Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ
Quyển thứ ba
Đời Đường Tam Tạng pháp sư
Nghĩa Tịnh vâng chiếu dịch kinh
Dịch kinh sa-môn Huệ Chiểu soạn sớ
金光明最勝王經疏
卷第一
唐三藏法師義淨奉制譯
翻經沙門慧沼撰
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ
tử Như Ḥa
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ
Trang
Phần 5
5.3. Phẩm thứ ba: Phân
Biệt Ba Thân (Phân Biệt Tam Thân phẩm đệ tam, 分別三身品第三) – Phần thứ hai
5.3.4.2.2.3.5. Đồng dị
phân biệt môn
(Kinh) Thiện nam tử!
Nhất thiết chư Phật ư đệ nhất thân
dữ chư Phật đồng sự, ư đệ nhị
thân dữ chư Phật đồng ư, ư đệ tam thân
dữ chư Phật đồng thể.
(經)善男子!一切諸佛於第一身與諸佛同事,於第二身與諸佛同意,於第三身與諸佛同體。
(Kinh: Thiện nam tử!
Hết thảy chư Phật đối với thân thứ
nhất (Hóa Thân), đồng sự với chư Phật; đối
với thân thứ hai (Ứng Thân) đồng ư với chư
Phật, đối với thân thứ ba (Pháp Thân) đồng
thể với chư Phật).
Tán rằng: Môn thứ năm
là Đồng Dị Phân Biệt Môn (môn phân biệt giống
hay khác). Kinh văn được chia thành ba phần, do ba
thân Phật khác biệt. Hóa Thân giáo hóa Nhị Thừa và Địa
Tiền, phàm phu, phần nhiều dấy khởi Lục Thông để thành tựu sự giáo hóa. V́
thế, các bộ luận đều nói “do chuyển năm thức mà đạt được
Thành Sở Tác Trí”, phần nhiều dùng tám tướng [thành đạo]
để hiện các sự nghiệp. V́ thế, gọi là Đồng
Sự. Ứng Thân do giáo hóa Địa Thượng Bồ
Tát, khiến cho họ hưởng pháp lạc và ư nhạo
giống nhau, cho nên nói là Đồng Ư. Lại cùng có ư tưởng
“giáo hóa Bồ Tát”, Pháp Thân như như, đối với cái
Thể để nương vào, chư Phật chẳng khác
nhau. V́ thế nói là Đồng Thể.
Do vậy, quyển thứ chín
của bộ Vô Tánh Nhiếp Luận nói: “Hăy nên nói Pháp Thân của chư Phật có khác biệt,
hay nên nói là chẳng khác? Do dựa theo ư nhạo và tác nghiệp
chẳng khác, hăy nên nói là chẳng khác. Do thân vô lượng
y hiện Đẳng Giác, hăy nên nói là có khác biệt. Như đă
nói về Pháp Thân, Thọ Dụng Thân cũng thế. Do ư nhạo và nghiệp chẳng sai biệt, hăy nên nói là
chẳng khác. Chẳng do y chỉ, cho nên chẳng sai biệt.
Do vô lượng y chỉ, cho nên chuyển biến
sai biệt. Hăy nên biết: [Phải nên] nói Hóa Thân giống như
Thọ Dụng Thân, tức là Pháp Thân do ba thứ (ư nhạo, tác nghiệp, y chỉ) chẳng
khác, [cho nên Pháp Thân của chư Phật không sai biệt],
Thọ Dụng Thân và Biến Hóa Thân [có sai biệt] chỉ là do ư nhạo và tác nghiệp [có sai biệt]”.
Môn này nhằm khiến cho [thính
chúng] biết: Tâm này do giáo hóa [các đối
tượng khác nhau] mà có giống hay khác, phối ứng ngược
lại ba môn trước. Lời luận định ấy
tuy thông suốt, nhưng kinh này dựa trên sự tăng thắng
mà phối ứng riêng với ba thân, lư cũng chẳng mâu
thuẫn, do khi c̣n đang thuộc địa vị tu nhân, năm
thức trước sẽ có sự nghiệp khác biệt,
thức thứ bảy và Ư Thức do luôn chấp có Ngă, cho nên
sẽ có “ta và người khác biệt”. Nay thuộc quả vị th́ chứng lư b́nh đẳng.
Do vậy, Hóa Thân do năm thức khởi lên sẽ đồng
sự, Tha Thọ Dụng Thân do thức thứ bảy khởi
lên sẽ là đồng ư.
5.3.4.2.2.3.6. Nhất đa phân
biệt môn
(Kinh) Thiện
nam tử! Thị sơ Phật thân, tùy chúng sanh ư, hữu đa
chủng cố, hiện chủng chủng tướng, thị
cố thuyết đa.
(經)善男子!是初佛身,隨眾生意有多種故現種種相,是故說多。
(Kinh:
Thiện nam tử! Thân Phật đầu tiên ấy, do thuận
theo ư của chúng sanh mà có nhiều loại, bèn hiện các thứ
tướng. V́ thế, nói là “nhiều”).
Tán rằng:
Đây là môn thứ sáu, tức Nhất Đa Phân Biệt Môn
(môn phân biệt một hay nhiều). Kinh văn cũng chia
thành ba phần. Môn trước (Đồng Dị Phân Biệt Môn) nói
về Thể, môn này nói về Dụng. Do các dị sanh (chưa
phải là bậc thánh nhân, tức chưa đạt đến
địa Thập Tín) có dị thú (sanh trong các đường
khác biệt) và dị kiến
(kiến chấp khác biệt), nên nói là “ư hữu đa”
(có nhiều ư). Do thuận theo nhiều loại ư, cho nên hiện
Hóa Thân có các loại tướng, hoặc nói là tám tướng,
hoặc tùy theo các loại mà hiện h́nh. Dẫu Nhị Thừa
đă đắc thánh quả, vẫn là một phần Dị
Sanh, v́ hăy c̣n Sở Tri Chướng. Do vậy nói “tùy sở
hóa chúng sanh ư” (thuận theo ư của chúng sanh đang được
[Bồ Tát] giáo hóa).
(Kinh) Đệ
nhị Phật thân, đệ tử nhất ư cố, hiện
nhất tướng. Thị cố, thuyết nhất.
(經)第二佛身,弟子一意故現一相,是故說一。
(Kinh:
Thân Phật thứ hai, do các đệ tử có cùng một
ư, nên hiện một tướng. V́ thế, nói là “một”).
Tán rằng:
Bậc Địa Thượng Bồ Tát được Ứng
Thân giáo hóa, cho nên [các vị
Bồ Tát ấy] được gọi là “đệ tử”.
Do chứng lư b́nh đẳng, nên gọi là “nhất ư”. “Hiện
nhất tướng” tức là chỉ hiện Phật tướng,
chẳng có [thân trong] sáu đường khác biệt. Thân Phật
được hiện chẳng có lớn, nhỏ, thù thắng,
hay kém cỏi sai biệt. Do mười địa vị [trong
Thập Địa] sai biệt, mà thấy [thân Phật] có thù
thắng hay kém cỏi.
(Kinh) Đệ
tam Phật thân, quá nhất thiết chủng tướng,
phi chấp tướng cảnh giới, thị cố thuyết
danh bất nhất, bất nhị.
(經)第三佛身,過一切種相,非執相境界,是故說名不一不二。
(Kinh:
Thân Phật thứ ba vượt ngoài hết thảy các tướng,
chẳng chấp tướng và cảnh giới. V́ thế,
nói là “chẳng một, chẳng hai”).
Tán rằng:
Do Chân Như diệu thể vượt ngoài hết thảy
các loại tướng, tức là chẳng phải hết
thảy các tướng “đến, đi”, chẳng phải
xanh, vàng, đỏ, trắng v.v… “Phi chấp cảnh giới
tướng cố” (Do chẳng chấp vào tướng
và cảnh giới) tức là chẳng cấp vào cảnh được
duyên bởi cái tâm. Duy Thức nói: “Đối với các tướng
ấy, do Viên Thành Thật thường xa ĺa tánh trước,
cho nên nói là chẳng một, chẳng hai”. Trong Chân Như,
do dứt bặt sự đối đăi giữa h́nh tướng
“một, hai”, cho nên chẳng phải là một hay hai. V́ thế,
dụng ư của câu này là khiến cho [thính chúng] biết hiện
thân (thân được hiện ra) là giống nhau hay khác
nhau.
5.3.4.2.2.3.7. Hữu y phi y môn
(Kinh) Thiện
nam tử! Thị đệ nhất thân, y ư Ứng Thân
đắc hiển hiện cố. Thị đệ nhị
thân, y ư Pháp Thân đắc hiển hiện cố. Thị
Pháp Thân giả, thị chân thật hữu, vô y xứ cố.
(經)善男子!是第一身,依於應身得顯現故。是第二身,依於法身得顯現故。是法身者,是真實有,無依處故。
(Kinh:
Thiện nam tử! Thân thứ nhất ấy nương vào
Ứng Thân mà được hiển hiện. Thân thứ
hai do nương vào Pháp Thân mà được hiển hiện.
Pháp Thân là chân thật có, do chẳng có chỗ nương tựa).
Tán rằng:
Môn thứ bảy tức Hữu Y Phi Y Môn (môn phân biệt có
nương tựa hay không nương tựa). Kinh văn cũng
chia thành ba phần, với dụng ư [khiến cho thính chúng]
biết gốc và ngọn sai khác, tức là Biến Hóa Thân từ
Ứng Thân mà khởi, Ứng Thân nương vào Chân Như
mà khởi. Kinh Hoa Nghiêm nói là “ma thố ma hóa” (摩菟摩化), hàm ư: Do
người khác mà dấy lên sự hóa hiện. Pháp Thân vốn
sẵn
có, chẳng nương vào cái ǵ khác để
khởi lên, cho nên là chân thật. Như Tự Thọ Dụng
cũng gọi là Pháp Thân, do chẳng phải từ thứ
khác biến ra, cho nên là Vô Y Xứ (không có chỗ nương
vào). Lại c̣n trọn khắp pháp giới, cũng là không có
nơi chốn nào khác để nương vào. Hoặc có
thể hiểu môn này (Hữu Y Phi Y môn) là xét theo sự
khác biệt giữa tánh và tướng, [cho nên coi] Thọ Dụng
Thân cũng thuộc vào Ứng Thân. Chân Như là cái để
[Ứng Thân] nương vào, duy tŕ, [Ứng Thân] mới từ
nó mà khởi lên,
do là duyên sanh, cho nên [Ứng
Thân] chẳng thật. V́ thế, quyển ba của
Đại Trang Nghiêm Luận nói: “B́nh đẳng tức
là thân tự tánh, do hết thảy chư Phật b́nh đẳng,
chẳng sai biệt. Thọ Dụng Thân là thực thân, thân ấy
ban cho thức ăn b́nh đẳng, do nương vào [Pháp
Thân] mà khởi lên. Hăy nên biết Thọ Dụng Thân lại
là cái nhân của Hóa Thân”. Lại nói: “Thực thân (Báo Thân,
Ứng Thân) dùng tự lợi làm tướng, Hóa Thân dùng lợi
tha làm tướng. V́ thế, dung thông cả hai cách nói”. Luận
nói: “Nói [Ứng Thân là] ‘thực thân’ là do [thân ấy] tạo
tác pháp thực trong đại chúng”.
5.3.4.2.2.3.8. Thường vô
thường môn
(Kinh) Thiện
nam tử! Như thị tam thân dĩ hữu nghĩa cố,
nhi thuyết ư thường. Dĩ hữu nghĩa cố,
thuyết ư vô thường.
(經)善男子!如是三身以有義故而說於常,以有義故說於無常。
(Kinh: Thiện nam tử!
Ba thân như thế do có nghĩa, nên nói là thường. Do có
nghĩa, nên nói là vô thường).
Tán rằng:
Môn thứ tám là Thường Vô Thường Môn. Kinh văn
chia thành hai phần: Một là nêu chung, hai là giải thích riêng
từng thân. Đoạn này là nêu chung. “Dĩ hữu nghĩa
cố, nhi thuyết ư thường” (do có nghĩa nên
nói là thường) chính là áp dụng chung cho cả
ba thân. Nói “vô thường” th́ chẳng áp dụng cho Pháp
Thân. Kinh văn trong phần sau nói: “Phi hành pháp cố, thị
căn bản cố, đản thuyết vi thường”
(Do chẳng phải là hành pháp, do là căn bản, chỉ nói
là thường). Hoặc có thể hiểu: Ứng hợp
với Như Như Trí th́ gọi là Pháp Thân. Do Tứ Trí vô
thường, cho nên trong phần nêu chung, có thể nói là “vô
thường”. Trong phần sau, xét theo Như Như, chỉ nói
là Thường, do chẳng
phải là hành pháp. Hoặc chỉ xét phiền năo là hành pháp, nên nói “chẳng
phải là hành pháp”.
(Kinh) Hóa
Thân giả, hằng chuyển pháp luân, xứ xứ tùy duyên phương
tiện tương tục bất đoạn tuyệt cố.
Thị cố, thuyết thường.
(經)化身者,恒轉法輪,處處隨緣方便相續不斷絕故,是故說常。
(Kinh: Hóa Thân do luôn chuyển
pháp luân, tùy duyên mà phương tiện [ứng hiện] liên
tục chẳng đoạn tuyệt khắp nơi. V́ thế,
nói là Thường).
Tán rằng:
Kế đó, giải thích riêng biệt [từng thân]; do ba thân
nên [kinh văn trong phần này sẽ] gồm ba đoạn.
Trước hết, xét theo sự giáo hóa, trước hết là biện
định thường, sau đó [biện định] vô
thường. Đoạn này biện định Thường.
Trong tám tướng của Hóa Thân, chỉ nêu ra một tướng,
tức là tướng “chuyển pháp luân”. Hoặc coi chuyện
khiến cho chúng sanh đạt được lợi ích là
“chuyển pháp luân”. [Nếu hiểu theo cách này th́] các tướng
đă hiện đều gọi là “chuyển pháp luân”,
do có thể khiến cho hữu t́nh được hóa độ
sẽ đều
đạt được lợi ích. Do tùy thuận trụ xứ
của chúng sanh và tùy thuận
chỗ [để Bồ Tát] ứng hóa [nhằm
độ sanh] đều nhiều, cho nên nói là “xứ xứ
tùy duyên”. Các tướng như thuận theo phương
tiện hóa duyên, thuận theo phương tiện của người
có thể giáo hóa, mười hai loại phương tiện
v.v… đều là liên tục chẳng đoạn. V́ thế, nói Thường
chính là “tương tục Thường” (Thường
liên tục), như thường hưởng vui, thường
thí thực v.v…
(Kinh) Phi
thị bổn cố, cụ túc đại dụng bất
hiển hiện cố, thuyết vi vô thường.
(經)非是本故、具足大用不顯現故,說為無常。
(Kinh: Do chẳng phải
là gốc, do đại dụng trọn đủ chẳng
hiển hiện, mà nói là vô thường).
Tán rằng:
Nói về vô thường. “Do chẳng phải Chân Như tự
tánh thân là gốc của các pháp, đại dụng trọn
đủ chẳng hiển hiện”: Công đức được
thành tựu chẳng phải là khởi hiện ngay lập
tức, mà là do tùy duyên
lợi lạc chúng sanh th́ mới bắt đầu dấy
lên. Như Tát Bà Đa (Sarvāstivādin, Nhất
Thiết Hữu Bộ) nói: “Đức Thế
Tôn có pháp thọ dụng, đợi cho tới khi thành Phật
mới cùng lúc dấy lên, tác dụng chẳng ngay lập tức
khởi”. Ở đây cũng giống như thế,
hoặc xét theo hiện Niết Bàn mà nói “Dụng chẳng
hiển hiện”, tức là tác dụng của
Ứng Thân vậy.
(Kinh) Ứng
Thân giả, tùng vô thỉ lai, tương tục bất đoạn.
(經)應身者,從無始來相續不斷。
(Kinh:
Ứng Thân từ vô thỉ tới nay liên tục chẳng đoạn).
Tán rằng:
Tiếp đó, nói về Ứng Thân. Trước là nói về
Thường,
sau là nói về Vô Thường.
Đoạn này nói về Thường. Trước hết,
nhắc lại tên gọi
của Thân. Kế đó, nêu rơ cái Thể của Ứng Thân.
Ứng Thân nương vào Pháp Thân mà dấy lên. Pháp Thân là bản
tánh của Ứng Thân. V́ thế, xét theo bản tánh mà nói là “vô
thỉ”. Do đó, Nhiếp Đại Thừa Luận nói:
“Do chỗ nương vào là thường, nên Ứng Thân và
Hóa Thân cũng là thường”. V́ thế, nay chỗ để
nương vào là vô thỉ, Ứng Thân cũng vô thỉ. Nếu
vậy th́ Hóa Thân cũng phải nên là vô thỉ chớ?
Đáp: Đáng
nên nói hay chẳng nên nói là do soi rọi lẫn nhau. Nếu là
Tự Thọ Dụng th́ liên tục trong từng sát-na. Nếu
là Tha Thọ Dụng, diệt ở chỗ này, lại tiếp
nối ở chỗ kia.
(Kinh) Nhất
thiết chư Phật bất cộng chi pháp năng nhiếp
tŕ cố.
(經)一切諸佛不共之法能攝持故。
(Kinh:
Do có thể nhiếp tŕ pháp bất cộng của hết thảy
chư Phật).
Tán rằng:
Nói về tác dụng của Pháp Thân. Ứng Thân đều
có thể nhiếp tŕ các pháp bất cộng như lực,
vô úy v.v…, do nó làm chỗ nương tựa, duy tŕ [cho các pháp
ấy].
(Kinh) Chúng
sanh vô tận, dụng diệc vô tận. Thị cố, thuyết thường.
(經)眾生無盡、用亦無盡,是故說常。
(Kinh:
Chúng sanh vô tận, tác dụng cũng vô tận. V́ thế, nói
là Thường).
Tán rằng:
Nói về Thường. Do chúng sanh giới vô tận, cho nên
hiện mạng vô tận. Do vậy, nói là Thường.
Đây là Thường do duyên theo, [tức là] do có cái để
duyên theo (tức chúng sanh giới), cho nên phải nói là Thường.
Vô Tánh Nhiếp Luận gạn rằng: “Thọ Dụng
Thân và Biến Hóa Thân của Phật đă là vô thường,
cớ sao kinh nói thân của Như Lai là thường?” Đây
là hỏi về hai thân nương vào Pháp Thân thường
hằng. Lại nữa, Đẳng Lưu Thân[1]
và Biến Hóa Thân do luôn thọ dụng, chẳng bỏ phế,
chẳng vĩnh viễn đoạn tuyệt. Ngài Vô Tánh giải
thích rằng: “Do hai thân ấy tuy là vô thường, nhưng
do nương vào Pháp Thân là thường. Do Pháp Thân đă là
thường, cho nên cũng nói [hai thân ấy] là thường.
Nói ‘thân thường’ th́ hoặc Thể là thường, hoặc
do nương vào một thân thường hằng mà gọi
là ‘thân thường’. Đó là dị môn thường, chẳng
phải là tự tánh thường”. Cho đến nói: “Ví
như thế gian nói ‘thường thọ lạc’, tuy chẳng
phải là thường hưởng sự vui không gián đoạn,
nhưng có thể nói là đó ‘thường hưởng vui’.
Hăy nên biết thân thọ Dụng của Phật cũng như
thế”.
Theo quyển
ba của Đại Trang Nghiêm Luận th́: “Hết thảy
chư Phật đều cùng thường trụ. Do tự
tánh là thường, tự tánh thân của hết thảy chư
Phật thường trụ. Do thường hằng chẳng
gián đoạn, thực thân (Ứng Thân) của hết
thảy chư Phật thường trụ. Do thường
hằng liên tục, Hóa Thân của hết thảy chư Phật
thường trụ”. Trong ấy, “thực thân”
là nói gộp chung Tự Thọ Dụng và Tha Thọ Dụng.
V́ tự lợi th́ chính là Tự Thọ Dụng. V́ người
khác thuyết pháp th́ là Thực Thân, tức Tha Thọ Dụng.
Các bộ luận như Nhiếp Luận v.v… cũng [luận
định] giống như vậy.
(Kinh) Phi
thị bổn cố, dĩ cụ túc dụng bất hiển
hiện cố, thuyết vi vô thường.
(經)非是本故、以具足用不顯現故,說為無常。
(Kinh:
Do chẳng phải là gốc, do tác dụng trọn đủ
chẳng hiển hiện, nên nói là vô thường).
Tán rằng:
Biện định [v́ sao nói Ứng Thân] là vô thường.
“Do chẳng hiển hiện, nên nói [là
vô thường]” th́ chi tiết như trong
phần trước đă giải thích.
(Kinh) Pháp
Thân giả, phi thị hành pháp, vô hữu dị tướng.
(經)法身者,非是行法,無有異相。
(Kinh:
Pháp Thân chẳng phải là hành pháp, chẳng có tướng khác).
Tán rằng:
[Đây là phần] biện định Pháp Thân là thường.
Trước là biện định [v́ sao Pháp Thân là] thường,
sau là giải trừ vấn nạn. Trong phần đầu,
trước hết nêu ra “vô dị tướng” (chẳng
có tướng khác). Kế đó, giải thích [v́ sao] Pháp
Thân là thường. Đoạn này thuộc ư thứ nhất.
Chỉ xét theo Như Như được gọi là Pháp
Thân, bèn nói “phi hành pháp, vô sanh diệt dị tướng”
(chẳng phải là hành pháp, chẳng có tướng sanh diệt, đổi khác). Lại
giải thích về Như,
kinh văn trong phần sau nói: “Pháp Thân giả, nhị vô sở
hiển” (Pháp Thân được hiển hiện bởi
hai thứ Vô). “Nhị
vô” tức là bốn loại của hai tướng “chẳng
Có, chẳng Không”. Lại nữa, “chẳng phải là hành
pháp” tức là chẳng phải do hành pháp phiền năo hữu
vi hữu lậu mà có thể chứng được. Trí vô
phân biệt cũng là Pháp Thân.
(Kinh)
Thị căn bản cố, do như hư không, thị cố
thuyết Thường.
(經)是根本故,猶如虛空,是故說常。
(Kinh:
Do là căn bản, giống như hư không. V́ thế nói
là Thường).
Tán rằng:
Biện định về sự thường trụ [của Pháp Thân]. Như
Như là chân tánh của các pháp, nên nói là “căn bản”.
Do chẳng có h́nh tướng, nên [Như Như] như hư
không. Do vậy, [Pháp
Thân] gọi là Thường. V́ vậy, nói là
Thường để tổng kết.
(Kinh) Thiện
nam tử! Ly vô phân biệt trí, cánh vô thắng trí. Ly pháp Như
Như, vô thắng
cảnh giới.
(經)善男子!離無分別智更無勝智,離法如如無勝境界。
(Kinh:
Thiện nam tử! Ĺa trí vô phân biệt, sẽ chẳng có trí
thù thắng hơn. Ĺa pháp Như Như, sẽ chẳng có cảnh
giới thù thắng hơn).
Tán rằng:
Giải thích sự vấn nạn.
Kinh văn chia thành ba phần:
- Một,
giải thích sự vấn nạn.
- Hai, lần
lượt giải thích.
- Ba, tổng
kết.
Đoạn
này thuộc phần đầu. Sự vấn nạn ở
bên ngoài có hai ư:
1) V́ sao chẳng
gọi các trí khác hay pháp khác là Pháp Thân, mà chỉ gọi gộp
chung trí vô phân biệt và pháp Như Như là Pháp Thân?
Đáp: Nếu
ư ĺa trí vô phân biệt, sẽ chẳng có trí nào hơn nổi
trí ấy. Ĺa pháp Như Như, cũng chẳng cảnh giới
nào hơn nổi cảnh giới này. V́ thế, gộp chung
hai điều ấy mà gọi là Pháp Thân.
2) Lại nói:
Nếu là như vậy, cái có thể duyên theo (năng duyên, tức trí
vô phân biệt) và pháp để duyên vào (sở duyên, tức pháp
Như Như) đă là khác biệt, sao lại gọi
gộp chung là Pháp Thân?
Kế đó,
sẽ lần lượt giải thích.
(Kinh)
Thị pháp Như Như, thị huệ Như Như. Thị
nhị chủng Như Như như như bất
nhất, bất dị.
(經)是法如如、是慧如如,是二種如如如如不一不異。
(Kinh:
Pháp ấy Như Như, huệ ấy Như Như. Hai thứ
Như Như ấy là như như, chẳng
một, chẳng khác).
Tán rằng:
Đây là lần lượt giải thích. Hai thứ trí và Như
chẳng một, chẳng khác; v́ sao vậy? Như là trí cảnh (cảnh để quán chiếu
bởi trí), trí là hữu vi (chủ thể thực hiện sự quán
chiếu), cho nên [trí và Như] chẳng phải là một.
Nhưng trí nhờ vào cảnh mà sanh, Như là tánh của trí,
cho nên [trí và Như] chẳng khác. Nếu Như khác trí, Như
sẽ chẳng phải là tánh của trí. Chẳng hạn như để
đả phá [lập luận] của [học phái] Thắng
Luận, [bèn biện
định]: Lẽ ra tánh của đất
chẳng phải là tánh của các thứ khác, do chúng khác với đất,
như nước, lửa v.v… chẳng hạn. Ở đây
cũng thế, cho nên quyển tám của Thành Duy Thức viết:
“V́ thế, điều này và Y Tha chẳng khác, chẳng phải
là không khác, như tánh vô thường v.v…”.
(Kinh)
Thị cố, Pháp Thân huệ thanh tịnh cố, Diệt
thanh tịnh cố, thị nhị thanh tịnh.
(經)是故法身慧清淨故、滅清淨故,是二清淨。
(Kinh:
Do vậy, Pháp Thân v́ huệ thanh tịnh, và v́ Diệt thanh
tịnh, nên là hai thứ thanh tịnh).
Tán rằng:
Phần kết lại để thành lập [sự xác định
Pháp Thân chẳng thường, chẳng vô thường]. Trước
là thành lập sự xác quyết, sau đó là kết luận.
“Thành lập” là nói: Do có cái có thể chứng tịnh, cho nên đạt được huệ thanh tịnh. Do
có tịnh là cái được
chứng, cho nên đạt được Diệt
thanh tịnh. V́ thế, Pháp Thân là hai thứ thanh tịnh (Huệ và Diệt đều
tịnh). Ở đây, trước hết là giữ lấy
hai thứ thanh tịnh. Do đă giữ lấy, nên “v́ thế,
Pháp Thân do hai thứ thanh tịnh ấy mà được gọi
gộp chung là Pháp Thân”.
(Kinh)
Thị cố, Pháp Thân cụ túc thanh tịnh.
(經)是故法身具足清淨。
(Kinh: V́
thế, Pháp Thân trọn đủ thanh tịnh).
Tán rằng:
Kết luận. Nói “cụ túc” (trọn đủ) có nghĩa
là “viên măn”. Do trí cảnh thù thắng, chẳng c̣n có ǵ
thanh tịnh hơn điều này. V́ vậy, Pháp
Thân trọn đủ thanh tịnh.
5.3.4.2.2.3.9. Tứ cú phân biệt
môn
(Kinh) Phục
thứ, thiện nam tử! Phân biệt tam thân hữu tứ
chủng dị.
(經)復次,善男子!分別三身有四種異。
(Kinh:
Lại nữa, thiện nam tử! Phân biệt ba thân có bốn
loại khác biệt).
Tán rằng:
Đây là môn thứ chín, tức Tứ Cú Phân Biệt Môn (môn phân
biệt theo bốn câu), gồm hai đoạn:
- Một, nêu
ra số lượng chung.
- Hai, giải
thích riêng từng điều.
Đoạn
này thuộc ư thứ nhất.
(Kinh) Hữu
Hóa Thân phi Ứng Thân, hữu Ứng Thân phi Hóa Thân, hữu Hóa
Thân diệc Ứng Thân, hữu phi Hóa Thân diệc phi Ứng
Thân.
(經)有化身非應身、有應身非化身、有化身亦應身、有非化身亦非應身。
(Kinh:
Có Hóa Thân chẳng phải là Ứng Thân, có Ứng Thân chẳng
phải là Hóa Thân, có Hóa Thân cũng là Ứng Thân, có chẳng
phải là Hóa Thân mà cũng chẳng phải là Ứng Thân).
Tán rằng:
Nêu ra bốn câu.
(Kinh) Hà
giả Hóa Thân phi Ứng Thân?
(經)何者化身非應身?
(Kinh:
Ǵ là Hóa Thân mà chẳng phải là Ứng Thân?
Tán rằng:
Giải thích riêng biệt từng câu trong bốn câu, tức
là [lời giải thích sẽ] gồm bốn đoạn.
Trong câu thứ nhất, có ba ư: Một là gạn hỏi, hai
là giải thích, ba là kết lại. Đoạn này là gạn
hỏi.
(Kinh) Vị
chư Như Lai bát Niết Bàn hậu, dĩ nguyện tự
tại cố, tùy duyên lợi ích.
(經)謂諸如來般涅槃後,以願自在故,隨緣利益。
(Kinh:
Chính là sau khi các đức Như Lai nhập Niết Bàn, do
nguyện tự tại, sẽ tùy duyên lợi ích).
Tán rằng:
Giảng giải bốn câu, [đoạn này] nhằm giải
thích câu đầu tiên. Nói “chư Như Lai” bao gồm
hết thảy các vị Phật. “Bát Niết Bàn hậu”
(Sau khi nhập Niết Bàn) tức là sau khi hiện tướng
Niết Bàn trong tám tướng [thành đạo]. Do nguyện
tự tại, sức tự tại của nguyện đại
bi trước kia, sẽ tùy cơ cảm duyên, hoặc là lưu
lại h́nh bóng, hoặc các loại thân khác, chẳng hiện
thân Phật, mà hiện thân bất định để lợi
ích [chúng sanh]. Đó là
Hóa, chẳng phải là Ứng. Thật ra, sau khi chứng
đắc Niết Bàn, Hóa Thân khởi tám tướng thành đạo
cũng [thuộc vào nội dung] của câu này. Nhưng nhằm
vạch rơ [thân ấy] chẳng phải là Tha Thọ Dụng,
trí b́nh đẳng chỉ khởi hiện sắc tướng
Phật, trụ trong Hữu Dư Y cũng là Ứng Thân và Hóa
Thân. V́ thế nói: “Hiện chủng chủng tướng”
(Hiện các thứ tướng). Sau khi đă nhập diệt,
lưu lại h́nh ảnh v.v… và di cốt (xá-lợi); đó
là Hóa, chẳng phải là Ứng. V́ thế, bản dịch
cũ của kinh này ghi: “Dĩ nguyện tự tại cố
di thân” (Do nguyện tự tại nên để lại thân).
Nếu chẳng vậy, hai câu giữa phải nên nói là:“Bát
Niết Bàn hậu, đản thị chứng đắc Vô
Thượng Quả hậu chi sở khởi” (Sau khi bát
Niết Bàn, chỉ là thân khởi lên sau khi đă chứng
đắc cái quả vô thượng).
(Kinh) Thị
danh Hóa Thân.
(經)是名化身。
(Kinh:
Đó gọi là Hóa Thân).
Tán rằng:
Kết lại.
(Kinh) Hà
giả Ứng Thân phi Hóa Thân? Thị Địa Tiền thân.
(經)何者應身非化身?是地前身。
(Kinh:
Ǵ là Ứng Thân mà chẳng phải là Hóa Thân? Chính là thân Địa
Tiền).
Tán rằng:
Từ đây trở đi, lược giải câu thứ
hai. Đây chính là cái thân được thấy bởi bậc
Địa Tiền, tức là hiện thân Phật nhằm thích
ứng với bậc Địa Tiền. Thân được
thấy bởi
bậc Bồ Tát thuộc địa vị tứ
thiện căn th́ gọi là Ứng Thân, do chẳng hiện
thân h́nh khác, cho nên chẳng phải là Hóa Thân. Tức là như
trong kinh Phạm Vơng nói: “Châu táp thiên hoa đài, nhất quốc,
nhất Thích Ca. Nhất đài hữu thiên diệp, bách thiên
ức Thích Ca” (ngàn đài hoa vây quanh, mỗi cơi một Thích
Ca. Mỗi đài hoa ngàn cánh, trăm ngàn ức Thích Ca), tức
là một ngàn tam thiên đại thiên thế giới, trong mỗi
đại thiên thế giới có một đại Hóa Thân.
Do kinh này nói: “Tam thiên đại thiên nhất Phật hóa cảnh”
(tam thiên đại thiên thế giới là cảnh giáo hóa của
một đức Phật). Như một vị Phật được
thấy bởi các địa vị như Nhị Thừa
v.v… th́ chỉ là giáo hóa một tứ thiên hạ, chẳng
phải là cơi đại thiên. Nếu xét theo cái thấy của
bậc Địa Thượng th́ Tha Thọ Dụng Thân cũng
gọi là Ứng Thân, chẳng phải là Hóa Thân, nay lược
đi chẳng bàn tới.
(Kinh) Hà giả Hóa Thân diệc
Ứng Thân? Vị trụ Hữu Dư Niết
Bàn chi thân.
(經)何者化身亦應身?謂住有餘涅槃之身。
(Kinh: Ǵ là Hóa Thân cũng
là Ứng Thân? Tức là thân trụ trong Hữu Dư Niết
Bàn).
Tán rằng: Giải thích câu
thứ ba. Chính là thân hiện ra cho hàng Nhị Thừa, giống
như thân trời, người, cho nên là Hóa. Do hiện thành
Chánh Giác, nên gọi là Ứng. Do là thân ở trong cung vua, thị
hiện thành Phật, nên gọi là “thân trụ trong Hữu
Dư Niết Bàn”. Thân Tha Thọ Dụng mà hàng Bồ Tát
thọ thân Phần Đoạn từ Sơ Địa cho tới
Thất Địa được thấy cũng thuộc
vào [phạm vi của] câu này, ư nghĩa cũng chẳng mâu
thuẫn. Chuẩn theo đấy, [phạm vi của câu này]
sẽ thâu nhiếp [các thân] Phật gần trọn hết,
ngoại trừ thân Tha Thọ Dụng được thấy bởi
bậc Bồ
Tát từ Bát Địa trở lên. V́ thế, thân ấy chẳng
gọi là Hóa.
(Kinh) Hà giả phi Hóa Thân
phi Ứng Thân? Vị thị Pháp Thân.
(經)何者非化身非應身?謂是法身。
(Kinh: Ǵ là chẳng phải
Hóa Thân, chẳng phải Ứng Thân? Tức là Pháp Thân).
Tán rằng: Giải thích câu
thứ tư. Trước là giải thích trực tiếp [thế nào chẳng phải là Hóa
Thân, chẳng phải là Ứng Thân], sau là giải trừ vấn
nạn. Câu này thuộc ư đầu. Tức là Tự Thọ
Dụng và tự tánh Pháp Thân được gọi gộp
chung là Pháp Thân, nhưng đối với ba thân của đức
Phật, các thuyết nói không nhất định. Như Phật
Địa Luận và Thành Duy Thức nói Phật có bốn
thân rạch ṛi, chẳng xen tạp. Các kinh luận khác th́ nói
gộp chung, như Nhiếp Đại Thừa Luận th́ cho rằng
Tự Thọ Dụng Thân và tự tánh thân được gọi
gộp chung là Tự Tánh Pháp Thân, Tha Thọ Dụng Thân được
gọi là Ứng Thân. Có thuyết cho rằng đó là thân mà
trời, người, Bồ Tát, Thanh Văn cùng trông thấy.
Nếu là Tự Thọ Dụng Thân th́ bậc Đẳng
Giác c̣n chẳng thể biết, huống hồ các chúng sanh
khác ư? Nếu Tha Thọ Dụng là thân hiện cho bậc
Địa Thượng th́ các hạng như Thanh Văn v.v…
cũng chẳng thể [trông thấy được]. Có [kinh
luận] lại nói là “có” (tức Thanh Văn, Độc
Giác, Địa Tiền Bồ Tát có thể trông thấy thân
hiện cho bậc Địa Thượng) như Phật Địa
Luận [chẳng hạn]. Có người đối với
ba cách giải thích ấy, cho rằng cách giải thích thứ
ba là đúng, bảo: Đối với hàng Nhị Thừa hồi
tâm hướng Đại, Phật sẽ dùng danh xưng ấy để nói. Kinh Lăng Già cũng thế. Lại như
Nhiếp Đại Thừa Luận cho rằng
thân Phật được thấy bởi địa vị
bốn thiện căn trong Đại Thừa cũng thuộc
loại Tha Thọ Dụng.
Hỏi: V́
sao biết Tự Thọ Dụng Thân cũng thuộc vào tự
tánh Pháp Thân?
Đáp: Quyển
thứ chín của luận ấy nói: “Hăy nên biết Pháp
Thân tương ứng với mấy đức, chính là tứ
vô lượng thanh tịnh nhất, giải thoát, thắng
xứ” v.v… Quyển mười của luận ấy lại
nói: “Pháp giới của chư Phật chính là Pháp Thân, hăy
nên biết luôn luôn có thể tạo năm nghiệp” v.v…
Luận ấy lại nói: “Nếu là Thọ Dụng Thân
th́ Bồ Tát, Thanh Văn, và chư thiên v.v… các thứ chúng hội
xen tạp đều có thể thấy”. Rơ ràng [Thọ Dụng
Thân như luận ấy nói] chẳng phải là Tự Thọ
Dụng Thân!
Hỏi: Nếu
vậy, luận ấy lại nói “Thọ Dụng Thân chẳng
phải là tự tánh thân, do sắc thân có thể thấy”,
há Tự Thọ Dụng chẳng phải là sắc thân ư?
Đáp: Tha
Thọ Dụng Thân chỉ có sắc, nên gọi là Hữu Sắc.
Nếu không, hăy nên nói do là Ngũ Uẩn, nên chẳng phải
là tự tánh thân, sao lại chỉ nói là Sắc? Chỉ là ư
nghĩa của tam thân trong luận ấy giống như
trong kinh này. Lại giải rằng: Trong luận ấy, Tự
Thọ Dụng và Tha Thọ Dụng được gọi
gộp
chung là Thọ Dụng, tự tánh Pháp Thân chỉ
là lư Chân Như, nên nói “pháp giới của chư Phật
tức là Pháp Thân”. Nói đến chuyện “đầy đủ
công đức”, luận ấy tự giải thích rằng:
“Ư nói Pháp Thân của Phật là nghĩa thù thắng thành thật
của Chân Như được hiển lộ”. Điều
này có nghĩa là Pháp Thân tương ứng với công đức
trong tự tánh, [do vậy]
nói là “thân sai biệt tương ứng”
th́ chẳng phạm lỗi ǵ! Giống như kinh Thắng
Man nói “xuất triền danh Pháp Thân” (thoát khỏi triền
phược th́ gọi là Pháp Thân), tương ứng với
các công đức nhiều như cát sông Hằng trong tánh, chẳng
phải là công đức nơi tướng. Sáu cái nhân nhằm
nói rơ Thọ Dụng Thân chẳng phải là tự tánh thân.
Lại c̣n xét theo Tha Thọ Dụng [để biện định],
chẳng phải là nói Tự Thọ Dụng chẳng thuộc
vào Thọ Dụng Thân! Chuẩn theo đấy, tức là [cách
nói ấy] giống như Đại Trang Nghiêm Luận, Pháp
Hoa Kinh Luận, và kinh Bát Nhă nói về ba thân đều khác với kinh này. V́ thế, mỗi đằng đều
thuận theo [một khía cạnh riêng để luận định,
nên thoạt nh́n th́ dường như mâu thuẫn].
Hơn nữa,
Hóa Thân được nói trong Pháp Hoa Kinh Luận cũng chính
là “vừa là Hóa, vừa là Ứng” ở đây, giống
như Ứng Thân. Cũng có thể hiểu Tự Thọ Dụng
và Tha Thọ Dụng đều được gọi là Ứng
Thân! Nói “thọ lượng vô biên” th́ chính là Ứng Thân.
Pháp Thân chỉ là Như (Chân Như), kinh ấy nói [Pháp Thân] “phi
thật, phi hư” (chẳng thật, chẳng hư) v.v…
Nhưng các kinh văn trên đây đều xét theo đa số,
hoặc có kinh khi đang
nói về Tha Thọ Dụng Thân lại nói về
Tự Thọ Dụng, hoặc chỗ đang nói về
Tự Thọ Dụng Thân lại nói đến Tha Thọ Dụng,
hoặc là chỗ nói
về Pháp Thân lại nói về Ứng Thân và Hóa Thân, hoặc
chỗ nói về Ứng Thân và Hóa Thân lại nói về Pháp
Thân. Do chỗ tương đồng trong tánh mà nói [xen lẫn
như thế, khiến cho kinh văn thoạt nh́n] có xen tạp.
Hăy dựa theo đó để biết.
(Kinh) Thiện
nam tử! Thị Pháp Thân giả, nhị vô sở hữu sở
hiển hiện cố.
(經)善男子!是法身者,二無所有所顯現故。
(Kinh:
Thiện nam tử! Pháp Thân ấy do hai thứ vô sở hữu
hiển hiện).
Tán rằng:
Đây là lời giải thích vấn nạn được
giả lập. Ư của lời cật vấn là: Đă nói “chẳng
phải Ứng, chẳng phải Hóa” là Pháp Thân, cớ sao
trong phần trước nói “thân thứ nhất đồng
sự với chư Phật, thân thứ hai đồng ư với
chư Phật, và thân thứ ba đồng thể với
chư Phật”? Lại nói “thân thứ nhất do nương
vào Ứng Thân mà được hiển hiện, thân thứ
hai do nương vào Pháp Thân mà được hiển hiện”.
Pháp Thân đă chẳng phải là hai thân Ứng và Hóa, chuyện
ấy thành tựu bằng cách nào? Như người trong thế
gian, thân mỗi người mỗi khác, sự nghiệp, ư
thể mỗi mỗi đều khác nhau. Lại như
trong phần trước có nói: “Mặt trời, mặt
trăng, nước, gương do ánh sáng mà hiện bóng”,
[dùng ư nghĩa ấy để
giải thích th́] cũng chẳng phù hợp! Nay sẽ giải
thích, kinh văn được chia thành bốn phần: Trước
là nêu ra, kế đó là gạn hỏi, kế đó là giải
thích, cuối cùng là kết lại. Phần này thuộc về
nêu bày.
Ư “nêu bày” như sau:
Pháp Thân chính là xa ĺa vô nhị, lại do Như Trí Như Như
để chứng th́ mới có thể hiển lộ. V́ thế,
[Pháp
Thân] có thể làm chỗ nương tựa để
khởi các sự nghiệp. Phần trước nói [các thân]
khác biệt, tức là phần luận định riêng giữa
Tướng và Dụng. C̣n như nói đến “mặt
trời, mặt trăng, nước, gương do ánh sáng mà hiện bóng” v.v… là phần
gộp chung tánh và tướng để biện luận. Nếu
nói “tự tánh Pháp Thân hiển lộ Ứng Thân”, tức
là thuộc
về Nhiếp Tướng Quy Tánh Môn. V́ thế,
Vô Tánh Nhiếp Luận nói: “Pháp giới của chư Phật chính
là Pháp Thân. Hăy nên biết
luôn có thể tạo năm nghiệp: Một là cứu vớt
nghiệp tai ương bất ngờ, khiến cho thấy
Phật th́ kẻ mù có mắt, kẻ điếc được
có tai, kẻ
cuồng đạt được chánh niệm…” như thế
đó!
Luận (Nhiếp
Luận) tự nêu câu hỏi rằng: “Nếu nói Pháp Thân chẳng
phải là cảnh của sáu căn, cớ
sao nay nói [Pháp Thân có thể tạo tác năm nghiệp, như
khiến cho] người mù có mắt (mắt có thể nh́n
thấy) v.v… ‘Có thể thấy Pháp Thân’ là nghiệp của Pháp
Thân ư? Đáp: Thấy Pháp Thân là do đại nguyện
xưa kia dẫn phát thế lực mà thành tựu Pháp Thân viên
măn. Theo thứ tự, phát khởi tác dụng của Biến
Hóa Thân. Do vậy, có thể khiến cho người
mù được có mắt v.v… Do tư lương xưa
kia dẫn phát thế lực, chứng đắc Pháp Thân tùy
ư khởi tác dụng, như bánh xe trong máy móc [ăn khớp
với nhau]. Do quy ngọn về gốc, bèn nói là ‘thấy Pháp
Thân’, thật ra, chỉ là thấy Hóa Thân”. V́ thế,
trong phần sau kết luận rằng: “Do vậy, hăy nên
biết cảnh giới thanh tịnh, trí huệ thanh tịnh,
chẳng thể phân biệt, chẳng có trung gian, là cái gốc
của Diệt và Đạo. Từ nơi Pháp Thân ấy, có
thể hiển lộ các loại sự nghiệp
của Như Lai”.
Nói về “nhị
vô sở hữu”, Chân Đế Tam Tạng nói: “Như
năm thứ hiển hiện bởi ‘nhị vô sở hữu’
trong phần sau, do vượt ngoài năm thứ ‘hai cảnh’
nên gọi là ‘hiển hiện’. Năm thứ ‘hai’ ấy đều
là vô sở hữu”. Trong đây, đă nêu ra hai thứ: Một
là cảnh nhị vô sở hữu, hai là trí nhị vô sở
hữu. Do cảnh của Như là thù thắng, vượt
ngoài năm thứ “nhị vô sở hữu” ấy. Do trí vô phân biệt, tùy thuận chứng năm
thứ cảnh nhị vô sở hữu ấy, cho nên Pháp
Thân hiển hiện. Lược đi chẳng nói đến
các hạnh
phương tiện khác như đại bi
nguyện v.v… Nhưng “hai thứ vô sở hữu” ấy chính là Sanh Không và Pháp Không. Cảnh chính là Pháp Không,
trí chính là Sanh Không. Do Nhị Không mà [Pháp Thân] hiển lộ.
(Kinh) Hà
giả danh vi nhị vô sở hữu?
(經)何者名為二無所有?
(Kinh:
Điều ǵ gọi là “hai thứ vô sở hữu?”)
Tán rằng:
Gạn hỏi.
(Kinh) Ư
thử Pháp Thân, tướng cập tướng xứ, nhị
giai thị vô.
(經)於此法身相及相處二皆是無。
(Kinh:
Trong Pháp Thân này, tướng và tướng xứ, cả
hai đều là không).
Tán rằng:
[Đây là phần] giải thích, chia thành hai phần:
- Một, cảnh
chẳng hai.
- Hai, trí chẳng
hai.
Đoạn
này [nhằm giải thích] cảnh chẳng hai, trước
là Tổng, sau là Biệt. Phần này là Tổng. Tướng
chính là Nhân Ngă Tướng, Xứ chính là Pháp Ngă. Do Nhân Ngă nương vào
Pháp Ngă mà khởi, nên gọi là Tướng Xứ. Do vậy,
Thành Duy Thức Luận nói: “Như do mê muội
mà nói thân cây bị cụt v.v… là người;
do đó, cái Thể của Nhân Ngă là Không,
chỉ là cái thấy do vọng tưởng, như mắt
có màng mộng bèn thấy tướng quầng
sáng nơi đèn”. Do vậy, các kinh luận nói
“danh tướng chẳng có tánh”. Do pháp Như Như
xa ĺa hai thứ Vô, cho nên nói “cả hai đều là không”.
V́ vậy, Thành
Duy Thức Luận nói: “Viên Thành Thật ở trong ấy
thường xa ĺa các tánh trước”.
(Kinh) Phi
hữu, phi vô, phi nhất, phi dị, phi số, phi phi số,
phi minh, phi ám.
(經)非有非無、非一非異、非數非非數、非明非暗。
(Kinh:
Chẳng có, chẳng không, chẳng một, chẳng khác, chẳng
phải số, chẳng phải không là số, chẳng sáng,
chẳng tối).
Tán rằng:
Riêng nói rơ hai thứ Vô. “Phi hữu, phi vô”: Ĺa bốn
câu “có, không”, một là có, hai là không, ba là “cũng có, cũng
không”, bốn là “chẳng phải có, chẳng phải không”.
[Chánh kinh chỉ] nêu ra câu thứ tư để [người
nghe] liên tưởng ba câu trước. “Phi nhất, phi dị”:
Lại ĺa bốn câu về “một, khác”: Một là “một”,
hai là khác, ba là “vừa một ,vừa khác”, bốn là “chẳng
phải một, chẳng phải khác”, cũng nêu ra câu thứ
tư để liên tưởng ba câu trước. “Phi số,
phi phi số”: Vượt ngoài t́nh kiến phân biệt về
số lượng th́ gọi
là Phi Số, chẳng phân biệt cảnh th́ gọi là Phi
Phi Số. Lại nữa, do vượt ngoài số lượng
cho nên là Phi Số; thuộc về pháp nên là Phi Phi Số. Nói
“phi minh, phi ám” tức là “bất cấu, bất tịnh”
được nói trong các kinh. Khi mới ĺa nhiễm [th́ đă sẵn là tịnh], chẳng
phải là tới nay mới tịnh, cho nên nói “phi minh”.
Dù ở trong nhiễm, vẫn chẳng nhiễm, cho nên nói là
“phi ám”. Do sự mầu nhiệm thù thắng ấy, tâm
suy nghĩ và nói năng đều dứt bặt. Theo Nhiếp
Đại Thừa Luận, chẳng có ba thứ “hai”:
- Một, chẳng
có hai tướng Có và Không. Chẳng phải là hữu tướng,
do hết thảy các pháp Biến Kế Sở Chấp đều
chẳng có. Cũng chẳng phải là vô tướng, do cái
được hiển hiện bởi Không đều có tự
tánh.
- Hai, chẳng
có hai tướng hữu vi và vô vi. Do nghiệp phiền năo chẳng
phải là cái được thực hiện, cho nên chẳng
phải là tướng hữu vi. Do được tự tại
nơi pháp có thể thị hiện dường như là hữu
vi, cho nên chẳng
phải là tướng vô vi.
- Ba, chẳng
có hai tướng dị tánh và nhất tánh. Do cái Thể của
thân Phật là một, cho nên chẳng phải là dị tướng.
Do chứng đắc vô lượng y chỉ, mỗi
thứ đều sai biệt,
cho nên chẳng phải là một tướng. Đều là
chẳng có một thứ nào, cho nên gọi là “vô nhị tướng”.
(Kinh)
Như thị Như Như trí bất kiến tướng
cập tướng xứ, bất kiến phi hữu, phi vô,
bất kiến phi nhất, phi dị, bất kiến phi số,
phi phi số, bất kiến phi minh, phi ám.
(經)如是如如智不見相及相處,不見非有非無,不見非一非異,不見非數非非數,不見非明非暗。
(Kinh: Trí Như Như
như thế chẳng thấy tướng và tướng
xứ, chẳng thấy “chẳng phải có, chẳng phải
không”, chẳng thấy “chẳng một, chẳng khác”, chẳng
thấy “chẳng phải số, chẳng phải không là số”,
chẳng thấy “chẳng phải sáng, chẳng phải tối”).
Tán rằng:
Nói về trí Như Như, tức là trí vô phân biệt, do đúng
như cảnh mà chứng, cho nên chẳng thấy. Ở đây,
nêu riêng năm thứ Vô (tức “chẳng có tướng và tướng
xứ”, “chẳng
phải có, chẳng phải không”…), tu trọn vẹn, đạo
viên măn.
(Kinh) Thị
cố đương tri, cảnh giới thanh tịnh, trí huệ
thanh tịnh, bất khả phân biệt, vô hữu trung gian.
(經)是故當知,境界清淨、智慧清淨,不可分別、無有中間。
(Kinh:
V́ thế, hăy nên biết: Cảnh giới thanh tịnh, trí huệ
thanh tịnh, chẳng thể phân biệt, chẳng có chặng
giữa).
Tán rằng:
Tiếp đó là kết lại. Đây là gộp chung hai loại
cảnh và trí b́nh đẳng, cho nên kết hợp thành Pháp
Thân. Do hai loại cảnh và trí chẳng một, chẳng khác,
chẳng thể phân biệt, chẳng có trung gian, đây, kia
sai biệt, cho nên gọi gộp chung là Pháp Thân.
(Kinh) Vi
Diệt Đạo bổn cố, ư thử Pháp Thân, năng
hiển Như Lai chủng chủng sự nghiệp.
(經)為滅道本故,於此法身能顯如來種種事業。
(Kinh: V́ là gốc của
Diệt và Đạo, đối với Pháp Thân này, có thể
hiển lộ các thứ sự nghiệp của Như Lai).
Tán rằng:
Đây là phần tổng kết Pháp Thân là chỗ nương
tựa của Ứng Thân và Hóa Thân, có thể dấy khởi
các thứ sự nghiệp lợi ích. Do cảnh thanh tịnh,
nên là cái gốc của Diệt Đế. Do trí thanh tịnh,
nên là cái gốc của Đạo Đế. [Nói là] “cố”
(v́ thế), tức là do pháp Như Như và Như Như
Trí là cái gốc của Diệt và Đạo, Ứng Thân và
Hóa Thân nương vào đấy để khởi các thứ
sự nghiệp. Như Nhiếp Đại Thừa Luận
nói đại lược năm nghiệp; v́ thế nói là “chủng
chủng” (các thứ). Nói “năm nghiệp” th́:
- Một, nghiệp
cứu tế tai ương, hoạn nạn, có thể khiến
cho kẻ mù sáng mắt v.v…
- Hai, nghiệp
cứu vớt đường ác, cứu vớt kẻ ở
trong chỗ bất thiện, đặt họ nơi tốt
đẹp.
- Ba, nghiệp
cứu tế kẻ chẳng có phương tiện, khiến
cho các ngoại đạo bỏ “chẳng phải phương
tiện”, cầu hạnh giải thoát, đặt họ
trong thánh giáo của Như Lai.
- Bốn, nghiệp
cứu tế Tát Ca Da (kẻ chấp trước Thân Kiến)[2],
truyền cho họ đạo có thể vượt thoát tam
giới. Ngài Vô Tánh giải thích rằng: “Ư nói chuyển biến
Thân Kiến hư ngụy trong ấy, tức
là từ trong các pháp tam giới hư lậu, truyền trao pháp
xuất ly”.
- Năm, nghiệp
cứu tế Nhị Thừa, cứu vớt các Bồ Tát toan
tiến nhập thừa khác, và các Thanh Văn thuộc chủng
tánh bất định v.v…, đặt yên họ nơi tu tập
hạnh Đại Thừa.
Hỏi: Khiến
cho họ đắc Nhị Thừa, há chẳng phải là
nghiệp ư?
Đáp: Đấy
là nghiệp thứ ba và thứ tư trên đây.
5.3.4.2.3. Đáp về cái
nhân
5.3.4.2.3.1. Biện định
cái quả [của cái nhân ấy]
(Kinh) Thiện
nam tử! Thị thân nhân duyên cảnh giới,
xứ sở, quả y ư
bổn, nan tư nghị cố.
(經)善男子!是身因緣境界處所,果依於本,難思議故。
(Kinh:
Thiện nam tử! Đó là nhân duyên, cảnh giới, và xứ
sở của thân, do quả nương vào gốc
nên khó nghĩ bàn).
Tán rằng:
Đoạn lớn thứ ba, đáp về cái nhân, tức chỉ
rơ do cái nhân mà đạt được cái quả, nhằm
trả lời câu hỏi về tu hành. Trong đoạn này,
biện định thứ tự đắc quả, chưa
nói đến thứ tự tu hành, dụng ư khiến cho người
tu cái nhân cần biết thứ tự, v́ thứ tự của
cái nhân dựa theo thứ tự của cái quả. Luận
Biện Trung Biên, quyển thứ ba viết: “Đối
với Khí th́ nói đến Dị Thục, Lực là cái khiến
cho Khí tăng thượng, yêu thích tăng trưởng tịnh,
theo thứ tự chính là năm cái quả”. Luận ấy
giải thích rằng: “Khí (căn khí) chính là tùy thuận thiện
pháp. Dị Thục nghĩa là đạt được cái
thân thù thắng, coi đó là đạo khí (căn cơ thích
đáng để tu đạo). Lực là do sức tăng
thượng của Khí khiến cho các thiện pháp thành tựu
tánh chất thượng phẩm”. Điều này có nghĩa
là do nương
vào cái thân thù thắng và nhờ vào thiện lực
từ trước, hợp thành thiện pháp trong hiện thời,
tạo thành tăng thượng phẩm. Ái Nhạo (yêu thích)
tức là do thiện lực đă tu nhiều lượt trong
đời trước, [cho nên] đời này sanh ḷng yêu thích
sâu xa đối với thiện pháp. “Tăng trưởng”
là thiện lực do đă tu tập nhiều lượt trong
đời hiện tại, khiến cho thiện căn mau được
viên măn. “Tịnh” là đoạn chướng, đạt
được vĩnh viễn ĺa khỏi trói buộc. Năm
thứ theo thứ tự như sau chính là năm cái quả:
- Một, Dị
Thục (tức Khí trong đoạn trên).
- Hai, Tăng
Thượng Quả, tức thiện pháp thành tựu thượng
phẩm. Do sức tăng thượng của Thiện Dị Thục (cái
quả Dị Thục của
điều thiện), cho nên thiện pháp trở thành thượng
phẩm, tức là Tăng Thượng Quả.
- Ba, Đẳng
Lưu Quả, tức là trong đời trước đă
nhiều lượt tu thiện lực, khiến cho đời
này sanh ḷng
ưa thích sâu xa đối với thiện pháp;
đó là Đẳng Lưu Quả của đời trước.
- Bốn, Sĩ
Dụng Quả. Do tu nhiều lượt trong hiện tại,
có thể khiến cho thiện căn mau được viên
măn. Sĩ Dụng Quả ấy là do nói theo pháp sĩ dụng[3].
- Năm, Ly
Hệ Quả, do đoạn chướng từ trước
mà được vĩnh viễn ĺa khỏi trói buộc [bởi
phiền năo]; đó là Ly Hệ Quả.
Nay đoạn
này nhằm nói rơ ư nghĩa ấy. Đoạn văn kế tiếp
trong bộ luận ấy biện định về cái quả
sai biệt, có mười thứ như sau:
- Một, Hậu
Hậu Quả, tức là do chủng tánh mà đạt được
cái quả do phát tâm. Đối với các cái quả như
thế, hăy nên lần lượt nhận biết. Ư nói cái
trước đó là nhân, cái sau đó là quả. V́ các địa
vị về sau là do các địa vị trước đó
mà có. Do đó, địa vị sau chính là cái quả của
địa vị trước. Đấy là nói chung.
- Hai, Tối
Sơ Quả, tức lúc thoạt ban sơ chứng xuất
thế gian, pháp tức là Sơ Địa.
- Ba, Sổ
Tập Quả, ư nói từ đây trở đi, có các địa
vị hữu học (tức các địa vị thuộc
Thập Địa).
- Bốn, Cứu
Cánh Quả, tức là pháp vô học (tức địa vị
Phật).
- Năm, Tùy
Thuận Quả, tức là do theo thứ tự [mà lần lượt
đắc quả]. Hăy nên biết cái quả này thuộc loại
Hậu Hậu Quả.
- Sáu, Chướng
Diệt Quả chính là Năng Đoạn Đạo, tức
là do Tối Sơ Quả có thể diệt chướng,
cho nên được gọi là Chướng Diệt (ư nói:
Nêu ra cái [quả] thoạt đầu để chỉ rơ, đối
với hậu trí cũng thế).
- Bảy, Ly
Hệ Quả, tức là Sổ Tập Quả và Cứu Cánh
Quả. Địa vị hữu học và vô học theo thứ
tự xa ĺa Phiền Năo Hệ (sự trói buộc bởi phiền
năo).
- Tám, Thù Thắng
Quả, tức là các công đức thù thắng như thần
thông v.v…
- Chín, Hữu
Thượng Quả, nghĩa là địa vị Bồ Tát,
tuy vượt xa các thừa khác, nhưng chưa thành Phật.
- Mười,
Vô Thượng Quả, tức là địa vị Như
Lai. Chẳng c̣n pháp nào khác thù thắng hơn địa vị
này.
Trong ấy,
sáu quả sau chính là bốn quả trước được
nói theo ư nghĩa sai biệt. Kinh văn được chia đại
lược thành ba phần:
- Một là
nêu chung.
- Hai là giải
thích từng điều riêng biệt.
- Ba là khuyên
tu.
Đoạn
này là phần đầu, tức nêu chung. Có năm nghĩa:
- Một,
thân chính là Khí, tức Dị Thục Quả.
- Hai, nhân duyên,
tức nương vào cái Khí ấy để trước hết
tu điều thiện. Đó là nhân duyên, tức Tăng
Thượng Quả. Do thiện thân khí làm sức tăng thượng,
khiến cho điều thiện tăng trưởng.
- Ba, cảnh
giới, tức là nêu ra cảnh làm sở duyên cho Đẳng
Lưu Quả, tức các điều thiện, Bồ Đề,
và Niết Bàn đều là cảnh của nó, duyên theo các pháp thù thắng
ấy mà dấy ḷng yêu thích.
- Bốn, xứ
sở, tức Sĩ Dụng Quả. Do nhiều lượt
tu tập Bồ Đề tốt lành để được
mau chóng viên măn chỗ mong cầu ấy, do là sự yêu thích Đại
Bồ Đề thuộc Đại Thừa.
- Năm, quả
nương vào gốc, tức là Ly Hệ Quả. “Quả
nương vào gốc” tức là Ly Hệ Quả chẳng
ĺa pháp Như Như.
“Nan tư
nghị cố” (do khó nghĩ bàn): Tán thán chung sự khó
nghĩ tưởng, chẳng phải là cảnh của Nhị
Thừa v.v…
(Kinh) Nhược
liễu thử nghĩa, thị thân tức thị Đại
Thừa, thị Như Lai tánh, thị Như Lai tạng.
(經)若了此義,是身即是大乘,是如來性、是如來藏。
(Kinh:
Nếu hiểu rơ nghĩa này, thân ấy chính là Đại Thừa,
là tánh Như Lai, là Như Lai tạng).
Tán rằng:
Tiếp đó là giải thích:
- Một, giải
thích Dị Thục Quả của Khí.
- Hai, từ
“y ư thử thân” (nương vào cái thân này) trở đi,
giải thích về nhân duyên, tức Tăng Thượng Quả.
- Ba, từ
“bất thoái địa tâm” trở đi, nói về Sĩ
Dụng Quả.
- Bốn, từ
“thiện nam tử! Như thị Pháp Thân” (thiện
nam tử! Pháp Thân như thế) trở đi, nói về Ly
Hệ Quả.
Cảnh giới
ấy gồm trọn các pháp. Mười quả sai biệt,
chính là ư nghĩa sai biệt của năm quả. Đoạn
này thuộc ư thứ nhất (tức “giải thích Dị Thục
Quả của Khí”). “Nhược liễu thử nghĩa”
(nếu hiểu rơ nghĩa này): Trước hết là khuyên
chung hăy nên tin tưởng. “Thị thân tức thị Đại
Thừa” (thân này tức là Đại Thừa): Do sức
tăng thượng mà đắc quả Đại Thừa,
cho nên gọi là Đại Thừa. “Thị Như Lai tánh”
(là tánh Như Lai), tức là nương vào thân này, tu các điều
thiện, dần dần tăng trưởng th́ là Như
Lai tánh. Lại chưa hiện khởi các chủng tử vô lậu
và Chân Như thể là Như Lai tánh; sự tánh và lư tánh
đều gọi là Phật tánh. “Thị Như Lai tạng”
(là Như Lai tạng) tức là cái thức thuộc Dị
Thục Quả. Kinh Lăng Già dạy: “A Lê Da thức giả,
danh Không Như Lai Tạng, cụ túc huân tập vô lậu pháp
cố, danh Bất Không Như Lai Tạng. Hữu lậu đệ
bát hư vọng cố, danh Không. Thức trung vô lậu
chư chủng tử thể, vân Bất Không Như Lai Tạng,
ly hư vọng cố” (A Lê Da Thức gọi là Không Như
Lai Tạng, do huân tập trọn đủ pháp vô lậu mà
gọi là Bất Không Như Lai Tạng. Do thức thứ tám
là hữu lậu và hư vọng, nên gọi là Không. Thể
của các chủng tử vô lậu trong thức, được
gọi là Bất Không Như Lai Tạng do nó ĺa hư vọng).
Nói “cụ túc” (trọn đủ) tức là có đủ
hai thứ chủng tử hữu lậu và vô lậu.
(Kinh) Y
ư thử thân, đắc phát sơ tâm, tu hành địa
tâm nhi đắc hiển hiện.
(經)依於此身得發初心修行地心而得顯現。
(Kinh:
Nương vào thân này mà phát khởi Sơ Tâm, cái tâm thuộc
địa vị Tu Hành bèn được hiển hiện).
Tán rằng:
Kế đó, giải thích nhân duyên, tức Tăng Thượng
Quả. Do sức tăng thượng nơi cái thân Dị
Thục Quả, liền đạt được phát sơ
tâm và tu hành địa tâm.
(Kinh) Bất
thoái địa tâm diệc giai đắc hiện, Nhất Sanh
Bổ Xứ tâm, Kim Cang chi tâm.
(經)不退地心亦皆得現,一生補處心金剛之心。
(Kinh:
Bất thoái địa tâm cũng đều được
hiển hiện, tâm Nhất Sanh Bổ Xứ, tâm Kim Cang).
Tán rằng:
Nói về Sĩ Dụng Quả. Trong Sĩ Dụng Quả có
sai biệt. Tám quả trong các quả [được nói trong
phần trước]: Một là Hậu Hậu Quả, hai là
Tối Sơ Quả, ba là Sổ Tập Quả, bốn là Cứu
Cánh Quả, năm là Chướng Diệt Quả, sáu là Hữu
Thượng Quả, bảy là Vô Thượng Quả, tám là
Thù Thắng Quả. Bất Thoái Địa ở đây chính
là Tối Sơ Quả, do đạt được Sơ Địa,
chứng Bất Thoái, bao gồm cả Sổ Tập Quả
và Hữu Thượng Quả. Hậu Hậu Quả bao gồm
cả địa vị Phật.
(Kinh)
Như Lai chi tâm nhi tất hiển hiện, vô lượng
vô biên Như Lai diệu pháp giai tất hiển hiện.
(經)如來之心而悉顯現,無量無邊如來妙法皆悉顯現。
(Kinh:
Tâm Như Lai đều hiển hiện, vô lượng vô
biên diệu pháp của Như Lai thảy đều hiển
hiện).
Tán rằng:
[Nói về]
cái quả thứ tư là Cứu Cánh Quả và
cái quả thứ bảy là Vô Thượng Quả. Trong ấy,
[bao gồm hai tiểu đoạn]: Trước là Tổng,
sau là Biệt. Đoạn này là Tổng.
(Kinh) Y
thử Pháp Thân bất khả tư nghị Ma Ha tam-muội,
nhi đắc hiển hiện. Y thử Pháp Thân, đắc
hiện nhất thiết đại trí.
(經)依此法身不可思議摩訶三昧而得顯現,依此法身得現一切大智。
(Kinh:
Nương vào Pháp Thân này mà Ma Ha tam-muội chẳng thể
nghĩ bàn được hiển hiện. Nương vào Pháp
Thân này mà được hiện hết thảy đại
trí).
Tán rằng:
Nói riêng về Cứu Cánh Quả và Vô Thượng Quả. Trong
đây, lại có ba ư:
- Một là
đắc định trí.
- Hai là hiện
ứng hóa.
- Ba là hiển
lộ Tứ Đức.
Đoạn
này là đắc định trí, cũng là đắc Chướng
Diệt Quả do đă đắc định trí.
(Kinh)
Thị cố nhị thân, y ư tam-muội, y ư trí huệ,
nhi đắc hiển hiện.
(經)是故二身,依於三昧、依於智慧而得顯現。
(Kinh: V́ thế, hai thân
nương vào tam-muội, nương vào trí huệ mà được
hiển hiện).
Tán rằng:
Hiện Ứng Thân và Hóa Thân.
(Kinh) Như
thử Pháp Thân, y ư tự thể, thuyết thường,
thuyết ngă; y đại tam-muội cố,
thuyết ư lạc; y ư đại
trí cố, thuyết thanh tịnh.
(經)如此法身依於自體說常說我,依大三昧故說於樂,依於大智故說清淨。
(Kinh:
Pháp Thân như thế, nương vào tự thể mà nói Thường,
nói Ngă, do nương vào đại tam-muội mà nói đến
Lạc, do nương vào đại trí mà nói Thanh Tịnh).
Tán rằng:
Ư thứ ba là hiển thị Tứ Đức. Trước
là nói riêng, sau là tổng kết. Đoạn này là nói riêng. Do
tự thể là Như Như,
cho nên nói là Thường. Do Thường nên nói Ngă. Do tam-muội
nên đạt được đại lạc. Do loại
trừ cái nhân liên quan tới Nhị Thừa, nên gọi là đại
tam-muội. Do trí đoạn chướng, nên đạt được
Tịnh đức.
Hỏi: Bảo
Tánh Luận và Nhiếp Đại Thừa Luận v.v… nói “Tín
là cái nhân của Tịnh đức [trong Thường, Lạc,
Ngă, Tịnh]”, sao ở đây lại nói là trí?
Đáp: Các bộ
luận ấy do loại trừ bất tín xen tạp và các
nhân riêng, cho nên coi Tín là cái nhân của Tịnh đức. Kinh
này xét theo khía cạnh đoạn nhiễm và các nhân chung, cho
nên coi Trí là cái nhân của Tịnh đức. Lại nữa,
Thường và Ngă là xét theo Thể, Lạc và Tịnh là dùng
nhân và Thể để nói ḥng soi rọi lẫn nhau!
(Kinh)
Thị cố, Như Lai thường trụ tự tại
an lạc thanh tịnh.
(經)是故如來常住自在安樂清淨。
(Kinh:
V́ thế, Như Lai thường trụ tự tại, an lạc
thanh tịnh).
Tán rằng:
Tổng kết: Tự tại
chính là Ngă đức.
(Kinh) Y
đại tam-muội, nhất thiết Thiền Định,
Thủ Lăng Nghiêm đẳng, nhất thiết niệm xứ,
đại pháp niệm đẳng, đại từ, đại
bi.
(經)依大三昧,一切禪定首楞嚴等、一切念處大法念等、大慈大悲。
(Kinh:
Nương vào đại tam-muội, hết thảy Thiền
Định, Thủ Lăng Nghiêm v.v… hết thảy Niệm
Xứ, đại pháp niệm v.v… đại từ, đại
bi).
Tán rằng:
Kế đó, nói về Thù Thắng Quả. Kinh văn chia thành
ba phần: Trước là pháp, kế đó là thí dụ, sau
là kết hợp thí dụ với pháp. Trong phần pháp thuyết,
có hai ư:
- Một là
nói công đức thù thắng của định phẩm.
- Hai là nói công
đức thù thắng của trí phẩm.
Nương
vào Định mà phát Huệ; do vậy, trước hết
nói về Định phẩm. Định phẩm chia thành
ba phần: Trước là nêu bày, sau là liệt kê, kế đó
là kết lại. Hoặc là trước hết biện định
cái để [Định phẩm] nương
vào (sở y), kế đó biện định chủ thể
nương vào (năng y), và sau cùng là kết lại. “Đại
tam-muội” chính là tánh đắc tam-muội, tuy nhiều,
nhưng [nói tổng
quát th́] gồm tám loại: Một là Thiền, hai là Định,
ba là Niệm Xứ, bốn là đại từ bi, năm là
Đà-la-ni, sáu là lục thần thông, bảy là tám môn tự
tại, tám là hết thảy các pháp b́nh đẳng nhiếp
thọ.
Đoạn
này bao gồm bốn loại: Thiền tức là Tứ Tĩnh
Lự (từ Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền),
Định là Tứ Vô Sắc Định (Không Vô Biên Xứ,
Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ, Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng Xứ). V́ thế, kinh Tát Giá Ni Càn Tử
dạy: “Vân hà Như Lai Thiền Định? Đáp: Hữu
thứ đệ Định cập Thủ
Lăng Nghiêm đẳng, hoặc tức Đại Thừa
Quang Định, Tập Phước Đức Vương
định, Hiền Thủ Định, Kiện Hành Định” (Thế
nào là Thiền Định của Như Lai? Đáp: Có các môn
Định theo thứ tự và Thủ Lăng Nghiêm v.v… Hoặc
chính là Đại Thừa Quang Định, Tập Phước
Đức Vương Định, Hiền Thủ Định,
và Kiện Hành Định). Chú giải rằng: Thủ Lăng
Nghiêm chính là Kiện Hành Định. Âm [tiếng Phạn] đọc đúng là Tô Lăng Già
Ma (Śūraṅgama),
phương này dịch là Kiện Hành (健行).
Nêu ra môn Định thượng thủ [nên chỉ nhắc
tới Thủ Lăng Nghiêm], chứ Định thật sự
vô biên, cho nên nói là Đẳng (v.v…). Nêu đại lược
Tổng và Biệt th́ Thiền Định là Tổng, Thủ
Lăng Nghiêm là Biệt.
“Nhất
thiết Niệm Xứ” tức Tam Niệm Xứ, Tứ
Niệm Xứ, và Lục
Niệm Xứ v.v… Nói “đại pháp niệm” tức
là Niệm Pháp trong Lục Niệm. Do pháp là thầy của Phật;
v́ thế, trước hết nói đến Pháp Niệm. Hoặc
đấy chính là Hoại Duyên Pháp Niệm Trụ. Kinh Tát Giá
Ni Càn Tử quyển thứ bảy nói: “Pháp Niệm Xứ
giả, vị quán nội pháp, ngoại pháp, nội ngoại
pháp, tác nhị chủng tưởng, vị thường,
vô thường. Thường dĩ Phật nhăn kiến nhất
thiết chí tọa đạo tràng, vị tằng trung thất”
(Pháp Niệm Xứ là quán nội pháp, ngoại pháp, và nội
pháp, khởi lên hai thứ tưởng, tức là thường
và vô thường. Thường dùng Phật nhăn thấy hết
thảy đến ngồi đạo tràng, chưa từng
bỏ sót). Đó là nói theo quả. Cho đến nói: “Bất
dĩ nhục nhăn, thiên nhăn, huệ nhăn quán. Hà dĩ cố? Tam
nhăn vô tướng mạo cố, dĩ pháp nhăn quán” (Chẳng
dùng nhục nhăn, thiên nhăn và huệ nhăn để quán. V́ sao vậy?
Do ba loại mắt ấy chẳng có tướng mạo, nên
dùng pháp nhăn để quán). Đấy là nói bao gồm cả
cái nhân, nêu ra một thứ để bao gồm các thứ
khác. “Đại từ đại bi” tức là Tứ
Vô Lượng, do ban vui dẹp khổ thù thắng, cho nên nêu ra.
Kinh Tát Giá Ni Càn Tử quyển thứ sáu nói ba mươi
hai loại đại bi quán, quyển hai của kinh Tư Ích
nói có ba mươi sáu loại đại bi, đều rộng
như luận ấy đă nói.
(Kinh)
Nhất thiết Đà-la-ni, nhất thiết thần thông,
nhất thiết tự tại, nhất thiết pháp b́nh
đẳng nhiếp thọ.
(經)一切陀羅尼、一切神通、一切自在、一切法平等攝受。
(Kinh:
Hết thảy Đà-la-ni, hết thảy thần thông, hết
thảy tự tại, hết thảy pháp b́nh đẳng nhiếp
thọ).
Tán rằng:
Ư thứ năm là đức Tổng Tŕ. “Nhất thiết
thần thông” (hết thảy các thần thông) là phẩm
đức Lục Thông. Như quyển thứ bảy của
kinh Tát Giá Ni Càn Tử nói: “Thiên Nhăn Thông giả, công đức,
trí huệ sở thành, tất kiến thập phương sở
hữu h́nh sắc, năi chí diệc kiến Bồ Tát, Thanh
Văn, ngũ đạo chúng sanh sở tu hạnh nghiệp,
tất vô dư đẳng” (Thiên Nhăn Thông do công đức
và trí huệ tạo thành, đều thấy tất cả h́nh
sắc trong mười phương, cho đến cũng thấy
trọn hạnh nghiệp tu tập của Bồ Tát, Thanh
Văn và chúng sanh trong năm đường chẳng sót).
Cho đến năm loại thần thông kia, đều như
kinh ấy đă nói cặn kẽ.
“Nhất
thiết tự tại” (hết thảy tự tại),
tức là mười món tự tại như đă nói trong
phần trên. Quyển thứ bảy của kinh Tát Giá Ni Càn Tử
nói: “Đắc tứ như ư, thành tứ tự tại:
Nhất giả, mạng tự tại, nhị giả, thân
tự tại, tam, pháp tự tại, tứ, thần lực
tự tại” (Đạt được bốn món như
ư, thành tựu bốn món tự tại: Một là mạng tự
tại, hai là thân tự tại, ba là pháp tự tại, bốn
là thần lực tự tại). Mạng th́ như đă giải
thích trong phần trước. “Thân tự tại”: Tùy
tâm hiện thân, tùy tâm hiện sắc, cũng hiện ra oai
nghi v́ chúng sanh. Nếu muốn có thân tướng giống hệt
hết thảy chúng sanh, đều có thể biến hiện.
Đó gọi là “thân tự tại”. “Pháp” [trong “pháp tự
tại”] tức là biết pháp xuất thế và pháp thế
gian, đạt được vô ngại biện tài, tùy thuận
ư của chúng sanh mà nói, khiến cho họ trụ trong chánh
tín. Đó gọi là “pháp tự tại”. “Thần lực tự
tại” chính là rộng hiện các thứ thần thông
v.v… “Nhất thiết pháp b́nh đẳng nhiếp thọ”
(b́nh đẳng nhiếp thọ hết thảy các pháp): Đắc
pháp b́nh đẳng. Do chúng sanh b́nh đẳng, có thể nhiếp
thọ hết thảy hữu t́nh. Quyển bốn mươi
sáu của luận Du Già Sư Địa nói do năm loại
tướng mà tâm b́nh đẳng trọn khắp đối
với hết thảy hữu t́nh:
- Một, Bồ
Tát lúc ban sơ phát
tâm, nguyện
đắc đại Bồ Đề. Như thế
cũng là v́ lợi ích hết thảy các hữu t́nh, cho nên
khởi tâm b́nh đẳng.
- Hai, đối
với các hữu t́nh, đều trụ trong tâm thương
xót, b́nh đẳng.
- Ba, đối
với các hữu t́nh, thâm tâm đều phát khởi tâm b́nh
đẳng như yêu thương con một.
- Bốn,
biết tất cả pháp tánh của một hữu t́nh chính
là pháp tánh của hết thảy các hữu t́nh. Do cái tâm pháp tánh b́nh
đẳng đều hành, đối với các hữu t́nh,
trụ trong tâm b́nh đẳng.
- Năm, giống
như hành hạnh tạo lợi ích cho một hữu t́nh,
hành hạnh tạo lợi ích cho hết thảy các hữu t́nh
cũng giống như thế. Do tâm lợi ích đều khắp
cho các hữu t́nh mà trụ trong tâm b́nh đẳng.
Quyển bảy
của
luận Đại Trang Nghiêm nói năm thứ b́nh
đẳng, Pháp Hoa Luận và Nhiếp Đại Thừa,
mỗi tác phẩm đều nói ba món b́nh đẳng. Hoặc
có thể hiểu hết thảy các pháp b́nh đẳng chỉ
là b́nh đẳng nhiếp thọ hết thảy các pháp công
đức thuộc các định phẩm, hoặc là sự
nhiếp thọ ấy thuộc vào [nội dung của] câu kết
luận trong phần sau: “Nhiếp thọ như thị Phật
pháp tất giai xuất hiện, do thử b́nh đẳng cố, năng b́nh
đẳng nhiếp thọ” (Nhiếp
thọ Phật pháp như thế thảy đều xuất
hiện. Do sự b́nh đẳng ấy mà có thể b́nh
đẳng nhiếp thọ).
(Kinh)
Như thị Phật pháp tất giai xuất hiện.
(經)如是佛法悉皆出現。
(Kinh:
Phật pháp như thế, thảy đều xuất hiện).
Tán rằng:
Kết lại.
(Kinh) Y
thử đại trí, thập lực, tứ vô sở úy, tứ
vô ngại biện.
(經)依此大智、十力、四無所畏、四無礙辯。
(Kinh:
Nương vào đại trí, thập lực, tứ vô sở
úy, tứ vô ngại biện ấy).
Tán rằng:
Kế đó, nói về công đức thù thắng của trí
phẩm. Kinh văn chia làm ba phần như trong [phần biện
luận về] định phẩm; đoạn này chính là nêu
chung và nói riêng. “Đại trí” tức là Nhất Thiết
Trí làm căn bản của nó. “Thập lực v.v…” chính
là Nhất Thiết Chủng Trí. Hoặc [có thể hiểu]
đại trí chính là Chân Như trí tánh. Thập Lực v.v… như
trong các kinh luận khác đă biện định chi tiết.
(Kinh)
Nhất bách bát thập bất cộng chi pháp, nhất thiết
hy hữu bất khả tư nghị pháp tất giai hiển
hiện.
(經)一百八十不共之法、一切希有不可思議法悉皆顯現。
(Kinh:
Một trăm tám mươi pháp bất cộng, hết thảy
các pháp hy hữu
chẳng thể nghĩ bàn thảy đều hiển hiện).
Tán rằng:
“Một trăm tám mươi pháp bất cộng”: Theo
kinh Vô Thượng Y: “Phật cáo A Nan: - Hữu bách bát thập
bất cộng chi pháp, thử thị Như Lai thù thắng
công đức. Nhất, tam thập nhị tướng, nhị,
bát thập chủng hảo” (Đức Phật bảo
A Nan: - Có một trăm tám mươi pháp bất cộng, đấy
là công đức thù thắng của Như Lai. Một là ba
mươi hai tướng, hai là tám mươi thứ hảo).
Hai thứ ấy nói cặn kẽ th́ như trong các kinh khác đă
biện định. Nay chỉ nói đại lược ba
mươi hai tướng. Quyển ba trăm tám mươi
mốt của kinh Đại Bát Nhă nói:
“Một,
dưới chân đức Thế Tôn có tướng b́nh an. Hai,
dưới chân đức Thế Tôn có đường vân tạo
thành tướng bánh xe ngàn căm. Ba, tướng tay chân mềm
mại. Bốn, giữa các ngón chân và ngón tay đều có tướng
màng lưới. Năm, các ngón chân và ngón tay đều viên măn,
thon, dài. Sáu, ḷng, gót và lưng bàn chân đều
rộng dài tương xứng. Bảy, lưng và gót bàn chân
no đủ tương xứng với gót (luận Du Già không nói đến
tướng này). Tám, hai đùi đức Thế
Tôn như đùi nai
chúa Y Nê Da Tiên. Chín, hai cánh tay no đủ, thẳng thớm,
khi đứng [xuôi tay] sẽ chạm gối. Mười, tướng
âm tạng kín đáo. Mười một, mỗi lỗ chân
lông đều sanh một sợi lông. Mười hai, chót các
sợi tóc, sợi lông đều đẹp đẽ tột
bậc. Mười ba, da trên thân mịn màng, trơn bóng. Mười
bốn, da trên thân kim sắc. Mười lăm, bảy chỗ
no đủ. Mười sáu, vai và cổ viên măn. Mười
bảy, bắp tay và nách đầy đặn. Mười
tám, dung nghi của đức Thế Tôn tṛn đầy, đoan
nghiêm, chánh trực. Mười chín, thân tướng của
đức Thế Tôn cao rộng, đoan nghiêm. Hai
mươi, thể tướng của đức Thế
Tôn có kích thước cân xứng. Hai mươi mốt, cằm,
ngực, và nửa thân trên giống như sư tử chúa.
Hai mươi hai, thường quang[4] chiếu
sáng một tầm. Hai mươi ba, tướng bốn mươi
cái răng ngang bằng, khít, trắng. Hai mươi bốn,
bốn răng nanh sáng trắng. Hai mươi lăm, [khi ăn]
thường được năm vị. Hai mươi sáu,
tướng lưỡi mỏng dài, che đến mí tóc. Hai
mươi bảy, Phạm âm ḥa nhă, mọi người thích
nghe. Hai mươi tám, lông mi xanh biếc, tề chỉnh chẳng
loạn. Hai mươi chín, tṛng mắt xanh biếc, trong trẻo,
tươi tắn, tinh sạch, có ánh hồng
xen kẽ. Ba mươi, mặt như trăng tṛn, lông mày
như cánh cung của Thiên Đế. Ba mươi
mốt, giữa hai mày tướng bạch hào tỏa sáng hơn
kha tuyết[5]. Ba
mươi hai, ô-sắt-nị-sa (Uṣṇīṣa,
nhục kế) giống như lọng trời”.
Nhưng so
với luận Du Già Sư Địa th́ [các tướng ấy]
có hợp ra hay tách vào khác biệt đôi chút. Luận Du Già
Sư Địa nói tướng mười tám, tức là “tướng
thân thể cao lớn, tṛn đầy, thẳng tắp”
thành “thân chẳng gù, cong”. Lại tách tướng hai mươi
ba thành hai tướng là “răng không có kẻ hỡ” và “răng
trắng sạch”. Tách tướng hai mươi mốt tức
là tướng cằm và ngực thành hai tướng. Gộp
tướng thứ bảy “lưng bàn chân tương xứng
với gót”, gộp tướng “bốn răng nanh” vào tướng
răng, gộp tướng mười chín “[thân thể]
cao rộng đoan nghiêm” vào tướng kích thước cân
đối, không có tướng “mặt như trăng tṛn”.
Đấy là thuận theo thế tục mà nói tướng
bất đồng, cho nên nói có sai khác. Thuận
theo các tướng vừa được kể trên đây
mà có bài tụng [để ghi nhớ] như sau: “Đẳng
hiện nhu vơng tiêm, ngấn, phu bác tư mật, mao sanh mỵ nhuận
hoạt, b́ kim, thất mi măn, thể nghi tu
quảng cao, sư tử quang cụ xỉ, nha vị thiệt
âm tiệp, t́nh luân hào tướng cái” (Hiện đều
các tướng mềm mại, màng lưới, gót, lưng
bàn chân, đùi, cánh tay, chỗ kín, lông mọc đẹp đẽ,
[da dẻ] tươi nhuận, trơn
bóng, da sắc vàng, bảy chỗ [no đủ], lông mày viên
măn, thân thể oai nghi cao rộng, [thân tướng như] sư
tử, thường quang, trọn đủ [bốn mươi
cái răng], nanh [trắng sạch], luôn nếm năm vị,
lưỡi [mỏng, dài], tiếng nói [như Phạm âm], lông
mi [đẹp đẽ], tṛng mắt, luân, tướng bạch
hào như lọng che).
Quyển bốn
mươi chín [của luận Du Già nói]: “Các hữu t́nh được
giáo hóa sanh ḷng yêu thích sâu xa đối với các thứ ác
nghiệp hiện hành. Các thứ ác nghiệp hiện hành như
thế là cái được đối trị, các thứ
thiện nghiệp cảm vời tướng và tùy hảo chính
là cái có thể đối trị [các ác nghiệp]”. Lại
nói: “Hết thảy ba mươi loại tướng đại
trượng phu như thế chẳng có sai biệt.
Hăy nên biết:[Các tướng] đều dùng
tịnh giới làm nhân để có thể cảm vời.
V́ cớ sao? Nếu các Bồ Tát hủy phạm tịnh giới,
c̣n chẳng thể làm thân người hạ tiện, huống
hồ có thể cảm tướng đại trượng
phu ư?” Kinh Đại Bát Nhă lại nói: “Như thị
Thiện Hiện! Bồ Tát Ma Ha Tát hành thâm Bát Nhă, năng dĩ
tài pháp nhị chủng bố thí nhiếp chư hữu
t́nh, thị vi thậm kỳ hy hữu chi pháp”
(Như thế đó Thiện Hiện! Bồ
Tát Ma Ha Tát hành Bát Nhă sâu xa, có thể dùng hai thứ tài và pháp để
bố thí, nhiếp thọ các hữu t́nh. Đó là pháp rất
lạ
lùng, hiếm có). Lại do hành năm loại tu, tức
một là phát tâm, hai là [tu tập] lâu dài, ba là [tu tập] chẳng
gián đoạn, bốn là ân cần, trân trọng [tu tập],
năm là chẳng thừa sót, [do tu năm loại ấy] mà
cảm vời [ba mươi
hai tướng]. Theo quyển bốn của
kinh Bảo Nữ[6],
tu các cái nhân và tướng [cảm vời do tu các nhân ấy]
có sai biệt đôi chút. Quyển thứ hai của kinh Vô Thượng
Y nói cái nhân để tu [tướng đại trượng
phu] giống như quyển bốn mươi chín của luận
Du Già Sư Địa, nhưng khi nói về tướng th́
có sai khác đôi chút, đó là do người phiên dịch [dùng
từ ngữ và cách diễn đạt sai khác] vậy.
Lại nói
tu hành bốn chánh nghiệp th́ sẽ đạt được
ba mươi hai tướng:
- Một là
quyết định chẳng xen tạp. Luận Du Già
Sư Địa nói là “quyết định tu tác”.
- Hai là quán
kỹ, vi mật. Luận Du Già Sư Địa nói là “ủy
tất tu tác” (tu tập, thực hiện cặn kẽ).
- Ba là thường
tu chẳng gián đoạn, luận Du Già Sư Địa nói
là “hằng thường tu tác”.
- Bốn là
tâm chẳng điên đảo, luận Du Già Sư Địa
nói là “vô tội tu tác”.
Do nghiệp
thứ nhất, đạt được tướng ḷng
bàn chân bằng phẳng.
Do nghiệp
thứ hai, đạt được chín tướng:
- Một là
có đường chỉ như h́nh bánh xe ở ḷng bàn chân.
- Hai là mắt
cá chân tṛn đầy.
- Ba là mười
ngón chân, ngón tay có màng lưới.
- Bốn là
da mịn màng, mềm mại.
- Năm là
bảy chỗ no đủ.
- Sáu là hai
vai ngang bằng, hai nách no đủ.
- Bảy là
cánh tay tṛn đầy.
- Tám là lưỡi
dài rộng.
- Chín là ngực
như sư tử.
Do nghiệp
thứ ba, đạt được năm tướng:
- Một là
ngón tay thon dài.
- Hai là gót
chân dài.
- Ba là thân đoan
chánh, chẳng cong vẹo.
- Bốn là
chiều cao và chiều ngang cân đối.
- Năm là vẻ
mặt viên măn, thanh tịnh.
Do nghiệp
thứ tư, đạt được các tướng khác,
giống như luận Du Già Sư Địa nói. Thập
Trụ Tỳ Bà Sa Luận quyển thứ sáu cũng nói cái
nhân của ba mươi hai tướng, quyển thứ sáu
của kinh Tát Giá Ni Càn Tử cũng nói ba mươi hai tướng
và tám mươi thứ hảo, chi tiết th́ như trong
kinh ấy đă giải thích. Tướng hảo nói chung dùng
bốn căn “mắt, lưỡi, thân, và nam căn” làm chỗ nương vào và dùng lưỡi
làm Thể. Như các Bồ Tát thuộc Chủng Tánh Địa
chỉ có chủng tử, nương vào thân mà trụ. Thắng
Giải Hạnh Địa th́ bắt đầu có thể
tu các nghiệp ấy để có thể đạt được
phương tiện. Tịnh Thắng Ư Lạc Địa
th́ mới có thể gọi là Đắc (đạt được).
Nếu là các địa vị khác cao hơn, các tướng
hảo như thế sẽ chuyển thành thanh tịnh hơn
nữa. Nếu thuộc địa vị Như Lai, hăy nên
biết tướng hảo sẽ tốt lành, thanh tịnh
vô thượng.
Hỏi: V́
sao chỉ lập ra ba mươi hai tướng đại
trượng phu ấy?
Đáp: Quyển
bốn mươi chín [của luận Du Già Sư Địa]
nói: “Các tướng như thế do là hữu sắc, cho
nên là thù thắng trong sự kém cỏi, v́ các loài hữu t́nh
dễ biết
rơ. Tuy hết thảy các Phật pháp bất cộng
đều có thể gọi là ‘đại trượng phu
tướng’, nhưng chỉ có các tướng này được
gọi là đại trượng phu tướng”.
Quyển ba
trăm tám mươi mốt của kinh Đại Bát Nhă nói:
“Thế nào là tám mươi tùy hảo của Như Lai? Này
Thiện Hiện! Một, móng tay hẹp dài. Hai, ngón chân và ngón
tay tṛn trặn, thon thả, mềm mại. Ba, chỗ tiếp
giáp giữa chân tay đều no tṛn. Bốn, tay chân viên măn, mềm
mại, thanh tịnh như ư. Năm, gân, mạch cuộn
quanh, ẩn sâu chẳng lộ. Sáu, hai mắt cá chân đều
ẩn. Bảy, bước đi thẳng tiến như long
tượng vương. Tám, bước đi oai nghi sư
tử chúa. Chín, bước đi an b́nh như trâu chúa. Mười,
đi lại, tiến, dừng [đĩnh đạc] như
ngỗng chúa. Mười một, xoay cổ theo chiều phải
như long tượng vương. Mười hai, các đốt
lóng lần lần thon tṛn đẹp đẽ. Mười
ba, các đốt xương gắn kết với nhau như
rồng cuộn lại. Mười bốn, xương đầu
gối đẹp đẽ, kiên cố, viên măn. Mười
lăm, chỗ kín đẹp đẽ, viên măn, thanh tịnh.
Mười sáu, da trên thân trơn nhuận, chẳng dính bụi
nhơ. Mười bảy, dung mạo cẩn trọng, nghiêm
túc, chẳng khiếp nhược. Mười tám, các chi phần
nơi thân kiên cố, dày đặc, nương vào nhau. Mười
chín, các chi phần trên thân an định, vững vàng, chẳng
lay động. Hai mươi, thân tướng nghiêm tịnh
như chúa tiên. Hai mươi mốt, quang minh nơi thân trọn
khắp, luôn tự chiếu sáng rực. Hai mươi hai, bụng
ngay ngắn, không khuyết lơm, mềm mại. Hai mươi
ba, rốn sâu, thanh tịnh viên măn, cuộn theo chiều phải, tươi nhuận. Hai mươi
bốn, rốn đầy đặn, chẳng lơm, chẳng
lồi, xinh đẹp. Hai mươi lăm, da dẻ hoàn toàn
chẳng có sứt sẹo, tàn nhang, nốt ruồi, hay bướu
nhỏ. Hai mươi sáu, bàn tay no đầy, ḷng bàn chân bằng
phẳng. Hai mươi bảy, chỉ tay sâu dài, thẳng, tươi
nhuận, chẳng đứt đoạn. Hai mươi
tám, màu môi tươi nhuận như quả Tần-bà.
Hai mươi chín, diện môn[7] chẳng
dài, chẳng ngắn, lớn nhỏ vừa xứng. Ba mươi,
tướng lưỡi mềm mại, mỏng, rộng dài,
sắc đỏ. Ba mươi mốt, âm thanh phát ra uy mănh,
rền vang, trong rơ. Ba mươi hai, âm vận đẹp đẽ
như tiếng vọng nơi hang sâu. Ba mươi ba, mũi
cao, dài, thẳng, lỗ mũi chẳng huếch. Ba
mươi bốn, các răng của đức Thế Tôn
ngay ngắn, trắng
sạch. Ba mươi lăm, các răng nanh đầy
đặn, trắng sạch, tươi tắn, bén nhọn.
Ba mươi sáu, mắt Thế Tôn thanh tịnh, xanh trắng
phân minh. Ba mươi bảy, tướng mắt dài rộng
như hoa sen xanh. Ba mươi tám, lông mi tề chỉnh, dày
rậm, chẳng bạc. Ba mươi chín, lông mày dài, chẳng
bạc, tuy rậm, nhưng
tinh tế, mềm mại. Bốn mươi, hai mày đẹp
đẽ, dài, ngay ngắn, ánh sắc xanh. Bốn mươi mốt, hai mày cao rơ,
tươi nhuận như trăng đầu tháng. Bốn
mươi hai, tai dày, trái tai rộng lớn rủ xuống
thành tựu. Bốn mươi ba, hai tai đẹp đẽ,
ngang bằng nhau, không có khuyết
điểm. Bốn mươi bốn, dung nghi khiến cho
kẻ trông thấy chẳng sanh ḷng nhiễm ái. Bốn mươi
lăm, trán rộng viên măn, h́nh tướng đẹp tuyệt
vời. Bốn mươi sáu, nửa trên thân như sư tử
chúa. Bốn mươi bảy, tóc trên đầu dày, dài, rậm,
sắc xanh. Bốn mươi tám, tóc trên đầu thơm
sạch, bóng mịn, cuộn tṛn. Bốn mươi chín, tóc
trên đầu tề chỉnh chẳng rối, chẳng tạp.
Năm mươi, tóc trên đầu chắc chắn, chẳng
đứt, chẳng rụng. Năm mươi mốt, tóc
trên đầu bóng mướt, chẳng dính bụi nhơ.
Năm mươi hai, thân thể kiên cố hơn Na La Diên. Năm
mươi ba, thân Thế Tôn cao lớn, ngay thẳng. Năm
mươi bốn, các khiếu của đức Thế
Tôn thanh tịnh, tốt đẹp viên măn. Năm
mươi lăm, thế lực nơi các phần trên thân
thù thắng, không ai sánh bằng. Năm mươi sáu, thân tướng
Thế Tôn khiến cho kẻ khác thích nh́n chẳng
chán. Năm mươi bảy, mặt tṛn đầy, rộng
răi như vầng trăng tṛn mùa Thu. Năm mươi tám, dung
mạo thư thái, mỉm cười trước khi nói. Năm
mươi chín, diện mạo tươi tắn, chẳng
hề nhăn mày. Sáu mươi, thân phần thanh tịnh,
không nhơ, không hôi thối. Sáu mươi mốt, các lỗ
chân lông thường tỏa ra mùi hương kỳ diệu.
Sáu mươi hai, diện môn thường tỏa mùi thơm
thắng diệu. Sáu mươi ba, tướng đầu
tṛn khéo giống như lọng trời. Sáu mươi bốn,
thân có sắc xanh biếc như cổ chim công. Sáu mươi
lăm, pháp âm thuận theo đại chúng đúng lư, chẳng
sai lệch. Sáu mươi sáu, tướng đỉnh đầu
của đức Thế Tôn chẳng thể thấy. Sáu mươi
bảy, ngón tay, ngón chân phân minh, trang nghiêm, đẹp đẽ.
Sáu mươi tám, bước chân cách mặt đất bốn
ngón tay mà vẫn hiện dấu. Sáu mươi chín, tự
giữ thân ḿnh chẳng nghiêng động bởi người
khác. Bảy mươi, oai đức vang xa, người trông
thấy hoan hỷ, hết sợ hăi. Bảy mươi mốt,
tiếng nói không cao, thấp, thốt ra lời ḥa nhă, vui đẹp.
Bảy mươi hai, thuận theo ngôn âm và sự ưa thích
của từng loài mà nói. Bảy mươi ba, do một âm thanh
diễn nói, mỗi loài đều hiểu. Bảy
mươi bốn, nói năng đều theo thứ tự,
ắt có nhân duyên. Bảy mươi lăm, b́nh đẳng
quán lời khen chê của hữu t́nh, b́nh đẳng hóa hiện.
Bảy mươi sáu, đối với việc làm đều
quán trước, oai nghi tốt lành, thanh tịnh. Bảy mươi
bảy, chẳng thể quán trọn hết tướng hảo
của đức Thế Tôn. Bảy mươi tám, xương
đỉnh đầu đức Thế Tôn dày chắc, viên
măn. Bảy mươi chín, dung nhan thường trẻ
trung, đẹp đẽ, chẳng thay đổi. Tám mươi,
tay chân, lồng ngực có đức tướng tươi
đẹp xoay theo chiều phải”.
Quyển bốn
mươi chín luận Du Già Sư Địa nói: “Hai tay và
hai chân trọn đủ hai mươi ngón, và lóng tay, móng
tay thảy đều đẹp đẽ, tức là hai mươi
tùy hảo. Tám chỗ ở phía trong và phía ngoài ngoài hai tay,
hai chân đều thù thắng là tám loại tùy hảo. Hai mắt
cá, hai đầu gối, hai đùi gồm sáu chỗ đều
đẹp đẽ lạ lùng, tức là sáu chỗ tủy hảo thù
thắng. Hai cánh tay, khủy tay, cổ
tay, tức là sáu loại tùy hảo. Mỗi bên eo là một tùy
hảo. Hai hạch là hai tùy hảo. Âm tạng là một tùy
hảo. Hai mông là hai tùy hảo. Xương hông, bụng dưới,
rốn ba chỗ tức là ba thứ hảo. Hai bên hông, nách,
và hai vú là sáu tùy hảo. Bụng, ngực, cổ, xương
sống, mỗi chỗ là một tùy hảo. Từ cổ
trở xuống đă là sáu mươi tùy hảo. Hai hàm răng
là hai tùy hảo. Ṿm miệng là một tùy hảo, hai môi là hai
tùy hảo. Khóe miệng viên măn là một tùy hảo. Hai má là
hai tùy hảo, hai mắt là hai tùy hảo, hai lông mày là hai tùy
hảo, hai lỗ mũi là hai tùy hảo, trán đẹp đẽ
là một tùy hảo, hai tai và tóc mai là bốn
tùy hảo. Tóc trên đầu là một tùy hảo. Như vậy
là trên đầu có hai mươi tùy hảo, hợp với
[sáu mươi tùy hảo] trước đó, thành tám mươi”. Làm bài tụng
đại lược rằng: “Thủ túc nhị thập
bát. Khỏa, tất, cổ, tư, trửu. Tịnh uyển thành
thập nhị. Yêu phùng hạch âm đồn, khoan lư tề
hữu thập. Hiếp dịch nhũ vi lục. Phúc, hung,
hạng, tích tứ. Cảnh dĩ hạ lục thập. Man
ngạc thần di lục, giáp, mục, mi, tỵ bát. Ngạch,
tấn, giác, nhĩ ngũ, đầu phát thù diệu nhất”.
(Tay chân hai mươi tám, mắt cá, gối, đùi, cánh tay,
khủy tay, và cổ tay thành mười hai. Eo, bẹn, hạch,
âm tạng, mông, xương hông, bụng dưới, rốn
thành mười. Hông, nách, vú thành sáu. Bụng, ngực, cổ,
xương sống là bốn. Từ cổ trở xuống
là sáu mươi. Mí tóc, ṿm miệng, môi, khóe miệng, má, mắt,
lông mày, mũi là tám. Trán, tóc mai, thái dương, tai thành năm,
đầu tóc đẹp đẽ là một [tùy hảo]).
Kinh Vô Thượng
Y lại nói có sáu mươi tám pháp, gộp thành một trăm
tám mươi môn (tức là ba mươi hai tướng đại
trượng phu, cộng với tám mươi tùy hảo, và
sáu mươi tám pháp ấy). Nói “sáu mươi tám” tức
là nói theo Đại Thừa. Mười tám pháp bất cộng
của Phật là:
- Một, chẳng
phạm lỗi sai lầm.
- Hai, chẳng
có âm thanh hung bạo.
- Ba, chẳng
hư vọng, đánh mất chánh niệm.
- Bốn,
chẳng có tâm bất định.
- Năm, không
có các thứ tướng.
- Sáu, không chọn
lựa hay xả bỏ.
- Bảy, dục
vô thoái.
- Tám, tinh tấn
bất thoái.
- Chín, niệm
vô thoái.
- Mười,
Định vô thoái.
- Mười
một, trí huệ vô thoái.
- Mười
hai, thắng giải vô thoái.
- Mười
ba, hết thảy thân nghiệp được trí hướng dẫn, thuận
theo trí mà chuyển.
- Mười bốn, ngữ
nghiệp được trí dẫn đường, thuận
theo trí mà chuyển.
- Mười
lăm, hết thảy ư nghiệp được trí dẫn
đường, thuận theo trí mà chuyển.
- Mười
sáu, biết đời quá khứ chẳng vướng mắc,
chẳng trở ngại.
- Mười
bảy, biết đời vị lai chẳng vướng
mắc, chẳng trở ngại.
- Mười
tám, biết đời hiện tại chẳng vướng
mắc, chẳng trở ngại.
Như quyển
Vô Cấu Xưng Kinh Sớ của thầy tôi đă biện
định, cũng như luận Câu Xá đă nói, Thập Lực,
Tứ Vô Úy, đại bi, Tam Niệm Xứ, lại hợp
thành mười tám môn. Lại có kinh nói “chỉ riêng [Như
Lai] đạt được [các pháp bất cộng]”, như
kinh ấy nói: “Như Lai độc đắc như ư tự
tại tiệp tật thần thông, nhất dă. Như Lai độc
đắc vô hữu biên tế biến hóa thần thông, nhị
dă. Như Lai độc đắc vô lượng vô tận
thần thông xứ, tam dă. Như Lai độc đắc tâm
tự tại pháp, tứ dă. Tự tại vô biên tri hóa tha tâm
thông, ngũ dă. Tự tại vô ngại thiên nhĩ thần
thông, lục dă. Tri Vô Sắc Giới chúng sanh chủng tử,
thất dă. Thông đạt thánh chúng bát Niết Bàn hậu, bát
dă. Trí huệ minh liễu vô hữu bất định đáp,
cửu dă. Đại Ba La Mật thiện năng đáp vấn,
thập dă. Phân biệt thuyết pháp vô hữu quá thất,
thập nhất dă. Khai hóa chúng sanh vô hữu không quá, thập
nhị dă. Như Lai độc đắc đệ nhất
đạo thủ, thập tam dă. Như Lai độc đắc
bất khả hại diệt, thập tứ dă. Như Lai độc
đắc kim cang tam-muội, thập ngũ dă. Nhất thiết
chư pháp phi sắc, phi tâm, tâm bất tương
ứng Như Lai liễu tri, thập lục dă. Vô ngại giải
thoát, thập thất dă. Tam bất nhiễm pháp, thập bát
dă. Đoạn diệt tập khí, thập cửu dă. Nhất
Thiết Chủng Trí, nhị thập dă. Như Lai độc
đắc kim cang tụ thân, nhị thập nhất dă. Vị
tằng tác ư nhất thiết sự thành, nhị thập nhị
dă. Nhất thiết chư tướng dữ xứ tương
ứng minh tịnh cụ túc, nhị thập tam dă. Sở thọ
kư biệt vô hữu bất định, nhị thập tứ
dă. Ư thắng phụ tâm, Phật bất thính hứa bất
đắc kiến Phật, nhị thập ngũ dă. Chuyển
nhất thiết chủng thắng diệu pháp luân, nhị
thập lục dă. Hà phụ chúng sanh năng xả trọng
đảm, nhị thập thất dă. Nhập bát Niết
Bàn hậu cánh khởi tâm, nhị thập bát dă. Như Lai độc
đắc tu nhân viên măn vô dư, nhị thập cửu dă. Như
Lai độc đắc chí quả viên măn vô dư, tam thập
dă. Như Lai độc đắc lợi ích tha sự viên
măn vô dư, tam thập nhất dă. Như Lai độc
đắc biện tài vô tận, tam thập nhị dă. Như
Lai độc đắc thuyết nhất thiết pháp tất
năng như lư, tam thập tam dă” (Riêng ḿnh
Như Lai đạt được thần thông như ư tự
tại, nhanh chóng. Đó là điều thứ nhất. Riêng
ḿnh Như Lai đạt được thần thông biến
hóa chẳng có ngằn mé, đó là điều thứ hai. Riêng
ḿnh Như Lai đạt được vô lượng vô tận
thần thông xứ, đó là điều thứ ba. Riêng ḿnh
Như Lai đạt được pháp “tâm tự tại”,
đó là điều thứ tư. Tha Tâm Thông tự tại,
biết vô biên sự giáo hóa, đó là điều thứ năm.
Thần thông Thiên Nhĩ tự tại vô ngại, đó là điều
thứ sáu. Biết chủng tử của chúng sanh trong Vô Sắc
Giới, đó là điều thứ bảy. Thông đạt
thánh chúng sau khi nhập Niết Bàn, đó là điều thứ
tám. Trí huệ hiểu rơ, chẳng có lời đáp bất
định, đó là điều thứ chín. Đại Ba La
Mật khéo có thể trả lời câu hỏi, đó là điều
thứ mười. Phân biệt thuyết pháp chẳng có lỗi
lầm, đó là điều thứ mười một. Khai
hóa chúng sanh chẳng hề luống qua, đó là điều
thứ mười hai. Riêng ḿnh Như Lai đạt thành người
hướng dẫn bậc nhất, đó là điều thứ
mười ba. Riêng ḿnh Như Lai đạt được
“chẳng thể hại diệt”, đó là điều thứ
mười bốn. Riêng ḿnh Như Lai đạt được
kim cang tam-muội, đó là điều thứ mười lăm.
Hết thảy các pháp chẳng phải sắc, chẳng phải
tâm, tâm chẳng tương ứng, Như Lai đều biết
rơ, đó là điều thứ mười sáu. Giải thoát
vô ngại, đó là điều mười bảy. Ba pháp chẳng
nhiễm, đó là điều thứ mười tám. Đoạn
diệt tập khí, đó là điều thứ mười
chín. Nhất Thiết Chủng Trí, đó là điều thứ
hai mươi. Riêng ḿnh Như Lai đạt được
thân kim cang tụ, đó là điều thứ hai mươi
mốt. Chưa từng tác ư mà hết thảy sự thành tựu,
đó là điều thứ hai mươi hai. Hết thảy
các tướng và xứ tương ứng, sáng sạch, trọn
đủ. Đó là điều thứ hai mươi ba. Điều
được Phật thọ kư chưa hề không nhất
định, đó là điều thứ hai mươi bốn.
Đối với kẻ có tâm thắng bại, Phật chẳng
chấp thuận, chẳng được thấy Phật,
đó là điều thứ hai mươi lăm. Chuyển hết
thảy pháp luân thù thắng nhiệm mầu, đó là điều
thứ hai mươi sáu. Gánh vác chúng sanh, có thể bỏ gánh
nặng, đó là điều thứ hai mươi bảy. Sau
khi nhập Niết Bàn, lại c̣n khởi tâm, đó là điều
thứ hai mươi tám. Riêng ḿnh Như Lai đạt được
tu nhân viên măn chẳng sót, đó là điều thứ hai mươi
chín. Riêng ḿnh Như Lai đạt được cái quả
tột cùng viên măn, chẳng sót, đó là điều
thứ ba mươi. Riêng ḿnh Như Lai đạt được
chuyện lợi ích người khác viên măn chẳng sót, đó là điều
thứ ba mươi mốt. Riêng ḿnh Như Lai đạt được
biện tài vô tận, đó là điều thứ ba mươi
hai. Riêng ḿnh Như Lai đạt được “nói hết
thảy các pháp đều có thể đúng lư”, đó là điều
thứ ba mươi ba).
Giải rằng:
Trong ấy, tuy nói ba mươi ba điều, do kinh Bát Nhă
chỉ quan tâm đến quả, cho nên có ba mươi
hai, do tu nhân viên măn chẳng phải là Quả Đức. V́
thế, chỉ có một trăm tám mươi pháp. “Nhất
thiết hy hữu bất khả tư nghị pháp tất
giai hiển hiện” (hết thảy các pháp hiếm có, chẳng
thể nghĩ bàn, thảy đều hiển hiện) là câu kết luận
cho ư thứ ba. Tức là các công đức vượt xa hết
thảy, bèn được gọi là “hy hữu”. Do vượt
ngoài các t́nh kiến so đo, nên gọi là “bất tư
nghị”. Theo quyển hai mươi sáu của Du Già Sư
Địa Luận, Vô Thượng Bồ Đề có năm
thứ hy hữu:
- Một, đối
với hết thảy hữu t́nh chẳng có nhân duyên mà sanh
ḷng thân ái.
- Hai, chỉ
v́ tạo lợi ích cho các hữu t́nh, thường ở
trong sanh tử, nhẫn vô lượng khổ.
- Ba, đối
với hết thảy hữu t́nh nhiều phiền năo khó khuất
phục, khéo có thể liễu giải phương tiện
điều phục.
- Bốn, đối
với nghĩa lư chân thật cực khó hiểu, có thể
tùy thuận ngộ nhập.
- Năm, trọn
đủ sức oai thần chẳng thể nghĩ bàn.
Các thứ
hy hữu chẳng thể nghĩ bàn ấy đều nương
vào đại trí mà được hiển hiện.
(Kinh)
Thí như y Như Ư bảo châu, vô lượng vô biên chủng
chủng trân bảo tất giai đắc hiện.
(經)譬如依如意寶珠,無量無邊種種珍寶悉皆得現。
(Kinh:
Ví như nương vào Như Ư bảo châu, vô lượng
vô biên các thứ trân bảo thảy đều được
hiển hiện).
Tán rằng:
Nêu thí dụ. Theo kinh Quán Phật Tam Muội Hải[8],
Như Ư bảo châu chính là trái tim của Kim Xí Điểu Vương (Ca Lâu La vương), luân vương
(Chuyển Luân thánh vương) xuất thế, dùng
nó làm châu bảo. Nếu không có luân vương, châu ấy sẽ
vào cung rồng, hải long vương dùng làm bảo châu trấn
biển. Đại Trí Độ Luận nói: “Xá-lợi của
Phật, vào đời kiếp mạt, biến thành Như Ư
bảo châu, lợi ích chúng sanh. Nương vào châu ấy, có thể
sanh ra hết thảy các vật cần dùng”. Đại
trí định này cũng lại giống như thế.
(Kinh)
Như thị y đại tam-muội bảo, y đại
trí huệ bảo, năng xuất chủng chủng vô
lượng vô biên chư Phật diệu pháp.
(經)如是依大三昧寶、依大智慧寶,能出種種無量無邊諸佛妙法。
(Kinh:
Nương vào báu đại tam-muội, nương vào báu đại
trí huệ như thế, sẽ có thể sanh ra vô lượng
vô biên các thứ diệu pháp của chư Phật).
Tán rằng:
Phần kết hợp thí dụ với pháp dễ hiểu.
(Kinh)
Thiện nam tử! Như thị Pháp Thân tam-muội trí huệ.
(經)善男子!如是法身三昧智慧。
(Kinh:
Thiện nam tử! Tam-muội và trí huệ của Pháp Thân là
như thế).
Tán rằng:
Tiếp đó, nói về Ly Hệ Quả. Trước là nêu
ra, kế đó là giải thích, cuối cùng là kết lại.
Phần này là nêu ra. Tam-muội và trí huệ của Pháp Thân
do Định và Trí làm năng chứng (chủ thể có thể
chứng), Pháp Thân là cái được chứng, cho nên đạt
được giải thoát. Tức là tam sự Niết
Bàn, là Thể, hoặc là nghĩa. Nhưng phần sau nói: “Tuy
hữu tam số, nhi vô tam thể” (tuy số lượng
là ba, nhưng không có ba thể). Đó là xét theo nghĩa để
nói, hoặc là Pháp Thân, định huệ và giải thoát không
nhất định là một hay khác. Do vậy, chẳng có
ba thể, chẳng phải là nói “chỉ có Pháp Thân”.
(Kinh) Quá
nhất thiết tướng, bất trước ư tướng,
bất khả phân biệt, phi thường, phi đoạn,
thị danh Trung Đạo.
(經)過一切相、不著於相,不可分別、非常非斷,是名中道。
(Kinh:
Vượt khỏi hết thảy các tướng, chẳng
chấp vào tướng, chẳng thể phân biệt, chẳng
thường, chẳng đoạn. Đó gọi là Trung
Đạo).
Tán rằng:
Kế đó là giải thích. “Quá nhất thiết tướng”
(Vượt khỏi hết thảy các tướng): Do tự
thể thù thắng, nên ĺa mười tướng, tức
là lục trần, nam, nữ, sanh, diệt. “Bất
trước ư tướng” (chẳng chấp vào tướng): Do ĺa các tướng. “Bất
khả phân biệt” (chẳng thể phân biệt): Chẳng
thể dùng tâm suy nghĩ hay nói năng được. “Phi
thường, phi đoạn” (chẳng thường, chẳng
đoạn): Do ĺa nhị biên. Ở đây, có bốn
ư:
- Một là
ĺa các tướng.
- Hai là chẳng
thể nghĩ bàn.
- Ba là chẳng
phải là cảnh có thể suy nghĩ hay nói năng được.
- Bốn là
ĺa nhị biên.
Do bốn
nghĩa ấy, nên gọi là “cảnh Trung Đạo”.
Khế nhập chánh trí, chánh trí được gọi là Trung
Đạo. Cảnh Trung Đạo cũng gọi là Trung
Đạo.
(Kinh)
Tuy hữu phân biệt, Thể vô phân biệt. Tuy hữu tam
số, nhi vô tam Thể, bất
tăng, bất giảm.
(經)雖有分別,體無分別;雖有三數而無三體,不增不減。
(Kinh:
Tuy có [ba thân] phân biệt, Thể chẳng phân biệt. Tuy số
lượng là ba, nhưng chẳng có ba Thể, chẳng
tăng, chẳng giảm).
Tán rằng:
Giải thích lần nữa để kết luận. “Tuy
hữu phân biệt, Thể vô phân biệt” (tuy có [ba thân] phân
biệt, Thể chẳng phân biệt): [Nói như vậy nhằm]
giải thích “vô phân biệt” trong phần trước.
Tuy có Pháp Thân, tam-muội, trí huệ, là ba con số
sai biệt, nhưng chẳng có tâm duyên phân biệt, chẳng
phải là cảnh để có thể diễn nói được.
V́ thế nói là “Thể vô phân biệt” (Thể chẳng
phân biệt). “Tuy hữu tam số, nhi vô tam Thể” (Tuy có con
số ba, nhưng chẳng có ba Thể): Giải thích câu “quá
nhất thiết tướng” (vượt khỏi hết
thảy các tướng). Tuy có con số ba [tức là ba món] Pháp
Thân, tam-muội, trí huệ, nhưng [ba thứ ấy] không có cái Thể khác
biệt rành rành. “Bất tăng, bất giảm” (Chẳng
tăng, chẳng giảm) nhằm giải thích câu “phi thường,
phi đoạn”. Do chẳng tăng, nên chẳng phải
thường. Do chẳng giảm, nên chẳng phải là đoạn!
(Kinh)
Do như mộng huyễn, diệc vô sở chấp, diệc
vô năng chấp.
(經)猶如夢幻,亦無所執亦無能執。
(Kinh:
Giống như mộng huyễn, cũng không có cái bị chấp,
cũng không có cái có thể chấp).
Tán rằng:
Giải thích “bất trước tướng” (chẳng
chấp tướng) trong phần trên. Tam-muội và trí huệ
chẳng phải là cái có thể chấp. Pháp Thân chẳng phải
là cái bị chấp. “Do như mộng huyễn” (giống
như mộng huyễn): Ví như chẳng phải mộng,
chẳng phân biệt, có nghĩa là coi như cảnh được
thấy trong giấc mộng.
(Kinh) Pháp
thể như như, thị giải thoát xứ, quá tử
sanh cảnh, việt sanh tử ám.
(經)法體如如,是解脫處,過死生境、越生死暗。
(Kinh:
Pháp thể như như, là chỗ giải thoát, vượt
ngoài cảnh tử sanh, vượt khỏi tối tăm sanh
tử).
Tán rằng: Kết lại
Trung Đạo trong phần trước. Pháp thể như
như, Pháp Thân là chỗ giải thoát sanh tử, tức là giải
thoát. “Quá sanh tử cảnh” (vượt ngoài cảnh sanh
tử): Thoát khỏi cái quả hữu lậu, ĺa Khổ Đế.
“Việt sanh tử ám” (vượt khỏi tối tăm
sanh tử): Ĺa cái nhân của Khổ Đế, đoạn
Tập Đế. V́ thế là Trung Đạo.
(Kinh)
Nhất thiết chúng sanh bất năng tu, hành sở bất
năng chí, nhất thiết chư Phật, Bồ Tát chi sở
trụ xứ.
(經)一切眾生不能修,行所不能至,一切諸佛菩薩之所住處。
(Kinh:
Hết thảy chúng sanh chẳng thể tu th́ hạnh chẳng
thể đạt đến trụ xứ của hết
thảy chư Phật, Bồ Tát).
Tán rằng:
Đây chính là khuyên tu. Nói rơ: Không tu sẽ chẳng được!
Nói ngược lại nhằm chỉ rơ: Hễ tu, sẽ đạt
được! [Đoạn này gồm hai ư]: Trước là
pháp thuyết, sau là thí dụ. Đoạn này là pháp thuyết,
nói rơ nếu chúng sanh chẳng tu, sẽ chẳng thể đạt
được chỗ thường trụ của chư Phật,
Bồ Tát, tức Đại Niết Bàn.
Hỏi: Ở
đây nói về thứ tự đắc quả, chưa biện
định thứ tự trong tu hành, cớ sao khuyên tu?
Đáp: Quả
được phát khởi nhờ vào tu. Do muốn sanh khởi
sự tu tập trong phần sau, cho nên nói rơ. Do vậy, ư nghĩa
của thí dụ dưới đây là kết hợp nhân và
quả vậy.
(Kinh) Thiện
nam tử! Thí như hữu nhân, nguyện dục đắc
kim, xứ xứ cầu mịch, toại đắc kim khoáng.
(經)善男子!譬如有人願欲得金,處處求覓遂得金鑛。
(Kinh:
Thiện nam tử! Ví như có người mong cầu được
vàng, t́m kiếm khắp nơi, bèn được quặng
vàng).
Tán rằng:
Tiếp đó, dùng thí dụ để chỉ rơ. Trong phần
trước, do đă nói năm loại quả, nên cũng có
năm thí dụ. “Thí như hữu nhân” (ví như có người):
Sánh ví Dị Thục Quả nương vào cái thân này. “Nguyện
dục đắc kim” (mong cầu được vàng): Sánh
ví phát khởi Sơ Tâm Tăng Thượng Quả. “Xứ
xứ cầu mịch, toại đắc kim khoáng” (t́m cầu
khắp nơi, bèn được quặng vàng): Thí dụ Đẳng
Lưu Quả, sánh vị địa vị Tư Lương
trong Tu Hành Địa Tâm thuộc phần trước, do nương
cậy sức giáo hóa mà khởi lên tín tâm, biết trong tự
thân có Phật Tánh. Sự tánh và Lư tánh nơi Pháp Thân đều
đạt được, như quặng vàng bị chướng
che lấp, [biết điều ấy ví] như có được
quặng vàng.
(Kinh) Kư
đắc khoáng dĩ, tức tiện toái chi, trạch thủ
tinh giả.
(經)既得鑛已即便碎之,擇取精者。
(Kinh:
Đă có được quặng rồi liền đập
nát, để chọn lấy tinh chất).
Tán rằng:
Sánh ví Gia Hạnh Vị Tâm lần lượt tu học trong
Tu Hành Địa Tâm, trừ bỏ cái có thể chấp và cái
bị chấp, trụ trong Duy Thức Quán v.v… giống như
chọn lựa tinh chất.
(Kinh) Lô
trung tiêu luyện, đắc thanh tịnh kim.
(經)爐中銷鍊,得清淨金。
(Kinh:
Nung luyện trong ḷ, đạt được vàng thanh tịnh).
Tán rằng: Bị nung luyện
ví như Bất Thoái Địa Tâm, Nhất Sanh Bổ Xứ
Tâm, và Kim Cang Tâm. Đạt được vàng thanh tịnh
ví như Sĩ Dụng Quả nơi cái tâm thanh tịnh của
địa vị Như Lai.
(Kinh) Tùy ư hồi chuyển,
tác chư hoàn, xuyến, chủng chủng nghiêm cụ, tuy hữu
chư dụng, kim tánh bất cải.
(經)隨意迴轉作諸鐶釧種種嚴具,雖有諸用金性不改。
(Kinh: Tùy ư xoay chuyển,
làm thành các vật trang nghiêm như ṿng, xuyến v.v… Tuy có các
tác dụng, nhưng tánh vàng chẳng đổi).
Tán rằng: Nếu xét theo phương
diện “đắc Niết Bàn” th́ là Ly Hệ Quả.
Đắc Thường, Lạc, Ngă, Tịnh như làm ṿng,
xuyến v.v… nhưng chẳng đánh mất tánh Chân Như.
Nếu xét theo Bồ Đề, nói chung là Sĩ Dụng Quả.
Các thứ như ṿng, xuyến v.v… chính là [sánh ví] Định
Trí sanh ra hết thảy các công đức, nhưng chẳng
mất tánh Định, Huệ, và như vàng chẳng thay đổi.
Đoạn lớn từ trên tới đây là chia theo khoa mục
để giảng giải về tướng mạo, nh́n
vào hành tướng sẽ dần dần thâm nhập, cầu
thấu hiểu ư xa hơn, và cũng sẽ thích đáng. Nếu
dựa theo cách giải thích của cổ nhân, th́ từ phần
thí dụ trở đi, sẽ thuộc vào phần tu hành được
nói sau đây. Trước là thí dụ, sau là pháp. Dựa theo
cách [giải thích] cũ, sẽ có thể thấy rơ. Do phần
kinh văn nói về tu hành tự có thí dụ, cho nên tôi chẳng
noi theo cách giải thích của cổ nhân.
5.3.4.2.3.2. Thứ tự tu
chứng
5.3.4.2.3.2.1. Sức của
cái nhân
(Kinh) Phục thứ, thiện
nam tử! Nhược thiện nam tử, thiện nữ
nhân cầu thắng giải thoát, tu hành thế thiện.
(經)復次,善男子!若善男子善女人求勝解脫修行世善。
(Kinh: Lại này, thiện nam tử! Nếu
thiện nam tử, thiện nữ nhân do cầu sự giải
thoát thù thắng mà tu hành điều thiện thế gian).
Tán rằng: Trong đoạn
lớn thứ ba, “đáp về cái nhân”, có hai tiểu đoạn:
Trước là biện định cái quả. Kế đó,
tiểu đoạn này nói về thứ tự tu chứng.
Dựa theo lệ thường của các kinh văn, phải
nên là trước tu nhân, sau mới đắc quả. Nay do
phẩm này trước là nói về ba thân, nên sau đó, nói
thứ tự đắc quả trước. Tuy đă biết
thứ tự đắc quả, nhưng nếu chẳng
tu hành, đắc quả bằng cách nào đây? V́ thế,
phần này nói về thứ tự tu chứng. Lại như
quyển ba mươi tám của luận Du
Già Sư Địa nói: “Đă nói về Học Xứ cần phải nên
học của Bồ Tát. Ta nay sẽ nói Học Xứ như thế”. Ư nói: Trong
phẩm Bồ Đề [của luận Du Già Sư Địa]
trước đó, đă nói về hai thứ đoạn,
hai thứ trí, Bồ Đề tối thắng là điều
đáng nên học, hàm ư là muốn cho [người đọc]
sanh ḷng vui mừng “hăy học như thế” tức là
khiến cho [hành nhân] ưa cầu, khởi tu diệu hạnh.
V́ thế, trong phần này, bèn nói về thứ tự tu hành.
Muốn đạt đến cái quả, phải do bốn
thứ lực:
- Một, sức
của cái nhân.
- Hai, sức
của bạn lành.
- Ba, sức
của tác ư.
- Bốn, sức
của tư lương.
Bốn thứ
ấy chính là nhân. Tư lương đă viên măn, sẽ thành
Chánh Giác. Điều này chính là Quả. Nay kinh văn trong phần
này gồm hai phần: Trước là pháp thuyết, sau là nói
thí dụ. Trong phần Pháp Thuyết, giống như trên đây,
chia thành năm tiểu đoạn. Đây chính là tiểu đoạn
thứ nhất; trước hết, nói về sức của cái nhân.
“Cầu
thắng giải thoát” (cầu sự giải thoát thù thắng)
là chỗ để học, Vô Thượng Bồ Đề
Đại Bát Niết Bàn vượt xa Nhị Thừa, nên
gọi là “thắng giải thoát”. “Tu thế thiện”
(tu điều lành thế gian) tức là thiện pháp dục
(mong ước thiện pháp), là cái nhân của Viễn Gia Hạnh.
Ẩn đi chủng tánh của nó, nương vào cái duyên hiện
hành, coi đó là “nhân lực” (sức của cái nhân).
Theo quyển ba mươi tám của luận Du Già Sư
Địa, thành tựu trọn đủ tám loại “thắng
giải y xứ” (chỗ nương vào cho kiến giải
thù thắng) ấy, tịnh tín làm đầu, chắc chắn
sẽ vui sướng. [Tám loại thắng giải y xứ
là]:
- Một là
thắng giải y xứ nơi công đức của Tam Bảo.
- Hai là nơi
oai lực của Phật, Bồ Tát.
- Ba là nơi
nghĩa chân thật.
- Bốn là
nơi nhân.
- Năm là
nơi quả.
- Sáu là nơi nghĩa
nên đạt được.
- Bảy là
nơi phương tiện nên đạt được.
- Tám là đối
với thiện ngôn, thiện ngữ, thiện thuyết mà
cầu thắng giải thoát, chắc chắn sẽ đạt
được hỷ lạc.
Quyển sáu
của luận Duy Thức viết: “Đối với thật
đức mà có thể nhẫn lạc dục sâu xa, tâm thanh
tịnh làm tánh”. Nhẫn chính là cái nhân của Tín, lạc
dục là quả. Tâm tịnh là cái Thể của Tín. Ở đây
nói “cầu” tức là do nhẫn lạc dục là cái gốc
của điều lành, Dục là chỗ nương vào của
Cần (siêng năng). Do vậy, tu điều thiện thế
gian.
5.3.4.2.3.2.2. Sức của
bạn lành
(Kinh) Đắc
kiến Như Lai, cập đệ tử chúng, đắc
thân cận dĩ.
(經)得見如來及弟子眾,得親近已。
(Kinh:
Được thấy Như Lai và các đệ tử, đă
được thân cận).
Tán rằng:
[Đây là phần luận về] sức của bạn lành.
Kinh văn chia thành bốn đoạn:
- Một, được
thân cận.
- Hai, thỉnh
cầu pháp thù thắng.
- Ba, nghe rồi
tư duy.
- Bốn,
chính v́ giải thoát.
Đoạn
này là điều thứ nhất (tức “được
thân cận”). Trong đoạn này, hăy nên nói theo tướng
của bạn lành, các hạnh nghiệp tạo tác của bạn lành, và thân cận bạn lành. Hai điều
đầu th́ như quyển bốn mươi bốn của
luận Du Già Sư Địa đă biện định cặn
kẽ. Đối với chuyện “thân cận bạn lành”,
luận ấy viết: “Do bốn loại tướng mới được viên măn thân cận bạn lành: Một
là dù bạn lành có bệnh hay không bệnh, đều tùy thời
hầu hạ, luôn thường phát khởi niềm tin kính
yêu thanh tịnh. Hai là đối với bạn lành, sẽ tùy thời lễ bái, đón tiếp, chắp tay,
ân cần tu tập nghiệp ḥa kính để cúng dường.
Ba, đối với bạn lành, tùy thời cúng dường
y phục đúng pháp, thức ăn, đồ trải nằm,
thuốc men tùy thuộc t́nh h́nh bệnh tật, và các vật
dụng sinh hoạt. Bốn là nếu y chỉ chánh đáng đối
với bạn lành th́ đối với pháp nghĩa chân chánh
dù thích hợp hay không, sẽ đều tự tại chuyển,
chẳng khuynh động, sẽ như thật hiển phát
cái tâm phụng sự, cung kính, tùy thời đến chỗ
thiện hữu cung kính, thừa sự, thưa hỏi, nghe
nhận”.
(Kinh) Bạch
Phật ngôn: - Thế Tôn! Hà giả vi thiện?
Hà giả bất thiện? Hà giả chánh tu
đắc thanh tịnh hạnh?
(經)白佛言:世尊!何者為善?何者不善?何者正修得清淨行?
(Kinh: Bạch
Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Thế nào là thiện?
Thế nào là bất thiện? Thế nào là tu tập chân chánh,
ḥng đạt được hạnh thanh tịnh?)
Tán rằng:
Thỉnh cầu pháp thù thắng. Quyển ba mươi tám của
luận Du Già Sư Địa viết: “Các vị Bồ
Tát ấy khi cầu chánh pháp, hăy nên nương vào đâu để
cầu? Do nghĩa ǵ mà cầu? Trước hết là hỏi
cầu pháp nào, kế đó hỏi nghi thức để cầu,
sau đó là hỏi cách thực hiện để cầu pháp.
Đối với pháp nào nên cầu, hăy nên cầu nơi Ngũ
Minh. Đối với nghi thức cầu pháp, tức là các
Bồ Tát đối với người khéo nói pháp, hăy nên an
trụ trong sự yêu mến, tôn trọng mạnh mẽ để
cầu nghe chánh pháp. V́ muốn được nghe một vị
khéo nói pháp, giả sử đường đi như chỗ
bằng sắt bị lửa mạnh nung đốt nóng rực,
do chẳng có phương tiện nào khác để được
nghe người khéo nói pháp ấy [giảng giải], liền
phát khởi ḷng yêu mến, kính trọng mạnh mẽ để
hoan hỷ tiến vào. Huống hồ muốn nghe nhiều
ngôn từ, ư nghĩa tốt lành, hơn hẳn sự yêu mến,
coi trọng bản thân và các vật dụng cần thiết
cho cuộc sống trăm ngàn vạn phần! Đối với
thiện pháp, thường
thích lắng nghe, chẳng nhọc nhằn, mà cũng chẳng
chán đủ. Tịnh tín sâu dày, tánh t́nh nhu ḥa, tâm thẳng thắn,
kiến giải ngay thẳng, do yêu kính đức, do yêu kính
pháp, đến chỗ pháp sư không có tâm bắt bẻ, ôm ḷng kính
trọng, chẳng có tâm cao ngạo, khinh mạn, chuyên v́ cầu
điều thiện, chẳng v́ hiển lộ đức
của chính ḿnh, v́ muốn an lập thiện căn cho ḿnh
lẫn người, chẳng v́ nhân duyên lợi dưỡng,
cung kính, chẳng có tâm tạp nhiễm, xa ĺa ngạo nghễ,
xa ĺa khinh mạn, xa ĺa khiếp nhược, đúng thời
mà nghe, ân cần, trân trọng mà nghe, cung kính để nghe,
chẳng v́ tổn hại, chẳng v́ tùy thuận, chẳng
t́m ṭi lầm lỗi [trong lời thuyết
pháp], mà tâm cầu ngộ giải, tâm chuyên nhất
tiến hướng, khiến cho âm thanh được nghe
từ tai quét sạch [phiền năo], nhiếp tŕ, lắng nghe chánh pháp. Đối
với pháp được nghe, khởi lên bốn thứ tướng:
Một là tưởng như của báu mầu nhiệm, do
v́ khó được. Hai là tưởng như thuốc tốt
lành, do có ư nghĩa trừ bệnh. Ba là tưởng như
tài vật, do có ư nghĩa chẳng tan hoại. Bốn là tưởng
như Niết Bàn, do có ư nghĩa diệt khổ. Do pháp là cái
nhân của tướng hảo trang nghiêm, bèn tưởng như
của báu mầu nhiệm. Do pháp là cái nhân để diệt
phiền năo, tưởng như thuốc tốt lành. Do pháp
là cái nhân của thần thông, tưởng như tài vật.
Do pháp là cái nhân của sự vô tận chân chánh, tưởng
như Niết Bàn”.
Kế đó,
nói về ư nghĩa cầu nghe pháp:
- Khi cầu
Nội Minh, v́ chân chánh tu hành “pháp tùy pháp hành”, v́ muốn rộng
khai thị lợi lạc, khiến cho người khác ngộ
giải.
- Khi cầu
Nhân Minh, v́ muốn biết rơ như thật các bộ luận
về nguyên nhân do ngoại đạo biên soạn đều
là những lời lẽ xấu ác, v́ muốn hàng phục các
dị luận khác, khiến cho người chưa tin tưởng
thanh tịnh đối với giáo pháp chân thật, sẽ có
niềm tin thanh tịnh, kẻ đă tin tưởng thanh tịnh
sẽ càng tăng thêm gấp bội.
- Khi cầu
Thanh Minh, v́ muốn khiến cho chúng sanh tin ưa những lời
lẽ khuôn mẫu, sẽ sanh niềm kính tín sâu xa đối
với thân Bồ Tát, v́ muốn ngộ nhập các cách giải
thích, phân tích ngôn âm.
- Khi cầu
Y Minh, v́ muốn dứt trừ các thứ bệnh tật của
chúng sanh, v́ muốn lợi ích hết thảy đại
chúng.
- Khi cầu
Công Xảo Minh, v́ tốn ít công sức mà tụ tập nhiều
tài vật quư báu, v́ muốn lợi ích các chúng sanh, v́ phát khởi
ư tưởng rất hiếm lạ cho chúng sanh, v́ dùng trí khéo
để b́nh đẳng chia sẻ lợi ích, ḥng nhiếp
thọ vô lượng chúng sanh. Nói như thế nào? V́ nghĩa
nào mà nói? Chính điều đáng nên cầu sẽ là điều
được nói. V́ cầu nghĩa ấy, bèn v́ nghĩa
ấy để nói. Điều này có nghĩa là v́ tự lợi
và lợi tha mà cầu, lại c̣n khiến cho chúng sanh hành tự
lợi và lợi tha mà nói. Nay nói “thế nào là thiện và
bất thiện”, tức là hỏi về pháp để
cầu? “Chánh tu
như thế nào” tức là
hỏi nghi thức nghe pháp. Lại hỏi “như thế
nào để đạt được hạnh thanh tịnh?” tức cầu
nên làm như thế nào?
(Kinh) Chư
Phật Như Lai, cập đệ tử chúng, kiến bỉ
vấn thời, như thị tư duy.
(經)諸佛如來及弟子眾,見彼問時,如是思惟。
(Kinh:
Chư Phật Như Lai và các đệ tử, khi thấy người
ấy hỏi, bèn tư duy như thế này).
Tán rằng:
Bạn lành v́ người ấy suy nghĩ.
(Kinh) Thị
thiện nam tử, thiện nữ nhân dục cầu thanh tịnh,
dục thính chánh pháp, tức tiện vị thuyết, linh kỳ
khai ngộ.
(經)是善男子善女人,欲求清淨、欲聽正法。即便為說,令其開悟。
(Kinh:
Thiện nam tử, thiện nữ nhân này muốn cầu thanh
tịnh, muốn nghe chánh pháp, liền v́ người ấy
nói, khiến cho người ấy khai ngộ).
Tán rằng:
Chính là v́ người ấy giải nói. Tức nhiệm vụ
của bạn lành là khiến cho kẻ chưa hiểu sẽ
ngộ, khiến kẻ đă hiểu sẽ hiểu biết
rộng hơn.
5.3.4.2.3.2.3. Sức của
tác ư
(Kinh) Bỉ
kư văn dĩ, chánh niệm ức tŕ.
(經)彼既聞已,正念憶持。
(Kinh:
Kẻ ấy nghe xong, chánh niệm nhớ giữ).
Tán rằng:
Điều thứ ba là sức của tác ư. Khởi lên tác ư
đúng lư, v́ chánh niệm mà ǵn giữ chẳng xả.
5.3.4.2.3.2.4. Sức của
tư lương
(Kinh)
Phát tâm tu hành, đắc tinh tấn lực, trừ lăn nọa
chướng, diệt nhất thiết tội.
(經)發心修行,得精進力,除嬾惰障,滅一切罪。
(Kinh:
Phát tâm tu hành, đạt được sức tinh tấn,
trừ chướng ngại lười nhác, diệt hết
thảy các tội).
Tán rằng:
Điều thứ tư là sức tư lương, tức
tu tập vạn hạnh trong ba đại kiếp chính là tư
lương Bồ Đề. Địa vị đầu
tiên trong năm địa vị được gọi là Tư
Lương, riêng có được cái tên gọi chung như
thế, như Sắc Xứ v.v… Do vừa mới phát tâm cầu
Bồ Đề, cho nên được đặt tên là Tư
Lương. Các địa vị khác th́ có tên riêng, do có thắng
biệt hạnh (hạnh riêng thù thắng cho mỗi địa
vị). Trong sức tư lương này, chia thành hai loại:
Trước là Địa Tiền, sau là Địa Thượng.
Đây là phần đầu. Địa Tiền có bốn loại:
- Một, phát
tâm tu hành.
- Hai, đạt
được sức tăng thượng.
- Ba, trừ
chướng.
- Bốn,
diệt tội.
Phát tâm tu
hành trụ trong địa vị Thập Trụ; do vậy,
địa vị đầu tiên trong Thập Trụ được
gọi là Phát Tâm Trụ, do vừa mới phát Vô Thượng
Bồ Đề tâm. Tuy trước đó đă phát, nhưng
chưa thuộc vào A-tăng-kỳ đầu tiên; ở đây, [hành nhân] đă
nhập A-tăng-kỳ đầu tiên, cho nên có
tên là Phát Tâm Trụ. Phát tâm có nhiều thứ. Trong địa
vị Thập Trụ thuộc chủng tánh phát tâm nơi thiện
pháp dục vị, thắng giải hạnh phát tâm nhập
Sơ Địa được gọi là “chứng đắc
phát tâm”. Nay thắng giải phát tâm này đạt được
sức tinh tấn, thuộc địa vị Nhẫn thứ nhất, do đạt
được ngũ lực, Tín là chỗ nương vào của
Cần (tinh tấn), chẳng phải là hàng phục Hoặc
thật sự. Cần (tinh tấn) có thể chế phục
Hoặc; do vậy, ở đây nói tới [Cần]. “Trừ lăn nọa
chướng” (trừ chướng ngại lười
nhác): Nêu ra chướng ngại gây trở ngại chánh yếu cho hạnh
Tinh Tấn. Dựa theo sự thật để phân biệt
th́ địa vị này đối với hết thảy
hai thứ chướng đều có thể chế phục; đấy
là cái nhân để trừ khổ.
“Diệt
nhất
thiết tội” (diệt hết thảy tội): [“Tội”]
là khổ quả, đạt tới Tăng Thượng Nhẫn
và Thế Đệ Nhất Vị, hết thảy khổ
quả như đường ác và tám nạn đều chẳng
sanh. [Các kinh luận] phần nhiều nói Kiến Đạo
ĺa hai thứ ấy, tức là dựa theo chuyện đoạn
trừ chủng tử để nói; c̣n kinh này dựa theo
địa vị hàng phục và quyết định đạt
được. V́ thế, Thành Duy Thức Luận nói: “Tuy
Kiến Đạo sanh, nó cũng đoạn các nghiệp
quả trong đường
ác, nhưng nay lại nói [trong địa vị ấy] vẫn
có thể khởi phiền năo, v́ [phiền
năo] là căn
bản [của
nghiệp quả]”[9]. Lại nói:
“Sự ngu muội do tạp nhiễm nơi hai đường
ác chính là các nghiệp quả trong đường ác…”
(Kinh) Ư
chư Học Xứ, ly bất tôn trọng, tức điệu
hối tâm, nhập ư Sơ Địa.
(經)於諸學處,離不尊重、息掉悔心,入於初地。
(Kinh:
Trong các Học Xứ, ĺa chẳng tôn trọng, dứt bặt cái tâm chao
động, hối hận, nhập vào Sơ Địa).
Tán rằng:
Nói về nhập Địa Thượng (chứng nhập
Sơ Địa). Thập Địa gồm mười đoạn,
kinh văn [trong mỗi đoạn] đều gồm có hai
phần: Một là trừ chướng, hai là đạt được
địa vị. Do Sơ Địa đạt được
bốn thứ “chứng tịnh”, cho nên đối với
Học Xứ đều ĺa “chẳng tôn trọng”. Học
Xứ chính là Giới, hoặc hết thảy những điều
đáng nên tu đều được gọi là Học Xứ.
Thể chẳng ĺa Tam Bảo, và dùng tịnh giới để
chứng tịnh, ĺa cái tâm chẳng tôn trọng, v́ vĩnh
viễn đoạn trừ phân biệt. Dứt trừ cái tâm
điệu hối (tâm xao động, hối tiếc), tức là Dị Sanh Tánh Chướng. Tuy Dị
Sanh Tánh Chướng
gồm trọn hết thảy hai loại chướng
phân biệt
(Sở Tri Chướng và Phiền Năo Chướng),
nhưng do điệu hối ngăn trở Định tăng
trưởng, ở đây
bèn dạy họ tu Định, do Định phát sanh trí. Hợp Định và Trí ấy
lại, sẽ thành Pháp Thân. V́ thế, [kinh văn ở đây]
riêng nói về trừ (tức trừ khử cái tâm không tôn
trọng và điệu hối), nhưng thật ra, bao gồm việc trừ khử cái Thể [của tâm điệu
hối ấy]. Lại nữa, cái sẽ đoạn và cái đang
bị đoạn đều được gọi là Đoạn.
Địa vị sắp đoạn th́ lâu dài, do thuộc
giai đoạn trước đó; địa vị đang
đoạn th́ ngắn ngủi v́ đang nhập tâm địa.
Đây là phần lớn dựa vào điều đầu
tiên mà nói là “đoạn chướng”. V́ thế, trước
hết nói “dứt trừ
tâm điệu hối”, sau đó nói “nhập Sơ
Địa”. Đối
với các địa vị kế tiếp, cứ chuẩn
theo đoạn này mà suy.
(Kinh) Y
Sơ Địa tâm, trừ lợi hữu t́nh chướng,
đắc nhập Nhị Địa.
(經)依初地心,除利有情障,得入二地。
(Kinh:
Nương vào tâm Sơ Địa, trừ chướng ngại
đối với chuyện lợi ích hữu t́nh, được
nhập Nhị Địa).
Tán rằng:
Do Đệ Nhị Địa [chủ yếu tu tập] Tŕ
Giới Ba La Mật. Trong Tŕ Giới Ba La Mật, có ba thứ
sai biệt, hạnh lợi ích hữu t́nh của Bồ Tát
thù thắng. Tâm Sơ Địa viên măn, sẽ nhập Nhị
Địa, sức tu Giới tăng mạnh, sẽ có thể
đoạn trừ
chánh hiện hành (tức là đoạn trừ phiền
năo chủ yếu đang hiện hành thuộc địa vị
này), nên có thể lợi ích chúng sanh. Nói “trừ lợi
sanh chướng” tức trừ bỏ chướng ngại
do tà hạnh gây ra. Đă hàng phục chướng ấy, sẽ
được nhập Nhị Địa.
(Kinh) Ư
thử địa trung, trừ bất bức năo chướng,
nhập ư Tam Địa.
(經)於此地中除不逼惱障,入於三地。
(Kinh:
Ở trong địa này, trừ chướng ngại đối
với chuyện chẳng bức bách năo hại, nhập Tam
Địa).
Tán rằng:
[Bất Bức Năo Chướng] chính là Ám Độn Chướng.
Các kinh luận như Duy Thức v.v… gọi chung các thứ chướng
ngại Văn Tư Huệ thù thắng nơi Tổng Tŕ là
Ám Độn. Ở đây, xét theo khía cạnh nó gây chướng
ngại cho Nhẫn, nên gọi là Bức Năo. Hoặc các kinh luận
kia xét theo khía cạnh “chướng ngại ấy vốn là
ngu si”, nên gọi là Ám Độn Chướng; c̣n kinh này xét
theo biểu hiện đằng ngọn của nó là sân khuể
v.v… mà gọi là Bức Năo Chướng. Hoặc là xét theo Tam
Nhẫn, do tham lạc v.v… trọn đủ mà chẳng thể
nhẫn các khổ, tức là Tham Bức Năo. Thấy người
khác oán hại mà chẳng thể nhẫn, tức là Sân Bức
Năo. Nghe Nhị
Đế chẳng thể ấn nhẫn (chấp nhận,
tin tưởng chắc thật) th́ chính là Ngu Si Bức Năo.
Nhập Tam Địa th́ sẽ đạt được
ba thứ Nhẫn ấy (Nại Oán Hại Nhẫn, An Thọ
Khổ Nhẫn, Đế Sát Pháp Nhẫn); v́ thế, trừ
Bức Năo Chướng.
(Kinh) Ư thử địa trung, trừ tâm nhuyễn
tịnh chướng, nhập ư
Tứ Địa.
(經)於此地中除心軟淨障,入於四地。
(Kinh:
Ở trong địa vị này, trừ tâm nhuyễn tịnh chướng,
thanh tịnh, nhập vào Tứ Địa).
Tán rằng:
“Tâm tịnh” là Bồ Đề phần pháp. “Nhuyễn”
là chướng ngại do vi tế phiền năo hiện hành,
tức nhuyễn phiền năo chính là chướng ngại
cho sự thanh tịnh ấy. Hoặc phiền năo ấy do
nương vào tâm vương, cho nên dùng điều chủ yếu
để đặt tên. Do vậy, gọi là
Tâm Nhuyễn Tịnh Chướng.
(Kinh) Ư
thử địa trung, trừ thiện phương tiện
chướng, nhập ư Ngũ Địa.
(經)於此地中除善方便障,入於五地。
(Kinh:
Trong địa vị này, trừ chướng ngại đối
với phương tiện tốt lành, nhập vào Ngũ Địa).
Tán rằng:
Địa này tu Vô Sai Biệt Đạo, tức là vô phân biệt
trí có thể chứng Chân Như “vô sai biệt”. V́ thế, đạt
được Chân và Tục chẳng khác! Do sanh tử và Niết
Bàn chẳng khác biệt, Hậu Đắc Trí tu đại
bi, Bát Nhă chẳng trụ vào sanh tử hay Niết Bàn, nên gọi
là “phương tiện”. Cái căn bản trong bản
thể của phương tiện thuộc Niết Bàn chính
là Vô Phân Biệt Trí, khởi lên tác dụng là Bi Trí. Cái có thể
chướng ngại điều này chính là chướng ngại
Nhập Niết Bàn của hạ thừa (các thừa khác thấp
hơn địa vị Bồ Tát này). Niết Bàn chẳng phải
là chướng, cái tâm “chán sanh tử, ưa thích Niết
Bàn” mới chính là chướng, gây chướng ngại
cho phương tiện ấy (tức Phật do Hậu Đắc
Trí mà tu đại
bi, Bát Nhă chẳng trụ trong sanh tử hay Niết Bàn, chẳng có chuyện ưa
thích Niết Bàn, chán ghét sanh tử). Nay trừ
chướng ấy, sẽ được nhập Ngũ Địa.
(Kinh) Ư
thử địa trung, trừ kiến chân tục chướng,
nhập ư Lục Địa.
(經)於此地中除見真俗障,入於六地。
(Kinh:
Ở trong địa vị này, trừ chướng ngại
thấy Chân và Tục, nhập Lục Địa).
Tán rằng:
Nói tới Chân và Tục, theo cách biện định thông thường
th́ có bốn loại. Trong các bộ luận, nếu xét theo
thông tướng, bèn nói Ngũ Địa tu Tứ Đế
Quán, nhưng có thể gộp chung Chân và Tục để
quán, do đă trừ chướng
ngại do [chấp
trước có] Chân và Tục mâu thuẫn. Nếu
không, sẽ chẳng thể gộp chung Chân và Tục để
quán. Do hành Tứ Đế Quán, nhưng chưa thể trừ
hai tướng nhiễm và tịnh, v́ tướng nhiễm
và tịnh nương vào Chân và Tục mà sanh. Nay xét theo căn
bản mà gọi là Chân Tục Chướng. Xét theo sự
thật, chúng chính là thô tướng hiện hành chướng.
Đấy chính là đem tướng sanh diệt so sánh với
nhiễm và tịnh th́ nhiễm và tịnh là thô. Do Sở Tri
Chướng hiện hành chấp vào thô tướng ấy
mà sanh khởi, bèn gọi là Thô Tướng Hiện Hành Chướng.
Ngũ Địa sẽ trừ [thô tướng hiện hành
chướng ấy], tiến nhập Lục Địa sẽ
thật sự đoạn trừ. Hoặc xét theo phương
tiện, do nhập Ngũ Địa trừ Chân Tục Tương
Vi Chướng (chướng ngại do c̣n thấy Chân và Tục
trái nghịch nhau), có thể hợp [Chân và Tục] lại để
quán, cho nên nhập Lục Địa. Do trước sau soi
rọi lẫn nhau, cho nên nói riêng như vậy.
(Kinh) Ư
thử địa trung, trừ kiến hành tướng chướng,
nhập ư Thất Địa.
(經)於此地中除見行相障,入於七地。
(Kinh:
Ở trong địa này, trừ chướng ngại thấy
có hành tướng, nhập Thất Địa).
Tán rằng:
“Kiến hành
tướng chướng” tức là tế tướng
hiện hành chướng, [tức là chướng ngại
do] chấp vào tướng sanh diệt. Do trong Lục Địa,
tu Duyên Sanh Quán, tuy đă trừ tướng nhiễm tịnh,
[nhưng c̣n] thấy có tướng sanh diệt, cho nên chướng
ngại Vô Tướng Đạo vốn chẳng thấy
có sanh diệt. Diệu Vô Tướng Đạo tức là
chẳng thấy có sanh diệt. Nay cái thấy “có hành tướng
[sanh diệt]” ấy chính là chướng, nhập Thất Địa
sẽ trừ [chướng ấy]. Hoặc trong Lục
Địa, tu Duyên Sanh Quán, thấy sanh tử lưu chuyển,
mà chẳng thấy có vô vi. Nay trong Thất Địa, trừ
hai tướng ấy (hành tướng sanh diệt và sanh tử
lưu chuyển), có thể tu Vô Tướng Quán lâu dài. V́ thế,
Duy Thức Luận nói: “Chấp có sanh là v́ c̣n chấp giữ
tướng sanh vi tế lưu chuyển. Chấp có diệt
là v́ c̣n chấp vào tướng diệt vi tế hoàn diệt
vậy”. Các kinh như Bát Nhă Tâm Kinh v.v… cũng nói “vô vô
minh, diệc vô vô minh tận” (chẳng có vô minh, chẳng
có hết vô minh). “Tận” chính là diệt, diệt chính
là vô vi. Chẳng thấy tướng diệt th́ chính là Diệu
Vô Tướng Đạo. Nêu ra “chẳng thấy diệt”
để liên tưởng “chẳng thấy sanh”. Đó
gọi là Tế Tướng Hiện Hành Chướng. Do so
sánh với thô tướng trong phần trước, mà [gọi
“chướng
ngại vi tế” trong phần này] là Tế Kiến
Hành Tướng Chướng, tức là nói theo cái bị chấp
giữ (cái bị hành nhân thuộc Lục Địa chấp
giữ chính là hành tướng). “Hành tướng” chính
là hành tướng sanh diệt, [Kiến Hành Tướng Chướng]
là chướng ngại do thấy có hành tướng.
(Kinh) Ư
thử địa trung, trừ bất kiến diệt tướng
chướng, nhập ư Bát Địa.
(經)於此地中除不見滅相障,入於八地。
(Kinh:
Ở trong địa vị này, trừ chướng chẳng
thấy tướng Diệt, nhập Bát Địa).
Tán rằng:
Diệt tướng chính là vô tướng. Do trong Thất Địa,
phần nhiều giữ lấy tướng Diệt, thuần
là siêng cầu tác ư vô tướng, chẳng thể tùy ư từ
trong Không mà khởi lên hạnh thù thắng Hữu, chướng
ngại Vô Công Dụng Vô Tướng Diệu Quán. “Chẳng
thấy tướng Diệt” là Vô Tướng Quán. Nhập
Bát Địa th́ không chỉ chẳng thấy tướng
diệt, mà cũng chẳng thấy hai tướng là h́nh tướng
và cơi nước. V́ thế, đối với hai tướng
ấy, cũng được tự tại. Do đó, trong
Bát Địa đoạn hai thứ ngu:
- Một là
sự ngu muội đối với công dụng của Vô Tướng
Tác.
- Hai là sự
ngu muội đối với sự tự tại trong các tướng.
Nay chỉ
nêu ra điều đầu tiên để liên tưởng các điều
sau đó.
(Kinh) Ư
thử địa trung, trừ bất kiến sanh tướng
chướng, nhập ư Cửu Địa.
(經)於此地中除不見生相障,入於九地。
(Kinh:
Ở trong địa vị này, trừ chướng ngại
do chẳng thấy tướng sanh, nhập vào Cửu Địa).
Tán rằng:
Chẳng thấy tướng sanh là đối ứng với
tướng diệt trong phần trước, [“tướng
sanh” được nói ở đây] chính là tướng sanh
của các pháp. Do nhập Bát Địa, thích quán tịch diệt,
cho nên chẳng
thấy có tướng duyên sanh, tức là nói theo tổng tướng.
Nhưng do Bát Địa chẳng muốn hành chuyện lợi
tha, tức là do không thấy có chúng sanh, bèn bỏ hạnh lợi
ích chúng sanh. Kế đó, đối với Bát Địa,
luận (luận Du Già Sư Địa) viết: “Chư Phật
được khuyên bảy lần mới xuất thế
[chuyển pháp luân] là do Vô Tướng Quán. Đệ Bát Địa
nếu có thể chế phục chướng ngại ‘chẳng
thấy chúng sanh’ ấy, sẽ được nhập Cửu
Địa”. Lại giải thích rằng: Do chẳng thấy
có chúng sanh khác với bản thân, [do thấy] chúng
sanh ấy chính là ta, chẳng thấy ngoài thân có chúng sanh riêng
biệt; do vậy, có thể thường lợi ích họ.
Nay Bát Địa thoạt đầu thấy ngoài thân riêng có
chúng sanh, chướng ngại “chẳng thấy có tướng
chúng sanh”, cho nên gọi là Chướng. Tức là chướng
ngại chẳng thấy chúng sanh, nên gọi là Bất Kiến
Chúng Sanh Chướng. Do đó, luận Biện Trung Biên nói:
“V́ thường lợi ích hữu t́nh, cho nên quán Tất Cánh
Không”. Thành Duy Thức cũng nói: “Điều thứ
chín là chướng ngại do chẳng muốn hành lợi
tha, cho nên nhập Cửu Địa sẽ có thể rốt
ráo đoạn [chướng ngại ấy]”.
(Kinh) Ư
thử địa trung, trừ lục thông chướng, nhập
ư Thập Địa.
(經)於此地中除六通障,入於十地。
(Kinh:
Ở trong địa vị này, trừ chướng ngại
đối với lục thông, nhập Thập Địa).
Tán rằng:
[Lục Thông Chướng] tức chướng ngại chưa
tự tại nơi các pháp. “Tự tại trong các pháp” chính
là sáu món thần thông và đại pháp trí. Do có chướng
này, sẽ chướng ngại sự tự tại ấy.
Lại c̣n nêu ra sáu món thần thông để liên tưởng
mây đại pháp trí. Lại giải rằng: Đối với
các Học Xứ, ĺa chẳng tôn trọng, dứt trừ chính là cái
tâm “điệu
hối” (xáo động,
hối hận), tức là
nhắc lại cái nhân tu tập trước đó. “Nhập
ư Sơ Địa” là nói tới cái quả đạt được. Tức
là Hậu Hậu Quả do địa vị thiện căn,
ĺa “chẳng
tôn trọng Tam Bảo và chánh pháp”, trừ lăn
nọa chướng (chướng ngại do lười nhác),
diệt hết thảy các tội. Lại có thể ĺa chướng
ngại đối với sự tự tại, dứt trừ cái tâm điệu
hối. Tức là như Bát Nhă Luận của Thiên Thân Bồ
Tát đă viết: “Trong nội tâm tu hành, do chấp ta là Bồ
Tát. Đấy chính là ngăn chướng cái tâm, trái nghịch
chẳng trụ đạo”. “Chẳng trụ đạo”
tức là Sơ Địa chấp “ta có thể tu”, trái nghịch
đạo Sơ Địa. Vô Trước Bồ Tát viết trong Bát Nhă Luận
rằng: “Trừ hỷ động chướng, do cho rằng
‘ta có thể tu hạnh thù thắng này’, phần nhiều
sanh hỷ động”. “Hỷ động” chính là điệu
cử (掉舉, lao chao, phập
phều, tâm lăng xăng, không trấn định được).
Coi đó là Chướng, v́ nó ngăn chướng [hành nhân]
nhập Sơ Địa. Do trừ chướng ấy, được
nhập Sơ Địa, tức là ĺa chẳng tôn trọng
v.v… [Hễ c̣n các chướng ấy] th́ đều là Địa
Tiền, chẳng phải là đă nhập Sơ Địa.
Đối với mười thứ chướng sau đó,
cứ chuẩn theo đấy mà suy.
Trong Sơ Địa,
do hành ba loại bố thí, nên có thể lợi ích hữu
t́nh. V́ thế, trừ chướng chống trái, được
nhập Nhị Địa. Nhị Địa tŕ giới,
trừ chướng bức năo hữu t́nh xong, sẽ được
nhập Tam Địa. Tam Địa tu Định, trừ
tâm nhuyễn tịnh chướng. “Tâm” tức là tâm học,
trừ chướng ngại đối với các Định,
ĺa cái tâm cứng cỏi th́ gọi là tâm nhuyễn tịnh, được
nhập Tứ Địa. Nhập Tứ Địa, tu Bồ
Đề phần quán, gọi là “thiện phương tiện”.
Trừ chướng ấy rồi, được nhập
Ngũ Địa. Nhập Ngũ Địa rồi có thể
khiến cho Chân và Tục tùy thuận, chẳng mâu thuẫn
với nhau. Do vậy, trừ chướng thấy có Chân và
Tục [tách biệt], được nhập Lục Địa.
Nhập Lục Địa, hành Duyên Sanh Quán, trừ chướng
ngại thấy có hành tướng nhiễm và tịnh nơi
Tứ Đế, được nhập Thất Địa.
Nhập Thất Địa, phần nhiều hành Vô Tướng
Quán, trừ chướng ngại “thấy có tướng
sanh diệt do duyên sanh”, được nhập Bát Địa.
Đă nhập Bát Địa, có thể tùy ư quán lư vô tướng,
trừ bỏ tướng tăng giảm, [tức là hiểu
rơ]: Khi tịnh pháp sanh, Chân Như chẳng tăng; khi phiền
năo diệt, Chân Như
chẳng giảm. Sanh là tăng. Nêu ra “chẳng tăng”
nhằm liên tưởng “chẳng giảm”. [Đă trừ
bỏ tướng tăng giảm ấy], được
nhập Cửu Địa. Đă nhập Cửu Địa,
hăy nên nói tới chướng ngại “chẳng muốn hành
hạnh lợi lạc hữu t́nh khác”. Nếu khi đă
viên măn địa vị ấy, sẽ có thể chế phục,
đoạn trừ chướng ngại đối với
sáu món thần thông, hăy nên nói là Đệ Thập Địa
có thể trừ lục thông chướng. Do Đệ Thập
Nhất Địa (Đẳng Giác), tức là đă
viên măn Thập Địa, có thể trừ [lục thông chướng];
cho nên nói “Thập Địa trừ Sở Tri Chướng,
ẩn lấp chướng thứ chín”, cho nên chẳng bàn
tới [các chướng ngại ấy nữa]. Giải thích
kiểu này là thuận theo kinh văn, c̣n cách giải thích
trong phần trước là dựa theo lư. Nếu xét kèm thêm
các bản dịch cũ của kinh này, cách giải thích sau
hay hơn. V́ lẽ nào vậy? Trong các bản dịch cũ,
đối với địa nào, cũng đều nói “đă
đoạn th́ có thể nhập”, tức là nói rơ “chẳng
phải là chế phục”, hoặc “có thể hàng phục
hết sạch th́ gọi Đoạn”. Do vậy, đối
với hai cách giải thích, [người đọc] có thể
tùy ư chọn lựa [cách nào cũng được].
(Kinh) Ư
thử địa trung, trừ Sở Tri Chướng, trừ
căn bản tâm, nhập Như Lai địa.
(經)於此地中除所知障、除根本心,入如來地。
(Kinh:
Ở trong địa này, trừ Sở Tri Chướng, trừ
tâm căn bản, nhập Như Lai địa).
Tán rằng:
Tiếp đó nói về quả vị, [gồm có hai ư]: Trước
là nói “trừ chướng viên măn, bèn đạt được
địa vị Phật”. Sau đó, chỉ rơ “Phật
địa trọn đủ ba thứ thanh tịnh”. Đoạn
này thuộc về ư trước. [Địa vị này] trừ
chủng tử vi tế và tập khí của hai thứ chướng
là Sở Tri Chướng và Vô Gián Đạo Đoạn, nhưng
xét theo món chướng ngại Bồ Đề mạnh mẽ
nhất mà nói là “trừ Sở Tri Chướng”. “Trừ
tâm căn bản” tức là [trừ bỏ] chỗ nương
vào của chủng tử và tập khí. Trừ chủng tử
nhiễm trong thức thứ bảy, do nó (thức thứ bảy)
luôn có nhiễm. Vô Gián Đạo đoạn trừ bảy
món thiện hữu lậu và vô kư khác, cũng như Tâm Sở
tương ứng với chúng, th́ gọi là “căn bản
tâm”. Thức thứ tám
bao gồm hai thứ y chỉ, sáu thức kia chỉ nương vào tập khí. Sự đoạn trừ ấy có hai cách
nói (hai cách giải thích), như quyển mười của
Duy Thức đă giảng.
(Kinh) Như
Lai địa giả, do tam tịnh cố, danh cực thanh
tịnh. Vân hà vi tam? Nhất giả, phiền năo tịnh. Nhị
giả, khổ tịnh. Tam giả, tướng tịnh.
(經)如來地者、由三淨故名極清淨。云何為三?一者煩惱淨、二者苦淨、三者相淨。
(Kinh:
Địa vị Như Lai do ba thứ tịnh, nên gọi
là “cực thanh tịnh”. Thế nào là ba? Một là phiền
năo tịnh. Hai là khổ tịnh. Ba là tướng tịnh).
Tán rằng:
Hiển thị sự tu hành thanh tịnh. Kinh văn được
chia thành ba đoạn, tức nêu ra, gạn hỏi, và liệt
kê. Phiền năo tịnh là [đă trừ bỏ] hai thứ chướng
và nghiệp. Khổ tịnh tức là đoạn trừ
hai thứ tử (Phần Đoạn và Biến Dịch). Tướng
tịnh tức là tập khí [đă đoạn trừ]. Do
ba thứ thanh tịnh ấy, không chi hơn được,
nên gọi là “cực thanh tịnh”.
(Kinh) Thí
như chân kim dung tiêu trị luyện, kư thiêu đả đĩ,
vô phục trần cấu.
(經)譬如真金鎔銷治鍊,既燒打已無復塵垢。
(Kinh: Ví như vàng ṛng
nung chảy, tinh luyện, đă được nung và rèn đập
rồi, chẳng c̣n chất nhơ).
Tán rằng:
Dùng thí dụ để nêu rơ. [Từ đây trở đi],
có bốn thí dụ để
nói rơ. Ba thí dụ đầu nhằm sánh ví Pháp Như
Như Pháp Thân vốn tịnh; thí dụ sau cùng là sánh ví Như
Như Trí hiện hành th́ mới thanh tịnh. “Pháp Thân vốn
tịnh” có ba loại, tức là ba loại tịnh [như
đă nói] trong đoạn trước, [tương ứng
với ba thứ tịnh ấy mà có] ba thí dụ theo thứ
tự. Nhưng hai thí dụ đầu được kết
hợp với cùng một pháp, do nhân quả của hai thứ
Hoặc nghiệp tùy thuộc lẫn nhau, cho nên kết hợp
[hai thí dụ] với cùng một pháp.
Lại nữa,
“tam tịnh” chính là ba nghĩa Pháp Thân, Bát Nhă, và giải
thoát. Pháp Thân vốn thường giống như vàng, Bát Nhă
chiếu soi như nước, giải thoát vô ngại
như hư không, đều dựa theo [tác dụng]
đạt được từ nơi tánh để nói
theo ư nghĩa Nhất Như. Thí dụ đầu tiên (tức
thí dụ về “vàng ṛng”), được chia thành hai phần:
- Trước
là thí dụ về sự thanh tịnh trong hiện thời.
- Sau là kết
lại cái vốn sẵn có.
Đoạn
này là phần đầu. “Thí như chân kim” (Ví như vàng
ṛng) là sánh ví Đạo Tiền Như (Chân Như nơi đạo
tiền, tức Chân Như trong tâm hành nhân khi chưa kiến
đạo). “Tiêu dung, luyện trị” (Nung chảy,
tinh luyện) là sánh ví Đạo Trung (đă nhập đạo,
đang tu tập). “Đă nung đốt” tức là sánh
ví Đạo Hậu (sau khi đă chứng đạo quả).
(Kinh) Vị
hiển kim tánh bổn thanh tịnh cố. Kim thể thanh tịnh,
phi vị vô kim.
(經)為顯金性本清淨故。金體清淨,非謂無金。
(Kinh:
Do hiển thị tánh của vàng vốn sẵn thanh tịnh.
Thể của vàng thanh tịnh, chẳng phải là không có vàng).
Tán rằng:
Thí dụ nhằm nêu rơ tánh “vốn sẵn có”. Đối với
kinh văn giống như phần này, cổ nhân có người
nói: Ba thân thường hiện, hoặc là luôn thường
hằng. “Nung chảy, tinh luyện” nhằm hiển lộ
tánh của vàng vốn thanh tịnh. Hạnh Lục Độ
là liễu nhân của Pháp Thân, do trừ cấu nhiễm, đạt
được bản thể thanh tịnh của vàng, chẳng
phải là nói “không có vàng”.
(Kinh)
Thí như trược thủy trừng đ́nh thanh tịnh,
vô phục chỉ uế.
(經)譬如濁水澄渟清淨,無復滓穢。
(Kinh:
Ví như nước đục, lắng trong thanh tịnh,
chẳng c̣n cặn nhơ).
Tán rằng:
Phân đoạn như trong phần trước, ư nghĩa cứ
chuẩn theo đó mà suy.
(Kinh) Vị
hiển thủy tánh bổn thanh tịnh cố, phi vị vô
thủy.
(經)為顯水性本清淨故,非謂無水。
(Kinh:
V́ hiển lộ tánh của nước vốn là thanh tịnh,
chẳng phải là không có nước).
Tán rằng:
Thí dụ nhằm kết lại cái vốn sẵn có.
(Kinh) Như
thị Pháp Thân dữ phiền năo tạp,
Khổ Tập trừ
dĩ vô phục dư tập, vị hiển Phật tánh bổn
thanh tịnh cố, phi vị vô thể.
(經)如是法身與煩惱雜,苦集除已無復餘習,為顯佛性本清淨故,非謂無體。
(Kinh:
Pháp Thân như thế xen tạp với phiền năo, do Khổ
và Tập đă trừ, chẳng c̣n tập khí nào sót lại,
v́ hiển lộ Phật tánh vốn sẵn thanh tịnh, chẳng
phải là nói “không có Thể”).
Tán rằng:
Phần kết hợp thí dụ với pháp dễ hiểu.
(Kinh)
Thí như hư không, yên, vân, trần, vụ chi sở chướng
tế, nhược trừ b́nh dĩ, thị không giới tịnh,
phi vị vô không.
(經)譬如虛空,煙雲塵霧之所障蔽,若除屏已,是空界淨,非謂無空。
(Kinh: Ví
như hư không bị khói, mây, bụi bặm, sương
mù che lấp, nếu đă trừ sạch, cơi hư không sẽ
thanh tịnh, chẳng phải là không có hư không).
Tán rằng:
Hư không tương tự sự ô nhiễm nơi Đạo
Tiền (trước khi tiến nhập đạo). Nếu
trừ bỏ [các thứ gây ô nhiễm], tức là Đạo
Trung. Trừ sạch [các trần cấu, tạp nhiễm] th́
là không giới (cơi hư không rỗng rang), sau khi đă tịnh
đạo, tương tự với thí dụ được
nói trong kinh Thắng Man.
(Kinh)
Như thị Pháp Thân, nhất thiết chúng khổ tất
giai tận cố, thuyết vi thanh tịnh, phi vị vô thể.
(經)如是法身,一切眾苦悉皆盡故,說為清淨,非謂無體。
(Kinh:
Pháp Thân như thế, hết thảy các khổ thảy đều
hết sạch th́ nói là thanh tịnh, chẳng phải là nói
không có Thể).
Tán rằng:
Kết hợp thí dụ với pháp, ư nghĩa dễ hiểu.
(Kinh)
Thí như hữu nhân, ư thụy mộng trung, kiến đại
hà thủy phiêu phiếm kỳ thân.
(經)譬如有人於睡夢中,見大河水漂泛其身。
(Kinh:
Ví như có người trong khi nằm mộng, thấy nước
sông lớn cuốn trôi thân ḿnh).
Tán rằng:
Trên đây là thí dụ về pháp như như. C̣n thuộc
trong phiền năo th́ gọi là Như Lai Tạng, thoát khỏi
phiền năo trói buộc th́ gọi là Pháp Thân. Đó là cũng chính là hiển lộ
tánh của Niết Bàn vốn sẵn thanh tịnh; khi đắc
quả, hiển lộ sự thanh tịnh th́ được
đặt tên theo điều được hiển lộ
ấy, hiển lộ do trí chứng.
Kế đó, biện định trí tánh cũng sẵn có từ
vô thỉ. Tại nhân vị (địa vị c̣n đang tu
nhân) th́ gọi là Bất Không Như Lai Tạng. Đạt
tới địa vị “đă hết sạch nhiễm”,
th́ bốn trí tâm phẩm thuộc đại Bồ Đề
sẽ được
sanh, nói “được sanh” là xét theo hiện tại, chẳng
phải là chủng
tử [của bốn trí tâm ấy] tới nay mới sanh, do
chủng tử [của các trí tâm ấy] vốn sẵn có. V́
thế, kinh văn trong phần sau nói: “Thị giác thanh tịnh,
phi vị vô giác” (Cái giác ấy thanh tịnh, chẳng phải
là không giác); tức là như kinh Thiện Giới nói: “Tánh
Chủng Tánh giả, tùng vô thỉ lai, pháp nhĩ
sở đắc lục xứ thù thắng” (Tánh Chủng
Tánh từ vô thỉ đến nay pháp vốn sẵn là như
vậy, đạt được sáu xứ thù thắng). Nói
đến “sáu xứ” ở đây
hàm nghĩa Ư Xứ trong lục xứ đều
duy tŕ chủng tử. Tánh Chủng Tánh từ vô thỉ tới
nay, pháp vốn sẵn như vậy, [cái quả vị đạt
được ấy] chính là cái sẵn có nơi tánh. V́ thế,
nương theo đó tu hành, sẽ đạt tới đại
quả. Kinh văn chia thành ba phần:
- Trước
là thí dụ.
- Kế đó
là kết hợp thí dụ với pháp.
- Cuối cùng
là kết luận.
Trong phần
thí dụ, có năm ư:
- Một,
thí dụ về người có thể tu hành.
- Hai, thí dụ
về đang ở trong vô minh.
- Ba, thí dụ
về chán sợ sanh tử.
- Bốn,
thí dụ về tu hành mong thoát khỏi.
- Năm, thí
dụ về đạt được cái quả, nhận
biết hư vọng.
Ở đây,
có ba ư: “Thí như hữu nhân” (ví như có người)
là thí dụ về người có thể tu hành. “Ư thụy
mộng trung” (đang nằm mộng): Thí dụ về đang
ở trong vô minh. Ở trong vô minh tối tăm như đêm
ngủ nằm mộng, đó là cái nhân của sanh tử. Duy
Thức Luận trích dẫn kinh rằng: “V́ thế, Khế
Kinh nói: - Các loài dị sanh luôn bị mù tối, ở trong đêm
dài vô minh, say sưa mê mệt quấn trói cái tâm, chưa từng
thức tỉnh”. “Kiến đại hà thủy phiêu phiếm
kỳ thân” (thấy nước sông lớn
cuốn trôi thân ḿnh) là thí dụ về sợ hăi sanh tử.
Thấy khổ quả như sông nhấn ch́m, hoặc ví như
bốn gịng cuốn trôi chúng sanh vào năm đường. “Kiến”
hàm nghĩa tri giác, tâm sanh sợ hăi.
(Kinh) Vận
thủ, động túc, triệt lưu nhi độ, đắc
chí bỉ ngạn.
(經)運手動足截流而渡,得至彼岸。
(Kinh:
Vung tay quơ chân, cắt ngang gịng nước
để vượt qua, tới được bờ
kia).
Tán rằng:
Thí dụ về tu hành mong thoát ra. “Vận thủ” (vung
tay) ví như tu diệu hạnh. “Động túc” (quơ
chân) ví như bỏ ba món chướng. Chẳng tiếp tục
sanh tử ví như “triệt lưu” (cắt ngang gịng
nước). Địa vị Kim Cang đă măn, nói là “nhi độ”
(vượt qua). Trong vô gián đạo, Bồ Đề thuộc
vào vị lai, hễ cái nhân đă viên sẽ có thể đạt
được, bèn nói là “đắc chí bỉ ngạn”
(đạt tới bờ kia).
(Kinh) Do
bỉ thân tâm bất giải thoái cố, tùng mộng giác dĩ,
bất kiến hữu thủy, bỉ thử ngạn biệt.
(經)由彼身心不懈退故,從夢覺已,不見有水、彼此岸別。
(Kinh:
Do thân tâm chẳng lười nhác, lui sụt, từ trong mộng
tỉnh dậy, chẳng thấy có nước và bờ này,
bờ kia khác biệt).
Tán rằng:
Thí dụ “đạt
được quả, biết là hư vọng”. “Do”
có nghĩa là duyên do, [hàm ư] do tu tập ba nghiệp siêng
năng trong ba đại kiếp. Nêu ra hai thứ thân và tâm
nhằm liên tưởng ngữ nghiệp. Siêng tu hành chẳng
lười nhác, bèn đạt tới thành Phật. “Cố”
là quyết định, [hàm nghĩa]: Do quyết định,
do tinh tấn chẳng lười nhác, thoái thất, bèn từ
trong mộng tỉnh giấc, [tức là] thuộc vào giải
thoát đạo, chẳng thấy nước sanh tử nơi
bờ này, chẳng thấy cái quả Niết Bàn bên bờ kia, do Như
Như và Như Như Trí đều là “chẳng
có hai tướng”, đều
là b́nh đẳng. Năm loại “bờ kia”: Một là
cảnh, hai là giáo, ba là lư, bốn là hành, năm là quả. Đối
với năm điều ấy, đều thấu đạt
cùng tận, sẽ gọi là “đáo bỉ ngạn” (đạt
đến bờ kia).
(Kinh)
Phi vị vô tâm! Sanh tử vọng tưởng kư diệt tận
dĩ, thị giác thanh tịnh, phi vị vô giác.
(經)非謂無心。生死妄想既滅盡已,是覺清淨,非謂無覺。
(Kinh:
Chẳng phải là vô tâm! Sanh tử vọng tưởng đă
diệt sạch, sẽ là giác thanh tịnh, chẳng phải
là không có giác).
Tán rằng:
Kết hợp thí dụ với pháp, nhưng chỉ kết
hợp theo đại ư, chẳng cần phải kết hợp
theo từng đoạn riêng biệt. Chẳng phải là nói
“vốn chẳng
có tâm vô lậu”, chỉ
do vọng tưởng và vô minh chướng nặng ngăn
trở, khiến cho chẳng sanh. Quyển thứ
năm của Thành Duy Thức dẫn kinh rằng: “Tâm chân
nghĩa sẽ sanh, thường có thể làm chướng ngại”.
Siêng tu Tam Học, vọng tưởng đă diệt, đạt
tới địa vị Diệu Giác là giác thanh tịnh, chẳng
có nghĩa là “tự tánh vốn sẵn chẳng giác”. Trong phần
trước đă nói: “Chẳng phải là vô tâm”. “Tâm”
có nghĩa là “tích tập”, là danh xưng
bao gồm nhân và quả. “Giác” có nghĩa là giác ngộ,
hiểu rơ. Chỉ dựa theo quả mà đặt tên, mỗi
đằng căn cứ trên một nghĩa.
(Kinh)
Như thị pháp giới nhất thiết vọng tưởng
bất phục sanh cố, thuyết vi thanh tịnh, phi thị
chư Phật vô kỳ thật thể.
(經)如是法界一切妄想不復生故,說為清淨,非是諸佛無其實體。
(Kinh:
Pháp giới như thế do hết thảy vọng tưởng
chẳng c̣n sanh nữa, nên nói là thanh tịnh, chẳng phải
là chư Phật chẳng có thật thể).
Tán rằng:
Kết lại. Pháp giới như thế, pháp giới bao gồm
sự và lư. V́ vậy,
luận Bảo Tánh giải thích câu “vô thỉ thời lai
giới” trong kinh A Tỳ Đạt Ma bèn dựa theo lư để
giải thích. [Hai bộ
luận] Nhiếp Đại Thừa và Thành Duy Thức
th́ nói bổn thức gọi là Vô Thỉ Giới. Luận Bảo
Tánh dựa theo mê và ngộ để nói, c̣n Nhiếp Đại
Thừa v.v… dựa theo lưu chuyển để nói. Mỗi
đằng dựa theo một nghĩa. V́ thế, “pháp giới” là nói bao gồm cả hai thứ. Pháp giới được
nói ở đây đă kết lại ư thứ tư, tức
chỉ có cái thức
thứ tám hữu
vi vô lậu. Nếu kết luận
chung bốn ư, sẽ bao gồm cả Sự lẫn Lư. Hết
thảy vọng tưởng hữu lậu chẳng sanh, bốn
trí đều khởi, th́ nói là “thanh tịnh”. Chẳng
phải là chư Phật vốn không có thật thể, cái
Thể của vô lậu đối ứng với hữu lậu
th́ đều gọi là Thật.
5.3.4.2.4. Kết lại nhân
quả trong phần trước để chỉ bảo cho
biết
5.3.4.2.4.1. Nhắc lại nhân
quả trong phần trước để khuyên [thính chúng] tín
giải
5.3.4.2.4.1.1. Nhắc lại
nhân quả trong phần trước
5.3.4.2.4.1.1.1. Nhắc lại
cái Thể
(Kinh) Phục
thứ, thiện
nam tử! Thị Pháp Thân giả, Hoặc chướng thanh
tịnh, năng hiện Ứng Thân; nghiệp chướng
thanh tịnh, năng hiện Hóa Thân; trí chướng thanh tịnh,
năng hiện Pháp Thân.
(經)復次善男子!是法身者,惑障清淨,能現應身;業障清淨,能現化身;智障清淨,能現法身。
(Kinh:
Lại này thiện nam tử! Pháp Thân ấy do Hoặc chướng
thanh tịnh, có thể hiện Ứng Thân. Do nghiệp
chướng thanh tịnh, có thể hiện Hóa Thân. Do trí chướng
thanh tịnh, có thể hiện Pháp Thân).
Tán rằng:
Đoạn lớn thứ tư là kết lại nhân quả
trên đây để dạy bảo cho [thính chúng] nhận biết.
Lại chia thành ba phần:
- Một, nhắc
lại nhân quả trong phần trước để khuyên
tín giải.
- Hai, từ
“thiện nam tử! Dĩ thị nghĩa cố” (thiện
nam tử! Do bởi nghĩa ấy) trở đi, lại nói
rộng hơn.
- Ba, từ
‘thị cố chư Phật” (do vậy, chư Phật)
trở đi, kết lại sự thù thắng nhiệm mầu.
Đoạn
này thuộc phần đầu. Trong phần đầu, lại
chia thành hai ư:
- Một,
nhắc lại nhân quả trong phần trước.
- Hai, khuyên
tín giải.
Trong ư thứ
nhất, lại có ba tiểu đoạn:
- Một, môn
nhắc lại nhằm nêu ra cái Thể, tức là do ĺa chướng
mà đạt được thân.
- Hai, môn nhắc
lại chỗ nương vào để dấy khởi của
các thân tướng.
- Ba, nhắc
lại do nương vào nhân mà đắc quả. Trong phần
“đắc quả”, trước là đắc quả,
sau là [quả đạt được] chẳng khác.
Đoạn
này là môn “nhắc lại
cái Thể”. Đầu
tiên, nêu ra lời
bảo ban: Thân do các pháp công đức thành tựu được
gọi chung là Pháp Thân. Kế đó, nói riêng do đoạn chướng
mà đạt được thân. Đoạn phiền năo chướng
v.v… sẽ trọn đủ Pháp Thân. Khiến cho cái tâm chẳng
thể quyết đoán th́ gọi là Hoặc. Thể của
Hoặc chính là Chướng. Cái quả do hai món căn bản
phiền năo và tùy phiền năo đạt được chính
là cái Thể của Phiền Năo Chướng. “Nghiệp”
là tạo tác, tức là ba nghiệp hữu lậu. Thể của
nghiệp là chướng. Trí là hai trí vô lậu, tức Căn
Bản Trí và Hậu Đắc Trí. Thể của Trí chẳng
phải là chướng, chẳng hạn như Sở Tri Chướng
ngăn chướng, khiến cho trí chẳng sanh. Do nó ngăn
chướng trí, nên gọi
là Trí Chướng. Chướng ấy được đặt
tên theo cái trí bị ngăn chướng. Nếu gọi là Sở
Tri Chướng, th́ sự hiểu biết chẳng phải
là chướng; do nó che lấp cảnh được biết,
ngăn ngại trí chẳng sanh được, tức là chướng
ngại gây nên bởi sự hiểu biết th́ gọi là Sở
Tri Chướng. Do Hoặc chướng đă tịnh trừ,
trí huệ có thể sanh ra Ứng Thân. Do nghiệp chướng
đă tịnh trừ, thần thông tự tại bèn sanh ra Hóa
Thân. Do Sở Tri Chướng đă tịnh trừ, lư bị
che lấp được hiển hiện, nên hiện ra Pháp
Thân.
5.3.4.2.4.1.1.2. Nhắc lại
chỗ nương vào để dấy khởi của các
thân
(Kinh) Thí
như y không xuất điện, y điện xuất quang.
Như thị y Pháp Thân cố, năng hiện Ứng Thân, y
Ứng Thân cố, năng hiện Hóa Thân.
(經)譬如依空出電,依電出光。如是依法身故能現應身,依應身故能現化身。
(Kinh:
Ví như nương vào hư không mà sanh ra chớp, nương
vào chớp mà xuất hiện ánh sáng. Do nương vào Pháp
Thân như thế, có thể hiện ra Ứng Thân. Do nương
vào Ứng Thân, có thể hiện ra Hóa Thân).
Tán rằng:
Đây là môn “nhắc
lại sự [lần lượt] nương vào để
sanh khởi các thân”. Trước
là thí dụ, sau là pháp thuyết. Thể của hư không là
trọn khắp, thường hằng, tánh của nó lại
vốn là tịnh, cho nên sánh ví [hư không] như Pháp Thân. Do
Ứng Thân và Hóa Thân chẳng thường hằng, nên sánh ví
như tia chớp và ánh sáng. Chuyện [lần lượt] nương
vào để sanh khởi thân dễ hiểu.
5.3.4.2.4.1.1.3. Nương vào
thân để đắc quả
(Kinh)
Do tánh tịnh cố, năng hiện Pháp Thân. Trí huệ thanh
tịnh, năng hiện
Ứng Thân. Tam-muội thanh tịnh, năng hiện Hóa Thân.
(經)由性淨故能現法身,智慧清淨能現應身,三昧清淨能現化身。
(Kinh:
Do tánh thanh tịnh nên có thể hiện Pháp Thân. Trí huệ thanh
tịnh có thể hiện Ứng Thân, tam-muội thanh tịnh
có thể hiện Hóa Thân).
Tán rằng:
[Đây
là] môn “nương vào nhân mà đạt được
quả”. Đây là đắc quả.
(Kinh) Thử
tam thanh tịnh thị pháp như như, bất dị như
như, nhất vị như như, giải thoát như
như, cứu cánh như như.
(經)此三清淨,是法如如、不異如如、一味如如、解脫如如、究竟如如。
(Kinh:
Ba món thanh tịnh ấy là pháp như như, như như chẳng
khác, như như một vị, như như giải thoát,
như như rốt ráo).
Tán rằng:
Nhắc lại trong phần đắc quả, tuy có con số
ba thân, nhưng chẳng có ba Thể. Trước là thâu nhiếp
Dụng vào Tánh, kế đó là kết lại “Dụng và
Tánh chẳng khác biệt”. Đoạn
này là ư thứ nhất. Sự thanh tịnh ấy chẳng ĺa
Như Như, cho
nên là pháp như như. Thể của Như chẳng tách biệt,
chẳng khác với Như Như. Do là cùng một
vô lậu, cho nên là nhất vị Như Như. Do ĺa khỏi
trói buộc, nên là giải thoát như như. Do chứng Thật
Tế viên măn, nên là cứu cánh Như Như.
(Kinh)
Thị cố, chư Phật Thể vô hữu dị.
(經)是故諸佛體無有異。
(Kinh:
Do vậy, Thể của chư Phật chẳng khác).
Tán rằng:
Kết lại [Thể của chư Phật] “chẳng
khác”. Do năm thứ Như Như (pháp như như, bất
dị như như, nhất vị như như, giải
thoát như như, và cứu cánh như như) trên đây,
Thể của chư Phật chẳng khác, ư nói đều
cùng là Như. Hễ tu, sẽ đều đạt được;
v́ thế nói “Thể của chư Phật chẳng khác!”
5.3.4.2.4.1.2. Khuyên tín giải
(Kinh) Thiện
nam tử! Nhược hữu thiện nam tử, thiện
nữ nhân thuyết ư “Như Lai
thị ngă đại sư”. Nhược
tác như thị quyết định tín giả, thử nhân
tức ưng thâm tâm giải liễu Như Lai chi thân vô hữu
biệt dị.
(經)善男子!若有善男子善女人說於如來是我大師、若作如是決定信者,此人即應深心解了如來之身無有別異。
(Kinh:
Thiện nam tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ
nhân nói “Như Lai là đại sư của ta”, nếu tin tưởng
quyết định như thế, thâm tâm của người
ấy đă hiểu rơ các thân của Như Lai chẳng
có khác biệt).
Tán rằng:
Khuyên [thính chúng] tín giải. Dụng ư của việc khiến
cho tín giải là tạo phương tiện tu tập. Nói “thiện
nam tử” là [đức Phật] gọi Hư Không Tạng
Bồ Tát. Từ “nhược hữu” (nếu có) trở
đi, [hàm ư] hết thảy nam nữ chỉ cần có thể
nói “Phật là thầy của ta”, quyết định
tin tưởng, người ấy liền có liễu giải
sâu xa “Như Lai
chẳng khác”. Hoặc
nói “Như Lai là đại sư của ta”, có thể
tin tưởng quyết định, hăy nên đúng như lời
đă nói mà thâm tâm hiểu rơ, hoặc là khuyên bậc Địa
Tiền Bồ Tát hăy nên tin tưởng quyết định
“Như Lai chẳng khác”, bậc Địa Thượng Bồ
Tát hăy nên thâm tâm hiểu rơ “Như Lai chẳng khác!”
5.3.4.2.4.2. Nói rộng hơn
5.3.4.2.4.2.1. Nhân quả chẳng
khác
5.3.4.2.4.2.1.1. Khởi hạnh
thù thắng nơi cảnh
(Kinh) Thiện
nam tử! Dĩ thị nghĩa cố, ư chư cảnh
giới, bất chánh tư duy tất giai trừ đoạn,
tức tri bỉ pháp vô hữu nhị tướng, diệc
vô phân biệt thánh sở tu hành.
(經)善男子!以是義故,於諸境界不正思惟悉皆除斷,即知彼法無有二相,亦無分別聖所修行。
(Kinh:
Thiện nam tử! Do nghĩa này, các tư duy bất chánh đối
với các cảnh giới đều bị đoạn trừ,
liền biết pháp ấy chẳng có hai tướng, cũng
chẳng phân biệt đối với sự tu hành của
bậc thánh).
Tán rằng:
Kế đó, nhắc lại, nói cặn kẽ hơn. Có hai
phần:
- Một, nói
rộng nhân quả trên đây chẳng khác.
- Hai, từ
“như thị kiến giả” (người thấy như
vậy) trở đi, nói cặn kẽ hơn về sự
tín giải trên đây.
Phần thứ
nhất lại chia thành năm đoạn:
- Một,
khởi hạnh thù thắng nơi cảnh.
- Hai, Như
Như đối với nó chẳng thể đoạn chướng.
- Ba, từ
“Như Như nhất thiết” trở đi, đạt
được cái nhân viên măn.
- Bốn, từ
“Như Như pháp giới” trở đi, đạt được
quả viên măn.
- Năm, từ
“nhất thiết chư chướng” (hết thảy
các chướng) trở đi, kết lại ư nghĩa “chẳng
khác”.
Đoạn
này chính là phần thứ nhất. “Dĩ thị nghĩa
cố” (do bởi nghĩa ấy) là lời nêu bày. “Ư
chư cảnh giới” (trong các cảnh giới) là cảnh
được biết. Do tư duy bất chánh đối
với cảnh giới ấy, cho nên thấy tướng
khác lạ, chẳng thể tu hành. Có thể tư duy chánh đáng,
sẽ biết “chẳng có hai cảnh”, chẳng có tà phân biệt,
liền có thể khởi tu trí “không hai tướng”. Đó
là sự tu hành của bậc thánh.
5.3.4.2.4.2.1.2. Có thể đoạn
chướng
(Kinh)
Như như ư bỉ vô hữu nhị tướng chánh
tu hành cố, như thị như thị nhất thiết
chư chướng tất giai trừ diệt.
(經)如如於彼無有二相正修行故,如是如是一切諸障悉皆除滅。
(Kinh:
Như Như đối với “chẳng có hai tướng”
ấy mà có thể tu hành chánh đáng, th́ hết thảy các
chướng như thế đó, như thế ấy thảy
đều trừ diệt).
Tán rằng:
Có thể đoạn chướng, có thể đối với
nó mà thấy ‘chẳng có hai tướng’, cho nên nói là “Như
Như ư bỉ” (Như Như đối với nó). Do
chướng được đoạn quá nhiều, nên lại
nói trùng lặp “như thị, như thị”. Do chúng liên
hoàn sanh khởi, cho nên nhắc lại điều trước
đó.
5.3.4.2.4.2.1.3. Đạt được
cái nhân viên măn
(Kinh)
Như như nhất thiết chướng diệt, như
thị, như thị, pháp như như, như như trí đắc
tối thanh tịnh.
(經)如如一切障滅,如是如是,法如如如如智得最清淨。
(Kinh:
Như Như hết thảy chướng diệt, như
thế đó, như thế đó, pháp như như và như
như trí đạt được thanh tịnh nhất).
Tán rằng:
Đạt được cái nhân viên măn trong địa vị
Kim Cang Định Vô Gián Đạo. Do nhắc lại mười
chướng diệt, cho nên nói là “như như nhất
thiết chướng
diệt” (như như hết thảy chướng diệt).
Như Như đă chứng đắc và trí đạt
được trong các địa vị thuộc Thập Địa khác biệt,
nên lại nói là “như thị, như thị”.
5.3.4.2.4.2.1.4. Đạt được cái quả
viên măn
(Kinh)
Như như pháp giới chánh trí thanh tịnh, như thị,
như thị. Nhất thiết tự tại cụ túc nhiếp
thọ, giai đắc thành tựu.
(經)如如法界正智清淨,如是如是,一切自在具足攝受皆得成就。
(Kinh:
Như như pháp giới chánh trí thanh tịnh, như thế
đó, như thế đó. Hết thảy tự tại nhiếp
thọ trọn đủ đều được thành tựu).
Tán rằng:
Đạt được cái quả viên măn, thuộc vào Giải
Thoát Đạo. “Hết thảy tự tại” chính là
tam thân, hết thảy công đức chẳng ĺa tam thân. V́
thế nói “cụ túc nhiếp thọ giai đắc thành
tựu” (nhiếp thọ trọn đủ đều được
thành tựu).
5.3.4.2.4.2.1.5. Kết lại
“chẳng khác”
(Kinh)
Nhất thiết chư chướng tất giai trừ diệt,
nhất thiết chư chướng đắc thanh tịnh
cố, thị danh Chân Như chánh trí chân thật chi tướng.
(經)一切諸障悉皆除滅,一切諸障得清淨故,是名真如正智真實之相。
(Kinh:
Hết thảy các chướng thảy đều trừ
diệt, do hết thảy các chướng được thanh
tịnh; đấy gọi là tướng chân thật của
chánh trí Chân Như).
Tán rằng:
Kết lại [ư nghĩa
ba thân] “chẳng khác”. Do hết thảy các chướng
diệt, đạt được “hết thảy
các chướng đă tịnh trừ”, cho nên chứng
Như Như thanh tịnh. Tức là sự thanh tịnh ấy
được gọi là tướng chân thật của chánh
trí Chân Như. Tướng chân thật tức là tướng
bất nhị.
5.3.4.2.4.3. Nói cặn kẽ
về sự tín giải trên đây
5.3.4.2.4.3.1. Khiến cho chứng
biết Như
(Kinh) Như
thị kiến giả, thị danh thánh kiến. Thị tắc
danh vi chân thật kiến Phật, hà dĩ cố? Như thật
đắc kiến pháp Chân Như cố.
(經)如是見者,是名聖見,是則名為真實見佛。何以故?如實得見法真如故。
(Kinh:
Thấy như thế được gọi là thánh kiến.
Đấy được gọi là “chân thật
thấy Phật”. V́ sao vậy? Do được
như thật thấy Chân Như nơi các pháp).
Tán rằng:
Nói cặn kẽ sự tín giải trong phần trước.
Kinh văn được chia thành ba phần:
- Một,
khiến cho [thính
chúng] chứng biết Như.
- Hai, từ
“thị cố, chư Phật” (do vậy, chư Phật)
trở đi, nói rơ “giống với chư Phật”.
- Ba, từ
“nhiên chư Như Lai” (nhưng các Như Lai) trở đi,
kết lại sự thấy chân thật.
Đoạn
này thuộc phần thứ nhất. [Trong đoạn này], ư
thứ nhất là khiến cho [thính chúng] chứng biết. Kế
đó là gạn hỏi nguyên do, cuối cùng là giải thích. “Thánh”
tức là “chánh”. “Kiến” là thấu hiểu. Người
có thể biết rơ pháp được chứng th́ chính là “chánh
giải”. Hoặc do phàm phu có thể chứng tín giải
giống như sự chứng biết của bậc thánh,
cho nên thật sự thấy Phật. Phần gạn hỏi
và giải thích dễ hiểu!
5.3.4.2.4.3.2. Giống như
chư Phật
(Kinh) Thị
cố, chư Phật tất năng phổ kiến nhất
thiết Như Lai.
(經)是故諸佛悉能普見一切如來。
(Kinh: V́
thế, chư Phật đều có thể thấy trọn
khắp hết thảy Như Lai).
Tán rằng:
Nói rơ “giống như chư Phật”. Kinh văn chia thành
ba phần:
- Một, Phật
có thể biết trọn khắp.
- Hai, Nhị
Thừa chẳng thể hiểu rơ.
- Ba, phàm phu
chẳng lường được.
Đoạn
này chính là phần thứ nhất. Do thấy lư Như Như
trọn vẹn bất nhị, cho nên thấy hết thảy
chư Phật Như Lai.
(Kinh) Hà
dĩ cố? Thanh Văn, Độc Giác dĩ xuất tam giới,
cầu chân thật cảnh, bất năng tri kiến.
(經)何以故?聲聞獨覺已出三界,求真實境不能知見。
(Kinh: V́ sao vậy? Thanh
Văn, Độc Giác đă vượt khỏi tam giới,
cầu cảnh chân thật, chẳng
thể thấy biết).
Tán rằng:
Nhị Thừa chẳng thể hiểu rơ được. [Đoạn
này gồm hai ư]: Trước là gạn hỏi, sau là giải
thích. V́ lẽ nào vậy?
Chỉ có Phật biết trọn khắp! Bậc
thánh nhân định tánh Nhị Thừa tuy đă vượt
thoát tam giới, nhưng do chẳng có Chủng Trí, dẫu
cầu cảnh chân thật, chẳng thể dùng Căn Bản
Trí để biết, chẳng thể dùng Hậu Đắc
Trí để thấy, hoặc chẳng thể biết bằng
hiện lượng[10],
chẳng thể thấy bằng tỷ lượng.
(Kinh) Như
thị thánh nhân sở bất tri kiến, nhất thiết
phàm phu giai sanh nghi hoặc, điên đảo phân biệt, bất
năng đắc độ.
(經)如是聖人所不知見,一切凡夫皆生疑惑,顛倒分別不能得度。
(Kinh:
Đối với chỗ bậc thánh nhân chẳng thấy
biết như thế, hết thảy phàm phu đều
sanh nghi hoặc, phân biệt điên đảo, chẳng thể
đắc độ).
Tán rằng:
Phàm phu chẳng thể lường được. [Đoạn
này cũng gồm ba phần]: Trước là pháp thuyết,
kế đó là thí dụ, sau cùng là kết hợp thí dụ
với pháp. Phần này là Pháp Thuyết. Vô tánh ngu phu chẳng
thể lường được, hoặc lại c̣n nghi
là chẳng có, hoặc điên đảo chấp trước
so đo, cho đó là Ngă!
(Kinh)
Như thố phù hải tất bất năng quá. Sở dĩ
giả hà? Lực vi liệt cố.
(經)如兔浮海必不能過。所以者何?力微劣故。
(Kinh:
Như thỏ chẳng thể vượt qua biển cả,
v́ lẽ nào vậy? Do sức yếu kém).
Tán rằng:
Đây là thí dụ, [cũng gồm ba phần]: Đầu
tiên là nêu ra thí dụ, kế đó gạn hỏi, sau cùng là
giải thích. Do [phàm phu] chẳng có tánh Đại Thừa, chỉ
có trí lực hữu lậu, ít ỏi, kém cỏi, cho nên chẳng
thể vượt qua được. Kinh Giải Thâm Mật
dạy: “Ngă ư phàm ngu bất khai diễn, khủng bỉ
phân biệt, chấp vi Ngă” (ta chẳng
khai diễn cho kẻ phàm ngu, do sợ họ phân biệt, chấp
là Ngă). Các vị như Hộ Pháp Bồ Tát giảng rằng:
“Phàm” là nói đến kẻ vô tánh (không có chủng tánh
Đại Thừa), “ngu” là nói kẻ hướng tới
sự tịch diệt. Lại nữa, điều này có thể
là do xét theo người thuộc địa vị phàm phu và
Nhị Thừa căn cơ chưa chín muồi nên chẳng
thể thấu hiểu. Hễ căn cơ chín muồi, sẽ
có thể biết. Hoặc như kinh Pháp Hoa nói: “Tam thừa
bất tri” (tam thừa đều chẳng biết), là do
xét theo khía cạnh họ chưa biết viên măn. Chỉ có Phật
biết viên măn, cho nên nói là họ (phàm phu và Nhị Thừa)
“chẳng biết”. Tóm lại, nếu quư vị có thể
nương theo lời nói mà hiểu th́ rất là hy hữu.
(Kinh) Phàm
phu chi nhân diệc phục như thị, bất năng thông
đạt pháp như như cố.
(經)凡夫之人亦復如是,不能通達法如如故。
(Kinh:
Kẻ phàm phu cũng giống như thế, do chẳng thể
thông đạt pháp như như).
Tán rằng:
[Đây là phần] kết hợp thí dụ với pháp. Do không
có Căn Bản Trí, nên chẳng thể thông hiểu; do chẳng
có Hậu Đắc Trí, nên chẳng thể liễu đạt.
5.3.4.2.4.3.3. Kết lại
về sự thấy Thật
(Kinh)
Nhiên chư Như Lai vô phân biệt tâm, ư nhất thiết
pháp, đắc đại tự tại, cụ túc thanh tịnh
thâm trí huệ cố, thị tự cảnh giới bất
cộng tha cố.
(經)然諸如來無分別心,於一切法得大自在,具足清淨深智慧故,是自境界不共他故。
(Kinh:
Nhưng các Như Lai chẳng có tâm phân biệt, do đối
với hết thảy các pháp, tâm được đại
tự tại, trọn đủ trí huệ thanh tịnh sâu
xa, đó là cảnh giới của chính ḿnh chẳng cùng
chung với người khác).
Tán rằng:
Kết lại chuyện thấy lẽ Thật. Do Phật
vô phân biệt, chẳng thấy hai tướng, do chứng
pháp như như, do liễu đạt tướng Thật
Không của các pháp, được đại tự tại
trong hết thảy các pháp, do đạt được trí
như như, trọn đủ trí huệ sâu xa. Do đấy
chỉ là cảnh giới của Phật, chẳng cùng chung
với người khác. Kinh Kim Cang Bát Nhă dạy: “Như Lai
thuyết Bát Nhă Ba La Mật Đa, tức phi Bát Nhă Ba La Mật
Đa, thị danh Bát Nhă Ba La Mật Đa” (Như Lai nói
Bát Nhă Ba La Mật Đa tức chẳng phải Bát Nhă Ba La
Mật Đa, th́ gọi là Bát Nhă Ba La Mật Đa). Thiên Thân
Bồ Tát giải thích như sau: “Nói tới Ba La Mật, [ngụ
ư] chỉ riêng Phật đạt tới bờ kia. ‘Chẳng
phải Ba La Mật’ tức là chẳng phải là bờ kia
của người nào khác. ‘Gọi là Ba La Mật’ nhằm
kết lại bờ kia của Phật”. Ở đây, cũng
giống như thế.
(Kinh)
Thị cố, chư Phật Như Lai ư vô lượng
vô biên A-tăng-kỳ kiếp, bất tích thân mạng nan hành khổ hạnh, phương
đắc thử thân vô thượng, vô tỷ, bất khả
tư nghị, quá ngôn thuyết cảnh. Thị diệu tịch
tĩnh, ly chư bố úy.
(經)是故諸佛如來於無量無邊阿僧祇劫不惜身命難行苦行,方得此身最上無比,不可思議過言說境,是妙寂靜離諸怖畏。
(Kinh:
V́ thế, chư Phật Như Lai trong vô lượng vô biên
A-tăng-kỳ kiếp chẳng tiếc thân mạng, hành hạnh
khó, hạnh khổ, mới đạt được thân vô
thượng khôn sánh này, chẳng thể nghĩ bàn, vượt
ngoài cảnh ngôn thuyết, là sự tịch tĩnh mầu
nhiệm, ĺa các sợ hăi).
Tán rằng:
Kết lại sự thù thắng mầu nhiệm. Từ “ư
vô lượng” (trong vô lượng) cho tới “khổ
hạnh” là nói về thực hiện cái nhân. “Bất tích
thân mạng” (Chẳng tiếc thân mạng) là
do bốn nhân duyên:
- Một, v́
cầu pháp như Tuyết Sơn đồng tử[11].
- Hai, v́ báo ân,
như vương tử Pháp Hộ[12]
v.v…
- Ba, v́ cứu
kẻ nghèo như Kim Sắc Sư Tử[13]
v.v…
- Bốn, v́
cứu mạng như vương tử Tát Đỏa[14]
v.v…
“Phương
đắc thử thân” (mới đạt được
thân này): Hiển lộ cái quả đạt được.
“Tối thượng vô tỷ” (Tối thượng
khôn sánh): Tán thán cái quả thù thắng. Do rốt ráo, nên là Vô
Thượng. Do chẳng sánh bằng, nên là Vô Tỷ. Vượt
khỏi chấp trước t́nh kiến, nên “bất
tư nghị”. Vượt khỏi lời lẽ diễn
tả, nên “quá ngôn thuyết cảnh” (vượt khỏi
cảnh ngôn thuyết). Do là đại Niết Bàn, nên là “diệu
tịch tĩnh”. Do dứt sanh tử, nên ĺa khỏi năm
thứ sợ hăi, tức sợ chẳng sống được,
sợ chết, sợ ác đạo, sợ tiếng xấu,
và sợ đại
chúng.
5.3.4.3. Kết luận và khuyên
tu hành
5.3.4.3.1. Kết lại sự
tín giải trong phần trước để thính chúng nương
theo đó tu hành
5.3.4.3.1.1. Nêu ra lợi ích
do tín giải
(Kinh)
Thiện nam tử! Như thị tri kiến pháp Chân Như giả,
vô sanh, lăo, tử, thọ mạng vô hạn, vô hữu thụy
miên, diệc vô cơ khát, tâm thường tại Định,
vô hữu tán động.
(經)善男子!如是知見法真如者,無生老死壽命無限,無有睡眠亦無饑渴,心常在定無有散動。
(Kinh:
Thiện nam tử! Thấy biết pháp Chân Như như thế
chẳng có sanh, già, chết, thọ mạng vô hạn, chẳng
có ngủ nghê, cũng chẳng đói, khát, tâm thường ở trong Định,
chẳng có tán loạn, xáo động).
Tán rằng:
Kế đến là đoạn lớn thứ ba, “kết
luận và khuyên tu hành”. Kinh văn được chia thành
ba phần:
- Một, kết
lại sự tín giải trong phần trước để
[thính chúng] nương theo đó mà mà tu hành.
- Hai, từ
“nhiên chư Như Lai” (nhưng các đức Như
Lai) trở đi, kết lại phần đắc quả
trên đây để [thính chúng] cầu chứng.
- Ba, từ
“nhược thiện nam tử” (nếu thiện nam tử)
trở đi, tổng kết hai nghĩa trên đây.
Phần thứ
nhất lại chia thành ba ư:
- Một, nêu
ra lợi ích do tín giải.
- Hai, không
tin sẽ bị tổn hại.
- Ba, nêu ra điều
lợi, khuyên hăy tu hành.
Đoạn
này thuộc ư thứ nhất. Chỉ cần một niệm
như thế, thấy biết pháp Chân Như, sẽ đạt
được Bồ Đề, vĩnh viễn chẳng có
sanh, lăo, tử v.v… Do là viễn nhân, ắt sẽ đạt
được [các quả báo thù thắng ấy]. V́ thế,
phẩm Dược Vương trong kinh Pháp Hoa đă dạy:
“Văn thử kinh giả, bất lăo, bất tử, bất
cửu thủ thảo, tọa ư đạo tràng”
(nghe kinh này, sẽ chẳng già, chẳng chết, chẳng lâu
sau sẽ kết cỏ [làm ṭa], ngồi nơi đạo
tràng): [Đối
với đoạn này, có hai cách hiểu]:
1) Nếu hiểu các
phẩm đức [được nhắc tới ở đây]
là của Như Lai, th́ do trong phần trước đă nói,
phần sau nhắc lại [như thế th́ kinh văn trở
thành trùng lặp]. V́ thế, những điều được
nói ở đây chính là cái quả mà người tín giải
sẽ đạt được. 2) Hoặc cũng
có thể hiểu là nhắc lại đôi ba lượt phẩm
đức của Như Lai để [người nghe]
sanh tín giải. Do đạt được thân kim cang, cho nên
[Phật] chẳng có sanh, lăo, tử. Do đă ĺa Ngũ Cái, cho nên chẳng
có ngủ nghê. Do phá ma quân, nên chẳng có đói khát. Những
điều khác dễ hiểu. Tuy nhiên, cách giải thích trước
hay hơn!
5.3.4.3.1.2. Không tin sẽ bị
tổn hại
(Kinh)
Nhược ư Như Lai khởi tránh luận tâm, thị
tắc bất năng kiến ư Như Lai.
(經)若於如來起諍論心,是則不能見於如來。
(Kinh:
Nếu khởi tâm tranh căi, biện luận đối với
Như Lai, th́ sẽ chẳng thể thấy Như Lai).
Tán rằng:
Chẳng tin th́ sẽ bị
tổn hại. Dấy lên tâm tranh căi, biện bác, sẽ chẳng
thể tín giải, tức là trong vị lai chẳng thể
thấy và chứng tam thân Như Lai, mà cũng chẳng thể
y giáo ḥng được thấy Như Lai.
5.3.4.3.1.3. Nêu ra điều
lợi để khuyên hành
(Kinh)
Chư Phật sở thuyết giai năng lợi ích.
(經)諸佛所說皆能利益。
(Kinh:
Lời chư Phật nói đều có thể tạo lợi
ích).
Tán rằng:
Nêu ra điều lợi để khuyên hành tŕ. Trước
là nêu ra, sau là giải thích. Đoạn này là nêu ra.
(Kinh) Hữu
thính văn giả, vô bất giải thoát, chư ác cầm
thú, ác nhân, ác quỷ bất tương phùng trị, do văn
pháp cố, quả báo vô tận.
(經)有聽聞者無不解脫,諸惡禽獸、惡人惡鬼不相逢值,由聞法故果報無盡。
(Kinh:
Có ai được nghe, không ai chẳng giải thoát, chẳng
gặp gỡ các cầm thú ác, kẻ ác, ác quỷ. Do nghe pháp,
quả báo vô tận).
Tán rằng:
Giải thích về
chuyện “đạt được lợi
ích”. Trước
là đắc Niết Bàn, kế đó là ĺa tổn hại,
sau là quả báo vô tận. Bát Nhă Luận viết: “Là liễu
nhân cho Pháp Thân, mà cũng là sanh nhân cho các thân khác”. Do
nghe kinh nên được giải thoát, đó là liễu nhân.
“Quả báo vô tận” tức là đắc Bồ Đề;
đó là sanh nhân. Luận Biện Trung Biên nói: “Hành pháp hạnh
này, đạt được khối phước vô lượng,
do thù thắng nên vô tận, do lợi lạc người
khác chẳng nghỉ ngơi!” Nghe pháp Đại
Thừa, quả báo thù thắng, cho nên siêu việt Nhị Thừa. Đại bi
lợi tha, do chẳng nghỉ ngơi nên vô tận. Do vậy,
chẳng gặp gỡ các điều ác.
5.3.4.3.2. Kết lại sự
đắc quả trong phần trước để thính
chúng cầu chứng
5.3.4.3.2.1. Kết lại
những điều đạt được để người nghe
sanh tâm hoan hỷ
(Kinh)
Nhiên chư Như Lai vô vô kư sự, nhất thiết cảnh
giới vô dục tri tâm. (經)然諸如來無無記事,一切境界無欲知心。
(Kinh:
Nhưng các đức Như Lai không có chuyện nào chẳng
nhớ, đối với hết thảy các cảnh giới
không có tâm muốn biết).
Tán rằng:
Kết lại phần đắc quả trong phần trước
để [thính chúng] cầu chứng. Trong đây, chia thành
hai phần:
- Một, kết
lại những điều đạt được với
dụng ư khiến cho người nghe sanh ḷng hoan hỷ.
- Hai, nói về
lợi ích do được nghe [giáo nghĩa tam thân] để
khuyên người khác tu học.
Trong phần
kết lại cái quả
đă đạt được, có vô
lượng loại, chỉ kết lại phần đạt được
mười tám pháp bất cộng, và công đức
tự lợi, lợi tha, đại từ bi, ḥng liên tưởng các điều khác. Trước hết, kết lại mười
tám pháp bất cộng; sau đó, kết lại ḷng từ bi.
Trong phần thứ nhất, có năm ư: Một, không có chuyện
ǵ chẳng ghi nhớ, không ǵ chẳng nhớ rơ, chẳng có
ư niệm quên mất. Trong bốn oai nghi kế đó, không ǵ
chẳng thuộc về trí, tức là trí làm đầu. Hai là
đối với hết thảy cảnh giới, không có tâm
muốn biết, tức là dục vô giảm; hoặc đối
với hết thảy các cảnh đều tùy ư biết,
chẳng nhờ vào t́m cầu rồi mới có thể liễu
giải!
(Kinh)
Sanh tử, Niết Bàn vô hữu dị tưởng, Như
Lai sở kư vô bất quyết định.
(經)生死涅槃無有異想,如來所記無不決定。
(Kinh:
Đối với sanh tử và Niết Bàn chẳng nghĩ
là khác biệt, những điều Như Lai thọ kư không
ǵ chẳng quyết định).
Tán rằng:
Điều thứ ba là không có các thứ tưởng. Điều
thứ tư là đối với ba đời, trí không bị
tŕ trệ, trở ngại, pháp đă nói ra không ǵ chẳng quyết
định, và do hết thảy các thứ diệu trí có thể
biết các pháp môn như Uẩn v.v… mà lời nói quyết
định, hoặc là Tứ Vô Úy, hoặc lại đối
với ngữ nghiệp th́ trí dẫn đường. V́ thế,
lời nói [của Như Lai] quyết định.
(Kinh) Chư Phật Như Lai tứ oai
nghi trung vô phi trí nhiếp.
(經)諸佛如來四威儀中無非智攝。
(Kinh:
Trong bốn
oai nghi của chư Phật Như Lai, không ǵ chẳng được nhiếp thọ bởi
trí).
Tán rằng:
Điều thứ năm là trí hướng dẫn thân nghiệp,
không ǵ chẳng thuộc về trí.
(Kinh)
Nhất thiết chư pháp vô hữu bất vi từ bi sở
nhiếp, vô hữu bất vị lợi ích an lạc
chư chúng sanh giả.
(經)一切諸法無有不為慈悲所攝,無有不為利益安樂諸眾生者。
(Kinh:
Hết thảy các pháp không ǵ chẳng thuộc về từ
bi, chẳng có ǵ không v́ lợi ích, an lạc các chúng sanh).
Tán rằng:
Kết lại công đức đại từ đại
bi lợi tha đă đạt được như đă nói
trong phần trước. Lợi ích dẹp khổ, an lạc
ban vui. Do đại bi, nên có lợi ích dẹp khổ. Do đại
từ, nên ban cho an lạc. Lại nữa, bổn nguyện
của Phật chỉ muốn lợi tha, tu đại từ
bi, cầu vô thượng quả. V́ thế, việc làm không
ǵ chẳng thuộc về từ bi. Lại nữa, nêu ra pháp
bất cộng th́ tự lợi nhiều hơn; nêu ra từ
bi th́ lợi tha nhiều hơn. V́ thế, đại lược
kết lại hai môn.
5.3.4.3.2.2. Nêu ra lợi ích
do được nghe kinh để khuyên người tu học
(Kinh) Thiện nam tử! Nhược hữu
thiện nam tử, thiện nữ nhân ư thử Kim Quang Minh kinh,
thính văn, tín giải.
(經)善男子!若有善男子善女人於此金光明經聽聞信解。
(Kinh:
Thiện nam tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ
nhân đối với kinh Kim Quang Minh này
mà nghe nhận, tin hiểu). .
Tán rằng:
Đây là nói đến lợi ích do được nghe để
khuyên mọi người tu học. Kinh văn chia thành bốn
phần:
- Một là
nêu ra lợi ích do được nghe.
- Hai là gạn
hỏi.
- Ba là giải thích