Kim Quang Minh Tối Thắng
Vương Kinh Sớ
Quyển thứ nhất
Đời Đường
Tam Tạng pháp sư Nghĩa Tịnh vâng chiếu dịch
kinh
Dịch kinh sa-môn Huệ
Chiểu soạn sớ
金光明最勝王經疏
卷第一
唐三藏法師義淨奉制譯
翻經沙門慧沼撰
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ
Trang
Phần 1
* Đôi nét về Tam Tạng pháp
sư Nghĩa Tịnh
Ngài Nghĩa Tịnh (635-713) là một
vị cao tăng dịch kinh thời Đường, quê ở
Trác huyện, tỉnh Hà Bắc (có thuyết nói Ngài là người
Tế Châu, tức huyện Lịch Thành, tỉnh Sơn
Đông), họ ngoài đời là Trương, tên tự là
Văn Minh. Ngài
xuất gia từ bé, bẩm
tánh thông minh, mẫn tiệp, tham học trọn khắp các
bậc danh đức, xem rộng khắp các sách vở. Từ
lúc mười lăm tuổi, Ngài đă ngưỡng mộ
công tích sang Tây Trúc cầu đạo của các vị Pháp Hiển và Huyền Trang. Ngài thọ
Cụ Túc Giới lúc hai mươi tuổi nơi ngài Huệ
Trí. Sau khi thọ giới, Ngài chuyên tâm học Giới
Luật từ các bản sớ giải của hai vị
Đạo Tuyên và Pháp Lệ suốt năm năm. Kế
đó, học các bộ Đối Pháp, Tập Luận, và Nhiếp Luận tại
Lạc Dương. Lại sang Trường An học Câu Xá
và Duy Thức. Năm Hàm Thuần thứ hai (671), do
được Phùng Hiếu Thuyên là quan cai trị Yểm
Châu (nay là huyện B́nh Nam, tỉnh Quảng Tây) tài trợ, Ngài
từ Quảng Châu theo đường biển, vượt
qua Thất Lợi Phất Thệ (tức Palembang thuộc
đảo Sumatra) hiện thời, đến tiểu quốc
Đam Ma Lê Để của Ấn Độ vào tháng Hai
năm Hàm Thuần thứ tư (673). Ngài lưu lại
đó một năm để học tiếng Phạn với
một vị tăng Trung Hoa là ngài Đại Thừa
Đăng.
Ngài lần
lượt chiêm bái các thánh tích như núi Linh Thứu, núi Kê Túc, Lộc
Dă Uyển, Kỳ Viên tinh xá v.v… Sau đó, siêng năng học
tập tại chùa Na Lan Đà suốt mười một năm, chuyên dụng
công nơi Du Già, Trung Quán, Nhân Minh và Câu Xá. Sau đấy, Ngài trở lại Sumatra, tu học thêm bảy năm nữa. Hơn ba
mươi năm sau, Ngài mới trở về
nước. Ngài đem hơn bốn trăm bộ kinh tiếng
Phạn và ba trăm viên xá-lợi đến Lạc
Dương. Vũ Hậu (Vũ Tắc Thiên) đích thân ra
ngoài cửa Đông kinh thành để
đón tiếp, sắc truyền Ngài trụ tích tại chùa
Phật Thọ Kư. Sau đó, Ngài tham dự dịch trường
để dịch kinh Hoa Nghiêm bản mới (bản Bát Thập
Hoa Nghiêm), cũng như dịch thuật các kinh sách về
giới luật, Duy Thức, Mật giáo… sang tiếng Hán. Từ
năm Thánh Lịch thứ hai (699) đến năm Cảnh
Vân thứ hai (711), suốt mười hai năm, Ngài đă
dịch được năm mươi sáu bộ kinh,
hơn 230 quyển. Trong số đó, kinh sách về Luật
Tông chiếm phần lớn. Các bộ luật được
lưu truyền hiện thời đại đa số do
Ngài dịch. Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương
được dịch trong khoảng thời gian từ
năm 700 đến năm 703. Ngài cùng với các vị
Cưu Ma La Thập, Chân Đế, và Huyền Trang được xưng
tụng là “tứ đại dịch kinh gia”.
Ngoài
việc dịch thuật, Sư cũng thường dùng những
điều trọng yếu trong luật tạng để
dạy bảo hậu học. Những lời Sư giảng dạy được lưu truyền rất
mạnh tại Lạc Dương. Ngài c̣n biên soạn bộ
Nam Hải Kư Quy Truyện gồm bốn quyển, Đại
Đường Tây Cầu Pháp Cao Tăng Truyện (hai quyển),
và truyền dạy cách bính âm của Ấn Độ (tức
là dùng hai chữ đă biết âm đọc để ghép lại
ḥng ghi âm một chữ Hán). Các trước tác của Ngài
chứa đựng rất nhiều thông tin quư báu về xă
hội, phong tục, tập quán v.v… của xă hội Ấn
Độ thời đó. Ngài thị tịch vào tháng Giêng năm Tiên Thiên thứ hai (713), thọ bảy mươi chín tuổi,
được dựng tháp thờ tại Long Môn thành Lạc
Dương.
* Đôi nét về ngài Huệ Chiểu
Ngài
Huệ Chiểu (651-714) là một vị tăng lỗi lạc thuộc Pháp Tướng Tông
đời Đường, người xứ Truy Xuyên thuộc Truy Châu (tỉnh
Sơn Đông), không rơ họ ngoài đời. Ngài c̣n
được gọi là Truy Châu đại sư, thông huệ
từ bé. Xuất gia khi mười lăm tuổi, Sư luôn giữ giới luật nghiêm cẩn,
người đương thời gọi Sư là Chiểu xà-lê. Thoạt đầu,
Ngài theo học với ngài Huyền Trang; sau đó, theo học
Duy Thức với ngài Khuy Cơ, đạt được
áo chỉ và chân truyền của thầy. Sau khi ngài Khuy
Cơ đă mất, do sư Viên Trắc soạn
Duy Thức Luận Sớ đả phá học thuyết của
ngài Khuy Cơ, ngài Huệ Chiểu bèn viết Thành Duy Thức
Luận Liễu Nghĩa Đăng để phá thuyết ấy,
hiển lộ thật nghĩa của Pháp Tướng Tông.
Trước sau, Ngài cùng các vị Nghĩa Tịnh và Bồ
Đề Lưu Chí tham gia đạo tràng dịch kinh, đảm nhiệm
vai tṛ chứng nghĩa và san nhuận bản dịch. Ngài
c̣n biên soạn Năng Hiển Trung Biên Huệ Nhật Luận
(bốn quyển), Nhân Minh Nhập Chánh Lư Luận Nghĩa Toản
Yếu (một quyển), Kim Quang Minh Tối Thắng
Vương Kinh Sớ, Pháp Hoa Huyền Tán Nghĩa Quyết,
Nhân Minh Nhập Chánh Lư Luận Nghĩa Đoạn. Ngài cùng
với ngài Khuy Cơ và Trí Châu được
xưng tụng là tam tổ của Duy Thức Tông.
Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ
Quyển thứ nhất
Phần 1
Đấng
điều ngự ba cơi,
Ba
đức thảy vẹn toàn,
Độ
các loài quần sanh.
Từ
trong pháp đă chứng,
Diễn
giảng pháp chân thật.
Các
pháp môn sâu mầu.
Thánh
hiền tăng theo học,
Tịnh
tín, tâm quy kính,
Con
nay ca ngợi kinh,
Hoằng
pháp lợi ḿnh, người.
Hồi
hướng đại Bồ Đề,
Cùng
sanh lên Diệu Giác.
Ba
nghiệp kiền thành lễ,
Ngưỡng
mong đều gia hộ.
Để
giải thích kinh này, trước hết dùng năm môn phân biệt:
-
Một, trần thuật cái nhân phát khởi của kinh.
-
Hai, nêu rơ Tông và Thể của kinh.
-
Ba, nêu ra thời và lợi ích của kinh.
-
Bốn, biện định v́ sao kinh có tên gọi như thế.
-
Năm, dựa theo kinh văn mà chia thành từng khoa để
giải thích.
1. Cái nhân phát khởi của kinh
Lại
chia thành hai phần:
-
Một, nguyên nhân phát khởi chung.
-
Hai, nguyên nhân phát khởi riêng.
“Chung”
chính là cùng chung (tương đồng) với các kinh; “riêng”
là chỉ hạn cuộc trong giáo pháp này.
1.1. Nguyên nhân phát khởi chung
Hết
thảy các đức Như Lai ĺa các phân biệt, tâm chứng
biển Định, trí bằng với Như Như, vật
(chúng sanh, cũng như các pháp) và ngă đều mất, h́nh
và âm thanh cùng vắng lặng. Nhưng do nguyện đă tu
trước kia cảm vời cơ duyên dường như tấm gương tṛn
hiện bóng, tựa hang trống dội lại tiếng
vang. V́ thế, có chuyện ứng hóa, hiện h́nh tích, vang rền
các thứ âm thanh thuận theo từng loài [chúng sanh]. Giáo tuy
ngàn muôn sai khác, duyên để dấy lên chỉ có hai:
-
Một, do lưu xuất từ ḷng đại bi của
Như Lai.
-
Hai, do sự ưa muốn của hữu t́nh cảm vời.
Nhưng
trong các giáo, sẽ tùy ư nêu ra [cái duyên khởi lên của mỗi
giáo] không nhất định [phải có đủ cả hai
duyên ấy]. Như trong kinh Vô Lượng Nghĩa, chỉ
nêu ra cái duyên được cảm vời bởi sự
ưa muốn của chúng sanh. V́ thế, kinh ấy có nói: “Pháp vô lượng
giả, dĩ chư chúng sanh tánh dục vô lượng giáo,
kỳ sở thuyết pháp diệc phục vô lượng” (Pháp vô lượng
là v́ tánh chúng sanh ưa muốn vô lượng giáo pháp, cho nên
pháp được nói ra cũng là vô lượng). Quyển
một của kinh Pháp Hoa chép: “Ngă kim diệc phục
như thị, tri chư chúng sanh hữu chủng chủng dục,
thâm tâm sở trước. Tùy kỳ bổn tánh, dĩ chủng
chủng nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, phương tiện
lực cố, nhi vị thuyết pháp” (Ta nay cũng giống
như thế, biết các chúng sanh có các thứ ưa muốn,
thâm tâm đắm chấp, bèn thuận theo bổn tánh của
họ, dùng các thứ nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, và sức
phương tiện để v́ họ thuyết pháp). Phẩm
Mộng Kiến Sám Hối trong kinh này nói: “Trụ thọ
bất khả tư nghị kiếp, tùy cơ thuyết pháp
lợi quần sanh” (Trụ trong thọ mạng chẳng
thể nghĩ bàn kiếp, tùy theo căn cơ mà thuyết
pháp ḥng lợi lạc các chúng sanh). Trong Nhiếp Luận,
ngài Thiên Thân lại dựa theo ḷng từ bi mà nói: “Mười
hai bộ loại kinh lưu xuất từ ḷng đại
bi”. Trong bộ Nhiếp Luận của ngài Vô Tánh[1],
do xét theo căn cơ và tánh t́nh [của chúng sanh] mà nói: “Do sức thiện căn
và thức tâm của chính ḿnh mà khởi lên”. Sách Nhị
Thập Duy Thức[2]
nói gộp chung các nhân phát khởi bằng bài kệ như
sau: “Triển chuyển tăng thượng lực, nhị
thức thành quyết định” (Sức lần lượt
tăng thượng, hai thức thành quyết định)[3].
Giải rằng: “Do các tương tục thức[4]
sai khác, khiến cho các thức tương tục và sai biệt
khác sanh ra”. Đó chính là nói “tương tục” là thân,
“sai biệt” là giáo. Điều này có nghĩa là do thức
nơi Phật thân hiện ra, danh, cú, nghĩa, khiến cho
người nghe sanh khởi thức, danh, cú, nghĩa[5].
Đó là do căn cơ của chúng sanh đă chín muồi, cho nên có thể cảm,
ḷng đại bi của Như Lai sẽ có thể ứng,
phần nhiều [cái nhân phát khởi một bộ kinh] là v́
ḷng đại bi lợi tha vậy!
Lại có hai duyên:
- Một là v́ [khiến cho] pháp trụ thế lâu dài.
- Hai là v́ lợi ích hữu t́nh.
Quyển thứ nhất của kinh Pháp Hoa có
nói: “Chủng chủng nhân duyên dĩ vô lượng dụ
chiếu minh Phật pháp, khai ngộ chúng sanh” (do các thứ
nhân duyên, dùng vô lượng thí dụ để soi tỏ Phật
pháp, nhằm khai ngộ
chúng sanh). “Soi tỏ Phật pháp” chính là để khiến
cho pháp được trụ thế lâu dài, tức
là đại trí. “Khai ngộ chúng sanh” chính là lợi ích hữu
t́nh, tức là đại bi. Kinh này cũng thế, phẩm Sám
Hối nói: “Trụ thọ bất khả tư nghị
kiếp, tùy cơ thuyết pháp lợi quần sanh” (trụ
trong thọ mạng chẳng thể nghĩ bàn kiếp, tùy
theo căn cơ mà thuyết pháp để lợi ích các
chúng sanh). Đại bi th́ như trong phẩm Phó Chúc đă
nói: “Nhữ đẳng thùy năng phát tâm thủ hộ,
quảng tuyên, lưu bố, năng linh chánh pháp cửu trụ
thế gian?” (các ông ai có thể phát tâm thủ hộ, rộng
nói, lưu truyền, khiến cho chánh pháp có thể tồn tại
lâu dài trong thế gian?); đó là đại trí. Hoặc có thể
hiểu “khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài” ḥng lợi
ích hữu t́nh chính là đại bi. Hoặc có thể hiểu
là “v́ lợi ích quần sanh mà khiến cho chánh pháp được
trụ thế dài lâu” chính là đại trí. Cũng khiến
cho người nghe tu tập hai thứ lợi
ích: Khiến cho pháp trụ thế lâu dài là tu tự lợi;
v́ lợi ích hữu t́nh là tu lợi tha. Quyển tám
mươi hai của bộ Du Già Sư Địa Luận chép:
“Nếu trọn đủ năm phần thuyết pháp
như thế, sẽ như năm phần âm nhạc, khiến
cho ta lẫn người đều sanh niềm hỷ lạc
to lớn. Lại có thể dẫn phát lợi ích cho ta lẫn
người”. Giải thích năm phần ấy th́
như trong Nhân Vương Bát Nhă Sớ đă nói cặn kẽ!
Lại có ba duyên:
- Một là khiến [người nghe] sanh
ḷng ưa thích.
- Hai là khiến cho họ tu hành.
- Ba là khiến cho họ đoạn chướng.
Tức là nêu rơ: Chúng sanh muốn nghe pháp, chẳng
ngoài ba loại:
- Một là mong cầu cái quả thù thắng
và lợi lạc hữu t́nh.
- Hai là hạnh để tu tập.
- Ba là trừ chướng.
Như trong kinh Bát Nhă, ngài Thiện Hiện
(Tu Bồ Đề) đă thưa hỏi rằng: “Chư
hữu phát thú Bồ Tát thừa giả, vân hà trụ?”
(Có những người đă phát tâm hướng đến
Bồ Tát thừa th́ hăy nên trụ như thế nào?) v.v… [Do
vậy, chúng ta] biết rơ rằng: Phát tâm tiến nhập
các thừa khác cũng có ba loại [mong cầu như vừa
nói trên đây. Chẳng hạn như]: Nhân thiên thừa tuy
chẳng đoạn chủng tử [phiền năo sanh tử
luân hồi], nhưng cũng có thể chế phục tam ác
đạo chướng, được sanh trong trời,
người. V́ thế, [mỗi thừa] đều có ba [loại
mong cầu khi nghe pháp]; đó là do căn cơ cảm vời.
Lại có bốn duyên:
- Một là mong khiến cho người
chưa ĺa khổ được ĺa khổ.
- [Hai là] mong làm cho người chưa
được vui sướng sẽ được vui
sướng,
- [Ba là] muốn khiến cho người
chưa thể phát tâm đoạn ác tu thiện sẽ đoạn
ác tu thiện.
- [Bốn là] nguyện cho người
chưa thành Phật sẽ sớm thành Phật.
Đấy là do bi nguyện. V́ thế,
trong quyển thứ ba của kinh Pháp Hoa có nói: “Vị
độ giả linh độ” (khiến cho người
chưa được độ sẽ được
độ), “độ” có nghĩa là “ĺa khổ”. “Vị
giải giả linh giải” (khiến cho người
chưa hiểu sẽ được hiểu), “giải”
có nghĩa là đoạn ác tu thiện. “Vị an giả
linh an” (khiến cho người chưa an sẽ được
an), “an” có nghĩa là “đạt được vui
sướng”. “Vị Niết Bàn giả linh đắc Niết
Bàn” (người chưa đắc Niết Bàn sẽ
đạt được Niết Bàn), tức là ư nghĩa “nguyện
cho người thành Phật sẽ thành Phật”. Đó
chính là vâng theo thứ tự của Tứ Hoằng Thệ
Nguyện để hóa độ chúng sanh. Quyển thứ
ba kinh Pháp Hoa chép: “Chúng sanh thường khổ năo, manh
minh vô đạo sư, bất thức khổ tận đạo,
bất tri cầu giải thoát” (Chúng sanh thường khổ
năo, mù tối, không người dạy, chẳng biết
đạo hết khổ, chẳng biết cầu giải
thoát). Cho đến nói: “Kim Phật đắc tối
thượng, an ổn vô lậu đạo, ngă đẳng
cập thiên nhân, vi đắc tối đại lợi” (nay
Phật đắc tối thượng, đạo vô lậu
an ổn, chúng con và trời, người, đạt
được lợi lớn nhất). Điều này có nghĩa là: “Thường
khổ năo” là Khổ Đế.
“Mù tối, không có thầy dạy” chính là Tập Đế.
“Chẳng biết đạo hết khổ” chính là Đạo Đế, chẳng biết
cầu Giải Thoát Diệt Đế. Đó là nói rơ trước
kia chẳng hiểu biết, nay do Phật xuất thế,
chỉ dạy khai ngộ, khiến cho chúng con thông hiểu,
khiến cho chúng con biết Khổ, đoạn Tập, chứng
Diệt, tu Đạo.
Lại có năm duyên như quyển hai của
kinh Tư Ích[6]
đă nói: “Nhược nhân năng ư Như Lai sở
thuyết văn tự, ngôn thuyết, chương cú thông
đạt tùy thuận” (nếu ai có thể đối với
văn tự, lời lẽ, câu kệ do Như Lai đă nói
mà thông đạt, tùy thuận) cho đến “năng tri
Như Lai dĩ hà thuyết pháp, dĩ hà tùy nghi thuyết,
dĩ hà phương tiện thuyết, dĩ hà pháp môn thuyết,
dĩ hà đại bi thuyết. Phạm Thiên! Nhược Bồ
Tát năng tri Như Lai dĩ thị ngũ lực thuyết,
thị Bồ Tát năng tác Phật sự” (có thể biết
Như Lai dùng ǵ để thuyết pháp, dùng ǵ để nói
thuận theo cơ nghi, dùng phương tiện nào để
nói, dùng pháp môn nào để nói, dùng đại bi ǵ để
nói. Này Phạm Thiên! Nếu Bồ Tát có thể biết
Như Lai dùng năm sức ấy để nói, vị Bồ
Tát ấy có thể làm Phật sự). “Dùng ǵ để
thuyết pháp” tức là bàn về Pháp Thể. “Dùng ǵ
để tùy thuận cơ nghi”, chính tùy thuận
tương ứng căn cơ. “Dùng phương tiện
ǵ” tức là chỉ dạy khiến cho [người
nghe] được lợi ích, hoan hỷ. Đối với
những thứ chẳng thể gọi tên hay nói năng mà
phương tiện nói các thứ thiện xảo v.v… “Dùng
pháp môn ǵ” tức là đối với một pháp mà biện
luận các môn. “Dùng đại bi ǵ” tức là nói tới
ba mươi hai loại đại bi[7].
Chẳng hạn như nói “các pháp vô ngă” nhưng chúng
sanh chẳng thể tín giải, ngay khi đó, Như Lai bèn dấy
ḷng đại bi, nói sao cho họ tin hiểu. Nói rộng th́
như thế đó.
Bốn duyên đầu tiên [trong năm duyên
được nói trong kinh Tư Ích] chính là đại trí,
duyên thứ năm tức là đại bi. Lại nữa, bốn
duyên đầu là “sở khởi” (cái được
phát khởi), c̣n duyên thứ năm là “năng khởi”
(cái có thể phát khởi). Đấy chính là chúng sanh là “năng
cảm” (người tạo ra sự cảm vời),
Như Lai là “năng ứng” (người có thể ứng
hiện). Do chúng sanh tuy mê muội, ngu si, chẳng tin, chẳng
hiểu, nhưng có thiện căn cảm vời Phật
thuyết pháp cho họ. Nếu như đối với
pháp được nói trong kinh này, chúng sanh chẳng thể
tin hiểu, đức Phật liền dấy ḷng đại
bi,
v́ họ diễn nói [sao cho họ sẽ thấu hiểu].
Chẳng hạn như họ chẳng thể hiểu biết
thọ mạng của Như Lai, Như Lai sẽ
thương xót, v́ họ giảng giải. Cứ chuẩn theo
đó, sẽ biết là có bao nhiêu loại đại bi. Ba môn
trên đây thuộc loại “xét theo văn tự mà phân biệt”,
sợ rườm rà nên chẳng nêu ra.
Lại có sáu duyên, như trong Bát Nhă Luận của
ngài Vô Trước đă viết: “V́ lẽ nào mà thượng
tọa Tu Bồ Đề thưa hỏi? Giải rằng:
Có sáu nhân: V́ đoạn nghi, v́ dấy
khởi tín tâm, v́ nhập pháp sâu, v́ chẳng thoái chuyển,
v́ sanh hoan hỷ, v́ chánh pháp tồn tại lâu dài. Do vậy,
lời đáp của đức Thế Tôn cũng v́ sáu
điều ấy”. Lời giải thích trong luận ấy
hàm ư: Nếu có kẻ hoài nghi, th́ sẽ được
đoạn nghi. Nếu có kẻ đă đoạn nghi mà tâm
ưa phước đức, nhưng cái tâm chưa thành tựu.
[Chẳng hạn như] các vị Bồ Tát nghe “có nhiều
phước đức”, bèn đối với kinh Bát Nhă khởi tâm tín giải. Người đă thành
tựu cái tâm, do nhập nghĩa rất sâu, đă đạt
được “chẳng tự khinh rẻ”, nhưng do tham
thọ tŕ, tu hành có nhiều công đức, sẽ chẳng
c̣n thoái chuyển nữa. Người đă đắc thuận
nhiếp và tịnh tâm, do đối với pháp bèn tự nhập
và sanh hoan hỷ, sẽ có thể khiến cho giáo pháp Đại
Thừa tồn tại lâu dài trong tương lai.
Điều ấy có nghĩa là: V́ người
tu tập, an trụ, chế phục, nhưng c̣n có ḷng nghi, bèn
thỉnh [đức Thế Tôn] thuyết pháp để trừ
nghi. Tuy được trừ nghi, tâm ưa thích phước
đức, nhưng căn cơ chưa chín muồi, đối với kẻ
cho rằng “thọ tŕ, đọc tụng kinh này không có nhiều
công đức”, bèn nói so sánh, [ḥng chỉ rơ] “tŕ kinh sẽ có nhiều
phước” khiến cho họ sanh tín giải. Người
đă sanh tín giải, tâm thành tựu, có thể nhập giải
nghĩa rất sâu. Đă nhập nghĩa sâu, sẽ tự
biết [chính ḿnh] có thể tu hành đắc quả, chẳng
tự khinh rẻ chính ḿnh, tham nhiều công đức, [do vậy, sẽ] tu hành, thọ tŕ, cho nên chẳng
c̣n bị thoái chuyển. Chẳng thoái chuyển đă lâu, đạt tới
địa vị quyết trạch[8],
sẽ dần dần nhập Kiến Đạo, được
gọi “đắc thuận nhiếp và tịnh tâm”. Do
đối với pháp tự ngộ, và thấy người
khác tiến nhập bèn sanh hoan hỷ, cho nên có thể khiến
cho Phật pháp tồn tại lâu dài chẳng diệt.
Nay trong kinh này cũng có sáu nghĩa:
1) Trong phẩm
Như Lai Thọ Lượng, Diệu Tràng Bồ Tát nói: “Diệc
phục tư duy Thích Ca Như Lai vô lượng công đức,
duy ư thọ mạng, sanh nghi hoặc tâm. Vân hà đoản
xúc,
duy hữu bát thập niên?” (Cũng lại tư
duy vô lượng công đức của Thích Ca Như Lai, chỉ
là đối với thọ mạng của Ngài bèn sanh tâm ngờ
vực, cớ sao ngắn ngủi, chỉ có tám
mươi năm?) Bốn đức Phật bèn v́ [Diệu Tràng Bồ Tát] giảng nói. Đó chính là
“hễ có nghi bèn khiến cho đoạn nghi”.
2) Lại nữa, phần kinh văn
sau đó có nói: “Ư bách thiên đại kiếp tu hành Lục
Độ, nhi vô phương tiện, bất
như văn thử kinh sở sanh phước” (Trong trăm ngàn
đại kiếp tu hành Lục Độ mà chẳng có
phương tiện, chẳng bằng phước sanh ra do
nghe kinh này). Trong phẩm Vô Nhiễm Trước Đà La Ni
lại nói: “Nhược A-tăng-xí-da tam thiên đại
thiên thế giới, măn trung thất bảo, phụng thí
chư Phật, cập dĩ thượng diệu y phục,
ẩm thực, chủng chủng cúng dường kinh vô số
kiếp. Nhược phục hữu nhân, ư thử
đà-la-ni, năi chí nhất cú năng thọ tŕ giả, sở
sanh chi phước bội đa ư bỉ” (Nếu [có
người] dùng bảy báu chứa đầy ắp trong
A-tăng-kỳ tam thiên đại thiên thế giới để
dâng thí chư Phật, và dùng các thứ y phục, thức
ăn tốt đẹp nhất, cúng dường các thứ
trải qua vô số kiếp. Và nếu lại có một người
khác có thể thọ tŕ đà-la-ni này, tối thiểu là một câu, sẽ
sanh ra phước đức nhiều gấp bội
người kia). Có nghĩa là tâm người ấy hạn
cuộc trong ưa thích phước đức, nhưng căn
cơ chưa chín muồi, cho rằng “tŕ kinh này chẳng có
nhiều công đức”. V́ vậy, [đức Phật] nói
so sánh, [ḥng chỉ rơ]
“phước do tŕ kinh rất nhiều”, khiến cho người
ấy sanh tín giải, thọ tŕ, đọc tụng.
3) Như trong phẩm Không Tánh có nói: “Thời
chư đại chúng văn Phật thuyết thử thậm
thâm Không tánh, hữu vô lượng chúng sanh tất năng
liễu đạt Tứ Đại, Ngũ Uẩn tánh câu
Không, lục căn, lục cảnh vọng sanh hệ
phược” (Khi đó, đại chúng nghe đức Phật
nói tánh Không rất sâu ấy, có vô lượng chúng sanh đều
có thể liễu đạt tánh của Tứ Đại
và Ngũ Uẩn đều là Không, [hiểu rơ chính ḿnh]
đă hư vọng tự sanh trói buộc trong sáu căn và
sáu cảnh) v.v... tức là có thể tiến nhập và hiểu
nghĩa rất sâu.
4) Phẩm Y Không Măn Nguyện nói: “Hữu
tam thiên ức Bồ Tát ư A Nậu Bồ Đề
đắc bất thoái chuyển” (có ba ngàn ức Bồ
Tát đă được chẳng thoái chuyển nơi Vô
Thượng Chánh Giác), tức là đă nhập pháp sâu, biết
chính ḿnh tự có thể tu hành đắc quả, chẳng
khinh rẻ chính ḿnh, chẳng tham công đức, thọ tŕ
chẳng lui sụt.
5) Phẩm Không Tánh nói: “Nguyện xả
luân hồi, chánh tu xuất ly, thâm tâm khánh hỷ, như pháp
phụng tŕ” (nguyện bỏ luân hồi, chân chánh tu hạnh
thoát ĺa, tâm vui mừng sâu xa, phụng tŕ đúng như pháp),
đó chính là “đă đắc thuận nhiếp nơi bốn
thiện căn”. V́ sao biết? Đă nói là “nguyện xả
luân hồi”, rơ ràng là chưa đăng địa (chứng
nhập Sơ Địa).
6) Lại nói “chánh tu xuất ly, thâm
tâm khánh hỷ”, tức là cầu trụ Chân Thắng
Nghĩa Tánh trong Duy Thức th́ gọi là “chánh tu xuất
ly”. Do thích siêng gắng, nên tâm vui mừng sâu xa. Phẩm Tịnh
Địa Đà La Ni nói: “Thuyết thị pháp thời,
tam vạn ức Bồ Tát Ma Ha Tát đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn”
(lúc nói pháp ấy, ba vạn ức Bồ Tát Ma Ha Tát đắc
Vô Sanh Pháp Nhẫn). Phẩm Y Không Măn Nguyện nói: “Vô số
quốc vương, thần nhân viễn trần ly cấu,
đắc pháp nhăn tịnh” (Vô số quốc
vương và bầy tôi được xa ĺa trần cấu,
đạt được pháp nhăn thanh tịnh). Đấy
chính là “nhập tịnh địa”. Do tự hoan hỷ
và thấy người khác tiến nhập cũng hoan hỷ,
cho nên cũng có thể khiến cho chánh pháp trụ thế
lâu dài. Như trong các phẩm sau, người nguyện
lưu thông đều thuộc về loại này. Do vậy,
cũng trở thành ư nghĩa “chuyển pháp luân”. V́ sao?
Do nghe pháp đă trừ nghi, được tiến nhập,
cho đến được thành tựu thánh quả, thành
tựu sơ chuyển (chuyển pháp
luân lần đầu). Trông thấy người khác tiến
nhập, tâm sanh hoan hỷ, lại khiến cho chánh pháp tồn
tại và truyền bá lâu dài, tức là khiến cho người
khác trừ nghi, nhập pháp, cho đến
đắc thánh quả. V́ thế, được gọi là
“chuyển pháp luân”.
Lại xét theo tám nghĩa, tức là “muốn
nói đại pháp” v.v… Đối với các ư nghĩa ấy,
cứ chuẩn theo sự dẫn giải. [Ở
đây, chỉ] nêu đại lược đôi chút, các
nghĩa khác cứ chuẩn theo đó mà suy ra. Trên đây là
[luận định về] nguyên nhân phát khởi chung [của
bộ kinh này].
1.2. Nguyên nhân phát
khởi riêng
Dựa theo cách giải thích về cái nhân phát khởi
của một bộ kinh trong Trí Độ Luận th́ pháp
được nói trong một bộ kinh chính là cái nhân phát khởi.
Như nói đến thọ lượng, ba thân sai biệt,
sám hối, tịnh địa, mỗi một pháp như thế
đều là cái nhân phát khởi riêng biệt. Nhưng đối
với văn nghĩa được bao hàm trong lời thuyết
pháp của đức Phật, mỗi văn nghĩa đều
hiển lộ vô lượng nghĩa. Nay tôi nêu đại
lược sáu nghĩa:
- Một, nói đến cái quả vô lậu Bồ
Đề Niết Bàn.
- Hai, trừ khử cái nhân bất thiện.
- Ba, khiến cho thân thoát khỏi quả báo bất
thiện.
- Bốn, khiến cho [người nghe pháp sẽ]
tu cái nhân vô lậu Bồ Đề Niết Bàn.
- Năm, khiến cho [người nghe] tu nhân
lành hữu lậu.
- Sáu, khiến cho [người nghe] đạt
được niềm vui trong cơi
nhân thiên và sự thù thắng nơi cái quả vô lậu thế
gian và xuất thế gian.
Chư Phật xuất thế v́ đại
sự ấy; do đó, trước hết nói cho họ (chúng sanh đáng được hóa độ) ưa thích. Kế
đó, muốn cho họ cầu học, dạy họ sám hối
để trừ bỏ cái nhân bất thiện. Cái nhân bất
thiện đă mất th́ cái quả bất thiện sẽ
diệt. Nếu không, chẳng thể cầu cái quả vô
thượng. Đă sám hối trừ diệt nhân quả bất
thiện đó; tiếp đó, phải nên tu tập cái nhân của
cái quả vô lậu. Nhưng trong cái nhân ấy, có duyên nhân
và chánh nhân, tức là hạnh hữu lậu, trợ duyên vô
lậu, và chánh nhân hữu lậu.
Kế đó, nói tới điều thứ năm là cái nhân
hữu lậu: Do cái nhân hữu lậu mà đạt
được quả báo vui sướng trong cơi trời,
người. Theo thứ tự, nói đến điều
thứ sáu là cái quả hữu lậu.
Lại nữa, do các hữu t́nh chủng tánh
sai biệt, cho nên có [khái niệm] “Đại Thừa
tánh” để nói về hai nghĩa trước (quả
vô lậu Niết Bàn và trừ khử cái nhân bất thiện),
“quyết định Tiểu Thừa” và “vô chủng
tánh” để nói về hai môn sau (tu nhân lành hữu lậu
và đạt được niềm vui nơi nhân thiên). Lại
nữa, người tu lâu sẽ có thể đạt
được hai môn đầu (tức quả vô lậu
Niết Bàn và trừ khử cái nhân bất thiện), kẻ
mới tu sẽ có thể đạt được hai môn
sau (tu nhân lành hữu lậu và đạt được niềm
vui nơi nhân thiên). [Tu tập để cái thân thoát khỏi]
nhân quả bất thiện áp dụng cho cả hai đằng,
v́ hữu tánh hay vô tánh,
và tu lâu hay mới đây đều có thể hành. Lại nữa,
nếu trước hết chẳng sám hối cái nhân bất
thiện, sẽ chẳng thể phát tâm duyên theo Vô
Thượng
Giác
được!
Ở đây, tôi đại lược dựa
theo cái nhân phát khởi được nói trong kinh Lục Môn
Đà La Ni [để biện định]: Phẩm Thọ
Lượng và phẩm Tam Thân nói về cái quả vô lậu,
phẩm Sám Hối và Diệt Chướng nói về chuyện
trừ bỏ tất cả nhân quả bất thiện. Từ
phẩm Tịnh Địa trở đi, nói về cái nhân
vô lậu. Từ phẩm Tứ Thiên Vương Quán Sát trở
đi, nói gộp chung nhân quả hữu lậu và vô lậu.
Đắc Vô Sanh Nhẫn, xa ĺa trần cấu, đắc
pháp nhăn thanh tịnh v.v… chính là nhân quả vô lậu. Xét ra,
phần trước tương ứng với quả, phần
sau tương ứng với cái nhân. Tŕ chú, cầu phước
đạt được tiền tài, thức ăn, những
điều ấy cũng chính là nhân quả hữu lậu.
Cứ dựa theo kinh văn đă trích dẫn, sẽ có thể
biết.
2. Nói về Tông và
Thể của kinh
Trước là nói về Tông. Sau đó, nói về
cái Thể của kinh.
2.1. Tông của
kinh
Nói đến cái Tông của kinh, ngài Truyền Chân Đế giải
thích như sau: “Kinh này chỉ bày ba thân vốn sẵn có, hiển
lộ Tứ Đức vô sanh, khai quả quả[9]
quên duyên, hiểu Như Như[10]
chân thật”. Lại có người cho rằng: “Kinh
này lấy nhân quả Bồ Đề Niết Bàn làm Tông, diễn
bày thông suốt bổn quả và thỉ quả, nêu cặn
kẽ duyên nhân và chánh nhân”. Hai cách nói ấy đều có
khuyết điểm! Cách thứ nhất nói ba thân vốn sẵn
có, nếu xét theo cái nhân th́ chấp nhận được,
nhưng xét theo cái quả th́ sai mất rồi! V́ lẽ
nào? [Nếu
nói như vậy], há chẳng phải là chưa tu mà đă
đắc Báo Thân và Hóa Thân ư? Như ở nơi địa
vị tu nhân th́ gọi là Như Lai Tạng, chẳng thể
gọi là Pháp Thân! Đối với “Tứ Đức vô
sanh”, dựa theo Pháp Thân để nói th́ là đúng lư,
nhưng nói theo Báo Thân và Hóa Thân th́ chẳng nhất định
là vô sanh! Như kinh Niết Bàn nói: “Như Lai có tám món tự
tại ngă” v.v… Nói theo Biến Kế th́ cũng chẳng
trái lư! Có người cho rằng [kinh này] diễn bày thông suốt
Bổn Quả và Thỉ Quả[11],
cũng như duyên nhân và chánh nhân, cũng chẳng hợp lư! V́ sao? Chân Như tuy vốn sẵn
có, nhưng nơi nhân chẳng thể gọi là quả, Báo
Thân và Hóa Thân ắt phải do tu thành, lấy ǵ để gọi
là Bổn Quả và Thỉ Quả?
Lại nữa, cái nhân tuy có chánh
nhân và duyên nhân, các thuyết cũ phần nhiều coi Chân
Như là chánh nhân của ba thân.
Điều này không đúng lư, như trong Năng Hiển
Trung Biên Huệ Nhật Luận đă biện định cặn
kẽ. Nay biện định về Tông của kinh th́
đại lược có hai cách giảng giải:
- Một, chỉ coi nhân quả Bồ Đề
là chánh tông (giáo nghĩa chủ yếu) của kinh này. V́ cớ
nào vậy? Chỉ nói đến thọ lượng và ba
thân sai biệt. Hơn nữa, quyển thứ tư của
kinh này chỉ hỏi về cái nhân của Bồ Đề tâm, đức Phật chỉ đáp
bằng hạnh Thập Độ. Đă thế, phẩm
Phó Chúc c̣n nói: “Nhữ đẳng đương tri, ngă ư
vô lượng vô số đại kiếp, cần tu khổ
hạnh, hoạch thậm thâm pháp, Bồ Đề chánh nhân
dĩ vị nhữ thuyết” (Các ông nên biết: Ta trong
vô lượng vô số đại kiếp đă siêng tu khổ
hạnh, đạt được pháp rất sâu, đă v́
các ông nói chánh nhân Bồ Đề). Do vậy biết:
Chỉ lấy nhân quả Bồ Đề làm chánh tông [của
kinh này].
- Thuyết khác cũng coi nhân quả Niết
Bàn là Tông.
Bởi lẽ, trong phẩm Thọ Lượng, trong ba
đoạn [bắt đầu bằng chữ] “phục
thứ” (lại nữa), mỗi đoạn đều
nói: Do mười nghĩa mà gọi là Niết Bàn. Lại
c̣n sau khi biện định mười thứ hạnh của
Như Lai xong, bèn nói: “Thiện nam tử, như thị
đương tri, Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác,
thuyết hữu như thị vô biên chánh hạnh. Nhữ
đẳng đương tri, thị vị Niết Bàn
chân thật chi tướng” (Thiện nam tử! Hăy nên biết
như thế này: Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác nói
có vô biên chánh hạnh như thế. Các ông hăy nên biết:
Đó là nói đến tướng chân thật của Niết
Bàn). Phẩm Thập Phương Bồ Tát Tán Thán lại
nói: “Thường vị tuyên thuyết Đệ Nhất
Nghĩa, linh chứng Niết Bàn chân tịch tĩnh, Phật
thuyết cam lộ thù thắng pháp, năng dữ cam lộ
vi diệu nghĩa, dẫn nhập cam lộ Niết Bàn
thành, linh thọ cam lộ vô vi lạc” (Thường v́
[chúng sanh] tuyên nói Đệ Nhất Nghĩa, khiến cho họ
chứng Niết Bàn thật sự tịch tĩnh. Đức
Phật nói pháp cam lộ thù thắng, có thể ban cho nghĩa
cam lộ vi diệu, dẫn vào thành cam lộ Niết Bàn,
khiến cho họ nhận lănh niềm vui cam lộ vô vi).
Hỏi: Nếu Niết Bàn cũng là Tông của
kinh, v́ sao từ phẩm Thọ Lượng trở đi, nhắc
lại tam thân, từ phẩm Tối Tịnh Địa trở
đi, nói về cái nhân Bồ Đề, và trong phẩm Phó
Chúc, đức Thế Tôn tự nói chánh nhân Bồ Đề?
V́ sao chẳng nhắc lại nhân quả Niết Bàn?
Đáp: Hai cái nhân chẳng khác biệt, cho nên
gộp chung lại để nói. Chỉ là do xét theo cái quả,
nên chia cái nhân thành sanh nhân và liễu nhân. Do Thể của
hai cái nhân (sanh nhân và liễu nhân) đă đồng, cho nên chẳng
tách riêng để nói. Chẳng nhắc lại cái quả
[Niết Bàn] v́ bản thể của Pháp Thân chính là Niết
Bàn. Do vậy, phẩm Thọ Lượng có nói: “Như
Lai Pháp Thân Thể thị chân thật, danh vi Niết Bàn”
(cái Thể của Pháp Thân Như Lai là chân thật,
được gọi là Niết Bàn). C̣n nói: “Không tánh tức
thị chân Pháp Thân” (tánh Không chính là Pháp Thân thật sự).
V́ thế gọi là Niết Bàn.
Hỏi: Nếu là vậy, Pháp Thân chính là Niết
Bàn, hai nghĩa có ǵ khác biệt?
Đáp: Nói Pháp Thân là xét theo ư nghĩa “chỗ
nương vào của công đức”, nói Niết Bàn là dựa
theo các nghĩa như diệt khổ v.v… V́ thế, hai đằng
có sai khác. Lại do “ảnh lược”[12]
cho nên chẳng nhắc lại, tùy ư lấy bỏ, nhưng
đều cùng giữ lấy điều thù thắng. V́ sao
vậy? Nói đến thọ lượng và tam thân, tức
là coi Bồ Đề là Tông. Đă nói đến Niết Bàn,
v́ lẽ ǵ chẳng lấy Niết Bàn làm Tông? Nếu bảo
“trong kinh chỉ nói ‘đạt được pháp rất
sâu, Bồ Đề làm chánh nhân, chẳng nói Niết Bàn là
chánh nhân. V́ thế biết: - Chỉ
lấy Bồ Đề làm Tông”, nếu là như thế,
Niết Bàn tách ĺa cái nhân Bồ Đề, vậy th́ phải tu pháp nào
khác để làm cái nhân cho Niết Bàn? V́ lẽ đó, cái
nhân của Bồ Đề cũng chính là cái nhân của Niết
Bàn. Hơn nữa, đối chiếu cái quả Bồ Đề
với Niết Bàn th́ cũng được gọi là “nhân”;
như trong Du Già Sư Địa Luận, quyển chín
mươi lăm nói có năm loại tướng chuyển
pháp luân. [Trong năm loại tướng ấy, chỉ quan
tâm hai loại]:
- Một là đạt được tướng
sở đắc, sở duyên.
- Hai, đạt được phương
tiện sở đắc.
“Phương tiện”: Ba thứ chuyển
tướng đều gọi là “phương tiện”.
Phương tiện tức là cái nhân, cái trước là nhân
cho cái sau.
Loại chuyển tướng thứ ba
cũng gọi là phương tiện, th́ rơ ràng là đem Bồ
Đề so với “chứng Niết Bàn” th́ [Bồ
Đề] cũng gọi là nhân. V́ thế, chẳng cần
phải nói riêng.
2.2. Thể của
Kinh
Kế đó, nói đến cái Thể của
kinh. Trước là nêu ra giáo thể, sau là biện định
sự tụ tập.
2.2.1. Biện
định giáo thể
Trong phần nêu ra giáo thể, nói chung có
năm môn:
- Một, nhiếp tướng quy vào tánh thể.
- Hai, nhiếp các thứ khác vào thức thể.
- Ba, nhiếp Giả vào thật thể.
- Bốn, dùng tác dụng của tánh để
biện định riêng cái Thể.
- Năm, nhiếp chung vào cái Thể của
các pháp.
Trong năm môn ấy, trước hết là
biện định năm cái Thể; sau đó là nói về
ưu khuyết của chúng.
2.2.1.1. Biện định
năm loại Thể
Trong phần đầu, tức phần biện
định giáo Thể, bốn môn đầu giống
như trong phần Tổng Liệu Giản và Nghĩa Lâm của
sách Pháp Uyển[13]
đă nói cặn kẽ. Điều thứ năm là “nhiếp
chung vào cái Thể của các pháp”, thật ra cũng là “dùng
tác dụng của tánh để biện định riêng
cái Thể”. Nay nói cặn kẽ hơn [về môn này], v́ [sách Pháp Uyển] chưa nói tới.
Quyển thứ tám mươi mốt của Du Già Sư
Địa Luận chép: “Vân hà vi Thể? Sở vị Khế
Kinh, lược hữu nhị chủng: Nhất văn, nhị
nghĩa, văn thị sở y, nghĩa thị năng y.
Như thị nhị chủng, tổng danh Nhất Thiết
Sở Tri Cảnh Giới” (Thế nào là Thể? Chính là
nói đến Khế Kinh, đại lược có hai thứ:
Một là văn, hai là nghĩa. Văn là cái để
[nghĩa có thể] nương vào [ḥng truyền đạt
ư nghĩa], c̣n nghĩa là cái có thể nương vào [văn
để được truyền đạt]. Hai thứ
như thế được gọi chung là hết thảy
các cảnh giới được biết). Lại nói: “Do đă kiến lập cái Thể của
văn và nghĩa trong các kinh, cho nên được gọi
nhiếp chung vào cái Thể của các pháp”. Nói về văn nghĩa, luận viết: “Văn có sáu
loại: Một là thân, hai là cú thân, ba là văn thân, bốn
là ngữ, năm là hành tướng, sáu là cơ thỉnh”[14].
Chánh văn của bản kinh này chỉ là Văn Thân, những
điều khác th́ gọi là Văn. Danh và Cú thuộc vào cái
sở y (cái để nương vào), Ngữ thuộc vào năng
y[15].
Hành tướng thuộc vào loại được tỏ
lộ và là cái có thể nói[16].
Cơ thỉnh thuộc về năng khởi (cái có thể
dấy lên), Tướng thuộc vào Danh Văn. V́ thế,
luận (Du Già Sư Địa Luận) viết rằng: “Sáu
loại như thế đều được hiển thị
bằng Văn, do nó có thể nêu tỏ ư nghĩa, cho nên gọi
là Văn. Nghĩa có mười loại:
- Một, địa nghĩa (nghĩa lư thuộc về
địa vị), tức là Cửu Định Địa
và Thập Địa v.v…
- Hai, tướng nghĩa (nghĩa lư thuộc
về thể tướng), tức thể tướng của
các pháp.
- Ba, tác ư nghĩa (nghĩa lư thuộc về sự
dấy khởi ư thức), tức các thứ tác ư (suy tưởng,
khởi tâm động niệm) v.v…
- Bốn, y xứ nghĩa (nghĩa lư thuộc
về chỗ nương tựa), tức là sự y xứ
(chỗ nương tựa thuộc về sự vật)[17],
thời y xứ[18],
sổ thủ y xứ[19].
- Năm, quá hoạn nghĩa (nghĩa lư thuộc
về phương diện sai lầm, lỗi hại), tức
là nói đến các pháp đáng chê trách.
- Sáu, thắng lợi nghĩa (nghĩa lư thuộc
lợi ích thù thắng), tức là nói đến các pháp
đáng tán thán.
- Bảy, sở
trị nghĩa (nghĩa lư nơi các pháp đáng nên đối
trị), tức là các pháp tạp nhiễm.
- Tám, năng trị nghĩa (nghĩa lư thuộc
về các pháp có thể đối trị), tức là pháp
thanh tịnh.
- Chín, lược nghĩa (nghĩa giản
lược).
- Mười, quảng nghĩa (nghĩa rộng,
nghĩa chi tiết).
Trong đó, dựa theo ‘cái được diễn
nói’ (sở thuyên) và ‘cái được thực hiện’ (sở
vi) mà đều cùng được gọi là Nghĩa. Cả
mười điều ấy đều là điều
được diễn nói. Trong y xứ, Bổ Đặc
Già La (Pudgala) cũng là ‘sở vi’, do các hữu
t́nh nói ra các pháp, lại c̣n chấp giữ những điều
đă nói ra”.
Sáu loại Văn và mười nghĩa [vừa
nói trong đoạn Du Già Sư Địa Luận được
trích dẫn trên đây] đều là cái Thể của kinh,
bao gồm ba nghĩa:
- Một, khắc tánh thể (cái Thể bộc lộ bản tánh).
- Hai, sở y thể (cái Thể của một pháp được
pháp khác nương vào).
- Ba, sở vi thể (cái Thể của pháp được thực
hiện).
Văn là cái có thể diễn nói, c̣n Nghĩa
là cái được diễn nói [bởi Văn], tức là
trong “cái có thể diễn nói”, Thể của hai pháp Danh và
Cú chính là chủ thể có diễn nói, tức là “khắc
tánh Thể”, c̣n hai thứ Văn và Ngữ
là Thể của “sở y”. V́ vậy, Thành Duy Thức nói: “Danh
diễn nói tự tánh, Cú diễn tả sự sai biệt.
Văn tức là chữ, là cái để nương vào của
hai thứ đó (Danh và Cú)”. Ngữ là âm thanh, do chứa
đựng Danh và Cú mà được gọi là Ngữ. Do vậy,
Thành Duy Thức nói: “Do Ngữ chẳng khác cái có thể diễn
nói (năng thuyên), từ cái có thể nương vào đó
(năng y) mà gọi là năng thuyên Thể (bản thể của
cái có thể diễn nói)”[20].
Hành tướng bao gồm cả hai loại Thể, tức
là Khắc Tánh Thể và Sở Y Thể. Chỉ xét theo
điều được diễn nói (sở thuyên) và chủ
thể có thể nói (năng thuyên) để
biện định hành tướng. Do cái Thể của
hành tướng chính là thanh, danh, văn, cú, cho nên bao gồm
cả hai thứ (Khắc Tánh Thể và Sở Y Thể). Cơ Thỉnh
(機請,lời thỉnh vấn
khi thời cơ phù hợp) được gọi là
Văn, tức là cái được thực hiện bởi
Văn, hoặc là do thỉnh cầu mà phát khởi Văn.
V́ thế nói “cơ thỉnh được gọi là
Văn chính là Sở Vi Thể”. Bổ Đặc Già La Y
Xứ (Sổ Thủ Y Xứ) trong Sở Thuyên Thể có thể
thông với Khắc Tánh Thể và Sở Vi Thể, cũng tức
là Bổ Đặc Già La này nói đến Bổ Đặc
Già La kia. “Nói đến Bổ Đặc Già La kia” tức
là chút phần y xứ của sở thuyên (điều
được diễn nói), chín điều kia đều là khắc tánh sở thuyên (điều được diễn nói tương ứng
khít khao với tánh). Ư nghĩa của lời lẽ ấy
chẳng phải chỉ là đạo lư, mà sở thuyên
(điều được diễn nói) cũng cùng đạt
được danh nghĩa. V́ thế, Thể gồm chung cả ba nghĩa ấy (Khắc Tánh, Sở
Thuyên, và
Sở Vi), nhưng cả ba khoa nêu ra thể tánh trong Pháp
Tướng[21]
hoàn toàn có thể gom vào Tánh Dụng Biệt Luận Môn (dựa
theo tác dụng của tánh để biện định riêng
biệt). Năm môn ở đây (tức năm môn như nhiếp tướng
quy vào tánh thể, nhiếp các thứ khác vào thức thể
v.v…) riêng thuộc
vào Đại Thừa, c̣n ba khoa trong Pháp Tướng th́ áp dụng
chung cho cả ba thừa, cho nên lược đi chẳng
nói cặn kẽ.
2.2.1.2. Biện
định ưu khuyết
Biện định ưu khuyết th́
như sách Duy Thức Nghĩa Đăng[22]
đă nói.
2.2.2. Biện
định về sự tụ tập
Kế đó, biện định sự tụ tập th́ như phần Tổng
Chương Nghĩa Lâm của sách Pháp Uyển [Nghĩa Lâm Chương] và Duy Thức
Nghĩa Đăng đă biện định.
3. Biện định
thời và lợi
Lại chia thành hai phần:
- Trước là nói về thời.
- Sau là
nói về lợi.
Trong Thời, lại có hai phần:
- Một, lúc đức Thế Tôn phát khởi, nói ra kinh này.
- Hai, niên đại phiên dịch của các
đệ tử.
3.1. Biện định
thời
3.1.1. Biện
định lúc đức Thế Tôn phát khởi, nói ra kinh này
Lại chia thành hai phần:
- Một, biện định thời bất
đồng.
- Hai, biện định [kinh này] thuộc
vào giáo nào và thời nào
3.1.1.1. Biện
định thời bất đồng
Biện định thời bất đồng
th́ như phần Tổng Chương Nghĩa Lâm của
sách Pháp Uyển (Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm
Chương), Năng Đoạn Bát Nhă Sớ[23]
và Huệ Nhật Luận v.v… đă nói cặn kẽ[24].
Đấy là nói về lúc đức Thế Tôn phát khởi, nói ra kinh này.
3.1.1.2. Biện
định kinh này thuộc về giáo nào và thời nào
Nói về giáo và thời, th́ kinh này thuộc
thời thứ ba (thời Phương Đẳng). V́ sao
biết? Kinh văn trong phần sau cũng nói tới mười
hai hành pháp luân. Trong phẩm Măn Nguyện lại nói: “Bát
thiên ức thiên tử, quốc vương, thần dân, viễn
trần ly cấu, đắc pháp nhăn tịnh” (tám ngàn ức
chư thiên, quốc vương, quan lại, dân chúng xa ĺa trần
cấu, đạt được pháp nhăn thanh tịnh). Xét
theo Du Già Sư Địa Luận, người đắc
quả Dự Lưu (Sơ Quả), vô gián đạo xa ĺa
trần, giải thoát đạo ĺa cấu. V́ thế, kinh
này thông với hết thảy các thừa.
3.1.2. Niên đại
các đệ tử phiên dịch
Kinh này trần thuật chỗ bí nhiệm sâu xa
của ba thân (Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân), bàn đến chỗ
u huyền cơ mật của Tứ Đức (thường,
lạc, ngă, tịnh), là cỗ kiệu rồng để
lên bờ kia, là thớt voi để thoát khỏi nhà lửa.
V́ thế, nhiều lượt trừ tam chướng, hạnh
trọn đủ hai nhân (chánh nhân và duyên nhân), là ṭa thành vững
chắc để thủ hộ đất nước, là
kiếm và áo giáp để hàng ma. Bởi đó, mười
phương cơi nước đều cung kính lưu truyền.
Do vậy, tại cơi Chấn Đán (Trung Hoa),
đă có năm lần phiên dịch. Ngài Tam Tạng Đàm Vô
Sấm (Dharmarakṣa, Pháp Phong) truyền dịch
đầu tiên vào đời Bắc Lương[25].
Pháp sư Da Xá lại dịch lần nữa tại chùa Quy
Thánh vào đời Hậu Châu. Ngài Chân Đế dịch lần
nữa tại Kiến Nghiệp. Ngài Xà Na dịch lần nữa
dưới đời Tùy[26].
Tuy mỗi vị đều dựa theo Phạn
bổn, kiệt lực dốc ḷng tinh chuyên, chân thành [để
phiên dịch], nhưng v́ khi kinh văn lá bối được
truyền thừa đă bị thất thoát, sơ sót, khiến
cho các bản dịch có tăng giảm khác nhau. Tam Tạng
pháp sư Nghĩa Tịnh giải ngộ lỗi lạc, từ
thuở làm sa-di đă có tư tưởng khác vời[27],
hào phóng, bén nhạy kiệt xuất, là bậc lỗi lạc
trong tăng chúng, thông thạo kinh sách của ngoại đạo và nội
điển hơn người, đối với giới
luật và kinh sách trong cơi đời đă hiểu rành rành[28],
ấp ủ chí hướng thả thuyền Từ cứu vớt chúng sanh, t́nh tha
thiết nối tiếp hưng thịnh Phật chủng,
hy sinh v́ đạo, quên khuấy mệt nhọc, nào ngại
nát xương, chu du khắp cơi Tây Hạ hai mươi mấy
năm, đối với kho trời hay cung rồng đều
tham phỏng, t́m ṭi các bản tiếng Phạn, khảo sát,
so sánh chẳng sót. Ngài chống tích trượng trở về
Đông, vâng theo sắc truyền mà phiên dịch. Kể từ
năm Trường An[29]
thứ hai (702), tức năm Nhâm Dần, Ngài siêng năng dịch
thuật kinh này, chuyên ṛng chẳng ngơi. Tới ngày mồng
Bốn tháng Mười năm Trường An thứ ba (703),
tức năm Quư Măo, tu chỉnh, nhuận sắc hoàn chỉnh,
tạo thành [bản dịch mới] gồm mười quyển,
ba mươi mốt phẩm, văn từ viên măn, lư trọn
vẹn, văn chương đẹp đẽ cùng đặc
tánh chân chất của kinh Phật đều thích nghi, vừa
đạt được viên châu trong búi tóc, cùng mở tháp
báu[30].
Phàm thánh cùng vui mừng, dâng sớ tâu lên vua, vua sắc truyền
sao chép để truyền rộng thanh giáo[31],
ngơ hầu những những nghĩa bị thiếu sót
[trong các bản dịch trước đó] sẽ đạt
đến chỗ sáng tỏ trọn vẹn. Đó chính là
hai loại thời đại các đệ tử phiên dịch
bất đồng, đều nhằm biện định
thời vậy.
3.2. Biện định
lợi ích
“Lợi” là lợi ích. Kinh này lợi ích
cho căn tánh nào? Trong phần này, lại chia thành hai phần:
- Một, biện định căn cơ bẩm
tánh bất đồng.
- Hai, nói về căn tánh được lợi
lạc bởi kinh này.
3.2.1. Biện
định căn cơ bẩm tánh bất đồng
Các giáo nói về căn cơ sai biệt, mỗi
giáo mỗi khác, như kinh Niết Bàn chỉ nói một loại
căn cơ. V́ thế, kinh ấy nói: “Phàm hữu tâm giả,
giai đương tác Phật” (hễ kẻ nào có tâm th́
sẽ đều thành Phật). Trong một hội kinh này,
phần nhiều nghe nói về Hữu, bàn luận về Hữu,
ẩn giấu Vô, nói “đều sẽ thành Phật”. Kinh
Pháp Hoa cũng giống như vậy, cho nên nói: “Nhược
hữu văn pháp giả, vô nhất bất thành Phật”
(nếu có người nghe pháp, không một ai chẳng thành
Phật) v.v… C̣n như kinh Thiện Giới[32],
luận Địa Tŕ v.v… th́ nói có hai loại căn cơ:
Một là hữu tánh, hai là vô tánh. V́ thế, kinh ấy (kinh Thiện Giới) nói: “Tánh Chủng
Tánh giả, tùng vô thỉ lai triển chuyển tương
tục, pháp nhĩ sở đắc lục xứ thù thắng”
(Tánh Chủng Tánh là từ vô thỉ đến nay, xoay vần
tiếp nối, do bởi pháp vốn sẵn như thế
mà đạt được sáu chỗ thù thắng). Đấy
là hữu tánh. Lại nói: “Vô chủng tánh nhân, vô chủng
tánh cố, tuy phục phát tâm hành Bồ Tát đạo, chung
bất năng đắc Vô Thượng Bồ Đề”
(Người không có chủng tánh do chẳng có chủng tánh,
dẫu vẫn phát tâm hành Bồ Tát đạo, trọn chẳng
thể đắc Vô Thượng Bồ Đề). Đó
là vô tánh, thuộc loại hiển thuyết.
Như kinh Pháp Hoa nói có ba loại căn
cơ, phẩm Tự nói: “Vị cầu Thanh Văn giả,
thuyết ứng Tứ Đế pháp. Vị cầu Bích Chi
Phật giả, thuyết ứng thập nhị pháp. Vị
chư Bồ Tát, thuyết ứng
Lục Ba La Mật” (V́ người cầu Thanh Văn,
mà nói pháp Tứ Đế tương ứng. V́ người
cầu Bích Chi Phật, mà nói pháp tương ứng là mười
hai nhân duyên. V́ các vị Bồ Tát mà nói pháp tương ứng
là Lục Ba La Mật). Đó cũng là “ẩn vô tánh”
(không nhắc đến “vô tánh”). Do trong hội kinh này, phần
nhiều là đối với hàng bất định Thanh
Văn mà nói “họ sẽ đều thành Phật”. Nói
đến nhiều loại căn cơ th́ như trong bộ
[Duy Thức Luận] Xu Yếu của ngài Khuy Cơ, hoặc
Pháp Hoa Kinh Sớ, Huệ Nhật Luận, và Năng Đoạn Bát
Nhă Sớ đă trần thuật.
3.2.2. Biện
định căn cơ bẩm tánh được lợi
lạc bởi kinh này
[Phần này lại được
chia thành hai đoạn]:
- Một, căn cơ được
lợi ích.
- Hai, luận định được lợi
ích nhiều hay ít.
3.2.2.1. Nói rơ
căn cơ được lợi ích
Đại lược có hai cách hiểu:
-
Một là nói “chỉ tương ứng với
căn tánh Đại Thừa”, bao gồm định
tánh và bất định tánh, v́ [trong kinh văn] có nói đến
Thanh Văn. V́ sao chẳng tương ứng với các loại
căn tánh như Định Tánh Thanh Văn chẳng hạn?
Đáp: Xét theo kinh Pháp Hoa và Đại Bảo Tích Kinh Luận
có nói: “Sở dĩ Thanh Văn vấn giả, vị Thanh
Văn nhân sở tác sự cố” (Sở dĩ hàng Thanh
Văn thưa hỏi, v́ đó là chuyện phải làm của
hàng Thanh Văn). Nay kinh này, người đầu tiên đứng
ra thưa hỏi là Diệu Tràng Bồ Tát. Ngài lại chỉ
hỏi về thọ lượng của Như Lai, rộng
nói về ba thân. V́ thế biết [kinh này] “chỉ
v́ căn tánh Bồ Tát”. Sau đó, do trong phần nói về
lợi ích đạt được có nói: “Viễn trần
ly cấu…”, xét theo Đại Trang Nghiêm Luận, người
được nhập Sơ Địa th́ cũng nói là “đắc
pháp nhăn tịnh”, chẳng phải chỉ có Thanh Văn
[mới “đắc pháp nhăn tịnh”].
- Thuyết khác cho rằng: Đă là giáo pháp
thuộc thời thứ ba (thời Phương Đẳng),
sẽ phù hợp cả năm thừa. Trong hội kinh này, có
liệt kê hàng Thanh Văn, lại có người viễn trần
ly cấu. Xét theo Du Già Sư Địa Luận, do kinh
văn không nói nhất quyết [người viễn trần
ly cấu chỉ là người] đắc quả Dự
Lưu (Sơ Quả), cho nên có thể [hiểu là kinh
này] phù
hợp khắp các căn. Nhưng [giáo nghĩa được
nói trong] phần Chánh Tông th́ chỉ v́ hàng Bồ Tát;
từ phẩm Tứ Thiên Vương trở đi, có thể
phù hợp khắp các thừa khác, v́ đều khiến cho
[người nghe] đạt được cái quả trong
đường trời, người.
Cách hiểu thứ hai hay hơn, v́ phù hợp
với chuyện kinh này thuộc vào pháp luân trong thời thứ
ba.
3.2.2.2. Luận
định [người nghe kinh] đạt được
lợi lạc nhiều hay ít
Lại chia thành hai phần:
- Một, đạt được lợi
ích trong hiện thời.
- Hai, đạt được lợi ích
trong mai sau.
Lợi ích trong hiện thời tức là
đạt được lợi ích ngay trong pháp hội ấy.
Lợi ích trong mai sau, tức là lợi ích đạt
được khi sau khi đức Phật nói kinh này.
Lợi ích trong hiện tại gồm hai loại:
Một là quả lợi (lợi ích nơi quả), hai là
nhân lợi (lợi ích nơi nhân). Quả có hai loại: Một
là xuất thế quả, hai là thế gian quả.
3.2.2.2.1. Lợi
ích trong hiện thời
3.2.2.2.1.1. Đạt
được cái lợi nơi quả
3.2.2.2.1.1.1. Xuất
thế quả
Xuất thế quả gồm có bảy loại,
năm loại trong ấy thuộc Đại Thừa, hai
loại thuộc Tiểu Thừa:
1) Trong phẩm Y Không Măn Nguyện, có một
loại, [do phẩm ấy] nói: “Nhĩ thời, hội
trung hữu ngũ thập ức bật-sô, hành Bồ Tát hạnh,
dục thoái Bồ Đề tâm, văn Như Ư Bảo Quang
Diệu Bồ Tát thuyết thị pháp thời, giai đắc
kiên cố bất khả tư nghị măn túc thượng
nguyện, cánh phục phát khởi Bồ Đề chi tâm, tức
vị thọ kư: - Nhữ chư bật-sô, quá tam thập
A-tăng-kỳ kiếp, đương đắc tác Phật,
kiếp danh Nan Thắng Quang Vương, quốc danh Vô Cấu
Quang, đồng thời tác Phật, giai đồng nhất
hiệu, danh Nguyện Trang Nghiêm Gián Sức Vương
Như Lai” (Lúc bấy giờ, trong hội có năm mươi
ức bật-sô (Bhikṣu, tỳ-kheo) hành Bồ Tát hạnh muốn
thoái thất Bồ Đề tâm, lúc nghe Như Ư Bảo
Quang Diệu Bồ Tát nói pháp ấy, đều đạt
được nguyện kiên cố, trọn vẹn chẳng
thể nghĩ bàn trên đây, lại phát khởi Bồ
Đề tâm, liền được [đức Phật]
thọ kư: - Hàng bật-sô các ông sau ba mươi A-tăng-kỳ
kiếp, sẽ được thành Phật, kiếp tên là
Nan Thắng Quang Vương, cơi nước tên là Vô Cấu
Quang, cùng lúc thành Phật, đều có cùng một hiệu
là Nguyện Trang Nghiêm Gián Sức Vương Như Lai).
2) Trong phẩm Thọ Kư th́ có bốn [loại
lợi ích]:
- Một, trong đoạn kinh thọ kư cho Diệu
Tràng Bồ Tát có nói: “Nhữ ư Kim Quang Minh thế giới,
đương thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề, hiệu Kim Bảo Sơn Vương Như Lai”
(ông sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác trong
thế giới Kim Quang Minh, hiệu là Kim Bảo Sơn
Vương Như Lai).
- Hai, [phẩm ấy] nói: “Thời thử
Như Lai pháp giai diệt tận, thời bỉ trưởng
tử danh viết Ngân Tràng, tức ư thử giới,
đương đắc tác Phật, danh viết Kim Tràng
Quang Như Lai” (Khi pháp của đức Như Lai ấy
đều diệt sạch, lúc ấy, con trưởng của Ngài là Ngân
Tràng sẽ được thành Phật trong thế giới
ấy, hiệu là Kim Tràng Quang Như Lai).
- Ba, phẩm ấy nói: “Thời thử
Như Lai sở hữu giáo pháp tất giai diệt tận,
thứ tử Ngân Quang đương đắc tác Phật,
hiệu viết Kim Quang Minh Như Lai” (Khi tất cả
giáo pháp của đức Như Lai ấy thảy đều diệt hết, con thứ là Ngân
Quang sẽ được thành Phật, hiệu là Kim Quang
Minh Như Lai).
- Bốn là nói: “Thị thời, thập
thiên thiên tử, văn tam đại sĩ đắc thọ
kư dĩ, phục văn như thị Tối Thắng
Vương Kinh, tâm hỷ thanh tịnh, vô cấu như
không. Nhĩ thời, Như Lai tri thị thập thiên thiên tử
thiện căn thành thục, tức dữ thọ kư: - Nhữ
đẳng đương lai, ư Tối Thắng
Nhân Đà La Cao Tràng thế giới, đắc thành A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đồng nhất
chủng tánh, hựu đồng nhất danh hiệu, viết
Diện Mục Thanh Tịnh Tịnh Ưu Bát La Hương
Sơn, thập hiệu cụ túc. Như thị thứ
đệ thập thiên chư Phật xuất hiện ư thế” (Lúc đó, mười
ngàn vị trời nghe ba vị đại sĩ được
thọ kư xong, lại nghe kinh Tối Thắng Vương
như thế, tâm vui mừng thanh tịnh, vô cấu như
hư không. Lúc bấy giờ, Như Lai biết mười
ngàn vị trời ấy thiện căn đă chín muồi,
liền thọ kư cho họ: - Các ông trong tương lai, sẽ
ở trong thế giới Tối Thắng Nhân Đà La Cao
Tràng, được thành Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, cùng một chủng tánh, lại có cùng một danh hiệu
là Diện Mục Thanh Tịnh Ưu Bát La Hương
Sơn, mười hiệu trọn đủ. Mười
ngàn vị Phật như thế, sẽ theo thứ tự
xuất hiện trong thế gian).
3) Phẩm Tịnh Địa Đà La Ni nói: “Vô
lượng vô biên bật-sô, bật-sô-ni đắc pháp nhăn
tịnh” (Vô lượng vô biên bật-sô, bật-sô-ni
đạt được pháp nhăn thanh tịnh), đó là
đắc Sơ Quả. Nếu xét theo Đại Thừa,
“đắc pháp nhăn tịnh” sẽ là địa vị
Sơ Địa. Đấy là lợi ích thuộc về
cái nhân. Nếu nói theo Du Già Sư Địa Luận, sẽ
là quả Tiểu Thừa.
4) Phẩm Y Không Măn Nguyện có nói: “Thuyết
thị phẩm thời, hữu bát thiên ức thiên tử, vô số quốc
vương, thần nhân, viễn trần ly cấu, đắc
pháp nhăn tịnh” (Khi nói phẩm này, có tám ngàn vị
trời, vô số quốc vương, quan lại, nhân dân xa
ĺa trần cấu, đạt được pháp nhăn thanh tịnh).
3.2.2.2.1.1.2. Thế
gian quả
Nêu đại lược gồm mười
bảy loại:
- Trong phẩm Như Lai Thọ Lượng
nói: “Tam thiên đại thiên thế giới sở hữu
chúng sanh, dĩ Phật oai lực, thọ thắng diệu
lạc, vô hữu phạp thiểu. Nhược
thân bất cụ, tất mông cụ túc. Manh giả năng
thị, lung giả đắc văn, á giả năng ngôn,
ngu giả đắc trí. Nhược tâm loạn giả,
đắc bổn tâm. Nhược vô y giả, đắc y
phục. Bị ố tiện giả, nhân sở kính. Hữu
cấu uế giả, thân thanh khiết. Ư thử thế
gian sở hữu lợi ích, vị tằng hữu sự, tất giai hiển
hiện”
(Tất cả chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế
giới do oai lực của Phật, bèn được
hưởng sự vui thù thắng mầu nhiệm, chẳng
hề khuyết thiếu. Nếu thân chẳng toàn vẹn, sẽ
được toàn vẹn. Kẻ mù có thể thấy, kẻ
điếc được nghe, kẻ câm có thể nói,
người ngu trở thành trí. Nếu là kẻ loạn tâm,
sẽ khôi phục cái tâm vốn có. Nếu là kẻ không có
áo, sẽ được y phục. Kẻ bị chán ghét,
khinh rẻ, sẽ được người khác tôn kính. Kẻ
dơ bẩn sẽ được thân thanh khiết. Đối
với tất cả các lợi ích trong thế gian, chưa
từng có chuyện nào mà chẳng đều hiển hiện).
Trong ấy có chín điều lợi ích: Một là đạt
được vật dụng [khiến cho người sử
dụng]
vui sướng, hai là trọn đủ các căn, ba là
lưỡi nói được, bốn là đạt
được trí huệ, năm là chẳng đánh mất
bổn tâm, sáu là đạt được y phục, bảy
là được [người khác] kính ngưỡng,
tám là thân thanh tịnh, chín là đạt được các
thứ lợi ích.
- Cuối phẩm Tứ Thiên Vương Hộ
Quốc có nói: “Thuyết thị pháp thời, vô lượng
chúng sanh giai đắc đại trí thông duệ biện
tài, nhiếp thọ vô lượng công đức chi tụ,
ly chư ưu khổ, phát hỷ lạc tâm, thiện minh
chúng luận” (Khi nói pháp ấy, vô lượng chúng sanh
đều đạt được đại trí, biện
tài thông duệ, nhiếp thọ vô lượng khối công
đức, ĺa các lo toan khổ sở, phát tâm hỷ lạc,
khéo hiểu rơ các luận). Tám món lợi ích trong ấy dễ
hiểu.
Trên đây là cái lợi đạt được
đạo xuất ly trong thế giới, chẳng c̣n thoái
chuyển, mau chứng Bồ Đề. Đấy là cái lợi
thuộc về cái nhân xuất thế.
3.2.2.2.1.1.2. Đạt
được cái lợi nơi nhân
Lại chia thành hai phần: Đạt
được lợi ích nơi cái nhân xuất thế, và
đạt được lợi ích nơi cái nhân thế
gian.
3.2.2.2.1.1.2.1. Đạt
được lợi ích nơi cái nhân xuất thế
Lợi ích nơi cái nhân xuất thế gồm
mười lăm điều:
- Một, phẩm Thọ Lượng gồm
hai điều, v́ [trong phẩm ấy có] nói: “Nhĩ thời,
hội trung tam vạn nhị thiên thiên tử giai phát A Nậu
Bồ Đề chi tâm” (Lúc bấy giờ, trong hội
có ba vạn hai ngàn vị trời đều phát tâm Vô Thượng Bồ Đề).
- Hai, [cũng trong phẩm ấy] lại nói:
“Thuyết thị Như Lai Thọ Lượng phẩm
thời, vô số vô biên chúng sanh giai phát A Nậu Bồ
Đề chi tâm” (Khi nói phẩm Như Lai Thọ Lượng
này, vô số vô biên chúng sanh đều phát tâm Vô Thượng Bồ Đề).
- Ba, phẩm Sám Hối có nói: “Nhược
hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân văn thị
Bảo Vương Đại Quang Chiếu Như Lai danh hiệu
giả, ư Bồ Tát địa, đắc bất
thoái chuyển, chí đại Niết Bàn” (nếu có thiện
nam tử, thiện nữ nhân nghe danh hiệu của vị
Bảo Vương Đại Quang Chiếu Như Lai này, sẽ
được chẳng thoái chuyển trong địa vị
Bồ Tát, đạt tới đại Niết Bàn).
Đó là nói đại chúng trong hội thuở ấy nghe xong bèn đạt được điều
lợi ích này.
- Bốn, cuối phẩm ấy nói: “Thời
chư đại chúng văn Phật thuyết dĩ, giai
mông thắng ích, hoan hỷ phụng hành” (Khi đó, đại
chúng nghe đức Phật nói xong, đều được
hưởng lợi ích thù thắng, hoan hỷ vâng theo hành
tŕ).
- Năm, phẩm Tịnh Địa Đà La
Ni nói: “Thuyết thị pháp thời, tam vạn ức Bồ
Tát Ma Ha Tát đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn” (Khi nói pháp ấy,
ba vạn ức Bồ Tát Ma Ha Tát đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn).
- Sáu, phẩm ấy lại nói “vô lượng
chư Bồ Tát bất thoái Bồ Đề tâm” (vô
lượng các vị Bồ Tát chẳng lui sụt tâm Bồ
Đề).
- Bảy, phẩm ấy lại nói: “Vô
lượng vô biên bật-sô, bật-sô-ni đắc pháp nhăn
tịnh” (Vô lượng vô biên bật-sô, bật-sô-ni
đạt được pháp nhăn thanh tịnh).
- Tám, phẩm ấy lại nói: “Vô lượng
chúng sanh phát Bồ Tát tâm”.
- Chín, phẩm Liên Hoa Dụ Tán nói: “Đại
chúng văn thị thuyết, giai phát Bồ Đề tâm,
nguyện hiện tại, vị lai, thường y thử
sám hối” (Đại chúng nghe nói như vậy, đều
phát Bồ Đề tâm, nguyện trong hiện tại và vi
lai, thường nương theo pháp sám hối này).
- Mười, phẩm Trùng Hiển Không Tánh
nói: “Thời chư đại chúng văn Phật thuyết
thử thậm thâm Không tánh, hữu vô lượng chúng sanh
tất năng liễu đạt Tứ Đại, Ngũ
Uẩn, thể tánh câu Không, lục căn, lục cảnh,
vọng sanh hệ phược, nguyện xả luân hồi,
chánh tu xuất ly” (Đại chúng khi đó nghe đức
Phật nói tánh Không rất sâu này, có vô lượng chúng sanh
thảy đều có thể liễu đạt thể tánh
của Tứ Đại và Ngũ Uẩn đều là
Không, biết do hư vọng mà sanh trói buộc nơi sáu
căn và sáu cảnh, nguyện xả luân hồi, chân chánh tu
xuất ly).
- Mười một, phẩm Y Không Măn Nguyện
nói: “Thuyết thị pháp thời, hữu tam thiên ức Bồ
Tát ư A Nậu Bồ Đề đắc bất thoái
chuyển” (Khi nói pháp này, có ba ngàn ức Bồ Tát
được chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng
Bồ Đề).
- Mười hai, phẩm ấy lại nói: “Hội
trung hữu ngũ thập ức bật-sô hành Bồ Tát hạnh,
dục thoái Bồ Đề, văn Như Ư Bảo Quang Diệu
Bồ Tát thuyết thị pháp thời, giai đắc kiên cố
bất khả tư nghị măn túc thượng nguyện,
cánh phục phát Bồ Đề chi tâm” (trong hội có
năm mươi ức bật-sô hành Bồ Tát hạnh muốn
thoái thất Bồ Đề, lúc nghe Như Ư Bảo Quang Diệu
Bồ Tát nói pháp ấy, đều đạt được
nguyện kiên cố, trọn vẹn chẳng thể
nghĩ bàn trên đây, lại phát khởi Bồ Đề
tâm).
- Mười ba, phẩm Tứ Thiên
Vương Hộ Quốc nói: “Vô lượng vô biên chúng
sanh đăng xuất ly đạo, bất phục thoái
chuyển, tốc chứng Bồ Đề” (vô lượng
vô biên chúng sanh dự vào đạo xuất ly, chẳng c̣n
thoái chuyển, mau chứng Bồ Đề), nói đầy
đủ th́ như đă trích dẫn trong phần trước.
- Mười bốn, phẩm Lưu Thủy
nói: “Nhữ đẳng giai ưng cần cầu xuất
ly, vật vị phóng dật. Đại chúng văn dĩ,
tất giai ngộ giải, do đại từ bi cứu hộ
nhất thiết, cần tu khổ hạnh, phương
năng chứng hoạch Vô Thượng Bồ Đề,
hàm phát thâm tâm, tín thọ hoan hỷ” (Các ngươi hăy
đều nên siêng cầu thoát ĺa, đừng nên buông lung.
Đại chúng nghe nói xong, thảy đều ngộ giải,
do đại từ bi mà cứu vớt, bảo vệ hết
thảy, siêng tu khổ hạnh th́ mới có thể chứng
đắc Vô Thượng Bồ Đề, đều phát
tâm sâu xa, tin nhận, hoan hỷ).
- Mười lăm, phẩm Xả Thân nói: “Thuyết
thị văng tích nhân duyên chi thời, vô lượng
A-tăng-xí-da nhân thiên đại chúng giai đại hoan hỷ,
thán vị tằng hữu, tất phát A Nậu Bồ Đề
chi tâm” (Khi nói nhân duyên xưa kia ấy, vô lượng
A-tăng-kỳ đại chúng trời người đều
hết sức hoan hỷ, than là chưa từng có, đều
phát tâm Vô Thượng Bồ Đề).
3.2.2.2.1.1.2.2. Đạt
được lợi ích nơi cái nhân trong đời hiện
tại
Phẩm Sám Hối nói: “Nhược
hữu nữ nhân văn thị Phật danh giả, lâm mạng
chung thời, đắc kiến bỉ Phật lai chí kỳ
sở. Kư kiến Phật dĩ, cứu cánh bất phục
cánh thọ nữ thân” (Nếu có nữ nhân nghe danh hiệu
đức Phật ấy, khi sắp mạng chung,
được thấy đức Phật ấy đến
chỗ kẻ đó. Đă thấy Phật rồi, rốt
ráo chẳng c̣n thọ thân nữ nữa). Đó là bảo với
đại chúng: Khi đó, các người nữ do nghe danh
hiệu đức Phật ấy, cũng đạt
được cái nhân trong hiện tại. Trong đời
tương lai, sẽ chẳng thọ báo làm thân nữ.
3.2.2.2.2. Đạt
được lợi ích trong đời sau
Tức là trong pháp hội tại
đỉnh Linh Thứu, [đức Phật] nói kinh này xong,
người trong mai sau nương theo kinh này tu học,
sẽ đều đạt được lợi ích.
Đó hoàn toàn là lợi ích về sau. Nêu đại lược
chút phần:
- Một là nói tới lợi ích do nghe kinh. Phẩm
Tứ Thiên Vương Hộ Quốc nói: “Nhược hữu
chúng sanh văn thị Kim Quang Minh kinh giả, tức ư A
Nậu Bồ Đề, bất phục
thoái chuyển” (nếu có chúng sanh nghe kinh Kim Quang Minh
này, sẽ chẳng c̣n thoái chuyển nơi Vô Thượng
Bồ Đề).
- Hai là nói về lợi ích do đọc tụng.
Phẩm Đại Biện Tài Thiên Nữ nói: “Biện Tài
thiên nữ bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Nhược hữu
pháp sư thuyết thị Kim Quang Minh Tối Thắng
Vương Kinh giả, ngă đương ích kỳ trí huệ,
cụ túc trang nghiêm ngôn thuyết chi biện. Nhược bỉ
pháp sư ư thử kinh trung văn tự cú nghĩa, sở
hữu vong thất, giai linh ức tŕ, năng thiện
văn ngộ, phục dữ đà-la-ni tổng tŕ vô ngại”
(Biện Tài thiên nữ bạch Phật rằng: - Bạch
Thế Tôn! Nếu có pháp sư nói kinh Kim Quang Minh Tối Thắng
Vương này, con sẽ khiến cho trí huệ của vị
ấy tăng thêm, trọn đủ biện tài, lời lẽ
trang nghiêm. Nếu vị pháp sư ấy đối với
văn tự, câu, nghĩa trong kinh này mà có chỗ quên mất,
con sẽ đều khiến cho vị ấy ghi nhớ,
ǵn giữ, có thể khéo nghe hiểu, lại c̣n vô ngại
đối với đà-la-ni tổng tŕ).
- Ba là nói đến lợi ích do thọ tŕ.
Phẩm Vô Nhiễm Trước Đà La Ni nói: “Nhược
hữu thập A-tăng-kỳ tam thiên đại thiên thế
giới măn trung thất bảo phụng thí chư Phật,
cập dĩ thượng diệu y phục, ẩm thực,
chủng chủng cúng dường, kinh vô lượng kiếp.
Nhược phục hữu nhân, ư thử đà-la-ni, năi
chí nhất cú năng thọ tŕ giả, sở sanh chi phước
bội đa ư bỉ. Hà dĩ cố? Thử Vô Nhiễm
Trước Đà La Ni thậm thâm pháp môn thị chư Phật
mẫu cố!” (Nếu có người dùng bảy báu chứa
đầy trong mười A-tăng-kỳ tam thiên đại
thiên thế giới để dâng cúng chư Phật, và dùng
y phục quư đẹp nhất, thức ăn, các thứ
cúng dường, trải qua vô lượng kiếp. Nếu
lại có người đối với đà-la-ni này, dù chỉ
có thể thọ tŕ một câu, sẽ sanh ra phước nhiều
gấp bội người trước. V́ sao vậy? Do
pháp môn Vô Nhiễm Trước đà-la-ni rất sâu này chính
là mẹ của chư Phật). Ư nói: Do kinh này có thể
sanh ra chư Phật, cho nên gọi là “Phật
mẫu”.
- Bốn là nói về lợi ích do lưu
thông. Phẩm Tam Thân nói: “Nhược sở tại xứ
giảng thuyết thị kinh, ư kỳ quốc độ,
hữu tứ chủng ích: Nhất giả, quốc
vương quân chúng cường thịnh, vô chư oán địch,
ly ư tật dịch, thọ mạng diên trường,
cát tường an lạc, chánh pháp hưng hiển. Nhị
giả, trung cung hậu phi, vương tử, chư thần,
ḥa duyệt vô tránh, ly ư siểm nịnh, vương sở
ái trọng. Tam giả, sa-môn, Bà-la-môn, cập chư quốc
nhân tu hành chánh pháp, vô bệnh, an lạc, vô uổng tử giả,
ư chư phước điền, tất giai tu lập.
Tứ giả, ư tam thời trung, Tứ Đại
điều thích, thường vị chư thiên tăng gia
thủ hộ, từ bi b́nh đẳng, vô thương hại
tâm, linh chư chúng sanh quy kính Tam Bảo, tu tập A Nậu
Bồ Đề chi hạnh” (nếu chỗ
nào giảng nói kinh này, trong quốc độ ấy, sẽ
có bốn loại lợi ích: Một là quân đội của
quốc vương cường thịnh, chẳng có các oán
địch, ĺa khỏi bệnh dịch, thọ mạng kéo
dài, cát tường, an vui, chánh pháp hưng thịnh rạng
rỡ. Hai là hậu phi trong cung, vương tử, các quan
ḥa thuận, vui vẻ, không tranh căi, ĺa khỏi siểm nịnh,
được vua yêu mến, coi trọng. Ba là sa-môn, Bà-la-môn,
và các người dân trong nước đều tu hành chánh
pháp, không bệnh tật, an vui, không bị uổng mạng,
đối với các phước điền thảy đều
tu tập, kiến lập. Bốn là trong ba thời, Tứ
Đại điều ḥa, thích đáng, thường
được chư thiên tăng cường thủ hộ,
từ bi, b́nh đẳng, chẳng có tâm gây tổn hại,
khiến cho các chúng sanh quy kính Tam Bảo, tu tập hạnh
Vô Thượng Bồ Đề). Trong phẩm Tam Thân lại
nói về lợi ích do nghe kinh như sau: “Nhược hữu
thiện nam tử, thiện nữ nhân ư thử Kim Quang
Minh kinh thính văn, tín giải, bất đọa địa
ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, A Tô La đạo, thường
xử nhân thiên, bất sanh hạ tiện, hằng đắc
thân cận chư Phật Như Lai, thính thọ chánh pháp,
thường sanh chư Phật thanh tịnh quốc độ.
Sở dĩ giả hà? Do đắc văn thử thậm
thâm pháp cố, thị thiện nam nữ tắc vị
Như Lai dĩ tri, dĩ kư đương đắc bất
thoái A Nậu Bồ Đề. Ư thử thậm thâm vi
diệu chi pháp nhất kinh nhĩ giả, đương
tri thị nhân bất báng Như Lai, bất hủy chánh pháp,
bất khinh thánh chúng, nhất thiết chúng sanh vị chủng
thiện căn linh đắc chủng cố, dĩ chủng
thiện căn linh tăng trưởng,
thành tựu cố, nhất thiết thế giới sở
hữu chúng sanh giai cần tu hành Lục Ba La Mật Đa” (Nếu có thiện
nam tử, thiện nữ nhân đối với kinh Kim Quang
Minh này mà lắng nghe, tin hiểu, sẽ chẳng đọa
địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, hoặc
đường A Tô La (A Tu La), thường ở trong
đường trời, người, chẳng sanh làm kẻ
hạ tiện, luôn được thân cận chư Phật
Như Lai để nghe nhận chánh pháp, thường sanh
trong cơi nước thanh tịnh của chư Phật. V́ lẽ
nào vậy? Do được nghe pháp rất sâu này, thiện
nam nữ ấy đă được Như Lai biết,
đă được thọ kư ‘chẳng thoái chuyển Vô
Thượng Bồ Đề’. Pháp vi diệu rất sâu này
vừa lọt qua tai, hăy nên biết: Người ấy chẳng
báng Như Lai, chẳng hủy chánh pháp, chẳng khinh thánh
chúng, khiến cho hết thảy chúng sanh chưa gieo thiện
căn sẽ được gieo, v́ khiến cho kẻ
đă gieo thiện căn sẽ được tăng
trưởng, thành tựu, tất cả chúng sanh trong hết
thảy các thế giới đều siêng tu hành Lục Ba
La Mật Đa).
Phẩm Sám Hối lại nói về lợi
ích do lưu thông như sau: “Nhược hữu tứ
chúng tùy tại hà xứ,
vị nhân giảng thuyết thị Kim Quang Minh vi diệu
kinh điển, ư kỳ quốc độ, giai hoạch
tứ chủng phước lợi thiện căn: Nhất
giả, quốc vương vô bệnh, ly chư tai ách. Nhị
giả, thọ mạng diên trường, vô hữu chướng
ngại. Tam giả, vô chư oán địch, binh chúng dũng
kiện. Tứ giả, an ổn phong lạc, chánh pháp
lưu thông” (Nếu có tứ chúng ở bất cứ
nơi đâu mà v́ người khác giảng nói kinh điển
Kim Quang Minh vi diệu này, trong quốc độ ấy, sẽ
đều đạt được bốn thứ thiện
căn phước lợi: Một là quốc vương
không bị bệnh, ĺa các tai ách. Hai là thọ mạng kéo
dài, chẳng có chướng ngại. Ba là không có các oán địch,
quân đội dũng mănh. Bốn là an ổn, giàu vui, chánh
pháp lưu thông). Lại nói: “Ư kỳ quốc trung,
đại thần, phụ tướng hữu tứ chủng
ích: Nhất giả, cánh tương thân mục, tôn trọng,
ái niệm; nhị giả, thường vị nhân
vương tâm sở ái trọng, diệc vị sa-môn, Bà-la-môn,
đại quốc, tiểu quốc
chi sở tuân kính; tam giả, khinh tài, trọng pháp, bất cầu
thế lợi, gia danh phổ kỵ chúng sở khâm ngưỡng;
tứ giả, thọ mạng diên trường, an ổn,
khoái lạc. Sa-môn, Bà-la-môn diệc đắc tứ thắng
lợi: Nhất, tứ sự vô phạp; nhị, an tâm
tư duy, tam, y sơn lâm đắc an lạc trụ; tứ,
tùy nguyện đắc măn. Nhân dân giai đắc phong lạc,
vô chư tật dịch, thương cổ văng hoàn,
đa hoạch bảo hóa, cụ túc thắng phước” (Ở trong nước
ấy, các quan đại thần phù tá có bốn loại lợi
ích: Một là thân thiết, ḥa thuận với nhau, tôn trọng,
mến tưởng. Hai là thường được tâm
vua trong loài người mến trọng, cũng được
sa-môn, Bà-la-môn, và nước lớn, nước nhỏ tuân phục, kính trọng. Ba
là coi nhẹ của cải, quư trọng pháp, chẳng cầu
lợi lộc thế gian, tiếng lành rền khắp, khiến
đại chúng đều khâm phục, ngưỡng mộ.
Bốn là thọ mạng kéo dài, an ổn, vui sướng.
Sa-môn, Bà-la-môn cũng đạt được bốn
điều lợi thù thắng: Một là tứ sự chẳng
thiếu sót. Hai là an tâm tư duy. Ba là nương vào núi rừng, được an lạc trụ. Bốn
là nguyện ǵ cũng đều được thỏa.
Nhân dân đều được giàu vui, chẳng có các bệnh
dịch. Lái buôn qua lại phần nhiều đạt
được hàng hóa quư báu, trọn đủ phước
thù thắng). Các phẩm trên đây tuy nói đạt
được vô lượng loại lợi ích, nhưng
đều chẳng ra ngoài các điều vừa nêu trên. Lợi
ích đă nhiều, nếu có ai được nghe, hăy nên
theo đúng pháp mà học.
4. Nói về nguyên
do kinh có tên gọi như vậy
Lại chia thành hai phần:
- Một, luận định chung về cách
giải thích tên kinh.
- Hai, giải thích tựa đề kinh này.
4.1. Luận định
chung về cách giải thích tên kinh
Phần thứ nhất lại gồm hai phần:
- Một, bàn chung về cách giải thích tên gọi
một bản kinh.
- Hai, biện định ư nghĩa giải
thích. Điều này được nói cặn kẽ trong
các sách như Pháp Hoa Nghĩa Quyết[33]
và Duy Thức Nghĩa Đăng.
4.2. Giải thích tựa
đề của bộ kinh này
Kế đó, giải thích tựa đề
của bộ kinh này, gồm:
- Một, giải thích tên gọi của toàn
thể bộ kinh.
- Hai, giải thích tên gọi của riêng từng
phẩm.
Giải thích tên gọi của cả bộ
kinh gồm hai phần:
- Một là giải thích theo lối cổ.
- Hai là giải thích theo cách hiện thời.
4.2.1. Giải thích
tên gọi của toàn thể bộ kinh
4.2.1.1. Giải
thích [danh xưng của bộ kinh này] theo lối cổ
Ngài Truyền Chân Đế nói: “Ngoại
quốc gọi là Tu Bạt Noa (Suvarṇa), phương này
dịch là Kim. Bà Pha Bà (Prabhās) được phương
này dịch là Quang. Uất Đa Ma (Ottamasūtr)
được
phương này dịch là Minh. Nhân Đà La (Endra) được
phương này dịch là Đế. La Duyệt Na (Rājaḥ)
được
phương này dịch là Vương. V́ thế, bản
kinh được lưu hành tại Tây Thổ [với danh
xưng] Phật Đà Kinh, Kim Quang Minh Kinh, hoặc Đế
Vương Kinh”. Có nghĩa là: Gọi là kinh Phật
Đà th́ chính là từ điều được tuyên nói mà
đặt tên. Kim Quang Minh là dùng pháp và dụ (thí dụ) gộp
lại để đặt tên. Cũng từ công dụng
mà gọi là kinh Đế Vương.
4.2.1.1.1. Kim Quang
Minh
Chỉ từ thí dụ mà gọi là Kim Quang
Minh, ba chữ ấy biểu thị kinh này dùng ba loại “tam” làm Thể:
- Một, tam thân.
- Hai, Tam Đức, tức Bát Nhă, Giải
Thoát, và Pháp Thân.
- Ba, tam vị (ba địa vị) tức
đạo tiền, đạo trung và đạo hậu.
Đạo tiền tức là trụ trong tự tánh Phật
tánh. Đạo trung tức là dẫn xuất Phật tánh.
Đạo hậu tức là đạt tới đắc
quả Phật tánh.
Theo cách giải thích xưa kia, đó cũng
chính là ưng đắc nhân, gia hạnh nhân, và nhân măn nhân[34],
theo thứ tự phối ứng với ba loại Phật
tánh trước đó.
Đối với tam thân:
- Một,
thể tánh của Kim là vốn sẵn có, chân thật, [dùng
điều này] để sánh ví Pháp Thân.
- Hai, Quang có thể chiếu, sánh ví Ứng
Thân.
- Ba, Minh có thể lợi ích trọn khắp,
ví như Hóa Thân.
Xét theo Tam Đức th́:
1) Một, Kim ví như Pháp Thân, có bốn
nghĩa:
- Một, màu sắc chẳng biến đổi,
giống như Thường [trong Tứ Đức].
- Hai, Thể chẳng nhiễm, giống
như Tịnh.
- Ba, vàng có thể chuyển đổi chế
tạo thành vạn vật vô ngại, giống như Ngă.
- Bốn, khiến cho con người phú quư,
giống như Lạc.
2) Kế đó, Quang có hai nghĩa: Một là
có thể chiếu, hai là có thể trừ tối. [Hai
nghĩa này] ví như Bát Nhă.
3) Kế đó, Minh có hai nghĩa: Một là
chẳng tối tăm, hai là rộng xa, giống như Giải
Thoát, nói chung là chẳng có các lỗi hại.
Sánh ví với tam vị th́:
- Kim là vốn sẵn có, giống như chánh
nhân của đạo tiền, có nghĩa là dùng Như để
làm tam Phật[35].
- Quang là mới có, giống như liễu
nhân[36]
của đạo trung, có nghĩa là đối ứng với
cái duyên mà dấy lên sự tu tập. Công năng vừa mới
dấy lên, chẳng phải là cái Thể vốn có. V́ thế,
đối ứng với quả đức mà gọi là liễu
nhân.
- Minh là chẳng tối tăm, giống
như cái quả nơi đạo hậu.
Đối với Pháp Thân trong Tam Thân, hăy nên
chọn lấy nghĩa chân thật. Hai thân chẳng thật
do công năng ấy vừa mới dấy khởi th́ gọi
là Giả. Trong Tam Đức, đối với Pháp Thân, hăy
nên giữ lấy bốn nghĩa như vô nhiễm v.v… Có
đủ cả bốn điều ấy (Thường, Lạc,
Ngă, Tịnh) th́ mới là Pháp Thân. Trong Tam Vị, đối
với Pháp Thân, hăy nên chọn lấy nghĩa “vốn có”
để giải thích, v́ đối ứng với duyên và
quả th́ mới có. Điều này có nghĩa là đối
với đạo hậu th́ xét theo sự tu hành để
bàn luận về Như, chứ bổn tánh chẳng có ba thứ
khác biệt. V́ thế, xét chắc thật theo cái Thể,
hăy nên giữ lấy nghĩa “vốn có”, tức là
đạo tiền Như. Ba điều ấy theo thứ
tự trước sau, do có nhân duyên mà tu đắc quả.
Do đắc quả cho nên có ba đức. Do
tam đức trọn vẹn,
nên mới dùng tam thân để
hóa độ chúng sanh. Điều này có nghĩa là do có Như thuộc đạo tiền trong Tam Vị làm
chánh nhân, tu viên măn đạo trung, đạt tới địa
vị đạo hậu, th́ sẽ trọn đủ Tam
Đức. Do Tam Đức viên măn th́ mới có thể dùng
tam thân hóa độ chúng sanh, theo thứ tự ngược
lại[37].
Trong ba loại “tam” ấy (tam thân, tam
đức và tam vị), Tam Vị là chánh thể. V́ thế,
phẩm Thọ Lượng nói về cái quả thuộc
đạo hậu, phẩm Tam Thân nói về cái nhân thuộc
đạo tiền. Từ phẩm Sám Hối trở đi
là nói về đạo nội (đạo trung). Điều này có
nghĩa là tam vị được nói trong kinh này chính là
điều cốt lơi chánh yếu của toàn thể bản
kinh.
4.2.1.1.2. Đế
Vương
Có ba nghĩa:
- Một là nói đến Pháp Thân, thuộc
vào Hoa Nghiêm. Do Hoa Nghiêm dùng Pháp Thân làm Thể.
- Hai là nói đến trí huệ, dung thông Bát
Nhă. Trí huệ Bát Nhă làm Thể.
- Ba là nói đến Tứ Đức, thuộc
vào Niết Bàn, Thường, Lạc... của Niết Bàn làm
Chánh Thể.
Có nghĩa là do [kinh này] quán thông cả ba
điều ấy mà gọi là Đế Vương Kinh.
4.2.1.1.3. Kinh
Có ba loại “chánh”:
- Một là chánh thuyết, tức
kinh văn thuộc mười hai bộ loại.
- Hai là chánh hạnh, tức hạnh
sẽ được học từ các phần kinh văn
sau này.
- Ba là chánh quả, tức là
pháp Tứ Đức.
Từ chánh thuyết mà có
chánh hạnh, do chánh hạnh bèn xuất hiện chánh quả.
Một là có thể hiển lộ, hai là có thể hành, ba là
có thể đạt đến; do ba điều “có thể”
ấy mà cùng gọi là Kinh. “Kinh” được nói ở
đây chính là điều thứ nhất [tức “chánh
thuyết” trong ba điều “chánh” vừa nói trên
đây].
4.2.1.2. Giải
thích tên kinh theo cách hiện thời
Phiên âm tiếng Phạn theo lối xưa
[như ngài Chân Đế đă nói] là sai lầm, nay phải
nói cho đúng là Tô Bạt Na Bà Bà Sa Uất Đa Ma Ra Xà Tô
Đát Lăm (Suvarṇa-prabhāsottama-sūtrendrarājaḥ
Sutra).
Tô Bạt Na (phương này gọi là Kim), Bà Bà Sa
(phương này là Quang), nói là Kim Quang Minh th́ sẽ thuận
tiện. Uất Đa Ma (phương này dịch là Tối
Thắng), Ra Xà (Rājaḥ, phương này dịch
là Vương). Tô Đát Lăm (phương này dịch
nghĩa là Đĩnh Sách Kinh). [Toàn thể tựa đề
của kinh] phải nên nói là Kim Quang Tối Thắng
Vương Kinh. Hai chữ Kim và Vương nhất loạt
là thí dụ, Quang Minh và Tối Thắng đều bao gồm
pháp và dụ. Nay đối với đề mục kinh
này, đại lược giải thích theo năm phương
diện:
- Một, nương theo bốn pháp là “giáo,
lư, hạnh, quả” để giải thích.
- Hai, nương theo Tam Bảo.
- Ba, nương theo Bồ Đề và Niết
Bàn.
- Bốn, dựa theo pháp và dụ.
- Năm, dựa theo nhân và pháp.
4.2.1.2.1. Dựa
theo bốn pháp như giáo, lư v.v… để giải thích tên
kinh
4.2.1.2.1.1. Dựa
theo giáo [để giải thích tên kinh]
Giáo pháp có thể tuyên nói ấy giống
như quang minh. V́ thế, phẩm Tự của kinh Vô Cấu
Xưng (kinh Duy Ma Cật) nói “diễn
pháp bảo quang”, quyển bốn mươi bốn của
Du Già Sư Địa Luận viết: “Khi muốn nghe
pháp, hăy tưởng năm điều: Thứ nhất là
hăy tưởng pháp như của báu, do tột
bậc khó được. Hai là tưởng pháp như mắt,
v́ [sẽ do pháp mà] đạt được mắt huệ bẩm sanh. Ba là
tưởng pháp như sáng suốt, do có ư nghĩa đă
đắc huệ rộng, b́nh đẳng chiếu hết
thảy các loài. Bốn là tưởng pháp như công đức
thù thắng của cái quả to lớn, có thể đạt
được Niết Bàn và Chánh Giác, do có ư nghĩa nhân và
tánh của dấu tích thị hiện mầu nhiệm vô
thượng. Năm là tưởng như niềm
vui sướng to lớn vô tội, tuy ở trong pháp hiện
tại chưa đạt được Niết Bàn và Chánh
Giác, nhưng có thể chọn lựa Chỉ Quán trong các
pháp như thật, do có ư nghĩa nhân và tánh của niềm
vui to lớn vô tội. [Từ trong các nghĩa vừa nói
trên đây], chọn lấy ư nghĩa thứ ba, do có thể
hiển lộ Lư Như giống như quang minh”.
Cùng nêu ra Quang và Minh với dụng ư hiển
lộ Nhị Không (Nhân Không và Pháp Không), hoặc là phước và trí, hoặc là Bồ
Đề và Niết Bàn, mỗi đằng đều có nhân
quả. Nếu chẳng vậy, đối với Quang và
Minh, chỉ cần tùy ư nêu ra một thứ [là đủ rồi],
cần ǵ phải nhờ đến cả hai ư?
Điều thù thắng nhất trong giáo pháp giống
như Vương. V́ vậy, trong phẩm Phó Chúc có nói: “Ngă
thân tùng Phật văn, vô lượng chúng kinh điển,
vị tằng văn như thị, thâm diệu pháp trung
vương” (Ta đích thân nghe đức Phật nói vô
lượng các kinh điển, nhưng chưa từng
nghe vua trong các pháp sâu mầu như vậy). Những
ǵ là thù thắng? Đối với các sự thù thắng mầu
nhiệm được nói trong kinh, sợ rườm rà
nên không trích dẫn. Người đọc cứ t́m xem sẽ
tự biết. V́ thế, chỉ lấy Kim và Vương
làm thí dụ.
Dùng Kim làm thí dụ, bèn nêu đại lược
bốn nghĩa:
- Một là tánh vốn sẵn có.
- Hai là tột bậc khó được.
- Ba là kim luân.
- Bốn là thù thắng nhất trong các báu.
1) Một, đối với tánh vốn sẵn có,
sánh ví giáo pháp này lưu xuất từ Chân Như, nhiếp
tướng quy vào tánh, cho nên đều là “vốn sẵn có”. Hơn nữa, chư
Phật thuyết pháp không có lúc khởi đầu[38].
2) Hai, tột bậc khó được. Phẩm
Tự có nói: “Ngă đương thuyết thị kinh, thậm
thâm Phật hành xứ, chư Phật bí mật giáo, thiên vạn
kiếp nan phùng” (Ta sẽ nói kinh này là hành xứ rất
sâu của Phật, là giáo pháp bí mật của chư Phật,
ngàn vạn kiếp khó gặp). Phẩm Phó Chúc có nói: “Nhữ
đẳng đương tri, ngă ư vô lượng vô số
đại kiếp, cần tu khổ hạnh, hoạch thậm
thâm pháp Bồ Đề chánh nhân, dĩ vị nhữ thuyết.
Hựu như bần giả, chung bất năng đắc,
yếu hữu phước nhân cố” (Các ông nên biết: Ta
trong vô lượng vô số đại kiếp, siêng tu khổ
hạnh, đạt được pháp rất sâu là chánh
nhân Bồ Đề đă v́ các ông nói. Lại như người
nghèo trọn chẳng thể đạt được, v́
cần phải có phước làm cái nhân). Phẩm Đại
Biện Thiên Nữ nói: “Thử Kim Quang Minh Tối Thắng
Vương Kinh, vị bỉ hữu t́nh dĩ ư bách
thiên Phật sở, chủng chư thiện căn
đương thọ tŕ giả, ư Thiệm Bộ Châu,
quảng hành lưu bố, năi chí nhi diễn thuyết
chi”
(Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này sẽ
được thọ tŕ bởi các hữu t́nh đă gieo
các thiện căn nơi trăm ngàn đức Phật,
lưu truyền rộng răi cho đến diễn nói trong
Nam Thiệm Bộ Châu).
3) Ba, kim luân: Như Luân Vương xuất
du, bèn sử dụng kim luân, có thể hàng phục kẻ
chưa tuân phục, có thể trấn định kẻ
đă phục tùng. Kinh này cũng thế, các phẩm Sám Hối,
Diệt Chướng, và Tịnh Địa nói đoạn
các chướng, giống như hàng phục kẻ chưa
tuân phục. Trong các phẩm [của kinh này] có nói người
nghe xong liền chứng bất thoái chuyển, giống
như trấn định kẻ đă phục tùng. Lư ấy
thành tựu tột bậc, v́ sợ rườm rà nên chẳng
trích dẫn kinh văn.
4) Bốn, thù thắng nhất trong các báu:
Như trong bảy báu, vàng đứng đầu. V́ thế,
chỉ dùng vàng
để sánh ví kinh này thù thắng nhất trong Pháp Bảo
cũng giống như thế đó.
Đối với chuyện “dùng
Vương để sánh ví”, cũng nêu đại
lược bốn nghĩa:
- Một, có ư nghĩa dẹp tan oán địch.
- Hai, có ư nghĩa có thể tụ tập các
báu.
- Ba, có ư nghĩa “có thể hóa sanh trọn khắp”.
- Bốn, có ư nghĩa “khiến cho địa
vị bất tuyệt”.
Như Luân Vương có bốn nghĩa sau
đây:
- Một, do vua có một ngàn con trai và Chủ
Binh Thần, cho nên hàng phục oán địch. Ví như kinh
này có pháp sám hối và hành Thập Độ, diệt trừ
mười chướng, hai mươi hai món vô minh v.v…
- Hai, có ư nghĩa “gom tụ các báu”. Các bộ
luận có nói đến [một môn tam-muội là] Tập
Phước Đức Vương Định. Phẩm Măn
Nguyện trong kinh này nói: “Nhược vương tại
thế, thất bảo bất diệt. Vương nhược
quá khứ thế, nhất thiết thất bảo tự
nhiên nhi tận. Thị Kim Quang Minh vi diệu kinh điển,
nhược hiện tại thế, đại chánh pháp bảo
giai tất bất diệt. Hựu như Luân Vương kư
xuất, ư thế thất bảo ứng hiện. Thử
chi kinh vương kư diễn thuyết dĩ, thất thánh
tài bảo tất giai hiển hiện” (Nếu vua (Chuyển
Luân Thánh Vương) c̣n sống trên đời, bảy báu
chẳng diệt. Nếu vua qua đời, hết thảy
bảy báu tự nhiên hết sạch. Kinh điển Kim
Quang Minh vi diệu này nếu xuất hiện trong cơi đời,
báu đại chánh pháp thảy đều chẳng diệt.
Lại như Luân Vương đă xuất hiện, bảy
báu sẽ ứng hiện trong cơi đời, vua trong các kinh
này đă được diễn nói th́ của báu thất
thánh tài sẽ đều hiển hiện).
- Ba, có ư nghĩa “có thể hóa sanh
trọn khắp”: Như Kim Luân
Vương giáo hóa trọn khắp bốn châu. Vua trong các kinh
này hóa độ trọn khắp tứ sanh. Phẩm Thọ
Lượng nói: “Tam thiên đại thiên giới sở hữu
chúng sanh, dĩ Phật oai lực, thọ thắng diệu
lạc, vô hữu phạp
thiểu”
(Tất cả chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế
giới do oai lực của Phật, hưởng sự vui
mầu nhiệm thù thắng chẳng hề thiếu khuyết).
- Bốn, có ư nghĩa “khiến
cho địa vị chẳng tuyệt”, như Kim Luân
Vương nhất định truyền lại ngôi
vị, khiến cho [ngôi vị ấy] chẳng đoạn
tuyệt. Kinh này cũng thế, có thể khiến cho ḍng giống
Phật được tiếp nối chẳng dứt. V́
thế, trong phẩm Thọ Kư, đức Phật thọ
kư cho Diệu Tràng Bồ Tát và hai con. Mười ngàn vị
trời do nghe ba vị ấy được thọ kư, khởi
tâm ân cần thanh tịnh, cũng được thọ kư.
V́ thế, sánh ví [kinh này] như vua.
4.2.1.2.1.2. Dựa
theo Lư [để giải
thích tên kinh]
Phẩm Tam Thân nói: “Do tam tịnh cố,
danh cực thanh tịnh: Nhất phiền năo tịnh, nhị
khổ tịnh, tam tướng tịnh. Thí như chân kim
dung tiêu, dă luyện, kư thiêu đả dĩ, vô phục trần
cấu, vị hiển kim tánh bổn thanh tịnh cố.
Kim thể thanh tịnh, phi vị vô kim” (Do ba điều
thanh tịnh, cho nên gọi là “cực thanh tịnh”,
[tức là]: Một là phiền năo tịnh, hai là khổ tịnh,
ba là tướng tịnh. Ví như vàng ṛng được
nung chảy, tinh luyện. Đă qua nung, đập, chẳng
c̣n trần cấu, hiển lộ tánh của vàng vốn sẵn
thanh tịnh. Thể của vàng thanh tịnh, chẳng thể
nói là “không có vàng”). Cho đến nói: “Vị hiển Phật
tánh bổn thanh tịnh cố, phi vị vô Thể” (V́ hiển lộ
Phật tánh vốn thanh tịnh, chẳng có nghĩa là “không
có Thể”).
Đó là sánh ví Lư. Chân Như vốn sẵn có, tự tánh
thanh tịnh, do bị chướng lấp mà ẩn tàng, chẳng
hiển lộ.
Khi ĺa chướng, sẽ hiển hiện, chẳng
phải là [ĺa chướng th́] mới bắt đầu tịnh.
Do Lư Chân Như thù thắng, như vua là chỗ có thể
nương cậy, ǵn giữ, cho nên có các công đức
khác.
4.2.1.2.1.3. Dựa
theo hạnh [để giải thích tên kinh]
Phẩm Tam Thân nói: “Như chư thiện
nam tử bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Hà giả vi thiện?
Hà giả bất thiện? Hà giả chánh tu đắc thanh
tịnh hạnh? Chư Phật Như Lai cập đệ
tử chúng tức tiện vị thuyết, linh kỳ
văn ngộ. Bỉ kư văn dĩ, chánh niệm ức
tŕ, phát tâm tu hành, tức đoạn thập nhất chướng,
đắc nhập thập nhất địa” (Như các thiện nam tử
bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Những ǵ là thiện?
Ǵ là bất thiện? Ǵ là chánh tu hành để đạt
được hạnh thanh tịnh?” Chư Phật Như
Lai và các đệ tử liền nói với họ, khiến
cho họ nghe rồi sẽ ngộ. Họ đă nghe xong,
chánh niệm, nhớ giữ, phát tâm tu hành, liền đoạn
mười một chướng, được nhập địa vị thứ mười một). Cho đến
nêu thí dụ: “Thí như chân kim dung tiêu, dă luyện” (Ví như vàng ṛng
được nung chảy, tinh luyện). Đấy là sánh
ví sự tu hành. “Kư thiêu đả dĩ, vô phục trần
cấu” (Đă nung, đập rồi, chẳng c̣n trần
cấu), ví như đắc quả. Tức là pháp tu hành cũng
được sánh ví như vàng, hoặc như quang minh. V́
thế, phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc có
nói: “Ngă đẳng tứ vương, Dược Xoa quyến
thuộc, ủng hộ thị kinh, cập thuyết pháp
sư, dĩ trí quang minh nhi vi trợ vệ” (Bốn thiên
vương chúng con và quyến thuộc Dược Xoa, ủng
hộ kinh này và vị thầy thuyết pháp, dùng trí quang minh
để giúp đỡ, bảo vệ) v.v… Đó chính là tu
hành. Người có thể tu hành được gọi là “tối
vương” (vị vua cao nhất), như các địa
vị “vương, vương tử” v.v… Hơn nữa,
tất cả các vua thuộc tám bộ trời người
đều có thể tu hành kinh này th́ cũng là bậc thù thắng
nhất trong các vua, được gọi là Tối Thắng
Vương. V́ thế, phẩm Quán Sát nói: “Đương
linh bỉ vương ư chư vương trung tối
vi đệ nhất” (Sẽ khiến cho vị vua ấy
là bậc nhất trong các vua);
đấy chính là nương vào đó mà hành tŕ.
4.2.1.2.1.4. Dựa
theo quả
Như
trong phần trước, đă giải thích theo lối cổ,
chính là nương vào Tam Thân và Tam Đức, có
nghĩa là muốn tỏ rơ bốn thứ “giáo, lư, hạnh,
quả” đều thù thắng, đều được
gọi là Kinh. Do nương vào giáo pháp thù thắng mà có thể
hiển lộ lư thù thắng. Nương vào lư thù thắng,
có thể dấy lên hạnh thù thắng. Từ hạnh thù
thắng, sẽ có thể đạt được cái quả
thù thắng. V́ thế, đều dựa vào cả bốn
món ấy để đặt tên kinh.
4.2.1.2.2. Dựa vào Tam Bảo để giải thích tên
kinh
Kinh này hoặc là nương vào Phật Bảo
để đặt tên, do nói về ba thân và thọ lượng.
Hoặc nương vào Pháp Bảo để đặt tên,
do gồm chung “giáo, lư, hạnh, quả”. Hoặc
nương vào Tăng Bảo để đặt tên, do
nói hạnh Thập Địa, người có thể hành Giả
th́ là Tăng Bảo. Hoặc gộp chung Tam Bảo để
đặt tên, v́ trong quyển thứ tám, phần Mộng
Sám Nguyện có nói: “Ngă đương an chỉ trụ
ư Thập Địa, thập chủng trân bảo dĩ
vi cước túc, thành Phật vô thượng công đức
quang minh” (Nay ta sẽ an trụ, ngưng nghỉ nơi
Thập Địa, mười thứ trân bảo dùng làm
chân, thành tựu công đức quang minh vô thượng của
Phật). Người có thể an trụ là Tăng, Thập
Địa là chỗ để an trụ chính là Pháp. Người
được thành tựu là Phật.
Công đức quang minh bao gồm ba loại,
v́ sao quang minh của Tam Bảo
được gọi là thù thắng? Quang minh của Phật
th́ như phẩm Diệt Nghiệp Chướng đă nói: “Y
diệu Tĩnh Lự, tùng thân mao
khổng, phóng đại quang minh, vô lượng bách thiên chủng
chủng chư sắc, chư Phật sát độ, tất hiện
quang trung. Thập phương Hằng hà sa giảo lượng,
thí dụ, sở bất năng cập. Ngũ trược
ác thế vi quang sở chiếu. Thị chư chúng sanh tác
thập ác nghiệp, ngũ vô gián tội, phỉ báng Tam Bảo,
bất hiếu tôn thân, khinh mạn sư trưởng,
Bà-la-môn chúng, ưng đọa địa ngục, ngạ
quỷ, bàng sanh, bỉ các mông quang chí sở trụ xứ” (Nương vào Tĩnh Lự mầu
nhiệm, từ lỗ chân lông trên thân, phóng quang minh to lớn, vô lượng trăm
ngàn các thứ sắc, các cơi Phật đều hiện
trong quang minh. Dùng số cát sông Hằng trong mười phương
để so lường, sánh ví, đều chẳng thể
bằng. Đời ác ngũ trược được
quang minh chiếu đến, các chúng sanh tạo mười
ác nghiệp, tội Ngũ Vô Gián, phỉ báng Tam Bảo, chẳng
hiếu thảo với cha mẹ, khinh mạn sư trưởng và
các vị Bà-la-môn, đáng đọa địa ngục, ngạ
quỷ, bàng sanh, ai nấy đều được quang
minh chiếu đến chỗ cư trụ). Cho đến
nói: “Nhân quang lực cố, giai đắc an lạc,
đoan chánh, thù diệu, sắc tướng cụ túc,
phước trí trang nghiêm, đắc kiến chư Phật”
(Do sức của quang minh, đều được an
lạc, sắc tướng đoan chánh, thù thắng nhiệm
mầu trọn đủ, phước trí trang nghiêm,
được thấy chư Phật). Trong ấy, có
mười hai điều thù thắng hơn các loại
quang minh khác:
- Một, nhân thù thắng [do phát xuất] từ Tĩnh Lự
nhiệm mầu.
- Hai, có thể khởi phát thù thắng do
[quang minh phát xuất từ] thân Phật.
- Ba, tự tánh thù thắng [được
biểu hiện bằng] trăm ngàn sắc.
- Bốn, có thể hiện ra [các tướng
trạng] thù thắng, tức các cơi Phật.
- Năm, so lường thù thắng, do sánh ví
đều chẳng thể sánh bằng.
- Sáu, từ bi thù thắng do chiếu ngũ
trược.
- Bảy, diệt ác thù thắng do [diệt
ác] cho kẻ tạo mười ác nghiệp cho đến
các vị Bà-la-môn.
- Tám, dẹp khổ thù thắng, v́ kẻ
đáng đọa địa ngục v.v… cho đến nói
[quang minh] chiếu đến chỗ cư trụ.
- Chín, ban vui thù thắng, do sức của
quang minh [mà các loài chúng sanh] đều được an lạc.
- Mười, trang nghiêm thù thắng, do sắc
tướng đoan chánh thù diệu trọn đủ.
- Mười một, tư lương Bồ
Đề thù thắng, do phước trí trang nghiêm.
- Mười hai, thân cận thù thắng, v́ được
thấy chư Phật.
Đối với quang minh thù thắng của
Pháp và Tăng th́ từ những đoạn kinh văn
đă trích dẫn sẽ dễ thấy.
4.2.1.2.3. Dựa
vào Bồ Đề và Niết Bàn để giải thích tên
kinh
Thọ lượng và tam thân là Bồ Đề.
Có nhiều lượt “phục thứ” [trong bản
kinh này] nói Đại Niết Bàn chính là nghĩa Niết Bàn.
Đem Kim Quang Minh phối ứng với Bồ Đề,
Tam Thân phối ứng với nghĩa Niết Bàn, ư nghĩa
của ba sự giống như trong cách giải thích theo lối
cổ, từ các đoạn kinh đă trích dẫn, có thể
thấy rơ.
4.2.1.2.4. Dựa
trên pháp và dụ để giải thích tên kinh
1) Hoặc là dùng Dụ (thí dụ)
để đặt tên, như vàng có quang minh, là tối thắng
trong các chất báu, như vua trong cơi “trời, người”
là bậc tối thắng trong trời, người. Tối
thắng bao gồm hai chỗ (tức Kim và Vương).
Kinh này cũng giống như thế, cho nên từ thí dụ
mà đặt tên.
2) Hoặc dùng pháp và dụ để
đặt tên, Kim Quang Minh là dụ (thí dụ), Tối Thắng
Vương là pháp. V́ thế, phẩm Phó Chúc nói: “Ngă thân
tùng Phật văn, vô lượng chúng kinh điển, vị
tằng văn như thị, thâm diệu pháp trung
vương” (Tôi đă từ đức Phật nghe
nói vô lượng các kinh điển, nhưng chưa từng
nghe vua trong các pháp sâu mầu như thế này). Hoặc lại
coi quang minh bao gồm cả pháp lẫn dụ, do quang minh của
pháp là thù thắng nhất trong các quang minh. V́ thế, phẩm
Liên Hoa Dụ Tán Thán nói: “Nguyện ngă thân quang đẳng
chư Phật, phước đức trí huệ diệc
phục nhiên, nhất thiết thế giới độc
xưng tôn, oai lực tự tại vô luân thất” (nguyện
quang minh nơi thân của con bằng với chư Phật,
phước đức và trí huệ cũng giống như
thế. Riêng được xưng tụng là tôn quư trong hết
thảy các thế giới, oai lực tự tại không ǵ
sánh bằng).
4.2.1.2.5. Dựa theo nhân và pháp để giải
thích tên kinh
Hoặc coi Kim Quang Minh là nhân.
V́ thế, phẩm Thọ Kư nói: “Thử tử Ngân Quang
hoàn ư Kim Quang Minh thế giới, đương đắc
tác Phật, hiệu Kim Quang Minh” (Đứa con tên Ngân
Quang này trở về thế giới Kim Quang Minh, sẽ
được thành Phật, hiệu là Kim Quang Minh). Lại
chú thích rằng: Kim Quang Minh là pháp danh, do quốc giới ấy
tên là Kim Quang Minh.
Hơn nữa, phẩm Mộng
Sám Hối nói: “Mộng kiến kim cổ phóng đại
quang minh, ư thử quang trung, đắc kiến thập
phương vô lượng chư Phật” (mộng thấy
cái trống bằng vàng phóng quang minh lớn, trong quang minh ấy, được thấy mười phương vô
lượng chư Phật). Phẩm thứ ba lại nói: “Phóng
kim sắc quang biến thập phương giới, thị
kinh oai lực” (phóng quang minh kim sắc trọn khắp
mười phương cơi, đó là oai lực của kinh).
Hoặc bao gồm cả nhân và pháp [để đặt
tên kinh], từ hai đoạn văn vừa trích dẫn trên
đây, cũng có thể nói liên hệ. Tuy Sự và Lư
khác nhau, nhưng đều được gọi là
Pháp. Lư cũng bao gồm nhân, pháp và dụ để đặt
tên, điều chánh yếu là dùng pháp và dụ để
đặt tên cho kinh.
Dựa theo sáu cách giải thích [về cách
đặt tên kinh trên đây], kinh Tối Thắng
Vương này hoặc quang minh của pháp chính là như quang
minh của vàng, hoặc pháp tối thắng được
gọi là Vương; đó là cùng dùng Kim Quang Minh và Tối
Thắng Vương để giải thích theo cách tŕ nghiệp[39]
(giải thích theo phương diện tác dụng). Do chẳng
muốn giải thích tách biệt Kim Quang Minh và Tối Thắng
Vương, cho nên [hai nghĩa ấy] chẳng trái nghịch.
Do chẳng muốn nói riêng Kim Quang Minh, cho nên chẳng có tài
thích[40].
Kim Quang Minh Tối Thắng Vương là cái lư được
tuyên nói. Kinh là giáo pháp có thể tuyên nói, tức là cái chủ
yếu để [các pháp môn và giáo nghĩa được
nói trong bộ kinh ấy] nương tựa vào. Nếu
đă đều là giáo, th́ Kim Quang Minh chính là Kinh. Đấy
là giải thích
theo lối tŕ nghiệp. [Nếu coi Kim Quang Minh và Tối Thắng
Vương] đều là Lư
th́ cũng thế. Trong ấy, có nhiều môn sai biệt, do
sợ rườm rà nên chẳng trần thuật!
4.2.2. Giải thích
tên gọi của từng phẩm
Lại chia thành bốn phần:
- Một, liệt kê danh xưng các phẩm.
- Hai, giải thích riêng biệt tên từng phẩm.
- Ba, giải thích [các phẩm trong bản kinh
này so với các bản dịch cũ] có tách hay gộp vào
hay không.
- Bốn, nêu [nguyên do sắp xếp] tŕnh tự
của các phẩm.
4.2.2.1. Nêu danh
xưng các phẩm
Chính là các phẩm Tự, phẩm Thọ
Lượng, phẩm Tam Thân, phẩm Mộng Kiến Sám Hối,
phẩm Diệt Nghiệp Chướng, phẩm Tịnh
Địa Đà La Ni, phẩm Liên Hoa Dụ Tán, phẩm Kim
Thắng Đà La Ni, phẩm Trùng Hiển Không Tánh, phẩm Y
Không Măn Nguyện, phẩm Tứ Thiên Vương Quán Sát Nhân
Thiên, phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc, phẩm
Vô Nhiễm Trước Đà La Ni, phẩm Như Ư Bảo
Châu, phẩm Đại Biện Thiên Nữ, phẩm Đại
Cát Tường Thiên Nữ, phẩm Đại Cát Tường
Thiên Nữ Tăng Trưởng Tài Vật, phẩm Kiên Lao
Địa Thần, phẩm Tăng Thận Nhĩ Da Dược
Xoa Đại Tướng, phẩm Vương Pháp Chánh Luận,
phẩm Thiện Sanh Vương, phẩm Chư Thiên Dược
Xoa Hộ Tŕ, phẩm Thọ Kư, phẩm Trừ Bệnh, phẩm
Trưởng Giả Tử Lưu Thủy, phẩm Xả
Thân, phẩm Thập Phương Bồ Tát Tán Thán, phẩm
Diệu Tràng Bồ Tát Tán Thán, phẩm Bồ Đề Thụ
Thần Tán Thán, phẩm Đại Biện Tài Thiên Nữ
Tán Thán, và phẩm Phó Chúc.
4.2.2.2. Nêu nguyên do
v́ sao đặt tên các phẩm như thế
Ba mươi mốt phẩm
được chia thành hai loại:
- Hai mươi phẩm dùng một pháp để
đặt tên.
- Mười một phẩm dùng hai pháp để
đặt tên.
1) Trong loại đầu, lại chia thành bốn
tiểu loại:
- Từ Sự mà đặt tên, gồm ba phẩm,
tức là phẩm Tự, phẩm Xả Thân, và phẩm Phó
Chúc.
- Từ Pháp mà đặt tên, bao gồm
mười phẩm, tức phẩm Thọ Lượng, phẩm
Tam Thân, phẩm Mộng Kiến Sám Hối, phẩm Diệt
Nghiệp Chướng, phẩm Tịnh Địa Đà La
Ni, phẩm Trùng Hiển Không Tánh, phẩm Y Không Măn Nguyện,
phẩm Vô Nhiễm Trước Đà La Ni, phẩm Thọ
Kư, và phẩm
Trừ Bệnh.
- Từ thí dụ mà đặt tên gồm một
phẩm, tức phẩm Như Ư Bảo Châu.
- Từ nhân (người) mà đặt tên gồm
sáu phẩm, tức Đại Biện Tài Thiên Nữ, phẩm
Đại Cát Tường Thiên Nữ, phẩm Kiên Lao Địa
Thần, phẩm Tăng Thận Nhĩ Da Dược Xoa
Đại Tướng, phẩm Thiện Sanh Vương, và phẩm
Trưởng Giả Tử Lưu Thủy.
2) [Các phẩm] dùng hai pháp để đặt
tên lại chia thành hai tiểu loại:
- Dùng pháp và dụ để đặt tên gồm
hai phẩm, tức là phẩm Liên Hoa Dụ Tán và phẩm Kim
Thắng Đà La Ni.
- Dùng nhân và pháp để đặt tên gồm
chín phẩm, tức là phẩm Tứ Thiên Vương Quán
Sát Nhân Thiên, phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc,
phẩm Đại Cát Tường Thiên Nữ Tăng
Trưởng Tài Vật, phẩm Vương Pháp Chánh Luận,
phẩm Chư Thiên Dược Xoa Hộ Tŕ, phẩm Thập
Phương Bồ Tát Tán Thán, phẩm Diệu Tràng Bồ
Tát Tán Thán, phẩm Bồ Đề Thụ Thần Tán Thán,
và phẩm Đại Biện Tài Thiên Nữ Tán Thán.
4.2.2.3. [So với
các bản dịch cũ, các phẩm trong bản dịch
này] có tách ra hay gộp vào hay không?
1) Trước hết, nêu rơ [giữa
các bản dịch cũ và bản này] có bất đồng
hay không. Bản dịch của ngài Đàm Vô Sấm đời
Tây Lương gồm mười tám phẩm, thiếu
mười ba phẩm. Dẫu tách năm phẩm [trong bản
ấy] ra [để tương ứng với năm phẩm
trong bản này], vẫn c̣n thiếu tám phẩm. Bản dịch
của ngài Chân Đế đời Lương có hai
mươi hai phẩm, tức là [so với bản của
ngài Đàm Vô Sấm th́ có] thêm các phẩm Tam Thân, phẩm Tối
Tịnh Địa, và phẩm Y Không
Măn Nguyện. Trừ các phẩm được tách ra, hăy
c̣n thiếu bốn phẩm [so với bản dịch của
ngài Nghĩa Tịnh]. Bản dịch của ngài Xà Na Quật
Đa gồm hai mươi bốn phẩm, tức là [so với
bản của ngài Chân Đế] có thêm phẩm Ngân Chủ
Đà La Ni tức phẩm Vô Nhiễm Đà La Ni trong kinh này
(bản dịch của ngài Nghĩa Tịnh) và phẩm Chúc
Lụy. Trừ các phẩm được tách ra [để
tương ứng với bản kinh này], vẫn c̣n thiếu
hai phẩm. Tam Tạng pháp sư Trung Hưng đời
Đường (ngài Nghĩa Tịnh) đối chiếu với
nguyên bản tiếng Phạn để dịch những phần
sai sót, thất lạc, đạt được đầy
đủ các phẩm và tên các phẩm. Lại thêm vào các phẩm
Kim Thắng Đà La Ni, phẩm Như Ư Bảo Châu mà các bản
dịch cũ không có.
2) [Đối chiếu giữa các bản dịch,
sẽ thấy các phẩm được] tách ra hay gộp
vào có sai khác: [Trong các bản dịch cũ], phẩm Quán Sát
Nhân Thiên và Hộ Quốc được gộp lại,
đặt tên là phẩm Tứ Thiên Vương. Phẩm
Đại Cát Tường Thiên Nữ và phẩm Đại
Cát Tường Thiên Nữ Tăng Trưởng Tài Vật
được gộp thành phẩm Công Đức Thiên Nữ.
Các phẩm Thập Phương Bồ Tát Tán Thán và phẩm Diệu
Tràng Bồ Tát Tán Thán, phẩm Bồ Tát Thụ Thần Tán
Thán, phẩm Đại Biện Tài Thiên Nữ Tán Thán
được gộp thành phẩm Tán Phật. Nay trong bản
dịch này (bản của ngài Nghĩa Tịnh),
các phẩm ấy đều được tách ra, dựa
trên nhân (người) hay sự khác biệt. V́ thế, tạo
thành ba mươi mốt phẩm.
4.2.2.4. [Nguyên do sắp
xếp] các phẩm theo tŕnh tự
1) Như Lai thuyết pháp ắt
có nguyên do. Nếu các duyên tụ hội, căn cơ phù hợp,
[thính chúng] kiền thành, khát ngưỡng, nguyện mong muốn
được nghe. Có nhân do (nguyên nhân và nguyên do) như thế
th́ mới có thể diễn nói. V́ thế có phẩm Tự.
2) Đại chúng đă tụ tập, khát
ngưỡng, cần phải ứng hợp ḷng mong của
chúng sanh mà tuyên dương. Đại chúng có ư mong mỏi,
ưa thích cái nhân của cái quả vô thượng, cho nên nhờ
vào những vị như Diệu Tràng v.v… khai thỉnh. V́ thế,
nói Bồ Đề Niết Bàn, cho nên có phẩm Thọ
Lượng sanh khởi.
3) Tuy đă khơi mở, nói tổng quát, [nhưng v́ đại chúng] chưa biết cặn
kẽ sự sai biệt, phải nói tách riêng Bồ Đề
và Niết Bàn. Dựa trên sự sai khác giữa tổng
và biệt, phải
nên nói riêng biệt ba thân và Niết Bàn. Do kinh văn nói về
Niết Bàn ít, tuy đă nói riêng biệt, vẫn gộp chung
trong phẩm Thọ Lượng. Do kinh văn nói về tam
thân cặn kẽ, v́ ngài Hư Không Tạng thỉnh cầu
cho nên
mới nói riêng. Do vậy, có phẩm Tam Thân sanh khởi.
4) Đă biết quả thù thắng chẳng
bỗng dưng thành tựu được, ắt phải
đợi tu nhân th́ mới có thể chắc chắn đạt
được. Để tu hạnh thù thắng, trước
đó,
cần phải sửa
đổi những sai trái
trước đó th́ túc thiện mới có thể sám hối
tiền
khiên. V́ thế, đức Phật gia hộ ngài Diệu
Tràng khiến cho Bồ Tát trong mộng sám hối các sai trái xưa
kia. Do vậy, có phẩm Mộng Kiến Sám Hối.
5) Tuy trong mộng đă
trừ lỗi, vẫn c̣n
chưa hiểu rơ. V́ thế, tâm diệt chướng ác ắt
phải cậy vào cái nhân thù thắng. Do đó, Như Lai
phóng quang để kinh động, tỉnh
giác Đế Thích. V́ vậy, ông ta mới
khải
thỉnh, mong đức Phật nói dạy phương pháp sám hối,
gột rửa. Đức Phật liền v́ ông ta trần thuật cặn kẽ. Bởi lẽ đó,
phẩm Sám Hối bèn kế tiếp sanh khởi.
6) Đă sám hối lỗi
trước, phải nên tu chánh hạnh. V́ thế, ngài
Sư Tử Tướng thưa thỉnh huyền cơ,
Như Lai đại bi lần lượt diễn nói các sự phát tâm tu hành, đoạn chướng,
chứng chân, và thần chú để hộ tŕ. Do đó, phẩm
Tịnh Đà La Ni sanh khởi.
7) Các nghiệp
thù thắng như thế ấy do ngài Diệu Tràng phát khởi,
đại chúng muốn biết làm
như thế nào th́ mới có thể được như vậy.
V́ thế, đức Phật v́ họ nói
nhân duyên xưa kia, cho biết: Ngài Diệu Tràng trong quá khứ
tên là Kim Long Chủ đă dùng thí dụ về hoa sen tán thán
chư Phật. Nhờ nghiệp thù thắng ấy mà có thể
phát khởi rộng răi thọ lượng, mở ra pháp sám
hối. V́ thế có phẩm Liên Hoa Dụ Tán.
8) Đă do cúng dường, tán thán Phật
làm cái nhân, cho nên dạy tŕ chú để luôn được
thấy Phật. V́ vậy có phẩm Kim Thắng Đà La
Ni.
9) Tuy đă rộng nói nhân quả, khiến
[cho người nghe] nguyện tu hành, nhưng chưa nói rơ
Nhị Không để quét sạch t́nh chấp. Hơn nữa,
trong các phẩm trước, phần nhiều dựa theo Tục
Đế để khuyên chúng sanh khởi tu, nay bèn
nói Nhị Không (Nhân Không và Pháp
Không)
dựa theo Thắng Nghĩa Đế để họ trừ
bỏ chấp trước. Các phẩm trước tuy
đă nói đại lược các nghĩa, nay lại nói cặn
kẽ, khiến cho họ được khai ngộ. V́ thế
có phẩm Trùng Hiển Không Tánh.
10) Trong các phẩm trước, phần nhiều
nói về Hữu hạnh, sợ họ vướng mắc
nơi Hữu, chẳng chứng Chân. Nay nêu tỏ rộng
răi Nhị Không, lại sợ họ trầm trệ nơi
Không mà chẳng tu hành, muốn khiến cho họ
nương theo phương tiện để khởi hạnh,
từ ngay các hạnh mà quán Không, nương vào cái Không thù
thắng mà chứng Chân, tức là do quán Không mà tu tập Hữu. Không lẫn Hữu đều
mất, chẳng chấp trước th́ mới có thể
thành tựu hạnh thù thắng ḥng chứng Bồ Đề.
Do đó có phẩm Y Không Măn Nguyện.
11) Trên đây đă nói cặn kẽ nhân quả
Bồ Đề và Niết Bàn trong pháp hội. Cầu quả,
tu nhân, Chân và Tục cùng quán, các việc cần thiết
đă thực hiện trọn vẹn th́ sẽ đạt
được lợi ích ngay trong pháp hội. Muốn khiến
cho pháp được lưu hành, ngơ hầu người
đời sau hiểu biết mà tu hành. Do người đời
Mạt có lắm chướng
duyên, sợ khó thể tu tập, nếu chẳng tăng thêm các duyên để giúp bảo vệ,
chúng
sanh sẽ gặp chướng ngại, chẳng thể tu
hành. Pháp chẳng có người tu, sẽ do đâu mà lưu
truyền trong cơi đời? V́ thế, cậy vào phước
lực của tứ thiên vương và sự gia hộ oai thần của bát bộ, trời người kính trọng
th́ mới có thể lưu truyền. Do vậy có phẩm Tứ
Thiên Vương Quán Sát Nhân Thiên.
12) Lại nữa, chỗ nào có kinh này lưu hành, sẽ
được lợi ích rất nhiều. Đối với
nơi chốn có kinh này truyền
tới, đều nên cung kính cúng dường. Cung kính, cúng
dường khiến cho pháp được tăng trưởng
rộng răi, thiên thần vui mừng gia hộ. V́ thế, có
phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc.
13) Nhưng lại sợ học nhân đắm nhiễm
các cảnh, thoái thất đại Bồ Đề, cho nên
nói thần chú ngơ hầu người đọc tụng chẳng
đắm nhiễm, ở trong sanh tử luân hồi mà chẳng
thoái thất cái tâm cầu quả Vô Thượng.
V́ thế, sanh khởi phẩm Vô Nhiễm Trước
Đà La Ni.
14) Tuy đă khiến cho chẳng thoái chuyển,
nhưng vẫn c̣n có nạn duyên, sợ hăi, các nạn bất
ngờ xâm hại, trở ngại cho sự tu tập. V́ thế,
nói thần chú trừ sợ hăi và uổng mạng, [khiến cho hành
nhân] tu hành không sợ hăi. Do vậy, có phẩm Như Ư Bảo
Châu.
15) Đă chẳng thoái chuyển, ĺa sợ
hăi, bèn có thể tự tu hành. Bồ Tát ắt cần ấp ủ ư nguyện
hoằng pháp cứu vớt chúng sanh. Hoằng pháp để
cứu vớt chúng sanh, ắt phải nhờ vào thân an, trọn
đủ bốn món biện tài. V́ thế, Biện Tài Thiên
Nữ nói chú để thủ hộ và giúp đỡ, kiêm dạy
cách tắm gội để thân
được an ổn. Do đó, có phẩm Đại Biện
Tài Thiên Nữ.
16) Tuy đă được thân an, trọn
đủ biện tài, ắt phải nhờ vào bốn sự
(thức ăn, y phục, đồ trải nằm,
và thuốc thang) [để sống sót]. Nếu các duyên bổ
trợ thiếu khuyết, do mong cầu các sự ấy, sẽ
phương ngại chuyện cứu vớt [chúng sanh] rộng
răi. Bởi đó, mới dạy dùng ít công sức để
đạt được nhiều duyên bổ trợ. V́ thế,
có phẩm Đại Cát Tường Thiên Nữ.
17) Người tŕ kinh tuy tự dồi dào bốn
sự, chẳng cần phải cầu từ bên ngoài,
người nghe vẫn cần phải cúng dường.
Tu học mà nghèo thiếu, tâm mong cầu chẳng được
thỏa, chẳng có cái snhân
để sanh ra phước thù thắng. V́ thế,
dạy cho họ phương pháp
để trọn đủ phước, khiến cho
người nương theo đó sẽ lưu truyền thánh giáo. V́ thế,
có phẩm Đại Cát Tường Thiên Nữ Tăng
Trưởng Tài Vật.
18) Tuy đă dư dật ngũ cốc, lại
sợ chẳng thơm ngon, muốn cho cuộc đất ở
chỗ có kinh này lưu hành [sẽ sanh ra các thứ thực
phẩm] hương vị tinh xảo, thơm tho, cho nên mới
có phẩm Kiên Lao Địa Thần.
19) Lại nữa, để lưu thông kinh
ḥng lợi lạc chúng sanh th́ phải cậy vào trí huệ,
thấu hiểu Tục, thông đạt Chân, thường
sanh trong đường lành. Nhằm dạy [hành nhân] đạt
được hai cái nhân ấy, cho nên có phẩm Tăng Thận
Nhĩ Da Dược Xoa Đại Tướng.
20) Lại v́ thế lực của quốc
vương có thể tạo ra tổn hoại hay tăng
ích. Nếu [quốc vương] chẳng thuận theo chánh
lư, sẽ sanh ra nhiều tai biến, chúng sanh tăng trưởng
tà tâm, khó thể nghe giáo pháp này, cần phải dạy vua
chánh lư hoằng dương kinh này. V́ thế có phẩm
Vương Pháp Chánh Luận.
21) Tuy nói nhiều hạnh, sợ họ chẳng
hành theo, bèn nêu ra cái nhân của chính ḿnh trong thuở trước
để khích lệ đại chúng trong thuở ấy. V́
thế có phẩm Thiện Sanh Vương.
22) Tuy đă nêu ra chuyện trước để
khuyên lơn đại chúng trong hội ấy, sợ
họ chẳng chuyên tâm, siêng gắng tu hành, học tập,
lại nói ra khuôn phép tu học, nêu cặn kẽ công năng
của các chuyện trên đây ḥng khuyến tấn đại
hội đề cao, giữ vững chí ư. Bởi đó, có
phẩm Chư Thiên Dược Xoa Hộ Tŕ.
23) Nhằm nêu rơ kinh này lợi ích rộng lớn,
đạt được lợi ích cực nhiều,
người nghe sẽ được thọ kư Bồ
Đề, bèn nói rơ hơn về sự thọ kư. Nếu chẳng
thọ kư, chúng sanh nghi hoặc, chắc chắn chẳng thể
quyết chí học tập, tu hành. V́ thế, nói thọ kư
khiến cho chúng sanh ngưỡng mộ, tu hành. Do vậy có
phẩm Thọ Kư.
24) Do mười ngàn thiên tử vừa mới
nghe kinh, liền được Phật thọ kư, chúng sanh
ngờ vực: “Gieo căn lành nào th́ sẽ được
thọ kư Bồ Đề? Như thế nào th́ sẽ
được đức Thế Tôn thuyết pháp cho?” V́ thế,
nói đến cái nhân xưa kia, bèn có các phẩm Trừ Bệnh
và phẩm Lưu Thủy.
25) Đại chúng nghe đức Thế Tôn
chữa bệnh trong quá khứ, thí nước giúp cá, cho rằng
“tu chút hạnh liền đắc Bồ Đề”. Đức
Phật bèn dạy rơ, không chỉ là chừng đó, mà là nhiều
vô lượng. Ngài chỉ nêu đại lược một
đời khổ hạnh xả thân cho cọp ăn. V́ thế
có phẩm Xả Thân.
26) Đại chúng nghe pháp sâu mầu, lại
nghe các nhân khổ hạnh, đại hội không ai chẳng
hoan hỷ. V́ vậy, trước hết các Bồ Tát thuộc
cơi khác tán dương. Do đó có phẩm Thập
Phương Bồ Tát Tán Thán.
27) Các cơi khác tán thán xong, Bồ Tát trong
phương này và các thiên thần, địa kỳ v.v…
cũng cùng tán dương. Do vậy có ba phẩm như Diệu
Tràng Bồ Tát Tán Thán v.v…
28) Nói và tán thán đă xong, [đức Phật
liền] ủy thác, gởi gắm, khiến cho [chúng sanh] tu hành, đại chúng phụng tŕ, cho
nên có phẩm Phó Chúc.
Đó chính là dựa theo chín phẩm thuộc
phần Chánh Tông của kinh này, nêu sơ lược đại
ư để giảng giải thứ tự [của các phẩm].
Các điều sai khác trong ấy không ǵ chẳng phải là
nghĩa sai biệt. Nếu coi hai mươi tám phẩm
đều thuộc phần Chánh Tông th́ thứ tự [của
các phẩm] vẫn cứ chuẩn theo đó.
5. Dựa theo kinh
văn, chia thành từng khoa để giải thích
Kinh gồm ba mươi mốt phẩm. Vâng
theo cách phán định của ngài Chân Đế, kinh này
được chia thành ba phần:
- Phẩm đầu tiên thuộc Tự Phần.
- Mười chín phẩm kế đó là phần
Chánh Thuyết (phần Chánh Tông).
- Hai phẩm sau cùng thuộc phần Lưu
Thông.
[Nay tôi cho rằng]: Phẩm Tán Thán Phật
[trong bản dịch của ngài Chân Đế] nói các đại
sĩ từ cơi khác tán thán đức Phật thuộc các
phương ấy. Kinh văn của phẩm kế đó
nói các vị Đại Sĩ trong cơi này tán thán Phật
nơi phương này (Phật Thích Ca). Do [đức Phật
Thích Ca] thuyết pháp đă xong, các vị Bồ Tát trong cơi
khác trở về cơi họ, mới nói phẩm này, cho nên [phẩm
này] chẳng phải là Chánh Thuyết (chẳng thể thuộc
vào phần Chánh Tông). V́ vậy, trong phẩm này, đại
chúng lănh ngộ, thông hiểu, tán thán người có thể
nói pháp;
đó chẳng phải là ư nghĩa chánh yếu của kinh.
Trong phẩm cuối cùng, Như Lai phó chúc hoằng pháp th́
chính là lưu thông.
Hỏi: [Các vị Bồ Tát ở]
phương khác tán thán được gom vào sau phần Chúc
Lụy đă rơ, v́ sao phẩm Chúc Lụy đặt sau phẩm
Thán Phật?
Giải rằng: Phải nên là như thế!
Chỉ do người kết tập gộp hai phẩm này
vào một chỗ, phần căn dặn phụng hành xếp
vào cuối cùng. Nay chuẩn theo bản dịch mới [của
ngài Nghĩa Tịnh], trước hết là Bồ Tát ở
phương khác tán thán Như Lai trong cơi này, trọn
chẳng phải là trở về cơi của chính ḿnh để
tán thán đức Phật trong cơi ấy. Nay có hai cách giải
thích:
1) Phẩm đầu tiên [được xếp
vào Tự Phần], xưa nay giống nhau. Chín phẩm từ
phẩm Thọ Lượng cho đến phẩm Y Không Măn
Nguyện là phần Chánh Tông của Kinh, hai mươi mốt
phẩm kia hoàn toàn là lưu thông. V́ sao
vậy? Các vị như Diệu Tràng v.v… muốn nghe quả
và nhân của Bồ Đề Niết Bàn, đức Thế Tôn
v́ họ nói thọ lượng vô tận chính là giảng rơ
Bồ Đề. Kiều Trần Như có nghi t́nh: “[Đă
nói] thọ mạng [của Phật] là vô cùng, cớ sao lại
nói ‘nhập Bát Niết Bàn’? Xin đức Phật nói
nghĩa chân thật của Niết Bàn”. Nếu không, bốn
đức Phật đă v́ Diệu Tràng chỉ dạy
nguyên do của Niết Bàn xong, cớ sao Kiều Trần
Như lại xin thỉnh xá-lợi? Do vậy, đấy là
v́ muốn nói rơ nghĩa Niết Bàn mà Ngài thốt ra lời
thỉnh vấn ấy. Bởi thế, trong bản dịch
cũ có ghi: “Như Như Lai thuyết
như thị chi nghĩa, ngă dĩ văn tri, vị thỉnh
Như Lai quảng khai phân biệt chân thật chi nghĩa, cố
cầu xá-lợi khai phương tiện môn” (Như
đức Như Lai đă nói nghĩa như thế, con
đă nghe biết, xin Như Lai rộng khai phân biệt
nghĩa chân thật. Con cố ư cầu xá lợi, ḥng mở ra môn
phương tiện). Trong bản dịch mới, phần
kinh văn tiếp đó nói rộng nghĩa chân thật của
Niết Bàn, bản dịch cũ bị thiếu khuyết.
Đă nghe đức Phật nói thọ lượng vô biên,
[tuy biết] Phật có ba thân, nhưng chưa biết sự
sai biệt [giữa ba thân ấy], lại mong tu học, [cho
nên Ngài] thỉnh Phật
hăy trần thuật. Nếu không hiểu rơ sự sai biệt
ấy, sẽ chẳng biết cái nhân của chứng quả.
V́ thế, trước hết đức Phật nói rơ sự
sai biệt giữa ba thân, kế đó bèn dạy tu học.
Nguyên tắc chánh yếu trong tu học là đoạn ác, tu
thiện. “Đoạn ác” chính là sám hối diệt
chướng. “Tu thiện” chính là nương vào
năm địa vị để tu mười hạnh
thù thắng trong ba A-tăng-kỳ kiếp. Hạnh
nương vào cảnh mà khởi, [do đó], cần phải
biết Chân và Tục. Trong phần sau lại giảng về
tánh Nhị Không lần nữa. Không và Hữu đều
cùng tu tập, nương vào Không để măn nguyện. Do
vậy, hạnh trọn vẹn, quả viên măn. Bởi
đó, phần Chánh Tông của kinh nằm ở chỗ này.
2) Từ phẩm Tứ Thiên Vương Quán
Sát Nhân Thiên trở đi, chỉ là nh́n vào chuyện thọ
tŕ, đọc tụng, lưu thông. Đối với tất
cả các chỗ [có kinh này lưu thông], sẽ ra sức thủ hộ,
tăng trưởng tài vật, tăng thêm biện tài, giúp
tăng trưởng trí huệ, trừ tai nạn, tự
nói, khuyên bảo người khác. Dụng ư là khiến cho
hàng Bồ Tát học tập, tu hành nghe biết, tán thán. [Do
những chuyện ấy được] Như Lai giao phó,
cho nên hoàn toàn thuộc phần Lưu Thông. Tuy sau đó có phần
thọ kư Bồ Đề cho các vị như Diệu Tràng,
nhưng đều mang ư nghĩa nói về lợi ích của
kinh. Được thọ kư sẽ thành tựu, [dụng ư
nhằm] khuyên lơn, phát khởi đại chúng trong lúc ấy
hăy nên vâng theo lời dạy mà tu học. Nếu
không, lẽ ra phải trước khi nói phẩm Thọ
Lượng, cho đến khi nói
phẩm Liên Hoa Dụ Tán xong, liền trao truyền thọ
kư, sao lại đợi tới sau phẩm Chư Thiên
Dược Xoa Hộ Tŕ? V́ thế, biết là [những phẩm ấy] đều thuộc về phần
Lưu Thông.
Nhưng pháp sư Truyền Chân Đế nói:
“Nếu từ phẩm Tứ Thiên Vương trở
đi phán định thuộc về Lưu Thông th́ là sai lầm.
V́ sao? Phẩm Thọ Lượng nói về cái quả của
đức Thích Ca, sao lại chỉ thuộc phần Chánh
Thuyết? Phẩm Thọ Kư nói đến cái quả của
đệ tử, sao lại thuộc về Lưu Thông? Các
phẩm Thiện Tập và Xả Thân nói về liễu nhân
của Phật Thích Ca sao bỗng dưng chỉ thuộc về
Lưu Thông? Các phẩm Sám Hối và Không đều nói về
liễu nhân của đệ tử, v́ lẽ nào lại thuộc
phần Chánh Thuyết? Lại nữa, phẩm Tam Thân cùng
nói về chánh nhân của đôi bên (Phật và chúng sanh), v́
sao chỉ thuộc về Chánh Thuyết? Do vậy, từ
phẩm Thọ Lượng cho đến Xả Thân đều
thuộc về Chánh Tông”.
Nay giải rằng: Phẩm Thọ Lượng
tuy nói đến cái quả của Phật Thích Ca, đó
chính là điều được [chúng sanh] mong cầu. Phẩm
Thọ Kư tuy nói về cái quả của đệ tử,
nhưng mang ư nghĩa lưu truyền kinh, nêu ra lợi ích
để khuyên bảo đại chúng. Do vậy thuộc về
Lưu Thông. Các phẩm như Sám Hối v.v… tuy đúng là
nhân, v́ đệ tử mà nói, nói đến cái quả chính
là v́ khiến cho họ sẽ hành cái nhân. Các phẩm như
Tịnh Địa v.v… bao gồm cả cái nhân của
chư Phật, chẳng phải chỉ là các đệ tử
trong hiện thời. V́ thế, các phẩm như Sám Hối
v.v… thuộc phần Chánh Thuyết. Các phẩm như Xả
Thân v.v… nói đến chuyện trong quá khứ, nêu chuyện
của chính ḿnh để khuyên người khác, chẳng phải
là trong hội hiện thời mới tự học, tu hành.
Do đó, thuộc về Lưu Thông. Nếu chẳng phải
vậy, [lập luận rằng] phẩm Liên Hoa Dụ Tán
do tán thán công đức của Phật bèn thuộc về
Chánh Tông, vậy th́ do lẽ nào mà phần
Bồ Tát tán thán Phật lại thuộc vào Lưu Thông? Lại
nếu [cho rằng] các phẩm như Tứ Thiên
Vương v.v… do đức Thế Tôn truyền bảo hộ
tŕ, họ vâng mạng hộ tŕ, phải thuộc phần
Chánh Tông, vậy th́ phẩm Phó Chúc cũng căn dặn hành
tŕ, sao lại thuộc phần Lưu Thông? Bởi lẽ
đó, tuy phẩm Thọ Kư nhắc tới cái quả trong vị
lai, phẩm Xả Thân nói về cái nhân quá khứ, nhưng
đều do khuyên lơn mà có, cho nên đều thuộc về
phần Lưu Thông.
5.1. Phẩm Tự
(Tự phẩm đệ nhất, 序品第一)
Trong phẩm Tự, có bảy điều
viên măn:
- Một, tự (trần thuật sáu thứ
thành tựu) viên măn.
- Hai, tam-muội viên măn.
- Ba, thính chúng viên măn.
- Bốn, cái nhân để nói [bộ kinh này]
viên măn.
- Năm, thời điểm nói kinh viên măn.
- Sáu, suy xét căn cơ viên măn.
- Bảy, nêu bày, diễn nói viên măn.
1) Trong phần Tự viên măn, có hai loại thù
thắng, tức là thành [Vương Xá] thù thắng hơn
các thành khác và núi [Thứu Phong] thù thắng hơn các núi khác,
tỏ rơ pháp môn này và công đức đều thù thắng,
như Pháp Hoa Kinh Luận đă giải thích.
2) Tam-muội viên măn là như kinh nói “ư
tối thanh tịnh thậm thâm pháp giới” (trong pháp giới
thanh tịnh rất sâu nhất) v.v… V́ thế, quyển hai của
Phật Địa Luận có chép: “Đạt được
bờ kia thù thắng ‘chẳng trụ vào hai bên’ của Phật”,
cho đến giải thích rằng: “Chẳng trụ vào
hai bên của Phật chính là dùng Pháp Thân Chân Như làm Thể,
chẳng có tướng sai biệt. Trong đó, hết thảy
các phân biệt ‘có hai tướng’ đều chẳng hiện
hành. Duyên theo môn Định thù thắng ấy, sẽ trụ
ở trong đó, cho nên gọi là Trụ, tức ‘chẳng
trụ vào hai bên’ th́ gọi là ‘bờ
kia thù thắng’. Do Phật
đă thấu đạt tột cùng nên gọi là đạt
được”, có nghĩa là: Nêu rơ Chân Như Pháp
Thân chẳng có cái Thể nào khác, chỉ là tánh và tướng
khác nhau. Do có thể chứng tột cùng, nên gọi là “đắc
Pháp Thân”. Do đă rốt ráo chân lư, nên gọi là “thắng
bỉ ngạn” (bờ kia thù thắng). Dùng đại
trí định để thường duyên theo, chứng nhập,
cho nên gọi là Trụ. Đối ứng với căn
cơ mà chỉ bày tướng, trong phần sau lại nói “bô[41]
thời, tùng Định nhi khởi” (vào buổi chiều,
vừa từ Định khởi). Nếu đấy chẳng
phải là Định, th́ sẽ từ Định nào khởi
vậy?
3) Nguyện ưa thích muốn nghe, cái nhân nói
ra kinh này viên măn, cứ nh́n theo kinh văn sẽ dễ thấy.
4) Từ câu “dữ đại bật-sô”
(cùng với các đại bật-sô) trở đi, chính là
thính chúng viên măn.
5) “Ư nhật bô thời tùng
Định nhi khởi” (vào lúc buổi chiều vừa từ
Định khởi) tức là lúc nói pháp viên măn, xem kinh
văn sẽ dễ thấy.
6) Quán sát đại chúng là suy xét căn
cơ viên măn. Nếu đức Phật thuyết pháp, ắt
Ngài đều dùng tâm b́nh đẳng và tâm từ để
quán, thấy căn tánh của họ ưa thích mong
được nghe, sẽ khiến cho họ ai nấy
đều cho rằng [đức Thế Tôn] “riêng v́ ḿnh ta mà nói”.
7) Từ “thuyết kệ tụng” (nói
kệ tụng) trở đi, là nêu bày, diễn nói viên măn.
Nay đối với bảy thứ viên măn
đó, lại chia làm hai loại Tự:
- Loại thứ nhất và thứ ba
được gọi là Thông Tự, cũng gọi là Chứng
Tín Tự.
- Những loại khác được gọi
là Biệt Tự, c̣n gọi là Phát Khởi Tự.
Hỏi: Phần Biệt Tự nói [đức
Phật] trụ trong Định đáng lẽ phải nói
sau, v́ sao lại nói trước các điều khác, chẳng
nói theo thứ tự?
Đáp: Do thân trụ và tâm trụ đều
được gọi là Trụ. Lại do hai nghĩa bèn hợp lại cùng một
chỗ để nói. Phần Thông Tự gồm có năm
điều, như trong Phật Địa Luận đă
phán định.
(Kinh) Như thị ngă văn: Nhất thời,
Bạc Già Phạm tại Vương Xá thành, Thứu Phong sơn đảnh.
(經)如是我聞:一時薄伽梵在王舍城鷲峯山頂。
(Kinh: Tôi nghe như thế này: Một thời,
đức Bạc Già Phạm[42]
ở tại thành Vương Xá, trên đỉnh núi Thứu
Phong).
Tán rằng[43]:
Đây là phần kinh văn nói về bốn điều
đầu tiên trong Thông Tự. Điều thứ tư nói
về Xứ, lại có hai thứ:
- Một là trụ xứ của sắc thân.
- Hai là trụ xứ của Pháp Thân.
“Thành Vương Xá…” là trụ xứ của
sắc thân. [Trụ xứ lại c̣n chia thành] cộng và bất
cộng, tức “thành Vương Xá…” là chỗ phàm
thánh tam
thừa cùng ở. Trong phần sau, kinh văn sẽ nói về
chỗ cư trụ bất cộng của Phật. Đối
với “cộng cư” (chỗ cư trụ chung của
phàm thánh tam thừa) th́ như trong Pháp Hoa Sớ của ngài
Từ Ân (Khuy Cơ) đă biện định cặn kẽ.
Hỏi: V́ sao cần phải nói đến Xứ?
Đáp: Trong Bát Nhă Luận[44]
của Công Đức Thí Bồ Tát có nói “v́ khiến cho biết
hành xứ của đức Thế Tôn, khiến [cho người nghe]
sanh ḷng kính trọng, thành tựu phước thù thắng”. Trí Luận (Đại
Trí Độ Luận nói): “Nói thời, nơi chốn, và
người (vị chủ giảng và thính
chúng)
để khiến cho [người nghe] sanh ḷng tin thanh tịnh”. Hăy nên gộp
chung cả hai nghĩa ấy th́ mới nên.
(Kinh) Ư tối thanh tịnh thậm
thâm pháp giới chư Phật chi cảnh Như Lai sở
cư.
(經)於最清淨甚深法界諸佛之境如來所居。
(Kinh: Ngài ở trong pháp giới thanh tịnh
rất sâu nhất, [pháp giới ấy]
là cảnh giới của chư Phật, là chỗ cư trụ
của Như Lai).
Tán rằng: Nói đến chỗ y chỉ
thành tựu của Pháp Thân Phật, đó chính là chỗ
tam-muội thành tựu. V́ sao cần phải hiển hiện
tam-muội phần vậy?
Đáp: Như Pháp Hoa Kinh Luận và Bát Nhă Luận
của Vô Trước Bồ Tát đă biện định.
Do ĺa hai chướng,
nên gọi là “tối thanh tịnh” (thanh tịnh nhất). Chẳng cùng chung với
Nhị Thừa th́ là “thậm thâm” (rất sâu). Tự
tánh của các pháp được gọi là “pháp giới”.
Pháp giới ấy chính là cảnh trí để chư Phật
duyên vào; do thuộc vào tánh công đức nên là “Phật
độ” (cơi Phật). Chỗ để Pháp Thân
nương vào được gọi là “Như Lai sở
cư”. V́ thế, quyển thứ năm của kinh Giải
Thâm Mật có nói: “Như Lai sở hành vị Nhất Thiết
Chủng, Như Lai cộng hữu bất khả tư nghị
vô lượng công đức chúng sở trang nghiêm thanh tịnh
Phật độ, tức công đức nghĩa tướng
biên danh tự tánh Pháp Thân. Dĩ công đức tướng
tức y Chân Như, bất ly tánh cố, danh chi vi Trụ.
Hoặc trí nội chứng,
vân Như Lai cư” (Sở hành của Như Lai được gọi là Nhất
Thiết Chủng. Như Lai cùng có vô lượng chẳng
thể nghĩ bàn công đức để trang nghiêm thanh tịnh
cơi Phật, tức là công đức thuộc về nghĩa
tướng th́ gọi là Tự Tánh Pháp Thân. Do tướng
công đức nương vào Chân Như, chẳng ĺa tánh,
nên gọi là Trụ, hoặc trí nội chứng
được
gọi là chỗ cư trụ của Như Lai).
Phật Địa Luận lại nói: “Phật
vô nhị trụ, tức thị Pháp Thân Chân Như vi Thể,
vô sai biệt tướng” (Phật chẳng có hai chỗ
trụ, tức là lấy Pháp Thân Chân Như làm Thể, không
có tướng sai biệt). Lại giải rằng: “Ly
chướng Chân Như được gọi là thanh tịnh
nhất” v.v… Tức là do cái trí “năng chứng” (có
thể chứng) thường chứng Như, cho nên gọi
là Trụ. V́ thế, quyển hai Phật Địa Luận
viết: “Trong ấy, phân biệt hết thảy các thứ
‘hai tướng’ đều chẳng hiện hành. Do duyên
theo Định thù thắng, thường trụ trong
đó, cho nên gọi là Trụ”. Trụ có nghĩa là “ở”.
[Hỏi]: V́ sao cần phải
nêu ra hai loại trụ xứ?
Đáp: V́ muốn chỉ ra ba thân chẳng phải
là “tức” và “ly”.
Hỏi: Theo kinh văn trong phần sau th́ thọ
lượng của Như Lai được nói trong cái thất
của ngài Diệu Tràng, cớ sao phần Thông Tự chỉ
nói tới Thứu Phong?
Đáp: Theo kinh văn, ngài Diệu Tràng tới
chỗ Phật Thích Ca, đối trước đức
Phật nhắc lại chuyện ấy. Như Lai ấn khả,
ngài A Nan được nghe; [sau đó, Ngài trùng tuyên khi kết
tập kinh điển] th́ cũng được gọi là
“Phật Thuyết”. V́ thế, khi kết tập chỉ
nói “trụ tại thành Vương Xá”. Hơn nữa, cơi Tịnh Độ ấy (cơi Tịnh
Độ hiện ra khi bốn vị Như Lai nói thọ lượng
trong thất của ngài Diệu Tràng) chẳng phải là người trong
tam thừa đều cùng được thấy, [người kết
tập chỉ] dựa theo điều mọi người
cùng thấy mà nói là thành Vương Xá.
Cổ nhân lại giải thích như sau: “Bốn
thời, ba xứ”. “Bốn thời” chính là:
- Một, khi bốn vị Như Lai [hiện
thân nói thọ lượng] trong thất của ngài Diệu
Tràng.
- Hai, lúc đức Thế Tôn ngự trên
đỉnh Linh Thứu.
- Ba, lúc Diệu Tràng cũng đến chỗ
đức Phật.
- Bốn, khi [các vị Bồ Tát] trở về
các cơi ở phương khác.
[Ba chỗ] là đỉnh núi, thất của
Diệu Tràng, và phương
khác. V́ thế có “bốn thời, ba chỗ”.
Nay giải rằng: Chỉ là một thời,
một chỗ. Do ngài Diệu Tràng nghe bốn vị Phật
nói [thọ lượng], cùng các đại chúng đến
chỗ đức Phật nhắc lại.
Mười phương Bồ Tát đều tán thán đức
Phật trong cơi này, chẳng phải trở về cơi khác
tán thán đức Như Lai trong cơi ấy. V́ thế là một
thời, một chỗ. Nếu chẳng phải như vậy,
ở trong thất, mộng thấy cái trống bằng vàng,
tỉnh dậy bèn đến chỗ Phật thưa tŕnh, sẽ
thành năm thời, bốn chỗ! [Bởi lẽ], khi mộng
thấy cái trống, chẳng nói “thất thanh tịnh”.
Khi [bốn vị Phật] nói thọ lượng th́ thất
biến thành thanh tịnh, cho nên có hai chỗ! Khi nằm mộng
th́ nói thời gian là ban đêm, [cổ nhân] đă không coi
đó là một thời khác, bèn biết là khi bốn đức
Như Lai nói [thọ lượng] trong thất, chẳng thể
xem là thời hay chỗ khác biệt!
Nếu nói là “hai thời, hai chỗ” th́
khi ngài Diệu Tràng nằm mộng trong thất, do chưa
đối trước Phật [Thích Ca] thưa tŕnh, chẳng
được coi là “nói”. Do vậy, chẳng phải
là thời, xứ! Do bốn đức Như Lai ở trong
thất của Diệu Tràng nói thọ lượng của
Phật, cho nên coi đó là thời, xứ. Nhưng [trong hai cách giải thích ấy], cách giải thích
trước hay hơn, bởi lẽ, ngài A Nan nói là “ngă
văn” (tôi nghe). Khi bốn đức Như Lai nói thọ
lượng, ngài A Nan ở chỗ Phật Thích Ca, [chẳng
có mặt trong thất của Diệu Tràng], sẽ chẳng
thể nói là “ngă văn”. Nếu là như vậy, trong
kinh Kim Cang Hoa có nói: “A Nan tỳ-kheo đắc Pháp
Tánh
Giác
Tánh
Tự
Tại
Vương
tam-muội, dĩ tam-muội lực, tri sở thuyết
kinh giai năng ức tŕ” (tỳ-kheo A Nan đắc
Pháp
Tánh
Giác
Tánh
Tự
Tại
Vương
tam-muội, do sức của tam-muội, biết các kinh [do
đức Phật] đă nói đều có thể nghĩ nhớ,
vâng giữ). Kinh Quán Phật Tam uội cũng nói: “A Nan
nhân văn Phật thuyết niệm Phật, A Nan kiến
Phật, tức ức quá khứ cửu thập ức Phật
sở thuyết kinh tạng, ức tŕ bất vong” (A Nan
do nghe đức Phật nói niệm Phật, A Nan thấy
Phật, liền nhớ lại các kinh tạng do chín
mươi ức Phật đă nói trong quá khứ, ghi nhớ,
ǵn giữ chẳng quên). Nay cũng có ngại ǵ Phật
lực gia bị, khiến cho Ngài thấy Phật,
nghe kinh, hoàn toàn có thể ghi nhớ để rồi nói là “ngă
văn”? Đáp: Chẳng phải vậy! Đối với
các kinh ấy, đều nói là “trước kia đă từng
nghe, do được các sức khác gia bị, liền có thể
nhớ giữ chẳng quên”, chẳng phải là [nói về] các kinh chưa
được nghe! Nay bốn vị Như Lai nói [thọ
lượng] trong thất của ngài Diệu Tràng, ngài A Nan
do chưa nghe nên chẳng thể nghĩ nhớ, bởi
đă từng tiếp nhận cảnh th́ mới gọi là “ức”
(nhớ) được!
(Kinh) Dữ đại bật-sô chúng cửu
vạn bát thiên nhân.
(經)與大苾芻眾九萬八千人。
(Kinh: Cùng với các vị đại
bật-sô (tỳ-kheo) chín vạn tám
ngàn người).
Tán rằng: Đối với phần Chúng
Thành Tựu, tức các căn cơ được tiếp
độ bởi giáo pháp này, phân biệt thành năm môn:
- Một là v́ sao mà đến [tham dự hội
giảng kinh này]?
- Hai là [các loại đại chúng tham dự
pháp hoằng hội này là] Quyền hay Thật?
- Ba là số lượng bao nhiêu.
- Bốn là có hay không có [các loại đại
chúng khác]?
- Năm là giải thích kinh văn.
1) “V́ sao mà đến” th́ có năm
điều như Pháp Hoa Kinh Sớ đă nói. Lại theo
Đại Bảo Tích Kinh Luận, do ba nhân duyên mà liệt
kê chúng Thanh Văn:
- Một, khiến cho trừ nghi hoặc
đối với Đại Thừa.
- Hai, giúp cho kẻ bất định thành tựu
chánh tín.
- Ba, trừ cái tâm cho rằng “sở tác dĩ biện” (việc làm đă xong), khiến cho họ trừ trí
chướng, đạt được quả báo bậc
thượng.
Do năm nhân duyên mà liệt kê chúng Bồ Tát:
- Một là v́ trừ nghi.
- Hai là lợi ích các hữu t́nh trong thế
giới này.
- Ba là khiến cho đại chúng biết phương
khác có vô lượng Phật, khiến cho họ sanh tâm khát
ngưỡng, cầu thân cận.
- Bốn là [các vị Bồ Tát ấy] vốn
đă được Phật Thích Ca hóa độ.
- Năm, tỏ rơ các Ngài v́ pháp mà từ các
phương khác xa xôi t́m đến.
Các vị Bồ Tát ấy đă đắc
địa vị Phật nhưng vẫn v́ pháp mà đến, huống hồ
các loại khác ư!
2) Nói tới Quyền Thật th́ theo Phật
Địa Kinh Luận: “Khi Thích Ca Mâu Ni Phật nói kinh
này, đại chúng thuộc địa tiền (chưa chứng
nhập Sơ Địa) thấy biến hóa thân (Hóa Thân) ở
trong uế độ này v́ họ thuyết pháp, đại
chúng thuộc địa thượng (đă chứng nhập
Sơ Địa) th́ thấy Thọ Dụng Thân (Báo Thân) ngự
trong Phật Tịnh Độ v́ họ thuyết pháp. Tuy cùng nghe giống nhau, nhưng mỗi người
thấy mỗi khác”. Theo đó, kinh văn đă v́ đại
chúng thuộc địa tiền trong uế độ [mà diễn
nói], th́ Thanh Văn là Thật, c̣n các vị đại Bồ
Tát đáng phải nên ở trong Tịnh Độ, nhưng
nay cũng được liệt kê trong uế độ,
tức các Ngài là biến hóa! Nếu chẳng phải như vậy, các vị
Bồ Tát ấy từ Bát Địa trở lên, thọ thân
Biến Dịch, làm sao hữu t́nh trong thế giới này có
thể trông thấy các Ngài cho được? Lại giải
rằng: Đức Phật nói kinh này thật sự bao gồm Biến
Hóa Thân và Tha Thọ Dụng Thân. Nếu các vị Bồ
Tát ấy thật sự luôn ngự trong Tịnh Độ để nghe kinh nơi đức Phật, người kết
tập kinh do chẳng thể nhắc đến cả hai,
sẽ chỉ nói đến cơi mà tam thừa cùng trông thấy.
Hoặc Như Lai ngự trong chốn thanh tịnh nhất,
chính là chỉ rơ hàng Bồ Tát có cùng cái trí năng chứng, cũng
sẽ trụ trong cơi ấy, tức là thuộc về Tịnh
Độ. Nhưng các vị Thanh
Văn, xét theo Nhập Đại Thừa Luận[45] th́ một ngàn hai trăm
vị đều là biến hóa.
Xét theo luận Nhiếp Đại Thừa,
các vị như Xá Lợi Phất v.v… có ba loại:
- Một là bất định tánh.
- Hai là định tánh.
- Ba là biến hóa.
Luận nói: “Vô lượng
Xá Lợi Phất có cùng tên với Ngài”. Do vậy biết có nhiều loại [Thanh Văn]. Bồ Đề
Tư Lương Luận[46]
lại nói: “Xá Lợi Phất được chép trong kinh
Pháp Hoa là do Phật, Bồ Tát hóa thành”, [tức hàng Thanh
Văn] đều là biến hóa vậy! Quyển hai kinh Pháp
Hoa cũng ghi: “Ngă tích tằng ư nhị vạn ức
Phật sở, diệc giáo hóa nhữ, nhữ kim tất
vong” (Ta xưa kia đă từng ở chỗ hai vạn ức
Phật cũng đă giáo hóa ông, nay ông quên sạch); đó
chính là bất định tánh. Pháp Hoa Kinh Luận viết: “Là hai loại Thanh Văn, trừ quyết định
tánh và tăng thượng mạn, do căn cơ [của họ]
chưa chín muồi vậy”. Nay trong hội kinh này, có thể là [hàng Thanh Văn] gồm
chung cả ba loại, c̣n các loại
đại chúng khác là Quyền hay Thật khó thể biện
luận trọn hết được!
3) Luận về số
lượng:
a. Đối với Chúng Thành Tựu, có tất
cả mười tám loại: Một là Thanh Văn chúng, hai
là Bồ Tát chúng, ba là Ly Xa Tỳ[47]
chúng, bốn là chư thiên chúng, năm là long vương
chúng, sáu là Dược Xoa (Yakṣa) tứ
vương chúng, bảy là Yết Lộ Đồ (Garuḍa,
Ca Lâu La)
chúng, tám là hương tượng (Gandha-hastin) vương chúng, chín là Càn Thát Bà (Gandharva)
chúng, mười là A Tô La (Asura) chúng, mười một là
Khẩn Na La (Kiṃnara) chúng, mười
hai là Mạc Hô Lạc Già (Ma Hầu La Già, Mahoraga, măng xà thần) chúng, mười
ba là chư thần chúng, mười bốn là chư tiên
chúng, mười lăm là nhân vương chúng (vua trong loài
người), mười sáu là hậu phi chúng, mười
bảy là Cận Sự Nam chúng, mười tám là Cận Sự
Nữ chúng.
b. Đối với đại chúng hiện
diện khi đó th́ lại có bốn loại:
- Một là “Diệu Tràng Bồ Tát dữ
vô lượng bách thiên Bồ Tát, cập vô lượng ức
na-dữu-đa bách thiên chúng sanh, câu cộng văng nghệ Thứu
Phong sơn trung” (Diệu Tràng Bồ Tát và vô lượng
trăm ngàn Bồ Tát, cùng với vô lượng na-do-tha
trăm ngàn chúng sanh, cùng đi đến núi Thứu Phong). Đấy là đại chúng nghe
thọ lượng.
- Phẩm Diệt Nghiệp Chướng nói:
“Thời, Đế Thích, nhất thiết thiên chúng, cập
Hằng hà nữ thần, tịnh chư đại chúng,
mông hy hữu quang, giai chí Phật sở” (Khi đó, Đế
Thích, hết thảy các vị trời, cùng với nữ thần
sông Hằng, và các đại chúng được quang minh hiếm
có chiếu tới, đều đến chỗ Phật).
Đấy là đại chúng muốn nghe pháp sám hối.
- Phẩm Thọ Kư nói: “Dục dữ Diệu
Tràng Bồ Tát đẳng kư thời, hữu thập thiên
thiên tử tùng thiên hạ lai” (Khi sắp trao thọ kư
cho các vị như Diệu Tràng Bồ Tát v.v… có mười
ngàn vị trời từ cơi trời giáng xuống); đó là
đại chúng muốn được thọ kư.
- Phẩm Thập Phương Bồ Tát Tán
Thán nói: “Thuyết thị kinh thời, ư thập
phương giới, hữu vô lượng bách thiên vạn
ức Bồ Tát chúng, các tùng bổn độ, nghệ Thứu
Phong sơn” (Khi nói kinh này, trong mười phương
thế giới, có vô lượng trăm ngàn vạn ức
các vị Bồ Tát, mỗi vị đều từ cơi ḿnh
đến núi Thứu Phong). Đó là đại chúng nghe kinh
tán thán.
4) Nói về [các loại đại chúng] có
hay không [hiện diện trong pháp hội này, xét theo phẩm Tự]:
- Một, trong đại chúng tam thừa, chẳng
có Độc Giác chúng.
- Hai, trong tứ bộ chúng, chẳng có bật-sô-ni
chúng.
- Ba, trong hai loại vua (túc
tán vương và chuyển luân vương), không có Luân
Vương Chúng.
- Bốn, trong sáu đường, không có
địa ngục chúng.
- Năm, trong tam giới, không có đại
chúng thuộc hai giới trên (Sắc Giới và Vô Sắc Giới).
Nhưng theo kinh văn trong phần sau,
chư thiên thuộc Sắc Giới và Dục Giới đều
đến tụ họp trong thất của Diệu Tràng Bồ
Tát, tức là có đại chúng thuộc Sắc Giới.
Hơn nữa, cuối phẩm thứ mười có nhắc
đến bật-sô-ni chúng.
Hỏi: Khi nói kinh Nhân Vương Bát Nhă, bèn
có chúng Độc Giác và Vô Sắc Thiên. Khi nói kinh Pháp Hoa, có
hai loại vua tức là kim luân và túc tán. Khi nói kinh Đà La
Ni, có đường địa ngục, sao hội này lại
chẳng có?
Đáp: Có lẽ là tỉnh lược không
nhắc đến, chứ xét theo lẽ thật, th́ phải
nên có. Như phẩm Tự không liệt kê bật-sô-ni chúng,
nhưng các bản dịch Kim Quang Minh cũ cũng đều
chẳng liệt kê [một số loại đại chúng],
há có thể nói là [hoàn toàn] không có ư? Cách giải thích thứ
hai là: Tuy ni chúng và Sắc Giới thoạt đầu không
liệt kê, nhưng trong phần sau, [kinh văn] có nhắc
đến. C̣n như Độc Giác, Luân Vương, địa
ngục, Vô Sắc, kinh văn trước sau đều chẳng
nói tới th́ hoặc là thời chưa chín muồi, hoặc
do họ
chẳng thể hành, cho nên không có những loại
[thính chúng] ấy.
5) Dựa theo kinh văn để giải
thích, trước hết liệt kê mười tám
chúng, sau đó nói tới oai nghi. Trong phần trước th́
đầu tiên là nêu ra sáu chúng riêng, kế đến liệt
kê các loại khác. Mười hai loại đại chúng
[ngoài sáu chúng được liệt kê riêng] có thể chia
thành hai phần:
- Một là liệt kê thánh chúng.
- Hai là liệt kê phàm chúng.
Trong phần liệt kê thánh chúng, trước
hết là Thanh Văn Chúng, lại được chia thành bốn
phần:
- Một là nêu ra loại, nêu ra số.
- Hai, tán thán đức hạnh của họ.
- Ba, nêu ra tên gọi.
- Bốn, nói họ đều đến chỗ
Phật.
Nêu ra loại và số th́ như trong Pháp Hoa Sớ
đă trần thuật.
(Kinh) Giai thị A La Hán, năng thiện
điều phục như đại tượng
vương, chư lậu dĩ trừ, vô phục phiền
năo.
(經)皆是阿羅漢,能善調伏如大象王,諸漏已除無復煩惱。
(Kinh: Đều là A La Hán, khéo có thể
điều phục như voi chúa lớn, các lậu đă
trừ, chẳng c̣n phiền năo nữa).
Tán rằng: Tán thán phẩm đức. Xét
theo Pháp Hoa Kinh Luận[48],
có mười sáu câu tán thán phẩm đức của bậc
La Hán. Trong kinh này, tuy thứ tự khác biệt, nhưng ư nghĩa chung th́ tương đồng, cho nên
dựa theo cách giải thích mười sáu câu trong luận ấy.
Luận ấy
nhắc lại câu kinh“giai
thị A La Hán, chư lậu dĩ tận, vô phục phiền
năo, đắc chân tự tại” (đều là A
La Hán, các lậu đă hết, chẳng c̣n phiền năo,
đạt được tự tại chân thật) chính
là “đắc đại tự tại” trong kinh này. “Thiện
đắc tâm giải thoát, thiện đắc huệ giải
thoát” chính là “tâm thiện giải thoát, huệ thiện
giải thoát” trong kinh này. “Tâm thiện điều phục”
(tâm khéo điều phục) tức là “năng
thiện điều phục” (có thể khéo
điều phục) trong kinh này. “Diệc như đại
long vương” (Cũng giống như đại
long vương) tức là “như đại tượng
vương” trong kinh này. “Dĩ tác sở tác” (đă
làm xong chuyện phải làm) tức là “trụ thanh tịnh
giới” trong kinh này. “Dĩ biện sở biện”
(đă làm xong chuyện phải làm) tức là như
kinh này nói: “Sở tác dĩ tất, khí chư trọng
đảm, đăi đắc kỷ lợi, tận chư
hữu kết” (việc làm đă hoàn tất, bỏ các
gánh nặng, chính ḿnh đă đạt được lợi
ích, hết sạch các kết sử trong
tam giới). “Thiện đắc chánh trí tâm giải thoát”
(khéo được chánh trí, tâm giải thoát) [trong kinh Pháp Hoa] tức là như
kinh này nói “chứng bát giải thoát”. “Chí tâm tự tại”
là như kinh này nói “thiện xảo phương tiện,
trí huệ trang nghiêm” do phương tiện thiện xảo
cũng thuộc vào trí huệ. “Đệ nhất cứu
cánh dĩ đáo bỉ ngạn” (Rốt ráo bậc nhất
đă đến bờ kia) chính là như kinh này nói “dĩ
đáo bỉ ngạn” (đă đến bờ kia).
Luận ấy có ba phen giải thích:
- Một là thượng thượng khởi
môn (dùng câu kinh trước hay sau để giải thích câu
đang xét).
- Hai là tổng biệt tướng môn.
- Ba là nhiếp thủ sự môn (luận định về sự nhiếp thủ theo sự tướng).
Thượng thượng khởi môn: Nay dựa
theo luận ấy để đối ứng với kinh
văn, giải thích chi tiết th́ như trong Pháp Hoa Sớ
đă giảng giải. Hoặc do câu trước mà phát khởi
câu sau, hoặc do câu sau mà câu trước được
sanh khởi, chẳng phải chỉ là một lẽ.
[Như thế] th́ gọi là Thượng Thượng Khởi.
Dựa theo luận ấy, hăy nên dùng câu thứ sáu để
giải thích câu đầu tiên (tức câu “giai thị A La
Hán”)[49],
dùng câu thứ sáu và thứ bảy [trong luận] để
giải thích câu thứ hai, tức câu “như đại
tượng vương”[50].
Dùng câu thứ chín và câu thứ mười [trong luận]
để giải thích câu thứ ba[51].
Dùng câu thứ mười hai [trong luận] để giải
thích câu thứ tư. Dùng câu thứ tư [trong luận]
để giải thích câu thứ năm.
(Kinh) Tâm thiện giải thoát, huệ
thiện giải thoát, sở tác dĩ tất, xả chư
trọng đảm, đăi đắc kỷ lợi.
(經)心善解脫、慧善解脫,所作已畢,捨諸重擔逮得己利。
(Kinh: Tâm khéo giải thoát, huệ khéo
giải thoát, việc làm đă xong, bỏ các gánh nặng,
đă đạt được lợi ích cho chính ḿnh).
Tán rằng: Dựa theo phần kinh văn nói
về hai thứ giải thoát nơi tâm và huệ trong luận,
chẳng dùng câu trên và câu dưới [hai câu “thiện đắc
tâm giải thoát, thiện đắc huệ giải thoát” trong Pháp Hoa Luận] để giải
thích. “Sở tác dĩ tất” (việc làm đă xong):
Theo luận, dùng ngay câu này để tự giải thích (tức
là như luận nói “do nhiếp thủ các công đức
trọn vẹn, viên măn học địa” th́ gọi là “sở
tác dĩ biện”). “Xả chư trọng đảm”
(bỏ các gánh nặng): Theo luận, nên dùng câu trên và câu
dưới để giải thích, tức là dùng câu thứ
tám và câu thứ mười [trong luận] để giải thích. “Đăi đắc kỷ lợi”
(chính ḿnh đă đạt được lợi ích): Dựa
theo luận th́ nên dùng câu thứ chín để giải thích
câu thứ mười.
(Kinh) Tận chư hữu kết, đắc
đại tự tại, trụ thanh tịnh giới, thiện
xảo phương tiện trí huệ trang nghiêm, chứng
bát giải thoát, dĩ đáo bỉ ngạn.
(經)盡諸有結得大自在,住清淨戒,善巧方便智慧莊嚴,證八解脫已到彼岸。
(Kinh: Hết sạch các kết sử
trong tam giới, đạt được đại tự
tại, trụ trong giới thanh tịnh. Phương tiện
hay khéo, trí huệ trang nghiêm, chứng tám món giải thoát,
đă đạt tới bờ kia).
Tán rằng: “Tận chư hữu kết”
(hết sạch các kết sử trong tam giới): Dựa
theo luận,
hăy nên
dùng câu thứ mười để giải thích (tức
câu “đă vượt qua sự mong cầu về thọ
mạng, cúng dường, cung kính, vượt khỏi địa
vị hữu học”). Câu thứ mười một là “đắc
đại tự tại” ở đây, dựa theo luận
nên lần lượt dùng câu thứ tư [trong luận]
để giải thích (tức câu “do tâm không có phiền
năo nên tâm được tự tại”). Đối với
câu thứ mười hai ở đây, nên dùng bốn câu, tức câu thứ tư, thứ năm, thứ
sáu, và thứ bảy [trong luận] để giải
thích. Câu thứ mười hai tức “trụ thanh tịnh
giới”, dựa theo luận, nên gộp vào “dĩ tác sở
tác, giới học viên măn Đạo Đế” (đă
làm việc phải làm, giới học viên măn Đạo
Đế), nghĩa là tịnh giới chính là điều phải
nên thực hiện; dựa theo luận, hăy nên dùng ngay
câu ấy để giải thích. “Thiện xảo
phương tiện, trí huệ trang nghiêm” hợp thành một
câu, v́ đều cùng do trí [mà có]. Theo luận,
hăy nên dùng câu “chí tâm tự tại” [để giải
thích]. Luận nói: “Do trí khéo thấy đạo, tu đạo”,
câu ấy chính là tự giải thích. “Chứng bát giải
thoát”, dựa theo luận, hăy nên dùng câu thứ
tư để giải thích. Câu thứ mười lăm
là “dĩ đáo bỉ ngạn” (đă đến bờ
kia), dựa theo luận, hăy nên dùng câu thứ mười
lăm [trong luận ấy] để giải thích. Đối
với câu thứ mười sáu [trong kinh này], th́ sẽ có bốn
câu [trong luận để giải thích]. [Nói tóm lại, nếu
đối chiếu các câu kinh trong bộ kinh này với Pháp
Hoa Luận Sớ, do thứ tự các phẩm đức
được nêu ra giữa kinh và luận khác nhau, sẽ có
các cách giải thích như sau]:
1) Dùng các câu ở phần dưới của
luận để giải thích câu thuộc phần trên trong
kinh này, nghĩa là: Câu thứ nhất [trong phần nói về
phẩm đức của A La Hán trong kinh này] th́ dùng câu thứ
tư [trong luận] để giải thích. Câu thứ hai [của
kinh này] được giải thích bằng câu thứ sáu và
bảy [trong luận]. Câu thứ ba [của kinh này]
được giải thích bằng câu thứ chín và mười
[trong luận]. Câu thứ tư [trong kinh này] được
giải thích bằng câu thứ mười hai [trong luận].
2) Có sáu câu kinh được giải thích
theo lối dùng câu thuộc phần trên trong luận để
giải thích câu thuộc phần dưới [trong
kinh],
tức là câu thứ năm [trong kinh này] được giải
thích bằng câu thứ tư [trong luận]. Câu thứ
mười [trong kinh này] được giải thích bằng
câu thứ chín [trong luận]. Câu thứ mười một
[trong kinh này] được giải thích bằng câu thứ
mười [trong luận]. Câu thứ mười hai [trong
kinh này] được giải thích bằng bốn câu thứ
tư, năm, sáu và bảy [trong luận]. Câu thứ mười
lăm [của kinh này] được giải thích bằng
câu thứ tư [trong luận]. Câu thứ mười sáu [của
kinh này] được giải thích bằng câu thứ
mười lăm [trong luận].
3) Ba câu th́ dùng chính nó để giải thích,
tức các câu “sở tác dĩ tất, trụ thanh tịnh
giới, thiện xảo phương tiện trí huệ
trang nghiêm”.
4) Hai câu chẳng [dùng luận
để] giải
thích tức là “tâm thiện giải thoát, huệ thiện
giải thoát”.
5) Một câu th́ dùng cả câu trước
đó và câu sau đó để giải thích, tức là “xả
chư trọng đảm”.
Kệ tụng rằng: “Hạ thích thượng
hữu tứ, thượng thích hạ hữu lục, tam
đơn, nhị bất thích, nhất thông ư thượng
hạ” ([trong các câu tán thán phẩm đức của bậc
A La Hán trong kinh này], có bốn câu kinh phải dùng câu dưới
(câu trong phần sau của Pháp Hoa Luận Sớ) để
giải thích. Sáu câu kinh th́ dùng phần trước của
luận để giải thích. Ba câu kinh chỉ dùng một
câu tương ứng trong luận để giải thích.
Có hai câu kinh chẳng được luận giải
thích. Có một câu kinh th́ phải dùng câu trước và sau
đó trong luận để giải thích). [Cách đối
chiếu thứ tự giữa kinh này và Pháp Hoa Luận Sớ
như thế được gọi là Thượng Thượng
Môn].
[Cách thứ hai để giải thích các phẩm đức của
A La Hán là] tổng biệt tướng môn, tức là: A La Hán
là ư nghĩa tổng ứng, phải hiểu mười
lăm câu kế đó [trong kinh này và Pháp Hoa Luận Sớ]
là các ư nghĩa biệt ứng. Do bậc Vô Học thành tựu
mười lăm nghĩa biệt ứng sẽ được nêu ra dưới đây, cho nên gọi là
A La Hán. Xét theo luận th́ thứ tự [các phẩm
đức của bậc A La Hán] không giống trong
kinh này. V́ thế, dùng ư tưởng trong bộ luận ấy
để theo thứ tự giải thích mười lăm
phẩm đức tương ứng trong kinh này:
- Một là phải nên chẳng nhanh, chẳng
chậm, thuyết pháp đúng như pháp tướng, v́ đáng nên chẳng mệt mỏi, như kinh này
nói “năng thiện điều phục” (có thể
khéo điều phục).
- Hai là phải nên tịnh tọa ở chỗ
thanh vắng, chẳng tích tụ thức ăn, y phục, hết
thảy các vật cần dùng cho cuộc sống, v́ thiểu
dục tri túc. Như kinh này nói là “như đại tượng
vương” tức là các kinh khác nói là “như đại
long vương, như thiện trụ long vương”.
[Ở đây], do dùng h́nh thể con voi [để sánh ví], cho nên
nói là “như đại tượng vương”.
- Ba, đáng nên nhận lấy sự cung kính
cúng dường thức ăn, đồ trải nằm v.v… như kinh nói là “chư
lậu dĩ trừ” (các lậu đă trừ).
- Bốn, đáng nên giáo hóa hết thảy
đại chúng, như kinh nói “vô phục phiền năo”
(chẳng c̣n phiền năo).
- Năm, đáng nên hàng phục các bọn ngoại
đạo, như kinh nói “tâm thiện giải thoát”
(tâm khéo giải thoát).
- Sáu, đáng nên dùng trí huệ để nhanh
chóng quan sát các pháp, như kinh nói “huệ thiện giải
thoát” (trí huệ khéo giải thoát).
- Bảy, đáng nên hành thánh hạnh Không,
như kinh nói “sở tác dĩ tất” (việc làm
đă xong).
- Tám, đáng nên hành thánh hạnh Vô Tướng,
như kinh nói “xả chư trọng đảm” (bỏ
các gánh nặng).
- Chín, đáng nên hành thánh hạnh Vô, như
kinh này nói “đăi đắc kỷ lợi” (chính ḿnh
đă đạt được lợi ích).
- Mười, đáng nên hàng phục cái tâm
thiền tịnh của thế gian như kinh nói “tận
chư hữu kết” (hết sạch các kết sử
trong tam giới).
- Mười một, đáng nên vào làng xóm,
thành thị v.v… như kinh này nói “đắc đại tự
tại”, tức là như các bản dịch cũ ghi điều
thứ tư là “đắc chân tự tại”.
- Mười hai, phải nên một mực hành thiện hạnh,
chẳng chấp trước các môn Thiền, như kinh này
nói “trụ thanh tịnh giới”.
- Mười ba, do chứng công đức
Đệ Nhất Nghĩa, như kinh này nói “thiện xảo
phương tiện trí huệ trang nghiêm”
- Mười bốn, phải nên dấy lên
các môn thần thông, công đức thù thắng, như kinh
này nói “chứng bát giải thoát”.
- Mười lăm, phải nên như thật
biết công đức chứng đắc của đồng
sanh chúng[52],
v́ lợi ích hết thảy các chúng sanh, như kinh này nói “dĩ
đáo bỉ ngạn” (đă đến bờ kia).
Kệ tụng [để ghi nhớ các phẩm
đức của A La Hán] như sau: “Trung, tĩnh, thọ,
tương, phục, dĩ Không, Tướng, Nguyện hành, nhập, hướng,
chứng, khởi thông, như thật ứng thập
ngũ” (vừa
phải (tức thuyết pháp chẳng nhanh, chẳng chậm),
tĩnh tọa, tiếp nhận sự cúng dường, giáo
hóa đại chúng, hàng phục ngoại đạo, hành các
thánh hạnh Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, vào trong xóm làng,
một mực hành thiện hạnh, chứng công đức
Đệ Nhất Nghĩa, dấy khởi thần thông,
như thật biết công đức. Đó là mười
lăm công đức của bậc A La Hán).
[Đối chiếu công đức của bậc
A La Hán giữa kinh này và Pháp Hoa Luận, lại có] nhiếp
thủ sự môn (luận định các sự
tướng theo phương diện nhiếp thủ): Theo Pháp Hoa Luận,
[bậc A La Hán] gồm có mười loại công đức;
nhưng theo kinh này th́ là mười một [loại công
đức]. Đó là do trong loại công đức thứ
hai bao gồm ba câu, đă được tách ra thành hai tiểu
loại: Một là hàng phục thế gian, hai là hàng phục
xuất thế gian. Nay do thứ tự [của các công đức
giữa Pháp Hoa Luận và kinh này] khác nhau, cho nên tách loại
thứ hai thành hai thứ công đức. V́ thế, trở
thành mười một loại:
- Một, do nhiếp thủ[53]
công đức chẳng trái nghịch, tùy thuận giáo hạnh
của Như Lai, như kinh này nói “năng thiện điều
phục” (có thể khéo điều phục).
- Hai, nhiếp thủ công đức thù thắng,
như kinh nói “đại tượng vương”.
- Ba, nhiếp thủ các công đức,
như kinh nói “chư lậu dĩ trừ, vô phục phiền
năo” (các lậu đă trừ, chẳng c̣n phiền năo).
- Bốn, nhiếp thủ công đức hàng
phục các học nhân xuất thế gian, như kinh nói “tâm
thiện giải thoát, huệ thiện giải thoát”.
- Năm, nhiếp thủ công đức trọn
vẹn, do các học địa (địa vị hữu học)
đă trọn vẹn, như kinh nói “sở tác dĩ tất”
(việc làm đă xong).
- Sáu, có hết thảy công đức vượt
thoát, một là do đă vượt khỏi ái, hai là đă
vượt khỏi các mong cầu về mạng, cúng dường,
cung kính, ba là vượt khỏi các học địa (địa vị hữu học) thuộc thượng
giới và hạ giới, như kinh này nói “xả chư
trọng đảm, đăi đắc kỷ lợi, tận
chư hữu kết” (bỏ các gánh nặng, chính ḿnh
đă đạt được lợi ích, hết sạch
các kết sử trong tam giới).
- Bảy, nhiếp thủ công đức hàng
phục thế gian, như kinh nói “đắc đại
tự tại”.
- Tám, nhiếp thủ công đức thù thắng
đáng nên làm. “Đáng nên làm” là cúng dường
đúng theo pháp, cung kính, tôn trọng Như Lai, như kinh nói
“trụ thanh tịnh giới”.
- Chín, nhiếp thủ công đức tạo
lợi ích cho chúng sanh, như kinh nói “thiện xảo
phương tiện trí huệ trang nghiêm”.
- Mười, nhiếp thủ công đức
thượng thượng, như kinh nói “chứng bát giải
thoát”.
- Mười một, nhiếp thủ công
đức thượng thủ, như kinh nói “dĩ
đáo bỉ ngạn” (đă đến bờ kia).
Đây chỉ là nói đại lược nhằm
tương ứng với kinh văn, giải thích cặn kẽ
th́ như trong Pháp Hoa Sớ đă biện định.
Kệ tụng rằng: “Bất vi, thắng,
công đức, hàng, măn, tam chủng quá, phục thế, sở
ưng tác, lợi ích, thượng thượng thủ” (chẳng trái nghịch, thù thắng, [giữ lấy]
các công đức, hàng phục, công đức viên măn, ba loại
vượt khỏi (vượt khỏi ái, mong cầu mạng
căn, vượt xa các địa vị hữu học),
hàng phục thế gian, thực hiện những điều
đáng nên làm, thực hiện những lợi ích đáng
nên làm, nhiếp thủ công đức thượng thủ).
(Kinh) Kỳ danh viết: Cụ Thọ A
Nhă Kiều Trần Như, Cụ Thọ A Thuyết Thị
Đa, Cụ Thọ Bà Niết Ba, Cụ Thọ Ma Ha Na, Cụ
Thọ Bà Đế Lợi Ca.
(經)其名曰:具壽阿若憍陳如、具壽阿說侍多、具壽婆涅波、具壽摩訶那、具壽婆帝利迦。
(Kinh: Tên các Ngài là Cụ Thọ A Nhă
Kiều Trần Như, Cụ Thọ A Thuyết Thị
Đa, Cụ Thọ Bà Niết Ba, Cụ Thọ Ma Ha Na, Cụ
Thọ Bà Đế Lợi Già).
Tán rằng: Sau đó là nêu tên. Có hai phần: Một
là nêu tên các vị Vô Học; kế đó, nêu
riêng loại Hữu Học.
Trong phần nêu tên các vị Vô Học có
mười một vị. Các kinh nêu tên các Ngài trước
sau không nhất định. Trong kinh này th́ phần nhiều
dựa theo thứ tự xuất gia trước hay sau. Như
kinh Báo Ân[54]
đă nói, đấy chính là năm vị bật-sô đầu
tiên. Nhân duyên đắc độ đầu tiên và tên gọi
của ngài Kiều Trần Như th́ như trong Pháp Hoa Sớ
đă nói. Nói Cụ Thọ tức là trọn
đủ phước mạng và huệ mạng, nhưng các
bản dịch cũ phần nhiều dịch là Huệ Mạng;
nay v́ nêu rơ các Ngài đă thành tựu cả hai, cho nên nói là Cụ
Thọ.
A Thuyết Thị Đa (Aśvajit), A Thuyết
(Aśva)
là Mă, Thị Đa (Jit) là Thắng, cũng phiên âm là A
Thuyết Bà Thị Đa, tức là tỳ-kheo Mă Thắng
trong các bản dịch cũ. Bà Niết Ba (Vappa) được
phương này dịch là Khí Tức (hơi
thở). Ma Ha Na Ma (Mahānāma) phương
này dịch là Đại Danh (thanh danh cao
quư), là con trai thứ hai của Cam Lộ Phạn Vương
(Amritodana-rāja). Vua có hai
con trai, một là A Nê Luật Đà (Anirudha), hai tên là Ma Ha Na
Ma. Bà Đế Lê Ca (Bhadrika), phương này dịch là Thiện
Hiền, là con trai thứ hai của Bạch Phạn Vương
(Śuklodana-rāja)[55]. Vua cũng
có hai con trai, một là Nan Đề Ca (Namdika), hai là Bà Đế
Lợi Ca (Bà Đế Lê Ca)
(Kinh) Đại Ca Diếp Ba, Ưu Lâu Tần
Loa Ca Diếp, Già Da Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Xá Lợi
Tử, Đại Mục Kiền Liên.
(經)大迦葉波、優樓頻螺迦葉、伽耶迦葉、那提迦葉、舍利子、大目乾連。
(Kinh: Đại Ca Diếp Ba, Ưu
Lâu Tần Loa Ca Diếp, Già Da Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp,
Xá Lợi Tử, Đại Mục Kiền Liên).
Tán rằng: Sáu vị này xem phần biện
định trong Pháp Hoa Sớ.
(Kinh) Duy A Nan Đà trụ ư Học
địa.
(經)唯阿難陀住於學地。
(Kinh: Chỉ riêng ngài A Nan Đà thuộc
địa vị Hữu Học).
Tán rằng: Phân biệt riêng bậc Hữu Học.
(Kinh) Như thị đẳng chư
đại Thanh Văn.
(經)如是等諸大聲聞。
(Kinh: Các vị đại Thanh Văn
như thế).
Tán rằng: Kết lại lời tán thán, do
trọn đủ mười sáu công đức như trong
phần trên [đă nói], nên gọi là “đại
Thanh Văn”.
(Kinh) Các ư bô thời, tùng Định nhi khởi, văng nghệ Phật
sở, đảnh lễ Phật túc, hữu nhiễu tam
táp, thoái tọa nhất diện.
(經)各於晡時從定而起,往詣佛所,頂禮佛足右繞三匝,退坐一面。
(Kinh: Đều vào lúc buổi chiều,
từ Định khởi, đi đến chỗ Phật,
đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu
theo chiều phải ba ṿng, lui ra ngồi qua một bên).
Tán rằng: [Đây là ư] thứ tư “đến
chỗ Phật” [trong phần nói về Thanh Văn chúng].
Kinh văn được chia thành bốn phần: Một là
lúc đến chỗ Phật, hai là xuất Định, ba
là đi đến chỗ Phật, bốn là oai nghi khi
đă đến nơi. Các chúng khác đều chuẩn
theo cách phán định này.
Kim Quang Minh Tối Thắng
Vương Kinh Sớ
Phần 1 hết
[1] Tác phẩm này
có tên gốc là Nhiếp Đại Thừa Luận Thích do Vô
Tánh Bồ Tát soạn để chú thích bộ Nhiếp Đại
Thừa Luận của Vô Trước Bồ Tát, thường
được gọi tắt là Vô Tánh Nhiếp Luận.
[2] Tác phẩm này
có tên gọi đầy đủ là Duy Thức Thập Nhị
Luận (Vimśatikā-vijñaptimātratā-siddhi),
do ngài Thế Thân (Vasubandhu) trước tác. Hiện thời,
trong Đại Tạng Kinh có ba bản dịch:
-
Bản thứ nhất do ngài Cù Đàm Bát Nhă Lưu Chi dịch
vào thời Nguyên Ngụy với tựa đề Lăng Già
Kinh Duy Thức Luận.
-
Bản thứ hai do ngài Chân Đế dịch, với tựa
đề Đại Thừa Duy Thức Luận.
-
Bản thứ ba, do ngài Huyền Trang dịch mang tựa đề
Duy Thức Thập Nhị Luận.
[3] Cũng chính
trong bộ luận ấy, hai câu này được giải
thích như sau: “Do các hữu t́nh tự và tha tiếp nối,
các căn xoay vần làm tăng thượng duyên, tùy theo lẽ
đáng nên mà hai loại thức quyết định, tức
là do các tương tục thức sai biệt, khiến cho
các tục thức khác và sai biệt thức sanh khởi, mỗi
thứ đều trở thành quyết định, chẳng
do ngoại cảnh”.
[4] “Tương tục thức” là một trong năm
loại thức do Đại Thừa Khởi Tín Luận
đề xướng. Theo đó, do thức chấp trước
cảnh thuộc ngoại duyên, nẩy sanh vọng niệm phân biệt, chẳng hạn
như đối với cảnh yêu thích sẽ nẩy sanh
cảm giác vui sướng, đối với cảnh trái ư
sẽ nẩy sanh cảm giác khổ sở. Do cảnh tạo
nên cảm giác khổ hay sướng nối tiếp liên tục
chẳng dứt, cảm thọ lạc hay khổ sẽ
được nhận biết liên tục. Cái sự nhận
biết ấy được gọi là Tương Tục
Thức.
[5] Danh là tên gọi của sự vật,
thường là một chữ. Cú là câu văn do nhiều
danh hợp thành, biểu thị một ư nghĩa hoàn chỉnh.
Nghĩa là ư nghĩa được diễn đạt bởi
văn và cú.
[6] Bộ kinh này
có tên gọi đầy đủ là Tư Ích Phạm Thiên Sở
Vấn Kinh (Viśesacintabrahma-pariprcchā),
gồm bốn quyển, c̣n gọi là Tư Ích Nghĩa Kinh,
do ngài Cưu Ma La Thập dịch sang tiếng Hán. Kinh này chủ
yếu trần thuật chuyện đức Phật v́ Vơng
Minh Bồ Tát và phạm thiên Tư Ích v.v… mà giảng giải
lư “các pháp không tịch”. Kinh này c̣n có hai bản dịch khác:
- Bản
dịch của ngài Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn với
tựa đề Tŕ Tâm Phạm Thiên Sở Vấn Kinh (c̣n gọi
là Trang Nghiêm Phật Pháp Kinh, hoặc Trang Nghiêm Phật Pháp
Chư Nghĩa Kinh).
- Bản
dịch của ngài Bồ Đề Lưu Chi đời Bắc
Ngụy với tựa đề Thắng Tư Duy Phạm
Thiên Sở Vấn Kinh.
Thế
Thân đă viết Thắng Tư Duy Phạm Thiên Sở Vấn
Kinh Luận để chú thích kinh này. Tác phẩm sớ giải
này đă được ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch
sang tiếng Hán. Tại đất Hán, kinh này có các bản
chú giải như Tŕ Tâm Phạm Thiên Kinh Lược Giải
(do ngài Đạo An soạn), Chú Tư Ích Kinh (do ngài Hiền
Minh soạn), Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn Kinh Giản
Chú (do ngài Viên Trừng soạn)…
[7] Đây là ba mươi
hai loại đại bi được nói trong kinh Tư Ích.
V́ sợ rườm rà, chúng tôi chỉ trích dẫn vài loại
đại bi như sau:
-
Hết thảy các pháp vô ngă, nhưng chúng sanh chẳng tin, chẳng
hiểu, Như Lai do vậy khởi tâm đại bi.
-
Hết thảy các pháp vô chúng sanh, nhưng chúng sanh nói có chúng
sanh, Như Lai do vậy khởi tâm đại bi.
-
Hết thảy các pháp chẳng có thọ mạng, nhưng chúng
sanh nói có thọ mạng, Như Lai do vậy khởi tâm đại
bi….
-
Hết thảy các pháp vô cấu, nhưng chúng sanh chấp cấu,
Như Lai do vậy khởi tâm đại bi.
-
Hết thảy các pháp ĺa nhiễm, nhưng chúng sanh có nhiễm,
Như Lai do vậy khởi tâm đại bi….
[8] Quyết Trạch (Nairvedhika) có nghĩa là chọn
lựa dứt khoát, tức là dùng vô lậu thánh trí để
đoạn các ngờ vực, phân biệt, chọn lựa
các tướng Tứ Đế.
[9] “Quả quả” chính là cái quả nơi
quả vị. Như vô minh làm nhân, các hành là quả, các hành
làm nhân, thức làm quả, th́ vô minh sẽ gọi là nhân
nhân, c̣n thức là quả quả. Tương tự, thập
nhị nhân duyên là nhân, Bồ Đề là quả, Bồ
Đề làm nhân, Niết Bàn là quả. Như vậy, thập
nhị nhân duyên là nhân nhân, Niết Bàn chính là quả quả.
[10] Như Như:
Theo kinh Lăng Già, Lư Thể của pháp tánh bất nhị, b́nh
đẳng, nên nói là Như. Các pháp đây kia đều Như
nên nói là Như Như. Đó là Lư Thể được khế
hợp bởi chánh lư. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương,
quyển ba giảng: “Lư được khế hợp bởi
chánh trí, [thấu hiểu] Thể của các pháp tương
đồng, nên nói là Như. Trong cái Nhất Như ấy,
Thể của nó trọn đù hằng sa Phật pháp trong pháp
giới, thuận theo pháp mà biện định Như th́ nghĩa
Như chẳng phải một. Do đây kia đều Như
cho nên nói là Như Như”.
[11] Bổn Quả và Thỉ Quả ở
đây là dựa theo khái niệm Bổn Giác và Thỉ Giác
để cho rằng: Chúng sanh sẵn có Phật quả, nhưng Phật quả ấy ẩn
tàng, đó là Bổn Quả. Do tu tập, chứng đắc
Phật quả, th́ Phật quả ấy sẽ được
gọi Thỉ Quả. Ở đây, ngài Huệ Chiểu
đả phá luận thuyết này, v́ Báo Thân và Hóa Thân phải do tu tập th́ mới có thể đạt được, không phải
là sẵn có, cho
nên khái niệm Bổn
Quả sẽ không thể thành lập được. Ngài phán định: Người lập ra khái niệm Bổn
Quả đă lầm lẫn giữa Chân Như (nhân) với
Phật quả (quả).
[12] “Ảnh lược”
(影略) nói đầy đủ
là “ảnh lược hỗ hiển” (影略互顯). Đây là một thuật
ngữ trong cách biện luận của Phật giáo. Đối
với hai sự việc có liên quan chặt chẽ với
nhau, có thể nói đại lược, hoặc tỉnh
lược không nhắc đến sự kiện này, v́
đă nói cặn kẽ trong sự kiện kia. Ở đây,
ngài Huệ Chiểu dùng chữ “ảnh lược” với
hàm ư: Do kinh đă nói chi tiết về Bồ Đề, cho
nên lược đi không nhắc đến Niết Bàn, v́
như trong phần trước, Ngài đă biện
định: Niết Bàn và
Bồ Đề liên quan chặt chẽ với nhau. Cũng
như do Niết Bàn là bản thể của Pháp Thân, cho nên
nói đến Pháp Thân th́ đă hiển lộ Niết Bàn, chẳng
cần phải nói về Niết Bàn nữa.
[13] Pháp Uyển ở đây là sách Đại
Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương do ngài Khuy Cơ
biên soạn, gồm bảy quyển, chia thành hai mươi
chín chương. Sách này được coi là tài liệu quư
để hệ thống hóa tư tưởng Duy Thức
cũng như phương pháp tu hành và lư luận trong Pháp Tướng Tông, đặc biệt là Ngũ Trùng Duy Thức Quán. Tổng
Liệu Giản Nghĩa Lâm là chương đầu của
sách này. Nghĩa Lâm là các chương Duy Thức Nghĩa Lâm
và Chư Thừa Nghĩa Lâm.
[14] “Thân” ở đây có nghĩa là “tích
tụ”. “Danh” là từ ngữ giả lập được
gán cho sự vật (hoặc nói rộng hơn là các pháp) nhằm
phân biệt. Danh có thể chỉ vật chất hữu
h́nh như bàn, ghế, hoặc vô h́nh như tâm, hoặc một
khái niệm giả lập như Thời. Hai danh hợp lại
th́ được gọi là Danh Thân, nhiều hơn hai Danh
th́ gọi là Đa Danh Thân. “Cú” do một hay nhiều danh hợp
lại, diễn tả một ư nghĩa cụ thể, chẳng
hạn như “chư hành vô thường”. Nhiều Cú hợp
lại th́ gọi là Cú Thân. “Văn” do nhiều
Cú Thân hợp lại. “Ngữ” là một chữ, một lời, một
câu, hoặc chỉ chung các lời lẽ nói năng nhằm diễn đạt một hay nhiều ư nghĩa
hoàn chỉnh. “Hành tướng” là
năng lực thuộc về bản tánh của tâm thức.
Tâm thức đối ứng với cảnh bèn vận
hành, phát sanh các trạng thái th́ được gọi chung
là “hành tướng”. “Cơ thỉnh” chính là lời thỉnh
vấn thốt ra khi có thời cơ phù hợp.
[15] Câu này hơi khó hiểu, nên chúng tôi
mạn phép giải thích như sau: Ngữ là lời lẽ thốt
ra khi nói năng hay viết lách, mà ngữ phải dựa vào danh từ (danh) và câu nói (cú)
để diễn tả ư nghĩa. Do Ngữ là chủ thể
phụ thuộc vào Danh và Cú để diễn đạt, cho nên gọi là Năng Y (chủ thể có thể
nương vào). Danh và Cú là đối tượng được Ngữ nương vào để diễn
đạt ư nghĩa, nên gọi là Sở Y (cái để nương vào).
[16] Do tâm thức đối ứng với
trần cảnh th́ mới chuyển biến, sanh ra các trạng
thái khác nhau. Các trạng thái ấy được gọi là
Hành Tướng, tức hành tướng là cái được
biểu hiện ra khi tâm thức tương tác với cảnh.
V́ thế, hành tướng được gọi là Sở Hiển
(cái được hiển lộ). Hành Tướng cũng
đồng thời biểu hiện các trạng thái khác biệt,
tùy theo trạng thái đó mà chủ thể tâm thức có thể
diễn đạt thành ư tưởng, hành động, hay ngôn ngữ, cho nên gọi là Năng Thuyết (cái có thể nói).
[17] Sự y xứ có nghĩa là tùy theo bản
chất của sự vật mà dẫn đến các kết
quả khác nhau. Sự Y Xứ lại được chia
thành Căn Bản Sự Y Xứ, Đắc Phương
Tiện Sự Y Xứ, và Bi Mẫn Tha Sự Y Xứ. Chẳng
hạn như Căn Bản Sự Y Xứ gồm sáu loại đường lành, đường
ác, thoái đọa, thăng tấn, sanh tử và Niết
Bàn. Hai loại kia do quá rườm rà nên không chép vào đây.
[18] Thời y xứ: Theo Du Già Sư
Địa Luận, tức là các sự vật được
nói theo phương diện thời gian, như chuyện
được nói đến thuộc quá khứ, thuộc
hiện tại, thuộc vị lai th́ gọi là Thời Y Xứ.
[19] Sổ thủ y xứ tức là nói
đến Bổ Đặc Già La (Pudgala). Pudgala c̣n
được phiên âm là Phước Già La, Phất Già La, Phổ
La, dịch nghĩa là Sổ Thủ Thủ, là từ ngữ
phiếm chỉ hữu t́nh, chúng sanh, hoặc Ngă.
[20] Theo ngu ư, câu này có thể tạm hiểu
như sau: Ngữ là âm thanh, nhưng âm thanh ấy chẳng
phải là vô nghĩa, mà phải do Danh (từ ngữ) và Cú
(tổ hợp các Danh thể hiện ư nghĩa trọn vẹn
một ư nghĩa) hợp thành, tức là hễ nói đến
Ngữ th́ đó phải là một âm thanh, tiếng nói chứa
đựng một ư nghĩa nhất định. Do Ngữ
phải chứa đựng hay biểu đạt một ư
nghĩa nhất định, nên nó được coi là “năng
thuyên” (cái có thể diễn nói [một điều ǵ
đó]). Do Ngữ phụ thuộc (y, nương tựa)
vào Danh và Cú, nên nó được gọi là Năng Y, c̣n Danh
và Cú là đối tượng để Ngữ phụ thuộc
vào nên gọi là Sở Y. Như vậy th́ trong trường
hợp này, cái Thể của Năng Y (ngữ) cũng chính
là cái Thể của năng thuyên (ngữ).
[21] Ba khoa ấy chính là Ngũ Uẩn,
Thập Nhị Xứ, và Thập Bát Giới.
[22] Đây chính là tác phẩm Thành Duy Thức
Luận Liễu Nghĩa Đăng gồm mười ba quyển do ngài Huệ Chiểu biên soạn nhằm
đả phá những dị luận đối với
Thành Duy Thức Luận của các vị Viên Trắc, Viên
Nghĩa, Phổ Quang, Huệ Quán v.v… Đồng thời, xiển
dương cách giải thích Thành Duy Thức Luận của
tổ Khuy Cơ. Do đọc không hiểu sách này, mạt
nhân cũng chẳng hiểu rơ ư ngài Huệ Chiểu muốn
nói ǵ trong các tiểu mục ưu khuyết và tụ tập
khi luận về Thể của bản kinh này. V́ thế,
chẳng dám ghi chú thích.
[23] Năng Đoạn
Bát Nhă Sớ chính là cách gọi tắt tác phẩm Năng Đoạn
Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật Kinh Luận Thích. Đây là tác phẩm
chú giải kinh Kim Cang, do Vô Trước Bồ Tát soạn kệ
tụng, Thế Thân Bồ Đề viết lời chú thích,
và được ngài Nghĩa Tịnh dịch sang chữ Hán.
[24] Trong Năng Hiển Biện Trung Huệ
Nhật Luận, ngài Huệ Chiểu
đă viết rất nhiều về thời, quá rườm
rà nên chúng tôi không trích dẫn. Nói chung, Ngài dựa vào cách phán
định ngũ thời giáo pháp của tổ Trí Giả
để biện định tại sao có năm thời
giáo pháp khác biệt, chia thành năm môn để biện luận,
tức là thứ tự các thời khác biệt, danh xưng
khác biệt, đại chúng đạt được lợi
ích trong mỗi thời khác biệt, thời điểm nói
ra mỗi thời khác biệt, và pháp được nói ra
trong mỗi thời khác biệt. Nói chung là không ngoài ư tưởng “sở dĩ có năm thời là v́ đức Phật
tùy thuận cơ nghi mà tiếp dẫn chúng sanh dần dần
tiến nhập Nhất Thừa”.
[25] Bắc Lương là một trong
mười sáu nước thời Thập Lục Quốc,
tồn tại từ năm 397 đến năm 401, do thủ
lănh của chi bộ tộc Lô Thủy Hồ của sắc
dân Hung Nô là Thư Cừ Mông Tốn sáng lập, truyền
được hai đời vua là Thư Cừ Mông Tốn
(Lương Thái Tổ Vũ Tuyên Vương) và Thư Cừ
Mục Kiện (Lương Ai Vương). Nước này
nằm ở khu vực hành lang Hà Tây, bao gồm ba châu là Kinh
châu, Sa châu, và Hà châu, và bảy quận. Hậu Châu là vương triều cuối cùng trong thời
Ngũ Đại Thập Quốc (907-960). Vương triều
này trước sau chỉ tồn tại được 9 năm.
Năm 951, Châu Thái Tổ (Quách Oai) diệt nhà Hậu Hán của
Lưu Trí Viễn, nhưng chỉ làm vua được ba năm
rồi chết. Do không có con, cháu ông ta là Sài Vinh (Châu Thế
Tông( nối ngôi làm vua vỏn vẹn năm năm (954-959),
do chiến tranh liên miên, ông ta chủ trương diệt trừ
Phật giáo để sung công tài sản nhà chùa, tịch thua
chuông đồng, tượng Phật nấu chảy ra để
đúc tiền, đuổi tăng chúng về làm dân thường
để tước đoạt điền sản của
nhà chùa!
[26] Theo từ điển Phật Quang
Sơn, trước sau, kinh Kim Quang Minh được dịch
năm lần:
1) Bản
dịch đầu tiên là Kim Quang Minh Kinh do ngài Đàm Vô Sấm
dịch gồm bốn quyển. Bản kinh này đă
được ḥa thượng Thích Thiện Tŕ dịch
sang tiếng Việt (ḥa thượng Thích Thiện Siêu giảo
chánh).
2)
Ngài Chân Đế dịch thành bảy quyển vào đời
Trần với tựa đề là Kim Quang Minh Đế
Vương Kinh, bảy quyển.
3)
Ngài Da Xá Quật Đa (có thuyết nói là ngài Xà Na Quật
Đa đời Tùy) dịch vào đời Bắc Châu với
tựa đề là Kim Quang Minh Cánh Quảng Đại Biện
Tài Đà La Ni Kinh gồm năm quyển.
4) Hiệp
Bộ Kim Quang Minh gồm tám quyển, do ngài Bảo Quư hội
tập các bản dịch trước đó. Bản này đă
được ni trưởng Thích Như Ấn dịch
sang tiếng Việt với tựa đề Kinh Kim Quang
Minh Hiệp Bộ.
5) Kim
Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh do ngài Nghĩa Tịnh
dịch gồm mười quyển. Bản này đă
được dịch sang tiếng Việt bởi Ḥa
Thượng Trí Quang với tựa đề Kinh Ánh Sáng
Hoàng Kim.
Theo
ḥa thượng Trí Quang, thật ra có sáu bản, bản của
ngài Da Xá Quật Đa có tựa đề Kim Quang Minh Tục,
c̣n bản của ngài Xà Na Quật Đa dịch có tựa
đề Kim Quang Minh Ngân Chủ Chúc Lụy Phẩm. Hai bản của ngài Chân Đế và Da Xá đă
thất truyền. Bản dịch của ngài Đàm Vô Sấm
do được tổ Trí Giả chú sớ, soạn Huyền
Nghĩa và viết Văn Cú, nên được lưu truyền
phổ biến nhất.
[27] Nguyên văn “tiêu kư ư cứu
nghĩ chi niên” (đă có tư tưởng, ư kiến khác vời
trong những năm cứu kiến). “Cứu kiến” là điển tích một
vị thầy do nhập Định biết một sa-di sẽ
chết trong ṿng một tháng, bèn cho chú sa-di về thăm cha mẹ. Một tháng sau, chú trở lại, thầy ngạc nhiên thấy tuổi
thọ chú tăng thêm rất nhiều, hỏi ra mới biết
trên đường về, chú đă cứu một
tổ kiến bị nước lũ cuốn trôi. Do vậy
“cứu nghĩ chi niên” có nghĩa là thời gian c̣n làm sa-di.
[28] Nguyên văn “Tứ Vi Tam Tạng hạo
việt triều hy, ngũ thiên thất lược minh du tịch
nguyệt” (Đối với bốn Tứ Vi Đà và Tam Tạng
sáng ngời hơn nắng sớm, đối với
năm phần giới luật và các kinh sách thế gian hiểu
rạng rỡ hơn trăng soi ban đêm). Tứ Vi chính là
bốn bộ kinh Vi Đà (Vedas) của Bà La Môn, tức là từ
ngữ phiếm chỉ các kinh sách của ngoại đạo.
Ngũ Thiên từ ngữ chỉ năm bộ phận của
giới Cụ Túc, tức Ba La Di (Pārājika, Đoạn Đầu), Tăng Tàn (Saṁghāvasesa), Ba Dật Đề (Pāyattika,
Xả Đọa), Ba
La Đề Xá Ni (Pratideśaniya,
Hướng Bỉ Hối), và Đột Cát La (Duṣkṛta, Ác Tác). Thất Lược là mục
lục các sách vở tồn tại tại Trung Hoa. Do sau khi
nhà Tây Hán thành lập, các sách vở trong
cung, trong các thư viện tư nhân, trong các quan phủ rất
nhiều, cũng như c̣n rất
nhiều sách được ẩn giấu trong dân gian khi Tần Thủy Hoàng hạ
lệnh đốt sách. Vào năm 26 trước Công nguyên,
Hán Thành Đế (Lưu Ngao, 51-7 trước Công Nguyên)
đă sai Quang Lộc Đại Phu Lưu Hướng và con
trai của ông ta là Lưu Hâm chỉnh lư, hệ thống hóa
các sách vở cả nước, soạn thành bộ Biệt
Lục gồm hai mươi quyển như một danh mục tổng
quan của các thư tịch thời ấy. Đối với mỗi tác phẩm, đều ghi rơ tác giả, niên đại biên soạn
và đại cương nội dung. Đồng thời sử
dụng các thư tịch trong dân gian để bổ sung
những thiếu sót trong các tàng bản thư tịch tại
cung đ́nh. Lưu
Hướng đă chia các sách vở
thời đó thành các thể loại: Kinh truyện (trước
tác của Nho gia), chư tử (trước tác của các vị
không phải thánh hiền Nho gia), thi phú, binh thư, thuật
số (các tác phẩm viết về Âm Dương, Ngũ Hành,
Bát Quái, tiết khí, tinh tú, lịch pháp, thiên văn, bói toán bằng
cỏ thi, mai rùa…), và phương kỹ
(cách kinh doanh, dưỡng sinh, y dược, kể cả
những phương pháp của các thuật sĩ như
lên đồng, thỉnh tiên, pḥng trung thuật v.v…) Sau
đó, Lưu Hướng rút gọn lại thành bảy quyển,
gọi là Thất Lược. Do vậy, Thất Lược là từ ngữ thường được dùng để chỉ
tất cả các sách vở thế gian. Về sau, bộ
sách này đă thất truyền, nội dung đại khái
được ghi lại trong phần Nghệ Văn Chí của
Hán Thư.
[29] Trường An là niên hiệu thứ
mười ba được Vũ Tắc Thiên sử dụng
từ năm 701 đến năm 705.
[30] Ư nói đến thí dụ Chuyển
Luân Vương đánh giặc thấy quan binh có công bèn
thưởng cho viên châu trong búi tóc, sánh ví chân lư tuyệt
đối chưa từng nói ra nay phô bày tất cả. “Mở
tháp báu”
tức là mở tháp
Đa Bảo, tỏ bày diệu nghĩa “Phật Phật đạo đồng,
chân lư nhất như”. Cả hai câu này đều nhằm
ca ngợi ngài Nghĩa Tịnh đă khéo dịch thuật, phô
bày trọn vẹn giáo pháp Nhất Thừa, thể hiện
ư chỉ “hội tam quy nhất” như trong kinh Pháp Hoa vậy.
[31] Do đức
Phật dùng âm thanh (tiếng nói) để thuyết pháp,
giáo pháp của Ngài được gọi là “thanh giáo”.
[32] Kinh này có tên gọi
đầy đủ là Bồ Tát Thiện Giới Kinh, do ngài
Cầu Na Bạt Ma dịch vào đời Tống, chia thành
chín quyển, dạy về các giới Bồ Tát, gần như
đại đồng tiểu dị so với Bồ Tát Gới
Yết Ma Văn do ngài Huyền Trang dịch.
Địa
Tŕ Luận là tên gọi khác của bộ Bồ Tát Địa
Tŕ Kinh, gồm tám quyển, do ngài Đàm Vô Sấm dịch vào
đời Bắc Lương. Đây chính là bản dịch
khác của phẩm thứ mười lăm trong Du Già Sư
Địa Luận.
[33] Pháp Hoa Nghĩa Quyết có tên gọi
đầy đủ là Pháp Hoa Huyền Tán Nghĩa Quyết
do ngài Huệ Chiểu biên soạn, gồm một quyển, nhằm chú giải những ư
nghĩa chính trong sách Pháp Hoa Huyền Tán của ngài Khuy
Cơ.
[34] Đây là ba nhân trong Phật Địa
Luận:
-
Ưng Đắc Nhân: Nương theo lư Chân Như Không mà tu
nhân hạnh, đáng nên đạt được cái quả
Bồ Đề. V́ thế gọi là Ưng Đắc Nhân.
- Gia
Hạnh Nhân: Nương theo tâm Bồ Đề mà gia công dụng
hạnh, dùng điều đó làm nhân, sẽ có thể chứng đắc cái quả là Pháp
Thân.
- Viên
Măn Nhân (Nhân Măn Nhân): Do gia hạnh mà nhân hạnh viên măn, v́ thế
gọi là Viên Măn Nhân.
[35] Tam Phật có thể hiểu theo ba cách:
- Ba
thân của Phật, tức là Pháp Thân Phật, Báo Thân Phật và Hóa Thân Phật.
- Phật
trong ba đời, tức quá khứ, hiện tại và vị
lai.
- Gọi
tắt của Tam Phật Đà (Sambuddha), tức là Chánh
Giác.
[36] Theo Phật Quang Sơn Tự Điển,
Liễu là “liễu ngộ” hoặc “hiểu rơ”. Ví như
đèn chiếu vật, có thể khiến cho con người
hiểu rơ hết thảy. Nhân Minh Học thường dùng
thí dụ như sau để minh họa: Như có người
lập luận rằng “âm thanh là vô thường” (điều
này được gọi là Tông, tức là một mệnh
đề khẳng định hoặc một luận thuyết trong Nhân Minh), bởi
lẽ “tánh chất của nó là được tạo tác”
(điều này được gọi là Nhân, tức lư do)
để chứng minh âm thanh vốn là vô thường, chẳng
thể quyết định thường trụ được,
khiến cho “địch giả” (người vấn nạn)
nghe xong biết rơ chánh lư “âm thanh là vô thường”. Đối
với người lập ra luận thuyết (Tông) ấy,
do cái Nhân đó có thể khiến cho “địch giả”
được khơi gợi, phát khởi chánh trí, cho nên
cái Tông ấy chính là Sanh Nhân (do có công năng sanh ra trí huệ).
C̣n đối với “địch giả”, nhờ cái Nhân ấy
mà liễu ngộ chánh lư, nên cái Nhân đó được gọi
là Liễu Nhân.
[37] Ư nói: Sau khi đă chứng quả
thành Phật, chứng đắc Pháp Thân, sẽ dùng Tha Thọ
Dụng Báo Thân để hóa độ hàng Bồ Tát trong cơi
Thật Báo Trang Nghiêm, sau đó lại phân thân thành vô lượng
Hóa Thân để độ chúng sanh.
[38] Nói “chư Phật thuyết pháp
không có khởi đầu” (chư Phật thuyết vô
sơ tế) là do bản thể của pháp là Chân
Như thường hằng, vô thỉ, vô chung. Chúng sanh thấy
đức Phật có mở đầu nói một bộ
kinh và có kết thúc bộ kinh ấy, đó chỉ là giả
tướng.
[39] Theo từ điển Phật Quang Sơn,
“tŕ nghiệp thích” là một cách giải thích trong sáu cách giải
thích (thường gọi chung là “lục ly hiệp thích”). Trong sáu cách giải thích này,
đối với một danh tướng nào mà có hai
nghĩa, th́ trước hết bèn tách rời hai nghĩa để giải thích (đó
là Ly). Sau đó, gộp chung hai nghĩa lại
để giải thích th́ gọi là Hiệp). Tŕ nghiệp
thích (Karmadhāraya) c̣n gọi
là Đồng Y Thích, nghĩa là cái Thể có thể phát sanh
tác dụng (tức Karma, nghiệp), cho nên gọi là “tŕ nghiệp”. Chẳng
hạn như đối với danh tướng Tạng Thức,
Tạng chính là Thức, Thức (A Lại Da Thức) có công
năng ǵn giữ, chứa đựng (Tạng), cho nên gọi
là Tŕ Thích. Nghĩa của Tạng và Nghĩa của Thức
đều cùng nương vào một Pháp Thể, nên gọi
là Đồng Y.
[40] Tài Thích (Bahuvrīhi) cũng là một loại trong Lục Ly Hiệp
Thích, c̣n gọi là Đa Tài Thích. Cách giải thích này hoàn toàn coi danh của sự vật khác là danh của
chính ḿnh, chẳng hạn như người được
gọi là có tiền của trong thế gian là do có tài vật,
hoặc người được gọi là Giác Giả là
v́ người ấy đă giác ngộ. Ngu ư cho rằng: Ở đây ngài Huệ Chiểu có ư nói, do
chẳng chỉ dùng ư nghĩa ánh sáng của vàng để
giải thích ư nghĩa tên kinh, tức là chẳng dùng
một thuộc tánh hạn hẹp để giải thích tên
kinh. Do vậy, chẳng phải là cách giải thích theo lối Tài Thích. Tài Thích nói đơn
giản là dùng một thuộc tánh để đặt tên cho toàn
bộ một pháp.
[41] Bô (晡) là khoảng giờ Thân, tức là từ ba giờ
đến năm giờ chiều.
[42] Bạc Già Phạm (Bhagavat) là một
trong mười hiệu của đức Phật, là một
trong các thông hiệu của chư Phật. Từ ngữ
này c̣n được phiên âm là Bà Già Bà, Bà Già Phạm, hoặc Bà Nga
Phạ Đế, dịch nghĩa là Hữu Đức,
Năng Phá (có thể phá trừ), Thế Tôn, Tôn Quư. Tức
là ca ngợi Phật là đấng có vô lượng đức
hạnh đáng được thế gian tôn quư. Danh xưng
này bao gồm sáu ư nghĩa: Tự tại, chánh nghĩa, ly dục,
cát tường, danh xưng, và giải thoát.
[43] Ngài Huệ
Chiểu mô phỏng cách chú giải kinh của tổ Khuy
Cơ. Trong bộ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Tán, trước
mỗi đoạn chú thích chánh kinh, ngài Khuy Cơ đều
dùng chữ “tán viết” (tán rằng).
[44] Tác phẩm
này có tên gọi đầy đủ là Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật
Kinh Phá Thủ Trước Bất Hoại Giả Danh Luận,
tác giả là Công Đức Thí Bồ Tát (không có tài liệu
nào ghi về tiểu sử của vị Bồ Tát này). Bộ
luận này được dịch sang tiếng Hán bởi
ngài Địa Bà La Ha vào đời Đường.
[45] Nhập Đại
Thừa Luận là một bộ luận do Kiên Ư Bồ Tát soạn,
được ngài Đạo Thái dịch sang tiếng Hán
thành hai quyển vào đời Bắc Lương. Đại
lược luận chia thành ba phẩm là Nghĩa phẩm, Cơ
Luận Không phẩm, và Thuận Tu Chư Hạnh phẩm. Nội
dung luận này vạch rơ lỗi lầm do phỉ báng Đại
Thừa, biện định pháp Đại Thừa do hàng Bồ
Tát tu học gồm trọn năm thừa, lại nương
vào mười thứ hành pháp, khuyến phát, dẫn nhập
học nhân tiến nhập Phật quả, luận định
giai vị của hàng Bồ Tát, biện định tam thân
của Phật.
[46] Bộ Luận
này do Long Thọ Bồ Tát trước tác, Tự Tại tỳ-kheo
chú giải, được ngài Đạt Ma Cấp Đa dịch
sang tiếng Hán vào đời Tùy. Nội dung của luận
này bàn về các món tư lương của Bát Nhă Ba La Mật.
[47] Ly Xa Tỳ (Licchavi, Lecchavi) là chủng
tộc Sát-đế-lợi cai trị thành Tỳ Xá Ly (Vaiśāli) thuộc bộ tộc
Bạt Kỳ (Vrji). Theo Thiện Kiến Luật Tỳ Bà
Sa quyển mười, xưa kia, phu nhân nước Ba La Nại
sanh ra một bọc thịt, cho là điều bất tường,
bèn ném xuống sông. Bọc thịt được một đạo
sĩ vớt về, đặt ở một chỗ, sau nửa
tháng, bọc thịt tách đôi. Một tháng sau, một nửa
trở thành bé trai, nửa kia thành bé gái. Đạo sĩ nuôi
nấng, đặt tên cho đứa con trai là Ly Xa Tử.
Hai đứa bé trưởng thành, sống bằng nghề
chăn trâu, xây cất nhà cửa, tụ tập dân chúng. Hai đứa
trẻ lấy nhau, được dân chúng tôn làm vua và phu nhân.
Thành quách nơi họ ở chính là thành Tỳ Xá Ly. Sau khi đức
Phật nhập Niết Bàn, Ly Xa tộc cũng được
nhận một phần tám của xá-lợi, dựng tháp cúng
dường. Thời đó, Tỳ Xá Ly là một trong mười
sáu nước lớn. Sau này, hậu duệ của họ là
Chiên Đà La Cấp Đa (Candragupta) lập ra vương
triều Khổng Tước (Maurya, 324-187 trước Công
Nguyên) thống trị toàn thể Ấn Độ trong một thời gian
dài.
[48] Pháp Hoa Kinh Luận chính là tác phẩm
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luận Ưu Ba Đề Xá do ngài Thế
Thân trước tác, bộ luận này được dịch
sang tiếng Hán bởi ngài Lặc Na Ma Đề người
xứ Trung Thiên Trúc vào đời Nguyên Ngụy.
[49] Luận viết: “Danh hiệu A La
Hán có mười lăm nghĩa phải nên biết: Một
là đáng nhận lănh cúng dường thức ăn, đồ
trải nằm, cung kính v.v… Hai là sẽ giáo hóa hết thảy
đại chúng. Ba là vào xóm, làng, thành ấp. Bốn là sẽ
hàng phục lũ ngoại đạo. Năm là sẽ dùng
trí huệ để nhanh chóng quan sát các pháp. Sáu là thuyết
pháp chẳng nhanh, chẳng chậm, tương ứng
đúng như pháp chẳng mệt mỏi. Bảy là ở
yên nơi chốn thanh vắng, chẳng tích tụ hết
thảy các thứ thức ăn, y phục, hết thảy
các vật cần dùng cho đời sống. Tám là một mực
hành thiện, chẳng đắm chấp trong các môn Thiền.
Chín là hành thánh hạnh Không. Mười là hành thánh hạnh
Vô Tướng. Mười một là hành thánh hạnh Vô Nguyện.
Mười hai là hàng phục các tịnh tâm Thiền thế
gian. Mười ba là dấy lên các thần thông và công đức
thù thắng. Mười bốn là chứng công đức
Đệ Nhất Nghĩa. Mười lăm, như thật
biết công đức của đồng sanh chúng, do lợi
ích hết thảy chúng sanh”.
[50] Luận viết: “Đi trong các ác
đạo như đi trên đường bằng phẳng
chẳng bị trở ngại, điều đáng hành
đă hành, chỗ nên đạt đến đă đến,
việc đáng làm đă làm, đă đối trị hết thảy rồng
lớn trong loài người”.
[51] Do trong phần sau, ngài Huệ Chiểu
đă lần lượt tóm gọn các ư trong luận để
giải thích lại, nên chúng tôi không trích dẫn luận ở
đây để bản chuyển ngữ không quá rườm
rà.
[52] Đồng
Sanh Chúng chính là các vị Pháp Thân đại sĩ. Do đă
phá các phiền năo, chỉ c̣n sót lại sanh tướng vô
minh, tâm hạnh đă tương đồng với Phật,
nên gọi là Đồng Sanh Chúng. Gọi là Đồng Sanh
Chúng để phân biệt với Dị Sanh Chúng tức
phàm phu chúng sanh. Sách Huyền Ứng Âm Nghĩa giảng: “Phàm
phu ngu si tối tăm, chẳng có trí huệ, chỉ dấy
lên ngă kiến, chẳng sanh vô lậu, cho nên gọi là Dị
Sanh”. Sách Bí Tạng Bảo Thược giảng: “Phàm phu tạo
đủ thứ nghiệp, cảm đủ thứ quả,
thân tướng sanh ra vạn thứ khác biệt, cho nên gọi
là Dị Sanh”.
[53] Theo Phật
Quang Sơn Tự Điển, “nhiếp thủ” (Parigraha) có hai
nghĩa:
- Nắm
giữ chẳng bỏ, như A Di Đà Phật niệm nào
cũng đều nhiếp thủ chúng sanh niệm Phật
chẳng buông bỏ.
- Chọn lựa nghĩa là chọn lấy một vật ǵ đó để giữ lấy. Chẳng hạn như Phật A Di Đà phát nguyện “nhiếp thủ cơi