Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ
Quyển thứ tư
Đời Đường Tam Tạng
pháp sư Nghĩa Tịnh vâng chiếu dịch kinh
Dịch kinh sa-môn Huệ Chiểu soạn
sớ
金光明最勝王經疏
卷第四
唐三藏法師義淨奉制譯
翻經沙門慧沼撰
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang
Phần 10
5.10. Phẩm Y Không Măn Nguyện (Y Không Măn Nguyện phẩm đệ thập, 依空滿願品第十)
Phẩm
Y Không Măn Nguyện, gồm ba môn phân biệt:
-
Một, [nêu ra] ư nghĩa v́ sao có phẩm này?
-
Hai, giải thích danh xưng.
-
Ba, giải trừ vấn nạn.
5.10.1. Giải thích ư nghĩa v́ sao có phẩm này?
Nói đến ư nghĩa v́ sao có phẩm này: Phẩm trước
(Trùng Hiển Tánh Không) đă nói về Không, tức là cảnh
được quán, chưa nói đến [phương pháp]
tu hành. Nay nói rơ: Nương vào Nhị Không (Nhân Không và Pháp Không)
để khởi hạnh, hành chẳng chấp trước
th́ mới khế hợp chánh tu. Tu tương xứng với
Chân th́ mới có thể đắc quả. Do vậy, sau phẩm
trước, bèn có phẩm này sanh khởi.
5.10.2. Giải thích danh xưng của phẩm này
Giải
thích danh xưng: “Y” là có thể nương vào, tức
là pháp được tu hành, cũng bao gồm cái được
nương vào. Cái được nương vào thuộc
vào điều thứ bảy trong thanh cảnh[1].
Không là cảnh, tức đối tượng được
quán bởi hạnh. Măn Nguyện là cái quả
thuận theo nguyện mà được măn, tức pháp
để tu hành tương xứng với tu Không cảnh.
Ĺa khỏi chấp trước Hữu và Vô, sẽ đắc quả viên măn, nên
gọi là Y Không Măn Nguyện. Nay do phẩm này nói rộng [về
điều đó], cho nên dùng điều đó để
đặt tên phẩm.
5.10.3.
Giải trừ vấn nạn
*
Hỏi: Nếu phẩm trước nhằm nói về cảnh
để sanh giải, chưa nói đến tu hành; v́ sao
kinh văn [trong phẩm ấy] lại nói “giải Không, phát
nguyện”?
Đáp:
Phẩm trước chánh yếu nói về cảnh, [thính chúng]
nghe rồi sẽ tùy phần mà tu, cho nên đạt được
lợi ích. Phẩm này chánh yếu dạy về cách tu, cho nên
thiên nữ thỉnh rằng: “Duy nguyện vị thuyết
ư thậm thâm lư, tu hành chi pháp” (Kính mong hăy v́ con nói pháp tu hành nơi lư rất sâu). Lại nữa, trong
phẩm trước, do nghe Không, sanh ra lợi ích do trí hạnh
vô phân biệt; sau đó, dạy khởi tu, [sẽ đạt được] hai thứ lợi ích (tự
lợi và lợi tha) nơi hai trí. Lại nữa, trong phẩm
trước, bậc lợi căn nghe nói [tánh Không], bèn đạt
được lợi ích, c̣n phẩm này là v́ hàng độn căn.
*
Hỏi: Ba phẩm trước chẳng thỉnh mà nói, cớ
sao phẩm này phải đợi thỉnh rồi mới nói?
Đáp:
[Các phẩm trước] do khiến cho pháp trụ thế lâu
dài, hiển lộ ḷng đại bi của đức Phật,
cho nên Ngài chẳng được thỉnh mà nói. [Trong phẩm này], khiến cho [thính chúng]
khát ngưỡng mong cầu pháp ứng hợp cơ nghi, bèn
do thỉnh mới nói. V́ vậy, chẳng nhất loạt
như nhau. Hơn nữa, phẩm trước là để [đại chúng hiện diện] trong hội khi đó
tu tập, phẩm này v́ người học trong mai sau. Lại
nữa, phẩm trước [nhằm nói với] người
tu lâu, họ vừa nghe liền có thể tu; [đối tượng
của] phẩm này gồm chung hai loại người tu lâu
và mới tu.
5.10.4. Giải
thích kinh văn
5.10.4.1.
Thiên nữ thưa hỏi
5.10.4.1.1.
Thiên nữ xin được thưa hỏi
(Kinh) Nhĩ thời, Như Ư
Bảo Quang Diệu thiên nữ ư đại chúng trung,
văn thuyết thâm pháp, hoan hỷ, dũng dược.
(經)爾時如意寶光耀天女於大眾中聞說深法,歡喜踊躍。
(Kinh: Lúc bấy giờ, thiên nữ Như Ư Bảo
Quang Diệu ở trong đại chúng, nghe nói pháp sâu, hoan hỷ,
hớn hở).
Tán rằng: Kinh văn chia thành sáu phần:
-
Một, thiên nữ thỉnh vấn.
-
Hai, từ “Phật cáo: - Thiện Nữ Thiên” (đức
Phật bảo: - Thiện Nữ Thiên) trở đi, đức
Thế Tôn v́ thiên nữ giải đáp cách học tập.
-
Ba, từ “nhĩ thời, Thế Tôn tác thị ngữ dĩ”
(lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói như thế
xong) trở đi, thiên nữ lănh ngộ, phụng tŕ, tu học.
-
Bốn, “thuyết thị phẩm thời” (khi nói phẩm
ấy) trở đi, đại chúng khi đó nghe kinh được
lợi ích nhiều hay ít.
-
Năm, từ “Phạm vương! Thị Kim Quang Minh”
(này Phạm vương! Kinh Kim Quang Minh này) trở đi, so
sánh nhằm hiển thị sự thù thắng, khiến cho [thính chúng] nhận lănh, hành tŕ kinh này.
-
Sáu, từ “nhĩ thời, Đại Phạm thiên vương”
(lúc bấy giờ, Đại Phạm thiên vương) trở
đi, chư thiên nghe [đức Phật] sắc truyền,
nguyện hộ tŕ, lưu thông.
Trong
phần thứ nhất, lại chia thành ba tiểu đoạn:
-
Một, thiên nữ nêu bày ư cầu thỉnh.
-
Hai, đức Thế Tôn rủ ḷng hứa khả.
-
Ba, [thiên nữ] thưa bày lời thỉnh.
Trong
tiểu đoạn thứ nhất, lại gồm có năm
ư:
-
Một, nêu ra người thỉnh cầu (tức thiên nữ
Như Ư Bảo Quang Diệu).
-
Hai, nơi chốn thỉnh cầu (trong đại chúng).
-
Ba, trần thuật nguyên nhân thỉnh cầu (do được nghe pháp sâu).
-
Bốn, trần thuật tướng trạng thỉnh cầu.
-
Năm, giăi bày lời khải thỉnh.
Đoạn
chánh kinh này gồm có ba ư. Quán Không tương xứng với
ư niệm là Như Ư. Do vậy, phát sanh diệu huệ, th́ gọi là Bảo Quang. Ĺa nhiễm tự tại được
gọi là Thiên. Sanh trưởng điều thiện thuộc
địa vị [của chính ḿnh] th́ gọi là Diệu. Trên
đây là giải thích tên gọi của người thỉnh,
mà cũng nhằm biểu thị “quán Không có thể sanh
ra huệ thù thắng, phá chướng cho chính ḿnh lẫn người
khác, sanh trưởng điều thiện nơi địa
vị [của chính ḿnh]”. V́ vậy, vị trời này khải
thỉnh. Bồ Tát bi nguyện trọn đủ đại
thần thông, ứng theo chúng sanh mà hiện h́nh tướng,
khiến cho họ đều đạt được lợi
ích. Do vậy, Bồ Tát hóa hiện thân nữ.
Hỏi:
Vị Bồ Tát này thuộc về địa vị nào?
Đáp:
Theo ngài Chân Đế Tam Tạng th́ từ Bát Địa trở
lên. Lại do [vị thiên nữ này] khiến cho [người nghe] sẽ
chứng Vô Sanh Nhẫn, nên có thể thuộc vào Lục Địa.
Dựa theo tướng đạt được địa
vị trong phần trước, tướng trạng của
Đệ Lục Địa là có thể khiến cho cơi nước
thanh tịnh, hiện ao hoa sen bảy báu trọn khắp thế
giới. V́ thế, do trong phần sau, [chánh kinh nói thiên nữ
đă] phát nguyện rồi, quốc giới
thanh tịnh, sanh hoa, Ngài phải nên thuộc Đệ Lục Địa.
“Ư
đại chúng trung” (ở trong đại chúng) là chỗ
[thiên nữ] cầu thỉnh. “Văn thuyết thâm pháp…”
(nghe nói pháp sâu…) là cái nhân thỉnh cầu. Thân vui sướng
là Hoan, tâm sung sướng là Hỷ. “Dũng dược”
là nhảy nhót, [ư nói “hớn hở”].
(Kinh)
Tùng ṭa nhi khởi, thiên đản hữu kiên, tất trước
địa, hiệp chưởng, cung kính bạch Phật
ngôn: - Thế Tôn! Duy nguyện vị thuyết ư thậm
thâm lư tu hành chi pháp.
(經)從座而起,偏袒右肩,膝著地,合掌恭敬白佛言:「世尊!唯願為說於甚深理修行之法。
(Kinh: Từ chỗ ngồi đứng dậy,
trật vai áo phải, đầu gối đặt sát đất, chắp tay,
cung kính, bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế
Tôn! Kính mong v́ con nói pháp tu hành nơi lư rất sâu).
Tán
rằng: Trước hết, trần thuật tướng
trạng thỉnh pháp. Từ “bạch Phật ngôn” (bạch
Phật rằng) trở đi, giăi bày sự khải thỉnh. Phần khải
thỉnh gồm có hai đoạn:
-
Một là phần trường hàng.
-
Hai là dùng kệ tụng để thỉnh.
(Kinh)
Nhi thuyết tụng ngôn: - Ngă vấn Chiếu Thế Giới,
Lưỡng Túc Tối Thắng Tôn, Bồ Tát chánh hạnh pháp,
duy nguyện từ thính hứa.
(經)而說頌言:我問照世界,兩足最勝尊,菩薩正行法,唯願慈聽許。
(Kinh:
Bèn nói bài tụng rằng: - Con hỏi đấng Chiếu
Thế, đấng tối thắng Lưỡng Túc, pháp chánh
hạnh Bồ Tát, mong từ bi chấp thuận).
Tán
rằng: Dùng kệ tụng để thỉnh. Thế gian
có hai thứ là hữu t́nh thế gian và khí thế gian (tức
thế giới vật chất vô t́nh). Thân quang và trí quang đều chiếu hai loại thế
gian, như quyển tám mươi ba của Du Già Sư
Địa Luận đă viết: “Có thể biết tám vạn
trăm ngàn tâm hạnh sai biệt của hữu t́nh, có thể
biết bao nhiêu thế giới thành hoại trong vô biên thế
giới ở phương Đông” v.v… Trí ấy chiếu sáng; kinh Pháp Hoa nói:
“Phóng my gian quang chiếu chư thế giới, kiến lục
đạo đẳng” (Phóng quang minh từ giữa mày,
chiếu các thế giới, thấy lục đạo v.v…)
Lại nói: “Ngă dĩ tướng nghiêm thân quang, minh chiếu
thế gian” (Ta dùng quang minh để trang nghiêm thân tướng ḥng chiếu sáng thế gian). Đấy
là thân chiếu sáng.
Trong
các loài có chân, loài hai chân tối thắng nhất. Hai đường
trời, người thuộc loài hai chân. Đối với
loài hai chân trời, người, th́ Phạm vương, Đế
Thích và các vị vua trong loài người đều điều
ngự họ (chúng sanh). Phật
có thể điều ngự họ (chúng sanh và Phạm
vương, Đế Thích), nên gọi là đấng Tối
Thắng. Đối với sa-môn, Bà-la-môn vốn là các bậc
điều ngự trong loài người, đức Phật
cũng có thể điều ngự họ, nên [Phật được]
gọi là Tối Tôn. V́ thế, [đức Phật được
xưng tụng] là Tối Thắng Tôn. Do đó, quyển tám
mươi hai của luận Du Già Sư Địa viết:
“Đấng Lưỡng Túc Trung Tôn, là tối thắng, tối
thượng trong các vị điều ngự, là mầu nhiệm
nhất trong các sa-môn”.
“Bồ
Tát chánh hạnh pháp” là pháp được thỉnh. Do vạch rơ chẳng
phải là Nhị Thừa, bèn nói là Bồ Tát; nhằm vạch
rơ “chẳng phải là tà hạnh”, bèn nói là “chánh hạnh”. Tà hạnh vô lượng,
nói đại lược tổng quát, th́ những ǵ có kèm
theo hai thứ chấp (Ngă Chấp và Pháp Chấp) đều
gọi là Tà. Nay [thiên nữ] thưa hỏi về hạnh “ĺa
chấp, tương xứng với chánh lư”.
5.10.4.1.2.
Đức Thế Tôn rủ ḷng hứa khả
(Kinh) Phật ngôn: - Thiện
Nữ Thiên! Nhược hữu nghi hoặc giả, tùy nhữ
ư sở vấn, ngô đương phân biệt thuyết.
(經)佛言:善女天!若有疑惑者,隨汝意所問,吾當分別說。
(Kinh:
Đức Phật nói: - Này Thiện Nữ Thiên! Nếu có
nghi hoặc, tùy ư ngươi hỏi, ta sẽ phân biệt nói).
Tán
rằng: Kế đó, đức Thế Tôn rủ ḷng hứa
khả.
5.10.4.1.3.
[Thiên nữ] thưa bày lời thỉnh
(Kinh) Thị thời, thiên nữ
thỉnh Thế Tôn viết: - Vân hà chư Bồ Tát, hành Bồ
Đề chánh hạnh? Ly sanh tử Niết Bàn, nhiêu ích tự
tha cố.
(經)是時天女請世尊曰:云何諸菩薩,行菩提正行?離生死涅槃,饒益自他故。
(Kinh:
Khi đó, thiên nữ thưa hỏi đức Thế Tôn rằng:
- Các Bồ Tát hành chánh hạnh Bồ Đề như thế
nào để ĺa sanh tử, Niết Bàn, lợi ích ḿnh lẫn
người?)
Tán
rằng: Sau đó, chánh thức giăi bày lời thỉnh. Lời
thỉnh gồm hai ư:
-
Một, hỏi về chánh hạnh Bồ Đề.
-
Hai, hỏi về chánh hạnh Vô Trụ Niết Bàn.
Đấy
là cái nhân của giác tịch, do đều có thể lợi
ích ḿnh lẫn người. Lại nữa, Bồ Tát có ư cầu
Bồ Đề để lợi lạc hữu t́nh cho tới tột cùng đời vị
lai. Trong Niết Bàn, cầu chỗ vô trụ, khác với phàm
phu và Nhị Thừa. V́ thế, nói “chánh hạnh” sẽ
bao gồm Bồ Đề trong phần trước và Niết
Bàn trong phần sau. Hoặc [có thể hiểu] Vô Trụ Niết
Bàn cũng gọi là Bồ Đề, Bồ Đề đoạn
cũng gọi là Bồ Đề. V́ thế, riêng hỏi đến.
Do vậy, trong phần sau, sẽ đáp rằng: “Y ư pháp
giới, hành Bồ Đề pháp” (nương vào pháp giới
mà hành pháp Bồ Đề), tức là đáp về chánh hạnh
Bồ Đề.
“Tu
b́nh đẳng hạnh” là giải đáp cái nhân của
Vô Trụ Niết Bàn. Sanh tử và Niết Bàn đều b́nh
đẳng, chẳng có ưa thích hay chán ngán. Nếu chẳng
hành hai hạnh ấy, sẽ chẳng chứng hai quả. V́
thế, trong phần sau, [kinh văn] nói: “Nhược như
thị giả, phàm phu chi nhân ưng kiến Chân Đế, đắc
ư vô thượng an lạc Niết Bàn” (Nếu là như
thế, kẻ phàm phu phải nên thấy Chân Đế, đạt
được Niết Bàn an lạc vô thượng), cho đến
nói: “Tức chấp trước vị đắc giải
thoát phiền năo hệ phược, tức bất chứng
A Nậu Bồ Đề” (Hễ c̣n chấp trước,
chưa giải thoát khỏi sự trói buộc của phiền
năo, sẽ chẳng chứng Vô Thượng Bồ Đề).
Những câu ấy đều nhằm chỉ rơ bằng cách
nói ngược lại.
Lại
giải rằng: Hành Bồ Đề chánh hạnh, tức
là nói đến bi trí; do trí nên đạt được như thế. Trí
tánh và trí tướng như thế kết hợp với Đoạn
Trí Đức, được gọi là “Pháp Thân ĺa sanh tử”.
Do bi, nên đạt được Ứng Hóa Thân, tức
là Ân Đức. V́ chúng sanh thuyết pháp, do ĺa Niết Bàn mà
tu trí, nên lợi ích chính ḿnh. Do tu bi, nên lợi ích người khác. Đấy
là giải thích thuận theo Vô Trụ Niết Bàn trong phẩm
Tam Thân thuộc phần trước.
Lại
nữa, hạnh có bốn thứ là Tín, Bát Nhă, đại
định, và đại bi. Tứ hạnh có thể trừ
bốn thứ trọng chướng là bất tín, chấp
ngă, sợ khổ, và xả tâm, tức là có thể làm cái nhân
cho Tứ Đức “thường, lạc, ngă, tịnh”
của Phật. Hai thứ đầu là Phiền Năo Chướng,
hai thứ sau là Sở Tri Chướng. Do tín và trí mà ĺa sanh
tử, do bi mà ĺa Niết Bàn. Định là hai cái nhân, nêu bày
hai thứ đều thù thắng; do vậy, nên đặc biệt hỏi. Bồ Đề và Niết
Bàn mỗi đằng đều có Tứ Đức, bốn
thứ chướng (bất tín, chấp ngă, sợ khổ
và tâm buông bỏ) đều có thể gây chướng ngại [đối với Tứ Đức].
5.10.4.2.
Đức Thế Tôn giải đáp cách tu học
5.10.4.2.1.
Nêu đại lược tông chỉ để giải thích
5.10.4.2.1.1.
Nêu ra tông chỉ
(Kinh) Phật cáo Thiện Nữ
Thiên: - Y ư pháp giới, hành Bồ Đề pháp, tu b́nh
đẳng hạnh.
(經)佛告善女天:依於法界行菩提法,修平等行。
(Kinh:
Đức Phật bảo Thiện Nữ Thiên: - Nương
vào pháp giới, hành pháp Bồ Đề, tu hạnh b́nh
đẳng).
Tán
rằng: Đức Thế Tôn v́ [thiên nữ] nói cách học
tập. Trong đoạn này, chia thành ba tiểu đoạn:
-
Một, nêu đại lược tông chỉ để giải
thích.
-
Hai, từ “Thiện Nữ Thiên! Vân hà Ngũ Uẩn” (Này
Thiện Nữ Thiên! Thế nào là Ngũ Uẩn) trở đi,
dùng pháp thuyết và thí dụ để rộng nói.
-
Ba, từ “Thiện Nữ Thiên! Nhược thiện nam tử”
(này Thiện Nữ Thiên! Nếu thiện nam tử) trở đi,
kết lại, khuyên tu học.
Trong tiểu đoạn thứ nhất,
lại có năm ư:
-
Một là nêu ra.
-
Hai là gạn hỏi.
-
Ba là giải thích.
-
Bốn là kết lại.
-
Năm là dung thông.
Đoạn
này thuộc ư thứ nhất, tức nêu ra. “Y ư pháp giới”
(nương vào pháp giới) tức là nêu ra cái cảnh để
quán trong tánh Không thuộc phần trước. Luận Biện
Trung Biên nói: “Tức là tánh Không đă biết như đang
được nói ở đây, do ư nghĩa chẳng biến
đổi mà nói là Chân Như. Do chân tánh thường Như, nên chẳng chuyển biến”. Cho đến nói: “Do ư nghĩa ‘là cái nhân của thánh
pháp’, mà nói là ‘pháp giới’. Do hết thảy các thánh pháp đều
duyên vào đó để sanh, giới được nói ở
đây chính là ư nghĩa của cái nhân”.
Hỏi:
Theo Nhiếp Đại Thừa Luận và Thành Duy Thức
Luận, lấy thức thứ tám làm cái nhân của hết
thảy các pháp. Kinh A Tỳ Đạt Ma dạy: “Vô thỉ
thời lai giới, nhất thiết pháp đẳng y, do thử
hữu chư thú, cập Niết Bàn chứng đắc” (Như
Lai Tạng từ vô thỉ đến nay là chỗ nương
vào của hết thảy các pháp, [do nó là cái bị ô nhiễm
bởi phiền năo và tập khí] mà có các đường; tới
khi chứng đắc Niết Bàn [chỉ là chứng đắc
Như Lai Tạng không c̣n bị che lấp bởi phiền năo và tập khí)[2]
. V́ sao luận Biện Trung Biên lại nói “lư Chân Như là cái nhân của các pháp?”
Đáp:
Do dựa theo lưu chuyển và hoàn diệt, bèn nói thức
thứ tám là cái nhân của hết thảy các pháp, v́ [thức thứ tám] duy tŕ chủng tử của chúng.
Nếu dựa theo phương diện mê hay ngộ, liền nói [cái nhân của hết thảy các
pháp] là tánh Chân Như. Do vậy, kinh Thắng Man dạy: “Như
Lai Tạng vi y, vi tŕ, vi kiến lập” (Như Lai Tạng
là chỗ để nương vào, để duy tŕ, để
kiến lập). Luận Bảo Tánh dựa theo nghĩa này
mà nói lư Chân Như chính là “vô thỉ thời lai giới”
v.v…
Hỏi:
Nương vào mê hay ngộ [để luận định]
th́ nói chung đă sanh ra nhiễm hay tịnh, cớ sao luận
Biện Trung Biên nói “do ư nghĩa ‘là cái nhân của thánh pháp’ mà nói là pháp giới?”
Đáp:
Do chẳng nói “chỉ có”, cho nên không phạm lỗi. Hơn
nữa, nhiễm pháp chẳng do chứng Như mới sanh.
Nếu cái nhân của các thánh pháp được sanh khởi
bởi Căn Bản Trí, trí vô phân biệt ắt do chứng
Như mà sanh khởi. Do vậy, nói thiên lệch “[lư Chân Như là] cái nhân của thánh pháp”. Đó là cái nhân của Tăng Thượng
Duyên, chẳng phải là Thân Nhân Duyên. Nay ở đây nói là “y”,
đó là Sở Duyên Nhân, tức là cảnh thanh. Duyên theo Thắng
Nghĩa Đế mà hành Bồ Đề pháp, do tánh của
pháp giới chẳng phải là sanh tử hay Niết Bàn, do ĺa hai tướng. V́ thế,
cũng chẳng phải là “phi sanh tử Niết Bàn”,
v́ chẳng ĺa hai! Thấy Bồ Đề của chư Phật
như thế cũng chẳng phải là “sanh tử, Niết
Bàn”. Bồ Đề chính là tam thân, tam thân chẳng phải
là sanh tử và Niết Bàn. Quán như thế để tu Bồ
Đề pháp, tức là tu hạnh b́nh đẳng. V́ vậy,
luận Thập Bát Không nói: “Hóa Thân chẳng phải là sanh
tử hay Niết Bàn. V́ lẽ nào vậy? Sanh tử đều
là vọng tưởng điên đảo, do chẳng vượt
ra ngoài Khổ và Tập. Hóa Thân chẳng phải vậy, nương
vào Pháp Thân và Ứng Thân mà sanh, Thể của nó chẳng phải
là điên đảo. Lại có thể trừ điên đảo
cho chúng sanh, cho nên chẳng phải là sanh tử”.
“Phi
Niết Bàn” (chẳng phải là Niết Bàn) v́ có khởi
đầu và kết thúc. Do chẳng phải là sanh tử, nên
chẳng điên đảo. Do chẳng phải là Niết Bàn,
nên chẳng chân thật. Lại nói: “Pháp Thân và Ứng Thân
cũng chẳng phải là tức (chính là lẫn nhau), chẳng
phải là ĺa”. Luận Thập Bát Không đặt câu hỏi:
“Nếu Pháp Thân chẳng ĺa Ứng Thân, có lỗi lầm
ǵ? Đáp rằng: Nếu là như vậy, một người
thành Phật, những người cũng phải đều
nên thành Phật. Do hết thảy mọi người
chẳng đều cùng thành Phật [khi một người
thành Phật], cho nên biết nghĩa lư Pháp Thân chẳng phải chính là Ứng
Thân”. Ư nói: Pháp Thân th́ hết thảy chúng
sanh đều b́nh đẳng cùng có, Thể của nó là một.
[Nếu như Pháp Thân] và Ứng Thân là một, th́ một người
đạt được Ứng Thân, hết thảy mọi
người sẽ đều phải đạt được,
v́ Thể chẳng khác! Do chẳng phải là như thế,
liền biết rơ ư nghĩa “Pháp Thân chẳng phải chính là
Ứng Thân”.
Luận viết: “Lại cũng chẳng ĺa Ứng
Thân. V́ sao vậy? Pháp Thân chẳng khác [Ứng Thân], do thường
chẳng ĺa công đức của ba đời chư Phật. Nếu có thể thấu hiểu ư nghĩa
‘Pháp Thân chẳng ĺa Ứng Thân’ như thế, liền trừ
được chấp trước ‘quyết định là
ĺa hay chẳng ĺa’. Do nương theo đạo lư ‘chẳng
ĺa’ mà tu các hạnh, sẽ có thể chứng đắc cái
quả nơi Ứng Thân. Đối với Hóa Thân cũng
thế”. Ư nói: Pháp Thân chẳng chính là Ứng
Hóa Thân, mà cũng chẳng rời ĺa nhau. Ứng Hóa cũng chẳng chính là Pháp Thân, mà cũng chẳng rời ĺa nhau, cũng giống như Chân Như. Quán như thế để
tu Bồ Đề th́ gọi là “hạnh b́nh đẳng”.
Biết cái quả đă là như thế, tu hành cũng thế,
chẳng chính là sanh tử hay Niết Bàn, thành vô trụ đạo,
tức là “phương tiện đại tánh” trong bảy đại tánh vậy!
5.10.4.2.1.2.
Gạn hỏi
(Kinh) Vân hà y ư pháp giới,
hành Bồ Đề pháp, tu b́nh đẳng hạnh?
(經)云何依於法界行菩提法,修平等行?
(Kinh:
Thế nào là nương vào pháp giới để hành pháp Bồ
Đề, tu hạnh b́nh đẳng?)
Tán
rằng: Đây là phần gạn hỏi. Chân Như là
thường, Bồ Đề hạnh v.v… là vô thường.
“Thường, vô thường, sanh tử, Niết Bàn, hữu
thể, vô thể”, thể tướng mỗi mỗi
khác biệt, v́ sao lại nương theo pháp giới để
hành pháp Bồ Đề, tu b́nh đẳng? Ư nói: Xét theo t́nh
kiến chấp trước một mực khác biệt [của
chúng sanh] để giả lập lời gạn hỏi.
5.10.4.2.1.3.
Giải thích
(Kinh)
Vị ư Ngũ Uẩn năng hiện pháp giới, pháp
giới tức thị Ngũ Uẩn, Ngũ Uẩn bất
khả thuyết, phi Ngũ Uẩn diệc bất khả
thuyết.
(經)謂於五蘊能現法界,法界即是五蘊,五蘊不可說,非五蘊亦不可說。
(Kinh: Tức là nói Ngũ Uẩn có thể hiện
pháp giới, pháp giới chính là Ngũ Uẩn. Ngũ Uẩn
chẳng thể nói, mà phi Ngũ Uẩn cũng chẳng thể
nói).
Tán
rằng: Ư thứ ba [trong phần “nêu đại lược
tông chỉ”] là giải thích. Đây là dựa theo “chẳng
ĺa, chẳng tức” để giải đáp. Trước
hết, nói “Ngũ Uẩn có thể hiện pháp giới,
pháp giới chính là Ngũ Uẩn”. Đó là nghĩa “chẳng
ĺa”. “Vị ư” có nghĩa là ‘chỉ bày, nêu ra đầu mối’, tức là “Ngũ Uẩn có thể hiện pháp giới,
pháp giới liền hiện Ngũ Uẩn”. Ở đây,
có hai ư:
-
Một, nương theo Biến Kế Sở Chấp, “tướng
chẳng có tự tánh” và “tánh Không được hiển
lộ”. V́ thế nói “Ngũ Uẩn có thể hiện
pháp giới”, do pháp giới chính là Ngũ Uẩn. Bát Nhă Tâm
Kinh nói: “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị”.
Tánh Không tức là Như; v́ thế, kinh Giải Thâm Mật
và luận Du Già Sư Địa nói: “Trong thời thứ
hai, chỉ v́ phát khởi cho người tu Đại Thừa
tiến nhập, liền trong hết thảy các pháp vô sanh, vô diệt, vốn sẵn
tịch tĩnh, tự tánh Niết Bàn, mà dùng tướng ẩn mật để chuyển chánh
pháp luân”. Luận Thập Bát Không cũng nói: “V́
thế biết:
Phân biệt Y Tha vô tướng, vô sanh, gọi là ‘tánh chân thật’. Cái Thể
chân thật là Vô. Do không có Thể, nên vô tướng. Do vô tướng nên vô sanh. Do vô sanh nên vô diệt, do vô
diệt nên tịch tĩnh. Do tịch tĩnh, nên gọi là
tự tánh Niết Bàn”. Luận Biện Trung Biên cũng nói: “Vô nhị tức
là chẳng có sở thủ (đối tượng được
chấp giữ) và năng thủ (chủ thể chấp giữ).
Hữu và Vô tức là hai thứ thủ (năng thủ và sở
thủ) vô tánh”. Ư nói: Năng thủ và sở thủ đều là Vô, tức là Ngũ Uẩn bị chấp giữ và cái tâm
chấp giữ đều là Biến Kế Sở Chấp,
cho nên Thể của chúng đều là Vô. Tánh thể của Vô chính là Như. V́ thế nói: “Ngũ Uẩn có thể
hiện pháp giới”. Pháp giới là tánh của Ngũ Uẩn,
cũng gọi là Ngũ Uẩn. Do vậy nói: “Pháp giới
chính là Ngũ Uẩn Chân Như”. Do đạo lư này, cái Thể
của Biến Kế Sở Chấp Ngũ Uẩn là chẳng
có, cũng chẳng thể nói. Cái Thể
nơi tánh của Nhị Vô (Năng Thủ Vô và Sở Thủ Vô) chẳng phải là tích tụ, cho nên được gọi
là Phi Ngũ Uẩn. Do tánh ĺa khỏi ngôn thuyết, nên cũng
chẳng thể nói! Đấy là trừ bỏ Biến Kế,
dùng Chứng Chân để tu hành mà nói.
-
Hai, trong Y Tha chỉ có Viên Thành, trong Viên Thành chỉ có Y Tha.
Nói “Ngũ Uẩn có thể hiện pháp giới, pháp giới
tức là Ngũ Uẩn”, tức là xét theo nghĩa “chẳng
ĺa” mà nói là Ngũ Uẩn. V́ thế, luận Biện
Trung Biên nói: “Do ngay trong phân biệt hư vọng mà có tánh
Không, và trong tánh Không có phân biệt hư vọng, chính là khế
nhập Trung Đạo”. Tánh Không tức pháp giới, tuy
nói “chẳng ĺa”, nhưng chẳng thể nói là một
hay khác được! Nếu pháp giới ấy và Ngũ Uẩn
là một th́ cũng chẳng thể nói. Nếu nói “pháp
tánh ấy chẳng phải là Ngũ Uẩn”, tức là có
ư nói “chúng khác nhau” th́ cũng chẳng thể nói! Do đều
là Biến Kế, do chẳng có tự tánh, do chẳng thể
nói. Luận Biện Trung Biên nói: “Nếu là khác, phải nên
trở thành pháp tánh khác với pháp, sẽ mâu thuẫn với
thánh thuyết, như tánh của Khổ v.v… Nếu là một,
th́ lẽ ra chẳng phải cảnh tịnh trí, mà cũng
chẳng phải là cộng tướng. Đấy chính là
hiển thị Không Chân Như và hư vọng phân biệt.
Dựa theo đó, v́ ĺa tướng ‘một, khác’, nên bảo
là chẳng thể nói”. Hoặc là hai tánh đều chẳng
phải là cảnh có thể diễn tả bằng ngôn ngữ,
cho nên gọi là “bất khả thuyết”. V́ thế, Thành
Duy Thức Luận nói: “Chân là nói đến tự tánh, do
giả trí và ngôn thuyết đều chẳng phải là cảnh.
Đă nói là ‘chẳng thể nói năng được’, lại
chẳng phải là ‘quyết định một mực là một
hay khác’; cho nên chẳng phải là sanh tử và Niết Bàn khác
biệt. V́ thế, nói là b́nh đẳng”. Tuy nói riêng về Ngũ Uẩn, nhưng hàm ư xét theo tam
thân để cầu tu hành. Đấy chính là “y chỉ tự
tại tu” trong năm loại tu vậy. Nhưng xét theo “chẳng
phải là một hay khác” để giải thích, sẽ
tuân theo cách giải thích trong luận Biện Trung Biên và luận
Thập Bát Không. Xét theo [ư nghĩa của] kinh văn trong kinh
này, sẽ bao gồm cả hai cách giải thích. Nhưng nếu
xét theo chuyện cật vấn hai lượt để giải
thích kinh văn, th́ so ra dùng thuyết “chẳng phải
là một hay khác” để giải thích sẽ hay hơn!
Trước là gạn hỏi, sau là cật vấn, dùng phương
cách liên tưởng để nêu rơ, th́ cách giải thích
chung [theo tam thân] sẽ hay hơn!
(Kinh)
Hà dĩ cố?
(經)何以故?
(Kinh: V́ lẽ nào?)
Tán
rằng: Đây là phần cật vấn! V́ lẽ nào mà “pháp
giới cũng là Ngũ Uẩn”
chẳng thể nói, mà “[pháp
giới] chẳng phải là Ngũ Uẩn” cũng chẳng
thể nói?
5.10.4.2.1.4.
Dung thông
5.10.4.2.1.4.1.
Giải thích [v́ sao] “chẳng thể nói là một hay khác”
(Kinh)
Nhược pháp giới thị Ngũ Uẩn, tức thị
Đoạn Kiến. Nhược ly Ngũ Uẩn, tức
thị Thường Kiến.
(經)若法界是五蘊,即是斷見;若離五蘊,即是常見。
(Kinh:
Nếu pháp giới là Ngũ Uẩn, tức là Đoạn
Kiến. Nếu ĺa Ngũ Uẩn, tức là Thường Kiến).
Tán
rằng: Phần dung thông (giải trừ vấn nạn),
gồm ba ư:
-
Một, giải thích “chẳng thể nói là một hay khác”.
-
Hai, nêu ra nguyên do chẳng thể.
-
Ba, kết lại.
Đoạn
này thuộc ư thứ nhất. Nếu pháp giới chính là Ngũ
Uẩn, nói theo Biến Kế, do nó là không có, sẽ là Đoạn Kiến. Nếu ĺa Ngũ
Uẩn mà riêng thấy pháp tánh, tức là Thường Kiến.
Lại nữa, [nói] “pháp giới chính là Ngũ Uẩn”,
tức là nói theo Y Tha. Nhị Thừa khi đắc Vô Dư
th́ pháp giới đồng thời đoạn, tức là Đoạn Kiến.
Hoặc thuận theo hữu vi Chân Như hữu diệt,
cho nên nói là Đoạn. Nếu “ĺa Ngũ Uẩn mà riêng
thấy pháp tánh” th́ tức là Thường Kiến, do cái
Thể của pháp tánh cùng với hai tánh Biến Kế và Y
Tha chẳng nhất định là một hay khác. Nói nhất định là một hay khác th́ đều là Biến Kế, chẳng
ĺa khỏi Đoạn và Thường.
Hỏi:
Chân Như chẳng phải là thường mà thấy là
Thường, th́ mới gọi là Thường Kiến. [Thế
nhưng, thật ra] Chân Như là thường, bèn thấy
là thường, [đó chính là]
biết tương xứng với cảnh, sao lại gọi
là Thường Kiến?
Đáp:
Nói là Thường hay Vô Thường, tùy thuộc vào cách nói,
đấy là cái thấy do phân biệt. Bàn đến pháp thể
th́ chẳng phải là thường hay vô thường. Như
do nói “chấp thường”, cho nên là Thường Kiến. Lại c̣n thật
sự mâu thuẫn với trí vô phân biệt! Dụng ư ở
đây là khiến cho [thính chúng] ĺa chấp trước phân
biệt, quên mất tướng th́ mới tu được.
Nếu chấp là thường, sẽ trái nghịch chánh trí,
do pháp tánh ĺa khỏi các tướng “có, không, một, khác,
thường, đoạn”, chẳng chướng Hậu
Đắc Trí, ĺa chấp trước coi “quán Như” là thường.
Đối với “tức, ly” trong ấy, hăy nên lập
lượng[3] như
sau: [Tông là] “pháp giới phải nên có Đoạn, Đoạn
có nghĩa là Diệt”. Nhân là “do [pháp giới] chính là Ngũ
Uẩn”. [Dụ] là “giống như Ngũ Uẩn”.
Lại nữa, “nếu ĺa Ngũ
Uẩn th́ chính là Thường Kiến”, tức là cật
vấn “Y Tha phải nên là Thường”, nên gọi là Thường
Kiến. Do trong Uẩn và chẳng phải Uẩn (phi Uẩn), sẽ tùy thuộc một
trong hai thứ ấy, giống như pháp giới. Nhưng đấy
chẳng phải là để phá cái khác, cho nên chẳng “lập lượng”. Lại
c̣n phạm lỗi trái nghịch giáo, do giáo chẳng chấp
thuận “Ngũ Uẩn là thường”, chỉ có thể nói rơ rằng: “Phải là Thường
Kiến”. Nhưng xét theo kinh văn, chỉ nói cái Thể
của pháp giới và Ngũ Uẩn chẳng nhất định
là một hay thường. Nếu nhất định là một
hay thường, cái Thể của pháp giới sẽ phải
nên là Đoạn hay Thường!
5.10.4.2.1.4.2.
Nêu ra nguyên do “chẳng thể nói là một hay khác”
(Kinh)
Ly ư nhị tướng, bất trước nhị biên,
bất khả kiến, quá sở kiến, vô danh, vô tướng.
(經)離於二相、不著二邊,不可見過所見,無名無相。
(Kinh: Ĺa hai tướng, chẳng chấp vào hai bên,
chẳng thể thấy, vượt ngoài cái được
thấy, vô danh, vô tướng).
Tán
rằng: Nêu ra nguyên do chẳng thể nói là một hay khác. “Ly
ư nhị tướng” (ĺa hai tướng): Ĺa các thứ
hai tướng như “thường, vô thường, có, không,
sanh, diệt” v.v… “Bất trước nhị biên”
(chẳng chấp hai bên): Xa ĺa tăng, giảm. Hai thứ Ngă
và Pháp đều chẳng có, nên ĺa tăng.
Tánh Không và Như chẳng phải là không có, nên ĺa giảm. “Bất khả kiến” (chẳng thể
thấy): Chẳng phải là cảnh của Ngũ Thức. “Quá sở kiến”
(vượt ngoài cái được thấy): Vượt ngoài
cảnh so đo hư vọng của ư thức. “Vô danh”:
Ĺa cái có thể nói. “Vô tướng”: Ĺa cái được
nói.
5.10.4.2.1.4.3.
Kết lại
(Kinh) Thị tắc danh vi thuyết
ư pháp giới.
(經)是則名為說於法界。
(Kinh:
Đó gọi là nói đến pháp giới).
Tán
rằng: Kết lại. Do ĺa hai tướng v.v… nên chẳng
thể nói [pháp giới] là một hay khác với Uẩn. Đó
gọi là nói về cái Thể của pháp giới. Thể của
pháp giới đă ĺa các tướng ấy; khi tu hành, sẽ đúng như tướng của
pháp giới.
5.10.4.2.2.
Dùng pháp thuyết và thí dụ để nói rộng
5.10.4.2.2.1.
Pháp thuyết
(Kinh) Thiện Nữ Thiên! Vân
hà Ngũ Uẩn năng hiện pháp giới? Như thị Ngũ
Uẩn bất tùng nhân duyên sanh.
(經)善女天!云何五蘊能現法界?如是五蘊不從因緣生。
(Kinh:
Thiện Nữ Thiên! Thế nào là Ngũ Uẩn có thể
hiện pháp giới? Ngũ Uẩn như thế chẳng
sanh từ nhân duyên).
Tán
rằng: Kế đó, dùng pháp thuyết và thí dụ để
nói rộng, có nghĩa là pháp giới ĺa khỏi Bát Bất[4],
cho nên nương vào Ngũ Uẩn, sẽ có thể hiện
ra pháp giới. Trước hết, nêu ra Bất Sanh để
nói; kế đó, phỏng theo đó mà nói về bất diệt
v.v… Kinh văn được chia thành bốn phần:
-
Một, pháp thuyết.
-
Hai, từ “Thiện Nữ Thiên! Thí như cổ thanh”
(Thiện Nữ Thiên! Ví như tiếng trống) trở đi,
nêu ra thí dụ.
-
Ba, từ “nhược bất khả sanh” (nếu chẳng
thể sanh) trở đi, theo lệ đó,
nói về bảy thứ Bất kia.
-
Bốn, từ “cố tri Ngũ Uẩn phi hữu, phi vô”
(Do vậy, biết Ngũ Uẩn chẳng phải có, chẳng
phải không) là tổng kết.
Trong
phần thứ nhất là Pháp Thuyết, lại chia thành ba ư:
-
Một, giả lập lời gạn hỏi để phát
khởi ư trước đó.
-
Hai, nêu ra Tông.
-
Ba, giải thích nguyên do.
Đoạn
này gồm hai ư đầu. Phần “nêu ra Tông” nhằm chỉ ra ư nghĩa
“Ngũ Uẩn bất sanh” để phá Biến Kế
Chấp. Do Biến Kế Chấp là không có, sẽ có thể
hiện pháp giới. V́ thế, Ngũ Uẩn và pháp giới
chẳng một, chẳng khác v.v…
(Kinh)
Hà dĩ cố?
(經)何以故?
(Kinh:
V́ sao vậy?)
Kế đó là giải thích nguyên do. Trước hết,
giả lập lời cật vấn bề ngoài: “V́ sao chẳng
sanh từ cái nhân?” Đây là giả vờ chấp vào lập
luận “trong nhân có quả” và lập luận “thật sự
có đến, đi” để gạn hỏi. Lập luận
“chấp có quả”, tức là nói “trong nhân đă có quả”,
chỉ từ duyên mà [có quả] sanh ra,
hay do duyên mà cái quả ấy hiển lộ. Ví như hạt
giống của ngũ cốc, nếu trước đó trong
cái nhân không có quả, về sau, [hạt giống mọc thành thân
thảo mộc], sanh
ra thóc, cũng phải nên sanh ra đậu v.v… [v́ không có cái
nhân nhất định]. [C̣n như cho rằng]: Đôi bên vốn
chẳng có, do từ cái nhân mà sanh ra. Nếu vậy, cũng
phải nên là từ một cái nhân mà sanh ra hết thảy các
quả. V́ thế, trong nhân chắc chắn đă có quả,
chỉ là do duyên mà [cái quả ấy được] sanh hoặc hiển lộ. Vậy th́ lẽ nào [Ngũ
Uẩn] chẳng sanh từ nhân duyên?
Nếu
dựa trên lập luận “thật sự có đến, đi”
để gạn hỏi, th́ có ư nghĩa như sau: Pháp ba đời
là có, nhưng đời vị lai có các pháp sanh, có thể sanh,
và đáng nên sanh. Nếu chẳng có sanh để sanh, sẽ
chẳng dẫn đến hiện tại, [vậy th́] v́ lẽ
nào chẳng từ nhân duyên mà sanh?
(Kinh)
Nhược tùng nhân duyên sanh giả, vi dĩ sanh cố sanh?
Vi vị sanh cố sanh?
(經)若從因緣生者,為已生故生?為未生故生?
(Kinh: Nếu là sanh từ nhân duyên, th́ là do đă
sanh mà sanh, hay là do chưa sanh mà sanh?)
Tán
rằng: Chánh thức giải thích, [gồm bốn ư]:
-
Một, nhắc lại tổng quát.
-
Hai, từ “vi dĩ sanh cố sanh” (do đă sanh mà sanh)
trở đi là đặt ra lời gạn hỏi.
-
Ba, từ “nhược dĩ sanh sanh giả” (nếu là
do đă sanh mà sanh) trở đi, phủ nhận từng điều
riêng biệt.
-
Bốn, từ “danh vô tướng” (gọi là vô tướng)
trở đi, kết lại ư “Ngũ Uẩn có thể
hiện pháp giới”.
Đoạn
này gồm hai ư đầu, tức là đặt ra lời gạn
hỏi. Ư nói: V́ các pháp đă sanh, đợi cho tới
khi có các nhân như sanh v.v… bèn có thể sanh? Hay là v́ các pháp chưa
sanh, cho tới khi có các nhân như sanh v.v… th́ sẽ có thể
sanh?
(Kinh)
Nhược dĩ sanh sanh giả, hà dụng nhân duyên?
(經)若已生生者,何用因緣?
(Kinh:
Nếu do đă sanh mà sanh, cần ǵ dùng tới nhân duyên?)
Tán rằng: [Đây là phần] phủ nhận từng điều riêng biệt. Đây
là phủ nhận điều đầu tiên, tức “đă
sanh”. Nếu là pháp chưa sanh, có thể đợi có cái nhân
để sanh, chứ cái quả đă sanh rồi, cần ǵ
dùng các thứ như sanh v.v… làm nhân duyên để sanh nữa?
V́ thế, Thập Nhị Môn Luận[5]
có bài tụng rằng: “Thử sanh nhược vị sanh,
vân hà năng tự sanh? Nhược dĩ sanh tự sanh, dĩ
sanh hà dụng sanh?” (Cái sanh ấy nếu là chưa sanh,
sao có thể tự sanh? Nếu đă sanh th́ là tự sanh, đă sanh rồi th́ cần ǵ dùng sanh nữa?)
Hai câu đầu nhằm phá [chấp trước] “do chưa
sanh bèn sanh”, hai câu sau nhằm phá [chấp trước] “do đă
sanh bèn sanh”. Đấy chính là phá trừ [chấp trước]
“thật sự có đến, đi”. Luận (Thập Nhị
Môn Luận) giải thích rằng: “Nếu bảo rằng
‘do đă sanh rồi mà sanh’ th́ ‘đă sanh’ tức là sanh rồi, cần ǵ phải sanh nữa? Sanh rồi sẽ vô
sanh, làm rồi sẽ chẳng làm”. Ư nói: Nói “đă sanh rồi sẽ vô sanh” là lời quở trách thẳng
thừng. “Đă làm rồi sẽ chẳng làm” tức là nêu
thí dụ về phá trừ. Như chuyện đă làm xong, trọn chẳng
cần phải làm nữa. Cái Thể đă sanh rồi, sao c̣n
sanh rồi lại sanh nữa? Lời vấn nạn ấy
nhằm phá trừ đại sanh và tiểu sanh, do phỏng
theo pháp được sanh vốn là như vậy.
Lại
có thể hiểu [nói như vậy] cũng nhằm phá trừ
pháp được sanh. Luận lại có bài tụng rằng:
“Tiên hữu tức bất sanh, tiên vô diệc bất sanh,
hữu vô diệc bất sanh, thùy đương hữu
sanh giả?” (Đă là có từ trước th́ tức là
chẳng sanh, đă là không có từ trước th́ cũng chẳng
sanh. Dù có hay không cũng đều là chẳng sanh, ai sẽ có sanh vậy?)
Đây là phá trừ lập luận “trong nhân có quả”. Câu đầu
tiên phá [kiến chấp] “trước đó đă có cái quả”,
chỉ dùng nhân để sanh. Câu thứ hai và thứ ba nhằm
phá giả thiết “trước đó không có” và “đều
cùng có”, chẳng dùng đến nhân sanh. Câu thứ tư kết
lại ư “chẳng dùng nhân để sanh”. V́ thế, cái được
sanh cũng là chẳng có! Ư nói “vốn là không mà nay có”, th́ gọi là Sanh. Hoặc cái quả đă có sẵn
trong nhân từ trước th́ đáng nên gọi là “sanh”. Nay
đă sanh th́ c̣n dùng nhân để sanh làm ǵ? Do đó, giải
thích rằng: Nếu là quả đă có sẵn từ trước
trong cái nhân mà sanh, sẽ là vô cùng.
(Kinh)
Nhược vị sanh sanh giả, bất khả đắc
sanh.
(經)若未生生者,不可得生。
(Kinh:
Nếu là chưa sanh mà sanh, th́ sẽ chẳng thể
sanh).
Tán rằng: Đây là phủ định [kiến chấp]
“do chưa sanh mà sanh”. Trước hết, lập ra Tông,
từ “hà cố” (v́ sao) trở đi, là nêu ra cái nhân.
Thập Nhị Môn Luận viết: “Nếu là chưa sanh
mà sanh, ‘chưa sanh’ được gọi là ‘không có’, làm sao
nó có thể tự sanh?” Ư nói: Khi nhân duyên chưa sanh th́ cái
Thể chẳng có, “chẳng có” sẽ chẳng thể
tự sanh, sao có thể sanh ra cái khác cho được? Đấy
là phá lập luận “thật sự có đến, đi”.
Luận
ấy lại nói: “Lại nữa, nếu trong nhân không có
quả mà quả sanh ra, [ư nghĩa] ‘các nhân chính là lẫn nhau’ sẽ chẳng thành lập, v́ lẽ nào? Nếu các nhân
là không có, pháp sao có thể thực hiện được?
Sao có thể thành được? Nếu chẳng thực hiện,
chẳng thành lập, sao gọi là nhân cho được?” Ư nói: Nói đến nhân, ắt phải đối ứng với quả. Quả đă
là “chẳng có cái Thể”, [vậy th́] đối ứng với điều ǵ để nói “có
thể thực hiện, có thể thành?” Đă chẳng thể
thực hiện, chẳng thể thành, sao gọi là “nhân” cho được?
(Kinh)
Hà dĩ cố?
(經)何以故?
(Kinh:
V́ lẽ nào?)
Tán
rằng: Sắp nêu ra cái nhân, trước đó bèn giả lập
lời gạn hỏi!
(Kinh)
Vị sanh chư pháp tức thị phi hữu.
(經)未生諸法即是非有。
(Kinh:
Các pháp chưa sanh tức là chẳng có).
Tán
rằng: Nêu ra cái nhân.
(Kinh)
Vô danh, vô tướng, phi giảo lượng, thí dụ chi
sở năng cập.
(經)無名無相,非校量譬喻之所能及。
(Kinh:
Vô danh, vô tướng, chẳng phải do so lường hay thí dụ
mà có thể đạt tới được!)
Tán rằng: Kết lại ư “Ngũ Uẩn có thể
hiện pháp giới”. Do “phi Hữu” tức là Pháp Không,
chẳng thể dùng so sánh, thí dụ để đạt tới,
chẳng có tỷ lượng để có thể lập
khiến cho sanh ra.
(Kinh)
Phi thị nhân duyên chi sở sanh cố.
(經)非是因緣之所生故。
(Kinh:
Do chẳng phải là sanh bởi nhân duyên).
Tán
rằng: Đây là phần kết luận, nhằm kết lại cả hai điều trên đây. Nếu
là pháp đă sanh, th́ cũng chẳng phải là sanh bởi nhân
duyên. Nếu chưa sanh mà sanh, cũng chẳng phải là được
sanh bởi nhân duyên. V́ thế, đă chẳng phải là sanh
bởi nhân duyên, tức là vô danh, vô tướng, chẳng thể
thí dụ được. Đấy chính là pháp giới. Pháp
giới, Biến Kế, cùng với Y Tha chẳng một, chẳng
khác, bèn nói là “vô danh, vô tướng”. Cũng nên nói là “bất
sanh, bất diệt”, cho đến “tự tánh Niết Bàn”, chỉ là nêu ra đại lược
đó thôi! Sự tỷ lượng trong ấy, nếu là
pháp đă sanh th́ phải nên là “chẳng đợi có nhân mà
sanh”, do cái Thể của nó đă sanh, như quá khứ v.v…
Nếu là pháp chưa sanh, phải nên lập Tông rằng: “Các
pháp chưa sanh phải nên chẳng thể sanh v́ chẳng có”.
Cái Nhân [của Tông ấy] là “do vô danh, vô tướng, nên
cũng là nhân”. Các thứ “chẳng có” đều chẳng
thể sanh, như sừng thỏ v.v… Các thứ chẳng có
danh tướng đều chẳng thể sanh, như Chân
Như v.v…
Luận
Thập Nhị Môn lại nói: “Nếu pháp chẳng sanh mà
sanh, hết thảy các pháp chẳng sanh đều nên sanh. Hết
thảy phàm phu chưa sanh A Nậu Bồ Đề đều
nên sanh. Lại nữa, pháp bất hoại phiền năo của
A La Hán chẳng sanh mà sanh”. Đấy là nói bậc La Hán chẳng
thoái thất nơi pháp đáng nên dấy lên phiền năo. Lại
nói: Sừng của thỏ, ngựa v.v… chẳng sanh mà sanh.
Chuyện này chẳng phải vậy! V́ thế, chẳng nên
nói “chẳng sanh mà sanh”. Quyển thứ chín của luận
Hiển Dương Thánh Giáo, quyển thứ sáu của luận
Du Già Sư Địa, và quyển thứ tư của Quảng
Bách Luận[6] v.v… thảy đều có [lập luận để] phá
[chấp trước “chẳng sanh mà sanh”], nhưng sợ rườm
rà, chẳng trích dẫn! Trên đây là phá vọng, tức là
nương vào Biến Kế Ngũ Uẩn liền hiện
pháp giới, chưa nói tới Y Tha. Trong phần sau, khi kết
hợp thí dụ với pháp th́ mới nêu rơ: Y Tha có thể
hiện pháp giới.
5.10.4.2.2.2.
Dùng thí dụ để nói
5.10.4.2.2.2.1.
Thí dụ “Y Tha là giả hữu”
(Kinh) Thiện Nữ Thiên! Thí
như cổ thanh, y mộc, y b́, cập phù, thủ đẳng, cố đắc xuất thanh.
(經)善女天!譬如鼓聲,依木依皮及桴手等,故得出聲。
(Kinh:
Thiện Nữ Thiên! Ví như tiếng trống, do nương
vào gỗ, nương vào da, và dùi trống, tay v.v… mà phát ra
tiếng).
Tán
rằng: Phần thứ hai là nói thí dụ. Kinh văn gồm
hai phần:
-
Một, thí dụ về Y Tha giả hữu.
-
Hai, nêu rơ Biến Kế là không có.
Đoạn này thuộc phần thứ
nhất, gồm hai ư:
-
Một, nói rơ do Y Tha mà có.
-
Hai, nêu rơ Y Tha có thể hiện pháp giới.
Đoạn
này nhằm nói Y Tha giả hữu. Nhân duyên như huyễn, chỉ
là giả ḥa hợp mà sanh.
(Kinh)
Như thị cổ thanh quá khứ diệc không, vị lai diệc
không, hiện tại diệc không.
(經)如是鼓聲過去亦空、未來亦空、現在亦空。
(Kinh:
Tiếng trống như thế, quá khứ cũng không, vị
lai cũng không, hiện tại cũng không).
Tán
rằng: Hiển lộ “Ngũ Uẩn có thể hiện pháp tánh”. Đă là duyên sanh, chẳng phải là
chắc chắn thật sự có. Quá khứ đă diệt,
vị lai chưa sanh, hiện tại chẳng trụ. Do vậy,
đều là Không, Không tức là pháp giới. V́ thế, Vô
Trước Bồ Tát đă viết trong Bát Nhă Luận rằng:
“Mộng, tia chớp, mây ví như pháp tam thế, gọi là
tu xuất ly. Xuất ly tức là Niết Bàn, do chẳng sanh
diệt”. Quyển sáu của luận Du Già Sư Địa
nói “ba đời, mỗi đời đều có mười
hai tướng, chẳng thể nói”. Chi tiết th́ như trong luận ấy đă nói.
5.10.4.2.2.2.2.
Biến Kế là không có
(Kinh)
Hà dĩ cố? Thị cổ âm thanh bất tùng mộc sanh,
bất tùng b́ sanh, cập phù, thủ sanh, bất ư tam thế
sanh, thị tắc bất sanh.
(經)何以故?是鼓音聲,不從木生、不從皮生、乃桴手生、不於三世生,是則不生。
(Kinh:
V́ sao vậy? Tiếng trống ấy chẳng sanh từ gỗ,
chẳng sanh từ da, và chẳng sanh từ dùi hay tay, chẳng
sanh trong ba đời. Do vậy, chẳng sanh).
Tán
rằng: Kế đó, vạch rơ Biến Kế là không có. Trước
là gạn hỏi, kế đó, biện định, cuối
cùng là kết lại. Trung Luận nói: “Các pháp chẳng tự
sanh” do tự chẳng có tác dụng. “Cũng chẳng
từ thứ khác sanh”, do “tha” (thứ khác) chẳng
có tác dụng. “Cũng chẳng từ cộng sanh”: Do tự
và tha đều chẳng có tác dụng. Chẳng phải là
không từ hai thứ ấy mà sanh, tuy chẳng có tác dụng,
nhưng do duyên bèn có công năng, sẽ có thể
duyên theo đức. Đấy là phá chấp “thật sự có tác dụng”.
Ở đây cũng thế, âm thanh chẳng sanh từ gỗ,
da v.v… v́ không có tác dụng. [Tiếng trống]
chẳng sanh từ da, dùi, tay cũng
thế. “Bất ư tam thế sanh” (chẳng sanh trong
ba đời): Đời quá khứ đă diệt, đời
vị lai là không, chẳng sanh, đời hiện tại đă
tự sanh. V́ thế, chẳng phải là ba đời sanh.
Câu ‘thị tắc bất sanh” (đấy là chẳng
sanh) chính là kết luận. Ư nói: Đă là chẳng sanh, bèn hiển
lộ pháp giới. Kinh văn như trong phần trước
đă dẫn.
5.10.4.2.2.3.
Phỏng theo lệ đó để biện định bảy
món Bất c̣n lại như bất diệt v.v…
5.10.4.2.2.3.1.
Phỏng theo phần Bất Sanh để biện định bảy món Bất kia
(Kinh) Nhược bất khả
sanh, tắc bất khả diệt. Nhược bất khả
diệt, vô sở tùng lai. Nhược vô sở tùng lai, diệc
vô sở khứ. Nhược vô sở khứ, tắc phi thường,
phi đoạn. Nhược phi thường, phi đoạn,
tắc bất nhất, bất dị.
(經)若不可生則不可滅,若不可滅無所從來,若無所從來亦無所去,若無所去則非常非斷,若非常非斷則不一不異。
(Kinh:
Nếu chẳng thể sanh th́ sẽ chẳng thể diệt.
Nếu chẳng thể diệt, sẽ chẳng từ đâu
đến. Nếu chẳng từ đâu đến, cũng
chẳng đi về đâu. Nếu không đi về đâu,
sẽ chẳng thường, chẳng đoạn. Nếu
chẳng thường, chẳng đoạn, th́ sẽ chẳng một, chẳng khác).
Tán
rằng: Phần thứ ba là phỏng theo lệ đó để
biện định bảy món Bất c̣n lại như Bất Diệt v.v… nhằm hiển lộ pháp
giới. Phần này gồm hai ư:
-
Một, phỏng theo phần Bất Sanh.
-
Hai, giải đáp vấn nạn.
Thể
tánh của Biến Kế Sở Chấp là không có, như con
của thạch nữ[7].
Trước là trong hiện tại chẳng tự sanh, làm
sao có quá khứ để diệt cho được? Cũng
chẳng từ cái nhân trong vị lai mà có! Đă chẳng đến,
có ǵ để thay thế quá khứ? Vị lai đă chẳng
đến, cũng không có ǵ để thay thế quá khứ,
nói thứ ǵ là thường hay đoạn cho được?
Đă chẳng có thường hay đoạn, nói thứ ǵ
là một, hay khác với các pháp? V́ thế, chẳng có một,
khác v.v… Xét ra, Biến Kế chẳng một hay khác với pháp
giới. Do chẳng khác, Biến Kế liền có thể hiện
pháp giới. Do chẳng một, pháp giới liền ĺa đoạn,
thường v.v… Hoặc là do chẳng một, Biến Kế
Sở Chấp chính là ĺa thường, đoạn v.v... Xét
theo Y Tha, tiếng trống và gỗ, da v.v… cũng giống
như thế. Nếu tiếng trống và gỗ, da v.v… là một,
[khi gơ trống] phải nên nghe bốn âm thanh, tức là phải
nghe thấy [âm thanh của] gỗ, da, dùi, tay, do Thể của
chúng là một. Nếu âm thanh khác với da, dùi v.v… lẽ ra [âm
thanh] chẳng nên từ các thứ đó mà khởi! Chỉ
là giả ḥa hợp, chẳng thể nói là một hay khác được!
Những điều khác cứ chuẩn theo đó mà suy. Âm
thanh nương vào gỗ, da v.v… mà khởi, chẳng thể
nói là một hay khác. Uẩn nương vào pháp giới mà
sanh, chẳng thể nói là một hay khác với pháp giới
được. Đă là “chẳng khác”, cho nên nương vào Ngũ Uẩn
liền hiện pháp giới. Do “chẳng một”, pháp giới chẳng sanh diệt v.v…
5.10.4.2.2.3.2.
Giải thích các vấn nạn
5.10.4.2.2.3.2.1.
Giải thích vấn nạn đối với “chẳng một”
(Kinh)
Hà dĩ cố?
(經)何以故?
(Kinh:
V́ sao vậy?)
Tán
rằng: Kế đó, ư thứ hai là giải thích vấn nạn,
nhưng chỉ
giải thích “chẳng một, chẳng khác”. Gồm có hai phần:
-
Một, giải thích vấn nạn đối với “chẳng
một”.
-
Hai, giải thích vấn nạn đối với “chẳng
khác”.
Trong
phần thứ nhất, “giải thích vấn nạn đối
với chẳng một”, có bốn ư:
-
Đoạn thứ nhất là gạn hỏi.
-
Hai là cật vấn.
-
Ba là vạch ra lỗi.
-
Bốn là kết lại ư “chẳng một”.
Câu
này thuộc ư thứ nhất.
(Kinh)
Thử nhược thị nhất, tắc bất dị
pháp giới.
(經)此若是一,則不異法界。
(Kinh:
Nếu đấy là một, sẽ chẳng khác pháp giới).
Tán
rằng: Cật vấn [quan điểm chấp trước]
“là một”.
(Kinh)
Nhược như thị giả, phàm phu chi nhân ưng kiến
Chân Đế, đắc ư vô thượng an lạc Niết
Bàn.
(經)若如是者,凡夫之人應見真諦,得於無上安樂涅槃。
(Kinh:
Nếu là như thế, kẻ phàm phu phải nên thấy Chân
Đế, đạt được Niết Bàn vô thượng
an lạc).
Tán
rằng: Vạch ra lỗi [của chấp trước ấy].
Nếu pháp giới và Ngũ Uẩn là một, như vậy
th́ lúc phàm phu trông thấy Ngũ Uẩn, phải nên thấy
Chân Đế, v́ Ngũ Uẩn chính là Chân Như. Nếu là
như thế, phàm phu phải nên đạt được
vô thượng an lạc. “Vô thượng an lạc” chính là Đại Niết Bàn. Điều
này cũng giống như kinh A Tỳ Đạt Ma dạy:
“Cảnh ly thức hữu, phàm phu tự ưng thành vô đảo
trí, dĩ kiến thật cố. Kư bất thành trí, minh ly thức
vô” ([Nếu như] cảnh ĺa thức mà có, phàm phu phải
tự nên thành tựu trí chẳng điên đảo v́ đă
thấy Thật. Do chẳng thành tựu trí, rơ ràng ĺa thức
th́ là không).
(Kinh)
Kư bất như thị, cố tri bất nhất.
(經)既不如是,故知不一。
(Kinh:
Đă chẳng phải là như thế, cho nên biết “chẳng
phải là một”).
Tán
rằng: Kết lại “chẳng là một”. Đă chẳng
thể thành thánh, đạt được Niết Bàn an lạc
như thế, cho nên biết pháp giới và Ngũ Uẩn chẳng
phải là một, giống như trong luận Thập Bát Không
đă cật vấn!
5.10.4.2.2.3.2.2.
Giải thích vấn nạn đối với “chẳng khác”
(Kinh)
Nhược ngôn dị giả.
(經)若言異者。
(Kinh:
Nếu nói là khác).
Tán
rằng: Kế đó, giải thích vấn nạn đối
với “chẳng khác”, cũng gồm bốn ư: Một là nhắc
lại để gạn hỏi, hai là cật vấn, ba là
nêu ra lỗi, bốn là kết lại. Câu này thuộc ư đầu
tiên. Đây là vấn nạn đối với “chẳng
một, chẳng khác”, giống như trong quyển một
của kinh Giải Thâm Mật và quyển bảy mươi
lăm của luận Du Già Sư Địa [đă biện
định], do sợ rườm rà, chẳng trích dẫn.
(Kinh) Nhất thiết chư
Phật, Bồ Tát hành tướng tức thị chấp
trước, vị đắc giải thoát phiền năo hệ
phược.
(經)一切諸佛菩薩行相即是執著,未得解脫煩惱繫縛。
(Kinh:
Hành tướng của hết thảy chư Phật, Bồ
Tát chính là chấp trước, chưa đạt được
giải thoát khỏi trói buộc của phiền năo).
Tán
rằng: Ư thứ hai là cật vấn, chê trách, gồm ba ư
nhỏ: Một là chấp trước, hai là phải nên chưa
chứng Niết Bàn, ba là phải nên chưa ĺa trói buộc.
Do giống như trong phần trên đă nói: Do chẳng ĺa Đoạn
Kiến và Thường Kiến, tức là các thứ chấp
trước v.v…
(Kinh)
Tức bất chứng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề.
(經)即不證阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh:
Tức là chẳng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác).
Tán rằng: Vạch ra lỗi [của chấp trước
ấy]. Do [chấp trước như vậy sẽ] có ba lỗi
trên đây (hành tướng là chấp trước, chưa
chứng Niết Bàn, chưa giải thoát khỏi sự trói
buộc của phiền năo), chư Phật hiện tại
phải là chẳng chứng, Bồ Tát trong tương lai sẽ
phải là chẳng chứng, v́ có chấp, có phiền năo vậy!
(Kinh)
Hà dĩ cố? Nhất thiết thánh nhân ư hành phi hành, đồng
chân thật tánh. Thị cố bất dị.
(經)何以故?一切聖人於行非行同真實性,是故不異。
(Kinh:
V́ sao vậy? Hết thảy thánh nhân đối với hành
và phi hành đều có cùng một tánh chân thật. Do vậy,
chẳng khác).
Tán
rằng: Kế đó, kết lại ư “chẳng khác”. Trước
là giả lập lời gạn hỏi. Do v́ lẽ nào mà pháp
giới và Ngũ Uẩn chẳng khác? Xác quyết rằng:
Hết thảy thánh nhân đối với “hành” (chính là
Ngũ Uẩn), “phi hành” (chính là thấy pháp giới) đều
có cùng một chân tánh, ĺa tướng “một, khác”. V́ thế,
kết lại ư “chẳng khác”.
5.10.4.2.2.2.4.
Kết lại phần biện định về các thứ
Bất c̣n lại
(Kinh)
Cố tri Ngũ Uẩn phi hữu, phi vô, bất tùng nhân
duyên sanh, phi vô nhân duyên sanh.
(經)故知五蘊非有非無,不從因緣生,非無因緣生。
(Kinh:
Do vậy biết: Ngũ Uẩn chẳng phải có, chẳng
phải không, chẳng sanh từ nhân duyên, chẳng phải
là không do nhân duyên sanh).
Tán
rằng: Kế đó, kết lại phần luận định
phỏng theo [phần biện định “bất sanh”].
Có hai ư:
-
Một, kết lại phần “bất sanh”.
-
Hai, từ “thị thánh sở tri” (đấy là điều
bậc thánh biết) trở đi, kết lại ư “vô danh,
vô tướng v.v…” trong phần trước.
Đoạn
này là kết lại ư “bất sanh”. Do phỏng theo [cách
lập luận đối với bất sanh] mà kết luận
các điều như “bất diệt” đều là “vô
danh, vô tướng” v.v… Tức là kết luận chung “Bát Bất
đều là vô danh, vô tướng…” Lại nữa, trong phần kết
lại ư nghĩa “bất sanh”, cũng nhằm kết
lại để xác quyết [các ư nghĩa trong] phần trước.
Trước hết, nêu đại lược cái Tông, tức
“xa ĺa hai tướng, bèn nói là chẳng phải có, chẳng
phải không”. Hoặc có thể hiểu ở đây, do kết
lại ư nghĩa “đă sanh và chưa sanh” trong phần trước
mà nói là “chẳng phải có, chẳng phải không”. Hoặc
có thể hiểu “phi hữu, phi vô” (chẳng phải có, chẳng phải không) là kết luận chung cho Bát Bất. Do “chẳng phải là có hay không”, cho nên chẳng sanh, diệt v.v… Chân tánh của Ngũ
Uẩn chẳng sanh từ nhân duyên, hoặc Biến Kế
Sở Chấp và tự tánh Ngũ Uẩn chẳng sanh từ
nhân duyên, Y Tha Ngũ Uẩn chẳng phải là không có nhân duyên mà
sanh. V́ thế biết: Bát Bất hoặc là xét theo Chân Như, hoặc
dựa theo Biến Kế, đều chẳng phải là Y Tha Khởi. Dẫu dựa theo Y Tha
để nói về Bát Bất th́ cũng là dựa theo Biến
Kế để nói.
(Kinh)
Thị thánh sở tri, phi dư cảnh cố, diệc phi
ngôn thuyết chi sở năng cập, vô danh, vô tướng,
vô nhân, vô duyên, diệc vô thí dụ, thỉ chung tịch tĩnh,
bổn lai tự không.
(經)是聖所知,非餘境故,亦非言說之所能及,無名無相、無因無緣,亦無譬喻,始終寂靜,本來自空。
(Kinh:
Đấy là điều bậc thánh biết, chẳng phải
là các cảnh khác, cũng chẳng thể diễn nói được,
vô danh, vô tướng, chẳng có nhân, chẳng có duyên, cũng
chẳng có thí dụ, từ đầu đến cuối
vắng lặng, vốn sẵn tự không).
Tán
rằng: Kết lại ư “vô danh tướng” v.v… trong phần
trước. Câu “thị thánh sở tri, phi dư cảnh”
(đấy là điều bậc thánh biết, chẳng
phải là cảnh khác) nhằm kết lại ư “chẳng
thể dùng so lường để thấu đạt”
trong phần trước. “Diệc phi ngôn thuyết…” (cũng
chẳng thể diễn nói…) nhằm kết lại ư “vô
danh, vô tướng” trong phần trước. “Vô nhân,
vô duyên” kết lại ư “chẳng phải là sanh bởi
nhân duyên” trong phần trước. “Diệc phi thí dụ”
(cũng chẳng phải là thí dụ): Kết lại ư “chẳng
thể dùng thí dụ để thấu đạt” trong
phần trước. “Thỉ chung tịch tĩnh…” (Từ
đầu đến cuối tịch tĩnh) kết lại
ư “Ngũ Uẩn có thể hiện pháp giới”.
Chuẩn
theo kinh văn ở đây để nói th́ trước các ư
như “thỉ chung tịch tĩnh” v.v… cũng phải
nên có Hữu để nêu ra đại lược. Hoặc
“thỉ chung tịch tĩnh bổn lai tự không” (từ
đầu đến cuối là tịch tĩnh, vốn tự
chẳng có) nhằm kết lại ư nghĩa “như thị
cổ thanh, tam thế câu không” (tiếng trống như
thế, ba đời đều là không) trong thí dụ trước đó. Cách giải thích trước hay hơn, v́ thí dụ và
kết luận đều nhằm nói rơ phần Pháp Thuyết,
tức là như kinh Giải Thâm Mật dạy: “Thuyết
nhất thiết pháp bổn lai tịch tĩnh tự tánh Niết
Bàn chi nghĩa” (Nói “hết thảy các pháp vốn sẵn
tịch tĩnh” là ư nghĩa của tự tánh Niết Bàn).
(Kinh)
Thị cố, Ngũ Uẩn năng hiện pháp giới.
(經)是故五蘊能現法界。
(Kinh: V́ thế, Ngũ Uẩn có thể hiện pháp
giới).
Kế
đó là kết lại.
5.10.4.2.3.
Kết lại để khuyên tu học
(Kinh) Thiện Nữ Thiên! Nhược
thiện nam tử, thiện nữ nhân dục cầu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, dị
Chân, dị Tục, nan khả tư lượng, ư phàm thánh
cảnh, thể
phi nhất, dị, bất xả ư Tục, bất ly ư
Chân, y ư pháp giới hành Bồ Đề hạnh.
(經)善女天!若善男子善女人欲求阿耨多羅三藐三菩提,異真異俗難可思量,於凡聖境體非一異,不捨於俗不離於真,依於法界行菩提行。
(Kinh: Thiện Nữ Thiên! Nếu thiện nam tử,
thiện nữ nhân muốn cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, khác Chân, khác Tục, khó thể suy lường, đối
với cái Thể của cảnh thánh hay phàm chẳng phải
là một hay khác, chẳng xả Tục, chẳng ĺa Chân, nương
vào pháp giới mà hành hạnh Bồ Đề).
Tán
rằng: Đây là phần thứ ba tức “kết lại
để khuyên tu học” trong lời dạy tu tập của
đức Phật. Do chẳng trụ trong Niết Bàn, cho nên
khác Chân. Do chẳng trụ trong sanh tử, nên khác Tục. Hoặc
là Tứ Trí Bồ Đề và Bồ Đề đoạn
chẳng phải là Chân Như, nên khác Chân; chẳng phải là sanh tử, nên khác Tục. Trước là nương vào vô trụ
để tu, sau là nương vào xứng lư để tu. Hành
tướng sâu xa ấy khó thể suy lường bằng
phân biệt, tầm tứ được. Phàm phu thấy
Ngũ Uẩn chẳng ĺa Chân Như, thánh nhân thấy Chân
Như chẳng ĺa Ngũ Uẩn, cho nên nói là “chẳng khác”.
Uẩn và Như tánh khác biệt, nên nói là “chẳng một”.
Hoặc thánh thấy Ngũ Uẩn như huyễn, phàm thấy
là thật, nên nói “chẳng một”. Do cùng duyên theo Ngũ
Uẩn, nên nói là “chẳng khác”. Hoặc phàm thấy Uẩn
và Như là một hay là khác, thánh thấy Uẩn và Như chẳng
một, chẳng khác, đều do duyên mà thấy hiểu, bèn
nói riêng là “chẳng một, chẳng khác”.
“Phàm”
được nói ở đây cũng chính là hàng Nhị Thừa,
do họ c̣n một phần Dị Sanh Tánh. Do người Nhị
Thừa thấy Ngũ Uẩn khác với pháp giới, một
mực chán nhàm sanh tử mà cầu Niết
Bàn. Phàm phu do thấy [Ngũ Uẩn và pháp giới là] khác, một
mực sợ Niết Bàn, trụ trong sanh tử!
Bồ Tát thấy cái Thể của Ngũ Uẩn và pháp giới
chẳng một, chẳng khác; cho nên chẳng xả Tục,
chẳng ĺa Chân. Do đạt được lư pháp giới
b́nh đẳng ấy, chẳng sợ sanh tử, chẳng
ham Niết Bàn. V́ thế, có thể tu diệu hạnh đại
bi trí huệ lợi ḿnh lẫn người khác.
Hỏi:
Hành Bồ Đề hạnh th́ theo như Vô Trước Bồ Tát giải thích ư nghĩa “nhiếp thủ vô trụ Niết Bàn” trong Bát Nhă Kinh Luận rằng: “Như sở thông đạt
cố”, ư nói: Đă thông đạt như thế. Như nay đang ở trong sanh tử mà chẳng bị sanh tử
bức bách, trụ trong Niết Bàn mà chẳng bị Niết
Bàn bó buộc. Chân thể tánh của các pháp là như thế, cho nên có thể y theo đó để tu
hành, cũng lại trụ trong sanh tử mà chẳng bị
khổ năo bức bách như thế, trụ trong Niết Bàn
mà chẳng bị lạc câu thúc; cho nên chẳng trụ trong sanh tử hay Niết Bàn. Chẳng giống
như Nhị Thừa và phàm phu do chẳng chứng Như,
cho nên mỗi đằng trụ vào một bên. Xét theo đó,
do Như chẳng trụ vào hai bên, Như Như mà chứng, được gọi
là Vô Trụ Niết Bàn. Cớ sao ở đây nói: Do cái Thể
của Ngũ Uẩn và Như chẳng một, chẳng khác,
nương theo đó để tu hành th́ gọi là “bất
trụ hạnh” vậy?
Đáp:
Đôi bên chẳng mâu thuẫn! Ở đây là nói Như và Uẩn
chẳng một, tức chẳng trụ sanh tử, chính là ư
nghĩa “chẳng bị khổ câu thúc”. Nếu Như và Uẩn
là một, tức là trụ trong sanh tử, sẽ bị khổ
câu thúc. Do Như chẳng khác, tức là chẳng trụ
trong Niết Bàn, chính là ư nghĩa “chẳng bị Niết
Bàn câu thúc”, cho nên cũng tương tự.
5.10.4.3.
Thiên nữ lănh ngộ, phụng tŕ, tu học
5.10.4.3.1.
Thiên nữ hoan hỷ, lănh ngộ, tu hành
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn tác thị ngữ
dĩ, thời Thiện Nữ Thiên dũng dược, hoan
hỷ, tức tùng ṭa khởi, thiên đản hữu kiên, hữu
tất trước địa, hiệp chưởng, cung
kính nhất tâm đảnh lễ, nhi bạch Phật ngôn: -
Thế Tôn! Như thượng sở thuyết Bồ Đề
chánh hạnh, ngă kim đương học.
(經)爾時世尊作是語已,時善女天踊躍歡喜,即從座起,偏袒右肩右膝著地,合掌恭敬一心頂禮而白佛言:世尊!如上所說菩提正行,我今當學。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói như thế
xong, khi đó, Thiện Nữ Thiên hoan hỷ, hớn hở, liền
từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo phải,
gối phải đặt sát đất, chắp tay, cung
kính, nhất tâm đảnh lễ, mà bạch cùng đức
Phật rằng: - Bạch đức Thế Tôn! Chánh hạnh
Bồ Đề như vừa nói trên đây, con nay sẽ học).
Tán
rằng: Phần thứ ba là “thiên nữ lănh ngộ, vâng giữ,
nương theo đó tu học”. Kinh văn chia thành sáu ư:
-
Một, thiên nữ hoan hỷ, lănh ngộ, tu hành.
-
Hai, Phạm vương thưa hỏi tướng trạng
tu tập.
-
Ba, Phạm vương tán thán, lănh ngộ pháp sâu.
-
Bốn, đức Thế Tôn ấn khả, trần thuật
lợi ích thù thắng.
-
Năm, Phạm vương lănh ngộ, vui mừng.
-
Sáu, đức Thế Tôn thọ kư cho thiên nữ, Phạm
vương vui mừng.
Đoạn
này thuộc ư thứ nhất, có năm ư:
-
Một, kết lại những điều đă nói.
-
Hai, [thiên nữ] hoan hỷ, lănh ngộ.
-
Ba, [thiên nữ] dốc ḷng kiền thành, cung kính.
-
Bốn, [thiên nữ] nhận lănh những điều đă được nghe.
-
Năm, [thiên nữ phát nguyện] vâng theo đó để tu học.
Phân
đoạn kinh văn dễ thấy.
5.10.4.3.2. Phạm vương thưa hỏi tướng
trạng tu hành
5.10.4.3.2.1. Thưa hỏi như thế nào để
quán giải tự tại
5.10.4.3.2.1.1. Thưa hỏi
(Kinh) Thị thời,
Sách Ha thế giới chủ Đại Phạm thiên
vương ư đại chúng trung, vấn Như Ư Bảo
Quang Diệu Thiện Nữ Thiên viết: - Thử Bồ
Đề hạnh nan khả tu hành, nhữ kim vân hà ư Bồ
Đề hạnh nhi đắc tự tại?
(經)是時索訶世界主大梵天王於大眾中,問如意寶光耀善女天曰:此菩提行難可修行,汝今云何於菩提行而得自在?
(Kinh: Khi
đó, chủ của thế giới Sách Ha (Sa Bà) là Đại
Phạm thiên vương ở trong đại chúng, hỏi
Như Ư Bảo Quang Diệu Thiện Nữ Thiên rằng: -
Hạnh Bồ Đề này khó thể tu hành, nay cô làm thế
nào mà được tự tại trong hạnh Bồ Đề?)
Tán
rằng: Phạm vương thưa hỏi tướng tu
hành, có bốn phần:
-
Một, hỏi “như thế nào để quán giải
tự tại?”
-
Hai, hỏi “tu hạnh Bồ Đề như thế nào?”
-
Ba, hỏi “nương vào đâu để nói khởi tu?”
-
Bốn, hỏi “đạt được lợi ích
nhiều hay ít?”
Trong
phần thứ nhất, lại gồm có hai ư: Một là hỏi, hai là đáp. Đoạn
này thuộc ư hỏi của phần thứ nhất. Kinh văn
gồm hai ư:
-
Một là người khải thỉnh (Phạm vương).
Sách Ha (Sahā, Sa Bà) phương này dịch là Kham Nhẫn Giới, tức
là trong sanh tử có nhiều oán nạn, Bồ Tát có thể chịu
đựng. Phạm vương là vua của cơi trời Tĩnh
Lự thứ nhất (Sơ Thiền Thiên vương), hoặc
vua của cơi trời Tĩnh Lự thứ tư (Tứ Thiền
Thiên vương), là chủ của cơi đại thiên.
-
Hai, người được thỉnh vấn (Thiện Nữ
Thiên).
Lời
hỏi chánh yếu là: Hạnh Bồ Đề này ĺa bốn
câu, tuyệt bát phi (bát bất), chẳng
thể diễn tả bằng ngôn ngữ, dứt bặt tư
lự, chẳng Chân, chẳng Tục. Nhị Thừa chẳng
biết, phàm phu chẳng lường được, nay sao
cô có thể tự tại quán trí hạnh Bồ Đề được?
5.10.4.3.2.1.2.
Giải đáp
5.10.4.3.2.1.2.1.
Khẳng định pháp ấy khó biết
(Kinh)
Nhĩ thời, Thiện Nữ Thiên đáp Phạm
vương viết: - Đại Phạm vương! Như
Phật sở thuyết thật thị thậm thâm, nhất
thiết dị sanh bất giải kỳ nghĩa, thị
thánh cảnh giới vi diệu nan tri.
(經)爾時善女天答梵王曰:大梵王!如佛所說實是甚深,一切異生不解其義,是聖境界微妙難知。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Thiện Nữ Thiên trả lời Phạm
vương rằng: - Đại Phạm vương! Như
lời đức Phật đă nói thật sự rất sâu,
hết thảy dị sanh chẳng hiểu nghĩa đó. Đấy
là thánh cảnh giới, vi diệu khó biết).
Tán
rằng: Kế đó là giải đáp, có bốn phần:
-
Một, khẳng định pháp ấy khó biết.
-
Hai, thỉnh chứng minh.
-
Ba, đạt được điềm lành.
-
Bốn, chuyển thân nữ.
Đoạn
này là phần thứ nhất.
5.10.4.3.2.1.2.2.
Thỉnh chứng minh
(Kinh)
Nhược sử ngă kim y ư thử pháp, đắc an lạc trụ, thị thật ngữ giả.
(經)若使我今依於此法得安樂住是實語者。
(Kinh:
Nếu như tôi do nương vào pháp này mà đắc an
lạc trụ là lời chân thật).
Tán
rằng: Thỉnh chứng minh. Trước hết là hiểu
đúng thật, sau đó là lập thệ nguyện. Đoạn
này nói về sự hiểu biết đúng thật. Đối
với lư sâu ấy, đạt được trí tự tại,
chẳng phải là bị tướng và dụng của phiền
năo lay động, th́ gọi là “an lạc”. Nương
vào chánh quán ấy th́ gọi là Trụ.
5.10.4.3.2.1.2.3.
Thệ nguyện
(Kinh)
Nguyện linh nhất thiết ngũ trược ác thế
vô lượng vô số vô biên chúng sanh, giai đắc kim sắc,
tam thập nhị tướng, phi nam, phi nữ, tọa bảo
liên hoa, thọ vô lượng lạc, vũ thiên diệu
hoa, chư thiên âm nhạc bất cổ tự minh, nhất
thiết cúng dường giai tất cụ túc.
(經)願令一切五濁惡世無量無數無邊眾生,皆得金色三十二相非男非女,坐寶蓮華受無量樂,雨天妙華,諸天音樂不鼓自鳴,一切供養皆悉具足。
(Kinh:
Nguyện cho hết thảy vô lượng vô số vô biên chúng
sanh trong đời ác ngũ trược, đều được
ba mươi hai tướng kim sắc, chẳng phải nam,
chẳng phải nữ, ngồi trên hoa sen báu, hưởng vô
lượng vui, mưa hoa trời mầu nhiệm, các âm nhạc
cơi trời chẳng tấu mà tự phát ra tiếng, hết
thảy cúng dường thảy đều đầy đủ).
Tán
rằng: Lập thệ nguyện, biểu thị sự thấu
hiểu “phàm và thánh chẳng một, chẳng khác”. V́
thế, nguyện thành thân kim sắc v.v… Hoặc biểu thị
“cùng thuận theo Chân, sẽ được thành Phật”,
bèn thỉnh cầu hiện thân kim sắc v.v… Biểu thị
thấu hiểu “chẳng có tướng nam, nữ”, nên
thỉnh hiện tướng chẳng phải nam, chẳng
phải nữ. Hoặc biểu thị “sẽ thành Phật,
tuy chẳng phải là nam nữ, mà hiện thân nam, nữ”.
V́ thế, nguyện hiện thân chẳng nam, chẳng nữ.
Biểu thị thoát khỏi bùn lầy sanh tử, biểu
thị thấu hiểu “chẳng nhiễm, chẳng tịnh”,
nên nguyện hiện ngồi trên hoa sen. Biểu thị “do
sự hiểu biết ấy, ắt sẽ chứng hai thứ
an lạc là Bồ Đề và Niết Bàn”, cho nên nguyện
hưởng vô lượng vui. Biểu thị “có thể
hành cái nhân, mà cũng có thể dạy cho người khác hành
cái nhân ấy”, v́ thế, nguyện mưa hoa. Biểu thị
“có thể tùy ư v́ người khác thuyết pháp”, bèn nguyện
[các thứ nhạc khí cơi trời] chẳng tấu mà tự
phát ra tiếng. Biểu thị “trí chứng cảnh, v́ pháp
mà thực hiện cúng dường”, nên nguyện hết
thảy các thứ cúng dường đều trọn đủ.
5.10.4.3.2.1.2.4.
Hiện điềm lành
(Kinh)
Thời Thiện Nữ Thiên thuyết thị ngữ dĩ,
nhất thiết ngũ trược ác thế sở hữu
chúng sanh giai tất kim sắc, cụ đại nhân tướng,
phi nam, phi nữ, tọa bảo liên hoa, thọ vô lượng
lạc, do như Tha Hóa Tự Tại thiên cung, vô chư ác
đạo, bảo thụ hàng liệt, thất bảo liên
hoa biến măn thế giới, hựu vũ thất bảo
thượng diệu thiên hoa, tác thiên kỹ nhạc.
(經)時善女天說是語已,一切五濁惡世所有眾生皆悉金色,具大人相非男非女,坐寶蓮華受無量樂,猶如他化自在天宮無諸惡道,寶樹行列,七寶蓮華遍滿世界,又雨七寶上妙天華,作天妓樂。
(Kinh: Khi ấy, Thiện Nữ Thiên nói lời ấy
xong, hết thảy tất cả chúng sanh trong đời ác
ngũ trược thảy đều là sắc vàng, đủ
tướng đại nhân, chẳng nam, chẳng nữ, ngồi
trên hoa sen báu, hưởng vô lượng lạc như cung
trời Tha Hóa Tự Tại, không có các ác đạo, cây báu
bày hàng, hoa sen bảy báu trọn khắp thế giới, lại
mưa hoa trời thượng diệu bằng bảy báu,
tấu các kỹ nhạc cơi trời).
Tán
rằng: Đạt được điềm lành. Do hiểu
tương xứng với Chân, sở nguyện được
toại. V́ thế, những điều nguyện được
hiện ra đều thuận theo ḷng mong. Trọn đủ
bảy chi giới, nguyện được cây báu bày hàng. Tu
Thất Thánh Tài, được hoa sen bảy báu. Tuy thoát sanh
tử mà chẳng xả lợi lạc chúng sanh; do vậy, [các
điềm lành ấy] trọn khắp thế giới. Hoặc
tương xứng chân lư vô hạn mà tu, cho nên hoa sen trọn
khắp thế giới.
5.10.4.3.2.1.2.5.
Thiên nữ chuyển thân nữ thành nam
(Kinh)
Như Ư Bảo Quang Diệu Thiện Nữ Thiên tức chuyển
nữ thân, tác Phạm Thiên thân.
(經)如意寶光耀善女天即轉女身作梵天身。
(Kinh: Như Ư Bảo Quang Diệu Thiện Nữ
Thiên liền chuyển thân nữ thành thân Phạm Thiên).
Tán
rằng: Chuyển nữ thân. Đây là tự chứng thành “không
có tướng khác biệt nhất định”; v́ thế,
nữ chuyển thành nam!
5.10.4.3.2.2.
Thưa hỏi cách hành hạnh Bồ Đề
(Kinh)
Thời Đại Phạm vương vấn Như Ư Bảo
Quang Diệu Bồ Tát ngôn: - Nhân giả! Như hà hành Bồ
Đề hạnh?
(經)時大梵王問如意寶光耀菩薩言:仁者!如何行菩提行?
(Kinh:
Khi đó, Đại Phạm vương hỏi Như Ư Bảo
Quang Diệu Bồ Tát rằng: - Thưa nhân giả! Hành Bồ
Đề hạnh như thế nào?)
Tán
rằng: Hỏi “chứng hạnh Bồ Đề như
thế nào?” Đây là hỏi khi hành hạnh [Bồ
Đề], hăy nên hiểu cách hành như thế nào? Đoạn này gồm hai tiểu đoạn:
Trước là hỏi, sau là đáp. Đoạn này là hỏi.
(Kinh)
Đáp ngôn: - Phạm vương! Nhược thủy trung
nguyệt hành Bồ Đề hạnh, ngă diệc hành Bồ
Đề hạnh. Nhược mộng trung hành Bồ
Đề hạnh, ngă diệc hành Bồ Đề hạnh.
Nhược dương diễm hành Bồ Đề hạnh,
ngă diệc hành Bồ Đề hạnh. Nhược cốc
hưởng hành Bồ Đề hạnh, ngă diệc hành Bồ
Đề hạnh.
(經)答言:梵王!若水中月行菩提行,我亦行菩提行;若夢中行菩提行,我亦行菩提行;若陽焰行菩提行,我亦行菩提行;若谷響行菩提行,我亦行菩提行。
(Kinh:
Đáp rằng: - Này Phạm vương! Như trăng
trong nước hành Bồ Đề hạnh, tôi cũng hành
Bồ Đề hạnh. Như trong mộng hành Bồ Đề
hạnh, tôi cũng hành Bồ Đề hạnh. Như bóng
nắng gợn[8] hành
Bồ Đề hạnh, tôi cũng hành Bồ Đề hạnh.
Như hang dội lại tiếng vọng hành Bồ Đề
hạnh, tôi cũng hành Bồ Đề hạnh).
Tán
rằng: Giải đáp. Do hành tướng khó biết, nêu
ra thí dụ để chỉ rơ. Ở đây, có bốn thí
dụ:
-
Một, thí dụ trăng trong nước, sánh ví chẳng
có ngoại cảnh, mà cảnh sở hành trong cái tâm Định
được thành tựu. Như nước làm duyên, tuy
trong nước chẳng có trăng, nhưng có bóng trăng xuất
hiện. Tôi nay cũng vậy, từ cái tâm định nguyện
mà hiện ra các cảnh giới. Tuy chẳng có thân thật
sự v.v… nhưng v́ lợi ích chúng sanh mà sanh ra cảnh nơi cái
thân tương tự. Bóng trăng đă chẳng hành, thân tôi
cũng chẳng hành. Đấy là đoạn trừ Biến
Kế tánh, tức là [đoạn trừ] sự chấp giữ
“cảnh ĺa tâm mà thật sự có” trong Định. Do vậy,
nêu ra thí dụ “trăng trong nước”. Tuy chẳng có nguyệt cảnh, mà
tợ hồ có trăng sanh ra.
-
Hai, thí dụ cảnh trong mộng, nhằm sánh ví “chẳng có cảnh yêu ghét ở ngoài tâm, mà có cảnh yêu
ghét sanh ra”. Như tuy thọ thân yêu mến hoặc
chẳng đáng yêu mến trong tam giới lục đạo,
hành Bồ Đề hạnh, như nằm mộng thấy
thân đáng yêu hoặc chẳng đáng yêu mà hành hạnh Bồ Đề, không chấp đó là thật.
-
Ba, thí dụ về ánh nắng gợn. Do cái tâm chấp giữ
và Tâm Sở chấp giữ mê loạn, cho nên duyên theo cảnh
bị chấp giữ, tuy chẳng phải là thật, nhưng
có cảnh tương tự sanh khởi, chẳng phải
là thật sự có. Đối với cảnh tam luân, Bồ Tát hăy nên dùng trí
vô phân biệt để biết như thế, chúng chẳng có chân thật.
-
Bốn, thí dụ về tiếng vọng trong hang. Khi [Bồ
Tát] dấy lên ngữ nghiệp để giáo hóa chúng sanh, giống
như tiếng vang từ trong hang. Hang thật sự chẳng
có âm thanh, nhưng tự phát ra tiếng giống như tiếng
vọng của chính cái hang đó. V́ thế biết: Đối
với chuyện Bồ Tát v́ người khác thuyết pháp,
hăy nên quán như tiếng vọng nơi hang, do các duyên khác mà
hiện, chỉ là dường như tiếng vọng do
hang sanh ra. Thuyết pháp lợi sanh thật sự chẳng
phải là phát ra tiếng để thuyết pháp cho người
khác.
Hành
Bồ Đề hạnh như thế, giống như quyển
bốn của Vô Tánh Nhiếp Đại Thừa đă nói,
hoặc như kinh đă nói: Đối với tánh Y Tha Khởi,
bèn nói các thí dụ như huyễn v.v… Từ
trong tự tánh của Y Tha Khởi mà trừ các nỗi ngờ hư vọng của kẻ khác. V́ sao
vô nghĩa, mà thật sự có chấp giữ các
cảnh đă được hành trong các Tam-ma-địa
để chuyển? V́ trừ nỗi nghi ấy, bèn nói thí dụ
trăng trong nước. V́ sao vô nghĩa mà tánh của sự
thọ dụng đáng yêu mến hay chẳng đáng yêu mến
có sai biệt? V́ trừ nỗi nghi ấy mà nói thí dụ nằm
mộng. V́ sao vô nghĩa mà tâm và tâm pháp chuyển? V́ trừ
nỗi nghi ấy, nói thí dụ ánh nắng gợn. V́ sao vô
nghĩa mà dùng các thứ hư luận, ngôn thuyết để
chuyển? V́ trừ nỗi nghi ấy, bèn nói thí dụ tiếng
vọng từ hang. Theo thứ tự, phối ứng với
bốn điều ấy. Bộ luận kia (Nhiếp Đại
Thừa Luận) cũng có bốn thí dụ, nhưng do kinh
này không có [các thí dụ ấy], chẳng cần phải dẫn
chi tiết. Tám thí dụ trong quyển thứ tư của Đại
Trang Nghiêm Luận có đại ư tương tự. V́ sao kinh
này không có các thí dụ khác [như trong Đại Trang Nghiêm
Luận]? Do [kinh này] nói đại lược, nên không có.
Lại
giải thích rằng: Ở đây, nhằm trừ chấp
trước hữu tướng và vô tướng, [hữu
tướng và vô tướng] giống như huyễn, nhưng
chẳng phải là không có. V́ thế, luận Biện Trung
Biên có bài tụng nói: “Ư bất động vô đảo,
vị tri nghĩa phi hữu, phi vô như huyễn đẳng,
hữu vô bất động cố” (Đối với
bất động mà chẳng điên đảo, tức là
biết các nghĩa chẳng phải có, chẳng phải không
như huyễn v.v… Do hữu và vô bất động). Giải
rằng: Các nghĩa được nói trong phần trước
đều ĺa hữu, ĺa vô, do các điều như “như
huyễn” v.v… chẳng phải có, chẳng phải không. Tức
là như huyễn hóa ra voi, ngựa v.v…. Tuy chúng chẳng thật
sự có tánh của voi, ngựa, nhưng cũng chẳng phải
là hoàn toàn không có. Loạn thức giống như voi, ngựa
v.v… mà hiển hiện. Các nghĩa như thế không ǵ chẳng
như hiện ra năng thủ (cái có thể chấp giữ),
sở thủ (cái bị chấp giữ) tương tự,
chắc chắn chẳng thật sự có tánh, nhưng cũng
chẳng phải là hoàn toàn không có. Loạn thức cũng giống
như sở thủ và năng thủ hiển hiện. Ở đây có ư nói: Như vầng trăng trong nước chẳng thật
sự có tánh của trăng, tuy chẳng phải là có, nhưng
do có tương tự hiện (hiện bóng trăng giống
hệt như vầng trăng thật sự), cho nên chẳng
phải là không có. Tôi hành Bồ Đề hạnh cũng giống
như thế: Do nhân duyên ḥa hợp mà giả có, cho nên chẳng phải là có; nhưng do có tướng giả
ḥa hợp, nên chẳng phải là không có. Do Ngũ Uẩn chẳng
có, nên có thể hiện pháp giới. Do chẳng phải là
không, pháp giới tức là Ngũ Uẩn. Như trong phần
trên đă nói: Được an lạc trụ, bất động,
chẳng bị lay động bởi có và không. Nhưng thí
dụ về tổng tướng th́ ĺa tướng hữu
và vô, chẳng riêng phối ứng với Uẩn. Lại c̣n
nương vào “thấy, cảm nhận, biết, nghe”
theo thứ tự để sánh ví tánh của bốn thứ
cảnh giới được chấp giữ, đều ĺa khỏi hữu và vô. Đối
với những phần vấn đáp trong phần sau, cứ
chuẩn theo phần biện định về sự thấy
nghe để hiểu!
5.10.4.3.2.3.
Hỏi: Nương theo đạo lư nào mà nói như thế
5.10.4.3.2.3.1.
Nêu câu hỏi
(Kinh)
Thời Đại Phạm vương văn thử thuyết
dĩ, bạch Bồ Tát ngôn: - Nhân y hà nghĩa nhi thuyết thử
ngữ?
(經)時大梵王聞此說已,白菩薩言:仁依何義而說此語?
(Kinh:
Khi đó, Đại Phạm vương nghe lời ấy
xong, bạch Bồ Tát rằng: - Nhân giả nương theo
nghĩa nào mà nói lời ấy?)
Tán
rằng: Phần thứ ba là hỏi “do dựa theo đạo
lư nào mà nói như thế?” Câu hỏi trong phần trước
là hỏi cách tu, câu hỏi này là hỏi về [căn cứ]
để nói. Hoặc có thể hiểu phần vấn đáp
trước đó là [biện định về sự] tự
tu hành, chỉ nói về cách tu; c̣n phần vấn đáp sau là
v́ người khác mà nói chuyện tu hành, chỉ
nêu ra [câu hỏi] nhằm [bàn về cơ
sở] lập thuyết. Trước sau soi rọi lẫn
nhau, tự lợi và lợi tha đều trọn đủ.
Trong ấy, có bốn ư: Một là hỏi, hai là đáp, ba là
cật vấn, bốn là dung thông. Câu hỏi ở đây là
“nương theo đạo lư nào mà có thể ĺa hữu vô để
nói chuyện khởi tu?” Hoặc hỏi: “Đă là như trăng
trong nước v.v… chẳng thật sự có, nương
theo ǵ để nói [như vậy]?”
5.10.4.3.2.3.2.
Giải đáp
(Kinh)
Đáp ngôn: - Phạm vương! Vô hữu nhất pháp thị
Thật Tướng giả, đản do nhân duyên, nhi đắc
thành cố.
(經)答言:梵王!無有一法是實相者,但由因緣而得成故。
(Kinh:
Đáp rằng: - Này Phạm vương! Chẳng có một
pháp là Thật Tướng, chỉ do nhân duyên mà được
thành vậy).
Tán
rằng: Giải đáp. Nương theo đạo lư nhân
duyên, do giả nhân duyên mà ĺa có và không. Như do nước trong
lặng, bèn có bóng trăng sanh ra, cho nên chẳng
phải là không có. Do chẳng phải là vầng trăng chân thật hiện
ra, nên chẳng có. Những điều khác cứ chuẩn theo đó mà suy. Như trăng trong
nước v.v… chẳng có một pháp nào thật sự có tướng,
chỉ nương vào giả nhân duyên mà nói đến tu.
5.10.4.3.2.3.3.
Vấn nạn
(Kinh)
Phạm vương ngôn: - Nhược như thị giả,
chư phàm phu nhân giai tất ưng đắc A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề!
(經)梵王言:若如是者,諸凡夫人皆悉應得阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh:
Phạm vương nói: - Nếu là như thế, những
kẻ phàm phu thảy đều phải nên đắc Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác).
Tán
rằng: Đây là ư thứ ba, lập ra lời vấn nạn. Nếu do
pháp nhân duyên giả hợp mà nói là “có thể tu” th́ những
kẻ phàm phu đều do giả thành (do sắc và tâm hư
huyễn ḥa hợp mà thành), sẽ đều phải nên đắc
Bồ Đề! Ư nói: Nếu thật sự có cái để
có thể tu, sẽ phải nên có “đắc” và “chẳng đắc”.
Chứ nếu đều là giả hữu, phàm phu cũng
phải nên đạt được! Như ngài Duy Ma Cật
dùng Chân Như môn khiến cho hết thảy đều được
thọ kư; ở đây, [Phạm vương] dùng nhân duyên môn
để cật vấn [nếu là giả hữu th́ hết
thảy kẻ phàm phu] đều phải nên thành Phật.
5.10.4.3.2.3.4.
Dung thông
(Kinh)
Đáp ngôn: - Nhân dĩ hà ư nhi tác thị thuyết?
(經)答言:仁以何意而作是說?
(Kinh:
Đáp rằng: - Nhân giả do ư nào mà nói như thế?)
Tán
rằng: Đây là phần dung thông, có ba ư:
-
Một là phủ định chung.
-
Hai là giải thích chung.
-
Ba, từ “Phạm vương! Thị chư thánh nhân”
(Này Phạm vương! Các thánh nhân ấy) trở đi, kết
lại.
Hoặc
chia thành hai phần:
-
Trước là phủ định chung.
-
Sau là giải thích chung.
Trong
phần giải thích, có bốn ư: Pháp thuyết, thí dụ, kết
hợp thí dụ với pháp, và kết luận. Nay nói theo
khoa thứ nhất, đoạn này thuộc ư thứ nhất.
(Kinh)
Ngu si nhân dị, trí huệ nhân dị, Bồ Đề dị,
phi Bồ Đề dị, giải thoát dị, phi giải
thoát dị.
(經)愚癡人異、智慧人異,菩提異、非菩提異,解脫異、非解脫異。
(Kinh:
Kẻ ngu si khác, người trí huệ khác, Bồ Đề
khác, phi Bồ Đề khác, giải thoát khác, phi giải thoát
khác).
Tán
rằng: Đây là phần dung thông, gồm ba ư:
-
Một, pháp thuyết.
-
Hai, thí dụ.
-
Ba, từ “Phạm vương! Ngu si dị sanh” trở
đi là phần kết hợp thí dụ với pháp.
Trong
phần Pháp Thuyết, có hai ư:
-
Một, do phàm phu chấp “hữu và vô là khác biệt”, nên chẳng
thành Phật.
-
Hai, do bậc thánh biết [hữu và vô] chẳng khác, nên đắc Bồ Đề.
Đoạn này thuộc ư thứ nhất,
tức là “chấp ngu, trí v.v… chắc chắn là một hay
khác”. Ở đây, tuy nói “khác”, nhưng cũng phải nên có
“một”. Chẳng hiểu “hữu, vô, sanh, diệt”
v.v… thật sự chẳng có, [chỉ
là] do duyên theo tâm mà có. Chẳng biết tương xứng
với cảnh, sẽ chẳng thể thành Phật. Bồ
Tát do phá được [kiến chấp] ấy mà thành Phật,
hoặc nương theo Tục Đế, liền có ngu hay
trí để có thể hành sai khác. Bồ Đề và phi Bồ
Đề tức là cái nhân của thiện và bất thiện
khác biệt. Giải thoát và phi giải thoát là quả khác biệt.
(Kinh)
Phạm vương! Như thị chư pháp b́nh đẳng
vô dị. Ư thử pháp dị, Chân Như bất dị.
Vô hữu trung gian nhi khả chấp trước, vô tăng,
vô giảm.
(經)梵王!如是諸法平等無異。於此法異,真如不異。無有中間而可執著,無增無減。
(Kinh:
Này Phạm vương! Các pháp như thế b́nh đẳng
chẳng khác. Nơi các pháp ấy th́ là khác, chứ Chân Như
chẳng khác. Chẳng có cái ǵ ở giữa để có thể
chấp trước, chẳng tăng, chẳng giảm).
Tán
rằng: Bậc thánh biết rơ “hữu, vô, ngu, trí” v.v…
đều chẳng nhất định khác biệt, do các
pháp như pháp giới, Chân Như v.v… trong ấy đều
b́nh đẳng. V́ thế, đều chẳng phải là nhất
định khác biệt. “Vô hữu trung gian” (chẳng
có trung gian): Các pháp chẳng nhất định
là khác, chẳng nhất định là một, mà cũng chẳng
phải là “vừa một, vừa khác”. Chẳng nói “không phải
một” nhằm liên tưởng đến câu nói thứ hai. Câu thứ ba là “chẳng có trung gian”. Chẳng
nói tới câu thứ tư (tức câu “chẳng phải một, mà cũng chẳng phải khác”), chỉ là ngăn chặn
ba câu trước, [thính chúng sẽ hiểu] “chẳng có pháp
nào khác”. “Một, khác” v.v… đều chẳng thể chấp,
như [biết rơ] vầng trăng trong nước chẳng thật,
nhằm ĺa “chấp tăng”. Dường như có trăng
(trăng hiện bóng trong nước) để ĺa “chấp
giảm”. Do biết tương xứng với cảnh, nên
được thành Phật. Đấy hoặc là theo Đệ Nhất Nghĩa th́ tức là “chẳng khác”, nhưng chuẩn theo các thí dụ dưới
đây, xét theo ngu hay trí mà giải thích khác biệt.
(Kinh)
Phạm vương! Thí như huyễn sư cập huyễn
đệ tử thiện giải huyễn thuật, ư tứ
cù đạo, thủ chư sa, thổ, thảo, mộc, diệp
đẳng, tụ tại nhất xứ, tác chư huyễn
thuật, sử nhân đổ kiến tượng chúng, mă
chúng, xa binh đẳng chúng, thất bảo chi tụ, chủng chủng thương khố.
(經)梵王!譬如幻師及幻弟子善解幻術,於四衢道取諸沙土草木葉等聚在一處作諸幻術,使人覩見象眾馬眾車兵等眾、七寶之聚種種倉庫。
(Kinh: Phạm vương! Ví như bậc thầy
huyễn thuật và các đệ tử của thầy huyễn
thuật khéo hiểu huyễn thuật, nơi ngă tư đường,
lấy các thứ như cát, đất, cỏ, cây, lá v.v… tụ
tập một chỗ, làm các thứ huyễn thuật, khiến
cho mọi người trông thấy bầy voi, bầy ngựa,
các cỗ xe, quân lính v.v…, đống bảy báu, các thứ
kho đụn).
Tán
rằng: Nêu ra thí dụ, gồm ba thí dụ:
-
Một, thí dụ về huyễn cảnh do duyên sanh.
-
Hai, thí dụ về kẻ ngu chấp là thật.
-
Ba, thí dụ về người trí biết là huyễn.
Đoạn
này là thí dụ thứ nhất. Trong ấy, có sáu ư:
-
Một, người thực hiện huyễn thuật.
-
Hai, vật liệu để thực hiện huyễn thật.
-
Ba, nơi chốn thực hiện huyễn thuật.
-
Bốn, huyễn duyên.
-
Năm, thực hiện huyễn thuật.
-
Sáu, huyễn tướng.
“Thí
như huyễn sư”: Sánh ví tâm vương nơi thức
thứ tám là người làm huyễn thuật. “Cập đệ
tử” (và đệ tử): Ví như tâm sở là người
giúp [tâm vương] làm huyễn thuật. “Thiện giải
huyễn thuật” (khéo hiểu huyễn thuật): Có thể
hiểu rơ các tướng tổng, biệt v.v… nơi cảnh,
có thể khởi tác dụng biến hóa. “Ư tứ cù đạo”
(nơi ngă tư đường): Sánh ví chỗ Tứ Đế
biến huyễn. “Thủ chư thảo, mộc…” (lấy
các cây, cỏ) tức là danh sắc huyễn duyên. “Tụ tại
nhất xứ” (gom lại một chỗ): Hoặc là do
nương vào các chỗ như Khổ, Tập v.v… mà khởi
lên. “Tác chư huyễn thuật” (làm các huyễn thuật):
Khởi lên huyễn nhân duyên, nghiệp lực dấy khởi
các thứ sự nghiệp bất đồng. “Sử nhân
đổ tượng, mă…” (khiến cho người khác
trông thấy voi, ngựa): Huyễn tướng. Thí dụ đầu
tiên nêu ra nơi chốn thuộc tứ sanh. “Thất bảo
chi tụ” (đống bảy báu) sánh ví ngoại cảnh.
Lại
giải rằng: Huyễn sư ví như thức thứ tám.
Huyễn đệ tử ví như bảy chuyển thức
kia (nhăn thức, nhĩ thức cho đến Mạt Na Thức),
do nương vào thức thứ tám mà dấy lên. V́ vậy,
kinh luận nói: “Thức như huyễn sự”. “Cù đạo”
(đường sá): Sánh ví tứ thức trụ[9].
V́ thế, quyển tám mươi sáu [của luận Du Già Sư
Địa nói]: “Cái thức của chấp hữu nương
vào tứ thức trụ, phát khởi các loại tự thể tùy chuyển, do là pháp tương tự”. Cát, đá, cỏ, cây, ví như Chủng Tử Thức[10].
“Tùy tại nhất xứ”: Sánh ví tùy thuận một
thức trụ và tứ thức trụ. “Tác chư huyễn
thuật”: Sánh ví do sức của tứ duyên[11]
có thể khởi Ngũ Uẩn.
Lại
giải rằng: Huyễn sư là đệ tử Phật,
tức Bồ Tát, tăng v.v… “Tứ cù đạo”
là các chỗ thuộc tứ sanh. Trí xảo phương tiện
khéo hiểu huyễn thuật, lấy các thứ như cát, đất
v.v… [tức là] thuận theo cơ duyên tương ứng với
pháp ưa thích mà gom chúng lại một chỗ, thuận theo
chỗ sanh của người căn cơ thành thục đáng
lănh nhận mà [khiến
cho họ] trông thấy các thứ như voi v.v… hiện thân.
“Thất bảo” là thuyết pháp. Chuẩn theo ư nghĩa
trong phần kết hợp thí dụ với pháp thuộc phần
sau, cách giải thích này hay hơn. Những điều khác giống
như các giải thích trong phần trước.
(Kinh)
Nhược hữu chúng sanh ngu si, vô trí, bất năng
tư duy, bất tri huyễn bổn.
(經)若有眾生愚癡無智,不能思惟不知幻本。
(Kinh: Nếu có chúng sanh ngu si, vô trí, chẳng thể
tư duy, chẳng biết cội huyễn).
Tán
rằng: Thí dụ “kẻ hạ ngu chấp trước
là thật”, có ba ư:
-
Một, thí dụ “chẳng biết cội huyễn”.
-
Hai, thí dụ “vừa mới thấy liền chấp là thật”.
-
Ba, thí dụ “tới cuối cùng, [kẻ ngu] cũng chẳng tư duy”.
Đoạn
này thuộc ư thứ nhất. Nói tới “huyễn bổn”
th́ huyễn nhân và huyễn duyên đều gọi là Bổn (cội
gốc), sánh ví: Do vô trí, chẳng biết Ngũ
Uẩn từ duyên mà giả sanh.
(Kinh)
Nhược kiến, nhược văn, tác thị tư duy:
- Ngă sở kiến văn tượng, mă đẳng chúng,
thử thị thật hữu, dư giai hư vọng.
(經)若見若聞作是思惟:我所見聞象馬等眾,此是實有,餘皆虛妄。
(Kinh: Nếu thấy hoặc nghe, sẽ nghĩ
như thế này: - Các thứ voi, ngựa v.v… như ta
thấy nghe đều là thật sự có, những thứ
khác đều là hư vọng).
Tán
rằng: kế đó là thí dụ “vừa mới thấy, bèn
chấp là thật”. Chẳng biết là giả, thuận theo sự thấy
nghe mà hư vọng phân biệt, chấp [các tướng ḿnh
trông thấy] là thật sự có. Nói “không, vô ngă” v.v… đều là hư vọng, chẳng có, [tức là]
chẳng ĺa chấp trước “hữu, vô, tăng, giảm”.
(Kinh)
Ư hậu, cánh bất thẩm sát tư duy.
(經)於後更不審察思惟。
(Kinh:
Sau đó, lại chẳng suy xét kỹ càng, tư duy).
Tán
rằng: Đây là thí dụ “sau đó, rốt cuộc cũng chẳng tư
duy”. Cũng chẳng suy xét, cân nhắc, nghĩ ngợi các danh
nghĩa đều là duyên sanh hư vọng, giả trất.
(Kinh)
Hữu trí chi nhân tắc bất như thị, liễu ư
huyễn bổn.
(經)有智之人則不如是,了於幻本。
(Kinh:
Người có trí chẳng như vậy, biết rơ cội
huyễn).
Tán
rằng: Thí dụ về người trí thông đạt.
Kinh văn có hai phần:
-
Một, thí dụ “tự có thể biết rơ”.
-
Hai, thí dụ “sau đó, tùy ư v́ người khác nói”.
Kinh
văn thuộc phần thứ nhất cũng gồm có hai
ư:
-
Một, thí dụ về biết rơ cội huyễn.
-
Hai, hiểu rơ [các pháp] từ duyên sanh, chẳng nhất
định là hữu hay vô.
(Kinh)
Nhược kiến, nhược văn, tác như thị
niệm: “Như ngă sở kiến tượng, mă đẳng
chúng, phi thị chân thật”.
(經)若見若聞作如是念:如我所見象馬等眾,非是真實。
(Kinh:
Nếu thấy hay nghe, nghĩ như thế này: “Các thứ
voi, ngựa v.v… như tôi trông thấy đều chẳng
phải là chân thật”).
Tán
rằng: Kế đó là thí dụ “chẳng chấp trước là thật”, nhằm sánh ví người trí thấy Đế
Lư vô lậu. Trước hết, biết thật sự chẳng
có, ĺa chấp trước nơi Hữu. Sau đó, suy xét biết:
Sở dĩ là giả hữu, cho nên thật sự không có. Đoạn
này thuộc vào ư thứ nhất. Biết chẳng thật sự có
voi, ngựa v.v… dùng đó để trừ chấp trước
đối với “tăng”.
(Kinh)
Duy hữu huyễn sự hoặc nhân nhăn mục, vọng vị
tượng đẳng cập chư thương khố,
hữu danh vô thật. Như ngă kiến văn, bất chấp
vi thật.
(經)唯有幻事惑人眼目。妄謂象等及諸倉庫,有名無實。如我見聞,不執為實。
(Kinh:
Chỉ có huyễn sự mê hoặc mắt người, hư
vọng cho rằng đó là voi v.v… và các kho đụn, hữu
danh chẳng thật. Như tôi thấy, nghe, chẳng chấp
là thật).
Tán
rằng: Suy xét nguyên do “giả có, thật sự là không”. Các
thứ voi, ngựa v.v… hư huyễn chỉ đánh lừa
tai, mắt kẻ ngu. Nghe tên gọi voi v.v…., thấy các h́nh
bóng như voi v.v… bèn hư vọng ngỡ là thật. Thật
ra, chúng chỉ là giả danh, không có tự tánh của Như,
giống như ngă và ngă sở. Dẫu thấy, nghe, đều
chẳng chấp là thật, [biết rơ chúng] chỉ là giả
danh, ĺa chấp hữu, chấp vô.
(Kinh)
Hậu thời, tư duy, tri kỳ hư vọng.
(經)後時思惟知其虛妄。
(Kinh:
Sau đó, tư duy biết đó là hư vọng).
Tán
rằng: Thí dụ “sau đó, suy nghĩ [biết là] chẳng
thật”. Suy nghĩ [các thứ đó] thật
sự chẳng có, ĺa chấp “tăng”. Hiểu rơ chúng nó
chẳng có, không ǵ chẳng như danh từ, ngôn thuyết,
chẳng có tự thể thật
sự.
(Kinh)
Thị cố, trí giả liễu nhất thiết pháp giai
vô thật thể, đản tùy thế tục, như kiến,
như văn, biểu tuyên kỳ sự. Tư duy đế
lư, tắc bất như thị, phục do giả thuyết
hiển thật nghĩa cố.
(經)是故智者了一切法皆無實體,但隨世俗如見如聞表宣其事,思惟諦理則不如是。復由假說顯實義故。
(Kinh:
Do vậy, bậc trí biết hết thảy các pháp đều
chẳng có thật thể, chỉ tùy thuận thế tục,
thuận theo những điều họ thấy nghe mà biểu
thị, tuyên nói chuyện ấy. Tư duy đế lư th́ chẳng
như vậy. Lại nhờ vào cách nói hư giả để hiển
lộ thật nghĩa).
Tán
rằng: Thí dụ “nói thuận theo người khác”. Chỉ
tùy thuận cái thấy, cái nghe của thế tục, giả
nói danh từ, ngôn từ để biểu thị, tuyên nói
chuyện ấy. “Biểu thị, tuyên nói” là có thể
diễn tả, c̣n “chuyện ấy” chính là điều
được diễn nói. “Thế tục” có hai thứ:
-
Một là thế tục do t́nh kiến chấp trước.
-
Hai là thế tục do các bậc thánh hữu trí giả lập.
Ở
đây là thí dụ về bậc thánh hữu trí tùy thuận
ngôn thuyết của thế tục, có hai loại:
-
Một, tùy thuận ngôn từ thế tục để nói
rơ Tục.
-
Hai, tùy thuận ngôn từ của thế tục để
nói rơ Chân.
Lại
c̣n do tùy thuận thế tục, nên nói “đúng như những
ǵ đă thấy nghe mà biểu thị, tuyên nói chuyện ấy; nhưng tư duy đế lư th́ chẳng phải là như
vậy”. “Đế” là chân thật. Tư
duy thật lư sẽ [nhận biết] chẳng giống như
những ǵ đă nói. Lại c̣n chỉ là tùy thuận phương
tiện để giả lập ngôn thuyết, nhằm nêu
tỏ Đệ Nhất Chân Thật Nghĩa. Trí vô phân biệt
chứng nhập đế lư, [liền biết] chẳng phải là như vậy, tâm suy lường và
ngôn từ diễn nói đều dứt bặt. Đây là hiểu rơ: Nơi Tục th́ có, nơi Chân Đế th́ không.
(Kinh)
Phạm vương! Ngu si dị sanh vị đắc xuất
thế thánh huệ chi nhăn, vị tri nhất thiết chư
pháp Chân Như bất khả thuyết cố.
(經)梵王!愚癡異生未得出世聖慧之眼,未知一切諸法真如不可說故。
(Kinh:
Phạm vương! Dị sanh ngu si do chưa đạt được
con mắt thánh huệ xuất thế, chẳng biết hết
thảy các pháp Chân Như đều chẳng thể nói).
Tán
rằng: Tiếp đó, kết hợp thí dụ với pháp.
Trước tiên, kết hợp pháp với thí dụ “kẻ
ngu chẳng đạt được”, có hai ư:
-
Một, kết hợp pháp với thí dụ “chẳng thấu
đạt cội huyễn”.
-
Hai, kết hợp pháp với thí dụ “vừa trông thấy
bèn chấp là thật”.
Nói
“ngu si dị sanh” nhằm loại trừ người
chưa đạt tới Kiến Đạo trong Đại
Thừa. Họ tuy là dị sanh (chưa tiến
nhập thánh đạo), nhưng có thể hành một phần Duy Thức Quán
v.v…, biết rơ huyễn v.v…, [chỉ là] họ vẫn chưa đắc huệ nhăn Nhị Không xuất thế
nơi Căn Bản Trí và Hậu Đắc Trí. Nay [nói “ngu
si dị sanh” cũng nhằm] loại trừ Nhị Thừa,
tuy họ đă đắc Sanh Không huệ nhăn, hiểu rơ Nhân
Vô Ngă, nhưng do chưa thể đắc huệ nhăn Pháp Không xuất thế, cho nên
chẳng hiểu rơ Pháp Vô Ngă, chẳng biết tánh Chân Như
của hết thảy các pháp ĺa các tướng, chẳng
thể nói! V́ thế, họ chẳng đạt được
cội huyễn.
[Ở
đây, do] xét theo kẻ hoàn toàn chẳng đạt được
ǵ, nên nói là “ngu si dị sanh”. Hoặc có thể là hạng
người có phần nào dị sanh tánh th́ cũng thuộc
vào “ngu si dị sanh” được nói ở đây. Do
vậy, luận Thành Duy Thức nói: “Phàm là nói đến
kẻ vô tánh, Ngu là nói đến kẻ hướng đến
tịch diệt”.
(Kinh) Thị chư phàm ngu nhược
kiến, nhược văn, hành, phi hành pháp, như thị tư duy, tiện sanh chấp
trước, vị dĩ vi thật.
(經)是諸凡愚若見若聞行非行法,如是思惟便生執著謂以為實。
(Kinh:
Các phàm phu ấy nếu thấy hay nghe các pháp hành và phi hành,
tư duy như thế, liền sanh chấp trước,
cho đó là thật).
Tán
rằng: Kết hợp pháp với thí dụ “vừa trông thấy, bèn chấp là thật”. Trước là kết hợp với
“chấp có”, sau là kết hợp với “chẳng hiểu là
không”. Đoạn này thuộc ư trước. Dù thấy hay
nghe [các pháp], “hành” là hữu vi, “phi hành” là vô vi, liền
sanh chấp trước, ngỡ là thật. [Điều này]
tương ứng với khi mới gặp cảnh. “Như
thị tư duy, tiện sanh chấp thật” (tư duy
như thế, liền sanh chấp trước là thật):
Kết hợp với thí dụ “sau đó, chẳng thể
suy xét”.
(Kinh)
Ư Đệ Nhất Nghĩa, bất năng liễu tri
chư pháp Chân Như thị bất khả thuyết.
(經)於第一義不能了知諸法真如是不可說。
(Kinh:
Đối với Đệ Nhất Nghĩa, chẳng thể
biết rơ “các pháp Chân Như là chẳng thể nói”).
Tán
rằng: Kết hợp pháp với thí dụ “chẳng hiểu
rơ là không có”. Do họ vô trí, chẳng hiểu Đệ Nhất
Nghĩa, do chẳng chứng Như, chẳng biết tánh của
các pháp là chẳng thể nói. Cứ theo đúng lời nói mà
chấp là thật, chẳng biết nó thật sự là không!
(Kinh)
Thị chư thánh nhân nhược kiến, nhược văn,
hành, phi hành pháp, tùy kỳ lực, năng bất sanh chấp trước, dĩ vi thật
hữu.
(經)是諸聖人若見若聞行非行法,隨其力能不生執著以為實有。
(Kinh:
Các vị thánh nhân ấy nếu thấy hay nghe pháp hành và phi
hành, tùy theo sức họ, có thể chẳng chấp trước,
chẳng coi đó là thật sự có).
Tán
rằng: Kết hợp với thí dụ “bậc trí thấu
đạt”. Trước là kết hợp với thí dụ
“tự thông đạt”, sau là kết hợp với thí dụ
“v́ người khác mà giả nói”. Trong phần đầu, cũng
có ba ư:
-
Một, kết hợp với thí dụ “chẳng chấp là
thật sự có”.
-
Hai, kết hợp với thí dụ “biết rơ cội huyễn”.
-
Ba, kết hợp với thí dụ “sau đó tư duy, biết
là giả hữu”.
Đoạn
này thuộc ư đầu tiên. Nếu thấy hay nghe nói là vô
vi, sẽ tùy theo năng lực của sức
thắng giải, từ Sơ Địa trở lên sẽ tùy theo sức
chứng trí của từng địa vị mà chẳng
sanh chấp trước “đó là thật
sự có”.
(Kinh)
Liễu tri nhất thiết vô thật hành pháp, vô thật
phi hành pháp, đản vọng tư lượng.
(經)了知一切無實行法、無實非行法,但妄思量。
(Kinh:
Biết rơ hết thảy hành pháp chẳng thật, phi hành
pháp chẳng thật, chỉ là suy lường hư vọng).
Tán
rằng: Kết hợp với thí dụ “biết rơ cội
huyễn”. Biết là do huyễn, duyên theo nghiệp phiền
năo, hoặc do t́nh kiến Pháp Chấp mà hàng Nhị Thừa
dấy khởi suy nghĩ, so đo hư vọng, chẳng
như trong danh tướng ngôn từ [chấp là] “thật sự có hành pháp hữu vi”, chẳng như trong danh tướng
ngôn từ [chấp trước] “thật sự có phi hành pháp vô vi”.
(Kinh)
Hành, phi hành
tướng, duy hữu danh tự, vô hữu thật thể.
(經)行非行相唯有名字,無有實體。
(Kinh:
Hành tướng và phi hành tướng chỉ có danh tự, chẳng
có thật thể).
Tán
rằng: Kết hợp với thí dụ “sau đó tư duy,
biết là giả có”. Chỉ có danh ngôn (danh từ, ngôn thuyết) thuộc
về thế tục mà nói là có, chẳng như họ nói “thật sự có một
cái Thể chân thật”.
(Kinh)
Thị chư thánh nhân tùy thế tục thuyết, vị dục linh tha tri chân thật nghĩa.
(經)是諸聖人隨世俗說,為欲令他知真實義。
(Kinh:
Tức là các thánh nhân nói thuận theo thế tục, v́ muốn
cho người khác biết nghĩa chân thật).
Tán
rằng: Kết hợp với thí dụ “v́ người khác
mà giả nói”. Thuận theo danh tướng, ngôn từ của
thế tục mà nói là “vô vi”, v́ muốn khiến cho người
khác biết nghĩa vô vi chân thật, hoặc muốn khiến
cho họ chứng Đệ Nhất Nghĩa chân thật, chẳng
phải là v́ các vị [thánh nhân] chẳng thấy Chân Như mà có thể hành vậy.
(Kinh)
Như thị Phạm vương! Thị chư thánh nhân dĩ
thánh trí kiến, liễu pháp Chân Như bất khả thuyết
cố, hành, phi hành
pháp diệc phục như thị.
(經)如是梵王!是諸聖人以聖智見,了法真如不可說故,行非行法亦復如是。
(Kinh: Như thế đó Phạm vương! Các
vị thánh nhân ấy do dùng thánh trí để thấy, hiểu
pháp Chân Như chẳng thể nói, đối với hành pháp
và phi hành pháp cũng giống như thế).
Tán
rằng: Kết lại đoạn thứ ba, có hai ư:
-
Một, kết lại phần “biết thật sự chẳng
có”.
-
Hai, kết lại ư “tùy thuận thế tục mà nói là có”.
Đoạn
này thuộc ư thứ nhất. Thánh nhân do trí vô phân biệt,
biết rơ tánh Chân Như là cội gốc
của hết thảy các pháp đều
ĺa ngôn thuyết, chẳng thể nói năng, biết những
điều được gọi là “pháp vô vi” cũng chỉ là danh từ, ngôn thuyết,
chẳng có thật thể, không ǵ chẳng phải là hành pháp
và phi hành pháp ĺa ngôn từ, [các Ngài giả nói như vậy]
chỉ nhằm trừ bệnh [chấp trước cho chúng sanh], chẳng phải là trừ
pháp (tức chẳng phải phủ định các pháp).
(Kinh)
Linh tha chứng tri, cố thuyết chủng chủng thế
tục danh ngôn.
(經)令他證知,故說種種世俗名言。
(Kinh:
Khiến cho người khác chứng biết, v́ thế nói
các thứ danh từ, ngôn ngữ thế tục).
Tán
rằng: Kết lại ư nghĩa “thuận theo thế tục
mà nói Có”, cũng là mượn cách nói ấy để hiển lộ các pháp, với dụng ư khiến
cho người khác chứng biết pháp vô vi, xả phàm, thành thánh. Thuận theo thế tục mà nói các thứ
danh từ, ngôn ngữ thế tục như Uẩn, Xứ,
Giới v.v…, với dụng ư: Kết lại các thí dụ,
chẳng có một pháp nào là Thật Tướng, chỉ do
nhân duyên mà được thành lập. Trên đây, phần
nhiều là xét theo khía cạnh “phàm phu thuận theo cái thức
của chính ḿnh mà khởi huyễn, thành ra hiểu biết
khác biệt”. Nếu dựa theo cách giải thích đối
với thí dụ thứ ba, chuẩn theo ư nghĩa ấy, sẽ
biết ngay! Xét theo phần kinh văn kết luận ở
đây, cách hiểu thứ ba hay hơn cả. Lại nữa,
vốn do hỏi: “Tu hành như thế nào? Nương vào
đâu để nói?” cho nên lập ra lời vấn
nạn. Kết hợp thí dụ với pháp chỉ v́ lẽ
này. Do vậy, cách hiểu thứ ba là thù thắng.
5.10.4.3.2.4.
Đại Phạm Vương hỏi [người quán Không]
sẽ được
lợi ích nhiều hay ít?
(Kinh) Thời, Đại
Phạm vương vấn Như Ư Bảo Quang Diệu Bồ
Tát ngôn: - Hữu kỷ chúng sanh năng giải như thị
thậm thâm chánh pháp?
(經)時大梵王問如意寶光耀菩薩言:有幾眾生能解如是甚深正法?
(Kinh: Khi đó, Đại Phạm vương hỏi
Như Ư Bảo Quang Diệu Bồ Tát rằng: - Có bao nhiêu chúng
sanh có thể hiểu chánh pháp rất sâu như thế này?)
Tán
rằng: Phần thứ tư là hỏi “đạt được
lợi ích nhiều hay ít?” Trong phần này, có bốn ư: Một
là hỏi, hai là đáp, ba là cật vấn, bốn là dung hội.
Đoạn này thuộc phần thứ nhất, tức là “hỏi”.
Có nghĩa là Phạm Vương tuy có thể hiểu biết các điều vui, nhưng thuận
theo t́nh kiến chấp trước “thật sự có sanh”
mà nêu ra câu hỏi, v́ muốn trừ chấp trước “đó
là thật”, khiến cho chúng sanh sanh tâm “biết huyễn”, ḥng có thể khởi tu.
(Kinh)
Đáp ngôn: - Phạm vương! Hữu chúng huyễn nhân tâm, tâm số pháp năng giải như thị thậm thâm
chánh pháp.
(經)答言:梵王!有眾幻人心心數法能解如是甚深正法。
(Kinh: Đáp rằng: - Phạm vương! Có ai [biết
rơ] tâm và tâm số pháp của các huyễn nhân sẽ có thể
hiểu chánh pháp rất sâu như thế).
Tán
rằng: Ư thứ hai là đáp. [Nói là] “hữu” nhằm
vạch rơ chẳng phải là “tŕ”. Hết thảy chúng
sanh nếu có ai có thể biết tâm và tâm số pháp thuộc
Y Tha Khởi Tánh đều là như huyễn nhân v.v… sẽ có thể hiểu pháp rất sâu này. Nếu chẳng
có tánh Đại Thừa, sẽ chẳng thể như thế
được! Có nghĩa là: Người có thể biết
Biến Kế chẳng có, như huyễn, chẳng thật,
như người tương tự (huyễn nhân) dường
như là người, tâm và tâm số do Y Tha mà huyễn có, tức là ngộ chứng
tánh Viên Thành Thật. Đó là lần lượt tiến nhập
đạo lư ba tánh (Y Tha Khởi, Biến Kế Sở Chấp, và Viên Thành Thật), trước hết là hiểu
rơ Biến Kế, tiếp đó ngộ
Y Tha, sau cùng là chứng Viên Thật. Như có bài tụng rằng:
“Ư thằng khởi xà giác, kiến thằng liễu
nghĩa vô, chứng kiến bỉ phần thời, tri như
xà trí loạn” (Sợi thừng ngỡ là rắn, thấy
thừng hiểu nghĩa Không, khi chứng được Kiến Phần, biết
trí ngỡ rắn loạn).
Hoặc
có thể hiểu đây là gián tiếp đối với
nghi vấn chấp trước “chúng sanh thật sự có
hay không”, mà đáp “chúng sanh thật sự như các huyễn
nhân”, chẳng có người thật sự. Nói lời giải
đáp ấy, nhằm nêu rơ: Người có thể nghe pháp c̣n
tự chẳng có, làm sao có thể hiểu pháp cho được? Như
trong kinh Vô Cấu Xưng (kinh Duy Ma Cật), ngài Xá Lợi Tử hỏi thiên nữ rằng: “Nhữ
ư thử một, đương sanh hà xứ?” (Cô ở
nơi đây chết đi, sẽ sanh vào chỗ nào?) Đáp
rằng: “Như Lai sở hóa đương sanh sở xứ,
ngă đương sanh bỉ” (Như Lai sẽ sanh vào nơi
nào để giáo hóa, tôi sẽ sanh vào đó). Xá Lợi Tử
nói: “Như Lai sở hóa vô một, vô sanh, vân hà đáp đắc ngôn đương
sở sanh xứ?” (Như Lai giáo hóa chẳng chết đi, chẳng sanh
ra, sao lại đáp ‘sẽ sanh vào chỗ Như Lai sẽ
sanh?’) Thiên nữ nói: “Chư pháp hữu t́nh ưng tri diệc
nhĩ, vô một, vô sanh, vân hà vấn ngă đương sanh hà
xứ?” (Thầy cũng phải nên biết
các pháp hữu t́nh chẳng mất đi, chẳng sanh ra, sao
lại hỏi tôi sẽ sanh về chỗ nào?)
(Kinh)
Phạm vương viết: - Thử huyễn hóa nhân, Thể thị phi hữu, thử chi tâm số, tùng hà
nhi sanh?
(經)梵王曰:此幻化人體是非有,此之心數從何而生?
(Kinh:
Phạm vương nói: - Người huyễn hóa ấy chẳng
có Thể, tâm số ấy từ đâu mà sanh?)
Tán
rằng: Ư thứ ba là vấn nạn. Nương theo t́nh kiến
chấp trước của thế tục, huyễn chắc
chắn chẳng có, [vậy th́] cái tâm có thể chứng và
tâm pháp từ đâu mà sanh? Chẳng phải là đứa
con của thạch nữ có tâm để có thể chứng! Đây là vấn nạn dựa theo
chấp “vô”, cũng nhằm trừ cái thấy là “vô”!
(Kinh)
Đáp viết: - Nhược tri pháp giới bất hữu,
bất vô, như thị chúng sanh năng giải thâm nghĩa.
(經)答曰:若知法界不有不無,如是眾生能解深義。
(Kinh:
Đáp rằng: - Nếu biết pháp giới chẳng có, chẳng
không, chúng sanh như thế có thể hiểu nghĩa sâu).
Tán
rằng: Đây là phần dung thông. Nếu chấp nhất
định là có hay không, sẽ chẳng thể ngộ biết
Chân Như pháp giới. Cùng ĺa hữu và vô, hành b́nh đẳng
hạnh. Sự b́nh đẳng ấy có thể ngộ từ
duyên sanh, cho nên là “như huyễn mà có”. Do chẳng có
thật tánh, nên nói là Vô, chẳng như ngôn thuyết [cứ
khăng khăng] “nhất định thật sự là hữu
hay là vô!” Chúng sanh có thể hiểu nghĩa sâu như thế,
liền có thể trừ các chấp trước “hữu,
vô, một, khác, thường, đoạn” v.v… hành Bồ
Đề hạnh.
5.10.4.3.3.
Phạm vương tán thán, lănh ngộ pháp sâu
(Kinh) Nhĩ thời, Phạm
vương bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Thị Như
Ư Bảo Quang Diệu Bồ Tát bất khả tư nghị,
thông đạt như thị thậm thâm chi nghĩa.
(經)爾時梵王白佛言:世尊!是如意寶光耀菩薩不可思議,通達如是甚深之義。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Phạm vương bạch
cùng đức Phật rằng: - Bạch đức Thế
Tôn! Vị Như Ư Bảo Quang Diệu Bồ Tát này chẳng
thể nghĩ bàn, thông đạt nghĩa rất sâu như
thế).
Tán
rằng: Đoạn thứ ba là Phạm vương tán thán,
lănh ngộ pháp sâu.
5.10.4.3.4.
Đức Thế Tôn ấn khả, trần thuật lợi
ích thù thắng
(Kinh) Phật ngôn: - Như thị,
như thị, Phạm vương! Như nhữ sở ngôn,
thử Như Ư Bảo Quang Diệu dĩ giáo nhữ đẳng
phát tâm tu học Vô Sanh Nhẫn pháp.
(經)佛言:如是如是。梵王!如汝所言,此如意寶光耀已教汝等發心修學無生忍法。
(Kinh: Đức Phật nói: - Đúng như vậy,
đúng như vậy, Phạm Vương! Đúng như ông
đă nói, vị Như Ư Bảo Quang Diệu này đă dạy
các ông phát tâm tu học pháp Vô Sanh Nhẫn).
Tán
rằng: Đoạn thứ tư, đức Thế Tôn ấn
khả, trần thuật lợi ích thù thắng. Nói “như
thị” nhằm ấn chứng lời của Phạm vương.
“Dĩ giáo nhữ đẳng” (đă dạy các ông…) là
trần thuật lợi ích thù thắng, tức phần vui
mừng khen ngợi!
5.10.4.3.5.
Phạm vương lănh ngộ, vui mừng
(Kinh) Thị thời, Đại
Phạm Thiên Vương, dữ chư Phạm chúng tùng ṭa nhi
khởi, thiên đản hữu kiên, hiệp chưởng,
cung kính, đảnh lễ Như Ư Bảo Quang Diệu Bồ
Tát túc.
(經)是時大梵天王與諸梵眾從座而起,偏袒右肩合掌恭敬,頂禮如意寶光耀菩薩足。
(Kinh: Khi đó, Đại Phạm thiên vương
và các Phạm chúng từ chỗ ngồi đứng lên, trật
vai áo phải, chắp tay, cung kính, đảnh lễ dưới
chân Như Ư Bảo Quang Diệu Bồ Tát).
Tán
rằng: Đoạn thứ năm, “Phạm vương lănh
ngộ, hoan hỷ”. Có hai ư:
-
Một, biết là cái nhân thù thắng, bèn thay đổi nét
mặt, biểu lộ sự kiền thành, cung kính.
-
Hai, mừng vui v́ chính ḿnh được nghe.
Đoạn
này thuộc ư thứ nhất.
(Kinh)
Tác như thị ngôn: - Hy hữu, hy hữu! Ngă đẳng kim
nhật hạnh ngộ đại sĩ, đắc văn
chánh pháp.
(經)作如是言:希有希有!我等今日幸遇大士,得聞正法。
(Kinh:
Nói như thế này: - Hiếm có! Hiếm có! Chúng tôi ngày nay
may mắn gặp bậc đại sĩ, được
nghe chánh pháp).
Tán
rằng: [Phạm vương] mừng rỡ v́ chính ḿnh được nghe:
-
Một, tán thán [Như Ư Bảo Quang Diệu Bồ Tát] thành tựu
đức thù thắng.
-
Hai, tán thán Ngài có thể lợi tha. V́ thế, lặp lại
“hy hữu”. Lại do đắc ngộ, do nghe pháp, nên lặp lại “hy hữu”.
5.10.4.3.6.
Đức Thế Tôn thọ kư cho thiên nữ, Phạm
vương vui mừng
(Kinh) Nhĩ thời, Thế
Tôn cáo Phạm vương ngôn: - Thị Như Ư Bảo Quang
Diệu ư vị lai thế, đương đắc tác
Phật, hiệu Bảo Diễm Cát Tường Tạng Như
Lai, Ứng, Chánh Biến
Tri, Minh Hạnh Viên Măn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
(經)爾時世尊告梵王言:是如意寶光耀於未來世當得作佛,號寶焰吉祥藏如來、應、正遍知、明行圓滿、善逝、世間解、無上士、調御丈夫、天人師、佛、世尊。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Phạm vương
rằng: - Cô Như Ư Bảo Quang Diệu này trong đời
vị lai sẽ được làm Phật, hiệu là Bảo
Diễm Cát Tường Tạng Như Lai, Ứng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Viên Măn, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn).
Tán rằng: Ư nghĩa thức sáu, “đức Thế
Tôn thọ kư cho thiên nữ thành Phật”, Phạm chúng vui
mừng. Hiệu Bảo Diễm là do nghe kinh Kim Quang Minh, lại
ngộ các pháp như ánh nắng gợn. Cát Tường là
trong hết thảy các thời, có thể ban sự cát tường
cho chúng sanh. “Tạng” có nghĩa là “bao hàm”. Cát tường vô lượng, trọn
đủ các công đức, chẳng có thuở cùng tận,
cho nên gọi là Cát Tường Tạng. Văn tướng
dễ hiểu!
5.10.4.4.
Đại chúng khi ấy nghe kinh được lợi ích
5.10.4.4.1.
Thập Địa Bồ Tát đạt được lợi
ích bất thoái chuyển
(Kinh) Thuyết thị phẩm
thời, hữu tam thiên ức Bồ Tát ư A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề đắc bất
thoái chuyển.
(經)說是品時,有三千億菩薩於阿耨多羅三藐三菩提得不退轉。
(Kinh:
Khi nói phẩm này, có ba ngàn ức Bồ Tát đắc bất
thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác).
Tán
rằng: Đoạn lớn thứ tư là nói đại
chúng khi đó nghe kinh đạt được lợi ích
bao nhiêu, có ba ư:
-
Một, hàng Thập Địa đạt được lợi
ích chẳng thoái chuyển.
-
Hai, hàng Thập Hồi Hướng được lợi ích
kiến đạo.
-
Ba, hàng Thập Trụ được lợi
ích chẳng thoái chuyển.
Đoạn
này thuộc ư thứ nhất. Bất Thoái có bốn loại, ở đây là Hạnh Bất
Thoái, tức là nhập Đệ Bát Địa, phiền
năo thuộc về tướng và dụng chẳng thể
lay động họ!
5.10.4.4.2.
Đạt được lợi ích Kiến Đạo
(Kinh) Bát thiên ức thiên tử,
vô lượng vô số quốc vương, thần dân, viễn
trần ly cấu, đắc Pháp Nhăn Tịnh.
(經)八千億天子、無量無數國王臣民,遠塵離垢得法眼淨。
(Kinh:
Tám ngàn ức thiên tử, vô lượng vô số quốc
vương và thần dân xa trần ĺa cấu, đạt được
pháp nhăn thanh tịnh).
Tán
rằng: Đạt được lợi ích kiến đạo.
“Thiên” bao gồm [chư thiên trong] Dục Giới và Sắc
Giới. Luận Hiển Dương Thánh Giáo viết: “Cực
thích phi ác thú, cực hân phi thượng nhị” (ưu sầu
tột bậc chẳng phải là đường ác, vui sướng
tột bậc chẳng phải là hai cơi trên, tức Sắc
Giới và Vô Sắc
Giới)[12] chính là
nói theo người đốn ngộ, chẳng chướng
ngại [chư thiên thuộc] Sắc Giới hồi tâm nhập
Kiến Đạo. Lại c̣n là nói theo Nhị Thừa, chẳng
phải là xét theo Đại Thừa. Quyển tám mươi
ba của luận Du Già Sư Địa giải thích “viễn
trần ly cấu” như sau: “Lại nữa, Trần
là nói đến ngă mạn và hết thảy các phiền năo
bị đoạn. ‘Cấu’ là nói tới tất cả các thô trọng
thượng phẩm. ‘Pháp’ là nói các pháp chẳng trụ trong tự
tướng và cộng tướng. Pháp Nhăn là nói như thật
hiện chứng, chỉ có pháp huệ. Nói ‘đắc pháp’
tức là tùy thuận chứng đắc quả Sa Môn. Ở
đây nói là ‘tùy đắc’, nhằm chỉ rơ đạt được
hai thứ bất định: Một là bất định
do vượt ngoài thứ tự. Hai là chung cho tam thừa, có
người chẳng đắc quả; cho nên nói là Tùy. Viễn
Trần là thật sự thấy đạo Vô Gián, liền
nói đoạn trừ cái Thấy có các phiền năo bị đoạn.
Ĺa tướng cấu, thấy đạo giải thoát, nói
là ‘ĺa thô trọng’. Nếu coi chủng tử là Thô Trọng
th́ chúng đều thuộc vào vô gián, tức là nói riêng về chủng tử hiện
tại. Nếu xét theo tập khí th́ cũng thấy tướng
trạng chung, nói là đắc quả”. Đại Trang Nghiêm Luận quyển bảy tuy lời văn
khác biệt đôi chút, nhưng có cùng ư nghĩa với luận
Du Già Sư Địa. C̣n Tạp Tập Luận th́ nói: “Các
pháp nhẫn có thể xa ĺa Trần, các pháp trí có thể ĺa Cấu”.
Xét theo Tùy Chuyển Môn[13],
trong kiến đạo thật sự, chẳng quán riêng Đế;
hoặc gồm thâu tam thừa, thuận theo pháp để nói
th́ cũng chẳng mâu thuẫn!
5.10.4.4.3.
Thập Trụ đạt được lợi ích
(Kinh)
Nhĩ thời, hội trung hữu ngũ thập ức Bật-sô
hành Bồ Tát hạnh, dục thoái Bồ Đề tâm.
(經)爾時會中有五十億苾芻行菩薩行,欲退菩提心。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, trong hội có năm mươi ức Bật-sô
hành Bồ Tát hạnh, toan lui sụt tâm Bồ Đề).
Tán
rằng: Sau đó là nói hàng Thập Trụ đạt được
lợi ích bất thoái. Có hai ư:
-
Một, đạt được lợi ích nơi cái nhân,
chẳng lui sụt sự tấn tu.
-
Hai, đạt được lợi ích nơi cái quả,
nhân viên măn, được thọ kư.
Kinh
văn thuộc ư trước lại gồm có bốn phần:
-
Một, trước đó [các tỳ-kheo] tâm sắp lui sụt.
-
Hai, do nghe [thiên nữ giảng pháp] mà họ được vững ư.
-
Ba, lại đạt được sự tăng tấn
thù thắng.
-
Bốn, hồi hướng Bồ Đề.
Đoạn
này thuộc ư thứ nhất, bao gồm năm ư:
-
Một, chỗ được lợi ích (trong
pháp hội).
-
Hai, số lượng người được lợi ích (năm
mươi ức bật-sô).
-
Ba, người được lợi ích (hàng bật-sô).
-
Bốn, pháp để tu hành (Bồ Tát hạnh).
-
Năm, trước đó, họ muốn thoái thất.
Người
toan thoái thất có hai loại: Một là đă đắc mà
lui sụt, hai là chưa đắc mà lui sụt. Hạng thứ
nhất thuộc Địa Tiền, loại thứ hai là hàng
Bồ Tát chưa chứng Thất Địa. Người đă
đắc có hai loại: Vừa đạt được
thắng giải, hai là chứng pháp. Người đạt
được thắng giải có hai loại: Một là Tín,
hai là Hạnh. Loại thứ nhất là Tín mà thoái thất
th́ thuộc địa vị trước hay sau tâm thứ
năm trong Thập Tín. Hạnh mà thoái thất th́ là trước
khi đạt tới Đệ Lục Trụ. Tín bất
thoái là chẳng lui sụt, chẳng dấy lên tà kiến. Hạnh
bất thoái là chẳng lui sụt xuống Nhị Thừa.
Nhưng kinh Nhân Vương Bát Nhă dạy: “Thập thiên kiếp
trung, hành Bồ Tát đạo, tùy phong Đông, Tây, hoặc tấn,
hoặc thoái” (Trong mười ngàn kiếp, hành Bồ Tát
đạo, tùy theo gió thổi sang phía Đông hay phía Tây mà hoặc
tiến, hoặc lùi), tức là nói theo tướng trạng
chung của Tín và Hạnh. Kiếp có lớn hay nhỏ khác
nhau. Kinh Tịnh Hạnh Ưu Bà Tắc Giới nói ngài Xá Lợi
Phất đă hành [Bồ Tát đạo] sáu mươi kiếp
mà c̣n thoái thất Đại Thừa, tức là nói theo đại
kiếp.
(Kinh)
Văn Như Ư Bảo Quang Diệu Bồ Tát thuyết thị
pháp thời, giai đắc kiên cố bất khả tư
nghị măn túc thượng nguyện.
(經)聞如意寶光耀菩薩說是法時,皆得堅固不可思議滿足上願。
(Kinh:
Khi nghe Như Ư Bảo Quang Diệu Bồ Tát nói pháp ấy, đều
đắc nguyện bậc thượng trọn vẹn kiên
cố chẳng thể nghĩ bàn).
Tán
rằng: Do nghe pháp, bèn vững ư trụ nơi quả Đại
Bồ Đề, gọi là “chẳng thể nghĩ bàn”. Do
nhất định đạt được Trụ Bất
Thoát, trọn vẹn nguyện bậc thượng. “Nguyện
bậc thượng” chính là nguyện cầu đại
Bồ Đề, bao gồm tự lợi và lợi tha.
(Kinh)
Cánh phục phát khởi Bồ Đề chi tâm, các tự thoát
y cúng dường Bồ Tát, trùng phát vô thượng thắng
tấn chi tâm, tác như thị nguyện: “Nguyện linh ngă đẳng
công đức, thiện căn, tất giai bất thoái”.
(經)更復發起菩提之心,各自脫衣供養菩薩,重發無上勝進之心,作如是願:願令我等功德善根悉皆不退。
(Kinh:
Lại phát khởi tâm Bồ Đề, ai nấy cởi y cúng
dường Bồ Tát, lại phát tâm tiến lên thù thắng vô thượng, nguyện như thế này: “Nguyện
cho công đức và thiện căn của chúng tôi thảy đều
chẳng lui sụt”).
Tán
rằng: Sau đó, được tăng tấn thù thắng.
Có bốn ư:
-
Một, lại phát nguyện cầu Bồ Đề.
-
Hai, tu cúng dường.
-
Ba, lại nguyện tu hạnh thù thắng.
-
Bốn, từ “như thị nguyện” (nguyện như thế) trở đi là “nguyện đắc bất thoái”.
(Kinh)
Hồi hướng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề.
(經)迴向阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh:
Hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác).
Tán
rằng: Ư thứ tư là hồi hướng lợi ích đă
đạt được từ cái nhân trên đây.
(Kinh)
Phạm vương! Thị chư bật-sô y thử công
đức, như thuyết tu hành, quá cửu thập đại
kiếp, đương đắc giải ngộ, xuất
ly sanh tử.
(經)梵王!是諸苾芻依此功德如說修行,過九十大劫當得解悟,出離生死。
(Kinh:
Phạm vương! Các vị bật-sô ấy nương theo công đức này để
tu hành đúng như lời dạy, sau chín mươi đại
kiếp, sẽ được giải ngộ, xuất ly
sanh tử).
Tán
rằng: Sau đó, đạt được lợi ích nơi
cái quả. Có hai ư:
-
Một, đạt được Sơ Địa.
-
Hai, từ “nhĩ thời, Thế Tôn” (lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn) trở đi, đạt tới địa
vị cùng cực, sẽ được thọ kư.
Đoạn
này thuộc ư thứ nhất. Do công đức nghe kinh này, cũng
như do lại phát tâm tu hành, lại c̣n
tu hành đúng như lời dạy, qua khỏi chín mươi
đại kiếp, sẽ đắc vô lậu Nhị Không giải ngộ, thoát khỏi Phần Đoạn sanh
tử, gọi là “ly sanh tử”. Nương theo công
đức ấy, lại c̣n tu hành đúng như lời dạy,
đạt tới địa vị Hồi Hướng; v́ thế, nói là “quá cửu thập đại kiếp” (qua
khỏi chín mươi đại kiếp). Do trong lúc tu hành
Thập Hồi Hướng, nơi mỗi địa vị,
đều trải qua mười kiếp như kinh Tịnh
Hạnh Ưu Bà Tắc Giới đă nói.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn tức vị thọ kư: - Nhữ
chư bật-sô! Quá tam thập A-tăng-kỳ kiếp, đương
đắc tác Phật, kiếp danh Nan Thắng Quang Vương,
quốc danh Vô Cấu Quang.
(經)爾時世尊即為授記:汝諸苾芻!過三十阿僧祇劫當得作佛,劫名難勝光王,國名無垢光。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liền v́ họ thọ
kư: - Hàng bật-sô các ông! Qua khỏi ba mươi A-tăng-kỳ
kiếp, sẽ được thành Phật, kiếp tên là Nan
Thắng Quang Vương, cơi nước tên Vô Cấu Quang).
Tán
rằng: Thọ kư cái quả trong tương lai, có sáu ư. Ư đầu
tiên là thời tiết. “Qua khỏi ba mươi A-tăng-kỳ”:
Theo bộ Nhiếp Luận đời Lương, tu Thập
Địa, [thời gian tu viên măn] mỗi Địa là ba A-tăng-kỳ,
cho nên đạt đến Thập Địa th́ là “ba mươi A-tăng-kỳ”. Ư thứ hai [trong đoạn chánh kinh trên đây] là tên kiếp (Nan Thắng Quang Vương), ư thứ ba là tên nước (Vô Cấu Quang).
(Kinh)
Đồng thời giai đắc A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề, giai đồng nhất hiệu, danh Nguyện
Trang Nghiêm Gián Sức Vương, thập hiệu cụ túc.
(經)同時皆得阿耨多羅三藐三菩提,皆同一號,名願莊嚴間飾王,十號具足。
(Kinh:
Cùng lúc đều đắc Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, đều cùng một hiệu là Nguyện Trang Nghiêm Gián Sức Vương, mười
hiệu trọn đủ).
Tán
rằng: Điều thứ tư là khi thành Phật bèn nói là “đồng
thời”. Điều
thứ năm là cái quả đạt được
chính là Vô Thượng Bồ Đề. Điều thứ sáu là danh hiệu của Phật.
Hỏi:
Không chỗ nào có thể dung nạp hai đức Như Lai đồng thời, cùng chỗ! Năm
mươi ức vị Phật đồng thời thành Phật
bằng cách nào?
Đáp:
Xét theo cơi để Phật giáo hóa th́ hai vị Phật không
cùng một cơi, cũng như xét theo chuyện hiện tướng
th́ cũng chẳng đồng thời. Xét theo Tha Dụng Độ
và cùng nhau hợp tác th́ nói là “đồng thời”. Lại
nữa, có thể là cơi nước, tên kiếp, danh tự
tuy đồng, nhưng phương vị và khí thế giới
mỗi vị Phật mỗi khác, cho nên có thể đồng thời làm Phật.
5.10.4.5.
So sánh để hiển thị sự thù thắng ḥng khiến
cho thính chúng vâng nhận, hành tŕ
5.10.4.5.1.
Nêu bày sự thù thắng
(Kinh) Phạm vương! Thị
Kim Quang Minh vi diệu kinh điển nhược chánh văn
tŕ, hữu đại oai lực.
(經)梵王!是金光明微妙經典若正聞持,有大威力。
(Kinh: Phạm vương! Kinh điển vi diệu
Kim Quang Minh này nếu nghe và thọ tŕ chân chánh, sẽ có oai
lực to lớn).
Tán
rằng: Đoạn lớn thứ năm là “so lường, nói rơ sự thù thắng để khuyên
lănh thọ, hành tŕ”. Kinh văn chia thành ba phần: Một là nêu ra sự thù
thắng, hai là so sánh, ba là khuyên học. Đoạn này thuộc
phần đầu.
5.10.4.5.2.
So lường
(Kinh)
Giả sử hữu nhân ư bách thiên đại kiếp hành
Lục Ba La Mật vô hữu phương tiện.
(經)假使有人於百千大劫行六波羅蜜無有方便。
(Kinh:
Giả sử có người trong trăm ngàn đại kiếp
hành Lục Ba La Mật chẳng có phương tiện).
Tán
rằng: Kế đó là so lường:
-
Trước là so lường sự thù thắng.
-
Sau là khuyên thọ tŕ, học tập.
Ư
thứ nhất lại có ba phần:
-
Một, nêu ra cái kém cỏi để so sánh (hành Lục Ba La Mật mà chẳng
có phương tiện trong trăm ngàn đại kiếp).
-
Hai, nói về tŕ kinh.
-
Ba, chánh thức so lường.
Đoạn
này thuộc ư thứ nhất. Tuy hành Lục Độ, nhưng
chẳng có hai phương tiện, tức là bạt tế
(cứu vớt) và hồi hướng. Kinh này dạy tu phát
nguyện, hồi hướng. Kinh này lại c̣n nói “chẳng trụ vào phương tiện”.
Hỏi:
Nếu chẳng hồi hướng, sao có thể gọi là
Độ?
Đáp:
Do chẳng được nhiếp thọ trong bảy loại
tối thắng, đối với mỗi môn đều dựa
theo sự nhiếp thọ khác để nói, hoặc là tương
tự Lục Độ.
(Kinh)
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân,
thư tả như thị Kim Quang Minh kinh, bán nguyệt,
bán nguyệt, chuyên tâm độc tụng, thị công đức
tụ ư tiền công đức bách phần bất cập
nhất, năi chí toán, số, thí dụ, sở bất năng
cập. (經)若有善男子善女人,書寫如是金光明經,半月半月專心讀誦,是功德聚,於前功德百分不及一,乃至算數譬喻所不能及。
(Kinh:
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân biên chép
kinh Kim Quang Minh như thế này, cứ mỗi nửa tháng
chuyên tâm đọc tụng, khối công đức ấy so
với công đức trước th́ công đức trước
đó chẳng sánh bằng một phần trăm, cho tới
toán, số, thí dụ, đều chẳng thể sánh bằng).
Tán
rằng: Đây là phần kinh văn nói về hai ư kia (thọ
tŕ kinh và so lường). Pháp hạnh có mười điều,
chỉ nêu ra ba hạnh là biên chép, đọc, và tụng. Dựa
theo đó để nói, bởi lẽ hạnh cúng dường,
bố thí cho người khác đều kém hơn, c̣n tư
duy và tu tập th́ thù thắng hơn, cho nên lược đi,
không nêu ra.
5.10.4.5.3.
Khuyên học
(Kinh)
Phạm vương! Thị cố, ngă kim linh nhữ tu học,
ức niệm, thọ tŕ, vị tha quảng thuyết.
(經)梵王!是故我今令汝修學、憶念、受持、為他廣說。
(Kinh:
Phạm vương! Do vậy, ta nay bảo các ông tu học,
nghĩ nhớ, thọ tŕ, v́ người khác rộng nói).
Tán
rằng: Ư thứ ba là khuyên học, có ba phần. Phần đầu
là khuyên lơn.
(Kinh)
Hà dĩ cố?
(經)何以故?
(Kinh:
V́ sao vậy?)
Tán
rằng: Gạn hỏi.
(Kinh)
Ngă ư văng tích hành Bồ Tát đạo thời, do như dũng
sĩ nhập ư chiến trận, bất tích thân mạng,
lưu thông như thị vi diệu kinh vương, thọ
tŕ, độc tụng, vị tha giải thuyết.
(經)我於往昔行菩薩道時,猶如勇士入於戰陣,不惜身命流通如是微妙經王,受持讀誦為他解說。
(Kinh:
Ta xưa kia, khi hành Bồ Tát đạo, giống như dũng
sĩ vào chiến trận, chẳng tiếc thân mạng, lưu
thông vua trong các kinh vi diệu như thế, thọ tŕ, đọc
tụng, v́ người khác giải nói).
Tán
rằng: Giải thích. Có ba phần: Trước là pháp thuyết,
kế đó là thí dụ, cuối cùng là kết hợp thí dụ
với pháp. Trước hết là phần pháp thuyết. Hành
ba thứ tinh tấn, gia hạnh nhiếp thiện lợi lạc,
nương theo bốn pháp hạnh (thọ tŕ, đọc,
tụng, v́ người khác giải nói) để lưu thông
kinh này, giống như dũng sĩ. Kinh Di Giáo dạy: “Thí
như trước khải, nhập trận tắc vô sở
úy” (ví như khoác áo giáp, vào trận chẳng sợ hăi).
(Kinh) Phạm vương! Thí
như Chuyển Luân Thánh Vương, nhược vương
tại thế, thất bảo bất diệt. Vương
nhược mạng chung, sở hữu thất bảo tự
nhiên diệt tận.
(經)梵王!譬如轉輪聖王,若王在世七寶不滅,王若命終所有七寶自然滅盡。
(Kinh:
Phạm vương! Ví như Chuyển Luân Thánh Vương,
nếu vua tại thế, bảy báu chẳng diệt. Nếu
vua mạng chung, tất cả bảy báu tự nhiên diệt
hết).
Tán
rằng: Đây là thí dụ. Bảy báu ví như Thất Thánh
Tài, hoặc ví như Thất Giác Phần. Như quyển mười
của Đại Trang Nghiêm Luận nói: “Niệm giống
như Luân Bảo hàng phục quốc gia chưa phục, v́
đối với cảnh giới chưa hàng phục, Niệm
có thể hàng phục. Trạch [giác phần] giống
như Tượng Bảo, do voi có thể hàng phục các nước
ḱnh địch. Do Trạch có thể phá kẻ oán mạnh mẽ
là phân biệt. Tấn giống như Mă Bảo, v́ đại
địa mênh mông, ngựa có thể nhanh chóng chạy cùng tận. Do Tấn mà có thể
tột cùng nhanh chóng giác ngộ Chân Như. Hỷ giống như Châu Bảo (Như Ư Bảo Châu)
v́ ánh sáng của châu soi tan tối tăm, vua hoan hỷ tột bậc. [Cũng giống như thế], ánh sáng pháp phá tối tăm, tâm hoan hỷ tṛn đầy.
Ỷ[14] giống
như Nữ Bảo, vua hưởng vui sướng do nữ
sờ chạm. Trí thoát khỏi chướng ngại keo tham,
c̣n Ỷ dứt ác. Định giống như tạng thần (quan trông coi kho báu), vua cần ǵ, chủ tạng thần đều lấy
ra. Trí có điều ǵ cần dùng đều sanh từ Định. Xả giống như chủ binh thần, bỏ
yếu, lấy mạnh, theo vua không mệt mỏi. Bồ Tát tu hành vứt bỏ ác, giữ thiện, thuận theo trí vô phân
biệt, vô công dụng”. Kinh này như vua, công đức như báu.
(Kinh)
Phạm vương! Thị Kim Quang Minh vi diệu kinh vương
nhược hiện tại thế, vô thượng pháp bảo,
tất giai bất diệt. Nhược vô thị kinh, tùy xứ
ẩn một.
(經)梵王!是金光明微妙經王若現在世,無上法寶悉皆不滅;若無是經,隨處隱沒。
(Kinh:
Phạm vương! Kinh vương Kim Quang Minh vi diệu này
nếu hiện diện trên cơi đời, pháp bảo vô thượng
thảy đều bất diệt. Nếu không có kinh này, [các
pháp bảo] ở khắp nơi sẽ ẩn mất).
Tán
rằng: Kết hợp thí dụ với pháp. “Vô thượng
pháp bảo” tức là Thất Bảo Tài (Thất Thánh Tài),
hoặc Thất Giác Phần, hoặc hết thảy các công
đức, tức là ư nghĩa của chữ Kinh: Như sợi
chỉ xâu hoa, như sợi dọc (kinh) giữ sợi
ngang (vĩ) [trong tấm vải dệt], có thể diễn
nói giáo pháp thù thắng, hiển sanh công đức. V́ thế,
lúc kinh không có, th́ pháp cũng không có.
(Kinh)
Thị cố, ưng đương ư thử kinh vương,
chuyên tâm thính văn, thọ tŕ, độc tụng, vị
tha giải thuyết, khuyến linh thư tả, hành Tinh Tấn
Ba La Mật, bất tích thân mạng, bất đạn b́
lao, công đức trung thắng. Ngă chư đệ tử
ưng đương như thị tinh cần tu học.
(經)是故應當於此經王,專心聽聞受持讀誦為他解說勸令書寫,行精進波羅蜜不惜身命、不憚疲勞,功德中勝。我諸弟子應當如是精勤修學。
(Kinh:
V́ thế, hăy nên đối với kinh vương này, chuyên
tâm lắng nghe, thọ tŕ, đọc tụng, v́ người
khác giải nói, khuyên bảo biên chép, hành Tinh Tấn Ba La Mật,
chẳng tiếc thân mạng, chẳng sợ nhọc nhằn,
sẽ là thù thắng trong các công đức. Các đệ tử
của ta hăy nên siêng ṛng tu học như thế).
Tiếp
đó là khuyên học, có ba ư:
-
Một, khởi pháp hạnh đối với kinh.
-
Hai, đạt được công đức thù thắng.
-
Ba, từ “ngă chư đệ tử” (các đệ tử
của ta) trở đi, kết lại để khuyên hành.
Hành Tinh Tấn Ba La Mật, tức là dạy hành pháp hạnh, khởi tinh tấn.
5.10.4.6.
Chư thiên nghe đức Phật sắc truyền, nguyện
hộ tŕ, lưu thông
5.10.4.6.1.
Nghi thức thỉnh cầu đức Phật cho phép thủ
hộ
(Kinh)
Nhĩ thời, Đại Phạm thiên vương dữ
vô lượng Phạm chúng, Đế Thích, tứ vương,
cập chư Dược Xoa, câu tùng ṭa khởi, thiên đản
hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp
chưởng cung kính.
(經)爾時大梵天王與無量梵眾、帝釋四王及諸藥叉,俱從座起,偏袒右肩右膝著地合掌恭敬。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Đại Phạm thiên vương cùng vô
lượng Phạm chúng, Đế Thích, bốn thiên vương,
và các Dược Xoa, đều từ chỗ ngồi đứng
dậy, trật vai áo phải, gối phải đặt sát
đất, chắp tay, cung kính).
Tán
rằng: Đoạn lớn thứ sáu là “chư thiên v.v… nghe
sắc truyền, nguyện hộ tŕ, lưu thông”. Kinh văn
chia thành bốn ư:
-
Một, nghi thức thỉnh cầu hộ pháp.
-
Hai, chánh thức phát nguyện thủ hộ.
-
Ba, đức Phật tán thán, thọ kư.
-
Bốn, tứ thiên vương v.v… vui mừng lănh thọ.
Đoạn
này thuộc ư thứ nhất.
5.10.4.6.2.
Phát nguyện thủ hộ
(Kinh)
Nhi bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă đẳng giai nguyện
thủ hộ, lưu thông thị Kim Quang Minh vi diệu kinh
điển.
(經)而白佛言:世尊!我等皆願守護流通是金光明微妙經典。
(Kinh:
Bèn bạch Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Chúng con đều
nguyện thủ hộ, lưu thông kinh điển vi diệu
Kim Quang Minh này).
Tán
rằng: Nguyện thủ hộ, lại gồm có bốn ư:
-
Một, hộ tŕ chánh pháp.
-
Hai, hộ tŕ pháp sư.
-
Ba, hộ tŕ quốc độ.
-
Bốn, thủ hộ người cúng dường.
(Kinh)
Cập thuyết pháp sư, nhược hữu chư nạn,
ngă đương trừ khiển, linh cụ chúng thiện,
sắc lực sung túc, biện tài vô ngại, thân ư thái nhiên.
(經)及說法師若有諸難,我當除遣,令具眾善,色力充足辨才無礙,身意泰然。
(Kinh:
Và nếu thuyết pháp sư có các nạn, con sẽ trừ
khử, khiến cho đầy đủ các điều thiện,
sắc lực sung túc, biện tài vô ngại, thân ư thảnh
thơi).
Tán
rằng: Hộ tŕ pháp sư. Hộ tŕ pháp sư gồm năm
điều: Một là trừ ác, hai là [khiến
cho pháp sư] đạt
được điều thiện, ba là thân an, bốn là
trọn đủ biện tài, năm là tâm thảnh thơi.
(Kinh)
Thời hội thính giả giai thọ an lạc.
(經)時會聽者皆受安樂。
(Kinh:
Khi đó, người nghe trong hội đều được
an lạc).
Tán
rằng: Hộ tŕ thính chúng.
(Kinh)
Sở tại quốc độ, nhược hữu cơ
cẩn, oán tặc, phi nhân vi năo hại giả, ngă đẳng
thiên chúng giai vi ủng hộ, sử kỳ nhân dân an ổn,
phong lạc, vô chư uổng hoạnh, giai thị ngă đẳng
thiên chúng chi lực.
(經)所在國土若有饑饉、怨賊、非人為惱害者,我等天眾皆為擁護,使其人民安隱豐樂無諸枉橫,皆是我等天眾之力。
(Kinh:
Nếu quốc độ có kinh này tồn tại mà có đói
kém, oán tặc, phi nhân gây năo hại, chư thiên chúng con sẽ
đều ủng hộ, khiến cho nhân dân nước ấy
an ổn, giàu vui, không có các thứ tai nạn ngang trái, oan uổng,
đó đều là do sức của chư thiên chúng con).
Tán
rằng: Hộ tŕ quốc độ, có bốn ư:
-
Một, trừ đói kém.
-
Hai, trừ oán tặc.
-
Ba, trừ phi nhân [năo hại].
-
Bốn, kết luận về sự thủ hộ, tức
là đoạn kinh văn từ “ngă đẳng thiên chúng”
trở đi.
(Kinh)
Nhược hữu cúng dường thị kinh điển
giả, ngă đẳng diệc đương cung kính, cúng
dường như Phật
bất dị.
(經)若有供養是經典者,我等亦當恭敬供養如佛不異。
(Kinh:
Nếu có người cúng dường kinh điển này, chúng
con cũng sẽ cung kính, cúng dường như Phật chẳng
khác).
Tán
rằng: Hộ tŕ người cúng dường.
5.10.4.6.3.
Đức Phật tán thán, thọ kư
(Kinh)
Nhĩ thời, Phật cáo Đại Phạm thiên vương,
cập chư Phạm chúng, năi chí tứ vương, chư
Dược Xoa đẳng: - Thiện tai, thiện tai! Nhữ
đẳng đắc văn thậm thâm diệu pháp.
(經)爾時佛告大梵天王及諸梵眾,乃至四王諸藥叉等:善哉善哉!汝等得聞甚深妙法。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Đại Phạm
thiên vương và các phạm chúng, cho đến bốn thiên
vương, các Dược Xoa v.v… rằng: - Lành thay! Lành
thay! Các ông được nghe diệu pháp rất sâu).
Tán
rằng: Kế đó là đức Phật tán thán, thọ kư.
Một là tán thán [đại chúng] nghe pháp, hai là tán thán sự hộ pháp, ba là tán thán [do hộ pháp
sẽ] đạt được
phước, bốn là thọ kư. Đoạn này thuộc ư
thứ nhất.
(Kinh) Phục năng ư thử vi diệu kinh vương phát tâm ủng hộ, cập tŕ kinh giả,