Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Khoa Chú, phần 9

地藏菩薩本願經科注

古鹽匡菴青蓮苾芻靈椉父輯

Cổ Diêm, Khuông Am Thanh Liên bật-sô Linh Thừa biên soạn

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

(theo bản in trong tháng Bảy năm 2017

của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội, Đài Loan)

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

 

3.3.1.3. Chúc lụy nhân thiên lưu thông (phần lưu thông: Dặn Ḍ trời người)

 

          Những phần [Lưu Thông] trên đây được gọi là Biệt v́ dành riêng cho kinh này. Ở đây, [phần lưu thông này] được gọi là Thông, v́ kinh nào cũng chúc lụy. Tuy vậy, do nó thuộc vào kinh này, nên tuy thông mà vẫn là biệt. Phần này lại được chia thành hai phần:

 

3.3.1.3.1 Phẩm đề (tựa đề của phẩm này)

 

          (Kinh) Chúc lụy nhân thiên phẩm đệ thập tam.

          ()囑累人天品第十三

          (Kinh: Phẩm thứ mười ba: Dặn ḍ trời người).

 

3.3.1.3.2. Phẩm văn (kinh văn trong phẩm này)

3.3.1.3.2.1. Hóa chủ ưu thiên nhân chúc lụy (đấng hóa chủ lo lắng cho trời người nên căn dặn)

3.3.1.3.2.1.1. Thế Tôn ma đảnh phó chúc (đức Thế Tôn xoa đầu, căn dặn)

3.3.1.3.2.1.1.1. Hô danh đại tán công đức (gọi tên, nồng nhiệt khen ngợi công đức)

3.3.1.3.2.1.1.1.1. Tự cử tư ma đảnh (trần thuật chuyện đức Phật giơ tay xoa đầu [Địa Tạng Bồ Tát])  

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cử kim sắc tư, hựu ma Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đảnh.

          ()爾時世尊舉金色臂又摩地藏菩薩摩訶薩頂。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại giơ cánh tay sắc vàng xoa đỉnh đầu Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát).

 

          “Nhĩ” () ở đây có nghĩa là “tức” (ngay lập tức); tức là ngay sau khi đức Phật giảng cho ngài Quán Âm về lợi ích do thấy nghe [Địa Tạng Bồ Tát] đă xong, chính là lúc sẽ đem trời, người giao phó cho Địa Tạng (đấy chính là Thế Giới Tất Đàn). Hơn nữa, đại hội đă nghe hai lượt lưu thông của địa thần và Quán Âm, đă được hoan hỷ rồi, đúng là lúc hăy nên nghe [đức Phật] dặn ḍ [Bồ Tát giúp cho] trời người sanh trưởng điều lành (đấy chính là Vị Nhân Tất Đàn). Lại nghe những chuyện lợi ích chẳng thể nghĩ bàn trên đây, chính là cái duyên để phá trừ các pháp ác đọa khổ; khi ấy, chính là lúc đại chúng càng muốn nghe [đức Phật] dặn ḍ ngài Địa Tạng cứu bạt, ḥng vĩnh viễn đối trị các điều ác (đấy là Đối Trị Tất Đàn). Lại do đă nghe hai phen nói về những chuyện chẳng thể nghĩ bàn trên đây mà đắc đạo đă xong, nay là lúc nên nghe phó chúc giúp cho đại chúng trong pháp hội không ai chẳng ngộ lư (đấy là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn). Do có bốn nhân duyên Tất Đàn để tuyên nói sự phó chúc lần nữa, cho nên nói là “nhĩ thời” (lúc bấy giờ).

          “Cử kim sắc tư” (giơ cánh tay sắc vàng): Kim sắc vốn có màu vàng, biểu thị Trung Đạo. Cánh tay có công năng nâng đỡ, biểu thị d́u dắt lục đạo đều cùng về Trung Đạo nhất tánh, cho nên lại giơ lên. Trong những phần trước, [đức Phật] xoa đỉnh đầu nhằm ủy lạo Bồ Tát độ sanh vất vả; nay xoa đỉnh đầu [với dụng ư]: Chúc lụy Bồ Tát hăy nhọc công cứu bạt. Một tay xoa đầu của vô lượng Bồ Tát trong phần trước biểu thị “một, nhiều tự tại”. Nay tay xoa một đỉnh đầu, biểu thị “vốn cùng một đạo”, tức là lục đạo và chín pháp giới trọn chẳng phải là hai đạo!

 

3.3.1.3.2.1.1.1.2. Thán chúng đức phả tư (tán thán các công đức chẳng thể nghĩ) 

 

          (Kinh) Nhi tác thị ngôn: - Địa Tạng! Địa Tạng! Nhữ chi thần lực bất khả tư nghị. Nhữ chi từ bi bất khả tư nghị. Nhữ chi trí huệ bất khả tư nghị. Nhữ chi biện tài bất khả tư nghị.

          ()而作是言地藏地藏。汝之神力不可思議。汝之慈悲不可思議。汝之智慧不可思議。汝之辯才不可思議。

          (Kinh: Mà nói như thế này: - Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông chẳng thể nghĩ bàn. Ḷng từ bi của ông chẳng thể nghĩ bàn. Trí huệ của ông chẳng thể nghĩ bàn. Biện tài của ông chẳng thể nghĩ bàn).

 

          Đức Thế Tôn đặc biệt đối trước đại hội trời, người, liên tiếp gọi tên của đức Địa Tạng, đúng là yêu mến sâu đậm, gởi gấm sâu nặng. Như đại vương của một nước sắp băng hà, trữ quân (儲君, người nối ngôi, tức Thái Tử) non nớt, ngu hèn, muốn kư thác con côi cho bậc đại thần phù tá, ắt nắm tay, nhiều lần gọi “ái khanh”. Do con thơ ấu mà đất nước to rộng, ngày tháng dài lâu, tâm vời vợi, đầy ắp trong dạ nỗi niềm chẳng thể nói trọn hết được. V́ thế, đức Phật giơ cánh tay xoa đầu, gọi tên Bồ Tát hai lượt. Từ “nhữ chi thần lực” (thần lực của ông) trở đi, đức Phật tự tán thán công đức của Bồ Tát. Như quốc vương phó thác sự việc, trước hết cũng tán thán phẩm đức của vị lăo thần. Nay chúng sanh trong cơi Diêm Phù chí tánh vô định, nếu không cậy vào bậc tài năng siêu quần, sao có thể cứu cơi âm lẫn cơi dương trong các quốc độ số nhiều như cát?

          V́ thế, các đức được tán thán tiếp đó, chẳng ra ngoài “năng hóa tam luân”[1]. Câu đầu tiên, tán thán thân luân hiện thần thông. Các thánh chẳng thể lường được th́ gọi là Thần. Bát tự tại ngă[2] th́ gọi là Lực. “Bất khả tư nghị” (chẳng thể nghĩ bàn): Theo Đại Luận, có năm sự chẳng thể nghĩ bàn, tức là: Chúng sanh số lượng nhiều hay ít, quả báo của nghiệp, sức của người tọa Thiền, sức của các con rồng, và sức của chư Phật. Phật lực chẳng thể nghĩ bàn nhất! Bồ Tát nhập Thiền Định, sanh ra thần thông chẳng thể nghĩ bàn (tức thần thông nhanh chóng trọn khắp như ư). V́ thế, trong một niệm, đều có thể đến các thế giới Phật trong mười phương, hiện vô lượng thân. Hết thảy hiền thánh chẳng thể hành, chẳng thể đạt đến, cho nên chẳng thể nghĩ bàn!

          Nhưng thân luân hiện thần thông, ắt do ư luân soi xét căn cơ mà khởi. Ư luân chính là từ bi ban vui, dẹp khổ. Nếu muốn ban vui và dẹp khổ, ắt phải hiện thần thông, cho nên nói “thân luân do ư”. Đấy chính là Địa Tạng đại từ, đại bi, thật sự có thể trong cùng một lúc mà thực hiện ban vui và dẹp khổ trọn khắp, cho nên chẳng thể nghĩ bàn. Nhưng tuy nói là “nội giám, ngoại hiện” (trong tâm xét soi, ngoài hiện thần thông), mà nếu chẳng có trí huệ, biện tài, sao có thể thuyết pháp phù hợp căn cơ? V́ thế biết: “Trí huệ biện tài” chính là tán thán khẩu luân. Bởi lẽ, thần thông nơi thân nếu chẳng phải do trí huệ th́ sẽ chẳng thể chuyển!

          V́ vậy, Long Thọ Bồ Tát nói: “Do v́ sức trí huệ, có thể chuyển hết thảy các pháp. Tức là nhỏ có thể biến thành lớn, lớn có thể biến thành nhỏ. Có thể coi ngàn vạn vô lượng kiếp như một ngày, lại có thể biến một ngày thành ngàn vạn kiếp. Vị Bồ Tát ấy là chủ của thế gian, mong muốn tự tại, có nguyện nào chẳng thỏa. Do nhân duyên ấy, Bồ Tát nương vào sức thần thông, có thể nhanh chóng vượt thoát mười phương thế giới”. Há chẳng phải trí huệ chính là cội gốc của thần thông ư? Kinh Thập Luân dạy: “Trí huệ thâm quảng, do như đại hải, biện tài vô trệ, như thủy khích luân, cố bất khả tư nghị” (Trí huệ sâu rộng, ví như biển cả; biện tài không úng trệ, như nước đẩy guồng quay nước. Cho nên chẳng thể nghĩ bàn). Đấy là do Đại Sĩ trọn đủ tam luân bí mật, cho nên có thể hiện thân trong các cơi nhiều như cát. Đức Phật tán thán công đức của Địa Tạng, há có phải là uổng công ư?

 

          (Kinh) Chánh sử thập phương chư Phật, tán thán tuyên thuyết nhữ chi bất tư nghị sự, thiên vạn kiếp trung bất năng đắc tận.

          ()正使十方諸佛讚歎宣說汝之不思議事千萬劫中不能得盡。

          (Kinh: Dẫu mười phương chư Phật tán thán, tuyên nói những chuyện chẳng thể nghĩ bàn của ông trong ngàn kiếp, vẫn chẳng thể trọn hết được).

 

          Từ chữ “chánh sử” (dẫu cho, giả sử) trở đi, tuyên thuyết chư Phật cũng [tán thán] giống như thế. “Chánh” là nói đối ứng với “giả”. Nếu nói là “giả sử” th́ vẫn có phần nào mang ư nghĩa phù phiếm, cho nên nói “chánh sử” th́ mới là lời lẽ biểu lộ sự chân thật; nhưng v́ sao Địa Tạng Đại Sĩ lại có thể khiến cho mười phương chư Phật tán thán? Như Đại Luận có nói: “Nếu có vị Bồ Tát nào trọn đủ vô lượng Phật pháp thanh tịnh như Lục Ba La Mật, Thập Lực, Tứ Vô Sở Úy, Tứ Vô Ngại Trí, Thập Bát Bất Cộng v.v… nơi Thập Địa, do v́ chúng sanh mà trụ dài lâu trong sanh tử, chẳng giữ lấy A Nậu Bồ Đề để rộng độ chúng sanh, th́ vị Bồ Tát như thế sẽ được chư Phật tán thán”. Chính v́ lẽ này, chư Phật đồng thanh tán thán. Nhưng lại v́ lẽ nào mà tán thán, diễn nói chuyện ấy trong ngàn vạn kiếp vẫn chẳng thể trọn hết? Cũng như luận đă nói: “Bồ Tát thoát khỏi tam giới, biến hóa vô ương số[3] thân, vào trong sanh tử giáo hóa chúng sanh. Chuyện hy hữu như thế đều sanh từ trí huệ Bát Nhă Ba La Mật rất sâu”. Đấy chính là ư nghĩa tán thán chẳng thể trọn hết ở đây!

 

3.3.1.3.2.1.1.2. Hô danh tái chúc nhân thiên (gọi tên, phó chúc nhân thiên lần nữa)

3.3.1.3.2.1.1.2.1. Trường Hàng

3.3.1.3.2.1.1.2.1.1. Hỏa trạch chúng sanh vật linh đọa khổ (đừng để chúng sanh trong nhà lửa đọa khổ)

3.3.1.3.2.1.1.2.1.1.1. Chánh dĩ tam giới thiên nhân phó chúc (phó chúc trời, người trong tam giới)

 

          (Kinh) Địa Tạng! Địa Tạng! Kư ngô kim nhật tại Đao Lợi thiên trung, ư bách thiên vạn ức bất khả thuyết bất khả thuyết nhất thiết chư Phật, Bồ Tát, thiên, long bát bộ đại hội chi trung.

          ()地藏地藏記吾今日在忉利天中。於百千萬億不可說不可說一切諸佛菩薩天龍八部大會之中。

          (Kinh: Địa Tạng! Địa Tạng! Hăy nhớ ta hôm nay, ở trên trời Đao Lợi, giữa đại hội của trăm ngàn vạn ức bất khả thuyết bất khả thuyết hết thảy chư Phật, Bồ Tát, trời rồng tám bộ).

         

          Gọi tên lần trước là tiếng vui mừng ái ngữ; c̣n gọi tên trong đoạn này là tiếng buồn thương, đau khổ. Trong phần trên là tán thán công đức, c̣n nay là phó chúc sự việc. Từ chữ “kư ngô” (hăy nhớ ta) trở đi là lời dặn ḍ mai sau đừng quên; như di mạng của cha, hiếu tử hăy khắc cốt chớ quên! Nói “đại hội” là nhờ đại chúng chứng minh, nêu rơ đây là đại sự, chẳng phải là chuyện vặt vănh! Chuyện này khác với chuyện trong hội Pháp Hoa, ông trưởng giả tụ tập thân tộc để tuyên bố giao gia nghiệp cho con. V́ sao? [Trong hội Pháp Hoa, đứa con] là căn cơ đă được [ông trưởng giả] giáo hóa lâu ngày. Tới lúc ấy, đại công đă thành tựu, tụ tập đại chúng giao phó gia nghiệp là chuyện thuận theo t́nh thế đă đi vào khuôn khổ, có khó khăn ǵ? Trong hội này, giao phó những chúng sanh chưa được điều phục, ngơ hầu Phật chủng chẳng bị gián đoạn, giống như cứu con rơi vào nước lửa, trọn chẳng biết kết cục sẽ như thế nào? V́ thế khác nhau!

 

          (Kinh) Tái dĩ nhân thiên chư chúng sanh đẳng, vị xuất tam giới, tại hỏa trạch trung giả, phó chúc ư nhữ, vô linh thị chư chúng sanh đọa ác thú trung, nhất nhật, nhất dạ, hà huống cánh lạc Ngũ Vô Gián, cập A Tỳ địa ngục động kinh thiên vạn ức kiếp, vô hữu xuất kỳ.

          ()再以人天諸眾生等未出三界在火宅中者付囑於汝。無令是諸眾生墮惡趣中一日一夜。何況更落五無間及阿鼻地獄。動經千萬億劫無有出期。

          (Kinh: Lại đem trời, người, các chúng sanh v.v… là những kẻ chưa thoát khỏi ba cơi, đang ở trong nhà lửa, giao phó cho ông, đừng để cho các chúng sanh ấy đọa vào đường ác dẫu chỉ một ngày một đêm, huống hồ c̣n rơi vào Ngũ Vô Gián và địa ngục A Tỳ trải qua ngàn vạn ức kiếp, chẳng có thuở thoát ra!)

 

          Nói “tái dĩ” (再以, lại đem), “dĩ” () hàm nghĩa “sẽ”. Trước đó, [đức Phật] đă đem trời, người giao phó, nay lại đem những người ấy làm phiền [Bồ Tát] lần nữa. “Vị xuất” (chưa thoát khỏi): Kể từ sau khi đức Phật nhập diệt cho tới khi ngài Di Lặc thành đạo, trong khoảng thời gian đó, phàm những ai đang ở trong nhà lửa ngũ dục nơi tam giới, nay ta đều dặn ḍ, phó thác cho ông, đừng để cho những kẻ ấy đọa vào ba ác đạo, dẫu chỉ tối thiểu trong thời gian một ngày một đêm, huống hồ chẳng vội vă cứu giúp, khiến cho họ lại đọa lạc vào đại địa ngục Vô Gián A Tỳ đau khổ cùng cực ngàn vạn ức kiếp, khó có lúc thoát khỏi! Mong sao các vị hiền nhân, đừng cô phụ ơn Phật, hăy sớm cầu thoát khổ, gấp vượt lên bờ yên vui, hăy gắng lên!

 

3.3.1.3.2.1.1.2.1.1.2. Phục minh sanh tánh vô định phân h́nh (lại nói rơ chúng sanh chí tánh vô định, Phật phải phân thân hóa độ)

 

          (Kinh) Địa Tạng! Thị Nam Diêm Phù Đề chúng sanh, chí tánh vô định, tập ác giả đa, túng phát thiện tâm, tu du tức thoái. Nhược ngộ ác duyên, niệm niệm tăng trưởng. Dĩ thị chi cố, ngô phân thị h́nh, bách thiên ức hóa độ, tùy kỳ căn tánh nhi độ thoát chi.

          ()地藏是南閻浮提眾生志性無定習惡者多。縱發善心須臾即退。若遇惡緣念念增長。以是之故吾分是形百千億化度隨其根性而度脫之。

          (Kinh: Này Địa Tạng! Chúng sanh trong cơi Nam Diêm Phù Đề này chí tánh vô định, phần nhiều quen theo thói ác. Dẫu phát khởi thiện tâm, trong khoảnh khắc liền lui sụt. Nếu gặp ác duyên, sẽ niệm niệm tăng trưởng. Do bởi cớ ấy, ta phân thân h́nh, trăm ngàn ức hóa độ, tùy theo căn tánh của họ để độ thoát).

 

          Đoạn kinh văn này bất quá nhắc lại chuyện trong phần trước, nhằm nói rơ dụng ư phó chúc của đức Phật. “Thị Nam Diêm” (cơi Nam Diêm này): Xa là nhắc đến đoạn kinh văn nói “hết thảy chúng sanh chưa giải thoát, tánh thức vô định” trong phẩm Diêm Phù Chúng Sanh Nghiệp Cảm, gần là như trong phẩm Lợi Ích Tồn Vong, ngài Địa Tạng đă bạch: “Ngă quán thị Diêm Phù chúng sanh” (con quán chúng sanh trong cơi Diêm Phù này).

          Từ chữ “dĩ thị” (do v́ cớ ấy) trở đi, nói rơ đức Phật tự phân thân, ngầm phản ánh hai đoạn kinh văn nói về chuyện ngài Địa Tạng hóa thân. Chuyện này giống như kinh Phó Pháp Tạng đă nói: “Nhất thiết chúng sanh, chí tánh vô định, tùy sở nhiễm tập. Nhược cận ác hữu, tiện tạo ác nghiệp, lưu chuyển sanh tử, vô hữu biên tế. Nhược cận thiện hữu, kính tâm thính pháp, tất ly tam đồ, thọ tối thắng lạc” (Hết thảy chúng sanh chí tánh vô định, tùy theo tập khí tiêm nhiễm [mà làm lành hay làm ác]. Nếu thân cận bạn ác, sẽ tạo ác nghiệp, lưu chuyển sanh tử, chẳng có ngằn mé. Nếu gần gũi bạn lành, tâm cung kính nghe pháp, ắt ĺa tam đồ, hưởng sự vui tối thắng). Như con voi trắng ở nước Hoa Thị, nghe pháp bèn sanh ḷng Từ, thấy giết chóc bèn tăng thêm sự họa hại. Huống chi con người mà chẳng bị ảnh hưởng bởi tập khí tiêm nhiễm ư? Nhưng làm lành giống như trèo núi, đương nhiên là khó thể lên cao hơn. Ác giống như sụp lở, rất dễ chuyển dời! Đấy chính là cung trời rộng mênh mông, ít kẻ đạt tới; lồng giam địa ngục, người ta cứ tranh nhau chen vào. Do vậy, hăy nhận biết nguyên do v́ sao ta phân thân hóa độ!

 

3.3.1.3.2.1.1.2.1.2. Thiểu thiện chúng sanh vật linh thoái thất (đừng để cho chúng sanh ít điều thiện bị lui sụt)

3.3.1.3.2.1.1.2.1.2.1. Chủng thiểu thiện ủng hộ vật thoái (hăy ủng hộ khiến cho những người ít gieo thiện căn đừng lui sụt)

         

          (Kinh) Địa Tạng, ngô kim ân cần dĩ thiên nhân chúng, phó chúc ư nhữ.    ()地藏吾今殷勤以天人眾付囑於汝。

          (Kinh: Này Địa Tạng! Ta nay ân cần phó chúc chúng trời người cho ông).

 

          Hai câu đầu nhắc lại chuyện trên đây, nhưng thấy hai chữ “ân cần”, bất giác tuôn lệ! “Ân” () là tràn trề. “Cần” () là nhọc nhằn, tâm phải khéo léo suy xét sao cho thích ứng căn cơ, tức là cái tâm lo lắng cho những chuyện được kể sau đó. Thân hết sức vất vả, tâm phải xét suy cặn kẽ, khăng khăng vâng giữ chu toàn, chẳng dám lơi lỏng chút nào! Nay đức Phật v́ chúng sanh trong đời vị lai, khuất thân cao quư, [thị hiện] kém cỏi [giống như chúng sanh], khuất phần cao thượng để ḥa đồng với những căn cơ bậc hạ, chẳng biết phải diễn tả như thế nào [ḷng cảm kích của ta]?

 

          (Kinh) Vị lai chi thế, nhược hữu thiên nhân, cập thiện nam tử, thiện nữ nhân, ư Phật pháp trung chủng thiểu thiện căn, nhất mao, nhất trần, nhất sa, nhất đế, nhữ dĩ đạo lực, ủng hộ thị nhân, tiệm tu vô thượng, vật linh thoái thất.

          ()未來之世若有天人及善男子善女人於佛法中種少善根一毛一塵一沙一渧。汝以道力擁護是人漸修無上勿令退失。

          (Kinh: Trong đời vị lai, nếu có trời, người, và thiện nam tử, thiện nữ nhân, gieo chút ít thiện căn trong Phật pháp, dẫu chỉ bằng một sợi lông, một hạt bụi, một hạt cát, một giọt nước, ông hăy dùng đạo lực ủng hộ người ấy, dần dần tu đạo vô thượng, đừng để lui sụt).

 

          Từ “vị lai” trở đi, nêu rơ ư phó chúc, tức là: Hết thảy chúng sanh đều cùng có Phật tánh. Xiển Đề tuy ác, tánh thiện vẫn trọn đủ. Nếu trong đời vị lai, có các vị trời, thiện nam nữ v.v… chẳng mê muội ư niệm nguyên sơ, có thể gieo chút ít duyên nhỏ nhặt nơi ruộng phước vô thượng trong Phật pháp để tạo lập thiện căn, bất luận nhỏ nhặt chừng bằng sợi lông, hạt bụi, hạt cát, giọt nước, ông hăy nên dùng Quyền Trí đạo lực, ủng hộ những người ít thiện sự ấy, khiến cho họ dần dần tu tập A Nậu Bồ Đề (Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). Như kinh Bồ Tát Bổn Hạnh đă dạy: “Nhược hữu nhân năng ư Phật pháp, thiểu tác vi thiện như mao phát hứa, sở sanh chi xứ, thọ báo hoằng đại, vô hữu cùng tận” (nếu có người có thể làm điều thiện nhỏ nhặt trong Phật pháp chừng bằng sợi lông, mảy tóc, sẽ thọ báo to rộng nơi chỗ thọ sanh, chẳng có cùng tận). V́ thế biết: Phước bố thí do cái tâm, há liên quan vật dùng để bố thí là lớn hay nhỏ! Do vậy, ta dặn ḍ ông hăy ủng hộ, chớ để họ thoái thất giữa chừng. Như kinh Xử Thai đă dạy: “Manh quy phù mộc khổng, thời thời do khả trị. Nhân nhất thất mạng căn, ức kiếp phục nan thị. Hải thủy thâm quảng đại, tam bách tam thập lục, nhất châm đầu hải trung, cầu chi thượng khả đắc. Nhất thất nhân thân mạng, nan đắc quá ư thị” (Con rùa mù gặp được bộng cây nổi, vẫn là chuyện có thể thường gặp, chứ người một khi đă đánh mất mạng căn, ức kiếp khó có lại được. Nước biển sâu rộng lớn cả ba trăm ba mươi sáu dặm, gieo một cái kim vào biển, vẫn c̣n có thể t́m được. Vừa đánh mất thân người, t́m lại khó hơn thế!) V́ thế biết: Hễ lui sụt, sẽ mất mát chẳng nhỏ. Nay nguyện Địa Tạng hăy như mẹ hiền nuôi nấng con thơ, ắt khiến cho con được trưởng thành, chẳng lười nhác tí nào để đến nỗi con chết yểu! Do vậy, đó là nỗi khổ tâm ta nay trong đại hội trên cung trời Đao Lợi, ân cần đem đại chúng trời người phó chúc cho ông.

 

3.3.1.3.2.1.1.2.1.2.2. Niệm Phật kinh toái ngục sanh thiên (do niệm kinh Phật mà địa ngục tan vỡ, sanh lên trời)

3.3.1.3.2.1.1.2.1.2.2.1. Tùy nghiệp đọa lạc ác thú (theo nghiệp mà phải đọa lạc trong đường ác)    

 

          (Kinh) Phục thứ Địa Tạng! Vị lai thế trung, nhược thiên, nhược nhân, tùy nghiệp báo ứng, lạc tại ác thú.

          ()復次地藏未來世中若天若人隨業報應落在惡趣。

          (Kinh: Lại này Địa Tạng! Trong đời vị lai, dù trời hay người, theo nghiệp báo ứng rơi vào trong đường ác).

 

          Kinh dạy: “Giả sử bách thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ” (giả sử trăm ngàn kiếp, nghiệp đă tạo chẳng mất, khi nhân duyên hội ngộ, vẫn tự chịu quả báo). V́ thế biết: Như bóng theo h́nh, ai có thể trốn tránh? Xưa kia có người chết đi, tới chỗ Diêm Vương, tra xét tội ác của kẻ đó, đáng đọa vào thiết thành. Chị của người ấy chính là chánh phi của vua, bèn năn nỉ vua: “Hăy nghĩ tưởng tôi là em vua, chớ trị tội ấy”. Vua dặn người ấy: “Hăy ở trong cung của ta, đừng ra ngoài, kẻo bị ngục lại (獄吏, những kẻ chấp pháp trong địa ngục) bắt đi. Kẻ đó bất giác tự đến thiết thành, vua chẳng thể cứu được! Theo nghiệp thọ báo, chẳng hề miễn cưỡng mảy may! Theo kinh Nghiệp Báo Sai Biệt, đọa vào bốn đường ác, mỗi đường có mười nghiệp.

 

3.3.1.3.2.1.1.2.1.2.2.2. Thần lực phương tiện cứu bạt (dùng thần lực để tạo phương tiện cứu vớt)

 

          (Kinh) Lâm đọa thú trung, hoặc chí môn thủ, thị chư chúng sanh nhược năng niệm đắc nhất Phật danh, nhất Bồ Tát danh, nhất cú, nhất kệ Đại Thừa kinh điển. Thị chư chúng sanh, nhữ dĩ thần lực phương tiện cứu bạt. Ư thị nhân sở, hiện vô biên thân, vị toái địa ngục, khiển linh sanh thiên, thọ thắng diệu lạc.

          ()臨墮趣中或至門首。是諸眾生若能念得一佛名一菩薩名一句一偈大乘經典。是諸眾生汝以神力方便救拔。於是人所現無邊身為碎地獄。遣令生天受勝妙樂。

          (Kinh: Ở trong đường ác, hoặc đến cửa ngơ, các chúng sanh ấy nếu có thể niệm một danh hiệu Phật, một danh hiệu Bồ Tát, một câu một kệ kinh điển Đại Thừa, ông hăy dùng thần lực tạo phương tiện cứu bạt các chúng sanh ấy. Ở chỗ người ấy, hiện vô biên thân, v́ họ phá nát địa ngục, khiến cho người ấy sanh lên trời, hưởng vui sướng thù thắng, nhiệm mầu).

 

          “Lâm đọa, chí môn thủ” (đă bị đọa, đến cửa ngơ): Nếu đă đến địa ngục, rất khó thoát ra. V́ thế, lúc sắp vào đó, liền dạy họ niệm Phật để tránh khổ. Như kinh Thí Dụ có dạy: “Tích hữu quốc vương, thí phụ tự lập. Hữu A La Hán, tri vương dư mạng, bất quá thất nhật. Mạng chung, tất đọa A Tỳ nhất kiếp thọ khổ, tầm văng hóa chi, giáo chí tâm xưng nam-mô Phật, thất nhật mạc tuyệt. Lâm khứ, trùng cáo: ‘Thận vật vong thử’. Vương tiện xoa thủ, nhất tâm xưng thuyết, trú dạ bất phế. Chí thất nhật mạng chung, hồn thần cánh chí A Tỳ. Thừa tiền niệm Phật, tri thị địa ngục, tức tiện đại thanh xưng Nam-mô Phật. Ngục trung tội nhân, văn xưng Phật thanh, nhất thời đồng xưng, mănh hỏa tức diệt, giai đắc giải thoát, xuất sanh nhân trung. Hậu A La Hán trùng vị thuyết pháp, đắc Tu Đà Hoàn” (Xưa kia có quốc vương, giết cha để tự làm vua. Có một vị A La Hán biết vua c̣n sống chẳng quá bảy ngày; sau khi chết, ắt đọa vào A Tỳ chịu khổ một kiếp, liền đến giáo hóa. Dạy vua hăy chí tâm xưng “nam-mô Phật” trong suốt bảy ngày, đừng để dứt tuyệt. Lúc sắp ra đi, Ngài lại căn dặn: “Hăy cẩn thận, đừng quên chuyện này”. Vua bèn chắp tay, nhất tâm xưng nói, ngày đêm chẳng bỏ. Tới hết ngày thứ bảy, vua mạng chung, hồn thần bèn đến A Tỳ. Do sức niệm Phật trước kia, biết đó là địa ngục, liền lớn tiếng xưng Nam-mô Phật. Tội nhân trong ngục nghe tiếng niệm Phật, đồng thời cùng xưng. Lửa dữ liền tắt, họ đều được sanh trong loài người. Về sau, họ lại được A La Hán thuyết pháp, đắc quả Tu Đà Hoàn).

          Kinh Quán Phật Tam Muội lại chép: Đức Phật bảo các tỳ-kheo: “Ngă diệt độ hậu, nhược xưng ngă danh, nam-mô chư Phật, sở hoạch phước đức, vô lượng vô biên” (Sau khi ta diệt độ, nếu xưng danh ta, hoặc Nam-mô chư Phật, sẽ đạt được phước đức vô lượng vô biên). Trong kinh Đại Từ, đức Phật bảo A Nan: “Nam-mô Phật giả, thử thị quyết định chư Phật Thế Tôn danh hiệu âm thanh. Cố xưng ngôn nam-mô chư Phật” (Nam-mô Phật, đấy chính là âm thanh danh hiệu quyết định của chư Phật Thế Tôn. V́ thế, xưng nam-mô chư Phật). Kinh Tăng Nhất A Hàm dạy: “Chúng sanh tam nghiệp tạo ác, lâm chung ức niệm Như Lai công đức giả, tất ly ác đạo thú, đắc sanh thiên thượng. Chánh sử cực ác chi nhân, dĩ niệm Phật cố, diệc đắc sanh thiên” (Chúng sanh ba nghiệp làm ác, lâm chung nghĩ nhớ công đức của Như Lai, ắt ĺa khỏi đường ác, được sanh lên trời. Dẫu là kẻ cực ác, nhưng do niệm Phật, cũng được sanh lên trời).

          “Nhất Bồ Tát danh” (danh hiệu của một vị Bồ Tát) như Văn Thù, Biến Cát, Quán Âm, Thế Chí v.v… liền được độ thoát, chẳng thể nêu trọn. “Nhất cú, nhất kệ” (một câu, một bài kệ): Phổ Hiền Quán Kinh dạy: “Nhược tụng Đại Thừa kinh, tư Đệ Nhất Nghĩa, thậm thâm không pháp. Ư nhất đàn chỉ khoảnh, trừ bách vạn ức na-do-tha Hằng hà sa kiếp sanh tử chi tội” (Nếu tụng kinh Đại Thừa, nghĩ pháp Không rất sâu thuộc Đệ Nhất Nghĩa, trong khoảng khảy ngón tay, trừ tội trong trăm vạn ức na-do-tha Hằng hà sa kiếp sanh tử).

          Minh Báo Kư chép: Một người họ Vương sắp đọa địa ngục, bỗng gặp một vị Tăng, xưng là Địa Tạng Bồ Tát, dạy ông ta tụng thuộc bài kệ “nhược nhân dục liễu tri” (nếu ai muốn biết rơ), sẽ có thể tránh khỏi địa ngục. Trong chốc lát, ông ta bị gọi đến trước Diêm Vương. Vua hỏi: “Có công đức ǵ không?” Thưa: “Tôi chỉ tŕ một bài kệ”. Vua bảo tụng ra, tiếng tụng vang khắp địa ngục. Tội nhân nghe tiếng, đều được giải thoát. Vua liền sai thả về. Chàng họ Vương bèn gắng sức tu thiện. Đấy chẳng phải là điều chứng nghiệm đức Địa Tạng hiện thần lực làm tan địa ngục, sanh thiên, hưởng vui ư? V́ thế biết: Niệm danh hiệu Phật, danh hiệu Bồ Tát, và tụng kinh kệ, đều được siêu thoát, hưởng niềm vui nhiệm mầu, thù thắng!

 

3.3.1.3.2.1.1.2.2. Kệ tụng

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết kệ ngôn: “Hiện tại, vị lai thiên nhân chúng, ngô kim ân cần phó chúc nhữ. Dĩ đại thần thông phương tiện độ, vật linh đọa tại chư ác thú”.

          ()爾時世尊而說偈言。現在未來天人眾吾今慇勤付囑汝。以大神通方便度勿令墮在諸惡趣。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói kệ như sau: “Chúng trời người hiện tại, vị lai, ta nay ân cần phó chúc ông. Dùng đại thần thông, phương tiện độ, đừng để đọa vào các đường ác”).

 

          Trời người trong hiện tại và vị lai tánh đă vô định, có thể sẽ tạo ác nghiệp, lại rơi vào tam đồ, đều trông cậy ngài Địa Tạng thi triển thần thông to lớn, dùng phương tiện lạ, khiến cho họ đều được độ thoát, chẳng bị lưu chuyển nữa!

 

3.3.1.3.2.1.2. Địa Tạng hỗ quỳ[4] thừa chỉ (ngài Địa Tạng quỳ lạy, vâng lănh chỉ dụ)

3.3.1.3.2.1.2.1. Kinh sơ tự nghi (người trùng tuyên trần thuật)

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát hồ quỳ, hiệp chưởng.

          ()爾時地藏菩薩摩訶薩胡跪合掌。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát hồ quỳ, chắp tay).

 

3.3.1.3.2.1.2.2. Đại Sĩ lănh mạng (Đại Sĩ nhận lệnh)

3.3.1.3.2.1.2.2.1. An ủy Thế Tôn (an ủi đức Thế Tôn)

 

          (Kinh) Bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Duy nguyện Thế Tôn, bất dĩ vi lự”.

          ()白佛言世尊唯願世尊不以為慮。

          (Kinh: Bạch cùng Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Kính xin đức Thế Tôn đừng lo lắng”).

 

          Những câu này đều dễ hiểu.

 

3.3.1.3.2.1.2.2.2. Độ thoát chúng sanh

3.3.1.3.2.1.2.2.2.1. Thiểu thiện giải thoát sanh tử ([hứa sẽ] giải thoát sanh tử cho những kẻ ít thiện căn)

 

          (Kinh) Vị lai thế trung, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, ư Phật pháp trung, nhất niệm cung kính, ngă diệc bách thiên phương tiện độ thoát thị nhân, ư sanh tử trung, tốc đắc giải thoát.

          ()未來世中若有善男子善女人於佛法中一念恭敬我亦百千方便度脫是人於生死中速得解脫。

          (Kinh: Trong đời vị lai, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân đối với Phật pháp một niệm cung kính, con cũng dùng trăm ngàn phương tiện độ thoát người ấy, khiến cho họ trong đường sanh tử mau được giải thoát).

 

          Cái tâm nhỏ bé trong hiện tiền, quá nhỏ, quá mỏng manh; v́ thế nói là “nhất niệm”. Phật Thuyết Tứ Tự Xâm Kinh chép: “Vị kiến quần loại, cẩu hoài nhất giới, chí bất chuyển dịch. Giả sử hữu nhân, chí tâm dục độ, đương đế tư kế, nhất tâm hành đạo, đương tri vô thường. Giả tá thị thân, vạn vật quy không, giai phi ngă sở. Hiểu tri vô giả, tắc độ thiên hạ thập phương nhân dân. Cố tri thiên niệm, vạn niệm, thỉ hồ sơ niệm” (Chưa thấy các loài, nếu ôm ấp một niệm nhỏ nhoi, chí chẳng chuyển đổi. Giả sử có người, chí tâm muốn cứu độ, hăy nên suy tính kỹ càng, nhất tâm hành đạo. Hăy nên biết là vô thường. Hư giả cậy vào tấm thân này, vạn vật đều là Không, chẳng phải là cái thuộc về ta. Đă hiểu biết là Không, bèn độ nhân dân trong mười phương khắp thiên hạ. V́ thế biết: Ngàn niệm hay vạn niệm, đều bắt nguồn từ một niệm ban đầu). Chỉ do một niệm ấy liền cảm ḷng từ bi thích che chở của đức Địa Tạng và xót thương muôn loài quần sanh, Ngài sẽ khiến cho họ mau chóng được giải thoát khỏi sanh tử, há c̣n ngờ chi!

 

3.3.1.3.2.1.2.2.2.2. Thâm tu bất thoái đạo quả (tu đạo quả bất thoái sâu xa)

 

          (Kinh) Hà huống văn chư thiện sự, niệm niệm tu hành, tự nhiên ư vô thượng đạo, vĩnh bất thoái chuyển.

          ()何況聞諸善事念念修行。自然於無上道永不退轉。

          (Kinh: Hà huống những người nghe nói các thiện sự, niệm niệm tu hành, tự nhiên sẽ vĩnh viễn chẳng thoái chuyển nơi vô thượng đạo).

 

          “Hà huống” trong đoạn kinh văn này có nghĩa là: Do một niệm cung kính rất bé c̣n được giải thoát sanh tử, huống hồ những ai nghe các điều thiện, niệm niệm tu hành chẳng gián đoạn ư? Kinh Tứ Tự Xâm dạy: “Đạo nhân quán sát khả phủ chi sự. Nội tự tỉnh thân, thí như mộng huyễn. Dụ như quân chinh, bách vạn chi chúng, thị hỗ danh tướng, dĩ khước oán địch. Đạo nhân phục tâm chế ư, tu pháp, phụng đạo, thuận hành giới cấm, thân ư thanh bạch, bố ân, thí đức, trừ khí phẫn nộ, kiêu, xa, tránh tụng, chuyên tinh hành đạo, vô đắc, vô ngại, chí tại quỹ tích. Nhược tướng soái chúng dă, tiên tự chánh tâm, nhĩ năi thân hành. Thân tâm câu chánh, tắc vô sở thất. Dĩ vô sở thất, đắc đạo tuyệt khứ” (Người tu đạo xem xét chuyện có thể thực hiện hay không. Trong là tự xét lại bản thân ví như mộng huyễn. Giống như đi đánh trận, trăm vạn người cậy nhờ vị danh tướng để chống lại oán địch. Người tu đạo chế phục tâm ư, tu pháp, vâng theo đạo, vâng giữ giới cấm, thân ư trong sạch, ban ân, thí đức, trừ bỏ phẫn nộ, kiêu căng, xa xỉ, tranh căi, chuyên ṛng hành đạo, không thấy có ǵ để đạt được, không có ǵ trở ngại, dốc chí noi theo đường lối tu tập. Như vị tướng thống lănh đại chúng, trước hết tự chánh cái tâm của ḿnh. Do vậy, cái thân sẽ tuân theo. Thân lẫn tâm đều chánh, cho nên chẳng có lầm lỗi. Do không có lầm lỗi, chắc chắn đạt đạo). Do vậy, kinh Thập Luân dạy: “Chiếu hành thiện giả, do như lăng nhật” (chiếu soi người làm lành giống như mặt trời rạng rỡ). V́ thế, có thể khiến cho hành nhân vĩnh viễn chẳng thoái chuyển vô thượng đạo!

 

3.3.1.3.2.2. Không Tạng vấn chiêm lễ phước lợi (ngài Hư Không Tạng hỏi về phước lợi do chiêm ngưỡng, lễ bái)

3.3.1.3.2.2.1. Thuật tán vấn phước lợi (trần thuật chuyện tán thán, thưa hỏi phước lợi)

3.3.1.3.2.2.1.1. Kinh gia đề danh (người trùng tuyên kinh nêu ra danh hiệu của vị thỉnh vấn)

 

          (Kinh) Thuyết thị ngữ thời, hội trung hữu nhất Bồ Tát, danh Hư Không Tạng.

          ()說是語時會中有一菩薩名虛空藏。

          (Kinh: Khi nói lời ấy, trong hội có một vị Bồ Tát tên là Hư Không Tạng).

 

          Tiếng Phạn là Nga Nga Nẵng Hiến Nhạ (Gaganagañja)[5], phương này dịch là Hư Không Tạng. Kinh này khởi đầu bằng lời thưa hỏi của đức Văn Thù, hàm ư: Chẳng phải là bậc đại trí, sẽ chẳng thể biết nổi đầu mối của đức Địa Tạng. Kết thúc bằng ngài Hư Không Tạng tổng kết kinh, hàm ư: Chẳng phải là thái hư, sao có thể ẩn mất dấu tích hóa hiện của Đại Sĩ! Đấy chính là ư nghĩa “gom Hữu về Không, toàn thể Giả chính là Không” vậy. Ngài Hư Không Tạng hỏi về phước lợi, tức là ư nghĩa “từ Không mà bàn luận Hữu, toàn thể Không chính là Giả”. Không và Giả bất nhị, bản thể của chúng là Trung, viên dung diệu hạnh, đồng quy bí tạng. V́ thế, kết thúc bằng ngài Hư Không Tạng.

          Theo kinh Hư Không Tạng Bồ Tát, ở phía Tây của Sa Bà, qua khỏi tám mươi Hằng hà sa thế giới, có cơi Phật tên là Nhất Thiết Hương Tập Y, chúng sanh trong ấy thành tựu Ngũ Trược. Đức Phật tên là Thắng Hoa Phu Tạng Như Lai. Cơi ấy có Bồ Tát tên là Hư Không Tạng; trên đỉnh đầu có bảo châu Như Ư, vô lượng báu Thích Ca Tỳ Lăng Già vây quanh. Quang minh của châu ấy che lấp những quang minh khác, khiến chúng đều ẩn mất chẳng sót. Tất cả công đức của Ngài, chỉ trừ Như Lai, không ai sánh bằng. Theo Mật Bộ, Ngài chính là một trong bốn vị Bồ Tát thân cận Tỳ Lô Như Lai, từ Bảo Ba La Mật lưu xuất Nam phương Bảo Sanh Bộ. Đấy chính là vị Bồ Tát đang được nói trong kinh này.

 

3.3.1.3.2.2.1.2. Đương cơ phát vấn (bậc đương cơ thưa hỏi)

3.3.1.3.2.2.1.2.1. Văn thán trí thỉnh (nghe tán thán bèn thưa hỏi)

3.3.1.3.2.2.1.2.1.1. Thuật văn thần lực phả tư (trần thuật chuyện nghe thần lực chẳng thể nghĩ [của Địa Tạng Bồ Tát])

 

          (Kinh) Bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă tự chí Đao Lợi, văn ư Như Lai tán thán Địa Tạng Bồ Tát oai thần thế lực bất khả tư nghị.

          ()白佛言世尊我自至忉利聞於如來讚歎地藏菩薩威神勢力不可思議。

          (Kinh: Bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch đức Thế Tôn! Con từ lúc tới trời Đao Lợi, được nghe đức Như Lai tán thán oai thần và thế lực chẳng thể nghĩ bàn của Địa Tạng Bồ Tát).

 

          Mở đầu kinh, khi [đức Phật] phóng quang minh và phát ra âm thanh trọn khắp, ngài Hư Không Tạng liền đến thiên cung. Do vậy, nghe trọn vẹn từ đầu đến cuối những chuyện Như Lai tán thán ngài Địa Tạng. “Thế lực” là như kinh Tư Ích nói: “Ngă đầu túc chi xứ, chấn động tam thiên đại thiên thế giới cập ma cung điện” (chỗ ta đặt chân chấn động tam thiên đại thiên thế giới và cung điện của ma). Quán Kinh nói: “Dĩ trí huệ quang, phổ chiếu nhất thiết, linh ly tam đồ, đắc vô thượng lực” (dùng quang minh trí huệ chiếu trọn khắp hết thảy, khiến cho họ ĺa tam đồ, đạt được sức vô thượng). V́ thế nói là “thế lực”. “Bất khả tư nghị” (Chẳng thể nghĩ bàn): Đấy là hành xứ rất sâu của Bồ Tát. Tuy thí cho vạn hữu,  khiến cho chúng sanh được lợi ích, đều đạt được cái vốn sẵn có, nhưng chẳng có thật pháp, giống như hóa nhân hóa hiện các sự biến hóa, bất quá khiến cho người khác được vui sướng. Ngài Hư Không Tạng kết thúc kinh là do dụng ư này.

 

3.3.1.3.2.2.1.2.1.2. Nhân vấn phước lợi kỷ chủng (nhân đó, hỏi có mấy loại phước lợi)

         

          (Kinh) Vị lai thế trung, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, năi cập nhất thiết thiên long, văn thử kinh điển, cập Địa Tạng danh tự, hoặc chiêm lễ h́nh tượng, đắc kỷ chủng phước lợi?

          ()未來世中若有善男子善女人乃及一切天龍聞此經典及地藏名字或瞻禮形像得幾種福利。

          (Kinh: Trong đời vị lai, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, và hết thảy trời, rồng nghe kinh điển này và danh tự Địa Tạng, hoặc chiêm ngưỡng, lễ bái h́nh tượng, sẽ được mấy loại phước lợi?)

 

          Theo kinh Địa Tŕ, phước chính là bố thí, tŕ giới, và nhẫn nhục. Nương theo Thiền và Tinh Tấn để tu hành bốn thứ vô lượng như Thí, Giới th́ gọi là “phước phần”. Bởi lẽ, điều thiện được gọi là “phước lợi”, cảm báo vui sướng. Nay đă đọc kinh, nghe danh hiệu, chiêm ngưỡng, lễ bái h́nh tượng, ắt đạt được phước lợi, chẳng biết có mấy loại? Cần biết: Phước lợi do tâm, tâm có thể tạo phước, nhưng tâm c̣n chẳng thể được, phước lợi há c̣n? Nhưng trong phương tiện giáo hóa, nhằm dẫn dắt chúng sanh mong cầu, hướng về, th́ phước lợi là điều trọng yếu! Huống hồ trong Mật Bộ, phàm các pháp cúng dường đều thuộc về Hư Không Khố Tạng, cho nên chuyện phước lợi càng là chuyện ngài Hư Không Tạng chuyên trách, đáng nên thưa hỏi.

 

3.3.1.3.2.2.1.2.2. Nguyện vị chúng lược thuyết (mong hăy v́ đại chúng nói đại lược)      

         

          (Kinh) Duy nguyện Thế Tôn, vị vị lai, hiện tại nhất thiết chúng đẳng, lược nhi thuyết chi.

          ()唯願世尊為未來現在一切眾等略而說之。

          (Kinh: Kính mong đức Thế Tôn hăy v́ hết thảy chúng sanh trong vị lai và hiện tại, nói đại lược cho).

 

          Ắt cầu [đức Phật] nói đại lược, hướng dẫn cửa nẻo trọng yếu để sanh ra những điều tốt lành cho chúng sanh. Kinh Thư có lời giáo huấn “tác thiện giáng tường” (làm lành th́ cát tường sẽ giáng xuống), kinh Dịch dạy rơ “tích thiện dư khánh” (chất chứa điều lành th́ niềm vui có thừa). Nếu chẳng trần thuật cặn kẽ phước lợi, chẳng khỏi ngăn trở, cách tuyệt thiện môn, cho nên mong [đức Phật] dạy đại lược. C̣n như nghiêm ngặt cầu khẩn, cúng bái để mong quỷ thần giáng phước; theo lẽ nhân quả, sợ rằng sẽ phải chịu quả báo trong chốn âm ty. Đấy chính là cái tâm cầu lợi, mong cầu tà vạy, há có thể nói là cùng một loại [với những điều phước lợi ở đây] ư?

 

3.3.1.3.2.2.2. Hứa thuyết thị lợi ích (hứa sẽ nói, dạy lợi ích)

3.3.1.3.2.2.2.1. Giới thính, hứa thuyết (răn dạy lắng nghe, hứa sẽ nói)        

 

          (Kinh) Phật cáo Hư Không Tạng Bồ Tát: - Đế thính! Đế thính! Ngô đương vị nhữ, phân biệt thuyết chi.

          ()佛告虛空藏菩薩諦聽諦聽吾當為汝分別說之。

          (Kinh: Đức Phật bảo Hư Không Tạng Bồ Tát: - Lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ v́ ông mà phân biệt nói).

 

          Phàm là người khéo thuyết pháp, sẽ là “không nói, không dạy”; người khéo nghe pháp sẽ là “không đạt được, không nghe”. Há có phân biệt dạy riêng “hăy lắng nghe” ư? Nhưng nếu cứ một mực ngầm ứng hợp lẽ Chân, sợ sẽ trở thành Đoạn Kiến. Nếu luôn luôn thuận theo Hữu, sợ sẽ thành Thường Kiến! Đoạn lẫn Thường đều là lệch lạc, tà vạy, cách xa Trung Đạo! Phải ngay trong lúc nêu ra Không mà Phi Không, nhằm lúc bàn Hữu mà Bất Hữu, chẳng dính dáng đến ngôn từ diễn tả mà lưỡi thường chuyển, chẳng ĺa âm hưởng tánh Nghe vốn là Không! Đó gọi là “khéo có thể phân biệt các pháp tướng, bất động nơi Đệ Nhất Nghĩa Đế”. Đấy chính là ư chỉ phân biệt của Như Lai, và là dụng ư lắng nghe của ngài Hư Không Tạng.

 

3.3.1.3.2.2.2.2. Biệt phân lợi ích (phân chia từng loại lợi ích riêng biệt)

3.3.1.3.2.2.2.2.1. Kiến tượng văn kinh cung tán lợi ích (lợi ích do thấy tượng, nghe kinh, cúng dường, tán thán)   

3.3.1.3.2.2.2.2.1.1. Tổng thị tu nhân (dạy chung về cách tu nhân)

 

          (Kinh) Nhược vị lai thế, hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, kiến Địa Tạng h́nh tượng, cập văn thử kinh, năi chí độc tụng, hương, hoa, ẩm thực, y phục, trân bảo, bố thí, cúng dường, tán thán, chiêm lễ.

          ()若未來世有善男子善女人見地藏形像及聞此經。乃至讀誦香華飲食衣服珍寶布施供養讚歎瞻禮。

          (Kinh: Nếu trong đời vị lai, có thiện nam tử, thiện nữ nhân thấy h́nh tượng Địa Tạng và nghe kinh này, cho đến đọc tụng, dùng hương, hoa, thức ăn, y phục, những vật quư báu để bố thí, cúng dường, tán thán, chiêm ngưỡng, lễ bái).

 

          Ư nghĩa dễ hiểu.

 

3.3.1.3.2.2.2.2.1.2. Biệt liệt ích số (kể riêng từng loại lợi ích)

 

          (Kinh) Đắc nhị thập bát chủng lợi ích: Nhất giả, thiên long hộ niệm.

          ()得二十八種利益。一者天龍護念。

          (Kinh: Đạt được hai mươi tám thứ lợi ích: Một là trời rồng hộ niệm).

 

          Câu đầu tiên là nêu tổng quát, sau đó, liệt kê từng điều riêng biệt.
“Thiên long” nắm cán cân tạo hóa, cai quản âm dương. Nước nhà nhờ ân đức bảo vệ b́nh an của họ, lê dân ngưỡng mộ công sức chở che. Nay đă đọc kinh, tŕ danh, chiêm ngưỡng, lễ bái, cúng dường, cho nên cảm trời rồng che chở, nghĩ nhớ, khiến cho thiện quả, thánh nhân (cái nhân của thánh quả) do đấy mà tăng trưởng. Gia duyên, thế sự, do vậy mà được hài ḥa. V́ thế, nêu ra đầu tiên nhằm chỉ bày cái gốc của phước lợi.

 

          (Kinh) Nhị giả, thiện quả nhật tăng. Tam giả, tập thánh thượng nhân. Tứ giả, Bồ Đề bất thoái.

          ()二者善果日增。三者集聖上因。四者菩提不退。

          (Kinh: Hai là thiện quả ngày một tăng. Ba là nhóm họp cái nhân bậc thượng của thánh nhân. Bốn là chẳng thoái thất Bồ Đề).

 

          Các sự lợi ích hai, ba, và bốn có liên quan với nhau nơi dấu tích thuộc về Sự. Quả do nhân mà tăng tấn, nhân nhờ quả mà tích tập. Nhân quả giúp đỡ lẫn nhau, tự nhiên chẳng lui sụt Bồ Đề. Như trong kinh Thập Luân, Địa Tạng bạch Phật rằng: “Ngô đương tế độ thử tứ châu chử Thế Tôn đệ tử, nhất thiết bật-sô, cập bật-sô-ni, ổ-ba-sách-ca, ổ-ba-tư-ca, linh kỳ tăng trưởng giác phần, Thánh Đế quang minh, tăng trưởng thú nhập Đại Thừa thánh đạo, tăng trưởng thành thục hữu t́nh đại từ đại bi, tăng trưởng ngũ nhăn, quán đảnh, sanh thiên, Niết Bàn. Như thị thiện quả, nhật nhật tăng trưởng” (Con sẽ tế độ các đệ tử của đức Thế Tôn trong bốn châu lục này, hết thảy các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, khiến cho họ tăng trưởng giác phần và quang minh của Tứ Thánh Đế, tăng trưởng tiến nhập Đại Thừa thánh đạo, tăng trưởng thành thục đại từ đại bi cho hữu t́nh, tăng trưởng ngũ nhăn, quán đảnh, sanh lên trời, chứng Niết Bàn. Thiện quả như vậy tăng trưởng hằng ngày).

          “Tập” () là tụ tập. Đại Luận viết: “Gặp gỡ kinh pháp, tu thiện, tŕ giới, bố thí, lễ kính v.v… chính là gieo nhân duyên Niết Bàn”. Cái nhân thánh thượng như thế, ai cũng tích tập. Cái nhân thuộc về thánh đạo thiện quả, đă tăng trưởng mỗi ngày, tự nhiên đạo tâm kiên cường, thệ lực mạnh mẽ. Tự nhiên chẳng thoái chuyển Vị, Hạnh, Niệm. “Tăng” là từ nhỏ nhiệm đạt tới hiển nhiên, mong sao trọn đủ. “Tập” là từ ít đến nhiều, những điều mong mỏi được thành tựu. Trong khoảng giữa ấy (trong lúc c̣n đang tu nhân), chẳng thoái thất Bồ Đề.

 

          (Kinh) Ngũ giả, y thực phong túc. Lục giả, tật dịch bất lâm.

          ()五者衣食豐足。六者疾疫不臨。

          (Kinh: Năm là cơm áo dư dật. Sáu là chẳng bị bệnh dịch).

 

          Điều thứ năm là cơm áo dư dật, pháp trợ đạo được trọn đủ. Áo để che thân, thức ăn để duy tŕ tánh mạng. Thân được yên, đạo sẽ hưng thịnh, nhờ vào cơm áo! Điều này tuy là tiểu duyên, nhưng có thể thành tựu đại sự. Đói rét bất an, làm sao duy tŕ đạo pháp cho nổi? V́ thế, kinh Thập Luân dạy: “Nhất thiết giai đắc như pháp sở cầu, y phục, bảo bối, y dược, sàng phu, cập chư tư cụ, vô bất bị túc” (Hết thảy đều đạt được như ḷng mong cầu đúng pháp: Quần áo, vật báu, thuốc men, giường nệm, và các thứ vật cần dùng cho cuộc sống, không ǵ chẳng đầy đủ).

          Điều thứ sáu “chẳng mắc bệnh dịch” chính là chuyện trọng yếu trong tu đạo. Bệnh chính là cái duyên khiến cho đạo bị tụt lùi, có thể khiến cho sắc lực tổn giảm. Theo kinh Trường A Hàm, [tật dịch] là do từ thế giới ở phương khác có quỷ thần đến nơi đây. Quỷ thần ở trong cơi này buông lung, dâm loạn, chẳng thể bảo vệ con người. Quỷ thần từ phương khác xâm lấn, quấy nhiễu người trong thế gian này, đánh đấm, đập quất, cướp lấy tinh khí [của con người], khiến cho ḷng người rối loạn. V́ thế, có tai họa dịch bệnh. Kinh Thập Luân dạy: “Nhược chư hữu t́nh, ác quỷ sở tŕ, thành chư bệnh giả, hữu năng cúng dường Địa Tạng Bồ Tát, nhất thiết giai đắc giải thoát vô úy, thân tâm an thích” (Nếu các hữu t́nh bị ác quỷ khống chế, thành ra các thứ bệnh, mà nếu có người cúng dường Địa Tạng Bồ Tát, th́ hết thảy đều được giải thoát, không sợ hăi, thân tâm an ổn, thoải mái). V́ thế, ắt cần phải “chẳng mắc bệnh dịch”.

 

          (Kinh) Thất giả, ly thủy hỏa tai. Bát giả, vô đạo tặc ách.

          ()七者離水火災。八者無盜賊厄

          (Kinh: Bảy là ĺa khỏi tai nạn nước lửa. Tám là không bị tai ác trộm cướp).

 

          Điều thứ bảy là ĺa khỏi tai nạn nước và lửa. Bệnh tật là nội chướng, tai họa là ngoại chướng. Tả Truyện coi “nhân hỏa” (lửa do con người đốt) là Hỏa, coi “thiên hỏa” (lửa do thiên nhiên gây ra) là Tai (trong cách viết theo lối chữ Triện, chữ Xuyên () thêm chữ Nhất ở dưới, Xuyên () và Xuyên () giống nhau), [hàm ư] sông bị úng tắc là Tai (tai họa). Sách Thuyết Văn Giải Tự ghép chữ Miên (), có nghĩa là nhà với Hỏa () tạo thành chữ Tai (), [hàm ư] lửa gây tai họa cho nhà cửa. Ở đây là nói nước bất ngờ tràn ngập, lửa đốt rực cánh đồng, tổn hại muôn vật, thương vong chúng sanh, đều là thiên tai. Kinh Thập Luân dạy: “Nhược chư hữu t́nh, vị hỏa sở phần, vị thủy sở nịch, hữu năng cúng dường Địa Tạng Bồ Tát, nhất thiết giai đắc ly chư nguy nạn, an ổn vô tổn” (Nếu các hữu t́nh bị lửa thiêu đốt, bị nước nhấn ch́m, mà có thể cúng dường Địa Tạng Bồ Tát th́ hết thảy đều được ĺa các nỗi nguy hiểm, tai nạn, an ổn, chẳng bị tổn hại). Ở đây, chẳng cần phải nói đến nước lửa trong Đại Tam Tai.

          Điều thứ tám là không bị tai ách v́ đạo tặc, [tức là] ĺa khỏi chuyện oán đối đời trước. Kinh Thập Luân dạy: “Nhược chư hữu t́nh vị chư oán tặc, quân trận, cập dư chủng chủng chư bố úy sự chi sở triền nhiễu, thân tâm chương hoàng, cụ thất thân mạng, hữu năng cúng dường, cung kính Địa Tạng Bồ Tát, nhất thiết giai đắc ly chư bố úy, bảo toàn thân mạng” (Nếu các hữu t́nh bị các thứ oán tặc, chiến tranh, và đủ mọi sự sợ hăi vây quấn, thân tâm hoảng hốt, kinh hăi, sợ mất thân mạng, mà có thể cúng dường, cung kính Địa Tạng Bồ Tát, hết thảy sẽ đều được ĺa các nỗi sợ hăi, giữ toàn vẹn thân mạng).

 

          (Kinh) Cửu giả, nhân kiến khâm kính. Thập giả, thần quỷ trợ tŕ.

          ()九者人見欽敬。十者神鬼助持。

          (Kinh: Chín là người khác trông thấy sẽ kính trọng. Mười là thần, quỷ đều giúp đỡ, bảo vệ).

 

          Điều thứ chín là người khác trông thấy khâm phục, kính trọng. Kinh Địa Tŕ dạy: “Bồ Tát chủng tánh cụ túc cố, chúng sở kính trọng, cúng dường, tán thán, ngôn tất thọ hành, vô sở vi phạm” (Do chủng tánh của Bồ Tát trọn đủ, nên được mọi người kính trọng, cúng dường, tán thán. Lời lẽ nói ra họ đều tiếp nhận, làm theo, chẳng trái phạm). Nay đă cúng dường Địa Tạng Bồ Tát, cho nên đạt được phước lợi ấy.

          Điều thứ mười là “thần, quỷ giúp đỡ, hộ tŕ”; càng là điều lợi tốt đẹp cho việc tu hành trong đời Mạt Pháp. Kinh Trường A Hàm, quyển thứ hai mươi chép: “Nhược hữu tu hành thiện pháp, kiến chánh tín hạnh, tu Thập Thiện nghiệp. Như thị nhất nhân, hữu bách thiên thần hộ” (Nếu có người tu hành thiện pháp, kiến giải [chân chánh], có hạnh chánh tín, tu Thập Thiện nghiệp, th́ người như thế sẽ có trăm ngàn vị thần hộ tŕ). Nay đă cúng dường Địa Tạng Bồ Tát, cho nên được quỷ thần giúp đỡ, hộ tŕ, tu hành chẳng bị chướng ngại!

 

          (Kinh) Thập nhất giả, nữ chuyển nam thân. Thập nhị giả, vi vương thần nữ. Thập tam giả, đoan chánh tướng hảo.

          ()十一者女轉男身。十二者為王臣女。十三者端正相好。

          (Kinh: Mười một là nữ chuyển thành nam. Mười hai là làm con gái của vua hay quan. Mười ba là tướng hảo đoan chánh).

 

          Điều thứ mười một là nữ chuyển thành nam, điều thứ mười hai là làm con gái của vua, quan; điều thứ mười ba là tướng hảo đoan chánh, ư nghĩa đều như trong các phần trước (tức là như đă giảng cặn kẽ trong phẩm thứ sáu, tức phẩm Như Lai Tán Thán).

 

          (Kinh) Thập tứ giả, đa sanh thiên thượng. Thập ngũ giả, hoặc vi đế vương. Thập lục giả, túc trí mạng thông.

          ()十四者多生天上。十五者或為帝王。十六者宿智命通。

          (Kinh: Mười bốn là phần nhiều sanh lên trời. Mười lăm là hoặc làm đế vương. Mười sáu là túc trí mạng thông).

 

          Điều thứ mười bốn là phần nhiều sanh lên trời. Theo kinh Biện Ư, có năm sự sanh thiên (tức Ngũ Giới). Kinh Thập Luân dạy: “Tùy kỳ sở ưng, an trí sanh thiên, Niết Bàn chi đạo” (Tùy theo căn cơ thích đáng, mà xếp đặt cho họ được sanh lên trời, hay an trụ trong đạo Niết Bàn). Điều thứ mười lăm là làm đế vương (Ở Tây Vực th́ như Thắng Quân (tức vua Ba Tư Nặc, Prasenajit), Ưu Điền (Udayana) v.v… Đông Độ th́ như ngũ đế, tam vương v.v…) Điều thứ mười sáu là Túc Trí Mạng Thông, tức là thấu đạt nguyên do của vận mạng. Kẻ sĩ có trăm hạnh, trí này làm đầu. Do đọc kinh và xưng danh làm sức liễu nhân vậy!

 

          (Kinh) Thập thất giả, hữu cầu giai tùng. Thập bát giả, quyến thuộc hoan lạc.

          ()十七者有求皆從。十八者眷屬歡樂。

          (Kinh: Mười bảy là có điều ǵ nguyện cầu cũng đều được thỏa. Mười tám là quyến thuộc vui sướng).

 

          Điều thứ mười bảy là có điều ǵ mong cầu đều được thỏa. Kinh Thập Luân dạy: “Nhược chư hữu t́nh hoặc vị chủng chủng thế xuất thế gian chư lợi lạc sự, ư tấn cầu thời, nhược năng cung kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát, ư nguyện măn túc” (Nếu các hữu t́nh v́ muốn làm các thứ chuyện lợi lạc thuộc thế gian hay xuất thế gian, khi sắp làm mà nếu có thể cung kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát, ư nguyện sẽ được thỏa măn). Điều thứ mười tám “quyến thuộc vui sướng” tức là tri thức ngoại hộ trong sự tu hành. Kinh Thập Luân dạy: “Nhược chư hữu t́nh, ái nhạo biệt ly, oán tắng hợp hội, hữu năng cung kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát, nhất thiết giai đắc ái nhạo hợp hội, oán tắng biệt ly” (Nếu các hữu t́nh [gặp cảnh] người yêu thích phải biệt ly, kẻ oán ghét cứ tụ họp, mà có thể cung kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát, th́ hết thảy đều được người yêu thích sẽ tụ họp, xa ĺa kẻ oán ghét).

 

          (Kinh) Thập cửu giả, chư hoạnh tiêu diệt. Nhị thập giả, nghiệp đạo vĩnh trừ.

          ()十九者諸橫消滅。二十者業道永除。

          (Kinh: Mười chín là các sự ngang trái tiêu diệt. Hai mươi là nghiệp đạo vĩnh viễn trừ diệt).

 

          Điều thứ mười chín là “các sự ngang trái tiêu diệt” như đă giải thích trong những phần trước. Điều thứ hai mươi, “nghiệp đạo vĩnh viễn trừ diệt”, do tu tập các nghiệp vô lậu như đọc kinh v.v… cho nên các nghiệp đạo hữu lậu trong tam giới đều nhất loạt trừ diệt.

 

          (Kinh) Nhị thập nhất giả, khứ xứ tận thông. Nhị thập nhị giả, dạ mộng an lạc.

          ()二十一者去處盡通。二十二者夜夢安樂。

          (Kinh: Hai mươi mốt là đi đến đâu đều thông suốt. Hai mươi hai là đêm mộng yên vui).

 

          Điều thứ hai mươi mốt là đi đến đâu đều thông suốt. Kinh Địa Tŕ dạy: “Nhân cụ túc cố, nam tướng thành tựu, kham vi nhất thiết công đức pháp khí, ư nhất thiết thời, tự tại du hư, nhất thiết chúng sanh, văng lai đồng sự. Nhân gian khoáng dă, tùy ư vô ngại” (Do con người trọn đủ, thành tựu tướng nam tử, kham làm pháp khí cho hết thảy công đức. Trong hết thảy thời, vui chơi tự tại. Lui tới đồng sự với hết thảy chúng sanh. Nơi đồng trống trong nhân gian, tùy ư vô ngại). Nay đă tu cúng dường Địa Tạng Bồ Tát, cho nên được đi lại, ra vào, đến khắp nơi đều thông đạt. Điều thứ hai mươi là “đêm ngủ, nằm mộng an lạc” đă được giải thích trong phần trước. Những điều trên dây đều là phước lợi đối với bản thân.

 

          (Kinh) Nhị thập tam giả, tiên vong ly khổ. Nhị thập tứ giả, túc phước thọ sanh.

          ()二十三者先亡離苦。二十四者宿福受生。

          (Kinh: Hai mươi ba là người đă mất thoát khổ. Hai mươi bốn là do túc phước mà thọ sanh).

 

          Điều thứ hai mươi ba là người đă khuất thoát khổ, chính là có thể giúp tổ tiên như đă nói trong phần trước. Điều kế đó là phước lợi trong tương lai. Điều thứ hai mươi bốn là “túc phước thọ sanh”. Kinh Tư Ích dạy: “Bồ Tát hữu tứ pháp, đắc tiên nhân lực, bất thất thiện căn, nhất kiến tha nhân khuyết, bất dĩ vi quá. Nhị, ư nộ nhân thường tu từ tâm. Tam, đương thuyết chư pháp nhân duyên. Tứ, thường niệm Bồ Đề” (Bồ Tát có bốn pháp khiến cho túc nhân đắc lực, chẳng mất thiện căn: Một là thấy khuyết điểm của kẻ khác, chẳng coi đó là lầm lỗi. Hai, đối với kẻ nóng giận, thường tu từ tâm. Ba, sẽ nói các pháp nhân duyên. Bốn, thường niệm Bồ Đề). Nay nhờ phước tŕ tụng, cúng dường đức Địa Tạng từ đời trước, sẽ thọ sanh trên cơi trời, hay trong nhân gian, lại c̣n hưởng phước lạc như ư.

 

          (Kinh) Nhị thập ngũ giả, chư thánh tán thán. Nhị thập lục giả, thông minh, lợi căn.

          ()二十五者諸聖讚歎。二十六者聰明利根。

          (Kinh: Hai mươi lăm, chư thánh tán thán. Hai mươi sáu, thông minh, căn tánh nhạy bén).

 

          Điều thứ hai mươi lăm là “chư thánh tán thán”. Do tu phước thù thắng, tiếng thơm truyền xa. Đại Luận viết: “Bồ Tát nghe Phật pháp rất sâu chẳng thể nghĩ bàn, có thể định tâm tin ưa, chẳng sanh nghi ngờ, hối hận. Vị Bồ Tát như thế được chư Phật ca ngợi”. Nay đă tin nhận chuyện chẳng thể nghĩ bàn của đức Địa Tạng, cho nên cảm vời chư thánh tán thán. Điều thứ hai mươi sáu là “thông minh, căn tánh nhạy bén”: Như Tuân Tử nói: “Mắt chẳng nh́n hai lần mà biết rơ, tai chẳng nghe hai lượt mà thông suốt”. Nay do nhất tâm đọc kinh, thành tựu căn cơ hành pháp (tu tập giáo pháp). Do vậy, nghĩa lư lọt vào tai, chẳng cần nghe lần nữa! Kinh sách lướt qua mắt, há phải đọc thêm một lần! Tâm ngầm hiểu biết, thông suốt, căn tánh hơn hẳn người khác!

 

          (Kinh) Nhị thập thất giả, nhiêu từ mẫn tâm. Nhị thập bát giả, tất cánh thành Phật.

          ()二十七者饒慈愍心。二十八者畢竟成佛。

          (Kinh: Hai mươi bảy, giàu ḷng từ mẫn. Hai mươi tám, rốt ráo thành Phật).

 

          Điều thứ hai mươi bảy “giàu ḷng từ mẫn”; đây chính là hạnh trọng yếu để lợi sanh. Do ḷng Từ có năm điều lợi: Đao chẳng gây thương tổn được, độc chẳng hại được, lửa chẳng đốt được, nước không nhấn ch́m được, kẻ sân ác trông thấy bèn vui mừng. Kinh Địa Tŕ dạy: “Bồ Tát dĩ an ổn lạc, nhiêu ích chúng sanh. Phi an ổn lạc, giáo linh trừ đoạn” (Bồ Tát dùng sự vui an ổn để lợi ích chúng sanh. Dạy họ đoạn trừ những sự vui nếu chúng chẳng an ổn) là nói về chuyện này.

          Điều thứ hai mươi tám “rốt ráo thành Phật”; đây là lợi ích rốt ráo. Gom Trường Giang, Hoàng Hà, Hoài Thủy, Tế Thủy đều đổ vào biển, cùng có một vị mặn, cùng nung chảy b́nh, mâm, thoa, xuyến trong ḷ, đều thành vàng ṛng cả! Đấy chính là cái tâm phó chúc của đức Phật, là ư chỉ ngài Địa Tạng vâng mạng. Đó gọi là “chỉ có một sự thật này, những thứ khác hễ có hai th́ đều chẳng thật”. V́ thế, hai đoạn văn [lưu thông] trước đó đều được kết thúc bằng phần này.

 

3.3.1.3.2.2.2.2.2. Văn kinh, lễ h́nh, tán thán lợi ích (lợi ích do nghe kinh, lễ h́nh tượng, tán thán)

3.3.1.3.2.2.2.2.2.1. Tổng thị tu nhân (dạy chung về cái nhân tu tập)   

 

          (Kinh) Phục thứ Hư Không Tạng Bồ Tát! Nhược hiện tại, vị lai, thiên, long, quỷ, thần, văn Địa Tạng danh, lễ Địa Tạng h́nh, hoặc văn Địa Tạng bổn nguyện sự hạnh, tán thán, chiêm lễ.

          ()復次虛空藏菩薩若現在未來天龍鬼神聞地藏名禮地藏形。或聞地藏本願事行讚歎瞻禮。

          (Kinh: Lại này Hư Không Tạng Bồ Tát! Nếu trời, rồng, quỷ, thần trong hiện tại và vị lai, nghe danh hiệu Địa Tạng, lễ h́nh tượng Địa Tạng, hoặc nghe bổn nguyện và sự hạnh của Địa Tạng mà tán thán, chiêm ngưỡng, lễ bái).

 

          Tu nhân ở đây gần tương tự với phần trên, v́ sao tách ra thành hai phần kinh văn? Cần biết: Trong phần trên c̣n có thêm cúng dường các thứ, tức là duyên nhân và liễu nhân đều cùng tu. Phần này chỉ là nghe danh hiệu, lễ bái, tán thán, [tức là] chỉ thực hiện liễu nhân. Do chỗ sai khác đôi chút này, cho nên liệt kê riêng biệt, nhằm nêu rơ: Do nghe danh hiệu mà c̣n được lợi ích như thế, huống hồ kèm thêm tu duy, tu tập ư?

 

3.3.1.3.2.2.2.2.2.2. Biệt liệt ích số (liệt kê từng điều lợi ích riêng biệt)

         

          (Kinh) Đắc thất chủng lợi ích: Nhất giả, tốc siêu thánh địa.

          ()得七種利益。一者速超聖地。

          (Kinh: Được bảy thứ lợi ích: Một là mau vượt lên địa vị thánh).

 

          Lợi ích trước sau đều luận theo Viên giáo. Một là mau vượt lên địa vị thánh, tức là thánh chủng tánh của Thập Địa trong Viên Giáo. Do người căn cơ viên đốn nhạy bén, mạnh mẽ, cho nên từ các địa vị Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, sẽ mau chóng vượt lên, dự vào địa vị thánh (Thập Địa).

 

          (Kinh) Nhị giả, ác nghiệp tiêu diệt.

          ()二者惡業消滅。

          (Kinh: Hai là ác nghiệp tiêu diệt).

 

          Điều thứ hai là ác nghiệp tiêu diệt; ác nghiệp là nói đối ứng với thiện nghiệp. Đă nghe chuyện chẳng thể nghĩ bàn của đức Địa Tạng, sẽ hiểu rơ “tu nhiễm, tu ác, toàn thể chính là tánh nhiễm, tánh ác”. V́ thế, trong Ngũ Phẩm Quán Hạnh, chế phục trọn vẹn Ngũ Trụ, tiến nhập Tín vị, Kiến Tư Hoặc mất trước, sẽ là từ đấy vĩnh viễn ĺa khỏi Phần Đoạn sanh tử. V́ thế biết: Tuy nói là [tiêu diệt] ác nghiệp, nhưng [thật ra], tự đạt được cả ba chướng đều tiêu trừ trọn vẹn.

 

          (Kinh) Tam giả, chư Phật hộ lâm.

          ()三者諸佛護臨。

          (Kinh: Ba là chư Phật đến hộ tŕ).

 

          Điều thứ ba là chư Phật đến hộ tŕ. Đă thuộc địa vị Tương Tự, đă gần với cái nhân chân thật, đă có khí phận của Phật pháp, bèn cảm chư Phật đến hộ tŕ. “Lâm” là đến, có cùng nghĩa với Thượng Đế lâm nhữ” (Thượng Đế giáng lâm chỗ của ngươi). Chữ Lâm () ghép bởi chữ Phẩm (), [ngụ ư] “đông nhiều” và chữ Ngọa (), [hàm ư] vô vi. Từ trên giáng lâm, chẳng tự vận dụng mà dùng người khác. V́ thế, có thể cho phép đối tượng thực hiện, c̣n chính ḿnh chẳng làm. Nay chư Phật giáng lâm, đúng như vầng trăng in bóng trên sông, cố nhiên chẳng phải nhọc ḷng trong ấy.

 

          (Kinh) Tứ giả, Bồ Đề bất thoái.

          ()四者菩提不退。

          (Kinh: Bốn là chẳng thoái thất Bồ Đề).

 

          Điều thứ tư là chẳng thoái thất Bồ Đề như đă giải thích trong phần trên.

 

          (Kinh) Ngũ giả, tăng trưởng bổn lực.

          ()五者增長本力。

          (Kinh: Năm là tăng trưởng sức ḿnh).

 

          Điều thứ năm, “tăng trưởng bổn lực” tức là ngoài tu nhân ra, c̣n huân tập, tăng trưởng Chân Như bổn lực, do hàng Bồ Tát hạnh sâu đều được tăng trưởng trọn đủ cả Bi lẫn Trí, cho nên bổn lực càng được tăng nhiều.

 

          (Kinh) Lục giả, túc mạng giai thông.

          ()六者宿命皆通。

          (Kinh: Sáu là đều biết túc mạng).

 

          Điều thứ sáu là đối với Túc Mạng đều thông hiểu. Theo các bộ luận, điều đó có nghĩa là đối với chỗ đă sanh về, tự tánh có thể biết quá khứ, Túc Mạng và Tha Tâm. Nếu các hữu t́nh thí cho người ấy các thứ thức ăn ngon quư, do nghiệp lực đó, có thể dẫn khởi trí này. Như kinh A Ma Trú dạy: “Vô minh vĩnh diệt, đại minh pháp sanh. Ám minh tiêu diệt, quang diệu pháp sanh” (Vô minh vĩnh viễn diệt, pháp đại minh sanh ra. Tối tăm tiêu diệt, pháp sáng ngời sanh ra). V́ thế có thể biết chuyện thuộc túc mạng trong vô số kiếp.

 

          (Kinh) Thất giả, tất cánh thành Phật.

          ()七者畢竟成佛。

          (Kinh: Bảy là rốt ráo thành Phật).

 

          Điều thứ bảy là “rốt ráo thành Phật”. Kinh Địa Tŕ nói: “Bồ Tát y trí cố, nhiếp thọ chánh phước chủng chủng xảo tiện, vị chư chúng sanh, năi chí Vô Thượng Bồ Đề. Nhược báo, nhược báo nhân, nhược báo quả, nhất thiết y phước khởi, phước y trí khởi. Thử nhị cụ túc, tối thắng vô thượng, đắc Vô Thượng Bồ Đề. Nhược phước trí bất cụ, chung bất năng đắc” (Do Bồ Tát nương vào trí mà nhiếp thọ các thứ phương tiện thiện xảo thuộc về chánh phước, v́ các chúng sanh cho đến Vô Thượng Bồ Đề. Dù là quả báo, dù là báo nhân hay báo quả, hết thảy đều nương vào phước mà dấy lên, phước nương vào trí mà dấy lên. Hai thứ đó trọn đủ, tối thắng vô thượng, đắc Vô Thượng Bồ Đề. Nếu phước và trí chẳng đủ, sẽ trọn chẳng thể đạt được). Nay do tu tập cái trí bằng cách đọc kinh và tŕ danh, cũng như do phước chiêm ngưỡng, lễ bái h́nh tượng, cho nên được thành Phật. Đây gọi là lợi ích bao gồm nhân, quả, tự, tha. Phần Biệt Lưu Thông đă xong.

 

3.3.2. Tổng Lưu Thông (phần lưu thông chung)

3.3.2.1. Nhân quả thánh phàm văn tán trí thán (nhân, quả, thánh phàm, nghe xưng dương đều tán thán)

 

          (Kinh) Nhĩ thời, thập phương nhất thiết chư lai bất khả thuyết bất khả thuyết chư Phật Như Lai cập đại Bồ Tát, thiên long bát bộ, văn Thích Ca Mâu Ni Phật, xưng dương tán thán Địa Tạng Bồ Tát, đại oai thần lực bất khả tư nghị, thán vị tằng hữu.

          ()爾時十方一切諸來不可說不可說諸佛如來及大菩薩天龍八部聞釋迦牟尼佛稱揚讚歎地藏菩薩大威神力不可思議歎未曾有。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, mười phương hết thảy bất khả thuyết bất khả thuyết chư Phật Như Lai và đại Bồ Tát, thiên long bát bộ đến dự hội, nghe Thích Ca Mâu Ni Phật xưng dương tán thán sức oai thần to lớn chẳng thể nghĩ bàn của Địa Tạng Bồ Tát, đều khen là chưa từng có).

 

          Từ “mười phương” cho đến “bát bộ”, tổng kết đại chúng vân tập trên đây. Chư Phật, Bồ Tát đă nhóm họp trước khi Phật Thích Ca phóng quang, đó chính là căn nguyên phát khởi. Trời rồng tám bộ nhóm họp sau khi Phật Thích Ca phóng quang, là đại chúng chánh yếu để phát khởi. Từ “nghe Phật Thích Ca” trở đi, tổng kết những chuyện chẳng thể nghĩ bàn đă được tán thán trước đó. Nhưng người khác cũng tán thán, mà nay chỉ nói ḿnh đức Phật Thích Ca tán thán là do có hai ư:

          - Một, nêu ra chủ để gồm thâu bạn, như lời lẽ của quần thần đều phát xuất từ mạng lệnh của vua, đều nói là “vương luân” (王綸, ư chỉ của vua).

          - Hai là quy công đức về bậc hóa chủ, như tam công mưu tính sách lược. Sau khi thành công, sẽ quy kết những điều tốt đẹp về thiên tử.

          Những điều khác dễ hiểu.

 

3.3.2.2. Thiên chúa, chúng hội cúng dường, lễ thoái (các vị chúa trời, đại chúng trong hội cúng dường, làm lễ, lui ra)

         

          (Kinh) Thị thời, Đao Lợi Thiên vũ vô lượng hương, hoa, thiên y, châu anh, cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật, cập Địa Tạng Bồ Tát dĩ.

          ()是時忉利天雨無量香華天衣珠瓔供養釋迦牟尼佛及地藏菩薩已。

          (Kinh: Khi ấy, Đao Lợi Thiên mưa vô lượng hương, hoa, áo trời, chuỗi bảo châu, cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật và Địa Tạng Bồ Tát xong).

 

          Riêng ḿnh Đao Lợi thiên vương cúng dường là v́ ông ta đă là đàn-việt (thí chủ), pháp hội lại ở trong cung của ông ta, cho nên được chuyên trách. Hương biểu thị “nhân thông thấu biển quả, thành tựu Ngũ Phần Pháp Thân”. Hoa biểu thị “cái nhân viên măn, ắt đạt được quả, trọn đủ bốn mươi mốt địa vị”. Áo trời từ cây sanh ra, nhẹ, mịn tự nhiên, biểu thị chứng Tịch Diệt Nhẫn. Đối với “châu anh”, Biệt Hành Sớ giảng: “Hoặc là các chuỗi báu, hoặc là chuỗi bảo châu”. Nay chuỗi ở đây do bảo châu kết thành, nên gọi là “châu anh” (珠瓔), biểu thị đắc bốn pháp thù thắng. Kinh Đại Tập nói “Giới, Định, Huệ, Đà La Ni, dĩ vi anh lạc, trang nghiêm Pháp Thân” (dùng Giới, Định, Huệ, Đà La Ni làm chuỗi anh lạc để trang nghiêm Pháp Thân) là nói tới chuyện này. Nhưng chuỗi bảo châu đeo ở cổ, cổ là chỗ được trang nghiêm, biểu thị tánh đức Trung Đạo. Hạnh này xứng tánh, như chuỗi anh lạc đeo ở cổ mà có thể trang nghiêm. Đều nói là “vũ” (mưa, tuôn xuống) tức là từ chánh không Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Thiên mà phấp phới rơi xuống.

          “Vô lượng”: Pháp nhân quả hoàn toàn do nhất tâm. Liễu đạt cái tâm ấy vốn trọn đủ hằng sa pháp tánh công đức, há có hạn lượng! Dùng vô lượng các pháp ấy để cúng dường Phật Thích Ca là đấng giáo chủ thuyết pháp, và ngài Địa Tạng là bậc nguyện vương có thể hành. Do tâm có điều chuyên chú, cho nên không nói đến những vị khác. “Dĩ” (đă), ư nói: Những vật có thể cúng dường đều ngầm hợp Thật Tế, đấng được cúng dường vốn trụ trong Tam-ma-địa (chánh định). Năng và Sở đă là không, cảm ứng do vậy cũng mất. Chủ và khách ḥa quyện với nhau thành một, tài và pháp đều dứt bặt tung tích, chẳng c̣n dấu vết, cho nên nói là “dĩ”. Trên đây là nói về chuyện cúng dường.

 

          (Kinh) Nhất thiết chúng hội, câu phục chiêm lễ, hiệp chưởng nhi thoái.

          ()一切眾會俱復瞻禮合掌而退。

          (Kinh: Hết thảy đại chúng trong hội đều chiêm ngưỡng, lễ bái lần nữa, chắp tay, lui ra).

 

          Sau đấy là “lễ thoái” (lễ tạ, lui ra). “Nhất thiết chúng hội” (hết thảy đại chúng trong hội) tức là các đại chúng đă nhóm họp trước đó, nay ai nấy đều trở về chỗ ḿnh cư trụ. “Câu phục chiêm ngưỡng” (lại đều chiêm ngưỡng): Tôn sư trọng đạo, quyến luyến chẳng quên. Lễ bái lần nữa, tấm ḷng tôn kính pháp chẳng hề gián đoạn. “Hiệp chưởng” (chắp tay) biểu thị mười pháp giới đều có cùng một Thể. “Nhi thoái” (liền lui ra) hiển lộ vạn loại đồng quy, nhưng chẳng giống những kinh khác kết thúc bằng câu “giai đại hoan hỷ” (đều hoan hỷ to lớn), v́ từ đại chúng trong đại hội, ta thấy họ từ đây tăng thêm cái tâm thù thắng phỏng theo hoằng thệ của đức Địa Tạng cứu vớt tam đồ chẳng ngơi, tuân theo lời chúc lụy của đức Thích Ca Văn Phật, hoằng dương kinh này vô cùng. Trên là đă có cùng nỗi ưu sầu với thánh mẫu, hoặc buồn bă than thở như thiên vương, nay nghe pháp bèn hết sức hoan hỷ, cho nên trong tâm uẩn tàng hoài băo, càng lo cứu thế ân cần. Do những điều này đă bộc lộ rơ ràng, vị trùng tuyên kinh chẳng cần phải trần thuật những lời ấy để biểu lộ ư kiến thông qua ngôn ngữ nữa.

Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Khoa Chú, quyển hạ hết

 

* Hậu bạt (lời bạt cuối sách)

 

          Vốn do bi nguyện mà Đại Sĩ phân thân trong vô lượng kiếp chẳng thể lường, Nay Cửu Hoa chính là một hạt thóc trong kho lương to lớn[6], tôi thường lo nghĩ v́ những chỗ chưa được tra cứu, khảo chứng trong bộ [Cửu Hoa] Sơn Chí khiến cho những chuyện ứng tích của Bồ Tát chưa được truyền tụng. Ngài vốn là Thái Tử của vua nước Tân La. Lúc hai mươi bốn tuổi, dẫn theo con chó trắng Thiện Thính, vượt biển đến đây, trụ trong thạch động của núi Cửu Tử nhiều năm. Khi ấy, có vị các lăo[7] là Mẫn Công, luôn ôm ấp thiện niệm. Mỗi lần trai tăng, đều thỉnh một trăm vị, [lần ấy cúng trai tăng], bị thiếu một vị. Do vậy bèn thỉnh vị Tăng ở trong động tham dự cho đủ số. Sư bèn xin một mảnh đất rộng bằng tấm áo ca-sa, ông chấp thuận. Y phủ khắp chín ngọn núi, ông hoan hỷ thí hết. Con trai ông xin xuất gia, tức là ḥa thượng Đạo Minh. Về sau, ông cũng xả tục, lại thỉnh con trai làm thầy của ḿnh. Do vậy, nay đắp tượng [Địa Tạng Bồ Tát], bên trái là Đạo Minh, bên phải là Mẫn Công để nêu rơ nguyên do. Chẳng rơ quê quán, ḍng họ, tên húy của Mẫn Công. Trong bộ Đường Thi Tuyển Danh Anh Hoa Tập được lưu hành trong cơi đời, có bài thơ Kim Địa Tạng Tống Đồng Tử Hoàn Gia (Kim Địa Tạng tiễn đứa trẻ về nhà) như sau:

          Không môn tịch mịch, nhữ tư gia,

          Lễ biệt vân pḥng, hạ Cửu Hoa,

          Ái hướng trúc lan kỵ trúc mă.

          Lăn ư kim địa bố kim sa.

          Thiêm b́nh giản để hưu chiêu nguyệt.

          Chử mính âu trung băi lộng hoa.

          Hảo khứ, bất tu tần hạ lệ,

          Lăo tăng tương bạn hữu yên hà.

          (Cửa không vắng lặng, con nhớ nhà,

          Giă biệt pḥng mây, rời Cửu Hoa,

          Con chuộng cưỡi tre[8] bên rào trúc,

          Đất vàng lười nhác rải kim sa,

          Đáy suối quăng ṿ[9] mặc trăng rọi,

          Nấu trà bỏ đó, giỡn cùng hoa,

          Hăy chóng về nhà, đừng nhỏ lệ,

          Bạn cùng khói ráng lăo quen rồi).

          Chép thêm vào đây để tặng cho những người cùng yêu thích.

 

* Ghi thêm những bài kệ tán thán kinh này

 

          Quyển thứ nhất: Phật thăng Đao Lợi, vị báo từ thân, phóng quang Địa Tạng tập phân thân, duyên cảm nghiệp tuyên trần, quảng thuyết hoằng nhân, lịch kiếp độ trầm luân.

          佛升忉利。為報慈親。放光地藏集分身。緣感業宣陳。廣說弘因。歷劫度沈淪。

          (Phật lên trời Đao Lợi, nhằm báo đáp từ ân, phóng quang Địa Tạng hội phân thân, duyên cảm nghiệp tuyên bày, rộng nói nhân sâu, bao kiếp độ trầm luân).

 

          Quyển thứ hai: Ngục danh khải vấn, khổ sở kham ai, Như Lai tán thán phước môn khai, quỷ chủ tất giai lai, Phật hiệu kỳ tai, tồn một ly trần ai.

          獄名啟問。苦楚堪哀。如來讚歎福門開。鬼主悉皆來。佛號奇哉。存沒離塵埃。

          (Thưa hỏi tên địa ngục, khổ sở buồn khôn kham, Như Lai tán thán mở cửa phước, chúa quỷ đều đến ngay, Phật hiệu kỳ diệu thay, sống thác ĺa trần ai).

 

          Quyển thứ ba: Địa Tạng thỉnh giảo, bố thí nhân duyên, Kiên Lao hộ pháp tán công huyền, văn kiến lợi vô biên, chúc lụy nhân thiên, thế thế quảng lưu truyền.

          地藏請較。布施因緣。堅牢護法歎功玄。聞見利無邊。囑累人天。世世廣流傳。

          (Địa Tạng thỉnh so lường, phước nhân duyên bố thí, Kiên Lao hộ pháp tán công mầu, thấy nghe lợi vô biên, chúc lụy khắp trời người, đời đời rộng lưu truyền).

 

* Lời bạt

 

          Bậc thiền đức là Bảo Tŕ Chân Thường ngẫu nhiên có được bản Khoa Chú này, hoan hỷ, hớn hở, liền muốn truyền bá rộng răi trong cơi đời, chẳng ngại nỗi nguy hiểm nơi sóng cả, rừng sâu, nhanh chóng từ Khi Dương (Nagasaki)[10] vượt đường xa đến kinh thành. Khi ấy, Sư vừa mới khỏi cơn bệnh trầm kha, thân thể vẫn chưa khỏe hẳn, nhưng dũng mănh phát khởi quyết chí như thế, có thể gọi là “hoằng pháp lợi sanh, sẵn sàng hy sinh thân mạng”. Do vậy, Sư sai tôi lo việc chấm câu, chú thích, ấn hành. Tôi vốn trọn một bề quy hướng Địa Tạng Bồ Tát, hễ rảnh rang lại đọc tụng kinh này, thường buồn lo v́ kinh này thiếu chú sớ đă lâu, nay may mắn gặp duyên thù thắng hy hữu này. Đúng là như trong tối tăm có đèn, như kẻ nghèo được của báu, vui mừng cảm kích chen lẫn, bất giác tay múa, chân nhảy, chỉ mong bản chú giải này sớm được lưu hành, ḥng thành tựu chí nguyện của ngài Chân Thường, khiến cho khắp chúng sanh cùng được lợi lạc. Do vậy, chẳng nài bản thân nông cạn, thô lậu, ngông cuồng khuyên điểm bản này rồi đem khắc in.

          Năm Nguyên Lộc[11] thứ ba (1690), tức năm Canh Ngọ, đầu tháng Mười Hai, sa-môn Diệu Tràng Tịnh Huệ kính cẩn viết lời Bạt

Phụ Lục 1:

Phật Thuyết Diên Mạng Địa Tạng Bồ Tát Kinh

佛說延命地藏菩薩經

          Bất Không Tam Tạng phụng chiếu dịch

不空三藏奉詔譯

 

          (Kinh) Như thị ngă văn: Nhất thời, Phật tại Khư La Đà sơn, dữ đại tỳ-kheo chúng vạn nhị thiên nhân câu, Bồ Tát tam vạn lục thiên nhân câu. Nhất thiết chư thiên cập long, Dạ Xoa, nhân, phi nhân đẳng, Kim Luân, Ngân Luân, chư Luân Vương đẳng, tùng thập phương lai. Nhĩ thời, Thế Tôn thuyết thị Đại Thừa Vô Y Hạnh dĩ, thời hữu Đế Thích danh Vô Cấu Sanh, bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă dục hộ thế, nhược Phật diệt hậu, pháp mạt chúng sanh, đương hà bạt tế?

          ()如是我聞:一時,佛在佉羅陀山,與大比丘眾萬二千人俱,菩薩三萬六千人俱。一切諸天及龍、夜叉、人、非人等,金輪、銀輪、諸輪王等,從十方來。爾時,世尊說是大乘無依行已,時有帝釋名無垢生,白佛言:「世尊!我欲護世,若佛滅後,法末眾生,當何拔濟?」

          (Kinh: Tôi nghe như thế này: Một thời, đức Phật ngự tại núi Khư La Đà, cùng với một vạn hai ngàn vị tỳ-kheo và ba vạn sáu ngàn vị Bồ Tát cùng nhóm họp. Hết thảy chư thiên và rồng, Dạ Xoa, nhân, phi nhân v.v… Kim Luân, Ngân Luân, các Luân Vương v.v… từ mười phương đến. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói hạnh Vô Y của Đại Thừa xong, khi đó, có Đế Thích tên là Vô Cấu Sanh, bạch cùng đức Phật rằng:

          - Bạch Thế Tôn! Con muốn hộ tŕ thế gian, nếu sau khi Phật diệt độ, hăy nên cứu giúp chúng sanh trong đời pháp mạt như thế nào?)

 

          (Kinh) Phật cáo Đế Thích: - Hữu nhất Bồ Tát, danh viết Diên Mạng Địa Tạng Bồ Tát, mỗi nhật thần triêu, nhập ư chư Định, du hóa lục đạo, bạt khổ dữ lạc. Nhược tại tam đồ, ư thử Bồ Tát kiến thể, văn danh, sanh ư nhân thiên, hoặc sanh Tịnh Độ. Tại tam thiện đạo, văn kỳ danh giả, đắc hiện quả báo, hậu sanh Phật độ, hà huống ức niệm, tâm nhăn đắc khai, quyết định thành tựu. Ức thị Bồ Tát, đắc thập chủng phước: Nhất giả, nữ nhân thái sản. Nhị giả, thân căn cụ túc. Tam giả, chúng bệnh tất trừ. Tứ giả, thọ mạng trường viễn. Ngũ giả, thông minh trí huệ. Lục giả, tài bảo doanh dật. Thất giả, chúng nhân ái kính. Bát giả, cốc mễ thành thục. Cửu giả, thần minh gia hộ. Thập giả, chứng đại Bồ Đề. Diệc trừ bát đại bố: Nhất giả, phong vũ tùy thời. Nhị giả, tha quốc bất khởi. Tam giả, tự giới bất bạn. Tứ giả, nhật nguyệt bất thực. Ngũ giả, tinh tú bất biến. Lục giả, quỷ thần bất lai. Thất giả, cơ khát bất phát. Bát giả, nhân dân vô bệnh.

          ()佛告帝釋:「有一菩薩,名曰延命地藏菩薩,每日晨朝入於諸定,遊化六道拔苦與樂。若在三途,於此菩薩見體聞名,生於人天或生淨土。在三善道聞其名者,得現果報,後生佛土。何況憶念,心眼得開決定成就。憶是菩薩得十種福:一者女人泰產,二者身根具足,三者眾病悉除,四者壽命長遠,五者聰明智慧,六者財寶盈溢,七者眾人愛敬,八者穀米成熟,九者神明加護,十者證大菩提。亦除八大怖:一者風雨隨時,二者他國不起,三者自界不叛,四者日月不蝕,五者星宿不變,六者鬼神不來,七者饑渴不發,八者人民無病。」

          (Kinh: Đức Phật bảo Đế Thích:

          - Có một vị Bồ Tát tên là Diên Mạng Địa Tạng Bồ Tát. Sáng sớm mỗi ngày, Ngài nhập các Định, du hóa trong sáu đường dẹp khổ, ban vui. Nếu kẻ nào trong tam đồ mà thấy thân Ngài, nghe danh hiệu Ngài, sẽ sanh trong trời, người, hoặc sanh về Tịnh Độ. Người trong ba đường lành nghe danh hiệu của Ngài, sẽ được quả báo trong hiện tại. Về sau, sanh vào cơi Phật, hà huống ức niệm th́ tâm nhăn được mở mang, quyết định thành tựu.

          Nghĩ nhớ vị Bồ Tát ấy, sẽ được mười loại phước: Một là nữ nhân sanh nở yên vui. Hai là các căn nơi thân đầy đủ. Ba là các bệnh đều trừ. Bốn là thọ mạng lâu dài. Năm là thông minh trí huệ. Sáu là tài vật, của báu dồi dào. Bảy là mọi người yêu kính. Tám là lúa gạo chín rộ. Chín là thần minh gia hộ. Mười là chứng đại Bồ Đề.

          Cũng trừ tám nỗi sợ hăi lớn: Một là gió mưa đúng thời. Hai là nước khác chẳng xâm lấn. Ba là trong nước ḿnh chẳng dấy loạn. Bốn là chẳng có nhật thực và nguyệt thực. Năm là tinh tú chẳng biến đổi. Sáu là quỷ thần chẳng đến. Bảy là chẳng xảy ra nạn đói khát. Tám là nhân dân không bệnh tật).

 

          (Kinh) Phật cáo Đế Thích: - Ư vị lai thế, nhược hữu chúng sanh thọ tŕ thử kinh, cung kính cúng dường thị Bồ Tát giả, bách do-tuần nội, vô chư tai hoạn, ác mộng, ác tướng, chư bất cát tường, vơng lượng, quỷ thần, Cưu Bàn Trà đẳng vĩnh bất đắc tiện. Thiên cẩu, thổ công, Thái Tuế thần cung, sơn thần, mộc thần, giang hải thần, thủy thần, hỏa thần, cẩn ngạ thần, trủng thần, xà thần, chú trớ thần, linh thần, lộ thần, táo trạch thần đẳng, nhược văn thử kinh, thị Bồ Tát danh, thổ chư tà khí, tự ngộ bổn không, tốc chứng Bồ Đề.

          ()佛告帝釋:「於未來世,若有眾生受持此經,恭敬供養是菩薩者,百由旬內無諸災患、惡夢、惡相、諸不吉祥,魍魎、鬼神、鳩槃荼等永不得便。天狗土公、太歲神宮、山神、木神、江海神、水神、火神、饉餓神、塚神、蛇神、咒詛神、靈神、路神、灶宅神等,若聞此經是菩薩名,吐諸邪氣,自悟本空速證菩提。」

          (Kinh: Đức Phật bảo Đế Thích:

          - Trong đời vị lai, nếu có chúng sanh thọ tŕ kinh này, cung kính cúng dường vị Bồ Tát ấy, th́ trong ṿng một trăm do-tuần, không có các tai ương, họa hoạn, ác mộng, ác tướng. Các thứ chẳng tốt lành, vơng lượng, quỷ thần, Cưu Bàn Trà v.v… vĩnh viễn chẳng thể thừa dịp làm hại. Thiên cẩu, thổ công[12], Thái Tuế thần cung, thần núi, thần cây, thần sông biển, thần nước, thần lửa, thần đói kém, thần mồ mả, thần rắn, thần nguyền rủa, linh thần, thần đường sá, thần bếp núc nhà cửa v.v… nếu nghe kinh này và danh hiệu Bồ Tát ấy, sẽ mửa các tà khí, tự ngộ vốn là không, nhanh chóng chứng Bồ Đề).

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Đế Thích bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Diên Mạng Bồ Tát hà hóa lục đạo đắc độ chúng sanh?” Phật cáo Đế Thích: - Thiện nam tử! Chư pháp không tịch, bất trụ sanh diệt, tùy duyên sanh cố, sắc thân bất đồng, tánh dục vô lượng. Phổ vị đắc độ, Diên Mạng Bồ Tát hoặc hiện Phật thân, hoặc hiện Bồ Tát thân, hoặc hiện Bích Chi Phật thân, hoặc hiện Thanh Văn thân, hoặc hiện Phạm Vương thân, hoặc hiện Đế Thích thân, hoặc hiện Diễm Ma Vương thân, hoặc hiện Tỳ Sa-môn thân, hoặc hiện nhật nguyệt thân, hoặc hiện ngũ tinh thân, hoặc hiện thất tinh thân, hoặc hiện cửu tinh thân, hoặc hiện Chuyển Luân Thánh Vương thân, hoặc hiện chư tiểu vương thân, hoặc hiện trưởng giả thân, hoặc hiện cư sĩ thân, hoặc tể quan thân, hoặc hiện phụ nữ thân, hoặc hiện tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di thân, hoặc hiện thiên, long, Dạ Xoa, nhân, phi nhân đẳng thân. Hoặc hiện y vương thân, hoặc hiện dược thảo thân, hoặc hiện thương nhân thân, hoặc hiện nông nhân thân, hoặc hiện tượng vương thân, hoặc hiện sư tử vương thân, hoặc hiện ngưu vương thân, hoặc hiện mă h́nh thân, hoặc hiện đại địa h́nh, hoặc hiện sơn vương h́nh, hoặc hiện đại hải h́nh, tam giới sở hữu tứ sanh ngũ h́nh, vô sở bất biến. Diên Mạng Bồ Tát như thị Pháp Thân, tự thể biến cố, hiện chủng chủng thân, du hóa lục đạo, độ thoát chúng sanh, năng dĩ nhất thiện phá tam giới hữu, tất dĩ tâm thiện. Vị lai chúng sanh bất năng phát tâm, đản đương nhất tâm lễ bái cúng dường Diên Mạng Bồ Tát, đao trượng bất gia, độc bất năng hại, yếm mị, chú trớ, khởi thi quỷ đẳng hoàn trước bổn nhân như thiên thổ thóa, hướng phong đầu hôi, hoàn phận kỳ thân!

          ()爾時,帝釋白佛言:「世尊!延命菩薩何化六道得度眾生?」佛告帝釋:「善男子!諸法空寂不住生滅,隨緣生故色身不同,性慾無量普為得度。延命菩薩或現佛身,或現菩薩身,或現辟支佛身,或現聲聞身,或現梵王身,或現帝釋身,或現琰魔王身,或現毘沙門身,或現日月身,或現五星身,或現七星身,或現九星身,或現轉輪聖王身,或現諸小王身,或現長者身,或現居士身,或宰官身,或現婦女身,或現比丘、比丘尼、優婆塞、優婆夷身,或現天、龍、夜叉、人、非人等身,或現醫王身,或現藥草身,或現商人身,或現農人身,或現象王身,或現獅子王身,或現牛王身,或現馬形身,或現大地形,或現山王形,或現大海形,三界所有四生五形,無所不變。延命菩薩如是法身,自體遍故現種種身,遊化六道度脫眾生。能以一善破三界有,悉以心善。 未來眾生不能發心,但當一心禮拜供養延命菩薩,刀杖不加,毒不能害,厭魅、咒詛、起屍鬼等還著本人如天吐唾,向風投灰還坋其身。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Đế Thích bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Diên Mạng Bồ Tát hóa hiện trong lục đạo như thế nào để độ chúng sanh?”

          Đức Phật bảo Đế Thích:

          - Này thiện nam tử! Các pháp không tịch, chẳng trụ trong sanh diệt. Do thuận theo duyên sanh mà có sắc thân khác nhau, tánh chất và ưa muốn vô lượng. Để độ trọn khắp, Diên Mạng Bồ Tát hoặc hiện thân Phật, hoặc hiện thân Bồ Tát, hoặc hiện thân Bích Chi Phật, hoặc hiện thân Thanh Văn, hoặc hiện thân Phạm Vương, hoặc hiện thân Đế Thích, hoặc hiện thân Diễm Ma Vương, hoặc hiện thân Tỳ Sa-môn, hoặc hiện thân mặt trời, mặt trăng, hoặc hiện thân ngũ tinh, hoặc hiện thân thất tinh, hoặc hiện thân cửu tinh, hoặc hiện thân Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc hiện thân các tiểu vương, hoặc hiện thân trưởng giả, hoặc hiện thân cư sĩ, hoặc thân tể quan, hoặc hiện thân phụ nữ, hoặc hiện thân tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, hoặc hiện các thân trời, rồng, Dạ Xoa, nhân, phi nhân v.v… Hoặc hiện thân y vương, hoặc hiện thân dược thảo, hoặc hiện thân thương nhân, hoặc hiện thân nông dân, hoặc hiện thân voi chúa, hoặc hiện thân sư tử vương, hoặc hiện thân trâu chúa, hoặc hiện thân h́nh ngựa, hoặc hiện thân đại địa, hoặc hiện h́nh núi chúa, hoặc hiện h́nh biển cả, tất cả h́nh thể của chúng sanh trong năm đường thuộc bốn cách sanh trong ba cơi, không ǵ chẳng biến ra.

          Pháp Thân của Diên Mạng Bồ Tát như thế, do tự thể biến ra, nên có thể hiện đủ mọi thân, du hóa trong sáu đường độ thoát chúng sanh, có thể khéo phá các cơi trong tam giới đều bằng thiện tâm. Chúng sanh trong đời vị lai chẳng thể phát tâm th́ chỉ nên nhất tâm lễ bái, cúng dường Diên Mạng Bồ Tát, sẽ chẳng bị đao, trượng làm hại, độc chẳng hại được. [Các thứ] trù ếm, nguyền rủa, quỷ nhập tràng v.v… sẽ quay trở lại quấy nhiễu kẻ sai khiến chúng, giống như ngửa mặt phun nhổ lên trời, hoặc ngược gió tung tro, sẽ làm bẩn kẻ đó).

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Đế Thích bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Hà cố danh viết Diên Mạng Bồ Tát? Kỳ tướng vân hà?” Phật cáo Thiên Đế: “Thiện nam tử! Chân thiện Bồ Tát tâm minh viên, cố danh Như Ư Luân. Tâm vô quái ngại, cố danh Quán Tự Tại. Tâm vô sanh diệt, cố danh Diên Mạng. Tâm vô tồi phá, cố danh Địa Tạng. Tâm vô biên tế, cố danh Đại Bồ Tát. Tâm vô sắc tướng, cố danh Ma Ha Tát. Nhữ đẳng tín thọ, tâm vô sở biệt, mạc linh vong thất”. Nhĩ thời, đại địa lục chủng chấn động, Diên Mạng Bồ Tát tùng địa xuất hiện, hữu tất khúc lập, tư chưởng thừa nhĩ, tả tất thân hạ, thủ tŕ tích trượng, bạch Phật ngôn: “Ngă mỗi nhật thần triêu nhập chư định, nhập chư địa ngục linh ly khổ, vô Phật thế giới độ chúng sanh. Kim thế, hậu thế, năng dẫn đạo. Nhược Phật diệt hậu, nhất thiết nam nữ dục đắc ngă phước, bất vấn nhật hung, bất luận bất tịnh, hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, ngôn sắc thường ḥa, bất uổng nhân dân, bất đoạn sanh mạng, bất phạm tà dâm, nhược lục trai nhật, nhược thập trai nhật, nhược thập bát nhật, nhược nhị thập tứ nhật, đản tự tâm chánh, chuyển độc thử kinh, xưng ngă danh giả, ngă dĩ pháp nhăn oai thần lực cố, tức chuyển nghiệp báo linh đắc hiện quả, trừ vô gián tội, đương đắc Bồ Đề. Ngă tùng quá khứ vô lượng kiếp lai, kiến chư lục đạo nhất thiết chúng sanh, pháp tánh đồng thể, vô thỉ, vô chung, vô dị, vô biệt, vô tướng, dị tướng, sanh, trụ, dị, diệt, thị đắc, thị thất, khởi bất thiện niệm, tạo chư ác nghiệp, luân hồi lục thú, sanh sanh phụ mẫu, thế thế huynh đệ, tất thành Phật đạo. Hậu ngă thành Phật, nhược tàn nhất nhân, ngă bất thành Phật. Nhược tri thử nguyện, nhị thế sở cầu, tất bất thành giả, bất thủ Chánh Giác”.

          ()爾時,帝釋白佛言:「世尊!何故名曰延命菩薩?其相云何?」佛告天帝:「善男子!真善菩薩心明圓,故名如意輪;心無罣礙故名觀自在;心無生滅故名延命;心無摧破故名地藏;心無邊際故名大菩薩;心無色相故名摩訶薩。汝等信受,心無所別,莫令忘失。」爾時,大地六種震動,延命菩薩從地出現,右膝曲立,臂掌承耳,左膝申下,手持錫杖,白佛言:「我每日晨朝入諸定,入諸地獄令離苦,無佛世界度眾生,今世後世能引導。若佛滅後,一切男女欲得我福,不問日兇,不論不淨,孝養父母,奉事師長,言色常和,不枉人民,不斷生命,不犯邪淫,若六齋日,若十齋日,若十八日,若二十四日,但自心正轉讀此經稱我名者,我以法眼威神力故,即轉業報令得現果,除無間罪當得菩提。我從過去無量劫來,見諸六道一切眾生,法性同體,無始無終,無異無別,無相異相,生住異滅,是得是失,起不善念,造諸惡業,輪回六趣,生生父母、世世兄弟,悉成佛道,後我成佛,若殘一人,我不成佛。若知此願,二世所求,悉不成者,不取正覺。」

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Đế Thích bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! V́ sao gọi là Diên Mạng Bồ Tát? Tướng trạng ấy như thế nào?”

          Đức Phật bảo Thiên Đế: - Này thiện nam tử! Bậc chân thiện Bồ Tát, tâm tṛn sáng, nên gọi là Như Ư Luân. Do tâm chẳng vướng mắc, nên tên là Quán Tự Tại. Do tâm chẳng sanh diệt, nên tên là Diên Mạng. Do tâm chẳng bị phá dẹp, nên tên là Địa Tạng. Do tâm chẳng có ngằn mé, nên tên là Đại Bồ Tát. Do tâm không có sắc tướng, nên gọi là Ma Ha Tát. Các ông hăy tin nhận, tâm đừng nghĩ ǵ khác, đừng để quên mất.

          Lúc bấy giờ, đại địa chấn động sáu cách, Diên Mạng Bồ Tát từ dưới đất xuất hiện, gập đầu gối phải, bàn tay đỡ tai, gối trái duỗi thẳng sát đất, tay cầm tích trượng, bạch với đức Phật:

          - Con vào lúc sáng sớm mỗi ngày, nhập các Định, vào trong các địa ngục khiến họ ĺa khổ, và độ chúng sanh trong thế giới không có Phật. Đời này, đời sau, có thể hướng dẫn họ. Như sau khi đức Phật nhập diệt, hết thảy nam nữ muốn được hưởng phước từ con, chẳng cần biết là ngày xấu, chẳng luận bất tịnh, [chỉ cần] hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, lời lẽ và sắc mặt thường ḥa dịu, chẳng khiến người khác bị oan uổng, chẳng dứt sanh mạng [của chúng sanh], chẳng phạm tà dâm, hoặc trong sáu ngày trai, hoặc trong mười ngày trai, hoặc vào ngày Mười Tám, hoặc ngày Hai Mươi Bốn, chỉ nên tự chánh tâm, chuyển đọc kinh này, xưng danh hiệu của con, do sức oai thần pháp nhăn của con, [người ấy] liền chuyển nghiệp báo, đạt được cái quả trong hiện tại, trừ diệt tội Vô Gián, sẽ đắc Bồ Đề. Con từ quá khứ vô lượng kiếp đến nay, thấy hết thảy chúng sanh trong sáu đường, pháp tánh có cùng một Thể, chẳng khởi đầu, không kết thúc, không khác, chẳng riêng biệt, chẳng có tướng, hay tướng khác biệt, sanh, trụ, dị, diệt, là được, hay là mất, dấy lên ư niệm bất thiện, tạo các ác nghiệp, luân hồi trong sáu đường, cha mẹ trong mỗi đời, anh em trong mỗi kiếp đều thành Phật đạo. Sau này, con thành Phật nếu c̣n sót một người, con sẽ chẳng thành Phật. Nếu ai biết nguyện này mà sự mong cầu trong đời này và đời sau đều chẳng thành tựu, con chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác”).

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật tán Diên Mạng Bồ Tát: “Thiện tai! Thiện tai! Chân thiện nam tử! Ngă diệt độ hậu, vị lai ác thế, tội khổ chúng sanh, phó chúc ư nhữ. Kim thế, hậu thế, thiện năng dẫn đạo, đàn chỉ chi khoảnh, bất đọa ác thú, huống đọa Vô Gián A Tỳ địa ngục”. Diên Mạng Bồ Tát nhi bạch Phật ngôn: “Thế Tôn bất lự! Ngă đương bạt tế lục đạo chúng sanh, nhược hữu trọng khổ, ngă đại thọ khổ. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác”. Thời Thế Tôn trùng dĩ kệ tán viết: “Thiện tai, thiện tại! Diên Mạng Bồ Tát, hữu t́nh thân hữu, chúng sanh sanh thời, vị kỳ thân mạng, diệt vi đạo sư, chúng sanh bất tri, đoản mạng vô phước. Ngă diệt độ hậu, ư Mạt Pháp trung, quốc độ tai khởi, nhân vương chánh loạn, tha phương tặc lai, đao binh kiếp khởi, đản đương ức tưởng, Diên Mạng Bồ Tát, kim thế, hậu thế, sở cầu bất măn, ngă sở thuyết pháp, vô hữu thị xứ”.

          ()爾時,佛讚延命菩薩:「善哉!善哉!真善男子!我滅度後,未來惡世,罪苦眾生,付囑於汝。今世後世善能引導,彈指之頃不墮惡趣,況墮無間阿鼻地獄。」延命菩薩而白佛言:「世尊不慮!我當拔濟六道眾生,若有重苦,我代受苦。若不爾者,不取正覺。」時世尊重以偈讚曰:「善哉!善哉!延命菩薩,有情親友,眾生生時,為其身命,滅為導師,眾生不知,短命無福。我滅度後,於末法中,國土災起,人王政亂,他方賊來,刀兵劫起,但當憶想,延命菩薩,今世後世,所求不滿,我所說法,無有是處。」

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật khen ngợi Diên Mạng Bồ Tát: “Lành thay! Lành thay! Chân thiện nam tử! Sau khi ta diệt độ, phó chúc chúng sanh tội khổ trong đời mai sau cho ông. Đời này, đời sau, hăy khéo dẫn dắt, đừng để họ đọa vào đường ác trong khoảng khảy ngón tay, huống hồ đọa vào địa ngục Vô Gián A Tỳ”.

          Diên Mạng Bồ Tát liền bạch với đức Phật: “Đức Thế Tôn đừng lo. Con sẽ cứu bạt, giúp đỡ chúng sanh trong sáu đường. Nếu có kẻ nào khổ sở nặng nề, con sẽ chịu khổ thay. Nếu chẳng như vậy, con chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác”.

          Khi đó, đức Thế Tôn lại dùng kệ tán thán: “Lành thay! Lành thay! Diên Mạng Bồ Tát, ông là bạn thân của các hữu t́nh, chúng sanh lúc sống, v́ thân mạng họ, dùng Diệt hướng dẫn. Chúng sanh chẳng biết, đoản mạng, vô phước. Ta diệt độ rồi, trong thời Mạt Pháp, nước dấy tai ương, vua không sáng suốt, giặc ngoài xâm lấn, chiến sự nổi lên, chỉ nên nhớ tưởng, Diên Mạng Bồ Tát, đời này, đời sau, sở cầu chẳng thỏa, ta sẽ nói ngay: Chẳng có lẽ ấy!”)

 

          (Kinh) Nhĩ thời, tam thiên đại thiên thế giới lục biến chấn động, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Kim Cang Tạng Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng, dị khẩu đồng âm, nhi bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Vị lai chúng sanh, nhược văn thử kinh, thị Bồ Tát danh, ngă đẳng giai đương tùy thuận thị nhân, tác tâm nhăn minh, hiện kỳ nhân tiền, sở cầu viên măn. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác”. Nhĩ thời, Phạm Vương, Đế Thích, tứ đại thiên vương vũ chư thiên hoa, cúng dường Như Lai, bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Vị lai chúng sanh, nhược tự tâm chánh, bất uổng thị phi, bất xả thưởng phạt, tŕ thị kinh giả, niệm thử Bồ Tát, ngă đẳng quyến thuộc ủng hộ thị nhân, bất ly nhật dạ, linh kỳ quốc độ bách do-tuần nội, vô chư tai nạn. Kỳ quốc nhân dân linh đắc an ổn, cốc giá thành thục, sở cầu măn túc. Nhược bất nhĩ giả, bất danh hộ thế, bất hoàn Bổn Giác”.

          ()爾時,三千大千世界六變震動,文殊師利菩薩、普賢菩薩、金剛藏菩薩、虛空藏菩薩、聖觀自在菩薩摩訶薩等,異口同音而白佛言:世尊!未來眾生若聞此經是菩薩名,我等皆當隨順是人,作心眼明,現其人前,所求圓滿。若不爾者,不取正覺。」爾時,梵王、帝釋、四大天王雨諸天華,供養如來,白佛言:「世尊!未來眾生若自心正,不枉是非,不捨賞罰,持是經者念此菩薩,我等眷屬擁護是人,不離日夜,令其國土百由旬內,無諸災難。其國人民令得安穩,穀稼成熟,所求滿足。若不爾者,不名護世,不還本覺。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, tam thiên đại thiên thế giới sáu lượt chấn động. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Kim Cang Tạng Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát v.v… khác miệng cùng tiếng bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng sanh đời vị lai nếu nghe kinh này, và danh hiệu vị Bồ Tát này, chúng con sẽ đều tùy thuận người ấy, làm cho tâm và mắt người ấy sáng tỏ, hiện ra trước người ấy, [khiến cho] những điều mong cầu của người ấy viên măn. Nếu chẳng như vậy, chẳng giữ lấy Chánh Giác”.

          Lúc bấy giờ, Phạm Vương, Đế Thích, tứ đại thiên vương mưa các hoa trời cúng dường Như Lai, bạch với Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng sanh trong đời vị lai nếu tự chánh cái tâm, chẳng bẻ cong phải trái, chẳng bỏ thưởng phạt, tŕ kinh này, niệm vị Bồ Tát này, hàng quyến thuộc chúng con sẽ ủng hộ người ấy ngày đêm chẳng ĺa, khiến cho quốc độ ấy trong ṿng một trăm do-tuần không có các tai nạn. Nhân dân trong cơi ấy được an ổn, hoa màu chín rộ, mong cầu được thỏa măn. Nếu chẳng được vậy, chúng con chẳng được gọi là Hộ Thế, chẳng chứng Bổn Giác”).

 

          (Kinh) Thời nhị đồng tử thị lập tả hữu, nhất danh Chưởng Thiện, tại tả, bạch sắc, tŕ bạch liên hoa, điều ngự pháp tánh. Nhất danh Chưởng Ác, tại hữu, xích sắc, tŕ kim cang xử, hàng phục vô minh. Phật cáo đại chúng: “Nhữ đẳng đương tri! Thị nhị đồng tử pháp tánh, vô minh, lưỡng thủ, lưỡng túc, Diên Mạng Bồ Tát trung tâm bất động, A tự bản thể. Nhược hữu chúng sanh tri thị tâm giả, quyết định thành tựu, tức diệt tam độc đắc tự tại lực. Nguyện sanh Phật độ, tùy nguyện đắc sanh. Nhược vị lai thế nhất thiết chúng sanh, cung kính cúng dường Diên Mạng Bồ Tát, bất sanh nghi hoặc, hiện thế sở cầu giai linh măn túc. Hậu sanh Tịnh Độ, đắc Vô Sanh Nhẫn”. Phật thuyết thử kinh dĩ, nhất thiết đại hội, tâm đại hoan hỷ, tín thọ phụng hành. Phật Thuyết Diên Mạng Địa Tạng Bồ Tát Kinh.

          ()時二童子侍立左右,一名掌善,在左,白色,持白蓮華,調御法性。一名掌惡,在右,赤色,持金剛杵,降伏無明。佛告大眾:「汝等當知!是二童子法性無明,兩手兩足,延命菩薩中心不動,阿字本體。若有眾生知是心者,決定成就,即滅三毒得自在力。願生佛土隨願得生。若未來世一切眾生,恭敬供養延命菩薩,不生疑惑,現世所求皆令滿足。後生淨土得無生忍。」佛說此經已,一切大會,心大歡喜,信受奉行。佛說延命地藏菩薩經。

          (Kinh: Khi ấy, hai đồng tử đứng hầu hai bên. Một tên là Chưởng Thiện ở bên trái, màu trắng, cầm hoa sen trắng, điều ngự pháp tánh. Người kia tên là Chưởng Ác, ở bên phải, màu đỏ, cầm chày kim cang, hàng phục vô minh. Đức Phật bảo đại chúng:

          - Các ông nên biết: Hai đồng tử này là pháp tánh và vô minh, [ví như] hai chân và hai tay, Diên Mạng Bồ Tát ở chính giữa bất động là bản thể của chữ A. Nếu có chúng sanh biết cái tâm này, sẽ quyết định thành tựu, liền diệt tam độc, đắc sức tự tại. Nguyện sanh về cơi Phật, sẽ tùy theo nguyện được sanh. Nếu hết thảy chúng sanh trong vị lai cung kính cúng dường Diên Mạng Bồ Tát, chẳng sanh ngờ vực, những điều mong cầu trong đời này sẽ đều được thỏa măn. Về sau, sanh vào Tịnh Độ, đắc Vô Sanh Nhẫn.

          Đức Phật nói kinh này xong, hết thảy đại hội, tâm hết sức hoan hỷ, tin nhận, vâng làm theo. Phật Thuyết Diên Mạng Địa Tạng Bồ Tát Kinh hết).

 

Phụ lục 2:

Khuyên khắp các đạo lữ Tịnh Tông tŕ tụng thêm kinh Địa Tạng

Hoằng Nhất đại sư giảng thuật vào ngày khánh đản đức Địa Tạng

năm Canh Th́n (1940) tại Vĩnh Xuân[13]

Vương Mộng Tỉnh ghi

 

          Tôi đến Vĩnh Xuân tới nay đă một năm rưỡi. Mùa Hạ năm trước, cư sĩ Vương Mộng Tỉnh gởi thư đến, nói tính cùng các vị như cư sĩ Lâm Tử Kiên v.v… đến chùa Phổ Tế, thỉnh tôi giảng kinh. Khi đó, tôi từng gởi thư trả lời: “Đợi đến lúc trời sang tiết Thu mát mẻ, sẽ vào thành giảng đại ư kinh Kim Cang ba ngày”. Tới tháng Bảy mùa Thu, tôi do bế quan tu Thiền, chẳng đến được. Hôm qua, cư sĩ Mộng Tỉnh và các vị nhân giả vào núi thăm viếng, do bị mưa, ở lại tự viện vài ngày. Hôm nay nhằm đúng dịp khánh đản Địa Tạng Bồ Tát, nên tôi nương theo cái duyên thù thắng này, nói về ư chỉ trọng yếu “các đạo lữ Tịnh Tông nên tŕ tụng thêm kinh Địa Tạng” để làm kỷ niệm.

          Pháp tu tŕ của các đạo lữ Tịnh Tông cố nhiên lấy ba kinh Tịnh Độ làm chủ. Ngoài ba kinh ra, có lẽ nên tụng thêm kinh Địa Tạng làm trợ hạnh, v́ Địa Tạng Bồ Tát có đại nhân duyên với chúng sanh cơi này, kinh Địa Tạng Bổn Nguyện lại càng khế hợp sâu xa với căn khí của bọn thường nhân chúng ta. Do vậy, nay tôi khuyên khắp các đạo lữ Tịnh Tông hăy nên tŕ tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện kèm thêm. Tôi kính cẩn trần thuật chỉ thú như sau để các đạo lữ Tịnh Tông chọn lựa.

          1) Từ xưa tới nay, Tịnh Tông có nhân duyên sâu nhất đối với đức Địa Tạng. Vị tổ thứ tám của chúng ta là Liên Tŕ đại sư viết bài tựa cho kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, ca ngợi, khuyên lơn lưu thông. Đến vị tổ thứ chín là Ngẫu Ích đại sư, Ngài suốt đời phụng sự Địa Tạng Bồ Tát, càng tận lực tán thán, hoằng dương. Ngài sống tại núi Cửu Hoa rất lâu, tự xưng là “Địa Tạng chi cô thần” (bầy tôi côi cút của đức Địa Tạng), cũng như suốt cả đời siêng năng lễ Địa Tạng Sám Nghi, thường tŕ Địa Tạng chân ngôn ḥng sám trừ nghiệp chướng, cầu sanh Cực Lạc. Hơn nữa, vị Thái Sơn Bắc Đẩu đương thời của Tịnh Độ Tông là pháp sư Ấn Quang tận lực hoằng truyền, lưu thông Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh, cho khắc in mấy vạn bản để học nhân Tịnh nghiệp chí tâm đọc tụng, y giáo hành tŕ. Nay tôi trộm tuân theo quy củ đă thành lập của chư Tổ Tịnh Tông, khuyên khắp các đồng nhân hăy tu tập kèm thêm. Duyên thù thắng tập hợp, vốn chẳng phải là ngẫu nhiên!

          2) Pháp môn Địa Tạng lấy ba kinh làm chủ. Ba kinh là Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh, Địa Tạng Bồ Tát Thập Luân Kinh, và Địa Tạng Nhị Thừa Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh. Tuy kinh Bổn Nguyện chưa nói rơ nghĩa lư văng sanh, nhưng hai kinh kia đều có. Kinh Thập Luân dạy: “Đương sanh tịnh Phật quốc, đạo sư chi sở cư” (sẽ sanh cơi Phật tịnh, là chỗ đạo sư ngự). Kinh Chiêm Sát dạy: “Nhược nhân dục sanh tha phương hiện tại tịnh quốc giả, ưng đương tùy bỉ thế giới Phật chi danh tự, chuyên ư niệm tụng, nhất tâm bất loạn, như thượng quán sát giả, quyết định đắc sanh bỉ Phật tịnh quốc” (nếu ai muốn sanh vào cơi tịnh trong hiện tại ở phương khác, hăy nên chuyên tâm niệm tụng danh tự của vị Phật trong thế giới ấy, nhất tâm bất loạn, quán sát như trên, chắc chắn sẽ được sanh vào Phật tịnh quốc ấy). V́ thế, vị tổ thứ chín của Liên Tông chúng ta trong bài văn phát nguyện khi lễ Địa Tạng Bồ Tát Chiêm Sát Sám đă viết: “Xả thân tha thế, sanh tại Phật tiền, diện phụng Di Đà, lịch sự chư Phật, thân mông thọ kư, hồi nhập trần lao, phổ hội quần mê, đồng quy bí tạng” (Bỏ thân sanh sang đời khác, ở trước đức Phật, tận mặt phụng sự đức Di Đà, lần lượt phụng sự chư Phật, đích thân được thọ kư, trở vào trần lao, khiến cho khắp các quần mê đều về kho tàng bí mật). Nh́n từ chỗ này, pháp môn Địa Tạng có quan hệ rất sâu với Tịnh Tông, há chỉ là khác lối nhưng cùng về một chỗ, mà c̣n là phát khởi và hướng đến đều nhất trí.

          3) Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật coi tu ba phước là chánh nhân của Tịnh nghiệp. Điều đầu tiên trong ba phước là “hiếu dưỡng phụ mẫu”, mà trong kinh Địa Tạng Bổn Nguyện đă trần thuật cặn kẽ ḷng hiếu thảo trong đời trước của đức Địa Tạng. V́ thế, cổ đức gọi kinh Địa Tạng là “hiếu kinh của Phật môn” rất hữu lư! Phàm những vị đồng nhân với tôi, hăy nên thường đọc tụng kinh Địa Tạng Bổn Nguyện ḥng tương ứng với ư chỉ hiếu dưỡng của Quán Kinh, cũng như vâng theo lời dạy tận lực thực hiện, đặc biệt tôn sùng hiếu đạo để báo ân cha mẹ, tu phước thù thắng.

          4) Trong hiện thời, pháp sư Ấn Quang dạy mọi người tŕ danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương, ắt khuyên mọi người trước hết hăy tin nhân quả báo ứng, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, sau đấy mới nói: “Cậy vào từ lực của Phật, đới nghiệp văng sanh”. Nhưng trong kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, đă nói rộng về nhân quả báo ứng tột bậc tường tận. Phàm những vị đồng nhân, hăy nên thường đọc kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, y giáo phụng hành để giúp cho Tịnh nghiệp. Nếu chưa thể tin sâu nhân quả báo ứng, chẳng chú trọng thiết tha giữ ǵn luân thường đạo đức, há không chỉ là chưa thể sanh Tây, mà c̣n cũng có phần trong tam đồ! Nay tôi trộm dựa theo ư ấy, khuyên khắp những ai tu Tịnh nghiệp, ắt cần phải tin sâu nhân quả, thường kiểm điểm những chuyện đă làm trong thường nhật, chân thành sám hối, nỗ lực sửa lỗi. Lại c̣n tiến cao hơn là tu tŕ Ngũ Giới, Thập Thiện v.v… để làm trợ hạnh cho niệm Phật, ḥng làm tư lương sanh Tây.

          5) Người tu Tịnh nghiệp chúng ta, nếu có thể trong hoàn cảnh hiện tại, đối với khổ, vui, thuận, nghịch hết thảy đều buông xuống, chẳng vướng mắc, dùng khổ cảnh để tiêu trừ Thân Kiến, dùng nghịch duyên để kiên cố tịnh nguyện th́ đúng là rất tốt. Nhưng người như thế, trong ngàn vạn người, hiếm được một, hai. V́ chúng ta thuộc địa vị phàm phu, tuy biết tùy phần tùy sức tu tập Tịnh nghiệp, nhưng vẫn chưa thể triệt để thấy thấu suốt thân, tâm, thế giới, chưa thể chẳng cần thiết áo cơm, chỗ ở v.v…, cũng chẳng thể không lo nghĩ v́ thiên tai nhân họa như nước, lửa, đao binh, đói kém v.v… Nếu cuộc sống khó khăn, tai họa liên tiếp dấy lên, sẽ lập tức trở thành chướng ngại to lớn cho tu hành. Nay nếu có thể quy y, tin tưởng Địa Tạng Bồ Tát, sẽ không có những nỗi lo ấy. Dựa theo những điều ghi chép trong kinh Địa Tạng, sẽ có thể khiến cho chúng ta áo cơm sung túc, bệnh dịch không xảy đến, nhà cửa măi măi yên ổn, điều mong cầu được toại ư, thọ mạng gia tăng, trừ sạch hư hao, ra vào có thần minh bảo vệ, ĺa khỏi các tai nạn v.v… Cổ đức nói: “Thân yên rồi đạo mới hưng thịnh” tức là nói về chuyện này! Đấy là yếu chỉ khuyên người tu Tịnh nghiệp hăy nên quy hướng, tin tưởng đức Địa Tạng vậy.

          Trên đây, tôi đă lược thuật chỉ thú tŕ tụng kinh Địa Tạng, tuy nghĩa lư chưa thể tường tận, cũng có thể thấy được đại khái. Chỉ mong các đạo lữ Tịnh Tông hăy lưu truyền rộng răi, chí tâm tŕ tụng kinh Địa Tạng, do công sức ấy, sẽ đạt được lợi ích thù thắng!

          (Trích từ Hoằng Nhất Đại Sư Diễn Giảng Tập)

 

Phụ lục 3:

Địa Tạng Bồ Tát Chân Ngôn

 

          Thông thường, trong các khóa tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện đang lưu hành, khi kết kinh, sẽ có hai bài chú. Một là Diệt Định Nghiệp Chân Ngôn và Địa Tạng Bồ Tát Tâm Chú. Diệt Định Nghiệp Chân Ngôn vốn trích từ quyển thứ sáu của Đà La Ni Tập Kinh (thuộc tập thứ 18, kinh số 901 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh), tên gọi chánh yếu là Địa Tạng Bồ Tát Pháp Thân Chú. Đà La Ni Tập Kinh (Dhāraṇī-samuccaya) được ngài A Địa Cù Đa (Atikūṭa) xứ Thiên Trúc dịch ra tiếng Hán vào đời Đường, nội dung toàn là nói về các ấn chú và nghi quỹ của nhiều vị tôn thánh như Thích Ca Mâu Ni Phật, Tỳ Lô Giá Na Phật, A Di Đà Phật, Dược Sư Phật v.v… C̣n Địa Tạng Tâm Chú phát xuất từ phẩm Mật Ấn của kinh Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Tŕ (kinh Đại Nhật, tức kinh số 848 trong tập 18 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh).

 

          * Chú Diệt Định Nghiệp Chân Ngôn:

          Om pramardane svāhā

          (Án, bát la mạt lân đà ninh, sa bà ha,

          Hoặc: Án, ba ra mạt đà nễ, sa ha).

         

          * Địa Tạng Bồ Tát Tâm Chú:

          Om hahaha vismaye svāhā.

          (Án, ha ha ha tỳ xă duệ, sa ha).

 

          Hoặc:

          Namaḥ samanta-buddhānāṃ hahaha vismaye svāhā.

          (Nam mô tam măn da bột đà nẫm, ha ha ha, vi sa ma duệ sa ha)

         

          Đại sư Ngẫu Ích đặc biệt coi trọng chú Diệt Định Nghiệp, đă viết bài Bổ Tổng Tŕ Diệt Định Nghiệp Chân Ngôn Sớ, mở đầu bằng lời tán thán: “Kính lễ Từ Tôn Địa Tạng Vương, thần chú khéo trừ diệt định nghiệp. Cứu khắp vô biên ngũ trược khổ, tiếp gịng Tam Bảo hưng thịnh chẳng đoạn tuyệt”. Đại sư tự nói chính ḿnh và chúng sanh “mê cái tâm vốn tịnh, đă tạo định nghiệp” cho nên cùng chịu khổ báo. Nếu chúng sanh cung kính niệm Diệt Định Nghiệp Chân Ngôn, “chắc chắn có thể dẹp trừ tam chướng khổ, thí tam đức lạc” (bài viết này đă được đưa vào Cửu Hoa Sơn Chí trong tổng tập Trung Quốc Phật Tự Sử Chí Vựng San, tập số 72).

          Ngoại trừ kiên định và chuyên tâm tŕ tụng chú này, nếu mong trừ diệt định nghiệp, cần phải có chánh tri chánh kiến. Do đó, đại sư đặc biệt nhấn mạnh: Chúng sanh phải “biết rơ đúng sai, thấu đạt tà chánh, tin sâu nhân quả, hiểu Đệ Nhất Nghĩa”. Đại sư nói: “Dùng nguyện làm tṛng mắt của chúng sanh, lấy thân làm tường thành cho Phật pháp”, “thường v́ người khác nói cái nhân xa là Pháp Tạng, cái quả hiện tại là Di Đà, khiến cho các hữu t́nh đều thoát khổ luân, rốt cuộc đạt an lạc”. Đại sư dạy rơ: Người tŕ chú này, không chỉ v́ chính ḿnh, mà c̣n phải v́ chúng sanh th́ mới tương ứng, mới mong đạt được hiệu quả. Tức là dù Hiển hay Mật, dù tu bất cứ pháp môn nào, đều phải lấy Bồ Đề tâm làm căn bản.

          Đă nói là Diệt Định Nghiệp Chân Ngôn, ắt sẽ có người vặn: “Đă là định nghiệp, lẽ đâu có thể tiêu trừ? Thường nói là ‘nhân như thế nào, quả như thế ấy’, hễ có nhân tạo ác nghiệp như vậy, dĩ nhiên sẽ hứng chịu ác quả, làm sao có ngoại lệ cho được?” Hăy xem đức Phật khai thị trong phẩm Nghiệp của Ưu Bà Tắc Giới Kinh: “Hà nhân duyên cố danh quả báo định? Thường tác vô hối cố, chuyên tâm tác cố, hỷ nhạo tác cố, lập thệ nguyện cố, tác dĩ hoan hỷ cố, thị cố thị nghiệp đắc quả báo định. Trừ thị dĩ ngoại, tất danh bất định” (Do nhân duyên nào mà gọi là quả báo nhất định? Do thường làm mà chẳng hối hận, do chuyên tâm làm, do ưa thích làm, do lập thệ nguyện mà làm, do làm xong hoan hỷ. Do đó, nghiệp ấy sẽ đạt được quả báo cố định. Trừ những điều ấy ra, đều gọi là bất định). Nh́n từ đây, hành nhân tịnh nghiệp thường tu tập pháp môn Niệm Phật với năm tâm thái ấy, chắc chắn sẽ đạt được cái quả nơi Tây Phương Cực Lạc.

          Trở lại với vấn đề ác nghiệp, chủng tử của những ác nghiệp đă tạo sẽ tồn trữ trong Tạng Thức. Trước khi chết, những chủng tử ấy chưa chuyển thành chủng tử Dị Thục th́ vẫn c̣n có cơ hội để chuyển biến chúng. Chẳng hạn như phát lộ sám hối, nỗ lực gieo thiện nhân và thiện duyên ngơ hầu chuyển biến ác quả trong tương lai. Cũng trong phẩm Nghiệp của kinh Ưu Bà Tắc Giới, đức Phật dạy: “Nhược quả báo định, ưng hậu thọ giả, thị nghiệp khả chuyển hiện tại thọ chi, hà dĩ cố? Thiện tâm trí huệ nhân duyên lực cố, ác quả định giả diệc khả chuyển khinh” (nếu đối với quả nhất định, đáng phải hứng chịu cái quả sau này, nghiệp ấy có thể chuyển thành cái quả phải thọ trong hiện tại. V́ lẽ nào? Do sức nhân duyên của thiện tâm và trí huệ, ác quả nhất định cũng có thể chuyển thành nhẹ). Nghĩa là dùng nhân duyên của thiện tâm và trí huệ, sẽ có thể chuyển biến định nghiệp thành bất định nghiệp. Nhờ đó, cũng có thể chuyển ác quả nặng nề thành nhẹ nhàng hơn.

          Trong phẩm Sư Tử Hống của kinh Đại Bát Niết Bàn, Sư Tử Hống Bồ Tát đă từng hỏi đức Phật: “Nếu quả báo trở thành định nghiệp, chẳng thể chuyển đổi, vậy th́ kẻ hủy báng kinh điển Đại Thừa, phạm tội Ngũ Nghịch, cho đến kẻ Nhất Xiển Đề chẳng tin quả báo, hoàn toàn không có tâm hối hận, hổ thẹn, sẽ hoàn toàn chẳng thể chứng Bồ Đề, trọn chẳng thể thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ư?” Đức Phật đă dạy rơ: Trong quá khứ, Ngài nói định nghiệp là v́ quá nhiều chúng sanh không tin vào nghiệp duyên quả báo, khinh mạn đối đăi. V́ đoạn trừ tà kiến này, đức Phật mới phương tiện nói “hết thảy các nghiệp đă làm, không ǵ chẳng có quả báo nhất định”. Tới hội Niết Bàn, đức Phật mới chỉ rơ nghiệp bất định và quyết định. Do vậy có thể nói: Nghiệp trở thành định nghiệp v́ người tạo nghiệp không biết sửa đổi, chẳng biết sám hối, chẳng biết bổ cứu. Thật ra, ngay trong kinh Ưu Bà Tắc Giới, đức Phật đă khai thị rơ ràng: “Như hữu tu thân, tu Giới, tu tâm, tu Huệ, định tri thiện ác nghiệp đương hữu quả báo, thị nhân năng chuyển trọng nghiệp vi khinh, khinh giả bất thọ. Nhược tao phước điền, ngộ thiện tri thức, tu đạo, tu thiện, thị nhân năng chuyển hậu thế trọng tội, hiện thế khinh thọ” (Nếu có kẻ tu thân, tu Giới, tu tâm, tu Huệ, biết chắn do nghiệp thiện ác sẽ có quả báo, người ấy có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ, chẳng hứng chịu quả báo do nghiệp nhẹ. Nếu gặp phước điền, gặp thiện tri thức, tu đạo, tu thiện, người ấy có thể chuyển trọng tội trong đời sau thành quả báo nhẹ trong đời này). Đấy chẳng phải là đức Phật đă dạy rất rơ: Có thể chuyển biến định nghiệp đấy sao?

          Ngoài ra, điều chủ yếu là tâm phải chân thật sám hối. Nếu chỉ tŕ tụng chân ngôn suông, không hề có tâm sám hối, không thực sự sửa đổi, dẫu tụng chân ngôn bao nhiêu đi nữa, hay tụng toàn bộ kinh tạng, định nghiệp vẫn chẳng thể sửa đổi được. Trong kinh Phật Vị Thủ Ca Trưởng Giả Thuyết Nghiệp Báo Sai Biệt, đức Phật cũng dạy rơ: “Nhược nhân tạo trọng tội, tác dĩ thâm tự trách, sám hối cánh bất tạo, năng bạt căn bản nghiệp” (Nếu ai tạo trọng tội, đă làm rồi bèn tự trách sâu xa, sám hối, chẳng làm nữa, sẽ có thể nhổ trừ nghiệp căn bản). Nghiệp căn bản chính là định nghiệp!

          Ngoài ra, từ các vị tôn thánh trong Địa Tạng Viện của Thai Tạng Mạn Đồ La, ta thấy có sáu vị Địa Tạng tương ứng với lục đạo, tức là các phân thân của Địa Tạng Bồ Tát để giáo hóa chúng sanh trong sáu đường:

          1) Đàn Đà Địa Tạng: Đàn Đà (Daṇḍa) c̣n dịch là Độc Lâu Trượng, tức là một loại gậy có h́nh đầu lâu. Ngài tay trái cầm trượng này, tay phải kết Cam Lộ Ấn, chuyên cứu giúp chúng sanh trong địa ngục.

          2) Bảo Châu Địa Tạng: Tay trái cầm bảo châu, tay phải kết Cam Lộ Ấn, chuyên cứu độ chúng sanh trong ngạ quỷ đạo.

          3) Bảo Ấn Địa Tạng: Tay trái cầm tích trượng, tay phải kết Như Ư Bảo Ấn, chuyên cứu tế chúng sanh trong súc sanh đạo.

          4) Tŕ Địa Địa Tạng: Tay trái cầm kim cang tràng, tay phải kết Thí Vô Úy Ấn, chuyên tế độ A Tu La đạo.

          5) Trừ Cái Chướng Địa Tạng: Tay trái cầm tích trượng, tay phải kết Dữ Nguyện Ấn, chuyên tế độ loài người.

          6) Nhật Quang Địa Tạng: Tay trái cầm Như Ư châu, tay phải Thuyết Pháp Ấn, chuyên tế độ chư thiên.

          Hơn nữa, trong Mật Tông, Ngài c̣n có mật hiệu là Bi Nguyện Kim Cang, Dữ Nguyện Kim Cang, và Bi Phồn Kim Cang. Trong Kim Cang Giới Mạn Đà La, Ngài được biết dưới danh xưng là Tràng Bồ Tát, là thị giả của Bảo Sanh Như Lai ở phương Nam. Sách Dữ Nguyện Kim Cang Địa Bồ Tát Bí Kư trích dẫn kinh Liên Hoa Tam Muội Kinh cho biết Pháp Thân của Ngài chính là Bảo Sanh Như Lai (Ratna-sambhava, c̣n có các danh xưng khác là Bảo Tướng Như Lai, Bảo Thắng Như Lai. Khai Phu Hoa Vương Như Lai).

          Về h́nh tượng của Ngài, trước thời Đường, Địa Tạng Bồ Tát thường được tạc tượng, hoặc vẽ (nhất là các tượng tạc tại Đôn Hoàng, hoặc Long Môn Thạch Quật) dưới dạng một vị Bồ Tát có dáng vóc một vị trời đoan nghiêm, đeo anh lạc, đội bảo quan như các vị Bồ Tát khác. Tiêu chí để nhận biết là tay Ngài cầm bảo châu. Các bức thangka vẽ Địa Tạng Bồ Tát trong Tạng Truyền Phật giáo cũng vẽ theo h́nh thức này. Từ đời Đường trở đi, sau khi ḥa thượng Kim Kiều Giác viên tịch, do Ngài được coi là hóa thân của Địa Tạng Bồ Tát, cũng như do căn cứ theo sự mô tả trong kinh Thập Luân, h́nh tượng Địa Tạng Bồ Tát từ đó trở về sau luôn được vẽ dưới h́nh tướng tỳ-kheo, đắp y ca-sa, đầu trần, tay cầm tích trượng và bảo châu. Đôi khi vẽ Ngài đội Ngũ Phật Bảo Quan hay măo Tỳ Lô. Càng về sau, tượng Ngài dưới h́nh dạng tỳ-kheo đội măo Ngũ Phật phổ biến hơn. Trong các tranh vẽ, ngoài hai vị thị giả là Đạo Minh và Mân Công, có lúc hai vị này thường được thay thế bằng Mục Liên tôn giả và Kiên Lao Địa Thần. Tại Đài Loan, có nơi vẽ thị giả là Vô Độc quỷ vương và Diện Nhiên quỷ vương, hoặc thị giả là Dẫn Hồn Bồ Tát và Mục Liên tôn giả. Có khi c̣n vẽ phức tạp hơn, Bồ Tát có đến sáu vị thị giả là Diễm Ma sứ giả (hóa độ địa ngục), Tŕ Bảo đồng tử (hóa độ ngạ quỷ), Đại Lực sứ giả (hóa độ súc sanh đạo), Đại Từ thiên nữ (hóa độ Tu La), Bảo Tạng thiên nữ (hóa độ loài người), và Nhiếp Thiên sứ giả (hóa độ thiên chúng); hoặc vẽ Địa Tạng Bồ Tát có ba mươi bốn vị quỷ vương (tức Ác Độc quỷ vương, Đa Ác quỷ vương… nói trong phẩm thứ chín) làm thị giả. Phật giáo Nhật Bản lại có hai h́nh tượng Địa Tạng Bồ Tát đặc biệt là:

          1) Diên Mạng Bồ Tát có h́nh tướng tỳ-kheo, hai thị giả là Chưởng Thiện (Căng Gia La, Kiṃkara) và Chưởng Ác đồng tử (Chế Đa Ca, Ceṭaka).

          2) Thiên Thai Tông Nhật Bản lại có h́nh tượng Thắng Quân Địa Tạng đầu đội mũ đâu mâu, mặc áo giáo, lưng giắt đao, tay cầm tràng phan và bảo kiếm, biểu thị đại nhẫn nhục và tinh tấn, đoạn trừ phiền năo.

          Hiện thời, các kinh điển nói về Địa Tạng Bồ Tát có các bộ sau đây:

          1) Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh (do ngài Pháp Đăng dịch. Một bản dịch khác của ngài Thật Xoa Nan Đà).

          2) Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh (do ngài Bồ Đề Đăng xứ Thiên Trúc dịch).

          3) Đại Thừa Đại Tập Địa Tạng Thập Luân Kinh (do ngài Huyền Trang dịch)

          4) Đại Phương Quảng Thập Luân Kinh (mất tên người dịch).

          5) Địa Tạng Bồ Tát Nghi Quỹ (do ngài Thâu Bà Ca La dịch).

          6) Phật Thuyết Địa Tạng Bồ Tát Đà La Ni Kinh (mất tên người dịch).

          7) Kim Cang Tam Muội Kinh (phẩm Tổng Tŕ - mất tên người dịch).

          8) Bách Thiên Tụng Đại Tập Kinh Địa Tạng Bồ Tát Thỉnh Vấn Pháp Thân Tán (do ngài Bất Không dịch).

          9) Phật Thuyết Diên Mạng Bồ Tát Kinh (Đại Chánh Tạng ghi là không rơ người dịch, nhưng theo truyền thống, Phật giáo Trung Hoa ghi là bản này do ngài Bất Không dịch).

         

Phụ lục 4:

Địa Tạng Bồ Tát Linh Cảm Lục

Pháp sư Tâm Nhiên biên thuật

 

1. Vẽ phỏng theo h́nh tượng bèn được thoát nạn

 

          Đời Lương, tại chùa Thiện Tịch ở huyện Đức Dương, Hán Châu, nơi vách của đông lang, có tượng Địa Tạng Bồ Tát do Trương Tăng Diêu[14] vẽ, h́nh dạng giống như một vị Tăng ngồi nghiêm nghị. Khi ấy, có ánh sáng lạ chói ngời. Trong năm đầu của niên hiệu Lân Đức[15] đời Đường, tăng sĩ trong chùa vẽ phỏng theo, lại thấy tỏa sáng. Năm Lân Đức thứ ba (665), khi Vương Kư đến làm Tư Châu Thứ Sử, thường tinh thành cúng dường bức tranh vẽ phỏng theo. Có mười chiếc thuyền cùng đi, giữa đường bỗng gặp gió băo, chín chiếc đều ch́m lỉm, chỉ có thuyền của Vương Kư chẳng bị sợ hăi mảy may, liền biết là do Bồ Tát từ bi gia bị. Năm Thùy Củng thứ ba (687), thiên hậu (Vũ Tắc Thiên) nghe chuyện ấy, liền sắc truyền họa sĩ vẽ phỏng theo, tranh lại tỏa sáng như trước. Tới năm Đại Lịch nguyên niên (766), có vị đại đức tại chùa Bảo Thọ ở trong đạo tràng, lại thấy tướng lạ phóng quang, liền viết biểu tâu lên. Vua bèn kiền thành đảnh lễ, tán thán cùng cực! Ngay trong lúc Bồ Tát hiện quang, đất nước thường an khang, càng thêm cát tường.

          Lại có vợ của một thương nhân, có thai đă hai mươi tám tháng chẳng sanh. Một hôm, bỗng thấy quang minh của Bồ Tát, bà ta liền nhất tâm phát nguyện sẽ vẽ mô phỏng h́nh tượng. Ngay trong đêm ấy, sanh một trai tướng hảo đoan nghiêm, ai trông thấy cũng đều hoan hỷ. Do vậy, cả cơi đời gọi [tượng ấy] là Phóng Quang Bồ Tát.

 

2. Tượng vẽ phóng quang

 

           Vào đời Đường, chùa Pháp Tụ tại Quách Hạ thuộc Ích Châu có tượng vẽ Địa Tạng Bồ Tát ngồi trên giường dây[16], thơng chân xuống, cao tám hay chín tấc. Tượng ấy vốn do Trương Tăng Diêu vẽ. Tới tháng Bảy năm Lân Đức thứ hai, Tăng sĩ trong chùa vẽ phỏng theo một bản, tượng liền tỏa sáng giống như ṿng vàng, chợt tỏa ra, chợt ẩn mất, gần như là quang minh nơi bản vẽ gốc. Lần lượt vẽ nhiều bản sao như thế, cũng đều phóng quang y hệt. Tháng Tám năm ấy, được lệnh dâng lên một bản đưa vào cung để cúng dường. Phàm tăng tục trong ngoài kinh thành, vẽ lại để cúng dường, cũng đều thấy phóng quang, tin biết là Phật lực chẳng thể suy lường.

 

3. Nghe tiếng, thoát khỏi gông cùm

 

          Đời Đường, tại huyện Hộ ở Ung Châu, có người con gái họ Lư, chuyên ăn chay thờ Phật, rất có tín tâm. Trong nhà, thờ phụng tượng Địa Tạng Bồ Tát tạc bằng gỗ, cao một thước sáu tấc khá linh dị. Cô Lư có mụ đầy tớ tuổi ngoài năm mươi, tà kiến, chẳng tin chánh pháp. Một hôm, mụ chờ Lư Thị đi nơi khác, dời tượng vứt ra ngoài đồng hoang xa khỏi khu nhà. Lư Thị trở về nhà, khóc lóc đi t́m. Bỗng dưng thấy tượng phóng quang ngoài đồng hoang, hoan hỷ đón về, chẳng biết do mụ đầy tớ đă làm. Hôm sau, mụ đầy tớ bỗng chết ngất đi, bất tỉnh nhân sự. Kế đó, bỗng tỉnh dậy, khóc lóc sám hối, tự kể chuyện trong chốn u đồ như sau:

          - Khi tôi chết, thấy hai viên quan cưỡi ngựa, đọc quan điệp bảo: “Mụ đầy tớ hủy nhục thánh tượng, đă phạm tội lớn”. Trói lại, giải đến chỗ Diêm Vương, bị vua giận dữ, quở trách, phán tội đáng vào địa ngục chịu khổ. Khi ấy, có một vị sa-môn đến sảnh đường. Vua liền xuống khỏi bệ, cung nghênh, hỏi nguyên do. Sa-môn nói: “Người này là tớ gái trong nhà thí chủ của ta. Tuy ghét tượng của ta, ta chẳng bỏ bà ta. Mong nhà vua rủ ḷng thương, ban cho thọ mạng”. Vua thưa: “Xin nghe theo lệnh thầy”. Khi ấy, tôi nghe xong, tâm sám hối, bất giác xướng rằng: “Nam-mô Địa Tạng đại Bồ Tát”. Ngay lập tức, các tội nhân đang hiện diện trong sảnh đường, tiếng niệm truyền tới đâu, gông cùm đều tự thoát. Vị sa-môn liền nắm tay tôi, dẫn ra khỏi sảnh đường. Do vậy, tôi liền sống lại.

          Lư Thị nghe nói, càng thêm kính trọng tượng ấy. Do vậy, trong cả một huyện, không ai chẳng đều sanh ḷng tin tưởng, ngưỡng mộ.

 

4. Giúp cha sanh lên trời

 

          Đời Đường, vợ của thứ sử[17] Phủ Châu là Tổ Thị quy kính Địa Tạng Đại Sĩ, tín tâm chân thật, thiết tha, chỉ có cha mẹ ruột của bà ta vẫn chưa sanh ḷng tin. Tổ Thị bèn v́ cha mẹ xuất tiền và lụa, tạo một bức tượng Địa Tạng Bồ Tát kim sắc cao ba thước, dốc hết ḷng thành, cung kính thờ phụng. Khi ấy, cha bà do có chuyện phải đi xa, mẹ bà ở nhà một ḿnh. Ban đêm, có kẻ ác tặc lén ḍm qua khe cửa, toan ăn trộm quần áo, thấy Địa Tạng Bồ Tát ngồi ngay ngắn, nên chẳng dám tiến vào. Hôm sau, gă giặc thay đổi quần áo đến nhà ấy, thấy bà cụ quần áo chỉnh tề ngồi đó, trọn chẳng thấy thánh tượng, tâm trộm lấy làm lạ, bèn tự thố lộ tội lỗi, ḥng biểu lộ ḷng hổ thẹn, hối lỗi, kể lại điều đă thấy trong đêm.

          Về sau, cha bà ta sang Phủ Châu, giữa đường gặp oán gia rút đao xông đến chém. Bỗng có một sa-môn kim sắc dùng tay ngăn mũi đao, dùng đầu nhận lấy mũi nhọn, bị hại ngă lăn ra đất. Khi đó, kẻ oán tưởng là ḿnh đă giết hại, bèn bỏ chạy. Cha bà ta tránh khỏi bị giết hại, cảm thấy rất kỳ lạ! Đến nhà con gái, kể đầy đủ chuyện trên đây, sanh ḷng hy hữu. Cùng nhau đến chỗ thờ tượng lễ bái, thấy trên đầu tượng có ba vết đao, màu vàng biến đổi chút ít, dường như bị chảy máu. Tổ Thị liền biết là Địa Tạng Bồ Tát đă chịu đao thay, cứu cha ḿnh thoát nạn. Cha bà ta liền sanh chánh tín, lại đón mẹ sang nhà, ba người ngày đêm lễ cúng. Cha bà ta đến bảy mươi chín tuổi mới mất.

          Suốt ba mươi lăm ngày, Tổ Thị mộng thấy cha ḿnh thân có quang minh, bay trên không trung tự tại, phi hành tới lui. Bà ta sanh tâm hy hữu, vọng bái hỏi cha sanh về đâu? Đáp: “Ta sanh lên tầng trời thứ tư, cùng phụng sự đấng Bổ Xứ. Người sanh về cơi trời ấy, đa số được Địa Tạng Đại Sĩ dẫn dắt. Mười ba năm sau, mẹ con hết tuổi thọ, sẽ sanh về đó. C̣n chính con th́ hai mươi lăm năm sau mới sanh. Chồng con th́ hai mươi tám năm sau mới sanh”. Nói xong ẩn mất. Về sau, mẹ và vợ chồng Tổ Thị đều đúng như lời cha nói. Từ đấy về sau, trong cả một châu, người tạo tượng, vẽ tượng, lễ bái, cúng dường rất đông, rất nhiều người được cảm ứng.

 

5. Tụng kệ phá ngục

 

          Đời Tống, Thích Tăng Tuấn, họ ngoài đời là Vương, người ở kinh đô. Sau khi xuất gia, chẳng tuân thủ giới luật, chưa từng tu điều lành, mắc bệnh nhẹ, chết đi. Ba ngày sau sống lại, khóc lóc sám hối. Tự nói khi sắp chết, có hai viên quan từ cơi âm bắt tới trước cửa một ṭa thành lớn. Bỗng có một vị Tăng nói: “Ta là Địa Tạng Bồ Tát. Ngươi ở kinh thành đă từng vẽ phỏng theo một bức họa của ta. Dẫu chưa từng lễ bái, cúng dường, bỏ ở sau chùa, ta vẫn báo đáp công đức ngươi vẽ lại tượng”. Bèn dạy một bài kệ rằng: “Nhược nhân dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng tác như thị quán, tâm tạo chư Như Lai (nếu ai muốn biết rơ, ba đời hết thảy Phật, hăy nên quán thế này: Tâm tạo các Như Lai). Tụng bài kệ ấy, có thể đóng cửa địa ngục, có thể mở đường Tịnh Độ, có thể thông với sanh mạng đạt được do quả báo”. Nói xong liền ẩn mất.

          Tăng Tuấn bèn vào trong thành, gặp vua Diêm Ma. Vua hỏi: “Ngươi gặp gỡ pháp trong đời này, có công đức ǵ không?” Đáp: “Chỉ thọ tŕ một bài kệ bốn câu”. Vua nói: “Nay ngươi tụng được không?” Thưa: “Tôi nhớ nằm ḷng”, bèn tụng bài kệ trên đây. Khi ấy, những chỗ tiếng tụng vang đến, người chịu khổ đều được giải thoát. Vua nói: “Thôi! Thôi! Chẳng cần nói nữa”, thả ông ta về nhân gian. Do vậy, ông ta sống lại. Tra duyệt, t́m ṭi th́ mới biết bài kệ ấy được nói trong kinh Hoa Nghiêm khi vô lượng Bồ Tát vân tập trên cung trời Dạ Ma, tức là bài kệ do Giác Lâm Bồ Tát nói. Tăng Tuấn kể lại với các vị Tăng trong chùa. Người nghe đều phát tâm, tin nhận kinh Hoa Nghiêm.

 

6. Khuyến phát Bồ Đề

 

          Đời Tống, sư Thích Định Pháp chùa Không Quán cùng với Tăng Tuấn chuyên dốc ḷng thành quy mạng Địa Tạng Bồ Tát. Vào ngày trai mỗi tháng, Sư vẽ mô phỏng tượng Địa Tạng, nhất tâm lễ bái, cúng dường, cầu thỉnh Bồ Tát ứng hiện. Tṛn ba năm, [một hôm] có một tiểu sa-môn xin ngủ trọ nơi hành lang của chùa. Định Pháp nghe chuyện, cung kính ra khỏi pḥng chào hỏi, nói chuyện một đôi câu, bỗng chẳng thấy [tiểu sa-môn] đâu nữa. Mọi người lấy làm lạ, hỏi Định Pháp: “Sa-môn nói ǵ thế?” Đáp: “Sa-môn bảo: Diệu nguyện đă măn, sao ư khí ngắn ngủi như thế?” Người nghe đều nói: “Ông cầu thấy đức Địa Tạng, nhưng chẳng niệm lẽ xuất yếu, cho nên Bồ Tát hiện thân nói sao mà ư khí ngắn ngủi như thế?” Định Pháp nói: ‘Đă được ứng hiện, tôi sẽ phát Bồ Đề tâm, vui sướng cầu đạo quả vô thượng”.

          Sư nằm mộng, thấy Bồ Tát nói: “Vị sa-môn đó chính là Địa Tạng Bồ Tát. Ngươi cầu thấy ta hiện thân, nhưng chẳng phát Bồ Đề tâm. V́ thế ta đến cảnh tỉnh ngươi. Ngươi vẽ mô phỏng tượng ta khá nhiều, vĩnh viễn chẳng đọa trong ba ác đạo. Xả thọ, sẽ sanh lên Đâu Suất Thiên, lúc đức Từ Tôn (Di Lặc) hạ sanh, ngươi sẽ được thọ kư thành Phật. Ta tùy thuận ngươi như bóng theo h́nh, như nước thuận theo h́nh dạng của đồ đựng mà có h́nh dáng khác nhau”. Sư tỉnh giấc, cảm kích, tuôn lệ như mưa, liền bỏ y, bát, tiền riêng, tạo tượng Bồ Tát cao bằng thân người, điêu khắc thân tượng đẹp đẽ, lại c̣n thâu thập những tượng ḿnh đă vẽ mô phỏng nhiều năm để lễ bái, cúng dường. Tượng phóng quang minh, linh nghiệm rơ rệt.

 

7. Đuổi ma trừ bệnh

 

          Đời Đường, cư sĩ Lư Tín Tư người xứ Lô Thủy. Nhà ông ta nam nữ ba mươi mấy người đều bị ác quỷ quấy nhiễu, lần lượt bị bệnh, hoặc hộc ra máu tươi, hoặc đến nỗi chết ngất. Khi ấy, Tín Tư lo lắng, sầu năo, hỏi Tăng cách giải cứu. Sa-môn tư duy hồi lâu rồi bảo: “Xưa kia, thuở đức Như Lai tại thế, dưới chân núi Tỳ Phú La (Vipula) nước Ma Yết Đề (Magadha), trong nhà trưởng giả Kiều Đề cũng bị ác quỷ gây phiền năo. Cả năm trăm người trong nhà ấy đều chết ngất, mười ngày chẳng tỉnh. Khi ấy, Địa Tạng Bồ Tát du hóa các nước, tới nhà trưởng giả, sanh tâm đại bi, nói chú để cứu. Trong chốc lát, hết thảy đều được trừ sạch. Ông nên làm theo cách ấy, quy y Địa Tạng Đại Sĩ, nhất tâm xưng danh”. Tín Tư hoan hỷ làm theo, vẽ tượng Bồ Tát. Từ đấy, huyện Lô Thủy suốt năm mươi năm thoát khỏi nỗi sợ bệnh tật.

 

8. Vâng hành pháp, sống lại

 

          Đời Đường, chùa Khai Thiện ở Chung Sơn có tượng Địa Tạng Bồ Tát cao ba thước, quang minh quanh thân to bốn thước năm tấc, do đă nhiều năm, chẳng biết do ai tạo. Về sau, Đô Đốc xứ Dương Châu là Đặng Tông, lúc sáu mươi mốt tuổi, mắc bệnh nhẹ, chết đi. Do nơi tim vẫn c̣n ấm, nên [người nhà] chưa nhập liệm. Sau một ngày đêm, ông sống lại, buồn khóc không nói ǵ, sai con cháu d́u đến chùa Khai Thiện, thưa cùng tăng chúng: “Trong chùa này có tượng Địa Tạng Bồ Tát cao khoảng ba thước, thông quang[18] to bốn thước năm tấc hay không? Tôi muốn lễ bái, cúng dường”. Chư Tăng chẳng biết ở chỗ nào, cứ theo lời mà t́m, rốt cuộc t́m được. Đặng Tông lễ kính, lại muốn thỉnh tượng. Tăng hỏi ông điều ông ấp ủ, ông đáp:

          - Lúc tôi chết, thấy một vị quan tứ phẩm bắt lôi đến trước vua. Vua nói: “Ngươi không thể chết. Lại v́ ngươi lấy việc phụng sự Phật pháp làm gia nghiệp, hăy nên sớm trở về nhân gian, nhưng cơi âm đáng sợ, người ta chẳng hay biết. Ngươi có muốn thấy địa ngục hay không?” Đáp: “Tôi muốn thấy”. Vua liền sai một viên quan mặc áo xanh dẫn đi xem. Tôi theo người ấy ra khỏi thành, đi chừng năm sáu dặm về phía Đông Bắc, có một ṭa thành lớn bằng sắt, cửa sắt đóng kín. Dần dần, tôi thấy trong thành lửa dữ sáng ḷa, ngọn lửa như thiêu đốt. Trăm ngàn tội nhân chịu khổ trong ấy. Khi đó, có một vị sa-môn vào trong ngục, chế ngự lửa dữ, giáo hóa tội nhân, ngọn lửa bèn tạm tắt.

          Tiến lên trước, lại thấy một cái thành bằng sắt, mười tám địa ngục ở trong đó. Tướng trạng chịu khổ chẳng thể nói trọn. Lại thấy sa-môn răn dạy tội nhân giống như trước. Tôi đến xem mỗi nơi xong hết rồi mới trở về. Sa-môn từ địa ngục trở ra, hỏi: “Ông có biết tôi là ai hay không?” Thưa: “Không biết”. Sa-môn nói: “Tôi là Địa Tạng Bồ Tát ở chùa Khai Thiện. Xưa kia có sa-môn Trí Tạng pháp sư. Đệ tử của Sư là pháp sư Trí Măn, v́ muốn cứu chúng sanh thọ khổ trong tam đồ, cho nên chạm khắc tượng của tôi. Tôi thuận theo lời thỉnh của Sư, mỗi ngày một thời, vào mười tám địa ngục và vô lượng tiểu địa ngục, răn dạy, chỉ bảo. Những kẻ do xưa kia đă gieo thiện căn, thiện lực khá mạnh, hễ phát tâm liền được thoát khổ. Kế đó, những kẻ thiện lực yếu hơn, chỉ gieo cái nhân thoát khổ. Kẻ đoạn thiện căn tà kiến đă sâu, sẽ chẳng hay, chẳng biết, trọn chẳng có tâm thoát khổ. Nếu ở trong nhân gian, kẻ thiện căn mỏng manh c̣n dễ hóa độ. Nếu vừa vào ác đạo, thánh lực chẳng thể cứu bạt, v́ họ trơ ra như gỗ, đá. Những kẻ chẳng giác ngộ ấy, chờ cho đến khi thoát ra, do chủng tử trước kia hơi mạnh hơn, sẽ có thể phát tâm sám hối. Ông do sức vâng phụng pháp, thoát khỏi nỗi khổ địa ngục, hăy sớm trở về nhân gian, tuyên cáo với đại chúng”. Do vậy, tôi ngước mắt chiêm ngưỡng sa-môn, [thấy Ngài] thân cao ba thước, quang minh quanh thân bị hư nát. Sa-môn liền trao cho hai bài kệ như sau:

          Nhược tại nhân gian khả tu đạo,

          Xiển Đề hữu tâm thượng khả phát,

          Nhược nhập ác đạo, nghiệp dĩ thục,

          Tâm vô phân biệt, bất khả cứu.

          Như suy lăo nhân dục hành lộ,

          Nhược động kỳ túc, phù dị tấn,

          Thảng ngọa bất động, lực bất cập,

          Chúng sanh định nghiệp diệc phục nhiên.

          (Nếu trong nhân gian dễ tu đạo,

          Xiển Đề vẫn có thể phát tâm.

          Nếu vào đường ác, nghiệp chín muồi,

          Tâm vô phân biệt chẳng thể cứu.

          Như người già yếu muốn đi đường,

          Nếu chân cử động, d́u đi được,

          Nếu nằm bất động, chẳng giúp nổi.

          Chúng sanh định nghiệp cũng thế đó).

          Nói kệ xong liền ẩn mất. Tôi trong khi mơ màng, nhớ kỹ chuyện ấy. Do chưa chứng thực, nên không nói với ai khác. Nay thấy tượng này, hoàn toàn giống như tôi đă thấy. Do nhân duyên ấy cho nên muốn thỉnh”. Tăng nghe nói xong, hoan hỷ tán thán: “Chỉ có thể vẽ phỏng theo, không thể thỉnh được!” Ông bèn cậy thợ khéo tạc phỏng theo, để tượng cũ tại đó.

 

9. Cả thành được xá tội

 

          Đời Đường, tại huyện Kim Thủy thuộc Giản Châu, có quan thị lang[19] họ Đặng chuyên tâm tin Phật. Một hôm ở trên đường, ông thấy có một cây gậy bị găy, có khắc h́nh vị Tăng nên đem về, dựng dựa vào vách, lễ kính rồi bỏ đi, không nhớ tới nữa. Ba năm sau, bỗng bị bệnh chết, ngực vẫn c̣n hơi ấm, người nhà nghi ngờ, không tẩn liệm. Sau một ngày đêm, ông sống lại, ứa nước mắt nói:

          - Lúc mới chết, hai kẻ cưỡi ngựa lôi tôi vào trong cửa một ṭa thành lớn. Tới trước sảnh đường của nhà vua, thấy trong điện có trăm ngàn vạn người bị gông cùm. Vua đang giận dữ, toan quở trách tôi. Khi ấy, có một vị sa-môn, h́nh dạng xấu xí, tới trước sảnh đường. Vua cung kính đứng dậy, chắp tay, hồ quỳ, bạch rằng: “Đại thánh! V́ sao Ngài bỗng tới đây?” Sa-môn nói: “Thị lang là thí chủ của tôi, Ngài hăy nên đặc xá”. Vua thưa: “Nghiệp đă quyết định, mạng lẫn lộc đều hết, e rằng khó thể xá miễn được”. Sa-môn: “Xưa kia, ở trong Thiện Pháp Đường của Tam Thập Tam Thiên, ta được đức Phật phó chúc, có thể cứu các hữu t́nh ác có định nghiệp, chẳng phải là nay mới làm như vậy. Huống chi thị lang chẳng phạm trọng tội, há chẳng thể cứu ư?” Vua thưa: “Đại Sĩ đại nguyện, kiên cố bất động, như núi kim cang. Con xin lập tức tuân lời, thả ông ta về nhân gian”.

          Sa-môn hoan hỷ, nắm tay thị lang, dẫn vào đường sống. Lúc sắp từ biệt, thị lang thưa hỏi: “Sa-môn cứu con, là đại ân nhân, xin dạy cho biết pháp hiệu của người?” Sa-môn đáp viết: “Ta là Địa Tạng Bồ Tát. Xưa kia, ông ở nhân gian, bên đường thấy tượng của ta mà chưa từng hay biết, cầm về, dựng bên vách tường. Đấy là do trẻ nhỏ giỡn chơi khắc tượng trên cây gậy, chỉ khắc đầu mặt, không có những tướng khác, cho nên h́nh tướng xấu xí. Ông có thể nhớ lại hay không?” Nói lời ấy xong, bỗng dưng chẳng thấy đâu nữa!

          Sau khi tỉnh lại, thị lang thấy tượng nơi cây gậy dựng ở góc tường trong nhà. Gậy đă găy ở giữa, ông bèn dùng gỗ đàn hương, sửa đổi thành tượng cao năm tấc. Khi ấy, tượng phóng quang minh, chiếu sáng ngời cả nhà. Thị lang lại tạo tượng lớn, biến nhà thành chùa, đặt tên là Địa Tạng Đài, thờ phụng tượng nhỏ trong ấy. Mọi người xa gần đến chiêm ngưỡng đông như hội!

 

10. Lơi gỗ chế ngự hổ

 

          Đời Đường, vị Tăng tên Pháp Thượng chùa Huệ Nhật ở Hoa Châu xuất gia lúc ba mươi bảy tuổi. Xưa kia, lúc c̣n tại gia, Sư từng làm nghề săn bắn. Một hôm, thấy trong lùm cây ngoài rừng hoang có tia sáng tỏa ra, tâm hết sức hiếu kỳ! Buộc ngựa vào lục xem, chỉ thấy một khối gỗ mục, chỉ dài hơn một thước, bèn cầm về để trong nhà. Đi săn lần sau, vẫn thấy chỗ ấy tỏa sáng. Tâm lấy làm lạ, bèn đem cái lơi của khối gỗ mục đặt trên gốc cây rồi quay về. Trên đường gặp hổ, ông ta thúc ngựa đuổi theo. Dây cung đứt đoạn, chẳng thể bắn, mănh hổ quay lại đuổi. Ông ta sợ hăi bỏ chạy, ngựa lồng lên, khiến ông té khỏi ngựa, tự nghĩ chắc sẽ bị hổ cắn, e rằng khó thể thoát nạn, thất thần như đang nằm mộng, thấy một vị sa-môn h́nh dạng xấu xí đến đuổi hổ dữ. Ông hỏi: “Ngài là ai?” Đáp: “Ta là Địa Tạng Bồ Tát. Khối gỗ mục trong rừng hoang chính là thân ta. Cụ cố của ông đă lập chùa, tạc tượng tại đó. Chùa đă hư nát, tượng ta bị hư mục, chỉ c̣n cái lơi gỗ. Ông là cháu chắt của cụ, thấy quang minh của ta, nên nay ta cứu ông”.

          Hồi lâu sau, ông ta choàng tỉnh, thấy ngựa đứng hư [gần đó]. Mănh hổ chẳng thấy tung tích đâu nữa. Ông tự hối trách sâu xa, bèn tạo dựng tinh xá tại chỗ tỏa ánh sáng trước đó. Từ khối gỗ mục dính bùn, ông tạc tượng Địa Tạng, tiếp nối đèn pháp, [xay dựng chùa] tức Huệ Nhật tinh xá. Lúc Pháp Thượng bảy mươi tám tuổi, vào ngày Hai Mươi Bốn tháng Hai năm ấy, Sư bảo các đồng bạn:

          - Địa Tạng Bồ Tát đến nhà tôi, từng nói: “Ông chính là người sẽ đắc đạo trong hội thứ hai thuộc ba hội thuyết pháp của Từ Thị Như Lai. Hôm nay xả thọ, liền sanh lên Đao Lợi”. Tôi bạch cùng Đại Sĩ: “Cảnh giới ngũ dục trên cơi trời vui sướng khôn sánh, mê mất Bồ Đề. Muốn sau này lại gặp Phật, thời gian vẫn lâu lắm, con chỉ nguyện sanh về Tây Phương An Lạc thế giới”. Bồ Tát đáp: “Thuận theo ư nguyện của ông. Nếu muốn văng sanh Tịnh Độ, hăy nên niệm A Di Đà Phật một ngày một đêm, chuyên tâm, dốc chí, liền được văng sanh”. Tôi nghe theo lời dạy ấy, bắt đầu từ ngày hôm qua, chuyên niệm A Di Đà Phật, nay văng sanh Tịnh Độ”.

          Nói xong, Sư chắp tay hướng về Tây, qua đời.

 

11. Khắc tượng truy tiến mẫu thân

 

          Đời Đường, con gái út của viên đô đốc họ Trần mất mẹ từ bé, ngày đêm luyến mộ. Do chưa thể thấy, định t́m cái chết. Đô đốc an ủi: “Cha cũng là người thân của con. Mẹ con tuy mất, cha con hăy c̣n, v́ sao không màng ăn uống, muốn tự t́m cái chết? Nếu con tưởng nhớ người mẹ đă khuất, hăy nên tạo thánh tượng Địa Tạng ḥng cầu nguyện cứu khổ cho mẹ”. Cô ta liền bỏ ra năm trăm đồng, thuê thợ kính cẩn khắc tượng cao ba thước. Cô gái thưa với cha: “Con chỉ muốn đặt tượng ở chỗ mẹ đă nằm trước kia. Nếu muốn thấy mẹ, sẽ liền thấy tượng này”. Cha sanh tâm xót thương, sai dẹp bỏ pḥng ngủ để đặt tôn tượng ấy.

          Cô gái ngày đêm lễ bái, cúng dường, cầu cứu khổ cho mẹ. Một đêm, thấy một vị sa-môn bảo: “Khi ta mang thân nữ, cha tên là Thi La Thiện Hiện, mẹ tên là Duyệt Đế Lợi. V́ mẹ sau khi chết phải chịu khổ trong địa ngục, do vậy, ta phát Bồ Đề tâm, thề cứu bạt tội khổ của chúng sanh. Ta cảm tấm ḷng hiếu thảo của con, đích thân vào địa ngục, phóng quang thuyết pháp, mẹ con đă được thoát khổ, sanh lên trời Đao Lợi”. Cô gái họ Trần thấy sa-môn xiêm y cháy lam nham, bèn hỏi nguyên cớ. Sa-môn đáp: “Khi xuống địa ngục, lửa dữ táp cháy mà ra”. Cô gái họ Trần tỉnh giấc, khôn ngăn buồn vui lẫn lộn! Người nhà tụ lại, thấy xiêm y của tượng đổi màu như bị cháy, đều than hy hữu! Người nghe kể lại phần nhiều sao vẽ tượng ấy để cứu khổ cho cha mẹ.

 

12. Ngạ quỷ sanh lên trời

 

          Đời Tống, con gái của thứ sử Trương Kiện ở Dương Châu, sau khi mẹ mất, đă được mẹ báo mộng: “V́ nuôi con mà mẹ đă mặc t́nh tham dục, kiêu mạn quá đáng. Do vậy, cảm báo làm ngạ quỷ, khổ chẳng thể chịu nổi!” Con gái hỏi tướng trạng khổ sở. Mẹ đáp:

          - Ngạ quỷ phần nhiều ăn thịt con ḿnh, hễ sanh ra liền ăn. Ta làm con của quỷ, ngày đêm sống chết. Trông thấy mẹ đẻ như đại ác quỷ; nhưng trong một tháng của nhân gian, có một ngày chẳng thể ăn ta. Đó là ngày Hai Mươi Bốn trong tháng, sáng sớm có tăng nhân vào thành, thí thực cho no đủ. Những ngày khác chẳng thể tránh khỏi nỗi khổ này. Ngày hôm ấy, vị sa-môn xướng rẳng: “Ta là Địa Tạng Bồ Tát, nay vào thành ngạ quỷ, có thể thí đại an lạc. Các ngươi hăy nên phát Bồ Đề tâm”. Tuy nghe lời ấy, do nghiệp báo trói buộc, chẳng thể phát tâm. Chỉ có một ngày được ăn no. Con muốn cứu khổ cho mẹ, hăy nên tạo tượng Địa Tạng Bồ Tát.   

          Cô gái tỉnh giấc mộng, dùng hết tài sản của mẹ để tạo tượng Địa Tạng Bồ Tát cao bằng thân người. Cô lại mộng thấy mẹ, thân tỏa quang minh, đứng trên hư không, bảo: “Ta do sức công đức tu thiện của con, mau chóng được sanh lên trời. Con hăy dụng tâm cung kính lễ bái, cúng dường, mai sau sẽ cùng [hội ngộ] tại chỗ Từ Thị Bồ Tát, lại c̣n cùng thấy Phật, nghe pháp”. Cô tỉnh giấc, bi cảm! Người nghe kể chuyện đều đến cúng, ai nấy đều được lợi ích!

 

13. Không lo lắng trong khi đại dịch

 

          Đời Đường, thứ sử Lộ Châu là Khang Cư Thông, chánh tín, chân thành, phụng sự Địa Tạng Bồ Tát đă nhiều năm. Lại c̣n phát tâm vẽ tôn tượng Bồ Tát, chưa tô màu mà quang minh đă rạng rỡ. Do vậy, tín tâm càng thêm chuyên dốc. Ông ngẫu nhiên mộng thấy hai quan binh cưỡi ngựa truy đuổi. Khi ấy, chẳng thể trốn được, bèn đứng run sợ. Quan binh xuống ngựa, nói: “Chúng tôi lầm rồi! Vua của chúng tôi là đàn việt của đức Địa Tạng, dẫu người phạm lỗi nặng, cũng không vây hăm!” Nói xong biến mất. Ông tỉnh mộng, thờ phụng càng thêm chuyên ṛng, kiền thành.

          Năm Quảng Minh nguyên niên (880) đời Đường Hy Tông (Lư Huyên), trong nước bị bệnh dịch, yêu quái hoành hành, người chết thây chất như núi. Cư Thông mộng thấy lũ quỷ màu xanh cả trăm ngàn con đi qua cửa, nói: “Nhà này là thất của Địa Tạng Bồ Tát. Chúng ta là thuộc hạ hăy cẩn thận, đừng bước vào cửa”. Ông tỉnh giấc hoan hỷ, cả nhà thoát nạn.

          Trong niên hiệu Trung Ḥa[20], ông đi xa, lạc đường trong tuyết. Do vậy bèn niệm Địa Tạng Bồ Tát, đột nhiên thấy một con két nhảy nhót trên tuyết. Ông lấy làm lạ, đi theo nó, liền t́m được đúng đường. Tới niên hiệu Quang Khải, ông bị bệnh nhẹ, chí thành cầu lành bệnh. Trong mộng, cảm một vị Tăng bảo: “Ông giết một con thanh tước[21], đáng đọa địa ngục, nay để cho ông đền trả nghiệp ấy, chịu đôi chút đau khổ. Chờ đến sau ngày mai, mới được sanh vào Tịnh Độ”. Ông nghe xong liền tỉnh giấc, hoan hỷ lễ bái, bệnh đă khỏi hẳn. Quả nhiên hai hôm sau, ông chánh niệm qua đời.

 

14. Tŕ danh giải ách

 

          Đời Đường, quan biệt giá[22] Kiện Khát tín tâm thanh tịnh, dốc ḷng tin phụng Phật pháp. Một hôm, ông hỏi Tăng: “Tại gia cư sĩ nên thờ phụng vị Phật, Bồ Tát nào?” Chư Tăng mỗi vị nói mỗi khác. Có vị nói: “Nên thờ đức Địa Tạng v́ Ngài đă vâng nhận sắc lệnh của Phật”. Kiện Khát tự nghĩ: “Đă nhận sắc lệnh của đức Phật, há bỏ chúng ta ư?” Liền t́m gỗ chiên đàn, tạo tượng cao ba tấc, nhét trong búi tóc, đi, đứng, nằm, ngồi, xưng niệm danh hiệu.

          Trong niên hiệu Thiên Thành đời Đường Trang Tông, thiên hạ chiến tranh, loạn lạc. Kiện Khát bị vây, trong khoảnh khắc sẽ nhận lấy cái chết, liền niệm Địa Tạng. Gă đại tướng đang suất lănh kỵ binh bỗng kinh hoảng tháo chạy. Sau khi dẹp yên loạn lạc, ông kể lại nhân duyên này, người nghe đều than lạ. Trong niên hiệu Trường Hưng, khi ông đến nhiệm sở, kẻ oán nghe tin, toan hăm hại, nấp chờ sẵn bên đường. Hắn chỉ thấy một vị sa-môn đi qua, trọn chẳng thấy Kiện Khát. Về sau, nghe ông đă đi qua, bèn hối lỗi, tạ từ, cởi bỏ oán thù. Lại có lần trên đường đi, đêm ông ngủ trọ, trời đổ mưa thật to, đèn lửa đều tắt ngúm. Thánh tượng trong búi tóc tỏa sáng như ban ngày. Bỗng có âm thanh khe khẽ như tiếng trẻ nhỏ bảo: “Hăy sớm rời đi, sớm rời đi!” Ông kinh dị, noi theo ánh sáng dẫn đường, đến nghỉ đêm ở chỗ khác. Hôm sau, trận lũ dâng trào, chỗ ông nghỉ trọ trước đó ch́m sâu dưới nước, tự biết là Địa Tạng Bồ Tát cứu vớt, che chở. Năm Thanh Thái thứ hai (935), ông tṛn bảy mươi tám tuổi mới mất. Khi lâm chung, tượng trong búi tóc phóng quang, ông chắp tay niệm Phật, an nhiên qua đời. Quang minh chiếu thẳng lên trời.

 

15. Hồn dạo địa ngục

 

          Đời Tống, đô đốc Trường An Thôi Lư Hệ là em trai của thượng thư Thôi Long. Năm Khai Bảo thứ hai (969), ông ta chết hai ngày rồi sống lại. Tự thuật lúc mới chết, có hai người xách nách đưa đi. Lại thấy có quỷ tốt h́nh ngựa trắng đuổi chạy chẳng biết mấy dặm, đến một ṭa thành lớn ở phía Đông Bắc. Ông thấy có mười mấy căn nhà ngói. Các quan đều đội măo màu đen, đứng hai bên nhà ngói. Có nha lại ba mươi mấy người, đều nói: “Ta là [thuộc hạ của] phủ quân”. Lư Hệ đến trước phủ quân, phủ quân hỏi: “Ngươi phụng sự ǵ?” Lư Hệ đáp: “Tôi phụng sự Địa Tạng Bồ Tát, cúng dường các sa-môn”. Phủ quân lại nói: “Ông đă thờ phụng đức đại thánh, đấy là phước trời”. Mọi người hỏi các nha lại chức nhỏ: “Người này mạng đă hết hay chưa?”

          Phủ quân liền lấy một quyển sách tự đọc rồi bảo: “Khanh mạng chưa tận, nhờ Địa Tạng Bồ Tát cứu vớt, che chở”. Lại gọi các viên nha lại cấp thấp, quát: “Bọn bay cớ ǵ đoạt mạng người của Phật gia?” Liền quở trách ngục tốt có h́nh dạng ngựa trắng, trói vào cột, xử phạt. Một hôm, lại hỏi: “Khanh có muốn về hay chưa?’ Đáp: “Dạ muốn”. Lại hỏi: “Có muốn thấy địa phủ hay chăng?” Thưa: “Muốn thấy”. Phủ quân truyền cho ông một thớt ngựa, và sai hai nha lại dẫn đi. Từ phía Đông Bắc đi ra, khoảng năm sáu dặm, thấy một ṭa thành lớn bằng sắt, vuông vức mấy chục dặm. Có một cái nhà sắt, chứa đầy nước sắt lỏng sôi, bốc lửa hừng hực. Kế đó, đến một căn nhà lợp ngói, dùng sắt làm cánh cửa. Mở ra xem, thấy ông nội, cụ cố v.v… đều ở trong ấy, đều bị gông, cùm, xiềng xích trói buộc. Lửa dữ vờn quanh, thiêu đốt, thân thể cháy nứt nẻ. Họ trông thấy Lư Hệ bèn ứa nước mắt bảo: “Con hăy nên cứu giúp”. Lư Hệ thưa: “Hăy nên niệm Địa Tạng Bồ Tát”.

          Đi tiếp, thấy trong một cái thành, có giường, ṭa bằng sắt nóng. Những vị sa-môn ông được thấy khi trước ngồi đó, thân thể như than, lửa dữ chiếu sáng rực. Ông hỏi: “Thầy tu phạm hạnh, nay sao lại như thế này?” Sa-môn đáp: “Bọn ta v́ tiếng tăm, lợi dưỡng mà tu phạm hạnh, do nội tâm và ngoại hạnh chẳng tương ứng, những thứ ngọa cụ, giường, ṭa v.v… đă nhận xưa kia, nay biến thành các thứ khí cụ hành h́nh to lớn. Y phục, thức ăn v.v… biến thành áo sắt, nước đồng sôi. Thí chủ hăy cứu chúng tôi”. Ông đáp: “Thầy hăy nên niệm Địa Tạng Bồ Tát”. Ông thấy mấy chục địa ngục, mỗi ngục đều có tội nhân bị hành hạ đầy ắp trong đó, đều là những người ông đă từng gặp gỡ trong cơi đời. Lại tới ngục cát đỏ, có cây đầy gươm, cột đồng trăm ngàn thứ, tội nhân ở trên đó. Họ trông thấy Lư Hệ đều chảy nước mắt, bảo: “Ông hăy cứu chúng tôi”. Đáp: “Hăy nên thường niệm Địa Tạng Bồ Tát”. Bảy ngục cát vàng, cát trắng, cát cháy v.v… như thế đều giống như đă thấy. Ông bèn trở về.

          Lại thấy một căn nhà màu lục long lanh, hai bên đường có cây báu, các thứ trái xen kẽ. Viên nha lại nói: “Phụng sự Địa Tạng Bồ Tát, lại c̣n vẽ tượng, phần nhiều sanh vào Tịnh Độ, hoặc sanh lên trời Đâu Suất, ai nấy đều thỏa sở nguyện. Kẻ chẳng tin tưởng vẽ tượng, nhưng phụng sự th́ phần nhiều trụ nơi đây”. Do vậy, ông tiến vào, thấy trong ṭa thành lớn, có điện báu lớn. Trăm ngàn vạn ức nam nữ vui đùa trong đó. Lại thấy cha mẹ, lục thân v.v… hoan hỷ chào hỏi. Những người nam, kẻ nữ nói: “Trước kia, chúng tôi ở trong địa ngục, nhờ ông dạy niệm Địa Tạng Bồ Tát, thoát khổ, sanh vào nơi đây!” Ông hỏi: “Chỗ này là nơi nào?” Đáp: “Nơi đây gọi là phước xá, thọ mạng lâu dài, xa ĺa các thứ khổ. Tuy sanh nơi đây, ắt gặp ba hội của Phật Di Lặc, dứt các nỗi khổ”. Lư Hệ hỏi cơi nào? Họ nói: “Xưa kia, lúc Địa Tạng Bồ Tát tại thế, vâng nhận lời phó chúc của đức Như Lai, bạch với đức Phật: ‘Nhất định chẳng để cho bốn chúng đệ tử đọa vào ác đạo’. Trong năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm trước khi Phật Di Lặc xuất thế, nếu có chúng sanh nguyện sanh về Tịnh Độ và Đệ Tứ Thiên, kẻ ít phước đều đến phước xá này, chẳng trở lại đường ác, cho đến khi thành Phật mới thôi”. Ông trở về chỗ phủ quân, vua liền sai hai người đưa ông hồi dương.

 

16. Tăng thọ, thỏa nguyện      

 

          Đời Hán, thứ sử Ích Châu là Quách Từ An không tin Tam Bảo, đặc biệt coi trọng Lăo Tử. Giữa tháng Năm nhuận của năm Càn Hựu thứ ba (950)[23], ông nhiễm bệnh, chữa trị đủ cách chẳng lành. Vợ ông thờ Phật, t́m hôm ông vui vẻ, nói: “Có thể phát nguyện tạo tượng Địa Tạng Bồ Tát trong một ngày hay không?” Tâm Từ An vẫn không tin, nói: “Cần phải phát nguyện ư? Nếu có cảm thông, tôi sẽ tin ngay”. Một hôm, ông bỗng chết ngất. Bà vợ gào khóc, cầu trời. Sau ba thời (sáu tiếng đồng hồ), Từ An tỉnh lại, gieo ḿnh xuống đất, đ̣i dao bén, toan cắt lưỡi. Người trông thấy đều tưởng ông là cuồng loạn. Bà vợ an ủi, ông mới yên tĩnh, bảo: “Bà là đại thiện tri thức, có thể kéo dài mạng sống của tôi, có thể trừ khổ địa ngục, có thể trao cho niềm vui cơi trời, có thể dạy đạo giải thoát”. Vợ nói: “Xin ông hăy nói đầu đuôi”. Từ An bật khóc, bảo:

          - Tôi gặp bảy, tám sứ giả của Diêm Vương, mỗi người đều xưng là thần tư lộc (cai quản tài lộc), đều cưỡi ngựa xanh, ruổi vó như gió, đuổi tôi về hướng Đông Bắc, tới cửa một ṭa thành lớn. Trong thành, có trăm ngàn vạn người, đứng hầu hai bên. Quan tư lộc xuống ngựa, thưa hỏi vị vua. Vua nổi cáu, mắng: “Sao lại bắt người chưa hoàn tất thiện nguyện?” Vua sai dùng gậy sắt xử phạt, quan tư lộc gào to, thân thể quần áo đẫm máu. Vua ra cửa, bảo Từ An: “Ông nhờ ơn vợ, phát nguyện tạo tượng Đại Sĩ, ta v́ chúng sanh đền trả tội nghiệp mà hiện thân Diêm Vương, thật ra là pháp vương. Nếu có chúng sanh quy y đức Địa Tạng, sẽ thỏa măn điều mong cầu. Ông hăy sớm trở lại nhân gian để hoàn tất nguyện ấy”. Vua liền sai người đưa về. Nay được tỉnh ngộ. Tâm ta chẳng tin, hủy báng đại thánh, muốn cắt lưỡi để sám hối.

          Vợ bảo: “Cắt lưỡi chẳng phải là sám hối. Nếu do đất mà ngă, vẫn phải do đất đứng lên. Ông hăy nên quy y Địa Tạng Bồ Tát, sám hối”. Ông liền làm theo lời vợ. Tạo tượng trong một ngày, hết sức hối hận lỗi trước. Mỗi ngày trai đều lễ bái cúng dường, siêng năng khuyên người sang, kẻ hèn phụng sự Địa Tạng Bồ Tát.

 

17. Tạo tượng diệt nghiệp

         

          Đời Hậu Châu[24], thượng thư Bá Duyệt rất tin Tam Bảo. Vợ ông do sanh nở mà chết, ông bèn tu phước hồi hướng, tạo tượng Địa Tạng Bồ Tát cao bằng thân người, lập hội trai tăng, dốc cạn ḷng thành lễ bái, cúng dường. Ông mộng thấy vợ mặc xiêm y mới sạch, bảo Bá Duyệt:

          - Tôi trước kia là vợ người ta, chẳng sanh con. Chồng thường than thở không con. Tôi liền bảo chồng cưới thiếp. Không lâu sau, cô ta có thai. Chồng yêu kính vợ mới, tôi sanh dạ khác, làm ra vẻ thân thiết, dùng thức ăn ngon trộn lẫn thuốc độc giết mẹ con họ. Do v́ lẽ ấy, đọa vào ngục Vô Gián sáu kiếp. Lại sanh trong nhân gian, v́ sanh nở mà chết đă năm mươi bảy lần rồi! Đời đời thường làm vợ ông, chịu nỗi khổ to lớn ấy. Nay ông v́ tôi tạo thánh tượng để giúp phước, nghiệp ấy đă diệt, sanh lên trời Đao Lợi, oai quang hơn hẳn trước kia. Sau khi sanh làm kẻ phối ngẫu của một vị trời, sẽ vĩnh viễn chẳng mang thân nữ. Nơi Thiện Pháp Đường của cơi trời ấy, cứ vào ngày Hai Mươi Bốn mỗi tháng, vô lượng vô biên hóa thân của Địa Tạng Bồ Tát trong một tam thiên đại thiên thế giới nhóm họp nơi đó, đầy khắp dưới cội Vô Ưu, thuyết pháp lợi sanh. [Các hóa thân ấy] đều có h́nh dáng một vị Tăng kim sắc. Có một lúc, Ngài v́ tôi thuyết pháp bảo: “Vợ chồng các ngươi tạo tượng, đúng pháp tu hành, được thoát đường khổ”. Do ở trên trời, cho nên sanh thiện tâm, chẳng khởi tà tâm.

          Bá Duyệt tỉnh giấc, vui buồn lẫn lộn!

 

18. Được thấy mẹ đă mất

 

          Vào thời Ngũ Đại, cô gái họ Đặng ở Vi Châu mất mẹ từ bé, được bác nuôi nấng. Ngày đêm nhớ mẹ, cầu hỏi sa-môn: “Làm thế nào để lại thấy mặt mẹ?” Sa-môn bảo: “Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện đại bi. Cô nhất tâm xưng niệm, sẽ lại được thấy”. Cô ta bèn ngày đêm xưng danh. Về sau, thưa với sa-môn: “Con nhờ ơn thầy, lại được thấy từ nhan. Kính cẩn dâng cúng một bộ xiêm y”. Sa-môn gạn hỏi cặn kẽ đầu đuôi, cô kể: “Con mộng thấy theo sau một vị sa-môn, bay lên trời. Thấy ṭa điện báu ma-ni bốn mươi chín tầng, chư thiên đầy dẫy trong ấy. Mẹ đang ở trong số những người bên ngoài. Con đến nơi, lễ bái, thưa hỏi. Mẹ nói: ‘Con niệm Địa Tạng Bồ Tát, đưa mẹ đến nơi này lại được gặp con’. Cảm ứng như thế, dám quên ơn thầy ư?”

 

19. Con cháu được gia hộ tốt lành

 

          Vào thời Ngũ Đại, ở Kinh Châu có một người sống bằng nghề săn chim nhạn nổi tiếng khắp cơi đời, được gọi là Nhạn Hùng. Lúc năm mươi mốt tuổi, mắc chướng khí chết đi, vợ ông ta đem bỏ xác nơi g̣ mả để nuôi cọp, sói. Ba ngày sau, ông ta sống lại, trở về nhà cũ. Vợ con kinh sợ, cho là đă biến thành cuồng quỷ. Nhạn Hùng kể cặn kẽ:

          - Khi ta chết, xe bốc lửa đến đón, bị lửa dữ thiêu đốt. Có một vị sa-môn dùng nước xối lên. Lửa tắt, thân được mát mẻ, sanh ư niệm hy hữu! Kế đó, tới chỗ vua. Lợn, dê, gà, trĩ, ngàn vạn cầm thú tiến đến tâu với vua: “Hắn đoạt mạng con, xin trị tội Nhạn Hùng”. Đại vương trả lời: “Các ngươi đă tố cáo, Nhạn Hùng ắt là kẻ ác. Chỉ có điều tổ tiên của hắn quy y đức Địa Tạng, con cháu của họ được thoát khỏi nỗi khổ nung đốt”. Nhạn Hùng thấy t́nh h́nh đó, bèn nhất tâm xưng danh Địa Tạng Bồ Tát. Chim, thú trong điện đều biến thành h́nh người. Vua liền thả ta. Do vậy, sống lại.

          Ông ta bèn bỏ nhà, phát tâm, xưng là Phật Nô (đầy tớ của Phật), du hành trong nhân gian, khuyên mọi người quy y Địa Tạng Bồ Tát.

 

20. Chuyển yểu thành thọ

 

          Đời Tống, sư Thích Huệ Ôn chùa Khai Bảo có nuôi một bé trai chẳng rơ tên họ, mới vừa mười bốn tuổi. Thầy tướng Kiện Chân bảo nó sẽ đoản thọ, sống hơn một tháng nữa, ắt sẽ chẳng nuôi nổi. Sư nghe lời ấy, cho nó về nhà. Khi ấy, trời mưa to, đi lại chẳng thông thuận. Nó ngủ nhờ nhà một thợ vẽ, thấy tượng Địa Tạng Bồ Tát, bèn dùng móng tay, bắt chước ông ta vẽ vời, vẽ ở trên vách. Khi trời tạnh bèn về nhà. Hơn một tháng sau, trở lại chùa Khai Bảo. Huệ Ôn hoan hỷ, bảo Kiện Chân nói nhảm. Liền gọi Kiện Chân đến gặp đứa bé. Ông ta kinh ngạc bảo: “Tuổi thọ tăng lên năm mươi năm. Chuyện này hiếm có, chẳng biết do đâu”. Đứa bé tự nói: “Con dùng móng tay vẽ h́nh tượng Địa Tạng. Đêm hôm ấy, có vị tăng bảo con trong giấc ngủ: ‘Ngươi năm mươi, năm mươi’. Đôi ba lượt như thế rồi chẳng thấy nữa”. Huệ Ôn và thầy tướng số đều than chưa từng có! Về sau, đứa bé xuất gia, thọ Cụ Túc Giới, hiệu là pháp sư Huệ Tạng.

 

21. Phóng quang quét sạch bệnh dịch

 

          Đời Tống, ở vùng quê của Liêu Thành có khoảng hơn hai ngàn nhà, đều tín phụng Phật pháp và tin tưởng Quán Âm, Địa Tạng. Họ coi trọng kinh Quán Âm, kinh Địa Tạng, và kinh Thập Luân. Có một ngôi chùa cổ, ba gian bốn chái, lợp ngói xanh, vách lá. Hai bên là tượng Quán Âm và Địa Tạng, cao bảy thước năm tấc. Chính giữa thờ tượng A Di Đà Phật, cao một trượng sáu thước, thường có điềm lành. Trong niên hiệu Thái B́nh Hưng Quốc đời Tống Thái Tông, bệnh dịch tràn lan, người chết yểu rất nhiều. Vị thành chủ cầu đảo nơi tượng Địa Tạng Bồ Tát. Tượng phóng quang chiếu vào làng, mọi người đều được b́nh phục, người đă chết sống lại.

          Có một bà đồng chẳng tin Phật pháp, đă mắc bệnh chết qua một ngày mới sống lại, đến tinh xá, lễ đức Địa Tạng, khóc lóc, cầu xin xuất gia. Mọi người hỏi nguyên do. Bà đồng thưa:

          - Tôi bị quỷ trói, tuy gọi thần cứu, thần thấy ác quỷ được sa-môn cảm hóa bèn bỏ tôi mà đi. Có vị sa-môn bảo: “Ngươi là nữ nhân ngu si, uổng công nương cậy thần đạo, chẳng tin Phật pháp. Ta là Địa Tạng Bồ Tát trong ngôi đại tự, do thành chủ thỉnh cầu, bèn cứu nữ nhân ngu si ngươi. Ta trao cho ngươi sanh mạng để kiến tạo chùa trong làng quê ḥng trực tiếp bảo vệ họ”. Tôi dứt tâm ác, trọn chẳng điều khiển quỷ nữa. V́ sao vậy? Quỷ là tự nghiệp, chẳng phải do ai khác làm ra.

          Bà đồng thuật lời vị sa-môn nói xong, bèn tự nói: “Nay tôi thấy nghe chuyện này, lại được sống sót, cải tà quy chánh, cho nên xin xuất gia”. Người nghe nói đều tùy hỷ, chấp thuận cho bà ta làm ni.

 

22. Cầu thỉnh mọc răng

 

          Đời Tống, nơi góc Đông Bắc chùa Thiên Phước có thánh tượng Địa Tạng cao một thước sáu tấc, chẳng biết do ai tạo vào thời đại nào, chỉ tương truyền hết sức linh dị. Hễ t́m đến xin ngủ lại để lễ sám, ắt sẽ được cảm thông. Khi ấy, có một vị cư sĩ, lúc ba mươi bảy tuổi, không c̣n một cái răng nào. Ông ta t́m đến trước tượng, nhịn ăn, cầu thỉnh. Nửa đêm cảm mộng, thấy tượng đến xoa đầu, khắp thân nhẹ nhàng, an vui. Tỉnh giấc, đă mọc ba mươi tám cái răng. Người thấy nghe linh dị, vẽ phỏng theo tượng để lễ bái, đều được cảm thông, trong cơi đời có nhiều người biết, chẳng thể ghi trọn.

 

23. Văng sanh Tịnh Độ

 

          Đời Tống, ni sư Trí Tạng ở Thái Nguyên đặc biệt phụng sự Địa Tạng Bồ Tát, thích cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ. Bà bỏ ra hai trăm đồng, vẽ tượng A Di Đà Phật, hai bên vẽ hai vị Địa Tạng và Quán Âm, đặt ở trong pḥng xá, tín tâm lễ bái, cúng dường, Năm Canh Th́n (980) trong niên hiệu Thái B́nh Hưng Quốc, gió lốc thổi hư nhà, ni xá cũng bị hư. Hôm sau, t́m tượng chẳng biết mất chỗ nào, ḷng sanh ưu năo! Bà cầu khẩn, niệm Địa Tạng Bồ Tát, chiêm ngưỡng hư không, thấy xa xa có một vật bay lơ lửng trên không, tỏa mấy luồng quang minh như ánh chớp. Lúc sau rơi xuống, chính là tượng bà mong cầu, vui mừng quá đỗi! Vẫn đặt trong pḥng, ngày Hai Mươi Ba tháng Hai năm [Thái B́nh Hưng Quốc] thứ bảy (982), bà bảo bạn bè: “Địa Tạng Bồ Tát hướng dẫn tôi về Tịnh Độ, ngày mai chắc chắn văng sanh”. Bà thắp hương, rải hoa, xướng danh hiệu Tam Bảo, mỗi danh hiệu một trăm lẻ tám lượt, ngồi ngay ngắn hướng về Tây, chắp tay, qua đời.

 

24. Con ngoan được của báu

 

          Đời Tống, tại huyện Hải Lăng, mấy đứa trẻ chơi đùa bên bờ biển, giỡn hớt vẽ tượng Địa Tạng Bồ Tát trên cát. Bỗng chốc nghe tiếng sấm, đứa nào đứa nấy kinh hăi bỏ chạy tán loạn. Khi ấy, có một vị sa-môn tiến đến cứu giúp: Đứa yếu đuối bèn nâng đỡ, đứa ngă bèn đỡ dậy, dỗ dành đứa khóc lóc. Đứa con của ông thợ vẽ X… kinh hăi chạy quàng xuống biển, Sư cơng nó lên bờ, cho ăn uống, lại trao cho một viên ngọc, h́nh dạng giống như thủy tinh, to bằng hạt sen. Cha nó đem con về nhà, bèn tạo thánh tượng. Đứa con sau khi lớn lên rốt cuộc phú quư.

 

25. Đại Sĩ hóa thân

 

          Đời Tống, sa-môn Trí Hựu là người ở Tây Ấn Độ, sang Trung Hoa trong niên hiệu Thiên Phước, trụ tại chùa Thanh Thái. Trong kinh tượng Sư mang theo, có tượng Địa Tạng Bồ Tát, và bản tiếng Phạn kinh Bổn Nguyện Công Đức. Trong bức tượng ấy, trong ṿng tṛn chính giữa, vẽ tượng Bồ Tát, hai bên có mười thánh tượng đội măo, cầm vật báu. Bên trái là năm vị: Một là Tần Quảng Vương, hai là Sở Giang Vương, ba là Tống Đế Vương, bốn là Ngũ Quan Vương, năm là Diêm La Vương. Bên phải có năm vị: Một là Biện Thành Vương, hai là Thái Sơn Vương, ba là B́nh Đẳng Vương, bốn là Đô Thị Vương, năm là Ngũ Đạo Chuyển Luân Vương. Mỗi vị đều có các [thuộc hạ] như tư mạng, tư lộc, phủ quân, điển quan v.v… Sư tự nói duyên khởi như sau:

          - Xưa kia, ở Tây Ấn Độ, có một Bồ Tát từ bi cứu thế, phát đại thệ nguyện, v́ cứu chúng sanh đang chịu khổ trong tam đồ, cho nên vẽ tượng Địa Tạng, hướng về mười vương thành, truyền dạy: “Nay ta phát nguyện cứu khổ tam đồ, xin hăy tạo lợi ích”. Mười vị vua đều chắp tay, kính cẩn đáp ứng, bạch với tượng vẽ rằng: “Hết thảy chúng sanh đều mong được đại thánh dạy bảo. Chúng con kính cẩn làm bạn lữ phụ trợ”. Khi ấy, tôn tượng mỉm cười bảo: “Lành thay! Tội nghiệp của chúng sanh không lâu sẽ được nhẹ bớt”. Liền phóng đại quang minh, chiếu thấu tam đồ khổ năo. Các chúng sanh được chiếu đều ngưng dứt các khổ. Đấy chính là vị Bồ Tát tại Ấn Độ nhập Lợi Ích Chúng Sanh tam-muội, cầu thỉnh các đại vương ban cho đại lợi. Vị Bồ Tát ấy tự vẽ lại những ǵ đă thấy, nên vẽ thêm mười vị vua bên cạnh tôn tượng Địa Tạng.

          Ngài Trí Hựu lại nói:

          - Ta ở Lưu Sa, gặp phải quỷ yêu mị, bèn cầu khẩn, niệm Bồ Tát, do vậy, được Bồ Tát cầm tích trượng xua đuổi chúng. Lại trong đêm khi mưa to trút xuống, khổ v́ không có đèn lửa, chẳng biết thứ ǵ, mănh thú gầm rống, người lẫn ngựa đều lạc đường. Tượng này phóng quang soi sáng như ban ngày, mănh thú bèn tan chạy, đường lối lại thông suốt. Lại gặp sông lớn, sóng cả cuộn trào, chẳng biết sâu cỡ nào. Nước ấy rất yếu, chẳng đỡ nổi chiếc lá, huống chi thuyền bè? Ta cầu nguyện thánh tượng, liền thấy một vị sa-môn và hai đồng tử, một đồng tử cầm phan, một đồng tử chèo thuyền. Sa-môn tay cầm quyển kinh tiếng Phạn, liền đưa bọn ta vượt sông. Đă đến bờ Đông, lúc sắp từ biệt, Ngài tặng ta cuốn kinh tiếng Phạn, bảo Tăng tục trong cơi này có thể sao chép lại. Do vậy, mọi người tranh nhau sao chép, cảm được nhiều điều linh dị.

          Ba năm sau, chẳng biết ngài Trí Hựu và tượng ở đâu, mọi người đều ngờ Ngài quay về Ấn Độ. Chắc sa-môn Trí Hựu chính là hóa thân của đức Địa Tạng.

 

26. Người đánh cá được hóa độ

 

          Người đánh cá ở Minh Châu, chẳng biết tên họ là ǵ, xuống biển bắt cá. Trong lưới, bắt được một tượng giống như một vị tỳ-kheo, chẳng biết nguyên do, bèn bỏ bên bờ. Đêm đến, mộng thấy một vị Tăng, thân có quang minh, bảo người đánh cá: “Sao ngươi bỏ ta?” Người đánh cá nói: “Thầy là ai vậy?” Đáp: “Ta là Địa Tạng Bồ Tát ở trong biển đă lâu, cứu tế thủy tộc, nửa số ấy được sanh lên trời. Nay luyến mộ các ngươi bèn xả thân trong lưới”. Người ấy tỉnh giấc, hối lỗi, kiến tạo một tinh xá, an trí tượng ấy. Ngư dân chỗ ấy đến nay vẫn sùng phụng, lợi lạc chẳng có cùng cực!

 

27. Chí hiếu được tăng thọ

 

          Trần Kiện ở Đài Châu một mực đoan chánh, chí hiếu vượt hẳn kẻ khác. Ông dựng nhà nuôi dưỡng song thân, phát tâm v́ cha mẹ tạo hai bức tượng Địa Tạng và Quán Âm, mỗi tượng cao ba thước. Năm Càn Đức thứ tư (966), ông mắc bệnh nhẹ, bỗng chết ngất đi. Cha mẹ khóc lóc. Bốn tiếng sau, ông tỉnh lại, lễ bái cha mẹ, bạch rằng:

          - Con chết bỏ lại cha mẹ, chưa trọn ḷng hiếu thảo. Bỗng đến trước điện Diêm Vương, thấy hai bức tượng do con đă lập, đứng sẵn trong điện. Vua hướng về đó xá bái. Thấy con đến, vua bèn dắt tay, hai vị Bồ Tát đến đỡ bên hông con dẫn lên sảnh đường. Tượng phát tiếng ḥa nhă: “Đàn việt chưa thỏa ḷng hiếu, xin đại vương thả về nhân gian”. Vua bạch cùng tượng: “Mạng nghiệp của ông này đă tận, cha mẹ ông ta mạng dài”. Tượng nói: “Thọ mạng vô định, tùy duyên mà sửa đổi, chuyển biến. Đàn việt tu phước nghiệp, lẽ đâu chẳng trở về?” Vua kiểm trong một quyển sách rồi thưa: “Nếu ai chí hiếu, tạo tượng hay vẽ tượng, thọ mạng dài lâu. Có thể tăng thêm tuổi thọ cho ông bốn mươi năm nữa, hai mươi năm tận hiếu, hai mươi năm sau sẽ được con hiếu thảo báo đáp”. Có vị quan mặc áo màu lục mở sổ, tâu với vua: “Con của ông Kiện chỉ thọ mười năm, ai sẽ hiếu thảo?” Vua phán: “Pháp vương không hai lời. Hăy nên tăng tuổi thọ cho đứa con”. Con nghe nói lời ấy xong bèn tỉnh lại.

          Người nghe kể đều than là “chưa từng có”!

 

Phụ lục 5:

Địa Tạng Bồ Tát Linh Cảm Cận Văn Lục

(Ghi chép những chuyện linh cảm gần đây của Địa Tạng Bồ Tát)

Pháp sư Tâm Nhiên biên thuật

1. Mộng thấy tăng tuổi thọ

 

          Ông Tả Lư Ḥa là cháu bên vợ của người anh thứ hai của tôi. Lư Ḥa là chắt của Tả Văn Tương Công, rất tin Phật pháp, lại thông hiểu khoa học rất sâu. Ông ta kể mẹ ông thường ngày dốc ḷng tin tưởng Phật pháp, tŕ kinh Địa Tạng rất kiền thành, thường đích thân chế thuốc tặng cho người khác. Khi chế thuốc, bà thầm niệm chú Đại Bi, cho nên khá thần hiệu. Lúc bà hai mươi bốn tuổi, bệnh đă nguy ngập, trong lúc gần mê man, vẫn dặn người nhà ăn chay, thỉnh Tăng kiền thành tụng kinh Địa Tạng ba ngày. Trong mơ, bà thấy Địa Tạng Vương Bồ Tát h́nh dáng như một vị cao tăng, khoác áo ca-sa, tay cầm tích trượng, bảo: “Tuổi thọ của bà đă hết. Do nghĩ bà chân thành, chuyên dốc, làm nhiều chuyện lành, tăng thọ mười hai năm nữa”. Bệnh liền khỏi hẳn. Về sau, quả nhiên bà mất lúc ba mươi sáu tuổi. Lư Ḥa nói: “Con thường nghe mẹ ra rả răn dạy như thế”. Nhiếp Vân Đài ghi.

 

2. Trai giới, tụng kinh, tiêu trừ bệnh thũng

 

          Bà Tào Tông Thanh hiệu là Tuyết Tài, là người Ngô Huyện, tự ghi như sau:

          Mẹ tôi là Phan Thị, bệnh đă hơn ba năm. Sang mùa Xuân năm Mậu Th́n (1928), càng nguy ngập hơn, toàn thân sưng thũng. Thầy thuốc bảo: “Căn bệnh này gọi là Khí Hư Trung Măn, cần phải chờ cho nước dưới da rút hết th́ mới được mạng chung, đă không có cách nào chữa trị!” Khi ấy, tôi nhậm chức ở Thân Giang, mỗi tháng về thăm một lần. Tháng Tư về thăm, thấy bệnh mẹ đă mấy lần nguy ngập. Da bóng nhẫy như gương, nước trướng lên đầy ắp gần như sắp vỡ da, kêu gào đau đớn chẳng dứt bên tai. Tôi bi sầu vạn phần. Do vậy, t́m hỏi phương cách nơi các bạn tin Phật. Họ dặn tôi hăy kiền thành tŕ tụng kinh Địa Tạng Bổn Nguyện để cứu chữa căn bệnh của mẹ th́ sẽ có thể cảm ứng nhất. Ngay hôm đó, tôi phát nguyện tụng ba mươi quyển kinh Địa Tạng, ăn chay ba tháng. Nếu mẹ già được thũng tiêu, lành bệnh, sẽ suốt đời thờ Phật, hành Địa Tạng nguyện, thề cho tới hết đời vị lai, sẽ độ chúng sanh đang khổ sở trong địa ngục.

          Tới buổi sáng ngày Hai Mươi Bảy tháng Năm, tụng kinh viên măn, mẹ tôi liền tiểu tiện, đi tả dữ dội, suốt cả nửa ngày một đêm mới dừng. Cả nhà kinh hoảng, mẹ cũng tự cho rằng ắt không qua nổi. Sau khi thầy thuốc chẩn đoán, than thở: “Lạ thật! Cớ sao cụ già bảy mươi ba tuổi bệnh tật đă lâu, lại có sức mạnh có thể đả thông đường tiểu tiện, bài tiết sạch nước dưới da. Căn bệnh này không bao lâu sẽ lành”. Quả nhiên, hai ba ngày sau, làn da trước kia bóng nhẫy như gương đă biến thành khô khan, nhăn nheo. Bệnh thũng toàn thân tiêu mất, bệnh xưa khỏi hẳn!

 

3. Phát nguyện cảm mộng

         

          Bà Tào Tông Thanh lại nói: Tôi từ lúc được Địa Tạng Bồ Tát cảm ứng cứu mẹ, tâm tin Phật càng thêm kiền thành, chuyên chú. Mồng Bốn tháng Giêng năm Kỷ Tỵ (1929), đến yết kiến pháp sư Đại Ngu. Vừa mới gặp mặt, Sư liền nói tôi có duyên với Đại Sĩ, dặn ḍ hăy phát thệ như đức Địa Tạng. Ngày hôm sau liền truyền đại pháp. Tôi bèn kiền thành tu pháp, đối trước Phật sáng tối phát thệ, nguyện đến tột cùng đời vị lai, vĩnh viễn độ chúng sanh đang chịu khổ trong địa ngục. Chẳng ngờ lại v́ đó mà cảm thông với chúng sanh trong địa ngục.

          Đêm hôm Hai Mươi tháng ấy, tôi mơ một giấc mộng lạ, cảm thấy một ḿnh mờ mịt đi trên đường. Dường như có người ở bên cạnh dặn tôi đi đến chiếc cầu sắt. Đi tới trước chưa được mấy bước, liền nghe dưới cầu có tiếng khóc rền đất như là tiếng gào khóc của mấy ngàn vạn người nam, nữ, già, trẻ, lớn, bé, chen nhau rống lên. Khi đó, ḷng tôi khôn ngăn đau xót! Tự nghĩ thuở bé từng nghe người ta nói: “Dựng cầu, cần phải tế bằng người sống”. Đấy có phải là tiếng khóc của những người bị hại chết đấy chăng? Tâm thật thê lương bất an, nhưng vẫn tiến lên trước. Cầu dài khoảng mấy dặm, tiếng khóc vẫn y như cũ. Đi hết cầu, thấy một cửa thành bằng sắt cực cao rộng. Đă ra khỏi, liền tỉnh mộng.

          Khi ấy, tôi đă biết ḿnh đang nằm trên giường, nhưng tiếng khóc thê thảm bất nhẫn vẫn văng vẳng bên tai, chưa hề giảm bớt, hết sức kỳ lạ! Bèn xốc lại tinh thần, dưới ánh sáng chiếu rực của ngọn đèn điện, xét khắp các vật trong pḥng, quả thật không có thứ ǵ có thể phát ra âm thanh. Do vậy, bèn nghĩ kỹ âm thanh ấy, dường như một mực cực đau khổ, khó thể chịu nổi trong chốc lát. Tôi bất giác đau xót, nước mắt ṛng ṛng! Bỗng ngộ ra: Đấy ắt là tiếng khóc của chúng sanh đang chịu khổ trong địa ngục, liền mặc quần áo, ngồi xếp bằng. Tiếng ấy mới dứt.

          Sáng hôm sau, tôi kể với pháp sư Đại Ngu. Theo lời thầy, đấy thật sự là tiếng khóc của chúng sanh đang chịu khổ trong địa ngục. Do tôi tâm kiền thành thệ nguyện như đức Địa Tạng, nên cảm ứng bọn họ, khiến cho tôi đích thân nghe thấy t́nh trạng thê thảm của họ, mong quyết tâm tu hành. Nếu tôi viên măn công đức sớm hơn một ngày, chúng sanh trong địa ngục sẽ thoát ly khổ nạn sớm hơn một ngày. Tôi nghe thầy dạy, do vậy, phát thệ nguyện buông bỏ hết thảy, chuyên tâm tu hành, liền xin thôi dạy học, giữa tháng Năm vào núi tịnh tu.

 

4. Đắp tượng lành bệnh

 

          Cố Tồn Tín là cháu ngoại của học trưởng Hứa Viên Chiếu. Khi mới lên hai, cháu bị chứng kết hạch[25], bệnh rề rề suốt ba năm. Bệnh càng thêm ngặt nghèo, các thầy thuốc đều bó tay. [Cha mẹ cháu] bèn nghe theo lời khuyên của ông Hứa, đem những vật trang sức mà đứa trẻ yêu thích nhất, vâng theo ư kinh dạy, đối trước đứa trẻ bị bệnh nói ba lượt, sau đó, đem bán được một khoản tiền là mười đồng, kính tạc một bức tượng Địa Tạng Bồ Tát, mỗi ngày kiền thành đảnh lễ. Sau đấy, căn bệnh đó như mất hẳn, tới nay đă mấy năm, ngay cả những chứng cảm mạo, bệnh vặt chưa hề phát ra chút nào! Mồng Hai tháng Ba năm Dân Quốc 16 (1927), tôi đến thăm ông Viên Chiếu tại nhà họ Cố ở đường An Nạp Kim (Rue Hennequin), Thượng Hải, đích thân thấy, nghe. Lư Viên Tịnh ghi.

 

5. Mẹ hiện thân sửa đường

 

          Cư sĩ Tào Hựu Tân ở An Huy, thuở bé lắm bệnh. Mẹ là Vi Thị đến núi Cửu Hoa dâng hương, cầu Địa Tạng Bồ Tát ngầm gia hộ, bệnh rề rề được lành. Do vậy, mẹ và con đều kiền thành thờ Phật. Tháp nhục thân là chỗ thù thắng giữ thân của Bồ Tát, là nơi hương đèn chánh yếu của cả núi. Thiện nam, tín nữ lui tới dâng hương, nối gót nhau, nhưng từ điện Thập Vương trước tháp cho đến khoảng đường Bạch Mă Đ́nh, chùa Hóa Thành, và ao phóng sanh ở phía dưới, quanh co mấy trăm trượng, đường lối gập ghềnh, người hành hương e ngại. Bà Vi bèn phát nguyện, đợi trong nhà dư dả hơn, sẽ xây bậc thang. Lúc lâm chung, bà đem chuyện này dặn ḍ con chớ quên.

          Nay đă mười mấy năm, Hựu Tân tuy luôn ghi khắc trong tâm, rốt cuộc công tŕnh to lớn, chưa thể tiến hành được. Tháng Hai năm Mậu Th́n (1928), nhằm ngày thánh đản đức Quán Âm, Hựu Tân vào núi dâng hương. Lễ tháp xong, ở trước thiền đường phía trên [tháp] dạo bước, ngắm cảnh núi, bỗng thấy mẹ xen lẫn trong đám phụ nữ, thân đeo đăy hương, từ Chánh Thiên Môn bước xuống, cách ông chỉ mấy chục bước. Nh́n kỹ, dung mạo thật rơ ràng, ông vội vàng chạy tới, chớp mắt đă mất dấu. Do vậy, ông nghĩ: “Có phải là di chí của mẹ chưa được thỏa, bèn hiện thân điểm hóa đấy chăng?” Ông bèn dốc hết sức quyên mộ để thành tựu chí mẹ, ḥng thấy thắng cảnh Linh Sơn, đường sá hiện vẻ trang nghiêm. Có thể nói là dùng cái tâm hiếu thuận để trên báo ân Phật, lợi lạc khắp hữu t́nh vậy. Hứa Chỉ Tịnh ghi.

 

6. Mộng thấy Bồ Tát chỉ điểm để gặp con

 

          Triệu Quế Hinh, người ở Hợp Ph́, tỉnh An Huy, cày cấy, học hành. Vợ chồng tuổi đă ngoài năm mươi, chỉ có một đứa con tên là Tồn Kim, đă vào trường huyện học hành. Mùa Thu năm Kỷ Mùi (1919), Tồn Kim mắc bệnh thời khí[26], được mấy ngày th́ chết. Vợ chồng Quế Hinh đau đớn, chẳng thiết sống nữa! Một đêm, mộng thấy Địa Tạng Bồ Tát đến an ủi, bảo: “Con ông bà đă tá thi hoàn hồn tại nhà họ X… Cuối năm, ông bà lên núi sẽ gặp”. Quế Hinh tỉnh giấc, kinh hỷ chen lẫn; nhưng lại nghi ḿnh tưởng nhớ chất chứa thành si, huyễn mộng khó tin! Chỉ có điều đă được chỉ dạy trong mộng, không thể bỏ lơ được, bèn vào tháng Chạp, vợ chồng dắt díu nhau, triều bái núi Cửu Hoa. Vừa mới tới Phật điện, một đứa trẻ chặn đường, hô to: “Cha ơi, mẹ ơi, đừng bỏ con”. Hỏi ḍ, mới biết tên họ, quê quán, chỗ ở, đem nhân duyên sanh ra và chết đi của đứa con họ Triệu đối chiếu [hoàn toàn khớp với giấc mộng]. Hơn nữa, diện mạo tuy khác, âm thanh chẳng đổi. Nó lại nói: “Bồ Tát cứu tế, khiến cho con được hoàn hồn”. Vợ chồng hết sức vui mừng, dẫn về làm con như trước. Nhà cha ruột của nó nghe chuyện, tranh chấp, thưa kiện, nhưng đứa trẻ nói đích xác nó là con nhà họ Triệu hoàn hồn, chẳng muốn trở về nhà cũ. Do vậy, qua sự điều giải của mọi người, hai nhà qua lại, nó làm con cả hai bên. Đấy cũng là chuyện phán quyết kiểu Trương Hợp có người nối dơi như trong Kim Sử vậy. Vào năm Dân Quốc thứ chín (1920), Quế Hinh cúng tặng bức hoành phi “Phật pháp vô biên” trên núi và ghi lại đầu đuôi chuyện ấy. Ông Tào Hựu Tân lên núi triều bái, trông thấy, chép đại lược chuyện ấy như thế đó. Hứa Chỉ Tịnh ghi.

 

7. Lễ bái, sanh nở an ổn

 

          Trưởng nữ của cư sĩ Lương Bích Viên lấy người họ Trương. Mấy năm trước, chồng cô ta sang Hà Nam nhậm chức kỹ sư khai khoáng, nhằm lúc cô ta đang có thai. Cư sĩ lo cô không có người bầu bạn chăm sóc, bèn bảo cô dùng giấy vàng viết “Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ Tát”, mỗi sáng dâng hương, lễ bái, ắt sẽ sanh nở b́nh yên, thuận lợi. Cô ta làm theo lời dạy. Tới khi sanh nở, làng quê không có y tá và bác sĩ, nhưng cô chẳng khổ sở mảy may. Hai năm sau, cô lại có thai, vẫn dùng cách thức trên đây. Hai đứa con, một trai, một gái, tướng mạo đoan nghiêm, đẹp đẽ, thông minh, ḥa nhă, hiền lành, tôi đều trông thấy. Nhiếp Vân Đài ghi.

 

8. Đọc kinh, mộng thấy mẹ

 

          Cư sĩ Ngô Khế Bi người Giang Tô. Tháng Năm năm Dân Quốc 17 (1928) mất mẹ. Hai mươi bảy ngày sau, gặp cư sĩ Triệu Vân Thiều khuyên niệm kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, bèn bắt đầu ngay từ hôm ấy, mỗi ngày dâng hương, cung kính đọc một lần tới chung thất mới thôi. Một tháng sau, cư sĩ vừa ngủ say, bỗng nghĩ như thế này: “Phàm ai chí tâm nguyện thấy, rốt cuộc ắt được thấy, bèn niệm danh hiệu A Di Đà Phật và danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, mong cậy vào oai thần, đến được chỗ mẹ”. Liền cảm thấy có cánh tay đẩy sau cổ, bèn nương theo hướng đó, bay vọt lên không trung mà đi, xuyên qua tường vách, trọn chẳng bị chướng ngại. Hai mắt hé mở, thấy cảnh vật lờ mờ. Qua một đoạn đường dài, tới một chỗ, bỗng đằng sau có người dường như cùng đi, bảo cư sĩ: “Vẫn chẳng được thấy, biết làm sao đây?”

          Cư sĩ ngẩng đầu, thấy một khu rừng rậm, liền quỳ gối cầu Địa Tạng Bồ Tát, thưa bày t́nh trạng gần đây của mẹ. Bỗng nghe trên hư không có người đáp lời, nhưng nghe chưa rơ, hỏi người đi cùng lời đáp là như thế nào? Người ấy bảo: “Là bất thoái chuyển”. Do vậy, cư sĩ nghĩ: “Đă là bất thoái chuyển, ắt đă sanh về Tây Phương. Người trả lời ắt là Địa Tạng Bồ Tát”. Liền lễ bái, kêu lên: “Cầu Bồ Tát phát đại từ bi cho con được thấy mẹ”. Nói lời ấy xong, người cùng đi bèn chỉ lên phía trên. Cư sĩ ngẩng đầu nh́n, quả nhiên thấy lầu gác long lanh, trang nghiêm tột bậc! Lệch về phía trái là một ghềnh đá. Trên ghềnh đá có gác, mẹ của ông ta tḥ đầu ra ngoài cửa sổ, như đóa hoa phù dung hàm tiếu, vẫy tay. Cư sĩ gọi mẹ, liền thấy mẹ đứng dưới chỗ đất trống, màu áo hơi vàng, hướng về ông nói ǵ đó, nhưng ông nghe không rơ, xin mẹ nhắc lại. Mẹ lại nói: “X... (nhũ danh của em trai cư sĩ) cũng ở đây”. Đang muốn hỏi mẹ về lúc lâm chung có cảm thấy khổ sở hay không, mẹ đă xoay ḿnh sắp đi nơi khác, bèn vội hô lên: “Mẹ tự bảo trọng”. Trong khoảnh khắc, mẹ đă lên chỗ cao, ẩn mất. Cư sĩ chắp tay, ngửa mặt lên trời, hô cảm tạ Địa Tạng Bồ Tát rồi tỉnh giấc. Nhiếp Vân Đài nghe Ngô cư sĩ đích thân thuật t́nh trạng trong mộng, ghi lại sự thật như vậy!

 

9. Thoát nạn đạo tặc

 

          Thích Hoằng Nhất lúc c̣n tại gia đă tín ngưỡng Địa Tạng Bồ Tát. Năm Đinh Măo, tức năm Dân Quốc 16 (1927), Sư ở lại một ngôi chùa nhỏ thuộc vùng quê Hàng Châu. Trong pḥng thờ tượng Địa Tạng Bồ Tát, và thường chí tâm tŕ tụng thánh hiệu. Có một buổi sáng, Sư mở cửa pḥng, tới khách đường, thấy mọi vật quăng lung tung, ngổn ngang khắp đất, hỏi chư tăng cùng ở đó: “Chuyện ǵ vậy? Họ đáp: “Ban đêm có nhiều gă cường đạo vào chùa, cầm dao, gậy cưỡng bức tăng chúng để cướp đi rất nhiều tiền bạc và vật dụng. Chúng từng muốn vào pḥng ngủ của Hoằng Nhất, dùng dao, gậy phá cửa pḥng, nhưng sau một lúc lâu, rốt cuộc chẳng vào được”. C̣n Hoằng Nhất ban đêm chỉ nghe trên lầu có tiếng người qua lại, nói năng, ngỡ là tăng chúng trong chùa, chẳng để ư chút nào, yên giấc suốt đêm, chưa từng chịu cảnh kinh hăi, mà cũng chẳng bị tổn thất ǵ. Mọi người đều nói là do Bồ Tát linh cảm. Thích Vong Ngôn ghi.

 

10. Chết rồi sống lại

 

          Hồ Trạch Phạm ở Dư Diêu, c̣n có tên tự là Thắng Nguyệt, từng biên soạn bộ Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Bạch Thoại Giải Thích do Phật Học Thư Cục lưu thông đến một vạn mấy ngàn bộ, công đức rất lớn. Chiều ngày Ba Mươi tháng Bảy năm Nhâm Thân, tức năm Dân Quốc 21 (1932), con gái bé của ông tên là Nguyệt Chiêu, vừa tṛn bốn tuổi, bỗng nhiên mắt trợn tṛng, mũi nghẹt, mặc xanh tái, môi đen bầm, thở kḥ khè, ứa rớt dăi rồi chết ngất. Cậy răng đổ thuốc, nó chẳng thể nuốt xuống, cả nhà hoảng loạn. Lúc ấy, Hồ Trạch Phạm bỗng ngộ ra hôm ấy là thánh đản của Địa Tạng Bồ Tát, bèn vội đối trước thánh tượng, xót xa cầu gia bị. Cầu nguyện vừa xong, bỗng nghe cả nhà hoan hô, bé gái đă thở được, mừng nó sống lại. Lại cho uống thuốc, nó cũng nuốt xuống được, chẳng bao lâu liền b́nh phục. Thích Vong Ngôn ghi.

 

11. Bệnh trầm kha được lành

 

          Tỳ-kheo-ni Quán Nguyện người xứ Hải Trừng, tỉnh Phước Kiến. Cha bà là bậc tiên liệt thời Dân Quốc, từng hy sinh v́ quốc nạn tại Quảng Châu. Quán Nguyện xuất gia tại núi Cửu Hoa, về sau, sống tại Áo Môn (Macau). Năm Nhâm Thân (1932), ni sư đến Hạ Môn học tập giới luật. Năm sau, liền bị đau bao tử, ăn không nổi một bát cháo. Bệnh tật rề rề cả nửa năm, trải trọn đủ mọi nỗi thống khổ! Thuốc Bắc lẫn thuốc Tây đều vô hiệu. Một hôm do đọc bài Địa Tạng Bồ Tát Thánh Đức Đại Quan của sa-môn Hoằng Nhất, thấy đầu cuốn sách ấy vẽ thánh tượng trang nghiêm, sanh tâm hết sức hoan hỷ. Do vậy, tùy sức sắm hương, hoa, trái cây, cúng dường thánh tượng, cung kính chiêm ngưỡng, lễ bái. Suốt bảy ngày không nói, sám hối, lấy một b́nh nước sạch đặt trước thánh tượng, ngày đêm thầm niệm thánh hiệu. Sáng sớm hôm sau bèn uống một chén tịnh thủy ấy. Không lâu sau, đă có thể ăn một bát cơm. Nửa tháng sau, bệnh khỏi hẳn. Thích Vong Ngôn ghi.

 

12. Vết thương nặng mau lành

 

          Thích Quảng Hiệp thường ngày sùng tín Địa Tạng Bồ Tát. Tháng Sáu năm Giáp Tuất (1934), núi Cửu Hoa quyên góp để đúc đại hồng chung. Quảng Hiệp ở Hạ Môn (Amoy) tận lực bôn tẩu dưới cái nắng gay gắt của mùa Hè. Trong mấy ngày, gom được một khoản tiền sáu bảy trăm đồng. Một hôm, Sư bị ngă, mắt và trán đập vào thềm đá, tuôn máu rất nhiều, thương thế khá nặng! Quảng Hiệp nhất tâm chuyên tŕ thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, chẳng bao lâu bèn lành. Thích Vong Ngôn ghi.

 

13. Lành bệnh, tăng phước

 

          Mùa Hạ năm Dân Quốc 18 (1929), tôi sang Lư Sơn dưỡng bệnh. Vừa đến núi th́ trở bệnh nặng, nằm bẹp suốt bốn tháng, chẳng thể rời giường. Lúc ấy, cư sĩ Lương Bích Viên đang ở trên núi, kể với đứa con út chuyện linh cảm của đức Địa Tạng, và khuyên nó niệm kinh Địa Tạng để tiêu nghiệp cho tôi. Đứa con vâng lời, niệm mười mấy ngày, bệnh tôi chuyển biến khá hơn rất nhiều, liền xuống núi, trở về đất Hỗ (Thượng Hải). Cùng lúc, con dâu tôi có thai, sanh được một trai. Tôi bèn in một vạn quyển Địa Tạng Linh Cảm Lục tặng cho người khác để báo ân Phật. Ngày Hai Mươi Tám tháng Ba năm Dân Quốc 24 (1935), Nhiếp Vân Đài ghi.

 

14. Tai điếc mà nghe tiếng niệm Phật

 

          Ông Đạn Thiết Tiều mắc bệnh đă lâu. Tôi khuyên ông ta niệm Phật, nhiều phen biện luận, vẫn chưa chịu nghe theo. Mùa Thu năm Dân Quốc 23 (1934), tôi tặng ông kinh Địa Tạng. Ông ta đọc mười mấy lần, tin tưởng, ưa thích sâu xa! Một hôm, bỗng vào lúc bốn giờ sáng, ông nghe có một tiếng khánh, kế đó là tiếng niệm Phật, từng chữ rơ ràng, nhưng ông Đạn điếc đặc mười mấy năm rồi. Dẫu hét to bên tai, ông không thể nghe tiếng. Nay nghe tiếng niệm Phật, liên tiếp mấy chục câu. Âm thanh hay đẹp lạ lùng, trước giờ chưa hề nghe. Thoạt đầu, ông ngờ là vợ đang tụng niệm công khóa, nhưng bà ta vẫn c̣n đang ngủ chưa dậy. Ông hết sức kinh ngạc, bất giác toàn thân run rẩy. Bốn giờ sáng hôm sau, nghe tiếng như cũ, bèn niệm theo. Chiều hôm ấy, ông ở dưới lầu, nghe tiếng như trước, đều là trước hết một tiếng khánh, sau đó niệm Phật hiệu.

          Một hôm, ông ăn cua, sáng hôm sau chẳng thấy tiếng khánh và tiếng niệm Phật, bèn thầm cầu nguyện: “Nguyện từ nay về sau, suốt đời chẳng ăn cua”, thuận miệng niệm Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ Tát bảy lần, tiếng khánh ngay lập tức vang lên, tiếng niệm Phật cũng nối theo sau. Tới nay đă gần nửa năm, ông vẫn hằng ngày đều nghe. Thoạt đầu, ông tưởng là do bệnh trạng nơi đại tiểu năo, nhưng không nghe thứ tiếng nào khác, bèn biết là do Địa Tạng Bồ Tát linh cảm, hướng dẫn khiến ông niệm Phật, bèn bỏ ra hai trăm đồng, đề xướng tái bản kinh Địa Tạng, cậy tôi đứng ra in thay. Ngày Hai Mươi Tám tháng Ba năm Dân Quốc 24 (1935), Nhiếp Vân Đài ghi.

 

15. Khỏi hẳn bệnh cũ

 

          Bạn tôi là ông Diêu Mặc Am, tuổi sáu mươi, suy yếu, bệnh hoạn, quỳ tụng kinh Địa Tạng hai năm, bèn trừ được căn bệnh rề rề, thân thể mạnh khỏe, càng tin tưởng, ngưỡng mộ hết sức. Ông dặn tôi ghi lại chuyện linh cảm này để truyền bảo cho người khác, ngơ hầu những ai bị tai ách, đau khổ, sẽ cùng phát khởi tín tâm, quy y Địa Tạng Bồ Tát, hoặc tụng kinh Địa Tạng, hoặc niệm thánh hiệu của Bồ Tát, tự nhiên hết thảy tội chướng đều được giải thoát, cùng được hưởng lợi lạc từ Phật pháp. Ngày Hai Mươi Tám tháng Ba năm Dân Quốc 24 (1935), Nhiếp Vân Đài ghi.

 

16. Mắt có tật lại được phục hồi

 

          Cư sĩ Đào Hy Tuyền từng làm huyện trưởng huyện Hàng, nay ở đường Cự Lại Đạt (Rue Ratard) tại Thượng Hải, đă tin Phật từ xưa, thờ phụng Địa Tạng Đại Sĩ càng kiền thành. Trong nhà có điện thờ Phật. Mẹ ông họ Đoan Mộc, cũng hằng ngày tŕ thánh hiệu Di Đà. Người đầy tớ là Thạch Văn Khanh bị bệnh mắt đă lâu, một hôm bỗng lành. Ông Đào thấy người ấy khỏi bệnh quá nhanh, lấy làm lạ, gạn hỏi. Họ Thạch đáp: “Con mộng thấy cụ bà niệm Phật trong Phật đường. Do con bị bệnh mắt đă lâu chẳng lành, dạy con lấy nước cúng trước tượng Địa Tạng Đại Sĩ rửa mắt, cảm thấy hết sức thanh lương. Tỉnh mộng, con dụi mắt th́ căn bệnh đă hết rồi”. Cư sĩ than rằng: “Bồ Tát thệ nguyện hoằng thâm, bi tâm cứu khổ, làm đấng đại y vương, tin chắc chẳng hư dối!” Đấy là chuyện trong tháng Mười Một năm Dân Quốc 22 (1933), cư sĩ đích thân kể lại với Huệ Châu, do vậy bèn ghi ngay lại.

 

17. Bệnh nặng trừ sạch

 

          Tại trấn Kiều Lâm thuộc huyện Giang Phổ, có ông Ngô Tông Giám làm nghề y, tin Phật. Trong trấn có Cổ Cối Thiền Lâm, ông phát nguyện trùng tu. Do quyên mộ không đủ số, ông lo buồn, lao lực thành bệnh nặng. Con dâu trưởng của ông là Lưu Thị cũng niệm Phật. Do vậy, bèn ước hẹn các bạn đạo cùng đến Thiền Lâm ấy, đối trước Địa Tạng Bồ Tát khấu đầu, cầu đảo, cầu tăng tuổi thọ cho ông, và cầu cho việc trùng tu chùa được hoàn thành. Hai ngày sau, ông đang thiêm thiếp, bỗng tỉnh lại nói: “Trong mộng, cha thấy một ḥa thượng an ủi, hỏi han. Do vậy, bệnh được lành”. Tháng Sáu năm Dân Quốc 22 (1933), Viên Truyền Kiệt ghi.

 

18. Tạo tượng linh cảm

 

          Tiên mẫu là Lư Thái Phu Nhân, từ sau sáu mươi tuổi, mỗi tiết Đông, hai chân đều tê cứng, đau nhức, chẳng tiện đi lại, qua Xuân tự lành. Năm Dân Quốc 12 (1923), mẹ tôi sáu mươi chín tuổi, bắp chân đau càng nặng, rên rỉ nằm bẹp trên giường hơn một tháng, chữa trị chẳng thấy bớt. Viễn Diệu chỉ biết hằng ngày lễ tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện để xin Ngài rủ ḷng từ gia hộ. Một hôm, tụng đến phẩm Như Lai Tán Thán: “Hoặc thủ bệnh nhân khả ái chi vật, hoặc y phục, bảo bối, trang viên, xá trạch, đối bệnh nhân tiền, cao thanh xướng ngôn, ngă mỗ giáp đẳng vị thị bệnh nhân đối kinh tượng tiền xả chư đẳng vật, hoặc cúng dường kinh tượng, hoặc tạo Phật, Bồ Tát h́nh tượng” (Hoặc lấy vật mà bệnh nhân yêu thích, hoặc là quần áo, vật báu, trang trại, vườn tược, nhà cửa, đối trước bệnh nhân, lớn tiếng xướng rằng: - Tôi tên là… v́ bệnh nhân này, đối trước kinh tượng, bỏ các thứ vật để cúng dường kinh, tượng, hoặc tạo h́nh tượng Phật, Bồ Tát), bèn dường như vỡ lẽ! Tụng xong, đối trước Phật phát nguyện, v́ mẹ tạo tượng Địa Tạng Bồ Tát, lại c̣n chạy đến thưa với mẹ. Mẹ vui mừng nói: “Bệnh không ǵ chẳng phải là nghiệp, cần phải cậy vào Phật từ gia bị. Nay con phát nguyện tạo tượng, thật hợp ư mẹ. Mẹ được bà ngoại con cho một viên châu tinh ṛng, tṛn trịa, tươi sáng. Mẹ v́ nhớ bà ngoại, hết sức quư trọng. Nay đem châu ấy cúng dường Bồ Tát có được hay không?”

          Tôi bèn cậy vị thầy tạc tượng nổi tiếng ở Bắc B́nh là ông Cảnh Sơn theo đúng pháp tạc tượng bằng cốt đồng, thếp vàng. Viên châu đem khảm vào giữa hai mày để tượng trưng cho bạch hào. Hai mươi ngày sau, tượng tạc thành. Ông Cảnh đưa tới, tướng hảo trang nghiêm, từ bi hoan hỷ. Ông Cảnh nói kể từ khi tạc tượng tới nay, đă có chuyện chưa từng có. Viên Diệu vội vàng thưa với mẹ. Mẹ nghe xong, lập tức hết đau, tự bước xuống giường, vào Phật đường, đảnh lễ, quỳ lạy như kẻ chẳng bị bệnh. Đấy chính là bệnh lâu ngày mà nhanh chóng dứt hẳn. Người thấy, kẻ nghe, đều than Bồ Tát từ bi cảm ứng nhanh chóng chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy, tôi trước sau cậy ông Cảnh tạo tượng Bồ Tát hơn mấy chục bức. Mẹ tôi vốn ăn chay trường niệm Phật; từ đấy, càng thêm tinh tấn, đi lại c̣n nhanh nhẹn hơn trước. Cho tới ngày Hai Mươi Mốt tháng Chạp năm Dân Quốc 18 (1929), lúc cụ bảy mươi lăm tuổi, bèn niệm Phật về Tây. La Viễn Diệu ở huyện Bảo Tĩnh, tỉnh Hồ Nam kính ghi.

 

19. Bụng trướng mau hết

 

          Vào mùa Hạ, Văn Hoán quảy tráp sang Tô Châu, mắc chứng bệnh sốt rét khá nguy kịch. Sau khi lành bệnh, bụng bị căng trướng, thuốc thang vô hiệu. Do một mực tin tưởng Phật pháp, nghĩ Địa Tạng Bồ Tát có đại nguyện lực, có thể cứu bạt tội khổ, bèn chí tâm sám hối, đảnh lễ, và phát nguyện kiền thành tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện ba mươi bộ, in tặng một trăm quyển Địa Tạng Bồ Tát Bổn Tích Linh Cảm Lục để báo đáp từ ân trong một phần ức. Phát nguyện ấy rồi, do ngày hôm ấy tiết trời nóng bức, bèn mặc quần ngắn nằm ngủ, bỗng thấy khắp thân sảng khoái, bẻn ngủ say. Sáng sớm hôm sau, tỉnh giấc, bụng xẹp dần, lại biết đói. Chẳng đầy ba ngày, bệnh trướng hoàn toàn tiêu mất như chưa hề bị bệnh, hoan hỷ tán thán đúng là chưa từng có.

          Do vậy nghĩ tới ḷng từ bi của Đại Sĩ, cảm ân khôn cùng! V́ thế, gởi thư kể khắp, để chứng nghiệm sự linh dị. Chỉ mong chúng sanh trong đại thiên đều được hưởng cam lộ, cùng ngưỡng nhờ sự giáo hóa của Phật, quạt gió từ để dứt tội nghiệp, hóa lửa bừng thành mát mẻ. Đấy là điều tôi mong mỏi. Những điều được kể trong bài này toàn là những ǵ tôi đích thân từng trải, tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tháng Sáu năm Dân Quốc 22 (1933), Châu Văn Hoán ở nhà số 8, ngơ Đông Ngôn Tử tại Thường Nhiệt kính thuật.

 

20. Nghi nan được giải trừ

 

          Chồng bà Trần Cầm Thiền là Cáo Tịnh tuổi Tân Mùi, theo Điền quân[27] vào đất Quế. Chồng của em gái tôi cũng theo đoàn quân. Đại quân đă quay về mà chẳng thấy họ trở lại, sống chết chẳng biết thế nào! Cả nhà nóng ruột muôn bề, hỏi ư tôi. Tôi đă chẳng có thần thông, làm sao nói quyết đoán cho được? Chẳng c̣n cách nào, đành cậy sức oai thần của Địa Tạng Đại Sĩ, dùng pháp Chiêm Sát để cầu. Nếu chịu dốc ḷng chí thành, chắc sẽ được tương ứng. Tôi bảo họ trở về, cả nhà trai giới, kiền thành tụng thánh hiệu Địa Tạng. Ba ngày sau, mọi người tụ tập tại Phật đường, lại tŕ thánh hiệu mấy ngàn câu, dùng pháp Chiêm Sát, chẳng được tương ứng. Tôi nói: “Đấy là do chẳng chí thành mà thành ra như vậy, mọi người hăy tĩnh tọa thầm niệm rồi sẽ xin Chiêm Sát lại”.

          Trong chốc lát, hương đă cháy quá nửa, tôi đột nhiên thấy một mảnh rừng rậm, trong ấy có con đường nhỏ, trong sát-na lại ẩn mất. Do vậy, tôi xuất Định. Em gái tôi bỗng nói: “Vừa mới tĩnh tọa khi hương cháy được quá nửa, em bỗng thấy có một vị mặc áo tăng sĩ bước vào. Áo ca-sa ấy mỏng như giấy, sáng ngời trang nghiêm, khiến cho kẻ khác kính ngưỡng! Người ấy đi quanh trước bồ đoàn của anh một ṿng rồi biến mất. Em bỗng thấy một mảnh rừng rậm, trong ấy có con đường nhỏ. Em đi sâu vào, bên đường có một căn nhà nhỏ, có một xác chết nằm dưới đó, em kinh hăi, tỉnh thức”. Tôi cũng thuật lại điều trông thấy, t́nh trạng tựa hồ chẳng tốt lành, mọi người đều buồn bă.

          Địa Tạng Đại Sĩ cố nhiên hiện tướng tỳ-kheo: Đă thấy người mặc tăng phục bước vào, ắt là Đại Sĩ linh cảm chẳng ngờ! Nhưng rốt cuộc là như thế nào? Chưa đầy một ngày, có người cùng đi trong chiến dịch ấy trở về, chuyện hung hiểm được xác định! Ấy là v́ họ bị địch vây bức, giết hại ở dưới một căn nhà nhỏ, đúng y như em gái tôi đă thấy. Quy Tịnh cho rằng đấy là chuyện chồng cô ta đích thân trải qua, thật là hy hữu. Kính cẩn ghi lại như trên! Phàm Đại Sĩ phát tâm nơi nhân địa là do muốn thấy chỗ mẹ ḿnh đă sanh về mà phát khởi thệ nguyện. Nhân địa như thế, cho nên nơi quả vị cảm chúng sanh, đối với kẻ có nghi nan lại càng ân cần! Kinh Bổn Nguyện dạy: “Thị nhân năng nhất tâm chiêm lễ Địa Tạng thánh tượng, niệm kỳ danh tự măn ư vạn biến, đương đắc Bồ Tát hiện vô biên thân, cụ cáo thị nhân quyến thuộc sanh giới; hoặc ư mộng trung, Bồ Tát hiện đại thần lực, thân lănh thị nhân, ư chư thế giới, kiến chư quyến thuộc” (Người ấy có thể nhất tâm chiêm ngưỡng, lễ bái thánh tượng Địa Tạng, niệm danh hiệu Ngài đủ một vạn biến, sẽ được Bồ Tát hiện vô biên thân, bảo cặn kẽ nơi quyến thuộc của người ấy sanh về, hoặc ở trong mộng, Bồ Tát hiện đại thần lực đích thân dẫn người ấy thấy các quyến thuộc trong các thế giới). Than ôi! Chúng sanh nghi nan biết được đầu mối! Quy Tịnh ghi.

 

21. Sanh nở nguy ngập lại được giữ vẹn tánh mạng

 

          Mùa Xuân năm Canh Ngọ (1930), vợ tôi có thai. Ba tháng trước khi sanh, thai bỗng bất động. Cầu thần, xem bói đều vô hiệu, lại chẳng dám uống thuốc. Nhưng do bụng to, đi lại khó khăn, tâm thường lo sợ. Lại v́ tôi ăn chay học Phật, nếu có chuyện bất trắc, càng khiến cho người làng biếm nhẽ! Nhớ lại mười năm trước, có một vị Tăng, tiên đoán “vào lúc ba mươi sáu tuổi, phải cẩn thận đề pḥng sản nạn”, vừa khéo đúng hệt như lời thầy chiêm tinh bảo “coi chừng mắc nạn”. Do vậy, nóng ruột muôn phần, kinh hoàng, sợ hăi chẳng biết cách nào! Một đêm nọ, vợ tôi hướng về tôi khóc lóc, kể lể. Nghe lời ấy, tôi càng kinh hăi, chua xót cùng cực! Bỗng nhớ đến kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện có thể bảo vệ người gặp tai ách về sanh nở. Nếu có ai hứa nguyện, chí tâm tụng kinh, tŕ tụng thánh hiệu, ắt được sanh nở b́nh an. Vừa mới dấy lên ư niệm ấy, tôi liền cảm thấy tâm thần an vui, khỏe khoắn, như băng tan ră. Sáng sớm hôm sau, đối trước Phật tâu tŕnh cặn kẽ. Chẳng ngờ, ngay đêm ấy, vợ tôi lâm bồn. Thai nhi vẫn thuận chiều sanh ra, nhau thai cũng theo ra. Nh́n xem, thân thai nhi đă hư nát, sao lại có thể xoay đầu xuống để thuận chiều sanh ra? Nếu chẳng phải do sức từ bi cứu khổ của Bồ Tát, làm sao được như vậy? V́ thế, tôi thệ nguyện hành Địa Tạng hạnh để nguyện báo ân Bồ Tát. Những người đồng bệnh tương lân trong nước, chí thành tŕ tụng tôn kinh, phóng sanh, kiêng giết, ắt được sanh nở an khang, lời Phật chẳng hư huyễn. Chính tôi là một minh chứng vậy! Người đất Tương ghi.

 

22. Lạy kinh khỏi bệnh

 

          Ḷng Từ của Phật rộng lớn, cảm ứng chẳng sai chạy. Điều này những kẻ hơi có chút tri kiến đều công nhận. Gia mẫu là Trương Thị, pháp danh là Năng Tu, bẩm tánh hiền thục, thông thạo văn tự, về làm vợ cha tôi, tận lực trọn đạo làm vợ, xóm giềng đều khâm phục. Đảm đang việc nhà, từng có những điều bị uất ức, bận ḷng, vẫn giấu kín trong ḷng chẳng lộ ra ngoài, suốt ba mươi năm đều như một ngày. Đối với chú Văng Sanh và kinh Quán Âm, cụ hết sức thuần thục, nhưng thuở ấy chưa thể lập khóa tụng, tu tŕ.

          Vào độ tuổi năm mươi, cụ bỗng thôi ăn thịt, có kẻ đem các tà thuyết để khuyên lơn chớ nên ăn chay, cụ vẫn chẳng màng. Vài năm sau, bỗng cụ cảm thấy đi lại chẳng thoải mái. Kế đó, hai tay chẳng thể giở lên được, dần dần eo vô lực, lưng c̣ng, hơi giống như bị gập lại, hễ động tới là đau. Do vậy, càng chẳng thể đi lại. Từ sảnh đường cho đến trong pḥng, ắt phải cậy vào xe lăn để ra vào. Nhưng căn bệnh thuộc về xương khớp, sức thuốc chẳng thể thấu tới được. May là cụ được Phật từ gia bị, khiến cho Kính Am tôi gặp nhân duyên quy y Tam Bảo. Năm sau, mẹ cũng quy y; kế đó, lại thờ tượng Phật trong nhà, cũng như tạc thánh tượng hai vị Đại Sĩ Quán Âm và Địa Tạng, sáng tối kính lễ, niệm tụng.

          Gia mẫu tuy bị bệnh khổ quấn thân, cũng niệm tụng suốt ngày. Mỗi ngày, cụ c̣n thắp hương, lễ bái, bảo Kính Am tôi ở bên cạnh nâng đỡ, dẫu kiệt sức cũng chẳng thiếu sót. Hơn một năm như thế, Kính Am tôi chưa từng thấy mẹ đau buồn v́ bệnh tật. Tôi luôn đem công đức do thọ tŕ kinh chú thường ngày và những thiện niệm dẫu bằng mảy lông, sợi tóc hồi hướng cho mẹ tiêu tai, thoát nạn. Kế đó, tôi nghĩ Địa Tạng Đại Sĩ thần lực chẳng thể nghĩ bàn, đời trước, Ngài đă độ mẹ thoát nạn. Chuyện này được nói tường tận trong kinh. Tôi bèn phát tâm cung tụng Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh để cầu nguyện.

          Xét thấy kinh văn quá dài, sanh kế bận bịu, khó thể tụng trọn, bèn thầm tưởng các sự tích trong mười ba phẩm kinh, ghi nhớ nằm ḷng tựa đề của mỗi phẩm, dùng để bái kinh thay thế [cho việc tụng niệm]. Như phẩm thứ nhất là Đao Lợi Thiên Cung Thần Thông, bèn trước hết quán tưởng tựa đề của phẩm ấy, sau đấy quán tưởng kinh nghĩa rồi lạy xuống. Từ phẩm thứ hai là Phân Thân Tập Hội cho đến phẩm thứ mười ba là Chúc Lụy Nhân Thiên cũng lại như thế. Lạy xong, lại niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát mấy trăm câu rồi hồi hướng. Quyền nghi như thế, rất sợ chẳng thể khế hợp Phật tâm.

          Hành như vậy mấy tháng, bỗng có một hôm, gia mẫu đang ngồi ngay ngắn chợt hôn mê, bất tỉnh nhân sự. Kính Am kinh hoảng, sợ hăi muôn phần! Chạy đến bên mẹ, chắp tay xưng niệm thánh hiệu Đại Sĩ gần mấy chục tiếng, liền thấy mẹ tỉnh lại, ói ra mấy bát nước có cặn màu đen, giống như huyết khí uất ức tích tụ nhiều năm. Tôi vội mời danh y chẩn trị, họ cho là khí huyết thiếu hụt, tổn hại, khó thể có hiệu quả, cứ kê toa uống thử xem. Kính Am lại quỳ trước Đại Sĩ, kiền thành cầu Ngài rủ ḷng Từ gia hộ. Ngày đêm xưng danh, chẳng ĺa trong tâm. Chỉ mới uống vào một thang thuốc, bệnh trạng dần dần thấy khởi sắc. Kính Am dốc ḷng thành khẩn cầu càng thêm khẩn thiết.

          Sau đấy, mẹ dần dần có thể đi lại, ra vào chỉ cần được nâng dắt. Mấy tháng sau, hoàn toàn có thể chống gậy đi một ḿnh. Nay th́ không cần gậy, vẫn đi lại tự nhiên. Hiện thời, cụ đă sáu mươi bốn tuổi, hằng ngày lễ Phật mấy chục lạy, tự đứng lên không cần ai nâng đỡ, cũng chẳng cảm thấy khổ sở. Phàm là người bị bệnh nặng, tuổi tác đă cao, không nhờ vào công năng của thuốc men mà tự nhiên lành bệnh, là chuyện ít gặp trong cơi đời! Ấy là nhờ Địa Tạng Đại Sĩ thệ nguyện hoằng thâm, lợi ích cứu giúp hữu t́nh, không ǵ chẳng trọn. Chỉ cần có thể phát nguyện kiền thành, ai cũng có cảm ứng. Xét trong những sự tích trước đó đă ghi chép rành rành. Nh́n từ chuyện linh cảm tôi đích thân đạt được, càng thêm tin đúng như thế đó! Kính cẩn ghi lại chuyện này, ḥng khuyên người đời. Tháng Sáu năm Ất Hợi (1935), nhằm mùa Hạ, Tam Bảo đệ tử Viên Kính Am ghi chép.

 

23. Tầm thanh cứu khổ

 

          Cư sĩ Hoàng Trang Huệ Châu là người ở thành phố Phước Châu. Mười chín tuổi xuất giá, hai mươi bốn tuổi bèn ăn chay, tin Phật. Năm Dân Quốc 24 (1935), nhà chồng bà thờ cúng tà thần, thường bị chúng tác quái quấy nhiễu. Cư sĩ phẫn uất, đem tượng đất của chúng vứt vào trong chum sành thường dùng để nuôi cá. Không lâu sau, cư sĩ có mang. Khi sanh nở, mắc chứng bệnh kinh phong, toàn thân nằm tê liệt trên giường, thuốc men đều vô hiệu. Tự nghĩ đấy chắc là tà quái báo thù, thế gian vô thượng chỉ có Phật, Bồ Tát, cùng với Duyên Giác, Thanh Văn là có thể nương tựa. Đại Bi Quán Âm Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Bồ Tát thường cứu độ chúng sanh trong nhân gian và địa ngục. Không ǵ bằng nhất tâm quy mạng, xưng niệm thánh hiệu Địa Tạng để cầu trừ khổ, lại c̣n nghĩ sẵn ḷng lâm chung. Từ đấy, mỗi ngày tụng tŕ mấy chục vạn câu.

          Chưa được một tuần, mộng thấy đến bên bờ biển, trông thấy sóng cả cuồn cuộn vỗ tung bọt, sắc nước đen x́ như sơn. Có vô số tiếng gào đau khổ, thê thảm, thê lương lan xa chẳng dứt. Đang trong lúc bà kinh ngạc, bỗng thấy một vị tỳ-kheo sa-môn bay lướt trên mặt biển. Ngài đến nơi đâu, tiếng khổ liền im bặt. Cư sĩ mới biết đấy là đức Địa Tạng độ sanh, lập tức hoan hỷ lễ bái. Sau khi tỉnh giấc, thân đau đớn bỗng dưng khỏi hẳn. Ngày hôm sau, có thể dựa vào người khác nâng đỡ mà đi lại. Chẳng đầy nửa tháng liền bước đi như thường. Đấy chính là linh tích từ bi của Bồ Tát trong thời cận đại. Tâm Nhiên kính ghi.

 

Lời cuối sách

 

          Gia đ́nh mạt nhân tuy tin Phật, theo lời bố mẹ kể, nhà ông bà nội ngoài quê dành riêng một gian nhà thờ Phật, nhưng không hiểu sao, hai cụ thân sinh của mạt nhân lại không thờ Phật. Ngoài h́nh đức Phật Thích Ca mà bà ngoại thờ tại nhà cụ và h́nh tượng Quán Thế Âm Bồ Tát tại nhà một người bạn, thuở bé, mạt nhân trọn chẳng biết có vị Phật, Bồ Tát nào khác, chỉ biết tên những vị thần tiên từ các bộ truyện Tàu như Phong Thần, Tây Du Kư v.v… Măi đến năm học lớp Tám, khi bà ngoại của một người bạn thân mất, lần đầu tiên được thấy tôn dung của đức Địa Tạng trong đám tang, cứ ngỡ đấy là h́nh tượng Đường Tam Tạng trong Tây Du Kư. Khi biết đó là Địa Tạng Bồ Tát, tự nhiên hoan hỷ vô cùng, ao ước có được một bức h́nh như thế, nhưng vẫn chưa thỏa nguyện. Sau đấy, như một cơ duyên, được thấy quyển kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện nơi nhà một người bạn, nhưng vẫn không được phép mượn về đọc trọn bộ. Vài năm sau, vô t́nh được đọc kinh Diên Mạng Địa Tạng, vẫn ước ao được đọc toàn bộ kinh Địa Tạng Bồ Tát do Ḥa Thượng Trí Tịnh dịch. Thuở ấy, sau năm 1975, kinh sách hiếm hoi, những người có kinh, sách đều sợ bị mượn rồi không trả, hầu như không ai chia sẻ, rất khó t́m đọc kinh sách. Tại chợ sách cũ, mạt nhân t́m được một bản kinh Địa Tạng Bổn Nguyện do hội Phật Giáo Bắc Kỳ dịch, thích thú đọc từng ḍng. Sau đó, lại có cơ duyên đọc bản dịch của Ḥa Thượng Trí Tịnh có đối chiếu phần âm đọc Hán Việt và phần Việt Văn từ nhà một người bạn, năn nỉ mượn về, chép lại, lâu lâu lôi ra thầm tụng, cảm thấy rất thích thú, tuy chất lượng giấy tập học tṛ thuở ấy rất xấu, chữ viết lại nguệch ngoạc, xộc xệch v́ chép vội cho xong để kịp thời trả kinh lại, kẻo người cho mượn phiền ḷng.

          Sau này, khi một người bạn của anh mạt nhân do dọn dẹp nhà cửa, t́nh cờ t́m thấy ba bức h́nh Bổn Sư, Địa Tạng và Quán Âm in trước năm 1975 đem cho, mạt nhân mới có cơ hội trân trọng thờ phụng măi cho đến khi rời khỏi Việt Nam. Lúc ra đi, chỉ mang theo được một bức tượng Di Đà bằng gốm đỏ do chùa Trúc Lâm (Bà Chiểu) tặng, v́ người nhà yêu cầu để lại ba bức h́nh trên. Sang hải ngoại, hết sức cảm thương những người tin Phật bên nhà, v́ bên này kinh tượng quá sẵn, nhất là Tịnh Tông Học Hội thí tặng rất nhiều tranh tượng Tây Phương Tam Thánh và h́nh Địa Tạng, cũng như các kinh sách khác. Đă thế, trên các phương tiện truyền thông như Internet, đủ loại kinh sách, tha hồ mà tham khảo. Thế nhưng, có lẽ v́ quá sẵn, quá dễ dàng, các đạo hữu dường như không trân trọng cho lắm, số người thật sự trân quư kinh sách, ảnh tượng như bên nhà hầu như hiếm thấy tại hải ngoại! Ngay chính mạt nhân, do kinh sẵn quá nhiều, đă quen thói tham lam “đọc ngốn ngấu” kinh sách, ít có dịp lắng ḷng suy ngẫm ư nghĩa sâu xa. Nhưng sâu thẳm trong ḷng, mạt nhân vẫn một mực kính tin đức Địa Tạng, vẫn đọc tụng kinh Địa Tạng mỗi khi tiện dịp.

          Năm 1998, từ kho sách tại Tịnh Tông Học Hội Dallas, mạt nhân t́m được hai quyển Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Khoa Chú và Địa Tạng Kinh Lược Thuyết của pháp sư Thánh Nhất. Tiếc là do kiến thức lam nham, tŕnh độ chữ Hán nhấp nhem, mạt nhân đành bỏ dở không thể đọc trọn bộ Khoa Chú v́ ngài Linh Thừa dùng nhiều điển tích, thành ngữ và chữ viết theo lối cổ, khó thể tra cứu (thuở đó chưa có Unicode, nên việc tra cứu chữ Hán trên Internet khá phức tạp). Đọc bộ Lược Thuyết của ngài Thánh Nhất th́ hơi thất vọng v́ hầu như lời giảng chỉ là diễn giải chánh kinh thành văn Bạch Thoại, không phơi bày ư nghĩa sâu xa trong kinh văn. Gần đây, do xem một video của một vị ḥa thượng tại châu Âu, mạt nhân kinh ngạc khi vị ḥa thượng ấy khẳng định kinh Địa Tạng là ngụy kinh, cũng như đọc một số bài viết của một vị thượng tọa nổi danh trong nước, mạt nhân sững sờ khi vị ấy hô hào phải loại bỏ các kinh Dược Sư và Địa Tạng khỏi Đại Tạng Kinh Việt Nam v́ các kinh đó mang tính chất van vái, cần xin, quỵ lụy!

          Hết sức ngỡ ngàng, mạt nhân thỉnh ư một vị pháp sư trong Tịnh Tông Học Hội. Pháp sư cười bảo: “Anh có tin nhân quả hay không? Nếu tin, kinh Địa Tạng có nói điều ǵ chẳng phải là nhân quả hay không? Có điều ǵ sai với nhân quả hay không? Tự nghĩ đi! Đạo Phật mà không có nhân quả, chúng sanh không sợ địa ngục th́ ai c̣n tu hành làm chi nữa cho nó mệt?” Thầy cười nói thêm: “Mấy thầy đó ăn cơm của đức Địa Tạng và Phật Di Đà, lại chửi Địa Tạng và Phật Di Đà, không biết họ nghĩ sao?” Mạt nhân thắc mắc: “Ăn cơm đức Địa Tạng và Phật Di Đà là sao ạ?” Thầy bảo: “Khi nào có tang sự, có phải là tại Việt Nam, Hoa Lục, và Đài Loan, người nhà thường thỉnh tăng hay đại chúng tụng kinh Địa Tạng cầu siêu hay không? Trong đám tang, thường niệm vị Phật nào? Cầu cho người chết sanh về đâu? Hiện thời, Tăng sĩ phải sống nhờ sự cúng dường của tín chúng. Khi nào, tín đồ sẵn ḷng cúng dường? Có phải là khi có tang ma, giỗ chạp hay không? Anh nói mấy thầy đó chỉ trích đức Địa Tạng, vậy chùa mấy vị ấy có thờ đức Địa Tạng hay không? Có đeo tràng hạt hay không?” Quả nhiên, sau này, vị thầy lớn tiếng đ̣i bỏ kinh Địa Tạng ấy lại vận động quyên góp xây điện thờ Địa Tạng khang trang tại ngôi chùa của chính ḿnh!

          Do vậy, mạt nhân vẫn thầm mong có cơ duyên dịch quyển Khoa Chú sang tiếng Việt để phần nào giúp cho các đồng tu Tịnh Độ không bị chao đảo khi nghe những lời phỉ báng kinh Địa Tạng, đồng thời hiểu sâu hơn những lời giảng kinh Địa Tạng của lăo pháp sư Tịnh Không, v́ khi giảng giải, ḥa thượng đă trích rất nhiều ư từ bản chú giải này. Ngay như Hoằng Nhất đại sư cũng đánh giá tác phẩm này rất cao. Đến nay, do sẵn các có các tài liệu tra cứu, tâm nguyện xưa được thỏa, thâm cảm sự gia hộ của Tam Bảo nói chung và sức từ bi phổ độ của đức Địa Tạng nói riêng. Dẫu cố gắng hết sức, nhưng do không được học Phật đến nơi đến chốn, chắc chắn phần chuyển ngữ này sẽ không thể tránh khỏi những sai sót ấu trĩ khó thể tha thứ được. Chỉ mong mai sau sẽ có bậc thức giả từ bi dịch lại hoàn chỉnh để những người con Phật có thể hiểu đúng tâm ư của pháp sư Linh Thừa, cảm nhận sâu xa ḷng đại từ bi của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, và tâm cứu độ đau đáu của đức Địa Tạng.

          Nếu việc làm liều lĩnh này có chút công đức nào, xin hồi hướng trọn khắp tông thân, quyến thuộc, phụ mẫu, sư trưởng, thiện ác tri thức lịch đại oán thân trái chủ, mười phương pháp giới hữu t́nh đều ân triêm lợi lạc, cùng sanh về Tịnh Độ. Đặc biệt cảm tạ đạo hữu Huệ Trang và Đức Phong đă bỏ nhiều thời gian duyệt bản chuyển ngữ và góp ư sửa chữa, luôn sách tấn mạt nhân cố gắng. Đặc biệt cảm ân những Tịnh tông đạo hữu vô danh đă góp sức in bộ Khoa Chú bằng tiếng Hán, để mạt nhân có dịp được xem đọc, cũng như in nhiều bản kinh Địa Tạng và in tặng rất nhiều tranh ảnh đức Địa Tạng để mọi người đều cùng được thờ phụng, không phải khổ sở t́m kiếm như mạt nhân khi xưa. Do đọc chuyện cảm ứng của Bồ Tát trừ bệnh dịch lưu hành, mong rằng nhờ chút thiện duyên này, bệnh dịch Corona sẽ mau chóng chấm dứt để các đạo hữu lại có dịp cùng nhau cộng tu, sách tấn lẫn nhau dốc chí tu niệm, văng sanh Tịnh Độ.

Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa kính bạch.



[1] “Năng hóa tam luân” tức là thân luân, khẩu luân, và ư luân, dùng ba luân ấy để giáo hóa.

[2] Ngă là một trong Tứ Đức của Niết Bàn (Thường, Lạc, Ngă, Tịnh) hàm nghĩa tự tại vô ngại. Đại Ngă chính là Pháp Thân của Như Lai, có tám loại đại tự tại, nên gọi là Bát Đại Tự Tại Ngă:

1. Có thể thị hiện một thân thành nhiều thân.

2. Có thể thị hiện một thân nhỏ như vi trần đầy khắp cơi đại thiên.

3. Thân to lớn mà nhẹ nhàng nâng thân lên đến tận những nơi xa nhất.

4. Hiện vô lượng loại thân để thường cư trụ trong thế giới.

5. Các căn có thể sử dụng lẫn cho nhau, chẳng hạn như có thể dùng mắt để nghe hay ngửi.

6. Đạt được hết thảy pháp nhưng chẳng có ư tưởng là đă đạt được.

7. Nói ư nghĩa của một bài kệ trong vô lượng kiếp.

8. Thân trọn khắp các nơi ví như hư không.

[3] Vô Ương số (無央數) là từ ngữ dịch nghĩa của chữ A-tăng-kỳ.

[4] Ở đây, ngài Linh Thừa dùng chữ Hỗ Quỳ (互跪) v́ cho rằng viết “hồ quỳ” (胡跪) là không chính xác. Theo Ngài, Hỗ Quỳ là cách quỳ một gối áp sát đất, gối kia dựng thẳng, lưng và cổ giữ thẳng, thể hiện ư sẵn sàng đứng lên ngay nếu được sai phái, c̣n Hồ Quỳ là cách quỳ của người Hồ (nhưng chữ Hồ là danh từ để chỉ chung các sắc dân ở phía Tây Trung Hoa, như người Khương, người An Tức, Đại Hạ v…. không phải chỉ riêng người Ấn), trong khi Hỗ Quỳ là cách quỳ lạy riêng biệt của Thiên Trúc.

[5] Đúng ra, Hư Không Tạng phải là Ākāśagarbha, c̣n dịch là Hư Không Dựng, hay Không Tạng Kim Cang, c̣n Gaganagañja nên dịch là Hư Không Bảo.

[6] Nguyên văn là Thái Thương (太倉). Thái Thương là kho trữ lúa tại các quận huyện để lúc thóc cao gạo kém sẽ phát ra, nhằm b́nh ổn giá gạo, hay để phát chẩn, hoặc dùng trong trường hợp cần thiết khi quân lương thiếu hụt. Quy chế này đă có từ đời Hán.

[7] Các lăo (閣老): Đời Đường, các vị quan như Trung Thư Xá Nhân và Môn Hạ Thị Lang được gọi là Các Lăo. Từ đời Minh - Thanh trở đi, các vị đại học sĩ cũng thường gọi là Các Lăo. Do ngài Kim Kiều Giác là vương tử xứ Tân La (Silla), mà vương quốc Tân La tồn tại từ năm 57 trước Công Nguyên cho đến năm 935 công nguyên (tương ứng với thời gian nhà Đường trị v́ Trung Hoa), nên Các Lăo chỉ có thể hiểu là tiếng tôn xưng một vị quan từng giữ chức Xá Nhân của Trung Thư Tỉnh hoặc Môn Hạ Thị Lang.

[8] “Kỵ trúc mă” (cưỡi ngựa bằng cành tre) là tṛ chơi đùa của trẻ con. Ư nói: Đứa bé c̣n ham chơi không thích hợp cho việc tu hành. Đây là tṛ chơi phổ biến của trẻ nhỏ thời đó, cho nên có thành ngữ “thanh mai trúc mă” để chỉ bạn chơi với nhau từ thời tóc c̣n để chỏm.

[9] Ṿ ở đây là “thiêm b́nh” (添瓶) tức cái ṿ có eo cổ thắt, miệng loe, hoặc loại ṿ có quai để tiện xách ra suối lấy nước về dùng. Đứa trẻ ham chơi đến nỗi bỏ luôn cái ṿ lấy nước ch́m xuống đáy gịng suối.

[10] Khi Dương (Kiyo) là tên gọi cổ của Nagasaki (Trường Khi, 長崎) dưới thời Giang Hộ (Edo).

[11] Nguyên Lộc (Genroku) là niên hiệu của Đông Sơn Thiên Hoàng (Higashiyama-tenno) từ năm 1688 đến năm 1704. Đây là thời kỳ được coi là văn hóa đạt đến đỉnh cao nhất trong thời đại Edo (Giang Hộ thời đại), dưới quyền cai trị của tướng quân Đức Xuyên (Tokugawa) trước thời cải cách Minh Trị Duy Tân. Edo chính là tên cũ của Tokyo. Đông Sơn Thiên Hoàng (tên thật là Asahito, Triều Nhân) là tổ tiên tám đời của Minh Trị (Meiji) Thiên Hoàng. Tướng quân (Shogun, tên gọi đầy đủ là Chinh Di Đại Tướng Quân, tức Sei-I Taishogun) là lănh chúa quân sự được bổ nhiệm bởi Thiên Hoàng (thật ra, họ mới là lănh tụ thật sự của vương triều, Thiên Hoàng bổ nhiệm chỉ là h́nh thức v́ vua không có quyền lực thật sự), giống như kiểu chúa Trịnh vua Lê ở Việt Nam. Hệ thống quản trị của Tướng Quân được gọi là Mạc Phủ (Bakufu) và các quan lại thuộc Mạc Phủ mới là nhân viên điều hành đất nước thật sự thời đó, các quan của Thiên Hoàng chỉ là bù nh́n.

[12] Thiên Cẩu là một loài dị thú. Theo Sơn Hải Kinh, đây là một loại thần thú vừa thiện vừa ác. H́nh dạng thiện th́ giống như một con chó lớn, đầu cáo trắng, thân có vằn, đuôi giống đuôi mèo. Dạng ác th́ giống như con chó to màu đen, có thể nuốt mặt trăng. Đôi khi Thiên Cẩu được hiểu như là sao chổi hay sao băng.

Thổ Công là tinh ṭa được tin là có tác dụng chủ tŕ thổ mộc, ruộng vườn theo thuật chiêm tinh xưa. Thổ Công thuộc về tinh cung Bích Tú trong Nhị Thập Bát Tú, gồm mười một ngôi sao. Thổ Công chính là tinh ṭa Song Ngư (Pisces) nếu xét theo cách phân định các tinh tú hiện thời.

[13] Vĩnh Xuân là một huyện ở phía Đông Nam tỉnh Phước Kiến, là huyện lỵ của thành phố Tuyền Châu.

[14] Trương Tăng Diêu (479-?) là họa sĩ nổi tiếng đời Lương, từng được phong làm Vũ Lăng Vương Quốc Thị Lang, chuyên quản trị các họa phẩm trong cung đ́nh. Ông sở trường vẽ tranh Phật giáo, nhất là tranh vẽ trên tường. Cách vẽ chân dung Phật, Bồ Tát, thánh chúng của ông đă h́nh thành một trường phái riêng được gọi là Trương Gia Dạng, được coi là khuôn mẫu tiêu chuẩn cho tranh họa Phật giáo. Ông vẽ rồng, chim, hoa cỏ, sơn thủy cũng rất nổi tiếng. Ông vẽ rồng sống động đến nỗi có truyền thuyết: Ông vẽ bốn con rồng trên vách chùa An Lạc ở Kim Lăng, khi điểm nhăn (vẽ mắt rồng), hai con bay vụt lên trời. Hai người con ông là Thiện Quả và Nhu Đồng theo học vẽ với ông cũng là những họa sư lỗi lạc thời ấy.

[15] Lân Đức là niên hiệu của Đường Cao Tông. Đường Cao Tông là người sử dụng nhiều niên hiệu nhất trong đời Đường: Vĩnh Huy, Hiển Khánh, Long Sóc, Lân Đức, Càn Phong, Tổng Chương, Hàm Hanh, Thượng Nguyên, Nghi Phụng, Điều Lộ, Vĩnh Long, Khai Diệu, Vĩnh Thuần, và Hoằng Đạo.

[16] “Thằng sàng” (繩床) là chơng hay ghế dài, không dùng vải căng trên khung, mà dùng dây thừng, dùng để dựa vào mà ngủ hay ngồi. Loại giường này bắt nguồn từ Ấn Độ, phổ biến trong các tự viện vào đời Đường. Loại giường này dùng có khung gỗ đóng chéo chân, có thể xếp lại được, giống như ghế bố, để tiện mang theo khi cần ngồi hay ngủ nghỉ khi đi du cước. Loại này khác với loại dùng trong dân chúng, cũng gọi là “thằng sàng” nhưng là một thứ ghế có lưng dựa, mặt ghế và lưng ghế dùng dây vải hay dây mây đan thành ô vuông xen kẽ để ngồi cho mát. Có lẽ “thằng sàng” được nói ở đây chính là loại ghế này.

[17] Thoạt đầu, chức Thứ Sử vốn là cấp quan thuộc Ngự Sử Đài. Về sau, đặt ra Thứ Sử tại các châu, tức là chức quan Giám Sát tại các châu, quận. Dần dần, Thứ Sử trở thành quan đứng đầu một châu. Dưới đời Đường, khi các Tiết Độ Sứ trở thành thống lĩnh quân sự địa phương th́ Thứ Sử trở thành thuộc hạ của Tiết Độ Sứ. Từ đời Minh trở đi, Thứ Sử trở thành danh xưng để gọi các vị Tri Châu (quan đứng đầu một châu).

[18] Thông quang: Quang minh bao quanh thân.

[19] Thị Lang là chức quan đặt ra từ đời Hán, tương đương với thứ trưởng hiện thời. Thoạt đầu, chức quan này là các quan hầu cận giúp vua xử lư mọi việc. Dần dần, do sự vụ quá nhiều, phải lập ra các Tỉnh (cơ quan hành chánh) như Thượng Thư Tỉnh, Môn Hạ Tỉnh, Trung Thư Tỉnh để đặc trách từng sự vụ. Sau đó, phát triển thành sáu bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, H́nh, Công). Thượng Thư là quan đứng đầu mỗi bộ, viên phó quan gọi là Thị Lang. Đến đời Thanh, với mỗi bộ lại lập ra Tả Hữu Thị Lang. Tả Thị Lang địa vị cao hơn, phải là người Măn Châu.

[20] Trung Ḥa là niên hiệu của Đường Hy Tông từ năm 881 đến 885. Đời vua Đường Hy Tông, Đại Đường loạn lạc rối beng với hai cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân do Hoàng Sào và Vương Tiên Chi lănh đạo, các Tiết Độ Sứ cát cứ, đánh phá lẫn nhau. Nhà vua hoàn toàn bị lệ thuộc vào sự thao túng của hoạn quan Điền Lệnh Tư. Vua đă dùng năm niên hiệu là Càn Phù, Quảng Minh, Trung Ḥa, Quang Khải, và Văn Đức.

[21] Thanh Tước là một loài chim thuộc họ Sẻ, thường gọi là Japanese Grosbeak, hoặc Masked Hawfinch, ḿnh nó hơi xám, có ánh xanh, đầu đen, mỏ vàng, trông như người đội mặt nạ trùm đầu. Loài này sống chủ yếu ở vùng sông Amur và Măn Châu, mùa Đông thường bay thiên di xuống Bắc Kinh và Hà Bắc.

[22] Chức quan này có tên gọi đầy đủ là Biệt Giá Tùng Ngự Sử, hoặc c̣n gọi là Biệt Giá Tùng Sự, chính là quan phụ tá cấp cao nhất của Thứ Sử. Do chức quan cao, khi đi ra ngoài, không phải ngồi hầu theo xe của quan Thứ Sử, nên gọi là Biệt Giá. Có thể hiểu chức quan này giữ vai tṛ xử lư thường vụ trong các châu, quận. Đến đời Tùy, do băi bỏ các quận, chỉ giữ lại châu, nên chức vị này đổi thành Trưởng Sử. Đến đời Đường, lại đổi thành Quận Thừa Biệt Giá. Sau đó, chức vụ này bị phế bỏ. Đến đời Tống, lại lập chức Thông Phán có vai tṛ gần giống Biệt Giá. Do vậy, dân gian vẫn quen gọi Thông Phán là Biệt Giá.

[23] Càn Hựu là niên hiệu của Hán Cao Tổ Lưu Tri Viễn, như vậy, nhà Hán nói ở đây là nhà Hậu Hán thuộc thời Ngũ Đại, không phải là nhà Tiền Hán do Lưu Bang sáng lập sau khi diệt nhà Tần của Tần Thủy Hoàng.

[24] Hậu Châu là một triều đại ngắn ngủi nhất trong thời Ngũ Đại, trước sau chỉ tồn tại chín năm! Quách Oai vốn là quyền thần của nhà Hậu Hán, lập nhiều chiến công, quyền cao, chức cả. Khi Hán chúa là Lưu Trí Viễn chết, con là Lưu Thừa Hựu nối ngôi, thấy các đại thần nắm binh quyền quá mạnh, bèn lập mưu giết các đại thần. Quách Oai bèn khởi binh chống lại, tôn Lưu Vân làm vua mới. Sau đó, đem quân lên miền Bắc đánh Khiết Đan, ngầm sai người giết chết Lưu Vân, rồi sai tay chân ủng hộ ḿnh lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà Châu, nhưng ông ta chỉ làm vua được ba năm th́ chết. Ngôi vua phải truyền cho con nuôi là Sài Vinh, tức Châu Thế Tông. Do phải chinh chiến liên miên, tiền bạc thiếu hụt, Châu Thế Tông nghe lời sàm tấu của đạo sĩ, đă phế trừ đạo Phật, phá hủy chùa chiền, hạ lệnh nung chảy tượng Phật, chuông đồng để đúc tiền, tạo thành pháp nạn cho Phật giáo Trung Hoa. Chính ông ta đă hạ lệnh phá hủy 30.336 ngôi chùa và đuổi sáu vạn tăng ni về đời.

[25] Chứng kết hạch là bệnh lao, có thể là lao phổi, lao hạch, hay lao xương.

[26] Bệnh thời khí: Bệnh truyền nhiễm lan truyền nhanh chóng trong một thời gian ngắn như cúm, viêm ng năo, dịch tả, dịch hạch v.v… Do bệnh thường xảy ra vào lúc giao mùa, nên cổ nhân gọi chung là “bệnh thời khí”.

[27] Đây là thời loạn lạc sau khi Cách Mạng Tân Hợi (1911) thành công, nhà Thanh bị lật đổ, Trung Hoa Dân Quốc thành lập. Các tướng lănh quân phiệt nổi lên khắp nơi, chia thành nhiều phe phái, xé nát Trung Hoa. Điền quân là phe quân phiệt ở phương Nam, chủ yếu tại các tỉnh Vân Nam, Quư Châu, Tứ Xuyên v.v… do Thái Ngạc, Đường Kế Nghiêu và Long Vân cầm đầu.