Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ
Quyển thứ năm
Đời Đường Tam Tạng pháp sư
Nghĩa Tịnh vâng chiếu dịch kinh
Dịch kinh sa-môn Huệ Chiểu soạn sớ
金光明最勝王經疏
卷第五
唐三藏法師義淨奉制譯
翻經沙門慧沼撰
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Đức Phong và Huệ Trang
Phần 9
5.7. Phẩm thứ bảy:
Dùng thí dụ về hoa sen để tán thán (Liên Hoa Dụ
Tán phẩm đệ thất,
蓮華喻讚品第七)
Phẩm
Liên Hoa Dụ Tán, chia thành ba môn phân biệt:
- Một,
ư nghĩa v́ sao có phẩm này?
-
Hai, giải thích tên gọi [của phẩm này].
-
Ba, giải trừ các vấn nạn.
5.7.1. Ư nghĩa v́ sao có
phẩm này?
Nói
về ư nghĩa của phẩm này, ngài Diệu Tràng thầm
nghĩ: Đức Thế Tôn Đạo Sư gieo trồng cái nhân thù thắng
đă lâu, v́ sao thọ mạng ngắn ngủi? Bốn
phương Phật bỗng hiện trong thất, trần
thuật thọ lượng vô biên, tâm phàm phu há thể suy
lường? Do nghe thọ mạng [Như Lai] dài lâu, [ngài Diệu
Tràng] nguyện đắc Bồ Đề, nói ra cái quả
để cầu. Để cầu th́ cần phải khởi
hạnh; do vậy, ban đêm Ngài nằm mộng thấy cái
trống bằng vàng dạy phương cách sám hối. Nay
chính là hạnh thù thắng. Cảm mộng đều chẳng
phải là không có nhân duyên, [do vậy],
đại chúng ngờ vực, chẳng
biết. V́ thế, đức Phật bảo họ: Trong
quá khứ, có vua tên Kim Long Chủ, dùng thí dụ hoa sen để
tán thán mười phương Phật. Do cái nhân thù thắng
ấy mà cảm giấc mộng tốt lành này. Muốn cho
đại chúng trong hội thuở ấy trừ nghi hoặc,
cùng gieo cái nhân mầu nhiệm; cho nên sau phẩm trước, liền có phẩm
này sanh khởi.
5.7.2. Giải thích danh
xưng của phẩm này
Giải
thích danh xưng th́ Liên Hoa là Dụ, Tán Thán là pháp. “Liên Hoa”
gọi thông tục là Phù Cừ (芙蕖),
c̣n gọi là Phù Dung (芙蓉).
Hoa là Hạm Đạm (菡萏)[1];
hạt của nó được
gọi là Liên. Liên hàm nghĩa “gương sen”, cũng
chính là cái đài sen. Hạt sen được gọi là
Đích (菂),
phần tim của hạt sen được gọi là Ư (薏). Có nghĩa là Hoa được ví
như cái nhân, c̣n Liên là sánh ví cái Quả. Thí dụ ở
trong nhân, trước và sau đối ứng nhau, cùng chứa
đựng nhân và quả. Lại nữa, hoa sen sanh từ
bùn lầy, nhưng chẳng bị nước bùn nhuốm bẩn, ví
như tu hành tuy ở trong địa vị ô nhiễm, ắt
có thể thoát khỏi bùn Hoặc chướng. Nở x̣e
vượt khỏi mặt nước, vẫn chẳng bị
bùn lầy nhuốm bẩn, ví như nhân lẫn quả
đều thù thắng, đều có thể ĺa nhiễm.
Thí dụ liên hoa này bao gồm tán thán Năng và Sở. Sự tán thán sánh ví như liên
hoa, do chẳng
nhuốm bẩn cái tâm tán thán. Thể của sự tán thán
là trí, tác dụng của tán thán là ngôn từ. Dùng tâm thanh tịnh
phát khởi ngôn từ cũng giống như hoa sen.
Nhưng ư nghĩa ở đây là tán thán diệu đức
của Phật giống như hoa sen; v́ vậy, phẩm này
nói: “Thường dĩ liên hoa dụ tán, xưng thán thập
phương Phật” (thường dùng lời tán thán bằng
thí dụ hoa sen để ca ngợi mười
phương Phật). Phần kệ tụng lại nói: “Tán
Phật công đức dụ liên hoa” (tán thán công đức của Phật ví như hoa sen). “Dĩ”
có nghĩa là dùng, [tức là] thường dùng hoa sen làm thí dụ
để tán thán Phật. Phẩm này nói về điều
đó. V́ thế, đặt tên như vậy.
5.7.3. Giải trừ vấn
nạn
Giải
trừ vấn nạn, [th́ có kẻ gạn rằng]: Sao
không ngay sau phẩm Mộng Kiến Sám Hối trong phần
trước liền nói phẩm này, [phải chờ đến]
nay mới nói vậy?
Đáp:
Do cơ nghi của [đại chúng] trong hội thuở ấy
ưa thích vậy. Lại nữa, mộng thấy sám hối
là điềm báo trước cho sự diệt tội. Hễ
ngộ, hăy nên cầu diệt tội, tiến tới tu hạnh
thù thắng. Do là điều phải học chánh yếu
tương ứng với cái nhân trong hiện tại, cho nên
phải nói trước, c̣n chuyện chứng thành trong thuở
trước sẽ được
nói sau.
5.7.4. Giải thích kinh
văn
5.7.4.1. [Đức Phật]
nêu ra chuyện muốn nói, răn truyền đại chúng
hăy nghe
(Kinh)
Nhĩ thời, Phật cáo Bồ Đề thụ thần:
- Thiện nữ thiên! Nhữ kim ưng tri Diệu Tràng dạ
mộng, kiến diệu kim cổ, xuất đại âm
thanh, tán Phật công đức, tịnh sám hối pháp. Thử
chi nhân duyên, ngă vị nhữ đẳng quảng thuyết
kỳ sự. Ưng đương đế thính, thiện
tư niệm chi.
(經)爾時佛告菩提樹神:善女天!汝今應知妙幢夜夢,見妙金鼓出大音聲讚佛功德并懺悔法。此之因緣,我為汝等廣說其事,應當諦聽善思念之。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo thần cây Bồ
Đề: - Thiện nữ thiên! Bà hăy nên biết Diệu
Tràng đêm mộng thấy cái trống bằng vàng mầu
nhiệm phát ra âm thanh to lớn, tán thán công đức của
Phật và nói pháp sám hối. Ta sẽ v́ các vị nói cặn
kẽ chuyện nhân duyên ấy. Hăy nên lắng nghe, khéo suy
nghĩ lấy).
Tán
rằng: Kinh văn của phẩm này được chia
thành bốn đoạn:
- Một,
nêu ra chuyện muốn nói, răn truyền đại chúng
hăy nghe.
-
Hai, chính thức v́ họ rộng nói, khiến cho họ biết
túc duyên.
-
Ba, từ “Diệu Tràng, nhữ đương tri” (Diệu
Tràng, ông hăy nên biết) trở đi, kết lại bằng
cách dung hội xưa và nay để hứa khả thọ
kư.
- Bốn,
đại chúng nghe xong, phát tâm nguyện sẽ tu học.
Trong bài tụng cuối cùng, thần cây tên là Kiên Lao, cũng
gọi là Địa
Thần. Cây có tên là Tất Bát La (Pippala), do Phật thành
đạo ở nơi đó, nên gọi là Bồ Đề
Thụ (cây giác ngộ). Đoạn này chính là ư đầu
tiên.
5.7.4.2. V́ họ rộng
nói, khiến cho họ kết túc duyên
5.7.4.2.1. Nêu bày
(Kinh) Quá khứ hữu vương, danh Kim
Long Chủ, thường dĩ liên hoa dụ tán xưng thán
thập phương tam thế chư Phật.
(經)過去有王名金龍主,常以蓮華喻讚稱歎十方三世諸佛。
(Kinh:
Trong quá khứ, có vua tên là Kim Long Chủ, thường dùng
bài tán thán thí dụ
hoa sen để ca ngợi mười phương ba đời
chư Phật).
Tán
rằng: Đây là rộng nói. Gồm hai ư: Một là nêu bày, hai
là trần thuật. Đây là phần nêu bày.
5.7.4.2.2. Trần thuật
5.7.4.2.2.1. Tán thán
5.7.4.2.2.1.1. Tán thán sắc
thân
5.7.4.2.2.1.1.1. Kiền
thành nêu bày lời tán thán
(Kinh) Tức vị đại chúng, thuyết
kỳ tán viết: - Quá khứ, vị lai, hiện tại Phật,
an trụ thập phương thế giới trung, ngă kim
chí thành khể thủ lễ, nhất tâm tán thán chư tối
thắng.
(經)即為大眾說其讚曰:過去未來現在佛,安住十方世界中,我今至誠稽首禮,一心讚歎諸最勝。
(Kinh:
Liền v́ đại chúng, nói bài tán ấy rằng: - Quá
khứ, vị lai, hiện tại Phật, an trụ trong
mười phương thế giới, con nay chí thành dập
đầu lễ, một dạ tán thán các tối thắng).
Tán rằng.
Đây là nói [kệ tán thán]. Phần này gồm ba mươi lăm bài tụng,
chia đại lược thành ba phần:
-
Hai mươi bài tụng đầu là tán thán.
-
Một bài tụng kế đó là hồi hướng.
-
Mười bốn bài tụng sau đó là phát nguyện.
Phần
tán thán lại có hai đoạn:
- Một,
mười lăm bài tụng đầu tán thán sắc thân của Phật.
-
Sau đó, từ “sở hữu quá khứ” trở
đi, gồm năm bài tụng, tán thán danh thân của Phật.
Trong phần
tán thán sắc thân, bài tụng đầu tiên là kiền thành
nêu bày lời tán thán. Mười ba bài tụng kế đó
là tán thán riêng biệt theo từng đức. Bài tụng cuối
cùng để kết lại ư tán thán vô biên. Bài tụng này
chính là phần đầu tiên. Câu thứ nhất trần
thuật đối tượng đáng nên tán thán (tam thế
chư Phật). Câu kế đó tán thán trụ xứ (mười
phương thế giới). Câu kế tiếp là dốc trọn
ba nghiệp lễ bái. “Chí” có nghĩa là tập trung, là
“chuyên”. “Thành” là chân thật.
“Khể” là “tới”, “Thủ” là đầu. Áp
đầu chạm đất, cho nên nói là “khể thủ”.
“Lễ” là kính. Nay gồm
trọn ba nghiệp, không chỉ là dập đầu lễ,
nêu rơ: Dùng thân nghiệp hiển lộ sự cung kính, ḥng bộc
lộ [sự cung kính] trong tâm và ngôn ngữ. Chuyên chú nơi
cảnh là “nhất tâm”, chẳng phải chỉ là
trong một sát-na v.v… Câu kế tiếp là nêu chung: Nói đến
điều đẹp đẽ là Tán, tùy theo sự mà dùng
thí dụ để xưng dương th́ gọi là Thán.
5.7.4.2.2.1.1.2. Tán thán
riêng biệt theo từng đức
(Kinh) Vô thượng thanh tịnh Mâu Ni Tôn,
thân quang chiếu diệu như kim sắc.
(經)無上清淨牟尼尊,身光照耀如金色。
(Kinh:
Đấng Mâu Ni thanh tịnh vô thượng, thân quang chói
ngời như sắc vàng).
Tán
rằng: Kế đó, thuận theo từng đức để
tán thán riêng. Trong phần tán thán, tán thán xen lẫn tướng
và hảo (tùy h́nh hảo). Do hảo tùy thuộc tướng,
cho nên tán thán xen lẫn. [Phần
tán thán này] gồm mười sáu bài tán thán, mười
một bài tán thán tướng, năm bài tán thán hảo.
Đây là bài thứ nhất, nửa đầu bài tụng tán thán
tướng thứ mười bốn tức là “da
nơi thân kim sắc”. Kinh Đại Bát Nhă, quyển ba
trăm tám mươi mốt chép: “Phật vị Thiện
Hiện thuyết tam thập nhị tướng, bát thập tùy
hảo” (đức Phật v́ ngài Thiện Hiện
(Tu Bồ Đề) nói ba mươi hai tướng và tam mươi tùy hảo); đối
với những điều trong phần sau, cứ
chuẩn theo đấy để biết. Kinh ấy nói: “Thập
tứ, Thế Tôn thân b́ giai chân kim sắc, quang khiết, hoảng
diệu như diệu kim đài, chúng bảo trang nghiêm,
chúng sở nhạo” (Tướng
thứ mười bốn, da nơi thân đức Thế
Tôn đều là sắc vàng ṛng, sáng sạch, chói ngời
như đài vàng mầu nhiệm, các thứ báu trang nghiêm
khiến cho mọi
người vui thích), hoặc [có thể hiểu bài tụng này] tán
thán thân Phật thường có quang minh.
(Kinh)
Nhất thiết thanh trung tối vi thượng, như
Đại Phạm hưởng chấn lôi âm.
(經)一切聲中最為上,如大梵響震雷音。
(Kinh:
Trong hết thảy tiếng, tối thượng nhất.
Như Đại Phạm vang rền tiếng sấm).
Tán
rằng: Thứ hai là tán thán tướng thứ hai mươi
bảy, tức tướng Phạm âm. Như kinh chép: “Thế
Tôn phạm âm từ vận ḥa nhă, tùy chúng đa thiểu, vô bất
đẳng văn. Kỳ thanh cộng chấn, do như
thiên cổ, phát ngôn uyển ước như Tần Già âm”
(Phạm âm của đức Thế Tôn th́ từ ngữ và
thanh vận ḥa nhă, thuận theo đại chúng nhiều hay
ít mà không ai chẳng đều được nghe như
nhau. Âm thanh ấy cùng vang rền như trống trời, lời
lẽ thốt ra êm ái, uyển chuyển như tiếng chim
Ca Lăng Tần Già).
(Kinh)
Phát thái dụ nhược hắc phong vương, uyển
chuyển toàn văn cám thanh sắc.
(經)髮彩喻若黑蜂王,宛轉旋文紺青色。
(Kinh:
Màu tóc ví như ong chúa đen,
sắc xanh biếc cuộn tṛn uyển chuyển).
Tán
rằng: Điều thứ ba là tán thán tóc Phật đẹp
đẽ, như kinh dạy: “Thế Tôn thủ phát tu
trường, cám thanh, trù mật, bất bạch” (Tóc
nơi đầu của đức Thế Tôn dài rậm, sắc
xanh biếc, dày đặc, chẳng trắng).
(Kinh)
Xỉ bạch tề mật như kha tuyết, b́nh chánh hiển
hiện, hữu quang minh.
(經)齒白齊密如珂雪,平正顯現有光明。
(Kinh:
Răng trắng khít khao như kha tuyết, ngay bằng, rơ
ràng, có quang minh).
Tán
rằng: Điều thứ tư là tán tướng
răng. Như kinh dạy: “Nhị thập tam, Thế Tôn
xỉ tướng tứ thập, tề b́nh, tịnh mật, căn
thâm, bạch du kha tuyết” (Tướng
thứ hai mươi ba là răng Thế Tôn có bốn
mươi cái, ngay ngắn, sạch khít, gốc sâu, trắng
hơn kha tuyết).
(Kinh)
Mục tịnh vô cấu diệu đoan nghiêm, do như quảng
đại thanh liên diệp. Thiệt
tướng quảng trường cực nhu nhuyễn, thí
như hồng liên xuất thủy trung.
(經)目淨無垢妙端嚴,猶如廣大青蓮葉,舌相廣長極柔軟,譬如紅蓮出水中。
(Kinh:
Mắt sạch chẳng nhơ, diệu đoan nghiêm, ví
như cánh sen xanh rộng lớn. Tướng lưỡi rộng
dài, cực
mềm mại. Ví
như sen hồng vươn khỏi nước).
Tán
rằng: Điều thứ năm là tán thán tướng mắt.
Như kinh dạy: “Nhị thập cửu, Thế Tôn nhăn
t́nh cám thanh,
tiễn bạch, hồng hoàn gián sức, kiểu khiết
phân minh” (Tướng hai mươi chín là tṛng
mắt đức Thế Tôn xanh biếc, tươi trong,
có sắc hồng vờn quanh, trong sáng phân minh). Điều
thứ sáu là tướng lưỡi, như kinh dạy: “Nhị
thập lục, Thế Tôn thiệt tướng khiết tịnh
quảng trường, năng phú diện luân chí phát nhĩ
tế” (Tướng thứ hai mươi sáu là lưỡi
của đức Thế Tôn sạch sẽ, thanh tịnh,
rộng, dài, có thể che khuôn mặt đến chỗ tóc
giáp tai).
(Kinh)
Mi gian thường hữu bạch hào quang, hữu toàn uyển
chuyển pha lê sắc. Mi tế
tiêm trường loại sơ nguyệt, kỳ sắc
quang diệu tỷ phong vương.
(經)眉間常有白毫光,右旋宛轉玻瓈色,眉細纖長類初月,其色光耀比蜂王。
(Kinh:
Giữa mày thường có hào quang trắng. Màu pha lê
cuộn theo chiều phải. Mày dài nhỏ mịn như trăng non,
màu sắc rạng ngời dường ong chúa).
Tán
rằng: Điều thứ bảy là tán thán tướng thứ
ba mươi mốt, tức tướng lông mày. Điều
thứ tám là tán thán [tùy h́nh hảo thứ] ba mươi chín
là “lông mày đẹp đẽ”.
(Kinh)
Tỵ cao tu trực như kim đĩnh, tịnh diệu
quang nhuận tướng vô khuy. Nhất
thiết thế gian thù diệu hương, văn thời
tất tri kỳ sở tại.
(經)鼻高脩直如金鋌,淨妙光潤相無虧,一切世間殊妙香,聞時悉知其所在。
(Kinh:
Mũi cao, to thẳng như đĩnh vàng. Đẹp sạch,
tươi nhuận, tướng chẳng khuyết. Hết
thảy hương quư báu thế gian, khi ngửi đều
biết nơi đâu có).
Tán
rằng: Điều thứ chín là tán thán tùy hảo nơi
mũi. Nửa đầu bài tụng tán thán h́nh sắc
mũi đẹp đẽ, nửa sau tán thán công dụng tốt
đẹp [của mũi].
(Kinh)
Thế Tôn tối thắng thân kim sắc, nhất nhất
mao đoan tướng bất thù, cám thanh nhu nhuyễn hữu
toàn văn, vi diệu quang thái nan vi dụ.
(經)世尊最勝身金色,一一毛端相不殊,紺青柔軟右旋文,微妙光彩難為喻。
(Kinh:
Thế Tôn thân sắc vàng tối thắng, hết thảy
chót lông tướng thù thắng, xanh biếc mềm mại,
cuộn chiều phải, rạng rỡ vi diệu khó sánh
ví).
Tán
rằng: Điều thứ mười là tán thán chung tướng
thứ mười một của đức Thế Tôn, tức
là nơi mỗi lỗ chân lông đều sanh một sợi
lông và tướng thứ mười hai là
lông tóc của đức Thế Tôn đều đẹp
đẽ bậc thượng.
(經)初誕身有妙光明,普照一切十方界,能滅三有眾生苦,令彼悉蒙安穩樂。地獄傍生鬼道中,阿蘇羅天及人趣,令彼除滅於眾苦,常受自然安穩樂。身色光明常普照,譬如鎔金妙無比。
(Kinh:
Đản
sanh, thân có diệu
quang minh. Chiếu khắp hết thảy mười
phương cơi. Diệt khổ cho chúng sanh ba cơi, khiến họ
đều hưởng vui an ổn. Địa ngục,
bàng sanh, và quỷ đạo, A Tô
La, trời, và nhân loại, khiến đều trừ diệt
các nỗi khổ, thường hưởng vui an ổn tự
nhiên. Thân sắc quang minh thường chiếu khắp, ví
như vàng nung diệu khôn sánh).
Tán
rằng: Kế đó là hai bài tụng rưỡi, điều
thứ mười một
là tán thán tướng quang minh nơi thân, trước là nói
đại lược, sau là
nói cặn kẽ. Trong ấy, chia thành ba ư:
- Nửa
bài tụng đầu tiên tán thán quang minh nơi thân Phật
chiếu cảnh.
-
Bài tụng kế tiếp tán thán lợi ích do quang minh tỏa
ra từ thân Phật. Trong các lợi ích của quang minh, nửa
đầu là nói chung, bài tụng kế đó là nói về Biệt.
- Nửa
sau bài tụng chỉ rơ quang minh khôn sánh!
(Kinh)
Diện mạo viên minh như măn nguyệt, thần sắc
xích hảo dụ Tần- bà, hành bộ oai nghi loại
sư tử, thân quang lăng diệu đồng sơ nhật.
(經)面貌圓明如滿月,脣色赤好喻頻婆,行步威儀類師子,身光朗耀同初日。
(Kinh:
Diện mạo viên minh như trăng tṛn. Màu môi đỏ đẹp
như Tần-bà. Bước đi oai nghi dường
sư tử, thân quang rạng
ngời tợ vầng dương).
Tán
rằng: Điều thứ mười hai gồm một
câu tán dương tướng thứ ba mươi, tức
“mặt đức Thế Tôn giống
như trăng tṛn, tướng lông mày sạch đẹp
như chiếc cung của Thiên Đế”.
Phần nói về lông mày và tướng mặt chia thành hai,
cũng hàm ư ba thứ tùy h́nh hảo nơi mặt. Điều
thứ mười ba gồm một câu tán dương tùy
h́nh hảo nơi màu môi đức Phật. Điều thứ
mười bốn gồm nửa bài tụng, tán thán tùy h́nh
hảo thứ bảy của đức Phật là “bước
đi thẳng tiến như voi chúa”.
Tùy h́nh hảo thứ tám là “bước
đi oai nghiêm, trang trọng như sư tử”.
Tùy h́nh hảo thứ chín là “bước
đi an b́nh như
trâu chúa”. Tùy h́nh hảo thứ mười là “bước
đi nhàn nhă như ngỗng chúa”,
[các tùy h́nh hảo ấy] đều
thuộc về tướng đi.
(Kinh)
Tư trửu tiêm trường, lập quá tất. Trạng
đẳng thùy hạ Sa La chi.
(經)臂肘纖長立過膝,狀等垂下娑羅枝。
(Kinh:
Cánh tay thon dài, đứng quá gối. H́nh dạng như cành
Sa La rủ).
Tán
rằng: Điều thứ mười lăm là tán thán
tướng thứ chín, tức tướng tay của
đức Phật.
(Kinh)
Viên quang nhất tầm chiếu vô biên, hách dịch do
như bách thiên nhật, tất năng biến chí chư Phật
sát, tùy duyên sở tại giác quần mê.
(經)圓光一尋照無邊,赫奕猶如百千日,悉能遍至諸佛剎,隨緣所在覺群迷。
(Kinh:
Viên quang một tầm[2] chiếu vô biên,
chói ngời như trăm ngàn vầng dương, đều
chiếu trọn khắp các cơi Phật, tùy duyên nơi ấy
giác kẻ mê).
Tán
rằng: Ba bài tụng sau đó là điều thứ mười sáu,
tán thán tướng thứ hai mươi hai của đức
Phật là “thường
quang của đức Thế Tôn mỗi phía đều chiếu
xa một tầm”.
Trong đó, chia thành ba ư:
-
Bài tụng đầu tiên là quang minh chiếu sáng tùy duyên.
-
Bài tụng kế tiếp ư nói: [Quang minh ấy] diệt khổ
cho các chúng sanh.
-
Bài tụng sau cùng là có thể ban vui.
Bài
tụng này thuộc ư thứ nhất. Kinh Đại Bát Nhă
nói: “Như Lai thân quang nhậm vận năng chiếu tam
thiên thế giới, tác ư năng chiếu vô biên thế giới.
Vị mẫn hữu t́nh, nhiếp quang thường chiếu
diện các nhất tầm” (Quang minh nơi thân của
Như Lai có thể tùy ư chiếu trọn tam thiên đại
thiên thế giới. Tác ư th́ có thể chiếu vô biên thế
giới. V́ thương xót hữu t́nh, Ngài thâu nhiếp quang
minh, thường chiếu mỗi phía xa một tầm), tức
là phóng ra hay thâu lại đều tùy
duyên, đều v́ lợi lạc chúng sanh.
(Kinh)
Tịnh quang minh vơng vô luân tỷ, lưu huy biến măn bách
thiên giới, phổ chiếu thập phương vô chướng
ngại, nhất thiết minh ám tất giai trừ.
(經)淨光明網無倫比,流輝遍滿百千界,普照十方無障礙,一切冥暗悉皆除。
(Kinh:
Lưới tịnh quang minh khôn sánh bằng, tỏa sáng trọn
khắp trăm ngàn cơi, chiếu trọn mười
phương không chướng ngại, hết thảy tối
tăm thảy đều trừ).
Tán
rằng: Trừ khổ cho chúng sanh. Như lưới Đế
Thích giáo hóa chúng sanh, quang minh nơi thân của đức Thế
Tôn cũng lại giống như thế.
(Kinh)
Thiện Thệ từ quang năng dữ lạc, diệu sắc
ánh triệt đẳng kim sơn, lưu quang tất chí bách
thiên độ, chúng sanh ngộ giả giai xuất ly.
(經)善逝慈光能與樂,妙色映徹等金山,流光悉至百千土,眾生遇者皆出離。
(Kinh:
Từ quang Thiện Thệ ban vui sướng, diệu sắc
chói rạng như núi vàng. Tỏa sáng đều chiếu
trăm ngàn cơi, chúng sanh gặp được đều
thoát ĺa).
Tán
rằng: Đây là “ban vui”.
Đức Phật do ḷng từ bi
phóng quang, gọi là “Thiện Thệ từ quang” (quang
minh từ ái của đấng Thiện Thệ). Ban vui lại
có hai điều: Một là niềm vui thế gian; “giai xuất
ly” (đều thoát ĺa) là niềm vui xuất thế. “Xuất
ly” chính là Niết Bàn.
5.7.4.2.2.1.1.3. Kết lại
ư nghĩa tán thán vô biên
(Kinh)
Phật thân thành tựu vô lượng phước, nhất
thiết công đức cộng trang nghiêm, siêu quá tam giới
độc xưng tôn, thế gian thù thắng vô dữ đẳng.
(經)佛身成就無量福,一切功德共莊嚴,超過三界獨稱尊,世間殊勝無與等。
(Kinh:
Thân Phật thành tựu vô lượng phước, hết
thảy công đức cùng trang nghiêm, vượt ngoài tam giới,
riêng tôn quư. Thế gian thù thắng chẳng ai bằng).
Tán
rằng: Kế đó là bài tụng nhằm kết lại lời
tán thán vô biên. Tướng hảo thuộc về phước;
v́ thế nói là “vô lượng phước”. [Phước
ấy] là vô lậu, do vậy, vượt
ngoài tam giới. Do cực viên măn, nên không có ǵ sánh bằng được!
5.7.4.2.2.1.2. Tán thán danh
thân
5.7.4.2.2.1.2.1. Trần
thuật Phật vô biên
(Kinh) Sở hữu quá khứ nhất thiết
Phật, số đồng đại địa chư vi
trần, vị lai hiện tại thập phương tôn,
diệc như đại địa vi trần chúng.
(經)所有過去一切佛,數同大地諸微塵,未來現在十方尊,亦如大地微塵眾。
(Kinh:
Tất cả hết thảy Phật quá khứ, số
như vi trần trong đại địa, hiện tại,
vị lai mười phương Phật, cũng như vi
trần trong đại địa).
Tán
rằng: Kế đó là năm bài tụng tán thán danh thân. Sắc
thân trong phần trước c̣n gọi là Hóa Thân. Danh Thân ở
đây c̣n được gọi là Ứng Thân. Phần này
chia thành ba đoạn:
-
Bài tụng thứ nhất trần thuật chư Phật
vô biên.
-
Bài tụng thứ hai là quy y, cúng dường.
-
Bài tụng thứ ba, thốt ra âm thanh tán thán.
Đoạn
trên đây là phần thứ nhất.
5.7.4.2.2.1.2.2. Quy y cúng
dường
(Kinh) Ngă dĩ chí thành thân, ngữ, ư, khể
thủ quy y tam thế Phật, tán thán vô biên công đức
hải, chủng chủng hương hoa giai cúng dường.
(經)我以至誠身語意,稽首歸依三世佛,讚歎無邊功德海,種種香華皆供養。
(Kinh:
Con dùng thân, ngữ, ư chí thành, dập đầu quy y ba đời
Phật, tán thán biển công đức vô biên, các thứ
hương, hoa đều cúng dường).
Tán
rằng: Quy y cúng dường.
5.7.4.2.2.1.2.3. Phát ra âm
thanh tán thán
(Kinh) Thiết ngă khẩu trung hữu
thiên thiệt, kinh vô lượng kiếp tán Như Lai, Thế
Tôn công đức bất tư nghị, tối thắng thậm
thâm nan khả thuyết. Giả linh ngă thiệt hữu bách
thiên, tán thán nhất Phật nhất công đức, ư
trung thiểu phần thượng nan tri, huống chư Phật
đức vô biên tế. Giả sử đại địa
cập chư thiên, năi chí Hữu Đảnh vi hải thủy,
khả dĩ mao đoan trích tri số, Phật nhất công
đức thậm nan lượng!
(經)設我口中有千舌,經無量劫讚如來,世尊功德不思議,最勝甚深難可說。假令我舌有百千,讚歎一佛一功德,於中少分尚難知,況諸佛德無邊際。假使大地及諸天,乃至有頂為海水,可以毛端滴知數,佛一功德甚難量。
(Kinh: Giả sử miệng con
có ngàn lưỡi, trải vô lượng kiếp tán Như
Lai, Thế Tôn công đức chẳng nghĩ bàn, tối thắng,
rất sâu, khó thể nói. Giả sử con có trăm ngàn
lưỡi, tán một công đức của một Phật,
chút phần trong đó c̣n khó biết, huống đức
chư Phật không ngằn mé! Giả sử đại
địa, các tầng trời, cho đến Hữu Đảnh
là nước biển, dùng chót lông đếm biết số
giọt, Phật một công đức khó thể lường!)
Tán rằng:
Thốt lời tán thán. Bài tụng thứ nhất nhằm
tán thán chung: Chẳng thể dùng tâm suy nghĩ, hoặc ngôn từ
để diễn nói Như Lai được. Kế
đó, dẫu tán thán một phẩm đức của Phật
c̣n chẳng thể cùng tận. Bài tụng cuối cùng, tán thán
đức của Phật rất sâu, vượt khỏi số
lượng.
5.7.4.2.2.2. Hồi hướng
(Kinh) Ngă dĩ chí thành thân, ngữ, ư, lễ
tán chư Phật đức vô biên, sở hữu thắng
phước quả nan tư, hồi thí chúng sanh tốc
thành Phật.
(經)我以至誠身語意,禮讚諸佛德無邊,所有勝福果難思,回施眾生速成佛。
(Kinh:
Con dùng thân, ngữ, ư chí thành, lễ tán đức chư Phật
vô biên. Tất cả quả thắng phước khó
nghĩ, thí cho chúng sanh mau thành Phật).
Tán
rằng: Đây là phần thứ hai trong các kệ tụng,
tức phần hồi hướng.
5.7.4.2.2.3. Phát nguyện
(Kinh)
Bỉ vương tán thán Như Lai dĩ, bội phục
thâm tâm phát hoằng nguyện.
(經)彼王讚歎如來已,倍復深心發弘願。
(Kinh:
Vua ấy tán thán Như Lai xong, thâm tâm gấp bội, phát
nguyện rộng).
Tán
rằng: Kế đó là phát nguyện, gồm mười bốn
bài tụng, chia thành hai phần:
- Nửa
bài tụng đầu tiên là nêu chung.
-
Mười ba bài tụng
rưỡi sau đó là các đề
mục phát nguyện riêng.
Hai
câu này thuộc phần thứ nhất.
(Kinh)
Nguyện ngă đương ư vị lai thế, sanh tại
vô lượng vô số kiếp, mộng trung thường
kiến đại kim cổ, đắc văn hiển thuyết
sám hối âm. Tán Phật công đức dụ liên hoa. Nguyện
chứng Vô Sanh thành Chánh Giác. Chư Phật xuất thế
thời nhất hiện, ư bách thiên kiếp thậm nan
phùng. Dạ mộng thường văn diệu cổ âm.
Trú tắc tùy ưng nhi sám hối. Ngă đương viên măn
tu Lục Độ, bạt tế chúng sanh xuất khổ
hải, nhiên hậu đắc thành Vô Thượng Giác. Phật
độ thanh tịnh bất tư nghị, dĩ diệu
kim cổ phụng Như Lai, tịnh tán chư Phật thật
công đức. Nhân tư đương kiến Thích Ca Phật,
kư ngă đương thiệu nhân trung tôn. Kim Long, Kim Quang thị
ngă tử, quá khứ tằng vi thiện tri thức, thế
thế nguyện sanh ư ngă gia, cộng thọ Vô Thượng
Bồ Đề kư. Nhược hữu chúng sanh vô cứu hộ,
trường dạ luân hồi thọ chúng khổ, ngă ư
lai thế tác quy y, linh bỉ đương đắc an ổn
lạc. Tam hữu chúng khổ nguyện trừ diệt, tất
đắc tùy tâm an lạc xứ. Ư vị lai thế tu
Bồ Đề, giai như quá khứ thành Phật giả.
Nguyện thử Kim Quang sám hối phước, vĩnh kiệt
khổ hải tội tiêu trừ, nghiệp chướng
phiền năo tất giai vong, linh ngă tốc chiêu thanh tịnh
quả. Phước trí đại hải vô lượng
biên, thanh tịnh ly cấu thâm vô để. Nguyện ngă hoạch
tư công đức hải, tốc thành vô thượng
đại Bồ Đề. Dĩ thử Kim Quang sám hối
lực, đương hoạch phước đức tịnh
quang minh. Kư đắc thanh tịnh diệu quang minh, thường
dĩ trí quang chiếu nhất thiết. Nguyện ngă thân
quang đẳng chư Phật, phước đức, trí
huệ diệc phục nhiên. Nhất thiết thế giới
độc xưng tôn, oai lực tự tại vô luân thất.
Hữu lậu khổ hải nguyện siêu việt, vô vi lạc
hải nguyện thường du, hiện tại phước
hải nguyện hằng doanh, đương lai trí hải
nguyện viên măn. Nguyện ngă sát độ siêu tam giới,
thù thắng công đức lượng vô biên, chư hữu
duyên giả tất đồng sanh, giai đắc tốc
thành thanh tịnh trí.
(經)願我當於未來世,生在無量無數劫,夢中常見大金鼓,得聞顯說懺悔音,讚佛功德喻蓮華。願證無生成正覺,諸佛出世時一現,於百千劫甚難逢。夜夢常聞妙鼓音,晝則隨應而懺悔。我當圓滿修六度,拔濟眾生出苦海,然後得成無上覺。佛土清淨不思議,以妙金鼓奉如來,并讚諸佛實功德。因斯當見釋迦佛,記我當紹人中尊。金龍金光是我子,過去曾為善知識,世世願生於我家,共受無上菩提記。若有眾生無救護,長夜輪迴受眾苦,我於來世作歸依,令彼當得安穩樂。三有眾苦願除滅,悉得隨心安樂處,於未來世修菩提,皆如過去成佛者。願此金光懺悔福,永竭苦海罪消除,業障煩惱悉皆亡,令我速招清淨果。福智大海量無邊,清淨離垢深無底,願我獲斯功德海,速成無上大菩提。以此金光懺悔力,當獲福德淨光明,既得清淨妙光明,常以智光照一切。願我身光等諸佛,福德智慧亦復然,一切世界獨稱尊,威力自在無倫匹。有漏苦海願超越,無為樂海願常遊,現在福海願恒盈,當來智海願圓滿。願我剎土超三界,殊勝功德量無邊,諸有緣者悉同生,皆得速成清淨智。
(Kinh:
Nguyện con sẽ trong đời vị lai, vô lượng
vô số kiếp mỗi đời, trong mộng thường
thấy trống vàng lớn, nghe tiếng nói rơ pháp sám hối,
tán công đức Phật ví hoa sen. Nguyện chứng Vô Sanh
thành Chánh Giác. Chư Phật xuất thế lâu mới hiện,
trong trăm ngàn kiếp rất khó gặp. Đêm mộng
nghe tiếng trống mầu nhiệm, ngày bèn sám hối theo
đúng lẽ. Con sẽ tu viên măn Lục Độ, cứu
vớt chúng sanh thoát biển khổ, sau đấy được
thành Vô Thượng Giác. Cơi Phật thanh tịnh chẳng
nghĩ bàn, trống vàng mầu nhiệm dâng Như Lai, và tán
chư Phật thật công đức. Do vậy, sẽ gặp
Phật Thích Ca,
thọ kư con nối ngôi vị Phật. Kim Long, Kim Quang là hai
con, quá khứ từng làm thiện tri thức, đời
đời nguyện sanh trong nhà con, cùng thọ kư Vô Thượng
Bồ Đề. Nếu có chúng sanh không cứu giúp, đêm
dài luân hồi chịu các khổ, đời sau con làm chỗ
quy y, khiến họ sẽ hưởng vui an ổn. Nguyện
trừ các khổ trong ba cơi, được chỗ an lạc
đều tùy tâm. Trong đời vị lai, tu Bồ Đề,
như các vị thành Phật quá khứ. Nguyện phước
sám hối Kim Quang này, măi cạn biển khổ, tội tiêu
trừ. Nghiệp chướng phiền năo đều mất
sạch, khiến con mau chuốc quả thanh tịnh. Biển
cả phước trí lượng vô biên, thanh tịnh ĺa cấu,
sâu không đáy. Nguyện con được biển công
đức ấy, mau thành Vô Thượng Đại Bồ
Đề. Do sức sám hối Kim Quang này, sẽ được
quang minh tịnh phước đức. Đă được
quang minh diệu thanh tịnh, thường dùng trí quang chiếu
hết thảy. Nguyện thân quang con giống như Phật,
phước đức, trí huệ cũng như thế.
Riêng xưng tôn quư các thế giới, oai lực tự tại
chẳng sánh bằng. Nguyện vượt thoát biển khổ
hữu lậu. Nguyện thường dạo biển vui vô
vi. Biển phước hiện tại nguyện thường
đầy. Biển trí tương lai nguyện viên măn. Nguyện
cơi nước con vượt tam giới, công đức thù
thắng lượng vô biên. Người hữu duyên đều
cùng sanh về, đều được mau thành trí thanh tịnh).
Tán
rằng: Trống vàng phát ra âm thanh sám hối. So ra, điều
này phải nên nói sau, v́ [theo mạch văn, vua Kim Long Chủ]
dâng trống vàng [cúng dường Phật] rồi mới
phát nguyện. Do nói cho tiện, nên nêu ra trước.
Phần
hiển thị riêng biệt [các nguyện] có tám phần:
- Một,
bài tụng thứ nhất là
nguyện đầu tiên, tức mộng thấy [trống
vàng].
-
Hai, bài tụng kế đó là nguyện tán thán phẩm đức
của Phật ví như hoa sen Ổ Đàm Bát (hoa Linh Thụy).
-
Ba, nửa bài tụng kế đó là nguyện hành sám hối.
- Bốn,
bài tụng kế đó là nguyện tu các điều thiện,
gồm bốn ư: Một là tu hành Lục Độ, hai là cứu
vớt chúng sanh, ba là nguyện thành Phật, bốn là nguyện
[đạt được] Tịnh Độ.
-
Năm, một bài tụng là nguyện sẽ được
thọ kư.
-
Sáu, bài tụng kế đó là nguyện con của nhà vua
cũng như thế.
- Bảy,
hai bài tụng kế đó là nguyện sẽ lợi tha.
Trong nguyện lợi tha, một bài tụng rưỡi
đầu tiên là khiến cho chúng sanh được hưởng
niềm vui thế gian, nửa bài kệ sau là nguyện khiến
cho họ được niềm vui xuất thế. Xét theo
sự thù thắng th́ là “sẽ khiến cho họ đắc
đại quả”. Hoặc có thể hiểu từ “tam
hữu chúng sanh” (chúng sanh trong ba cơi) trở đi trong nửa
bài tụng sau là khiến cho họ đắc tam thừa.
Nói “tùy tâm cố” (do tùy tâm) tức
là sau đó khiến cho họ hồi tâm hướng về
Đại Thừa.
-
Tám, sáu bài tụng kế đó là nguyện tự đạt
được lợi ích. Trong phần “tự đạt được lợi
ích”, có sáu
ư:
1)
Bài tụng thứ nhất là nguyện sám hối diệt
chướng, đắc Niết Bàn. “Khổ hải”
chính là Báo Chướng, “nghiệp” là Nghiệp Chướng,
“phiền năo” tức Hoặc Chướng.
2)
Bài tụng kế đó, nguyện đắc Pháp Thân trí,
thành Đại Giác, đạt được Báo Thân.
3)
Bài tụng kế tiếp, nguyện đạt được
thân có trí quang chiếu soi người
khác, dấy lên Hóa Thân.
4)
Bài tụng kế tiếp là nguyện trí quang nơi thân bằng với chư
Phật.
5)
Bài tụng kế tiếp, nguyện vượt thoát biển
khổ, vui sướng viên măn. Trong ấy có hai ư: Nửa
đầu bài tụng là ĺa khổ, được vui; nửa
sau bài tụng là phước viên trí măn. “Phước viên”
tức là nhân hạnh, “trí măn” tức là quả. Như
Bát Nhă Luận của ngài Vô Trước viết: “Dục
phước tướng, Pháp Thân trí tướng, nhân quả,
địa vị của Pháp Thân khác biệt”.
6)
Bài tụng kế đó là nguyện đắc Tịnh
Độ và đều thành Phật, lời văn dễ
hiểu.
5.7.4.3. Dung hội
xưa nay và kết lại, hứa sẽ thọ kư
(Kinh)
Diệu Tràng nhữ đương tri, quốc vương
Kim Long Chủ, tằng phát như thị nguyện, bỉ tức
thị nhữ thân. Văng thời hữu nhị tử, Kim
Long cập Kim Quang, tức Ngân Tướng, Ngân Quang,
đương thọ ngă sở kư.
(經)妙幢汝當知,國王金龍主,曾發如是願,彼即是汝身。往時有二子,金龍及金光,即銀相銀光,當受我所記。
(Kinh:
Diệu Tràng ông nên biết, quốc vương Kim Long Chủ,
từng phát nguyện như thế, chính là tiền thân ông.
Xưa kia có hai con, Kim Long và Kim Quang, tức Ngân Tướng,
Ngân Quang, sẽ được ta thọ kư).
Tán
rằng: Đoạn lớn thứ ba là dung hội xưa
nay để kết lại, và
hứa sẽ thọ kư [cho Diệu Tràng Bồ Tát và hai con
là Ngân Tướng và Ngân Quang]. Bài tụng thứ nhất là
kết lại bằng cách dung hội, bài tụng kế
đó là hứa sẽ thọ kư.
5.7.4.4. Đại chúng
nghe dạy, phát tâm nguyện tu học
(Kinh)
Đại chúng văn thị thuyết, giai phát Bồ Đề
tâm, nguyện hiện tại, vị lai, thường y thử
sám hối.
(經)大眾聞是說,皆發菩提心,願現在未來,常依此懺悔。
(Kinh:
Đại chúng nghe lời ấy, đều phát Bồ
Đề tâm, nguyện hiện tại, vị lai, thường
theo đó sám hối).
Kế
đó là đoạn lớn thứ tư: Đại chúng
nghe xong, phát tâm nguyện nương theo đó để tu
học.
5.8. Phẩm
thứ tám: Kim Thắng Đà La Ni (Kim Thắng Đà La Ni phẩm
đệ bát, 金勝陀羅尼品第八)
Phẩm
Kim Thắng Đà La Ni được chia thành ba môn phân biệt:
- Một,
ư nghĩa v́ sao có phẩm này?
-
Hai, giải thích tên gọi của phẩm.
-
Ba, giải trừ vấn nạn.
5.8.1. Nêu ư nghĩa v́ sao có phẩm này?
Nói đến ư nghĩa v́ sao có phẩm này, trong phần
trước có nói “trong mộng nghe tiếng trống trời
nói âm thanh sám hối”, diệt trừ nghiệp
chướng, tu hạnh Tịnh Địa, đều là
thân cận, cúng dường chư Phật, phát khởi các
thiện căn được thành tựu bởi
sự nguyện cầu thù thắng. Các thiện căn ấy
đă do Phật mà đạt được, bèn dạy [hành nhân] thường
thấy Phật. Hạnh rộng răi sẽ
khó học, hạnh đại lược sẽ dễ tuân
thủ. V́ thế, truyền trao Tổng Tŕ, khiến cho họ nương theo đó
tu tập, thường được thấy Phật, tu
hành, cúng dường. Do đó, sau phẩm trước, bèn
có phẩm này sanh khởi.
5.8.2. Giải
thích danh xưng [của phẩm này]
Giải
thích danh xưng, chữ Hế Ra (Hiraṇya) trong tiếng Phạn, phương này dịch là Kim. Bạt
Để được phương này dịch là Thắng, Đà
La Ni phương này dịch là Tổng
Tŕ. Kim là thí dụ, Đà La Ni là pháp; Thắng bao gồm cả
pháp lẫn thí dụ. Thù thắng trong chất vàng th́ là vàng
Thiệm Bộ (vàng Diêm Phù Đàn); môn Tổng
Tŕ này cũng thù thắng giống như thế, dùng vàng làm
thí dụ. Ư nghĩa giống như trong phẩm Tam Thân trên
đây đă nói.
5.8.3. Giải trừ vấn
nạn
* Hỏi:
Kinh dạy: “Tŕ thử Tổng Tŕ giả, cụ đại
phước đức, dĩ đa Phật sở thực
thiện tŕ giới, quyết định năng nhập thậm
thâm pháp môn” (người tŕ Tổng Tŕ này có phước
đức lớn, đă từng
gieo điều lành, tŕ giới nơi nhiều
đức Phật, quyết định có thể nhập
pháp môn rất sâu). Đă nói “gieo điều lành, tŕ giới
nơi nhiều vị Phật”, tức là tự có thể
luôn thấy chư Phật, đức Phật cần ǵ phải
dạy [người như vậy] pháp Tổng Tŕ?
Đáp:
Khiến cho càng tăng tấn; v́ thế, dạy thần
chú.
5.8.4. Giải thích kinh
văn
5.8.4.1. Nêu ra thần
chú, khuyên tŕ tụng, tán thán để đại chúng học
theo
5.8.4.1.1. Đối
trước bậc đương cơ, nêu tên của thần
chú
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn phục ư chúng trung, cáo Thiện
Trụ Bồ Tát Ma Ha Tát: - Thiện nam tử! Hữu
đà-la-ni danh viết Kim Thắng.
(經)爾時世尊復於眾中告善住菩薩摩訶薩:善男子!有陀羅尼名曰金勝。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại ở trong
đại chúng, bảo Thiện Trụ Bồ Tát Ma Ha Tát: -
Thiện nam tử! Có đà-la-ni tên là Kim Thắng).
Tán
rằng: Kinh văn trong phẩm này được chia thành
năm phần:
- Một,
nêu ra thần chú, khuyên tŕ tụng, và tán thán khiến cho [đại chúng] học
theo.
-
Hai, dạy tiền phương tiện để tŕ thần
chú.
-
Ba, nói thần chú.
- Bốn,
tán thán cặn kẽ công năng [của thần chú].
-
Năm, dạy quy cách hành tŕ.
Đoạn
thứ nhất gồm ba ư:
- Một,
đối trước căn cơ nêu tên thần chú.
-
Hai, nguyên do khuyên người khác thọ tŕ, học tập.
-
Ba, từ “thị cố” (do vậy) trở đi, khen
ngợi người [thọ tŕ] để [đại
chúng] sẽ tu học trọn đủ.
Đoạn
này thuộc ư đầu.
5.8.4.1.2. Nguyên do khuyên
người khác thọ tŕ, tu học
(Kinh)
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân,
dục cầu thân kiến quá khứ, vị lai, hiện tại
chư Phật cung kính cúng dường giả, ưng
đương thọ tŕ thử đà-la-ni.
(經)若有善男子善女人,欲求親見過去未來現在諸佛恭敬供養者,應當受持此陀羅尼。
(Kinh:
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, muốn cầu
đích thân thấy chư Phật quá khứ, hiện tại,
vị lai để cung kính cúng dường, hăy nên thọ
tŕ đà-la-ni này).
Tán
rằng: Nguyên do khuyên người khác thọ tŕ, học tập.
Phần này có ba ư:
- Một,
trần thuật sự phát nguyện thọ tŕ.
-
Hai, gạn hỏi nguyên do.
-
Ba, giải thích.
Đoạn
này thuộc ư thứ nhất.
(Kinh)
Hà dĩ cố? Thử đà-la-ni năi thị quá, hiện, vị
lai chư Phật chi mẫu.
(經)何以故?此陀羅尼乃是過現未來諸佛之母。
(Kinh:
V́ sao vậy? Đà-la-ni này chính là mẹ của chư Phật
quá khứ, hiện tại và vị lai).
Tán
rằng: Kinh văn bao gồm hai ư sau. Do có thể sanh ra
chư Phật, nên gọi là “Phật mẫu”.
5.8.4.1.3. Khen ngợi
người [thọ tŕ] để [đại chúng] sẽ
tu học trọn đủ
(Kinh)
Thị cố đương tri, tŕ thử đà-la-ni giả
cụ đại phước đức, dĩ ư quá khứ
vô lượng Phật sở, thực chư thiện bổn,
kim đắc thọ tŕ, ư giới thanh tịnh,
bất hủy, bất khuyết, vô hữu chướng ngại,
quyết định năng nhập thậm thâm pháp môn.
(經)是故當知,持此陀羅尼者具大福德,已於過去無量佛所植諸善本,今得受持,於戒清淨不毀不缺,無有障礙,決定能入甚深法門。
(Kinh:
V́ thế, hăy nên biết: Người tŕ
đà-la-ni này trọn đủ đại phước
đức, đă gieo các gốc
lành nơi vô lượng Phật trong quá khứ, nay
được thọ tŕ, đối với giới thanh tịnh,
chẳng hủy, chẳng thiếu sót, chẳng có chướng
ngại, quyết định có thể nhập pháp môn rất
sâu).
Tán
rằng: Khen ngợi [người tŕ chú này] để
[đại chúng] tu học. Có tám ư:
- Một,
nêu ra người tŕ chú.
-
Hai, [người tŕ chú] có phước lớn.
-
Ba, [người ấy] gặp gỡ chư Phật.
- Bốn,
[người ấy đă] vun bồi thiện căn.
-
Năm, [người ấy] trọn đủ Thi La (Giới).
-
Sáu, chẳng có chướng ngại.
- Bảy,
nhập Chánh Định Tụ.
-
Tám, nhập pháp tắc rất sâu, chắc chắn có thể
nhập và trụ trong chánh định vị. Giữ ǵn lâu
ngày, chắc chắn có thể nhập pháp môn rất sâu,
đó chính là điều thứ tám. Hoặc [có thể hiểu
đoạn này] chỉ có bảy ư, tức là gộp ư thứ
bảy và thứ tám [vừa nói trên đây] thành “có thể
chứng Bất Thoái”.
5.8.4.2. Dạy tiền
phương tiện để tŕ thần chú
(Kinh)
Thế Tôn tức vị thuyết tŕ chú pháp: - Tiên xưng
chư Phật, cập Bồ Tát danh, chí tâm lễ kính, nhiên
hậu tụng chú.
(經)世尊即為說持呪法:先稱諸佛及菩薩名,至心禮敬,然後誦呪。
(Kinh:
Đức Thế Tôn liền nói cách tŕ chú: - Trước hết,
xưng danh của chư Phật và Bồ Tát, chí tâm lễ
kính, sau đó tụng chú).
Tán
rằng: Dạy phương tiện tŕ thần chú. Trước
là nêu ra, sau là chỉ dạy. Đoạn này thuộc phần
thứ nhất.
(Kinh)
Nam-mô thập phương nhất thiết chư Phật.
Nam-mô chư đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam-mô Thanh Văn,
Duyên Giác, nhất thiết hiền thánh. Nam-mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam-mô Đông phương Bất Động Phật. Nam-mô
Nam phương Bảo Tràng Phật. Nam-mô Tây phương A
Di Đà Phật. Nam-mô Bắc phương Thiên Cổ Âm
Vương Phật. Nam-mô Thượng phương Quảng
Chúng Đức Phật. Nam-mô Hạ phương Minh Đức
Phật. Nam-mô Bảo Tạng Phật. Nam-mô Phổ Quang Phật.
Nam-mô Phổ Minh Phật. Nam-mô Hương Tích Vương
Phật. Nam-mô Liên Hoa Thắng Phật. Nam-mô B́nh Đẳng
Kiến Phật. Nam-mô Bảo Kế Phật. Nam-mô Bảo
Thượng Phật. Nam-mô Bảo Quang Phật. Nam-mô Vô Cấu
Quang Minh Phật. Nam-mô Biện Tài Trang Nghiêm Tư Duy Phật.
Nam-mô Tịnh Nguyệt Quang Xưng Tướng
Vương Phật. Nam-mô Hoa Nghiêm Quang Phật. Nam-mô Quang
Minh Vương Phật. Nam-mô Thiện Quang Vô Cấu
Xưng Vương Phật. Nam-mô Quán Sát Vô Úy Tự Tại
Phật. Nam-mô Vô Úy Danh Xưng Phật. Nam-mô Tối Thắng
Vương Phật. Nam-mô Bảo Tướng Phật.
Nam-mô Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam-mô Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam-mô Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam-mô Diệu Cát Tường Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam-mô Kim Cang
Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam-mô Phổ Hiền Bồ Tát Ma
Ha Tát. Nam-mô Vô Tận Ư Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam-mô Đại Thế
Chí Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam-mô Từ Thị Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam-mô Thiện Tư Bồ Tát Ma Ha Tát.
(經)南謨十方一切諸佛。南謨諸大菩薩摩訶薩。南謨聲聞緣覺一切賢聖。南謨釋迦牟尼佛。南謨東方不動佛。南謨南方寶幢佛。南謨西方阿彌陀佛。南謨北方天鼓音王佛。南謨上方廣眾德佛。南謨下方明德佛。南謨寶藏佛。南謨普光佛。南謨普明佛。南謨香積王佛。南謨蓮華勝佛。南謨平等見佛。南謨寶髻佛。南謨寶上佛。南謨寶光佛。南謨無垢光明佛。南謨辨才莊嚴思惟佛。南謨淨月光稱相王佛。南謨華嚴光佛。南謨光明王佛。南謨善光無垢稱王佛。南謨觀察無畏自在佛。南謨無畏名稱佛。南謨最勝王佛。南謨寶相佛。南謨觀自在菩薩摩訶薩。南謨地藏菩薩摩訶薩。南謨虛空藏菩薩摩訶薩。南謨妙吉祥菩薩摩訶薩。南謨金剛手菩薩摩訶薩。南謨普賢菩薩摩訶薩。南謨無盡意菩薩摩訶薩。南謨大勢至菩薩摩訶薩。南謨慈氏菩薩摩訶薩。南謨善思菩薩摩訶薩。
(Kinh:
Nam-mô thập phương nhất thiết chư Phật.
Nam-mô chư đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam-mô Thanh Văn,
Duyên Giác, hết thảy hiền thánh. Nam-mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam-mô Đông phương Bất Động Phật. Nam-mô
Nam phương Bảo Tràng Phật. Nam-mô Tây phương A
Di Đà Phật. Nam-mô Bắc phương Thiên Cổ Âm
Vương Phật. Nam-mô Thượng phương Quảng
Chúng Đức Phật. Nam-mô Hạ phương Minh Đức
Phật. Nam-mô Bảo Tạng Phật. Nam-mô Phổ Quang Phật.
Nam-mô Phổ Minh Phật. Nam-mô Hương Tích Vương
Phật. Nam-mô Liên Hoa Thắng Phật. Nam-mô B́nh Đẳng
Kiến Phật. Nam-mô Bảo Kế Phật. Nam-mô Bảo
Thượng Phật. Nam-mô Bảo Quang Phật. Nam-mô Vô Cấu
Quang Minh Phật. Nam-mô Biện Tài Trang Nghiêm Tư Duy Phật.
Nam-mô Tịnh Nguyệt Quang Xưng Tướng Vương
Phật. Nam-mô Hoa Nghiêm Quang Phật. Nam-mô Quang Minh
Vương Phật. Nam-mô Thiện Quang Vô Cấu Xưng
Vương Phật. Nam-mô Quán Sát Vô Úy Tự Tại Phật.
Nam-mô Vô Úy Danh Xưng Phật. Nam-mô Tối Thắng
Vương Phật. Nam-mô Bảo Tướng Phật.
Nam-mô Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam-mô Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam-mô Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam-mô Diệu Cát Tường Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam-mô Kim Cang
Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam-mô Phổ Hiền Bồ Tát Ma
Ha Tát. Nam-mô Vô Tận Ư Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam-mô Đại Thế
Chí Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam-mô Từ Thị Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam-mô Thiện Tư Bồ Tát Ma Ha Tát).
Tán
rằng: Dạy bảo. Trước là dạy tổng thể,
sau là dạy lễ riêng biệt. Đoạn này là ư trước.
Phần Biệt Lễ
dễ thấy.
5.8.4.3. Nói thần chú
(Kinh) Đà-la-ni viết: - Nam-mô hạt lạt
đát na đát lạt dạ dă, đát điệt tha: Quân đệ,
quân đệ, củ chiết lệ, củ chiết lệ, nhất trất rị, mật trất rị,
sa ha.
(經)陀羅尼曰:南謨曷喇怛娜怛喇夜也。怛姪他。君睇君睇。矩折囇矩折囇。壹窒哩蜜窒哩。莎訶。
(Kinh:
Đà-la-ni rằng: - Nam-mô hạt lạt đát na đát lạt
dạ dă, đát điệt tha: Quân đệ, quân đệ,
củ chiết lệ, củ chiết lệ, nhất trất rị, mật trất
rị, sa ha).
Tán
rằng: Nói thần chú.
5.8.4.4. Tán thán cặn kẽ
công năng
5.8.4.4.1. Chú này là mẹ
của tam thế Phật
(Kinh)
Phật cáo Thiện Trụ Bồ Tát: - Thử đà-la-ni thị
tam thế Phật mẫu.
(經)佛告善住菩薩:此陀羅尼是三世佛母。
(Kinh:
Đức Phật bảo Thiện Trụ Bồ Tát: -
Đà-la-ni này là mẹ của tam thế Phật).
Tán
rằng: Kế đó, tán thán cặn kẽ công năng [của
thần chú]. Có hai ư:
- Một,
chú này là mẹ của Phật.
-
Hai, nói rơ người thọ tŕ được lợi ích.
Đoạn
này thuộc ư thứ nhất.
5.8.4.4.2. Nói rơ người
thọ tŕ đạt được lợi ích
(Kinh) Nhược hữu thiện nam tử,
thiện nữ nhân tŕ thử chú giả, năng sanh vô
lượng vô biên phước đức chi tụ.
(經)若有善男子善女人持此呪者,能生無量無邊福德之聚。
(Kinh:
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân tŕ chú này, sẽ
có thể sanh ra vô lượng vô biên khối phước
đức).
Tán
rằng: Trong phần “đạt được lợi
ích”, trước là nêu chung, sau là chỉ riêng. Đoạn
này là nêu chung.
(Kinh)
Tức thị cúng dường, cung
kính, tôn trọng, tán thán vô số chư Phật. Như thị
chư Phật giai dữ thử nhân thọ A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề kư.
(經)即是供養恭敬尊重讚歎無數諸佛,如是諸佛皆與此人授阿耨多羅三藐三菩提記。
(Kinh:
Tức là cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán vô số
chư Phật. Chư Phật như thế đều thọ
kư Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cho người ấy).
Tán
rằng: Riêng chỉ bày lợi ích đạt được.
Có sáu ư:
- Một,
[thọ tŕ chú này] chính là cúng dường Phật, tức là
pháp cúng dường.
-
Hai, được Phật thọ kư.
-
Ba, đạt được phước quả thế
gian.
- Bốn,
sở nguyện như ư.
-
Năm, thường thân cận thiện hữu.
-
Sáu, được các vị Phật, Bồ Tát thủ hộ.
Phân đoạn kinh văn dễ thấy,
cho nên chẳng lập riêng!
5.8.4.5. Dạy
phương pháp hành tŕ
5.8.4.5.1. Nêu chung
(Kinh)
Thiện Trụ! Nhược hữu nhân năng tŕ thử
chú giả, tùy kỳ sở dục, y thực, tài bảo,
đa văn, thông huệ, vô bệnh, trường thọ,
hoạch phước thậm đa. Tùy sở nguyện cầu,
vô bất toại ư. Thiện Trụ! Tŕ thị chú giả,
năi chí vị chứng Vô Thượng Bồ Đề, thường
dữ Kim Thành Sơn Bồ Tát, Từ Thị Bồ Tát,
Đại Hải Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát, Diệu
Cát Tường Bồ Tát, Đại Băng Già La Bồ Tát
đẳng nhi cộng cư chỉ, vị chư Bồ
Tát chi sở nhiếp hộ. Thiện Trụ!
Đương tri tŕ thử chú thời, tác như thị
pháp.
(經)善住!若有人能持此呪者,隨其所欲,衣食財寶、多聞聰慧、無病長壽,獲福甚多,隨所願求無不遂意。善住!持是呪者,乃至未證無上菩提,常與金城山菩薩、慈氏菩薩、大海菩薩、觀自在菩薩、妙吉祥菩薩、大氷伽羅菩薩等而共居止,為諸菩薩之所攝護。善住!當知持此呪時,作如是法。
(Kinh:
Này Thiện Trụ! Nếu có người có thể tŕ chú
này, tùy theo ḷng muốn, cơm áo, tài vật, của báu,
đa văn, thông huệ, không bệnh, sống lâu,
được phước rất nhiều. Tùy ḷng mong cầu,
không ǵ chẳng được toại ư. Này Thiện Trụ!
Người tŕ chú này, thậm chí chưa chứng Vô Thượng
Bồ Đề, mà
thường với Kim Thành Sơn Bồ Tát, Từ Thị
Bồ Tát, Đại Hải Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ
Tát, Diệu Cát Tường Bồ Tát, Đại Băng Già
La Bồ Tát v.v… cùng cư trụ, được các vị
Bồ Tát nhiếp thọ, hộ tŕ. Này Thiện Trụ!
Hăy nên biết khi tŕ chú này, hăy làm theo cách như thế).
Tán
rằng: Đây phần thứ năm, “dạy
phương cách hành tŕ”. Kinh văn chia thành ba phần:
- Một,
nêu chung.
-
Hai, dạy riêng.
-
Ba, kết lại, khuyên đừng quên.
Đoạn
này thuộc phần thứ nhất.
5.8.4.5.2. Dạy riêng
cách hành tŕ
(Kinh)
Tiên ưng tụng tŕ măn nhất vạn bát biến, vi tiền
phương tiện. Thứ ư ám thất,
trang nghiêm đạo tràng, hắc nguyệt nhất nhật
thanh tịnh tẩy dục, trước tiên khiết y,
thiêu hương, tán hoa, chủng chủng cúng dường,
tịnh chư ẩm thực. Nhập đạo tràng trung,
tiên đương xưng lễ như tiền sở thuyết
chư Phật, Bồ Tát. Chí tâm ân trọng, hối tiên tội
dĩ, hữu tất trước địa, khả tụng
tiền chú măn nhất thiên bát biến, đoan tọa,
tư duy, niệm kỳ sở nguyện. Nhật vị xuất
thời, ư đạo tràng trung, thực tịnh hắc
thực, nhật duy nhất thực. Chí thập ngũ nhật,
phương xuất đạo tràng, năng linh thử nhân
phước đức, oai lực bất khả tư nghị,
tùy sở nguyện cầu, vô bất viên măn. Nhược bất
toại ư, trùng nhập đạo tràng.
(經)先應誦持滿一萬八遍為前方便。次於暗室莊嚴道場,黑月一日清淨洗浴,著鮮潔衣燒香散華,種種供養并諸飲食。入道場中,先當稱禮如前所說諸佛菩薩。至心慇重悔先罪已,右膝著地,可誦前呪滿一千八遍,端坐思惟念其所願。日未出時,於道場中食淨黑食,日唯一食,至十五日方出道場。能令此人福德威力不可思議,隨所願求無不圓滿。若不遂意,重入道場。
(Kinh:
Trước hết, hăy nên tụng tŕ đủ một vạn
tám ngàn lần để làm tiền phương tiện. Kế
đó, ở trong đạo tràng trang nghiêm nơi pḥng kín,
vào ngày đầu tiên của
hắc nguyệt[3], tắm gội
thanh tịnh, mặc áo sạch sẽ, đốt
hương, rải hoa, các thứ cúng dường và các thứ
thức ăn. Vào trong đạo tràng, trước hết
xưng niệm, lễ bái các vị Phật, Bồ Tát
như đă nói trong phần trước. Chí tâm, ân cần,
trân trọng sám hối tội trước kia xong, gối
phải đặt sát đất, có thể tụng chú trên
đây đủ một ngàn tám lượt, ngồi ngay ngắn,
tư duy nghĩ tới điều mong cầu. Khi mặt
trời chưa mọc, ở trong đạo tràng, ăn thức
ăn thanh tịnh có màu đen. Mỗi ngày chỉ ăn một
bữa. Tới ngày mười lăm, mới ra khỏi
đạo tràng. [Làm như vậy] có thể khiến cho
người ấy phước đức và oai lực chẳng
thể nghĩ bàn, hễ có nguyện cầu, không ǵ chẳng
viên măn. Nếu chẳng toại ư, lại vào đạo
tràng).
Tán
rằng: Dạy riêng. Trong phần này, có tám ư:
- Một,
phương tiện tŕ chú.
-
Hai, nơi chốn.
-
Ba, trang nghiêm.
- Bốn,
thời tiết.
-
Năm, kết tịnh (tức tắm gội, mặc áo mới
sạch).
-
Sáu, cúng dường.
- Bảy,
từ “nhập đạo tràng” trở đi là chánh hạnh.
Trong chánh hạnh,
có chín ư: Một là quy kính lễ bái. Hai là sám hối. Ba là kiền
thành, cung kính. Bốn là số lượt tụng niệm.
Năm là khởi nguyện. Sáu là nơi chốn và thời
gian ăn uống. Bảy là đối với thức
ăn th́ nhuộm thành màu đen cũng được. Tám
biết số lượng (chỉ ăn một bữa mỗi
ngày). Chín là kỳ hạn [tụng niệm, lễ
bái].
-
Tám, từ “năng linh” (có thể khiến cho) trở
đi, nguyện được toại, có hai điều:
Một là người phước nhiều th́ trong hai thất
(mười bốn ngày) đă toại nguyện; hai là từ
“nhược bất toại ư” (nếu chẳng toại
ư) trở đi, kẻ ác nghiệp nặng lại định
kỳ hạn làm như trước lần nữa. Ở
đây, chỉ chia thành hai phẩm, chứ các kinh khác phần
nhiều chia tu hành thành ba phẩm. Hoặc là xét theo căn
tánh lợi hay độn, hoặc xét theo chướng có ba
phẩm, hoặc xét theo ba phẩm tu, như cầu Phổ
Hiền sẽ có một tuần, hai tuần, ba tuần, hoặc
lại có kinh xét xem nghiệp của chúng sanh là nặng hay
nhẹ khác biệt. Ở đây cũng như thế. Chia
đoạn kinh văn th́ cứ dựa theo đó mà chia thành
từng khoa.
5.8.4.5.3. Kết lại,
khuyên đừng quên
(Kinh)
Kư xứng tâm dĩ, thường tŕ mạc vong.
(經)既稱心已,常持莫忘。
(Kinh:
Đă được toại ư, hăy thường tŕ, đừng
quên).
Kết
lại, khuyên đừng quên!
5.9. Phẩm thứ
chín: Lại chỉ rơ tánh Không (Trùng hiển Không tánh, phẩm
đệ cửu, 重顯空性品第九)
Phẩm Trùng Hiển Không Tánh chia
thành ba môn phân biệt:
- Một,
ư nghĩa v́ sao có phẩm này?
-
Hai, giải thích tên gọi của phẩm.
-
Ba, giải đáp vấn nạn.
5.9.1. Ư nghĩa v́ sao có
phẩm này?
Nói
về ư nghĩa v́ sao có phẩm này, các phẩm như Thọ
Lượng v.v… nói về cái quả Đại Thừa, từ
phẩm Mộng Kiến Sám Hối trở đi nói về hạnh
Đại Thừa. Hạnh Đại Thừa nương
vào cảnh mà sanh;
trong các phẩm trước, tuy nói đại lược về
Không, nhưng chưa thật sự biện định cặn
kẽ. Nay v́ nói rơ cảnh, cho nên có phẩm này. Hơn nữa,
tuy các phẩm trước có nói
đại lược về Không, nhưng phần nhiều
nói về Hữu hạnh, sợ [người nghe] sẽ
vướng mắc trong Nhị Chấp (chấp vào hai bên
Có và Không) khó thể trừ được, tam luân chẳng
viên măn, Lục Độ khó trọn vẹn. Do vậy,
nay rộng nói hai thứ Ngă và Pháp đều không lần nữa
để trừ khử hai món chấp ấy. Tam luân đă
được thanh tịnh, Lục Độ có thể
đạt tới bờ kia. V́ vậy, có phẩm này sanh khởi.
5.9.2. Giải thích danh
xưng của phẩm này
Giải
thích danh xưng th́ Tánh Không có ba ư:
- Một,
Không chính là tánh, tức là hai thứ
Biến Kế Sở Chấp đối với Ngă và Pháp.
-
Hai, tánh của Không chính là Chân Như. Đó là chân tánh của
Không, do Không mà hiển lộ. V́ thế, nói là “tánh
Không”,
chẳng phải “thể
tánh là Không”.
-
Ba, tánh Y Tha Khởi cũng gọi là tánh Không, được
gọi là Vô Sanh Tánh.
Lại
nói: “Hư vọng phân biệt mà có, nhưng hai thứ ấy
đều là không có”.
Đấy chính là tánh Y Tha, nhưng hai thứ chấp đều
là Không; do bất không nương vào tánh Viên Thành Thật.
Nay nương vào phẩm này, nói rơ Ngă Không và Pháp Không là
phương tiện, ư nghĩa chánh yếu là
muốn khiến cho [hành nhân] quán Chân Như Không tánh, chẳng
phải là không hiểu rơ Chân Như mà có thể hiểu rơ các hạnh
được! Nếu nói Thuấn Nhă Không th́ tức
là tánh, nói Thuấn Nhă Đa[4]
tức là tánh của Không. V́ thế, các kinh như Giải
Thâm Mật v.v… nói: “Tướng vô tự tánh tánh, sanh vô tự
tánh tánh, thắng nghĩa vô tự tánh tánh” (tánh của
tướng là vô tự tánh, tánh của sanh là vô tự tánh,
tánh của thắng nghĩa là vô tự tánh). V́ thế, ba
tánh đều được nói là “tánh”. “Không” là vô, “hiển”
là làm sáng tỏ, “trùng” là lặp lại. Trong phần
trước tuy đă nói đại lược, nhưng
[thính chúng] vẫn c̣n chưa thể hiểu, các kinh khác tuy
nói rộng, nhưng [đại chúng trong hội này] chưa
thể biết. Nay lại nói rơ; v́ thế, nói là Trùng Hiển
Không Tánh Phẩm.
5.9.3. Giải trừ vấn
nạn
* Hỏi:
Đă nói là phẩm giảng về tánh Không, cớ sao lại
nói: “Cầu chứng Bồ Đề chân thật xứ,
thường dĩ cam lộ thí quần sanh” (Cầu chứng
chỗ Bồ Đề chân thật, thường dùng cam lộ
thí cho các chúng sanh)? Bởi lẽ, Bồ Đề và hữu
t́nh đều chẳng Không!
Đáp:
Ngă và Pháp thật sự đều là Không, chẳng có pháp. Hữu
t́nh giác ngộ “tánh Y Tha, Viên Thành Thật là có”;
v́ thế nói là “đắc Bồ Đề”. Nếu
chẳng quán Không trước, sẽ không do đâu mà có thể
chứng Thật
được! V́ thế, nói phẩm
Không Tánh.
5.9.4. Giải thích kinh
văn
5.9.4.1. Người kết
tập trần thuật cái nhân
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn thuyết thử chú dĩ, vị
dục lợi ích Bồ Tát Ma Ha Tát, nhân thiên đại
chúng, linh đắc ngộ giải thậm thâm chân thật
Đệ Nhất Nghĩa cố, trùng minh Không tánh.
(經)爾時世尊說此呪已,為欲利益菩薩摩訶薩、人天大眾,令得悟解甚深真實第一義故,重明空性。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói chú ấy xong, v́
muốn lợi ích Bồ Tát Ma Ha Tát và đại chúng trời
người, khiến cho họ được ngộ giải
Đệ Nhất Nghĩa chân thật rất sâu, bèn lại
nói về tánh Không).
Tán
rằng: Kinh văn trong phẩm này chia thành ba phần:
- Một,
người kết tập trần thuật cái nhân.
-
Hai, đức Phật v́ đại chúng giảng lại
nghĩa Không.
-
Ba, đại chúng khi ấy được lợi ích, vui mừng,
hớn hở phụng hành.
Đoạn
này thuộc phần đầu, [gồm ba ư]:
-
Trước hết là kết lại kinh văn trong phần
trước, tức câu “thuyết thử chú dĩ”
(nói chú ấy xong).
-
Hai là [nêu bày] căn khí được lợi ích, tức
hàng Bồ Tát Ma Ha Tát.
- Ba
là nêu ra sở ngộ, tức là Đệ Nhất Nghĩa.
Nói “chân thật” nhằm chỉ rơ chẳng phải là
Đệ Nhất Nghĩa Đế của Tiểu Thừa,
do Đệ
Nhất Nghĩa Đế của Tiểu Thừa chẳng
chân thật.
- Bốn
là hiển lộ từ bi, tức [đức Phật] giảng
lại tánh Không.
5.9.4.2. Đức Phật
lại giảng về tánh Không
5.9.4.2.1. Nêu ra ư nghĩa
v́ sao phải nói
5.9.4.2.1.1. Các kinh khác
đă rộng nói [tánh Không], trong kinh này chỉ nêu đại
lược
(Kinh)
Nhi thuyết tụng viết: - Ngă dĩ ư dư thậm
thâm kinh, quảng thuyết Chân Không vi diệu pháp, kim phục
ư thử kinh vương nội, lược thuyết Không
pháp bất tư nghị.
(經)而說頌曰:我已於餘甚深經,廣說真空微妙法,今復於此經王內,略說空法不思議。
(Kinh:
Mà nói bài tụng rằng: - Ta trong các kinh rất sâu khác, rộng
nói pháp Chân Không vi diệu, nay lại trong vua các kinh này,
lược nói pháp Không chẳng nghĩ bàn).
Tán
rằng: Đức Phật v́ nhắc lại nghĩa Không,
nói ra ba mươi ba bài tụng, chia thành hai phần:
- Một,
ba bài tụng đầu tiên nêu ra ư nghĩa v́ sao phải
nói.
-
Hai, ba mươi bài tụng kế đó, riêng nói về
Không.
Trong
phần thứ nhất, lại chia thành ba ư:
-
Bài tụng thứ nhất, chỉ ra: Các kinh khác đă rộng
nói [tánh Không], trong kinh này chỉ nêu đại lược.
-
Bài tụng kế tiếp nói về cách thực hiện.
-
Bài tụng cuối cùng nêu ra cái nhân v́ sao nói [tánh Không].
Đoạn
này thuộc ư thứ nhất. Trong các kinh rất sâu khác
như Giải Thâm Mật, Lăng Già, Bát Nhă v.v… đă rộng
nói [tánh Không]; trong kinh vương này, chỉ nói đại
lược pháp Không. Nói “đại lược tổng
quát” là v́ người và pháp khác biệt. “Tổng”
là mười tám pháp Không; trong mười tám pháp Không, chỉ
nói tám thứ, tức là Nội Không, Ngoại Không, Nội
Ngoại Không, Tất Cánh Không, Vô Tế Không, Vô Tán Không, Tự
Tánh không, và Nhất Thiết Pháp Không để [người
nghe] h́nh dung các pháp
c̣n lại.
5.9.4.2.1.2. Nói về cách
thực hiện
(Kinh)
Ư chư quảng đại thậm thâm pháp, hữu t́nh
vô trí bất năng giải, cố ngă ư tư trùng phu diễn,
linh ư Không pháp đắc khai ngộ.
(經)於諸廣大甚深法,有情無智不能解,故我於斯重敷演,令於空法得開悟。
(Kinh:
Trong các pháp rộng lớn rất sâu, hữu t́nh vô trí chẳng
thể hiểu. Nên ta ở đây giảng lần nữa,
khiến cho khai ngộ nơi pháp Không).
Tán
rằng: Nói rơ cách thực hiện. “Linh ư Không pháp
đắc khai ngộ” (khiến cho được khai
ngộ nơi pháp Không): Nơi các pháp sâu tức là cảnh
[mà chúng sanh do chấp trước] đă mê. Đối với
chân lư Nhị Không (Ngă Không và Pháp Không), hoặc Bồ Đề
Niết Bàn, “hữu t́nh vô trí” tức là kẻ bị
mê. Đối với hành vi sanh khởi [do bị mê nơi
pháp sâu và các chân lư], có bốn loại người do vô trí chẳng
hiểu:
- Một
là kẻ chấp trước Ngă Pháp.
-
Hai là kẻ sợ Không.
- Ba
là kẻ giải đăi chẳng tu.
- Bốn
là kẻ nghi hoặc, chẳng học.
V́
thế, luận Thập Bát Không[5]
viết: “Hiểu lư mười tám món Không này, có thể
trừ bốn loại lầm lỗi: Một là trừ hư
luận, hai là trừ sợ hăi, ba là trừ giải đăi,
bốn là trừ nghi hoặc.
Điều
thứ nhất là trừ hư luận, lại có hai: Một là
trừ Ngă Chấp của ngoại đạo thế gian,
hai là trừ Pháp Chấp của hành giả xuất thế.
Hễ có hai món chấp ấy, sẽ chẳng thể ngộ giải
lư Nhị Không.
Điều
thứ hai, trừ sợ hăi. Chúng sanh nghe Nhân Không và Pháp
Không, sợ hăi chẳng tu đạo. Đấy chính là do
chấp Không, đức Phật bèn v́ kẻ đó nói có Sự,
có Dụng. Nếu ai có thể tu, sẽ có thể đắc
đạo và đắc đạo quả, cho đến hết
thảy công đức nơi ba thân.
Điều
thứ ba, trừ giải đăi. Nếu Định mà tịnh,
chẳng cần mất
công tu đạo. Nếu Định bất
tịnh, sẽ vĩnh viễn chẳng trừ diệt. Nay
nói Như Như chẳng tịnh, chẳng bất tịnh,
chỉ khi nào có Hoặc th́ gọi là bất tịnh. Đă
trừ hết Hoặc th́ được gọi là thanh tịnh.
V́ thế, phải nên tu đạo th́ mới có thể giải
thoát.
Điều
thứ tư là trừ nghi hoặc. Đă nghe Như Như
‘chẳng phải có, chẳng phải không’, tâm do dự. Do
vậy, phân biệt, phán định hai pháp Nhân và Ngă quyết
định chẳng có, lư ‘Nhân và Pháp cả hai đều là
không’ quyết
định chẳng phải là không. Do đó, trừ nghi hoặc,
khiến cho họ
được khai ngộ”.
5.9.4.2.1.3. Nêu ra cái nhân
v́ sao nói tánh Không
(Kinh)
Đại bi ai mẫn hữu t́nh cố, dĩ thiện
phương tiện thắng nhân duyên, ngă kim ư thử
đại chúng trung, diễn thuyết linh bỉ minh Không
nghĩa.
(經)大悲哀愍有情故,以善方便勝因緣,我今於此大眾中,演說令彼明空義。
(Kinh:
Do đại bi thương xót hữu t́nh, dùng phương
tiện khéo nhân duyên trội, ta nay ở trong đại
chúng này, diễn nói khiến họ hiểu nghĩa Không).
Tán
rằng: Nêu rơ cái nhân v́ sao phải nói. Dùng phương tiện
khéo làm nhân duyên thù thắng. “Minh” là hiểu, tức là
khiến cho họ hiểu nghĩa Không.
5.9.4.2.2. Nói riêng từng
môn Không
5.9.4.2.2.1. Nói về ba
món Không đầu tiên (Nội Không, Ngoại Không, Nội
Ngoại Không)
(Kinh)
Đương tri thử thân như không tụ, lục tặc
y chỉ bất tương tri, lục trần chư tặc
biệt y căn, các bất tương tri diệc như thị.
(經)當知此身如空聚,六賊依止不相知,六塵諸賊別依根,各不相知亦如是。
(Kinh:
Hăy biết thân này như xóm trống, sáu giặc
nương ở chẳng biết nhau, giặc sáu trần
nương riêng từng căn, chẳng hề biết nhau
cũng giống vậy).
Tán
rằng: Ba mươi bài tụng kế đó nói về
Không, chia thành sáu phần:
- Một,
mười hai bài tụng đầu tiên nói về Tam Không
nhằm trừ Ngă Chấp và Pháp Chấp của hữu
t́nh.
-
Hai, nửa bài tụng nói về Tất Cánh Không.
-
Ba, từ “nhất thiết chư pháp” (hết thảy
các pháp) trở đi, gồm bốn bài tụng rưỡi,
nói về Vô Tế Không.
- Bốn,
một bài tụng từ “ngă
đoạn nhất thiết” (ta đoạn hết thảy)
trở đi, nói về Vô Tán Không.
-
Năm, một bài tụng từ “ngă
khai cam lộ” trở đi, nói về Tự Tánh Không.
-
Sáu, phần kinh văn c̣n lại nói về Nhất Thiết
Pháp Không.
Hỏi:
Theo các bộ luận như Thập Bát Không v.v… th́ có mười
tám món Không, v́ sao chỉ nói tám món?
Đáp:
Chuẩn theo Thập Bát Không Luận, sáu món Không đầu
tiên chẳng có tự thể, món thứ mười là nói về
Dụng của Không, món Không thứ mười bảy thuộc
về Thể. Món Không thứ mười tám thuộc về
Dụng. Trong Thể, Nội Không nhằm phá cái Ngă có thể
thọ, Ngoại Không nhằm phá pháp được lănh thọ,
Nội Ngoại Không phá cả hai. V́ thế, được
nói riêng. Đại Không là khí thế gian, chẳng phải
là hữu t́nh. Không Không chính là trí vô lậu có thể quán
Như ứng hợp với Như, được gọi
là Không Không. Chân Thật Không tức là pháp năng chứng
và sở chứng lư Chân Như,
phàm phu chưa thể đạt được! Hơn nữa,
Đại Không và Chân Thật Không thuộc vào Pháp Không. Không
Không thuộc vào Nhân Không, cho nên chẳng nói riêng. Trong mười
Dụng, hữu vi và vô vi là nói về nhân quả, nhưng chỉ
thuộc vào tự lợi, cho nên không nói tới. C̣n như Tất
Cánh Không, v́ thường lợi ích hữu t́nh; Vô Tế
Không thành tựu lợi ích thường hằng trên đây.
Vô Tán Không v́ lợi ích thường hằng, nên chẳng trụ
trong Niết Bàn. Tự Tánh Không khai ngộ hữu t́nh, khiến
cho họ đạt được Niết Bàn. Tướng
Không v́ để thành tựu các tướng hảo, do kém cỏi,
cho nên chẳng nói tới. Nhất Thiết Pháp Không nhằm
thành tựu Lực, Vô Úy v.v… Hữu Pháp Không, Vô Pháp Không bao gồm
bản thể của mười bốn món Không, trừ chấp
trước “tăng, giảm”.
Năm món như Tất Cánh Không v.v… lợi tha thù thắng,
các món Không khác chẳng thù thắng bằng; do vậy,
lược đi chẳng
nhắc tới. Nói cặn kẽ các
món Không th́ như chương Không Nghĩa Lâm của sách
Pháp Uyển đă nói.
Lại
giải rằng: Ba bài tụng đầu xét theo sự phân
khoa th́ giống như trên đây đă giải thích, mười
bảy bài tụng kế đó nói về Không, từ “ngă
đoạn nhất thiết phiền năo” (ta đoạn
hết thảy phiền năo) trở đi nói về cái nhân của
Không. Hăy nói về phần thứ nhất, xét theo
phần giải thích riêng biệt của phần thứ nhất,
kinh văn được chia thành hai phần:
- Một,
bài tụng đầu tiên nói tổng quát về ba món Không.
-
Hai, mười một bài tụng sau đó nói riêng [từng
món trong] ba món Không.
Đoạn
này thuộc ư đầu. “Thử thân như không tụ”
(thân này như làng xóm trống rỗng) là nói về Nội
Ngoại Không, tức Tứ Đại là cái tạo ra các
Căn và ư thức vi tế là chỗ nương vào của
sáu thức, cũng như chỗ nương vào của
năm sắc căn, cho nên
được gọi là Nội Không. Đó cũng là ngoại
cảnh, cho nên gọi là Ngoại
Không, tức là do xét theo phù căn trần[6]
mà gọi là Ngoại, chẳng phải là ĺa ngoài thân. “Lục
tặc y chỉ bất tương tri” (sáu tên giặc
nương nhờ mà chẳng biết nhau) chỉ ra Nội
Không. “Lục trần chư tặc…” (các giặc sáu trần)
là nói về Ngoại Không. Trong phần sau, mỗi món đều
được giải thích cặn kẽ. Cái thân để
nương vào giống như bọt nước tụ lại,
bèn nói “như không tụ” (như xóm vắng). Lại
v́ là hữu lậu, hư ngụy, chẳng có công đức,
nên gọi là “không tụ”. Nhưng cảnh tiếp nhận
bởi lục căn đều có thể tạo thành duyên gây tổn hoại
thiện phẩm; cho nên đều gọi là Tặc. V́ thế
nói “lục trần chư tặc biệt y căn” (Sáu
trần các giặc mỗi kẻ riêng nương tựa mỗi
căn).
(Kinh)
Nhăn căn thường quán ư sắc xứ, nhĩ
căn thính thanh bất đoạn tuyệt, tỵ căn hằng
khứu ư hương cảnh, thiệt căn trấn
thường ư mỹ vị, thân căn thọ ư
khinh nhuyễn xúc, ư căn liễu pháp bất tri yếm. Thử
đẳng lục căn tùy sự khởi, các ư tự
cảnh sanh phân biệt.
(經)眼根常觀於色處,耳根聽聲不斷絕,鼻根恒嗅於香境,舌根鎮甞於美味,身根受於輕軟觸,意根了法不知厭,此等六根隨事起,各於自境生分別。
(Kinh:
Mắt th́ thường nh́n nơi sắc xứ, tai thường
nghe tiếng chẳng đoạn tuyệt, mũi thường
ngửi nơi chỗ có mùi, lưỡi thường nếm
trải mùi vị ngon, thân tiếp nhận cảm xúc mềm
mại, ư căn nhận biết pháp chẳng chán. Sáu căn
tùy sự mà khởi lên, riêng với tự cảnh sanh phân
biệt).
Tán
rằng: Tiếp đó, nói riêng từng món Không. Ba bài tụng
rưỡi đầu tiên nói về Nội Không, một bài
tụng rưỡi kế đó dùng năng duyên và sở
duyên để nói về Ngoại Không, sáu bài tụng sau
đó nói về Nội Ngoại Không. Trong phần Nội
Không, hai bài tụng đầu xét theo các căn để
[các thức] nương vào mà giảng giải Nội Không.
Kế đó, một bài tụng rưỡi từ “thức
như huyễn” trở đi, dựa theo các thức có
thể nương vào [các căn] mà giảng giải Nội
Không. Đoạn này thuộc ư đầu. Giải thích cái
Thể và cảnh để duyên theo của sáu căn th́
như trong chương Uẩn Xứ Giới Nghĩa Lâm
thuộc phần Bổ Khuyết của sách Pháp Uyển
đă giảng rộng. Luận Thập Bát Không nói: “Đối
với phàm phu và Nhị Thừa, Lục Nhập ở bên
trong có thể tiếp nhận quả báo của sáu trần,
cho nên gọi là Thọ Giả. V́ phá chấp trước ấy,
chỉ có sáu căn chẳng thể tiếp nhận pháp, gọi
là Thọ Giả Không”. Ư nói: Căn, cảnh, và thức,
cả ba ḥa hợp th́ có thể tiếp nhận, chẳng
phải là riêng Căn mà đă
có thể [tiếp nhận lục trần] được.
[Nói như thế] nhằm phá chấp “Ngă là thọ giả”
của ngoại đạo, phá chấp “có thể thọ
ngă và pháp” của Nhị Thừa. Lại phá [chấp
trước] “ĺa thức chỉ nói là
không”.
“Tùy sự khởi”
nghĩa là tùy thuộc vào sự như Tứ Đại có
thể tạo tác và Thức có thể nương [vào
căn và cảnh] mà dấy lên, chiếu tự cảnh, sanh ra
vọng thức phân biệt.
(Kinh) Thức như huyễn hóa phi chân thật,
y chỉ căn xứ vọng tham cầu, như nhân bôn tẩu
không tụ
trung, lục thức y căn diệc như thị, tâm biến
tŕ cầu tùy xứ chuyển, thác căn duyên cảnh liễu
chư sự.
(經)識如幻化非真實,依止根處妄貪求,如人奔走空聚中,六識依根亦如是,心遍馳求隨處轉,託根緣境了諸事。
(Kinh:
Thức như huyễn hóa, chẳng chân thật, y chỉ nơi căn, vọng tham cầu. Như người rảo chạy
trong xóm vắng, sáu thức nương căn cũng
như thế. Tâm rong ruổi cầu theo khắp chốn,
nhờ căn duyên cảnh hiểu các sự).
Tán
rằng: Xét theo Thức có thể nương vào Căn để giảng
Nội Không. Luận (Thập Bát Không Luận) nói: “Do chẳng
có cảnh, Thức chẳng thể sanh; đó gọi là Nội
Không”. Thức như chuyện huyễn hoặc, từ điên đảo mà sanh. Vọng tưởng giữ
lấy cảnh như đi trong xóm làng trống rỗng.
Đối với các cảnh đều tham th́ gọi là “biến
tŕ cầu” (rong ruổi truy cầu trọn khắp). Nhờ
vào căn để duyên theo cảnh. Căn và cảnh
đă là không, cho nên chẳng có thức!
(Kinh)
Thường ái sắc thanh hương vị xúc, ư pháp
tầm tư vô tạm đ́nh, tùy duyên biến hành ư lục
căn, như điểu phi không vô chướng ngại. Tạ
thử chư căn tác y xứ, phương năng liễu
biệt ư ngoại cảnh.
(經)常愛色聲香味觸,於法尋思無暫停,隨緣遍行於六根,如鳥飛空無障礙。藉此諸根作依處,方能了別於外境。
(Kinh:
Thường yêu sắc, thanh, hương, vị, xúc. Tầm
tư nơi pháp chẳng tạm ngừng, tùy duyên hiện hữu
khắp sáu căn, như chim trên không chẳng chướng
ngại. Dựa vào các căn làm chỗ nương, mới
có thể hiểu rơ ngoại cảnh).
Tán
rằng: Nói về Ngoại Không. Nêu ra thức là cái có thể
duyên theo [căn và cảnh] để chỉ ra “cảnh là
Không”. “Biến hành lục căn”: Có thể hiểu
theo một nghĩa là ư thức. Hoặc lại c̣n xét theo thức
hiện khởi nơi một ư xứ mà nói là “biến
hành lục căn”. Thức duyên trọn
khắp theo cảnh, như chim bay vô ngại.
Đă nhờ vào căn xứ mới biến hiện để
duyên theo cảnh, căn và thức là không, ngoại cảnh
chẳng có. Đối với người Tiểu Thừa,
cũng phá [chấp trước] “ĺa thức”, khiến cho họ
trừ Pháp Chấp. Đối với kẻ ngoại đạo,
phá chấp trước ngă sở cũng như phá Ngă Chấp.
V́ thế nói là Không. Do vậy, luận ấy (luận Thập Bát Không)
nói: “Nếu các chúng sanh có cái để thọ dụng, chỉ
là sáu trần, do bên trong chẳng có người, cho nên chẳng
có Năng Thọ Giả (người có thể tiếp nhận).
Bên ngoài th́ do không có pháp, cho nên không có Sở Thọ Giả
(cái được tiếp nhận). Nhân và pháp đều là Không, chỉ
có thức, không có cảnh, cho nên gọi là Ngoại Không”.
Hỏi:
V́ sao phải đối ứng ba món căn, cảnh, và thức
để nói?
Đáp:
Do thức nương vào thọ giả (chủ thể tiếp nhận),
thọ giả đă là không có
th́ thức cũng không có.
Căn nhờ vào thức để chấp giữ cảnh.
Thức đă là không, th́ căn cũng chẳng có. Cảnh
do tâm mà biến, ĺa khỏi cảnh sẽ chẳng có tâm,
đều là dựa theo chấp để nói. V́ thế,
đối ứng giữa căn, cảnh, và thức để
nói. Do vậy, luận nói: “Lục Nhập không có thức,
tức là không có người. Thức mà chẳng
có căn và trần th́ sẽ
chẳng có pháp. Do cần
cả hai nghĩa, cho nên biết chúng đều là không!”
(Kinh)
Thử thân vô tri, vô tác giả. Thể bất kiên cố,
thác duyên thành, giai tùng hư vọng phân biệt sanh, thí
như cơ quan do nghiệp chuyển.
(經)此身無知無作者,體不堅固託緣成,皆從虛妄分別生,譬如機關由業轉。
(Kinh:
Thân này vô tri, không tác giả. Thể chẳng cứng chắc,
nhờ duyên thành, đều từ hư vọng, phân biệt
sanh. Ví như cỗ máy do nghiệp chuyển).
Tán
rằng: Kế đó, nói về món thứ ba là Nội Ngoại
Không, tức là đối với Tứ Đại tạo
ra căn, và phù
trần là chỗ để căn và cảnh nương
vào, lại nh́n tổng hợp, nên nói là Nội Ngoại
Không. Do đó, luận ấy (luận Thập Bát Không) nói: “Nội
Ngoại Không là nói Tứ Đại nơi thân là chỗ y
chỉ của nội ngoại pháp. Nội y là lục
căn bên trong. Ngoại y là sáu trần bên ngoài. Căn và chẳng
phải căn cũng đều là không, gọi là Nội
Ngoại Không”. Luận Biện Trung Biên giải thích giống như vậy.
Trong phần
này, chia thành ba ư:
- Một,
bài tụng thứ nhất nói chung về vô ngă.
-
Hai, ba bài tụng kế đó nói riêng: Do Tứ Đại chống trái lẫn nhau,
vô thường, bèn có
khổ.
-
Ba, hai bài tụng cuối nói: Do thân không có tịnh, lạc
v.v… nên là Không.
Đoạn
này thuộc ư đầu. “Vô tri, vô tác giả”: Chữ
Giả trong phần sau cũng thông với chữ vô tri (tức
là phải hiểu là “vô tri giả, vô tác giả”). Thân
như đống bọt nước, cho nên chẳng kiên cố.
Do Tứ Đại hợp thành, cho nên nhờ vào các duyên.
Đều từ điên đảo hư vọng mà sanh,
nên nói chung là “vô ngă”. Như người gỗ có gắn
chốt điều khiển, chỉ do nghiệp phong mà xoay
chuyển.
(Kinh)
Địa, thủy, hỏa, phong, cộng thành thân. Tùy bỉ
nhân duyên chiêu dị quả, đồng tại nhất xứ
tương vi hại. Như tứ độc xà cư nhất
khiếp. Thử Tứ Đại xà tánh các dị, tuy
cư nhất xứ, hữu thăng trầm, hoặc
thượng hoặc hạ biến ư thân, tư đẳng
chung quy ư diệt pháp.
(經)地水火風共成身,隨彼因緣招異果,同在一處相違害,如四毒蛇居一篋。此四大蛇性各異,雖居一處有昇沈,或上或下遍於身,斯等終歸於滅法。
(Kinh:
Đất, nước, lửa, gió, hợp thành thân. Tùy thuộc
nhân duyên chuốc quả khác, cùng ở một chỗ, làm hại
nhau. Như bốn rắn độc trong một tráp. Tánh rắn
Tứ Đại đều khác biệt, tuy ở cùng chỗ
có thăng trầm, hoặc trên, hoặc dưới, trọn
khắp thân, bọn chúng rốt cuộc thành diệt pháp).
Tán
rằng: Riêng nói Tứ Đại chống trái nhau, cho nên
có nỗi khổ vô thường. Hai bài tụng đầu
nói về tướng trạng chung: “Do [Tứ Đại]
chống trái nhau,
nên vô thường, có khổ”. Bài tụng sau đó hiển
lộ: Do tánh của mỗi đại mỗi khác, cho nên có khổ.
Phần đầu lại chia thành hai ư:
-
Bài tụng đầu tiên nói chung về sự mâu thuẫn
giữa các Đại.
-
Bài tụng kế tiếp nói nguyên do v́ sao [Tứ Đại]
chống trái nhau!
(Kinh)
Ư thử tứ chủng độc xà trung, địa
thủy nhị xà đa trầm hạ, phong hỏa nhị
xà tánh khinh cử, do thử quai vi chúng bệnh sanh.
(經)於此四種毒蛇中,地水二蛇多沈下,風火二蛇性輕舉,由此乖違眾病生。
(Kinh:
Ở trong bốn loại rắn độc ấy, hai rắn
đất, nước ch́m xuống nhiều, hai rắn
gió, lửa, tánh nhẹ nổi, do vậy trái nghịch sanh
các bệnh).
Tán
rằng: Nêu rơ do tánh của Tứ Đại đều
khác biệt, cho nên có khổ.
(Kinh)
Tâm thức y chỉ ư thử thân, tạo tác chủng chủng
thiện ác nghiệp, đương văng nhân thiên tam ác thú,
tùy kỳ nghiệp lực thọ thân h́nh. Tao chư tật
bệnh thân tử hậu, đại tiểu tiện lợi
tất doanh lưu, nùng lạn trùng thư bất khả nhạo,
khí tại thi lâm như hủ mộc.
(經)心識依止於此身,造作種種善惡業,當往人天三惡趣,隨其業力受身形。遭諸疾病身死後,大小便利悉盈流,膿爛蟲蛆不可樂,棄在屍林如朽木。
(Kinh:
Tâm thức y chỉ nơi thân này, tạo tác các thứ nghiệp
thiện ác, sẽ vào trời, người, ba đường
ác, thuận theo nghiệp lực để thọ thân. Gặp
các bệnh tật, thân chết đi, đại tiện,
tiểu tiện chảy quanh khắp, trương nứt,
trùng gịi chẳng thể ưa, vứt trong rừng xác
như gỗ mục).
Tán
rằng: Nói rơ do không có niềm vui thanh tịnh v.v…
cho nên là không. Đoạn này chia thành hai ư:
-
Bài tụng đầu tiên nói: Do chẳng có tịnh nghiệp,
nên chiêu cảm cái quả trong năm đường, khác với
nghiệp vô lậu trắng sạch chiêu cảm cái quả
thanh tịnh.
-
Bài tụng kế đó nêu rơ: Do tướng bất
tịnh và chẳng có niềm vui thanh tịnh, nên là Không.
Như Giải Thoát Đạo Luận[7]
nói đối với bất tịnh, có mười pháp
tưởng [xác chết]: Một là tưởng
trương phềnh, hai là xanh bầm, ba là hư nứt, bốn
là bị quăng
ném, năm là chim thú ăn nuốt, sáu là thịt trên thân rời
ră, bảy là chém,
chặt tan ĺa, tám là máu đỏ đầm đ́a, chín là
trùng bọ hôi thối,
mười là tưởng xương. Kinh này không nói cặn
kẽ, kệ tụng chỉ nêu đại lược.
5.9.4.2.2.2. Tất Cánh
Không
(Kinh)
Nhữ đẳng đương quán pháp như thị,
vân hà chấp hữu ngă chúng sanh?
(經)汝等當觀法如是,云何執有我眾生?
(Kinh:
Các ông nên quán pháp như thế, sao lại chấp có ngă,
chúng sanh?)
Tán
rằng: Trên đây đă quán cái Thể của Không là Nhân
Không và Pháp Không. Từ đây trở đi là nói quán tác dụng
của Không, gồm
có năm món Không. Ở
đây chính là Tất Cánh Không. Theo mạch
văn th́ cũng có thể coi như phần kết luận của vô ngă
trong đoạn trước;
xét theo sự giảng dạy riêng biệt th́ là quán Tất
Cánh Không. Bồ Tát phát tâm v́ thường lợi ích chúng
sanh, cho nên kế đó dạy quán Tất Cánh Không. Do vậy,
luận ấy nói: “Bồ Tát tu Không v́ muốn rốt ráo
lợi ích chúng sanh cho đến tận cùng bờ
mé sanh tử, thề chẳng ngưng dứt”.
Nhưng luận ấy coi chúng sanh được quán là chẳng có,
khiến cho quán cái tâm có thể phát nguyện rốt ráo là
Không. Nếu không, do chấp trước, sẽ chẳng thành
đại bi. Chúng sanh chấp vào pháp, coi đó là thành tựu.
Thể của pháp đă là Không, chúng sanh há có ư? V́ thế,
quán chúng sanh là Không.
5.9.4.2.2.3. Vô Tế Không
(Kinh)
Nhất thiết chư pháp tận vô thường, tất
tùng vô minh duyên lực khởi, bỉ chư đại chủng
hàm hư vọng, bổn phi thật hữu,
Thể vô sanh. Cố thuyết đại chủng tánh giai
không, tri thử phù hư, phi thật hữu.
(經)一切諸法盡無常,悉從無明緣力起,彼諸大種咸虛妄,本非實有體無生。故說大種性皆空,知此浮虛非實有。
(Kinh:
Hết thảy các pháp đều vô thường, đều
từ sức vô minh duyên khởi, các đại chủng[8] đó đều
hư vọng, vốn chẳng thật Thể, là vô sanh. Nên
nói tánh đại chủng đều Không, biết chúng
hư giả, chẳng thật có).
Tán
rằng: Nói về Vô Tế Không. V́ để thành tựu lợi
ích chúng sanh rốt ráo, cho nên quán Vô Tế Không. Do đó, luận
Biện Trung Biên nói: “Sanh tử dài lâu, chẳng có
sơ tế và hậu tế. Do quán chúng (sơ tế lẫn
hậu tế) đều là không, nên gọi là Vô Tế
Không. Chẳng quán là Không, sẽ mau chán bỏ. V́ chẳng
chán bỏ sanh tử ấy, cho nên quán Vô Tế này”. Luận
Thập Bát Không nói: “Do vọng tưởng chẳng có
pháp, nên nói là Vô Tiền. Do chẳng có tướng phân biệt,
nên gọi là Vô Hậu. Do vô tiền, vô hậu, nên gọi là
Không”. Ư nói: Do vô minh vọng tưởng sanh ra nên nói là Vô
Tiền (không có trước); các tướng như sanh,
lăo, tử v.v… vốn chẳng có, nên
nói là Vô Hậu (không có sau). Lại trừ bỏ Biến Kế
vô thường, vô tác, do hai thứ duyên sanh, nên gọi là
Không. Kinh văn chia thành ba đoạn:
- Một
bài tụng rưỡi đầu tiên nhằm nêu chung: Thể
là Không.
- Hai
bài tụng sau đó, nói riêng về duyên sanh.
-
Bài tụng cuối cùng nói “luân hồi chẳng ngơi”
chính là vô chung (không có kết thúc).
Đoạn
này thuộc ư thứ nhất. Các pháp vô thường, quán vô
thường duyên sanh. Do sức vô minh dấy lên, quán vô tác
duyên sanh chính là vô thường. Vô minh làm duyên, các chi khác
[trong Thập Nhị Nhân Duyên] sẽ khởi lên. Các địa
vị như Yết Lạt Lam[9]
v.v… do đại chủng điên đảo duyên sanh, gọi
là hư vọng, chẳng giống như ngoại đạo
thuộc Thắng Luận và Số Luận nói Thể [của các đại chủng] đều
là thật sự có, bèn
nói “bổn phi thật hữu Thể” (vốn chẳng
có cái Thể thật sự), chúng đều từ duyên khởi, chẳng
phải là tự nhiên sanh. V́ thế nói là Vô Sanh. Do vậy,
nói “đại chủng tánh giai không” (tánh của các chủng
tử Tứ Đại đều là Không) nhằm kết
lại phần “đại chủng hư vọng”
trên đây. Do sự hư vọng ấy, quán nó như bọt
sóng nổi, chẳng chân thật, cho nên là Không.
(Kinh)
Vô minh tự tánh bổn thị vô, tạ chúng duyên lực
ḥa hợp hữu, ư nhất thiết thời thất
chánh huệ, cố ngă thuyết bỉ vi vô minh.
(經)無明自性本是無,藉眾緣力和合有,於一切時失正慧,故我說彼為無明。
(Kinh:
Vô minh tự tánh vốn là không, nhờ sức
các duyên ḥa hợp có. Trong hết thảy thời mất
chánh huệ, nên ta nói nó là vô minh).
Tán
rằng: Riêng nói về mười hai [nhân duyên]. Bài tụng
này trước hết nói về Vô Minh. Chẳng phải do
các thứ như thần ngă v.v… dấy khởi, chẳng do
các nhân như tự tánh v.v… mà sanh, nên nói “bổn vô” (vốn
là không). Chỉ do các duyên mà có, nêu rơ ư nghĩa “duyên sanh”.
Chẳng có chánh huệ, chỉ
rơ: V́ hư vọng đánh mất chánh huệ,
nên nói là vô minh.
(Kinh)
Hành, Thức vi duyên hữu Danh Sắc, Lục Xứ cập
Xúc, Thọ tùy sanh, Ái, Thủ, Hữu duyên Sanh, Lăo, Tử.
Ưu bi khổ năo hằng tùy trục.
(經)行識為緣有名色,六處及觸受隨生,愛取有緣生老死,憂悲苦惱恒隨逐。
(Kinh:
Hành, Thức làm duyên khởi Danh Sắc, Lục Xứ và
Xúc, Thọ sanh theo. Ái, Thủ, Hữu duyên Sanh, Lăo, Tử.
Ưu buồn,
khổ năo thường theo sát).
Tán
rằng: Nói về các chi khác [trong mười hai nhân duyên] ngoài
Vô Minh, kinh văn dễ hiểu.
(Kinh)
Chúng khổ ác nghiệp thường triền bách, sanh tử
luân hồi vô tức thời. Bổn
lai phi hữu, Thể
thị không. Do
bất như lư sanh phân biệt.
(經)眾苦惡業常纏迫,生死輪迴無息時,本來非有體是空,由不如理生分別。
(Kinh:
Các ác nghiệp khổ thường trói, ép, sanh tử luân
hồi chẳng lúc ngơi. Vốn là chẳng có, Thể là
không. Do chẳng đúng lư, sanh phân biệt).
Tán
rằng: Nói về luân hồi chẳng dứt, nhằm tỏ
rơ “vô chung” (không có kết thúc). “Chúng khổ” (các
khổ) là từ sau Sanh, Lăo, bèn khởi Hoặc nghiệp.
Do Hoặc trói buộc, nghiệp nhân lại càng bức bách
khổ sở, cho nên lại sanh tử luân hồi, duyên sanh
hư vọng, chẳng có thật thể, đều do tâm
biến ra, cái Thể ở ngoài Thức là không. Do chẳng
đúng lư, hư vọng sanh ra tư duy điên đảo
phân biệt, chẳng phải do ai khác tạo ra.
5.9.4.2.2.4. Vô Tán Không
(Kinh)
Ngă đoạn nhất thiết chư phiền năo, thường
dĩ chánh trí hiện tiền hành, liễu Ngũ Uẩn trạch
tất giai Không, cầu chứng Bồ Đề chân thật xứ.
(經)我斷一切諸煩惱,常以正智現前行,了五蘊宅悉皆空,求證菩提真實處。
(Kinh:
Ta đoạn hết thảy các phiền năo, thường
dùng chánh trí hiện tiền hành, biết nhà Ngũ Uẩn thảy
đều Không, cầu chứng Bồ Đề chốn chân thật).
Tán
rằng: Nói về Vô Tán Không. Luận Biện Trung Biên nói: “Do
điều thiện đă tu đạt tới địa
vị thuộc Vô Dư Y Bát Niết Bàn, cũng chẳng tán
xả mà quán Không, cho nên gọi là Vô Tán Không”. Có nghĩa
là khác với Nhị Thừa, [do Nhị Thừa] chẳng
có đại bi. Tu tập các điều thiện đạt
tới địa vị Vô Dư, [Tiểu Thừa] sẽ
đều tán xả, nát thân diệt độ. Luận Thập
Bát Không nói: “V́ thế, Như Lai tuy nhập Niết Bàn, chẳng
bỏ bổn nguyện, tùy theo cơ duyên của chúng sanh mà
hằng hiện ứng hóa, dẫn dắt, lợi ích hữu
t́nh, thường theo sát họ chẳng bỏ, như
trăng chẳng ĺa nước, bóng chẳng ĺa
gương, chẳng giống Nhị Thừa hễ nhập
diệt là vĩnh viễn đoạn, từ bi mỏng ít,
chẳng thể hóa độ người khác” v.v…
Như bóng trăng chẳng ĺa nước,
như h́nh ảnh của muôn vật chẳng ĺa
gương, nhưng do nước và gương làm duyên,
các h́nh bóng khác ắt sẽ hiện theo.
“Ta
đoạn phiền năo” cho thấy đă đạt
được Niết Bàn. “Thường chánh trí hiện
tiền” tức thân Ứng Hóa dấy lên chính là h́nh bóng của
trí, cho nên gọi là Chánh Trí. Lại c̣n có nghĩa là do bốn
trí mà đạt được Ngũ Uẩn thường
hằng, có thể hiểu rơ đều là Không. V́ thế,
chẳng xả sanh tử. Do “cầu chân thật xứ”,
nên chẳng xả Niết Bàn. Bồ Đề và Bồ
Đề đoạn đều gọi là Bồ Đề.
Do chẳng hư vọng, nên gọi là “chân thật xứ”,
đó cũng là ba thân “chẳng tức, chẳng ĺa”; ư
nghĩa có thể suy theo đó để hiểu!
5.9.4.2.2.5. Bổn Tánh
Không
(Kinh)
Ngă khai cam lộ đại thành môn, thị hiện cam lộ
vi diệu khí, kư đắc cam lộ chân thật vị,
thường dĩ cam lộ thí quần sanh.
(經)我開甘露大城門,示現甘露微妙器,既得甘露真實味,常以甘露施群生。
(Kinh:
Ta mở cửa thành lớn cam lộ, thị hiện cam lộ
khí vi diệu, đă đạt được vị cam lộ
chân thật, thường dùng cam lộ thí chúng sanh).
Tán
rằng: Nói về Bổn Tánh Không. Luận Biện Trung Biên
nói: “Tự thể của các Thánh Chủng Tánh là vốn sẵn
có, chẳng phải do tu tập mà thành, nên gọi là Bổn
Tánh. Bồ Tát do v́ mau đạt được sự thanh
tịnh ấy mà quán Không, nên gọi là Bổn Tánh Không”.
Đây là nói hành tánh được gọi là Thánh Chủng
Tánh, tức bổn tánh trụ trong chủng tánh. Luận Thập
Bát Không nói: “Phật tánh là pháp thể nơi tự tánh của
hết thảy các pháp. Tánh có hai nghĩa: Một là chẳng
có khởi đầu, hai là chẳng có nhân; sau đó thành
sanh tử, nhưng vẫn là pháp vốn sẵn có như thế.
Ví như từ vô thỉ, sanh tử liên tục, tự thể của
hữu tâm và vô tâm đều chẳng có nhân”.
Ư nói: Hữu t́nh và phi t́nh đều là pháp vốn sẵn có như thế. Nếu
tâm có nhân, th́ [cái nhân ấy] vốn sẵn có ư? Lại hỏi
cái nhân của tâm đă có từ vô thỉ? Hay là mới sanh
ra? Nếu là cái nhân vốn sẵn có th́ là tự nhiên (ư nói:
Nếu bảo cái nhân của tâm là vốn sẵn có, th́ tức
là pháp vốn sẵn như vậy), tức là tự nhiên
cũng chấp nhận tâm là pháp tự nhiên (đây là thành
ra cái tâm hiện thời chỉ là
pháp vốn sẵn như vậy, giống như cái nhân không
có khởi đầu). Xưa kia chẳng có nhân (mang ư
nghĩa cật vấn rằng: “Nếu
nói trước đó không có nhân”,
cũng phải nên nhắc lại rằng) phải nên không
có chúng sanh. Sau đó, có nguyên nhân th́ mới có chúng sanh (có
nghĩa là cật vấn rằng: Nếu lúc không có nhân th́
chưa có chúng sanh. Sau này có nhân th́ mới có chúng sanh. Nếu
là như thế, vậy th́) như đất,
đá v.v… nếu là lúc có nhân th́ [đất, đá cũng]
phải nên thành chúng sanh (ư nói: Đất đá trước
đó không có cái nhân chúng sanh, sau đó sẽ chẳng thể
khiến cho nó có
nhân để thành chúng sanh
được! V́ thế, biết tự
nhiên mà một đằng là hữu tâm, một đằng
là vô tâm). Phật tánh cũng thế, tự nhiên không có nhân
(ư nói: Hành tánh vốn đă có sẵn trước đó,
chẳng phải là nói: “Sau khi
đă hành, đă có nhân,
th́ mới có [hành tánh]”). “Hư
vọng” c̣n có nghĩa tự nhiên, huống hồ chân thật
mà chẳng phải là “pháp vốn sẵn có như thế”
ư? V́ thế, từ vô thỉ, Phật tánh làm nhân. Do
đó, Lục Nhập muốn cầu giải thoát. Nếu
chẳng có Phật tánh, cái quả giải thoát sẽ chẳng
thể thành tựu. Ư này giống như kinh Thiện Giới,
luận Địa Tŕ v.v… đă
luận định về lục xứ
thù thắng v.v…
“Ngă
khai đại thành” (ta mở thành lớn) tức là Niết
Bàn môn, chính là giáo pháp có thể diễn nói. “Vi diệu khí”
tức là hành Phật tánh, sẽ có thể thọ chứng
cam lộ Niết Bàn. “Kư đắc cam lộ” (Đă
đạt được cam lộ): Người đó do
nghe mà đắc, “đắc” tức là chứng. “Thường
dùng [cam lộ]
thí cho quần sanh”: Nói rơ
người ấy có thể thí. Hoặc có thể hiểu
là sở dĩ ta mở cửa thành, ta đă tự chứng,
cho nên thí cho quần sanh. V́ thế nói “tánh của cảnh hạnh phân biệt
vô tướng, Y Tha Tánh vô sanh”, nên gọi
là Bổn Tánh Không.
Hỏi:
Quán món Không này có lợi ích ǵ?
Đáp:
Luận Thập Bát Không nói: “Khiến cho các chúng sanh ĺa
năm lỗi lầm, sanh ra năm công đức. Ĺa
năm lỗi lầm: Một là trừ cái tâm kém hèn. Nếu
có kẻ chẳng tin thật sự có Phật tánh để
có thể đạt được; do vậy, chẳng thể
phát Bồ Đề tâm, thường giữ phận kém
hèn. Do tin có tánh, sẽ
khiến cho kẻ ấy phát tâm, có thể
trừ cái tâm hèn kém. Hai là trừ tâm kiêu căng, ngạo mạn.
Nếu chẳng thể hiểu Phật tánh b́nh đẳng;
cho là: Ta do có tánh, cho nên có thể phát tâm, kẻ khác chẳng
có Phật pháp, chẳng thể phát tâm. V́ vậy, sanh ḷng
kiêu căng, ngạo mạn.
Nếu hiểu lư ấy
chẳng có đây, kia, tâm cao ngạo liền diệt. Đấy
là ngộ “lư hành tánh chẳng có đây kia”.
Ba là trừ chấp trước vọng tưởng. Nếu
biết sanh tử vọng tưởng chẳng thật, tức
là không thấy có kẻ chửi và người bị chửi
v.v… Do chẳng thấy kẻ làm và người bị hứng
chịu, sẽ có thể trừ vọng tưởng, chỉ
thấy chúng sanh đều có Phật tánh, công đức
viên măn. Do bởi nghĩa ấy, liền sanh ḷng từ bi,
thành bậc đại Bồ Tát. Bốn là trừ Ngă Kiến.
Tự tánh của hết thảy các pháp vốn là Không. Dù có
hay không, hai đằng đều b́nh đẳng. Do hiểu
như thế, bỏ được chấp trước
Ngă Kiến. Năm là cái tâm sợ hăi, có thể khiến cho
chúng sanh tin nhận hữu tướng và vô tướng rất
sâu. V́ sao vậy? Nếu hiểu Phật tánh, sẽ có thể
tin nhận pháp hữu tướng và vô tướng. Do vậy
chẳng báng nghĩa Không và Bất Không”.
Sanh năm công đức th́ tới phần sau sẽ biết.
5.9.4.2.2.6. Nhất Thiết
Pháp Không
(Kinh)
Ngă kích tối thắng đại pháp cổ, ngă xuy tối
thắng đại pháp loa, ngă nhiên tối thắng đại
minh đăng, ngă giáng tối thắng đại pháp
vũ, hàng phục phiền năo chư oán kết, kiến lập
vô thượng đại pháp tràng.
(經)我擊最勝大法鼓,我吹最勝大法螺,我然最勝大明燈,我降最勝大法雨,降伏煩惱諸怨結,建立無上大法幢。
(Kinh:
Ta đánh trống pháp lớn tối thắng, ta thổi ốc
pháp lớn tối thắng, ta thắp đèn sáng lớn tối
thắng, ta tuôn mưa pháp lớn tối thắng, hàng phục
phiền năo các oán kết, kiến lập đại pháp
tràng vô thượng).
Tán
rằng: Ba bài tụng kế đó nói về Nhất Thiết
Pháp Không. Luận Biện Trung Biên nói: “V́ khiến cho lực,
vô úy v.v… hết thảy Phật pháp đều được
thanh tịnh, mà quán món Không này. V́ thế gọi là Nhất
Thiết Pháp Không”. Luận Thập Bát Không có cùng ư kiến,
nhưng lời văn chi tiết hơn, hiển lộ ư
nghĩa “ĺa” và “chẳng ĺa” của ba thân. Hóa đắc Ứng
Thân, chắc chắn chẳng ĺa Pháp Thân. Nếu xét theo Pháp
Thân mà nói “Ứng
Thân có ĺa”, th́
Pháp Thân là gốc, Ứng Thân là ngọn. Ngọn chẳng
ĺa gốc, gốc há có thể ĺa ngọn ư?
Luận ấy chép: “Hỏi:
V́ sao Pháp Thân chẳng ĺa Ứng Thân? Có lỗi ǵ đâu? Đáp: Nếu như vậy, một
người thành Phật, mọi người khác đều
phải cùng thành Phật! Do hết thảy mọi người
đều chẳng cùng thành Phật [đồng thời],
bèn biết Pháp Thân chẳng phải chính là Ứng Thân”.
Trong
đoạn này, chia thành hai phần:
- Một,
nói về công đức đạt được.
-
Hai, từ “do thị ngă ư” (do vậy, ta trong…) trở
đi, chỉ rơ v́ cầu công đức ấy mà tu hành th́
mới được thành.
Phần
thứ nhất lại chia thành hai ư:
- Một
bài tụng rưỡi nói “đạt
được cái Thể của hết thảy công đức”.
- Một
bài tụng rưỡi sau đó nói về tác dụng lợi
ích của hết thảy các công đức.
Đoạn này thuộc
ư thứ nhất. “Kích đại pháp cổ” (đánh
trống pháp lớn) là khai Quyền. “Xuy đại pháp
loa” (Thổi ốc pháp lớn) là thuyết giáo. “Nhiên
đại pháp đăng” (thắp đèn pháp lớn) là
chiếu lư Niết Bàn. “Giáng đại pháp vũ” (tuôn
mưa pháp lớn) là thành tựu trí thân. “Hàng phục các
oán kết” là phá ác, tức là như các kinh khác nói: “Dục
thuyết đại pháp, kiến đại pháp tràng, đắc
Bồ Đề trí” (muốn nói đại pháp, dựng
tràng pháp lớn, đạt được trí Bồ Đề).
5.9.4.2.2.7. Tác dụng lợi
ích và công đức của quán Không
(Kinh)
Ư sanh tử hải tế quần mê, ngă đương
quan bế tam ác thú, phiền năo xí hỏa thiêu chúng sanh, vô hữu
cứu hộ, vô y chỉ, thanh lương cam lộ sung túc
bỉ, thân tâm nhiệt năo phổ giai trừ.
(經)於生死海濟群迷,我當關閉三惡趣,煩惱熾火燒眾生,無有救護無依止,清涼甘露充足彼,身心熱惱普皆除。
(Kinh:
Trong biển sanh tử cứu quần mê, ta sẽ đóng
chặt ba đường ác, lửa mạnh phiền năo
đốt chúng sanh, chẳng được cứu giúp,
không nương tựa. Cam lộ trong mát sung túc họ, thân
tâm nóng bức thảy đều trừ).
Tán
rằng: Tiếp đó, nói về tác dụng lợi ích của
công đức. Do các chúng sanh chẳng hiểu Khổ Đế,
không đoạn Tập Đế, không chứng Diệt
Đế, không tu Đạo Đế, cho nên hứng chịu
các nỗi khổ. Câu đầu tiên trong đoạn này là
nói chung. “Quan bế ác thú” (đóng chặt đường
ác) là khiến cho họ bỏ Khổ Đế. Phiền
năo thiêu đốt chúng sanh, khiến cho họ không nơi
nương tựa, bèn dạy họ đoạn Tập
Đế. Cam lộ sung túc họ, tức là chứng Diệt
Đế. Sự nóng bức nơi thân tâm đều trừ,
chính là có thể khiến cho họ tu Đạo Đế.
Khiến cho các chúng sanh biết Khổ, đoạn Tập,
chứng Diệt, tu Đạo, tức là công đức Tứ
Hoằng Nguyện, gồm hai khía cạnh tức là tự lợi
và lợi tha. Ở đây, phần nhiều nói về công
đức lợi tha, do lợi ích chúng sanh sẽ là thù thắng.
(Kinh)
Do thị ngă ư vô lượng kiếp, cung kính cúng dường
chư Như Lai.
(經)由是我於無量劫,恭敬供養諸如來。
(Kinh:
Do vậy, ta trong vô lượng kiếp, cung kính cúng dường
các Như Lai).
Tán
rằng: Tiếp đó, nói “ta
v́ cầu hết thảy công đức để tu hành th́
mới thành tựu”, tức là hiển thị do quán Không
mà đạt được năm thứ lợi ích thù thắng,
khuyên mọi người tu học. Năm lợi ích thù thắng
như luận Thập Bát Không đă nói: “Một là trừ
tâm hèn kém, sanh khởi sự siêng năng chánh đáng. Hai là
trừ tâm kiêu
căng, ngạo mạn,
sanh tâm cung kính. Ba là trừ ư tưởng hư vọng, sanh khởi
hạnh từ bi. Bốn là trừ tâm Ngă Kiến, sanh Bát Nhă
Quán. Năm là trừ tâm sợ hăi, vui nhận chánh pháp”.
Tám
bài tụng sau đó được chia thành bốn ư:
Trước hết, “do thị ngă ư vô lượng kiếp”
(do vậy, ta trong vô lượng kiếp) tức là mới
sanh khởi hạnh chánh cần. Trải qua vô lượng kiếp tu hành các sự thuộc chánh
cần, và điều thứ năm là vui nhận chánh pháp trải qua
vô lượng kiếp. Kế đến là câu “cung kính
cúng dường chư Như Lai” là nói trừ tâm kiêu ngạo,
sanh ḷng cung kính. Do sanh tâm cung kính, lại có thể tu hành
mười món cúng dường.
(Kinh)
Kiên tŕ cấm giới thú Bồ Đề, cầu chứng
Pháp Thân an lạc xứ, thí tha nhăn, nhĩ, cập thủ
túc. Thê tử, đồng bộc, tâm vô lận. Tài bảo,
thất trân trang nghiêm cụ, tùy lai cầu giả hàm cung cấp,
Nhẫn đẳng chư độ giai biến tu, Thập
Địa viên măn thành Chánh Giác.
(經)堅持禁戒趣菩提,求證法身安樂處,施他眼耳及手足,妻子僮僕心無悋,財寶七珍莊嚴具,隨來求者咸供給,忍等諸度皆遍修,十地圓滿成正覺。
(Kinh:
Giữ vững giới cấm, tiến
Bồ Đề, cầu chứng Pháp Thân chốn an lạc.
Bố thí mắt, tai, và tay, chân, vợ con, tôi tớ,
tâm chẳng tiếc. Của cải, bảy báu, vật trang
nghiêm, hễ ai đến cầu đều ban tặng. Tu
trọn các Độ như Nhẫn thảy, Thập Địa
viên măn thành Chánh Giác).
Tán
rằng: Hai bài tụng này nói về hạnh trừ vọng
tưởng và hạnh từ bi. V́ trừ lỗi nhơ phá
giới cho người khác nên tŕ giới. Giới là căn
bản của các thiện căn. V́ thế, nêu ra trước.
V́ trừ tham cho kẻ khác, nên hành bố thí. V́ trừ sân hận
và giải đăi cho kẻ khác, nên hành các độ như
Nhẫn v.v… Các Độ ấy mỗi mỗi đều
sai biệt khá nhiều, đối với mỗi
Độ đều tu trọn khắp, đạt viên măn
rồi mới thành Chánh Giác.
(Kinh)
Cố ngă đắc xưng Nhất Thiết Trí, vô hữu
chúng sanh độ lượng giả. (經)故我得稱一切智,無有眾生度量者。
(Kinh:
Nên ta được xưng Nhất Thiết Trí, chẳng
có chúng sanh suy lường được).
Tán
rằng: Năm bài tụng rưỡi kế đó nói đến
ư thứ tư là “trừ Ngă Kiến, sanh Bát Nhă Quán”.
Chia thành hai phần:
- Nửa
bài tụng đầu tiên nói “kẻ khác chẳng thể suy lường
Bát Nhă”.
-
Năm bài tụng sau nói “dẫu
so lường, khó thể biết được!”
Đoạn
này thuộc phần thứ nhất. “Cố” là “cho
nên”. Do ta quán Không, tu các hạnh đă măn, cho
nên được xưng tụng là bậc Nhất Thiết
Trí. “Cố” c̣n có thể hiểu là “do”. [“Cố ngă”] có nghĩa là “do ta
quán Không”. Các điều khác như đă giải
thích trong phần trước.
(Kinh)
Giả sử tam thiên đại thiên giới, tận thử
thổ địa sanh trưởng vật, sở hữu
tùng lâm chư thụ mộc, đạo, ma, trúc, vi,
cập chi điều, thử đẳng chư vật
giai phạt thủ, tịnh tất tế mạt tác vi trần,
tùy xứ tích tập lượng nan tri, năi chí sung măn hư
không giới.
(經)假使三千大千界,盡此土地生長物,所有叢林諸樹木,稻麻竹葦及枝條,此等諸物皆伐取,竝悉細末作微塵,隨處積集量難知,乃至充滿虛空界。
(Kinh:
Giả sử cơi tam thiên đại thiên, trọn hết vật
sanh trưởng nơi đất, tất cả cây cối
trong rừng rậm, lúa, mè, tre, lau, và cành, nhánh, các vật
như vậy đều chặt lấy, đều đem
nghiền mịn thành vi trần, tích tập các nơi lượng
khó biết, cho đến đầy ắp cơi hư không).
Tán
rằng: So sánh sự khó biết. Hai bài tụng đầu
nêu ra số lượng vi trần trong một cơi tam thiên.
Bài tụng kế tiếp nêu ra số lượng vi trần
trong mười phương. Hai bài sau cùng chính thức so
lường “chẳng biết”. Đoạn này thuộc phần
thứ nhất.
(Kinh)
Nhất thiết thập phương chư sát độ,
sở hữu tam thiên đại thiên giới, địa thổ
giai tất mạt vi trần, thử vi trần lượng
bất khả sổ.
(經)一切十方諸剎土,所有三千大千界,地土皆悉末為塵,此微塵量不可數。
(Kinh:
Hết thảy cơi nước khắp mười
phương, tất cả cơi tam thiên đại thiên, đất
đều đem nghiền thành vi trần, chẳng thể
đếm nổi số trần ấy).
Tán
rằng: Nêu ra mười phương. Số lượng
vi trần ấy chẳng thể đếm, tức là kết
lại chung, bao gồm [ư
nghĩa] “trọn một cơi tam thiên” trong phần
trước.
(Kinh)
Giả sử nhất thiết chúng sanh trí, dĩ thử trí
huệ dữ nhất nhân, như thị trí giả lượng
vô biên, dung khả tri bỉ vi trần số.
(經)假使一切眾生智,以此智慧與一人,如是智者量無邊,容可知彼微塵數。
(Kinh:
Giả sử trí hết thảy chúng sanh, đem trí huệ ấy
cho một người, người như thế trí lượng
vô biên, may ra biết được số trần ấy!)
Tán
rằng: So lường. Thoạt đầu là [thí dụ về] biết
số vi trần.
(Kinh)
Mâu Ni Thế Tôn nhất niệm trí, linh bỉ trí nhân cộng
độ lượng, ư đa câu-chi kiếp số
trung, bất năng toán tri kỳ thiểu phần.
(經)牟尼世尊一念智,令彼智人共度量,於多俱胝劫數中,不能算知其少分。
(Kinh:
Trí Phật Mâu Ni trong một niệm, bảo người
trí ấy cùng ḍ lường, ở trong nhiều câu-chi kiếp
số, chẳng thể tính biết chút phần ấy).
Tán
rằng: Chẳng thể biết Phật trí. Trí trong một
niệm mà nhiều kiếp [tính toán] c̣n chẳng biết được,
huống hồ là thời
gian lâu dài ư!
5.9.4.3. Đại chúng
được lợi ích, hoan hỷ phụng tŕ
(Kinh)
Thời chư đại chúng văn Phật thuyết thử
thậm thâm Không tánh, hữu vô lượng chúng sanh tất
năng liễu đạt Tứ Đại, Ngũ Uẩn,
thể tánh câu Không, lục căn, lục cảnh, vọng
sanh hệ phược, nguyện xả luân hồi,
chánh tu xuất ly, thâm tâm khánh hỷ, như thuyết phụng
tŕ.
(經)時諸大眾聞佛說此甚深空性,有無量眾生悉能了達四大五蘊體性俱空,六根六境妄生繫縛,願捨輪迴正修出離,深心慶喜如說奉持。
(Kinh:
Khi đó, các đại chúng nghe đức Phật nói tánh
Không rất sâu này, có vô lượng chúng sanh đều có thể
liễu đạt thể tánh của Tứ Đại và
Ngũ Uẩn đều là Không, chỉ là hư vọng
sanh trói buộc nơi sáu căn và sáu cảnh, nguyện xả
luân hồi, chân chánh tu xuất ly, thâm tâm vui mừng, vâng tŕ
theo đúng lời dạy).
Tán
rằng: Đây là đoạn thứ ba trong phẩm này, tức
“đại chúng khi ấy đạt được lợi
ích, vui mừng, hớn hở phụng hành”. Chia thành
năm ư:
- Một,
nói về pháp được nghe.
- Hai,
nêu ra số lượng người đắc ngộ.
-
Ba, từ “tất năng liễu” (đều có thể
hiểu) trở đi, nêu ra điều đă ngộ.
- Bốn,
từ “nguyện xả” trở đi, nêu ra sự phát
nguyện tu hành, nguyện xả sanh tử. “Xuất ly”
là Niết Bàn.
-
Năm, từ “thâm tâm” trở đi, nói về [đại
chúng] vui mừng v́ đạt
được lợi ích, và phụng
tŕ, lưu thông chẳng dứt.
Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ
Phần 9 hết
[1]Hạm Đạm cũng là tên gọi
khác của hoa sen; hiểu theo nghĩa hẹp sẽ là “búp sen c̣n chưa nở”. Ư ngài Huệ Chiểu muốn nói Hoa trong Liên Hoa chỉ
hoa sen, c̣n chữ Liên chỉ cái gương sen. Hoa sen có nhiều
tên gọi khác nhau như Phù Dung, Phù Cừ, Hà Hoa, Thủy
Chi, Thủy Mục, Trạch Chi, Thủy Hoa, Thủy Đản
Hoa, Thủy Phù Dung, Thủy Đán Thảo, Lục Nguyệt
Xuân, Ngẫu Hoa, Linh Hoa, Ngọc Chi, Thủy Cung Tiên Tử,
Quân Tử Hoa, Thiên Tiên Hoa, Hồng Cừ, Khê Khách, Ngọc
Hoàn, Bích Hoàn Tiên Dung, Tiên Cừ, Kim Phù Dung, Thảo Phù Dung,
Tĩnh Khách, Thúy Tiền, Hồng Y, Cung Liên, Phật Tọa
Tu… Nhưng ba tên gọi Liên Hoa, Phù Cừ và Hà Hoa là phổ
biến nhất.
[2] Tầm (Byāma)
là đơn vị
đo khoảng cách thời cổ của Ấn Độ.
Đứng thẳng người dang hai tay thẳng sang hai
bên, khoảng cách ấy là một Tầm. Nếu tính theo
cách đo của Trung Hoa thời cổ
th́ một Tầm là tám thước, tức khoảng 2m4.
[3] Hắc nguyệt (Kṛṣṇapakṣa) c̣n gọi là Hắc Phần, hoặc Hắc Bán. Theo lịch pháp cổ Ấn Độ,
chia mỗi tháng làm hai phần là Bạch Nguyệt và Hắc
Nguyệt. Kể từ hôm sau ngày trăng tṛn cho đến
trước khi trăng non đầu tháng sau gọi là Hắc
Nguyệt, từ ngày trăng non cho đến ngày trăng
tṛn gọi là Bạch Nguyệt (Śuklapakṣa).
[4] Thuấn Nhă (Śūnya) nghĩa là Không. Nói Thuấn
Nhă Không là ghép tiếng Phạn và Hán, nhằm chỉ cái Không,
c̣n Thuấn Nhă Đa (Śūnyatā) là Chân Không, hay tánh Không.
[5] Thập Bát Không Luận là một bộ
luận do ngài Long Thọ trước tác, pháp sư Chân Đế dịch sang tiếng
Hán, nội dung giải thích ư nghĩa của mười tám
món Không. Kế đó, giải thích bảy loại Chân
Như, mười thắng trí. Thật ra, bộ luận
này là một phần của hai phẩm Tướng và Chân
Thật trong Trung Biên Phân Biệt Luận của ngài Thiên
Thân. Do cổ nhân coi tác phẩm này do ngài Long Thọ biên soạn,
nên tạo thành sự hiểu lầm từ đó đến
nay. Cho tới nay, giới khảo cứu
vẫn chưa xác định ai là tác giả thật sự
của tác phẩm này.
[7] Giải Thoát Đạo Luận (Vimokāamārga-śāstra) gồm mười hai quyển, do
A La Hán Ưu Ba Để Sa soạn, ngài Tăng Già Bà La dịch
sang tiếng Hán vào đời Lương. Nội dung nói về
các giai đoạn và địa vị của
người tu Thiền. Về sau, ngài Giác Âm đă dựa
vào đây mà soạn thành bộ Thanh Tịnh Đạo Luận.
[8] Đại chủng: Chủng tử
của Tứ Đại.
[9] Yết Lạt Lam (Kalala) c̣n phiên âm
là Ca La La, Ca La Ra, Yết La Lam, có nghĩa là phôi thai mới
thành h́nh, hoặc trứng vừa mới thụ tinh. Đây
là giai đoạn đầu tiên trong ngũ vị (tức
năm giai đoạn sanh khởi và tăng trưởng) của
một sanh mạng mới.