rạng
rỡ. Do vậy, tín tâm càng thêm chuyên dốc. Ông ngẫu nhiên
mộng thấy hai quan binh cưỡi ngựa truy đuổi.
Khi ấy, chẳng thể trốn được, bèn đứng
run sợ. Quan binh xuống ngựa, nói: “Chúng tôi lầm rồi!
Vua của chúng tôi là đàn việt của đức Địa
Tạng, dẫu người phạm lỗi nặng, cũng
không vây hăm!” Nói xong biến mất. Ông tỉnh mộng, thờ
phụng càng thêm chuyên ṛng, kiền thành.
Năm Quảng Minh nguyên niên (880) đời Đường
Hy Tông (Lư Huyên), trong nước bị bệnh dịch, yêu
quái hoành hành, người chết thây chất như núi. Cư
Thông mộng thấy lũ quỷ màu xanh cả trăm ngàn
con đi qua cửa, nói: “Nhà này là thất của Địa
Tạng Bồ Tát. Chúng ta là thuộc hạ hăy cẩn thận, đừng bước vào cửa”.
Ông tỉnh giấc hoan hỷ, cả nhà thoát nạn.
Trong niên hiệu Trung Ḥa[20], ông đi
xa, lạc đường trong tuyết. Do vậy bèn niệm
Địa Tạng Bồ Tát, đột nhiên thấy một
con két nhảy nhót trên tuyết. Ông lấy làm lạ, đi theo
nó, liền t́m được đúng đường. Tới
niên hiệu Quang Khải, ông bị bệnh nhẹ, chí thành
cầu lành bệnh. Trong mộng, cảm một vị Tăng
bảo: “Ông giết một con thanh tước[21], đáng đọa
địa ngục, nay để cho ông đền trả nghiệp
ấy, chịu đôi chút đau khổ. Chờ đến
sau ngày mai, mới được sanh vào Tịnh Độ”.
Ông nghe xong liền tỉnh giấc, hoan hỷ lễ bái, bệnh
đă khỏi hẳn. Quả nhiên hai hôm sau, ông chánh niệm
qua đời.
14. Tŕ danh giải ách
Đời Đường, quan biệt giá[22] Kiện Khát
tín tâm thanh tịnh, dốc ḷng tin phụng Phật pháp. Một
hôm, ông hỏi Tăng: “Tại gia cư sĩ nên thờ phụng
vị Phật, Bồ Tát nào?” Chư Tăng mỗi vị nói
mỗi khác. Có vị nói: “Nên thờ đức Địa Tạng
v́ Ngài đă vâng nhận sắc lệnh của Phật”. Kiện
Khát tự nghĩ: “Đă nhận sắc lệnh của đức
Phật, há bỏ chúng ta ư?” Liền t́m gỗ chiên đàn,
tạo tượng cao ba tấc, nhét trong búi tóc, đi, đứng,
nằm, ngồi, xưng niệm danh hiệu.
Trong niên hiệu Thiên Thành đời Đường
Trang Tông, thiên hạ chiến tranh, loạn lạc. Kiện
Khát bị vây, trong khoảnh khắc sẽ nhận lấy
cái chết, liền niệm Địa Tạng. Gă đại
tướng đang suất lănh kỵ binh bỗng kinh hoảng
tháo chạy. Sau khi dẹp yên loạn lạc, ông kể lại
nhân duyên này, người nghe đều than lạ. Trong niên
hiệu Trường Hưng, khi ông đến nhiệm sở,
kẻ oán nghe tin, toan hăm hại, nấp chờ sẵn bên đường.
Hắn chỉ thấy một vị sa-môn đi qua, trọn
chẳng thấy Kiện Khát. Về sau, nghe ông đă đi
qua, bèn hối lỗi, tạ từ, cởi bỏ oán thù. Lại
có lần trên đường đi, đêm ông ngủ trọ,
trời đổ mưa thật to, đèn lửa đều
tắt ngúm. Thánh tượng trong búi tóc tỏa sáng như
ban ngày. Bỗng có âm thanh khe khẽ như tiếng trẻ
nhỏ bảo: “Hăy sớm rời đi, sớm rời đi!”
Ông kinh dị, noi theo ánh sáng dẫn đường, đến
nghỉ đêm ở chỗ khác. Hôm sau, trận lũ dâng trào,
chỗ ông nghỉ trọ trước đó ch́m sâu dưới
nước, tự biết là Địa Tạng Bồ Tát
cứu vớt, che chở. Năm Thanh Thái thứ hai (935), ông
tṛn bảy mươi tám tuổi mới mất. Khi lâm
chung, tượng trong búi tóc phóng quang, ông chắp tay niệm
Phật, an nhiên qua đời. Quang minh chiếu thẳng lên
trời.
15. Hồn dạo địa
ngục
Đời Tống, đô đốc Trường
An Thôi Lư Hệ là em trai của thượng thư Thôi Long.
Năm Khai Bảo thứ hai (969), ông ta chết hai ngày rồi
sống lại. Tự thuật lúc mới chết, có hai người
xách nách đưa đi. Lại thấy có quỷ tốt h́nh
ngựa trắng đuổi chạy chẳng biết mấy
dặm, đến một ṭa thành lớn ở phía Đông
Bắc. Ông thấy có mười mấy căn nhà ngói. Các
quan đều đội măo màu đen, đứng hai bên nhà
ngói. Có nha lại ba mươi mấy người, đều
nói: “Ta là [thuộc hạ của] phủ quân”. Lư Hệ đến
trước phủ quân, phủ quân hỏi: “Ngươi phụng
sự ǵ?” Lư Hệ đáp: “Tôi phụng sự Địa Tạng
Bồ Tát, cúng dường các sa-môn”. Phủ quân lại nói: “Ông
đă thờ phụng đức đại thánh, đấy
là phước trời”. Mọi người hỏi các nha lại
chức nhỏ: “Người này mạng đă hết hay chưa?”
Phủ quân liền lấy một quyển sách
tự đọc rồi bảo: “Khanh mạng chưa tận,
nhờ Địa Tạng Bồ Tát cứu vớt, che chở”.
Lại gọi các viên nha lại cấp thấp, quát: “Bọn
bay cớ ǵ đoạt mạng người của Phật
gia?” Liền quở trách ngục tốt có h́nh dạng ngựa
trắng, trói vào cột, xử phạt. Một hôm, lại
hỏi: “Khanh có muốn về hay chưa?’ Đáp: “Dạ muốn”.
Lại hỏi: “Có muốn thấy địa phủ hay chăng?”
Thưa: “Muốn thấy”. Phủ quân truyền cho ông một
thớt ngựa, và sai hai nha lại dẫn đi. Từ phía
Đông Bắc đi ra, khoảng năm sáu dặm, thấy
một ṭa thành lớn bằng sắt, vuông vức mấy
chục dặm. Có một cái nhà sắt, chứa đầy
nước sắt lỏng sôi, bốc lửa hừng hực.
Kế đó, đến một căn nhà lợp ngói, dùng sắt
làm cánh cửa. Mở ra xem, thấy ông nội, cụ cố
v.v… đều ở trong ấy, đều bị gông, cùm,
xiềng xích trói buộc. Lửa dữ vờn quanh, thiêu đốt,
thân thể cháy nứt nẻ. Họ trông thấy Lư Hệ bèn
ứa nước mắt bảo: “Con hăy nên cứu giúp”. Lư
Hệ thưa: “Hăy nên niệm Địa Tạng Bồ Tát”.
Đi tiếp, thấy trong một cái thành,
có giường, ṭa bằng sắt nóng. Những vị sa-môn
ông được thấy khi trước ngồi đó, thân
thể như than, lửa dữ chiếu sáng rực. Ông hỏi:
“Thầy tu phạm hạnh, nay sao lại như thế này?”
Sa-môn đáp: “Bọn ta v́ tiếng tăm, lợi dưỡng
mà tu phạm hạnh, do nội tâm và ngoại hạnh chẳng
tương ứng, những thứ ngọa cụ, giường,
ṭa v.v… đă nhận xưa kia, nay biến thành các thứ khí
cụ hành h́nh to lớn. Y phục, thức ăn v.v… biến
thành áo sắt, nước đồng sôi. Thí chủ hăy cứu
chúng tôi”. Ông đáp: “Thầy hăy nên niệm Địa Tạng
Bồ Tát”. Ông thấy mấy chục địa ngục, mỗi
ngục đều có tội nhân bị hành hạ đầy
ắp trong đó, đều là những người ông đă
từng gặp gỡ trong cơi đời. Lại tới ngục
cát đỏ, có cây đầy gươm, cột đồng
trăm ngàn thứ, tội nhân ở trên đó. Họ trông
thấy Lư Hệ đều chảy nước mắt, bảo:
“Ông hăy cứu chúng tôi”. Đáp: “Hăy nên thường niệm Địa
Tạng Bồ Tát”. Bảy ngục cát vàng, cát trắng, cát
cháy v.v… như thế đều giống như đă thấy.
Ông bèn trở về.
Lại thấy một căn nhà màu lục long
lanh, hai bên đường có cây báu, các thứ trái xen kẽ.
Viên nha lại nói: “Phụng sự Địa Tạng Bồ
Tát, lại c̣n vẽ tượng, phần nhiều sanh vào Tịnh
Độ, hoặc sanh lên trời Đâu Suất, ai nấy
đều thỏa sở nguyện. Kẻ chẳng tin tưởng
vẽ tượng, nhưng phụng sự th́ phần nhiều
trụ nơi đây”. Do vậy, ông tiến vào, thấy trong
ṭa thành lớn, có điện báu lớn. Trăm ngàn vạn
ức nam nữ vui đùa trong đó. Lại thấy cha mẹ,
lục thân v.v… hoan hỷ chào hỏi. Những người nam,
kẻ nữ nói: “Trước kia, chúng tôi ở trong địa
ngục, nhờ ông dạy niệm Địa Tạng Bồ
Tát, thoát khổ, sanh vào nơi đây!” Ông hỏi: “Chỗ này
là nơi nào?” Đáp: “Nơi đây gọi là phước xá,
thọ mạng lâu dài, xa ĺa các thứ khổ. Tuy sanh nơi
đây, ắt gặp ba hội của Phật Di Lặc, dứt
các nỗi khổ”. Lư Hệ hỏi cơi nào? Họ nói: “Xưa
kia, lúc Địa Tạng Bồ Tát tại thế, vâng nhận
lời phó chúc của đức Như Lai, bạch với đức
Phật: ‘Nhất định chẳng để cho bốn
chúng đệ tử đọa vào ác đạo’. Trong năm
mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm trước
khi Phật Di Lặc xuất thế, nếu có chúng sanh nguyện
sanh về Tịnh Độ và Đệ Tứ Thiên, kẻ
ít phước đều đến phước xá này, chẳng
trở lại đường ác, cho đến khi thành Phật
mới thôi”. Ông trở về chỗ phủ quân, vua liền
sai hai người đưa ông hồi dương.
16. Tăng thọ, thỏa
nguyện
Đời Hán, thứ sử Ích Châu là Quách Từ
An không tin Tam Bảo, đặc biệt coi trọng Lăo Tử.
Giữa tháng Năm nhuận của năm Càn Hựu thứ
ba (950)[23],
ông nhiễm bệnh, chữa trị đủ cách chẳng
lành. Vợ ông thờ Phật, t́m hôm ông vui vẻ, nói: “Có thể
phát nguyện tạo tượng Địa Tạng Bồ
Tát trong một ngày hay không?” Tâm Từ An vẫn không tin, nói: “Cần
phải phát nguyện ư? Nếu có cảm thông, tôi sẽ
tin ngay”. Một hôm, ông bỗng chết ngất. Bà vợ gào
khóc, cầu trời. Sau ba thời (sáu tiếng đồng hồ),
Từ An tỉnh lại, gieo ḿnh xuống đất, đ̣i
dao bén, toan cắt lưỡi. Người trông thấy đều
tưởng ông là cuồng loạn. Bà vợ an ủi, ông mới
yên tĩnh, bảo: “Bà là đại thiện tri thức, có thể
kéo dài mạng sống của tôi, có thể trừ khổ địa
ngục, có thể trao cho niềm vui cơi trời, có thể dạy
đạo giải thoát”. Vợ nói: “Xin ông hăy nói đầu
đuôi”. Từ An bật khóc, bảo:
- Tôi gặp bảy, tám sứ giả của
Diêm Vương, mỗi người đều xưng là thần
tư lộc (cai quản tài lộc), đều cưỡi
ngựa xanh, ruổi vó như gió, đuổi tôi về hướng
Đông Bắc, tới cửa một ṭa thành lớn. Trong
thành, có trăm ngàn vạn người, đứng hầu
hai bên. Quan tư lộc xuống ngựa, thưa hỏi vị
vua. Vua nổi cáu, mắng: “Sao lại bắt người
chưa hoàn tất thiện nguyện?” Vua sai dùng gậy sắt
xử phạt, quan tư lộc gào to, thân thể quần áo
đẫm máu. Vua ra cửa, bảo Từ
An: “Ông nhờ ơn vợ, phát nguyện tạo tượng
Đại Sĩ, ta v́ chúng sanh đền trả tội nghiệp mà hiện thân
Diêm Vương, thật ra là pháp vương. Nếu có chúng
sanh quy y đức Địa Tạng, sẽ thỏa măn điều
mong cầu. Ông hăy sớm trở lại nhân gian để
hoàn tất nguyện ấy”. Vua liền sai người
đưa về. Nay được tỉnh ngộ. Tâm ta
chẳng tin, hủy báng đại thánh, muốn cắt lưỡi
để sám hối.
Vợ bảo: “Cắt lưỡi chẳng
phải là sám hối. Nếu do đất mà ngă, vẫn phải
do đất đứng lên. Ông hăy nên quy y Địa Tạng
Bồ Tát, sám hối”. Ông liền làm theo lời vợ. Tạo
tượng trong một ngày, hết sức hối hận
lỗi trước. Mỗi ngày trai đều lễ bái cúng
dường, siêng năng khuyên người sang, kẻ hèn phụng
sự Địa Tạng Bồ Tát.
17. Tạo tượng
diệt nghiệp
Đời Hậu Châu[24], thượng
thư Bá Duyệt rất tin Tam Bảo. Vợ ông do sanh nở
mà chết, ông bèn tu phước hồi hướng, tạo
tượng Địa Tạng Bồ Tát cao bằng thân người,
lập hội trai tăng, dốc cạn ḷng thành lễ bái,
cúng dường. Ông mộng thấy vợ mặc xiêm y mới
sạch, bảo Bá Duyệt:
- Tôi trước kia là vợ người ta,
chẳng sanh con. Chồng thường than thở không con. Tôi
liền bảo chồng cưới thiếp. Không lâu sau, cô
ta có thai. Chồng yêu kính vợ mới, tôi sanh dạ khác, làm
ra vẻ thân thiết, dùng thức ăn ngon trộn lẫn
thuốc độc giết mẹ con họ. Do v́ lẽ ấy,
đọa vào ngục Vô Gián sáu kiếp. Lại sanh trong nhân
gian, v́ sanh nở mà chết đă năm mươi bảy
lần rồi! Đời đời thường làm vợ
ông, chịu nỗi khổ to lớn ấy. Nay ông v́ tôi tạo
thánh tượng để giúp phước, nghiệp ấy
đă diệt, sanh lên trời Đao Lợi, oai quang hơn
hẳn trước kia. Sau khi sanh làm kẻ phối ngẫu
của một vị trời, sẽ vĩnh viễn chẳng
mang thân nữ. Nơi Thiện Pháp Đường của cơi
trời ấy, cứ vào ngày Hai Mươi Bốn mỗi
tháng, vô lượng vô biên hóa thân của Địa Tạng
Bồ Tát trong một tam thiên đại thiên thế giới
nhóm họp nơi đó, đầy khắp dưới cội
Vô Ưu, thuyết pháp lợi sanh. [Các hóa thân ấy] đều
có h́nh dáng một vị Tăng kim sắc. Có một lúc, Ngài
v́ tôi thuyết pháp bảo: “Vợ chồng các ngươi
tạo tượng, đúng pháp tu hành, được thoát đường
khổ”. Do ở trên trời, cho nên sanh thiện tâm, chẳng
khởi tà tâm.
Bá Duyệt tỉnh giấc, vui buồn lẫn
lộn!
18. Được thấy
mẹ đă mất
Vào thời Ngũ Đại, cô gái họ Đặng
ở Vi Châu mất mẹ từ bé, được bác nuôi nấng.
Ngày đêm nhớ mẹ, cầu hỏi sa-môn: “Làm thế nào
để lại thấy mặt mẹ?” Sa-môn bảo: “Địa
Tạng Bồ Tát bổn nguyện đại bi. Cô nhất
tâm xưng niệm, sẽ lại được thấy”. Cô
ta bèn ngày đêm xưng danh. Về sau, thưa với sa-môn: “Con
nhờ ơn thầy, lại được thấy từ
nhan. Kính cẩn dâng cúng một bộ xiêm y”. Sa-môn gạn hỏi
cặn kẽ đầu đuôi, cô kể: “Con mộng thấy
theo sau một vị sa-môn, bay lên trời. Thấy ṭa điện
báu ma-ni bốn mươi chín tầng, chư thiên đầy
dẫy trong ấy. Mẹ đang ở trong số những
người bên ngoài. Con đến nơi, lễ bái, thưa
hỏi. Mẹ nói: ‘Con niệm Địa Tạng Bồ Tát,
đưa mẹ đến nơi này lại được
gặp con’. Cảm ứng như thế, dám quên ơn thầy
ư?”
19. Con cháu được
gia hộ tốt lành
Vào thời Ngũ Đại, ở Kinh Châu có
một người sống bằng nghề săn chim nhạn
nổi tiếng khắp cơi đời, được gọi
là Nhạn Hùng. Lúc năm mươi mốt tuổi, mắc
chướng khí chết đi, vợ ông ta đem bỏ xác
nơi g̣ mả để nuôi cọp, sói. Ba ngày sau, ông ta sống
lại, trở về nhà cũ. Vợ con kinh sợ, cho là đă
biến thành cuồng quỷ. Nhạn Hùng kể cặn kẽ:
- Khi ta chết, xe bốc lửa đến đón,
bị lửa dữ thiêu đốt. Có một vị sa-môn dùng
nước xối lên. Lửa tắt, thân được mát
mẻ, sanh ư niệm hy hữu! Kế đó, tới chỗ
vua. Lợn, dê, gà, trĩ, ngàn vạn cầm thú tiến đến
tâu với vua: “Hắn đoạt mạng con, xin trị tội
Nhạn Hùng”. Đại vương trả lời: “Các ngươi
đă tố cáo, Nhạn Hùng ắt là kẻ ác. Chỉ có điều
tổ tiên của hắn quy y đức Địa Tạng,
con cháu của họ được thoát khỏi nỗi khổ
nung đốt”. Nhạn Hùng thấy t́nh h́nh đó, bèn nhất
tâm xưng danh Địa Tạng Bồ Tát. Chim, thú trong điện
đều biến thành h́nh người. Vua liền thả
ta. Do vậy, sống lại.
Ông ta bèn bỏ nhà, phát tâm, xưng là Phật
Nô (đầy tớ của Phật), du hành trong nhân gian,
khuyên mọi người quy y Địa Tạng Bồ Tát.
20. Chuyển yểu thành
thọ
Đời Tống, sư Thích Huệ Ôn chùa
Khai Bảo có nuôi một bé trai chẳng rơ tên họ, mới
vừa mười bốn tuổi. Thầy tướng Kiện
Chân bảo nó sẽ đoản thọ, sống hơn một
tháng nữa, ắt sẽ chẳng nuôi nổi. Sư nghe lời
ấy, cho nó về nhà. Khi ấy, trời mưa to, đi lại
chẳng thông thuận. Nó ngủ nhờ nhà một thợ vẽ,
thấy tượng Địa Tạng Bồ Tát, bèn dùng móng
tay, bắt chước ông ta vẽ vời, vẽ ở trên
vách. Khi trời tạnh bèn về nhà. Hơn một tháng sau,
trở lại chùa Khai Bảo. Huệ Ôn hoan hỷ, bảo
Kiện Chân nói nhảm. Liền gọi Kiện Chân đến
gặp đứa bé. Ông ta kinh ngạc bảo: “Tuổi thọ
tăng lên năm mươi năm. Chuyện này hiếm có,
chẳng biết do đâu”. Đứa bé tự nói: “Con dùng
móng tay vẽ h́nh tượng Địa Tạng. Đêm hôm
ấy, có vị tăng bảo con trong giấc ngủ: ‘Ngươi
năm mươi, năm mươi’. Đôi ba lượt
như thế rồi chẳng thấy nữa”. Huệ Ôn và
thầy tướng số đều than chưa từng
có! Về sau, đứa bé xuất gia, thọ Cụ Túc Giới,
hiệu là pháp sư Huệ Tạng.
21. Phóng quang quét sạch
bệnh dịch
Đời Tống, ở vùng quê của Liêu
Thành có khoảng hơn hai ngàn nhà, đều tín phụng Phật
pháp và tin tưởng Quán Âm, Địa Tạng. Họ coi trọng
kinh Quán Âm, kinh Địa Tạng, và kinh Thập Luân. Có một
ngôi chùa cổ, ba gian bốn chái, lợp ngói xanh, vách lá. Hai bên
là tượng Quán Âm và Địa Tạng, cao bảy thước
năm tấc. Chính giữa thờ tượng A Di Đà Phật,
cao một trượng sáu thước, thường có điềm
lành. Trong niên hiệu Thái B́nh Hưng Quốc đời Tống
Thái Tông, bệnh dịch tràn lan, người chết yểu
rất nhiều. Vị thành chủ cầu đảo nơi
tượng Địa Tạng Bồ Tát. Tượng phóng
quang chiếu vào làng, mọi người đều được
b́nh phục, người đă chết sống lại.
Có một bà đồng chẳng tin Phật pháp,
đă mắc bệnh chết qua một ngày mới sống
lại, đến tinh xá, lễ đức Địa Tạng,
khóc lóc, cầu xin xuất gia. Mọi người hỏi nguyên
do. Bà đồng thưa:
- Tôi bị quỷ trói, tuy gọi thần cứu,
thần thấy ác quỷ được sa-môn cảm hóa bèn
bỏ tôi mà đi. Có vị sa-môn bảo: “Ngươi là nữ
nhân ngu si, uổng công nương cậy thần đạo,
chẳng tin Phật pháp. Ta là Địa Tạng Bồ Tát trong
ngôi đại tự, do thành chủ thỉnh cầu, bèn cứu
nữ nhân ngu si ngươi. Ta trao cho ngươi sanh mạng
để kiến tạo chùa trong làng quê ḥng trực tiếp
bảo vệ họ”. Tôi dứt tâm ác, trọn chẳng điều
khiển quỷ nữa. V́ sao vậy? Quỷ là tự nghiệp,
chẳng phải do ai khác làm ra.
Bà đồng thuật lời vị sa-môn nói
xong, bèn tự nói: “Nay tôi thấy nghe chuyện này, lại được
sống sót, cải tà quy chánh, cho nên xin xuất gia”. Người
nghe nói đều tùy hỷ, chấp thuận cho bà ta làm ni.
22. Cầu thỉnh mọc
răng
Đời Tống, nơi góc Đông Bắc
chùa Thiên Phước có thánh tượng Địa Tạng
cao một thước sáu tấc, chẳng biết do ai tạo
vào thời đại nào, chỉ tương truyền hết
sức linh dị. Hễ t́m đến xin ngủ lại để
lễ sám, ắt sẽ được cảm thông. Khi ấy,
có một vị cư sĩ, lúc ba mươi bảy tuổi,
không c̣n một cái răng nào. Ông ta t́m đến trước
tượng, nhịn ăn, cầu thỉnh. Nửa đêm
cảm mộng, thấy tượng đến xoa đầu,
khắp thân nhẹ nhàng, an vui. Tỉnh giấc, đă mọc
ba mươi tám cái răng. Người thấy nghe linh dị,
vẽ phỏng theo tượng để lễ bái, đều
được cảm thông, trong cơi đời có nhiều người
biết, chẳng thể ghi trọn.
23. Văng sanh Tịnh Độ
Đời Tống, ni sư Trí Tạng ở
Thái Nguyên đặc biệt phụng sự Địa Tạng
Bồ Tát, thích cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ.
Bà bỏ ra hai trăm đồng, vẽ tượng A Di
Đà Phật, hai bên vẽ hai vị Địa Tạng và
Quán Âm, đặt ở trong pḥng xá, tín tâm lễ bái, cúng
dường, Năm Canh Th́n (980) trong niên hiệu Thái B́nh Hưng
Quốc, gió lốc thổi hư nhà, ni xá cũng bị hư.
Hôm sau, t́m tượng chẳng biết mất chỗ nào, ḷng
sanh ưu năo! Bà cầu khẩn, niệm Địa Tạng
Bồ Tát, chiêm ngưỡng hư không, thấy xa xa có một
vật bay lơ lửng trên không, tỏa mấy luồng quang
minh như ánh chớp. Lúc sau rơi xuống, chính là tượng
bà mong cầu, vui mừng quá đỗi! Vẫn đặt
trong pḥng, ngày Hai Mươi Ba tháng Hai năm [Thái B́nh Hưng
Quốc] thứ bảy (982), bà bảo bạn bè: “Địa
Tạng Bồ Tát hướng dẫn tôi về Tịnh
Độ, ngày mai chắc chắn văng sanh”. Bà thắp hương,
rải hoa, xướng danh hiệu Tam Bảo, mỗi danh
hiệu một trăm lẻ tám lượt, ngồi ngay ngắn
hướng về Tây, chắp tay, qua đời.
24. Con ngoan được
của báu
Đời Tống, tại huyện Hải
Lăng, mấy đứa trẻ chơi đùa bên bờ
biển, giỡn hớt vẽ tượng Địa Tạng
Bồ Tát trên cát. Bỗng chốc nghe tiếng sấm, đứa
nào đứa nấy kinh hăi bỏ chạy tán loạn. Khi ấy,
có một vị sa-môn tiến đến cứu giúp: Đứa
yếu đuối bèn nâng đỡ, đứa ngă bèn đỡ
dậy, dỗ dành đứa khóc lóc. Đứa con của ông
thợ vẽ X… kinh hăi chạy quàng xuống biển, Sư
cơng nó lên bờ, cho ăn uống, lại trao cho một viên
ngọc, h́nh dạng giống như thủy tinh, to bằng
hạt sen. Cha nó đem con về nhà, bèn tạo thánh tượng.
Đứa con sau khi lớn lên rốt cuộc phú quư.
25. Đại Sĩ hóa
thân
Đời Tống, sa-môn Trí Hựu là người
ở Tây Ấn Độ, sang Trung Hoa trong niên hiệu Thiên
Phước, trụ tại chùa Thanh Thái. Trong kinh tượng
Sư mang theo, có tượng Địa Tạng Bồ Tát,
và bản tiếng Phạn kinh Bổn Nguyện Công Đức.
Trong bức tượng ấy, trong ṿng tṛn chính giữa, vẽ
tượng Bồ Tát, hai bên có mười thánh tượng
đội măo, cầm vật báu. Bên trái là năm vị: Một
là Tần Quảng Vương, hai là Sở Giang Vương,
ba là Tống Đế Vương, bốn là Ngũ Quan Vương,
năm là Diêm La Vương. Bên phải có năm vị: Một
là Biện Thành Vương, hai là Thái Sơn Vương, ba là
B́nh Đẳng Vương, bốn là Đô Thị Vương,
năm là Ngũ Đạo Chuyển Luân Vương. Mỗi
vị đều có các [thuộc hạ] như tư mạng,
tư lộc, phủ quân, điển quan v.v… Sư tự nói
duyên khởi như sau:
- Xưa kia, ở Tây Ấn Độ, có một
Bồ Tát từ bi cứu thế, phát đại thệ
nguyện, v́ cứu chúng sanh đang chịu khổ trong tam đồ,
cho nên vẽ tượng Địa Tạng, hướng về
mười vương thành, truyền dạy: “Nay ta phát nguyện
cứu khổ tam đồ, xin hăy tạo lợi ích”. Mười
vị vua đều chắp tay, kính cẩn đáp ứng, bạch
với tượng vẽ rằng: “Hết thảy chúng
sanh đều mong được đại thánh dạy bảo.
Chúng con kính cẩn làm bạn lữ phụ trợ”. Khi ấy,
tôn tượng mỉm cười bảo: “Lành thay! Tội
nghiệp của chúng sanh không lâu sẽ được nhẹ
bớt”. Liền phóng đại quang minh, chiếu thấu
tam đồ khổ năo. Các chúng sanh được chiếu
đều ngưng dứt các khổ. Đấy chính là vị
Bồ Tát tại Ấn Độ nhập Lợi Ích Chúng
Sanh tam-muội, cầu thỉnh các đại vương
ban cho đại lợi. Vị Bồ Tát ấy tự vẽ
lại những ǵ đă thấy, nên vẽ thêm mười
vị vua bên cạnh tôn tượng Địa Tạng.
Ngài Trí Hựu lại nói:
- Ta ở Lưu Sa, gặp phải quỷ yêu
mị, bèn cầu khẩn, niệm Bồ Tát, do vậy, được
Bồ Tát cầm tích trượng xua đuổi chúng. Lại
trong đêm khi mưa to trút xuống, khổ v́ không có đèn
lửa, chẳng biết thứ ǵ, mănh thú gầm rống,
người lẫn ngựa đều lạc đường.
Tượng này phóng quang soi sáng như ban ngày, mănh thú bèn tan
chạy, đường lối lại thông suốt. Lại
gặp sông lớn, sóng cả cuộn trào, chẳng biết
sâu cỡ nào. Nước ấy rất yếu, chẳng đỡ
nổi chiếc lá, huống chi thuyền bè? Ta cầu nguyện
thánh tượng, liền thấy một vị sa-môn và hai đồng
tử, một đồng tử cầm phan, một đồng
tử chèo thuyền. Sa-môn tay cầm quyển kinh tiếng
Phạn, liền đưa bọn ta vượt sông. Đă
đến bờ Đông, lúc sắp từ biệt, Ngài tặng
ta cuốn kinh tiếng Phạn, bảo Tăng tục trong
cơi này có thể sao chép lại. Do vậy, mọi người
tranh nhau sao chép, cảm được nhiều điều
linh dị.
Ba năm sau, chẳng biết ngài Trí Hựu
và tượng ở đâu, mọi người đều
ngờ Ngài quay về Ấn Độ. Chắc sa-môn Trí Hựu
chính là hóa thân của đức Địa Tạng.
26. Người đánh
cá được hóa độ
Người đánh cá ở Minh Châu, chẳng
biết tên họ là ǵ, xuống biển bắt cá. Trong lưới,
bắt được một tượng giống như một
vị tỳ-kheo, chẳng biết nguyên do, bèn bỏ bên bờ.
Đêm đến, mộng thấy một vị Tăng, thân
có quang minh, bảo người đánh cá: “Sao ngươi bỏ
ta?” Người đánh cá nói: “Thầy là ai vậy?” Đáp:
“Ta là Địa Tạng Bồ Tát ở trong biển đă
lâu, cứu tế thủy tộc, nửa số ấy được
sanh lên trời. Nay luyến mộ các ngươi bèn xả
thân trong lưới”. Người ấy tỉnh giấc, hối
lỗi, kiến tạo một tinh xá, an trí tượng ấy.
Ngư dân chỗ ấy đến nay vẫn sùng phụng,
lợi lạc chẳng có cùng cực!
27. Chí hiếu được
tăng thọ
Trần Kiện ở Đài Châu một mực
đoan chánh, chí hiếu vượt hẳn kẻ khác. Ông dựng
nhà nuôi dưỡng song thân, phát tâm v́ cha mẹ tạo hai bức
tượng Địa Tạng và Quán Âm, mỗi tượng
cao ba thước. Năm Càn Đức thứ tư (966), ông
mắc bệnh nhẹ, bỗng chết ngất đi. Cha mẹ
khóc lóc. Bốn tiếng sau, ông tỉnh lại, lễ bái cha
mẹ, bạch rằng:
- Con chết bỏ lại cha mẹ, chưa
trọn ḷng hiếu thảo. Bỗng đến trước
điện Diêm Vương, thấy hai bức tượng
do con đă lập, đứng sẵn trong điện. Vua
hướng về đó xá bái. Thấy con đến, vua bèn
dắt tay, hai vị Bồ Tát đến đỡ bên hông
con dẫn lên sảnh đường. Tượng phát tiếng
ḥa nhă: “Đàn việt chưa thỏa ḷng hiếu, xin đại
vương thả về nhân gian”. Vua bạch cùng tượng:
“Mạng nghiệp của ông này đă tận, cha mẹ ông
ta mạng dài”. Tượng nói: “Thọ mạng vô định,
tùy duyên mà sửa đổi, chuyển biến. Đàn việt
tu phước nghiệp, lẽ đâu chẳng trở về?”
Vua kiểm trong một quyển sách rồi thưa: “Nếu
ai chí hiếu, tạo tượng hay vẽ tượng, thọ
mạng dài lâu. Có thể tăng thêm tuổi thọ cho ông bốn
mươi năm nữa, hai mươi năm tận hiếu,
hai mươi năm sau sẽ được con hiếu thảo
báo đáp”. Có vị quan mặc áo màu lục mở sổ, tâu
với vua: “Con của ông Kiện chỉ thọ mười
năm, ai sẽ hiếu thảo?” Vua phán: “Pháp vương không
hai lời. Hăy nên tăng tuổi thọ cho đứa con”. Con
nghe nói lời ấy xong bèn tỉnh lại.
Người nghe kể đều than là “chưa
từng có”!
Phụ lục 5:
Địa Tạng Bồ
Tát Linh Cảm Cận Văn Lục
(Ghi chép những chuyện linh cảm gần đây
của Địa Tạng Bồ Tát)
Pháp sư Tâm Nhiên biên thuật
1. Mộng thấy tăng
tuổi thọ
Ông Tả Lư Ḥa là cháu bên vợ của người
anh thứ hai của tôi. Lư Ḥa là chắt của Tả Văn
Tương Công, rất tin Phật pháp, lại thông hiểu
khoa học rất sâu. Ông ta kể mẹ ông thường ngày
dốc ḷng tin tưởng Phật pháp, tŕ kinh Địa Tạng
rất kiền thành, thường đích thân chế thuốc
tặng cho người khác. Khi chế thuốc, bà thầm niệm
chú Đại Bi, cho nên khá thần hiệu. Lúc bà hai mươi
bốn tuổi, bệnh đă nguy ngập, trong lúc gần mê
man, vẫn dặn người nhà ăn chay, thỉnh Tăng
kiền thành tụng kinh Địa
Tạng ba ngày. Trong mơ, bà thấy Địa Tạng Vương
Bồ Tát h́nh dáng như một vị cao tăng, khoác áo
ca-sa, tay cầm tích trượng, bảo: “Tuổi thọ của
bà đă hết. Do nghĩ bà chân thành, chuyên dốc, làm nhiều
chuyện lành, tăng thọ mười hai năm nữa”.
Bệnh liền khỏi hẳn. Về sau, quả nhiên bà mất
lúc ba mươi sáu tuổi. Lư Ḥa nói: “Con thường nghe mẹ
ra rả răn dạy như thế”. Nhiếp Vân Đài
ghi.
2. Trai giới, tụng
kinh, tiêu trừ bệnh thũng
Bà Tào Tông Thanh hiệu là Tuyết Tài, là người
Ngô Huyện, tự ghi như sau:
Mẹ tôi là Phan Thị, bệnh đă hơn
ba năm. Sang mùa Xuân năm Mậu Th́n (1928), càng nguy ngập
hơn, toàn thân sưng thũng. Thầy thuốc bảo: “Căn
bệnh này gọi là Khí Hư Trung Măn, cần phải chờ
cho nước dưới da rút hết th́ mới được
mạng chung, đă không có cách nào chữa trị!” Khi ấy,
tôi nhậm chức ở Thân Giang, mỗi tháng về thăm
một lần. Tháng Tư về thăm, thấy bệnh mẹ
đă mấy lần nguy ngập. Da bóng nhẫy như gương,
nước trướng lên đầy ắp gần như
sắp vỡ da, kêu gào đau đớn chẳng dứt bên
tai. Tôi bi sầu vạn phần. Do vậy, t́m hỏi phương
cách nơi các bạn tin Phật. Họ dặn tôi hăy kiền
thành tŕ tụng kinh Địa Tạng Bổn Nguyện để
cứu chữa căn bệnh của mẹ th́ sẽ có thể cảm ứng
nhất. Ngay hôm đó, tôi phát nguyện tụng ba mươi
quyển kinh Địa Tạng, ăn chay ba tháng. Nếu mẹ
già được thũng tiêu, lành bệnh, sẽ suốt đời
thờ Phật, hành Địa Tạng nguyện, thề cho
tới hết đời vị lai, sẽ độ chúng sanh
đang khổ sở trong địa ngục.
Tới buổi sáng ngày Hai Mươi Bảy
tháng Năm, tụng kinh viên măn, mẹ tôi liền tiểu tiện,
đi tả dữ dội, suốt cả nửa ngày một
đêm mới dừng. Cả nhà kinh hoảng,
mẹ cũng tự cho rằng ắt không qua nổi. Sau
khi thầy thuốc chẩn đoán, than thở: “Lạ thật!
Cớ sao cụ già bảy mươi ba tuổi bệnh tật
đă lâu, lại có sức mạnh có thể đả thông
đường tiểu tiện, bài tiết sạch nước
dưới da. Căn bệnh này không bao lâu sẽ lành”. Quả
nhiên, hai ba ngày sau, làn da trước kia bóng nhẫy như gương
đă biến thành khô khan, nhăn nheo. Bệnh thũng toàn
thân tiêu mất, bệnh xưa khỏi hẳn!
3. Phát nguyện cảm mộng
Bà Tào Tông Thanh lại nói: Tôi từ lúc được
Địa Tạng Bồ Tát cảm ứng cứu mẹ, tâm
tin Phật càng thêm kiền thành, chuyên chú. Mồng Bốn tháng
Giêng năm Kỷ Tỵ (1929), đến yết kiến pháp
sư Đại Ngu. Vừa mới gặp mặt, Sư liền
nói tôi có duyên với Đại Sĩ, dặn ḍ hăy phát thệ
như đức Địa Tạng. Ngày hôm sau liền truyền
đại pháp. Tôi bèn kiền thành tu pháp, đối trước
Phật sáng tối phát thệ, nguyện đến tột
cùng đời vị lai, vĩnh viễn độ chúng sanh
đang chịu khổ trong địa ngục. Chẳng ngờ
lại v́ đó mà cảm thông với chúng sanh trong địa
ngục.
Đêm hôm Hai Mươi tháng ấy, tôi mơ
một giấc mộng lạ, cảm thấy một ḿnh mờ
mịt đi trên đường. Dường như có người
ở bên cạnh dặn tôi đi đến chiếc cầu
sắt. Đi tới trước chưa được mấy
bước, liền nghe dưới cầu có tiếng khóc
rền đất như là tiếng gào khóc của mấy ngàn
vạn người nam, nữ, già, trẻ, lớn, bé, chen
nhau rống lên. Khi đó, ḷng tôi khôn ngăn đau xót! Tự
nghĩ thuở bé từng nghe người ta nói: “Dựng cầu,
cần phải tế bằng người sống”. Đấy
có phải là tiếng khóc của những người bị
hại chết đấy chăng? Tâm thật thê lương
bất an, nhưng vẫn tiến lên trước. Cầu dài
khoảng mấy dặm, tiếng khóc vẫn y như cũ.
Đi hết cầu, thấy một cửa thành bằng sắt
cực cao rộng. Đă ra khỏi, liền tỉnh mộng.
Khi ấy, tôi đă biết ḿnh đang nằm
trên giường, nhưng tiếng khóc thê thảm bất nhẫn
vẫn văng vẳng bên tai, chưa hề giảm bớt,
hết sức kỳ lạ! Bèn xốc lại tinh thần,
dưới ánh sáng chiếu rực của ngọn đèn điện,
xét khắp các vật trong pḥng, quả thật không có thứ
ǵ có thể phát ra âm thanh. Do vậy, bèn nghĩ kỹ âm thanh
ấy, dường như một mực cực đau khổ,
khó thể chịu nổi trong chốc lát. Tôi bất giác đau
xót, nước mắt ṛng ṛng! Bỗng ngộ ra: Đấy
ắt là tiếng khóc của chúng sanh đang chịu khổ
trong địa ngục, liền mặc quần áo, ngồi
xếp bằng. Tiếng ấy mới dứt.
Sáng hôm sau, tôi kể với pháp sư Đại
Ngu. Theo lời thầy, đấy thật sự là tiếng
khóc của chúng sanh đang chịu khổ trong địa
ngục. Do tôi tâm kiền thành thệ nguyện như đức
Địa Tạng, nên cảm ứng bọn họ, khiến
cho tôi đích thân nghe thấy t́nh trạng thê thảm của
họ, mong quyết tâm tu hành. Nếu tôi viên măn công đức
sớm hơn một ngày, chúng sanh trong địa ngục sẽ
thoát ly khổ nạn sớm hơn một ngày. Tôi nghe thầy
dạy, do vậy, phát thệ nguyện buông bỏ hết
thảy, chuyên tâm tu hành, liền xin thôi dạy học, giữa
tháng Năm vào núi tịnh tu.
4. Đắp tượng
lành bệnh
Cố Tồn Tín là cháu ngoại của học
trưởng Hứa Viên Chiếu. Khi mới lên hai, cháu bị
chứng kết hạch[25], bệnh rề
rề suốt ba năm. Bệnh càng thêm ngặt nghèo, các thầy
thuốc đều bó tay. [Cha mẹ cháu] bèn nghe theo lời
khuyên của ông Hứa, đem những vật trang sức
mà đứa trẻ yêu thích nhất, vâng theo ư kinh dạy, đối
trước đứa trẻ bị bệnh nói ba lượt,
sau đó, đem bán được một khoản tiền
là mười đồng, kính tạc một bức tượng
Địa Tạng Bồ Tát, mỗi ngày kiền
thành đảnh lễ. Sau đấy, căn bệnh đó
như mất hẳn, tới nay đă mấy năm, ngay cả
những chứng cảm mạo, bệnh vặt chưa hề
phát ra chút nào! Mồng Hai tháng Ba năm Dân Quốc 16 (1927), tôi
đến thăm ông Viên Chiếu tại nhà họ Cố ở
đường An Nạp Kim (Rue Hennequin), Thượng
Hải, đích thân thấy, nghe. Lư Viên Tịnh ghi.
5. Mẹ hiện thân sửa
đường
Cư sĩ Tào Hựu Tân ở An Huy, thuở
bé lắm bệnh. Mẹ là Vi Thị đến núi Cửu
Hoa dâng hương, cầu Địa Tạng Bồ Tát ngầm
gia hộ, bệnh rề rề được lành. Do vậy,
mẹ và con đều kiền thành thờ Phật. Tháp nhục
thân là chỗ thù thắng giữ thân của Bồ Tát, là nơi
hương đèn chánh yếu của cả núi. Thiện nam,
tín nữ lui tới dâng hương, nối gót nhau, nhưng
từ điện Thập Vương trước tháp cho đến
khoảng đường Bạch Mă Đ́nh, chùa Hóa Thành, và ao
phóng sanh ở phía dưới, quanh co mấy trăm trượng,
đường lối gập ghềnh, người hành hương
e ngại. Bà Vi bèn phát nguyện, đợi trong nhà dư dả
hơn, sẽ xây bậc thang. Lúc lâm chung, bà đem chuyện
này dặn ḍ con chớ quên.
Nay đă mười mấy năm, Hựu Tân
tuy luôn ghi khắc trong tâm, rốt cuộc công tŕnh to lớn,
chưa thể tiến hành được. Tháng Hai năm Mậu
Th́n (1928), nhằm ngày thánh đản đức Quán Âm, Hựu
Tân vào núi dâng hương. Lễ tháp xong, ở trước thiền
đường phía trên [tháp] dạo bước, ngắm cảnh
núi, bỗng thấy mẹ xen lẫn trong đám phụ nữ,
thân đeo đăy hương, từ Chánh Thiên Môn bước
xuống, cách ông chỉ mấy chục bước. Nh́n kỹ,
dung mạo thật rơ ràng, ông vội vàng chạy tới, chớp
mắt đă mất dấu. Do vậy, ông nghĩ: “Có phải
là di chí của mẹ chưa được thỏa, bèn hiện
thân điểm hóa đấy chăng?” Ông bèn dốc hết
sức quyên mộ để thành tựu chí mẹ, ḥng thấy
thắng cảnh Linh Sơn, đường sá hiện vẻ
trang nghiêm. Có thể nói là dùng cái tâm hiếu thuận để
trên báo ân Phật, lợi lạc khắp hữu t́nh vậy.
Hứa Chỉ Tịnh ghi.
6. Mộng thấy Bồ
Tát chỉ điểm để gặp con
Triệu Quế Hinh, người ở Hợp
Ph́, tỉnh An Huy, cày cấy, học hành. Vợ chồng tuổi
đă ngoài năm mươi, chỉ có một đứa
con tên là Tồn Kim, đă vào trường huyện học hành.
Mùa Thu năm Kỷ Mùi (1919), Tồn Kim mắc bệnh thời
khí[26], được
mấy ngày th́ chết. Vợ chồng Quế Hinh đau đớn,
chẳng thiết sống nữa! Một đêm, mộng thấy
Địa Tạng Bồ Tát đến an ủi, bảo: “Con
ông bà đă tá thi hoàn hồn tại nhà họ X… Cuối năm,
ông bà lên núi sẽ gặp”. Quế Hinh tỉnh giấc, kinh hỷ
chen lẫn; nhưng lại nghi ḿnh tưởng nhớ chất
chứa thành si, huyễn mộng khó tin! Chỉ có điều
đă được chỉ dạy trong mộng, không thể
bỏ lơ được, bèn vào tháng Chạp, vợ chồng
dắt díu nhau, triều bái núi Cửu Hoa. Vừa
mới tới Phật điện, một đứa trẻ
chặn đường, hô to: “Cha ơi, mẹ ơi, đừng
bỏ con”. Hỏi ḍ, mới biết tên họ, quê quán, chỗ
ở, đem nhân duyên sanh ra và chết đi của đứa
con họ Triệu đối chiếu [hoàn toàn khớp với
giấc mộng]. Hơn nữa, diện mạo tuy khác, âm thanh
chẳng đổi. Nó lại nói: “Bồ Tát cứu tế,
khiến cho con được hoàn hồn”. Vợ chồng hết
sức vui mừng, dẫn về làm con như trước.
Nhà cha ruột của nó nghe chuyện, tranh chấp, thưa
kiện, nhưng đứa trẻ nói đích xác nó là con nhà
họ Triệu hoàn hồn, chẳng muốn trở về nhà
cũ. Do vậy, qua sự điều giải của mọi
người, hai nhà qua lại, nó làm con cả hai bên. Đấy
cũng là chuyện phán quyết kiểu Trương Hợp
có người nối dơi như trong Kim Sử vậy. Vào năm
Dân Quốc thứ chín (1920), Quế Hinh cúng tặng bức
hoành phi “Phật pháp vô biên” trên núi và ghi lại đầu
đuôi chuyện ấy. Ông Tào Hựu Tân lên núi triều bái,
trông thấy, chép đại lược chuyện ấy như
thế đó. Hứa Chỉ Tịnh ghi.
7. Lễ bái, sanh nở
an ổn
Trưởng nữ của cư sĩ Lương
Bích Viên lấy người họ Trương. Mấy năm trước, chồng cô
ta sang Hà Nam nhậm chức kỹ sư khai khoáng, nhằm lúc
cô ta đang có thai. Cư sĩ lo cô không có người bầu
bạn chăm sóc, bèn bảo cô dùng giấy vàng viết “Nam-mô
Địa Tạng Vương Bồ Tát”, mỗi sáng dâng
hương, lễ bái, ắt sẽ
sanh nở b́nh yên, thuận lợi. Cô ta làm theo lời dạy.
Tới khi sanh nở, làng quê không có y tá và bác sĩ, nhưng
cô chẳng khổ sở mảy may. Hai năm sau, cô lại
có thai, vẫn dùng cách thức trên đây. Hai đứa con,
một trai, một gái, tướng mạo đoan nghiêm, đẹp
đẽ, thông minh, ḥa nhă, hiền lành, tôi đều trông
thấy. Nhiếp Vân Đài ghi.
8. Đọc kinh, mộng
thấy mẹ
Cư sĩ Ngô Khế Bi người Giang Tô.
Tháng Năm năm Dân Quốc 17 (1928) mất mẹ. Hai mươi
bảy ngày sau, gặp cư sĩ Triệu Vân Thiều khuyên
niệm kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, bèn bắt
đầu ngay từ hôm ấy, mỗi ngày dâng hương,
cung kính đọc một lần tới chung thất mới
thôi. Một tháng sau, cư sĩ vừa ngủ say, bỗng
nghĩ như thế này: “Phàm ai chí tâm nguyện thấy, rốt
cuộc ắt được thấy, bèn niệm danh hiệu
A Di Đà Phật và danh hiệu Địa Tạng Bồ
Tát, mong cậy vào oai thần, đến được chỗ
mẹ”. Liền cảm thấy có cánh tay đẩy sau cổ,
bèn nương theo hướng đó, bay vọt lên không trung mà đi,
xuyên qua tường vách, trọn chẳng bị chướng
ngại. Hai mắt hé mở, thấy cảnh vật lờ
mờ. Qua một đoạn đường dài, tới một
chỗ, bỗng đằng sau có người dường như
cùng đi, bảo cư sĩ: “Vẫn chẳng được
thấy, biết làm sao đây?”
Cư sĩ ngẩng đầu, thấy một
khu rừng rậm, liền quỳ gối cầu Địa
Tạng Bồ Tát, thưa bày t́nh trạng gần đây của
mẹ. Bỗng nghe trên hư không có người đáp lời,
nhưng nghe chưa rơ, hỏi người đi cùng lời
đáp là như thế nào? Người ấy bảo: “Là bất
thoái chuyển”. Do vậy, cư sĩ nghĩ: “Đă là bất
thoái chuyển, ắt đă sanh về Tây Phương. Người
trả lời ắt là Địa Tạng Bồ Tát”. Liền
lễ bái, kêu lên: “Cầu Bồ Tát phát đại từ bi cho
con được thấy mẹ”. Nói lời ấy xong, người
cùng đi bèn chỉ lên phía trên. Cư sĩ ngẩng đầu
nh́n, quả nhiên thấy lầu gác long lanh, trang nghiêm tột
bậc! Lệch về phía trái là một ghềnh đá. Trên
ghềnh đá có gác, mẹ của ông ta tḥ đầu ra ngoài
cửa sổ, như đóa hoa phù dung hàm tiếu, vẫy
tay. Cư sĩ gọi mẹ, liền thấy mẹ đứng
dưới chỗ đất trống, màu áo hơi vàng, hướng
về ông nói ǵ đó, nhưng ông nghe không rơ, xin mẹ nhắc
lại. Mẹ lại nói: “X... (nhũ danh của em trai cư
sĩ) cũng ở đây”. Đang muốn hỏi mẹ về
lúc lâm chung có cảm thấy khổ sở hay không, mẹ đă
xoay ḿnh sắp đi nơi khác, bèn vội hô lên: “Mẹ tự
bảo trọng”. Trong khoảnh khắc, mẹ đă lên chỗ
cao, ẩn mất. Cư sĩ chắp tay, ngửa mặt lên
trời, hô cảm tạ Địa Tạng Bồ Tát rồi
tỉnh giấc. Nhiếp Vân Đài nghe Ngô cư sĩ đích
thân thuật t́nh trạng trong mộng, ghi lại sự thật
như vậy!
9. Thoát nạn đạo
tặc
Thích Hoằng Nhất lúc c̣n tại gia đă
tín ngưỡng Địa Tạng Bồ Tát. Năm Đinh
Măo, tức năm Dân Quốc 16 (1927), Sư ở lại một
ngôi chùa nhỏ thuộc vùng quê Hàng Châu. Trong pḥng thờ tượng
Địa Tạng Bồ Tát, và thường chí tâm tŕ tụng
thánh hiệu. Có một buổi sáng, Sư mở cửa pḥng,
tới khách đường, thấy mọi vật quăng
lung tung, ngổn ngang khắp đất, hỏi chư tăng
cùng ở đó: “Chuyện ǵ vậy?” Họ đáp: “Ban đêm có nhiều gă cường
đạo vào chùa, cầm dao, gậy cưỡng bức tăng
chúng để cướp đi rất nhiều tiền bạc
và vật dụng. Chúng từng muốn vào pḥng ngủ của
Hoằng Nhất, dùng dao, gậy phá cửa pḥng, nhưng sau
một lúc lâu, rốt cuộc chẳng vào được”.
C̣n Hoằng Nhất ban đêm chỉ nghe trên lầu có tiếng
người qua lại, nói năng, ngỡ là tăng chúng
trong chùa, chẳng để ư chút nào, yên giấc suốt đêm,
chưa từng chịu cảnh kinh hăi, mà cũng chẳng bị
tổn thất ǵ. Mọi người đều nói là do Bồ
Tát linh cảm. Thích Vong Ngôn ghi.
10. Chết rồi sống
lại
Hồ Trạch Phạm ở Dư Diêu, c̣n có
tên tự là Thắng Nguyệt, từng biên soạn bộ Địa
Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Bạch Thoại Giải
Thích do Phật Học Thư Cục lưu thông đến
một vạn mấy ngàn bộ, công đức rất lớn.
Chiều ngày Ba Mươi tháng Bảy năm Nhâm Thân, tức
năm Dân Quốc 21 (1932), con gái bé của ông tên là Nguyệt
Chiêu, vừa tṛn bốn
tuổi, bỗng nhiên mắt trợn tṛng, mũi nghẹt,
mặc xanh tái, môi đen bầm, thở kḥ khè, ứa rớt
dăi rồi chết ngất. Cậy răng đổ thuốc,
nó chẳng thể nuốt xuống, cả nhà hoảng loạn.
Lúc ấy, Hồ Trạch Phạm bỗng ngộ ra hôm ấy
là thánh đản của Địa Tạng Bồ Tát, bèn vội
đối trước thánh tượng, xót xa cầu gia bị.
Cầu nguyện vừa
xong, bỗng
nghe cả nhà hoan hô, bé gái đă thở
được, mừng nó sống lại. Lại cho uống
thuốc, nó cũng nuốt xuống được, chẳng
bao lâu liền b́nh phục. Thích Vong Ngôn ghi.
11. Bệnh trầm kha được
lành
Tỳ-kheo-ni Quán Nguyện người xứ
Hải Trừng, tỉnh Phước Kiến. Cha bà là bậc
tiên liệt thời Dân Quốc, từng hy sinh v́ quốc nạn
tại Quảng Châu. Quán Nguyện xuất gia tại núi Cửu
Hoa, về sau, sống tại Áo Môn (Macau). Năm Nhâm Thân
(1932), ni sư đến Hạ Môn học tập giới luật.
Năm sau, liền bị đau bao tử, ăn không nổi
một bát cháo. Bệnh tật rề rề cả nửa năm,
trải trọn đủ mọi nỗi thống khổ! Thuốc
Bắc lẫn thuốc Tây đều vô hiệu. Một hôm
do đọc bài Địa Tạng Bồ Tát Thánh Đức
Đại Quan của sa-môn Hoằng Nhất, thấy đầu
cuốn sách ấy vẽ thánh tượng trang nghiêm, sanh tâm
hết sức hoan hỷ. Do vậy, tùy sức sắm hương,
hoa, trái cây, cúng dường thánh tượng, cung kính chiêm ngưỡng,
lễ bái. Suốt bảy ngày không nói, sám hối, lấy một
b́nh nước sạch đặt trước thánh tượng,
ngày đêm thầm niệm thánh hiệu. Sáng sớm hôm sau bèn
uống một chén tịnh thủy ấy. Không lâu sau, đă
có thể ăn một bát cơm. Nửa tháng sau, bệnh khỏi
hẳn. Thích Vong Ngôn ghi.
12. Vết thương nặng
mau lành
Thích Quảng Hiệp thường ngày sùng tín
Địa Tạng Bồ Tát. Tháng Sáu năm Giáp Tuất
(1934), núi Cửu Hoa quyên góp để đúc đại hồng
chung. Quảng Hiệp ở Hạ Môn (Amoy) tận lực bôn
tẩu dưới cái nắng gay gắt của mùa Hè. Trong mấy
ngày, gom được một khoản tiền sáu bảy
trăm đồng. Một hôm, Sư bị ngă, mắt và trán
đập vào thềm đá, tuôn máu rất nhiều, thương
thế khá nặng! Quảng Hiệp nhất tâm chuyên tŕ thánh
hiệu Địa Tạng Bồ Tát, chẳng bao lâu bèn lành.
Thích Vong Ngôn ghi.
13. Lành bệnh, tăng
phước
Mùa Hạ năm Dân Quốc 18 (1929), tôi sang Lư
Sơn dưỡng bệnh. Vừa đến núi th́ trở
bệnh nặng, nằm bẹp suốt bốn tháng, chẳng
thể rời giường. Lúc ấy, cư sĩ Lương
Bích Viên đang ở trên núi, kể với đứa con út chuyện
linh cảm của đức Địa Tạng, và khuyên nó
niệm kinh Địa Tạng để tiêu nghiệp cho tôi.
Đứa con vâng lời, niệm mười mấy ngày, bệnh
tôi chuyển biến khá hơn rất nhiều, liền xuống
núi, trở về đất Hỗ (Thượng Hải).
Cùng lúc, con dâu tôi có thai, sanh được một trai. Tôi bèn
in một vạn quyển Địa Tạng Linh Cảm Lục
tặng cho người khác để báo ân Phật. Ngày Hai
Mươi Tám tháng Ba năm Dân Quốc 24 (1935), Nhiếp Vân Đài
ghi.
14. Tai điếc mà nghe
tiếng niệm Phật
Ông Đạn Thiết Tiều mắc bệnh
đă lâu. Tôi khuyên ông ta niệm Phật, nhiều phen biện
luận, vẫn chưa chịu nghe theo. Mùa Thu năm Dân Quốc
23 (1934), tôi tặng ông kinh Địa Tạng. Ông ta đọc
mười mấy lần, tin tưởng, ưa thích sâu xa!
Một hôm, bỗng vào lúc bốn giờ sáng, ông nghe có một
tiếng khánh, kế đó là tiếng niệm Phật, từng
chữ rơ ràng, nhưng ông Đạn điếc đặc
mười mấy năm rồi. Dẫu hét to bên tai, ông không
thể nghe tiếng. Nay nghe tiếng niệm Phật, liên tiếp
mấy chục câu. Âm thanh hay đẹp lạ lùng, trước
giờ chưa hề nghe. Thoạt đầu, ông ngờ là
vợ đang tụng niệm công khóa, nhưng bà ta vẫn
c̣n đang ngủ chưa dậy. Ông hết sức kinh ngạc,
bất giác toàn thân run rẩy. Bốn giờ sáng hôm sau, nghe
tiếng như cũ, bèn niệm theo. Chiều hôm ấy, ông
ở dưới lầu, nghe tiếng như trước, đều
là trước hết một tiếng khánh, sau đó niệm
Phật hiệu.
Một hôm, ông ăn cua, sáng hôm sau chẳng thấy
tiếng khánh và tiếng niệm Phật, bèn thầm cầu
nguyện: “Nguyện từ nay về sau, suốt đời
chẳng ăn cua”, thuận miệng niệm Nam-mô Địa
Tạng Vương Bồ Tát bảy lần, tiếng khánh ngay
lập tức vang lên, tiếng niệm Phật cũng nối
theo sau. Tới nay đă gần nửa năm, ông vẫn hằng
ngày đều nghe. Thoạt đầu, ông tưởng là do
bệnh trạng nơi đại tiểu năo, nhưng không
nghe thứ tiếng nào khác, bèn biết là do Địa Tạng
Bồ Tát linh cảm, hướng dẫn khiến ông niệm
Phật, bèn bỏ ra hai trăm đồng, đề xướng
tái bản kinh Địa Tạng, cậy tôi đứng ra
in thay. Ngày Hai Mươi Tám tháng Ba năm Dân Quốc 24
(1935), Nhiếp Vân Đài ghi.
15. Khỏi hẳn bệnh
cũ
Bạn tôi là ông Diêu Mặc Am, tuổi sáu mươi,
suy yếu, bệnh hoạn, quỳ tụng kinh Địa
Tạng hai năm, bèn trừ được căn bệnh
rề rề, thân thể mạnh khỏe, càng tin tưởng,
ngưỡng mộ hết sức. Ông dặn tôi ghi lại
chuyện linh cảm này để truyền bảo cho người
khác, ngơ hầu những ai bị tai ách, đau khổ, sẽ
cùng phát khởi tín tâm, quy y Địa Tạng Bồ Tát, hoặc
tụng kinh Địa Tạng, hoặc niệm thánh hiệu
của Bồ Tát, tự nhiên hết thảy tội chướng
đều được giải thoát, cùng được
hưởng lợi lạc từ Phật pháp. Ngày Hai Mươi
Tám tháng Ba năm Dân Quốc 24 (1935), Nhiếp Vân Đài ghi.
16. Mắt có tật lại
được phục hồi
Cư sĩ Đào Hy Tuyền từng làm huyện
trưởng huyện Hàng, nay ở đường Cự
Lại Đạt (Rue Ratard) tại Thượng Hải, đă
tin Phật từ xưa, thờ phụng Địa Tạng
Đại Sĩ càng kiền thành. Trong nhà có điện thờ
Phật. Mẹ ông họ Đoan Mộc, cũng hằng ngày
tŕ thánh hiệu Di Đà. Người đầy tớ là Thạch
Văn Khanh bị bệnh mắt đă lâu, một hôm bỗng
lành. Ông Đào thấy người ấy khỏi bệnh
quá nhanh, lấy làm lạ, gạn hỏi. Họ Thạch đáp:
“Con mộng thấy cụ bà niệm Phật trong Phật
đường. Do con bị bệnh mắt đă lâu chẳng
lành, dạy con lấy nước cúng trước tượng
Địa Tạng Đại Sĩ rửa mắt, cảm
thấy hết sức thanh lương. Tỉnh mộng,
con dụi mắt th́ căn bệnh đă hết rồi”. Cư
sĩ than rằng: “Bồ Tát thệ nguyện hoằng thâm,
bi tâm cứu khổ, làm đấng đại y vương,
tin chắc chẳng hư dối!” Đấy là chuyện
trong tháng Mười Một năm Dân Quốc 22 (1933), cư sĩ đích thân kể lại với
Huệ Châu, do vậy bèn ghi ngay lại.
17. Bệnh nặng trừ
sạch
Tại trấn Kiều Lâm thuộc huyện
Giang Phổ, có ông Ngô Tông Giám làm nghề y, tin Phật. Trong trấn
có Cổ Cối Thiền Lâm, ông phát nguyện trùng tu. Do quyên
mộ không đủ số, ông lo buồn, lao lực thành bệnh
nặng. Con dâu trưởng của ông là Lưu Thị cũng
niệm Phật. Do vậy, bèn ước hẹn các bạn
đạo cùng đến Thiền Lâm ấy, đối trước
Địa Tạng Bồ Tát khấu đầu, cầu đảo,
cầu tăng tuổi thọ cho ông, và cầu cho việc
trùng tu chùa được hoàn thành. Hai ngày sau, ông đang thiêm
thiếp, bỗng tỉnh lại nói: “Trong mộng, cha thấy
một ḥa thượng an ủi, hỏi han. Do vậy, bệnh
được lành”. Tháng Sáu năm Dân Quốc 22 (1933), Viên
Truyền Kiệt ghi.
18. Tạo tượng
linh cảm
Tiên mẫu là Lư Thái Phu Nhân, từ sau sáu mươi
tuổi, mỗi tiết Đông, hai chân đều tê cứng,
đau nhức, chẳng tiện đi lại, qua Xuân tự
lành. Năm Dân Quốc 12 (1923), mẹ tôi sáu mươi chín
tuổi, bắp chân đau càng nặng, rên rỉ nằm bẹp
trên giường hơn một tháng, chữa trị chẳng
thấy bớt. Viễn Diệu chỉ biết hằng ngày
lễ tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
để xin Ngài rủ ḷng từ gia hộ. Một hôm, tụng
đến phẩm Như Lai Tán Thán: “Hoặc thủ bệnh
nhân khả ái chi vật, hoặc y phục, bảo bối,
trang viên, xá trạch, đối bệnh nhân tiền, cao
thanh xướng ngôn, ngă mỗ giáp đẳng vị thị
bệnh nhân đối kinh tượng tiền xả chư
đẳng vật, hoặc cúng dường kinh tượng,
hoặc tạo Phật, Bồ Tát h́nh tượng” (Hoặc
lấy vật mà bệnh nhân yêu thích, hoặc là quần áo,
vật báu, trang trại, vườn tược, nhà cửa,
đối trước bệnh nhân, lớn tiếng xướng
rằng: - Tôi tên là… v́ bệnh nhân này, đối trước
kinh tượng, bỏ các thứ vật để cúng dường
kinh, tượng, hoặc tạo h́nh tượng Phật, Bồ
Tát), bèn dường như vỡ lẽ! Tụng xong, đối
trước Phật phát nguyện, v́ mẹ tạo tượng
Địa Tạng Bồ Tát, lại c̣n chạy đến
thưa với mẹ. Mẹ vui mừng nói: “Bệnh không ǵ
chẳng phải là nghiệp, cần phải cậy vào Phật
từ gia bị. Nay con phát nguyện tạo tượng, thật
hợp ư mẹ. Mẹ được bà ngoại con cho một
viên châu tinh ṛng, tṛn trịa, tươi sáng. Mẹ v́
nhớ bà ngoại, hết sức quư trọng. Nay đem châu
ấy cúng dường Bồ Tát có được hay không?”
Tôi bèn cậy vị thầy tạc tượng
nổi tiếng ở Bắc B́nh là ông Cảnh Sơn theo đúng
pháp tạc tượng bằng cốt đồng, thếp
vàng. Viên châu đem khảm vào giữa hai mày để tượng
trưng cho bạch hào. Hai mươi ngày sau, tượng tạc
thành. Ông Cảnh đưa tới, tướng hảo trang
nghiêm, từ bi hoan hỷ. Ông Cảnh nói kể từ khi tạc
tượng tới nay, đă có chuyện chưa từng có.
Viên Diệu vội vàng thưa với mẹ. Mẹ nghe xong,
lập tức hết đau, tự bước xuống giường,
vào Phật đường, đảnh lễ, quỳ lạy
như kẻ chẳng bị bệnh. Đấy chính là bệnh
lâu ngày mà nhanh chóng dứt hẳn. Người thấy, kẻ
nghe, đều than Bồ Tát từ bi cảm ứng nhanh chóng
chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy, tôi trước sau cậy
ông Cảnh tạo tượng Bồ Tát hơn mấy chục
bức. Mẹ tôi vốn ăn chay trường niệm Phật;
từ đấy, càng thêm tinh tấn, đi lại c̣n nhanh nhẹn hơn trước. Cho
tới ngày Hai Mươi Mốt tháng Chạp năm Dân Quốc
18 (1929), lúc cụ bảy mươi lăm tuổi, bèn niệm
Phật về Tây. La Viễn Diệu ở huyện Bảo
Tĩnh, tỉnh Hồ Nam kính ghi.
19. Bụng trướng
mau hết
Vào mùa Hạ, Văn Hoán quảy tráp sang Tô Châu,
mắc chứng bệnh sốt rét khá nguy kịch. Sau khi lành
bệnh, bụng bị căng trướng, thuốc thang
vô hiệu. Do một mực tin tưởng Phật pháp, nghĩ
Địa Tạng Bồ Tát có đại nguyện lực,
có thể cứu bạt tội khổ, bèn chí tâm sám hối,
đảnh lễ, và phát nguyện kiền thành tụng kinh
Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện ba mươi
bộ, in tặng một trăm quyển Địa Tạng
Bồ Tát Bổn Tích Linh Cảm Lục để báo đáp
từ ân trong một phần ức. Phát nguyện ấy rồi,
do ngày hôm ấy tiết trời nóng bức, bèn mặc quần
ngắn nằm ngủ, bỗng thấy khắp thân sảng
khoái, bẻn ngủ say. Sáng sớm hôm sau, tỉnh giấc,
bụng xẹp dần, lại biết đói. Chẳng đầy
ba ngày, bệnh trướng hoàn toàn tiêu mất như chưa
hề bị bệnh, hoan hỷ tán thán đúng là chưa từng
có.
Do vậy nghĩ tới ḷng từ bi của
Đại Sĩ, cảm ân khôn cùng! V́ thế, gởi thư
kể khắp, để chứng nghiệm sự linh dị.
Chỉ mong chúng sanh trong đại thiên đều được
hưởng cam lộ, cùng ngưỡng nhờ sự giáo hóa
của Phật, quạt gió từ để dứt tội
nghiệp, hóa lửa bừng thành mát mẻ. Đấy là điều
tôi mong mỏi. Những điều được kể
trong bài này toàn là những ǵ tôi đích thân từng trải, tác
giả hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tháng Sáu năm Dân Quốc
22 (1933), Châu Văn Hoán ở nhà số 8, ngơ Đông Ngôn Tử tại Thường
Nhiệt kính thuật.
20. Nghi nan được
giải trừ
Chồng bà Trần Cầm Thiền là Cáo Tịnh
tuổi Tân Mùi, theo Điền quân[27] vào đất
Quế. Chồng của em gái tôi cũng theo đoàn quân. Đại
quân đă quay về mà chẳng thấy họ trở lại,
sống chết chẳng biết thế nào! Cả nhà nóng
ruột muôn bề, hỏi ư tôi. Tôi đă chẳng có thần
thông, làm sao nói quyết đoán cho được? Chẳng
c̣n cách nào, đành cậy sức oai thần của Địa
Tạng Đại Sĩ, dùng pháp Chiêm Sát để cầu.
Nếu chịu dốc ḷng chí thành, chắc sẽ được
tương ứng. Tôi bảo họ trở về, cả
nhà trai giới, kiền thành tụng thánh hiệu Địa
Tạng. Ba ngày sau, mọi người tụ tập tại
Phật đường, lại tŕ thánh hiệu mấy ngàn
câu, dùng pháp Chiêm Sát, chẳng được tương ứng.
Tôi nói: “Đấy là do chẳng chí thành mà thành ra như vậy,
mọi người hăy tĩnh tọa thầm niệm rồi
sẽ xin Chiêm Sát lại”.
Trong chốc lát, hương đă cháy quá nửa,
tôi đột nhiên thấy một mảnh rừng rậm, trong
ấy có con đường nhỏ, trong sát-na lại ẩn
mất. Do vậy, tôi xuất Định. Em gái tôi bỗng
nói: “Vừa mới tĩnh tọa khi hương cháy được
quá nửa, em bỗng thấy có một vị mặc áo tăng
sĩ bước vào. Áo ca-sa ấy mỏng như giấy, sáng
ngời trang nghiêm, khiến cho kẻ khác kính ngưỡng! Người
ấy đi quanh trước bồ đoàn của anh một
ṿng rồi biến mất. Em bỗng thấy một mảnh
rừng rậm, trong ấy có con đường nhỏ. Em
đi sâu vào, bên đường có một căn nhà
nhỏ, có một
xác chết nằm dưới đó, em kinh hăi, tỉnh
thức”. Tôi cũng thuật lại điều trông thấy,
t́nh trạng tựa hồ chẳng tốt lành, mọi người
đều buồn bă.
Địa Tạng Đại Sĩ cố
nhiên hiện tướng tỳ-kheo: Đă thấy người
mặc tăng phục bước vào, ắt là Đại
Sĩ linh cảm chẳng ngờ! Nhưng rốt cuộc là
như thế nào? Chưa đầy một ngày, có người
cùng đi trong chiến dịch ấy trở về, chuyện
hung hiểm được xác định! Ấy là v́ họ
bị địch vây bức, giết hại ở dưới
một căn nhà nhỏ, đúng y như em gái tôi đă thấy.
Quy Tịnh cho rằng đấy là chuyện chồng cô ta đích
thân trải qua, thật là hy hữu. Kính cẩn ghi lại như
trên! Phàm Đại Sĩ phát tâm nơi nhân địa là do muốn
thấy chỗ mẹ ḿnh đă sanh về mà phát khởi thệ
nguyện. Nhân địa như thế, cho nên nơi quả
vị cảm chúng sanh, đối với kẻ có nghi nan lại
càng ân cần! Kinh Bổn Nguyện dạy: “Thị nhân năng
nhất tâm chiêm lễ Địa Tạng thánh tượng,
niệm kỳ danh tự măn ư vạn biến, đương
đắc Bồ Tát hiện vô biên thân, cụ cáo thị nhân
quyến thuộc sanh giới; hoặc ư mộng trung, Bồ
Tát hiện đại thần lực, thân lănh thị nhân, ư
chư thế giới, kiến chư quyến thuộc”
(Người ấy có thể nhất tâm chiêm ngưỡng,
lễ bái thánh tượng Địa Tạng, niệm danh hiệu
Ngài đủ một vạn biến, sẽ được
Bồ Tát hiện vô biên thân, bảo cặn kẽ nơi quyến
thuộc của người ấy sanh về, hoặc ở
trong mộng, Bồ Tát hiện đại thần lực đích
thân dẫn người ấy thấy các quyến thuộc
trong các thế giới). Than ôi! Chúng sanh nghi nan biết được
đầu mối! Quy Tịnh ghi.
21. Sanh nở nguy ngập
lại được giữ vẹn tánh mạng
Mùa Xuân năm Canh Ngọ (1930), vợ tôi có thai.
Ba tháng trước khi sanh, thai bỗng bất động.
Cầu thần, xem bói đều vô hiệu, lại chẳng
dám uống thuốc. Nhưng do bụng to, đi lại khó khăn,
tâm thường lo sợ. Lại v́ tôi ăn chay học Phật,
nếu có chuyện bất trắc, càng khiến cho người
làng biếm nhẽ! Nhớ lại mười năm trước,
có một vị Tăng, tiên đoán “vào lúc ba mươi sáu
tuổi, phải cẩn thận đề pḥng sản nạn”,
vừa khéo đúng hệt như lời thầy chiêm tinh bảo
“coi chừng mắc nạn”. Do vậy, nóng ruột muôn phần,
kinh hoàng, sợ hăi chẳng biết cách nào! Một đêm nọ,
vợ tôi hướng về tôi khóc lóc, kể lể. Nghe lời
ấy, tôi càng kinh hăi, chua xót cùng cực! Bỗng nhớ đến kinh
Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện có thể bảo
vệ người gặp tai ách về sanh nở. Nếu có
ai hứa nguyện, chí tâm tụng kinh, tŕ tụng thánh hiệu,
ắt được sanh nở b́nh an. Vừa mới dấy
lên ư niệm ấy, tôi liền cảm thấy tâm thần
an vui, khỏe khoắn, như băng tan ră. Sáng sớm hôm
sau, đối trước Phật tâu tŕnh cặn kẽ. Chẳng
ngờ, ngay đêm ấy, vợ tôi lâm bồn. Thai nhi vẫn
thuận chiều sanh ra, nhau thai cũng theo ra. Nh́n xem, thân
thai nhi đă hư nát, sao lại có thể xoay đầu xuống
để thuận chiều sanh ra? Nếu chẳng phải
do sức từ bi cứu khổ của Bồ Tát, làm sao được
như vậy? V́ thế, tôi thệ nguyện hành Địa
Tạng hạnh để nguyện báo ân Bồ Tát. Những
người đồng bệnh tương lân trong nước,
chí thành tŕ tụng tôn kinh, phóng sanh, kiêng giết, ắt được
sanh nở an khang, lời Phật chẳng hư huyễn. Chính
tôi là một minh chứng vậy! Người đất Tương
ghi.
22. Lạy kinh khỏi bệnh
Ḷng Từ của Phật rộng lớn, cảm
ứng chẳng sai chạy. Điều này những kẻ
hơi có chút tri kiến đều công nhận. Gia mẫu là
Trương Thị, pháp danh là Năng Tu, bẩm tánh hiền
thục, thông thạo văn tự, về làm vợ cha tôi,
tận lực trọn đạo làm vợ, xóm giềng đều
khâm phục. Đảm đang việc nhà, từng có những
điều bị uất ức, bận ḷng, vẫn giấu
kín trong ḷng chẳng lộ ra ngoài, suốt ba mươi năm
đều như một ngày. Đối với chú Văng Sanh
và kinh Quán Âm, cụ hết sức thuần thục, nhưng
thuở ấy chưa thể lập khóa tụng, tu tŕ.
Vào độ tuổi năm mươi, cụ
bỗng thôi ăn thịt, có kẻ đem các tà thuyết để
khuyên lơn chớ nên ăn chay, cụ vẫn chẳng màng.
Vài năm sau, bỗng cụ cảm thấy đi lại chẳng
thoải mái. Kế đó, hai tay chẳng thể giở lên được,
dần dần eo vô lực, lưng c̣ng, hơi giống như
bị gập lại, hễ động tới là đau.
Do vậy, càng chẳng thể đi lại. Từ sảnh
đường cho đến trong pḥng, ắt phải cậy
vào xe lăn để ra vào. Nhưng căn bệnh thuộc
về xương khớp, sức thuốc chẳng thể
thấu tới được. May là cụ được
Phật từ gia bị, khiến cho Kính Am tôi gặp nhân
duyên quy y Tam Bảo. Năm sau, mẹ cũng quy y; kế đó,
lại thờ tượng Phật trong nhà, cũng như tạc
thánh tượng hai vị Đại Sĩ Quán Âm và Địa
Tạng, sáng tối kính lễ, niệm tụng.
Gia mẫu tuy bị bệnh khổ quấn
thân, cũng niệm tụng suốt ngày. Mỗi ngày, cụ
c̣n thắp hương, lễ bái, bảo Kính Am tôi ở bên
cạnh nâng đỡ, dẫu kiệt sức cũng chẳng
thiếu sót. Hơn một năm như thế, Kính Am tôi chưa
từng thấy mẹ đau buồn v́ bệnh tật. Tôi
luôn đem công đức do thọ tŕ kinh chú thường
ngày và những thiện niệm dẫu bằng mảy lông,
sợi tóc hồi hướng cho mẹ tiêu tai, thoát nạn.
Kế đó, tôi nghĩ Địa Tạng Đại Sĩ
thần lực chẳng thể nghĩ bàn, đời trước,
Ngài đă độ mẹ thoát nạn. Chuyện này được
nói tường tận trong kinh. Tôi bèn phát tâm cung tụng Địa
Tạng Bổn Nguyện Kinh để cầu nguyện.
Xét thấy kinh văn quá dài, sanh kế bận
bịu, khó thể tụng trọn, bèn thầm tưởng
các sự tích trong mười ba phẩm kinh, ghi nhớ nằm
ḷng tựa đề của mỗi phẩm, dùng để
bái kinh thay thế [cho việc tụng niệm]. Như phẩm
thứ nhất là Đao Lợi Thiên Cung Thần Thông, bèn trước
hết quán tưởng tựa đề của phẩm ấy,
sau đấy quán tưởng kinh nghĩa rồi lạy xuống.
Từ phẩm thứ hai là Phân Thân Tập Hội cho đến
phẩm thứ mười ba là Chúc Lụy Nhân Thiên cũng
lại như thế. Lạy xong, lại niệm thánh hiệu
Địa Tạng Bồ Tát mấy trăm câu rồi hồi
hướng. Quyền nghi như thế, rất sợ chẳng
thể khế hợp Phật tâm.
Hành như vậy mấy tháng, bỗng có một
hôm, gia mẫu đang ngồi ngay ngắn chợt hôn mê, bất
tỉnh nhân sự. Kính Am kinh hoảng, sợ hăi muôn phần!
Chạy đến bên mẹ, chắp tay xưng niệm thánh
hiệu Đại Sĩ gần mấy chục tiếng,
liền thấy mẹ tỉnh lại, ói ra mấy bát nước có cặn màu đen,
giống như huyết khí uất ức tích tụ nhiều
năm. Tôi vội mời danh y chẩn trị, họ cho là
khí huyết thiếu hụt, tổn hại, khó thể có hiệu
quả, cứ kê toa uống thử xem. Kính Am lại quỳ
trước Đại Sĩ, kiền thành cầu Ngài rủ
ḷng Từ gia hộ. Ngày đêm xưng danh, chẳng ĺa trong
tâm. Chỉ mới uống vào một thang thuốc, bệnh
trạng dần dần thấy khởi sắc. Kính Am dốc
ḷng thành khẩn cầu càng thêm khẩn thiết.
Sau đấy, mẹ dần dần có thể
đi lại, ra vào chỉ cần được nâng dắt.
Mấy tháng sau, hoàn toàn có thể chống gậy đi một
ḿnh. Nay th́ không cần gậy, vẫn đi lại tự
nhiên. Hiện thời, cụ đă sáu mươi bốn tuổi,
hằng ngày lễ Phật mấy chục lạy, tự đứng
lên không cần ai nâng đỡ, cũng chẳng cảm thấy
khổ sở. Phàm là người bị bệnh nặng, tuổi
tác đă cao, không nhờ vào công năng của thuốc men mà
tự nhiên lành bệnh, là chuyện ít gặp trong cơi đời!
Ấy là nhờ Địa Tạng Đại Sĩ thệ
nguyện hoằng thâm, lợi ích cứu giúp hữu t́nh, không
ǵ chẳng trọn. Chỉ cần có thể phát nguyện
kiền thành, ai cũng có cảm ứng. Xét trong những sự
tích trước đó đă ghi chép rành rành. Nh́n từ chuyện
linh cảm tôi đích thân đạt được, càng thêm
tin đúng như thế đó! Kính cẩn ghi lại chuyện
này, ḥng khuyên người đời. Tháng Sáu năm Ất Hợi
(1935), nhằm mùa Hạ, Tam Bảo đệ tử Viên Kính
Am ghi chép.
23. Tầm thanh cứu
khổ
Cư sĩ Hoàng Trang Huệ Châu là người
ở thành phố Phước Châu. Mười chín tuổi
xuất giá, hai mươi bốn tuổi bèn ăn chay, tin Phật.
Năm Dân Quốc 24 (1935), nhà chồng bà thờ cúng tà thần,
thường bị chúng tác quái quấy nhiễu. Cư sĩ
phẫn uất, đem tượng đất của chúng vứt
vào trong chum sành thường dùng để nuôi cá. Không lâu
sau, cư sĩ có mang. Khi sanh nở, mắc chứng bệnh
kinh phong, toàn thân nằm tê liệt trên giường, thuốc
men đều vô hiệu. Tự nghĩ đấy chắc là
tà quái báo thù, thế gian vô thượng chỉ có Phật, Bồ
Tát, cùng với Duyên Giác, Thanh Văn là có thể nương
tựa. Đại Bi Quán Âm Bồ Tát, Đại Nguyện Địa
Tạng Bồ Tát thường cứu độ chúng sanh
trong nhân gian và địa ngục. Không ǵ bằng nhất tâm quy mạng,
xưng niệm thánh hiệu Địa Tạng để cầu
trừ khổ, lại c̣n nghĩ sẵn ḷng lâm chung. Từ
đấy, mỗi ngày tụng tŕ mấy chục vạn câu.
Chưa được một tuần, mộng
thấy đến bên bờ biển, trông thấy sóng cả
cuồn cuộn vỗ tung bọt, sắc nước đen
x́ như sơn. Có vô số tiếng gào đau khổ, thê thảm,
thê lương lan xa chẳng dứt. Đang trong lúc bà kinh
ngạc, bỗng thấy một vị tỳ-kheo sa-môn bay lướt
trên mặt biển. Ngài đến nơi đâu, tiếng khổ
liền im bặt. Cư sĩ mới biết đấy là
đức Địa Tạng độ sanh, lập tức
hoan hỷ lễ bái. Sau khi tỉnh giấc, thân đau đớn
bỗng dưng khỏi hẳn. Ngày hôm sau, có thể dựa
vào người khác nâng đỡ mà đi lại. Chẳng đầy
nửa tháng liền bước đi như thường. Đấy
chính là linh tích từ bi của Bồ Tát trong thời cận
đại. Tâm Nhiên kính ghi.
Lời cuối sách
Gia đ́nh mạt nhân tuy tin Phật,
theo lời bố mẹ kể, nhà ông bà nội ngoài
quê dành riêng một gian nhà thờ Phật, nhưng không hiểu
sao, hai cụ thân sinh của mạt nhân lại không thờ Phật.
Ngoài h́nh đức Phật Thích Ca mà bà ngoại thờ tại
nhà cụ và h́nh tượng Quán Thế Âm Bồ Tát tại
nhà một người bạn, thuở bé, mạt nhân trọn
chẳng biết có vị Phật, Bồ Tát nào khác, chỉ
biết tên những vị thần tiên từ các bộ truyện
Tàu như Phong Thần, Tây Du Kư v.v… Măi đến năm học
lớp Tám, khi bà ngoại của một người bạn
thân mất, lần đầu tiên được thấy tôn
dung của đức Địa Tạng trong đám tang, cứ
ngỡ đấy là h́nh tượng Đường
Tam Tạng trong Tây Du Kư. Khi biết đó là Địa Tạng
Bồ Tát, tự nhiên hoan hỷ vô cùng, ao ước có được
một bức h́nh như thế, nhưng vẫn chưa thỏa
nguyện. Sau đấy, như một cơ duyên, được
thấy quyển kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn
Nguyện nơi nhà một người bạn, nhưng vẫn
không được phép mượn về đọc trọn
bộ. Vài năm sau, vô t́nh được đọc kinh Diên
Mạng Địa Tạng, vẫn ước ao được
đọc toàn bộ kinh Địa Tạng Bồ Tát do Ḥa
Thượng Trí Tịnh dịch. Thuở ấy, sau năm
1975, kinh sách hiếm hoi, những người có kinh, sách đều
sợ bị mượn rồi không trả, hầu như
không ai chia sẻ, rất khó t́m đọc kinh sách. Tại
chợ sách cũ, mạt nhân t́m được một bản
kinh Địa Tạng Bổn Nguyện do hội Phật Giáo
Bắc Kỳ dịch, thích thú đọc từng ḍng. Sau đó,
lại có cơ duyên đọc bản dịch của Ḥa Thượng
Trí Tịnh có đối chiếu phần âm đọc Hán
Việt và phần Việt Văn từ nhà một người
bạn, năn nỉ mượn về, chép lại, lâu lâu
lôi ra thầm tụng, cảm thấy rất thích thú, tuy chất
lượng giấy tập học tṛ thuở ấy rất
xấu, chữ viết lại nguệch ngoạc, xộc xệch
v́ chép vội cho xong để kịp thời trả kinh lại,
kẻo người cho mượn phiền ḷng.
Sau này, khi một người
bạn của anh mạt nhân do dọn dẹp nhà cửa, t́nh
cờ t́m thấy ba bức h́nh Bổn Sư, Địa Tạng
và Quán Âm in trước năm 1975 đem cho, mạt nhân mới
có cơ hội trân trọng thờ phụng măi cho đến
khi rời khỏi Việt Nam. Lúc ra đi, chỉ mang theo được
một bức tượng Di Đà bằng gốm đỏ
do chùa Trúc Lâm (Bà Chiểu) tặng, v́ người nhà yêu cầu
để lại ba bức h́nh trên. Sang hải ngoại, hết
sức cảm thương những người tin Phật
bên nhà, v́ bên này kinh tượng quá sẵn, nhất là Tịnh
Tông Học Hội thí tặng rất nhiều
tranh tượng Tây Phương Tam Thánh và h́nh Địa Tạng,
cũng như các kinh sách khác. Đă thế, trên các phương
tiện truyền thông như Internet, đủ loại kinh
sách, tha hồ mà tham khảo. Thế nhưng, có lẽ v́ quá
sẵn, quá dễ dàng, các đạo hữu dường như
không trân trọng cho lắm, số người thật sự
trân quư kinh sách, ảnh tượng như bên nhà hầu như
hiếm thấy tại hải ngoại! Ngay chính mạt nhân,
do kinh sẵn quá nhiều, đă quen thói tham lam “đọc ngốn
ngấu” kinh sách, ít có dịp lắng ḷng suy ngẫm ư nghĩa
sâu xa. Nhưng sâu thẳm trong ḷng, mạt nhân vẫn một
mực kính tin đức Địa Tạng, vẫn đọc
tụng kinh Địa Tạng mỗi khi tiện dịp.
Năm 1998, từ kho sách tại
Tịnh Tông Học Hội Dallas, mạt nhân t́m được
hai quyển Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
Kinh Khoa Chú và Địa Tạng Kinh Lược Thuyết của
pháp sư Thánh Nhất. Tiếc là do kiến thức lam nham,
tŕnh độ chữ Hán nhấp nhem, mạt nhân đành bỏ
dở không thể đọc trọn bộ Khoa Chú v́ ngài
Linh Thừa dùng nhiều điển tích, thành ngữ và chữ
viết theo lối cổ, khó thể tra cứu (thuở đó
chưa có Unicode, nên việc tra cứu chữ Hán trên Internet khá
phức tạp). Đọc bộ Lược Thuyết của
ngài Thánh Nhất th́ hơi thất vọng v́ hầu như lời
giảng chỉ là diễn giải chánh kinh thành văn Bạch
Thoại, không phơi bày ư nghĩa sâu xa trong kinh văn. Gần
đây, do xem một video của một vị ḥa thượng
tại châu Âu, mạt nhân kinh ngạc khi vị ḥa thượng ấy
khẳng định kinh Địa Tạng là ngụy
kinh, cũng như đọc một số bài viết của
một vị thượng tọa nổi danh trong nước,
mạt nhân sững sờ khi vị ấy hô hào phải loại
bỏ các kinh Dược Sư và Địa Tạng khỏi
Đại Tạng Kinh Việt Nam v́ các kinh đó mang tính chất
van vái, cần xin, quỵ lụy!
Hết sức ngỡ ngàng, mạt
nhân thỉnh ư một vị pháp sư trong Tịnh Tông Học
Hội. Pháp sư cười bảo: “Anh có tin nhân quả
hay không? Nếu tin, kinh Địa Tạng có nói điều
ǵ chẳng phải là nhân quả hay không? Có điều ǵ
sai với nhân quả hay không? Tự nghĩ đi! Đạo
Phật mà không có nhân quả, chúng sanh không sợ địa
ngục th́ ai c̣n tu hành làm chi nữa cho nó mệt?” Thầy cười
nói thêm: “Mấy thầy đó ăn cơm của đức
Địa Tạng và Phật Di Đà, lại chửi Địa
Tạng và Phật Di Đà, không biết họ nghĩ sao?”
Mạt nhân thắc mắc: “Ăn cơm đức Địa
Tạng và Phật Di Đà là sao ạ?” Thầy bảo: “Khi
nào có tang sự, có phải là tại Việt Nam, Hoa Lục,
và Đài Loan, người nhà thường thỉnh tăng sĩ hay đại chúng tụng kinh
Địa Tạng cầu siêu hay không? Trong đám tang, thường
niệm vị Phật nào? Cầu cho người chết
sanh về đâu? Hiện thời, Tăng sĩ phải sống
nhờ sự cúng dường của tín chúng. Khi nào, tín đồ
sẵn ḷng cúng dường? Có phải là khi có tang ma, giỗ
chạp hay không? Anh nói mấy thầy đó chỉ trích đức
Địa Tạng, vậy chùa mấy vị ấy có thờ
đức Địa Tạng hay không? Có đeo tràng hạt
hay không?” Quả nhiên, sau này, vị thầy lớn tiếng
đ̣i bỏ kinh Địa Tạng ấy lại vận động
quyên góp xây điện thờ Địa Tạng khang trang tại
ngôi chùa của chính ḿnh!
Do vậy, mạt nhân vẫn
thầm mong có cơ duyên dịch quyển Khoa Chú sang tiếng
Việt để phần nào giúp cho các đồng tu Tịnh
Độ không bị chao đảo khi nghe những lời
phỉ báng kinh Địa Tạng, đồng thời hiểu
sâu hơn những lời giảng kinh Địa Tạng của
lăo pháp sư Tịnh Không,
v́ khi giảng giải, ḥa thượng đă trích rất nhiều
ư từ bản chú giải này. Ngay như Hoằng Nhất đại
sư cũng đánh giá tác phẩm này rất cao. Đến
nay, do sẵn các có các tài liệu tra cứu, tâm nguyện xưa
được thỏa, thâm cảm sự gia hộ của
Tam Bảo nói chung và sức từ bi phổ độ của
đức Địa Tạng nói riêng. Dẫu cố gắng
hết sức, nhưng do không được học Phật
đến nơi đến chốn, chắc chắn phần
chuyển ngữ này sẽ không thể tránh khỏi những
sai sót ấu trĩ khó thể tha thứ được. Chỉ
mong mai sau sẽ có bậc thức giả từ bi dịch
lại hoàn chỉnh để những người con Phật
có thể hiểu đúng tâm ư của pháp sư Linh Thừa,
cảm nhận sâu xa ḷng đại từ bi của đức
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, và tâm cứu độ đau
đáu của đức Địa Tạng.
Nếu việc làm liều lĩnh
này có chút công đức nào, xin hồi hướng trọn
khắp tông thân, quyến thuộc, phụ mẫu, sư trưởng,
thiện ác tri thức lịch đại oán thân trái chủ,
mười phương pháp giới hữu t́nh đều ân
triêm lợi lạc, cùng sanh về Tịnh Độ. Đặc
biệt cảm tạ đạo hữu Huệ Trang và Đức
Phong đă bỏ nhiều thời gian duyệt bản chuyển
ngữ và góp ư sửa chữa, luôn sách tấn mạt nhân cố
gắng. Đặc biệt cảm ân những Tịnh tông đạo
hữu vô danh đă góp sức in bộ Khoa Chú bằng tiếng
Hán, để mạt nhân có dịp được xem đọc,
cũng như in nhiều bản kinh Địa Tạng và in
tặng rất nhiều tranh ảnh đức Địa
Tạng để mọi người đều cùng được
thờ phụng, không phải khổ sở t́m kiếm như
mạt nhân khi xưa. Do đọc chuyện cảm ứng
của Bồ Tát trừ bệnh dịch lưu hành, mong rằng
nhờ chút thiện duyên này, bệnh dịch Corona sẽ mau
chóng chấm dứt để các đạo hữu lại
có dịp cùng nhau cộng tu, sách tấn lẫn nhau dốc
chí tu niệm, văng sanh Tịnh Độ.
Bửu Quang Tự đệ
tử Như Ḥa kính bạch.
[1] “Năng hóa tam luân” tức là thân luân,
khẩu luân, và ư luân, dùng ba luân ấy để giáo hóa.
[2] Ngă là một trong Tứ Đức của Niết
Bàn (Thường, Lạc, Ngă, Tịnh) hàm nghĩa tự tại
vô ngại. Đại Ngă chính là Pháp Thân của Như Lai, có
tám loại đại tự tại, nên gọi là Bát Đại
Tự Tại Ngă:
1. Có thể thị hiện một
thân thành nhiều thân.
2. Có thể thị hiện một
thân nhỏ như vi trần đầy khắp cơi đại
thiên.
3. Thân to lớn mà nhẹ nhàng nâng
thân lên đến tận những
nơi xa nhất.
4. Hiện vô lượng loại
thân để thường cư trụ trong thế giới.
5. Các căn có thể sử dụng
lẫn cho nhau, chẳng hạn như có thể dùng mắt để
nghe hay ngửi.
6. Đạt được hết
thảy pháp nhưng chẳng có ư tưởng là đă đạt
được.
7. Nói ư nghĩa của một
bài kệ trong vô lượng kiếp.
8. Thân trọn khắp các nơi
ví như hư không.
[3] Vô Ương số (無央數) là từ ngữ dịch nghĩa của chữ
A-tăng-kỳ.
[4] Ở đây, ngài Linh Thừa dùng chữ Hỗ
Quỳ (互跪) v́ cho rằng viết “hồ quỳ”
(胡跪) là không chính xác. Theo Ngài, Hỗ Quỳ là cách quỳ một
gối áp sát đất, gối kia dựng thẳng, lưng
và cổ giữ thẳng, thể hiện ư sẵn sàng đứng
lên ngay nếu được sai phái, c̣n Hồ Quỳ
là cách quỳ của người Hồ (nhưng chữ Hồ
là danh từ để chỉ chung các sắc dân ở phía Tây
Trung Hoa, như người Khương, người An Tức,
Đại Hạ v…. không phải chỉ riêng người Ấn),
trong khi Hỗ Quỳ là cách quỳ lạy riêng biệt của
Thiên Trúc.
[5] Đúng ra, Hư Không Tạng
phải là Ākāśagarbha, c̣n dịch
là Hư Không Dựng, hay Không Tạng
Kim Cang, c̣n Gaganagañja nên dịch là Hư Không Bảo.
[6] Nguyên văn là Thái Thương (太倉). Thái Thương là kho trữ lúa tại các
quận huyện để lúc thóc cao gạo kém sẽ phát ra,
nhằm b́nh ổn giá gạo, hay để phát chẩn, hoặc
dùng trong trường hợp cần thiết khi quân lương
thiếu hụt. Quy chế này đă có từ đời Hán.
[7] Các lăo (閣老): Đời Đường, các vị quan
như Trung Thư Xá Nhân và Môn Hạ Thị Lang được
gọi là Các Lăo. Từ đời Minh - Thanh trở đi, các
vị đại học sĩ cũng thường gọi
là Các Lăo. Do ngài Kim Kiều Giác là vương tử xứ Tân
La (Silla), mà vương quốc Tân La tồn tại từ năm
57 trước Công Nguyên cho đến năm 935 công nguyên (tương
ứng với thời gian nhà Đường trị v́ Trung
Hoa), nên Các Lăo chỉ có thể hiểu là tiếng tôn xưng
một vị quan từng giữ chức Xá Nhân của Trung
Thư Tỉnh hoặc Môn Hạ Thị Lang.
[8] “Kỵ trúc mă” (cưỡi ngựa bằng
cành tre) là tṛ chơi đùa của trẻ con. Ư nói: Đứa
bé c̣n ham chơi không thích hợp cho việc tu hành. Đây là
tṛ chơi phổ biến của trẻ nhỏ thời đó,
cho nên có thành ngữ “thanh mai trúc mă” để chỉ bạn
chơi với nhau từ thời tóc c̣n để chỏm.
[9] Ṿ ở đây là “thiêm b́nh” (添瓶) tức cái ṿ có eo cổ thắt, miệng
loe, hoặc loại ṿ có quai để tiện xách ra suối
lấy nước về dùng. Đứa trẻ ham chơi
đến nỗi bỏ luôn cái ṿ lấy nước ch́m xuống
đáy gịng suối.
[10] Khi Dương (Kiyo) là tên
gọi cổ của Nagasaki (Trường Khi, 長崎) dưới thời Giang Hộ (Edo).
[11] Nguyên Lộc (Genroku) là niên hiệu
của Đông Sơn Thiên Hoàng (Higashiyama-tenno) từ năm
1688 đến năm 1704. Đây là thời kỳ được
coi là văn hóa đạt đến đỉnh cao nhất
trong thời đại Edo (Giang Hộ thời đại),
dưới quyền cai trị của tướng quân Đức
Xuyên (Tokugawa) trước thời cải cách Minh Trị Duy Tân. Edo chính là tên cũ của
Tokyo. Đông Sơn Thiên Hoàng (tên thật là Asahito, Triều
Nhân) là tổ tiên tám đời của Minh Trị (Meiji) Thiên
Hoàng. Tướng quân (Shogun, tên gọi đầy đủ
là Chinh Di Đại Tướng Quân, tức Sei-I Taishogun) là
lănh chúa quân sự được bổ nhiệm bởi Thiên
Hoàng (thật ra, họ mới là lănh tụ thật sự của
vương triều, Thiên Hoàng bổ nhiệm chỉ là h́nh
thức v́ vua không có quyền lực thật sự), giống
như kiểu chúa Trịnh vua Lê ở Việt Nam. Hệ thống
quản trị của Tướng Quân được gọi
là Mạc Phủ (Bakufu) và các quan lại thuộc Mạc Phủ mới là nhân viên điều
hành đất nước thật sự thời đó, các
quan của Thiên Hoàng chỉ là bù nh́n.
[12] Thiên Cẩu là một loài dị thú. Theo Sơn
Hải Kinh, đây là một loại thần thú vừa thiện
vừa ác. H́nh dạng thiện th́ giống như một
con chó lớn, đầu cáo trắng, thân có vằn, đuôi
giống đuôi mèo. Dạng ác th́ giống như con chó to màu
đen, có thể nuốt mặt trăng. Đôi khi Thiên Cẩu
được hiểu như là sao chổi hay sao băng.
Thổ Công là tinh ṭa được
tin là có tác dụng chủ tŕ thổ mộc, ruộng vườn
theo thuật chiêm tinh xưa. Thổ Công thuộc về tinh
cung Bích Tú trong Nhị Thập Bát Tú, gồm mười một
ngôi sao. Thổ Công chính là tinh ṭa Song Ngư (Pisces) nếu xét
theo cách phân định các tinh tú hiện thời.
[13] Vĩnh Xuân là một huyện ở phía Đông
Nam tỉnh Phước Kiến, là huyện lỵ của
thành phố Tuyền Châu.
[14]
Trương Tăng Diêu (479-?) là họa sĩ nổi tiếng
đời Lương, từng được phong làm Vũ
Lăng Vương Quốc Thị Lang, chuyên quản trị
các họa phẩm trong cung đ́nh. Ông sở trường vẽ
tranh Phật giáo, nhất là tranh vẽ trên tường. Cách
vẽ chân dung Phật, Bồ Tát, thánh chúng của ông đă h́nh
thành một trường phái riêng được gọi là
Trương Gia Dạng, được coi là khuôn mẫu tiêu
chuẩn cho tranh họa Phật giáo. Ông vẽ rồng, chim,
hoa cỏ, sơn thủy cũng rất nổi tiếng. Ông
vẽ rồng sống động đến nỗi có truyền
thuyết: Ông vẽ bốn con rồng trên vách chùa An Lạc
ở Kim Lăng, khi điểm nhăn (vẽ mắt rồng),
hai con bay vụt lên trời. Hai người con ông là Thiện
Quả và Nhu Đồng theo học vẽ với ông cũng
là những họa sư lỗi lạc thời ấy.
[15] Lân Đức là niên hiệu của Đường
Cao Tông. Đường Cao Tông là người sử
dụng nhiều niên hiệu nhất trong đời Đường:
Vĩnh Huy, Hiển Khánh, Long Sóc, Lân Đức, Càn Phong, Tổng
Chương, Hàm Hanh, Thượng Nguyên, Nghi Phụng, Điều
Lộ, Vĩnh Long, Khai Diệu, Vĩnh Thuần, và Hoằng
Đạo.
[16] “Thằng sàng” (繩床) là chơng hay ghế dài, không
dùng vải căng trên khung, mà dùng dây thừng, dùng để
dựa vào mà ngủ hay ngồi. Loại giường này bắt
nguồn từ Ấn Độ, phổ biến trong các tự
viện vào đời Đường. Loại giường
này dùng có khung gỗ đóng chéo chân, có thể xếp lại
được, giống như ghế bố, để tiện
mang theo khi cần ngồi hay ngủ nghỉ khi đi du cước.
Loại này khác với loại dùng trong dân chúng, cũng gọi
là “thằng sàng” nhưng là một thứ ghế có lưng
dựa, mặt ghế và lưng ghế dùng dây vải hay dây mây đan
thành ô vuông xen kẽ để ngồi cho mát. Có lẽ “thằng
sàng” được nói ở đây chính là loại ghế
này.
[17] Thoạt đầu, chức Thứ Sử
vốn là cấp quan thuộc Ngự Sử Đài. Về
sau, đặt ra Thứ Sử tại các châu, tức là chức
quan Giám Sát tại các châu, quận. Dần dần, Thứ Sử
trở thành quan đứng đầu một châu. Dưới
đời Đường, khi các Tiết Độ Sứ
trở thành thống lĩnh quân sự địa phương
th́ Thứ Sử trở thành thuộc hạ của Tiết
Độ Sứ. Từ đời Minh trở đi, Thứ
Sử trở thành danh xưng để gọi các vị
Tri Châu (quan đứng đầu một châu).
[18] Thông quang: Quang minh bao quanh thân.
[19] Thị Lang là chức quan đặt ra từ
đời Hán, tương đương với thứ trưởng
hiện thời. Thoạt đầu, chức quan này là các
quan hầu cận giúp vua xử lư mọi việc. Dần dần,
do sự vụ quá nhiều, phải lập ra các Tỉnh (cơ
quan hành chánh) như Thượng Thư Tỉnh, Môn Hạ Tỉnh,
Trung Thư Tỉnh để đặc trách từng sự
vụ. Sau đó, phát triển thành sáu bộ (Lại, Hộ,
Lễ, Binh, H́nh, Công). Thượng Thư là quan đứng
đầu mỗi bộ, viên phó quan gọi là Thị Lang. Đến
đời Thanh, với mỗi bộ lại lập ra Tả
Hữu Thị Lang. Tả Thị Lang địa vị cao hơn,
phải là người Măn Châu.
[20] Trung Ḥa là niên hiệu của Đường
Hy Tông từ năm 881 đến 885. Đời vua Đường
Hy Tông, Đại Đường loạn lạc rối beng
với hai cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân do
Hoàng Sào và Vương Tiên Chi lănh đạo, các Tiết Độ
Sứ cát cứ, đánh phá lẫn nhau. Nhà vua hoàn toàn bị
lệ thuộc vào sự thao túng của hoạn quan Điền
Lệnh Tư. Vua đă dùng năm niên hiệu là Càn Phù, Quảng
Minh, Trung Ḥa, Quang Khải, và Văn Đức.
[21] Thanh Tước là một loài chim thuộc
họ Sẻ, thường gọi là Japanese Grosbeak, hoặc
Masked Hawfinch, v́ ḿnh nó hơi xám,
có ánh xanh, đầu đen,
mỏ vàng, trông như người đội mặt nạ
trùm đầu. Loài này sống chủ yếu ở vùng sông
Amur và Măn Châu, mùa Đông thường bay thiên di xuống Bắc
Kinh và Hà Bắc.
[22] Chức quan này có tên gọi đầy đủ
là Biệt Giá Tùng Ngự Sử, hoặc c̣n gọi là Biệt
Giá Tùng Sự, chính là quan phụ tá cấp cao nhất của
Thứ Sử. Do chức quan cao, khi đi ra ngoài, không phải
ngồi hầu theo xe của quan Thứ Sử, nên gọi là
Biệt Giá. Có thể hiểu chức quan này giữ vai tṛ xử
lư thường vụ trong các châu, quận. Đến đời
Tùy, do băi bỏ các quận, chỉ giữ lại châu, nên chức
vị này đổi thành Trưởng Sử. Đến đời
Đường, lại đổi thành Quận Thừa Biệt
Giá. Sau đó, chức vụ này bị phế bỏ. Đến
đời Tống, lại lập chức Thông Phán có vai tṛ
gần giống Biệt Giá. Do vậy, dân gian vẫn quen gọi
Thông Phán là Biệt Giá.
[23] Càn Hựu là niên hiệu của Hán Cao Tổ
Lưu Tri Viễn, như vậy, nhà Hán nói ở đây là nhà
Hậu Hán thuộc thời Ngũ Đại, không phải là
nhà Tiền Hán do Lưu Bang sáng lập sau khi diệt nhà
Tần của
Tần Thủy Hoàng.
[24] Hậu Châu là một triều đại ngắn
ngủi nhất trong thời Ngũ Đại, trước sau chỉ tồn tại chín năm!
Quách Oai vốn là quyền thần của nhà Hậu Hán, lập
nhiều chiến công, quyền cao, chức cả. Khi Hán chúa
là Lưu Trí Viễn chết, con là Lưu Thừa Hựu nối
ngôi, thấy các đại thần nắm binh quyền quá mạnh,
bèn lập mưu giết các đại thần. Quách Oai bèn
khởi binh chống lại, tôn Lưu Vân làm vua mới. Sau đó,
đem quân lên miền Bắc đánh Khiết Đan, ngầm
sai người giết chết Lưu Vân, rồi sai tay chân
ủng hộ ḿnh lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà Châu, nhưng
ông ta chỉ làm vua được ba năm th́ chết. Ngôi
vua phải truyền cho con nuôi là Sài Vinh, tức Châu Thế
Tông. Do phải chinh chiến liên miên, tiền bạc thiếu
hụt, Châu Thế Tông nghe lời sàm tấu của đạo
sĩ, đă phế trừ đạo Phật, phá hủy chùa
chiền, hạ lệnh nung chảy tượng Phật,
chuông đồng để đúc tiền, tạo thành pháp
nạn cho Phật giáo Trung Hoa. Chính ông ta đă hạ lệnh
phá hủy 30.336 ngôi chùa và đuổi sáu vạn tăng ni về
đời.
[25] Chứng kết hạch là bệnh lao,
có thể là lao phổi, lao hạch, hay lao xương.
[26] Bệnh thời khí: Bệnh truyền nhiễm
lan truyền nhanh chóng trong một thời gian ngắn như
cúm, viêm màng năo, dịch
tả, dịch hạch v.v… Do bệnh thường xảy
ra vào lúc giao mùa, nên cổ nhân gọi chung là “bệnh thời khí”.
[27] Đây là thời loạn lạc sau khi Cách Mạng
Tân Hợi (1911) thành công, nhà Thanh bị lật đổ,
Trung Hoa Dân Quốc thành lập. Các tướng lănh quân phiệt
nổi lên khắp nơi, chia thành nhiều phe phái, xé nát
Trung Hoa. Điền quân là phe quân phiệt ở phương
Nam, chủ yếu tại các tỉnh Vân Nam, Quư Châu, Tứ
Xuyên v.v… do Thái Ngạc, Đường Kế Nghiêu và Long Vân
cầm đầu.