Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ

Quyển thứ chín

Đời Đường, Tam Tạng pháp sư Nghĩa Tịnh vâng chiếu dịch kinh

Dịch kinh sa-môn Huệ Chiểu soạn sớ

金光明最勝王經疏

卷第九

唐三藏法師義淨奉制譯

翻經沙門慧沼撰

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

Phần 14

 

5.21. Phẩm thứ hai mươi mốt: Thiện Sanh Vương (Thiện Sanh Vương phẩm đệ nhị thập nhất, 善生王品第二十一)

 

          Phẩm Thiện Sanh Vương gồm ba môn phân biệt.

 

5.21.1. Ư nghĩa v́ sao có phẩm này?

 

          Nói về ư nghĩa v́ sao có phẩm này, mười sáu phẩm thuộc phần Học Hạnh Lưu Thông chia thành năm tiểu loại, loại thứ tư là nói về Tŕ Học (thọ tŕ, học theo). Tŕ Học lại có hai phần:

          - Một, hai phẩm đầu nêu ra chuyện cũ để tŕ học.

          - Hai, một phẩm sau đó nhằm khuyên người hiện thời hăy thọ tŕ, tu học.

          Phần “nêu ra chuyện xưa” có hai ư:

          - Một là cái quả thế gian, tức là tăng thượng sanh đạo.

          - Hai là cái quả xuất thế, tức quyết định thắng đạo.

          V́ mới tu và tu đă lâu là hai thứ sai biệt, v́ tăng trưởng hai hạnh đại bi và đại trí, phẩm trước nói người khác vâng theo lời dạy tu hành ḥng đạt được cái quả thế gian. Phẩm này nói chính ḿnh thọ tŕ, học kinh này, để cầu cái quả xuất thế. Lại có thể hiểu là: Phẩm trước nhằm kết lại hạnh “để thủ hộ quốc độ, phải nên lưu thông kinh này” như đă nói trong phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc. Phẩm này nhằm kết lại hạnh “được thành Phật, chuyển pháp luân v.v… để lưu thông kinh này”. Do vậy, có phẩm này sanh khởi.

 

5.21.2. Giải thích danh xưng của phẩm này

 

          Giải thích danh xưng th́ Câu Xá La (Kauśalya) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Thiện. Xướng Bà Bà (Saṃbhava) được phương này dịch là Sanh. Các bản dịch cũ dịch [tên vị vua này] là Thiện Tập (善集) không đúng ư nghĩa. Phẩm này nói về hạnh cầu pháp và tŕ kinh của Thiện Sanh thuở trước. Do vậy, đặt tên như thế.

 

5.21.3. Giải trừ vấn nạn

 

          * Hỏi: Bổn ư là muốn khuyên lơn tŕ kinh, bèn nêu ra chuyện cũ để [đại chúng] thông hiểu. Phẩm này đă nói về chuyện Thiện Sanh cầu pháp trong thuở trước, sao không gọi là phẩm Thiện Sanh Cầu Pháp?

          Đáp: Đúng là phải nên nói là Cầu Pháp, nhưng do đại lược, nên chẳng nhắc tới. Lại c̣n không chỉ cầu, mà c̣n được nghe pháp, cúng dường, hành tŕ kinh. Nếu nói Cầu Pháp, sẽ thiếu các hạnh khác! V́ thế, chỉ nói là Thiện Sanh!

          * Hỏi: Trong A-tăng-kỳ thứ hai, thoạt đầu [nhà vua] gặp Bảo Kế Phật, cớ sao phẩm này nói Bảo Kế Phật nhập Niết Bàn, Thiện Sanh Vương mới ra đời?

          Đáp: Bảo Kế Phật gồm nhiều vị. Hơn nữa, chưa ắt phải là vào đầu kiếp thứ hai, vua Thiện Sanh đă được sanh ra, mà là trong thời khác!

 

5.21.4. Giải thích kinh văn

5.21.4.1. Kết lại phần trước nhằm dẫn khởi phần sau

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị chư đại chúng thuyết Vương Pháp Chánh luận dĩ, phục cáo đại chúng: - Nhữ đẳng ưng thính, ngă kim vị nhữ thuyết kỳ văng tích phụng pháp nhân duyên.

          ()爾時世尊為諸大眾說王法正論復告大眾汝等應聽我今為汝說其往昔奉法因        

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn v́ các đại chúng nói Vương Pháp Chánh Lun xong, lại bảo đại chúng: - Các vị hăy nên nghe, ta nay sẽ v́ các vị nói nhân duyên phụng pháp xưa kia).

         

          Tán rằng: Kinh văn của phẩm này được chia thành ba phần:

          - Một, kết lại phần trước, dẫn khởi phần sau.

          - Hai, trần thuật chuyện tu hành.

          - Ba, đại chúng nguyện học.

          Đoạn này thuộc phần thứ nhất.

 

5.21.4.2. Trần thuật sự tu hành

5.21.4.2.1. Quá khứ cúng dường Phật, cầu pháp

 

          (Kinh) Tức ư thị thời, thuyết già-tha viết: - Ngă tích tằng vi Chuyển Luân Vương, xả thử đại địa tịnh đại hải, tứ châu trân bảo giai sung măn, tŕ dĩ cúng dường chư Như Lai. Ngă ư văng tích vô lượng kiếp, vị cầu thanh tịnh chân Pháp Thân, sở ái chi vật giai tất xả, năi chí thân mạng tâm vô lận.

          ()即於是時說伽他我昔曾為轉輪王捨此大地并大海四洲珍寶皆充滿持以供養諸如來我於往昔無量劫為求清淨真法身所愛之物皆悉捨乃至身命心無悋

          (Kinh: Liền ngay khi ấy, nói già-tha rằng: - Ta xưa từng làm Chuyển Luân Vương, xả đại địa này và biển cả, bốn châu trân bảo đều đầy ắp. Cầm đem cúng dường các Như Lai. Xưa kia ta trong vô lượng kiếp, v́ cầu chân Pháp Thân thanh tịnh. Các vật yêu mến đều xả hết, thậm chí thân mạng tâm chẳng tiếc).

 

          Kế đó, trần thuật sự tu hành, gồm ba mươi hai bài tụng. Chia đại lược thành bốn phần:

          - Một, hai bài tụng nêu chung chuyện quá khứ đă cúng Phật, cầu pháp.

          - Hai, hai mươi ba bài tụng tiếp theo nói rơ trong quá khứ đă tu học kinh này.

          - Ba, hai bài tụng kế đó nhằm trừ nghi cho đại chúng, dung hội xưa nay.

          - Bốn, năm bài tụng nói về lợi ích do tu học để khuyên lơn, khích lệ đại chúng.

          Trong phần thứ nhất lại có hai đoạn:

          - Một, bài tụng thứ nhất, nói về chuyện thân cận chư Phật.

          - Hai, bài tụng kế đó nêu rơ [thân cận chư Phật] v́ cầu pháp thù thắng.

 

5.21.4.2.2. Trong quá khứ đă tu học kinh này

 

          (Kinh) Hựu ư quá khứ nan tư kiếp, hữu Chánh Biến Tri danh Bảo Kế, ư bỉ Như Lai Niết Bàn hậu, hữu vương xuất thế danh Thiện Sanh, vi Chuyển Luân Vương hóa tứ châu, tận đại hải tế hàm quy phục. Hữu thành danh viết Diệu Âm Thanh, thời bỉ Luân Vương ư thử trụ.

          ()又於過去難思劫有正遍知名寶髻於彼如來涅槃後有王出世名善生為轉輪王化四洲盡大海際咸歸伏有城名曰妙音聲時彼輪王於此住

          (Kinh: Lại trong quá khứ khó nghĩ kiếp, có Chánh Biến Tri tên Bảo Kế, sau khi Như Lai ấy Niết Bàn, có vua ra đời tên Thiện Sanh, làm Chuyển Luân giáo hóa bốn châu, cùng tột biển cả đều quy phục. Có ṭa thành tên Diệu Âm Thanh, khi ấy, Luân Vương ngự tại đó).

 

          Đoạn thứ hai nêu riêng: “Trong quá khứ đă tu học kinh này”. Trong ấy, có bốn tiểu đoạn:

          - Một, hai bài tụng đầu nói về người cầu pháp.

          - Hai, mười sáu bài tụng kế đó nói về sự cầu pháp.

          - Ba, bài tụng kế đó nêu ra nguyên nhân được nghe [kinh này].

          - Bốn, bốn bài tụng tiếp đó nói về người y theo [kinh này] mà tu học.

          Tiểu đoạn thứ nhất nói về người cầu pháp có bốn ư:

          - Một, nêu ra lúc cầu pháp.

          - Hai, từ “hữu vương xuất” (có vua ra đời) trở đi, nói về người cầu pháp.

          - Ba, từ “vi Chuyển Luân Vương” (làm vua Chuyển Luân) trở đi, nói đến sự giáo hóa của nhà vua.

          - Bốn, từ “hữu thành” (có ṭa thành) trở đi, nói về trụ xứ [của nhà vua].

 

          (Kinh) Dạ mộng văn thuyết Phật phước trí, kiến hữu pháp sư danh Bảo Tích, xử ṭa đoan nghiêm như nhật luân, diễn thuyết Kim Quang vi diệu điển. Nhĩ thời, bỉ vương tùng mộng giác, sanh đại hoan hỷ sung biến thân. Chí thiên hiểu dĩ, xuất vương cung, văng nghệ bật-sô tăng già xứ. Cung kính cúng dường thánh chúng dĩ, tức tiện vấn bỉ chư đại chúng: “Phả hữu pháp sư danh Bảo Tích, công đức thành tựu hóa chúng sanh?” Nhĩ thời, Bảo Tích đại pháp sư, tại nhất thất trung nhi trụ chỉ, chánh niệm tụng tư vi diệu điển, đoan nhiên bất động, thân tâm lạc. Thời hữu bật-sô dẫn đạo vương, chí bỉ Bảo Tích sở cư xứ. Kiến tại thất trung, đoan thân tọa, quang minh diệu tướng biến kỳ thân. Bạch vương: “Thử tức thị Bảo Tích, năng tŕ thậm thâm Phật hành xứ, sở vị vi diệu Kim Quang Minh, chư kinh trung vương tối đệ nhất”. Thời vương tức tiện lễ Bảo Tích. Cung kính, hiệp chưởng, nhi trí thỉnh: “Duy nguyện măn nguyệt diện đoan nghiêm, vị thuyết Kim Quang vi diệu pháp”. Bảo Tích pháp sư thọ vương thỉnh, hứa vị thuyết thử Kim Quang Minh. Châu biến tam thiên thế giới trung, chư thiên đại chúng hàm hoan hỷ. Vương ư quảng bác thanh tịnh xứ, kỳ diệu trân bảo nhi nghiêm sức. Thượng thắng hương thủy sái du trần, chủng chủng tạp hoa giai tán bố. Tức ư thắng xứ sổ cao ṭa, huyền tăng phan cái dĩ trang nghiêm. Chủng chủng mạt hương cập đồ hương, hương khí phân phức giai châu biến. Thiên, long, Tu La, Khẩn Na La, Mạc Hô Lạc Già cập Dược Xoa, chư thiên tất vũ mạn-đà hoa, hàm lai cúng dường bỉ cao ṭa. Phục hữu thiên vạn ức chư thiên, nhạo văn chánh pháp câu lai tập. Pháp sư sơ tùng bổn tọa khởi, hàm tất cúng dường dĩ thiên hoa. Thị thời, Bảo Tích đại pháp sư, tịnh tẩy dục dĩ, trước tiên y, nghệ bỉ đại chúng pháp ṭa sở, hiệp chưởng kiền tâm nhi lễ kính. Thiên chúa, thiên chúng, cập thiên nữ, tất giai cộng tán mạn-đà hoa. Bách thiên thiên nhạc nan tư nghị, trụ tại không trung xuất diệu hưởng. Nhĩ thời, Bảo Tích đại pháp sư, tức thăng cao ṭa, già phu tọa, niệm bỉ thập phương chư sát-độ, bách thiên vạn ức đại từ tôn, biến cập nhất thiết khổ chúng sanh, giai khởi b́nh đẳng từ bi niệm, v bỉ thỉnh chủ Thiện Sanh cố, diễn thuyết vi diệu Kim Quang Minh.

          ()夜夢聞說佛福智見有法師名寶積處座端嚴如日輪演說金光微妙典爾時彼王從夢覺生大歡喜充遍身至天曉已出王宮往詣苾芻僧伽處恭敬供養聖眾已即便問彼諸大眾頗有法師名寶積功德成就化眾生爾時寶積大法師在一室中而住止正念誦斯微妙典端然不動身心樂時有苾芻引導王至彼寶積所居處見在室中端身坐光明妙相遍其身白王此即是寶積能持甚深佛行處所謂微妙金光明諸經中王最第一時王即便禮寶積恭敬合掌而致請唯願滿月面端嚴為說金光微妙法寶積法師受王請許為說此金光明周遍三千世界中諸天大眾咸歡喜王於廣博清淨處奇妙珍寶而嚴飾上勝香水灑遊塵種種雜華皆散布即於勝處數高座懸繒旛蓋以莊嚴種種粖香及塗香香氣芬馥皆周遍天龍修羅緊那羅莫呼洛伽及藥叉諸天悉雨曼陀華咸來供養彼高座復有千萬億諸天樂聞正法俱來集法師初從本座起咸悉供養以天華是時寶積大法師淨洗浴已著鮮衣詣彼大眾法座所合掌虔心而禮敬天主天眾及天女悉皆共散曼陀華百千天樂難思議住在空中出妙響爾時寶積大法師即昇高座跏趺坐念彼十方諸剎土百千萬億大慈尊遍及一切苦眾生皆起平等慈悲念為彼請主善生故演說微妙金光明

    (Kinh: Đêm mộng nghe nói Phật phước trí, thấy có pháp sư tên Bảo Tích, ngồi ṭa đoan nghiêm như mặt trời, diễn nói kinh Kim Quang vi diệu. Bấy giờ, nhà vua từ mộng tỉnh, sanh đại hoan hỷ tràn ngập thân. Tới khi trời sáng, rời cung vua, đến chỗ bật-sô tăng cư trụ. Cung kính cúng dường thánh chúng xong, liền hỏi han các đại chúng ấy: “Có chăng pháp sư tên Bảo Tích, thành tựu công đức độ chúng sanh?” Bấy giờ, đại pháp sư Bảo Tích, đang trụ ở trong một cái thất, chánh niệm tụng kinh vi diệu ấy. Đoan nghiêm bất động, thân tâm vui. Khi đó, bật-sô hướng dẫn vua, đến chỗ sư Bảo Tích đang ở. Thấy Ngài đoan nghiêm ngồi trong thất, diệu tướng quang minh trọn khắp thân. Tâu vua: “Vị này là Bảo Tích, hay tŕ hành xứ Phật rất sâu, tức kinh Kim Quang Minh vi diệu, vua của các kinh tột bậc nhất”. Khi đó, vua liền lễ Bảo Tích, cung kính, chắp tay, dâng lời thỉnh: “Mong đấng măn nguyệt tướng đoan nghiêm, hăy nói pháp Kim Quang vi diệu”. Pháp sư Bảo Tích nhận lời thỉnh, hứa sẽ giảng Kim Quang Minh này. Trong khắp cơi tam thiên thế giới, chư thiên, đại chúng đều hoan hỷ. Vua nơi chỗ thanh tịnh, rộng răi, trang hoàng bằng trân bảo kỳ diệu, vẩy bụi bằng nước thơm thù thắng. Rải khắp đủ loại các thứ hoa. Ở chỗ thù thắng, bày ṭa cao. Treo phan, lọng lụa để trang nghiêm. Các loại hương bột và hương bôi, mùi thơm ngào ngạt đều tỏa khắp. Trời, rồng, Tu La, Khẩn Na La, Mạc Hô Lạc Già và Dược Xoa, chư thiên mưa hoa Mạn-đà-la, đều tới cúng dường ṭa cao ấy. Lại có ngàn vạn ức chư thiên, thích nghe chánh pháp đều nhóm tới. Pháp sư vừa từ ṭa đứng dậy, thảy đều cúng dường bằng hoa trời. Khi đó, đại pháp sư Bảo Tích, tắm gội sạch xong, mặc áo sạch. Đến chỗ pháp ṭa trong đại chúng, chắp tay, kiền thành mà lễ kính. Chúa trời, chúng trời và thiên nữ, đều cùng rải hoa Mạn-đà-la. Trăm ngàn nhạc trời chẳng nghĩ bàn, trụ trong hư không vang tiếng diệu. Lúc đó, đại pháp sư Bảo Tích, liền lên ṭa cao, ngồi xếp bằng. Nghĩ tới mười phương các cơi nước, trăm ngàn vạn ức đấng đại từ, trọn khắp hết thảy chúng sanh khổ, đều khởi niệm từ bi b́nh đẳng, v́ người thỉnh là vua Thiện Sanh, diễn nói Kim Quang Minh vi diệu).

 

          Ư thứ hai là cầu pháp, gồm mười một điều:

          1) Bài tụng thứ nhất là do mộng được thấy nghe. Tiếng Phạn là La Đát Na (Ratna), phương này dịch là Bảo. Câu Sá (Kūṭa) được phương này dịch là Tích. Các bản cũ dịch là Bảo Minh (寶明) hoặc Bảo Minh (寶冥) đều là sai.

          2) Hai bài tụng kế đó, nói vua tỉnh giấc bèn t́m kiếm.

          3) Một bài tụng tiếp đó nói về trụ xứ của pháp sư.

          4) Hai bài tụng kế đó là bạn lành chỉ dẫn. Trong ấy, gồm có ba điều:

          a. Nửa bài tụng nói [nhà vua] đến chỗ pháp sư ở.

          b. Nửa bài tụng nói vua trông thấy h́nh tướng oai nghi [của pháp sư Bảo Tích].

          c. Một bài tụng trần thuật danh xưng và hạnh [của pháp sư].

          5) Bài tụng kế đó, vua đă thấy rồi bèn khải thỉnh.

          6) Nửa bài tụng nói pháp sư hứa khả. 

          7) Nửa bài tụng nói đại chúng nghe thấy [lời hứa khả ấy] đều hoan hỷ.

          8) Ba bài tụng nói về chuyện trang nghiêm đạo tràng, có hai đoạn: Một là vua, hai là tám bộ. Vua [trang nghiêm đạo tràng]” lại có hai ư: Bài tụng thứ nhất là trang nghiêm nơi chốn. Bài tụng kế đó là trang nghiêm pháp ṭa. Kế đó, bài tụng từ thiên, long” trở đi, [nêu lên ư nghĩa] tám bộ cúng dường.

          9) Nửa bài tụng [kế đó nói] chư thiên cùng nhóm họp.

          10) Hai bài tụng rưỡi kế đó nói pháp sư đến pháp hội, trong ấy lại có ba tiểu đoạn:

          a. Nửa bài tụng đầu là sự cảm ứng khi pháp sư khởi Định.

          b. Bài tụng kế đó nói về pháp tắc tới pháp ṭa.

          c. Bài tụng sau cùng là chúng hội cúng dường.

          11) Hai bài tụng kế đó nói [pháp sư] thăng ṭa thuyết pháp, có ba điều:

          a. Nửa bài tụng nói về oai nghi.

          b. Một bài tụng nói về sự vận tâm quán tưởng.

          c. Nửa bài tụng nói pháp sư chánh thức giảng kinh.

 

          (Kinh) Vương kư đắc văn như thị pháp, hiệp chưởng, nhất tâm xướng tùy hỷ, văn pháp hy hữu lệ giao lưu, thân tâm đại hỷ giai sung biến.

          ()王既得聞如是法合掌一心唱隨喜聞法希有淚交流身心大喜皆充遍

          (Kinh: Vua đă được nghe pháp như thế, chắp tay, một dạ, xướng tùy hỷ, nghe pháp hy hữu lệ doanh tṛng, thân tâm mừng rỡ đều trọn khắp).

 

          Bài tụng kế đó nói về ư thứ ba: Do vậy, vua được nghe pháp.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, quốc chúa Thiện Sanh Vương, vị dục cúng dường thử kinh cố, thủ tŕ Như Ư Mạt-ni châu, phát nguyện hàm vị chư chúng sanh, kim khả ư tư Thiệm Bộ châu, phổ vũ thất bảo anh lạc cụ. Sở hữu quỹ phạp tư tài giả, giai đắc tùy tâm thọ an lạc. Tức tiện biến vũ ư thất bảo, tất giai sung túc tứ châu trung: Anh lạc nghiêm thân tùy sở tu, y phục, ẩm thực giai vô phạp. Nhĩ thời, quốc chúa Thiện Sanh Vương, kiến thử tứ châu vũ trân bảo, hàm tŕ cúng dường Bảo Kế Phật, sở hữu di giáo bật-sô tăng.

          ()爾時國主善生王為欲供養此經故手持如意末尼珠發願咸為諸眾生今可於斯贍部洲普雨七寶瓔珞具所有匱乏資財者皆得隨心受安樂即便遍雨於七寶悉皆充足四洲中瓔珞嚴身隨所須衣服飲食皆無乏爾時國主善生王見此四洲雨珍寶咸持供養寶髻佛所有遺教苾芻僧

          (Kinh: Khi đó, quốc chúa Thiện Sanh Vương, v́ muốn cúng dường bộ kinh này, tay cầm châu Như Ư Mạt-ni, phát nguyện đều v́ các chúng sanh, nay trong châu Thiệm Bộ này, mưa khắp anh lạc, đồ bảy báu. Tất cả kẻ thiếu thốn tài vật, đều được tùy tâm hưởng an lạc. Châu liền mưa khắp vật bảy báu, thảy đều sung túc cả bốn châu, anh lạc nghiêm thân theo tâm cần, y phục, thức ăn đều chẳng thiếu. Lúc ấy, quốc chúa Thiện Sanh Vương, thấy cả bốn châu mưa bảy báu, đều đem cúng dường Bảo Kế Phật, tất cả di giáo bật-sô tăng).

 

          Bốn bài tụng kế nói về ư thứ tư “nương theo đó mà tu học pháp hạnh”, gồm mười điều. Ở đây chỉ có một loại, tức trước hết là cúng dường. Cúng dường có mười thứ, ở đây chính là loại thứ sáu “đều cùng cúng dường” v́ dùng mưa bảy báu để thí trọn khắp cho chúng sanh ḥng cùng cúng dường. Trong ấy, có bốn chuyện:

          - Nửa bài tụng đầu tiên nói cách nhà vua thực hiện.

          - Một bài tụng rưỡi kế đó là phát nguyện.

          - Bài tụng kế đó là nguyện được thỏa.

          - Bài tụng kế đó nói về cúng dường.

           Chuyện thứ nhất là những điều nhà vua thực hiện, “v́ để cúng dường kinh này” chính là pháp. Trong sự cúng dường ấy, bao gồm cả cúng dường Phật và Tăng. Phật là vị thuyết chủ, Tăng là người học, kinh là cái để học. V́ thế, đều cúng dường.

          Hỏi: Sao không cúng dường Bảo Kế Thế Tôn, chỉ nói là [cúng dường] tất cả Tăng?

          Đáp: Do Phật đă nhập diệt. Hoặc có thể hiểu là câu trước nói về cúng Phật, câu sau nói về cúng Tăng.

          Nếu là như vậy, Phật đă nhập diệt, cớ sao nói cúng dường Phật?

          Đáp: Do biết Phật là thường trụ, hoặc là cúng dường h́nh tượng Phật.

 

5.21.4.2.3. Trừ nghi cho đại chúng, dung hội cổ kim

 

          (Kinh) Ưng tri quá khứ Thiện Sanh Vương, tức ngă Thích Ca Mâu Ni thị, vị ư tích thời xả đại địa, cập chư trân bảo măn tứ châu. Tích thời Bảo Tích đại pháp sư, vị bỉ Thiện Sanh thuyết diệu pháp, nhân bỉ khai diễn kinh vương cố, Đông phương hiện thành Bất Động Phật.

          ()應知過去善生王即我釋迦牟尼是為於昔時捨大地及諸珍寶滿四洲昔時寶積大法師為彼善生說妙因彼開演經王故東方現成不動佛

          (Kinh: Nên biết vua Thiện Sanh quá khứ, tức là ta Thích Ca Mâu Ni. Trong thuở xưa kia, xả đại địa, cùng với trân bảo đầy bốn châu. Đại pháp sư Bảo Tích thuở trước, v́ vua Thiện Sanh nói pháp mầu. Do vậy, kinh vương được khai diễn, nay thành Đông phương Bất Động Phật).

 

          Hai bài tụng kế đó dung hội xưa nay, có hai ư:

          - Trong hội trước, [Phật Thích Ca] là người cầu kinh.

          - Trong hội sau (tức hội thuyết kinh Kim Quang Minh trong hiện thời), [Phật Thích Ca] là người thuyết pháp.

          V́ sao như thế? Muốn chỉ rơ: Nói và nghe đều là pháp hạnh, sẽ đều thành Phật.

 

5.21.4.2.3. Nêu ra lợi ích do tu học, khuyên lơn, khích lệ đại chúng

 

          (Kinh) Dĩ ngă tằng thính thử kinh vương, hiệp chưởng, nhất ngôn xưng tùy hỷ, cập thí thất bảo chư công đức, hoạch thử tối thắng kim cang thân, kim quang bách phước tướng trang nghiêm, sở hữu kiến giả giai hoan hỷ, nhất thiết hữu t́nh vô bất ái, câu-chi thiên chúng diệc đồng nhiên. Quá khứ tằng kinh cửu thập cửu, câu-chi ức kiếp tác Luân Vương. Diệc ư tiểu quốc vi nhân vương, phục kinh vô lượng bách thiên kiếp. Ư vô lượng kiếp vi Đế Thích, diệc phục tằng vi Đại Phạm vương, cúng dường Thập Lực đại từ tôn, bỉ chi số lượng nan cùng tận. Ngă tích văn kinh tùy hỷ thiện, sở hữu phước tụ lượng nan tri, do tư phước cố chứng Bồ Đề, hoạch đắc Pháp Thân chân diệu trí.

          ()以我曾聽此經王合掌一言稱隨喜及施七寶諸功德獲此最勝金剛身金光百福相莊嚴所有見者皆歡喜一切有情無不愛俱胝天眾亦同然過去曾經九十九俱胝億劫作輪王亦於小國為人王復經無量百千劫於無量劫為帝釋亦復曾為大梵王供養十力大慈尊彼之數量難窮盡我昔聞經隨喜善所有福聚量難知由斯福故證菩提獲得法身真妙智

    (Kinh: Do ta từng nghe kinh vương này. Chắp tay, một lời xưng tùy hỷ, và các công đức thí bảy báu, được thân kim cang tối thắng này. Tướng trang nghiêm trăn phước kim quang, tất cả ai thấy đều hoan hỷ, hết thảy hữu t́nh đều yêu mến. Câu-chi thiên chúng cũng giống vậy. Quá khứ đă trải chín mươi chín, câu-chi ức kiếp làm Luân Vương. Cũng làm quốc vương của nước nhỏ, lại trải vô lượng trăm ngàn kiếp. Trong vô lượng kiếp làm Đế Thích, cũng lại từng làm Đại Phạm vương, cúng dường đấng đại từ Thập Lực, số lượng ấy khó thể cùng tận. Do thiện căn xưa nghe kinh tùy hỷ, tất cả khối phước lượng khó hay, do v́ phước ấy chứng Bồ Đề, đạt được Pháp Thân chân diệu trí).

 

          Năm bài tụng kế đó nói về sự lợi ích do tu học, có ba ư:

          - Hai bài tụng đầu tiên nói về chuyện tu pháp hạnh để đạt được cái quả xuất thế.

          - Hai bài tụng kế đó, nói về chuyện tu pháp hạnh, đạt được quả báo thế gian.

          - Một bài tụng sau cùng kết lại: Do sức của kinh mà đạt được Bồ Đề. Bồ Đề là trí tướng. “Pháp Thân chân diệu trí” là trí tánh, do Bồ Đề và Bồ Đề đoạn đều gọi là Bồ Đề. Hoặc Bồ Đề là tổng, Pháp Thân là Chân Như, diệu trí tức là tứ trí.      

                   

5.21.4.3. Đại chúng nguyện học

         

          (Kinh) Nhĩ thời, đại chúng văn thị thuyết dĩ, thán vị tằng hữu, giai nguyện phụng tŕ Kim Quang Minh kinh, lưu thông bất tuyệt.

          ()爾時大眾聞是說已歎未曾皆願奉持金光明經流通不

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đại chúng nghe nói như thế xong, than là chưa từng có, đều nguyện phụng tŕ kinh Kim Quang Minh, lưu thông chẳng dứt).

 

          Sau đó, đại chúng nguyện học.

 

5.22. Phẩm thứ hai mươi hai: Chư thiên, Dược Xoa hộ tŕ (Chư thiên Dược Xoa hộ tŕ phẩm đệ nhị thập nhị, 諸天藥叉護持品第二十二)

         

          Phẩm Chư Thiên Dược Xoa Hộ Tŕ gồm ba môn phân biệt.

 

5.22.1. Ư nghĩa v́ sao có phẩm này?

         

          Nói đến ư nghĩa v́ sao có phẩm này, phần Học Hạnh Lưu Thông có năm tiểu loại, đây là tiểu loại thứ tư nói về “tŕ học” (thọ tŕ, tu học). Tiểu loại này lại chia thành hai phần:

          - Một là nêu ra chuyện xưa.

          - Hai là khuyên lơn [đại chúng] trong hiện thời.

          Phần “nêu ra chuyện xưa” gồm hai đoạn:

          - Một, nêu ra chuyện hành tŕ xưa kia của người khác.

          - Hai, nêu ra chuyện tự ḿnh hành tŕ trong xưa kia.

          Phẩm này nhằm khuyên lơn đại chúng trong hiện tại hăy hành tŕ. Lại nhằm giải thích và kết lại hạnh lưu thông của người tŕ kinh và bát bộ chúng trong phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc trước đó, cho nên có phẩm này sanh khởi.

 

5.22.2. Giải thích tên gọi của phẩm

 

          Chư Thiên và Dược Xoa là người được khuyên. Hai chữ Hộ Tŕ chính là hạnh để học. Hộ tức là Hộ Hạnh (thực hiện sự thủ hộ), Tŕ tức là Tŕ Hạnh, [Hộ Tŕ] tức là khuyên tứ chúng thọ tŕ, khuyên tám bộ quỷ thần thủ hộ. V́ thế, cuối phẩm chỉ nói “Đại Cát Tường thiên nữ, cập chư thiên đẳng, văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ, ư thử kinh vương cập tŕ kinh giả, nhất tâm ủng hộ” (Đại Cát Tường thiên nữ và các vị trời v.v… nghe lời Phật dạy, đều hết sức hoan hỷ, đối với kinh vương này và người tŕ kinh, một dạ ủng hộ), chẳng nói thọ tŕ!

          Lại giải thích rằng: Tức là duy tŕ khiến cho kinh chẳng bị đoạn diệt th́ gọi là Hộ. Hộ chính là Tŕ, như thủ hộ pháp thành, như nhân vương (quốc vương nhân từ) thủ hộ đất nước, như nói “Tŕ Quốc thiên vương thủ hộ hạnh Thập Địa” v.v… V́ thế, phần Trường Hàng chỉ dạy dâng hiến, và muốn hiểu rơ hành xứ sâu xa của Phật, hăy nên v́ chúng sanh phô diễn, lưu truyền [kinh này]; người nghe pháp hăy nên trừ loạn tưởng. Chẳng nhắc tới người khuyên hộ tŕ kinh! Do đó, Hộ Tŕ tức là “hộ tŕ chánh pháp”. Trong phần sau, kinh nói “thường lai hộ thử nhân” (thường đến thủ hộ người ấy), nghĩa là do hộ tŕ kinh, người ấy được chư thiên thủ hộ. V́ thế, trong phần sau, kinh dạy: “Nhược thử Kim Quang Minh kinh điển lưu bố xứ, hữu năng xưng tụng giả, tất đắc như thượng phước” (Nếu chỗ nào có kinh điển Kim Quang Minh này lưu truyền, có người có thể xưng tụng, ắt sẽ được phước như trên đây), nói rơ “do hộ tŕ kinh mà đạt được lợi ích”.

          Lại giải thích rằng: Hộ tŕ bao gồm cả hai nghĩa, tức là hộ tŕ kinh và thủ hộ người tŕ kinh. Phần sau, kinh dạy: “Ư thử kinh vương, cập tŕ kinh giả, câu ủng hộ cố” (do đối với kinh vương này và người tŕ kinh đều ủng hộ). Cách giải thích này trọn vẹn lư lẽ!

 

5.22.3. Giải trừ vấn nạn

 

          * Hỏi: Đă nói phẩm này nhằm khuyên lơn đại chúng hiện thời hành tŕ, tu học, cớ sao chỉ có chư thiên hoan hỷ ủng hộ, chẳng nói tứ chúng cùng với sự tu hành?

          Đáp: Kinh văn nói tỉnh lược để [người nghe] tự liên tưởng. Trong phần trước đă nêu rơ: “Tức vị chư thiên cập chư đại chúng” (liền v́ chư thiên và các đại chúng), phần sau lại nói “cập chư thiên đẳng văn Phật sở thuyết giai đại hoan hỷ” (và các vị trời v.v… nghe lời đức Phật dạy đều hết sức hoan hỷ), “hoan hỷ” bao hàm ư nghĩa “tu hành”.

 

5.22.4. Giải thích kinh văn

5.22.4.1. Nêu đại lược lời khuyên

5.22.4.1.1. Bảo ban thiên nữ các điều [hành nhân] muốn thực hiện

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Đại Cát Tường thiên nữ viết: - Nhược hữu tịnh tín thiện nam tử, thiện nữ nhân, dục ư quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật, dĩ bất khả tư nghị quảng đại vi diệu cúng dường chi cụ, nhi vi phụng hiến, cập dục giải liễu tam thế chư Phật thậm thâm hành xứ.

          ()爾時世尊告大吉祥天女曰若有淨信善男子善女人欲於過去未來現在諸佛以不可思議廣大微妙供養之具而為奉獻及欲解了三世諸佛甚深行處

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo thiên nữ Đại Cát Tường rằng: - Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân ḷng tin trong sạch, muốn dùng các vật cúng dường rộng lớn vi diệu để dâng cúng quá khứ, vị lai và hiện tại chư Phật, cũng như muốn hiểu rơ hành xứ sâu rất sâu của chư Phật trong ba đời).

 

          Tán viết: Phẩm này đại lược chia thành ba phần:

          - Một, nêu đại lược lời khuyên.

          - Hai, nói cặn kẽ.

          - Ba, đại chúng nguyện thủ hộ.

          Phần thứ nhất chia thành ba ư:

          - Một, bảo thiên nữ.

          - Hai, từ “nhược hữu” (nếu có) trở đi, nêu ra điều muốn thực hiện.

          - Ba, từ “thị nhân” (người ấy) trở đi, khuyên hoằng truyền giáo pháp này.

          Đoạn này gồm hai ư đầu. Trước tiên là phước hạnh “rộng tu cúng dường”“liễu giải hành xứ” để tu trí hạnh. Tư lương Bồ Đề chẳng ngoài hai thứ ấy. “Hành xứ rất sâu” tức là Nhị Không Như. V́ thế, kinh văn trong phần sau nói: “Dục nhập thâm pháp giới, ưng tiên thính thử kinh. Pháp tánh chi chế-để, thậm thâm thiện an trụ” (Muốn nhập pháp giới sâu, nên nghe kinh này trước. Tháp miếu thuộc pháp tánh, khéo an trụ rất sâu).

 

5.22.4.1.2. Khuyên hoằng truyền giáo pháp này

 

          (Kinh) Thị nhân ưng đương quyết định chí tâm, tùy thị kinh vương sở tại chi xứ, thành, ấp, tụ lạc, hoặc sơn trạch trung.

          ()是人應當決定至心隨是經王所在之處城邑聚落或山澤中

          (Kinh: Người ấy hăy nên chí tâm quyết định, tùy theo chỗ nào có kinh vương này, nơi thành, ấp, xóm làng, hoặc trong núi, chằm).

 

          Kế đó, khuyên hoằng truyền kinh này, gồm ba phần:

          - Một, dạy hăy dấy khởi gia hạnh.

          - Hai, từ “tùy thị kinh vương” (tùy theo kinh vương này) trở đi, nói về chỗ hoằng kinh.

          - Từ “quảng vị chúng sanh” (rộng v́ chúng sanh) trở đi là hạnh hoằng kinh.

          Nói “quyết định chí tâm” tức là dấy lên ư nghĩ quyết định để làm “cận gia hạnh” (gia hạnh gần). “Phu diễn” v.v… là đă dấy động ư niệm, bèn thật sự khởi hạnh. Nói “chí tâm” tức là chuyên niệm, bao gồm cả gia hạnh (hạnh phụ trợ, hạnh thêm vào) và chánh hạnh, c̣n suy xét xa, gần, thù thắng, kém cỏi v.v… đều lược đi chẳng nói. Hơn nữa, “quyết định” có nghĩa là “dũng mănh, chẳng lui sụt”. V́ thế, luận Du Già Sư Địa quyển ba mươi tám viết: “Thế nào là cầu nghe chánh pháp? Chính là các vị Bồ Tát v́ muốn được nghe một người khéo thuyết pháp [giảng nói], giả sử phải đi qua con đường bằng sắt nung nóng đỏ, lửa cháy hừng hực, không có phương tiện nào khác để được nghe người khéo thuyết pháp ấy, liền phát khởi tâm dũng mănh, yêu chuộng sâu xa mà hoan hỷ tiến vào đó, huống hồ là muốn nghe [người giảng pháp] khéo nói nhiều lời lẽ, ư nghĩa” v.v… Đấy cũng chính là như trong phần sau, chánh kinh có nói: “Giả sử đại hỏa tụ, măn bách du-thiện-na, vị thính thử kinh vương, trực quá vô từ khổ” (Giả sử đống lửa lớn, to đến trăm do-tuần, v́ nghe kinh vương này, liền thẳng thừng vượt qua, chẳng hề sợ khổ sở).

 

          (Kinh) Quảng vị chúng sanh phu diễn, lưu bố, kỳ thính pháp giả ưng trừ loạn tưởng, nhiếp nhĩ dụng tâm.

          ()廣為眾生敷演流布其聽法者應除亂想攝耳用心

    (Kinh: Rộng v́ chúng sanh phô diễn, lưu truyền. Người nghe pháp hăy nên trừ loạn tưởng, thâu nhiếp cái tai, dụng tâm [lắng nghe]).

 

          Kế đó là “hạnh hoằng truyền”, gồm hai ư:

          - Một, người học đă lâu có thể thực hiện hạnh khai diễn và lợi tha.

          - Hai, người mới học hăy nên lắng nghe, tức là hạnh tự lợi.

          Trong mười pháp hạnh, nêu đại lược hai hạnh ấy để liên tưởng tám hạnh kia. Hoặc có thể hiểu là cùng khuyên người nói lẫn người nghe. “Hựu tùy thị kinh vương sở tại chi xứ” (lại hễ chỗ nào có kinh vương này) tức là nói ra chỗ nào có kinh quyển và tu hành kinh này, đều nên cúng dường, tu hạnh cúng dường. “Ưng trừ loạn tưởng” (hăy nên trừ loạn tưởng) v.v… Theo quyển ba mươi tám của luận Du Già Sư Địa, trong khi nghe pháp, điều thứ ba là trừ tán loạn, lắng nghe sâu xa pháp được nói. Cách thức chi tiết th́ như trong phần trước đă nói.

         

5.22.4.2. Dùng kệ tụng nói rộng

5.22.4.2.1. Giảng về hai hạnh nghe và nói

5.22.4.2.1.1. Hạnh nghe pháp

 

          (Kinh) Thế Tôn tức vị bỉ thiên, cập chư đại chúng, thuyết già-tha viết: - Nhược dục thí chư Phật, bất tư nghị cúng dường, phục liễu chư Như Lai, thậm thâm cảnh giới giả. Nhược kiến diễn thuyết thử, tối thắng Kim Quang Minh, ưng thân nghệ bỉ phương, chí kỳ sở trụ xứ. Thử kinh nan tư nghị, năng sanh chư công đức, vô biên đại khổ hải, giải thoát chư hữu t́nh. Ngă quán thử kinh vương, sơ, trung, hậu giai thiện, thậm thâm bất khả trắc, thí dụ vô năng tỷ. Giả sử Hằng hà sa, đại địa trần, hải thủy, hư không, chư sơn thạch, vô năng dụ thiểu phần. Dục nhập thâm pháp giới, ưng tiên thính thị kinh, pháp tánh chi chế-để, thậm thâm thiện an trụ. Ư tư chế-để nội, kiến ngă Mâu Ni tôn, duyệt ư diệu âm thanh, diễn thuyết tư kinh điển. Do thử, câu-chi kiếp, số lượng nan tư nghị, sanh tại nhân thiên trung, thường thọ thắng diệu lạc. Nhược thính thị kinh giả, ưng tác như thị tâm: Ngă đắc bất tư nghị, vô biên công đức uẩn. Giả sử đại hỏa tụ, măn bách du-thiện-na, vị thính thử kinh vương, trực quá, vô từ khổ. Kư chí bỉ trụ xứ, đắc văn như thị kinh, năng diệt ư tội nghiệp, cập trừ chư ác mộng. Ác tinh chư biến quái, cổ đạo, tà mị đẳng, đắc văn thị kinh thời, chư ác giai xả ly.

          ()世尊即為彼天及諸大眾說伽他若欲施諸佛不思議供養復了諸如來甚深境界者若見演最勝金光明應親詣彼方至其所住處此經難思議能生諸功德無邊大苦海諸有情我觀此經王初中後皆善甚深不可測喻無能假使恒河沙大地塵海水虛空諸山石無能喻少欲入深法界應先聽是經法性之制底甚深善安住於斯制底見我牟尼尊悅意妙音聲說斯經由此俱胝劫數量難思議生在人天中常受勝妙樂若聽是經者應作如是心我得不思議無邊功德蘊假使大火聚滿百踰繕那為聽此經王直過無辭苦既至彼住處得聞如是經能滅於罪業及除諸惡夢惡星諸變怪蠱道邪魅等得聞是經時諸惡皆捨離

          (Kinh: Đức Thế Tôn liền v́ vị trời ấy và các đại chúng đó, nói già-tha rằng: - Nếu muốn thí chư Phật, cúng dường chẳng nghĩ bàn, lại hiểu rơ cảnh giới, rất sâu của Như Lai. Nếu thấy kẻ diễn nói, Kim Quang Minh tối thắng, nên đích thân tới đó, đến chỗ người ấy ở. Kinh này khó nghĩ bàn, hay sanh các công đức, giải thoát các hữu t́nh, khỏi biển khổ vô biên. Ta quán kinh vương này, đầu, giữa, cuối đều lành, rất sâu chẳng thể lường, thí dụ chẳng thể sánh. Giả sử cát sông Hằng, vi trần nơi cơi đất, cùng với nước biển cả, hư không, các núi đá, chẳng thể ví chút phần. Muốn vào pháp giới sâu, nên nghe kinh này trước, nơi tháp miếu pháp tánh, khéo an trụ rất sâu. Ở trong tháp miếu ấy, thấy ta đấng Mâu Ni, vui sướng, âm thanh mầu, diễn nói kinh điển này. Do vậy, câu-chi kiếp, số lượng khó nghĩ bàn, sanh trong cơi trời người, thường hưởng vui thắng diệu. Nếu thấy, nghe kinh này, hăy nên nghĩ như sau: Ta tích tụ công đức, vô biên chẳng nghĩ bàn. Giả sử đống lửa lớn, to đến trăm do-tuần, v́ nghe kinh vương này, vượt qua, chẳng sợ khổ! Đă đến trụ xứ đó, được nghe kinh như thế, hay diệt sạch tội nghiệp, và trừ các ác mộng. Sao ác, các quái lạ, trùng cổ, tà mị thảy. Khi được nghe kinh này, đều ĺa bỏ các ác).

 

          Phần thứ hai là “dùng kệ tụng để nói cặn kẽ”. Có tất cả bảy mươi chín bài tụng, chia thành bốn đoạn:

          - Một, hai mươi ba bài tụng đầu nói về hai hạnh Nói và Nghe.

          - Hai, bốn mươi mốt bài tụng từ “Phạm vương, Đế Thích chúa” trở đi, nói rơ các thiên thần ủng hộ.

          - Ba, mười bốn bài tụng từ “ư thử Nam Châu nội” (ở trong Nam châu này) trở đi, nói về oai lực của kinh.

          - Bốn, bài tụng cuối cùng là tổng kết, khuyên hăy nghe.

          Đoạn thứ nhất chia thành hai tiểu đoạn:

          - Một, mười hai bài tụng đầu nói về hạnh nghe pháp.

          - Hai, mười một bài tụng từ “ưng nghiêm thắng cao ṭa” (hăy nên trang nghiêm ṭa cao thù thắng) trở đi, nói về hạnh diễn thuyết.

          Tiểu đoạn thứ nhất lại chia thành năm phần:

          1) Một bài tụng nêu ra chuyện cầu phước trí.

          2) Bài tụng kế đó khuyên hăy đến pháp hội.

          3) Ba bài tụng kế đó nhằm tán thán công đức của kinh. Trong đó, có ba ư:

          a. Một bài tụng nói về sanh thiện, diệt ác.

          b. Một bài tụng thán thán mười đức của pháp. Ở đây chỉ nêu ra bốn đức, tức là “sơ, trung, hậu thiện” (cộng với “sanh thiện diệt ác” thành bốn đức), nghĩa này rất sâu, nêu ra để liên tưởng sáu đức kia (đức thứ năm là văn từ khéo léo, đức thứ sáu là chẳng xen tạp, đức thứ bảy là trọn đủ, đức thứ tám là thanh tịnh, đức thứ chín là trắng sạch, đức thứ mười là tướng phạm hạnh). Nói cặn kẽ th́ như quyển tám mươi ba của luận Du Già Sư Địa đă giải thích trong phần Nhiếp Sự.

          c. Một bài tụng dùng thí dụ để nói rơ.

          4) Năm bài tụng kế đó nhằm khuyên nên nghe pháp. Trong ấy có năm điều:

          a. Một bài tụng khuyên hăy nghe. “Pháp tánh chế-để” là như v́ kinh Pháp Hoa mà dựng một ṭa tháp báu, chẳng cần đặt xá-lợi, mà [trong tháp ấy] đă có toàn thân [xá-lợi của Phật]. Ở đây cũng thế, hễ có thể diễn nói, hiển bày, tức là đă thấy Pháp Thân.

          b. Một bài tụng nói về thấy Báo Thân, do nói tương tự.

          c. Một bài tụng nói đạt được thiện báo.

          d. Một bài tụng dạy hăy vui mừng.

          e. Một bài tụng dạy hăy quyết chí đến nghe.

          5) Hai bài tụng sau đó nêu ra lợi ích do nghe kinh.

 

5.22.4.2.1.2. Hạnh diễn nói

         

          (Kinh) Ưng nghiêm thắng cao ṭa, tịnh diệu nhược liên hoa, pháp sư xử kỳ thượng, do như đại long ṭa. Ư tư an tọa dĩ, thuyết thử thậm thâm kinh, thư tả, cập tụng tŕ, tịnh vị giải kỳ nghĩa. Pháp sư xả thử ṭa, văng nghệ dư phương sở. Ư thử cao ṭa trung, thần thông phi nhất tướng, hoặc kiến pháp sư tượng, do tại cao ṭa thượng. Hoặc thời kiến Thế Tôn, cập dĩ chư Bồ Tát. Hoặc tác Phổ Hiền tượng, hoặc như Diệu Cát Tường, hoặc kiến Từ Thị tôn, thân xử ư cao ṭa. Hoặc kiến hy kỳ tướng, cập dĩ chư thiên tượng, tạm đắc đổ dung nghi, hốt nhiên hoàn bất hiện, thành tựu chư cát tường, sở tác giai tùy ư, công đức tất viên măn. Thế Tôn như thị thuyết, tối thắng hữu danh xưng, năng diệt chư phiền năo, tha quốc tặc giai trừ, chiến thời thường đắc thắng, ác mộng tất giai vô, cập tiêu chư độc hại. Sở tác tam nghiệp tội, kinh lực năng trừ diệt. Ư thử Thiệm Bộ châu, danh xưng hàm sung măn. Sở hữu chư oán kết, tất giai tương xả ly. Thiết hữu oán địch chí, văn danh tiện thoái tán, bất giả động binh qua, lưỡng trận sanh hoan hỷ.

          ()應嚴勝高座淨妙若蓮華法師處其上猶如大龍座於斯安坐已說此甚深書寫及誦持并為解其義法師捨此座往詣餘方所於此高座中神通非一相或見法師像猶在高座上或時見世尊及以諸菩薩或作普賢像或如妙吉祥或見慈氏尊身處於高座或見希奇相及以諸天像暫得覩容儀忽然還不現成就諸吉祥所作皆隨意功德悉圓滿世尊如是最勝有名稱能滅諸煩惱他國賊皆除戰時常得勝惡夢悉皆無及消諸毒害所作三業罪經力能除滅於此贍部洲名稱咸充滿所有諸怨結悉皆相捨離設有怨敵至聞名便退散不假動兵戈兩陣生歡喜

          (Kinh: Nghiêm tịnh ṭa cao trội, sạch đẹp dường hoa sen. Pháp sư ngự trên đó, ví như ṭa rồng lớn. An tọa trên đó xong, nói kinh rất sâu này. Biên chép, và tŕ tụng, v́ người khác giải nghĩa. Pháp sư ĺa ṭa ấy, đi sang nơi chốn khác. Ở trên ṭa cao ấy, tướng thần thông chẳng một, hoặc thấy h́nh pháp sư, vẫn ngự trên ṭa cao. Có lúc thấy Thế Tôn, cùng các vị Bồ Tát. Hoặc thấy tượng Phổ Hiền, hoặc như Diệu Cát Tường, hoặc thấy đấng Từ Thị, thân ngự trên ṭa cao. Hoặc thấy tướng hiếm lạ, và h́nh tượng chư thiên. Tạm thấy dung nghi đó, bỗng chốc chẳng hiện nữa! Thành tựu các cát tường, việc làm đều tùy ư, công đức đều viên măn. Thế Tôn nói như thế, tối thắng, thanh danh vang, hay diệt các phiền năo, giặc nước khác đều trừ, chiến trận thường thắng lợi, ác mộng thảy đều không, tiêu trừ các độc hại. Tội tam nghiệp trót tạo, sức kinh hay trừ diệt. Trong châu Thiệm Bộ này, thanh danh rền trọn khắp. Tất cả các oán kết, thảy đều ĺa bỏ cả. Dẫu oán địch t́m tới, nghe danh liền lui tan, chẳng phiền động binh đao, hai đằng sanh hoan hỷ).

 

          Mười một bài tụng kế đó nói về hạnh diễn thuyết. Lại chia thành năm tiểu đoạn:

          1) Nửa bài tụng nói về trang nghiêm pháp ṭa.

          2) Nửa bài tụng kế đó nói về nghi quỹ của pháp sư.

          3) Bài tụng kế đó, diễn nói kinh, tức là dạy người khác biên chép, đọc tụng, thọ tŕ.

          4) Bốn bài tụng kế đó nói về điềm lành do thuyết pháp.

          5) Năm bài tụng kế đó nói về lợi ích do diễn nói pháp, gồm mười điều:

          a. Được cát tường.

          b. Việc làm thành tựu.

          c. Công đức viên măn.

          d. Nổi tiếng.

          e. Diệt phiền năo.

          f. Trừ oán địch.

          g. Không có ác mộng.

          h. Tiêu trừ độc hại.

          i. Diệt các tội.

          j. Chẳng có oán thù.

          Ba bài tụng đầu, mỗi bài nói về ba điều lợi, hai bài tụng sau mỗi bài nói về một điều lợi, kinh văn dễ thấy.

 

5.22.4.2.2. Thiên thần ủng hộ

 

          (Kinh) Phạm vương Đế Thích chúa, hộ thế tứ thiên vương, cập Kim Cang Dược Xoa, Chánh Liễu Tri đại tướng, Vô Nhiệt Tŕ long vương, cập dĩ Sa Yết La, Khẩn Na La nhạc thần, Tô La, Kim Xí vương, Đại Biện Tài thiên nữ, tịnh Đại Cát Tường Thiên. Tư đẳng thượng thủ thiên, các lănh chư thiên chúng, thường cúng dường chư Phật. Pháp bảo bất tư nghị, hằng sanh hoan hỷ tâm, ư kinh khởi cung kính. Tư đẳng chư thiên chúng, giai tất cộng tư duy, biến quán tu phước giả, cộng tác như thị thuyết: “Ưng quán thử hữu t́nh, hàm thị đại phước đức, thiện căn tinh tấn lực, đương lai sanh ngă thiên. Vị thính thậm thâm kinh, kính tâm lai chí thử, cúng dường pháp chế-để, tôn trọng chánh pháp cố. Lân mẫn ư chúng sanh, nhi tác đại nhiêu ích. Ư thử thâm kinh điển, năng vi pháp bảo khí. Nhập thử pháp môn giả, năng nhập ư pháp tánh. Ư thử Kim Quang Minh, chí tâm ưng thính thọ. Thị nhân tằng cúng dường, vô lượng bách thiên Phật, do bỉ chư thiện căn, đắc văn thử kinh điển”. Như thị chư thiên vương, thiên nữ Đại Biện Tài, tịnh bỉ Cát Tường Thiên, cập dĩ tứ vương chúng, vô số Dược Xoa chúng, dũng mănh hữu thần thông, các ư kỳ tứ phương, thường lai tương ủng hộ. Nhật, nguyệt, Thiên Đế Thích, phong, thủy, hỏa chư thần, Phệ Suất Nộ đại kiên, Diêm La biện tài đẳng. Nhất thiết chư hộ thế, dũng mănh cụ oai thần, ủng hộ tŕ kinh giả, trú dạ thường bất ly. Đại lực Dược Xoa vương, Na La Diên tự tại, Chánh Liễu Tri vi thủ, nhị thập bát Dược Xoa, dư Dược Xoa bách thiên, thần thông hữu đại lực, hằng ư khủng bố xứ, thường lai hộ thử nhân. Kim Cang Dược Xoa vương, tịnh ngũ bách quyến thuộc, chư đại Bồ Tát chúng, thường lai hộ thử nhân. Bảo Vương Dược Xoa chủ, cập dĩ Măn Hiền vương, Khoáng Dă, Kim Tỳ La, Tân Độ La hoàng sắc. Thử đẳng Dược Xoa vương, các ngũ bách quyến thuộc, kiến thính thử kinh giả, giai lai cộng ủng hộ. Thái Quân Càn Thát Bà, Vi Vương Thường Chiến Thắng, Châu Cảnh cập Thanh Cảnh, tịnh Bột Lư Sa vương, đại tối thắng Đại Hắc, Tô Bạt Noa Kê Xá, Bán Chi Ca dương túc, cập dĩ Đại Bà Già, Tiểu Cừ tịnh hộ pháp, cập dĩ Mi Hầu vương, Châm Mao cập Mục Khuyển, Bảo Phát giai lai hộ. Đại Cừ, Nặc Câu La, Chiên Đàn, Dục Trung Thắng, Xá La cập Tuyết Sơn, cập dĩ Sa Đa Sơn, giai hữu đại thần thông, hùng mănh cụ đại lực, kiến tŕ thử kinh giả, giai lai tương ủng hộ. A Na Bà Đáp Đa, cập dĩ Sa Yết La, Mục Chân, Ế La Diệp, Nan Đà, Tiểu Nan Đà, ư bách thiên long trung, thần thông cụ oai đức, cộng hộ tŕ kinh nhân, trú dạ thường bất ly. Bà Trĩ La Hầu La, Tỳ Ma Chất Đa La, Mẫu Chỉ, Thiêm Bạt La, Đại Kiên cập Hoan Hỷ, cập dư Tô La vương, tịnh vô số thiên chúng, đại lực, hữu dũng kiện, giai lai hộ thị nhân. Ha Lợi Để mẫu thần, ngũ bách Dược Xoa chúng, ư bỉ nhân thụy giác, thường lai tương ủng hộ. Chiên Đồ, Chiên Đồ Lợi, Dược Xoa Chiên Trĩ Nữ, Côn Đế, Câu Trá Xỉ, Hấp Chúng Sanh Tinh Khí, như thị chư thần đẳng, đại lực hữu thần thông, thường hộ tŕ kinh giả, trú dạ hằng bất ly. Thượng thủ Biện Tài Thiên, vô lượng chư thiên nữ, Cát Tường Thiên vi thủ, tịnh dư chư quyến thuộc, thử đại địa thần nữ, quả thật, viên lâm thần, thụ thần, giang hà thần, chế-để chư thần đẳng. Như thị chư đại thần, tâm sanh đại hoan hỷ, bỉ giai lai ủng hộ, độc tụng thử kinh nhân. Kiến hữu tŕ kinh giả, tăng thọ mạng sắc lực, oai quang cập phước đức, diệu tướng dĩ trang nghiêm. Tinh tú hiện tai biến, khốn ách đương thử nhân, mộng kiến ác trưng tường, giai tất linh trừ diệt. Thử đại địa thần nữ, kiên cố hữu oai thế, do thử kinh lực cố, pháp vị thường sung túc. Địa ph́ nhược lưu hạ, quá bách du-thiện-na, địa thần linh vị thượng, tư nhuận ư đại địa. Thử địa hậu lục thập, bát ức du-thiện-na, năi chí kim cang tế, địa vị giai linh thượng.

          ()梵王帝釋主護世四天王及金剛藥叉正了知大將無熱池龍王及以娑揭羅緊那羅樂神蘇羅金翅王大辯才天女并大吉祥天斯等上首天各領諸天眾常供養諸佛法寶不思議恒生歡喜心於經起恭敬斯等諸天眾皆悉共思惟遍觀修福者共作如是應觀此有情咸是大福德善根精進力當來生我天為聽甚深經敬心來至此供養法制底尊重正法故憐愍於眾生而作大饒益於此深經典能為法寶器入此法門者能入於法性於此金光明至心應聽受是人曾供養無量百千佛由彼諸善根得聞此經典如是諸天王天女大辯才并彼吉祥天及以四王眾無數藥叉眾勇猛有神通各於其四方常來相擁護日月天帝釋風水火諸神吠率怒大肩閻羅辯才等一切諸護世勇猛具威神擁護持經者晝夜常不離大力藥叉王那羅延自在正了知為首二十八藥叉餘藥叉百千神通有大力恒於恐怖處常來護此人金剛藥叉王并五百眷屬諸大菩薩眾常來護此人寶王藥叉主及以滿賢王曠野金毘羅賓度羅黃色此等藥叉王各五百眷屬見聽此經者皆來共擁護彩軍乾闥婆葦王常戰勝珠頸及青頸并勃里沙王大最勝大黑蘇跋拏雞舍半之迦羊足及以大婆伽小渠并護法及以獼猴王針毛及目犬寶髮皆來護大渠諾拘羅栴檀欲中勝舍羅及雪山及以娑多山皆有大神通雄猛具大力見持此經者皆來相擁護阿那婆答多及以娑揭羅目真𧫦羅葉難陀小難陀於百千龍中神通具威德共護持經人晝夜常不離婆稚羅睺羅毘摩質多羅母旨苫跋羅大肩及歡喜及餘蘇羅王并無數天眾大力有勇健皆來護是人訶利底母神五百藥叉眾於彼人睡覺常來相擁護旃荼旃荼利藥叉旃稚女昆帝拘吒齒吸眾生精氣如是諸神等大力有神通常護持經者晝夜恒不離上首辯才天無量諸天女吉祥天為首并餘諸眷屬此大地神女果實園林神樹神江河神制底諸神等如是諸大神心生大歡喜彼皆來擁護讀誦此經人見有持經者增壽命色力威光及福德妙相以莊嚴星宿現災變困厄當此人夢見惡徵祥皆悉令除滅此大地神女堅固有威勢由此經力故法味常充足地肥若流下過百踰繕那地神令味上滋潤於大地此地厚六十八億踰繕那乃至金剛際地味皆令上

    (Kinh: Phạm vương, Đế Thích chúa, bốn thiên vương hộ thế, và Kim Cang Dược Xoa, đại tướng Chánh Liễu Tri, vua rồng Vô Nhiệt Tŕ, cùng với Sa Yết La (Sāgara), nhạc thần Khẩn Na La, Tô La, vua Kim Xí (Garuḍendra, Ca Lâu La vương). Thiên nữ Đại Biện Tài, và Đại Cát Tường Thiên. Các trời thượng thủ ấy, đều suất lănh thiên chúng, thường cúng dường chư Phật. Pháp bảo chẳng nghĩ bàn, luôn sanh ḷng hoan hỷ, dấy tâm cung kính kinh. Các vị thiên chúng đó, đều cùng nhau tư duy, quán khắp người tu phước, cùng bảo như thế này: “Nên quán hữu t́nh này, đều có phước đức lớn, sức thiện căn, tinh tấn, sẽ sanh cơi trời ta. V́ nghe kinh rất sâu, kính tâm tới nơi đây, cúng dường tháp miếu pháp, v́ tôn trọng chánh pháp. Thương xót các chúng sanh, tạo tác lợi ích lớn. Với kinh điển sâu này, làm vật truyền pháp bảo. Người nhập pháp môn này, có thể nhập pháp tánh. Với kinh Kim Quang Minh, nên chí tâm nghe nhận. Người này từng cúng dường, vô lượng trăm ngàn Phật. Do các thiện căn đó, được nghe kinh điển này”. Các thiên vương như thế, thiên nữ Đại Biện Tài, cùng với Cát Tường Thiên, đại chúng của tứ vương, vô số các Dược Xoa, dũng mănh, có thần thông, đều từ trong bốn phương, thường tới cùng ủng hộ. Nhật, nguyệt, Thiên Đế Thích, các thần gió, nước, lửa, Phệ Suất Nộ Đại Kiên, Diêm La biện tài thảy. Hết thảy các hộ thế, dũng mănh, trọn oai thần, ủng hộ người tŕ kinh, ngày đêm thường chẳng ĺa. Vua Dược Xoa đại lực, Na La Diên tự tại, Chánh Liễu Tri cầm đầu, hăm tám vị Dược Xoa, trăm ngàn Dược Xoa khác, thần thông, có đại lực, luôn ở nơi kinh sợ, thường thủ hộ người ấy. Kim Cang Dược Xoa vương, có năm trăm quyến thuộc, các vị đại Bồ Tát, thường thủ hộ người ấy. Bảo Vương (Maṇibhadra) Dược Xoa chủ, cùng với vua Măn Hiền (Pūrṇabhadra)[1], Khoáng Dă (Aṭāvaka)[2] Kim Tỳ La (Kumbhīra)[3], Tân Độ La (Piṅgala)[4] sắc vàng. Mỗi vua Dược Xoa ấy, có năm trăm quyến thuộc, hễ thấy, nghe kinh này, đều cùng tới ủng hộ. Thái Quân (Citra-sena)[5] Càn Thát Bà, Vi Vương (Jinarāja) Thường Chiến Thắng (Jinarṣabha), Châu Cảnh (Maṇi-kaṇṭha) và Thanh Cảnh (Nīla-kaṇṭha), cùng Bột Lư Sa vương (Varṣādhipati), đại tối thắng Đại Hắc (Mahākāla)[6], Tô Bạt Noa Kê Xá (Suvarṇa-keśī), Bán Chi Ca (Pāñcika) chân dê, cùng với Đại Bà Già (Mahā-bhāga), Tiểu Cừ (Praṇālī) và Hộ Pháp, cùng với Mi Hầu vương (Markaṭa), Châm Mao (Sūciroma), và Mục Khuyển, Bảo Phát (Ratna-keśa) đều thủ hộ. Đại Cừ Nặc Câu La (Mahā-praṇālī Nakula), Chiên Đàn (Candana), Dục Trung Thắng (Kāma-śreṣṭha), Xá La và Tuyết Sơn (Haimavata), cùng với Sa Đa Sơn, đều có thần thông lớn, hùng mănh, trọn đại lực, thấy người tŕ kinh này, đều cùng tới ủng hộ. A Na Bà Đáp Đa (Anavatapta), cùng với Sa Yết La, Mục Chân (Mucilinda), Ế La Diệp (Elāpatra), Nan Đà, Tiểu Nan Đà (Upananda), ở trong trăm ngàn rồng, thần thông, trọn oai đức, thủ hộ người tŕ kinh, ngày đêm thường chẳng ĺa. Bà Trĩ (Valī) La Hầu La, Tỳ Ma Chất Đa La (Vemcitra), Mẫu Chỉ (Muci), Thiêm Bạt La (Saṃvara), Đại Kiên (Khara-skandha) và Hoan Hỷ (Prahrāda), cùng Tu La vương khác, và vô số các trời, đại lực, rất mạnh mẽ, đều thủ hộ người ấy. Thần Ha Lợi Để (Hārītī) mẫu, năm trăm vị Dược Xoa, khi người ấy ngủ say, thường đến cùng ủng hộ. Chiên Đồ (Caṇḍa), Chiên Đồ Lợi (Caṇḍalika), Dược Xoa Chiên Trĩ Nữ (Yakṣiṇī-caṇḍikā), Côn Đế (Dantī), Câu Trá Xỉ (Kūṭadantī), Hấp Chúng Sanh Tinh Khí (Sarvasattva-ujahāriṇī), các vị thần như thế, đại lực, có thần thông, thường hộ người tŕ kinh, ngày đêm luôn chẳng ĺa. Thượng thủ Biện Tài Thiên, vô lượng các thiên nữ, Cát Tường Thiên cầm đầu, và các quyến thuộc khác, nữ thần đất cơi này, thần quả, hạt, vườn, rừng, thần cây, thần sông ng̣i, thần thủ hộ tháp miếu… Các đại thần như thế, tâm hết sức hoan hỷ, họ đều tới ủng hộ, người đọc tụng kinh này. Thấy có kẻ tŕ kinh, tăng thọ mạng, sắc lực, oai quang và phước đức, diệu tướng để trang nghiêm. Tinh tú hiện tai biến, người ấy gặp khốn khổ, mộng thấy điềm báo xấu, thảy đều trừ hết sạch. Nữ thần đất cơi này, kiên cố, có oai thế. Do bởi sức kinh này, pháp vị thường sung túc. Đất màu mỡ tuôn tràn, hơn một trăm do-tuần. Địa thần khiến chất màu, đại địa được ph́ nhiêu. Đất dày đến sáu mươi, tám ức du-thiện-na, cho tới kim cang tế, đều màu mỡ tăng thượng).

 

          Bốn mươi mốt bài tụng kế đó, nói [người tŕ tụng, lưu thông, giảng nói kinh] sẽ được thiên thần ủng hộ. Lại chia thành hai phần:

          - Ba mươi chín bài tụng đầu nói rơ người nói và kẻ nghe sẽ được [chư thiên, quỷ thần] ủng hộ.

          - Hai bài tụng cuối nêu ra nguyên do thủ hộ.

          Phần thứ nhất “được thủ hộ” gồm sáu đoạn:

          1) Mười hai bài tụng đầu chỉ ra “thủ hộ người nghe”, lại gồm ba ư:

          a. Bốn bài tụng đầu nêu rơ thiên thần kính trọng, hoan hỷ.

          b. Sáu bài tụng kế đó nói họ sẽ thủ hộ người nghe kinh, gồm bốn điều:

          - Một bài tụng nói [chư thiên] suy nghĩ, quan sát hành nhân.

          - Bài tụng kế đó, thấy rồi, tán thán hành nhân “sẽ sanh thiên”.

          - Ba bài tụng nhằm tán thán, khuyên hăy nghe kinh.

          - Bài tụng kế đó tán thán thiện căn thuở trước [của hành nhân].

          c. Hai bài tụng sau đó, nói rơ sự bảo vệ, thủ hộ.

          2) Năm bài tụng kế đó cho biết [chư thiên, quỷ thần] sẽ thủ hộ người nói kinh. Phệ Suất Nộ (Viṣṇu) là tên khác của Na La Diên Thiên (Narayana). Lại do vị ấy thân h́nh to lớn, nên gọi là Đại Kiên (vai to).

          3) Hai bài tụng kế đó cho biết [chư thiên, quỷ thần] sẽ thủ hộ người nghe kinh. Kim Tỳ La được phương này dịch là Khổng. Tân Độ La, phương này dịch là Khổng Tước.

          4) Mười hai bài tụng kế đó lại nói về chuyện thủ hộ người nói kinh. [Sở dĩ có tên là]  Thái Quân Càn Thát Bà là do cho quân binh mặc áo nhiều màu. Vi Vương là thần vương của các loài cỏ. Do cổ đeo châu, nên [vị thần ấy được] gọi là Châu Cảnh. Thanh Cảnh là vị thần cổ màu xanh. Bột Lư Sa Bà được phương này dịch là Ngưu, tức ngưu thần vương. Do số chữ trong lời tụng hạn chế, bỏ bớt chữ Bà. Chữ Tô được phương này dịch là Hảo, Bạt Noa dịch là Kim. Kê Xá được phương này dịch là Phát (tóc), tức là vị quỷ thần có tóc đẹp ánh sắc vàng. Bán Chi Ca tức là năm, tức năm vị thần. Chân thần giống như chân dê, [nên nói là Bán Chi Ca dương túc (năm vị thần chân dê)]. Đại Bà Già phương này dịch là Đại Oai Đức, là thần khe suối. Nặc Củ La dịch sát nghĩa là Thử Lang (鼠狼, một loại chồn, Siberian weasel), tên một vị thần. Xá La, phương này dịch là Ốc (nhà), là tên một quả núi. Do thần nương vào núi ấy, lấy tên núi làm tên. Sa Đa Sơn (Sātāgiri), phương này dịch là Kham Đảo (, có thể lật ngược). A Na Bà Đáp Đa (Anavatapta) phương này dịch là Vô Nhiệt Năo (không nóng bức). Sa Yết La (Sāgara) phương này dịch là Hàm Hải (biển nước mặn). Mục Chân phương này dịch là Giải Thoát. Ế La Diệp, tức là cây Y Lan trong cách dịch cũ. Bà Trĩ được phương này dịch là Đoàn Viên. Tỳ Ma Chất Đa La, phương này dịch là Ỷ Họa (綺畫, vẽ vời đẹp đẽ). Mẫu Chỉ phương này dịch là Hảo (tốt đẹp). Thiêm Bạt La phương này dịch là Thực (ăn), cũng chẳng phải là tên của thiên chúng, cũng có người nói là thần ẩm thực. Ha Lợi Để quỷ mẫu như đă giải thích trong phần trước. Chiên Đồ là danh xưng gọi giống đực, tức Dược Xoa. Chiên Đồ Lợi là danh xưng gọi giống cái. Côn Đế Câu Trá Xỉ tức là Xỉ Trưởng Bao.

          5) Ba bài tụng kế đó, nói về sự thủ hộ người đọc tụng.

          6) Năm bài tụng lại nói về sự thủ hộ người giảng kinh.

 

          (Kinh) Do thính thử kinh vương, hoạch đại công đức uẩn, năng sử chư thiên chúng, tất mông kỳ lợi ích. Phục linh chư thiên chúng, oai lực hữu quang minh, hoan hỷ thường an lạc, xả ly ư suy tướng.

          ()由聽此經王獲大功德蘊能使諸天眾悉蒙其利益復令諸天眾威力有光明歡喜常安樂捨離於衰相

          (Kinh: Do nghe kinh vương này, đạt khối công đức lớn, khiến cho các thiên chúng, đều được hưởng lợi ích. Lại khiến các vị trời, oai lực có quang minh, hoan hỷ, thường an lạc, ĺa bỏ tướng suy bại).

 

          Hai bài tụng kế đó nêu ra nguyên do thủ hộ. [Chánh kinh chỉ] nêu ra người nói kinh để [thính chúng] liên tưởng người tŕ kinh.

 

5.22.4.2.3. Oai lực của kinh

 

          (Kinh) Ư thử Nam châu nội, lâm quả miêu giá thần, do thử kinh oai lực, tâm thường đắc hoan hỷ, miêu thật giai thành tựu, xứ xứ hữu diệu hoa, quả thật tịnh tư phồn, sung măn ư đại địa. Sở hữu chư quả thụ, cập dĩ chúng viên lâm, tất giai sanh diệu hoa, hương khí thường phân phức. Chúng thảo, chư thụ mộc, hàm xuất vi diệu hoa, cập sanh cam mỹ quả. Tùy xứ giai sung biến. Ư thử Thiệm Bộ châu, vô lượng chư long nữ, tâm sanh đại hoan hỷ, giai cộng nhập tŕ trung, chủng thực Bát Đầu Ma, cập dĩ Phân Đà Lợi, thanh bạch nhị liên hoa, tŕ trung giai biến măn. Do thử kinh oai lực, hư không tịnh, vô ế, vân vụ giai trừ khiển, minh ám tất quang minh. Nhật xuất phóng thiên quang, vô cấu diễm thanh tịnh. Do thử kinh vương lực, lưu huy nhiễu tứ thiên. Thử kinh oai đức lực, tư trợ ư thiên tử, giai dụng Thiệm Bộ kim, nhi tác ư cung điện. Nhật thiên tử sơ xuất, kiến thử châu hoan hỷ, thường dĩ đại quang minh, châu biến giai chiếu diệu. Ư tư đại địa nội, sở hữu liên hoa tŕ, nhật quang chiếu cập thời, vô bất tận khai phát. Ư thử Thiệm Bộ châu, điền trù chư quả dược, tất giai linh thiện thục, sung măn ư đại địa. Do thử kinh oai lực, nhật nguyệt sở chiếu xứ, tinh thần bất thất độ, phong vũ giai thuận thời. Biến thử Thiệm Bộ châu, quốc độ hàm phong lạc, tùy hữu thử kinh xứ, thù thắng bội dư phương.

          ()於此南洲林果苗稼神由此經威力心常得歡喜苗實皆成就處處有妙華果實竝滋繁充滿於大地所有諸果樹及以眾園林悉皆生妙華香氣常芬馥眾草諸樹木咸出微妙華及生甘美果隨處皆充遍於此贍部洲無量諸龍女心生大歡喜皆共入池中種植鉢頭摩及以分陀利青白二蓮華池中皆遍滿由此經威力虛空淨無翳雲霧皆除遣冥闇悉光明日出放千光無垢焰清淨由此經王力流暉遶四天此經威德力資助於天子皆用贍部金而作於宮殿日天子初出見此洲歡喜常以大光明周遍皆照曜於斯大地所有蓮華池日光照及時無不盡開發於此贍部洲田疇諸果藥悉皆令善熟充滿於大地由此經威力日月所照處星辰不失度風雨皆順時遍此贍部洲國土咸豐樂隨有此經處殊勝倍餘方

          (Kinh: Ở trong Nam châu này, thần rừng, quả, thóc mạ, do oai lực kinh này, tâm thường được hoan hỷ, thóc lúa đều chín rộ. Nơi nơi có hoa đẹp, quả, hạt đều lúc lỉu, đầy ắp khắp đại địa. Tất cả cây ăn quả, và các loại vườn rừng, đều trổ hoa xinh đẹp, mùi thơm thường sực nức. Các cỏ, các cây cối, đều đơm hoa vi diệu, và sanh quả ngon ngọt, khắp nơi đều tràn đầy! Trong châu Thiệm Bộ này, vô lượng các long nữ, tâm sanh hoan hỷ lớn, đều cùng vào trong ao, gieo trồng Bát Đầu Ma, và hoa Phân Đà Lợi, hai loại sen xanh, trắng, trong ao mọc đầy khắp. Do oai lực kinh này, hư không sạch, quang đăng, mây mù đều trừ sạch, tối tăm đều sáng bừng. Mặt trời mọc rạng rỡ, chiếu vô cấu, thanh tịnh. Do sức kinh vương này, chiếu sáng quanh tứ thiên. Sức oai đức kinh này, giúp đỡ các thiên tử, đều dùng vàng Thiệm Bộ, để tạo nên cung điện. Nhật thiên tử vừa mọc, thấy châu này hoan hỷ, thường dùng đại quang minh, đều chiếu rực trọn khắp. Ở trong đại địa này, tất cả ao hoa sen, khi ánh nắng chiếu tới, không đâu chẳng nở trọn. Trong châu Thiệm Bộ này, ruộng nương, các quả, thuốc, thảy đều được chín mọng, đầy khắp các đại địa. Do oai lực kinh này, nơi nhật, nguyệt chiếu thấu, tinh tú chẳng sai lệch, mưa gió đều đúng thời. Khắp châu Thiệm Bộ này, cơi nước đều giàu vui, chỗ nào có kinh này, thù thắng hơn phương khác).

 

          Mười bốn bài tụng kế đó tán thán oai lực của kinh, có tám ư:

          - Bốn bài tụng nói rơ: Do oai lực của kinh mà các loại cây lương thực dồi dào, tốt đẹp.

          - Hai bài tụng kế đó, ao chuôm có nhiều hoa.

          - Một bài tụng kế đó nói hư không thanh tịnh, thường sáng sủa.

          - Ba bài tụng kế đó nói cung điện của mặt trời sáng ngời thêm.

          - Bài tụng kế tiếp nói hoa sen theo mặt trời mà tăng trưởng gấp bội.

          - Bài tụng kế đó nói quả, thuốc luôn dồi dào.

          - Bài tụng kế tiếp nói mưa gió đúng thời, tinh tú vận hành đúng quỹ đạo.      

          - Bài tụng cuối cùng tổng kết kinh lực.

 

5.22.4.2.4. Tổng kết, khuyên hăy nghe

 

          (Kinh) Nhược thử Kim Quang Minh, kinh điển lưu bố xứ, hữu năng giảng tụng giả, tất đắc như thượng phước.

          ()若此金光明經典流布處有能講誦者悉得如上福

          (Kinh: Nếu kinh Kim Quang Minh, lưu hành tại chỗ nào, có người hay giảng, tụng, đều được phước như trên).

         

          Bài tụng kế đó tổng kết công đức đạt được do nghe kinh.

 

5.22.4.3. Đại chúng nguyện thủ hộ

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Đại Cát Tường thiên nữ cập chư thiên đẳng, văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ, ư thử kinh vương cập thọ tŕ giả, nhất tâm ủng hộ, linh vô ưu năo, thường đắc an lạc.

          ()爾時大吉祥天女及諸天等聞佛所說皆大歡喜於此經王及受持者一心擁護令無憂惱常得安樂

    (Kinh: Lúc bấy giờ, thiên nữ Đại Cát Tường Thiên và chư thiên v.v… nghe lời Phật dạy đều hết sức hoan hỷ, đối với kinh vương này và người thọ tŕ, một dạ ủng hộ, khiến cho người ấy chẳng ưu năo, thường được an vui).

 

          Đoạn lớn thứ ba là đại chúng nguyện hộ tŕ.

 

5.23. Phẩm thứ hai mươi ba: Thọ Kư (Thọ kư phẩm đệ nhị thập tam, 授記品第二十三)

 

          Phẩm thứ hai mươi ba là Thọ Kư, gồm ba môn phân biệt.

 

5.23.1. Ư nghĩa v́ sao có phẩm này?

 

          Nói đến ư nghĩa v́ sao có phẩm này, trong phần Học Hạnh Lưu Thông có năm tiểu loại, đây chính là phẩm thuộc tiểu loại thứ năm nhằm kết lại ư nghĩa học hạnh của các phẩm trước đó. Có ba ư nghĩa:

          - Một là để thọ kư.

          - Hai là để trừ nghi,

          - Ba là khuyên lơn lần nữa.

          Phẩm này thuộc ư thứ nhất. Thọ kư nhằm chỉ rơ “hễ hành, ắt sẽ đắc quả”, quả nhất định do nhân mà thành tựu. V́ thế, sau phẩm [Chư Thiên Dược Xoa] Hộ Tŕ, bèn có phẩm Thọ Kư.

 

5.23.2. Giải thích danh xưng

 

          Giải thích danh xưng, Thọ là “trao cho, ban cho”. Kư là phân biệt, là chứng nghiệm. Tức là v́ [người được thọ kư] mà phân biệt, chứng nghiệm cái quả ấy, giao phó cho người đó, nên gọi là Thọ Kư.

 

5.23.3. Giải trừ vấn nạn

 

          * Hỏi: Ngài Diệu Tràng nghe kinh chưa từng được thọ kư, cớ sao nay nói “nhằm kết lại các hạnh trong phần trước mà có phẩm này sanh khởi?”

          Đáp: Chẳng phải là ư chủ yếu thọ kư cho Diệu Tràng và hai con. Như hai loại ni chúng trong kinh Pháp Hoa, v́ [đức Phật] khuyên tŕ kinh, họ muốn nghe thọ kư rồi mới có thể tu học, nên [đức Phật] thọ kư cho họ. Chẳng phải là đến lúc ấy Ngài mới thọ kư, v́ trước đó đă thọ kư rồi. Do vậy, kinh ấy nói: “Ngă tiên dĩ thuyết nhất thiết Thanh Văn giai đắc tác Phật” (Ta trước đó đă nói hết thảy Thanh Văn đều được thành Phật). Nay đại chúng ở đây cũng lại giống như thế. Nói “nếu tŕ kinh sẽ được thành Phật”, những người ấy là ai? Hễ có tâm nghi ấy, sẽ chẳng thể quyết chí tu hành được! V́ thế, để đoạn trừ, bèn thọ kư cho Diệu Tràng v.v… Muốn khiến cho đại chúng thuở đó đều biết “sẽ thành Phật”, sẽ có thể quyết định hành tŕ. Nếu không, sau phẩm Diệt Nghiệp Chướng, hoặc sau phẩm Liên Hoa Dụ Tán trong phần trước, phải nên thọ kư. Lúc đó đă ngộ, sao chẳng thọ kư? Như trong tam châu thuyết pháp[7] của thời Pháp Hoa, sau mỗi châu, đều có thọ kư, chẳng để ra sau.

          * Hỏi: Nếu là như vậy, sao chẳng thọ kư trong phần trước?

          Đáp: Diệu Tràng Bồ Tát đă nhập Bát Địa, trước đó, Ngài đă được thọ kư, do khuyên [thính chúng] tŕ kinh, cho nên nhắc lại. Lại có thể hiểu là: Phải là [Diệu Tràng Bồ Tát] đă được thọ kư trước đó (trong các pháp hội giảng kinh khác), ở đây mới nói thọ kư [lần nữa], nhằm bao hàm nhiều nghĩa: Một là thọ kư cho các vị giống như Diệu Tràng v.v… Hai là nhằm kết lại phần trước. Lại nữa, trong phần trước, khi mười ngàn vị thiên tử chưa đến tham dự pháp hội, cũng nêu rơ “hễ được nghe [kinh Kim Quang Minh], th́ sẽ được thành Phật”, huống hồ người tu học đă lâu mà chẳng được thành Phật ư? Do vậy, thọ kư vào lúc này, do nói một người [sẽ thành Phật] mà nhiều người đạt được lợi ích. V́ thế, [tới đây mới nói thọ kư] cũng chẳng có khuyết điểm ǵ!

          * Hỏi: Mười ngàn vị thiên tử tạm nghe liền được thọ kư, sao đại chúng trong hội chẳng được thọ kư?

          Đáp: Do căn cơ của họ đă thành thục, c̣n các đại chúng khác trong hội này căn cơ chưa chín muồi. Hơn nữa, đại chúng đă nghe “do tŕ kinh, sẽ được thành Phật”, c̣n những người này do chưa nghe, lại phải nên làm như thế!

 

5.23.4. Giải thích kinh văn

5.23.4.1. Đại chúng nhóm họp

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Như Lai ư đại chúng trung, quảng thuyết pháp dĩ, dục vị Diệu Tràng Bồ Tát, cập kỳ nhị tử Ngân Tràng, Ngân Quang, thọ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề kư.

          ()爾時如來於大眾中廣說法欲為妙幢菩薩及其二子銀幢銀光授阿耨多羅三藐三菩提記

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Như Lai ở trong đại chúng, rộng thuyết pháp xong, muốn thọ kư Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cho Diệu Tràng Bồ Tát và hai con là Ngân Tràng và Ngân Quang).

 

          Tán rằng: Kinh văn trong phẩm này chia thành hai phần:

          - Một, đại chúng tụ tập.

          - Hai, thọ kư.

          Phần “đại chúng nhóm họp” có hai tiểu đoạn; ở đây là phần dẫn khởi nhằm giới thiệu đại chúng tụ tập.

 

          (Kinh) Thời hữu thập thiên thiên tử, Tối Thắng Quang Minh nhi vi thượng thủ, câu tùng Tam Thập Tam Thiên, lai chí Phật sở, đỉnh lễ Phật túc, khước tọa nhất diện, thính Phật thuyết pháp.

          ()時有十千天子最勝光明而為上首俱從三十三天來至佛所頂禮佛足却坐一面聽佛

          (Kinh: Khi đó có mười ngàn thiên tử, Tối Thắng Quang Minh làm thượng thủ, đều từ Tam Thập Tam Thiên, tới chỗ đức Phật, đảnh lễ dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một bên, nghe đức Phật thuyết pháp).

 

          Kế đó, nói đến đại chúng tụ tập.

 

5.23.4.2. Thọ kư

5.23.4.2.1. Thọ kư cho ba vị đại sĩ

5.23.4.2.1.1. Thọ kư cho Diệu Tràng Bồ Tát

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật cáo Diệu Tràng Bồ Tát ngôn: - Nhữ ư lai thế, quá vô lượng vô số bách thiên vạn ức na-dữu-đa kiếp dĩ, ư Kim Quang Minh thế giới, đương thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, hiệu Kim Bảo Sơn Vương Như Lai, Ứng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, xuất hiện ư thế.

          ()爾時佛告妙幢菩薩言汝於來世過無量無數百千萬億那庾多劫已於金光明世界當成阿耨多羅三藐三菩提號金寶山王如來正遍知明行足善逝世間解無上士調御丈夫天人師世尊出現於世

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Diệu Tràng Bồ Tát rằng: - Ông trong đời tương lai, sau vô lượng vô số trăm ngàn vạn ức na-dữu-đa kiếp, sẽ ở trong thế giới Kim Quang Minh, thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hiệu là Kim Bảo Sơn Vương Như Lai, Ứng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, xuất hiện trong đời).

 

          Tiếp đó là thọ kư, gồm hai phần:

          - Một, thọ kư cho ba vị đại sĩ.

          - Hai, thọ kư cho mười ngàn vị thiên tử.

          Phần “thọ kư cho ba vị đại sĩ gồm ba tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất lại có năm ư:

          - Một, nêu ra danh xưng [của người sẽ được thọ kư, tức Diệu Tràng Bồ Tát].

          - Hai, thọ kư “thời” (lúc Bồ Tát sẽ thành Phật).

          - Ba, thọ kư quốc độ.

          - Bốn, thọ kư cái quả, tức Vô Thượng Bồ Đề.

          - Năm, thọ kư danh hiệu, tức Kim Bảo Sơn v.v…

Danh hiệu có Thông (Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác v.v…) và Biệt (Kim Bảo Sơn Vương), kinh văn dễ thấy. Xét theo ư nghĩa thọ kư, đại lược có bốn môn phân biệt:

          - Một, nguyên do thọ kư.

          - Hai, người thọ kư.

          - Ba, người được thọ kư.

          - Bốn, thọ kư sai biệt.

          1) Nói đến nguyên do [thọ kư] th́ gồm ba nghĩa:

          - Một, do Bồ Tát tu nhiều công đức, chứng đắc pháp tánh, nên bèn thọ kư. V́ thế, Pháp Hoa Luận viết: “Do các vị Thanh Văn ấy thật sự thành Phật, bèn thọ kư ư? Hay là do chẳng thành Phật mà thọ kư ư? Nếu thật sự thành Phật, cớ sao Bồ Tát trong vô lượng kiếp tu tập công đức?” Luận giải đáp: “Các vị Thanh Văn được thọ kư đó do đạt được tâm quyết định, chẳng phải là thành tựu pháp tánh”. Ư nói: Do các vị Bồ Tát tu hành vô lượng công đức trong nhiều kiếp, thành tựu pháp tánh, nên được thọ kư, tức là từ Bát Địa trở lên. Do vậy, luận Du Già Sư Địa quyển bốn mươi sáu chép: “Lại nữa, các Bồ Tát có ba thứ quyết định: Một là chủng tánh định, hai là phát tâm định, ba là bất hư hạnh định (hạnh quyết định chẳng hư dối)”. Cho tới nói: “Do cuối cùng rơi vào địa vị quyết định, chư Phật Như Lai bèn thọ kư quyết định cho Bồ Tát”.

          - Hai, trừ nghi cho hàng tiểu Bồ Tát bất định. V́ thế, các bộ luận như Nhiếp Đại Thừa Luận v.v… viết: “V́ dẫn khởi, nhiếp thọ một loại [căn tánh], và duy tŕ một loại bất định tánh Thanh Văn khác, [cũng như v́] các loại bất định tánh Bồ Tát khác, sợ các vị Bồ Tát ấy sẽ thoái Đại theo Tiểu, cho nên thọ kư, nói họ sẽ được làm Phật”.

          - Ba, v́ người vui thích Phật trông thấy sự thọ kư ấy, sẽ mừng rỡ “chính ta cũng sẽ đạt được”. Lại c̣n chỉ rơ: Do nghe kinh mà quyết định được thành Phật, hăy hành tŕ kinh này để tu cái nhân thành Phật. Do vậy, kinh Pháp Hoa nói: “Đại trí Xá Lợi Phất, kim đắc thọ tôn kư, ngă đẳng diệc giai đắc, tối diệu đệ nhất pháp” (Đại trí Xá Lợi Phất, được thọ kư tôn quư, chúng ta cũng đều được, pháp mầu nhiệm bậc nhất). Kinh này cũng nói: “Thời thập thiên thiên tử văn tam đại sĩ đắc thọ kư dĩ, phục văn như thị tối thắng vương kinh, tâm sanh hoan hỷ, thanh tịnh vô cấu, do như hư không” (Khi đó, mười ngàn thiên tử nghe ba vị đại sĩ được thọ kư rồi, lại nghe kinh tối thắng vương như thế, sanh ḷng hoan hỷ, thanh tịnh vô cấu dường như hư không). Đấy là tâm hoan hỷ, chẳng nghi, tức là “vui thích thành Phật, tin tưởng pháp mà tu hành”.

          2) Điều thứ hai là “người có thể thọ kư”, lại gồm có ba nghĩa:

          - Một, chỗ nương cậy của người có thể thọ kư.

          - Hai, Thể của người có thể thọ kư.

          - Ba, Dụng của người có thể thọ kư.

          a. Nói đến “cái để người thọ kư nương vào” th́ theo luận Du Già Sư Địa, quyển bốn mươi chín, [do người ấy] có thể thành tựu sáu thứ:

          - Một, thắng giải hạnh địa.

          - Hai, tăng thượng ư lạc địa.

          - Ba, chánh hạnh địa.

          - Bốn, quyết định địa.

          - Năm, quyết định hạnh địa.

          - Sáu, cứu cánh địa.

          Sáu địa vị ấy đều có thể thọ kư, nhưng đối với Cứu Cánh Địa th́ Phật và Bồ Tát khác biệt. Phật có ba thân, nhưng chỉ có hai giả thân là Tha Thọ Dụng và Biến Hóa Thân có thể đối trước hàng Thập Địa và Địa Tiền mà thọ kư. Nhưng trong địa vị Cứu Cánh, Đệ Thập Địa Bồ Tát và năm địa vị đầu chỉ là tổng tướng thọ kư (tức là thọ kư chung người nào đó chắc chắn sẽ thành Phật), chẳng thể biết người ấy sẽ thành Phật vào lúc nào, danh hiệu và quốc độ v.v… [như thế nào], do kẻ ở bậc dưới (địa vị thấp hơn) chẳng thể biết chuyện của người thuộc bậc trên. Nếu dựa theo tổng tướng để quan sát cái nhân mà thọ kư cái quả, bảo người ấy sẽ thành Phật, th́ Bồ Tát cũng có thể [làm như vậy]. Do đó, trong kinh Pháp Hoa, Thường Bất Khinh Bồ Tát thọ kư tứ chúng sẽ đều thành Phật. V́ vậy, người có thể thọ kư chẳng ngoài sáu [địa vị trên đây]. Hoặc hàng định tánh Nhị Thừa chẳng ngu muội đối với pháp, tin có Đại Thừa, cũng có thể thọ kư chung, như trong kinh Bồ Tát Giới đă nói: Xưa kia có vị La Hán dẫn một vị sa-di [đi đường], do sa-di phát đại tâm mà [vị La Hán ấy] sanh ḷng tôn trọng, cho nên [sa-di] được tổng kư (thọ kư chung, tức thọ kư sẽ thành Phật, không nói rơ thời gian, quốc độ, danh hiệu, thọ lượng v.v…)

          b. Đối với cái Thể của người có thể thọ kư, chính là Hậu Đắc Tục Trí, do biết căn tánh, Hậu Đắc Trí quán Lư cũng chẳng thể thọ kư. Nếu xét theo bậc thánh, nếu thuộc Địa Tiền th́ chỉ là Tỷ Lượng Trí.

          c. Thứ ba là Dụng của người thọ kư, tức là ngôn giáo, do có thể diễn nói, biểu thị ư nghĩa.

          3) Điều thứ ba là “người được thọ kư”, có hai nghĩa:      

          - Một, chỗ để nương vào của người được thọ kư.

          - Hai, cái Thể của người được thọ kư.

          a. Chỗ nương vào của người được thọ kư gồm bốn điều:

          - Một, chủng tánh vị.

          - Hai, phát tâm vị.

          - Ba, bất định Nhị Thừa.

          - Bốn, các vị đại Bồ Tát.

          Đó là nói theo phương diện [thọ kư] rơ rệt dễ thấy. Nếu là thọ kư ẩn mật và b́nh đẳng ư nhạo mà thọ kư, cũng bao gồm người định tánh và vô tánh.

          b. Thể của người được thọ kư chính là Vô Lậu Thiện, bao gồm cái quả đạt được do hiện tại [tu tập] và chủng tử. Quả bao gồm Báo và Hóa, ngoại trừ Pháp Tánh Thân. Nếu xét theo Báo Thân th́ phần nhiều nói về Tha Thọ Dụng Thân, do có quốc độ, quyến thuộc v.v… Do hiển lộ ḷng từ bi, do có sai biệt vậy.

          4) Điều thứ tư là thọ kư sai biệt. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật bảo Kiên Ư Bồ Tát: “Thọ kư tức hữu tứ chủng: Hữu vị phát tâm nhi dữ thọ kư, hữu thích phát tâm nhi dữ thọ kư, hữu mật thọ kư, hữu đắc Vô Sanh Nhẫn hiện tiền thọ kư. Thị danh tứ chủng. Duy hữu Như Lai năng tri thử sự” (Thọ kư có bốn loại: Có người chưa phát tâm mà được thọ kư, có người vừa mới phát tâm liền được thọ kư, có người được ngầm thọ kư, có người do đắc Vô Sanh Nhẫn mà hiện tiền thọ kư. Đó gọi là bốn loại. Chỉ có Như Lai có thể biết chuyện ấy)[8]. Kinh Bảo Vân luận định giống như quyển bốn mươi sáu của luận Du Già Sư Địa, nêu đại lược “do sáu tướng mà được các đức Như Lai thọ kư Vô Thượng Bồ Đề”. Những ǵ là sáu?

          - Một là địa vị an trụ chủng tánh, chưa phát tâm.

          - Hai là địa vị đă phát tâm.

          - Ba là địa vị hiện tiền.

          - Bốn là địa vị chẳng hiện tiền.

          Bốn loại trên đây giống như kinh Thủ Lăng Nghiêm đă nói. Mật thọ kư tức là chẳng hiện tiền, do ở chỗ ẩn mật. Hoặc đắc Vô Sanh Nhẫn gọi là Hiện Tiền, chưa đắc th́ gọi là Bất Hiện Tiền. Hoặc [người được thọ kư] hiện diện [trong khi thọ kư] th́ gọi là Hiện Tiền, không đích thân có mặt tại đó th́ gọi là Bất Hiện Tiền.

          - Năm là có định thời hạn, tức là [nói rơ] trong chừng bao lâu đó sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

          - Sáu là chẳng định thời hạn, tức là chẳng tuyên thuyết thời hạn quyết định khi thọ kư.

          Luận Đại Trang Nghiêm quyển mười hai cũng nói sáu loại giống như thế. Luận ấy viết: “Thọ kư có hai loại, người khác và thời khác”. “Người khác” tức là bốn loại đầu, “thời khác” tức là hai loại sau [trong sáu loại thọ kư nơi đoạn trước]. Luận ấy lại nói: “Chuyển kư và đại kư, lại có hai thứ. Chuyển kư tức là [nói rơ] vị Bồ Tát sau này sẽ ở chỗ đức Như Lai như thế đó, vào lúc như thế đó mà được thọ kư. Đại kư là người thuộc Đệ Bát Địa đắc Vô Sanh Nhẫn, do đoạn được kiêu mạn ‘ta sẽ thành Phật’ và đoạn hết thảy các tướng phân biệt” v.v… Chuyển kư thuộc vào ba loại thọ kư trước được nói trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, c̣n đại kư thuộc loại thứ tư trong kinh ấy. Luận ấy lại nói sáu loại thọ kư khác với kinh Thủ Lăng Nghiêm và luận Du Già Sư Địa. Những ǵ là sáu? Một là sát-độ, hai là danh t, ba là thời tiết, bốn là tên kiếp, năm là quyến thuộc, sáu là pháp trụ (tức pháp của vị Phật ấy sẽ tồn tại bao lâu).

          Nay kinh văn trong phần thọ kư cho các vị như Diệu Tràng v.v… nói ba điều: Thế giới Kim Quang Minh v.v… là tên của cơi nước, Kim Bảo Sơn Vương v.v… là danh hiệu [của Phật], “nhữ ư lai thế quá vô lượng vô số” (ông trong tương lai, qua khỏi vô lượng vô số) v.v… là thời tiết. Lược đi chẳng nói tới tên kiếp, quyến thuộc, và pháp trụ (chánh pháp trụ thế trong bao lâu).

 

5.23.4.2.1.2. Thọ kư cho Ngân Tràng

 

          (Kinh) Thời thử Như Lai bát Niết Bàn hậu, sở hữu giáo pháp diệc giai diệt tận. Thời bỉ trưởng tử, danh viết Ngân Tràng, tức ư thử giới, thứ bổ Phật xứ. Thế giới nhĩ thời chuyển danh Tịnh Tràng, đương đắc tác Phật, danh viết Kim Tràng Quang Như Lai, Ứng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

          ()時此如來般涅槃後所有教法亦皆滅盡時彼長子名曰銀幢即於此界次補佛處世界爾時轉名淨幢當得作佛名曰金幢光如來正遍知明行足善逝世間解無上士調御丈夫天人師世尊

          (Kinh: Sau khi đức Như Lai ấy nhập Niết Bàn, tất cả giáo pháp cũng đều diệt hết. Khi đó, con cả của Ngài tên là Ngân Tràng, liền bổ xứ làm Phật trong thế giới này. Lúc bấy giờ, thế giới đổi tên thành Tịnh Tràng, Ngài sẽ thành Phật, danh hiệu là Kim Tràng Quang Như Lai, Ứng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn).

 

          Thọ kư cho vị đại sĩ thứ hai, kinh văn cũng chia thành năm ư:

          - Một, thọ kư thời tiết.

          - Hai, nhắc lại tên gọi [của người được thọ kư].

          - Ba, thọ kư nơi chốn.

          - Bốn, thọ kư quốc độ.

          - Năm, thọ kư danh hiệu, cũng có Thông và Biệt.

 

5.23.4.2.1.3. Thọ kư cho Ngân Quang

 

          (Kinh) Thời thử Như Lai bát Niết Bàn hậu, sở hữu giáo pháp diệc giai diệt tận. Thứ tử Ngân Quang tức bổ Phật xứ, hoàn ư thử giới, đương đắc tác Phật, hiệu viết Kim Quang Minh Như Lai, Ứng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

          ()時此如來般涅槃後所有教法亦皆滅盡次子銀光即補佛處還於此界當得作佛號曰金光明如來正遍知明行足善逝世間解無上士調御丈夫天人師世尊

          (Kinh: Sau khi đức Như Lai ấy nhập Niết Bàn, tất cả giáo pháp cũng đều diệt hết. Con trai thứ là Ngân Quang liền bổ xứ làm Phật, vẫn ở trong thế giới này, sẽ được làm Phật, hiệu là Kim Quang Minh Như Lai, Ứng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn).

 

          Kế đó, thọ kư cho vị đại sĩ thứ ba, kinh văn cũng chia thành năm ư:

          - Một, thọ kư thời tiết.

          - Hai, nhắc lại tên [của người được thọ kư, tức Ngân Quang].

          - Ba, thọ kư quả vị, tức bổ xứ làm Phật.

          - Bốn, thọ kư quốc độ: Vẫn ở trong thế giới này!

          - Năm, thọ kư danh hiệu.

 

5.23.4.2.2. Thọ kư cho mười ngàn thiên tử

5.23.4.2.2.1. Thọ kư

 

          (Kinh) Thị thời, thập thiên thiên tử văn tam đại sĩ đắc thọ kư dĩ, phục văn như thị tối thắng vương kinh, tâm sanh hoan hỷ, thanh tịnh vô cấu, do như hư không. Nhĩ thời, Như Lai tri thị thập thiên thiên tử thiện căn thành thục, tức tiện dữ thọ đại Bồ Đề kư: - Nhữ đẳng thiên tử! Ư đương lai thế, quá vô lượng vô số bách thiên vạn ức na-dữu-đa kiếp.

          ()是時十千天子聞三大士得授記已復聞如是最勝王經心生歡喜清淨無垢猶如虛空爾時如來知是十千天子善根成熟即便與授大菩提記汝等天子於當來世過無量無數百千萬億那庾多劫

    (Kinh: Khi đó, mười ngàn thiên tử nghe ba vị đại sĩ được thọ kư xong, lại nghe kinh Tối Thắng Vương như thế, sanh ḷng hoan hỷ, thanh tịnh vô cấu dường như hư không. Lúc bấy giờ, Như Lai biết mười ngàn thiên tử ấy thiện căn đă thành thục, liền thọ kư đại Bồ Đề cho họ: - Thiên tử các ông! Trong đời tương lai, qua khỏi vô lượng vô số trăm ngàn vạn ức na-dữu-đa kiếp).

 

          Đây là đoạn lớn thứ hai, kinh văn được chia thành bốn phần:

          - Một, thọ kư [cho mười ngàn thiên tử].

          - Hai, [đại chúng, đại biểu là Bồ Tát thụ thần, nghe mười ngàn thiên tử được thọ kư liền] sanh nghi.

          - Ba, [đức Phật] v́ họ đoạn trừ [nghi hoặc].

          - Bốn, [nghe đức Phật giảng giải nguyên do, đại chúng] hoan hỷ tin tưởng.

          Trong phần thứ nhất có ba đoạn:

          - Một, thiên tử thấy nghe, tâm vui sướng.

          - Hai, từ “nhĩ thời, Như Lai” (lúc bấy giờ, đức Như Lai) trở đi, Như Lai biết căn cơ của họ đă chín muồi.

          - Ba, từ “tức tiện” (liền) trở đi, thọ kư. Phần này có tám ư:

          1) Một là dẫn khởi.

          2) Hai là nhắc lại tên của người được thọ kư.

          3) Ba là thọ kư thời tiết (thọ kư sẽ thành Phật khi nào). Nhưng kiếp có nhiều loại, như Pháp Hoa Luận nói có năm loại, tức là ngày, đêm, tháng, giờ, năm. Hoặc nói ba kiếp là đói kém, bệnh dịch, chiến tranh. Hoặc coi chu kỳ một tăng một giảm là một kiếp, như hai mươi trụ kiếp v.v… Hoặc nói tám mươi chu kỳ tăng giảm là một kiếp, tức hỏa tai kiếp. Hoặc nói bảy lượt hỏa tai dấy lên là một kiếp, tức là thủy tai kiếp. Hoặc nói tám lượt tai ương, tức bảy lượt hỏa tai và một lượt thủy tai là một kiếp, tức phong tai kiếp. Hoặc nói vô lượng phong tai là một kiếp, tức tam đại A-tăng-kỳ kiếp. Hoặc nói hai mươi tám kiếp là một kiếp, như Hiền Kiếp này. Hoặc nói nhiều đến tám mươi kiếp là một kiếp, tức là Tinh Tú Kiếp v.v… Tức là trọn hết thời lượng một ngàn vị Phật xuất thế, được gọi chung là Tinh Tú Kiếp. Như kiếp số được nói trong kinh Pháp Hoa, phần nhiều xét theo ngày, đêm, tháng, giờ, năm. Như nói mỗi giai vị trong Thập Trụ đều trải qua bao nhiêu kiếp, tức là nói theo phong tai kiếp v.v… Ở đây nói “quá vô lượng vô số” v.v… tức là vượt ngoài các thứ kiếp tăng giảm, hoặc phong tai v.v… chẳng phải là đại A-tăng-kỳ, tu hành thành Phật chẳng vượt ngoài ba đại A-tăng-kỳ.

          Hỏi: Căn tánh tu hành có siêng năng hay lười nhác sai khác, v́ sao nói chắc chắn là ba đại A-tăng-kỳ?

          Đáp: Xét theo thời lượng khi tác ư, phương tiện thiện tâm từng sát-na liên tục th́ là trải qua ba đại kiếp, hoàn toàn chẳng phải là tính gộp chung lúc tu và không tu, do tác ư và chẳng tác ư trải qua ngần ấy kiếp, dẫu có căn tánh siêng năng hay lười nhác khác nhau, đều nói là “ba A-tăng-kỳ kiếp”.

          Hỏi: Nếu là như vậy, từ Bát Địa trở lên, vô lậu quán tâm liên tục trong hết thảy các thời, như thế nào mà nói là có chuyện “vượt ngoài kiếp”? Như Phật Thích Ca trong kiếp thứ ba, vừa gặp Nhiên Đăng Phật, liền trải tóc phủ bùn [để Phật đi qua không bị bẩn chân] mà siêu việt tám kiếp. Trọn hết kiếp thứ ba, [Phật Thích Ca] tu trọn vẹn nghiệp tướng hảo, thoạt đầu gặp Thắng Quán Phật, c̣n gọi là Phất Sa Phật, do kiễng chân tán thán bèn vượt thoát chín kiếp!

          Đáp: Có hai cách giải thích. Hoặc là có một loại trụ trong du quán tâm nhiều, hoặc đắm ch́m trong Diệt Định lâu ngày, đối với hạng người ấy mà nói là “có siêu”.

          Nếu là như vậy, như thế nào mà nói là từ Bát Địa trở lên, trong từng sát-na đều chuyển tăng tấn vậy?

          Đáp: Dựa theo từ Bát Địa trở lên, sau khi đă trụ xuất, trường thời mà nói.

          Nếu vậy, như thế nào mà lại nói “từ Sơ Địa trở lên đă nhập trụ xuất tâm, mỗi mỗi đều bằng nhau”?

          Đáp: Dựa theo chẳng tác ư, th́ công đức là như nhau, chẳng giống như Địa Tiền. Nếu là lúc tác ư, lực dụng sẽ khác nhau. Nếu chấp là [dù tác ư hay không] đều bằng nhau, sao có thể nói là trí tăng, bi tăng, sợ hay chẳng sợ phiền năo có khác biệt? Có thuyết cho rằng: Đối với “bi tăng, trí tăng, sợ, chẳng sợ”, địa vị nào cũng đều như nhau. Nhưng nói “siêu việt” là do so với bi th́ trí tăng nhiều hơn mà nói là “siêu”.

Nếu vậy, trí tăng so với bi tăng sẽ tự thành “siêu việt”, cần ǵ phải nói Ngài trải tóc [lót đất cho Phật đi qua] v.v… nữa ư?

          Đáp: Do những thứ ấy siêu việt tăng tấn, cho nên đặc biệt nói. Hoặc là do phương tiện nơi h́nh tướng giáo hóa mà nói là Siêu, chứ chẳng phải là thật như thế! V́ lẽ nào? Từ Bát Địa trở lên, cơi nước mà vị Bồ Tát ấy thọ dụng há chỗ nào có bùn để dùng tóc phủ lên ư? Há có hang đá để Phật ngồi yên tọa Thiền ư?

Nếu vậy, hạnh nghiệp tu tập trong Tăng-kỳ tăng tấn bi và trí sẽ dựa theo đâu để nói?

          Đáp: Dựa theo trí tăng.

 

          (Kinh) Ư Tối Thắng Nhân Đà La Cao Tràng thế giới, đắc thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đồng nhất chủng tánh, hựu đồng nhất danh hiệu, viết Diện Mục Thanh Tịnh Ưu Bát La Hương Sơn, thập hiệu cụ túc. Như thị thứ đệ thập thiên chư Phật xuất hiện ư thế.

          ()於最勝因陀羅高幢世界得成阿耨多羅三藐三菩提同一種姓又同一名號曰面目清淨優鉢羅香山十號具足如是次第十千諸佛出現於世

          (Kinh: Trong thế giới Tối Thắng Nhân Đà La Cao Tràng, được thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cùng một chủng tánh, lại có cùng một danh hiệu là Diện Mục Thanh Tịnh Ưu Bát La Hương Sơn, mười hiệu trọn đủ. Theo thứ tự như thế, mười ngàn vị Phật xuất hiện trong cơi đời).

 

          Kế đó, ư thứ tư là thọ kư tên quốc độ. Nhân Đà La (Indra) là tiếng Phạn, phương này dịch là Đế Cao Tràng Giới. Kế đó, từ “đắc thành A Nậu” trở đi, [là thứ thứ năm], tức thọ kư cái quả. “Đồng nhất chủng tánh” (có cùng một chủng tánh) là [ư thứ sáu, tức] thọ kư ḍng họ. Ư thứ bảy là thọ kư danh hiệu. Ư thứ tám từ “như thị” (như thế) trở đi, thọ kư thứ tự.

 

5.23.4.2.2.2. Thần cây Bồ Đề sanh nghi

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Bồ Đề thụ thần bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Thị thập thiên thiên tử tùng Tam Thập Tam Thiên, vị thính pháp cố, lai nghệ Phật sở, vân hà Như Lai tiện dữ thọ kư đương đắc thành Phật? Thế Tôn! Ngă vị tằng văn thị chư thiên tử cụ túc tu tập Lục Ba La Mật Đa, nan hành khổ hạnh, xả ư thủ, túc, đầu, mục, tủy, năo, quyến thuộc, thê tử, tượng, mă, xa thặng, nô tỳ, bộc sử, cung điện, viên lâm, kim, ngân, lưu ly, xa cừ, mă năo, san hô, hổ phách, bích ngọc, kha bối, ẩm thực, y phục, ngọa cụ, y dược, như dư vô lượng bách thiên Bồ Tát dĩ chư cúng cụ cúng dường quá khứ vô số bách thiên vạn ức na-dữu-đa Phật. Như thị Bồ Tát các kinh vô lượng vô biên kiếp số, nhiên hậu phương đắc thọ Bồ Đề kư. Thế Tôn! Thị chư thiên tử dĩ hà nhân duyên, tu hà thắng hạnh, chủng hà thiện căn, tùng bỉ thiên lai, tạm thời văn pháp, tiện đắc thọ kư? Duy nguyện Thế Tôn vị ngă giải thuyết, đoạn trừ nghi vơng.

          ()爾時菩提樹神白佛言世尊是十千天子從三十三天為聽法故來詣佛所云何如來便與授記當得成佛世尊我未曾聞是諸天子具足修習六波羅蜜多難行苦行捨於手足頭目髓腦眷屬妻子象馬車乘奴婢僕使宮殿園林金銀瑠璃硨磲碼碯珊瑚琥珀璧玉珂貝飲食衣服臥具醫藥如餘無量百千菩薩以諸供具供養過去無數百千萬億那庾多佛如是菩薩各經無量無邊劫數然後方得受菩提記世尊是諸天子以何因緣修何勝行種何善根從彼天來暫時聞法便得授記惟願世尊為我解斷除疑網

    (Kinh: Lúc bấy giờ, thần cây Bồ Đề bạch với đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Mười ngàn thiên tử này từ Tam Thập Tam Thiên v́ nghe pháp mà đến chỗ Phật, cớ sao Như Lai liền thọ kư họ sẽ được thành Phật? Bạch Thế Tôn! Con chưa từng nghe các vị thiên tử này tu tập trọn đủ Lục Ba La Mật Đa, khổ hạnh khó hành, xả tay, chân, đầu, mắt, tủy, năo, quyến thuộc, vợ con, voi, ngựa, xe cộ, nô tỳ, kẻ hầu, cung điện, vườn, rừng, vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mă năo, san hô, hổ phách, bích ngọc, kha bối, thức ăn, y phục, đồ trải nằm, thuốc thang, như vô lượng trăm ngàn vị Bồ Tát khác đă dùng vật cúng để cúng dường vô số trăm ngàn vạn ức na-dữu-đa Phật trong quá khứ. Các vị Bồ Tát như thế ai nấy đều trải qua vô lượng vô biên kiếp số, sau đấy mới được thọ kư Bồ Đề. Bạch Thế Tôn! Các vị thiên tử này do nhân duyên nào, tu hạnh thù thắng nào, gieo thiện căn nào, từ cơi trời kia tới, tạm thời nghe pháp, liền được thọ kư? Kính mong đức Thế Tôn v́ con giải nói, ḥng đoạn trừ lưới nghi).

 

          Kế đó, phần thứ hai là sanh nghi, có hai tiểu đoạn: Một là nêu ra, hai là hỏi han. Trong phần “nêu ra [nỗi nghi]”, có bốn đoạn:

          - Một, nêu ra cái nhân [chư thiên] đến [dự pháp hội].

          - Hai, từ “vân hà” (cớ sao) trở đi là nêu đại lược các điều gạn hỏi. Họ v́ nghe pháp mà tới, cớ sao được thọ kư?

          - Ba, từ “Thế Tôn! Ngă vị tằng” (bạch Thế Tôn! Con chưa từng) trần thuật nỗi nghi trong tâm.

          - Bốn, từ “như dư vô lượng” (như vô lượng [Bồ Tát] khác) trở đi, nêu rơ ư nghi.

          Kế đó, từ “Thế Tôn” trở đi, nêu ra câu hỏi thứ hai, gồm ba ư:

          - Một là hỏi chung.

          - Hai là hỏi riêng.

          - Ba là xin Phật giải đáp.

          “Dĩ hà nhân duyên” (do nhân duyên nào) mang ư nghĩa hỏi chung về nguyên do. Hoặc tự hành gọi là nhân, bạn lành là duyên. “Tu hà thắng hạnh” (tu hạnh thù thắng nào) v.v… là hỏi riêng:

          - Một là hỏi tu hạnh thù thắng nào, tức là hỏi về tu hạnh Lục Độ.

          - Hai là hỏi gieo thiện căn nào, tức là hỏi về tu hạnh phước đức.

          Hoặc do ư nghĩa “khởi tu sẽ đắc quả” là Hạnh, ư nghĩa “cái nhân có thể sanh ra điều thiện về sau” th́ gọi là Căn. Hoặc sơ khởi th́ gọi là Căn, sau đó tu hành th́ gọi là Hạnh, tức là cái Thể chẳng khác. Lại nữa, Thập Độ gọi là Hạnh, Thập Cúng Dường là Căn, tức là nghĩa khác biệt đôi chút.

          Nói “tùng bỉ thiên lai” (từ cơi trời ấy đến) trở đi nhằm kết lại ư nghĩa ấy, như hỏi: Do nhân duyên ǵ mà từ cơi trời ấy tới, liền được thọ kư, tu hạnh thù thắng nào, gieo thiện căn nào, mà từ cơi trời ấy đến v.v… Lại thấy rằng: Nếu do nghe [kinh này] mà được thọ kư, th́ chẳng đáng ngờ, chỉ nghi do nhân nào mà [chư thiên] từ cơi trời ấy xuống để được nghe kinh này rồi được thọ kư? Sau đó từ “duy nguyện Thế Tôn” (kính mong Thế Tôn) trở đi là xin giải đáp.

 

5.23.4.2.2.3. Đức Phật giải đáp

 

          (Kinh) Phật cáo địa thần: - Thiện nữ thiên! Như nhữ sở thuyết, giai tùng thắng diệu thiện căn nhân duyên cần khổ tu dĩ, phương đắc thọ kư. Thử chư thiên tử ư diệu thiên cung, xả ngũ dục lạc, cố lai thính thị Kim Quang Minh kinh. Kư văn pháp dĩ, ư thị kinh trung, tâm sanh ân trọng, như tịnh lưu ly vô chư hà uế, phục đắc văn thử tam đại Bồ Tát thọ kư chi sự.

          ()佛告地神善女天如汝所皆從勝妙善根因緣勤苦修已方得授記此諸天子於妙天宮捨五欲樂故來聽是金光明經既聞法已於是經中心生殷重如淨瑠璃無諸瑕穢復得聞此三大菩薩授記之事

          (Kinh: Đức Phật bảo địa thần: - Thiện nữ thiên! Đúng như bà nói, đều từ nhân duyên thiện căn thù thắng, nhiệm mầu siêng khổ tu tập rồi mới được thọ kư. Các thiên tử này đă bỏ năm món dục lạc nơi cung trời mầu nhiệm, cố ư đến nghe kinh Kim Quang Minh này. Đă nghe pháp rồi, đối với kinh này, sanh tâm ân cần, trân trọng, như lưu ly sạch không tỳ vết, nhơ bẩn, lại được nghe chuyện thọ kư của ba vị đại Bồ Tát này).

 

          Kế đó, đoạn thứ ba là đức Phật giải đáp, gồm hai tiểu đoạn:

          - Một, đức Phật ấn khả lời hỏi [của thần cây Bồ Đề].

          - Hai, từ “thử chư thiên tử” (các thiên tử này) trở đi, chánh thức giải đáp câu hỏi, có hai ư: Trước là giải đáp đại lược, hai phẩm sau (Trừ Bệnh và Lưu Thủy) sẽ giải đáp cặn kẽ.

          Trong ư thứ nhất, lại có hai điều: Trước tiên là riêng đáp về hạnh thù thắng trong hiện tại, nhằm nêu rơ cái nhân “do nghe kinh, ắt sẽ thành Phật” [được nói] trong phần trước. Do vậy, có ba hạnh:

          - Một, từ ư diệu thiên cung” trở đi là hạnh xả dục lạc, có thể đến pháp hội.

          - Hai, từ “cố lai thính thị” (cố ư đến nghe kinh này) trở đi là hạnh nghe kinh, pháp chính là cái nhân để thành Phật.

          - Ba, từ “phục đắc văn thử” (lại được nghe điều này) trở đi là hạnh tùy hỷ, do có thể nguyện cầu [cũng được thành Phật].

 

          (Kinh) Diệc do quá khứ cửu tu chánh hạnh thệ nguyện nhân duyên, thị cố ngă kim giai dữ thọ kư, ư vị lai thế đương thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          ()亦由過去久修正行誓願因緣是故我今皆與授記於未來世當成阿耨多羅三藐三菩提

     (Kinh: Cũng do nhân duyên tu chánh hạnh thệ nguyện đă lâu trong quá khứ. V́ thế, nay ta đều thọ kư cho họ, trong đời vị lai sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

          Sau đó, cùng đáp đại lược hai câu hỏi về hạnh thù thắng và gieo thiện căn trong quá khứ. Kế đó, từ “thị cố ngă kim” (v́ thế, nay ta) trở đi, là lời đáp nhằm kết lại.

 

5.23.4.2.2.4. Thụ thần hoan hỷ, tin nhận

 

          (Kinh) Thời, bỉ thụ thần văn Phật thuyết dĩ, hoan hỷ tín thọ.

          ()時彼樹神聞佛歡喜信受

          (Kinh: Khi đó, vị thần cây ấy nghe đức Phật nói rồi, hoan hỷ tin nhận).

         

          Kế đó, thần cây vui mừng tin tưởng.

 

5.24. Phẩm thứ hai mươi bốn: Trừ bệnh (Trừ bệnh phẩm đệ nhị thập tứ, 除病品第二十四)

 

          Phẩm thứ hai mươi bốn là Trừ Bệnh, gồm ba môn phân biệt.

 

5.24.1. Ư nghĩa v́ sao có phẩm này?

 

          Nói tới ư nghĩa v́ sao có phẩm này th́ phẩm này nhằm trừ nghi. Phẩm trước là kết lại, khuyên lơn, khích lệ “nói và nghe [bộ kinh này], đều sẽ thành Phật”. V́ thế, có thọ kư. Ba vị đại sĩ do trước kia đă từng nghe kinh này, nên được thọ kư, đại chúng khi đó chẳng nghi hoặc. Mười ngàn vị thiên tử vừa đến pháp hội, liền được thọ kư, cho nên có người nẩy sanh ngờ vực. Trong phẩm trước, tuy [đức Phật] đă giải đáp đại lược, nhưng chỉ nói chung cái nhân xưa kia, sợ rằng người nghe sẽ khó hiểu. Ở đây, [đức Phật] lại v́ họ nói cặn kẽ, cho nên có hai phẩm Trừ Bệnh và Lưu Thủy sanh khởi. Điểm khác biệt là do [đức Phật] sắp nói về cái nhân xưa kia của mười ngàn vị thiên tử, liền trước hết trần thuật duyên khởi của chuyện đó, cho nên có phẩm Trừ Bệnh. Lại sợ do [chúng sanh] bệnh khổ sẽ trở ngại nghe kinh, bèn nói kèm thêm cách trừ bệnh, để [người nghe] sẽ học theo. Duyên khởi đă được nêu tỏ; kế đó, cần phải thật sự biện định [cái nhân xưa kia], nên có phẩm Lưu Thủy sanh khởi.

Ngài Chân Đế giảng rằng: “Phẩm Trừ Bệnh này chánh yếu nói về cái nhân của thọ kư, nhằm kết lại phẩm Thọ Kư, nói kèm thêm sự tu hành của Phật Thích Ca ḥng kết lại phẩm Thọ Lượng. Nói kèm thêm sự tu hành của hàng đệ tử để kết lại phẩm Thọ Kư”. Nhưng trị bệnh là viễn duyên, Lưu Thủy là cận duyên. Nay tôi nói: Tuy có thể hiểu nghĩa như thế, nhưng mạch văn đă hơi xa rồi! Cái nhân của Thọ Lượng đă được nói cặn kẽ trong phần trước như Thập Độ v.v… lẽ nào đến nay mới lại nói rơ cái nhân của nó? Cùng tu trong một đời, sao lại chia thành xa và gần? Do đối với các nghĩa thượng, trung, hạ, đều chẳng trở ngại, hoặc là do xét theo hơn kém mà chia thành xa gần th́ cũng chẳng mâu thuẫn, nhưng nếu phán định phẩm này [nói về] cái nhân của Thọ Lượng th́ mạch văn quá xa xôi, rời rạc!

 

5.24.2. Giải thích tên gọi của phẩm này

 

          Giải thích tên gọi của phẩm này th́ các Đại trái nghịch, gây tổn hại gọi là Bệnh. Thuốc có thể chấm dứt [các chứng bệnh ấy] gọi là Trừ. Phẩm này nói cặn kẽ về chuyện đó, nên gọi là phẩm Trừ Bệnh.

 

5.24.3. Giải thích vấn nạn

 

          * Hỏi: Trong phẩm Thọ Lượng thuộc phần trước, ngài Diệu Tràng tư duy: “Như Lai hành cái nhân trường thọ, từ bi, chẳng tổn hại, cớ sao thọ mạng ngắn ngủi chỉ có tám mươi năm?” Trong phần trước, tuy đă nói Phật thọ vô biên, chưa giải thích hạnh “từ bi, chẳng hại”. Nay ba phẩm này nhằm nói về việc ấy, sao chẳng thuộc vào phần Chánh Tông?

          Đáp: Ngài Diệu Tràng chỉ nghi “đă hành cái nhân ấy, đáng nên trường thọ”, chẳng nghi trường thọ là do cái nhân xưa kia nào! Phẩm này lại nói: “Thập thiên thiên tử bổn nguyện nhân duyên, kim vị nhữ thuyết” (nay ta sẽ v́ bà nói nhân duyên bổn nguyện của mười ngàn thiên tử), chẳng nói về nhân duyên trường thọ. Hơn nữa, phẩm Lưu Thủy nói: “Do văn Bảo Kế thập nhị nhân duyên, thính văn thử kinh, dĩ thử thiện căn, nhân duyên, kim đắc thọ kư” (Do nghe mười hai nhân duyên từ Phật Bảo Kế, lắng nghe kinh này, do thiện căn và nhân duyên ấy, nay được thọ kư). Chẳng nói do vậy mà được thọ mạng lâu dài. V́ thế, [hai phẩm này] thuộc vào phần Lưu Thông, chẳng phải là Chánh Tông!

 

5.24.4. Giải thích kinh văn

5.24.4.1. Sắc truyền hăy lắng nghe, hứa sẽ nói

 

          (Kinh) Phật cáo Bồ Đề thụ thần: - Thiện nữ thiên! Đế thính, đế thính, thiện tư niệm chi, thị thập thiên thiên tử bổn nguyện nhân duyên, kim vị nhữ thuyết.

          ()佛告菩提樹神善女天諦聽諦聽善思念之是十千天子本願因緣今為汝

          (Kinh: Đức Phật bảo thần cây Bồ Đề: - Thiện nữ thiên! Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ lấy, ta nay sẽ v́ bà nói bổn nguyện nhân duyên của mười ngàn thiên tử này).

 

          Tán rằng: Hai phẩm kế tiếp nói cặn kẽ về nhân duyên được thọ kư của mười ngàn thiên tử, gồm hai phần:

          - Phẩm này nói về nhân duyên phát khởi.

          - Phẩm Lưu Thủy nói về nhân duyên được thọ kư.

          Phần duyên khởi được chia thành hai đoạn, đoạn thứ nhất là [đức Phật] sắc truyền [thần cây Bồ Đề và đại chúng] hăy lắng nghe , hứa giảng nói.

 

5.24.4.2. Trần thuật duyên khởi

5.24.4.2.1. Thời điểm và quốc giới

 

          (Kinh) Thiện nữ thiên! Quá khứ vô lượng bất khả tư nghị A-tăng-xí-da kiếp, nhĩ thời, hữu Phật xuất hiện ư thế, danh viết Bảo Kế Như Lai, Ứng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thiện nữ thiên! Thời bỉ Thế Tôn bát Niết Bàn hậu, Chánh Pháp diệt dĩ, ư Tượng Pháp trung.

          ()善女天過去無量不可思議阿僧企耶劫爾時有佛出現於世名曰寶髻如來正遍知明行足善逝世間解無上士調御丈夫天人師世尊善女天時彼世尊般涅槃後正法滅已於像法中

    (Kinh: Thiện nữ thiên! Vô lượng chẳng thể nghĩ bàn A-tăng-xí-da (A-tăng-k) kiếp trong quá khứ, khi đó có Phật xuất hiện trong cơi đời, tên là Bảo Kế Như Lai, Ứng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thiện nữ thiên! Sau khi đức Thế Tôn ấy nhập Niết Bàn, Chánh Pháp đă diệt, trong thời Tượng Pháp).

 

          Kế đó, trần thuật duyên khởi, có mười hai ư. Điều thứ nhất là nói về thời tiết, lại gồm ba ư:

          - Một, nói chung về kiếp.

          - Hai, nói về Phật.

          - Ba, nói về thời.

          Từ “nhĩ thời” (lúc bấy giờ) trở đi là nói riêng.

 

          (Kinh) Hữu vương danh viết Thiên Tự Tại Quang, thường dĩ chánh pháp hóa ư nhân dân, do như phụ mẫu.

          ()有王名曰天自在光常以正法化於人民猶如父母

          (Kinh: Có vua tên là Thiên Tự Tại Quang, thường dùng chánh pháp để giáo hóa nhân dân giống như cha mẹ).

         

          Kế đó nói về quốc giới.

 

5.24.4.2.2. Giới thiệu trưởng giả Tŕ Thủy và con

 

          (Kinh) Thị vương quốc trung, hữu nhất trưởng giả, danh viết Tŕ Thủy, thiện giải y phương, diệu thông bát thuật, chúng sanh bệnh khổ, TĐại bất điều, hàm năng cứu liệu. Thiện nữ thiên!

          (<