Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ
Quyển thứ ba
Đời Đường Tam Tạng pháp sư
Nghĩa Tịnh vâng chiếu dịch kinh
Dịch kinh sa-môn Huệ Chiểu soạn sớ
金光明最勝王經疏
卷第三
唐三藏法師義淨奉制譯
翻經沙門慧沼撰
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Đức Phong và Huệ Trang
Phần 6
5.4. Phẩm thứ tư: Mộng thấy sám hối
(Mộng kiến sám hối phẩm đệ tứ, 夢見懺悔品第四)
Phẩm Mộng Thấy Sám Hối
gồm ba môn phân biệt:
- Một, do ư nghĩa nào mà có
phẩm này?
- Hai, giải thích danh xưng
[của phẩm này].
- Ba, giải thích các vấn nạn.
5.4.1. Do ư nghĩa nào mà có phẩm này?
Phần biện định “do
ư nghĩa nào mà có phẩm này” th́ có bốn ư:
1) Hai phẩm trước
(Như Lai Thọ Lượng và Tam Thân) nói về cái quả
đạt được. Năm phẩm kế đó nói về
pháp để tu hành, chia thành bốn phần:
- Hai phẩm đầu
nói về hạnh của bậc Địa Tiền.
- Phẩm kế tiếp
nói về hạnh của Thập Địa.
- Phẩm kế đó
giải thích mối nghi, ḥng khiến cho [người nghe]
phát khởi nguyện hành.
- Phẩm kế
đó nói về hạnh hộ pháp, dùng đà-la-ni để
thủ hộ hành pháp này, khiến cho [hành nhân] chẳng thoái
chuyển.
Trong phần Địa Tiền
hạnh, phẩm thứ nhất là hạnh phương tiện,
phẩm kế đó là chánh khởi hạnh. Mong cầu cái
quả thù thắng, ắt trước hết phải tu
hành. Tu hành gồm hai điều: Một là đoạn ác,
hai là tu thiện. Nếu ác chưa trừ, sẽ khó tu diệu
hạnh. V́ thế, kinh Lục Môn Đà La Ni[1]
dạy: “Ngă chi sở hữu chúng ma chi nghiệp, nhược
vị tiên hối, chung bất phát tâm duyên Vô Thượng
Giác” (nếu ta trước hết chẳng sám hối tất
cả các ma nghiệp của chính ḿnh, trọn chẳng phát
tâm duyên theo Vô Thượng Giác). Do đó, trước hết
cần phải sám hối để diệt trừ tất
cả các tội. Lại như trong Tứ Chánh
Cần, hai điều đầu là đoạn ác, hai
điều sau là tu thiện. V́ thế, trước khi tu diệu
hạnh, bèn dạy sám hối trước. Nhưng cái tâm
sám hối khó thể ngay lập tức phát khởi, cho nên
nhờ vào giấc mộng thấy cái trống bằng vàng
thuyết pháp để cảnh tỉnh. V́ thế, kinh
văn trong phần sau có nói:
“Thử chi thắng nghiệp, nhữ quá khứ cúng Phật,
cập do chư Phật oai lực gia hộ” (nghiệp
thù thắng này là do trong quá khứ ông đă cúng Phật, và
do oai lực của chư Phật gia hộ). V́ muốn diệt
nghiệp chướng do sai trái trước kia tạo
thành, cho nên có phẩm này sanh khởi. Tuy phẩm này và phẩm
Diệt Chướng cũng có sanh khởi điều thiện,
tức là nói đến chuyện phát nguyện v.v… Nhưng
xét theo điều chánh yếu được nói trong phẩm
này th́ gọi là Ly Ác Hạnh. Mỗi phẩm lại do dựa
theo điều thứ nhất (đoạn ác) mà gọi là
Sám Hối và Diệt Nghiệp Chướng, không ǵ chẳng
phải là tu thiện!
2) Hạnh
thù thắng để tu tập không ǵ ngoài Tam Học, tức
là Giới, Định, Huệ. Do Giới có thể làm cái nhân
để ĺa ác đạo. Do Định có thể làm cái
nhân thoát khỏi Dục Giới. Do Huệ có thể làm cái
nhân thoát khỏi tam giới. Lại nữa, do Giới có thể
khiến cho Định được trọn đủ,
Định khiến cho Huệ trọn đủ. Do Giới
làm gốc mới đạt được Định và
Huệ vậy! Kinh Di Giáo[2]
dạy: “Đương tri thử giới, chư thiện
công đức an ổn trụ xứ, năng sanh chư Định,
Thiền, cập diệt khổ trí huệ”
(Hăy nên biết giới này là chỗ trụ an ổn của
các công đức, có thể sanh ra các môn Định, Thiền, và trí huệ diệt
khổ). Sám hối thuộc về Giới Học, là khởi
đầu của tu học. V́ thế, trước hết
có phẩm này sanh khởi.
3) Phật
có ba thân, tức là Pháp, Ứng, Hóa, theo thứ tự chính là
Đoạn Đức, Ân Đức,
và Trí Đức. Tức là do Giới mà diệt ác, đó là
cái nhân của Đoạn Đức. Do Định có thể
khởi lên sự giáo hóa, đó là cái nhân của Ân Đức.
Huệ có thể đoạn trừ quyết định,
đó là cái nhân của Trí Đức. Do Đoạn Đức
của Pháp Thân là căn bản, cho nên trước hết
nêu ra cái nhân này. V́ thế, có phẩm này sanh khởi.
4) Bốn, do cơ
nghi:
a) Ngài Diệu Tràng do sức
thiện căn từ đời trước, đến
chỗ đức Phật trần thuật, nêu rơ.
b)
Đại chúng trong hội khi đó đáng nên nghe nói pháp
sám hối trong mộng trước th́ mới có thể giác
ngộ.
V́
thế, phẩm này sanh khởi.
Nương
theo cách giải thích của ngài Chân Đế th́ có tám nhân
duyên.
5.4.2. Giải thích danh
xưng của phẩm này
Phần
thứ hai là giải thích danh xưng. Tiếng Phạn là Táp
Noa Đạt Lợi Xá Noa A Bát Để Đề Xá Na (Svapnadarśanāpatti-pratideśana).
Táp Noa (Svapna)
được phương này dịch là Mộng, Đạt
Lợi Xá Noa (Darśana)
phương này dịch là Kiến, A Bát Để (Āpatti) phương
này dịch là Tội, Đề Xá Na (Pratideśana)
là Thuyết (nói). Người có trái phạm, cần
phải hướng về người khác thưa tŕnh, tội
liền được trừ. V́ thế nói là Thuyết Tội.
Nhưng nói Sám Hối là thuận theo cách dịch của cổ
nhân, chẳng phải là cách nói phù hợp khít khao [xét theo
nghĩa gốc]. Nếu nói Sám Hối th́ âm tiếng Phạn
là Sám Ma (Kṣamā), ư nghĩa xét theo tiếng Hán sẽ là Dung Thứ (容恕), hoặc Quư Tạ (愧謝, hổ thẹn thưa tŕnh). Hoặc có thể nói Sám Ma
dịch đại lược theo tiếng Hán là Tri Yếm
Ly (知厭離, biết chán ĺa), cũng có nghĩa là Cải Hối (改悔). Nói Sám Hối th́ hơi sai âm đọc, đúng ra phải
nói là Mộng Kiến Thuyết Tội Phẩm, [hàm nghĩa]
điều được thấy trong mộng
là “nói” (phơi bày) tội lỗi. Mộng là Tổng,
Kiến là Biệt. Do Biệt thuộc vào Tổng, cho nên nói
là “cái thấy trong mộng”, hoặc nói là Mộng Kiến
Thuyết Tội Phẩm.
5.4.3. Giải thích các vấn
nạn
* Hỏi: Ngài Diệu Tràng nghe
[đức Phật] nói chưa xong, cớ sao giữa chừng
trở về nhà, do trong mộng nghe nói pháp sám trừ, mới
trở lại chỗ Phật để thưa tŕnh vậy?
Đáp:
Cái trống [bằng vàng] vốn do mộng mà được
trông thấy, thiện duyên bức bách khiến cho [ngài Diệu Tràng]
trở về nhà. Nếu đang ở trong đại chúng,
chẳng ngủ, mộng làm sao dấy lên cho được?
* Hỏi:
Ngài Diệu Tràng đang ngồi tại đó, sao chẳng dạy
thẳng phương pháp sám hối, phải đợi Ngài
trở về ngủ rồi trong mộng mới hiện
cái trống bằng vàng dạy sám hối?
Đáp:
Đại chúng khi đó đáng nên nghe nói về giấc mộng
th́ mới bắt đầu phát khởi đầu mối
sám hối. Lại do túc duyên của ngài Diệu Tràng;
nghe xong, tâm sẽ ân cần sám hối.
* Hỏi:
Do túc duyên và do oai lực của đức Phật mà hiện
ra cái trống vang
tiếng sám hối, sao không hiện trống giữa đại
chúng mà để ngài Diệu Tràng riêng trong đêm mộng thấy?
Đáp:
Căn cơ của đại chúng trong hội khác biệt,
đáng phải nên xoay vần được nghe. Lại do
ngài Diệu Tràng nói xong nguyện duyên, các phương khác
đều lănh ngộ, thông hiểu.
* Hỏi:
Ngài Diệu Tràng trong mộng nghe nói sám hối, có lập tức
tự sám tội hay không?
Đáp:
Đấy là do túc nguyện. Do mộng rồi giật
ḿnh tỉnh giấc mới có thể sám, chẳng phải
là trong mộng nghe nói liền sám hối ngay. V́ thế, trong
phẩm Liên Hoa Dụ Tán thuộc phần sau có nói: “Nguyện
ngă đương ư vị lai thế sanh, tại vô
lượng vô biên kiếp, mộng trung thường kiến
đại kim cổ, đắc văn hiển thuyết
sám hối âm” (nguyện con
trong đời vị lai, trong vô lượng vô biên kiếp,
thường thấy cái trống bằng vàng to lớn trong
giấc mộng, được nghe âm thanh nói sám hối rơ
ràng). Cho tới nói: “Dạ mộng thường văn
kim cổ âm, trú tắc tùy ưng nhi sám hối” (Đêm thường
mộng thấy âm thanh của cái trống vàng, ngày th́ theo
đúng lẽ mà sám hối). Đă nói “nguyện nghe tiếng
sám hối, ngày bèn hành sám theo”, rơ ràng là được
nghe trước đó, chẳng sám hối ngay. Nếu không,
cần ǵ phải nói thêm phẩm Diệt Nghiệp Chướng?
Nếu bảo là [nói phẩm Diệt Nghiệp Chướng]
ḥng khiến cho người khác phát tâm sám hối, há có phải
là trong mộng tội đă sám đều được
trừ sạch ư?
5.4.4. Giải thích kinh
văn
Trong
phẩm này, kinh văn được chia đại lược
thành bốn đoạn:
- Một,
Diệu Tràng nằm mộng, nghe
nói sám hối, đạt
được lợi ích.
-
Hai, đến chỗ đức Phật trần thuật,
giác ngộ người khác.
-
Ba, đức Thế Tôn tán thán, ấn khả, chỉ bày
nguyên do.
- Bốn,
đại chúng nghe nói đều nguyện phụng hành.
5.4.4.1. Diệu Tràng nằm mộng
nghe nói
sám hối, đạt được lợi ích
5.4.4.1.1. Nghe pháp tâm hoan
hỷ, rời đi
(Kinh)
Nhĩ thời, Diệu Tràng Bồ Tát thân ư Phật tiền,
văn diệu pháp dĩ, hoan hỷ, dũng dược, nhất
tâm tư duy, hoàn chí bổn xứ.
(經)爾時妙幢菩薩親於佛前聞妙法已,歡喜踊躍一心思惟,還至本處。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Diệu Tràng Bồ Tát đích thân ở
trước đức Phật, nghe diệu pháp xong, hoan hỷ,
hớn hở, nhất tâm tư duy, về đến chỗ
của ḿnh).
Tán
rằng: Đoạn thứ nhất, ngài Diệu Tràng trong mộng nghe sám hối,
đạt được lợi ích. Chia thành hai phần:
- Một,
nghe pháp tâm hoan hỷ, tư duy, rời đi.
-
Hai, đêm mộng thấy cái trống bằng vàng
phát ra âm thanh nói pháp sám hối.
Phần
thứ nhất là lời trần thuật của người
kết tập kinh, sau đó là Bồ Tát nằm mộng.
Đây là phần thứ nhất. Nghe [Như Lai] thọ vô
lượng, đoạn nghi, tâm vui sướng, nhất
tâm tư duy phương tiện quyền xảo của
đức Đại Bi Thế Tôn, chúng con
cũng mong hành tự lợi và lợi
tha như thế!
5.4.4.1.2. Mộng thấy
cái trống bằng vàng nói pháp sám hối
(Kinh)
Ư dạ mộng trung, kiến đại kim cổ, quang
minh hoảng diệu,
do như nhật luân.
(經)於夜夢中見大金鼓,光明晃曜猶如日輪。
(Kinh:
Trong đêm mộng thấy cái trống lớn bằng
vàng, quang minh chói ngời giống như vầng mặt trời).
Tán rằng: Mộng thấy
cái trống nói sám hối.
Trong đoạn này,
có bốn ư:
- Một,
mộng thấy cái trống bằng vàng.
-
Hai, do vậy thấy Tam Bảo.
-
Ba, nghe trống thuyết pháp.
- Bốn,
nghe rồi nghĩ nhớ, ǵn giữ.
Đoạn
này thuộc ư thứ nhất.
(Kinh)
Ư thử quang trung, đắc kiến thập
phương vô lượng chư Phật, ư bảo thụ
hạ, tọa lưu ly ṭa, vô lượng bách thiên đại
chúng vi nhiễu, nhi vị thuyết pháp.
(經)於此光中得見十方無量諸佛,於寶樹下坐瑠璃座,無量百千大眾圍繞而為說法。
(Kinh:
Trong quang minh ấy, được thấy mười
phương vô lượng chư Phật, ngồi trên ṭa
lưu ly dưới cây báu, vô lượng trăm ngàn đại
chúng vây quanh, Phật v́ họ thuyết pháp).
Tán
rằng: Do vậy, thấy Tam Bảo.
(Kinh)
Kiến nhất Bà-la-môn phù kích kim cổ, xuất đại
âm thanh. Thanh trung diễn thuyết vi diệu già-tha, minh sám hối
pháp.
(經)見一婆羅門桴擊金鼓出大音聲,聲中演說微妙伽他,明懺悔法。
(Kinh:
Thấy một Bà-la-môn dùng dùi gơ trống
vàng, phát ra âm thanh to lớn. Trong âm thanh đó, diễn nói kệ
tụng vi diệu, giảng pháp sám hối).
Tán
rằng: Nghe trống thuyết pháp.
(Kinh)
Diệu Tràng văn dĩ, giai tất ức tŕ, hệ niệm
nhi trụ.
(經)妙幢聞已,皆悉憶持繫念而住。
(Kinh:
Diệu Tràng nghe xong, thảy đều nhớ kỹ, hệ
niệm mà trụ).
Tán
rằng: Nghe xong ghi nhớ.
5.4.4.2. Đến chỗ
đức Phật, trần thuật, giác ngộ người
khác
5.4.4.2.1. Đến chỗ
đức Phật
(Kinh)
Chí thiên hiểu dĩ, dữ vô lượng bách thiên đại
chúng vi nhiễu, tŕ chư cúng cụ, xuất Vương Xá
thành, nghệ Thứu Phong sơn.
(經)至天曉已,與無量百千大眾圍繞持諸供具出王舍城詣鷲峰山。
(Kinh:
Tới khi trời sáng, cùng với vô lượng trăm
ngàn đại chúng vây quanh, cầm các thứ vật cúng, ra
khỏi thành Vương Xá, đến núi Thứu Phong).
Tán
rằng: Tới chỗ đức Phật để trần
thuyết. [Kinh văn gồm hai phần]: Trước là
đến chỗ đức Phật, sau đó là trần
thuyết. Đoạn này là “đến
chỗ đức Phật”,
[gồm có tám
ư]: Một là lúc đến, hai là đồ chúng, ba là cầm
theo vật cúng, bốn là đến nơi, năm là thấy
Phật, sáu là thấy oai nghi, bảy là cúng dường, tám
là nhiễu quanh [đức Phật] theo chiều bên phải, chín là lui
ra đứng một phía. Đoạn này gồm bốn ư
đầu.
(Kinh)
Chí Thế Tôn sở, lễ Phật túc dĩ, bố thiết
hương hoa, hữu nhiễu tam táp, thoái tọa nhất
diện.
(經)至世尊所禮佛足已,布設香華右繞三匝退坐一面。
(Kinh:
Tới chỗ đức Thế Tôn, lễ dưới chân
đức Phật xong, sắp đặt hương, hoa,
nhiễu theo chiều phải ba ṿng, lui ra ngồi một
phía).
Tán
rằng: Đây là năm ư sau.
5.4.4.2.2. Chánh thức trần
thuyết
5.4.4.2.2.1. Xin phép trần
thuyết
(Kinh)
Hiệp chưởng cung kính, chiêm ngưỡng tôn nhan.
(經)合掌恭敬瞻仰尊顏。
(Kinh:
Chắp tay cung kính, chiêm ngưỡng vẻ mặt của
đức Phật).
Tán
rằng: Đây là chánh
thức trần thuyết, [lại chia thành hai phần]:
- Trước
là xin phép trần thuyết.
- Sau
đó là trần thuyết.
Trong
phần thứ nhất, lại có hai điều:
- Một là nghi thức
cầu thỉnh.
- Hai
là xin được phép nói.
Đây
là ư thứ nhất.
(Kinh)
Bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă ư mộng trung, kiến
Bà-la-môn dĩ thủ chấp phù, kích diệu kim cổ, xuất
đại âm thanh, thanh trung diễn thuyết vi diệu
già-tha, minh sám hối pháp, ngă giai ức tŕ.
(經)白佛言:世尊!我於夢中見婆羅門以手執桴擊妙金鼓出大音聲,聲中演說微妙伽他,明懺悔法,我皆憶持。
(Kinh:
Bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế
Tôn! Con trong giấc mộng, thấy Bà-la-môn tay cầm dùi gơ
cái trống vàng mầu nhiệm, phát ra âm thanh to lớn.
Trong âm thanh ấy, diễn nói kệ tụng vi diệu, giảng
về pháp sám hối, con đều ghi nhớ).
Tán
rằng: Xin phép được nói. Có hai ư:
-
Trước là trần thuật điều được
thấy nghe trong giấc
mộng.
-
Hai, xin phép tuyên nói.
Đây
là tiểu đoạn thứ nhất.
(Kinh)
Duy nguyện Thế Tôn giáng đại từ bi, thính ngă sở
thuyết.
(經)唯願世尊降大慈悲,聽我所說。
(Kinh:
Kính mong đức Thế Tôn rủ ḷng đại từ
bi, cho phép con được nói).
Tán
rằng: Xin phép được tuyên nói.
5.4.4.2.2.2.Trần thuyết
5.4.4.2.2.2.1. Nêu đại
lược sự thấy nghe trong mộng
(Kinh)
Tức ư Phật tiền, nhi thuyết tụng viết:
- Ngă ư tạc dạ trung, mộng kiến đại kim
cổ, kỳ h́nh cực xu diệu, châu biến hữu kim
quang, do như thịnh nhật luân, quang minh giai phổ diệu,
sung măn thập phương giới. Hàm kiến ư chư
Phật, tại ư bảo thụ hạ, các xử
lưu ly ṭa, vô lượng bách thiên chúng, cung kính nhi vi nhiễu.
(經)即於佛前而說頌曰:我於昨夜中,夢見大金鼓,其形極姝妙,周遍有金光,猶如盛日輪,光明皆普曜,充滿十方界。咸見於諸佛,在於寶樹下,各處瑠璃座,無量百千眾,恭敬而圍繞。
(Kinh:
Liền đối trước đức Phật mà nói kệ
tụng rằng: - Con trong đêm hôm qua, mộng thấy trống
vàng lớn, h́nh thể cực đẹp đẽ, có kim
quang trọn khắp, giống mặt trời sáng rực.
Quang minh đều chiếu khắp, đầy ắp cơi
mười phương. Đều trông thấy chư Phật,
ở dưới cội cây báu, đều ngồi ṭa
lưu ly, vô lượng trăm ngàn chúng, tâm cung kính vây
quanh).
Tán
rằng: Đây là phần chánh thuyết, [chia thành hai phần]:
Trước là lời trần thuật của người
kết tập kinh, sau là chính thức trần thuật. Nói
chung, [kệ tụng] có một trăm năm mươi sáu
hàng.
Trong đó, bốn hàng
đầu gồm mỗi câu năm chữ. Cứ
bốn câu hợp thành một bài tụng, tức là thành bốn
bài tụng. Kế đó, có hai mươi hai hàng,
mỗi câu gồm bảy chữ, tạo thành mười một
bài tụng. Kế đó là ba mươi tám bài tụng, mỗi
câu gồm năm chữ. Kế đó, có chín mươi hai
hàng, mỗi câu gồm bảy chữ, hợp thành bốn
mươi sáu bài tụng. Nếu chuẩn theo cách tính “tụng”
của phương Tây (Ấn Độ), sẽ đều
là cứ bốn câu thành một bài tụng. Luận định về “câu” th́ có năm loại:
- Một,
xử trung cú.
-
Hai, sơ cú.
-
Ba, hậu cú.
- Bốn,
đoản cú.
-
Năm, trường cú.
Nếu
câu do tám chữ hợp thành, tiếng Phạn
gọi là Án Đa Chế Đa (Ashtasītā), phương này dịch là Xử Trung Cú (處中句, câu vừa
phải), không dài, không ngắn. Bốn câu như thế, hợp thành một bài tụng, gọi
là Thất Lô Ca Tụng (Śloka), [một bài tụng như vậy] gồm ba mươi
hai chữ. Nếu [một câu] từ sáu chữ trở lên
th́ gọi là Sơ Cú (初句). Nếu từ hai
mươi chữ trở lên th́ gọi là Hậu Cú (後句). Nếu
câu ít hơn sáu chữ th́ gọi là Đoản Cú (短句). [Nếu bài tụng mà mỗi] câu có nhiều
hơn hai mươi sáu chữ hợp thành, th́ gọi là
Trường Cú Tụng (長句頌).
Chuẩn theo đó mà suy. Nay đem kinh này nếu đối
chiếu với bản tiếng Phạn, có khi mười
bảy chữ thành một câu, hoặc
có khi mười lăm chữ, cho đến gọi ba chữ
là một câu. Nay nếu là chỗ [trong nguyên bản
tiếng Phạn] dùng
Trường Cú th́
[trong bản dịch tiếng Hán] sẽ hạn cuộc thành bài tụng
mỗi câu bảy chữ; nếu là chỗ
sử dụng Đoản
Cú [trong
nguyên bản] th́ [bản dịch] hạn cuộc thành
bài tụng mỗi câu năm chữ. V́ thế, có tất cả
chín mươi chín bài tụng, chia thành hai loại:
- Bốn
bài tụng đầu nêu ra đại lược sự thấy
nghe.
-
Chín mươi lăm bài tụng sau đó,
nêu cặn kẽ những điều được nghe.
Loại
thứ nhất được
chia thành ba phần:
- Câu
đầu tiên [nói về] lúc nằm mộng.
-
Hàng thứ hai gồm ba câu, nêu ra điều trông thấy.
-
Bài tụng cuối cùng nêu ra điều được
nghe.
Trong
phần được thấy, sáu câu nói về chuyện
thấy cái trống, ba câu là thấy Phật, hai câu nói về
thấy Tăng. Trong sáu câu nói
về chuyện thấy cái trống, nửa
hàng đầu nói về chuyện thấy h́nh dạng của
trống, một hàng nói về chuyện thấy quang minh của
trống.
“Mộng
thấy trống vàng” biểu thị sẽ được
nghe âm thanh đức Phật nói về sám hối, đáng
nên quư trọng. “Thấy h́nh dạng [cái trống] đẹp
đẽ” biểu thị phạm âm (âm
thanh thanh tịnh) của
bậc đại sĩ. “Châu biến hữu quang” (trọn
khắp [thân trống] đều có quang minh) biểu thị
[cái trống ấy] có
thể diễn nói giáo tánh, có thể hiển lộ trọn
vẹn lư. “Do như thịnh nhật luân” (Giống
như mặt trời rạng rỡ) biểu thị tác dụng
của giáo pháp diễn giảng có thể trừ hết thảy
các điều tối
tăm, bất
thiện. “Quang minh giai phổ diệu” (Quang minh đều
chiếu sáng trọn khắp): Biểu thị âm thanh “oán
thân b́nh đẳng” nhất vị.
Những điều khác như thấy Phật và đại
chúng, tức là [trông thấy]
Phật Bảo và Tăng Bảo. Nghe trống thuyết pháp
tức là Pháp Bảo, biểu thị do nghe dạy liền
được thấy Tam Bảo, chính ḿnh cũng sẽ tự
thành.
(Kinh)
Hữu nhất Bà-la-môn, dĩ trượng kích kim cổ,
ư kỳ cổ thanh nội, thuyết thử diệu
già-tha.
(經)有一婆羅門,以杖擊金鼓,於其鼓聲內,說此妙伽他。
(Kinh:
Có một Bà-la-môn, dùng gậy gơ trống vàng, bên trong tiếng
trống ấy, nói kệ mầu nhiệm này).
Tán
rằng: Nêu ra chuyện nghe pháp, có hai phần:
- Một,
nửa đầu [bài tụng nêu ra chuyện Bồ Tát] thấy
người gơ trống.
- Nửa
phần sau bài tụng nói đến chuyện nghe cái trống thuyết
pháp.
“Có
một Bà-la-môn” biểu thị căn cơ cảm vời
sự giáo hóa dùng “gậy” thiện căn
để cảm vời đức Thế Tôn như cái trống
có thể diễn nói giáo. Hoặc Bà-la-môn biểu thị “sẽ
thấy Phật”. V́ thế, luận Câu Xá viết: “Tánh
sa-môn như đă nói cũng gọi là Bà-la-môn, cũng gọi
là phạm luân, do chân phạm chuyển biến”. Dựa
theo đó, biết đức Thế Tôn c̣n gọi là Chân
Bà-la-môn do Ngài là bậc tịnh hạnh chân thật. Dùng gậy
đại bi gơ trống Hậu Đắc Trí, lan truyền
âm thanh giáo pháp, từ nơi âm thanh mà giả lập kệ
tụng v.v… Đấy chính là phúng tụng Già Đà Tụng.
(Kinh)
Kim Quang Minh cổ xuất diệu thanh, biến chí tam thiên
đại thiên giới.
(經)金光明鼓出妙聲,遍至三千大千界。
(Kinh:
Trống Kim Quang Minh vang tiếng mầu, đến khắp
cơi tam thiên đại thiên).
Tán
rằng: Kế đó, trần thuật cặn kẽ những
điều đă được nghe. Có chín mươi
lăm bài tụng, đại lược chia thành hai phần:
- Một,
mười một bài tụng nêu chung lợi ích thù thắng.
-
Hai, tám mươi bốn bài tụng nêu riêng từng lợi
ích thù thắng.
Trong
phần nêu chung, lại chia thành ba đoạn:
- Nửa
trước của bài tụng đầu nêu ra âm thanh thù thắng
của cái trống.
- Kế
đó, bảy bài tụng rưỡi nêu ra lợi ích thù thắng
riêng biệt.
- Ba
bài tụng sau cùng nêu ra cái nhân thù thắng sau đó.
Đoạn
này thuộc phần thứ nhất.
5.4.4.2.2.2.2. Trần thuật
cặn kẽ những điều được thấy
nghe
5.4.4.2.2.2.2.1. Nêu chung lợi
ích thù thắng
5.4.4.2.2.2.2.1.1. Lợi ích “ĺa
khổ”
(Kinh)
Năng diệt tam đồ cực trọng tội, cập
dĩ nhân trung chư khổ ách. Do thử kim cổ thanh oai
lực, vĩnh diệt nhất thiết phiền năo chướng,
đoạn trừ bố úy linh an ổn, thí như tự tại
Mâu Ni Tôn.
(經)能滅三塗極重罪,及以人中諸苦厄。由此金鼓聲威力,永滅一切煩惱障,斷除怖畏令安隱,譬如自在牟尼尊。
(Kinh:
Hay diệt tội tam đồ cực nặng, cùng các khổ
ách trong loài người. Do oai lực tiếng trống vàng
này, măi diệt hết thảy phiền năo chướng,
đoạn trừ sợ hăi khiến an ổn, ví như
đấng Mâu Ni tự tại).
Tán
rằng: Phần
thứ nhất
là “nêu riêng lợi ích thù thắng” [của tiếng trống]. Trong phần sau,
có ba đoạn “phục thứ” nói về sám nguyện
v.v… Nhưng hai đoạn “phục thứ” đầu
tiên nêu bày ư nghĩa liên tưởng lẫn nhau;
đoạn “phục thứ” thứ ba nói về sám hối
v.v… cặn kẽ. Trong phần nêu ra này, bốn bài tụng
rưỡi đầu tiên là nói gộp chung, hai bài đầu
[trong bốn bài tụng đó] nói đại lược các
lợi ích thù thắng do sám hối, ba bài tụng kế
đó nói cặn kẽ lợi ích thù thắng do sám hối
thuộc về [đoạn “phục thứ”] thứ
ba trong phần sau.
Đoạn
thứ nhất được chia thành hai phần:
- Một,
hai bài tụng rưỡi nói về chuyện ĺa khổ.
-
Hai, hai bài tụng kế đó nói về chuyện được
vui.
Trong
phần ĺa khổ, một bài tụng
rưỡi (tức đoạn chánh kinh vừa nêu trên đây) nói về chuyện ĺa khổ, bài tụng
kia tán thán Phật. Trong phần [kệ tụng] ĺa khổ ấy,
nửa bài tụng đầu là kệ tụng ĺa quả khổ;
bài tụng kế đó nói về chuyện ĺa cái nhân tạo
ra khổ. Ác nghiệp thượng và trung chiêu cảm báo
trong tam đồ, nói là “cực trọng tội” (tội
cực nặng). Hạ phẩm ác nghiệp chiêu cảm nỗi
khổ trong loài người, tức là khổ v́ yêu
thương mà phải chia ĺa, khổ v́ già, bệnh, chết
v.v... Trong phần “ĺa cái nhân gây ra khổ”
th́ ba câu nói về “ĺa nhân”, một câu nêu ra thí dụ. Phần thí
dụ có hai nghĩa:
- Một,
thí dụ chúng sanh đạt được cái nhân diệt
khổ như đấng Mâu Ni.
-
Hai, sánh ví cái trống vàng cũng giống như đấng
Mâu Ni, có thể nói thánh pháp diệt khổ cho chúng sanh.
(Kinh)
Phật ư sanh tử đại hải trung, tích hành tu
thành Nhất Thiết Trí, năng linh chúng sanh giác phẩm cụ,
cứu cánh hàm quy công đức hải.
(經)佛於生死大海中,積行修成一切智,能令眾生覺品具,究竟咸歸功德海。
(Kinh:
Phật ở trong biển cả sanh tử, xưa đă tu
thành Nhất Thiết Trí, khiến chúng sanh trọn đủ
giác phẩm, rốt ráo đều vào biển công đức).
Tán
rằng: Phần tán thán Phật gồm hai đoạn:
- Nửa
đầu bài tụng tán thán phẩm đức tự lợi.
- Nửa
sau bài tụng tán thán phẩm đức lợi tha.
“Giác
phẩm cụ” (đầy đủ giác phẩm): Có thể
khiến cho chúng sanh tu Đại Bồ Đề, hết
thảy công đức quyến thuộc tương ứng
thảy đều vẹn toàn, tức là Đại Bồ
Đề. “Cứu cánh hàm quy công đức hải” (rốt
ráo đều vào biển công đức) tức là Đại
Niết Bàn. Hoặc [có thể hiểu] “giác phẩm cụ”
là có thể khiến cho cái nhân tu hành được viên măn,
“quy công đức hải” là có thể khiến cho cái
quả viên măn.
5.4.4.2.2.2.2.1.2. Lợi ích “được
vui”
(Kinh)
Do thử, kim cổ xuất diệu thanh, phổ linh văn
giả hoạch phạm hưởng, chứng đắc
Vô Thượng Bồ Đề quả, thường chuyển
thanh tịnh diệu pháp luân.
(經)由此金鼓出妙聲,普令聞者獲梵響,證得無上菩提果,常轉清淨妙法輪。
(Kinh:
Do vậy, trống vàng vang tiếng diệu, khiến khắp
người nghe được phạm âm, chứng đắc
quả Vô Thượng Bồ Đề, thường chuyển
diệu pháp luân thanh tịnh).
Tán
rằng: Nói về chuyện “được vui”. Bài tụng
thứ nhất nói về niềm vui do đạt được
tự lợi. Bài tụng sau đó nói về đạt
được niềm vui lợi tha. Đoạn này là
đạt được niềm vui tự lợi, gồm
ba điều:
- Một,
khiến cho
[người nghe] đạt được
phạm âm.
-
Hai, chứng Bồ Đề.
-
Ba, đắc Niết Bàn.
Xét
theo luận Du Già Sư Địa, quyển chín mươi
lăm, chuyển pháp luân có tự chuyển
và tha chuyển. Trong tự chuyển, có năm loại
tướng:
- Thứ
nhất là đạt
được cảnh sở đắc.
- Thứ
hai là đạt được phương tiện.
- Thứ
ba là đạt được sở đắc.
- Thứ
tư là đối với người khác sẽ liên tục
khiến cho họ sanh ḷng tin hiểu sâu xa đối với
sở chứng của chính ḿnh.
- Thứ
năm là khiến cho người khác sanh ḷng tín giải sâu
xa đối với sở chứng của người
khác.
“Thường
chuyển diệu pháp luân” ở đây chính là điều
thứ ba, tức là “đạt được sở
đắc là cái quả Đại Niết Bàn”. Do trước
đó đă có Bồ Đề, cho nên sau đấy mới có chuyện
thuận theo căn cơ mà thuyết pháp. “Chuyển pháp
luân” ở đây chính là Niết Bàn. Ư nghĩa của pháp
luân th́ như trong Pháp Hoa Kinh Sớ đă giảng.
(Kinh)
Trụ thọ bất khả tư nghị kiếp, tùy
cơ thuyết pháp lợi quần sanh, năng đoạn
phiền năo chúng khổ lưu, tham,
sân,
si đẳng giai trừ diệt.
(經)住壽不可思議劫,隨機說法利群生,能斷煩惱眾苦流,貪瞋癡等皆除滅。
(Kinh:
Trụ thọ chẳng thể nghĩ bàn kiếp, tùy cơ
thuyết pháp lợi quần sanh, hay đoạn các ḍng khổ
phiền năo, tham, sân, si thảy đều trừ diệt).
Tán
rằng: Đạt được niềm vui lợi tha:
- Một,
v́ chúng sanh mà trụ thọ (trụ thế).
-
Hai, v́ họ thuyết pháp.
-
Ba, đoạn phiền năo.
“Chúng
khổ lưu” (các gịng khổ) tức ba thứ “Hoặc,
nghiệp, khổ”. Đây là đoạn trừ trói buộc
nơi sở duyên (đối tượng để cái tâm
duyên vào). Sự trói buộc nơi sở duyên đă hết,
tham, sân v.v… nơi năng duyên (chủ
thể để duyên theo, ở đây là cái
tâm) cũng diệt theo, tức là đoạn sự trói buộc
nơi năng duyên. Do đă ĺa khỏi các trói buộc, cho
nên được an lạc.
(Kinh)
Nhược hữu chúng sanh xử ác thú, đại hỏa
mănh diễm châu biến thân, nhược đắc văn
thị diệu cổ âm, tức năng ly khổ, quy y Phật.
(經)若有眾生處惡趣,大火猛焰周遍身,若得聞是妙鼓音,即能離苦歸依佛。
(Kinh:
Nếu có chúng sanh trong đường ác, lửa dữ hừng
hực bốc quanh thân, nếu nghe tiếng trống nhiệm
mầu này, liền được ĺa khổ, quy y Phật).
Tán
rằng: Ba bài tụng kế đó nói cặn kẽ về
sám hối v.v… Có hai phần:
-
Bài tụng thứ nhất nêu rơ: Kẻ có tội nghe pháp, hiểu
cách sám hối, sẽ được ĺa khổ.
-
Hai bài tụng sau đó nói: Do nghe tiếng trống mà
được an lạc.
Đoạn
này là phần thứ nhất.
Hỏi:
Đây là ngài Diệu Tràng tự mộng thấy cái trống
bằng vàng, người khác chẳng nghe, sao có thể nói “có
kẻ ở trong đường ác, lửa dữ khắp
thân, nghe tiếng trống bèn ĺa khổ, quy hướng Phật”?
Đáp:
Chuyện
trước sau nói người khác
được lợi ích ở đây đều là [những chuyện] do
Diệu Tràng Bồ Tát thấy trong mộng, thật sự
chẳng phải do ai khác được nghe tiếng trống!
Điều này có ư nghĩa biểu thị: Nếu các loài
chúng sanh được nghe đức Phật nói, sẽ
đạt được lợi ích như thế đó!
(Kinh)
Giai đắc thành tựu Túc Mạng Trí, năng ức quá
khứ bách thiên sanh, tất giai chánh niệm Mâu Ni Tôn, đắc
văn Như Lai thậm thâm giáo. Do văn kim cổ thắng
diệu âm, thường đắc thân cận ư chư
Phật, tất năng xả ly chư ác nghiệp, thuần
tu thanh tịnh chư thiện phẩm.
(經)皆得成就宿命智,能憶過去百千生,悉皆正念牟尼尊,得聞如來甚深教。由聞金鼓勝妙音,常得親近於諸佛,悉能捨離諸惡業,純修清淨諸善品。
(Kinh:
Đều được thành tựu Túc Mạng Trí, nhớ
được trăm ngàn đời quá khứ, thảy
đều chánh niệm đấng Mâu Ni, được
nghe Như Lai giáo rất sâu. Do nghe tiếng trống vàng thắng
diệu, thường được thân cận các đức
Phật, đều hay ĺa bỏ các nghiệp ác, thuần tu
các thiện phẩm thanh tịnh).
Tán rằng: Nói về
chuyện “được vui”, chia thành sáu phần:
- Nửa
bài tụng đầu nói “đắc Túc Mạng Trí”.
-
Câu kế tiếp là đạt được chánh niệm.
-
Câu kế tiếp là nghe pháp.
-
Hai câu kế đó: Thân cận Phật.
-
Câu kế đó là ĺa ác.
-
Câu kế đó là tu thiện.
(Kinh)
Nhất thiết thiên nhân hữu t́nh loại, ân trọng,
chí thành kỳ nguyện giả, đắc văn kim cổ
diệu âm thanh, năng linh sở cầu giai măn túc.
(經)一切天人有情類,殷重至誠祈願者,得聞金鼓妙音聲,能令所求皆滿足。
(Kinh:
Hết thảy trời, người, loài hữu t́nh, ân trọng,
chí thành mà cầu nguyện, được nghe diệu âm của
trống vàng, hay khiến sở cầu đều thỏa
măn).
Tán
rằng: Ba bài tụng kế đó nói về các loại nhân
thù thắng khác; có ba ư:
-
Bài tụng đầu tiên: Ước nguyện được
thỏa ḷng.
-
Bài tụng kế đó: Được ĺa khổ.
-
Bài tụng sau đó: Được an lạc.
Bài
tụng ở đây là ư thứ nhất.
(Kinh)
Chúng sanh đọa tại Vô Gián ngục, mănh hỏa viêm xí
khổ phần thân, vô hữu cứu hộ, xử luân hồi,
văn giả năng linh khổ trừ diệt.
(經)眾生墮在無間獄,猛火炎熾苦焚身,無有救護處輪迴,聞者能令苦除滅。
(Kinh:
Chúng sanh đọa trong ngục Vô Gián, lửa dữ hừng
hực nung đốt thân, chẳng được cứu
hộ, vẫn luân hồi, người nghe tiếng trống
khổ trừ diệt).
Tán
rằng: Nói về chuyện “được ĺa khổ”.
Nếu nói theo điểm trọng yếu th́ là ĺa khỏi
nỗi khổ Vô Gián, hoặc
có thể hiểu nửa đầu bài tụng là “ĺa nỗi
khổ Vô Gián”, nửa sau bài tụng bao gồm “ĺa nỗi
khổ trong các chốn và các đường”.
(Kinh)
Nhân, thiên, ngạ quỷ, bàng sanh trung, sở hữu hiện
thọ chư khổ nạn, đắc văn kim cổ
phát diệu hưởng, giai mông ly khổ đắc giải
thoát.
(經)人天餓鬼傍生中,所有現受諸苦難,得聞金鼓發妙響,皆蒙離苦得解脫。
(Kinh:
Người, trời, ngạ quỷ, loài bàng sanh, tất cả
đang chịu các khổ nạn, được nghe trống
vàng rền tiếng diệu, đều được ĺa khổ,
đạt giải thoát).
Tán
rằng: Nêu ra chuyện “được vui”. Nửa đầu
bài tụng nhắc lại chuyện ĺa khổ, nửa sau
bài tụng biện định các sự vui đạt
được.
5.4.4.2.2.2.2.2. Nói riêng từng
điều lợi ích thù thắng
5.4.4.2.2.2.2.2.1. Sám nguyện
Phiền Năo Chướng
(Kinh)
Hiện tại thập phương giới, thường
trụ Lưỡng Túc Tôn, nguyện dĩ đại bi tâm,
ai mẫn ức niệm ngă. Chúng sanh vô quy y, diệc vô hữu
cứu hộ, vị như thị đẳng loại,
năng tác đại quy y.
(經)現在十方界,常住兩足尊,願以大悲心,哀愍憶念我。眾生無歸依,亦無有救護,為如是等類,能作大歸依。
(Kinh:
Hiện tại mười phương cơi, Lưỡng Túc
Tôn thường trụ, nguyện dùng tâm đại bi,
thương xót nghĩ nhớ con. Chúng sanh không quy y, cũng
không ai cứu vớt, v́ các loài như thế, hay làm đại
quy y).
Tán
rằng: Tám mươi bốn bài tụng
sau đó, nói riêng từng điều lợi ích thù thắng,
được chia thành bốn phần:
-
Hai mươi lăm bài tụng đầu tiên thuộc
đoạn “phục thứ” (lại nữa) thứ
nhất, nói các chuyện như sám nguyện v.v…
- Kế
đó, mười ba bài tụng từ “duy nguyện thập
phương Phật” (kính mong mười phương Phật)
trở đi là đoạn “phục thứ” thứ
hai, nói về chuyện sám nguyện v.v…
- Kế
đó, bốn mươi ba bài tụng sau phần kệ tụng
[mỗi câu] bảy chữ là phần “phục thứ”
thứ ba, nói về sám nguyện v.v…
-
Sau đó, bốn bài tụng từ “nhược hữu
nam tử cập nữ nhân” (nếu có nam tử và nữ
nhân) trở đi, nói về lẽ
thù thắng, khuyên tu.
Nhưng
trong ba đoạn “phục thứ” nói về sám nguyện,
đoạn “phục thứ” thứ nhất phần
nhiều là sám hối Phiền Năo Chướng; đoạn
“phục thứ” thứ hai phần nhiều là sám hối
Nghiệp Chướng, đoạn “phục thứ”
thứ ba phần nhiều sám hối Báo Chướng. Trong ấy,
có cặn kẽ hay sơ lược khác nhau. Sám Hối nói
cho đúng là Thuyết Tội (nêu bày tội lỗi),
đáng nên dùng thiện hối (khéo hối hận) và phát khởi
thiện ngữ nghiệp làm tánh. Nếu kiêm thêm “năng
khởi”
(có thể thật sự phát khởi tâm niệm sám hối)
th́ cũng có ư nghiệp. Nếu kèm theo lễ kính th́ cũng
có thân nghiệp. Nói đầy đủ th́ phải là “lấy
thiện hối và phát khởi ba nghiệp làm tánh”. Trong
phần “phục thứ” thứ nhất, có ba đoạn:
-
Hai bài tụng đầu là thỉnh cầu gia hộ, trần
thuật sự quy y chân chánh.
-
Mười bốn bài tụng kế đó nói về sự
sám hối.
-
Chín bài tụng sau đó là phát nguyện.
Trong
phần thứ nhất, chia thành bốn đoạn:
-
Hai câu đầu nêu ra đối tượng quy kính,
nương về.
-
Hai câu kế cầu thỉnh [Tam Bảo] rủ ḷng bi niệm.
-
Hai câu kế tiếp giăi bày [hành nhân] chẳng có ai cứu
giúp, che chở.
-
Hai câu kế tiếp cầu thỉnh [Tam Bảo] làm chỗ
quy y.
Trong
các loài hữu t́nh, có loài không chân, nhiều chân, bốn chân,
hai chân; trời người
hai chân thù thắng hơn các loài khác. Phật lại là càng
tôn quư trong các loài hai chân. Thương xót họ có nỗi khổ,
thương xót họ chẳng vui sướng, Thể chính
là từ bi. Nguyện ghi nhớ chẳng bỏ là Ức Niệm.
Gieo thân hướng về th́ gọi
là Quy, nương cậy là Y. Dẹp khổ là Cứu, ban
vui là Hộ.
(Kinh)
Ngă tiên sở tác tội, cực trọng chư ác nghiệp,
kim đối Thập Lực tiền, chí tâm giai sám hối.
(經)我先所作罪,極重諸惡業,今對十力前,至心皆懺悔。
(Kinh:
Con trước đă tạo tội, các ác nghiệp cực
nặng, nay đối trước Thập Lực, đều
chí tâm sám hối).
Tán
rằng: Mười bốn bài tụng kế đó nói về
sám hối, chia thành ba phần:
-
Bài tụng đầu tiên nhằm nêu bày [ư nguyện sám hối].
-
Mười hai bài tụng kế đó nhằm biện
định [sự
sám hối].
-
Bài tụng cuối cùng nhằm kết lại.
Bài
tụng này thuộc phần thứ nhất “nêu bày”. “Tội”
là danh xưng nhằm chê trách lỗi lầm. “Cực trọng
ác nghiệp” cũng là danh xưng để chê trách lầm
lỗi. Dẫu tội nhỏ nhẹ, cũng gọi là “tạo
tội ác nghiệp cực nặng”. Luận định
sám hối trọn cả ba nghiệp th́ nói là “giai”
(đều).
(Kinh)
Ngă bất tín chư Phật, diệc bất kính tôn thân, bất
vụ tu chúng thiện, thường tạo chư ác nghiệp.
(經)我不信諸佛,亦不敬尊親,不務修眾善,常造諸惡業。
(Kinh:
Con chẳng tin chư Phật, cũng chẳng kính song thân,
chẳng chăm tu các thiện, thường tạo các ác
nghiệp).
Tán
rằng: Kế đó là biện định riêng biệt, gồm
mười hai bài tụng. Bài tụng đầu tiên là sám hối
các ác nghiệp đă tạo
do chẳng tin, chẳng hổ thẹn v.v… “Bất kính”
tức là chẳng tôn sùng bậc hiền thánh, “chẳng
chú trọng tu thiện” tức là chẳng tôn trọng
điều thiện. Do vậy, tạo ác.
(Kinh)
Hoặc tự thị tôn cao, chủng tánh cập tài vị,
thịnh niên hành phóng dật, thường tạo chư ác
nghiệp.
(經)或自恃尊高,種姓及財位,盛年行放逸,常造諸惡業。
(Kinh:
Hoặc tự cao, ngạo mạn, cậy ḍng họ, tài, vị,
tuổi trẻ luôn buông lung, thường tạo các
ác nghiệp).
Tán
rằng: Bài tụng thứ hai là sám hối các tội nghiệp
ác đă gây tạo do kiêu mạn v.v…:
- Một
là ỷ ḿnh có đức, tôn quư, cao cả.
- Hai
là ỷ chủng tánh tôn quư, cao vời.
- Ba
là cậy lắm tiền.
- Bốn
là ỷ vào chức quan, địa vị.
-
Năm là cậy ḿnh trẻ khỏe, sống
lâu, không bệnh tật.
Tự
nâng ḿnh lên, chèn ép kẻ khác, tức là do kiêu mạn mà dấy
lên sự ác. Ỷ vào sự cuồng ngạo mê muội ấy,
lại do kiêu ngạo mà tạo ác, lại làm chuyện buông
lung, chẳng thể ngăn ngừa, sửa đổi. V́
thế, gây tạo ác nghiệp.
(Kinh)
Tâm hằng khởi tà niệm, khẩu trần ư ác ngôn,
bất kiến ư quá tội, thường tạo chư
ác nghiệp.
(經)心恒起邪念,口陳於惡言,不見於過罪,常造諸惡業。
(Kinh:
Tâm luôn khởi tà niệm, miệng thốt lời độc
ác, chẳng thấy được tội lỗi, thường
tạo các ác nghiệp).
Tán
rằng: Bài tụng thứ ba là sám hối ác nghiệp do hai
thứ tâm và miệng gây tạo.
(Kinh)
Hằng tác ngu phu hạnh, vô minh ám phú tâm, tùy thuận bất
thiện hữu, thường tạo chư ác nghiệp.
(經)恒作愚夫行,無明暗覆心,隨順不善友,常造諸惡業。
(Kinh:
Luôn làm hạnh ngu phu, vô minh tối lấp tâm, tùy thuận bạn
chẳng lành, thường tạo các ác nghiệp).
Tán
rằng: Bài tụng thứ tư là sám hối ác nghiệp do
si gây tạo.
(Kinh)
Hoặc nhân chư hư lạc, hoặc phục hoài ưu năo,
vị tham, sân sở triền, cố ngă tạo chư ác.
(經)或因諸戲樂,或復懷憂惱,為貪瞋所纏,故我造諸惡。
(Kinh:
Hoặc do các vui đùa, hoặc ôm ḷng ưu năo, bị tham,
sân quấn trói, nên con tạo các ác).
Tán
rằng: Bài tụng thứ năm là sám hối do tham và sân
mà tạo ác nghiệp. “Hư lạc” chính là tham, “ưu
năo” chính là sân. Tham và sân chính là chủng tử. “Triền”
(quấn trói) tức là [phiền năo] hiện
hành. Hoặc [có thể hiểu là] trong bát triền[3]
v.v… nêu ra hai thứ để gồm thâu các điều
khác.
(Kinh)
Thân cận bất thiện nhân, cập do xan, tật ư, bần
cùng, hành siểm cuống, cố ngă tạo chư ác.
(經)親近不善人,及由慳嫉意,貧窮行諂誑,故我造諸惡。
(Kinh:
Thân cận kẻ chẳng lành, và do ư keo, ganh, bần cùng,
chuyên nịnh, dối, nên con tạo các ác).
Tán
rằng: Bài tụng thứ sáu là sám hối [tội lỗi]
do gần bạn ác, và các món Hoặc thuộc Tiểu Tùy[4].
Ky cóp chẳng xả, keo kiệt, hèn tệ gọi là Xan. Thấy
người khác vẻ vang chẳng chịu nổi, [sanh ḷng] đố
kỵ th́ gọi là Tật. Lưới rập gạt
người khác, vờ thuận theo ư họ, gọi là Siểm.
Tâm ôm mưu toan khác lạ, dối trá ra vẻ là người có đức, gọi là
Cuống.
(Kinh)
Tuy bất nhạo chúng quá, do hữu bố úy cố, cập
bất đắc tự tại, cố ngă tạo chư
ác.
(經)雖不樂眾過,由有怖畏故,及不得自在,故我造諸惡。
(Kinh:
Tuy chẳng ham các lỗi, do v́ có sợ hăi, và chẳng được
tự tại, nên con tạo các ác).
Tán
rằng: Bài tụng thứ bảy là sám hối do sợ hăi
mà tạo ác nghiệp. Ư tuy chẳng thích tạo lỗi,
nhưng v́ sợ mất mạng, mất tiền tài, sợ
tai nạn v.v… cho nên tạo ác nghiệp. Hoặc do phận
thấp hèn, bị kẻ khác bức bách,
chẳng được tự tại, cho nên tạo ác nghiệp!
(Kinh)
Hoặc vị tháo động tâm, hoặc nhân sân khuể hận,
cập dĩ cơ khát năo, cố ngă tạo chư ác.
(經)或為躁動心,或因瞋恚恨,及以饑渴惱,故我造諸惡。
(Kinh:
Hoặc do tâm bộp chộp, hoặc do sân, bực, hận,
hoặc đói khát bức bách, nên con tạo các ác).
Tán
rằng: Bài tụng thứ tám là sám hối chuyện gây tạo
ác nghiệp do Hoặc thuộc loại Đại Tùy[5].
Bị đói khát, ham muốn bức bách, nên tạo các ác
nghiệp.
(Kinh)
Do ẩm thực, y phục, cập tham ái nữ nhân, phiền
năo hỏa sở thiêu, cố ngă tạo chư ác.
(經)由飲食衣服,及貪愛女人,煩惱火所燒,故我造諸惡。
(Kinh:
Do thức ăn, y phục, và tham ái nữ nhân, bị lửa
phiền năo đốt, nên con tạo các ác).
Tán
rằng: Bài tụng thứ chín là sám hối do tham mà gây tạo
các ác nghiệp.
(Kinh)
Ư Phật, Pháp, Tăng chúng, bất sanh cung kính tâm, tác
như thị chúng tội, ngă kim tất sám hối. Ư
Độc Giác, Bồ Tát, diệc vô cung kính tâm, tác như thị
chúng tội, ngă kim tất sám hối.
(經)於佛法僧眾,不生恭敬心,作如是眾罪,我今悉懺悔。於獨覺菩薩,亦無恭敬心,作如是眾罪,我今悉懺悔。
(Kinh:
Đối Phật, Pháp, Tăng chúng, chẳng sanh ḷng cung
kính, tạo các tội như thế, con nay đều sám hối.
Với Độc Giác, Bồ Tát, tâm cũng chẳng cung
kính, tạo các tội như thế, con nay đều sám hối).
Tán
rằng: Thứ mười, sám hối do bất kính Tam Bảo,
cho nên tạo các điều
ác.
(Kinh)
Vô tri báng chánh pháp, bất hiếu ư phụ mẫu, tác
như thị chúng tội, ngă kim tất sám hối.
(經)無知謗正法,不孝於父母,作如是眾罪,我今悉懺悔。
(Kinh:
Vô tri báng chánh pháp, bất hiếu với cha mẹ, tạo
các tội như thế, con nay đều sám hối).
Tán
rằng: Điều thứ mười một là sám hối
do Ngũ Nghịch mà tạo ác nghiệp. [Ngũ Nghịch được
nói ở đây là] theo như kinh sớ
Đại Thừa nói về Ngũ Nghịch, chẳng phải
là [tội
Ngũ Nghịch] được nói
chung trong tam thừa. Nói [Đại Thừa] Ngũ
Nghịch th́ theo như kinh Tát Giá Ni Càn Tử:
- Một
là chẳng được phá tháp, phá chùa, thiêu đốt
kinh tượng, và trộm dùng tài vật của Tam Bảo.
-
Hai là phỉ báng pháp tam thừa, nói chẳng phải là thánh
giáo, chướng ngại, gây nạn, ẩn lấp, che giấu.
- Ba
là đối với hết thảy người xuất
gia, dù là kẻ có giới, hay không có giới,
mà trách mắng, la rầy, kể lỗi, giam cầm, xua
đuổi bắt hoàn tục, quở phạt, chấm dứt
mạng sống.
- Bốn
là chẳng được sát hại cha mẹ, phá ḥa hợp
Tăng, giết A La Hán.
-
Năm là chẳng được phỉ báng “không có nhân quả”, trong đêm dài
thường hành mười nghiệp bất thiện.
“Báng
pháp” ở đây chính là tội nghịch thứ hai, bất
hiếu với cha mẹ là tội nghịch thứ tư.
(Kinh)
Do ngu si, kiêu mạn, cập dĩ tham sân lực, tác như
thị chúng tội, ngă kim tất sám hối.
(經)由愚癡憍慢,及以貪瞋力,作如是眾罪,我今悉懺悔。
(Kinh:
Do ngu si, kiêu mạn, cùng với sức tham, sân, tạo các tội
như thế, con nay đều sám hối).
Tán
rằng: Điều thứ mười hai là sám hối do tam
bất thiện căn (tham, sân, si) mà tạo ác nghiệp.
Nói “kiêu mạn” là do si bất thiện căn dấy lên; v́
thế, nêu kèm theo. Lại dựa
theo khoa đầu tiên, đây chính là bài
tụng nhằm kết lại: Các tội
đă tạo như trên đều sám hối.
(Kinh)
Ngă ư thập phương giới, cúng dường vô số
Phật, đương nguyện bạt chúng sanh, linh ly
chư khổ nạn. Nguyện nhất thiết hữu
t́nh, giai linh trụ Thập Địa, phước trí viên
măn dĩ, thành Phật đạo quần mê.
(經)我於十方界,供養無數佛,當願拔眾生,令離諸苦難。願一切有情,皆令住十地,福智圓滿已,成佛導群迷。
(Kinh:
Con trong mười phương cơi, cúng dường vô số
Phật, sẽ nguyện cứu chúng sanh, khiến ĺa các khổ
nạn. Nguyện hết thảy hữu t́nh, đều trụ
trong Thập Địa, phước trí đă viên măn, thành
Phật, dẫn quần mê).
Tán
rằng: Chín bài tụng kế đó là phần phát nguyện.
Nguyện dùng Hậu Trí (Hậu Đắc Trí), hoặc dục
giải thù thắng để làm
tự tánh của nguyện. Đă lễ kính nêu bày, cũng khởi
tam nghiệp làm Thể; sau đấy, dùng trí, dục, và
nguyện làm tự tánh của nguyện. Nguyện nơi
thân và ngữ đă dấy lên, nguyện nơi ư nghiệp
cũng tương ứng khởi theo. V́ thế, đều
gọi là Nguyện. Nếu không, sao lại gồm thâu? Trong
phần này, chia thành ba đoạn:
-
Hai bài tụng đầu nói về chuyện lợi lạc
chúng sanh.
- Một
bài tụng về nguyện khiến cho chúng sanh ĺa khổ.
- Một
bài tụng nguyện làm cho họ được vui.
(Kinh)
Ngă vị chư chúng sanh, khổ hạnh bách thiên kiếp,
dĩ đại trí huệ lực, giai linh xuất khổ
hải. Ngă vị chư hàm thức, diễn thuyết thậm
thâm kinh, tối thắng Kim Quang Minh, năng trừ chư
ác nghiệp.
(經)我為諸眾生,苦行百千劫,以大智慧力,皆令出苦海。我為諸含識,演說甚深經,最勝金光明,, 能除諸惡業。
(Kinh:
Con v́ các chúng sanh, khổ hạnh trăm ngàn kiếp, dùng sức
đại trí huệ, khiến đều thoát biển khổ.
Con v́ các hàm thức, diễn nói kinh rất sâu, Kim Quang Minh tối
thắng, hay trừ các ác nghiệp).
Tán
rằng: Hai bài tụng kế đó nói về nguyện khởi
hạnh. Một bài tụng là phát nguyện v́ chúng sanh mà tu
phước trí, bài tụng kia là nguyện v́ chúng sanh nói
chánh pháp.
(Kinh)
Nhược nhân bách thiên kiếp, tạo
chư cực trọng tội, tạm thời năng phát lộ,
chúng ác tận tiêu trừ. Y thử Kim Quang Minh, tác như thị
sám hối, do tư năng tốc tận, nhất thiết
chư khổ nghiệp. Thắng định bách thiên chủng,
bất tư nghị Tổng Tŕ, Căn, Lực, Giác, Đạo, Chi, tu tập thường vô quyện.
(經)若人百千劫,造諸極重罪,暫時能發露,眾惡盡消除。依此金光明,作如是懺悔,由斯能速盡,一切諸苦業。勝定百千種,不思議總持,根力覺道支,修習常無倦。
(Kinh:
Nếu ai trăm ngàn kiếp, tạo các tội cực nặng,
tạm thời hay phát lộ, các ác đều tiêu sạch. Nương Kim Quang Minh này, hành sám hối như
thế, do vậy mau chóng sạch, hết thảy các nghiệp khổ. Trăm ngàn thứ
Thắng Định, Tổng Tŕ chẳng nghĩ bàn, Căn,
Lực, Giác, Đạo, Chi, tu tập thường chẳng mệt).
Tán
rằng: Ba bài tụng kế đó là nguyện người
khác tu hành. Hai bài tụng đầu là nguyện khuyên người
khác diệt ác. Bài tụng cuối
là khuyên người khác tu thiện.
(Kinh)
Ngă đương chí Thập Địa, cụ túc trân bảo
xứ, viên măn Phật công đức, tế độ sanh
tử lưu. Ngă ư chư Phật hải, thậm thâm
công đức tạng, diệu trí nan tư nghị, giai
linh đắc cụ túc.
(經)我當至十地,具足珍寶處,圓滿佛功德,濟度生死流。我於諸佛海,甚深功德藏,妙智難思議,皆令得具足。
(Kinh:
Con sẽ đạt Thập Địa, chỗ đầy
đủ trân bảo, công đức Phật viên măn, tế
độ phường sanh tử. Con trong biển chư Phật,
tạng công đức rất sâu, diệu trí khó nghĩ bàn,
khiến đều được đầy đủ).
Tán
rằng: Hai bài tụng kế đó là nguyện cái quả của
chính ḿnh viên măn. Bài tụng thứ nhất là nguyện cái
nhân được viên măn để lợi lạc chúng
sanh. Bài tụng sau là nguyện cái quả viên măn tự trọn
đủ. Tuy nói chung cho ta lẫn người, nhưng nay cốt ư là khiến
cho ta tự trọn đủ. Trước đó đă nguyện
khiến cho chúng sanh trụ trong Thập Địa, phước
trí viên măn tức là “đă
thành Phật”,
hướng dẫn quần mê đă xong.
5.4.4.2.2.2.2.2.2. Sám hối
Nghiệp Chướng
(Kinh)
Duy nguyện thập phương Phật, quán sát hộ niệm
ngă, giai dĩ đại bi tâm, ai thọ ngă sám hối.
(經)唯願十方佛,觀察護念我,皆以大悲心,哀受我懺悔。
(Kinh:
Kính mong mười phương Phật, quan sát hộ niệm
con, đều dùng tâm đại bi, thương nhận con
sám hối).
Tán
rằng: Kế đó có mười ba bài tụng. Đoạn
“phục thứ” thứ hai phần nhiều là sám hối
nghiệp chướng. Kinh văn chia thành bốn đoạn:
-
Mười bài tụng đầu nhằm nói về sám hối.
- Một
bài tụng kế đó nói tùy hỷ,
- Một
bài tụng nói về phát nguyện.
-
Bài tụng cuối cùng là hồi hướng.
Trong
tiểu đoạn sám hối, lại chia thành ba phần.
Đây là bài tụng thứ nhất “xin gia hộ và trần
thuật ư nương tựa”.
(Kinh)
Ngă ư đa kiếp trung, sở tạo chư ác nghiệp,
do tư sanh khổ năo, ai mẫn nguyện tiêu trừ.
(經)我於多劫中,所造諸惡業,由斯生苦惱,哀愍願消除。
(Kinh:
Con đă trong nhiều kiếp, gây tạo các ác nghiệp; do vậy, sanh khổ
năo, nguyện xót thương tiêu trừ).
Tán
rằng: Kế đó là tám bài tụng nói về sám hối.
Lại chia thành bốn đoạn, bài tụng thứ nhất
này nêu chung sự sám nguyện.
(Kinh)
Ngă tạo chư ác nghiệp, thường sanh ưu bố
tâm, ư tứ oai nghi trung, tằng vô hoan lạc
tưởng.
(經)我造諸惡業,常生憂怖心,於四威儀中,曾無歡樂想。
(Kinh:
Con tạo các ác nghiệp, thường sanh ḷng sợ lo,
trong bốn thứ oai nghi, chưa từng nghĩ vui sướng).
Tán
rằng: Bài tụng kế đó, trần thật chính ḿnh
lo nghĩ sâu đậm.
(Kinh)
Chư Phật cụ đại bi, năng trừ chúng sanh
bố, nguyện thọ ngă sám hối, linh đắc ly
ưu khổ.
(經)諸佛具大悲,能除眾生怖,願受我懺悔,令得離憂苦。
(Kinh:
Chư Phật trọn đại bi, trừ sợ cho chúng
sanh, xin cho con sám hối, khiến được ĺa ưu
khổ).
Tán
rằng: Xin nguyện, hứa hối cải.
(Kinh)
Ngă hữu Phiền Năo Chướng, cập dĩ chư báo
nghiệp, nguyện dĩ đại bi thủy, tẩy trạc
linh thanh tịnh.
(經)我有煩惱障,及以諸報業,願以大悲水,洗濯令清淨。
(Kinh:
Con có Phiền Năo Chướng, cùng với các báo nghiệp,
nguyện dùng nước đại bi, gột rửa khiến
thanh tịnh).
Tán
rằng: Năm bài tụng kế đó là nguyện sám hối
hầu trừ diệt. Lại chia thành bốn đoạn,
bài tụng thứ nhất này là nguyện sám hối diệt
trừ tam chướng. Phật dùng đại bi diệt lửa
tam chướng, lại trừ tội cấu; v́ thế,
sánh ví [đại bi] như nước.
(Kinh)
Ngă tiên tác chư tội, cập hiện tạo ác nghiệp,
chí tâm giai phát lộ, hàm nguyện đắc quyên trừ. Vị
lai chư ác nghiệp, pḥng hộ linh bất khởi, thiết
linh hữu vi giả, chung bất cảm phú tàng.
(經)我先作諸罪,及現造惡業,至心皆發露,咸願得蠲除。未來諸惡業,防護令不起,設令有違者,終不敢覆藏。
(Kinh:
Con trước tạo các tội, và ác nghiệp nay tạo,
đều chí tâm phơi bày, đều nguyện trừ sạch
hết. Các ác nghiệp vị lai, ngăn ngừa khiến
chẳng khởi, nếu như có trái phạm, trọn chẳng
dám che giấu).
Tán
rằng: Hai bài tụng kế tiếp là nguyện sám hối
tội trong ba đời. “Quyên” (蠲)
cũng là Trừ. Tội đă tạo trong quá khứ và hiện
tại đều sám hối, nguyện trừ diệt. Vị
lai chưa tạo tội, nguyện sám hối, ngăn ngừa,
khiến cho chúng chẳng dấy lên.
(Kinh)
Thân tam, ngữ tứ chủng, ư nghiệp phục hữu
tam, hệ phược chư hữu t́nh, vô thỉ hằng
tương tục. Do tư tam chủng hạnh, tạo tác
thập ác nghiệp, như thị chúng đa tội, ngă kim
giai sám hối.
(經)身三語四種,意業復有三,繫縛諸有情,無始恒相續。由斯三種行,造作十惡業,如是眾多罪,我今皆懺悔。
(Kinh:
Thân ba, ngữ bốn loại, ư nghiệp lại có ba, trói
buộc các hữu t́nh. Vô thỉ luôn liên
tục. Do ba loại hạnh ấy, tạo tác mười
nghiệp ác, các tội nhiều như thế, con nay đều
sám hối).
Tán
rằng: Hai bài tụng kế tiếp là sám hối tội
nơi tam nghiệp, tức là giống như quyển thứ
tư của bộ Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận[6]
giảng về sám hối như sau: “Ba lần ba hợp
thành chín loại, từ ba thứ phiền năo mà khởi”. “Hợp
thành chín loại” tức là ba nghiệp trên đây cùng với
ba đời, và ba thứ báo nghiệp, tức là thuận
sanh hiện hậu thọ nghiệp[7],
hợp thành chín thứ. Nay cộng thêm ba chướng, loại
trừ ba thứ báo nghiệp. Kinh này nói theo tổng, c̣n luận
ấy (Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận) nói theo “thọ” (hứng chịu),
[cho nên] có khác biệt. V́ thế, đều thành chín,
nhưng đôi bên chẳng mâu thuẫn. Chín thứ ấy
đều từ tham, sân, si khởi, nên nói là “tùng tam phiền năo khởi” (từ ba
phiền năo mà khởi).
Luận
ấy lại nêu câu hỏi: “Trong ba thứ thuận thọ,
có định và bất định, cớ sao sám hối mà
trừ được?” Luận ấy đáp rằng: “Cũng
chẳng phải là đều diệt. Nếu là định
báo (quả báo nhất định phải lănh
chịu), nguyện dùng thân hiện tại đền bồi.
Đó cũng
chính là dựa theo báo cố định,
nhưng thời bất định[8]
để nói. Nếu thời và báo đều cố định,
sẽ chẳng bàn đến. Xét theo trung dung sám hối mà
nói, nếu có thể tăng thượng sám, tội sẽ
đều trừ”. Kinh Niết Bàn dạy:
“Nhược nhập ngă pháp, tức bất quyết
định” (Nếu vào trong pháp của ta, tức là chẳng
quyết định). Luận Du Già Sư Địa lại
nói: “Dựa theo kẻ chưa giải thoát mà kiến lập
báo cố định”. Điều này có nghĩa là xét
theo kẻ chưa gieo phần giải thoát, dựa theo
đó mà lập ra định báo nghiệp (nghiệp dẫn
đến quả báo cố định). Nếu
đối với người đă gieo phần giải
thoát, nói chung là bất định. Nếu chẳng vậy,
sao hữu t́nh lại
có thể tu trong ba đời bèn nhập thánh? Chẳng phải
là đều chỉ có quả báo cố định trong ba
đời! Ư nghĩa của mười nghiệp đạo
như trong phần
Biệt Chương [của luận ấy đă nói].
(Kinh)
Ngă tạo chư ác nghiệp, khổ báo đương tự
thọ, kim ư chư Phật tiền, chí thành giai sám hối.
(經)我造諸惡業,苦報當自受,今於諸佛前,至誠皆懺悔。
(Kinh:
Con tạo các ác nghiệp, sẽ tự chịu khổ báo,
nay đối trước chư Phật, đều chí
thành sám hối).
Tán
rằng: Bài tụng kế đó thuộc về phần tự
kết lại sự sám hối.
(Kinh) Ư thử Thiệm
Bộ châu, cập tha phương
thế giới, sở hữu chư thiện nghiệp, kim
ngă giai tùy hỷ.
(經)於此贍部洲,及他方世界,所有諸善業,今我皆隨喜。
(Kinh: Trong Thiệm Bộ
châu này, và thế giới phương khác, tất cả các
thiện nghiệp, nay con đều tùy hỷ).
Tán rằng: Trong đoạn “phục
thứ” thứ hai, điều thứ hai là tùy hỷ. “Tùy”
là thuận theo, “hỷ” là vui mừng. “Tùy” dùng ba
pháp Tín, Dục, và Thắng
Giải làm Thể.
Do đó, Thành Duy Thức viết: “Nếu xét
theo sự
ấn khả th́ Thể chính là thắng
giải. Nếu xét theo sự ưa thích
th́ Thể chính là dục”. Nhẫn
đă là cái nhân của Tín, Dục chính là cái quả của
Tín. V́ thế, Tín và nhân quả là Thể của Tùy. Hỷ tức
là hỷ thọ (vui mừng tiếp nhận), hoặc Hỷ
ấy chưa ắt phải là hỷ thọ, nhưng trong
mỗi tâm niệm luôn tụ tập, giả lập sự
vui mừng, cho nên gọi là Hỷ. Hoặc [có thể hiểu
Hỷ] là chẳng ganh ghét. V́ thế, Hỷ vô lượng,
dùng “chẳng ganh ghét” làm Thể. Cách giải thích ấy
là đúng. Do Tùy mà sanh ra Hỷ, tức là Hỷ do Tùy, hoặc
là vừa tùy vừa hỷ, bèn gọi là Tùy Hỷ.
(Kinh)
Nguyện ly thập ác nghiệp, tu hành Thập Thiện
đạo, an trụ Thập Địa trung, thường
kiến thập phương Phật.
(經)願離十惡業,修行十善道,安住十地中,常見十方佛。
(Kinh:
Nguyện ĺa mười ác nghiệp, tu hành Thập Thiện
đạo, an trụ trong Thập Địa, thường
thấy mười phương Phật).
Tán
rằng: Phần thứ ba là phát nguyện.
(Kinh)
Ngă dĩ thân, ngữ, ư, sở tu phước trí nghiệp,
nguyện dĩ thử thiện căn, tốc thành vô
thượng huệ.
(經)我以身語意,所修福智業,願以此善根,速成無上慧。
(Kinh:
Con dùng thân, ngữ, ư, tu tập nghiệp phước trí,
nguyện dùng thiện căn ấy, mau thành vô thượng
huệ).
Tán
rằng: [Đây là] hồi hướng, dùng Hậu Đắc
Trí làm Thể. Lại có thể hiểu rằng: Hai bài tụng
đều là phát nguyện, trước là nhân, sau là quả.
5.4.4.2.2.2.2.3. Sám hối
Báo Chướng
(Kinh)
Ngă kim thân đối Thập Lực tiền, phát lộ
chúng đa khổ nạn sự.
(經)我今親對十力前,發露眾多苦難事。
(Kinh:
Con nay đối trước đấng Thập Lực, bộc
bạch rất nhiều chuyện khổ nạn).
Tán
rằng: Bốn mươi hai bài tụng sau đây chính là
đoạn “phục thứ” thứ ba, giảng cặn
kẽ sám nguyện, phần nhiều là sám hối Báo Chướng.
Kinh văn chia thành năm đoạn:
- Bốn
bài tụng đầu là hối lỗi.
-
Mười một bài tụng kế đó, tán thán công đức
của Phật.
-
Hai mươi lăm bài tụng kế đó là phát nguyện.
-
Bài tụng kế đó là tùy hỷ.
-
Bài tụng kế đó là hồi hướng.
Trong
phần đầu là Sám Hối, kinh văn lại chia thành
ba phần. Nửa bài tụng đầu tiên
là nêu chung sự quy kính, dốc ḷng thành.
(Kinh)
Phàm ngu mê hoặc tam hữu nạn, hằng tạo cực
trọng ác nghiệp nạn, ngă sở tích tập dục tà
nạn, thường khởi tham ái lưu chuyển nạn,
ư thử thế gian đam trước nạn, nhất
thiết ngu phu phiền năo nạn, cuồng tâm tán động
điên đảo nạn. Cập dĩ thân cận ác hữu
nạn, ư sanh tử trung tham nhiễm nạn, sân si ám
độn tạo tội nạn, sanh bát vô hạ ác xứ
nạn, vị tằng tích tập công đức nạn.
(經)凡愚迷惑三有難,恒造極重惡業難,我所積集欲邪難,常起貪愛流轉難,於此世間耽著難,一切愚夫煩惱難,狂心散動顛倒難,及以親近惡友難,於生死中貪染難,瞋癡暗鈍造罪難,生八無暇惡處難,未曾積集功德難。
(Kinh:
Nạn phàm phu mê hoặc ba cơi, nạn luôn tạo ác nghiệp
cực nặng, nạn do ngă sở chất chứa dục, nạn
thường khởi tham ái lưu chuyển, nạn đắm
chấp chốn thế gian này, nạn hết thảy ngu
phu phiền năo, nạn tâm cuồng tán loạn, điên đảo,
và nạn thân cận bạn
bè ác, nạn tham nhiễm trong chốn sanh tử, nạn
sân, si, ngu tối tạo tội, nạn sanh ác xứ “tám chẳng
nhàn”, nạn chưa từng tích tập công đức).
Tán
rằng: Ở đây, ba bài tụng để
nói riêng về sám hối các nạn. Mười
hai câu trong ba bài tụng, cứ mỗi câu là một nạn:
- Một,
nạn phàm phu chẳng thông hiểu khổ quả.
-
Hai, nạn luôn tạo ác nghiệp trong thời gian dài.
-
Ba, nạn tích tập do chấp trước ngă sở.
- Bốn,
nạn do tham mà lưu chuyển trong tam
giới.
-
Năm, nạn do tham đắm lạc quả trong thế
gian.
-
Sáu, nạn do nương vào thân
phàm, dấy khởi Hoặc.
- Bảy,
nạn do tà tâm mà dấy động cái tâm tán loạn, xao
động, điên đảo.
-
Tám, nạn bị bạn ác thâu tóm.
-
Chín, nạn do chẳng hiểu sanh tử, bị đắm
nhiễm.
- Mười,
nạn do tam độc mà tạo tội.
-
Mười một, nạn ác báo do sanh vào chốn “vô hạ”
(chẳng an nhàn)[9].
-
Mười hai, nạn do từ vô thỉ chưa từng
gieo nhân lành.
Điều
này có nghĩa là do ác nghiệp nên sanh vào
chốn “vô hạ”.
Do chẳng tu thiện mà dấy lỗi. Do vậy, nay đều
sám.
(Kinh)
Ngă kim giai ư Tối
Thắng
tiền, sám hối vô biên tội ác nghiệp.
(經)我今皆於最勝前,懺悔無邊罪惡業。
(Kinh:
Con nay đối trước đấng Tối Thắng,
sám hối vô biên tội ác nghiệp).
Tán
rằng: Từ nửa sau bài tụng này trở đi là sám
hối các lầm lỗi.
(Kinh)
Ngă kim quy y chư Thiện Thệ, ngă lễ đức hải
Vô Thượng Tôn, như đại kim sơn chiếu thập
phương, duy nguyện từ bi ai nhiếp thọ.
(經)我今歸依諸善逝,我禮德海無上尊,如大金山照十方,唯願慈悲哀攝受。
(Kinh:
Con nay quy y các Thiện Thệ, con lễ đức Vô
Thượng biển đức, như núi vàng to chiếu mười
phương, kính nguyện từ bi thương nhiếp thọ).
Tán
rằng: Mười một bài tụng từ đây trở
đi tán thán công đức của Phật. Kinh văn chia
thành ba phần:
-
Bài tụng thứ nhất nêu chung về sự lễ tán.
-
Năm bài tụng kế tiếp là thuận theo từng phần
công đức thấy được mà tán thán.
-
Năm bài tụng cuối tán thán Phật đức hiển
lộ vô cùng.
Bài
tụng này thuộc phần thứ nhất.
(Kinh)
Thân sắc kim quang tịnh vô cấu, mục như thanh tịnh
cám lưu ly, cát tường oai đức danh xưng tôn,
đại bi huệ nhật trừ chúng ám.
(經)身色金光淨無垢,目如清淨紺瑠璃,吉祥威德名稱尊,大悲慧日除眾闇。
(Kinh:
Thân sắc kim quang sạch, chẳng nhơ. Mắt như
lưu ly biếc thanh tịnh. Đấng danh xưng oai
đức cát tường, huệ nhật đại bi trừ
các tối).
Tán
rằng: Thuận theo công đức đă trông thấy
để tán thán. Tán thán mười ba loại đức. Ở
đây có bốn ư:
-
Câu thứ nhất tán thán phẩm đức thân thể có
kim quang.
-
Câu kế tiếp tán thán phẩm đức mắt biếc
thanh tịnh.
-
Câu kế tiếp tán thán phẩm đức về oai thế
và thanh danh.
-
Câu cuối cùng tán thán phẩm đức bi trí phá trừ tối
tăm.
(Kinh) Phật nhật quang minh thường
phổ biến, thiện tịnh vô cấu ly chư trần,
Mâu Ni nguyệt chiếu cực thanh lương, năng trừ
chúng sanh phiền năo nhiệt.
(經)佛日光明常普遍,善淨無垢離諸塵,牟尼月照極清涼,能除眾生煩惱熱。
(Kinh:
Phật nhật quang minh thường trọn khắp, lành,
sạch, vô cấu, ĺa các trần, trăng Mâu Ni chiếu tột
trong mát, trừ nóng phiền năo cho chúng sanh).
Tán
rằng: Ở đây có hai đức: Nửa đầu của
bài tụng tán thán đức “trí trọn khắp, ĺa nhiễm”.
Nửa sau bài tụng thán đức “khiến cho [chúng
sanh] chứng Niết Bàn”. Đức
Mâu Ni có thể dùng Niết Bàn thanh lương để trừ
nóng bức phiền năo của chúng sanh.
(Kinh)
Tam thập nhị tướng biến trang nghiêm, bát thập
tùy hảo giai viên măn, phước đức nan tư vô dữ
đẳng, như nhật lưu quang chiếu thế gian.
(經)三十二相遍莊嚴,八十隨好皆圓滿,福德難思無與等,如日流光照世間。
(Kinh:
Ba mươi hai tướng trang nghiêm khắp, tám
mươi tùy hảo đều viên măn, phước đức
khó nghĩ không chi sánh, như
vầng dương rực chiếu
cơi đời).
Tán
rằng: Ở đây có ba đức. Nửa bài tụng
đầu tán thán đức “ba mươi hai tướng”.
Câu kế tiếp tán thán đức “tám mươi tùy hảo”.
Nửa sau bài tụng tán thán đức “thành tựu hữu
t́nh”. Như Đại Trang Nghiêm Luận nói: “Ví như
vầng mặt trời rạng rỡ, phát tâm tương ứng
với Tứ Nhiếp cũng giống như thế. Như
mặt trời khiến cho ngũ cốc
chín rộ, thành tựu chúng sanh”. Cũng như kinh Tăng Nhất A Hàm (Ekottara-āgama) dạy: “Nhật xuất hữu tứ sự: Nhất
giả, nhật xuất thời, chúng minh tất trừ. Nhị, nông phu tác vụ. Tam, bách điểu tất minh. Tứ,
anh nhi đề khốc. Phật cáo chư tỳ-kheo: -
Nhược nhật xuất thời,
chúng minh trừ giả, dụ Phật xuất thế, trừ
khử si ám, mỵ bất minh chiếu nhân dân chi loại.
Phổ cộng tác điền giả, thí đàn việt thí
chủ tùy thời cung cấp y phục, ẩm thực, sàng
tịch, ngọa cụ, bệnh duyên y dược. Bách
điểu minh giả, thí như cao đức chư pháp
sư đẳng, năng vị tứ chúng,
thuyết vi diệu pháp. Anh nhi đề giả, thử dụ
tệ ma kiến Phật xuất thế, tâm đại sầu
năo” (Mặt trời mọc lên có bốn sự:
Một, khi mặt trời mọc, các tối tăm đều
trừ. Hai, nông phu làm lụng. Ba, trăm loài chim đều
kêu. Bốn là trẻ nhỏ khóc lóc. Đức Phật bảo
các tỳ-kheo: “Như khi mặt trời mọc, các tối
tăm đều trừ, ví như Phật xuất thế,
trừ khử si ám, không ǵ chẳng soi sáng các loài nhân dân.
Cùng nhau làm ruộng là ví như đàn việt thí chủ tùy
thời cung cấp y phục, thức ăn, giường
chiếu, đồ trải nằm, các thuốc men khi bệnh
tật. Trăm chim kêu là ví như các pháp sư đức hạnh
cao quư có thể v́ tứ chúng nói pháp vi diệu. Trẻ nhỏ
khóc là ví như loài ma hèn tệ thấy Phật xuất thế,
tâm hết sức sầu năo”).
(Kinh)
Sắc như lưu ly tịnh vô cấu, do như măn nguyệt
xử hư không, diệu pha lê vơng ánh kim khu, chủng chủng
quang minh dĩ nghiêm sức.
(經)色如瑠璃淨無垢,猶如滿月處虛空,妙玻瓈網映金軀,種種光明以嚴飾。
(Kinh:
Sắc như lưu ly sạch, vô cấu. Giống như
trăng tṛn giữa hư không. Lưới pha lê đẹp
rực thân vàng, các thứ quang minh để trang nghiêm).
Tán
rằng: Ở đây có hai đức. Nửa đầu
bài tụng tán thán đức “thuận theo cảm ứng
mà hiện” như trong phẩm Nguyệt Dụ (thí dụ
về mặt trăng) của kinh Niết Bàn đă nói về
trăng tṛn hay trăng bán nguyệt. Nửa sau bài tụng
tán thán đức “diễm
vơng trang nghiêm” (lưới
lửa sáng rực trang nghiêm). “Diệu pha-lê, bạch hồng sắc”
(Diệu pha lê sắc
trắng chen hồng),
như kinh Pháp Hoa nói: “Như tịnh lưu ly trung, nội
hiện chân kim tượng” (như trong lưu ly sạch,
hiện h́nh tượng vàng ṛng) v.v…
(Kinh)
Ư sanh tử khổ bộc
lưu nội, lăo bệnh ưu sầu thủy sở phiêu,
như thị khổ hải nan kham nhẫn, Phật nhật
thư quang linh vĩnh kiệt.
(經)於生死苦暴流內,老病憂愁水所漂,如是苦海難堪忍,佛日舒光令永竭。
(Kinh:
Ở trong ḍng thác sanh tử khổ, nước già bệnh,
ưu sầu cuốn trôi, biển khổ như thế khó
chịu đựng, Phật nhật tỏa sáng, măi khô cạn).
Tán
rằng: Bài tụng này tán thán đức “đoạn sanh
tử cho người khác”. Nói “bộc
lưu” tức là
bốn ḍng thác:
- Một
là ḍng thác Dục, tức Tu Hoặc trong Dục Giới.
-
Hai là Hữu, tức Tu Hoặc trong hai giới trên (Sắc
Giới và Vô Sắc Giới).
- Ba
là Kiến, tức phiền năo thuộc Kiến Đạo
trong tam giới.
- Bốn
là ḍng thác vô minh, tức Kiến
Tu Vô Minh trong tam giới.
Xét
theo đó, ba thứ đầu đều là trừ vô minh,
nhưng trong các luận đều nói Hoặc là ḍng thác;
đó là xét theo nhân. Ở đây nói nỗi khổ sanh tử
là “ḍng thác”, tức
là bàn theo quả. Hoặc có thể hiểu nhân quả gọi
gộp chung là “sanh
tử”. Lăo bệnh ưu sầu
cuốn trôi, nhấn ch́m hữu t́nh như ḍng thác, sâu rộng
khó vượt qua như biển khổ. Quyển thứ bảy
mươi của luận
Du Già Sư Địa nói: “Năm pháp tương tự
biển cả sanh tử, được gọi là ‘biển
cả’: Một, nơi chốn
không bờ bến tương tự.
Hai, rất sâu
tương tự. Ba, khó vượt
qua tương tự. Bốn, chẳng
thể ăn tương tự. Điều này có nghĩa
là biển cả đều khổ, đều chẳng thể
ăn. Sanh tử cũng thế, đều chẳng thể
vui. Năm là ‘chốn để
các món báu lớn nương vào’ tương
tự (ư nói: Hết thảy các báu đều [xuất phát] từ
biển, ở trong sanh tử th́ mới đạt
được công đức của tam thừa)”.
Trong năm nghĩa ấy, do bốn nghĩa đầu mà
nói “nan kham nhẫn” (khó chịu đựng). Ánh sáng của
mặt trời trí huệ chiếu rực,
khiến cho [biển khổ sanh tử] khô cạn.
(Kinh)
Ngă kim khể thủ Nhất Thiết Trí, tam thiên thế giới
hy hữu tôn, quang minh hoảng diệu tử kim thân, chủng
chủng diệu hảo giai nghiêm sức.
(經)我今稽首一切智,三千世界希有尊,光明晃耀紫金身,種種妙好皆嚴飾。
(Kinh:
Con nay kính lễ Nhất Thiết Trí, đấng hy hữu
trong cơi tam thiên, quang minh chói lọi thân tử kim, các thứ
diệu hảo đều trang nghiêm).
Tán
rằng: Năm bài tụng kế đó tán thán “hiển hiện
phẩm đức vô cùng”.
Chia thành hai phần, phần này là quy mạng, kính lễ, tán
thán chung.
(Kinh)
Như đại hải thủy lượng nan tri, đại
địa vi trần bất khả sổ, như Diệu
Cao sơn phả xứng lượng, diệc như hư
không vô hữu tế. Chư Phật công đức diệc
như thị. Nhất thiết hữu t́nh bất năng
tri. Ư vô lượng kiếp đế tư duy, vô hữu
năng tri đức hải ngạn, tận thử đại
địa chư sơn nhạc, tích như vi trần
năng toán tri. Mao đoan trích hải thượng khả
lượng, Phật chi công đức vô năng sổ. Nhất
thiết hữu t́nh giai cộng tán, Thế Tôn danh xưng
chư công đức, thanh tịnh tướng hảo diệu
trang nghiêm, bất khả xưng lượng tri phận tề.
(經)如大海水量難知,大地微塵不可數,如妙高山叵稱量,亦如虛空無有際。諸佛功德亦如是,一切有情不能知,於無量劫諦思惟,無有能知德海岸。盡此大地諸山嶽,析如微塵能算知,毛端渧海尚可量,佛之功德無能數。一切有情皆共讚,世尊名稱諸功德,清淨相好妙莊嚴,不可稱量知分齊。
(Kinh:
Như nước biển cả khó biết lượng,
đại địa vi trần chẳng thể đếm.
Như núi Diệu Cao há cân lường? Cũng như hư
không chẳng ngằn mé. Công đức chư Phật
cũng như thế, hết thảy hữu t́nh chẳng
biết nổi! Trong vô lượng kiếp suy nghĩ kỹ,
chẳng ai biết được mé biển đức. Hết
thảy núi non trong đại địa, nghiền thành vi
trần, tính nổi số, giọt nước đầu
lông c̣n tính được, công đức của Phật chẳng
thể đếm. Hết thảy hữu t́nh cùng ca ngợi,
danh xưng, công đức của Thế Tôn, tướng hảo
thanh tịnh, diệu trang nghiêm, chẳng thể tính kể,
biết ngằn mé).
Tán
rằng: Bốn bài tụng kế đó, trần thuật
các đức để tán thán riêng. Bốn bài tụng là bốn
đoạn:
-
Bài tụng thứ nhất tán thán công đức của Phật
vượt ngoài thí dụ.
-
Bài tụng kế tiếp tán thán công đức ấy
vượt ngoài sự suy tính thuộc về t́nh kiến.
-
Bài tụng kế tiếp tán
thán công đức ấy vượt ngoài
sự tính toán.
-
Bài tụng kế tiếp tán thán công đức ấy chẳng
thể diễn tả được!
Đại
để, giống như bốn phần “vượt
quá” được nói trong Kim Cang Bát Nhă Kinh Luận. Lại
nữa, bài tụng thứ nhất có thể hiểu là theo
thứ tự tán thán Tứ Đức “thường,
lạc, ngă, tịnh” của
Phật, hoặc gộp chung cả bốn đức. Có bốn
loại:
- Một,
đức sâu như biển.
-
Hai, đức nhiều như bụi.
-
Ba, đức cao như núi.
- Bốn,
đức rộng như hư không.
Như
quyển thứ tư kinh Bảo Vân[10]
đă nói: “Bồ Tát phục hữu thập pháp, thí
như đại hải. Hà đẳng vi thập? Nhất
thị đại bảo tạng, nhị thâm quảng nan
độ, tam quảng đại vô biên, tứ thứ
đệ tiệm thâm, ngũ bất dữ phiền năo
đồng xứ nhi túc, lục tịch diệt nhất
tướng, thất chúng lưu cạnh chú giai tất dung
thọ, bát triều bất thất thời, cửu năng
vị tha nhân tác đại quy xứ, thập nhi vô kiệt
tận. Vân hà thị đại bảo tạng? Diệc như
đại hải, chúng bảo xuất trung, nhân thủ bất
giảm. Bồ Tát diệc nhĩ, vô biên chúng sanh tín tâm tu
hành, công đức bảo tạng diệc phục bất
giảm. Thí như đại hải thâm quảng nan độ,
Bồ Tát diệc nhĩ, trí độ đại hải
thiên ma, ngoại đạo vô năng độ giả.
Như hải vô biên, Bồ Tát diệc nhĩ, công đức
trí huệ quảng đại vô biên. Như hải tiệm
thâm, Bồ Tát diệc nhĩ, thành Nhất Thiết Chủng
Trí dĩ tiệm chuyển thâm. Thí như đại hải
bất
túc tử thi, Bồ Tát pháp hải nhất thiết kết
lậu phiền năo tử thi, cập ác
tri thức diệc bất đồng túc. Thí như đại
hải, chúng lưu chú trung, giai đồng nhất vị,
Bồ Tát diệc nhĩ, nhất thiết công đức
chí Chủng Trí hải, diệc đồng nhất vị.
Thí như đại hải năng dung chúng lưu, nhiên bất
tăng giảm, Bồ Tát diệc nhĩ, thính thọ nhất
thiết Phật pháp, diệc vị chúng thuyết, nhi vô
tăng giảm. Thí như đại hải, triều bất
thất thời, Bồ Tát diệc nhĩ, ư sở thành
tựu chúng sanh, diệc triều bất quá hạn. Thí
như đại hải nhất thiết đại thân y
chỉ quật trạch, Bồ Tát diệc nhĩ, vi nhất
thiết đại tâm chúng sanh tác y chỉ quật trạch.
Thí như đại hải vô hữu cùng tận, Bồ Tát
diệc nhĩ, vi nhất thiết chúng sanh tùy ưng thuyết
pháp, vô hữu cùng tận” (Bồ Tát lại có mười
pháp ví như biển cả. Những ǵ là mười? Một
là kho báu lớn, hai là sâu rộng khó vượt qua, ba là rộng
lớn vô biên, bốn là lần lượt sâu dần,
năm là chẳng ở chung với phiền năo, sáu là nhất tướng
tịch diệt, bảy là các gịng nước đua nhau
đổ vào mà [biển] đều dung nạp, tám là thủy
triều chẳng sai thời, chín là có thể làm chỗ quy
y to lớn cho người khác, mười là chẳng cùng kiệt.
Thế nào là kho báu lớn? Cũng như biển cả sanh
ra các thứ báu, người lấy chẳng giảm. Bồ
Tát cũng thế, vô biên chúng sanh tín tâm tu hành, kho báu công
đức cũng lại chẳng giảm. Ví như biển
cả sâu rộng khó vượt qua, Bồ Tát cũng thế,
thiên ma, ngoại đạo chẳng thể vượt qua
biển cả trí độ. Như biển không có bờ
mé, Bồ Tát cũng thế, công đức trí huệ rộng
lớn vô biên. Như biển sâu dần, Bồ Tát cũng thế,
thành Nhất Thiết Chủng Trí chuyển thành sâu dần.
Ví như biển cả chẳng chứa xác chết, hết
thảy xác chết kết lậu phiền năo và ác tri thức
cũng chẳng thể cùng ở trong biển pháp của Bồ
Tát. Ví như biển cả, các gịng nước đổ
vào đều [trở thành] cùng một vị, Bồ Tát
cũng thế, hết thảy công đức vào biển Chủng
Trí cũng đều có cùng một vị. Ví như biển
cả có thể dung nạp các gịng chảy, nhưng chẳng
tăng giảm, Bồ Tát cũng thế, nghe nhận hết
thảy Phật pháp, cũng v́ đại chúng nói, nhưng
chẳng tăng giảm. Ví như biển cả thủy
triều chẳng trái thời, Bồ Tát cũng thế,
đối với chuyện thành tựu chúng sanh, thủy
triều cũng chẳng quá hạn. Ví như đại hải
là sào huyệt nương náu của các chúng sanh thân thể
to lớn, Bồ Tát cũng thế, là sào huyệt
nương náu cho hết thảy đại tâm chúng sanh. Ví
như biển cả chẳng có cùng tận, Bồ Tát
cũng thế, v́ hết thảy chúng sanh theo đúng lẽ
thuyết pháp chẳng có cùng tận).
Chuẩn
theo ư nghĩa của đoạn kinh văn ấy, tức
là nói đến [công đức] của Phật. V́ sao biết?
Nói “Chủng Trí nhất
vị”
và “xác chết kết lậu
đều chẳng thể chứa”! Bồ Tát lưu Hoặc[11]
cho tới khi hết Hoặc, do chưa thành Nhất Thiết
Chủng Trí. Nói “Bồ Tát” tức xét theo cái nhân mà
đặt tên, hoặc có thể hiểu là bao gồm nhân quả.
Do có mười nghĩa ấy, cho nên tán thán “giống
như biển”. Nay kinh này xét theo ư nghĩa
thứ ba, tức
“nhất vị” giống như biển, những
điều khác lược đi, chẳng nhắc tới.
Nếu xét theo Đại Trang Nghiêm Luận nói: “Ví như
biển cả, phát tâm tương ứng với Nhẫn Ba
La Mật cũng giống như thế. Do đối với
những kẻ đến trái nghịch, tâm bất động.
Ví như đại địa, tối sơ phát tâm cũng
giống như thế, do có thể sanh khởi và ǵn giữ
hết thảy Phật pháp. Ví như núi chúa, phát tâm
tương ứng với Thiền Ba La Mật cũng giống
như thế, chúng sanh chẳng thể động v́ bất
loạn”. Trong luận ấy, có các thí dụ về Lục
Độ, Tứ Nhiếp, Tứ Vô Lượng v.v… Ở
đây là thí dụ đại lược về điều
thứ ba và thứ tư. “Như không” (như hư
không) tức là điều thứ ba “hư không giới tận”
trong các câu nói về vô tận của kinh Thập Địa
nhằm [khiến cho người nghe] liên tưởng các
điều khác.
(Kinh)
Ngă chi sở hữu chúng thiện nghiệp, nguyện đắc
tốc thành Vô Thượng Tôn.
(經)我之所有眾善業,願得速成無上尊。
(Kinh:
Tất cả các thiện nghiệp của con, nguyện mau
được thành đấng Vô Thượng).
Tán
rằng: Hai mươi lăm bài tụng kế đó là phát
nguyện, chia thành hai phần:
-
Năm bài tụng đầu là nguyện tự lợi và lợi
tha.
-
Hai mươi bài tụng sau đó chỉ là nguyện lợi
tha.
Trong
phần thứ nhất, lại chia thành hai phần:
- Ba
bài tụng đầu là nguyện cầu quả.
-
Hai bài tụng sau là nguyện cầu nhân.
Trong
phần thứ nhất, tức nguyện cầu quả, lại
gồm hai phần; nửa bài tụng ở đây chính là
nguyện cầu quả tự lợi.
(Kinh)
Quảng thuyết chánh pháp lợi quần sanh, tất linh
giải thoát ư chúng khổ, hàng phục đại lực
ma quân chúng, đương chuyển vô thượng chánh
pháp luân. Cửu trụ kiếp số nan tư nghị, sung
túc chúng sanh cam lộ vị, do như quá khứ chư tối
thắng, Lục Ba La Mật giai viên măn, diệt chư tham
dục cập sân si, hàng phục phiền năo trừ chúng khổ.
(經)廣說正法利群生,悉令解脫於眾苦,降伏大力魔軍眾,當轉無上正法輪。久住劫數難思議,充足眾生甘露味,猶如過去諸最勝,六波羅蜜皆圓滿,滅諸貪欲及瞋癡,降伏煩惱除眾苦。
(Kinh:
Rộng nói chánh pháp lợi quần sanh, khiến đều
giải thoát các nỗi khổ. Hàng phục bọn ma quân
đại lực, sẽ chuyển chánh pháp luân vô thượng.
Kiếp số trụ lâu khó nghĩ bàn, chúng sanh thấm
đẫm vị cam lộ, như các đấng tối thắng
xưa kia, sáu Ba La Mật đều viên măn, diệt các tham
dục và sân, si, hàng phục phiền năo, trừ các khổ).
Tán
rằng: Hai bài tụng rưỡi này là nguyện cầu quả
lợi tha. Trong đó, nửa đầu bài tụng là nguyện
khiến [cho chúng sanh] đắc Trạch
Diệt[12],
nửa bài tụng kế đó là nguyện hàng phục thiên
ma, nửa bài tụng kế đó nguyện sẽ khiến
[cho họ] đắc Niết Bàn, nửa bài tụng kế
đó là nguyện khiến cho họ tu Lục Độ, nửa
bài tụng kế đó nguyện khiến cho họ trừ
sáu món chướng. Lời văn dễ hiểu!
(Kinh)
Nguyện ngă thường đắc Túc Mạng Trí, năng
ức quá khứ bách thiên sanh, diệc thường ức
niệm Mâu Ni Tôn, đắc văn chư Phật thậm
thâm pháp. Nguyện ngă dĩ tư chư thiện nghiệp,
phụng sự vô biên tối thắng tôn, viễn ly nhất
thiết bất thiện nhân, hằng đắc tu hành chân
diệu pháp.
(經)願我常得宿命智,能憶過去百千生,亦常憶念牟尼尊,得聞諸佛甚深法。願我以斯諸善業,奉事無邊最勝尊,遠離一切不善因,恒得修行真妙法。
(Kinh:
Nguyện con thường đắc Túc Mạng Trí, hay nhớ
quá khứ trăm ngàn đời, cũng thường
nghĩ nhớ đấng Mâu Ni, được nghe pháp
chư Phật rất sâu. Nguyện con do các thiện nghiệp
này, phụng sự vô biên đấng tối thắng, xa ĺa
hết thảy nhân chẳng lành, luôn được tu hành
pháp chân diệu).
Tán
rằng: Hai bài tụng kế đó là nguyện cầu nơi cái nhân.
Đại lược có bốn nguyện:
- Nửa
bài tụng đầu là nguyện cầu đắc Túc Mạng
Trí.
- Nửa
bài tụng kế tiếp là nguyện cầu lục niệm.
Lục Niệm là niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên. Ở
đây chỉ nêu ra hai điều.
- Nửa
bài tụng kế đó là nguyện cầu bạn lành.
- Nửa
bài tụng sau đó là cầu ĺa ác, tu thiện.
(Kinh)
Nhất thiết thế giới chư chúng sanh, tất giai
ly khổ đắc an lạc, sở hữu chư căn
bất cụ túc, linh bỉ thân tướng giai viên măn.
(經)一切世界諸眾生,悉皆離苦得安樂,所有諸根不具足,令彼身相皆圓滿。
(Kinh:
Chúng sanh trong hết thảy thế giới, thảy đều
ĺa khổ, được an lạc. Tất cả các
căn chẳng trọn đủ, khiến họ thân
tướng đều viên măn).
Tán
rằng: Hai mươi bài tụng tiếp theo đều chỉ
nói về lợi tha. Có hai phần:
-
Mười sáu bài tụng đầu là nguyện
cho người khác
đạt được cái quả thế gian.
- Bốn
bài tụng kế đó là nguyện họ đắc quả
xuất thế.
Trong
phần thứ nhất, lại có hai tiểu đoạn:
- Mười
bốn bài tụng đầu là nguyện đắc quả
hiện tại.
-
Hai bài tụng sau đó là nguyện đắc quả vị
lai.
Trong
cái quả hiện tại, lại chia thành hai phần:
- Bảy
bài tụng đầu là nguyện khiến cho họ ĺa khổ.
- Bảy
bài tụng sau đó là nguyện khiến cho họ
được vui.
Trong
phần đầu lại có ba phần; đây là bài kệ
tụng đầu tiên nêu chung chuyện dẹp khổ.
(Kinh)
Nhược hữu chúng sanh tao bệnh khổ, thân h́nh luy sấu
vô sở y, hàm linh bệnh khổ đắc tiêu trừ,
chư căn sắc lực giai sung măn.
(經)若有眾生遭病苦,身形羸瘦無所依,咸令病苦得消除,諸根色力皆充滿。
(Kinh:
Nếu có chúng sanh bị bệnh khổ, thân h́nh c̣m cơi, không
nương tựa, đều khiến bệnh khổ
được tiêu trừ, các căn, sắc lực đều
sung măn).
Tán
rằng: Năm bài tụng rưỡi kế
tiếp nói riêng về chuyện ĺa khổ. Có năm ư, bài tụng
thứ nhất ở đây nói về chuyện dẹp trừ
các nỗi khổ do bệnh tật.
(Kinh)
Nhược phạm vương pháp đương h́nh lục,
chúng khổ bức bách sanh ưu năo, bỉ thọ như
tư cực khổ thời, vô hữu quy y năng cứu
hộ.
(經)若犯王法當刑戮,眾苦逼迫生憂惱,彼受如斯極苦時,無有歸依能救護。
(Kinh:
Nếu phạm phép vua sắp hành h́nh, các khổ bức bách
sanh ưu năo, lúc chịu khổ cùng cực như thế, cứu
hộ kẻ không chỗ nương về).
Tán
rằng: Ba bài tụng kế đó là điều thứ hai
“dẹp trừ nỗi khổ do bị hành h́nh”, có hai
ư. Bài tụng thứ nhất [trên đây] nêu ra ư “có khổ mà không ai
cứu giúp”.
(Kinh)
Nhược thọ tiên,
trượng,
già, tỏa
hệ, chủng chủng khổ cụ thiết kỳ thân,
vô lượng bách thiên ưu năo thời, bức bách thân tâm
vô tạm lạc, giai linh đắc miễn ư hệ
phược, cập dĩ tiên trượng khổ sở sự,
tương lâm h́nh giả đắc mạng toàn, chúng khổ
giai linh vĩnh trừ tận.
(經)若受鞭杖枷鎖繫,種種苦具切其身,無量百千憂惱時,逼迫身心無暫樂。皆令得免於繫縛,及以鞭杖苦楚事,將臨刑者得命全,眾苦皆令永除盡。
(Kinh:
Nếu bị
roi, gậy, gông, xiềng trói, các thứ h́nh cụ đày
đọa thân, lúc vô lượng trăm ngàn ưu năo, bức
bách thân tâm chẳng tạm vui, khiến đều thoát khỏi
các trói buộc, cùng với roi, gậy, chuyện khổ sở.
Sắp bị hành h́nh được toàn mạng, đều
khiến các khổ vĩnh viễn hết).
Tán
rằng: Hai bài tụng kế đó là nguyện đoạn
trừ cho họ. Trong đó, một bài tụng rưỡi
đầu tiên là nguyện ĺa nỗi khổ “gông, xiềng,
roi, gậy”. Nửa bài tụng sau đó là khiến cho họ
ĺa khỏi nỗi khổ tàn hại, đoạn mạng!
(Kinh)
Nhược hữu chúng sanh cơ khát bức, linh đắc
chủng chủng thù thắng vị, manh giả đắc
thị, lung giả văn. Bả giả năng hành, á
năng ngữ.
(經)若有眾生饑渴逼,令得種種殊勝味,盲者得視聾者聞,跛者能行瘂能語。
(Kinh:
Chúng sanh nếu khổ v́ đói khát, khiến được
các thứ vị thù thắng, kẻ mù được thấy,
điếc được nghe. Kẻ què
đi được, câm nói được).
Tán
rằng: Ở đây có hai ư:
- Điều thứ
ba là khiến cho họ ĺa nỗi khổ đói khát.
-
Điều thứ tư là khiến cho họ
ĺa nỗi khổ do các căn chẳng đầy đủ.
(Kinh)
Bần cùng chúng sanh hoạch bảo tạng, thương khố
doanh dật vô sở phạp, giai linh đắc thọ
thượng diệu lạc, vô nhất chúng sanh thọ khổ
năo.
(經)貧窮眾生獲寶藏,倉庫盈溢無所乏,皆令得受上妙樂,無一眾生受苦惱。
(Kinh:
Chúng sanh bần cùng được kho báu, kho đụn
đầy tràn chẳng thiếu khuyết, đều
được hưởng diệu lạc bậc thượng,
không chúng sanh nào bị khổ năo).
Tán
rằng: Tiếp đó là nửa đầu bài tụng [nói
về điều] thứ năm “khiến cho họ ĺa nỗi
khổ bần cùng”; nửa
sau bài tụng là kết lại chuyện thứ ba, tức
chuyện ĺa khổ.
(Kinh)
Nhất thiết nhân thiên giai nhạo kiến, dung nghi ôn nhă,
thậm đoan nghiêm, tất giai hiện thọ vô lượng
lạc, thọ dụng phong nhiêu, phước đức cụ.
(經)一切人天皆樂見,容儀溫雅甚端嚴,悉皆現受無量樂,受用豐饒福德具。
(Kinh:
Hết thảy người, trời đều thích thấy,
dáng vẻ ôn nhă, rất đoan
nghiêm, thảy đều hiện hưởng vô lượng
lạc, thọ dụng dư dật, phước đức
vẹn).
Tán
rằng: Bảy bài tụng sau đó là “nguyện
khiến cho người khác được hưởng sự
vui sướng”. Có
mười hai ư, ở đây gồm hai ư:
- Nửa bài tụng
đầu là nói
khiến cho họ được trời người kính
trọng, yêu chuộng.
- Nửa sau bài tụng
là nói về niềm vui do được các thứ trân ngoạn
dư dật!
(Kinh)
Tùy bỉ chúng sanh niệm kỹ nhạc, thừa diệu
âm thanh giai hiện tiền, niệm thủy tức hiện
thanh lương tŕ, kim sắc liên hoa phiếm kỳ thượng.
(經)隨彼眾生念妓樂,承妙音聲皆現前,念水即現清涼池,金色蓮華泛其上。
(Kinh:
Chúng sanh nghĩ tới kỹ nhạc nào, âm thanh mầu nhiệm
đều hiện tiền. Nghĩ nước, liền hiện
ao thanh lương, hoa sen kim sắc rợp mặt nước).
Tán
rằng: Ở đây có hai loại vui:
- Nửa đầu
bài tụng [là nguyện khiến cho họ] hưởng niềm
vui có được loại kỹ nhạc thuận theo ư họ
nghĩ tưởng.
- Nửa bài tụng
sau đó là niềm vui do đạt được ao chuôm
tùy ḷng mong mỏi.
(Kinh)
Tùy bỉ chúng sanh tâm sở niệm, ẩm thực, y phục,
cập sàng phu, kim, ngân, trân bảo, diệu lưu ly, anh lạc
trang nghiêm giai cụ túc.
(經)隨彼眾生心所念,飲食衣服及床敷,金銀珍寶妙瑠璃,瓔珞莊嚴皆具足。
(Kinh:
Tùy theo tâm chúng sanh nghĩ tưởng, thức ăn, y phục
và giường, đệm, vàng, bạc, trân bảo, lưu
ly đẹp, anh lạc trang nghiêm đều trọn đủ).
Tán
rằng: Ở đây, có hai niềm vui:
- Nửa
đầu bài tụng là khiến cho chúng sanh đạt
được niềm vui tứ sự (thức ăn, quần
áo, đồ trải nằm, thuốc men) thuận theo tâm
nghĩ.
- Nửa
sau bài tụng là khiến cho họ đạt được
niềm vui nơi bảy
báu, chuỗi ngọc, các vật trang
nghiêm.
(Kinh)
Vật linh chúng sanh văn ác hưởng, diệc phục bất
kiến hữu tương vi, sở thọ dung mạo tất
đoan nghiêm, các các từ tâm tương ái nhạo.
(經)勿令眾生聞惡響,亦復不見有相違,所受容貌悉端嚴,各各慈心相愛樂。
(Kinh:
Chẳng để chúng sanh nghe tiếng ác, cũng lại
chẳng thấy có chống trái, được hưởng
dung mạo đều đoan nghiêm, ai nấy từ tâm yêu
thích nhau).
Tán
rằng: Ở đây, có hai niềm vui:
- Nửa
đầu bài tụng là niềm vui sẽ được
tiếng thơm và ḥa thuận, êm ấm.
- Nửa sau bài tụng
là nói tới niềm vui do đạt được sự
đoan nghiêm, từ ái.
(Kinh)
Thế gian tư sanh chư lạc cụ, tùy tâm niệm thời
giai măn túc, sở đắc trân tài vô lận tích, phân bố
thí dữ chư chúng sanh.
(經)世間資生諸樂具,隨心念時皆滿足,所得珍財無悋惜,分布施與諸眾生。
(Kinh:
Các lạc cụ sinh hoạt thế gian, hễ tâm nghĩ
tưởng đều vẹn đủ, đạt
được trân tài chẳng keo tiếc, chia sẻ, ban
cho các chúng sanh).
Tán
rằng: Ở đây, có hai niềm vui:
- Nửa
đầu bài tụng là niềm vui khiến cho họ đạt
được vật dụng tùy tâm.
- Nửa
sau bài tụng là khiến cho họ đạt được
niềm vui chẳng tham, chuộng bố thí.
(Kinh)
Thiêu hương, mạt hương, cập đồ
hương, chúng diệu tạp hoa phi nhất sắc, mỗi
nhật tam thời tùng thụ đọa, tùy tâm thọ dụng
sanh hoan hỷ. Phổ nguyện chúng sanh hàm cúng dường,
thập phương nhất thiết tối thắng tôn,
tam thừa thanh tịnh diệu pháp môn, Bồ Tát, Độc
Giác, Thanh Văn chúng.
(經)燒香末香及塗香,眾妙雜華非一色,每日三時從樹墮,隨心受用生歡喜。普願眾生咸供養,十方一切最勝尊,三乘清淨妙法門,菩薩獨覺聲聞眾。
(Kinh:
Hương đốt, hương bột, và hương
bôi, hoa đẹp nhiều màu, chẳng một sắc, mỗi
ngày ba thời cây rụng xuống, tùy tâm hưởng thụ
sanh hoan hỷ. Nguyện
khắp chúng sanh đều cúng dường, mười
phương hết thảy đấng tối thắng, diệu
pháp môn thanh tịnh tam thừa, Bồ Tát, Độc Giác,
các Thanh Văn).
Tán
rằng: Ở đây có hai niềm vui:
- Bài tụng thứ
nhất là khiến cho chúng sanh đạt được niềm
vui “có hương, hoa tùy theo ư thích”.
- Bài
tụng kế đó là khiến cho họ được
hưởng niềm vui “cúng dường Tam Bảo”.
(Kinh)
Thường nguyện vật xử ư ty tiện, bất
đọa vô hạ bát nạn trung, sanh tại hữu hạ
nhân trung tôn, hằng đắc thân thừa thập
phương Phật, nguyện đắc thường sanh
phú quư gia, tài bảo, thương khố giai doanh măn, nhan mạo,
danh xưng vô dữ đẳng, thọ mạng diên trường
kinh kiếp số.
(經)常願勿處於卑賤,不墮無暇八難中,生在有暇人中尊,恒得親承十方佛,願得常生富貴家,財寶倉庫皆盈滿,顏貌名稱無與等,壽命延長經劫數。
(Kinh:
Thường nguyện đừng ở chốn hèn hạ,
chẳng đọa trong tám nạn chẳng nhàn. Luôn sanh chốn
nhàn, Nhân
Trung Tôn, thường được phụng sự mười
phương Phật. Nguyện thường sanh trong nhà phú
quư, của cải, kho đụn đều đầy ắp.
Dung mạo, tiếng tăm không ai bằng, thọ mạng
dài lâu trải kiếp số).
Tán
rằng: Hai bài tụng kế đó là nguyện cho người
khác đạt được cái quả trong vị lai, có
năm phần:
- Nửa
bài tụng đầu tiên là khiến cho họ đạt
được niềm vui “chẳng sanh trong chỗ tám nạn”.
- Nửa
bài tụng kế đó là khiến cho họ đạt
được niềm vui “thường gặp Thế
Tôn”.
- Nửa
bài tụng kế đó là khiến cho họ đạt
được niềm vui “thường sanh trong chốn phú
quư”.
-
Câu kế đó là khiến cho họ đạt được
niềm vui “h́nh dáng đẹp đẽ, có thanh danh”.
-
Câu kế đó là khiến cho họ đạt được
niềm vui “thọ mạng dài lâu”.
(Kinh)
Tất nguyện nữ nhân biến vi nam, dũng kiện,
thông minh, đa trí huệ, nhất thiết thường hành
Bồ Tát đạo, cần tu Lục Độ đáo bỉ
ngạn.
(經)悉願女人變為男,勇健聰明多智慧,一切常行菩薩道,勤修六度到彼岸。
(Kinh:
Đều nguyện nữ nhân biến thành nam, mạnh mẽ,
thông minh, nhiều trí huệ, hết thảy thường
hành Bồ Tát đạo, siêng tu Lục Độ tới bờ
kia).
Tán
rằng: Bốn bài tụng kế đó là [phát nguyện]
khiến cho họ đạt được cái quả xuất
thế, có sáu điều; ở đây,
có hai điều:
- Nửa đầu
bài tụng là khiến cho đạt được niềm
vui “[sanh làm] thân nam, thông huệ”.
- Nửa bài tụng
sau là khiến cho họ đạt được niềm
vui “hành giác phẩm”.
(Kinh)
Thường kiến thập phương vô lượng Phật,
bảo vương thụ hạ nhi an xử, xử diệu
lưu ly sư tử ṭa, hằng đắc thân thừa
chuyển pháp luân.
(經)常見十方無量佛,寶王樹下而安處,處妙瑠璃師子座,恒得親承轉法輪。
(Kinh:
Thường thấy mười phương vô lượng
Phật, an tọa dưới cội cây bảo
vương, ngồi ṭa sư tử diệu lưu ly, luôn
được phụng sự, chuyển pháp luân).
Tán
rằng: Ở đây có hai niềm vui:
- Nửa đầu
bài tụng là khiến cho họ được niềm vui
“thấy Phật xuất hiện”.
- Nửa sau bài tụng
là khiến cho họ đạt được niềm vui
“đích thân được nghe diễn nói pháp”.
(Kinh)
Nhược ư quá khứ cập hiện tại, luân hồi
tam hữu tạo chư nghiệp, năng chiêu khả yếm
bất thiện thú, nguyện đắc tiêu diệt
vĩnh vô dư. Nhất thiết chúng sanh ư hữu hải,
sanh tử quyến vơng kiên lao phược, nguyện dĩ
trí kiếm vi đoạn trừ, ly khổ tốc chứng
Bồ Đề xứ.
(經)若於過去及現在,輪迴三有造諸業,能招可厭不善趣,願得消滅永無餘。一切眾生於有海,生死羂網堅牢縛,願以智劍為斷除,離苦速證菩提處。
(Kinh:
Hoặc trong quá khứ và hiện tại, luân hồi ba cơi,
tạo các nghiệp, chuốc vời đường bất
thiện đáng nhàm, nguyện vĩnh viễn diệt
chẳng c̣n
sót. Hết thảy chúng sanh trong biển
hữu, lưới rập sanh tử trói buộc chắc,
nguyện dùng gươm trí để đoạn trừ,
ĺa khổ,
mau chứng chốn Bồ Đề).
Tán
rằng: Ở đây có hai niềm vui:
- Bài
tụng thứ nhất là khiến cho họ đạt
được niềm vui “trừ khổ cho chính ḿnh”.
- Bài tụng kế
đó là khiến cho người khác đạt được
niềm vui “trừ sanh tử”.
(Kinh)
Chúng sanh ư thử Thiệm Bộ nội, hoặc ư
tha phương thế giới trung, sở tác chủng chủng
thắng phước nhân, ngă kim giai tất sanh tùy hỷ.
(經)眾生於此贍部內,或於他方世界中,所作種種勝福因,我今皆悉生隨喜。
(Kinh:
Chúng sanh trong châu Thiệm Bộ này, hoặc từ thế
giới nơi phương khác, đă tạo các nhân phước
thù thắng, con nay đều sanh tâm tùy hỷ).
Tán
rằng: Bài tụng này là điều thứ tư, tức
tùy hỷ trong phần thứ ba “rộng sám nguyện”.
(Kinh)
Dĩ thử tùy hỷ phước đức sự, cập
thân ngữ ư tạo chúng thiện, nguyện thử thắng
nghiệp thường tăng trưởng, tốc chứng
vô thượng Đại Bồ Đề.
(經)以此隨喜福德事,及身語意造眾善,願此勝業常增長,速證無上大菩提。
(Kinh:
Do chuyện phước đức tùy hỷ này, và thân, ngữ,
ư tạo các thiện, nguyện thắng nghiệp này thường
tăng trưởng, mau chứng vô thượng Đại
Bồ Đề).
Tán
rằng: Bài tụng này là điều thứ năm, tức
Tứ Hồi Hướng, chính là phương tiện thứ
bảy trong Thập Độ. Phương tiện có hai: Một
là hồi hướng phương tiện, hai là bạt tế
phương tiện (phương tiện cứu vớt); ở
đây là hồi hướng phương tiện, dùng Hậu
Đắc Trí làm Thể. Tuy câu trên có chữ “tín nguyện”,
nhưng câu dưới hàm ư nói về phương tiện.
Nếu không, có khác ǵ với phát nguyện
trong phần trước? Trước đó, đă phát nguyện:
Do tất cả các thiện nghiệp của con, nguyện
được mau thành Vô Thượng Tôn rồi! V́ thế,
ở đây là hồi hướng.
5.4.4.2.2.2.2.4. Nêu ra
điều thù thắng, khuyên tu
(Kinh)
Sở hữu lễ tán Phật công đức, thâm tâm thanh
tịnh vô hà uế, hồi hướng phát nguyện
phước vô biên, đương siêu ác thú lục thập
kiếp.
(經)所有禮讚佛功德,深心清淨無瑕穢,回向發願福無邊,當超惡趣六十劫。
(Kinh:
Tất cả công đức lễ tán Phật, thâm tâm thanh
tịnh không tỳ vết, hồi hướng phát nguyện
phước vô biên, vượt thoát đường ác sáu
mươi kiếp).
Tán
rằng: Bốn bài tụng kế đó thuộc đoạn
lớn thứ hai, chính là ư thứ tư trong đoạn lớn
thứ hai, tức là “nêu ra điều thù thắng, khuyên
tu”. Có năm phần, bài tụng thứ nhất này nói do tu
các nghiệp trên đây, sẽ có thể vượt thoát
đường ác.
(Kinh)
Nhược hữu nam tử cập nữ nhân, Bà-la-môn
đẳng chư thắng tộc, hiệp chưởng nhất
tâm tán thán Phật, sanh sanh thường ức túc thế sự.
(經)若有男子及女人,婆羅門等諸勝族,合掌一心讚歎佛,生生常憶宿世事。
(Kinh: Nếu có
nam tử và nữ nhân, Bà-la-môn, chủng tánh thù thắng, chắp
tay một dạ tán thán Phật, đời đời
thường nhớ chuyện đời trước).
Tán rằng:
Bài tụng này nói rơ, do tu nghiệp trên đây, sẽ có thể
đắc Túc Mạng.
(Kinh)
Chư căn thanh tịnh thân viên măn, thù thắng công đức
giai thành tựu, nguyện ư vị lai sở sanh xứ,
thường đắc nhân thiên cộng chiêm ngưỡng.
(經)諸根清淨身圓滿,殊勝功德皆成就,願於未來所生處,常得人天共瞻仰。
(Kinh:
Các căn thanh tịnh, thân viên măn, công đức thù thắng
đều thành tựu, nguyện nơi sanh ra trong vị
lai, thường được trời, người cùng
chiêm ngưỡng).
Tán
rằng: Nửa đầu bài tụng này nói rơ: Do tu nghiệp
trên đây, được thân thù thắng, phước trọn
vẹn. Nửa sau bài tụng nói sẽ được trời,
người kính ngưỡng.
(Kinh)
Phi ư nhất Phật, thập Phật sở, tu chư
thiện căn kim đắc văn. Bách thiên Phật sở
chủng thiện căn, phương đắc văn
tư sám hối pháp.
(經)非於一佛十佛所,修諸善根今得聞,百千佛所種善根,方得聞斯懺悔法。
(Kinh:
Chẳng ở chỗ một hay mười Phật, tu các
thiện căn nay được nghe. Gieo thiện
căn nơi trăm ngàn Phật, mới được
nghe pháp sám hối này).
Tán
rằng: Nói rơ được nghe pháp này, liền được
cúng dường nhiều vị Phật. Ư nói: Chỉ
được lắng nghe mà c̣n từng cúng dường
nhiều vị Phật, huống hồ nghe rồi tu hành.
Chuyện này giống như kinh Bát Nhă và Pháp Hoa cùng khuyến
tấn tu tập vậy.
5.4.4.3. Đức Thế
Tôn tán thán, ấn khả
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn văn thử thuyết dĩ, tán
Diệu Tràng Bồ Tát ngôn: “Thiện tai, thiện tai!”
(經)爾時世尊聞此說已,讚妙幢菩薩言:善哉善哉!
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nghe lời ấy
xong, tán thán Diệu Tràng Bồ Tát rằng: “Lành thay, lành
thay!”)
Tán
rằng: Từ đây trở đi là đoạn lớn thứ
ba, tức “đức Thế Tôn tán thán, ấn khả”.
Kinh văn chia thành ba phần. Đây là phần thứ nhất,
tức tán thán.
(Kinh)
Thiện nam tử! Như nhữ sở mộng, kim cổ
xuất thanh tán thán Như Lai chân thật công đức, tịnh
sám hối pháp, nhược hữu văn giả, hoạch
phước thậm đa, quảng lợi hữu t́nh diệt
trừ tội chướng.
(經)善男子!如汝所夢,金鼓出聲讚歎如來真實功德并懺悔法,若有聞者獲福甚多,廣利有情滅除罪障。
(Kinh:
Thiện nam tử! Như ông mộng thấy cái trống bằng
vàng phát ra tiếng tán thán công đức chân thật của
Như Lai và pháp sám hối, nếu có người được
nghe, sẽ đạt được phước rất
nhiều, rộng lợi ích hữu t́nh, diệt trừ tội
chướng).
Tán
rằng: Kế đó là ấn khả. Trong phần kệ tụng
trước đó, ngài Diệu Tràng đă nói “do
nghe pháp này mà diệt tội, được phước”, do sợ
người khác chẳng tin, cho nên đức Phật ấn
khả.
(Kinh)
Nhữ kim ưng tri, thử chi thắng nghiệp, giai thị
quá khứ tán thán, phát nguyện, túc tập nhân duyên, cập do
chư Phật oai lực gia hộ. Thử chi nhân duyên,
đương vị nhữ thuyết.
(經)汝今應知此之勝業,皆是過去讚歎發願宿習因緣,及由諸佛威力加護。此之因緣,當為汝說。
(Kinh:
Ông nay hăy nên biết nghiệp thù thắng này đều là
do nhân duyên tán thán, phát nguyện, tu tập từ trước
trong quá khứ, và do oai lực của chư Phật gia hộ,
sẽ v́ các ông nói nhân duyên ấy).
Tán
rằng: Sau đó, hứa
sẽ nói tới cái nhân của giấc mộng
ấy, tức là [những điều sẽ được
nói trong] phẩm Liên Hoa Dụ Tán.
5.4.4.4. Đại chúng
hoan hỷ, phụng hành
(Kinh)
Thời chư đại chúng văn thị pháp dĩ, hàm giai
hoan hỷ, tín thọ, phụng hành.
(經)時諸大眾聞是法已,咸皆歡喜信受奉行。
(Kinh:
Khi ấy, các đại chúng nghe pháp này xong, đều hoan
hỷ, tin nhận, phụng hành).
Tán
rằng: Đoạn lớn thứ tư là đại chúng
hoan hỷ, phụng hành.
Kim Quang Minh Tối Thắng
Vương Kinh Sớ,
Phần 6 hết
[1] Kinh Lục Môn Đà La Ni (Saṇmukhīdhāraṇī)
do ngài Huyền Trang dịch sang tiếng Hán vào năm Trinh
Quán 19 (645). Nội dung chủ yếu là dạy Đà La Ni nhằm
cứu khổ cho lục đạo.
[2] Kinh này có tên gọi đầy đủ
là Phật Thùy Bát Nê Hoàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh,
do ngài Cưu Ma La Thập dịch sang tiếng Hán. Nội dung
trần thuật lời dạy tối hậu của đức
Phật về Tam Học Giới - Định - Huệ vào ngày Rằm tháng Hai trước
khi Ngài nhập Niết Bàn. Tuy bản kinh này khá ngắn,
nhưng được chú giải khá nhiều như Di Giáo
Kinh Luận (do Thế Thân Bồ Tát soạn), Phật Di Giáo
Kinh Luận Tiết Yếu (do ngài Trí Viên soạn sớ, tổ
Châu Hoằng (Vân Thê Liên Tŕ) chú thích thêm), Di Giáo Kinh Luận
Chú Pháp Kư (do Nguyên Chiếu soạn), Di Giáo Kinh Luận Kư (do
Quán Phục soạn), Phật Di Giáo Kinh Giải (tổ Trí
Húc chú giải), Di Giáo Kinh Chỉ Nam (do ngài Đạo Bái soạn)
v.v…
[3] “Triền” (纏) là danh xưng chung của phiền
năo. Do phiền năo trói buộc hữu t́nh trong lao ngục
sanh tử, nên gọi là Triền. Bát Triền là:
- Vô tàm: Tức là đối với
tội đă trót tạo, chính ḿnh chẳng có tâm hổ thẹn.
- Vô quư: Đối với người
khác, chẳng hổ thẹn v́ chính ḿnh đă tạo tội.
- Tật (ghen ghét): Không ưa thích
chuyện tốt lành của người khác.
- Xan (keo kiệt): Sanh ḷng keo kiệt
đối với tất cả tài hay pháp.
- Hối: Đối với thiện
sự đă làm, sanh ḷng hối hận.
- Miên: Tâm mê muội.
- Điệu Cử: Tâm xáo động,
bộp chộp chẳng an tĩnh được.
- Hôn trầm.
[4] Tiểu Tùy Hoặc (tiểu tùy phiền
năo) bao gồm mười thứ: Phẫn (tâm bất b́nh),
Hận (tâm oán hận), Phú (giấu diếm tội lỗi của
chính ḿnh), Năo (làm phiền, quấy rối khiến cho
người khác bực tức), Tật (ghen ghét), Xan (keo kiệt),
Cuống (lường gạt), Siểm (bợ đỡ,
dua nịnh), Hại (tổn thương người khác),
Kiêu (kiêu ngạo).
[5] Đại Tùy phiền năo gồm
tám thứ: Điệu Cử (lao chao, xáo động), hôn trầm,
bất tín, giải đăi, phóng dật, thất niệm
(đánh mất chánh niệm), tán loạn (tâm chẳng chuyên
nhất), bất chánh tri (tri kiến bất chánh).
[6] Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận (Daśabhūmika-vibhāsā-śāstra),
c̣n gọi là Thập Trụ Luận, do ngài Long Thọ trước
tác, Cưu Ma La Thập dịch sang tiếng Hán thành mười
bảy quyển, gồm ba mươi lăm phẩm. Luận
này chủ yếu giải thích hai địa vị Sơ Địa
(Hoan Hỷ Địa) và Nhị Địa (Ly Cấu Địa)
trong phẩm Thập Địa của kinh Hoa Nghiêm.
[7] Nếu nói cho đầy đủ
th́ sẽ là thuận hiện thọ nghiệp (nghiệp
chín muồi ngay trong đời này, sẽ thọ báo ngay
trong đời này), thuận thứ thọ nghiệp (nghiệp
chín muồi và thọ báo trong đời kế tiếp), và
thuận hậu thọ nghiệp (nghiệp thọ báo từ
hai đời sau cho đến nhiều đời sau).
[8] Tức là quả báo ấy nhất
định phải hứng chịu, không tránh né được,
nhưng lúc nào sẽ phải lănh nhận th́ không nhất
định.
[9] “Vô hạ” (không an nhàn) có nghĩa là “t́nh huống khiến
cho người ở trong t́nh cảnh ấy chẳng thể
tu tập Phật pháp, hoặc do thân chẳng an, hoặc tâm
chẳng an, hoặc
thân lẫn tâm đều chẳng an, không có cơ hội hay ư niệm mong
tu tập Phật pháp”, tức là ở trong địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh, Trường Thọ Thiên, biên địa,
sanh làm ngoại đạo, sanh nhằm thời kiếp chẳng
có Phật xuất thế, hoặc sanh nhằm
lúc Phật pháp hoàn toàn diệt mất trên thế gian, và bị tàn tật bẩm sanh.
[10] Kinh Bảo Vân (Ratnameghasūtra) vốn có tên gốc là Trừ
Cái Chướng Bồ Tát Sở Vấn Kinh (c̣n gọi là Trừ
Cái Chướng Bồ Tát Chi Sở Thọ Tŕ Kinh, Chỉ
Nhất Thiết Cái Bồ Tát Sở Vấn Pháp Môn Kinh, Bảo
Vũ Pháp Môn, Bảo Tích Công Đức, Trí Chứng Kinh).
Kinh dạy về tánh Không, Thiền Định và Không Quán. Kinh
này được dẫn dụng rất nhiều trong các bộ
luận của các vị luận sư Thanh Biện (Bhavyaviveka), Nguyệt Xứng
(Candrakīrti), Liên
Hoa Giới (Kamalaśīla),
cũng như các vị tổ sư Tây Tạng như Tông
Khách Ba (Tsongkhapa), Đạt Ba Trách Tây Nam Gia (Dagpo Gashi Namgyal),
Tưởng Cống Khang Sở (Jamgön Kongtrül) đệ nhất v.v… Trong
Đại Tạng, c̣n giữ được các bản dịch
của kinh này như sau:
- Bảo Vân Kinh (bảy quyển) do
ngài Mạn Đà La Tiên xứ Phù Nam dịch vào thời Nam
Lương.
- Đại Thừa Bảo Vân Kinh
(tám quyển) do ngài Tu Bồ Đề xứ Phù Nam dịch
vào thời Nam Trần.
- Bảo Vũ Kinh (mười quyển)
do ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch vào năm Trường
Thọ thứ ba (1019) thời Vũ Tắc Thiên.
- Trừ Cái Chướng Bồ Tát Sở
Vấn Kinh (hai mươi quyển) do các vị Pháp Hộ
và Duy Tịnh dịch vào năm Thiên Hỷ thứ ba (1019)
đời Bắc Tống.
[11] Theo lăo pháp sư Ấn Thuận,
Lưu Hoặc là giữ lại đôi chút phiền năo chẳng
đoạn. Thường nói là “lưu Hoặc nhuận
sanh”, có hai ư nghĩa:
- Bồ Tát chưa đắc Vô Sanh
Pháp Nhẫn, cố ư lưu lại đôi chút phiền năo
để thuận tiện dùng thân huyết nhục sanh
trong tam giới ḥng độ chúng sanh.
- Bồ Tát đă đắc Vô Sanh
Pháp Nhẫn, do nguyện đại bi, phối hợp với
tập khí, cảm vời Pháp Tánh Sanh Thân vào trong tam giới
để tu phước huệ độ chúng sanh.