Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ

Quyển thứ năm

Đời Đường, Tam Tạng pháp sư Nghĩa Tịnh vâng chiếu dịch kinh

Dịch kinh sa-môn Huệ Chiểu soạn sớ

金光明最勝王經疏

卷第

唐三藏法師義淨奉制譯

翻經沙門慧沼撰

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

Phần 11

 

 

5.11. Phẩm thứ mười một: Tứ Thiên Vương quán sát trời người (Tứ Thiên Vương quán sát nhân thiên phẩm đệ thập nhất, 四天王觀察人天品第十一)

 

          Phẩm Tứ Thiên Vương Quán Sát Nhân Thiên gồm ba môn phân biệt:

          - Một, ư nghĩa v́ sao có phẩm này?

          - Hai, giải thích tên gọi của phẩm.

          - Ba, giải thích vấn nạn.

 

5.11.1. Ư nghĩa v́ sao có phẩm này?

 

          Nói đến ư nghĩa v́ sao có phẩm này, chín phẩm trước nói về phần Chánh Tông của kinh, lợi ích đại chúng trong hội thuở ấy. Hai mươi mốt phẩm sau đó hoàn toàn là lưu thông, nhằm tạo lợi ích cho chúng sanh trong đời mạt về sau. Trong phần Chánh Tông, có ba phần là Quả, Hạnh và Cảnh. Nay trong phần Lưu Thông, cũng có ba loại:

          - Một, mười sáu phẩm đầu tiên thuộc phần Học Hạnh Lưu Thông.

          - Hai, bốn phẩm như phẩm Tán Thán của mười vị nữ Bồ Tát là Tán Thán Lưu Thông.

          - Ba, một phẩm Phó Chúc thuộc phần Phó Thọ Lưu Thông (căn dặn truyền trao lưu thông).

          Phần Học Hạnh Lưu Thông chia làm năm phần nhỏ:

          - Một, phẩm Tứ Thiên Vương Quán Sát khuyên tu hành.

          - Hai, ba phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc, Vô Nhiễm Trước Đà La Ni, và Như Ư Bảo Châu nói về thủ hộ.

          - Ba, năm phẩm Đại Biện Tài Thiên Nữ, Đại Cát Tường Thiên Nữ, Đại Cát Tường Thiên Nữ Tăng Trưởng Tài Vật, phẩm Kiên Lao Địa Thần, và phẩm Chánh Liễu Tri (tức phẩm Tăng Thận Nhĩ Da Dược Xoa Đại Tướng) là tăng trưởng phước trí.

          - Bốn, các phẩm Vương Pháp Chánh Luận, Thiện Sanh Vương, và Chư Thiên Dược Xoa Hộ Tŕ nói về sự thọ tŕ, học tập.

          - Năm, bốn phẩm từ Thọ Kư v.v… trở đi, kết lại ư khuyên bảo trên đây.

          Chư Phật thuyết pháp khiến cho chúng sanh được vui sướng. Tam Thân và Thọ Lượng là lạc quả (cái quả vui sướng), [Mộng Kiến] Sám Hối và Diệt Nghiệp Chướng là lạc nhân (cái nhân của sự vui sướng). [Đó là điều thứ nhất].

          Điều thứ hai, đối với pháp được hành, phần Học Hạnh mang ư nghĩa chỉ ra người có thể học [pháp ấy]. Đă là do pháp thù thắng mà thành tựu người thù thắng, lại do loài người có thể hoằng dương chánh pháp, v́ vậy, kế đó, sẽ tán thán người hành và pháp [được hành]. Diễn nói và tán thán đă xong xuôi, bèn truyền trao, căn dặn tu tập. Phần Chánh Tông nói về lạc quả và lạc nhân đă xong, nay trong phẩm này, [tứ thiên vương] quan sát trời, người, khiến cho họ trừ chướng năo, thường đạt được an lạc. Do vậy, khuyên [đại chúng trong pháp hội thuở ấy] hăy nên hoằng truyền kinh này. V́ thế, có phẩm này sanh khởi.

 

5.11.2. Giải thích tên gọi của phẩm

 

          Giải thích danh xưng th́ Quán là “huệ chiếu”, Sát là “soi xét”. Nhân Thiên là đối tượng được quan sát, Tứ Thiên Vương là người quán. Đây chính là dùng nhân và pháp ghép lại để đặt tên. Phẩm này nói cặn kẽ chuyện ấy, cho nên nói là phẩm Tứ Thiên Vương Quán Sát Nhân Thiên.

 

5.11.3. Giải trừ vấn nạn

 

          * Hỏi: Kinh dạy: “Quán sát, ủng hộ thử Thiệm Bộ châu, ngă đẳng chư vương danh HThế” (Quan sát, ủng hộ châu Thiệm Bộ này, các vua chúng con được gọi là Hộ Thế), người có thể thực hiện [pháp môn này] bao gồm cả ba châu và các cơi trời thuộc Dục Giới, Sắc Giới, cớ sao chỉ quan sát, khuyên nhủ châu này?       

          Đáp: Xét theo chỗ trụ của Phật mà nói quán nơi đây; thật ra bao gồm cả các chỗ khác. Hơn nữa, chúng sanh trong ba châu kia và các cơi trời thuộc Dục Giới và Sắc Giới đă hơi nhàm chán khổ sự, trí huệ chẳng mạnh mẽ. [C̣n chúng sanh trong] đường ác tuy khổ, nhưng không có huệ tâm thù thắng! Để có thể khởi đầu phát tâm, ắt cần phải nhàm chán sâu xa, trí huệ dũng mănh. V́ thế, riêng nói quán Thiệm Bộ Châu.

          * Hỏi: Cảnh được hộ tŕ của bốn vị thiên vương th́ [mỗi vị] đều có phương vực [riêng], v́ sao bốn thiên vương đều nói sẽ hộ tŕ châu này?

          Đáp: Xét theo cảnh thế tục, mỗi vị [thiên vương] hộ tŕ một châu, nhưng do kính pháp, tôn trọng người [hành tŕ kinh này], nên đều cùng hộ tŕ nơi đây. Hơn nữa, cảnh để trụ th́ tuy mỗi vị một phương, [nhưng do] thống nhiếp rồng, quỷ, đều cùng hộ tŕ cả bốn nơi. Do xét theo phương diện hộ tŕ pháp thù thắng, cho nên riêng nói quán châu này.

          * Hỏi: Phẩm này và phẩm sau đều nói về Tứ Thiên Vương, hai phẩm có ǵ khác biệt?

          Đáp: Trong phẩm này, tứ vương tán thán, khuyên hành kinh này, phát nguyện hộ tŕ. Trong phẩm sau, đức Thế Tôn ca ngợi, dạy họ phát nguyện rộng hộ tŕ. V́ thế, có hai phẩm tách biệt.

 

5.11.4. Giải thích kinh văn

5.11.4.1. Tán thán kinh này tôn quư, thù thắng

5.11.4.1.1. Tứ thiên vương cung kính

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Đa Văn thiên vương, Tŕ Quốc thiên vương, Tăng Trưởng thiên vương, Quảng Mục thiên vương, câu tùng ṭa khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng hướng Phật, lễ Phật túc dĩ.

          ()爾時多聞天王持國天王增長天王廣目天王俱從座起偏袒右肩右膝著地合掌向佛禮佛足已

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Đa Văn thiên vương, Tŕ Quốc thiên vương, Tăng Trưởng thiên vương, Quảng Mục thiên vương đều từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất, chắp tay hướng về đức Phật, lễ dưới chân đức Phật xong).

 

          Tán rằng: Kinh văn trong phẩm này chia đại lược thành bốn phần:

          - Một, tứ thiên vương tán thán kinh này tôn quư, thù thắng.

          - Hai, từ “Thế Tôn! Ngă đẳng tứ vương” (Bạch Thế Tôn! Bốn thiên vương chúng con) trở đi, tứ thiên vương trần thuật sự tu hành của chính ḿnh.

          - Ba, từ “hựu phục ư thử” (lại c̣n đối với kinh này) trở đi, tứ thiên vương khuyên mọi người hoằng dương kinh.

          - Bốn, từ “đại chúng văn dĩ” (đại chúng nghe xong), đại chúng trong hội khi ấy vâng theo lời dạy mà tu học.

          Kinh văn trong phần thứ nhất gồm bốn ư:

          - Một, tứ thiên vương kiền thành cung kính.

          - Hai, tán thán pháp là tôn quư.

          - Ba, nêu bày năng lực của kinh.

          - Bốn, thỉnh đức Phật thường luôn nói kinh này.

          Đoạn này thuộc ư thứ nhất. Trước hết là liệt kê bốn vị, tức Tŕ Quốc (Dhṛtarāṣṭra, Đề Đầu Lại Tra), Tăng Trưởng (Virūḍhaka, Tỳ Lưu Lặc Xoa), Quảng Mục (Virūpākṣa, Tỳ Lâu Bác Xoa), Đa Văn (Vaiśravaṇa, Tỳ Sa Môn), theo thứ tự thống lănh các phương Đông, Nam, Tây, Bắc, đều ngự trên tầng thứ tư của núi Diệu Cao (Tu Di), có lúc cũng trụ tŕ hai đỉnh núi. Nay ở đây nêu tên Đa Văn trước, do vị này có ḷng tin sâu xa, rất nổi danh. Tŕ Quốc thiên vương thống lănh Kiện Đạt Phược (Càn Thát Bà, Gandharva, Hương Âm Thần) và Tất Xá Giá (Tỳ Xá Xà, Piśāca, Đạm Tinh Khí Quỷ). Tăng Trưởng thiên vương thống lănh Cưu Bạn Đồ (Cưu Bàn Trà, Kumbhāṇḍa, Ủng H́nh Quỷ) và Bệ Lệ Đa (Preta, ngạ quỷ). Quảng Mục thiên vương thống lănh hết thảy các rồng và Bố Đát Na (Bhūtana, Nhiệt Bệnh Quỷ). Đa Văn thiên vương thống lănh hết thảy Dược Xoa (Yakṣa, Dạ Xoa, Tiệp Tật Quỷ) và La Sát Sa (Rākṣasa, La Sát, Tốc Tật Quỷ). Vị cuối cùng kiền thành, cung kính.

 

5.11.4.1.2. Tán thán pháp tôn quư

 

          (Kinh) Bạch ngôn: - Thế Tôn! Thị Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh, nhất thiết chư Phật thường niệm quán sát, nhất thiết Bồ Tát chi sở cung kính, nhất thiết thiên long thường sở cúng dường, cập chư thiên chúng thường sanh hoan hỷ, nhất thiết hộ thế xưng dương, tán thán, Thanh Văn, Độc Giác, giai cộng thọ tŕ.

          ()白言世尊是金光明最勝王經一切諸佛常念觀察一切菩薩之所恭敬一切天龍常所供養及諸天眾常生歡喜一切護世稱揚讚歎聲聞獨覺皆共受持

    (Kinh: Bạch rằng: - Bạch Thế Tôn! Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này được hết thảy chư Phật thường nghĩ quán sát, được hết thảy Bồ Tát cung kính, hết thảy trời, rồng thường cúng dường, và các vị trời thường sanh ḷng hoan hỷ, hết thảy các vị hộ thế khen ngợi, tán thán, Thanh Văn và Độc Giác đều cùng thọ tŕ).

 

          Tán rằng: Tán thán pháp là tôn quư. “Nhất thiết Phật sở hộ niệm” (được hết thảy chư Phật hộ niệm) tức là hết thảy những người có căn cơ Đại Thừa thuần thục được chư Phật hộ niệm mà v́ họ giảng nói kinh này. Từ “nhất thiết Bồ Tát” (hết thảy các vị Bồ Tát) trở đi, chỉ rơ kinh này được các bậc thánh kính trọng.

 

5.11.4.1.3. Nêu bày năng lực của kinh

 

          (Kinh) Tất năng minh chiếu chư thiên cung điện, năng dữ nhất thiết chúng sanh thù thắng an lạc, chỉ tức địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, chư thú khổ năo, nhất thiết bố úy tất năng trừ điễn, sở hữu oán địch tầm tức thoái tán, cơ cẩn ác thời giai linh phong nhẫm, tật dịch bệnh khổ giai linh quyên dũ, nhất thiết tai biến, bách thiên khổ năo, hàm tất tiêu diệt.

          ()悉能明照諸天宮殿能與一切眾生殊勝安樂止息地獄餓鬼傍生諸趣苦惱一切怖畏悉能除殄所有怨敵尋即退散饑饉惡時皆令豐稔疾疫病苦皆令蠲愈一切災變百千苦惱咸悉消滅

          (Kinh: Đều có thể chiếu sáng cung điện của chư thiên, có thể ban cho hết thảy chúng sanh an lạc thù thắng, ngưng dứt sự khổ năo trong các đường địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, hết thảy sợ hăi đều có thể trừ sạch, tất cả các oán địch lập tức lui tan, lúc xấu ác, đói kém, đều khiến cho được mùa, bệnh khổ tật dịch đều khiến khỏi hẳn, hết thảy tai biến, trăm ngàn khổ năo thảy đều tiêu diệt).

 

          Tiếp đó, nêu bày năng lực của kinh. Trước hết là ban niềm vui cho trời, người. Từ “chỉ tức” (chấm dứt) trở đi chính là [ngưng dứt] sáu nỗi khổ:

          - Một, ngưng dứt nỗi khổ trong bốn đường ác.

          - Hai, ngưng dứt năm nỗi khổ v́ sợ hăi.

          - Ba, ngưng dứt nỗi khổ v́ chiến tranh.

          - Bốn, ngưng dứt nỗi khổ v́ đói kém.

          - Năm, ngưng dứt nỗi khổ v́ dịch bệnh.

          - Sáu, ngưng dứt nỗi khổ v́ tai biến.

 

5.11.4.1.4. Thỉnh đức Phật thường luôn nói kinh này

 

          (Kinh) Thế Tôn! Thị Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh năng vi như thị an ổn lợi lạc, nhiêu ích ngă đẳng.

          ()世尊是金光明最勝王經能為如是安穩利樂饒益我等

    (Kinh: Bạch đức Thế Tôn! Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này có thể an ổn, lợi lạc, tạo lợi ích cho chúng con như thế).

 

          Kế đó, thỉnh đức Phật luôn tuyên nói [kinh này]. Trước hết, nhắc lại năng lực thù thắng [của kinh như đă nói] trên đây để làm nguyên do thỉnh cầu. “An ổn” là nói chung, “lợi lạc” là ban vui, “nhiêu ích” là dứt khổ.

 

          (Kinh) Duy nguyện Thế Tôn ư đại chúng trung, quảng vị tuyên thuyết. Ngă đẳng tứ vương, tịnh chư quyến thuộc văn thử cam lộ vô thượng pháp vị, khí lực sung thật, tăng ích oai quang, tinh tấn, dũng mănh, thần thông bội thắng.

          ()惟願世尊於大眾中廣為宣我等四王并諸眷屬聞此甘露無上法味氣力充實增益威光精進勇猛神通倍勝

          (Kinh: Kính mong đức Thế Tôn ở trong đại chúng, hăy rộng tuyên nói. Bốn vua chúng con và các quyến thuộc nghe pháp vị cam lộ vô thượng này, khí lực dồi dào, tăng thêm oai quang, tinh tấn, dũng mănh, thần thông thù thắng gấp bội).

 

          Kế đó, thỉnh cầu [đức Phật] luôn tuyên nói [kinh này]. Đầu tiên là thưa thỉnh, từ “ngă đẳng tứ vương” (bốn vua chúng con) trở đi, nêu ra lợi ích.

 

5.11.4.2. Tứ thiên vương trần thuật sự tu hành của chính ḿnh

         

          (Kinh) Thế Tôn! Ngă đẳng tứ vương tu hành chánh pháp, thường thuyết chánh pháp, dĩ pháp hóa thế. Ngă đẳng linh bỉ thiên, long, Dược Xoa, Kiện Thát Bà, A Tô La, Yết Lộ Đồ, Câu Bàn Đồ, Khẩn Na La, Mạc Hô La Già, cập chư nhân vương, thường dĩ vương pháp nhi hóa ư thế, giá khử chư ác sở hữu quỷ thần, hấp nhân tinh khí, vô từ bi giả, tất linh viễn khứ. Thế Tôn! Ngă đẳng tứ vương, dữ nhị thập bát bộ Dược Xoa đại tướng, tịnh dữ vô lượng bách thiên Dược Xoa, dĩ tịnh thiên nhăn quá ư thế nhân, quán sát, ủng hộ thử Thiệm Bộ châu. Thế Tôn! Dĩ thử nhân duyên, ngă đẳng chư vương danh Hộ Thế giả.

          ()世尊我等四王修行正法說正法以法化世我等令彼天藥叉健闥婆阿蘇羅揭路荼俱槃荼緊那羅莫呼羅伽及諸人王常以王法而化於世遮去諸惡所有鬼神吸人精氣無慈悲者悉令遠去世尊我等四王與二十八部藥叉大將并與無量百千藥叉以淨天眼過於世人觀察擁護此贍部洲世尊以此因緣我等諸王名護世者

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Bốn vua chúng con tu hành chánh pháp, thường nói chánh pháp, dùng pháp giáo hóa thế gian. Chúng con khiến cho trời, rồng, Dược Xoa, Kiện Thát Bà (Càn Thát Bà), A Tô La (A Tu La), Yết Lộ Đồ (Ca Lâu La), Câu Bàn Đồ (Cưu Bàn Trà), Khẩn Na La, Mạc Hô La Già (Ma Hầu La Già), và các vua trong loài người thường dùng phép vua để giáo hóa cơi đời, ngăn che, trừ khử tất cả các quỷ thần ác, và đều khiến cho những kẻ hút tinh khí của loài người, chẳng có ḷng từ bi lánh xa. Bạch Thế Tôn! Bốn vua chúng con và hai mươi tám bộ Dược Xoa đại tướng, cùng với vô lượng trăm ngàn Dược Xoa, dùng thiên nhăn thanh tịnh vượt xa người đời để quán sát, ủng hộ châu Thiệm Bộ (Diêm Phù) này. Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên này, các vua chúng con được gọi là Hộ Thế).

 

          Kế đó, trần thuật sự tu hành của chính ḿnh, có bốn ư:

          - Một, các thiên vương giáo hóa chân chánh, có thể tự hoằng dương kinh.

          - Hai, từ “ngă đẳng linh bỉ” (chúng con khiến cho họ) trở đi, [khiến cho] các quần thần, bầy tôi đồng tu chánh hạnh.

          - Ba, từ “giá khử” (ngăn che, trừ khử) trở đi, pháp vương có thể trừ ác.

          - Bốn, từ “Thế Tôn” trở đi, nêu lư do v́ sao các thiên vương có tên [là Hộ Thế (thủ hộ cơi đời)]. Ư nói: Do hoằng truyền chánh pháp để giáo hóa chúng sanh, danh và hạnh chẳng hư dối, cho nên gọi là Hộ Thế (hộ tŕ thế gian). “Hai mươi tám bộ” [Dược Xoa đại tướng] là như kinh Khổng Tước Vương[1] đă nói. Mỗi phương trong bốn phương có bốn vị, mỗi phương bàng có một vị, hai phương thượng và hạ, mỗi phương đều có bốn vị, hợp thành hai mươi tám bộ. “Dĩ tịnh thiên nhăn” (dùng thiên nhăn thanh tịnh) chẳng phải do tu mà có [thiên nhăn], mà là do báo đắc, có thể hơn hẳn người đời!

 

5.11.4.3. Tứ thiên vương khuyên người khác hoằng dương kinh

5.11.4.3.1. Trông thấy thế gian sanh ra tai nạn

 

          (Kinh) Hựu phục ư thử châu trung, nhược hữu quốc vương bị tha oán tặc thường lai xâm nhiễu, cập đa cơ cẩn, tật dịch lưu hành, vô lượng bách thiên tai ách chi sự.

          ()又復於此洲中若有國王被他怨賊常來侵擾及多饑饉疾疫流行無量百千災厄之事

    (Kinh: Lại c̣n ở trong châu này, nếu có quốc vương bị kẻ oán tặc thường đến xâm phạm, quấy nhiễu, và nhiều nạn đói, dịch bệnh lưu hành, vô lượng trăm ngàn chuyện tai ách).

 

          Tán rằng: Ư thứ ba là khuyên mọi người hoằng dương kinh. Có ba ư:

          - Một, thấy thế gian nẩy sanh tai nạn.

          - Hai, khuyên mọi người hoằng kinh để đối trị, trừ khử.

          - Ba, dạy các quốc vương hộ tŕ đất nước hăy kính trọng, tu hành.

          Đoạn đầu tiên này là ư “thấy các tai nạn nẩy sanh”.

 

5.11.4.3.2. Hoằng dương kinh để đối trị, trừ nạn

 

          (Kinh) Thế Tôn! Ngă đẳng tứ vương ư thử Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh, cung kính, cúng dường. Nhược hữu bật-sô pháp sư thọ tŕ, độc tụng, ngă đẳng tứ vương cộng văng giác ngộ, khuyến thỉnh kỳ nhân. Thời bỉ pháp sư do ngă thần thông giác ngộ lực cố, văng bỉ quốc giới, quảng tuyên lưu bố thị Kim Quang Minh vi diệu kinh điển. Do kinh lực cố, linh bỉ vô lượng bách thiên suy năo tai ách chi sự tất giai trừ khiển.

          ()世尊我等四王於此金光明最勝王經恭敬供養若有苾芻法師受持讀誦我等四王共往覺悟勸請其人時彼法師由我神通覺悟力故往彼國界廣宣流布是金光明微妙經典由經力故令彼無量百千衰惱災厄之事悉皆除遣

    (Kinh: Bạch Thế Tôn! Bốn vua chúng con cung kính, cúng dường kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này. Nếu có bật-sô pháp sư thọ tŕ, đọc tụng, bốn vua chúng con sẽ cùng đến giác ngộ, khuyến thỉnh người ấy. Khi đó, vị pháp sư ấy do sức thần thông giác ngộ của chúng con, sẽ đến quốc giới ấy rộng tuyên nói, lưu truyền kinh điển Kim Quang Minh vi diệu này. Do sức của kinh, sẽ khiến cho vô lượng trăm ngàn chuyện suy năo, tai ác ấy thảy đều trừ sạch).

 

          Kế đó, hoằng kinh để đối trị, trừ khử, có bốn ư:

          - Một, chỉ ra pháp có thể trừ khử.

          - Hai, từ “nhược hữu” (nếu có) trở đi, khuyên mọi người lưu truyền.

          - Ba, từ “thời bỉ pháp sư” (khi ấy, vị pháp sư đó) trở đi, hoằng truyền kinh này.

          - Bốn, từ “do kinh lực cố” (do sức của kinh) trở đi, trừ nạn, an lạc.

 

5.11.4.3.3. Dạy vua trong loài người thủ hộ đất nước, kính trọng, tu hành

 

          (Kinh) Thế Tôn! Nhược chư nhân vương ư kỳ quốc nội, hữu tŕ thị kinh bật-sô pháp sư chí bỉ quốc thời, đương tri thử kinh diệc chí kỳ quốc.

          ()世尊若諸人王於其國內有持是經苾芻法師至彼國時當知此經亦至其國

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Nếu các vua trong loài người khi trong nước ḿnh có vị bật-sô pháp sư tŕ kinh này tới nước ấy, hăy nên biết kinh này cũng tới nước đó).

 

          Kế đó, dạy các quốc vương để bảo vệ đất nước, hăy kính trọng, tu hành [kinh này]”. Có hai ư:

          - Một, người có đức tới đất nước.

          - Hai, dạy vua kính trọng.

          Người có thể hoằng đạo, người ấy đến đâu, pháp cũng theo đến đó. Chẳng phải là đạo hoằng người! Không có người [hoằng truyền], pháp cũng diệt! Hoằng dương pháp đă có lợi ích, vậy th́ phải nên kính trọng người tŕ kinh. Đoạn này thuộc ư đầu tiên.

 

          (Kinh) Thế Tôn! Thời bỉ quốc vương ưng văng pháp sư xứ, thính kỳ sở thuyết, văn dĩ hoan hỷ, ư bỉ pháp sư cung kính, cúng dường, thâm tâm ủng hộ, linh vô ưu năo, diễn thuyết thử kinh, lợi ích nhất thiết. Thế Tôn! Dĩ thị duyên cố, ngă đẳng tứ vương giai cộng nhất tâm hộ thị nhân vương, cập quốc nhân dân, linh ly tai hoạn, thường đắc an ổn.

          ()世尊時彼國王應往法師處聽其所聞已歡喜於彼法師恭敬供養深心擁護令無憂惱演說此經利益一世尊以是緣故我等四王皆共一心護是人王及國人民令離災患常得安穩

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Khi đó, vị quốc vương ấy hăy nên đến chỗ pháp sư, nghe ngài thuyết pháp. Nghe xong hoan hỷ, cung kính cúng dường vị pháp sư ấy, thâm tâm ủng hộ, khiến cho vị ấy chẳng ưu năo diễn nói kinh này, lợi ích hết thảy. Bạch Thế Tôn! Do bởi duyên này, bốn vua chúng con đều cùng nhất tâm thủ hộ vị quốc vương ấy và nhân dân trong nước, khiến cho họ ĺa tai hoạn, thường được an ổn).

 

          Kế đó, dạy vua hăy kính trọng [pháp sư thuyết pháp], có ba ư:

          - Một, khuyên vua hăy đến nghe [thuyết pháp] để trừ tai ương.

          - Hai, khuyên vua cúng dường để được vui sướng.

          - Ba, khuyên vua hăy kính trọng, giúp đỡ vị [thuyết pháp sư] ấy.

          Kinh văn thuộc phần thứ nhất có năm ư:

          - Một, dạy vua tôn trọng pháp, đến nghe [pháp sư giảng nói].

          - Hai, dạy vua nghe xong hăy nên vui mừng.

          - Ba, từ “ư bỉ pháp sư” (đối với pháp sư ấy) trở đi, dạy hăy cung kính, cúng dường, hộ vệ [vị [pháp sư] ấy.

          - Bốn, từ “diễn thuyết thử kinh” (diễn nói kinh này) trở đi, dạy hăy diễn nói pháp để lợi ích người khác.

          - Năm, từ “dĩ thị duyên cố” (do duyên cớ ấy) trở đi, tứ thiên vương sẽ v́ đất nước ấy mà trừ tai nạn.

 

          (Kinh) Thế Tôn! Nhược hữu bật-sô, bật-sô-ni, ổ-ba-sách-ca, ổ-ba-tư-ca, tŕ thị kinh giả, thời bỉ nhân vương tùy kỳ sở tu, cung cấp, cúng dường, linh vô phạp thiểu. Ngă đẳng tứ vương linh bỉ quốc vương cập dĩ quốc nhân, tất giai an ổn, viễn ly tai hoạn.

          ()世尊若有苾芻苾芻尼鄔波索迦鄔波斯迦持是經者時彼人王隨其所須供給供養令無乏少我等四王令彼國王及以國人悉皆安穩遠離災患

    (Kinh: Bạch Thế Tôn! Nếu có bật-sô (tỳ-kheo), bật-sô-ni (tỳ-kheo-ni), ổ-ba-sách-ca (ưu-bà-tắc), ổ-ba-tư-ca (ưu-bà-di) tŕ kinh này, khi đó, quốc vương ấy tùy theo người đó cần ǵ, đều cung cấp, cúng dường, khiến cho chẳng thiếu hụt. Bốn vua chúng con sẽ khiến cho quốc vương ấy và người trong nước thảy đều an ổn, xa ĺa tai nạn).

 

          Kế đó, khuyên [quốc vương] cung cấp [các thứ cần dùng cho người tŕ kinh] để [đất nước, quốc vương, và nhân dân đều] được vui sướng. Có ba ư:

          - Một, chỉ ra người hành pháp.

          - Hai, từ “thời bỉ nhân vương” (khi đó, vị quốc vương ấy) trở đi, dạy hăy cung cấp.

          - Ba, từ “ngă đẳng tứ vương” (bốn vua chúng con) trở đi, nói rơ vua và thần dân đều được vui sướng.

 

          (Kinh) Thế Tôn! Nhược hữu thọ tŕ, độc tụng thị kinh điển giả, nhân vương ư thử cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán, ngă đẳng đương linh bỉ vương ư chư vương trung, cung kính, tôn trọng, tối vi đệ nhất. Chư dư quốc vương cộng sở xưng thán.

          ()世尊若有受持讀誦是經典者人王於此供養恭敬尊重讚歎我等當令彼王於諸王中恭敬尊重最為第一諸餘國王共所稱歎

    (Kinh: Bạch Thế Tôn! Nếu có người thọ tŕ, đọc tụng kinh điển này, mà quốc vương cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán người ấy, chúng con sẽ khiến cho vị vua ấy được cung kính, tôn trọng tột bậc nhất trong các vua, và được các quốc vương khác cùng ca ngợi).

 

          Kế đó, khuyên do kính trọng [người tŕ kinh], sẽ được người khác tôn kính, có bốn ư:

          - Một, nêu ra người được kính trọng (tức người tŕ kinh).

          - Hai, từ “nhân vương ư thử” (quốc vương đối với người ấy) trở đi, khuyên quốc vương hăy nên kính trọng, tán thán [người tŕ kinh].

          - Ba, từ “ngă đẳng đương linh bỉ” (chúng con sẽ khiến cho vị vua đó) trở đi, nói về sự kính trọng, tán thán [của tứ thiên vương đối với quốc vương ấy].

          - Bốn, nói rơ người tôn kính [vị tŕ kinh] sẽ được người khác tôn kính.

 

5.11.4.4. Chúng hội khi ấy vâng theo lời dạy tu học

         

          (Kinh) Đại chúng văn dĩ, thán hỷ thọ tŕ.

          ()大眾聞已歎喜受持

          (Kinh: Đại chúng nghe xong, tán thán, hoan hỷ, thọ tŕ).

         

          Kế đó, phần thứ tư là đại chúng trong hội thuở đó vâng theo lời dạy mà tu học.

 

Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ

Quyển thứ sáu

 

5.12. Phẩm thứ mười hai: Tứ Thiên Vương Hộ Quốc (Tứ Thiên Vương Hộ Quốc phẩm đệ thập nhị, 四天王護國品第十二)

         

          Phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc gồm ba môn phân biệt:

          - Một, ư nghĩa v́ sao có phẩm kinh này.

          - Hai, giải thích tên gọi của phẩm.

          - Ba, giải đáp vấn nạn.

 

5.12.1. Ư nghĩa v́ sao có phẩm kinh này?

 

          Nói tới ư nghĩa v́ sao có phẩm này, phẩm trước tán thán kinh thù thắng, nhiệm mầu, khuyên người khác hoằng tŕ. Ba phẩm từ đây trở đi nói rơ kinh này tôn quư, hành giả sẽ được thủ hộ. Phẩm đầu là chư thiên thủ hộ, hai phẩm sau là dùng chú ngữ thủ hộ. Lại nữa, phẩm Tứ Thiên Vương trên đây là khuyên bảo người khác, c̣n phẩm này là [tứ thiên vương] phát nguyện tự thủ hộ. Phẩm trước dạy người khác hành hai thứ lợi (tự lợi và lợi tha), phẩm này nói chính ḿnh hành hai thứ lợi. Phẩm trước là tự ư [bốn vị thiên vương] khuyên tŕ; phẩm này là đức Phật rộng khuyên thủ hộ. V́ thế, sau phẩm trước bèn có phẩm này sanh khởi.

 

5.12.2. Giải thích tên gọi của phẩm

 

          Giải thích tên gọi của phẩm này: Tự tại, trong sáng, thần thông diệu dụng th́ gọi là Thiên. Làm vua thống nhiếp [các vị trời] quy hướng th́ gọi là Vương, do là vua của chư thiên. Đó là cách giải thích dựa theo lối Sĩ Dụng. Nơi chốn, thành tŕ bất đồng, quyền thống lănh chia thành bốn phương, [Tứ Thiên Vương] lại là cách gọi tên Đới Số (kèm theo con số trong danh xưng). “Hộ” là pḥng ngự, thâu nhiếp, nuôi nấng. “Pḥng ngự” nhằm trừ tai ương cho họ, “thâu nhiếp, nuôi nấng” nhằm tăng trưởng phước huệ. Tứ Thiên Vương người thủ hộ, Quốc là đối tượng được thủ hộ. [Nói Tứ Thiên Vương Hộ Q     uốc] là Năng (người có thể hộ quốc, tức Tứ Thiên Vương) và Sở (đối tượng được thủ hộ, tức quốc độ) được nói gộp chung. Phẩm này nói cặn kẽ chuyện ấy, nên gọi là phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc.

 

5.12.3. Giải đáp vấn nạn

 

          * Hỏi: Phẩm này thủ hộ quốc vương lẫn các vị thần, v́ sao chỉ nói là Tứ Thiên Vương hộ quốc?

          Đáp: Quốc vương hành pháp hộ quốc là do tứ thiên vương [sắc truyền]. Do các vị thần khác là bầy tôi của tứ thiên vương, chỉ nói là “tứ thiên vương hộ quốc”.

          * Hỏi: Hành pháp thủ hộ của tứ thiên vương chính là thủ hộ loài người, sao lại gọi là “hộ quốc”?

          Đáp: Loài người là cái gốc của đất nước. Như nói chỗ cư trụ của hữu t́nh là “Phật độ” (cơi Phật). Do vậy, tuy là thủ hộ loài người mà nói là “hộ quốc”.

          * Hỏi: Tam thừa thánh chúng, Đế Thích, Phạm vương, chư thiên thấy người hành pháp đều phải nên bảo vệ, thủ hộ, v́ sao chỉ nói tứ thiên vương hộ quốc?

          Đáp: Theo đúng lư, phải là đều có, nhưng chỉ nói đến người đáng nghe. Hơn nữa, nêu danh tứ thiên vương hộ thế, nhằm hiển thị các Ngài danh và hạnh tương xứng. V́ vậy, nêu tên tứ thiên vương, chẳng nhắc tới các vị hộ tŕ khác.

          * Hỏi: Chư thiên kính trọng tứ chúng hoằng kinh, cũng sẽ thủ hộ chánh pháp, v́ sao chỉ nói tứ thiên vương hộ quốc?

          Đáp: Hộ pháp nhằm dụng ư lợi ích chúng sanh. Pháp trụ có thể khiến cho đất nước an ổn. V́ nêu tỏ ḷng đại bi lợi tha, chỉ riêng nói hộ quốc, chẳng nhắc tới pháp!

 

5.12.4. Giải thích kinh văn

5.12.4.1. Đức Thế Tôn tán thán, dạy hăy tu

5.12.4.1.1. Tán thán để kết thành

5.12.4.1.1.1. Tán thán chung

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn văn Tứ Thiên Vương cung kính cúng dường Kim Quang Minh Kinh, cập năng ủng hộ chư tŕ kinh giả, tán ngôn: - Thiện tai! Thiện tai!

          ()爾時世尊聞四天王恭敬供養金光明經及能擁護諸持經者讚言善哉善哉

    (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nghe Tứ Thiên Vương cung kính cúng dường kinh Kim Quang Minh, và có thể ủng hộ những người tŕ kinh, khen rằng: - Lành thay! Lành thay!)

 

          Tán rằng: Trong phẩm này, chia đại lược thành sáu phần:

          - Một, đức Thế Tôn tán thán, dạy hăy tu.

          - Hai, tứ thiên vương vâng lời dạy, nguyện thủ hộ.

          - Ba, từ “thời Tứ Thiên Vương” (khi đó, Tứ Thiên Vương) trở đi, bốn vị thiên vương đội ân, tán thán đức Phật.

          - Bốn, đức Phật lại khuyên thủ hộ để kết lại.

          - Năm, từ “văn thị tụng” (nghe bài tụng ấy) trở đi, tứ thiên vương vui mừng, hộ tŕ.

          - Sáu, đại chúng nghe kinh được lợi ích.

          Phần thứ nhất chia thành hai đoạn:

          - Một, tán thán để kết thành.

          - Hai, khuyên thủ hộ.

          Trong phần tán thán th́ trước hết là tán thán chung, sau đó là tán thán riêng biệt. Đoạn này là tán thán chung. Một là tán thán sự hộ pháp, hai là tán thán [tứ thiên vương] thủ hộ loài người. Lại nữa, một là tán thán [tứ thiên vương đă] khuyên người khác [thủ hộ], hai là tán thán [tứ thiên vương] tự thủ hộ. Lại nữa, một là tán thán nhân lành trong đời trước, hai là tán thán hiện tại [tứ thiên vương] thủ hộ ngườipháp. V́ thế, lặp lại chữ “thiện tai”.

 

5.12.4.1.1.2. Tán thán riêng từng điều

 

          (Kinh) Nhữ đẳng tứ vương dĩ ư quá khứ vô lượng bách thiên vạn ức Phật sở, cung kính, cúng dường, tôn trọng, tán thán, thực chư thiện căn, tu hành chánh pháp, thường thuyết chánh pháp, dĩ pháp hóa thế.

          ()汝等四王已於過去無量百千萬億佛所恭敬供養尊重讚歎植諸善根修行正法正法以法化世

          (Kinh: Bốn thiên vương các ông trong đời quá khứ đă ở nơi vô lượng trăm ngàn vạn ức chư Phật, cung kính, cúng dường, tôn trọng, tán thán, gieo các thiện căn, tu hành chánh pháp, thường nói chánh pháp, dùng pháp giáo hóa cơi đời).

 

          Tán rằng: Tán thán riêng biệt, [gồm ba ư]:

          - Một, tán thán phước nghiệp.

          - Hai, từ “tu hành chánh pháp” trở đi là tán thán trí nghiệp.

          - Ba, từ “nhữ đẳng trường dạ” (các ông ở trong đêm dài) là tán thán bi nghiệp.

          Đoạn này gồm hai ư đầu. Ở chỗ chư Phật, tu ba nghiệp: Cúng dường, cung kính là thân nghiệp. Tôn trọng là ư nghiệp. Tán thán là ngữ nghiệp. Theo kinh Nhân Vương Bát Nhă, dùng [thời gian] một A-tăng-kỳ để cúng dường chư Phật, đạt được Sơ Địa, làm Tứ Thiên Vương.

 

          (Kinh) Nhữ đẳng trường dạ ư chư chúng sanh thường tư lợi ích, khởi đại từ tâm, nguyện dữ an lạc. Dĩ thị nhân duyên, năng linh nhữ đẳng hiện thọ thắng báo.

          ()汝等長夜於諸眾生常思利益起大慈心願與安樂以是因緣能令汝等現受勝報

          (Kinh: Các ông ở trong đêm dài, thường nghĩ lợi ích các chúng sanh, dấy tâm đại từ, nguyện ban cho an lạc. Do nhân duyên ấy, có thể khiến cho các ông thọ báo thù thắng trong hiện tại).

 

          Tán rằng: Hành bi nghiệp. Phần đầu là tán thán. Từ “dĩ thị nhân duyên” (do nhân duyên ấy) trở đi là kết lại.

 

5.12.4.1.2. Khuyên thủ hộ

 

          (Kinh) Nhược hữu nhân vương cung kính, cúng dường thử Kim Quang Minh tối thắng kinh điển, nhữ đẳng ưng đương cần gia thủ hộ, linh đắc an ổn. Nhữ chư tứ vương, cập dư quyến thuộc, vô lượng vô số bách thiên Dược Xoa hộ thị kinh giả, tức thị hộ tŕ khứ, lai, hiện tại chư Phật chánh pháp. Nhữ đẳng tứ vương, cập dư thiên chúng, tịnh chư Dược Xoa, dữ A Tô La cộng đấu chiến thời, thường đắc thắng lợi. Nhữ đẳng nhược năng hộ tŕ thị kinh, do kinh lực cố, năng trừ chúng khổ, oán tặc, cơ cẩn, cập chư tật dịch. Thị cố, nhữ đẳng nhược kiến tứ chúng thọ tŕ, độc tụng thử kinh vương giả, diệc ưng cần tâm, cộng gia thủ hộ, vị trừ suy năo, thí dữ an lạc.

          ()若有人王恭敬供養此金光明最勝經典汝等應當勤加守護令得安穩汝諸四王及餘眷屬無量無數百千藥叉護是經者即是護持去來現在諸佛正法汝等四王及餘天眾并諸藥叉與阿蘇羅共鬪戰時常得勝利汝等若能護持是經由經力故能除眾苦怨賊饑饉及諸疾疫是故汝等若見四眾受持讀誦此經王者亦應勤心共加守護為除衰惱施與安樂

          (Kinh: Nếu có quốc vương cung kính, cúng dường kinh điển Kim Quang Minh tối thắng này, các ông hăy nên thêm siêng năng thủ hộ, khiến cho họ được an ổn. Bốn vua các ông và các quyến thuộc, vô lượng vô số trăm ngàn Dược Xoa thủ hộ kinh này, tức là hộ tŕ chánh pháp của quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật. Bốn vua các ông và các thiên chúng khác, cùng với các Dược Xoa khi đánh nhau với A Tô La, thường được thắng lợi. Nếu các ông có thể hộ tŕ kinh này, do sức của kinh, có thể trừ các khổ, oán tặc, đói kém, và các tật dịch. V́ thế, các ông nếu thấy tứ chúng thọ tŕ, đọc tụng vua của các kinh này, cũng phải nên vận tâm siêng năng tăng thêm sức thủ hộ ḥng trừ suy năo, thí cho an lạc).

 

          Tán rằng: Khuyên hộ tŕ, có ba ư:

          - Một, khuyên hộ tŕ quốc vương.

          - Hai, từ “nhữ chư tứ vương” (bốn vua các ông) trở đi, khuyên thủ hộ chánh pháp.

          - Ba, từ “thị cố, nhữ đẳng” (v́ thế, các ông) trở đi là khuyên hộ tŕ tứ chúng tŕ kinh.

          Trong phần khuyên hộ pháp, trước là hộ pháp; sau đó, từ “nhữ đẳng tứ vương cập dư thiên chúng” (bốn vua các ông và các thiên chúng) trở đi, nói về lợi ích do hộ pháp. Trong phần lợi ích do hộ pháp:

          - Một là hàng phục, tự thắng kẻ oán địch.

          - Hai, từ “nhữ đẳng nhược năng” (nếu các ông có thể) trở đi, có thể trừ ba nạn: Một là oán tặc, hai là đói kém, ba là bệnh dịch.

          Phần kinh văn khuyên hộ tŕ tứ chúng dễ hiểu.

 

5.12.4.2. Tứ thiên vương vâng theo lời dạy, nguyện thủ hộ

5.12.4.2.1. Nguyện dùng thân để hộ pháp

5.12.4.2.1.1. Nguyện dùng thân thủ hộ loài người

5.12.4.2.1.1.1. Tứ thiên vương phát nguyện thủ hộ

5.12.4.2.1.1.1.1. Nêu ra ư nguyện thủ hộ

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Tứ Thiên Vương tức tùng ṭa khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng, cung kính, bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Thử Kim Quang Minh tối thắng kinh vương, ư vị lai thế, nhược hữu quốc độ, thành, ấp, tụ lạc, sơn lâm, khoáng dă, tùy sở chí xứ lưu bố chi thời.

          ()爾時四天王即從座起偏袒右肩右膝著地合掌恭敬白佛言世尊此金光明最勝經王於未來世若有國土城邑聚落山林曠野隨所至處流布之時

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Tứ Thiên Vương liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất, chắp tay, cung kính, bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Lúc kinh vương Kim Quang Minh tối thắng này, trong đời vị lai, nếu có cơi nước, thành, ấp, xóm làng, núi rừng, đồng hoang, bất cứ nơi nào có kinh này lưu truyền).

 

          Tán rằng: Đoạn lớn thứ hai là “bốn thiên vương vâng lời dạy, nguyện thủ hộ”. Có hai phần:

          - Một, nguyện dùng thân để hộ pháp.

          - Hai, từ “nhĩ thời, Thế Tôn! Phục nhược tứ thiên vương” (Lúc bấy giờ, bạch Thế Tôn! Nếu tứ thiên vương lại…) trở đi, nguyện dùng chú để thủ hộ.

          Trong phần “dùng thân để thủ hộ”, có hai đoạn:

          - Một, nguyện dùng thân để thủ hộ loài người.

          - Hai, từ “nhĩ thời, Tứ Thiên Vương” (lúc bấy giờ, Tứ Thiên Vương) trở đi, nguyện dùng thân hộ pháp.

          Pháp phải cậy vào người để hoằng truyền, tuyên dương. V́ thế, trước hết phải thủ hộ loài người. Loài người dùng pháp để thành tựu đức; [do vậy], kế đó, cần phải hộ pháp. Trong phần “thủ hộ loài người” tuy cũng là hộ pháp, nhưng có ư nói về thủ hộ loài người, cho nên tán thán hộ pháp. Hoặc có thể hiểu là: Trước hết, nguyện thủ hộ người lẫn pháp. Sau đó, lại so lường để khuyên hộ pháp lần nữa. Pháp là thầy của Phật; v́ thế, khuyên lơn nhiều lượt.

          Nay hăy theo ư đầu tiên để giải thích, phần thủ hộ loài người chia thành bốn phần:

          - Một, tứ thiên vương nguyện thủ hộ.

          - Hai, từ “nhĩ thời, Phật cáo” (lúc bấy giờ, đức Phật bảo) trở đi, đức Thế Tôn tán thành.

          - Ba, từ “nhĩ thời, Tứ Thiên Vương” (lúc bấy giờ, TThiên Vương) trở đi, dạy quốc vương quy cách hoằng pháp.

          - Bốn, từ “nhĩ thời, Tứ Thiên Vương” trở đi, quốc vương vâng theo pháp tu hành, được thủ hộ.

          Phần thứ nhất là “nguyện thủ hộ”, có hai ư:

          - Một, nêu ra ư nguyện thủ hộ.

          - Hai, từ “Thế Tôn! Nhược bỉ quốc vương” (bạch Thế Tôn! Nếu quốc vương ấy) trở đi, chánh thức phát nguyện thủ hộ.

          Trong phần “nêu ra ư nguyện thủ hộ”, [gồm có sáu ư]:

          - Một, nghi thức phát nguyện thủ hộ.

          - Hai, chỉ ra pháp được thủ hộ (kinh Kim Quang Minh).

          - Ba, lúc sẽ hộ pháp.

          - Bốn, chỗ hộ pháp (chỗ có kinh này lưu truyền).

          - Năm, người được thủ hộ.

          - Sáu, tướng trạng thủ hộ.

          Đoạn này bao gồm bốn ư đầu.

 

          (Kinh) Nhược bỉ quốc vương ư thử kinh điển, chí tâm thính thọ, xưng thán, cúng dường, tịnh phục cung cấp thọ tŕ thị kinh tứ bộ chi chúng, thâm tâm ủng hộ, linh ly suy năo.

          ()若彼國王於此經典至心聽受稱歎供養并復供給受持是經四部之眾深心擁護令離衰惱

          (Kinh: Nếu quốc vương ấy đối với kinh điển này, chí tâm nghe nhận, ca ngợi, cúng dường, lại c̣n cung cấp tứ bộ chúng thọ tŕ kinh này, thâm tâm ủng hộ, khiến họ ĺa suy năo).

 

          Kế đó, nói về người được thủ hộ:

          - Một, nói về người được thủ hộ.

          - Hai, từ “ư thử kinh điển” (đối với kinh điển này) trở đi, nguyên do [khiến cho tứ thiên vương] thủ hộ.

 

          (Kinh) Dĩ thị nhân duyên, ngă hộ bỉ vương, cập chư nhân chúng, giai linh an ổn, viễn ly ưu khổ, tăng ích thọ mạng, oai đức cụ túc.

          ()以是因緣我護彼王及諸人眾皆令安穩遠離憂苦增益壽命威德具足

          (Kinh: Do nhân duyên ấy, con thủ hộ vị vua ấy và mọi người, đều khiến cho họ an ổn, xa ĺa ưu khổ, tăng thêm thọ mạng, oai đức đầy đủ).

 

          Tiếp đó, nói về tướng trạng ủng hộ.

 

5.12.4.2.1.1.1.2. Chánh thức phát nguyện thủ hộ

 

          (Kinh) Thế Tôn! Nhược bỉ quốc vương kiến ư tứ chúng thọ tŕ kinh giả, cung kính thủ hộ do như phụ mẫu, nhất thiết sở tu tất giai cung cấp.

          ()世尊若彼國王見於四眾受持經者恭敬守護猶如父母一切所須悉皆供給

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Nếu quốc vương ấy thấy tứ chúng thọ tŕ kinh, liền cung kính thủ hộ giống như cha mẹ, hết thảy các thứ cần dùng thảy đều cung cấp).

 

          Tán rằng: Chánh thức phát nguyện thủ hộ, có ba ư:

          - Một, người được thủ hộ (tứ chúng thọ tŕ kinh này).

          - Hai, từ “kiến ư tứ chúng” (thấy tứ chúng) trở đi, nêu ra nguyên nhân khiến họ được thủ hộ.

          - Ba, từ “ngă đẳng tứ vương” (bốn vua chúng con) trở đi, nói rộng về tướng thủ hộ.

          Trong phần nói về người được thủ hộ, có hai ư:

          - Một, vua được gặp gỡ duyên thù thắng.

          - Hai, từ “cung kính” trở đi, tu tập hạnh thù thắng.

 

          (Kinh) Ngă đẳng tứ vương thường vị thủ hộ, linh chư hữu t́nh vô bất tôn kính. Thị cố, ngă đẳng tịnh dữ vô lượng Dược Xoa chư thần, tùy thử kinh vương sở lưu bố xứ, tiềm thân ủng hộ, linh vô lưu nạn.

          ()我等四王常為守護令諸有情無不尊敬是故我等并與無量藥叉諸神隨此經王所流布處潛身擁護令無留難

          (Kinh: Bốn vua chúng con thường sẽ ủng hộ, khiến cho các hữu t́nh không ai chẳng tôn kính. V́ thế, chúng con cùng với vô lượng các thần Dược Xoa, thuận theo chỗ kinh vương này lưu truyền mà ẩn thân ủng hộ, khiến cho họ chẳng gặp tai nạn).

 

          Tán rằng: Nói cặn kẽ tướng thủ hộ. Trước là hộ pháp, sau là thủ hộ loài người. Phần này là hộ pháp. Khiến cho người khác tôn kính pháp, chính ḿnh ắt phải tôn kính [trước đă]. Nếu chính ḿnh chẳng thực hiện, sao có thể khuyên chúng sanh cho được? V́ thế, chúng con đều ngầm thủ hộ kinh này!

 

          (Kinh) Diệc đương hộ niệm thính thị kinh nhân, chư quốc vương đẳng, trừ kỳ suy hoạn, tất linh an ổn, tha phương oán tặc giai sử thoái tán.

          ()亦當護念聽是經人諸國王等除其衰患悉令安穩他方怨賊皆使退散

          (Kinh: Cũng sẽ hộ niệm người nghe kinh này, và các vị quốc vương v.v… Trừ các suy hoạn, khiến cho họ đều an ổn, khiến cho oán tặc ở phương khác đều lui tan).

 

          Tán rằng: Sau đó, thủ hộ loài người. Có hai ư:

          - Một, nêu ra sự thủ hộ.  

          - Hai, từ “nhược hữu nhân vương” (nếu có quốc vương) trở đi, kết lại lần nữa ư thủ hộ loài người.

          Đoạn này thuộc ư thứ nhất.

 

          (Kinh) Nhược hữu nhân vương thính thị kinh thời, lân quốc oán địch hưng như thị niệm:Đương cụ tứ binh hoại bỉ quốc độ.

          ()若有人王聽是經時隣國怨敵興如是念當具四兵壞彼國土

          (Kinh: Nếu có quốc vương khi nghe kinh này, oán địch ở nước lân cận khởi lên ư niệm như thế này: - Hăy nên mang đủ bốn loại binh phá hoại cơi nước ấy).

 

          Tán rằng: Kết lại lần nữa chuyện thủ hộ loài người, có bốn ư:

          - Một, kẻ địch ở nước lân cận có ư niệm dấy binh.

          - Hai, do oai lực của kinh, chúng nó tự tan ră.

          - Ba, nhà vua ấy sai quân chinh phạt.

          - Bốn, thần giúp đỡ khiến cho kẻ địch quy hàng.

          Đoạn này thuộc ư thứ nhất.

 

          (Kinh) Thế Tôn! Dĩ thị kinh vương oai thần lực cố, thị thời lân địch cánh hữu dị oán nhi lai xâm nhiễu, ư kỳ cảnh giới, đa chư tai biến, dịch bệnh lưu hành.

          ()世尊以是經王威神力故是時隣敵更有異怨而來侵擾於其境界多諸災變疫病流行

    (Kinh: Bạch Thế Tôn! Do sức oai thần của kinh vương này, khi đó, nước oán địch lân cận lại có kẻ oán thù khác đến xâm phạm, quấy nhiễu, trong cơi nước của chúng nó, có nhiều thứ tai biến, bệnh dịch lan tràn).

 

          Kế đó là ư thứ hai, “chúng nó (oán địch từ lân quốc) tự tan tác”, do hai duyên:

          - Một, bị kẻ giặc khác tới xâm lấn.

          - Hai, nước của chúng nó bị tai ương, bệnh dịch.

 

          (Kinh) Thời vương kiến dĩ, tức nghiêm tứ binh, phát hướng bỉ quốc dục vi thảo phạt.

          ()時王見已即嚴四兵發向彼國欲為討伐

          (Kinh: Khi đó, nhà vua trông thấy, liền chỉnh đốn bốn loại binh, phái sang nước đó toan thảo phạt).

 

          Kế đó, ư thứ ba là sai quân thảo phạt. “Thảo” () là trừ khử, giết chóc. “Phạt” () là chinh phục, đánh bại, toan đánh bại. Nay kinh ghi thành chữ Phạt (). Sách Thuyết Văn Giải Tự[2] giảng: “Tội nhỏ th́ gọi là Phạt”. Sách Quảng Nhă[3] giảng: “Phạt là chiết phục”. Nay vua đă hưng binh, đáng phải nên dùng chữ Phạt (). Hoặc là vua chỉ dấy lên ư niệm, chưa nhóm họp binh lực; ở đây, vua động binh, muốn chiết phục chúng nó, v́ thế nói là Phạt ().

 

          (Kinh) Ngă đẳng nhĩ thời, đương dữ quyến thuộc vô lượng vô biên Dược Xoa chư thần, các tự ẩn h́nh, vị tác hộ trợ, linh bỉ oán địch tự nhiên hàng phục, thượng bất cảm lai chí kỳ quốc giới, khởi phục đắc hữu binh qua tương phạt?

          ()我等爾時當與眷屬無量無邊藥叉諸神各自隱形為作護助令彼怨敵自然降伏尚不敢來至其國界豈復得有兵戈相伐

    (Kinh: Lúc bấy giờ, chúng con sẽ cùng quyến thuộc, vô lượng vô biên các thần Dược Xoa, đều tự ẩn thân để hộ trợ, khiến cho kẻ oán địch ấy tự nhiên hàng phục, c̣n chẳng dám ṃ đến quốc giới ấy, há c̣n có thể dấy quân chinh phạt ư?)

 

          Kế đó, ư thứ bốn là “thần giúp đỡ khiến cho [kẻ địch] quy hàng”, có hai ư:

          - Một, khởi ư niệm bèn hàng phục.

          - Hai, từ “thượng bất cảm lai” (c̣n chẳng dám đến) trở đi, [kẻ địch] vĩnh viễn chẳng dám giao chiến.

 

5.12.4.2.1.1.2. Đức Thế Tôn tán thành

5.12.4.2.1.1.2.1. Tán thán chư thiên hộ pháp

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật cáo Tứ Thiên Vương: - Thiện tai, thiện tai! Nhữ đẳng tứ vương năi năng ủng hộ như thị kinh điển.

          ()爾時佛告四天王善哉善哉汝等四王乃能擁護如是經典

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Tứ Thiên Vương: - Lành thay! Lành thay! Bốn vua các ông có thể ủng hộ kinh điển như thế).

 

          Tán rằng: Ư thứ hai trong phần “thủ hộ loài người” là đức Thế Tôn tán thành. Có ba ư:

          - Một, tán thán chư thiên hộ pháp.

          - Hai, tán thán pháp khó nghe.

          - Ba, nêu ra lợi ích do hoằng kinh.

          Đoạn này thuộc ư thứ nhất.

 

5.12.4.2.1.1.2.2. Tán thán pháp khó nghe

 

          (Kinh) Ngă ư quá khứ bách thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp tu chư khổ hạnh, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, chứng Nhất Thiết Trí, kim thuyết thị pháp.

          ()我於過去百千俱胝那庾多劫修諸苦行得阿耨多羅三藐三菩提證一切智說是

          (Kinh: Ta trong trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp quá khứ tu các khổ hạnh, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chứng Nhất Thiết Trí, nay nói pháp này).

 

          Kế đó, tán thán pháp khó được nghe. Nhiều kiếp tu hành mới được thành Phật. Thành Phật đă lâu, nay mới nói kinh này. V́ thế, khó được nghe!

 

5.12.4.2.1.1.2.3. Nêu rơ lợi ích do hoằng kinh

5.12.4.2.1.1.2.3.1. Lợi ích do hoằng kinh trong hiện tại

5.12.4.2.1.1.2.3.1.1. Vua được lợi ích

 

          (Kinh) Nhược hữu nhân vương thọ tŕ thị kinh, cung kính, cúng dường giả, vị tiêu suy hoạn, linh kỳ an ổn, diệc phục ủng hộ thành, ấp, tụ lạc, năi chí oán tặc tất linh thoái tán, diệc linh nhất thiết Thiệm Bộ châu nội sở hữu chư vương vĩnh vô suy năo, đấu tránh chi sự.

          ()若有人王受持是經恭敬供養者為消衰患令其安穩亦復擁護城邑聚落乃至怨賊悉令退散亦令一切贍部洲內所有諸王永無衰惱鬪諍之事

          (Kinh: Nếu có quốc vương thọ tŕ kinh này, cung kính, cúng dường để tiêu trừ các tai nạn suy vi, sẽ khiến cho họ được an ổn, cũng lại ủng hộ thành, ấp, xóm làng, cho đến oán tặc đều bị lui tan, cũng khiến cho tất cả các vua trong châu Thiệm Bộ vĩnh viễn không có chuyện suy bại, khổ năo, đấu tranh).

         

          Tán rằng: Lợi ích do hoằng kinh. Có hai phần:

          - Một, lợi ích do hoằng kinh trong hiện tại.

          - Hai, từ “đại vương nhược cầu lai” (đại vương nếu cầu trong vị lai), nói về lợi ích do hoằng kinh trong vị lai.

          Trong phần thứ nhất, chỉ nói quốc vương tự nghe; sau đó, cũng khuyên người khác cúng dường, tŕ tụng. Hiện thời, đức Phật tự hoằng kinh, chẳng nhờ vào sức ai khác. Trong vị lai, những người khác hành tŕ, đọc tụng, ắt cần được nhà vua gia hộ. Đó là sự khác biệt giữa thầy và tṛ. Ở đây, nói về lợi ích trong hiện tại: Thứ nhất là vua được lợi ích; kế đó là người khác được lợi ích. Trong phần “vua được lợi ích”:

          - Một, nói về hạnh do nhà vua đă hành (thọ tŕ, cung kính, cúng dường kinh này).

          - Hai, từ “vi tiêu suy hoạn” trở đi, nói về lợi ích đạt được.

          Trong phần đạt được lợi ích, trước là Tổng, sau là Biệt. Trong phần Tổng, có hai ư:

          - Một là nêu ra một thứ lợi ích.

          - Hai, từ “diệc linh” (cũng khiến cho) trở đi, liệt kê các điều khác.

          Trong ư thứ nhất, gồm bốn điều:

          - Một là trừ suy hoạn.

          - Hai là đạt được lợi ích.

          - Ba là được thủ hộ.

          - Bốn là không có oán địch.

 

          (Kinh) Tứ vương đương tri, thử Thiệm Bộ châu bát vạn tứ thiên thành, ấp, tụ lạc, bát vạn tứ thiên chư nhân vương đẳng, các ư kỳ quốc, thọ chư khoái lạc, giai đắc tự tại, sở hữu tài bảo phong túc, thọ dụng bất tương xâm đoạt. Tùy bỉ túc nhân nhi thọ kỳ báo, bất khởi ác niệm tham cầu tha quốc, hàm sanh thiểu dục, lợi lạc chi tâm, vô hữu đấu chiến, kích phược đẳng khổ.

          ()四王當知此贍部洲八萬四千城邑聚落八萬四千諸人王等各於其國受諸快樂皆得自在所有財寶豐足受用不相侵奪隨彼宿因而受其報不起惡念貪求他國咸生少欲利樂之心無有鬪戰擊縛等苦

     (Kinh: Bốn vua hăy nên biết: Trong châu Thiệm Bộ này, tám vạn bốn ngàn thành, ấp, xóm làng, tám vạn bốn ngàn các quốc vương v.v… đều ở trong nước ḿnh, hưởng các vui sướng, đều được tự tại, tất cả của cải dư dả, thọ dụng chẳng bị xâm đoạt. Tùy thuộc cái nhân trong đời trước mà hưởng báo ấy, chẳng dấy lên ác niệm tham cầu nước khác, đều sanh tâm ít ham muốn, lợi lạc [người khác], chẳng có các nỗi khổ như chiến đấu, tấn công, trói buộc v.v…)

 

          Kế đó, nói về lợi ích riêng biệt, có mười điều:

          - Một, cảnh đạt được lợi ích.

          - Hai, đạt được cái quả lợi ích.

          - Ba, hưởng an vui.

          - Bốn, của cải quư báu dư dả.

          - Năm, chẳng xâm đoạt lẫn nhau.

          - Sáu, thuận theo túc nghiệp [mà hưởng thụ lợi ích].

          - Bảy, chẳng tham trong hiện tại.

          - Tám, đều thiểu dục.

          - Chín, chẳng có oán địch.

          - Mười, không có các nỗi khổ.

          Xét theo phần đạt được lợi ích, trước là Tổng, sau là Biệt, phần này thuộc về Tổng.

 

5.12.4.2.1.1.2.3.1.2. Nhân dân được lợi ích

 

          (Kinh) Kỳ độ nhân dân tự nhiên thọ lạc, thượng hạ ḥa mục, do như thủy nhũ, t́nh tương ái trọng, hoan hỷ du hư, từ bi khiêm nhượng, tăng trưởng thiện căn.

          ()其土人民自然受樂上下和穆猶如水乳情相愛重歡喜遊戲慈悲謙讓增長善根

          (Kinh: Nhân dân trong nước ấy tự nhiên hưởng vui, trên dưới ḥa thuận như nước với sữa, yêu thương coi trọng lẫn nhau, hoan hỷ vui chơi, từ bi, khiêm tốn, nhân nhượng, tăng trưởng thiện căn).

 

          Kế đó, người trong nước được lợi ích; điều thứ nhất là hành hạnh.

 

          (Kinh) Dĩ thị nhân duyên, thử Thiệm Bộ châu an ổn, phong lạc, nhân dân xí thịnh, đại địa ốc nhưỡng, hàn thử điều ḥa, thời bất quai tự, nhật, nguyệt, tinh tú thường độ vô khuy, phong vũ tùy thời, ly chư tai hoạnh, tư sản, tài bảo giai tất phong doanh, tâm vô xan bỉ, thường hành huệ thí, cụ Thập Thiện Nghiệp. Nhược nhân mạng chung, đa sanh thiên thượng, tăng ích thiên chúng.

          ()以是因緣此贍部洲安穩豐樂人民熾盛大地沃壤寒暑調和時不乖序日月星宿常度無虧風雨隨時離諸災橫產財寶皆悉豐心無慳鄙常行惠施具十善業若人命終多生天上增益天眾

          (Kinh: Do nhân duyên ấy, châu Thiệm Bộ này an ổn, giàu vui, nhân dân đông đảo, thịnh vượng, đất đai ph́ nhiêu, nóng lạnh điều ḥa, thời tiết chẳng trái nghịch thứ tự. Mặt trời, mặt trăng, tinh tú vận hành đúng lệ, không sai sót, ĺa các tai ương họa hoạn. Vật chất, của cải thảy đều dư dật. Tâm chẳng keo kiệt, kém hèn, thường hành bố thí rộng răi, trọn đủ Thập Thiện Nghiệp. Nếu người mạng chung, phần nhiều sanh lên cơi trời, tăng thêm thiên chúng).

 

          Kế đó nói về lợi ích. Trước hết là được lợi ích trong hiện tại, có mười một điều:

          - Một, do không có chiến tranh nên an ổn.

          - Hai, do ngũ cốc đầy đủ nên giàu vui.

          - Ba, người và vật đều phồn thịnh.

          - Bốn, đất đai ph́ nhiêu.

          - Năm, bốn mùa theo đúng thứ tự.

          - Sáu, tinh tú vận hành đúng lệ thường.

          - Bảy, mưa gió đúng thời.

          - Tám, không có các tai ương bất ngờ.

          - Chín, tài vật dư dật.

          - Mười, [dân chúng] chẳng tham lam, thích bố thí.

          - Mười một, thường hành Thập Thiện.

          Từ “nhược nhân mạng chung” (nếu người mạng chung) trở đi là lợi ích sau khi chết.

 

5.12.4.2.1.1.2.3.2. Lợi ích do hoằng kinh trong vị lai

 

          (Kinh) Đại vương! Nhược vị lai thế, hữu chư nhân vương thính thọ thị kinh, cung kính, cúng dường, tịnh thọ tŕ kinh, tứ bộ chi chúng tôn trọng, xưng tán. Phục dục an lạc, nhiêu ích nhữ đẳng, cập chư quyến thuộc, vô lượng bách thiên chư Dược Xoa chúng. Thị cố, bỉ vương thường đương thính thọ thị diệu kinh. Vương do đắc văn thử chánh pháp chi thủy, cam lộ thượng vị, tăng ích nhữ đẳng thân tâm thế lực, tinh tấn, dũng mănh, phước đức, oai quang tất linh sung măn. Thị chư nhân vương, nhược năng chí tâm thính thọ thị kinh, tắc vi quảng đại hy hữu cúng dường, cúng dường ư ngă Thích Ca Mâu Ni Ứng Chánh Đẳng Giác. Nhược cúng dường ngă, tắc thị cúng dường quá khứ, vị lai, hiện tại bách thiên câu-chi na-dữu-đa Phật. Nhược năng cúng dường tam thế chư Phật, tắc đắc vô lượng bất khả tư nghị công đức chi tụ.

          ()若未來世有諸人王聽受是經恭敬供養并受持經四部之眾尊重稱讚復欲安樂饒益汝等及諸眷屬無量百千諸藥叉眾是故彼王常當聽受是妙經王由得聞此正法之水甘露上味增益汝等身心勢力精進勇猛福德威光悉令充滿是諸人王若能至心聽受是經則為廣大希有供養供養於我釋迦牟尼應正等覺若供養我則是供養過去未來現在百千俱胝那庾多佛若能供養三世諸佛則得無量不可思議功德之聚

    (Kinh: Này đại vương! Nếu trong đời vị lai, có các quốc vương nghe nhận kinh này, cung kính, cúng dường, và thọ tŕ kinh, tứ bộ chúng sẽ tôn trọng, ca ngợi. Lại muốn tạo lợi ích an lạc cho các ông và các quyến thuộc, vô lượng trăm ngàn các vị Dược Xoa. V́ thế, nhà vua ấy sẽ thường nghe nhận kinh mầu nhiệm này. Vua do được nghe cam lộ thượng vị từ nước chánh pháp này, tăng thêm thế lực nơi thân tâm của các ông, tinh tấn, dũng mănh, phước đức, oai quang thảy đều sung măn. Nếu các quốc vương ấy có thể chí tâm nghe nhận kinh này, th́ chính là cúng dường rộng lớn hiếm có, cúng dường ta là Thích Ca Mâu Ni Ứng Chánh Đẳng Giác. Nếu cúng dường ta, tức là cúng dường quá khứ, vị lai, hiện tại trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa Phật. Nếu có thể cúng dường tam thế chư Phật, sẽ đạt được khối công đức vô lượng chẳng thể nghĩ bàn).

 

          Tán rằng: Nói về lợi ích trong vị lai. Có hai phần:

          - Một, hành hạnh thù thắng.

          - Hai, từ “do đắc văn thử” (do được nghe kinh này) trở đi, thành tựu cái nhân thù thắng.

          Cái nhân thù thắng có hai điều:

          - Một, tăng thêm thế lực của chư thiên.

          - Hai, [thọ tŕ, hoằng dương kinh này chính là] cúng dường Phật.

          Trong phần “cúng dường Phật”:

          - Một, chánh hạnh cúng dường.

          - Hai, từ “năng cúng dường” (có thể cúng dường) trở đi, nói về chuyện đạt được khối phước to lớn nhằm kết thành chuyện “khuyên bảo hoằng kinh”.

 

          (Kinh) Dĩ thị nhân duyên, nhữ đẳng ưng đương ủng hộ bỉ vương hậu phi, quyến thuộc, linh vô suy năo, cập cung trạch thần thường thọ an lạc, công đức nan tư. Thị chư quốc độ sở hữu nhân dân diệc thọ chủng chủng ngũ dục chi lạc, nhất thiết ác sự giai linh tiêu điễn.

          ()以是因緣汝等應當擁護彼王后妃眷屬令無衰惱及宮宅神常受安樂功德難思是諸國土所有人民亦受種種五欲之樂一切惡事皆令消殄

    (Kinh: Do nhân duyên ấy, các ông hăy nên ủng hộ hậu phi và quyến thuộc của nhà vua, khiến cho họ không suy năo, và thần [thủ hộ] cung điện thường hưởng an lạc, công đức khó nghĩ tưởng. Tất cả nhân dân trong các quốc độ ấy cũng hưởng các thứ niềm vui ngũ dục, khiến cho hết thảy chuyện ác thảy đều tiêu trừ).

 

          Kế đó, nói về lợi ích do hoằng kinh, có hai ư:

          - Một, tứ thiên vương hộ vệ quyến thuộc.

          - Hai, từ “thị chư quốc độ” (các quốc độ ấy) trở đi, nước được phước, dân an ổn.

 

5.12.4.2.1.1.3. Dạy quốc vương nghi thức hoằng pháp

5.12.4.2.1.1.3.1. Nêu ra nguyện tâm của nhà vua

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Tứ Thiên Vương bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ư vị lai thế, nhược hữu nhân vương nhạo thính như thị Kim Quang Minh Kinh, vị dục ủng hộ tự thân hậu phi, vương tử, năi chí nội cung chư thể nữ đẳng, thành ấp, cung điện, giai đắc đệ nhất bất khả tư nghị, tối thượng hoan hỷ tịch tĩnh an lạc, ư hiện thế trung, vương vị tôn cao, tự tại, xương thịnh, thường đắc tăng trưởng, phục dục nhiếp thọ vô lượng vô biên nan tư phước tụ. Ư tự quốc độ, linh vô oán địch cập chư ưu năo tai ách sự giả.

          ()爾時四天王白佛言世尊於未來世若有人王樂聽如是金光明經為欲擁護自身后妃王子乃至內宮諸婇女等城邑宮殿皆得第一不可思議最上歡喜寂靜安樂於現世中王位尊高自在昌盛常得增長復欲攝受無量無邊難思福聚於自國土令無怨敵及諸憂惱災厄事者

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Tứ Thiên Vương bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Trong đời vị lai, nếu có quốc vương thích nghe kinh Kim Quang Minh như thế này, v́ muốn ủng hộ bản thân và hậu phi, vương tử, cho đến các thể nữ v.v… trong cung, thành, ấp, cung điện đều được an lạc, tịch tĩnh, hoan hỷ tối thượng, chẳng thể nghĩ bàn bậc nhất, trong đời hiện tại, ngôi vua tôn quư, cao cả, tự tại hưng thịnh, thường được tăng trưởng, lại muốn nhiếp thọ vô lượng vô biên khối phước khó nghĩ, khiến cho trong quốc độ của chính ḿnh chẳng có oán địch và các chuyện ưu năo, tai ách).

 

          Tán rằng: Dạy quốc vương quy cách hoằng pháp, có bốn ư:

          - Một, nêu ra tâm nguyện của nhà vua.

          - Hai, từ “Thế Tôn như thị” trở đi, dạy bảo quy tắc.

          - Ba, “Thế Tôn! Thời bỉ hương yên” (bạch Thế Tôn! Khi đó, khói hương ấy) trở đi, vua nương theo đó hành tŕ, cảm vời điềm lành.

          - Bốn, “thời bỉ chư Phật văn thử diệu hương” (khi đó, chư Phật ngửi thấy mùi hương mầu nhiệm đó) trở đi, nói rơ: Chư Phật tán dương.

          Đoạn này nhằm nêu ra nguyện tâm của nhà vua.

 

5.12.4.2.1.1.3.2. Dạy bảo quy cách

5.12.4.2.1.1.3.2.1. Thiên vương dạy quy cách nghe kinh

 

          (Kinh) Thế Tôn! Như thị nhân vương bất ưng phóng dật, linh tâm tán loạn. Đương sanh cung kính, chí thành ân trọng, thính thọ như thị tối thắng kinh vương.

          ()世尊如是人王不應放逸令心散亂當生恭敬至誠殷重聽受如是最勝經王

     (Kinh: Bạch Thế Tôn! Quốc vương như thế chớ nên buông lung, khiến cho cái tâm tán loạn. Hăy nên sanh ḷng cung kính, chí thành, ân cần, trân trọng để nghe nhận vua trong các kinh tối thắng như thế).

 

          Kế đó, dạy quy cách, có ba điều:

          - Một, thiên vương dạy quy cách nghe kinh.

          - Hai, đức Phật dạy cách nghênh tiếp [pháp sư].

          - Ba, thiên vương dạy hăy thực hiện v́ họ.

          Trong phần “thiên vương dạy quy cách nghe kinh”, trước là dạy chung, sau là dạy riêng từng điều. Đoạn này thuộc phần dạy chung.

 

          (Kinh) Dục thính chi thời, tiên đương trang nghiêm tối thượng cung thất, vương sở ái trọng, hiển sưởng chi xứ, hương thủy sái địa, tán chúng danh hoa, an trí sư tử thù thắng pháp ṭa. Dĩ chư trân bảo nhi vị hiệu sức, trương thi chủng chủng bảo cái, tràng phan. Thiêu vô giá hương, tấu chư âm nhạc. Kỳ vương nhĩ thời, đương tịnh tháo dục, dĩ hương đồ thân, trước tân tịnh y, cập chư anh lạc, tọa tiểu ty ṭa, bất sanh cao cử, xả tự tại vị, ly chư kiêu mạn, đoan tâm chánh niệm, thính thị kinh vương. Ư pháp sư sở, khởi đại sư tưởng. Phục ư cung nội hậu phi, vương tử, thể nữ, quyến thuộc, sanh từ mẫn tâm, hỷ duyệt tương thị, ḥa nhan, nhuyễn ngữ. Ư tự thân tâm, đại hỷ sung biến.

          ()欲聽之時先當莊嚴最上宮室王所愛重顯敞之處香水灑地散眾名華安置師子殊勝法座以諸珍寶而為校飾張施種種寶蓋幢旛燒無價香奏諸音樂其王爾時當淨澡浴以香塗身著新淨衣及諸瓔珞坐小卑座不生高舉捨自在位離諸憍慢端心正念聽是經王於法師所起大師想復於宮內后妃王婇女眷屬生慈愍心喜悅相視和顏軟語於自身心大喜充遍

    (Kinh: Lúc muốn nghe, trước hết nên trang nghiêm cung điện tối thượng, là nơi vua yêu mến, coi trọng, rộng răi, thoáng đăng, nước thơm rưới đất, rải các thứ hoa quư, xếp đặt pháp ṭa sư tử thù thắng, dùng các trân bảo để trang hoàng, căng che các thứ lọng báu, tràng phan, đốt hương vô giá, tấu các âm nhạc. Khi đó, vị vua ấy hăy nên tắm gội sạch sẽ, dùng hương bôi thân, mặc áo mới sạch, và đeo các thứ anh lạc, ngồi ṭa kém nhỏ, chẳng sanh ḷng cao ngạo, bỏ địa vị tự tại, ĺa các kiêu mạn, đoan tâm chánh niệm nghe [pháp sư tuyên nói] vua trong các kinh này. Đối với pháp sư, dấy lên ư tưởng coi như đại sư. Lại đối với hậu phi, vương tử, thể nữ, quyến thuộc trong cung, sanh tâm từ mẫn, vui sướng nh́n nhau, vẻ mặt ôn ḥa, nói năng mềm mỏng. Nơi thân tâm của chính ḿnh, tràn ngập niềm vui to lớn).

 

          Kế đó, dạy riêng từng điều. Trong phần dạy riêng:

          - Một, nói về chỗ được trang nghiêm.

          - Hai, từ “hương thủy” (nước thơm) trở đi, chỉ dạy quy cách trang nghiêm nơi chốn [giảng kinh].

          - Ba, từ “kỳ vương nhĩ thời” (nhà vua ấy lúc bấy giờ) trở đi, dạy cách trang nghiêm thân vua.

          - Bốn, từ “bất sanh cao cử” (chẳng sanh ḷng cao ngạo) trở đi, dạy cách trang nghiêm tâm vua.

          - Năm, từ “tác như thị niệm” (nghĩ như thế này) trở đi, dạy vua cách nghĩ tưởng an ổn.

          Trong việc trang nghiêm cái tâm:

          - Một, trừ điệu cử (lao chao, xáo động).

          - Hai, xả kiêu mạn.

          - Ba, đoan chánh cái tâm để nghe pháp.

          - Bốn, cung kính pháp sư.

          - Năm, khởi từ tâm b́nh đẳng.

          - Sáu, vui sướng nh́n nhau.

          - Bảy, vẻ mặt ḥa nhă, nói năng mềm mỏng.

          - Tám, vui sướng tràn ngập thân tâm.

 

          (Kinh) Tác như thị niệm: “Ngă kim hoạch đắc nan tư thù thắng quảng đại lợi ích, ư thử kinh vương, thịnh hưng cúng dường”. Kư phu thiết dĩ, kiến pháp sư chí, đương khởi kiền kính, khát ngưỡng chi tâm.

          ()作如是念我今獲得難思殊勝廣大利益於此經王盛興供養既敷設已見法師至當起虔敬渴仰之心

          (Kinh: Nghĩ như thế này: “Ta nay đạt được lợi ích rộng lớn thù thắng khó nghĩ, đối với vua của các kinh này, hăy cúng dường trọng hậu”. Đă sắp đặt xong, thấy pháp sư đến, hăy nên khởi tâm kiền thành, cung kính, khát ngưỡng).

 

          Kế đó, dạy vua cách suy tưởng. Trước hết, suy tưởng đối với pháp. Từ “kư phu thiết dĩ” (đă sắp đặt xong) trở đi là cách suy tưởng đối với pháp sư. Quy cách thính pháp này, như quyển ba mươi tám luận Du Già Sư Địa đă nói. Bồ Tát như thế đối với người khéo nói pháp, sanh ḷng kính trọng sâu xa, thường thích nghe những người khéo nói pháp, chẳng hề mệt mỏi, mà cũng chẳng chán đủ. Do ḷng tin trong sạch, sâu dày, tánh t́nh nhu ḥa, tâm ngay thẳng, kiến giải ngay thẳng, yêu kính đức hạnh, do yêu kính pháp, tới chỗ pháp sư, không có tâm cật vấn, bắt bẻ, mà có tâm kính trọng, chẳng có tâm kiêu căng, ngạo mạn, chuyên v́ cầu điều tốt lành, chẳng v́ phô phang phẩm đức của chính ḿnh. V́ muốn an lập thiện căn của chính ḿnh và người khác, chẳng v́ nhân duyên lợi dưỡng, cung kính. Bồ Tát trọn đủ công đức như thế, tới chỗ pháp sư, tâm chẳng tạp nhiễm, tâm không tán loạn, lắng nghe chánh pháp.

          Thế nào là tâm vô nhiễm? Tức là khi nghe pháp, tâm người ấy xa ĺa kiêu căng, khinh mạn, khiếp nhược, tạp nhiễm. Do [xa ĺa] sáu tướng nên ĺa thói nhơ kiêu căng, tức là khi nghe pháp bèn đúng thời mà nghe, ân cần trân trọng mà nghe, cung kính mà nghe, chẳng v́ tổn hại, chẳng v́ tùy thuận, chẳng t́m ṭi lỗi lầm. Do bốn tướng ấy bèn ĺa thói nhơ khinh mạn, [tức là] khi nghe pháp bèn cung kính chánh pháp, cung kính Bổ Đặc Già La thuyết pháp (người thuyết pháp), chẳng khinh thường chánh pháp, và chẳng khinh người thuyết pháp. Khi nghe pháp, chẳng tự khinh miệt. Do một tướng ấy mà ĺa thói nhơ khiếp nhược.

          Thế nào là tâm chẳng tán loạn? Tức là do năm tướng: Một là tâm cầu giải ngộ, hai là tâm chuyên nhất hướng về, ba là tai lắng nghe, bốn là quét sạch cái tâm, năm là nhiếp hết thảy các tâm, lắng nghe chánh pháp. Quy tắc thuyết pháp th́ đại lược như phẩm Pháp Sư thuộc quyển bốn của kinh Pháp Hoa [đă dạy], có ba thứ:

          - Một, vào nhà Như Lai.

          - Hai, mặc áo Như Lai.

          - Ba, ngồi ṭa Như Lai.

          “Nhà Như Lai” là tâm đại từ bi đối với hết thảy chúng sanh. “Áo Như Lai” là tâm nhu ḥa nhẫn nhục. “Ṭa Như Lai”“hết thảy các pháp là Không”. Cái tâm thuyết pháp, ban vui cho chúng sanh, dẹp khổ cho chúng sanh; v́ thế, dấy ḷng từ bi. Từ bi thuyết pháp, bị người khác hại chẳng sân, gặp khổ có thể chịu đựng, có thể ấn chứng lư sâu th́ mới có thể tiếp nối [cái tâm ấy]. Quán ba sự là Không, vô nhiễm, chẳng chấp trước th́ mới có thể đạt lợi ích thật sự.

 

5.12.4.2.1.1.3.2.2. Đức Phật dạy cách nghênh tiếp [vị pháp sư giảng kinh này]

5.12.4.2.1.1.3.2.2.1. Quy cách đón tiếp

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật cáo Tứ Thiên Vương: - Bất ưng như thị bất nghênh pháp sư. Thời bỉ nhân vương ưng trước thuần tịnh, tiên khiết chi y, chủng chủng anh lạc dĩ vi nghiêm sức, tự tŕ bạch cái, cập dĩ hương, hoa, bị chỉnh quân nghi, thịnh trần âm nhạc, bộ xuất thành khuyết, nghênh bỉ pháp sư, vận tưởng kiền cung, vi cát tường sự.

          ()爾時佛告四天王不應如是不迎法師時彼人王應著純淨鮮潔之衣種種瓔珞以為嚴飾自持白蓋及以香華備整軍儀盛陳音樂步出城闕迎彼法師運想虔恭為吉祥事

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Tứ Thiên Vương: - Chớ nên không nghênh đón pháp sư như thế này. Khi đó, vị quốc vương ấy hăy nên mặc áo thuần tịnh, sạch sẽ, dùng các thứ chuỗi anh lạc để trang nghiêm, tự cầm lọng trắng, cùng với hương, hoa, sắp đặt quân đội nghiêm chỉnh, sắp bày rất nhiều thứ âm nhạc, đi bộ ra khỏi cửa thành để đón pháp sư, vận tâm tưởng kiền thành, cung kính, coi đó là chuyện cát tường).

 

          Tán rằng: Kế đó, đức Phật dạy cách nghênh đón, có hai ư:

          - Một, răn không nên chẳng nghênh đón [pháp sư].

          - Hai, từ “thời bỉ nhân vương” (khi đó, vị quốc vương ấy) trở đi, dạy quy cách nghênh đón.

          Trong phần quy cách nghênh đón, có năm ư:

          - Một, quy cách đón tiếp.

          - Hai, từ “tứ vương! Dĩ hà nhân duyên” (này bốn thiên vương! Do nhân duyên ǵ) trở đi, giải thích nguyên do nghênh đón.

          - Ba, từ “ư thuyết pháp sư” (đối với vị thầy thuyết pháp) trở đi, dạy cách suy tưởng trong khi nghênh đón.

          - Bốn, từ “hậu cung quyến thuộc” trở đi, nói về lợi ích đạt được.

          - Năm, từ “tứ vương đương tri” (bốn vua nên biết) trở đi, kết lại ư khuyên.

          Đoạn này thuộc ư đầu.

 

5.12.4.2.1.1.3.2.2.2. Giải thích nguyên do nghênh đón

 

          (Kinh) Tứ vương! Dĩ hà nhân duyên, linh bỉ nhân vương thân tác như thị cung kính cúng dường?

          ()四王以何因緣令彼人王親作如是恭敬供養

          (Kinh: Này bốn vua! Do nhân duyên nào khiến cho vị quốc vương ấy đích thân cung kính cúng dường như thế?)

 

          Kế đó, ư thứ hai là giải thích nguyên do nghênh đón. Có ba điều:

          - Một, gạn hỏi.

          - Hai, từ “do bỉ nhân vương” (do quốc vương ấy) trở đi, giải thích.

          - Ba, từ “tứ vương đương tri” (bốn vua nên biết) trở đi, kết lại ư nghênh đón xa gần.

          Đoạn này thuộc điều thứ nhất.

 

          (Kinh) Do bỉ nhân vương cử túc, hạ túc, bộ bộ tức thị cung kính, cúng dường, thừa sự, tôn trọng bách thiên vạn ức na-dữu-đa chư Phật Thế Tôn, phục đắc siêu việt như thị kiếp số sanh tử chi khổ, phục ư lai thế như thị kiếp số đương thọ Luân Vương thù thắng tôn vị.

          ()由彼人王舉足下足步步即是恭敬供養承事尊重百千萬億那庾多諸佛世尊復得超越如是劫數生死之苦復於來世如是劫數當受輪王殊勝尊位

     (Kinh: Do vị quốc vương ấy giở chân, hạ chân, mỗi bước chính là cung kính, cúng dường, thừa sự, tôn trọng trăm ngàn vạn ức na-dữu-đa chư Phật Thế Tôn, lại được siêu việt nỗi khổ trong kiếp số sanh tử như thế, lại c̣n trong đời mai sau sẽ nhận lănh địa vị Luân Vương thù thắng trong kiếp số như thế).

 

          Tán rằng: Giải thích nguyên do nghênh đón. Có hai ư, đoạn này là giải thích chung, gồm ba ư:

          - Một, thành tựu cái nhân thù thắng.

          - Hai, vượt thoát các khổ.

          - Ba, đạt được quả báo thù thắng.

 

          (Kinh) Tùy kỳ bộ bộ diệc ư hiện thế phước đức tăng trưởng, tự tại vi vương, cảm ứng nan tư, chúng sở khâm trọng, đương ư vô lượng bách thiên ức kiếp nhân thiên, thọ dụng thất bảo cung điện. Sở tại sanh xứ, thường đắc vi vương, tăng ích thọ mạng, ngôn từ biện liễu, nhân thiên tín thọ, vô sở úy cụ, hữu đại danh xưng, hàm cộng chiêm ngưỡng. Thiên thượng, nhân trung, thọ thắng diệu lạc, hoạch đại lực thế, hữu đại oai đức, thân tướng kỳ diệu, đoan nghiêm vô tỷ, trị Thiên Nhân Sư, ngộ thiện tri thức, thành tựu cụ túc vô lượng phước tụ.

          ()隨其步步亦於現世福德增長自在為王感應難思眾所欽重當於無量百千億劫人天受用七寶宮殿所在生處常得為王增益壽命言詞辯了人天信受無所畏懼有大名稱咸共瞻仰天上人中受勝妙樂獲大力勢有大威德身相奇妙端嚴無比值天人師遇善知成就具足無量福聚

    (Kinh: Theo từng bước chân mà cũng trong đời hiện tại, phước đức tăng trưởng, tự tại làm vua, cảm ứng khó thể nghĩ tưởng, được đại chúng khâm kính, tôn trọng. Sẽ ở trong vô lượng trăm ngàn ức kiếp, hưởng thụ cung điện bảy báu trong cơi trời, người. Sanh ở nơi đâu, cũng thường được làm vua, tăng ích thọ mạng, ngôn từ, biện tài, trời người tin nhận, chẳng hề sợ hăi, có tiếng tăm lớn, đều được mọi người cùng chiêm ngưỡng. Hưởng sự vui mầu nhiệm thù thắng trên trời hay trong loài người, đạt được thế lực to lớn, có oai đức lớn, thân tướng kỳ diệu, đoan nghiêm khôn sánh. Gặp đấng Thiên Nhân Sư, gặp thiện tri thức, thành tựu trọn đủ vô lượng khối phước).

 

          Tán rằng: Giải thích riêng biệt. Trước hết là lợi ích trong hiện tại. Kế đó, từ “đương ư vô lượng” (sẽ trong vô lượng) trở đi, [nói về] lợi ích trong mai sau. Lợi ích trong mai sau gồm mười ba điều:

          - Một, đạt được chỗ thù thắng.

          - Hai, hưởng quả báo thù thắng.

          - Ba, đạt được biện tài.

          - Bốn, người khác tin nhận.

          - Năm, ĺa sợ hăi.

          - Sáu, đạt được danh tiếng.

          - Bảy, được kính phụng.

          - Tám, hưởng niềm vui thù thắng.

          - Chín, thành tựu đại lực.

          - Mười, có oai nghiêm to lớn.

          - Mười một, đạt được tướng hảo.

          - Mười hai, gặp bạn lành.

          - Mười ba, trọn đủ phước đức.

 

          (Kinh) Tứ vương đương tri, bỉ chư nhân vương kiến như thị đẳng chủng chủng vô lượng công đức lợi ích, cố ưng tự văng, phụng nghênh pháp sư, nhược nhất du-thiện-na, năi chí bách thiên du-thiện-na.

          ()四王當知彼諸人王見如是等種種無量功德利益故應自往奉迎法師若一踰繕那乃至百千踰繕那

          (Kinh: Bốn vua nên biết, các quốc vương ấy, thấy vô lượng các thứ công đức lợi ích như thế đó, cho nên tự đến đón tiếp pháp sư hoặc một du-thiện-na (yojana, do-tuần) cho đến trăm ngàn du-thiện-na).

 

          Kế đó, kết lại ư nghênh tiếp gần hay xa.

 

5.12.4.2.1.1.3.2.2.3. Suy tưởng trong khi nghênh đón

 

          (Kinh) Ư thuyết pháp sư, ưng sanh Phật tưởng.

          ()說法師應生佛

          (Kinh: Đối với vị thầy thuyết pháp, hăy nên tưởng như Phật).

 

          Tán rằng: Điều thứ ba là cách suy tưởng trong khi nghênh đón. Trước hết là đạt được lợi ích trong hiện tại.

 

          (Kinh) Hoàn chí thành dĩ, tác như thị niệm: - Kim nhật, Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, nhập ngă cung trung, thọ ngă cúng dường, vị ngă thuyết pháp. Ngă văn pháp dĩ, tức ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề bất phục thoái chuyển, tức thị trị ngộ bách thiên vạn ức na-dữu-đa chư Phật Thế Tôn. Ngă ư kim nhật tức thị chủng chủng quảng đại thù thắng thượng diệu lạc cụ, cúng dường quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật. Ngă ư kim nhật tức thị vĩnh bạt Diễm Ma Vương giới, địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh chi khổ, tiện vi dĩ chủng vô lượng bách thiên vạn ức Chuyển Luân Thánh Vương, Thích, Phạm thiên chúa thiện căn chủng tử, đương linh vô lượng bách thiên vạn ức chúng sanh xuất sanh tử khổ, đắc Niết Bàn lạc, tích tập vô lượng vô biên bất khả tư nghị phước đức chi tụ.

          ()還至城已作如是念今日釋迦牟尼如來正等覺入我宮中受我供養為我我聞法已即於阿耨多羅三藐三菩提不復退轉即是值遇百千萬億那庾多諸佛世我於今日即是種種廣大殊勝上妙樂具供養過去未來現在諸佛我於今日即是永拔琰摩王界地獄餓鬼傍生之苦便為已種無量百千萬億轉輪聖王釋梵天主善根種子當令無量百千萬億眾生出生死苦得涅槃樂積集無量無邊不可思議福德之聚

    (Kinh: Trở về tới thành rồi, nghĩ như thế này: - Hôm nay, Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, vào trong cung của ta, tiếp nhận ta cúng dường, v́ ta thuyết pháp. Ta nghe pháp xong, chẳng c̣n thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tức là đă gặp gỡ trăm ngàn vạn ức na-dữu-đa chư Phật Thế Tôn. Ta trong ngày nay chính là đă cúng dường quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật bằng các thứ vật vui sướng thượng diệu rộng lớn như thế. Ta trong ngày nay vĩnh viễn dẹp trừ nỗi khổ trong cơi vua Diễm Ma, địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, chính là đă gieo chủng tử thiện căn của vô lượng trăm ngàn vạn ức Chuyển Luân Thánh Vương, Đế Thích, Phạm vương, chúa cơi trời, sẽ khiến cho vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh thoát khỏi nỗi khổ sanh tử, đạt được niềm vui Niết Bàn, tích tập vô lượng vô biên khối phước đức chẳng thể nghĩ bàn).

 

          Trở về cung suy tưởng, gồm bảy điều:

          - Một, tưởng như được thấy đức Bổn Sư.

          - Hai, từ “ngă văn pháp dĩ” (ta nghe pháp xong) trở đi, tưởng đắc đại Bồ Đề.

          - Ba, từ “tức thị trị ngộ” (tức là gặp gỡ) trở đi, tưởng được thấy chư Phật.

          - Bốn, từ “ngă ư kim nhật” (ta trong hôm nay) trở đi, tưởng cúng dường chư Phật.

          - Năm, từ “ngă ư kim nhật” (ta trong hôm nay) trở đi, tưởng vĩnh viễn ĺa khỏi đường ác, được vượt thoát đường ác. Diễm Ma vương giới tức là cơi của người phán quyết trong ba ác đạo, đường ấy thuộc về đường quỷ. Luận Du Già Sư Địa nói: “Sanh vào Na Lạc Ca (Naraka, địa ngục) làm Tĩnh Tức Vương, tức là sanh vào cơi của vị vua biến hóa. Nếu không, v́ sao sanh trong chỗ thấp kém nhất, hóa hiện ra tù ngục?” Lại c̣n mâu thuẫn với Nhị Thập Duy Thức[4] nói [Diêm vương] chẳng chấp thuận cùng họ (tội nhân) chịu khổ. Kinh Trường A Hàm, quyển mười chín nói: Xét theo tướng khác nói vua tưởng như đang thọ khổ.

          - Sáu, từ “tiện vi dĩ chủng” (tức là đă gieo) trở đi, tưởng đạt được các vương vị.

          - Bảy, từ “đương linh vô lượng” (sẽ khiến cho vô lượng) trở đi, tưởng khiến cho người khác đạt được lợi ích.

 

5.12.4.2.1.1.3.2.2.4. Lợi ích đạt được [do suy tưởng, tiếp đón như thế]

         

          (Kinh) Hậu cung quyến thuộc, cập chư nhân dân, giai mông an ổn, quốc độ thanh thái, vô chư tai ách, độc hại ác nhân, tha phương oán địch, bất lai xâm nhiễu, viễn ly ưu hoạn.

          ()後宮眷屬及諸人民皆蒙安穩國土清泰無諸災厄毒害惡人他方怨敵不來侵擾遠離憂患

    (Kinh: Quyến thuộc trong hậu cung, và dân chúng đều được an ổn, cơi nước thanh b́nh, không có các tai ách, độc hại, kẻ ác, oán địch phương khác chẳng đến xâm phạm, quấy nhiễu, xa ĺa ưu hoạn).

 

          Kế đó, điều thứ tư nói về đạt được lợi ích.

 

5.12.4.2.1.1.3.2.2.4.5. Kết lại ư khuyên bảo

 

          (Kinh) Tứ vương đương tri, thời bỉ nhân vương ưng tác như thị tôn trọng chánh pháp, diệc ư thọ tŕ thị diệu kinh điển bật-sô, bật-sô ni, ổ-ba-sách-ca, ổ-ba-tư-ca, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán, sở hoạch thiện căn, tiên dĩ thắng phước thí dữ nhữ đẳng, cập chư quyến thuộc.

          ()四王當知時彼人王應作如是尊重正法亦於受持是妙經典苾芻苾芻尼鄔波索迦鄔波斯迦供養恭敬尊重讚歎所獲善根先以勝福施與汝等及諸眷屬

          (Kinh: Bốn vua nên biết: Khi đó, vị quốc vương ấy hăy nên tôn trọng chánh pháp như thế, cũng nên đối với bật-sô, bật-sô ni, ổ-ba-sách-ca, ổ-ba-tư-ca thọ tŕ kinh điển mầu nhiệm này mà cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán. Đối với thiện căn đạt được, trước hết dùng phước thù thắng thí cho các ông và các quyến thuộc).

 

          Kế đó, kết lại để khuyên răn. Trước là kết lại lời khuyên răn; kế đó là kết lại các lợi ích đạt được. Trong phần kết lại lời khuyên, trước hết là kết lại ư tôn kính pháp sư; sau đó, kết lại ư tôn kính tứ chúng, cuối cùng là hồi thí.

 

          (Kinh) Bỉ chi nhân vương hữu đại phước đức, thiện nghiệp nhân duyên, ư hiện thế trung, đắc đại tự tại, tăng ích oai quang, cát tường diệu tướng giai tất trang nghiêm, nhất thiết oán địch năng dĩ chánh pháp nhi tồi phục chi.

          ()彼之人王有大福德善業因緣於現世中得大自在增益威光吉祥妙相皆悉莊嚴一切怨敵能以正法而摧伏之

          (Kinh: Vị quốc vương ấy có nhân duyên phước đức và thiện nghiệp to lớn, trong đời hiện tại, đạt được đại tự tại, tăng thêm oai quang, diệu tướng cát tường thảy đều trang nghiêm, có thể dùng chánh pháp để chiết phục hết thảy các oán địch).

 

          Kế đó, kết lại lợi ích đạt được, ư nghĩa dễ hiểu!

 

5.12.4.2.1.1.3.2.3. Thiên vương dạy [quốc vương] cách thực hiện để khiến các thiên vương hoan hỷ

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Tứ Thiên Vương bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Nhược hữu nhân vương năng tác như thị cung kính chánh pháp, thính thử kinh vương, tịnh ư tứ chúng tŕ kinh chi nhân, cung kính, cúng dường, tôn trọng tán thán, thời bỉ nhân vương dục vị ngă đẳng sanh hoan hỷ cố, đương tại nhất biên, cận ư pháp ṭa, hương thủy sái địa, tán chúng danh hoa, an trí xứ sở, thiết tứ vương ṭa. Ngă dữ bỉ vương cộng thính chánh pháp. Kỳ vương sở hữu tự lợi thiện căn, diệc dĩ phước phân thí cập ngă đẳng. Thế Tôn! Thời bỉ nhân vương thỉnh thuyết pháp giả thăng ṭa chi thời, tiện vị ngă đẳng thiêu chúng danh hương, cúng dường thị kinh.

          ()爾時四天王白佛言世尊若有人王能作如是恭敬正法聽此經王并於四眾持經之人恭敬供養尊重讚歎時彼人王欲為我等生歡喜故當在一邊近於法座香水灑地散眾名華安置處所設四王座我與彼王共聽正法其王所有自利善根亦以福分施及我等世尊時彼人王請說法者昇座之便為我等燒眾名香供養是經

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Tứ Thiên Vương bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Nếu có quốc vương có thể cung kính chánh pháp, nghe vua trong các kinh này như vậy, lại c̣n cung kính, cúng dường, tôn trọng tán thán người tŕ kinh thuộc tứ chúng; khi đó, vị quốc vương ấy v́ muốn chúng con sanh tâm hoan hỷ, hăy nên ở tại một bên, gần nơi pháp ṭa, dùng nước thơm rưới đất, rải các hoa quư, xếp đặt nơi chốn, bày ṭa của bốn thiên vương. Con với nhà vua ấy cùng nghe chánh pháp. Đối với tất cả thiện căn tự lợi của chính ḿnh, vị vua ấy cũng chia một phần phước cho chúng con. Bạch Thế Tôn! Khi vị quốc vương đó thỉnh người thuyết pháp thăng ṭa, sẽ v́ chúng con đốt các loại hương quư để cúng dường kinh này).

 

          Kế đó, thiên vương dạy [quốc vương] hăy v́ các thiên vương [xếp đặt pháp ṭa v.v…], có hai ư:

          - Một, nhắc lại các việc quốc vương đă làm.

          - Hai, từ “thời bỉ nhân vương” (khi đó, vị quốc vương ấy) trở đi, dạy quy cách v́ các thiên vương mà thực hiện.

          Trong phần quy cách, có sáu điều:

          - Một, chỉ bày nơi chốn sẽ được trang nghiêm (lập ṭa của thiên vương gần pháp ṭa của người thuyết pháp).

          - Hai, trang nghiêm [nơi ấy] cho thanh tịnh.

          - Ba, truyền xếp đặt bốn ṭa.

          - Bốn, thiên vương sẽ cùng [quốc vương] nghe pháp.

          - Năm, dạy vua thí phước.

          - Sáu, truyền hăy cúng dường.

 

5.12.4.2.1.1.3.3. Nương theo đó hành tŕ, cảm ứng điềm lành

5.12.4.2.1.1.3.3.1. Tứ thiên vương trần thuật sự cảm ứng

 

          (Kinh) Thế Tôn! Thời bỉ hương yên ư nhất niệm khoảnh, thượng thăng hư không, tức chí ngă đẳng chư thiên cung điện, ư hư không trung, biến thành hương cái.

          ()世尊時彼香煙於一念頃上昇虛空即至我等諸天宮殿於虛空中變成香蓋

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Khi ấy, khói hương trong khoảng một niệm bay lên hư không, liền thấu tới cung điện của chư thiên chúng con, ở trong hư không, biến thành lọng hương).

 

          Kế đó, phân đoạn “do hành theo đó, cảm vời điềm lành”, bao gồm hai phần:

          - Một, bốn vị thiên vương trần thuật sự cảm ứng.

          - Hai, từ “Phật cáo Tứ Thiên Vương” (đức Phật bảo Tứ Thiên Vương) trở đi, đức Phật trần thuật cảm ứng.

          Trong phần “chư thiên trần thuật”, trước là Tổng, sau là Biệt. Trong phần Tổng, có hai ư:

          - Một, chỗ khói hương xông tới.

          - Hai, khói hương [hiện điềm] tốt lành.

 

          (Kinh) Ngă đẳng thiên chúng văn bỉ diệu hương, hương hữu kim quang, chiếu diệu ngă đẳng sở cư cung điện, năi chí Phạm cung, cập dĩ Đế Thích, Đại Biện Tài Thiên, Đại Cát Tường Thiên, Kiên Lao Địa Thần, Chánh Liễu Tri đại tướng, nhị thập bát bộ chư Dược Xoa thần, Đại Tự Tại Thiên, Kim Cang Mật Chủ, Bảo Hiền đại tướng, Ha Lợi Để Mẫu ngũ bách quyến thuộc, Vô Nhiệt Năo Tŕ long vương, Đại Hải long vương sở cư chi xứ. Thế Tôn! Như thị đẳng chúng, ư tự cung điện, kiến bỉ hương yên nhất sát-na khoảnh, biến thành hương cái, văn hương phân phức, đổ sắc quang minh, biến chí nhất thiết chư thiên thần cung.

          ()我等天眾聞彼妙香香有金光照曜我等所居宮殿乃至梵宮及以帝釋大辯才天大吉祥天堅牢地神正了知大將二十八部諸藥叉神大自在天金剛密主寶賢大將訶利底母五百眷屬無熱惱池龍王大海龍王所居之處世尊如是等眾於自宮殿見彼香煙一剎那頃變成香蓋聞香芬馥覩色光明遍至一切諸天神宮

    (Kinh: Chư thiên chúng con ngửi thấy mùi hương mầu nhiệm ấy, hương có quang minh sắc vàng, chiếu sáng ngời cung điện chúng con đang ở, cho đến cung điện của Phạm thiên, cùng với chỗ ở của Đế Thích, Đại Biện Tài Thiên, Đại Cát Tường Thiên, Kiên Lao Địa Thần, đại tướng Chánh Liễu Tri[5], hai mươi tám bộ các thần Dược Xoa, Đại Tự Tại Thiên, Kim Cang Mật Chủ, đại tướng Bảo Hiền[6], Ha Lợi Để Mẫu (Hārītī, Quỷ Tử Mẫu) và năm trăm quyến thuộc, long vương nơi ao Vô Nhiệt Năo và long vương Đại Hải. Bạch Thế Tôn! Các đại chúng như thế ở trong cung điện của chính ḿnh, thấy khói hương ấy, trong khoảng một sát-na biến thành lọng hương, ngửi thấy mùi hương thơm ngát, thấy quang minh nhiều màu soi thấu trọn khắp các cung của chư thiên thần).

 

     Tiếp đó, nói riêng. Dựa theo khói hương mà nói có quang minh kim sắc. Nếu không, hương trần do tỵ căn (mũi) tiếp nhận, sao có thể nói là “thấy” cho được?

 

5.12.4.2.1.1.3.3.2. Đức Phật trần thuật sự cảm ứng

 

          (Kinh) Phật cáo Tứ Thiên Vương: - Thị hương quang minh phi đản chí thử cung điện, biến thành hương cái, phóng đại quang minh. Do bỉ nhân vương thủ chấp hương lô, thiêu chúng danh hương, cúng dường kinh thời, kỳ hương yên khí, ư nhất niệm khoảnh, biến chí tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt, bách ức Diệu Cao sơn vương, bách ức tứ châu. Ư thử tam thiên đại thiên thế giới, nhất thiết thiên, long, Dược Xoa, Kiện Thát Bà, A Tô La, Yết Lộ Trà, Khẩn Na La, Mạc Hô Lạc Già cung điện chi sở, ư hư không trung, sung măn nhi trụ, chủng chủng hương yên biến thành vân cái. Kỳ cái kim sắc, phổ chiếu thiên cung. Như thị tam thiên đại thiên thế giới sở hữu chủng chủng hương vân, hương cái, giai thị Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh oai thần chi lực.

          ()佛告四天王是香光明非但至此宮殿變成香蓋放大光明由彼人王手執香爐燒眾名香供養經時其香煙氣於一念頃遍至三千大千世界百億日月百億妙高山王百億四洲於此三千大千世界一切天藥叉健闥婆阿蘇羅揭路茶緊那羅莫呼洛伽宮殿之所於虛空中充滿而住種種香煙變成雲蓋其蓋金色普照天宮如是三千大千世界所有種種香雲香蓋皆是金光明最勝王經威神之力

    (Kinh: Đức Phật bảo Tứ Thiên Vương: - Quang minh của hương ấy không chỉ thấu đến các cung điện ấy, mà c̣n biến thành lọng hương, tỏa quang minh to lớn. Do khi vị quốc vương ấy tay cầm ḷ hương, đốt các thứ hương quư cúng dường kinh, mùi khói hương trong khoảng một niệm, đến trọn khắp trăm ức mặt trời, mặt trăng, trăm ức núi chúa Diệu Cao, trăm ức bốn châu trong tam thiên đại thiên thế giới. Nơi cung điện của hết thảy trời, rồng, Dược Xoa, Kiện Thát Bà, A Tô La, Yết Lộ Trà (Ca Lâu La), Khẩn Na La, Mạc Hô Lạc Già trong tam thiên đại thiên thế giới ấy, trụ đầy ắp trong hư không, các thứ khói hương biến thành lọng mây. Lọng ấy sắc vàng, chiếu khắp cung trời. Tất cả các thứ mây hương, lọng hương như thế trong tam thiên đại thiên thế giới đều do sức oai thần của kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương).

 

          Kế đó, đức Phật trần thuật sự cảm ứng, có hai ư:

          - Một, khói hương xông khắp cơi đại thiên.

          - Hai, từ “thị chư nhân vương” (các quốc vương ấy) trở đi, nói hương xông trọn khắp mười phương thế giới.

          Trong ư thứ nhất, có bốn điều:

          - Một, chẳng bị hạn cuộc bởi t́nh kiến.

          - Hai, từ “do bỉ nhân vương” (do quốc vương ấy) trở đi, hương xông trọn khắp.

          - Ba, từ “chủng chủng hương yên” (các thứ khói hương) trở đi, nói về điềm lành.

          - Bốn, “như thị tam thiên” (cơi tam thiên như thế) trở đi, kết quy vào kinh lực.

 

          (Kinh) Thị chư nhân vương thủ tŕ hương lô cúng dường kinh thời, chủng chủng hương khí phi đản biến thử tam thiên đại thiên thế giới, ư nhất niệm khoảnh, diệc biến thập phương vô lượng vô biên Hằng hà sa đẳng bách thiên vạn ức chư Phật quốc độ, ư chư Phật thượng hư không chi trung, biến thành hương cái, kim sắc phổ chiếu diệc phục như thị.

          ()是諸人王手持香罏供養經時種種香氣非但遍此三千大千世界於一念頃亦遍十方無量無邊恒河沙等百千萬億諸佛國土於諸佛上虛空之中變成香蓋金色普照亦復如是

    (Kinh: Khi các quốc vương tay cầm ḷ hương cúng dường kinh, các thứ mùi hương không chỉ trọn khắp tam thiên đại thiên thế giới này, [mà c̣n] trong khoảng một niệm, cũng trọn khắp mười phương vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức các cơi nước Phật nhiều như cát sông Hằng. Nơi hư không phía trên chư Phật, biến thành lọng hương, kim sắc chiếu trọn khắp nơi, cũng giống như thế).

 

          Kế đó, nói [mùi hương] trọn khắp mười phương thế giới. Có hai ư:

          - Một, tới đâu cũng đều ở phía trên phía dưới chư Phật.

          - Hai, hiện điềm lành.

 

5.12.4.2.1.1.3.4. Chư Phật tán dương

5.12.4.2.1.1.3.4.1. Tán thán cái nhân thù thắng thành tựu trong hiện tại

5.12.4.2.1.1.3.4.1.1. Tán thán cái nhân của pháp sư

 

          (Kinh) Thời bỉ chư Phật văn thử diệu hương, đổ tư vân cái, cập dĩ kim sắc ư thập phương giới Hằng hà sa đẳng chư Phật Thế Tôn, hiện thần biến dĩ, bỉ chư Thế Tôn tất cộng quán sát, dị khẩu đồng âm, tán pháp sư viết: - Thiện tai! Thiện tai! Nhữ đại trượng phu năng quảng lưu bố như thị thậm thâm vi diệu kinh điển, tắc vi thành tựu vô lượng vô biên bất khả tư nghị phước đức chi tụ.

          ()時彼諸佛聞此妙香覩斯雲蓋及以金色於十方界恒河沙等諸佛世尊現神變已彼諸世尊悉共觀察異口同音讚法師曰善哉善哉汝大丈夫能廣流布如是甚深微妙經典則為成就無量無邊不可思議福德之聚

    (Kinh: Khi đó, chư Phật ngửi mùi hương mầu nhiệm ấy, trông thấy lọng mây ấy, và sắc vàng hiện thần biến nơi chư Phật Thế Tôn trong mười phương thế giới nhiều như cát sông Hằng xong, các đức Thế Tôn ấy đều cùng quan sát, khác miệng cùng tiếng, tán thán pháp sư rằng: - Lành thay! Lành thay! Ông là đại trượng phu có thể lưu truyền rộng răi kinh điển vi diệu rất sâu như thế, tức là thành tựu vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn khối phước đức).

 

          Tán rằng: Phần thứ tư trong đoạn “dạy về quy cách hoằng kinh” là “chư Phật tán dương”, có hai điều:

          - Một, tán thán cái nhân thù thắng được thành tựu trong hiện tại.

          - Hai, từ “nhĩ thời, thập phương” (lúc bấy giờ, mười phương) trở đi, tán thán cái quả vị lai.

          Tán thán nhân lẫn quả, mong cho các quốc vương y giáo phụng hành. Trước hết, trong phần tán thán cái nhân, trước là tán thán cái nhân của pháp sư, sau là tán thán cái nhân của người nghe. “Pháp sư” ở đây là nói chung người thuyết pháp, mà cũng bao gồm người cúng dường. [Người hành bất cứ hạnh nào trong] mười thứ pháp hạnh (biên chép, đọc, tụng, cúng dường, giảng nói, lưu truyền…), đều gọi là pháp sư. Do nhà vua có thể cúng dường, lưu truyền rộng răi kinh này, pháp sư có thể lưu truyền pháp này. Nhưng xét theo mạch văn, đúng là chỉ tán thán nhà vua, nêu ra chuyện thấy điềm lành ứng hiện để tán thán. Hoặc điềm lành ứng hiện do oai lực của kinh; v́ thế, tán thán pháp sư, bao gồm cả hai chỗ tốt lành. Có ba ư:

          - Một, trông thấy điềm lành.

          - Hai, từ “bỉ chư Phật” (các đức Phật đó) trở đi, tán thán chuyện lưu thông kinh.

          - Ba, từ “tắc vi thành tựu” (tức là thành tựu) trở đi, tán thán để kết lại cái nhân.

          Ư nghĩa kinh văn dễ hiểu!

 

5.12.4.2.1.1.3.4.1.2. Tán thán cái nhân của người nghe

 

          (Kinh) Nhược hữu thính văn như thị kinh giả, sở hoạch công đức kỳ lượng thậm đa, hà huống thư tả, thọ tŕ, độc tụng, vị tha phu diễn, như thuyết tu hành. Hà dĩ cố? Thiện nam tử! Nhược hữu chúng sanh văn thử Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh giả, tức ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề bất phục thoái chuyển.

          ()若有聽聞如是經者所獲功德其量甚多何況書寫受持讀誦為他敷演說修何以故善男子若有眾生聞此金光明最勝王經者即於阿耨多羅三藐三菩提不復退轉

    (Kinh: Nếu có người nghe kinh như thế y, đạt được công đức số lượng rất nhiều, huống hồ biên chép, thọ tŕ, đọc tụng, v́ người khác phô diễn, tu hành đúng như lời dạy. V́ cớ sao? Này thiện nam tử! Nếu có chúng sanh nghe kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này, tức là chẳng c̣n thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

          Kế đó, tán thán người nghe, có ba ư:

          - Một, nêu ra cái kém cỏi để suy ra cái thù thắng.

          - Hai, gạn hỏi nguyên do.

          - Ba, giải thích.

 

5.12.4.2.1.1.3.4.2. Tán thán cái quả trong vị lai    

5.12.4.2.1.1.3.4.2.1. Chư Phật cùng khen ngợi

 

          (Kinh) Nhĩ thời, thập phương hữu bách thiên câu-chi na-dữu-đa vô lượng vô số Hằng hà sa đẳng chư Phật sát độ, bỉ chư sát độ nhất thiết Như Lai dị khẩu đồng âm, ư pháp ṭa thượng, tán bỉ pháp sư ngôn: - Thiện tai! Thiện tai!

          ()爾時十方有百千俱胝那庾多無量無數恒河沙等諸佛彼諸剎土一切如來異口同音於法座上讚彼法師言善哉善哉

    (Kinh: Lúc bấy giờ, mười phương có trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa vô lượng vô số Hằng hà sa các cơi Phật, hết thảy Như Lai trong các cơi nước ấy khác miệng cùng tiếng, ở trên pháp ṭa, khen ngợi vị pháp sư ấy rằng: - Lành thay! Lành thay!).

 

          Kế đó, tán thán cái quả trong vị lai. Có hai ư, trước hết là chư Phật cùng khen ngợi chung.

 

5.12.4.2.1.1.3.4.2.2. Tán thán riêng

5.12.4.2.1.1.3.4.2.2.1. Tán thán cái nhân

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Nhữ ư lai thế, dĩ tinh cần lực, đương tu vô lượng bách thiên khổ hạnh, cụ túc tư lương, siêu chư thánh chúng, xuất quá tam giới, vi tối thắng tôn.

          ()善男子汝於來世以精勤力當修無量百千苦行具足資糧超諸聖眾出過三界為最勝尊

    (Kinh: Thiện nam tử! Ông trong đời sau, do sức siêng ṛng, sẽ tu vô lượng trăm ngàn khổ hạnh, trọn đủ tư lương, vượt xa các thánh chúng, vượt khỏi tam giới, thành đấng tối thắng).

 

          Kế đó là tán thán riêng. Trong phần tán thán riêng, trước tiên là tán thán lợi ích nơi cái nhân.

 

5.12.4.2.1.1.3.4.2.2.2. Tán thán cái quả

 

          (Kinh) Đương tọa Bồ Đề thụ vương chi hạ, thù thắng trang nghiêm, năng cứu tam thiên đại thiên thế giới hữu duyên chúng sanh, thiện năng tồi phục khả úy h́nh nghi chư ma quân chúng, giác liễu chư pháp tối thắng thanh tịnh thậm thâm vô thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Thiện nam tử! Nhữ đương tọa ư kim cang chi ṭa, chuyển ư vô thượng chư Phật sở tán thập nhị diệu hạnh thậm thâm pháp luân, năng kích vô thượng tối đại pháp cổ, năng xuy vô thượng cực diệu pháp loa, năng kiến vô thượng thù thắng pháp tràng, năng nhiên vô thượng cực minh pháp cự, năng giáng vô thượng cam lộ pháp vũ, năng đoạn vô lượng phiền năo oán kết.

          ()當坐菩提樹王之下殊勝莊嚴能救三千大千世界有緣眾生善能摧伏可畏形儀諸魔軍眾覺了諸法最勝清淨甚深無上正等菩提善男子汝當坐於金剛之座轉於無上諸佛所讚十二妙行甚深法輪能擊無上大法鼓能吹無上極妙法螺能建無上殊勝法幢能然無上極明法炬能降無上甘露法雨能斷無量煩惱怨結

     (Kinh: Sẽ ngồi dưới cội Bồ Đề thụ vương, thù thắng trang nghiêm, có thể cứu chúng sanh hữu duyên trong tam thiên đại thiên thế giới, khéo có thể dẹp tan các đội quân ma có h́nh dạng đáng sợ, giác ngộ Chánh Đẳng Bồ Đề rất sâu vô thượng, thanh tịnh tối thắng trong các pháp. Này thiện nam tử! Ông sẽ ngồi ṭa kim cang, chuyển pháp luân rất sâu gồm mười hai diệu hạnh vô thượng được chư Phật khen ngợi, có thể gióng trống pháp vô thượng lớn nhất, có thể thổi ốc pháp vô thượng cực diệu, có thể lập pháp tràng thù thắng vô thượng, có thể đốt đuốc pháp vô thượng cực sáng, có thể tuôn mưa pháp cam lộ vô thượng, có thể đoạn vô lượng phiền năo oán kết).

 

          Kế đó, tán thán cái quả. Trong phần “tán thán cái quả”, có bốn điều:

          - Một, ngồi dưới cội đạo thụ (cây Bồ Đề).

          - Hai, từ “thiện năng tồi phục” (khéo có thể dẹp tan) trở đi, hàng phục thiên ma.

          - Ba, từ “giác liễu chư pháp” trở đi, đắc Bồ Đề.

          - Bốn, từ “thiện nam tử” trở đi, chuyển pháp luân.

          Chuyển pháp luân có tám điều. Thứ nhất, trong cái Thể của pháp luân th́ pháp luân có sáu nghĩa, từ “năng linh vô lượng” (có thể khiến cho vô lượng) trở đi chính là tác dụng của pháp luân. Pháp luân có sáu nghĩa như sau:

          - Một, khai Quyền.

          - Hai, ốc (tù và) pháp lập giáo.

          - Ba, pháp tràng đắc Bồ Đề trí.

          - Bốn, đuốc pháp đắc lư Niết Bàn.

          - Năm, mưa pháp có thể sanh ra điều thiện.

          - Sáu, đoạn phiền năo, có thể phá ác.

 

          (Kinh) Năng linh vô lượng bách thiên vạn ức na-dữu-đa hữu t́nh độ ư vô nhai khả úy đại hải, giải thoát sanh tử vô tế luân hồi, trị ngộ vô lượng bách thiên vạn ức na-dữu-đa Phật.

          ()能令無量百千萬億那庾多有情度於無涯可畏大海脫生死無際輪值遇無量百千萬億那庾多佛

          (Kinh: Có thể khiến cho vô lượng trăm ngàn vạn ức na-dữu-đa hữu t́nh vượt khỏi biển cả không bờ bến đáng sợ, giải thoát sanh tử luân hồi không ngằn , gặp vô lượng trăm ngàn vạn ức na-dữu-đa Phật).

         

          Tán rằng: Tác dụng của pháp luân, có ba điều:

          - Vượt qua biển cả, ĺa Khổ Đế.

          - Thoát sanh tử, đoạn Tập Đế.

          - Do Hoặc trói buộc luân hồi sanh tử; v́ thế, đoạn Tập Đế được gọi là “giải thoát”.

          Nghiệp chẳng có nghĩa là “trói buộc”, chẳng phải là cái gốc sanh tử; v́ thế, chẳng nói là “nghiệp”. Hoặc cũng có thể hiểu nó thuộc về nghiệp, v́ giống như Tập. Từ “trị ngộ Phật” (gặp gỡ Phật) trở đi là gặp gỡ bạn lành.

 

5.12.4.2.1.1.4. Quốc vương tu hành kinh này đạt được lợi ích

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Tứ Thiên Vương phục bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Thị Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh năng ư vị lai, hiện tại, thành tựu như thị vô lượng công đức. Thị cố, nhân vương nhược đắc văn thị vi diệu kinh điển, tức thị dĩ ư bách thiên vạn ức vô lượng Phật sở, chủng chư thiện căn. Ư bỉ nhân vương, ngă đương hộ niệm. Phục kiến vô lượng phước đức lợi cố, ngă đẳng tứ vương, cập dư quyến thuộc, vô lượng bách thiên vạn ức chư thần, ư tự cung điện, kiến thị chủng chủng hương yên, vân cái thần biến chi thời, ngă đương ẩn tế, bất hiện kỳ thân. Vị thính pháp cố, đương chí thị vương thanh tịnh nghiêm sức sở chỉ cung điện giảng pháp chi xứ. Như thị năi chí Phạm cung, Đế Thích, Đại Biện Tài Thiên, Đại Cát Tường Thiên, Kiên Lao Địa Thần, Chánh Liễu Tri đại tướng, nhị thập bát bộ chư Dược Xoa thần, Đại Tự Tại Thiên, Kim Cang Mật Chủ, Bảo Hiền đại tướng, Ha Lợi Để Mẫu ngũ bách quyến thuộc, Vô Nhiệt Năo Tŕ long vương, Đại Hải long vương, vô lượng bách thiên vạn ức na-dữu-đa chư thiên, Dược Xoa, như thị đẳng chúng, vị thính pháp cố, giai bất hiện thân, chí bỉ nhân vương thù thắng cung điện trang nghiêm cao ṭa thuyết pháp chi sở. Thế Tôn! Ngă đẳng tứ vương, cập dư quyến thuộc, Dược Xoa chư thần, giai đương nhất tâm, cộng bỉ nhân vương vi thiện tri thức. Nhân thị vô thượng đại pháp thí chủ dĩ cam lộ vị sung túc ư ngă. Thị cố, ngă đẳng ủng hộ thị vương, trừ kỳ suy hoạn, linh đắc an ổn, cập kỳ cung điện, thành, ấp, quốc độ, chư ác tai biến tất linh tiêu diệt.

          ()爾時四天王復白佛言世尊是金光明最勝王經能於未來現在成就如是無量功德是故人王若得聞是微妙經典即是已於百千萬億無量佛所種諸善根於彼人王我當護念復見無量福德利故我等四王及餘眷屬無量百千萬億諸神於自宮殿見是種種香煙雲蓋神變之時我當隱蔽不現其身為聽法故當至是王清淨嚴飾所止宮殿講法之處如是乃至梵宮帝釋大辯才天大吉祥天堅牢地神正了知大將二十八部諸藥叉神大自在天金剛密主寶賢大將訶利底母五百眷屬無熱惱池龍王大海龍王無量百千萬億那庾多諸天藥叉如是等眾為聽法故皆不現身至彼人王殊勝宮殿莊嚴高座說法之世尊我等四王及餘眷屬藥叉諸神皆當一心共彼人王為善知識因是無上大法施主以甘露味充足於我是故我等擁護是王除其衰患令得安穩及其宮殿城邑國土諸惡災變悉令消滅

    (Kinh: Lúc bấy giờ, Tứ Thiên Vương lại bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này có thể trong vị lai và hiện tại thành tựu vô lượng công đức như thế. Do đó, nếu quốc vương được nghe kinh điển vi diệu này, tức là đă gieo các thiện căn nơi trăm ngàn vạn ức vô lượng chư Phật. Con sẽ hộ niệm quốc vương ấy. Lại do thấy vô lượng lợi ích, phước đức, bốn thiên vương chúng con và các quyến thuộc khác, gồm vô lượng trăm ngàn vạn ức các thần, ở trong cung điện của chính ḿnh, khi thấy các loại thần thông biến hóa như khói hương, lọng mây ấy, con sẽ ẩn thân, chẳng hiện thân ḿnh v́ để nghe pháp. Con sẽ đến chỗ cung điện được nhà vua ấy trang hoàng thanh tịnh để làm nơi giảng pháp. Như thế cho đến cung điện của Phạm vương, Đế Thích, Đại Biện Tài Thiên, Đại Cát Tường Thiên, Kiên Lao Địa Thần, đại tướng Chánh Liễu Tri, hai mươi tám bộ các thần Dược Xoa, Đại Tự Tại Thiên, Kim Cang Mật Chủ, đại tướng Bảo Hiền, Ha Lợi Để Mẫu và năm trăm quyến thuộc, long vương ao Vô Nhiệt Năo, long vương Đại Hải, vô lượng trăm ngàn vạn ức na-dữu-đa chư thiên, Dược Xoa, các chúng như thế đó, v́ để nghe pháp đều chẳng hiện thân, tới chỗ ṭa cao để thuyết pháp trang nghiêm trong cung điện thù thắng của vị quốc vương ấy. Bạch Thế Tôn! Bốn vua chúng con và các quyến thuộc khác, các thần Dược Xoa, sẽ đều nhất tâm cùng làm thiện tri thức cho vị quốc vương ấy. Do vị thí chủ đại pháp vô thượng ấy đă dùng cam lộ khiến cho con được sung túc. V́ thế, chúng con ủng hộ nhà vua ấy, trừ sự suy hoạn, khiến cho vua được an ổn, và khiến cho các tai biến ác nơi cung điện, thành, ấp, quốc độ, thảy đều tiêu diệt).

 

          Kế đó, phần thứ tư trong đoạn nguyện thủ hộ là “nhà vua tu hành đạt được lợi ích”. Trước đó, đức Phật đă nói lợi ích do lưu hành kinh này; ở đây là quốc vương nương theo kinh này mà tu hành, đạt được lợi ích, có ba ư:

          - Một, tán thán pháp.

          - Hai, từ “thị cố nhân vương” (v́ thế, quốc vương) trở đi, tán thán người [có thể thủ hộ, hành tŕ kinh này].

          - Ba, từ “ư bỉ nhân vương” (nơi quốc vương đó) trở đi, nói về sự thủ hộ.

          Trước hết, nêu ra cái nhân thủ hộ. Từ “ngă đẳng tứ vương” (bốn vua chúng con) trở đi là nói về sự thủ hộ. Phần này lại gồm bốn ư:

          - Một, nói về thời gian thủ hộ.

          - Hai, từ “ngă đương ẩn tế” (con sẽ ẩn thân) trở đi, chư thiên giáng hạ vương cung.

          - Ba, từ Thế Tôn! Ngă đẳng” (bạch Thế Tôn! Chúng con) trở đi, chư thiên cùng kết thành bạn lành.

          - Bốn, từ “thị cố, ngă đẳng” (v́ thế, chúng con) trở đi, nói về sự thủ hộ.

          Trong đoạn thứ hai, trước hết là tứ thiên vương giáng xuống, sau là từ “như thị năi chí” (như thế cho đến) trở đi, Phạm vương, Đế Thích v.v… hiện tới. Các đoạn khác dễ thấy.

 

5.12.4.2.1.2. Tứ thiên vương sắc truyền quốc vương hộ pháp

5.12.4.2.1.2.1. Tổn hại do chẳng hoằng truyền kinh này

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Tứ Thiên Vương câu cộng hiệp chưởng, bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Nhược hữu nhân vương ư kỳ quốc độ, tuy hữu thử kinh, vị thường lưu bố, tâm sanh xả ly, bất nhạo thính văn, diệc bất cúng dường, tôn trọng, tán thán, kiến tứ bộ chúng tŕ kinh chi nhân, diệc phục bất năng tôn trọng, cúng dường, toại linh ngă đẳng cập dư quyến thuộc, vô lượng chư thiên, bất đắc văn thử thậm thâm diệu pháp, bối cam lộ vị, thất chánh pháp lưu, vô hữu oai quang, cập dĩ thế lực, tăng trưởng ác thú, tổn giảm nhân thiên, trụy sanh tử hà, quai Niết Bàn lộ.

          ()爾時四天王俱共合掌白佛言世尊若有人王於其國土雖有此經未甞流布心生捨離不樂聽聞亦不供養尊重讚歎見四部眾持經之人亦復不能尊重供養遂令我等及餘眷屬無量諸天不得聞此甚深妙法背甘露味失正法流無有威光及以勢力增長惡趣損減人天墜生死河乖涅槃路

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Tứ Thiên Vương đều cùng chắp tay, bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Nếu có quốc vương trong quốc độ của chính ḿnh, tuy có kinh này, nhưng chưa từng lưu truyền, tâm sanh ĺa bỏ, chẳng thích nghe nói, cũng chẳng cúng dường, tôn trọng, tán thán, thấy người tŕ kinh thuộc bốn bộ chúng, cũng chẳng thể tôn trọng, cúng dường, khiến cho chúng con và các quyến thuộc khác, vô lượng chư thiên, chẳng được nghe diệu pháp rất sâu này, trái nghịch cam lộ vị, đánh mất ḍng pháp, chẳng có oai quang cùng với thế lực, tăng trưởng đường ác, tổn giảm trời, người, rơi vào sông sanh tử, trái nghịch đường Niết Bàn).

 

          Tán rằng: Phần thứ hai là “[tứ thiên vương] sắc truyền quốc vương hộ pháp”. Trong phần này có ba ư:

          - Một, chẳng hộ pháp sẽ có tổn hại.

          - Hai, từ “Thế Tôn! Nhược hữu nhân vương” (bạch Thế Tôn! Nếu có quốc vương) trở đi, hoằng truyền, hộ tŕ [kinh này] sẽ đạt được lợi ích.

          - Ba, từ “Thế Tôn! Như Đại Phạm Thiên” trở đi, so sánh nhằm chỉ rơ sự thù thắng để khuyên hoằng kinh.

          Trong phần thứ nhất có hai ư:   

          - Một, vứt bỏ pháp, chẳng hoằng truyền, gồm hai ư: Một là vứt bỏ pháp, hai là vứt bỏ người [thọ tŕ, hoằng dương kinh này].

          - Hai, từ “toại linh ngă đẳng” (khiến cho chúng con) trở đi, [nói rơ] do vậy bèn có tổn hại. Lại gồm hai ư: Một là chư thiên bị suy tổn, hai là loài người bị suy tổn. Trong phần “chư thiên bị suy tổn” có năm điều: Một là đánh mất pháp lợi, hai là mất oai quang, ba là tăng thêm đường ác, bốn là tổn giảm nhân thiên, năm là đánh mất đường chánh. Theo thứ tự, lời văn dễ hiểu.

 

          (Kinh) Thế Tôn! Ngă đẳng tứ vương, tịnh chư quyến thuộc, cập Dược Xoa đẳng, kiến như tư sự, xả kỳ quốc độ, vô ủng hộ tâm. Phi đản ngă đẳng xả khí thị vương, diệc hữu vô lượng thủ hộ quốc độ chư đại thiện thần, tất giai xả khứ. Kư xả ly dĩ, kỳ quốc đương hữu chủng chủng tai họa: Táng thất quốc vị, nhất thiết nhân chúng giai vô thiện tâm, duy hữu hệ phược, sát hại, sân tránh, hỗ tương sàm siểm, uổng cập vô cô, tật dịch lưu hành, tuệ tinh sổ xuất, lưỡng nhật tịnh hiện, bạc thực vô hằng, hắc bạch nhị hồng biểu bất tường tướng, tinh lưu, địa động, tỉnh nội phát thanh, bạo vũ, ác phong, bất y thời tiết, thường tao cơ cẩn, miêu thật bất thành, đa hữu tha phương oán tặc xâm lược, quốc nội nhân dân thọ chư khổ năo, thổ địa vô hữu khả lạc chi xứ.

          ()世尊我等四王并諸眷屬及藥叉等見如斯事捨其國土無擁護心非但我等捨棄是王亦有無量守護國土諸大善神悉皆捨去既捨離已其國當有種種災禍喪失國位一切人眾皆無善心唯有繫縛殺害瞋諍互相讒諂枉及無辜疾疫流行彗星數出兩日竝現薄蝕無恒黑白二虹表不祥相星流地動內發暴雨惡風不依時節常遭饑饉苗實不成多有他方怨賊侵掠內人民受諸苦土地無有可樂之處

    (Kinh: Bạch Thế Tôn! Bốn vua chúng con và các quyến thuộc, cùng với Dược Xoa v.v… thấy chuyện như thế, bỏ cơi nước ấy, chẳng có tâm ủng hộ. Không chỉ chúng con vứt bỏ vị vua ấy, mà cũng có vô lượng các đại thiện thần thủ hộ quốc độ thảy đều bỏ đi. Đă ĺa bỏ rồi, nước ấy sẽ có các thứ tai họa: Đánh mất quốc vị (mất nước), hết thảy nhân dân đều chẳng có thiện tâm, chỉ có trói buộc, giết hại, giận dữ tranh căi, sàm báng, xúc siểm lẫn nhau, làm oan uổng lây cho kẻ vô tội, sao chổi nhiều lượt xuất hiện, bệnh dịch lan tràn, hai mặt trời cùng mọc, bị nhật thực chẳng thường hằng. Hai thứ cầu vồng trắng và đen biểu thị tướng bất tường, sao băng, động đất, trong giếng phát ra tiếng, mưa cuồng, gió dữ, chẳng theo đúng thời tiết, thường gặp nạn đói kém, ngũ cốc chẳng được mùa. Có nhiều oán tặc từ phương khác xâm lược, nhân dân trong nước hứng chịu các khổ năo, cơi đất chẳng có chỗ nào đáng vui!)

 

          Kế đó là tổn hại đối với loài người, có hai ư:

          - Một, thiên thần bỏ đi.

          - Hai, từ “kư xả ly dĩ” (đă ĺa bỏ rồi) trở đi, quốc độ suy tổn.

          Trong ư ấy, lại có ba đoạn: Một là nêu ra, hai là biện định, ba là từ “Thế Tôn! Ngă đẳng tứ vương” (bạch Thế Tôn! Bốn vua chúng con) trở đi là kết lại. Trong phần biện định, có bốn ư:

          - Một, vong quốc.

          - Hai, từ “nhất thiết nhân chúng” (hết thảy dân chúng) trở đi, mọi người làm ác.

          - Ba, bệnh dịch phát sanh.

          - Bốn, từ “tuệ tinh” (sao chổi) trở đi, ác tướng hiện ra, gồm mười một điều: Một, sao chổi nhiều lần xuất hiện. Hai, hai vầng mặt trời cùng hiện ra. Ba, nhật thực và nguyệt thực. Bốn, cầu vồng biểu thị sự bất tường. Năm, sao băng thất thường. Sáu, đại địa chấn động. Bảy, giếng phát ra tiếng lạ. Tám, mưa gió trái thời. Chín, mùa màng thất bát. Mười, giặc từ phương khác xâm lấn. Mười một, trong nước của chính ḿnh chẳng vui sướng.

 

          (Kinh) Thế Tôn! Ngă đẳng tứ vương, cập dữ vô lượng bách thiên thiên thần, tịnh hộ quốc độ chư cựu thiện thần viễn ly khứ thời, sanh như thị đẳng vô lượng bách thiên tai quái ác sự.

          ()世尊我等四王及與無量百千天神并護國土諸舊善神遠離去時生如是等無量百千災怪惡事

    (Kinh: Bạch Thế Tôn! Khi bốn vua chúng con cùng với vô lượng trăm ngàn thiên thần, và các vị cựu thiện thần ủng hộ quốc độ xa ĺa, sẽ sanh ra vô lượng trăm ngàn chuyện ác tai quái như thế).

 

          Kết lại.

 

5.12.4.2.1.2.2. Hoằng truyền, thủ hộ kinh này sẽ đạt được lợi ích

 

          (Kinh) Thế Tôn! Nhược hữu nhân vương dục hộ quốc độ, thường thọ khoái lạc, dục linh chúng sanh hàm mông an ổn, dục đắc tồi phục nhất thiết ngoại địch, ư tự quốc cảnh, vĩnh đắc xương thịnh, dục linh chánh giáo lưu bố thế gian, khổ năo ác pháp giai trừ diệt giả, Thế Tôn! Thị chư quốc vương tất đương thính thọ thị diệu kinh vương, diệc ưng cung kính, cúng dường, độc tụng, thọ tŕ kinh giả. Ngă đẳng cập dư vô lượng thiên chúng, dĩ thị thính pháp thiện căn oai lực, đắc phục vô thượng cam lộ pháp vị, tăng ích ngă đẳng sở hữu quyến thuộc tịnh dư thiên thần giai đắc thắng lợi. Hà dĩ cố? Dĩ thị nhân vương chí tâm thính thọ thị kinh điển cố.

          ()世尊若有人王欲護國土常受快樂欲令眾生咸蒙安穩欲得摧伏一切外敵於自國境永得昌盛欲令正教流布世間苦惱惡法皆除滅者世尊是諸國王必當聽受是妙經王亦應恭敬供養讀誦受持經者我等及餘無量天眾以是聽法善根威力得服無上甘露法味增益我等所有眷屬并餘天神皆得勝利何以故以是人王至心聽受是經典故

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Nếu có quốc vương muốn thủ hộ đất nước, thường hưởng vui sướng, muốn khiến cho chúng sanh đều được an ổn, muốn được dẹp tan hết thảy kẻ địch bên ngoài, trong nước ḿnh vĩnh viễn được hưng thịnh, muốn khiến cho chánh giáo lưu truyền trong thế gian, ác pháp khổ năo đều trừ diệt. Bạch Thế Tôn! Các quốc vương ấy ắt đều nên nghe nhận kinh điển mầu nhiệm này, cũng nên cung kính, cúng dường, người đọc tụng và thọ tŕ kinh. Chúng con và vô lượng thiên chúng khác, do oai lực của thiện căn nghe pháp này, được uống cam lộ pháp vị vô thượng, tăng thêm tất cả quyến thuộc của chúng con, và các thiên thần khác đều đạt được lợi ích thù thắng. V́ sao vậy? Do vị quốc vương đó chí tâm nghe nhận kinh điển này vậy).

         

          Tán rằng: Kế đó, nói “do hoằng dương, thủ hộ [kinh này] đạt được lợi ích, có ba ư:

          - Một, vua dấy lên thiện nguyện.

          - Hai, từ “Thế Tôn! Thị chư quốc vương” (bạch Thế Tôn! Các quốc vương ấy) trở đi, dạy hăy hoằng truyền kinh.

          - Ba, từ “ngă đẳng cập dư” (chúng con và các thiên chúng khác) trở đi, tứ thiên vương đạt được lợi ích, gồm ba điều:

          Trước là nêu ra.

a)     “Hà dĩ cố?” (v́ sao vậy?) là hỏi ngược lại

b)    Từ “dĩ thị nhân vương” (do quốc vương ấy) trở đi là giải thích.

Trong phần nêu ra, nói “dĩ thị thính pháp” (do vậy được nghe pháp) v.v… hàm ư: [Chư thiên] do quốc vương mà được nghe pháp. Từ “ngă đẳng” (chúng con) trở đi, nói rơ bốn thiên vương v.v… đạt được lợi ích.

 

5.12.4.2.1.2.3. So sánh nhằm chỉ rơ sự thù thắng để khuyên hoằng truyền kinh

5.12.4.2.1.2.3.1. So lường để chỉ rơ sự thù thắng

 

          (Kinh) Thế Tôn! Như Đại Phạm Thiên ư chư hữu t́nh, thường vị tuyên thuyết thế xuất thế luận, Đế Thích phục thuyết chủng chủng chư luận, ngũ thông thần tiên diệc thuyết chư luận. Thế Tôn! Phạm Thiên, Đế Thích, ngũ thông tiên nhân tuy hữu bách thiên câu-chi na-dữu-đa vô lượng chư luận, nhiên Phật Thế Tôn từ bi, ai mẫn, vị nhân thiên chúng thuyết Kim Quang Minh vi diệu kinh điển, tỷ tiền sở thuyết, thắng bỉ bách thiên câu-chi na-dữu-đa bội, bất khả vi dụ. Hà dĩ cố? Do thử năng linh chư Thiệm Bộ châu sở hữu vương đẳng chánh pháp hóa thế, năng dữ chúng sanh an lạc chi sự, vi hộ tự thân, cập chư quyến thuộc, linh vô khổ năo, hựu vô tha phương oán tặc xâm hại, sở hữu chư ác tất giai viễn khứ, diệc linh quốc độ tai ách b́nh trừ, hóa dĩ chánh pháp, vô hữu tránh tụng. Thị cố, nhân vương các ư quốc độ, đương nhiên pháp cự, minh chiếu vô biên, tăng ích thiên chúng, tịnh chư quyến thuộc.

          ()世尊如大梵天於諸有情常為宣說世出世論帝釋復說種種諸五通神仙亦說諸世尊梵天帝釋五通仙人雖有百千俱胝那庾多無量諸論然佛世尊慈悲哀愍為人天眾金光明微妙經典比前所勝彼百千俱胝那庾多倍不可為何以故由此能令諸贍部洲所有王等正法化世能與眾生安樂之事為護自身及諸眷屬令無苦惱又無他方怨賊侵害所有諸惡悉皆遠去亦令國土災厄屏除化以正法無有諍訟是故人王各於國土當然法炬明照無邊增益天眾并諸眷屬

    (Kinh: Bạch Thế Tôn! Như Đại Phạm Thiên ở trong các hữu t́nh thường v́ họ tuyên nói các luận thế gian và xuất thế gian, Đế Thích lại nói các thứ luận, ngũ thông thần tiên cũng nói các luận. Bạch Thế Tôn! Phạm Thiên, Đế Thích, ngũ thông tiên nhân tuy có trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa vô lượng các luận, nhưng đức Phật Thế Tôn từ bi thương xót, v́ đại chúng trời người, nói kinh điển Kim Quang Minh vi diệu này, so với [các luận] được nói trên đây, vượt hơn trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa lần, chẳng thể thí dụ. V́ sao vậy? Do kinh này có thể khiến cho tất các vua trong châu Thiệm Bộ dùng chánh pháp giáo hóa thế gian, có thể ban cho chúng sanh các sự an vui, v́ thủ hộ thân ḿnh và các quyến thuộc, khiến cho chẳng có khổ năo, lại chẳng có oán tặc từ phương khác xâm hại, tất cả các ác thảy đều ĺa xa, cũng khiến cho quốc độ trừ sạch tai ách, dùng chánh pháp để giáo hóa, chẳng có tranh căi, kiện tụng. V́ thế, mỗi vị quốc vương ở trong nước ḿnh, hăy nên thắp đuốc pháp, chiếu sáng vô biên, tăng thêm thiên chúng và các quyến thuộc).

 

          Kế đó, ư thứ ba là “so lường nhằm chỉ rơ sự thù thắng, ḥng khuyên hoằng kinh”, có ba ư:

          - Một, so lường để chỉ rơ sự thù thắng.        

          - Hai, nói rơ tứ thiên vương được lợi ích.

          - Ba, khuyên hoằng dương kinh.

          Trong ư thứ nhất, có bốn điều:

          - Một, nêu ra chuyện kém cỏi (Phạm vương, Đế Thích, ngũ thông tiên nhân nói các luận).

          - Hai, từ “Thế Tôn! Phạm Thiên” trở đi, nêu ra chuyện thù thắng.

          - Ba, từ “hà dĩ cố” (v́ sao vậy) trở đi, giải thích nguyên do.

          - Bốn, từ “thị cố” (v́ thế) trở đi, kết lại ư “phải nên tŕ kinh”.

 

5.12.4.2.1.2.3.2. Tứ thiên vương được lợi ích

 

          (Kinh) Thế Tôn! Ngă đẳng tứ vương, vô lượng thiên thần, Dược Xoa chi chúng, Thiệm Bộ châu nội sở hữu thiên thần, dĩ thị nhân duyên, đắc phục vô thượng cam lộ pháp vị, hoạch đại oai đức, thế lực, quang minh, vô bất cụ túc, nhất thiết chúng sanh giai đắc an ổn. Phục ư lai thế, vô lượng bách thiên bất khả tư nghị na-dữu-đa kiếp, thường thọ khoái lạc, phục đắc trị ngộ vô lượng chư Phật, chủng chư thiện căn, nhiên hậu chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Như thị vô lượng vô biên thắng lợi, giai thị Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, dĩ đại từ bi, quá chư Phạm chúng, dĩ đại trí huệ du ư Đế Thích, tu chư khổ hạnh thắng ngũ thông tiên bách thiên vạn ức na-dữu-đa bội, bất khả xưng kế, vị chư chúng sanh diễn thuyết như thị vi diệu kinh điển.

          ()世尊我等四王無量天神藥叉之眾贍部洲內所有天以是因緣得服無上甘露法味獲大威德勢力光明無不具足一切眾生皆得安穩復於來世無量百千不可思議那庾多劫常受快樂復得值遇無量諸佛種諸善然後證得阿耨多羅三藐三菩提如是無量無邊勝利皆是如來正等覺以大慈悲過諸梵眾以大智慧逾於帝釋修諸苦行勝五通仙百千萬億那庾多倍不可稱計為諸眾生演說如是微妙經典

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Bốn vua chúng con, vô lượng thiên thần, các vị Dược Xoa, tất cả thiên thần trong châu Thiệm Bộ, do nhân duyên này, được uống pháp vị cam lộ vô thượng, đạt được oai đức, thế lực, và quang minh to lớn, không ǵ chẳng đầy đủ. Hết thảy chúng sanh đều được an ổn. Lại trong vô lượng trăm ngàn chẳng thể nghĩ bàn na-dữu-đa kiếp trong đời mai sau, thường hưởng vui sướng, lại được gặp gỡ vô lượng chư Phật, gieo các thiện căn. Sau đấy, chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vô lượng vô biên lợi ích thù thắng như thế, đều do Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, v́ ḷng đại từ bi vượt xa các Phạm Thiên, do đại trí huệ vượt hơn Đế Thích, tu các khổ hạnh hơn ngũ thông tiên trăm ngàn vạn ức na-dữu-đa lần, chẳng thể tính kể, v́ các chúng sanh diễn nói kinh điển vi diệu như thế).

 

          Kế đó, [nói về] hưởng lợi ích [do hoằng dương, thủ hộ kinh này], có hai đoạn:

          - Một, chư thiên đạt được lợi ích.

          - Hai, “linh Thiệm Bộ Châu” (khiến cho Thiệm Bộ Châu) trở đi, chỉ ra: Nhân loại đạt được lợi ích.

          Trong phần “chư thiên đạt được lợi ích”, trước là đạt được lợi ích, sau từ “giai thị Như Lai” (đều do Như Lai) trở đi là phần tán thán.

 

          (Kinh) Linh Thiệm Bộ châu nhất thiết quốc chúa, cập chư nhân chúng, minh liễu thế gian sở hữu pháp thức, trị quốc, hóa nhân, khuyến đạo chi sự, do thử kinh vương lưu thông lực cố, phổ đắc an lạc. Thử đẳng phước lợi, giai thị Thích Ca đại sư ư thử kinh điển, quảng vị lưu thông, từ bi lực cố.

          ()令贍部洲一切國主及諸人眾明了世間所有法式治國化人勸導之事由此經王流通力故普得安樂此等福利皆是釋迦大師於此經典廣為流通慈悲力故

    (Kinh: Khiến cho hết thảy quốc chúa và các nhân dân trong châu Thiệm Bộ hiểu rơ tất cả pháp thức trong thế gian, chuyện cai trị đất nước, giáo hóa nhân dân, khuyên lơn, hướng dẫn. Do sức lưu thông kinh vương này mà được an lạc trọn khắp. Các phước lợi ấy đều do sức từ bi rộng lưu thông kinh điển này của Thích Ca đại sư).

 

          Tiếp đó, kết lại phần lợi ích đối với nhân loại. Trong ấy, chỉ nói lợi ích nơi cái nhân, chẳng nhắc đến cái quả, do đă nói trong phần trước rồi. Một là được lợi ích nơi cái nhân, hai là kết luận: “Do kinh mà đạt được các lợi ích ấy!”

 

5.12.4.2.1.2.3.3. Khuyên hoằng dương kinh

 

          (Kinh) Thế Tôn! Dĩ thị nhân duyên, chư nhân vương đẳng giai ưng thọ tŕ, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán thử diệu kinh vương. Hà dĩ cố? Như thị đẳng bất khả tư nghị thù thắng công đức, lợi ích nhất thiết, thị cố danh viết Tối Thắng Kinh Vương.

          ()世尊以是因緣諸人王等皆應受持供養恭敬尊重讚歎此妙經王何以故如是等不可思議殊勝功德利益一切是故名曰最勝經王

    (Kinh: Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên ấy, các quốc vương đều nên thọ tŕ, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán vua trong các kinh mầu nhiệm này. V́ sao vậy? Do công đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn, lợi ích hết thảy như vậy. V́ thế, gọi là Tối Thắng Kinh Vương).

 

          Kế đó, khuyên hoằng truyền kinh, gồm ba ư: Nêu ra, gạn hỏi, và giải thích riêng biệt.

 

5.12.4.2.2. Nguyện dùng pháp để thủ hộ

5.12.4.2.2.1. Đức Thế Tôn lại khuyên bảo

5.12.4.2.2.1.1. Khuyên thủ hộ quốc vương

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Tứ Thiên Vương: - Nhữ đẳng tứ vương, cập dư quyến thuộc, vô lượng bách thiên câu-chi na-dữu-đa chư thiên đại chúng, kiến bỉ nhân vương nhược năng chí tâm thính thị kinh điển, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán giả, ưng đương ủng hộ, trừ kỳ suy hoạn, năng linh nhữ đẳng diệc thọ an lạc.

          ()爾時世尊復告四天王汝等四王及餘眷屬無量百千俱胝那庾多諸天大眾見彼人王若能至心聽是經典供養恭敬尊重讚歎者應當擁護除其衰患能令汝等亦受安樂

    (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Tứ Thiên Vương: - Bốn vua các ông và các quyến thuộc, vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa chư thiên đại chúng, thấy vị quốc vương đó nếu có thể chí tâm nghe kinh điển này, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán, hăy nên ủng hộ trừ khử suy vi, hoạn nạn cho họ, sẽ có thể khiến cho các ông cũng được an lạc).

 

          Tán rằng: Đoạn lớn thứ hai [trong phẩm này] là “tứ thiên vương vâng theo lời dạy, nguyện thủ hộ”. Trong ấy, có hai phần: Một là dùng thân để thủ hộ, hai là dùng pháp để thủ hộ. Trên đây đă nói về dùng thân thủ hộ, phần này nói về sự thủ hộ bằng pháp. Trong phần trước đă nói “dùng thân thủ hộ người hoằng pháp và quốc độ”, phần này chỉ nói về chuyện “thủ hộ người hoằng pháp”. Hơn nữa, dùng thân để thủ hộ chỉ nhằm trừ các sự suy vi, tai ương, bệnh dịch, hết thảy các thứ bất an; phần này nhằm trừ nghèo khổ, khiến cho [hành nhân] có tài vật. V́ thế, đức Phật tán thán: “Nhữ năng phá liệt nhất thiết chúng sanh bần cùng khổ vơng, linh đắc phước lạc” (Ông có thể xé rách lưới nghèo túng, khổ sở cho hết thảy chúng sanh, khiến họ được phước lạc). “Đạt được phước lạc” tức là có thể hoằng kinh; v́ thế, kế đó nói: “Diệc linh thử kinh quảng hành ư thế” (cũng khiến cho kinh này được lưu hành rộng răi trong cơi đời). Trong phần này, có ba đoạn:

          - Một, đức Thế Tôn lại khuyên nhủ.

          - Hai, tứ thiên vương dùng pháp thủ hộ.

          - Ba, từ “thời Đa Văn thiên vương thuyết thử chú” (khi đó, Đa Văn thiên vương nói chú này) trở đi, đức Thế Tôn tán thán.

          Đoạn này thuộc phần thứ nhất, lại có hai điều:

          - Một, khuyên thủ hộ quốc vương.

          - Hai, khuyên thủ hộ tứ chúng.

          Đoạn này thuộc phần “khuyên thủ hộ quốc vương”, có bốn ư:

          - Một, sắc truyền tứ thiên vương và thiên chúng.

          - Hai, [chỉ ra] người được thủ hộ (quốc vương).

          - Ba, dạy họ (tứ thiên vương và thiên chúng) hăy ủng hộ.

          - Bốn, từ “năng linh nhữ đẳng” (có thể khiến cho các ông) trở đi, nêu rơ nguyên do sắc truyền [tứ thiên vương, thiên chúng, thiện thần, Dược Xoa v.v…] ủng hộ [người tŕ kinh, hoằng dương v.v…]

         

5.12.4.2.2.1.2. Khuyên thủ hộ tứ chúng

 

          (Kinh) Nhược tứ bộ chúng năng quảng lưu bố thị kinh vương giả, ư nhân thiên trung, quảng tác Phật sự, phổ năng lợi ích vô lượng chúng sanh. Như thị chi nhân, nhữ đẳng tứ vương thường đương ủng hộ như thị tứ chúng, vật sử tha duyên cộng tương xâm nhiễu, linh bỉ thân tâm tịch tĩnh, an lạc, ư thử kinh vương, quảng tuyên lưu bố, linh bất đoạn tuyệt, lợi ích hữu t́nh tận vị lai tế.

          ()若四部眾能廣流布是經王者於人天中廣作佛事普能利益無量眾生如是之人汝等四王常當擁護如是四眾勿使他緣共相侵擾令彼身心寂靜安樂於此經王廣宣流布令不斷利益有情盡未來際

          (Kinh: Nếu bốn bộ chúng có thể lưu truyền rộng răi vua trong các kinh này, ở trong cơi trời và nhân gian, rộng làm Phật sự, có thể lợi ích trọn khắp vô lượng chúng sanh. Đối với người như thế, bốn vua các ông thường nên ủng hộ tứ chúng như vậy, đừng để cho duyên khác xâm phạm, quấy nhiễu họ, khiến cho họ thân tâm tịch tĩnh, an lạc, rộng tuyên nói, lưu truyền vua trong các kinh này khiến chẳng đoạn tuyệt, lợi ích hữu t́nh đến tột cùng đời vị lai).

 

          Kế đó, trong phần kinh văn khuyên thủ hộ tứ chúng, có bốn ư:

          - Một, nêu ra người được thủ hộ.

          - Hai, từ “ư nhân thiên trung” (ở trong loài người và chư thiên) trở đi, tán thán công năng [của kinh này].

          - Ba, từ “như thị chi nhân” (người như thế) trở đi, sắc truyền thủ hộ.

          - Bốn, từ “ư thử kinh dĩ” (đối với kinh này) trở đi, nói rơ ư nghĩa thủ hộ.

 

5.12.4.2.2.2. Tứ thiên vương dùng pháp thủ hộ

5.12.4.2.2.2.1. Nêu ra công năng của thần chú

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Đa Văn thiên vương tùng ṭa nhi khởi, bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă hữu Như Ư Bảo Châu Đà La Ni pháp, nhược hữu chúng sanh nhạo thọ tŕ giả, công đức vô lượng, ngă thường ủng hộ, linh bỉ chúng sanh ly khổ, đắc lạc, năng thành phước trí nhị chủng tư lương.

          ()爾時多聞天王從座而起白佛言世尊我有如意寶珠陀羅尼法若有眾生樂受持者功德無量我常擁護令彼眾生離苦得樂能成福智二種資糧

    (Kinh: Lúc bấy giờ, Đa Văn thiên vương từ chỗ ngồi đứng dậy, bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Con có pháp Như Ư Bảo Châu Đà La Ni. Nếu có chúng sanh ưa thích thọ tŕ, công đức vô lượng, con thường ủng hộ, khiến cho chúng sanh ĺa khổ, được vui, có thể thành tựu hai thứ tư lương phước và trí).

 

          Tán rằng: Đoạn thứ hai là “tứ thiên vương dùng pháp để thủ hộ”, chia thành bốn phần:

          - Một, nêu ra công năng của chú.

          - Hai, từ “dục thọ tŕ” (muốn thọ tŕ) trở đi, [nêu ra] phương cách tŕ chú.

          - Ba, từ “thời hữu Bệ Thất La” (khi đó, có Bệ Thất La) trở đi, đạt được lợi ích do tŕ chú.

          - Bốn, từ “giả sử nhật nguyệt” (giả sử mặt trời, mặt trăng) trở đi, thề thủ hộ.

          Phần kinh văn đầu tiên có ba ư:

          - Một, [nêu ra] người nói chú (Đa Văn thiên vương).

          - Hai, nêu ra danh hiệu của chú.

          - Ba, từ “nhược hữu chúng sanh” (nếu có chúng sanh) trở đi, nói về công năng của chú.

 

5.12.4.2.2.2.2. Phương cách tŕ chú

5.12.4.2.2.2.2.1. Dạy cách hộ thân

 

          (Kinh) Dục thọ tŕ giả, tiên đương tụng thử hộ thân chi chú, tức thuyết chú viết: “Nam mô bệ thất ra mạt noa dă, mạc ha hạt la xà dă, đát điệt tha: Ra ra ra ra, củ nộ, củ nộ, khu nộ, khu nộ, lâu nộ, lâu nộ, táp phược, táp phược, yết ra, yết ra, mạc ha tỳ yết lạt ma. Mạc ha tỳ yết lạt ma. Mạc ha hạt ra xă hạt lạc, hựu hạt lạc hựu, đổ mạn (tự xưng kỷ danh), tát bà, tát đóa nan giả, sa ha”. Thế Tôn! Tụng thử chú giả, đương dĩ bạch tuyến, chú chi thất biến, nhất biến, nhất kết, hệ chi trửu hậu, kỳ sự tất thành. Ưng thủ chư hương, sở vị an tức, chiên đàn, long năo, tô hợp, đa yết la, huân lục, giai tu đẳng phần, ḥa hợp nhất xứ, thủ chấp hương lô, thiêu hương cúng dường, thanh tịnh tháo dục, trước tiễn khiết y, ư nhất tĩnh thất, khả tụng thần chú.

          ()欲受持者先當誦此護身之呪說呪南謨薜室囉末拏也莫訶曷羅闍也怛姪他囉囉囉囉矩怒矩怒區怒區怒寠怒寠怒颯縛颯縛羯囉羯囉莫訶毘羯喇麼莫訶毘羯喇麼莫訶曷囉社曷𠸪又曷𠸪覩漫(自稱己名)薩婆薩埵難者莎訶世尊誦此呪者當以白線呪之七遍一遍一結繫之肘後其事必成應取諸香所謂安息栴檀龍腦蘇合多揭羅薰陸皆須等分和合一處手執香罏燒香供養