Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ

Quyển thứ

Đời Đường Tam Tạng pháp sư Nghĩa Tịnh vâng chiếu dịch kinh

Dịch kinh sa-môn Huệ Chiểu soạn sớ

金光明最勝王經疏

卷第

唐三藏法師義淨奉制譯

翻經沙門慧沼撰

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

Phần 10

 

5.10. Phẩm Y Không Măn Nguyện (Y Không Măn Nguyện phẩm đệ thập, 依空滿願品第十)

 

          Phẩm Y Không Măn Nguyện, gồm ba môn phân biệt:

          - Một, [nêu ra] ư nghĩa v́ sao có phẩm này?

          - Hai, giải thích danh xưng.

          - Ba, giải trừ vấn nạn.

         

5.10.1. Giải thích ư nghĩa v́ sao có phẩm này?

 

          Nói đến ư nghĩa v́ sao có phẩm này: Phẩm trước (Trùng Hiển Tánh Không) đă nói về Không, tức là cảnh được quán, chưa nói đến [phương pháp] tu hành. Nay nói rơ: Nương vào Nhị Không (Nhân Không và Pháp Không) để khởi hạnh, hành chẳng chấp trước th́ mới khế hợp chánh tu. Tu tương xứng với Chân th́ mới có thể đắc quả. Do vậy, sau phẩm trước, bèn có phẩm này sanh khởi.

 

5.10.2. Giải thích danh xưng của phẩm này

 

          Giải thích danh xưng: “Y” là có thể nương vào, tức là pháp được tu hành, cũng bao gồm cái được nương vào. Cái được nương vào thuộc vào điều thứ bảy trong thanh cảnh[1]. Không là cảnh, tức đối tượng được quán bởi hạnh. Măn Nguyện là cái quả thuận theo nguyện mà được măn, tức pháp để tu hành tương xứng với tu Không cảnh. Ĺa khỏi chấp trước Hữu và Vô, sẽ đắc quả viên măn, nên gọi là Y Không Măn Nguyện. Nay do phẩm này nói rộng [về điều đó], cho nên dùng điều đó để đặt tên phẩm.

 

5.10.3. Giải trừ vấn nạn

 

          * Hỏi: Nếu phẩm trước nhằm nói về cảnh để sanh giải, chưa nói đến tu hành; v́ sao kinh văn [trong phẩm ấy] lại nói “giải Không, phát nguyện”?

          Đáp: Phẩm trước chánh yếu nói về cảnh, [thính chúng] nghe rồi sẽ tùy phần mà tu, cho nên đạt được lợi ích. Phẩm này chánh yếu dạy về cách tu, cho nên thiên nữ thỉnh rằng: “Duy nguyện vị thuyết ư thậm thâm lư, tu hành chi pháp” (Kính mong hăy v́ con nói pháp tu hành nơi lư rất sâu). Lại nữa, trong phẩm trước, do nghe Không, sanh ra lợi ích do trí hạnh vô phân biệt; sau đó, dạy khởi tu, [sẽ đạt được] hai thứ lợi ích (tự lợi và lợi tha) nơi hai trí. Lại nữa, trong phẩm trước, bậc lợi căn nghe nói [tánh Không], bèn đạt được lợi ích, c̣n phẩm này v́ hàng độn căn.

          * Hỏi: Ba phẩm trước chẳng thỉnh mà nói, cớ sao phẩm này phải đợi thỉnh rồi mới nói?

          Đáp: [Các phẩm trước] do khiến cho pháp trụ thế lâu dài, hiển lộ ḷng đại bi của đức Phật, cho nên Ngài chẳng được thỉnh mà nói. [Trong phẩm này], khiến cho [thính chúng] khát ngưỡng mong cầu pháp ứng hợp cơ nghi, bèn do thỉnh mới nói. V́ vậy, chẳng nhất loạt như nhau. Hơn nữa, phẩm trước là để [đại chúng hiện diện] trong hội khi đó tu tập, phẩm này v́ người học trong mai sau. Lại nữa, phẩm trước [nhằm nói với] người tu lâu, họ vừa nghe liền có thể tu; [đối tượng của] phẩm này gồm chung hai loại người tu lâu và mới tu.

 

5.10.4. Giải thích kinh văn

5.10.4.1. Thiên nữ thưa hỏi

5.10.4.1.1. Thiên nữ xin được thưa hỏi

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Như Ư Bảo Quang Diệu thiên nữ ư đại chúng trung, văn thuyết thâm pháp, hoan hỷ, dũng dược.

          ()爾時如意寶光耀天女於大眾中聞說深歡喜踊躍

          (Kinh: Lúc bấy giờ, thiên nữ Như Ư Bảo Quang Diệu ở trong đại chúng, nghe nói pháp sâu, hoan hỷ, hớn hở).

         

          Tán rằng: Kinh văn chia thành sáu phần:

          - Một, thiên nữ thỉnh vấn.

          - Hai, từ “Phật cáo: - Thiện Nữ Thiên” (đức Phật bảo: - Thiện Nữ Thiên) trở đi, đức Thế Tôn v́ thiên nữ giải đáp cách học tập.

          - Ba, từ “nhĩ thời, Thế Tôn tác thị ngữ dĩ” (lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói như thế xong) trở đi, thiên nữ lănh ngộ, phụng tŕ, tu học.

          - Bốn, “thuyết thị phẩm thời” (khi nói phẩm ấy) trở đi, đại chúng khi đó nghe kinh được lợi ích nhiều hay ít.

          - Năm, từ “Phạm vương! Thị Kim Quang Minh” (này Phạm vương! Kinh Kim Quang Minh này) trở đi, so sánh nhằm hiển thị sự thù thắng, khiến cho [thính chúng] nhận lănh, hành tŕ kinh này.

          - Sáu, từ “nhĩ thời, Đại Phạm thiên vương” (lúc bấy giờ, Đại Phạm thiên vương) trở đi, chư thiên nghe [đức Phật] sắc truyền, nguyện hộ tŕ, lưu thông.

          Trong phần thứ nhất, lại chia thành ba tiểu đoạn:

          - Một, thiên nữ nêu bày ư cầu thỉnh.

          - Hai, đức Thế Tôn rủ ḷng hứa khả.

          - Ba, [thiên nữ] thưa bày lời thỉnh.

          Trong tiểu đoạn thứ nhất, lại gồm có năm ư:

          - Một, nêu ra người thỉnh cầu (tức thiên nữ Như Ư Bảo Quang Diệu).

          - Hai, nơi chốn thỉnh cầu (trong đại chúng).

          - Ba, trần thuật nguyên nhân thỉnh cầu (do được nghe pháp sâu).

          - Bốn, trần thuật tướng trạng thỉnh cầu.

          - Năm, giăi bày lời khải thỉnh.

          Đoạn chánh kinh này gồm có ba ư. Quán Không tương xứng với ư niệm là Như Ư. Do vậy, phát sanh diệu huệ, th́ gọi là Bảo Quang. Ĺa nhiễm tự tại được gọi là Thiên. Sanh trưởng điều thiện thuộc địa vị [của chính ḿnh] th́ gọi là Diệu. Trên đây là giải thích tên gọi của người thỉnh, mà cũng nhằm biểu thị “quán Không có thể sanh ra huệ thù thắng, phá chướng cho chính ḿnh lẫn người khác, sanh trưởng điều thiện nơi địa vị [của chính ḿnh]”. V́ vậy, vị trời này khải thỉnh. Bồ Tát bi nguyện trọn đủ đại thần thông, ứng theo chúng sanh mà hiện h́nh tướng, khiến cho họ đều đạt được lợi ích. Do vậy, Bồ Tát hóa hiện thân nữ.

          Hỏi: Vị Bồ Tát này thuộc về địa vị nào?

          Đáp: Theo ngài Chân Đế Tam Tạng th́ từ Bát Địa trở lên. Lại do [vị thiên nữ này] khiến cho [người nghe] sẽ chứng Vô Sanh Nhẫn, nên có thể thuộc vào Lục Địa. Dựa theo tướng đạt được địa vị trong phần trước, tướng trạng của Đệ Lục Địa là có thể khiến cho cơi nước thanh tịnh, hiện ao hoa sen bảy báu trọn khắp thế giới. V́ thế, do trong phần sau, [chánh kinh nói thiên nữ đă] phát nguyện rồi, quốc giới thanh tịnh, sanh hoa, Ngài phải nên thuộc Đệ Lục Địa.

          “Ư đại chúng trung” (ở trong đại chúng) là chỗ [thiên nữ] cầu thỉnh. “Văn thuyết thâm pháp…” (nghe nói pháp sâu…) là cái nhân thỉnh cầu. Thân vui sướng là Hoan, tâm sung sướng là Hỷ. “Dũng dược” là nhảy nhót, [ư nói “hớn hở”].

 

          (Kinh) Tùng ṭa nhi khởi, thiên đản hữu kiên, tất trước địa, hiệp chưởng, cung kính bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Duy nguyện vị thuyết ư thậm thâm lư tu hành chi pháp.

          ()從座而起偏袒右肩,膝著地合掌恭敬白佛言:「世尊唯願為說於甚深理修行之

          (Kinh: Từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo phải, đầu gối đặt sát đất, chắp tay, cung kính, bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Kính mong v́ con nói pháp tu hành nơi lư rất sâu).

 

          Tán rằng: Trước hết, trần thuật tướng trạng thỉnh pháp. Từ “bạch Phật ngôn” (bạch Phật rằng) trở đi, giăi bày sự khải thỉnh. Phần khải thỉnh gồm hai đoạn:

          - Một phần trường hàng.

          - Hai dùng kệ tụng để thỉnh.

 

          (Kinh) Nhi thuyết tụng ngôn: - Ngă vấn Chiếu Thế Giới, Lưỡng Túc Tối Thắng Tôn, Bồ Tát chánh hạnh pháp, duy nguyện từ thính hứa.

          ()說頌我問照世界兩足最勝尊菩薩正行法唯願慈聽許

          (Kinh: Bèn nói bài tụng rằng: - Con hỏi đấng Chiếu Thế, đấng tối thắng Lưỡng Túc, pháp chánh hạnh Bồ Tát, mong từ bi chấp thuận).

 

          Tán rằng: Dùng kệ tụng để thỉnh. Thế gian có hai thứ là hữu t́nh thế gian và khí thế gian (tức thế giới vật chất vô t́nh). Thân quang và trí quang đều chiếu hai loại thế gian, như quyển tám mươi ba của Du Già Sư Địa Luận đă viết: “Có thể biết tám vạn trăm ngàn tâm hạnh sai biệt của hữu t́nh, có thể biết bao nhiêu thế giới thành hoại trong vô biên thế giới ở phương Đông” v.v… Trí ấy chiếu sáng; kinh Pháp Hoa nói: “Phóng my gian quang chiếu chư thế giới, kiến lục đạo đẳng” (Phóng quang minh từ giữa mày, chiếu các thế giới, thấy lục đạo v.v…) Lại nói: “Ngă dĩ tướng nghiêm thân quang, minh chiếu thế gian” (Ta dùng quang minh để trang nghiêm thân tướng ḥng chiếu sáng thế gian). Đấy là thân chiếu sáng.

          Trong các loài có chân, loài hai chân tối thắng nhất. Hai đường trời, người thuộc loài hai chân. Đối với loài hai chân trời, người, th́ Phạm vương, Đế Thích và các vị vua trong loài người đều điều ngự họ (chúng sanh). Phật có thể điều ngự họ (chúng sanh và Phạm vương, Đế Thích), nên gọi là đấng Tối Thắng. Đối với sa-môn, Bà-la-môn vốn là các bậc điều ngự trong loài người, đức Phật cũng có thể điều ngự họ, nên [Phật được] gọi là Tối Tôn. V́ thế, [đức Phật được xưng tụng] là Tối Thắng Tôn. Do đó, quyển tám mươi hai của luận Du Già Sư Địa viết: “Đấng Lưỡng Túc Trung Tôn, là tối thắng, tối thượng trong các vị điều ngự, là mầu nhiệm nhất trong các sa-môn”.

          “Bồ Tát chánh hạnh pháp” là pháp được thỉnh. Do vạch rơ chẳng phải là Nhị Thừa, bèn nói là Bồ Tát; nhằm vạch rơ chẳng phải là tà hạnh, bèn nói là “chánh hạnh”. Tà hạnh vô lượng, nói đại lược tổng quát, th́ những ǵ có kèm theo hai thứ chấp (Ngă Chấp và Pháp Chấp) đều gọi là Tà. Nay [thiên nữ] thưa hỏi về hạnh “ĺa chấp, tương xứng với chánh lư”.

 

5.10.4.1.2. Đức Thế Tôn rủ ḷng hứa khả

 

          (Kinh) Phật ngôn: - Thiện Nữ Thiên! Nhược hữu nghi hoặc giả, tùy nhữ ư sở vấn, ngô đương phân biệt thuyết.

          ()佛言善女天若有疑惑者隨汝意所問吾當分別說

          (Kinh: Đức Phật nói: - Này Thiện Nữ Thiên! Nếu có nghi hoặc, tùy ư ngươi hỏi, ta sẽ phân biệt nói).

 

          Tán rằng: Kế đó, đức Thế Tôn rủ ḷng hứa khả.

 

5.10.4.1.3. [Thiên nữ] thưa bày lời thỉnh

         

          (Kinh) Thị thời, thiên nữ thỉnh Thế Tôn viết: - Vân hà chư Bồ Tát, hành Bồ Đề chánh hạnh? Ly sanh tử Niết Bàn, nhiêu ích tự tha cố.

          ()是時天女請世尊曰云何諸菩薩行菩提正行離生死涅槃饒益自他故

          (Kinh: Khi đó, thiên nữ thưa hỏi đức Thế Tôn rằng: - Các Bồ Tát hành chánh hạnh Bồ Đề như thế nào để ĺa sanh tử, Niết Bàn, lợi ích ḿnh lẫn người?)

 

          Tán rằng: Sau đó, chánh thức giăi bày lời thỉnh. Lời thỉnh gồm hai ư:

          - Một, hỏi về chánh hạnh Bồ Đề.

          - Hai, hỏi về chánh hạnh Vô Trụ Niết Bàn.

          Đấy là cái nhân của giác tịch, do đều có thể lợi ích ḿnh lẫn người. Lại nữa, Bồ Tát có ư cầu Bồ Đề để lợi lạc hữu t́nh cho tới tột cùng đời vị lai. Trong Niết Bàn, cầu chỗ vô trụ, khác với phàm phu và Nhị Thừa. V́ thế, nói “chánh hạnh” sẽ bao gồm Bồ Đề trong phần trước và Niết Bàn trong phần sau. Hoặc [có thể hiểu] Vô Trụ Niết Bàn cũng gọi là Bồ Đề, Bồ Đề đoạn cũng gọi là Bồ Đề. V́ thế, riêng hỏi đến. Do vậy, trong phần sau, sẽ đáp rằng: “Y ư pháp giới, hành Bồ Đề pháp” (nương vào pháp giới mà hành pháp Bồ Đề), tức là đáp về chánh hạnh Bồ Đề.

          “Tu b́nh đẳng hạnh” là giải đáp cái nhân của Vô Trụ Niết Bàn. Sanh tử và Niết Bàn đều b́nh đẳng, chẳng có ưa thích hay chán ngán. Nếu chẳng hành hai hạnh ấy, sẽ chẳng chứng hai quả. V́ thế, trong phần sau, [kinh văn] nói: “Nhược như thị giả, phàm phu chi nhân ưng kiến Chân Đế, đắc ư vô thượng an lạc Niết Bàn” (Nếu là như thế, kẻ phàm phu phải nên thấy Chân Đế, đạt được Niết Bàn an lạc vô thượng), cho đến nói: “Tức chấp trước vị đắc giải thoát phiền năo hệ phược, tức bất chứng A Nậu Bồ Đề” (Hễ c̣n chấp trước, chưa giải thoát khỏi sự trói buộc của phiền năo, sẽ chẳng chứng Vô Thượng Bồ Đề). Những câu ấy đều nhằm chỉ rơ bằng cách nói ngược lại.

          Lại giải rằng: Hành Bồ Đề chánh hạnh, tức là nói đến bi trí; do trí nên đạt được như thế. Trí tánh và trí tướng như thế kết hợp với Đoạn Trí Đức, được gọi là “Pháp Thân ĺa sanh tử”. Do bi, nên đạt được Ứng Hóa Thân, tức là Ân Đức. V́ chúng sanh thuyết pháp, do ĺa Niết Bàn mà tu trí, nên lợi ích chính ḿnh. Do tu bi, nên lợi ích người khác. Đấy là giải thích thuận theo Vô Trụ Niết Bàn trong phẩm Tam Thân thuộc phần trước.

          Lại nữa, hạnh có bốn thứ là Tín, Bát Nhă, đại định, và đại bi. Tứ hạnh có thể trừ bốn thứ trọng chướng là bất tín, chấp ngă, sợ khổ, và xả tâm, tức là có thể làm cái nhân cho Tứ Đức “thường, lạc, ngă, tịnh” của Phật. Hai thứ đầu là Phiền Năo Chướng, hai thứ sau là Sở Tri Chướng. Do tín và trí mà ĺa sanh tử, do bi mà ĺa Niết Bàn. Định là hai cái nhân, nêu bày hai thứ đều thù thắng; do vậy, nên đặc biệt hỏi. Bồ Đề và Niết Bàn mỗi đằng đều có Tứ Đức, bốn thứ chướng (bất tín, chấp ngă, sợ khổ và tâm buông bỏ) đều có thể gây chướng ngại [đối với Tứ Đức].

 

5.10.4.2. Đức Thế Tôn giải đáp cách tu học

5.10.4.2.1. Nêu đại lược tông chỉ để giải thích

5.10.4.2.1.1. Nêu ra tông chỉ

 

          (Kinh) Phật cáo Thiện Nữ Thiên: - Y ư pháp giới, hành Bồ Đề pháp, tu b́nh đẳng hạnh.

          ()佛告善女天依於法界行菩提法修平等行

          (Kinh: Đức Phật bảo Thiện Nữ Thiên: - Nương vào pháp giới, hành pháp Bồ Đề, tu hạnh b́nh đẳng).

 

          Tán rằng: Đức Thế Tôn v́ [thiên nữ] nói cách học tập. Trong đoạn này, chia thành ba tiểu đoạn:

          - Một, nêu đại lược tông chỉ để giải thích.

          - Hai, từ “Thiện Nữ Thiên! Vân hà Ngũ Uẩn” (Này Thiện Nữ Thiên! Thế nào là Ngũ Uẩn) trở đi, dùng pháp thuyết và thí dụ để rộng nói.

          - Ba, từ “Thiện Nữ Thiên! Nhược thiện nam tử” (này Thiện Nữ Thiên! Nếu thiện nam tử) trở đi, kết lại, khuyên tu học.

           Trong tiểu đoạn thứ nhất, lại có năm ư:

          - Một là nêu ra.

          - Hai là gạn hỏi.

          - Ba là giải thích.

          - Bốn là kết lại.

          - Năm là dung thông.

          Đoạn này thuộc ư thứ nhất, tức nêu ra. “Y ư pháp giới” (nương vào pháp giới) tức là nêu ra cái cảnh để quán trong tánh Không thuộc phần trước. Luận Biện Trung Biên nói: “Tức là tánh Không đă biết như đang được nói ở đây, do ư nghĩa chẳng biến đổi mà nói là Chân Như. Do chân tánh thường Như, nên chẳng chuyển biến”. Cho đến nói: “Do ư nghĩa ‘là cái nhân của thánh pháp’, mà nói là ‘pháp giới’. Do hết thảy các thánh pháp đều duyên vào đó để sanh, giới được nói ở đây chính là ư nghĩa của cái nhân”.

          Hỏi: Theo Nhiếp Đại Thừa Luận và Thành Duy Thức Luận, lấy thức thứ tám làm cái nhân của hết thảy các pháp. Kinh A Tỳ Đạt Ma dạy: “Vô thỉ thời lai giới, nhất thiết pháp đẳng y, do thử hữu chư thú, cập Niết Bàn chứng đắc” (Như Lai Tạng từ vô thỉ đến nay là chỗ nương vào của hết thảy các pháp, [do nó là cái bị ô nhiễm bởi phiền năo và tập khí] mà có các đường; tới khi chứng đắc Niết Bàn [chỉ là chứng đắc Như Lai Tạng không c̣n bị che lấp bởi phiền năo và tập khí)[2] . V́ sao luận Biện Trung Biên lại nói lư Chân Như là cái nhân của các pháp?

          Đáp: Do dựa theo lưu chuyển và hoàn diệt, bèn nói thức thứ tám là cái nhân của hết thảy các pháp, [thức thứ tám] duy tŕ chủng tử của chúng. Nếu dựa theo phương diện mê hay ngộ, liền nói [cái nhân của hết thảy các pháp] là tánh Chân Như. Do vậy, kinh Thắng Man dạy: “Như Lai Tạng vi y, vi tŕ, vi kiến lập” (Như Lai Tạng là chỗ để nương vào, để duy tŕ, để kiến lập). Luận Bảo Tánh dựa theo nghĩa này mà nói lư Chân Như chính là “vô thỉ thời lai giới” v.v…

          Hỏi: Nương vào mê hay ngộ [để luận định] th́ nói chung đă sanh ra nhiễm hay tịnh, cớ sao luận Biện Trung Biên nói “do ư nghĩa là cái nhân của thánh pháp mà nói là pháp giới?”

          Đáp: Do chẳng nói “chỉ có”, cho nên không phạm lỗi. Hơn nữa, nhiễm pháp chẳng do chứng Như mới sanh. Nếu cái nhân của các thánh pháp được sanh khởi bởi Căn Bản Trí, trí vô phân biệt ắt do chứng Như mà sanh khởi. Do vậy, nói thiên lệch [lư Chân Như là] cái nhân của thánh pháp. Đó là cái nhân của Tăng Thượng Duyên, chẳng phải là Thân Nhân Duyên. Nay ở đây nói là “y”, đó là Sở Duyên Nhân, tức là cảnh thanh. Duyên theo Thắng Nghĩa Đế mà hành Bồ Đề pháp, do tánh của pháp giới chẳng phải là sanh tử hay Niết Bàn, do ĺa hai tướng. V́ thế, cũng chẳng phải là “phi sanh tử Niết Bàn”, v́ chẳng ĺa hai! Thấy Bồ Đề của chư Phật như thế cũng chẳng phải là “sanh tử, Niết Bàn”. Bồ Đề chính là tam thân, tam thân chẳng phải là sanh tử và Niết Bàn. Quán như thế để tu Bồ Đề pháp, tức là tu hạnh b́nh đẳng. V́ vậy, luận Thập Bát Không nói: “Hóa Thân chẳng phải là sanh tử hay Niết Bàn. V́ lẽ nào vậy? Sanh tử đều là vọng tưởng điên đảo, do chẳng vượt ra ngoài Khổ và Tập. Hóa Thân chẳng phải vậy, nương vào Pháp Thân và Ứng Thân mà sanh, Thể của nó chẳng phải là điên đảo. Lại có thể trừ điên đảo cho chúng sanh, cho nên chẳng phải là sanh tử”.

          “Phi Niết Bàn” (chẳng phải là Niết Bàn) v́ có khởi đầu và kết thúc. Do chẳng phải là sanh tử, nên chẳng điên đảo. Do chẳng phải là Niết Bàn, nên chẳng chân thật. Lại nói: “Pháp Thân và Ứng Thân cũng chẳng phải là tức (chính là lẫn nhau), chẳng phải là ĺa”. Luận Thập Bát Không đặt câu hỏi: “Nếu Pháp Thân chẳng ĺa Ứng Thân, có lỗi lầm ǵ? Đáp rằng: Nếu là như vậy, một người thành Phật, những người cũng phải đều nên thành Phật. Do hết thảy mọi người chẳng đều cùng thành Phật [khi một người thành Phật], cho nên biết nghĩa lư Pháp Thân chẳng phải chính là Ứng Thân”. Ư nói: Pháp Thân th́ hết thảy chúng sanh đều b́nh đẳng cùng có, Thể của nó là một. [Nếu như Pháp Thân] và Ứng Thân là một, th́ một người đạt được Ứng Thân, hết thảy mọi người sẽ đều phải đạt được, v́ Thể chẳng khác! Do chẳng phải là như thế, liền biết rơ ư nghĩa “Pháp Thân chẳng phải chính là Ứng Thân”.

          Luận viết: “Lại cũng chẳng ĺa Ứng Thân. V́ sao vậy? Pháp Thân chẳng khác [Ứng Thân], do thường chẳng ĺa công đức của ba đời chư Phật. Nếu có thể thấu hiểu ư nghĩa ‘Pháp Thân chẳng ĺa Ứng Thân’ như thế, liền trừ được chấp trước ‘quyết định là ĺa hay chẳng ĺa’. Do nương theo đạo lư ‘chẳng ĺa’ mà tu các hạnh, sẽ có thể chứng đắc cái quả nơi Ứng Thân. Đối với Hóa Thân cũng thế”. Ư nói: Pháp Thân chẳng chính là Ứng Hóa Thân, mà cũng chẳng rời ĺa nhau. Ứng Hóa cũng chẳng chính là Pháp Thân, mà cũng chẳng rời ĺa nhau, cũng giống như Chân Như. Quán như thế để tu Bồ Đề th́ gọi là “hạnh b́nh đẳng”. Biết cái quả đă là như thế, tu hành cũng thế, chẳng chính là sanh tử hay Niết Bàn, thành vô trụ đạo, tức là phương tiện đại tánh trong bảy đại tánh vậy!

 

5.10.4.2.1.2. Gạn hỏi

 

          (Kinh) Vân hà y ư pháp giới, hành Bồ Đề pháp, tu b́nh đẳng hạnh?

          ()云何依於法界行菩提法修平等行

          (Kinh: Thế nào là nương vào pháp giới để hành pháp Bồ Đề, tu hạnh b́nh đẳng?)

 

          Tán rằng: Đây là phần gạn hỏi. Chân Như là thường, Bồ Đề hạnh v.v… là vô thường. “Thường, vô thường, sanh tử, Niết Bàn, hữu thể, vô thể”, thể tướng mỗi mỗi khác biệt, v́ sao lại nương theo pháp giới để hành pháp Bồ Đề, tu b́nh đẳng? Ư nói: Xét theo t́nh kiến chấp trước một mực khác biệt [của chúng sanh] để giả lập lời gạn hỏi.

 

5.10.4.2.1.3. Giải thích

 

          (Kinh) Vị ư Ngũ Uẩn năng hiện pháp giới, pháp giới tức thị Ngũ Uẩn, Ngũ Uẩn bất khả thuyết, phi Ngũ Uẩn diệc bất khả thuyết.

          ()謂於五蘊能現法界法界即是五蘊五蘊不可非五蘊亦不可

          (Kinh: Tức là nói Ngũ Uẩn có thể hiện pháp giới, pháp giới chính là Ngũ Uẩn. Ngũ Uẩn chẳng thể nói, mà phi Ngũ Uẩn cũng chẳng thể nói).

 

          Tán rằng: Ư thứ ba [trong phần “nêu đại lược tông chỉ”] là giải thích. Đây là dựa theo “chẳng ĺa, chẳng tức” để giải đáp. Trước hết, nói “Ngũ Uẩn có thể hiện pháp giới, pháp giới chính là Ngũ Uẩn”. Đó là nghĩa “chẳng ĺa”. “Vị ư” có nghĩa là chỉ bày, nêu ra đầu mối, tức là “Ngũ Uẩn có thể hiện pháp giới, pháp giới liền hiện Ngũ Uẩn”. Ở đây, có hai ư:

          - Một, nương theo Biến Kế Sở Chấp, “tướng chẳng có tự tánh” và “tánh Không được hiển lộ”. V́ thế nói “Ngũ Uẩn có thể hiện pháp giới”, do pháp giới chính là Ngũ Uẩn. Bát Nhă Tâm Kinh nói: “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị”. Tánh Không tức là Như; v́ thế, kinh Giải Thâm Mật và luận Du Già Sư Địa nói: “Trong thời thứ hai, chỉ v́ phát khởi cho người tu Đại Thừa tiến nhập, liền trong hết thảy các pháp vô sanh, vô diệt, vốn sẵn tịch tĩnh, tự tánh Niết Bàn, dùng tướng ẩn mật để chuyển chánh pháp luân”. Luận Thập Bát Không cũng nói: “V́ thế biết: Phân biệt Y Tha vô tướng, vô sanh, gọi là ‘tánh chân thật’. Cái Thể chân thật là . Do không có Thể, nên vô tướng. Do vô tướng nên vô sanh. Do vô sanh nên vô diệt, do vô diệt nên tịch tĩnh. Do tịch tĩnh, nên gọi là tự tánh Niết Bàn”. Luận Biện Trung Biên cũng nói: “Vô nhị tức là chẳng có sở thủ (đối tượng được chấp giữ) và năng thủ (chủ thể chấp giữ). Hữu Vô tức là hai thứ thủ (năng thủ và sở thủ) vô tánh”. Ư nói: Năng thủ và sở thủ đều là , tức là Ngũ Uẩn bị chấp giữ và cái tâm chấp giữ đều là Biến Kế Sở Chấp, cho nên Thể của chúng đều là . Tánh thể của chính là Như. V́ thế nói: “Ngũ Uẩn có thể hiện pháp giới”. Pháp giới là tánh của Ngũ Uẩn, cũng gọi là Ngũ Uẩn. Do vậy nói: “Pháp giới chính là Ngũ Uẩn Chân Như”. Do đạo lư này, cái Thể của Biến Kế Sở Chấp Ngũ Uẩn là chẳng có, cũng chẳng thể nói. Cái Thể nơi tánh của Nhị Vô (Năng Thủ Vô và Sở Thủ Vô) chẳng phải là tích tụ, cho nên được gọi là Phi Ngũ Uẩn. Do tánh ĺa khỏi ngôn thuyết, nên cũng chẳng thể nói! Đấy là trừ bỏ Biến Kế, dùng Chứng Chân để tu hành mà nói.

          - Hai, trong Y Tha chỉ có Viên Thành, trong Viên Thành chỉ có Y Tha. Nói “Ngũ Uẩn có thể hiện pháp giới, pháp giới tức là Ngũ Uẩn”, tức là xét theo nghĩa “chẳng ĺa” mà nói là Ngũ Uẩn. V́ thế, luận Biện Trung Biên nói: “Do ngay trong phân biệt hư vọng mà có tánh Không, và trong tánh Không có phân biệt hư vọng, chính là khế nhập Trung Đạo”. Tánh Không tức pháp giới, tuy nói “chẳng ĺa”, nhưng chẳng thể nói là một hay khác được! Nếu pháp giới ấy và Ngũ Uẩn một th́ cũng chẳng thể nói. Nếu nói “pháp tánh ấy chẳng phải là Ngũ Uẩn”, tức là có ư nói “chúng khác nhau” th́ cũng chẳng thể nói! Do đều là Biến Kế, do chẳng có tự tánh, do chẳng thể nói. Luận Biện Trung Biên nói: “Nếu là khác, phải nên trở thành pháp tánh khác với pháp, sẽ mâu thuẫn với thánh thuyết, như tánh của Khổ v.v… Nếu là một, th́ lẽ ra chẳng phải cảnh tịnh trí, mà cũng chẳng phải là cộng tướng. Đấy chính là hiển thị Không Chân Như và hư vọng phân biệt. Dựa theo đó, v́ ĺa tướng ‘một, khác’, nên bảo là chẳng thể nói”. Hoặc là hai tánh đều chẳng phải là cảnh có thể diễn tả bằng ngôn ngữ, cho nên gọi là “bất khả thuyết”. V́ thế, Thành Duy Thức Luận nói: “Chân là nói đến tự tánh, do giả trí và ngôn thuyết đều chẳng phải là cảnh. Đă nói là ‘chẳng thể nói năng được’, lại chẳng phải là ‘quyết định một mực là một hay khác’; cho nên chẳng phải là sanh tử và Niết Bàn khác biệt. V́ thế, nói là b́nh đẳng”. Tuy nói riêng về Ngũ Uẩn, nhưng hàm ư xét theo tam thân để cầu tu hành. Đấy chính là “y chỉ tự tại tu” trong năm loại tu vậy. Nhưng xét theo “chẳng phải là một hay khác” để giải thích, sẽ tuân theo cách giải thích trong luận Biện Trung Biên và luận Thập Bát Không. Xét theo [ư nghĩa của] kinh văn trong kinh này, sẽ bao gồm cả hai cách giải thích. Nhưng nếu xét theo chuyện cật vấn hai lượt để giải thích kinh văn, th́ so ra dùng thuyết “chẳng phải là một hay khác” để giải thích sẽ hay hơn! Trước là gạn hỏi, sau là cật vấn, dùng phương cách liên tưởng để nêu rơ, th́ cách giải thích chung [theo tam thân] sẽ hay hơn!

 

          (Kinh) Hà dĩ cố?

          ()何以故

          (Kinh: V́ lẽ nào?)

 

          Tán rằng: Đây là phần cật vấn! V́ lẽ nào mà “pháp giới cũng là Ngũ Uẩn”
 chẳng thể nói, mà “[pháp giới] chẳng phải là Ngũ Uẩn” cũng chẳng thể nói?

 

5.10.4.2.1.4. Dung thông

5.10.4.2.1.4.1. Giải thích [v́ sao] “chẳng thể nói là một hay khác”

 

          (Kinh) Nhược pháp giới thị Ngũ Uẩn, tức thị Đoạn Kiến. Nhược ly Ngũ Uẩn, tức thị Thường Kiến.

          ()若法界是五蘊即是斷見若離五蘊即是常見

          (Kinh: Nếu pháp giới là Ngũ Uẩn, tức là Đoạn Kiến. Nếu ĺa Ngũ Uẩn, tức là Thường Kiến).

 

          Tán rằng: Phần dung thông (giải trừ vấn nạn), gồm ba ư:

          - Một, giải thích “chẳng thể nói là một hay khác”.

          - Hai, nêu ra nguyên do chẳng thể.

          - Ba, kết lại.

          Đoạn này thuộc ư thứ nhất. Nếu pháp giới chính là Ngũ Uẩn, nói theo Biến Kế, do nó là không có, sẽ là Đoạn Kiến. Nếu ĺa Ngũ Uẩn mà riêng thấy pháp tánh, tức là Thường Kiến. Lại nữa, [nói] “pháp giới chính là Ngũ Uẩn”, tức là nói theo Y Tha. Nhị Thừa khi đắc Vô Dư th́ pháp giới đồng thời đoạn, tức là Đoạn Kiến. Hoặc thuận theo hữu vi Chân Như hữu diệt, cho nên nói là Đoạn. Nếu “ĺa Ngũ Uẩn mà riêng thấy pháp tánh” th́ tức là Thường Kiến, do cái Thể của pháp tánh cùng với hai tánh Biến Kế và Y Tha chẳng nhất định một hay khác. Nói nhất định một hay khác th́ đều là Biến Kế, chẳng ĺa khỏi Đoạn và Thường.

          Hỏi: Chân Như chẳng phải là thường mà thấy là Thường, th́ mới gọi là Thường Kiến. [Thế nhưng, thật ra] Chân Như là thường, bèn thấy là thường, [đó chính là] biết tương xứng với cảnh, sao lại gọi là Thường Kiến?

          Đáp: Nói là Thường hay Vô Thường, tùy thuộc vào cách nói, đấy là cái thấy do phân biệt. Bàn đến pháp thể th́ chẳng phải là thường hay vô thường. Như do nói “chấp thường”, cho nên là Thường Kiến. Lại c̣n thật sự mâu thuẫn với trí vô phân biệt! Dụng ư ở đây là khiến cho [thính chúng] ĺa chấp trước phân biệt, quên mất tướng th́ mới tu được. Nếu chấp là thường, sẽ trái nghịch chánh trí, do pháp tánh ĺa khỏi các tướng “có, không, một, khác, thường, đoạn”, chẳng chướng Hậu Đắc Trí, ĺa chấp trước coi “quán Như” là thường. Đối với “tức, ly” trong ấy, hăy nên lập lượng[3] như sau: [Tông là] “pháp giới phải nên có Đoạn, Đoạn có nghĩa là Diệt”. Nhân là “do [pháp giới] chính là Ngũ Uẩn”. [Dụ] là “giống như Ngũ Uẩn”.

           Lại nữa, “nếu ĺa Ngũ Uẩn th́ chính là Thường Kiến”, tức là cật vấn “Y Tha phải nên là Thường”, nên gọi là Thường Kiến. Do trong Uẩn và chẳng phải Uẩn (phi Uẩn), sẽ tùy thuộc một trong hai thứ ấy, giống như pháp giới. Nhưng đấy chẳng phải là để phá cái khác, cho nên chẳng “lập lượng”. Lại c̣n phạm lỗi trái nghịch giáo, do giáo chẳng chấp thuận Ngũ Uẩn là thường, chỉ có thể nói rơ rằng: “Phải là Thường Kiến”. Nhưng xét theo kinh văn, chỉ nói cái Thể của pháp giới và Ngũ Uẩn chẳng nhất định là một hay thường. Nếu nhất định là một hay thường, cái Thể của pháp giới sẽ phải nên là Đoạn hay Thường!

 

5.10.4.2.1.4.2. Nêu ra nguyên do chẳng thể nói là một hay khác

 

          (Kinh) Ly ư nhị tướng, bất trước nhị biên, bất khả kiến, quá sở kiến, vô danh, vô tướng.

          ()離於二相不著二邊不可見過所見無名無相

    (Kinh: Ĺa hai tướng, chẳng chấp vào hai bên, chẳng thể thấy, vượt ngoài cái được thấy, vô danh, vô tướng).

 

          Tán rằng: Nêu ra nguyên do chẳng thể nói là một hay khác. “Ly ư nhị tướng” (ĺa hai tướng): Ĺa các thứ hai tướng như “thường, vô thường, có, không, sanh, diệt” v.v… “Bất trước nhị biên” (chẳng chấp hai bên): Xa ĺa tăng, giảm. Hai thứ Ngă và Pháp đều chẳng có, nên ĺa tăng. Tánh Không Như chẳng phải là không có, nên ĺa giảm. “Bất khả kiến” (chẳng thể thấy): Chẳng phải là cảnh của Ngũ Thức. “Quá sở kiến” (vượt ngoài cái được thấy): Vượt ngoài cảnh so đo hư vọng của ư thức. “Vô danh”: Ĺa cái có thể nói. “Vô tướng”: Ĺa cái được nói.

 

5.10.4.2.1.4.3. Kết lại

 

          (Kinh) Thị tắc danh vi thuyết ư pháp giới.

          ()是則名為說於法

          (Kinh: Đó gọi là nói đến pháp giới).

 

          Tán rằng: Kết lại. Do ĺa hai tướng v.v… nên chẳng thể nói [pháp giới] là một hay khác với Uẩn. Đó gọi là nói về cái Thể của pháp giới. Thể của pháp giới đă ĺa các tướng ấy; khi tu hành, sẽ đúng như tướng của pháp giới.

 

5.10.4.2.2. Dùng pháp thuyết và thí dụ để nói rộng

5.10.4.2.2.1. Pháp thuyết

 

          (Kinh) Thiện Nữ Thiên! Vân hà Ngũ Uẩn năng hiện pháp giới? Như thị Ngũ Uẩn bất tùng nhân duyên sanh.

          ()善女天云何五蘊能現法界如是五蘊不從因緣生

          (Kinh: Thiện Nữ Thiên! Thế nào là Ngũ Uẩn có thể hiện pháp giới? Ngũ Uẩn như thế chẳng sanh từ nhân duyên).

 

          Tán rằng: Kế đó, dùng pháp thuyết và thí dụ để nói rộng, có nghĩa là pháp giới ĺa khỏi Bát Bất[4], cho nên nương vào Ngũ Uẩn, sẽ có thể hiện ra pháp giới. Trước hết, nêu ra Bất Sanh để nói; kế đó, phỏng theo đó mà nói về bất diệt v.v… Kinh văn được chia thành bốn phần:

          - Một, pháp thuyết.

          - Hai, từ “Thiện Nữ Thiên! Thí như cổ thanh” (Thiện Nữ Thiên! Ví như tiếng trống) trở đi, nêu ra thí dụ.

          - Ba, từ “nhược bất khả sanh” (nếu chẳng thể sanh) trở đi, theo lệ đó, nói về bảy thứ Bất kia.

          - Bốn, từ “cố tri Ngũ Uẩn phi hữu, phi vô” (Do vậy, biết Ngũ Uẩn chẳng phải có, chẳng phải không) là tổng kết.

          Trong phần thứ nhất là Pháp Thuyết, lại chia thành ba ư:

          - Một, giả lập lời gạn hỏi để phát khởi ư trước đó.

          - Hai, nêu ra Tông.

          - Ba, giải thích nguyên do.

          Đoạn này gồm hai ư đầu. Phần nêu ra Tông nhằm chỉ ra ư nghĩa “Ngũ Uẩn bất sanh” để phá Biến Kế Chấp. Do Biến Kế Chấp là không có, sẽ có thể hiện pháp giới. V́ thế, Ngũ Uẩn và pháp giới chẳng một, chẳng khác v.v…

 

          (Kinh) Hà dĩ cố?

          ()何以故

          (Kinh: V́ sao vậy?)

 

          Kế đó là giải thích nguyên do. Trước hết, giả lập lời cật vấn bề ngoài: “V́ sao chẳng sanh từ cái nhân?” Đây là giả vờ chấp vào lập luận “trong nhân có quả” và lập luận “thật sự có đến, đi” để gạn hỏi. Lập luận “chấp có quả”, tức là nói “trong nhân đă có quả”, chỉ từ duyên mà [có quả] sanh ra, hay do duyên mà cái quả ấy hiển lộ. Ví như hạt giống của ngũ cốc, nếu trước đó trong cái nhân không có quả, về sau, [hạt giống mọc thành thân thảo mộc], sanh ra thóc, cũng phải nên sanh ra đậu v.v… [v́ không có cái nhân nhất định]. [C̣n như cho rằng]: Đôi bên vốn chẳng có, do từ cái nhân mà sanh ra. Nếu vậy, cũng phải nên là từ một cái nhân mà sanh ra hết thảy các quả. V́ thế, trong nhân chắc chắn đă có quả, chỉ là do duyên mà [cái quả ấy được] sanh hoặc hiển lộ. Vậy th́ lẽ nào [Ngũ Uẩn] chẳng sanh từ nhân duyên?

          Nếu dựa trên lập luận “thật sự có đến, đi” để gạn hỏi, th́ có ư nghĩa như sau: Pháp ba đời là có, nhưng đời vị lai có các pháp sanh, có thể sanh, và đáng nên sanh. Nếu chẳng có sanh để sanh, sẽ chẳng dẫn đến hiện tại, [vậy th́] v́ lẽ nào chẳng từ nhân duyên mà sanh?

 

          (Kinh) Nhược tùng nhân duyên sanh giả, vi dĩ sanh cố sanh? Vi vị sanh cố sanh?

          ()若從因緣生者為已生故生為未生故生

          (Kinh: Nếu là sanh từ nhân duyên, th́ là do đă sanh mà sanh, hay là do chưa sanh mà sanh?)

 

          Tán rằng: Chánh thức giải thích, [gồm bốn ư]:

          - Một, nhắc lại tổng quát.

          - Hai, từ “vi dĩ sanh cố sanh” (do đă sanh mà sanh) trở đi là đặt ra lời gạn hỏi.

          - Ba, từ “nhược dĩ sanh sanh giả” (nếu là do đă sanh mà sanh) trở đi, phủ nhận từng điều riêng biệt.

          - Bốn, từ “danh vô tướng” (gọi là vô tướng) trở đi, kết lại ư “Ngũ Uẩn có thể hiện pháp giới”.

          Đoạn này gồm hai ư đầu, tức là đặt ra lời gạn hỏi. Ư nói: V́ các pháp đă sanh, đợi cho tới khi có các nhân như sanh v.v… bèn có thể sanh? Hay là v́ các pháp chưa sanh, cho tới khi có các nhân như sanh v.v… th́ sẽ có thể sanh?

 

          (Kinh) Nhược dĩ sanh sanh giả, hà dụng nhân duyên?

          ()若已生生者何用因緣

          (Kinh: Nếu do đă sanh mà sanh, cần ǵ dùng tới nhân duyên?)

         

          Tán rằng: [Đây là phần] phủ nhận từng điều riêng biệt. Đây là phủ nhận điều đầu tiên, tức “đă sanh”. Nếu là pháp chưa sanh, có thể đợi có cái nhân để sanh, chứ cái quả đă sanh rồi, cần ǵ dùng các thứ như sanh v.v… làm nhân duyên để sanh nữa? V́ thế, Thập Nhị Môn Luận[5] có bài tụng rằng: “Thử sanh nhược vị sanh, vân hà năng tự sanh? Nhược dĩ sanh tự sanh, dĩ sanh hà dụng sanh?” (Cái sanh ấy nếu là chưa sanh, sao có thể tự sanh? Nếu đă sanh th́ là tự sanh, đă sanh rồi th́ cần ǵ dùng sanh nữa?) Hai câu đầu nhằm phá [chấp trước] “do chưa sanh bèn sanh”, hai câu sau nhằm phá [chấp trước] “do đă sanh bèn sanh”. Đấy chính là phá trừ [chấp trước] “thật sự có đến, đi”. Luận (Thập Nhị Môn Luận) giải thích rằng: “Nếu bảo rằng do đă sanh rồi mà sanh th́ đă sanh tức là sanh rồi, cần ǵ phải sanh nữa? Sanh rồi sẽ vô sanh, làm rồi sẽ chẳng làm”. Ư nói: Nói đă sanh rồi sẽ vô sanh” là lời quở trách thẳng thừng. “Đă làm rồi sẽ chẳng làm” tức là nêu thí dụ về phá trừ. Như chuyện đă làm xong, trọn chẳng cần phải làm nữa. Cái Thể đă sanh rồi, sao c̣n sanh rồi lại sanh nữa? Lời vấn nạn ấy nhằm phá trừ đại sanh và tiểu sanh, do phỏng theo pháp được sanh vốn là như vậy.

          Lại có thể hiểu [nói như vậy] cũng nhằm phá trừ pháp được sanh. Luận lại có bài tụng rằng: “Tiên hữu tức bất sanh, tiên vô diệc bất sanh, hữu vô diệc bất sanh, thùy đương hữu sanh giả?” (Đă là có từ trước th́ tức là chẳng sanh, đă là không từ trước th́ cũng chẳng sanh. Dù có hay không cũng đều chẳng sanh, ai sẽ có sanh vậy?) Đây là phá trừ lập luận “trong nhân có quả”. Câu đầu tiên phá [kiến chấp] “trước đó đă có cái quả”, chỉ dùng nhân để sanh. Câu thứ hai và thứ ba nhằm phá giả thiết “trước đó không có” và “đều cùng có”, chẳng dùng đến nhân sanh. Câu thứ tư kết lại ư “chẳng dùng nhân để sanh”. V́ thế, cái được sanh cũng là chẳng có! Ư nói vốn là không mà nay có, th́ gọi là Sanh. Hoặc cái quả đă có sẵn trong nhân từ trước th́ đáng nên gọi là “sanh”. Nay đă sanh th́ c̣n dùng nhân để sanh làm ǵ? Do đó, giải thích rằng: Nếu là quả đă có sẵn từ trước trong cái nhân mà sanh, sẽ là vô cùng.

 

          (Kinh) Nhược vị sanh sanh giả, bất khả đắc sanh.

          ()若未生生者不可得生

          (Kinh: Nếu là chưa sanh mà sanh, th́ sẽ chẳng thể sanh).

 

          Tán rằng: Đây là phủ định [kiến chấp] “do chưa sanh mà sanh”. Trước hết, lập ra Tông, từ “hà cố” (v́ sao) trở đi, là nêu ra cái nhân. Thập Nhị Môn Luận viết: “Nếu là chưa sanh mà sanh, ‘chưa sanh’ được gọi là ‘không có’, làm sao nó có thể tự sanh?” Ư nói: Khi nhân duyên chưa sanh th́ cái Thể chẳng có, “chẳng có” sẽ chẳng thể tự sanh, sao có thể sanh ra cái khác cho được? Đấy là phá lập luận “thật sự có đến, đi”.

          Luận ấy lại nói: “Lại nữa, nếu trong nhân không có quả mà quả sanh ra, [ư nghĩa] các nhân chính là lẫn nhau sẽ chẳng thành lập, v́ lẽ nào? Nếu các nhân là không có, pháp sao có thể thực hiện được? Sao có thể thành được? Nếu chẳng thực hiện, chẳng thành lập, sao gọi là nhân cho được?” Ư nói: Nói đến nhân, ắt phải đối ứng với quả. Quả đă là “chẳng có cái Thể”, [vậy th́] đối ứng với điều ǵ để nói “có thể thực hiện, có thể thành?” Đă chẳng thể thực hiện, chẳng thể thành, sao gọi là nhân cho được?

 

          (Kinh) Hà dĩ cố?

          ()何以故

          (Kinh: V́ lẽ nào?)

 

          Tán rằng: Sắp nêu ra cái nhân, trước đó bèn giả lập lời gạn hỏi!

 

          (Kinh) Vị sanh chư pháp tức thị phi hữu.

          ()未生諸法即是非有

          (Kinh: Các pháp chưa sanh tức là chẳng có).

 

          Tán rằng: Nêu ra cái nhân.

 

          (Kinh) Vô danh, vô tướng, phi giảo lượng, thí dụ chi sở năng cập.

          ()無名無相非校量譬喻之所能

          (Kinh: Vô danh, vô tướng, chẳng phải do so lường hay thí dụ có thể đạt tới được!)

         

          Tán rằng: Kết lại ư “Ngũ Uẩn có thể hiện pháp giới”. Do “phi Hữu” tức là Pháp Không, chẳng thể dùng so sánh, thí dụ để đạt tới, chẳng có tỷ lượng để có thể lập khiến cho sanh ra.

 

          (Kinh) Phi thị nhân duyên chi sở sanh cố.

          ()非是因緣之所生故

          (Kinh: Do chẳng phải là sanh bởi nhân duyên).

 

          Tán rằng: Đây là phần kết luận, nhằm kết lại cả hai điều trên đây. Nếu là pháp đă sanh, th́ cũng chẳng phải là sanh bởi nhân duyên. Nếu chưa sanh mà sanh, cũng chẳng phải là được sanh bởi nhân duyên. V́ thế, đă chẳng phải là sanh bởi nhân duyên, tức là vô danh, vô tướng, chẳng thể thí dụ được. Đấy chính là pháp giới. Pháp giới, Biến Kế, cùng với Y Tha chẳng một, chẳng khác, bèn nói là “vô danh, vô tướng”. Cũng nên nói là “bất sanh, bất diệt”, cho đến tự tánh Niết Bàn, chỉ là nêu ra đại lược đó thôi! Sự tỷ lượng trong ấy, nếu là pháp đă sanh th́ phải nên là “chẳng đợi có nhân mà sanh”, do cái Thể của nó đă sanh, như quá khứ v.v… Nếu là pháp chưa sanh, phải nên lập Tông rằng: “Các pháp chưa sanh phải nên chẳng thể sanh v́ chẳng có”. Cái Nhân [của Tông ấy] là “do vô danh, vô tướng, nên cũng là nhân”. Các thứ “chẳng có” đều chẳng thể sanh, như sừng thỏ v.v… Các thứ chẳng có danh tướng đều chẳng thể sanh, như Chân Như v.v…

          Luận Thập Nhị Môn lại nói: “Nếu pháp chẳng sanh mà sanh, hết thảy các pháp chẳng sanh đều nên sanh. Hết thảy phàm phu chưa sanh A Nậu Bồ Đề đều nên sanh. Lại nữa, pháp bất hoại phiền năo của A La Hán chẳng sanh mà sanh”. Đấy là nói bậc La Hán chẳng thoái thất nơi pháp đáng nên dấy lên phiền năo. Lại nói: Sừng của thỏ, ngựa v.v… chẳng sanh mà sanh. Chuyện này chẳng phải vậy! V́ thế, chẳng nên nói “chẳng sanh mà sanh”. Quyển thứ chín của luận Hiển Dương Thánh Giáo, quyển thứ sáu của luận Du Già Sư Địa, và quyển thứ tư của Quảng Bách Luận[6] v.v… thảy đều có [lập luận để] phá [chấp trước “chẳng sanh mà sanh”], nhưng sợ rườm rà, chẳng trích dẫn! Trên đây là phá vọng, tức là nương vào Biến Kế Ngũ Uẩn liền hiện pháp giới, chưa nói tới Y Tha. Trong phần sau, khi kết hợp thí dụ với pháp th́ mới nêu rơ: Y Tha có thể hiện pháp giới.

 

5.10.4.2.2.2. Dùng thí dụ để nói

5.10.4.2.2.2.1. Thí dụ “Y Tha là giả hữu”

 

          (Kinh) Thiện Nữ Thiên! Thí như cổ thanh, y mộc, y b́, cập phù, thđẳng, cố đắc xuất thanh.

          ()善女天譬如鼓聲依木依皮及桴手等故得出聲

          (Kinh: Thiện Nữ Thiên! Ví như tiếng trống, do nương vào gỗ, nương vào da, và dùi trống, tay v.v… mà phát ra tiếng).

 

          Tán rằng: Phần thứ hai là nói thí dụ. Kinh văn gồm hai phần:

          - Một, thí dụ về Y Tha giả hữu.

          - Hai, nêu rơ Biến Kế không có.

           Đoạn này thuộc phần thứ nhất, gồm hai ư:  

          - Một, nói rơ do Y Tha mà có.

          - Hai, nêu rơ Y Tha có thể hiện pháp giới.

          Đoạn này nhằm nói Y Tha giả hữu. Nhân duyên như huyễn, chỉ là giả ḥa hợp mà sanh.

 

          (Kinh) Như thị cổ thanh quá khứ diệc không, vị lai diệc không, hiện tại diệc không.

          ()如是鼓聲過去亦空未來亦空現在亦空

          (Kinh: Tiếng trống như thế, quá khứ cũng không, vị lai cũng không, hiện tại cũng không).

 

          Tán rằng: Hiển lộ Ngũ Uẩn có thể hiện pháp tánh. Đă là duyên sanh, chẳng phải là chắc chắn thật sự có. Quá khứ đă diệt, vị lai chưa sanh, hiện tại chẳng trụ. Do vậy, đều là Không, Không tức là pháp giới. V́ thế, Vô Trước Bồ Tát đă viết trong Bát Nhă Luận rằng: “Mộng, tia chớp, mây ví như pháp tam thế, gọi là tu xuất ly. Xuất ly tức là Niết Bàn, do chẳng sanh diệt”. Quyển sáu của luận Du Già Sư Địa nói ba đời, mỗi đời đều có mười hai tướng, chẳng thể nói. Chi tiết th́ như trong luận ấy đă nói.

 

5.10.4.2.2.2.2. Biến Kế là không có

 

          (Kinh) Hà dĩ cố? Thị cổ âm thanh bất tùng mộc sanh, bất tùng b́ sanh, cập phù, thủ sanh, bất ư tam thế sanh, thị tắc bất sanh.

          ()何以故是鼓音聲不從木生不從皮生乃桴手生不於三世生是則不生

          (Kinh: V́ sao vậy? Tiếng trống ấy chẳng sanh từ gỗ, chẳng sanh từ da, và chẳng sanh từ dùi hay tay, chẳng sanh trong ba đời. Do vậy, chẳng sanh).

 

          Tán rằng: Kế đó, vạch rơ Biến Kế là không có. Trước là gạn hỏi, kế đó, biện định, cuối cùng là kết lại. Trung Luận nói: “Các pháp chẳng tự sanh” do tự chẳng có tác dụng. “Cũng chẳng từ thứ khác sanh”, do “tha” (thứ khác) chẳng có tác dụng. “Cũng chẳng từ cộng sanh”: Do tự và tha đều chẳng có tác dụng. Chẳng phải là không từ hai thứ ấy mà sanh, tuy chẳng có tác dụng, nhưng do duyên bèn có công năng, sẽ có thể duyên theo đức. Đấy là phá chấp “thật sự có tác dụng”. Ở đây cũng thế, âm thanh chẳng sanh từ gỗ, da v.v… v́ không có tác dụng. [Tiếng trống] chẳng sanh từ da, dùi, tay cũng thế. “Bất ư tam thế sanh” (chẳng sanh trong ba đời): Đời quá khứ đă diệt, đời vị lai là không, chẳng sanh, đời hiện tại đă tự sanh. V́ thế, chẳng phải là ba đời sanh. Câu ‘thị tắc bất sanh” (đấy là chẳng sanh) chính là kết luận. Ư nói: Đă là chẳng sanh, bèn hiển lộ pháp giới. Kinh văn như trong phần trước đă dẫn.

 

5.10.4.2.2.3. Phỏng theo lệ đó để biện định bảy món Bất c̣n lại như bất diệt v.v…

5.10.4.2.2.3.1. Phỏng theo phần Bất Sanh để biện định bảy món Bất kia

 

          (Kinh) Nhược bất khả sanh, tắc bất khả diệt. Nhược bất khả diệt, vô sở tùng lai. Nhược vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ. Nhược vô sở khứ, tắc phi thường, phi đoạn. Nhược phi thường, phi đoạn, tắc bất nhất, bất dị.

          ()若不可生則不可滅若不可滅無所從來若無所從來亦無所去若無所去則非常非斷若非常非斷則不一不異

          (Kinh: Nếu chẳng thể sanh th́ sẽ chẳng thể diệt. Nếu chẳng thể diệt, sẽ chẳng từ đâu đến. Nếu chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu. Nếu không đi về đâu, sẽ chẳng thường, chẳng đoạn. Nếu chẳng thường, chẳng đoạn, th́ sẽ chẳng một, chẳng khác).

 

          Tán rằng: Phần thứ ba là phỏng theo lệ đó để biện định bảy món Bất c̣n lại như Bất Diệt v.v… nhằm hiển lộ pháp giới. Phần này gồm hai ư:

          - Một, phỏng theo phần Bất Sanh.

          - Hai, giải đáp vấn nạn.

          Thể tánh của Biến Kế Sở Chấp là không có, như con của thạch nữ[7]. Trước là trong hiện tại chẳng tự sanh, làm sao có quá khứ để diệt cho được? Cũng chẳng từ cái nhân trong vị lai mà có! Đă chẳng đến, có ǵ để thay thế quá khứ? Vị lai đă chẳng đến, cũng không có ǵ để thay thế quá khứ, nói thứ ǵ là thường hay đoạn cho được? Đă chẳng có thường hay đoạn, nói thứ ǵ là một, hay khác với các pháp? V́ thế, chẳng có một, khác v.v… Xét ra, Biến Kế chẳng một hay khác với pháp giới. Do chẳng khác, Biến Kế liền có thể hiện pháp giới. Do chẳng một, pháp giới liền ĺa đoạn, thường v.v… Hoặc là do chẳng một, Biến Kế Sở Chấp chính là ĺa thường, đoạn v.v... Xét theo Y Tha, tiếng trống và gỗ, da v.v… cũng giống như thế. Nếu tiếng trống và gỗ, da v.v… là một, [khi gơ trống] phải nên nghe bốn âm thanh, tức là phải nghe thấy [âm thanh của] gỗ, da, dùi, tay, do Thể của chúng là một. Nếu âm thanh khác với da, dùi v.v… lẽ ra [âm thanh] chẳng nên từ các thứ đó mà khởi! Chỉ là giả ḥa hợp, chẳng thể nói là một hay khác được! Những điều khác cứ chuẩn theo đó mà suy. Âm thanh nương vào gỗ, da v.v… mà khởi, chẳng thể nói là một hay khác. Uẩn nương vào pháp giới mà sanh, chẳng thể nói là một hay khác với pháp giới được. Đă là chẳng khác, cho nên nương vào Ngũ Uẩn liền hiện pháp giới. Do chẳng một, pháp giới chẳng sanh diệt v.v…

 

5.10.4.2.2.3.2. Giải thích các vấn nạn

5.10.4.2.2.3.2.1. Giải thích vấn nạn đối với “chẳng một”

 

          (Kinh) Hà dĩ cố?

          ()何以故

          (Kinh: V́ sao vậy?)

 

          Tán rằng: Kế đó, ư thứ hai là giải thích vấn nạn, nhưng chỉ giải thích “chẳng một, chẳng khác”. Gồm có hai phần:

          - Một, giải thích vấn nạn đối với “chẳng một”.

          - Hai, giải thích vấn nạn đối với “chẳng khác”.

          Trong phần thứ nhất, “giải thích vấn nạn đối với chẳng một”, có bốn ư:

          - Đoạn thứ nhất là gạn hỏi.

          - Hai là cật vấn.

          - Ba là vạch ra lỗi.

          - Bốn là kết lại ư “chẳng một”.

          Câu này thuộc ư thứ nhất.

 

          (Kinh) Thử nhược thị nhất, tắc bất dị pháp giới.

          ()此若是一則不異法界

          (Kinh: Nếu đấy là một, sẽ chẳng khác pháp giới).

 

          Tán rằng: Cật vấn [quan điểm chấp trước] “là một”.

 

          (Kinh) Nhược như thị giả, phàm phu chi nhân ưng kiến Chân Đế, đắc ư vô thượng an lạc Niết Bàn.

          ()若如是者凡夫之人應見真諦得於無上安樂涅槃

          (Kinh: Nếu là như thế, kẻ phàm phu phải nên thấy Chân Đế, đạt được Niết Bàn vô thượng an lạc).

 

          Tán rằng: Vạch ra lỗi [của chấp trước ấy]. Nếu pháp giới và Ngũ Uẩn là một, như vậy th́ lúc phàm phu trông thấy Ngũ Uẩn, phải nên thấy Chân Đế, v́ Ngũ Uẩn chính là Chân Như. Nếu là như thế, phàm phu phải nên đạt được vô thượng an lạc. Vô thượng an lạc chính là Đại Niết Bàn. Điều này cũng giống như kinh A Tỳ Đạt Ma dạy: “Cảnh ly thức hữu, phàm phu tự ưng thành vô đảo trí, dĩ kiến thật cố. Kư bất thành trí, minh ly thức vô” ([Nếu như] cảnh ĺa thức mà có, phàm phu phải tự nên thành tựu trí chẳng điên đảo v́ đă thấy Thật. Do chẳng thành tựu trí, rơ ràng ĺa thức th́ là không).

 

          (Kinh) Kư bất như thị, cố tri bất nhất.

          ()既不如是故知不一

          (Kinh: Đă chẳng phải là như thế, cho nên biết “chẳng phải là một”).

 

          Tán rằng: Kết lại “chẳng là một”. Đă chẳng thể thành thánh, đạt được Niết Bàn an lạc như thế, cho nên biết pháp giới và Ngũ Uẩn chẳng phải là một, giống như trong luận Thập Bát Không đă cật vấn!

 

5.10.4.2.2.3.2.2. Giải thích vấn nạn đối với “chẳng khác”

 

          (Kinh) Nhược ngôn dị giả.

          ()若言異者

          (Kinh: Nếu nói là khác).

 

          Tán rằng: Kế đó, giải thích vấn nạn đối với “chẳng khác”, cũng gồm bốn ư: Một là nhắc lại để gạn hỏi, hai là cật vấn, ba là nêu ra lỗi, bốn là kết lại. Câu này thuộc ư đầu tiên. Đây là vấn nạn đối với “chẳng một, chẳng khác”, giống như trong quyển một của kinh Giải Thâm Mật và quyển bảy mươi lăm của luận Du Già Sư Địa [đă biện định], do sợ rườm rà, chẳng trích dẫn.

 

          (Kinh) Nhất thiết chư Phật, Bồ Tát hành tướng tức thị chấp trước, vị đắc giải thoát phiền năo hệ phược.

          ()一切諸佛菩薩行相即是執著未得解煩惱繫縛

          (Kinh: Hành tướng của hết thảy chư Phật, Bồ Tát chính là chấp trước, chưa đạt được giải thoát khỏi trói buộc của phiền năo).

 

          Tán rằng: Ư thứ hai là cật vấn, chê trách, gồm ba ư nhỏ: Một là chấp trước, hai là phải nên chưa chứng Niết Bàn, ba là phải nên chưa ĺa trói buộc. Do giống như trong phần trên đă nói: Do chẳng ĺa Đoạn Kiến và Thường Kiến, tức là các thứ chấp trước v.v…

 

          (Kinh) Tức bất chứng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          ()即不證阿耨多羅三藐三菩提

          (Kinh: Tức là chẳng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

         

          Tán rằng: Vạch ra lỗi [của chấp trước ấy]. Do [chấp trước như vậy sẽ] có ba lỗi trên đây (hành tướng là chấp trước, chưa chứng Niết Bàn, chưa giải thoát khỏi sự trói buộc của phiền năo), chư Phật hiện tại phải là chẳng chứng, Bồ Tát trong tương lai sẽ phải là chẳng chứng, v́ có chấp, có phiền năo vậy!

 

          (Kinh) Hà dĩ cố? Nhất thiết thánh nhân ư hành phi hành, đồng chân thật tánh. Thị cố bất dị.

          ()何以故一切聖人於行非行同真實性是故不異

          (Kinh: V́ sao vậy? Hết thảy thánh nhân đối với hành và phi hành đều có cùng một tánh chân thật. Do vậy, chẳng khác).

 

          Tán rằng: Kế đó, kết lại ư “chẳng khác”. Trước là giả lập lời gạn hỏi. Do v́ lẽ nào mà pháp giới và Ngũ Uẩn chẳng khác? Xác quyết rằng: Hết thảy thánh nhân đối với “hành” (chính là Ngũ Uẩn), “phi hành” (chính là thấy pháp giới) đều có cùng một chân tánh, ĺa tướng “một, khác”. V́ thế, kết lại ư “chẳng khác”.

 

5.10.4.2.2.2.4. Kết lại phần biện định về các thứ Bất c̣n lại

 

          (Kinh) Cố tri Ngũ Uẩn phi hữu, phi vô, bất tùng nhân duyên sanh, phi vô nhân duyên sanh.

          ()故知五蘊非有非無不從因緣生非無因緣生

          (Kinh: Do vậy biết: Ngũ Uẩn chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng sanh từ nhân duyên, chẳng phải là không do nhân duyên sanh).

 

          Tán rằng: Kế đó, kết lại phần luận định phỏng theo [phần biện định “bất sanh”]. Có hai ư:

          - Một, kết lại phần “bất sanh”.

          - Hai, từ “thị thánh sở tri” (đấy là điều bậc thánh biết) trở đi, kết lại ư “vô danh, vô tướng v.v…” trong phần trước.

          Đoạn này là kết lại ư “bất sanh”. Do phỏng theo [cách lập luận đối với bất sanh] mà kết luận các điều như “bất diệt” đều là “vô danh, vô tướng” v.v Tức là kết luận chung “Bát Bất đều là vô danh, vô tướng Lại nữa, trong phần kết lại ư nghĩa “bất sanh”, cũng nhằm kết lại để xác quyết [các ư nghĩa trong] phần trước. Trước hết, nêu đại lược cái Tông, tức “xa ĺa hai tướng, bèn nói là chẳng phải có, chẳng phải không”. Hoặc có thể hiểu ở đây, do kết lại ư nghĩa “đă sanh và chưa sanh” trong phần trước mà nói là “chẳng phải có, chẳng phải không”. Hoặc có thể hiểu “phi hữu, phi vô” (chẳng phải có, chẳng phải không) là kết luận chung cho Bát Bất. Do chẳng phải là có hay không, cho nên chẳng sanh, diệt v.v… Chân tánh của Ngũ Uẩn chẳng sanh từ nhân duyên, hoặc Biến Kế Sở Chấp và tự tánh Ngũ Uẩn chẳng sanh từ nhân duyên, Y Tha Ngũ Uẩn chẳng phải là không có nhân duyên mà sanh. V́ thế biết: Bát Bất hoặc là xét theo Chân Như, hoặc dựa theo Biến Kế, đều chẳng phải là Y Tha Khởi. Dẫu dựa theo Y Tha để nói về Bát Bất th́ cũng là dựa theo Biến Kế để nói.

 

          (Kinh) Thị thánh sở tri, phi dư cảnh cố, diệc phi ngôn thuyết chi sở năng cập, vô danh, vô tướng, vô nhân, vô duyên, diệc vô thí dụ, thỉ chung tịch tĩnh, bổn lai tự không.

          ()是聖所知非餘境故亦非言說之所能無名無相無因無緣亦無譬始終寂靜本來自空

          (Kinh: Đấy là điều bậc thánh biết, chẳng phải là các cảnh khác, cũng chẳng thể diễn nói được, vô danh, vô tướng, chẳng có nhân, chẳng có duyên, cũng chẳng có thí dụ, từ đầu đến cuối vắng lặng, vốn sẵn tự không).

 

          Tán rằng: Kết lại ư “vô danh tướng” v.v… trong phần trước. Câu “thị thánh sở tri, phi dư cảnh” (đấy là điều bậc thánh biết, chẳng phải là cảnh khác) nhằm kết lại ư “chẳng thể dùng so lường để thấu đạt” trong phần trước. “Diệc phi ngôn thuyết…” (cũng chẳng thể diễn nói…) nhằm kết lại ư “vô danh, vô tướng” trong phần trước. “Vô nhân, vô duyên” kết lại ư “chẳng phải là sanh bởi nhân duyên” trong phần trước. “Diệc phi thí dụ” (cũng chẳng phải là thí dụ): Kết lại ư “chẳng thể dùng thí dụ để thấu đạt” trong phần trước. “Thỉ chung tịch tĩnh…” (Từ đầu đến cuối tịch tĩnh) kết lại ư “Ngũ Uẩn có thể hiện pháp giới”.

          Chuẩn theo kinh văn ở đây để nói th́ trước các ư như “thỉ chung tịch tĩnh” v.v… cũng phải nên có Hữu để nêu ra đại lược. Hoặc “thỉ chung tịch tĩnh bổn lai tự không” (từ đầu đến cuối là tịch tĩnh, vốn tự chẳng có) nhằm kết lại ư nghĩa “như thị cổ thanh, tam thế câu không” (tiếng trống như thế, ba đời đều là không) trong thí dụ trước đó. Cách giải thích trước hay hơn, v́ thí dụ và kết luận đều nhằm nói rơ phần Pháp Thuyết, tức là như kinh Giải Thâm Mật dạy: “Thuyết nhất thiết pháp bổn lai tịch tĩnh tự tánh Niết Bàn chi nghĩa” (Nói “hết thảy các pháp vốn sẵn tịch tĩnh” là ư nghĩa của tự tánh Niết Bàn).

 

          (Kinh) Thị cố, Ngũ Uẩn năng hiện pháp giới.

          ()是故五蘊能現法界

          (Kinh: V́ thế, Ngũ Uẩn có thể hiện pháp giới).

 

          Kế đó là kết lại.

         

5.10.4.2.3. Kết lại để khuyên tu học

 

          (Kinh) Thiện Nữ Thiên! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân dục cầu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, dị Chân, dị Tục, nan khả tư lượng, ư phàm thánh cảnh, thể phi nhất, dị, bất xả ư Tục, bất ly ư Chân, y ư pháp giới hành Bồ Đề hạnh.

          ()善女天若善男子善女人欲求阿耨多羅三藐三菩提異真異俗難可思量於凡聖境體非一異不捨於俗不離於真依於法界行菩提行

          (Kinh: Thiện Nữ Thiên! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, khác Chân, khác Tục, khó thể suy lường, đối với cái Thể của cảnh thánh hay phàm chẳng phải là một hay khác, chẳng xả Tục, chẳng ĺa Chân, nương vào pháp giới mà hành hạnh Bồ Đề).

 

          Tán rằng: Đây là phần thứ ba tức “kết lại để khuyên tu học” trong lời dạy tu tập của đức Phật. Do chẳng trụ trong Niết Bàn, cho nên khác Chân. Do chẳng trụ trong sanh tử, nên khác Tục. Hoặc là Tứ Trí Bồ Đề và Bồ Đề đoạn chẳng phải là Chân Như, nên khác Chân; chẳng phải là sanh tử, nên khác Tục. Trước là nương vào vô trụ để tu, sau là nương vào xứng lư để tu. Hành tướng sâu xa ấy khó thể suy lường bằng phân biệt, tầm tứ được. Phàm phu thấy Ngũ Uẩn chẳng ĺa Chân Như, thánh nhân thấy Chân Như chẳng ĺa Ngũ Uẩn, cho nên nói là “chẳng khác”. Uẩn và Như tánh khác biệt, nên nói là “chẳng một”. Hoặc thánh thấy Ngũ Uẩn như huyễn, phàm thấy là thật, nên nói “chẳng một”. Do cùng duyên theo Ngũ Uẩn, nên nói là “chẳng khác”. Hoặc phàm thấy Uẩn và Như là một hay là khác, thánh thấy Uẩn và Như chẳng một, chẳng khác, đều do duyên mà thấy hiểu, bèn nói riêng là “chẳng một, chẳng khác”.

          “Phàm” được nói ở đây cũng chính là hàng Nhị Thừa, do họ c̣n một phần Dị Sanh Tánh. Do người Nhị Thừa thấy Ngũ Uẩn khác với pháp giới, một mực chán nhàm sanh tử mà cầu Niết Bàn. Phàm phu do thấy [Ngũ Uẩn và pháp giới là] khác, một mực sợ Niết Bàn, trụ trong sanh tử! Bồ Tát thấy cái Thể của Ngũ Uẩn và pháp giới chẳng một, chẳng khác; cho nên chẳng xả Tục, chẳng ĺa Chân. Do đạt được lư pháp giới b́nh đẳng ấy, chẳng sợ sanh tử, chẳng ham Niết Bàn. V́ thế, có thể tu diệu hạnh đại bi trí huệ lợi ḿnh lẫn người khác.

          Hỏi: Hành Bồ Đề hạnh th́ theo như Vô Trước Bồ Tát giải thích ư nghĩa “nhiếp thủ vô trụ Niết Bàn” trong Bát Nhă Kinh Luận rằng: “Như sở thông đạt cố”, ư nói: Đă thông đạt như thế. Như nay đang ở trong sanh tử mà chẳng bị sanh tử bức bách, trụ trong Niết Bàn mà chẳng bị Niết Bàn bó buộc. Chân thể tánh của các pháp như thế, cho nên có thể y theo đó để tu hành, cũng lại trụ trong sanh tử mà chẳng bị khổ năo bức bách như thế, trụ trong Niết Bàn mà chẳng bị lạc câu thúc; cho nên chẳng trụ trong sanh tử hay Niết Bàn. Chẳng giống như Nhị Thừa và phàm phu do chẳng chứng Như, cho nên mỗi đằng trụ vào một bên. Xét theo đó, do Như chẳng trụ vào hai bên, NNhư mà chứng, được gọi là Vô Trụ Niết Bàn. Cớ sao ở đây nói: Do cái Thể của Ngũ Uẩn và Như chẳng một, chẳng khác, nương theo đó để tu hành th́ gọi là “bất trụ hạnh” vậy?

          Đáp: Đôi bên chẳng mâu thuẫn! Ở đây là nói Như và Uẩn chẳng một, tức chẳng trụ sanh tử, chính là ư nghĩa “chẳng bị khổ câu thúc”. Nếu Như và Uẩn là một, tức là trụ trong sanh tử, sẽ bị khổ câu thúc. Do Như chẳng khác, tức là chẳng trụ trong Niết Bàn, chính là ư nghĩa “chẳng bị Niết Bàn câu thúc”, cho nên cũng tương tự.

 

5.10.4.3. Thiên nữ lănh ngộ, phụng tŕ, tu học

5.10.4.3.1. Thiên nữ hoan hỷ, lănh ngộ, tu hành

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn tác thị ngữ dĩ, thời Thiện Nữ Thiên dũng dược, hoan hỷ, tức tùng ṭa khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng, cung kính nhất tâm đảnh lễ, nhi bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Như thượng sở thuyết Bồ Đề chánh hạnh, ngă kim đương học.

          ()爾時世尊作是語已時善女天踊躍歡喜即從座起偏袒右肩右膝著地合掌恭敬一心頂禮而白佛言世尊如上所說菩提正我今當學

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói như thế xong, khi đó, Thiện Nữ Thiên hoan hỷ, hớn hở, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất, chắp tay, cung kính, nhất tâm đảnh lễ, mà bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch đức Thế Tôn! Chánh hạnh Bồ Đề như vừa nói trên đây, con nay sẽ học).

 

          Tán rằng: Phần thứ ba là “thiên nữ lănh ngộ, vâng giữ, nương theo đó tu học”. Kinh văn chia thành sáu ư:

          - Một, thiên nữ hoan hỷ, lănh ngộ, tu hành.

          - Hai, Phạm vương thưa hỏi tướng trạng tu tập.

          - Ba, Phạm vương tán thán, lănh ngộ pháp sâu.

          - Bốn, đức Thế Tôn ấn khả, trần thuật lợi ích thù thắng.

          - Năm, Phạm vương lănh ngộ, vui mừng.

          - Sáu, đức Thế Tôn thọ kư cho thiên nữ, Phạm vương vui mừng.

          Đoạn này thuộc ư thứ nhất, có năm ư:

          - Một, kết lại những điều đă nói.

          - Hai, [thiên nữ] hoan hỷ, lănh ngộ.

          - Ba, [thiên nữ] dốc ḷng kiền thành, cung kính.

          - Bốn, [thiên nữ] nhận lănh những điều đă được nghe.

          - Năm, [thiên nữ phát nguyện] vâng theo đó để tu học.

          Phân đoạn kinh văn dễ thấy.

 

5.10.4.3.2. Phạm vương thưa hỏi tướng trạng tu hành

5.10.4.3.2.1. Thưa hỏi như thế nào để quán giải tự tại

5.10.4.3.2.1.1. Thưa hỏi

 

       (Kinh) Thị thời, Sách Ha thế giới chủ Đại Phạm thiên vương ư đại chúng trung, vấn Như Ư Bảo Quang Diệu Thiện Nữ Thiên viết: - Thử Bồ Đề hạnh nan khả tu hành, nhữ kim vân hà ư Bồ Đề hạnh nhi đắc tự tại?

       ()是時索訶世界主大梵天王於大眾中問如意寶光耀善女天曰此菩提行難可修行汝今云何於菩提行而得自在

       (Kinh: Khi đó, chủ của thế giới Sách Ha (Sa Bà) là Đại Phạm thiên vương ở trong đại chúng, hỏi Như Ư Bảo Quang Diệu Thiện Nữ Thiên rằng: - Hạnh Bồ Đề này khó thể tu hành, nay cô làm thế nào mà được tự tại trong hạnh Bồ Đề?)

 

          Tán rằng: Phạm vương thưa hỏi tướng tu hành, có bốn phần:

          - Một, hỏi như thế nào để quán giải tự tại?

          - Hai, hỏi tu hạnh Bồ Đề như thế nào?

          - Ba, hỏi nương vào đâu để nói khởi tu?”

          - Bốn, hỏi đạt được lợi ích nhiều hay ít?”

          Trong phần thứ nhất, lại gồm hai ư: Một là hỏi, hai là đáp. Đoạn này thuộc ư hỏi của phần thứ nhất. Kinh văn gồm hai ư:

          - Một là người khải thỉnh (Phạm vương). Sách Ha (Sahā, Sa Bà) phương này dịch là Kham Nhẫn Giới, tức là trong sanh tử có nhiều oán nạn, Bồ Tát có thể chịu đựng. Phạm vương là vua của cơi trời Tĩnh Lự thứ nhất (Sơ Thiền Thiên vương), hoặc vua của cơi trời Tĩnh Lự thứ tư (Tứ Thiền Thiên vương), là chủ của cơi đại thiên.

          - Hai, người được thỉnh vấn (Thiện Nữ Thiên).

          Lời hỏi chánh yếu là: Hạnh Bồ Đề này ĺa bốn câu, tuyệt bát phi (bát bất), chẳng thể diễn tả bằng ngôn ngữ, dứt bặt tư lự, chẳng Chân, chẳng Tục. Nhị Thừa chẳng biết, phàm phu chẳng lường được, nay sao cô có thể tự tại quán trí hạnh Bồ Đề được?

 

5.10.4.3.2.1.2. Giải đáp

5.10.4.3.2.1.2.1. Khẳng định pháp ấy khó biết

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thiện Nữ Thiên đáp Phạm vương viết: - Đại Phạm vương! Như Phật sở thuyết thật thị thậm thâm, nhất thiết dị sanh bất giải kỳ nghĩa, thị thánh cảnh giới vi diệu nan tri.

          ()爾時善女天答梵王曰大梵王如佛所實是甚深一切異生不解其義是聖境界微妙難知

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Thiện Nữ Thiên trả lời Phạm vương rằng: - Đại Phạm vương! Như lời đức Phật đă nói thật sự rất sâu, hết thảy dị sanh chẳng hiểu nghĩa đó. Đấy là thánh cảnh giới, vi diệu khó biết).

 

          Tán rằng: Kế đó là giải đáp, có bốn phần:

          - Một, khẳng định pháp ấy khó biết.

          - Hai, thỉnh chứng minh.

          - Ba, đạt được điềm lành.

          - Bốn, chuyển thân nữ.

          Đoạn này là phần thứ nhất.

 

5.10.4.3.2.1.2.2. Thỉnh chứng minh

 

          (Kinh) Nhược sử ngă kim y ư thử pháp, đắc an lạc trụ, thị thật ngữ giả.

          ()若使我今依於此法得安樂住是實語者

          (Kinh: Nếu như tôi do nương vào pháp này mà đắc an lạc trụ là lời chân thật).

 

          Tán rằng: Thỉnh chứng minh. Trước hết là hiểu đúng thật, sau đó là lập thệ nguyện. Đoạn này nói về sự hiểu biết đúng thật. Đối với lư sâu ấy, đạt được trí tự tại, chẳng phải là bị tướng và dụng của phiền năo lay động, th́ gọi là “an lạc”. Nương vào chánh quán ấy th́ gọi là Trụ.

 

5.10.4.3.2.1.2.3. Thệ nguyện

 

          (Kinh) Nguyện linh nhất thiết ngũ trược ác thế vô lượng vô số vô biên chúng sanh, giai đắc kim sắc, tam thập nhị tướng, phi nam, phi nữ, tọa bảo liên hoa, thọ vô lượng lạc, vũ thiên diệu hoa, chư thiên âm nhạc bất cổ tự minh, nhất thiết cúng dường giai tất cụ túc.

          ()願令一切五濁惡世無量無數無邊眾生皆得金色三十二相非男非女坐寶蓮華受無量樂雨天妙華諸天音樂不鼓自鳴一切供養皆悉具足

          (Kinh: Nguyện cho hết thảy vô lượng vô số vô biên chúng sanh trong đời ác ngũ trược, đều được ba mươi hai tướng kim sắc, chẳng phải nam, chẳng phải nữ, ngồi trên hoa sen báu, hưởng vô lượng vui, mưa hoa trời mầu nhiệm, các âm nhạc cơi trời chẳng tấu mà tự phát ra tiếng, hết thảy cúng dường thảy đều đầy đủ).

 

          Tán rằng: Lập thệ nguyện, biểu thị sự thấu hiểu “phàm và thánh chẳng một, chẳng khác”. V́ thế, nguyện thành thân kim sắc v.v… Hoặc biểu thị “cùng thuận theo Chân, sẽ được thành Phật”, bèn thỉnh cầu hiện thân kim sắc v.v… Biểu thị thấu hiểu “chẳng có tướng nam, nữ”, nên thỉnh hiện tướng chẳng phải nam, chẳng phải nữ. Hoặc biểu thị “sẽ thành Phật, tuy chẳng phải là nam nữ, mà hiện thân nam, nữ”. V́ thế, nguyện hiện thân chẳng nam, chẳng nữ. Biểu thị thoát khỏi bùn lầy sanh tử, biểu thị thấu hiểu “chẳng nhiễm, chẳng tịnh”, nên nguyện hiện ngồi trên hoa sen. Biểu thị “do sự hiểu biết ấy, ắt sẽ chứng hai thứ an lạc là Bồ Đề và Niết Bàn”, cho nên nguyện hưởng vô lượng vui. Biểu thị “có thể hành cái nhân, mà cũng có thể dạy cho người khác hành cái nhân ấy”, v́ thế, nguyện mưa hoa. Biểu thị “có thể tùy ư v́ người khác thuyết pháp”, bèn nguyện [các thứ nhạc khí cơi trời] chẳng tấu mà tự phát ra tiếng. Biểu thị “trí chứng cảnh, v́ pháp mà thực hiện cúng dường”, nên nguyện hết thảy các thứ cúng dường đều trọn đủ.

 

5.10.4.3.2.1.2.4. Hiện điềm lành

 

          (Kinh) Thời Thiện Nữ Thiên thuyết thị ngữ dĩ, nhất thiết ngũ trược ác thế sở hữu chúng sanh giai tất kim sắc, cụ đại nhân tướng, phi nam, phi nữ, tọa bảo liên hoa, thọ vô lượng lạc, do như Tha Hóa Tự Tại thiên cung, vô chư ác đạo, bảo thụ hàng liệt, thất bảo liên hoa biến măn thế giới, hựu vũ thất bảo thượng diệu thiên hoa, tác thiên kỹ nhạc.

          ()時善女天說是語一切五濁惡世所有眾生皆悉金色具大人相非男非女坐寶蓮華受無量樂猶如他化自在天宮無諸惡道寶樹行列七寶蓮華遍滿世界又雨七寶上妙天華作天妓樂

    (Kinh: Khi ấy, Thiện Nữ Thiên nói lời ấy xong, hết thảy tất cả chúng sanh trong đời ác ngũ trược thảy đều là sắc vàng, đủ tướng đại nhân, chẳng nam, chẳng nữ, ngồi trên hoa sen báu, hưởng vô lượng lạc như cung trời Tha Hóa Tự Tại, không có các ác đạo, cây báu bày hàng, hoa sen bảy báu trọn khắp thế giới, lại mưa hoa trời thượng diệu bằng bảy báu, tấu các kỹ nhạc cơi trời).  

 

          Tán rằng: Đạt được điềm lành. Do hiểu tương xứng với Chân, sở nguyện được toại. V́ thế, những điều nguyện được hiện ra đều thuận theo ḷng mong. Trọn đủ bảy chi giới, nguyện được cây báu bày hàng. Tu Thất Thánh Tài, được hoa sen bảy báu. Tuy thoát sanh tử mà chẳng xả lợi lạc chúng sanh; do vậy, [các điềm lành ấy] trọn khắp thế giới. Hoặc tương xứng chân lư vô hạn mà tu, cho nên hoa sen trọn khắp thế giới.

 

5.10.4.3.2.1.2.5. Thiên nữ chuyển thân nữ thành nam

 

          (Kinh) Như Ư Bảo Quang Diệu Thiện Nữ Thiên tức chuyển nữ thân, tác Phạm Thiên thân.

          ()如意寶光耀善女天即轉女身作梵天身

          (Kinh: Như Ư Bảo Quang Diệu Thiện Nữ Thiên liền chuyển thân nữ thành thân Phạm Thiên).

 

          Tán rằng: Chuyển nữ thân. Đây là tự chứng thành “không có tướng khác biệt nhất định”; v́ thế, nữ chuyển thành nam!

 

5.10.4.3.2.2. Thưa hỏi cách hành hạnh Bồ Đề

 

          (Kinh) Thời Đại Phạm vương vấn Như Ư Bảo Quang Diệu Bồ Tát ngôn: - Nhân giả! Như hà hành Bồ Đề hạnh?

          ()時大梵王問如意寶光耀菩薩言仁者如何行菩提行

          (Kinh: Khi đó, Đại Phạm vương hỏi Như Ư Bảo Quang Diệu Bồ Tát rằng: - Thưa nhân giả! Hành Bồ Đề hạnh như thế nào?)

 

          Tán rằng: Hỏi chứng hạnh Bồ Đề như thế nào? Đây là hỏi khi hành hạnh [Bồ Đề], hăy nên hiểu cách hành như thế nào? Đoạn này gồm hai tiểu đoạn: Trước là hỏi, sau là đáp. Đoạn này là hỏi.

 

          (Kinh) Đáp ngôn: - Phạm vương! Nhược thủy trung nguyệt hành Bồ Đề hạnh, ngă diệc hành Bồ Đề hạnh. Nhược mộng trung hành Bồ Đề hạnh, ngă diệc hành Bồ Đề hạnh. Nhược dương diễm hành Bồ Đề hạnh, ngă diệc hành Bồ Đề hạnh. Nhược cốc hưởng hành Bồ Đề hạnh, ngă diệc hành Bồ Đề hạnh.

          ()答言梵王若水中月行菩提行我亦行菩提行若夢中行菩提行我亦行菩提行若陽焰行菩提行我亦行菩提行若谷響行菩提行我亦行菩提行

          (Kinh: Đáp rằng: - Này Phạm vương! Như trăng trong nước hành Bồ Đề hạnh, tôi cũng hành Bồ Đề hạnh. Như trong mộng hành Bồ Đề hạnh, tôi cũng hành Bồ Đề hạnh. Như bóng nắng gợn[8] hành Bồ Đề hạnh, tôi cũng hành Bồ Đề hạnh. Như hang dội lại tiếng vọng hành Bồ Đề hạnh, tôi cũng hành Bồ Đề hạnh).

 

          Tán rằng: Giải đáp. Do hành tướng khó biết, nêu ra thí dụ để chỉ rơ. Ở đây, có bốn thí dụ:

          - Một, thí dụ trăng trong nước, sánh ví chẳng có ngoại cảnh, mà cảnh sở hành trong cái tâm Định được thành tựu. Như nước làm duyên, tuy trong nước chẳng có trăng, nhưng có bóng trăng xuất hiện. Tôi nay cũng vậy, từ cái tâm định nguyện mà hiện ra các cảnh giới. Tuy chẳng có thân thật sự v.v… nhưng v́ lợi ích chúng sanh mà sanh ra cảnh nơi cái thân tương tự. Bóng trăng đă chẳng hành, thân tôi cũng chẳng hành. Đấy là đoạn trừ Biến Kế tánh, tức là [đoạn trừ] sự chấp giữ “cảnh ĺa tâm mà thật sự có” trong Định. Do vậy, nêu ra thí dụ trăng trong nước. Tuy chẳng có nguyệt cảnh, mà tợ hồ có trăng sanh ra.

          - Hai, thí dụ cảnh trong mộng, nhằm sánh ví chẳng có cảnh yêu ghét ở ngoài tâm, mà có cảnh yêu ghét sanh ra. Như tuy thọ thân yêu mến hoặc chẳng đáng yêu mến trong tam giới lục đạo, hành Bồ Đề hạnh, như nằm mộng thấy thân đáng yêu hoặc chẳng đáng yêu hành hạnh Bồ Đề, không chấp đó là thật.

          - Ba, thí dụ về ánh nắng gợn. Do cái tâm chấp giữ và Tâm Sở chấp giữ mê loạn, cho nên duyên theo cảnh bị chấp giữ, tuy chẳng phải là thật, nhưng có cảnh tương tự sanh khởi, chẳng phải là thật sự có. Đối với cảnh tam luân, Bồ Tát hăy nên dùng trí vô phân biệt để biết như thế, chúng chẳng có chân thật.

          - Bốn, thí dụ về tiếng vọng trong hang. Khi [Bồ Tát] dấy lên ngữ nghiệp để giáo hóa chúng sanh, giống như tiếng vang từ trong hang. Hang thật sự chẳng có âm thanh, nhưng tự phát ra tiếng giống như tiếng vọng của chính cái hang đó. V́ thế biết: Đối với chuyện Bồ Tát v́ người khác thuyết pháp, hăy nên quán như tiếng vọng nơi hang, do các duyên khác mà hiện, chỉ là dường như tiếng vọng do hang sanh ra. Thuyết pháp lợi sanh thật sự chẳng phải là phát ra tiếng để thuyết pháp cho người khác.

          Hành Bồ Đề hạnh như thế, giống như quyển bốn của Vô Tánh Nhiếp Đại Thừa đă nói, hoặc như kinh đă nói: Đối với tánh Y Tha Khởi, bèn nói các thí dụ như huyễn v.v… Từ trong tự tánh của Y Tha Khởi mà trừ các nỗi ngờ hư vọng của kẻ khác. V́ sao vô nghĩa, mà thật sự có chấp giữ các cảnh đă được hành trong các Tam-ma-địa để chuyển? V́ trừ nỗi nghi ấy, bèn nói thí dụ trăng trong nước. V́ sao vô nghĩa mà tánh của sự thọ dụng đáng yêu mến hay chẳng đáng yêu mến có sai biệt? V́ trừ nỗi nghi ấy mà nói thí dụ nằm mộng. V́ sao vô nghĩa mà tâm và tâm pháp chuyển? V́ trừ nỗi nghi ấy, nói thí dụ ánh nắng gợn. V́ sao vô nghĩa mà dùng các thứ hư luận, ngôn thuyết để chuyển? V́ trừ nỗi nghi ấy, bèn nói thí dụ tiếng vọng từ hang. Theo thứ tự, phối ứng với bốn điều ấy. Bộ luận kia (Nhiếp Đại Thừa Luận) cũng có bốn thí dụ, nhưng do kinh này không có [các thí dụ ấy], chẳng cần phải dẫn chi tiết. Tám thí dụ trong quyển thứ tư của Đại Trang Nghiêm Luận có đại ư tương tự. V́ sao kinh này không có các thí dụ khác [như trong Đại Trang Nghiêm Luận]? Do [kinh này] nói đại lược, nên không có.

          Lại giải thích rằng: Ở đây, nhằm trừ chấp trước hữu tướng và vô tướng, [hữu tướng và vô tướng] giống như huyễn, nhưng chẳng phải là không có. V́ thế, luận Biện Trung Biên có bài tụng nói: “Ư bất động vô đảo, vị tri nghĩa phi hữu, phi vô như huyễn đẳng, hữu vô bất động cố” (Đối với bất động mà chẳng điên đảo, tức là biết các nghĩa chẳng phải có, chẳng phải không như huyễn v.v… Do hữu và vô bất động). Giải rằng: Các nghĩa được nói trong phần trước đều ĺa hữu, ĺa vô, do các điều như “như huyễn” v.v… chẳng phải có, chẳng phải không. Tức là như huyễn hóa ra voi, ngựa v.v…. Tuy chúng chẳng thật sự có tánh của voi, ngựa, nhưng cũng chẳng phải là hoàn toàn không có. Loạn thức giống như voi, ngựa v.v… mà hiển hiện. Các nghĩa như thế không ǵ chẳng như hiện ra năng thủ (cái có thể chấp giữ), sở thủ (cái bị chấp giữ) tương tự, chắc chắn chẳng thật sự có tánh, nhưng cũng chẳng phải là hoàn toàn không có. Loạn thức cũng giống như sở thủ và năng thủ hiển hiện. Ở đây có ư nói: Như vầng trăng trong nước chẳng thật sự có tánh của trăng, tuy chẳng phải là có, nhưng do có tương tự hiện (hiện bóng trăng giống hệt như vầng trăng thật sự), cho nên chẳng phải là không có. Tôi hành Bồ Đề hạnh cũng giống như thế: Do nhân duyên ḥa hợp mà giả có, cho nên chẳng phải là có; nhưng do có tướng giả ḥa hợp, nên chẳng phải là không có. Do Ngũ Uẩn chẳng có, nên có thể hiện pháp giới. Do chẳng phải là không, pháp giới tức là Ngũ Uẩn. Như trong phần trên đă nói: Được an lạc trụ, bất động, chẳng bị lay động bởi có và không. Nhưng thí dụ về tổng tướng th́ ĺa tướng hữu và vô, chẳng riêng phối ứng với Uẩn. Lại c̣n nương vào “thấy, cảm nhận, biết, nghe” theo thứ tự để sánh ví tánh của bốn thứ cảnh giới được chấp giữ, đều ĺa khỏi hữu và vô. Đối với những phần vấn đáp trong phần sau, cứ chuẩn theo phần biện định về sự thấy nghe để hiểu!

 

5.10.4.3.2.3. Hỏi: Nương theo đạo lư nào mà nói như thế

5.10.4.3.2.3.1. Nêu câu hỏi

 

          (Kinh) Thời Đại Phạm vương văn thử thuyết dĩ, bạch Bồ Tát ngôn: - Nhân y hà nghĩa nhi thuyết thử ngữ?

          ()時大梵王聞此白菩薩言仁依何義而說此

          (Kinh: Khi đó, Đại Phạm vương nghe lời ấy xong, bạch Bồ Tát rằng: - Nhân giả nương theo nghĩa nào mà nói lời ấy?)

 

          Tán rằng: Phần thứ ba là hỏi “do dựa theo đạo lư nào mà nói như thế?” Câu hỏi trong phần trước là hỏi cách tu, câu hỏi này là hỏi về [căn cứ] để nói. Hoặc có thể hiểu phần vấn đáp trước đó là [biện định về sự] tự tu hành, chỉ nói về cách tu; c̣n phần vấn đáp sau là v́ người khác mà nói chuyện tu hành, chỉ nêu ra [câu hỏi] nhằm [bàn về cơ sở] lập thuyết. Trước sau soi rọi lẫn nhau, tự lợi và lợi tha đều trọn đủ. Trong ấy, có bốn ư: Một là hỏi, hai là đáp, ba là cật vấn, bốn là dung thông. Câu hỏi ở đây là “nương theo đạo lư nào mà có thể ĺa hữu vô để nói chuyện khởi tu?” Hoặc hỏi: “Đă là như trăng trong nước v.v… chẳng thật sự có, nương theo ǵ để nói [như vậy]?”

 

5.10.4.3.2.3.2. Giải đáp

 

          (Kinh) Đáp ngôn: - Phạm vương! Vô hữu nhất pháp thị Thật Tướng giả, đản do nhân duyên, nhi đắc thành cố.

          ()答言梵王無有一法是實相者但由因緣而得成故

          (Kinh: Đáp rằng: - Này Phạm vương! Chẳng có một pháp là Thật Tướng, chỉ do nhân duyên mà được thành vậy).

 

          Tán rằng: Giải đáp. Nương theo đạo lư nhân duyên, do giả nhân duyên mà ĺa có và không. Như do nước trong lặng, bèn có bóng trăng sanh ra, cho nên chẳng phải là không. Do chẳng phải là vầng trăng chân thật hiện ra, nên chẳng có. Những điều khác cứ chuẩn theo đó mà suy. Như trăng trong nước v.v… chẳng có một pháp nào thật sự có tướng, chỉ nương vào giả nhân duyên mà nói đến tu.

 

5.10.4.3.2.3.3. Vấn nạn

 

          (Kinh) Phạm vương ngôn: - Nhược như thị giả, chư phàm phu nhân giai tất ưng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề!

          ()王言若如是者諸凡夫人皆悉應得阿耨多羅三藐三菩提

          (Kinh: Phạm vương nói: - Nếu là như thế, những kẻ phàm phu thảy đều phải nên đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

          Tán rằng: Đây là ư thứ ba, lập ra lời vấn nạn. Nếu do pháp nhân duyên giả hợp mà nói là “có thể tu” th́ những kẻ phàm phu đều do giả thành (do sắc và tâm hư huyễn ḥa hợp mà thành), sẽ đều phải nên đắc Bồ Đề! Ư nói: Nếu thật sự có cái để có thể tu, sẽ phải nên có “đắc” và “chẳng đắc”. Chứ nếu đều là giả hữu, phàm phu cũng phải nên đạt được! Như ngài Duy Ma Cật dùng Chân Như môn khiến cho hết thảy đều được thọ kư; ở đây, [Phạm vương] dùng nhân duyên môn để cật vấn [nếu là giả hữu th́ hết thảy kẻ phàm phu] đều phải nên thành Phật.

 

5.10.4.3.2.3.4. Dung thông

 

          (Kinh) Đáp ngôn: - Nhân dĩ hà ư nhi tác thị thuyết?

          ()答言仁以何意而作是

          (Kinh: Đáp rằng: - Nhân giả do ư nào mà nói như thế?)

 

          Tán rằng: Đây là phần dung thông, có ba ư:

          - Một là phủ định chung.

          - Hai là giải thích chung.

          - Ba, từ “Phạm vương! Thị chư thánh nhân” (Này Phạm vương! Các thánh nhân ấy) trở đi, kết lại.

          Hoặc chia thành hai phần:

          - Trước là phủ định chung.

          - Sau là giải thích chung.

          Trong phần giải thích, có bốn ư: Pháp thuyết, thí dụ, kết hợp thí dụ với pháp, và kết luận. Nay nói theo khoa thứ nhất, đoạn này thuộc ư thứ nhất.

 

          (Kinh) Ngu si nhân dị, trí huệ nhân dị, Bồ Đề dị, phi Bồ Đề dị, giải thoát dị, phi giải thoát dị.

          ()愚癡人異智慧人異菩提異非菩提異非解

          (Kinh: Kẻ ngu si khác, người trí huệ khác, Bồ Đề khác, phi Bồ Đề khác, giải thoát khác, phi giải thoát khác).

 

          Tán rằng: Đây là phần dung thông, gồm ba ư:

          - Một, pháp thuyết.

          - Hai, thí dụ.

          - Ba, từ “Phạm vương! Ngu si dị sanh” trở đi là phần kết hợp thí dụ với pháp.

          Trong phần Pháp Thuyết, có hai ư:

          - Một, do phàm phu chấp “hữu và vô là khác biệt”, nên chẳng thành Phật.

          - Hai, do bậc thánh biết [hữu và vô] chẳng khác, nên đắc Bồ Đề.

           Đoạn này thuộc ư thứ nhất, tức là “chấp ngu, trí v.v… chắc chắn là một hay khác”. Ở đây, tuy nói “khác”, nhưng cũng phải nên có “một”. Chẳng hiểu “hữu, vô, sanh, diệt” v.v… thật sự chẳng có, [chỉ là] do duyên theo tâm mà có. Chẳng biết tương xứng với cảnh, sẽ chẳng thể thành Phật. Bồ Tát do phá được [kiến chấp] ấy mà thành Phật, hoặc nương theo Tục Đế, liền có ngu hay trí để có thể hành sai khác. Bồ Đề và phi Bồ Đề tức là cái nhân của thiện và bất thiện khác biệt. Giải thoát và phi giải thoát là quả khác biệt.

 

          (Kinh) Phạm vương! Như thị chư pháp b́nh đẳng vô dị. Ư thử pháp dị, Chân Như bất dị. Vô hữu trung gian nhi khả chấp trước, vô tăng, vô giảm.

          ()梵王如是諸法平等無異於此法異真如不異無有中間而可執著無增無減

          (Kinh: Này Phạm vương! Các pháp như thế b́nh đẳng chẳng khác. Nơi các pháp ấy th́ là khác, chứ Chân Như chẳng khác. Chẳng có cái ǵ ở giữa để có thể chấp trước, chẳng tăng, chẳng giảm).

 

          Tán rằng: Bậc thánh biết rơ “hữu, vô, ngu, trí” v.v… đều chẳng nhất định khác biệt, do các pháp như pháp giới, Chân Như v.v… trong ấy đều b́nh đẳng. V́ thế, đều chẳng phải là nhất định khác biệt. “Vô hữu trung gian” (chẳng có trung gian): Các pháp chẳng nhất định là khác, chẳng nhất định là một, mà cũng chẳng phải là “vừa một, vừa khác”. Chẳng nói “không phải một” nhằm liên tưởng đến câu nói thứ hai. Câu thứ ba là “chẳng có trung gian”. Chẳng nói tới câu thứ tư (tức câu “chẳng phải một, mà cũng chẳng phải khác”), chỉ là ngăn chặn ba câu trước, [thính chúng sẽ hiểu] “chẳng có pháp nào khác”. “Một, khác” v.v… đều chẳng thể chấp, như [biết rơ] vầng trăng trong nước chẳng thật, nhằm ĺa “chấp tăng”. Dường như có trăng (trăng hiện bóng trong nước) để ĺa “chấp giảm”. Do biết tương xứng với cảnh, nên được thành Phật. Đấy hoặc là theo Đệ Nhất Nghĩa th́ tức chẳng khác, nhưng chuẩn theo các thí dụ dưới đây, xét theo ngu hay trí mà giải thích khác biệt.

 

          (Kinh) Phạm vương! Thí như huyễn sư cập huyễn đệ tử thiện giải huyễn thuật, ư tứ cù đạo, thủ chư sa, thổ, thảo, mộc, diệp đẳng, tụ tại nhất xứ, tác chư huyễn thuật, sử nhân đổ kiến tượng chúng, mă chúng, xa binh đẳng chúng, thất bảo chi tụ, chủng chủng thương khố.

          ()梵王譬如幻師及幻弟子善解幻術於四衢道取諸沙土草木葉等聚在一處作諸幻術使人覩見象眾馬眾車兵等眾七寶之聚種種倉庫

     (Kinh: Phạm vương! Ví như bậc thầy huyễn thuật và các đệ tử của thầy huyễn thuật khéo hiểu huyễn thuật, nơi ngă tư đường, lấy các thứ như cát, đất, cỏ, cây, lá v.v… tụ tập một chỗ, làm các thứ huyễn thuật, khiến cho mọi người trông thấy bầy voi, bầy ngựa, các cỗ xe, quân lính v.v…, đống bảy báu, các thứ kho đụn).

 

          Tán rằng: Nêu ra thí dụ, gồm ba thí dụ:

          - Một, thí dụ về huyễn cảnh do duyên sanh.

          - Hai, thí dụ về kẻ ngu chấp là thật.

          - Ba, thí dụ về người trí biết là huyễn.

          Đoạn này là thí dụ thứ nhất. Trong ấy, có sáu ư:

          - Một, người thực hiện huyễn thuật.

          - Hai, vật liệu để thực hiện huyễn thật.

          - Ba, nơi chốn thực hiện huyễn thuật.

          - Bốn, huyễn duyên.

          - Năm, thực hiện huyễn thuật.

          - Sáu, huyễn tướng.

          “Thí như huyễn sư”: Sánh ví tâm vương nơi thức thứ tám là người làm huyễn thuật. “Cập đệ tử” (và đệ tử): Ví như tâm sở là người giúp [tâm vương] làm huyễn thuật. “Thiện giải huyễn thuật” (khéo hiểu huyễn thuật): Có thể hiểu rơ các tướng tổng, biệt v.v… nơi cảnh, có thể khởi tác dụng biến hóa. “Ư tứ cù đạo” (nơi ngă tư đường): Sánh ví chỗ Tứ Đế biến huyễn. “Thủ chư thảo, mộc…” (lấy các cây, cỏ) tức là danh sắc huyễn duyên. “Tụ tại nhất xứ” (gom lại một chỗ): Hoặc là do nương vào các chỗ như Khổ, Tập v.v… mà khởi lên. “Tác chư huyễn thuật” (làm các huyễn thuật): Khởi lên huyễn nhân duyên, nghiệp lực dấy khởi các thứ sự nghiệp bất đồng. “Sử nhân đổ tượng, mă…” (khiến cho người khác trông thấy voi, ngựa): Huyễn tướng. Thí dụ đầu tiên nêu ra nơi chốn thuộc tứ sanh. “Thất bảo chi tụ” (đống bảy báu) sánh ví ngoại cảnh.

          Lại giải rằng: Huyễn sư ví như thức thứ tám. Huyễn đệ tử ví như bảy chuyển thức kia (nhăn thức, nhĩ thức cho đến Mạt Na Thức), do nương vào thức thứ tám mà dấy lên. V́ vậy, kinh luận nói: “Thức như huyễn sự”. “Cù đạo” (đường sá): Sánh ví tứ thức trụ[9]. V́ thế, quyển tám mươi sáu [của luận Du Già Sư Địa nói]: “Cái thức của chấp hữu nương vào tứ thức trụ, phát khởi các loại tự thể tùy chuyển, do là pháp tương tự”. Cát, đá, cỏ, cây, ví như Chủng Tử Thức[10]. “Tùy tại nhất xứ”: Sánh ví tùy thuận một thức trụ và tứ thức trụ. “Tác chư huyễn thuật”: Sánh ví do sức của tứ duyên[11] có thể khởi Ngũ Uẩn.

          Lại giải rằng: Huyễn sư là đệ tử Phật, tức Bồ Tát, tăng v.v… “Tứ cù đạo” là các chỗ thuộc tứ sanh. Trí xảo phương tiện khéo hiểu huyễn thuật, lấy các thứ như cát, đất v.v… [tức là] thuận theo cơ duyên tương ứng với pháp ưa thích mà gom chúng lại một chỗ, thuận theo chỗ sanh của người căn cơ thành thục đáng lănh nhận mà [khiến cho họ] trông thấy các thứ như voi v.v… hiện thân. “Thất bảo” là thuyết pháp. Chuẩn theo ư nghĩa trong phần kết hợp thí dụ với pháp thuộc phần sau, cách giải thích này hay hơn. Những điều khác giống như các giải thích trong phần trước.

 

          (Kinh) Nhược hữu chúng sanh ngu si, vô trí, bất năng tư duy, bất tri huyễn bổn.

          ()若有眾生愚癡無智不能思惟不知幻本

     (Kinh: Nếu có chúng sanh ngu si, vô trí, chẳng thể tư duy, chẳng biết cội huyễn).

 

          Tán rằng: Thí dụ “kẻ hạ ngu chấp trước là thật”, có ba ư:

          - Một, thí dụ chẳng biết cội huyễn.

          - Hai, thí dụ “vừa mới thấy liền chấp là thật”.

          - Ba, thí dụ “tới cuối cùng, [kẻ ngu] cũng chẳng tư duy”.

          Đoạn này thuộc ư thứ nhất. Nói tới “huyễn bổn” th́ huyễn nhân và huyễn duyên đều gọi là Bổn (cội gốc), sánh ví: Do vô trí, chẳng biết Ngũ Uẩn từ duyên mà giả sanh.

 

          (Kinh) Nhược kiến, nhược văn, tác thị tư duy: - Ngă sở kiến văn tượng, mă đẳng chúng, thử thị thật hữu, dư giai hư vọng.

          ()若見若聞作是思惟我所見聞象馬等眾此是實有餘皆虛妄

     (Kinh: Nếu thấy hoặc nghe, sẽ nghĩ như thế này: - Các thứ voi, ngựa v.v… như ta thấy nghe đều là thật sự có, những thứ khác đều là hư vọng).

 

          Tán rằng: kế đó là thí dụ “vừa mới thấy, bèn chấp là thật”. Chẳng biết giả, thuận theo sự thấy nghe mà hư vọng phân biệt, chấp [các tướng ḿnh trông thấy] là thật sự có. Nói “không, vô ngă v.v… đều là hư vọng, chẳng có, [tức là] chẳng ĺa chấp trước “hữu, vô, tăng, giảm”.

 

          (Kinh) Ư hậu, cánh bất thẩm sát tư duy.

          ()於後更不審察思惟

          (Kinh: Sau đó, lại chẳng suy xét kỹ càng, tư duy).

 

          Tán rằng: Đây là thí dụ “sau đó, rốt cuộc cũng chẳng tư duy”. Cũng chẳng suy xét, cân nhắc, nghĩ ngợi các danh nghĩa đều là duyên sanh hư vọng, giả trất.

 

          (Kinh) Hữu trí chi nhân tắc bất như thị, liễu ư huyễn bổn.

          ()有智之人則不如是了於幻本

          (Kinh: Người có trí chẳng như vậy, biết rơ cội huyễn).

 

          Tán rằng: Thí dụ về người trí thông đạt. Kinh văn có hai phần:

          - Một, thí dụ “tự có thể biết rơ”.

          - Hai, thí dụ “sau đó, tùy ư v́ người khác nói”.

          Kinh văn thuộc phần thứ nhất cũng gồm có hai ư:

          - Một, thí dụ về biết rơ cội huyễn.

          - Hai, hiểu rơ [các pháp] từ duyên sanh, chẳng nhất định là hữu hay vô.

         

          (Kinh) Nhược kiến, nhược văn, tác như thị niệm: “Như ngă sở kiến tượng, mă đẳng chúng, phi thị chân thật”.

          ()若見若聞作如是念如我所見象馬等眾非是真實

          (Kinh: Nếu thấy hay nghe, nghĩ như thế này: “Các thứ voi, ngựa v.v… như tôi trông thấy đều chẳng phải là chân thật”).

 

          Tán rằng: Kế đó là thí dụ “chẳng chấp trước là thật”, nhằm sánh ví người trí thấy Đế Lư vô lậu. Trước hết, biết thật sự chẳng có, ĺa chấp trước nơi Hữu. Sau đó, suy xét biết: Sở dĩ là giả hữu, cho nên thật sự không có. Đoạn này thuộc vào ư thứ nhất. Biết chẳng thật sự có voi, ngựa v.v… dùng đó để trừ chấp trước đối với “tăng”.

 

          (Kinh) Duy hữu huyễn sự hoặc nhân nhăn mục, vọng vị tượng đẳng cập chư thương khố, hữu danh vô thật. Như ngă kiến văn, bất chấp vi thật.

          ()唯有幻事惑人眼目妄謂象等及諸倉庫有名無實如我見聞不執為實

          (Kinh: Chỉ có huyễn sự mê hoặc mắt người, hư vọng cho rằng đó là voi v.v… và các kho đụn, hữu danh chẳng thật. Như tôi thấy, nghe, chẳng chấp là thật).

 

          Tán rằng: Suy xét nguyên do “giả có, thật sự là không”. Các thứ voi, ngựa v.v… hư huyễn chỉ đánh lừa tai, mắt kẻ ngu. Nghe tên gọi voi v.v…., thấy các h́nh bóng như voi v.v… bèn hư vọng ngỡ là thật. Thật ra, chúng chỉ là giả danh, không có tự tánh của Như, giống như ngă và ngă sở. Dẫu thấy, nghe, đều chẳng chấp là thật, [biết rơ chúng] chỉ là giả danh, ĺa chấp hữu, chấp vô.

 

          (Kinh) Hậu thời, tư duy, tri kỳ hư vọng.

          ()後時思惟知其虛妄

          (Kinh: Sau đó, tư duy biết đó là hư vọng).

 

          Tán rằng: Thí dụ “sau đó, suy nghĩ [biết là] chẳng thật. Suy nghĩ [các thứ đó] thật sự chẳng có, ĺa chấp “tăng”. Hiểu rơ chúng nó chẳng có, không ǵ chẳng như danh từ, ngôn thuyết, chẳng có tự thể thật sự.

 

          (Kinh) Thị cố, trí giả liễu nhất thiết pháp giai vô thật thể, đản tùy thế tục, như kiến, như văn, biểu tuyên kỳ sự. Tư duy đế lư, tắc bất như thị, phục do giả thuyết hiển thật nghĩa cố.

          ()是故智者了一切法皆無實體但隨世俗如見如聞表宣其事思惟諦理則不如是復由假說顯實義

          (Kinh: Do vậy, bậc trí biết hết thảy các pháp đều chẳng có thật thể, chỉ tùy thuận thế tục, thuận theo những điều họ thấy nghe mà biểu thị, tuyên nói chuyện ấy. Tư duy đế lư th́ chẳng như vậy. Lại nhờ vào cách nói hư giả để hiển lộ thật nghĩa).

 

          Tán rằng: Thí dụ “nói thuận theo người khác”. Chỉ tùy thuận cái thấy, cái nghe của thế tục, giả nói danh từ, ngôn từ để biểu thị, tuyên nói chuyện ấy. “Biểu thị, tuyên nói” là có thể diễn tả, c̣n “chuyện ấy” chính là điều được diễn nói. Thế tục có hai thứ:

          - Một là thế tục do t́nh kiến chấp trước.

          - Hai là thế tục do các bậc thánh hữu trí giả lập.

          Ở đây là thí dụ về bậc thánh hữu trí tùy thuận ngôn thuyết của thế tục, có hai loại:

          - Một, tùy thuận ngôn từ thế tục để nói rơ Tục.

          - Hai, tùy thuận ngôn từ của thế tục để nói rơ Chân.

          Lại c̣n do tùy thuận thế tục, nên nói “đúng như những ǵ đă thấy nghe mà biểu thị, tuyên nói chuyện ấy; nhưng tư duy đế lư th́ chẳng phải là như vậy”. “Đế” là chân thật. Tư duy thật lư sẽ [nhận biết] chẳng giống như những ǵ đă nói. Lại c̣n chỉ là tùy thuận phương tiện để giả lập ngôn thuyết, nhằm nêu tỏ Đệ Nhất Chân Thật Nghĩa. Trí vô phân biệt chứng nhập đế lư, [liền biết] chẳng phải là như vậy, tâm suy lường và ngôn từ diễn nói đều dứt bặt. Đây là hiểu rơ: Nơi Tục th́ có, nơi Chân Đế th́ không.

 

          (Kinh) Phạm vương! Ngu si dị sanh vị đắc xuất thế thánh huệ chi nhăn, vị tri nhất thiết chư pháp Chân Như bất khả thuyết cố.

          ()梵王愚癡異生未得出世聖慧之眼未知一切諸法真如不可

          (Kinh: Phạm vương! Dị sanh ngu si do chưa đạt được con mắt thánh huệ xuất thế, chẳng biết hết thảy các pháp Chân Như đều chẳng thể nói).

 

          Tán rằng: Tiếp đó, kết hợp thí dụ với pháp. Trước tiên, kết hợp pháp với thí dụ “kẻ ngu chẳng đạt được”, có hai ư:

          - Một, kết hợp pháp với thí dụ “chẳng thấu đạt cội huyễn”.

          - Hai, kết hợp pháp với thí dụ “vừa trông thấy bèn chấp là thật”.

          Nói “ngu si dị sanh” nhằm loại trừ người chưa đạt tới Kiến Đạo trong Đại Thừa. Họ tuy là dị sanh (chưa tiến nhập thánh đạo), nhưng có thể hành một phần Duy Thức Quán v.v…, biết rơ huyễn v.v…, [chỉ là] họ vẫn chưa đắc huệ nhăn Nhị Không xuất thế nơi Căn Bản Trí và Hậu Đắc Trí. Nay [nói “ngu si dị sanh” cũng nhằm] loại trừ Nhị Thừa, tuy họ đă đắc Sanh Không huệ nhăn, hiểu rơ Nhân Vô Ngă, nhưng do chưa thể đắc huệ nhăn Pháp Không xuất thế, cho nên chẳng hiểu rơ Pháp Vô Ngă, chẳng biết tánh Chân Như của hết thảy các pháp ĺa các tướng, chẳng thể nói! V́ thế, họ chẳng đạt được cội huyễn.

          [Ở đây, do] xét theo kẻ hoàn toàn chẳng đạt được ǵ, nên nói là “ngu si dị sanh”. Hoặc có thể là hạng người có phần nào dị sanh tánh th́ cũng thuộc vào “ngu si dị sanh” được nói ở đây. Do vậy, luận Thành Duy Thức nói: “Phàm là nói đến kẻ vô tánh, Ngu là nói đến kẻ hướng đến tịch diệt”.

 

          (Kinh) Thị chư phàm ngu nhược kiến, nhược văn, hành, phi hành pháp, như thị tư duy, tiện sanh chấp trước, vị dĩ vi thật.

          ()是諸凡愚若見若聞行非行法如是思惟便生執著謂以為實

          (Kinh: Các phàm phu ấy nếu thấy hay nghe các pháp hành và phi hành, tư duy như thế, liền sanh chấp trước, cho đó là thật).

 

          Tán rằng: Kết hợp pháp với thí dụ “vừa trông thấy, bèn chấp là thật”. Trước là kết hợp với “chấp có”, sau là kết hợp với “chẳng hiểu là không”. Đoạn này thuộc ư trước. Dù thấy hay nghe [các pháp], “hành” là hữu vi, “phi hành” là vô vi, liền sanh chấp trước, ngỡ là thật. [Điều này] tương ứng với khi mới gặp cảnh. “Như thị tư duy, tiện sanh chấp thật” (tư duy như thế, liền sanh chấp trước là thật): Kết hợp với thí dụ “sau đó, chẳng thể suy xét”.

 

          (Kinh) Ư Đệ Nhất Nghĩa, bất năng liễu tri chư pháp Chân Như thị bất khả thuyết.

          ()於第一義不能了知諸法真如是不可

          (Kinh: Đối với Đệ Nhất Nghĩa, chẳng thể biết rơ “các pháp Chân Như là chẳng thể nói”).

 

          Tán rằng: Kết hợp pháp với thí dụ “chẳng hiểu rơ là không có”. Do họ vô trí, chẳng hiểu Đệ Nhất Nghĩa, do chẳng chứng Như, chẳng biết tánh của các pháp là chẳng thể nói. Cứ theo đúng lời nói mà chấp là thật, chẳng biết nó thật sự là không!

 

          (Kinh) Thị chư thánh nhân nhược kiến, nhược văn, hành, phi hành pháp, tùy kỳ lực, năng bất sanh chấp trước, dĩ vi thật hữu.

          ()是諸聖人若見若聞行非行法隨其力能不生執著以為實有

          (Kinh: Các vị thánh nhân ấy nếu thấy hay nghe pháp hành và phi hành, tùy theo sức họ, có thể chẳng chấp trước, chẳng coi đó là thật sự có).

 

          Tán rằng: Kết hợp với thí dụ “bậc trí thấu đạt”. Trước là kết hợp với thí dụ “tự thông đạt”, sau là kết hợp với thí dụ “v́ người khác mà giả nói”. Trong phần đầu, cũng có ba ư:

          - Một, kết hợp với thí dụ “chẳng chấp là thật sự có”.

          - Hai, kết hợp với thí dụ “biết rơ cội huyễn”.

          - Ba, kết hợp với thí dụ “sau đó tư duy, biết là giả hữu”.

          Đoạn này thuộc ư đầu tiên. Nếu thấy hay nghe nói là vô vi, sẽ tùy theo năng lực của sức thắng giải, từ Sơ Địa trở lên sẽ tùy theo sức chứng trí của từng địa vị mà chẳng sanh chấp trước “đó là thật sự có”.

 

          (Kinh) Liễu tri nhất thiết vô thật hành pháp, vô thật phi hành pháp, đản vọng tư lượng.

          ()了知一切無實行法無實非行法但妄思量

          (Kinh: Biết rơ hết thảy hành pháp chẳng thật, phi hành pháp chẳng thật, chỉ là suy lường hư vọng).

 

          Tán rằng: Kết hợp với thí dụ “biết rơ cội huyễn”. Biết là do huyễn, duyên theo nghiệp phiền năo, hoặc do t́nh kiến Pháp Chấp mà hàng Nhị Thừa dấy khởi suy nghĩ, so đo hư vọng, chẳng như trong danh tướng ngôn từ [chấp là] thật sự có hành pháp hữu vi, chẳng như trong danh tướng ngôn từ [chấp trước] thật sự có phi hành pháp vô vi.

 

          (Kinh) Hành, phi hành tướng, duy hữu danh tự, vô hữu thật thể.

          ()行非行相唯有名字無有實體

          (Kinh: Hành tướng và phi hành tướng chỉ có danh tự, chẳng có thật thể).

 

          Tán rằng: Kết hợp với thí dụ “sau đó tư duy, biết là giả có”. Chỉ có danh ngôn (danh từ, ngôn thuyết) thuộc về thế tục nói là có, chẳng như họ nói “thật sự có một cái Thể chân thật”.

 

          (Kinh) Thị chư thánh nhân tùy thế tục thuyết, v dục linh tha tri chân thật nghĩa.

          ()是諸聖人隨世俗為欲令他知真實義

          (Kinh: Tức là các thánh nhân nói thuận theo thế tục, v́ muốn cho người khác biết nghĩa chân thật).

 

          Tán rằng: Kết hợp với thí dụ “v́ người khác mà giả nói”. Thuận theo danh tướng, ngôn từ của thế tục mà nói là vô vi, v́ muốn khiến cho người khác biết nghĩa vô vi chân thật, hoặc muốn khiến cho họ chứng Đệ Nhất Nghĩa chân thật, chẳng phải là v́ các vị [thánh nhân] chẳng thấy Chân Như mà có thể hành vậy.

 

          (Kinh) Như thị Phạm vương! Thị chư thánh nhân dĩ thánh trí kiến, liễu pháp Chân Như bất khả thuyết cố, hành, phi hành pháp diệc phục như thị.

          ()如是梵王是諸聖人以聖智見了法真如不可行非行法亦復如是

          (Kinh: Như thế đó Phạm vương! Các vị thánh nhân ấy do dùng thánh trí để thấy, hiểu pháp Chân Như chẳng thể nói, đối với hành pháp và phi hành pháp cũng giống như thế).

 

          Tán rằng: Kết lại đoạn thứ ba, có hai ư:

          - Một, kết lại phần “biết thật sự chẳng có”.

          - Hai, kết lại ư “tùy thuận thế tục mà nói là có”.

          Đoạn này thuộc ư thứ nhất. Thánh nhân do trí vô phân biệt, biết rơ tánh Chân Như là cội gốc của hết thảy các pháp đều ĺa ngôn thuyết, chẳng thể nói năng, biết những điều được gọi pháp vô vi cũng chỉ là danh từ, ngôn thuyết, chẳng có thật thể, không ǵ chẳng phải là hành pháp và phi hành pháp ĺa ngôn từ, [các Ngài giả nói như vậy] chỉ nhằm trừ bệnh [chấp trước cho chúng sanh], chẳng phải là trừ pháp (tức chẳng phải phủ định các pháp).

 

          (Kinh) Linh tha chứng tri, cố thuyết chủng chủng thế tục danh ngôn.

          ()令他證知說種種世俗名

          (Kinh: Khiến cho người khác chứng biết, v́ thế nói các thứ danh từ, ngôn ngữ thế tục).

 

          Tán rằng: Kết lại ư nghĩa “thuận theo thế tục mà nói Có”, cũng là mượn cách nói ấy để hiển lộ các pháp, với dụng ư khiến cho người khác chứng biết pháp vô vi, xả phàm, thành thánh. Thuận theo thế tục mà nói các thứ danh từ, ngôn ngữ thế tục như Uẩn, Xứ, Giới v.v…, với dụng ư: Kết lại các thí dụ, chẳng có một pháp nào là Thật Tướng, chỉ do nhân duyên mà được thành lập. Trên đây, phần nhiều là xét theo khía cạnh “phàm phu thuận theo cái thức của chính ḿnh mà khởi huyễn, thành ra hiểu biết khác biệt”. Nếu dựa theo cách giải thích đối với thí dụ thứ ba, chuẩn theo ư nghĩa ấy, sẽ biết ngay! Xét theo phần kinh văn kết luận ở đây, cách hiểu thứ ba hay hơn cả. Lại nữa, vốn do hỏi: “Tu hành như thế nào? Nương vào đâu để nói?” cho nên lập ra lời vấn nạn. Kết hợp thí dụ với pháp chỉ v́ lẽ này. Do vậy, cách hiểu thứ ba là thù thắng.

 

5.10.4.3.2.4. Đại Phạm Vương hỏi [người quán Không] sẽ được lợi ích nhiều hay ít?

 

          (Kinh) Thời, Đại Phạm vương vấn Như Ư Bảo Quang Diệu Bồ Tát ngôn: - Hữu kỷ chúng sanh năng giải như thị thậm thâm chánh pháp?

          ()時大梵王問如意寶光耀菩薩言有幾眾生能解如是甚深正法

    (Kinh: Khi đó, Đại Phạm vương hỏi Như Ư Bảo Quang Diệu Bồ Tát rằng: - Có bao nhiêu chúng sanh có thể hiểu chánh pháp rất sâu như thế này?)

 

          Tán rằng: Phần thứ tư là hỏi “đạt được lợi ích nhiều hay ít?” Trong phần này, có bốn ư: Một là hỏi, hai là đáp, ba là cật vấn, bốn là dung hội. Đoạn này thuộc phần thứ nhất, tức là “hỏi”. Có nghĩa là Phạm Vương tuy có thể hiểu biết các điều vui, nhưng thuận theo t́nh kiến chấp trước “thật sự có sanh” mà nêu ra câu hỏi, v́ muốn trừ chấp trước “đó là thật”, khiến cho chúng sanh sanh tâm biết huyễn, ḥng có thể khởi tu.

 

          (Kinh) Đáp ngôn: - Phạm vương! Hữu chúng huyễn nhân tâm, tâm số pháp năng giải như thị thậm thâm chánh pháp.

          ()答言梵王有眾幻人心心數法能解如是甚深正法

    (Kinh: Đáp rằng: - Phạm vương! Có ai [biết rơ] tâm và tâm số pháp của các huyễn nhân sẽ có thể hiểu chánh pháp rất sâu như thế).

 

          Tán rằng: Ư thứ hai là đáp. [Nói là] “hữu” nhằm vạch rơ chẳng phải là “tŕ”. Hết thảy chúng sanh nếu có ai có thể biết tâm và tâm số pháp thuộc Y Tha Khởi Tánh đều là như huyễn nhân v.v… sẽ có thể hiểu pháp rất sâu này. Nếu chẳng có tánh Đại Thừa, sẽ chẳng thể như thế được! Có nghĩa là: Người có thể biết Biến Kế chẳng có, như huyễn, chẳng thật, như người tương tự (huyễn nhân) dường như là người, tâm và tâm số do Y Tha mà huyễn có, tức là ngộ chứng tánh Viên Thành Thật. Đó là lần lượt tiến nhập đạo lư ba tánh (Y Tha Khởi, Biến Kế Sở Chấp, và Viên Thành Thật), trước hết là hiểu rơ Biến Kế, tiếp đó ngộ Y Tha, sau cùng là chứng Viên Thật. Như có bài tụng rằng: “Ư thằng khởi xà giác, kiến thằng liễu nghĩa vô, chứng kiến bỉ phần thời, tri như xà trí loạn” (Sợi thừng ngỡ là rắn, thấy thừng hiểu nghĩa Không, khi chứng được Kiến Phần, biết trí ngỡ rắn loạn).

          Hoặc có thể hiểu đây là gián tiếp đối với nghi vấn chấp trước “chúng sanh thật sự có hay không”, mà đáp “chúng sanh thật sự như các huyễn nhân”, chẳng có người thật sự. Nói lời giải đáp ấy, nhằm nêu rơ: Người có thể nghe pháp c̣n tự chẳng có, làm sao có thể hiểu pháp cho được? Như trong kinh Vô Cấu Xưng (kinh Duy Ma Cật), ngài Xá Lợi Tử hỏi thiên nữ rằng: “Nhữ ư thử một, đương sanh hà xứ?” (Cô ở nơi đây chết đi, sẽ sanh vào chỗ nào?) Đáp rằng: “Như Lai sở hóa đương sanh sở xứ, ngă đương sanh bỉ” (Như Lai sẽ sanh vào nơi nào để giáo hóa, tôi sẽ sanh vào đó). Xá Lợi Tử nói: “Như Lai sở hóa vô một, vô sanh, vân hà đáp đắc ngôn đương sở sanh xứ?” (Như Lai giáo hóa chẳng chết đi, chẳng sanh ra, sao lại đáp ‘sẽ sanh vào chỗ Như Lai sẽ sanh?’) Thiên nữ nói: “Chư pháp hữu t́nh ưng tri diệc nhĩ, vô một, vô sanh, vân hà vấn ngă đương sanh hà xứ?” (Thầy cũng phải nên biết các pháp hữu t́nh chẳng mất đi, chẳng sanh ra, sao lại hỏi tôi sẽ sanh về chỗ nào?)

 

          (Kinh) Phạm vương viết: - Thử huyễn hóa nhân, Thể thị phi hữu, thử chi tâm số, tùng hà nhi sanh?

          ()梵王曰此幻化人體是非有此之心數從何而生

          (Kinh: Phạm vương nói: - Người huyễn hóa ấy chẳng có Thể, tâm số ấy từ đâu mà sanh?)

 

          Tán rằng: Ư thứ ba là vấn nạn. Nương theo t́nh kiến chấp trước của thế tục, huyễn chắc chắn chẳng có, [vậy th́] cái tâm có thể chứng và tâm pháp từ đâu mà sanh? Chẳng phải là đứa con của thạch nữ có tâm để có thể chứng! Đây là vấn nạn dựa theo chấp “vô”, cũng nhằm trừ cái thấy là “vô”!

 

          (Kinh) Đáp viết: - Nhược tri pháp giới bất hữu, bất vô, như thị chúng sanh năng giải thâm nghĩa.

          ()答曰若知法界不有不無如是眾生能解深義

          (Kinh: Đáp rằng: - Nếu biết pháp giới chẳng có, chẳng không, chúng sanh như thế có thể hiểu nghĩa sâu).

 

          Tán rằng: Đây là phần dung thông. Nếu chấp nhất định là có hay không, sẽ chẳng thể ngộ biết Chân Như pháp giới. Cùng ĺa hữu và vô, hành b́nh đẳng hạnh. Sự b́nh đẳng ấy có thể ngộ từ duyên sanh, cho nên là “như huyễn mà có”. Do chẳng có thật tánh, nên nói là Vô, chẳng như ngôn thuyết [cứ khăng khăng] “nhất định thật sự là hữu hay là vô!” Chúng sanh có thể hiểu nghĩa sâu như thế, liền có thể trừ các chấp trước “hữu, vô, một, khác, thường, đoạn” v.v… hành Bồ Đề hạnh.

 

5.10.4.3.3. Phạm vương tán thán, lănh ngộ pháp sâu

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phạm vương bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Thị Như Ư Bảo Quang Diệu Bồ Tát bất khả tư nghị, thông đạt như thị thậm thâm chi nghĩa.

          ()爾時梵王白佛言世尊是如意寶光耀菩薩不可思議通達如是甚深之義

     (Kinh: Lúc bấy giờ, Phạm vương bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch đức Thế Tôn! Vị Như Ư Bảo Quang Diệu Bồ Tát này chẳng thể nghĩ bàn, thông đạt nghĩa rất sâu như thế).

 

          Tán rằng: Đoạn thứ ba là Phạm vương tán thán, lănh ngộ pháp sâu.

 

5.10.4.3.4. Đức Thế Tôn ấn khả, trần thuật lợi ích thù thắng

 

          (Kinh) Phật ngôn: - Như thị, như thị, Phạm vương! Như nhữ sở ngôn, thử Như Ư Bảo Quang Diệu dĩ giáo nhữ đẳng phát tâm tu học Vô Sanh Nhẫn pháp.

          ()佛言如是如是梵王如汝所言此如意寶光耀已教汝等發心修學無生忍法

    (Kinh: Đức Phật nói: - Đúng như vậy, đúng như vậy, Phạm Vương! Đúng như ông đă nói, vị Như Ư Bảo Quang Diệu này đă dạy các ông phát tâm tu học pháp Vô Sanh Nhẫn).

 

          Tán rằng: Đoạn thứ tư, đức Thế Tôn ấn khả, trần thuật lợi ích thù thắng. Nói “như thị” nhằm ấn chứng lời của Phạm vương. “Dĩ giáo nhữ đẳng” (đă dạy các ông…) là trần thuật lợi ích thù thắng, tức phần vui mừng khen ngợi!

 

5.10.4.3.5. Phạm vương lănh ngộ, vui mừng

 

          (Kinh) Thị thời, Đại Phạm Thiên Vương, dữ chư Phạm chúng tùng ṭa nhi khởi, thiên đản hữu kiên, hiệp chưởng, cung kính, đảnh lễ Như Ư Bảo Quang Diệu Bồ Tát túc.

          ()是時大梵天王與諸梵眾從座而起偏袒右肩合掌恭敬頂禮如意寶光耀菩薩足

          (Kinh: Khi đó, Đại Phạm thiên vương và các Phạm chúng từ chỗ ngồi đứng lên, trật vai áo phải, chắp tay, cung kính, đảnh lễ dưới chân Như Ư Bảo Quang Diệu Bồ Tát).

 

          Tán rằng: Đoạn thứ năm, “Phạm vương lănh ngộ, hoan hỷ”. Có hai ư:

          - Một, biết là cái nhân thù thắng, bèn thay đổi nét mặt, biểu lộ sự kiền thành, cung kính.

          - Hai, mừng vui v́ chính ḿnh được nghe.

          Đoạn này thuộc ư thứ nhất.

 

          (Kinh) Tác như thị ngôn: - Hy hữu, hy hữu! Ngă đẳng kim nhật hạnh ngộ đại sĩ, đắc văn chánh pháp.

          ()作如是言希有希有我等今日幸遇大士得聞正法

          (Kinh: Nói như thế này: - Hiếm có! Hiếm có! Chúng tôi ngày nay may mắn gặp bậc đại sĩ, được nghe chánh pháp).

 

          Tán rằng: [Phạm vương] mừng rỡ v́ chính ḿnh được nghe:     

          - Một, tán thán [Như Ư Bảo Quang Diệu Bồ Tát] thành tựu đức thù thắng.

          - Hai, tán thán Ngài có thể lợi tha. V́ thế, lặp lại “hy hữu”. Lại do đắc ngộ, do nghe pháp, nên lặp lại “hy hữu”.

 

5.10.4.3.6. Đức Thế Tôn thọ kư cho thiên nữ, Phạm vương vui mừng

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Phạm vương ngôn: - Thị Như Ư Bảo Quang Diệu ư vị lai thế, đương đắc tác Phật, hiệu Bảo Diễm Cát Tường Tạng Như Lai, Ứng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Viên Măn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

          ()爾時世尊告梵王言是如意寶光耀於未來世當得作佛號寶焰吉祥藏如來正遍知明行圓滿善逝世間解無上士調御丈夫天人師世尊

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Phạm vương rằng: - Cô Như Ư Bảo Quang Diệu này trong đời vị lai sẽ được làm Phật, hiệu là Bảo Diễm Cát Tường Tạng Như Lai, Ứng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Viên Măn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn).

 

          Tán rằng: Ư nghĩa thức sáu, “đức Thế Tôn thọ kư cho thiên nữ thành Phật”, Phạm chúng vui mừng. Hiệu Bảo Diễm là do nghe kinh Kim Quang Minh, lại ngộ các pháp như ánh nắng gợn. Cát Tường là trong hết thảy các thời, có thể ban sự cát tường cho chúng sanh. “Tạng” có nghĩa là bao hàm. Cát tường vô lượng, trọn đủ các công đức, chẳng có thuở cùng tận, cho nên gọi là Cát Tường Tạng. Văn tướng dễ hiểu!

 

5.10.4.4. Đại chúng khi ấy nghe kinh được lợi ích

5.10.4.4.1. Thập Địa Bồ Tát đạt được lợi ích bất thoái chuyển

 

          (Kinh) Thuyết thị phẩm thời, hữu tam thiên ức Bồ Tát ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề đắc bất thoái chuyển.

          ()說是品有三千億菩薩於阿耨多羅三藐三菩提得不退轉

          (Kinh: Khi nói phẩm này, có ba ngàn ức Bồ Tát đắc bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

          Tán rằng: Đoạn lớn thứ tư là nói đại chúng khi đó nghe kinh đạt được lợi ích bao nhiêu, có ba ư:

          - Một, hàng Thập Địa đạt được lợi ích chẳng thoái chuyển.

          - Hai, hàng Thập Hồi Hướng được lợi ích kiến đạo.

          - Ba, hàng Thập Trụ được lợi ích chẳng thoái chuyển.

          Đoạn này thuộc ư thứ nhất. Bất Thoái có bốn loại, ở đây là Hạnh Bất Thoái, tức là nhập Đệ Bát Địa, phiền năo thuộc về tướng và dụng chẳng thể lay động họ!

 

5.10.4.4.2. Đạt được lợi ích Kiến Đạo

 

          (Kinh) Bát thiên ức thiên tử, vô lượng vô số quốc vương, thần dân, viễn trần ly cấu, đắc Pháp Nhăn Tịnh.

          ()八千億天子無量無數國王臣民遠塵離垢得法眼淨

          (Kinh: Tám ngàn ức thiên tử, vô lượng vô số quốc vương và thần dân xa trần ĺa cấu, đạt được pháp nhăn thanh tịnh).

 

          Tán rằng: Đạt được lợi ích kiến đạo. “Thiên” bao gồm [chư thiên trong] Dục Giới và Sắc Giới. Luận Hiển Dương Thánh Giáo viết: “Cực thích phi ác thú, cực hân phi thượng nhị” (ưu sầu tột bậc chẳng phải là đường ác, vui sướng tột bậc chẳng phải là hai cơi trên, tức Sắc Giới và Vô Sắc Giới)[12] chính là nói theo người đốn ngộ, chẳng chướng ngại [chư thiên thuộc] Sắc Giới hồi tâm nhập Kiến Đạo. Lại c̣n là nói theo Nhị Thừa, chẳng phải là xét theo Đại Thừa. Quyển tám mươi ba của luận Du Già Sư Địa giải thích “viễn trần ly cấu” như sau: “Lại nữa, Trần là nói đến ngă mạn và hết thảy các phiền năo bị đoạn. Cấu là nói tới tất cả các thô trọng thượng phẩm. Pháp là nói các pháp chẳng trụ trong tự tướng và cộng tướng. Pháp Nhăn là nói như thật hiện chứng, chỉ có pháp huệ. Nói ‘đắc pháp’ tức là tùy thuận chứng đắc quả Sa Môn. Ở đây nói là ‘tùy đắc’, nhằm chỉ rơ đạt được hai thứ bất định: Một là bất định do vượt ngoài thứ tự. Hai là chung cho tam thừa, có người chẳng đắc quả; cho nên nói là Tùy. Viễn Trần là thật sự thấy đạo Vô Gián, liền nói đoạn trừ cái Thấy có các phiền năo bị đoạn. Ĺa tướng cấu, thấy đạo giải thoát, nói là ‘ĺa thô trọng’. Nếu coi chủng tử là Thô Trọng th́ chúng đều thuộc vào vô gián, tức là nói riêng về chủng tử hiện tại. Nếu xét theo tập khí th́ cũng thấy tướng trạng chung, nói là đắc quả”. Đại Trang Nghiêm Luận quyển bảy tuy lời văn khác biệt đôi chút, nhưng có cùng ư nghĩa với luận Du Già Sư Địa. C̣n Tạp Tập Luận th́ nói: “Các pháp nhẫn có thể xa ĺa Trần, các pháp trí có thể ĺa Cấu”. Xét theo Tùy Chuyển Môn[13], trong kiến đạo thật sự, chẳng quán riêng Đế; hoặc gồm thâu tam thừa, thuận theo pháp để nói th́ cũng chẳng mâu thuẫn!

 

5.10.4.4.3. Thập Trụ đạt được lợi ích

 

          (Kinh) Nhĩ thời, hội trung hữu ngũ thập ức Bật-sô hành Bồ Tát hạnh, dục thoái Bồ Đề tâm.      

          ()爾時會中有五十億苾芻行菩薩行欲退菩提心

          (Kinh: Lúc bấy giờ, trong hội có năm mươi ức Bật-sô hành Bồ Tát hạnh, toan lui sụt tâm Bồ Đề).

 

          Tán rằng: Sau đó là nói hàng Thập Trụ đạt được lợi ích bất thoái. Có hai ư:

          - Một, đạt được lợi ích nơi cái nhân, chẳng lui sụt sự tấn tu.

          - Hai, đạt được lợi ích nơi cái quả, nhân viên măn, được thọ kư.

          Kinh văn thuộc ư trước lại gồm bốn phần:

          - Một, trước đó [các tỳ-kheo] tâm sắp lui sụt.

          - Hai, do nghe [thiên nữ giảng pháp] mà họ được vững ư.

          - Ba, lại đạt được sự tăng tấn thù thắng.

          - Bốn, hồi hướng Bồ Đề.

          Đoạn này thuộc ư thứ nhất, bao gồm năm ư:

          - Một, chỗ được lợi ích (trong pháp hội).

          - Hai, số lượng người được lợi ích (năm mươi ức bật-sô).

          - Ba, người được lợi ích (hàng bật-sô).

          - Bốn, pháp để tu hành (Bồ Tát hạnh).

          - Năm, trước đó, họ muốn thoái thất.

          Người toan thoái thất có hai loại: Một là đă đắc mà lui sụt, hai là chưa đắc mà lui sụt. Hạng thứ nhất thuộc Địa Tiền, loại thứ hai là hàng Bồ Tát chưa chứng Thất Địa. Người đă đắc có hai loại: Vừa đạt được thắng giải, hai là chứng pháp. Người đạt được thắng giải có hai loại: Một là Tín, hai là Hạnh. Loại thứ nhất là Tín mà thoái thất th́ thuộc địa vị trước hay sau tâm thứ năm trong Thập Tín. Hạnh mà thoái thất th́ là trước khi đạt tới Đệ Lục Trụ. Tín bất thoái là chẳng lui sụt, chẳng dấy lên tà kiến. Hạnh bất thoái là chẳng lui sụt xuống Nhị Thừa. Nhưng kinh Nhân Vương Bát Nhă dạy: “Thập thiên kiếp trung, hành Bồ Tát đạo, tùy phong Đông, Tây, hoặc tấn, hoặc thoái” (Trong mười ngàn kiếp, hành Bồ Tát đạo, tùy theo gió thổi sang phía Đông hay phía Tây mà hoặc tiến, hoặc lùi), tức là nói theo tướng trạng chung của Tín và Hạnh. Kiếp có lớn hay nhỏ khác nhau. Kinh Tịnh Hạnh Ưu Bà Tắc Giới nói ngài Xá Lợi Phất đă hành [Bồ Tát đạo] sáu mươi kiếp mà c̣n thoái thất Đại Thừa, tức là nói theo đại kiếp.

 

          (Kinh) Văn Như Ư Bảo Quang Diệu Bồ Tát thuyết thị pháp thời, giai đắc kiên cố bất khả tư nghị măn túc thượng nguyện.

          ()聞如意寶光耀菩薩說是法皆得堅固不可思議滿足上願

          (Kinh: Khi nghe Như Ư Bảo Quang Diệu Bồ Tát nói pháp ấy, đều đắc nguyện bậc thượng trọn vẹn kiên cố chẳng thể nghĩ bàn).

 

          Tán rằng: Do nghe pháp, bèn vững ư trụ nơi quả Đại Bồ Đề, gọi là “chẳng thể nghĩ bàn”. Do nhất định đạt được Trụ Bất Thoát, trọn vẹn nguyện bậc thượng. “Nguyện bậc thượng” chính là nguyện cầu đại Bồ Đề, bao gồm tự lợi và lợi tha.

 

          (Kinh) Cánh phục phát khởi Bồ Đề chi tâm, các tự thoát y cúng dường Bồ Tát, trùng phát vô thượng thắng tấn chi tâm, tác như thị nguyện: “Nguyện linh ngă đẳng công đức, thiện căn, tất giai bất thoái”.

          ()更復發起菩提之心各自脫衣供養菩重發無上勝進之心作如是願願令我等功德善根悉皆不退

          (Kinh: Lại phát khởi tâm Bồ Đề, ai nấy cởi y cúng dường Bồ Tát, lại phát tâm tiến lên thù thắng vô thượng, nguyện như thế này: “Nguyện cho công đức và thiện căn của chúng tôi thảy đều chẳng lui sụt”).

 

          Tán rằng: Sau đó, được tăng tấn thù thắng. Có bốn ư:

          - Một, lại phát nguyện cầu Bồ Đề.

          - Hai, tu cúng dường.

          - Ba, lại nguyện tu hạnh thù thắng.

          - Bốn, từ “như thị nguyện” (nguyện như thế) trở đi là nguyện đắc bất thoái.

 

          (Kinh) Hồi hướng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          ()迴向阿耨多羅三藐三菩提

          (Kinh: Hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

          Tán rằng: Ư thứ tư là hồi hướng lợi ích đă đạt được từ cái nhân trên đây.

 

          (Kinh) Phạm vương! Thị chư bật-sô y thử công đức, như thuyết tu hành, quá cửu thập đại kiếp, đương đắc giải ngộ, xuất ly sanh tử.

          ()梵王是諸苾芻依此功德如說修過九十大劫當得解悟出離生死

          (Kinh: Phạm vương! Các vị bật-sô ấy nương theo công đức này để tu hành đúng như lời dạy, sau chín mươi đại kiếp, sẽ được giải ngộ, xuất ly sanh tử).

 

          Tán rằng: Sau đó, đạt được lợi ích nơi cái quả. Có hai ư:

          - Một, đạt được Sơ Địa.

          - Hai, từ “nhĩ thời, Thế Tôn” (lúc bấy giờ, đức Thế Tôn) trở đi, đạt tới địa vị cùng cực, sẽ được thọ kư.

          Đoạn này thuộc ư thứ nhất. Do công đức nghe kinh này, cũng như do lại phát tâm tu hành, lại c̣n tu hành đúng như lời dạy, qua khỏi chín mươi đại kiếp, sẽ đắc vô lậu Nhị Không giải ngộ, thoát khỏi Phần Đoạn sanh tử, gọi là “ly sanh tử”. Nương theo công đức ấy, lại c̣n tu hành đúng như lời dạy, đạt tới địa vị Hồi Hướng; v́ thế, nói là “quá cửu thập đại kiếp” (qua khỏi chín mươi đại kiếp). Do trong lúc tu hành Thập Hồi Hướng, nơi mỗi địa vị, đều trải qua mười kiếp như kinh Tịnh Hạnh Ưu Bà Tắc Giới đă nói.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn tức vị thọ kư: - Nhữ chư bật-sô! Quá tam thập A-tăng-kỳ kiếp, đương đắc tác Phật, kiếp danh Nan Thắng Quang Vương, quốc danh Vô Cấu Quang.

          ()爾時世尊即為授記汝諸苾芻過三十阿僧祇劫當得作佛劫名難勝光王國名無垢光

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liền v́ họ thọ kư: - Hàng bật-sô các ông! Qua khỏi ba mươi A-tăng-kỳ kiếp, sẽ được thành Phật, kiếp tên là Nan Thắng Quang Vương, cơi nước tên Vô Cấu Quang).

 

          Tán rằng: Thọ kư cái quả trong tương lai, có sáu ư. Ư đầu tiên là thời tiết. “Qua khỏi ba mươi A-tăng-kỳ”: Theo bộ Nhiếp Luận đời Lương, tu Thập Địa, [thời gian tu viên măn] mỗi Địa là ba A-tăng-kỳ, cho nên đạt đến Thập Địa th́ là ba mươi A-tăng-kỳ. Ư thứ hai [trong đoạn chánh kinh trên đây] là tên kiếp (Nan Thắng Quang Vương), ư thứ ba là tên nước (Vô Cấu Quang).

 

          (Kinh) Đồng thời giai đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, giai đồng nhất hiệu, danh Nguyện Trang Nghiêm Gián Sức Vương, thập hiệu cụ túc.

          ()同時皆得阿耨多羅三藐三菩提皆同一號名願莊嚴間飾王十號具足

          (Kinh: Cùng lúc đều đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều cùng một hiệu là Nguyện Trang Nghiêm Gián Sức Vương, mười hiệu trọn đủ).

 

          Tán rằng: Điều thứ tư là khi thành Phật bèn nói là “đồng thời”. Điều thứ năm là cái quả đạt được chính là Vô Thượng Bồ Đề. Điều thứ sáu là danh hiệu của Phật.

          Hỏi: Không chỗ nào có thể dung nạp hai đức Như Lai đồng thời, cùng chỗ! Năm mươi ức vị Phật đồng thời thành Phật bằng cách nào?

          Đáp: Xét theo cơi để Phật giáo hóa th́ hai vị Phật không cùng một cơi, cũng như xét theo chuyện hiện tướng th́ cũng chẳng đồng thời. Xét theo Tha Dụng Độ và cùng nhau hợp tác th́ nói là “đồng thời”. Lại nữa, có thể là cơi nước, tên kiếp, danh tự tuy đồng, nhưng phương vị và khí thế giới mỗi vị Phật mỗi khác, cho nên có thể đồng thời làm Phật.

 

5.10.4.5. So sánh để hiển thị sự thù thắng ḥng khiến cho thính chúng vâng nhận, hành tŕ

5.10.4.5.1. Nêu bày sự thù thắng

 

          (Kinh) Phạm vương! Thị Kim Quang Minh vi diệu kinh điển nhược chánh văn tŕ, hữu đại oai lực.

          ()梵王是金光明微妙經典若正聞持有大威力

    (Kinh: Phạm vương! Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này nếu nghe và thọ tŕ chân chánh, sẽ có oai lực to lớn).

 

          Tán rằng: Đoạn lớn thứ năm là so lường, nói rơ sự thù thắng để khuyên lănh thọ, hành tŕ. Kinh văn chia thành ba phần: Một là nêu ra sự thù thắng, hai là so sánh, ba là khuyên học. Đoạn này thuộc phần đầu.

 

5.10.4.5.2. So lường

 

          (Kinh) Giả sử hữu nhân ư bách thiên đại kiếp hành Lục Ba La Mật vô hữu phương tiện.

          ()假使有人於百千大劫行六波羅蜜無有方便

          (Kinh: Giả sử có người trong trăm ngàn đại kiếp hành Lục Ba La Mật chẳng có phương tiện).

 

          Tán rằng: Kế đó là so lường:

          - Trước là so lường sự thù thắng.

          - Sau là khuyên thọ tŕ, học tập.

          Ư thứ nhất lại có ba phần:        

          - Một, nêu ra cái kém cỏi để so sánh (hành Lục Ba La Mật mà chẳng có phương tiện trong trăm ngàn đại kiếp).

          - Hai, nói về tŕ kinh.

          - Ba, chánh thức so lường.

          Đoạn này thuộc ư thứ nhất. Tuy hành Lục Độ, nhưng chẳng có hai phương tiện, tức là bạt tế (cứu vớt) và hồi hướng. Kinh này dạy tu phát nguyện, hồi hướng. Kinh này lại c̣n nói chẳng trụ vào phương tiện.

          Hỏi: Nếu chẳng hồi hướng, sao có thể gọi là Độ?

          Đáp: Do chẳng được nhiếp thọ trong bảy loại tối thắng, đối với mỗi môn đều dựa theo sự nhiếp thọ khác để nói, hoặc là tương tự Lục Độ.

 

          (Kinh) Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, thư tả như thị Kim Quang Minh kinh, bán nguyệt, bán nguyệt, chuyên tâm độc tụng, thị công đức tụ ư tiền công đức bách phần bất cập nhất, năi chí toán, số, thí dụ, sở bất năng cập.         ()若有善男子善女人書寫如是金光明經半月半月專心讀誦是功德聚於前功德百分不及一乃至算數譬喻所不能

          (Kinh: Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân biên chép kinh Kim Quang Minh như thế này, cứ mỗi nửa tháng chuyên tâm đọc tụng, khối công đức ấy so với công đức trước th́ công đức trước đó chẳng sánh bằng một phần trăm, cho tới toán, số, thí dụ, đều chẳng thể sánh bằng).

         

          Tán rằng: Đây là phần kinh văn nói về hai ư kia (thọ tŕ kinh và so lường). Pháp hạnh có mười điều, chỉ nêu ra ba hạnh là biên chép, đọc, và tụng. Dựa theo đó để nói, bởi lẽ hạnh cúng dường, bố thí cho người khác đều kém hơn, c̣n tư duy và tu tập th́ thù thắng hơn, cho nên lược đi, không nêu ra.

 

5.10.4.5.3. Khuyên học

 

          (Kinh) Phạm vương! Thị cố, ngă kim linh nhữ tu học, ức niệm, thọ tŕ, vị tha quảng thuyết.

          ()梵王是故我今令汝修學憶念受持為他廣

          (Kinh: Phạm vương! Do vậy, ta nay bảo các ông tu học, nghĩ nhớ, thọ tŕ, v́ người khác rộng nói).

 

          Tán rằng: Ư thứ ba là khuyên học, có ba phần. Phần đầu là khuyên lơn.

 

          (Kinh) Hà dĩ cố?

          ()何以故

          (Kinh: V́ sao vậy?)

 

          Tán rằng: Gạn hỏi.

 

          (Kinh) Ngă ư văng tích hành Bồ Tát đạo thời, do như dũng sĩ nhập ư chiến trận, bất tích thân mạng, lưu thông như thị vi diệu kinh vương, thọ tŕ, độc tụng, vị tha giải thuyết.

          ()我於往昔行菩薩道時猶如勇士入於戰陣不惜身命流通如是微妙經王受持讀誦為他解

          (Kinh: Ta xưa kia, khi hành Bồ Tát đạo, giống như dũng sĩ vào chiến trận, chẳng tiếc thân mạng, lưu thông vua trong các kinh vi diệu như thế, thọ tŕ, đọc tụng, v́ người khác giải nói).

 

          Tán rằng: Giải thích. Có ba phần: Trước là pháp thuyết, kế đó là thí dụ, cuối cùng là kết hợp thí dụ với pháp. Trước hết là phần pháp thuyết. Hành ba thứ tinh tấn, gia hạnh nhiếp thiện lợi lạc, nương theo bốn pháp hạnh (thọ tŕ, đọc, tụng, v́ người khác giải nói) để lưu thông kinh này, giống như dũng sĩ. Kinh Di Giáo dạy: “Thí như trước khải, nhập trận tắc vô sở úy” (ví như khoác áo giáp, vào trận chẳng sợ hăi).

 

          (Kinh) Phạm vương! Thí như Chuyển Luân Thánh Vương, nhược vương tại thế, thất bảo bất diệt. Vương nhược mạng chung, sở hữu thất bảo tự nhiên diệt tận.

          ()梵王譬如轉輪聖王若王在世七寶不滅王若命終所有七寶自然滅盡

          (Kinh: Phạm vương! Ví như Chuyển Luân Thánh Vương, nếu vua tại thế, bảy báu chẳng diệt. Nếu vua mạng chung, tất cả bảy báu tự nhiên diệt hết).

 

          Tán rằng: Đây là thí dụ. Bảy báu ví như Thất Thánh Tài, hoặc ví như Thất Giác Phần. Như quyển mười của Đại Trang Nghiêm Luận nói: “Niệm giống như Luân Bảo hàng phục quốc gia chưa phục, v́ đối với cảnh giới chưa hàng phục, Niệm có thể hàng phục. Trạch [giác phần] giống như Tượng Bảo, do voi có thể hàng phục các nước ḱnh địch. Do Trạch có thể phá kẻ oán mạnh mẽ là phân biệt. Tấn giống như Mă Bảo, v́ đại địa mênh mông, ngựa có thể nhanh chóng chạy cùng tận. Do Tấn mà có thể tột cùng nhanh chóng giác ngộ Chân Như. Hỷ giống như Châu Bảo (Như Ư Bảo Châu) v́ ánh sáng của châu soi tan tối tăm, vua hoan hỷ tột bậc. [Cũng giống như thế], ánh sáng pháp phá tối tăm, tâm hoan hỷ tṛn đầy. Ỷ[14] giống như Nữ Bảo, vua hưởng vui sướng do nữ sờ chạm. Trí thoát khỏi chướng ngại keo tham, c̣n Ỷ dứt ác. Định giống như tạng thần (quan trông coi kho báu), vua cần ǵ, chủ tạng thần đều lấy ra. Trí có điều ǵ cần dùng đều sanh từ Định. Xả giống như chủ binh thần, bỏ yếu, lấy mạnh, theo vua không mệt mỏi. Bồ Tát tu hành vứt bỏ ác, giữ thiện, thuận theo trí vô phân biệt, vô công dụng”. Kinh này như vua, công đức như báu.

 

          (Kinh) Phạm vương! Thị Kim Quang Minh vi diệu kinh vương nhược hiện tại thế, vô thượng pháp bảo, tất giai bất diệt. Nhược vô thị kinh, tùy xứ ẩn một.

          ()梵王是金光明微妙經王若現在世無上法寶悉皆不滅若無是經隨處隱沒

          (Kinh: Phạm vương! Kinh vương Kim Quang Minh vi diệu này nếu hiện diện trên cơi đời, pháp bảo vô thượng thảy đều bất diệt. Nếu không có kinh này, [các pháp bảo] ở khắp nơi sẽ ẩn mất).

 

          Tán rằng: Kết hợp thí dụ với pháp. “Vô thượng pháp bảo” tức là Thất Bảo Tài (Thất Thánh Tài), hoặc Thất Giác Phần, hoặc hết thảy các công đức, tức là ư nghĩa của chữ Kinh: Như sợi chỉ xâu hoa, như sợi dọc (kinh) giữ sợi ngang (vĩ) [trong tấm vải dệt], có thể diễn nói giáo pháp thù thắng, hiển sanh công đức. V́ thế, lúc kinh không có, th́ pháp cũng không có.

 

          (Kinh) Thị cố, ưng đương ư thử kinh vương, chuyên tâm thính văn, thọ tŕ, độc tụng, vị tha giải thuyết, khuyến linh thư tả, hành Tinh Tấn Ba La Mật, bất tích thân mạng, bất đạn b́ lao, công đức trung thắng. Ngă chư đệ tử ưng đương như thị tinh cần tu học.

          ()是故應當於此經王專心聽聞受持讀誦為他解說勸令書行精進波羅蜜不惜身命不憚疲勞功德中勝我諸弟子應當如是精勤修學

          (Kinh: V́ thế, hăy nên đối với kinh vương này, chuyên tâm lắng nghe, thọ tŕ, đọc tụng, v́ người khác giải nói, khuyên bảo biên chép, hành Tinh Tấn Ba La Mật, chẳng tiếc thân mạng, chẳng sợ nhọc nhằn, sẽ là thù thắng trong các công đức. Các đệ tử của ta hăy nên siêng ṛng tu học như thế).

 

          Tiếp đó là khuyên học, có ba ư:

          - Một, khởi pháp hạnh đối với kinh.

          - Hai, đạt được công đức thù thắng.

          - Ba, từ “ngă chư đệ tử” (các đệ tử của ta) trở đi, kết lại để khuyên hành. Hành Tinh Tấn Ba La Mật, tức là dạy hành pháp hạnh, khởi tinh tấn.

 

5.10.4.6. Chư thiên nghe đức Phật sắc truyền, nguyện hộ tŕ, lưu thông

5.10.4.6.1. Nghi thức thỉnh cầu đức Phật cho phép thủ hộ

                   

          (Kinh) Nhĩ thời, Đại Phạm thiên vương dữ vô lượng Phạm chúng, Đế Thích, tứ vương, cập chư Dược Xoa, câu tùng ṭa khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng cung kính.

          ()爾時大梵天王與無量梵眾帝釋四王及諸藥叉俱從座起偏袒右肩右膝著地合掌恭敬

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Đại Phạm thiên vương cùng vô lượng Phạm chúng, Đế Thích, bốn thiên vương, và các Dược Xoa, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất, chắp tay, cung kính).

 

          Tán rằng: Đoạn lớn thứ sáu là “chư thiên v.v… nghe sắc truyền, nguyện hộ tŕ, lưu thông”. Kinh văn chia thành bốn ư:

          - Một, nghi thức thỉnh cầu hộ pháp.

          - Hai, chánh thức phát nguyện thủ hộ.

          - Ba, đức Phật tán thán, thọ kư.

          - Bốn, tứ thiên vương v.v… vui mừng lănh thọ.

          Đoạn này thuộc ư thứ nhất.

 

5.10.4.6.2. Phát nguyện thủ hộ

 

          (Kinh) Nhi bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă đẳng giai nguyện thủ hộ, lưu thông thị Kim Quang Minh vi diệu kinh điển.

          ()而白佛言世尊我等皆願守護流通是金光明微妙經典

          (Kinh: Bèn bạch Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Chúng con đều nguyện thủ hộ, lưu thông kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này).

 

          Tán rằng: Nguyện thủ hộ, lại gồm có bốn ư:

          - Một, hộ tŕ chánh pháp.

          - Hai, hộ tŕ pháp sư.

          - Ba, hộ tŕ quốc độ.

          - Bốn, thủ hộ người cúng dường.

 

          (Kinh) Cập thuyết pháp sư, nhược hữu chư nạn, ngă đương trừ khiển, linh cụ chúng thiện, sắc lực sung túc, biện tài vô ngại, thân ư thái nhiên.

          ()說法師若有諸我當除遣令具眾善色力充足辨才無礙身意泰然

          (Kinh: Và nếu thuyết pháp sư có các nạn, con sẽ trừ khử, khiến cho đầy đủ các điều thiện, sắc lực sung túc, biện tài vô ngại, thân ư thảnh thơi).

 

          Tán rằng: Hộ tŕ pháp sư. Hộ tŕ pháp sư gồm năm điều: Một là trừ ác, hai là [khiến cho pháp sư] đạt được điều thiện, ba là thân an, bốn là trọn đủ biện tài, năm là tâm thảnh thơi.

 

          (Kinh) Thời hội thính giả giai thọ an lạc.

          ()時會聽者皆受安樂

          (Kinh: Khi đó, người nghe trong hội đều được an lạc).

 

          Tán rằng: Hộ tŕ thính chúng.

 

          (Kinh) Sở tại quốc độ, nhược hữu cơ cẩn, oán tặc, phi nhân vi năo hại giả, ngă đẳng thiên chúng giai vi ủng hộ, sử kỳ nhân dân an ổn, phong lạc, vô chư uổng hoạnh, giai thị ngă đẳng thiên chúng chi lực.

          ()所在國土若有饑饉怨賊非人為惱害者我等天眾皆為擁護使其人民安隱豐樂無諸枉橫皆是我等天眾之力

          (Kinh: Nếu quốc độ có kinh này tồn tại mà có đói kém, oán tặc, phi nhân gây năo hại, chư thiên chúng con sẽ đều ủng hộ, khiến cho nhân dân nước ấy an ổn, giàu vui, không có các thứ tai nạn ngang trái, oan uổng, đó đều là do sức của chư thiên chúng con).

 

          Tán rằng: Hộ tŕ quốc độ, có bốn ư:

          - Một, trừ đói kém.

          - Hai, trừ oán tặc.

          - Ba, trừ phi nhân [năo hại].

          - Bốn, kết luận về sự thủ hộ, tức là đoạn kinh văn từ “ngă đẳng thiên chúng” trở đi.

 

          (Kinh) Nhược hữu cúng dường thị kinh điển giả, ngă đẳng diệc đương cung kính, cúng dường như Phật bất dị.

          ()若有供養是經典者我等亦當恭敬供養如佛不異

          (Kinh: Nếu có người cúng dường kinh điển này, chúng con cũng sẽ cung kính, cúng dường như Phật chẳng khác).

 

          Tán rằng: Hộ tŕ người cúng dường.

 

5.10.4.6.3. Đức Phật tán thán, thọ kư

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật cáo Đại Phạm thiên vương, cập chư Phạm chúng, năi chí tứ vương, chư Dược Xoa đẳng: - Thiện tai, thiện tai! Nhữ đẳng đắc văn thậm thâm diệu pháp.

          ()爾時佛告大梵天王及諸梵眾乃至四王諸藥叉等善哉善哉汝等得聞甚深妙法

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Đại Phạm thiên vương và các phạm chúng, cho đến bốn thiên vương, các Dược Xoa v.v… rằng: - Lành thay! Lành thay! Các ông được nghe diệu pháp rất sâu).

 

          Tán rằng: Kế đó là đức Phật tán thán, thọ kư. Một là tán thán [đại chúng] nghe pháp, hai là tán thán sự hộ pháp, ba là tán thán [do hộ pháp sẽ] đạt được phước, bốn là thọ kư. Đoạn này thuộc ư thứ nhất.

 

          (Kinh) Phục năng ư thử vi diệu kinh vương phát tâm ủng hộ, cập tŕ kinh giả,