Đại Thừa Quảng Ngũ Uẩn Luận Thích Yếu
大乘廣五蘊論釋要
Thích Tịnh Chiếu biên soạn
11 tháng Tám năm 2015
釋淨照編寫
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Đức
Phong
Phần 3
1.1.2.4.2.1.5. Tùy Phiền Năo Tâm Sở (chia thành ba phần)
1.1.2.4.2.1.5.1. Tiểu Tùy Phiền Năo Tâm Sở
(chia thành mười phần)
1.1.2.4.2.1.5.1.1. Phẫn
(Luận)
Vân hà Phẫn? Vị y hiện tiền bất nhiêu ích sự,
tâm phẫn vi tánh, năng dữ bạo ác, chấp tŕ tiên trượng
sở y vi nghiệp.
(論)云何忿?謂依現前不饒益事。心憤為性。能與暴惡。執持鞭杖。所依為業。
(Luận: Phẫn là như thế
nào? Chính là do v́ chuyện chẳng lợi ích trong hiện tiền
mà tâm có tánh
chất giận dữ. Nghiệp dụng của nó là làm chỗ
nương tựa cho hành vi gây tạo bạo ác [đối
với người khác], cầm nắm roi gậy).
Tùy Phiền Năo là phần vị sai biệt
của Căn Bản Phiền Năo, hoặc là Đẳng Lưu
Tánh[1] của Căn
Bản Phiền Năo, tùy thuộc Căn Bản Phiền Năo mà
sanh khởi. Phần vị[2] sai biệt
của Căn Bản Phiền Năo, tức là mười Tiểu
Tùy Tâm Sở như Phẫn v.v… cùng với Thất Niệm,
Bất Chánh Tri, và Phóng Dật, tổng cộng là mười
ba Tâm Sở. Đẳng Lưu Tánh của Căn Bản Phiền
Năo là Vô Tàm, Vô Quư, Điệu Cử, Hôn Trầm, Tán Loạn,
Bất Tín, và Giải Đăi, bao gồm bảy món Tâm Sở. Tuy mỗi món có
thể tánh sai khác, nhưng đều là Đẳng Lưu
Tánh của Căn Bản Phiền Năo.
Tùy Phiền
Năo chia thành ba loại:
- Tiểu
Tùy Phiền Năo, gồm mười Tâm Sở như Phẫn
v.v… Mỗi món sanh khởi khác nhau. Hễ có một món trong số
ấy, sẽ chẳng có món thứ hai nào khác [đồng
thời sanh khởi]. Phạm vi hoạt động của
chúng rất nhỏ hẹp.
- Trung Tùy
Phiền Năo, gồm hai Tâm Sở là Vô Tàm và Vô Quư, chúng đồng
thời sanh khởi (luôn sanh khởi cùng lúc), trọn khắp
các Tâm Sở có tánh chất bất thiện (Tâm Sở mang tánh
chất ác). Phạm vi hoạt động của chúng khá rộng
lớn.
- Đại
Tùy Phiền Năo, gồm tám món Tâm Sở như Hôn Trầm v.v…
Chúng có thể cùng lúc sanh khởi, trọn khắp các tâm ô
nhiễm (tức là Tâm và Tâm Sở có tánh chất ác, hoặc
có tánh chất hữu phú vô kư), phạm vi hoạt động
càng rộng lớn hơn.
Thể tánh
của Phẫn dùng một phần Sân làm thể tánh, “y hiện
tiền bất nhiêu ích sự, tâm phẫn vi tánh”, tức
là đối với chuyện chẳng lợi ích trong hiện
tiền, nội tâm sẽ tức tối, nổi giận đùng
đùng. “Chuyện chẳng lợi ích” là như bị
kẻ khác chửi mắng hoặc đánh đập v.v… Nghiệp
dụng của Phẫn là “năng dữ bạo ác, chấp
tŕ tiên trượng sở y vi nghiệp”, tức là nó
có thể dẫn khởi sự
bạo ác, bèn cầm nắm roi, gậy để làm
chuyện bạo hành đối phương.
Nếu nói theo hiện thời th́ càng tàn bạo hơn nữa,
hoặc là dùng đao chém giết, hoặc dùng súng bắn giết.
Kẻ ôm ḷng Phẫn, đại đa số sẽ phát sanh
hành vi biểu lộ sự bạo ác nơi thân nghiệp. Đấy
là nói theo điều chủ yếu, đương nhiên là cũng
có thể phát khởi lời nói bạo ác. Thành Duy Thức
Luận thuyết minh về Phẫn đại để tương
đồng với luận này.
1.1.2.4.2.1.5.1.2. Hận
(Luận)
Vân hà Hận? Vị Phẫn vi tiên, kết oán bất xả
vi tánh, năng dữ bất nhẫn sở y vi nghiệp.
(Luận: Hận là như thế
nào? Chính là do trước đó đă có Phẫn, bèn có tánh chất
kết oán chẳng bỏ được, nghiệp dụng
của nó là làm chỗ y cứ cho chẳng nhẫn nại).
Thể tánh
của Hận là dùng một phần Sân làm thể tánh, “Phẫn
vi tiên, kết oán bất xả vi tánh”, tức Hận [sẽ
sanh khởi] sau khi đă có Phẫn, tâm ôm ḷng hận, chẳng
thể buông bỏ, kết thành oán cừu. Nghiệp dụng
của Hận là “dữ bất nhẫn sở y vi nghiệp”
(có nghiệp dụng làm chỗ y cứ cho Bất Nhẫn),
tức là nó sẽ tạo thành
cơ sở khiến cho [đương sự] chẳng thể
chịu đựng chuyện chẳng lợi ích một lần
nữa! Nếu lần sau gặp phải chuyện chẳng
lợi ích, sẽ dẫn khởi tác dụng tâm lư bạo ác
càng mạnh mẽ hơn, càng bạo hành đối phương
tàn khốc hơn!
Thành Duy
Thức Luận đă thuyết minh thể tánh của Hận
giống như luận này, c̣n nghiệp dụng [của Hận
theo luận ấy] th́ là có thể chướng ngại Bất
Hận: Do ôm ḷng Hận, sẽ sanh ra sự nhiệt năo. Tuy
Phẫn cũng có thể sanh ra nhiệt năo, nhưng nhẹ
ít hơn. V́ thế, chỉ nói “do ôm ḷng Hận mà sanh ra nhiệt
năo”.
Dùng thí dụ
để nói về sự sai khác giữa Hận và Phẫn,
th́ Phẫn như lửa đốt vỏ cây. Dẫu ngọn
lửa thoạt nh́n rất dữ dội, nhưng nhiệt
độ chẳng cao. Khi ngọn lửa đă tắt, chẳng
c̣n hơi nóng sót lại. Hận là oán khí nồng đậm,
như lửa hầm than. Tuy thoạt nh́n ngọn lửa liu
riu, nhưng nhiệt độ rất cao. Ngọn lửa tắt
rồi, nhiệt lượng sót lại vẫn rất cao!
1.1.2.4.2.1.5.1.3. Phú
(Luận)
Vân hà Phú? Vị ư quá thất, ẩn tàng vi tánh. Vị tàng
ẩn tội cố, tha chánh giáo hối thời, bất năng
phát lộ, thị Si chi phần, năng dữ truy hối,
bất an ổn trụ sở y vi nghiệp.
(論)云何覆?謂於過失。隱藏為性謂藏隱罪故。他正教誨時。不能發露。是癡之分。能與追悔。不安隱住。所依為業。
(Luận: Phú là như thế nào?
Chính là có tánh chất giấu diếm tội lỗi. Tức
là v́ giấu diếm tội, cho nên trong khi được người
khác dạy sám hối, sẽ chẳng thể tỏ lộ.
Nó là một phần của Si, có nghiệp dụng làm chỗ
y cứ cho chuyện nghĩ lại bèn hối hận, ở
trong trạng thái chẳng an ổn).
Thể tánh
của Phú là “ư quá thất, ẩn tàng vi tánh”, tức
là che giấu lỗi lầm của chính ḿnh. Nghiệp dụng
của nó là “năng dữ truy hối, bất an ổn trụ
sở y vi nghiệp”, tức là có thể khiến cho [người
ấy] nhớ lại [những chuyện đă trót
làm] mà áo năo, hối hận, chẳng
thể an ổn được!
Thành Duy Thức
Luận thuyết minh về Phú như sau: “Vân hà vi Phú? Ư
tự tác tội, khủng thất lợi dự, ẩn tàng
vi tánh. Năng chướng Bất Phú, hối năo vi nghiệp”
(Phú là như thế nào? Có tánh chất đối với
tội do chính ḿnh đă làm, v́ sợ bị mất lợi lạc,
tiếng tăm, cho nên giấu
diếm. Nghiệp dụng của nó là có thể chướng
ngại Bất Phú (không che giấu tội lỗi), [khiến cho kẻ giấu tội] hối
hận, áo năo). Thể tánh của Phú là đối với tội
nghiệp do chính ḿnh đă tạo tác, sợ hăi [những tội
nghiệp ấy bị phơi bày ra], sẽ mất đi lợi
dưỡng và danh dự, cho nên giấu nhẹm tội lỗi
của chính ḿnh. Nghiệp dụng của nó là có thể chướng
ngại Bất Phú, [gây nên] bứt rứt, áo năo, hối hận. Bất
Phú là chẳng giấu diếm, chẳng che đậy, mà đem
tội lỗi đối trước Phật, hoặc đối
trước một người, hoặc là đối trước
đại chúng phơi bày sám hối, thỉnh cầu khoan
thứ, chấp thuận cho [kẻ trót phạm tội] hối
cải.
Quy chế
trong Phật pháp là đă phạm giới khinh hoặc giới
trọng, phải do chính ḿnh chọn lựa, thừa nhận
bản thân đă làm sai, chân thành sám hối. Sám hối là tự
ḿnh nói ra tội lỗi của chính ḿnh, thỉnh cầu tha
thứ; sau đấy,
chẳng c̣n tạo tội nghiệp nữa! “Hữu tội
đương sám hối, sám hối tắc thanh tịnh”
(Có tội hăy
nên sám hối, sám hối bèn thanh tịnh). Có tội nghiệp,
hăy nên sám hối, sám hối bèn thanh tịnh. Giống như
y phục đă bị bẩn, giặt sạch rồi, sẽ
lại sạch sẽ. Sau khi tự ḿnh sám hối, người
khác sẽ chẳng được phép nói tội lỗi của
chính ḿnh nữa. Nếu không, người khác sẽ phạm
giới.
Ngược
lại, giấu diếm tội lỗi của chính ḿnh, chẳng
phát lộ sám hối, tức là chẳng nghiêm túc phản tỉnh
sửa lỗi, tội lỗi sẽ càng ngày càng nặng
nề, sẽ chẳng có cách nào phục
hồi sự thanh tịnh. Có lúc nghĩ lại, sẽ áo năo,
hối hận chẳng ngơi, thân tâm khổ năo, chẳng
thể an ổn. Giống như đem phân bỏ trong thùng,
đậy nắp lại, mấy ngày sau lại mở nắp
ra, mùi hôi thối sẽ khó ḷng chịu nổi!
“Ẩn
tàng tội cố, tha chánh giáo hối thời, bất năng
phát lộ”, [nghĩa là] v́ giấu diếm tội lỗi
của chính ḿnh, cho nên người khác thật sự muốn
dạy bảo, chỉ dạy kẻ đó ḥng kẻ đó
khi sám hối sẽ được thanh tịnh, nhưng kẻ
đó chẳng chịu phát lộ sám hối.
Luận
này nói Phú là một phần của Si, tức là dùng một
phần Si làm thể tánh. V́ chẳng hiểu rơ đạo lư
của nghiệp quả, chẳng sợ hăi khổ quả
trong vị lai, cho nên mới giấu diếm tội lỗi
của chính ḿnh. Có giáo nghĩa cho rằng: Phú dùng một phần Tham và Si làm thể tánh.
Ngoài Si ra, có lúc cũng v́ tham đắm lợi dưỡng
và danh dự, sợ chúng sẽ bị mất đi, cho nên mới
giấu diếm tội lỗi của chính ḿnh.
1.1.2.4.2.1.5.1.4. Năo
(Luận)
Vân hà Năo? Vị phát bạo ác ngôn, lăng phạm vi tánh. Phẫn,
Hận vi tiên, tâm khởi tổn hại. Bạo ác ngôn giả,
vị thiết hại thô quánh, năng dữ ưu khổ,
bất an ổn trụ sở y vi nghiệp. Hựu năng
phát sanh phi phước vi nghiệp, khởi ác danh xưng vi
nghiệp.
(論)云何惱?謂發暴惡言。陵犯為性。忿恨為先。心起損害。暴惡言者。謂切害麁獷。能與憂苦。不安隱住。所依為業。又能發生非福為業。起惡名稱為業。
(Luận: Năo là như thế nào? Tức
là có tánh chất thốt ra lời bạo ác, lăng nhục,
xúc phạm. Do trước đó đă có Phẫn và Hận,
tâm bèn dấy ḷng tổn hại. “Lời bạo ác” là nói lời
tổn thương, thô lỗ, hung bạo. Nghiệp dụng
là nó làm chỗ y cứ để tạo ra sự ưu sầu,
khổ sở, chẳng thể an ổn. Nó c̣n có nghiệp dụng
phát sanh chuyện chẳng phải là phước,
có nghiệp dụng tạo nên tiếng tăm xấu xa).
Thể tánh của Năo là lấy một phần
Sân làm thể tánh. “Phát bạo ác ngôn, lăng phạm vi tánh”,
tức là phát khởi ngữ nghiệp rất thô bạo, rất
hung hăng, độc địa, khinh miệt, xâm phạm
người khác. Đấy là nói nhấn mạnh, đương
nhiên cũng có thể là thân nghiệp rất hung hăn, bạo
tàn, dữ dội, khinh miệt, xâm phạm người khác.
Nghiệp dụng của Năo là “năng dữ ưu khổ,
bất năng an ổn trụ sở y vi nghiệp. Hựu
năng phát sanh phi phước vi nghiệp, khởi ác danh xưng
vi nghiệp”, [có nghĩa là] khiến cho thân tâm của người
khác và chính ḿnh ưu bi, khổ năo, chẳng được
an ổn, có thể phát sanh tội ác nơi thân nghiệp, ngữ
nghiệp và ư nghiệp, có thể dẫn đến tiếng
tăm xấu xa.
“Phẫn,
Hận vi tiên, tâm khởi tổn hại” [nghĩa là] Năo
dùng Phẫn và Hận làm điều kiện tiên khởi, dẫn
khởi tác dụng tâm lư muốn tổn hại đối
phương. Biểu hiện ra hành vi bên ngoài sẽ là ngữ
nghiệp hoặc thân nghiệp thô bạo, độc ác. Tác
dụng của Năo càng mạnh hơn so với Phẫn và Hận.
V́ t́nh tự phẫn nộ và oán hận tích lũy, ấp ủ,
cho nên nếu gặp phải cảnh trái nghịch, sẽ bùng
nổ mạnh mẽ nhất, tạo thành sự tổn thương,
tai hại nghiêm trọng.
“Bạo
ác ngôn giả, vị thiết hại thô quánh” [có nghĩa là] ngữ nghiệp thô bạo, hung ác, chính là lời lẽ
gây đau đớn, thô lỗ. “Thiết hại” (切害) là lời lẽ tàn độc hết sức
gây tổn thương người khác, giống như dùng
đao bén cắt xẻ, tổn thương người khác.
Ngữ nghiệp “thô quánh” là chửi bới hung bạo,
chẳng màng lư lẽ, trọn chẳng có mảy may hợp
lư nào.
Thành Duy
Thức Luận thuyết minh về Năo như sau: “Vân hà
vi Năo? Phẫn, Hận vi tiên, truy xúc bạo nhiệt, ngận
lệ vi tánh; năng chướng Bất Năo, thư thích vi
nghiệp” (Năo là như thế nào? Nó có tánh chất là: Do
trước đó đă có Phẫn và Hận, nay nhớ lại
chuyện cũ, đụng phải chuyện trái nghịch
[trong hiện thời], bèn hung bạo, nóng nảy. Nghiệp dụng
của nó là có thể chướng ngại Bất Năo, ăn
nói hung hăn, tàn độc, gây tổn thương). “Truy xúc
bạo nhiệt, ngận lệ” là nhớ lại những
chuyện chẳng vui sướng trong quá khứ (tức là
cảnh được duyên bởi Phẫn và Hận), lại
va chạm nghịch duyên trong hiện tiền;
do vậy, như lửa đốt
tâm, sanh khởi một thứ nhiệt năo hung bạo, tâm thái
độc ác, ngang ngược, hung tợn. “Thư” (蛆, gịi) là ấu trùng của
ruồi nhặng, ở đây dùng để tỷ dụ lời
thô tiếng ác. “Thích” (螫) là các loại rắn, ong, bọ cạp có nọc
độc dùng răng hoặc kim, móc [ở đuôi] để
cắn, chích nhân loại hoặc động vật. “Thư
thích” là tỷ dụ ngôn ngữ hung bạo, tàn độc,
hủy báng, hăm hại, tổn thương người khác.
So sánh giữa
Năo với Phẫn và Hận:
1) Điểm
tương đồng là Phẫn, Hận, và Năo đều
dùng một phần Sân làm thể tánh, đều là pháp giả
hữu.
2) Điểm
dị biệt: Nói theo phương diện khởi Hoặc,
th́ Phẫn duyên theo cảnh trái nghịch trong hiện tiền
mà đột ngột bộc phát sự tức giận dữ
dội. Hận th́ duyên theo cảnh trái nghịch trong quá khứ,
nhiều lượt t́m ṭi, suy nghĩ, kết oán chẳng bỏ.
Năo là nhớ lại những cảnh trái nghịch trong quá
khứ, lại do va chạm cảnh trái nghịch trong hiện
tiền, oán cũ cừu mới chồng chất vào nhau, thân
tâm nóng nảy, bức bối. Nói theo phương diện
phát khởi thành nghiệp th́ Phẫn chủ yếu là phát
khởi thân nghiệp, Hận chủ yếu là phát khởi ư
nghiệp, c̣n Năo chủ yếu là phát khởi ngữ nghiệp.
1.1.2.4.2.1.5.1.5. Tật
(Luận)
Vân hà Tật? Vị ư tha thịnh sự, tâm đố
vi tánh, vị danh lợi cố, ư tha thịnh sự, bất
kham nhẫn nại, đố kỵ tâm sanh, tự trụ ưu
khổ sở y vi nghiệp.
(論)云何嫉?謂於他盛事。心妬為性。為名利故。於他盛事。不堪忍耐。妬忌心生。自住憂苦。所依為業。
(Luận: Tật là như thế
nào? Tức là có tánh chất đối với chuyện tốt
đẹp của người khác, tâm bèn đố kỵ.
V́ danh lợi mà đối với chuyện tốt đẹp
của người khác, chẳng thể chịu đựng
được, sanh tâm ganh ghét. Nghiệp dụng của nó là làm chỗ y cứ
để tự ḿnh ở trong sự ưu tư, khổ năo).
Thể tánh
của Tật là dùng một phần Sân làm thể tánh. “Ư
tha thịnh sự, tâm đố vi tánh”, tức là đối
với chuyện ưu thắng (trỗi vượt, cao trỗi)
của người khác, hoặc là [thấy kẻ
khác] tài sản rất dư dật,
hoặc tiếng tăm rất cao, hoặc dung mạo trang nghiêm
v.v… bèn sanh khởi ḷng ganh ghét. Nghiệp dụng của Tật
là “tự trụ ưu khổ sở y vi nghiệp”, [tức
là] khiến cho thân tâm của chính ḿnh ưu sầu, khổ
năo, v́ cảm thấy người khác cướp đoạt hoặc trở ngại
sự vinh diệu của chính ḿnh, cho nên tức tối, căm
phẫn, ưu sầu, khổ năo.
V́ sao sanh
tâm ghen ghét đối với chuyện ưu thắng của
kẻ khác? “Vị danh lợi cố, ư tha thịnh sự,
bất kham nhẫn nại, tật đố tâm sanh”, [tức
là] v́ tham đắm danh dự, lợi dưỡng, cho nên đối
với chuyện ưu thắng của người khác, chẳng
thể chịu nổi sự vinh diệu của người
khác, bèn sanh ḷng ghen
ghét. Người khác đạt được tiếng tăm,
lợi dưỡng, cung kính v.v…, kẻ đó bèn cho là v́ người
khác chiếm đoạt hoặc gây trở ngại cho tiếng
tăm, lợi dưỡng, sự cung kính v.v… của chính
ḿnh. V́ thế, từ sự tham đắm danh lợi v.v… mà
chuyển biến thành sanh khởi ḷng ghen ghét khi người
khác đạt được danh lợi v.v… Thật ra, kẻ
ngạo mạn trông thấy học thức, sự nghiệp
v.v… của người khác cao trỗi hơn ḿnh, cũng rất
dễ từ ḷng ngạo mạn chuyển biến thành sanh
khởi ḷng ghen ghét.
Thành Duy
Thức Luận thuyết minh về Tật như sau: “Vân
hà vi Tật? Tuẫn tự danh lợi, bất nại tha
vinh, đố kỵ vi tánh, năng chướng Bất Tật,
ưu thích vi nghiệp” (Tật là như thế nào? Mù quáng
theo đuổi danh lợi cho chính ḿnh, chẳng chịu nổi
người khác vinh hiển, có tánh chất ghen ghét. Nghiệp
dụng là có thể chướng ngại Bất Tật, gây
nên ưu sầu, lo lắng). “Tuẫn” (殉) là dùng người hoặc vật dụng
bồi táng (陪葬,
chôn theo người chết), [dùng
chữ này] để tỷ dụ [kẻ đó] v́ đạt
đến một mục đích nào đó mà hy sinh tánh mạng,
mà cũng có ư nghĩa là “tham cầu”. “Tuẫn tự danh lợi” là tham cầu
tiếng tăm, lợi dưỡng của chính ḿnh, cho đến
sẵn ḷng v́
tiếng tăm, lợi dưỡng mà chết. “Bất nại
tha vinh”: Đối với chuyện người khác đạt
được vinh diệu tốt đẹp, trong tâm chẳng
thể chịu đựng nổi, đúng như câu nói: “Kiến
tha vinh quư, nguyện tha lưu biếm” (Thấy kẻ khác
vinh hiển, sang quư, mong cho kẻ đó bị lưu đày,
biếm trích). Trông thấy kẻ khác vinh hoa, phú quư, mong mỏi
người khác bị biếm trích, tổn hại, bị
giáng chức, hoặc bị đuổi
về vườn! “Kiến tha phú hữu, nguyện tha phá
tán”, tức là trông thấy kẻ khác có tiền, mong mỏi
họ bị khuynh gia bại sản.
Nghiệp
dụng của Tật là có thể chướng ngại Bất
Tật. Bất Tật là trông thấy người khác đạt
được chuyện vinh diệu, tốt đẹp, không
chỉ là sẽ chẳng ghen ghét, mà c̣n vui vẻ theo, tức
là tùy hỷ công đức và phước báo của họ.
Thật ra, trông thấy công đức và phước báo của
người khác, càng phải nên hăng hái phát khởi chí nguyện
phỏng theo họ, nỗ lực học tập để
thành tựu công đức và phước báo càng thù thắng
hơn. Nói theo nguyện Vô Thượng Bồ Đề, chúng
sanh đạt được công đức và phước
báo thù thắng, há chẳng khế hợp nguyện Vô Thượng
Bồ Đề ư? “Ưu thích” (憂慼, ưu sầu, lo lắng), là v́ tâm lượng
hẹp ḥi, ích kỷ, cho nên trông thấy người khác có
chuyện tốt đẹp, vinh diệu, sẽ giống như
dao bén cắm vào tim, trong tâm thường bị ưu bi, khổ
năo, nhăn nhó, cau có.
1.1.2.4.2.1.5.1.6. Xan
(Luận)
Vân hà Xan? Vị Thí tương vi, tâm lận vi tánh, vị ư
tài đẳng, sanh lận tích cố, bất năng huệ
thí, như thị vi Xan. Tâm thiên chấp trước lợi
dưỡng, chúng cụ, thị Tham chi phần, dữ Vô Yếm
Túc sở y vi nghiệp. Vô Yếm Túc giả, do xan lận cố,
phi sở dụng vật, do hằng tích tụ.
(論)云何慳?謂施相違。心悋為性。謂於財等。生悋惜故。不能惠施。如是為慳。心偏執著利養眾具。是貪之分。與無厭足。所依為業。無厭足者。由慳悋故。非所用物。猶恒積聚。
(Luận: Xan là như thế nào? Chính
là có tánh chất trái nghịch Thí.
Tâm keo kiệt nghĩa là đối
với những thứ như tài v.v… do sanh ḷng keo tiếc,
chẳng thể bố thí rộng răi. Như thế th́ là Xan.
Tâm khăng khăng chấp trước lợi dưỡng
và các vật dụng. Xan là một phần của Tham, có nghiệp
dụng làm chỗ y cứ của Vô Yếm Túc (không chán đủ).
Vô Yếm Túc là do tham tiếc, đối với những vật
chẳng dùng mà vẫn luôn chất chứa).
Thể tánh của Xan là dùng một phần
Tham làm thể tánh. “Thí tương vi, tâm lận vi tánh”
tức là tương phản với Bố Thí, nội tâm
keo kiệt, tiếc nuối. V́ sao như thế? “Ư tài
đẳng, sanh lận tích cố, bất năng huệ thí, như thị vi Xan”
(V́ đối với những thứ như tài v.v… sanh ḷng
keo tiếc, chẳng thể bố thí rộng răi. Như thế
là Xan): V́ tham luyến tài vật, học
vấn v.v… của chính ḿnh, cho nên nội tâm keo tiếc, chẳng
chịu bố thí rộng răi tài vật cho người khác,
mà cũng chẳng chịu dạy bảo người khác.
Lại v́ sao chẳng thể bố thí rộng răi tài vật
v.v…? “Tâm thiên chấp trước lợi dưỡng, chúng
cụ”, [tức là]
trong tâm khăng khăng chấp trước tham luyến lợi
dưỡng và các thứ cần dùng cho cuộc sống, cho
nên chẳng thể bố thí rộng răi tài vật v.v… “Lợi
dưỡng” là nói đến những thứ vật chất
có lợi ích. Những vật chất ấy có thể bồi
bổ hoặc duy tŕ sanh mạng. “Chúng cụ” (眾具, các vật dụng): Thọ dụng lợi
dưỡng, cần đến các thứ vật dụng
giúp đỡ, như để ăn các thực phẩm, trước
hết cần phải chế biến thức ăn, tức
là cần đến các vật dụng như nồi v.v…
Nghiệp
dụng của Xan là “dữ Vô Yếm Túc sở y vi nghiệp”
(có nghiệp dụng làm chỗ nương tựa cho Chẳng
Chán Đủ). V́ keo tiếc, cho nên muốn đạt được
của cải v.v… càng nhiều hơn, trong tâm chẳng thỏa
măn. “Vô Yếm Túc giả, do xan lận cố, phi sở dụng
vật, do hằng tích tụ” (Chẳng chán đủ là
v́ do keo tiếc, đối với những vật chẳng
dùng đến, vẫn cứ luôn chất chứa): Kẻ Vô
Yếm Túc v́ tham lam, keo kiệt, cho nên đối với những
món tài vật v.v… chẳng bỏ được để bố
thí rộng răi cho người khác. Dẫu là những vật
dụng chẳng cần đến, vẫn cứ vĩnh
viễn chất chứa trong nhà hoặc trong kho.
Thành Duy Thức
Luận đă thuyết minh về Xan như sau: “Vân hà vi
Xan? Đam trước tài, pháp, bất năng huệ xả.
Bí lận vi tánh, năng chướng Bất Xan, bỉ súc vi nghiệp” (Xan là như thế nào? Đắm chấp
tài, pháp, chẳng thể bố thí rộng răi, có tánh chất
giấu diếm, keo tiếc. Nó có nghiệp dụng ngăn
chướng Bất Xan, tích cóp tệ hại). Thể
tánh của Xan là đắm chấp tiền tài (bao gồm y
phục, thực phẩm, đồ trải nằm, thuốc
men v.v… những thứ cần dùng cho cuộc sống), giáo
pháp (bao gồm Phật pháp lẫn học vấn thế
gian), chẳng chịu thực hiện Tài Thí và Pháp Thí, giấu
kín tiền tài và giáo pháp, keo tiếc chẳng thể
hoan hỷ xả được.
Nghiệp dụng của Xan có thể chướng ngại
Bất Xan, tích cóp riết róng. “Bất Xan” th́ không chỉ
chẳng tham đắm tiền tài và giáo pháp, lại c̣n khẳng
khái bố thí cho người khác. “Bỉ súc” (鄙畜) là hạng người ấy dẫu tiền
tài dư dật, học thức uyên bác, đáng tiếc là tâm
lượng hẹp ḥi, chua chát, keo tham, riết róng, chẳng
chịu thí xả cho người khác.
Dựa trên
[các yếu tố] chính ḿnh cần thiết
hay không, cũng như có bố thí cho người khác hay không,
có thể chia đại lược mọi người thành
bốn loại:
1) Chính ḿnh
cần thiết, bố thí cho người khác: Có những người
tuy bần cùng, nhưng chuộng thiện thích thí.
2) Chính ḿnh
cần thiết, chẳng bố thí cho người khác: Người
ta thường là đối với những vật cần dùng cơ bản cho cuộc
sống, sẽ không chịu bố thí cho người khác. Đấy
là lẽ thường t́nh. Hoặc là sách vở mà chính ḿnh thường
xem đọc, có thể là chẳng
bố thí cho người khác, nhưng tài lực cho phép th́ sẽ
mua sách vở mới bố thí cho người ta.
3) Chính ḿnh
chẳng cần dùng, bố thí cho người khác: Những
vật ḿnh chẳng cần dùng, để đó vô ích, bố
thí cho người khác th́ có thể đạt
được phước lạc,
lẽ nào chẳng vui vẻ làm ư?
4) Chính ḿnh
chẳng cần dùng, chẳng bố thí cho người khác:
Đấy là kẻ keo kiệt thành tánh. Chẳng hạn như
có rất nhiều thực phẩm, chính ḿnh chẳng ăn,
thà để cho chúng nó hư nát, cũng chẳng chịu thí
cho người khác.
1.1.2.4.2.1.5.1.7. Cuống
(Luận)
Vân hà Cuống? Vị kiểu vọng ư tha, trá hiện bất
thật công đức vi tánh; thị Tham chi phần, năng
dữ tà mạng sở y vi nghiệp.
(論)云何誑?謂矯妄於他。詐現不實功德為性。是貪之分。能與邪命。所依為業。
(Luận: Cuống là như thế
nào? Tức là có tánh giả dối, hư vọng đối
với người khác, giả vờ phô bày công đức
chẳng thật. Cuống là một phần của Tham, nghiệp
dụng là có thể làm chỗ y cứ cho tà mạng).
Thể tánh
của Cuống là “kiểu vọng ư tha, trá hiện bất
thật công đức vi tánh”, tức là đối với
người khác bèn dối gạt, hư ngụy, phô trương
ra vẻ, hư ngụy biểu hiện có công đức thù
thắng, thật ra chẳng có công đức. Nghiệp dụng
của Cuống là “năng dữ tà mạng sở y vi
nghiệp”, tức là có
thể làm chỗ y cứ cho cuộc sống kinh tế chẳng
chánh đáng!
Luận
này nói: Cuống thuộc về một phần Tham, v́ tham đắm
lợi danh, cho nên dối gạt người khác. Có một
nghĩa lư khác là Cuống dùng một phần của Tham và
Si làm thể tánh, v́ sao vậy? Dối hiện có đức
là v́ tham đắm danh dự, lợi dưỡng, và ngu muội
đối với Đế Lư.
Tà Mạng
là dùng sinh hoạt kinh tế không chánh đáng để duy
tŕ sanh mạng. Đệ tử Phật tại gia làm những
chuyện chẳng chánh đáng để duy tŕ sanh mạng
như làm đồ tể, lường gạt, bán rượu
v.v… th́ là Tà Mạng. Ngược lại, dùng những nghề
nghiệp chánh đáng để duy tŕ sanh mạng th́ là Chánh
Mạng. Đệ tử Phật xuất gia, giả vờ
có công đức, dối gạt kẻ khác, mưu chiếm
danh lợi để duy tŕ cuộc sống kinh tế th́ là
Tà Mạng. Tu hành đúng pháp, tiếp nhận sự cúng
dường của tín thí để duy tŕ cuộc sống
kinh tế th́ là Chánh Mạng.
Thành Duy
Thức Luận thuyết minh về Cuống như sau: “Vân
hà vi Cuống? Vị hoạch lợi dự, ngụy trá vi tánh,
năng chướng Bất Cuống, tà mạng vi nghiệp”
(Cuống là như thế nào? V́ đạt được
lợi lộc, tiếng tăm, bèn giả vờ làm ra vẻ
có đức, mang tánh chất trá ngụy. Nghiệp dụng
của Cuống là có thể chướng ngại Bất Cuống,
tà mạng). Ư nghĩa đại để tương đồng
với bộ luận này (Đại Thừa Quảng Ngũ
Uẩn Luận). Trong ấy, Ngụy Trá là dùng những dáng
vẻ lạ lùng, đặc biệt, quái dị, hoặc ngôn
hạnh dối trá, bịa đặt để mê hoặc,
gạt gẫm kẻ khác. Bất Cuống là chú trọng sự
thật, căn cứ trên sự thật, thật thà, chẳng
dối gạt, chẳng có hành vi giả trá.
1.1.2.4.2.1.5.1.8. Siểm
(Luận)
Vân hà Siểm? Vị kiểu thiết phương tiện,
ẩn kỷ quá ác, tâm khúc vi tánh. Vị ư danh lợi, hữu
sở kế trước, thị Tham, Si phần, chướng
chánh giáo hối vi nghiệp. Phục do hữu tội, bất
tự như thật phát lộ quy sám, bất nhậm giáo thọ.
(論)云何諂?謂矯設方便。隱己過惡。心曲為性。謂於名利。有所計著。是貪癡分。障正教誨為業。復由有罪。不自如實發露歸懺。不任教授。
(Luận: Siểm là như thế
nào? Chính là giả vờ bày ra phương tiện ḥng ẩn
giấu lỗi ác của chính ḿnh, tâm có tánh chất cong vạy.
V́ danh lợi mà có so đo, tính toán. Siểm thuộc một
phần của Tham và Si, có nghiệp dụng chướng
ngại sự răn dạy chánh đáng. Lại do có tội,
mà chẳng tự ḿnh như thật phơi bày sám hối, chẳng
tiếp nhận dạy dỗ).
Thể tánh
của Siểm là “kiểu thiết phương tiện,
ẩn kỷ quá ác, tâm khúc vi tánh” (giả dối
bày phương tiện, ẩn giấu lỗi ác của chính
ḿnh, tâm có tánh chất cong vạy), tức là sau khi kẻ đó phạm sai lầm,
bèn hư ngụy lập bày đủ mọi phương
pháp để giấu diếm, che đậy tội lỗi,
ác hạnh của chính ḿnh, trong tâm cong vạy, chẳng ngay
thẳng. V́ sao nội tâm siểm khúc? “Ư danh lợi, hữu
sở kế trước” [nghĩa là] v́ chấp trước,
so đo, tham đắm tiếng tăm, lợi dưỡng,
cho nên che đậy lỗi lầm của chính ḿnh. Do đó,
Siểm dùng một phần Tham và Si làm thể tánh giống
như Cuống. Nghiệp dụng của Siểm là “chướng
ngại chánh giáo hối vi nghiệp”, tức là chướng
ngại sự chỉ dạy, răn bảo chánh đáng của
sư trưởng. “Phục do hữu tội, bất tự
như thật phát lộ quy sám, bất nhậm giáo thọ”,
[ư nói] v́ kẻ đó có tội lỗi, không chỉ là chẳng
chịu thành thật phơi bày, quy y sám hối, mà c̣n dùng các
thứ phương pháp để che đậy, cho nên chẳng
thể bằng ḷng tiếp nhận sự
dạy bảo của trưởng.
Thành Duy
Thức Luận thuyết minh về Siểm như sau: “Vân
hà vi Siểm? Vị vơng tha cố, kiểu thiết dị
nghi, hiểm khúc vi tánh; năng chướng Bất Siểm,
giáo hối vi nghiệp” (Siểm là như thế nào? V́ lừa
gạt người khác mà vờ vĩnh bày ra nghi thái khác lạ, có tánh chất
nham hiểm, quanh co. Siểm có nghiệp dụng có thể chướng
ngại Bất Siểm và giáo huấn). Ư nghĩa của lời
giảng ấy đại để giống như luận
này. Trong ấy, “vơng tha” (罔他) là dối trá, gạt gẫm
người khác. “Hiểm khúc” (險曲) là âm hiểm, tà vạy
(chẳng chân thật, chẳng chánh trực). Do vậy, Siểm
là v́ mưu cầu tư lợi và danh dự cho chính ḿnh, nội
tâm chẳng chân thật, chẳng chánh trực. Do vậy, bịa
chuyện hay [bày vẽ] h́nh dạng hư giả
để gạt gẫm đối phương, lại c̣n
biểu lộ một đống nghi thái lễ tiết lạ
lùng, đặc biệt, hoặc kề vai cười mơn (ôm vai cúi đầu, bày ra vẻ cười
cợt lấy ḷng), hoặc là điệu bộ của kẻ
tôi đ̣i (hành vi khúm núm như phường tôi tớ) để đón
ư, bợ đỡ đối
phương.
So sánh giữa
Phú và Siểm, Phú thuần túy là đối với chính ḿnh, ẩn
giấu tội lỗi của chính ḿnh, chẳng chịu sám
hối. Siểm th́ không chỉ là ẩn giấu tội lỗi
của chính ḿnh, mà c̣n nghĩ đủ mọi biện pháp để
che đậy tội lỗi, lừa gạt người khác.
1.1.2.4.2.1.5.1.9. Kiêu
(Luận)
Vân hà Kiêu? Vị ư thịnh sự, nhiễm trước
cứ ngạo, năng tận vi tánh. Thịnh sự giả,
vị hữu lậu thịnh sự. Nhiễm trước
cứ ngạo giả, vị ư nhiễm ái, duyệt dự
căng thị, thị Tham chi phần. Năng tận giả,
vị thử năng tận chư thiện căn cố.
(論)云何憍?謂於盛事。染著倨傲。能盡為性。盛事者。謂有漏盛事。染著倨傲者。謂於染愛。悅豫矜恃。是貪之分。能盡者。謂此能盡諸善根故。
(Luận: Kiêu là như thế nào?
Chính là có tánh chất đối với chuyện tốt lành
bèn đắm nhiễm, ngạo nghễ, có thể chấm
dứt [các thiện căn]. “Chuyện tốt lành” là nói đến
chuyện tốt lành thuộc loại hữu lậu, “Đắm
nhiễm, ngạo nghễ” nghĩa là đối với sự
nhiễm ái bèn vui thích, phách lối, hợm ḿnh. Kiêu là một
phần của Tham. “Có thể chấm dứt” là nói món phiền
năo này có thể chấm dứt các thiện căn).
Thể tánh
của Kiêu là “ư thịnh sự, nhiễm trước
cứ ngạo, năng tận vi tánh”, tức là đối
với chuyện tốt đẹp thuộc loại hữu
lậu, như thân thể khỏe mạnh, dung mạo xinh đẹp,
học thức rộng răi, giàu có, quyền uy cao tột v.v…
bèn sanh khởi tâm lư nhiễm đắm, cao ngạo. Điều
này có thể khiến cho các thứ thiện căn, công
đức của chính ḿnh sẽ dần dần tiêu mất,
diệt sạch. “Nhiễm trước cứ ngạo giả,
vị ư nhiễm ái, duyệt dự, căng thị”,
[nghĩa là] đối với chuyện tốt lành của chính
ḿnh bèn sanh khởi ḷng tham ái, đắm chấp, nội tâm
vui sướng, kiêu ngạo, tự cao, tự đại. Do vậy, Kiêu là một
phần của Tham.
Thành Duy
Thức Luận thuyết minh về Kiêu như sau: “Vân hà
vi Kiêu? Ư tự thịnh sự, thâm sanh nhiễm trước,
túy ngạo vi tánh; năng chướng Bất Kiêu, nhiễm
y vi nghiệp” (Kiêu là như thế nào? Đối với
chuyện tốt lành của chính ḿnh, sanh ḷng đắm nhiễm
sâu xa, có tánh chất say sưa ngạo mạn. Nghiệp dụng
của nó là có thể chướng ngại Bất Kiêu, gây nhiễm
đắm). Thể tánh của Kiêu là đối với chuyện
tốt lành thuộc về hữu lậu của chính ḿnh mà
sanh khởi ḷng đắm nhiễm sâu đậm, bèn ngu muội,
mê loạn, kiêu ngạo, tự đại. Nghiệp dụng
của Kiêu là có thể chướng ngại Bất Kiêu, có
thể sanh trưởng hết thảy các pháp tạp nhiễm.
Do chủng
loại của các chuyện tốt lành hữu lậu hết
sức nhiều, Du Già Sư Địa Luận chủ yếu
đối với bảy chuyện tốt lành hữu lậu,
mà lập ra “bảy loại Kiêu”: “Vô bệnh Kiêu, thiếu
niên Kiêu, trường thọ Kiêu, tộc tánh Kiêu, sắc lực
Kiêu, phú quư Kiêu, đa văn Kiêu” (kiêu
ngạo v́ không bị bệnh tật, kiêu ngạo v́ trẻ
tuổi, kiêu ngạo v́ sống lâu, kiêu ngạo v́ gịng họ
cao quư, kiêu ngạo v́ có sức mạnh, kiêu ngạo v́ giàu có,
kiêu ngạo v́ học rộng nghe nhiều). Trong ấy, tộc tánh Kiêu là chẳng hạn
như tại Ấn Độ có bốn chủng tánh (Bà-la-môn,
Sát-đế-lợi, Phệ-xá, và Thủ-đà-la) sai biệt.
V́ xuất sanh thuộc chủng tánh cao quư như Bà-la-môn và Sát-đế-lợi
mà sanh khởi Kiêu. Đó gọi là “tộc tánh Kiêu”.
So sánh giữa
Mạn và Kiêu, Mạn là so sánh chuyện tốt lành hữu lậu
của chính ḿnh với người khác, do v́ vượt trỗi
kẻ khác mà nội tâm cao ngạo. Kiêu là nhiễm đắm
chuyện tốt lành hữu lậu của chính ḿnh, nội
tâm vui sướng, chẳng so đo với người khác.
1.1.2.4.2.1.5.1.10. Hại
(Luận)
Vân hà Hại? Vị ư chúng sanh, tổn năo vi tánh. Thị Sân
chi phần. Tổn năo giả, vị gia tiên, trượng đẳng,
tức thử sở y vi nghiệp.
(論)云何害?謂於眾生。損惱為性。是瞋之分。損惱者。謂加鞭杖等。即此所依為業。
(Luận: Hại là như thế
nào? Chính là có tánh chất tổn thương, gây phiền năo
cho chúng sanh. Nó là một phần của Sân. “Tổn năo” là dùng
roi, gậy v.v… đánh đập, đấy là chỗ y cứ
cho nghiệp dụng của nó).
Thể tánh của Hại là tổn hại,
bức bách, gây khổ năo cho chúng
sanh; nó là một phần của Sân. Phương pháp gây tổn
hại, khiến chúng sanh khổ năo là dùng roi, côn gỗ, đao
gươm, súng v.v… Nghiệp dụng của Hại là làm chỗ
y cứ cho việc dùng các phương pháp như roi v.v… bức
bách năo hại chúng sanh, Thành Duy Thức Luận thuyết
minh về Hại đại để giống như luận
này.
Tiểu
Tùy Phiền Năo là phần vị sai biệt của Căn Bản
Phiền Năo. Nói theo chánh nghĩa của Thành Duy Thức Luận,
Phẫn, Hận, Năo, Tật, và Hại là nương theo một
phần của Sân mà giả lập, Phú, Cuống, và Siểm
là nương theo phần vị của hai pháp Tham và Si mà giả
lập, Xan và Kiêu là nương theo phần vị của
Tham mà giả lập.
1.1.2.4.2.1.5.2. Trung Tùy Phiền Năo Tâm
Sở (chia thành hai đoạn)
1.1.2.4.2.1.5.2.1. Vô Tàm
(Luận)
Vân hà Vô Tàm? Vị sở tác tội, bất tự tu sỉ
vi tánh. Nhất thiết phiền năo cập tùy phiền năo trợ
bạn vi nghiệp.
(論)云何無慚?謂所作罪。不自羞恥為性。一切煩惱。及隨煩惱。助伴為業。
(Luận: Vô Tàm là như thế nào?
Nghĩa là đối với tội đă tạo, có tánh chất
chẳng tự hổ thẹn. Nghiệp dụng của nó
là phụ trợ hết thảy các phiền năo và tùy phiền
năo).
Thể tánh của Vô Tàm là “sở
tác tội, bất tự tu sỉ vi tánh”, tức
là đối với tội nghiệp đă tạo, đối
diện với chính ḿnh, sẽ chẳng cảm thấy xấu
hổ. Nghiệp dụng của Vô Tàm là “nhất thiết
phiền năo cập tùy phiền năo trợ bạn vi nghiệp”,
[nghĩa là] nó sẽ phụ trợ hết thảy Căn
Bản Phiền Năo và Tùy Phiền Năo.
Thành Duy
Thức Luận thuyết minh Vô Tàm như sau: “Vân hà Vô Tàm?
Bất cố tự, pháp, khinh cự hiền thiện vi tánh;
năng chướng ngại Tàm, sanh trưởng ác hạnh
vi nghiệp” (Vô Tàm là như thế nào? Có tánh chất chẳng
đoái hoài chính ḿnh và pháp, coi thường, cự tuyệt
bậc hiền thiện. Nghiệp dụng của Vô Tàm là có
thể chướng ngại Tàm, sanh trưởng ác hạnh).
Thể tánh của Vô Tàm là chẳng tôn trọng, chẳng đoái
hoài phẩm cách của chính ḿnh lẫn chân lư thế gian và
xuất thế gian, khinh rẻ người hiền lương,
cự tuyệt thiện pháp. Nghiệp dụng của Vô Tàm
là có thể chướng ngại Tàm, sanh trưởng ác hạnh.
1.1.2.4.2.1.5.2.2. Vô Quư
(Luận)
Vân hà Vô Quư? Vị sở tác tội, bất tu tha vi tánh, nghiệp
như Vô Tàm thuyết.
(Luận: Vô Quư là như thế nào?
Chính là có tánh chất đối với tội đă làm, chẳng
xấu hổ với người khác, nghiệp dụng như
đă nói trong phần Vô Tàm).
Thể tánh của Vô Quư là “sở tác tội,
bất tu tha vi tánh”, nghĩa là đối với tội
nghiệp đă làm, đối diện với kẻ khác, sẽ
chẳng cảm thấy xấu hổ. Nghiệp dụng của
Vô Quư giống như Vô Tàm.
Thành Duy
Thức Luận thuyết minh về Vô Quư như sau: “Vân hà
Vô Quư? Bất cố thế gian, sùng trọng bạo ác vi tánh,
năng chướng ngại Quư, sanh trưởng ác hạnh
vi nghiệp” (Vô Quư là như thế nào? Có tánh chất chẳng
đoái hoài thế gian, coi trọng, đề cao bạo ác.
Nghiệp dụng là có thể chướng ngại Quư, sanh
trưởng ác hạnh). Thể tánh của Vô Quư là chẳng
tôn trọng, chẳng đoái hoài hay lo lắng bị dư
luận thế gian phê b́nh, chỉ trích. [Kẻ Vô Quư] là kẻ
sùng kính sự bạo ác, tôn trọng ác pháp. Nghiệp dụng
của Vô Quư là có thể chướng ngại Quư, sanh trưởng
ác hạnh.
Nói theo
kinh Tạp A Hàm, có hai thứ pháp thanh tịnh là Tàm và Quư, có
thể thủ hộ thế gian. Giả sử thế gian chẳng
có Tàm và Quư, ở đây là nói hai thứ pháp tạp nhiễm
Vô Tàm và Vô Quư, thế gian sẽ chẳng biết cha mẹ,
anh em, chị em, vợ con, họ hàng, sư trưởng, trật
tự tôn ty, điên đảo, hỗn loạn, giống như
súc sanh vậy!
1.1.2.4.2.1.5.3. Đại Tùy Phiền Năo
Tâm Sở (chia làm tám đoạn)
1.1.2.4.2.1.5.3.1. Hôn Trầm
(Luận)
Vân hà Hôn Trầm? Vị tâm bất điều sướng,
vô sở kham nhậm, mông muội vi tánh; thị Si chi phần,
dữ nhất thiết phiền năo cập tùy phiền năo sở
y vi nghiệp.
(論)云何昏沈?謂心不調暢。無所堪任。蒙昧為性。是癡之分。與一切煩惱。及隨煩惱。所依為業。
(Luận: Hôn Trầm là như thế
nào? Chính là tâm chẳng điều ḥa, thoải mái, có tánh chất
chẳng thể đảm đương tu
thiện đoạn ác, tối tăm. Nó là một phần của Si. Nghiệp
dụng là làm chỗ y cứ cho hết thảy phiền năo
và tùy phiền năo).
Thể tánh
của Hôn Trầm là “tâm bất điều sướng,
vô sở kham nhậm, mông muội vi tánh”, [nghĩa là]
trong tâm chẳng điều ḥa, thoải mái, chẳng có năng
lực đảm đương tu thiện, đoạn ác
(lời Luận nói là “chẳng thể kham nhậm”), tối
tăm ngu muội, mê mờ, hồ đồ, chẳng hiểu
rơ Sự Lư. Nghiệp dụng của Hôn Trầm là “dữ
nhất thiết phiền năo cập tùy phiền năo sở y
vi nghiệp”, [tức là Hôn Trầm] dẫn khởi hết
thảy Căn Bản Phiền Năo và Tùy Phiền Năo.
Thành Duy Thức
Luận thuyết minh về Hôn Trầm như sau: “Vân hà Hôn
Trầm? Linh tâm ư cảnh, vô kham nhậm vi tánh, năng
chướng Khinh An, Tỳ-bát-xá-na vi nghiệp” (Hôn Trầm
là như thế nào? Có tánh chất khiến cho tâm đối
với cảnh sẽ chẳng
thể đảm đương tu thiện, đoạn ác, có nghiệp dụng là chướng ngại
Khinh An và Tỳ-bát-xá-na).
Thể tánh của Hôn Trầm là đối với cảnh được
quán, nội tâm mơ hồ, vô tri, chẳng thể đảm
đương tác dụng quán chiếu hoặc đoạn
ác tu thiện được! Như khi tu học Tŕ Danh Niệm Phật, nội tâm hôn
trầm, chẳng có cách nào chuyên chú nơi phẩm đức
của Phật. Nghiệp dụng của Hôn Trầm là có thể
chướng ngại Khinh An và Tỳ-bát-xá-na (tiếng Phạn là Vipaśyanā, dịch nghĩa là Quán).
Như khi tu học Vô Thường Quán, do v́ Hôn Trầm, cho
nên nội tâm chẳng có cách nào chọn lựa dứt khoát
nghĩa lư vô thường. Đấy là nói nhấn mạnh,
chứ thật ra, Hôn Trầm cũng có thể chướng
ngại Xa-ma-tha (tiếng Phạn là Śamatha,
dịch nghĩa là Chỉ). V́ Hôn Trầm, tâm lực yếu
đuối, mỏng manh, cho nên nội tâm tất nhiên chẳng
thể kham chuyên chú một cảnh được!
Luận
này nói: Hôn Trầm thuộc về một phần Si, có nghĩa
là: Hôn Trầm có thể tánh của riêng ḿnh. Hôn Trầm và Si
có ǵ khác biệt? Thành Duy Thức Luận nói: “Thử dữ
Si tướng hữu sai biệt giả, vị Si ư cảnh
mê ám vi tướng, chánh chướng Vô Si, nhi phi mông trọng. Hôn Trầm ư cảnh
mông trọng vi tướng,
chánh chướng Khinh An, nhi phi mê ám” (Pháp này và Si tướng có sai biệt như
sau: Si có tướng trạng là mê ám đối với cảnh,
thật sự chướng ngại Vô Si, chẳng phải
gây ra mờ mịt, trầm trệ. Hôn Trầm có tướng trạng đối
với cảnh bèn mờ mịt, trầm trệ, thật sự chướng ngại
Khinh An, chẳng phải là mê muội, tối tăm).
“Mông trọng” (瞢重) là khiến cho thân lẫn tâm chẳng thể
điều ḥa, thoải mái, chẳng thể đảm nhiệm
công năng đoạn trừ ác pháp, tu tập thiện pháp.
Do vậy có thể biết rằng: Hôn Trầm và Si có sai biệt,
như vị cư sĩ nọ lúc thông thường hiểu
rơ đạo lư “các Hành vô thường”; đấy là
Vô Si. Hiện thời, v́ mệt mỏi mà hôn trầm, cho nên
mới chẳng hiểu rơ đạo lư “các Hành vô thường”.
Hàng phàm phu thường chẳng
hiểu rơ đạo lư “các Hành vô thường”. Đấy
là Si, dẫu hiện thời tinh thần rất tốt, chẳng
hôn trầm, vẫn chẳng hiểu rơ đạo lư “các Hành
vô thường”.
Du Già Sư
Địa Luận nói: “Trong quá tŕnh tu Chỉ để chứng
đắc các môn Tĩnh Lự, Đẳng Chí v.v… có năm
loại pháp chướng ngại. V́ năm loại pháp chướng
ngại ấy sẽ che lấp thiện tâm, cho nên lại gọi
là Ngũ Cái (五蓋, năm thứ che đậy): Một là Tham
Dục Cái; hai là Sân Khuể Cái; ba là Hôn Trầm Thùy Miên Cái; bốn
là Điệu Cử Ác Tác Cái; năm là Nghi Cái”. Những
món phiền năo khác cũng có thể che lấp thiện tâm,
v́ sao đức Như Lai chỉ nói năm thứ pháp chướng
ngại ấy là Ngũ Cái? V́ sức che đậy của
năm thứ pháp chướng ngại ấy đặc biệt
mạnh mẽ, có thể chướng ngại Giới, Định,
Huệ, Giải Thoát, và Giải Thoát Tri Kiến. Do đó, đức
Như Lai chỉ nói
năm thứ pháp chướng ngại ấy là Ngũ Cái.
Như trong A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận có nói: “Các
thứ phiền năo đều có nghĩa Cái (che đậy),
cớ sao đức Như Lai chỉ nói năm món này? Chỉ
có năm món này là có thể ngăn chướng Ngũ Uẩn
mạnh mẽ nhất, tức là Tham Khuể Cái có thể chướng Giới
Uẩn, Hôn Trầm Thùy Miên Cái có thể chướng ngại
Huệ Uẩn, Điệu Cử Ác Tác Cái có thể chướng
ngại Định Uẩn. Do chẳng có Định và Huệ,
cho nên nghi ngờ Tứ Đế.
Do nghi nên khiến cho Giải Thoát và Giải Thoát Tri Kiến
đều chẳng thể dấy lên. V́ thế, chỉ có năm món này được xếp
thành Cái”.
Hôn Trầm
cùng với Thùy Miên (ngủ
mê) đều có thể
tánh khác biệt. V́ sao hai món ấy được gộp chung
thành một Cái? Du Già Sư Địa Luận nói: “Sanh
khởi phiền năo, làm hư
hoại, đoạn dứt các gia hạnh; đấy là tánh chất của Hôn Trầm. Tâm
tột bậc tối tăm, qua loa;
đấy là tánh chất của Thùy
Miên. V́ vậy, hai món này được
gộp chung lại, gọi là một Cái. Hơn nữa, hôn
muội (mờ
mịt, tối tăm) có tánh chất chẳng thể đảm đương
công năng [quán
chiếu, đoạn ác, tu thiện], th́ gọi là Hôn Trầm. Cái tâm Hôn Trầm
tột bậc qua quưt th́ gọi là Thùy Miên. Do vậy, khi
Hôn Trầm sanh ra các thứ phiền
năo và Tùy Phiền Năo, chẳng có các cận duyên khác, giống
như kẻ đang
ngủ vậy. Các phiền năo và tùy phiền năo khác hoặc
là đáng nên sanh ra, hoặc chẳng nên sanh ra. Nếu sanh ra
hôn trầm, mờ mịt, Thùy Miên nhất định sẽ
sanh khởi”. Nếu thật
sự có Hôn Trầm nhẹ, ít, mà chẳng đối trị, sẽ có thể
chuyển biến thành Hôn Trầm cực nặng, nhất định
sẽ tiến thêm bước nữa là sanh ra Thùy Miên (ngủ
gục), cho đến ngủ say, Ư Thức tạm thời
chẳng có tác dụng. Do vậy, gộp chung Hôn Trầm và
Thùy Miên, lập ra một món Cái. Thể tánh và nghiệp dụng
của Thùy Miên sẽ lại được nói tường tận,
rơ ràng trong phần Bất Định Tâm Sở.
A Tỳ Đạt
Ma Câu Xá Luận lại nói: “V́ sao trong hai món Cái là Hôn Miên (Hôn
Trầm và Thùy Miên) và Điệu Hối (Điệu Cử
và Hậu Hối tức Ác Tác), mỗi món trong đó có thể
tánh khác nhau, lại gộp chung thành một? Do Thực, Trị,
và Dụng giống nhau, cho nên gộp lại, lập thành một
món. Thực là nói tới cái để ăn, c̣n gọi là Tư
Lương. Trị là có thể đối trị, cũng
gọi là Phi Thực (chẳng ăn). Dụng là nói tới
Sự Dụng (tác dụng về mặt Sự), c̣n gọi
là Công Năng. Do trong kinh này nói như thế đó. Hôn (Hôn
Trầm) và Miên (Thùy Miên) tuy là hai, nhưng Thực và Phi Thực
giống nhau. Những ǵ gọi là Hôn Miên Cái Thực? Tức
là năm loại pháp: Một là mơ màng, hai là chẳng vui
sướng, ba là tần thân, bốn là thực bất b́nh tánh,
năm là tâm muội liệt tánh[3].
Những ǵ là Phi Thực của món Cái này? Chính là nói đến
quang minh tưởng. Hai loại như thế, Sự và Dụng
cũng như nhau, có nghĩa là đều khiến cho tâm tánh
ch́m xuống, tối tăm”.
V́
nguyên nhân khiến cho Hôn Trầm và Thùy Miên sanh khởi, phương
pháp đối trị và công dụng của chúng giống
nhau, cho nên gộp chung Hôn Trầm và Thùy Miên, lập thành một
món Cái. Trong ấy, nói đến nguyên nhân khiến cho Hôn Trầm
và Thùy Miên sanh khởi th́ có nhiều
thứ, hoặc là tướng hắc ám tư duy chẳng đúng
lư, hoặc tâm chẳng
ưa thích pháp môn tu hành,
hoặc do ngủ nghê chẳng đủ mà ngủ gục, hoặc
là ăn quá no, hoặc ăn những món ăn chẳng thích
hợp do
chiên xào quá nhiều dầu mỡ v.v…, hoặc ăn quá ít,
chẳng đủ dinh dưỡng, hoặc gầy ṃn, mệt
mỏi, hoặc tâm
lực yếu ớt v.v… Thân thể quá mệt mỏi, hoặc
ngủ chẳng đủ, cũng sẽ bị Hôn Trầm.
Tuy chẳng phải là ác pháp, nhưng Hôn Trầm có thể chướng
ngại Định, Huệ, hăy nên đối trị ổn
thỏa. Trong ấy (trong đoạn trích dẫn trên đây),
phương pháp đối trị chỉ nói đến “quang
minh tưởng”, chủ yếu là đối trị “tướng
hắc ám do tư duy chẳng đúng lư”. Nói rộng răi,
c̣n có những phương pháp đối trị khác, hoặc
là tư duy công đức của pháp môn tu hành mà sanh khởi
tâm vui thích, hoặc điều
tiết sự ăn uống, hoặc nghỉ ngơi thích đáng
ḥng tiêu trừ mệt
mỏi, khiến cho tinh thần no đủ, hoặc rèn luyện
thân thể, tăng cường tâm lực, khiến cho thân
tâm mạnh mẽ v.v…
V́ Hôn Trầm Thùy Miên Cái hết sức khó nhận
biết, rất khó đối trị, cho nên có thể tham
khảo phẩm Trường Thọ Vương trong kinh Trưởng
Lăo Thượng Tôn Thùy Miên thuộc Trung A Hàm Kinh.
1.1.2.4.2.1.5.3.2. Điệu Cử
(Luận)
Vân hà Điệu Cử? Vị tùy ức niệm hỷ lạc
đẳng sự, tâm bất tịch tĩnh vi tánh. Ưng
tri ức niệm tiên sở du hư, hoan tiếu đẳng sự,
tâm bất tịch tĩnh, thị Tham chi phần, chướng
Xa-ma-tha vi nghiệp.
(論)云何掉舉?謂隨憶念喜樂等事。心不寂靜為性。應知憶念先所遊戲歡笑等事。心不寂靜。是貪之分。障奢摩他為業。
(Luận: Điệu Cử là như
thế nào? Nghĩa là có tánh chất do nghĩ nhớ các chuyện
vui sướng v.v… mà tâm chẳng tịch tĩnh. Hăy nên biết
nghĩ nhớ những chuyện như vui chơi, vui cười
trước đó v.v… mà tâm chẳng tịch tĩnh. Nó có một
phần của Tham, có nghiệp dụng chướng ngại
Xa-ma-tha).
Thể tánh
của Điệu Cử, “tùy ức niệm hỷ lạc
đẳng sự, tâm bất tịch tĩnh vi tánh”, [ư nói]
thuận theo sự nghĩ nhớ những chuyện như
hoan hỷ, vui sướng v.v… Chẳng hạn như nghĩ
nhớ những chốn đă từng đến vui chơi,
những chuyện vui cười trong quá khứ v.v… suy nghĩ
lung tung, tâm chẳng b́nh lặng. Nghiệp dụng của Điệu
Cử là chướng ngại Xa-ma-tha. Luận này nói Điệu
Cử có một phần thuộc về Tham, có nghĩa là: Điệu
Cử có thể tánh riêng biệt của chính ḿnh, trọn khắp
các tâm ô nhiễm, là thật pháp, chẳng phải là giả pháp,
chẳng phải là một phần của Tham! Biệt tướng
của Điệu Cử là “hiêu động” (囂動, bắng nhắng, nhặng
xị), tức là làm duyên chẳng tĩnh
lặng cho các pháp cùng sanh khởi. Nói theo chỗ chánh yếu,
Điệu Cử chướng ngại tu Chỉ, nhưng
trên thực tế, Điệu Cử cũng chướng ngại tu Quán.
Nội tâm trồi hụp, lăng xăng, chẳng thể tĩnh
lặng, sẽ không thể phân định Sự Lư của
sở duyên rơ ràng, chánh xác được. Thành Duy Thức Luận
thuyết minh Điệu Cử đại để giống
như luận này.
Điệu
Cử và Ác Tác mỗi món có thể tánh riêng biệt, v́ sao gộp
chung hai món để lập thành một món Cái? Du Già Sư Địa
Luận nói: V́ Điệu Cử và Ác Tác có cảnh giới được
duyên giống nhau, đều là “thân thuộc tầm tư,
quốc độ tầm tư, hoặc tùy ức niệm
tích sở kinh lịch hỷ tiếu hoan ngu sở hành chi sự” (nghĩ ngợi về thân thuộc, nghĩ
ngợi về cơi nước, hoặc nghĩ nhớ đến
những chuyện vui cười, sướng
vui đă từng trải
qua khi xưa). Do vậy, gộp chung hai món ấy, lập thành
một Cái. Hơn nữa, dẫu cho cảnh giới được
duyên chẳng tương đồng, nhưng v́ Điệu
Cử khiến cho nội tâm xáo động, trồi hụp,
Ác Tác khiến cho nội tâm lo âu, tham luyến, nhớ lại
rồi áo năo, hối hận, đều là những thứ
suy nghĩ, t́m ṭi xáo động, chẳng b́nh lặng trong nội tâm. Nghiệp
dụng của hai món ấy tương tự, cho nên gọi
gộp chung thành một
Cái. Thể tánh và nghiệp dụng của Ác Tác sẽ lại
được nói cặn kẽ trong phần Bất Định
Tâm Sở.
A Tỳ Đạt
Ma Câu Xá Luận lại nói: “Điệu và Hối tuy là hai
[pháp khác nhau], nhưng Thực (những duyên khiến cho nó tăng
trưởng) và Phi Thực (phương pháp để đối
trị) giống nhau. Những ǵ gọi là Điệu Hối
Cái Thực (những pháp khiến cho Điệu Hối Cái sanh
khởi, tăng trưởng)? Chính là bốn thứ pháp. Một
là thân lư tư (nghĩ đến người thân), hai là quốc
độ tư, ba là bất tử tầm (t́m ṭi lẽ bất
tử), bốn là thuận theo ư niệm, dựa theo các chuyện
giỡn cười, vui sướng, phụng sự v.v…
đă từng trải qua
khi trước. Những
ǵ gọi Phi Thực (cách đối trị) của món Cái này?
Chính là Xa-ma-tha. Sự Dụng (tác dụng) của hai pháp này
cũng giống nhau, tức là đều có thể khiến
cho tâm chẳng tịch tĩnh”. V́ nguyên nhân sanh khởi của Điệu
Cử và Ác Tác (luận Câu Xá gọi [nguyên nhân sanh
khởi ấy] là Thực), phương
pháp đối trị ([luận Câu Xá gọi cách đối
trị là] Phi Thực), cũng như công dụng [của
hai món Tâm Sở này] đều
tương đồng, cho nên gộp chung Điệu Cử
và Ác Tác hợp thành một Cái. Đối với nguyên nhân sanh
khởi Điệu Cử, ở đây chú trọng nói tới
cảnh được duyên, [tức là] hoặc là nghĩ tới thân hữu, hoặc
nghĩ ngợi về quê nhà, hoặc nghĩ ngợi chính ḿnh c̣n trẻ trung, chẳng
nên xuất gia, hoặc nhớ nghĩ những chuyện vui
sướng trong quá khứ v.v…
Phương
pháp để đối trị Điệu Cử là tu Chỉ.
Tâm giữ sao cho liên tục
chuyên chú nơi cảnh giới tương
đồng. Chẳng hạn như khi tu học niệm Phật,
nếu Điệu Cử yếu mỏng sanh khởi, tâm hăy
đặc biệt tác ư chuyên chú nơi tượng Phật hoặc Phật đức
(công đức, đức hạnh của Phật), Điệu
Cử sẽ bị tiêu mất. Nếu sức của Điệu
Cử lớn mạnh, chẳng thể niệm Phật, có
thể tạm thời thay đổi cảnh được
duyên, như tư duy những lỗi hại của những
vọng tưởng hoặc những điều nghĩ ngợi
ấy rồi sanh tâm nhàm ĺa, hoặc tu Tử Tưởng,
Bất Tịnh Quán v.v… Sau khi đă hàng phục Điệu
Cử, sẽ lại tiếp tục niệm Phật. Tuy nghĩ
đến thân hữu v.v… chẳng phải là ác pháp, nhưng
những thứ nghĩ ngợi ấy có thể khiến cho
nội tâm lao chao, chướng ngại tu học Chỉ, Quán.
Do vậy, phải nên đối trị thỏa đáng món phiền
năo này!
1.1.2.4.2.1.5.3.3. Bất Tín
(Luận)
Vân hà Bất Tín? Vị Tín sở trị.
Ư nghiệp,
quả đẳng, bất chánh tín thuận, tâm bất thanh
tịnh vi tánh. Năng dữ Giải Đăi sở y vi nghiệp.
(論)云何不信?謂信所治。於業果等。不正信順。心不清淨為性。能與懈怠。所依為業。
(Luận: Bất Tín là như thế
nào? Chính là pháp được đối trị bởi Tín.
Đối với nghiệp, quả v.v… [Bất Tín] lại
có tánh chất chẳng tín thuận đúng lẽ, tâm chẳng
thanh tịnh. Nghiệp dụng là có thể làm chỗ y cứ
cho Giải Đăi).
Thể tánh
của Bất Tín, “Tín sở trị, ư nghiệp, quả
đẳng, bất chánh tín thuận, tâm bất thanh tịnh
vi tánh”, nghĩa là: [Bất Tín] chính là điều được
đối trị bởi Tín. Đối với nghiệp,
quả, Tứ Đế, Tam Bảo v.v… do chẳng liễu
giải chánh xác, phù hợp, thuận tùng, trong tâm có đủ
mọi nỗi hoài nghi, cho nên chẳng thanh tịnh. Nghiệp dụng của
Bất Tín là “năng dữ Giải
Đăi sở y vi nghiệp” (có nghiệp dụng làm chỗ
y cứ cho Giải Đăi), [tức
là] có thể sanh khởi Giải Đăi. Ư nghĩa của “nghiệp,
quả, Tứ Đế, Tam Bảo” như đă nói rơ
trong phần Tín Thiện Tâm Sở. Tín có thể đối
trị Bất Tín; ngược lại, Bất Tín có thể
chướng ngại Tín. Tuy do Bất Tín chẳng nhất định
sẽ làm chuyện ác, có thể chỉ là hữu phú vô kư tánh,
nhưng nó có thể chướng ngại các thiện pháp như
Tín v.v… sanh khởi. Do điều này, hăy nên tăng cường
đối trị [Bất Tín] ḥng hàng phục, diệt trừ
nó.
Bất Tín
tức là chẳng thể lư giải chánh xác sâu đậm Sự
Lư “tạo tác cái nhân bất thiện, khi nghiệp lực
chín muồi, sẽ cảm lạc quả; tạo tác nghiệp nhân ác, khi nghiệp
lực chín muồi, sẽ cảm khổ quả”, Sự Lư của bậc thánh nhân Tứ Quả, Sự
Lư của Tứ Thánh Đế, và Sự Lư của Tam Bảo.
Đối với những Sự Lư ấy, chẳng thể
thuận tùng, phù hợp, có rất nhiều hoài nghi, nội
tâm sẽ chẳng thanh tịnh, đục ng̣m, ô uế.
Thành Duy
Thức Luận thuyết minh Bất Tín như sau: “Vân hà
Bất Tín? Ư Thật, Đức, Năng, bất nhẫn, lạc,
dục, tâm uế vi tánh, năng chướng tịnh tín, nọa
y vi nghiệp” [có nghĩa là]
thể tánh của Bất Tín là đối với Thật, Đức,
Năng, chẳng thể
chịu đựng được, do các phiền năo như
ưa thích, mong muốn, ôm ḷng hoài nghi v.v… khiến cho cái tâm đục
ng̣m, ô uế. Ư nghĩa của Thật, Đức, Năng đă
được nói rơ trong phần luận về Tín Thiện
Tâm Sở. Nghiệp dụng của Bất Tín là có thể chướng
ngại Tịnh Tín, làm chỗ y cứ cho lười
nhác, tức là có thể sanh khởi
Giải Đăi.
Trong phần
Tín của Thiện Tâm Sở có nói: “Nhẫn” là Thắng
Giải tâm sở, là cái nhân của Tín. “Lạc, Dục”
là Dục Tâm Sở, là cái quả của Tín. Nội tâm thanh
tịnh chính là thể tánh của Tín. V́ Thắng Giải và
Dục Tâm Sở bao gồm tánh
thiện, tánh ác, và tánh vô kư, cho nên Thắng Giải Tâm Sở
có tánh ác và tánh vô kư chính là cái nhân của Bất Tín. Dục Tâm
Sở có tánh ác và tánh vô kư là cái quả của Bất Tín. Nội
tâm đục ng̣m, ô uế chính là thể tánh của Bất
Tín. Chẳng hạn như nếu Thắng Giải đối
với Sự Lư của các tôn giáo tà ác mà chẳng hoài nghi, sẽ
tín thuận những loại tôn giáo ấy (“tín thuận”
ở đây có cả ba
tánh), nhưng đối với Phật pháp, sẽ nẩy
sanh rất nhiều hoài nghi. V́ thế, nội tâm đục
ng̣m, ô uế. Nương
cậy Bất Tín có tánh ác th́ sẽ sanh khởi Dục nguyện
có tánh ác. Nương cậy Dục nguyện có tánh ác, sẽ
sanh khởi Giải Đăi có tánh ác, sẽ nỗ lực dứt
thiện, làm ác, cho đến tạo tác ác nghiệp cực
nặng, bèn đọa lạc vào địa ngục Vô Gián.
1.1.2.4.2.1.5.3.4. Giải Đăi
(Luận)
Vân hà Giải Đăi? Vị Tinh Tấn sở trị, ư
chư thiện phẩm, tâm bất dũng tấn vi tánh, năng
chướng cần tu chúng thiện vi nghiệp.
(論)云何懈怠?謂精進所治。於諸善品。心不勇進為性。能障勤修眾善為業。
(Luận: Giải Đăi là như thế
nào? Chính là điều bị đối trị bởi Tinh
Tấn. Nó có tánh chất chẳng dũng mănh, chẳng tinh tấn
đối với các điều thiện. Nghiệp dụng
là có thể chướng ngại việc siêng tu các điều
thiện).
Thể tánh
của Giải Đăi là “Tinh Tấn sở trị, ư chư thiện phẩm, tâm bất dũng tấn vi tánh”, nghĩa là nó chính là pháp bị đối trị
bởi Tinh Tấn. Đối với các thiện pháp, tâm chẳng
siêng năng, chẳng phấn chấn dũng mănh, chẳng thăng tấn. Nghiệp dụng của Giải
Đăi là “năng chướng cần tu chúng thiện vi
nghiệp”, [nghĩa là nó] có thể chướng ngại
việc siêng năng, dũng mănh tu học các thứ thiện
pháp.
Thành Duy
Thức Luận thuyết minh về Giải Đăi như sau:
“Vân hà Giải Đăi? Ư thiện ác phẩm, tu đoạn
sự trung, lăn nọa vi tánh, năng chướng Tinh Tấn,
tăng nhiễm vi nghiệp” (Giải Đăi là như thế
nào? Đối với các thiện phẩm và ác phẩm,
trong chuyện tu chứng và đoạn trừ, nó có tánh chất
lười nhác. Nghiệp dụng là có thể chướng
ngại Tinh Tấn, tăng trưởng pháp tạp nhiễm).
Thể tánh của Giải Đăi là đối với việc
đoạn trừ ác pháp và tu học thiện pháp, bèn lười nhác,
tán loạn, biếng trễ. Nghiệp dụng của Giải
Đăi là có thể chướng ngại Tinh Tấn, tăng
trưởng pháp tạp nhiễm. Tinh Tấn có thể đối
trị Giải Đăi; ngược lại, Giải Đăi có
thể chướng ngại Tinh Tấn. Giải Đăi có
cả tánh ác lẫn tánh hữu phú vô kư. Tuy Giải Đăi có tánh
hữu phú vô kư chẳng phải là làm chuyện ác, nhưng nó
có thể chướng ngại các thiện pháp như Tinh Tấn
v.v… sanh khởi. Do vậy, phải nên ra
sức đối trị thứ này,
hàng phục, diệt trừ nó. Như Hiển Dương
Thánh Giáo Luận đă nói: V́ tham cầu sự vui sướng
do dựa, nằm, mà tham đắm ngủ nghê. Hoặc v́
khinh miệt chính ḿnh mà sợ hăi sự thăng tấn. V́
thế, đối với chuyện “đoạn ác, tu thiện”, tâm chẳng siêng gắng, hăng hái, như
thế chính là Giải Đăi. Tinh Tấn chỉ có tánh thiện;
v́ thế, dẫu siêng năng, phấn chấn làm chuyện
có tánh chất vô phú vô kư, sẽ chẳng phải là Tinh Tấn,
mà đâm ra c̣n chướng ngại chuyện tu học thiện
pháp. Như tốn quá nhiều thời gian để luyện
tập kỹ xảo điêu khắc, cũng sẽ chướng
ngại tu tập Chỉ, Quán. V́ thế, khi tinh tấn tu học
Chỉ, Quán, cũng nên tạm thời ĺa bỏ [những
chuyện không liên quan đến việc tu học].
1.1.2.4.2.1.5.3.5. Phóng Dật
(Luận)
Vân hà Phóng Dật? Vị y Tham, Sân, Si, Giải Đăi cố,
ư chư phiền năo, tâm bất pḥng hộ. Ư chư
thiện phẩm, bất năng tu tập vi tánh. Bất thiện
tăng trưởng, thiện pháp thoái thất sở y vi
nghiệp.
(論)云何放逸?謂依貪瞋癡懈怠故。於諸煩惱。心不防護。於諸善品。不能修習為性。不善增長。善法退失。所依為業。
(Luận: Phóng Dật là như thế
nào? Tức là thể tánh của nó là do nương vào Tham, Sân,
Si, và Giải Đăi, cho nên đối với các phiền
năo, tâm chẳng ngăn ngừa, đối với các thiện
phẩm, chẳng thể tu tập. Nghiệp dụng là làm
chỗ nương tựa để tăng trưởng điều
bất thiện, thoái thất thiện pháp).
Thể tánh
của Phóng Dật, “ư chư phiền năo, tâm bất
pḥng hộ. Ư chư thiện phẩm, bất năng tu tập
vi tánh”, [nghĩa là] chẳng thể cẩn thận ngăn
ngừa các ác pháp do phiền năo sanh khởi, mà cũng chẳng
thể nỗ lực tu hành các thứ thiện pháp. Phóng Dật
do nương vào phần vị của bốn pháp Tham, Sân,
Si, và Giải Đăi mà giả lập. Nó là giả pháp. Nghiệp
dụng của Phóng Dật là “bất thiện tăng trưởng,
thiện pháp thoái thất sở y vi nghiệp”, [tức là]
nó khiến cho
pháp bất thiện tăng trưởng, khiến cho thiện
pháp thoái thất, thậm chí khiến cho hết thảy các
thiện pháp đều diệt sạch.
Thành Duy Thức
Luận thuyết minh về Phóng Dật đại để
giống như luận này[4]. Trong ấy,
“túng đăng” (縱蕩)
tức là khiến cho thân tâm phóng
túng, buông thả, giống như kẻ chăn trâu bỏ mặc
cho trâu chạy lung tung, nó sẽ xâm phạm nông sản trong ruộng.
Các phiền
năo như Mạn, Nghi v.v… cũng chẳng phải là pháp ô
nhiễm không thể
ngăn ngừa. Tu học pháp thanh tịnh, v́ sao chẳng căn
cứ trên Mạn, Nghi v.v… [để ngăn ngừa, đối
trị] mà lập ra Phóng Dật? V́ so sánh giữa Mạn,
Nghi với bốn pháp Tham, Sân, Si, Giải Đăi th́ thế
lực và tác dụng [của Mạn, Nghi] nhỏ nhoi, kém cỏi,
bốn pháp Tham, Sân, Si, và Giải Đăi có thể chướng
ngại Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Tinh Tấn. Thế lực và tác dụng
của chúng mạnh mẽ, vượt trỗi. V́ thế, dựa
theo bốn pháp ấy mà lập ra Phóng Dật.
1.1.2.4.2.1.5.3.6. Thất Niệm
(Luận)
Vân hà Thất Niệm? Vị nhiễm ô niệm, ư chư
thiện pháp, bất năng minh kư vi tánh. Nhiễm ô niệm
giả, vị phiền năo câu. Ư thiện bất minh kư
giả, vị ư chánh giáo thọ, bất năng ức tŕ
nghĩa, năng dữ tán loạn sở y vi nghiệp.
(論)云何失念?謂染污念。於諸善法。不能明記為性。染污念者。謂煩惱俱。於善不明記者。謂於正教授。不能憶持義能與散亂所依為業。
(Luận: Thất Niệm là như thế
nào? Chính là ư niệm ô nhiễm, đối với các thiện
pháp, có tánh chất chẳng thể nhớ rơ. “Ư niệm ô
nhiễm” nghĩa là nó đồng thời sanh khởi với
phiền năo. “Chẳng nhớ rơ điều thiện” nghĩa
là đối với sự dạy bảo chánh đáng, chẳng
thể nhớ, giữ. Nghiệp dụng của nó làm chỗ
y cứ cho Tán Loạn).
Thể tánh của Thất
Niệm “ư chư thiện pháp, bất năng
minh kư vi tánh”, [nghĩa là] đối với các thứ thiện
pháp, chẳng thể ghi nhớ rơ ràng, như đối với
những dạy bảo chánh đáng của thiện tri thức
bèn chẳng thể nhớ, giữ. Nghiệp dụng của
Thất Niệm là “năng dữ Tán Loạn sở y vi nghiệp”, [tức là] có thể làm
chỗ y cứ cho Tán Loạn. Ư nghĩa của Tán Loạn
sẽ được thuyết minh tường tận trong
phần sau. Thành Duy Thức Luận thuyết minh Thất Niệm
đại để tương đồng với luận
này.
Luận này nói: Thất Niệm là “nhiễm
ô niệm”, tức là
Niệm sanh khởi đồng thời với phiền
năo, tức là Niệm thuộc ác tánh, hoặc hữu phú vô kư
tánh, tức là dựa theo phần vị của Niệm để
giả lập, cho nên là giả pháp. Dựa theo chánh nghĩa
trong Thành Duy Thức Luận: Thất Niệm dựa trên phần
vị của hai pháp Niệm và Si mà giả lập. Như đối
với chuyện ác hoặc chuyện ô nhiễm, bèn ghi nhớ
rất rơ rệt, nhưng đối với chuyện thiện
th́ ghi nhớ rất mơ hồ. Tuy có sức kư ức, nhưng
chẳng hiểu rơ ràng Sự Lư. Thất Niệm có tánh chất
hữu phú vô kư th́ tuy chẳng phải là ác pháp, nhưng nó có
thể chướng ngại thiện pháp sanh khởi. Do vậy, phải nên ra sức đối
trị để hàng phục, diệt trừ nó. Như khi niệm
Phật, chẳng nghĩ nhớ công đức của Phật,
mà lại bị vọng tưởng gián đoạn, nghĩ
nhớ những chuyện hoan lạc ô nhiễm trong quá khứ,
cho nên chẳng thể thành tựu các công đức nơi Định,
Huệ v.v… Tu học Phật pháp, phải nên hàng phục, diệt
trừ Thất Niệm, luôn luôn ǵn giữ chánh niệm hiện
tiền, cho đến khi lâm chung, vẫn có thể ǵn giữ
chánh niệm hiện tiền.
1.1.2.4.2.1.5.3.7. Tán Loạn
(Luận)
Vân hà Tán Loạn? Vị Tham, Sân, Si phần, linh tâm, tâm pháp lưu
tán vi tánh, năng chướng ly dục vi nghiệp.
(論)云何散亂?謂貪瞋癡分。令心心法流散為性。能障離欲為業。
(Luận: Tán Loạn là như thế
nào? Tức là một phần thuộc về Tham, Sân, Si, có tánh
chất khiến cho tâm và tâm pháp ră rời, tan tác, nghiệp
dụng là có thể chướng ngại Ly Dục).
Thể tánh của Tán Loạn “linh tâm, tâm
pháp lưu tán vi tánh”, [tức là] khiến cho Tâm Thức và Tâm Sở Pháp tương
ứng [với những Tâm Sở ấy] bị dời đổi,
tan tác, suy nghĩ loạn xạ, chẳng thể chuyên chú nơi
cảnh được quán. Nghiệp dụng của Tán Loạn
là “năng chướng Ly Dục vi nghiệp”, tức
là có thể chướng ngại Ly Dục.
Thành Duy
Thức Luận thuyết minh Tán Loạn như sau: “Vân hà
Tán Loạn? Ư chư sở duyên, linh tâm lưu đăng vi
tánh, năng chướng Chánh Định, ác huệ sở
y vi nghiệp” (Tán Loạn là như thế nào? Đối
với các điều được duyên,
nó có tánh chất khiến
cho cái tâm trôi nổi, nghiệp dụng là có thể chướng
ngại Chánh Định, làm chỗ y cứ cho Ác Huệ). Thể
tánh của Tán Loạn là nội tâm đối với các thứ
cảnh giới được
duyên nơi Lục Trần bèn rong ruổi, buông lung. Nghiệp
dụng của Tán Loạn là nó có thể chướng ngại
Chánh Định, làm chỗ y cứ để sanh khởi Ác
Huệ. Do vậy, có thể biết: Ly Dục là Chánh Định,
tu Chỉ để ĺa Ngũ Dục, ĺa Ngũ Cái, có thể
chứng đắc các món Định căn bản như Vị
Chí Định cho đến Sơ Thiền trở lên. Như
trong kinh Phân Biệt Quán Pháp của kinh Trung A Hàm có nói đến
“tâm trụ nội” (tâm trụ vào trong), tức là Chánh Định,
mà cũng là thành tựu Tứ Sắc Giới Định
(Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, và Tứ Thiền)
và Tứ Vô Sắc Giới Định (Không Vô Biên Xứ Định,
Thức Vô Biên Xứ Định, Vô Sở Hữu Xứ Định,
và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định). Chứng
đắc Sơ Thiền tức là “ĺa dục, ĺa pháp ác
bất thiện, có giác, có quán, ly sanh hỷ lạc, thành tựu
Sơ Thiền”. Tu Chỉ th́ tâm liên tục chuyên chú nơi
một cảnh, tức là sức chuyên chú càng ngày càng mạnh,
ĺa bỏ Ngũ Dục của Dục Giới và các thứ
pháp bất thiện, tức là: Do ĺa Ngũ Dục mà sanh hỷ
lạc, đắc Sơ Thiền, bèn có năm Thiền Chi
là Tầm (Giác), Tứ (Quán), Hỷ, Lạc, và tâm nhất cảnh
tánh, cho đến chứng đắc “độ Nhất
Thiết Vô Sở Hữu Xứ, chẳng phải là có tưởng mà cũng chẳng phải là không có tưởng,
thành tựu Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ
Định”. Chánh Kiến nương vào Chánh Định,
nhưng Tán Loạn chướng ngại Chánh Định,
nghĩa là chẳng có Chánh Định; do vậy, [hễ tán
loạn] th́ sẽ chẳng
có Chánh Kiến, dễ sanh khởi Tà Kiến. V́ vậy, nói:
Tán Loạn là chỗ y cứ của Ác Huệ (Tà Kiến).
Luận này
nói: Tán Loạn dựa vào phần vị của ba pháp Tham, Sân,
Si mà giả lập, tức [Tán Loạn] là giả pháp. Theo chánh nghĩa của Thành
Duy Thức Luận th́ Tán Loạn có thể tánh riêng biệt
của chính nó. Biệt tướng của Tán Loạn là “táo
nhiễu” (躁擾, xáo động, nhiễu
loạn), v́ trong nội tâm duyên
theo các thứ cảnh giới
sáu trần mà rong ruổi,
khuấy động. Bởi lẽ đó, [nội tâm] lăng xăng, chẳng tịch
tĩnh, nhiễu loạn, chẳng an định. V́ thế
mà nói cách khác là “chướng ngại Chánh Định”.
Tán Loạn rất khó đối trị, chỉ có tu Chỉ
mà đắc Định th́ mới có thể hàng phục,
diệt trừ nó. Đối với Tán Loạn, Đại
Trí Độ Luận lại có thí dụ hay khéo như sau: “Nếu
cầu những chuyện gần gũi trong thế gian mà
chẳng thể chuyên tâm th́ sự nghiệp chẳng thành, huống
hồ Phật đạo rất sâu mà chẳng dùng Thiền
Định ư? Thiền Định gọi là ‘nhiếp các loạn tâm’. Loạn tâm nhẹ bẫng, bồng bềnh,
c̣n nhẹ hơn lông hồng, phiêu giạt không ngừng, bay
nhanh hơn gió mạnh, chẳng thể ngăn dứt. Nó lăng
xăng hơn khỉ, vừa tạm hiện bèn diệt mất
c̣n nhanh hơn tia chớp xẹt. Tâm tướng như thế
chẳng thể ngăn cấm. Nếu muốn chế phục
chẳng dùng Thiền, sẽ chẳng thể Định được”. Tán Loạn khiến cho cái tâm phập
phều, xáo động, giống như chiếc lông hồng
cực nhẹ, chao đảo rất nhanh theo gió. Tán Loạn
khiến cho cái tâm lao chao chẳng ngừng, tốc độ
lao chao nhanh hơn gió mạnh. Tán Loạn khiến cho cái tâm hết
sức xáo động, nhiễu loạn, chẳng thể ngăn
cấm, c̣n khó hơn ngăn cấm con khỉ đừng
loi choi. Tán Loạn khiến cho cái tâm đối với cảnh
giới chuyển biến nhanh chóng, c̣n nhanh chóng hơn tia chớp
[xuất hiện] trong thoáng chốc.
Tác dụng
của Điệu Cử và Tán Loạn có ǵ khác biệt? Điệu
Cử là khiến cho cái tâm dễ thấu hiểu, dẫu cho cái tâm thay đổi nghĩa
tướng (tướng trạng của nghĩa lư) đang
được liễu giải. Tán Loạn khiến cho cái
tâm dễ ghi nhớ [h́nh bóng của sáu
trần] dẫu cho cái tâm thay đổi
cảnh tướng được ghi nhớ. Tuy là trong cùng
một sát-na, nghĩa tướng được liễu
giải và cảnh giới được ghi nhớ chẳng
thay đổi, nhưng nói theo sự liên tục của cái
tâm, trong sát-na kế tiếp, nếu tâm thay đổi nghĩa
tướng được liễu giải th́ gọi là Điệu
Cử, c̣n nếu tâm thay đổi cảnh được
ghi nhớ th́ gọi là Tán Loạn.
Dùng ngay
thí dụ [trong Trí Độ Luận] vừa được
trích dẫn trên đây để thuyết minh th́ con khỉ
đang ở trên cùng một cái cây, nó trèo lên, tuột xuống
th́ ví như Điệu Cử. Con khỉ từ cây này chuyền
sang cây khác th́ ví như Tán Loạn. Lại như lúc ngắm
nghía, thưởng thức tranh sơn dầu. Đối với
cùng một bức tranh sơn dầu, lúc trước là suy
tưởng màu sắc, lúc sau bèn suy xét h́nh thái [của bức
tranh], điều này ví như Điệu Cử. Lúc trước
th́ xem bức tranh A, lúc sau xem bức tranh B, điều này ví
như Tán Loạn. Do vậy có thể biết, Tán Loạn càng
lăng xăng, nhiễu loạn hơn Điệu Cử.
1.1.2.4.2.1.5.3.8. Bất Chánh Tri
(Luận)
Vân hà Bất Chánh Tri? Vị phiền năo tương ứng
Huệ, năng khởi bất chánh thân, ngữ, ư hạnh
vi tánh. Vi phạm luật hạnh sở y vi nghiệp. Vị
ư khứ, lai đẳng, bất chánh quan sát cố, nhi bất
năng tri ưng tác, bất ưng tác, trí phạm luật
nghi.
(論)云何不正知?謂煩惱相應慧。能起不正身語意行為性。違犯律行所依為業。謂於去來等。不正觀察故。而不能知應作不應作。致犯律儀。
(Luận: Bất Chánh Tri là như thế
nào? Chính là do Huệ tương ứng với phiền năo,
cho nên nó có
tánh chất có thể dấy lên các hạnh bất chánh nơi
thân, ngữ, ư. Nó có nghiệp dụng làm chỗ y cứ để
trái phạm luật hạnh. Tức là đối với đi,
đến v.v… do chẳng quan sát chánh đáng, cho nên chẳng
biết điều ǵ nên làm, điều ǵ chẳng nên làm, đến
nỗi vi phạm luật nghi).
Thể tánh của Bất Chánh Tri là
“năng khởi bất chánh
thân, ngữ, ư hạnh vi tánh”, [tức là] có thể sanh
khởi thân nghiệp, ngữ nghiệp, và ư nghiệp không
chánh đáng. Nghiệp dụng của Bất Chánh Tri là “vi
phạm luật hạnh sở y vi nghiệp”, [nghĩa là]
Bất Chánh Tri là chỗ y cứ của các hành vi trái phạm
giới luật. Luật hạnh c̣n gọi là Luật Nghi,
hoặc Giới Luật. V́ “ư khứ, lai đẳng,
bất chánh quan sát cố, nhi bất năng tri ưng tác, bất
ưng tác” (đối với đến, đi v.v… do chẳng
quan sát chánh đáng, cho nên chẳng thể biết điều đáng
nên làm, điều chẳng nên làm). Do vậy dẫn đến
chuyện vi phạm Luật Nghi. Trái lại, đối với
đi, đến v.v… nếu quan sát chánh xác, sẽ có thể
biết chánh xác chuyện ǵ đáng nên làm, chuyện ǵ đừng
nên làm, sẽ chẳng vi phạm Luật Nghi.
Đối
với “khứ, lai đẳng” (đi, đến v..v…),
Du Già Sư Địa Luận đă giải thích trong phần
“chánh tri nhi trụ” (trụ nơi thấy biết chánh
đáng) như sau: “Hoặc đi khỏi, hoặc trở
lại, hoặc nh́n, hoặc ngắm, hoặc co, hoặc duỗi,
cầm nắm y tăng-già-chi (áo ca-sa)[5]
và y bát, hoặc ăn, hoặc uống, hoặc nuốt, hoặc
nếm, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi,
hoặc nằm. Trong khi tỉnh ngủ, hoặc nói năng,
hoặc im lặng, khi giải lao, ngủ nghê”, chín loại
t́nh huống phải trụ trong chánh tri. [Chánh tri được]
biểu lộ trong bất cứ hoạt động hằng
ngày nào cũng đều phải quan sát chánh xác, ḥng có thể
biết “điều ǵ nên làm, điều ǵ chớ nên làm”.
Đối với chuyện đáng nên làm, lại c̣n là chuyện
thích đáng để làm, bèn sốt sắng làm. Đối
với chuyện chớ nên làm, hoặc là chuyện chẳng
thích hợp để làm, bèn đừng làm. Đấy là
phụng tŕ tịnh giới.
Thành Duy
Thức Luận thuyết minh về Bất Chánh Tri như
sau: “Vân hà Bất Chánh Tri? Ư sở quán cảnh, mậu
giải vi tánh, năng chướng Chánh Tri, hủy phạm
vi nghiệp” (Bất Chánh Tri là như thế nào? Đối
với cảnh được quán, có tánh chất hiểu
biết sai lầm. Nghiệp dụng là có thể chướng
ngại Chánh Tri và hủy phạm). Thể tánh của Bất
Chánh Tri là đối với cảnh được quan sát,
hiểu biết sai lầm, tà vạy. Nghiệp dụng của
Bất Chánh Tri là có thể chướng ngại Chánh Tri, tạo
tác ác nghiệp, hủy phạm Luật Nghi.
Luận
này nói: Bất Chánh Tri là Huệ bị nhiễm ô, là Huệ tương
ứng với phiền năo. Đấy là dựa theo phần
vị của Huệ mà giả lập, nó là giả pháp. Căn
cứ theo chánh nghĩa trong Thành Duy Thức Luận th́ Bất
Chánh Tri dựa trên phần vị của hai pháp Huệ và Si
để giả lập. Chữ Mậu (謬) trong Mậu Giải (謬解) có nghĩa là “sai lầm”,
biểu thị tác dụng của Si. Chữ Giải (解)
[ở đây phải hiểu] là tà giải, biểu thị tác dụng của “Huệ
bị nhiễm ô”.
Sau khi đă
thuyết minh đại lược những điều trọng
yếu về thể tánh và nghiệp dụng của tám Đại
Tùy Phiền Năo, lại tổng kết để biện
minh về giả pháp và thật pháp: Năm pháp Hôn Trầm, Điệu
Cử, Bất Tín, Giải Đăi, và Tán Loạn thuộc về
thật pháp, mỗi pháp đều có thể tánh riêng biệt
của chính nó. Phóng Dật là dựa trên phần vị của
bốn pháp Tham, Sân, Si, và Giải Đăi mà giả lập. Thất
Niệm dựa trên phần vị của hai pháp Niệm và
Si để giả lập. Bất Chánh Tri là dựa trên phần
vị của hai pháp Huệ và Si để giả lập. Ba
món này đều là giả pháp.
1.1.2.4.2.1.6.
Bất Định Tâm Sở (chia thành bốn phần)
1.1.2.4.2.1.6.1. Ác Tác
(Luận)
Vân hà Ác Tác? Vị tâm biến hối vi tánh, vị ố sở
tác, cố danh Ác Tác. Thử Ác Tác thể, phi tức biến
hối, do tiên ố sở tác, hậu khởi truy hối cố.
Thử tức dĩ quả tùng nhân vi mục, cố danh Ác
Tác. Thí như lục xúc xứ, thuyết vi tiên nghiệp. Thử
hữu nhị vị, vị thiện, bất thiện. Ư
nhị vị trung, phục các hữu nhị. Nhược
thiện vị trung, tiên bất tác thiện, hậu khởi
hối tâm. Bỉ nhân thị thiện, hối diệc thị
thiện. Nhược tiên tác ác, hậu khởi hối tâm,
nhân bỉ bất thiện, hối tức thị thiện.
Nhược bất thiện vị, tiên bất tác ác, hậu
khởi hối tâm, bỉ nhân bất thiện, hối diệc
bất thiện. Nhược tiên tác thiện, hậu khởi
hối tâm, bỉ nhân thị thiện, hối thị bất
thiện.
(論)云何惡作?謂心變悔為性。謂惡所作故名惡作。此惡作體非即變悔。由先惡所作。後起追悔故。此即以果從因為目。故名惡作。譬如六觸處說為先業。此有二位。謂善不善。於二位中。復各有二。若善位中。先不作善。後起悔心。彼因是善。悔亦是善。若先作惡。後起悔心。彼因不善。悔即是善。若不善位。先不作惡。後起悔心。彼因不善。悔亦不善。若先作善。後起悔心。彼因是善。悔是不善。
(Luận: Ác Tác[6]
là như thế nào? Tức là có tánh chất do cái tâm biến
đổi hối hận, nghĩa là do ghét những điều
đă làm nên gọi là Ác Tác. Xét theo thể tánh của Ác Tác,
chẳng phải là ngay lập tức [cái tâm] biến đổi
mà hối hận, mà là do trước đó ghét
những điều đă
làm, sau đấy bèn nghĩ lại, hối hận. Tâm Sở
này được đặt tên bằng cách từ quả
mà truy ngược lại cái nhân, cho nên gọi là Ác Tác. Ví như
từ sáu căn (Lục Xúc Xứ) mà gọi là “tiên nghiệp”
(nghiệp trước). Trong ấy (trong Ác Tác), có hai loại,
tức là thiện và bất thiện. Trong hai loại ấy,
mỗi loại lại có hai loại. Nếu thuộc loại
thiện mà trước đó chẳng làm lành, sau đấy, dấy ḷng hối hận, th́ điều ấy
có cái nhân là thiện, mà tâm hối hận cũng là thiện.
Nếu trước đó làm ác, sau đấy khởi tâm hối
hận th́ cái nhân là bất thiện, hối hận chính là thiện.
Nếu thuộc loại bất thiện, trước hết
chẳng làm ác, sau đấy khởi tâm hối hận [v́ sao
chính ḿnh lại chẳng làm chuyện ác đó], cái nhân là bất
thiện, hối hận cũng là bất thiện. Nếu
trước hết làm lành, sau đấy khởi tâm hối
hận, th́ cái nhân là thiện, hối hận là bất thiện).
Bất Định Tâm Sở gồm có
bốn món. Do đối với ba tánh, tức tánh thiện,
tánh ác, và tánh vô kư, [bốn món Tâm Sở này] chẳng có quyết định (tức là chẳng thể nói dứt khoát là
thiện, ác, hay vô kư, mà phải xét theo tùy trường hợp).
Chúng chỉ tương ứng với
Ư Thức, chẳng trọn khắp tám Thức. Ác Tác và Thùy
Miên chỉ có trong Dục Giới, “Tầm” th́ chỉ có từ Dục Giới cho đến
Sơ Thiền của Sắc Giới, “Tứ” th́ chỉ trong Dục Giới cho
đến các tầng Thiền trung gian của Sắc Giới
mới có, chẳng trọn khắp tam giới cửu địa,
cho nên gọi là Bất Định Tâm Sở.
Thể tánh
của Ác Tác, “tâm biến hối vi tánh”, [ư nói] do nhớ
lại những chuyện chính ḿnh đă làm, hoặc chưa
làm trong quá khứ, bất luận là chuyện lành hay chuyện
ác, do chính ḿnh chán
ghét, gớm tởm nó, nội tâm biến thành áo năo, hối
hận. Luận này chẳng nói rơ nghiệp dụng của Ác
Tác.
Thành Duy
Thức Luận thuyết minh về Ác Tác như sau: “Hối,
vị Ác Tác, ố sở tác nghiệp, truy hối vi tánh, chướng
Chỉ vi nghiệp” (Hối hận là Ác Tác, ghét những
nghiệp đă làm, có tánh chất nghĩ lại mà hối hận,
có nghiệp dụng chướng ngại Chỉ). Thể tánh
của Ác Tác là chán ghét những hành vi đă làm hoặc chưa
làm trong quá khứ, do nhớ lại mà áo năo, hối hận.
Nghiệp dụng của Ác Tác là chướng ngại việc
tu Chỉ. Thật ra, nó cũng có thể chướng ngại
tu Quán. Do v́ nhớ lại rồi áo năo, hối hận khuấy
động, trở ngại sự an b́nh trong nội tâm, dẫn
đến chuyện chẳng thể nhập Định, mà
cũng chẳng thể hiểu rơ, chọn lựa quán cảnh.
Nó có nghiệp dụng giống như Điệu Cử. Do
vậy, Ác Tác và Điệu Cử hợp thành một Cái, là
một món trong Ngũ Cái (tức Điệu Cử Ác Tác Cái).
Nguyên nhân sanh khởi Ác Tác, phương pháp đối trị
và công dụng giống như đă nói trong phần Điệu
Cử.
“Vị
ố sở tác, cố danh Ác Tác. Thử Ác Tác thể, phi tức
biến hối, do tiên ố sở tác, hậu khởi truy hối
cố” (Ư nói ghét những việc đă làm. Thể của
pháp Ác Tác này chẳng phải là ngay lập tức biến đổi,
hối hận, mà là do trước đó đă chán ghét những
chuyện đă làm, sau đấy dấy ḷng nhớ lại,
hối hận), [nghĩa
là] do chính ḿnh đă chán ghét những chuyện đă làm, hoặc chưa làm trước kia, cho nên gọi
là Ác Tác. Tuy chán ghét những chuyện đă làm hoặc chưa
làm trước kia (Ác Tác), đấy vẫn chưa phải
là cái tâm biến đổi rồi hối hận, mà là v́ trước
đó đă chán ghét những chuyện đă làm hay chưa làm,
sau đấy dẫn khởi nội tâm biến thành áo năo,
hối hận.
Thật
ra, nếu đă nói về tác dụng tâm lư của cái tâm biến
thành hối hận, v́ sao chẳng gọi nó là Biến Hối,
mà gọi là Ác Tác? “Thử tức dĩ quả tùng nhân vi
mục, cố danh Ác Tác. Thí như lục xúc xứ, thuyết
vi tiên nghiệp”, [ư nói]: Đặt ra danh xưng Ác Tác, chính
là v́ từ cái quả truy ngược về cái nhân mà đặt
tên. Do Ác Tác dẫn khởi sự nhớ lại rồi hối
hận, Ác Tác là nhân, Biến Hối là quả. Ví như mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ư, sáu căn (Lục Căn c̣n gọi
là Lục Xứ. Do v́ nương vào Căn mà sanh khởi Lục
Xúc (sáu sự tiếp xúc giữa Căn và Trần), nên Lục
Căn c̣n gọi là Lục Xúc Xứ), tức là từ nghiệp
lực trong quá khứ mà cảm thành quả báo, như sanh
trong nhân gian th́ có Lục Căn của con người. Nghiệp
lực trong quá khứ là nhân, sáu căn là quả. V́ thế,
gọi Lục Xúc Xứ là “tiên nghiệp”, đấy
là “từ cái quả truy về cái nhân mà đặt tên”.
Ác Tác có
đủ cả ba tánh, tức
tánh thiện, tánh ác (tánh bất thiện), và tánh vô kư. Nói theo
Ác Tác có tánh thiện th́ có hai loại:
1) “Nhược
thiện vị trung, tiên bất tác thiện, hậu khởi
hối tâm, bỉ nhân thị thiện, hối diệc thị
thiện” (Nếu thuộc loại thiện, trước
đó đă chẳng làm lành, sau dấy ḷng hối hận, cái
nhân lành, hối hận cũng là lành): Ư nói, chẳng hạn như trong quá khứ
đáng nên làm thiện sự Bố Thí, nhưng chẳng làm,
do sau đó, ghét bỏ mà áo năo, hối hận: “V́ sao trước
kia chẳng làm chuyện bố thí?” Cái nhân của sự áo
năo, hối hận là thiện sự bố thí, mà áo năo, hối
hận cũng có tánh chất thiện.
2) “Nhược
tiên tác ác, hậu khởi hối tâm, bỉ nhân bất thiện,
hối tức thị thiện” (Nếu trước
kia đă làm ác, sau dấy ḷng hối hận, cái nhân là bất
thiện, hối hận chính là thiện): Chẳng hạn như trong quá khứ làm
chuyện ác vọng ngữ, do đă làm rồi bèn chán ghét,
sanh ḷng áo năo, hối hận: “V́ sao trước kia lại nói
dối cơ chứ?”
Cái nhân của sự áo năo, hối hận là nói chuyện ác
vọng ngữ, nhưng áo năo, hối hận có tánh thiện.
Do vậy, trong quá khứ đă chẳng làm chuyện thiện
mà sau đó lại áo năo, hối hận th́ là tánh thiện. Trong
quá khứ đă làm chuyện ác, sau đó lại áo năo, hối
hận th́ cũng là tánh thiện.
Nói theo Ác
Tác có tánh ác (tánh bất thiện) th́ cũng có hai loại:
1) “Nhược
bất thiện vị, tiên bất tác ác, hậu khởi hối
tâm, bỉ nhân bất thiện, hối diệc bất thiện”
(Nếu xét theo loại bất thiện, trước đó
chẳng làm ác, sau dấy tâm hối hận, cái nhân là bất
thiện, mà hối hận cũng là bất thiện): Chẳng hạn như trong quá khứ chớ
nên làm chuyện ác trộm cắp, chẳng làm, nhưng sau đó,
chán ghét, bèn áo năo, hối hận: “V́ sao thuở trước
chẳng trộm cắp cơ chứ?” Cái nhân của sự
áo năo, hối hận là chuyện ác trộm cắp; áo năo, hối
hận cũng mang tánh ác.
2) “Nhược
tiên tác thiện, hậu khởi hối tâm, bỉ nhân thị
thiện, hối thị bất thiện” (Nếu trước đó đă làm lành, sau dấy
ḷng hối hận, cái nhân là thiện, hối hận là bất
thiện): Chẳng hạn như trong quá khứ thọ giới; sau đó, lại chán ghét, sanh ḷng
áo năo, hối hận: “V́ sao mà trước kia lại thọ
giới cơ chứ?” Cái nhân của ḷng áo năo, hối hận
là thiện sự thọ giới, nhưng áo năo, hối hận
là ác tánh. V́ thế, quá khứ chẳng làm chuyện ác, sau đấy,
áo năo, hối hận th́ là tánh ác. Quá khứ đă làm thiện
sự, nhưng sau đó lại áo năo, hối hận th́ áo năo,
hối hận cũng là tánh ác.
Xét theo Ác
Tác có tánh vô kư để
nói th́ quá khứ đă làm, hoặc chưa làm chuyện vô
kư; sau đấy, áo năo, hối
hận th́ là tánh vô kư. Chẳng hạn như áo năo, hối hận:
“V́ sao buổi sáng chẳng uống một tách cà phê cho tỉnh
táo nhỉ?” Hoặc áo năo, hối hận: “V́ sao tốn nhiều
thời gian ngần ấy để chơi video game cơ chứ?”
Pháp hữu
vi th́ nhân duyên tụ hợp bèn sanh khởi, nhân duyên ly tán bèn
diệt mất. Pháp quá khứ, pháp hiện tại, và pháp vị
lai đều chẳng có một thật thể độc
nhất, thường hằng để có thể bị chấp
thủ (nắm giữ). V́ thế, kinh Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật
nói: “Tâm quá khứ chẳng thể được, tâm hiện
tại chẳng thể được, tâm vị lai chẳng
thể được”. Do vậy, chuyện quá khứ bất
luận đă làm, hay chưa làm,
đều chẳng có thật thể. Chuyện đă qua rồi
bèn uổng công tự nhiễu loạn, áo năo, hối hận,
lại có ích ǵ hay không? V́ sao chẳng nắm vững hiện
tại, phấn chấn tinh thần, chỉnh đốn sức
lực, tinh tấn tu hành, thoát khỏi thế giới tối
tăm của sự tự trách, áo năo, hối hận, tiến
hướng theo tương lai quang minh?
1.1.2.4.2.1.6.2. Thùy Miên
(Luận)
Vân hà Thùy Miên? Vị bất tự tại chuyển, muội
lược vi tánh. Bất tự tại giả, vị linh
tâm đẳng bất tự tại chuyển, thị Si chi
phần. Hựu thử tự tánh bất tự tại cố,
linh tâm, tâm pháp cực thành muội lược. Thử thiện,
bất thiện, cập vô kư tánh, năng dữ quá thất
sở y vi nghiệp.
(論)云何睡眠?謂不自在轉。昧略為性。不自在者。謂令心等不自在轉。是癡之分。又此自性不自在故。令心心法極成昧略。此善不善。及無記性。能與過失。所依為業。
(Luận: Thùy Miên là như thế
nào? Chính là chẳng hoạt động tự tại, có tánh
chất tăm tối, qua loa. “Chẳng tự tại” là khiến
cho tâm v.v… chẳng hoạt động tự tại. Thùy Miên
là một phần của Si. Hơn nữa, do tự tánh của
Tâm Sở này là chẳng tự tại, khiến cho tâm và tâm
pháp tột bậc tối tăm, sơ sài. Món Tâm Sở này có
tánh chất thiện, bất thiện, và vô kư, có nghiệp dụng
làm chỗ y cứ cho lầm lỗi).
Thể tánh của Thùy Miên là “bất
tự tại chuyển, muội lược vi tánh”, nghĩa
là khiến cho thân tâm của chính ḿnh chẳng thể làm chủ
ḥng hoạt động tự tại, nội tâm và Tâm Sở
hết sức tối tăm, qua loa. Nghiệp dụng của
Thùy Miên là “năng dữ quá thất sở y vi nghiệp”
(nghiệp dụng là có thể làm chỗ y cứ cho lầm
lỗi), tức là có thể dẫn khởi
các thứ lầm lỗi. Dẫu là Thùy Miên có tánh chất
thiện hay tánh chất vô kư, cũng sẽ dẫn khởi
lầm lỗi. Chẳng hạn như v́ Thùy Miên mà thức
dậy quá trễ, bỏ lỡ công khóa tu hành, hoặc là sáu
giờ ngày mai phải đáp xe lửa, v́ ngủ say, thức
dậy quá trễ, trễ giờ, chẳng lên xe lửa được.
Thành Duy
Thức Luận thuyết minh về Thùy Miên như sau: “Miên
vị thùy miên, linh thân bất tự tại, muội lược
vi tánh; chướng Quán vi nghiệp” (Miên là ngủ nghê,
khiến cho thân chẳng tự tại, có tánh chất tối
tăm, qua quít, có nghiệp dụng gây chướng ngại
cho Quán). Thể tánh của Thùy Miên là như luận này đă
nói, nghiệp dụng của Thùy Miên là chướng ngại
tu Quán. Thật ra, nó cũng có thể chướng ngại tu
Chỉ. V́ nội tâm tối tăm, qua quít, lực dụng
yếu ớt, chẳng thể hiểu rơ ḥng chọn lựa
quyết đoán đối với cảnh được
quán, mà cũng chẳng thể chuyên chú nơi cảnh được
quán. Nó có nghiệp dụng giống như Hôn Trầm.
Do vậy, Hôn Trầm và Thùy Miên được gộp
chung thành một Cái, là một món trong Ngũ Cái. Nguyên nhân sanh
khởi Thùy Miên, phương pháp đối trị và công dụng
như trong phần thuyết minh về Hôn Trầm.
Liên quan đến
nguyên nhân sanh khởi Thùy Miên, ngoài ba thứ nguyên nhân[7] được
nói trong Di Giáo Kinh Luận, Đại Thừa A Tỳ Đạt
Ma Tạp Tập Luận nói: “Thùy nhân duyên giả, vị
luy sấu b́ quyện thân phần trầm trọng, tư
duy ám tướng, xả chư sở tác, tằng số thử
thời quán tập Thùy Miên; hoặc tha chú thuật thần
lực sở dẫn; hoặc nhân động phiến, lương phong xuy đẳng” nghĩa là: V́ thân thể quá gầy yếu,
quá mệt mỏi, hoặc v́ suy nghĩ những thứ tối
tăm, hoặc là do vứt bỏ những thiện pháp đáng
nên làm, hoặc là do đă từng có thói quen ngủ gật
khi tĩnh tọa, hoặc là do người khác dùng thần
lực của chú thuật lôi dẫn, hoặc là do gió mát nhè
nhẹ thổi qua, quá thoải mái, cho nên sanh khởi Thùy Miên.
Thùy Miên ở
đây là Tâm Sở tương ứng với Ư Thức, hoàn
toàn chẳng phải là Thùy Miên (ngủ say) trong Ngũ Vô Tâm
Vị[8].
Do v́ nội tâm hết sức tối
tăm, yếu ớt, cho nên thân thể chẳng thể hoạt
động tự tại; Ư Thức chỉ hướng theo
Pháp Trần được duyên trong tâm mà hoạt động
(thường gọi là Nhất Môn Chuyển, hoặc Nội
Môn Chuyển). Chẳng hướng ra ngoài duyên theo Ngũ Trần
Sắc, Thanh v.v… để chuyển khởi (tâm thức
hoạt động), nhưng nhận biết rất rơ cảnh
giới được duyên. “Muội” (昧) nhằm vạch rơ không
phải đang ở trong Định, tuy Ư Thức trong Định
cũng chỉ hướng theo nội duyên Pháp Trần mà
chuyển khởi, nhưng [Ư Thức trong Định] nhận
biết cảnh giới được duyên rơ ràng. “Lược”
(畧) nhằm vạch rơ không phải là đang trong lúc tỉnh táo,
v́ lực dụng của ư thức trong khi tỉnh ngủ hết
sức mạnh mẽ, vượt trỗi, có thể duyên
theo Lục Trần rành rẽ. “Vạch rơ” có nghĩa là
chọn ra để loại bỏ, phân biệt rạch ṛi.
Luận này
nói Thùy Miên dựa trên phần vị của Si để giả
lập, nó là giả pháp, Có giáo nghĩa cho rằng: Ác Tác cũng nương theo phần vị
của Si mà giả lập, là giả pháp. Căn cứ theo
chánh nghĩa của Thành Duy Thức Luận th́ Ác Tác và Thùy
Miên mỗi món có thể tánh khác biệt. Chẳng hạn như
khi tỉnh táo, có thể hiểu rơ Sự Lư Tứ Đế
(Vô Si), nhưng khi nằm mộng (Thùy Miên Tâm Sở), do
tâm lực yếu ớt, cho nên
chẳng hiểu rơ Sự Lư Tứ Đế. Do vậy, có
thể biết: Thùy Miên Tâm Sở chẳng phải là nương
theo phần vị của Si để giả lập!
Thùy Miên bao
gồm tánh thiện, tánh ác,
và tánh vô kư. Thùy Miên thuộc tánh thiện là như nằm mộng
thấy chính ḿnh cung kính lễ Phật. Thùy Miên có tánh ác là như
mộng thấy chính ḿnh tức giận, chửi mắng người
khác. Thùy Miên có tánh vô kư là như mộng thấy chính ḿnh
đang tập luyện
tại thao trường.
Liên quan đến
chủng loại của Mộng, Đại Trí Độ
Luận nói: “Mộng hữu ngũ chủng, nhược
thân trung bất điều, nhược nhiệt khí đa,
tắc đa mộng kiến hỏa, kiến hoàng, kiến
xích. Nhược lănh khí đa, tắc đa kiến thủy,
kiến bạch. Nhược phong khí đa, tắc đa kiến
phi, kiến hắc. Nhược phục sở văn kiến
sự, đa tư duy niệm cố, tắc mộng kiến.
Hoặc thiên dữ mộng, dục linh tri vị lai sự
cố”. Nghĩa là [mộng có năm loại], có lúc sinh lư chẳng điều ḥa, không thông
thuận, cho nên mới nằm mộng, nếu là Hỏa Đại
tăng mạnh, sẽ mộng thấy lửa, [thấy màu
vàng, màu đỏ] v.v… Thủy Đại tăng mạnh, sẽ
mộng thấy nước, [thấy màu trắng] v.v… Như
trẻ nhỏ do Thủy Đại tăng mạnh, sẽ
mộng thấy đến bờ biển vọc nước;
tỉnh giấc th́ đă đái dầm. Phong Đại tăng
mạnh, sẽ mộng thấy bay lượn trên không, [thấy
màu đen]. Hoặc có lúc trong tâm suy nghĩ rất nhiều,
cho nên mới nằm
mộng, như ban ngày nghĩ ǵ, đêm mộng thấy điều
đó. Có lúc do chúng hữu t́nh trên cơi trời muốn cho người
nằm mộng biết chuyện vị lai, cho nên khiến cho
người nằm mộng mơ thấy.
1.1.2.4.2.1.6.3. Tầm
(Luận)
Vân hà Tầm? Vị Tư, Huệ sai biệt, ư ngôn tầm
cầu, linh tâm thô tướng phân biệt vi tánh. Ư ngôn giả,
vị thị Ư Thức. Thị trung hoặc y Tư,
hoặc y Huệ nhi khởi. Phân biệt thô tướng giả,
vị tầm cầu b́nh, y, xa thặng đẳng chi thô tướng.
Lạc xúc, khổ xúc đẳng
sở y vi nghiệp.
(論)云何尋?謂思慧差別。意言尋求。令心麁相分別為性。意言者。謂是意識。是中或依思。或依慧而起。分別麁相者。謂尋求瓶衣車乘等之麁相。樂觸苦觸等所依為業。
(Luận: Tầm là như thế
nào? Tức là đối với Tư và Huệ sai khác, ư ngôn
t́m cầu, có tánh chất khiến cho cái tâm phân biệt thô tướng.
“Ư ngôn” là nói đến Ư Thức. Trong ấy, hoặc dựa
theo Tư hay dựa theo Huệ mà sanh khởi. “Phân biệt thô
tướng” là t́m cầu những thô tướng của b́nh,
áo, xe cộ v.v… Nghiệp dụng của nó là chỗ nương
tựa cho lạc xúc, khổ xúc v.v…).
1.1.2.4.2.1.6.4. Tứ
(Luận)
Vân hà Tứ? Vị Tư, Huệ sai biệt, ư ngôn tứ sát,
linh tâm tế tướng phân biệt vi tánh. Tế tướng
giả, vị ư b́nh, y đẳng, phân biệt tế tướng
thành bất thành đẳng sai biệt chi nghĩa.
(論)云何伺?謂思慧差別。意言伺察。令心細相分別為性。細相者。謂於瓶衣等。分別細相成不成等差別之義。
(Luận:
Tứ là như thế nào? Chính là Ư Thức xét nét sự khác
biệt giữa Tư và Huệ, khiến cho cái tâm có tánh chất
phân biệt tướng vi tế. “Tế tướng” là đối
với b́nh, áo v.v… mà phân biệt ư nghĩa sai biệt nơi
tế tướng thành tựu hay chẳng thành tựu).
Thể tánh của Tầm, “Tư, Huệ
sai biệt, ư ngôn tầm cầu, linh tâm thô tướng phân
biệt vi tánh” (đối
với sự sai biệt giữa Tư và Huệ, ư thức
t́m cầu, khiến cho cái tâm có tánh phân biệt thô tướng), tức là [Tầm được] giả
lập trên phần vị của Huệ và Tư. Đối
với cảnh giới được duyên, Ư Thức bèn suy nghĩ t́m ṭi, suy
cầu, phân biệt… nơi thô tướng (tướng trạng hoặc
đặc trưng thô tháp, dễ thấy). Nghiệp dụng
của Tầm là “lạc xúc, khổ xúc đẳng sở
y vi nghiệp”, tức là làm chỗ nương tựa
cho lạc xúc, khổ xúc, bất khổ bất lạc xúc
(xả xúc). Chẳng hạn như khi chúng ta t́m ṭi suy nghĩ,
suy xét Sự Lư th́ do sự hoạt động của Tư
và Huệ khá gấp rút, nhanh chóng, sẽ sanh khởi Khổ
Xúc chẳng thoải mái. Hoặc do hoạt động của
Tư và Huệ khá thong thả, sẽ sanh khởi Lạc Xúc
thoải mái, hoặc hoạt động của Tư và Huệ
chẳng thong thả, chẳng gấp rút, sẽ sanh khởi
Xả Xúc.
Thể tánh
của Tứ, “Tư, Huệ sai biệt, ư ngôn tứ sát,
linh tâm tế tướng phân biệt vi tánh”, [nghĩa
là Tứ]
cũng là giả lập từ phần vị của Tư
và Huệ, Ư Thức bèn t́m ṭi, tra xét, phân biệt tế tướng
(tướng trạng hoặc đặc trưng vi tế)
của cảnh giới được duyên. Nghiệp dụng
của Tứ giống như Tầm.
“Ư ngôn”
có nghĩa là ǵ? Ư Ngôn chính là Ư Thức. Do v́ cảnh giới được
duyên bởi Ư Thức phần lớn là danh tự, hoặc
những khái niệm được diễn tả bằng
ngôn ngữ; cho nên gọi
Ư Thức là Ư Ngôn. Sách Thành Duy Thức Luận Thuật Kư c̣n
dựa trên ba phương diện là Dụ
(thí dụ), Cảnh, và Quả để giải thích “Ư Ngôn tức
Ư Thức”.
Năm Thức
là Nhăn Thức, Nhĩ Thức, Tỵ Thức, Thiệt Thức,
và Thân Thức,
chính là sự
biết rơ, phân
biệt bằng trực giác, là sự nhận biết
chẳng dựa theo danh
tướng, ngôn từ, khái niệm. V́ thế, Tầm và Tứ
chẳng tương ứng với năm Thức trước,
chỉ tương ứng với Thức thứ sáu, tức
Ư Thức.
V́ hành tướng
của Tầm và Tứ rất tương tự, bởi lẽ,
chúng dựa trên sự phân biệt thô tướng và phân biệt
tế tướng để kiến lập. Phân biệt
thô tướng và phân biệt tế tướng có ǵ khác biệt?
Chẳng hạn như t́m cầu phân biệt kích thước,
h́nh dạng, chất liệu v.v… là những tướng trạng
thô rơ của cái b́nh hoa th́ gọi là “phân biệt thô tướng”. Tỉ mỉ xem xét hoa văn, độ sáng
v.v… là những tướng trạng vi tế nơi b́nh hoa
th́ gọi là “tế tướng
phân biệt”. Suy luận
tương tự như vậy, đối với Sự
Lư nơi y phục, xe cộ v.v… [sẽ thấy chúng] đều
có sự sai biệt giữa phân biệt về tế tướng
và phân biệt về thô tướng. Trong ấy, “phân biệt
tế tướng thành, bất thành đẳng sai biệt”
có nghĩa là: Chẳng hạn như tỉ mỉ xem xét coi độ
sáng nơi tướng trạng vi tế của cái b́nh hoa là
thành tựu hay không thành tựu v.v…
Thành Duy
Thức Luận thuyết minh về Tầm và Tứ như
sau: “Tầm, vị tầm cầu, linh tâm thông cứ, ư
ư ngôn cảnh, thô chuyển vi tánh. Tứ, vị tứ sát,
linh tâm thông cứ, ư ư ngôn cảnh, tế chuyển vi tánh.
Thử nhị, câu dĩ an, bất an trụ thân tâm phần
vị sở y vi nghiệp” (Tầm là t́m cầu, khiến
cho cái tâm bận bịu, đối với cảnh của Ư
Thức th́ có tánh chất hướng đến thô tướng.
Tứ là xem xét tỉ mỉ, khiến cho cái tâm bận bịu,
đối với cảnh
của Ư Thức th́ chú trọng tế tướng. Hai món này đều có nghiệp dụng là
làm chỗ y cứ cho sự an
trụ hay chẳng an trụ của thân tâm). Thể tánh của
Tầm là khiến cho Ư Thức và Tâm Sở cấp bách, bận
bịu đối với cảnh của Ư Ngôn (cảnh sở
duyên của Ư Thức), tạo thành sự t́m ṭi suy nghĩ,
suy cầu v.v… nơi thô tướng. Thể tánh của Tứ
là khiến cho Ư Thức và Tâm Sở cấp bách, bận bịu
đối với “ư ngôn cảnh” (cảnh
sở duyên của Ư Thức) mà t́m ṭi tỉ mỉ, xem xét v.v… nơi tế tướng.
Nghiệp dụng của Tầm và Tứ đều là làm chỗ
y cứ cho phần vị an trụ hoặc chẳng an trụ thân tâm. “Dĩ an, bất an trụ
thân tâm phần vị sở y” (làm chỗ y cứ
cho phần vị an trụ hoặc chẳng an trụ của
thân tâm) tức là như luận này đă
nói: “Lạc xúc, khổ xúc đẳng sở y vi nghiệp”
(Có nghiệp dụng
làm chỗ y cứ cho Lạc Xúc, Khổ Xúc
v.v…) Theo cách giải nói của Hàn
Thanh Tịnh[9],
Tầm và Tứ trong Dục Giới (chẳng phải là địa
vị Tam Ma Hư Đa) khiến cho thân tâm chẳng an trụ. Tầm
và Tứ của Sơ Thiền trong Sắc Giới (Tam Ma Hư
Đa, tiếng Phạn là Samahita, dịch nghĩa là Đẳng
Dẫn, có nghĩa là nương theo Định lực dẫn khởi
mà sanh ra sự an ḥa, b́nh đẳng v.v…) khiến cho thân tâm
an trụ. Ngoài ra, theo như Đại Thừa Bách Pháp Minh
Môn Luận Giải đă giải thích, tác dụng của Huệ
là chọn lựa rạch ṛi, phân biệt, có tánh gấp rút.
Tác dụng của Tư (思) là suy lường, tạo tác, có tác dụng
thong thả, từ từ. Nếu lấy Tư làm chủ đạo,
Huệ có tánh chất gấp rút sẽ thuận theo Tư có
tánh chất thong thả, nên khiến cho thân tâm an trụ. Nếu
lấy Huệ làm chủ đạo, Tư có tánh chất thong
thả phải thuận theo Huệ có tánh chất gấp rút, sẽ khiến cho thân tâm chẳng an trụ.
Tầm và
Tứ dịch theo lối cũ (lối dịch trước
thời ngài Huyền Trang) là Giác và Quán. Tầm và Tứ có mối
quan hệ đặc biệt với tu Định. Do Tầm
và Tứ tồn tại hoặc chẳng tồn tại
mà có thể chia thành
ba giai đoạn:
1) Từ
Dục Giới đến Sơ Thiền, có tác dụng t́m
cầu của Tầm, mà cũng có tác dụng tỉ mỉ
xem xét của Tứ, nên gọi là Hữu Tầm Hữu Tứ
địa (địa vị có cả Tầm lẫn Tứ).
2) Ở
trong Trung Gian Thiền (tức là trong khoảng từ Sơ
Thiền đến Nhị Thiền), chẳng có tác dụng
t́m cầu của Tầm, nhưng có tác dụng suy xét tỉ
mỉ của Tứ, nên gọi là Vô Tầm Hữu Tứ địa.
3) Từ
Nhị Thiền trở lên, chẳng có tác dụng t́m cầu
của Tầm, mà cũng chẳng có tác dụng xem xét tỉ
mỉ của Tứ, nên gọi là Vô Tầm Vô Tứ địa.
Từ Nhị
Thiền trở lên, chẳng có Tầm, Tứ, tức là nói
dựa theo Tâm Sở Tư và Huệ thô tháp, rơ rệt, hoàn
toàn chẳng phải là nói từ Nhị Thiền trở lên
sẽ không có các Tâm Sở Tư và Huệ. Bởi lẽ, Tâm
Sở Tư và Huệ tồn tại trọn khắp tam giới
chín địa.
Tầm và
Tứ bao gồm tánh thiện, ác, và vô kư. Chẳng hạn như Tham Tầm,
Sân Tầm, Hại Tầm đều là Tầm có tánh ác. Xuất
Ly Tầm, Vô Sân Tầm, Bất Hại Tầm, đều là
Tầm có tánh thiện. Thân Lư Tầm
(t́m ṭi nghĩ ngợi về thân thuộc), Quốc Độ Tầm v.v… đều là
những thứ Tầm có tánh chất vô kư. Tuy chẳng phải
là tánh ác, nhưng chúng có thể chướng ngại chuyện
tu hành Chỉ Quán.
Kinh Tạp
A Hàm nói: Có Giác, có Quán, th́ gọi là Khẩu Hành, biểu thị
mối quan hệ giữa Tầm, Tứ, và ngôn ngữ. Trước
hết là có Tầm và Tứ trong Ư Thức, sau đấy mới
phát ra thành ngôn ngữ.
Ăn nói rất nhanh lẹ là v́ Tầm và Tứ rất gấp
rút.
Đối
với sự sai biệt giữa Tầm và Tứ, ngoại
trừ sự phân biệt thô tướng và phân biệt tế
tướng, Đại Trí Độ Luận c̣n nói: “Sơ
duyên trung tâm phát tướng, danh Giác. Hậu phân biệt trù
lượng hảo xú, danh Quán” (Thoạt đầu là duyên theo tướng
phát khởi bởi tâm th́ gọi là Giác. Sau đó, phân biệt
tính toán tốt xấu th́ gọi là Quán). Sách A Tỳ Đạt Ma Khái Yếu Tinh Giải
lại nói: “Tầm (Vitakka): Tầm là dốc tâm vào mục tiêu. Tướng
trạng đặc trưng của nó là dốc tâm vào, hoặc
hướng dẫn đến
mục tiêu. Tác dụng của nó là nắm vững mục
tiêu toàn diện. Nó dấy lên hiện hành th́ sẽ chú tâm hướng
đến mục tiêu. Tuy trong phần chú thích chẳng đề
cập cái nhân gần của nó, nhưng có thể biết:
Mục tiêu chính là cái nhân gần của nó… Tứ (Vicara) có tướng
trạng đặc trưng là suy đi xét lại mục tiêu.
Tác dụng của nó là nhiều lượt đem danh pháp tương
ứng gán cho mục tiêu. Khi nó dấy lên hiện hành, sẽ
bám chặt vào mục tiêu, [do đó] cái nhân gần [của Tứ]
chính là mục tiêu”.
Trong Đại Thừa Quảng Ngũ Uẩn
Luận Giảng Kư, Ấn Thuận đạo sư đă
có thí dụ thuyết minh: Như con mèo ban đêm chạy ra,
nó chỉ muốn bắt chuột. Mắt nó liếc
Đông ngó Tây t́m kiếm chuột, chuyện này ví như Tầm. Nó dần dần
biết phương pháp xảo diệu để t́m được
hang chuột, bèn ngồi bên cửa
hang chuột, mắt ngó miệng hang. Khi ấy, mèo chẳng
nh́n Đông ngó Tây, liếc khắp nơi t́m chuột, mà chuyên
chú ngó miệng hang. Điều này ví như Tứ. Ngoài ra, trong
bộ A Tỳ Đạt Ma Giảng Yếu, tôn giả Mă Hân
Đức (Venerable Mahinda) cũng nói ra ba thứ thí dụ về Tầm và Tứ.
1.1.2.4.2.2. Tâm Bất Tương Ứng Hành (chia làm hai đoạn)
1.1.2.4.2.2.1. Nêu chung
(Luận)
Vân hà Tâm Bất Tương Ứng Hành? Vị y Sắc, Tâm đẳng
phần vị giả lập, vị thử dữ bỉ bất
khả thi thiết dị, bất dị tánh. Thử phục
vân hà? Vị Đắc, Vô Tưởng Định, Diệt
Tận Định, Vô Tưởng Thiên, Mạng Căn, Chúng
Đồng Phận, Sanh, Lăo, Trụ, Vô Thường, Danh Thân,
Cú Thân, Văn Thân, Dị Sanh Tánh, như thị đẳng.
(論)云何心不相應行?謂依色心等。分位假立。謂此與彼不可施設。異不異性。此復云何?謂得.無想定.滅盡定.無想天.命根.眾同分.生.老.住.無常.名身.句身.文身.異生性。如是等。
(Luận: Tâm Bất Tương Ứng
Hành là như thế nào? Chính là [những pháp]
dựa trên phần vị của
Sắc, Tâm v.v… mà giả lập, do điều này và điều
kia chẳng thể phân định là có tánh chất
khác
biệt hay chẳng khác
biệt. Điều này lại như
thế nào? Chính là Đắc, Vô Tưởng Định, Diệt
Tận Định, Vô Tưởng Thiên, Mạng Căn, Chúng
Đồng Phận, Sanh, Lăo, Trụ, Vô Thường, Danh Thân,
Cú Thân, Văn Thân, Sanh Dị Tánh, những pháp như thế
đó).
Trong Hành Uẩn có hai loại:
Một là Tâm Tương Ứng Hành, hai là Tâm Bất Tương
Ứng Hành. “Tương ứng” có nghĩa là giữa đôi
bên có sự hài ḥa, thuận tùng, hô ứng lẫn nhau, chẳng
trái nghịch nhau. Chẳng hạn như Giáp và Ất đồng
thời làm một chuyện, giữa đôi bên hợp tác với
nhau. “Hành” có nghĩa là “đổi dời, biến hóa, sanh diệt vô
thường”. Tâm Tương Ứng
Hành là Tâm Sở Pháp và Tâm Vương, và những Tâm Sở Pháp
tương ứng khác. Tâm Bất Tương Ứng Hành là
ví như Giáp và Ất tuy đồng thời sanh khởi, nhưng
chuyện hai người đă làm chẳng nhất định
giống nhau. Giữa đôi bên cũng chẳng hợp tác với
nhau.
Lại v́ Tâm Bất
Tương Ứng Hành do có ba thứ nguyên nhân mà
lập ra danh xưng khác biệt:
1) V́ chẳng có tác dụng duyên lự, cho nên
chẳng phải là Tâm Pháp hay Tâm Sở Pháp.
2) V́ chẳng có tác dụng chất ngại[10],
nên chẳng phải là Sắc Pháp.
3) V́ có hiện tượng sanh diệt, nên chẳng
phải là pháp Vô Vi.
Trên thực tế, đức Phật vốn
nói ra Ngũ Uẩn, trọn chẳng nói Tâm Tương Ứng
Hành và Tâm Bất Tương Ứng Hành. Về sau, các vị
luận sư nghiên cứu, phân tích, cho rằng Hành Uẩn có
hai loại lớn khác nhau, đă chia Hành Uẩn thành Tâm Tương
Ứng Hành và Tâm Bất Tương Ứng Hành. Chẳng hạn
như Thuyết Nhất Thiết Hữu
Bộ, Kinh Bộ[11],
và học phái Duy Thức của Đại Thừa, đều
nói tới Tâm Bất Tương Ứng Hành.
Tâm Bất Tương Ứng Hành là “y Sắc,
Tâm đẳng phần vị giả lập”, tức là nương
vào phần vị của Tâm Pháp và Tâm Sở Pháp, Sắc Pháp
mà giả lập (“Phần vị” là một phần, “giả
lập” là lập
bày xếp đặt), như Đại Thừa Bách Pháp
Minh Môn Luận khi giảng về Tâm Bất Tương Ứng
Hành Pháp đă nói “tam vị sai biệt cố”, nghĩa là do nó khác biệt
với ba phần vị Sắc Pháp, Tâm Pháp và Tâm Sở Pháp mà
giả lập [một loại riêng biệt là Bất Tương Ứng Hành Pháp].
“Thử dữ bỉ bất khả thi thiết
dị, bất dị tánh”: “Thử” chính là Tâm Bất Tương Ứng Hành
Pháp, “bỉ” là Sắc Pháp, Tâm Pháp, Tâm Sở Pháp. “Bỉ” là pháp để “thử” nương tựa vào.
Do giữa pháp này và pháp kia hoàn toàn chẳng phải không có quan
hệ, “pháp này” chẳng tách rời “pháp kia” để có
riêng một thật thể độc nhất, tồn tại
thường hằng. Do vậy, chẳng thể lập bày
giữa pháp này và pháp kia là “dị tánh” (có tánh chất khác nhau). Lại do v́ giữa
pháp này và pháp kia, thể tánh và tác dụng chẳng phải là
tương đồng, cho nên chẳng thể lập bày là
pháp này và pháp kia “bất dị tánh (nhất tánh)” (tánh chẳng khác nhau, có
cùng một tánh).
Nội dung của Tâm Bất Tương Ứng
Hành là ǵ? Chính là “Đắc, Vô
Tưởng Định, Diệt Tận Định, Vô Tưởng
Thiên, Mạng Căn, Chúng Đồng Phận, Sanh, Lăo, Trụ,
Vô Thường, Danh Thân, Cú Thân, Văn Thân, Sanh Dị Tánh, như
thị đẳng”. Luận này nói ra mười thứ danh xưng, “đẳng”
là như Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận nói ra hai
mươi bốn thứ
danh xưng, tức là có thêm mười thứ nữa: Lưu
Chuyển, Định Dị, Tương Ứng, Thế Tốc,
Thứ Đệ, Phương, Thời, Số, Ḥa Hợp
Tánh, và Bất Ḥa Hợp
Tánh.
1.1.2.4.2.2.2. Biệt Thích (giải thích từng điều riêng biệt,
chia thành mười bốn đoạn)
1.1.2.4.2.2.2.1. Đắc
(Luận)
Vân hà Đắc? Vị nhược hoạch, nhược thành
tựu. Thử phục tam chủng, vị chủng tử
thành tựu, tự tại thành tựu, hiện khởi thành
tựu, như kỳ sở ứng.
(論)云何得?謂若獲。若成就。此復三種。謂種子成就。自在成就。現起成就。如其所應。
(Luận: Đắc là như thế nào?
Chính là hoặc đạt được, hoặc thành tựu.
Pháp này lại có ba loại, tức là chủng tử thành tựu,
tự tại thành tựu, và hiện khởi thành tựu, tương
ứng với chỗ y cứ của chúng).
“Đắc” là có nghĩa là “đạt được”,
hoặc “thành tựu, chẳng mất đi”, c̣n gọi là
Hoạch, hoặc Thành Tựu. Hoặc là thoạt đầu
có được th́ gọi là Đắc. Sau khi đă có, liên
tục đạt được th́ gọi là Thành Tựu.
Chẳng hạn như thương nhân kinh doanh, kiếm được
rất nhiều tiền (tiền bạc là Sắc pháp), bèn nói “có tiền”. “Đạt được
tiền” và “nắm giữ tiền” khác nhau, “đạt được
tiền” th́ không nhất định là hiện tiền đă
trông thấy tiền. “Đạt được tiền” đă
dựa trên phần vị của Sắc pháp mà giả lập, chẳng ĺa khỏi
Sắc pháp mà có riêng một cái
thật thể tồn tại độc nhất,
thường hằng! Lại như “đắc nhân thân” (được làm thân
người) là dựa theo phần vị của ba pháp, tức Sắc Pháp, Tâm Pháp và Tâm Sở Pháp mà giả
lập, cũng chẳng ĺa khỏi ba pháp như Sắc Pháp
v.v… mà có một thật thể riêng biệt.
Đắc và Thành Tựu phần lớn là nói
theo ư nghĩa tu hành. Chẳng hạn như tu Chỉ mà đạt
được Sơ Thiền, bèn nói là “đắc
Sơ Thiền”. Nếu đạt được Sơ
Thiền, tu tới địa vị vượt khỏi sự
Tác Ư, sau đấy, xuất Định, đứng dậy
làm việc nhà, tuy chẳng phải là Tâm Sở trong Sắc Giới
Định, nhưng khi muốn nhập Định, tâm chuyên
chú nơi cảnh được duyên, sẽ có thể rất
nhanh chóng đạt đến Sơ Thiền. V́ vậy, khi
xuất Định, cũng có thể nói là “đắc
Sơ Thiền” (nói theo sự tự tại thành tựu).
“Đắc Sơ Thiền” th́ pháp ấy tuy chẳng
phải Định Tâm Sở trong Sắc Giới, nhưng
nó cũng chẳng ĺa khỏi Định Tâm Sở của Sắc
Giới mà có riêng một thật thể được.
“Đắc” chính là Thành Tựu, có thể nương
vào phần vị của Nhân, Tự Tại và Hiện Hành,
mà lập ra ba thứ thành tựu: Chủng Tử Thành Tựu,
Tự Tại Thành Tựu, và Hiện Khởi Thành Tựu. Nương
theo phần vị của Nhân (chủng tử) mà kiến lập Chủng Tử Thành Tựu. Nương
theo phần vị của Tự Tại mà kiến lập Tự Tại Thành Tựu. Nương
theo phần vị của Hiện Hành mà kiến lập Hiện Khởi Thành Tựu.
Do vậy nói “như kỳ sở ứng” (tương ứng với
[chỗ y cứ của] chúng).
Chủng Tử Thành Tựu là ǵ? Nói theo Duy Thức
Học, chủng tử là sự hiện hành (hiển hiện
trong hiện tại) của pháp hữu vi được huân
tập trong A Lại Da Thức, h́nh thành một thứ tập
tánh đặc thù (tập khí, có công năng tiềm ẩn). Trong tương lai, khi nhân duyên tụ hợp,
nó có thể sanh khởi pháp hữu vi. Nói đơn giản
th́ Chủng Tử Thành Tựu chính là pháp hữu vi đă được
huân tập trong A Lại Da Thức bèn thành tựu. Chẳng
hạn như người học Phật mong mỏi “tinh
tấn tu hành, giải thoát sanh tử”, Dục Tâm Sở huân tập
trong A Lại Da Thức sẽ thành tựu “Dục
chủng tử”. Tuy c̣n chưa giải thoát, nhưng thiện
căn giải thoát (Dục chủng tử) đă thành tựu.
Đó gọi là Dục Chủng Tử Thành Tựu.
Tự Tại Thành Tựu là ǵ? Do pháp hữu
vi liên tục huân tập trong A Lại Da Thức, chủng tử
sẽ lần lượt tăng thượng, chủng tử
được tăng trưởng mạnh mẽ, th́ gọi
là Tự Tại Thành Tựu. Chẳng hạn như tu Chỉ,
sau khi đă đắc Định, bèn liên tục tu Định,
trong tương lai có thể dẫn đến phát khởi
thần thông. Chủng tử đă được tăng
thượng ấy được gọi là Tự Tại
Thành Tựu. Trong Bách Pháp Minh Môn Luận Lược Giải,
trưởng lăo Ấn Hải đă nói: “Tự
Tại Thành Tựu là nói tới các thiện pháp được
sanh bởi gia hạnh, nghề khéo, biến hóa, oai nghi là những
chủng tử tăng trưởng
mạnh mẽ có tánh chất vô kư. V́ sao vậy? Nương
vào sức tu tập của gia hạnh mà đạt được
tự tại, cho nên gọi là Tự Tại”.
Hiện Khởi Thành Tựu là ǵ? Pháp hữu
vi đang hiển hiện trong hiện tại. Chẳng hạn
như quan niệm truyền thống của Trung Hoa là khi bé
trai được sanh ra, nó bèn có quyền
lợi kế thừa gia sản, gia sản trong tương
lai sẽ là của nó. V́ thế, có
thể nói “bé trai đạt được gia sản”; đó
là Chủng Tử Thành Tựu. Đến khi nó trưởng
thành, cha bèn giao gia sản cho, đó gọi là Hiện Khởi
Thành Tựu.
Mọi người đều mong đạt
được những thành quả tương đối
ưu thắng trong thế gian, như học vấn ưu
việt, sự nghiệp thành công, gia đ́nh mỹ măn, thân
thể mạnh khỏe, tâm t́nh thoải mái v.v… Do vậy, ngàn
muôn cay đắng truy cầu những thứ “thành
tựu” (Đắc).
Đạt được những thành quả ấy, sẽ
vui sướng, mừng rỡ. Chẳng đạt được,
sẽ ưu sầu, bi thương. Hơn nữa, dẫu đạt
được, cũng sẽ lo âu “cái đă đạt được
sẽ bị mất đi”. Giả sử Đắc có một
thật thể, vậy th́ chúng ta có thể biết Đắc
ở chỗ nào hay không? Có thể biết h́nh dạng, màu sắc,
và tác dụng của Đắc hay chăng? Thật Thể
có ư nghĩa “tồn tại thường hằng” th́ Đắc
có sẽ bị mất đi hay
không? Thật ra, chẳng có thật thể của Đắc!
Đắc chỉ là sự hiện hành của pháp hữu
vi hay chủng tử mà lập ra. Nó là pháp sanh diệt, là giả
pháp, chẳng phải là một thật thể độc
nhất, thường hằng, nó
có thể làm khái niệm hay quan niệm cho Ư Thức phân biệt
mà thôi.
Hết thảy các pháp hữu vi là pháp được
sanh bởi nhân duyên, là sanh diệt, vô thường, cho nên chẳng
có một cái Đặc độc nhất, thường hằng.
Chỉ là do sự hiện hành hoặc chủng tử của
pháp hữu vi, nên phương tiện giả lập thành Đắc
(Hiện Khởi Thành Tựu). Ngược lại, khi nhân
duyên ly tán, pháp hữu vi sẽ diệt mất, Đắc cũng
bị mất đi. Do vậy, cũng có thể phương
tiện giả lập thành Thất (mất mát). Như Đại Trí Độ Luận
đă nói: “Chư pháp tất cánh không, bất khả đắc” (Các pháp rốt ráo là không, chẳng thể đạt
được). Mọi người “có được thuận
cảnh” bèn tham đắm, hoan hỷ. “Mất đi thuận
cảnh” bèn tức giận, ưu sầu, đau thương.
Ngược lại “gặp phải nghịch cảnh” bèn
buồn bă than van, lo rầu, bi thương. “Nghịch cảnh
mất đi” bèn cảm thấy may mắn, hoan hỷ. Thật
ra, chẳng có thật thể của Đắc và Thất,
nhưng mọi người vẫn rất chấp trước
Đắc và Thất có thật thể, cho nên mới lo sầu
sao cho Đắc, lại lo sầu sẽ bị Thất (mất
đi), hết sức khổ năo!
Hy vọng sẽ đạt được
thành quả tương đối ưu thắng trong thế
gian, là thiện tánh hướng thượng, hoặc là ước
mong có tánh chất vô kư, chính là động
cơ (motivation) để học tập hoặc tu hành, có
thể khích lệ chúng ta phấn chấn tinh tấn. Nhưng phải biết rơ ràng:
Ước nguyện là pháp duyên sanh, chẳng có thật thể.
Hy vọng đạt được điều lư tưởng,
[th́ điều lư tưởng ấy] chỉ là đối
tượng được duyên bởi ước nguyện,
cũng chẳng có thật thể. Dẫu đă “đạt
được lư tưởng”, đấy cũng chỉ là
dựa theo sự hiển hiện của pháp duyên sanh mà giả
lập, cũng chẳng có thật thể. Do vậy, nếu
chúng ta chấp trước Đắc có thật thể, hy
vọng đạt được nó, đấy là chuyện
vĩnh viễn chẳng thể nào có! Sau khi đă liễu
giải Đắc chỉ là khái niệm hoặc quan niệm
do Ư Thức phân biệt, trong cuộc sống thường ngày,
sẽ chẳng c̣n chấp tŕ Đắc Thất (được, mất) cho mấy, sẽ khá tự
do tự tại. Do đă từng tu đạo, chứng ngộ
Vô Đắc, sẽ chứng ngộ Đắc chẳng có
thật thể, mà cũng chứng ngộ tánh Không. Như Tâm
Kinh đă nói: “Vô trí, diệc vô đắc, dĩ vô sở
đắc cố, Bồ Đề Tát Đỏa y Bát Nhă Ba
La Mật Đa cố, tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố,
vô khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng,
cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật, y Bát Nhă Ba La
Mật Đa cố, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề” (Không trí, mà cũng chẳng đắc. Do chẳng
có ǵ để được, Bồ Tát v́ nương theo
Bát Nhă Ba La Mật, mà tâm không vướng
mắc. Do không vướng mắc, xa ĺa mộng tưởng
điên đảo, chứng Niết Bàn rốt ráo. Ba đời
chư Phật, do nương theo Bát Nhă Ba La Mật mà đắc
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). Chứng ngộ tánh
Không, tức là trừ bỏ chấp trước đối
với thật thể của “chánh trí có thể chứng, lư Chân
Như được chứng, hoặc thánh quả để
đắc”, tức là đắc Sơ Quả của
Thanh Văn Thừa, hay Sơ Địa của Bồ Tát Thừa. Tu hành tiến cao hơn bước nữa,
có thể đạt đến giải thoát sanh tử, cho đến
thành tựu viên măn Phật quả.
1.1.2.4.2.2.2.2. Vô Tưởng Định
(Luận)
Vân hà Vô Tưởng Định? Vị ly Biến Tịnh nhiễm, vị ly thượng nhiễm.
Dĩ xuất ly tưởng, tác ư vi tiên, sở hữu bất
hằng hành tâm, tâm pháp diệt vi tánh.
(論)云何無想定?謂離遍淨染未離上染。以出離想作意為先所有不恒行心心法滅為性。
(Luận: Vô Tưởng Định là
như thế nào? Chính là ĺa sự đắm
nhiễm đối với cơi trời Biến Tịnh, nhưng
chưa ĺa sự đắm nhiễm đối với những
cơi trời cao hơn. [Vô Tưởng Định] lấy xuất ly tưởng, tác ư làm đầu, có
tánh chất là tất cả các tâm và tâm pháp chẳng thường
hằng đều bị diệt mất).
Thể tánh
của Vô Tưởng Định là “ly Biến Tịnh nhiễm, vị ly thượng nhiễm”. Đấy là nói Vô Tưởng Định
tuy có thể ĺa bỏ Biến Tịnh Nhiễm, nhưng vẫn
chẳng ĺa bỏ Thượng Nhiễm. Biến Tịnh
Nhiễm là nói tới sự tham đắm trong Tịnh Cư Thiên của Tam Thiền
Thiên, tức là sự tham đắm đối với
Đệ Tam Thiền (Tĩnh Lự). Thượng Nhiễm
là sự tham đắm đối với Đệ Tứ
Thiền trở lên.
Tu Vô Tưởng
Định như thế nào? “Dĩ xuất ly tưởng, tác ư vi tiên, sở hữu bất hằng hành
tâm, tâm pháp diệt vi tánh”, [ư nói]: Phương pháp tu Vô Tưởng Định
th́ trước hết là tác ư tư duy, tưởng xuất
ly, huân tu thuần thục. Khi đă đắc Vô Tưởng
Định, “sở hữu bất hằng hành tâm, tâm pháp
diệt”, tức là những pháp Tâm Sở như Tưởng
v.v… tương ứng với sáu Thức trước đều
bị diệt trừ. V́ sáu Thức trước và những
Tâm Sở tương ứng với chúng bị gián đoạn,
cho nên gọi là “bất hằng hành tâm, tâm pháp” (tâm và tâm
pháp chẳng phải là tồn
tại thường hằng).
Đối
với “xuất ly tưởng tác ư”
(dấy lên ư niệm để ĺa khỏi tưởng), Du Già Sư Địa Luận đă thuyết
minh khá tường tận: “Nhược chư dị
sanh tác như thị niệm: Chư tưởng như bệnh, chư tưởng
như ung, chư tưởng như tiễn, duy hữu vô tưởng,
tịch tĩnh vi diệu nhiếp thọ. Như thị bối
tưởng tác ư, ư sở sanh khởi nhất thiết tưởng trung,
tinh cần tu tập bất niệm tác ư. Do thử tu tập
vi nhân duyên cố, gia hạnh đạo trung, thị hữu
tâm vị, nhập Định vô gián, tâm bất phục chuyển.
Như thị xuất ly tưởng tác ư vi tiên, dĩ ly Biến
Tịnh tham, vị ly Quảng Quả tham, chư tâm, tâm pháp
diệt, thị danh Vô Tưởng Định. Do thị phương
tiện, chứng đắc thử Định” (Nếu các dị sanh[12] nghĩ như
thế này: “Các tưởng
như bệnh, các tưởng như ung nhọt, các tưởng
như mũi tên, chỉ có vô tưởng là nhiếp thọ
tịch tĩnh vi diệu”. Phát khởi tâm niệm chống trái với
Tưởng
như thế, bèn đối với hết thảy các thứ
Tưởng dấy lên sẽ siêng
năng chuyên ṛng tu tập sao cho chẳng dấy lên ư nghĩ
suy niệm. Do sự tu tập ấy làm nhân duyên, trong gia hạnh
đạo, [hành giả] sẽ
là địa vị hữu tâm, nhập Định
chẳng gián đoạn, tâm
chẳng c̣n xoay chuyển nữa. Trước hết, khởi
lên ư niệm ĺa khỏi Tưởng như thế, đă ĺa khỏi
sự tham đắm đối với cơi trời Biến
Tịnh, nhưng chưa ĺa khỏi sự tham đắm đối
với cơi trời Quảng Quả. Do các tâm và tâm pháp (Tâm Sở) đă diệt, nên
gọi là Vô Tưởng Định. Do phương tiện
này mà chứng đắc Định này).
Có một
loại ngoại đạo cho rằng: “Tưởng là cội
nguồn của sanh tử. Hễ có thể diệt hết
Tưởng th́ sẽ liền chứng nhập Niết Bàn, thoát
ĺa sanh tử”. Do vậy, bậc thánh nhân
chẳng tu Vô Tưởng Định.
Ngoại đạo tu Vô Tưởng Định, ắt cần
phải ĺa bỏ sự tham đắm đối với Tĩnh
Lự bậc thứ ba thuộc thượng phẩm (nghiệp
lực của nó chín muồi, sẽ cảm được
Biến Tịnh Thiên). Sau đấy, sẽ dựa vào môn Tĩnh
Lự thứ tư thuộc thượng phẩm (hễ nghiệp
lực của nó chín muồi, sẽ cảm được
Quảng Quả Thiên). Trước hết, phải tác ư chống
trái Tưởng, dấy lên sự suy niệm “các Tưởng
như bệnh, như ung nhọt, như mũi tên, chẳng
có Tưởng th́ mới là tịch tĩnh vi diệu (Niết
Bàn)”. Gia công dụng hạnh như thế, dần dần
ĺa bỏ các Tưởng,
nhập Vô Tưởng Định (nhập địa vị
vô tâm), sáu Thức trước và các Tâm Sở như Tưởng
v.v… tương ứng với chúng sẽ tạm thời diệt
mất. Nhưng sau khi ra khỏi Vô Tưởng Định,
Ư Thức và những Tâm Sở tương ứng sẽ lại
sanh khởi.
V́ sao bậc
thánh nhân hữu học và vô học chẳng tu Vô Tưởng
Định? Du Già Sư Địa Luận giải thích: “Tiền
Vô Tưởng Định, phi học sở nhập; diệc
phi vô học. Hà dĩ cố? Thử trung vô hữu Huệ
hiện hành cố. Thử thượng hữu thắng tịch
tĩnh trụ cập sanh cố. Hựu phục thử Định,
bất năng chứng đắc sở vị chứng
đắc chư thắng thiện pháp, do thị khể lưu
cuống huyễn xứ cố” (Món Vô Tưởng Định
trên đây, bậc thánh nhân hữu học chẳng tu, mà thánh
nhân vô học cũng chẳng tu. V́ sao vậy? Do trong ấy
chẳng có Huệ hiện hành, hăy c̣n có tịch tĩnh trụ và chỗ để
sanh về vượt trỗi Định này. Do tu
môn Định đối với những thiện pháp thù thắng hơn mà hành
nhân chưa chứng đắc, nếu tu môn Định
này, sẽ chẳng thể chứng đắc. Do vậy, [nếu khăng khăng
tu môn Định này, hành nhân sẽ] lẩn quẩn nơi dối trá, hư huyễn). Do v́ ba thứ
lư do:
1) Trong Vô
Tưởng Định không có Vô Lậu Huệ hiện hành.
2) Trên Vô Tưởng
Định, c̣n có trụ
xứ tịch tĩnh càng
thù thắng hơn, và phía trên Vô Tưởng Thiên c̣n
có chỗ sanh về càng thù thắng
hơn nữa.
3) Dùng Vô
Tưởng Định sẽ chẳng thể chứng
đắc các thiện pháp vượt trỗi hơn mà hành
nhân chưa thể chứng đắc, sẽ lẩn quẩn
nơi chỗ dối trá, hư huyễn.
Do vậy,
thánh nhân hữu học và vô học chẳng tu Vô Tưởng
Định.
Thành Duy
Thức Luận thuyết minh Gia Hạnh Đạo càng tường
tận hơn như sau: “Tu Định thời, ư Định
gia hạnh, yếm hoạn thô động tâm, tâm sở cố,
phát thắng kỳ nguyện giá tâm, tâm sở, linh tâm, tâm sở
tiệm tế, tiệm vi, vi vi tâm thời, huân Dị Thục
Thức, thành cực tăng thượng yếm tâm đẳng
chủng. Do thử tổn phục tâm đẳng chủng
cố, thô động tâm đẳng tạm bất hiện
hành. Y thử phần vị, giả lập nhị Định
(Vô Tưởng Định, Diệt Tận Định)”
(Khi tu Định, đối với các môn gia hạnh của
Định, do chán ghét những tâm và Tâm Sở thô tháp, xáo động,
bèn phát ước nguyện thù
thắng để ngăn chặn những tâm và Tâm Sở [thô
tháp, xáo động ấy], khiến cho tâm và Tâm Sở dần
dần vi tế. Khi đạt đến vi vi tâm, huân tập
Dị Thục Thức (A Lại Da Thức), trở thành những
cái tâm như Yếm (chán ghét) v.v… tột bậc tăng thượng.
Do sự tổn giảm, chế phục những loại tâm
như vậy, tâm thô tháp xáo động tạm thời chẳng
hiện hành. Dựa trên phần vị ấy, giả lập
hai món Định là Vô Tưởng Định và Diệt Tận
Định). Ngoại đạo tu Vô Tưởng
Định, khi tu gia hạnh đạo, do chán ngán tâm và Tâm
Sở thô động, cho nên phát khởi nguyện vọng mạnh
mẽ, vượt trỗi, nhằm ngăn chặn tâm và Tâm
Sở (tương ứng với Tác Ư), dần dần khiến
cho Tưởng càng ngày càng vi tế cho đến khi tu đạt
đến vi tâm, vi vi tâm (vi tâm và vi vi tâm chính là ư thức
trong sát-na áp chót và sát-na cuối cùng trước khi nhập
Vô Tưởng Định). Vi vi tâm tương ứng với
Yếm Tâm Sở, huân tập A Lại Da Thức, thành tựu Ư
Thức và chủng tử như Yếm v.v… tột bậc
tăng thượng. Chủng tử Yếm có tiềm năng
tổn phục (tổn giảm, chế phục) Ư Thức và
chủng tử của Tâm Sở tương ứng
[với Ư Thức]; v́
thế, Ư Thức và Tâm Sở tương ứng với nó sẽ
tạm thời chẳng dấy lên hiện hành. Vô Tưởng
Định và Diệt Tận Định dựa trên phần
vị của chủng tử Yếm tột bậc tăng
thượng mà giả lập. Do vậy, nếu Vô Tưởng
Định và Diệt Tận Định ĺa ngoài chủng tử
Yếm, sẽ chẳng có một thật thể riêng biệt.
Sắc
Giới có mười tám chỗ, tức là “Phạm Chúng Thiên,
Phạm Tiền Ích Thiên (Phạm Phụ Thiên), và Đại
Phạm Thiên. Ba cơi này là do huân tu nhuyễn, trung, thượng
phẩm của môn Tĩnh Lự đầu tiên [mà được
sanh về đó]. Thiểu Quang Thiên, Vô Lượng Quang Thiên,
và Cực Tịnh Quang Thiên (Quang Âm Thiên), ba cơi này là do huân tu nhuyễn,
trung, thượng phẩm của môn Tĩnh Lự thứ
hai mà thành. Thiểu Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên,
và Biến Tịnh Thiên, ba cơi này là do huân tu nhuyễn, trung,
thượng phẩm của môn Tĩnh Lự thứ ba mà thành.
Vô Vân Thiên, Phước Sanh Thiên, và Quảng Quả Thiên, ba cơi
này là do huân nhuyễn, trung, thượng phẩm của môn
Tĩnh Lự thứ tư. Vô Tưởng Thiên được
gộp trong Quảng Quả, chẳng có nơi chốn khác.
Lại c̣n có năm chỗ Tịnh Cư Cung là nơi chư
thánh ở (Ngũ Tịnh Cư Thiên), tức là Vô Phiền,
Vô Nhiệt, Thiện Hiện, Thiện Kiến và Sắc Cứu
Cánh, do huân tu xen lẫn nhuyễn, trung, thượng, thượng
thắng, thượng cực phẩm của môn Tĩnh Lự
thứ tư”. Huân tu thượng phẩm của môn Tĩnh
Lự thứ tư, khi nghiệp lực chín muồi, sẽ
cảm được Quảng Quả Thiên thuộc Đệ
Tứ Thiền Thiên. Tu Vô Tưởng Định, nghiệp
lực chín muồi, cảm được Vô Tưởng
Thiên. Vô Tưởng Thiên được gồm thâu trong Quảng
Quả Thiên.
Tu Vô Tưởng
Định, chia đại lược thành ba loại là “hạ
phẩm tu, trung phẩm tu, thượng phẩm tu”, nghiệp
lực chín muồi sẽ cảm được Vô Tưởng
Thiên, cũng chia thành ba loại. Như Du Già Sư Địa
Luận nói: “Hăy nên biết sự sai khác, đại lược
có ba loại: Một là hạ phẩm tu, hai là trung phẩm
tu, ba là thượng phẩm tu. Nếu là hạ phẩm tu,
đối với hiện pháp (pháp đă chứng nhập trong
hiện tiền) mà bị thoái thất, sẽ chẳng thể
mau chóng khôi phục khiến cho nó hiện tiền. Nếu sanh
vào Vô Tưởng Hữu T́nh Thiên, đạt được
y thân (cái thân để tâm thức nương vào) chẳng thanh
tịnh cho lắm, oai quang rực rỡ, h́nh sắc rộng
lớn, như các thiên chúng khác, chắc chắn sẽ chết
yểu. Nếu tu trung phẩm, tuy hiện pháp thoái thất,
vẫn có thể mau chóng khôi phục khiến cho nó hiện
tiền. Nếu sanh vào Vô Tưởng Hữu T́nh Thiên, cảm
được y thân, tuy rất thanh tịnh, quang minh chói lọi,
h́nh sắc rộng lớn, nhưng chẳng rốt ráo tối
cực thanh tịnh. Tuy có trường hợp bị chết
yểu, nhưng chẳng quyết định (chẳng phải
là vị trời nào trong Vô Tưởng Định Thiên cũng
sẽ chết yểu). Nếu tu thượng phẩm th́ ắt
chẳng có thoái thất. Nếu sanh vào Vô Tưởng Hữu
T́nh Thiên, cảm được y thân hết sức thanh tịnh,
oai quang chói lọi, h́nh sắc rộng lớn, lại là rốt
ráo thanh tịnh, ắt chẳng bị chết yểu, thọ
lượng viên măn đến tột cùng, sau đó mới
mất đi (hết thọ mạng)”.
Đại Thừa Quảng Ngũ Uẩn
Luận Thích Yếu
Phần 3 hết
[1] Đẳng Lưu Tánh (等流性): Theo Phật Quang Sơn
Tự Điển, Đẳng là giống như nhau, Lưu
là loại, là lưu xuất (tuôn chảy ra, phát xuất). Gọi
là Đẳng Lưu Tánh tức là pháp đang nói có cùng một
tánh chất với pháp đă nói. Chẳng hạn như Vô Tàm
được coi là pháp đẳng lưu của Tham. Hơn
nữa, luận theo thứ tự thời gian trước
sau, pháp nào có sau sẽ được gọi là Đẳng
Lưu Quả.
[2] Trong phần sau, pháp sư Tịnh Chiếu
đă giảng “phần vị” là bộ phận, hay nói cách khác, Phần Vị
là một phần nào đó.
[3] Đoạn
này có nhiều cách chú giải khác biệt, có nhiều cách chú
giải quá cao, chúng tôi không lănh hội được. Do vậy,
xin mạn phép chọn lời chú giải đơn giản
nhất của cư sĩ Quán Huy trong bộ Câu Xá Luận
Bạch Thoại Thiền Giải như sau: “Câu Xá Luận
nói Thực là cái để ăn (lương thực), phải
hiểu theo ư nghĩa là Tăng Ích. Hôn Miên Cái Thực tức
là những thứ sẽ tăng cường Hôn Trầm và
Thùy Miên. Tần Thân là cảm thấy hơi thở thoát ra từ
lỗ mũi rất khó khăn, nặng nề. ‘Thực bất b́nh tánh’ là cảm giác khó chịu do ăn quá no, hay say rượu. ‘Tâm muội liệt tánh’ là thấy, nghe, hay, biết mơ hồ, chao đảo. Phi Thực
tức là đối trị. Do vậy ‘Phi Thực của món
Cái này’ có nghĩa là dùng pháp nào để đối trị”.
[4] Thành Duy Thức Luận quyển sáu chép: “Vân
hà Phóng Dật? Ư nhiễm tịnh phẩm, bất năng
pḥng tu, túng đăng vi tánh, chướng Bất Phóng Dật,
tăng ác, tổn thiện sở y vi nghiệp” (Phóng Dật
là như thế nào? Đối với pháp nhiễm tịnh,
chẳng thể ngăn ngừa, tu tập, có tánh chất phóng
túng, buông thả, có nghiệp dụng làm chỗ y cứ cho
sự chướng ngại Bất Phóng Dật, tăng thêm
ác, tổn hoại thiện).
[5] Tăng Già Chi (Saṁghāṭi) c̣n phiên âm
là Tăng-già-trí, hoặc Tăng-già-tri, hoặc Tăng-già-lê, chính là đại y trong tam y của một
vị Tăng, dịch nghĩa là Phức Y (tức y may thành
nhiều lớp).
Do có nhiều điều (các mảnh may ghép lại), nên c̣n
gọi là Tạp Toái Y. Y này mặc khi đi khất thực,
hoặc thuyết pháp, chia thành ba loại: Y chín điều,
mười một điều, mười ba điều,
mỗi điều gồm một miếng ngắn, hai miếng
dài may ghép lại th́ gọi là Hạ Phẩm. Y mười
lăm điều, mười bảy điều, mỗi điều
gồm ba miếng dài một miếng ngắn th́ là Trung Phẩm.
Y gồm hai mươi mốt điều, hai mươi ba điều, hai mươi lăm
điều gồm bốn miếng dài một miếng ngắn
cho mỗi điều th́ gọi là Thượng Phẩm.
[6] Theo cách giải thích này, đáng lẽ phải
đọc là Ố Tác (ghét những chuyện đă làm), nhưng
do sách vở trước nay thường ghi là Ác Tác, nên chúng
tôi vẫn giữ nguyên cách đọc này.
[7] Di
Giáo Kinh Luận viết: “Trong ấy có ba thứ khiến
cho Thùy Miên dấy lên: Một là từ ăn uống mà ra, hai
là từ thời tiết mà ra, và ba là từ tâm dấy lên”.
[8] Ngũ Vô Tâm Vị là năm địa vị
mà Tâm Sở chẳng dấy lên hoạt động,
cho nên gọi là Vô Tâm, chính là khi ở trong Vô Tưởng Thiên,
Vô Tưởng Định, Diệt Tận Định, ngủ
mê, và bất tỉnh.
[9]
Hàn Thanh Tịnh tức là cư sĩ Hàn Khắc Trung
(1884-1949). Ông có tên tự là Đức Thanh, hiệu là Thanh Tịnh
Cư Sĩ. Quê ở phủ Hà Gian, tỉnh Trực Lệ
dưới đời Thanh. Vào đầu thời Dân Quốc,
ông tícb cực quảng bá Pháp Tướng Duy Thức Học,
nổi danh sáng ngang Âu Dương Tiệm (Âu Dương Cánh
Vô) về Duy Thức. Ông đậu cử nhân khi mới mười
tám tuổi, từng ra làm quan. Năm 1908, khi khoa cử Nho học
bị phế trừ, ông từ quan, chuyên tâm nghiên cứu Phật
học. Năm 1921, cùng với các vị Châu Phất Hoàng, Từ
Sâm Ngọc v.v… sáng lập Pháp ướng Nghiên Cứu Hội,
chủ giảng bộ Thành Duy Thức Luận. Ông cùng với
Từ Sâm Ngọc đến chùa Vân Cư ở huyện Pḥng
Sơn bế quan ba năm để chuyên đọc kinh luận
Duy Thức. Năm 1927, ông cùng với Châu Phất Hoàng, Từ
Sâm Ngọc, Nhiêu Phong Hoàng v.v… sáng lập Tam Thời Học
Hội nhằm giảng giải kinh Phật trong các trường
đại học. Trước tác nổi tiếng nhất
của ông là bộ Du Già Sư Địa Luận Khoa Cú Phi
Tầm Nghĩa Kư Vựng Biên.
[10] Chất ngại là có tác dụng ngăn ngại
do có vật chất.
[11]
Kinh Bộ, gọi đầy đủ là Kinh Lượng
Bộ (Sautrāntika),
hoặc Thuyết Kinh Bộ, là một chi phái của Thuyết
Nhất Thiết Hữu Bộ được thành lập
vào khoảng năm 150 trước Công Nguyên. Bộ phái đặt
nền tảng lư luận trên Kinh Tạng, phản bác Đại
Tỳ Bà Sa Luận, và bác bỏ quan điểm “nhất
thiết hữu” của Thuyết Nhất Thiết Hữu
Bộ. Bộ phái này chủ trương Thức luân chuyển
trong ṿng sanh tử, và khi chết th́ Ngũ Uẩn ch́m lắng
trong cái Thức đó. Mỗi hiện tượng chỉ tồn
tại trong một sát-na. Những vị luận sư nổi
tiếng trong bộ phái này là Cưu Ma La Đà (Đồng
Thọ), thượng tọa Thất Lợi Đa La v.v…
[12] Dị sanh (異生, prthag-jana), dịch theo
lối cổ là “phàm phu”, dịch theo lối mới là “dị
sanh”. Phàm phu luân hồi trong lục đạo, thọ các loại
quả báo khác nhau; phàm phu lại v́ cảnh
giới biến đổi mà sanh khởi tà kiến, tạo
ác, do vậy gọi là Dị Sanh. Đại Tỳ Bà Sa Luận
c̣n giảng rằng:
V́ do
có dị kiến mà có thể tạo các nghiệp báo dẫn
đến thọ sanh trong các đường không phải
là loài người, cho
nên phàm
phu c̣n gọi là Dị Sanh. Thành Duy Thức Luận th́ cho rằng
Dị Sanh là v́ họ chẳng phải là thánh
nhân, cho nên gọi là Dị Sanh.