Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ
Quyển thứ ba
Đời Đường Tam Tạng pháp sư
Nghĩa Tịnh vâng chiếu dịch kinh
Dịch kinh sa-môn Huệ Chiểu soạn sớ
金光明最勝王經疏
卷第三
唐三藏法師義淨奉制譯
翻經沙門慧沼撰
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Đức Phong và Huệ Trang
Phần
7
5.5. Phẩm thứ năm: Diệt
nghiệp chướng (Diệt nghiệp chướng phẩm
đệ ngũ, 滅業障品第五)
Phẩm Diệt
Nghiệp Chướng gồm ba môn phân biệt:
- Một, do
ư nghĩa nào mà có phẩm này?
- Hai, giải
thích tên gọi của phẩm.
- Ba, giải
thích vấn nạn.
5.5.1. Do ư nghĩa nào mà có phẩm
này?
Nói đến
“do ư nghĩa nào mà có phẩm này?” th́ có ba ư nghĩa:
- Một, trong
phần nói về sự diệt ác, phẩm trước là
trong mộng nghe [dạy bảo] hối lỗi để cảnh
tỉnh, nay th́ [đức Phật] chánh thức dạy cách
sám hối, diệt trừ. V́ thế, sau phẩm trước
bèn có phẩm này sanh khởi.
- Ư nghĩa
thứ hai để có phẩm này là ngài Diệu Tràng đă gieo
thiện căn từ lâu, do nằm mộng bèn tự có thể
hối lỗi. Các chúng sanh khác chẳng thể tự ngộ,
phải được đức Phật dạy bảo
th́ mới hiểu cách sám trừ. V́ thế, [đức Phật]
lại phóng quang minh triệu vời kẻ hữu duyên. Do vậy,
[Thiên Đế] thỉnh đức Phật
nói cặn kẽ [phương cách sám hối]. V́ thế, sau
phẩm trước bèn có phẩm này sanh khởi.
- Ba, muốn
cầu cái quả thù thắng, ắt phải gieo cái nhân mầu
nhiệm. Chướng nạn hăy c̣n, sao có thể khởi hạnh
(phát khởi sự tu hành) cho được? Muốn dấy
lên diệu hạnh, trước hết dạy diệt chướng.
[Trong phẩm
trước], ngài Diệu Tràng chỉ trần
thuật giấc mộng, chưa tự sám trừ, muốn
tự phát lộ. V́ thế, [Thiên Đế] thỉnh
đức Phật nói phương pháp sám hối, diệt tội.
V́ thế, sau phẩm trước bèn có phẩm này sanh khởi.
5.5.2. Giải thích danh xưng của
phẩm này
Giải thích
danh xưng của phẩm này th́ ngài Chân Đế nói: “Nghiệp
Chướng Diệt Phẩm là cách nói ở Tây quốc (Thiên
Trúc, Ấn Độ), kinh này ghi là Diệt Nghiệp Chướng
v́ dựa theo ngôn ngữ ở phương này (Trung Hoa). Âm
tiếng Phạn là Yết Ma (Karma, phương này dịch
là Nghiệp), A Bạt Ra Noa (Āvaraṇa, phương này dịch là Chướng), Tỳ Na Xa (Vinaṣṭa, phương này dịch là Diệt)”. Nghiệp là “tạo tác”, Chướng là “chướng
ngại”. Do làm điều bất thiện có thể chướng
ngại thánh đạo, [nên gọi
là Nghiệp Chướng]. “Nghiệp” tức là Chướng;
đó là giải thích theo lối Tŕ Nghiệp.
Diệt bao
gồm Năng (chủ thể thực hiện
hành động diệt) và Sở (đối tượng
hoặc pháp bị diệt), tức là Sám Hối v.v… Nghĩa
là do sám hối v.v… mà có thể diệt nghiệp chướng.
Đó là cách giải thích theo lối Y Chủ. Hoặc sở
diệt (cái bị diệt) được gọi là Diệt,
Diệt là Trừ. Do bốn pháp như sám hối v.v… khiến cho nghiệp
chướng tiêu diệt; đó là cách giải thích theo lối
Tŕ Nghiệp. Hoặc diệt nghiệp chướng luôn thuộc
về Năng, tức là dựa theo năng diệt (cách sám
hối để diệt nghiệp chướng) mà nói đến
pháp bị diệt (tức nghiệp chướng) th́ gọi
là Diệt Nghiệp Chướng Phẩm, như Lư Luận
Môn[1]
đă nói: “Từ cái có thể phá mà lập ra âm thanh của
cái bị phá”.
5.5.3. Giải thích vấn nạn
* Hỏi: Chướng
có nhiều loại, Hoặc, Nghiệp, Khổ đều gọi
chung là Chướng, nay sao chỉ nói diệt nghiệp
chướng?
Đáp: Có
hai cách giải thích:
- Một, ba
thứ Hoặc, Nghiệp, Khổ gọi chung là Nghiệp,
như nói Phiền Năo Chướng tức là Đại Tùy
Hoặc (các phiền năo căn bản thuộc loại Đại
Tùy).
- Hai, nghiệp đă phát cùng với
cái quả của nó được gọi chung là Phiền
Năo Chướng.
Xét theo nghiệp
nhân và nghiệp quả của tướng ấy, gọi
chung là Nghiệp.
* Hỏi: Nếu
là như vậy, v́ sao chẳng nói là Diệt Hoặc Khổ
Chướng?
Đáp: Nêu
ra bất cứ thứ nào cũng đều có kẻ bắt
bẻ, hoặc có thể nói: Do nghiệp
chướng ngại thánh đạo mạnh hơn Hoặc,
nên gọi như vậy. Bởi lẽ, đối với
Hoặc, chẳng nói có định Hoặc. Khổ do nghiệp
sanh; v́ thế, chỉ xét theo cái có tác dụng mạnh mẽ
nhất mà gọi là Diệt Nghiệp Chướng. Lại
có cách nói khác: Tuy Hoặc, Nghiệp, Khổ đều gọi
là Chướng, nhưng nghiệp chướng tăng mạnh,
chỉ riêng sám hối nghiệp, do nghiệp chiêu cảm
sanh thân nơi Hoặc. Trong phần sau, kinh văn có lời
thỉnh rằng: “Tằng sở tạo tác nghiệp
chướng tội giả, vân hà sám hối?” (Đối
với tội do nghiệp chướng đă từng tạo
tác, sám hối như thế nào?), chẳng hỏi Hoặc và
Khổ!
Lại nữa, nếu như có nghiệp bất thiện cực
nặng, ắt sẽ chuốc lấy thân hoạn nạn,
chẳng rảnh rỗi để nhập thánh. V́ vậy,
kinh chỉ nói là phẩm Diệt Nghiệp Chướng. Cách
giải thích trước là rốt ráo, v́ kinh văn trong phần
sau có nói đầy đủ chuyện sám hối Hoặc, Nghiệp,
Khổ.
* Hỏi:
Ba món Hoặc, Nghiệp, Khổ thâu nhiếp trọn hết
hai thứ chướng, chẳng biết nay Sở Tri Chướng
cũng được sám hối hay không?
Đáp: Đă
hướng tới Phật quả th́ hai món chướng
(Sở Tri Chướng và Phiền Năo Chướng) đều
sám hối. Do vậy nói: “Tu Bồ Đề hạnh, sở
hữu nghiệp chướng tất giai sám hối” (Tu
hạnh Bồ Đề, tất cả các nghiệp chướng
thảy đều sám hối).
* Hỏi: Đối
với nghiệp thuộc ba tánh (Biến Kế Sở Chấp,
Y Tha Khởi và Viên Thành Thật) có đều sám hối trọn
hết hay không?
Đáp: Cả
ba tánh đều sám, do từ hai chướng phát sanh nghiệp
thuộc tam tánh. Nghiệp chuốc vời [quả báo] trong
nhân thiên cũng đều sám hối.
* Hỏi:
Phẩm này có ǵ khác biệt với hai phẩm trước?
Đáp: Truyện
kư nói ngài Chân Đế có tám cách giải thích khác nhau:
- Một, trước
là trong đêm, ngài Diệu Tràng mộng thấy [cái trống
bằng vàng nói pháp sám hối], sau là đại chúng ban ngày
tu hành.
- Hai, trước
là giải thích đại lược, sau là giải thích cặn
kẽ.
- Ba, trước
là sám hối, sau là diệt tội.
- Bốn,
trước là tạm chế phục, sau là vĩnh viễn
diệt trừ.
- Năm, trước
là nói kinh có thể diệt tội, sau là nói người hoằng
kinh có thể diệt tội.
- Sáu, trước
là nói về Pháp Thân thị hiện, sau là nói về Hóa Thân giải
nói.
- Bảy, trước
là riêng ḿnh ngài Diệu Tràng được nghe, sau là đại
chúng cùng cảm vời.
- Tám, phẩm
trước là do Diệu Tràng phát nguyện, phẩm sau là do
căn cơ của đại chúng [cảm vời].
Trong tám điều
giải thích ấy, ba cách giải thích thứ hai, thứ bảy
và thứ tám là đúng, các cách giải thích c̣n lại chẳng
đúng! Nay giải thích chỗ bất đồng ḥng biện
định ư của Như Lai.
5.5.4. Giải thích kinh văn
5.5.4.1. [Đức Phật] phóng
quang nhóm họp đại chúng
5.5.4.1.1. Nhập Định,
phóng quang
(Kinh) Nhĩ
thời, Thế Tôn trụ chánh phân biệt, nhập ư thậm
thâm vi diệu Tĩnh Lự.
(經)爾時世尊住正分別,入於甚深微妙靜慮。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn trụ trong chánh phân
biệt, nhập Tĩnh Lự vi diệu rất sâu).
Tán rằng:
Trong phẩm này, kinh văn đại lược chia thành bốn
phần:
- Một,
phóng quang minh nhóm họp đại chúng.
- Hai, Thiên Đế khải
thỉnh.
- Ba, Như
Lai giảng nói.
- Bốn, [đại
chúng] đạt được lợi ích, hoan hỷ phụng
hành. Kinh văn trong phần sau chép: “Thời, chư đại
chúng văn Phật thuyết dĩ, hàm mông thắng ích, hoan
hỷ phụng tŕ” (khi đó, đại chúng nghe đức
Phật nói xong, đều đạt được lợi
ích thù thắng, hoan hỷ, vâng giữ).
Đoạn
này là phần đầu tiên. Kinh
văn được chia thành ba phần:
- Trước
hết là nhập Định, phóng quang.
- Kế đó
là lợi ích của quang minh.
- Cuối cùng
là [những kẻ hữu duyên] theo ánh sáng đến chỗ
Phật.
Phần thứ
nhất lại chia thành ba ư:
- Một, nhập
Định.
- Hai, phóng quang.
- Ba, chiếu
cảnh.
Đây là ư đầu
tiên. Do Hậu Đắc Trí duyên theo Tục th́ là Phân Biệt,
biết tương xứng với cảnh th́ gọi là Trụ
Chánh. Hoặc [có thể hiểu cách khác]: Chánh là Căn Bản Trí, Phân Biệt
tức là Hậu Đắc Trí. Hiểu
rơ Tục do đă chứng Chân; v́ thế, gọi là Hậu Đắc.
Trụ là “y chỉ”, tức là Hậu Đắc Trí nương
theo Căn Bản Trí mà phát khởi. Tĩnh là “tịch tĩnh”
(vắng lặng), Lự là “thẩm lự” (suy nghĩ
kỹ càng). [Nói là] Tĩnh nhằm vạch rơ chẳng phải
là “tán tâm” (tâm tán loạn); nói là Lự nhằm vạch
rơ chẳng phải là “vô tâm”. Định thuộc thượng
giới (Sắc Giới và Vô Sắc Giới) đều có đủ
các yếu tố này. Tuy gọi chung là Tĩnh Lự, nhưng
đức Thế Tôn phần nhiều khởi Đệ Tứ
Định, do [môn Định ấy] tối thắng! “Nhập”
là chứng. Hậu Trí (Hậu Đắc Trí) hiểu rơ căn
cơ và pháp thích ứng để có thể hóa độ [căn
cơ ấy], do Nhị Thừa chẳng biết, bèn gọi
là “thậm thâm” (rất sâu). Do vượt khỏi tam
giới, nên gọi là “vi diệu”. Xét kỹ căn cơ
và pháp tương ứng với chúng sanh để chỉ
dạy họ chứng nhập. V́ thế, nói là Nhập.
Lại có
thể hiểu là: “Trụ chánh phân biệt”: Chỉ bày,
phát khởi gia hạnh để lợi ích chúng sanh, cho nên
gọi là “chánh phân biệt”. “Nhập” tức là “cái có thể
nhập” (năng nhập), c̣n Tĩnh Lự là “pháp được
nhập” (sở nhập). Vượt xa Nhị Thừa là “thậm thâm”. Vượt xa Bồ
Tát, gọi là “vi diệu”. Thật ra, phóng quang chính là cảnh
thần thông, thần thông dựa vào Tĩnh Lự [mà khởi
tác dụng]. V́ thế, trước hết nói là Nhập.
(Kinh) Tùng
thân mao khổng, phóng đại
quang minh, vô lượng bách thiên chủng chủng chư sắc.
(經)從身毛孔放大光明,無量百千種種諸色。
(Kinh:
Từ lỗ chân lông phóng quang minh to lớn, vô lượng
trăm ngàn các thứ màu).
Tán rằng:
Ư thứ hai là “phóng
quang”, có ba điều:
- Trước
hết, chỗ [để quang minh tỏa ra] là lỗ chân lông
trên thân.
- Kế đó,
phóng quang minh to lớn.
- Sau cùng, thể
chất của quang minh có vô lượng các màu sắc.
(Kinh) Chư
Phật sát độ tất hiện quang trung, thập
phương Hằng hà sa giảo lượng, thí dụ, sở
bất năng cập.
(經)諸佛剎土悉現光中,十方恒河沙校量譬喻所不能及。
(Kinh:
Cơi nước của chư Phật đều hiện
trong quang minh. Mười phương Hằng hà sa so lường
và thí dụ đều chẳng thể sánh bằng).
Tán rằng:
Điều thứ ba [trong ư thứ nhất] là chiếu cảnh,
gồm hai ư:
- Một, [nói
về] ngằn mé của cảnh được chiếu, [tức
là] cơi nước của chư Phật đều hiện
trong quang minh.
- Hai, [cảnh
được chiếu ấy] thù thắng,
so lường hay thí dụ đều chẳng thể sánh
bằng.
5.5.4.1.2. Lợi ích của quang
minh
(Kinh)
Ngũ trược ác thế vị quang sở chiếu.
(經)五濁惡世為光所照。
(Kinh:
Đời ác ngũ trược được quang minh chiếu
vào).
Tán rằng:
Phần thứ hai là lợi ích của quang minh, có bốn ư.
Ư thứ nhất là nói tổng quát về thời xứ. “Thời” chính là
lúc ngũ trược; “xứ” chính
là uế độ.
(Kinh) Thị
chư chúng sanh tác thập ác nghiệp, ngũ Vô Gián tội,
phỉ báng Tam Bảo, bất hiếu tôn thân, khinh mạn sư
trưởng, Bà-la-môn chúng, ưng đọa địa ngục,
ngạ quỷ, bàng sanh.
(經)是諸眾生作十惡業、五無間罪、誹謗三寶、不孝尊親、輕慢師長婆羅門眾,應墮地獄、餓鬼、傍生。
(Kinh:
Các chúng sanh ấy tạo mười ác nghiệp, tội ngũ
Vô Gián, phỉ báng Tam Bảo, bất hiếu với cha mẹ,
khinh mạn sư trưởng và các Bà-la-môn, đáng đọa
vào địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh).
Tán rằng:
Ư thứ hai là nói tới cảnh được chiếu, tức
là cảnh được chiếu bởi quang minh. Ư Phật
chủ yếu là v́ đoạn trừ Hoặc, nghiệp,
khổ; do mỗi điều đều nhắc lại, nên
nói là “chiếu Thập Ác, ngũ nghịch, và ba đường
ác” trong đời
ngũ trược. Thập
Ác, Ngũ Trược
và nghiệp Ngũ Nghịch như các kinh luận khác đă
biện định cặn kẽ. Nói về Vô Gián th́ như
quyển thứ mười bảy của bộ Câu Xá Luận
đă giảng: “Xét theo Dị Thục Quả quyết
định, th́ chẳng có nghiệp nào khác, đời nào
khác để gián đoạn, ngăn cách [cái quả ấy] được”.
Đấy là chỉ do ư nghĩa “chẳng
gián đoạn, ngăn cách” cho đến [luận ấy]
nói “do chốn ấy chẳng có gián đoạn, cho nên gọi
là Vô Gián. Do ứng
hợp với pháp vô gián, nên gọi là Vô
Gián.”
(Kinh) Bỉ
các mông quang chí sở trụ xứ.
(經)彼各蒙光至所住處。
(Kinh:
Bọn họ ai nấy đều được quang minh
chiếu tới chỗ họ ở).
Tán rằng:
Điều thứ ba là quang minh có thể chiếu.
(Kinh) Thị
chư hữu t́nh kiến tư quang dĩ, nhân quang lực
cố, giai đắc an lạc, đoan chánh, xu diệu,
sắc tướng cụ túc, phước trí trang nghiêm,
đắc kiến chư Phật.
(經)是諸有情見斯光已,因光力故皆得安樂,端正姝妙色相具足,福智莊嚴,得見諸佛。
(Kinh:
Các hữu t́nh ấy thấy quang minh đó xong, do sức của
quang minh, đều được an vui, đoan chánh, đẹp
đẽ, sắc tướng trọn đủ, phước
trí trang nghiêm, được thấy chư Phật).
Tán rằng:
Điều thứ tư là nói về
“lợi ích
của quang minh”. Trong đây,
lại có bốn ư:
- Một, được
an lạc.
- Hai, được
đoan nghiêm.
- Ba, được
phước trí.
- Bốn, được
thấy Phật.
Hỏi: Thấy
quang minh th́ đă được an lạc, đă ĺa các chướng
trên đây, sao c̣n v́
họ nói lợi ích do sám hối?
Đáp: Người
đáng nên thấy quang minh để diệt tội, liền
được thấy quang minh. Người đáng nên nghe
pháp mà được diệt tội, liền v́ họ thuyết
pháp. Hoặc [có thể hiểu] là do thấy
[quang minh] liền tạm diệt tội, sám hối để
vĩnh viễn trừ diệt. Lại nữa, quang minh v́ đời
hiện tại, c̣n pháp [sám hối] thông đến vị lai!
5.5.4.1.3. Theo ánh sáng đến
chỗ đức Phật
(Kinh) Thị
thời Đế Thích, nhất thiết thiên chúng, cập Hằng
hà nữ thần, tịnh chư đại chúng, mông quang hy
hữu, giai chí Phật sở, hữu nhiễu tam táp, thoái tọa
nhất diện.
(經)是時帝釋一切天眾,及恒河女神并諸大眾,蒙光希有,皆至佛所,右繞三匝退坐一面。
(Kinh:
Khi đó, Đế Thích, hết thảy thiên chúng, và nữ
thần sông Hằng, cùng các đại chúng, do được
quang minh hy hữu [chiếu tới], đều
đến chỗ
Phật, nhiễu theo chiều phải ba ṿng, lui ra ngồi
một phía).
Tán rằng:
Theo quang minh đến chỗ đức Phật.
5.5.4.2. Thiên Đế khải
thỉnh
(Kinh) Nhĩ
thời, Thiên Đế Thích thừa Phật oai lực, tức
tùng ṭa khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất
trước địa, hiệp chưởng hướng Phật,
nhi bạch Phật ngôn: “Thế Tôn!”
(經)爾時天帝釋承佛威力即從座起,偏袒右肩右膝著地合掌向佛而白佛言:世尊!
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Thiên Đế Thích nương vào oai lực
của đức Phật, liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, trật vai áo phải, gối phải đặt sát
đất, chắp tay hướng về đức Phật,
mà bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn!”)
Tán rằng:
Đế Thích khải thỉnh, có bốn điều:
- Một,
nghi thức thỉnh pháp.
- Hai, [nói về]
đấng được cầu thỉnh.
- Ba, căn
cơ để
thực hiện [pháp sám hối].
- Bốn, pháp
được thỉnh.
Đoạn
này gồm hai điều đầu. Trong điều thứ
nhất, lại có ba ư:
- Một, [nêu
ra] người cầu thỉnh (tức Thiên Đế Thích).
- Hai, oai lực
để nương vào.
- Ba, trần
thuật khuôn phép [thỉnh cầu, như trật
vai áo phải v.v…]
(Kinh)
Vân hà thiện nam tử, thiện nữ nhân nguyện cầu
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, tu hành Đại
Thừa, nhiếp thọ nhất thiết tà đảo hữu
t́nh? Tằng sở tạo tác nghiệp chướng tội
giả, vân hà sám hối đương đắc trừ
diệt?
(經)云何善男子善女人願求阿耨多羅三藐三菩提,修行大乘,攝受一切邪倒有情?曾所造作業障罪者,云何懺悔當得除滅?
(Kinh:
Thiện nam tử, thiện nữ nhân nguyện cầu Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, tu hành Đại Thừa, nhiếp
thọ hết thảy hữu t́nh tà kiến, điên đảo
như thế nào? Kẻ từng tạo tác tội nghiệp
chướng sám hối như thế nào để được
trừ diệt?)
Tán rằng:
Đây là hai ư sau (tức
“căn cơ để thực
hiện” và “pháp được
cầu thỉnh”). Trong căn
cơ để
thực hiện, có hai ư:
- Một, người
có thể hành pháp.
- Hai, người được
nhiếp thọ bởi lợi ích của pháp này.
Tu hành ở
đây cũng chính là tự tu tập, nhưng Bồ Tát luôn
ôm ấp ư nguyện “lợi lạc
người khác” làm đầu. Do đó, chỉ
nêu ra [lời hỏi] v́ người khác, chứ thật ra,
cũng nhằm tự hành. Chuyện thỉnh pháp dễ hiểu!
5.5.4.3. Như Lai giảng nói
5.5.4.3.1. Giải đáp về
pháp được thỉnh (pháp sám hối)
5.5.4.3.1.1. Tán thán người cầu
thỉnh
(Kinh) Phật
cáo Thiên Đế Thích: - Thiện tai, thiện tai! Thiện
nam tử! Nhữ kim tu hành, dục vị vô lượng vô
biên chúng sanh, linh
đắc thanh tịnh giải thoát an lạc, ai mẫn thế
gian, phước lợi nhất thiết.
(經)佛告天帝釋:善哉善哉!善男子!汝今修行,欲為無量無邊眾生令得清淨解脫安樂,哀愍世間福利一切。
(Kinh:
Đức Phật bảo Thiên Đế Thích: - Lành thay, lành
thay! Thiện nam tử! Ông nay tu hành, muốn cho vô lượng
vô biên chúng sanh đều được giải thoát thanh tịnh,
an lạc, thương xót thế gian, tạo phước lợi
cho hết thảy).
Tán rằng:
Phần thứ ba là Như Lai giảng nói cho Thiên Đế,
có sáu đoạn:
- Một, giải
đáp pháp được thỉnh vấn.
- Hai, từ
“nhược hữu tịnh tín” (nếu có người
ḷng tin thanh tịnh) trở đi, tán thán [pháp sám
hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh] thù thắng, khuyên hành.
- Ba, từ
“nhĩ thời, Thiên Đế” (lúc bấy
giờ, Thiên Đế…) trở đi là nương vào đó,
khuyên tu học.
- Bốn, từ
“ngă niệm văng tích” (ta nhớ xưa kia) trở đi,
[đức Phật] dẫn chính ḿnh làm chứng.
- Năm, từ
“nhược hữu bật-sô” (nếu có bật-sô) trở
đi, nói về lợi ích do hành pháp.
- Sáu, từ
“nhĩ thời, Thích Phạm” (Lúc bấy giờ, Đế
Thích, Phạm Vương)
trở đi, Đế
Thích và Phạm Vương trần thuật sự thành tựu.
Trong phần
giải
đáp cho lời thỉnh vấn th́ trước
là tán thán, sau là giải đáp. Trong phần tán thán, trước
là tán thán chung, sau là tán thán riêng. Trong phần tán thán riêng:
- Một, tán
thán tự lợi, tức là câu “nhữ kim tu hành” (nay ông
tu hành).
- Hai, tán thán
lợi tha, tức là câu “dục vị vô lượng…”
(muốn cho vô lượng…)
Trong phần tán thán lợi tha th́ trước
là tán thán lợi tha, sau là giải thích nguyên do. Nói “vị vô
lượng chúng sanh” (v́ vô lượng chúng sanh) th́ như
quyển bốn mươi sáu của Du Già Sư Địa
Luận nói có năm thứ vô lượng:
- Một, hữu
t́nh giới vô lượng.
- Hai, thế
giới vô lượng.
- Ba, pháp giới
vô lượng.
- Bốn, sở điều phục
giới [vô lượng].
- Năm, điều
phục phương tiện giới [vô lượng].
“Hữu
t́nh giới” chính là chúng sanh được lợi ích. “Thế
giới” chính là chỗ có thể hóa độ. “Pháp giới”
tức là các pháp thuộc ba tánh (Y Tha Khởi, Biến Kế
Sở Chấp, và Viên Thành Thật), tức là do các pháp ấy
mà trở thành nhiễm hay tịnh. Nói “sở điều
phục giới” tức là chủng
tánh sai biệt; do các chủng tánh ấy có thể kham thực
hiện vậy. Nói “điều phục phương tiện
giới” tức là pháp có thể thành tựu hữu t́nh. [Kinh
văn ở đây nói] “vô lượng” chính là chúng sanh
giới, “vô biên” tức là thế giới, hoặc bao
gồm cả hai (chúng sanh giới và thế giới). “Linh
đắc an lạc” (khiến cho được
an lạc) là sở điều phục giới và các chướng
bị trừ khử, tức là pháp giới vô lượng.
“Nhữ kim tu hành” (ông nay tu hành) chính là điều phục
phương tiện giới. V́ thế, kinh Vô Cấu Xưng
nói: “Ưng dĩ thị pháp nhi hóa hữu t́nh, tức tu thị
pháp” (đáng nên dùng pháp ấy để hóa độ hữu
t́nh, liền tu pháp ấy). “An lạc đạo” chính
là Bồ Đề, Niết Bàn. V́ thế quyển mười
của Duy Thức chép: “Hai thứ tự tánh ấy đều
chẳng bức bách, chẳng năo hại,
và có thể khiến cho an lạc. V́ thế, hai thứ chuyển
y đều gọi là an lạc. Do cùng ĺa cả hai chướng, nên gọi
là giải thoát thanh tịnh”. “Ai mẫn”
(xót thương) tức là đại bi dẹp khổ. “Phước
lợi” chính là đại từ ban vui.
5.5.4.3.1.2. Giải đáp
5.5.4.3.1.2.1. Dạy đại
lược cách sám hối để diệt ác
5.5.4.3.1.2.1.1.
Nói thẳng vào pháp sám hối
5.5.4.3.1.2.1.1.1.
Nói về người đáng nên sám hối
(Kinh)
Nhược hữu chúng sanh, do nghiệp chướng cố, tạo chư tội
giả.
(經)若有眾生由業障故造諸罪者。
(Kinh:
Nếu có chúng sanh do v́ nghiệp chướng mà tạo các tội).
Tán rằng:
[Đây là phần] chánh thức giải đáp, có hai phần:
- Một, nói
đại lược, chỉ nhằm khiến
cho [hành nhân] diệt ác.
- Hai, từ
“thiện nam tử hữu tứ nghiệp chướng”
(thiện nam tử có bốn thứ nghiệp chướng)
trở đi là nói cặn kẽ, cũng nhằm khiến
cho [hành
nhân] sanh thiện.
Trong phần
thứ nhất, lại gồm có hai phần:
- Một, nói
thẳng vào pháp sám hối.
- Hai, từ
“nhược nhân thành tựu tứ pháp” (nếu có người
thành tựu bốn pháp) trở đi, nói về người
có thể hành [pháp sám hối ấy].
Hoặc có
thể nói: Phần thứ nhất là tạm trừ, phần
thứ hai là vĩnh viễn diệt trừ. Trong phần
sám hối, lại chia thành năm phần:
- Một, nói
về người đáng nên sám hối.
- Hai, từ
“ưng đương sách lệ” (đáng nên sách tấn,
khích lệ) trở đi, nói về phương thức,
quy cách sám hối.
- Ba, từ
“ngă tùng vô thỉ” (con từ vô thỉ) trở đi, nói
thẳng vào pháp sám hối.
- Bốn, từ
“dĩ thị nhân duyên” (do nhân duyên ấy trở đi),
kết lại, khuyên tu hành.
- Năm, từ
“hà dĩ cố? Nhất thiết chư pháp tùng nhân duyên
sanh” (v́ lẽ nào vậy? Hết thảy các pháp từ nhân
duyên sanh) trở đi, giải thích nguyên do.
Đoạn
này thuộc về phần thứ nhất. Do nghiệp
chướng, do nghiệp chủng xưa kia đă tạo các
tội, cho nên chúng dấy lên hiện hành. Đấy là do túc
nhân tạo nghiệp quyết định. Nếu không, Bồ
Tát và các đức Như Lai trong hết thảy mọi lúc
quan sát thấy
các nghiệp sắp khởi lên, sẽ chế
phục, khiến
cho [chúng sanh] chẳng thể tạo tác [các
nghiệp ấy] được. V́ sao họ tạo tác [các
nghiệp ấy]? Do [túc nhân tạo nghiệp] quyết định!
Nếu không, lẽ nào các vị Phật, Bồ Tát v.v… đợi
họ tạo tác rồi mới dạy họ sám hối? [Sẽ có kẻ vặn
hỏi]: Nếu là như vậy, hết thảy các nghiệp
đều phải là quyết định tạo tác, lẽ
ra chẳng có nghiệp vô định?
Đáp rằng:
Tuy nghiệp
đă tạo là nhất định, cái quả cảm vời không nhất
định. Do vậy, kinh luận lại xét theo cái quả
cảm vời để phân biệt là định hay bất định,
tức là dựa theo người
tạo nghiệp. Lại có thể hiểu rằng: Do v́ nghiệp
chướng mà thành thiện nghiệp hay ác nghiệp. “Tạo
các tội” tức là cảm quả. Nghiệp là cái có thể
tạo, quả là cái được tạo. Lại có thể
hiểu là bao gồm cả hai nghĩa trên đây.
5.5.4.3.1.2.1.1.2. Phương thức,
quy cách sám hối
(Kinh) Ưng
đương sách lệ, trú dạ lục thời, thiên
đản hữu kiên, hữu tất trước địa,
hiệp chưởng cung kính, nhất tâm chuyên niệm, khẩu
tự thuyết ngôn.
(經)應當策勵,晝夜六時偏袒右肩,右膝著地合掌恭敬,一心專念,口自說言。
(Kinh:
Hăy nên siêng gắng, ngày đêm sáu thời, trật vai áo phải,
gối phải đặt sát đất, chắp tay, cung
kính, một dạ chuyên niệm, miệng tự nói rằng).
Tán rằng:
Nói về phương pháp, quy cách [sám hối], gồm có bốn
ư:
- Một, dạy
[hành nhân] tác ư, tức là gia hạnh và suy xét kỹ càng, tức
là phải nên siêng gắng.
- Hai, thời
tiết (thời
điểm, thời gian thích hợp) [để
hành sám hối], chính là ngày đêm sáu thời.
- [Ba], dấy
lên suy nghĩ, dấy khởi tam nghiệp chánh đáng.
- [Bốn, dốc
trọn] thân, ư, ngữ
[để
hành sám hối]: “Trật vai áo phải, gối
phải đặt sát đất…” là thân nghiệp. “Nhất
tâm chuyên niệm” là ư nghiệp. “Miệng tự thưa
bày” là ngữ nghiệp.
(Kinh) Quy
mạng đảnh lễ hiện tại thập
phương nhất thiết chư Phật dĩ đắc
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề giả.
(經)歸命頂禮現在十方一切諸佛已得阿耨多羅三藐三菩提者。
(Kinh:
Quy mạng, đảnh lễ mười phương hết
thảy chư Phật là các đấng đă đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác trong hiện tại).
Tán rằng:
[Đoạn này nói đối tượng mà hành nhân] đối
trước để sám hối. Trong ấy, chia thành hai phần:
- Một, kiền
thành, cung kính lễ bái, tán thán.
- Hai, từ
“bỉ chư Thế Tôn” (các đức Thế Tôn ấy)
trở đi là gieo ḷng thành, thỉnh cầu chứng
minh.
Đoạn
này thuộc ư thứ nhất. Kinh văn chia thành hai phần:
- Một là
đời hiện tại, [tức đoạn kinh văn
trên đây].
- Hai là từ
“như thị đẳng” (như thế đó) trở
đi là [nói tới chư Phật trong] quá khứ và vị
lai.
Trong phần
đầu (tức “chư Phật trong hiện tại”), lại
chia thành hai ư: Trước là lễ bái, sau là tán thán. Đoạn
này là lễ bái. Cho đến hết tuổi thọ, dốc
sạch ḷng thành, cho nên nói là “quy mạng”. Biểu lộ
sự tôn kính cùng cực, cho nên nói là “đảnh lễ”.
Trong phần tán thán:
- Trước
là tán thán tự lợi đắc Bồ Đề.
- Sau là tán
thán lợi tha, chuyển pháp luân v.v…
Câu này chính
là ư thứ nhất.
(Kinh) Chuyển
diệu pháp luân, tŕ chiếu pháp luân, vũ đại pháp
vũ, kích đại pháp cổ, xuy đại pháp loa, kiến
đại pháp tràng, bỉnh đại pháp cự.
(經)轉妙法輪、持照法輪,雨大法雨、擊大法鼓、吹大法螺、建大法幢、秉大法炬。
(Kinh:
Chuyển diệu pháp luân, tŕ chiếu pháp luân, xối mưa
pháp lớn, gióng trống pháp lớn, thổi ốc pháp lớn,
lập pháp tràng lớn, nắm đuốc pháp lớn).
Tán rằng:
Đây là tán thán lợi tha, [gồm hai ư]: Trước là thuyết
pháp, sau là lợi tha. Trong tám câu thuộc phần thuyết
pháp, ba câu đầu tiên là nêu ra, năm câu kế đó là giải
thích. Ở đây, có hai cách giải thích:
- Một,
chuyển pháp luân thuộc Kiến Đạo, c̣n chiếu
pháp luân thuộc Tu Đạo. “Tŕ” thuộc Vô Học,
nghĩa thông cả ba thừa. Trong Kiến Đế Đạo,
do quán Tứ Đế thượng, hạ chuyển v.v…. nên
riêng được gọi là Chuyển. Tu Đạo ĺa chướng,
chú trọng quán diệu lư, riêng gọi là Chiếu. Bậc Vô
Học có thể thâu nhiếp hữu vi và vô vi đức, nên
riêng được gọi là Tŕ. “Vũ đại pháp vũ”
(xối mưa pháp lớn) thuộc về hạnh vị thắng
giải. “Kích đại pháp cổ” (gióng trống pháp
lớn) thuộc về địa vị Kiến Đạo và Tu Đạo. Từ “xuy
pháp loa” (thổi ốc pháp) trở đi, thuộc vào địa
vị Vô Học.
- [Hai], lại
có thể hiểu rằng: Ba câu đầu, xét theo kinh Giải
Thâm Mật là tam thời giáo[2].
Xét theo đó, Tŕ đáng lẽ phải ở sau [Chiếu],
nhưng do nói cho tiện, nên Tŕ ở trước Chiếu.
Trong năm câu kế đó, câu thứ nhất chính là “chuyển
pháp luân”. Xét theo Pháp Hoa Kinh Luận nói: “Khiến cho người
đă đoạn nghi thành tựu trí thân”, tức là khiến
cho họ đắc quả Nhị Thừa. “Kích đại
pháp cổ” (gióng trống pháp lớn) tức là chiếu pháp
luân. Pháp Hoa Kinh Luận nói: “Đối với người
đă thành tựu trí thân, chỉ bày hai loại cảnh giới
bí mật”. Nói “Nhị Thừa” tức là tiến nhập
đại phương tiện. Do họ (hàng Nhị Thừa) chẳng
thể biết [cảnh giới ấy], nên nói là “mật
cảnh giới”. Ba thứ vô tánh (tướng
vô tánh, sanh vô tánh, thắng nghĩa vô tánh) v.v… cũng là mật
ư. Nay ở đây, chỉ có chỉ bày cảnh giới bí mật cho hàng Nhị
Thừa, không ǵ chẳng phải là trống pháp cực lớn!
Kế đó, ba điều như “thổi ốc pháp”
v.v… là tŕ pháp luân: Trước hết là thuyết pháp, kế
đó là đắc trí, sau cùng là quán Lư, tức là khiến
cho họ đắc Bồ Đề Niết Bàn. Trong kinh
Pháp Hoa, do xét theo năng lực viên măn, cho nên sau [dựng] pháp
tràng mới nói “thổi ốc pháp”. Kinh này xét theo
chuyện “có thể v́ người khác thuyết giáo, khiến
cho họ đắc quả Nhị Thừa”, cho nên pháp tràng
được nói trước “thổi ốc pháp”. Như
Diệu Quang Bồ Tát tŕ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, giáo hóa tám vương
tử đều thành Phật đạo. Trong phẩm Tín
Giải, các vị như Ca Diếp v.v… thưa: “Ngă đẳng
kim giả chân thị Thanh Văn” (Chúng con ngày nay thật
sự là Thanh Văn), do khiến cho hết thảy được
nghe tiếng của Phật đạo.
(Kinh) Vị
dục lợi ích, an lạc chư chúng sanh cố, thường
hành pháp thí, dụ tấn quần mê, linh đắc đại
quả, chứng thường lạc cố.
(經)為欲利益安樂諸眾生故,常行法施誘進群迷,令得大果證常樂故。
(Kinh:
V́ muốn lợi ích, an lạc các chúng sanh, mà thường
hành pháp thí, dẫn dụ, sách tấn quần mê, khiến cho
họ đạt được đại quả, chứng
thường lạc).
Tán rằng:
[Đây là tán thán hạnh] lợi tha. Khiến cho người
khác đạt được cái quả thế gian th́ gọi
là “lợi ích”, khiến cho họ đạt được
cái quả xuất thế th́ gọi là “an lạc”. Đem
giáo pháp trao cho căn cơ tương xứng, th́ gọi
là “pháp thí”. Khiến cho kẻ chưa phát tâm sẽ phát
tâm, th́ gọi
là Dụ (khuyên
dụ), khiến cho kẻ đă phát tâm được
thành tựu th́ gọi là Tấn. Khiến cho người đă
thành tựu sẽ đạt được giải thoát, th́ gọi
là “đắc đại quả, chứng thường lạc”.
Tự tánh của Niết Bàn là Thường,
ba loại Bồ Đề[3]
là Thường,
chỗ để bốn trí nương vào là Thường;
v́ thế, đều gọi là Thường. Lạc th́ như
trong phần trước đă giải thích.
(Kinh)
Như thị đẳng chư Phật Thế Tôn, dĩ thân,
ngữ, ư, khể
thủ quy thành, chí tâm lễ kính.
(經)如是等諸佛世尊,以身語意稽首歸誠至心禮敬。
(Kinh:
Đối với chư Phật Thế Tôn như thế,
dùng thân, ngữ, ư dập đầu, gieo ḷng thành, chí tâm lễ
kính).
Tán rằng:
[Chí tâm lễ kính] quá khứ và vị lai chư Phật.
(Kinh) Bỉ
chư Thế Tôn dĩ chân thật huệ, dĩ chân thật
nhăn, chân thật chứng minh, chân thật b́nh đẳng, tất
tri, tất kiến nhất thiết chúng sanh thiện ác
chi nghiệp.
(經)彼諸世尊以真實慧、以真實眼、真實證明、真實平等,悉知悉見一切眾生善惡之業。
(Kinh:
Các đức Thế Tôn ấy do chân thật huệ, dùng mắt
chân thật, chân thật
chứng minh, chân thật b́nh đẳng, đều thấy,
đều biết nghiệp thiện ác của hết thảy
chúng sanh).
Tán rằng:
Dốc ḷng thành, thỉnh chứng minh, bởi lẽ đức
Phật:
- Một, do
có đủ hai trí[4],
nên nói là “chân thật huệ”.
- Hai, do ngũ
nhăn viên măn, nên nói là “chân thật nhăn”.
- Ba, có thể
chân thật chứng, do trọn đủ hai nghĩa trên đây.
- Bốn, tâm
b́nh đẳng do đă chứng lư b́nh đẳng, nương
vào ba Niệm Trụ[5].
- Năm, có
thể thấy biết ư ấy.
Do Phật
trọn đủ hai trí, nên biết trọn chúng
sanh. Do ngũ nhăn viên măn, nên thấy trọn chúng sanh. V́ thế,
nay [hành
nhân] dốc ḷng thành, thỉnh Phật chứng
minh. Tức là như trong Bát Nhă Kinh Luận, ngài Vô Trước
đă viết: “Kiến trí thanh tịnh, trụ trọn vẹn”.
“Kiến” chính là
ngũ nhăn, Trí chính là hai trí. Do nhục nhăn và thiên nhăn thấy
sắc thân thuộc vào Sắc Uẩn của hết thảy
chúng sanh. Do pháp nhăn mà thấy danh thân (tâm pháp) thuộc Tứ
Uẩn của hết thảy chúng sanh. Tức là thấy thân
nghiệp và ngữ nghiệp bằng nhục nhăn và thiên nhăn;
thấy ư nghiệp bằng pháp nhăn, thấy chung khắp bằng
Phật nhăn. Quyển tám mươi hai của Du Già Sư
Địa Luận viết: “Thành tựu minh nhăn, do trọn
đủ ba thứ mắt”. “Ba thứ
mắt” chính là
nhục nhăn, thiên nhăn, và huệ nhăn. Huệ nhăn làm gốc, sau
đó, chia thành pháp nhăn và huệ nhăn, nhưng Thể của
chúng là một. Ở nơi [Phật] quả th́ gọi là Phật
nhăn, Thể [của
Phật nhăn] chính là ba loại mắt kia (nhục nhăn, thiên
nhăn, và huệ nhăn), cho nên chẳng nói là năm, v́ Phật có
trọn đủ các trí. “Biết” là biết tịch
tĩnh và chẳng tịch tĩnh, tức là biết “trụ
niệm” và “trụ
phi niệm”, trụ
hoại duyên, pháp niệm, bao gồm Căn Bản Trí và trọn
đủ ngũ nhăn, có thể biết trọn thân, ngữ,
tâm hạnh thiện
hay bất thiện nghiệp. Nương vào ba Niệm Trụ, thấy
oán thân b́nh đẳng. V́ thế, thỉnh cầu chứng
minh.
Lại nữa,
“chân thật
chứng minh” có hai nghĩa:
- Một,
trần thuật Phật chứng biết rơ ràng.
- Hai, thỉnh
cầu [Phật] chứng minh.
Nếu [đức Phật] chỉ
v́ [Đế Thích] chứng minh th́ phải là nghĩa sau, nhưng
do bao gồm cả hai nghĩa, cho nên nói chiết trung, cũng
giống như Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận viết:
“Mười phương hết thảy chư Phật,
không ǵ chẳng biết trọn, con nay đều đối
trước các Ngài, phát lộ các điều ác đen tối” v.v…
5.5.4.3.1.2.1.1.3. Phát lộ sám hối
5.5.4.3.1.2.1.1.3.1. Nêu chung các tội
(Kinh)
Ngă tùng vô thỉ sanh tử dĩ lai, tùy ác lưu chuyển,
cộng chư chúng sanh tạo nghiệp chướng tội.
(經)我從無始生死以來,隨惡流轉,共諸眾生造業障罪。
(Kinh:
Con từ vô thỉ sanh tử đến nay, theo thói ác mà lưu
chuyển, cùng các chúng sanh tạo tội nghiệp chướng).
Tán rằng:
Nói thẳng vào chuyện sám hối. Kinh văn lại chia thành
ba phần:
- Một, nêu
chung.
- Hai, sám hối
riêng biệt [từng tội]
- Ba, thuận
đồng (tức là tùy thuận tam thế chư Bồ
Tát .v.v… mà hành sám giống như vậy].
Đây là phần
thứ nhất. “Tùy ác” là thuận theo bạn ác, thuận
theo Hoặc nghiệp. “Lưu chuyển”: Hứng chịu
cái quả sanh tử. Chủng tử là Lưu, hiện quả
là Chuyển. Hoặc thuận theo Hoặc nghiệp ác, đó
là Tập Đế. “Lưu” là thuận theo ác quả,
đó là Khổ Đế. Chuyển y[6]
nơi Khổ Đế, lại cùng chúng sanh phát khởi Tập
Đế, tạo ra các nghiệp.
5.5.4.3.1.2.1.1.3.2. Sám hối riêng
biệt từng tội
5.5.4.3.1.2.1.1.3.2.1. Nêu ra cái nhân tạo
nghiệp
(Kinh) Vị
tham, sân, si chi sở triền phược, vị thức Phật
thời, vị thức Pháp thời, vị thức Tăng
thời, vị thức thiện ác.
(經)為貪瞋癡之所纏縛,未識佛時、未識法時、未識僧時,未識善惡。
(Kinh:
Bị tham, sân, si quấn trói, khi chưa biết Phật,
khi chưa biết Pháp, khi chưa biết Tăng, chưa biết
thiện ác).
Tán rằng:
Kế đó, sám hối riêng biệt [từng tội]. Lại
chia thành ba phần:
- Một, nêu
ra cái nhân tạo nghiệp.
- Hai, [nêu bày]
cái nghiệp đă tạo.
- Ba, [nêu bày]
cái quả đă thành [do nghiệp nhân ấy].
Cũng tức
là theo thứ tự sám hối Hoặc, nghiệp, khổ. Đấy
chính là sám hối “do Hoặc mà dấy lên nghiệp nhân”. Do Tam
Độc quấn trói mà chẳng được tự tại,
dấy lên các cội gốc ác, nên gọi là “bất thiện
căn”, giống như Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận
đă nói: “Ba lần ba hợp thành chín loại, từ ba thứ
phiền năo mà dấy khởi”. “Gộp thành chín loại”
tức là ba nghiệp như thân nghiệp, khẩu nghiệp
v.v… [mỗi nghiệp ấy lại đều] có nghiệp
hiện sanh (nghiệp trong hiện tại), hậu hữu
(thân sau), và nghiệp thuộc tam giới. V́ thế
nói là “ba lần ba”. [Các nghiệp ấy] đều
do ba thứ, tức tham, sân v.v… dấy lên, nên nói là “tùng tam
khởi” (từ ba thứ mà dấy lên). Vô minh là cái gốc
mạnh mẽ nhất, cho nên riêng nói “vị thức Tam Bảo,
thiện ác” (chưa nhận biết Tam Bảo và thiện
ác).
5.5.4.3.1.2.1.1.3.2.2. Nêu bày các tội
đă tạo
5.5.4.3.1.2.1.1.3.2.2.1. Nêu ra nghiệp
chướng
(Kinh)
Do thân, ngữ, ư, tạo Vô Gián tội.
(經)由身語意造無間罪。
(Kinh:
Do thân, ngữ, ư, tạo tội Vô Gián).
Tán rằng:
Sám hối nghiệp chướng. Trong đây, lại chia thành
ba phần:
- Một, nêu
ra nghiệp chướng.
- Hai, thỉnh
Phật chứng minh.
- Ba, thật
sự sám hối.
Trong phần
thứ nhất, có ba phần tức là ba đoạn kinh
văn Tổng, Biệt, và kết luận
theo thứ tự. Trong phần Biệt, trước hết
là nêu ra nghiệp Ngũ Nghịch. Từ “kiến hữu
thắng dĩ” (thấy có người trội hơn)
trở đi là [nói về] các nghiệp khác. Đoạn này
thuộc phần thứ nhất. Theo các kinh như Tát Giá Ni
Càn Tử v.v… th́ có Đại
Thừa Ngũ Nghịch.
(Kinh) Ác
tâm xuất Phật thân huyết, phỉ báng chánh pháp, phá ḥa
hợp Tăng, sát A La Hán, sát hại phụ mẫu.
(經)惡心出佛身血、誹謗正法、破和合僧、殺阿羅漢、殺害父母。
(Kinh:
Ác tâm xuất Phật thân huyết, phỉ báng chánh pháp, phá ḥa
hợp Tăng, sát A La Hán, sát hại phụ mẫu).
Tán rằng:
Ngũ Nghịch ở đây là nói chung cho cả ba thừa,
tương đương với điều nghịch thứ
tư trong bất cộng Ngũ Nghịch của Đại
Thừa. “Phỉ báng chánh pháp” cũng là phá Tăng. Do phỉ
báng Bát Chánh Đạo của đức Phật chẳng
phải là chánh đạo, bảo ngũ pháp là chánh đạo;
cho nên nói là “phỉ báng chánh pháp”. Nói tới “ngũ
pháp” (tức năm pháp do Đại Thiên đề xướng
nhằm chia rẽ Tăng đoàn) th́ trong kinh Đại Thừa
chưa thấy phần kinh văn ấy. Dựa theo quyển
một trăm mười sáu trong bộ Đại Tỳ
Bà Sa của Nhất Thiết Hữu Bộ[7]
th́: “Những ǵ là năm pháp? Một là cho đến hết
đời, mặc y phấn
tảo. Hai là cho đến hết tuổi thọ, luôn khất
thực. Ba là cho đến hết tuổi thọ chỉ ăn
một bữa. Bốn là cho đến tuổi thọ, thường
sống ở nơi vắng vẻ. Năm là cho đến
hết tuổi thọ, chẳng ăn hết thảy cá, thịt,
nếm các thứ muối, tô, sữa v.v…” Chánh Lư
Luật nói về năm pháp có sai khác, chi tiết th́ như
trong luật ấy đă nói. Hoặc coi “phỉ báng chánh
pháp” là điều nghịch thứ hai trong Đại Thừa,
c̣n ở đây nói [tội “báng chánh pháp”] trước tội
“phá tăng”, là v́ coi tội ấy giống như phá
chánh pháp của Phật. V́ thế, tội được nói
ở đây chẳng [thật sự] thuộc vào tội “phá
tăng”.
(Kinh)
Thân tam, ngữ tứ, ư tam chủng, hành tạo thập ác
nghiệp, tự tác, giáo tha, kiến tác tùy hỷ. Ư chư
thiện nhân, hoạnh sanh hủy báng, đẩu xứng
khi cuống, dĩ ngụy vi chân, bất tịnh ẩm thực
thí dữ nhất thiết. Ư lục đạo trung sở
hữu phụ mẫu, cánh tương năo hại.
(經)身三、語四、意三種行造十惡業,自作、教他、見作隨喜,於諸善人橫生毀謗、斗秤欺誑、以偽為真、不淨飲食施與一切、於六道中所有父母更相惱害。
(Kinh:
Ba nghiệp nơi thân, bốn nghiệp nơi ngữ, ba loại
nơi ư, tạo tác mười ác nghiệp, tự làm, bảo
người khác làm, thấy kẻ khác làm bèn tùy hỷ. Đối
với các người lành, ngược ngạo nẩy sanh
hủy báng. Cân đong lừa dối, coi ngụy là chân, đem
thức ăn đồ uống bất tịnh thí cho hết
thảy, năo hại tất cả cha mẹ trong sáu đường).
Tán rằng:
Kế đó là tội nghịch thứ năm, tức
là trong đêm dài thường hành mười nghiệp bất
thiện. Trước là nêu chung, sau là nêu đại lược
riêng từng điều. Từ “ư chư thiện nhân”
(đối với các người lành) trở đi, chính là phần
nêu đại lược riêng từng điều. “Sanh hủy
báng” tức là nghiệp bất thiện nơi ngữ. “Đẩu
xứng khi cuống, dĩ ngụy vi chân” (cân đong lừa
dối, coi ngụy là chân) tức là nghiệp trộm cắp.
“Bất tịnh ẩm thực thí chư chúng sanh” (đem
thức ăn bất tịnh thí cho các chúng sanh) là nghiệp
bất thiện thuộc tham, do cất giữ cái tốt, bố
thí cái xấu. “Cánh tương năo hại” (năo hại lẫn
nhau) là nghiệp bất thiện thuộc sân.
(Kinh)
Hoặc đạo tốt-đổ-ba vật, tứ
phương tăng vật, hiện tiền tăng vật,
tự tại nhi hữu.
(經)或盜窣堵波物、四方僧物、現前僧物,自在而有。
(Kinh:
Hoặc trộm cắp vật nơi tháp Phật, vật dụng
của tứ phương Tăng, vật dụng của hiện
tiền Tăng, mặc sức mà có).
Tán rằng:
Đây là điều nghịch thứ nhất, tức trộm
cắp tài vật của Tam Bảo.
(Kinh) Thế
Tôn pháp luật bất nhạo phụng hành, sư trưởng
giáo thị, bất tương tùy thuận, kiến hành Thanh
Văn, Độc Giác, Đại Thừa hành giả, hỷ
sanh mạ nhục, linh chư hành nhân tâm sanh hối năo.
(經)世尊法律不樂奉行,師長教示不相隨順,見行聲聞、獨覺、大乘行者喜生罵辱,令諸行人心生悔惱。
(Kinh:
Chẳng thích phụng hành giới luật của đức
Thế Tôn, sư trưởng dạy bảo, chẳng tùy
thuận, thấy người hành Thanh Văn, Độc Giác,
Đại Thừa thích sanh tâm chửi bới, làm nhục, khiến
cho các hành nhân sanh tâm hối hận, sầu năo).
Tán rằng:
Đây là điều nghịch thứ hai. Trước hết
là trái nghịch lời dạy, tức là ẩn giấu, lấp
liếm. Từ “thấy người hành Thanh Văn…”
trở đi là hủy báng người khác, cũng bao gồm
điều nghịch thứ ba.
(Kinh)
Kiến hữu thắng dĩ, tiện hoài tật đố,
pháp thí, tài thí thường sanh xan tích, vô minh sở phú, tà kiến
hoặc tâm.
(經)見有勝已便懷嫉妬,法施財施常生慳惜,無明所覆邪見惑心。
(Kinh:
Thấy có người trội hơn, liền ôm ḷng ghen ghét,
đối với pháp thí và tài thí thường sanh tâm keo tiếc,
bị vô minh che lấp, tà kiến mê muội cái tâm).
Tán rằng:
Sám hối các nghiệp khác. Đầu tiên là nêu ra các nghiệp
nhân sanh khởi [các nghiệp ấy]. “Tật xan” (ghen
ghét, keo kiệt) tức là thuận theo Thập Triền
trong các Hoặc. Vô minh tà kiến tức là bổn Hoặc (Hoặc
căn bản). Mỗi điều đều dựa theo
chuyện “thấy người khác trội hơn ḿnh” mà nói.
(Kinh) Bất
tu thiện nhân, linh ác tăng trưởng. Ư chư Phật
sở, nhi khởi phỉ báng, pháp thuyết phi pháp, phi pháp
thuyết pháp, như thị chúng tội.
(經)不修善因令惡增長,於諸佛所而起誹謗,法說非法、非法說法。如是眾罪。
(Kinh:
Chẳng tu nhân lành khiến cho điều ác tăng trưởng.
Đối với chư Phật Phật mà dấy ḷng phỉ
báng, pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp, các tội như thế).
Tán rằng:
Tức là khởi lên nghiệp hun đúc khiến cho điều
bất thiện mới sẽ tăng thêm, các nghiệp bất
thiện vốn có sẽ
mạnh hơn. Kế đó, khởi nghiệp
bất thiện đối với Phật pháp.
5.5.4.3.1.2.1.1.3.2.2.2. Thỉnh Phật
chứng biết
(Kinh) Phật
dĩ chân thật huệ, chân thật nhăn, chân thật chứng
minh, chân thật b́nh đẳng, tất tri, tất kiến.
(經)佛以真實慧、真實眼、真實證明、真實平等,悉知悉見。
(Kinh:
Phật do trí huệ chân thật, mắt chân thật, chứng
minh chân thật, b́nh đẳng chân thật đều thấy,
đều biết).
Tán rằng:
Điều thứ hai là thỉnh Phật chứng biết.
5.5.4.3.1.2.1.1.3.2.2.3. Phơi bày sám
hối
(Kinh)
Ngă kim quy mạng, đối chư Phật tiền, giai tất
phát lộ, bất cảm phú tàng, vị tác chi tội, cánh bất
phục tác, dĩ tác chi tội, kim giai sám hối.
(經)我今歸命,對諸佛前皆悉發露不敢覆藏,未作之罪更不復作,已作之罪今皆懺悔。
(Kinh:
Con nay quy mạng, đối trước chư Phật, thảy
đều phát lộ, chẳng dám giấu diếm. Tội
chưa làm, chẳng dám làm nữa. Tội đă làm, nay đều
sám hối).
Tán rằng:
Điều thứ ba, trần thuật sám hối.
(Kinh) Sở
tác nghiệp chướng, ưng đọa ác đạo, địa
ngục, bàng sanh, ngạ quỷ chi trung, A Tô
La chúng, cập bát nạn xứ, nguyện ngă thử sanh sở
hữu nghiệp chướng, giai đắc tiêu diệt, sở
hữu ác báo, vị lai bất thọ.
(經)所作業障,應墮惡道,地獄、傍生、餓鬼之中,阿蘇羅眾及八難處。願我此生所有業障皆得消滅,所有惡報未來不受。
(Kinh:
Do nghiệp chướng đă tạo, đáng đọa vào
đường ác, địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ,
chúng A Tu La, và chỗ tám nạn, nguyện cho tất cả nghiệp
chướng của con trong đời này đều được
tiêu diệt, chẳng thọ tất cả các ác báo trong đời
vị lai).
Tán rằng:
Sám hối báo chướng.
5.5.4.3.1.2.1.1.3.2.3. Tùy thuận
giống như chư Bồ Tát
(Kinh) Diệc
như quá khứ chư đại Bồ Tát tu Bồ Đề
hạnh, sở hữu nghiệp chướng tất dĩ
sám hối. Ngă chi nghiệp chướng, kim diệc sám
hối, giai tất phát
lộ, bất cảm phú tàng. Dĩ tác chi tội, nguyện
đắc trừ diệt. Vị lai chi ác, cánh bất cảm
tạo.
(經)亦如過去諸大菩薩修菩提行,所有業障悉已懺悔。我之業障今亦懺悔,皆悉發露不敢覆藏,已作之罪願得除滅,未來之惡更不敢造。
(Kinh:
Cũng như trong quá khứ, các vị đại Bồ
Tát tu Bồ Đề hạnh, tất cả nghiệp
chướng đều đă sám hối. Nay con cũng sám hối
nghiệp chướng của chính ḿnh, thảy đều phơi
bày, chẳng dám giấu diếm. Tội đă
làm, nguyện
được trừ diệt. Điều ác trong vị lai
chẳng dám tạo nữa).
Tán rằng:
Đây là phần “thuận đồng” (tùy thuận các
vị Bồ Tát mà hành tŕ) sau phần sám hối. “Tam thế”
là ba giai đoạn, sự sám hối ở đây giống
như [chư Bồ Tát đă hành trong] quá khứ. Trước
hết, nêu ra người khác [đă hành tŕ như thế nào];
từ “ngă chi nghiệp chướng” (nghiệp chướng
của con) trở đi là chính ḿnh hành tŕ [giống như
thế đó].
(Kinh)
Diệc như vị lai chư đại Bồ Tát tu Bồ
Đề hạnh, sở hữu nghiệp chướng tất
giai sám hối. Ngă chi nghiệp chướng, kim diệc sám
hối, hàm tất phát lộ, bất cảm phú tàng. Sở tác
chi tội, nguyện đắc trừ diệt; vị lai
chi ác, cánh bất cảm tạo. Diệc như hiện tại
thập phương thế giới chư đại Bồ
Tát tu Bồ Đề hạnh, sở hữu nghiệp chướng,
tất diệc sám hối. Ngă chi nghiệp chướng, kim
diệc sám hối, giai tất phát lộ, bất cảm phú
tàng. Dĩ tác chi tội, nguyện đắc trừ diệt,
vị lai chi ác, cánh bất cảm tạo.
(經)亦如未來諸大菩薩修菩提行,所有業障悉皆懺悔。我之業障今亦懺悔,咸悉發露不敢覆藏,所作之罪願得除滅,未來之惡更不敢造。亦如現在十方世界諸大菩薩修菩提行,所有業障悉亦懺悔。我之業障今亦懺悔,皆悉發露不敢覆藏,已作之罪願得除滅,未來之惡更不敢造。
(Kinh:
Cũng như các vị đại Bồ Tát trong vị lai
tu Bồ Đề hạnh, tất cả nghiệp chướng
thảy đều sám hối. Con nay cũng sám hối nghiệp
chướng của chính ḿnh, thảy đều phơi bày,
chẳng dám giấu diếm. Tội đă làm, nguyện được
trừ diệt. Điều ác trong vị lai chẳng dám tạo
nữa. Cũng như các vị đại Bồ Tát tu Bồ
Đề hạnh trong mười phương thế giới
hiện tại, tất cả các nghiệp chướng cũng
đều sám hối. Con nay cũng sám hối nghiệp
chướng của chính ḿnh, thảy đều phơi bày,
chẳng dám giấu diếm. Tội đă làm, nguyện được
trừ diệt. Điều ác trong vị lai chẳng dám tạo
nữa).
Tán rằng:
Hai điều kia cũng giống như thế.
5.5.4.3.1.2.1.1.4. Kết lại, khuyên
tu hành
5.5.4.3.1.2.1.1.4.1. Nêu ra các tội
để khuyên sám hối
(Kinh) Thiện
nam tử! Dĩ thị nhân duyên, nhược hữu tạo
tội, nhất sát-na trung bất đắc phú tàng, hà huống
nhất nhật, nhất dạ, năi chí đa thời!
(經)善男子!以是因緣若有造罪,一剎那中不得覆藏,何況一日一夜乃至多時。
(Kinh:
Thiện nam tử! Do nhân duyên ấy, nếu có tạo tội,
chẳng được giấu diếm trong một sát-na,
huống hồ một ngày, một đêm, cho đến thời
gian nhiều hơn).
Tán rằng:
Đây là phần thứ tư, “kết lại, khuyên tu hành”.
Trong đây, chia thành
hai phần:
- Một, nêu
ra các tội để khuyên sám hối.
- Hai, từ
“nhược hữu nguyện sanh” (nếu có nguyện
sanh) trở đi là phần nêu ra lợi ích để khuyên
tu.
Trong phần
đầu, lại có hai ư:
- Một, “dĩ
thị nhân duyên” (do nhân duyên ấy) để kết lại
phần trước. “Nhân duyên” chính là nguyên do. Do ác nghiệp
mà cảm vời ác quả, đó là nguyên do có sự tổn
hại ấy. Lại như Bồ Tát muốn tu Bồ
Đề, ắt cần
phải sám hối; v́ thế là nhân duyên.
- Từ “nhược
hữu tạo tội” (nếu có tạo tội) trở
đi là phần khuyên lơn.
Kinh văn
của phần khuyên lơn gồm ba đoạn là pháp thuyết,
thí dụ, và hợp (kết hợp thí dụ với pháp). Trong
phần pháp thuyết, có ba ư:
- Một, dạy
đừng chần chừ chút nào.
- Hai, hăy nẩy
sanh ư niệm hổ thẹn và tín tâm thanh tịnh.
- Ba, khuyên hăy
nên sám hối như vừa mới nói trên đây.
“Sát-na”
có nhiều loại[8].
Dẫu chỉ
trải qua thời gian sanh diệt trong một
sát-na, c̣n chớ nên chần chừ, huống là nhiều lúc.
Giống như trúng phải tên độc, chẳng thể
tạm
chịu đựng trong chốc lát!
(Kinh) Nhược
hữu phạm tội dục cầu thanh tịnh, tâm hoài
quư sỉ, tín ư vị lai tất hữu ác báo, sanh đại
khủng bố, ưng như thị sám.
(經)若有犯罪欲求清淨,心懷愧恥,信於未來必有惡報,生大恐怖。應如是懺。
(Kinh:
Nếu có phạm tội, mong cầu thanh tịnh, ôm ḷng hổ
thẹn, tin trong vị lai ắt có ác báo, sanh ḷng sợ hăi
to lớn, hăy nên sám hối như thế!)
Tán rằng:
Hai đoạn văn sau đó đều [có ư nghĩa] do ḷng
hổ thẹn mà chống lại cái ác. Do tin nhân quả có
thiện báo và ác báo, cho nên sanh ḷng sợ hăi to lớn!
(Kinh) Như
nhân bị hỏa thiêu đầu, thiêu y, cứu linh tốc
diệt. Hỏa nhược vị diệt, tâm bất đắc
an. Nhược nhân phạm tội, diệc
phục như thị, tức ưng sám hối, linh tốc trừ diệt.
(經)如人被火燒頭燒衣,救令速滅;火若未滅,心不得安。若人犯罪亦復如是,即應懺悔令速除滅。
(Kinh:
Như người bị lửa đốt đầu, đốt
áo, phải cứu cho mau tắt. Nếu lửa chưa tắt,
tâm chẳng được yên. Nếu ai phạm tội th́
cũng giống như thế, hăy nên lập tức sám hối
cho mau chóng trừ diệt).
Tán rằng:
Phần thí dụ và kết hợp [thí dụ với pháp] dễ hiểu.
5.5.4.3.1.2.1.1.4.2. Nêu ra lợi ích
để khuyên tu
(Kinh)
Nhược hữu nguyện sanh
phú lạc chi gia, đa nhiêu tài bảo, phục dục phát ư
tu tập Đại Thừa, diệc ưng sám hối, diệt trừ nghiệp chướng.
(經)若有願生富樂之家多饒財寶,復欲發意修習大乘,亦應懺悔滅除業障。
(Kinh:
Nếu có ư nguyện
sanh vào nhà giàu vui, của cải dư dật, lại muốn
phát tâm tu tập Đại Thừa, cũng nên sám hối để
diệt trừ nghiệp chướng).
Tán rằng:
Tiếp đó, nêu ra lợi ích để khuyên tu. Có ba ư, trước
tiên, nêu ra lợi ích hữu lậu để khuyên tu; sau là nêu ra lợi ích vô
lậu để khuyên tu. Trong
hữu lậu, trước hết nêu ra Dục Giới,
sau đó nói đến Sắc Giới. Trong Dục Giới,
trước là người, sau là trời. Trong bốn chủng
tánh của loài người, trước là nói đến hai
chủng tánh Phệ Xá (Vaiśya) và Thú Đà
(Śūdra) để
khuyên; kế đó, nêu ra Tịnh Hạnh (Bà-la-môn) và Sát-đế-lợi
(Kṣatriya) để
khuyên. Đoạn này nói về hai chủng tánh đầu.
(Kinh) Dục
sanh hào quư Bà-la-môn chủng, Sát-đế-lợi gia, cập Chuyển
Luân Vương thất bảo cụ túc, diệc ưng sám
hối, diệt
trừ nghiệp chướng.
(經)欲生豪貴婆羅門種、剎帝利家,及轉輪王七寶具足,亦應懺悔滅除業障。
(Kinh:
Muốn sanh vào gịng Bà-la-môn hay nhà Sát-đế-lợi quyền
quư và Chuyển Luân Vương trọn đủ bảy báu,
cũng nên sám hối để diệt trừ nghiệp
chướng).
Tán rằng:
[Nói tới] hai chủng tánh sau.
(Kinh) Thiện
nam tử! Nhược hữu dục sanh Tứ Thiên Vương
chúng, Tam Thập Tam Thiên, Dạ Ma Thiên, Đổ Sử Đa
Thiên, Lạc Biến Hóa Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên, diệc
ưng sám hối, diệt
trừ nghiệp chướng.
(經)善男子!若有欲生四天王眾、三十三天、夜摩天、覩史多天、樂變化天、他化自在天,亦應懺悔滅除業障。
(Kinh:
Thiện nam tử! Nếu có người muốn sanh trong Tứ
Thiên Vương Thiên, Tam Thập Tam Thiên, Dạ Ma Thiên, Đổ
Sử Đa Thiên (Đâu Suất Thiên), Lạc
Biến Hóa Thiên (Hóa Lạc Thiên), Tha Hóa Tự Tại Thiên, cũng
nên sám hối để diệt trừ nghiệp chướng).
Tán rằng:
Nêu ra Dục Giới Thiên để khuyên.
(Kinh)
Nhược dục sanh Phạm Chúng, Phạm Phụ, Đại
Phạm Thiên, Thiểu Quang, Vô Lượng Quang, Cực Quang
Tịnh Thiên, Thiểu Tịnh, Vô Lượng Tịnh, Biến
Tịnh Thiên, Vô Vân, Phước Sanh, Quảng Quả, Vô Phiền,
Vô Nhiệt, Thiện Hiện Thiên, Thiện Kiến, Sắc
Cứu Cánh Thiên, diệc ưng sám hối, diệt
trừ nghiệp chướng.
(經)若欲生梵眾、梵輔、大梵天、少光、無量光、極光淨天、少淨、無量淨、遍淨天、無雲、福生、廣果、無煩、無熱、善現天、善見、色究竟天,亦應懺悔滅除業障。
(Kinh:
Nếu muốn sanh vào [các cơi trời] Phạm Chúng, Phạm
Phụ, Đại Phạm Thiên, Thiểu Quang, Vô Lượng
Quang, Cực Quang Tịnh Thiên, Thiểu Tịnh, Vô Lượng
Tịnh, Biến Tịnh Thiên, Vô Vân, Phước Sanh, Quảng
Quả, Vô Phiền, Vô Nhiệt, Thiện Hiện Thiên, Thiện
Kiến, Sắc Cứu Cánh Thiên, cũng nên sám hối để
diệt trừ nghiệp chướng).
Tán rằng:
Nêu ra Sắc Giới Thiên để khuyên. Như Du Già Sư
Địa Luận, Tạp Tập Luận[9], Trí Độ
Luận, kinh Trường A Hàm, kinh Khởi Thế[10],
kinh Chánh Pháp Niệm[11],
Chánh Lư Luận, Tỳ Bà Sa Luận, kinh Lâu Thán v.v… Nói chi tiết
như [các kinh luận] đó đă nói. Chẳng hạn như
Chánh Lư Luận viết: “Tất cả chúng sanh được
giáo hóa và thống lănh bởi Đại Phạm, đều
gọi là Phạm Chúng. Thị vệ được xếp
bày trước Đại Phạm được
gọi là Phạm Phụ. Do nhiều điều thiện rộng
răi mà sanh, nên gọi là Phạm. Vị Phạm thiên này to lớn,
nên gọi là Đại Phạm, do ông ta đắc trung gian
Tĩnh Lự, do sanh ra trước hết, chết đi
sau cùng, oai đức thù thắng v.v… cho nên gọi
là Đại. Trong địa vị của chính ḿnh, do quang
minh nhỏ nhất, nên gọi là Thiểu Quang. Quang minh chuyển
thành thù thắng, khó thể ḍ lường, th́ gọi là Vô Lượng
Quang. Tịnh quang chiếu trọn khắp các chỗ thuộc
tự địa th́ gọi là Cực Quang Tịnh. Thọ
hưởng sự vui sướng trong tâm ư, sẽ được
gọi là Tịnh. Do trong địa vị của chính ḿnh,
chỉ có sự
thanh tịnh ấy nhỏ nhất,
nên gọi là Thiểu Tịnh. Sự thanh tịnh ấy tăng
thêm, khó ḍ lường được th́ gọi là Vô Lượng
Tịnh. Sự thanh tịnh ấy trọn khắp, nên gọi
là Biến Tịnh. Do chỗ ở ĺa khỏi mây, nên gọi
là Vô Vân. Phước chuyển biến thù thắng, nên gọi
là Phước Sanh. Trong loài dị sanh có h́nh sắc, [chư
thiên trong cơi trời này]
có phước thù thắng nhất, nên nói là Quảng Quả.
Chư thánh ĺa dục, dùng nước thánh đạo để
gột rửa cấu nhơ phiền năo, nên gọi là Tịnh.
Thân nương ở trong tịnh, nên gọi là Tịnh Cư.
Lại nữa, cơi trời ấy thuần là bậc thánh nương
ở, nên gọi là Tịnh Cư. ‘Phiền’ có nghĩa phồn
tạp, hoặc lắm thứ. Do là cơi đầu tiên trong
chỗ không phồn tạp, nếu khiến cho phiền năo
sanh khởi th́ gọi là Nhiệt, cơi trời này xa ĺa chuyện
ấy (chuyện sanh khởi phồn tạp), nên gọi Vô
Nhiệt. [Chư thiên trong] cơi trời ấy h́nh sắc đoan
chánh, đẹp đẽ nhiệm mầu, vượt hẳn
hai cơi trời dưới đó, nên gọi là Thiện Hiện.
H́nh sắc chuyển biến thù thắng, đại chúng thích
nh́n, nên gọi là Thiện Kiến. H́nh sắc của chư
thiên trong cơi trời ấy thắng diệu bậc nhất,
các cơi trời khác chẳng sánh bằng, gọi là Sắc Cứu
Cánh. Hoặc là cái thân do nương vào sự khổ
của chư thiên trong cơi ấy đă đạt đến
mức cuối cùng, cho nên gọi là Sắc Cứu Cánh”.
(Kinh)
Nhược dục cầu Dự Lưu quả, Nhất Lai
quả, Bất Hoàn quả, A La Hán quả, diệc ưng sám
hối diệt trừ nghiệp chướng. Nhược
dục nguyện cầu tam minh, lục thông, Thanh Văn, Độc
Giác, tự tại Bồ Đề, chí cứu cánh địa.
(經)若欲求預流果、一來果、不還果、阿羅漢果,亦應懺悔滅除業障。若欲願求三明六通聲聞獨覺自在菩提至究竟地。 (Kinh: Nếu muốn cầu
quả Dự Lưu, quả Nhất Lai, quả Bất Hoàn,
quả A La Hán, cũng nên sám hối để diệt trừ
nghiệp chướng. Nếu muốn
nguyện cầu tam minh, lục thông, Thanh Văn, Độc
Giác, tự tại Bồ Đề, đạt tới địa
vị rốt ráo).
Tán rằng:
Nêu ra cái quả vô lậu để khuyên. Có ba điều:
- Một, nói
chung về hàng Thanh Văn.
- Hai, cùng giải
thoát, đạt tới bờ kia, đạt được
hai quả trong Tiểu Thừa.
Nhưng
trong Độc Giác th́ chỉ hành riêng lẻ. Tuy hai loại
khác nhau, nhưng đều cùng được giải
thoát. Tam minh, lục thông như đă biện định
trong các phần khác.
(Kinh) Cầu
Nhất Thiết Trí trí, tịnh trí, bất tư nghị trí,
bất động trí, Tam Miệu Tam Bồ Đề Chánh Biến
trí giả, diệc ưng sám hối diệt trừ
nghiệp chướng.
(經)求一切智智、淨智、不思議智、不動智、三藐三菩提正遍智者,亦應懺悔滅除業障。
(Kinh:
Cầu trí Nhất Thiết Trí, tịnh trí, trí chẳng nghĩ
bàn, trí bất động, trí Chánh Đẳng Chánh Giác Chánh Biến,
cũng nên sám hối để diệt nghiệp chướng).
Tán rằng:
Nêu ra đại quả để khuyên. Trước hết
là tứ trí. Trí tánh được gọi là Trí. Từ “tam
miệu” trở đi, trí tướng được gọi
là Trí. Nhất Thiết Trí là Căn Bản Trí, là trí có thể
chứng. Nói trùng lập chữ Trí nhằm biểu thị
cái được chứng bởi trí tánh, ư nói “trí tánh là căn
bản” vậy. Tức là trí tánh ấy đă ĺa hai thứ
chướng, bèn gọi là “tịnh trí”. Do kẻ khác
chẳng thể biết, nên gọi là “bất tư nghị”
(chẳng thể nghĩ bàn). Ĺa sanh diệt, gọi là Bất
Động, tức là A Nậu Đa La (Vô Thượng). Tam Miệu (Chánh Đẳng) v.v… [hiểu
theo ư nghĩa] như thường được giải
thích. Như Vô Trước Bồ Tát đă giải thích trong
Bát Nhă Kinh Luận: “Trọn đủ Đoạn Đức
nơi trí th́ là Vô Thượng Bồ Đề”. Hoặc
là dùng tổng và biệt để phối ứng với bốn
trí phẩm. Trí Nhất Thiết Trí là Tổng. Theo quyển
ba của Đại Trang Nghiêm Luận, trí thanh tịnh là quan
sát, do chuyển ngũ thức mà đạt được,
có thể ở trong đại chúng thuyết pháp đoạn
nghi, tuôn mưa
pháp lớn khiến cho họ thanh tịnh. V́ thế gọi
là Tịnh Trí. Lại bao gồm hết thảy các môn đà-la-ni,
các môn tam-muội, đối với cảnh nhận biết đều luôn chẳng
có chướng ngại. Đấy là do chính ḿnh vô nhiễm, nên
cũng gọi là Tịnh.
“Bất tư
nghị” là Thành
Sự Trí (Thành Sở Tác Trí), đạt được
do chuyển biến thức thứ sáu. Trong hết thảy
các thế giới, thực hiện các chuyện biến hóa
vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn. “Bất động
trí” là Đại Viên Kính Trí, do chuyển thức thứ
tám mà đạt được. V́ thế, luận ấy
viết: “Trí thứ tư là Đại Viên Kính Trí bất động,
là chỗ nương cậy của ba trí kia”. Giải
rằng: Đại Viên Kính Trí lấy bất động làm
tướng, luôn làm chỗ nương cậy cho ba trí kia. “Bất
động” là một mực liên tục, chỉ có nghĩa
“xả thọ”.
Tam Miệu
v.v… chính là B́nh Đẳng Trí, do chuyển thức thứ bảy
mà thành. V́ thế, luận ấy viết: “Trí b́nh đẳng
của chúng sanh tu tịnh, chứng Bồ Đề”. Giải
rằng: Nếu tu tập trí tối cực thanh tịnh ấy,
liền đắc Vô Thượng Bồ Đề, do chẳng
rốt ráo! Do chúng sanh vô tận, cho nên
chẳng rốt ráo. Do chẳng
rốt ráo, chẳng
trụ Niết Bàn. Điều này có nghĩa là: Do v́ chúng
sanh mà rốt ráo chẳng nhập Niết Bàn. Lại nói Chánh
Biến Trí tức là [gộp chung] tiếng Hoa và tiếng Phạn
để cùng nói.
5.5.4.3.1.2.1.1.5. Giải thích nguyên
do [v́ sao sám hối có thể diệt chướng]
5.5.4.3.1.2.1.1.5.1. Giải thích các
vấn nạn
5.5.4.3.1.2.1.1.5.1.1. Giải thích
theo nhân duyên
(Kinh) Hà
dĩ cố?
(經)何以故?
(Kinh:
V́ sao vậy?)
Tán rằng:
Kế đó, giải thích nguyên do [v́ sao] sám hối [có thể]
diệt chướng, tức là phần giải trừ vấn nạn.
Kinh văn được chia thành hai phần:
- Một,
giải thích vấn nạn.
- Hai, từ
“nhược hữu thiện nam tử” (nếu có thiện
nam tử) trở đi, kết lại ư nghĩa “sám hối
có thể diệt các điều ác”.
Trong phần
thứ nhất, lại có ba phần:
- Một, giải
thích dựa theo nhân duyên.
- Hai, từ
“hà dĩ cố” (v́ sao vậy) trở đi, giải
thích dựa theo vô tướng môn.
- Ba, từ
“thiện nam tử, nhất thiết chư pháp” (thiện
nam tử, hết thảy các pháp) trở đi, giải thích
dựa theo Chân Như môn.
Đoạn này là dựa theo nhân duyên
môn, trước là gạn hỏi, sau là giải thích. Đây
là phần gạn hỏi. Ư gạn hỏi
rằng: Thiện và ác đều khác biệt, trước
sau sanh diệt, do v́ lẽ nào mà sám hối có thể diệt
[nghiệp chướng]? Lại có ư gạn hỏi
rằng: Đối với điều ác th́ hiện thời
cái tâm sám hối chưa khởi. Khi khởi lên tâm sám hối,
điều ác đă sanh th́ đă qua rồi, điều ác chưa
sanh thuộc vào vị lai cũng là không, cũng chẳng
đồng thời với hiện tại, [giống như]
sáng và tối chẳng cùng tồn tại. Hơn nữa, hiện
tại vừa sanh liền diệt, do đâu mà nói là “sám hối
diệt trừ?”
(Kinh) Thiện
nam tử! Nhất thiết chư pháp tùng nhân duyên sanh.
(經)善男子!一切諸法從因緣生。
(Kinh:
Thiện nam tử! Hết thảy các pháp sanh từ nhân duyên).
Tán rằng:
Trước là giải thích vấn nạn, sau là dẫn chứng.
Phần này là giải thích vấn nạn. Tuy hết thảy
các pháp sanh diệt trước hay sau, nhưng
do sức của nhân duyên mà sanh, cũng do sức nhân duyên mà
diệt. Ở đây, chỉ nêu ra “nhân duyên sanh”, nhất
định là có nhân duyên diệt! V́ thế, [chánh kinh] lược
đi, chẳng nói đến diệt! Tuy diệt chẳng đợi
cái nhân, nhưng nh́n theo phương diện “sanh” để nói: Nếu
đáng nên sanh trong
vị lai, dẫu [nghiệp đă tạo trong hiện thời dường
như] đă mất đi, vẫn nên có thể cảm
quả [trong
vị lai]. Do nhân duyên sám hối, sẽ có thể khiến
cho [cái quả sẽ sanh ấy v́ thiếu duyên nên] chẳng
khởi, cho nên cũng
gọi là Diệt, tức là đợi cái nhân diệt vậy!
(Kinh) Như
Lai sở thuyết dị tướng sanh, dị tướng
diệt, nhân duyên dị cố.
(經)如來所說異相生、異相滅,因緣異故。
(Kinh:
Như Lai nói các tướng khác nhau sanh, các tướng khác
nhau diệt, do nhân duyên khác nhau).
Tán rằng:
Đây là dẫn chứng. Hết thảy các đức Như
Lai đều cùng nói như vậy; v́ thế nói “Như
Lai sở thuyết”. “Tướng” là thể tướng.
Dị pháp thể xuất sanh, dị pháp thể diệt hoại,
giống như sáng sủa sanh ra th́ pháp tối
tăm diệt mất. Có nhân duyên “năng sanh” (có thể
sanh khởi), và có nhân duyên “năng diệt” (có thể diệt
mất). Nhân duyên có nghĩa là “nguyên do”, cho nên có sai khác.
V́ thế, pháp sám hối sanh khởi th́ pháp bất thiện
diệt mất.
(Kinh)
Như thị quá khứ chư pháp giai dĩ diệt tận,
sở hữu nghiệp chướng vô phục di dư.
(經)如是過去諸法皆已滅盡,所有業障無復遺餘。
(Kinh:
Các pháp quá khứ như thế đều đă diệt hết,
tất cả các nghiệp
chướng cũng chẳng c̣n thừa sót).
Tán rằng:
Giải thích điều gạn hỏi thứ
hai. Có ba phần:
- Một,
nhắc lại điều đă gạn hỏi, tức
“quá khứ đă diệt”.
- Hai, biện
định: Nay thiện
tâm sám hối được sanh khởi.
- Ba, biện
định [v́ sao]
tâm sám hối có thể diệt
chướng [tuy
nghiệp đă tạo thuộc về quá khứ].
Đoạn
này là ư thứ nhất. “Như thị quá khứ chư pháp
giai dĩ diệt tận” (Các pháp quá khứ như thế
đều đă diệt tận): Nhắc lại “pháp đă
diệt” trong phần trước, pháp hiện hành được
gọi là “sở hữu nghiệp chướng” (tất
cả các nghiệp
chướng). Các chủng tử được huân tập
sẽ có thể sanh [ra cái quả]. “Vô phục
di dư” (chẳng c̣n thừa sót): Khiến cho những cái
sẽ sanh chẳng c̣n sót lại, tức là chẳng xét theo “hiện
hành đă diệt” mà là nói theo sự
đoạn diệt!
(Kinh)
Thị chư hành pháp vị đắc hiện sanh, nhi kim đắc
sanh.
(經)是諸行法未得現生而今得生。
(Kinh:
Các hành pháp ấy chưa được hiện hành sanh khởi, mà nay được
sanh).
Tán rằng:
Kế đó, biện định: Hiện thời, thiện tâm sám hối được sanh khởi.
Do trước kia các duyên chưa ḥa hợp, pháp nhân duyên ấy
chẳng được hiện hành sanh khởi; nay do các
duyên ḥa hợp, thiện tâm sám hối được sanh khởi.
(Kinh) Vị
lai nghiệp chướng cánh bất phục khởi.
(經)未來業障更不復起。
(Kinh:
Nghiệp chướng trong vị lai chẳng c̣n dấy lên).
[Do thiện tâm sám hối
được sanh khởi], khiến cho nghiệp
chướng sẽ sanh trong vị lai chẳng c̣n dấy lên.
“Phục” là “lại c̣n”. [Cái quả sẽ sanh trong]
vị lai chưa sanh, [cái quả] đáng sanh trong hiện tại
[do sức sám hối] sẽ chẳng sanh. Nghiệp chủng
(chủng tử của nghiệp) đă huân tập trong hiện
tại, đáng chuốc lấy nghiệp chướng nơi
cái quả trong vị lai, sẽ chẳng c̣n có thể chiêu cảm
cái quả sau đó dấy lên[12].
Như có một nghiệp cảm [vời cái quả sẽ sanh
khởi trong] nhiều đời, th́ cái nghiệp đă cảm
[trong một đời nào đó] đă diệt mất, c̣n nghiệp
chưa diệt đáng lẽ phải cảm [cái quả], th́
[cái quả ấy] cũng chẳng dấy khởi [v́ thiếu
nhân duyên giúp cho cái quả ấy sanh khởi]. Đối với
cái [nghiệp] chưa từng chiêu cảm, th́ cái quả mà [người
ấy] chuốc lấy chính là cái quả của một nghiệp
đă sanh khác. Nghiệp thuộc loại ác th́ sẽ có thể
chiêu cảm các ác nghiệp khác, cho nên nói là “cánh bất phục
khởi” (chẳng c̣n dấy lên). Tức là do tâm hữu
lậu sám hối th́ sẽ “phục đoạn” (đoạn
trừ bằng cách chế ngự, tức là cái nhân vẫn
c̣n đó, nhưng thiếu duyên để cái nhân ấy sanh khởi
thành cái quả), do vô lậu tâm sám hối th́ trừ đoạn.
Ba môn nói về sám hối, đều bao gồm hữu lậu
và vô lậu.
5.5.4.3.1.2.1.1.5.1.2. Giải thích
theo vô tướng môn
(Kinh) Hà
dĩ cố?
(經)何以故?
(Kinh:
V́ sao vậy?)
Tán rằng:
Đây là phần thứ hai, giải thích theo vô tướng
môn, [gồm hai tiểu đoạn]: Trước là gạn
hỏi, sau là giải thích. Đây là phần gạn hỏi được
giả lập. Ư gạn hỏi là: Đều là pháp sanh diệt,
v́ sao trong nhân duyên của các pháp khác nhau, bèn có
sanh pháp để sanh; trong nhân duyên của
các pháp khác nhau, mà lại
có diệt pháp để diệt?
(Kinh) Thiện
nam tử! Nhất thiết pháp không.
(經)善男子!一切法空。
(Kinh:
Thiện nam tử! Hết thảy các pháp đều là Không).
Tán rằng:
Đây là phần giải thích chánh yếu, [cũng gồm
hai phần]: Trước là giải thích, sau là dẫn chứng.
Đoạn này thuộc phần giải thích. Tướng của
hết thảy tất cả các pháp sanh diệt đều
là Không, tức là tướng ấy chẳng có tự tánh.
(Kinh)
Như Lai sở thuyết, vô hữu ngă, nhân, chúng sanh, thọ
giả, diệc vô sanh diệt, diệc vô hành pháp.
(經)如來所說,無有我人眾生壽者,亦無生滅亦無行法。
(Kinh:
Như Lai đă nói: - Không có “ta, người,
chúng sanh, thọ giả”, cũng chẳng có sanh diệt, cũng
chẳng có hành pháp).
Tán rằng:
Đây là phần dẫn chứng. Do hết thảy Như
Lai nói “ngă, thọ giả thảy đều
là Không”, nghiệp thiện hay ác dấy lên cũng là “chẳng
có sanh diệt”. Hoặc “ngă, thọ giả” v.v… cũng
chính là như kinh Giải Thâm Mật v.v… đă nói: “Hết thảy
các pháp đều chẳng có tự tánh, vô sanh, vô diệt, vốn
sẵn tịch diệt, tự tánh Niết Bàn” v.v… Chướng
bị diệt đă là chẳng có sanh diệt, hành
pháp có thể diệt [các chướng ấy] cũng là “chẳng sanh diệt”. Lại nữa, kinh Phổ Hiền
Quán nói: “Dĩ thử Ngũ Uẩn
không, vô tự tánh” (do năm uẩn
ấy là không, chẳng có tự tánh), cho đến nói “như
thử tướng tâm tùng vọng tưởng khởi, như
không trung phong vô y chỉ xứ. Như thị pháp tướng
bất sanh, bất một, hà giả thị tội? Vô trụ,
vô hoại, vô quán tâm. Vô pháp bất trụ pháp trung, như thị
tướng giả, danh đại sám hối” (tướng
của
cái tâm như thế từ vọng tưởng mà dấy
lên, như gió trong hư không chẳng có nơi nương ở.
Pháp tướng như thế chẳng sanh, chẳng mất,
có ǵ là tội? Vô trụ, vô hoại, vô quán tâm, không pháp nào chẳng trụ
trong pháp. Tướng như thế gọi là đại
sám hối) v.v…
5.5.4.3.1.2.1.1.5.1.3. Giải thích
theo Chân Như môn
(Kinh) Thiện
nam tử! Nhất thiết chư pháp giai y ư bổn, diệc
bất khả thuyết.
(經)善男子!一切諸法皆依於本,亦不可說。
(Kinh:
Thiện nam tử! Hết thảy các pháp đều nương
vào cái gốc [là
Chân Như], cũng chẳng thể nói).
Tán rằng:
Điều
thứ ba là nương theo Chân Như môn để
nói về nguyên do sám trừ (sám hối có thể trừ diệt
nghiệp chướng), [cũng chia thành ba tiểu đoạn]: Trước
là giải
thích, kế đó là gạn hỏi, cuối
cùng là dung thông. Phần này là giải thích. Bản thể của
hết thảy các pháp chính là Chân Như.
Kinh Thắng Man dạy: “Vi y, vi tŕ, vi kiến lập cố”
(Do [Chân Như]
làm chỗ nương về, chỗ ǵn giữ, kiến lập).
Kinh Duy Ma dạy: “Tùng vô trụ bổn, lập nhất thiết
pháp” (Từ cái gốc vô trụ, lập ra hết thảy
các pháp). Do cái gốc Chân Như vô sanh, vô diệt, chẳng
thể diễn nói, cho nên hết thảy các pháp đều
quy vào cái gốc
[là Chân Như]. Vô sanh, vô diệt cũng chẳng thể nói,
sự sanh diệt ấy cũng đều cùng là Không. Do trong
vô tướng môn ở phần trước đă nói “vô
sanh diệt”, suy ra sẽ biết Chân
Như môn cũng là vô sanh, vô diệt. V́ thế, lược
đi chẳng nói! Do đối với Chân Như
môn, đă nói rơ là “chẳng
thể nói”, suy ra vô tướng môn cũng là “chẳng
thể nói”. Đấy là v́ phá trừ Biến Kế Tánh
đối với tướng của chủ thể diễn
nói và pháp được diễn nói, ḥng thâu nhiếp các vọng
đều diệt tận.
(Kinh) Hà
dĩ cố?
(經)何以故?
(Kinh:
V́ sao vậy?)
Tán rằng:
Gạn hỏi: V́ lẽ
nào mà Chân Như vô sanh diệt cũng chẳng thể nói?
(Kinh) Quá
nhất thiết tướng cố.
(經)過一切相故。
(Kinh:
Do vượt ngoài hết thảy các tướng).
Tán rằng:
[Đây là phần] dung thông. Do lư Chân Như vượt khỏi
tướng sanh diệt, [cho nên “chẳng
thể nói”]. “Quá” là ĺa khỏi. Ĺa khỏi tướng
sanh diệt, ĺa khỏi cảnh ngôn thuyết. V́ thế,
kinh Vô Lượng Nghĩa dạy: “Vô tướng, bất
tướng, cố danh vô tướng” (do chẳng có tướng,
chẳng phải là không có tướng, cho nên gọi
là vô tướng). Nhiếp Luận cũng nói: “Vô nhị
tướng đẳng cố” (do tướng vô nhị
b́nh đẳng). Kinh Phổ Hiền Quán dạy: “Dĩ thử
thân tâm như không trung phong, trụ vô tướng lư, quy mạng
Như Như nhất thiết Tam Bảo. Hành thử sám hối
giả, thân tâm thanh tịnh, bất trụ pháp trung, do như
lưu thủy, niệm niệm chi trung, kiến thập
phương Phật” (Do thân tâm này như gió trong hư không,
trụ trong lư vô tướng, quy mạng Như Như hết
thảy Tam Bảo. Người hành pháp sám hối này thân tâm
thanh tịnh, chẳng trụ nơi pháp, ví như nước
chảy, trong mỗi niệm, đều thấy mười
phương Phật) v.v…
5.5.4.3.1.2.1.1.5.2. Kết lại
ư nghĩa “sám hối có thể diệt ác”
(Kinh)
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân,
như thị nhập ư vi diệu chân lư, sanh tín kính tâm, thị
danh vô chúng sanh, nhi hữu ư bổn.
(經)若有善男子善女人,如是入於微妙真理生信敬心,是名無眾生而有於本。
(Kinh:
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nhập chân
lư vi diệu như thế, sanh tâm kính tín, đó gọi là “chẳng
có chúng sanh mà có cội gốc”).
Tán rằng:
Kết lại chuyện sám hối. Trước là kết lại
phần sám hối, sau là kết lại phần chân thuyết
(nói về sự sám hối chân thật). Đoạn này là
phần đầu (“kết lại phần sám hối”). Phần
kết lại chân sám hối có hai ư:
- Một là
kết lại [sự sám hối] vô lậu, tức là “như
thị nhập ư vi diệu chân lư” (nhập chân lư vi
diệu như thế). “Nhập” là “chứng”. Do vô phân
biệt mà nhập lư Chân
Như, bèn phá nhị chướng, đoạn nhị
kết hữu lậu, liền sanh tâm kính tín.
- [Hai], tuy
chưa thể chứng, nhưng chỉ tín giải vô tướng
Chân Như, nương vào sức thắng giải th́ cũng
có thể trừ ác. Ngă và ngă sở đều là Không, nương
vào viên tánh (tánh
Viên Thành Thật) mà có, cho nên nói “danh vô chúng sanh nhi hữu ư
bổn” (gọi là “chẳng có chúng sanh mà có gốc”).
Đem chân đối
ứng với vọng để nói, chẳng nói dựa vào
điều ǵ khác mà có! Xét theo sự thật th́ chẳng phải
là không có! Ở đây, môn đầu tiên (sám hối xét theo nhân
duyên) nương vào Dục, môn thứ ba nương
vào Chân (tức sám hối xét theo Chân Như môn), vô tướng
[sám hối] bao gồm cả hai. Chẳng nói “nương
vào môn thế tục quán” v́ chấp trước hư vọng
sẽ chẳng thể trừ chướng.
(Kinh) Dĩ
thị nghĩa cố, thuyết ư sám hối diệt trừ
nghiệp chướng.
(經)以是義故。說於懺悔滅除業障。
(Kinh:
Do nghĩa này mà nói sám hối diệt trừ nghiệp
chướng).
Tán rằng:
Kết lại phần chân thuyết. Giáo, cơ, hạnh, lư
tương ứng. “Nghĩa” là nghĩa lợi[13].
[Đoạn kinh văn này có nghĩa là] do ba môn [sám hối] tương
ứng [với nhân duyên, vô tướng, và Chân
Như] đều có nghĩa lợi, mà nói là sám hối.
5.5.4.3.1.2.1.2. Người có thể
hành pháp sám hối
(Kinh) Thiện
nam tử! Nhược nhân thành tựu tứ pháp, năng trừ
nghiệp chướng, vĩnh đắc thanh tịnh.
(經)善男子!若人成就四法,能除業障永得清淨。
(Kinh:
Thiện nam tử! Nếu ai thành tựu bốn pháp, sẽ
có thể trừ nghiệp chướng, vĩnh viễn đạt
được thanh tịnh).
Tán rằng:
Trên đây đă nói về pháp sám hối; tiếp đó, nói về
người có thể hành [pháp sám hối]. Trong đây có ba
phần: Trước hết là nêu ra, kế đó là giải
thích, và cuối cùng là thâu nhiếp. Đoạn này là phần
nêu ra.
(Kinh) Vân
hà vi tứ? Nhất giả, bất khởi tà tâm, chánh niệm
thành tựu. Nhị giả, ư thậm thâm lư, bất sanh
phỉ báng. Tam giả, ư sơ hạnh Bồ Tát, khởi
Nhất Thiết Trí tâm. Tứ giả, ư chư chúng sanh,
khởi từ vô lượng. Thị vị vi tứ.
(經)云何為四?一者不起邪心正念成就、二者於甚深理不生誹謗、三者於初行菩薩起一切智心、四者於諸眾生起慈無量,是謂為四。
(Kinh:
Những ǵ là bốn? Một là chẳng khởi tà tâm, chánh
niệm thành tựu. Hai là đối với lư rất sâu,
chẳng sanh phỉ báng. Ba là đối với sơ hạnh
Bồ Tát, khởi tâm Nhất Thiết Trí. Bốn là với
các chúng sanh, dấy ḷng Từ vô
lượng. Đó gọi là bốn pháp).
Tán rằng:
Kế đó là giải thích, gồm ba phần, tức là gạn
hỏi, giải thích và kết luận. Phân đoạn kinh
văn dễ thấy. Ư nghĩa ở đây giống như
trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ngài Phổ Hiền hỏi: “Như
thế nào để có thể đạt được
kinh Pháp Hoa?” Đức Phật đáp: “Thành tựu bốn
pháp”.
Ở đây,
điều thứ nhất tức là “nhập Chánh Định
Tụ, tin sâu tam thừa” trong kinh ấy (kinh Pháp Hoa), được
gọi là “chánh niệm thành tựu” [trong kinh này]. Chẳng
quy y ngoại đạo th́ gọi
là “chẳng khởi tà tâm”.
Điều
thứ hai [trong
kinh ấy] là “được Phật hộ niệm”. “Chẳng
sanh ḷng phỉ báng lư sâu” [trong kinh này] tức là do căn
cơ chín muồi, nên được
Phật hộ niệm.
Điều
thứ ba là “gieo các cội đức” [trong kinh ấy,
tương ứng với điều thứ ba trong kinh này,
tức là] “có thể
khởi tâm Nhất Thiết Trí cho sơ hạnh Bồ Tát”. Đấy
chính là “gieo trồng cội thiện”.
Điều
thứ tư [trong kinh ấy] chính là “phát tâm cứu hết
thảy chúng sanh”. [Trong kinh này th́ nói] dấy ḷng
Từ vô lượng có thể ban vui cho người khác, cũng
dấy ḷng Bi dẹp khổ cho người khác. Hơn nữa,
xét theo cách nói ban đầu th́ nói là“từ
vô lượng”; xét theo phương diện “nhân
đầy đủ”, bèn nói “thành tựu bốn pháp sẽ
có thể trừ nghiệp chướng”. Nếu thành tựu
một phần, th́ cũng có thể sám trừ một phần.
(Kinh) Nhĩ
thời, Thế Tôn nhi thuyết tụng viết: - Chuyên tâm
hộ tam nghiệp, bất phỉ báng thâm pháp, tác Nhất
Thiết Trí tưởng, từ tâm tịnh nghiệp chướng.
(經)爾時世尊而說頌曰:專心護三業,不誹謗深法,作一切智想,慈心淨業障。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bèn nói kệ tụng
rằng: - Chuyên tâm giữ ba nghiệp, chẳng phỉ báng
pháp sâu, tưởng như Nhất Thiết Trí, từ tâm tịnh
nghiệp chướng).
Tán rằng:
Kệ tụng để thâu nhiếp [các ư nghĩa đă nói].
Có thể thành tựu chánh niệm nơi ba nghiệp, thuận
theo các căn mà thành tựu, th́ gọi
là “hộ tam nghiệp”.
Hỏi: Kệ tụng
thâu nhiếp điều ǵ?
Đáp: Do hành
pháp và tŕ pháp có sai biệt. Phần Trường Hàng nhằm
dạy hành, phần kệ tụng thâu nhiếp để dạy
[thính chúng] tŕ.
5.5.4.3.1.2.2. Nói cặn kẽ pháp
sám hối để sanh thiện
5.5.4.3.1.2.2.1. Nói về chuyện
trừ chướng
(Kinh) Thiện
nam tử! Hữu tứ nghiệp chướng, nan khả
diệt trừ.
(經)善男子!有四業障,難可滅除。
(Kinh:
Thiện nam tử! Có bốn thứ nghiệp chướng
khó thể diệt trừ).
Tán rằng:
Trên đây là nói đại lược pháp sám hối để
diệt ác; từ đây trở đi, nói rộng
bốn hạnh để biện định chuyện sanh
thiện. Trong phần này, lại chia thành hai phần:
- Một, nói
về trừ chướng.
- Hai, giảng
về hạnh trừ chướng.
Trong phần
thứ nhất, lại
có ba ư:
- Một, nêu
chung.
- Hai, gạn
hỏi riêng biệt từng pháp.
- Ba, giải
thích riêng từng điều.
Đoạn
kinh văn trên đây là ư thứ nhất.
(Kinh) Vân
hà vi tứ? Nhất giả, ư Bồ Tát luật nghi, phạm
cực trọng ác, Nhị giả, ư Đại Thừa
kinh, tâm sanh phỉ báng. Tam giả, ư tự thiện
căn, bất năng tăng trưởng. Tứ giả,
tham trước tam hữu, vô xuất ly tâm.
(經)云何為四?一者於菩薩律儀犯極重惡、二者於大乘經心生誹謗、三者於自善根不能增長、四者貪著三有無出離心。
(Kinh:
Những ǵ là bốn? Một là đối với luật
nghi Bồ Tát, phạm điều ác cực nặng. Hai là sanh
tâm phỉ báng đối với kinh Đại Thừa. Ba
là chẳng thể tăng trưởng thiện căn của
chính ḿnh. Bốn là tham đắm ba cơi, chẳng có tâm xuất
ly).
Tán rằng:
[Đây là phần] kinh văn nói về hai điều sau (tức
gạn hỏi và giải thích riêng từng pháp). Phần gạn
hỏi dễ thấy, giống như trong quyển bảy
mươi chín của bộ Du Già Sư Địa Luận
đă nói. Luận ấy viết: “Lại nữa, Bồ
Tát có bốn thứ tăng thượng phẩm chướng,
nếu chẳng trừ sạch, sẽ trọn chẳng thể
kham nhập địa vị Bồ Tát và các địa vị
kế
tiếp. Những ǵ là bốn? Một là phạm lỗi
ô nhiễm đối với Tỳ Nại Da (Luật Tạng)
của các Bồ Tát. Hai là hủy báng diệu pháp tương
ứng Đại Thừa. Ba là chẳng tích tập thiện
căn. Bốn là có tâm ái nhiễm”.
- [Một là]
nói “phạm lỗi ô nhiễm” tức là khởi lên cái
tâm ô nhiễm thuộc về Triền (phiền năo) thượng
phẩm, do phạm bốn Tha Thắng
Xứ[14],
cho nên nói là “thượng phẩm”, chẳng phải là “hễ do
nhiễm tâm mà phạm lỗi th́ đều thuộc vào loại
này!” Kinh này dạy: “Ư Bồ Tát luật nghi, phạm
cực trọng ác” (phạm tội ác cực nặng
trong luật nghi của Bồ Tát). Nếu hễ phạm lỗi
do nhiễm tâm th́ đều thuộc vào loại
này, lẽ nào gọi là “cực trọng”?
- Hai là báng
pháp. Hễ báng tam thừa, sẽ đều là trọng chướng,
cũng thuộc vào tội Ngũ Nghịch của Đại
Thừa. Nay nói theo Đại Thừa, th́ là xét theo sở học
của chính ḿnh, nếu sanh ḷng phỉ báng, chẳng tùy thuận
hành theo [sở học th́ là báng pháp].
- Ba là tự
ḿnh chẳng tu tập tư lương phước huệ
lâu ngày. Dẫu
trước đó có tu chút ít, nhưng
chẳng thể nhiều
lượt khởi tu, th́ nói là “ư
tự thiện căn, bất
năng tăng trưởng” (chẳng
thể tăng trưởng thiện căn của chính ḿnh).
Du Già Sư Địa Luận chỉ xét theo phương diện
“trước kia chưa từng tu” mà nói là “chưa
tu tập thiện căn”. Kinh này xét theo phương diện
“từng tu, nhưng chẳng thể nhiều lần dấy
tâm tu tập”. Hoặc là xét theo thượng phẩm mà nói
là “chưa từng tu”, chẳng phải là đối với điều thiện kém cỏi cũng
chẳng tu tập!
- Bốn là cái tâm tham đắm tam giới, chẳng cầu xuất
ly Niết Bàn. Niết Bàn gọi là Xuất, do ĺa tam giới.
“Hữu” được nói trong luận Du Già Sư Địa
chính là “tam hữu” (tam giới).
5.5.4.3.1.2.2.2. Hạnh để
trừ chướng
5.5.4.3.1.2.2.2.1. Đức Phật
nêu tổng quát [hạnh trừ chướng]
(Kinh) Phục
hữu tứ chủng đối trị nghiệp chướng.
Vân hà vi tứ? Nhất giả, ư thập phương thế
giới nhất thiết Như Lai, chí tâm thân cận, thuyết
nhất thiết tội. Nhị giả, vị nhất thiết
chúng sanh khuyến thỉnh chư Phật thuyết thâm diệu
pháp. Tam giả, tùy hỷ nhất thiết chúng sanh sở hữu
công đức. Tứ giả, sở hữu nhất thiết
công đức thiện căn, tất giai hồi hướng
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
(經)復有四種對治業障。云何為四?一者於十方世界一切如來至心親近說一切罪、二者為一切眾生勸請諸佛說深妙法、三者隨喜一切眾生所有功德、四者所有一切功德善根悉皆迴向阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh:
Lại có bốn thứ đối trị nghiệp chướng.
Những ǵ là bốn? Một là chí tâm thân cận hết thảy
các đức Như Lai trong mười phương thế
giới để nói hết thảy tội. Hai là v́ hết
thảy chúng sanh mà khuyến thỉnh
chư Phật nói pháp sâu mầu. Ba là tùy hỷ tất cả
công đức của hết thảy chúng sanh. Bốn là tất
cả hết thảy công đức, thiện căn thảy
đều hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác).
Tán rằng:
Tiếp đó, nói về hạnh có thể trừ chướng.
Kinh văn chia thành hai đoạn:
- Một, đức
Phật nêu tổng quát.
- Hai, Thiên Đế
thỉnh riêng.
Đoạn
thứ nhất lại gồm có ba phần là nêu ra, gạn
hỏi và giải thích, kinh văn dễ thấy. Tứ hạnh
ở đây đều có thể hành chung trong hết thảy
các địa vị, cũng như quyển bảy mươi
chín của Du Già Sư Địa Luận đă nói.
5.5.4.3.1.2.2.2.1.2. Thiên Đế
thỉnh vấn riêng về hạnh tùy hỷ
5.5.4.3.1.2.2.2.1.2.1. Thiên Đế
thưa thỉnh hạnh tùy hỷ
(Kinh) Nhĩ
thời, Thiên Đế Thích bạch Phật ngôn: - Thế
Tôn! Thế gian sở hữu nam tử, nữ nhân, ư Đại
Thừa hạnh, hữu năng hành giả, hữu bất
hành giả, vân hà năng đắc tùy hỷ
nhất thiết chúng sanh công đức thiện căn?
(經)爾時天帝釋白佛言:世尊!世間所有男子女人,於大乘行有能行者、有不行者,云何能得隨喜一切眾生功德善根?
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Thiên Đế Thích bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Tất cả nam tử, nữ nhân trong
thế gian, đối với hạnh Đại Thừa,
có kẻ có thể hành được, có kẻ chẳng thể
hành, làm thế nào
để có thể tùy hỷ công đức và thiện
căn của hết thảy chúng sanh?)
Tán rằng:
[Đây là phần] Thiên Đế thưa thỉnh riêng [về
hạnh tùy hỷ], có hai đoạn: Trước là Thiên Đế
thưa thỉnh, sau là đức Phật giải đáp. Đoạn
này là thỉnh.
Hạnh thứ
nhất [trong bốn hạnh đối trị] là “nói hết
thảy tội”, tức là sám hối. Trước đó,
[đức Phật] đă riêng nói [về hạnh sám hối],
nên nay chẳng hỏi nữa! Ba hạnh kia chưa nói, cho nên
nay thỉnh vấn. Câu hỏi thứ nhất có ba ư:
- Một là hỏi: Trong hết
thảy chúng sanh, có người chưa
từng tu thiện, tùy hỷ hết thảy chúng sanh như
thế nào?
- Hai là hỏi
về cách tùy hỷ.
- Ba là hỏi
[do tùy hỷ] sẽ đạt được phước
như thế nào?
Đức
Phật trong khi nêu bày, th́ trước là nói về khuyến
thỉnh, sau là biện định sự tùy hỷ.
Cớ sao Thiên Đế hỏi tùy hỷ trước, sau đó
mới thỉnh vấn về khuyến thỉnh?
Đáp: Do căn
cơ ưa thích, do khuyến
thỉnh khó khăn, bèn hỏi trước điều dễ.
C̣n đức Phật do xét theo phương diện thù
thắng, cho nên nhắc
tới [khuyến thỉnh] trước.
5.5.4.3.1.2.2.2.1.2.2. Đức Phật
giải đáp
5.5.4.3.1.2.2.2.1.2.2.1. Dạy nghi
thức, pháp tắc
(Kinh) Phật
ngôn: - Thiện nam tử! Nhược hữu chúng sanh, tuy ư Đại Thừa vị năng tu tập,
nhiên ư trú dạ lục thời, thiên đản hữu
kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng
cung kính, nhất tâm chuyên niệm, tác tùy hỷ thời, đắc
phước vô lượng.
(經)佛言:善男子!若有眾生雖於大乘未能修習,然於晝夜六時偏袒右肩右膝著地合掌恭敬一心專念作隨喜時,得福無量。
(Kinh:
Đức Phật nói: - Thiện nam tử! Nếu có chúng
sanh tuy chưa thể tu tập Đại Thừa, nhưng
ngày đêm sáu thời, trật vai áo phải, gối phải
đặt sát đất, chắp tay, cung kính, khi nhất
tâm chuyên niệm, thực hiện tùy hỷ, sẽ được
phước vô lượng).
Tán rằng:
Tiếp đó, đức Phật giải đáp, có bốn
ư:
- Một, giải
đáp câu hỏi đầu tiên, và dạy nghi thức, pháp
tắc.
- Hai, dạy
thẳng
vào cách tùy hỷ.
- Ba, nói rơ tùy
hỷ sẽ được phước nhiều hay ít.
- Bốn,
khuyên tu.
Đoạn
này thuộc ư thứ nhất. Nghi thức, pháp tắc tùy hỷ
dễ hiểu. Nếu chưa tu, sẽ có thể tu. V́ thế,
có thể tùy hỷ, lại được nhiều phước!
5.5.4.3.1.2.2.2.1.2.2.2. Phương
cách tùy hỷ
(Kinh) Ưng
tác thị ngôn: “Thập phương thế giới nhất
thiết chúng sanh hiện tại tu hành thí, giới, tâm, huệ,
ngă kim giai tất thâm sanh tùy hỷ”. Do tác như thị tùy hỷ
phước cố, tất đương hoạch đắc
tôn trọng, thù thắng, vô thượng, vô đẳng, tối
diệu chi quả. Như thị quá khứ, vị lai nhất
thiết chúng sanh sở hữu thiện căn, giai tất
tùy hỷ.
(經)應作是言:十方世界一切眾生現在修行施戒心慧,我今皆悉深生隨喜。由作如是隨喜福故,必當獲得尊重殊勝無上無等最妙之果。如是過去未來一切眾生所有善根皆悉隨喜。
(Kinh:
Hăy nên nói như thế này: “Hết thảy chúng sanh trong mười
phương thế giới hiện đang tu hành thí, giới,
tâm, huệ, con nay thảy đều sanh ḷng tùy hỷ sâu xa”.
Do phước thực hiện tùy hỷ như thế, ắt
sẽ đạt được cái quả tôn trọng, thù
thắng, vô thượng, không ǵ sánh bằng, mầu nhiệm
nhất. Đối với thiện căn của hết
thảy chúng sanh trong quá khứ và vị lai, thảy đều
tùy hỷ như thế).
Tán rằng:
Trả lời ư hỏi thứ hai về cách tùy hỷ. Kinh
văn chia thành bốn đoạn:
- Một, tùy
hỷ phước của phàm phu.
- Hai, tùy hỷ
phước của Bồ Tát,
- Ba, tùy hỷ
phước của Như Lai.
- Bốn, tùy
hỷ phước của tam thừa.
Đây là đoạn
thứ nhất, trước là tùy hỷ hiện tại,
sau là tùy hỷ quá khứ và vị lai. Tức sự nghiệp
tu tam phước thế gian, tu Giới và Thí đều
là phước, nên nói là “ba phước nghiệp”. [Sự
tu tập của phàm phu trong] quá khứ và vị lai dễ thấy.
Hoặc có thể hiểu là Tam Học Giới, Định, Huệ.
Thí là chẳng tham, thuộc về mặt h́nh tích của Giới Học. Do tham chướng
ngại xuất gia, cho nên riêng nêu ra [Thí để đối
trị tham]; lược đi chẳng nói đến Vô Sân.
(Kinh) Hựu
ư hiện tại sơ hạnh Bồ Tát phát Bồ Đề
tâm sở hữu công đức, quá bách đại kiếp hành
Bồ Tát hạnh, hữu đại công đức, hoạch
Vô Sanh Nhẫn, chí Bất Thoái Chuyển, Nhất Sanh Bổ
Xứ. Như thị nhất thiết công đức chi uẩn,
giai tất chí tâm tùy hỷ, tán thán. Quá khứ, vị lai nhất
thiết Bồ Tát sở hữu công đức, tùy hỷ, tán
thán diệc phục như thị.
(經)又於現在初行菩薩發菩提心所有功德,過百大劫行菩薩行有大功德,獲無生忍至不退轉、一生補處,如是一切功德之蘊,皆悉至心隨喜讚歎。過去未來一切菩薩所有功德,隨喜讚歎亦復如是。
(Kinh:
Lại nữa, sơ hạnh Bồ Tát trong hiện tại
phát Bồ Đề tâm có được công đức hơn
hẳn công đức to lớn do hành Bồ Tát hạnh trong
một trăm kiếp, đạt được Vô Sanh Nhẫn,
đạt tới Bất Thoái Chuyển, Nhất Sanh Bổ
Xứ. Đối với hết thảy công đức tích
tụ như thế, thảy đều chí tâm tùy hỷ, tán
thán. Đối với tất cả công đức của
hết thảy Bồ Tát trong quá khứ và vị lai, cũng
tùy hỷ và tán thán giống như thế).
Tán rằng:
Tùy hỷ hàng Bồ Tát. Trước là tùy hỷ [các vị Bồ
Tát] trong hiện tại, sau là tùy hỷ [các vị Bồ
Tát] thuộc quá khứ và vị lai. Trong phần đầu,
có bảy địa vị:
- Một là
địa vị sơ phát tâm.
- Hai là địa
vị thắng giải hạnh, tức “vượt ngoài
đại kiếp” v.v…
- Ba là địa
vị tăng thượng ư nhạo, tức [hàng Bồ Tát
đă] đạt được Vô Sanh Nhẫn.
- Bốn là
địa vị hành chánh hạnh.
- Năm là địa
vị quyết định.
- Sáu là địa
vị quyết định, tức đă đạt
tới Bất Thoái Chuyển, từ Nhị Địa cho đến
Cửu Địa.
- Bảy là
đạt tới địa vị rốt ráo, tức Đệ
Thập Địa, tu nhân đă rốt ráo.
Lược
đi [không nói tới các hạng người] “chẳng
có chủng tánh” và địa vị Như Lai. “Chủng
tánh” tức là hạnh tùy hỷ trên đây, c̣n địa
vị Như Lai sẽ được nói tới trong phần
sau. Nhưng trong mỗi điều thiện, đều có
bốn loại: Tự làm, bảo người khác làm, vui mừng
an ủi, và tùy hỷ. Ở đây, chỉ nêu ra hai loại
để liên tưởng hai loại kia. Tán thán tức là
vui mừng an ủi. Hoặc có thể hiểu là mỗi pháp
như sám hối v.v… đều có bốn loại. Trong tùy hỷ,
tự làm và dạy người khác cũng thuộc vào trong
hai điều ấy, cho nên chẳng cần phải nói riêng.
[Hạnh tùy hỷ] quá khứ và vị lai dễ hiểu!
(Kinh) Phục
ư hiện tại thập phương thế giới nhất
thiết chư Phật, Ứng, Chánh Biến Tri, chứng diệu
Bồ Đề, vị độ vô biên chư chúng sanh cố,
chuyển vô thượng pháp luân, hành vô ngại pháp thí, kích
pháp cổ, xuy pháp loa, kiến pháp tràng, vũ pháp vũ, ai mẫn
khuyến hóa nhất thiết chúng sanh, hàm linh tín thọ, giai mông pháp thí, tất đắc sung túc vô tận an lạc.
(經)復於現在十方世界一切諸佛、應、正遍知,證妙菩提,為度無邊諸眾生故,轉無上法輪、行無礙法施,擊法鼓、吹法螺、建法幢、雨法雨,哀愍勸化一切眾生,咸令信受皆蒙法施,悉得充足無盡安樂。
(Kinh:
Lại đối với mười phương thế
giới hết thảy chư Phật Ứng, Chánh Biến
Tri trong hiện tại, chứng Bồ Đề mầu nhiệm,
v́ độ vô biên các chúng sanh, chuyển pháp luân vô thượng,
hành pháp thí vô ngại, đánh trống pháp, thổi ốc pháp,
dựng pháp tràng, tuôn mưa pháp, xót
thương, khuyến hóa hết thảy chúng sanh, khiến
cho họ đều tin nhận, đều được
hưởng pháp thí, đều được sung túc an lạc
vô tận).
Tán rằng:
Tùy hỷ Như Lai. Trong phần tùy hỷ Như Lai, trước
là tùy hỷ tự lợi, tức là chứng Bồ Đề; sau là tùy
hỷ lợi tha, tức phần lợi tha kể từ “v́
độ” trở đi. Trước là thuyết pháp, sau
là khiến cho kẻ chưa tin sẽ tin, kẻ đă tin sẽ
nhập, tức là “giai mông pháp thí” (đều
được
hưởng pháp thí). Kẻ đă
nhập sẽ khiến cho được chín muồi, tức
là “tất đắc sung túc” (đều được
sung túc). Kẻ đă chín muồi được giải
thoát, tức “vô tận an lạc”. Đúng ra, phải có
phần kinh văn nói về tùy hỷ quá khứ và vị
lai chư Phật, nhưng trong phần sau, sẽ nói chung về
tam thừa; do vậy, chẳng nói ở đây.
(Kinh) Hựu
phục sở hữu Bồ Tát, Thanh Văn, Độc Giác
công đức, tích tập thiện căn; nhược hữu
chúng sanh vị cụ như thị chư công đức giả,
tất linh cụ túc, ngă giai tùy hỷ.
(經)又復所有菩薩、聲聞、獨覺功德,積集善根;若有眾生未具如是諸功德者,悉令具足。我皆隨喜。
(Kinh:
Lại c̣n đối với công đức của tất
cả Bồ Tát, Thanh Văn, Độc Giác, tích tập thiện
căn, nếu có chúng sanh chưa đầy đủ các công
đức như thế, sẽ đều khiến cho đầy
đủ, con đều tùy hỷ).
Tán rằng:
Tùy hỷ tam thừa. Có hai loại: Trước là tùy hỷ
Hướng, sau là tùy hỷ Quả. Ở đây là tùy hỷ
Hướng.
(Kinh)
Như thị quá khứ, vị lai chư Phật, Bồ
Tát, Thanh Văn, Độc Giác sở hữu công đức,
diệc giai chí tâm tùy hỷ, tán thán.
(經)如是過去未來諸佛菩薩、聲聞獨覺所有功德,亦皆至心隨喜讚歎。
(Kinh:
Đối với tất cả công đức của quá khứ
và vị lai chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Độc
Giác, cũng đều chí tâm tùy hỷ, tán thán).
Kế đó
là tùy hỷ Quả, giống như Thập Trụ Tỳ Bà
Sa Luận đă nói: “Tất cả phước bố thí,
tŕ giới, tu Thiền hành”. “Hành” tức
là huệ. Người tập hành tam thừa là Hướng,
người đă trọn đủ tam thừa là Quả.
Phước của hết thảy phàm phu, hoặc Vô Tánh Thừa
(không có chủng tánh tam thừa), hoặc trước khi đạt
tới Kiến Đạo, ngay cả Vô Tánh Thừa
cũng thế, do có tu tập, hành tŕ tam thừa, những người
trước khi đạt tới địa vị Kiến
Đạo đều thuộc về “tập
hành” (có tu tập,
hành tŕ).
5.5.4.3.1.2.2.2.1.2.2.3. Công đức
tùy hỷ
(Kinh) Thiện
nam tử! Như thị tùy hỷ, đương đắc
vô lượng công đức chi tụ, như Hằng hà sa
tam thiên đại thiên thế giới sở hữu chúng sanh
giai đoạn phiền năo, thành A La Hán. Nhược hữu
thiện nam tử, thiện nữ nhân tận kỳ h́nh thọ,
thường dĩ thượng diệu y phục, ẩm thực,
ngọa cụ, y dược, nhi vi cúng dường. Như thị
công đức bất cập như tiền tùy hỷ công
đức thiên phần chi nhất. Hà dĩ cố? Cúng dường
công đức hữu số, hữu lượng, bất
nhiếp nhất thiết chư công đức cố. Tùy hỷ
công đức vô lượng, vô số, năng nhiếp tam
thế nhất thiết công đức.
(經)善男子!如是隨喜,當得無量功德之聚。如恒河沙三千大千世界所有眾生皆斷煩惱成阿羅漢,若有善男子善女人盡其形壽常以上妙衣服飲食臥具醫藥而為供養,如是功德不及如前隨喜功德千分之一。何以故?供養功德有數有量、不攝一切諸功德故,隨喜功德無量無數、能攝三世一切功德。
(Kinh:
Thiện nam tử! Tùy hỷ như thế, sẽ đạt
được vô lượng công đức tích tụ. Như
trong các tam thiên đại thiên thế giới với số lượng
nhiều như cát sông Hằng, tất cả chúng sanh [trong ấy] đều
đoạn phiền năo, thành A La Hán. Nếu có thiện nam tử,
thiện nữ nhân trọn hết tuổi thọ, thường
dùng y phục, thức ăn, đồ trải nằm, thuốc
men thượng diệu để cúng dường [các vị
A La Hán ấy]. Công đức như thế chẳng bằng
một phần ngàn công đức tùy hỷ trên đây. V́
sao vậy? Do công đức cúng dường có số lượng, do chẳng
thâu nhiếp hết thảy các công đức. Công đức
tùy hỷ vô lượng, vô số, có thể thâu nhiếp hết
thảy các công đức trong ba đời).
Tán rằng:
Giải đáp ư hỏi thứ ba về phước [do tùy
hỷ] nhiều hay ít. Kinh văn có bốn ư:
- Một, nêu
ra phước vô biên.
- Hai, so sánh
phước hơn kém.
- Ba, gạn
hỏi nguyên do.
- Bốn, giải
thích để kết lại.
Kinh văn
dễ hiểu!
5.5.4.3.1.2.2.2.1.2.2.4. Khuyến tu
(Kinh) Thị
cố, nhược nhân dục cầu tăng trưởng
thắng thiện căn giả, ưng tu như thị tùy
hỷ công đức. Nhược hữu nữ nhân nguyện
chuyển nữ thân vi nam tử giả, diệc ưng tu tập
tùy hỷ công đức, tất đắc tùy tâm, hiện
thành nam tử.
(經)是故若人欲求增長勝善根者,應修如是隨喜功德。若有女人願轉女身為男子者,亦應修集隨喜功德,必得隨心現成男子。
(Kinh:
V́ vậy, nếu có người muốn cầu tăng trưởng
thiện căn thù thắng, hăy nên tu công đức tùy hỷ
như thế. Nếu có nữ nhân nguyện chuyển thân nữ
thành nam tử, cũng nên tu tập công đức tùy hỷ,
ắt sẽ được tùy tâm, hiện
thành nam tử).
Tán rằng:
Phần thứ tư là khuyên tu, kinh văn dễ hiểu.
5.5.4.3.1.2.2.2.1.3. Thiên Đế
thưa hỏi về công đức khuyến thỉnh
5.5.4.3.1.2.2.2.1.3.1. Thiên Đế
thỉnh vấn
(Kinh) Nhĩ
thời, Thiên Đế Thích bạch Phật ngôn: - Thế
Tôn! Dĩ tri tùy hỷ công đức, khuyến thỉnh công
đức duy nguyện vị thuyết, dục linh vị
lai nhất thiết Bồ Tát đương chuyển pháp
luân, hiện tại Bồ Tát chánh tu hành cố.
(經)爾時天帝釋白佛言:世尊!已知隨喜功德,勸請功德唯願為說,欲令未來一切菩薩當轉法輪、現在菩薩正修行故。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Thiên Đế Thích bạch cùng đức
Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Con đă biết công
đức tùy hỷ, kính mong Phật v́ con nói công đức
khuyến thỉnh, v́ muốn cho hết thảy Bồ Tát
trong vị lai sẽ chuyển pháp luân, Bồ Tát trong hiện
tại tu hành chân chánh vậy).
Tán rằng:
Đây là câu hỏi
thứ hai về khuyến thỉnh, có năm phần:
- Một,
Thiên Đế thưa hỏi.
- Hai, Như
Lai giải đáp.
- Ba, nêu ra
phước nhiều ít.
- Bốn, dẫn
chính ḿnh để làm chứng.
- Năm, khuyên
tu hành.
Đây là phần
thứ nhất “thưa hỏi”, có hai ư: Trước là kết
lại phần trước, sau đó là thỉnh cầu.
Trong phần thỉnh cầu, trước là nêu bày lời
thỉnh, sau là ư thỉnh cầu.
5.5.4.3.1.2.2.2.1.3.2. Như Lai giải
đáp
(Kinh) Phật
cáo Đế Thích: - Nhược hữu thiện nam tử,
thiện nữ nhân nguyện cầu A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề giả, ưng đương tu hành Thanh
Văn, Độc Giác, Đại Thừa chi đạo.
(經)佛告帝釋:若有善男子善女人願求阿耨多羅三藐三菩提者,應當修行聲聞、獨覺、大乘之道。
(Kinh:
Đức Phật bảo Đế Thích: - Nếu có thiện
nam tử, thiện nữ nhân nguyện cầu Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, hăy nên tu hành đạo Thanh Văn,
Độc Giác, Đại Thừa).
Kế đó,
Như Lai giải đáp, chia thành ba phần:
- Một, dạy
hăy tu hành.
- Hai, dạy
nghi thức, pháp tắc [để khuyến thỉnh].
- Ba, dạy
cách khuyến thỉnh.
Trong phần
khuyên dạy tu hành, trước hết là nêu ra cái quả
mong cầu, kế đó là dạy hăy khởi hạnh. Tu Nhị
Thừa đạo để sanh Biến Trí, nhưng có pháp
chẳng biết, do trí chẳng phải là vô thượng. Lại
v́ thành tựu hàng Nhị Thừa, cũng nên nói học pháp
nhân thiên, tức là tu tập phương tiện trong tam thừa.
V́ thế, chẳng nói riêng!
(Kinh) Thị
nhân đương ư trú dạ lục thời như tiền
oai nghi.
(經)是人當於晝夜六時如前威儀。
(Kinh:
Người ấy hăy nên ngày đêm sáu thời, oai nghi như
trước).
Kế đó,
dạy nghi thức, pháp tắc.
(Kinh) Nhất
tâm chuyên niệm, tác như thị ngôn: -
Ngă kim quy y thập phương nhất thiết chư Phật
Thế Tôn, dĩ đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam
Bồ Đề, vị chuyển vô thượng pháp luân, dục
xả Báo Thân nhập Niết Bàn giả, ngă giai chí thành
đảnh lễ, khuyến thỉnh chuyển đại
pháp luân, vũ đại pháp vũ, nhiên đại pháp
đăng, chiếu minh lư thú, thí vô ngại pháp, mạc bát Niết
Bàn, cửu trụ ư thế.
(經)一心專念作如是言:我今歸依十方一切諸佛世尊,已得阿耨多羅三藐三菩提,未轉無上法輪,欲捨報身入涅槃者,我皆至誠頂禮勸請轉大法輪、雨大法雨、然大法燈,照明理趣施無礙法,莫般涅槃,久住於世。
(Kinh:
Một ḷng chuyên niệm, nói như thế này: - Con nay quy y mười
phương hết thảy chư Phật Thế Tôn, là [các vị]
đă đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác,
chưa chuyển pháp luân vô thượng, toan xả Báo Thân
nhập Niết Bàn, con đều chí thành khuyên mời chuyển
đại pháp luân, tuôn mưa
pháp lớn, thắp đèn pháp lớn, soi tỏ lư thú, thí pháp
vô ngại, đừng nhập Niết Bàn, mà hăy trụ lâu
trong đời).
Tiếp đó,
dạy cách khuyến thỉnh. Có hai ư:
- Một, dạy
cách khuyến thỉnh.
- Hai, dạy
hồi hướng.
Hỏi:
Trong phần sau, đức Phật tự nói riêng pháp hồi
hướng; v́ sao trong phần khuyến thỉnh lại nói
hồi hướng trước?
Đáp: Phần
sau là nói chung, c̣n ở đây là nói riêng, ngụ ư: Điều
thiện do sám hối và tùy hỷ đều phải nên hồi
hướng. Trong phần thứ nhất, có hai ư: Một là
thỉnh, hai là ư cầu thỉnh. Trong phần thỉnh, có
hai ư: Trước là thời điểm dốc ḷng thành cầu
thỉnh, sau là nêu bày lời thỉnh. Trong lời thỉnh,
lại có hai ư: Một là thỉnh [chư Phật] thuyết
pháp, hai là thỉnh [chư Phật] trụ lâu [trong thế
gian]. Ba nghiệp cùng thỉnh. Nếu [Phật] mới thành
đạo, chưa chuyển pháp luân, bèn thỉnh chuyển pháp
luân. Nếu Ngài toan xả Báo Thân, bèn thỉnh trụ thế
lâu dài.
(Kinh) Độ
thoát an lạc nhất thiết chúng sanh, như tiền sở
thuyết, năi chí vô tận an lạc.
(經)度脫安樂一切眾生。如前所說乃至無盡安樂。
(Kinh:
Độ thoát an lạc hết thảy chúng sanh như đă
nói trong phần trước, cho đến vô tận an lạc).
Kế đó
là ư cầu thỉnh, phỏng theo phần trước, nói “hàm
linh tín thọ, giai mông pháp thí, tất đắc sung túc vô tận
an lạc” (khiến cho họ đều tin nhận, đều
được hưởng pháp thí, đều được
sung túc vô tận an lạc); v́ thế nói “năi chí vô tận an
lạc”.
(Kinh) Ngă
kim dĩ thử khuyến thỉnh công đức, hồi hướng
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Như quá
khứ, vị lai, hiện tại chư đại Bồ Tát
khuyến thỉnh công đức hồi hướng Bồ
Đề, ngă diệc như thị khuyến thỉnh công đức
hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
Đề.
(經)我今以此勸請功德,迴向阿耨多羅三藐三菩提。如過去未來現在諸大菩薩勸請功德回向菩提,我亦如是勸請功德回向無上正等菩提。
(Kinh:
Con nay đem công đức khuyến thỉnh này hồi hướng
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, như các vị đại
Bồ Tát trong quá khứ và hiện tại đem công đức
khuyến thỉnh hồi hướng Bồ Đề, con
cũng đem công đức khuyến thỉnh như thế
hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
Đề).
Kế đó
là hồi hướng.
5.5.4.3.1.2.2.2.1.3.3. Phước
đức do khuyến thỉnh
(Kinh) Thiện
nam tử! Giả sử hữu nhân dĩ tam thiên đại
thiên thế giới măn trung thất bảo cúng dường
Như Lai, nhược phục hữu nhân khuyến thỉnh
Như Lai chuyển đại pháp luân sở đắc công
đức, kỳ phước thắng bỉ. Hà dĩ cố?
Bỉ thị tài thí, thử thị pháp thí.
(經)善男子!假使有人以三千大千世界滿中七寶供養如來,若復有人勸請如來轉大法輪所得功德,其福勝彼。何以故?彼是財施,此是法施。
(Kinh:
Thiện nam tử! Giả sử có người dùng bảy
báu đầy ắp tam thiên đại thiên thế giới
để cúng dường Như Lai, nếu lại có người
khuyến thỉnh Như Lai chuyển đại pháp luân đạt
được công đức, phước này hơn phước
kia. V́ sao vậy? Phước kia là tài thí, phước này là
pháp thí).
Tiếp đó
nói về phước nhiều hay ít, so sánh để chỉ
rơ. Có hai ư:
- Một, nêu
ra phước nhỏ để so sánh.
- Hai, nêu ra phước
nhiều để tỏ rơ sự thù thắng.
Trong phần
thứ nhất có bốn ư:
- Một, nêu ra phước
do bố thí.
- Hai, so lường.
- Ba, gạn
hỏi nguyên do.
- Bốn,
giải thích đại lược.
Phân đoạn
kinh văn dễ thấy. Như trong Bát Nhă Kinh Luận đă
phán định nguyên do so lường.
(Kinh) Thiện
nam tử! Thả trí tam thiên đại thiên thế giới
thất bảo bố thí. Nhược nhân dĩ măn Hằng
hà sa số đại thiên thế giới thất bảo cúng
dường nhất thiết chư Phật, khuyến thỉnh
công đức diệc thắng ư bỉ, do kỳ pháp thí
hữu ngũ thắng lợi. Vân hà vi ngũ? Nhất giả,
pháp thí kiêm lợi tự tha, tài thí bất nhĩ. Nhị giả,
pháp thí năng linh chúng sanh xuất ư tam giới, tài thí
chi phước bất xuất Dục Giới. Tam giả,
pháp thí năng tịnh Pháp Thân, tài thí đản duy tăng
trưởng ư Sắc.Tứ giả, pháp thí vô cùng, tài thí
hữu tận. Ngũ giả, pháp thí năng đoạn vô
minh, tài thí duy phục tham ái. Thị cố, thiện nam tử!
Khuyến thỉnh công đức vô lượng, vô biên, nan
khả thí dụ.
(經)善男子!且置三千大千世界七寶布施。若人以滿恒河沙數大千世界七寶供養一切諸佛,勸請功德亦勝於彼,由其法施有五勝利。云何為五?一者法施兼利自他,財施不爾;二者法施能令眾生出於三界,財施之福不出欲界;三者法施能淨法身,財施但唯增長於色;四者法施無窮,財施有盡;五者法施能斷無明,財施唯伏貪愛。是故善男子!勸請功德無量無邊難可譬喻。
(Kinh:
Thiện nam tử! Hăy để chuyện bố thí bảy
báu trong tam thiên đại thiên thế giới lại đó.
Nếu có người dùng bảy báu đầy ắp các đại
thiên thế giới số nhiều như cát sông Hằng để
cúng dường hết thảy chư Phật, công đức
khuyến thỉnh vẫn hơn phước đó, do pháp thí
có năm lợi ích thù thắng. Những ǵ là năm? Một
là pháp thí kiêm tự lợi và lợi tha, tài thí chẳng vậy.
Hai là pháp thí có thể khiến cho chúng sanh thoát khỏi tam giới,
c̣n phước
của tài thí chẳng thoát khỏi Dục Giới. Ba là pháp
thí có thể thanh tịnh Pháp Thân, tài thí chỉ có thể tăng
trưởng sắc thân. Bốn là pháp thí vô cùng, tài thí có cùng
tận. Năm là pháp thí có thể đoạn vô minh, tài thí chỉ
hàng phục
tham ái. V́ thế, thiện nam tử! Công đức khuyến
thỉnh vô lượng, vô biên, khó thể thí dụ).
Sau đó là
so lường rộng răi, có ba phần: Trước là nêu ra
thí dụ, kế đó là so lường, sau là giải thích
nguyên do. Trong phần giải thích, có bốn ư: Một là nêu
ra, hai là gạn hỏi, ba là giải thích, bốn là kết
lại. Kinh văn rơ ràng dễ thấy.
Giải thích
pháp thí thù thắng, tài thí kém hơn, đại để tương
đồng với [những điều được nói
trong] quyển bảy mươi của Du Già Sư Địa
Luận. Luận ấy nói: “Do năm nhân duyên, pháp thí thù thắng
hơn các thứ tài thí. Một là tài thí phát khởi ác hạnh
nơi thân người khác, pháp thí quyết định dấy
khởi các thiện hạnh”. Đó
chính là điều thứ nhất [trong đoạn chánh kinh
trên đây]. “Hai là tài thí phát khởi phiền năo nơi thân
người khác, pháp thí có thể đối trị phiền
năo”, tức là điều thứ hai. “Ba là tài thí dẫn
phát sự an lạc có tội không gián đoạn nơi thân
người khác, pháp thí có thể dẫn phát sự an lạc
vô tội chẳng gián đoạn”. Đó chính là điều
thứ ba. “Bốn là tài thí dù Phật tại thế hay chẳng
tại thế, đều dễ đạt được;
nếu chẳng có chư Phật tại thế th́ pháp thí khó
thể đạt được”. Kinh này không có điều
này. “Năm là tài thí là bố
thí có cùng tận, pháp thí th́ bố thí vô tận”, tức
là điều thứ tư. Luận ấy chẳng có điều
thứ năm trong kinh này.
5.5.4.3.1.2.2.2.1.3.4. Dùng chính ḿnh để
dẫn chứng
(Kinh) Như
ngă tích hành Bồ Tát đạo thời, khuyến thỉnh
chư Phật chuyển đại pháp luân. Do bỉ thiện
căn, thị cố kim nhật, nhất thiết Đế
Thích, chư Phạm vương đẳng khuyến thỉnh
ư ngă chuyển đại pháp luân. Thiện nam tử! Thỉnh
chuyển pháp luân, vị dục độ thoát, an lạc chư
chúng sanh cố. Ngă ư văng tích vị Bồ Đề hạnh,
khuyến thỉnh Như Lai cửu trụ ư thế, mạc
bát Niết Bàn. Y thử thiện căn, ngă đắc Thập
Lực, Tứ Vô Sở Úy, Tứ Vô Ngại Biện, đại
từ, đại bi, chứng đắc vô số bất cộng
chi pháp, ngă đương nhập ư Vô Dư Niết Bàn,
ngă chi chánh pháp cửu trụ ư thế.
(經)如我昔行菩薩道時,勸請諸佛轉大法輪。由彼善根,是故今日一切帝釋諸梵王等勸請於我轉大法輪。善男子!請轉法輪,為欲度脫安樂諸眾生故。我於往昔為菩提行,勸請如來久住於世莫般涅槃。依此善根,我得十力、四無所畏、四無礙辨、大慈大悲、證得無數不共之法。我當入於無餘涅槃,我之正法久住於世。
(Kinh:
Như ta xưa kia khi hành Bồ Tát đạo, khuyến thỉnh
chư Phật chuyển đại pháp luân. Do thiện
căn ấy, cho nên ngày nay, hết thảy Đế Thích, các
Phạm vương v.v… khuyến thỉnh ta chuyển đại
pháp luân. Thiện nam tử! Thỉnh chuyển pháp luân là v́
muốn độ thoát, an lạc các chúng sanh. Xưa kia, ta v́
Bồ Đề hạnh, khuyến thỉnh Như Lai trụ
lâu trong đời, đừng nhập Niết Bàn. Do nương
vào thiện căn ấy, ta đắc Thập Lực, Tứ
Vô Sở Úy, Tứ Vô Ngại Biện, đại từ,
đại bi, chứng đắc vô số pháp bất cộng,
ta sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn, chánh pháp của ta sẽ
trụ lâu dài trong cơi đời).
Kế đó
là dẫn chứng, có ba ư:
- Một, nói
riêng về sự khuyến thỉnh, tức là nói về cái
quả việc thỉnh Phật trụ thế.
- Hai, từ
“ngă Pháp Thân” trở đi nói gộp chung cái quả
của hai loại
thỉnh (thỉnh chuyển pháp luân và thỉnh trụ
thế).
- Ba, từ
“thử đẳng giai do” (những thứ ấy đều
do) trở đi là kết luận.
Trong phần
đầu, tức phần “riêng nói về cái quả”,
trước hết là nói về cái quả của việc
thỉnh thuyết pháp. Từ “ngă ư văng tích” (ta xưa
kia) trở đi, nói về cái quả do thỉnh Phật trụ
thế. Trong phần nói về cái quả của “thỉnh
Phật trụ thế”, lại
có bốn điều:
- Một,
trí đức.
- Hai, ân đức.
- Ba, bất
cộng đức: Đức do Phật thành tựu th́ hàng
Nhị Thừa chẳng có, Bồ Tát chẳng viên măn, nên đều
nói là “bất cộng”.
- Bốn,
pháp bất diệt.
Kinh văn
dễ hiểu.
(Kinh) Ngă
Pháp Thân giả, thanh tịnh vô tỷ chủng chủng diệu
tướng, vô lượng trí huệ, vô lượng tự
tại, vô lượng công đức, nan khả tư nghị.
Nhất thiết chúng sanh giai mông lợi ích, bách thiên vạn
kiếp thuyết bất năng tận. Pháp Thân nhiếp tàng
nhất thiết chư pháp, nhất thiết chư pháp bất
nhiếp Pháp Thân. Pháp Thân thường trụ, bất đọa
Thường Kiến; tuy phục
đoạn diệt, diệc phi Đoạn Kiến. Năng
phá chúng sanh chủng chủng dị kiến, năng sanh chúng
sanh chủng chủng chân kiến, năng giải nhất
thiết chúng sanh chi phược. Vô phược khả giải,
năng thực chúng sanh chư thiện căn bản. Vị thành thục
giả linh thành thục, dĩ thành thục giả linh giải
thoát. Vô tác, vô động, viễn ly hội náo, tịch tĩnh
vô vi, tự tại an lạc, quá ư
tam thế, năng hiện tam thế, xuất ư Thanh
Văn, Độc Giác chi cảnh, chư đại Bồ Tát
chi sở tu hành, nhất thiết Như Lai Thể
vô hữu dị.
(經)我法身者,清淨無比種種妙相,無量智慧、無量自在、無量功德,難可思議。一切眾生皆蒙利益,百千萬劫說不能盡。法身攝藏一切諸法,一切諸法不攝法身。法身常住不墮常見,雖復斷滅亦非斷見。能破眾生種種異見,能生眾生種種真見,能解一切眾生之縛。無縛可解,能植眾生諸善根本。未成熟者令成熟,已成熟者令解脫。無作無動,遠離憒鬧寂靜無為,自在安樂過於三世,能現三世。出於聲聞獨覺之境,諸大菩薩之所修行,一切如來體無有異。
(Kinh:
Pháp Thân của ta có các thứ diệu tướng thanh tịnh
khôn sánh, vô lượng trí huệ, vô lượng tự tại,
vô lượng công đức, khó thể nghĩ bàn. Hết
thảy chúng sanh đều được lợi ích, trăm
ngàn vạn kiếp nói chẳng thể hết. Pháp Thân thâu
nhiếp, chứa đựng hết thảy các pháp, hết
thảy các pháp chẳng nhiếp Pháp Thân. Pháp Thân thường
trụ, chẳng đọa vào Thường Kiến. Dẫu
đoạn diệt, cũng chẳng phải là Đoạn
Kiến. Có thể phá các thứ dị kiến của chúng sanh,
có thể sanh các thứ chân kiến cho chúng sanh, có thể tháo
gỡ trói buộc cho hết thảy chúng sanh. Không trói buộc
nào chẳng thể cởi gỡ, có thể gieo trồng các gốc
thiện căn cho chúng sanh, khiến kẻ chưa thành thục
được thành thục, khiến cho kẻ đă thành
thục được giải thoát. Vô tác, bất động,
xa ĺa ồn náo, tịch tĩnh vô vi, tự tại an lạc
vượt khỏi ba đời, có thể hiển hiện
ba đời, vượt ngoài cảnh của Thanh Văn, Độc
Giác và sự tu hành của các đại Bồ Tát. [Cái Thể
nơi Pháp Thân của ta] chẳng khác Thể của hết
thảy Như Lai).
Tiếp đó,
nói gộp chung hai thứ
nhân quả, chia thành hai phần:
- Một, Phật
tự thành tựu đức.
- Từ “năng
phá chúng sanh” (có thể phá [các thứ dị kiến] của
chúng sanh) trở đi là đức “khiến
cho người khác thành tựu”.
Trong phần
thành tựu đức, có hai phần:
- Một, nói
chung ba thân.
- Hai, nói riêng
ba thân.
Câu thứ
nhất là Tổng, tức là “ngă Pháp Thân giả thanh tịnh vô
tỷ” (Pháp
Thân của ta thanh tịnh khôn sánh). Cái Thể
để các pháp công đức nương vào,
tụ tập, được gọi chung là Pháp Thân. Do ĺa hai
chướng (Phiền Năo Chướng và Sở Tri Chướng), nên gọi
là Thanh Tịnh. Sau đó là riêng nói về ba thân. “Chủng
chủng diệu tướng” (các thứ diệu tướng)
v.v… là do Trí Đức của Báo Thân vượt khỏi t́nh
kiến chấp cảnh. Từ “nhất thiết chúng
sanh” (hết thảy chúng sanh) trở đi là Ân Đức
của Ứng Hóa Thân, do vượt ngoài cảnh ngôn thuyết.
Từ “Pháp Thân nhiếp tàng” trở đi là Đoạn
Đức của Pháp Thân. Do lư thể Chân Như trọn khắp,
thường hằng, cho nên thâu nhiếp các pháp. Các pháp do khác trái
nghịch điều này, cho nên chẳng thể thâu nhiếp
[Pháp
Thân]. “Như tuy thường, chẳng phải
là Thường Kiến, tuy đoạn mà chẳng phải
là Đoạn Kiến”: Do cảnh chân thật, có thể
duyên [theo cảnh] mà chẳng rơi vào nhị biên. Hoặc
[có thể hiểu]: Diệt tánh được gọi là Diệt.
Chứng diệt tánh ấy là thường th́ chẳng phải
là Thường Kiến. [Tánh ấy] có thể khiến cho nhiễm
bị đoạn trừ mà chẳng phải là Đoạn
Kiến. “Chư biên kiến”: Chẳng phải thường
mà thấy là thường, chẳng phải đoạn mà
thấy là đoạn; do vậy gọi là Biên, v́ chẳng tương
xứng với trí vô lậu của Trung Đạo. Từ “năng
phá chúng sanh” (có thể
phá [các thứ dị kiến của] chúng sanh) trở đi,
là khiến cho người khác thành tựu các đức:
- Một, đức
“khiến cho người khác bỏ tà, quy chánh”.
- Hai, đức
“khiến cho người khác ĺa trói buộc, đoạn chướng”.
- Ba, từ
“năng thực” (có thể gieo trồng) trở đi
là đức “khiến cho người khác thành tựu Ứng
Thân”.
- Bốn, đức
“khiến cho người khác viên chứng Pháp Thân”.
Từ “linh
giải thoát” (khiến cho giải thoát) trở đi, coi
giải thoát là hậu biên (cái kết quả sẽ thành tựu
về sau, tức là sau khi đă đoạn chứng). Trong Pháp
Thân đức, có năm ư:
- Một,
trọn đủ Tứ Đức.
- Hai, vượt
khỏi ba đời.
- Ba, vượt
xa Nhị Thừa.
- Bốn, là
cảnh Bồ Tát,
- Năm, chư
Phật đồng chứng.
Do chẳng
phải là Hoặc nghiệp tạo tác, nên gọi
là “vô tác”. Chẳng phải tới nay mới sanh, nên gọi
là “vô động”. Do thường đức ấy phiền
năo đều tận, bèn nói là “viễn ly hội náo” (xa
ĺa ồn náo). “Tịch tĩnh vô vi”: Tỏ lộ tịnh
đức nơi tự thể của Pháp Thân. Trọn đủ
đức Đại Ngă, gọi là “tự
tại”. Do chẳng bức năo, nên nói là “an lạc”,
chính là đức Đại Lạc, tức là khiến cho người
khác tu đại bi, đại tín, đại trí, đại
định, có thể chứng theo thứ tự. Những
câu c̣n lại dễ hiểu!
(Kinh)
Thử đẳng giai do khuyến thỉnh công đức
thiện căn lực cố.
(經)此等皆由勸請功德善根力故。
(Kinh:
Các điều ấy đều do sức thiện căn của
công đức khuyến thỉnh).
Kế đó,
kết lại [công đức của hạnh khuyến thỉnh].
5.5.4.3.1.2.2.2.1.3.5. Khuyên tu hành
(Kinh) Như
thị Pháp Thân, ngă kim dĩ đắc. Thị cố, nhược
hữu dục đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề giả, ư chư kinh trung nhất cú, nhất tụng,
vị nhân giải thuyết, công đức thiện căn
thượng vô hạn lượng, hà huống khuyến thỉnh
Như Lai chuyển đại pháp luân, cửu trụ ư
thế, mạc bát Niết Bàn.
(經)如是法身,我今已得。是故若有欲得阿耨多羅三藐三菩提者,於諸經中一句一頌為人解說,功德善根尚無限量,何況勸請如來轉大法輪、久住於世莫般涅槃。
(Kinh:
Pháp Thân như thế, nay ta đă đắc. V́ thế, nếu
có người muốn đắc Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, đối với một câu, một bài tụng
trong các kinh, v́ người khác giải nói, công đức và
thiện căn c̣n chẳng có hạn lượng, huống
hồ khuyên mời Như Lai chuyển đại pháp luân, trụ
lâu trong cơi đời, đừng nhập Niết Bàn).
Kế đó,
điều thứ năm là khuyên tu hành, có hai ư:
- Một, nói
về điều ta đă đạt được trên đây.
- Hai, từ
“thị cố” (do vậy) trở đi, khuyên hành tŕ.
Trong phần
khuyên hành tŕ, có ba ư:
- Một, chỉ
ra người nên hành.
- Hai, nêu ra
phước nhỏ (tức phước do đọc tụng
một câu, một bài tụng trong các kinh).
- Ba, từ
“hà huống” trở đi, phước [khuyến thỉnh]
thù thắng như thế mà c̣n chẳng hành ư?
Phân đoạn
kinh văn dễ thấy.
5.5.4.3.1.2.2.2.1.4. Thiên Đế
hỏi về hồi hướng
(Kinh) Thời
Thiên Đế Thích phục bạch Phật ngôn: - Thế Tôn!
Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân vị cầu
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cố, tu tam thừa
đạo, sở hữu thiện căn, vân hà hồi
hướng Nhất Thiết Trí trí?
(經)時天帝釋復白佛言:世尊!若善男子善女人為求阿耨多羅三藐三菩提故修三乘道,所有善根云何回向一切智智?
(Kinh:
Khi đó, Thiên Đế Thích lại bạch cùng đức
Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử,
thiện nữ nhân v́ cầu Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác nên tu đạo tam thừa, tất cả thiện
căn hồi hướng trí Nhất Thiết Trí như thế
nào?)
Kế đó
là nói về hồi hướng. Kinh văn chia thành hai phần:
- Một,
Thiên Đế thỉnh vấn.
- Hai, Như
Lai giải đáp.
Đây là phần
thứ nhất.
(Kinh) Phật
cáo Thiên Đế: - Thiện nam tử! Nhược hữu
chúng sanh dục cầu Bồ Đề, tu tam thừa đạo,
sở hữu thiện căn nguyện hồi hướng
giả, đương ư trú dạ lục thời, ân trọng, chí tâm, tác như thị thuyết: “Ngă tùng
vô thỉ sanh tử dĩ lai, ư Tam Bảo sở tu hành,
thành tựu sở hữu thiện căn, năi chí thí dữ bàng
sanh nhất đoàn chi tự, hoặc
dĩ thiện ngôn ḥa giải tránh tụng, hoặc thọ
Tam Quy, cập chư Học Xứ, hoặc
phục sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ sở hữu
thiện căn, ngă kim tác ư tất giai nhiếp thủ, hồi
thí nhất thiết chúng sanh, vô hối lận tâm, thị giải
thoát phần thiện căn sở nhiếp.
(經)佛告天帝:善男子!若有眾生欲求菩提,修三乘道所有善根願回向者,當於晝夜六時慇重至心作如是說:我從無始生死以來,於三寶所修行成就所有善根,乃至施與傍生一摶之食,或以善言和解諍訟,或受三歸及諸學處,或復懺悔、勸請、隨喜所有善根,我今作意悉皆攝取回施一切眾生,無悔悋心是解脫分善根所攝。
(Kinh:
Đức Phật bảo Thiên Đế: - Thiện nam tử!
Nếu có chúng sanh muốn cầu Bồ Đề, tu đạo
tam thừa, tất cả thiện căn nguyện hồi
hướng, hăy nên ngày đêm sáu thời, tâm ân cần, trịnh
trọng, chí tâm, nói như thế này: “Con từ vô thỉ sanh
tử đến nay, ở nơi Tam Bảo tu hành, thành tựu
tất cả thiện căn, cho đến thí cho bàng sanh một
nắm thức ăn, hoặc dùng lời tốt lành để
ḥa giải căi cọ, kiện tụng, hoặc thọ Tam
Quy và các Học Xứ,
hoặc lại sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ tất
cả thiện căn, con nay tác ư thảy đều nhiếp
thủ [các thiện căn ấy], đem thí cho hết thảy
chúng sanh, tâm chẳng hối hận, keo tiếc, thuộc về
thiện căn nơi giải thoát).
Tán rằng:
Trong lời đáp của Như Lai, có ba ư:
- Một, nêu
ra người tu hành.
- Hai, từ
“đương ư trú dạ” (hăy nên trong ngày đêm)
trở đi là nói về nghi quỹ.
- Ba, từ
“tác như thị thuyết” (nói như thế này) trở
đi, dạy cách hồi hướng. Trong phần này lại
có hai ư:
a) Dạy vận
tâm đem những điều thiện đă tu [hồi
hướng].
b) Từ “ngă
kim tác ư” (con nay tác ư) trở đi là hồi hướng.
Trong phần này, lại có hai ư: Một là hồi thí chúng
sanh, hai là hồi hướng Bồ Đề.
(Kinh) Như
Phật Thế Tôn chi sở tri kiến bất khả xưng
lượng, vô ngại thanh tịnh. Như thị sở hữu
công đức, thiện căn, tất dĩ hồi thí nhất
thiết chúng sanh, bất trụ tướng tâm, bất xả
tướng tâm, ngă diệc như thị công đức,
thiện căn, tất dĩ hồi thí nhất thiết chúng
sanh.
(經)如佛世尊之所知見不可稱量無礙清淨,如是所有功德善根悉以迴施一切眾生,不住相心、不捨相心,我亦如是功德善根悉以迴施一切眾生。
(Kinh:
Như tri kiến của Phật Thế Tôn chẳng thể
tính kể, vô ngại thanh tịnh, tất cả công đức
và thiện căn như thế đều đem thí cho hết
thảy chúng sanh, tâm chẳng trụ tướng, tâm chẳng
xả tướng, con cũng đều đem công đức
và thiện căn thí cho hết thảy chúng sanh giống như
thế).
Sau đó,
trong phần dạy về hồi hướng, điều
thứ ba là dạy vận tâm tưởng để thành tựu
sự hồi hướng trong phần trước. Trong ấy,
lại có hai phần:
- Một,
tu giống như Phật.
- Hai, từ
“hựu như quá khứ” (lại như quá khứ) trở
đi là tu như Bồ Tát.
Trong phần
“tu như Phật” có ba ư:
- Một, hồi
thí.
- Hai, từ
“nguyện giai hoạch đắc” (nguyện đều
đạt được) trở đi là phát nguyện,
- Ba, từ
“cộng chư chúng sanh” (cùng các chúng sanh) trở đi
là hồi hướng.
Trong phần
thứ nhất là “hồi thí”, trước hết, nêu ra những
điều Phật đă tu, kế đó là từ “ngă diệc
như thị” (con cũng như thế) trở đi,
giống như chư Phật, tâm chẳng trụ tướng.
Như Bát Nhă Kinh Luận của ngài Thiên Thân
đă nói: “Tự thân và báo ân, chẳng chấp quả báo ấy.
Ngừa cầu nơi chuyện khác, ǵn giữ đă chẳng
thí”. [Ư nói]: Nếu chấp vào tự thân và tài vật, bảo
vệ, tiếc nuối tài vật để mong [chính ḿnh] sống
sót, sẽ chẳng thể bố thí. Nếu [bố thí v́] cầu
quả báo và báo ân, tức là bỏ Bồ Đề để
riêng cầu chuyện khác, [sẽ chẳng thể bố
thí]. V́ thế, chẳng trụ tướng. “Tâm chẳng
xả tướng” là chẳng
trụ vào Không Kiến,
chẳng Tu Đoạn, đều là phải nên tu cái tâm “không
trụ vào đâu!”
(Kinh) Nguyện
giai hoạch đắc như ư chi thủ, huy không xuất
bảo, măn chúng
sanh nguyện, phú lạc vô tận, trí huệ vô cùng, diệu
pháp, biện tài, tất giai vô trệ.
(經)願皆獲得如意之手,撝空出寶滿眾生願富樂無盡,智慧無窮妙法辨才悉皆無滯。
(Kinh:
Nguyện đều đạt được tay như ư,
vẫy tay trong hư không, [liền
có] của báu để măn nguyện giàu vui vô tận cho chúng
sanh, trí huệ vô cùng, diệu pháp và biện
tài thảy đều chẳng vướng mắc).
Tán rằng:
Kế đó là phát nguyện. Trong lời nguyện, nguyện
thứ nhất là thành tựu phước. Sau đó, từ
“trí huệ vô cùng” trở đi là nguyện đắc
trí.
(Kinh) Cộng
chư chúng sanh đồng chứng A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề, đắc Nhất Thiết Trí. Nhân thử
thiện căn, cánh phục xuất sanh vô lượng thiện
pháp, diệc giai hồi hướng Vô Thượng Bồ
Đề.
(經)共諸眾生同證阿耨多羅三藐三菩提,得一切智。因此善根,更復出生無量善法,亦皆回向無上菩提。
(Kinh:
Cùng các chúng sanh đồng chứng Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác, đắc Nhất Thiết Trí. Do thiện
căn ấy, lại c̣n xuất sanh vô lượng thiện
pháp, cũng đều hồi hướng Vô Thượng Bồ
Đề).
Kế đó
là phần thứ ba trong “tu giống như Phật”, tức
là hồi hướng. Có hai ư:
- Một, hồi
thí những điều thiện đă tu trong quá khứ để
tiến nhập Bồ Đề.
- Hai, từ
“nhân thử thiện căn” (do thiện căn ấy)
trở đi, hồi thí đời hiện tại và vị
lai tiến hướng Bồ Đề.
(Kinh) Hựu
như quá khứ chư đại Bồ Tát tu hành chi thời,
công đức, thiện căn, tất
giai hồi hướng Nhất Thiết Chủng Trí, hiện
tại, vị lai, diệc phục như thị. Nhiên ngă sở
hữu công đức, thiện căn, diệc giai hồi
hướng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
(經)又如過去諸大菩薩修行之時,功德善根悉皆迴向一切種智,現在未來亦復如是。然我所有功德善根,亦皆回向阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh:
Lại như trong quá khứ, khi các đại Bồ Tát tu
hành, công đức và thiện căn thảy đều hồi
hướng Nhất Thiết Chủng Trí, hiện tại và
vị lai cũng giống như thế. Nhưng tất cả
công đức và thiện căn của con cũng đều
hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).
Tán rằng:
[Đức Phật] dạy vận tâm tưởng để
thành tựu điều thứ hai trong phần hồi
hướng trên đây, tức “tu như Bồ Tát”. [Kinh
văn] cũng chia thành ba phần:
- Một, nói
đến hạnh tu tập của Bồ Tát trong ba đời.
- Hai, từ
“nhiên ngă sở hữu” (nhưng tất cả [công
đức] của con) trở đi, [hàm ư] cũng tu giống
như thế.
Trong phần
“cũng tu giống như thế” lại có hai ư; ở
đây chính là “cũng hồi hướng giống như
thế”.
(Kinh) Thị
chư thiện căn, nguyện cộng nhất thiết
chúng sanh câu thành Chánh Giác, như dư chư Phật tọa
ư đạo tràng Bồ Đề thụ hạ, bất
khả tư nghị vô ngại thanh tịnh, trụ ư
vô tận pháp tạng đà-la-ni, Thủ Lăng Nghiêm định,
phá ma Ba Tuần vô lượng binh chúng. Ưng kiến giác
tri, ưng
khả thông đạt, như thị nhất
thiết nhất sát-na trung tất giai chiếu liễu. Ư hậu
dạ trung, hoạch cam lộ pháp, chứng cam lộ
nghĩa.
(經)是諸善根,願共一切眾生俱成正覺,如餘諸佛坐於道場菩提樹下不可思議無礙清淨,住於無盡法藏陀羅尼首楞嚴定,破魔波旬無量兵眾。應見覺知應可通達,如是一切一剎那中悉皆照了。於後夜中獲甘露法,證甘露義。
(Kinh:
Do các thiện căn ấy, nguyện cùng hết thảy chúng
sanh đều thành Chánh Giác, giống như chư Phật ngồi
dưới cội Bồ Đề nơi đạo tràng,
vô ngại thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn, trụ trong
vô tận pháp tạng đà-la-ni, Thủ Lăng Nghiêm định,
phá vô lượng quân đội của ma Ba Tuần. Thông đạt
những điều đáng nên thấy, hay, biết. Trong một
sát-na, thảy
đều chiếu rơ hết thảy như thế. Vào cuối
đêm, đạt được pháp cam lộ, chứng nghĩa
cam lộ).
Tán rằng:
Sau đó là cũng phát nguyện giống như vậy. Ở
đây, có bốn ư:
- Một, nguyện
chung thành Chánh Giác.
- Hai, từ
“như dư chư Phật” (như chư Phật khác)
trở đi là nguyện riêng thành tựu đức.
- Ba, từ
“ngă cập chúng sanh” (con và chúng sanh) trở đi, nguyện
chứng giống như Phật.
- Bốn, từ
“do như Vô Lượng Thọ” (giống như Vô Lượng
Thọ Phật) trở đi, [phát nguyện] thực hiện
giống chư Phật.
Trong phần
“nguyện thành tựu đức”, trước là nói
riêng từng điều, sau là nguyện chứng đắc.
Trong phần nguyện riêng thành tựu đức, nêu đại
lược tám đức:
- Một, thị
hiện ngồi dưới cội Bồ Đề. Đấy
là nói chung về sự ứng hóa.
- Hai, vô ngại
thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đây là câu nói
chung, bao gồm cả ư trên và ư dưới, tức là ngồi
nơi đạo tràng và cây Bồ Đề đều là vô
ngại thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Các môn Tổng Tŕ v.v… để
trụ vào cũng đều
chẳng thể nghĩ bàn. Do ĺa chướng
nên vô ngại, do trừ tập khí nên thanh tịnh.
- Ba, trụ
trong vô tận pháp tạng đà-la-ni, chính là hết thảy
công đức tạng đà-la-ni, tức là bốn môn tổng
tŕ gồm: Một là pháp, hai là nghĩa, ba là có thể đạt
được Vô Sanh Nhẫn của Bồ Tát, bốn là
minh chú.
- Bốn,
Thủ Lăng Nghiêm (Śūraṁgama) Định
là tiếng Phạn, phương này dịch là Kiện Hành Định
(健行定). Quyển bốn
trăm mười bốn của kinh Đại
Bát Nhă đă xét theo tự tánh [để nói về Thủ Lăng
Nghiêm Định] như sau: “Năng nhiếp nhất thiết
Đẳng Tŕ cảnh,
năng biện vô biên hạnh, vị nhất thiết Đẳng Tŕ đạo
thủ” (Có thể nhiếp hết thảy cảnh Đẳng Tŕ[15],
có thể biện định vô biên hạnh, là người
dẫn đầu của hết thảy Đẳng Tŕ) v.v… Thành
Duy Thức Luận xét theo người có thể hành mà nói về
[Thủ Lăng Nghiêm Định] như sau: “[Môn định
này] là sở hành của bậc đại dũng mănh, v́ thế
gọi là Đại Kiện Định”.
-