Nhân Vương Hộ Quốc Kinh Giảng Nghĩa

Viên Anh đại sư biên soạn

仁王護國經講義

圓瑛大師著

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

Phần 2

 

2.2.3. Phẩm thứ ba: Bồ Tát giáo hóa (Bồ Tát Giáo Hóa phẩm đệ tam, 菩薩教化品第三)

         

          Phẩm trước nói về thủ hộ Phật quả, phẩm này nói về thủ hộ hạnh Thập Địa, tức là [thủ hộ] hạnh tu tập của Bồ Tát. Bản dịch đời Đường ghi là phẩm Bồ Tát Hạnh, c̣n bản dịch này ghi là phẩm Bồ Tát Giáo Hóa. Bồ Tát cùng vận dụng trí và bi, nhiều lượt hưng khởi hai thứ lợi ích (tự lợi và lợi tha), dấy lên sự giáo hóa nhuyễn để độ chúng sanh như huyễn. Bồ Tát tu hành, nếu chỉ vận dụng Bi, sẽ là hạnh tùy tướng (hạnh phụ thuộc vào tướng). Nếu chỉ vận dụng Trí, sẽ là hạnh ly tướng. Nếu cùng vận dụng trí và bi, sẽ là hạnh vô trụ. Nay [phẩm này dạy về] hạnh vô trụ, suốt ngày giáo hóa chúng sanh, nhưng chẳng trụ vào tướng giáo hóa. Phẩm là Loại. Do pháp Ngũ Nhẫn có phẩm loại giống nhau, cho nên gọi là Phẩm. Trong ba phẩm thuộc phần Nội Hộ, phẩm này là phẩm thứ hai. Trong toàn bộ bản kinh, phẩm này là phẩm thứ ba.

 

          (Kinh) Bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Hộ Thập Địa hạnh Bồ Tát, vân hà hạnh khả hành? Vân hà hạnh hóa chúng sanh? Dĩ hà tướng chúng sanh khả hóa?

          ()白佛言:世尊!護十地行菩薩,云何行可行?云何行化眾生?以何相眾生可化?

    (Kinh: [Vua Ba Tư Nặc] bạch Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Bồ Tát thủ hộ hạnh Thập Địa, hăy nên hành hạnh như thế nào? Hạnh có thể hóa độ chúng sanh là như thế nào? Chúng sanh có tướng như thế nào th́ sẽ có thể hóa độ?)

 

          Đây là vua Nguyệt Quang hỏi câu thứ hai về nhân duyên thủ hộ hạnh Thập Địa. Bồ Tát là người có thể thủ hộ. Lời hỏi có ba ư:

          - Một, hỏi về hành tướng tự lợi. “Vân hà hạnh khả hành” tức là có thể nương theo hành pháp nào để tu hành, ḥng thành tựu hạnh Thập Địa?

          - Kế đó, hỏi về hành tướng lợi tha. “Vân hà hạnh hóa chúng sanh” tức là dùng các hạnh như thế nào để có thể giáo hóa chúng sanh, khiến cho họ đạt được lợi ích?

          - Ba, hỏi về tướng của chúng sanh được hóa độ. “Dĩ hà tướng chúng sanh khả hóa” tức là quan sát chúng sanh có tướng trạng như thế nào th́ sẽ là đương cơ?

          Dưới đây, đức Thế Tôn sẽ giải đáp, chỉ dạy từng điều.

 

          (Kinh) Phật ngôn: - Đại vương! Ngũ Nhẫn thị Bồ Tát pháp: Phục Nhẫn thượng, trung, hạ, Tín Nhẫn thượng, trung, hạ, Thuận Nhẫn thượng, trung, hạ, Vô Sanh Nhẫn thượng, trung, hạ, Tịch Diệt Nhẫn thượng, hạ; vi chư Phật Bồ Tát tu Bát Nhă Ba La Mật.

          ()佛言:大王!五忍是菩薩法:伏忍上中下,信忍上中下,順忍上中下,無生忍上中下,寂滅忍上下;為諸佛菩薩修般若波羅密。

          (Kinh: Đức Phật nói: - Này đại vương! Ngũ Nhẫn là pháp của Bồ Tát: Phục Nhẫn [gồm ba phẩm] thượng, trung, hạ, Tín Nhẫn thượng, trung, hạ, Thuận Nhẫn thượng, trung, hạ, Vô Sanh Nhẫn thượng, trung, hạ, Tịch Diệt Nhẫn thượng, hạ. Đó là chư Phật, Bồ Tát tu Bát Nhă Ba La Mật).

 

          Đây là đức Phật giải đáp câu hỏi thứ nhất. Trước hết, Ngài nói đại lược Ngũ Nhẫn chính là pháp để Bồ Tát tự hành. Sau đó, phân biệt mười bốn món Nhẫn, nhằm nêu rơ tướng trạng của các pháp do Bồ Tát tự hành. Mười bốn món Nhẫn đều nương vào Thật Tướng Bát Nhă để làm Thể. Thật Tướng vô tướng, không ǵ chẳng có tướng, do pháp vô vi mà có sai biệt.

          “Phục Nhẫn thượng, trung, hạ”: Địa vị Tam Hiền trước khi đắc Sơ Địa, tức là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, đều thuộc địa vị Phục Nhẫn. Do có trí có thể chế phục phiền năo, nhưng chỉ là chế phục, chưa đoạn, chẳng thể đích thân chứng Pháp Thân. Do vậy, gọi là Phục Nhẫn, chia thành thượng, trung, hạ: Thập Trụ là hạ nhẫn, Thập Hạnh là trung nhẫn, Thập Hồi Hướng là thượng nhẫn. Ví như trong một địa th́ có thỉ sanh, trụ sanh và chung sanh vậy.

          “Tín Nhẫn”: Sơ Địa, Nhị Địa, Tam Địa đắc vô lậu tín th́ gọi là Tín Nhẫn. Tứ Địa, Ngũ Địa, Lục Địa tùy thuận, hướng đến Vô Sanh, th́ gọi là Thuận Nhẫn. Thất Địa, Bát Địa, Cửu Địa, các niệm chẳng sanh, gọi là Vô Sanh Nhẫn. Mỗi Nhẫn lại đều có ba món Nhẫn thượng, trung, hạ. [Trong mỗi địa], địa vị đầu tiên là hạ, địa vị kế tiếp là trung, địa vị sau cùng là thượng. Môn thứ năm là Tịch Diệt Nhẫn chỉ có hai: Thập Địa là hạ nhẫn, Phật địa là thượng nhẫn. Sanh diệt đă diệt, tịch diệt hiện tiền, th́ gọi là Tịch Diệt Nhẫn. Đấy là nhân và quả nói gộp chung. Phẩm này thủ hộ cái nhân, chẳng phải là không có quả.

          “Danh vi chư Phật, Bồ Tát tu Bát Nhă Ba La Mật” (được gọi là chư Phật, Bồ Tát tu Bát Nhă Ba La Mật): Hết thảy chư Phật đều tu hạnh Ngũ Nhẫn này mà được thành Chánh Giác. Hết thảy Bồ Tát phải nên tu diệu hạnh Bát Nhă này để đạt đến bờ kia Niết Bàn.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Sơ phát tưởng tín, Hằng hà sa chúng sanh tu hành Phục Nhẫn, ư Tam Bảo trung, sanh Tập Chủng Tánh thập tâm: Tín tâm, tinh tấn tâm, niệm tâm, huệ tâm, định tâm, thí tâm, giới tâm, hộ tâm, nguyện tâm, hồi hướng tâm. Thị vi Bồ Tát năng thiểu phần hóa chúng sanh, dĩ siêu quá Nhị Thừa, nhất thiết thiện địa. Nhất thiết chư Phật, Bồ Tát trưởng dưỡng thập tâm, vi Thánh Thai dă.

          ()善男子,初發想信,恆河沙眾生,修行伏忍,於三寶中,生習種性十心:信心、精進心、念心、慧心、定心、施心、戒心、護心、願心、迴向心,是為菩薩能少分化眾生。已超過二乘,一切善地。一切諸佛菩薩,長養十心,為聖胎也。

    (Kinh: Thiện nam tử! Trước hết là phát khởi ư tưởng tin rằng chúng sanh nhiều như cát sông Hằng tu hành Phục Nhẫn, đối với Tam Bảo, sanh mười tâm Tập Chủng Tánh: Tín tâm, tinh tấn tâm, niệm tâm, huệ tâm, định tâm, thí tâm, giới tâm, hộ tâm, nguyện tâm, hồi hướng tâm. Đấy là Bồ Tát có thể giáo hóa chúng sanh ít phần, đă vượt khỏi Nhị Thừa và hết thảy thiện địa. Hết thảy chư Phật, Bồ Tát trưởng dưỡng mười tâm làm Thánh Thai).

 

          Đây là nói đến Tập Chủng Tánh của Hạ Phục Nhẫn. Sở dĩ nam tử được gọi là Thiện là do [người ấy] có thể nhập Tập Chủng Tánh, tu hành hạnh Thập Trụ. “Sơ phát tưởng tín” (mới phát ư tưởng tin rằng): C̣n thuộc Thập Tín, chưa nhập Thập Trụ, chưa từng kiến đạo, nhưng có thể nương theo Lư để khởi tưởng, cho nên gọi là “tưởng tín”. Tưởng tín nếu thành, liền nhập Thập Trụ.

          “Hằng hà sa chúng sanh, tu hành Phục Nhẫn” (Chúng sanh nhiều như cát sông Hằng tu hành Phục Nhẫn): Sánh ví chúng sanh có thể phát đại tâm tu hành đông đảo, nhưng phát tâm tuy nhiều, gặp duyên bèn trở thành lui sụt cũng nhiều. Như cây Am La (cây xoài) hoa nhiều, quả ít; như cá to mang trứng, trứng tuy vô lượng, nở thành con th́ ít. Kệ rằng: “Bồ Tát phát đại tâm, ngư tử, am la hoa; tam sự nhân trung đa, cập kỳ kết quả thiểu” (Bồ Tát phát đại tâm, trứng cá và hoa xoài, ba chuyện nhân th́ nhiều, kết thành quả ít ỏi).

          “Ư Tam Bảo trung, sanh Tập Chủng Tánh thập tâm” (đối với Tam Bảo, sanh mười tâm Tập Chủng Tánh): Trong Phục Nhẫn có ba phẩm; ở đây là nói về Hạ Phục Nhẫn (Thập Trụ). Đối với pháp chân tịnh của Tam Bảo, khởi tâm huân tập, dần dần hun đúc thành chủng tánh, dùng đó để tiến nhập tánh Phật đạo. Do vậy, gọi là Tập Chủng Tánh.

          Mười tâm:

          - Khéo tùy thuận Tam Bảo th́ gọi là tín tâm.

          - Chẳng lười nhác, lui sụt th́ là tinh tấn tâm.

          - Nhớ rơ chẳng quên là niệm tâm.

          - Kiến giải thù thắng, chẳng sai lầm là huệ tâm.

          - Một niệm bất động là định tâm.

          - Phá trừ keo tham là thí tâm.

          - Điều phục, thủ hộ tam nghiệp là giới tâm.

          - Thủ hộ Tam Bảo là hộ pháp tâm.

          - Thượng cầu hạ hóa là nguyện tâm.

          - Hồi hướng ba chỗ là hồi hướng tâm. “Ba chỗ” là chúng sanh, Chân Như và Phật quả.

          “Thị vi Bồ Tát năng thiểu phần hóa chúng sanh” (đó là Bồ Tát có thể hóa độ chúng sanh chút phần): Đây là nói đến công năng của Hạ Nhẫn. Trọn đủ mười tâm, được nhập Sơ Trụ, sẽ có thể phương tiện thiện xảo giáo hóa chúng sanh. Nói “thiểu phần” là do trí và bi chưa thù thắng. “Dĩ siêu quá Nhị Thừa” (Đă vượt xa Nhị Thừa): Do hàng Nhị Thừa chỉ mong riêng cầu tốt lành cho chính ḿnh, chưa có hạnh nguyện đại bi cứu đời. V́ thế, chẳng sánh bằng Bồ Tát thuộc Thập Trụ có thể hóa độ người khác.

          “Nhất thiết thiện địa” (hết thảy các địa vị tốt lành): Thập Tín gọi là Thiện. Kinh dạy: “Thập Thiện Bồ Tát phát đại tâm, trường biệt tam giới khổ luân hải” (Thập Thiện Bồ Tát phát đại tâm, măi măi giă biệt biển khổ trong tam giới). Hai chữ “siêu quá” trong câu trước cũng áp dụng cho “nhất thiết thiện địa”, ư nói “cũng siêu việt các địa vị Bồ Tát thuộc Thập Tín”.

          “Nhất thiết chư Phật, Bồ Tát trưởng dưỡng thập tâm vi Thánh Thai” (Hết thảy chư Phật, Bồ Tát trưởng dưỡng mười tâm làm Thánh Thai): Thập Trụ là khởi đầu của Tam Hiền, là cái nhân để thành Phật. Các địa vị thuộc Tam Hiền (Thập Trụ, Thập Hạnh. Thập Hồi Hướng) đều gọi là Thánh Thai. Hết thảy chư Phật, Bồ Tát trưởng dưỡng mười tâm, dùng đó làm Thánh Thai. Đă nói là “thai” th́ có nghĩa là thành tựu chủng tánh giác; sau đó, sẽ ngự lên Đại Giác.

 

          (Kinh) Thứ đệ khởi Càn Huệ, Tánh Chủng Tánh hữu thập tâm, sở vị tứ ư chỉ, thân, thọ, tâm, pháp, bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngă dă.

          ()次第起乾慧,性種性有十心。所謂四意止:身受心法,不淨苦無常無我也。

          (Kinh: Theo thứ tự khởi Càn Huệ, Tánh Chủng Tánh có mười tâm, tức là bốn sự ngưng dứt nơi ư đối với thân, thọ, tâm, pháp, tức bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngă).

 

          Đây là nói về Trung Phục Nhẫn. “Thứ đệ khởi Càn Huệ” (theo thứ tự khởi Càn Huệ): Dần dần tiến lên Thập Hạnh, do chẳng có Định thủy nhuần thấm cái tâm, Huệ khô khan, cho nên gọi là Càn Huệ. Tánh Chủng Tánh: Chữ Tánh đầu tiên chỉ cái tánh của những cái nhân đă tu tập từ trước, tạo thành tánh của các cái nhân ấy. Chủng tức là cái nhân. V́ thế nói là Chủng Tánh. Từ chữ “sở vị” (tức là nói) trở đi, nêu ra mười cái tâm.

          “Tứ ư chỉ” (bốn điều ngưng dứt nơi ư) chính là Tứ Niệm Xứ Quán, dùng Ư Căn để khởi Huệ Quán, khiến cho cái tâm ngưng trụ. “Thân, thọ, tâm, pháp” là cảnh được quán [bởi Tứ Niệm Xứ]. Chúng sanh đối với bốn cảnh ấy, dấy lên bốn thứ điên đảo. “Bất Tịnh v.v...” chính là những điều được thành tựu do công năng của Quán:

          - Một là quán thân bất tịnh, trừ chấp trước điên đảo “thân là tịnh”.

          - Hai, quán thọ (quán các cảm nhận) là khổ, trừ chấp trước điên đảo “khổ là lạc”.

          - Ba, quán tâm vô thường, trừ chấp trước điên đảo “vọng tâm là chân thường”.

          - Bốn, quán pháp vô ngă, trừ chấp trước điên đảo “Ngũ Ấm là Chân Ngă”.

 

          (Kinh) Tam ư chỉ: Tam thiện căn, Từ, Thí, Huệ dă. Tam ư chỉ, sở vị tam thế, quá khứ nhân nhẫn, hiện tại nhân quả nhẫn, vị lai quả nhẫn dă.

          ()三意止:三善根,慈施慧也。三意止,所謂三世,過去因忍,現在因果忍,未來果忍也。

          (Kinh: Ba điều ngưng dứt nơi ư là ba thiện căn, tức Từ, Thí, và Huệ. Ba điều ngưng dứt nơi ư là đối với ba đời, quá khứ nhân nhẫn, hiện tại nhân quả nhẫn, và vị lai quả nhẫn).

 

          “Tam ư chỉ” [trong đoạn này] có hai loại:

          - Một, [tam ư chỉ là] ba thiện căn: Thiện căn chẳng tham là Thí, thiện căn chẳng sân là Từ, thiện căn chẳng si là Huệ. Do vậy, giải thích [ba thiện căn] là Từ, Thí, Huệ.

          - Hai, tam thế nhẫn: Quán mười hai nhân duyên, hai chi trong quá khứ, tức Vô Minh và Hành, chính là Nhân Nhẫn. Đối với tám chi trong hiện tại, năm chi đầu là Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc và Thọ thuộc quả, ba chi sau tức Ái, Thủ, và Hữu thuộc về nhân; đó là Nhân Quả Nhẫn. Hai chi thuộc vị lai là Sanh và Lăo Tử chính là Quả Nhẫn.

 

          (Kinh) Thị Bồ Tát diệc năng hóa chúng sanh, dĩ năng quá ngă nhân, tri kiến, chúng sanh đẳng tưởng, cập ngoại đạo đảo tưởng sở bất năng hoại.

          ()是菩薩亦能化眾生,已能過我人知見眾生等想。及外道倒想所不能壞。

          (Kinh: Vị Bồ Tát ấy cũng có thể hóa độ chúng sanh, do đă có thể vượt khỏi các ư tưởng như “ta, người, tri kiến, chúng sanh” v.v… và chẳng bị phá hoại bởi các ư tưởng điên đảo của ngoại đạo).

 

          “Thị Bồ Tát diệc năng hóa chúng sanh” (vị Bồ Tát ấy cũng có thể giáo hóa chúng sanh): Đây chính là nói về công năng của Trung Phục Nhẫn. Quán Ngũ Ấm vô ngă th́ Ngă Kiến chẳng lập, Nhân Kiến cũng mất. Tri kiến nhân và ngă cùng mất, há có ư tưởng như chúng sanh v.v… nữa ư? V́ thế nói “dĩ năng quá ngă nhân tri kiến chúng sanh đẳng tưởng” (đă có thể vượt khỏi các suy tưởng về “ta, người, tri kiến, chúng sanh” v.v...) Có thể quán nhân quả ba đời là pháp sanh diệt, cho nên chẳng phải là Thường. Do tuần hoàn chẳng dứt, cho nên chẳng phải là Đoạn. Ngoại đạo chấp đoạn hoặc chấp thường, hai thứ vọng tưởng điên đảo ấy đều chẳng thể phá hoại [tri kiến chân chánh của người đă đắc Trung Phục Nhẫn].

 

          (Kinh) Phục hữu thập Đạo Chủng Tánh địa, sở vị quán Sắc, Thức, Tưởng, Thọ, Hành, đắc Giới Nhẫn, Tri Kiến Nhẫn, Định Nhẫn, Huệ Nhẫn, Giải Thoát Nhẫn. Quán tam giới nhân quả, Không Nhẫn, Vô Nguyện Nhẫn, Vô Tướng Nhẫn. Quán Nhị Đế hư thật, nhất thiết pháp vô thường, danh Vô Thường Nhẫn. Nhất thiết pháp không, đắc Vô Sanh Nhẫn. Thị Bồ Tát thập kiên tâm, tác Chuyển Luân Vương, diệc năng hóa tứ thiên hạ, sanh nhất thiết chúng sanh thiện căn.

          ()復有十道種性地。所謂觀色識想受行,得戒忍、知見忍、定忍、慧忍、解脫忍。觀三界因果,空忍、無願忍、無相忍。觀二諦虛實,一切法無常,名無常忍。一切法空,得無生忍。是菩薩十堅心。作轉輪王,亦能化四天下,生一切眾生善根。

    (Kinh: Lại có mười Đạo Chủng Tánh địa, tức là quán Sắc, Thức, Tưởng, Thọ, Hành, đắc Giới Nhẫn, Tri Kiến Nhẫn, Định Nhẫn, Huệ Nhẫn, Giải Thoát Nhẫn. Quán nhân quả trong tam giới, [đắc] Không Nhẫn, Vô Nguyện Nhẫn, Vô Tướng Nhẫn. Quán Nhị Đế hư thật, hết thảy các pháp vô thường, th́ gọi là Vô Thường Nhẫn. [Quán] hết thảy các pháp là Không, đắc Vô Sanh Nhẫn. Do mười kiên tâm của hàng Bồ Tát ấy làm Chuyển Luân Vương th́ cũng có thể hóa độ tứ thiên hạ, sanh thiện căn cho hết thảy chúng sanh).

 

          Đây là nói về Thượng Phục Nhẫn, “phục hữu thập Đạo Chủng Tánh địa” (lại có mười Đạo Chủng Tánh địa): “Đạo” là nói đến đạo b́nh đẳng của Sơ Địa. “Chủng” cũng là nhân, tức là mười kiên tâm ấy có thể làm nhân tánh cho B́nh Đẳng Đạo. V́ thế nói là Đạo Chủng Tánh Địa, tu hành Thập Hồi Hướng. Từ chữ “sở vị” trở đi, nêu ra mười tâm.

          “Sở vị quán Sắc, Thức, Tưởng, Thọ, Hành” (Tức là quán Sắc, Thức, Tưởng, Thọ, Hành): Đó chính là liệt kê Ngũ Ấm là pháp được quán. Sau Sắc, liệt kê Thức trước, v́ bốn Ấm [thuộc tâm pháp] đều lấy Thức làm chủ. “Đắc Giới Nhẫn…” nghĩa là cái trí có thể quán (năng quán trí) chuyển Ngũ Ấm thành ngũ phần Pháp Thân. Do quán Sắc Ấm, liền đắc Giới Nhẫn, do Tác và Vô Tác Giới đều thuộc về Sắc Ấm. Quán Thức Ấm liền đắc Tri Kiến Nhẫn, do tri kiến đều thuộc về Thức Ấm. Quán Tưởng Ấm, liền đắc Định Nhẫn; v́ Định do Tưởng Tâm th́ sẽ chẳng được. Quán Thọ Ấm liền đắc Huệ Nhẫn, do lănh nạp cảnh giới, huệ chiếu phân minh, biết rơ là như huyễn. Quán Hành Ấm, liền đắc Giải Thoát Nhẫn, do đổi dời trong mỗi niệm, biết rơ vô thường sanh diệt mà đắc giải thoát.

          Từ “quán tam giới” trở đi, nói về ba môn Không Nhẫn. Tam giới là chỗ chúng sanh nương ở. “Nhân” là nghiệp nhân, “quả” là quả báo. Nghiệp nhân và quả báo thiện ác trong tam giới của Bồ Tát đều do nương vào vọng hoặc (phiền năo hoặc vô minh hư vọng) mà tạo tác vọng nghiệp, chuốc lấy vọng báo (quả báo hư vọng). Vọng chẳng có tự thể. Quán khổ nhân (cái nhân tạo ra khổ) là Không, Biến Kế (t́nh kiến hư vọng so đo, chấp trước các pháp) vốn là Không, [do vậy], đắc Không Nhẫn. Quán khổ quả là Không, Y Tha[1] như huyễn, đắc Vô Nguyện Nhẫn. Chẳng mong tiếp nhận quả báo hữu lậu, quán nhân quả là Không, đắc Vô Tướng Nhẫn. Do pháp thượng hạ trong tam giới rốt ráo đều là Không; do Không nên vô tướng. Điều này chẳng giống với cái Không do phủ nhận nhân quả của ngoại đạo.

          “Quán Nhị Đế hư thật”: Quán Tục Đế là hư, hết thảy các pháp hữu vi đổi dời, chẳng trụ, rốt ráo vô thường, liền đắc Vô Thường Nhẫn. Quán Chân Đế là thật, hết thảy tất cả các pháp đều lặng lẽ không tịch, Thể của chúng chẳng sanh diệt, bèn đắc Vô Sanh Nhẫn.

          “Thị Bồ Tát thập kiên tâm” (mười kiên tâm ấy của Bồ Tát): KiênKiên Nhẫn, tức là mười món Nhẫn trên đây, trên là thuộc về tự lợi, dưới thuộc về lợi tha. “Tác Chuyển Luân Vương” (làm Chuyển Luân Vương) tức là Kim Luân Vương, có bảy báu tùy thân, cho nên [nhà vua] có thể hóa độ tứ thiên hạ. [Vua ngự] tại Nam Thiệm Bộ Châu, thống lănh ba châu kia, có thể sanh thiện căn cho hết thảy chúng sanh.

 

          (Kinh) Hựu Tín Nhẫn Bồ Tát sở vị thiện, đạt, minh, trung hành giả, đoạn tam giới Sắc phiền năo phược, năng hóa bách Phật, thiên Phật, vạn Phật quốc trung, hiện bách thân, thiên thân, vạn thân, thần thông, vô lượng công đức.

          ()又信忍菩薩。所謂善、達、明、中行者,斷三界色煩惱縛。能化百佛千佛萬佛國中現百身千身萬身。神通、無量功德。

          (Kinh: Lại nữa, Tín Nhẫn Bồ Tát, tức là nói đến các hành giả [đạt được] Thiện [Giác Nhẫn], Đạt [Quán Nhẫn], Minh [Huệ Nhẫn], nương theo Trung Đạo tu tập, đoạn trừ sự trói buộc của Sắc phiền năo trong tam giới, có thể hóa độ trong một trăm, một ngàn, một vạn cơi Phật, hiện trăm thân, ngàn thân, vạn thân, thần thông, vô lượng công đức).

 

          Đây là nói tới loại Nhẫn thứ hai, tức Tín Nhẫn trong Ngũ Nhẫn. Tín có ba loại:

          - Một, Tưởng Tín, tức Thập Tín của Bồ Tát, [có tín tâm] nhẹ như mảy lông.

          - Hai, Cửu Tín (久信, tin đă lâu), tức là Tam Hiền Bồ Tát (Bồ Tát thuộc Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng).

          - Ba, Chứng Tín, tức là Sơ Địa, Nhị Địa và Tam Địa Bồ Tát.

          Ở đây nói về loại thứ ba, tương ứng với lư Trung Đạo Pháp Thân của Chứng Tín. [Trong đoạn kinh văn này], câu đầu tiên nhằm nêu ra danh xưng. Môn Nhẫn này có ba địa vị. Hai chữ “sở vị” là từ ngữ [nhằm dẫn khởi lời] giải thích. Thiện chính là Thiện Giác Nhẫn, do Sơ Địa khéo nhận biết hai thứ nhân và pháp đều không tịch. Đạt tức là Đạt Quán Nhẫn, do Nhị Địa quán sát Chân và Tục, thông đạt vô ngại. Minh tức là Minh Huệ Nhẫn, do quang minh trí huệ của Tam Địa chiếu vào các pháp. “Trung hành giả” là người nương vào Trung Đạo để tu hành.

          “Đoạn tam giới Sắc phiền năo phược” (Đoạn các trói buộc của Sắc phiền năo trong tam giới) chính là nói đến sự ĺa chướng. Do Sơ Địa đoạn tham phiền năo, Nhị Địa đoạn sân phiền năo, Tam Địa đoạn si phiền năo. Ba loại phiền năo ấy duyên theo Sắc cảnh mà dấy lên, [khiến cho chúng sanh] chẳng được tự tại, bèn gọi là Phược (, trói buộc). Bồ Tát thuộc Sơ Địa, Nhị Địa, Tam Địa quán Sắc Đế vô tướng, chẳng chấp trước Sắc pháp, cho nên đoạn được Sắc phược (sự trói buộc bởi Sắc), nhưng không ǵ chẳng phải là quán Tâm Đế (心諦) vô sanh, chỉ là nói theo phương diện đoạn những ǵ thô và rơ ràng trước đó thôi!

          “Năng hóa bách Phật…” nói lên tác dụng nhiếp hóa mạnh mẽ. Theo phần Nhiếp Báo Quả trong Địa Luận (Thập Địa Kinh Luận), Sơ Địa có thể hóa độ trong một trăm cơi Phật, Nhị Địa có thể hóa độ một ngàn cơi Phật, Tam Địa hóa độ một vạn Phật cơi Phật. Hiện thân cũng thế. Thần thông biến hóa, lợi ích chúng sanh, công đức vô lượng.

         

          (Kinh) Thường dĩ thập ngũ tâm vi thủ, Tứ Nhiếp Pháp, Tứ Vô Lượng Tâm, Tứ Hoằng Nguyện, tam giải thoát môn, thị Bồ Tát tùng thiện địa chí ư Tát Bà Nhă. Dĩ thử thập ngũ tâm vi nhất thiết hạnh căn bản chủng tử.

          ()常以十五心為首:四攝法、四無量心、四弘願、三解脫門,是菩薩從善地至於薩婆若,以此十五心為一切行根本種子。

          (Kinh: Thường dùng mười lăm tâm làm đầu, tức Tứ Nhiếp Pháp, Tứ Vô Lượng Tâm, Tứ Hoằng Nguyện, và ba giải thoát môn, tức là Bồ Tát từ địa vị Thiện Giác Nhẫn cho đến Tát Bà Nhă, dùng mười lăm tâm này để làm chủng tử căn bản cho hết thảy các hạnh).

 

          Đây là nói đến hạnh thù thắng. Câu đầu tiên nêu chung mười lăm tâm, kế đó là liệt kê từng tâm. [Mười lăm tâm ấy bao gồm]:

          a) Tứ Nhiếp Pháp: Dùng bốn pháp để nhiếp hóa chúng sanh:

          - Một, bố thí: Chẳng ra ngoài ba loại là Tài, Pháp, và Vô Úy, nhiếp thọ chúng sanh khiến cho họ hoan hỷ, sanh tín tâm.

          - Hai, ái ngữ: Khéo nói khuyến hóa, nhiếp thọ chúng sanh, khiến cho họ vui sướng, tuân phục, sanh giải.

          - Ba, lợi hành: Hành hạnh lợi ích, nhiếp thọ chúng sanh, khiến cho họ khởi lên cái nhân [tu hành].

          - Bốn, đồng sự: Dùng thân biến hóa vào trong các đường, có cùng sự nghiệp với họ để nhiếp thọ, khiến cho họ tiếp nhận giáo hóa.

          b) Tứ Vô Lượng Tâm: Từ là ban vui, Bi có thể dẹp khổ, Hỷ là tùy hỷ công đức, Xả là ĺa bỏ các ác. Mỗi mỗi đều rộng lớn b́nh đẳng; v́ thế gọi là Vô Lượng.

          c) Tứ Hoằng Thệ Nguyện: Tự lợi và lợi tha.

          - Do thấy chúng sanh vô biên, chưa vượt thoát Khổ Đế, cho nên phát hoằng nguyện độ trọn hết chúng sanh.

          - Do thấy phiền năo vô tận, lớp lang rành rẽ, cho nên phát hoằng nguyện đoạn hết sạch phiền năo.

          - Do thấy pháp môn vô lượng có thể thích ứng cho các căn cơ, cho nên phát hoằng nguyện, học trọn khắp các pháp môn.

          - Do thấy Phật đạo vô thượng, phước huệ viên măn, cho nên phát hoằng nguyện, tâm thành Phật đạo.

          Nguyện thứ nhất thuộc về hạ hóa (dưới là hóa độ chúng sanh), nguyện thứ tư thuộc thượng cầu (trên là cầu Phật đạo); hai nguyện ba và hai nhằm thông trên lẫn dưới. Chẳng học pháp môn, sẽ khó đoạn phiền năo. Phiền năo chưa đoạn, tự cứu c̣n chẳng được, sao có thể độ sanh? Pháp môn chưa học, phiền năo chẳng đoạn, Phật đạo sẽ do đâu mà thành? Bồ Tát cùng phát bốn hoằng nguyện, hai thứ lợi (tự lợi và lợi tha) được hưng khởi tràn trề.

          d) “Tam giải thoát môn” tức là vô lậu tam-muội. Ĺa trói buộc th́ gọi là “giải thoát”. Có thể thông tới Niết Bàn, cho nên gọi là “môn”.

          - Một, Không giải thoát môn: Do quán các pháp vốn là Không.

          - Hai, Vô Tướng giải thoát môn: Do là Không, chẳng thấy tướng của các pháp.

          - Ba, Vô Nguyện giải thoát môn, do vô tướng, cho nên chẳng có mong cầu!

          Từ chữ “Bồ Tát” trở đi, [kinh văn] nêu rơ công năng của Nhẫn. Khởi đầu từ địa vị Thiện Giác Nhẫn cho tới biển Tát Bà Nhă của Như Lai, đều dùng mười lăm tâm này làm chủng tử căn bản, các địa đều chẳng thể ĺa khỏi các tâm này.

 

          (Kinh) Hựu Thuận Nhẫn Bồ Tát, sở vị Kiến, Thắng, Hiện Pháp, năng đoạn tam giới tâm đẳng phiền năo phược, cố hiện nhất thân ư thập phương Phật quốc trung, vô lượng bất khả thuyết thần thông hóa chúng sanh.

          ()又順忍菩薩。所謂見、勝、現法,能斷三界心等煩惱縛,故現一身於十方佛國中,無量不可說神通化眾生。

          (Kinh: Lại nữa, Thuận Nhẫn Bồ Tát, tức là nói [ba địa vị gồm] Kiến, Thắng, Hiện Pháp, có thể đoạn sự trói buộc do phiền năo nơi tâm v.v… trong tam giới, cho nên một thân mà hiện trong mười phương cơi Phật, dùng vô lượng chẳng thể nói thần thông để hóa độ chúng sanh).

 

          Đây là nói đến loại thứ ba trong Ngũ Nhẫn, tức Thuận Nhẫn. Thuận hướng đến Vô Sanh Nhẫn Quán, nhưng chưa thật sự đạt được, cho nên gọi là Thuận Nhẫn. Môn Nhẫn này có ba địa vị là Kiến, Thắng và Hiện Pháp:

          - Kiến tức là huệ kiến phân minh (do trí huệ mà thấy rành rẽ) chính là địa thứ tư [trong Thập Địa], tức Diễm Huệ Địa. Kinh văn trong phần sau [gọi môn Nhẫn này] là Diễm Huệ Nhẫn.

          - Thắng có nghĩa là hai thứ thù thắng, tức một là giáo hóa chúng sanh, hai là chẳng thuận theo phiền năo. Đấy chính là địa thứ năm, tức Nan Thắng Địa. Trong kinh văn ở phần sau, môn này được gọi là Thắng Huệ Nhẫn.

          - Hiện Pháp chính là nhân duyên quán giải hiện tiền, chính là địa thứ sáu, tức Hiện Tiền Địa. Trong kinh văn thuộc phần sau, [môn Nhẫn này] được gọi là Hiện Pháp Nhẫn.

          “Năng đoạn tam giới tâm đẳng phiền năo phược cố” (do có thể đoạn các trói buộc v́ phiền năo thuộc tâm v.v… trong tam giới): Nói về sự ĺa chướng. Ba địa vị ấy có thể quán Tâm Đế trong tam giới vốn là chẳng thể được. Biết tâm vô sanh, chẳng giữ lấy tâm tướng, cho nên có thể đoạn mê tâm phiền năo (phiền năo khiến cho cái tâm mê muội). Chẳng bị phiền năo thuộc về tâm v.v… trói buộc, mà được tự tại. “Nhiên phi bất quán Sắc Đế vô tướng” (nhưng chẳng phải là không quán Sắc Đế vô tướng): Nay tuy nhiều phương diện, chỉ nói đến chuyện đoạn sự trói buộc bởi các phiền năo thuộc về tâm v.v…

          “Hiện nhất thân ư thập phương Phật quốc trung” (hiện một thân trong mười phương cơi Phật): Đây là nói đến tác dụng nhiếp hóa to lớn, có hai cách hiểu:

          - Một, mười phương Phật quốc th́ nhiều, mà nói “hiện một thân”, tức là chẳng phân thân, nhưng một thân hiện trọn khắp, đối với muôn căn cơ đều cảm ứng, chẳng trái nghịch, có vô lượng chẳng thể nói diệu dụng thần thông để giáo hóa chúng sanh.

          - Hai, nương theo Nhiếp Quả Báo được nói trong Địa Luận, Diễm Huệ Địa Bồ Tát có thể hiện một ức thân Phật, có thể hóa độ chúng sanh trong một ức Phật quốc. Nan Thắng Địa có thể hiện ngàn ức thân hóa độ chúng sanh trong ngàn ức thế giới. Hiện Tiền Địa có thể hiện trăm ngàn ức thân hóa độ chúng sanh trong trăm ngàn ức thế giới. Dựa trên số thân và số quốc độ giống nhau, [có thể suy ra], trong mỗi một cơi Phật khắp mười phương, đều hiện một thân, [sử dụng] vô lượng chẳng thể nói thần thông biến hóa để lợi lạc chúng sanh.

 

          (Kinh) Hựu Vô Sanh Nhẫn Bồ Tát, sở vị Viễn, Bất Động, Quán Huệ, diệc đoạn tam giới tâm sắc đẳng tập phiền năo cố, hiện bất khả thuyết bất khả thuyết công đức thần thông.

          ()又無生忍菩薩。所謂遠、不動、觀慧,亦斷三界心色等習煩惱故,現不可說不可說功德神通。

          (Kinh: Lại nữa, Vô Sanh Nhẫn Bồ Tát chính là [hàng Bồ Tát thuộc các địa vị] Viễn Hành [Địa], Bất Động [Địa], Quán Huệ [Địa], do cũng đoạn các tập phiền năo thuộc về sắc, tâm v.v… trong tam giới, bèn hiện bất khả thuyết bất khả thuyết công đức thần thông).

 

          Đây là nói tới loại Nhẫn thứ tư, tức Vô Sanh Nhẫn trong Ngũ Nhẫn. Câu đầu tiên nêu ra danh xưng. Vô Sanh Nhẫn: Đối với trong ngoài tam giới, chẳng thấy có chút pháp sanh, chẳng thấy có chút pháp diệt, đích thân chứng lư “pháp tánh vô sanh”. Nói thông thường, sẽ là Sơ Địa đắc Vô Sanh Nhẫn, nhưng thật ra, Bát Địa mới thật sự đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Môn Nhẫn này có ba địa vị, tức là Viễn, Bất Động và Huệ Quán:

          - Viễn chính là địa vị thứ bảy, tức Viễn Hành Địa. Kinh văn trong phần sau gọi môn Nhẫn này là Viễn Đạt Nhẫn, do có thể đạt tới [các địa vị] sau khi đă đắc hữu công dụng tâm.

          - Bất Động chính là địa vị thứ tám, tức Bất Động Địa. Trong phần sau, [môn Nhẫn này được] gọi là Đẳng Giác Nhẫn, do có tướng trạng phiền năo chẳng thể lay động, thật sự là vô công dụng đạo.

          - Quán Huệ chính là địa vị thứ chín, tức Thiện Huệ Địa. Trong phần sau, [môn Nhẫn này được] gọi là Huệ Quang Nhẫn, v́ thành tựu diệu huệ, khéo nói các pháp.

          “Diệc đoạn tam giới tâm sắc đẳng tập phiền năo cố” (Do cũng đoạn các tập phiền năo thuộc về tâm, sắc v.v… trong tam giới): Đây là nói về sự đối trị chướng. Thất Địa đoạn nghiệp quả vi tế hiện hành. Bát Địa đoạn các công dụng. Cửu Địa đoạn chướng ngại “chẳng thực hiện hạnh lợi tha”. Nói “sắc tâm đẳng tập phiền năo” th́ trong phần trước, đoạn trừ hai món chánh sử Sắc và Tâm hiện hành, đó là thô phiền năo. Nay th́ đoạn các tập khí chủng tử c̣n sót lại của sắc tâm, tức là vi tế phiền năo, cho nên thêm vào tập tử (chủng tử của tập khí). Đó có nghĩa là chánh (chánh sử phiền năo) lẫn tập (tập khí) đều trừ.

          Từ “hiện bất khả thuyết” trở đi, nêu ra tác dụng nhiếp hóa to lớn. Nói lập lại Bất Khả Thuyết [hai lần], th́ đấy chính là một trong mười con số cực lớn ở Tây Vực, nhằm diễn đạt số lượng nhiều cùng cực. Hơn nữa, Bất Khả Thuyết có nghĩa là dù vận dụng công đức và thần thông, đều chẳng thể nói trọn hết được! Lại dựa theo Nhiếp Quả Báo trong Địa Luận [để biện định] th́ Thất Địa hiện trăm ngàn ức na-do-tha thân, hóa sanh cũng thế. Bát Địa hiện trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới vi trần số thân (thân nhiều bằng số lượng vi trần trong một tam thiên đại thiên thế giới), hóa sanh cũng thế. Cửu Địa hiện mười A-tăng-kỳ bách thiên Phật sát vi trần số thân (số lượng thân nhiều bằng số lượng vi trần trong mười A-tăng-kỳ trăm ngàn thế giới Phật), hóa sanh cũng thế.

 

          (Kinh) Phục thứ Tịch Diệt Nhẫn, Phật dữ Bồ Tát đồng dụng thử Nhẫn nhập Kim Cang tam-muội, hạ nhẫn trung hành, danh vi Bồ Tát, thượng nhẫn trung hành danh vi Tát Bà Nhă.

   ()復次寂滅忍。佛與菩薩同用此忍入金剛三昧。下忍中行,名為菩薩。上忍中行,名為薩婆若。

   (Kinh: Lại nữa, đối với Tịch Diệt Nhẫn, Phật và Bồ Tát cùng dùng môn Nhẫn này để nhập Kim Cang tam-muội, người hành HNhẫn th́ gọi là Bồ Tát, người hành Thượng Nhẫn th́ gọi là Tát Bà Nhă).

 

          Đây là môn Nhẫn thứ năm trong Ngũ Nhẫn, tức Tịch Diệt Nhẫn. Kinh Niết Bàn dạy: “Tịch diệt giả, danh vi nhất tâm” (Tịch diệt là nhất tâm). Bốn môn Nhẫn trước (Phục Nhẫn, Tín Nhẫn, Thuận Nhẫn, Vô Sanh Nhẫn) chưa cùng tận nguồn tâm, nay trong môn Nhẫn này, sắc, tâm, chánh, tập đều vắng lặng, ḥa hợp thức tướng cũng diệt. Lại c̣n ngũ trụ phiền năo đă vắng lặng, hai loại sanh tử đă diệt, cho nên gọi là Tịch Diệt Nhẫn. Môn Nhẫn này chỉ có hai phẩm là thượng và hạ, Thập Địa Bồ Tát và Phật cùng sử dụng. Môn Nhẫn này khác với các kinh khác; các kinh khác coi Thập Địa là hạ nhẫn, Đẳng Giác là trung nhẫn, Diệu Giác là thượng nhẫn.

          “Nhập Kim Cang tam-muội” chính là Bồ Tát thuộc địa vị thứ mười, tức Pháp Vân Địa, nhập Kim Cang Quán Trí, phá một phẩm sanh tướng vô minh tối sơ. Do trí lực ấy kiên cường, bèn ví như Kim Cang. Tam-muội là định. Vị Bồ Tát này Định và Huệ cân bằng, đoạn trừ chướng ngại “chẳng được tự tại trong các pháp”, là vô ngại đạo. Hễ c̣n thuộc vào địa vị tu nhân th́ đều là hạnh thuộc Hạ Nhẫn. Nương theo Nhiếp Báo Quả của Địa Luận [để luận định], hàng Bồ Tát đắc môn Nhẫn này sẽ đắc các tam-muội nhiều như số vi trần trong mười bất khả thuyết cơi Phật.

          “Thượng Nhẫn trung hành” (hành nơi Thượng Nhẫn) tức là trong sát-na tối hậu, Hoặc tận, trí viên măn. “Vi giải thoát đạo” (là đạo giải thoát): Thuộc về quả vị, đắc Nhất Thiết Trí, được gọi là Tát Bà Nhă, tức là tên gọi khác của Phật quả.

 

          (Kinh) Cộng quán Đệ Nhất Nghĩa Đế, đoạn tam giới tâm tập vô minh, tận tướng vi Kim Cang, tận tướng vô tướng vi Tát Bà Nhă.

   ()共觀第一義諦,斷三界心習無明。盡相為金剛,盡相無相為薩婆若。

          (Kinh: Cùng quán Đệ Nhất Nghĩa Đế, đoạn tập khí vô minh thuộc cái tâm tam giới. Hết sạch tướng th́ là Kim Cang. Hết sạch tướng vô tướng th́ là Tát Bà Nhă).

 

          “Cộng quán Đệ Nhất Nghĩa Đế” (cùng quán Đệ Nhất Nghĩa Đế) nói về sự trừ chướng. Địa vị thứ mười là Pháp Vân Địa, hành Tịch Diệt Nhẫn bậc hạ, cùng với Tịch Diệt Nhẫn bậc thượng thuộc địa vị Phật đều cùng quán nhất Phật thừa tối thượng, Đệ Nhất Nghĩa Đế và lư Trung Đạo nhất tâm, tức là như kinh Lăng Nghiêm đă nói: “Nhất Thừa tịch diệt tràng địa, năi chúng sanh bổn cụ Phật tánh, vạn vọng bổn không, Nhất Chân thanh tịnh” (Chốn đạo tràng tịch diệt Nhất Thừa chính là Phật tánh mà chúng sanh vốn sẵn có. Muôn điều hư vọng vốn là Không, Nhất Chân thanh tịnh). Từ trước tới nay, chưa từng lay động mảy may, nơi phàm chẳng giảm, nơi thánh chẳng tăng, thường trụ diệu minh, bất sanh, bất diệt, đó là “tịch diệt tràng địa”. Nay từ phàm phu địa tu chứng đến tận địa vị này, chính là địa vị rốt ráo của Bồ Tát, sẽ cùng với Như Lai quả địa đồng quán lư này.

          “Đoạn tam giới tâm tập vô minh”: “Tam giới” ở đây chỉ hai loại tam giới là Phần Đoạn và Biến Dịch. Vô Sanh Nhẫn thuộc phần trước th́ cùng đoạn tập khí thuộc phần thô nơi sắc và tâm, c̣n ở đây (Tịch Diệt Nhẫn) th́ đoạn tập khí vi tế thuộc tâm pháp, tức là một niệm tối sơ, tức độc đầu sanh tướng vô minh.

          “Độc đầu sanh tướng”: Bỗng dưng đột nhiên dấy lên Hoặc tướng hư vọng. Luận Khởi Tín nói: “Do chẳng như thật biết pháp Chân Như là một, cái tâm bất giác dấy lên, mà có cái niệm ấy”. Niệm ấy chính là vi tế tâm tập (tập khí vi tế nơi tâm). Lại nói là “vô thỉ vô minh”. Hết thảy các pháp hữu vi do nhân duyên mà sanh. Cái quả trong hiện đời do cái nhân trong đời trước mà sanh. Cái quả trong đời trước lại do cái nhân trong đời trước nữa sanh ra. Chỉ có Vô Minh này không có nhân mà sanh, nó là căn bản của hết thảy các Hoặc. Trước cái vô minh ấy, sẽ chẳng có Hoặc pháp khởi đầu, cho nên gọi là “vô thỉ”.

          Vô minh chia ra thành Căn Bản và Chi Mạt. Chi Mạt vô minh (vô minh cành nhánh) từ Căn Bản vô minh mà dấy lên, đó là thô tướng. Căn Bản vô minh nương vào Chân Như mà sanh; đó là tế tướng. Chân Như chẳng thật sự có sanh, vô duyên cớ mà hư vọng dấy lên [vô minh]. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đă đáp lời hỏi của ngài Phú Lâu Na như sau: “Vô minh vô nhân. Thí như thành trung Diễn Nhă Đạt Đa (tên người, dịch sang tiếng Hán là Từ Thọ), thần triêu dĩ kính chiếu diện, ái kính trung đầu, mi mục khả kiến. Sân trách kỷ đầu, bất kiến diện mục, dĩ vi si mỵ, vô trạng cuồng tẩu, đáo xứ mịch đầu, cuồng bố vọng xuất, thật vô sở nhân” (Vô minh chẳng có nhân. Ví như chàng Diễn Nhă Đạt Đa (Yajñadatta) trong thành, buổi sáng dùng gương soi mặt, yêu mến cái đầu [hiện bóng] trong gương, [v́] thấy lông mày và mắt rơ ràng, liền tức giận với cái đầu của chính ḿnh, [v́ tự nó] chẳng thấy được diện mạo, cho đó là yêu quái, vô cớ chạy cuồng, t́m cái đầu khắp nơi, điên cuồng, hoảng sợ, chạy quàng, thật sự chẳng có nguyên nhân).

          “Tâm tập vô minh” chính là sanh, trụ, dị, diệt (sanh ra, duy tŕ, biến đổi, diệt mất). Trong bốn thứ tâm nằm mộng, nó thuộc về sanh tướng vô minh. Sanh là khởi lên đầu tiên, Diệt là trừ mất cuối cùng. Từ địa vị phàm phu, hoặc nghe kinh giáo của Như Lai, hoặc nghe tri thức khai thị, hướng dẫn, biết rơ chúng sanh vốn sẵn có Phật tánh, từ cái Thể của Bổn Giác, dấy lên trí Thỉ Giác. Thỉ Giác vốn thoạt đầu bất giác, do nghe giáo pháp mới bắt đầu giác ngộ, cho nên gọi là Thỉ Giác. Nương theo trí Thỉ Giác, đoạn vô minh Hoặc, từ thô hướng tới tế. Luận Khởi Tín chia thành bốn tướng là sanh, trụ, dị, diệt. Tông Thiên Thai chia thành Ngũ Trụ Địa Hoặc: Kiến Hoặc là một trụ, Tư Hoặc gồm ba trụ, Trần Sa và Vô Minh gộp thành một. Lại dựa theo địa vị mà chia Vô Minh thành bốn mươi hai phẩm. Trong đó, hai phẩm bốn mươi mốt và phẩm bốn mươi hai tột bậc vi tế, khó phá nhất. Cần phải nhập Kim Cang tam-muội, có sức quán trí Kim Cang, th́ mới có thể đoạn trừ. Kim Cang quán trí là chủ thể có thể đoạn (năng đoạn), vô minh tâm tập là cái được đoạn (sở đoạn).

          “Tận tướng vi Kim Cang, tận tướng vô tướng vi Tát Bà Nhă” (hết sạch tướng th́ là kim cang, hết sạch tướng vô tướng th́ là Tát Bà Nhă): Đây là nói tới vô ngại đạo và giải thoát đạo. “Nhân quả sai biệt chi tướng diệt tận tướng” (đối với tướng nhân quả sai biệt, bèn diệt sạch hết các tướng): Chỉ tận trừ tướng thô và tế của sắc tâm, địa vị tu nhân đă đạt tới cùng cực, phá thức tướng ḥa hợp, diệt trừ tướng của cái tâm tiếp nối. Sanh đă diệt th́ là Kim Cang hậu tâm, tức là tướng đoạn Hoặc trong vô ngại đạo, chẳng phải là tướng chứng quả nơi địa vị Phật. Cái nhân ấy khác với quả, do vậy gọi là Kim Cang. “Tận tướng vô tướng”: Không chỉ là có thể tận trừ Hoặc tướng, mà ngay cả cái tướng hết [các Hoặc] ấy cũng chẳng có. Đó gọi là “duyên quán tịnh minh, cảnh trí câu mẫn, tịch diệt hiện tiền” (duyên và quán cùng ngầm khế hợp, cảnh lẫn trí đều diệt, tịch diệt hiện tiền). Đó là tướng chứng quả trong giải thoát đạo. Quả ấy khác với nhân, cho nên là Tát Bà Nhă, đắc Nhất Thiết Trí.

 

          (Kinh) Siêu độ Thế Đế, Đệ Nhất Nghĩa Đế chi ngoại, vi Đệ Thập Nhất Địa Tát Vân Nhă giác, phi hữu, phi vô, trạm nhiên, thanh tịnh, thường trụ bất biến, đồng Chân Tế, đẳng pháp tánh.

          ()超度世諦第一義諦之外,為第十一地薩若覺。非有非無,湛然清淨,常住不變,同真際,等法性。

          (Kinh: Vượt ra ngoài Thế Đế và Đệ Nhất Nghĩa Đế th́ là Tát Vân Nhă giác của địa vị thứ mười một, chẳng có, chẳng không, lặng trong, thanh tịnh, thường trụ bất biến, giống như Chân Tế, bằng với pháp tánh).

 

          Phật thấu hiểu cùng tột nguồn cội của nhất tâm, viên măn Bồ Đề, trở về chỗ “không có ǵ để đạt được”. Trước đó, Tam Hiền phần nhiều trụ trong Thế Đế, Thập Thánh (các địa Bồ Tát trong Thập Địa) phần nhiều trụ vào Đệ Nhất Nghĩa Đế. Phật siêu việt Tam Hiền, Thập Thánh, trụ trong Đệ Thập Nhất Địa, thành vị Phật Nhất Thiết Chủng Trí.

          Hỏi: Tát Vân Nhă khác với Tát Bà Nhă trong phần trước như thế nào?

          Đáp: Vấn: [Có hai cách giải thích]:

          - Một, [cả hai từ ngữ ấy] là một, chỉ là phiên âm tiếng Phạn[2] sai khác, [chứ ư nghĩa] trọn chẳng khác nhau.

          - Hai, Tát Bà Nhă là Nhất Thiết Trí. Tát Vân Nhă là Nhất Thiết Chủng Trí.

          “Phi hữu, phi vô” (chẳng phải có, chẳng phải không): Thế Đế là có, Chân Đế là vô. Do vượt ngoài Thế Đế, cho nên là phi hữu. Do vượt ngoài Chân Đế, cho nên là phi vô. Hơn nữa, Phật quả vô học tuyệt tướng, cho nên là phi hữu. Do trọn đủ vạn đức, nên là phi vô.

          Bốn câu “trạm nhiên, thanh tịnh” [ư nói]: Do lặng trong viên măn, cho nên ĺa cấu, thanh tịnh. Pháp Thân tuyệt diệu, thường trụ bất biến cho đến tận cùng đời vị lai, lợi lạc chúng sanh, tương đồng với Chân Như Thật Tế, bằng với pháp tánh chân không.

 

          (Kinh) Vô duyên đại bi, giáo hóa nhất thiết chúng sanh. Thừa Tát Bà Nhă thừa, lai hóa tam giới.

          ()無緣大悲,教化一切眾生。乘薩婆若乘,來化三界。

          (Kinh: Vô duyên đại bi, giáo hóa hết thảy chúng sanh, ngồi cỗ xe Tát Bà Nhă đến giáo hóa tam giới).

 

          Đây là nói tới tác dụng to lớn. Bi có ba loại: Sanh duyên bi, pháp duyên bi, và vô duyên bi. “Vô duyên” là chẳng duyên theo giả danh chúng sanh, chẳng duyên theo Ngũ Ấm, hay pháp tánh, tùy ư lợi sanh, không duyên theo, chẳng suy tưởng. Vô Duyên Bi th́ không ǵ chẳng duyên. V́ thế, ḷng Bi ấy được gọi là Đại. Bi có thể dẹp khổ; muốn dẹp trừ nỗi khổ của chúng sanh th́ cần phải giáo hóa cái tâm của họ [trở thành tốt lành]. Tâm đoạn cái nhân ác, sẽ tự ĺa khổ quả. Hăy nên biết sự giáo hóa ấy chính là pháp căn bản để dẹp khổ.

          “Thừa Tát Bà Nhă thừa” (ngồi cỗ xe Tát Bà Nhă): Chữ Thừa thứ nhất đọc theo b́nh thanh, chính là “thừa” trong “thừa xa” (ngồi xe, cưỡi xe). Chữ Thừa sau đó, đọc khứ thanh (tức Thặng), chính là xe cộ. Phật đă vượt thoát tam giới, do ḷng đại bi, nghĩ thương xót nỗi khổ của chúng sanh đang trầm luân, cho nên ngồi trên cỗ xe Nhất Thiết Trí đến hóa độ tam giới. Đó là do Trí mà dấy lên ḷng Bi, dùng Bi để chuyển tải Trí, giáo hóa chúng sanh trọn khắp, khiến cho họ nhập Phật đạo. “Phi hữu, phi vô” trong đoạn trước thuộc về Pháp Thân, c̣n đoạn này là tùy duyên lợi sanh, tức là Ứng Hóa Thân. Hai câu đầu trong đoạn này nói về Ứng Thân, hai câu sau nói về Hóa Thân. Lại nữa, phần trước là cái tâm hóa độ người khác, phần sau là cái thân hóa độ người khác.

          Hỏi: Đối với cơi giáo hóa của Cửu Địa trong phần trước th́ nói rộng là “trăm vạn ức A-tăng-kỳ vi trần số” cơi Phật. Ở đây chỉ nói là “tam giới”, sao lại hẹp vậy?

          Đáp: Tam giới có hai loại là Phần Đoạn tam giới và Biến Dịch tam giới, thống nhiếp chúng sanh trong chín pháp giới, bao quát trọn hết. Phật pháp giới cũng được bao gồm trong ấy, chớ nên nh́n theo cách hiểu tam giới theo lẽ thông thường!

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Nhất thiết chúng sanh phiền năo, bất xuất tam giới tạng. Nhất thiết chúng sanh quả báo nhị thập nhị căn, bất xuất tam giới. Chư Phật ứng hóa Pháp Thân, bất xuất tam giới. Tam giới ngoại vô chúng sanh, Phật hà sở hóa?

          ()善男子!一切眾生煩惱,不出三界藏。一切眾生果報二十二根,不出三界。諸佛應化法身,不出三界。三界外無眾生,佛何所化。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Phiền năo của hết thảy chúng sanh chẳng ra ngoài tam giới tạng. Hai mươi hai căn nơi quả báo của hết thảy chúng sanh chẳng ra ngoài tam giới. Pháp Thân ứng hóa của chư Phật không ra ngoài tam giới. Ngoài tam giới chẳng có chúng sanh, Phật giáo hóa chỗ nào?)

 

          Đây là đoạn kinh văn thừa tiếp đoạn kinh văn “lai hóa tam giới” (tới hóa độ tam giới) trước đó. Tam giới được gọi là Tạng, v́ có thể chứa đựng nhân quả nhiễm tịnh của hết thảy thánh phàm. Phiền năo của chúng sanh cũng chia thành Sự và Lư. Sự phiền năo thuộc vào Phần Đoạn tam giới, Lư phiền năo thuộc Biến Dịch tam giới. V́ thế, đều chẳng ra ngoài tam giới tạng!

          “Chúng sanh quả báo nhị thập nhị căn bất xuất tam giới” (hai mươi hai căn trong quả báo của chúng sanh chẳng ra ngoài tam giới), tức là nương vào ngũ trụ phiền năo Hoặc, tạo thành nghiệp hữu lậu và vô lậu, cảm vời quả báo nhiễm hay tịnh. “Nhị thập nhị căn” gồm sáu căn như mắt v.v…, năm thọ căn là ưu, hỷ, khổ, lạc, xả, cùng với nam căn, nữ căn và mạng căn. Mười bốn loại này thuộc nhiễm pháp. Tín, Tấn, Niệm, Định ngũ căn và tam vô lậu căn (một là vị tri đương tri căn (chưa biết th́ sẽ biết), hai là căn đă biết, ba là căn biết trọn vẹn), tám căn này thuộc về tịnh pháp.

          “Chư Phật ứng hóa Pháp Thân, bất xuất tam giới” (ứng hóa Pháp Thân của chư Phật chẳng ra ngoài tam giới) tức là ba thân của chư Phật thường ở trong tam giới thuyết pháp lợi sanh. V́ thế nói là “bất xuất”.

          Hỏi: Có thể nói Ứng Hóa là bất xuất, sao Pháp Thân cũng nói là bất xuất?

          Đáp: Do Pháp Thân chẳng ĺa Ứng Hóa. Đại Kinh nói: “Ngă kim thử thân, tức thị Pháp Thân” (Thân này của ta chính là Pháp Thân). Kinh Hoa Nghiêm nói: “Diệc vân Thích Ca, diệc danh Tỳ Lô Giá Na đẳng” (Cũng nói là Thích Ca, cũng gọi là Tỳ Lô Giá Na v.v…) Hăy nên biết ba thân chính là một thân. V́ thế, Pháp Thân cũng nói là “chẳng ra ngoài tam giới”.

          “Tam giới ngoại vô chúng sanh, Phật hà sở hóa” (ngoài tam giới chẳng có chúng sanh, Phật lấy ǵ để giáo hóa), tức là ngoài tam giới thật sự chẳng có chúng sanh. V́ thế nói “Phật hà sở hóa”.

          Hỏi: Tam thừa thánh nhân tuy vượt thoát tam giới, vẫn là chúng sanh, vẫn đợi Phật giáo hóa, sao lại nói là ngoài tam giới chẳng có chúng sanh?

          Đáp: Tam thừa tuy thoát khỏi Phần Đoạn tam giới, vẫn trụ trong Biến Dịch tam giới, thật sự chẳng phải là ở ngoài tam giới. Ngoài tam giới, thật sự chẳng có chúng sanh để Phật có thể giáo hóa.

 

          (Kinh) Thị cố ngă ngôn: Tam giới ngoại, biệt hữu nhất chúng sanh giới tạng giả, ngoại đạo Đại Hữu Kinh trung thuyết, phi thất Phật chi sở thuyết.

          ()是故我言,三界外別有一眾生界藏者,外道「大有經」中說,非七佛之所說。

          (Kinh: V́ thế, ta nói: - Ngoài tam giới mà riêng có một chúng sanh giới tạng th́ đó chính là điều được nói trong kinh Đại Hữu của ngoại đạo, chẳng phải do thất Phật nói).

 

          “Thị cố” [là từ ngữ tiếp nối] ư “ở ngoài tam giới chẳng có chúng sanh” trong phần trên. “Sở dĩ ngă ngôn: - Tam giới ngoại biệt hữu nhất chúng sanh tạng” (do vậy, ta nói ở ngoài tam giới mà có riêng một chúng sanh tạng) th́ chính là điều được nói kinh Đại Hữu của ngoại đạo. Đại Hữu Kinh (Sāmānya-padārtha) chính là kinh được nói trong phái Thắng Luận (Vaiśeṣika)[3], tức là một phái trong sáu phái triết học của Ấn Độ. Họ cho rằng vạn hữu trong vũ trụ được chia thành sáu loại:

          - Một là Thật, tức là “thật thể” của các pháp.

          - Hai là Đức, tức đạo đức.

          - Ba là Nghiệp tức là tác dụng.

          - Bốn là Đại Hữu, cùng với Thật, Đức, Nghiệp đều là Nhất Hữu.

          - Năm là Đồng Dị, như đất tương ứng với đất là Đồng, đất so với nước là Dị (khác).

          - Sáu là ḥa hợp: Các pháp do ḥa hợp mà có.

          Đại Hữu Kinh chính là thuyết cho rằng ở ngoài tam giới riêng có chúng sanh của phái [triết học ngoại đạo] thứ tư này. V́ thế, nếu nói ở ngoài tam giới có chúng sanh th́ sẽ giống như luận thuyết của ngoại đạo!

          “Phi thất Phật chi sở thuyết” (chẳng phải do bảy vị Phật nói): Thất Phật chính là ba vị Phật cuối cùng trong một ngàn vị Phật thuộc Quá Khứ Trang Nghiêm Kiếp, tức quá khứ Tỳ Bà Thi Phật, Thi Khí Phật, Câu Lưu Tôn Phật, và bốn vị Phật trong Hiện Tại Hiền Kiếp là Tỳ Xá Phù Phật, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, Ca Diếp Phật, và Thích Ca Mâu Ni Phật. Do Phật Phật đạo đồng, những điều các Ngài đă nói cũng giống hệt nhau. Nói “ngoài tam giới riêng có chúng sanh” th́ chẳng phải là chánh pháp do thất Phật đă nói!

 

          (Kinh) Đại vương! Ngă thường thuyết nhất thiết chúng sanh đoạn tam giới phiền năo quả báo tận giả, danh vi Phật. Tự tánh thanh tịnh, danh Giác Tát Vân Nhă tánh. Chúng sanh bổn nghiệp, thị chư Phật Bồ Tát bổn sở tu hành, Ngũ Nhẫn trung thập tứ Nhẫn cụ túc.

          ()大王!我常說一切眾生斷三界煩惱果報盡者,名為佛。自性清淨,名覺薩云若性。眾生本業,是諸佛菩薩本所修行,五忍中十四忍具足。

          (Kinh: Này đại vương! Ta thường nói hết thảy chúng sanh đoạn hết quả báo của phiền năo trong tam giới th́ gọi là Phật. Tự tánh thanh tịnh gọi là tánh Giác Tát Vân Nhă. Bổn nghiệp của chúng sanh chính là pháp vốn tu hành của chư Phật, Bồ Tát, trọn đủ mười bốn món Nhẫn trong Ngũ Nhẫn).

 

          Nửa đầu của đoạn kinh văn này tán thán quả khác với nhân. Từ “chúng sanh bổn nghiệp” trở đi, nêu ra cái nhân bao gồm cái quả. “Nhất thiết chúng sanh” (hết thảy chúng sanh) chỉ lục phàm, tam thừa. Đoạn hai thứ tam giới Phần Đoạn và Biến Dịch, các phiền năo thô và tế, quả báo hữu lậu và vô lậu, th́ gọi là Phật. “Tự tánh thanh tịnh, danh Giác Tát Vân Nhă tánh” (Tự tánh thanh tịnh gọi là tánh Giác Tát Vân Nhă): Tự tánh chính là Chân Như tự thể mà chúng sanh và Phật đều vốn sẵn có. Bổn Giác Phật tánh luôn luôn bị vùi lấp trong Ngũ Ấm phiền năo trần lao. Nay khôi phục nguồn tâm vốn có, rốt ráo thanh tịnh, dùng trí Thỉ Giác khế hợp lư Bổn Giác, được gọi là tánh Đại Viên Măn Giác, Nhất Thiết Chủng Trí.

          “Chúng sanh bổn nghiệp” tức là cái nghiệp mà chúng sanh vốn đang tu tập, thanh tịnh giải thoát. Do vậy, đó chính là các hạnh nghiệp mà chư Phật, Bồ Tát vốn tu hành. Từ nhân tới quả, Ngũ Nhẫn gồm có mười bốn môn Nhẫn đều trọn đủ. Mười ba môn đầu là nhân hạnh của Bồ Tát, môn Nhẫn sau cùng là quả giác của chư Phật, đều chẳng ĺa khỏi bổn nghiệp của chúng sanh. Trên đây là giải đáp về hành tướng tự lợi kiêm lợi tha.

 

          (Kinh) Bạch Phật ngôn: - Vân hà Bồ Tát bổn nghiệp thanh tịnh, hóa chúng sanh?”

          ()白佛言:云何菩薩本業清淨,化眾生?

    (Kinh: [Vua Ba Tư Nặc] bạch Phật rằng: - Thế nào là bổn nghiệp thanh tịnh hóa độ chúng sanh của Bồ Tát?)

 

          Sau đó, [đức Phật] giải đáp về hành tướng thứ hai là lợi tha, kiêm tự lợi. Do đă cách lời hỏi trước đó quá xa, Nguyệt Quang lại bạch Phật rằng: “Vân hà Bồ Tát bổn nghiệp thanh tịnh, hóa chúng sanh?” (thế nào là bổn nghiệp thanh tịnh để hóa độ chúng sanh của Bồ Tát). Bồ Tát dùng Thập Địa tu trọn Thập Độ, đối với sanh tử và Niết Bàn đều chẳng chấp trước. V́ thế nói là “bổn nghiệp thanh tịnh”. Dùng điều này để giáo hóa chúng sanh, chẳng giống như phàm phu do chấp tướng, vướng mắc trong Có, tự bị trói buộc, sao có thể giáo hóa chúng sanh? Cũng chẳng giống như Tiểu Thừa trầm trệ nơi không tịch, chẳng có tâm đại bi, sao có thể giáo hóa chúng sanh?

 

          (Kinh) Phật ngôn: - Tùng nhất địa năi chí hậu nhất địa, tự sở hành xứ, cập Phật hành xứ nhất thiết tri kiến cố.

          ()佛言:從一地,乃至後一地,自所行處,及佛行處,一切知見故。

      (Kinh: Đức Phật nói: - Do các hành xứ từ địa vị thứ nhất cho đến địa vị cuối cùng của chính ḿnh và hành xứ của Phật, hết thảy đều là cùng một tri kiến).

 

          Đây là giải đáp về bổn nghiệp thanh tịnh của Bồ Tát. Từ địa vị thứ nhất là Hoan Hỷ Địa cho tới địa vị cuối cùng là Đệ Thập Pháp Vân Địa, hành xứ [của các địa vị ấy] là nhân địa (địa vị đang c̣n tu nhân). “Cập Phật hành xứ” (và hành xứ của Phật) là quả địa. Hết thảy đều dựa vào tri kiến của Phật. Tri kiến của Phật chính là “chân tri chẳng biết, không ǵ chẳng biết; chân kiến chẳng thấy, không ǵ chẳng thấy”.

 

          (Kinh) Bổn nghiệp giả, nhược Bồ Tát trụ bách Phật quốc trung, tác Diêm Phù Đề Tứ Đại Thiên Vương, tu bách pháp môn, Nhị Đế b́nh đẳng tâm, hóa nhất thiết chúng sanh.

          ()本業者,若菩薩住百佛國中,作閻浮四大天王。修百法門,二諦平等心,化一切眾生。

          (Kinh: “Bổn nghiệp” là như Bồ Tát trụ trong một trăm cơi Phật, làm bốn đại thiên vương trong Diêm Phù Đề, tu một trăm pháp môn, tâm b́nh đẳng đối với Nhị Đế, hóa độ hết thảy chúng sanh).

 

          Từ đây trở đi, đáp cặn kẽ về bổn nghiệp. Xét theo Thập Địa, chia thành mười loại sai biệt: [Đoạn này] th́ một là nói Hoan Hỷ Địa Bồ Tát (Pramuditā-bhūmi), trụ trong một trăm cơi Phật, tức là nói đến cơi nước để hóa độ. Ngài làm tứ thiên vương trong một phương thuộc Nam Diêm Phù Đề, tức là Nam phương Tăng Trưởng thiên vương. Đấy chính là nói chỗ sanh tăng thượng. Các kinh nói địa vị bất đồng, sợ rườm rà chẳng trích dẫn. “Tu bách pháp môn” (tu một trăm pháp môn): Đối với [mỗi môn trong] Thập Thiện, đều nói mười điều thiện, sẽ thành một trăm pháp môn. Chân Tục Nhị Đế viên dung vô ngại th́ là cái tâm b́nh đẳng. Dùng đó để hóa độ hết thảy chúng sanh.

 

          (Kinh) Nhược Bồ Tát trụ thiên Phật quốc trung, tác Đao Lợi thiên vương, tu thiên pháp môn, thập thiện đạo, hóa nhất thiết chúng sanh.

   ()若菩薩住千佛國中,作忉利天王。修千法門,十善道,化一切眾生。

          (Kinh: Hoặc là Bồ Tát trụ trong một ngàn cơi Phật, làm Đao Lợi thiên vương, tu một ngàn pháp môn và đạo Thập Thiện , hóa độ hết thảy chúng sanh).

 

          Hai, nói về Ly Đạt Địa Bồ Tát, tức Ly Cấu Địa (Vimalā-bhūmi): Ĺa cấu trược phá giới, thông đạt Tam Quán; v́ thế gọi là Ly Đạt. “Trụ thiên Phật quốc” (trụ trong một ngàn cơi Phật) là nói cơi nước được hóa độ. “Tác Đao Lợi thiên vương” (làm Đao Lợi thiên vương) là nói đến sanh xứ tăng thượng. Đao Lợi Thiên (Trayastriṃśa) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Tam Thập Tam Thiên (ba mươi ba vị trời), ở trên đỉnh núi Tu Di. Đông, Tây, Nam, Bắc, mỗi phương có tám vị trời, Thiên Chúa ở giữa, tức Đế Thích Tôn Thiên. “Tu thiên pháp môn” (tu một ngàn pháp môn) là nói [số lượng] pháp môn [mà Nhị Địa Bồ Tát] thông hiểu.

          “Thập thiện đạo hóa nhất thiết chúng sanh” (mười thiện đạo hóa độ hết thảy chúng sanh): Nhân vương trong thế gian có thể dùng Thập Thiện để cai trị cơi đời th́ ḷng dân tốt lành, vận nước hưng thịnh. Thập Thiện là:        

          - Một, chẳng giết: Nhân từ, yêu thương muôn vật, chẳng nỡ sát hại, há có chuyện chiến tranh, giết người?

          - Hai, chẳng trộm: Tài vật của người khác không cho sẽ chẳng dám lấy, há có chuyện cướp bóc, tước đoạt?

          - Ba, chẳng tà dâm: Sùng thượng lễ tiết, chẳng phạm ngoại sắc, há có chuyện gian dâm nhơ nhuốc?

          - Bốn, chẳng nói dối: Chẳng dám thốt lời hư vọng.

          - Năm, chẳng nói thêu dệt: Chẳng hoa ngôn xảo ngữ.

          - Sáu, chẳng ác khẩu: Chẳng dám rủa sả tổn thương người khác.

          - Bảy, chẳng nói đôi chiều: Chẳng dám khuấy lộng thị phi. Tu bốn điều thiện này, há có chuyện dối trá, lừa gạt?

          - Tám, chẳng tham: Biết đủ, thường vui, há có chuyện lấy của cải phi nghĩa?

          - Chín, chẳng sân: Thoái nhượng, bao dung, nhẫn nại, há có chuyện kết oán, phẫn nộ?

          - Mười, chẳng si: Hiểu rơ sự lư, há có chuyện tối tăm, đen tối?

          Nếu quốc gia dùng Thập Thiện để giáo hóa dân chúng, cả nước sẽ thuần thiện, bảy nạn sẽ tự tiêu trừ, tai ác chẳng dấy lên, quốc thái dân an.

 

          (Kinh) Nhược Bồ Tát trụ thập vạn Phật quốc trung, tác Diễm thiên vương, tu thập vạn pháp môn, Tứ Thiền Định, hóa nhất thiết chúng sanh.

          ()若菩薩住十萬佛國中,作燄天王。修十萬法門,四禪定化一切眾生。

          (Kinh: Hoặc là Bồ Tát trụ trong mười vạn cơi Phật, làm Diễm Ma thiên vương, tu mười vạn pháp môn, Tứ Thiền Định, hóa độ hết thảy chúng sanh).

 

          Thứ ba là nói về Phát Quang Địa (Prabhākarī-bhūmi) Bồ Tát, trụ trong mười vạn cơi Phật, tức là cảnh giáo hóa rộng răi. “Làm Diễm Ma thiên vương” tức là chỗ sanh tăng thượng. Dạ Ma (Yāma) được phương này dịch là Thời Phần (時分), thuộc loại Không Cư Thiên, dùng mây màu làm đất, quang minh nhật nguyệt chẳng chiếu tới. Thân chư thiên có quang minh, dùng hoa sen khép nở để phân định giờ giấc ngày đêm. “Tu mười vạn pháp môn” là nói về pháp môn thông hiểu. Tứ Thiền Định tức là Ly Sanh Hỷ Lạc Định, Định Sanh Hỷ Lạc Định, Ly Hỷ Diệu Lạc Định, và Xả Niệm Thanh Tịnh Định. Dùng bốn môn Thiền ấy để giáo hóa chúng sanh.

 

          (Kinh) Nhược Bồ Tát trụ bách ức Phật quốc trung, tác Đâu Suất thiên vương, tu bách ức pháp môn, hành đạo phẩm hóa nhất thiết chúng sanh.

          ()若菩薩,住百億佛國中,作兜率天王。修百億法門,行道品化一切眾生。     

          (Kinh: Hoặc là Bồ Tát trụ trong một trăm ức cơi Phật, làm Đâu Suất thiên vương, tu một trăm ức pháp môn, hành Đạo Phẩm để hóa độ hết thảy chúng sanh).

 

          Thứ tư là nói Diễm Huệ Địa (Arciṣmatī-bhūmi) Bồ Tát, “trụ trong một trăm ức cơi Phật” là nói cơi nước được hóa độ. Làm Đâu Suất thiên vương là nói chỗ thọ sanh tăng thượng. Đâu Suất (Tuṣita) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Tri Túc (知足, biết đủ). Tu một trăm ức pháp môn” là nói các pháp môn thông hiểu. “Hành Đạo Phẩm” tức là hành ba mươi bảy đạo phẩm, giáo hóa hết thảy chúng sanh.

 

          (Kinh) Nhược Bồ Tát trụ thiên ức Phật quốc trung, tác Hóa Lạc thiên vương, tu thiên ức pháp môn, Nhị Đế, Tứ Đế, Bát Đế, hóa nhất thiết chúng sanh.     ()若菩薩,住千億佛國中,作化樂天王。修千億法門,二諦四諦八諦化一切眾生。

          (Kinh: Hoặc là Bồ Tát trụ trong một ngàn ức cơi Phật, làm Hóa Lạc thiên vương, tu một ngàn ức pháp môn, Nhị Đế, Tứ Đế, Bát Đế, hóa độ hết thảy chúng sanh).

 

          Năm là nói về Nan Thắng Địa (Sudurjayā-bhūmi) Bồ Tát. Câu thứ hai chỉ cơi nước được hóa độ. “Làm Hóa Lạc thiên vương” là nói đến chỗ sanh tăng thượng. Thiên vương tự biến hóa cảnh ngũ dục để tự hưởng lạc, [cho nên gọi là Hóa Lạc (Nirmāṇarati)]. Có người nói Bát Đế là Hữu Tác Tứ Đế và Vô Tác Tứ Đế. Lại nói: “Vô thường, khổ, không, vô ngă là bốn. Thường, lạc, ngă, tịnh là bốn, hợp thành Bát Đế”. Những điều khác dễ hiểu.

 

          (Kinh) Nhược Bồ Tát trụ thập vạn ức Phật quốc trung, tác Tha Hóa thiên vương, tu thập vạn ức pháp môn, thập nhị nhân duyên trí, hóa nhất thiết chúng sanh.

          ()若菩薩,住十萬億佛國中,作他化天王。修十萬億法門,十二因緣智,化一切眾生。

          (Kinh: Hoặc là Bồ Tát trụ trong mười vạn ức cơi Phật, làm Tha Hóa thiên vương, tu mười vạn ức pháp môn, dùng trí thập nhị nhân duyên hóa độ hết thảy chúng sanh).

 

          Thứ sáu, nói về Hiện Tiền Địa (Abhimukhī-bhūmi) Bồ Tát, câu thứ hai nói về cơi hóa độ. “Làm Tha Hóa thiên vương” tức là chỗ sanh tăng thượng. Tha Hóa (Paranirmita-vaśavartin) là đối với cảnh ngũ dục do các vị trời khác biến ra, chư thiên trong cơi trời này tự tại hưởng dụng. Những điều khác dễ hiểu.

 

          (Kinh) Nhược Bồ Tát, trụ bách vạn ức Phật quốc trung, tác Sơ Thiền vương, tu bách vạn ức pháp môn, phương tiện trí, nguyện trí, hóa nhất thiết chúng sanh.

          ()若菩薩,住百萬億佛國中,作初禪王。修百萬億法門,方便智,願智,化一切眾生。

          (Kinh: Hoặc là Bồ Tát trụ trong trăm vạn ức cơi Phật, làm vua trời Sơ Thiền, tu trăm vạn ức pháp môn, dùng phương tiện trí và nguyện trí hóa độ hết thảy chúng sanh).

 

          Thứ bảy là Viễn Hành Địa (Dūraṃgamā-bhūmi) Bồ Tát. Câu thứ hai nói về cơi hóa độ. Làm vua cơi trời Sơ Thiền (Prathama-dhyāna)”: Nói về chỗ sanh tăng thượng. Họ tu Thiền Định hữu lậu trong tam giới. Phương Tiện Trí là Quyền Trí, tức phương tiện thiện xảo. Nguyện Trí là đại nguyện b́nh đẳng. Thường dùng hai trí ấy để hóa độ chúng sanh.

 

          (Kinh) Nhược Bồ Tát trụ bách vạn vi trần số Phật quốc trung, tác Nhị Thiền phạm vương, tu bách vạn vi trần số pháp môn, song chiếu phương tiện thần thông trí, hóa nhất thiết chúng sanh.

          ()若菩薩,住百萬微塵數佛國中,作二禪梵王。修百萬微塵數法門,雙照方便神通智,化一切眾生。

          (Kinh: Hoặc là Bồ Tát trụ trong trăm vạn vi trần số Phật quốc, làm phạm vương cơi Nhị Thiền, tu trăm vạn vi trần số pháp môn, trí cùng chiếu phương tiện và thần thông, hóa độ hết thảy chúng sanh).

 

          Thứ tám là nói về Bất Động Địa (Acalā-bhūmi) Bồ Tát, câu thứ hai là nói về cơi hóa độ. “Làm phạm vương Nhị Thiền” là nói về nơi sanh tăng thượng. Phạm là “tịnh”, do sanh vào Sắc Giới, ĺa dục thanh tịnh. “Song chiếu phương tiện thần thông trí” (trí cùng chiếu phương tiện và thần thông): Cùng chiếu Chân Tục Nhị Đế, phương tiện thiện xảo, chẳng hề trái nghịch, trở ngại, có thể phát khởi trí thần thông, dùng đó để hóa độ chúng sanh.

 

          (Kinh) Nhược Bồ Tát trụ bách vạn ức A-tăng-kỳ vi trần số Phật quốc trung, tác Tam Thiền đại phạm vương, tu bách vạn ức A-tăng-kỳ vi trần số pháp môn, tứ vô ngại trí, hóa nhất thiết chúng sanh.

          ()若菩薩,住百萬億阿僧祇微塵數佛國中,作三禪大梵王。修百萬億阿僧祇微塵數法門,四無礙智,化一切眾生。

          (Kinh: Hoặc là Bồ Tát trụ trong trăm vạn ức A-tăng-kỳ vi trần số cơi Phật, làm đại phạm vương của Tam Thiền, tu trăm vạn ức A-tăng-kỳ vi trần số pháp môn, dùng tứ vô ngại trí, hóa độ hết thảy chúng sanh).

 

          Thứ chín là nói tới Thiện Huệ Địa (Sādhumatī-bhūmi) Bồ Tát. Câu thứ hai nói về cơi hóa độ. “Làm đại phạm vương của Tam Thiền” là nói về chỗ sanh tăng thượng. Dùng tứ vô ngại trí hóa độ chúng sanh, tứ vô ngại trí chính là Pháp, Nghĩa, Từ, và Nhạo Thuyết, bốn thứ vô ngại biện tài.

 

          (Kinh) Nhược Bồ Tát, trụ bất khả thuyết bất khả thuyết Phật quốc trung, tác Đệ Tứ Thiền Đại Tĩnh thiên vương, tam giới chủ, tu bất khả thuyết bất khả thuyết pháp môn, đắc Lư Tận tam-muội, đồng Phật hành xứ, tận tam giới nguyên, giáo hóa nhất thiết chúng sanh, như Phật cảnh giới. Thị cố nhất thiết Bồ Tát bổn nghiệp hóa hạnh tịnh.

          ()若菩薩,住不可說不可說佛國中,作第四禪大靜天王,三界主。修不可說不可說法門,得理盡三昧,同佛行處,盡三界源,教化一切眾生,如佛境界。是故一切菩薩,本業化行淨。

          (Kinh: Nếu Bồ Tát trụ trong bất khả thuyết bất khả thuyết cơi Phật, làm Đại Tĩnh thiên vương nơi Đệ Tứ Thiền, là chủ của tam giới, tu bất khả thuyết bất khả thuyết pháp môn, đắc Lư Tận tam-muội, có hành xứ giống như Phật, tột cùng nguồn tam giới, giáo hóa hết thảy chúng sanh như cảnh giới của Phật. V́ thế, hết thảy bổn nghiệp hạnh giáo hóa của Bồ Tát đều thanh tịnh).

 

          Thứ mười là nói về Pháp Vân Địa (Dharmameghā-bhūmi) Bồ Tát, trước là nêu ra cơi nước hóa độ. “Làm Đại Tĩnh thiên vương trời Đệ Tứ Thiền” là nói chỗ sanh tăng thượng. [Đại Tĩnh thiên vương] tức Ma Hê Thủ La (Maheśvara) Đại Tự Tại thiên vương, sống trên đỉnh của Sắc Giới, có tác dụng thần thông rộng lớn, trí huệ bậc nhất, là chủ của tam thiên đại thiên thế giới, tu bất khả thuyết bất khả thuyết pháp môn, biết rơ pháp môn. “Đắc Lư Tận tam-muội” tức là Kim Cang Định. Tam-muội (Samādhi) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Chánh Định. Dùng Kim Cang quán trí chiếu cùng tột lư nhất tâm, đạt được Kim Cang Chánh Định. Bốn câu từ “đồng Phật hành xứ” trở đi, ư nói: Cùng thuộc địa vị Tịch Diệt Nhẫn, hết sạch Phần Đoạn và Biến Dịch, [thấu hiểu tận cùng] nguồn sanh tử trong tam giới, giáo hóa chúng sanh trái nghịch trần lao, khế hợp Chánh Giác, giống như cảnh giới của Phật.

          Hai câu từ “thị cố” (v́ thế) trở đi, tổng kết các Bồ Tát nghiệp. Trong phần trước, Nguyệt Quang đă hỏi: “Bổn nghiệp thanh tịnh của Bồ Tát giáo hóa chúng sanh như thế nào?” Đức Phật đáp bằng công đức của Ngũ Nhẫn. Đến đây, kết luận rằng: Do v́ lẽ ấy, hết thảy các hạnh hóa độ thanh tịnh bổn nghiệp của Bồ Tát, tức là các nghiệp do Bồ Tát vốn tu, hạnh giáo hóa chúng sanh, lợi tha thanh tịnh vô nhiễm, chẳng chấp trước sanh tử, chẳng đắc Niết Bàn, cho nên gọi là Tịnh.

 

          (Kinh) Nhược thập phương chư Như Lai, diệc tu thị nghiệp, đăng Tát Bà Nhă quả, tác tam giới vương, hóa nhất thiết vô lượng chúng sanh.

          ()若十方諸如來,亦修是業,登薩婆若果,作三界王,化一切無量眾生。

          (Kinh: Nếu mười phương các đức Như Lai cũng tu nghiệp ấy, sẽ đắc quả Tát Bà Nhă, làm vua ba cơi, hóa độ hết thảy vô lượng chúng sanh).

 

          Đây là kết lại Như Lai nghiệp. Hết thảy Như Lai cũng tu bổn nghiệp thanh tịnh ấy, do nhân cảm quả, đắc Nhất Thiết Trí, ứng theo căn thị hiện, làm đại pháp vương trong tam giới, giáo hóa vô lượng chúng sanh.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, bách vạn ức Hằng hà sa đại chúng, các tùng ṭa khởi, tán vô lượng bất khả tư nghị hoa, thiêu vô lượng bất khả tư nghị hương, cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật, cập vô lượng đại Bồ Tát, hiệp chưởng, thính Ba Tư Nặc vương thuyết Bát Nhă Ba La Mật.

          ()爾時,百萬億恆河沙大眾,各從座起,散無量不可思議華,燒無量不可思議香,供養釋迦牟尼佛,及無量大菩薩。合掌聽波斯匿王說般若波羅密。

    (Kinh: Lúc bấy giờ, trăm vạn ức Hằng hà sa đại chúng, mỗi người đều từ chỗ ngồi đứng dậy, rải vô lượng chẳng thể nghĩ bàn hoa, đốt vô lượng chẳng thể nghĩ bàn hương, cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật, và vô lượng đại Bồ Tát, chắp tay nghe vua Ba Tư Nặc nói Bát Nhă Ba La Mật).

 

          Từ đây trở đi nói đến chuyện đại chúng vui mừng v́ được hưởng pháp lợi, trước hết là tu cúng dường. “Hoa” là Bồ Đề tâm hoa, “hương” là Đại Thừa giới hương. Cúng Phật và Tăng, do mong nghe pháp ḥng lănh ngộ, thấu hiểu. “Thính Nặc vương thuyết” (Nghe vua Ba Tư Nặc nói): Dùng vua Ba Tư Nặc để giúp chuyển pháp luân. Lại nữa, đại chúng tu tài cúng dường, vua Ba Tư Nặc dùng pháp cúng dường.

 

          (Kinh) Kim ư Phật tiền, dĩ xướng thán viết.

          ()今於佛前,以倡歎曰:

          (Kinh: Nay đối trước Phật, dùng kệ tán thán rằng):

 

          Đây là từ ngữ trần thuật của người kết tập kinh: Trước đó, đại chúng tu cúng dường, nay vua Ba Tư Nặc dùng kệ tán thán. “Kệ”“kiệt”, [hàm nghĩa] dùng văn tự ít mà diễn đạt cạn kiệt nhiều nghĩa; v́ thế gọi là Kệ, tức là giống như thể loại Trùng Tụng trong kinh. Trong năm mươi chín hàng[4] kệ ở đây, sáu hàng đầu trùng tụng ư nghĩa chung trên đây, bốn mươi lăm hàng sau đó, trùng tụng riêng mười bốn môn Nhẫn, tám hàng cuối là phần trùng tụng nhằm kết lại công đức của Ngũ Nhẫn.

 

          (Kinh) Thế Tôn đạo sư kim cang thể, tâm hạnh tịch diệt chuyển pháp luân, bát biện hồng âm vị chúng thuyết, thời chúng đắc đạo bách ức vạn, thời lục thiên nhân xuất gia đạo, thành tỳ-kheo chúng Bồ Tát hạnh.

   ()世尊導師金剛體,心行寂滅轉法輪,八辯洪音為眾說。時眾得道百億萬,時六天人出家道,成比丘眾菩薩行。

          (Kinh: Thế Tôn đạo sư kim cang thể, tâm hạnh tịch diệt chuyển pháp luân, tiếng lớn tám biện dạy đại chúng, người nghe đắc đạo trăm ức vạn, sáu tầng trời hành đạo xuất gia, thành Bồ Tát hạnh chư tỳ-kheo).

 

          Ba hàng này tán thán biệt hành Tam Bảo. Câu đầu tiên tán thán thân nghiệp của Phật chẳng thể nghĩ bàn. Phật được chúng sanh thuộc chín pháp giới trong hữu t́nh thế gian và Chánh Giác thế gian cùng tôn sùng, cho nên nói là Thế Tôn. “Đạo sư” là vị thầy có thể hướng dẫn chúng sanh thoát ĺa biển khổ sanh tử, lên bờ kia Niết Bàn, chứng Pháp Thân kiên cố rốt ráo cho đến hết đời vị lai, muôn kiếp bất hoại, ví như kim cang, cho nên gọi là “kim cang thể”.

          Câu kế, “tâm hạnh tịch diệt chuyển pháp luân”: Tán thán ư nghiệp của Phật chẳng thể nghĩ bàn. Phật tâm hạnh xứ diệt, quy vào chân tâm tịch diệt, soi xét căn cơ [của chúng sanh] mà ban bố giáo hóa, chuyển pháp luân mầu nhiệm. Pháp mà được gọi là Luân v́ nó có công năng nghiền nát phiền năo thô tế của chúng sanh, và có sức chuyên chở chúng sanh thoát khỏi sanh tử. V́ thế được ví như bánh xe.

          Ba câu “bát biện hồng âm vị chúng thuyết…” (âm thanh to lớn tám biện tài v́ chúng sanh thuyết pháp), tán thán khẩu nghiệp của Phật chẳng thể nghĩ bàn. “Bát biện” theo kinh Phạm Ma Dụ[5]: Một là đẹp đẽ nhất, hai là dễ hiểu, ba là điều ḥa, bốn là dịu dàng, năm là không sai lầm, sáu là chẳng dối trá, bảy là trí huệ cao quư, tám là sâu xa. Tám loại âm thanh ấy trọn đủ bốn thứ biện tài, cho nên nói là “bát biện”. “Hồng” () là to lớn. Âm thanh ấy có thể trọn khắp mười phương pháp giới, tùy thuận căn cơ v́ chúng sanh mà tuyên nói hết thảy diệu pháp. Ở đây, tuy tán dương Phật Bảo, đă bao gồm Pháp Bảo trong ấy.

          Ba câu “thời chúng đắc đạo bách vạn ức…” (đại chúng thuở ấy đắc đạo trăm vạn ức): Tán thán Tăng Bảo chẳng thể nghĩ bàn. Chư thiên không có pháp xuất gia. Đây là nói trong tâm nghe pháp, nương theo sự giải ngộ mà tu hành, có thể thoát khỏi nhà phiền năo, trở thành đại chúng tỳ-kheo thanh tịnh, rộng tu hai hạnh lợi ích (tự lợi và lợi tha) của Bồ Tát.

 

          (Kinh) Ngũ Nhẫn công đức diệu pháp môn, thập tứ Chánh Sĩ năng đế liễu, Tam Hiền, Thập Thánh nhẫn trung hnh, duy Phật nhất nhân năng tận nguyên.

   ()五忍功德妙法門,十四正士能諦了。三賢十聖忍中行,唯佛一人能盡源。

          (Kinh: Diệu pháp môn công đức Ngũ Nhẫn, mười bốn Chánh Sĩ đều hiểu chắc, các hạnh nhẫn Tam Hiền, Thập Thánh, chỉ ḿnh đức Phật hiểu tận nguồn).

 

          Hai hàng này tán thán công đức của Ngũ Nhẫn. Pháp môn Ngũ Nhẫn vi diệu, phàm t́nh chẳng thể lường được. Chỉ có bậc thánh nhân thuộc mười bốn địa vị (tức những vị chứng nhập mười bốn món Nhẫn) th́ mới có thể hiểu rơ chắc thật. Chánh Sĩ tức là thánh nhân. Phục Nhẫn trong Tam Hiền chỉ có ba địa vị (tức Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng). Thập Địa được gọi là Thập Thánh, hoàn toàn là các hạnh thuộc về Nhẫn. [Hàng Bồ Tát] tuy đă đạt tới Pháp Vân Địa, cùng chứng Tịch Diệt Nhẫn, do vẫn c̣n một phẩm sanh tướng vô minh chưa phá, chưa chứng nguồn cội của nhất tâm, giống như trăng đêm Mười Bốn. V́ thế nói “duy Phật nhất nhân năng tận nhất tâm bổn nguyên” (chỉ có một ḿnh đức Phật có thể thấu hiểu tột cùng nguồn cội của nhất tâm).

 

          (Kinh) Phật chúng pháp hải Tam Bảo tạng, vô lượng công đức nhiếp tại trung.

          ()佛眾法海三寶藏,無量功德攝在中。

          (Kinh: Biển tạng Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng. Vô lượng công đức nhiếp trong ấy).

 

          Hàng này tán thán Nhất Thể Tam Bảo. Phật tức là Tự Tánh Phật Bảo, Pháp tức Tự Tánh Pháp Bảo, Chúng tức Tự Tánh Tăng Bảo. Tự tánh rộng lớn, ví như biển. Trong tánh chứa đựng hằng sa công đức xứng tánh, nên gọi là Tạng hoặc Nhiếp. Trong biển chứa đựng các thứ báu cũng giống như thế.

 

          (Kinh) Thập Thiện Bồ Tát phát đại tâm, trường biệt tam giới khổ luân hải, trung hạ phẩm thiện túc tán vương, thượng phẩm Thập Thiện Thiết Luân Vương.

   ()十善菩薩發大心,長別三界苦輪海。中下品善粟散王,上品十善鐵輪王。

          (Kinh: Thập Thiện Bồ Tát phát đại tâm, giă biệt biển khổ trong tam giới, trung hạ phẩm thiện: Túc tán vương; thượng phẩm Thập Thiện: Thiết Luân Vương).

 

          Bốn mươi lăm hàng kể từ đây, sẽ trùng tụng riêng mười bốn môn Nhẫn. Hai hàng đầu trùng tụng tiền phương tiện của Phục Nhẫn. Bảy hàng từ chữ “tập chủng” trở đi trùng tụng công đức của ba phẩm thuộc Phục Nhẫn. Mười hàng từ “thiện giác” trở đi nói về Thập Hạnh, trùng tụng công đức của ba phẩm Tín Nhẫn. Tám hàng từ Diễm Huệ trở đi, trùng tụng công đức của Thuận Nhẫn. Mười hàng từ Viễn Đạt trở đi, trùng tụng công đức của ba phẩm Vô Sanh Nhẫn. Tám hàng từ “quán đảnh” trở đi, trùng tụng công đức của thượng và hạ phẩm Tịch Diệt Nhẫn.

          “Thập Thiện Bồ Tát” chỉ địa vị Thập Tín. “Đại tâm” là tâm Bồ Đề trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Bồ Tát thuộc Tín vị do Chân Như làm cái nhân hun đúc bên trong, giáo pháp làm cái duyên hun đúc bên ngoài, nhân duyên trọn đủ, có thể phát đại tâm, cầu thoát khỏi tam giới. Tuy chẳng thể dứt sanh tử, sẽ dần dần tự đoạn vô minh, chắc chắn thoát khỏi tam giới. V́ thế nói là “trường biệt tam giới khổ luân” (giă biệt nỗi khổ trong tam giới dài lâu). Tam giới lục đạo bị vướng trong các nỗi khổ, cho nên ví như biển.

          Hai câu sau [ư nói hành nhân tu Phục Nhẫn] trong ngầm hành Bồ Tát, ngoài hiện thân vua trong nhân gian. “Trung hạ phẩm thiện túc tán vương”: Do các vua này rải rác khắp các châu, nhiều như hạt thóc, cho nên gọi như vậy. “Thượng phẩm vi thiết luân vương”: [Thượng phẩm Phục Nhẫn] có thể làm vua của Nam Châu. Báu thiết luân (bánh xe sắt) ấy rộng một Câu-lô-xá (Krośa)[6]. Vua cưỡi trên báu ấy một ngày đi trọn khắp Nam Châu, cho nên có thể thống trị các nước.

          Kinh An Lạc ghi: “Trụ tiền danh Tín Căn Bồ Tát, diệc danh Giả Danh Bồ Tát, diệc danh Danh Tự Bồ Tát. Nhược nhất kiếp, nhị kiếp, tam kiếp tu Thập Tín, thượng phẩm thiện Thiết Luân vương, trung phẩm thiện túc tán vương, hạ phẩm thiện nhân trung vương, cụ túc nhất thiết phiền năo” (Trước khi đắc Sơ Trụ th́ gọi là Tín Căn Bồ Tát, cũng gọi là Giả Danh Bồ Tát, cũng gọi là Danh Tự Bồ Tát. Nếu một kiếp, hai kiếp, ba kiếp tu Thập Tín, th́ thượng phẩm thiện là Thiết Luân vương, trung phẩm thiện là túc tán vương, hạ phẩm thiện là vua trong loài người, trọn đủ hết thảy phiền năo). Trung hạ phẩm thiện trong kinh này đều là “túc tán vương” cho nên khác biệt.

 

          (Kinh) Tập Chủng đồng luân nhị thiên hạ, ngân luân tam thiên Tánh Chủng Tánh. Đạo Chủng kiên đức chuyển luân vương, thất bảo kim quang tứ thiên hạ. Phục Nhẫn Thánh Thai tam thập nhân: Thập Tín, Thập Chỉ, Thập Kiên Tâm.

          ()習種銅輪二天下,銀輪三天性種性,道種堅德轉輪王,七寶金光四天下。伏忍聖胎三十人,十信十止十堅心。

          (Kinh: Tập Chủng đồng luân hai thiên hạ, ngân luân tam thiên Tánh Chủng Tánh. Đạo Chủng chuyển luân vương đức vững. Bảy báu kim quang bốn thiên hạ. Thánh thai Phục Nhẫn ba mươi phẩm: Thập Tín, Thập Chỉ, Thập Kiên Tâm).

 

          Đây là trùng tụng Phục Nhẫn, gồm có tất cả bảy hàng. Ba hàng đầu trùng tụng [người chứng đắc] thượng, trung, hạ phẩm [của Phục Nhẫn] là ba loại luân vương, cùng với thập thánh là Thánh Thai. Thập Trụ là Tập Chủng Tánh, làm Đồng Luân Vương, vua của hai châu Đông và Nam. Báu đồng luân rộng hai câu-lô-xá, một ngày có thể đi trọn khắp hai châu, cho nên mỗi nước đều quy phục.

          Thập Hạnh là Tánh Chủng Tánh, [Bồ Tát thuộc địa vị này] làm ngân luân vương, xưng vương ở ba châu Đông, Tây, và Nam. Ngân luân bảo của vua rộng ba câu-lô-xá, một ngày có thể đi trọn khắp ba châu, cho nên mỗi nước đều quy về sự thống trị [của nhà vua].

          Thập Hồi Hướng là Đạo Chủng Tánh, [Bồ Tát thuộc địa vị này] làm kim luân vương, xưng vương trong một tứ thiên hạ, trọn đủ bảy báu:

           - Một, kim luân bảo: Rộng bốn câu-lô-xá, tên là Thắng Tự Tại. Nếu vua xuất thế, nước biển cạn bớt, bên bờ biển xuất hiện con đường luân vương. Vua cưỡi trên báu ấy, một ngày có thể đi trọn khắp tứ đại bộ châu. Lại có thuyết nói: Vua cưỡi trên báu này, có thể viễn hành trên hư không.

          - Hai, tượng bảo tên là Thanh Sơn. Voi ấy có sức mạnh mẽ, khéo có thể tác chiến.

          - Ba, mă bảo tên là Dũng Tật Phong (gió mạnh mẽ nhanh chóng), đến khắp các nơi, chạy nhanh như gió. Một ngày cũng có thể đi trọn khắp bốn châu.

          - Bốn, thần châu bảo, hoặc như ư bảo: Phàm có ǵ mong cầu, báu ấy đều có thể tuôn ra các thứ báu.

          - Năm, chủ tạng thần bảo tên là Đại Tài, theo vua du hành. Hễ vua cần lấy của cải, chỉ cần chỗ có đất, đào lên sẽ liền được.

          - Sáu, nữ bảo tên là Diệu Đức, chẳng sanh do bào thai, mà là thanh tịnh hóa sanh.

          - Bảy, chủ binh thần bảo, c̣n gọi là tướng quân bảo, tên là Ly Cấu Nhăn, khéo hiểu binh pháp, nổi tiếng bốn châu.

          Vua thân kim sắc, cũng có ba mươi hai tướng. Ngài Từ Ân nói: “Kim luân tự nhiên giáo hóa [chúng sanh thuộc tứ đại châu] thuận lợi. Ngân luân phải sai sứ đến th́ [nơi ấy] mới hàng phục. Đồng luân phải dùng oai phong chấn nhiếp họ mới phục. Thiết luân phải chinh phạt th́ cơi nước mới an định, nhưng đều chẳng sát hại”.  

          “Phục Nhẫn Thánh Thai tam thập nhân” (Thánh Thai thuộc Phục Nhẫn gồm ba mươi địa vị): Thập Địa là Thập Thánh. Ba mươi địa vị thuộc Phục Nhẫn có thể làm Thánh Thai cho Thập Thánh. Thập Tín [ở đây phải hiểu] chính là Thập Trụ, tín tâm đă đầy đủ, tu từ Giả nhập Không quán. Thập Chỉ tức là Thập Hạnh, rộng hành các Phật sự, tu từ Không nhập Giả Quán. Thập Kiên Tâm chính là Thập Hồi Hướng, tu Trung Đạo chánh quán để cầu đạt lên Thập Địa.

 

          (Kinh) Tam thế chư Phật ư trung hành, vô bất do thử Phục Nhẫn sanh. Nhất thiết Bồ Tát hạnh bổn nguyên, thị cố phát tâm tín tâm nan. Nhược đắc tín tâm tất bất thoái, tiến nhập Vô Sanh Sơ Địa đạo. Giáo hóa chúng sanh giác trung hnh, thị danh Bồ Tát sơ phát tâm.

   ()三世諸佛於中行,無不由此伏忍生,一切菩薩行本源,是故發心信心難。若得信心必不退,進入無生初地道。教化眾生覺中行,是名菩薩初發心。

          (Kinh: Các hạnh của ba đời chư Phật, không ǵ chẳng do Phục Nhẫn sanh. Là nguồn hết thảy Bồ Tát hạnh. V́ thế, phát tâm tín tâm khó. Nếu đắc tín tâm, ắt bất thoái, tiến nhập đạo Vô Sanh Sơ Địa. Là hạnh giáo hóa chúng sanh giác, đó là Bồ Tát sơ phát tâm).

 

          Đây là trùng tụng công năng của Phục Nhẫn: Đó chính là căn bản của chư Phật, thánh hiền. Hăy nên biết cái quả vạn đức của chư Phật, chẳng ĺa cái nhân của Tam Hiền thuộc Phục Nhẫn, cho nên nói là “trung hành” (hành trong ấy). Dùng nhân tâm (cái tâm để tu nhân) làm Thánh Thai th́ mới có thể sanh ra quả giác. Do vậy nói “vô bất do thử Phục Nhẫn sanh” (Không ǵ chẳng sanh từ môn Phục Nhẫn này), tức là hết thảy Bồ Tát tu Lục Độ, vạn hạnh, cũng lấy môn Nhẫn này làm cội gốc. Môn Nhẫn này là bước đầu để nhập đạo, là cơ sở để thành Phật.

          “Thị cố phát tâm tín tâm nan” (V́ thế phát tâm sanh khởi tín tâm khó lắm): “Phát tâm” là nói đến Sơ Phát Tâm Trụ, sắp đắc Sơ Trụ, ắt do tín tâm thuộc Thập Tín đă viên măn, thiện căn chín muồi, th́ mới có thể nhập Sơ Trụ. Tín vị Bồ Tát trước khi đắc Phục Nhẫn, dẫu phát đại tâm nhưng hoặc tiến, hoặc lùi, được gọi là “mao đạo chúng sanh” (chúng sanh có tín tâm như chiếc lông tơ), vật vờ theo gió, tâm chưa quyết định. Do bởi lẽ ấy, cố nhiên Sơ Phát Tâm khó khăn, nhưng tín tâm chẳng lui sụt càng khó hơn. Nếu đạt được tín tâm viên măn, được gọi là “quyết định tụ chúng sanh”, chắc chắn sẽ chẳng c̣n lui sụt xuống địa vị phàm phu hoặc Tiểu Thừa.

          “Chứng nhập vô sanh Sơ Địa Đạo”: Tín tâm trọn đủ, nhập địa vị Phục Nhẫn, đạt được Vị Bất Thoái, dần dần tăng tấn, đạt đến địa vị Tín Nhẫn, chứng nhập Vô Sanh Pháp Nhẫn. Đó là đường lối để tiến lên làm thánh nhân Sơ Địa.

          Hỏi: Kinh Bổn Nghiệp Anh Lạc nói: Chánh quán của Đệ Lục Trụ trong Thập Trụ hiện tiền, sẽ gặp gỡ chư Phật, Bồ Tát, được thiện tri thức hộ tŕ, sẽ vượt lên Thất Trụ, thường chẳng thoái chuyển. Trước khi đạt đến Thất Trụ th́ đều gọi là “thoái phần” (tức là có thể bị thoái chuyển). Như ngài Xá Lợi Phất muốn nhập Thất Trụ, gặp phải nhân duyên ác, bèn lui sụt, rơi xuống hàng phàm phu. Sao trong kinh này chẳng nói họ lui sụt vậy?

          Đáp: Như Lai thuyết giáo, tùy theo căn cơ mà [giảng giải] sai khác. Kinh ấy nói: Trước khi đạt tới Thất Trụ đều có phần thoái chuyển, chính là nói theo giáo nghĩa của Tạng Giáo. Nay kinh này th́ “Thập Tín viên măn, ắt được chẳng thoái chuyển”, chính là ư nghĩa trong Viên Giáo. Trên đây là trùng tụng về hạnh tự lợi.

          “Giáo hóa chúng sanh giác trung hạnh” (là hạnh để giáo hóa chúng sanh giác ngộ): Đây là trùng tụng hạnh lợi tha. Bồ Tát quán người khác như chính ḿnh, thường hành giáo hóa. Chúng sanh nương vào lư Bổn Giác để khởi lên trí Thỉ Giác, tu hạnh tự giác và giác tha. V́ thế nói là “Bồ Tát sơ phát tâm”. Theo Khởi Tín Luận, Sơ Phát Tâm Trụ Bồ Tát phát ra ba loại tâm:

          - Một, trực tâm, tức là chánh niệm lư Chân Như Bổn Giác.

          - Hai, thâm tâm, tức là thích tu hết thảy các thiện hạnh.

          - Ba, đại bi tâm, tức là cứu bạt nỗi khổ sanh tử của chúng sanh.

          “Giáo hóa chúng giác trung hạnh” hoàn toàn giống như ba tâm trong Khởi Tín Luận, tự giác, giác tha, Đại Thừa diệu hạnh thuộc Sơ Phát Tâm Trụ, cho nên nói là “Bồ Tát sơ phát tâm”. Phần trùng tụng Phục Nhẫn đă xong.

 

          (Kinh) Thiện giác Bồ Tát tứ thiên vương, song chiếu Nhị Đế b́nh đẳng đạo, quyền hóa chúng sanh du bách quốc, thỉ đăng Nhất Thừa vô tướng đạo. Nhập lư Bát Nhă danh vi Trụ. Trụ sanh đức hạnh danh vi Địa. Sơ Trụ nhất tâm túc đức hạnh, ư Đệ Nhất Nghĩa nhi bất động.

   ()善覺菩薩四天王,雙照二諦平等道,權化眾生遊百國,始登一乘無相道。入理般若名為住,住生德行名為地。初住一心足德行,於第一義而不動。

          (Kinh: Thiện giác Bồ Tát: Tứ thiên vương, cùng chiếu đạo Nhị Đế b́nh đẳng, quyền hóa chúng sanh dạo trăm cơi, mới lên đạo Nhất Thừa vô tướng. Nhập lư Bát Nhă gọi là Trụ, Trụ sanh đức hạnh gọi là Địa. Sơ Trụ nhất tâm đủ đức hạnh, bất động đối với Đệ Nhất Nghĩa).

 

          Đây là trùng tụng Tín Nhẫn, có tất cả mười hàng, bốn hàng này (tức tám câu này) trùng tụng hạ phẩm Tín Nhẫn của Sơ Địa. Ba câu đầu nói về công năng thống ngự, giáo hóa. Do Sơ Địa phá vô minh, thấy Pháp Thân, khéo giác ngộ lư tánh Trung Đạo. Bồ Tát dạo trong tam-ma-địa, thị hiện làm tứ thiên vương. “Song chiếu Nhị Đế b́nh đẳng đạo” (cùng chiếu đạo Nhị Đế b́nh đẳng): Dùng Trung Đạo quán trí để cùng chiếu Chân Đế và Tục Đế, thấu đạt Chân, hóa độ Tục, bi và trí cùng vận dụng viên dung vô ngại. Đó là đạo b́nh đẳng. Đại quyền thị hiện giáo hóa chúng sanh. “Bách quốc” là nói đến các cơi được giáo hóa.

          Năm câu từ “thỉ đăng Nhất Thừa vô tướng đạo” (mới dự vào đạo Nhất Thừa vô tướng) nói về công năng nhập địa (chứng nhập Sơ Địa). Nhất Thừa tức là nhất Phật thừa tối thượng. Thật Tướng vô tướng là diệu lư Trung Đạo. Sơ Địa vừa mới chứng lư y th́ gọi là “thỉ đăng” (mới tiến nhập). Do khéo giác ngộ Trung Đạo, sanh đại hoan hỷ, [cho nên Sơ Địa] c̣n được gọi là Hoan Hỷ Địa.

          “Nhập lư Bát Nhă danh vi Trụ. Trụ sanh đức hạnh danh vi địa” (Nhập lư Bát Nhă th́ gọi là Trụ. Trụ sanh đức hạnh th́ gọi là Địa): Dùng diệu trí Bát Nhă khế nhập diệu lư Thật Tướng, th́ gọi là Trụ. Đó chính là trụ vào “không có ǵ để trụ”, cho nên sanh ra công đức hữu vi và công đức vô vi. V́ vậy gọi là Địa, do Địa có ư nghĩa “có thể sanh”.

          “Sơ Trụ nhất tâm cụ đức hạnh, ư Đệ Nhất Nghĩa nhi bất động” (Sơ Trụ nhất tâm trọn đức hạnh, bất động đối với Đệ Nhất Nghĩa): Sơ Trụ chứng nhập nhất tâm của Trung Đạo, Tam Đức bí tạng trọn đủ hằng sa Tánh Đức, vô biên diệu hạnh. Tuy du hư thần thông trong thanh tịnh quốc độ của Phật, an trụ trong Đệ Nhất Nghĩa Đế, nhưng chẳng bị lay động bởi Không và Hữu.

 

          (Kinh) Ly đạt khai sĩ sơ Lợi vương, hiện h́nh lục đạo thiên quốc độ, vô duyên, vô tướng đệ tam đế, vô vô Vô Sanh, vô nhị chiếu.

   ()離達開士初利王,現形六道千國土。無緣無相第三諦,無無無生無二照。

   (Kinh: Ly Đạt khai sĩ vua Đao Lợi, hiện thân sáu đường, ngàn cơi nước. Đệ Tam Đế vô duyên, vô tướng. Chẳng vô vô sanh, vô nhị chiếu).

 

          Hai hàng này trùng tụng trung phẩm Tín Nhẫn của Nhị Địa. “Ly đạt”: Ĺa cấu nhơ phá giới, thông đạt Tam Quán, các giới thanh tịnh, vĩnh viễn ĺa lầm lỗi. [Nhị Địa] c̣n gọi là Ly Cấu Địa. “Khai sĩ” là danh xưng khác của Bồ Tát, tức là bậc khai ngộ chúng sanh. [Nhị Địa Bồ Tát] quyền biến làm vua trong cơi trời Đao Lợi, công năng dần dần thù thắng, cảnh hóa độ rộng dần, có thể hiện thân trong lục đạo thuộc một ngàn quốc độ.

          “Vô duyên” tức là chẳng có trí để có thể duyên theo. “Vô tướng”: Chẳng có cảnh để duyên theo. Cảnh và trí cùng mất, Chân lẫn Tục dung thông, cùng bỏ hai bên, hoàn toàn quy vào Trung Đạo. “Đệ tam đế” chính là Trung Đạo diệu đế. “Vô vô Vô Sanh, vô nhị chiếu”: “Vô vô” tức là chẳng phải vô duyên, chẳng phải vô tướng, ngay cả hai thứ Vô ấy cũng là không, thật sự đạt được Vô Sanh. V́ thế, không có cái trí có thể chiếu, chẳng có cảnh được chiếu, cảnh và trí đều mất, cho nên gọi là “vô nhị chiếu”.

 

          (Kinh) Minh huệ không chiếu Diễm thiên vương, ứng h́nh vạn quốc đạo quần sanh. Nhẫn tâm vô nhị, Tam Đế trung, xuất Hữu nhập Vô, biến hóa sanh.

          ()明慧空照燄天王,應形萬國導群生。忍心無二三諦中,出有入無變化生。

          (Kinh: Diễm thiên vương minh huệ, không chiếu, ứng hiện vạn quốc, dẫn quần sanh. Tâm Nhẫn chẳng hai trong Tam Đế, xuất Hữu, nhập Vô, biến hóa sanh).

 

          Hai hàng này trùng tụng thượng phẩm Tín Nhẫn thuộc Tam Địa. Tam Địa c̣n gọi là Phát Quang Địa. “Minh huệ” tức là quang minh trí huệ tỏa sáng. Chiếu tỏ Nhân Không và Pháp Không th́ gọi là “không chiếu”. “Quyền tác Diễm thiên vương” tức là làm vua trong cơi trời Dạ Ma. “Ứng h́nh vạn quốc, hóa đạo quần sanh” (ứng hiện thân h́nh trong vạn quốc độ, hướng dẫn quần sanh) so với địa trước đó càng gấp mười lần!

          Hai câu “Nhẫn tâm vô nhị, tam đế trung” nói đến công năng của Nhẫn. Vô Nhị: Chẳng Chân, chẳng Tục, chẳng vướng mắc vào Không và Hữu, hoàn toàn quy vào Trung Đạo đệ tam đế, dấn ḿnh vào cơi tục lợi lạc chúng sanh; đó gọi là “xuất Hữu”. Mỗi mỗi đều ĺa tướng, th́ gọi là “nhập Vô. Thần thông biến đổi, th́ gọi là “biến hóa sanh”. Lại nữa, Hữu chính là Không, th́ là “xuất Hữu, nhập Vô”. Không chính là Hữu th́ gọi là “biến hóa sanh”.

 

          (Kinh) Thiện giác ly minh tam đạo nhân, năng diệt tam giới Sắc phiền năo. Hoàn quán tam giới thân khẩu Sắc, pháp tánh đệ nhất vô di chiếu.

   ()善覺離明三道人,能滅三界色煩惱。還觀三界身口色,法性第一無遺照。

          (Kinh: Thiện Giác, Ly, Minh: ba địa vị, hay diệt tam giới Sắc phiền năo. Lại quán tam giới thân, khẩu, Sắc. Pháp tánh bậc nhất, chiếu chẳng sót).

 

          Hai hàng này trùng tụng chung ba địa vị thuộc Tín Nhẫn trong phần trước. Thiện Giác là Sơ Địa. Ly chính là Ly Đạt, tức Nhị Địa. Minh chính là Minh Huệ, tức Tam Địa. V́ thế nói là “tam đạo nhân”. Câu thứ hai, do Sắc chính là Không, cho nên có thể đoạn Sắc phiền năo biến hóa trong tam giới. Câu thứ ba, do Không chính là Sắc, cho nên trở lại quán tam giới, biến hóa thân khẩu Sắc. Câu cuối cùng, pháp tánh là Thật Tánh của các pháp. Quán mỗi Sắc pháp, không ǵ chẳng phải là pháp tánh. Đă đều là pháp tánh, sẽ hoàn toàn quy vào Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế. Do đó, đạt được Chân Tục song chiếu chẳng thừa sót. Chẳng chấp vào Sắc pháp, chẳng trừ bỏ Chân. Chẳng hoại Sắc pháp, chẳng trừ bỏ Tục. Trùng tụng Tín Nhẫn đă xong.

 

          (Kinh) Diễm Huệ diệu quang đại tinh tấn, Đâu Suất thiên vương du ức quốc. Thật Trí duyên tịch phương tiện đạo, đạt vô sanh chiếu Không Hữu liễu.
          ()燄慧妙光大精進,兜率天王遊億國。實智緣寂方便道,達無生照空有了。

          (Kinh: Diễm Huệ diệu quang đại tinh tấn, Đâu Suất thiên vương dạo ức quốc. Thật Trí duyên tịch phương tiện đạo, đạt vô sanh chiếu rơ Không Hữu).

 

          Đây là phần trùng tụng Thuận Nhẫn gồm tám hàng. Hai hàng này trùng tụng Tứ Địa thuộc hạ phẩm Thuận Nhẫn. Diễm Huệ: Trí huệ hừng hực giống như ngọn lửa. Diệu Quang: Huệ quang chiếu khắp, chẳng bị buộc ràng bởi Không và Hữu, cho nên nói là Diệu. “Đại tinh tấn”: Do Tứ Địa tinh tấn tăng thượng nơi Tam Quán. Câu thứ hai, [Tứ Địa Bồ Tát] quyền biến làm Đâu Suất thiên vương, du hóa trong một ức thế giới. So với [số lượng] cơi nước giáo hóa của Địa trước (Tam Địa) lại nhiều hơn gấp mười lần.

          Thật Trí là Lư Trí. “Duyên tịch” tức là duyên theo lư Không Tịch. “Phương tiện đạo” là Sự Trí, tức duyên theo sự tướng thuộc Tục Đế. “Đạt vô sanh chiếu Không Hữu liễu”: Mỗi mỗi đều liễu đạt Vô Sanh, cho nên có thể cùng chiếu Không và Hữu. Biết Không chính là Hữu, Hữu chính là Không, Chân Tục viên dung vô ngại.

 

          (Kinh) Thắng Huệ Tam Đế tự đạt minh, Hóa Lạc thiên vương bách ức quốc. Không Không đế quán vô nhị tướng, biến hóa lục đạo nhập Vô Gián.

          ()勝慧三諦自達明,化樂天王百億國。空空諦觀無二相,變化六道入無間。

          (Kinh: Thắng Huệ Tam Đế tự thông đạt. Hóa Lạc thiên vương trăm ức cơi, Không Không quán kỹ tướng chẳng hai, biến hóa sáu đường, vào Vô Gián).

 

          Hai hàng này trùng tụng Ngũ Địa thuộc trung phẩm Thuận Nhẫn. Ngũ Địa c̣n gọi là Nan Thắng Địa, do trí huệ thù thắng, quán chiếu Tam Đế, tự đạt được thần thông rạng ngời, quyền biến làm Hóa Lạc thiên vương, giáo hóa một trăm ức quốc độ.

          “Không Không đế quán vô nhị tướng”: Chữ Không trước có nghĩa là sanh tử đă là Không, chữ Không sau đó có nghĩa “Niết Bàn cũng là Không”. Như cổ đức nói: “Niết Bàn, sanh tử đẳng không hoa” (Niết Bàn và sanh tử đều như hoa đốm trên không): Dùng chánh trí ấy mà quán chắc thật chẳng có hai tướng Niết Bàn và sanh tử để có thể được. V́ thế, có thể hóa hiện thân h́nh trong sáu đường, mỗi mỗi đều biến hiện, thậm chí đối với địa ngục Vô Gián cũng vào trong đó. Đó gọi là “ta chẳng vào địa ngục, ai sẽ vào địa ngục!”

 

          (Kinh) Pháp Hiện khai sĩ TTại vương, vô nhị, vô chiếu đạt lư không, Tam Đế hiện tiền đại trí quang, chiếu thiên ức độ giáo nhất thiết.

          ()法現開士自在王,無二無照達理空,三諦現前大智光,照千億土教一切。

          (Kinh: Pháp Hiện khai sĩ, vua Tự Tại, chẳng hai, chẳng chiếu, đạt lư không. Quang minh Tam Đế hiện đại trí, chiếu ngàn ức cơi dạy hết thảy).

 

          Hai hàng này trùng tụng Lục Địa thuộc thượng phẩm của Thuận Nhẫn. Pháp Hiện tức là Hiện Tiền Địa, xem giải thích về Khai Sĩ trong phần trước. “Tự Tại vương”: Quyền biến làm Tự Tại thiên vương. “Vô nhị, vô chiếu”: Không có cảnh Chân Đế và Tục Đế, chẳng có Không Quán và Giả Quán chiếu, liễu đạt lư Trung Đạo nhất tâm, Đệ Nhất Nghĩa Không.

          Hai câu “Tam Đế hiện tiền đại trí quang…” ư nói: Ngộ Chân chính là Tục, Tục chính là Chân, Chân Tục viên dung, không ǵ chẳng phải là Trung Đạo. Như thế th́ Tam Đế hiện tiền, quang minh đại trí huệ chiếu trọn khắp ngàn ức cơi Phật, giáo hóa hết thảy chúng sanh.

 

          (Kinh) Diễm, Thắng, Pháp Hiện vô tướng định, năng tẩy tam giới mê tâm Hoặc, Không Huệ tịch nhiên vô duyên quán, hoàn quán tâm Không vô lượng báo.

          ()燄勝法現無相定,能洗三界迷心惑,空慧寂然無緣觀,還觀心空無量報。

          (Kinh: Diễm, Thắng, Pháp Hiện vô tướng định, gột rửa tâm mê hoặc tam giới. Không huệ vắng lặng vô duyên quán, lại quán tâm không vô lượng báo).

 

          Hai hàng này trùng tụng chung ba địa vị thuộc Thuận Nhẫn trên đây. Diễm là Diễm Huệ Địa, tức Tứ Địa. Thắng là Thắng Huệ, tức Ngũ Địa. Pháp Hiện tức Lục Địa. Bồ Tát thuộc ba địa vị này đắc Trung Đạo Quán, chẳng dấy lên hai tướng Hữu và Vô, cho nên nói là “vô tướng định”. Dùng nước huệ chánh quán ấy để gột rửa Hoặc cấu trong cái tâm mê muội nơi tam giới; Hoặc tức là vô minh.

          “Không huệ tịch nhiên vô duyên quán”: Không Huệ chính là trí huệ chân không. “Tịch nhiên” chính là cảnh và trí cùng mất. Không có cảnh để duyên theo, mà cũng chẳng có trí “có thể quán”; cho nên gọi là Vô Duyên Quán. “Hoàn quán tâm không vô lượng báo”: Đây chính là Phương Tiện Trí xoay lại quán tâm Không, có thể đoạn tam chướng. Tứ Địa đoạn hai kiến chướng vi tế là Thân Kiến và Biên Kiến, Ngũ Địa đoạn chướng “ưa thích Niết Bàn của Nhị Thừa”, Lục Địa đoạn nghiệp chướng tụ họp khiến chúng sanh bị cầm tù trong tam giới. Xưa kia mê tâm, liền thành ba chướng. Nay do trở lại quán tâm không, ba chướng trừ sạch, bèn trở thành quả báo vô lượng công đức. Phần trùng tụng Thuận Nhẫn đă xong.

 

          (Kinh) Viễn Đạt vô sanh Sơ Thiền vương, thường vạn ức độ giáo chúng sanh. Vị độ Báo Thân nhất sanh tại, tiến nhập đẳng quán Pháp Lưu Địa. Thỉ nhập vô duyên Kim Cang Nhẫn, tam giới báo h́nh vĩnh bất thọ. Quán đệ tam nghĩa vô nhị chiếu, nhị thập nhất sanh không tịch hạnh. Tam giới ái tập thuận đạo định, viễn đạt Chánh Sĩ độc đế liễu.

          ()遠達無生初禪王,常萬億土教眾生。未度報身一生在,進入等觀法流地。始入無緣金剛忍,三界報形永不受。觀第三義無二照,二十一生空寂行。三界愛習順道定,遠達正士獨諦了。

          (Kinh: Viễn Hành thấu đạt lẽ Vô Sanh, bèn làm vua cơi trời Sơ Thiền, thường dạy chúng sanh vạn ức cơi. Báo Thân chưa ĺa Biến Dịch Sanh, hăy c̣n phải thọ thân một đời, tiến nhập đẳng quán Pháp Lưu Địa. Mới nhập vô duyên Kim Cang Nhẫn, vĩnh viễn chẳng thọ thân tam giới. Quán nghĩa Trung Đạo, chiếu bất nhị. Hai mươi mốt sanh, không tịch hạnh. Tam giới ái tập thuận đạo định, xa đạt độc đế của Chánh Sĩ).

 

          Đây là trùng tụng Vô Sanh Nhẫn, gồm mười hàng. Năm hàng này trùng tụng hạ phẩm Vô Sanh Nhẫn của Thất Địa. “Viễn đạt” trong câu đầu tức là nói Viễn Hành Địa. “Đạt”đến. Đại Phẩm gọi [địa vị này] là “thâm nhập Vô Sanh”. Vô Sanh: Bồ Tát trong địa vị này tu Vô Tướng Quán, dùng quán trí ấy chứng Vô Sanh Nhẫn, quyền biến làm vua cơi trời Sơ Thiền, phương tiện thiện xảo, thường ở trong một vạn ức quốc độ giáo hóa chúng sanh.

          “Vị độ báo thân nhất sanh tại” (báo thân chưa độ, hăy c̣n một đời): Báo Thân tức là cái thân quả báo Phần Đoạn. Hết một đời này tức là ĺa Phần Đoạn Sanh, nhập Biến Dịch Sanh. V́ thế, Trí Độ Luận nói: “Thất Địa Bồ Tát chưa xả thân thể”. Lại c̣n có thể hiểu là trong hai mươi mốt đời, chưa qua đời cuối cùng.

          “Tiến nhập Đẳng Quán Pháp Lưu Địa”: Do Thất Địa c̣n có công dụng tiến nhập Bát Địa, b́nh đẳng quán Chân và Tục, chẳng có hai tướng. Cũng có thể quán sắc và tâm b́nh đẳng, chẳng có tướng sai biệt, vô công dụng đạo, từ đó, lưu nhập chân lưu pháp tánh trong biển Tát Bà Nhă, cho nên gọi là Pháp Lưu Địa. Tới khi đó mới nhập vô duyên Kim Cang Nhẫn. “Vô duyên” là chẳng có chủ thể có thể duyên (năng duyên), mà cũng chẳng có cái bị duyên (sở duyên). Tâm và Sắc chẳng hai, duyên và quán đều tịch, kiên cố chẳng hoại, giống như Kim Cang, ĺa tập khí tam giới. V́ thế nói “tam giới báo h́nh vĩnh bất thọ” (vĩnh viễn chẳng thọ sanh thân quả báo trong tam giới). Hai câu này nói trước công đức của Bát Địa, v́ địa vị này ắt sẽ có thể đạt tới [công đức ấy].

          “Quán đệ tam nghĩa vô nhị chiếu” (quán nghĩa thứ ba, không nhị chiếu): Luôn quán Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế. Trung Đạo vốn thuộc Đệ Nhất Nghĩa, do xét theo thứ tự trong “Chân, Tục, Trung” [th́ Trung Đạo] thuộc vào vị trí thứ ba, nên gọi là “đệ tam nghĩa”. Một thứ đă trung th́ hết thảy đều trung, chẳng có Không, chẳng có Giả, không ǵ chẳng phải là Trung, cho nên “vô nhị chiếu” (chẳng chiếu hai thứ Không và Giả). “Nhị thập nhất sanh không tịch hạnh” (Hai mươi mốt thứ sanh đều là hạnh không tịch): Từ Sơ Địa cho tới Thất Địa, mỗi địa đều có ba thứ sanh (thỉ sanh, trụ sanh, và chung sanh), hợp thành hai mươi mốt thứ sanh. Mỗi Sanh đều quán các pháp không tịch, coi đó là hạnh để tiến nhập Phật địa.

          “Tam giới ái tập thuận đạo định”: “Ái” là si ái, tức vô minh. “Tập” là tập khí. Bồ Tát trong địa vị này đă sớm đoạn hết phiền năo thô nặng, chỉ có tập khí vô minh chưa đoạn. Do yêu mến Phật trí, cho nên tập khí chưa đoạn, chẳng gọi là có phiền năo, chỉ gọi là “thuận đạo định”. “Viễn đạt Chánh Sĩ độc đế liễu” (chỉ riêng bậc Chánh Sĩ thuộc Viễn Hành Địa th́ mới có thể thấu hiểu): Chánh Sĩ cũng là danh xưng khác của Bồ Tát, chỉ riêng hạng Bồ Tát này là có thể chắc thật biết rơ, siêng tu Vô Sanh Quán Hạnh, tiến đến đoạn trừ tập khí này.

 

          (Kinh) Đẳng quán Bồ Tát Nhị Thiền vương, biến sanh Pháp Thân vô lượng quang. Nhập bách hằng độ hóa nhất thiết, viên chiếu tam thế hằng kiếp sự. Phản chiếu lạc hư vô tận nguyên, ư đệ tam đế thường tịch nhiên.

          ()等觀菩薩二禪王,變生法身無量光。入百恆土化一切,圓照三世恆劫事。反照樂虛無盡源,於第三諦常寂然。

          (Kinh: Đẳng quán Bồ Tát vua Nhị Thiền, biến sanh Pháp Thân vô lượng quang. Trăm hằng sa cơi, dạy hết thảy, chiếu trọn hằng kiếp chuyện ba đời. Soi ngược lạc hư huyễn, vô tận; thường tĩnh lặng nơi Đệ Tam Đế).

 

          Ba hàng này trùng tụng trung phẩm Vô Sanh Nhẫn của Bát Địa. “Đẳng quán” chính là Chân Tục Đẳng Quán (b́nh đẳng quán Chân Tục) của Bát Địa. Vô công dụng đạo, tu trọn khắp vạn hạnh, vào ḍng đại pháp, cho nên gọi là Đẳng Quán. Lại c̣n gọi là Bất Động do đạt được tự tại đối với Sắc, chẳng bị Sắc lay động. [Bát Địa Bồ Tát] quyền biến làm vua cơi Nhị Thiền, đă ĺa Phần Đoạn Sanh của Thất Địa, vĩnh viễn chẳng thọ thân quả báo trong tam giới, biến cái thân quả báo phần đoạn ấy thành Pháp Thân Biến Dịch Sanh. V́ thế nói là Biến Sanh Pháp Thân, do chứng lư pháp tánh mà thành thân. [Do thân ấy] trọn đủ vô lượng quang minh, cho nên gọi là Vô Lượng Quang.

          Câu thứ ba nói về hạnh lợi tha: Có thể vào trọn khắp các quốc độ nhiều như số cát trong một trăm sông Hằng, thực hiện Phật sự to lớn, giáo hóa chúng sanh. Câu thứ tư nói về trí lợi tha. Trí ấy chiếu trọn vẹn các sự thuộc ba đời trong các kiếp số nhiều như cát sông Hằng. Câu thứ năm nói Bát Địa thật sự đắc Vô Sanh, luôn thọ pháp lạc. Soi xét ngược lại th́ lạc ấy cũng chẳng phải là chân thật, cho nên nói “phản chiếu lạc hư” (soi ngược lại th́ lạc là hư huyễn). “Vô tận nguyên” (nguồn vô tận): Nay muốn chấm dứt cái nguồn vô tận, đạt được niềm vui Tịch Diệt. Tuy chưa đạt đến tịch diệt, nhưng đối với Đệ Tam Đế, thường đạt được bất động vắng lặng. Đệ Tam Đế là nói so sánh với Chân và Tục, Trung Đạo [thuộc vào vị trí thứ ba sau Chân và Tục], cho nên là Đệ Tam Đế.

 

          (Kinh) Huệ Quang khai sĩ Tam Thiền vương, năng ư thiên hằng nhất thời kiến, thường tại vô vi không tịch hạnh, hằng sa Phật tạng nhất niệm liễu.

   ()慧光開士三禪王,能於千恆一時見,常在無為空寂行,恆沙佛藏一念了。

          (Kinh: Huệ Quang khai sĩ vua Tam Thiền, cùng lúc hiện thân trong các cơi, số nhiều như cát ngàn sông Hằng. Thường trụ hạnh vô vi không tịch, Phật pháp tạng như cát sông Hằng, ngay trong một niệm bèn thấu triệt).

 

          Hai hàng này trùng tụng thượng phẩm Vô Sanh Nhẫn của Cửu Địa. Huệ Quang tức là Cửu Địa Thiện Huệ phát quang, quyền biến làm vua cơi Tam Thiền, có thể trong các quốc độ nhiều như số cát trong một ngàn sông Hằng, đồng thời hiện thân giáo hóa chúng sanh. Kinh văn trong phần trước nói là “hiện mười A-tăng-kỳ trăm ngàn Phật độ vi trần số thân”, hóa độ (cơi nước để giáo hóa) cũng thế, tức là “nhất thời hiện” (cùng lúc hiện thân). Ở đây nói “thiên Hằng” (một ngàn sông Hằng) là nói đại lược. Hai chữ “năng ư” (có thể trong) [hàm nghĩa] do đắc thượng phẩm Vô Sanh Nhẫn th́ mới có thể đạt được tác dụng thù thắng lợi tha này. Ở trong các cơi ấy, cùng lúc hiện thân. Đây chính là một thân chẳng phân thân mà hiện trọn khắp, chẳng trái nghịch sự cảm ứng của mọi căn cơ. Ví như một vầng trăng trên bầu trời soi bóng trong các chỗ có nước.

          “Thường tại vô vi không tịch hạnh” (thường trụ trong hạnh vô vi không tịch): Nối tiếp câu trước. Tuy nhiều lượt dấy lên diệu hạnh, nhưng thường ở trong vô vi không tịch, tức là động tĩnh như một, chẳng trái nghịch hạnh, vô công dụng hạnh. “Hằng sa Phật tạng nhất niệm liễu” (đối với Phật tạng nhiều như cát sông Hằng, ngay trong một niệm bèn thấu hiểu): Chính là trí vô công dụng, đối với pháp tạng của chư Phật nhiều như số cát sông Hằng, trong một niệm tâm đều có thể liễu đạt. Phần trùng tụng về Vô Sanh Nhẫn đă xong.

 

          (Kinh) Quán đảnh Bồ Tát Tứ Thiền vương, ư ức hằng độ hóa quần sanh, thỉ nhập Kim Cang nhất thiết liễu, nhị thập cửu sanh vĩnh dĩ độ. Tịch Diệt Nhẫn trung Hạ Nhẫn quán, nhất chuyển diệu giác thường trạm nhiên. Đẳng, Huệ, Quán Đảnh tam phẩm độ, trừ tiền dư tập vô minh duyên. Vô minh tập tướng cố phiền năo, Nhị Đế lư cùng nhất thiết tận.

          ()灌頂菩薩四禪王,於億恆土化群生。始入金剛一切了,二十九生永已度。寂滅忍中下忍觀,一轉妙覺常湛然。等慧灌頂三品土,除前餘習無明緣。無明習相故煩惱,二諦理窮一切盡。

          (Kinh: Quán đảnh Bồ Tát: Vua Tứ Thiền. Hóa độ trong ức hằng sa cơi, mới nhập Kim Cang, đoạn hết thảy. Hai mươi chín Sanh đều đă vượt. Hạ Nhẫn quán trong Tịch Diệt Nhẫn, chuyển thành Diệu Giác thường lặng trong. Đẳng, Huệ, Quán Đảnh độ ba phẩm, trừ tập khí thừa, duyên vô minh. Vô minh tập tướng: Phiền năo cũ! Thấu tột cùng tận lư Nhị Đế, hết thảy tập khí đều trừ sạch).

 

          Phần trùng tụng Tịch Diệt Nhẫn này có tám hàng, năm hàng này trùng tụng hạ phẩm Tịch Diệt Nhẫn. Quán đảnh Bồ Tát tức là đệ thập Pháp Vân Địa Bồ Tát. “Quán đảnh”: Ví như Luân Vương [khi thấy] thái tử thành tựu “vương tướng”, lấy nước bốn biển rưới lên đỉnh đầu thái tử, liền gọi là “quán đảnh thái tử”. Bồ Tát cũng như thế, khi thọ Phật chức, chư Phật dùng trí thủy (nước trí huệ) rưới vào đỉnh đầu Bồ Tát, gọi là “quán đảnh Bồ Tát”, hoặc gọi là “Bồ Tát nhập trí huệ chức”, quyền biến làm thiên vương của cơi trời Tứ Thiền, giáo hóa quần sanh trong các quốc độ nhiều như số cát trong một ức sông Hằng.

          “Thỉ nhập Kim Cang nhất thiết liễu” (mới nhập Kim Cang, hiểu hết thảy): Đạt đến địa vị này, vừa mới nhập tâm Kim Cang. Dùng Kim Cang quán trí, có thể phá trừ vô minh Hoặc kiên cố. “Nhất thiết liễu” (giải quyết xong hết thảy): Đối với bốn mươi hai phẩm vô minh, đă đoạn bốn mươi mốt phẩm, từ đây trở đi, tiến lên phá trừ, hết thảy đều xong xuôi. “Nhị thập cửu sanh vĩnh dĩ độ” (hai mươi chín thứ sanh đă vĩnh viễn vượt qua): Từ Sơ Địa cho đến Thập Địa ở đây, mỗi địa có tam sanh (thỉ sanh, trụ sanh, và chung sanh), hợp thành ba mươi sanh. Nay chỉ nói hai mươi chín sanh, tức món sanh thứ ba mươi chính là bổn sanh thân. Hai mươi chín sanh trước đó đă vượt qua, cho nên nói là “vĩnh dĩ độ”.

          Hai câu “Tịch Diệt Nhẫn trung Hạ Nhẫn Quán…” (phép Quán thuộc Hạ Nhẫn trong Tịch Diệt Nhẫn), ư nói: Trong Tịch Diệt Nhẫn, chia thành thượng nhẫn và hạ nhẫn, phần này là HNhẫn Quán, thuộc địa vị tu nhân đă măn. Nếu trong vô ngại đạo này, hễ chuyển sẽ nhập giải thoát đạo, phá một phẩm tối sơ sanh tướng vô minh, liền thành tựu Diệu Giác, tịch diệt hiện tiền, lặng trong bất động. V́ thế nói là “nhất chuyển Diệu Giác thường trạm nhiên”.

          Hai câu “đẳng huệ quán đảnh tam phẩm độ…” trùng tụng chung ba phẩm trước. Đẳng tức là Đẳng Quán, tức Bát Địa; Huệ tức Huệ Quang, là Cửu Địa; Quán Đảnh là Thập Địa. Ba phẩm Bồ Tát này cùng trừ cái duyên vô minh nơi tập khí sắc tâm c̣n thừa sót trước đó mà trụ trong cơi quả báo. Hai câu “vô minh tập tướng cố phiền năo” (do tướng tập khí vô minh là phiền năo cũ), ư nói: Tướng tập khí vô minh là cựu phiền năo, “cố”. Nhị Đế tức Chân Đế và Tục Đế. Toàn thể Chân chính là Tục, toàn thể Tục chính là Chân, tức là nói cùng tận lư, đó chính là Trung Đế. Thấu đạt Tam Đế ấy th́ hết thảy tập khí hiện hành đều tận trừ. V́ thế nói là “Nhị Đế lư cùng nhất thiết tận”.

 

          (Kinh) Viên trí vô tướng tam giới vương, tam thập sanh tận đẳng đại giác. Đại tịch vô vi Kim Cang tạng, nhất thiết báo tận vô cực bi, Đệ Nhất Nghĩa Đế thường an ổn, cùng nguyên tận tánh diệu trí tồn.

          ()圓智無相三界王,三十生盡等大覺,大寂無為金剛藏,一切報盡無極悲,第一義諦常安隱,窮源盡性妙智存。

          (Kinh: Viên Trí vô tướng, vua tam giới. Ba mươi Sanh hết, bằng Đại Giác. Kim Cang tạng đại tịch vô vi, hết thảy báo tận, bi vô cực. Đệ Nhất Nghĩa Đế thường an ổn, cùng tột nguồn tánh, diệu trí c̣n).

 

          Ba hàng này trùng tụng thượng phẩm Tịch Diệt Nhẫn. “Viên trí”: Nhất Thiết Chủng Trí viên măn; lại c̣n chuyển thức thứ tám thành Đại Viên Kính Trí. “Vô tướng”: Chẳng ḥa hợp thức tướng, chẳng có tướng “tâm liên tục”. Hết sạch vô minh, có thể làm vua trong tam giới. Kinh Pháp Hoa cũng nói: “Kim thử tam giới, giai tận ngă hữu” (nay tam giới này đều là của ta).

          “Tam thập sanh tận đẳng đại giác” (Hết sạch ba mươi sanh, bằng với đại giác): Mười Địa có tất cả ba mươi sanh. Khi địa thứ mười (Thập Địa) thọ ba mươi sanh th́ chẳng gọi là “tận”. Đến đây, Kim cang đạo hậu (sau khi đă đắc Kim Cang đạo, tức chứng Đẳng Giác), dị thục quả đă là Không, ba mươi sanh (mỗi địa đều có thỉ sanh, trụ sanh và trung sanh, mười địa hợp thành ba mươi sanh) đều đă tận, bèn bằng với mười phương đại giác Thế Tôn. “Đại tịch vô vi Kim Cang tạng”: Đắc đại Niết Bàn gọi là Đại Tịch, chứng lư vô vi cùng tột, tứ ma (phiền năo ma, uẩn ma, tử ma, thiên ma) chẳng thể phá hoại th́ gọi là Kim Cang Tạng.

          “Nhất thiết báo tận vô cực bi” (hết thảy báo hết sạch, tâm bi vô cùng cực): Ba mươi món Sanh trên đây đều là nhân hết, quả sanh. Nay đại giác đă viên măn, chẳng c̣n sanh nữa, hai thứ tử (Biến Dịch và Phần Đoạn) đă vĩnh viễn mất. V́ thế nói là “nhất thiết báo tận” (hết thảy các báo đă hết sạch). Tới cùng tột đời vị lai, cứu bạt chúng sanh khổ năo thoát ĺa biển khổ, bi tâm chẳng cùng cực. V́ thế nói là “vô cực bi”.

          “Đệ Nhất Nghĩa Đế thường an ổn”: An trụ trong Đệ Nhất Nghĩa Đế, chẳng trụ trong sanh tử, chẳng trụ vào Niết Bàn. Thị hiện sanh tử chẳng khác Niết Bàn, chẳng vướng mắc, đạt được đại tự tại, cho nên nói là “thường an ổn”.

          “Cùng nguyên tận tánh diệu trí tồn” (cùng tột nguồn tánh, diệu trí tồn tại): Đối với cội nguồn nhất tâm vô cực, thấu hiểu cùng tận thật tánh của các pháp, sanh tử và Niết Bàn đều như huyễn mộng, viên măn Bồ Đề, trở về chỗ “không có ǵ để có thể đạt được”, chỉ có diệu trí riêng tồn tại. Từ trên tới đây là phần trùng tụng riêng bốn mươi lăm hạnh thuộc Ngũ Nhẫn đă xong!

 

          (Kinh) Tam Hiền thập thánh trụ quả báo, duy Phật nhất nhân cư tịnh độ, nhất thiết chúng sanh tạm trụ báo, đăng Kim Cang nguyên cư tịnh độ.

   ()三賢十聖住果報,唯佛一人居淨土。一切眾生暫住報,登金剛原居淨土。

          (Kinh: Tam Hiền, Thập Thánh trụ quả báo, chỉ riêng ḿnh Phật ngự Tịnh Độ, hết thảy chúng sanh tạm trụ báo. Đấng chứng Kim Cang trụ cơi tịnh).

 

          Đây là trùng tụng chung Ngũ Nhẫn, gồm tám hàng kệ. Hai hàng này trùng tùng giới hạn giữa các báo độ. Tam Hiền là Trụ, Hạnh, Hướng, Thập Thánh là Thập Địa. Quả báo có y báo và chánh báo. “Trụ” được nói ở đây chính là nói tới y báo. Tam Hiền trụ trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư Báo. Thập Thánh trụ trong Thật Báo Vô Chướng Ngại Báo Độ, chỉ có ḿnh đức Phật trụ trong Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Hết thảy chúng sanh đều là sanh diệt vô thường, cho nên nói là “tạm trụ báo”. “Đăng Kim Cang nguyên”: Kim Cang có nghĩa là bất hoại. Phật dùng thân pháp tánh ở trong cơi pháp tánh, thân và cơi viên dung, rốt ráo bất hoại, đó là Tịnh Độ chân thật.

 

          (Kinh) Như Lai tam nghiệp đức vô cực. Ngă kim Nguyệt Quang lễ Tam Bảo.

          ()如來三業德無極,我今月光禮三寶。

          (Kinh: Như Lai tam nghiệp đức vô cực. Nguyệt Quang con nay lễ Tam Bảo).

 

          Sáu hàng từ đây trở đi là phần tán thán công đức nơi ba nghiệp của Như Lai. Ba nghiệp của Như Lai đều chẳng thể nghĩ bàn, khéo có thể lợi ích chúng sanh Đức ấy vô cực; câu kế tiếp dễ hiểu.

 

          (Kinh) Pháp vương vô thượng nhân trung thụ, phú cái đại chúng vô lượng quang.

          ()法王無上人中樹,覆蓋大眾無量光。

          (Kinh: Pháp vương vô thượng: cây nhân gian, che rợp đại chúng, vô lượng quang).

 

          Phật là pháp vương, tự tại trong các pháp, vượt khỏi chín pháp giới, độc tôn, cho nên gọi là “vô thượng”. Ví như cây cối trong nhân gian có thể che rợp chúng sanh; thân quang vô lượng [nơi thân Phật] có thể phá tan hắc ám. Ngài lại hiện vô lượng thân, phóng vô lượng quang ḥng gia bị chúng sanh. Đấy là tán thán thân nghiệp.

 

          (Kinh) Khẩu thường thuyết pháp phi vô nghĩa, tâm trí tịch diệt vô duyên chiếu.

   ()口常說法非無義,心智寂滅無緣照。

   (Kinh: Miệng thường thuyết pháp chẳng vô nghĩa. Tâm trí tịch diệt, vô duyên chiếu).

 

          Miệng Ngài thường thuyết pháp, dùng pháp lợi lạc chúng sanh. Có lúc Ngài nói Không, có khi nói Có, hoặc nói là Thường, hoặc nói là Vô Thường, đều là thuận theo cơ nghi mà lập bày giáo pháp, đúng theo chứng bệnh mà kê toa, luôn có nguyên do sâu xa, chẳng phải là [thốt ra lời lẽ] vô nghĩa. Đây là tán thán khẩu nghiệp [của đức Phật]. “Tâm trí tịch diệt”: Cái Thể vốn vắng lặng. “Vô duyên chiếu”: Tác dụng không ngằn mé. “Vô duyên” mà không ǵ chẳng duyên. Đấy là tán thán ư nghiệp.

 

          (Kinh) Nhân trung sư tử vị chúng thuyết, đại chúng hoan hỷ tán kim hoa.

          ()人中師子為眾說,大眾歡喜散金華。

    (Kinh: Bậc sư tử trong người thuyết pháp, đại chúng hoan hỷ rải hoa vàng).

 

          Sư tử là vua loài thú. Sư tử vừa rống, trăm thú đều nứt năo. Phật là vua trong loài người, v́ đại chúng thuyết pháp, họ liền đạt được vô úy, ví như sư tử. Đại chúng nghe pháp hoan hỷ, rải hoa cúng dường.

         

          (Kinh) Bách ức vạn độ lục đại động, hàm sanh chi loại thọ diệu báo. Thiên Tôn khoái thuyết thập tứ vương, thị cố ngă kim lược tán Phật.

   ()百億萬土六大動,含生之類受妙報。天尊快說十四王,是故我今略歎佛。

          (Kinh: Trăm ức vạn cơi động sáu cách, các loài chúng sanh thọ báo mầu. Thiên tôn mau nói mười bốn vương. Nên nay con đại lược tán Phật).

 

          “Bách ức vạn” (trăm ức vạn): Ư nói số lượng nhiều tột cùng. “Độ” chính là quốc độ. “Lục đại động” (sáu thứ chấn động to lớn): Đại địa sáu cách chấn động. “Hàm sanh” tức là chúng sanh có t́nh thức, được lợi ích đắc quả, lănh nhận quả báo vi diệu. “Thiên tôn khoái thuyết thập tứ vương” (đấng được chư thiên tôn kính hăy mau nói mười bốn vương): Phật là trời trong trời, thánh của các thánh. Do vậy gọi là “thiên tôn”. [Vua Ba Tư Nặc do] cầu pháp ân cần, cho nên thỉnh “khoái thuyết” (hăy mau nói), tức là hăy thí giáo đúng thời. “Thập tứ vương”: Tập Chủng Đồng Luân Vương, Tánh Chủng Ngân Luân Vương, Đạo Chủng Kim Luân Vương, Thập Địa [theo thứ tự] làm vua trong Lục Dục Tứ Thiền, Phật là vua trong tam giới, cộng thành mười bốn loại vua. “Thị cố ngă kim lược tán Phật” (v́ thế, nay con đại lược tán thán Phật) có hai ư:

          - Một, trí huệ của chính ḿnh cạn mỏng, chẳng thể tán thán rộng răi.

          - Hai, Phật đức quá nhiều, chẳng có cách nào tán thán trọn hết.

 

          (Kinh) Thời chư đại chúng, văn Nguyệt Quang vương thán thập tứ vương vô lượng công đức tạng, đắc đại pháp lợi, tức ư ṭa trung, hữu thập Hằng hà sa thiên vương, thập Hằng hà sa Phạm vương, thập Hằng hà sa quỷ thần vương, năi chí tam thú đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Bát bộ A Tu Luân vương, hiện chuyển quỷ thân, thiên thượng thọ đạo. Tam sanh nhập chánh vị giả, hoặc tứ sanh, ngũ sanh, năi chí thập sanh, đắc nhập chánh vị, chứng thánh nhân tánh, đắc nhất thiết vô lượng báo.

   ()時,諸大眾,聞月光王歎十四王無量功德藏,得大法利。即於座中有十恆河沙天王,十恆河沙梵王,十恆河沙鬼神王,乃至三趣,得無生法忍。八部阿須輪王,現轉鬼身,天上受道。三生入正位者,或四生五生乃至十生得入正位。證聖人性,得一切無量報。

       (Kinh: Khi đó, đại chúng nghe vua Nguyệt Quang tán thán vô lượng công đức tạng của mười bốn loại vua, đạt được pháp lợi to lớn. Ngay trong số những người hiện diện, có mười Hằng hà sa thiên vương, mười Hằng hà sa Phạm vương, mười Hằng hà sa quỷ thần vương, cho đến [các chúng sanh trong] ba đường đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Tám bộ A Tu Luân vương biến hiện chuyển thân quỷ, thọ đạo trên cơi trời. Có người ba đời nhập chánh vị, hoặc bốn đời, năm đời, cho đến mười đời sẽ được nhập chánh vị, chứng thánh nhân tánh, đạt được hết thảy vô lượng báo).

 

          Đây là nói đại chúng nghe pháp đạt được lợi ích. “Thời” (khi đó) tức là lúc vua Nguyệt Quang nói kệ tụng xong. Đại chúng nghe tán thán vô lượng công đức tạng của mười bốn loại vua, đạt được pháp lợi to lớn. Do pháp lợi mà có thể thoát sanh tử, có thể chứng quả. Do vậy, trong đại chúng hiện diện có vô số thiên vương, Phạm vương, quỷ thần vương. “Thần” chính là quỷ có phước đức, cho tới ba đường, đều đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vô Sanh Pháp Nhẫn tức là Tam Địa của Thông Giáo trở lên, hoặc Sơ Địa của Biệt Giáo trở lên, hoặc Sơ Trụ của Viên Giáo trở lên. Nếu thật sự đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, sẽ là Bát Địa của Viên Giáo trở lên.

          Bát bộ A Tu Luân vương (tức A Tu La vương): Theo Tam Tạng Kư, dưới tứ thiên vương có bốn A Tu La vương: Một là La Hầu (Rahu) A Tu La vương, hai Tỳ Ma Chất Đa (Vemacitrin) A Tu La vương, ba là Bàn Lợi (Baḍin) A Tu La vương, bốn là Tỳ Lâu Xà A Tu La vương. Dưới chân núi Tu Di, lại có bốn đại A Tu La: Một là Khủng Miện, hai là Phú Lâu Ma, ba là Bà La A, bốn là Đâu Suất Lâu. V́ thế nói là “bát bộ A Tu La”.

          “Hiện chuyển quỷ thân”: Trong đời hiện tại nghe pháp liền chuyển thân quỷ, sanh vào đường trời, được tiếp nhận đạo. “Nhập chánh” (nhập chánh vị) có hai: Một là Nhân Không chánh vị, hai là Pháp Không chánh vị. Từ ba đời cho tới mười đời, có kéo dài hay rút ngắn khác nhau, tức là do thiện căn và trí huệ sâu hay cạn mà khác nhau. “Chứng thánh nhân tánh” chính là thánh chủng tánh Thập Địa. “Đắc nhất thiết vô lượng báo” (đạt được hết thảy vô lượng quả báo): Do địa vị vô lượng, quả báo cũng phải là vô lượng. Đoạn này do người kết tập kinh tự trần thuật.

 

          (Kinh) Phật cáo chư đắc đạo quả thật đại chúng: - Thiện nam tử! Thị Nguyệt Quang vương dĩ ư quá khứ thập thiên kiếp trung, Long Quang Vương Phật pháp trung vi Tứ Trụ khai sĩ, ngă vi Bát Trụ Bồ Tát. Kim ư ngă tiền, đại sư tử hống.

          ()佛告諸得道果實大眾:善男子!是月光王已於過去十千劫中,龍光王佛法中為四住開士,我為八住菩薩。今於我前,大師子吼。

          (Kinh: Đức Phật bảo các đại chúng thật sự hành tŕ, đắc đạo quả: - Này thiện nam tử! Vua Nguyệt Quang này trong quá khứ mười ngàn kiếp, là bậc Tứ Trụ khai sĩ trong pháp của Long Quang Vương Phật, ta là Bát Trụ Bồ Tát, nay vua ở trước ta thực hiện đại sư tử hống).

 

          Trong kinh văn thuộc phần trước, Nguyệt Quang tán thán Phật; từ đây trở đi, đức Phật tán thán Nguyệt Quang. Trước hết, nêu bày Bổn Tích của nhà vua nhằm bảo ban các hiền thánh trong hội. “Đắc đạo quả” kèm thêm một chữ Thật, ngụ ư “thật sự hành tŕ”, chẳng phải là quyền hạnh, bởi lẽ, Quyền hạnh chính là do Bồ Tát đại quyền thị hiện. [Đức Phật] tự biết Bổn Tích của Nguyệt Quang, [chứ đại chúng] chẳng biết thật hạnh [của nhà vua], cho nên Ngài bảo rằng: Viễn Bổn của vua Nguyệt Quang là trong pháp của Long Quang Vương Phật thuộc mười ngàn kiếp trong quá khứ, nhà vua đă phát đại tâm, đă thuộc vào địa vị Tứ Trụ. Chữ “Ngă” là đức Phật tự xưng, [thuở ấy], đức Phật thuộc địa vị Bát Trụ Bồ Tát. Thuở đó, [tiền thân của đức Phật và vua Nguyệt Quang] cùng phụng sự Long Quang Vương Phật, nay nương theo nguyện mà cùng đến. V́ thế, [nhà vua và đức Phật] sanh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, thị hiện làm chủ và bạn, xướng đối Bát Nhă. “Kim ư Phật tiền, tác sư tử hống” (nay đối trước Phật, thực hiện sư tử rống) tức là nói quyết định. Ư nghĩa này dễ hiểu! Ngài Trí Giả nói: “Tứ Trụ tức là Diễm Huệ khai sĩ, Bát Trụ tức là Đẳng Quán Bồ Tát”.

 

          (Kinh) Như thị, như thị! Như nhữ sở giải, đắc chân nghĩa thuyết, bất khả tư nghị, bất khả độ lượng, duy Phật dữ Phật, năi tri tư sự.

          ()如是如是!如汝所解,得真義說。不可思議,不可度量。唯佛與佛,乃知斯事。

          (Kinh: Như thế đó, như vậy đấy! Đúng như ông đă hiểu, nói được chân nghĩa chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, chỉ có Phật và Phật mới biết chuyện ấy).

 

          Đây là đức Phật ấn khả lời ấy (lời vua Ba Tư Nặc đă nói). “Như thị, như thị” là từ ngữ ấn khả. Nói trùng lặp, [ngụ ư] ngộ đúng như thế, hăy nói đúng như thế. Câu thứ hai và thứ ba nhằm giải thích lần nữa ư “như thị” của đức Phật: Đúng như ông đă hiểu, đă đạt được nghĩa chân thật. Ông hăy đúng như đă hiểu mà nói, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, trí của hàng trung hạ chẳng thể biết được, chỉ có Phật với Phật mới có thể biết rơ chuyện này!

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Kỳ sở thuyết thập tứ Bát Nhă Ba La Mật, tam nhẫn, địa địa thượng, trung, hạ tam thập Nhẫn, nhất thiết hạnh tạng, nhất thiết Phật tạng, bất khả tư nghị.

          ()善男子!其所說十四般若波羅密,三忍,地地上中下三十忍,一切行藏,一切佛藏,不可思議。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Như ông ta đă nói mười bốn môn Bát Nhă Ba La Mật, ba môn Nhẫn, mỗi địa đều có ba môn nhẫn thượng, trung, hạ, [mười địa hợp thành] ba mươi môn Nhẫn, hết thảy hạnh tạng, hết thảy Phật tạng đều chẳng thể nghĩ bàn).

 

          Từ đây trở đi, trần thuật công năng của mười bốn môn Nhẫn. Chữ Kỳ trong câu “kỳ sở thuyết” (lời ông ta đă nói) chỉ vua Nguyệt Quang. [Nói] “mười bốn Bát Nhă Ba La Mật” nhằm nhắc lại mười bốn môn Nhẫn đă nói trong phần trước, tên gọi khác nhau, nhưng ư nghĩa tương đồng. Hai chữ Tam Nhẫn mang ư nghĩa: Chỉ nói trong Phục Nhẫn, [lại chia thành ba loại]: Một là Tín Nhẫn, hai là Chỉ Nhẫn, ba là Kiên Nhẫn. “Địa địa thượng, trung, hạ” tức là trong [các địa thuộc] Thập Địa, địa nào cũng có ba phẩm thượng, trung, hạ, kết hợp thành ba mươi Nhẫn. “Nhất thiết hạnh tạng” (hết thảy hạnh tạng): Hết thảy công đức nơi nhân hạnh của Bồ Tát được bao hàm trong đó. “Nhất thiết Phật tạng”: Hết thảy công đức nơi quả giác của chư Phật được bao hàm trong đó. Nhân bao gồm biển quả, quả thấu triệt nguồn nhân, gọi là “chẳng thể nghĩ bàn”.

 

          (Kinh) Hà dĩ cố? Nhất thiết chư Phật thị trung sanh, thị trung diệt, thị trung hóa. Vô sanh, vô diệt, vô hóa, vô tự, vô tha, đệ nhất vô nhị, phi hóa, phi bất hóa, phi vô vô tướng, vô khứ lai, như hư không cố.

          ()何以故?一切諸佛是中生,是中滅,是中化。無生無滅無化。無自無他。第一無二。非化非不化。非無無相。無來去。如虛空故。

          (Kinh: V́ sao vậy? Hết thảy chư Phật nương vào mười bốn môn Nhẫn mà tu chứng, sanh diệt chẳng trái nghịch Thế Đế, giáo hóa ứng theo căn cơ. Chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng hóa, chẳng tự, chẳng tha, bậc nhất, chẳng hai, chẳng phải là hóa, chẳng phải không hóa, chẳng phải là vô vô tướng, chẳng đến đi, v́ như hư không).

 

          “Hà dĩ cố?” (v́ sao vậy?) là từ ngữ gạn hỏi. Hỏi rằng v́ sao mười bốn môn Nhẫn chẳng thể suy lường? Do hết thảy chư Phật nương vào mười bốn môn Nhẫn để tu chứng thành Phật th́ gọi là “trung sanh”. Chẳng trái nghịch Thế Đế, có sanh ắt diệt, th́ là “trung diệt”. Đối ứng căn cơ mà thí giáo, thuyết pháp lợi sanh, th́ gọi là “trung hóa”.

          “Vô sanh, vô diệt, vô hóa”: Sợ chúng sanh chấp tướng, chấp có sanh diệt, có giáo hóa, hướng dẫn, sẽ thiên lệch về bên Hữu, cho nên nói để cứu vớt rằng: Do các pháp vốn tự vô sanh, nay cũng chẳng diệt, giống như hoa đốm trên hư không. Sanh vốn chưa từng sanh, diệt cũng có bao giờ diệt, đều do con mắt bị bệnh mà hư vọng thấy sanh diệt. Đă vô sanh diệt, th́ giáo hóa cũng là chẳng có giáo hóa! u “vô tự, vô tha” nhằm bổ túc ư nghĩa “vô hóa” (chẳng giáo hóa): Chẳng có chủ thể có thể giáo hóa (năng hóa), chẳng có đối tượng được giáo hóa (sở hóa). Năng lẫn Sở cùng mất, tự và tha chẳng lập!

          Năm câu kể từ “đệ nhất vô nhị” trở đi là do sợ chúng sanh phá tướng, nghe nói “chẳng có sanh diệt, chẳng có hướng dẫn, giáo hóa, tự tha”, sẽ lệch về bên Không, lại nói cứu vớt rằng: Chỉ là Đệ Nhất Nghĩa Đế, dứt bặt đối đăi, chẳng hai. Không Hữu đều thuộc về đối đăi, bèn cùng gạt bỏ cả hai bên để cứu vớt. “Phi hóa”: Chẳng nhất định có năng hóa và sở hóa. “Phi bất hóa”: Chẳng phải là không có năng hóa và sở hóa. “Phi vô vô tướng”: Chẳng phải là không có các tướng “chẳng có sanh diệt, giáo hóa, hướng dẫn, tự, tha” v.v… Hết thảy chư Phật hóa độ chúng sanh, chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu, Pháp Thân thường bất động, cho nên nói là “vô lai, vô khứ” (chẳng đến, chẳng đi). “Như hư không cố” (v́ như hư không): Sánh ví các nghĩa trên đây, hư không lặng trong, bất động, chẳng có sanh diệt, xen tạp chẳng phân, chẳng có tự tha, Thể của nó chẳng có các tướng, cho nên nói là “phi tướng”. Mặt trời chiếu th́ sáng, mây đùn th́ tối tăm, cho nên nói là “phi vô tướng” (chẳng phải là không có tướng). Viên măn trọn khắp, cho nên chẳng đến, đi.

 

          (Kinh) Nhất thiết chúng sanh vô sanh diệt, vô phược giải, phi nhân, phi quả, phi bất nhân quả, phiền năo ngă nhân, tri kiến, thọ giả, ngă sở giả.

          ()一切眾生無生滅,無縛解。非因非果,非不因果。煩惱我人,知見受者,我所者。

          (Kinh: Hết thảy chúng sanh chẳng sanh diệt, chẳng trói buộc hay tháo gỡ, chẳng phải nhân, chẳng phải quả, [chẳng có] phiền năo ta người, tri kiến, thọ giả, và cái của ta).

         

          Từ đoạn này trở đi nói về Không. Kinh văn gồm năm đoạn:

          - Đoạn đầu tiên nói về Sanh Không.

          - Từ “nhất thiết khổ thọ” (hết thảy cảm nhận về khổ) trở đi nói về Pháp Không.

          - Từ “cảnh giới” trở đi, nói về Cảnh Không.

          - Từ “vô Tam Bảo” (chẳng có Tam Bảo) trở đi nói về thánh phàm Không.

          - Từ “Bát Nhă vô tri” trở đi nói tới Trí Không.

          “Nhất thiết chúng sanh” (hết thảy chúng sanh): Nhân duyên ḥa hợp, hư vọng có sanh. Nhân duyên chia ĺa, hư vọng gọi là diệt. Sanh và diệt đă đều là hư vọng, tức là “vô sanh diệt”. Chúng sanh bị phiền năo trói buộc, cầu đạt được Niết Bàn giải thoát, biết rơ tánh của phiền năo Không, cho nên “vô phược” (chẳng trói buộc). Niết Bàn như huyễn, cho nên “vô thoát” (chẳng cởi gỡ).

          “Phi nhân, phi quả”: Hoặc nghiệp của chúng sanh là nhân; khổ báo là quả. Hoặc nghiệp chẳng có tự tánh, cho nên là “phi nhân”. Thân này vốn chẳng có, cho nên “phi quả”. Như người trong mộng, há thật sự có ư? “Phi nhân, phi quả” ở đây chẳng giống với tà kiến bài bác “không có nhân quả”, mà chính là luận định theo lư tánh. Nếu bác bỏ “chẳng có sự thật nhân quả”, sẽ có thể phá hoại tâm lư của chúng sanh, khiến cho họ rơi vào Đoạn Kiến. Do cái tội hăm hại người khác, sẽ đọa vào địa ngục, chớ nên chẳng khéo hiểu!

          “Phi bất nhân quả” (chẳng phải là không có nhân quả): Lại xét theo Phật tánh là nhân, Niết Bàn là quả để nói. Hết thảy chúng sanh chẳng phải là không có Phật tánh, cho nên chẳng phải là không có nhân, chẳng phải là không có Phật tánh. Do vậy, “phi vô nhân” (chẳng phải là không có nhân). Tánh tự Niết Bàn, cho nên “phi vô quả” (chẳng phải là không có quả).

          “Phiền năo”: Theo giáo nghĩa Thiên Thai, có tất cả năm trụ: Kiến Hoặc là một trụ, Tư Hoặc gồm ba trụ, Trần Sa và Vô Minh hợp thành một trụ, đều là các pháp tối tăm, phiền loạn, có thể năo loạn tâm tánh của chúng sanh, cho nên gọi là phiền năo!

          “Ngă nhân” (ta, người): Ngũ Ấm tích tụ, giả gọi là Ngă. [Những ǵ] ở ngoài thân th́ thuộc về Sắc Ấm, chính là Tứ Đại tức “địa, thủy, hỏa, phong” giả hợp mà thành. Da, thịt, gân, xương là Địa Đại. Các dịch thể, tinh, huyết v.v… là Thủy Đại. Hơi ấm trong thân là Hỏa Đại. Hơi thở ra vào, tay chân vận chuyển là Phong Đại. Nếu Phong Đại chẳng điều ḥa, sẽ thành phong bệnh. Nội tâm thuộc về bốn Ấm Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc và tâm gồm tám pháp ḥa hợp, lại giả gọi là người! Hết thảy mọi người đều cho rằng thân tâm là Thật Ngă, ngă chấp kiên cố. Do vậy, từ nhân ngă dấy lên tham, sân, si, các tâm bất thiện, tạo các thứ nghiệp, dẫn đến xă hội trược ác, quốc gia nhiễu loạn, thế giới chẳng được ḥa b́nh. V́ thế, Thích Ca Như Lai nói pháp vô ngă, ngă không quán v.v… để mong làm đường lối trọng yếu căn bản ḥng cứu người, cứu nước, cứu đời! Phàm quốc gia muốn thủ hộ đất nước, phải nên thủ hộ Phật giáo, khiến cho Phật giáo được lưu thông phổ cập. Như thế th́ chẳng thủ hộ đất nước mà đất nước tự được thủ hộ, thế giới chẳng cầu ḥa b́nh mà tự đạt được ḥa b́nh.

          “Tri kiến, thọ giả” tức sáu thọ dụng căn, [nghĩa là]: Chúng sanh trọn đủ sáu căn. Trong sáu căn, có sáu tác dụng: Nơi mắt là thấy, nơi tai là nghe, nơi mũi là ngửi, nơi lưỡi là nếm, nơi thân là cảm nhận, nơi ư là biết. Nay nói là “tri kiến”, tức là chỉ nêu lên [tác dụng] đầu và cuối. “Thọ giả”: Do sáu căn có sáu tác dụng, tức “thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm nhận, biết, mà thường lănh thọ sáu trần, trở thành các cảnh “trái, thuận, chẳng trái chẳng thuận” v.v… V́ thế nói là Thọ (tiếp nhận).

          “Ngă sở”: Do các phiền năo “ta người, tri kiến, thọ giả” trên đây đều thuộc về Ngă. Ngă Sở (cái thuộc về ta) chính là những ǵ ở ngoài thân tâm. Tất cả các pháp đều được coi là Ngă Sở. Chẳng hạn như tất cả tài vật, nhà cửa, ruộng vườn, quyến thuộc v.v… mà ta sở hữu, đối với mỗi thứ, chúng sanh đều chấp trước là thật. Do vậy, chẳng thấy thấu suốt, chẳng thể buông xuống được, dấy lên các tâm tham, sân, si v.v… Đó cũng là cội nguồn dẫn đến loạn lạc!

          Đoạn kinh văn này nói về Sanh Không. Xét kỹ cách hành văn, cuối cùng đáng lẽ phải có câu “nhất thiết Không cố” (do hết thảy đều là Không). Bản Đường dịch th́ có câu ấy, sợ rằng [trong bản Tần dịch này] khi sao chép đă bị bỏ sót. Khi giải thích kinh, phải nên bổ túc ư nghĩa kinh văn, ngơ hầu chẳng đến nỗi ư nghĩa của kinh văn chẳng có chỗ quy kết vậy!

 

          (Kinh) Nhất thiết khổ, thọ, hành Không cố, nhất thiết pháp tập, huyễn hóa Ngũ Ấm, vô hợp, vô tán, pháp đồng pháp tánh, tịch nhiên không cố.

          ()一切苦受行空故。一切法集,幻化五陰,無合無散。法同法性,寂然空故。

          (Kinh: Do hết thảy khổ, thọ, hành là Không, hết thảy các pháp nhóm họp, huyễn hóa Ngũ Ấm, chẳng hợp, chẳng tan, do pháp giống như pháp tánh, vắng lặng, là Không vậy).

 

          Đây là nói về Pháp Không. Trong câu đầu, “khổ, thọ, hành Không”, Khổ gồm có ba khổ, Thọ cũng như thế:

          - Khổ Thọ là Khổ Khổ. Tấm thân này vốn đă là khổ, lại thêm bị cảnh khổ bức bách, đó là Khổ Khổ.

          - Lạc Thọ là Hoại Khổ. Lạc chẳng lâu dài, trong khoảnh khắc đă biến đổi, diệt mất, đó là Hoại Khổ.

          - Xả Thọ là Hành Khổ. Dẫu khổ và lạc đều bỏ, nhưng Hành Ấm chuyển dời trong mỗi niệm, đó là Hành Khổ. Quán thể tánh của Khổ chính là Không, cho nên nói “hết thảy khổ, thọ, hành đều là Không”.

          “Nhất thiết pháp tập, huyễn hóa Ngũ Ấm” (Hết thảy pháp tập, huyễn hóa Ngũ Ấm): Nhân duyên ḥa hợp gọi là Pháp Tập. Do chẳng có thật thể, bèn gọi là “huyễn hóa”. Pháp Ngũ Ấm là như thế đó. Duyên tận bèn diệt, cho nên “vô hợp” (chẳng hợp). Duyên hội họp bèn sanh, do đó nói là “vô tán” (chẳng tan ĺa). Pháp Ngũ Ấm vốn đồng pháp tánh, Tục chính là Chân. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Nhân duyên ḥa hợp, hư vọng hữu sanh; nhân duyên biệt ly, hư vọng danh diệt. Huyễn vọng xưng tướng, kỳ tánh chân vi diệu giác minh thể” (Do nhân duyên ḥa hợp bèn hư vọng có sanh. Do nhân duyên chia ĺa, hư vọng gọi là diệt. Huyễn vọng gọi là tướng, nhưng tánh của nó là cái thể diệu giác sáng suốt). Lại nói: “Ngũ Ấm bổn Như Lai tạng, diệu Chân Như tánh” (Ngũ Ấm vốn là Như Lai tạng, tánh Chân Như mầu nhiệm). V́ thế nói là “pháp đồng pháp tánh”. Lặng lẽ bất động, ĺa hết thảy các tướng; do vậy gọi là “tịch nhiên Không cố” (do vắng lặng, là Không).

 

          (Kinh) Pháp cảnh giới không, không vô tướng, bất chuyển, bất điên đảo, bất thuận huyễn hóa.

   ()法境界空,空無相。不轉,不顛倒,不順幻化。

          (Kinh: Cảnh giới do nương theo pháp là Không, Không vô tướng, chẳng chuyển, chẳng điên đảo, chẳng thuận theo huyễn hóa).

 

          Đây là nói về Cảnh Không. Phần trước đă nói về Pháp Không, vậy th́ cảnh giới do nương vào pháp mà hiện cũng là Không. Cái Không này chẳng giống với “ngoan không” (cái không trơ trơ) như phàm phu chấp trước, hay Đoạn Không của ngoại đạo chấp trước, mà là lư “tự tánh Chân Không, Thật Tướng vô tướng”; cho nên nói là “Không vô tướng”. “Bất chuyển”: Do bản thể của cái Không bất động, chuyển chính là động, chẳng dấy lên kiến chấp điên đảo, phân biệt, mà cũng chẳng tùy thuận cảnh giới huyễn hóa mà sanh chấp trước.

 

          (Kinh) Vô Tam Bảo, vô thánh nhân, vô lục đạo, như hư không cố.

          ()無三寶,無聖人,無六道,如虛空故。

          (Kinh: Không có Tam Bảo, không có thánh nhân, không có lục đạo, do như hư không).

         

          Đây là nói t́nh kiến [phân biệt] thánh phàm đă tận. Phật, Pháp, Tăng ba đằng đều quư trọng cho nên gọi là Bảo. “Vô thánh nhân” (chẳng có thánh nhân): Phàm t́nh nên đoạn, mà thánh kiến (kiến chấp thấy có thánh nhân) cũng nên mất. V́ thế “vô thánh”. “Vô lục đạo” (chẳng có lục đạo): Khế Kinh dạy: “Nhất thiết chúng sanh bổn lai thị Phật” (hết thảy chúng sanh vốn sẵn là Phật), cho nên “vô phàm”. Thánh phàm mười pháp giới không ǵ chẳng phải là giả danh, cho nên “như hư không”.

 

          (Kinh) Bát Nhă vô tri, vô kiến, bất hành, bất duyên, bất nhân, bất thọ, bất đắc nhất thiết chiếu tướng cố. Hành đạo tướng, tư hành đạo tướng, như hư không cố.

          ()般若無知無見,不行不緣,不因不受,不得一切照相故。行道相,斯行道相,如虛空故。

          (Kinh: Bát Nhă chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hành, chẳng duyên theo, chẳng có nhân, chẳng tiếp nhận, do hết thảy cái có thể chiếu và tướng được chiếu đều chẳng thể được, do đối với tướng hành đạo th́ tướng hành đạo ấy như hư không).

 

          Đây là nói về Trí Không. Phần trước nói các Không đều nương vào cái trí “năng Không” (trí có thể quán chiếu các pháp là Không), cho nên là Không. Nếu cái trí ấy chẳng Không, sẽ trở thành trí chướng. Nay diệu trí Bát Nhă thật sự biết mà chẳng biết, thật sự thấy mà chẳng thấy, cho nên ngay cả cái trí năng Không cũng là Không. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn. Tri kiến vô kiến, tư tức Niết Bàn, vô lậu chân tịnh” (từ trên tri kiến mà đặt ra một cái biết, th́ đó là cái gốc của vô minh. Tuy hay biết mà chẳng thấy là hay biết, đó chính là Niết Bàn, thật sự thanh tịnh vô lậu). Câu thứ ba [trong đoạn kinh Lăng Nghiêm trên đây], tức câu “tri kiến vô kiến” [hàm ư] chính là “chẳng có tri kiến”. [Chỉ nói là “vô kiến” nhưng] chữ Tri đă được gộp vào trong đó, hoàn toàn tương đồng với “vô tri, vô kiến” ở đây!

          “Bất hành, bất duyên, bất nhân, bất thọ”: “Bất hành” tức là quán trí chẳng hành (chẳng quan sát, chẳng tạo tác). “Bất duyên” tức là duyên cảnh (cảnh để cái trí ấy duyên theo, tức là đối tượng được quan sát, tư duy bởi cái trí) chẳng lập. Đấy chính là “duyên và quán đều vắng lặng”. Chẳng có cái nhân để có thể nương vào, cho nên nói là “bất nhân”. Chẳng có pháp nào để thọ (tiếp nhận), cho nên nói là “bất thọ” (chẳng nhận). “Bất đắc nhất thiết chiếu tướng cố” (hết thảy sự quán chiếu và tướng [được quán chiếu] đều chẳng thể được): Giải thích ư “vô tri kiến” trước đó. Hoàn toàn chẳng phải là không có tâm, [tuy cái tâm vẫn thấy biết rành rẽ] nhưng [chẳng chấp vào sự thấy biết ấy nên là] “chẳng biết, chẳng thấy, do diệu lư Thật Tướng duy nhất ĺa Năng lẫn Sở, dứt bặt đối đăi, cho nên “năng chiếu trí tướng” (trí tướng có thể chiếu)“sở chiếu cảnh tướng” (cảnh tướng bị chiếu bởi cái trí ấy) đều chẳng thể được, bèn nói là “bất đắc nhất thiết chiếu tướng cố” (hết thảy các trí chiếu và tướng được chiếu đều chẳng thể được).

          “Hành đạo tướng” tức là tướng tu chứng hành đạo của mười bốn môn Nhẫn. [Nói] tư hành đạo tướng” (tướng hành đạo ấy) nhằm nhắc lại câu trên, hàm ư cái tướng hành đạo ấy chính là xứng tánh mà tu, tu chính là chẳng tu, chứng đắc xứng tánh, chứng cũng là chẳng chứng, ví như hư không.

 

          (Kinh) Pháp tướng như thị, hà khả hữu tâm đắc, vô tâm đắc.

          ()法相如是,何可有心得,無心得。

          (Kinh: Pháp tướng như thế, há có tâm để đắc, hay chẳng có tâm để đắc ư?)

 

          Câu “pháp tướng như thị” nhằm tổng kết từ Sanh Không cho đến Trí Không trong phần trên đều ĺa hết thảy các tướng. Do ĺa hữu tướng, cho nên chẳng thể dùng hữu tâm để đạt được. Do đă ĺa vô tướng, cho nên chẳng thể dùng vô tâm để đạt được.

 

          (Kinh) Thị dĩ Bát Nhă công đức, bất khả chúng sanh trung hnh nhi hành, bất khả Ngũ Ấm pháp trung hnh nhi hành, bất khả cảnh trung hnh nhi hành, bất khả giải trung hnh nhi hành.

          ()是以般若功德,不可眾生中行而行,不可五陰法中行而行,不可境中行而行,不可解中行而行。

          (Kinh: Do vậy, công đức Bát Nhă chẳng thể hành theo hạnh của chúng sanh, chẳng thể hành theo hạnh thuộc Ngũ Ấm, chẳng thể hành theo hạnh thuộc cảnh, chẳng thể hành theo hạnh thuộc giải).

         

          Hai chữ “thị dĩ” (do vậy) nhằm thừa tiếp ư của câu trên, ḥng giải thích Bát Nhă Không hạnh và công đức của Chân Không Bát Nhă. Do Sanh Không, chẳng thể nương vào hạnh của chúng sanh để hành. Do Pháp Không, chẳng thể nương vào hạnh trong Ngũ Ấm để hành. Do Cảnh Không, chẳng thể nương vào hạnh thuộc cảnh để hành. Do Trí Không, chẳng nương vào hạnh thuộc giải để hành.

 

          (Kinh) Thị cố, Bát Nhă bất khả tư nghị, nhi nhất thiết chư Bồ Tát ư trung hành cố, diệc bất khả tư nghị. Nhất thiết chư Như Lai, ư huyễn hóa vô trụ pháp trung hóa, diệc bất khả tư nghị.

          ()是故般若不可思議。而一切諸菩薩於中行故,亦不可思議。一切諸如來,於幻化無住法中化,亦不可思議。

          (Kinh: V́ thế, Bát Nhă chẳng thể nghĩ bàn, nhưng hết thảy các Bồ Tát do hành trong ấy th́ cũng chẳng thể nghĩ bàn. Hết thảy các Như Lai hóa độ trong pháp huyễn hóa vô trụ th́ cũng chẳng thể nghĩ bàn).

 

          Câu đầu tiên tán thán công đức của mười bốn môn Nhẫn. Ĺa nói năng, bặt suy tưởng, th́ gọi là “bất khả tư nghị” (chẳng thể nghĩ bàn). Tam Hiền, Thập Thánh, chẳng nương theo “sanh, pháp, cảnh, giải” để hành, nhưng hành theo hạnh trong các môn Nhẫn này, cũng là chẳng thể nghĩ bàn. Hết thảy các đức Như Lai nương theo “vô hóa” trong các môn Nhẫn này để giáo hóa, tuy giáo hóa mà chẳng giáo hóa. Ba chữ “pháp trung hóa” nối liền với hai từ ngữ “huyễn hóa”“vô trụ”. Chẳng giáo hóa mà giáo hóa, tức là giáo hóa trong pháp huyễn hóa. Giáo hóa mà chẳng giáo hóa tức là giáo hóa trong pháp vô trụ. Cái thứ nhất chính là chẳng có chúng sanh để có thể độ, mà suốt ngày độ sanh. Điều kế tiếp là tuy độ chúng sanh, nhưng chẳng chấp vào tướng độ. V́ thế, sự giáo hóa ấy cũng là chẳng thể nghĩ bàn.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Thử công đức tạng, giả sử vô lượng hằng hà sa đệ thập tam quán đảnh khai sĩ, thuyết thị công đức bách thiên ức phần trung, như vương sở thuyết như hải nhất trích.

          ()善男子!此功德藏,假使無量恆河沙第十三灌頂開士,說是功德百千億分中,如王所說如海一滴。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Công đức tạng này, giả sử vô lượng hằng hà sa bậc Khai Sĩ thuộc địa vị thứ mười ba nói một phần của trăm ngàn phần công đức này th́ cũng giống như vua [Ba Tư Nặc] nói ra một giọt nước biển vậy).

 

          “Công đức tạng này” chính là mười bốn môn Nhẫn Bát Nhă, bao hàm hết thảy các công đức, chẳng thể nói cùng tận. V́ thế, nói so sánh rằng: “Giả sử bậc Pháp Vân Địa Bồ Tát thuộc địa vị thứ mười [trong Thập Địa] nhiều như số cát trong vô lượng sông Hằng nói một phần của trăm ngàn ức phần công đức của môn Bát Nhă này, giống như vua Nguyệt Quang đă nói trong hiện thời, [những ǵ được nói ấy chỉ] giống như một giọt nước biển cả, chẳng thể nào sánh bằng những điều do bậc Khai Sĩ thuộc địa vị thứ mười ba là Quán Đảnh Bồ Tát đă nói, [những điều do bậc Quán Đảnh Bồ Tát nói] giống như biển cả. Pháp Vân Địa Bồ Tát khi chứng nhập môn Nhẫn thứ mười ba, được trí thủy của Như Lai rưới lên đỉnh đầu, thọ đại trí chức, cho nên được gọi là Quán Đảnh.

 

          (Kinh) Ngă kim lược thuật phần nghĩa công đức, hữu đại lợi ích nhất thiết chúng sanh, diệc vi quá khứ lai kim, vô lượng chư Như Lai chi sở thuật khả, Tam Hiền, Thập Thánh tán thán vô lượng, thị Nguyệt Quang vương phần nghĩa công đức.

          ()我今略述分義功德,有大利益一切眾生。亦為過去來今,無量諸如來之所述可。三賢十聖,讚歎無量。是月光王分義功德。

          (Kinh: Ta nay lược thuật một phần nghĩa công đức, có lợi ích to lớn cho hết thảy chúng sanh. [Công đức ấy] cũng được quá khứ, vị lai, hiện tại vô lượng các đức Như Lai trần thuật, hứa khả. Tam Hiền, Thập Thánh tán thán vô lượng. Đó là một phần nghĩa công đức của vua Nguyệt Quang).

 

          Đây là trần thuật lợi ích. “Ngă” là Phật Thích Ca tự xưng. Ngài lược thuật ư nghĩa chút phần công đức của Bát Nhă do vua Nguyệt Quang đă nói. [Công đức ấy tạo] lợi ích to lớn cho hết thảy chúng sanh. Không chỉ ta là Phật Thích Ca nói như thế, mà [công đức ấy] cũng được ba đời chư Phật tán thán, trần thuật, ấn khả. Tam Hiền, Thập Thánh cũng lại tán thán Bát Nhă có vô lượng công đức. Vua Nguyệt Quang có thể nói ư nghĩa “chút phần công đức của Bát Nhă” tuy như một giọt nước biển, nhưng đă trọn đủ vị của trăm sông.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Thị thập tứ pháp môn, tam thế nhất thiết chúng sanh, nhất thiết tam thừa, nhất thiết chư Phật chi sở tu tập, vị lai chư Phật diệc phục như thị. Nhược nhất thiết chư Phật, Bồ Tát, bất do thử môn đắc Tát Bà Nhă giả, vô hữu thị xứ. Hà dĩ cố? Nhất thiết chư Phật cập Bồ Tát, vô dị lộ cố.

          ()善男子!是十四法門,三世一切眾生、一切三乘、一切諸佛之所修習,未來諸佛亦復如是。若一切諸佛菩薩,不由此門得薩婆若者,無有是處。何以故?一切諸佛及菩薩,無異路故。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Mười bốn pháp môn này được ba đời hết thảy chúng sanh, hết thảy tam thừa, hết thảy chư Phật tu tập. Vị lai chư Phật cũng giống như thế. Nếu hết thảy chư Phật, Bồ Tát chẳng do môn này mà đắc Tát Bà Nhă, th́ chẳng có lẽ ấy. V́ cớ sao? Hết thảy chư Phật và Bồ Tát chẳng có con đường nào khác!)

 

          Từ đây trở đi là sự kết khuyến tu học, kinh văn gồm ba đoạn:

          Trước hết, tán thán pháp môn thù thắng, trọng yếu, tức [là tán thán] pháp môn mười bốn món Nhẫn. Hết thảy chúng sanh phát tâm tu hành trong ba đời, “chúng sanh” ở đây là nói tới đại tâm phàm phu, hết thảy tam thừa thánh nhân, hết thảy quá khứ và hiện tại chư Phật, đều phải nên cùng tu tập pháp này. Vị lai chư Phật cũng chẳng thể bỏ pháp môn này. V́ thế nói “diệc phục như thị” (cũng giống như thế).

          “Nhược nhất thiết chư Phật, Bồ Tát” (nếu hết thảy chư Phật, Bồ Tát): Hai chữ “nhất thiết” bao quát mười phương ba đời. Nếu chẳng do mười bốn pháp môn Nhẫn này mà [chư Phật, Bồ Tát] có thể đắc Nhất Thiết Chủng Trí th́ chẳng có lẽ ấy. Điều này nói rơ [các pháp Nhẫn này] được hiền thánh cùng tu. Ba câu kể từ “hà dĩ cố” (v́ cớ sao) trở đi, gạn hỏi nhằm giải thích ư nghĩa “cùng tu”. Hết thảy chư Phật, Bồ Tát mà bỏ pháp môn này, sẽ chẳng có con đường nào khác! “Dị” tức là hai; như kinh Lăng Nghiêm đă dạy: “Thập phương Bà Già Phạm, nhất lộ Niết Bàn môn” (mười phương chư Thế Tôn, một đường thông Niết Bàn).

         

          (Kinh) Thị cố, nhất thiết chư thiện nam tử! Nhược hữu nhân văn chư Nhẫn pháp môn, Tín Nhẫn, Chỉ Nhẫn, Kiên Nhẫn, Thiện Giác Nhẫn, Ly Đạt Nhẫn, Minh Huệ Nhẫn, Diễm Huệ Nhẫn, Thắng Huệ Nhẫn, Pháp Hiện Nhẫn, Viễn Đạt Nhẫn, Đẳng Quán Nhẫn, Huệ Quang Nhẫn, Quán Đảnh Nhẫn, Viên Giác Nhẫn giả, thị nhân siêu quá bách kiếp thiên kiếp vô lượng Hằng hà sa sanh sanh khổ nạn, nhập thử pháp môn, hiện thân đắc báo.

          ()是故,一切諸善男子!若有人聞諸忍法門:信忍、止忍、堅忍、善覺忍、離達忍、明慧忍、燄慧忍、勝慧忍、法現忍、遠達忍、等觀忍、慧光忍、灌頂忍、圓覺忍者,是人超過百劫千劫無量恆河沙生生苦難,入此法門,現身得報。  

          (Kinh: V́ thế, hết thảy các thiện nam tử! Nếu có người nghe pháp môn các nhẫn: Tín Nhẫn, Chỉ Nhẫn, Kiên Nhẫn, Thiện Giác Nhẫn, Ly Đạt Nhẫn, Minh Huệ Nhẫn, Diễm Huệ Nhẫn, Thắng Huệ Nhẫn, Pháp Hiện Nhẫn, Viễn Đạt Nhẫn, Đẳng Quán Nhẫn, Huệ Quang Nhẫn, Quán Đảnh Nhẫn, Viên Giác Nhẫn, người ấy vượt khỏi khổ nạn trong trăm kiếp, ngàn kiếp, vô lượng Hằng hà sa các đời, nhập pháp môn này, hiện thân được báo).

 

          Đây là tán thán lợi ích, khuyên tu tập. Hai chữ “thị cố” (v́ thế) nhằm thừa tiếp đoạn trước, dẫn khởi đoạn sau, tức là v́ [mười bốn môn Nhẫn] chính là con đường cùng phải theo của các bậc thánh, ta nay lại bảo cho các thiện nam tử biết: Nếu có người nghe pháp môn mười bốn môn Nhẫn này, sẽ có thể siêu việt khổ nạn trong trăm ngàn kiếp vô lượng đời, đó là lợi ích “ĺa khổ”. Nếu có thể tu tập, tiến nhập các pháp môn Nhẫn này, chẳng đợi cách đời (sanh sang đời khác), ngay trong thân hiện tại, sẽ đạt được quả báo. Đó là lợi ích “được vui”.

          Trong kinh văn, Tín Nhẫn chính là địa vị Thập Trụ thuộc Tập Chủng Tánh. Chỉ Nhẫn tức là địa vị Thập Hạnh thuộc Tánh Chủng Tánh. Kiên Nhẫn là địa vị Thập Hồi Hướng thuộc Đạo Chủng Tánh. Từ Thiện Giác Nhẫn cho tới Quán Đảnh Nhẫn chính là các địa vị trong Thập Địa thuộc Thánh Chủng Tánh. Viên Giác Nhẫn chính là nhân viên quả măn, dự vào địa vị Đại Giác, tức Phật địa.

 

          (Kinh) Thời chư chúng sanh hữu thập ức đồng danh Hư Không Tạng Hải Bồ Tát, hoan hỷ pháp lạc, các các tán hoa; ư hư không trung, biến thành vô lượng hoa đài, thượng hữu vô lượng đại chúng, thuyết thập tứ chánh hạnh. Thập bát Phạm, Lục Dục thiên vương, diệc tán bảo hoa; các tọa hư không đài thượng, thuyết thập tứ chánh hạnh, thọ tŕ, độc tụng, giải kỳ nghĩa lư. Vô lượng chư quỷ thần hiện thân, tu hành Bát Nhă Ba La Mật.

          ()時,諸眾生,有十億同名虛空藏海菩薩,歡喜法樂,各各散華;於虛空中變成無量華臺,上有無量大眾,說十四正行。十八梵,六欲天王,亦散寶華;各坐虛空臺上,說十四正行。受持讀誦解其義理。無量諸鬼神現身,修行般若波羅密。

          (Kinh: Khi đó, trong các chúng sanh có mười ức vị cùng tên là Hư Không Tạng Hải Bồ Tát do hoan hỷ bởi pháp lạc, ai nấy đều rải hoa. Ở trong hư không, [các hoa ấy] biến thành vô lượng đài hoa, trên đó có vô lượng đại chúng nói mười bốn chánh hạnh. Mười tám Phạm vương, Lục Dục thiên vương cũng rải hoa báu, ai nấy ngồi trên đài trong hư không, nói mười bốn chánh hạnh, thọ tŕ, đọc tụng, giảng giải nghĩa lư của các chánh hạnh ấy. Vô lượng các quỷ thần hiện thân, tu hành Bát Nhă Ba La Mật).

 

          Đoạn kinh văn này trần thuật nghe pháp đạt được lợi ích. Hư Không Tạng: Coi ĺa tướng là hư không. “Không” có nghĩa là “bao hàm”, có thể chứa đựng vạn hữu. V́ thế, gọi là Tạng. Bồ Tát dùng từ ngữ này làm danh hiệu, v́ đă tu ĺa tướng, trọn đủ vạn hạnh. Danh đồng, hạnh cũng đồng. “Mười ức” là nêu số lượng. Nghe pháp hoan hỷ, tâm đạt được pháp lạc, cho nên ai nấy đều rải hoa cúng dường. Hoa ấy ở trên hư không biến thành vô lượng đài hoa. Trên mỗi đài, có vô lượng đại chúng do tin hiểu mà nói chánh hạnh mười bốn Nhẫn. Hạnh được gọi là Chánh v́ là con đường tu hành chân chánh vậy.

          “Mười tám Phạm thiên xem giải thích trong phần trước. Lục Dục thiên vương cũng giống như thế. Họ đều có thể thọ tŕ, đọc tụng, giải ngộ nghĩa lư trong ấy. Điều được kinh văn diễn tả th́ gọi là Nghĩa, cái để nghĩa nương vào th́ gọi là Lư. “Vô lượng chư quỷ thần đẳng, hiện thân tu hành Bát Nhă” (Vô lượng các hàng quỷ thần hiện thân tu hành Bát Nhă): Bát Nhă chính là mười bốn món Nhẫn, giống như “thừa cấp giới hoăn” trong quá khứ. Do giới hoăn mà đọa trong đường quỷ. Thần chính là quỷ có phước đức. Do thừa cấp cho nên nghe pháp liền có thể tu hành. Phần kinh văn trên đây nhằm giải đáp câu hỏi thứ nhất của Nguyệt Quang: “Bồ Tát thủ hộ hạnh Thập Địa, hăy nên hành các hạnh nào?” Câu hỏi thứ hai là “giáo hóa chúng sanh như thế nào?” Hai câu hỏi ấy đă được giải đáp xong.

 

          (Kinh) Phật cáo đại vương: - Nhữ tiên ngôn vân hà chúng sanh tướng khả hóa?

          ()佛告大王:汝先言云何眾生相可化?

          (Kinh: Đức Phật bảo đại vương: - Trước đó, ông đă nói tướng chúng sanh như thế nào th́ có thể hóa độ?)

 

          Đây là giải đáp câu hỏi thứ ba. Do đến đây đă cách kinh văn [thưa hỏi] quá xa, cho nên [đức Phật] nhắc lại lời hỏi để giải đáp.

 

          (Kinh) Nhược dĩ huyễn hóa thân, kiến huyễn hóa giả, thị Bồ Tát chân hành hóa chúng sanh.

   ()若以幻化身,見幻化者,是菩薩真行化眾生。

   (Kinh: Nếu dùng cái thân huyễn hóa để thấy người huyễn hóa th́ là Bồ Tát thật sự hóa độ chúng sanh).

 

          Đây là chánh thức giải đáp câu hỏi thứ ba. “Huyễn hóa thân”: Biết hết thảy thân tướng vốn tự chẳng sanh, vô sanh mà sanh, phương tiện hiện thân, cho nên gọi là “huyễn hóa thân”. “Kiến huyễn hóa giả” (thấy kẻ huyễn hóa): Chữ Giả chỉ chúng sanh. Tuy chúng sanh theo nghiệp mà thọ thân, nương vào huyễn nghiệp mà cảm huyễn báo, thân ấy cũng là huyễn. Do vậy gọi là “huyễn hóa giả” (kẻ huyễn hóa). Bồ Tát dùng huyễn thân để hóa độ huyễn chúng, người có thể hóa độ và kẻ được hóa độ đều từ duyên sanh. V́ thế gọi là “huyễn hóa”. Như kinh Tịnh Danh nói: “Thí như huyễn sĩ, vị huyễn nhân thuyết pháp” (ví như người huyễn hóa v́ kẻ huyễn thuyết pháp). Đó là thật sự hóa độ chúng sanh, c̣n ở đây là dùng tướng huyễn hóa của chúng sanh để giải đáp [câu hỏi “tướng chúng sanh như thế nào”] th́ có thể hóa độ.

 

          (Kinh) Chúng sanh thức, sơ nhất niệm thức dị mộc thạch. Sanh đắc thiện, sanh đắc ác. Ác vi vô lượng ác thức bổn, thiện vi vô lượng thiện thức bổn. Sơ nhất niệm, kim cang chung nhất niệm, ư trung sanh bất khả thuyết bất khả thuyết thức, thành chúng sanh sắc tâm, chúng sanh căn bản.

          ()眾生識,初一念識異木石。生得善,生得惡,惡為無量惡識本,善為無量善識本。初一念,金剛終一念,於中生不可說不可說識,成眾生色心,眾生根本。

          (Kinh: Chúng sanh thức: Một niệm thức đầu tiên khác với gỗ, đá, sanh ra thiện, hay sanh ra ác. Ác là cái gốc của vô lượng ác thức, thiện là cái gốc của vô lượng thiện thức. Trong khoảng giữa một niệm ban đầu và một niệm Kim Cang (kim cang hậu tâm) rốt cục, sanh ra bất khả thuyết bất khả thuyết thức, tạo thành sắc tâm của chúng sanh, là căn bản của chúng sanh).


          Đây là xét theo huyễn hữu của Tục Đế để nói về tướng chúng sanh. “Chúng sanh thức”: Chúng sanh chỉ nương vào huyễn thức mà có, tích tụ Ngũ Ấm thành thân. “Sơ nhất niệm thức dị mộc thạch” (một niệm thức đầu tiên khác với gỗ, đá), tức là Chân Như tối sơ chẳng giữ lấy tự tánh, bỗng dấy động một niệm, sanh ra tướng vô minh, chẳng sanh, chẳng diệt, ḥa hợp với sanh diệt, tạo thành A Lại Da Thức. Đó là “sơ nhất niệm thức”. Thức ấy có hai nghĩa là giác và bất giác. Do vậy, khác với gỗ, đá vô tri. “Sanh đắc thiện, sanh đắc ác”: Thức thứ tám là A Lại Da có thể thâu nhiếp hết thảy các pháp, có thể sanh ra hết thảy các pháp, có chủng tử “thiện, ác, nhiễm, tịnh”. “Sanh đắc thiện” tức là từ Chân Như tự tánh làm chánh nhân, sanh ra chủng tử thiện. “Sanh đắc ác” tức là từ cái nhân sanh bởi vô minh huân tập, sanh ra chủng tử ác.

          “Ác, vi vô lượng ác thức bổn; thiện vi vô lượng thiện thức bổn” (Ác là cái gốc của vô lượng ác thức; thiện là cái gốc của vô lượng thiện thức): Nương vào chủng tử ác làm nhân, lại gặp cảnh giới ác làm duyên, có thể sanh ra ác thức phân biệt. V́ thế nói là Bổn. Chủng tử thiện cũng giống như thế. “Sơ nhất niệm, kim cang chung nhất niệm”: “Sơ” chính là một niệm vô minh tối sơ, bất giác vọng động, dấy lên thành nghiệp thức. Một niệm ấy chính là vô minh nghiệp thức. Nay muốn bỏ mê về giác, quay về nguồn cội, đạt tới kết cục là kim cang hậu tâm, đoạn trừ sanh tướng vô minh, phá ḥa hợp thức tướng, tận hết một niệm này th́ mới thành Đại Giác.

          “Ư trung sanh bất khả thuyết bất khả thuyết thức” (trong khoảng giữa sanh ra bất khả thuyết bất khả thuyết thức), tức là trong vô minh nghiệp thức, do nhân duyên ḥa hợp, bèn hư vọng có sanh. Do nghiệp thức, lại sanh ra bảy chuyển thức (nhăn thức, nhĩ thức… cho đến mạt-na thức), thức tướng vô lượng phân biệt. V́ thế nói là “bất khả thuyết bất khả thuyết thức”. “Thành chúng sanh sắc tâm, chúng sanh căn bản” (thành sắc tâm của chúng sanh, là căn bản của chúng sanh): Thành tựu thân Ngũ Ấm của chúng sanh. Ấm đầu tiên trong Ngũ Ấm là Sắc, bốn Ấm sau đó là Tâm. Sắc và Tâm ḥa hợp, bèn thành huyễn thân. Tâm pháp nương vào Kiến Phần của thức thứ tám mà có. Sắc pháp nương vào Tướng Phần của thức thứ tám mà có. Do đó, một niệm thức là căn bản của chúng sanh huyễn hóa.

 

          (Kinh) Sắc, danh Sắc Cái. Tâm danh Thức Cái, Tưởng Cái, Thọ Cái, Hành Cái.

          ()色,名色蓋。心,名識蓋、想蓋、受蓋、行蓋。

          (Kinh: Sắc được gọi Sắc Cái. Tâm được gọi là Thức Cái, Tưởng Cái, Thọ Cái, Hành Cái.

 

          Đây là nêu ra tên gọi của Ngũ Ấm. Cái () chính là Ấm (), v́ Ấm có nghĩa là “cái phú” (蓋覆, che lấp). Chúng sanh vốn sẵn có Chân Như Phật tánh, nhưng bị năm pháp này che trùm đến nỗi [Chân Như Phật tánh] chẳng thể hiện tiền.

 

          (Kinh) Cái giả, ấm phú vi dụng. Thân danh tích tụ. Đại vương! Thử nhất Sắc pháp sanh vô lượng Sắc; nhăn sở đắc vi Sắc, nhĩ sở đắc vi Thanh, tỵ sở đắc vi Hương, thiệt sở đắc vi Vị, thân sở đắc vi Xúc. Kiên tŕ danh Địa, thủy danh nhuận, hỏa danh nhiệt, khinh động danh phong, sanh ngũ thức xứ, danh Căn. Như thị nhất sắc, nhất tâm, hữu bất khả tư nghị sắc tâm.

          ()蓋者,陰覆為用。身名積聚。大王!此一色法,生無量色;眼所得為色,耳所得為聲,鼻所得為香,舌所得為味,身所得為觸。堅持名地,水名潤,火名熱,輕動名風。生五識處名根。如是一色一心,有不可思議色心。

          (Kinh: “Cái” có tác dụng che phủ. Thân là “tích tụ”. Này đại vương! Một Sắc pháp này sanh ra vô lượng Sắc, cái được mắt đạt được là Sắc, cái được tai đạt được là tiếng, cái được mũi đạt được là hương, cái được lưỡi đạt được là vị, cái được thân đạt được là xúc. Cứng chắc là đất, nước là thấm ướt, lửa là nóng, nhẹ nhàng lay động là gió, chỗ sanh ra năm thức gọi là Căn. Một sắc, một tâm như thế có chẳng thể nghĩ bàn sắc và tâm).

 

          Từ đây trở đi, giảng rộng ư nghĩa “thành chúng sanh sắc tâm” (tạo thành sắc và tâm của chúng sanh). “Cái” là tác dụng che trùm, tác dụng hư vọng hiện tiền, chân thể ẩn lấp. Thân là tích tụ, do Ngũ Ấm tích tụ th́ mới thành huyễn thân. Từ “đại vương” trở đi, “thử nhất Sắc pháp” (Sắc pháp này) chỉ Sắc thuộc Tướng Phần của thức thứ tám. “Sanh vô lượng Sắc”: Sáu căn đối ứng sáu trần, không ǵ chẳng phải là Sắc pháp. Nay chẳng nói tới pháp trần là do tỉnh lược; bởi lẽ, Tứ Đại hợp thành ngũ căn cũng thuộc về Sắc pháp, chỉ có ư căn thuộc vào tâm pháp. “Kiên tŕ”: Tánh cứng chắc, có thể ǵn giữ hết thảy th́ gọi là Địa Đại. Thấm ướt là Thủy Đại. Nóng ấm là Hỏa Đại. Nhẹ nhàng lay động là Phong Đại. Tứ Đại ḥa hợp có thể sanh ra ngũ căn.

          “Sanh ngũ thức xứ danh Căn” (chỗ sanh ra năm thức th́ gọi là Căn): Năm thức nương vào năm căn mà sanh. Căn là chỗ sanh ra thức. Một sắc, một tâm như thế có thể sanh ra chẳng thể nghĩ bàn sắc tâm. Hết thảy sắc tâm đều nương vào vọng thức mà có, đều chẳng có thật thể, thảy đều như huyễn.

 

          (Kinh) Đại vương! Phàm phu lục thức thô, cố đắc giả danh thanh, hoàng, phương, viên đẳng, vô lượng giả sắc pháp. Thánh nhân lục thức tịnh, cố đắc thật pháp sắc, hương, vị, xúc, nhất thiết thật sắc pháp.

          ()大王!凡夫六識麤,故得假名青黃方圓等,無量假色法。聖人六識淨,故得實法色香味觸,一切實色法。

          (Kinh: Này đại vương! Sáu thức của phàm phu thô, cho nên đạt được các giả danh như xanh, vàng, vuông, tṛn v.v… vô lượng pháp giả sắc. Thánh nhân do sáu thức thanh tịnh, cho nên đạt được sắc, hương, vị, xúc nơi thật pháp, hết thảy pháp thật sắc).

 

          Đây là nói rơ sắc tâm sai biệt giữa thánh và phàm: Do sáu thức thô hay tịnh khác nhau, cho nên cái được thấy sẽ là giả hay thật chẳng b́nh đẳng. Sáu thức của phàm phu do Biến Kế chấp trước thô thiển, cho nên họ thấy toàn là pháp giả sắc. Sáu thức của thánh nhân xa ĺa Biến Kế, diệt vô thường sắc, đạt được thường sắc thanh tịnh, cho nên trông thấy pháp thật sắc.

 

          (Kinh) Chúng sanh giả, Thế Đế chi danh dă. Nhược hữu, nhược vô, đản sanh chúng sanh ức niệm, danh vi Thế Đế. Thế Đế giả cuống, huyễn hóa cố hữu.

          ()眾生者,世諦之名也,若有若無。但生眾生憶念,名為世諦。世諦假誑,幻化故有。

          (Kinh: Chúng sanh là tên gọi trong Thế Đế. Dù có hay không, chỉ do sanh ra sự ức niệm của chúng sanh mà gọi là Thế Đế. Thế Đế giả dối, do huyễn hóa mà có).

 

          Phần trước đă nói Ngũ Ấm là “pháp giả”, chấp có chúng sanh tức là tiếp nhận cái giả. Chúng sanh chính là giả danh trong Thế Tục Đế, chẳng phải là Chân Đế thật sự có chúng sanh. Đấy tức là “danh giả”. “Nhược hữu, nhược vô”: Xét theo Tục Đế, chẳng có mà tựa hồ là có, giống như kẻ ở trong mộng. V́ thế nói là “nhược hữu” (như là có). Xét theo Chân Đế, tuy có, nhưng thật sự là không, giống như trăng trong nước. V́ thế nói là “nhược vô”. Chỉ do ức tưởng vọng niệm phân biệt của chúng sanh mà sanh, th́ gọi là Thế Đế. Thế Đế đều là giả dối, chẳng thật, giống như huyễn sư (ảo thuật gia) biến ra huyễn nhân (người hư huyễn). V́ thế nói là “huyễn hóa cố hữu” (do huyễn hóa mà có).

 

          (Kinh) Năi chí lục đạo huyễn hóa, chúng sanh kiến huyễn hóa, huyễn hóa kiến huyễn hóa. Bà-la-môn, Sát-lợi, Tỳ-xá, Thủ-thí, thần ngă đẳng sắc tâm, danh vi Huyễn Đế, huyễn đế pháp.

          ()乃至六道幻化,眾生見幻化,幻化見幻化。婆羅門、剎利、毗舍、首施、神我等色心,名為幻諦,幻諦法。

          (Kinh: Cho tới lục đạo huyễn hóa, chúng sanh thấy huyễn hóa, huyễn hóa thấy huyễn hóa. Bà-la-môn, Sát-lợi, Tỳ-xá, Thủ-thí, thần ngă v.v… các thứ sắc tâm như thế được gọi là Huyễn Đế, là pháp thuộc về Huyễn Đế).

 

          Từ một chúng sanh như huyễn, cho đến suy ra cùng tận hết thảy chúng sanh trong lục đạo đều là huyễn. Có chúng sanh thấy là huyễn, tiến thêm bước nữa là đối với huyễn hóa, cũng thấy là huyễn. V́ thế nói “huyễn hóa thấy huyễn hóa”. Bà-la-môn (Brāhmaṇa) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Tịnh Duệ (淨裔, hậu duệ của bậc thanh tịnh). Sát-lợi (Kṣatriyaḥ) được phương này dịch là Vương Chủng (gịng dơi nhà vua). Tỳ-xá (Vaiśya) được phương này dịch là Thương Cổ (商賈, thương nhân, lái buôn). Thủ-thí (Śūdra) được phương này dịch là Nông Phu. Tây Vực phân chia bốn chủng tánh lớn sang, hèn, trí, ngu. “Thần ngă” (Puruṣa)[7] chỉ ngoại đạo. Ngoại đạo có hai mươi lăm Đế, Đế cuối cùng là Thần Ngă. Ở đây, nêu ra sắc tâm của phàm phu, ngoại đạo, được gọi là Huyễn Đế. Chúng sanh chính là pháp thuộc vào Huyễn Đế, cho nên gọi là Huyễn Đế pháp.

 

          (Kinh) Vô Phật xuất thế tiền vô danh tự, vô nghĩa danh, huyễn pháp huyễn hóa, vô danh tự, vô thể tướng, vô tam giới danh tự, vô thiện ác quả báo, lục đạo danh tự.

          ()無佛出世前無名字,無義名。幻法幻化,無名字,無體相。無三界名字,無善惡果報、六道名字。

          (Kinh: Trước khi có Phật xuất thế th́ chẳng có danh tự, chẳng có nghĩa danh. Huyễn pháp, huyễn hóa chẳng có danh tự, chẳng có thể tướng. Chẳng có danh tự tam giới, chẳng có các danh xưng như quả báo thiện ác và lục đạo).

 

          Đây là giải thích về “danh giả”. Trước hết nói về vô danh (không có danh tự, tên gọi), sau đó nói về chuyện lập danh. “Phật vị xuất thế tiền vô danh tự” (trước khi đức Phật xuất thế, chẳng có danh tự), tức là không có “nghĩa danh”. “Nghĩa danh” là ǵ? Nói “danh là giả” th́ chính là “nghĩa danh”. Trừ đức Phật ra, không ai nói tới. V́ thế nói là “vô nghĩa danh” (chẳng có nghĩa danh). Ba câu kể từ “huyễn pháp, huyễn hóa” trở đi, ư nói: Hết thảy các pháp là vọng huyễn, giống như các pháp do huyễn sư biến hóa ra, v́ chẳng có thật danh và thật thể. Ba câu từ “vô tam giới danh tự” (chẳng có danh tự tam giới) trở đi, [ư nói: Khi] Phật chưa xuất thế, chẳng có ai có thể nói tam giới là chỗ quả báo của thiện ác. Thiện nghiệp th́ sanh vào ba đường lành, ác nghiệp bèn sanh vào ba đường ác. Do không có Phật để nói, cho nên chẳng có các danh tự tam giới, quả báo và lục đạo.

 

          (Kinh) Đại vương! Thị cố Phật Phật xuất hiện ư thế, vị chúng sanh cố, thuyết tác tam giới lục đạo danh tự, thị danh vô lượng danh tự, như Không pháp, tứ đại pháp, tâm pháp, sắc pháp.

          ()大王!是故佛佛出現於世,為眾生故,說作三界六道名字。是名無量名字,如空法、四大法、心法、色法。

          (Kinh: Này đại vương! V́ thế, từng vị Phật xuất hiện trong thế gian, v́ chúng sanh mà nói ra danh tự tam giới, lục đạo. Đó gọi là vô lượng danh tự, như Không pháp, pháp Tứ Đại, tâm pháp, sắc pháp).

 

          “Thị cố” (v́ thế) [tức là] do chẳng có danh tự “quả báo thiện ác, lục đạo”, [khiến cho] chúng sanh chẳng biết bỏ ác theo thiện. Do vậy, đức Phật đại bi thị hiện, xuất sanh trong thế gian, v́ chúng sanh chỉ bày tam giới là chỗ chúng sanh nương theo nghiệp mà thọ báo. Do nghiệp của chúng sanh có thiện hay ác khác nhau, cho nên quả báo có khổ hay lạc sai khác. Trong lục đạo, trời, người, A Tu La là ba thiện đạo, chính là quả báo do thiện nghiệp cảm vời. Địa ngục, quỷ, súc sanh là ba ác đạo; đó là quả báo do ác nghiệp cảm vời. Quả báo khổ hay lạc trong lục đạo hoàn toàn do cái tâm thiện hay ác của chúng sanh tạo thành. V́ thế nói: “Tâm tạo thiên đường, tâm tạo địa ngục”.

          Đức Phật nói Ngũ Giới, Thập Thiện, pháp nhân thiên thừa v́ muốn khiến cho chúng sanh đoạn ác, tu thiện, vĩnh viễn ĺa ác đạo. Đấy chính là pháp cứu thế, mà cũng chính là phương cách để hộ quốc. Quốc gia nếu thật sự có thể nói tới nhân quả của Phật giáo, khiến cho phổ cập, sẽ có thể tự khiến cho ḷng người có phạm vi, bổ trợ các chỗ thiếu sót trong chánh trị và pháp luật, văn hồi thế đạo, củng cố nền tảng đất nước há khó khăn chi? Mỗi nước đều có thể đề xướng th́ sẽ là thế giới đại đồng, tức là nhân gian Tịnh Độ vậy!

          Tam giới lục đạodanh xưng chung. Trong mỗi giới, mỗi đường, lại có vô lượng danh tự sai khác, v́ thế nói là “thị danh vô lượng danh tự” (đó gọi là vô lượng danh tự). Ba câu cuối liệt kê vô lượng danh tự, như các danh tự Không pháp, pháp Tứ Đại, tâm pháp, sắc pháp v.v… Không ǵ chẳng phải là giả!

 

          (Kinh) Tương tục giả pháp, phi nhất, phi dị, nhất diệc bất tục, dị diệc bất tục, phi nhất, phi dị, cố danh Tục Đế.

          ()相續假法,非一非異。一亦不續,異亦不續。非一非異,故名續諦。

      (Kinh: Giả pháp liên tục, chẳng một, chẳng khác. Một cũng chẳng tiếp tục, khác cũng chẳng tiếp tục. Do chẳng một, chẳng khác, cho nên gọi là Tục Đế).

 

          Đây là nói về giả pháp liên tục. Ba câu từ “phi nhất, phi dị” trở đi giải thích ư nghĩa “tương tục”. “Phi nhất, phi dị”: Chẳng phải là Thường Kiến hay Đoạn Kiến. Thường Kiến ngoại đạo nói “con người đời đời kiếp kiếp làm người, súc vật đời đời kiếp kiếp làm súc vật”. Thuyết bài bác chẳng có nhân quả ấy có thể phá hoại tâm lư của chúng sanh, cho nên là sai trái. Đoạn Kiến chúng sanh cho rằng “chết rồi là đoạn diệt, chẳng có đời sau”. Đấy cũng là bài bác chẳng có nhân quả, chẳng phải là tri kiến chân chánh, cho nên cũng là sai trái. Hơn nữa, sanh diệt đổi dời, đắp đổi, cho nên chẳng phải là một. Trước sau tiếp nối, cho nên chẳng phải là khác!

          “Nhất diệc bất tục, dị diệc bất tục” (Một cũng chẳng phải là tiếp tục, khác cũng chẳng phải là tiếp tục): Nếu nói là Nhất (một), tức là Thường Kiến. Thường th́ chẳng phải là tiếp nối. V́ lẽ nào? Do chẳng đoạn tuyệt. Nếu nói là Dị, th́ chính là Đoạn Kiến. Đoạn cũng chẳng phải là tiếp nối. V́ lẽ nào? Do chẳng liên kết, dính líu với nhau. Hai câu cuối giải thích chánh nghĩa. Đức Phật biết pháp trước sanh ra pháp sau, pháp trước là nhân, pháp sau là quả. Pháp sau lại theo thứ tự sanh khởi. Đấy là nói chánh nghĩa của nhân duyên tiếp nối, ĺa Thường, ĺa Đoạn, chẳng một, chẳng khác. V́ thế gọi là Tương Tục Đế.

 

          (Kinh) Tương đăi giả pháp, nhất thiết danh tương đăi, diệc danh bất định tương đăi, như ngũ sắc đẳng pháp, hữu vô nhất thiết đẳng pháp, nhất thiết pháp giai duyên thành, giả thành chúng sanh.

          ()相待假法,一切名相待,亦名不定相待。如五色等法,有無一切等法,一切法皆緣成,假成眾生。

          (Kinh: Giả pháp đối đăi th́ hết thảy các danh là đối đăi, cũng gọi là đối đăi chẳng nhất định, như năm pháp Sắc, Thọ v.v… hoặc các pháp như hữu, vô, hết thảy v.v… Hết thảy các pháp đều do duyên mà thành, giả thành chúng sanh).

 

          Đây là nói về “tương đăi giả” (tương đối là giả). Có hai loại: Một là tương đối đăi, hai là tương h́nh đăi. “Nhất thiết danh tương đăi” chính là tương đối đăi. Như Nhăn Thức do đối ứng với Nhăn Căn và Sắc Trần mà định. Pháp đối đăi này tạm sanh liền diệt, cho nên nói là Giả, cũng gọi là Bất Định Tương Đăi.

          Tương H́nh Đăi như xanh do đối lập với vàng mà tỏ lộ, dài đối lập với ngắn mà bộc lộ. Nói bất định th́ xanh đối với đỏ, trắng, là xanh chẳng phải đỏ, là xanh chẳng phải trắng. Lại nữa, dài đối với vuông tṛn th́ là dài chẳng phải vuông, là dài chẳng phải tṛn v.v… Xanh, vàng, đỏ, trắng, dài, ngắn, vuông, tṛn so sánh bất định. V́ thế nói Bất Định Tương Đăi. Có, không, đoạn, thường, tăng, giảm, hết thảy các pháp cứ phỏng theo đó mà biết.

          “Nhất thiết pháp giai duyên thành” [nghĩa là] hết thảy các pháp đều do nhân duyên ḥa hợp mà thành. Tức là chúng sanh cũng từ duyên giả hợp mà thành, như do Tứ Vi mà thành Tứ Đại, Tứ Đại thành ngũ căn, ngũ căn thành chúng sanh, cho nên nói là “giả thành chúng sanh”.

 

          (Kinh) Câu thời nhân quả, dị thời nhân quả, tam thế thiện ác, nhất thiết huyễn hóa, thị huyễn đế chúng sanh.

          ()俱時因果,異時因果,三世善惡,一切幻化,是幻諦眾生。

          (Kinh: Nhân quả đồng thời, nhân quả khác thời, thiện ác ba đời, hết thảy huyễn hóa, đó là chúng sanh thuộc vào huyễn đế).

 

          Đây là giải thích “sanh nhân giả”, nhân đă chẳng thật, quả cũng như huyễn. “Câu thời nhân quả”: Ngay trong khi tạo nghiệp thiện ác, đồng thời liền đạt được khổ báo hay lạc báo. Chẳng hạn như phát tâm bi to lớn, xả tài cứu tai, đó là nhân. Mọi người coi trọng, tán dương, cung kính, đó là quả. Nhân và quả đồng thời, như hang vọng tiếng. Lại như bỗng dấy tâm tham, đoạt tài, sát hại tánh mạng, đó là nhân. Bị chánh quyền bắt bớ, hành h́nh trị tội; đó là quả. Nhân quả báo ứng như bóng theo h́nh.

          “Dị thời nhân quả”: Lúc này làm thiện, tạo ác; lúc khác chịu khổ, hưởng vui. “Tam thế thiện ác” tức là tiền nhân, hậu quả. Kiếp trước làm lành, đời này hưởng vui. Kiếp này làm ác, đời sau chịu khổ. Cổ đức nói: Muốn biết nhân đời trước, những ǵ hứng chịu trong đời này chính là nó đấy. Muốn biết cái quả trong đời sau, [hăy nh́n vào] những ǵ đă làm trong đời này, dù nhân hay quả, chẳng sai sót mảy may!

          “Nhất thiết huyễn hóa”: Do nhân quả thiện ác do tâm kiến lập, vốn chẳng có tự thể, cũng đều là huyễn hóa. Do huyễn hoặc tạo huyễn nghiệp, nương vào huyễn nghiệp mà hứng chịu huyễn báo. Tương ứng với lư hư vọng mà hiện tại có khổ hay lạc. Như cảnh trong mộng, khổ hiện khổ thọ, lạc hiện lạc thọ, chớ nên do thấy huyễn hóa mà bài bác chẳng có nhân quả. Huyễn đế chúng sanh cũng chẳng ĺa nhân quả. Do huyễn nhân thiện hay ác mà cảm vời huyễn quả, v́ thế nói là “huyễn đế chúng sanh”.

 

          (Kinh) Đại vương! Nhược Bồ Tát như thượng sở kiến chúng sanh huyễn hóa giai thị giả cuống, như không trung hoa, Thập Trụ Bồ Tát, chư Phật ngũ nhăn, như huyễn đế nhi kiến, Bồ Tát hóa chúng sanh vi nhược thử.

          ()大王!若菩薩如上所見眾生幻化皆是假誑,如空中華。十住菩薩,諸佛五眼,如幻諦而見。菩薩化眾生為若此。

          (Kinh: Này đại vương! Nếu Bồ Tát thấy chúng sanh huyễn hóa đều là giả dối như trên, giống như hoa đốm trong hư không. Thập Trụ Bồ Tát, chư Phật ngũ nhăn đều thấy như huyễn đế. Bồ Tát hăy nên hóa độ chúng sanh như thế đó).

 

          Đoạn kinh văn này dùng thí dụ để chỉ bày ḥng kết quy. Chúng sanh huyễn hóa giống như hoa đốm trong hư không. Hư không lặng lẽ, vốn chẳng có tướng hoa đốm, do mắt bị bệnh mà hư vọng thấy là có. Pháp giới thanh tịnh vốn chẳng có chúng sanh, do vô minh vọng thức mà có [chúng sanh]. Thập Trụ Bồ Tát đă trừ khử, dùng huệ nhăn quán Không, dùng pháp nhăn quán Giả. Chư Phật ngũ nhăn trọn đủ, dẫu thấy chúng sanh mà đều thấy đúng như huyễn đế. Ông hỏi Bồ Tát nên đối với chúng sanh tướng như thế nào mà hóa độ ư? Bồ Tát hóa độ chúng sanh là như thế đó. “Nhược” là như. Hăy đúng như vừa nói trên đây [mà hóa độ]!

         

          (Kinh) Thời, chư hữu vô lượng thiên tử, cập chư đại chúng, đắc Phục Nhẫn giả, đắc Không Vô Sanh Nhẫn, năi chí nhất địa, thập địa bất khả thuyết đức hạnh.

          ()時,諸有、無量天子、及諸大眾,得伏忍者、得空無生忍、乃至一地、十地不可說德行。

          (Kinh: Khi đó, vô lượng thiên tử trong các hữu và các đại chúng đạt được Phục Nhẫn, đắc Không Vô Sanh Nhẫn, cho đến chẳng thể nói các đức hạnh thuộc Nhất Địa, Thập Địa).

 

          Đây là nghe pháp đạt được lợi ích. Do đại chúng căn cơ chẳng b́nh đẳng, cho nên đạt được lợi ích cũng có sâu hay cạn. “Chư hữu” chính là hai mươi lăm Hữu (tam giới). “Vô lượng thiên tử” tức là nói tới Lục Dục Phạm vương trong đường trời. “Cập chư đại chúng” (và các đại chúng) bao gồm [chúng sanh thuộc] các đường khác. Hoặc đắc Phục Nhẫn thuộc địa vị Tam Hiền, hoặc đắc Không Vô Sanh Nhẫn thuộc địa vị Thập Địa. “Bất khả thuyết đức hạnh” trong câu cuối [hàm ư] đức hạnh giống như hư không, chẳng thể nghĩ bàn!

Nhân Vương Hộ Quốc Kinh Giảng Nghĩa phần 2 hết

 

 



[1] Y Tha tức là pháp do các nhân duyên mà dấy lên.

[2] Sarvajña trong tiếng Phạn được phiên âm theo nhiều cách: Tát Bà Nhă, Tát Vân Nhă, Tát Vân Nhược, Tát Vân Nhiên, Tát Phạt Nhă, Tát Bà Nhă Nẵng, Tát Bà Nhă Na, Tát Bà Nhă Đa, Tát Phát Cát Nương, Tát Phiệt Nhă v.v…

[3] Đây là một trường phái triết học cổ Ấn Độ, do Yết Na Đà (Kanada) sáng lập. Học phái này chủ trương có một Thật Thể tối cao, khống chế các phần tử cực vi h́nh thành vạn vật, chủ trương vạn vật là thật sự có. Họ lập ra sáu phạm trù (kinh luận Trung Hoa dịch là cú nghĩa, padārtha) là tồn tại, chất lượng, hành vi, phổ biến tánh, đặc thù tánh, cố hữu để thuyết minh các hiện tượng tồn tại trong vũ trụ. Họ chủ trương vật chất (dù thấy hay không thấy, vi tế hay thô thiển), vĩnh hằng hay không vĩnh hằng, luôn biến thiên, nhưng luôn có một thứ vật chất giản đơn tồn tại trong ấy. Chủ trương vật chất do thiên ư (tức ư nguyện của Đại Ngă Atman) mà tồn tại, chủ trương tu hành để được sanh lên trời, trở về với Đại Ngă.

[4] Hàng ở đây là nói theo cột chữ in trong sách, mỗi cột gồm hai câu kệ.

[5] Kinh Phạm Ma Dụ do ngài Chi Khiêm dịch vào thời Đông Ngô. Kinh trần thuật chuyện Bà La Môn Phạm Ma Dụ (Brahmāyu) hoài nghi ba mươi hai tướng của đức Phật là chân hay ngụy. Về sau, ông ta thấy các tướng như tướng lưỡi rộng dài, tướng mă âm tàng v.v… bèn hân hoan cảm thán, quy y đức Phật. Sau đó, đức Phật v́ ông ta giảng nói lẽ trọng yếu trong chí đạo. Phạm Ma Dụ nghe xong, tâm khai ư giải, chứng quả A Na Hàm.

[6] Câu-lô-xá là khoảng cách lớn nhất có thể nghe được tiếng trâu rống hay tiếng trống, khoảng chừng năm dặm Tàu.

[7] Thần ngă là khái niệm trừu tượng xuất phát từ kinh Vi Đà (Vedas) và Áo Nghĩa Thư (Upanishad). Theo đó, thần ngă được hiểu như là một nguyên tố vũ trụ nguyên thủy, là bản thể của vũ trụ, tồn tại vĩnh hằng, bất hoại, vô sắc, và hiện diện trọn khắp. Theo tông phái Số Luận, khi thần ngă kết hợp với Prakrti (sắc chất) sẽ tạo thành sự sống cho muôn loài. Có lẽ do quan điểm này mà một số các giáo phái của Trung Hoa như Bạch Liên, La Giáo v.v… cho rằng mỗi cá nhân là một điểm linh quang của Đại Ngă (Chân Ngă hay chân thần của Thượng Đế) tách ra.