Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ

Quyển thứ tư

Đời Đường Tam Tạng pháp sư Nghĩa Tịnh vâng chiếu dịch kinh

Dịch kinh sa-môn Huệ Chiểu soạn sớ

金光明最勝王經疏

卷第三

唐三藏法師義淨奉制譯

翻經沙門慧沼撰

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

Phần 8

 

5.6. Phẩm thứ sáu: Tịnh Địa Đà La Ni (Tịnh Địa Đà La Ni phẩm đệ lục, 淨地陀羅尼品第六)

 

          Phẩm Tối Tịnh Địa Đà La Ni chia thành ba môn phân biệt:

          - Một, nêu ư nghĩa v́ sao có phẩm này?

          - Hai, giải thích danh xưng [của phẩm này].

          - Ba, giải trừ vấn nạn.

 

5.6.1. Giải thích ư nghĩa v́ sao có phẩm này?

         

          Nói về “ư nghĩa v́ sao có phẩm này”, để cầu Bồ Đề, ắt cần phải tu hành. Tu hành có hai khía cạnh, tức là đoạn ác và tu thiện. Các phẩm trước như [Mộng Kiến] Sám Hối, [Diệt Nghiệp Chướng] v.v… đă nói về đoạn ác; kế đó, nói về tu thiện. Trong “tu thiện”, bèn có phát tâm và tu hành. “Phát tâm” tức là phát Bồ Đề tâm, tức là phải y chỉ tâm hạnh Đại Bồ Đề để hành các thiện hạnh th́ mới có thể đắc quả. Pháp để tu hành chính là Thập Độ. Do Thập Độ, sẽ có thể đạt được các địa, có thể phá các chướng ngại đối với Thập Độ như keo kiệt v.v…, đạt được ngũ phần Pháp Thân[1], thành tựu hai cái quả thù thắng (Niết Bàn và đại Bồ Đề). V́ thế, cần phải nói rơ sự phát tâm và tu hành. Do vậy, sau phẩm trước, bèn có phẩm này sanh khởi.

 

5.6.2. Giải thích tên gọi của phẩm này

 

          Giải thích tên gọi [của phẩm này], Thành Duy Thức Luận nói: Thống nhiếp trọn khắp công đức hữu vi và vô vi làm tự tánh, và lấy pháp đă tu hành làm y tŕ (nương vào và ǵn giữ) thù thắng, khiến cho nó sanh trưởng. V́ thế, gọi là Địa”. Địa Tŕ[2], Nhiếp Luận, Du Già Sư Địa Luận, [Đại Thừa] Trang Nghiêm Luận đều giải thích đại để giống như vậy. “Tịnh” là thanh tịnh, do ĺa hai chướng (Sở Tri Chướng và Phiền Năo Chướng). Nhưng kinh Đại Thừa Đồng Tánh[3] và kinh Chứng Khế Đại Thừa[4] đều nói trong tam thừa, mỗi thừa đều có mười địa. Thập Địa trong hàng Bồ Tát có thể trừ hai chướng tột bậc thanh tịnh, nói “tối” tức là địa vị thanh tịnh nhất. Đó là giải thích theo lối Y Chủ.

          Tịnh thuộc về Năng Y (cái có thể nương vào), c̣n Địa (tức mười Địa của Bồ Tát) là Sở Y (cái để [tâm thanh tịnh] nương vào); tức Tổng là cái để nương vào của Biệt[5]. Hoặc [có thể hiểu] cái Thể của Thập Địa chính là lấy công đức vô vi làm Thể, tức là công đức thể (bản thể của công đức) do ĺa hai chướng, bèn gọi là Tối Tịnh (thanh tịnh nhất). Do là địa vị thanh tịnh nhất, nên gọi là Tối Tịnh Địa. Đấy là giải thích theo lối Tŕ Nghiệp (tức cách giải thích chú trọng nơi tác dụng chủ yếu nhất của một pháp).

          Danh xưng Đà-la-ni như đă giải thích trong phần trên. Do địa vị thanh tịnh ấy mà đạt được Đà-la-ni này; do Đà-la-ni ấy mà có thể thanh tịnh địa vị. Đấy đều là cách giải thích theo lối Y Chủ (cách giải thích dựa theo bản thể của đối tượng được tác động. Chẳng hạn như ở đây, cái được thanh tịnh là các địa, do căn cứ trên khía cạnh các địa sẽ được các hạnh thanh tịnh hóa mà gọi là Tịnh Địa, cho nên bảo đây là cách giải thích theo lối Y Chủ).

          [Hai cách giải thích ấy] chẳng mâu thuẫn v́ Đà-la-ni có thể khiến cho [hành nhân] ĺa ngũ chướng[6], bèn gọi là Tịnh Địa. Nếu chỉ xét theo Thập Độ v.v… th́ chỉ gọi là Tối Tịnh Địa. Nếu xét theo Đà-la-ni, th́ gọi là Tối Tịnh Địa Đà-la-ni.

 

5.6.3. Giải trừ vấn nạn

 

          * Hỏi: Các bộ luận như Biện Trung Biên và Nhiếp Luận v.v… đều nói: “Nương vào Thập Địa, hành Thập Hạnh, đoạn mười chướng[7], chứng Thập Như”. V́ sao ở đây chẳng biện định Thập Như?

          Đáp: Do nói rộng hay lược khác nhau.

          * Hỏi: Các kinh luận khác nói Thập Độ, đối với sáu Độ trước, mỗi Độ đều có ba ư nghĩa, đối với bốn Độ sau, mỗi Độ đều có hai ư nghĩa. Cớ sao đối với Thập Ba La Mật trong kinh này, mỗi Độ đều có năm loại ư nghĩa?

           Đáp: Trong mỗi hạnh đều có nhiều môn. Trong các thánh giáo, đều là nói vài môn để liên tưởng các môn c̣n lại. V́ thế, chẳng nhất loạt [đều giảng giải] giống hệt như nhau.

 

5.6.4. Giải thích kinh văn

5.6.4.1. Sư Tử Tướng Vô Ngại Quang Diễm Bồ Tát thỉnh pháp

5.6.4.1.1. Người thỉnh vấn

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Sư Tử Tướng Vô Ngại Quang Diễm Bồ Tát, dữ vô lượng ức chúng.

          ()爾時師子相無礙光焰菩薩與無量億眾

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Sư Tử Tướng Vô Ngại Quang Diễm Bồ Tát và vô lượng ức đại chúng).

 

          Tán rằng: Trong phẩm này, kinh văn chia đại lược thành bốn phần:

          - Một, Sư Tử Tướng Vô Ngại Quang Diễm Bồ Tát thỉnh vấn.

          - Hai, Như Lai giải đáp.

          - Ba, Đại Phạm tán dương.

          - Bốn, đại chúng khi ấy đạt được lợi ích.

          Phần thứ nhất “thỉnh vấn”, được chia thành ba phần:

          - Một, [chỉ ra] người thỉnh vấn (Sư Tử Tướng Vô Ngại Quang Diễm Bồ Tát).

          - Hai, nghi thức thỉnh pháp.

          - Ba, trần thuật lời cầu thỉnh.

          Đoạn này thuộc phần thứ nhất, tức “người thỉnh vấn”. Do có thể đạt được Tứ Vô Úy của Bồ Tát, nên tên là Sư Tử Tướng. Ly chướng là Vô Ngại. Đạt được trí tự tại có thể chiếu rơ Chân và Tục th́ gọi là Quang Diễm. Đây là từ thí dụ và pháp mà đặt tên.

 

5.6.4.1.2. Nghi thức thỉnh pháp

 

          (Kinh) Tùng ṭa nhi khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng cung kính, đảnh lễ Phật túc, dĩ chủng chủng hoa, hương, bảo tràng, phan, cái, nhi cúng dường dĩ.

          ()從座而起偏袒右肩右膝著地合掌恭敬頂禮佛足以種種華香寶幢旛蓋而供養已

          (Kinh: Từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất, chắp tay cung kính, đảnh lễ dưới chân đức Phật, dùng các thứ hoa, hương, tràng, phan, lọng báu để cúng dường xong).

 

          Tán rằng: Đây là nghi thức thỉnh pháp, trước là do sự kiền thành, cung kính, sau là trần thuật sự cúng dường. Cúng dường bao gồm nhiều loại như trong đoạn trên đă nói. Ở đây là khởi ḷng cung kính để cúng dường, biểu thị thưa hỏi về cái nhân của Bồ Đề tâm như hoa, biểu thị thành tựu NPhần Pháp Thân như hương, biểu lộ đại trí vượt khỏi Nhị Thừa như tràng, biểu lộ bốn môn Đà-la-ni như phan, biểu thị che chở chúng sanh như lọng. V́ thế, dùng các thứ như hoa, hương v.v… để cúng dường.

 

5.6.4.1.3. Trần thuật lời thỉnh cầu

 

          (Kinh) Bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Dĩ kỷ nhân duyên đắc Bồ Đề tâm?

          ()白佛言世尊以幾因緣得菩提心

          (Kinh: Bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Do mấy nhân duyên mà đạt được Bồ Đề tâm?)

 

          Tán rằng: Chánh thức trần thuật lời thỉnh cầu. Trước hết là hỏi về cái nhân của Bồ Đề tâm; kế đó, hỏi về cái Thể của Bồ Đề tâm. Đây là ư thứ nhất.

 

          (Kinh) Hà giả thị Bồ Đề tâm?

          ()何者是菩提心

          (Kinh: Ǵ là Bồ Đề tâm?)

 

          Tán rằng: Hỏi về Thể. Trước là nêu ra lời hỏi; kế đó, hỏi riêng từng điều, cuối cùng là kết lại. Đây là phần nêu ra lời hỏi. Phải nên hiểu “hà giả thị Bồ Đề? Hà danh Bồ Đề tâm?” (Ǵ là Bồ Đề? Ǵ gọi là Bồ Đề tâm?) Bồ Đề trong câu trước là chân lư, c̣n tâm là nhị trí, Lục Độ.

 

          (Kinh) Thế Tôn! Tức ư Bồ Đề, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc, quá khứ tâm bất khả đắc.

          ()世尊即於菩提現在心不可得未來心不可得過去心不可得

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! [Nếu Bồ Đề tâm] chính là Bồ Đề th́ tâm hiện tại chẳng thể được, tâm vị lai chẳng thể được, tâm quá khứ chẳng thể được).

 

          Kế đó là hỏi riêng từng điều. Trước hết, nương theo Pháp Không để hỏi; kế đó nương theo Sanh Không để hỏi. Trong phần thứ nhất, có ba ư:

          - Trước hết, hỏi [Bồ Đề tâm] tức là Bồ Đề ư?

          - Kế đó là hỏi [Bồ Đề tâm] ly Bồ Đề ư?

          - Sau cùng, kết lại nguyên do.

          Nếu [Bồ Đề tâm] chính là Bồ Đề th́ do Bồ Đề ĺa ba đời, cho nên tâm ba đời đều chẳng thể được!

 

          (Kinh) Ly ư Bồ Đề, Bồ Đề tâm diệc bất khả đắc.

          ()離於菩提菩提心亦不可得

          (Kinh: Ĺa khỏi Bồ Đề th́ tâm Bồ Đề cũng chẳng thể được).

         

          Kế đó, hỏi về chuyện cái tâm ĺa Bồ Đề. Chẳng có một pháp nào có thể ĺa Chân Như! V́ thế, ĺa khỏi Chân Như th́ tâm cũng chẳng thể được!

 

          (Kinh) Bồ Đề giả bất khả ngôn thuyết, tâm diệc vô sắc, vô tướng, vô hữu sự nghiệp, phi khả tạo tác.

          ()菩提者不可言說心亦無色無相無有事業非可造作

          (Kinh: Bồ Đề chẳng thể nói năng, tâm cũng vô sắc, vô tướng, chẳng có sự nghiệp, không thể tạo tác).

 

          Kế đó, kết lại nguyên do. Chân lư th́ ngôn ngữ dứt bặt, tâm hạnh xứ diệt. V́ thế, chẳng thể nói. Tâm chẳng có sắc tướng giống như huyễn, chẳng có sự nghiệp thật sự để có thể tạo tác. Ư nghĩa này giống như trong Văn Thù Sở Vấn Phát Bồ Đề Tâm Kinh Luận [đă nói]: “Bồ Đề chẳng thể đạt được bởi thân, chẳng thể đạt được do tâm, v́ thân giả, tâm huyễn”. Nói cặn kẽ th́ như trong luận ấy đă giải thích; ở đây, [Bồ Tát] chỉ hỏi về tâm.

 

          (Kinh) Chúng sanh diệc bất khả đắc, diệc bất khả tri.

          ()眾生亦不可得亦不可知

            (Kinh: Chúng sanh cũng chẳng thể được, và cũng chẳng thể biết).

 

          Kế đó, dựa theo Sanh Không để hỏi. Chúng sanh nói về Ngă, nhưng Thể của Ngă chẳng có, chỉ là giả ḥa hợp, giống như huyễn sự, thật sự chẳng thể được, hăy nên biết [như thế].

 

          (Kinh) Thế Tôn! Vân hà chư pháp thậm thâm chi nghĩa nhi khả đắc tri?

          ()世尊云何諸法甚深之義而可得知

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Thế nào là nghĩa rất sâu của các pháp để có thể biết?)

 

          Kế đó, ư thứ ba là kết lại lời hỏi: V́ sao Bồ Đề và các tâm pháp đều chẳng thể chấp giữ, diễn tả, mà có “phát Bồ Đề tâm” để có thể đạt được? Nghĩa rất sâu ấy phải nên biết như thế nào?

 

5.6.4.2. Như Lai giải đáp

5.6.4.2.1. Trả lời câu hỏi thứ hai

5.6.4.2.1.1. Giải đáp bằng cách ấn khả

 

          (Kinh) Phật ngôn: - Thiện nam tử! Như thị, như thị! Bồ Đề vi diệu, sự nghiệp tạo tác, giai bất khả đắc. Nhược ly Bồ Đề, Bồ Đề tâm diệc bất khả đắc. Bồ Đề giả bất khả thuyết, tâm diệc bất khả thuyết, vô sắc tướng, vô sự nghiệp, nhất thiết chúng sanh diệc bất khả đắc.

          ()佛言善男子如是如是菩提微妙事業造作皆不可得若離菩提菩提心亦不可得菩提者不可說心亦不可說無色相無事業一切眾生亦不可得
         
(Kinh: Đức Phật nói: - Thiện nam tử! Đúng như thế, đúng như vậy! Bồ Đề vi diệu, sự nghiệp tạo tác đều chẳng thể được. Nếu ĺa Bồ Đề, Bồ Đề tâm cũng chẳng thể được! Bồ Đề là chẳng thể nói, tâm cũng chẳng thể nói, chẳng có sắc tướng, chẳng có sự nghiệp, hết thảy chúng sanh cũng chẳng thể được!)

 

          Tán rằng: Kế đó là lời giải đáp, gồm hai phần:

          - Một, giải đáp câu hỏi thứ hai.

          - Hai, từ thiện nam tử! Thí như bảo Tu Di” (này thiện nam tử! Ví như núi báu Tu Di) trở đi, giải đáp lời hỏi thứ nhất.

          Trong phần giải đáp câu hỏi thứ hai, trước là giải đáp bằng cách ấn khả, sau là đáp lời hỏi bằng cách giải thích. Trong phần giải đáp bằng cách ấn khả, trước là ấn khả, sau là gạn hỏi, cuối cùng là giải thích. Đây là phần thứ nhất.

 

          (Kinh) Hà dĩ cố? Bồ Đề cập tâm đồng Chân Như cố, năng chứng, sở chứng giai b́nh đẳng cố.

          ()何以故菩提及心同真如故能證所證皆平等故

          (Kinh: V́ sao vậy? Do Bồ Đề và tâm đều tương đồng Chân Như, do cái có thể chứng và pháp được chứng đều b́nh đẳng).

 

          Kế đó là gạn hỏi và giải thích. Phần gạn hỏi dễ thấy. Trong phần giải thích, trước hết, giải thích nguyên do “chẳng thể được, chẳng thể nói”: Do nghĩa Bồ Đề và tâm Bồ Đề đều cùng nương vào Chân Như, cho nên chẳng thể nói được, v́ đă ĺa so đo, chấp trước.

 

          (Kinh) Phi vô chư pháp, nhi khả liễu tri.

          ()非無諸法而可了知

          (Kinh: Chẳng phải là không có các pháp để có thể biết rơ).

 

          Sau đó, giải thích ư nghĩa rất sâu của “phát tâm đạt được Bồ Đề. Chỉ do trừ căn bệnh [chấp trước] này [mà nói Bồ Đề và Bồ Đề tâm đều chẳng thể được], chẳng phải là không có pháp [để có thể phát tâm].

 

5.6.4.2.1.2. Trả lời bằng cách giải thích

         

          (Kinh) Thiện nam tử! Bồ Tát Ma Ha Tát như thị tri giả, năi đắc danh vi thông đạt chư pháp, thiện thuyết Bồ Đề, cập Bồ Đề tâm.

          ()善男子菩薩摩訶薩如是知者乃得名為通達諸法善說菩提及菩提心

          (Kinh: Thiện nam tử! Bồ Tát Ma Ha Tát biết như thế, bèn được gọi là “thông đạt các pháp, khéo nói Bồ Đề và Bồ Đề tâm”).

 

          Tán rằng: Kế đó, trả lời bằng cách giải thích, có hai phần: Một là nêu bày, hai là giải thích. Đây là phần nêu bày. Trước tiên, nói về Bồ Đề: Cái Thể của Bồ Đề là pháp được chứng, c̣n Bồ Đề tâm là chủ thể để chứng [pháp ấy].

 

          (Kinh) Bồ Đề tâm giả, phi quá khứ, phi vị lai, phi hiện tại. Tâm diệc như thị, chúng sanh diệc như thị. Ư trung, nhị tướng thật bất khả đắc.

          ()菩提心者非過去非未來非現在心亦如是眾生亦如是於中二相實不可得

          (Kinh: Bồ Đề tâm chẳng phải là quá khứ, chẳng phải là vị lai, chẳng phải là hiện tại. Tâm cũng như thế, chúng sanh cũng như thế. Trong ấy, hai tướng đều thật sự chẳng thể được!)

         

           Kế đó là giải thích. Trước là chẳng thể chấp giữ, nói năng. Sau đó, câu “bất khả đắc cố” (do chẳng thể được) nhằm giải thích ư nghĩa “làm như thế nào để có thể biết nghĩa rất sâu?” Trong phần thứ nhất, có ba ư: Trước là giải thích, kế đó là gạn hỏi, sau cùng là dung thông. Đoạn này là phần giải thích. Trước hết, [nhắc tới] “tam thế” là nói về cái Thể của Chân Như Bồ Đề. Kế đó, “tâm diệc như thị” (tâm cũng như thế) là [nói về] “chủ thể có thể chứng” (năng chứng). “Tâm” nói trong phần trước (tức Bồ Đề tâm) là Đệ Nhất Nghĩa tâm, “tâm” được nói trong câu sau (“tâm” trong câu “tâm diệc như thị”) chính là “duyên tâm”. “Chúng sanh diệc như thị” (chúng sanh cũng như thế) là nói về Nhân Không. Hai tướng trong ấy thật sự chẳng thể được, tức là nói gộp chung Nhị Ngă (Nhân Ngă và Pháp Ngă) đều chẳng thể được, giống như chuyện nương theo Biến Kế Chấp được nói trong kinh Văn Thù Sở Vấn Bồ Đề Tâm.

 

          (Kinh) Hà dĩ cố?

          ()何以故

          (Kinh: V́ sao vậy?)

 

          Kế đó là gạn hỏi.

 

          (Kinh) Dĩ nhất thiết pháp giai vô sanh cố.

          ()以一切法皆無生故

          (Kinh: Do hết thảy các pháp đều vô sanh).

 

          Kế đó, phần thứ ba là dung thông. Trước là Tổng, sau là Biệt. Phần này là Tổng. Do hết thảy các pháp đều vô sanh, cho nên là Không. Chưởng Trân Luận[8] nói: “Vô vi chẳng có thật, do chẳng khởi, giống như hoa đốm trên hư không”. “Vô vi chẳng có thật” là Tông, “do chẳng khởi” là Nhân, “khởi” là sanh, “giống như hoa đốm trên hư không” là Dụ[9]. Do vốn là bất sanh, cho nên cái Thể là chẳng có. Kinh Giải Thâm Mật dựa theo ba vô tánh mà nói “hết thảy các pháp vô sanh, vô diệt, vốn sẵn tịch tĩnh”.

 

          (Kinh) Bồ Đề bất khả đắc, Bồ Đề danh diệc bất khả đắc.

          ()菩提不可得菩提名亦不可得

          (Kinh: Bồ Đề chẳng thể được, danh xưng Bồ Đề cũng chẳng thể được).

 

          Kế đó là dung thông Biệt, có ba phần. Trước hết là xét theo Bồ Đề. Kinh Văn Thù Vấn Phát Bồ Đề Tâm dạy: “Bồ Đề giả, đản hữu danh tự, thế tục cố thuyết” (Bồ Đề chỉ có danh tự, do thế tục mà nói). Luận giảng rằng: “Thị hiện pháp có thể chứng, nhưng [pháp ấy] chỉ có tên gọi, do hư vọng phân biệt, v́ cái Thể của nó là chẳng thật”. Ư nói: Pháp được chứng chỉ là danh tự giả lập. V́ thế nói là “thế tục”. Nếu chấp lấy cái danh, tức là phân biệt hư vọng, bởi cái Thể của nó chẳng thật. “Cái có thể diễn nói” là giả, “cái được diễn nói” cũng thế. Trên đây là xét theo pháp để nói.

 

          (Kinh) Chúng sanh, chúng sanh danh bất khả đắc. Thanh Văn, Thanh Văn danh bất khả đắc. Độc Giác, Độc Giác danh bất khả đắc. Bồ Tát, Bồ Tát danh bất khả đắc. Phật, Phật danh bất khả đắc.

          ()眾生眾生名不可得聲聞聲聞名不可得獨覺獨覺名不可得菩薩菩薩名不可得佛名不可得

          (Kinh: Chúng sanh và danh xưng “chúng sanh” chẳng thể được. Thanh Văn và danh xưng Thanh Văn chẳng thể được. Độc Giác và danh xưng Độc Giác chẳng thể được. Bồ Tát và danh xưng Bồ Tát chẳng thể được. Phật và danh xưng Phật chẳng thể được).

 

          Cùng dựa theo hai thứ chấp (Sanh Chấp và Pháp Chấp) để nói: Chúng sanh chẳng thể được, tức là Sanh Chấp chẳng có. Danh xưng “chúng sanh” chẳng thể được, tức là Pháp Chấp không có. Bát Nhă Luận của ngài Thiên Thân nói: “Giả danh và các Ấm sự, Như Lai ĺa các tướng ấy. Chư Phật không có hai thứ ấy (giả danh và các Ấm) v́ đă thấy thật pháp”. Có nghĩa là: Giả danh tức là chẳng thật, tức Pháp Không là giả. “Ấm sự” (chuyện thuộc về các Ấm) tức Sanh Không là giả. Do dung thông cả hai chỗ (Sanh Không và Pháp Không) [mà nói là “đều chẳng thể được”].

 

          (Kinh) Hành phi hành bất khả đắc, hành phi hành danh bất khả đắc.

          ()行非行不可得行非行名不可得

          (Kinh: Hành và “chẳng phải hành” chẳng thể được, tên gọi “hành” và
“chẳng phải hành”
đều chẳng thể được).

 

          Lại xét theo pháp để biện định có năng chứng. “Hành” tức là thiện pháp để tu hành. “Phi hành” là pháp đáng đoạn trừ, chớ nên tu, do Năng (người tu) và Sở (pháp để tu) đều nói về Không. Ở đây chính là nói “hành pháp Bồ Đề tâm là cái hạnh có thể đoạn”. “Phi hành” là cái được đoạn [bởi hành pháp Bồ Đề tâm ấy]. Do vậy, nói đối ứng để minh xác.

 

          (Kinh) Dĩ bất khả đắc cố, ư nhất thiết tịch tĩnh pháp trung, nhi đắc an trụ. Thử y nhất thiết công đức thiện căn, nhi đắc sanh khởi.

          ()以不可得故於一切寂靜法中而得安住此依一切功德善根而得生起

          (Kinh: Do chẳng thể được, được an trụ trong hết thảy các pháp tịch tĩnh. Điều ấy do nương vào hết thảy công đức và thiện căn mà được sanh khởi).

 

          Tán rằng: Giải thích nghĩa “rất sâu”, khiến cho [thính chúng] chân chánh tu hành Bồ Đề tâm. Do “chẳng thể được” khiến cho họ biết Bồ Đề được chứng và “người có thể chứng” (năng chứng) đều gọi là “ngôn thi thiết” (ngôn từ được đặt ra), đều là giả lập, chẳng thật sự có thể đạt được! Có thể biết như thế th́ gọi là “ư nhất thiết tịch tĩnh pháp trung trụ” (trụ trong hết thảy các pháp tịch tĩnh). Nương theo đạo lư thế tục giả duyên này, hết thảy công đức và thiện căn sanh khởi Bồ Đề, tức là tương xứng với chánh lư mà gọi là Bồ Đề. Kinh Văn Thù Vấn Phát Bồ Đề Tâm dạy: “Bỉ xứ vô nhân chứng, vô sở dụng chứng, diệc vô pháp khả chứng. Như thị thông đạt, thị tức danh vi đắc A Nậu Bồ Đề” (Chỗ ấy không có người chứng, chẳng vận dụng chứng, cũng không có pháp để có thể chứng. Thông đạt như thế th́ liền gọi là đắc A Nậu Bồ Đề). Nghĩa là: “Không có người chứng” tức là không có người tu hành. “Vô sở dụng chứng” [th́ “sở dụng chứng” (vận dụng pháp ấy để chứng)] tức là có thể tu hành, chứng đắc. “Vô pháp khả chứng” (Không có pháp để có thể chứng): [Pháp ấy] chính là Bồ Đề để chứng. Nói cặn kẽ th́ như trong luận ấy [đă nói]. Nếu dựa theo các bản dịch cũ của kinh này, [các bản ấy] đă viết sai rằng: “Nương vào hết thảy thiện căn và công đức mà được phát xuất; đó gọi là sơ phát Bồ Đề tâm”. Trong lời kết thuộc kinh văn trong phần sau, những cái nhân khác đều chẳng nói là “nương theo những điều khác mà gọi là phát tâm”. V́ thế, phải nên loại bỏ hai chữ “thị danh” (đó gọi là), ư văn sẽ khác hẳn. Cách dịch như trong bản dịch mới này (bản Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này) là đúng!

 

 5.6.4.2.2. Trả lời câu hỏi thứ nhất

 5.6.4.2.2.1. Phát tâm

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Thí như bảo Tu Di sơn vương nhiêu ích nhất thiết, thử Bồ Đề tâm lợi chúng sanh cố. Thị danh đệ nhất Bố Thí Ba La Mật nhân.

          ()善男子譬如寶須彌山王饒益一切此菩提心利眾生故是名第一布施波羅蜜因

          (Kinh: Thiện nam tử! Ví như núi chúa Tu Di quư báu lợi ích hết thảy, do Bồ Đề tâm này lợi ích chúng sanh. Đó gọi là cái nhân của môn thứ nhất [trong Bồ Đề tâm] tức Bố Thí Ba La Mật).

 

          Tán rằng. Trả lời câu hỏi thứ nhất, chia thành bốn phần:

          - Một, phát tâm.

          - Hai, tu hành.

          - Ba, địa vị chứng đắc.

          - Bốn, được hộ tŕ, tức là đạt được Đà-la-ni bảo vệ.

          Đoạn này là phần thứ nhất, tức “phát tâm”. Kinh văn nói về phát tâm Thập Độ (Thập Ba La Mật) gồm mười đoạn. Tự tướng của phát tâm khó thể biết rơ; v́ vậy, dùng thí dụ để nói. Trước tiên, phát tâm hành Thí Độ (Bố Thí Ba La Mật), ví như người đến núi báu đều được lợi ích. Kinh văn gồm ba phần:

          - Một là thí dụ.

          - Hai là kết hợp thí dụ với pháp.

          - Ba là kết luận.

          Đối với các Độ khác, đều chuẩn theo [cách phân đoạn] này. Hoặc là có khi không kết hợp với pháp, v́ sự phát tâm này siêu xuất sanh tử, cầu đại Bồ Đề, lại c̣n vượt khỏi Nhị Thừa, thực hành cái tâm lợi tha. Người gặp được [hành nhân này] đều được lợi ích chẳng cùng cực! V́ thế, dùng núi chúa Diệu Cao (núi Tu Di) để thí dụ. Núi ấy vượt khỏi biển cả, cao vượt các núi khác, trân bảo vô tận! Núi có thể tạo lợi ích, do Bồ Đề tâm này lợi lạc chúng sanh, ứng hợp với sự lợi ích ấy [nên dùng núi báu để sánh ví Bồ Đề tâm]. Nhưng Đại Trang Nghiêm Luận nêu thí dụ có khác biệt. Quyển thứ hai của luận ấy viết: “Ví như kho tàng to lớn, Đàn Ba La Mật (Bố Thí Ba La Mật) phát tâm tương ứng cũng như thế, dùng tài vật để châu cấp cũng vô tận”. Luận ấy sử dụng ư nghĩa “chứa đựng và sử dụng vô tận”, c̣n trong kinh này biện định về phát Bồ Đề tâm, đại lược như trong phần trên đă nói.

          Lại nữa, Đại Trang Nghiêm Luận nêu ra mười một câu hỏi như: “Bồ Đề tâm dùng ǵ làm gốc? Y chỉ vào đâu?” [Rồi trả lời lần lượt như sau]:

          - Dùng đại bi làm gốc, dùng lợi ích chúng sanh làm y chỉ.

          - Dùng pháp Đại Thừa làm đối tượng để tin tưởng, dùng Chủng Trí để làm cái duyên theo ḥng cầu điều ấy (Bồ Đề tâm).

          - Dùng thắng dục để làm cái nương vào, v́ mong nguyện vô thượng thừa.

          - Dùng đại hộ (sự che chở to lớn) để trụ, do trụ trong Bồ Tát giới.

          - Dùng tiếp nhận chướng để làm chướng ngại và khó khăn, do khởi tâm theo dị thừa.

          - Dùng tăng ích làm công đức.

          - Dùng phước trí làm tự tánh.   

          - Dùng tu tập các Độ để xuất ly.

          - Dùng viên măn địa vị làm rốt ráo.

          Do siêng năng hành phương tiện nơi mỗi địa tương ứng với từng địa vị ấy. Do xét theo kinh văn về lời giải đáp ở đây, biết là [trong kinh này cũng phải có] mười một câu hỏi. Đoạn này nói về lợi ích chúng sanh, tức là nghĩa thứ hai (“dùng lợi ích chúng sanh làm y chỉ”). Nương theo điều này để tu tập; v́ thế, dùng “lợi lạc chúng sanh” để nương cậy.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Thí như đại địa tŕ chúng vật cố, thị danh đệ nhị Tŕ Giới Ba La Mật nhân.

          ()善男子譬如大地持眾物故是名第二持戒波羅蜜因

          (Kinh: Thiện nam tử! Ví như đại địa duy tŕ các vật. Đó gọi là cái nhân của môn thứ hai, tức Tŕ Giới Ba La Mật).

 

          Ví như đại địa có thể ǵn giữ các vật; do vậy, lấy Giới làm gốc. V́ Giới có thể sanh ra công đức, v́ thế, sánh ví [Giới Ba La Mật] như đất. Do vậy, kinh Di Giáo dạy: “Đương tri thử giới, chư thiện công đức an ổn trụ xứ” (Hăy nên biết giới này là chỗ trụ an ổn của các công đức tốt lành). Do có thể sanh ra các Thiền Định và trí huệ diệt khổ; v́ thế, sánh ví [Giới Ba La Mật] như đất. Đại Trang Nghiêm Luận sánh ví [Giới Ba La Mật] như rương báu, ư nói: Do Giới có thể sanh ra công đức, như lấy các vật từ trong rương. Như trong luận ấy nói: “Do pháp bảo công đức sanh từ đó”. Rương báu lại là chỗ nương nhờ của chất báu, do [chất báu] nương vào rương báu để cất giữ, bảo vệ, khỏi bị mất mát, như nương vào Giới mà các công đức khác tồn tại. Nếu đă phá giới, giống như chặt đứt đầu người, các căn đều xả! Đă phá giới th́ công đức bị diệt. Nói “ǵn giữ các vật” là kết hợp thí dụ với pháp. Hoặc có thể hiểu đó chỉ là thí dụ, c̣n t“thị danh” (đó gọi là) trở đi là phần kết luận, lược đi không kết hợp thí dụ với pháp.

 

          (Kinh) Thí như sư tử hữu đại oai lực, độc bộ vô úy, ly kinh khủng cố. Thị danh đệ tam Nhẫn Nhục Ba La Mật nhân.

          ()譬如師子有大威力獨步無畏離驚恐故是名第三忍辱波羅蜜因

            (Kinh: Ví như sư tử có oai lực lớn, bước đi một ḿnh, chẳng sợ hăi, do đă ĺa kinh sợ. Đó gọi là cái nhân của môn thứ ba, tức Nhẫn Nhục Ba La Mật).

 

          Sánh ví như sư tử. Sư tử có ba đức:

          - Một, có oai lực to lớn.

          - Hai, đi riêng một ḿnh, không sợ hăi.

          - Ba, ĺa kinh sợ.

          [Ở đây, đức Phật] theo thứ tự mà sánh ví. Ví như sư tử đi một ḿnh, chẳng sợ hăi, do [Bồ Tát] phát tâm tu ba món Nhẫn (Âm Hưởng Nhẫn, Nhu Thuận Nhẫn, và Vô Sanh Pháp Nhẫn). Trang Nghiêm Luận sánh ví [Nhẫn Nhục Ba La Mật] như biển cả, dẫu có những kẻ đến chống trái, tâm [Bồ Tát] luôn bất động. Kinh Di Giáo dạy: “Năng hành nhẫn giả, năi khả danh vi hữu lực đại nhân” (Người có thể hành Nhẫn đáng gọi là bậc đại nhân hữu lực). V́ thế, đạt được vô úy. Từ “thị danh” trở đi là kết lại, lược đi không có phần kết hợp thí dụ với pháp.

 

          (Kinh) Thí như phong luân, Na La Diên lực, dũng tráng tốc tật, tâm bất thoái cố. Thị danh đệ tứ Cần Sách Ba La Mật nhân.

          ()譬如風輪那羅延力勇壯速疾心不退故是名第四勤策波羅蜜因

            (Kinh: Ví như phong luân, hoặc sức mạnh của Na La Diên, dũng mănh, khỏe mạnh, nhanh chóng, do tâm bất thoái. Đó gọi là cái nhân của môn thứ tư, tức Cần Sách Ba La Mật).

 

          “Thí như phong luân” (Ví như phong luân): Có hai thí dụ:

          - Một, phong luân là sánh ví mặc giáp tinh tấn, ví như phong luân[10] nhiếp tŕ thế giới.

          - [Hai], Na La Diên (Nārāyaṇa)[11] được phương này dịch là Lực Thắng (力勝), sánh ví lợi lạc thâu nhiếp hai loại tinh tấn (thân tinh tấn và tâm tinh tấn) tốt lành. Trong phần thí dụ thâu nhiếp tinh tấn tốt lành, lại [có các ư nghĩa]: “Vô hạ, vô thoái, vô túc” (chẳng ở dưới, chẳng thoái thất, chẳng đủ). Do mạnh mẽ, nên chẳng tự kém cỏi. Đó là “vô hạ”. Thực hiện nhanh chóng, đó là “vô túc”. Do sức nhiều, nên thực hiện mọi việc chẳng thoái thất. [Đó là “vô thoái”]. Theo thứ tự, sánh ví ba loại tinh tấn “vô hạ, vô túc, vô thoái”. Do thí dụ [trong đoạn này nói về chuyện] thâu nhiếp tinh tấn tốt lành, cho nên Duy Thức Luận nói: “Tức là như kinh nói có thế lực, có siêng năng, có dũng cảm, kiên quyết mạnh mẽ, chẳng bỏ sự kiềm chế tốt lành”. Điều đầu tiên là mặc giáp, bốn điều kia là thâu nhiếp các điều thiện. Hoặc có thể hiểu “tốc tật” (nhanh chóng) là sánh ví tinh tấn nhạy bén, lấy đại bi làm gốc, nhanh chóng siêng tu lợi lạc chúng sanh để giáo hóa họ. Hoặc có thể hiểu đó là tổng tướng [của Tinh Tấn. Ở đây, kinh gọi Tinh Tấn là Cần Sách], chẳng cần phải phối ứng riêng biệt [với một ư nghĩa nào]. Trang Nghiêm Luận sánh ví [Tinh Tấn] như kim cang xử (chày kim cang) dũng mănh, cứng chắc, chẳng thể phá hoại. Xét theo đó, có hai ư nghĩa:

          - Một, dũng mănh ví như thần (tức Chấp Kim Cang Thần).

          - Hai, kim cang ví như xử.

          Hành tinh tấn như kim cang xử cứng chắc, bất hoại. Người có thể hành [tinh tấn] như Chấp Kim Cang Thần dũng mănh, bất thoái, thân kim cang chẳng thể phá hoại.

 

          (Kinh) Thí như thất bảo lâu quán hữu tứ giai đạo, thanh lương chi phong lai xuy, tứ môn thọ an ổn lạc, Tĩnh Lự pháp tạng cầu măn túc cố. Thị danh đệ ngũ Tĩnh Lự Ba La Mật nhân.

          ()譬如七寶樓觀有四階道清涼之風來吹四門受安穩樂靜慮法藏求滿足故是名第五靜慮波羅蜜因

          (Kinh: Ví như lầu, viện bằng bảy báu, lối đi bốn phía có bậc thềm, gió trong mát thổi vào, bốn cửa đều hưởng niềm vui an ổn. Do cầu pháp tạng Tĩnh Lự, được thỏa trọn vẹn. Đó gọi là cái nhân của môn thứ năm, tức Tĩnh Lự Ba La Mật).

 

          Tiếp đó, sánh ví Định, [cũng gồm ba phần]: Trước là thí dụ; kế đó, kết hợp [thí dụ với] pháp; sau cùng là kết lại. Thí dụ gồm có bốn điều:

          - Một, thí dụ về lầu, viện. Tứ Thiền Bát Định có đủ bảy điều tối thắng, giống như bảy báu trang nghiêm. Hơn nữa, các Thiền Định được Thất Thánh Tài[12] trợ giúp, bảy chi giới[13] là nhân. V́ thế, sánh ví với lầu quán bảy báu. Lầu chính là “quán”[14]. Lại nữa, [kiến trúc] hẹp, dài, cong th́ gọi là Lâu (, lầu). Quán có nghĩa là “khuyết” (). “Khuyết” chính là hai cái Khuyết (vọng lâu) nơi cửa cung.

          - Hai, lối đi có bậc thềm ở bốn phía, sánh ví sự phát tâm. Tu các hạnh như Định v.v… có bốn thứ to lớn, như Đại Trang Nghiêm Luận nói: “Bồ Tát phát tâm có bốn thứ to lớn. Một là dũng mănh đại, tức là hoằng thệ tinh tấn, rất sâu, khó thực hiện, do tùy thuận dài lâu. Hai là phương tiện đại, tức là mặc giáp hoằng thệ, do phương tiện tinh tấn luôn siêng ṛng. Ba là lợi ích đại, tức là trong hết thảy các thời, thực hiện tự lợi và lợi tha. Bốn là xuất ly đại, tức là v́ cầu Vô Thượng Bồ Đề”. V́ thế, nương vào bốn điều có thể đạt đến Bồ Đề, ví như thềm bậc ở bốn phía. Hoặc là Vô Tác Tứ Đế, kinh Đại Bát Nhă gọi [“giai đạo”] là “cù lộ” (đường nẻo).

          - Ba, gió trong mát sánh ví [Tĩnh Lự] có thể trừ phiền năo nóng bức.

          - Bốn, [gió mát] thổi vào bốn cửa. Bốn cửa là sánh ví Tứ Quán “Thường, Lạc, Ngă, Tịnh”. Theo các chỗ khác (các kinh luận khác), Định là cái nhân của Lạc đức. Đó là nói theo Thông. Phật khởi tu trọn vẹn bốn cái nhân, sẽ có thể chứng đắc [Tứ Đức], cho nên nói là “thọ an ổn lạc” (hưởng niềm vui an ổn).

          “Tĩnh Lự pháp tạng cầu măn túc cố” (do cầu pháp tạng Tĩnh Lự trọn vẹn): Chỉ là kết hợp thí dụ với pháp xét theo Tổng. Từ “thị danh” trở đi là lời kết: [Do các lẽ ấy], mà sánh ví [Tĩnh Lự như gió mát] thổi vào các cửa. Trang Nghiêm Luận sánh ví [Tĩnh Lự] như núi chúa bất động, bất loạn, tức là sánh ví chung tự tánh, c̣n ở đây (trong kinh này) th́ thí dụ chung về sự sai biệt.

 

          (Kinh) Thí ư nhật luân quang diệu xí thịnh.

          ()譬於日輪光耀熾盛

          (Kinh: Ví như vầng mặt trời tỏa sáng rực rỡ).

 

          Kế đó là thí dụ về cái nhân của sự phát tâm tu Bát Nhă Độ. Kinh văn cũng gồm ba phần là thí dụ, kết hợp thí dụ với pháp, và kết luận. Thí dụ có hai loại:

          - Một, vầng mặt trời sánh ví tự tánh của trí.

          - Hai, ánh sáng rực rỡ, sánh ví tác dụng, lại gồm có hai điều: Một là chiếu sáng, hai là có thể phá tối. Tức là chứng Chân, đoạn Hoặc; [xét theo] Lư th́ bao gồm lợi vật (lợi lạc các chúng sanh), do có thế lực thù thắng. Chính ḿnh đă đạt được [lợi ích ấy], cũng khiến cho người khác đạt được, tức là bao gồm năng lực [lợi lạc] chính ḿnh lẫn người khác.

 

          (Kinh) Thử tâm tốc năng phá diệt sanh tử vô minh ám cố, thị danh đệ lục Trí Huệ Ba La Mật nhân.

          ()此心速能破滅生死無明闇故是名第六智慧波羅蜜因

          (Kinh: Tâm ấy có thể nhanh chóng phá diệt tối tăm sanh tử vô minh. Đó gọi là cái nhân của môn thứ sáu, tức Trí Ba La Mật).

 

          [Đây là phần] kết hợp thí dụ với pháp. Do cái tâm ấy cầu Bát Nhă, tâm được gọi là “nhân”. Hoặc có thể hiểu “tâm” là điều được cầu, “nhân” chính là nguyên do [v́ sao cầu cái tâm ấy]. Do Bát Nhă v.v… có năng lực ấy, cho nên nguyên do v́ sao phát tâm cầu [cái tâm ấy] được gọi là Nhân. Trí và tâm ḥa hợp, hoặc duyên lự, nói chung là Tâm. Có thể phá sanh tử là trừ Khổ Đế. Có thể diệt tối tăm vô minh th́ là Diệt Tập Đế. Cái có thể diệt [Tập và Khổ] chính là Đạo Đế, cái được chứng là Diệt Đế. Đại Trang Nghiêm Luận sánh ví trí như thuốc chữa trị hai thứ bệnh Hoặc Chướng và Trí Chướng, do trí ấy có thể phá [hai thứ chướng ấy]. Do [Hoặc Chướng và Trí Chướng] che lấp lư, chẳng sáng suốt, hai thứ Chướng ấy ví như tối tăm, c̣n trí được sánh ví như mặt trời, v́ Thể của nó là phá tối tăm. Do có thể khiến cho hai trí bị suy tổn, chẳng dấy lên được; cho nên hai thứ chướng được sánh ví như bệnh. V́ thế, trí được ví như thuốc. Từ “thị danh” trở đi là kết lại.

 

          (Kinh) Thí như thương chủ năng linh nhất thiết tâm nguyện măn túc, thử tâm năng độ sanh tử hiểm đạo, hoạch công đức bảo cố. Thị danh đệ thất Phương Tiện Thắng Trí Ba La Mật nhân.

          ()譬如商主能令一切心願滿足此心能度生死險道獲功德寶故是名第七方便勝智波羅蜜因

          (Kinh: Ví như người cầm đầu các thương nhân có thể khiến cho hết thảy tâm nguyện [của các thương nhân] được thỏa măn, cái tâm này có thể vượt qua đường hiểm sanh tử, đạt được của báu công đức. Đó gọi là cái nhân của môn thứ bảy, tức Phương Tiện Thắng Trí Ba La Mật).

 

          Kế tiếp là thí dụ về cái nhân của sự phát tâm tu tập phương tiện thiện xảo. Kinh văn cũng bao gồm ba phần:

          - Một, giống như thương chủ (người cầm đầu các thương nhân) có nhiều phương tiện hay khéo, có hai công năng: Một là biết đường nẻo, hai là dẫn [các thương nhân] tới chỗ có của báu để thỏa măn sự mong cầu.

          - Hai, từ “thử tâm năng độ” (tâm này có thể độ) trở đi, là kết hợp thí dụ với pháp: Do hồi hướng phương tiện và bạt tế phương tiện mà vượt qua đường sanh tử, đạt được của báu công đức đại Bồ Đề, khác với Nhị Thừa tiến hướng tịch diệt. Phần giải thích về tự, tha, và cái nhân v.v… cứ dựa theo phần trước mà suy ra.

          - [Ba], phần kết lại dễ thấy.

 

          (Kinh) Thí như tịnh nguyệt viên măn vô ế, thử tâm năng ư nhất thiết cảnh giới thanh tịnh cụ túc cố. Thị danh đệ bát Nguyện Ba La Mật nhân.

          ()譬如淨月圓滿無翳此心能於一切境界清淨具足故是名第八願波羅蜜因

          (Kinh: Ví như vầng trăng thanh tịnh tṛn đầy, không bị che lấp, cái tâm này có thể trọn đủ thanh tịnh trong hết thảy các cảnh giới. Đó gọi là cái nhân của môn thứ tám tức Nguyện Ba La Mật).

 

          Kế đó, thí dụ về sự phát tâm tu Nguyện [Ba La Mật]. Kinh văn cũng chia thành ba phần:

          - Do nguyện cầu Bồ Đề, nguyện lợi lạc người khác, mà có đại nguyện ấy như vầng trăng viên măn, trừ chướng cho chính ḿnh lẫn người khác. V́ thế nói là “vô ế” (không bị che lấp).

          - Từ “thử tâm năng ư” (tâm này có thể trong…) trở đi là phần kết hợp thí dụ với sự mong cầu. Hai điều lợi (tự lợi và lợi tha) đều phải là ĺa chướng trọn vẹn trong cảnh Chân lẫn Tục th́ mới được trọn đủ. V́ thế nói “nhất thiết cảnh giới thanh tịnh cụ túc” (hết thảy cảnh giới thanh tịnh đầy đủ).

          - Phần kinh văn kết lại dễ biết.

 

          (Kinh) Thí như Chuyển Luân Thánh Vương chủ binh bảo thần tùy ư tự tại, thử tâm thiện năng trang nghiêm tịnh Phật quốc độ, vô lượng công đức quảng lợi quần sanh cố. Thị danh đệ cửu Lực Ba La Mật nhân.

          ()譬如轉輪聖王主兵寶臣隨意自在此心善能莊嚴淨佛國土無量功德廣利群生故是名第九力波羅蜜因

          (Kinh: Ví như chủ binh bảo thần của Chuyển Luân Thánh Vương tùy ư tự tại, tâm này có thể khéo trang nghiêm cơi Phật thanh tịnh, vô lượng công đức rộng lợi ích quần sanh. Đó gọi là cái nhân của môn thứ chín tức Lực Ba La Mật).

         

          Thí dụ về sự phát tâm tu Lực Ba La Mật. Kinh văn chia thành ba phần giống như trên:

          - Trong phần thí dụ, th́ một là thí dụ về Luân Vương, hai là thí dụ về Chủ Binh Thần Bảo. Chuyển Luân Vương là thí dụ chung về phát đại Bồ Đề tâm, [chủ binh] thần là thí dụ riêng về chuyện phát tâm hành Lực [Ba La Mật]. Có hai loại lực: Một là tư trạch lực (sức suy nghĩ chọn lựa), hai là tu tập lực. Như Chủ Binh Thần cần dùng bốn loại binh đều tùy ư tự tại, cũng như tùy thuận ư nhà vua tự tại, giống như [Bồ Tát] tu tập Lực Ba La Mật. Bốn loại binh có hai tác dụng: Một là mở mang bờ cơi, hai là khiến cho chúng sanh an ổn.

          - Từ “thử tâm” (tâm này) trở đi là phần kết hợp thí dụ với pháp. Do Lực Ba La Mật, một là có thể trang nghiêm cơi nước, hai là rộng lợi quần sanh. “Vô lượng công đức” bao gồm cả hai chỗ ấy, [tức là dùng] vô lượng công đức để trang nghiêm cơi nước, và vô lượng công đức dùng để lợi ích chúng sanh rộng răi.

          - Phần kinh văn kết luận dễ thấy.

 

          (Kinh) Thí như hư không cập Chuyển Luân Thánh Vương, thử tâm năng ư nhất thiết cảnh giới vô hữu chướng ngại, ư nhất thiết xứ giai đắc tự tại chí Quán Đảnh vị cố. Thị danh đệ thập Trí Ba La Mật nhân. Thiện nam tử! Thị danh Bồ Tát Ma Ha Tát thập chủng Bồ Đề tâm nhân.

          ()譬如虛空及轉輪聖王此心能於一切境界無有障礙於一切處皆得自在至灌頂位故是名第十智波羅蜜因善男子是名菩薩摩訶薩十種菩提心因

          (Kinh: Ví như hư không và Chuyển Luân Thánh Vương, tâm này có thể chẳng chướng ngại trong hết thảy các cảnh giới, trong hết thảy mọi chỗ đều đạt được tự tại, đạt tới địa vị Quán Đảnh. Đó gọi là cái nhân của môn thứ mười, tức Trí Ba La Mật. Thiện nam tử! Đó gọi là mười loại nhân Bồ Đề tâm của Bồ Tát Ma Ha Tát).

 

          Tiếp đó là thí dụ về phát tâm tu Trí Ba La Mật. Kinh văn gồm ba phần như trong phần trước. Trong phần thí dụ, có hai loại: Một là thí dụ về hư không, hai là thí dụ về Luân Vương. Trí huệ có hai loại:

          - Một là trí thành tựu hữu t́nh, như hư không dung nạp b́nh đẳng, chẳng chọn lựa.

          - Hai là trí thành tựu Phật pháp, như Chuyển Luân Vương tiếp nhận địa vị Quán Đảnh.

          Hơn nữa, hai thứ trí này đều bao gồm hai loại:

          - Một là thanh tịnh như hư không, chứa đựng hết thảy tất cả công đức.

          - Hai là như Chuyển Luân Vương, có thể tiếp nối địa vị Phật, lợi ích hữu t́nh rộng lớn.

          Từ “thử tâm” (tâm này) trở đi là phần kết hợp thí dụ với pháp. “Hết thảy cảnh vô ngại” tương ứng với hư không. Giai đắc tự tại chí Quán Đảnh vị” (Đều được tự tại đạt tới địa vị Quán Đảnh) tương ứng với Chuyển Luân Vương. Phần kinh văn kết lại dễ thấy.

 

          (Kinh) Như thị thập nhân nhữ đương tu học.

          ()如是十因汝當修學

            (Kinh: Mười cái nhân như thế ông nên tu học).

 

          Tiếp đó là tổng kết, khuyên tu.

          Hỏi: Người phát các tâm này thuộc địa vị nào?

          Đáp: Phát tâm có nhiều địa vị. Theo Đại Trang Nghiêm Luận, th́ có hai thứ: Một là thế tục, hai là thắng nghĩa. Thế tục th́ thuộc vào Địa Tiền, c̣n thắng nghĩa thuộc Địa Thượng. Lại nói: “Bồ Tát phát tâm, xét theo các địa vị th́ có bốn thứ sai biệt: Một là tín hạnh phát tâm, tức là Tín Hạnh Địa. Hai là nương vào tịnh mà phát tâm, tức bảy địa vị trước đó. Ba là báo đắc phát tâm, tức là ba địa vị sau. Bốn là vô chướng phát tâm, tức địa vị Như Lai”. Đây là xét theo chỗ tăng tấn trong ba A-tăng-kỳ và địa vị rốt ráo để nói. Thật ra, trong bốn mươi hai địa vị, mỗi địa vị đều phát tâm.

          Kinh Văn Thù Sở Vấn Bồ Đề Tâm lại nói bốn thứ, kinh ấy dạy: “Hữu tứ chủng tâm, năng thành tựu nhân, năng thành tựu quả. Hà đẳng vi tứ? Nhất giả, sơ phát tâm; nhị giả, hạnh phát tâm; tam giả, bất thoái phát tâm; tứ giả, nhất sanh bổ xứ phát tâm” (Có bốn loại tâm có thể thành tựu nhân và có thể thành tựu quả. Những ǵ là bốn? Một là sơ phát tâm. Hai là hạnh phát tâm. Ba là bất thoái phát tâm. Bốn là nhất sanh bổ xứ phát tâm). Luận giải thích rằng: Hai thứ phát tâm đầu tiên đều thuộc Địa Tiền, thứ trước vượt hơn Thanh Văn, thứ sau vượt hơn Bích Chi Phật. Loại phát tâm thứ ba th́ vượt ngoài địa vị bất định, do đă nhập Sơ Địa, đắc chứng trí. Loại phát tâm thứ tư th́ đă khéo đạt tới địa vị Pháp Vương Tử, tức Đệ Thập Địa. Quyển bảy mươi hai của Du Già Sư Địa Luận lại nói có mười loại phát tâm:

          - Một, thế tục phát tâm, thuộc Địa Tiền.

          - Hai, đắc pháp tánh phát tâm, tức là hàng Bồ Tát từ Sơ Địa trở lên và người đắc Nhị Thừa quả hồi tâm [hướng về Đại Thừa].

          - Ba, chẳng quyết định phát tâm, tức chẳng phải là chủng tánh Bồ Tát. Dẫu có tánh Bồ Tát th́ cũng có pháp thoái lui.

          - Bốn, quyết định phát tâm, trái ngược với loại trên.

          - Năm, chẳng thanh tịnh phát tâm, tức là do bị bức bách, do cầu được sống sót v.v… mà phát tâm.

          - Sáu, thanh tịnh phát tâm, trái ngược với loại trên.

          - Bảy, phát tâm yếu kém, tức là đă phát tâm lại bị tham, sân v.v… quấn trói, che lấp, bỏ chánh, hành tà.

          - Tám, mạnh mẽ phát tâm, trái ngược với loại trên.

          - Chín, chưa thành tựu quả mà phát tâm, tức thuộc địa vị tu nhân.

          - Mười, đă thành tựu quả phát tâm, tức là thuộc địa vị Phật.

          Trong mười loại phát tâm như đă nói ở đây, [các loại] chẳng quyết định, chẳng thanh tịnh, và yếu kém, đều có chút phần. Trong ba loại ấy, đều có chứa đựng cái nhân có thể hành, nhưng các loại ấy chỉ có thể dùng tổng tướng để giải thích, thông với ba loại phát tâm được nói trước đó, hoặc là dựa theo một tướng để phối ứng riêng biệt th́ cũng chẳng trở ngại ǵ, nhưng chẳng bằng cách giải thích theo tổng tướng. Chân Đế Tam Tạng đối với cái nhân, thí dụ và pháp của mười loại phát tâm này đều dùng năm nghĩa để giải thích, v́ trong phần kế tiếp, mỗi Độ trong Thập Độ đều có năm hành tướng. Tuy có lư đó, nhưng do chánh kinh không đề cập, cho nên có người sẽ chất vấn cách giải thích bằng năm nghĩa ấy.

          Dựa theo [kinh văn trong] phần sau, mỗi Độ trong Thập Độ đều có năm hạnh, ngài Chân Đế dùng năm môn trong số chín môn của Lục Độ [được nói] trong Du Già Sư Địa Luận để phối ứng [nhằm giải thích ngũ hạnh trong kinh này]:

          - Một là tự tánh.

          - Hai là hết thảy.

          - Ba là khó hành.

          - Bốn là thiện sĩ.

          - Năm là thanh tịnh.

          Ngài thuận theo sự thích ứng mà phối hợp [năm môn trên đây [với năm hạnh], đạo lư cũng khó [thể nói suông sẻ được]. Các kinh luận mỗi mỗi đều nói sai biệt. [Trong các kinh luận như] Tạp Tập, Duy Thức v.v…, đối với sáu Độ đầu tiên [trong Thập Độ] th́ mỗi Độ đều có ba hạnh, c̣n bốn Độ sau th́ mỗi Độ đều có hai hạnh. Đại Trang Nghiêm Luận th́ đối với mỗi Độ trong Lục Độ đều có sáu môn. Kinh Bảo Vân th́ trong mười Độ, mỗi Độ đều có mười môn. [Do vậy, đối với cách giảng giải Thập Độ của ngài Chân Đế, sẽ có người bắt bẻ]: Cớ sao chỉ phối ứng năm môn trong chín môn của Du Già Sư Địa Luận [với năm hành tướng của mỗi Độ thuộc Thập Độ trong kinh Kim Quang Minh này]? V́ thế biết: Hành tướng sai biệt của Thập Độ có vô lượng môn, các kinh luận chỉ nói đại lược một phần để nêu rơ lẫn nhau, nhưng đều chẳng mâu thuẫn. Nhưng thuận theo hành tướng để giải thích th́ cũng được, do ư nghĩa của chín môn ấy (chín môn luận về đặc tánh của mỗi Độ trong Lục Độ như luận Du Già Sư Địa nói) đă thâu nhiếp hết thảy. Nói rộng hơn th́ hăy dựa theo các tướng sai biệt trong Duy Thức Luận hoặc Nhiếp Đại Thừa Luận v.v... để biện định.

 

5.6.4.2.2.2. Tu hành

5.6.4.2.2.2.1. Chỉ ra các hạnh để tu hành trong mỗi Độ

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Y ngũ chủng pháp, Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Bố Thí Ba La Mật. Vân hà vi ngũ? Nhất giả, tín căn. Nhị giả, từ bi. Tam giả, vô cầu dục tâm. Tứ giả, nhiếp thọ nhất thiết chúng sanh. Ngũ giả, nguyện cầu Nhất Thiết Trí trí. Thiện nam tử! Thị danh Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Bố Thí Ba La Mật.

          ()善男子依五種法菩薩摩訶薩成就布施波羅蜜云何為五一者信根二者慈悲三者無求欲心四者攝受一切眾生五者願求一切智智善男子是名菩薩摩訶薩成就布施波羅蜜

          (Kinh: Thiện nam tử! Nương vào năm loại pháp mà Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Bố Thí Ba La Mật. Thế nào là năm? Một là tín căn. Hai là từ bi. Ba là tâm không cầu mong. Bốn là nhiếp thọ hết thảy chúng sanh. Năm là nguyện cầu trí Nhất Thiết Trí. Thiện nam tử! Đó gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Bố Thí Ba La Mật).

 

          Từ đây trở đi chính là ư thứ hai, tức “tu hành” trong lời đáp của đức Phật. Đă phát tâm, kế đó phải nên thuận theo [cái tâm đă phát ấy mà] tu tập. Ở đây, chia thành hai phần:

          - Một là tu hành.

          - Hai là giải thích danh xưng.

          Tu hành Thập Độ gồm mười đoạn. Trong mỗi đoạn, đều chia thành bốn phần:

          - Một là nêu ra.

          - Hai là gạn hỏi.

          - Ba là giải thích.

          - Bốn là kết lại.

          Phân đoạn kinh văn dễ thấy, trong phần sau sẽ không chia thành khoa nữa, chỉ dựa theo kinh văn để giải thích.

          “Nhất giả tín căn” (Một là tín căn): Bồ Đề đă dùng Tín làm căn bản. Hơn nữa, theo Phát Bồ Đề Tâm Kinh Luận, Thí có năm loại:

          - Một, tín tâm thí. Do vậy, thoạt đầu, Tín làm căn bản để hành bố thí.

          - Hai, từ bi. Đă là bậc Bồ Tát có tâm ư lợi sanh, sau tín sẽ là từ bi, dẹp khổ ban vui để hành bố thí.

          - Ba, chẳng mong cầu: Đă cầu Bồ Đề để hành bố thí, chẳng mong cầu [quả báo tốt lành trong] tam hữu (tam giới) và được báo ân v.v… Do vậy, chẳng có tâm cầu mong.

          - Bốn, nhiếp thọ hết thảy chúng sanh: V́ lợi ích chúng sanh mà b́nh đẳng nhiếp thọ hết thảy chúng sanh.

          - Năm, nguyện cầu trí Nhất Thiết Trí: Quay lại nguyện cho ḿnh lẫn người đều cầu Phật Bồ Đề.

          Hơn nữa, tín căn chính là cái Thể của Bồ Đề tâm. Trong bảy thứ tối thắng, Y Chỉ Tối Thắng thâu nhiếp từ bi, tâm không mong cầu là Thanh Tịnh Thắng, nhiếp thọ hết thảy là Ư Nhạo Thắng, nguyện cầu Chủng Trí là Hồi Hướng Thắng. Do Thí đứng đầu, nêu đại lược sự nhiếp thọ [các hành tướng] trong bảy món tối thắng để [người đọc] có thể suy ra: Đối với chín Độ kia, [năm hành tướng trong mỗi Độ] cũng nhiếp thuộc [bảy món] tối thắng th́ mới gọi là Độ.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Phục y ngũ pháp, Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Tŕ Giới Ba La Mật. Vân hà vi ngũ? Nhất giả, tam nghiệp thanh tịnh. Nhị giả, bất vị nhất thiết chúng sanh tác phiền năo nhân duyên. Tam giả, bế chư ác đạo, khai thiện thú môn. Tứ giả, quá ư Thanh Văn, Độc Giác chi địa. Ngũ giả, nhất thiết công đức giai tất măn túc. Thiện nam tử! Thị danh Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Tŕ Giới Ba La Mật.

          ()善男子復依五法菩薩摩訶薩成就持戒波羅蜜云何為五一者三業清淨二者不為一切眾生作煩惱因緣三者閉諸惡道開善趣門四者過於聲聞獨覺之地五者一切功德皆悉滿足善男子是名菩薩摩訶薩成就持戒波羅蜜

          (Kinh: Thiện nam tử! Lại nương theo năm pháp mà Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Tŕ Giới Ba La Mật. Thế nào là năm? Một, ba nghiệp thanh tịnh. Hai, chẳng tạo nhân duyên phiền năo cho hết thảy chúng sanh. Ba, đóng chặt các đường ác, mở cửa thông sang đường lành. Bốn, vượt ngoài địa vị Thanh Văn và Độc Giác. Năm, hết thảy công đức thảy đều trọn đủ. Thiện nam tử! Đó gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Tŕ Giới Ba La Mật).

 

          Giới có ba loại, tức là Luật Nghi Giới, Nhiếp Thiện Pháp Giới, và Nhiêu Ích Hữu T́nh Giới[15]. [Các hành tướng của Giới Ba La Mật là]:

          - Một là ba nghiệp thanh tịnh, đấy chính là tự tánh của tam tụ giới.

          - Hai là chẳng bị hết thảy phiền năo làm nhân, luôn thuận theo thủ hộ người khác. Nhưng theo Thập Địa Luận, Bồ Tát thọ giới với dụng ư đoạn trừ bốn gịng[16] cho chúng sanh, tức là đoạn cái nhân gây nên Hoặc.

          - Ba là đóng cửa đường ác, mở ra đường lành. Thập Địa Luận nói: “Bồ Tát thọ giới v́ trừ nỗi khổ của chúng sanh trong các đường ác”.

          - Bốn là vượt khỏi địa vị Thanh Văn v.v… Đây là ư nghĩa sâu nhất, v́ chẳng giống như Nhị Thừa, do cầu đại Bồ Đề, do chẳng xét theo tiểu quả.

          - Năm là công đức viên măn, do nương vào Giới mà sanh ra Định và Huệ. V́ thế, kinh Di Giáo nói: “Y nhân thử giới, năng sanh chư Thiền Định, cập diệt khổ trí huệ” (Do nương vào giới này, có thể sanh ra các Thiền Định và trí huệ diệt khổ).

          Hơn nữa, hạnh thứ nhất là Nhiếp Luật Nghi Giới, hạnh thứ hai và thứ ba là Nhiêu Ích Hữu T́nh Giới, hạnh thứ tư và thứ năm là Nhiếp Thiện Pháp Giới.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Phục y ngũ pháp, Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Nhẫn Nhục Ba La Mật. Vân hà vi ngũ? Nhất giả, năng phục tham, sân phiền năo. Nhị giả, bất tích thân mạng, bất cầu an lạc, chỉ tức chi tưởng. Tam giả, tư duy văng nghiệp tao khổ năng nhẫn. Tứ giả, phát từ bi tâm, thành tựu chúng sanh chư thiện căn cố. Ngũ giả, vị đắc thậm thâm Vô Sanh Pháp Nhẫn. Thiện nam tử! Thị danh Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Nhẫn Nhục Ba La Mật.

          ()善男子復依五法菩薩摩訶薩成就忍辱波羅蜜云何為五一者能伏貪瞋煩惱二者不惜身命不求安樂止息之想三者思惟往業遭苦能忍四者發慈悲心成就眾生諸善根故五者為得甚深無生法忍善男子是名菩薩摩訶薩成就忍辱波羅蜜

          (Kinh: Thiện nam tử! Lại nương vào năm pháp mà Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Nhẫn Nhục Ba La Mật. Thế nào là năm? Một là có thể chế phục phiền năo tham, sân. Hai là chẳng tiếc thân mạng, chẳng có ư tưởng mong cầu an lạc, nghỉ ngơi. Ba là tư duy do nghiệp quá khứ mà gặp khổ, nên có thể nhẫn. Bốn là phát tâm từ bi, thành tựu các thiện căn cho chúng sanh. Năm là v́ để đạt được Vô Sanh Pháp Nhẫn rất sâu. Thiện nam tử! Đó gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Nhẫn Nhục Ba La Mật).

 

          Nhẫn có ba loại: Một là Nại Oán Hại Nhẫn (chịu đựng kẻ oán thù làm hại), hai là An Thọ Khổ Nhẫn (chịu đựng sự khổ sở), ba là Đế Sát Pháp Nhẫn (b́nh đẳng tiếp nhận các pháp do quán sát các nhân duyên sâu xa). Nói “có thể chế phục phiền năo tham, sân”, tức là Nại Oán Hại Nhẫn. “Do chẳng tiếc thân, mạng” v.v… là An Thọ Khổ Nhẫn. Do lấy Tinh Tấn làm Thể, có thể hành khổ hạnh, chẳng cầu nghỉ ngơi, an ổn. Hạnh thứ ba là suy nghĩ tới [các ác nhân đă gây tạo] xưa kia, nên [hiện thời] bị kẻ khác hại mà chẳng sân, tức là do suy nghĩ nghiệp cũ nên nhẫn thọ [quả báo trong hiện thời], chẳng sân. Lại do từ bi mà hành nhiếp thọ, cho nên nhẫn, chẳng sân. Hai hạnh này chính là cái nhân của Nại Oán Hại Nhẫn. Nhân [của Nhẫn] có năm loại:

          - Một, chỉ nghĩ đến pháp.

          - Hai, nghĩ có khổ.

          - Ba, nghĩ là vô thường.

          - Bốn, nghĩ [tất cả chúng sanh dù oán hay thân đều] là thân thuộc.

          - Năm, nghĩ nhiếp thọ [tất cả chúng sanh].

          Ở đây, chỉ nêu ra cái nhân thứ hai và thứ năm. “V́ pháp rất sâu” là Đế Sát Pháp Nhẫn, dùng huệ làm tánh.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Phục y ngũ pháp, Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Cần Sách Ba La Mật. Vân hà vi ngũ? Nhất giả, dữ chư phiền năo, bất nhạo cộng trụ. Nhị giả, phước đức vị cụ, bất thọ an lạc. Tam giả, ư chư nan hành khổ hạnh chi sự, bất sanh yếm tâm. Tứ giả, dĩ đại từ bi nhiếp thọ lợi ích phương tiện thành thục nhất thiết chúng sanh. Ngũ giả, nguyện cầu bất thoái chuyển địa. Thiện nam tử! Thị danh Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Cần Sách Ba La Mật.

          ()善男子復依五法菩薩摩訶薩成就勤策波羅蜜云何為五一者與諸煩惱不樂共住二者福德未具不受安樂三者於諸難行苦行之事不生厭心四者以大慈悲攝受利益方便成熟一切眾生五者願求不退轉地善男子是名菩薩摩訶薩成就勤策波羅蜜

          (Kinh: Thiện nam tử! Lại nương vào năm pháp mà Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Cần Sách Ba La Mật. Thế nào là năm? Một là chẳng thích ở chung với các phiền năo. Hai là phước đức chưa đủ, sẽ chẳng hưởng an lạc. Ba là đối với các chuyện khổ hạnh khó hành, chẳng sanh tâm chán ngán. Bốn là dùng phương tiện đại từ bi nhiếp thọ lợi ích để thành thục hết thảy chúng sanh. Năm là mong cầu địa vị Bất Thoái Chuyển. Thiện nam tử! Đó gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Cần Sách Ba La Mật).

 

          Trong Tinh Tấn, hạnh thứ nhất là dữ chư phiền năo bất nhạo cộng trụ” (chẳng thích ở chung với các phiền năo). Tinh tấn có ba thứ: Một là mặc giáp, hai là nhiếp thọ điều thiện, ba là lợi lạc hữu t́nh. Ở đây chính là điều thứ nhất, tức “mặc giáp tinh tấn”. Thoạt đầu phát tâm th́ khởi tâm vui thích mạnh mẽ, muốn lật đổ các phiền năo, giống như mặc giáp.

          Hạnh thứ hai, “phước đức vị cụ, bất thọ an lạc” (phước đức chưa đủ th́ chẳng hưởng an lạc): Trong Nhiếp Thiện có bốn loại, tức là gia hạnh, vô hạ, vô thoái, vô túc. Trong vô thoái tinh tấn, khi chưa đạt được, bèn có thể cầu tiến cao hơn, chẳng ngưng nghỉ để hưởng vui sướng.

          Hạnh thứ ba là ư chư nan hành [chi sự] bất sanh yếm tâm” (đối với các chuyện khó thực hiện, chẳng sanh tâm chán ngán) chính là vô túc tinh tấn.

          Hạnh thứ tư là dữ từ bi câu” (ḥa hợp với từ bi), chính là phương tiện nhiếp thọ lợi ích chúng sanh, thành tựu hết thảy, là sự tinh tấn nhằm lợi lạc hữu t́nh.

          Hạnh thứ năm là “nguyện cầu Bất Thoái địa” (nguyện cầu địa vị Bất Thoái), tức là vô hạ tinh tấn trong Nhiếp Thiện, chẳng tự khinh miệt chính ḿnh, có thể cầu địa vị cao hơn.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Phục y ngũ pháp, Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Tĩnh Lự Ba La Mật. Vân hà vi ngũ? Nhất giả, ư chư thiện pháp, nhiếp linh bất tán cố. Nhị giả, thường nguyện giải thoát, bất trước Nhị Biên cố. Tam giả, nguyện đắc thần thông, thành tựu chúng sanh chư thiện căn cố. Tứ giả, vị tịnh pháp giới, quyên trừ tâm cấu cố. Ngũ giả, vị đoạn chúng sanh phiền năo căn bản cố. Thiện nam tử! Thị danh Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Tĩnh Lự Ba La Mật.

          ()善男子復依五法菩薩摩訶薩成就靜慮波羅蜜云何為五一者於諸善法攝令不散故二者常願解脫不著二邊故三者願得神通成就眾生諸善根故四者為淨法界蠲除心垢故五者為斷眾生煩惱根本故善男子是名菩薩摩訶薩成就靜慮波羅蜜

          (Kinh: Thiện nam tử! Lại nương vào năm pháp mà Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Tĩnh Lự Ba La Mật. Thế nào là năm? Một là nhiếp các thiện pháp, khiến cho chúng chẳng tiêu tán. Hai là thường nguyện giải thoát, chẳng chấp trước Nhị Biên. Ba là nguyện đắc thần thông để thành tựu các thiện căn của chúng sanh. Bốn là thanh tịnh pháp giới, trừ bỏ tâm cấu. Năm là v́ đoạn căn bản nơi phiền năo của chúng sanh. Thiện nam tử! Đó gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Tĩnh Lự Ba La Mật).

 

          Trong Tĩnh Lự, cũng có ba thứ: Một là An Trụ Tĩnh Lự, hai là Dẫn Phát Tĩnh Lự, ba là Biện Sự Tĩnh Lự. Ở đây, hạnh thứ nhất là An Trụ, tức nhiếp thọ các thiện phẩm chẳng để tiêu tan. Do trụ trong Định mà khinh an v.v… th́ gọi là An Trụ. “Dẫn phát các công đức thần thông” v.v… th́ gọi là Dẫn Phát. Có thể thực hiện chuyện lợi ích cho chính ḿnh và người khác th́ gọi là Biện Sự.

          Hạnh thứ hai là “thường nguyện giải thoát”. “Giải thoát” chính là Bát Giải Thoát[17]. Có thể chẳng trụ vào bên Có và bên Không (tức là “chẳng chấp trước Nhị Biên”), sẽ dẫn khởi sự giải thoát.

          Hạnh thứ ba là “nguyện đắc thần thông”, tức sáu món thần thông. Do hiện thần thông mà khiến cho các chúng sanh xả tà, quy chánh, tu tập các thiện căn. Hai hạnh này chính là Dẫn Phát Tĩnh Lự.

          Hạnh thứ tư là “tịnh pháp giới, trừ tâm cấu”: Tâm gồm hai loại là Năng Duyên Lự Tâm và Đệ Nhất Nghĩa Tâm. Thanh tịnh pháp giới chính là Đệ Nhất Nghĩa Tâm. Nương vào Định có thể trừ hai thứ tâm cấu; đó là tự lợi.

          Hạnh thứ năm là “đoạn căn bản phiền năo của chúng sanh”, đấy chính là lợi tha.

          Hai loại sau này chính là Biện Sự Tĩnh Lự, có thể thực hiện chuyện lợi ích cho chính ḿnh và người khác, không chỉ duyên theo sự mà gọi là “biện sự”. “Sự” chính là các nghiệp dụng của sự nghiệp. Các chỗ (trong các kinh luận) nói “biến đại địa thành vàng” v.v… chính là “biện sự”, tức là ước theo chuyện lợi ích bên ngoài để nói!

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Phục y ngũ pháp, Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Trí Huệ Ba La Mật. Vân hà vi ngũ? Nhất giả, thường ư nhất thiết chư Phật, Bồ Tát, cập minh trí giả, cúng dường, thân cận, bất sanh yếm bối. Nhị giả, chư Phật Như Lai thuyết thậm thâm pháp, tâm thường nhạo văn, vô hữu yếm túc. Tam giả, Chân Tục thắng trí, nhạo thiện phân biệt. Tứ giả, Kiến Tu phiền năo hàm tốc đoạn trừ. Ngũ giả, thế gian kỹ thuật, NMinh chi pháp, giai tất thông đạt. Thiện nam tử! Thị danh Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Trí Huệ Ba La Mật.

          ()善男子復依五法菩薩摩訶薩成就智慧波羅蜜云何為五一者常於一切諸佛菩薩及明智者供養親近不生厭背二者諸佛如來說甚深法心常樂聞無有厭足三者真俗勝智樂善分別四者見修煩惱咸速斷除五者世間技術五明之法皆悉通達善男子是名菩薩摩訶薩成就智慧波羅蜜

            (Kinh: Thiện nam tử! Lại nương vào năm pháp mà Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Trí Huệ Ba La Mật. Thế nào là năm? Một là thường ở nơi hết thảy chư Phật, Bồ Tát, và người trí sáng, cúng dường, thân cận, chẳng sanh chán ngán, chống trái. Hai là đối với pháp rất sâu do chư Phật Như Lai đă nói, tâm thường thích nghe, chẳng hề chán đủ. Ba là đối với trí thù thắng dù Chân hay Tục, đều thích khéo phân biệt. Bốn là đối với Kiến Tu phiền năo, đều nhanh chóng đoạn trừ. Năm là đối với kỹ thuật trong thế gian và pháp NMinh, thảy đều thông đạt. Thiện nam tử! Đó gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Trí Huệ Ba La Mật).

 

          Trí cũng có ba loại là Gia Hạnh Trí, Căn Bản Trí, và Hậu Đắc Trí. Trong năm hạnh, hai hạnh đầu thuộc về Gia Hạnh Trí. Đối với thiện hữu, tu tập mười thứ cúng dường và nguyện thường tùy thuận, gọi là “thân cận nhất thiết chư Phật, Bồ Tát, thiện hữu, giai nguyện cầu, cúng dường, thân cận, vô hướng bối tâm” (thân cận hết thảy chư Phật, Bồ Tát, bạn lành, đều nguyện cầu, cúng dường, thân cận, chẳng có tâm hướng về, hay chống trái) như trong phần trước đă nói về sự cúng dường. Hạnh thứ hai là thường thích nghe pháp, tâm chẳng chán đủ, hăy nên nói “chư Phật vốn cầu pháp duyên”. Hai hạnh trên đây đều thuộc về Gia Hạnh Trí. Hạnh thứ ba và thứ năm là Hậu Đắc Trí, có thể ưa thích biết rơ hai cảnh Chân và Tục. Hạnh thứ tư là đoạn Kiến Tu phiền năo, tức là Căn Bản Trí. Kỹ thuật thế gian tức là sáu mươi bốn loại kỹ năng. Pháp Ngũ Minh chính là Nội Minh, Nhân Minh, Thanh Minh, Y Phương Minh, và Công Xảo Minh, nói cặn kẽ th́ như trong quyển ba mươi tám của Du Già Sư Địa Luận.

          Hỏi: Nội Minh Xứ th́ có phải chỉ là trong Phật giáo mới gọi là Nội Minh Xứ hay không?

          Đáp: Ngoại đạo cũng có, chỉ cần nói nhân quả thuộc nội thân th́ gọi là Nội Minh Xứ.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Phục y ngũ pháp, Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Phương Tiện Ba La Mật. Vân hà vi ngũ? Nhất giả, ư nhất thiết chúng sanh ư nhạo, phiền năo, tâm hạnh sai biệt, tất giai thông đạt. Nhị giả, vô lượng chư pháp đối trị chi môn, tâm giai hiểu liễu. Tam giả, đại từ bi định xuất nhập tự tại. Tứ giả, ư chư Ba La Mật Đa, giai nguyện tu hành, thành thục măn túc. Ngũ giả, nhất thiết Phật pháp giai nguyện liễu đạt, nhiếp thọ vô di. Thiện nam tử! Thị danh Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Phương Tiện Thắng Trí Ba La Mật. Thiện nam tử! Phục y ngũ pháp, Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Nguyện Ba La Mật. Vân hà vi ngũ? Nhất giả, ư nhất thiết pháp, tùng bổn dĩ lai, bất sanh, bất diệt, phi hữu, phi vô, tâm đắc an trụ. Nhị giả, quán nhất thiết pháp tối diệu lư thú, ly cấu thanh tịnh, tâm đắc an trụ. Tam giả, quá nhất thiết tướng, tâm bổn Chân Như vô tác, vô hành, bất dị, bất động, tâm đắc an trụ. Tứ giả, vị dục lợi ích chư chúng sanh sự, ư Tục Đế trung, tâm đắc an trụ. Ngũ giả, ư Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na, đồng thời vận hành, tâm đắc an trụ. Thiện nam tử! Thị danh Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Nguyện Ba La Mật. Thiện nam tử! Phục y ngũ pháp, Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Lực Ba La Mật. Vân hà vi ngũ? Nhất giả, dĩ chánh trí lực năng liễu nhất thiết chúng sanh tâm hạnh thiện ác. Nhị giả, năng linh nhất thiết chúng sanh nhập ư thậm thâm vi diệu chi pháp. Tam giả, nhất thiết chúng sanh luân hồi sanh tử, tùy kỳ duyên nghiệp, như thật liễu tri. Tứ giả, ư chư chúng sanh tam chủng căn tánh, dĩ chánh trí lực năng phân biệt tri. Ngũ giả, ư chư chúng sanh, như lư vị thuyết, linh chủng thiện căn, thành thục độ thoát, giai thị trí lực cố. Thiện nam tử! Thị danh Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Lực Ba La Mật. Thiện nam tử! Phục y ngũ pháp, Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Trí Ba La Mật. Vân hà vi ngũ? Nhất giả, năng ư chư pháp, phân biệt thiện ác. Nhị giả, ư hắc bạch pháp, viễn ly, nhiếp thọ. Tam giả, năng ư sanh tử, Niết Bàn, bất yếm, bất hỷ. Tứ giả, cụ phước trí hạnh, chí cứu cánh xứ. Ngũ giả, thọ thắng Quán Đảnh, năng đắc chư Phật bất cộng pháp đẳng, cập Nhất Thiết Trí trí. Thiện nam tử! Thị danh Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Trí Ba La Mật.

            ()善男子復依五法菩薩摩訶薩成就方便波羅蜜云何為五一者於一切眾生意樂煩惱心行差別悉皆通達二者無量諸法對治之門心皆曉了三者大慈悲定出入自在四者於諸波羅蜜多皆願修行成熟滿足五者一切佛法皆願了達攝受無遺善男子是名菩薩摩訶薩成就方便勝智波羅蜜善男子復依五法菩薩摩訶薩成就願波羅蜜云何為五一者於一切法從本以來不生不滅非有非無心得安住二者觀一切法最妙理趣離垢清淨心得安住三者過一切相心本真如無作無行不異不動心得安住四者為欲利益諸眾生事於俗諦中心得安住五者於奢摩他毘鉢舍那同時運行心得安住男子是名菩薩摩訶薩成就願波羅蜜善男子復依五法菩薩摩訶薩成就力波羅蜜云何為五一者以正智力能了一切眾生心行善惡二者能令一切眾生入於甚深微妙之法三者一切眾生輪迴生死隨其緣業如實了知四者於諸眾生三種根性以正智力能分別知五者於諸眾生如理為說令種善根成熟度脫皆是智力故善男子是名菩薩摩訶薩成就力波羅蜜善男子復依五法菩薩摩訶薩成就智波羅蜜云何為五一者能於諸法分別善惡二者於黑白法遠離攝受三者能於生死涅槃不厭不喜四者具福智行至究竟處五者受勝灌頂能得諸佛不共法等及一切智智善男子是名菩薩摩訶薩成就智波羅蜜

          (Kinh: Thiện nam tử! Lại nương vào năm pháp mà Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Phương Tiện Ba La Mật. Thế nào là năm?Một là đối với ư thích, phiền năo, tâm hạnh sai biệt của hết thảy chúng sanh, thảy đều thông đạt. Hai là đối với các môn đối trị trong vô lượng các pháp, tâm đều hiểu rơ. Ba là tự tại xuất nhập đại từ bi định. Bốn là đối với các Ba La Mật Đa, đều nguyện tu hành, thành thục trọn vẹn. Năm là đối với hết thảy Phật pháp, đều nguyện liễu đạt, nhiếp thọ chẳng sót. Thiện nam tử! Đó gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Phương Tiện Thắng Trí Ba La Mật. Thiện nam tử! Lại nương vào năm pháp mà Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Nguyện Ba La Mật. Thế nào là năm? Một là đối với hết thảy các pháp, vốn sẵn xưa nay chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng có, chẳng không, tâm được an trụ. Hai là quán lư thú mầu nhiệm nhất của hết thảy các pháp ly cấu thanh tịnh, tâm được an trụ. Ba là cội nguồn của cái tâm là Chân Như vượt ngoài hết thảy các tướng, vô tác, vô hành, chẳng khác, chẳng động, tâm được an trụ. Bốn là v́ muốn tạo chuyện lợi ích cho các chúng sanh mà tâm được an trụ trong Tục Đế. Năm là đồng thời vận dụng Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xá-na, tâm được an trụ. Thiện nam tử! Đó gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Nguyện Ba La Mật. Thiện nam tử! Lại nương vào năm pháp mà Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Lực Ba La Mật. Thế nào là năm? Một là do sức chánh trí có thể biết rơ tâm hạnh thiện hay ác của hết thảy chúng sanh. Hai là có thể khiến cho hết thảy chúng sanh nhập pháp vi diệu rất sâu. Ba là đối với hết thảy chúng sanh luân hồi sanh tử tùy theo duyên nghiệp, đều như thật biết rơ. Bốn là đối với ba loại căn tánh của các chúng sanh, do sức chánh trí đều có thể phân biệt mà biết. Năm là v́ các chúng sanh mà nói đúng lư, khiến cho họ gieo thiện căn, thành thục độ thoát, đều do trí lực này vậy. Thiện nam tử! Đó gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Lực Ba La Mật. Thiện nam tử! Lại nương theo năm pháp mà Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Trí Ba La Mật. Thế nào là năm? Một là có thể đối với các pháp, phân biệt thiện ác. Hai là đối với pháp đen hoặc trắng, bèn xa ĺa hay nhiếp thọ. Ba là có thể đối với sanh tử và Niết Bàn, chẳng chán ngán, chẳng ưa thích. Bốn là đầy đủ hạnh phước trí, đạt tới chỗ rốt ráo. Năm là được quán đảnh thù thắng, có thể đạt được pháp bất cộng v.v… của chư Phật và trí Nhất Thiết Trí. Thiện nam tử! Đó gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu Trí Ba La Mật).

 

          Đối với bốn Độ như Phương Tiện v.v…, quyển bốn mươi chín của Du Già Sư Địa Luận nói: “Như trong phần trước đă nói mười hai hành tướng phương tiện thiện xảo, hăy nên biết đó gọi là Phương Tiện Thiện Xảo (Phương Tiện Độ). Như trong phần trước đă nói, năm loại đại nguyện được gọi là Nguyện (Nguyện Ba La Mật). Tất cả mười lực và gia hạnh gọi là Lực [Ba La Mật]. Đối với hết thảy các pháp, như thật mà an lập thanh tịnh diệu trí th́ gọi là Trí [Ba La Mật]”.

          Hỏi: Độ thứ mười (Trí Ba La Mật) và Độ thứ sáu (Bát Nhă Ba La Mật) có ǵ khác biệt?

          Đáp: Chính là như trong luận ấy nói: “Có thể giữ lấy nghĩa thù thắng, vô phân biệt, chuyển thành diệu huệ thanh tịnh, th́ gọi là Huệ. Có thể giữ lấy thế tục có phân biệt, chuyển thành diệu trí thanh tịnh, th́ gọi là Trí”. [Do vậy], có hai danh xưng sai biệt.

          “Mười hai phương tiện thiện xảo”: [Du Già Sư Địa Luận] quyển bốn mươi lăm nói: “Hăy nên biết phương tiện thiện xảo nói đại lược th́ có mười hai loại. Dựa theo sự tu chứng hết thảy Phật pháp bên trong th́ có sáu loại. Xét theo sự thành tựu hết thảy hữu t́nh bên ngoài th́ cũng có sáu loại. Sáu loại dựa theo sự tu chứng bên trong: Một là đối với hữu t́nh, bi tâm quan hoài, yêu mến. Hai là như thật biết trọn khắp các hạnh. Ba là tâm ưa thích Bồ Đề sâu xa. Bốn là quan tâm, yêu mến hữu t́nh, chẳng xả sanh tử. Năm là biết trọn khắp các hạnh luân hồi mà chẳng nhiễm. Sáu là vui thích Phật trí, hăm hở tinh tấn. Đó gọi là sáu thứ thiện xảo xét theo sự nội tu”. Ư nói: Những điều ấy là tự lợi.

          “Dựa theo hữu t́nh bên ngoài mà tu sáu thứ thiện xảo: Một khiến cho kẻ tu đôi chút điều thiện, sẽ cảm vời [quả báo] vô lượng, cho đến đối với điều thiện nhỏ nhặt đều dạy tu hồi hướng. Hai là khiến cho một chút công sức mà đạt được đại Bồ Đề, có thể khiến cho họ xả tà, tu tùy hỷ v.v… Ba là khiến cho kẻ ghét bỏ, trái nghịch thánh giáo sẽ trừ khử khuể năo. Bốn là khiến cho kẻ trụ trong ấy sẽ tiến nhập. Năm là khiến cho người đă tiến nhập sẽ thành tựu. Sáu là khiến cho người đă thành tựu sẽ được giải thoát. Sau khi đă thành tựu bốn loại sau trong sáu loại thiện xảo thuộc phần sau (sáu món nương theo hữu t́nh bên ngoài), lại tu sáu thứ phương tiện thiện xảo: Một là tùy thuận hội thông, tức là dung hội sự mâu thuẫn giữa các giáo. Hai là cộng lập yếu khế (cùng lập các điều kiện để khế nhập), tức là trước hết khiến cho họ đoạn ác, tu thiện, phương tiện lợi ích v.v… Ba là dị phần ư nhạo, tức là thấy các thứ bất thiện v.v…, các thứ hiện tướng chống trái, hay thuận tùng v.v… tâm đều chẳng nhiễm mà khiến cho họ sửa đổi. Bốn là khiến cho kẻ do bị [t́nh thế] bức bách phải ở trong địa vị tôn quư, thù thắng sẽ tu thiện. Năm là thi ân, báo ân, tức là đối với người có ân bèn muốn báo đền, nhưng khiến cho họ tu thiện để báo ân rộng lớn. Sáu là rốt ráo thanh tịnh, tức là hiện tám tướng ḥng lợi ích chúng sanh rốt ráo…”

          Nói cặn kẽ th́ như luận ấy đă giải thích. Do nguyện hạnh khác nhau, có khi nói một nguyện, tức là sơ phát tâm nguyện “độ hữu t́nh cùng cầu Phật quả”. Phát Bồ Đề Tâm Luận viết: “Do đại nguyện này, dẫn đến sanh khởi mười đại nguyện”. Như Duy Thức Luận v.v… nói có hai nguyện: Một là nguyện cầu Bồ Đề, hai là nguyện lợi lạc người khác. Các chỗ (các kinh luận) đều nói chung là có Tứ Hoằng Nguyện, tức là “khiến cho kẻ chưa được độ sẽ được độ” v.v… Quyển bốn mươi lăm của Du Già Sư Địa Luận nói có năm đại nguyện: Một là nguyện phát tâm, hai là thọ sanh, ba là sở hành, bốn là chánh nguyện, năm là đại nguyện. Nơi Vô Thượng Giác, sơ phát tâm cầu [đạt được] th́ gọi là “phát tâm nguyện”. Kế đó, v́ lợi ích chúng sanh mà nguyện cho họ sanh vào đường lành th́ gọi là “thọ sanh nguyện”. Nguyện tu thiện pháp th́ gọi là “sở hành nguyện”. Nguyện sẽ nhiếp thọ hết thảy công đức th́ gọi là “chánh nguyện”. Nói chánh nguyện ấy sanh ra đại nguyện. “Đại nguyện” chính là mười thứ đại nguyện:

          - Một, nguyện vui thích dùng hết thảy các thứ vật cúng thượng diệu để cúng dường chư Phật.

          - Hai, nguyện nhiếp thủ, hộ tŕ chánh pháp của chư Phật.

          - Ba, nguyện thường theo hầu [đức Phật] từ [khi Ngài hiện thân làm Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát trong tầng] trời Tri Túc (Đâu Suất) cho đến khi Ngài nhập Niết Bàn.

          - Bốn, nguyện hành chánh hạnh của hết thảy các Bồ Tát.

          - Năm, nguyện thành tựu trọn khắp hết thảy các hữu t́nh.

          - Sáu, nguyện đến các thế giới của hết thảy chư Phật.

          - Bảy, nguyện có thể thanh tịnh trọn khắp hết thảy các cơi Phật.

          - Tám, nguyện có ư thích và gia hạnh giống như vị Bồ Tát tiến nhập Đại Thừa.

          - Chín, nguyện hết thảy các việc lợi sanh chẳng điên đảo đều không luống uổng.

          - Mười, nguyện mau thành Vô Thượng Bồ Đề.

          Phát Bồ Đề Tâm Kinh Luận và Đại Trang Nghiêm Luận đều nói mười nguyện, đại lược tương đồng, sai khác đôi chút. Mười nguyện được nói trong kinh Bảo Vân th́ có nhiều điểm khác biệt. Đối với Lực và Trí cũng thế, các thuyết ít nhiều đều có chỗ bất đồng, do rườm rà chẳng dẫn trọn! Chỉ dựa theo Nhiếp Luận và Duy Thức Luận để giải thích theo tổng tướng.

          Điều thứ ba là thuận theo lời gạn hỏi mà liệt kê năm ư, tức năm đoạn, do dễ thấy nên không nêu ra khoa mục. Trong năm hạnh thuộc Phương Tiện [Ba La Mật], ba hạnh đầu thuộc về Bạt Tế Phương Tiện (phương tiện cứu vớt chúng sanh), hai hạnh sau thuộc Hồi Hướng Phương Tiện. “Ư nhạo, phiền năo, tâm hạnh sai biệt”: Để cứu vớt chúng sanh, cần phải biết ư thích và tâm phiền năo, hạnh tham, sân, si [của họ]. Tám vạn bốn ngàn các môn trần lao tất cả sai biệt chính là cái bị đối trị. “Chư đối trị môn tâm giai hiểu liễu” (Đều hiểu rơ các tâm thuộc đối trị môn): Để đối trị, trừ khử, cần phải biết cách trừ khử. Tám vạn bốn ngàn các môn công đức chính là cái có thể đối trị [các trần lao]. “Đại từ bi định xuất nhập tự tại”: Đă biết cách trừ khử, hăy nên vào các đường để thực hiện giáo hóa, lợi ích. Nương theo đại từ bi, khiến cho đối với các môn Định đều xuất nhập tự tại, hiện đại thần thông. Các Ba La Mật đều nguyện tu hành, do hồi hướng Bồ Đề. Phương tiện tu các Ba La Mật, nguyện đều nhiếp thọ trọn vẹn hết thảy Phật pháp. Nguyện đều chứng đắc, liễu đạt, nhiếp thọ Trí Đức, Ân Đức và Đoạn Đức của Bồ Đề và Niết Bàn. Đấy chính là ư nghĩa “có thể chứng”.

          Trong phần liệt kê năm hạnh của Nguyện Ba La Mật, ba hạnh đầu là nguyện cầu Bồ Đề, hai hạnh sau là nguyện lợi lạc người khác. Ba hạnh đầu tức là quán tam thân. Nguyện trụ trong phép Quán thứ nhất là quán hết thảy các pháp. Tuy là tổng quán, nhưng cũng là quán hết thảy các pháp thuộc tám tướng chẳng sanh diệt v.v… “Ĺa chấp an trụ”: Tuy gọi là Quán Trụ, nhưng chính là dục nguyện (mong cầu). Như kinh Bát Nhă hỏi: “Ưng vân hà trụ?” (nên trụ như thế nào?) Quán hết thảy các pháp v.v… bao gồm năng quán (chủ thể thực hiện quán tưởng, cái tâm quán) và sở quán (pháp được quán). Trí của Báo Phật (Báo Thân Phật) quán hết thảy các pháp, [liễu đạt] lư thú Chân Đế tối diệu nơi Tục Đế ly cấu thanh tịnh, tức là cái trí “năng quán” ĺa hai chướng, tâm được an trụ nơi Nhị Đế (Chân Đế và Tục Đế).

          “Đắc”“chứng”, tức Tứ Trí của Báo Thân. Nay nói Bồ Tát cũng nguyện ưa thích trụ trong trí “có thể quán phiền cấu là thanh tịnh” của Phật. “Quá nhất thiết tướng” (vượt ngoài hết thảy các tướng) v.v… là mong đắc Pháp Thân. Nói “tâm được an trụ” th́ cái Thể [của cái tâm ấy] chính là dục lạc (ưa thích, mong muốn). Quán Pháp Thân vượt ngoài hết thảy các tướng chính là cái gốc của tâm. Cái gốc của tâm chính là Chân Như. “Vô tác”: Chẳng do phiền năo tạo tác. “Vô hành”: Do Như (Chân Như) ĺa ngoài ba đời. “Vô dị”: Chẳng có tướng trước sau khác biệt. “Bất động”: Chẳng dời đổi, diệt mất. Quán Pháp Thân ĺa bốn tướng ấy (tức là Pháp Thân vô tác, vô hành, vô dị, bất động); v́ thế, nguyện ưa thích trụ, bèn nói “tâm được an trụ”.

          “Vị dục lợi ích” (v́ muốn lợi ích) v.v… là nói theo Tục Đế, tức là thuận theo căn cơ, bẩm tánh [của chúng sanh được hóa độ], mà có thể diễn nói giáo pháp v.v… V́ để thực hiện chuyện lợi tha, cần phải hiểu rơ giáo pháp để nói và căn tánh của chúng sanh; đấy chính là Tục Đế. [Bởi thế], cái tâm mong muốn, ưa thích an trụ trong ấy. Đối với Xa-ma-tha v.v… v́ muốn lợi sanh, phải nương vào Chỉ Quán để biết rơ [các pháp] như huyễn, ḥng “ly chư quá” (ĺa các lỗi) v.v… Do vậy, cần phải cùng hành [Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xá-na]. Xa-ma-tha (Śamatha) được phương này dịch là Chỉ. Tỳ-bát-xá-na (Vipassanā) được phương này dịch là Quán. Dấy lên sự mong muốn, ưa thích, bèn nói là “tâm được an trụ”.

          Lực có năm hạnh, Du Già Sư Địa Luận nói: “Lực chính là Thập Lực”. Trong ấy, hạnh thứ nhất chính là Nghiệp Dị Thục Trí Lực (trí lực biết rơ quả của nghiệp sẽ chín muồi khác với nhân) và Biến Thú Hành Trí Lực (trí lực biết trọn khắp chúng sanh do nghiệp quả sẽ sanh vào đường nào). “Thiện ác” tức là nghiệp thiện và bất thiện. “Tâm hạnh” chính là Biến Thú[18]. “Chánh trí” chính là ĺa hạnh tăng thượng mạn. Trí có thể trọn khắp Thật, do biết rơ hết thảy các nghiệp và chỗ sẽ tiến đến của các ư thú, sẽ có thể khiến cho [người được hóa độ] nhập pháp sâu mầu. Đó là Lậu Tận Trí Lực. Biết lậu là tận hay chẳng tận, do chứng đắc vô vi, sẽ có thể khiến cho [người được hóa độ] nhập pháp sâu mầu. [Biết rơ] chúng sanh luân hồi là Sanh Tử Sanh Trí Lực (trí lực biết sự sống chết của chúng sanh). Nếu biết sự luân hồi trong quá khứ, th́ cũng bao gồm Túc Trụ Trí Lực (trí lực biết rơ sự thọ sanh trong các đời trước), thuận theo [nghiệp đă tạo là] thiện hay ác mà như thật biết rơ sanh tử luân hồi. “Tam chủng căn tánh chánh phân biệt tri” (phân biệt biết chánh đáng ba loại căn tánh): “Căn” tức là Căn Thắng Liệt Trí Lực (trí lực biết căn tánh của chúng sanh là mạnh mẽ hay kém cỏi). “Tánh” tức là Chủng Chủng Tánh Trí Lực (trí lực biết các thứ tánh). Hạnh thứ năm là “như lư vị thuyết thành tựu độ thoát” (đúng như lư mà v́ chúng sanh thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu, được giải thoát): Bao gồm Xứ Phi Xứ Trí Lực (trí lực biết rơ nhân quả tương ứng khít khao), Tĩnh Lự Đẳng Trí Lực, và Thắng Giải Trí Lực. Có thể tu tập các lực ấy, có thể hiểu rơ sức tư duy, chọn lựa của các lực ấy.

          Trong ngũ trí [của Trí Ba La Mật], ba trí đầu nhằm thành thục hữu t́nh, một trí sau cùng nhằm thành tựu Phật pháp. Trí thứ nhất là v́ chúng sanh mà phân biệt thiện ác. Trí thứ hai có thể khiến cho chúng sanh xa ĺa hắc pháp, nhiếp thọ bạch pháp. Trí thứ ba là v́ lợi ích hữu t́nh mà chẳng chán sanh tử, chẳng yêu thích Niết Bàn. Trí thứ tư là hạnh phước trí để có thể đạt tới chỗ rốt ráo là Đại Niết Bàn. Trí thứ năm là nơi Đệ Thập Địa, thọ Quán Đảnh thù thắng, đạt được các pháp bất cộng nơi Bồ Đề của Phật, tức Căn Bản Trí và Hậu Đắc Trí.

          Đối với Thập Độ ở đây, [các vị Bồ Tát thuộc] Địa Tiền và Địa Hậu đều tùy phần mà tu, nhưng các địa vị thuộc Thập Địa đều được nói ở mức độ cao hơn!

 

5.6.4.2.2.2.2. Giải thích các Độ

 

          Đối với Thập Ba La Mật Đa, dùng năm môn phân biệt [để biện định]:

          - Một, giải thích danh xưng.

          - Hai, biện định cái Thể.

          - Ba, phế lập.

          - Bốn, giải thích tướng trạng.

          - Năm, các môn.

 

5.6.4.2.2.2.2.1. Giải thích danh xưng

 

          Phần thứ nhất là giải thích danh xưng [của các Ba La Mật]. Trước hết là giải thích danh xưng chung; sau đó, giải thích danh xưng riêng của từng Độ.

 

5.6.4.2.2.2.2.1.1. Giải thích danh xưng chung (Ba La Mật)

 

           [Thập Độ trong] tiếng Phạn là Thỉ Ca Ba La Mật Đa. Thỉ Ca (Daśa) là mười. Ba La (Pāra) là “bỉ ngạn” (bờ bên kia). Mật Đa (Mitā) là “ĺa”, cũng có nghĩa là “đến”. Nói chung, [Thập Ba La Mật Đa] là mười điều “nhằm ĺa khỏi [bờ này sanh tử], đạt đến bờ kia [giải thoát]”. “Mười” là con số.

          “Bờ kia” cũng có năm thứ: Một là Sở Tri, hai là giáo, ba là lư, bốn là hạnh, năm là quả. Do mười hạnh này, có thể biết hết thảy các cảnh Không và Hữu đều tận, có thể hiểu cùng tận hết thảy các giáo thuộc Ngũ Minh, có thể thấu đạt cùng tận hết thảy các lư thuộc Chân và Tục, có thể tu cùng tận hết thảy các hạnh phước huệ, có thể chứng trọn vẹn quả Bồ Đề, bèn gọi là “bờ kia”. Bồ Đề đoạn (các tác dụng đoạn trừ của Bồ Đề) đều gọi là Bồ Đề, do Bồ Đề và Niết Bàn đều được gọi là Bồ Đề. Trong năm thứ ấy (năm thứ “bờ kia”), có thứ thuộc tiểu pháp, chẳng cùng tận, cho nên chẳng được gọi là “đáo bỉ ngạn” (đến được bờ bên kia). “Ly” là viễn ly (xa ĺa). Do mười hạnh này mà có thể ĺa pháp Ngũ Uẩn sanh tử, có thể đạt đến, hiểu rơ năm loại bờ kia, th́ gọi là Thập Ba La Mật Đa. Kinh Đại Bát Nhă giải thích như thế là cách giải thích theo lối Đới Số (tức cách giải thích kèm theo một con số, như Nhất Chân, tứ pháp giới v.v...)

          Nếu theo cách giải thích của Vô Tánh Luận, trong các thế gian, các thiện căn như Thí, Giới v.v… của Thanh Văn và Độc Giác thù thắng nhất, có thể đạt tới bờ kia. V́ thế, gọi chung là Ba La Mật Đa. Nếu xét theo “cái có thể đạt đến” và “cái được đạt đến” của chính ḿnh để giải thích, Nhiếp Luận loại trừ các hạng người khác [ngoài Bồ Tát], v́ các hạng người như Nhị Thừa v.v… đều chẳng thể tu chứng năm loại [“bờ kia”]. Đại Trang Nghiêm Luận dùng bốn nghĩa để giải thích, kinh Giải Thâm Mật và quyển bảy mươi tám của Du Già Sư Địa Luận dùng năm nghĩa để giải thích. Quyển thứ mười một của Tạp Tập Luận dùng mười hai nghĩa để giải thích, c̣n kinh này dùng mười bảy nghĩa [để giải thích Ba La Mật] như phần chánh kinh sẽ nói theo thứ tự.

 

5.6.4.2.2.2.2.1.2. Giải thích tên riêng của từng môn Ba La Mật

 

          Giải thích tên riêng của [từng môn Ba La Mật Đa] th́ Nhiếp Luận nói: “Lại có thể phá nát keo kiệt, bần cùng, và có thể dẫn khởi đạt được tư lương phước đức, địa vị, tiền của rộng lớn. Do vậy, gọi là Thí. Có thể diệt giới ác và đường ác, có tác dụng duy tŕ, giữ lấy đường lành v.v… cho nên gọi là Giới”. Đại Trang Nghiêm Luận nói: “Có thể khiến cho [hành nhân] thanh lương, nên gọi là Giới”. Nhiếp Luận xét theo cái được đối trị, c̣n Trang Nghiêm Luận xét theo sự đắc quả, cho nên [hai cách giải thích ấy] cũng chẳng mâu thuẫn! Các [kinh luận] khác giải thích bất đồng, cứ chuẩn theo điều này để biết.

          Lại có thể diệt sạch phẫn nộ, oán thù, và có thể khiến cho chính ḿnh và người khác khéo trụ trong an ổn, cho nên gọi là Nhẫn. Lại có thể xa ĺa tất cả các ác pháp giải đăi, bất thiện, và có thể sanh ra vô lượng thiện pháp, khiến cho chúng tăng trưởng; cho nên gọi là Tinh Tấn. Lại có thể tiêu trừ tất cả tán loạn, xáo động, và có thể dẫn đến nội tâm an trụ, cho nên gọi là Tĩnh Lự. Lại có thể trừ bỏ các huệ tà ác dẫn đến hết thảy kiến chấp, và có thể chân thật biết từng pháp theo phẩm loại, cho nên gọi là Huệ”. Giải rằng: Ư của [Nhiếp Luận] là khi ở nơi nhân th́ có thể phá keo kiệt, và cũng có thể dẫn khởi tư lương phước đức rộng răi. Tới khi đắc quả th́ có thể phá tan bần cùng, đạt được của cải, địa vị to lớn. V́ thế gọi là Thí. Những lời giải thích tên riêng [của từng môn Ba La Mật] khác dễ hiểu. Nhưng [Nhiếp Luận] chỉ giải thích sáu Ba La Mật đầu, chẳng giải thích bốn môn sau.

          Theo quyển hạ của Văn Thù Vấn Kinh Luận th́ do đối trị mười chướng mà lập ra mười Ba La Mật. Đối với bốn môn [Ba La Mật] cuối, luận ấy giảng: “Thứ bảy là trị cái tâm phiền năo, sanh ra pháp trợ đạo. Thứ tám là đối trị điên đảo đối với trợ đạo Đạo Tập Thật Đế, sanh ra Đạo chẳng điên đảo. Thứ chín là đối trị tâm pháp chẳng tự tại, dù là đúng thời hay phi thời đều được tự tại. Mười là đối trị tướng hữu ngă, do quán các pháp vô ngă”. Ư nói: Khi tu nhân th́ đối trị tâm phiền năo để sanh tâm trợ đạo; khi chứng quả th́ đắc pháp trợ đạo, tức TTrí thuộc các đạo phẩm tương ứng với các pháp trợ đạo. Những điều khác cứ chuẩn theo đó để biết.

 

5.6.4.2.2.2.2.2. Biện định cái Thể

         

          Nêu ra cái Thể [của các môn Ba La Mật] th́ như trong các kinh luận khác [đă nói].

 

5.6.4.2.2.2.2.3. Phế lập

 

          Biện định về sự phế lập th́ sáu môn trước đă được nói cặn kẽ trong quyển bảy của Nhiếp Đại Thừa Luận, quyển thứ bảy của Trang Nghiêm Luận, và quyển thứ chín của Thành Duy Thức Luận. Đối với bốn môn sau th́ như quyển thứ tư của kinh Giải Thâm Mật nói: Dữ tiền lục chủng vi trợ bạn cố, ư tiền tam chủng sở nhiếp hữu t́nh an trí thiện phẩm, cố thuyết Phương Tiện dữ tam vi bạn. Ư hiện pháp trung, phiền năo đa cố, ư nội tâm trụ vô kham năng đẳng, phục bỉ nhiếp thọ” (Do làm pháp trợ giúp cho sáu loại [Ba La Mật] trước, xếp đặt thiện phẩm cho các hữu t́nh được thâu nhiếp trong ba loại trước. V́ thế nói Phương Tiện làm pháp giúp đỡ cho ba môn kia [Lực, Trí, và Nguyện Ba La Mật]. Trong hiện pháp, do phiền năo nhiều, chẳng thể kham trụ trong nội tâm, lại c̣n được các pháp kia nhiếp thọ). Cho đến nói: “Do thử nguyện cố, phiền năo vi bạc, năng tu tinh tấn, cố ngă thuyết Nguyện vi Tấn trợ bạn. Do thử Lực cố, ư nội tâm trụ hữu sở kham năng cố, thuyết Lực vi Tĩnh Lự trợ bạn. Do thử Trí năng dẫn thế huệ cố, ngă thuyết Trí dữ Huệ vi bạn” (Do nguyện này, phiền năo mỏng ít, có thể tu tinh tấn, cho nên ta nói Nguyện Ba La Mật là pháp giúp đỡ cho Tinh Tấn Ba La Mật. Do Lực Ba La Mật này có thể kham trụ trong nội tâm, nên nói Lực là pháp giúp đỡ cho Tĩnh Lự (Thiền) Ba La Mật. Do Trí Ba La Mật này có thể dẫn khởi trí huệ thế gian, ta nói Trí Ba La Mật là pháp trợ giúp cho Huệ Ba La Mật). Ư nói: Để giúp cho sáu Độ trước được thành tựu viên măn, cần phải có bốn Độ sau. Nếu dựa theo kinh Văn Thù Vấn Phát Bồ Đề Tâm th́ do đối trị mười chướng mà lập ra Thập Độ. Sáu món chướng đầu là keo kiệt v.v… Bốn món chướng sau th́ thứ bảy là phiền năo tâm chướng, thứ tám điên đảo đạo chướng, thứ chín bất tự tại tâm pháp chướng, thứ mười là hữu ngă tướng chướng. Do đối trị bốn món chướng sau, cho nên lập ra bốn loại Độ sau.

          Nếu xét theo Nhiếp Luận của ngài Vô Tánh th́ mỗi Độ trong bốn Độ sau đều thông với sáu Độ trước. Luận ấy nói: “Một là Phương Tiện Thiện Xảo [Ba La Mật Đa], tức là dùng các thiện căn đă nhóm họp bởi sáu Độ trước, cùng các hữu t́nh xoay lại cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Hai là Nguyện Ba La Mật Đa, tức là phát ra các thứ đại nguyện vi diệu để dẫn khởi, thâu nhiếp các duyên thù thắng cho Ba La Mật Đa trong tương lai. Ba là Lực Ba La Mật Đa, tức do hai sức suy nghĩ chọn lựa và tu tập, khiến cho sáu loại trước (sáu Ba La Mật trước) hiện hành chẳng gián đoạn. Bốn là Trí Ba La Mật, tức là do sáu Độ trước đó mà kiến lập diệu trí thọ dụng pháp lạc, thành tựu hữu t́nh”. Mỗi môn trong các Ba La Mật đều có nhiều nghĩa, tùy ư nêu ra một nghĩa đều chẳng mâu thuẫn!

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Hà giả thị Ba La Mật nghĩa?

          ()善男子何者是波羅蜜義

          (Kinh: Thiện nam tử! Ǵ là nghĩa của Ba La Mật?)

 

          Kế đó, đoạn thứ hai trong phần biện định sự tu hành là “giải thích danh xưng”. Trong phần này, chia thành hai đoạn: Trước là gạn hỏi, sau là giải thích. Đoạn này là gạn hỏi.

         

          (Kinh) Sở vị tu tập thắng lợi thị Ba La Mật nghĩa, măn túc vô lượng đại thậm thâm trí, thị Ba La Mật nghĩa. Hành phi hành pháp tâm bất chấp trước, thị Ba La Mật nghĩa. Sanh tử quá thất, Niết Bàn công đức, chánh giác, chánh quán, thị Ba La Mật nghĩa. Ngu nhân, trí nhân, giai tất nhiếp thọ, thị Ba La Mật nghĩa. Năng hiện chủng chủng trân diệu pháp bảo, thị Ba La Mật nghĩa. Vô ngại giải thoát, trí huệ măn túc, thị Ba La Mật nghĩa. Pháp giới, chúng sanh giới, chánh phân biệt tri, thị Ba La Mật nghĩa. Thí đẳng cập Trí, năng linh chí bất thoái chuyển, thị Ba La Mật nghĩa. Vô Sanh Pháp Nhẫn năng linh măn túc, thị Ba La Mật nghĩa. Nhất thiết chúng sanh công đức, thiện căn, năng linh thành thục, thị Ba La Mật nghĩa. Năng ư Bồ Đề thành Phật thập lực, tứ sở úy, bất cộng pháp đẳng, giai tất thành tựu, thị Ba La Mật nghĩa. Sanh tử Niết Bàn liễu vô nhị tướng, thị Ba La Mật nghĩa. Tế độ nhất thiết, thị Ba La Mật nghĩa. Nhất thiết ngoại đạo lai tương cật nạn, thiện năng giải thích, linh kỳ hàng phục, thị Ba La Mật nghĩa. Năng chuyển thập nhị diệu hạnh pháp luân, thị Ba La Mật nghĩa. Vô sở trước, vô sở kiến, vô hoạn lụy, thị Ba La Mật nghĩa.

          ()所謂修習勝利是波羅蜜義滿足無量大甚深智是波羅蜜義行非行法心不執著是波羅蜜義生死過失涅槃功德正覺正觀是波羅蜜義愚人智人皆悉攝受是波羅蜜義能現種種珍妙法寶是波羅蜜義無礙解脫智慧滿足是波羅蜜義法界眾生界正分別知是波羅蜜義施等及智能令至不退轉是波羅蜜義無生法忍能令滿足是波羅蜜義一切眾生功德善根能令成熟是波羅蜜義能於菩提成佛十力四所畏不共法等皆悉成就是波羅蜜義生死涅槃了無二相是波羅蜜義濟度一切是波羅蜜義一切外道來相詰難善能解釋令其降伏是波羅蜜義能轉十二妙行法輪是波羅蜜義無所著無所見無患累是波羅蜜義

          (Kinh: Đó chính là: Tu tập lợi ích thù thắng là ư nghĩa của Ba La Mật. Trọn vẹn vô lượng đại trí rất sâu là ư nghĩa của Ba La Mật. Đối với hành pháp hay phi hành pháp, tâm chẳng chấp trước là ư nghĩa của Ba La Mật. Chánh giác, chánh quán lỗi lầm sanh tử và công đức của Niết Bàn là ư nghĩa của Ba La Mật. Kẻ ngu hay người trí thảy đều nhiếp thọ là ư nghĩa của Ba La Mật. Có thể hiện ra các thứ pháp bảo quư báu, mầu nhiệm là ư nghĩa của Ba La Mật. Trí huệ giải thoát vô ngại trọn vẹn là ư nghĩa của Ba La Mật. Phân biệt, nhận biết chánh đáng pháp giới và chúng sanh giới là ư nghĩa của Ba La Mật. Thí v.v… và Trí có thể đạt tới bất thoái chuyển là ư nghĩa của Ba La Mật. Có thể khiến cho Vô Sanh Pháp Nhẫn được trọn vẹn là ư nghĩa của Ba La Mật. Có thể khiến cho công đức và thiện căn của hết thảy chúng sanh thành thục là ư nghĩa của Ba La Mật. Có thể khiến cho thập lực, bốn món vô úy, các pháp bất cộng nơi Bồ Đề của Phật thảy đều thành tựu là ư nghĩa của Ba La Mật. Sanh tử và Niết Bàn trọn chẳng có hai tướng là ư nghĩa của Ba La Mật. Tế độ hết thảy là ư nghĩa của Ba La Mật. Hết thảy ngoại đạo đến cật vấn, bắt bẻ, đều có thể khéo giải thích khiến cho họ bị hàng phục là ư nghĩa của Ba La Mật. Có thể chuyển pháp luân mười hai diệu hạnh là ư nghĩa của Ba La Mật. Không chấp trước, không có cái được thấy, không lo buồn sầu khổ là ư nghĩa của Ba La Mật).

 

          [Đây là phần] giải thích. [Ba La Mật] có mười bảy nghĩa, tức là [chánh kinh gồm có] mười bảy đoạn [giải thích]. Phân đoạn kinh văn dễ thấy, chẳng cần phải chia riêng thành từng khoa, chỉ theo thứ tự mà giải thích. Nói tới “thắng lợi” (lợi ích thù thắng) th́ quyển ba mươi lăm của Du Già Sư Địa Luận giảng: Nói chung, phát tâm có hai thứ lợi ích thù thắng:

          - Một, mới phát tâm th́ đă là phước điền đáng tôn trọng của chúng sanh. Hết thảy chúng sanh đều nên cúng dường, mà [vị Bồ Tát ấy] cũng là cha mẹ của hết thảy chúng sanh.

          - Hai, đă phát tâm rồi th́ mới có thể nhiếp thọ phước chẳng năo hại. Do vị Bồ Tát thành tựu phước chẳng năo hại như thế, được Luân Vương thủ hộ gấp bội, được ngủ nghỉ yên lành, phi nhân chẳng quấy nhiễu, chuyển sanh sang đời khác không bị bệnh tật, sống lâu, thường lợi ích hữu t́nh, chẳng gây nhọc nhằn, tổn hại cho họ v.v…

          Nhưng Nhiếp Đại Thừa luận định lợi ích thù thắng khác biệt, luận ấy nói: “Làm thế nào để có thể thấy đạt được sáu thứ lợi ích thù thắng như thế? Chính là các Bồ Tát lưu chuyển trong sanh tử, thuộc về phú quư, thuộc về đại sanh, thuộc về đại bằng, đại thuộc, thuộc về gia hạnh thành tựu sự nghiệp rộng lớn, không có các năo hại. Do thuộc về tánh ít trần cấu, do thuộc về khéo biết hết thảy các chỗ Công Xảo Minh, thắng sanh[19] vô tội, cho đến ngồi yên trên ṭa Bồ Đề mầu nhiệm, thường có thể hiện làm hết thảy nghĩa lợi[20] cho hết thảy hữu t́nh. Đó gọi là lợi ích thù thắng”. Giải rằng: Thuộc về phú quư là lợi ích thù thắng của Thí. Do thuộc về đường lành, nên gọi là “đại sanh”; đó là lợi ích thù thắng của Giới. “Bằng” () là thân tộc, “thuộc” () là nô tỳ v.v… Đó là lợi ích thù thắng của Nhẫn. Sự nghiệp rộng lớn, gia hạnh thành tựu; đó là lợi ích thù thắng của Tinh Tấn. Sự nghiệp rộng lớn tức là Luân Vương v.v… Cổ vũ, khích lệ trong [khi thực hiện các sự nghiệp] ấy gọi là “gia hạnh”. Việc làm đều hoàn tất th́ gọi là “thành tựu”. Không vướng mắc, không có các năo hại, tánh thuộc về trần cấu ít mỏng, th́ là lợi ích thù thắng của Tĩnh Lự. Khéo biết hết thảy chỗ Công Xảo Minh là lợi ích thù thắng của Huệ. Trên đây là sáu lợi ích thù thắng riêng biệt. Từ “vô tội” cho đến “ngồi Bồ Đề ṭa”, thường có thể biến hiện hết thảy nghĩa lợi cho hết thảy hữu t́nh, chính là sáu thứ lợi ích chung, chẳng giống như “thắng sanh” có tội[21] của thế gian.

          Lại nữa, [lợi ích thù thắng] vô biên, chẳng gián đoạn, cho đến Bồ Đề, chẳng giống như thế gian chỉ chú trọng lợi ích cho chính ḿnh, v́ thường có thể tạo nghĩa lợi cho hữu t́nh. Giống như năng lực của thắng sanh [trong Thí Ba La Mật], năm Độ kia cũng thế. Phật trí vô lượng, có thể thấu hiểu Nhị Không, cho nên gọi là “đại”. Do những địa vị khác chẳng thể suy lường, nên gọi là “thậm thâm” (rất sâu). Có thể viên măn mười điều ấy th́ gọi là “đáo bỉ ngạn”. Đó là ư nghĩa của Ba La Mật.

          Thiện pháp gọi là “hành”, bất thiện gọi là “phi hành”; đấy chính là cái nhân. “Câu bất chấp trước” (Đều chẳng chấp trước) tức “chẳng chấp trước” là nghĩa Ba La Mật. Sanh tử là cái quả hữu lậu, Niết Bàn là cái quả vô lậu. “Sanh tử quá thất, Niết Bàn công đức” (Lỗi lầm của sanh tử, công đức của Niết Bàn): Đối với lỗi lầm của sanh tử bèn chánh giác, đối với công đức của Niết Bàn bèn chánh quán, hoặc là chánh giác chánh quán đều gồm thâu cả hai chỗ (sanh tử và Niết Bàn), đó là ư nghĩa “bỉ ngạn”. Kẻ ngu chuộng sanh tử, người trí ưa Niết Bàn, [Bồ Tát hành Ba La Mật] bi tâm b́nh đẳng lợi ích, chẳng tổn hại, th́ gọi là “nhiếp thọ”. Có thể diễn tả, chỉ bày của báu Thất Thánh Tài cho người trí; có thể nói Giới, Nhẫn, Cần (Tinh Tấn), Định, Trí, Phương Tiện cho thế gian. Pháp v́ người trí, tài (tài vật) v́ kẻ ngu. “Hiện” là nói năng và chỉ bày, hoặc là có thể gồm cả hai điều ấy (Pháp và Tài) để nói, khiến cho [người nghe] học theo. Đấy là điều được chỉ bày. Hoặc có thể hiểu “trân bảo” tức là nương vào Định thù thắng mà hiện ra các thứ như thất bảo v.v… để thí cho chúng sanh. “Vô ngại” [được nói trong đoạn chánh kinh trên đây] là bốn món vô ngại. “Giải thoát” là tám giải thoát. Do tám món giải thoát có thể dẫn khởi thần thông v.v… đạt được Tứ Vô Ngại v.v…, trí huệ toàn vẹn. Có thể nói các điều ấy th́ là ư nghĩa của Ba La Mật.

          Pháp giới và chúng sanh giới chính là hai thứ trong năm thứ vô lượng (thân, tâm, trí, hư không (pháp giới), và chúng sanh), [nêu ra] để liên tưởng, ḥng biết rơ chánh đáng các món c̣n lại. “Thí đẳng” chính là năm Độ trước (từ Bố Thí cho tới Định Ba La Mật), cập Trí” tức là nói đến năm Độ sau, đều có thể tu tập [các Độ ấy] đạt tới Bất Thoái Chuyển, tức là Đệ Thập Địa đạt tới bờ kia.

          Sanh Pháp Nhẫn: Ba món Vô Sanh Nhẫn như đă giải thích trong phần trước. Sơ Địa mới bắt đầu đạt được, Bát Địa liên tục đắc. Người có thể trọn vẹn [các món Vô Sanh Nhẫn) sẽ đạt tới địa vị Phật. Trên đây là hai món tự lợi viên măn. Có thể khiến cho công đức và thiện căn của hết thảy chúng sanh thành tựu chính là “bờ kia” lợi tha. Thập Lực hàng phục thiên ma, vô úy hàng phục ngoại đạo. Pháp bất cộng hàng phục Nhị Thừa. Do ba món thù thắng ấy, các công đức khác cũng đều thành tựu viên măn. Đó là Trí Đức của Bồ Đề Ba La Mật.

          Sanh tử và Niết Bàn trọn chẳng có hai tướng, phải thông đạt chúng và Chân Như chẳng khác. “Bỉ ngạn” là Đoạn Đức, chẳng giống như Nhị Thừa do tâm Pháp Chấp mà thấy có hai tướng. “Tế độ hết thảy” là Ân Đức, do trọn đủ vô úy. Đối với các vấn nạn của ngoại đạo đều giải thích, khiến cho họ bị hàng phục, có thể phá tà đạt đến bờ kia. “Có thể chuyển pháp luân mười hai diệu hạnh” tức là hiển lộ bờ kia chân chánh. “Mười hai diệu hạnh” chính là Tứ Đế được chuyển ba lần[22]. Nương vào Khổ Đế, đối với Kiến Đạo bèn chỉ bày tướng, đối với Tu Đạo bèn khuyên tu, [khiến cho] bậc Vô Học chứng đắc, sanh vô lậu huệ, th́ gọi là “pháp nhăn”, mỗi mỗi đều là đoạn sự ngu muội trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Trong một sát-na, ư nghĩa của Trí được chia thành ba, tức theo thứ tự là trí, minh, và giác. Kế đó, đối với ba Đế kia, do mỗi Đế [đều bao gồm bốn Đế kia, cho nên] đều có mười hai Đế, thành ra bốn mươi tám loại hành tướng (4x12=48). Do các hành tướng ấy tương tự, nên gọi chung là “pháp luân mười hai diệu hạnh”. Nói cặn kẽ về loại pháp luân này th́ như Pháp Hoa Sớ [đă giảng]. Có thể chẳng chấp trước hết thảy là “vô nhiễm trước” (chẳng nhiễm đắm), chẳng có ǵ để thấy, chẳng vướng mắc, ngăn ngại, chẳng sầu mệt, xả vô thường sắc, đạt được thường sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng lại như thế, tức là vĩnh viễn xả hai thứ sầu lo sanh tử.

 

5.6.4.2.2.3. Các địa vị chứng đắc

5.6.4.2.2.3.1. Tướng trạng khi chứng đắc các địa

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Sơ Địa Bồ Tát thị tướng tiên hiện, tam thiên đại thiên thế giới vô lượng vô biên chủng chủng bảo tạng, vô bất doanh măn, Bồ Tát tất kiến. Thiện nam tử! Nhị Địa Bồ Tát thị tướng tiên hiện, tam thiên đại thiên thế giới địa b́nh như chưởng, vô lượng vô biên chủng chủng diệu sắc thanh tịnh trân bảo trang nghiêm chi cụ, Bồ Tát tất kiến. Thiện nam tử! Tam Địa Bồ Tát thị tướng tiên hiện, tự thân dũng kiện, giáp trượng trang nghiêm, nhất thiết oán tặc giai năng tồi phục, Bồ Tát tất kiến. Thiện nam tử! Tứ Địa Bồ Tát thị tướng tiên hiện, tứ phương phong luân, chủng chủng diệu hoa tất giai tán sái, sung bố địa thượng, Bồ Tát tất kiến. Thiện nam tử! Ngũ Địa Bồ Tát thị tướng tiên hiện, hữu diệu bảo nữ, chúng bảo anh lạc châu biến nghiêm thân, thủ quan danh hoa dĩ vi kỳ sức, Bồ Tát tất kiến. Thiện nam tử! Lục Địa Bồ Tát thị tướng tiên hiện, thất bảo hoa tŕ, hữu tứ giai đạo, kim sa biến bố, thanh tịnh vô uế, bát công đức thủy giai tất doanh măn, Ốt-bát-la hoa, Câu-vật-đầu hoa, Phân-đà-lợi hoa, tùy xứ trang nghiêm. Ư hoa tŕ sở, du hư khoái lạc, thanh lương vô tỷ, Bồ Tát tất kiến. Thiện nam tử! Thất Địa Bồ Tát thị tướng tiên hiện, ư Bồ Tát tiền, hữu chư chúng sanh ưng đọa địa ngục, dĩ Bồ Tát lực, tiện đắc bất đọa, vô hữu tổn thương, diệc vô khủng bố, Bồ Tát tất kiến. Thiện nam tử! Bát Địa Bồ Tát thị tướng tiên hiện, ư thân lưỡng biên, hữu sư tử vương dĩ vi vệ hộ, nhất thiết chúng thú tất giai bố úy, Bồ Tát tất kiến. Thiện nam tử! Cửu Địa Bồ Tát thị tướng tiên hiện, Chuyển Luân Thánh Vương, vô lượng ức chúng vi nhiễu cúng dường, đảnh thượng bạch cái, vô lượng chúng bảo chi sở trang nghiêm, Bồ Tát tất kiến. Thiện nam tử! Thập Địa Bồ Tát thị tướng tiên hiện, Như Lai chi thân kim sắc hoảng diệu, vô lượng tịnh quang tất giai viên măn, hữu vô lượng ức Phạm vương vi nhiễu, cung kính cúng dường, chuyển ư vô thượng vi diệu pháp luân, Bồ Tát tất kiến.

          ()善男子初地菩薩是相先現三千大千世界無量無邊種種寶藏無不盈滿菩薩悉見善男子二地菩薩是相先現三千大千世界地平如掌無量無邊種種妙色清淨珍寶莊嚴之具菩薩悉見善男子三地菩薩是相先現自身勇健甲仗莊嚴一切怨賊皆能摧伏菩薩悉見善男子四地菩薩是相先現四方風輪種種妙華悉皆散灑充布地上菩薩悉見善男子五地菩薩是相先現有妙寶女眾寶瓔珞周遍嚴身首冠名華以為其飾菩薩悉見善男子六地菩薩是相先現七寶華池有四階道金砂遍布清淨無穢八功德水皆悉盈滿嗢鉢羅華拘物頭華芬陀利華隨處莊嚴於華池所遊戲快樂清涼無比菩薩悉見善男子七地菩薩是相先現於菩薩前有諸眾生應墮地獄以菩薩力便得不墮無有損傷亦無恐怖菩薩悉見善男子八地菩薩是相先現於身兩邊有師子王以為衛護一切眾獸悉皆怖畏菩薩悉見善男子九地菩薩是相先現轉輪聖王無量億眾圍繞供養頂上白蓋無量眾寶之所莊嚴菩薩悉見善男子十地菩薩是相先現如來之身金色晃耀無量淨光悉皆圓滿有無量億梵王圍繞恭敬供養轉於無上微妙法輪菩薩悉見

          (Kinh: Thiện nam tử! Sơ Địa Bồ Tát th́ tướng này hiện ra trước: Vô lượng vô biên các thứ kho báu trong tam thiên đại thiên thế giới, không ǵ chẳng đầy ắp, Bồ Tát đều thấy. Thiện nam tử! Nhị Địa Bồ Tát th́ tướng này hiện ra trước: Tam thiên đại thiên thế giới, mặt đất bằng phẳng như ḷng bàn tay, vô lượng vô biên các thứ vật trang nghiêm quư báu, màu sắc thanh tịnh đẹp đẽ, Bồ Tát đều thấy. Thiện nam tử! Tam Địa Bồ Tát th́ tướng này hiện ra trước: Thân ḿnh mạnh mẽ, mặc giáp, cầm vũ khí trang nghiêm, hết thảy oán tặc đều có thể dẹp tan, Bồ Tát đều thấy. Thiện nam tử! Tứ Địa Bồ Tát th́ tướng này hiện ra trước: Bốn phương phong luân thổi các thứ hoa đẹp thảy đều rải rắc đầy khắp mặt đất, Bồ Tát đều thấy. Thiện nam tử! Ngũ Địa Bồ Tát th́ tướng này hiện ra trước: Có bảo nữ đẹp đẽ, các loại chuỗi anh lạc báu trang sức khắp thân, đầu đội hoa quư để trang hoàng, Bồ Tát đều thấy. Thiện nam tử! Lục Địa Bồ Tát th́ tướng này hiện ra trước: Trong ao hoa bảy báu, bốn phía có lối đi, bậc thềm, cát bằng vàng rải khắp, thanh tịnh, chẳng nhơ bẩn, nước tám công đức thảy đều đầy ắp, hoa Ốt-bát-la (Utpala, hoa sen xanh), hoa Câu-vật-đầu (Kumuda, hoa sen vàng), hoa Phân-đà-lợi (Puṇḍarīka, hoa sen trắng) trang nghiêm khắp chốn. Ở trong ao hoa, vui chơi, sung sướng, mát mẻ khôn sánh, Bồ Tát đều thấy. Thiện nam tử! Thất Địa Bồ Tát th́ tướng này hiện ra trước: Trước mặt Bồ Tát, có các chúng sanh đáng đọa địa ngục, do sức của Bồ Tát, họ liền chẳng đọa, chẳng bị tổn thương, cũng chẳng sợ hăi, Bồ Tát đều thấy. Thiện nam tử! Bát Địa Bồ Tát th́ tướng này hiện ra trước: Ở hai bên thân, có sư tử chúa bảo vệ, hết thảy các loài thú thảy đều sợ hăi, Bồ Tát đều thấy. Thiện nam tử! Cửu Địa Bồ Tát th́ tướng này hiện ra trước: Chuyển Luân Thánh Vương được vô lượng ức đại chúng vây quanh cúng dường, trên đỉnh đầu có lọng trắng, được trang nghiêm bằng vô lượng các thứ báu, Bồ Tát đều thấy. Thiện nam tử! Thập Địa Bồ Tát th́ tướng này hiện ra trước: Thân Như Lai sắc vàng chói ngời, vô lượng quang minh thanh tịnh thảy đều viên măn, có vô lượng ức Phạm vương vây quanh, cung kính cúng dường, [Như Lai v́ họ] chuyển pháp luân vi diệu vô thượng, Bồ Tát đều thấy).

 

          Từ đây trở đi là đoạn lớn thứ ba trong lời đáp, tức “các địa vị chứng đắc”. Do trước đó đă phát tâm, tu tập hạnh thù thắng đă lâu, bèn được chứng đắc địa vị. Trong đoạn lớn này, chia thành năm phần:

          - Một, tướng trạng đạt được địa vị.

          - Hai, giải thích danh xưng của từng địa.

          - Ba, nêu ra chướng ngại trong mỗi địa.

          - Bốn, pháp để tu hành trong mỗi địa.

          - Năm, sự tu tập trong mỗi địa.

          Phần này là tướng trạng chứng đắc trong mỗi địa vị, tức là [nói về] tướng sẽ đắc khi mới đạt được một địa vị. Nếu xét theo quyển thứ bảy của bộ Vô Tánh Nhiếp Luận, đối với cả mười địa, sẽ đều thấy chung bốn tướng. Luận viết: “Đạt được các địa vị này, sẽ có thể thấy như thế nào? Lời hỏi này là do bốn loại tướng: Một là đạt được thắng giải, tức là đối với các địa vị đều tin hiểu sâu xa. Hai là đạt được chánh hạnh, tức là đạt được các địa vị tương ứng với mười loại chánh pháp hạnh. Ba là được thông đạt, tức là khi ở Sơ Địa đạt được pháp giới, sẽ có thể thông đạt trọn khắp hết thảy các địa. Bốn là được thành tựu viên măn, tức là tu các địa đạt tới rốt ráo”. Giải rằng: “Tin hiểu sâu xa” là đối với giáo pháp trong mỗi địa, đều quyết định ấn khả chân thật như thế. “Mười thứ chánh hạnh” chính là mười pháp hạnh, tức cúng dường, biên chép, bố thí cho người khác, nghe, xem đọc, tiếp nhận, ǵn giữ, khai diễn, phúng tụng, và suy nghĩ tu tập. “Được thông đạt” nghĩa là Sơ Địa khi đạt được pháp giới (chứng nhập Sơ Địa), sẽ có thể thông đạt trọn khắp hết thảy các địa. Ngay khi vừa thông đạt Sơ Địa, sẽ có thể nhanh chóng thông đạt hết thảy các địa vị sau đó. Đối với chủng loại này, có bài tụng rằng: “Như phá lóng trúc đầu, các lóng khác nhanh phá, đắc Sơ Địa chân trí, các địa sẽ chóng thành”. “Đạt tới rốt ráo” chính là thành tựu viên măn quả phần trong mỗi địa, hoặc thành tựu viên măn tối hậu (chứng Đệ Thập Địa). “Quả phần thành tựu viên măn”: Đối ứng với địa vị trước mà gọi [địa vị sau] là Quả, nơi nhân th́ gọi là Phần. “Hoặc thành tựu viên măn tối hậu” tức là thành Phật quả, đạt được cái quả rốt ráo; hoặc do đă rốt ráo Đệ Thập Địa, bèn gọi là “viên măn tối hậu”. Nếu xét theo quyển mười ba của Đại Trang Nghiêm Luận nói: “Bồ Tát đă nhập địa (chứng đắc từ Sơ Địa trở lên), mỗi địa đều có mười tướng. Những ǵ là mười? Một là tin tưởng sáng suốt, hai là chẳng kém cỏi, ba là chẳng khiếp nhược, bốn là chẳng chờ đợi, năm là thông đạt, sáu là b́nh đẳng, bảy là ĺa khỏi thiên vị, tám là ĺa chấp trước, chín là biết phương tiện, mười là thánh chúng sanh”. “Tin tưởng sáng suốt” tức là hiểu rơ địa vị của chính ḿnh, do trong các pháp đă trừ khử vô tri, tin tưởng các địa vị khác, mong cầu ưa thích các địa vị sau. “Chẳng kém cỏi”: Do nghe pháp sâu mầu chẳng kinh sợ. “Chẳng khiếp nhược”: Đối với hạnh khó hành, tột bậc dũng mănh. “Chẳng chờ đợi”: Khởi hạnh nơi địa vị của chính ḿnh, chẳng cần phải dạy. “Thông đạt”: Đối với phương tiện thuộc các địa vị khác đều có thể khởi. “B́nh đẳng”: Tâm xem trọn khắp chúng sanh như chính ḿnh. “Ĺa thiên vị”: Tai nghe chê, khen, [nội tâm] chẳng có cao thấp. “Ĺa chấp trước”: Đạt được các địa vị như Luân Vương v.v… mà chẳng yêu đắm. “Biết phương tiện”: Biết các pháp chẳng thể được, do đó là phương tiện của Phật. “Thánh chúng sanh”: Luôn sanh làm đồ chúng của chư Phật. Mười tướng ấy, địa nào cũng đều có đủ, và cũng có tướng đắc độ, nói cặn kẽ th́ như trong luận ấy đă giảng.

          Văn tự trong hai bộ luận ấy xét theo tướng nội chứng, đó là tướng chung cho các địa; c̣n kinh này (kinh Kim Quang Minh) xét theo tướng đạt được ở bên ngoài, tức là biệt tướng của mỗi địa, do hành Thập Độ mà đạt được các tướng bên ngoài ấy. Tướng hiện ra trong mười địa vị tức là mười đoạn [kinh văn], phân biệt từng đoạn dễ thấy.

          Hỏi: Các tướng như thế ở nơi đâu?

          Đáp: Mỗi tướng đều là khi sắp nhập một địa bèn có; do vậy nói là “tiên hiện” (hiện ra trước). Lại có thể hiểu là các tướng ấy sẽ đạt được khi vừa nhập địa. Nhưng nói “tiên hiện” th́ cũng có nhiều tướng. Các tướng hiện ra trước ấy chẳng thể có nơi Địa Tiền (trước khi chứng Sơ Địa), tức là các tướng ấy hiện ra trước cho các vị Bồ Tát từ Sơ Địa trở lên, biểu thị:

          1) Sơ Địa do có thể hành hết thảy Thí Độ, trọn khắp đại thiên (tam thiên đại thiên thế giới) ở bên ngoài liền hiện các thứ kho báu, có thể thỏa măn sở cầu. V́ thế, không ǵ chẳng đầy ắp! “Bồ Tát đều trông thấy”: Các Bồ Tát đă thuộc địa vị ấy và các địa vị cao hơn sẽ đều trông thấy tướng ấy. Các địa vị thấp hơn sẽ chẳng thấy. Các điều khác cứ chuẩn theo đó mà suy.

          2) Nơi Đệ Nhị Địa, biểu thị chứng lư b́nh đẳng, tŕ trọn tịnh giới, mười nghiệp đạo đă thanh tịnh, cho nên hiện các thứ vật trang nghiêm thanh tịnh, quư báu, màu sắc đẹp đẽ.

          3) Nơi Đệ Tam Địa, do biểu thị hành ba món Nhẫn có tướng dũng mănh mà mặc giáp hàng phục oán địch.

          4) Nơi Đệ Tứ Địa, biểu thị hành Tứ Chánh Cần, hoa mầu nhiệm thất tịnh và cửu tịnh rải đất. “Thất tịnh” là giới tịnh, tâm tịnh, kiến tịnh, độ nghi tịnh (chân kiến sâu xa đoạn nghi thanh tịnh), đạo phi đạo trí kiến tịnh (kiến giải do trí huệ phân biệt rành rẽ đạo và chẳng phải đạo), hành trí kiến tịnh (sự thanh tịnh do phân biệt thiện pháp đáng nên hành), hành đoạn trí kiến tịnh (sự thanh tịnh do sự nhận biết ác pháp cần phải đoạn). “Cửu tịnh” là [thất tịnh] cộng thêm vô duyên tịch diệt tịnh và tịnh quốc độ tịnh (sự thanh tịnh do tịnh hóa cơi nước).

          5) Nơi Đệ Ngũ Địa, biểu thị “hành Thiền Định, ĺa các ương ngạnh”, cho nên có bảo nữ hiện. Thiền Định có thể sanh ra giải thoát trọn khắp mọi nơi v.v... cho nên chuỗi anh lạc trang hoàng thân thể. Do hành Thất Giác Phần, [được biểu thị bằng bảo nữ] đầu đội hoa quư.

          6) Nơi Đệ Lục Địa, kinh văn có tám nghĩa:

          - Một, biểu thị hành Trí Độ. Trí có bảy loại là pháp trí, loại trí, thế tục trí, thần thông trí, tướng trí, thập lực tiền hành trí, chánh đạo lư trí trong bốn đạo lư. V́ thế, hiện hoa bằng bảy báu sanh khởi, nương vào ao hoa sen báu.

          - Hai, do pháp trí và loại trí[23], nương vào quán Tứ Đế mà ngộ lư duyên khởi, cho nên bốn phía có lối đi, có thềm bậc. Hoặc là nương vào trí phần gia hạnh, vô gián, giải thoát, thắng tấn là bốn lối đi có thềm bậc.

          - Ba, chứng như lư mà khởi, [cho nên] cát bằng vàng trải khắp.

          - Bốn là ĺa thô tướng chướng, cho nên thanh tịnh, chẳng nhơ uế.

          - Năm, đạt được bát giải thoát, hoặc Bát Đạo Chi (Bát Chánh Đạo), hoặc Bát Chủng Trí[24], hiện thành nước tám công đức: Một là thanh tịnh, hai là nhẹ nhàng, ba là lạnh, bốn là mềm mại, năm là ngọt, sáu là không hôi thối, bảy là uống vào chẳng tổn hại cổ họng, tám là uống vào chẳng thương tổn ruột.

          - Sáu, do cái nhân của Tứ Trí, hiện thành hoa bốn màu, tức xanh, vàng, đỏ, trắng.

          - Bảy, niềm vui dạo trong vườn pháp.

          - Tám, chứng sự mát mẻ vô vi.

          7) Nơi Đệ Thất Địa, biểu thị thực hiện thiện xảo cứu vớt chúng sanh: Chúng sanh ở trước mặt Bồ Tát đáng đọa vào đường ác, [Bồ Tát] có thể khiến cho họ chẳng đọa, chẳng nhận lănh ác báo. Do vậy, họ chẳng bị tổn thương, ĺa khỏi nỗi sợ hăi trong hiện thời. Như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Bồ Tát tánh là Thủ Lăng Nghiêm tam-muội, có thể dứt các khổ, nhổ trừ mũi tên Tam Độc v.v…

          8) Nơi Đệ Bát Địa, biểu thị hành hai nguyện, hoặc trí vô tướng tùy ư hiện tiền, đạt được hai thứ tướng tự tại và cơi nước tự tại. Ở hai bên thân có sư tử hộ vệ, có thể khiến cho hết thảy phiền năo chẳng hiện hành, cho nên “hết thảy loài thú sợ hăi”.

          9) Nơi Đệ Cửu Địa, biểu thị hành Lực Độ như Chuyển Luân Vương có thế lực to lớn, dùng Tứ Biện Tài lợi lạc chúng sanh. V́ thế, vô lượng ức chúng vây quanh cúng dường. Dùng Tứ Vô Lượng (từ, bi, hỷ, xả) che chở chúng sanh, như chiếc lọng [che phủ khiến cho người ở dưới lọng] ĺa ô nhiễm. Tự hành Thất Thánh Tài, hoặc Chúng Sanh Duyên Từ v.v… [Đó là] các vật trang nghiêm bằng chất báu.

          10) Nơi Đệ Thập Địa, biểu thị địa vị Quán Đảnh, sắp thành Chánh Giác. Nơi thân Bồ Tát, có tướng Như Lai hiện: Một là hiện thân, hai là hiện quang minh, ba là hiện các Phạm vương, bốn là hiện chuyển pháp luân. Nơi tự thân, chẳng do tác ư mà bằng với thân Phật.

          Nếu xét theo kinh Bồ Tát Cầu Mộng, nơi mỗi địa, đều mộng thấy các tướng. Từ Bát Địa Bồ Tát trở lên đă không ngủ, sao lại có mộng? Đó là nói: Xét theo những điều trông thấy, đều quán chúng như mộng huyễn. Ở đây cũng thế, tuy chẳng tác ư, mà như trong mộng, tự thân hiện các Phật sự v.v… chẳng phải là xét theo cái thấy ở bên ngoài! Từ Sơ Địa trở lên, trong mỗi sát-na, luôn thấy chư Phật. Hoặc là ngoài ra, thấy các tướng của Như Lai hiển hiện. Trong mỗi sát-na, thấy đức Phật ấy hiển hiện. Đó là xét theo [những ǵ] chính ḿnh trông thấy.

 

5.6.4.2.2.3.2. Giải thích danh xưng của các địa

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Vân hà Sơ Địa danh vi Hoan Hỷ?

          ()善男子云何初地名為歡喜

          (Kinh: Thiện nam tử! V́ sao Sơ Địa gọi là Hoan Hỷ?)

 

          Tán rằng: Phần thứ hai là giải thích danh xưng của mỗi địa. Quyển thứ chín của Thành Duy Thức Luận, quyển thứ chín của Nhiếp Luận, quyển thứ mười ba của Đại Trang Nghiêm Luận, kinh Giải Thâm Mật, phẩm Quyết Trạch của Du Già Sư Địa Luận v.v… đều giải thích danh xưng [của mười địa] tỉ mỉ, đại ư đều tương đồng, chỉ sai biệt đôi chút, nói rộng hay lược soi rọi lẫn nhau, do rườm rà nên chẳng trích dẫn cặn kẽ. Do mười Địa khác nhau, [chánh kinh] chia thành mười đoạn. [Phần kinh văn nói về] Sơ Địa được chia thành ba phần là gạn hỏi, giải thích, và kết lại. Các Địa kia chỉ gồm hai phần, chỉ có giải thích và kết lại. Xét theo đó, trước hết phải nên gạn hỏi là “v́ sao Sơ Địa, Nhị Địa v.v… lại gọi là Hoan Hỷ, Vô Cấu v.v…?”, chỉ là kinh văn lược đi chữ “đẳng”.

 

          (Kinh) Vị sơ chứng đắc xuất thế chi tâm, tích sở vị đắc, nhi kim thỉ đắc. Ư đại sự dụng như kỳ sở nguyện, tất giai thành tựu, sanh cực hỷ lạc. Thị cố, tối sơ danh vi Hoan Hỷ. Chư vi tế cấu, phạm giới quá thất, giai đắc thanh tịnh. Thị cố, Nhị Địa danh vi Vô Cấu. Vô lượng trí huệ tam-muội quang minh, bất khả khuynh động, vô năng tồi phục, Văn Tŕ Đà-la-ni dĩ vi căn bản. Thị cố, Tam Địa danh vi Minh Địa. Dĩ trí huệ hỏa thiêu chư phiền năo, tăng trưởng quang minh, tu hành giác phẩm. Thị cố, Tứ Địa danh vi Diễm Địa. Tu hành phương tiện thắng trí tự tại cực nan đắc cố, Kiến Tu phiền năo nan phục năng phục. Thị cố, Ngũ Địa danh vi Nan Thắng. Hành pháp tương tục liễu liễu hiển hiện, vô tướng tư duy giai tất hiện tiền. Thị cố, Lục Địa danh vi Hiện Tiền. Vô lậu, vô gián, vô tướng tư duy, giải thoát tam-muội viễn tu hành cố, thị địa thanh tịnh, vô hữu chướng ngại. Thị cố, Thất Địa danh vi Viễn Hành. Vô tướng tư duy, tu đắc tự tại, chư phiền năo hành bất năng linh động. Thị cố, Bát Địa danh vi Bất Động. Thuyết nhất thiết pháp chủng chủng sai biệt, giai đắc tự tại, vô hoạn, vô lụy, tăng trưởng trí huệ tự tại vô ngại. Thị cố, Cửu Địa danh vi Thiện Huệ. Pháp Thân như hư không, trí huệ như đại vân, giai năng biến măn phú nhất thiết cố. Thị cố, Đệ Thập danh vi Pháp Vân.

          ()謂初證得出世之心。昔所未得而今始得。於大事用如其所願悉皆成就。生極喜樂。是故最初名為歡喜。諸微細垢犯戒過失皆得清淨。是故二地名為無垢。無量智慧三昧光明不可傾動。無能摧伏。聞持陀羅尼以為根本。是故三地名為明地。以智慧火燒諸煩惱。增長光明修行覺品。是故四地名為焰地。修行方便勝智自在極難得故見修煩惱難伏能伏。是故五地名為難勝。行法相續了了顯現無相思惟皆悉現前。是故六地名為現前。無漏無間無相思惟解脫三昧遠修行故是地清淨無有障礙。是故七地名為遠行。無相思惟修得自在諸煩惱行不能令動。是故八地名為不動。說一切法種種差別皆得自在無患無累增長智慧自在無礙。是故九地名為善慧。法身如虛空。智慧如大雲。皆能遍滿覆一切故。是故第十名為法雲。         (Kinh: Tức là thoạt đầu chứng đắc cái tâm xuất thế mà trước kia chưa đạt được, nay mới đạt được. Tác dụng to lớn nơi các sự thảy đều thành tựu đúng như ước nguyện, sanh ra niềm vui sướng tột bậc. V́ thế, địa vị đầu tiên được gọi là Hoan Hỷ. Các cấu nhiễm vi tế và lỗi lầm do phạm giới đều được thanh tịnh. V́ thế, Nhị Địa có tên là Vô Cấu. Quang minh từ vô lượng trí huệ tam-muội chẳng thể lay động, chẳng thể dẹp trừ, dùng Văn Tŕ Đà-la-ni làm căn bản. V́ thế, Tam Địa có tên là Minh Địa. Dùng lửa trí huệ đốt các phiền năo, tăng trưởng quang minh, tu hành giác phẩm. V́ thế, Tứ Địa tên là Diễm Địa. Do tu hành trí huệ phương tiện thù thắng tự tại tột bậc khó được, có thể chế phục Kiến Tu phiền năo khó chế phục. V́ thế, Ngũ Địa tên là Nan Thắng. Hành pháp tiếp nối, hiển hiện rành rẽ, vô tướng tư duy thảy đều hiện tiền. V́ thế, Lục Địa tên là Hiện Tiền. Do tu hành vô lậu, chẳng gián đoạn, vô tướng tư duy, giải thoát tam-muội lâu xa, địa vị này thanh tịnh, chẳng có chướng ngại. V́ thế, Thất Địa tên là Viễn Hành. Tu vô tướng tư duy đạt được tự tại, các phiền năo hành chẳng thể lay động. V́ thế, Bát Địa tên là Bất Động. Nói các thứ sai biệt của hết thảy các pháp đều được tự tại chẳng lo, chẳng sầu, tăng trưởng trí huệ tự tại vô ngại. V́ thế, Cửu Địa tên là Thiện Huệ. Do Pháp Thân như hư không, trí huệ như mây lớn, đều có thể che phủ trọn khắp hết thảy. V́ thế, Đệ Thập Địa tên là Pháp Vân).

 

          Tán rằng: Lời giải thích bao gồm hai nghĩa: Một là tự lợi, hai là lợi tha. Đạt được cái tâm xuất thế tức là tâm tương ứng với trí Nhị Không th́ gọi là “tâm xuất thế”. Đó là giải thích theo lối Lân Cận[25]. Nói “tích vị đắc, kim thỉ đắc” (xưa kia chưa được, nay mới đạt được) là để giải thích câu “sơ đắc”; đó là tự lợi. “Ư đại sự dụng như nguyện thành tựu” (Đối với tác dụng to lớn nơi mặt Sự, đều thành tựu như nguyện) chính là nói tới tác dụng lợi tha. V́ thế, Đại Trang Nghiêm Luận nói: Một là thấy Chân Như, tức là thấy tự lợi. Xưa kia chưa thấy, nay mới thấy, tức là đă gần Bồ Đề. Hai là thấy lợi ích chúng sanh, tức là thấy lợi lạc người khác, do trong mỗi sát-na, có thể thành tựu một trăm chúng sanh”. Ở đây, [kinh văn nói] có thể thành tựu một trăm loài hữu t́nh, xét theo đó, bèn biết Bồ Tát coi lợi ích chúng sanh là đại sự dụng (tác dụng to lớn về mặt Sự). Như Thập Địa Kinh Luận, hoặc quyển bốn mươi bảy của Du Già Sư Địa Luận, Duy Thức Luận v.v… đều nói Sơ Địa đạt được mười môn “một trăm”:

          - Một là tịnh tín xuất gia, trong một sát-na chứng một trăm Tam-ma-địa.

          - Hai là dùng thiên nhăn thanh tịnh ở trong các cơi Phật thấy một trăm vị Như Lai.

          - Ba đối với sự biến hóa và trụ tŕ của các Ngài, đều có thể liễu giải, dùng sức thần thông lay động một trăm thế giới.

          - Bốn là thân cũng có thể tới đó, phóng quang khiến cho thấy.

          - Năm là hóa thành một trăm loại.

          - Sáu là thành tựu một trăm loại hữu t́nh được [Bồ Tát] hóa độ.

          - Bảy là nếu muốn lưu lại tánh mạng th́ có thể trụ thế một trăm kiếp.

          - Tám là có thể biết một trăm kiếp trước và một trăm kiếp sau.

          - Chín là đối với bách pháp minh môn như Uẩn, Giới v.v… đều có thể suy nghĩ, chọn lựa chân chánh.

          - Mười là hóa ra một trăm thân, mỗi thân đều có thể hiện ra một trăm vị Bồ Tát làm quyến thuộc.

          Hoặc nói chung mười thứ “một trăm” ấy là đại sự dụng. Nói “sanh cực hỷ lạc” nhằm giải thích chữ Hoan Hỷ, bao gồm hai nghĩa trong phần trước. Phần kinh văn kết lại [Sơ Địa] dễ hiểu.

          Phần kinh văn nói về chín địa kia dễ biết, chẳng cần phải phân chia thành từng khoa nữa, cứ chuẩn theo phần giải thích Sơ Địa sẽ biết. Trong Nhị Địa, ĺa hai thứ cấu:

          - Một là các kết cấu (cấu uế do các kết sử) vi tế khiến cho [bậc Bồ Tát] sanh khởi cái tâm [thay đổi, chuyển sang tu tập] thừa khác.

          - Hai là phạm giới cấu (cấu uế do phạm giới), do ba nghiệp phạm lỗi.

          V́ thế, Đại Trang Nghiêm Luận nói: “Trong Nhị Địa, thoát khỏi hai thứ cấu: Một là phạm giới cấu, tức các lầm lỗi do phá giới. Hai là khởi dị thừa tâm cấu, tức các vi tế cấu. Do ĺa hai thứ cấu, nên gọi là Ly Cấu”. Ở đây, [chánh kinh] nói “giai đắc thanh tịnh” (đều đạt được thanh tịnh) tức là ư nghĩa “ly cấu”.

          Nói “vô lượng trí huệ” tức là Văn Tư Tu Tam Huệ vô lượng phát khởi từ Định, soi sáng ḿnh, soi sáng người khác. Đại Trang Nghiêm Luận nói: “Do có thể dùng pháp để tự soi sáng ḿnh và soi sáng người khác, cho nên gọi Minh Tha (soi sáng người khác), hoặc gọi là tam-muội quang minh. Chẳng bị ngoại đạo tà ma dẹp trừ, khuất phục, gọi là ‘bất khuynh động’. Lại c̣n do trừ chướng, nên gọi là ‘bất khuynh động’. Tức là Tam Huệ dùng Định Tổng Tŕ để phát khởi, tức Định Tổng Tŕ được gọi là căn bản”. Quyển thứ chín của Duy Thức Luận nói: “Thành tựu Định thù thắng nơi Tổng Tŕ của bổn pháp sẽ có thể phát khởi vô biên quang minh diệu huệ”. Trong phần trên đă nói Huệ là quang minh tam-muội; do vậy, kế đó chỉ nói Tổng Tŕ là gốc. Phần kinh văn kết lại dễ biết.

          Trong Đệ Tứ Địa, tu Bồ Đề phần, ngọn lửa trí huệ có thể đốt cháy các thứ “củi chướng ngại” như vi tế phiền năo hiện hành v.v… Trang Nghiêm Luận nói: “Trong Tứ Địa, dùng trí huệ thuộc Bồ Đề phần làm tự tánh của lửa, dùng Hoặc Chướng và Trí Chướng làm tự tánh của củi, khiến cho trí quang minh giác phẩm càng thêm thù thắng, tức là pháp Bồ Đề phần chuyển thành thù thắng hơn”.

          Trong Đệ Ngũ Địa, hai trí Chân và Tục vốn trái nghịch nhau, được hợp lại thành tương ứng, đồng thời khởi lên, gọi là “phương tiện tu hành trí thù thắng tự tại”. Lại có thể trừ khử Hại Bạn Tùy Miên[26] vốn tùy thuận các Tùy Miên hiện hành, cho nên gọi là Nan Phục. Tuy [các kiến chấp như] phân biệt kiến v.v… nơi Kiến Đạo đă trừ, Câu Sanh Thân Kiến (kiến chấp về cái thân đă có từ lúc mới sanh ra) đă đoạn nơi Tứ Địa, nhưng đạt đến địa vị này, lại trừ khử Hại Bạn [Tùy Miên]. Đấy chính là chẳng c̣n xen lẫn với NKiến, và [các phiền năo căn bản] như tham, sân v.v… riêng khởi lên cũng đều được đoạn trừ nơi Kiến Tu, tức đều nói tổng quát là Kiến Tu phiền năo nan phục năng phục” (có thể chế phục Kiến Tu phiền năo khó thể chế phục), chẳng phải là đạt tới địa vị này rồi mới hàng phục các phân biệt Hoặc! Đây là dùng danh từ “phiền năo” để nói về TChướng nơi đạo này. Xét theo chuyện Hại Bạn Tùy Miên cùng với [các loại phiền năo hiện hành nương vào] Sở Tri Chướng đều bị hàng phục, chẳng thể khởi lên để nói, chẳng phải là địa vị này đă có thể hàng phục tất cả các Câu Sanh Hoặc (các phiền năo bẩm sanh). [Chẳng hạn như] Luy Liệt Tùy Miên[27] phải đạt đến Lục Địa và Thất Địa th́ mới hàng phục được. Lại nữa, dựa theo Lục Địa để nói [các phiền năo câu sanh có thể đoạn trừ nơi Lục Địa], chẳng phải là [nói tới các] câu sanh phiền năo thuộc Thất Địa. Câu sanh phiền năo thuộc Đệ Thất Địa th́ trước khi đạt tới Bát Địa, chúng vẫn c̣n hiện hành. V́ thế, kinh Giải Thâm Mật dạy: “Bát Địa dĩ thượng, duy hữu sở y Sở Tri Chướng tại. Đệ Lục nhất hướng hằng tại quán trung, bất khả khởi Hoặc. Hựu đoạn Sở Tri, năng y Hoặc Chướng, diệc tất cánh phục” (từ Bát Địa trở lên, chỉ c̣n Sở Tri Chướng làm chỗ nương tựa [cho các phiền năo sanh khởi] tồn tại. Đệ Lục Địa một mực luôn ở trong quán, chẳng thể dấy khởi Hoặc. Lại c̣n đoạn trừ các Hoặc Chướng do nương vào Sở Tri Chướng mà sanh khởi, cũng rốt ráo chế phục chúng). [Các bộ luận như] Duy Thức Luận v.v… dựa trên hai thứ Thân Kiến nói “Tứ Địa đă trừ Kiến Tu Hoặc”. Kinh này dựa trên tham v.v… cho nên nói “Ngũ Địa chế phục Kiến Tu Hoặc”, tức là mỗi đằng căn cứ theo một khía cạnh [để luận định], cho nên chẳng mâu thuẫn!

          Hỏi: Xét ra các kinh luận khác nói “từ Sơ Địa trở lên đă có thể chế phục hết thảy phiền năo, nhanh chóng hết sạch [các thứ phiền năo] do cố ư mà sanh khởi”. Cớ sao [ở đây lại nói] Tứ Địa mới có thể chế phục Ngă Kiến v.v… và Ngũ Địa mới có thể chế phục Hại Bạn Tùy Miên?

          Đáp: Nếu xét theo phương diện “có thể chế phục” th́ Sơ Địa đă có thể chế phục [các phiền năo] do cố ư dấy lên. Nay [kinh này] xét theo sự chế phục vĩnh viễn, dẫu cố ư vẫn không thể khiến cho chúng nó dấy lên. Đấy là do đoạn cái để chúng nương vào, hay biết, cho nên có sai biệt. Ở đây, có hai điều khó:

          - Một, khó khăn do kết hợp hai trí.

          - Hai, khó khăn do có thể chế phục phiền năo.

          Trong địa vị này, [cả hai điều khó ấy] đều thực hiện được, cho nên gọi là Nan Thắng. Lại nữa, Đại Trang Nghiêm Luận nói có hai thứ “nan thoái”:

          - Một, sự khó khăn trong việc siêng năng giáo hóa chúng sanh mà tâm chẳng bức năo.

          - Hai, sự khó khăn khi chúng sanh chẳng tuân theo sự giáo hóa, mà tâm vẫn chẳng phiền năo.

          Ư nghĩa của hai thứ “nan thoái” là: “Thoái” có nghĩa là “bỏ”, [“nan thoái” nghĩa là] “do cực khó bèn ĺa bỏ, lui sụt”. Bồ Tát thuộc địa vị này có thể đẩy lùi hai sự khó khăn, thắng được khó khăn, cho nên gọi là Nan Thắng, có nghĩa là có thể đẩy lùi được cái khó thể trừ bỏ, cùng ư nghĩa với “có thể khuất phục cái khó thể khuất phục”. Luận ấy xét theo phương diện “thắng được khó khăn trong lợi tha”, c̣n kinh này xét theo “thắng được khó khăn trong tự lợi”. Mỗi đằng đều dựa theo một nghĩa, chẳng hề mâu thuẫn nhau! Hoặc có thể hiểu là phương tiện tu hành ở đây càng là cực khó đạt được, tức là hai thứ trí tự tại nan thắng ấy cực khó đạt được, tức là Chân Trí và Tục Trí kết hợp thành một thứ cực khó đạt được. Do gồm cả hai cách hiểu ấy mà [ư nghĩa của Nan Thắng] đều được thâu nhiếp trọn hết.

          Trong Đệ Lục Địa, luôn quán đạo lư mười hai nhân duyên liên tục bất đoạn, gọi là “hành pháp liên tục”. Trí thường chánh quán gọi là “liễu liễu”. Đấy là gia hạnh, lại có thể dẫn khởi trí vô phân biệt, gọi là “vô tướng tư duy”. “Tư duy” tức là chánh trí thảy đều hiện tiền. Thành Duy Thức Luận nói: “Trụ trong trí duyên khởi, dẫn xuất Bát Nhă vô phân biệt tối thắng luôn quán trước mặt”. Đại Trang Nghiêm Luận nói: “Trong Lục Địa, nương vào sức Bát Nhă, có thể chẳng trụ trong sanh tử hay Niết Bàn, hai pháp luôn hiện tiền”. Điều này cũng được gộp trong vô tướng tư duy, do chẳng có hai loại tướng sanh tử và Niết Bàn.

          Hỏi: Theo các kinh luận khác, trong Ngũ Địa đă không có hai tướng Niết Bàn và sanh tử, chứng đắc vô trụ, cớ sao Đại Trang Nghiêm Luận nói Lục Địa [mới chẳng có hai tướng ấy]?

          Đáp: Các kinh luận khác dựa theo khía cạnh “tạm có thể” mà nói là Ngũ Địa [đă chẳng có hai tướng sanh tử và Niết Bàn], kinh này xét theo phương diện “thường liên tục” mà nói là Lục Địa. [Các bộ luận như] Duy Thức Luận v.v… nói: “Trong Lục Địa, vô tướng quán nhiều, hữu tướng quán ít. Trong Đệ Thất Địa, lư vô tướng liên tục lâu dài, có thể dùng chân trí để quán vô tế sanh diệt là hai thứ”. Vô tướng tư duy tức là vô phân biệt trí. Ở đây, đáng lẽ phải nói là: “Đối với lư vô tướng, tư duy vô lậu, chẳng gián đoạn”, nhằm loại trừ [sự quán tưởng] hữu tướng gián đoạn thuộc Đệ Lục Địa. V́ thế, các kinh phần nhiều nói đạt đến địa vị này” [th́ mới có thể tư duy vô lậu, chẳng gián đoạn]. Kinh Giải Thâm Mật dạy: “Năng viễn chứng nhập vô gián, vô khuyết, vô tướng tác ư” (có thể chứng nhập tác ư chẳng gián đoạn, chẳng thiếu khuyết, vô tướng từ lâu xa).

          “Giải thoát” là bát giải thoát. “Tam-muội” là ba môn tam-muội, tức vô tướng tư duy, vô tướng giải thoát tam-muội đều đă tu hành từ lâu xa, đạt tới mức tột cùng của công dụng. Duy Thức Luận nói: “Đạt tới vô tướng trụ trong công dụng tột cùng, vượt ngoài đạo của thế gian và Nhị Thừa”. Ba địa đầu (Sơ Địa, Nhị Địa, Tam Địa) là tu tướng, giống như thế gian tu hành Thí và Giới, c̣n Tứ Địa, Ngũ Địa, Lục Địa tu nơi đạo phẩm, Tứ Đế, tướng duyên khởi giống như Nhị Thừa. Do thoát ĺa các pháp ấy, nên gọi là “viễn tu hành”. Ĺa khỏi tế chướng hiện hành, nên gọi là “thanh tịnh vô chướng”.

          Trong Đệ Bát Địa, do tùy ư khởi vô tướng quán, nên gọi là “vô tướng tư duy”. Tu đạt được tự tại, thuần là vô lậu quán, chẳng bị phiền năo lay động, nên nói “chư phiền năo hành bất năng linh động” (các phiền năo hành chẳng thể lay động), tức là hai thứ bất động:

          - Một, Tướng Dụng bất động. Tướng tức là tướng Hữu và Vô, Dụng là công dụng.

          - Hai, phiền năo bất động.

          V́ thế, Duy Thức Luận nói: “Trí vô phân biệt tùy ư hiện tiền, do tướng, dụng, và phiền năo chẳng thể lay động”. Đại Trang Nghiêm Luận cho rằng chỉ là chẳng bị lay động bởi tướng và công dụng, chứ không hề chẳng bị phiền năo lay động. Luận ấy có nói đại lược duyên cớ.

          Trong Đệ Cửu Địa, tùy ư có thể đạt được bốn món vô ngại trí[28] để nói hết thảy các pháp. Do nói gộp chung bốn thứ biện tài, nên đều gọi là Thuyết. Dùng các thứ danh ngôn (danh tướng và ngôn từ) sai biệt để nói, dùng các thứ nghĩa sai biệt để nói, dùng các thứ âm thanh sai biệt để nói, dùng các thứ biện tài sai biệt để nói, do tùy ư nên đều đắc đại tự tại. Do ĺa hai chướng ngu muội, nên nói là “vô hoạn lụy” (không lo sầu). Lại c̣n có thể khiến cho chính ḿnh và người khác [đối với các thứ:] Một là trí huệ, hai là tự tại, ba là bốn món biện tài, đều cùng được tăng trưởng, cho nên gọi là Thiện Huệ. Lại nữa, [do dùng] TBiện Tài bèn có thể nói [khiến cho người nghe] trừ nghi, cho nên gọi là Thiện Huệ.

          Trong Đệ Thập Địa, đạt được Pháp Thân như hư không to lớn. Dùng đại trí huệ như mây phủ khắp hư không, tức là trí sung măn Pháp Thân. Lại c̣n giống như mây, tức là pháp giống như mây do có thể che phủ hết thảy. Lại “nói diệu pháp” như mây tuôn mưa, tức là mây pháp. “Pháp” [ở đây] bao gồm Pháp Thân và pháp được nói. Đại Trang Nghiêm Luận nói: “Do tam-muội môn và Đà-la-ni môn thâu nhiếp hết thảy các nhân của sự huân tập bởi cái Nghe trọn khắp trong A Da Thức. Ví như vầng mây bềnh bồng trọn khắp hư không. Có thể dùng mây huân tập cái Nghe ấy để trong mỗi sát-na, mỗi tướng, mỗi loại hảo, mỗi lỗ chân lông đều tuôn ra vô lượng vô biên mưa pháp sung túc hết thảy chúng sanh đáng được hóa độ. Do có thể như mây tuôn ra mưa pháp, nên gọi là Pháp Vân Địa”. Đấy chính là A Lại Da Thức như hư không, cái Nghe vô lậu huân tập như mây. Ư nói: A Lê Da Thức (A Lại Da Thức) có thể bao trùm, chứa đựng rộng răi như hư không, chủng tánh có thể sanh, hiện ra như mây tuôn mưa. Dùng tất cả sự huân tập thuộc về Định Tổng Tŕ để thâu nhiếp các thứ huân tập khác, khi dấy lên hiện hành, lại có thể thuyết pháp. Chỉ v́ trong đoạn trước đă nói: “Do tam-muội môn và Đà-la-ni môn để thâu nhiếp hết thảy các cái nhân để huân tập cái Nghe, dùng Định và Tổng Tŕ để thâu nhiếp sự huân tập nơi cái Nghe”, chuẩn theo phần sau lại nói “dùng mây huân tập nơi cái Nghe ấy”, tức nói đến hai thứ huân tập đă có ấy. Nếu chẳng phải là như vậy, cớ sao đoạn trước nói “trọn khắp trong A Lê Da Thức”? Như Du Già Sư Địa Luận, kinh Giải Thâm Mật v.v… cũng sánh ví thô trọng[29] như Không, trọn khắp hết thảy. Trí ấy như mây có thể che lấp trọn khắp các thứ thô trọng “như hư không”. V́ thế, Thành Duy Thức Luận nói: “Mây đại pháp trí chứa đựng các đức thủy, che lấp các thô trọng nhiều như hư không, sung măn Pháp Thân”. “Không” (hư không) có ba nghĩa:

          - Một, Pháp Thân như hư không, do thanh tịnh trọn khắp.

          - Hai, A Lê (A Lại Da Thức) như hư không, do chứa đựng trọn khắp hết thảy các chủng tử.

          - Ba, thô trọng như hư không, do trọn khắp hết thảy.

          Mây có ba loại:

          - Một, huân tập cái Nghe như mây.

          - Hai, trí huệ như mây.

          - Ba, từ bi như mây, tức là như kinh Thập Địa nói: “Tự tùng nguyện lực, khởi đại từ bi vân” (từ nguyện lực của chính ḿnh dấy lên mây đại từ bi). Xét theo tự lợi và sự chọn lựa quyết định mà nói là “mây trí huệ”. Xét theo sự lợi tha che chở, liền nói là từ bi. Hai điều ấy đều xét theo sự hiện hành để nói. Nếu xét theo chuyện có thể tuôn mưa hai loại chủng tử của pháp công đức như mây, sẽ giống như bộ Bát Nhă Luận của ngài Vô Trước nói “vị lai như mây”; v́ thế, đều chẳng mâu thuẫn.

          Hỏi: Thập Địa ở đây chính là Thập Trụ trong mười ba trụ[30], hai danh xưng Trụ và Địa có ǵ khác biệt?

          Đáp: Theo lời giải thích trong quyển một của Đại Trang Nghiêm Luận th́ không khác biệt. Luận ấy nói: “Thập Nhất Trụ chính là Thập Nhất Địa, Trụ gọi là Địa”. Trụ đă gọi là Địa th́ rơ ràng là chẳng sai khác. Một cách hiểu khác: Danh xưng Trụ và Địa khác biệt! Luận ấy tự lập câu hỏi: “Thế nào là Địa? Kệ rằng: - V́ nhóm họp các thiện căn, ưa trụ nên nói Trụ. Nhiều lượt đều vô úy, lại gọi tên là Địa”. Trong cách giải thích ấy, hai câu đầu giải thích danh xưng Trụ, hai câu sau giải thích danh xưng Địa. [Luận ấy] nói: “Các vị Bồ Tát v́ thành tựu các thứ thiện căn, trong hết thảy các thời đều thích trụ trong hết thảy các địa. V́ thế, các địa được gọi là Trụ. [Trong tiếng Phạn], Bộ Di Da được gọi là Địa. Bộ có nghĩa là nhiều lượt, Di nghĩa là con số thật sự, Da nghĩa là vô úy. Muốn tiến nhập địa vị cao hơn, phải nhiều lượt đoạn chướng ngại, nhiều lượt đạt được công đức. Đó là ư nghĩa của chữ ‘nhiều lượt’. Địa lấy con số mười làm lượng. Trong mỗi địa, biết phải đoạn chừng ấy chướng ngại, biết đạt được chừng ấy công đức, biết các điều ấy chẳng hư dối. Đó là ư nghĩa của chữ ‘con số thật sự’. Địa vị trên [so với địa vị hiện tại] là chỗ vô úy, các Bồ Tát sợ ở trong địa vị hiện thời sẽ thoái thất công đức tự lợi và lợi tha, bèn tấn cầu địa vị cao hơn. Đó là ư nghĩa của danh xưng Vô Úy. Do ba nghĩa trên đây mà gọi là Địa”.

 

5.6.4.2.2.3.3. Chướng ngại trong mỗi Địa

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Chấp trước hữu tướng ngă pháp vô minh, bố úy sanh tử ác thú vô minh. Thử nhị vô minh chướng ư Sơ Địa.

          ()善男子執著有相我法無明怖畏生死惡趣無明此二無明障於初地

          (Kinh: Thiện nam tử! Vô minh do chấp trước ngă và pháp hữu tướng, vô minh do sợ hăi đường ác sanh tử. Hai thứ vô minh này chướng ngại Sơ Địa).

 

          Tán rằng: Đây là phần thứ ba, nói về chướng ngại trong các Địa. Nhân đó, nói [kèm thêm] chướng ngại nơi Thập Nhất Địa. Trong phần trước, khi hỏi về Bồ Đề, đă bao gồm Phật quả, [do vậy], nay cũng nói về chướng ngại nơi Phật địa. Mười một thứ chướng ngại ấy hợp thành mười một đoạn [kinh văn]. Đoạn này là đoạn đầu tiên, tức là chướng ngại đối với Dị Sanh Tánh. Kinh văn được chia thành ba phần:

          - Một là nhắc lại bậc đương cơ cầu thỉnh (tức câu “thiện nam tử”, đó là danh xưng đức Phật gọi Sư Tử Tướng Vô Ngại Quang Diễm Bồ Tát).

          - Hai là nêu ra cái Thể [của chướng ngại, tức hai thứ vô minh].

          - Ba là biện định đối tượng bị chướng ngại, [tức Bồ Tát thuộc địa vị nào].

          Đối với mười đoạn chướng ngại kia, [kinh văn trong] mỗi đoạn đều gồm hai phần, tức là không có phần truyền bảo người đương cơ.

          “Hữu tướng ngă pháp” tức là cảnh nhị chấp (ngă chấp và pháp chấp). “Tướng” là tướng trạng, chính là tướng trạng trong t́nh kiến của cái tâm chấp trước. Tức là giống như Duy Thức Luận nói: “Dấy lên tâm tướng của chính ḿnh”. Hoặc có thể hiểu [Tướng] là “thể tướng”, c̣n “chấp trước” chính là cái tâm chấp trước. Đấy là chấp trước ngă và pháp đều có bản thể. Nếu chấp pháp là không có, th́ vẫn là chấp vào tướng Có và Không. V́ thế, kinh nói: “Bất ưng trụ pháp, diệc bất trụ phi pháp” (chớ nên trụ vào pháp, cũng chẳng trụ trong phi pháp). “Phi pháp” là không có pháp. Nếu chấp Ngă là không, vẫn là Pháp Chấp. Hai thứ chấp (Ngă Chấp và Pháp Chấp) đều là vô minh đi kèm theo Huệ, cưỡng gọi là vô minh”. Đó là cách giải thích theo lối Thân Cận.

          “Bố úy sanh tử ác thú vô minh” (vô minh do sợ hăi đường ác sanh tử): “Ác thú” (đường ác) ở đây không phải chỉ là nói ba ác đạo, mà c̣n gồm chung cả tám nạn. Chỉ là phân biệt nghiệp bất thiện khởi lên và cái quả cảm vời [do các nghiệp bất thiện ấy], và nghiệp quả phát khởi bởi Sở Tri Chướng cũng được gồm thâu vào đấy. Do đặt tên với ư nghĩa chê trách, cho nên gọi chung là “ác thú”. vậy, “sanh tử ác thú” được nói trong kinh này không chỉ là tam đồ. Nói “bố úy” tức là do các đường ác ấy đáng sợ hăi, nên gọi là “bố úy”. Do loại vô minh ấy sanh khởi các vô minh phẩm, cho nên gọi là Vô Minh. Duy Thức Luận lại nói: “Hoặc nói các chướng phẩm lợi hay độn ấy đều dấy khởi hai thứ ngu muội. Nói theo ư nghĩa vô minh do hai thứ chấp th́ gọi là lợi phẩm. Nói theo ư nghĩa vô minh do đường ác th́ gọi là độn phẩm”. Vô minh cùng dấy lên th́ gọi là “ác thú” (đường ác), cũng là danh xưng mang tính cách chê trách. Hoặc là do Kiến (kiến chấp) v.v… mà mê lư, cho nên chẳng phát khởi ác nghiệp; c̣n độn phẩm th́ do mê nơi Sự nên phát khởi ác nghiệp. Đặt tên theo cái quả th́ gọi là “ác thú tạp nhiễm ngu” (sự ngu muội do tạp nhiễm trong đường ác), do ngu muội là cái gốc. Đấy đều là cách giải thích theo lối Y Chủ.

          Hỏi: Duy Thức Luận nói: “Một là sự ngu muội do chấp trước ngă và pháp”, tức là Dị Sanh Tánh Chướng ở đây. Hơn nữa, Dị Sanh Tánh Chướng chẳng tương ứng với Giả, nương vào phần vị của chủng tử, tức chẳng phải là cái Thể của chủng tử. [Vậy th́] Nhị Chấp (Ngă Chấp và Pháp Chấp) sao lại chính là Dị Sanh Tánh?

          Đáp rằng: Dị Sanh Tánh tuy thật sự đều nương vào [hai thứ chấp], nó cùng với bổn thức trong hiện tại thuộc cùng một địa vị, có thể sanh ra hai thứ chướng phân biệt, được kiến lập trên chủng tử. Dựa theo cái pháp có thể nương vào [chủng tử ấy] mà đặt tên cho môn chướng ấy. Hoặc Dị Sanh Tánh xét theo chủng tử để nương vào mà chấp trước th́ gọi là “chấp trước ngă pháp ngu” (sự ngu muội do chấp trước ngă và pháp). Thể [của Dị Sanh Tánh] chẳng phải là ngu, ngu phẩm (các ngu muội do chẳng thấu hiểu cái Thể ấy) mới gọi là Ngu, như trong phần trước đă dẫn.

          Hỏi: Sơ Địa có thể đoạn trừ phân biệt đối với Nhị Chấp, sao các bộ luận như Duy Thức v.v… chẳng dùng ngay tự thể của Nhị Chấp để đặt tên cho chướng, hoặc từ “cái nương vào” (tâm phân biệt đối với Ngă và Pháp) và “cái để nương vào” (Ngă Chấp và Pháp Chấp) để đặt tên là chướng?

          Đáp: Dị Sanh Tánh diệt th́ Nhị Chấp sẽ đoạn. Lại nữa, gọi là Dị Sanh nhằm vạch rơ nó khác với thánh. Hễ đạt được thánh quả, sẽ đoạn trừ nó. Do chỉ rơ điều đó, bèn đặt tên [như thế].

          Hỏi: Nhập Sơ Địa đă đoạn hai chướng, v́ sao Nhiếp Luận nói “mười thứ vô minh là chẳng ô nhiễm”, nhưng phân biệt Ngă Chấp đă là ô nhiễm rồi?

          Đáp: Trong Nhiếp Luận, ngài Thế Thân đă giải rằng: “Tuy đoạn hai chướng, Nhị Thừa cũng có thể đoạn Phiền Năo Chướng, đó là đức chung [giữa Nhị Thừa và Bồ Tát]”. Ư nói: Xét theo Sở Tri Chướng bất cộng để nói th́ gọi là “chẳng ô nhiễm”. Lại có thể hiểu: Luận ấy nói “chẳng nhiễm” là xét theo sự đoạn trừ do Tu Đạo. Ĺa ngoài mười chướng, bèn nói “mười thứ vô minh” để kiến lập rơ ràng Thập Địa. Trong Thành Duy Thức Luận và bộ Nhiếp Luận của ngài Thiên Thân đều [nêu ra] có hai cách hiểu. Thể tánh của hai mươi hai thứ ngu muội[31] giống như quyển bảy mươi tám của Du Già Sư Địa Luận đă nói.

          Lại xét theo các kinh văn khác, đều nói Sơ Địa đoạn hai thứ ngu muội và sự thô trọng. Kinh này lược đi, chẳng nhắc đến thô trọng, nhưng trong Thành Duy Thức Luận th́ giải thích cả hai. Luận nói: “Nói đến sự thô trọng là nói rơ hai thứ ấy, hoặc hai loại được phát khởi không có tánh kham nhậm”. “Không có tánh kham nhận” là như quyển năm mươi tám của Du Già Sư Địa Luận đă giảng: “Chính là các tánh như chẳng an ổn v.v… trong thức thứ tám”. Duy Thức Luận nói: “Như nhập hai thứ Định, nói đoạn khổ căn. Thiện căn bị đoạn tuy chẳng phải là chủng tử hiện hành, nhưng gọi là thô trọng. Điều này cũng nên như thế”. Đối với ngu muội và mười thứ thô trọng khác, đều dựa theo đó để biết. Giảng giải Dị Sanh Tánh và sự thô trọng của nó th́ như trong sách Thành Duy Thức Nghĩa Đăng đă nói cặn kẽ!

 

          (Kinh) Vi tế học xứ hộ phạm vô minh, phát khởi chủng chủng nghiệp hạnh vô minh. Thử nhị vô minh chướng ư Nhị Địa.

          ()微細學處護犯無明發起種種業行無明此二無明障於二地

          (Kinh: Vô minh do trái phạm sự thủ hộ Học Xứ vi tế, vô minh do phát khởi các thứ nghiệp hạnh. Hai thứ vô minh ấy chướng ngại Nhị Địa).

 

          Tà hạnh chướng chính là Sở Tri Chướng. Một phần Câu Sanh[32] có thể khiến cho ba nghiệp của Bồ Tát lầm lạc, trái phạm. Từ Sơ Địa trở lên, tánh giới đă thành tựu, ắt chẳng cố ư phạm; do tánh ngộ (sai lầm nơi tánh) nên có trái phạm. [Các phiền năo] Sơ Địa chưa đoạn, nhập Nhị Địa sẽ đoạn. “Phát khởi chủng chủng hạnh nghiệp vô minh” (Vô minh do phát khởi các thứ hạnh nghiệp) chính là ba nghiệp được phát khởi do lầm lẫm mà trái phạm. Duy Thức Luận nói: “Một phần Câu Sanh trong Sở Tri Chướng và tam nghiệp do phát khởi lầm lạc mà trái phạm, sẽ ngăn chướng Thi La (Giới) cực thanh tịnh của Nhị Địa. Khi đă nhập Nhị Địa, sẽ có thể vĩnh viễn đoạn trừ. Do Nhị Địa mà nói đoạn hai thứ ngu và sự thô trọng của nó. Một là sự ngu muội do sự lầm lẫn mà trái phạm vi tế, đó chính là một phần Câu Sanh trong ấy. Hai là sự ngu muội trong các nghiệp đạo, tức là trái phạm nơi tam nghiệp do lầm lạc phát khởi. Có thể khởi lên ba nghiệp không chỉ là vô minh, ba nghiệp được phát khởi cũng chẳng phải là ngu muội. Các thứ hành vi ngu muội được phát khởi tương ứng với sự ngu muội đều được gọi chung là Ngu”. Thành Duy Thức lại nói: “Hoặc chỉ khởi nghiệp, chẳng hiểu rơ nghiệp ngu”. Ư nói: Chỉ quan tâm đến cái có thể phát khởi, cái có thể tạo nên mê muội, và sự ngu muội do mê tam nghiệp; đấy cũng đều là giải thích theo lối Y Chủ.

          Hỏi: Quyển thứ tám của Thành Duy Thức Luận nói: “Sở Tri Chướng chẳng thể phát khởi nghiệp”, sao [ở đây] lại nói [Sở Tri Chướng] có thể phát khởi ba nghiệp?

          Đáp: Xét theo khía cạnh [Sở Tri Chướng] chẳng thể phát khởi nghiệp chiêu cảm Dị Thục Quả để thọ sanh trong các đường mà nói là “chẳng thể phát khởi nghiệp”. Đó là nói theo [phương diện Sở Tri Chướng] chẳng thể chiêu cảm tất cả tam nghiệp, chẳng phải là Sở Tri Chướng không thể phát khởi [bất cứ nghiệp nào]. Phật Địa Luận nêu ra hai cái Thể, đều nói đến nghiệp được phát khởi và cái quả đạt được [do cái nghiệp ấy]. “Quả” là hai thứ quả Đẳng Lưu và Tăng Thượng. V́ thế, [Thành Duy Thức Luận và kinh này] chẳng mâu thuẫn.

 

          (Kinh) Vị đắc linh đắc ái trước vô minh, năng chướng thù thắng Tổng Tŕ vô minh, thử nhị vô minh chướng ư Tam Địa.

          ()未得令得愛著無明能障殊勝總持無明此二無明障於三地

            (Kinh: Vô minh do ái nhiễm đối với điều chưa đạt được sẽ khiến cho đạt được, vô minh có thể chướng ngại Tổng Tŕ thù thắng. Hai thứ vô minh ấy chướng ngại Tam Địa).

 

          Tức là Ám Độn Chướng. “Chưa đạt được mà nay đạt được” chính là Định vô lậu thù thắng, bao gồm cả Tu Huệ thù thắng thuộc Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Trong Nhị Địa th́ chưa thể, khi nhập Tam Địa sẽ có thể đoạn chướng ngại ấy. Thể của nó chính là Tham trong Dục Giới ḥa hợp với Sở Tri Chướng, nên nói là “chưa đạt được mà nay đạt được”. “Năng chướng thù thắng Tổng Tŕ” (Có thể chướng ngại Tổng Tŕ thù thắng): Tổng Tŕ có bốn thứ là Pháp, Nghĩa, Chú, đắc Bồ Tát nhẫn. Khi nhập Tam Địa, sẽ có thể đoạn chướng ngại ấy. Tổng Tŕ lấy Niệm Huệ làm tánh. Nay nói thoạt đầu từ Nhị Địa nhập Tam Địa, sẽ có thể đoạn chướng ngại đối với Định, đắc Định thù thắng, phát sanh Tu Huệ thù thắng. Đoạn chướng ngại đối với Tổng Tŕ, sẽ đắc Tổng Tŕ thù thắng, phát khởi đạt được hai thứ huệ thù thắng là Văn Huệ và Tư Huệ. V́ thế, luận Thành Duy Thức nói: “Do Tam Địa nói đoạn hai thứ ngu và sự thô trọng của chúng: Một là ngu muội do tham dục, tức là thứ gây chướng ngại Định thù thắng và Tu Huệ. Hai là sự ngu muội đối với Văn Tŕ đà-la-ni viên măn, tức là thứ gây chướng ngại Văn Huệ và Tư Huệ nơi Tổng Tŕ”. Đấy là v́ tánh tham nơi dục tạo thành tán loạn. Sở Tri Chướng ḥa hợp với dục tham, đều gọi là “dục tham”. Do vậy, nó chướng ngại Định thù thắng và Tu Huệ. Nếu chướng ngại Tổng Tŕ, Văn Huệ, và Tư Huệ, th́ gọi là Biệt Sở Tri, chẳng phải là Sở Chướng. [Do vậy], ư nghĩa được chia thành hai. Hơn nữa, Văn Tư và Văn Tŕ khá gần nhau, cho nên riêng nói [về Văn Tư], chẳng phải là không chướng ngại Tu Huệ, mà là đối với mỗi đằng, đều nói theo phương diện tăng thắng.

 

          (Kinh) Vị trước Đẳng Chí hỷ duyệt vô minh, vi diệu tịnh pháp ái nhạo vô minh. Thử nhị vô minh chướng ư Tứ Địa.

          ()味著等至喜悅無明微妙淨法愛樂無明此二無明障於四地

          (Kinh: Vô minh do chấp trước vào sự vui sướng trong Đẳng Chí. Vô minh do yêu thích pháp thanh tịnh vi diệu. Hai thứ vô minh ấy chướng ngại Tứ Địa).

 

          Tức là chướng ngại do phiền năo vi tế hiện hành. Đẳng Chí chính là môn Định thù thắng. “Vị trước” (chấp trước, mê đắm) là Ái, “hỷ duyệt” là Thọ, tức là lănh thọ môn Định kém hèn, chướng ngại sự tu Định thù thắng. V́ thế, đó là “thắng chướng” (chướng ngại mạnh mẽ). Các kinh luận khác phần nhiều nói về Tham, riêng kinh này nói kèm thêm Thọ. Đó chính là bản thể chánh yếu của Chướng. Tham duyên theo cái Thọ ấy để lănh nhận Định. V́ thế, đều gọi là Chướng. Hoặc sự hỷ duyệt ấy chính là “định ái” (sự yêu mến đối với Định). Pháp thanh tịnh vi diệu là Bồ Đề, pháp ái chính là Lạc. Thể [của Định ái và Pháp ái] chính là tham. Hai thứ vô minh ấy (tham chấp sự vui sướng trong Định, tức là Định Ái, và ham thích pháp vi diệu, tức là Pháp Ái) chính là vô minh tương ứng với hai thứ tham (tham Định và tham pháp). V́ thế, Thành Duy Thức Luận nói: “Một là sự ngu muội do yêu mến Đẳng Chí, tức là trong Định xen lẫn Ái. Hai là ngu muội do pháp ái, tức là trong ấy có Ái xen lẫn vào pháp”. Đấy cũng là giải thích theo cách Y Chủ.

          Tứ Địa có thể đoạn hai thứ chướng này, do trong Tứ Địa vận dụng pháp quán thuộc về Bồ Đề phần. V́ vậy, Duy Thức Luận nói: “V́ pháp thuộc Bồ Đề phần đặc biệt trái nghịch nó”. Định được nói ở đây cũng kiêm Huệ. Nói “pháp thuộc về Bồ Đề phần” th́ cũng có giáo pháp và các pháp thù thắng khác, cũng như trí huệ thù thắng. Trong Đệ Tam Địa, tuy chứng Định thù thắng và đạt được giáo pháp thù thắng v.v… nhưng vẫn c̣n sanh ái chấp, chẳng thể thực hiện phép Quán thuộc Bồ Đề phần. V́ thế, nhập Tứ Địa, thực hiện pháp Quán thuộc Bồ Đề phần, [phép Quán ấy] đặc biệt trái nghịch hai thứ vô minh ấy. Do vậy, đă nhập Tứ Địa sẽ có thể đoạn hai thứ [vô minh] ấy. Nói cặn kẽ th́ như trong Thành Duy Thức Luận [đă nói].

          Hỏi: Đặc biệt trái nghịch” là như thế nào?

          Đáp: Do tu pháp thuộc Bồ Đề phần trong Tứ Địa, trước hết là quán Tứ Niệm Trụ, quán hết thảy các pháp đều là vô ngă. V́ thế, đặc biệt trái nghịch Ngă Chấp. Do đó, trừ chướng do phiền năo vi tế hiện hành. Chướng ấy chính là Câu Sanh Thân Kiến. Đối với các Hoặc và tùy phiền năo tương ứng với Định Ái và Pháp Ái, lại quán Hoại Duyên Pháp Niệm Xứ, đặc biệt trái nghịch các thứ Định Ái, Pháp Ái v.v… Lại nữa, theo phần trước, Tam Địa vừa mới đắc Định thù thắng và giáo pháp thù thắng, cho nên có ái chấp. Trong Tứ Địa, đắc pháp càng thù thắng hơn, cho nên có thể trừ các thứ ái chấp đó. Lại c̣n có thể chứng đắc “chẳng nhiếp thọ Như”, [do vậy], có thể đặc biệt đối trị chúng.

          Hỏi: Trong các kinh luận khác, các thứ như tướng vô minh ban đầu v.v… đều được gọi là Chướng, cớ sao Đẳng Chí Ái (sự yêu mến đối với Định) chẳng gọi là Chướng?

          Đáp: Hăy nên biết mười thứ vô minh gây chướng ở đây đều soi rọi lẫn nhau. Như đối với chướng ban đầu (chướng thuộc Sơ Địa) chỉ nói Ngă và Pháp, nhưng thật ra cũng bao gồm các thứ Hoặc khác. Do chướng hiển lộ nơi Tứ Địa v.v… không chỉ là một pháp, liền nói chung là “phiền năo vi tế” v.v… Nói riêng theo chướng mạnh mẽ nhất, bèn nói là “Ngă Kiến và hai thứ ái (Định Ái và Pháp Ái)” v.v… Nếu xét chung [các chướng] th́ nói tổng quát, c̣n đối với hai mươi hai loại vô minh [thuộc mười một Địa ở đây] th́ phần nhiều là nói riêng biệt [theo loại vô minh nào gây chướng mạnh mẽ nhất trong mỗi địa]. Định Ái v.v… ở đây chẳng phải là tên riêng của mười chướng, đối với các chướng khác cũng nên phải [luận định] như vậy.

 

          (Kinh) Dục bối sanh tử vô minh, hy thú Niết Bàn vô minh. Thử nhị vô minh chướng ư Ngũ Địa.

          ()欲背生死無明希趣涅槃無明此二無明障於五地

          (Kinh: Vô minh do muốn trái nghịch sanh tử, vô minh do muốn hướng đến Niết Bàn. Hai thứ vô minh ấy chướng ngại Ngũ Địa).

 

          Tức là sự ngu muội do chống trái sanh tử. Mong tiến nhập Niết Bàn chính là sự ngu muội do ưa thích Niết Bàn. Do chẳng thấu hiểu chân thể của Niết Bàn và sanh tử chẳng khác biệt, cho nên có ưa thích hay chán ghét. Đó chính là chướng ngại bát Niết Bàn của các thừa thấp hơn. Lại c̣n do vận dụng phép Quán thù thắng thuộc Bồ Đề phần, nhưng chưa thể chứng đắc “Chân Như chẳng sai biệt”. Đó là chướng ngại của Ngũ Địa. Chướng được nói trong phần trước và phần sau đều dựa theo đây để hiểu. Do trong Ngũ Địa, quán Tứ Đế, hai trí Chân và Tục hợp lại song hành. Do có thể chứng đắc “Như vô sai biệt”, nên cái trí “có thể chứng” sẽ được gọi là Vô Sai Biệt Đạo. V́ thế, Thành Duy Thức Luận nói: “Khi nhập Ngũ Địa, sẽ có thể vĩnh viễn đoạn trừ chướng ngại đối với đạo vô sai biệt trong Ngũ Địa. V́ thế, có thể trừ chướng ấy”.

 

          (Kinh) Quán hạnh lưu chuyển vô minh, thô tướng hiện tiền vô minh. Thử nhị vô minh chướng ư Lục Địa.

          ()觀行流轉無明麁相現前無明此二無明障於六地

          (Kinh: Vô minh do quán hạnh lưu chuyển. Vô minh do thô tướng hiện tiền. Hai thứ vô minh ấy chướng ngại Lục Địa).

 

          “Quán hạnh lưu chuyển” tức là vô minh do duyên theo Khổ và Tập. “Thô tướng hiện tiền” tức là quán tịnh tướng của Diệt và Đạo. Đó là chướng ngại do thô tướng hiện hành. Do trong Ngũ Địa, tuy quán Tứ Đế cũng là quán vô tướng, nhưng phần nhiều là quán hữu tướng, [do vậy] gây chướng ngại cho vô tướng quán nơi Lục Địa. V́ thế, nhập Lục Địa, sẽ có thể đoạn chướng này.

 

          (Kinh) Vi tế chư tướng hiện hành vô minh, tác ư hân nhạo vô tướng vô minh. Thử nhị vô minh chướng ư Thất Địa.

          ()微細諸相現行無明作意欣樂無相無明此二無明障於七地

          (Kinh: Vô minh do các tướng vi tế hiện hành, vô minh do tác ư yêu thích vô tướng. Hai thứ vô minh ấy chướng ngại Thất Địa).

 

          Tức là chướng ngại do tế tướng (tướng vi tế) hiện hành. “Các tướng vi tế tức là tướng sanh vi tế. “Tác ư yêu thích vô tướng” chính là quán tướng diệt vi tế. Do Lục Địa tu tập Duyên Khởi Quán, thấy có sanh diệt; [do vậy], chướng ngại đạo vô tướng mầu nhiệm của Thất Địa, chưa thể từ Không mà khởi hạnh Hữu thù thắng. V́ thế, nhập Thất Địa để trừ [chướng ngại ấy].

 

          (Kinh) Ư vô tướng quán công dụng vô minh, chấp tướng tự tại vô minh. Thử nhị vô minh chướng ư Bát Địa.

          ()於無相觀功用無明執相自在無明此二無明障於八地

          (Kinh: Vô minh do quán công dụng nơi vô tướng, vô minh do chấp tướng tự tại. Hai thứ vô minh ấy chướng ngại Bát Địa).

 

          Tức là chướng ngại do hành gia hạnh trong vô tướng. Trong Đệ Thất Địa, tuy có thể thực hiện vô tướng quán lâu dài, nhưng phải đổ công dốc sức th́ mới quán được lâu dài, tức là có sự ngu muội nơi gia hạnh. Do chưa đoạn ngu muội, cho nên dẫu khởi gia hạnh mà chẳng được tự tại trong vô tướng quán. “Chấp tướng” tức là trong Thất Địa tuy hiện tướng và cơi nước, nhưng do có chủng tử chấp tướng, cho nên đối với tướng và cơi đă hiện cũng chẳng tự tại. “Chẳng tự tại” là nói bao gồm cả vô tướng. Lại c̣n có bốn thứ tự tại, tức là tướng, cơi nước, trí và nghiệp. Trong Bát Địa, đă đạt được hai thứ [tự tại] là tướng và cơi nước. Cửu Địa đạt được trí, Thập Địa đạt được nghiệp. Tướng thuận theo ḷng muốn mà hiện ra các loại vàng, bạc v.v… bao gồm nhiều loại. Cơi nước tùy ḷng muốn mà hiện, hoặc lớn, hay nhỏ, tức là vẫn hạn cuộc trong tướng. Nay nói “tướng” tức là đă bao gồm cả cơi nước. V́ thế, nhập Bát Địa sẽ có thể đoạn chướng ấy.

          Hỏi: Đă nhập Bát Địa th́ là vô tướng tự tại, cớ sao [Bát Địa Bồ Tát] đắm ch́m trong tịch tĩnh, chẳng muốn lợi sanh?

          Đáp: Nói “tự tại” là nói theo [phương diện] vô công dụng, tùy ư có thể dấy lên tự lợi, chẳng xét theo lợi tha. Do vậy, chẳng mâu thuẫn!

 

          (Kinh) Ư sở thuyết nghĩa, cập danh, cú, văn, thử nhị vô lượng vị đắc thiện xảo vô minh. Ư Từ Biện Tài bất tùy ư vô minh. Thử nhị vô minh chướng ư Cửu Địa.

          ()於所說義及名句文此二無量未得善巧無明於詞辯才不隨意無明此二無明障於九地

          (Kinh: Vô minh do đối với nghĩa và danh, cú, văn đă nói, đối với hai thứ vô lượng ấy, chưa đạt được thiện xảo. Vô minh do chẳng tùy ư nơi Từ Biện Tài. Hai thứ vô minh ấy chướng ngại Cửu Địa).

 

          Tức là chướng ngại do chẳng muốn thực hiện lợi tha! Đối với “nghĩa đă nói” th́ chính là Nghĩa Vô Ngại Giải, “danh, cú, văn” là Pháp Vô Ngại Giải. Do chưa được tự tại trong hai thứ ấy (kinh văn gọi Pháp Vô Ngại Giải và Từ Vô Ngại Giải là “hai thứ vô lượng”), bèn nói là “chưa đạt được thiện xảo”. “Từ” là âm thanh thuộc các phương. V́ thế, Thành Duy Thức Luận nói: “Pháp [Vô Ngại Giải] duyên theo danh, cú, v.v…. Từ [Vô Ngại Giải] duyên theo âm thanh”. Do vậy, Từ là âm thanh. “Biện tài” chính là thất biện tài[33]. Do chẳng được tự tại nơi âm thanh trong hiện tại và bảy thứ biện tài, cho nên gọi là “chẳng tùy ư”. Do Đệ Bát Địa chẳng muốn hành hạnh lợi tha, chưa thể trừ sự ngu muội đối với bốn thứ Vô Ngại (Tứ Biện Tài). V́ thế, nhập Cửu Địa sẽ có thể vĩnh viễn đoạn trừ.

 

          (Kinh) Ư đại thần thông, vị đắc tự tại biến hiện vô minh, vi tế bí mật vị năng ngộ giải sự nghiệp vô minh. Thử nhị vô minh chướng ư Thập Địa.

          ()於大神通未得自在變現無明微細祕密未能悟解事業無明此二無明障於十地

            (Kinh: Vô minh do chưa được tự tại biến hiện thần thông to lớn. Vô minh do chưa thể ngộ giải sự nghiệp bí mật vi tế. Hai thứ vô minh ấy chướng ngại Thập Địa).

 

          Tức là chướng ngại “chẳng được tự tại trong các pháp”. Năm thứ thần thông [của vị Bồ Tát thuộc địa vị này] vượt xa hàng Nhị Thừa và các địa vị Bồ Tát trước đó. Lại có thể lợi ích rộng khắp do đạt được tự tại, bèn gọi là “đại thần thông”. “Biến” là chuyển đổi, “hiện” là hóa hiện, từ Không mà bỗng Có. “Vi tế bí mật” mây đại pháp trí và những thứ được chứa đựng trong ấy. “Tế” là diệu, tức là vi diệu, do đă ĺa chướng, do tột bậc khó được. Do khó hiểu, bèn gọi là “bí mật”. Chẳng thể ngộ giải, bèn là vô minh. “Sự nghiệp” chính là sự nghiệp lợi sanh. Trong Đệ Cửu Địa, vô minh gây chướng các thứ ấy, cho nên nhập Thập Địa liền có thể vĩnh viễn đoạn trừ.

 

          (Kinh) Ư nhất thiết cảnh vi tế Sở Tri Chướng ngại vô minh. Cực tế phiền năo thô trọng vô minh. Thử nhị vô minh chướng ư Phật địa.

          ()於一切境微細所知障礙無明極細煩惱麁重無明此二無明障於佛地

          (Kinh: Vô minh do Sở Tri Chướng vi tế gây chướng ngại trong hết thảy cảnh. Vô minh do cực vi tế phiền năo thô nặng. Do hai thứ vô minh ấy mà chướng ngại Phật địa).

 

          Đây chính là loại chướng ngại thứ mười một. Không, Hữu, Lư, Sự gọi là “hết thảy cảnh”. Diệu Quán Sát Trí quán như la hộc[34]. Đấy chính là do có Sở Tri Chướng vi tế bao gồm hiện hành và chủng tử, kể cả chủng tử do bảy thức cùng huân tập thành, mà cũng do chưa hiểu phân minh đối với Pháp Chấp hiện hành trong thức thứ bảy. “Cực tế phiền năo thô trọng” chính là chủng tử phiền năo vi tế cũng thông với thức thứ bảy. Phiền năo hiện hành th́ khi nhập Bát Địa đă hoàn toàn chẳng dấy lên. Nếu chủng tử của nó chẳng đoạn tại Đệ Thập Địa, sẽ gây chướng ngại cho [việc chứng nhập] Phật địa. Nó sẽ trừ kh bởi Vô Gián Đạo trong Kim Cang Định, chẳng giống như trong các địa khác: Đă nhập Địa rồi mới đoạn trừ.

          Kinh này xét theo hai mươi hai loại vô minh để biện định sự sai biệt giữa các chướng, cũng tức là gom chúng thành mười một chướng. [Nói theo] Tổng th́ gọi là Chướng, [nói theo] Biệt th́ gọi là Ngu. Đấy là gộp chung mười một loại chướng và hai mươi hai loại ngu, do các giáo bất đồng, sợ rườm rà nên chẳng trần thuật [cặn kẽ].

 

5.6.4.2.2.3.4. Pháp để tu trong các địa

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Bồ Tát Ma Ha Tát ư Sơ Địa trung hành Thí Ba La Mật, ư Đệ Nhị Địa hành Giới Ba La Mật, ư Đệ Tam Địa hành Nhẫn Ba La Mật, ư Đệ Tứ Địa hành Cần Ba La Mật, ư Đệ Ngũ Địa hành Định Ba La Mật, ư Đệ Lục Địa hành Huệ Ba La Mật, ư Đệ Thất Địa hành Phương Tiện Thắng Trí Ba La Mật, ư Đệ Bát Địa hành Nguyện Ba La Mật, ư Đệ Cửu Địa hành Lực Ba La Mật, ư Đệ Thập Địa hành Trí Ba La Mật.

          ()善男子菩薩摩訶薩於初地中行施波羅蜜於第二地行戒波羅蜜於第三地行忍波羅蜜於第四地行勤波羅蜜於第五地行定波羅蜜於第六地行慧波羅蜜於第七地行方便勝智波羅蜜於第八地行願波羅蜜於第九地行力波羅蜜於第十地行智波羅蜜

          (Kinh: Thiện nam tử! Bồ Tát Ma Ha Tát trong Sơ Địa hành Thí Ba La Mật, trong Đệ Nhị Địa hành Giới Ba La Mật, trong Đệ Tam Địa hành Nhẫn Ba La Mật, trong Đệ Tứ Địa hành Cần Ba La Mật, trong Đệ Ngũ Địa hành Định Ba La Mật, trong Đệ Lục Địa hành Huệ Ba La Mật, trong Đệ Thất Địa hành Phương Tiện Thắng Trí Ba La Mật, trong Đệ Bát Địa hành Nguyện Ba La Mật, trong Đệ Cửu Địa hành Lực Ba La Mật, trong Đệ Thập Địa hành Trí Ba La Mật).

 

          Tán rằng: Phần thứ tư là [nói về] các pháp để tu tập trong các địa. Phân đoạn kinh văn dễ thấy.

          Hỏi: B̕