Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ

Quyển thứ hai

Đời Đường, Tam Tạng pháp sư Nghĩa Tịnh vâng chiếu dịch kinh

Dịch kinh sa-môn Huệ Chiểu soạn sớ

金光明最勝王經疏

卷第

唐三藏法師義淨奉制譯

翻經沙門慧沼撰

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

Phần 4

 

5.3. Phẩm thứ ba: Phân Biệt Ba Thân (Phân Biệt Tam Thân phẩm đệ tam, 分別三身品第三) Phần thứ nhất

 

          Phẩm Tam Thân được chia thành ba môn phân biệt:

          - Một, biện định ư nghĩa v́ sao có phẩm này.

          - Hai, giải thích tên của phẩm.

          - Ba, nêu rơ các điều vấn nạn.

 

5.3.1. Biện định ư nghĩa v́ sao có phẩm này?

 

          Do ba ư nghĩa mà có phẩm này:

          - Một, phẩm Thọ Lượng trên đây đă nói tổng quát về hai quả Bồ Đề và Niết Bàn, nhưng chưa thể biết riêng từng quả được. Trong phẩm Thọ Lượng đă có nói riêng về Đoạn Quả của Niết Bàn, nhưng chưa phân biệt Trí Quả của Bồ Đề. Nay v́ [đức Thế Tôn] phân biệt ba thân bất đồng, sẽ khiến cho [thính chúng] hiểu có cách đối trị riêng biệt cho từng loại chướng, sẽ do tu nhân mà chứng [quả]. V́ thế, ngài Hư Không Tạng bạch cùng đức Thế Tôn rằng: “Vân hà Bồ Tát ư chư Như Lai thậm thâm bí mật như pháp tu hành?” (Bồ Tát tu hành pháp bí mật rất sâu của các đức Như Lai như thế nào th́ mới là đúng pháp?) “Pháp bí mật rất sâu” chính là cái quả tam thân, “như pháp tu hành” chính là cái nhân để đối trị chướng. V́ vậy, có phẩm này.

          - Ư nghĩa thứ hai là phẩm trước đă nói “để chứng Viên Tịch, ắt phải do đoạn chướng”. Do đă đoạn cái cần phải đoạn, trí huệ ắt viên măn. V́ thế, phần Quả Trí của bộ Vô Tánh Nhiếp Luận có nói: “Do đă đoạn cái cần đoạn, đạt được cái trí vô cấu, chẳng vướng mắc. Đoạn thù thắng chẳng gián đoạn; kế đó nói quả trí thù thắng”. V́ thế, sau phẩm trước, bèn có phẩm này sanh khởi.

          - Ư nghĩa thứ ba v́ sao có phẩm này là do căn cơ đáng nên nghe, [đức Phật] bèn từ bi giảng nói, khiến cho họ đạt được lợi lạc. Cuối phẩm này ghi: “Chư Phật Như Lai tứ oai nghi trung, vô phi trí nhiếp. Nhất thiết chư pháp, vô hữu bất vị từ bi sở nhiếp, vô hữu bất vị lợi ích, an lạc chư chúng sanh giả” (trong bốn oai nghi của Như Lai, không ǵ chẳng được nhiếp thọ bởi trí. Hết thảy các pháp không có ǵ chẳng được nhiếp thọ bởi từ bi, không có ǵ chẳng v́ lợi ích, an lạc các chúng sanh). Tức là v́ trừ các nỗi khổ như tám nạn v.v… Do vậy, kinh văn trong phần sau có nói: “Thính văn, tín giải, bất đọa địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, A Tu La đạo” (Lắng nghe, tin hiểu, sẽ chẳng đọa trong các đường địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, A Tu La). Đấy ĺa nạn “bốn ác đạo”. “Thường xử thiên nhân, ly biên địa nạn, bất sanh hạ tiện, ly sanh manh lung nạn, hằng đắc thân cận chư Phật Như Lai” (Thường ở trong cơi trời, người, ĺa nạn sanh nơi biên địa, chẳng sanh làm kẻ hạ tiện, ĺa nạn sanh ra đă đui, điếc, luôn được thân cận chư Phật Như Lai, tức là ĺa nạn sanh trước Phật hay sau Phật), “thính thọ chánh pháp” (nghe nhận chánh pháp, tức là ĺa nạn Thế Trí Biện Thông), “thường sanh chư Phật thanh tịnh quốc độ” (thường sanh trong cơi nước thanh tịnh của chư Phật), ĺa nạn sanh trong các cơi trời Trường Thọ, “năi chí quốc độ tứ chủng lợi ích đẳng, giai vi lợi an” (cho đến bốn thứ lợi ích nơi quốc độ đều là lợi ích, an ổn). V́ vậy có phẩm này.

 

5.3.2. Giải thích danh xưng của phẩm này

 

          “Phân” có nghĩa là phn đoạn, “Biệt” là khác biệt, [“phân biệt”] tức là tách ra từng phần [để biện định] ba thân khác biệt. Hoặc có thể hiểu Phân là phân tích, Biệt là khác biệt. “Tam” là con số. “Thân” có nghĩa nương vào Nghĩa, Thể và tích tụ, như quyển mười của Thành Duy Thức Luận đă giảng giải. Lại c̣n có nghĩa là “chân thật”, như bộ Nhiếp Luận đời Lương đă nói: “Thân là thật, chẳng phá hoại th́ gọi là Thật”. Hoặc liên tục th́ gọi là Thân. Bộ Nhiếp Luận đời Lương nói: “Tam thế chư Phật liên tục chẳng khác, tùy theo lẽ đáng nên mà tự tánh Pháp Thân đều do ba nghĩa ‘Thể, Y, Thật’ mà gọi là Thân. Ứng Hóa gồm năm điều, do khác với Biến Kế, mà cũng được gọi là Thật. Lại v́ chẳng phải do máu thịt tạo thành, cũng gọi là Thật. Nếu nói đối ứng theo tự tánh Pháp Thân th́ chẳng được gọi là Thật”. Nếu chỉ nói “tam thân”, tức là lối giải thích Đới Số[1].

          Đă nói “phân biệt tam thân” tức “phân biệt” là chủ thể có thể phân biệt, c̣n tam thân là đối tượng được phân biệt. Hăy nên nói là do sự phân biệt của ba thân, cho nên gọi phẩm Tam Thân Phân Biệt; đó là giải thích theo lối Y Chủ (tức cách giải thích dựa theo cái Thể của đối tượng được chủ thể nương vào để đặt tên cho cái pháp chủ thể ấy. Chẳng hạn như Nhăn Thức chính là cái Thức do nương vào mắt mà sanh, bèn gọi cái Thức ấy là Nhăn Thức. Như vậy th́ danh xưng “nhăn thức” được gọi là Y Chủ Thích). Nay thuận theo phương này mà nói là phẩm Phân Biệt Tam Thân. Do phẩm này nói cặn kẽ ba thân của Phật; v́ thế, được gọi là phẩm Phân Biệt Tam Thân.

 

5.3.3. Nêu bày sự vấn nạn

 

          * Câu hỏi thứ nhất: Ba thân ấy đều vốn sẵn có ư? Hay là đều mới sanh khởi?

          Đáp: Xét theo cái nhân th́ đều là vốn sẵn có; nói theo quả th́ là mới thành. Do tự tánh thân chẳng phải là sanh diệt, cho nên nói chung là “mới thành”. Cái Thể của tự tánh Pháp Thân chính là Chân Như; trong khi nó c̣n bị trói buộc [bởi phiền năo] th́ gọi là Tạng, chẳng gọi là Pháp Thân. Do tướng hằng sa vạn đức chưa hiện, chẳng phải là chỗ nương vào của pháp công đức. Thuộc vào địa vị xuất triền (thoát khỏi sự trói buộc của phiền năo) th́ gọi là Pháp Thân, do tướng hằng sa vạn đức đă hiển hiện, do nói theo chỗ nương vào của công đức, nên gọi là Pháp Thân. V́ thế, kinh Thắng Man nói: “Tại triền, danh Như Lai Tạng. Xuất triền, danh Pháp Thân” (C̣n bị trói buộc bởi phiền năo th́ gọi là Như Lai Tạng, thoát khỏi phiền năo trói buộc gọi là Pháp Thân). Thành Duy Thức Luận nói: “Nơi Đại Mâu Ni th́ gọi là Pháp Thân”. Đă nói “nơi Đại Mâu Ni gọi là Pháp Thân”, rơ ràng là chẳng nói về cái sẵn có, cho nên là “mới đạt được”! Cái nhân của hai thân Ứng và Hóa tuy vốn sẵn có, nhưng cái quả th́ mới sanh! Lư này cực đúng, chẳng cần phải mất công dẫn chứng!

          * Câu hỏi thứ hai: Ba thân ấy có cùng một Thể, nhưng do v́ nghĩa và tác dụng mà chia thành ba? Hay là do Thể khác biệt?

          Đáp: Do Thể mà mỗi thân mỗi khác. Tự tánh Pháp Thân là do Ưng Đắc Nhân mà đạt được, cái Thể của Ưng Đắc Nhân[2] chính là Chân Như. Hai thân Ứng và Hóa là do Gia Hạnh Nhân và Viên Măn Nhân mà đạt được. Phát tâm gọi là Gia Hạnh, tu trọn đủ th́ gọi là Viên Măn, tức là Lục Độ.

          * Câu hỏi thứ ba: Nếu Biệt Thể của ba cái nhân cũng có sự khác biệt, cớ sao kinh văn trong phần sau lại nói: “Tuy hữu tam số, nhi vô tam thể” (tuy có con số ba, nhưng chẳng có ba Thể)?

          Đáp: Xét theo tánh và tướng để nói. Chân Như là tánh, những thứ khác là tướng. Chẳng có một pháp nào vượt ngoài Chân Như giới mà có riêng thể tánh được, cho nên nói là “chẳng có ba Thể”, chẳng phải là “không ĺa Như mà thể tánh chẳng khác!” Lại xét theo việc thâu nhiếp tướng quy vào tánh, Thể của Như chính là một. Nếu luận định riêng biệt Tướng và Dụng th́ ba Thể bất đồng, như Thành Duy Thức, Đại Trang Nghiêm Luận, Nhiếp Đại Thừa v.v… đều nói cặn kẽ.

          * Hỏi: Nếu ba Thể khác biệt, thí dụ về quặng vàng trong phần sau sẽ chẳng thành!

          Đáp: Chẳng mâu thuẫn! Do lư Chân Như và chủng tử vô lậu sẵn có phù hợp với thí dụ về quặng vàng. Người đạt được vàng tinh sạch, ứng với thí dụ về Quả Đức. Tùy ư xoay vần chế tạo các món trang sức, ví như tánh, tướng, công đức đều đúng Lư. Căn, Lực, Giác, Chi [trong ba mươi bảy đạo phẩm] đều nương vào tứ trí mà khởi. Phần sau lại riêng dùng ba thứ là vàng, nước, và hư không để thí dụ cái Thể của Pháp Thân đă sẵn có từ trước. Thí dụ nằm mộng thấy vượt qua mặt nước mới tương ứng với thí dụ riêng về tứ trí tâm phẩm. V́ thế, kinh văn trong phần sau nói: “Phi vị vô tâm, vọng tưởng kư diệt, thị giác thanh tịnh, phi vị vô giác” (Chẳng phải nói là vô tâm. Vọng tưởng đă diệt th́ là giác thanh tịnh, chẳng phải là không giác). Vàng, nước, và hư không vốn sẵn chẳng biến đổi; v́ thế, sánh ví như tự tánh. Mộng chẳng phải là thật sự tỉnh, tỉnh giấc mới biết là hư không, chân giác mới khởi. V́ thế, biết là Thể của chúng khác biệt. Chư vị tôn đức xưa nay nói ba thân sai biệt khác nhau, tới phần sau sẽ biện định nghĩa ấy.

 

5.3.4. Giải thích kinh văn

5.3.4.1. Bồ Tát khải thỉnh

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát tại đại chúng trung, tùng ṭa nhi khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng cung kính đảnh lễ Phật túc.

          ()爾時虛空藏菩薩摩訶薩在大眾中從座而起偏袒右肩右膝著地合掌恭敬頂禮佛足

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất, chắp tay, cung kính đảnh lễ dưới chân đức Phật).

 

          Tán rằng: Phẩm này chia đại lược thành bốn phần:

          - Một, Bồ Tát khải thỉnh.

          - Hai, Như Lai giải đáp.

          - Ba, từ “thiện nam tử như thị tri kiến” (thiện nam tử hay biết như thế) trở đi, kết lại, khuyên tu hành.

          - Bốn, từ “nhĩ thời, Hư Không Tạng” (Lúc bấy giờ, Hư Không Tạng) trở đi, trần thuật sự lănh ngộ, thấu hiểu, thọ tŕ học tập.

          Phần thứ nhất lại chia thành hai ư: Trước là cúng dường, sau là dâng lời khải thỉnh. Cúng dường có hai loại:

          - Một là nội cúng dường, tức nghi thức thỉnh pháp.

          - Hai là ngoại cúng dường, tức là biểu thị sẽ thành tựu cái quả ấy.

          Phần này thuộc về ư đầu tiên. Nội cúng dường ở đây chính là nghi thức thỉnh pháp. Quyển nhất của Đại Trang Nghiêm Luận đă nói sáu thứ thù thắng do phát tâm Đệ Nhất Nghĩa. Điều thứ hai là nguyện thù thắng, tức mười đại nguyện. Nguyện thứ nhất là “cúng dường, cung kính hết thảy chư Phật”. Trong ấy, lại có ba điều:

          1) Một, [đối tượng được cúng dường là] hết thảy chư Phật chẳng thiếu sót.

          2) Hai, cúng dường chẳng sót.

          Trong “cúng dường chẳng sót” lại có ba điều:      

          - Một là lợi cúng dường, tức là [cúng dường bằng] y phục v.v…

          - Hai là kính cúng dường, tức là hương, hoa v.v…

          - Ba là hạnh cúng dường, tức tu Tín, Giới v.v…

          3) Cung kính chẳng thừa sót, cũng gồm ba điều:

          - Một là hầu hạ cung kính.

          - Hai là đưa đón cung kính.

          - Ba là tu hành cung kính.

          Ở đây chính là tu hành cung kính. Trong đoạn này, lại có hai ư:

          - Một là nêu ra người khải thỉnh.

          - Hai là nói đến sự cúng dường.

          Hỏi: V́ sao vị Bồ Tát này được gọi là Hư Không Tạng (Ākāśagarbha)?

          Đáp: Chuẩn theo công năng và phước trí của các vị Bồ Tát th́ đối với mỗi địa vị, [các vị Bồ Tát thuộc cùng một địa vị] đều phải nên [có công đức và phước trí] tương tự như nhau, nhưng tùy theo nguyện mà lập thêm danh hiệu mỗi vị mỗi khác. Xét theo cách đặt tên của vị Bồ Tát này th́ có hai ư nghĩa: Một là theo Sự, hai là theo Lư.

          1) Đặt tên theo Sự, như quyển mười lăm của kinh Đại Tập[3] cũng nói Hư Không Tạng Bồ Tát do đạt được sức thần thông của Như Lai, ở trong hư không, thuận theo điều chúng sanh cần thiết, dù là pháp hay tài vật, đều có thể bố thí trọn hết, khiến cho đều họ hoan hỷ. Do trí phương tiện ấy, Ngài có tên là Hư Không Tạng. Lại như phẩm Hư Không Tạng nói, trong quá khứ có luân vương tên là Sư Tử Tấn, xuất gia chưa lâu đă đắc ngũ thần thông, vâng theo lời Phật dạy, v́ muốn xoay chuyển tà tâm của phụ vương, muốn khiến cho cha nhập chánh kiến, bèn nhập Định, hiện thần thông. Các tướng như thế khiến cho tam thiên đại thế gian chấn động sáu cách. Ở trong hư không, tuôn xuống đủ mọi vật mầu nhiệm, đều từ hư không phất phới rơi xuống đầy ắp cơi tam thiên. Lúc bấy giờ, từ địa thần cho đến trời Ca Ni Trá (Sắc Cứu Cánh) đều hoan hỷ, hớn hở, xướng như thế này: “Vị đại Bồ Tát này tên là Hư Không Tạng”. Khi đó, đức Phật ấn khả cho nhà vua tên là Hư Không Tạng.

          2) Thuận theo Lư mà đặt tên th́ kinh Hư Không Tạng Bồ Tát chép: “Hư Không Tạng ngữ A Nan ngôn: - Ngă thân tức thị hư không, dĩ hư không chứng tri nhất thiết, v hư không ấn sở ấn” (Ngài Hư Không Tạng bảo A Nan rằng: - Thân ta chính là hư không, do hư không chứng biết hết thảy, được hư không ấn in vào). Đấy là theo Lư mà đặt tên, tức là Lư thân. Bậc Thập Địa chứng mười loại Pháp Thân[4] như kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhă đă nói. Hơn nữa, trong sách Pháp Uyển (Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm), chương Tam Thân Nghĩa Lâm đă trích dẫn cặn kẽ, cũng như trong kinh Hoa Nghiêm, thân tướng của ngài Phổ Hiền được ví như hư không nương vào Như Như, chẳng nương vào cơi Phật.

          Hỏi: Vị Bồ Tát này thuộc địa vị nào?

          Đáp: Theo kinh Đại Tập nói th́ Ngài thuộc Đệ Thập Địa.

          Các thứ biểu hiện như “từ chỗ ngồi đứng dậy” v.v… cứ chuẩn theo đó mà suy.

 

          (Kinh) Dĩ thượng vi diệu kim bảo chi hoa, bảo tràng phan cái, nhi vi cúng dường.

          ()以上微妙金寶之華寶幢旛蓋而為供養

          (Kinh: Dùng hoa báu vàng vi diệu bậc thượng, tràng, phan, lọng báu để cúng dường).

 

          Tán rằng: Ngoại cúng dường chính là Kính Cúng Dường trong ba thứ cúng dường. Dùng hoa báu bằng chất vàng vi diệu bậc thượng, biểu thị tu hành đă lâu, như thí dụ “tinh luyện vàng” trong phần sau. Nói là hoa bằng chất báu, biểu thị vẫn c̣n đang tu nhân, sẽ có thể đạt được cái quả. “Tràng báu” biểu thị trí Bồ Đề cao vời, vượt ngoài hàng Nhị Thừa v.v… “Lọng báu” biểu thị Tứ Vô Lượng (từ bi, hỷ, xả) che rợp quần sanh, cũng nhằm biểu thị nghe kinh này có thể tạo thành cái nhân thù thắng để đạt được cái quả thù thắng.

 

          (Kinh) Bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Vân hà Bồ Tát Ma Ha Tát ư chư Như Lai thậm thâm bí mật như pháp tu hành?

          ()白佛言世尊云何菩薩摩訶薩於諸如來甚深祕密如法修行

          (Kinh: Bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát đúng như pháp tu hành pháp bí mật rất sâu của các đức Như Lai như thế nào?)

 

          Tán rằng: Giăi bày lời thỉnh cầu. “Thậm thâm bí mật” (bí mật rất sâu) là hỏi về quả, “như pháp tu hành” là hỏi về nhân. Khó thể chứng cùng tận th́ gọi là “thậm thâm”, hoặc do Nhị Thừa chẳng thể biết nên gọi là “thậm thâm”. Bậc Địa Tiền Bồ Tát (các địa vị Bồ Tát chưa chứng Sơ Địa) chẳng thể hiểu th́ gọi là “bí mật”. Theo Pháp Hoa Kinh Luận, có năm điều “thậm thâm”: Một là nghĩa, hai là Thể, ba là nội chứng, bốn là y chỉ, năm là vô thượng. Lại nữa, “bí mật” chính là ‘tướng” và khiến cho [hành nhân] nhập trong bốn thứ bí mật. Tam tánh là tướng, tam thân là “khiến cho nhập”.

 

5.3.4.2. Như Lai giải đáp

5.3.4.2.1. Sắc truyền lắng nghe, hứa sẽ nói

 

          (Kinh) Phật ngôn: - Thiện nam tử! Đế thính, đế thính, thiện tư niệm chi, ngô đương vị nhữ phân biệt, giải thuyết.

          ()佛言善男子諦聽諦聽善思念之吾當為汝分別解

          (Kinh: Đức Phật nói: - Này thiện nam tử! Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ lấy, ta sẽ v́ ông phân biệt, giải nói).

 

          Tán rằng: Đoạn lớn thứ hai là Như Lai giải đáp. Kinh văn chia thành bốn phần:

          - Một, sắc truyền lắng nghe, hứa sẽ nói.

          - Hai, giải đáp cái quả.

          - Ba, từ “phục thứ, nhược thiện nam tử” (lại nữa, nếu thiện nam tử) trở đi, giải đáp câu hỏi về sự tu hành.

          - Bốn, từ “phục thứ thiện nam tử, thị Pháp Thân” (lại này thiện nam tử, Pháp Thân ấy), tổng kết nhân quả trước đó để bảo cho mọi người biết.

          Đoạn này thuộc phần thứ nhất. Nói “đế thính, đế thính, thiện tư niệm chi” (lắng nghe, lắng nghe, khéo suy nghĩ lấy), bộ Kim Cang Bát Nhă Luận của Công Đức Thí Bồ Tát giải rằng: “Đế Thính là tâm chuyên nhất nơi cảnh. Thiện là đúng với lư nghĩa mà sanh ḷng tin, chẳng nghi. Tư Niệm là kính cẩn ǵn giữ, chẳng quên”. Ngài Chân Đế giải thích rằng: “Đế Thính sanh ra Văn Huệ. Do Văn Huệ ĺa lỗi tán loạn giống như tạo tác đồ chứa đựng. Thiện Tư sanh ra Tư Huệ, Tư Huệ tôn trọng, ĺa phóng dật như đồ đựng hoàn chỉnh. Niệm Chi sanh ra Tu Huệ. Tu Huệ có thể nhiếp niệm, ĺa điên đảo, như đồ đựng tinh sạch”.

 

5.3.4.2.2. Giải đáp về cái quả

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Nhất thiết Như Lai hữu tam chủng thân.

          ()善男子一切如來有三種身

          (Kinh: Thiện nam tử! Hết thảy Như Lai có ba loại thân).

 

          Tán rằng: Kế đó, giải đáp cái quả được hỏi. Kinh văn chia thành bốn phần:  

          - Một, nêu ra số lượng.

          - Hai, dựa theo con số mà gạn hỏi.

          - Ba, dựa theo lời gạn hỏi để liệt kê.

          - Bốn, dựa theo sự liệt kê mà giảng giải.

          Đoạn này chính là nêu ra số lượng.

 

          (Kinh) Vân hà vi tam?

          ()云何為三

          (Kinh: Những ǵ là ba?)

 

          Tán rằng: Gạn hỏi.

 

          (Kinh) Nhất giả Hóa Thân, nhị giả Ứng Thân, tam giả Pháp Thân.

          ()一者化身二者應身三者法身

          (Kinh: Một là Hóa Thân, hai là Ứng Thân, ba là Pháp Thân).

 

          Tán rằng: Dựa theo lời gạn hỏi mà liệt kê. Trước là nêu ra danh xưng của tam thân, sau là nêu ra sự nhiếp thọ, khuyên [thính chúng] hăy nên biết [tam thân ấy]. Ở đây là phần liệt kê ba danh xưng.

 

          (Kinh) Như thị tam thân cụ túc nhiếp thọ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Nhược chánh liễu tri, tốc xuất sanh tử.

          ()如是三身具足攝受阿耨多羅三藐三菩提若正了知速出生死

          (Kinh: Tam thân như thế nhiếp thọ trọn đủ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nếu biết rơ chân chánh, sẽ mau chóng thoát khỏi sanh tử).

 

          Tán rằng: Nêu bày sự nhiếp thọ, khuyên [thính chúng] nên biết. “Như thị” (như thế) là nói đến ba thân vừa được liệt kê trên đây. “Cụ túc nhiếp thọ” (nhiếp thọ trọn đủ): Nêu rơ sự nhiếp thọ Phật thân là vô vi đức, tự lợi, và lợi tha, không ǵ chẳng đều trọn hết. “Nhiếp” có nghĩa là gồm trọn, Thọ là dung nạp, ư nói: Tam thân bao gồm trọn hết, dung nạp công đức nơi thân Phật không ǵ chẳng đều trọn hết. V́ sao? Ba thân này chính là A Nậu Bồ Đề. “A” là Vô, Nậu Đa La (Nuttara) là Thượng. Tam (Sam) là Chánh. Miệu (Myak) là Đẳng, Tam lại là Chánh, Bồ Đề (Boddhi) là Giác. Dựa theo đó, phải nên nói là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Điều này gồm trọn năm pháp, tức Chân Như và Tứ Trí. Như (Chân Như) chính là Đoạn Đức Niết Bàn, Tứ Trí chính là Trí Đức. Nương vào đó để hóa độ chúng sanh th́ là Ân Đức, do thâu nhiếp trọn hết Bồ Đề. Bát Nhă Luận của Vô Trước Bồ Tát viết: “A Nậu Đa La hiển thị Bồ Đề Đoạn của Bồ Đề, là tướng giải thoát. Tam Miệu Tam Bồ Đề riêng hiển thị Bồ Đề đạo, do mọi người b́nh đẳng, do là pháp thuộc về Bồ Đề phần”. Ư nói: Tướng giải thoát chính là ly cấu Chân Như. Bồ Đề đạo là Tứ Trí tâm phẩm, do mọi người b́nh đẳng, do lư “nhân vô ngă” b́nh đẳng. Do có pháp thuộc về Bồ Đề phần mà gọi là Phật. Do trong Vô Thượng Giác mà có thể Chánh Giác, khác với phàm phu, có thể Đẳng Giác khác với Nhị Thừa. Lại nói là Chánh Giác, khác với Bồ Tát. Dùng một chữ Giác mà quán thông bốn chỗ. Vô Thượng Giác chính là lư Chân Như, giác tánh được gọi là Giác. V́ thế, kinh nói “Bồ Đề và Bồ Đề Đoạn đều gọi là Bồ Đề”.

          Trước hết, gọi là Vô Thượng th́ như kinh Bát Nhă dạy: “Vô hữu thiểu pháp khả đắc, cố danh A Nậu” (Do chẳng có chút pháp nào để có thể đạt được, cho nên gọi là A Nậu). Luận (Bát Nhă Luận) giải thích: “Chẳng có pháp nào chừng bằng vi trần để có thể đạt được!” Ư nói: Nhị Thừa chỉ trừ Phiền Năo Chướng, chẳng đoạn Sở Tri Chướng. Bồ Tát cùng đoạn cả hai chướng. Chủng Trí chẳng có chút nhiễm nào. V́ thế, nói là Vô Thượng Tam Bồ Đề (Vô Thượng Chánh Giác) v.v… Nói Vô Thượng tức là vượt xa phàm phu, Nhị Thừa, và Bồ Tát. Do đó, giác ấy được gọi là Vô Thượng. Kinh Bát Nhă dạy: “Thị pháp b́nh đẳng, vô hữu cao hạ, cố danh A Nậu Bồ Đề” (Pháp ấy b́nh đẳng, chẳng có cao thấp, nên gọi là A Nậu Bồ Đề). Ư nói: Do mỗi vị Phật đều cùng chứng vô ngă v.v… cao vời như nhau, cho nên nói là Vô Thượng. Nếu có hơn, kém, sẽ chẳng nói là Vô Thượng. Như trong phẩm Vô Thượng Thừa của luận Biện Trung Biên đă nói: “Do gộp chung ba thứ vô thượng mà nói là Vô Thượng Thừa, tức là chánh hạnh, sở duyên (đối tượng hoặc pháp để duyên theo), và tu chứng đều vô thượng”. Ư nói: Tu trọn khắp các hạnh, thông đạt trọn khắp các cảnh, chứng trọn khắp các quả, nên gọi là Vô Thượng. Nói chi tiết th́ như trong luận ấy đă nói. Kinh Bát Nhă dạy: “Tu nhất thiết thiện pháp, tức đắc Bồ Đề hạnh vô thượng” (Tu hết thảy thiện pháp, liền đạt được hạnh Bồ Đề vô thượng). Trong hết thảy các pháp, hăy nên biết như thế, tức là cảnh vô thượng. Tu chứng vô thượng chính là Bồ Đề Niết Bàn v.v… Luận ấy nói: “Điều thứ chín là nơi địa vị Phật, tu chứng chẳng có hai thứ chướng. Điều thứ mười là thị hiện tu chứng Bồ Đề chẳng ngưng nghỉ”. Ở đây cũng thế, nói “nhược chánh liễu tri, tốc xuất sanh tử” (nếu biết rơ chân chánh, sẽ nhanh chóng thoát khỏi sanh tử) ḥng khuyên đại chúng thông hiểu.

          Đối với nghĩa “tam thân” ấy, đại lược dùng năm môn để phân biệt:

          - Một là giải thích danh xưng.

          - Hai là nêu ra cái Thể.

          - Ba là tách ra, gộp vào, phế trừ, xác lập.

          - Bốn là [minh thị] cái nhân sanh khởi và tướng trạng nơi cái quả.

          - Năm là phân biệt các môn.

 

5.3.4.2.2.1. Giải thích danh xưng

 

          Thứ nhất là giải thích danh xưng, gồm hai điều:

          - Một là nêu ra danh xưng.

          - Hai là giải thích danh xưng.


5.3.4.2.2.1.1. Liệt kê danh xưng

 

          Đối với chuyện liệt kê danh xưng, kinh luận nói khác nhau. Mỗi thân trong ba thân lại có nhiều danh xưng.

          1. Đối với Hóa Thân Phật, đại lược có năm tên gọi:

          - Một là Hóa Thân. Bộ Nhiếp Luận đời Lương viết: “Do sức tự tại từ bổn nguyện của Phật, sẽ biến đổi, hiển hiện tương tự như các chúng sanh th́ gọi là Biến Hóa Thân”.

          - Hai là Phụ Mẫu Sanh Thân (thân do cha mẹ sanh ra). Trí Độ Luận nói: “Phật có hai thân: Một là pháp tánh sanh thân, hai là phụ mẫu sanh thân”.

          - Ba là Tùy Thế Gian Thân, tức là do bi nguyện mà Phật thị hiện giống như thế gian nhập thai, trụ thai, xuất thai, gọi là “tùy thế gian”. V́ thế, Trí Độ Luận nói: “Phật có hai thân: Một là tùy thế gian thân (thân tùy thuận thế gian), hai là pháp tánh sanh thân”.

          - Bốn, chỉ gọi là Sanh Thân, cũng tương ứng với thân do cha mẹ sanh ra. Kinh Niết Bàn dạy: “Phật có hai loại thân: Một là Pháp Thân, hai là sanh thân”.

          - Năm là Giả Danh Thân. Bộ Nhiếp Luận đời Lương viết: “Giả Danh Thân tức là Hóa Thân. Thị hiện thân ấy nhằm phân biệt cái thân được tạo tác chẳng phải là chân thật, gọi là Giả Danh Thân”.

          Đối với các danh xưng như thế, hăy nên thuận theo nghĩa mà biết.

          2. Thứ hai là Ứng Thân, đại lược có sáu tên gọi:

          - Một, gọi là Ứng Thân. Do hằng sa đức hạnh kết thành, tương ứng với Lư, được gọi là Ứng Thân. Bộ Nhiếp Luận đời Lương viết: “Nếu ĺa Pháp Thân, Ứng Thân sẽ chẳng thành. Hoặc là để dấy khởi căn cơ Bồ Tát, bèn theo lẽ thích ứng mà thuyết pháp, cho nên gọi là Ứng Thân, hoặc do tương ứng với cái nhân xưa kia”.

          - Hai, gọi là Thọ Dụng Thân, [tức là thân để] thọ dụng pháp lạc Đại Thừa trong Tịnh Độ. Duy Thức Luận chia [Ứng Thân] thành Tự Thọ Dụng và Tha Thọ Dụng. Tự Thọ Dụng là [cái thân] luôn tự hưởng thụ pháp lạc Đại Thừa rộng lớn. Tha Thọ Dụng là [thân nhằm] khiến cho người khác thọ dụng pháp lạc Đại Thừa.

          - Ba, gọi là Báo Thân. Do cái quả nhằm đền đáp cái nhân, cho nên gọi là Báo Thân. Trong Thập Địa Luận th́ gọi là Báo Thân Phật, c̣n trong Bát Nhă Luận th́ gọi là Thọ Lạc Báo Phật.

          - Bốn, gọi là Trí Huệ Phật như kinh Lăng Già[5] đă nói.

          - Năm, gọi là Công Đức Phật, cũng do kinh Lăng Già nói.

          - Sáu, Pháp Tánh Sanh Thân. Trí Độ Luận viết: “Phật có hai loại thân: Một là Pháp Tánh Sanh Thân, hai là Phụ Mẫu Sanh Thân”. Đă nói là Pháp Tánh Sanh th́ rơ ràng chẳng phải là Tự Tánh Pháp Thân, do hằng sa công đức tương ứng với Pháp Tánh, nương theo Pháp Tánh mà khởi, bèn gọi là Pháp Tánh Sanh.

          3. Thứ ba là Pháp Thân, đại lược có năm danh xưng:

          - Một, gọi là Pháp Thân. Do là chỗ nương vào của công đức Chân Như vô cấu, nên gọi là Pháp Thân. V́ thế, luận Nhiếp Đại Thừa viết: “Thân này tương ứng với pháp công đức, nên gọi là Pháp Thân”. Thành Duy Thức Luận nói: “Tức là tự tánh ấy cũng gọi là Pháp Thân, là chỗ nương vào của các pháp công đức to lớn”. Kinh này cũng gọi [Pháp Thân bằng danh xưng] như thế.

          - Hai, gọi là Tự Tánh Thân. Bộ Nhiếp Đại Thừa Luận đời Lương nói: “Dù Phật xuất thế, hay chẳng xuất thế, đều là tự nhiên đạt được, gọi là Tự Tánh Thân”. Thành Duy Thức Luận nói: “Tức là chân tịnh pháp giới của chư Như Lai, là chỗ nương vào để thọ dụng biến hóa b́nh đẳng, được gọi là Tự Tánh Thân”.

          - Ba, gọi là Chân Thật Thân. Luận Nhiếp Đại Thừa đời Lương nói: “Thân có hai loại: Một là thân chân thật, hai là thân giả danh”. Bảo Tánh Luận[6] gọi [Pháp Thân] là Chân Phật. Kinh này cũng nói Pháp Thân là thật.

          - Bốn, gọi là Như Như Phật: Kinh Lăng Già nói là Như Như Phật.

          - Năm, chỉ gọi là Pháp Phật. Tự thể của Chân Như được gọi là Phật. Như là Thể của Phật, cho nên gọi là Pháp Phật.

          Trên đây là phần liệt kê danh xưng [tam thân của Phật].

 

5.3.4.2.2.1.2. Giải thích các danh xưng

 

          Giải thích các danh xưng [của tam thân] th́ Tổng Danh như trong phẩm trước đă giải thích. Giải thích về Biệt Danh, dựa theo kinh này nói:

          - Hóa Thân: Hiện ra các loại thân th́ gọi là Hóa Thân. Do có thể hướng dẫn mà từ Không bỗng có, cho nên được gọi là Hóa. Hóa tức là thân. Đấy là giải thích theo lối TNghiệp. Hoặc phân biệt với Tổng mà gọi là Hóa Thân, tức là cách giải thích theo lối Y Chủ, do “thân” là điểm chung [cho cả ba thân], hoặc gọi là Biến Hóa Thân. “Biến” là chuyển đổi h́nh thể vốn sẵn có. “Hóa” tức là từ không mà bỗng có. Vừa biến vừa hóa, biến khác với hóa, đó là giải thích theo lối Tương Vi[7]. Biến Hóa chính là thân, tức là giải thích theo lối TNghiệp. Nay lược bớt chữ Biến, hoặc do tác dụng của Hóa thù thắng, cho nên gọi là Hóa Thân.

          - Xét theo đó, Ứng là tương ứng với phàm phu Nhị Thừa, mà gọi là Ứng Thân, nhằm phân biệt với Báo Thân, chỉ gọi là Hóa Thân. Chẳng giống với Báo Thân, tức là ứng với Bồ Tát th́ gọi là Ứng. Dựa theo Thập Địa Luận và Bát Nhă Kinh Luận, Báo Thân được gọi là Báo Phật. Hóa Thân, Pháp Thân và Ứng Thân đều được gọi là Phật, do các kinh phần nhiều đều trước hết là nói Phật có ngần ấy thân, nhưng trong khi liệt kê danh xưng, đa số không có chữ Phật. Nếu chẳng vậy, chỉ nói “tam thân” th́ danh xưng ấy sẽ bao gồm cả các hạng người khác, do [thân của các hạng người khác] cũng được gọi là “thân”.

          Lại xét theo mười hiệu [của Phật], tam thân đều có các danh hiệu ấy, phần nhiều gọi là Phật. Ở đây, chỉ nêu ra một hiệu, cho nên nói “nhất thiết Như Lai giai hữu tam thân” (hết thảy Như Lai đều có ba thân).

          a) Nói tới Ứng Thân, xét theo kinh văn ở đây, do có hai nghĩa mà gọi là Ứng:

          - Một, khế hợp, tương ứng với chân lư có thể sanh khởi thân này. Kinh dạy: “Như thật tương ứng Như Như, Như Như Trí, bổn nguyện lực cố, thị thân đắc hiện” (Như thật tương ứng với Như Như và Như Như Trí, do sức bổn nguyện mà thân này được hiện ra). Đă nói là “như thật tương ứng với Như Như v.v… và trí, do sức bổn nguyện, thân này hiện ra”, [hàm ư] do khế hợp tương ứng với chân lư [th́ thân ấy] mới sanh khởi, bèn gọi là Ứng Thân. Bộ Nhiếp Luận đời Lương viết: “Nếu ĺa Pháp Thân, Ứng Thân sẽ chẳng thành”. Hăy nên biết hai thân ấy do năng y (chủ thể để nương vào, tức Pháp Thân và Ứng Thân) và sở y (đối tượng được nương vào, tức Chân Như) mà được tương ứng. Lại v́ ứng hợp căn tánh của Bồ Tát mà hiện thân này, nên gọi là Ứng Thân. V́ thế, kinh dạy: “Vị chư Bồ Tát đắc thông đạt cố, thuyết ư Chân Đế, năi chí vân thị danh Ứng Thân” (V́ để các Bồ Tát được thông đạt mà nói Chân Đế, cho đến nói “đó gọi là Ứng Thân”). Do phù hợp căn cơ, nên gọi là Ứng, nhưng để cho người khác thọ dụng, chẳng phải để chính ḿnh thọ dụng. Nghĩa trước bao gồm cả hai điều ấy (tức phù hợp căn cơ và để cho người khác thọ dụng).

          b) Nói tới Pháp Thân th́ như Thành Duy Thức Luận nói: “Đại công đức pháp sở y chỉ cố” (là nơi y chỉ của pháp công đức to lớn). Phật Địa Luận nói: “Là chỗ nương tựa của các pháp công đức như lực, vô úy v.v…” Công đức là năng y (chủ thể nương vào), thân là sở y (đối tượng để công đức nương vào), tức cái Thể của Chân Như là chỗ nương cậy cho các pháp công đức, được gọi là Pháp Thân. Đó là giải thích theo lối Y Chủ. Bộ Nhiếp Đại Thừa Luận của ngài Vô Tánh cũng giải thích giống như vậy.

          Lại nữa, Chân Như là pháp thể của công đức. Thể chính là thân; v́ thế, pháp chính là thân. Ngài Vô Tánh giải thích rằng: “Pháp tánh chính là thân. V́ thế, gọi là Pháp Thân”. Đó là giải thích theo lối TNghiệp. Kinh văn ở đây gồm trọn cả hai nghĩa ấy. Phần sau kinh này nói: “Vân hà Bồ Tát liễu tri Pháp Thân? Vị trừ chư phiền năo đẳng chướng, vị cụ chư công đức pháp cố, duy hữu Như Như, Như Như Trí. Thị danh Pháp Thân” (Bồ Tát biết rơ Pháp Thân như thế nào? V́ trừ các chướng như phiền năo v.v… V́ đầy đủ các pháp công đức, chỉ có Như Như và Như Như Trí; đó gọi là Pháp Thân). V́ trừ các chướng như phiền năo v.v… mà gọi là Pháp Thân, tức là hiển lộ Báo. Đó là giải thích theo lối Tŕ Nghiệp. Trọn đủ các pháp công đức th́ gọi là Pháp Thân, tức [công đức là] năng y (do công đức có thể nương vào Pháp Thân, nên công đức gọi là “năng y”, c̣n Pháp Thân là chỗ để công đức nương vào, nên gọi là “sở y”). Đó là giải thích theo lối Y Chủ. Những điều khác th́ như trong chương Tam Thân Nghĩa Lâm của sách Pháp Uyển đă biện định.

          Lại dựa theo kinh này, phân biệt thành ba môn:

          - Một, liệt kê danh xưng để tỏ lộ sự thù thắng.

          - Hai, nêu ra cái Thể của tam thân.

          - Ba, phân biệt các môn.

          Môn thứ nhất đă xong.

 

5.3.4.2.2.2. Nêu ra cái Thể của tam thân

5.3.4.2.2.2.1. Hóa Thân

 

          (Kinh) Vân hà Bồ Tát liễu tri Hóa Thân?

          ()云何菩薩了知化身

          (Kinh: Bồ Tát như thế nào biết rơ Hóa Thân?)

 

          Tán rằng: Nêu ra cái Thể của tam thân, chia thành ba đoạn. Đoạn này bàn về cái Thể của Hóa Thân, [lại chia thành ba tiểu đoạn]:

          - Một, giả lập câu hỏi.

          - Hai, đức Phật giải đáp.

          - Ba, kết lại cả hai.

          Câu này thuộc về đoạn thứ nhất. Nói “Bồ Tát” tức là đối ứng với căn cơ được tiếp độ. Do hàng định tánh Nhị Thừa chẳng thể ưa thích, mong cầu, cho nên [đức Phật] hỏi Bồ Tát. Tuy ba thừa đều được gọi là Bồ Tát, nhưng đều chẳng phải là ư hỏi. Hỏi Đại Thừa Bồ Tát vân hà liễu tri” (như thế nào để biết rơ) v́ muốn khiến cho họ vui thích tu hành, tức là hỏi hai vấn đề:

          - Một, Bồ Tát là như thế nào?

          - Hai, làm thế nào để biết rơ?

 

5.3.4.2.2.2.1.1. Cái nhân của Hóa Thân

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Như Lai tích tại tu hành địa trung, vị nhất thiết chúng sanh tu chủng chủng pháp.

          ()善男子如來昔在修行地中為一切眾生修種種法

          (Kinh: Thiện nam tử! Xưa kia Như Lai trong địa vị tu hành, đă v́ hết thảy chúng sanh tu các loại pháp).

 

          Tán rằng: Đây là đức Phật giải đáp. Lại bao gồm hai phần: Một là nhân, hai là quả. Phần này là nhân. Kinh văn được chia thành năm phần:

          - Một, gọi người thưa hỏi.

          - Hai, tự nêu đức hiệu.

          - Ba, nói rơ hạnh vị.

          - Bốn, nêu ra ư nghĩa tu tập.

          - Năm, trần thuật sự tu tập.

          “Tích tại tu hành địa trung” (xưa kia trong địa vị tu hành) là nói về hạnh vị, tức thuộc vào Thất Địa. Do ngoại trừ Chủng Tánh Địa[8] chưa tu hành, cho nên trong lời ấy cũng có ư nghĩa phân định sự tu tŕ. “Vị nhất thiết chúng sanh” (v́ hết thảy chúng sanh) chính là ư thứ tư, nêu ra ư nghĩa tu tập, tức là giống như “vân hà trụ tâm” (trụ tâm như thế nào) trong kinh Bát Nhă. Do muốn cho tất cả chúng sanh đều diệt độ chính là [ư nguyện] rộng lớn bậc nhất, thường dùng cái tâm không điên đảo, tâm mong cầu bốn thứ lợi ích để tu các thứ pháp. Đó chính là cái nhân để tu hành và đoạn chướng. Văn Thù Sở Vấn Kinh Luận viết: “Bồ Tát thoạt đầu do quán pháp ǵ mà hành Bồ Tát hạnh?” tức là nói đến hạnh tu. “Nương vào pháp ǵ mà hành Bồ Tát hạnh?” tức là Tu Đoạn. Ngài Văn Thù đáp rằng: “Các hạnh của Bồ Tát lấy đại bi làm gốc, v́ các chúng sanh” tức là nói đến điều đầu tiên này. Tuy cũng là tự lợi, nhưng Bồ Tát lấy đại bi lợi tha làm đầu. Thật ra, [trong hạnh lợi tha ấy] cũng có tự lợi, hoặc có thể hiểu: Lợi tha vẫn v́ tự lợi. V́ thế, kinh luận ấy nói: Lại hỏi: Đại bi lấy ǵ làm gốc? Đáp: Lấy trực tâm làm gốc”, dụng ư là khiến cho hành nhân ĺa sợ hăi để [dũng mănh phát tâm] v́ người khác [tạo lợi ích]. “Lại hỏi: Trực tâm lấy ǵ làm gốc? Đáp: Lấy cái tâm b́nh đẳng đối với hết thảy chúng sanh làm gốc”. Ư nói: Đối với hữu t́nh, dù oán hay thân, tâm đều b́nh đẳng thương xót. “Lại hỏi: Tâm b́nh đẳng đối với hết thảy, lấy ǵ làm gốc? Đáp: Lấy chẳng khác ĺa (dị hạnh) làm gốc”. Ư nói: Khiến cho họ ĺa cái tâm [phân biệt thấy] có người hóa độ và kẻ được hóa độ. “Lại hỏi: Chẳng khác, ĺa khác lấy ǵ làm gốc? Đáp: Lấy tâm thanh tịnh sâu xa làm gốc”. Ư nói: Tuy coi người khác giống hệt như chính ḿnh, khiến cho họ ĺa ái nhiễm, nhưng tâm hoàn toàn rỗng rang. “Lại hỏi: Tâm thanh tịnh sâu xa lấy ǵ làm gốc? Đáp: Lấy A Nậu Bồ Đề tâm làm gốc”. Ư nói đến tự lợi. Bệnh của chính ḿnh chẳng chữa, sẽ chẳng thể lợi tha! Hoặc v́ cầu Bồ Đề, tức là ba loại tâm đều gọi là Bồ Đề tâm. “Lại hỏi: Bồ Đề tâm lấy ǵ làm gốc? Đáp: Lấy Lục Ba La Mật làm gốc”. Ư nói: Do có đủ sáu thứ chủng tánh để làm căn bản, hoặc lấy tu hành Lục Độ làm gốc. Các lời vấn đáp trong kinh ấy có ư nghĩa giống như trong kinh này: “V́ hết thảy chúng sanh” tức là từ mẫn chúng sanh. Kinh Phát Bồ Đề Tâm lại nói “từ mẫn chúng sanh” có năm sự:

          - Một là thấy các chúng sanh bị vô minh trói buộc.

          - Hai là thấy các chúng sanh chẳng tin nhân quả, tạo tác ác nghiệp.

          - Ba là thấy các chúng sanh ĺa bỏ chánh lư.

          - Bốn là thấy các chúng sanh tạo ác cực nặng.

          - Năm là thấy các chúng sanh chẳng tu chánh pháp.

          Trong mỗi sự thuộc về năm sự ấy, lại có bốn điều, chi tiết như trong kinh ấy đă nói. “Tu các thứ pháp” chính là Thập Độ và đoạn chướng sẽ được nói trong phần sau [kinh này].

 

5.3.4.2.2.2.1.2. Do tu cái nhân viên măn mà đắc quả

 

          (Kinh) Như thị tu tập chí tu hành măn.

          ()如是修習至修行滿

          (Kinh: Tu tập như thế cho đến khi tu hành viên măn).

         

          Tán rằng: Đắc quả. Trước hết, nhắc lại chuyện tu nhân viên măn, kế đó nói đạt được cái quả viên măn, sau cùng là tổng kết về tên gọi của thân (Hóa Thân). Đây là ư đầu tiên.

 

5.3.4.2.2.2.1.2.1. Đắc quả viên măn

 

          (Kinh) Tu hành lực cố, đắc đại tự tại.

          ()修行力故得大自在

          (Kinh: Do sức tu hành, đạt được đại tự tại).

 

          Tán rằng: Nói đến chuyện đạt được cái quả viên măn. Có hai phần:

          - Một, đắc quả viên măn.

          - Hai, có thể lợi lạc chúng sanh.

 

5.3.4.2.2.2.1.2.1.1. Đắc quả viên măn

 

          Phần đắc quả lại chia thành hai: Trước là đắc quả, sau là hiểu rơ cảnh. Phần này là đắc quả. Đối với mười món đại tự tại, [lại chia thành bốn phần]:

          - Một, liệt kê.

          - Hai, nêu ra cái Thể.

          - Ba, biện định cái nhân.

          - Bốn, phế lập.

 

5.3.4.2.2.2.1.2.1.1.1. Liệt kê danh xưng của mười món tự tại

 

          Liệt kê danh xưng th́ như quyển chín trong bộ Nhiếp Luận của ngài Vô Tánh đă viết: “Một là thọ mạng tự tại, hai là tâm tự tại, ba là các vật dụng tự tại, bốn là nghiệp tự tại, năm là sanh tự tại, sáu là thắng giải tự tại, bảy là nguyện tự tại, tám là lực tự tại, chín là trí tự tại, mười là pháp tự tại”.

 

5.3.4.2.2.2.1.2.1.2. Nêu ra cái Thể của mười món tự tại

 

           1) [“Thọ mạng tự tại”]: Nêu ra cái Thể th́ Mạng chính là Mạng Căn, như đă nói trong phẩm Thọ Lượng trước đó. Kinh Thập Địa dạy: “Bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp mạng trụ tŕ cố” (do mạng duy tŕ trong bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp). Nhưng quyển thứ bảy của kinh Tát Giá Ni Càn Tử[9] và quyển thứ ba của kinh Pháp Tập nói: “Đắc thượng cam lộ, danh mạng tự tại” (đạt được cam lộ bậc thượng th́ gọi là mạng tự tại). “Cam lộ” chính là Niết Bàn, Niết Bàn chính là Pháp Thân thọ vậy. Hoặc do biết Vô Trụ Cam Lộ, cho nên thân Ứng Hóa hiện ra Mạng, thuận theo cái tâm mà rút ngắn hay kéo dài cũng vô tận.

          2) “Tâm tự tại”: Theo kinh Thập Địa, tâm tức là trí định, do có thể dẫn khởi, giống như Tạp Tập Luận nêu ra cái Thể của các pháp bao gồm trí định. Kinh ấy nói: “Đắc tâm tự tại, vô lượng Tăng-kỳ tam-muội nhập trí cố” (Đạt được tâm tự tại do vô lượng A-tăng-kỳ tam-muội vào trong trí). Hoặc là nói: Do Định ấy có thể dẫn khởi trí, chẳng bắt buộc phải giữ lấy trí tâm tự tại. Theo như kinh Pháp Tập dạy: “Nhất thiết chư pháp giai tâm hiện khởi, danh tâm tự tại” (Hết thảy các pháp đều do tâm hiện hành phát khởi, gọi là tâm tự tại), tức là gồm chung tám thức. Người ấy có thể biết hết thảy đều là một tâm th́ gọi là “tâm tự tại”, thâu nhiếp Tâm Sở quy vào Tâm Vương. Nhiếp Luận lại nói: “Ở trong ấy, tự tại vận chuyển cái tâm, gọi là tự tại”. Cái được vận chuyển bao gồm tám thức; cái có thể vận chuyển chính là Định, hoặc cũng bao gồm trí. Hoặc là tâm tự tại vận chuyển bao gồm Tâm Vương lẫn Tâm Sở.

          3) [“Chúng cụ tự tại”]: “Chúng cụ” (các thứ vật dụng) lấy tứ trần (sắc, thanh, hương, vị) làm Thể. Áo, cơm, các vật dụng trong đời sống được gọi là “chúng cụ”. Luận viết: “Đối với các thứ cần dùng trong cuộc sống như áo, cơm v.v… tùy theo ư thích mà có thể tích tập”.

          4) [“Nghiệp tự tại”]: “Nghiệp” chính là “tư” (, suy nghĩ), do chỉ tạo thiện nghiệp.

          5) “Sanh tự tại”: Sanh bao gồm Ngũ Uẩn, tùy theo chỗ sanh, đúng theo ḷng mong muốn mà có thể thọ sanh.

          6) “Thắng giải tự tại”: Kinh Tát Giá Ni Càn Tử gọi món tự tại này là Như Ư Tự Tại, tức là lấy thắng giải số (số mục của các thắng giải) làm Thể. Ngài Vô Tánh nói: “Tức là từ nơi địa v.v… mà phát khởi thắng giải, khiến cho thành vàng v.v…”

          7) [“Nguyện tự tại”]: “Nguyện” lấy Giải, Dục, Tín làm Thể. Kinh Tát Giá Ni Càn Tử nói: “Tín tự tại cố” (do tín tự tại). Hoặc dùng Hậu Đắc Trí làm cái Thể của “nguyện tự tại”.

          8) “Thần lực tự tại” tức là sáu món thần thông. Kinh Tát Giá Ni Càn Tử gọi môn tự tại này là Nguyện Tự Tại, tức là hiện thần thông, biến hiện các vật, khiến cho tùy nguyện sẽ đều thành tựu. V́ thế, kinh ấy nói: “Tức sanh tâm thời, hiện tiền thành nhất thiết chư sự, danh Nguyện Tự Tại” (Tức là khi sanh tâm, hiện tiền thành tựu hết thảy các sự, gọi là Nguyện Tự Tại). Do vậy, ngài Vô Tánh nói: “Tức là tùy ư vui thích, dẫn phát các thứ thần thông tối thắng”.

          9) “Trí tự tại”: Trí duyên theo âm thanh, dùng Từ Vô Ngại Giải làm Thể. Ngài Vô Tánh nói: “Tức là thuận theo tất cả ngôn âm mà trí cảnh hiện ra”.

          10) “Pháp tự tại”: Dùng Pháp Vô Ngại Giải làm Thể. Ngài Vô Tánh nói: “Tức là tùy theo ư thích mà tuyên nói Khế Kinh, Ứng Tụng v.v…”

          Hoặc coi mười món tự tại đều lấy Trí làm Thể, v́ đều là tác dụng của trí, do Lục Độ mà thành tựu trí thù thắng này.

 

5.3.4.2.2.2.1.2.1.3. Biện định cái nhân của mười món tự tại

 

          Biện định cái nhân th́ theo Vô Tánh Luận, do Pháp Thí, Vô Úy Thí và Tài Thí đều viên măn, theo đúng lẽ thích đáng mà đạt được cái quả ấy. Xét theo thứ tự th́ chúng có thể làm cái nhân cho Thọ, Tâm, Chúng C TTại. Lại như kinh Tát Giá Ni Càn Tử nói: “Viễn ly sát sanh, vô sân hại tâm, thị Mạng TTại nhân” (Xa ĺa sát sanh, chẳng có tâm sân hại, chính là cái nhân của Mạng TTại). Nhiếp Luận th́ dựa theo Pháp Thân mạng, c̣n kinh Tát Giá dựa theo Ứng Hóa Mạng (mạng căn của Ứng Thân và Hóa Thân). Lại nữa, ĺa sát sanh v.v… cũng gọi là Pháp Thí. Từ bi là cái nhân của Tâm TTại. Ư nói: Do từ bi nên có thể bố thí vô úy. Giới là cái nhân của Nghiệp TTại và Sanh TTại, như kinh Tát Giá nói: “Dĩ Bồ Đề tâm nhiếp chư thiện căn, thị Sanh TTại nhân” (Do Bồ Đề tâm thâu nhiếp các căn, đó là cái nhân của Sanh TTại). Nhẫn là cái nhân của Thắng Giải TTại. Kinh Tát Giá coi cúng dường và bố thí là cái nhân của Thắng Giải TTại, ư nói: An ổn hứng chịu khổ nhẫn, sẽ có thể ban cho sự giải thoát. Nhiếp Luận có ư nói: Khi tu nhân xưa kia, do thích tu Nhẫn, thuận theo cái tâm ưa thích của hữu t́nh mà chuyển, nay đạt được thắng giải chuyển trong địa, kim v.v… Tinh tấn là cái nhân của Nguyện TTại, có nghĩa là do siêng năng thành tựu viên măn điều ước nguyện. Kinh Tát Giá chép: “Thường thuyết Tam Bảo giáo hóa chúng sanh, thị Tín TTại nhân” (Thường nói Tam Bảo để giáo hóa chúng sanh là cái nhân của Tín TTại). Đă nói là “thường thuyết” tức là siêng năng, khiến cho người khác sanh tín, chẳng báng pháp. Vô úy Tĩnh Lự chính là cái nhân của Lực TTại. Kinh Tát Giá nói: “Xứng sanh sở cầu, ứng thời thí dữ, thị Nguyện TTại nhân” (Xứng hợp điều mong cầu của chúng sanh, ngay lập tức ban cho, đó là cái nhân của nguyện tự tại). Bát Nhă là cái nhân của TTTại và Pháp TTại. Ngài Vô Tánh nói: “Do khi tu nhân xưa kia, thích tu huệ, thuận theo âm thanh của từng loài thuyết pháp, khiến cho họ chứng đắc Bát Nhă thù thắng, khéo liễu đạt ngôn âm, khéo nói chánh pháp”. Nếu theo kinh Tát Giá th́ thường hành Pháp Thí, chẳng v́ lợi dưỡng, tiếng tăm, cung kính; đó là cái nhân của TTTại. Thường v́ các chúng sanh nói “Chân Như của Như Lai và các chúng sanh b́nh đẳng, tự thể của Pháp Thân chẳng phải là cái thân ăn uống”; đó là cái nhân của Pháp TTại. Ư nghĩa giống như trong Nhiếp Luận.

 

5.3.4.2.2.2.1.2.1.4. Phế lập

 

          [Luận về] phế lập th́ quyển ba của kinh Pháp Tập và quyển thứ sáu kinh Tát Giá đều nói “v́ đối trừ mười nỗi sợ hăi”. Theo đó, chính là v́ đối trị mười nỗi sợ hăi mà cầu mười món tự tại. Kinh Tát Giá Ni Càn Tử nói: “Đại vương đương tri, đắc Mạng TTại cố, đối trị nhất thiết sanh tử bố úy. Đắc Tâm TTại cố, đối trị nhất thiết phiền năo bố úy. Đắc Vật TTại cố, đối trị nhất thiết bần cùng bố úy. Đắc Nghiệp TTại cố, đối trị nhất thiết ác đạo bố úy” (Đại vương nên biết: Đạt được Mạng TTại, đối trị hết thảy nỗi sợ sanh tử. Đạt được Tâm TTại, đối trị hết thảy nỗi sợ phiền năo. Đạt được Vật TTại (Chúng Cụ Tự Tại), đối trị hết thảy nỗi sợ bần cùng. Đạt được Nghiệp TTại, đối trị hết thảy nỗi sợ ác đạo). Kinh Pháp Tập nói “trừ nỗi sợ ác hạnh”, chính là xét theo phương diện trừ cái nhân, c̣n kinh này [nói theo phương diện] trừ cái quả. Kinh Pháp Tập nói “trừ nỗi sợ ác đạo” tức là nói theo cái quả, c̣n kinh này nói theo sự trói buộc. Chẳng đạt được Sanh TTại là do bị sanh trói buộc. Do đạt được Sanh TTại, sẽ đối trị nỗi sợ hăi đối với hết thảy trói buộc. Do đắc NƯ TTại, đối trị nỗi sợ đối với hết thảy truy cầu. Do đạt được Tín TTại, đối trị nỗi sợ đối với hết thảy chuyện báng pháp. Do đạt được Nguyện TTại, đối trị nỗi sợ đối với hết thảy tâm niệm trói buộc. Do đạt được Trí TTại, đối trị nỗi sợ đối với hết thảy các nghi. Do đạt được Pháp TTại, đối trị nỗi sợ đối với hết thảy đại chúng.

 

5.3.4.2.2.2.1.2.1.2. Có thể lợi lạc chúng sanh

 

          Lại giải rằng: Nói “pháp tự tại” tức là thuyết pháp tự tại. Đă nói là tùy thuận ư của chúng sanh cho đến nói “thuyết pháp tương ứng, hiện đủ loại thân”. V́ thế, biết hiện thân là để thuyết pháp cho chúng sanh, khiến cho họ đạt được lợi lạc. Tức là như kinh Pháp Hoa nói: “Duy vị nhất đại sự cố” (chỉ v́ một đại sự). Thuyết Pháp TTại có mười bốn loại: Một là thuyết pháp tự tại, hai là thanh tịnh, ba là thích nói, bốn là trí, năm là sanh, sáu là tam-muội, bảy là trụ tŕ, tám là quyến thuộc, chín là thấy, mười là nghe, mười một là mũi, mười hai là lưỡi, mười ba là thân, mười bốn là tâm.

          Quyển thứ bảy của kinh Pháp Tập chép: “Vân hà thuyết pháp tự tại? Ư nhất thiết ngôn ngữ bất trước cố” (Thế nào là thuyết pháp tự tại? Do đối với hết thảy ngôn ngữ chẳng chấp trước). Ở đây, chẳng nhắc lại pháp được nói. “Vân hà thanh tịnh tự tại? Ư nhất thiết xứ bất nhiễm cố” (Thế nào là thanh tịnh tự tại? Do đối với hết thảy các chỗ chẳng nhiễm). Không chỉ là đối với pháp được nói, mà đối với hết thảy đều chẳng chấp. “Vân hà nhạo thuyết tự tại? Vị y nhất pháp tự cú, bất hưu tức” (Thế nào là thích nói tự tại? Chính là dựa vào câu chữ của một pháp, [diễn nói] chẳng ngưng nghỉ). Trong trăm ngàn vạn kiếp, nói chẳng thể cùng tận, biện tài chẳng đoạn dứt. “Vân hà trí tự tại? Ư nhất nhất pháp tự cú năng thuyết” (Thế nào là trí tự tại? Đối với câu hay chữ của mỗi mỗi pháp đều có thể nói), trăm ngàn vạn pháp môn có nghĩa vị phong phú mà biện định. “Vân hà sanh tự tại? Tùy sở tùy sở lợi ích chúng sanh chi xứ, ư bỉ bỉ xứ sanh cố, tùy xứ hiện thân cố (Sanh tự tại là như thế nào? Tùy thuận các chỗ lợi ích chúng sanh, trong mỗi chỗ sanh đó của họ, tùy theo từng chỗ mà hiện thân). Lập lại “tùy sở” [hai lần] nhằm vạch rơ: “Chẳng phải một”. Những điều khác cứ chuẩn theo đó mà biết.

          “Vân hà tam-muội tự tại? Ư niệm niệm trung, nhược dục nhập tam-muội, tức năng nhập tam-muội cố. Vân hà trụ tự tại? Tùy sở tùy sở trụ tŕ gia cố, sở vị nhược chương lộc, nhược điểu thú, nhược thảo mộc, nhược thạch bích, năng thuyết chư Phật diệu pháp cố, tức trụ tŕ ư bỉ, linh năng thuyết pháp cố. Vân hà quyến thuộc tự tại? Vị vô lượng quyến thuộc, bất khả hoại quyến thuộc cố. Vân hà kiến tự tại? Vị kiến diệu sắc cố. Vân hà văn tự tại? Vị văn diệu thanh cố. Vân hà tỵ tự tại? Văn nhất thiết hương duy thị diệu pháp hương cố. Vân hà thiệt tự tại? Vị thực pháp vị, bất thực thực vị cố. Vân hà thân tự tại? Vị thành tựu Pháp Thân, phi thực thực thân cố. Vân hà tâm tự tại? Năi chí văn manh, nghĩ tử, tri hạnh, tri tâm cố, kiến hạ lục căn hữu thắng dụng cố” (Thế nào là tam-muội tự tại? Do trong mỗi niệm, nếu muốn nhập tam-muội, liền có thể nhập tam-muội. Thế nào là trụ tự tại? Thuận theo mỗi chỗ trụ mà ǵn giữ, tức là dù hươu, nai, dù chim, thú, dù cỏ cây, dù vách đá, hễ có thể nói diệu pháp của chư Phật, liền trụ lại, duy tŕ nơi đó, khiến cho có thể thuyết pháp. Thế nào là quyến thuộc tự tại? Tức là vô lượng quyến thuộc, quyến thuộc chẳng thể hoại. Thế nào là thấy tự tại? Tức là do thấy diệu sắc. Thế nào là nghe tự tại? Tức là do nghe âm thanh mầu nhiệm. Thế nào là mũi tự tại? Do ngửi thấy hết thảy mùi hương chỉ là hương diệu pháp. Thế nào là lưỡi tự tại? Tức là ăn pháp vị, chẳng nếm vị của thức ăn. Thế nào là thân tự tại? Tức là thành tựu Pháp Thân, chẳng phải là cái thân tồn tại do ăn uống. Thế nào là tâm tự tại? Cho đến đối với muỗi, ṃng, kiến đều biết hạnh, biết tâm [của chúng], thấy sáu căn kém cỏi có tác dụng thù thắng).

          Trong ấy, hai món đầu là các điều được nói (sở thuyết) đều chẳng nhiễm. Hai món kế đó nói về “năng thuyết” (chủ thể có thể nói). Một món sau đó là hiện thân. Món kế đó là Bát Định. Món kế đó là gia bị những thứ khác. Món kế đó là tiếp nhận giáo hóa. Sáu món kế tiếp nói về các căn. Những món trước là tổng tướng giả thân, c̣n sáu món này là biệt tướng thật thân. Trong phần sau, kinh văn chép “tùy chúng sanh ư, tùy chúng sanh hạnh” (thuận theo ư của chúng sanh, thuận theo hạnh của chúng sanh), tức là tâm tự tại tùy thuận chúng sanh giới. Do có chút phần giới bao gồm cả hai nghĩa để giữ lấy cảnh, cho nên nói là “chút phần”. Tức là tùy thuận chỗ lợi ích chúng sanh mà hiện các loại thân, tùy thuận chỗ họ đang ở mà hiện thân, và xứ tương ứng, bất đăi thời tương ứng (luôn tương ứng chẳng cần đợi đúng thời), thuộc vào tam-muội tự tại. Hạnh tương ứng th́ thuộc vào tâm tự tại.

          Quyển chín của Nhiếp Đại Thừa Luận ghi: “Lại nữa, Pháp Thân do mấy thứ tự tại mà được tự tại? Đại lược do năm thứ: Một là do cơi Phật, tướng hảo nơi tự thân, vô biên âm thanh, vô kiến đảnh tướng tự tại, do chuyển đổi sự nương tựa vào Sắc Uẩn[10]. Hai là do lạc trụ tự tại không vướng mắc, rộng lớn vô lượng, do chuyển dời sự nương vào Thọ Uẩn. Ba do biện thuyết hết thảy danh thân, cú thân, văn thân[11] tự tại, do chuyển đổi sự nương vào Tưởng Uẩn. Bốn là do hiện hóa, đổi khác, dẫn khởi sự nhiếp thọ đại chúng, dẫn khởi và nhiếp thọ tự pháp tự tại, do chuyển đổi sự nương vào Hành Uẩn. Năm là do các trí Viên Kính (Đại Viên Kính Trí), B́nh Đẳng, Quán Sát, Thành Sở Tác tự tại, do chuyển đổi nương vào Thức Uẩn”. Giải thích cặn kẽ th́ như trong luận ấy.

 

          (Kinh) Tự tại lực cố, tùy chúng sanh ư, tùy chúng sanh hạnh, tùy chúng sanh giới, tất giai liễu biệt.

          ()自在力故隨眾生意隨眾生行隨眾生界悉皆了別

    (Kinh: Do sức tự tại, thuận theo ư của chúng sanh, thuận theo hạnh của chúng sanh, thuận theo chúng sanh giới, thảy đều biết rơ).

 

          Tán rằng: Hiểu rơ cảnh, biết ư, biết tâm thể, hoặc là thắng giải biết hạnh của chúng sanh, biết hạnh sai biệt. Hoặc là nghiệp, hoặc chúng sanh tiến nhập trọn khắp chúng sanh giới, tức là đối với các loại tánh đều có thể biết rơ.

 

          (Kinh) Bất đăi thời, bất quá thời, xứ tương ứng, thời tương ứng, hạnh tương ứng, thuyết pháp tương ứng, hiện chủng chủng thân.

          ()不待時不過時處相應時相應行相應法相應現種種身

          (Kinh: Chẳng đợi thời, chẳng lố thời, xứ tương ứng, thời tương ứng, hạnh tương ứng, thuyết pháp tương ứng, hiện đủ loại thân).

 

          Tán rằng: Hóa độ chúng sanh. “Bất đăi thời”: Căn cơ của chúng sanh đă chín muồi, bèn ngay lập tức hiện thân thuyết pháp, chẳng chọn lựa thời tiết. “Bất quá thời” nghĩa là chẳng bỏ lỡ lúc đáng nên hóa độ ấy. “Xứ tương ứng” v.v… Như Lai thuyết pháp ĺa “tứ phi” (chẳng đúng chỗ, chẳng đúng lúc, chẳng đúng căn cơ, pháp chẳng tương ứng). “Xứ tương ứng” tức là ĺa “chẳng đúng chỗ”. “Thời tương ứng” là ĺa “chẳng đúng thời”. “Hạnh tương ứng” là ĺa “chẳng đúng căn cơ”. “Thuyết pháp tương ứng” là ĺa “chẳng phải pháp”. Tức là ứng với nơi ấy, thời ấy, các căn tánh ấy, đáng nên dùng pháp y, ắt sẽ tương ứng. “Hiện các loại thân” tức là tám tướng [thành đạo] v.v… Nếu như là thân Phật đang hiện trụ trong cơi đời và thân hiện ra sau khi Ngài đă Niết Bàn, sẽ chẳng nói là “do các loại ư của các đệ tử mà hiện các thứ tướng. Trong bốn câu ấy, phải nên nói là “hiện tại và sau khi nhập Niết Bàn, do nguyện tự tại mà tùy duyên lợi ích, th́ gọi là Hóa Thân để gọi chung các thứ thân”.

 

5.3.4.2.2.2.1.2. Tiểu kết

 

          (Kinh) Thị danh Hóa Thân.

          ()是名化身

          (Kinh: Đó gọi là Hóa Thân).

 

          Câu “thị danh Hóa Thân” nhằm kết lại cả hai điều (nhân và quả của Hóa Thân).

 

5.3.4.2.2.2.2. Ứng Thân

5.3.4.2.2.2.2.1. Gạn hỏi

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Vân hà Bồ Tát liễu tri Ứng Thân?

          ()善男子云何菩薩了知應身

          (Kinh: Thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát biết rơ Ứng Thân?)

 

          Tán rằng: Trong phần nói về Ứng Phật, kinh văn cũng đại lược chia thành ba phần. Ở đây là nêu lên câu hỏi để dẫn khởi.

 

5.3.4.2.2.2.2.2. Giải đáp

 

          (Kinh) Vị chư Như Lai vị chư Bồ Tát đắc thông đạt cố, thuyết ư Chân Đế. ()謂諸如來為諸菩薩得通達故說於真諦

          (Kinh: Tức là các đức Như Lai v́ để cho các vị Bồ Tát thông đạt mà nói Chân Đế).

 

          Tán rằng: Kế đó là giải đáp. Trong lời đáp, phải nên nói về tu nhân, nhưng do trong phần nói về Hóa Thân đă có tu nhân, ở đây lược đi, chẳng bàn tới. Đấy là giảng giải bằng cách liên tưởng, tức là [phần tu nhân trong phần luận định Hóa Thân chính là] các câu nói chung [cho các phần sau đó], phải nên áp dụng phần kinh văn ấy [vào đây để hiểu rơ sự tu nhân cho Ứng Thân]. Ở đây, chỉ bàn về cái quả. Trong cái quả, lại chia làm hai phần: Trước là thuyết pháp, sau là hiện thân. Ở đây là phần thuyết pháp. Trong phần thuyết pháp, lại có hai ư: Một là lợi sanh, hai là lợi pháp. Trong phần thứ nhất, lại có ba ư:

          - Một, nói về cảnh Chân Đế.

          - Hai, nói về cái quả Niết Bàn.

          - Ba, nói về cái nhân để hành tŕ.

          Trước hết, nêu ra cái cảnh để [thính chúng] thông đạt, tức thông Chân, đạt Tục. Kế đó, chỉ bày cái quả, khiến cho họ ưa thích mong cầu. Sau cùng, khiến cho họ trừ chướng, tu nhân ḥng chứng đắc. Phần này nói về cảnh, tức chư Như Lai là người có thể nói (năng thuyết nhân), các vị Bồ Tát là người được hóa độ (sở bị). “Đắc thông đạt cố” (do để được thông đạt) chính là ư nghĩa v́ sao cần phải nói. “Thuyết ư Chân Đế” (nói Chân Đế) chính là nêu ra điều được diễn nói, khiến cho hàng Bồ Tát khởi Căn Bản Trí (đó là Thông), kiêm khởi Hậu Đắc Trí (đó là Đạt). Nói “Chân Đế” tức là dựa theo pháp tối thắng để nói. Thật ra, cũng v́ nói Tục Đế, do Chân và Tục nương vào nhau mà kiến lập. Hoặc lại xét theo Nhân và Pháp hai đằng sai biệt. Đối với Bồ Tát th́ trí được gọi là Chân. Đối với Ngă th́ Pháp v.v… được gọi là Chân.

 

          (Kinh) Vị linh giải liễu sanh tử, Niết Bàn thị nhất vị cố.

          ()為令解了生死涅槃是一味故

          (Kinh: V́ khiến cho họ hiểu rơ sanh tử và Niết Bàn là một vị).

 

          Tán rằng: Nói về cái quả. Quả chia thành hai loại hữu vi và vô vi. Vô vi là gốc, cho nên đặc biệt nhắc tới. Quả vô vi có bốn loại, tức bốn loại Niết Bàn. Tự tánh thanh tịnh chẳng do đoạn chứng, cho nên chẳng nhắc tới, hoặc v́ [tự tánh thanh tịnh] thuộc về Chân Đế. Do Hữu Dư và Vô Dư chung cho cả tam thừa, chẳng phải là tối thắng, cũng lược đi chẳng nói. Chỉ có Vô Trụ Xứ [Niết Bàn] là Đại Thừa riêng có, do lợi ích chúng sanh thù thắng, cho nên được riêng bàn tới trong cái quả. Ư nghĩa như trong phần trước đă biện định.

 

          (Kinh) Vị trừ Thân Kiến, chúng sanh bố úy hoan hỷ cố.

          ()為除身見眾生怖畏歡喜故

          (Kinh: V́ trừ Thân Kiến để chúng sanh sợ hăi sẽ được hoan hỷ).

 

          Tán rằng: Nói về chuyện trừ chướng, tu nhân. Do bị Ngă Kiến từ vô thỉ trói buộc, chẳng thể cởi gỡ. Dẫu được cởi gỡ, đối với sanh tử bèn sanh ḷng sợ hăi, đối với Niết Bàn bèn sanh ḷng hoan hỷ, chẳng thể lợi ích rộng lớn. Lại do Ngă Chấp là cái gốc của các chướng, nhưng Ngă Kiến ấy tuy hiện diện trong hai thức thứ sáu và thứ bảy, dụng ư là trừ thức thứ bảy v́ nó ngăn chướng, khiến cho [tâm chúng sanh] chẳng thể trụ trong tối thắng. Lại do nó là cái gốc của nhiễm ô, cho nên Thành Duy Thức Luận giải thích B́nh Đẳng Trí như sau: “Chẳng cùng chỗ nương dựa với Diệu Quán Sát Trí, được kiến lập bởi Vô Trụ Xứ Niết Bàn, một mực liên tục cho đến tột cùng đời vị lai”.

 

          (Kinh) Vị vô biên Phật pháp nhi tác bổn cố.

          ()為無邊佛法而作本故

          (Kinh: Do làm cái gốc cho vô biên Phật pháp).

 

          Tán rằng: Đây là lợi pháp. Ư nghĩa của việc lợi sanh” là khiến cho pháp trụ thế lâu dài. V́ thế nói “làm gốc”.

 

          (Kinh) Như thật tương ứng Như Như, Như Như Trí, bổn nguyện lực cố, thị thân đắc hiện.

          ()如實相應如如如如智本願力故是身得現

          (Kinh: Như thật tương ứng với Như Như và Như Như Trí, do sức bổn nguyện mà thân này được hiện ra).

 

          Tán rằng: Kế đó nói về sự hiện thân, gồm hai phần: Trước là hiện thân, sau là trang nghiêm. Phần này là hiện thân. Nói “như thật” tức là Chân Như. “Tương ứng”: Người chứng và pháp được chứng đều vô nhị, được gọi là “tương ứng”. Tương ứng có nghĩa là tương tự. Đây là câu nói tổng quát. “Như Như Như Như Trí” là câu nói riêng. Chân tánh Nhị Không (Nhân Không và Pháp Không) được gọi trùng lặp là Như Như. Trí thấu đạt Nhị Không, được gọi là Như Như Trí. “Bổn nguyện lực cố” (do sức bổn nguyện lực): Nói về nguyên do hiện thân. Trí Như và Cảnh Như cả hai đều vô phân biệt; v́ sao hiện thân? Do sức bổn nguyện! V́ thế, Thành Duy Thức viết: “Do xưa kia đă tu nhân duyên của cơi Phật lợi tha vô lậu thuần tịnh mà được thành tựu”. Cơi nước đă do [nhân duyên] xưa kia [cảm vời], hiện thân thành các phẩm cũng thế!

          Hỏi: Trong hai loại Thọ Dụng Thân, Ứng Thân thuộc về thân nào?

          Đáp: Tha Thọ Dụng!

          [Hỏi]: V́ sao biết?

          Đáp: Nêu đại lược bốn điều để chứng minh:

          - Một, kinh văn trong đoạn này nói “Như Như, Như Như Trí, bổn nguyện lực cố, thị thân đắc hiện tam thập nhị tướng, bát thập chủng hảo” (Như Như và Như Như Trí, do sức bổn nguyện, thân này hiện ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo). Nếu là Tự Thọ Dụng, công đức và tướng hảo sẽ đều là vô biên.

          - Hai, kinh văn trong phần sau nói: “Nhị thân giả danh bất thật, niệm niệm sanh diệt, bất định trụ cố, sổ sổ xuất hiện” (hai thân là giả danh, chẳng thật, sanh diệt trong mỗi niệm. Do chẳng trụ nhất định, nên nhiều lượt xuất hiện). Tự Thọ Dụng Thân chẳng phải là nhiều lượt xuất hiện.

          - Ba, kinh văn trong phần sau nói: “Đệ nhị Phật thân, đệ tử nhất ư cố, hiện nhất tướng” (Thân Phật thứ hai, do mỗi ư của đệ tử mà hiện một tướng). Tự Thọ Dụng Thân chẳng nhằm đối ứng [với ư niệm của] đệ tử.

          - Bốn, kinh văn trong phần sau nói: “Ứng Thân phi Hóa Thân” (Ứng Thân chẳng phải là Hóa Thân), tức là thân thuộc Địa Tiền (các địa vị Bồ Tát trước khi chứng Sơ Địa).

          Hỏi: Nếu là Tha Thọ Dụng Thân, v́ sao trong phần sau kinh nói: “Ứng Thân giả tùng vô thỉ lai, tương tục bất đoạn, nhất thiết chư Phật bất cộng chi pháp năng nhiếp tŕ cố, chúng sanh vô tận, dụng diệc vô tận” (Ứng Thân từ vô thỉ đến nay liên tục chẳng dứt, do có thể nhiếp tŕ các pháp bất cộng của hết thảy chư Phật. Chúng sanh vô tận, Dụng cũng vô tận)? Tha Thọ Dụng Thân đă hiện diệt độ, sao có thể nói là “từ vô thỉ liên tục nhiếp tŕ pháp bất cộng” cho được?

          Đáp: Nói “liên tục” là nói theo đa số, chẳng giống như Hóa Thân phải nhiều trăm ngàn kiếp mới hiện một lần. Lại nữa, trong phần kinh văn nói về Hóa Thân cũng nói “hằng chuyển pháp luân”, chẳng phải là thường hằng bất diệt ư?

          Hỏi: Nếu là như vậy, há có phải Tự Thọ Dụng Thân chẳng thuộc vào tam thân ư?

          Đáp: Chẳng phải là không thuộc vào tam thân, nó chính là Pháp Thân.

          Hỏi: V́ sao biết vậy?

          Đáp: Đến phần nói về Pháp Thân, sẽ trích dẫn rộng răi, nói cặn kẽ.

 

          (Kinh) Cụ tam thập nhị tướng, bát thập chủng hảo, hạng bối viên quang.

          ()具三十二相八十種好項背圓光

          (Kinh: Đủ ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo, sau cổ có viên quang).

 

          Tán rằng: Nói về tướng trang nghiêm.

          Hỏi: Nếu là Tha Thọ Dụng Thân, phải nên có nhiều tướng hảo, v́ sao chỉ nói ba mươi hai tướng?

          Đáp: Tha Thọ Dụng Thân có hai loại:

          - Một là thân được thấy bởi người thuộc địa vị bốn thiện căn[12].

          - Hai là thân được thấy bởi bậc Địa Thượng Bồ Tát (bậc Bồ Tát đă chứng từ Sơ Địa trở lên).

          Ở đây, chỉ nói về thân được thấy bởi người thuộc địa vị bốn thiện căn.

          Hỏi: Các chỗ khác phần nhiều nói là thân được thấy bởi hàng Địa Tiền th́ gọi là Hóa Thân, sao [ở đây] lại gọi là Thọ Dụng?

          Đáp: Nói “thân hiện cho hàng Địa Tiền th́ gọi là Hóa Thân” là nói tới cái thân do người thuộc tam thừa cùng thấy, chẳng phải là thân được thấy bởi hàng Bồ Tát thuộc bốn thiện căn. Nếu chẳng phải là Địa Tiền, v́ sao phần sau lại nói: “Ứng Thân phi Hóa Thân giả, thị Địa Tiền Thân” (Ứng Thân chẳng phải là Hóa Thân, là thân thuộc địa vị Địa Tiền).

          Hỏi: V́ sao biết là thân Phật được thấy bởi hàng Bồ Tát thuộc địa vị bốn thiện căn th́ chẳng phải là thân được tam thừa cùng thấy?

          Đáp: Xét theo kinh Phạm Vơng Bồ Tát Giới nói: “Ngă kim Lô Xá Na, phương tọa liên hoa đài, châu táp thiên hoa thượng, phục hiện thiên Thích Ca. Nhất hoa bách ức quốc, nhất quốc nhất Thích Ca, các tọa Bồ Đề thụ, nhất thời thành Phật đạo” (Ta nay là Lô Xá Na, vừa mới ngồi trên đài hoa sen, trên một ngàn đóa hoa vây quanh, lại hiện ra một ngàn vị Phật Thích Ca. Mỗi hoa có trăm ức cơi, trong mỗi cơi là một vị Phật Thích Ca. Mỗi vị ngồi dưới cội Bồ Đề, cùng lúc thành Phật đạo). Đă nói “trên một ngàn đóa hoa, lại hiện một ngàn vị Thích Ca. Mỗi hoa là một trăm ức cơi, trong mỗi cơi là một vị Thích Ca”, nếu chẳng phải là thân được thấy bởi hàng Bồ Tát thuộc địa vị bốn thiện căn, há có thân nào khác để nói là một ngàn vị Thích Ca ư?

          Hỏi: Địa vị nào thấy thân Lô Xá Na ấy?

          Đáp: Có thuyết nói đó là thân được thấy bởi Sơ Địa Bồ Tát. Nay tôi giải thích đấy là thân được thấy bởi Nhị Địa Bồ Tát: Một là v́ nói Giới Ba La Mật, hai là do nói “trăm ngàn ức cơi”. Nếu là Sơ Địa Bồ Tát, sẽ thấy trăm ức, chẳng thấy một [trăm] ngàn.

          Hỏi: Xét theo địa vị Thập Địa, luận Du Già Sư Địa nói “nếu tác ư sẽ thấy vô biên cơi”, sao không nói là “trăm ngàn ức cơi” được?

          Nếu vậy, cớ sao nói Sơ Địa Bồ Tát đắc một ngàn môn? Nếu nói xét theo sự tác ư, phải là vô lượng cơi, há chỉ là một ngàn ức? Huống hồ Nhị Địa Bồ Tát đắc trăm ngàn môn, nay nói trăm ngàn ức, đúng là tương đương, cần ǵ phải hiểu khác đi?

 

5.3.4.2.2.2.2.3. Tiểu kết

 

          (Kinh) Thị danh Ứng Thân.

          ()是名應身

          (Kinh: Đó gọi là Ứng Thân).

 

          Tán rằng: Kết lại.

 

5.3.4.2.2.2.3. Pháp Thân

5.3.4.2.2.2.3.1. Gạn hỏi

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Vân hà Bồ Tát Ma Ha Tát liễu tri Pháp Thân?

          ()善男子云何菩薩摩訶薩了知法身

          (Kinh: Thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát Ma Ha Tát biết rơ Pháp Thân?)

 

          Tán rằng: Nói về Pháp Thân. Kinh văn chia làm ba đoạn như trên. Đây là phần thứ nhất, tức gạn hỏi.

 

5.3.4.2.2.2.3.2. Giải đáp

 

          (Kinh) Vị trừ chư phiền năo đẳng chướng, vị cụ chư thiện pháp cố.

          ()為除諸煩惱等障為具諸善法故

          (Kinh: V́ trừ các chướng như Phiền Năo v.v… V́ đầy đủ các thiện pháp).

 

          Tán rằng: Phần giải thích chánh yếu gồm hai phần:

          - Một, nói về việc làm (phương cách tu hành).

          - Hai, nói về cái thân đạt được.

          Đây là phần thứ nhất. Đáng ra phải nói về tu nhân, nhưng kinh văn lược đi không nói, [nguyên do] giống như trong phần trước đă giải thích. Pháp Thân có hai loại: Một là tự tánh Pháp Thân, hai là công đức Pháp Thân; nay gồm chung cả hai.

“Vị trừ phiền năo đẳng chướng” (v́ trừ các chướng như phiền năo v.v…): Ư nói để đạt được tự tánh Pháp Thân. “Vị cụ thiện pháp cố” (v́ đầy đủ các thiện pháp): Ư nói để đạt được công đức Pháp Thân. Tức bốn trí tâm phẩm[13] thuộc pháp giới thanh tịnh, được gọi chung là Pháp Thân, năng chứng và sở chứng được gọi chung là Pháp Thân. Hai loại giả Phật và thật Phật có sai khác, chia ra thành Ứng Thân và Hóa Thân. Nếu không, gộp chung Ứng và Hóa, cũng gọi là Pháp Thân. V́ thế, luận Thành Duy Thức nói: “Pháp Thân như thế có ba tướng khác biệt”.

 

          (Kinh) Duy hữu Như Như, Như Như Trí, thị danh Pháp Thân.

          ()唯有如如如如智是名法身

          (Kinh: Chỉ có Như Như và Như Như Trí được gọi là Pháp Thân).

 

          Tán rằng: Nói về Pháp Thân đạt được. Như Như chính là tự tánh Pháp Thân. Như Như Trí tức là bốn trí phẩm. Tuy Sự trí phẩm chẳng duyên theo Chân Như, do ĺa năng thủ (chủ thể chấp giữ) và sở thủ (đối tượng được chấp giữ bởi năng thủ), do Như Như Trí dấy lên, bèn gọi chung là Như Như Trí. V́ vậy, kế đó nói: “Thị cố, pháp Như Như, Như Như Trí nhiếp nhất thiết Phật pháp” (V́ thế, pháp Như Như và Như Như Trí gồm thâu hết thảy Phật pháp). Nếu chỉ là Như, sẽ chẳng thâu nhiếp hết thảy! Lại giải rằng: Hóa Thân như trong phần trước [đă giải thích]. Ứng Thân th́ bao gồm hai thân Tự Thọ Dụng và Tha Thọ Dụng. Pháp Thân chỉ là Tự Tánh Chân Như. Nói Như Như Trí là như Thật Tướng Bát Nhă. Lại nữa, Đại Trang Nghiêm Luận và ngài Chân Đế Tam Tạng nói có bốn loại giác:

          - Một là Ứng Giác, tức Chân Như.

          - Hai là Chánh Giác, tức trí huệ.

          - Ba là Giác Phần, tức là cái nhân của Bồ Đề.

          - Bốn là Lnh Giác, tức là cái có thể diễn nói giáo.

          Xét theo cái Thể của các pháp th́ gọi là Như Như; xét theo phương diện trí tánh th́ gọi là Như Như Trí. Do vậy, kinh văn trong phần sau có nói: “Ứng Thân tùng vô thỉ lai tương tục bất đoạn, nhất thiết chư Phật bất cộng chi pháp Thể nhiếp tŕ cố, chúng sanh vô tận, dụng diệc vô tận. Thị cố thuyết Thường” (Ứng Thân từ vô thỉ đến nay liên tục chẳng dứt, do được cái Thể nơi pháp bất cộng của hết thảy chư Phật nhiếp tŕ. Chúng sanh vô tận, tác dụng cũng vô tận. V́ thế nói là Thường), [tức là] chỉ rơ [Pháp Thân] cũng bao gồm Tự Thọ Dụng Thân. Kế đó nói “Pháp Thân giả, phi thị hành pháp, vô hữu dị tướng, thị căn bản cố, do như hư không, thị cố thuyết Thường” (Pháp Thân chẳng phải là hành pháp, chẳng có tướng khác, v́ là căn bản, ví như hư không. Do vậy nói là Thường). Đă nói “chẳng phải là hành pháp”, rơ ràng chẳng phải là Tứ Trí, v́ Tứ Trí sanh diệt là hành pháp. Lại giải rằng: Hai nghĩa đều chấp nhận được!

          Chuẩn theo Nhiếp Đại Thừa Luận giải thích riêng về hai môn thường và vô thường đối với tam thân, như luận ấy đă giảng giải. Chuẩn theo kinh văn trong phần trên và phần dưới, cùng với các điều được luận định trong Nhiếp Đại Thừa Luận v.v… nếu nói chung th́ như trong phần trên đă giải thích. Nay trong kinh này, sẽ bao gồm hai ư nghĩa để giải thích:

          1) Nếu dùng bốn câu [phán định về thân, tức “là Ứng Thân, là Hóa Thân, vừa là Ứng vừa là Hóa, chẳng phải Ứng chẳng phải Hóa”] để luận định Tự Thọ Dụng và Tha Thọ Dụng riêng biệt, th́ chẳng phải là bốn câu trong hiện tại:

          - Ứng Thân chẳng phải là Hóa Thân chính là thân thuộc Địa Tiền.

          - Vừa là Ứng Thân vừa là Hóa Thân th́ là thân trụ trong Hữu Dư Y Niết Bàn.

          - Nếu là Tự Thọ Dụng th́ chẳng gọi là Hóa Thân, do vậy, Tự Thọ Dụng cũng gọi là Pháp Thân. V́ thế, kinh văn trong phần sau nói: “Thị cố Pháp Thân huệ thanh tịnh cố, diệt thanh tịnh cố, thị nhị thanh tịnh. Thị cố, Pháp Thân cụ túc thanh tịnh” (V́ thế, do Pháp Thân là huệ thanh tịnh, Diệt thanh tịnh, tức là hai thứ thanh tịnh. V́ vậy, Pháp Thân trọn đủ thanh tịnh).

           2) Nếu do hai thứ trí và lư hợp lại bèn gọi là Pháp Thân th́ chính là “tánh tướng hợp luận môn” (gộp chung tánh và tướng để luận định). Nếu chỉ giữ lấy Như gọi là Pháp Thân, th́ chính là “tánh tướng biệt luận môn” (luận định riêng biệt tánh và tướng). Nếu coi Tự Thọ Dụng thuộc vào Ứng Thân th́ chính là “giả thật tự tha thọ dụng nhị hợp luận môn” (gộp chung hai thứ giả thật, tự thọ dụng và tha thọ dụng để luận định). Nếu coi Ứng Thân chỉ là Tha Thọ Dụng Thân th́ tức là “giả thật biệt luận môn” (luận định giả và thật riêng biệt).

          V́ thế biết là các nghĩa được nói đều chẳng mâu thuẫn!

 

5.3.4.2.2.3. Phân biệt các môn

 

          (Kinh) Tiền nhị chủng thân thị giả danh hữu, thử đệ tam thân thị chân thật hữu, vi tiền nhị thân nhi tác căn bản.

          ()前二種身是假名有此第三身是真實有為前二身而作根本

          (Kinh: Hai thân trước (Hóa Thân và Ứng Thân) là giả danh mà có, thân thứ ba (Pháp Thân) này là chân thật có, làm căn bản cho hai thân trước).

 

          Tán rằng: Dưới đây là phân biệt các môn. Có chín môn:

          - Một, giả thật phân biệt môn (môn phân biệt giả và thật).

          - Hai, nhị lợi phân biệt môn (môn phân biệt hai điều lợi, tức tự lợi và lợi tha).

          - Ba, Hữu Dư Vô Dư đẳng phân biệt môn (môn phân biệt Hữu Dư và Vô Dư v.v...)

          - Bốn, trị chướng phế lập môn (môn đối trị chướng, phế trừ, xác lập).

          - Năm, tam thể đồng biệt môn (môn biện định cái Thể của tam thân là đồng hay khác).

          - Sáu, nhất đa phân biệt môn (môn phân biệt một và nhiều).

          - Bảy, năng sở tương y môn (môn chủ thể và khách thể nương tựa lẫn nhau).

          - Tám, thường vô thường môn (môn phân định thường và vô thường).

          - Chín, tứ cú phân biệt môn (môn phân biệt dựa theo bốn câu).

 

5.3.4.2.2.3.1. Giả thật phân biệt môn

 

          Đối với giả và thật, kinh văn chia thành năm điều:

          - Một là nêu ra.

          - Hai là giải thích.

          - Ba là gạn hỏi.

          - Bốn là giải đáp.

          - Năm là kết lại.

          Đoạn này chính là hai điều đầu, [tức là Pháp Thân] làm căn bản cho hai thân trước (Ứng Thân và Hóa Thân). Nương theo lời giải thích trong phần trước, Pháp Thân lẫn ba thân (Hóa Thân, Tự Thọ Dụng và Tha Thọ Dụng) đều thuộc vào Trí, tức biện định Biến Hóa Thân (Hóa Thân) và Tha Thọ Dụng là giả danh Phật, do biến hóa mà dấy lên, lấy Như làm gốc, từ trí mà biến hiện, khởi lên. V́ thế, [Pháp Thân] làm căn bản cho hai thân trước. Nếu xét theo phương diện Pháp Thân chỉ thuộc vào Như Như, Như Như vốn chẳng từ cái ǵ khác mà sanh khởi; v́ thế, [Pháp Thân] được gọi là “thật”. Ứng Thân nương vào Pháp Thân mà dấy lên, Hóa Thân nương vào Ứng Thân mà khởi. V́ thế, cả hai thân trước (Ứng Thân và Hóa Thân) đều là giả hữu.

 

          (Kinh) Hà dĩ cố?

          ()何以故

          (Kinh: V́ sao vậy?)

 

          Tán rằng: Gạn hỏi v́ lẽ nào mà Pháp Thân là chỗ nương vào của hai thân trước?

 

          (Kinh) Ly pháp Như Như, ly vô phân biệt trí, nhất thiết chư Phật vô hữu biệt pháp.

          ()離法如如離無分別智一切諸佛無有別法

          (Kinh: Ĺa pháp Như Như, ĺa trí vô phân biệt, hết thảy chư Phật chẳng có pháp nào khác).

 

          Tán rằng: [Đây là lời] giải thích. Trước là giải thích bằng cách nói tương phản, sau là nói theo ư thuận để kết thành. Đây là phần trước.

 

          (Kinh) Nhất thiết chư Phật trí huệ cụ túc, nhất thiết phiền năo cứu cánh diệt tận, đắc thanh tịnh Phật địa.

          ()一切諸佛智慧具足一切煩惱究竟滅盡得清淨佛地

          (Kinh: Hết thảy chư Phật trí huệ trọn đủ, hết thảy phiền năo rốt ráo diệt hết, đạt được địa vị Phật thanh tịnh).

 

          Tán rằng: Nói theo ư thuận để kết lại. Kinh Thắng Man dạy: “Tại triền danh Như Lai Tạng, xuất triền danh Pháp Thân” (c̣n bị phiền năo trói buộc th́ gọi là Như Lai Tạng, thoát khỏi phiền năo trói buộc gọi là Pháp Thân). Ở đây nói trí huệ trọn đủ là Như Như Trí, hết thảy diệt sạch tức là Pháp Như Như. V́ thế, có đủ cả hai loại.

 

          (Kinh) Thị cố, pháp Như Như, Như Như Trí nhiếp nhất thiết Phật pháp.

          ()是故法如如如如智攝一切佛法

          (Kinh: V́ thế, pháp Như Như và Như Như Trí thâu nhiếp hết thảy Phật pháp).

 

          Tán rằng: Đây là phần kết luận. Có thể biết Pháp Thân tịnh diệu của Như Lai lại chính là Chân Như, là chỗ nương vào của ngộ và mê. V́ thế, [Pháp Thân] là cái gốc của hai thân trước.

 

5.3.4.2.2.3.2. Nhị lợi phân biệt môn

 

          (Kinh) Phục thứ, thiện nam tử! Nhất thiết chư Phật lợi ích tự tha chí ư cứu cánh.

          ()復次善男子一切諸佛利益自他至於究竟

          (Kinh: Lại này thiện nam tử! Hết thảy chư Phật lợi ích chính ḿnh và người khác cho đến rốt ráo).

 

          Tán rằng: Đây là môn thứ hai, tức “nhị lợi phân biệt môn”. Trong ấy, có hai phần:

          - Một, biện định hai điều lợi.

          - Hai, từ “thiện nam tử, vân hà pháp Như Như” (thiện nam tử, thế nào là pháp Như Như) trở đi, giải trừ nghi t́nh.

          Trong phần thứ nhất, lại có hai tiểu đoạn: Trước là pháp thuyết, sau là thí dụ. Trong phần pháp thuyết, lại có ba tiểu đoạn: Đầu tiên là nêu ra, kế đó là giải thích, cuối cùng là kết luận. Đoạn này thuộc phần nêu ra. Nói “lợi ích tự tha chí ư cứu cánh” (lợi ích chính ḿnh và người khác cho đến rốt ráo) th́ tự lợi là cho đến khi thành Phật th́ là rốt ráo. Đối với người có tánh tam thừa, sẽ khiến cho họ đạt được quả địa rốt ráo. Đối với người vô tánh (chẳng phải là chủng tánh tam thừa) th́ cũng là vô cùng tận giống hệt, chẳng nhập Niết Bàn ḥng tạo lợi ích cho họ. Do vậy, cũng nói là “rốt ráo”.

 

          (Kinh) Tự lợi ích giả thị pháp Như Như. Lợi ích tha giả thị Như Như Trí.

          ()自利益者是法如如利益他者是如如智

          (Kinh: Lợi ích chính ḿnh là pháp Như Như. Lợi ích người khác là Như Như Trí).

 

          Tán rằng: Đây là phần giải thích. Trước hết, giải thích hai điều lợi; sau đó, giải thích nguyên do. Đoạn này thuộc ư trước. Như Như ngưng lặng, phần nhiều là tự lợi. Như Trí dấy lên tác dụng th́ phần nhiều là lợi ích người khác. Bộ Nhiếp Luận đời Lương nói: “Nếu coi Pháp Thân là Ứng Thân Phật, sẽ chẳng có ư nghĩa lợi ích chúng sanh. Nếu coi Ứng Thân là Pháp Thân Phật, sẽ chẳng có ư nghĩa an lạc trong đời hiện tại”.

          Hỏi: Các thuyết về hai điều lợi (tự lợi và lợi tha) có ba loại bất đồng:

          - Một là như Tạp Tập Luận nói: “Chỗ y chỉ của tự lợi và tha lợi”. Duy Thức cũng thế. Tự tánh Pháp Thân chỉ là tự lợi cũng kiêm thêm lợi tha, bao gồm hai điều lợi, là chỗ y chỉ của Tự Thọ Dụng và Biến Hóa. Tự Thọ Dụng Thân là tự lợi; Tha Thọ Dụng Biến Hóa là lợi tha, do v́ người khác mà hiện.

          - Hai là như kinh Vô Thượng Y và luận Bảo Tánh nói Pháp Thân là tự lợi, Ứng Thân và Hóa Thân là lợi tha.

          - Ba là kinh này.

          V́ sao như thế?

          Đáp: Trong Tạp Tập và Duy Thức, [biện định] tự tánh Pháp Thân bao gồm cả hai điều lợi, tức là hoàn toàn luận theo lư. C̣n như kinh Vô Thượng Y v.v… do nói theo tác dụng chánh yếu của tự tánh Pháp Thân mà bảo là tự lợi. Ứng Thân và Hóa Thân lợi tha, do xét theo Tha Thọ Dụng gọi là Ứng Phật, cho nên đều là lợi tha. Như Như trong kinh này giống như trong kinh Vô Thượng Y. Như Như Trí lợi tha là xét theo B́nh Đẳng Tánh Trí và Thành Sở Tác Trí, khởi lên hai thân Tha Thọ Dụng và Biến Hóa của Phật, cho nên nói là “lợi tha”. Ứng Thân trong Tạp Tập Luận là tự lợi, v́ nói theo phương diện Tự Thọ Dụng mà gọi là Ứng Thân. Thành Duy Thức Luận xét theo phương diện Ứng Thân thông với hai thân Thọ Dụng (Tự Thọ Dụng và Tha Thọ Dụng), cho nên thành cả hai điều lợi (tự lợi và lợi tha). Do mỗi kinh hay luận đều dựa theo một nghĩa [mà nói khác nhau, nhưng xét theo thực chất], đều chẳng hề mâu thuẫn!

          [Hỏi: Đối với vấn nạn] lợi ích người khác là Như Như Trí, v́ sao chẳng nói là Ứng Thân và Hóa Thân?

          Đáp: Có hai cách giải thích:

          - Một, do nêu ra cái Thể của năng biến (chủ thể có thể biến hiện) là hai trí, do là cái Thể của chuyện lợi tha, cái thân được khởi lên chỉ là sắc, là tác dụng của lợi tha, cho nên chẳng bàn tới. Duy Thức Luận v.v… nói Tha Thọ Dụng và Biến Hóa gọi là lợi tha, chính là xét theo tác dụng mà nói đến cái được biến (cái thân biến hiện). Kinh Đại Phẩm Bát Nhă nói “hóa Phật vô tâm, vân hà phân biệt phá hoại chư pháp, phá hoại khai diễn chi nghĩa? (hóa Phật vô tâm, làm sao phân biệt phá hoại các phápphá hoại nghĩa được khai diễn?”) Hoặc nói: Do hai thân ấy chính là cái quả của trí đó, bèn nói theo tên gọi của cái trí ấy, chứ thật ra là Ứng Thân và Hóa Thân. Nếu không, thí dụ trong phần sau sẽ chẳng tương tự cho lắm.

          - Hai, căn cứ theo tứ trí th́ cũng là Pháp Thân. Sự tịch tĩnh bên trong Chân Như được nói là “tự lợi”, trí có tác dụng bên ngoài th́ được nói là “lợi tha”. Chẳng nói tới Ứng Thân và Hóa Thân, ư nghĩa giống như trong phần trên.

 

          (Kinh) Năng ư tự tha lợi ích chi sự, nhi đắc tự tại, thành tựu chủng chủng vô biên dụng cố.

          ()能於自他利益之事而得自在成就種種無邊用故

          (Kinh: Có thể đối với chuyện lợi ích chính ḿnh và người khác đều được tự tại, do thành tựu vô biên các loại tác dụng).

 

          Tán rằng: Giải thích nguyên do. Do ba thân ấy đối với tự lợi và lợi tha đều đạt được tự tại, đều tạo thành vô biên các loại tác dụng. V́ thế, Thành Duy Thức nói: “Ba thân như thế tuy đều trọn đủ vô biên công đức, nhưng mỗi thân mỗi khác”. Nói “nhi đắc tự tại” (mà được tự tại), th́ tự tại có ba loại, như quyển thứ mười hai của Tạp Tập Luận đă nói: “Y chỉ tự tại để tu cũng có ba loại: Một là thân tự tại, tức tự tánh thân và Thọ Dụng thân. Hai là hạnh tự tại, tức Biến Hóa Thân. Ba là thuyết tự tại, nghĩa là có thể nói Lục Độ v.v… Đă duyên theo đấy, cầu điều ấy, nương theo điều ấy để cầu điều này, cho nên biết thân Phật có ba điều tự tại, thành tựu vô biên hai loại tác dụng lợi ích”.

 

          (Kinh) Thị cố, phân biệt nhất thiết Phật pháp hữu vô lượng vô biên chủng chủng sai biệt.

          ()是故分別一切佛法有無量無邊種種差別

          (Kinh: Do vậy, phân biệt hết thảy Phật pháp có vô lượng vô biên các thứ sai biệt).

 

          Tán rằng: Kết lại. “Nhất thiết Phật pháp” (Hết thảy Phật pháp) chính là ba loại Phật thân. Kinh Đại Phẩm dạy: “Xuất tam giới cố vô lượng, việt thập phương cố vô biên, nghĩa dụng chúng đa, vân chủng chủng sai biệt” (Do thoát khỏi tam giới nên vô lượng, do vượt ngoài mười phương nên vô biên, do có nhiều nghĩa dụng, nên nói là các thứ sai biệt).

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Thí như y chỉ vọng tưởng tư duy, thuyết chủng chủng phiền năo, thuyết chủng chủng nghiệp dụng, chủng chủng quả báo.

          ()善男子譬如依止妄想思惟說種種煩說種種業用種種果報

     (Kinh: Thiện nam tử! Ví như nương vào vọng tưởng để tư duy, nói các thứ phiền năo, nói các thứ nghiệp dụng, các thứ quả báo).

 

          Tán rằng: Kế đó, dựa theo thí dụ để nêu rơ. Có hai phần:

          - Một, hai thí dụ đầu nhằm sánh ví hai điều lợi.

          - Hai, một thí dụ sau để tỏ rơ sự trang nghiêm.

          Phần đầu lại chia thành hai đoạn:

          - Một, thí dụ và kết hợp với pháp để nêu rơ tác dụng lợi tha.

          - Hai, thí dụ và kết hợp với pháp để nêu rơ tác dụng tự lợi.

          Đây là thí dụ đầu tiên. Vọng tưởng tư duy sánh ví Như Như Trí có thể tùy ư khởi lên suy nghĩ lợi tha. Như kinh Pháp Hoa dạy: “Ư tam thất nhật trung, tư duy như thị sự” (trong hai mươi mốt ngày, tư duy chuyện như thế). Nói “vọng tưởng” là sánh ví thật sự chẳng suy nghĩ, giả dấy lên suy nghĩ. Nói “chủng chủng phiền năo” (các thứ phiền năo) nhằm sánh ví Hóa Thân v́ hàng Nhị Thừa mà nói các thứ phiền năo. “Chủng chủng nghiệp” (các thứ nghiệp) là sánh ví khởi lên Ứng Thân, v́ hàng Bồ Tát nói các thứ nghiệp. “Chủng chủng quả báo” (các thứ quả báo): Sánh ví chuyện khiến cho người khác do nghe pháp xong, sẽ đạt được cái quả thế gian hoặc xuất thế gian. Hay thí dụ ấy nhằm nói: Do đoạn tam chướng thành tựu ba thân. Nói các thứ phiền năo, khiến cho [người nghe] đạt được Ứng Thân. Nói các thứ nghiệp để khiến cho họ đạt được Hóa Thân. Nói các thứ báo để khiến cho họ đạt được Pháp Thân. V́ thế, kinh văn trong đoạn sau nói: “Hoặc chướng thanh tịnh, năng hiện Ứng Thân. Nghiệp chướng thanh tịnh, năng hiện Hóa Thân. Trí chướng thanh tịnh, năng hiện Pháp Thân” (Do đă thanh tịnh Hoặc chướng, có thể hiện Ứng Thân. Do đă thanh tịnh nghiệp chướng, có thể hiện Hóa Thân. Do đă thanh tịnh trí chướng, có thể hiện Pháp Thân). Quả báo thuộc về Trí Chướng. Tuy Phật Địa Luận đối với hai chướng đều nêu ra cái nghiệp phát khởi và cái quả đạt được, nói gộp chung quả báo là chỗ để tập khí nương vào. Nếu chẳng có quả báo, tập khí mới hết.

          Lại giải rằng: Chuẩn theo phần kinh văn kết hợp [thí dụ với pháp] trong phần sau, nói các thứ phiền năo nhằm sánh ví Đại Thừa. Do Đại Thừa nghiệp vốn thuộc về Hữu Dư, dường như là có Hoặc và có cái quả của nghiệp. Theo thứ tự, nghiệp quả ví như Độc Giác và Thanh Văn. Căn cơ thuộc bậc trên có thể hóa độ kẻ dưới, như Duyên Giác Thừa có thể hóa độ Thanh Văn. Quả báo là nói sánh ví Thanh Văn Thừa. Nhưng Độc Giác Thừa khi sắp đắc quả, chẳng nhờ vào ngôn giáo; [tuy vậy], thoạt đầu phát tâm, để hiểu địa vị tu hành, ắt phải cậy vào ngôn giáo. V́ thế, kinh Pháp Hoa luôn nói “tùng Phật văn pháp cố” (do được nghe pháp từ đức Phật). Đầu tiên là hiểu thí dụ hiện thân, kế đó là hiểu thí dụ khiến cho đạt được thân, giải thích sau cùng là hiểu thí dụ về chuyện “v́ hóa độ mà thuyết pháp”. Đă phán định là thí dụ về lợi tha, đấy là hiểu hoàn toàn theo lư. Nói chung là tác dụng của lợi ích bao gồm cả ba cách giải thích.

          Lại giải rằng: Thí dụ về tác dụng của hai điều lợi là Tổng, cũng như sánh ví lợi tha chính là Biệt. V́ thế, bao gồm cả ba cách giải thích, nhưng trong phần kết hợp thí dụ với pháp, chỉ kết hợp pháp với chuyện nhằm lợi tha mà thuyết pháp, các điều khác lược đi, chẳng kết hợp!

 

          (Kinh) Như thị y pháp Như Như, y Như Như trí, thuyết chủng chủng Phật pháp, thuyết chủng chủng Độc Giác pháp, thuyết chủng chủng Thanh Văn pháp.

          ()如是依法如如依如如智說種種佛種種獨覺法說種種聲聞

          (Kinh: Nương vào pháp Như Như, nương vào Như Như Trí như thế, nói các thứ Phật pháp, nói các thứ pháp Độc Giác, nói các thứ pháp Thanh Văn).

 

          Tán rằng: [Đây là phần] kết hợp [thí dụ] với pháp. Căn tánh, ư thích v.v… của người thuộc tam thừa mỗi người mỗi khác. Trong các địa vị phương tiện, th́ chủng tánh, hạnh giải, tiến nhập mỗi người mỗi khác. V́ thế nói là “chủng chủng Phật pháp” (các thứ Phật pháp).

 

           (Kinh) Y pháp Như Như, y Như Như trí, nhất thiết Phật pháp tự tại thành tựu, thị vi đệ nhất bất khả tư nghị.

          ()依法如如依如如智一切佛法自在成就是為第一不可思議

           (Kinh: Nương vào pháp Như Như, nương vào Như Như trí, hết thảy Phật pháp tự tại thành tựu. Đó là điều chẳng thể nghĩ bàn bậc nhất).

 

          Tán rằng: Kế đó, kết hợp thí dụ với pháp. Nêu rơ tác dụng của tự lợi, chia thành ba phần:

          - Một là pháp thuyết.

          - Hai là thí dụ.

          - Ba là kết hợp pháp với thí dụ.

          Đây là phần thứ nhất.

          Hỏi: Trong thí dụ về lợi tha, sao không trước là nêu ra pháp, kế đó là thí dụ, cuối cùng là kết hợp vậy?

          Đáp: Do [phần lợi tha] gần với pháp được nói trước đó, lại c̣n v́ tỉnh lược! Chỗ này đă cách xa pháp trước, cho nên nói rộng. Do đó, trước hết là nêu ra pháp, kế đó là thí dụ, cuối cùng là kết hợp.

          Hỏi: Trong phần tự lợi trên đây, chỉ nói tự lợi là pháp Như Như. V́ sao trong thí dụ này, tác dụng của tự lợi cũng là Như Như trí?

          Đáp: Phần trước là dựa theo sự ngưng lặng, pháp Như Như tăng thêm tự lợi, [cho nên] chỉ nói đến Như Như. Nay nói kèm thêm lợi tha, nên Như Như trí cũng là tự lợi. Lại nữa, phần trước dựa theo Như Như trív́ người khác mà khởi tác dụng “hiện thân thuyết pháp”, cho nên là lợi tha. Ở đây, dựa theo sự đoạn chướng, nội chứng Như Như, tức là tự lợi. Do vậy, chẳng mâu thuẫn! Có thể hiểu là [đoạn này nhằm] kết lại phần trước, ư nghĩa cũng chẳng mâu thuẫn.

 

          (Kinh) Thí như họa không tác trang nghiêm cụ, thị nan tư nghị.

          ()譬如畫空作莊嚴具是難思議

          (Kinh: Ví như vẽ lên không trung để làm vật trang nghiêm, đó là khó nghĩ bàn!)

         

          Tán rằng: Kế đó là thí dụ về sự trang nghiêm, nêu ra thí dụ vẽ lên hư không để làm vật trang nghiêm. Như hư không vô tướng, vật trang nghiêm cũng vô tướng. V́ thế, khó nghĩ tưởng! “Như” ví như hư không, Như Như Trí ví như vẽ vời. Hoặc [có thể hiểu là] các nghĩa công đức nơi Như Như giống như vật trang nghiêm trên hư không, đều là vô tướng, là khó nghĩ bàn!

 

          (Kinh) Như thị y pháp Như Như, y Như Như trí, thành tựu Phật pháp diệc nan tư nghị.

          ()如是依法如如依如如智成就佛法亦難思議

          (Kinh: Nương theo pháp Như Như, nương theo Như Như Trí như thế, thành tựu Phật pháp cũng khó nghĩ bàn).

 

          Tán rằng: Nêu lên chuyện kết hợp với pháp. Nương vào Như Như và nương vào Như Như Trí như vậy để thành tựu Pháp Thân Phật pháp. Hoặc [có thể hiểu] Như Như là tánh, Như Như Trí “nghĩa công đức”. Nghĩa công đức chính là Pháp Thân. Nương vào Như mới có; v́ thế, gộp cả hai lại để nói, như Chân Đế Tam Tạng giải thích: “Thí dụ vẽ lên hư không và nêu ra pháp trong phần trước đều là ngoại nghi, nghi rằng: ‘Như Như và Trí đều là vô phân biệt, sao có thể nói là tác dụng lợi ích của Ứng Thân và Hóa Thân cho được?’ Như vẽ trên hư không thành vật trang nghiêm ư? Điều này cực khó hiểu, khó tin, nhưng nghĩa cũng chẳng mâu thuẫn!”

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Vân hà pháp Như Như, Như Như trí nhị vô phân biệt, nhi đắc tự tại sự nghiệp thành tựu?

          ()善男子云何法如如如如智二無分別而得自在事業成就

          (Kinh: Thiện nam tử! V́ sao Như Như và Như Như Trí cả hai đều vô phân biệt mà được tự tại thành tựu sự nghiệp?)

 

          Tán rằng: Tiếp đó, cởi gỡ mối nghi thuộc về t́nh kiến, có hai đoạn:

          - Trước là nhắc lại điều nghi.

          - Sau là nêu thí dụ và giải thích.

          Đoạn này là nhắc lại mối nghi. Nghi gồm hai điều:

          - Một, nghi đối với bậc xuất thế.

          - Hai, nghi đối với người thế gian.

          Lại c̣n là hai hạng người là học và chẳng học đều nghi.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Thí như Như Lai nhập ư Niết Bàn, nguyện tự tại cố, chủng chủng sự nghiệp giai đắc thành tựu.

          ()善男子譬如如來入於涅槃願自在故種種事業皆得成就

          (Kinh: Thiện nam tử! Ví như Như Lai nhập Niết Bàn, do nguyện tự tại, các thứ sự nghiệp đều được thành tựu).


          Tán rằng: Kế đó,
dùng thí dụ để giải thích. Có bốn thí dụ: Hai thí dụ đầu là nói về người xuất thế, hai thí dụ sau nói về người thế gian. Đối với người xuất thế, trước hết, nêu thí dụ đức Phật diệt độ, chẳng có phân biệt mà có thể lợi tha. Sau đó, nêu thí dụ về sự kém cỏi để suy ra sự thù thắng. Kinh văn thuộc phần trước gồm hai tiểu đoạn: Trước là thí dụ, sau là kết hợp thí dụ với pháp. Ở đây là nêu thí dụ, nêu ra sự nhận thức đối với Niết Bàn của hàng Nhị Thừa. Họ cho rằng Phật đă nhập diệt th́ thân lẫn trí đều chẳng có, giống như Như Như chẳng có tướng. Họ tin rằng sau khi diệt độ, chuyện giáo hóa đă được thành tựu. Như sau khi Niết Bàn, [đức Phật] lại thị hiện tḥ hai chân ra khỏi kim quan, hoặc xá-lợi biến hóa các thứ sự nghiệp đều được hiển hiện. V́ thế, nêu ra thí dụ.

 

          (Kinh) Pháp Như Như, Như Như Trí tự tại sự thành, diệc phục như thị.

          ()法如如如如智自在事成亦復如是

          (Kinh: Pháp Như Như và Như Như Trí tự tại thành tựu sự nghiệp cũng giống như thế).

         

          Tán rằng: Phần kết hợp pháp với thí dụ dễ biết.

 

          (Kinh) Phục thứ, Bồ Tát Ma Ha Tát nhập vô tâm định, y tiền nguyện lực, tùng Thiền Định khởi, tác chúng sự nghiệp.

          ()復次菩薩摩訶薩入無心定依前願力從禪定起作眾事業

          (Kinh: Lại nữa, Bồ Tát Ma Ha Tát nhập vô tâm định, nương vào sức nguyện lực trên đây, từ Thiền Định khởi, thực hiện các sự nghiệp).

 

          Tán rằng: Đây là phần thứ hai, nêu ra thí dụ về sự kém cỏi để liên tưởng sự thù thắng. Kinh văn cũng gồm hai phần, tức là thí dụ và kết hợp [thí dụ với pháp]. Đây là phần thứ nhất. Bồ Tát nhập Diệt Định (Diệt Tận Định), sáu thức đă chẳng hiện hành, vô phân biệt, cũng có các thứ sự nghiệp biến hóa.

          Hỏi: V́ sao chẳng nêu thí dụ hàng Nhị Thừa kém cỏi?

          Đáp: Do Nhị Thừa nhập Diệt Định chẳng thể dấy lên sự nghiệp. Trong quyển hai của kinh Vô Cấu Xưng, ngài Vô Cấu (Duy Ma Cật) quở trách Xá Lợi Phất: “Phù yến tọa giả, bất khởi Diệt Định, nhi hiện chư oai nghi, thị vi yến tọa” (Phàm ngồi yên th́ là chẳng khởi Diệt Định mà hiện các oai nghi, đó là ngồi yên)[14] v.v… Nói cặn kẽ ư nghĩa của Diệt Tận Định th́ như [các kinh luận] khác đă biện định. Diệt Định (Diệt Tận Định) ví như Như Như. Nguyện trong phần trên nhằm sánh ví bổn nguyện, “tác chúng sự nghiệp” (thực hiện các sự nghiệp) nhằm sánh ví nghiệp dụng của Ứng Thân và Hóa Thân.

 

          (Kinh) Như thị nhị pháp vô hữu phân biệt, tự tại sự thành.

          ()如是二法無有分別自在事成

          (Kinh: Hai pháp như thế, chẳng có phân biệt, tự tại thành tựu các sự).

         

          Tán rằng: Đây là phần kết hợp [thí dụ với pháp]. Diệt Định và chuyện dấy lên các sự (tạo tác các sự nghiệp), cả hai đều vô phân biệt; sự nghiệp hóa độ người khác được tự tại thành tựu. Lại giải rằng: Như nhập Diệt Định, tuy vô phân biệt, nhưng hai chuyện Ứng và Hóa được thành tựu. Lại có thể hiểu rằng: Kết hợp với pháp trong phần trên, th́ Như Như Trí chẳng có phân biệt, nhưng sự nghiệp tự tại thành tựu. Chuẩn theo ư vấn nạn trước đó, cách giải thích này hay hơn, do trước đó, đă nghi rằng: V́ sao pháp Như Như và Như Như Trí cả hai đều vô phân biệt mà sự nghiệp thành tựu? V́ thế nay gộp lại.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Thí như nhật nguyệt vô hữu phân biệt, diệc như thủy kính vô hữu phân biệt, quang minh diệc vô phân biệt, tam chủng ḥa hợp, đắc hữu ảnh sanh.

          ()善男子譬如日月無有分別亦如水鏡無有分別光明亦無分別三種和合得有影生

          (Kinh: Thiện nam tử! Ví như mặt trời, mặt trăng chẳng có phân biệt, cũng như nước và gương chẳng có phân biệt, quang minh cũng chẳng phân biệt, nhưng ba thứ ḥa hợp bèn có h́nh bóng sanh ra).

 

          Tán rằng: Tiếp đó, trừ nghi cho kẻ chẳng học trong thế gian, cũng có hai thí dụ:

          - Trước là nêu ra thí dụ về hữu thể, tuy vô phân biệt, mà có h́nh bóng sanh ra.

          - Sau là nêu thí dụ về vô thể, tuy vô phân biệt, mà cũng có h́nh bóng sanh ra.

          Hai thí dụ trước đó cũng thế. Đă nhập Niết Bànnêu ra [thí dụ về] vô thể. Nhập Diệt Định khởi nêu ra [thí dụ về] hữu thể. Nay trong hữu thể, trước là thí dụ, sau là kết hợp. Đoạn này là thí dụ. Ngài Chân Đế Tam Tạng nói: “Mặt trời, mặt trăng ví như Như Như. Nước và gương ví như bổn nguyện từ bi. Quang minh ví như Như Như Trí, h́nh bóng ví như Ứng Hóa Thân”. Nay lại giải thích rằng: Xét theo phần kết hợp thuộc đoạn sau nói: “Dĩ nguyện tự tại, chúng sanh hữu cảm, hiện ng Hóa Thân” (Do nguyện tự tại, chúng sanh có cảm, bèn hiện thân ng Hóa). Dùng thí dụ nước hiện bóng để sánh ví các pháp Như Như v.v… tương ứng với sức Định nguyện. Dùng thí dụ gương sanh ra bóng để sánh ví căn cơ của chúng sanh. Mặt trời, mặt trăng ví như pháp Như Như, quang minh ví như Như Như Trí. Theo Nhiếp Đại Thừa Luận, nước ví như chúng sanh có tánh trơn nhuận của tam-ma-địa, hiện h́nh bóng của mặt trăng v.v… Tức là hai thứ gương và nước đều nhằm sánh ví căn cơ của chúng sanh, mặt trời và mặt trăng là pháp Như Như và Như Như Trí, ánh sáng ví như bổn nguyện. Tuy vô phân biệt, nhưng do bổn nguyện và sức cảm vời của chúng sanh, cho nên có ứng hóa. Nhưng chuẩn theo kinh dạy: “Diệc như thủy kính, vô hữu phân biệt” (cũng như nước và gương chẳng có phân biệt), tức là cách giải thích trước hay hơn. Chuẩn theo phần kết hợp thí dụ với pháp trong phần sau có nói: “Dĩ nguyện tự tại lực, chúng sanh hữu cảm” (do sức tự tại của nguyện, chúng sanh có cảm) th́ cách giải thích sau hay hơn. [Người nghe hăy] tùy ư mà lấy hay bỏ (tức là tùy ư chấp nhận cách giải thích nào cũng được)!

 

          (Kinh) Như thị pháp Như Như, Như Như trí diệc vô phân biệt, dĩ nguyện tự tại cố, chúng sanh hữu cảm, hiện Ứng Hóa Thân, như nhật, nguyệt, ảnh ḥa hợp xuất hiện.

          ()如是法如如如如智亦無分別以願自在故眾生有感現應化身如日月影和合出現

          (Kinh: Pháp Như Như và Như Như trí như thế cũng chẳng phân biệt, do nguyện tự tại, chúng sanh có cảm, liền hiện thân ứng hóa, như mặt trời, mặt trăng và h́nh bóng ḥa hợp mà xuất hiện).

 

          Tán rằng: Kết hợp thí dụ với pháp.

 

          (Kinh) Phục thứ, thiện nam tử! Thí như vô lượng vô biên thủy kính, y ư quang cố, không ảnh đắc hiện chủng chủng dị tướng.

          ()復次善男子譬如無量無邊水鏡依於光故空影得現種種異相

          (Kinh: Lại này thiện nam tử! Ví như vô lượng vô biên nước và gương, do nương vào ánh sáng mà h́nh bóng trong hư không hiện ra các thứ tướng khác nhau).

 

          Tán rằng: Nêu thí dụ hư không vô thể. Trước là nêu thí dụ để nói, sau là dựa theo lời vấn nạn để giải thích. Nước và gương ví như căn cơ của hữu t́nh. Y ư quang” (nương vào ánh sáng) ví như sức bổn nguyện. Hư không ví như pháp Như Như và Như Như Trí. “Hiện bóng”: Ứng Hóa Thân từ ánh sáng của sức bổn nguyện hợp với không pháp Như Như v.v… mà ứng hóa, hiện ra các thứ sự nghiệp lợi tha. Hoặc nói rằng: Hư không hiện bóng là như không trung chẳng bị mây che, nương vào chỗ có nước hay gương mà hiện h́nh bóng. Nói không ảnh” (h́nh bóng trong hư không) tức là cái Thấy của thế tục đối với trời xanh rỗng rang, bầu trời hiện bóng trong nước hay gương. Hư không chẳng xanh, mà [hữu t́nh chúng sanh] thấy là xanh, như nơi pháp Như Như và Như Như Trí mà hiện ứng hóa. Hoặc chỉ sánh ví “do cơ duyên cảm vời liền hiện”, chẳng phải là lư Như Như hiện thân Ứng Hóa. Đấy là dựa theo Duy Thức và ngài An Huệ[15] luận định về vô kiến tướng để giải thích.

 

          (Kinh) Không giả tức thị vô tướng.

          ()空者即是無相

          (Kinh: Không chính là vô tướng).

 

          Tán rằng: Dựa theo vấn nạn để giải thích. Do hư không chẳng có h́nh sắc, cho nên sánh ví [hư không với] Pháp Thân.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Như thị thọ hóa chư đệ tử đẳng, thị Pháp Thân ảnh.

          ()善男子如是受化諸弟子等是法身影

          (Kinh: Thiện nam tử! Các đệ tử được hóa độ như thế là h́nh bóng của Pháp Thân).

 

          Tán rằng: [Đây là] phần kết hợp thí dụ với pháp. Trước tiên, nói đến cái thân được thấy, sau đó nói nguyên do có thân, rồi gộp lại để kết luận chẳng khác!” Nếu dựa theo bản kinh do ngài Chân Đế dịch, phải nên nói: “Như thị thọ hóa chi chúng thị năng cảm cơ” (những người được hóa độ như thế chính là căn cơ có thể cảm vời). “Chư đệ tử đẳng” (các hàng đệ tử) chính là [nói tới các vị] Bồ Tát, cũng có thể hiện hai thân Ứng Thân và Hóa Thân. Hiện hai thân Ứng Hóa chính là h́nh bóng của Pháp Thân. Như trong phần trước, thoạt đầu là nêu thí dụ đức Phật bát Niết Bàn; sau đó, nêu thí dụ Bồ Tát nhập Diệt Định.

          Lại có thể giải rằng: Trong đoạn kinh văn này, các đệ tử được giáo hóa như thế chính là căn cơ có thể cảm vời, là h́nh bóng của Pháp Thân. Kinh văn trong phần này nói giản lược, phải hiểu là “chư đệ tử đẳng sở kiến Ứng Hóa thị Pháp Thân ảnh” (thân Ứng Hóa mà các đệ tử trông thấy chính là h́nh bóng của Pháp Thân). Vốn nghi Pháp Thân của Như Lai vô phân biệt, sao có thể khởi lên hai thân Ứng và Hóa? Chẳng nghi đệ tử có thể khởi! Nhưng Pháp Như Như v.v… tuy vô phân biệt, do nguyện lực sẽ khiến cho nơi tâm đệ tử thấy có, tức là sự nghiệp của Ứng Hóa sanh khởi!

 

          (Kinh) Dĩ nguyện lực cố, ư nhị chủng thân, hiện chủng chủng tướng, ư Pháp Thân địa, vô hữu dị tướng.

          ()以願力故於二種身現種種相於法身地無有異相

          (Kinh: Do bởi nguyện lực, đối với hai loại thân, hiện các thứ tướng, nơi địa vị Pháp Thân, chẳng có tướng khác).

 

          Tán rằng: Nói rơ nguyên do có Ứng Thân và Hóa Thân, rồi gộp lại để kết luận [hai thân ấy] chẳng khác biệt. “Chẳng khác” tức là nói gộp lại: Pháp Thân không có tướng phân biệt. Nói “nhị chủng thân” (hai loại thân) tức là Ứng Thân và Hóa Thân, hoặc do Phật hiện, hoặc do Bồ Tát hiện, được gọi là “hai loại thân”. Tuy hiện tướng khác nhau, nhưng nơi địa vị Pháp Thân th́ chẳng phân biệt tướng khác nhau sai biệt!


5.3.4.2.2.3.3. Hữu Dư Vô Dư phân biệt môn

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Y thử nhị thân, nhất thiết chư Phật thuyết Hữu Dư Niết Bàn.

          ()善男子依此二身一切諸佛有餘涅槃

          (Kinh: Thiện nam tử! Nương vào hai thân này, hết thảy chư Phật nói Hữu Dư Niết Bàn).

 

          Tán rằng: Môn thứ ba là Hữu Dư Vô Dư phân biệt, nói đến ba loại Niết Bàn, tức là [kinh văn trong phần này gồm có] ba đoạn. Đây là đoạn thứ nhất, nói về Hữu Dư Niết Bàn. Trong bốn loại Niết Bàn (tự tánh thanh tịnh Niết Bàn, Hữu Dư Y, Vô Dư Y, Vô Trụ Xứ), ngoại trừ tự tánh thanh tịnh Niết Bàn chẳng do đoạn chứng th́ hết thảy [mọi người] đều cùng có. V́ thế, chẳng nói về loại ấy. Hữu Dư Niết Bàn phải nên nói là Niết Bàn được hiển lộ bởi Hữu Dư Y, và Niết Bàn được hiển lộ bởi Vô Dư Y [th́ gọi là Vô Dư Y Niết Bàn], nay tỉnh lược chữ Y. Xét ra, trong quyển năm mươi của Du Già Sư Địa Luận, đối với địa vị Hữu Dư Y, có ba loại thi thiết[16]:

          - Một là địa thi thiết.

          - Hai là tịch tĩnh thi thiết.

          - Ba là y thi thiết.

          “Địa” tức là nói theo mười bảy địa[17]. Tịch tĩnh th́ có bốn loại[18]. Y thi thiết th́ có tám loại “y” (nương tựa)[19], một là Thi Thiết Y, hai là Nhiếp Thọ Y, ba là Trụ TY, bốn là Lưu Chuyển Y, tức Tứ Thức Trụ, năm là Chướng Ngại Y, tức là thiên ma, sáu là Khổ Năo Y, tức hết thảy Dục Giới, bảy là Thích Duyệt Y, tức là nương vào Tĩnh Lự, tám là Hậu Biên Y. “Y” là cái để nương vào.

          “Thi thiết y”: Ngă pháp là thi thiết, tức là sự lập định được giả lập trong thánh giáo thế gian. Đây là nương vào Thủ Uẩn[20], tức là lấy Thủ Uẩn làm chỗ để nương vào. Các nghĩa khác cứ chuẩn theo đó mà suy ra.

          Hỏi: Nói tới Hữu Dư Y Niết Bàn th́ có mấy loại Dư Y?

          Đáp: Dựa theo quyển năm mươi của luận Du Già Sư Địa đă viết: “Hăy nên nói là một mực tương ứng với một loại Y, tức là Hậu Biên Y”. Ư của luận ấy là: Hữu Dư chính là Hậu Biên Y. Hậu Biên Y nghĩa là A La Hán [duy tŕ] liên tục các Uẩn, tức là Hậu Biên Y và sáu chuyện nhiếp thọ chẳng cùng tương ứng, một mực hoàn toàn chẳng tương ứng với Lưu Chuyển Y và Chướng Ngại Y. Những thứ c̣n lại chẳng phải là tương ứng, mà cũng chẳng phải là không tương ứng, do trong Nhiếp Thọ Y có bảy thứ nhiếp thọ:

          - Một là cha mẹ của chính ḿnh.

          - Hai là vợ con.

          - Ba là nô tỳ.

          - Bốn là thuộc hạ.

          - Năm là tôi tớ.

          - Sáu là bạn bè.

          - Bảy là quyến thuộc.

          Nghĩa là cái quả A La Hán c̣n nhiếp thọ cha mẹ, như đức Như Lai đích thân dùng tay nâng đỡ quan tài của cha, lên cung trời Đao Lợi để báo ân mẹ v.v… Do nương vào thân Phật mà có thể nhiếp thọ, cho nên những thứ khác chẳng nhiếp thọ. Do đă được hoàn diệt, trừ lưu chuyển, do có thể hàng ma, cho nên không có hai loại Y ấy (Lưu Chuyển Y và Chướng Ngại Y).

          Thi Thiết Y, Trụ Tŕ Y v.v… chẳng phải là một mực nương theo Thủ Uẩn, thánh giáo cũng lập bày [các quả vị như] Dự Lưu v.v… Ngă gọi là tương ứng. Chẳng có tâm chấp trước giữ lấy các danh xưng chẳng tương ứng như “ngă, hữu t́nh” v.v… Các điều khác hăy chuẩn theo đây để biết. Hễ có Hậu Biên Y v.v… th́ gọi là Hữu Dư Y. Niết Bàn đạt được bởi Dư Y gọi là Hữu Dư Y Niết Bàn. Nói Niết Bàn th́ có nghĩa là Viên Tịch. Do Tịch có nhiều thứ, nay [Niết Bàn] đều có thể trọn đủ, bèn gọi là Viên Tịch. Tịch Tĩnh có bốn loại:

          - Một, khổ tịch tĩnh.

          - Hai, phiền năo tịch tĩnh.

          - Ba, tịch tĩnh do chẳng tổn năo hữu t́nh, chẳng tạo tác các ác hạnh, tu tập các điều thiện.

          - Bốn, xả tịch tĩnh, tức là trụ trong sáu món hằng xả.

          Có đủ bốn món Tịch ấy th́ mới gọi là Viên Tịch. Nhưng đối với thân Ứng Hóa, do xét theo sự thị hiện, bèn nói Hậu Biên Y v.v… Chẳng phải là Phật thật sự có Hậu Biên Uẩn[21]. Nếu là Ứng Thân của Phật th́ cũng thị hiện sanh diệt, do vậy liền chứng: Ứng Thân như đă nói chẳng phải là Tự Thọ Dụng, v́ thân Tự Thọ Dụng chẳng có hậu biên. Lại nữa, tứ trí cũng thuộc vào Ứng Thân. Nương vào Pháp Thân nào mà đạt được Vô Dư Y, khiến cho Ứng Hóa Thân [của Phật, Bồ Tát] chẳng giống với Nhị Thừa? Chỉ là thị hiện giống như có tương tự khổ y thân (thân dường như nương vào khổ mà tồn tại), hoặc vô lậu y tồn tại mà gọi là Hữu Dư. Như Thành Duy Thức nói: “Tuy chẳng thật sự nương tựa, mà thị hiện dường như có”, hoặc do hết sạch Khổ Y mà nói là Vô Dư Y, chẳng phải là Khổ Y c̣n đó mà nói là Hữu Dư Y. V́ thế, nương vào hai thân (Ứng Thân và Hóa Thân) để đạt được Niết Bàn th́ gọi là Hữu Dư Y.

 

          (Kinh) Y thử Pháp Thân, thuyết Vô Dư Niết Bàn. Hà dĩ cố? Nhất thiết dư pháp cứu cánh tận cố.

          ()依此法身說無餘涅何以故一切餘法究竟盡故

          (Kinh: Nương vào Pháp Thân ấy, nói Vô Dư Niết Bàn. V́ cớ sao? Hết thảy các pháp khác đă rốt ráo hết sạch).

 

          Tán rằng: Tiếp đó, nói về Vô Dư Y, có ba phần: Trước là nêu ra, kế đó là gạn hỏi, cuối cùng là giải thích. Nói “y thử Pháp Thân thuyết Vô Dư” (nương vào Pháp Thân ấy mà nói Vô Dư) có hai cách giải thích:

          - Một, nương vào Như Như Pháp Thân, chẳng nương tựa hết thảy, th́ gọi là Vô Dư Y Niết Bàn. Nếu là như vậy, Niết Bàn và Pháp Thân có ǵ khác biệt? Đáp: Xét theo ư nghĩa “là chỗ nương vào của công đức” th́ gọi là Pháp Thân; xét theo ư nghĩa “nương vào phía tịch tĩnh” th́ gọi là Niết Bàn. Lại có thể hiểu: Tứ trí tâm phẩm là Như Như Trí, tức Tự Thọ Dụng cũng gọi là Pháp Thân. Nương vào thân Tự Thọ Dụng ấy, chẳng thị hiện “thác sanh, xướng diệt độ nơi Song Lâm”, không có hết thảy chỗ nương vào, bèn gọi là Vô Dư Y. Nương vào đấy để hiển lộ th́ gọi là Vô Dư Y Niết Bàn.

          Hỏi: Vô Dư Niết Bàn do mấy loại tịch diệt mà gọi là Niết Bàn?

          Đáp: Do hai thứ tịch diệt. Quyển năm mươi của luận Du Già Sư Địa nói: “Một là do Tịch Tĩnh Tịch Diệt, hai là do Vô Tổn Năo Tịch Diệt. Tịch Tĩnh Tịch Diệt nghĩa là trước hết đối với địa vị Hữu Dư Y, đạt được xúc chứng[22] bốn loại Tịch Tĩnh. Nay trong Vô Dư Y Niết Bàn giới, cũng có bốn loại Tịch Tĩnh vắng lặng thù thắng”. Ư nói: Do chú trọng nơi đắc Tịch Tĩnh mà nói “do Tịch Tĩnh tịch diệt”. Một là Số Giáo Tịch Tĩnh, hai là Nhất Thiết Y Tịch Tĩnh, ba là Y Y Khổ Tịch Tĩnh, bốn là Y Y Sanh Nghi Lự Tịch Tĩnh.

          Nói tới Số Giáo Tịch Tĩnh (數教寂靜) th́ Số là trí huệ, do Số mà khởi giáo, giáo sanh từ số, cho nên gọi là Số Giáo. Trong Vô Dư Y, do danh từ và ngôn thuyết dứt bặt, bèn gọi là Số Giáo Tịch Tĩnh.

          Nhất Thiết Y Tịch Tĩnh (一切依寂靜) th́ như tám thứ Y vô dư trên đây đều tịch tĩnh, bèn gọi là Nhất Thiết Y Tịch Tĩnh.

          Y Y Khổ Tịch Tĩnh (依依苦寂靜) là đối với các thứ khổ sanh bởi tám thứ y cũng vĩnh viễn trừ diệt, bèn gọi là Y Y Khổ Tịch Tĩnh. Như nương vào chỗ Y (chỗ để nương tựa) đó mà sanh ra khổ y (sự nương tựa đau khổ) này, bèn gọi là Y Y.

          Môn thứ tư là Y Y Sanh Nghi Lự Tịch Tĩnh (依依生疑慮寂靜), tức là nương vào tám khổ mà sanh nghi lự (lo lắng, ngờ vực), [các nỗi khổ sanh khởi do nương vào tám khổ] chẳng c̣n thừa sót, đều tịch tĩnh, bèn gọi là Y Y Sanh Nghi Lự Tịch Tĩnh.

          Hỏi: Hữu Dư Y Niết Bàn có mấy loại Hữu Dư mà nay nói là Vô Dư Y?

          Đáp: Có bảy loại:

          - Một, Nhân Quả Dư: Hoặc nhân (cái nhân gây ra phiền hoặc) đă tận, nhưng khổ quả chưa mất, c̣n có dư khổ y (cái khổ c̣n sót lại để nương vào). Thành Duy Thức nói: “Vô Dư Y Niết Bàn chính là Chân Như, thoát khỏi nỗi khổ sanh tử, phiền năo đă tận, Dư Y cũng diệt”.

          - Hai, Bất Thiện Nghiệp Dư: Hàng Vô Học th́ nghiệp bất thiện đă hết, nhưng các điều thiện và vô kư khác vẫn c̣n.

          - Ba, Khổ Đế Dư.

          - Bốn, Tập Đế Dư.

          - Năm, Diệt Đế Dư.

          - Sáu, Đạo Đế Dư. V́ thế, kinh Thắng Man nói: “Hữu dư sanh bất tận, đương hữu sanh hữu. Dư phạm hạnh bất thành, cố sự bất thuần. Sự bất cứu cánh, cố đương hữu sở tác, bất độ bỉ cố, đương hữu sở đoạn” (Do có dư sanh chưa hết, nên từ trong mà sanh ra Có. Do các phạm hạnh khác chẳng thành tựu, cho nên sự chẳng thuần. Do sự chẳng rốt ráo, cho nên có tạo tác. Do chẳng vượt khỏi điều ấy, cho nên sẽ có cái phải đoạn). V́ theo thứ tự là Khổ, Diệt, Đạo, Tập, tức là Vô Tác Tứ Đế. Do xét theo bất định tánh, do Hữu Dư chưa rốt ráo, phải nên tu Đoạn v.v… chẳng xét theo định tánh.

          - Bảy là Giả Thật Dư, do ứng hóa là giả.

 

          (Kinh) Y thử tam thân, nhất thiết chư Phật thuyết Vô Trụ Xứ Niết Bàn.

          ()依此三身一切諸佛說無住處涅

          (Kinh: Nương vào ba thân ấy, hết thảy chư Phật nói Vô Trụ Xứ Niết Bàn).

 

          Tán rằng: Tiếp đó, nói về Vô Trụ Xứ Niết Bàn. Kinh văn chia thành năm phần: Một là nêu ra, hai là giải thích, ba là hỏi, bốn là giải đáp, năm là kết luận. Đây là phần nêu ra.

 

          (Kinh) Vị nhị thân cố, bất trụ Niết Bàn, ly ư Pháp Thân, vô hữu biệt Phật.

          ()為二身故不住涅槃離於法身無有別佛

          (Kinh: Do v́ hai thân chẳng trụ Niết Bàn, ĺa khỏi Pháp Thân, sẽ chẳng có Phật nào khác).

 

          Tán rằng: Đây là phần giải thích. V́ sao ba thân gọi là Vô Trụ Xứ? Do v́ hai thân, cho nên chẳng trụ; do đại bi mà v́ chúng sanh hiện thân, chẳng trụ Niết Bàn. Cũng phải nên nói là “chẳng trụ trong sanh tử”. Trong phần trước, khi nói về Vô Dư, đă nói “chẳng trụ trong sanh tử”. Lại do Phật ĺa khỏi lậu dư (hữu lậu và tập khí c̣n sót lại) mà gọi là Niết Bàn; v́ thế, nay riêng nói “chẳng trụ Niết Bàn”, chẳng nói “trụ trong sanh tử”. Do vậy cũng nói “ĺa khỏi Pháp Thân, sẽ chẳng có Phật nào khác”. Bởi lẽ, Pháp Thân từ ứng hóa bèn nói “tánh và tướng hợp lại”, bèn nói “không có Phật nào khác!” Do hai thứ ấy chẳng trụ, cho nên Pháp Thân cũng gọi là “chẳng trụ”. V́ thế, tam thân được gọi chung là Bất Trụ.

          Lại giải thích rằng: Cái Thể của Pháp Thân và Niết Bàn như nhau, nhưng ư nghĩa th́ khác biệt. Nếu ĺa khỏi Pháp Thân mà có một cái Thể riêng biệt để Phật trụ trong Niết Bàn th́ mới có thể nói là “trụ Niết Bàn”. Đă là “ĺa khỏi Pháp Thân, sẽ chẳng có Phật nào khác”, tức là do đồng thể mà tự chẳng trụ nơi tự. V́ thế chẳng trụ Niết Bàn! Cách giải thích trước hay hơn, v́ nói “ĺa Pháp Thân, sẽ chẳng có Phật nào khác”, chẳng nói “ĺa Niết Bàn, không có Phật nào khác!”

 

          (Kinh) Hà cố nhị thân bất trụ Niết Bàn?

          ()何故二身不住涅槃

          (Kinh: V́ sao hai thân chẳng trụ Niết Bàn?)

 

          Tán rằng: Đây là gạn hỏi. Hai thân vô lậu tức là ĺa sanh tử, v́ sao chẳng trụ Niết Bàn?

 

          (Kinh) Nhị thân giả danh bất thật, niệm niệm sanh diệt, bất định trụ cố, sổ sổ xuất hiện, dĩ bất định cố!

          ()二身假名不實念念生滅不定住故數數出現以不定故

          (Kinh: Hai thân giả danh, chẳng thật, sanh diệt trong mỗi niệm, do chẳng trụ nhất định, nhiều lượt xuất hiện v́ bất định)

 

          Tán rằng: Giải thích nguyên do Ứng Thân và Hóa Thân chẳng trụ. Trước hết, giải thích theo chiều thuận. Kế đó, nói ngược lại để kết luận. [Nói theo chiều thuận] th́:

          - Một là do [hai thân ấy] giả danh chẳng thật.

          - Hai là [do hai thân ấy] sanh diệt trong mỗi niệm.

          - Ba là [hai thân ấy] nhiều lượt xuất hiện.

          Xuất hiện là v́ chúng sanh, hoặc có lúc thị hiện nhập diệt, hoặc có lúc thọ sanh. V́ thế, nhiều lượt xuất hiện. Do bất định, cho nên nói: “Chẳng trụ trong Niết Bàn”.

 

          (Kinh) Pháp Thân bất nhĩ; thị cố, nhị thân bất trụ Niết Bàn.

          ()法身不爾是故二身不住涅槃

          (Kinh: Pháp Thân chẳng như vậy. V́ thế, hai thân chẳng trụ Niết Bàn).

 

          Tán rằng: Nói ngược lại để kết luận.

 

          (Kinh) Pháp Thân bất nhị, thị cố bất trụ Niết Bàn.

          ()法身不二是故不住涅槃

          (Kinh: Do Pháp Thân bất nhị, cho nên chẳng trụ Niết Bàn).

 

          Tán rằng: Nêu ra nguyên do Pháp Thân chẳng trụ Niết Bàn. Pháp Thân và [các thân] ứng hiện chẳng hai, cho nên cũng chẳng trụ.

 

          (Kinh) Cố y tam thân, thuyết Vô Trụ Niết Bàn.

          ()故依三身說無住涅

          (Kinh: V́ thế, nương vào tam thân mà nói Vô Trụ Niết Bàn).

 

          Tán rằng: Kết lại.

 

5.3.4.2.2.3.4. Trị chướng, phế lập môn

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Nhất thiết phàm phu vị tam tướng cố, hữu phược, hữu chướng, viễn ly tam thân, bất chí tam thân.

          ()善男子一切凡夫為三相故有縛有障遠離三身不至三身

          (Kinh: Thiện nam tử! Hết thảy phàm phu do v́ tam tướng mà có trói buộc, có chướng, xa ĺa ba thân, chẳng đạt tới ba thân).

 

          Tán rằng: Đây là môn thứ tư, tức “trị chướng phế lập môn”, gồm hai phần: Trước là xét theo cảnh, sau là xét theo tâm. Ở đây là xét theo cảnh. Kinh văn chia thành hai đoạn:

          - Trước là nói rơ: Do có chướng mà chẳng đạt được ba thân.

          - Sau là nói về đoạn đắc (do đoạn trừ mà đạt được).

          Phần thứ nhất lại chia thành bốn đoạn: Một là nêu bày, hai là gạn hỏi, ba là liệt kê, bốn là giải thích. Đoạn này là nêu bày. Tam tướng chính là tam tánh (Biến Kế Sở Chấp Tánh, Y Tha Khởi Tánh, và Viên Thành Thật Tánh), tức là cảnh tướng phải nên biết. Luận Nhiếp Đại Thừa nói ba tánh ấy được gọi là “tướng thù thắng phải nên biết”. “Có trói buộc” là nói theo sự biến hiện, “có chướng” là nói theo loại. Lại nữa, “có trói buộc” tức là tướng trói buộc, hoặc tương ứng với cái được duyên theo. Đấy chính là xét theo phương diện “chẳng thông đạt ba tánh”, cho nên có trói buộc, có chướng. Chướng là như ba chướng (phiền năo chướng, nghiệp chướng và báo chướng) v.v… Do vậy mà xa ĺa, chẳng đạt tới tam thân.

 

          (Kinh) Hà giả vi tam?

          ()何者為三

          (Kinh: Những ǵ là ba?)

         

          Tán rằng: Gạn hỏi.

 

          (Kinh) Nhất giả, Biến Kế Sở Chấp tướng, nhị giả Y Tha Khởi tướng, tam giả Thành Tựu tướng.

          ()一者遍計所執相二者依他起相三者成就相

          (Kinh: Một là tướng Biến Kế Sở Chấp, hai là tướng Y Tha Khởi, ba là tướng Thành Tựu).

 

          Tán rằng: Liệt kê ba tướng. Ba tướng chính là ba tánh, đă được biện định cặn kẽ trong các kinh luận khác, nay chỉ giải thích đại lược danh xưng và biện định cái Thể.

          1) Nói “tướng Biến Kế Sở Chấp” th́ Biến () có nghĩa là trọn khắp, Kế () là “kế độ” (計度, so đo tính lường), tức là đối với trọn khắp các cảnh đều so đo, suy lường, cho nên gọi là Biến Kế. Đối với Biến Kế th́ năng biến kế (chủ thể so đo trọn khắp) và sở biến kế (pháp bị so đo trọn khắp) đều gọi Biến Kế. Sở Chấp (cái bị nó chấp trước) chính là tánh chấp trước của Biến Kế, hoặc tướng chính là tánh, cũng chính là cảnh tướng.

          2) Nương vào các duyên khác để khởi lên, th́ gọi là Y Tha Khởi. Tướng trạng và ư nghĩa của nó giống như trong phần trước [đă biện định].

          3) Thành tựu viên măn th́ gọi là tướng Thành Tựu (tức Viên Thành Thật).

          Chấp trước Ngă pháp là Biến Kế Tánh. Tâm, tâm sở, sắc bất tương ứng là Y Tha Khởi. Chân Như là cái Thể của Thành Tựu. Nếu xét theo hữu lậu vô lậu môn, Ngũ Uẩn trong vô lậu cũng là Viên Thành Thật, tánh của hữu lậu cũng là Y Tha.

 

          (Kinh) Như thị chư tướng bất năng giải cố, bất năng diệt cố, bất năng tịnh cố.

          ()如是諸相不能解故不能滅故不能淨故

          (Kinh: Các tướng như thế chẳng thể giải, chẳng thể diệt, chẳng thể tịnh).

 

          Tán rằng: [Đây là phần] giải thích. Do Biến Kế vô tướng, chẳng thể nói là đoạn, chỉ nói là “chẳng thể giải”. Nhiễm do Y Tha mà có, cho nên nói là “chẳng diệt”. Như nói tới “bất tịnh” th́ cái có thể tịnh chính là trí, cái được tịnh chính là Như. Kinh có ư nói: Cái Thể của Như là bất cấu, bất tịnh, nay chưa thể giải Biến Kế, diệt nhiễm Y Tha, tịnh Viên Thành Thật được!

 

          (Kinh) Thị cố chư Phật cụ túc tam thân.

          ()是故諸佛具足三身

          (Kinh: V́ thế, chư Phật trọn đủ ba thân).

 

          Từ chữ “thị cố” (v́ thế) trở đi là lời kết: Do có trói buộc, có chướng,[các hữu t́nh] chẳng đạt đến tam thân.

 

          (Kinh) Như thị tam tướng năng giải, năng diệt, năng tịnh cố. Thị cố, chư Phật cụ túc tam thân.

          ()如是三相能解能滅能淨故是故諸佛具足三身

          (Kinh: Do có thể giải, có thể diệt, có thể tịnh tam tướng như thế, cho nên chư Phật trọn đủ ba thân).

 

          Tán rằng: Sau đó, nói về đoạn đắc (những thứ đạt được do đoạn trừ), chia thành ba tiểu đoạn:

          - Đầu tiên là nhắc lại cái có thể gây chướng.

          - Kế đó, biện định cái có thể đoạn.

          - Cuối cùng là kết lại.

          [Nói] “như thị tam tướng” (ba tướng như thế) chính là nhắc lại. Có thể giải, diệt, tịnh tức là biện định cái có thể đoạn. Do ngộ tánh Biến Kế mà nói “có thể giải”. Do tu trí vô phân biệt, bèn có thể diệt. Do có thể đoạn chướng đối với nhiễm Y Tha Trí, cho nên có thể tịnh. Do ngộ tướng được chấp trước bởi Biến Kế, bèn đạt được Hóa Thân. Do có chấp trước ngă tướng, t́nh kiến chẳng thấu đạt cảnh là Không, sẽ chẳng thể đạt được biến hiện Hóa Thân. Tu tịnh Y Tha Khởi, sẽ đạt được Ứng Thân. Do khi trí sanh, sẽ có thể đoạn chướng lậu, cho nên có thể tịnh chứng tánh Viên Thành Thật, hiển lộ Pháp Thân. V́ thế, đạt được tam thân.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Chư phàm phu nhân vị năng trừ khiển thử tam tâm cố, viễn ly tam thân, bất năng đắc chí.

          ()善男子諸凡夫人未能除遣此三心故遠離三身不能得至

          (Kinh: Thiện nam tử! Các kẻ phàm phu do chưa thể trừ bỏ tam tâm ấy, xa ĺa tam thân, chẳng thể đạt được).

 

          Tán rằng: Trong phần nói về đối trị chướng, đoạn này nói về tâm. Kinh văn chia thành hai phần:

          - Phần thứ nhất là biện định chướng.

          - Từ “y chư phục đạo” (nương vào các phục đạo) trở đi, biện định cách đoạn trừ.

          Phần thứ nhất (biện định chướng) được chia thành ba đoạn:

          - Một là nêu bày.

          - Hai là gạn hỏi.

          - Ba là liệt kê.

          Đoạn chánh kinh ở đây thuộc về phần nêu bày. Phàm nói tới tâm th́ có bốn nghĩa:

          - Một, chân thật gọi là Tâm, như Bát Nhă Đa tâm, tức là lư Chân Như cũng được gọi là tâm. Kinh Thắng Man nói “tự tánh thanh tịnh tâm”, cái tâm ấy được gọi là Kiền Lật (Hrih) tâm.

          - Hai, duyên lự tâm, tức gồm chung cả tám thức. Cái tâm này được gọi là Chất Đa (Citta).

          - Ba, tích tập nghĩa được gọi là tâm, cũng gồm chung tám thức, do năng và sở tích tập.

          - Bốn, tích tụ nghĩa tối thắng gọi là tâm, tức là chỉ có thức thứ tám.

          Nay cái tâm được hỏi ở đây chính là do hai nghĩa “duyên lự”“tích tập” mà gọi là Tâm. Tam tâm có thể gây chướng; nếu có thể trừ đoạn, sẽ đạt được tam thân. Nếu chưa trừ đoạn, sẽ xa ĺa ba thân, không thể đạt được! Tức là không thể đạt được Ứng Thân và Hóa Thân, không thể đạt được Pháp Thân!

 

          (Kinh) Hà giả vi tam?

          ()何者為三

          (Kinh: Những ǵ là ba?)

 

          Tán rằng: Thuận theo vấn đề đă nêu mà gạn hỏi.

 

          (Kinh) Nhất giả, khởi sự tâm, nhị giả y căn bản tâm, tam giả căn bản tâm.

          ()一者起事心二者依根本心三者根本心

          (Kinh: Một là khởi sự tâm, hai là y căn bản tâm, ba là căn bản tâm).

 

          Tán rằng: Thuận theo lời gạn hỏi mà liệt kê để giải thích. Đoạn này chính là liệt kê. Nói “ba tâm” th́ như ngài Chân Đế Tam Tạng đă giải thích: “Một là Khởi STâm, tức là sáu thức như da. Hai là Y Căn Bản Tâm, tức thức thứ bảy là thịt. Ba là Căn Bản Tâm, tức là A Lê Da Thức (A Lại Da Thức, Tạng Thức). Đó là xương”.

          1) Từ Ân Duy Thức pháp sư (ngài Khuy Cơ) nói: “Khởi STâm nghĩa là cái tâm tương ứng với Kiến Tu phiền năo. Do loại phiền năo ấy mà dấy lên các sự nghiệp, cảm chuyện thuộc về Dị Thục Quả, được gọi là Khởi Sự Tâm”. Do nó là cái gốc của sanh tử, chướng thân trong từng loài, là cái tâm để khởi sự nương vào. Đó là giải thích theo lối Y Chủ. Hoặc do tâm và phiền năo tương ứng, cùng một sự nghiệp, cũng gọi là Khởi Sự, tức là giải thích theo lối Tŕ Nghiệp. Hoặc là cái tâm tương ứng với khởi sự, nhưng cái chánh yếu để khởi sự chính là phiền năo, bèn đặt tên [cho cái tâm ấy] theo tâm vương tương ứng. Đó là giải thích theo lối Lân Cận. Cách giải thích đầu tiên hay nhất!

          2) Cái tâm tương ứng với các nghiệp thiện và bất thiện, được gọi là Y Căn Bản Tâm. Nghiệp là cái gốc để sự sanh khởi nương vào. Đối với cái tâm tương ứng với Y Căn Bản, cũng chuẩn theo sự giải thích trong phần trước.

          3) Căn Bản Tâm là cái tâm tương ứng với khổ quả trong tam hữu (Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới) th́ gọi Căn Bản Tâm, do nó là tự thể tánh của căn bản sanh tử. Cái quả Dị Thục tổng và biệt ấy thông với bảy thức (sáu thức đầu và thức thứ tám), chỉ trừ thức thứ bảy. Nếu là có quả dấy lên nhằm tương xứng với cái nhân th́ gọi là Khổ Quả, bao gồm Đẳng Lưu và Dị Thục, tức là gồm khắp tám thức. Nếu là Dị Thục thật sự, sẽ gọi là Khổ Quả, là cái gốc của sanh tử, tức là riêng có thức thứ tám. Trong ấy, có ư thức và các quả hữu lậu. V́ thế, kinh Niết Bàn nói: “Xả vô thường sắc, hoạch đắc thường sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức, diệc phục như thị” (Xả sắc vô thường, đạt được thường sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng giống như thế).

          Lại giải rằng: Phiền Năo Chướng và cái nghiệp được phát khởi được gọi là Khởi Sự Tâm. Sở Tri Chướng và cái nghiệp đă phát khởi gọi là Y Căn Bản; đó là cái gốc để phiền năo nương vào. Căn Bản Tâm chính là cái quả đạt được bởi hai chướng. Nếu xét theo phương diện thù thắng, [Căn Bản Tâm] chỉ là thức thứ tám. Do [cái tâm ấy là chỗ để] các nghiệp nương vào, có thể giữ lấy chủng tánh, cho nên gọi là Căn Bản. Nếu xét theo phương diện kém cỏi, th́ [Căn Bản Tâm ngoa-I trừ thức thứ tám], cũng bao gồm bảy thức kia. Nếu xét theo cái quả Đẳng Lưu th́ [Căn Bản Tâm] bao gồm tám thức.

 

          (Kinh) Y chư phục đạo, Khởi STâm tận. Y pháp đoạn đạo, Y Căn Bản Tâm tận. Y tối thắng đạo, Căn Bản Tâm tận.

          ()依諸伏道起事心盡依法斷道依根本心盡依最勝道根本心盡

          (Kinh: Nương vào các phục đạo, tâm Khởi Sự sẽ hết. Nương vào pháp đoạn đạo, tâm Y Căn Bản sẽ hết. Nương vào tối thắng đạo, tâm Căn Bản sẽ hết).

 

          Tán rằng: Tiếp đó, biện định về đoạn, có ba phần:

          - Trước hết, nói về sự đoạn chướng.

          - Kế đó, nói về cái thân đạt được.

          - Cuối cùng là kết luận.

          Đây là phần đầu. “Y chư phục đạo, Khởi STâm tận” tức là các địa vị thuộc ba mươi tâm trước khi đắc Sơ Địa (tức Thập Tín và Tam Hiền). Kinh Nhân Vương Bát Nhă gọi [giai đoạn này] là Phục Nhẫn; v́ thế, [địa vị này] thuộc vào bốn thiện căn. Phân biệt hai chướng, nhưng chưa thể hàng phục th́ gọi là “y phục đạo”. Do cái tâm Khởi Sự hết sạch, cho nên nhập Kiến Đạo, chẳng tạo nghiệp mới để cảm cái quả sanh tử, hiển lộ thành tùy loại Hóa Thân.

          Lại có thể hiểu rằng: Toàn thể các địa vị trước khi đạt tới Kim Cang Dụ Định của Thập Địa, tuy đă chế phục phiền năo, nhưng do chưa đoạn chủng tử, cho nên gọi là “chư phục đạo”. Địa vị hàng phục rốt ráo thuộc địa vị Vô Gián của Kim Cang Dụ Định th́ mới khiến cho các thứ phiền năo ấy vĩnh viễn chẳng dấy lên hiện hành. V́ thế, kinh Giải Thâm Mật nói: “Bát Địa dĩ khứ, duy hữu sở y, STri Chướng tại. Chí Phật quả vị, đắc tùy loại thân” (từ Bát Địa trở về trước, chỉ có cái để nương vào, do Sở Tri Chướng hăy c̣n. Đạt đến quả vị Phật, sẽ đạt được cái thân thuận theo tâm mong muốn của chúng sanh mà biến hiện). Cách hiểu này hay hơn.

          Nương vào pháp đoạn đạo, cái tâm Căn Bản đă tận, tức là tu thánh đạo. Kế đó, sẽ đoạn các nghiệp. V́ thế, Sơ Địa rời ĺa các thứ ngu muội tạp nhiễm trong đường ác, Nhị Địa ĺa sự ngu lầm phạm lỗi đối với tam nghiệp. Hoặc là cho tới Thập Địa, đoạn Sở Tri Chướng th́ gọi là “pháp đoạn đạo”. Bắt đầu từ Sơ Địa cho tới trước khi đạt được Kim Cang Định đều gọi là “pháp đoạn đạo”. Do nương vào pháp Không Quán th́ mới có thể đoạn, do Sở Tri Chướng đă đoạn, sẽ có thể đạt được Ứng Thân. Nương vào tối thắng đạo, tâm Căn Bản đă diệt, chính v́ Xả mà gọi là Đoạn, thuộc về giải thoát đạo. Nếu coi Xả là đoạn th́ thuộc vào Kim Cang Định. Đối với hai thuyết ở đây, như trong quyển thứ mười của Thành Duy Thức đă nói: Do đoạn khổ quả, do hết thảy tập khí đều vĩnh viễn xả, cho nên có thể hiển lộ Pháp Thân.

 

          (Kinh) Khởi Sự Tâm diệt, cố đắc hiện Hóa Thân; Y Căn Bản Tâm diệt, cố đắc hiển Ứng Thân. Căn Bản Tâm diệt, cố đắc chí Pháp Thân.

          ()起事心滅故得現化身依根本心滅故得顯應身根本心滅故得至法身

          (Kinh: Do tâm Khởi Sự diệt, cho nên có thể hiện Hóa Thân. Do tâm Y Căn Bản diệt, cho nên hiển lộ Ứng Thân. Do tâm Căn Bản diệt, cho nên đạt tới Pháp Thân).

 

          Tán rằng: Đoạn này nói về các thân đạt được. Hai thân trước là mới khởi lên, cho nên gọi là “đắc”. Pháp Thân vốn có, nên nói là “đắc chí Pháp Thân” (đạt tới Pháp Thân). Chuẩn theo [các ư nghĩa đă giảng giải trong] phần trước sẽ biết.

          Hỏi: Ba thân này, mỗi thân sẽ đắc khi nào?

          Đáp: Theo Đại Trang Nghiêm Luận, Thành Duy Thức v.v… th́ đều là sau khi đă đạt tới địa vị Kim Cang, tức là thuộc vào địa vị Phật [th́ các thân ấy] mới dấy lên. Luận ấy nói: “Ba loại Biến Hóa Thân, tức là nói chư Như Lai do trí Thành Sự (Thành Sở Tác Trí) biến hiện vô lượng tùy loại hóa thân. Phật Địa Luận nói: “Thành Sở Tác Trí khởi lên ba nghiệp để giáo hóa, nương theo nghĩa bất chánh. Từ Sơ Địa tr lên, bèn đạt được cái trí này. Chánh nghĩa th́ chỉ tại địa vị Phật mới được khởi lên. Do tại Thập Địa, nương vào hữu lậu căn mà phát khởi vô lậu thức. Do thông sáng hay mê muội khác biệt, cho nên chẳng thể khởi Ứng Thân. Các thân do B́nh Đẳng Tánh Trí và Đại Viên Kính Trí khởi lên, được gọi gộp chung là Ứng Thân. V́ thế, từ Phật địa (địa vị Phật) mà [tam thân] dấy lên, chẳng phải là nơi Thập Địa mà có Đại Viên Kính Trí. Pháp Thân cũng thế, do thuộc địa vị thoát khỏi phiền năo trói buộc mà gọi là Pháp Thân”. Thành Duy Thức nói: “Nơi Đại Mâu Ni th́ gọi là Pháp Thân”. Đấy là xét theo phương diện đạt được viên măn; chứ nếu xét theo chuyện đạt được một phần hay đạt được tương tự, sẽ có địa vị trước sau. Tại địa vị Thập Tín th́ đắc Hóa Thân, do vị Bồ Tát ấy có thể thị hiện tám tướng thành đạo. Từ Sơ Địa trở về trước, đắc Ứng Pháp Thân. Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhă nói có mười thứ Pháp Thân (b́nh đẳng thân, thanh tịnh thân, thiện tu thân v.v…) Trong mỗi địa vị thuộc Thập Địa, đều đạt được một thân ấy. Do Bồ Tát thuộc địa vị trên giáo hóa Bồ Tát thuộc địa vị dưới mà chia thành hai thân.

 

          (Kinh) Thị cố, nhất thiết Như Lai cụ túc tam thân.

          ()是故一切如來具足三身

          (Kinh: V́ thế, hết thảy các Như Lai trọn đủ ba thân).