Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ

Quyển thứ nhất

Đời Đường, Tam Tạng pháp sư Nghĩa Tịnh vâng chiếu dịch kinh

Dịch kinh sa-môn Huệ Chiểu soạn sớ

金光明最勝王經疏

卷第一

唐三藏法師義淨奉制譯

翻經沙門慧沼撰

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

Phần 2

 

          (Kinh) Phục hữu Bồ Tát Ma Ha Tát bách thiên vạn ức nhân câu.

          ()復有菩薩摩訶薩百千萬億人俱

    (Kinh: Lại có Bồ Tát Ma Ha Tát trăm ngàn vạn ức người nhóm họp).

 

          Tán rằng: Kinh văn nói về các vị Bồ Tát cũng chia thành bốn [tiểu đoạn]:

          Ở đây là nêu ra loại và số, cũng giống như Pháp Hoa Sớ. Quyển bốn trăm tám mươi sáu của kinh Đại Bát Nhă nói rộng [về danh hiệu của] các vị Ma Ha Tát. Các kinh luận nói số lượng [Bồ Tát] nhiều hay ít khác biệt. Ở đây, phải nên nói là trăm phần ngàn vạn ức Bồ Tát.

          Tiểu đoạn thứ hai là tán thán phẩm đức, bao gồm hai mươi lăm câu kinh văn, chia thành hai mươi hai loại đức:

          - Một, có phẩm đức trọn đủ thần thông to lớn.

          - Hai, có phẩm đức danh tiếng cao trọng, khiến cho kẻ khác kính ngưỡng.

          - Ba, có phẩm đức tu nhân viên măn.

          - Bốn, phẩm đức hiện tướng lợi lạc chúng sanh.

          - Năm, phẩm đức trọn đủ biện tài thuyết pháp.

          - Sáu, phẩm đức ĺa các chướng nhiễm.

          - Bảy, phẩm đức nối tiếp Phật chủng chẳng đoạn.

          - Tám, phẩm đức hàng phục ma oán.

          - Chín, phẩm đức dẹp tan các ngoại đạo.

          - Mười, phẩm đức tiếp nối Phật tuyên dương [chánh pháp].

          - Mười một, phẩm đức trang nghiêm thanh tịnh cơi Phật.

          - Mười hai, phẩm đức lợi ích người khác chẳng hư dối.

          - Mười ba, phẩm đức tự lợi, trọn đủ các Nhẫn.

          - Mười bốn, phẩm đức thường nhiếp thọ hữu t́nh.

          - Mười lăm, phẩm đức hầu Phật chẳng diệt.

          - Mười sáu, phẩm đức hoằng thệ vô cùng.

          - Mười bảy, phẩm đức gieo sâu nhân lành.

          - Mười tám, phẩm đức hiểu pháp Vô Sanh.

          - Mười chín, phẩm đức duyên theo cảnh bất cộng.

          - Hai mươi, phẩm đức thiện xảo giáo hóa chúng sanh.

          - Hai mươi mốt, phẩm đức xiển dương thánh giáo.

          - Hai mươi hai, phẩm đức chứng pháp chẳng nghi.

 

          (Kinh) Hữu đại oai đức như đại long vương.

          ()有大威德如大龍王

          (Kinh: Có oai đức lớn như đại long vương).

 

          Tán rằng: Phẩm đức thứ nhất, trọn đủ thần thông to lớn th́ gọi là “đại oai đức”, có thể trừ bất tín, có thể sanh căn lành, giống như rồng to có thể tuôn mưa đá dẹp trừ sự bất tín, có thể đổ mưa để sanh trưởng mầm thiện. Lại có oai lực như trong quyển ba mươi bảy của luận Du Già Sư Địa đă giải thích cặn kẽ về oai lực. Hoặc [có thể hiểu] câu “oai lực” ở đây chính là câu nói tổng quát cho các câu [kế tiếp], hàm nghĩa [bậc đại Bồ Tát] có nhiều loại oai lực vậy!

 

          (Kinh) Danh xưng phổ văn, chúng sở tri thức.

          ()名稱普聞眾所知識

          (Kinh: Tiếng tăm vang rền, mọi người hay biết).

 

          Tán rằng: Phẩm đức thứ hai là tiếng tăm vang rền vô lượng thế giới, đều được hết thảy chúng sanh nhận biết.

 

          (Kinh) Thí, Giới thanh tịnh, thường nhạo phụng tŕ.

          ()施戒清淨常樂奉持

          (Kinh: Thí, Giới thanh tịnh, thường thích vâng giữ).

 

          Tán rằng: Phẩm đức thứ ba gồm trọn Lục Độ. Tu nhân mới viên măn, tức là vô nhiễm tối thắng trong bảy món tối thắng[1], được gọi là “thanh tịnh”. Hoặc tam luân thanh tịnh[2] như các kinh Giải Thâm Mật v.v… đă nói. Mỗi Độ trong Lục Độ đều có mười loại thanh tịnh, chi tiết th́ như trong các kinh ấy đă nói. Luôn tu chẳng bỏ, nên gọi là “nhạo phụng tŕ” (ưa thích vâng giữ), tức là có ư yêu thích lâu dài. Trong bảy món tối thắng và sáu thứ ư nhạo[3] đều nêu ra một thứ để nêu tỏ các thứ khác.

 

          (Kinh) Nhẫn hạnh tinh cần kinh vô lượng kiếp.

          ()忍行精勤經無量劫

          (Kinh: Nhẫn hạnh siêng ṛng trải qua vô lượng kiếp).

 

          Tán rằng: Nêu ra đại tánh tinh tấn trong bảy đại tánh, cũng nhằm phô bày các điều c̣n lại.

 

          (Kinh) Siêu chư Tĩnh Lự, hệ niệm hiện tiền, khai xiển huệ môn, thiện tu phương tiện.

          ()超諸靜慮繫念現前,開闡慧門善修方便。

          (Kinh: Siêu việt các môn Tĩnh Lự, hệ niệm hiện tiền, mở mang, xiển dương huệ môn, khéo tu các phương tiện).

 

          Tán rằng: Các vị Bồ Tát này từ Bát Địa trở lên, niệm nào cũng gấp bội niệm trước, vượt xa Nhị Thừa, cho nên gọi là Siêu. Do luôn ở trong Định, cho nên gọi là “hệ niệm hiện tiền”. Phô bày, hoằng dương pháp giáo, gọi là “khai xiển huệ môn”. V́ thế, Pháp Hoa Luận viết: “Môn trí huệ này gọi là A Hàm rất sâu, do chọn lựa thấu hiểu thông suốt th́ gọi là ‘thiện tu phương tiện’. Lại c̣n khéo tu các thứ phương tiện, nguyện lực v.v… Hoặc lại c̣n tu trọn mười hai món thiện xảo”. Ư của đoạn kinh văn ấy chính là thanh tịnh phụng tŕ trải qua vô lượng kiếp, lại c̣n bao gồm các Độ. Giải thích đại lược Lục Độ th́ như trong Vô Cấu Xưng Sớ[4] [đă nói].

 

          (Kinh) Tự tại du hư, vi diệu thần thông.

          ()自在遊戲微妙神通

          (Kinh: Du hư tự tại, thần thông vi diệu).

 

          Tán rằng: Phẩm đức thứ tư. Theo kinh Hoa Nghiêm, Phật tử (các vị Bồ Tát) có mười loại du hư thần thông, tức là:

          - Một là thị hiện xả tuổi thọ cơi trời.

          - Hai là thị hiện thọ sanh,

          - Ba là hiện làm đồng tử.

          - Bốn là hiện tướng xuất gia.

          - Năm là ưa thích khổ hạnh.

          - Sáu là đến cội Bồ Đề.

          - Bảy là thị hiện hàng ma.

          - Tám là thị hiện ưa thích tịch tĩnh, thành Vô Thượng Giác,

          - Chín là chuyển pháp luân.

          - Mười là nhập Niết Bàn.

          Có nghĩa là hiện bày các tướng để lợi ích chúng sanh, rộng như trong hội Tối Thắng Thiên Vương của kinh Đại Bát Nhă đă giải thích.

 

          (Kinh) Đăi đắc tổng tŕ, biện tài vô tận.

          ()逮得總持辯才無盡

          (Kinh: Đạt được tổng tŕ và biện tài vô tận).

 

          Tán rằng: Phẩm đức thứ năm. “Đăi” () là “đạt đến”. Đạt được bốn món Tổng Tŕ (Pháp Tổng Tŕ, Nghĩa Tổng Tŕ, Nhẫn Tổng Tŕ, Chú Tổng Tŕ), và bốn thứ Biện Tài (Pháp Vô Ngại Biện, Nghĩa Vô Ngại Biện, Từ Vô Ngại Biện, Nhạo Thuyết Vô Ngại Biện) thảy đều vô tận. Không chỉ là bảy thứ chẳng gián đoạn, mà c̣n trọn hết một sự thù thắng (tức xảo phương tiện thù thắng). Dotận, do lợi lạc người khác chẳng ngừng nghỉ thảy đều vô tận.

 

          (Kinh) Đoạn chư phiền năo, lụy nhiễm giai vong.

          ()斷諸煩惱累染皆亡。

          (Kinh: Đoạn các phiền năo, phiền lụy, đắm nhiễm đều mất).

 

          Tán rằng: Phẩm đức thứ sáu. Ba thứ Hoặc, Nghiệp, Khổ theo thứ tự đều là sự phiền lụy, nhuốm bẩn bởi phiền năo. Hay lại có thể hiểu “năo lụy” là chủng tử hiện hành, Nhiễm tức là tập khí và Sở Tri Chướng, được nói gộp chung với phiền năo. Do đă đoạn trừ, nên có thể nói là “giai” (đều).

 

          (Kinh) Bất cửu đương thành Nhất Thiết Chủng Trí.

          ()不久當成一切種智

          (Kinh: Không lâu sau sẽ thành Nhất Thiết Chủng Trí).

 

          Tán rằng: Phẩm đức thứ bảy là tiếp nối Phật chủng chẳng dứt. Các vị Bồ Tát này qua khỏi hai kiếp, có lẽ sẽ thuộc vào Pháp Vân Địa, đều là bậc Nhất Sanh Bổ Xứ, cho nên nói là “bất cửu” (chẳng bao lâu). Do chưa đắc Bồ Đề, nên nói là “đương thành” (sẽ thành). Đắc Tát Bà Nhă (Sarvajña) th́ gọi là Nhất Thiết Chủng Trí. “Chủng” () là chủng loại. Dù Không hay Hữu, dù Sự hay Lư, đều được gọi là Nhất Thiết Chủng. Đều đạt được các điều ấy th́ gọi là Nhất Thiết Chủng Trí. Đó là xét theo chủ thể (Trí) để giải thích. Nhất Thiết Chủng chính là cảnh của cái trí ấy.

 

          (Kinh) Hàng ma quân chúng, nhi kích pháp cổ.

          ()降魔軍眾而擊法鼓

          (Kinh: Do hàng phục lũ quân ma mà đánh trống pháp).

 

          Tán rằng: Phẩm đức thứ tám là hàng phục ma oán. Ma chính là Tứ Ma[5], Quân chính là mười quân, nói cặn kẽ th́ như chương Phá Ma của sách Pháp Uyển (Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương) đă biện định. Ma quân thuận theo sự giáo hóa. Thắng địch th́ trước hết bèn báo rơ, hiển Thật, khai Quyền; đó là “kích pháp cổ” (đánh trống pháp).

 

          (Kinh) Chế chư ngoại đạo, linh khởi tịnh tâm.

          ()制諸外道令起淨心

          (Kinh: Chế phục các ngoại đạo, khiến cho họ sanh khởi tâm thanh tịnh).


          Tán rằng: Phẩm đức thứ chín là
dẹp tan các ngoại đạo. Trọn đủ Tứ Vô Úy, dẹp tan các ngoại, khiến cho họ sanh chánh tín th́ gọi là “khởi tịnh tâm” (sanh khởi tâm thanh tịnh).

 

          (Kinh) Chuyển diệu pháp luân độ nhân thiên chúng.

          ()轉妙法輪度人天眾

          (Kinh: Chuyển pháp luân mầu nhiệm, độ đại chúng trời người).

         

          Tán rằng: Phẩm đức thứ mười là kế thừa Phật, tuyên dương [chánh pháp]. Đối với năm địa vị như Tư Lương v.v…, Chuyển Pháp Luân thuộc địa vị thứ tư, [địa vị] thứ hai là Bất Thoái Pháp Luân như trong Pháp Hoa Sớ đă biện định.

 

          (Kinh) Thập phương Phật độ tất dĩ trang nghiêm.

          ()十方佛土悉已莊嚴

          (Kinh: Mười phương cơi Phật đều đă trang nghiêm).

 

          Tán rằng: Phẩm đức thứ mười một là trang nghiêm thanh tịnh cơi Phật, đóng chặt cửa hết thảy đường ác. Ư nghĩa của Tịnh Độ th́ như Vô Cấu Xưng Sớ [đă biện định].

 

          (Kinh) Lục thú hữu t́nh, vô bất mông ích.

          ()六趣有情無不蒙益

          (Kinh: Hữu t́nh trong sáu đường, không ai chẳng được lợi ích).

 

          Tán rằng: Phẩm đức thứ mười hai là lợi ích người khác chẳng hư dối. Từ ngữ Để Lợi Cù Ni Đa (Tiryagyoni) trong tiếng Phạn được phương này dịch nghĩa là Bàng Sanh. Na Lệ Đa trong tiếng Phạn, dịch nghĩa là ngạ quỷ, c̣n gọi là Bế Lệ Đa (Preta). Mạt Nô Sa (Manuṣya) trong tiếng Phạn dịch nghĩa là Nhân. Đối với các tên gọi thiên thú (đường trời), Tu La, Na Lạc Ca (Naraka, địa ngục) và ư nghĩa của sáu đường th́ như Pháp Hoa Sớ [đă giảng]. Khéo biết căn tánh, hiện thân trong năm đường, dùng sức phương tiện thiện xảo để hiện thân thuyết pháp, người thấy, kẻ nghe, không ai chẳng được hưởng lợi ích. Do có thể thành tựu bốn loại pháp, có thể giáo hóa chúng sanh, khiến cho họ đều được hưởng lợi ích. V́ thế, kinh Tư Ích[6], quyển thứ nhất có nói: “Nhất, thường cầu lợi an chúng sanh. Nhị, tự xả kỷ lạc. Tam, tâm ḥa nhẫn. T, trừ kiêu mạn” (Một là thường cầu lợi ích, an lạc chúng sanh. Hai là tự xả sự vui sướng của chính ḿnh. Ba là tâm ḥa hợp, nhẫn nại. Bốn là trừ kiêu mạn).

 

          (Kinh) Thành tựu trí huệ, cụ túc bất nhẫn.

          ()成就大智具足不忍

          (Kinh: Thành tựu trí huệ, trọn đủ bất nhẫn).

 

          Tán rằng: Phẩm đức thứ mười ba là tự lợi, trọn đủ các món Nhẫn. Thành tựu trí tự lợi, sẽ có đủ ba món đại nhẫn, tức là do tương ứng với Thất Đại, cho nên đều gọi là Đại. Hoặc là đại trí, tức là trí đại tánh, do hiểu trọn vẹn hai món Không (Nhân Không và Pháp Không). Nhưng phần Nhiếp Dị Môn trong luận Du Già Sư Địa nói: “Trí huệ do đă trải qua vô lượng kiếp tu tập th́ gọi là đại trí”, tức là Thời Đại Tánh trong thất đại tánh[7]. V́ thế biết rằng Nhẫn được gọi là Đại cũng giống như Trí. Lại có thể giải thích như sau: Như Trí Độ Luận quyển sáu nói: “Người thành tựu đại nhẫn là do Đẳng Nhẫn và Pháp Nhẫn hai món cùng tăng tấn, cho nên gọi là Đại Nhẫn”.

          “Cụ túc” nghĩa là “thành tựu”, lại có nhiều cách hiểu: Hoặc có thể hiểu “thành tựu” “đắc” (đạt được), ư nói đạt được phẩm vị thù thắng th́ gọi là Đại Nhẫn. V́ thế, luận ấy giải thích rằng: “Hai món Nhẫn ấy tăng trưởng th́ gọi là Đại Nhẫn”. Lại có thể hiểu như sau: Nay nói “cụ túc”, tức là có đủ cả ba món Nhẫn, tức là Nại Oán Hại Nhẫn, An Thọ Khổ Nhẫn, và Đế Sát Pháp Nhẫn[8]. Nhưng xét theo kinh Vô Tận Ư, do trọn đủ Đại Nhẫn th́ mới có thể thành tựu đại trí. Kinh ấy dạy: “Tu Tứ Nhẫn cụ túc trí huệ: Nhất, ư cầu pháp thời, nhẫn tha ác mạ. Nhị, bất tỵ hàn, nhiệt, phong, vũ đẳng. Tam, tùy ḥa thượng A-xà-lê hành. Tứ, ư cầu pháp thời, nhẫn Không, Vô Tướng” (Tu bốn món Nhẫn trọn đủ trí huệ: Một là khi cầu pháp, sẽ nhẫn kẻ khác chửi rủa ác độc. Hai là chẳng tránh né lạnh, nóng, gió, mưa v.v… Ba là hành theo ḥa thượng A-xà-lê. Bốn là khi cầu pháp bèn nhẫn Không, Vô Tướng). Dựa theo đấy th́ đáng nên dùng [lời giải thích] trong phần dưới để giải thích nguyên do của “đại trí” trong phần trên.

 

          (Kinh) Trụ đại từ bi tâm, hữu đại kiên cố lực.

          ()住大慈悲心有大堅固力

          (Kinh: Trụ trong tâm đại từ bi, có sức kiên cố to lớn).

 

          Tán rằng: Phẩm đức thường nhiếp thọ hữu t́nh. V́ thế, Pháp Hoa Kinh Luận viết: “Phương tiện để nhiếp th chúng sanh là như kinh [dạy] dùng ḷng Từ để tu thân, bởi Từ là có thể ban vui cho kẻ chẳng vui, Bi là dẹp khổ cho kẻ đang khổ. V́ vậy, có thể nhiếp thủ chúng sanh”. [Từ và bi] đều nói là Đại, [nhằm nhấn mạnh] khác với Nhị Thừa, chẳng phải là đại bi trong phẩm đức bất cộng của Phật, chỉ có [phẩm đức] được thành tựu bởi Phật mới gọi là “bất cộng”. “Hữu đại kiên cố lực” (có sức kiên cố to lớn): Thường hành chẳng xả th́ gọi là “kiên cố”. V́ thế, kinh Tư Ích, quyển một dạy: “Bồ Tát hữu tứ pháp kiên cố kỳ tâm, nhi bất b́ quyện: Nhất, ư chúng sanh khởi đại bi. Nhị, tinh tấn bất giải. Tam, tín giải sanh tử như mộng. T, chánh tư duy Phật chi trí huệ” (Bồ Tát có bốn pháp để kiên cố cái tâm, chẳng mệt chán: Một là đối với chúng sanh dấy ḷng đại bi, hai là tinh tấn chẳng lười nhác, ba là tin hiểu sanh tử như mộng, bốn là chánh tư duy trí huệ của Phật). Ư nói: Do thương xót chúng sanh mà tinh tấn chẳng lười nhác, thấy sanh tử như mộng chẳng thật mà suy cầu Phật trí. V́ thế, hành từ bi để kiên cố cái tâm.

 

          (Kinh) Lịch sự chư Phật, bất bát Niết Bàn.

          ()歷事諸佛不般涅槃

          (Kinh: Phụng sự khắp chư Phật, chẳng nhập Niết Bàn).

 

          Tán rằng: Phẩm đức hầu Phật, chẳng nhập diệt. Đối với hết thảy chư Phật, thường tu chánh hạnh th́ gọi là “lịch sự chư Phật”. V́ độ chúng sanh không có lúc ngưng nghỉ, cho nên chẳng cầu nhập Niết Bàn. Luận Biện Trung Biên[9] viết: “Do lợi ích người khác chẳng ngưng nghỉ”.

 

          (Kinh) Phát hoằng thệ tâm tận vị lai tế.

          ()發弘誓心盡未來際

          (Kinh: Phát tâm hoằng thệ cho đến cùng tận đời vị lai).

 

     Tán rằng: Phẩm đức hoằng thệ vô cùng. Phát Tứ Hoằng Nguyện có thể tột cùng đời vị lai.

 

          (Kinh) Quảng ư Phật sở, thâm chủng tịnh nhân.

          ()廣於佛所深種淨因

          (Kinh: Ở nơi Phật, rộng gieo cái nhân thanh tịnh sâu xa).

 

          Tán rằng: Phẩm đức gieo sâu nhân lành, tức là như kinh Pháp Hoa nói: “Ư chư Phật sở, thực chúng đức bổn” (gieo các cội đức nơi chư Phật), tức là ở nơi Phật, tu mười thứ cúng dường[10] th́ gọi là “tịnh nhân” (cái nhân thanh tịnh). Cầu Bồ Đề, tu mười thứ cúng dường, hai loại ấy đều là Nhân. Có thể coi đó là cái nhân của sự thanh tịnh, hoặc cái nhân ấy chính là tịnh.

 

          (Kinh) Ư tam thế pháp, ngộ Vô Sanh Nhẫn.

          ()於三世法悟無生忍

          (Kinh: Đối với pháp ba đời, ngộ Vô Sanh Nhẫn).

 

          Tán rằng: Phẩm đức hiểu rơ pháp Vô Sanh, ngộ tam Vô Sanh Nhẫn. Nương theo Không Giải Thoát Môn mà quán Biến Kế Tánh[11], ngộ bổn tánh Vô Sanh Nhẫn. Nương theo Vô Nguyện Giải Thoát Môn mà quán Y Tha Khởi[12], ngộ tự nhiên Vô Sanh Nhẫn. Nương theo Vô Tướng Giải Thoát Môn mà quán Viên Thành Thật[13], ngộ Hoặc khổ Vô Sanh Nhẫn.

          Hỏi: Cái Thể của Biến Kế là không, Viên Thành th́ thường trụ, nay kinh này nói nương theo pháp ba đời, sao có thể quán ba tánh (Biến Kế, Y Tha, và Viên Thành Thật) để đắc ba loại Nhẫn?

          Đáp: Nơi Y Tha, quán nhị ngă (nhân ngă chấp và pháp ngă chấp) là Không, tức là trong Y Tha cũng có Viên Thành, chẳng phải là rời ĺa. V́ thế, kệ tụng trong luận Biện Trung Biên viết: “Do hư vọng phân biệt là có, đối với hai thứ ấy đều là không, trong ấy chỉ có Không”. Ư nói: Hữu là hư vọng phân biệt. Trong ấy, hai thứ Ngă đều là Không. Trong Y Tha chỉ có Chân Không. V́ thế, nêu ra “ba đời”, chỉ nói về Y Tha mà hiển lộ cả hai tánh kia.

 

          (Kinh) Du ư Nhị Thừa sở hành cảnh giới.

          ()逾於二乘所行境界

          (Kinh: Vượt ngoài cảnh giới do Nhị Thừa đă hành).

 

          Tán rằng: Phẩm đức duyên cảnh bất cộng. Nhị Thừa duyên theo cảnh, cho nên hành tướng có thể đạt được. Bồ Tát chẳng vậy. V́ thế, Vô Tánh Nhiếp Luận, quyển thứ tám viết: “Trí vô phân biệt hành tương tự nơi cảnh Chân Như”. Ư nói: Chân Như chẳng có hết thảy các tướng, trí tương xứng với Chân Như cũng chẳng có hành tướng. Lại nữa, đối với chuyện hiểu rơ Nhị Không, họ (hàng Tiểu Thừa) chỉ hiểu rơ một điều (tức Ngă Không), cho nên [cảnh giới của Bồ Tát] vượt xa Nhị Thừa.

 

          (Kinh) Dĩ đại thiện xảo hóa thế gian.

          ()以大善巧化世間

          (Kinh: Dùng đại thiện xảo giáo hóa thế gian).

 

          Tán rằng: Phẩm đức thiện xảo giáo hóa chúng sanh. Nương theo sáu thần thông và sáu loại ngoại phương tiện thuộc mười hai loại phương tiện thiện xảo để giáo hóa thế gian; hoặc nương theo các pháp thiện xảo như Uẩn, Giới v.v… được nói trong Đại Thừa để giáo hóa thế gian. Do vạch rơ khác với Tiểu Thừa mà gọi là “đại thiện xảo”.

 

          (Kinh) Ư đại sư giáo năng phu diễn.

          ()於大師教能敷演

          (Kinh: Có thể phô diễn giáo pháp của đấng đại sư).


          Tán rằng: Phẩm đức
xiển dương thánh giáo. Do có thể nương theo pháp được giải thích trong phần Nhiếp Thích thuộc quyển tám mươi mốt của luận Du Già Sư Địa, cho nên nói là “ư đại sư giáo, năng phu diễn” (đối với giáo pháp của đấng đại sư có thể phô diễn). Đă đạt được Tứ Biện Tài thù thắng, đắc Tổng Tŕ, cho nên có thể phô diễn, trụ trong địa vị Thiện Huệ.

 

          (Kinh) Bí mật chi pháp thậm thâm Không tánh, giai dĩ liễu tri, vô phục nghi hoặc.

          ()祕密之法甚深空性皆已了知無復疑惑

          (Kinh: Đối với pháp bí mật tánh Không rất sâu đă đều biết rơ, chẳng c̣n ngờ vực).

 

          Tán rằng: Phẩm đức hiểu rơ pháp chẳng nghi. Bí Mật chính là bốn thứ bí mật. Do chính là ba món tánh Không, cho nên gọi là “thậm thâm” (rất sâu) như trong Pháp Hoa Luận đă giải thích. Trí huệ của chư Phật có năm món rất sâu, tánh của trí huệ cũng được gọi là trí huệ: Một là nghĩa rất sâu, hai là Thể, ba là nội chứng, bốn là y chỉ, năm là vô thượng. Do chẳng phải là cảnh của Nhị Thừa, nên gọi là “thậm thâm”. Hậu Trí (Hậu Đắc Trí) có thể hiểu rơ, Căn Bản Trí đă biết, nỗi nghi đối với Sự và Lư đều đă hết. Do vậy, chẳng c̣n nghi hoặc!

 

          (Kinh) Kỳ danh viết Vô Chướng Ngại Chuyển Pháp Luân Bồ Tát, Thường Phát Tâm Chuyển Pháp Luân Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, Bất Hưu Tức Bồ Tát.

          ()其名曰無障礙轉法輪菩薩常發心轉法輪菩薩常精進菩薩不休息菩薩

          (Kinh: Tên các Ngài là Vô Chướng Ngại Chuyển Pháp Luân Bồ Tát, Thường Phát Tâm Chuyển Pháp Luân Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, Bất Hưu Tức Bồ Tát).

 

          Tán rằng: [Tiểu đoạn] thứ ba là liệt kê danh hiệu [các vị Bồ Tát], gồm năm mươi ba vị. Đức rộng, danh cao, [khiến cho] kẻ thấy nghe đều đạt được lợi ích, chẳng thể nêu trọn hết, chỉ nêu đại lược vài vị. Trong số ấy, [các vị Bồ Tát] lập danh hiệu hoặc do từ bổn nguyện, hoặc do đức hạnh, lợi ích ta lẫn người đều thù thắng, dùng các điều đó để đặt tên. [Trong đoạn này], tên hai vị đầu nói về sự thuyết pháp, tên hai vị sau nói về sự siêng ṛng. Cặp đôi “thuyết pháp” và “siêng tu” có thể hàng phục bốn loại ma; do vậy, chuyển pháp luân chẳng bị chướng ngại, có thể thuyết pháp chẳng thoái chuyển. V́ thế, chuyển pháp luân bất thoái, chẳng bị chướng ngại. Hoằng pháp không ngơi nghỉ do nghĩ thương xót hữu t́nh. Thường phát tâm v́ chúng sanh chuyển pháp luân do đă đạt được biện tài nhạo thuyết bất đoạn. Thường phát tâm chuyển pháp luân, luôn siêng năng tự lợi. Do vậy, gọi là Thường Tinh Tấn. Thường sách tấn lợi lạc người khác, cho nên tên là Bất Hưu Tức. Hoặc [có thể hiểu danh hiệu của bốn vị Bồ Tát này] h́nh thành một cặp “tự lợi, lợi tha”.

 

          (Kinh) Từ Thị Bồ Tát, Diệu Cát Tường Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát.

          ()慈氏菩薩妙吉祥菩薩觀自在菩薩

          (Kinh: Từ Thị Bồ Tát, Diệu Cát Tường Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát).

 

          Tán rằng: Từ Thị âm tiếng Phạn là Mai Đát Lệ Duệ (Maitreya), phương này dịch là Từ Thị, hoặc dịch là Na, tức là Ngài sanh trong ḍng họ Từ, hoặc bản tánh hành Từ. Hoặc phiên âm là Duệ Ni, tức là nói về người nữ, do mẹ Ngài sẵn có ḷng từ. Mạn Thù Thất Lợi (Mañjuśrī), phương này dịch là Diệu Cát Tường. A Phược Lô Chỉ Đế Thấp Phạt Ra Da (Avalokiteśvara), phương này dịch là Quán Tự Tại. Ba vị này chính là ban vui, dẹp khổ, Cát Tường ban vui, Quán Âm dẹp khổ. Đây là cặp ư nghĩa “ban vui, dẹp khổ”.

 

          (Kinh) Tổng Tŕ Tự Tại Vương Bồ Tát, Đại Biện Trang Nghiêm Vương Bồ Tát.

          ()總持自在王菩薩大辯莊嚴王菩薩

          (Kinh: Tổng Tŕ Tự Tại Vương Bồ Tát, Đại Biện Trang Nghiêm Vương Bồ Tát).

 

          Tán rằng: Nơi Đệ Cửu Địa, có thể ĺa hai thứ ngu[14], trọn đủ bốn món biện tài. Do vậy, tổng tŕ tự tại, trọn đủ bảy món biện tài[15], thường v́ Đại Thừa, gọi là Đại Biện Trang Nghiêm. Đây là cặp ư nghĩa “tŕ pháp, thuyết pháp”.

 

          (Kinh) Diệu Cao Sơn Vương Bồ Tát, Đại Hải Thâm Vương Bồ Tát.

          ()妙高山王菩薩大海深王菩薩

          (Kinh: Diệu Cao Sơn Vương Bồ Tát, Đại Hải Thâm Vương Bồ Tát).

 

          Tán rằng: Trí huệ khó ngửa đầu lên trông như núi chúa Diệu Cao. Định chẳng lường dường như biển cả. Trí và Định đều tự tại, đều được ví như Vương. Đây là cặp ư nghĩa “trí cao, định thẳm”.

 

          (Kinh) Bảo Tràng Bồ Tát, Đại Bảo Tràng Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát.

          ()寶幢菩薩大寶幢菩薩地藏菩薩虛空藏菩薩

          (Kinh: Bảo Tràng Bồ Tát, Đại Bảo Tràng Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát).

 

          Tán rằng: Hiểu rơ Hữu cao cả, thù thắng như Bảo Tràng (tràng báu). Hiểu rơ Không cao cả, thù thắng th́ gọi là Đại Bảo Tràng. Đây là cặp ư nghĩa “hiểu rơ Hữu, hiểu rơ Không”. [Địa Tạng]: Đất đại bi gánh vác trọn khắp là Tạng. Có thể dùng hư không để làm tạng báu; [đó là ư nghĩa của Hư Không Tạng]. Đây là cặp ư nghĩa “đại bi, đại trí”.

 

          (Kinh) Bảo Thủ Tự Tại Bồ Tát, Kim Cang Thủ Bồ Tát, Hoan Hỷ Lực Bồ Tát, Đại Pháp Lực Bồ Tát.

          ()寶手自在菩薩金剛手菩薩歡喜力菩薩大法力菩薩

          (Kinh: Bảo Thủ Tự Tại Bồ Tát, Kim Cang Thủ Bồ Tát, Hoan Hỷ Lực Bồ Tát, Đại Pháp Lực Bồ Tát).

 

          Tán rằng: Ở đây có hai cặp ư nghĩa. [Bảo Thủ là] tay tuôn ra trân bảo, có thể phá trừ bần cùng. Trí thủ (tay trí) có thể phá hoại tự chướng (chướng của chính ḿnh) và tha chướng (chướng của người khác), th́ gọi là Kim Cang Thủ. Đây là cặp ư nghĩa “giúp nghèo, phá chướng”. Hoan hỷ ưa thích thường hành, khó thể khuất phục, th́ gọi là Hoan Hỷ Lực. Pháp thí Đại Thừa có thể dẹp tan các chướng như Vô Minh v.v… của kẻ khác, gọi là Đại Pháp Lực. Đây là cặp ư nghĩa “khó thể khuất phục, hàng phục kẻ khác”.

 

          (Kinh) Đại Trang Nghiêm Quang Bồ Tát, Đại Kim Quang Trang Nghiêm Bồ Tát.

          ()大莊嚴光菩薩大金光莊嚴菩薩

          (Kinh: Đại Trang Nghiêm Quang Bồ Tát, Đại Kim Quang Trang Nghiêm Bồ Tát).

 

          Tán rằng: Dùng định quang trí huệ để tự trang nghiêm, th́ gọi là Đại Trang Nghiêm Quang. Dùng kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương để lợi lạc chúng sanh, th́ gọi là Đại Kim Quang Trang Nghiêm. Giảm thiểu [sự thọ dụng của] chính ḿnh để lợi lạc người khác, cho nên gọi là Đại. Đây là cặp ư nghĩa “tự trang nghiêm chính ḿnh, trang nghiêm người khác”.

 

          (Kinh) Tịnh Giới Bồ Tát, Thường Định Bồ Tát, Cực Thanh Tịnh Huệ Bồ Tát.

          ()淨戒菩薩常定菩薩極清淨慧菩薩

          (Kinh: Tịnh Giới Bồ Tát, Thường Định Bồ Tát, Cực Thanh Tịnh Huệ Bồ Tát).

         

          Tán rằng: Ba danh hiệu này chính là cái nhân của Tam Học, mỗi điều đều đạt được hoàn bị trọn vẹn. Dựa theo sự thật để đều tu [Tam Học]. Nói theo bổn nguyện, đây là cặp ư nghĩa “đại phước, đại trí”. Giới là phước, Huệ là Trí, Định gồm chung cả hai thứ. Hoặc [có thể hiểu là] từ trong trí mà có thể phát khởi trí.

 

          (Kinh) Kiên Cố Tinh Tấn Bồ Tát, Tâm Như Hư Không Bồ Tát, Bất Đoạn Đại Nguyện Bồ Tát.

          ()堅固精進菩薩心如虛空菩薩不斷大願菩薩

          (Kinh: Kiên Cố Tinh Tấn Bồ Tát, Tâm Như Hư Không Bồ Tát, Bất Đoạn Đại Nguyện Bồ Tát).

 

          Tán rằng: Do ba thứ giồi mài, sách tấn và siêng năng đều chẳng thoái thất th́ gọi là Kiên Cố Tinh Tấn. Cái tâm vô ngại như hư không [là ư nghĩa của danh hiệu Tâm Như Hư Không]. Chẳng xả Tứ Hoằng Nguyện th́ gọi là Bất Đoạn Đại Nguyện. Đây là cặp ư nghĩa “bất thoái, thường tu”. Như Không th́ bao gồm cả hai [ư nghĩa ấy].

 

          (Kinh) Thí Dược Bồ Tát, Liệu Chư Phiền Năo Bệnh Bồ Tát, Y Vương Bồ Tát.

          ()施藥菩薩療諸煩惱病菩薩醫王菩薩

          (Kinh: Thí Dược Bồ Tát, Liệu Chư Phiền Năo Bệnh Bồ Tát, Y Vương Bồ Tát).

 

          Tán rằng: Thí thuốc chữa bệnh nơi thân, Liệu Phiền Năo là trừ bệnh nơi tâm. Y Vương hành trọn đủ. Đây là cặp ư nghĩa “chữa trị thân, chữa trị tâm”.

 

          (Kinh) Hoan Hỷ Cao Vương Bồ Tát, Đắc Thượng Thọ Kư Bồ Tát.

          ()歡喜高王菩薩得上授記菩薩

          (Kinh: Hoan Hỷ Cao Vương Bồ Tát, Đắc Thượng Thọ Kư Bồ Tát.

 

          Tán rằng: Nếu trông thấy chúng sanh bèn mỉm cười, trước hết là nói: Khiến cho họ sanh ḷng hoan hỷ, đạt được tự tại, gọi là Cao Vương. Thuộc địa vị Quán Đảnh, đạt được thọ kư bậc thượng. Đây là cặp ư nghĩa “tăng tấn người khác, tăng tấn chính ḿnh”.

 

          (Kinh) Đại Vân Tịnh Quang Bồ Tát, Đại Vân Tŕ Pháp Bồ Tát, Đại Vân Danh Xưng Hỷ Nhạo Bồ Tát, Đại Vân Hiện Vô Biên Xưng Bồ Tát.

          ()大雲淨光菩薩大雲持法菩薩大雲名稱喜樂菩薩大雲現無邊稱菩薩

          (Kinh: Đại Vân Tịnh Quang Bồ Tát, Đại Vân Tŕ Pháp Bồ Tát, Đại Vân Danh Xưng Hỷ Nhạo Bồ Tát, Đại Vân Hiện Vô Biên Xưng Bồ Tát.

 

          Tán rằng: Mây đại pháp trí chứa đựng mưa các đức, gọi là Đại Vân. Các danh hiệu c̣n lại đều chuẩn theo cách giải thích này. Trí có thể trừ cấu th́ gọi là Tịnh Quang. Tham các công đức th́ gọi là Tŕ Pháp. Đây là cặp ư nghĩa “trừ ám, tŕ pháp”. Tiếng thơm lan xa, người nghe thấy đều sanh ḷng ưa thích. Chữ “” ở đây phải đọc là Nhạo. Tiếng tăm trọn khắp mười phương, gọi là Hiện Vô Biên Xưng. Đây là cặp ư nghĩa “người khác ưa thích, tiếng tăm vang xa”.

 

          (Kinh) Đại Vân Sư Tử Hống Bồ Tát, Đại Vân Ngưu Vương Hống Bồ Tát, Đại Vân Cát Tường Bồ Tát, Đại Vân Bảo Đức Bồ Tát.

          ()大雲師子吼菩薩大雲牛王吼菩薩大雲吉祥菩薩大雲寶德菩薩    

          (Kinh: Đại Vân Sư Tử Hống Bồ Tát, Đại Vân Ngưu Vương Hống Bồ Tát, Đại Vân Cát Tường Bồ Tát, Đại Vân Bảo Đức Bồ Tát).

 

          Tán rằng: Việc làm quyết định th́ gọi là Đại Sư Tử Hống. Có thể dẹp tan oán địch, gọi là Đại Vân Ngưu Vương Hống. Hai vị Bồ Tát này chính là cặp ư nghĩa “có thể thực hiện, có thể hàng phục”. Có thể sanh phước lợi to lớn th́ gọi là Cát Tường; dùng thiện pháp để tự trang nghiêm th́ gọi là Bảo Đức. Đây là cặp ư nghĩa “ḿnh và người đều đạt được lợi ích”.

 

          (Kinh) Đại Vân Nhật Tạng Bồ Tát, Đại Vân Nguyệt Tạng Bồ Tát, Đại Vân Tinh Quang Bồ Tát, Đại Vân Hỏa Quang Bồ Tát.

          ()大雲日藏菩薩大雲月藏菩薩大雲星光菩薩大雲火光菩薩

          (Kinh: Đại Vân Nhật Tạng Bồ Tát, Đại Vân Nguyệt Tạng Bồ Tát, Đại Vân Tinh Quang Bồ Tát, Đại Vân Hỏa Quang Bồ Tát).

 

          Tán rằng: Phá sự tối tăm bất thiện như mặt trời, có thể khiến cho an lạc như mặt trăng. Đây là cặp ư nghĩa “phá ác, chứng chân”. Các thứ chiếu sáng như tinh tú, tùy thuận t́nh kiến mà thành tựu ánh lửa. Đây là cặp ư nghĩa “có thể chiếu, có thể thành tựu”.

 

          (Kinh) Đại Vân Điện Quang Bồ Tát, Đại Vân Lôi Âm Bồ Tát.

          ()大雲電光菩薩大雲雷音菩薩

                (Kinh: Đại Vân Điện Quang Bồ Tát, Đại Vân Lôi Âm Bồ Tát).

 

          Tán rằng: Trong đêm sanh tử, có thể soi sáng, chỉ bày chánh đạo th́ gọi là Điện Quang (ánh sáng của tia chớp). Thuyết pháp chấn động mạnh mẽ như tiếng sấm (Lôi Âm). Đây là cặp ư nghĩa “chỉ bày đạo, khiến cho người khác mạnh mẽ tỉnh ngộ”.

 

          (Kinh) Đại Vân Huệ Vũ Sung Biến Bồ Tát, Đại Vân Thanh Tịnh Vũ Vương Bồ Tát.

          ()大雲慧雨充遍菩薩大雲清淨雨王菩薩

          (Kinh: Đại Vân Huệ Vũ Sung Biến Bồ Tát, Đại Vân Thanh Tịnh Vũ Vương Bồ Tát).

 

          Tán rằng: Pháp có thể sanh ra trí th́ gọi là Huệ Vũ (mưa trí huệ). Pháp có thể trừ chướng gọi là Thanh Tịnh Vũ (mưa thanh tịnh). Do có oai lực nên như mưa; do không ǵ chẳng tạo lợi ích, cho nên tràn trề trọn khắp (sung biến, 充遍). Đây là cặp ư nghĩa “sanh thiện, diệt ác”.

 

          (Kinh) Đại Vân Hoa Thụ Vương Bồ Tát, Đại Vân Thanh Liên Hoa Hương Bồ Tát, Đại Vân Bảo Chiên Đàn Hương Thanh Lương Thân Bồ Tát.

          ()大雲華樹王菩薩大雲青蓮華香菩薩大雲寶旃檀香清涼身菩薩

          (Kinh: Đại Vân Hoa Thụ Vương Bồ Tát, Đại Vân Thanh Liên Hoa Hương Bồ Tát, Đại Vân Bảo Chiên Đàn Hương Thanh Lương Thân Bồ Tát).

 

          Tán rằng: Nhân hạnh đă viên măn, sắp đạt được giác quả, gọi là Hoa Thụ Vương. Có thể phô diễn diệu lư, mở mắt cho chúng sanh, công đức đồn xa, gọi là Thanh Liên Hoa Hương. Đạt được thanh tịnh Pháp Thân, trọn đủ ngũ phần hương (giới hương, định hương, huệ hương, giải thoát hương, giải thoát tri kiến hương), gọi là Bảo Chiên Đàn Hương. Thân thanh lương thuộc địa vị Pháp Thân, đạt được các công đức trọn khắp Pháp Thân. Đây là cặp ư nghĩa “nhân thành tựu, hiện quả”. Hai danh hiệu đầu là nhân, v́ do hoa mà có quả. Một danh hiệu sau cùng là quả, v́ nói là Thanh Lương Thân.

 

          (Kinh) Đại Vân Trừ Ám Bồ Tát, Đại Vân Phá Ế Bồ Tát.

          ()大雲除闇菩薩大雲破翳菩薩

          (Kinh: Đại Vân Trừ Ám Bồ Tát, Đại Vân Phá Ế Bồ Tát).

 

          Tán rằng: Có thể phá si ám th́ gọi là Trừ Ám. Có thể phá hai thứ chấp th́ gọi là Phá Ế (phá trừ sự che lấp). Đây là cặp ư nghĩa “phá ám, trừ chấp”.

 

          (Kinh) Như thị đẳng vô lượng đại Bồ Tát chúng.

          ()如是等無量大菩薩眾

          (Kinh: Vô lượng các vị đại Bồ Tát như thế).

 

          Tán rằng: Tổng kết.

 

          (Kinh) Các ư bô thời, tùng Định nhi khởi, văng nghệ Phật sở, đảnh lễ Phật túc, hữu nhiễu tam táp, thoái tọa nhất diện.

          ()各於晡時從定而起往詣佛所頂禮佛足右繞三匝退坐一面

          (Kinh: Mỗi vị vào lúc buổi chiều, từ Định xuất, đi đến chỗ đức Phật, đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu theo chiều phải ba ṿng, lui qua ngồi một bên).

 

          Tán rằng: Đoạn kinh văn [trần thuật các vị Bồ Tát] đến chỗ đức Phật gồm bốn tiểu đoạn, như trong phần trước đă phân biệt.

 

          (Kinh) Phục hữu Lê Xa Tỳ đồng tử ngũ ức bát thiên.

          ()復有梨車毘童子五億八千

          (Kinh: Lại có năm ức tám ngàn đồng tử Lê Xa Tỳ).

 

          Tán rằng: Trong đoạn kinh văn thứ ba (tức phần nói về phàm chúng, sau phần nói về Thanh Văn chúng và Bồ Tát chúng), chia thành bốn tiểu đoạn. Ở đây là nêu ra loại và số. Xưa kia [tộc người này] được dịch là Ly Xa, hoặc Ly Cô Tỳ, nay dịch là Lợi Xa Tỳ (Licchavī)[16], có thuyết nói họ là hoàng tộc, có người nói họ là chủng tánh Bà La Môn. Theo kinh Duy Ma Cật, ngài Vô Cấu Xưng (Duy Ma Cật) nói “năm trăm trưởng giả tử [Ly Xa]”, chẳng nói họ là hoàng tộc. Hoặc có khi [tuy họ là] gịng dơi vua chúa, vẫn gọi là trưởng giả, như trưởng giả Kỳ Vực (Jīvaka Kaumārabhṛtya)[17] [chẳng hạn].

 

          (Kinh) Kỳ danh viết Sư Tử Quang đồng tử, Sư Tử Huệ đồng tử, Pháp Thọ đồng tử.

          ()其名曰師子光童子師子慧童子法授童子

          (Kinh: Tên họ là đồng tử Sư Tử Quang, đồng tử Sư Tử Huệ, đồng tử Pháp Thọ).

 

          Tán rằng: Tiểu đoạn thứ hai là liệt kê danh xưng, có hai phần: Một là liệt kê, hai là tiểu kết. Có trí quang quyết định, có huệ quyết định, có thể truyền trao chánh pháp cho hữu t́nh, [danh xưng của ba đồng tử] theo thứ tự tương ứng với ba điều ấy.

 

          (Kinh) Nhân Đà La Thọ đồng tử, Đại Quang đồng tử, Đại Mănh đồng tử, Phật Hộ đồng tử, Pháp Hộ đồng tử, Tăng Hộ đồng tử.

          ()因陀羅授童子大光童子大猛童子佛護童子法護童子僧護童子

          (Kinh: Đồng tử Nhân Đà La Thọ, đồng tử Đại Quang, đồng tử Đại Mănh, đồng tử Phật Hộ, đồng tử Pháp Hộ, đồng tử Tăng Hộ).

 

          Tán rằng: Xin từ Thiên Đế, Thiên Đế truyền trao, gọi là Nhân Đà La Thọ. Có thể dùng trí hỏa để phá tối tăm cho ḿnh lẫn người, gọi là Đại Quang. Dũng mănh nhất quyết tu đạo, gọi là Đại Mănh. Niệm Phật, Pháp, Tăng th́ gọi là Phật Hộ v.v…

 

          (Kinh) Kim Cang Hộ đồng tử, Hư Không Hộ đồng tử, Hư Không Hống đồng tử, Bảo Tạng đồng tử, Cát Tường Diệu Tạng đồng tử.

          ()金剛護童子虛空護童子虛空吼童子寶藏童子吉祥妙藏童子

     (Kinh: Đồng tử Kim Cang Hộ, đồng tử Hư Không Hộ, đồng tử Hư Không Hống, đồng tử Bảo Tạng, đồng tử Cát Tường Diệu Tạng).

 

          Tán rằng: Dựa theo danh hiệu mà giải thích.

 

          (Kinh) Như thị đẳng nhân nhi vi thượng thủ.

          ()如是等人而為上首

          (Kinh: Những người như thế làm thượng thủ).

         

          Tán rằng: Tiểu kết.

 

          (Kinh) Tất giai an trụ Vô Thượng Bồ Đề, ư Đại Thừa trung thâm tín, hoan hỷ.

          ()悉皆安住無上菩提於大乘中深信歡喜

          (Kinh: Thảy đều an trụ trong Vô Thượng Bồ Đề, đối với Đại Thừa tin sâu, hoan hỷ).

 

          Tán rằng: Ca ngợi phẩm đức. Đạt tới địa vị Bất Thoái th́ nói là “an trụ Bồ Đề”. Lại có thể thủ hộ pháp thành, giữ vững chánh pháp, cho nên nói là “an trụ Bồ Đề”. Chứng tín tâm bất hoại, sanh ḷng hoan hỷ sâu xa.

 

          (Kinh) Các ư bô thời, văng nghệ Phật sở, đảnh lễ Phật túc, hữu nhiễu tam táp, thoái tọa nhất diện.

          ()各於晡時往詣佛所頂禮佛足右繞三匝退坐一面

          (Kinh: Mỗi người vào lúc buổi chiều, đi đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu theo chiều phải ba ṿng, lui qua ngồi một phía).

 

          Tán rằng: Đến chỗ đức Phật.

 

          (Kinh) Phục hữu tứ vạn nhị thiên thiên tử, kỳ danh viết: Hỷ Kiến thiên tử, Hỷ Duyệt thiên tử, Nhật Quang thiên tử, Nguyệt Kế thiên tử, Minh Huệ thiên tử, Hư Không Tịnh Huệ thiên tử, Trừ Phiền Năo thiên tử, Cát Tường thiên tử. Như thị đẳng thiên tử nhi vi thượng thủ, giai phát hoằng nguyện hộ tŕ Đại Thừa, thiệu long chánh pháp, năng sử bất tuyệt, các ư bô thời, văng nghệ Phật sở, đảnh lễ Phật túc, hữu nhiễu tam táp, thoái tọa nhất diện.

          ()復有四萬二千天子其名曰喜見天子喜悅天子日光天子月髻天子明慧天子虛空淨慧天子除煩惱天子吉祥天子如是等天子而為上首皆發弘願護持大乘紹隆正法能使不各於晡時往詣佛所頂禮佛足右繞三匝退坐一面

          (Kinh: Lại có bốn vạn hai ngàn thiên tử, tên là Hỷ Kiến thiên tử, Hỷ Duyệt thiên tử, Nhật Quang thiên tử, Nguyệt Kế thiên tử, Minh Huệ thiên tử, Hư Không Tịnh Huệ thiên tử, Trừ Phiền Năo thiên tử, Cát Tường thiên tử. Các vị thiên tử như thế làm thượng thủ, đều phát hoằng nguyện hộ tŕ Đại Thừa, tiếp nối hưng thịnh chánh pháp, có thể khiến cho [chánh pháp] chẳng dứt, mỗi vị đều vào buổi chiều, đi đến chỗ đức Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu theo chiều phải ba ṿng, lui qua ngồi một phía).

 

          Tán rằng: Kế đó, liệt kê chư thiên, kinh văn cũng gồm bốn đoạn giống như trong phần trước. Đa phần là Tam Thập Tam Thiên và Tứ Vương Thiên, do họ ở gần nên liệt kê trước. Thế tục đặt tên, chẳng thể giải thích cặn kẽ được. Trong phần tán thán phẩm đức, có hai ư:

          - Một, phát Tứ Hoằng Nguyện.

          - Hai, thủ hộ Đại Thừa. Thủ hộ Đại Thừa, tức là nhiếp thọ chánh pháp. Nhiếp thọ chánh pháp sẽ có thể kham gánh vác bốn loại trọng trách như trong kinh Thắng Man đă nói. V́ thế, có thể tiếp nối hưng thịnh chánh pháp. Chánh pháp có ba loại là chánh chứng, chánh hạnh, và chánh giáo. Tự ḿnh có thể khiến cho người khác nương theo chánh giáo, khởi chánh hạnh, chứng chánh quả; v́ thế khiến cho [chánh pháp] chẳng đoạn tuyệt. Di Lặc Vấn Luận[18] nói có năm pháp để nhiếp thủ diệu pháp:

          - Một, v́ báo ân Phật.

          - Hai, v́ tự thân mà khiến cho diệu pháp trụ thế lâu dài.

          - Ba, cúng dường chư Phật.

          - Bốn, v́ muốn lợi ích chúng sanh.

          - Năm, do diệu pháp khó được.

          Theo quyển mười của kinh Bảo Vũ, thành tựu mười pháp sẽ có thể nhiếp thọ chánh pháp:

          - Một, trong đời Mạt Pháp không có người có thể tŕ mà có thể thọ tŕ Đại Tố Đát Lăm (kinh Đại Thừa), cung kính cúng dường.

          - Hai, v́ người khác thuyết pháp.

          - Ba, thấy người có thể tu học, liền sanh ḷng hoan hỷ sâu xa.

          - Bốn, lắng nghe chánh pháp chẳng mong mỏi.

          - Năm, đối với pháp sư tưởng như bậc đạo sư.

          - Sáu, có thể đối với chánh pháp tưởng như cam lộ.

          - Bảy, có thể đối với chánh pháp, tưởng như thuốc tiên.

          - Tám, có thể đối với chánh pháp, tưởng như thuốc tốt lành.

          - Chín, có thể chuyên cầu chánh pháp, chẳng đoái hoài thân mạng.

          - Mười, mong cầu chánh pháp, dấy lên ư tưởng tu hành.

 

          (Kinh) Phục hữu nhị vạn bát thiên long vương: Liên Hoa long vương, Ế La Diệp Năng vương, Đại Lực long vương, Đại Hống long vương, Tiểu Ba long vương, Tŕ Sử Thủy long vương, Kim Diện long vương, Như Ư long vương, như thị đẳng long vương nhi vi thượng thủ, ư Đại Thừa pháp thường nhạo thọ tŕ, phát thâm tín tâm, xưng dương, ủng hộ, các ư bô thời, văng nghệ Phật sở, đảnh lễ Phật túc, hữu nhiễu tam táp, thoái tọa nhất diện.

          ()復有二萬八千龍王蓮華龍王𧫦羅葉能王大力龍王大吼龍王小波龍王持駛水龍王金面龍王如意龍王如是等龍王而為上首於大乘法常樂受持發深信心稱揚擁護各於晡時往詣佛所頂禮佛足右繞三匝退坐一面

    (Kinh: Lại có hai vạn tám ngàn long vương: Liên Hoa long vương, Ế La Diệp Năng vương, Đại Lực long vương, Đại Hống long vương, Tiểu Ba long vương, Tŕ Sử Thủy long vương, Kim Diện long vương, Như Ư long vương, các long vương như thế làm thượng thủ, đối với pháp Đại Thừa thường thích thọ tŕ, phát sanh tín tâm sâu xa, xưng dương, ủng hộ, ai nấy vào lúc buổi chiều đi đến chỗ đức Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu theo chiều phải ba ṿng, lui qua ngồi một phía).

 

          Tán rằng: Kinh văn cũng gồm bốn tiểu đoạn giống như phần trên. Liên Hoa [long vương] nương vào ao hoa sen để trụ. Chữ Ế La (Elā) được phương này dịch là Thụ (cây cối). Bát Noa (Pattra) được phương này dịch là Diệp (lá). Vị long vương này nương theo lá cây mà trụ, hoặc ăn lá cây, tức là Thiện Trụ long vương. C̣n Như Ư là do căn cứ theo [như ư] châu mà đặt tên. Phần tán thán phẩm đức có ba điều:

          - Một là thọ tŕ chánh pháp.

          - Hai là khởi tín tâm sâu đậm.

          - Ba là tán thán, diễn nói, và thủ hộ.

 

          (Kinh) Phục hữu tam vạn lục thiên chư Dược Xoa chúng, Tỳ Sa Môn thiên vương nhi vi thượng thủ, kỳ danh viết: Am Bà Dược Xoa, Tŕ Am Bà Dược Xoa, Liên Hoa Quang Tạng Dược Xoa, Liên Hoa Diện Dược Xoa, Tần Mi Dược Xoa, Hiện Đại Bố Dược Xoa, Động Địa Dược Xoa, Thôn Thực Dược Xoa, thị đẳng Dược Xoa tất giai ái nhạo Như Lai chánh pháp, thâm tâm hộ tŕ, bất sanh b́ giải, các ư bô thời, văng nghệ Phật sở, đảnh lễ Phật túc, hữu nhiễu tam táp, thoái tọa nhất diện.

          ()復有三萬六千諸藥叉眾毘沙門天王而為上首其名曰菴婆藥叉持菴婆藥叉蓮華光藏藥叉蓮華面藥叉顰眉藥叉現大怖藥叉動地藥叉吞食藥叉是等藥叉悉皆愛樂如來正法深心護持不生疲懈各於晡時往詣佛所頂禮佛足右繞三匝退坐一面

          (Kinh: Lại có ba vạn sáu ngàn các vị Dược Xoa, Tỳ Sa Môn thiên vương làm thượng thủ, tên họ là Am Bà Dược Xoa, Tŕ Am Bà Dược Xoa, Liên Hoa Quang Tạng Dược Xoa, Liên Hoa Diện Dược Xoa, Tần Mi Dược Xoa, Hiện Đại Bố Dược Xoa, Động Địa Dược Xoa, Thôn Thực Dược Xoa. Các Dược Xoa ấy thảy đều yêu thích chánh pháp của Như Lai, thâm tâm hộ tŕ, chẳng sanh lười mệt, ai nấy đều vào buổi chiều đi đến chỗ đức Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu theo chiều phải ba ṿng, lui qua ngồi một phía).

 

          Tán rằng: Liệt kê đại chúng Dược Xoa (Yakṣa), kinh văn cũng chia thành bốn tiểu đoạn. Dược Xoa được phương này dịch là Dũng Kiện (勇健, mạnh mẽ), c̣n dịch là Tiệp Tật (捷疾, nhanh chóng), c̣n bao gồm các Địa Hành La Sát Sa. La Sát Sa (Rākṣasa, La Sát) được phương này dịch là Bạo Ác. Tán thán phẩm đức gồm ba điều: Một là yêu mến chánh pháp, hai là có thể hộ tŕ, ba là chẳng mệt mỏi.

 

          (Kinh) Phục hữu tứ vạn cửu thiên Yết Lộ Đồ vương, Hương Tượng Thế Lực vương nhi vi thượng thủ.

          ()復有四萬九千揭路荼王香象勢力王而為上首

          (Kinh: Lại có bốn vạn chín ngàn Yết Lộ Đồ (Garuḍa) vương, Hương Tượng Thế Lực vương làm thượng thủ).

 

          Tán rằng: Các điểu vương, phương này dịch là Diệu Xí (妙翅: Cánh đẹp đẽ). Nói theo cách dịch cũ th́ c̣n dịch là Kim Xí (金翅: cánh vàng). Có sức mạnh và oai thế như hương tượng, hoặc có thế lực khiến cho hương tượng hoảng sợ. Hoặc có thể hiểu là chim giống như loài hương tượng, tức là hương tượng vương.

 

          (Kinh) Cập dư Kiện Thát Bà, A Tô La, Khẩn Na La, Mạc Hô Lạc Già đẳng, sơn, lâm, hà, hải, nhất thiết thần tiên, tịnh chư đại quốc sở hữu vương chúng, trung cung hậu phi, thanh tín nam nữ, nhân thiên đại chúng, tất giai vân tập.

          ()及餘健闥婆阿蘇羅緊那羅莫呼洛伽等山林河海一切神仙并諸大國所有王眾中宮后妃淨信男女人天大眾悉皆雲集

          (Kinh: Và các loài Kiện Thát Bà (Gandharva, Càn Thát Bà), A Tô La (A Tu La), Khẩn Na La (Kiṃnara), Mạc Hô Lạc Già (Mahoraga, Ma Hầu La Già) v.v… hết thảy thần tiên trong núi, rừng, sông, biển, và tất cả các vua trong các nước lớn, hậu phi trong nội cung, thanh tín nam nữ, đại chúng trời, người, thảy đều như mây nhóm đến).

 

          Tán rằng: Nêu chung các loại đại chúng khác.

 

          (Kinh) Hàm nguyện ủng hộ Vô Thượng Đại Thừa, độc, tụng, thọ tŕ, thư tả, lưu bố.

          ()咸願擁護無上大乘讀誦受持書寫流布

          (Kinh: Đều nguyện ủng hộ Vô Thượng Đại Thừa, đọc, tụng, thọ tŕ, biên chép, lưu truyền).

 

          Tán rằng: Tán thán phẩm đức gồm bốn điều: Một là nguyện ủng hộ, hai là tự tụng tŕ, ba là biên chép, bốn là truyền bá.

 

          (Kinh) Các ư bô thời, văng nghệ Phật sở, đảnh lễ Phật túc, hữu nhiễu tam táp, thoái tọa nhất diện.

          ()各於晡時往詣佛所頂禮佛足右繞三匝退坐一面

          (Kinh: Đều vào lúc sáng sớm, đi đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu theo chiều phải ba ṿng, lui qua ngồi một phía).

 

          Tán rằng: Đến chỗ đức Phật.

 

          (Kinh) Như thị đẳng Thanh Văn, Bồ Tát, nhân thiên đại chúng, long thần bát bộ kư vân tập dĩ, các các chí tâm hiệp chưởng cung kính, chiêm ngưỡng tôn dung, mục vị tằng xả.

          ()如是等聲聞菩薩人天大眾龍神八部既雲集已各各至心合掌恭敬瞻仰尊容目未曾捨

          (Kinh: Các vị Thanh Văn, Bồ Tát, đại chúng trời người, tám bộ long thần như thế đă vân tập, ai nấy chí tâm chắp tay cung kính, chiêm ngưỡng tôn dung, mắt chưa từng ĺa).

 

          Tán rằng: Đây là phần tổng kết, gồm hai tiểu đoạn: Một là tiểu kết, hai là nêu quy cách cầu pháp. Cầu pháp chuyên ṛng, chân thành, nên “chí tâm”, ngầm biểu lộ bằng cách chắp tay. Kính trọng là Cung, cung sâu xa là Kính. Ngắm thân tướng trang nghiêm, mong thành Phật quả; v́ thế, “chiêm ngưỡng tôn dung”. Trọn chẳng nh́n ǵ khác, nên nói là “vị tằng xả” (chưa từng bỏ).

 

          (Kinh) Nguyện nhạo dục văn thù thắng diệu pháp.

          ()願樂欲聞殊勝妙法

          (Kinh: Nguyện ưa thích muốn nghe diệu pháp thù thắng).

 

          Tán rằng: Nói về cái nhân thành tựu. Do mọi người muốn nghe, đức Phật mới có thể nói.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Bạc Già Phạm ư nhật bô thời, tùng Định nhi khởi, quán sát đại chúng.

          ()爾時薄伽梵於日晡時從定而起觀察大眾

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm vào lúc buổi chiều, từ Định xuất, quan sát đại chúng).

 

          Tán rằng: Phát Khởi Tự gồm hai phần: Đây là phần thứ nhất, tức Thời Thành Tựu, và thuyết pháp sở y oai nghi thành tựu (sự thành tựu nơi oai nghi thuyết pháp), tức là soi xét cơ nghi. Hoặc có thể nói là ư nghĩa oai nghi thuyết pháp thành tựu cũng được bao gồm trong ấy.

 

          (Kinh) Nhi thuyết tụng viết: - Kim Quang Minh diệu pháp, tối thắng chư kinh vương, thậm thâm nan đắc văn, chư Phật chi cảnh giới. Ngă đương vị đại chúng, tuyên thuyết như thị kinh”.

          ()說頌金光明妙法最勝諸經王甚深難得聞諸佛之境界我當為大眾說如是

          (Kinh: Bèn nói bài tụng rằng: “Diệu pháp Kim Quang Minh, tối thắng vua các kinh, rất sâu khó được nghe, là cảnh giới chư Phật, ta sẽ v́ đại chúng, tuyên nói kinh như thế”).

 

          Tán rằng: Đây là nói đến Thuyết Thành Tựu. Có hai mươi bốn bài kệ tụng, chia đại lược thành ba phần:

          - Một bài kệ rưỡi đầu tiên, nêu chung sự sâu mầu, hứa sẽ v́ đại chúng tuyên nói.

          - Hai mươi bài kệ rưỡi sau đó, riêng nêu những điều sẽ được nói, ca ngợi sự thù thắng, khiến [cho đại chúng nghe xong sẽ] tu tập.

          - Hai bài cuối cùng, tổng kết lợi ích thù thắng, tán thán, khuyên học.

          Ở đây, thuộc phần thứ nhất. “Tụng” () dịch theo lối cũ là Kệ, tiếng Phạn là Già Tha (Gāthā), bị [phiên âm] sai ngoa thành Kệ (). “Tụng” có nghĩa là ca ngợi sự tốt đẹp, chính là “phúng tụng” (諷誦) ở phương này (Trung Hoa). Cuối phần Trường Hàng trong đoạn trên đây bèn lập ra bài tụng.         

          Hỏi: Phúng Tụng và ng Tụng, hai thể loại tụng có ǵ khác biệt?

          Đáp: Tụng trong Ứng Tụng có nghĩa là “giáo”, c̣n Tụng trong Phúng Tụng là “ngôn”.

          Hỏi: V́ sao phúng tụng là Ngôn? Ứng Tụng là giáo?

          Đáp: Du Già Sư Địa Luận, quyển thứ tám mươi mốt viết: “Ứng Tụng nghĩa là sau phần Trường Hàng bèn tuyên nói Già Đà”. Có nghĩa là: Già Đà nhằm nói thẳng thừng các nghĩa (nhắc lại các nghĩa vừa được nói trong phần Trường Hàng). Đối với Phúng Tụng, luận ghi: “Chính là dùng câu để nói”[19]. Ư nói: “Dùng câu văn để diễn tả điều muốn nói”.

          Trong một bài tụng rưỡi ở đây, hai câu đầu nêu ra “năng thuyên giáo” (giáo pháp có thể diễn nói, tức kinh Kim Quang Minh), hai câu kế nêu ra “sở thuyên nghĩa” (nghĩa lư được diễn nói trong giáo pháp ấy). Hai câu cuối là [đức Phật] hứa khả sẽ nói. Do [kinh Kim Quang Minh] có thể diễn nói nhân sâu, quả mầu của Bồ Đề Niết Bàn, cho nên là tối thắng, là vua của các kinh. Trong phần nêu bày “sở thuyên” (điều được diễn nói bởi giáo pháp), theo như Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận đă nói: “Cầu pháp có bốn nhân duyên: Một là sắc, hai là phi sắc, ba là thần thông, bốn là chánh pháp. ‘Là sắc’ tức là do tướng hảo làm cái nhân. ‘Là phi sắc’ v́ diệt cái nhân gây ra bệnh phiền năo. ‘Là thần thông’ v́ là cái nhân của tự tại. ‘Là chánh pháp’ v́ là cái nhân vô tận”. Như Phạm Thiên Vương Vấn Kinh[20] có nói: “Bồ Tát cầu pháp cụ túc tứ tưởng: Nhất giả, như diệu bảo tưởng, nan đắc nghĩa cố. Nhị, như lương dược tưởng, trừ bệnh nghĩa cố. Tam, như tài vật tưởng, bất tán nghĩa cố. Tứ giả, như Niết Bàn tưởng, khổ diệt nghĩa cố” (Bồ Tát cầu pháp trọn đủ bốn thứ tưởng: Một là tưởng như của báu mầu nhiệm, do có ư nghĩa khó được. Hai là tưởng như thuốc tốt lành, v́ có nghĩa trừ bệnh. Ba là tưởng như tài vật, v́ có ư nghĩa chẳng tan tác. Bốn là tưởng như Niết Bàn, v́ có ư nghĩa diệt khổ). Do pháp là cái nhân của tướng hảo trang nghiêm. Do vậy, tưởng pháp như của báu mầu nhiệm. Do pháp là cái nhân để diệt bệnh phiền năo, cho nên như thuốc tốt lành. Do pháp là cái nhân của thần thông tự tại, cho nên tưởng pháp như tài vật. Do pháp là cái nhân vô tận của chánh pháp, cho nên tưởng như Niết Bàn. Nay kinh này rất sâu, khó được nghe, nêu ra ba cái nhân đầu tiên đều là “khó được nghe”. Nói “cảnh giới của chư Phật” là nêu ra cái nhân thứ tư, do Đại Niết Bàn th́ chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu cùng tận, là sở đắc của Phật, [cho nên nói] “là cảnh giới của chư Phật”. Những nhân quả xuất thế gian và thế gian được nêu ra trong phần sau đều là như thế, tức là nói chung kinh này.

 

          (Kinh) Tịnh tứ phương tứ Phật, oai thần cộng gia hộ, Đông phương A Súc Tôn, Nam phương Bảo Tướng Phật, Tây phương Vô Lượng Thọ, Bắc phương Thiên Cổ Âm.

          ()并四方四佛威神共加護東方阿閦尊南方寶相佛西方無量壽北方天鼓音

          (Kinh: Và bốn phương bốn Phật, oai thần cùng gia hộ, phương Đông A Súc Phật, phương Nam Bảo Tướng Phật, phương Tây Vô Lượng Thọ, phương Bắc Thiên Cổ Âm).

 

          Tán rằng: Hai mươi bài kệ rưỡi sau đó là nêu riêng từng điều. Trong đó, chia làm bốn đoạn:

          - [Một], ba bài kệ rưỡi đầu tiên, tương ứng với phẩm Thọ Mạng cho đến phẩm Măn Nguyện, tức là phần Chánh Tông của kinh, chính là pháp được nói trong kinh này, tức là hai nhân và hai quả.

          - Hai, từ câu “chúng sanh thân bất cụ” (thân chúng sanh chẳng toàn vẹn) trở đi gồm sáu bài tụng, nêu ra sự khuyên học trong phần Chánh Tông.

          - Ba, năm bài tụng từ câu “hộ thế tứ vương chúng” (bốn vị vua hộ thế) trở đi, nêu ra pháp được tu hành trong phần Lưu Thông từ phẩm Quán Sát cho đến phẩm Phó Chúc.

          - Bốn, sáu bài tụng từ “nhược hữu văn thị kinh” (nếu ai nghe kinh này) trở đi, nêu ra sự khuyên lơn thọ tŕ và đọc tụng trong các phẩm.

          Ba bài tụng rưỡi đầu tiên lại chia thành bảy phần:

          - Một, một bài tụng rưỡi đầu tiên nêu bày phẩm Thọ Lượng.

          - Hai, câu “ngă phục diễn diệu pháp” (ta lại diễn diệu pháp), nêu bày phẩm Tam Thân.

          - Ba, hai câu từ “cát tường sám trung thắng” (pháp thù thắng trong pháp sám hối cát tường), nêu ra phẩm Sám Hối.

          - Bốn, hai câu từ “tịnh trừ chư ác nghiệp” (trừ sạch các ác nghiệp), nêu ra phẩm Diệt Nghiệp Chướng.

          - Năm, câu “thường dữ vô thượng lạc” (thường ban vô lượng lạc), nêu ra phẩm Tịnh Địa, phẩm Liên Hoa Dụ Tán, và phẩm Kim Thắng Đà La Ni.

          - Sáu, câu “nhất thiết trí căn bản” (hết thảy trí căn bản) nêu bày phẩm Trùng Hiển Tánh Không.

          - Bảy, câu “chư công đức trang nghiêm” (các công đức trang nghiêm), nêu bày phẩm Y Không Măn Nguyện.

          Đoạn kinh văn ở đây thuộc về phần đầu. Đức Thích Ca và bốn vị Phật cùng nói kinh này, cho nên nói là “tịnh tứ phương tứ Phật” (và bốn vị Phật trong bốn phương). Nhân duyên của bốn vị Phật như quyển thứ bảy trong kinh Quán Phật Tam Muội Hải đă nói. Bốn vị Phật như A Súc Phật v.v… nói: “Ngă niệm tằng tích Không Vương Phật sở, xuất gia, học đạo. Thời tứ tỳ-kheo cộng vi đồng học. Phật Niết Bàn hậu, nhập tháp quán tượng, kiến mi gian tướng như Phật vô dị, nguyện trừ ngă tội, như đại sơn băng, ngũ thể đầu địa, sám hối chư tội. Y thử nhân duyên, hậu bát thập ức A-tăng-kỳ kiếp bất đọa ác đạo, thường kiến chư Phật, ư chư Phật sở, thọ tŕ thậm thâm Niệm Phật tam-muội. Đắc tam-muội dĩ, chư Phật hiện tiền, thọ ngă kư biệt: Đông phương hữu quốc danh Diệu Hỷ, bỉ Phật danh A Súc, tức đệ nhất tỳ-kheo thị. Nam phương hữu quốc danh Hoan Hỷ, Phật danh Bảo Tướng, tức đệ nhị tỳ-kheo thị. Tây phương hữu quốc danh Cực Lạc, Phật danh Vô Lượng Thọ, tức đệ tam tỳ-kheo thị. Bắc phương hữu quốc, danh Liên Hoa Trang Nghiêm, Phật danh Vi Diệu Âm, tức đệ tứ tỳ-kheo thị” (Ta nhớ xưa kia, từng ở chỗ Không Vương Phật xuất gia, học đạo. Khi đó, bốn vị tỳ-kheo cùng làm đồng học. Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, vào tháp quán tượng, thấy tướng [bạch hào] giữa hai mày [của tượng] giống hệt như Phật chẳng khác, nguyện trừ tội cho tôi. Như núi lớn sụp đổ, gieo năm vóc xuống đất, sám hối các tội. Nương vào nhân duyên ấy, tám mươi ức A-tăng-kỳ kiếp sau, chẳng đọa vào đường ác, thường thấy chư Phật, ở nơi chư Phật, thọ tŕ Niệm Phật tam-muội rất sâu. Đă đắc tam-muội, chư Phật hiện tiền thọ kư cho ta: Phương Đông có cơi nước tên là Diệu Hỷ, vị Phật nơi đó tên là A Súc, chính là vị tỳ-kheo thứ nhất. Phương Nam có cơi nước tên là Hoan Hỷ, Phật hiệu là Bảo Tướng, tức vị tỳ-kheo thứ hai. Phương Tây có cơi nước tên là Cực Lạc, Phật tên là Vô Lượng Thọ, tức vị tỳ-kheo thứ ba. Phương Bắc có cơi nước tên là Liên Hoa Trang Nghiêm, Phật tên là Vi Diệu Âm, tức là vị tỳ-kheo thứ tư).

          Hỏi: V́ sao bốn vị Phật cùng nói kinh này?

          Đáp: Nhằm chỉ rơ Tứ Đức và Thích Ca, tức là Phật quả có năm pháp, tức là Tứ Trí Chân Như nhiếp thủ Bồ Đề lẫn Niết Bàn đều trọn hết.

 

          (Kinh) Ngă phục diễn diệu pháp, cát tường sám trung thắng, năng diệt nhất thiết tội, tịnh trừ chư ác nghiệp.

          ()我復演妙法吉祥懺中勝能滅一切罪淨除諸惡業

          (Kinh: Ta lại diễn diệu pháp, sám hối thắng cát tường, hay diệt hết thảy tội, trừ sạch các ác nghiệp).

 

          Tán rằng: [Đây là] các tiểu đoạn thứ hai, ba và bốn trong [ba bài tụng rưỡi đầu tiên]. “Phục diễn diệu pháp” (lại diễn nói diệu pháp): Nêu ra tam thân Vô Thượng Bồ Đề, cho nên nói là “diệu pháp”. “Cát tường sám trung thắng” (pháp thù thắng trong cách sám hối cát tường): Nương vào nguyện của ba thân [Vô Thượng Bồ Đề] để hành sám hối, sẽ là thù thắng sám hối. “Năng diệt nhất thiết tội” (có thể diệt hết thảy tội): [Pháp sám hối ấy] có thể chiết phục, trừ diệt [các tội lỗi nơi] ba nghiệp trong ba đời, khổ quả trong tam giới, và ba phiền năo. V́ thế, kinh văn trong phần sau nói: “Kim Quang Minh cổ xuất diệu thanh, biến chí tam thiên đại thiên giới, năng diệt tam đồ cực trọng tội, cập dĩ thiên nhân chư khổ ách” (Cái trống Kim Quang Minh vang ra âm thanh mầu nhiệm, thấu tới trọn khắp cơi tam thiên đại thiên, có thể diệt tội cực nặng trong tam đồ, và các khổ ách của trời, người). Nói “tịnh trừ chư ác nghiệp” (trừ sạch các ác nghiệp) chính là nhắc tới phẩm Diệt Nghiệp Chướng trong phần sau. Nghiệp và nghiệp nhân (cái nhân tạo ra nghiệp) đều gọi là ác nghiệp. V́ thế, luận Duy Thức nói: “Quyến thuộc của nghiệp cũng được gọi là nghiệp. Hoặc là nghiệp được phát khởi bởi cái nhân ác, cảm vời ác quả nghiệp, cũng gọi là ác nghiệp. Do v́ nó đáng ghét, tam giới đều là vậy. Hoặc chẳng có chủng tánh, chỉ trừ nghiệp của tam đồ, bát nạn”.

 

          (Kinh) Cập tiêu chúng khổ hoạn, thường dữ vô lượng lạc, Nhất Thiết Trí căn bản, chư công đức trang nghiêm.

          ()及消眾苦患常與無量樂一切智根本諸功德莊嚴

          (Kinh: Và tiêu các khổ hoạn, thường ban vô lượng vui. Căn bản Nhất Thiết Trí, các công đức trang nghiêm).

 

          Tán rằng: Câu đầu tiên nêu ra phẩm Diệt Nghiệp Chướng. Câu “chư ác nghiệp” trong đoạn trước là nhân, ở đây là cảm vời ác quả trong khắp tam giới. Nếu xét theo vô tánh, chỉ có chút phần của tam đồ, tám nạn, và tám nỗi khổ, chẳng ĺa sanh lăo tử và Ngũ Thịnh Uẩn Khổ (nỗi khổ v́ Ngũ Uẩn hừng hực). Câu thường dữ vô lượng lạc” (thường ban vô lượng vui) nhắc đến ba phẩm Tịnh Địa, Liên Hoa Tán, và Kim Thắng trong phần sau, do tu Lục Độ hạnh, đắc thập vương quả và địa vị Phật. Đối với kẻ vô tánh bèn ban cho niềm vui nhân thiên; đối với người hữu tánh, bèn ban cho địa vị Phật v.v… “Nhất Thiết Trí căn bản” là nói tới phẩm Trùng Hiển Không Tánh. Do lư Chân Như là tánh Chân Không, bèn gọi là Như Lai Tạng, là chỗ nương giữ của các công đức. Luận Bảo Tánh[21] giải thích “vô thỉ thời giới”, [giảng rằng] giới () là pháp nhân (法因, cái nhân của các pháp), tức là lấy Chân Như làm “pháp nhân”. Nhân được gọi là “bn”, cho nên là “trí bổn” (cội gốc của trí). Do dùng Nhất Thiết Trí để chứng Chân Như; cho nên nói thiên lệch là “Nhất Thiết Trí bổn” (cái gốc của Nhất Thiết Trí). Dựa vào Chân để hiểu rơ Tục, chứng Chân cũng là cái gốc của Nhất Thiết Trí. Dựa theo Chứng Trí để nói đại lược Chủng Trí, hoặc [có thể hiểu] Nhất Thiết Trí chẳng phải là [Nhất Thiết Trí] trong hai thứ trí (Đạo Chủng Trí và Nhất Thiết Trí), mà là nói chung hết thảy các trí, tức là Thập Trí, Tứ Trí v.v… th́ gọi là “nhất thiết trí” (hết thảy các trí), Như (Chân Như) đều là Bổn [của các trí ấy]. Do vậy nói “Nhất Thiết Trí căn bản” (căn bản của Nhất Thiết Trí). “Chư công đức trang nghiêm” (các công đức trang nghiêm) là nhắc tới phẩm Y Không Măn Nguyện. Do nương theo chân lư mà khởi tu, đă chứng cội đức, cho nên có thể viên măn hết thảy công đức trang nghiêm chân thật. Như kinh Bát Nhă nói “trang nghiêm thân, trang nghiêm cơi nước”, đều phải quán lư th́ mới được viên măn. Kinh này cũng thế!

 

          (Kinh) Chúng sanh thân bất cụ, thọ mạng tương tổn giảm, chư ác tướng hiện tiền, thiên thần giai xả ly.

          ()眾生身不具,壽命將損減,諸惡相現前,天神皆捨離。

          (Kinh: Chúng sanh thân chẳng vẹn, thọ mạng sắp tổn giảm, các tướng ác hiện tiền, thiên thần đều ĺa bỏ).

 

          Tán rằng: Kế đó, nêu ra phần Có Thể Khuyên Học trong phần Chánh Tông. Trong ấy, chia thành hai phần:

          1) Ba bài tụng rưỡi đầu tiên, nêu ra các khổ nạn khiến cho [người nghe] sanh tâm chán ĺa.

          2) Hai bài tụng rưỡi sau đó, nêu rơ kinh có thể trừ [các khổ nạn ấy], khiến cho [người nghe] vui thích tu học.

          Phần thứ nhất lại chia thành hai đoạn:

          - Hai bài tụng đầu nói về ác quả.

          - Bài tụng rưỡi sau đó nói về khổ nhân (cái nhân gây ra khổ).

          Phần thứ nhất lại chia thành hai:

          - Bài tụng thứ nhất nói về nỗi khổ trong thân.

          - Bài tụng thứ hai nói đến nỗi khổ do duyên bên ngoài.

          Đoạn kinh văn này chính là [nỗi khổ] nội thân: Thân chẳng toàn vẹn, các căn thiếu khuyết, tức là thuộc về Sanh Khổ hay Bệnh Khổ. “Thọ mạng sắp diệt” là nghiệp tận, duyên chấm dứt, hoặc bị chết ngang xương, phải xả thọ, tức là Tử Khổ. “Chư ác tướng hiện” (các tướng ác hiện ra): Chim kêu trăm điều quái lạ, hoa trên đầu héo, Tứ Đại trái nghịch, sắc tướng suy biến, tức là nỗi khổ già bệnh, theo thứ tự sanh, lăo, bệnh, khổ. Thọ mạng chưa hết, do tu phước nghiệp, trăm thần nâng đỡ, hộ vệ. Khi các nghiệp tận, nếu hiện tiền chẳng thể tu điều thiện, thiện thần sẽ ĺa bỏ!

 

          (Kinh) Thân hữu hoài sân hận, quyến thuộc tất phân ly, bỉ thử cộng quai vi, trân tài giai tán thất.

          ()親友懷瞋恨眷屬悉分離彼此共乖違珍財皆散失

          (Kinh: Thân hữu ôm sân hận, quyến thuộc đều chia ĺa, đôi bên cùng chống trái, của báu đều thất lạc).

 

          Tán rằng: Nỗi khổ thuộc ngoại duyên. Thân hữu ôm ḷng sân hận, tức là Oán Tăng Hội Khổ. Quyến thuộc đều chia ĺa là Ái Biệt Ly Khổ. Hai câu từ “bỉ thử cộng quai vi” (đôi bên cùng chống đối lẫn nhau) là Cầu Bất Đắc Khổ.

 

          (Kinh) Ác tinh vi biến quái, hoặc bị tà cổ xâm, nhược phục đa ưu sầu, chúng khổ chi sở bách.

          ()惡星為變怪或被邪蠱侵若復多憂愁眾苦之所逼

          (Kinh: Sao ác biến lạ lùng, hoặc bị tà cổ[22] hại, hoặc lắm nỗi ưu sầu, các nỗi khổ bức bách).

 

          Tán rằng: Nói về các nhân gây khổ. Nửa đầu nói về cái nhân gây khổ ở bên ngoài; nửa sau nói về cái nhân gây khổ bên trong.

 

          (Kinh) Thụy miên kiến ác mộng, nhân thử sanh phiền năo.

          ()睡眠見惡夢因此生煩惱

          (Kinh: Ngủ nghê thấy ác mộng, do vậy sanh phiền năo).

 

          Tán rằng: Cái nhân gây ra nỗi khổ bên trong.

 

          (Kinh) Thị nhân đương tháo dục, ưng trước tiễn khiết y, ư thử diệu kinh vương, thậm thâm Phật sở tán, chuyên chú tâm vô loạn, độc, tụng, thính, thọ tŕ.

          ()是人當澡浴應著鮮潔衣於此妙經王甚深佛所讚專注心無亂讀誦聽受持

          (Kinh: Người ấy nên tắm gội, nên mặc áo tinh sạch. Đối diệu kinh vương này, được Phật khen rất sâu, chuyên chú, tâm chẳng loạn, đọc, tụng, nghe, thọ tŕ).

 

          Tán rằng: Tiếp đó, nói sức của kinh có thể trừ khử [các chướng duyên], khiến [cho người nghe] vui thích tu học. Phần này gồm ba đoạn:

          - Nửa đầu nói về nghi thức tu hành.

          - Hàng kế tiếp nói đến cách tu hành chánh yếu.

          - Hàng cuối nói về công lực của kinh.

          Trong phần tu hành chánh yếu, hai câu đầu nói về pháp để học. Hai câu sau nói thẳng vào cách tu hành. Đối với chuyện đọc, tụng, hoặc nghe và thọ tŕ, đều cần phải chuyên chú, tâm chẳng tán loạn, tức đọc, tụng v.v… sanh ra Văn Huệ, thọ tŕ sanh ra Tư Huệ, dẫn đến Tư Huệ hiển lộ. Hoặc là do tâm chuyên chú, chẳng loạn, mà sanh ra Tư Huệ, những điều khác là Văn Huệ và Tu Huệ. Tam Huệ trọn đủ! Lại nữa, tắm gội, mặc áo sạch là Giới Học, chuyên chú là Định Học, đọc, tụng v.v… là Huệ Học, khiến cho [người nghe] nương theo kinh này để tu Tam Học.

 

          (Kinh) Do thử kinh oai lực, năng ly chư tai hoạnh, cập dư chúng khổ nạn, vô bất giai trừ diệt.

          ()由此經威力能離諸災橫及餘眾苦難無不皆除滅

          (Kinh: Do oai lực kinh này, hay ĺa các tai ương, và các thứ khổ nạn, không ǵ chẳng trừ diệt).

 

          Tán rằng: Tổng kết sức công đức.

 

          (Kinh) Hộ thế tứ vương chúng, cập đại thần quyến thuộc, vô lượng chư Dược Xoa, nhất tâm giai ủng vệ.

          ()護世四王眾及大臣眷屬無量諸藥叉一心皆擁衛

          (Kinh: Hộ thế tứ vương chúng, và đại thần quyến thuộc, vô lượng các Dược Xoa, đều nhất tâm ủng hộ).

 

          Tán rằng: Kế đó, nói đến phần Lưu Thông, gồm năm bài kệ nêu ra sự tu hành chánh yếu. Đoạn này nói đến phẩm Quán Sát Nhân Thiên, phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc, phẩm Vô Nhiễm Trước, và phẩm Như Ư.

 

          (Kinh) Đại Biện Tài thiên nữ, Ni Liên Hà thủy thần, Ha Lợi Để mẫu thần, Kiên Lao địa thần chúng.

          ()大辯財天女尼連河水神訶利底母神堅牢地神眾

          (Kinh: Thiên nữ Đại Biện Tài, thủy thần sông Ni Liên[23], và thần Quỷ Tử Mẫu, cùng địa thần Kiên Lao).

 

          Tán rằng: Bài tụng này nhắc đến phẩm Đại Biện Tài Thiên Nữ, phẩm Cát Tường Thiên Nữ, phẩm Tăng Trưởng Tài Vật, và phẩm Kiên Lao Địa Thần. Ha Lợi Để (Hārītī, Quỷ Tử Mẫu) được phương này dịch là Thanh Sắc, tức là La Xoa (La Sát) quỷ mẫu, có năm trăm đứa con, cực lực ủng hộ Tam Bảo và trẻ nhỏ dù trai hay gái.

 

          (Kinh) Phạm vương, Đế Thích chủ, long vương, Khẩn Na La, cập Kim Xí Điểu vương, A Tô La, thiên chúng, như thị thiên thần đẳng, tịnh tương kỳ quyến thuộc, giai lai hộ thị nhân, trú dạ thường bất ly.

          ()梵王帝釋主龍王緊那羅及金翅鳥王阿穌羅天眾如是天神等并將其眷屬皆來護是人晝夜常不離

          (Kinh: Phạm vương, Đế Thích chủ. Long vương, Khẩn Na La, và vua chim cánh vàng, A Tô La, các trời, các thiên thần như thế, cũng dẫn theo quyến thuộc, đều hộ tŕ người ấy, đêm ngày thường chẳng rời).

 

          Tán rằng: Nhắc tới phẩm Tăng Thận Nhĩ Da Dược Xoa Đại Tướng, phẩm Vương Pháp Chánh Luận, phẩm Thiện Sanh Vương, và phẩm Chư Thiên Dược Xoa Thủ Hộ. Lại giải rằng: Chánh liễu tri được nhắc tới trong phần nói về Ha Lợi Để Mẫu Thần. C̣n Vương Pháp Chánh Luận và phẩm Thiện Sanh Vương đều được nêu ra trong bài tụng “ngă đương thuyết thị kinh” (ta sẽ nói kinh này). Do cùng được đức Phật nói, cho nên nêu chung một chỗ.

 

          (Kinh) Ngă đương thuyết thị kinh, thậm thâm Phật hành xứ, chư Phật bí mật giáo, thiên vạn kiếp nan phùng.

          ()我當說是甚深佛行處諸佛祕密教千萬劫難逢

     (Kinh: Ta sẽ nói kinh này, Phật hành xứ rất sâu, bí mật giáo chư Phật, ngàn vạn kiếp khó gặp).

 

          Tán rằng: Nêu ra [các phẩm] từ phẩm Thọ Kư trở đi. “Thậm thâm Phật hành xứ” (hành xứ rất sâu của Phật) là nói đến phẩm Thọ Kư, phẩm Liệu Bệnh, phẩm Trưởng Giả Tử Lưu Thủy, và phẩm Xả Thân. Vô Thượng Bồ Đề th́ chỉ ḿnh Phật có thể hiểu rơ, được gọi là hành xứ của Phật. Các phẩm như Liệu Bệnh v.v… là nhân hạnh của Phật. Hai câu “chư Phật bí mật giáo…” nói đến các phẩm sau đó. [Giáo pháp được] chư Phật thủ hộ, phải là căn cơ Đại Thừa chín muồi th́ mới trao cho, nên gọi là Bí. Sâu xa, huyền diệu, khó hiểu là Mật. Do vậy, ngàn vạn kiếp khó được lắng nghe. V́ thế, nay được nghe đọc, bèn tán thán và phó chúc.

 

          (Kinh) Nhược hữu văn thị kinh, năng vị tha diễn thuyết, nhược tâm sanh tùy hỷ, hoặc thiết ư cúng dường.

          ()有聞是經能為他演若心生隨喜或設於供養

     (Kinh: Nếu ai nghe kinh này, v́ người khác diễn nói, nếu sanh ḷng tùy hỷ, hoặc sắp đặt cúng dường).

 

          Tán rằng: Sáu bài tụng kế tiếp thuộc về đoạn thứ tư, tức là thuộc về phần khuyên lơn, tán thán thọ tŕ và đọc tụng trong Lưu Thông Phần. Trong ấy, chia thành ba phần:

          - Bài tụng thứ nhất khuyên thọ tŕ, đọc tụng.

          - Ba bài tụng kế tiếp nêu ra lợi ích đạt được.

          - Hai bài tụng cuối cùng dạy bảo khuôn phép để nương theo.

          Đoạn này chính là phần thứ nhất. Luận Biện Trung Biên có phần trùng tụng về mười pháp hạnh [như sau]: “Tức là cúng dường, biên chép, bố thí cho người khác, nghe, mở ra xem đọc, thọ tŕ, khai diễn, phúng tụng và Tư, Tu”, có ư nói: Một là cúng dường, hai là biên chép, ba là bố thí cho người khác, bốn là lắng nghe, năm là xem đọc, sáu là thọ tŕ, bảy là khai diễn (giảng giải), tám là phúng tụng, chín là tư duy, mười là tu tập. Tám món đầu thuộc về Văn Huệ, tư duy là Tư Huệ, tu tập là Tu Huệ. Ở đây, nghe kinh này chính là “lắng nghe”, diễn nói chính là “khai diễn”, cúng dường chính là sơ hạnh. Nêu đại lược ba hạnh, tức lắng nghe và cúng dường thuộc về tự lợi, c̣n diễn nói là lợi tha. V́ thế, chỉ nêu ra ba loại, nhưng thật ra trọn đủ mười loại. “Tùy hỷ” là đối với mười pháp hạnh, mỗi hạnh đều có bốn loại: Một là tự thực hiện mười pháp hạnh, hai là dạy bảo người khác, ba là vui mừng và an ủi, bốn là tùy hỷ. Nêu ra những điều dễ thực hiện ḥng liên tưởng các điều khác.

 

          (Kinh) Như thị chư nhân đẳng, đương ư vô lượng kiếp, thường vị chư thiên nhân, long thần sở cung kính.

          ()如是諸人等當於無量劫常為諸天人龍神所恭敬

          (Kinh: Những người như thế đó, sẽ trong vô lượng kiếp, thường được các trời, người, rồng, thần đều cung kính).

 

          Tán rằng: Phần thứ hai, nói về chuyện đạt được lợi ích, có ba ư. Ư đầu tiên là được bảo vệ, hộ tŕ. Đoạn này thuộc ư thứ nhất.

 

          (Kinh) Thử phước tụ vô lượng, số quá ư hằng sa, độc tụng thị kinh giả, đương hoạch tư công đức.

          ()此福聚無量數過於恒沙讀誦是經者當獲斯功德

          (Kinh: Khối phước ấy vô lượng, số hơn cát sông Hằng. Người đọc tụng kinh này, sẽ đạt công đức ấy).

 

          Tán rằng: Ư thứ hai [trong phần nói đến chuyện đạt được lợi ích] chính là thành tựu cái nhân thù thắng.

 

          (Kinh) Diệc vị thập phương tôn, thâm hạnh chư Bồ Tát, ủng hộ tŕ kinh giả, linh ly chư khổ nạn.

          ()亦為十方尊深行諸菩薩擁護持經者令離諸苦難

          (Kinh: Cũng được các Bồ Tát, hạnh sâu đáng tôn quư, ở trong khắp mười phương, ủng hộ người tŕ kinh, khiến ĺa các khổ nạn).

 

          Tán rằng: [Lợi ích] thứ ba là chư thánh thủ hộ.

 

          (Kinh) Cúng dường thị kinh giả, như tiền tháo dục thân, ẩm thực, cập hương hoa, hằng khởi từ bi ư. Nhược dục thính thị kinh, linh tâm tịnh, vô cấu, thường sanh hoan hỷ niệm, năng trưởng chư công đức.

          ()供養是經者如前澡浴身飲食及香華恒起慈悲意若欲聽是經令心淨無垢常生歡喜念能長諸功德

          (Kinh: Để cúng dường kinh này, như trước thân tắm gội, thức ăn và hương hoa, luôn dấy niệm từ bi. Nếu muốn nghe kinh này, khiến tâm tịnh, vô cấu, thường sanh ư hoan hỷ, tăng trưởng các công đức).

 

          Tán rằng: Dạy phép tắc tŕ kinh, chia thành hai phần: Bài tụng đầu là lợi tha, bài tụng sau là tự lợi.

 

          (Kinh) Nhược dĩ tôn trọng tâm, thính văn thị kinh giả, nhược sanh ư nhân thú, viễn ly chư khổ nạn. Bỉ nhân thiện căn thục, chư Phật chi sở tán, phương đắc văn thị kinh, cập dĩ sám hối pháp.

          ()若以尊重心聽聞是經者若生於人趣遠離諸苦難彼人善根熟諸佛之所讚方得聞是經及以懺悔法

          (Kinh: Nếu dùng tâm tôn trọng, lắng nghe bộ kinh này, hoặc sanh trong loài người, xa ĺa các khổ nạn. Người thiện căn chín muồi, được chư Phật khen ngợi, mới được nghe kinh này, cùng với pháp sám hối).

 

          Tán rằng: Tổng kết lời khuyên, có hai phần:

          - Bài tụng thứ nhất là tổng kết lời khuyên về cái quả thù thắng.

          - Bài tụng sau kết lại lời khuyên về cái nhân thù thắng.

          Phần đắc quả lại có hai ư:

          - Một, sanh trong loài người, đạt được cái quả hữu lậu, xa ĺa các khổ nạn.

          - Hai, không chỉ ĺa nạn, mà c̣n đạt được cái quả Niết Bàn.

          Chắc là vừa mới khởi đầu, chỉ nêu ra tông chỉ, chưa nói đến cái quả sâu, chỉ nói được xa ĺa tám nạn trong nhân loại. Nếu nói tới cái quả thù thắng, sợ rằng kẻ sơ cơ chưa thể tin tưởng.

 

5.2. Phẩm thứ hai: Thọ Lượng (Như Lai Thọ Lượng phẩm đệ nhị,

如來壽量品第二)

 

          Đối với phẩm Như Lai Thọ Lượng, đại lược dùng ba môn để phân biệt:

          - Một, do ư nghĩa nào mà có [phẩm này và các phẩm sau đó].

          - Hai, giải thích tên gọi [của phẩm này].

          - Ba, giải đáp các lời vấn nạn.

 

5.2.1. Do ư nghĩa nào mà có phẩm này?

 

          Nói đến chuyện “do ư nghĩa nào mà có phẩm này”, đại lược có năm ư:

          - Một, khiến cho [người nghe] sanh chánh giải.

          - Hai, khiến cho họ đắc Bồ Đề,

          - Ba, khiến cho họ đắc Niết Bàn.

          - Bốn, khiến cho họ khởi diệu hạnh.

          - Năm, v́ sự cơ cảm.

 

5.2.1.1. Khiến cho [người nghe] sanh chánh giải

         

          Nói đến chuyện “sanh chánh giải” (sanh khởi sự hiểu biết chân chánh) th́ từ phẩm này trở đi cho đến phẩm Y Không Măn Nguyện bao gồm chín phẩm, nêu ra phần Chánh Tông của kinh này. Hai phẩm đầu tiên nói về cái quả, năm phẩm kế tiếp nói về cái hạnh, hai phẩm cuối nói về cảnh.

          Lại giải rằng: Hai phẩm đầu nói về cái quả tổng và biệt, khiến cho [thính chúng] sanh tâm ưa thích. Kế đó, phẩm Mộng Kiến Sám Hối trở đi nhằm khiến cho họ tu hành. Căn bản tu hành chẳng vượt ngoài đoạn ác, tu thiện. Hai phẩm Sám Hối và Diệt Chướng chính là đoạn ác, các phẩm sau đó là tu thiện. Trong sự tu thiện, thoạt đầu là tịnh tu các địa vị. Kế đó, phẩm Liên Hoa Dụ Tán nhằm trừ nghi, nêu ra cái nhân. Phẩm Kim Thắng Đà La Ni nhằm khiến cho hành nhân được thấy chư Phật, khiến cho hạnh bất thoái. Phẩm Trùng Hiển Tánh Không nhằm khiến cho hạnh khế hợp lẽ Chân. Phẩm Y Không Măn Nguyện là chứng lư, hạnh viên (chứng nhập lư, viên măn hạnh). Phẩm này (Như Lai Thọ Lượng) chính là nói chung về Bồ Đề và Niết Bàn, cũng như nói riêng về Niết Bàn. Nếu đại chúng chẳng được nghe Như Lai nói về Bồ Đề và Niết Bàn, sẽ không thể hiểu chánh đáng. Đă chẳng có chánh kiến, sao có thể cầu tu tập quả Bồ Đề Niết Bàn vô thượng thù thắng? V́ vậy, trước hết nêu ra cái quả để họ sanh giải ngộ. Do đó, kinh văn trong phần sau có nói: “Vị dục lợi ích thử chư dị sanh, cập chúng ngoại đạo như đẳng loại, linh sanh chánh giải” (V́ muốn lợi ích các loài dị sanh ấy và các loại ngoại đạo như thế,a khiến cho họ sanh sự hiểu biết chân chánh).

 

5.2.1.2. Khiến cho họ đắc Bồ Đề

 

          Chư Phật xuất thế vốn muốn cho chúng sanh đạt được cái quả Bồ Đề. Để đạt được cái quả chẳng hư dối, ắt phải nhờ vào hạnh nhân. Nhân phải nhờ vào cảnh để sanh th́ hạnh mới được thành lập. Nếu trước hết chẳng nêu rơ cái quả ấy, sẽ chẳng thể khiến cho họ sanh khởi ḷng yêu thích. Cái tâm yêu thích đă sanh, sẽ nguyện tu hành. Đă khiến cho họ tu hành th́ kế đó nói về cảnh. Phần trước đă trần thuật nguyên do mà có [các phẩm kinh này], đại chúng ai nấy khát ngưỡng muốn nghe kinh, đức Thế Tôn bèn lập tức v́ họ nêu bày tông chỉ; trước hết Ngài nói về thọ lượng của Như Lai, v́ muốn cho người nghe sẽ chứng đắc Bồ Đề. Do vậy, kinh văn trong phần sau nói: “V́ muốn lợi ích các loài dị sanh ấy và các ngoại đạo như thế, khiến cho họ sanh chánh giải, nhanh chóng thành tựu Vô Thượng Bồ Đề”. Do vậy, sau phẩm Tự, bèn có phẩm này sanh khởi!

 

5.2.1.3. V́ đắc Niết Bàn

 

          Kinh văn trong phần sau nói: “Nhiên bỉ Như Lai dục linh chúng sanh kiến Niết Bàn dĩ, sanh nan tao tưởng” (nhưng đức Như Lai muốn khiến cho chúng sanh đă thấy Niết Bàn rồi sẽ sanh ư tưởng khó gặp gỡ). Nhiếp Đại Thừa Luận lại nói: “V́ kẻ thấy Như Lai thường trụ, sẽ chẳng ưa thích Niết Bàn, đức Phật bèn thị hiện nhập Niết Bàn, khiến cho họ ưa thích Viên Tịch”. V́ thế, sau phẩm Tự bèn nói phẩm Như Lai Thọ Lượng.

 

5.2.1.4. Khiến cho dấy khởi diệu hạnh

 

          Kinh văn trong phần sau nói: “Ư Phật Thế Tôn sở thuyết kinh giáo, tốc đương thọ tŕ, độc tụng thông lợi, vị nhân giải thuyết, bất sanh báng hủy” (đối với kinh giáo do Phật Thế Tôn đă nói, hăy mau thọ tŕ, đọc tụng thông suốt, v́ người khác giải nói, chẳng sanh hủy báng). Do vậy, Như Lai thị hiện tuổi thọ ngắn ngủi để [chúng sanh] khởi hạnh, cho nên có phẩm này sanh khởi.

 

5.2.1.5. V́ cơ cảm

 

          Ba vạn hai ngàn vị thiên tử nghe nói thọ lượng đều phát Bồ Đề tâm. V́ cơ cảm đáng nên nghe, hễ nghe liền được lợi ích. Những điều lợi ích khác cứ chuẩn theo đó mà biết.

 

5.2.2. Giải thích danh xưng [của phẩm này]

 

          Ba thân của chư Phật đều gọi là Như Lai. Thọ chính là mạng, Lượng là hạn lượng, hoặc nói là “lượng độ”, tức là suy lường, đánh giá đối với ngằn hạn tuổi thọ của Phật, th́ [hạn lượng do sự suy lường] đó [được gọi] là thọ lượng của Như Lai, hoặc tính toán tuổi thọ của Như Lai. [Các cách hiểu Thọ Lượng như thế] đều là giải thích theo lối Y Chủ[24], tức là pháp tánh tùy duyên nhưng ngưng lặng (bất động), thuận theo nguyện duyên mà tiếp nối, ứng theo căn cơ của chúng sanh chẳng đoạn. Thọ đức khó suy lường, tức là nương theo pháp tánh để duy tŕ tướng công đức, nhưng quyết định trong lặng (tức là tuy khởi tác dụng tùy duyên, nhưng bất biến). Đó chính là mạng căn của Pháp Thân, như Phật và cơi nước, tánh và tướng có khác biệt, ở đây cũng như thế!

          Hoặc là tướng công đức tự tĩnh lặng, có thể duy tŕ tự thể th́ gọi là Thọ Lượng. Nương theo Kính Trí Chủng (chủng tử của Đại Viên Kính Trí), do sức của đại nguyện chủng (chủng tử của đại nguyện), khiến cho bốn trí phẩm[25] quyết định tiếp nối cùng tận chúng sanh giới. Đó là tuổi thọ của Báo Thân. Do sức của chủng tử đại bi, thuận theo cái duyên cơ cảm của chúng sanh, hiện ra thân Sắc Uẩn có hạn lượng quyết định, đó là thọ mạng của hai thân Tha Thọ Dụng và Biến Hóa. Do cái Thể là giả lập, cho nên Tư (tư duy) cũng thuộc vào Nguyện, chẳng mâu thuẫn với thuyết “do nghiệp dẫn khởi [mà có thọ mạng]” trong Duy Thức.

 

5.2.3. Giải thích vấn nạn

         

          * Hỏi: Phật có ba thân, nay nói về thọ mạng của thân nào?

          Đáp: Nói cả ba thân! V́ thế, ngài Kiều Trần Như lănh ngộ, thấu hiểu “Pháp Thân tánh thường trụ, tu hành chẳng sai biệt, Thể chư Phật đều đồng, pháp nói ra cũng thế”; đó là Pháp Thân. Chư Phật chẳng tạo tác, cũng lại vốn là vô sanh, giải rằng: “Các thứ đều không có người tạo tác, chẳng phải do nghiệp phiền năo tạo tác. Cũng lại vốn là vô sanh, do chẳng sanh phiền năo”. Trong Bát Nhă Luận, ngài Thế Thân giải thích Thọ Lạc Báo Phật (Tự Thọ Dụng Báo Thân) như sau: “Do xa ĺa các lậu và pháp hữu vi”. “Xa ĺa các lậu” chính là “vốn vô sanh” ở đây, “và pháp hữu vi” chính là không có tác giả (không có người tạo tác) ở đây. Hoặc có thể hiểu là chẳng có nghiệp hữu lậu tạo tác, chẳng sanh phiền năo. [Bát Nhă Luận] lại nói: “Cái Thể kim cang của chư Phật quyền biến hóa hiện nơi Hóa Thân”, tức là [luận về cái Thể của] Hóa Thân. V́ thế, [thọ lượng nói ở đây] chung cho cả ba loại Phật (Pháp Thân, Báo Thân, và Hóa Thân).

          * Hỏi: Hành pháp ứng hóa do hai cái nhân cảm vời, thấy như vậy đáng sanh nghi! Tự tánh chẳng phải do cái nhân sanh ra, Tự Thọ Dụng Thân chẳng phải là thấy các cảnh khác, chẳng nghi điều ấy, cần ǵ mà phải nói đến Thọ?[26]

          Đáp: Tuy tự tánh chẳng phải sanh bởi nhân, nhưng do nhân mà chứng. Tự Thọ Dụng Thân tuy chẳng do kẻ khác thấy mà nói [Báo Thân] thành hai thân (Tự Thọ Dụng và Tha Thọ Dụng), nhưng v́ muốn cho chúng sanh ưa thích mong cầu, ngài Diệu Tràng giả hóa hiện sanh khởi tâm nghi để đức Phật thừa cơ nói trọn đủ cả ba loại thọ.

          * Hỏi: V́ sao Phật Thích Ca thị hiện ngự trong cơi này chẳng tự nói thọ lượng, lại để cho người khác nói?

          Đáp: Do chúng sanh đáng nên nghe, do phô rơ Tứ Đức, do trừ nghi thù thắng. Nếu chỉ do Ngài tự nói, họ sẽ chẳng [sanh khởi tín tâm] quyết định!

          * Hỏi: Bốn vị Phật nói thọ lượng, ngài Diệu Tràng sanh tín giải, sao lại phiền Phật Thích Ca nói cặn kẽ lần nữa?

          Đáp: Diệu quả Vô Thượng Bồ Đề Niết Bàn nếu chẳng nói đủ cả ba lượt, kẻ khác sẽ chẳng thể hiểu. V́ thế, bốn vị Phật nói ra trước tiên, Phật Thích Ca nhắc lại, ngài Kiều Trần Như lại thưa hỏi ngài Hỷ Kiến (Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Lê Xa Tử) để càng nêu rơ hơn. Bốn vị Phật hiển thị Tứ Đức, ba lượt nói chính v́ Tam Thân. Do có nhiều cái nhân như vậy, chẳng thể chỉ nói một lượt!

          * Hỏi: Xét theo kinh văn để suy nghiệm nghĩa lư th́ [đức Phật] chỉ nói về Bồ Đề, nay v́ sao cũng luận định rằng [đức Phật] cũng nói đến Viên Tịch (Niết Bàn)?

          Đáp: Xét theo kinh văn trong phẩm này! Trong phần sau, do nghe nói thọ lượng mà đại chúng trong pháp hội thuở ấy đạt được lợi ích. Ngài Diệu Tràng lại đích thân đối trước đức Phật và bốn vị Như Lai cùng hai vị đại sĩ (Kiều Trần Như và Hỷ Kiến), các thiên tử, nghe nói thọ lượng của Thích Ca Mâu Ni Như Lai xong, lại từ chỗ ngồi đứng lên, bạch rằng: “Thế Tôn! Nhược thật như thị bất Bát Niết Bàn, vô xá-lợi giả, vân hà kinh trung thuyết hữu Niết Bàn cập Phật xá-lợi?” (Bạch Thế Tôn! Nếu thật sự chẳng nhập Niết Bàn như thế, chẳng có xá-lợi, v́ sao trong kinh nói có Niết Bàn và xá-lợi của Phật?”) Đấy chính là đại chúng khi ấy đạt được lợi ích, [kinh văn] lại c̣n nói là “thuyết dĩ” (đă nói xong), tức là nói rơ họ đối trước đức Phật nghe nói thọ mạng xong, nay lại thưa hỏi về Niết Bàn. Đức Phật lại đáp rằng: “Như thị ưng tri kỳ hữu thập pháp, năng giải Như Lai Ứng, Chánh Đẳng Giác chân thật lư thú, thuyết hữu cứu cánh Đại Bát Niết Bàn” (Hăy nên biết có mười pháp như thế để có thể hiểu lư thú chân thật của đấng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nói có Đại Bát Niết Bàn rốt ráo).

          Lại xét theo phần kinh văn giải thích phẩm Thọ Lượng trong bộ Pháp Hoa Kinh Luận của ngài Thiên Thân th́: Trước hết nói thọ lượng để nêu rơ Bồ Đề vô thượng, [tiếp đó] nói thí dụ vị thầy thuốc để sánh ví Niết Bàn vô thượng. Nay trong kinh này, thoạt đầu nói tuổi thọ lâu dài để nói về Bồ Đề; sau đó nói thí dụ cha mẹ nhiều tiền của v.v… để giảng giải Niết Bàn vậy!

          * Hỏi: Nếu là như vậy, cớ sao [hai kinh sử dụng] hai thí dụ khác nhau?

          Đáp: Kinh kia (kinh Pháp Hoa) xét theo phương diện trừ ác, cho nên dùng thí dụ y vương. Kinh này thí dụ về sanh thiện, nên dùng thí dụ cha mẹ. Hơn nữa, cha mẹ và y vương hai đằng tuy khác nhau, [nhưng đều là] chẳng diệt mà thị hiện [có diệt] để [chúng sanh] sanh ḷng ngưỡng mộ!

          * Hỏi: Bốn vị Phật Như Lai nói trong thất của ngài Diệu Tràng. Lúc bấy giờ, ngài Khánh Hỷ (A Nan) ở núi Thứu Phong, sao khi kết tập lại nói là “tôi nghe”?

          Đáp: Theo kinh văn trong phần sau, “Diệu Tràng Bồ Tát dữ vô lượng đại chúng nghệ Thứu Phong sơn, đảnh lễ Phật túc, dĩ như thượng sự cụ bạch Thế Tôn” (Diệu Tràng Bồ Tát cùng vô lượng đại chúng đến núi Thứu Phong, đảnh lễ dưới chân đức Phật, bạch Thế Tôn cặn kẽ chuyện trên đây). Do vậy, ngài A Nan được quyền nói là “như thị ngă văn”.

          * Hỏi: Trong kinh đă có Tổng và Biệt khác nhau, v́ sao Niết Bàn chẳng có phẩm loại khác biệt như ba thân?

          Đáp: Do kinh văn nói tỉnh lược, do sự tướng giống như nhau, nên nói gộp chung thành một phẩm.

 

5.2.4. Giải thích kinh văn

 

          Tán rằng: Xét theo phẩm này, kinh văn được chia thành hai phần.

          - Một, nêu chung Bồ Đề và Niết Bàn.

          - Hai, từ câu “nhĩ thời, Diệu Tràng Bồ Tát thân ư Phật tiền” (lúc bấy giờ, Diệu Tràng Bồ Tát đích thân đối trước Phật) trở đi, nói riêng về Niết Bàn.

 

5.2.4.1. Nêu chung Bồ Đề và Niết Bàn

 

          Phần thứ nhất lại gồm năm đoạn:

          - Một, Diệu Tràng Bồ Tát nghi đức Phật thọ mạng ngắn ngủi.

          - Hai, Phật ở phương khác nói thọ mạng vô cùng.

          - Ba, Phật Thích Ca tự trần thuật Ngài thường an trụ.

          - Bốn, Hỷ Kiến Lê Xa Tử nhắc lại ư [Như Lai] bất diệt.

          - Năm, đại chúng khi ấy lănh ngộ, thấu hiểu, đạt được lợi ích và tổng kết.

 

5.2.4.1.1. Diệu Tràng Bồ Tát nghi đức Phật thọ mạng ngắn ngủi

 

          Phần này lại gồm ba phần:

          - Một, nêu ra người suy nghĩ, thỉnh cầu.

          - Hai, cảnh bị nghi ngờ.

          - Ba, trần thuật cái nhân gây nên nghi ngờ

 

5.2.4.1.1.1. Nêu ra người suy nghĩ thỉnh cầu

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Vương Xá đại thành hữu nhất Bồ Tát Ma Ha Tát, danh viết Diệu Tràng.

          ()爾時王舍大城有一菩薩摩訶薩名曰妙幢

          (Kinh: Lúc bấy giờ, trong thành lớn Vương Xá, có một vị Bồ Tát Ma Ha Tát tên là Diệu Tràng).

 

          Phần này lại có ba ư:

          - Một là nói về trụ xứ.

          - Hai là nêu tên.

          - Ba là tán thán đại lược phẩm đức.

          Đoạn này bao gồm ư thứ nhất và thứ hai. Trí thù thắng lỗi lạc, riêng vượt xa mọi loài, mượn thí dụ để đặt tên, nên gọi là Diệu Tràng. Cù Rô Chỉ Ra trong tiếng Phạn, được phương này dịch là Diệu. Kê Đầu (Ketu) dịch là Tràng. Sao chổi gọi là Tràng. Bản dịch cũ dịch [danh hiệu vị Bồ Tát này] là Tín Tướng. Chữ Tướng trong tiếng Phạn là Da Sắt Trí, nay đă nói là Cù Rô Chỉ Ra Kê Đầu, cho nên dịch là Diệu Tràng. Tánh của Tín là tịnh, có ư nghĩa tương tự với chữ Diệu. Tràng có nghĩa là “cao rạng”; do vậy, bị nói lầm thành Tướng.

 

          (Kinh) Dĩ ư quá khứ vô lượng câu-chi na-dữu-đa bách thiên Phật sở, thừa sự, cúng dường, thực chư thiện căn.

          ()已於過去無量俱胝那庾多百千佛所承事供養植諸善根

          (Kinh: Đă ở nơi vô lượng câu-chi na-dữu-đa (na-do-tha) trăm ngàn chư Phật trong quá khứ mà thừa sự, cúng dường, gieo các căn lành).

 

          Tán rằng: Tán thán phẩm đức. “Câu-chi” (koṭi): Theo Câu Xá Luận, mười ức là một câu-chi. Theo phẩm Tâm Vương Bồ Tát Vấn Tăng Kỳ trong kinh Hoa Nghiêm, một vạn vạn là một ức, ức ức là một Câu-lê. Câu-lê chính là câu-chi, hơi sai âm đôi chút. “Vô lượng” là tên một con số. Dùng con số Vô Lượng để đếm câu-chi na-dữu-đa. Nếu hiểu mười ngàn là một vạn, th́ “bách thiên” (trăm ngàn) là mười vạn. Tức là vô lượng lần câu-chi na-dữu-đa (na-do-tha, nayuta) mười vạn chư Phật. Luận Câu Xá coi mười vạn là một ức, Đại Trí Độ Luận coi một ngàn vạn là một ức, kinh Hoa Nghiêm coi một vạn vạn là một ức. Con số Ức này có ba loại là tiểu, trung, đại. Luận Câu Xá, Trí Độ Luận và kinh Hoa Nghiêm lần lượt nói theo các con số tiểu, trung, đại. Ở đây, không thể nói nhất quyết [Ức được tính theo cách nào]. “Thừa sự” tức là thân cận. “Cúng dường”: Tu mười loại cúng dường. “Thiện căn” tức là phước và trí. “Thực” () có nghĩa là “gieo trồng”.

 

5.2.4.1.1.2. Cảnh bị nghi ngờ

 

          (Kinh) Thị thời, Diệu Tràng Bồ Tát độc ư tĩnh xứ, tác thị tư duy: “Dĩ hà nhân duyên, Thích Ca Mâu Ni Như Lai thọ mạng đoản xúc, duy bát thập niên?”

          ()是時妙幢菩薩獨於靜處作是思惟以何因緣釋迦牟尼如來壽命短促唯八十年

          (Kinh: Khi đó, Diệu Tràng Bồ Tát ở một ḿnh nơi yên vắng, nghĩ như thế này: “Do nhân duyên ǵ mà Thích Ca Mâu Ni Như Lai thọ mạng ngắn ngủi, chỉ có tám mươi năm?”)

 

          Tán rằng: Đây là cảnh bị nghi ngờ.

 

5.2.4.1.1.3. Trần thuật cái nhân gây nên nghi ngờ

 

          (Kinh) Phục tác thị niệm: “Như Phật sở thuyết, hữu nhị nhân duyên đắc thọ mạng trường”.

          ()復作是念如佛所有二因緣得壽命長

          (Kinh: Lại nghĩ như thế này: “Như đức Phật đă nói, có hai nhân duyên để đạt được thọ mạng dài”).

 

          Tán rằng: Trần thuật cái nhân gây nên nỗi nghi, có ba ư:

          - Một, nhắc lại cái nhân gây nên nỗi nghi.

          - Hai, giả lập sự gạn hỏi, giải thích.

          - Ba, kết lại ư nghi ngờ trước đó.

          Đoạn này chính là ư thứ nhất.

 

          (Kinh) Vân hà vi nhị? Nhất giả, bất hại sanh mạng; nhị giả, thí tha ẩm thực.

          ()云何為二一者不害生命二者施他飲食

          (Kinh: Những ǵ là hai? Một là chẳng hại sanh mạng, hai là thí thức ăn cho người khác).

         

          Tán rằng: [Đây chính là phần] giả lập sự gạn hỏi để giải thích.

 

          (Kinh) Nhiên Thích Ca Mâu Ni Như Lai tằng ư vô lượng bách thiên vạn ức vô số đại kiếp, bất hại sanh mạng, hành Thập Thiện Đạo, thường dĩ ẩm thực huệ thí nhất thiết cơ ngạ chúng sanh, năi chí kỷ thân huyết, nhục, cốt, tủy diệc tŕ thí dữ, linh đắc bảo măn, huống dư ẩm thực!

          ()然釋迦牟尼如來曾於無量百千萬億無數大劫不害生命行十善道常以飲食惠施一切饑餓眾生乃至己身血肉骨髓亦持施與令得飽滿況餘飲食

          (Kinh: Nhưng Thích Ca Mâu Ni Như Lai từng trong vô lượng trăm ngàn vạn ức vô số đại kiếp, chẳng hại sanh mạng, hành Thập Thiện Đạo, thường dùng thức ăn để bố thí rộng răi cho hết thảy chúng sanh đói khát, thậm chí máu, thịt, xương, tủy của chính ḿnh cũng đem bố thí, khiến cho họ được no đủ, huống hồ các thức ăn khác).


          Tán rằng: Đây là kết lại ư nghi trước đó. Theo kinh văn của kinh
này và quyển ba của kinh Niết Bàn, vạn hạnh đều là nhân duyên để trường thọ và đạt được ba thân; nhưng chỉ nêu ra thí thức ănchẳng sát sanh, v́ điều này áp dụng chung cho nhân duyên thọ mạng của hữu t́nh. V́ thế, riêng nêu ra để hỏi, v́ sợ chúng sanh thấy Phật thọ tám mươi tuổi, sẽ nghi “chẳng sát sanh” và “bố thí thức ăn” chẳng cảm vời trường thọ. Do muốn dựa vào cái thân để tăng trưởng đạo, ḥng tiếp độ chúng sanh, cho nên nghi vậy!

 

5.2.4.1.2. Các đức Phật ở phương khác nói thọ mạng

 

          (Kinh) Thời bỉ Bồ Tát ư Thế Tôn sở tác thị niệm thời.

          ()時彼菩薩於世尊所作是念時

          (Kinh: Khi đó, lúc vị Bồ Tát ấy đối với đức Thế Tôn nghĩ như thế).

 

          Tán rằng: Đây là phần thứ hai, tức phần “các đức Phật ở phương khác nói thọ mạng vô cùng”, gồm có sáu ư:

          - Một, chư Phật ở phương khác hiện thân.

          - Hai, ngài Diệu Tràng hoan hỷ thưa hỏi.

          - Ba, các đức Phật ấy giải đáp.

          - Bốn, ngài Diệu Tràng lại thưa hỏi.

          - Năm, các đức Phật lại v́ Bồ Tát trần thuật.

          - Sáu, [chư Phật] nói xong chẳng hiện nữa.

 

5.2.4.1.2.1. Chư Phật từ phương khác hiện thân

 

          Kinh văn chia làm tám đoạn:

          - Một, đúng thời tiết liền hiện ra.

          - Hai, [chỗ của Diệu Tràng Bồ Tát] biến thành cuộc đất thanh tịnh.

          - Ba, ṭa báu trang nghiêm.

          - Bốn, Phật thân giáng hiện.

          - Năm, phóng quang chiếu cảnh.

          - Sáu, quang minh hiện điềm tốt lành.

          - Bảy, quang minh lợi lạc quần sanh.

          - Tám, nêu đại lược và tổng kết.

          Ở đây chính là đoạn thứ nhất. Do Phật thuyết pháp không ngăn ngại, cho nên ứng với lúc Bồ Tát suy niệm bèn hiện ra.

 

          (Kinh) Dĩ Phật oai lực, kỳ thất hốt nhiên quảng bác, nghiêm tịnh. Đế thanh lưu ly, chủng chủng chúng bảo tạp thái, gián sức như Phật Tịnh Độ, hữu diệu hương khí, quá chư thiên hương phân phức sung măn.

          ()以佛威力其室忽然廣博嚴淨帝青瑠璃種種眾寶雜彩閒飾如佛淨土有妙香氣過諸天香芬馥充滿

          (Kinh: Do oai lực của Phật, cái thất ấy bỗng rộng răi, trang nghiêm, thanh tịnh. Đế thanh lưu ly, các thứ chất báu nhiều màu xen kẽ tô điểm như Tịnh Độ của Phật, có mùi thơm mầu nhiệm hơn hẳn hương trời ngào ngạt trọn khắp).

 

          Tán rằng: Biến thành cơi đất thanh tịnh, gồm bốn ư:

          - Một, nêu ra người có thể biến hiện.

          - Hai, nêu ra hạn lượng của cuộc đất được biến hiện.

          - Ba, tướng trạng của cuộc đất được biến hiện.

          - Bốn, hương xông ngát.

          Hỏi: Những điều ấy do vị Phật nào biến ra?

          Đáp: Một cách giải thích là do Phật Thích Ca biến ra. Như trong kinh Pháp Hoa, khi các hóa Phật sắp nhóm họp, Phật Thích Ca liền biến hiện [cơi Sa Bà thành cơi nước nghiêm tịnh]. Một cách hiểu khác là [các tướng trang nghiêm ở đây] do bốn vị Phật biến hiện, cũng giống như khi ngài Diệu Âm sắp tới cơi này, đă hiện trước các hoa ṭa v.v… Cách hiểu thứ hai là đúng, v́ lẽ nào vậy? Chuyện phóng quang, hiện điềm lành khiến cho chúng sanh yêu thích trong phần sau đều do bốn đức Như Lai [biến hiện]. V́ thế biết Tịnh Độ cũng do bốn vị Phật biến ra. Nói “đế thanh lưu ly” chính là chất báu lưu ly màu xanh của trời Đế Thích, thù thắng nhất trong các chất báu, cho nên riêng nêu ra. Hữu lậu t́nh kiến hạn cuộc, c̣n vô lậu th́ tâm thông suốt, cho nên “quảng bác nghiêm tịnh” (rộng răi, trang nghiêm, thanh tịnh). Do Vô Phân Biệt Trí, cho nên có đế thanh. Tuy là nhà của ngài Diệu Tràng mà thanh tịnh như cơi Phật, trọn đủ ngũ phần hương, lời văn dễ hiểu!

 

          (Kinh) Ư kỳ tứ diện, các hữu thượng diệu sư tử chi ṭa, tứ bảo sở thành, dĩ thiên bảo y nhi phu kỳ thượng. Phục ư thử ṭa, hữu diệu liên hoa, chủng chủng trân bảo dĩ vi nghiêm sức, lượng đẳng Như Lai, tự nhiên hiển hiện.

          ()於其四面各有上妙師子之座四寶所成以天寶衣而敷其上復於此座有妙蓮華種種珍寶以為嚴飾量等如來自然顯現

          (Kinh: Nơi bốn phía đều có ṭa sư tử thượng diệu, do bốn thứ báu hợp thành, dùng y báu cơi trời phủ lên trên. Trên ṭa ấy lại có hoa sen mầu nhiệm, các thứ trân bảo dùng để trang hoàng, lượng bằng Như Lai, tự nhiên hiển hiện).

 

          Tán rằng: Đoạn thứ ba là biến ra ṭa báu, gồm bốn ư:

          - Một là thể chất của ṭa. Có bốn ṭa nhằm biểu thị các loài thuộc tứ sanh (noăn, thai, thấp, hóa) đều được thành Phật. V́ thế, dùng bốn báu hợp thành, như chỗ ở của sư tử chúa. Nói “tứ bảo” th́ một là vàng, hai là bạc, ba là phệ-lưu-ly (Vaidūrya)[27], bốn là pha-chi-ca (Sphaṭika)[28], biểu thị Tứ Vô Úy.

          - Hai, “dĩ thiên bảo y” (dùng y báu cơi trời) v.v… nói về sự trải phủ, sắp đặt, biểu thị tịnh mạng.

          - Ba, “phục ư thử ṭa…” (lại trên ṭa ấy…), [nêu ra] ba thứ trang nghiêm, biểu thị xuất sanh tử, đạt được Thất Giác Hoa. Dùng trân bảo để trang hoàng, cũng chính là dùng Thất Thánh Tài để trang nghiêm.

          - Bốn, ṭa lượng (kích thước của ṭa): Ṭa báu tương xứng với thân, cho nên [kinh chép là] “lượng đẳng Như Lai” (lượng bằng với Như Lai).

          Chẳng do sức của ngài Diệu Tràng, nên nói là “tự nhiên hiển hiện”.

 

          (Kinh) Ư liên hoa thượng, hữu tứ Như Lai, Đông phương Bất Động, Nam phương Bảo Tướng, Tây Vô Lượng Thọ, Bắc Thiên Cổ Âm. Thị tứ Như Lai, các ư kỳ ṭa, gia phu nhi tọa.

          ()於蓮華上有四如來東方不動南方寶相西無量壽北天鼓音是四如來各於其座加趺而坐

          (Kinh: Trên hoa sen, có bốn đức Như Lai, phương Đông là Bất Động, phương Nam là Bảo Tướng, phương Tây là Vô Lượng Thọ, phương Bắc là Thiên Cổ Âm. Bốn đức Như Lai ấy, mỗi vị đều ngồi xếp bằng trên các ṭa ấy).

 

          Tán rằng: Bốn đức Như Lai giáng hiện ngồi trên hoa, ví như Pháp Thân. Bốn vị Phật biểu thị Tứ Đức.

          V́ sao mỗi phương trong bốn phương đều hiện một vị Phật để biểu thị Tứ Đức?

          Đáp: Như trong kinh có nói, bốn phương ví như sanh, trụ, dị, diệt. Đó là tướng hữu vi. Tứ Đức lật ngược nó, chẳng có sanh, trụ, dị, diệt. V́ thế, Phật hiện trong bốn phương.

          Hỏi: Trong bốn oai nghi đều có thể thuyết pháp, v́ sao phải hiện tướng ngồi xếp bằng?

          Đáp: Thuận theo cơ nghi yêu thích [của chúng sanh] mà hiện. Theo quyển ba mươi của Du Già Sư Địa Luận, có nói năm nhân duyên:

          - Một, do thân được thâu liễm, sẽ nhanh chóng phát sanh sự khinh an.

          - Hai, do ngồi yên sẽ có thể duy tŕ lâu dài.

          - Ba, do ngồi yên là pháp bất cộng.

          - Bốn, do ngồi yên lặng như thế, h́nh tướng đoan nghiêm.

          - Năm, do ngồi yên như thế được Phật và đệ tử cùng hứa khả.

          Theo Trí Độ Luận th́ là v́ hàng ma. Luận ấy chép: “Thấy h́nh vẽ [Phật, Bồ Tát] ngồi xếp bằng, ma vương tự kinh hăi, huống hồ người nhập đạo ngồi ngay ngắn, chẳng lay động ư?” Bát Nhă Luận của ngài Vô Trước viết: “Chỉ có ngồi yên tĩnh là có thể giác ngộ, nói các pháp, v́ đó là thuận theo tướng ngồi trong oai nghi trụ trong Định, v́ biểu thị có thể giác các pháp. Để có thể nói các pháp th́ phải do đắc Định, đắc Định là do ngồi”.

 

          (Kinh) Phóng đại quang minh, châu biến chiếu diệu Vương Xá đại thành, cập thử tam thiên đại thiên thế giới, năi chí thập phương Hằng hà sa đẳng chư Phật quốc độ.

          ()放大光明周遍照曜王舍大城及此三千大千世界乃至十方恒河沙等諸佛國土

          (Kinh: Phóng quang minh lớn, chiếu sáng ngời trọn khắp thành lớn Vương Xá và tam thiên đại thiên thế giới này, cho đến các quốc độ của chư Phật nhiều như cát sông Hằng trong mười phương).

 

          Tán rằng: Đây là điều thứ năm, “phóng quang chiếu cảnh”. Theo Già Da Sơn Đảnh Kinh Luận, phóng quang có bảy nghĩa: Một, khiến sanh tịnh tín, biết là bậc thù thắng. Hai, phá tối tăm, dẹp tan ngu si… Nói chi tiết th́ như trong Pháp Hoa Kinh Sớ đă thuật. Quang minh có ba phần: Một là Vương Xá, hai là đại thiên thế giới, ba là mười phương. Do muốn hiển thị tam thân, cho nên hiện ra ba thứ v.v… Lại c̣n nói thấy ba thân có trước, có sau. V́ thế, thoạt đầu là thấy Hóa Thân, kế đó thấy Ứng Thân, sau là thấy Pháp Thân. Nêu ra con số “Hằng hà sa” là có năm nghĩa cũng giống như Pháp Hoa Sớ đă nói: Số lượng cảnh trong một đại thiên thế giới không nhất định, xin hăy kiểm trong bộ Du Già Sao[29].

 

          (Kinh) Vũ chư thiên hoa, tấu chư thiên nhạc.

          ()雨諸天華奏諸天樂

          (Kinh: Mưa các hoa trời, tấu các nhạc trời).

 

          Tán rằng: Điều thứ sáu là “quang minh hiện tướng tốt lành”. “Mưa hoa” có năm ư nghĩa như Pháp Hoa Sớ [đă nói]. Tấu nhạc: Biểu thị được nghe pháp, càng thêm vui sướng.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, ư thử Thiệm Bộ Châu trung, cập tam thiên đại thiên thế giới sở hữu chúng sanh, dĩ Phật oai lực, thọ thắng diệu lạc, vô hữu phạp thiểu.

          ()爾時於此瞻部洲中及三千大千世界所有眾生以佛威力受勝妙樂無有乏少

          (Kinh: Lúc bấy giờ, tất cả chúng sanh trong Thiệm Bộ Châu này và tam thiên đại thiên thế giới, do oai lực của Phật, hưởng sự vui mầu nhiệm thù thắng, chẳng bị thiếu sót).

 

          Tán rằng: Điều thứ bảy là “quang minh lợi lạc quần sanh”, gồm hai điều: Một là được vui, hai là ĺa khổ. Đoạn này là điều thứ nhất.

          Hỏi: Quang minh chiếu sáng ngời cơi này, [chúng sanh] trong cơi này thấy quang minh đạt được lợi ích. [Thế nhưng] quang minh cũng chiếu thấu mười phương, cớ sao mười phương chẳng được lợi ích?

          Đáp: Xét ra, phải nên là đều đạt được lợi ích, chỉ là [kinh văn] lược đi chẳng bàn tới!

 

          (Kinh) Nhược thân bất cụ, giai mông cụ túc, manh giả năng thị, lung giả đắc văn, á giả năng ngôn, ngu giả đắc trí, nhược tâm loạn giả đắc bổn tâm, nhược vô y giả đắc y phục, bị ố tiện giả nhân sở kính, hữu cấu uế giả thân thanh khiết.

          ()若身不具皆蒙具足盲者能視聾者得聞瘂者能言愚者得智