Nhân Vương Hộ Quốc Kinh Giảng Nghĩa
Viên Anh đại sư biên soạn
仁王護國經講義
圓瑛大師著
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang
Phần 2
2.2.3. Phẩm thứ ba: Bồ Tát
giáo hóa (Bồ Tát Giáo Hóa phẩm đệ tam, 菩薩教化品第三)
Phẩm trước nói về thủ hộ
Phật quả, phẩm này nói về thủ hộ hạnh
Thập Địa, tức là [thủ hộ] hạnh tu tập
của Bồ Tát. Bản dịch đời Đường
ghi là phẩm Bồ Tát Hạnh, c̣n
bản dịch này ghi là phẩm Bồ Tát Giáo Hóa. Bồ Tát
cùng vận dụng trí và bi, nhiều lượt hưng khởi
hai thứ lợi ích (tự lợi và lợi tha), dấy
lên sự giáo hóa như huyễn để độ chúng sanh như huyễn. Bồ
Tát tu hành, nếu chỉ vận dụng Bi, sẽ là hạnh
“tùy tướng” (hạnh phụ thuộc vào tướng).
Nếu chỉ vận dụng Trí, sẽ là hạnh “ly tướng”. Nếu cùng vận dụng trí và bi, sẽ là hạnh
vô trụ. Nay [phẩm này dạy về] hạnh vô trụ,
suốt ngày giáo hóa chúng sanh, nhưng chẳng trụ vào
tướng giáo hóa. Phẩm là Loại. Do pháp Ngũ Nhẫn
có phẩm loại giống nhau, cho nên gọi là Phẩm.
Trong ba phẩm thuộc phần Nội Hộ, phẩm này
là phẩm thứ hai. Trong toàn bộ bản kinh, phẩm này
là phẩm thứ ba.
(Kinh) Bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Hộ
Thập Địa hạnh Bồ Tát, vân hà hạnh khả
hành? Vân hà hạnh hóa chúng sanh? Dĩ hà tướng chúng sanh
khả hóa?
(經)白佛言:世尊!護十地行菩薩,云何行可行?云何行化眾生?以何相眾生可化?
(Kinh: [Vua Ba Tư Nặc] bạch
Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Bồ Tát thủ hộ
hạnh Thập Địa, hăy nên hành hạnh như thế
nào? Hạnh có thể hóa độ chúng
sanh là như thế nào? Chúng sanh có tướng như thế
nào th́ sẽ có thể hóa độ?)
Đây là vua Nguyệt Quang hỏi câu thứ
hai về nhân duyên thủ hộ hạnh Thập Địa.
Bồ Tát là người có thể thủ hộ. Lời hỏi
có ba ư:
- Một, hỏi về hành tướng tự
lợi. “Vân hà hạnh khả hành” tức là có thể
nương theo hành pháp nào để tu hành, ḥng thành tựu
hạnh Thập Địa?
- Kế đó, hỏi về hành tướng
lợi tha. “Vân hà hạnh hóa chúng sanh” tức là dùng các
hạnh như thế nào để có thể giáo hóa chúng
sanh, khiến cho họ đạt được lợi
ích?
- Ba, hỏi về tướng của chúng
sanh được hóa độ. “Dĩ hà tướng
chúng sanh khả hóa” tức là quan sát chúng sanh có tướng
trạng như thế nào th́ sẽ là
đương cơ?
Dưới đây, đức Thế Tôn sẽ
giải đáp, chỉ dạy từng điều.
(Kinh) Phật ngôn: - Đại
vương! Ngũ Nhẫn thị Bồ Tát pháp: Phục Nhẫn
thượng, trung, hạ, Tín Nhẫn thượng, trung, hạ,
Thuận Nhẫn thượng, trung, hạ, Vô Sanh Nhẫn
thượng, trung, hạ, Tịch Diệt Nhẫn thượng,
hạ; vi chư Phật Bồ Tát tu Bát Nhă Ba La Mật.
(經)佛言:大王!五忍是菩薩法:伏忍上中下,信忍上中下,順忍上中下,無生忍上中下,寂滅忍上下;為諸佛菩薩修般若波羅密。
(Kinh: Đức Phật nói: - Này
đại vương! Ngũ Nhẫn là pháp của Bồ
Tát: Phục Nhẫn [gồm ba phẩm] thượng, trung,
hạ, Tín Nhẫn thượng, trung, hạ, Thuận Nhẫn thượng, trung, hạ, Vô Sanh Nhẫn
thượng, trung, hạ, Tịch Diệt Nhẫn thượng,
hạ. Đó là chư Phật, Bồ Tát tu Bát Nhă Ba La Mật).
Đây là đức Phật giải đáp
câu hỏi thứ nhất. Trước hết, Ngài nói đại
lược Ngũ Nhẫn chính là pháp để Bồ Tát tự
hành. Sau đó, phân biệt mười bốn món Nhẫn, nhằm
nêu rơ tướng trạng của các pháp do Bồ Tát tự
hành. Mười bốn món Nhẫn đều nương
vào Thật Tướng Bát Nhă để làm Thể. Thật
Tướng vô tướng, không ǵ chẳng có tướng,
do pháp vô vi mà có sai biệt.
“Phục Nhẫn thượng, trung, hạ”:
Địa vị Tam Hiền trước khi đắc
Sơ Địa, tức là Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng, đều thuộc địa
vị Phục Nhẫn. Do có trí có thể chế phục phiền
năo, nhưng chỉ là chế phục, chưa đoạn,
chẳng thể đích thân chứng Pháp Thân. Do vậy, gọi
là Phục Nhẫn, chia thành thượng, trung, hạ: Thập
Trụ là hạ nhẫn, Thập Hạnh là trung nhẫn, Thập
Hồi Hướng là thượng nhẫn. Ví như trong một
địa th́ có thỉ sanh, trụ sanh và chung sanh vậy.
“Tín Nhẫn”: Sơ Địa, Nhị
Địa, Tam Địa đắc vô lậu tín th́ gọi
là Tín Nhẫn. Tứ Địa, Ngũ Địa, Lục
Địa tùy thuận, hướng đến Vô Sanh, th́ gọi
là Thuận Nhẫn. Thất Địa, Bát Địa, Cửu
Địa, các niệm chẳng sanh, gọi là Vô Sanh Nhẫn.
Mỗi Nhẫn lại đều có ba món Nhẫn thượng,
trung, hạ. [Trong mỗi địa], địa vị
đầu tiên là hạ, địa vị kế tiếp là
trung, địa vị sau cùng là thượng. Môn thứ
năm là Tịch Diệt Nhẫn chỉ có hai: Thập
Địa là hạ nhẫn, Phật địa là thượng
nhẫn. Sanh diệt đă diệt, tịch diệt hiện
tiền, th́ gọi là Tịch Diệt Nhẫn. Đấy
là nhân và quả nói gộp chung. Phẩm này thủ hộ cái nhân, chẳng phải là không có quả.
“Danh vi chư Phật, Bồ Tát tu Bát Nhă Ba
La Mật” (được gọi là chư Phật, Bồ
Tát tu Bát Nhă Ba La Mật): Hết thảy chư Phật
đều tu hạnh Ngũ Nhẫn này mà được
thành Chánh Giác. Hết thảy Bồ Tát phải nên tu diệu
hạnh Bát Nhă này để đạt đến bờ kia
Niết Bàn.
(Kinh) Thiện nam tử! Sơ phát tưởng
tín, Hằng hà sa chúng sanh tu hành Phục Nhẫn, ư Tam Bảo
trung, sanh Tập Chủng Tánh thập tâm: Tín tâm, tinh tấn
tâm, niệm tâm, huệ tâm, định tâm, thí tâm, giới
tâm, hộ tâm, nguyện tâm, hồi hướng tâm. Thị
vi Bồ Tát năng thiểu phần hóa chúng sanh, dĩ siêu
quá Nhị Thừa, nhất thiết thiện địa. Nhất
thiết chư Phật, Bồ Tát trưởng dưỡng
thập tâm, vi Thánh Thai dă.
(經)善男子,初發想信,恆河沙眾生,修行伏忍,於三寶中,生習種性十心:信心、精進心、念心、慧心、定心、施心、戒心、護心、願心、迴向心,是為菩薩能少分化眾生。已超過二乘,一切善地。一切諸佛菩薩,長養十心,為聖胎也。
(Kinh: Thiện nam tử! Trước
hết là phát khởi ư tưởng tin rằng chúng sanh nhiều
như cát sông Hằng tu hành Phục Nhẫn, đối với
Tam Bảo, sanh mười tâm Tập Chủng Tánh: Tín tâm,
tinh tấn tâm, niệm tâm, huệ tâm, định tâm, thí
tâm, giới tâm, hộ tâm, nguyện tâm, hồi hướng
tâm. Đấy là Bồ Tát có thể giáo hóa chúng sanh ít phần,
đă vượt khỏi Nhị Thừa và hết thảy
thiện địa. Hết thảy chư Phật, Bồ
Tát trưởng dưỡng mười tâm làm Thánh Thai).
Đây là nói đến Tập Chủng Tánh của
Hạ Phục Nhẫn. Sở dĩ nam tử được
gọi là Thiện là do [người ấy] có thể nhập
Tập Chủng Tánh, tu hành hạnh Thập Trụ. “Sơ
phát tưởng tín” (mới phát ư tưởng tin rằng):
C̣n thuộc Thập Tín, chưa nhập Thập Trụ,
chưa từng kiến đạo, nhưng có thể
nương theo Lư để khởi tưởng, cho nên gọi
là “tưởng tín”. Tưởng tín nếu thành, liền nhập Thập Trụ.
“Hằng hà sa chúng sanh, tu hành Phục Nhẫn”
(Chúng sanh nhiều như cát sông Hằng tu hành Phục Nhẫn):
Sánh ví chúng sanh có thể phát đại tâm tu hành đông
đảo, nhưng phát tâm tuy nhiều, gặp duyên bèn trở thành lui sụt
cũng nhiều. Như cây Am La (cây xoài) hoa
nhiều, quả ít; như cá to mang trứng, trứng tuy vô
lượng, nở thành con th́ ít. Kệ rằng: “Bồ
Tát phát đại tâm, ngư tử, am la hoa; tam sự nhân
trung đa, cập kỳ kết quả thiểu” (Bồ
Tát phát đại tâm, trứng cá và hoa xoài, ba chuyện nhân
th́ nhiều, kết thành quả ít ỏi).
“Ư Tam Bảo trung, sanh Tập Chủng
Tánh thập tâm” (đối với Tam Bảo, sanh mười
tâm Tập Chủng Tánh): Trong Phục Nhẫn có ba phẩm; ở đây là nói về Hạ Phục Nhẫn (Thập Trụ). Đối với pháp chân tịnh
của Tam Bảo, khởi tâm huân tập, dần dần hun
đúc thành chủng tánh, dùng đó để tiến nhập
tánh Phật đạo. Do vậy, gọi là Tập
Chủng Tánh.
Mười tâm:
- Khéo tùy thuận Tam Bảo th́ gọi là tín
tâm.
- Chẳng lười nhác, lui sụt th́ là
tinh tấn tâm.
- Nhớ rơ chẳng quên là niệm tâm.
- Kiến giải thù thắng, chẳng sai lầm
là huệ tâm.
- Một niệm bất động là định
tâm.
- Phá trừ keo tham là thí tâm.
- Điều phục, thủ hộ tam nghiệp
là giới tâm.
- Thủ hộ Tam Bảo là hộ pháp tâm.
- Thượng cầu hạ hóa là nguyện
tâm.
- Hồi hướng ba chỗ là hồi
hướng tâm. “Ba chỗ” là chúng sanh, Chân Như và Phật
quả.
“Thị vi Bồ Tát năng thiểu phần
hóa chúng sanh” (đó là Bồ Tát có thể hóa độ
chúng sanh chút phần): Đây là nói đến công năng của
Hạ Nhẫn. Trọn đủ mười tâm, được
nhập Sơ Trụ, sẽ có thể phương tiện
thiện xảo giáo hóa chúng sanh. Nói “thiểu phần”
là do trí và bi chưa thù thắng. “Dĩ siêu quá Nhị Thừa”
(Đă vượt xa Nhị Thừa): Do hàng Nhị Thừa
chỉ mong riêng cầu tốt lành cho chính ḿnh, chưa có hạnh
nguyện đại bi cứu đời. V́ thế, chẳng sánh
bằng Bồ Tát thuộc Thập Trụ có thể hóa
độ người khác.
“Nhất thiết thiện địa”
(hết thảy các địa vị tốt lành): Thập
Tín gọi là Thiện. Kinh dạy: “Thập Thiện Bồ
Tát phát đại tâm, trường biệt tam giới khổ
luân hải” (Thập Thiện Bồ Tát phát đại
tâm, măi măi giă biệt biển khổ trong tam giới). Hai chữ
“siêu quá” trong câu trước cũng áp dụng cho “nhất
thiết thiện địa”, ư nói “cũng siêu việt
các địa vị Bồ Tát thuộc Thập Tín”.
“Nhất thiết chư Phật, Bồ
Tát trưởng dưỡng thập tâm vi Thánh Thai” (Hết
thảy chư Phật, Bồ Tát trưởng dưỡng
mười tâm làm Thánh Thai): Thập Trụ là khởi đầu
của Tam Hiền, là cái nhân để thành Phật. Các
địa vị thuộc Tam Hiền (Thập Trụ, Thập
Hạnh. Thập Hồi Hướng) đều gọi là
Thánh Thai. Hết thảy chư Phật, Bồ Tát trưởng
dưỡng mười tâm, dùng đó làm Thánh Thai. Đă nói
là “thai” th́ có nghĩa là “thành tựu chủng tánh giác”; sau đó, sẽ ngự lên Đại
Giác.
(Kinh) Thứ đệ khởi Càn Huệ,
Tánh Chủng Tánh hữu thập tâm, sở vị tứ ư chỉ,
thân, thọ, tâm, pháp, bất tịnh, khổ, vô thường,
vô ngă dă.
(經)次第起乾慧,性種性有十心。所謂四意止:身受心法,不淨苦無常無我也。
(Kinh: Theo thứ tự khởi Càn Huệ,
Tánh Chủng Tánh có mười tâm, tức là bốn sự
ngưng dứt nơi ư đối với thân, thọ, tâm,
pháp, tức bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngă).
Đây là nói về Trung Phục Nhẫn. “Thứ
đệ khởi Càn Huệ” (theo thứ tự khởi
Càn Huệ): Dần dần tiến lên Thập Hạnh, do chẳng
có Định thủy nhuần thấm cái tâm, Huệ khô
khan, cho nên gọi là Càn Huệ. Tánh Chủng Tánh: Chữ Tánh
đầu tiên chỉ cái tánh của những cái nhân đă
tu tập từ trước, tạo thành tánh của các cái nhân ấy. “Chủng” tức là cái nhân. V́ thế nói là Chủng Tánh. Từ
chữ “sở vị” (tức là nói) trở đi, nêu
ra mười cái tâm.
“Tứ ư chỉ” (bốn điều
ngưng dứt nơi ư) chính là Tứ Niệm Xứ Quán,
dùng Ư Căn để khởi Huệ Quán, khiến cho cái
tâm ngưng trụ. “Thân, thọ, tâm, pháp” là cảnh
được quán [bởi Tứ Niệm Xứ]. Chúng sanh
đối với bốn cảnh ấy, dấy lên bốn
thứ điên đảo. “Bất Tịnh v.v...” chính là những điều được thành tựu
do công năng của Quán:
- Một là quán thân bất tịnh, trừ chấp
trước điên đảo “thân là tịnh”.
- Hai, quán thọ (quán các cảm nhận) là khổ,
trừ chấp trước điên đảo “khổ là lạc”.
- Ba, quán tâm vô thường, trừ chấp
trước điên đảo “vọng tâm là chân thường”.
- Bốn, quán pháp vô ngă, trừ chấp
trước điên đảo “Ngũ Ấm là Chân Ngă”.
(Kinh) Tam ư chỉ: Tam thiện căn, Từ, Thí, Huệ dă. Tam ư chỉ, sở vị
tam thế, quá khứ nhân nhẫn, hiện tại nhân quả
nhẫn, vị lai quả nhẫn dă.
(經)三意止:三善根,慈施慧也。三意止,所謂三世,過去因忍,現在因果忍,未來果忍也。
(Kinh: Ba điều ngưng dứt
nơi ư là ba thiện căn, tức là Từ, Thí, và Huệ. Ba điều ngưng dứt
nơi ư là đối với ba đời, quá khứ nhân nhẫn,
hiện tại nhân quả nhẫn, và vị lai quả nhẫn).
“Tam ư chỉ” [trong đoạn
này] có hai loại:
- Một, [tam ư chỉ
là] ba thiện căn: Thiện
căn chẳng tham là Thí, thiện căn chẳng sân là Từ,
thiện căn chẳng si là Huệ. Do vậy, giải
thích [ba thiện căn] là Từ, Thí, Huệ.
- Hai, tam thế nhẫn: Quán mười hai
nhân duyên, hai chi trong quá khứ, tức Vô Minh và Hành, chính là
Nhân Nhẫn. Đối với tám chi trong hiện tại,
năm chi đầu là Thức, Danh Sắc, Lục Nhập,
Xúc và Thọ thuộc quả, ba chi sau tức Ái, Thủ, và
Hữu thuộc về nhân; đó là Nhân Quả Nhẫn. Hai chi
thuộc vị lai là Sanh và Lăo Tử chính là Quả Nhẫn.
(Kinh) Thị Bồ Tát diệc năng
hóa chúng sanh, dĩ năng quá ngă nhân, tri kiến, chúng sanh
đẳng tưởng, cập ngoại đạo đảo tưởng sở bất năng hoại.
(經)是菩薩亦能化眾生,已能過我人知見眾生等想。及外道倒想所不能壞。
(Kinh: Vị Bồ Tát ấy cũng có thể
hóa độ chúng sanh, do đă có thể vượt khỏi
các ư tưởng như “ta, người, tri kiến, chúng
sanh” v.v… và chẳng bị phá hoại bởi các ư tưởng
điên đảo của ngoại đạo).
“Thị Bồ Tát diệc năng hóa chúng
sanh” (vị Bồ Tát ấy cũng có thể giáo hóa chúng
sanh): Đây chính là nói về công năng của Trung Phục
Nhẫn. Quán Ngũ Ấm vô ngă th́ Ngă Kiến chẳng lập,
Nhân Kiến cũng mất. Tri kiến nhân và ngă cùng mất,
há có ư tưởng như chúng sanh v.v… nữa ư? V́ thế
nói “dĩ năng quá ngă nhân tri kiến chúng sanh đẳng
tưởng” (đă có thể vượt khỏi các suy
tưởng về “ta, người, tri kiến, chúng sanh”
v.v...) Có thể quán nhân quả ba đời là pháp sanh diệt,
cho nên chẳng phải là Thường. Do tuần hoàn chẳng
dứt, cho nên chẳng phải là Đoạn.
Ngoại đạo chấp đoạn hoặc chấp
thường, hai thứ vọng tưởng điên đảo
ấy đều chẳng thể phá hoại [tri kiến
chân chánh của người đă đắc Trung Phục
Nhẫn].
(Kinh) Phục hữu thập Đạo
Chủng Tánh địa, sở vị quán Sắc, Thức,
Tưởng, Thọ, Hành, đắc Giới Nhẫn, Tri
Kiến Nhẫn, Định Nhẫn, Huệ Nhẫn, Giải
Thoát Nhẫn. Quán tam giới nhân quả, Không Nhẫn, Vô Nguyện
Nhẫn, Vô Tướng Nhẫn. Quán Nhị Đế
hư thật, nhất thiết pháp vô thường, danh Vô
Thường Nhẫn. Nhất thiết pháp không, đắc
Vô Sanh Nhẫn. Thị Bồ Tát thập kiên tâm, tác Chuyển
Luân Vương, diệc năng hóa tứ thiên hạ, sanh nhất
thiết chúng sanh thiện căn.
(經)復有十道種性地。所謂觀色識想受行,得戒忍、知見忍、定忍、慧忍、解脫忍。觀三界因果,空忍、無願忍、無相忍。觀二諦虛實,一切法無常,名無常忍。一切法空,得無生忍。是菩薩十堅心。作轉輪王,亦能化四天下,生一切眾生善根。
(Kinh: Lại có mười
Đạo Chủng Tánh địa, tức là quán Sắc, Thức,
Tưởng, Thọ, Hành, đắc
Giới Nhẫn, Tri Kiến Nhẫn, Định Nhẫn,
Huệ Nhẫn, Giải Thoát Nhẫn. Quán nhân quả trong
tam giới, [đắc] Không Nhẫn, Vô Nguyện Nhẫn, và Vô Tướng Nhẫn.
Quán Nhị Đế hư thật, hết thảy các pháp
vô thường, th́ gọi là Vô Thường Nhẫn. [Quán]
hết thảy các pháp là Không, đắc Vô Sanh Nhẫn. Do
mười kiên tâm của hàng Bồ Tát ấy làm Chuyển
Luân Vương th́ cũng có thể hóa độ tứ
thiên hạ, sanh thiện căn cho hết thảy chúng sanh).
Đây là nói về Thượng Phục Nhẫn,
“phục hữu thập Đạo Chủng Tánh địa”
(lại có mười Đạo Chủng Tánh địa): “Đạo”
là nói đến đạo b́nh đẳng của Sơ
Địa. “Chủng” cũng là nhân, tức là mười
kiên tâm ấy có thể làm nhân tánh cho B́nh Đẳng Đạo.
V́ thế nói là Đạo Chủng Tánh Địa, tu hành Thập
Hồi Hướng. Từ chữ “sở vị” trở
đi, nêu ra mười tâm.
“Sở vị quán Sắc, Thức, Tưởng,
Thọ, Hành” (Tức là quán Sắc, Thức, Tưởng,
Thọ, Hành): Đó chính là liệt kê Ngũ Ấm là pháp được
quán. Sau Sắc, liệt kê Thức trước, v́ bốn Ấm [thuộc tâm pháp] đều lấy Thức làm chủ.
“Đắc Giới Nhẫn…” nghĩa là cái trí có thể
quán (năng quán trí) chuyển Ngũ Ấm thành ngũ phần
Pháp Thân. Do quán Sắc Ấm, liền đắc Giới Nhẫn,
do Tác và Vô Tác Giới đều thuộc về Sắc Ấm.
Quán Thức Ấm liền đắc Tri Kiến Nhẫn,
do tri kiến đều thuộc về Thức Ấm. Quán
Tưởng Ấm, liền đắc Định Nhẫn;
v́ Định do Tưởng Tâm th́ sẽ chẳng
được. Quán Thọ Ấm liền đắc Huệ
Nhẫn, do lănh nạp cảnh giới, huệ chiếu phân
minh, biết rơ là như huyễn. Quán Hành Ấm, liền
đắc Giải Thoát Nhẫn, do đổi dời trong mỗi
niệm, biết rơ vô thường sanh diệt mà đắc
giải thoát.
Từ “quán tam giới” trở đi,
nói về ba môn Không Nhẫn. Tam giới là chỗ chúng sanh nương
ở. “Nhân” là nghiệp nhân, “quả” là quả
báo. Nghiệp nhân và quả báo thiện ác trong tam giới của
Bồ Tát đều do nương vào vọng hoặc (phiền
năo hoặc vô minh hư vọng) mà tạo tác vọng nghiệp,
chuốc lấy vọng báo (quả báo hư vọng). Vọng
chẳng có tự thể. Quán khổ nhân (cái nhân tạo ra
khổ) là Không, Biến Kế (t́nh kiến hư vọng so
đo, chấp trước các pháp) vốn là Không, [do vậy],
đắc Không Nhẫn. Quán khổ quả là Không, Y Tha[1]
như huyễn, đắc Vô Nguyện Nhẫn. Chẳng
mong tiếp nhận quả báo hữu lậu, quán nhân quả
là Không, đắc Vô Tướng Nhẫn. Do pháp thượng
hạ trong tam giới rốt ráo đều là Không; do Không
nên vô tướng. Điều này chẳng giống với
cái Không do phủ nhận nhân quả của ngoại đạo.
“Quán Nhị Đế hư thật”:
Quán Tục Đế là hư, hết thảy các pháp hữu vi đổi
dời, chẳng trụ, rốt ráo vô thường, liền đắc
Vô Thường Nhẫn. Quán Chân Đế là thật, hết
thảy tất cả các pháp đều lặng lẽ không
tịch, Thể của chúng chẳng sanh diệt, bèn đắc
Vô Sanh Nhẫn.
“Thị Bồ Tát thập kiên tâm”
(mười kiên tâm ấy của Bồ Tát): “Kiên” là Kiên Nhẫn, tức là
mười món Nhẫn trên đây, trên là thuộc về tự
lợi, dưới thuộc về lợi tha. “Tác Chuyển
Luân Vương” (làm Chuyển Luân Vương) tức là
Kim Luân Vương, có bảy báu tùy thân, cho nên [nhà vua] có thể hóa
độ tứ thiên hạ. [Vua ngự] tại Nam Thiệm
Bộ Châu, thống lănh ba châu kia, có thể sanh thiện
căn cho hết thảy chúng sanh.
(Kinh) Hựu Tín Nhẫn Bồ Tát sở
vị thiện, đạt, minh, trung hành giả, đoạn
tam giới Sắc phiền năo phược, năng hóa bách
Phật, thiên Phật, vạn Phật quốc trung, hiện
bách thân, thiên thân, vạn thân, thần thông, vô lượng
công đức.
(經)又信忍菩薩。所謂善、達、明、中行者,斷三界色煩惱縛。能化百佛千佛萬佛國中現百身千身萬身。神通、無量功德。
(Kinh: Lại nữa, Tín Nhẫn Bồ
Tát, tức là nói đến các hành giả [đạt
được] Thiện [Giác Nhẫn], Đạt [Quán Nhẫn],
Minh [Huệ Nhẫn], nương theo Trung Đạo tu tập,
đoạn trừ sự trói buộc của Sắc phiền
năo trong tam giới, có thể hóa độ trong một
trăm, một ngàn, một vạn cơi Phật, hiện
trăm thân, ngàn thân, vạn thân, thần thông, vô lượng
công đức).
Đây là nói tới loại Nhẫn thứ
hai, tức Tín Nhẫn trong Ngũ Nhẫn. Tín có ba loại:
- Một, Tưởng Tín, tức Thập Tín
của Bồ Tát, [có tín tâm] nhẹ
như mảy lông.
- Hai, Cửu Tín (久信, tin đă lâu), tức là Tam Hiền Bồ Tát (Bồ Tát thuộc Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng).
- Ba, Chứng Tín, tức là Sơ Địa,
Nhị Địa và Tam Địa Bồ Tát.
Ở đây nói về loại thứ ba,
tương ứng với lư Trung Đạo Pháp Thân của
Chứng Tín. [Trong đoạn kinh văn này], câu đầu
tiên nhằm nêu ra danh xưng. Môn Nhẫn này có ba địa
vị. Hai chữ “sở vị” là từ ngữ [nhằm
dẫn khởi lời] giải thích. “Thiện” chính là Thiện Giác Nhẫn, do Sơ Địa khéo nhận
biết hai thứ nhân và pháp đều không tịch. “Đạt” tức là Đạt Quán Nhẫn, do Nhị Địa
quán sát Chân và Tục, thông đạt vô ngại. “Minh” tức là Minh Huệ Nhẫn, do quang minh trí huệ của
Tam Địa chiếu vào các pháp. “Trung hành giả” là
người nương vào Trung Đạo để tu
hành.
“Đoạn tam giới Sắc phiền năo
phược” (Đoạn các trói buộc của Sắc
phiền năo trong tam giới) chính là nói đến sự ĺa chướng.
Do Sơ Địa đoạn tham phiền năo, Nhị
Địa đoạn sân phiền năo, Tam Địa đoạn
si phiền năo. Ba loại phiền năo ấy duyên theo Sắc
cảnh mà dấy lên, [khiến cho chúng sanh] chẳng
được tự tại, bèn gọi là Phược (縛, trói buộc). Bồ Tát thuộc
Sơ Địa, Nhị Địa, Tam Địa quán Sắc
Đế vô tướng, chẳng chấp trước Sắc
pháp, cho nên đoạn được Sắc phược
(sự trói buộc bởi Sắc), nhưng không ǵ chẳng phải là
quán Tâm Đế (心諦) vô sanh, chỉ là nói theo
phương diện đoạn những ǵ thô và rơ ràng
trước đó thôi!
“Năng hóa bách Phật…” nói lên tác dụng
nhiếp hóa mạnh mẽ. Theo phần Nhiếp Báo Quả
trong Địa Luận (Thập Địa Kinh Luận),
Sơ Địa có thể hóa độ trong một trăm cơi Phật, Nhị Địa có thể
hóa độ một ngàn cơi Phật, Tam Địa hóa độ
một vạn Phật cơi Phật. Hiện thân cũng thế.
Thần thông biến hóa, lợi ích chúng sanh, công đức
vô lượng.
(Kinh) Thường dĩ thập ngũ
tâm vi thủ, Tứ Nhiếp Pháp, Tứ Vô Lượng Tâm, Tứ
Hoằng Nguyện, tam giải thoát môn, thị Bồ Tát tùng
thiện địa chí ư Tát Bà Nhă. Dĩ thử thập
ngũ tâm vi nhất thiết hạnh căn bản chủng
tử.
(經)常以十五心為首:四攝法、四無量心、四弘願、三解脫門,是菩薩從善地至於薩婆若,以此十五心為一切行根本種子。
(Kinh: Thường dùng mười
lăm tâm làm đầu, tức Tứ Nhiếp Pháp, Tứ
Vô Lượng Tâm, Tứ Hoằng Nguyện, và ba giải
thoát môn, tức là Bồ Tát từ địa vị Thiện
Giác Nhẫn cho đến Tát Bà Nhă, dùng mười lăm
tâm này để làm chủng tử căn bản cho hết
thảy các hạnh).
Đây là nói đến hạnh thù thắng.
Câu đầu tiên nêu chung mười lăm tâm, kế
đó là liệt kê từng tâm. [Mười lăm tâm ấy
bao gồm]:
a) Tứ Nhiếp Pháp: Dùng bốn pháp để
nhiếp hóa chúng sanh:
- Một, bố thí: Chẳng ra ngoài ba loại
là Tài, Pháp, và Vô Úy, nhiếp thọ chúng sanh khiến
cho họ hoan hỷ, sanh tín tâm.
- Hai, ái ngữ: Khéo nói khuyến hóa, nhiếp
thọ chúng sanh, khiến cho họ vui sướng, tuân phục,
sanh giải.
- Ba, lợi hành: Hành hạnh lợi ích, nhiếp
thọ chúng sanh, khiến cho họ khởi lên cái nhân [tu hành].
- Bốn, đồng sự: Dùng thân biến
hóa vào trong các đường, có cùng sự nghiệp với
họ để nhiếp thọ, khiến cho họ tiếp
nhận giáo hóa.
b) Tứ Vô Lượng Tâm: Từ là ban vui, Bi có thể dẹp khổ, Hỷ là
tùy hỷ công đức, Xả là ĺa bỏ các ác. Mỗi mỗi
đều rộng lớn b́nh đẳng; v́ thế gọi là Vô Lượng.
c) Tứ Hoằng Thệ Nguyện: Tự lợi
và lợi tha.
- Do thấy chúng sanh vô biên, chưa vượt
thoát Khổ Đế, cho nên phát hoằng nguyện độ
trọn hết chúng sanh.
- Do thấy phiền năo vô tận, lớp
lang rành rẽ, cho nên phát hoằng nguyện đoạn hết
sạch phiền năo.
- Do thấy pháp môn vô lượng có thể
thích ứng cho các căn cơ, cho nên phát hoằng nguyện,
học trọn khắp các pháp môn.
- Do thấy Phật đạo vô thượng,
phước huệ viên măn, cho nên phát hoằng nguyện, tâm
thành Phật đạo.
Nguyện thứ nhất thuộc về hạ
hóa (dưới là hóa độ chúng sanh), nguyện thứ tư thuộc
thượng cầu (trên là cầu Phật
đạo); hai nguyện ba và hai
nhằm thông trên lẫn dưới. Chẳng học pháp
môn, sẽ khó đoạn phiền năo. Phiền năo chưa
đoạn, tự cứu c̣n chẳng được, sao
có thể độ sanh? Pháp môn chưa học, phiền năo
chẳng đoạn, Phật đạo sẽ do đâu mà thành?
Bồ Tát cùng phát bốn hoằng nguyện, hai thứ lợi
(tự lợi và lợi tha) được hưng khởi
tràn trề.
d) “Tam giải thoát môn” tức là vô lậu
tam-muội. Ĺa trói buộc th́ gọi là “giải thoát”. Có thể thông tới Niết Bàn, cho nên gọi là “môn”.
- Một, Không giải thoát môn: Do quán các pháp vốn là
Không.
- Hai, Vô Tướng giải thoát môn: Do là
Không, chẳng thấy tướng của các pháp.
- Ba, Vô Nguyện giải thoát môn, do vô tướng,
cho nên chẳng có mong cầu!
Từ chữ “Bồ Tát” trở đi,
[kinh văn] nêu rơ công năng của Nhẫn. Khởi đầu từ
địa vị Thiện Giác Nhẫn cho tới biển
Tát Bà Nhă của Như Lai, đều dùng mười lăm
tâm này làm chủng tử căn bản, các địa đều
chẳng thể ĺa khỏi các tâm này.
(Kinh) Hựu Thuận Nhẫn Bồ Tát,
sở vị Kiến, Thắng, Hiện Pháp, năng đoạn
tam giới tâm đẳng phiền năo phược, cố
hiện nhất thân ư thập phương Phật quốc
trung, vô lượng bất khả thuyết thần thông
hóa chúng sanh.
(經)又順忍菩薩。所謂見、勝、現法,能斷三界心等煩惱縛,故現一身於十方佛國中,無量不可說神通化眾生。
(Kinh: Lại nữa, Thuận Nhẫn
Bồ Tát, tức là nói [ba địa vị gồm] Kiến,
Thắng, Hiện Pháp, có thể đoạn sự trói buộc
do phiền năo nơi tâm v.v… trong tam giới, cho nên một
thân mà hiện trong mười phương cơi Phật, dùng
vô lượng chẳng thể nói thần thông để
hóa độ chúng sanh).
Đây là nói đến loại thứ ba trong
Ngũ Nhẫn, tức Thuận Nhẫn. Thuận hướng
đến Vô Sanh Nhẫn Quán, nhưng chưa thật sự
đạt được, cho nên gọi là Thuận Nhẫn.
Môn Nhẫn này có ba địa vị là Kiến, Thắng và
Hiện Pháp:
- Kiến tức là huệ kiến phân minh
(do trí huệ mà thấy rành rẽ) chính là địa thứ
tư [trong Thập Địa], tức Diễm Huệ
Địa. Kinh văn trong phần sau [gọi môn Nhẫn
này] là Diễm Huệ Nhẫn.
- Thắng có nghĩa là hai thứ thù thắng,
tức một là giáo hóa chúng sanh, hai là chẳng thuận theo phiền năo. Đấy chính là địa
thứ năm, tức Nan Thắng Địa. Trong kinh
văn ở phần sau, môn này được gọi là Thắng
Huệ Nhẫn.
- Hiện Pháp chính là nhân duyên quán giải hiện
tiền, chính là địa thứ sáu, tức Hiện Tiền Địa.
Trong kinh văn thuộc phần sau, [môn Nhẫn này]
được gọi là Hiện Pháp Nhẫn.
“Năng đoạn tam giới tâm đẳng
phiền năo phược cố” (do có thể đoạn
các trói buộc v́ phiền năo thuộc tâm v.v… trong tam giới):
Nói về sự ĺa chướng. Ba địa vị ấy
có thể quán Tâm Đế trong tam giới vốn là chẳng
thể được. Biết tâm vô sanh, chẳng giữ lấy
tâm tướng, cho nên có thể đoạn mê tâm phiền
năo (phiền năo khiến cho cái tâm mê muội). Chẳng bị
phiền năo thuộc về tâm v.v… trói buộc, mà được
tự tại. “Nhiên phi bất quán Sắc Đế vô
tướng” (nhưng chẳng phải là không quán Sắc
Đế vô tướng): Nay tuy có nhiều phương diện, chỉ nói đến
chuyện đoạn sự trói buộc bởi các phiền năo thuộc về tâm
v.v…
“Hiện nhất thân ư thập phương Phật quốc
trung” (hiện một thân
trong mười phương cơi Phật): Đây là nói đến
tác dụng nhiếp hóa to lớn, có hai cách hiểu:
- Một, mười phương Phật quốc
th́ nhiều, mà nói “hiện một thân”, tức là chẳng
phân thân, nhưng một thân hiện trọn
khắp, đối với muôn căn cơ đều cảm
ứng, chẳng trái nghịch, có vô lượng chẳng thể
nói diệu dụng thần thông để giáo hóa chúng sanh.
- Hai, nương theo Nhiếp Quả Báo
được nói trong Địa Luận, Diễm Huệ
Địa Bồ Tát có thể hiện một ức thân Phật,
có thể hóa độ chúng sanh trong một ức Phật
quốc. Nan Thắng Địa có thể hiện ngàn ức
thân hóa độ chúng sanh trong ngàn ức thế giới. Hiện
Tiền Địa có thể hiện trăm ngàn ức thân
hóa độ chúng sanh trong trăm ngàn ức thế giới.
Dựa trên số thân và số quốc độ giống nhau,
[có thể suy ra], trong mỗi một cơi Phật khắp
mười phương, đều hiện một thân, [sử
dụng] vô lượng chẳng thể nói thần thông biến
hóa để lợi lạc chúng sanh.
(Kinh) Hựu Vô Sanh Nhẫn Bồ Tát, sở
vị Viễn, Bất Động, Quán Huệ, diệc
đoạn tam giới tâm sắc đẳng tập phiền
năo cố, hiện bất khả thuyết bất khả
thuyết công đức thần thông.
(經)又無生忍菩薩。所謂遠、不動、觀慧,亦斷三界心色等習煩惱故,現不可說不可說功德神通。
(Kinh: Lại nữa, Vô Sanh Nhẫn Bồ
Tát chính là [hàng Bồ Tát thuộc các địa vị] Viễn
Hành [Địa], Bất Động [Địa], Quán Huệ [Địa], do cũng đoạn các tập phiền
năo thuộc về sắc, tâm v.v… trong tam giới, bèn hiện
bất khả thuyết bất khả thuyết công đức
thần thông).
Đây là nói tới loại Nhẫn thứ
tư, tức Vô Sanh Nhẫn trong Ngũ Nhẫn. Câu đầu
tiên nêu ra danh xưng. Vô Sanh Nhẫn: Đối với trong
ngoài tam giới, chẳng thấy có chút pháp sanh, chẳng thấy
có chút pháp diệt, đích thân chứng lư “pháp tánh vô sanh”.
Nói thông thường, sẽ là Sơ Địa đắc
Vô Sanh Nhẫn, nhưng thật ra, Bát Địa mới thật
sự đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Môn Nhẫn này có ba
địa vị, tức là Viễn, Bất Động và
Huệ Quán:
- Viễn chính là địa vị thứ bảy,
tức Viễn Hành Địa. Kinh văn trong phần sau gọi môn Nhẫn này là Viễn
Đạt Nhẫn, do có thể đạt tới [các địa
vị] sau khi đă đắc hữu công dụng tâm.
- Bất Động chính là địa vị
thứ tám, tức Bất Động Địa. Trong phần
sau, [môn Nhẫn này được] gọi là Đẳng
Giác Nhẫn, do có tướng trạng “phiền năo chẳng thể lay động”, thật sự là vô công dụng
đạo.
- Quán Huệ chính là địa vị thứ
chín, tức Thiện Huệ Địa. Trong phần sau,
[môn Nhẫn này được] gọi là Huệ Quang Nhẫn,
v́ thành tựu diệu huệ, khéo nói các pháp.
“Diệc đoạn tam giới tâm sắc
đẳng tập phiền năo cố” (Do cũng đoạn
các tập phiền năo thuộc về tâm, sắc v.v… trong
tam giới): Đây là nói về sự đối trị
chướng. Thất Địa đoạn nghiệp quả
vi tế hiện hành. Bát Địa đoạn các công dụng.
Cửu Địa đoạn chướng ngại “chẳng
thực hiện hạnh lợi tha”. Nói “sắc tâm đẳng
tập phiền năo” th́ trong phần trước, đoạn
trừ hai món chánh sử Sắc và Tâm hiện hành, đó là
thô phiền năo. Nay th́ đoạn các tập khí chủng tử
c̣n sót lại của sắc tâm, tức là vi tế phiền
năo, cho nên thêm vào tập tử (chủng tử của tập
khí). Đó có nghĩa là chánh (chánh sử phiền năo) lẫn
tập (tập khí) đều trừ.
Từ “hiện bất khả thuyết”
trở đi, nêu ra tác dụng nhiếp hóa to lớn. Nói lập
lại Bất Khả Thuyết [hai lần], th́ đấy chính
là một trong mười con số cực lớn ở Tây
Vực, nhằm diễn đạt số lượng nhiều
cùng cực. Hơn nữa, Bất Khả Thuyết có
nghĩa là dù vận dụng công đức và thần thông,
đều chẳng thể nói trọn hết được!
Lại dựa theo Nhiếp Quả Báo trong Địa Luận
[để biện định] th́ Thất Địa hiện
trăm ngàn ức na-do-tha thân, hóa sanh cũng thế. Bát
Địa hiện trăm vạn tam thiên đại thiên thế
giới vi trần số thân (thân nhiều bằng số lượng vi trần
trong một tam thiên đại thiên thế giới), hóa sanh cũng thế. Cửu Địa
hiện mười A-tăng-kỳ bách thiên Phật sát vi trần số thân (số
lượng thân nhiều bằng số lượng vi trần
trong mười A-tăng-kỳ trăm ngàn thế giới
Phật), hóa sanh cũng thế.
(Kinh) Phục thứ Tịch Diệt Nhẫn,
Phật dữ Bồ Tát đồng dụng thử Nhẫn
nhập Kim Cang tam-muội, hạ nhẫn trung hành, danh vi Bồ
Tát, thượng nhẫn trung hành danh vi Tát Bà Nhă.
(經)復次寂滅忍。佛與菩薩同用此忍入金剛三昧。下忍中行,名為菩薩。上忍中行,名為薩婆若。
(Kinh: Lại nữa, đối
với Tịch Diệt Nhẫn, Phật và Bồ Tát cùng dùng
môn Nhẫn này để nhập Kim Cang tam-muội, người
hành Hạ
Nhẫn
th́ gọi là Bồ Tát, người hành Thượng
Nhẫn
th́ gọi là Tát Bà Nhă).
Đây là môn Nhẫn thứ năm trong
Ngũ Nhẫn, tức Tịch Diệt Nhẫn. Kinh Niết
Bàn dạy: “Tịch diệt giả, danh vi nhất tâm”
(Tịch diệt là nhất tâm). Bốn môn Nhẫn trước
(Phục Nhẫn, Tín Nhẫn, Thuận Nhẫn, Vô Sanh Nhẫn)
chưa cùng tận nguồn tâm, nay trong môn Nhẫn này, sắc,
tâm, chánh, tập đều vắng lặng, ḥa hợp thức
tướng cũng diệt. Lại c̣n ngũ trụ phiền
năo đă vắng lặng, hai loại sanh tử đă diệt,
cho nên gọi là Tịch Diệt Nhẫn. Môn Nhẫn này chỉ
có hai phẩm là thượng và hạ, Thập Địa Bồ
Tát và Phật cùng sử dụng. Môn Nhẫn này khác với
các kinh khác; các kinh khác coi Thập Địa là hạ nhẫn,
Đẳng Giác là trung nhẫn, Diệu Giác là thượng
nhẫn.
“Nhập Kim Cang tam-muội” chính là Bồ
Tát thuộc địa vị thứ mười, tức
Pháp Vân Địa, nhập Kim Cang Quán Trí, phá một phẩm
sanh tướng vô minh tối sơ. Do trí lực ấy kiên
cường, bèn ví như Kim Cang. Tam-muội là định.
Vị Bồ Tát này Định và Huệ cân bằng, đoạn
trừ chướng ngại “chẳng được tự
tại trong các pháp”, là vô ngại đạo. Hễ c̣n thuộc
vào địa vị tu nhân th́ đều là hạnh thuộc
Hạ Nhẫn. Nương theo Nhiếp Báo Quả của
Địa Luận [để luận định], hàng Bồ
Tát đắc môn Nhẫn này sẽ đắc các tam-muội
nhiều như số vi trần trong mười bất khả
thuyết cơi Phật.
“Thượng Nhẫn trung hành” (hành nơi Thượng Nhẫn) tức là trong sát-na tối hậu,
Hoặc tận, trí viên măn. “Vi giải thoát đạo”
(là đạo giải thoát): Thuộc về quả vị,
đắc Nhất Thiết Trí, được gọi là
Tát Bà Nhă, tức là tên gọi khác của Phật quả.
(Kinh) Cộng quán Đệ Nhất
Nghĩa Đế, đoạn tam giới tâm tập vô minh, tận tướng vi Kim Cang, tận
tướng vô tướng vi Tát Bà Nhă.
(經)共觀第一義諦,斷三界心習無明。盡相為金剛,盡相無相為薩婆若。
(Kinh: Cùng quán Đệ Nhất
Nghĩa Đế, đoạn tập khí vô minh thuộc cái tâm tam giới. Hết sạch tướng
th́ là Kim Cang. Hết sạch tướng
vô tướng th́ là Tát Bà Nhă).
“Cộng quán Đệ Nhất Nghĩa
Đế” (cùng quán Đệ Nhất Nghĩa Đế)
nói về sự trừ chướng. Địa vị thứ
mười là Pháp Vân Địa, hành Tịch Diệt Nhẫn
bậc hạ, cùng với Tịch Diệt Nhẫn bậc
thượng thuộc địa vị Phật đều
cùng quán nhất Phật thừa tối thượng, Đệ
Nhất Nghĩa Đế và lư Trung Đạo nhất tâm, tức
là như kinh Lăng Nghiêm đă nói: “Nhất Thừa tịch
diệt tràng địa, năi chúng sanh bổn cụ Phật
tánh, vạn vọng bổn không, Nhất Chân thanh tịnh”
(Chốn đạo tràng tịch diệt Nhất Thừa
chính là Phật tánh mà chúng sanh vốn sẵn có. Muôn điều
hư vọng vốn là Không, Nhất Chân thanh tịnh). Từ
trước tới nay, chưa từng lay động mảy
may, nơi phàm chẳng giảm, nơi thánh chẳng
tăng, thường trụ diệu minh, bất sanh, bất
diệt, đó là “tịch diệt tràng địa”. Nay
từ phàm phu địa tu chứng đến tận địa
vị này, chính là địa vị rốt ráo của Bồ
Tát, sẽ cùng với Như Lai quả địa đồng
quán lư này.
“Đoạn tam giới tâm tập vô minh”:
“Tam giới” ở đây chỉ hai loại tam giới
là Phần Đoạn và Biến Dịch. Vô Sanh Nhẫn thuộc
phần trước th́ cùng đoạn tập khí thuộc
phần thô nơi sắc và tâm, c̣n ở đây (Tịch Diệt
Nhẫn) th́ đoạn tập khí vi tế thuộc tâm pháp,
tức là một niệm tối sơ, tức độc
đầu sanh tướng vô minh.
“Độc đầu sanh tướng”:
Bỗng dưng đột nhiên dấy lên Hoặc tướng
hư vọng. Luận Khởi Tín nói: “Do chẳng như
thật biết pháp Chân Như là một, cái tâm bất giác dấy
lên, mà có cái niệm ấy”. Niệm ấy chính là vi tế
tâm tập (tập khí vi tế nơi tâm). Lại nói là “vô
thỉ vô minh”. Hết thảy các pháp hữu vi do nhân
duyên mà sanh. Cái quả trong hiện đời do cái nhân trong đời
trước mà sanh. Cái quả trong đời trước lại
do cái nhân trong đời trước nữa sanh ra. Chỉ
có Vô Minh này không có nhân mà sanh, nó là căn bản của hết
thảy các Hoặc. Trước cái vô minh ấy, sẽ chẳng
có Hoặc pháp khởi đầu, cho nên gọi là “vô thỉ”.
Vô minh chia ra thành Căn Bản và Chi Mạt.
Chi Mạt vô minh (vô minh cành nhánh) từ Căn Bản vô minh
mà dấy lên, đó là thô tướng. Căn Bản vô minh
nương vào Chân Như mà sanh; đó là tế tướng.
Chân Như chẳng thật sự có sanh, vô duyên cớ mà
hư vọng dấy lên [vô minh]. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức
Phật đă đáp lời hỏi của ngài Phú Lâu Na
như sau: “Vô minh vô nhân. Thí như thành trung Diễn Nhă Đạt
Đa (tên người, dịch sang tiếng Hán là Từ Thọ),
thần triêu dĩ kính chiếu diện, ái kính trung đầu,
mi mục khả kiến. Sân trách kỷ đầu, bất
kiến diện mục, dĩ vi si mỵ, vô trạng cuồng
tẩu, đáo xứ mịch đầu, cuồng bố vọng xuất, thật vô sở nhân”
(Vô minh chẳng
có nhân. Ví như chàng Diễn Nhă Đạt Đa (Yajñadatta) trong thành, buổi sáng dùng
gương soi mặt, yêu mến cái đầu [hiện
bóng] trong gương, [v́] thấy lông mày và mắt rơ ràng, liền tức giận với
cái đầu của chính ḿnh, [v́ tự nó] chẳng thấy được diện
mạo, cho đó là yêu quái, vô cớ chạy cuồng, t́m cái
đầu khắp nơi, điên cuồng, hoảng sợ,
chạy quàng, thật sự chẳng có nguyên nhân).
“Tâm tập vô minh” chính
là “sanh, trụ, dị, diệt” (sanh ra, duy
tŕ, biến đổi, diệt mất). Trong bốn thứ
tâm nằm mộng, nó thuộc về sanh tướng vô
minh. Sanh là khởi lên đầu tiên, Diệt là trừ mất
cuối cùng. Từ địa vị phàm phu, hoặc nghe
kinh giáo của Như Lai, hoặc nghe tri thức khai thị,
hướng dẫn, biết rơ “chúng sanh vốn sẵn
có Phật tánh”, từ cái Thể của Bổn Giác,
dấy lên trí Thỉ Giác. Thỉ Giác vốn thoạt đầu
bất giác, do nghe giáo pháp mới bắt đầu giác ngộ,
cho nên gọi là Thỉ Giác. Nương theo trí Thỉ Giác,
đoạn vô minh Hoặc, từ thô hướng tới tế.
Luận Khởi Tín chia thành bốn tướng là sanh, trụ,
dị, diệt. Tông Thiên Thai chia thành Ngũ Trụ Địa
Hoặc: Kiến Hoặc là một trụ, Tư Hoặc gồm
ba trụ, Trần Sa và Vô Minh gộp thành một. Lại dựa theo
địa vị mà chia Vô Minh thành bốn mươi hai phẩm.
Trong đó, hai phẩm bốn mươi mốt và phẩm bốn
mươi hai tột
bậc vi tế, khó phá nhất.
Cần phải nhập Kim Cang tam-muội, có sức quán trí
Kim Cang, th́ mới có thể đoạn trừ. Kim Cang quán
trí là chủ thể có thể đoạn (năng đoạn),
vô minh tâm tập là cái được đoạn (sở
đoạn).
“Tận tướng vi Kim Cang, tận tướng
vô tướng vi Tát Bà Nhă” (hết sạch tướng
th́ là kim cang, hết sạch tướng vô tướng th́
là Tát Bà Nhă): Đây là nói tới vô ngại đạo và giải
thoát đạo. “Nhân quả sai biệt chi tướng diệt
tận tướng” (đối với tướng nhân
quả sai biệt, bèn diệt sạch hết
các tướng): Chỉ tận trừ tướng thô và tế
của sắc tâm, địa vị tu nhân đă đạt
tới cùng cực, phá thức tướng ḥa hợp, diệt
trừ tướng của cái tâm tiếp nối. Sanh đă
diệt th́ là Kim Cang hậu tâm, tức là tướng đoạn
Hoặc trong vô ngại đạo, chẳng phải là
tướng chứng quả nơi địa vị Phật.
Cái nhân ấy khác với quả, do vậy gọi là Kim Cang.
“Tận tướng vô tướng”: Không chỉ là có
thể tận trừ Hoặc tướng, mà ngay cả cái
tướng hết [các Hoặc] ấy cũng chẳng có. Đó gọi là “duyên quán tịnh
minh, cảnh trí câu mẫn, tịch diệt hiện tiền”
(duyên và quán cùng ngầm
khế hợp, cảnh
lẫn trí đều diệt, tịch diệt hiện tiền).
Đó là tướng chứng quả trong giải thoát đạo.
Quả ấy khác với nhân, cho nên là Tát Bà Nhă, đắc
Nhất Thiết Trí.
(Kinh) Siêu độ Thế Đế,
Đệ Nhất Nghĩa Đế chi ngoại, vi Đệ
Thập Nhất Địa Tát Vân Nhă giác, phi hữu, phi vô,
trạm nhiên, thanh tịnh, thường trụ bất biến,
đồng Chân Tế, đẳng pháp tánh.
(經)超度世諦第一義諦之外,為第十一地薩云若覺。非有非無,湛然清淨,常住不變,同真際,等法性。
(Kinh: Vượt ra ngoài Thế
Đế và Đệ Nhất Nghĩa Đế th́ là Tát Vân
Nhă giác của địa vị thứ mười một,
chẳng có, chẳng không, lặng trong, thanh tịnh, thường
trụ bất biến, giống như Chân Tế, bằng
với pháp tánh).
Phật thấu hiểu cùng tột nguồn
cội của nhất tâm, viên măn Bồ Đề, trở
về chỗ “không có ǵ để đạt được”.
Trước đó, Tam Hiền phần nhiều trụ trong
Thế Đế, Thập Thánh (các địa Bồ Tát trong
Thập Địa) phần nhiều trụ vào Đệ
Nhất Nghĩa Đế. Phật siêu việt Tam Hiền,
Thập Thánh, trụ trong Đệ Thập Nhất Địa,
thành vị Phật Nhất Thiết Chủng Trí.
Hỏi: Tát Vân Nhă khác với Tát Bà Nhă trong phần
trước như thế nào?
Đáp: Vấn: [Có hai cách giải thích]:
- Một, [cả hai từ ngữ ấy] là
một, chỉ là phiên âm tiếng Phạn[2]
sai khác, [chứ ư nghĩa] trọn chẳng khác nhau.
- Hai, Tát Bà Nhă là Nhất Thiết Trí. Tát Vân
Nhă là Nhất Thiết Chủng Trí.
“Phi hữu, phi vô” (chẳng phải có,
chẳng phải không): Thế Đế là có, Chân Đế
là vô. Do vượt ngoài Thế Đế, cho nên là phi hữu.
Do vượt ngoài Chân Đế, cho nên là phi vô. Hơn nữa,
Phật quả vô học tuyệt tướng, cho nên là phi
hữu. Do trọn đủ vạn đức, nên là phi vô.
Bốn câu “trạm nhiên, thanh tịnh”
[ư nói]: Do lặng trong viên măn, cho nên ĺa cấu, thanh tịnh.
Pháp Thân tuyệt diệu, thường trụ bất biến
cho đến tận cùng đời vị lai, lợi lạc
chúng sanh, tương đồng với Chân Như Thật
Tế, bằng với pháp tánh chân không.
(Kinh) Vô duyên đại bi, giáo hóa nhất
thiết chúng sanh. Thừa Tát Bà Nhă thừa, lai hóa tam giới.
(經)無緣大悲,教化一切眾生。乘薩婆若乘,來化三界。
(Kinh: Vô duyên đại
bi, giáo hóa hết thảy chúng sanh, ngồi cỗ xe Tát Bà Nhă
đến giáo hóa tam giới).
Đây là nói tới tác dụng to lớn. Bi
có ba loại: Sanh duyên bi, pháp duyên bi, và vô duyên bi. “Vô duyên”
là chẳng duyên theo giả danh chúng sanh, chẳng duyên theo Ngũ Ấm, hay pháp tánh, tùy ư lợi
sanh, không duyên theo, chẳng suy tưởng.
Vô Duyên Bi th́ không ǵ chẳng duyên. V́ thế, ḷng
Bi ấy được gọi là Đại. Bi có thể dẹp
khổ; muốn dẹp trừ nỗi khổ của chúng sanh
th́ cần phải giáo hóa cái tâm của họ [trở thành tốt
lành]. Tâm đoạn cái nhân
ác, sẽ tự ĺa khổ quả. Hăy nên biết sự giáo
hóa ấy chính là pháp căn bản để dẹp khổ.
“Thừa Tát Bà Nhă thừa” (ngồi cỗ
xe Tát Bà Nhă): Chữ Thừa thứ nhất đọc theo
b́nh thanh, chính là “thừa” trong “thừa xa” (ngồi
xe, cưỡi xe). Chữ Thừa sau đó, đọc khứ
thanh (tức Thặng), chính là “xe cộ”. Phật đă vượt thoát tam
giới, do ḷng đại bi, nghĩ thương xót nỗi
khổ của chúng sanh đang trầm luân, cho nên ngồi trên cỗ xe Nhất Thiết Trí đến
hóa độ tam giới. Đó là do Trí mà dấy lên ḷng Bi,
dùng Bi để chuyển tải Trí, giáo hóa chúng sanh trọn
khắp, khiến cho họ nhập Phật đạo. “Phi
hữu, phi vô” trong đoạn trước thuộc về
Pháp Thân, c̣n đoạn này là tùy duyên lợi sanh, tức là Ứng
Hóa Thân. Hai câu đầu trong đoạn này nói về Ứng
Thân, hai câu sau nói về Hóa Thân. Lại nữa, phần
trước là cái tâm hóa độ người khác, phần
sau là cái thân hóa độ người khác.
Hỏi: Đối với cơi giáo hóa của
Cửu Địa trong phần trước th́ nói rộng
là “trăm vạn ức
A-tăng-kỳ vi trần số” cơi Phật. Ở đây chỉ nói
là “tam giới”, sao lại hẹp vậy?
Đáp: Tam giới có hai loại là Phần
Đoạn tam giới và Biến Dịch tam giới, thống
nhiếp chúng sanh trong chín pháp giới, bao quát trọn hết.
Phật pháp giới cũng được bao gồm
trong ấy, chớ
nên nh́n theo cách hiểu tam giới theo lẽ thông thường!
(Kinh) Thiện nam tử! Nhất thiết
chúng sanh phiền năo, bất xuất tam giới tạng. Nhất
thiết chúng sanh quả báo nhị thập nhị căn, bất
xuất tam giới. Chư Phật ứng hóa Pháp Thân, bất
xuất tam giới. Tam giới ngoại vô chúng sanh, Phật
hà sở hóa?
(經)善男子!一切眾生煩惱,不出三界藏。一切眾生果報二十二根,不出三界。諸佛應化法身,不出三界。三界外無眾生,佛何所化。
(Kinh: Này thiện nam tử! Phiền
năo của hết thảy chúng sanh chẳng ra ngoài tam giới
tạng. Hai mươi hai căn nơi quả báo của hết
thảy chúng sanh chẳng ra ngoài tam giới. Pháp Thân ứng
hóa của chư Phật không ra ngoài tam giới. Ngoài tam giới
chẳng có chúng sanh, Phật giáo hóa chỗ nào?)
Đây là đoạn kinh văn thừa tiếp
đoạn kinh văn “lai hóa tam giới” (tới hóa
độ tam giới) trước đó. Tam giới
được gọi là Tạng, v́ có thể chứa đựng
nhân quả nhiễm và tịnh của hết
thảy thánh phàm. Phiền năo của chúng sanh cũng chia
thành Sự và Lư. Sự phiền năo thuộc vào Phần
Đoạn tam giới, Lư phiền năo thuộc Biến Dịch
tam giới. V́ thế, đều chẳng ra ngoài tam giới
tạng!
“Chúng sanh quả báo nhị thập nhị
căn bất xuất tam giới” (hai mươi hai
căn trong quả báo của chúng sanh chẳng ra ngoài tam giới), tức là nương
vào ngũ trụ phiền năo Hoặc, tạo
thành nghiệp hữu lậu và vô lậu, cảm vời quả
báo nhiễm hay tịnh. “Nhị thập nhị căn”
gồm sáu căn như mắt v.v…, năm thọ căn là
ưu, hỷ, khổ, lạc, xả, cùng với nam căn,
nữ căn và mạng căn. Mười bốn loại
này thuộc nhiễm pháp. Tín, Tấn, Niệm, Định
ngũ căn và tam vô lậu căn (một là vị tri
đương tri căn (chưa biết th́ sẽ biết),
hai là căn đă biết, ba là căn biết trọn vẹn),
tám căn này thuộc về tịnh pháp.
“Chư Phật ứng hóa Pháp Thân, bất
xuất tam giới” (ứng hóa Pháp Thân của chư Phật
chẳng ra ngoài tam giới) tức là ba thân của chư Phật
thường ở trong tam giới thuyết pháp lợi
sanh. V́ thế nói là “bất xuất”.
Hỏi: Có thể nói Ứng Hóa là bất xuất,
sao Pháp Thân cũng nói là bất xuất?
Đáp: Do Pháp Thân chẳng ĺa Ứng Hóa.
Đại Kinh nói: “Ngă kim thử thân, tức thị Pháp
Thân” (Thân này của ta chính là Pháp Thân). Kinh Hoa Nghiêm nói: “Diệc
vân Thích Ca, diệc danh Tỳ Lô Giá Na đẳng”
(Cũng nói là Thích Ca, cũng gọi là Tỳ Lô Giá Na v.v…) Hăy
nên biết ba thân chính là một thân. V́ thế, Pháp Thân
cũng nói là “chẳng ra ngoài tam giới”.
“Tam giới ngoại vô chúng sanh, Phật hà
sở hóa” (ngoài tam giới chẳng có chúng sanh, Phật lấy
ǵ để giáo hóa), tức là ngoài tam giới thật sự
chẳng có chúng sanh. V́ thế nói “Phật hà sở hóa”.
Hỏi: Tam thừa thánh nhân tuy vượt
thoát tam giới, vẫn là chúng sanh, vẫn đợi Phật
giáo hóa, sao lại nói là “ngoài tam giới chẳng có chúng sanh?”
Đáp: Tam thừa tuy thoát khỏi Phần
Đoạn tam giới, vẫn trụ trong Biến Dịch
tam giới, thật sự chẳng phải là ở ngoài tam
giới. Ngoài tam giới, thật sự chẳng có chúng sanh
để Phật có thể giáo hóa.
(Kinh) Thị cố ngă ngôn: Tam giới
ngoại, biệt hữu nhất chúng sanh giới tạng
giả, ngoại đạo Đại Hữu Kinh trung thuyết,
phi thất Phật chi sở thuyết.
(經)是故我言,三界外別有一眾生界藏者,外道「大有經」中說,非七佛之所說。
(Kinh: V́ thế, ta nói: - Ngoài tam giới
mà riêng có một chúng sanh giới tạng th́ đó chính là điều
được nói trong kinh Đại Hữu của ngoại
đạo, chẳng phải do thất Phật nói).
“Thị cố” [là từ ngữ tiếp
nối] ư “ở ngoài tam giới chẳng có chúng sanh” trong phần
trên. “Sở dĩ ngă ngôn: - Tam giới ngoại biệt hữu
nhất chúng sanh tạng” (do vậy, ta nói ở ngoài tam giới mà có riêng một
chúng sanh tạng) th́ chính là điều được nói
kinh Đại Hữu của ngoại đạo. Đại
Hữu Kinh (Sāmānya-padārtha) chính là kinh được nói trong
phái Thắng Luận (Vaiśeṣika)[3], tức là một
phái trong sáu phái triết học của Ấn Độ. Họ
cho rằng vạn hữu trong vũ trụ được chia thành sáu loại:
- Một là Thật, tức là “thật thể”
của các pháp.
- Hai là Đức, tức đạo đức.
- Ba là Nghiệp tức là tác dụng.
- Bốn là Đại Hữu, cùng với Thật,
Đức, Nghiệp đều là Nhất Hữu.
- Năm là Đồng Dị, như đất
tương ứng với đất là Đồng, đất so với nước là Dị
(khác).
- Sáu là ḥa hợp: Các pháp do ḥa hợp mà có.
Đại Hữu Kinh chính là thuyết cho rằng
“ở ngoài tam giới riêng có chúng sanh” của phái [triết học
ngoại đạo] thứ tư này. V́ thế, nếu nói “ở ngoài tam giới mà có chúng sanh” th́ sẽ giống như luận thuyết của ngoại
đạo!
“Phi thất Phật chi sở thuyết” (chẳng
phải do bảy vị Phật nói): Thất Phật chính
là ba vị Phật cuối cùng trong một ngàn vị Phật
thuộc Quá Khứ Trang Nghiêm Kiếp, tức quá khứ Tỳ
Bà Thi Phật, Thi Khí Phật, Câu Lưu Tôn Phật, và bốn
vị Phật trong Hiện Tại Hiền Kiếp là Tỳ
Xá Phù Phật, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, Ca Diếp Phật, và
Thích Ca Mâu Ni Phật. Do Phật Phật đạo đồng,
những điều các Ngài đă nói
cũng giống hệt nhau. Nói “ngoài tam giới riêng có chúng
sanh” th́ chẳng phải là chánh pháp do thất Phật
đă nói!
(Kinh) Đại vương! Ngă thường
thuyết nhất thiết chúng sanh đoạn tam giới
phiền năo quả báo tận giả, danh vi Phật. Tự
tánh thanh tịnh, danh Giác Tát Vân Nhă tánh. Chúng sanh bổn nghiệp,
thị chư Phật Bồ Tát bổn sở tu hành, Ngũ
Nhẫn trung thập tứ Nhẫn cụ túc.
(經)大王!我常說一切眾生斷三界煩惱果報盡者,名為佛。自性清淨,名覺薩云若性。眾生本業,是諸佛菩薩本所修行,五忍中十四忍具足。
(Kinh: Này đại vương! Ta
thường nói hết thảy chúng sanh đoạn hết
quả báo của phiền năo trong tam giới th́ gọi là
Phật. Tự tánh thanh tịnh gọi là tánh Giác Tát Vân Nhă.
Bổn nghiệp của chúng sanh chính là pháp vốn tu hành của
chư Phật, Bồ Tát, trọn đủ mười bốn
món Nhẫn trong Ngũ Nhẫn).
Nửa đầu của đoạn kinh
văn này tán thán “quả khác với nhân”. Từ “chúng sanh bổn nghiệp” trở đi, nêu
ra “cái nhân bao gồm cái quả”. “Nhất thiết chúng sanh” (hết
thảy chúng sanh) chỉ lục phàm, tam thừa. Đoạn
hai thứ tam giới Phần Đoạn và Biến Dịch,
các phiền năo thô và tế, quả báo hữu lậu và vô lậu,
th́ gọi là Phật. “Tự tánh thanh tịnh, danh Giác Tát
Vân Nhă tánh” (Tự tánh thanh tịnh gọi là tánh Giác Tát
Vân Nhă): Tự tánh chính là Chân Như tự thể mà chúng sanh
và Phật đều vốn sẵn có. Bổn Giác Phật
tánh luôn luôn bị vùi lấp trong Ngũ Ấm phiền năo
trần lao. Nay khôi phục nguồn tâm vốn có, rốt ráo
thanh tịnh, dùng trí Thỉ Giác khế hợp lư Bổn
Giác, được gọi là tánh “Đại Viên Măn Giác, Nhất Thiết
Chủng Trí”.
“Chúng sanh bổn nghiệp” tức là cái
nghiệp mà chúng sanh vốn đang tu tập, thanh tịnh
giải thoát. Do vậy, đó chính là các hạnh nghiệp mà
chư Phật, Bồ Tát vốn tu hành. Từ nhân tới quả,
Ngũ Nhẫn gồm có mười bốn môn Nhẫn
đều trọn đủ. Mười ba môn đầu
là nhân hạnh của Bồ Tát, môn Nhẫn sau cùng là quả
giác của chư Phật, đều chẳng ĺa khỏi bổn
nghiệp của chúng sanh. Trên đây là giải đáp về
hành tướng tự lợi kiêm lợi tha.
(Kinh) Bạch Phật ngôn: - Vân hà Bồ
Tát bổn nghiệp thanh tịnh, hóa chúng sanh?”
(經)白佛言:云何菩薩本業清淨,化眾生?
(Kinh: [Vua Ba Tư Nặc] bạch
Phật rằng: - Thế nào là bổn nghiệp thanh tịnh
hóa độ chúng sanh của Bồ Tát?)
Sau đó, [đức Phật] giải
đáp về hành tướng thứ hai là lợi tha, kiêm tự
lợi. Do đă cách lời hỏi trước đó quá xa,
Nguyệt Quang lại bạch Phật rằng: “Vân hà Bồ
Tát bổn nghiệp thanh tịnh, hóa chúng sanh?” (thế
nào là bổn nghiệp thanh tịnh để hóa độ
chúng sanh của Bồ Tát). Bồ Tát dùng Thập Địa
tu trọn Thập Độ, đối với sanh tử
và Niết Bàn đều chẳng chấp trước. V́ thế
nói là “bổn nghiệp thanh tịnh”. Dùng điều
này để giáo hóa chúng sanh, chẳng giống như phàm phu do chấp tướng, vướng mắc trong
Có, tự bị trói buộc,
sao có thể giáo hóa chúng sanh? Cũng chẳng
giống như Tiểu Thừa trầm trệ nơi không
tịch, chẳng có tâm đại bi, sao có thể giáo hóa chúng sanh?
(Kinh) Phật ngôn: - Tùng nhất địa
năi chí hậu nhất địa, tự sở hành xứ, cập
Phật hành xứ nhất thiết tri kiến cố.
(經)佛言:從一地,乃至後一地,自所行處,及佛行處,一切知見故。
(Kinh: Đức Phật nói: - Do các hành xứ từ
địa vị thứ nhất cho đến địa
vị cuối cùng của chính ḿnh và hành xứ của Phật,
hết thảy đều là cùng một tri kiến).
Đây là giải đáp về bổn nghiệp
thanh tịnh của Bồ Tát. Từ địa vị thứ
nhất là Hoan Hỷ Địa cho tới địa vị
cuối cùng là Đệ Thập Pháp Vân Địa, hành xứ
[của các địa vị ấy] là nhân địa (địa
vị đang c̣n tu nhân). “Cập Phật hành xứ”
(và hành xứ của Phật) là quả địa. Hết
thảy đều dựa vào tri kiến của Phật.
Tri kiến của Phật chính là “chân tri chẳng biết,
không ǵ chẳng biết; chân kiến chẳng thấy, không
ǵ chẳng thấy”.
(Kinh) Bổn nghiệp giả, nhược
Bồ Tát trụ bách Phật quốc trung, tác Diêm Phù Đề
Tứ Đại Thiên Vương, tu bách pháp môn, Nhị
Đế b́nh đẳng tâm, hóa nhất thiết chúng sanh.
(經)本業者,若菩薩住百佛國中,作閻浮四大天王。修百法門,二諦平等心,化一切眾生。
(Kinh: “Bổn nghiệp” là như Bồ
Tát trụ trong một trăm cơi Phật, làm bốn đại
thiên vương trong Diêm Phù Đề, tu một trăm pháp
môn, tâm b́nh đẳng đối với Nhị Đế,
hóa độ hết thảy chúng sanh).
Từ đây trở đi, đáp cặn kẽ
về bổn nghiệp. Xét theo Thập Địa, chia thành
mười loại sai biệt: [Đoạn này] th́ một
là nói Hoan Hỷ Địa Bồ Tát (Pramuditā-bhūmi), trụ trong một
trăm cơi Phật, tức là nói đến cơi nước
để hóa độ. Ngài làm tứ thiên vương trong một
phương thuộc Nam Diêm Phù Đề, tức là Nam
phương Tăng Trưởng thiên vương. Đấy chính là nói chỗ sanh tăng
thượng. Các kinh nói địa vị bất đồng,
sợ rườm rà chẳng trích dẫn. “Tu bách pháp môn”
(tu một trăm pháp môn): Đối với [mỗi môn
trong] Thập Thiện, đều nói mười điều
thiện, sẽ thành một trăm pháp môn. Chân Tục Nhị
Đế viên dung vô ngại th́ là cái tâm b́nh đẳng. Dùng
đó để hóa độ hết thảy chúng sanh.
(Kinh) Nhược Bồ Tát trụ thiên
Phật quốc trung, tác Đao Lợi thiên vương, tu
thiên pháp môn, thập thiện đạo, hóa nhất thiết
chúng sanh.
(經)若菩薩住千佛國中,作忉利天王。修千法門,十善道,化一切眾生。
(Kinh: Hoặc là Bồ Tát trụ
trong một ngàn cơi Phật, làm Đao Lợi thiên
vương, tu một ngàn pháp môn và đạo Thập Thiện , hóa độ hết thảy chúng
sanh).
Hai, nói về Ly Đạt Địa Bồ
Tát, tức Ly Cấu Địa (Vimalā-bhūmi): Ĺa cấu trược
phá giới, thông đạt Tam Quán; v́ thế gọi là Ly
Đạt. “Trụ thiên Phật quốc” (trụ trong
một ngàn cơi Phật) là nói cơi nước được
hóa độ. “Tác Đao Lợi thiên vương” (làm
Đao Lợi thiên vương) là nói đến sanh xứ
tăng thượng. Đao Lợi Thiên (Trayastriṃśa) trong tiếng Phạn
được phương này dịch là Tam Thập Tam
Thiên (ba mươi ba vị trời), ở trên đỉnh
núi Tu Di. Đông, Tây, Nam, Bắc, mỗi phương có tám vị
trời, Thiên Chúa ở giữa, tức Đế Thích Tôn
Thiên. “Tu thiên pháp môn” (tu một ngàn pháp môn) là nói [số
lượng] pháp môn [mà Nhị Địa Bồ Tát] thông hiểu.
“Thập thiện đạo hóa nhất
thiết chúng sanh” (mười thiện đạo hóa
độ hết thảy chúng sanh): Nhân vương trong thế
gian có thể dùng Thập Thiện để cai trị cơi
đời th́ ḷng dân tốt lành, vận nước hưng
thịnh. Thập Thiện là:
- Một, chẳng giết: Nhân từ, yêu thương
muôn vật, chẳng nỡ sát hại, há có chuyện chiến
tranh, giết người?
- Hai, chẳng trộm: Tài vật của
người khác không cho sẽ chẳng dám lấy, há có chuyện
cướp bóc, tước đoạt?
- Ba, chẳng tà dâm: Sùng thượng lễ tiết,
chẳng phạm ngoại sắc, há có chuyện gian dâm
nhơ nhuốc?
- Bốn, chẳng nói dối: Chẳng dám thốt
lời hư vọng.
- Năm, chẳng nói thêu dệt: Chẳng hoa
ngôn xảo ngữ.
- Sáu, chẳng ác khẩu: Chẳng dám rủa
sả tổn thương người khác.
- Bảy, chẳng nói đôi chiều: Chẳng
dám khuấy lộng thị phi. Tu bốn điều thiện
này, há có chuyện dối trá, lừa gạt?
- Tám, chẳng tham: Biết đủ, thường
vui, há có chuyện lấy của cải phi nghĩa?
- Chín, chẳng sân: Thoái nhượng, bao dung,
nhẫn nại, há có chuyện kết oán, phẫn nộ?
- Mười, chẳng si: Hiểu rơ sự
lư, há có chuyện tối tăm, đen tối?
Nếu quốc gia dùng Thập Thiện để
giáo hóa dân chúng, cả nước sẽ thuần thiện,
bảy nạn sẽ tự tiêu trừ, tai ác chẳng dấy
lên, quốc thái dân an.
(Kinh) Nhược Bồ Tát trụ thập
vạn Phật quốc trung, tác Diễm thiên vương, tu
thập vạn pháp môn, Tứ Thiền Định, hóa nhất
thiết chúng sanh.
(經)若菩薩住十萬佛國中,作燄天王。修十萬法門,四禪定化一切眾生。
(Kinh: Hoặc là Bồ Tát trụ
trong mười vạn cơi Phật, làm Diễm Ma thiên
vương, tu mười vạn pháp môn, Tứ Thiền
Định, hóa độ hết thảy chúng sanh).
Thứ ba là nói về Phát Quang Địa (Prabhākarī-bhūmi)
Bồ Tát, trụ trong mười vạn cơi Phật, tức
là cảnh giáo hóa rộng răi. “Làm Diễm Ma thiên
vương” tức là chỗ sanh tăng thượng. Dạ
Ma (Yāma) được
phương này dịch là Thời Phần (時分), thuộc loại Không Cư Thiên,
dùng mây màu làm đất, quang minh nhật nguyệt
chẳng chiếu tới. Thân chư thiên có quang minh, dùng hoa
sen khép nở để phân định giờ giấc ngày
đêm. “Tu mười vạn pháp môn” là nói về pháp
môn thông hiểu. Tứ Thiền Định tức là Ly Sanh
Hỷ Lạc Định, Định Sanh Hỷ Lạc
Định, Ly Hỷ Diệu Lạc Định, và Xả
Niệm Thanh Tịnh Định. Dùng bốn môn Thiền ấy
để giáo hóa chúng sanh.
(Kinh) Nhược Bồ Tát trụ bách ức
Phật quốc trung, tác Đâu Suất thiên vương, tu
bách ức pháp môn, hành đạo phẩm hóa nhất thiết
chúng sanh.
(經)若菩薩,住百億佛國中,作兜率天王。修百億法門,行道品化一切眾生。
(Kinh: Hoặc là Bồ Tát trụ
trong một trăm ức cơi Phật, làm Đâu Suất
thiên vương, tu một trăm ức pháp môn, hành Đạo
Phẩm để hóa độ hết thảy chúng sanh).
Thứ tư là nói Diễm Huệ Địa
(Arciṣmatī-bhūmi)
Bồ Tát, “trụ trong một trăm ức cơi Phật”
là nói cơi nước được hóa độ. Làm Đâu
Suất thiên vương là nói chỗ thọ sanh tăng
thượng. Đâu Suất (Tuṣita) trong tiếng
Phạn được phương này dịch là Tri Túc (知足, biết đủ). “Tu một trăm ức
pháp môn” là nói các pháp môn thông hiểu.
“Hành Đạo Phẩm” tức là hành ba mươi bảy
đạo phẩm, giáo hóa hết thảy chúng sanh.
(Kinh) Nhược Bồ Tát trụ thiên ức
Phật quốc trung, tác Hóa Lạc thiên vương, tu thiên ức pháp môn,
Nhị Đế, Tứ Đế, Bát Đế, hóa nhất
thiết chúng sanh. (經)若菩薩,住千億佛國中,作化樂天王。修千億法門,二諦四諦八諦化一切眾生。
(Kinh: Hoặc là Bồ Tát trụ trong
một ngàn ức cơi Phật, làm Hóa Lạc thiên
vương, tu một ngàn ức pháp môn, Nhị Đế,
Tứ Đế, Bát Đế, hóa độ hết thảy
chúng sanh).
Năm là nói về Nan Thắng Địa (Sudurjayā-bhūmi) Bồ
Tát. Câu thứ hai chỉ cơi nước được hóa
độ. “Làm Hóa Lạc thiên vương” là nói đến
chỗ sanh tăng thượng. Thiên
vương tự biến hóa cảnh ngũ dục để
tự hưởng lạc, [cho nên gọi là Hóa Lạc (Nirmāṇarati)]. Có người nói Bát Đế là Hữu
Tác Tứ Đế và Vô Tác Tứ Đế. Lại nói: “Vô
thường, khổ, không, vô ngă là bốn. Thường, lạc,
ngă, tịnh là bốn, hợp thành Bát Đế”. Những điều khác dễ hiểu.
(Kinh) Nhược Bồ Tát trụ thập
vạn ức Phật quốc trung, tác Tha Hóa thiên
vương, tu thập vạn ức pháp môn, thập nhị
nhân duyên trí, hóa nhất thiết chúng sanh.
(經)若菩薩,住十萬億佛國中,作他化天王。修十萬億法門,十二因緣智,化一切眾生。
(Kinh: Hoặc là Bồ Tát trụ trong
mười vạn ức cơi Phật, làm Tha Hóa thiên
vương, tu mười vạn ức pháp môn, dùng trí thập
nhị nhân duyên hóa độ hết thảy chúng sanh).
Thứ sáu, nói về Hiện Tiền Địa
(Abhimukhī-bhūmi)
Bồ Tát, câu thứ hai nói về cơi hóa độ. “Làm Tha
Hóa thiên vương” tức là chỗ sanh tăng thượng.
Tha Hóa (Paranirmita-vaśavartin)
là đối với cảnh ngũ dục do các vị trời
khác biến ra, chư thiên trong cơi trời này tự
tại hưởng dụng. Những
điều khác dễ hiểu.
(Kinh) Nhược Bồ Tát, trụ bách
vạn ức Phật quốc trung, tác Sơ Thiền vương,
tu bách vạn ức pháp môn, phương tiện trí, nguyện
trí, hóa nhất thiết chúng sanh.
(經)若菩薩,住百萬億佛國中,作初禪王。修百萬億法門,方便智,願智,化一切眾生。
(Kinh: Hoặc là Bồ Tát trụ trong
trăm vạn ức cơi Phật, làm vua trời Sơ Thiền,
tu trăm vạn ức pháp môn, dùng phương tiện trí
và nguyện trí hóa độ hết thảy chúng sanh).
Thứ bảy là Viễn Hành Địa (Dūraṃgamā-bhūmi) Bồ Tát. Câu thứ hai nói về cơi hóa
độ. “Làm vua cơi trời Sơ Thiền (Prathama-dhyāna)”: Nói về chỗ sanh
tăng thượng. Họ tu Thiền Định hữu
lậu trong tam giới. Phương Tiện Trí là Quyền
Trí, tức phương tiện thiện xảo. Nguyện
Trí là đại nguyện b́nh đẳng. Thường dùng hai trí ấy để hóa độ
chúng sanh.
(Kinh) Nhược Bồ Tát trụ bách vạn
vi trần số Phật quốc trung, tác Nhị Thiền
phạm vương, tu bách vạn vi trần số pháp môn,
song chiếu phương tiện thần thông trí, hóa nhất
thiết chúng sanh.
(經)若菩薩,住百萬微塵數佛國中,作二禪梵王。修百萬微塵數法門,雙照方便神通智,化一切眾生。
(Kinh: Hoặc là Bồ Tát trụ trong
trăm vạn vi trần số Phật quốc, làm phạm
vương cơi Nhị Thiền, tu trăm vạn vi trần
số pháp môn, trí cùng chiếu phương tiện và thần
thông, hóa độ hết thảy chúng sanh).
Thứ tám là nói về Bất Động
Địa (Acalā-bhūmi)
Bồ Tát, câu thứ hai là nói về cơi hóa độ. “Làm
phạm vương Nhị Thiền” là nói về nơi
sanh tăng thượng. Phạm là “tịnh”, do sanh vào Sắc
Giới, ĺa dục thanh tịnh. “Song chiếu phương
tiện thần thông trí” (trí cùng chiếu phương tiện
và thần thông): Cùng chiếu Chân Tục Nhị Đế,
phương tiện thiện xảo, chẳng hề trái
nghịch, trở ngại, có thể phát khởi trí thần
thông, dùng đó để hóa độ chúng sanh.
(Kinh) Nhược Bồ Tát trụ bách vạn
ức A-tăng-kỳ vi trần số Phật quốc
trung, tác Tam Thiền đại phạm vương, tu bách vạn
ức A-tăng-kỳ vi trần số pháp môn, tứ vô ngại
trí, hóa nhất thiết chúng sanh.
(經)若菩薩,住百萬億阿僧祇微塵數佛國中,作三禪大梵王。修百萬億阿僧祇微塵數法門,四無礙智,化一切眾生。
(Kinh: Hoặc là Bồ Tát trụ trong
trăm vạn ức A-tăng-kỳ vi trần số cơi Phật,
làm đại phạm vương của Tam Thiền, tu
trăm vạn ức A-tăng-kỳ vi trần số pháp
môn, dùng tứ vô ngại trí, hóa độ hết thảy
chúng sanh).
Thứ chín là nói tới Thiện Huệ
Địa (Sādhumatī-bhūmi)
Bồ Tát. Câu thứ hai nói về cơi hóa độ. “Làm
đại phạm vương của Tam Thiền” là nói
về chỗ sanh tăng thượng. Dùng tứ vô ngại
trí hóa độ chúng sanh, tứ vô ngại trí chính là Pháp, Nghĩa, Từ, và Nhạo Thuyết, bốn thứ
vô ngại biện tài.
(Kinh) Nhược Bồ Tát, trụ bất
khả thuyết bất khả thuyết Phật quốc trung,
tác Đệ Tứ Thiền Đại Tĩnh thiên
vương, tam giới chủ, tu bất khả thuyết
bất khả thuyết pháp môn, đắc Lư Tận tam-muội,
đồng Phật hành xứ, tận tam giới nguyên, giáo
hóa nhất thiết chúng sanh, như Phật cảnh giới.
Thị cố nhất thiết Bồ Tát bổn nghiệp hóa
hạnh tịnh.
(經)若菩薩,住不可說不可說佛國中,作第四禪大靜天王,三界主。修不可說不可說法門,得理盡三昧,同佛行處,盡三界源,教化一切眾生,如佛境界。是故一切菩薩,本業化行淨。
(Kinh: Nếu Bồ Tát trụ trong bất
khả thuyết bất khả thuyết cơi Phật, làm
Đại Tĩnh thiên vương nơi Đệ Tứ
Thiền, là chủ của tam giới, tu bất khả thuyết
bất khả thuyết pháp môn, đắc Lư Tận tam-muội,
có hành xứ giống như Phật, tột cùng nguồn
tam giới, giáo hóa hết thảy chúng sanh như cảnh giới
của Phật. V́ thế, hết thảy bổn nghiệp
hạnh giáo hóa của Bồ Tát đều thanh tịnh).
Thứ mười là nói về Pháp Vân Địa (Dharmameghā-bhūmi) Bồ
Tát, trước là nêu ra cơi nước hóa độ. “Làm
Đại Tĩnh thiên vương trời Đệ Tứ
Thiền” là nói chỗ sanh tăng thượng. [Đại
Tĩnh thiên vương] tức Ma Hê Thủ La (Maheśvara) Đại Tự
Tại thiên vương, sống trên đỉnh của Sắc
Giới, có tác dụng thần thông rộng lớn, trí huệ
bậc nhất, là chủ của tam thiên đại thiên thế
giới, tu bất khả thuyết bất khả thuyết
pháp môn, biết rơ pháp môn. “Đắc
Lư Tận tam-muội” tức là Kim Cang Định. Tam-muội
(Samādhi) trong tiếng Phạn được
phương này dịch là Chánh Định. Dùng Kim Cang quán
trí chiếu cùng tột lư nhất tâm, đạt được
Kim Cang Chánh Định. Bốn câu từ “đồng Phật
hành xứ” trở đi, ư nói: Cùng thuộc địa vị Tịch Diệt
Nhẫn, hết sạch Phần Đoạn và Biến Dịch,
[thấu hiểu tận cùng] nguồn sanh tử trong tam giới,
giáo hóa chúng sanh “trái nghịch trần
lao, khế hợp Chánh Giác”, giống như cảnh giới của Phật.
Hai câu từ “thị cố” (v́ thế)
trở đi, tổng kết các Bồ Tát nghiệp. Trong phần
trước, Nguyệt Quang đă hỏi: “Bổn nghiệp
thanh tịnh của Bồ Tát giáo hóa chúng sanh như thế
nào?” Đức Phật đáp bằng công đức của
Ngũ Nhẫn. Đến đây, kết luận rằng:
Do v́ lẽ ấy, hết thảy các hạnh hóa độ thanh tịnh bổn
nghiệp của Bồ Tát, tức là các nghiệp do Bồ
Tát vốn tu, hạnh giáo hóa chúng sanh, lợi tha thanh tịnh
vô nhiễm, chẳng chấp trước sanh tử, chẳng đắc Niết
Bàn, cho nên gọi là Tịnh.
(Kinh) Nhược thập phương
chư Như Lai, diệc tu thị nghiệp, đăng Tát
Bà Nhă quả, tác tam giới vương, hóa nhất thiết
vô lượng chúng sanh.
(經)若十方諸如來,亦修是業,登薩婆若果,作三界王,化一切無量眾生。
(Kinh: Nếu mười phương
các đức Như Lai cũng tu nghiệp ấy, sẽ
đắc quả Tát Bà Nhă, làm vua ba cơi, hóa độ hết
thảy vô lượng chúng sanh).
Đây là kết lại Như Lai nghiệp.
Hết thảy Như Lai cũng tu bổn nghiệp thanh tịnh
ấy, do nhân cảm quả, đắc Nhất Thiết
Trí, ứng theo căn cơ mà thị hiện, làm đại pháp vương trong tam
giới, giáo hóa vô lượng chúng sanh.
(Kinh) Nhĩ thời, bách vạn ức Hằng
hà sa đại chúng, các tùng ṭa khởi, tán vô lượng bất
khả tư nghị hoa, thiêu vô lượng bất khả
tư nghị hương, cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật,
cập vô lượng đại Bồ Tát, hiệp chưởng,
thính Ba Tư Nặc vương thuyết Bát Nhă Ba La Mật.
(經)爾時,百萬億恆河沙大眾,各從座起,散無量不可思議華,燒無量不可思議香,供養釋迦牟尼佛,及無量大菩薩。合掌聽波斯匿王說般若波羅密。
(Kinh: Lúc bấy giờ, trăm
vạn ức Hằng hà sa đại chúng, mỗi người
đều từ chỗ ngồi đứng dậy, rải
vô lượng chẳng thể nghĩ bàn hoa, đốt vô
lượng chẳng thể nghĩ bàn hương, cúng
dường Thích Ca Mâu Ni Phật, và vô lượng đại
Bồ Tát, chắp tay nghe vua Ba Tư Nặc nói Bát Nhă Ba La Mật).
Từ đây trở đi nói đến chuyện
đại chúng vui mừng v́ được hưởng
pháp lợi, trước hết là tu cúng dường. “Hoa”
là Bồ Đề tâm hoa, “hương” là Đại Thừa
giới hương. Cúng Phật và Tăng, do mong nghe pháp
ḥng lănh ngộ, thấu hiểu. “Thính Nặc vương
thuyết” (Nghe vua Ba Tư Nặc nói): Dùng vua Ba Tư Nặc
để giúp chuyển pháp luân. Lại nữa, đại
chúng tu tài cúng dường, vua Ba Tư Nặc dùng pháp cúng
dường.
(Kinh) Kim ư Phật tiền, dĩ
xướng thán viết.
(經)今於佛前,以倡歎曰:
(Kinh: Nay đối trước Phật,
dùng kệ tán thán rằng):
Đây là từ ngữ trần thuật của
người kết tập kinh: Trước đó, đại
chúng tu cúng dường, nay vua Ba Tư Nặc dùng kệ tán
thán. “Kệ” là “kiệt”, [hàm nghĩa] dùng văn
tự ít mà diễn đạt cạn kiệt nhiều nghĩa;
v́ thế gọi là Kệ, tức là giống như thể
loại Trùng Tụng trong kinh. Trong năm mươi chín hàng[4]
kệ ở đây, sáu hàng đầu trùng tụng ư
nghĩa chung trên đây, bốn mươi lăm hàng sau
đó, trùng tụng riêng mười bốn môn Nhẫn, tám
hàng cuối là phần trùng tụng nhằm kết lại
công đức của Ngũ Nhẫn.
(Kinh) Thế Tôn đạo sư kim cang
thể, tâm hạnh tịch diệt chuyển pháp luân, bát biện
hồng âm vị chúng thuyết, thời chúng đắc
đạo bách ức vạn, thời lục thiên nhân xuất
gia đạo, thành tỳ-kheo chúng Bồ Tát hạnh.
(經)世尊導師金剛體,心行寂滅轉法輪,八辯洪音為眾說。時眾得道百億萬,時六天人出家道,成比丘眾菩薩行。
(Kinh: Thế Tôn đạo sư kim
cang thể, tâm hạnh tịch diệt chuyển pháp luân, tiếng
lớn tám biện dạy đại chúng, người nghe
đắc đạo trăm ức vạn, sáu tầng trời hành đạo xuất gia, thành Bồ
Tát hạnh chư tỳ-kheo).
Ba hàng này tán thán biệt hành Tam Bảo. Câu
đầu tiên tán thán thân nghiệp của Phật chẳng
thể nghĩ bàn. Phật được chúng sanh thuộc
chín pháp giới trong hữu t́nh thế gian và Chánh Giác thế
gian cùng tôn sùng, cho nên nói là Thế Tôn. “Đạo sư”
là vị thầy có thể hướng dẫn chúng sanh thoát
ĺa biển khổ sanh tử, lên bờ kia Niết Bàn, chứng
Pháp Thân kiên cố rốt ráo cho đến hết đời vị lai, muôn kiếp bất
hoại, ví như kim cang, cho nên gọi là “kim cang thể”.
Câu kế, “tâm hạnh tịch diệt chuyển
pháp luân”: Tán thán ư nghiệp của Phật chẳng thể
nghĩ bàn. Phật tâm hạnh xứ diệt, quy vào chân tâm
tịch diệt, soi xét căn cơ [của chúng sanh] mà ban bố
giáo hóa, chuyển pháp luân mầu nhiệm. Pháp mà được
gọi là Luân v́ nó có công năng nghiền nát phiền năo thô
tế của chúng sanh, và có sức chuyên chở chúng sanh
thoát khỏi sanh tử. V́ thế được ví như
bánh xe.
Ba câu “bát biện hồng âm vị chúng thuyết…”
(âm thanh to lớn tám biện tài v́ chúng sanh thuyết pháp), tán
thán khẩu nghiệp của Phật chẳng thể
nghĩ bàn. “Bát biện” theo kinh Phạm Ma Dụ[5]:
Một là đẹp đẽ nhất, hai là dễ hiểu,
ba là điều ḥa, bốn là dịu dàng, năm là không sai lầm,
sáu là chẳng dối trá, bảy là trí huệ cao quư, tám là
sâu xa. Tám loại âm thanh ấy trọn đủ bốn thứ
biện tài, cho nên nói là “bát biện”. “Hồng” (洪) là to lớn. Âm thanh ấy có thể
trọn khắp mười phương pháp giới, tùy thuận căn cơ v́ chúng sanh mà tuyên nói hết thảy
diệu pháp. Ở đây, tuy tán dương Phật Bảo,
đă bao gồm Pháp Bảo trong ấy.
Ba câu “thời chúng đắc đạo
bách vạn ức…” (đại chúng thuở ấy đắc
đạo trăm vạn ức): Tán thán Tăng Bảo chẳng
thể nghĩ bàn. Chư thiên không có pháp xuất gia. Đây
là nói trong tâm nghe pháp, nương theo sự giải ngộ
mà tu hành, có thể thoát khỏi nhà phiền
năo, trở thành đại chúng tỳ-kheo thanh tịnh, rộng
tu hai hạnh lợi ích (tự lợi và lợi tha) của
Bồ Tát.
(Kinh) Ngũ Nhẫn công đức diệu
pháp môn, thập tứ Chánh Sĩ năng đế liễu,
Tam Hiền, Thập Thánh nhẫn trung hạnh, duy Phật nhất nhân năng tận nguyên.
(經)五忍功德妙法門,十四正士能諦了。三賢十聖忍中行,唯佛一人能盡源。
(Kinh: Diệu pháp môn công đức
Ngũ Nhẫn, mười bốn Chánh Sĩ đều hiểu
chắc, các hạnh nhẫn Tam Hiền, Thập Thánh, chỉ
ḿnh đức Phật hiểu tận nguồn).
Hai hàng này tán thán công đức của
Ngũ Nhẫn. Pháp môn Ngũ Nhẫn vi diệu, phàm t́nh chẳng thể lường được. Chỉ
có bậc thánh nhân thuộc mười bốn địa vị
(tức những vị chứng nhập
mười bốn món
Nhẫn) th́ mới có thể hiểu rơ chắc thật.
Chánh Sĩ tức là thánh nhân. Phục Nhẫn trong Tam Hiền
chỉ có ba địa vị (tức Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng). Thập Địa được
gọi là Thập Thánh, hoàn toàn là các hạnh thuộc về
Nhẫn. [Hàng Bồ Tát] tuy đă đạt tới Pháp Vân
Địa, cùng chứng Tịch Diệt Nhẫn, do vẫn c̣n một phẩm
sanh tướng vô minh chưa phá, chưa chứng nguồn
cội của nhất tâm, giống như trăng đêm
Mười Bốn. V́ thế nói “duy Phật nhất nhân
năng tận nhất tâm bổn nguyên” (chỉ có một
ḿnh đức Phật có thể thấu hiểu tột
cùng nguồn cội của nhất tâm).
(Kinh) Phật chúng pháp hải Tam Bảo
tạng, vô lượng công đức nhiếp tại
trung.
(經)佛眾法海三寶藏,無量功德攝在中。
(Kinh: Biển tạng Tam Bảo Phật,
Pháp, Tăng. Vô lượng công đức nhiếp trong ấy).
Hàng này tán thán Nhất Thể Tam Bảo. Phật
tức là Tự Tánh Phật Bảo, Pháp tức Tự Tánh
Pháp Bảo, Chúng tức Tự Tánh Tăng Bảo. Tự
tánh rộng lớn, ví như biển. Trong tánh chứa đựng
hằng sa công đức xứng tánh, nên gọi là Tạng
hoặc Nhiếp. Trong biển chứa đựng các thứ
báu cũng giống như thế.
(Kinh) Thập Thiện Bồ Tát phát đại
tâm, trường biệt tam giới khổ luân hải,
trung hạ phẩm thiện túc tán vương, thượng
phẩm Thập Thiện Thiết Luân Vương.
(經)十善菩薩發大心,長別三界苦輪海。中下品善粟散王,上品十善鐵輪王。
(Kinh: Thập Thiện Bồ Tát phát
đại tâm, giă biệt biển khổ trong tam giới,
trung hạ phẩm thiện: Túc tán vương; thượng
phẩm Thập Thiện: Thiết Luân Vương).
Bốn mươi lăm hàng kể từ
đây, sẽ trùng tụng riêng mười bốn
môn Nhẫn. Hai hàng đầu trùng tụng tiền phương
tiện của Phục Nhẫn. Bảy hàng từ chữ “tập
chủng” trở đi trùng tụng công đức của
ba phẩm thuộc Phục Nhẫn. Mười hàng từ “thiện
giác” trở đi nói về Thập Hạnh, trùng tụng
công đức của ba phẩm Tín Nhẫn. Tám hàng từ
Diễm Huệ trở đi, trùng tụng công đức của
Thuận Nhẫn. Mười hàng từ Viễn Đạt
trở đi, trùng tụng công đức của ba phẩm
Vô Sanh Nhẫn. Tám hàng từ “quán đảnh” trở
đi, trùng tụng công đức của thượng và hạ
phẩm Tịch Diệt Nhẫn.
“Thập Thiện Bồ Tát” chỉ
địa vị Thập Tín. “Đại tâm” là tâm Bồ
Đề trên cầu Phật đạo, dưới hóa
độ chúng sanh. Bồ Tát thuộc Tín vị do Chân
Như làm cái nhân hun đúc bên trong, giáo pháp làm cái duyên hun đúc bên ngoài,
nhân duyên trọn đủ, có thể phát đại tâm, cầu
thoát khỏi tam giới. Tuy chẳng thể dứt sanh tử,
sẽ dần dần tự đoạn vô minh, chắc
chắn thoát khỏi tam giới. V́ thế nói là “trường biệt tam giới khổ
luân” (giă biệt nỗi khổ trong tam giới dài lâu).
Tam giới lục đạo bị vướng trong các nỗi
khổ, cho nên ví như biển.
Hai câu sau [ư nói hành nhân tu Phục Nhẫn] trong ngầm hành Bồ Tát,
ngoài hiện thân vua trong nhân gian. “Trung hạ phẩm thiện
túc tán vương”: Do các vua này rải rác khắp các châu,
nhiều như hạt thóc, cho nên gọi như vậy. “Thượng
phẩm vi thiết luân vương”: [Thượng phẩm
Phục Nhẫn] có thể làm vua của Nam Châu. Báu thiết
luân (bánh xe sắt) ấy rộng một Câu-lô-xá (Krośa)[6]. Vua cưỡi trên báu ấy một
ngày đi trọn khắp Nam Châu, cho nên có thể thống
trị các nước.
Kinh An Lạc ghi: “Trụ tiền danh Tín Căn Bồ Tát, diệc danh Giả Danh Bồ Tát, diệc danh Danh Tự Bồ Tát. Nhược nhất
kiếp, nhị kiếp, tam kiếp tu Thập Tín, thượng
phẩm thiện Thiết Luân vương, trung phẩm thiện
túc tán vương, hạ phẩm thiện nhân trung
vương, cụ túc nhất thiết phiền năo” (Trước khi đắc Sơ Trụ
th́ gọi là Tín
Căn Bồ Tát,
cũng gọi là Giả Danh Bồ Tát, cũng gọi là Danh Tự Bồ Tát. Nếu
một kiếp, hai kiếp, ba kiếp tu Thập Tín, th́
thượng phẩm thiện là Thiết Luân vương,
trung phẩm thiện là túc tán vương, hạ phẩm
thiện là vua trong loài người, trọn đủ hết
thảy phiền năo). Trung hạ phẩm thiện trong kinh
này đều là “túc tán vương” cho nên khác biệt.
(Kinh) Tập Chủng
đồng luân nhị thiên hạ, ngân luân tam thiên Tánh Chủng
Tánh. Đạo Chủng
kiên đức chuyển luân vương, thất bảo kim
quang tứ thiên hạ. Phục Nhẫn
Thánh Thai tam thập nhân: Thập Tín, Thập Chỉ, Thập
Kiên Tâm.
(經)習種銅輪二天下,銀輪三天性種性,道種堅德轉輪王,七寶金光四天下。伏忍聖胎三十人,十信十止十堅心。
(Kinh: Tập Chủng đồng luân
hai thiên hạ, ngân luân tam thiên Tánh Chủng Tánh. Đạo
Chủng chuyển luân vương đức vững. Bảy
báu kim quang bốn thiên hạ. Thánh thai Phục Nhẫn ba
mươi phẩm: Thập Tín, Thập Chỉ, Thập Kiên
Tâm).
Đây là trùng tụng Phục Nhẫn, gồm
có tất cả bảy hàng. Ba hàng đầu trùng tụng
[người chứng đắc] thượng, trung, hạ
phẩm [của Phục Nhẫn] là ba loại luân
vương, cùng với thập thánh là Thánh Thai. Thập Trụ
là Tập Chủng Tánh, làm Đồng Luân Vương, vua của
hai châu Đông và Nam. Báu đồng luân rộng hai câu-lô-xá, một
ngày có thể đi trọn khắp hai châu, cho nên mỗi
nước đều quy phục.
Thập Hạnh là Tánh Chủng Tánh, [Bồ
Tát thuộc địa vị này] làm ngân luân vương,
xưng vương ở ba châu Đông, Tây, và Nam. Ngân luân bảo
của vua rộng ba câu-lô-xá, một ngày có thể đi trọn
khắp ba châu, cho nên mỗi nước đều quy về
sự thống trị [của nhà vua].
Thập Hồi Hướng là Đạo Chủng
Tánh, [Bồ Tát thuộc địa vị này] làm kim luân
vương, xưng vương trong một tứ thiên hạ,
trọn đủ bảy báu:
- Một, kim
luân bảo: Rộng bốn câu-lô-xá, tên là Thắng Tự Tại.
Nếu vua xuất thế, nước biển cạn bớt,
bên bờ biển xuất hiện con đường luân
vương. Vua cưỡi trên báu ấy, một ngày có thể
đi trọn khắp tứ đại bộ châu. Lại
có thuyết nói: Vua cưỡi trên báu này, có thể viễn
hành trên hư không.
- Hai, tượng bảo tên là Thanh Sơn.
Voi ấy có sức mạnh mẽ, khéo có thể tác chiến.
- Ba, mă bảo tên là Dũng Tật Phong (gió mạnh
mẽ nhanh chóng), đến khắp các nơi, chạy nhanh
như gió. Một ngày cũng có thể đi trọn khắp
bốn châu.
- Bốn, thần châu bảo, hoặc như
ư bảo: Phàm có ǵ mong cầu, báu ấy đều có thể
tuôn ra các thứ báu.
- Năm, chủ tạng thần bảo tên
là Đại Tài, theo vua du hành. Hễ vua cần lấy của
cải, chỉ cần chỗ có đất, đào lên sẽ
liền được.
- Sáu, nữ bảo tên là Diệu Đức,
chẳng sanh do bào thai, mà là thanh tịnh hóa sanh.
- Bảy, chủ binh thần bảo, c̣n gọi
là tướng quân bảo, tên là Ly Cấu Nhăn, khéo hiểu
binh pháp, nổi tiếng bốn châu.
Vua thân kim sắc, cũng có ba mươi hai
tướng. Ngài Từ Ân nói: “Kim luân tự nhiên giáo hóa
[chúng sanh thuộc tứ đại châu] thuận lợi. Ngân
luân phải sai sứ đến th́ [nơi ấy] mới
hàng phục. Đồng luân phải dùng oai phong chấn nhiếp
họ mới phục. Thiết luân phải chinh phạt th́
cơi nước mới an định, nhưng đều chẳng
sát hại”.
“Phục Nhẫn Thánh Thai tam thập nhân”
(Thánh Thai thuộc Phục Nhẫn gồm ba mươi
địa vị): Thập Địa là Thập Thánh. Ba
mươi địa vị thuộc Phục Nhẫn có thể
làm Thánh Thai cho Thập Thánh. Thập Tín [ở đây phải hiểu]
chính là Thập Trụ, tín tâm đă đầy đủ, tu
từ Giả nhập Không quán. Thập Chỉ tức là Thập
Hạnh, rộng hành các Phật sự, tu từ Không nhập
Giả Quán. Thập Kiên Tâm chính là Thập Hồi Hướng,
tu Trung Đạo chánh quán để cầu đạt lên
Thập Địa.
(Kinh) Tam thế chư Phật ư trung
hành, vô bất do thử Phục Nhẫn sanh. Nhất thiết
Bồ Tát hạnh bổn nguyên, thị cố phát tâm tín tâm
nan. Nhược đắc tín tâm tất bất thoái, tiến
nhập Vô Sanh Sơ Địa đạo. Giáo hóa chúng sanh
giác trung hạnh, thị danh Bồ Tát sơ phát tâm.
(經)三世諸佛於中行,無不由此伏忍生,一切菩薩行本源,是故發心信心難。若得信心必不退,進入無生初地道。教化眾生覺中行,是名菩薩初發心。
(Kinh: Các hạnh của ba đời
chư Phật, không ǵ chẳng do Phục Nhẫn sanh. Là nguồn
hết thảy Bồ Tát hạnh. V́ thế, phát tâm tín tâm khó. Nếu
đắc tín tâm, ắt bất thoái, tiến nhập đạo
Vô Sanh Sơ Địa. Là hạnh giáo hóa chúng sanh giác, đó
là Bồ Tát sơ phát tâm).
Đây là trùng tụng công năng của Phục
Nhẫn: Đó chính là căn bản của chư Phật,
thánh hiền. Hăy nên biết cái quả vạn đức của
chư Phật, chẳng ĺa cái nhân của Tam Hiền thuộc
Phục Nhẫn, cho nên nói là “trung hành” (hành trong ấy). Dùng nhân tâm (cái tâm để tu nhân) làm Thánh Thai th́ mới có
thể sanh ra quả giác. Do vậy nói “vô bất do thử
Phục Nhẫn sanh” (Không ǵ chẳng sanh từ môn Phục
Nhẫn này), tức là hết thảy Bồ Tát tu Lục
Độ, vạn hạnh, cũng lấy môn Nhẫn
này làm cội gốc. Môn Nhẫn này là bước đầu
để nhập đạo, là cơ sở để thành
Phật.
“Thị cố phát tâm tín tâm nan” (V́ thế
phát tâm sanh khởi tín tâm khó lắm): “Phát tâm” là nói
đến Sơ Phát Tâm Trụ, sắp đắc Sơ Trụ,
ắt do tín tâm
thuộc Thập Tín đă viên
măn, thiện căn chín muồi, th́ mới có thể nhập
Sơ Trụ. Tín vị Bồ Tát trước khi đắc
Phục Nhẫn, dẫu phát đại tâm nhưng hoặc
tiến, hoặc lùi, được gọi là “mao đạo
chúng sanh” (chúng sanh có tín tâm như chiếc lông tơ), vật
vờ theo gió, tâm chưa quyết định. Do bởi lẽ
ấy, cố nhiên là Sơ Phát Tâm khó
khăn, nhưng tín tâm chẳng lui sụt càng khó hơn. Nếu
đạt được tín tâm viên măn, được gọi
là “quyết định tụ chúng sanh”, chắc chắn
sẽ chẳng c̣n lui sụt xuống địa vị phàm
phu hoặc Tiểu Thừa.
“Chứng nhập vô sanh Sơ Địa
Đạo”: Tín tâm trọn đủ, nhập địa
vị Phục Nhẫn, đạt được Vị Bất
Thoái, dần dần tăng tấn, đạt đến
địa vị Tín Nhẫn, chứng nhập Vô Sanh Pháp Nhẫn. Đó là đường lối để
tiến lên làm thánh nhân Sơ Địa.
Hỏi: Kinh Bổn Nghiệp Anh Lạc nói:
Chánh quán của Đệ Lục Trụ trong Thập Trụ
hiện tiền, sẽ gặp gỡ chư Phật, Bồ
Tát, được thiện tri thức hộ tŕ, sẽ
vượt lên Thất Trụ, thường chẳng thoái
chuyển. Trước khi đạt đến Thất Trụ
th́ đều gọi là “thoái phần” (tức là “có thể bị thoái
chuyển”). Như ngài Xá Lợi Phất muốn nhập Thất
Trụ, gặp phải nhân duyên ác, bèn lui sụt, rơi xuống
hàng phàm phu. Sao trong kinh này chẳng nói họ lui sụt vậy?
Đáp: Như Lai thuyết giáo, tùy theo căn
cơ mà [giảng giải] sai khác. Kinh ấy nói: Trước
khi đạt tới Thất Trụ đều có phần
thoái chuyển, chính là nói theo giáo nghĩa của Tạng
Giáo. Nay kinh này th́ “Thập Tín viên măn, ắt được
chẳng thoái chuyển”, chính là ư nghĩa trong Viên Giáo.
Trên đây là trùng tụng về hạnh tự lợi.
“Giáo hóa chúng sanh giác trung hạnh” (là hạnh
để giáo hóa chúng sanh giác ngộ): Đây là trùng tụng
hạnh lợi tha. Bồ Tát quán người khác như
chính ḿnh, thường hành giáo hóa. Chúng sanh nương vào lư
Bổn Giác để khởi lên trí Thỉ Giác, tu hạnh tự
giác và giác tha. V́ thế nói là “Bồ Tát sơ phát tâm”.
Theo Khởi Tín Luận, Sơ Phát Tâm Trụ Bồ Tát phát ra
ba loại tâm:
- Một, trực tâm, tức là chánh niệm
lư Chân Như Bổn Giác.
- Hai, thâm tâm, tức là thích tu hết thảy
các thiện hạnh.
- Ba, đại bi tâm, tức là cứu bạt
nỗi khổ sanh tử của chúng sanh.
“Giáo hóa chúng giác trung hạnh” hoàn toàn giống
như ba tâm trong Khởi Tín Luận, tự giác, giác tha,
Đại Thừa diệu hạnh thuộc Sơ Phát Tâm Trụ,
cho nên nói là “Bồ Tát sơ phát tâm”. Phần trùng tụng
Phục Nhẫn đă xong.
(Kinh) Thiện giác Bồ Tát tứ thiên
vương, song chiếu Nhị Đế b́nh đẳng
đạo, quyền hóa chúng sanh du bách quốc, thỉ
đăng Nhất Thừa vô tướng đạo. Nhập
lư Bát Nhă danh vi Trụ. Trụ sanh đức hạnh danh vi Địa. Sơ Trụ nhất tâm túc đức hạnh,
ư Đệ Nhất Nghĩa nhi bất động.
(經)善覺菩薩四天王,雙照二諦平等道,權化眾生遊百國,始登一乘無相道。入理般若名為住,住生德行名為地。初住一心足德行,於第一義而不動。
(Kinh: Thiện giác Bồ Tát: Tứ
thiên vương, cùng chiếu đạo Nhị Đế b́nh đẳng, quyền hóa chúng sanh
dạo trăm cơi, mới lên đạo
Nhất Thừa vô tướng. Nhập lư Bát Nhă gọi là
Trụ, Trụ sanh đức hạnh gọi là Địa.
Sơ Trụ nhất tâm đủ đức hạnh, bất
động đối với Đệ Nhất Nghĩa).
Đây là trùng tụng Tín Nhẫn, có tất cả
mười hàng, bốn hàng này (tức tám câu này) trùng tụng hạ phẩm Tín Nhẫn
của Sơ Địa. Ba câu đầu nói về công
năng thống ngự, giáo hóa. Do Sơ Địa phá vô
minh, thấy Pháp Thân, khéo giác ngộ lư tánh Trung Đạo. Bồ
Tát dạo trong tam-ma-địa, thị hiện làm tứ
thiên vương. “Song chiếu Nhị Đế b́nh đẳng
đạo” (cùng chiếu đạo Nhị Đế
b́nh đẳng): Dùng Trung Đạo quán trí để cùng
chiếu Chân Đế và Tục Đế, thấu đạt Chân,
hóa độ Tục, bi và trí cùng vận dụng viên dung vô
ngại. Đó là đạo b́nh đẳng. Đại
quyền thị hiện giáo hóa chúng sanh. “Bách quốc”
là nói đến các cơi được giáo
hóa.
Năm câu từ “thỉ đăng Nhất
Thừa vô tướng đạo” (mới dự vào
đạo Nhất Thừa vô tướng) nói về công
năng “nhập địa” (chứng nhập Sơ Địa).
Nhất Thừa tức là nhất Phật thừa tối thượng. Thật Tướng vô tướng
là diệu lư Trung Đạo. Sơ Địa vừa mới chứng lư ấy th́ gọi là “thỉ đăng” (mới tiến
nhập). Do khéo giác ngộ Trung Đạo, sanh đại
hoan hỷ, [cho nên Sơ Địa] c̣n được gọi là Hoan Hỷ
Địa.
“Nhập lư Bát Nhă danh vi Trụ. Trụ sanh đức hạnh
danh vi địa” (Nhập lư Bát Nhă th́ gọi là Trụ. Trụ sanh đức
hạnh th́ gọi là Địa): Dùng diệu trí Bát Nhă khế
nhập diệu lư Thật Tướng, th́ gọi là Trụ.
Đó chính là trụ vào “không có ǵ để trụ”, cho nên
sanh ra công đức hữu vi và công đức vô vi. V́ vậy gọi là Địa, do
Địa có ư nghĩa “có thể sanh”.
“Sơ Trụ nhất tâm cụ đức
hạnh, ư Đệ Nhất Nghĩa nhi bất động”
(Sơ Trụ nhất tâm trọn đức hạnh, bất
động đối với Đệ Nhất Nghĩa):
Sơ Trụ chứng nhập nhất tâm của Trung Đạo,
Tam Đức bí tạng trọn đủ hằng sa Tánh Đức, vô biên diệu hạnh. Tuy du hư thần
thông trong thanh tịnh quốc độ của Phật, an
trụ trong Đệ Nhất Nghĩa Đế, nhưng
chẳng bị lay động bởi Không và Hữu.
(Kinh) Ly đạt khai sĩ sơ Lợi
vương, hiện h́nh lục đạo thiên quốc
độ, vô duyên, vô tướng đệ
tam đế, vô vô Vô Sanh,
vô nhị chiếu.
(經)離達開士初利王,現形六道千國土。無緣無相第三諦,無無無生無二照。
(Kinh: Ly Đạt khai sĩ vua Đao Lợi,
hiện thân sáu đường, ngàn cơi nước. Đệ
Tam Đế vô duyên, vô tướng.
Chẳng vô vô sanh, vô nhị chiếu).
Hai hàng này trùng tụng trung phẩm Tín Nhẫn
của Nhị Địa. “Ly đạt”: Ĺa cấu
nhơ phá giới, thông đạt Tam Quán, các giới thanh tịnh,
vĩnh viễn ĺa lầm lỗi. [Nhị Địa] c̣n gọi
là Ly Cấu Địa. “Khai sĩ” là danh xưng khác của
Bồ Tát, tức là “bậc khai ngộ chúng sanh”. [Nhị Địa Bồ Tát] quyền
biến làm vua
trong cơi trời Đao Lợi,
công năng dần dần thù thắng, cảnh hóa độ
rộng dần, có thể hiện thân trong lục đạo
thuộc một ngàn quốc độ.
“Vô duyên” tức là chẳng có trí để
có thể duyên theo. “Vô tướng”: Chẳng có cảnh
để duyên theo. Cảnh và trí cùng mất, Chân lẫn Tục
dung thông, cùng bỏ hai bên, hoàn toàn quy vào Trung Đạo. “Đệ
tam đế” chính là Trung Đạo diệu đế. “Vô
vô Vô Sanh, vô nhị chiếu”: “Vô vô” tức là chẳng
phải vô duyên, chẳng phải vô tướng, ngay cả
hai thứ Vô ấy cũng là không, thật sự đạt
được Vô Sanh. V́ thế, không có cái trí có thể chiếu, chẳng có cảnh được chiếu, cảnh
và trí đều mất, cho nên gọi là “vô nhị chiếu”.
(Kinh) Minh huệ không chiếu Diễm
thiên vương, ứng h́nh vạn quốc đạo quần
sanh. Nhẫn tâm vô nhị, Tam Đế trung, xuất Hữu
nhập Vô, biến hóa sanh.
(經)明慧空照燄天王,應形萬國導群生。忍心無二三諦中,出有入無變化生。
(Kinh: Diễm thiên vương minh huệ,
không chiếu, ứng hiện vạn quốc, dẫn quần
sanh. Tâm Nhẫn chẳng hai trong Tam Đế, xuất Hữu,
nhập Vô, biến hóa sanh).
Hai hàng này trùng tụng thượng phẩm
Tín Nhẫn thuộc Tam Địa. Tam Địa c̣n gọi
là Phát Quang Địa. “Minh huệ” tức là quang minh
trí huệ tỏa sáng. Chiếu tỏ Nhân Không và Pháp Không th́
gọi là “không chiếu”. “Quyền tác Diễm thiên
vương” tức là làm vua trong cơi trời Dạ Ma. “Ứng
h́nh vạn quốc, hóa đạo quần sanh” (ứng
hiện thân h́nh trong vạn quốc độ, hướng
dẫn quần sanh) so với địa trước đó
càng gấp mười lần!
Hai câu “Nhẫn tâm vô nhị, tam đế
trung” nói đến công năng của Nhẫn. Vô Nhị:
Chẳng Chân, chẳng Tục, chẳng vướng mắc
vào Không và Hữu, hoàn toàn quy vào Trung Đạo đệ
tam đế, dấn ḿnh vào cơi tục lợi lạc chúng
sanh; đó gọi là “xuất
Hữu”. Mỗi mỗi đều ĺa tướng,
th́ gọi là “nhập Vô”. Thần thông biến đổi, th́ gọi là “biến
hóa sanh”. Lại nữa, Hữu chính là Không, th́ là “xuất
Hữu, nhập Vô”. Không chính là Hữu th́ gọi là “biến
hóa sanh”.
(Kinh) Thiện giác ly minh tam đạo
nhân, năng diệt tam giới Sắc
phiền năo. Hoàn quán tam giới thân khẩu Sắc,
pháp tánh đệ nhất vô di chiếu.
(經)善覺離明三道人,能滅三界色煩惱。還觀三界身口色,法性第一無遺照。
(Kinh: Thiện Giác, Ly, Minh: ba địa
vị, hay diệt tam giới Sắc phiền năo. Lại quán tam giới
thân, khẩu, Sắc. Pháp tánh bậc nhất, chiếu chẳng sót).
Hai hàng này trùng tụng chung ba địa vị
thuộc Tín Nhẫn trong phần trước. Thiện Giác là Sơ Địa. Ly
chính là Ly Đạt, tức Nhị Địa. Minh chính là
Minh Huệ, tức Tam Địa. V́ thế nói là “tam
đạo nhân”. Câu thứ hai, do Sắc chính là Không, cho
nên có thể đoạn Sắc phiền năo biến hóa trong
tam giới. Câu thứ ba, do Không chính là Sắc, cho nên trở
lại quán tam giới, biến hóa thân khẩu Sắc. Câu cuối
cùng, pháp tánh là Thật Tánh của các pháp. Quán mỗi Sắc pháp, không ǵ chẳng
phải là pháp tánh. Đă đều là pháp tánh, sẽ hoàn toàn quy
vào Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế. Do
đó, đạt được “Chân Tục song chiếu” chẳng thừa
sót. Chẳng chấp vào Sắc pháp, chẳng trừ bỏ
Chân. Chẳng hoại Sắc pháp, chẳng trừ bỏ Tục.
Trùng tụng Tín Nhẫn đă xong.
(Kinh) Diễm Huệ
diệu quang đại tinh tấn, Đâu Suất thiên
vương du ức quốc. Thật Trí
duyên tịch phương tiện đạo, đạt vô
sanh chiếu Không Hữu liễu.
(經)燄慧妙光大精進,兜率天王遊億國。實智緣寂方便道,達無生照空有了。
(Kinh: Diễm Huệ diệu quang
đại tinh tấn, Đâu Suất thiên vương dạo
ức quốc. Thật Trí duyên tịch phương tiện
đạo, đạt vô sanh chiếu rơ Không Hữu).
Đây là phần trùng tụng Thuận Nhẫn gồm
tám hàng. Hai hàng này trùng tụng Tứ Địa thuộc hạ
phẩm Thuận Nhẫn. Diễm Huệ: Trí huệ hừng hực giống như ngọn lửa. Diệu
Quang: Huệ quang chiếu khắp, chẳng bị buộc
ràng bởi Không và Hữu, cho nên nói là Diệu. “Đại
tinh tấn”: Do Tứ Địa tinh tấn tăng thượng
nơi Tam Quán. Câu thứ hai, [Tứ Địa Bồ Tát]
quyền biến làm Đâu Suất thiên vương, du hóa
trong một ức thế giới. So với [số lượng]
cơi nước giáo hóa của Địa trước (Tam Địa) lại nhiều hơn gấp
mười lần.
Thật Trí là Lư Trí. “Duyên tịch” tức là duyên
theo lư Không Tịch. “Phương tiện đạo”
là Sự Trí, tức duyên theo sự tướng thuộc Tục
Đế. “Đạt vô sanh chiếu Không Hữu liễu”:
Mỗi mỗi đều liễu đạt Vô Sanh, cho nên
có thể cùng chiếu Không và Hữu. Biết Không chính là Hữu,
Hữu chính là Không, Chân Tục viên dung vô ngại.
(Kinh) Thắng Huệ
Tam Đế tự đạt minh, Hóa Lạc
thiên vương bách ức quốc. Không Không đế quán
vô nhị tướng, biến hóa lục đạo nhập
Vô Gián.
(經)勝慧三諦自達明,化樂天王百億國。空空諦觀無二相,變化六道入無間。
(Kinh: Thắng Huệ Tam Đế tự thông đạt. Hóa Lạc
thiên vương trăm ức cơi, Không Không quán kỹ tướng
chẳng hai, biến hóa sáu đường, vào Vô Gián).
Hai hàng này trùng tụng Ngũ Địa thuộc trung
phẩm Thuận Nhẫn. Ngũ Địa c̣n gọi là Nan
Thắng Địa, do trí huệ thù thắng, quán chiếu
Tam Đế, tự đạt được thần
thông rạng ngời, quyền biến làm Hóa Lạc thiên
vương, giáo hóa một trăm ức quốc độ.
“Không Không đế quán vô nhị tướng”: Chữ Không trước có nghĩa
là “sanh tử đă là Không”, chữ Không sau đó có nghĩa “Niết
Bàn cũng là Không”. Như cổ đức nói: “Niết
Bàn, sanh tử đẳng không hoa” (Niết Bàn và sanh tử
đều như hoa đốm trên không): Dùng chánh trí ấy
mà quán chắc thật chẳng có hai tướng Niết
Bàn và sanh tử để có thể được. V́ thế,
có thể hóa hiện thân h́nh trong sáu đường, mỗi
mỗi đều biến hiện, thậm chí đối với
địa ngục Vô Gián cũng vào trong đó. Đó gọi
là “ta chẳng vào địa ngục, ai sẽ vào địa
ngục!”
(Kinh) Pháp Hiện khai
sĩ Tự Tại vương, vô
nhị, vô chiếu đạt lư không, Tam Đế hiện
tiền đại trí quang, chiếu thiên ức
độ giáo nhất thiết.
(經)法現開士自在王,無二無照達理空,三諦現前大智光,照千億土教一切。
(Kinh: Pháp Hiện khai
sĩ, vua Tự Tại, chẳng hai, chẳng chiếu,
đạt lư không. Quang minh Tam Đế hiện
đại trí, chiếu ngàn ức cơi dạy hết
thảy).
Hai hàng này trùng tụng Lục
Địa thuộc thượng phẩm của Thuận
Nhẫn. Pháp Hiện tức là Hiện Tiền Địa,
xem giải thích về Khai Sĩ trong phần trước. “Tự
Tại vương”: Quyền biến làm Tự
Tại thiên vương. “Vô nhị, vô chiếu”: Không có
cảnh Chân Đế và Tục Đế, chẳng có Không
Quán và Giả Quán chiếu, liễu đạt lư Trung Đạo
nhất tâm, Đệ Nhất Nghĩa Không.
Hai câu “Tam Đế hiện
tiền đại trí quang…” ư nói: Ngộ Chân chính là Tục, Tục
chính là Chân, Chân Tục viên dung, không ǵ chẳng phải là Trung
Đạo. Như thế th́ Tam Đế hiện tiền,
quang minh đại trí huệ chiếu trọn khắp ngàn ức
cơi Phật, giáo hóa hết thảy chúng sanh.
(Kinh) Diễm, Thắng, Pháp Hiện vô
tướng định, năng tẩy tam giới mê tâm Hoặc,
Không Huệ tịch nhiên vô duyên quán, hoàn quán tâm Không vô lượng
báo.
(經)燄勝法現無相定,能洗三界迷心惑,空慧寂然無緣觀,還觀心空無量報。
(Kinh: Diễm, Thắng, Pháp Hiện vô
tướng định, gột rửa tâm mê hoặc tam giới.
Không huệ vắng lặng vô duyên quán, lại quán tâm không
vô lượng báo).
Hai hàng này trùng tụng chung ba địa vị
thuộc Thuận Nhẫn trên đây. Diễm là Diễm Huệ
Địa, tức Tứ Địa. Thắng là Thắng
Huệ, tức Ngũ Địa. Pháp Hiện tức Lục
Địa. Bồ Tát thuộc ba địa vị này đắc
Trung Đạo Quán, chẳng dấy lên hai tướng Hữu
và Vô, cho nên nói là “vô tướng định”. Dùng
nước huệ chánh quán ấy để gột rửa Hoặc cấu
trong cái tâm mê muội nơi tam giới; Hoặc tức là vô
minh.
“Không huệ tịch nhiên vô duyên quán”:
Không Huệ chính là trí huệ chân không. “Tịch nhiên”
chính là cảnh và trí cùng mất. Không có cảnh để
duyên theo, mà cũng chẳng có trí “có thể quán”; cho nên gọi
là Vô Duyên Quán. “Hoàn quán tâm không vô lượng báo”:
Đây chính là Phương Tiện Trí xoay lại quán tâm Không, có thể đoạn
tam chướng. Tứ Địa đoạn hai kiến
chướng vi tế là Thân Kiến và Biên Kiến, Ngũ
Địa đoạn chướng “ưa thích Niết Bàn
của Nhị Thừa”, Lục Địa đoạn nghiệp
chướng tụ họp khiến chúng sanh bị cầm
tù trong tam giới. Xưa kia mê tâm, liền thành ba chướng.
Nay do trở lại quán tâm không, ba chướng trừ sạch,
bèn trở thành quả báo vô lượng công
đức. Phần trùng tụng Thuận Nhẫn đă xong.
(Kinh) Viễn Đạt vô sanh Sơ Thiền vương, thường
vạn ức độ giáo chúng sanh. Vị độ Báo
Thân nhất sanh tại, tiến nhập đẳng quán Pháp Lưu
Địa. Thỉ nhập vô duyên Kim Cang
Nhẫn, tam giới báo h́nh vĩnh bất thọ. Quán đệ
tam nghĩa vô nhị chiếu, nhị thập nhất sanh
không tịch hạnh. Tam giới ái tập thuận đạo
định, viễn đạt Chánh Sĩ
độc đế liễu.
(經)遠達無生初禪王,常萬億土教眾生。未度報身一生在,進入等觀法流地。始入無緣金剛忍,三界報形永不受。觀第三義無二照,二十一生空寂行。三界愛習順道定,遠達正士獨諦了。
(Kinh: Viễn Hành thấu đạt
lẽ Vô Sanh, bèn làm vua cơi trời Sơ Thiền,
thường dạy chúng sanh vạn ức cơi. Báo Thân
chưa ĺa Biến Dịch Sanh, hăy c̣n phải thọ thân một
đời, tiến nhập đẳng quán Pháp Lưu Địa.
Mới nhập vô duyên Kim Cang Nhẫn, vĩnh viễn chẳng
thọ thân tam giới. Quán nghĩa Trung Đạo, chiếu
bất nhị. Hai mươi mốt sanh, không tịch hạnh.
Tam giới ái tập thuận đạo định, xa
đạt độc đế của Chánh Sĩ).
Đây là trùng tụng Vô Sanh Nhẫn, gồm mười
hàng. Năm hàng này trùng tụng hạ phẩm Vô Sanh Nhẫn
của Thất Địa. “Viễn đạt” trong
câu đầu tức là nói Viễn Hành Địa. “Đạt”
là “đến”. Đại Phẩm gọi [địa vị này] là “thâm
nhập Vô Sanh”. Vô Sanh: Bồ Tát trong địa vị
này tu Vô Tướng Quán, dùng quán trí ấy chứng Vô Sanh Nhẫn,
quyền biến làm vua cơi trời Sơ Thiền,
phương tiện thiện xảo, thường ở
trong một vạn ức quốc độ giáo hóa chúng
sanh.
“Vị độ báo thân nhất sanh tại”
(báo thân chưa độ, hăy c̣n một đời): Báo Thân
tức là cái thân quả báo Phần Đoạn. Hết một
đời này tức là ĺa Phần Đoạn Sanh, nhập
Biến Dịch Sanh. V́ thế, Trí Độ Luận nói: “Thất
Địa Bồ Tát chưa xả thân thể”. Lại
c̣n có thể hiểu là trong hai mươi mốt đời,
chưa qua đời cuối cùng.
“Tiến nhập Đẳng Quán Pháp
Lưu Địa”: Do Thất Địa c̣n có công dụng
tiến nhập Bát Địa, b́nh đẳng quán Chân và Tục,
chẳng có hai tướng. Cũng có thể quán sắc và
tâm b́nh đẳng, chẳng có tướng sai biệt, vô
công dụng đạo, từ đó, lưu nhập chân lưu pháp tánh trong biển Tát Bà
Nhă, cho nên gọi là Pháp Lưu Địa. Tới khi đó mới
nhập vô duyên Kim Cang Nhẫn. “Vô duyên” là chẳng có chủ thể có thể duyên (năng duyên), mà
cũng chẳng có cái bị duyên (sở duyên). Tâm và Sắc chẳng hai,
duyên và quán đều tịch, kiên cố chẳng hoại,
giống như Kim Cang, ĺa tập khí tam giới. V́ thế
nói “tam giới báo h́nh vĩnh bất thọ” (vĩnh
viễn chẳng thọ sanh thân quả báo trong tam giới).
Hai câu này nói trước công đức của Bát Địa,
v́ địa vị này ắt sẽ có thể đạt tới
[công đức ấy].
“Quán đệ tam nghĩa vô nhị chiếu” (quán nghĩa thứ ba, không nhị chiếu): Luôn quán Trung Đạo Đệ Nhất
Nghĩa Đế. Trung Đạo vốn thuộc Đệ
Nhất Nghĩa, do xét theo thứ tự trong “Chân, Tục, Trung” [th́ Trung Đạo] thuộc vào vị
trí thứ ba, nên gọi là “đệ tam nghĩa”. Một
thứ đă trung th́ hết thảy đều trung, chẳng
có Không, chẳng có Giả, không ǵ chẳng phải là Trung, cho nên “vô nhị chiếu” (chẳng chiếu hai thứ Không và Giả). “Nhị thập nhất sanh không tịch
hạnh” (Hai mươi mốt
thứ sanh đều là hạnh không tịch): Từ Sơ
Địa cho tới Thất Địa, mỗi địa
đều có ba thứ sanh (thỉ sanh, trụ sanh, và chung
sanh), hợp thành hai mươi mốt thứ sanh. Mỗi
Sanh đều quán các pháp không tịch, coi đó là hạnh
để tiến nhập Phật địa.
“Tam giới ái tập thuận đạo
định”: “Ái” là si ái, tức vô minh. “Tập”
là tập khí. Bồ Tát trong địa vị này đă sớm
đoạn hết phiền năo thô nặng, chỉ có tập
khí vô minh chưa đoạn. Do yêu mến Phật trí, cho nên
tập khí chưa đoạn, chẳng gọi là có phiền
năo, chỉ gọi là “thuận đạo định”.
“Viễn đạt Chánh Sĩ độc đế liễu”
(chỉ riêng bậc Chánh Sĩ thuộc Viễn Hành Địa
th́ mới có thể thấu hiểu): Chánh Sĩ cũng là danh xưng
khác của Bồ Tát, chỉ riêng hạng Bồ Tát này là có
thể chắc thật biết rơ, siêng tu Vô Sanh Quán Hạnh,
tiến đến đoạn trừ tập khí này.
(Kinh) Đẳng quán Bồ Tát Nhị
Thiền vương, biến sanh Pháp Thân vô lượng
quang. Nhập bách hằng độ hóa nhất thiết,
viên chiếu tam thế hằng kiếp sự. Phản chiếu
lạc hư vô tận nguyên, ư đệ tam đế
thường tịch nhiên.
(經)等觀菩薩二禪王,變生法身無量光。入百恆土化一切,圓照三世恆劫事。反照樂虛無盡源,於第三諦常寂然。
(Kinh: Đẳng quán Bồ Tát vua Nhị
Thiền, biến sanh Pháp Thân vô lượng quang. Trăm hằng
sa cơi, dạy hết thảy, chiếu trọn hằng kiếp
chuyện ba đời. Soi ngược lạc hư huyễn,
vô tận; thường tĩnh lặng nơi Đệ Tam
Đế).
Ba hàng này trùng tụng trung phẩm Vô Sanh Nhẫn
của Bát Địa. “Đẳng quán” chính là Chân Tục
Đẳng Quán (b́nh đẳng quán Chân Tục) của Bát
Địa. Vô công dụng đạo, tu trọn khắp vạn
hạnh, vào ḍng đại pháp, cho nên gọi là Đẳng
Quán. Lại c̣n gọi là Bất Động do đạt được tự tại đối với Sắc,
chẳng bị Sắc lay động. [Bát Địa Bồ
Tát] quyền biến làm vua cơi Nhị Thiền, đă ĺa Phần
Đoạn Sanh của Thất Địa, vĩnh viễn
chẳng thọ thân quả báo trong tam giới, biến cái
thân quả báo phần đoạn ấy thành Pháp Thân Biến
Dịch Sanh. V́
thế nói là Biến Sanh Pháp
Thân, do chứng lư pháp tánh mà thành thân. [Do thân ấy] trọn
đủ vô lượng quang minh, cho nên gọi là Vô Lượng
Quang.
Câu thứ ba nói về hạnh lợi tha: Có thể vào trọn khắp các quốc
độ nhiều như số cát trong một trăm sông Hằng, thực hiện Phật
sự to lớn, giáo hóa chúng sanh. Câu thứ tư nói về
trí lợi tha. Trí ấy chiếu trọn vẹn các sự
thuộc ba đời trong các kiếp số nhiều
như cát sông Hằng. Câu thứ năm nói Bát Địa thật
sự đắc Vô Sanh, luôn thọ pháp lạc. Soi xét
ngược lại th́ lạc ấy cũng chẳng phải
là chân thật, cho nên nói “phản chiếu lạc hư”
(soi ngược lại th́ lạc là hư huyễn). “Vô tận
nguyên” (nguồn vô tận): Nay muốn chấm dứt cái nguồn
vô tận, đạt được niềm vui Tịch Diệt.
Tuy chưa đạt đến tịch diệt, nhưng
đối với Đệ Tam Đế, thường
đạt được bất động vắng lặng.
Đệ Tam Đế là nói so sánh với Chân và Tục, Trung Đạo [thuộc vào vị
trí thứ ba sau Chân và Tục], cho nên là Đệ Tam Đế.
(Kinh) Huệ Quang khai sĩ Tam Thiền
vương, năng ư thiên hằng nhất thời kiến,
thường tại vô vi không tịch hạnh, hằng sa Phật
tạng nhất niệm liễu.
(經)慧光開士三禪王,能於千恆一時見,常在無為空寂行,恆沙佛藏一念了。
(Kinh: Huệ Quang khai sĩ vua Tam Thiền,
cùng lúc hiện thân trong các cơi, số nhiều như cát ngàn
sông Hằng. Thường trụ hạnh vô vi không tịch,
Phật pháp tạng như cát sông Hằng, ngay trong một
niệm bèn thấu triệt).
Hai hàng này trùng tụng thượng phẩm
Vô Sanh Nhẫn của Cửu Địa. Huệ Quang tức
là Cửu Địa Thiện Huệ phát quang, quyền biến
làm vua cơi Tam Thiền, có thể trong các quốc độ
nhiều như số cát trong một ngàn sông Hằng, đồng
thời hiện thân giáo hóa chúng sanh. Kinh văn trong phần
trước nói là “hiện mười A-tăng-kỳ
trăm ngàn Phật độ vi trần số thân”, hóa
độ (cơi nước để giáo hóa) cũng thế, tức là “nhất thời hiện” (cùng lúc hiện
thân). Ở đây nói “thiên Hằng”
(một ngàn sông Hằng) là nói đại lược. Hai chữ
“năng ư” (có thể trong) [hàm nghĩa] do đắc
thượng phẩm Vô Sanh Nhẫn th́ mới có thể đạt được tác dụng thù thắng lợi tha
này. Ở trong các cơi ấy, cùng lúc hiện thân. Đây chính
là một thân chẳng phân thân mà hiện trọn khắp, chẳng
trái nghịch sự cảm ứng của mọi căn
cơ. Ví như một vầng trăng trên bầu trời
soi bóng trong các chỗ có nước.
“Thường tại vô vi không tịch hạnh”
(thường trụ trong hạnh vô vi không tịch): Nối
tiếp câu trước. Tuy nhiều lượt dấy lên
diệu hạnh, nhưng thường ở trong vô vi không tịch,
tức là động tĩnh như một, chẳng trái nghịch
hạnh, vô công dụng hạnh. “Hằng sa Phật tạng
nhất niệm liễu” (đối với Phật tạng
nhiều như cát sông Hằng, ngay trong một niệm bèn thấu
hiểu): Chính là trí vô công dụng, đối
với pháp tạng của
chư Phật nhiều như số cát sông Hằng, trong một
niệm tâm đều có thể liễu đạt. Phần
trùng tụng về Vô Sanh Nhẫn đă xong.
(Kinh) Quán đảnh Bồ Tát Tứ Thiền
vương, ư ức hằng độ hóa quần sanh,
thỉ nhập Kim Cang nhất thiết liễu, nhị thập
cửu sanh vĩnh dĩ độ. Tịch Diệt Nhẫn
trung Hạ Nhẫn quán, nhất chuyển diệu giác
thường trạm nhiên. Đẳng, Huệ, Quán Đảnh
tam phẩm độ, trừ tiền dư tập vô minh
duyên. Vô minh tập tướng cố phiền năo, Nhị
Đế lư cùng nhất thiết tận.
(經)灌頂菩薩四禪王,於億恆土化群生。始入金剛一切了,二十九生永已度。寂滅忍中下忍觀,一轉妙覺常湛然。等慧灌頂三品土,除前餘習無明緣。無明習相故煩惱,二諦理窮一切盡。
(Kinh: Quán đảnh Bồ Tát: Vua Tứ
Thiền. Hóa độ trong ức hằng sa cơi, mới nhập
Kim Cang, đoạn hết thảy. Hai mươi chín Sanh
đều đă vượt. Hạ Nhẫn quán trong Tịch
Diệt Nhẫn, chuyển thành Diệu Giác thường lặng
trong. Đẳng, Huệ, Quán Đảnh độ ba phẩm, trừ
tập khí thừa, duyên vô minh. Vô minh tập tướng:
Phiền năo cũ! Thấu tột cùng tận lư Nhị
Đế, hết thảy tập khí đều trừ sạch).
Phần trùng tụng Tịch Diệt Nhẫn
này có tám hàng, năm hàng này trùng tụng hạ phẩm Tịch
Diệt Nhẫn. “Quán đảnh Bồ
Tát” tức là đệ thập Pháp Vân
Địa Bồ Tát. “Quán đảnh”: Ví như Luân
Vương [khi
thấy] thái tử thành tựu “vương
tướng”, lấy nước bốn biển rưới
lên đỉnh đầu thái tử, liền gọi là “quán
đảnh thái tử”. Bồ Tát cũng như thế,
khi thọ Phật chức, chư Phật dùng “trí thủy” (nước trí huệ)
rưới vào đỉnh đầu Bồ Tát, gọi là “quán
đảnh Bồ Tát”, hoặc gọi là “Bồ Tát nhập
trí huệ chức”, quyền biến làm thiên vương
của cơi trời Tứ Thiền, giáo hóa quần sanh trong các
quốc độ nhiều như số cát trong một ức
sông Hằng.
“Thỉ nhập Kim Cang nhất thiết liễu”
(mới nhập Kim Cang, hiểu hết thảy): Đạt đến địa vị này, vừa mới nhập tâm Kim Cang.
Dùng Kim Cang quán trí, có thể phá trừ vô minh Hoặc kiên cố.
“Nhất thiết liễu” (giải quyết xong hết
thảy): Đối với bốn mươi hai phẩm
vô minh, đă đoạn bốn mươi mốt phẩm,
từ đây trở đi, tiến lên phá trừ, hết thảy
đều xong xuôi. “Nhị thập cửu sanh vĩnh
dĩ độ” (hai mươi chín thứ sanh đă
vĩnh viễn vượt qua): Từ Sơ Địa cho
đến Thập Địa ở đây, mỗi địa
có tam sanh (thỉ sanh, trụ sanh, và chung sanh), hợp thành ba
mươi sanh. Nay chỉ nói hai mươi chín sanh, tức món sanh thứ ba
mươi chính là bổn sanh thân. Hai mươi chín sanh
trước đó đă vượt qua, cho nên nói là “vĩnh
dĩ độ”.
Hai câu “Tịch Diệt Nhẫn trung Hạ Nhẫn Quán…” (phép Quán thuộc Hạ Nhẫn
trong Tịch Diệt Nhẫn), ư nói: Trong Tịch Diệt Nhẫn,
chia thành thượng nhẫn và hạ nhẫn, phần này
là Hạ Nhẫn Quán, thuộc địa vị tu nhân đă măn. Nếu
trong vô ngại đạo này, hễ chuyển sẽ nhập
giải thoát đạo, phá một phẩm tối sơ
sanh tướng vô minh, liền thành tựu Diệu Giác, tịch
diệt hiện tiền, lặng trong bất động.
V́ thế nói là “nhất chuyển Diệu Giác thường
trạm nhiên”.
Hai câu “đẳng huệ quán đảnh
tam phẩm độ…” trùng tụng chung ba phẩm
trước. Đẳng tức là Đẳng Quán, tức
Bát Địa; Huệ tức Huệ Quang, là Cửu Địa;
Quán Đảnh là Thập Địa. Ba phẩm Bồ Tát
này cùng trừ cái duyên vô minh nơi tập khí sắc tâm c̣n thừa sót trước đó mà trụ trong cơi
quả báo. Hai câu “vô minh tập tướng cố phiền
năo” (do tướng tập khí vô minh là phiền năo
cũ), ư nói: Tướng tập khí vô minh là cựu phiền
năo, “cố” là “cũ”. Nhị Đế tức Chân Đế
và Tục Đế. Toàn thể Chân chính là
Tục, toàn thể Tục chính là Chân, tức là nói cùng tận
lư, đó chính là Trung Đế. Thấu đạt Tam Đế
ấy th́ hết thảy tập khí hiện hành đều
tận trừ. V́ thế nói là “Nhị Đế lư cùng nhất
thiết tận”.
(Kinh) Viên trí vô tướng tam giới
vương, tam thập sanh tận đẳng đại
giác. Đại tịch vô vi Kim Cang tạng, nhất thiết
báo tận vô cực bi, Đệ Nhất Nghĩa Đế
thường an ổn, cùng nguyên tận tánh diệu trí tồn.
(經)圓智無相三界王,三十生盡等大覺,大寂無為金剛藏,一切報盡無極悲,第一義諦常安隱,窮源盡性妙智存。
(Kinh: Viên Trí vô tướng, vua tam giới.
Ba mươi Sanh hết, bằng
Đại Giác. Kim Cang tạng đại tịch vô vi, hết
thảy báo tận, bi vô cực. Đệ Nhất Nghĩa
Đế thường an ổn, cùng tột nguồn tánh,
diệu trí c̣n).
Ba hàng này trùng tụng thượng phẩm Tịch
Diệt Nhẫn. “Viên trí”: Nhất Thiết Chủng
Trí viên măn; lại c̣n chuyển thức thứ tám thành Đại
Viên Kính Trí. “Vô tướng”: Chẳng ḥa hợp thức
tướng, chẳng có tướng “tâm liên tục”. Hết
sạch vô minh, có thể làm vua trong tam giới. Kinh Pháp Hoa
cũng nói: “Kim thử tam giới, giai tận ngă hữu”
(nay tam giới này đều là của ta).
“Tam thập sanh tận đẳng đại
giác” (Hết sạch ba mươi sanh, bằng với
đại giác): Mười Địa có tất cả ba
mươi sanh. Khi địa thứ mười (Thập
Địa) thọ ba mươi sanh th́ chẳng gọi là “tận”.
Đến đây, Kim cang đạo hậu (sau khi đă đắc
Kim Cang đạo, tức chứng Đẳng Giác), dị thục quả đă là Không, ba mươi sanh (mỗi địa
đều có thỉ sanh, trụ sanh và trung sanh, mười
địa hợp thành ba mươi sanh) đều đă tận, bèn bằng
với mười phương đại giác Thế Tôn. “Đại
tịch vô vi Kim Cang tạng”: Đắc đại Niết
Bàn gọi là Đại Tịch, chứng lư vô vi cùng tột,
tứ ma (phiền năo ma, uẩn ma, tử ma, thiên ma) chẳng
thể phá hoại th́ gọi là Kim Cang Tạng.
“Nhất thiết báo tận vô cực bi”
(hết thảy báo hết sạch, tâm bi vô cùng cực): Ba mươi món Sanh trên đây đều là nhân hết,
quả sanh. Nay đại giác đă viên măn, chẳng c̣n sanh
nữa, hai thứ tử (Biến Dịch và Phần Đoạn)
đă vĩnh viễn mất. V́ thế nói là “nhất thiết
báo tận” (hết thảy các báo đă hết sạch). Tới cùng tột đời vị lai, cứu bạt
chúng sanh khổ năo thoát ĺa biển khổ, bi tâm chẳng
cùng cực. V́ thế nói là “vô cực bi”.
“Đệ Nhất Nghĩa Đế
thường an ổn”: An trụ trong Đệ Nhất Nghĩa Đế, chẳng trụ
trong sanh tử, chẳng trụ vào Niết Bàn. Thị hiện
sanh tử chẳng khác Niết Bàn, chẳng vướng mắc,
đạt được đại tự tại, cho nên
nói là “thường an ổn”.
“Cùng nguyên tận tánh diệu trí tồn”
(cùng tột nguồn tánh, diệu trí tồn tại): Đối
với cội nguồn nhất tâm vô cực, thấu hiểu
cùng tận thật tánh của các pháp, sanh tử và Niết
Bàn đều như huyễn mộng, viên măn Bồ Đề,
trở về chỗ “không có ǵ để có thể đạt
được”, chỉ có diệu trí riêng tồn tại. Từ
trên tới đây là phần trùng tụng riêng bốn
mươi lăm hạnh thuộc Ngũ Nhẫn đă
xong!
(Kinh) Tam Hiền thập thánh trụ quả
báo, duy Phật nhất nhân cư tịnh độ, nhất
thiết chúng sanh tạm trụ báo, đăng Kim Cang nguyên
cư tịnh độ.
(經)三賢十聖住果報,唯佛一人居淨土。一切眾生暫住報,登金剛原居淨土。
(Kinh: Tam Hiền, Thập Thánh trụ
quả báo, chỉ riêng ḿnh Phật ngự Tịnh Độ,
hết thảy chúng sanh tạm trụ báo. Đấng chứng
Kim Cang trụ cơi tịnh).
Đây là trùng tụng chung Ngũ Nhẫn, gồm tám hàng kệ. Hai hàng này trùng tùng giới
hạn giữa các báo độ. Tam Hiền là Trụ, Hạnh,
Hướng, Thập Thánh là Thập Địa. Quả báo
có y báo và chánh báo. “Trụ” được nói ở
đây chính là nói tới y báo. Tam Hiền trụ trong cơi Phàm
Thánh Đồng Cư Báo. Thập Thánh trụ trong Thật
Báo Vô Chướng Ngại Báo Độ, chỉ có ḿnh đức Phật trụ
trong Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Hết thảy
chúng sanh đều là sanh diệt vô thường, cho nên nói là “tạm trụ báo”. “Đăng
Kim Cang nguyên”: Kim Cang có nghĩa là “bất hoại”. Phật dùng thân pháp
tánh ở trong cơi pháp tánh, thân và cơi viên dung, rốt ráo bất
hoại, đó là Tịnh Độ
chân thật.
(Kinh) Như Lai tam nghiệp đức
vô cực. Ngă kim Nguyệt Quang lễ Tam Bảo.
(經)如來三業德無極,我今月光禮三寶。
(Kinh: Như Lai tam nghiệp đức vô
cực. Nguyệt Quang con nay lễ Tam Bảo).
Sáu hàng từ đây trở đi là phần
tán thán công đức nơi ba nghiệp của Như Lai.
Ba nghiệp của Như Lai đều chẳng thể
nghĩ bàn, khéo có thể lợi ích chúng sanh Đức ấy
vô cực; câu kế tiếp dễ hiểu.
(Kinh) Pháp vương vô thượng nhân
trung thụ, phú cái đại chúng vô lượng quang.
(經)法王無上人中樹,覆蓋大眾無量光。
(Kinh: Pháp vương vô thượng:
cây nhân gian, che rợp đại chúng, vô lượng quang).
Phật là pháp vương, tự tại
trong các pháp, vượt khỏi chín pháp giới, độc
tôn, cho nên gọi là “vô thượng”. Ví như cây cối
trong nhân gian có thể che rợp chúng sanh; thân quang vô lượng
[nơi thân Phật] có thể phá tan hắc ám. Ngài lại hiện
vô lượng thân, phóng vô lượng quang ḥng gia bị
chúng sanh. Đấy là tán thán thân nghiệp.
(Kinh) Khẩu thường thuyết pháp
phi vô nghĩa, tâm trí tịch diệt vô duyên chiếu.
(經)口常說法非無義,心智寂滅無緣照。
(Kinh: Miệng thường
thuyết pháp chẳng vô nghĩa. Tâm trí tịch diệt, vô
duyên chiếu).
Miệng Ngài thường thuyết pháp, dùng
pháp lợi lạc chúng sanh. Có lúc Ngài nói Không, có khi nói Có, hoặc
nói là Thường, hoặc nói là Vô Thường, đều
là thuận theo cơ nghi mà lập bày giáo pháp, đúng theo chứng
bệnh mà kê toa, luôn có nguyên do sâu xa, chẳng phải là [thốt
ra lời lẽ] vô nghĩa. Đây là tán thán khẩu nghiệp
[của đức Phật]. “Tâm trí tịch diệt”:
Cái Thể vốn vắng lặng. “Vô duyên chiếu”:
Tác dụng không ngằn mé. “Vô duyên” mà không ǵ chẳng
duyên. Đấy là tán thán ư nghiệp.
(Kinh) Nhân trung sư tử vị chúng
thuyết, đại chúng hoan hỷ tán kim hoa.
(經)人中師子為眾說,大眾歡喜散金華。
(Kinh:
Bậc sư tử trong người thuyết pháp, đại
chúng hoan hỷ rải hoa vàng).
Sư tử là vua loài thú. Sư tử vừa
rống, trăm thú đều nứt năo. Phật là vua trong
loài người, v́ đại chúng thuyết pháp, họ liền
đạt được vô úy, ví như sư
tử. Đại chúng nghe pháp hoan hỷ, rải hoa cúng
dường.
(Kinh) Bách ức vạn độ lục
đại động, hàm sanh chi loại thọ diệu
báo. Thiên Tôn khoái thuyết thập tứ vương, thị
cố ngă kim lược tán Phật.
(經)百億萬土六大動,含生之類受妙報。天尊快說十四王,是故我今略歎佛。
(Kinh: Trăm ức vạn cơi động
sáu cách, các loài chúng sanh thọ báo mầu. Thiên tôn mau nói
mười bốn vương. Nên nay con đại lược
tán Phật).
“Bách ức vạn” (trăm ức vạn):
Ư nói số lượng nhiều tột cùng. “Độ”
chính là quốc độ. “Lục đại động”
(sáu thứ chấn động to lớn): Đại địa
sáu cách chấn động. “Hàm sanh” tức là chúng sanh có
t́nh thức, được lợi ích đắc quả,
lănh nhận quả báo vi diệu. “Thiên tôn khoái thuyết
thập tứ vương” (đấng được
chư thiên tôn kính hăy mau nói mười bốn vương):
Phật là trời trong trời, thánh của các thánh. Do vậy
gọi là “thiên tôn”. [Vua Ba Tư Nặc do] cầu pháp
ân cần, cho nên thỉnh “khoái thuyết” (hăy mau nói), tức
là hăy thí giáo đúng thời. “Thập tứ vương”:
Tập Chủng Đồng Luân Vương, Tánh Chủng
Ngân Luân Vương, Đạo Chủng Kim Luân Vương,
Thập Địa [theo thứ tự] làm vua trong Lục Dục và Tứ Thiền, Phật là vua trong tam giới, cộng
thành mười bốn loại vua. “Thị cố ngă kim
lược tán Phật” (v́ thế, nay con đại
lược tán thán Phật) có hai ư:
- Một, trí huệ của chính ḿnh cạn mỏng,
chẳng thể tán thán rộng răi.
- Hai, Phật đức quá nhiều, chẳng
có cách nào tán thán trọn hết.
(Kinh) Thời chư đại chúng,
văn Nguyệt Quang vương thán thập tứ
vương vô lượng công đức tạng, đắc
đại pháp lợi, tức ư ṭa trung, hữu thập
Hằng hà sa thiên vương, thập Hằng hà sa Phạm
vương, thập Hằng hà sa quỷ thần
vương, năi chí tam thú đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Bát bộ
A Tu Luân vương, hiện chuyển quỷ thân, thiên
thượng thọ đạo. Tam sanh nhập chánh vị
giả, hoặc tứ sanh, ngũ sanh, năi chí thập sanh, đắc nhập chánh vị, chứng
thánh nhân tánh, đắc nhất thiết vô lượng báo.
(經)時,諸大眾,聞月光王歎十四王無量功德藏,得大法利。即於座中有十恆河沙天王,十恆河沙梵王,十恆河沙鬼神王,乃至三趣,得無生法忍。八部阿須輪王,現轉鬼身,天上受道。三生入正位者,或四生五生乃至十生得入正位。證聖人性,得一切無量報。
(Kinh: Khi đó, đại chúng nghe vua Nguyệt
Quang tán thán vô lượng công đức tạng của
mười bốn loại vua, đạt được
pháp lợi to lớn. Ngay trong số những người
hiện diện, có mười Hằng hà sa thiên
vương, mười Hằng hà sa Phạm vương,
mười Hằng hà sa quỷ thần vương, cho
đến [các chúng sanh trong] ba đường đắc
Vô Sanh Pháp Nhẫn. Tám bộ A Tu Luân vương biến hiện
chuyển thân quỷ, thọ đạo trên cơi trời. Có
người ba đời nhập chánh vị, hoặc bốn
đời, năm đời, cho đến mười đời
sẽ được nhập chánh vị, chứng thánh nhân
tánh, đạt được hết thảy vô lượng
báo).
Đây là nói đại chúng nghe pháp đạt
được lợi ích. “Thời” (khi đó) tức
là lúc vua Nguyệt Quang nói kệ tụng xong. Đại
chúng nghe tán thán vô lượng công đức tạng của
mười bốn loại vua, đạt được
pháp lợi to lớn. Do pháp lợi mà có thể thoát sanh tử,
có thể chứng quả. Do vậy, trong đại chúng hiện
diện có vô số thiên vương, Phạm vương, quỷ
thần vương. “Thần” chính là quỷ có phước
đức, cho tới ba đường, đều đắc
Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vô Sanh Pháp Nhẫn tức là Tam Địa của
Thông Giáo trở lên, hoặc Sơ Địa của Biệt
Giáo trở lên, hoặc Sơ Trụ của Viên Giáo trở
lên. Nếu thật sự đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, sẽ
là Bát Địa của Viên Giáo trở lên.
Bát bộ A Tu Luân vương (tức A Tu La
vương): Theo Tam Tạng Kư, dưới tứ thiên
vương có bốn A Tu La vương: Một là La Hầu
(Rahu) A Tu La vương, hai Tỳ Ma Chất Đa (Vemacitrin)
A Tu La vương, ba là Bàn Lợi (Baḍin) A Tu La vương, bốn là Tỳ
Lâu Xà A Tu La vương. Dưới chân núi Tu Di, lại có bốn
đại A Tu La: Một là Khủng Miện, hai là Phú Lâu Ma,
ba là Bà La A, bốn là Đâu Suất Lâu. V́ thế nói là “bát
bộ A Tu La”.
“Hiện chuyển quỷ thân”: Trong đời hiện tại nghe pháp liền chuyển thân quỷ,
sanh vào đường trời, được tiếp nhận đạo. “Nhập
chánh” (nhập chánh vị)
có hai: Một là Nhân
Không chánh vị, hai là Pháp Không chánh vị. Từ ba đời
cho tới mười đời, có kéo dài hay rút ngắn
khác nhau, tức là do thiện căn và trí huệ sâu hay cạn
mà khác nhau. “Chứng thánh nhân tánh” chính là thánh chủng tánh Thập Địa. “Đắc
nhất thiết vô lượng báo” (đạt
được hết thảy vô lượng quả báo):
Do địa vị vô lượng, quả báo cũng phải
là vô lượng. Đoạn này do người kết tập
kinh tự trần thuật.
(Kinh) Phật cáo chư đắc đạo
quả thật đại chúng: - Thiện nam tử! Thị
Nguyệt Quang vương dĩ ư quá khứ thập thiên kiếp
trung, Long Quang Vương Phật pháp trung vi Tứ Trụ
khai sĩ, ngă vi Bát Trụ Bồ Tát. Kim ư ngă tiền,
đại sư tử hống.
(經)佛告諸得道果實大眾:善男子!是月光王已於過去十千劫中,龍光王佛法中為四住開士,我為八住菩薩。今於我前,大師子吼。
(Kinh: Đức Phật bảo
các đại chúng thật sự hành tŕ, đắc đạo
quả: - Này thiện nam tử! Vua Nguyệt Quang này trong quá
khứ mười ngàn kiếp, là bậc Tứ Trụ khai
sĩ trong pháp của Long Quang Vương Phật, ta là Bát
Trụ Bồ Tát, nay vua ở trước ta thực hiện
đại sư tử hống).
Trong kinh văn thuộc phần trước,
Nguyệt Quang tán thán Phật; từ đây trở đi,
đức Phật tán thán Nguyệt Quang. Trước hết, nêu bày Bổn Tích của nhà vua nhằm bảo ban
các hiền thánh trong hội. “Đắc đạo quả”
kèm thêm một chữ Thật, ngụ ư “thật sự
hành tŕ”, chẳng phải là quyền hạnh, bởi lẽ, Quyền hạnh chính là do Bồ Tát
đại quyền thị hiện. [Đức Phật] tự
biết Bổn Tích của Nguyệt Quang, [chứ đại
chúng] chẳng biết thật hạnh [của nhà vua], cho
nên Ngài bảo rằng: Viễn Bổn của vua Nguyệt
Quang là trong pháp của Long Quang Vương Phật thuộc
mười ngàn kiếp trong quá khứ, nhà vua đă phát
đại tâm, đă thuộc vào địa vị Tứ Trụ.
Chữ “Ngă” là đức Phật tự xưng, [thuở ấy],
đức Phật thuộc địa vị Bát Trụ Bồ Tát. Thuở đó,
[tiền thân của đức Phật và vua Nguyệt Quang]
cùng phụng sự Long Quang Vương Phật, nay
nương theo nguyện mà cùng đến. V́ thế, [nhà vua
và đức Phật] sanh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, thị
hiện làm chủ và bạn, xướng đối Bát Nhă.
“Kim ư Phật tiền, tác sư tử hống” (nay
đối trước Phật, thực hiện sư tử
rống) tức là nói quyết định. Ư nghĩa này dễ
hiểu! Ngài Trí Giả nói: “Tứ Trụ tức là Diễm
Huệ khai sĩ, Bát Trụ tức là Đẳng Quán Bồ
Tát”.
(Kinh) Như thị, như thị!
Như nhữ sở giải, đắc chân nghĩa thuyết,
bất khả tư nghị, bất khả độ
lượng, duy Phật dữ Phật, năi tri tư sự.
(經)如是如是!如汝所解,得真義說。不可思議,不可度量。唯佛與佛,乃知斯事。
(Kinh: Như thế đó, như vậy
đấy! Đúng như ông đă hiểu, nói được
chân nghĩa chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể
đo lường, chỉ có Phật và Phật mới biết
chuyện ấy).
Đây là đức Phật ấn khả lời
ấy (lời vua Ba Tư Nặc đă nói). “Như thị,
như thị” là từ ngữ ấn khả. Nói trùng lặp,
[ngụ ư] ngộ đúng như thế, hăy nói đúng
như thế. Câu thứ hai và thứ ba nhằm giải
thích lần nữa ư “như thị” của đức
Phật: Đúng như ông đă hiểu, đă đạt
được nghĩa chân thật. Ông hăy đúng như
đă hiểu mà nói, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể
đo lường, trí của hàng trung hạ chẳng thể
biết được, chỉ có Phật với Phật mới
có thể biết rơ chuyện này!
(Kinh) Thiện nam tử! Kỳ sở
thuyết thập tứ Bát Nhă Ba La Mật, tam nhẫn,
địa địa thượng, trung, hạ tam thập
Nhẫn, nhất thiết hạnh tạng, nhất thiết
Phật tạng, bất khả tư nghị.
(經)善男子!其所說十四般若波羅密,三忍,地地上中下三十忍,一切行藏,一切佛藏,不可思議。
(Kinh: Này thiện nam tử! Như ông
ta đă nói mười bốn môn Bát Nhă Ba La Mật, ba môn Nhẫn,
mỗi địa đều có ba môn nhẫn thượng,
trung, hạ, [mười địa hợp thành] ba mươi môn Nhẫn,
hết thảy hạnh tạng, hết thảy Phật tạng
đều chẳng thể nghĩ bàn).
Từ đây trở đi, trần thuật
công năng của mười bốn môn Nhẫn. Chữ Kỳ
trong câu “kỳ sở thuyết” (lời ông ta đă
nói) chỉ vua Nguyệt Quang. [Nói] “mười bốn Bát
Nhă Ba La Mật” nhằm nhắc lại mười bốn
môn Nhẫn đă nói trong phần trước, tên gọi
khác nhau, nhưng ư nghĩa tương đồng. Hai chữ
Tam Nhẫn mang
ư nghĩa: Chỉ nói trong Phục Nhẫn, [lại chia thành ba loại]: Một là Tín Nhẫn, hai là Chỉ Nhẫn,
ba là Kiên Nhẫn. “Địa địa thượng,
trung, hạ” tức là trong [các địa thuộc] Thập
Địa, địa nào cũng có ba phẩm thượng,
trung, hạ, kết hợp thành ba mươi Nhẫn. “Nhất
thiết hạnh tạng” (hết thảy
hạnh tạng): Hết
thảy công đức nơi nhân hạnh của Bồ Tát
được bao hàm trong đó. “Nhất thiết Phật
tạng”: Hết thảy công đức nơi quả
giác của chư Phật được bao hàm trong đó.
Nhân bao gồm biển quả, quả thấu triệt nguồn
nhân, gọi là “chẳng thể nghĩ bàn”.
(Kinh) Hà dĩ cố? Nhất thiết
chư Phật thị trung sanh, thị trung diệt, thị
trung hóa. Vô sanh, vô diệt, vô hóa, vô tự, vô tha, đệ
nhất vô nhị, phi hóa, phi bất hóa, phi vô vô tướng,
vô khứ lai, như hư không cố.
(經)何以故?一切諸佛是中生,是中滅,是中化。無生無滅無化。無自無他。第一無二。非化非不化。非無無相。無來去。如虛空故。
(Kinh: V́ sao vậy? Hết thảy
chư Phật nương vào mười bốn môn Nhẫn
mà tu chứng, sanh diệt chẳng trái nghịch Thế
Đế, giáo hóa ứng theo căn cơ. Chẳng sanh, chẳng
diệt, chẳng hóa, chẳng tự, chẳng tha, bậc
nhất, chẳng hai, chẳng phải là hóa, chẳng phải
không hóa, chẳng phải là vô vô tướng, chẳng
đến đi, v́ như hư không).
“Hà dĩ cố?” (v́ sao vậy?) là từ
ngữ gạn hỏi. Hỏi rằng v́ sao mười bốn
môn Nhẫn chẳng thể suy lường? Do hết thảy
chư Phật nương vào mười bốn môn Nhẫn
để tu chứng thành Phật th́ gọi là “trung sanh”.
Chẳng trái nghịch Thế Đế, có sanh ắt diệt,
th́ là “trung diệt”. Đối ứng căn cơ mà
thí giáo, thuyết pháp lợi sanh, th́ gọi là “trung hóa”.
“Vô sanh, vô diệt, vô hóa”: Sợ chúng
sanh chấp tướng, chấp có sanh diệt, có giáo hóa, hướng dẫn, sẽ thiên lệch về bên Hữu, cho nên nói để cứu vớt rằng:
Do các pháp vốn tự vô sanh, nay cũng chẳng diệt,
giống như hoa đốm trên hư không. Sanh vốn
chưa từng sanh, diệt cũng có bao giờ diệt,
đều do con mắt bị bệnh mà hư vọng thấy
sanh diệt. Đă vô sanh diệt, th́ giáo hóa cũng là chẳng
có giáo hóa! Câu “vô tự, vô tha” nhằm bổ
túc ư nghĩa “vô hóa” (chẳng giáo hóa): Chẳng có chủ
thể có thể giáo hóa (năng hóa), chẳng có đối
tượng được giáo hóa (sở hóa). Năng lẫn
Sở cùng mất, tự và tha chẳng lập!
Năm câu kể từ “đệ nhất
vô nhị” trở đi là do sợ chúng sanh phá tướng,
nghe nói “chẳng có sanh diệt, chẳng có hướng dẫn,
giáo hóa, tự tha”, sẽ lệch về bên Không, lại nói
cứu vớt rằng: Chỉ là Đệ Nhất
Nghĩa Đế, dứt bặt đối đăi, chẳng
hai. Không và Hữu đều thuộc
về đối đăi, bèn cùng gạt bỏ cả hai bên
để cứu vớt. “Phi hóa”: Chẳng nhất
định có năng hóa và sở hóa. “Phi bất hóa”:
Chẳng phải là không có năng hóa và sở hóa. “Phi vô vô
tướng”: Chẳng phải là không có các tướng
“chẳng có sanh diệt, giáo hóa, hướng dẫn, tự, tha” v.v… Hết thảy chư Phật hóa độ
chúng sanh, chẳng từ đâu đến, chẳng đi về
đâu, Pháp Thân thường bất động, cho nên nói là
“vô lai, vô khứ” (chẳng đến, chẳng
đi). “Như hư không cố” (v́ như hư không):
Sánh ví các nghĩa trên đây, hư không lặng trong, bất
động, chẳng có sanh diệt, xen tạp chẳng
phân, chẳng có tự tha, Thể của nó chẳng có các
tướng, cho nên nói là “phi tướng”. Mặt trời
chiếu th́ sáng, mây đùn th́ tối tăm, cho nên nói là “phi
vô tướng” (chẳng phải là không có tướng).
Viên măn trọn khắp, cho nên chẳng đến, đi.
(Kinh) Nhất thiết chúng sanh vô sanh diệt,
vô phược giải, phi nhân, phi quả, phi bất nhân quả,
phiền năo ngă nhân, tri kiến, thọ giả, ngă sở giả.
(經)一切眾生無生滅,無縛解。非因非果,非不因果。煩惱我人,知見受者,我所者。
(Kinh: Hết thảy chúng sanh chẳng
sanh diệt, chẳng trói buộc hay tháo gỡ, chẳng phải
nhân, chẳng phải quả, [chẳng có] phiền năo ta người,
tri kiến, thọ giả, và cái của ta).
Từ đoạn này trở đi nói về Không. Kinh
văn gồm năm đoạn:
- Đoạn đầu tiên nói về Sanh
Không.
- Từ “nhất thiết khổ thọ”
(hết thảy cảm nhận về khổ) trở
đi nói về Pháp Không.
- Từ “cảnh giới” trở
đi, nói về Cảnh Không.
- Từ “vô Tam Bảo” (chẳng có Tam Bảo)
trở đi nói về thánh phàm Không.
- Từ “Bát Nhă vô tri” trở đi nói tới
Trí Không.
“Nhất thiết chúng sanh” (hết thảy
chúng sanh): Nhân duyên ḥa hợp, hư vọng có sanh. Nhân duyên
chia ĺa, hư vọng gọi là diệt. Sanh và diệt
đă đều là hư vọng, tức là “vô sanh diệt”.
Chúng sanh bị phiền năo trói buộc, cầu đạt
được Niết Bàn giải thoát, biết rơ tánh của phiền năo là Không, cho nên “vô phược” (chẳng trói buộc).
Niết Bàn như huyễn, cho nên “vô thoát” (chẳng cởi
gỡ).
“Phi nhân, phi quả”: Hoặc nghiệp của
chúng sanh là nhân; khổ báo là quả. Hoặc nghiệp chẳng
có tự tánh, cho nên là “phi nhân”. Thân này vốn chẳng
có, cho nên “phi quả”. Như người trong mộng,
há thật sự có ư? “Phi nhân, phi quả” ở
đây chẳng giống với tà kiến bài bác “không có nhân
quả”, mà chính là luận định theo
lư tánh. Nếu bác bỏ “chẳng có sự thật nhân quả”,
sẽ có thể phá hoại tâm lư của chúng sanh, khiến
cho họ rơi vào Đoạn Kiến. Do cái tội hăm hại
người khác, sẽ đọa vào địa ngục,
chớ nên chẳng khéo hiểu!
“Phi bất nhân quả” (chẳng phải
là không có nhân quả): Lại xét theo Phật tánh là nhân, Niết
Bàn là quả để nói. Hết thảy chúng sanh chẳng
phải là không có Phật tánh, cho nên chẳng phải là không
có nhân, chẳng phải là không có Phật tánh. Do vậy, “phi
vô nhân” (chẳng phải là không có nhân). Tánh tự Niết
Bàn, cho nên “phi vô quả” (chẳng phải là không có quả).
“Phiền năo”: Theo giáo nghĩa Thiên Thai,
có tất cả năm trụ: Kiến Hoặc là một trụ,
Tư Hoặc gồm ba trụ, Trần Sa và Vô Minh hợp
thành một trụ, đều là các pháp tối tăm, phiền
loạn, có thể năo loạn tâm tánh của chúng sanh, cho nên
gọi là phiền năo!
“Ngă nhân” (ta, người): Ngũ Ấm
tích tụ, giả gọi là Ngă. [Những ǵ] ở ngoài thân
th́ thuộc về Sắc Ấm, chính là Tứ Đại tức
“địa, thủy, hỏa, phong” giả hợp mà thành.
Da, thịt, gân, xương là Địa Đại. Các dịch
thể, tinh, huyết v.v… là Thủy Đại. Hơi ấm
trong thân là Hỏa Đại. Hơi thở ra vào, tay chân vận
chuyển là Phong Đại. Nếu Phong Đại chẳng
điều ḥa, sẽ thành phong bệnh. Nội tâm thuộc
về bốn Ấm Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc
và tâm gồm tám pháp ḥa hợp, lại giả gọi là
người! Hết thảy mọi người đều
cho rằng thân tâm là Thật Ngă, ngă chấp kiên cố. Do vậy,
từ nhân ngă dấy lên tham, sân, si, các tâm bất thiện, tạo
các thứ nghiệp, dẫn đến xă hội trược
ác, quốc gia nhiễu loạn, thế giới chẳng
được ḥa b́nh. V́ thế, Thích Ca Như Lai nói pháp vô
ngă, ngă không quán v.v… để mong làm đường lối
trọng yếu căn bản ḥng cứu người, cứu
nước, cứu đời! Phàm quốc gia muốn thủ
hộ đất nước, phải nên thủ hộ Phật
giáo, khiến cho Phật giáo được lưu thông phổ cập. Như thế th́ chẳng thủ hộ đất
nước mà đất nước tự được
thủ hộ, thế giới chẳng cầu ḥa b́nh mà tự
đạt được ḥa b́nh.
“Tri kiến, thọ giả” tức sáu
thọ dụng căn, [nghĩa là]: Chúng sanh trọn đủ sáu
căn. Trong sáu căn, có sáu tác dụng: Nơi mắt là thấy,
nơi tai là nghe, nơi mũi là ngửi, nơi lưỡi
là nếm, nơi thân là cảm nhận, nơi ư là biết.
Nay nói là “tri kiến”, tức là chỉ nêu lên [tác dụng]
đầu và cuối. “Thọ giả”: Do sáu căn có
sáu tác dụng, tức “thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm nhận, biết”, mà thường lănh thọ
sáu trần, trở thành các cảnh “trái, thuận, chẳng
trái chẳng thuận” v.v… V́ thế nói là Thọ (tiếp nhận).
“Ngă sở”: Do các phiền năo “ta người,
tri kiến, thọ giả” trên đây đều thuộc về Ngă. Ngă Sở
(cái thuộc về ta) chính là những ǵ ở ngoài thân tâm.
Tất cả các pháp đều được coi là Ngă Sở.
Chẳng hạn như tất cả tài vật, nhà cửa,
ruộng vườn, quyến thuộc v.v… mà ta sở hữu,
đối với mỗi thứ, chúng sanh đều chấp
trước là thật. Do vậy, chẳng thấy thấu
suốt, chẳng thể buông xuống được, dấy
lên các tâm tham, sân, si v.v… Đó cũng là cội nguồn dẫn
đến loạn lạc!
Đoạn kinh văn này nói về Sanh Không.
Xét kỹ cách hành văn, cuối cùng đáng lẽ phải
có câu “nhất thiết Không cố” (do hết thảy
đều là Không). Bản Đường dịch th́ có câu
ấy, sợ rằng [trong bản Tần dịch này] khi
sao chép đă bị
bỏ sót. Khi giải
thích kinh, phải nên bổ túc ư nghĩa kinh văn, ngơ hầu
chẳng đến nỗi ư nghĩa của kinh văn chẳng
có chỗ quy kết vậy!
(Kinh) Nhất thiết khổ, thọ,
hành Không cố, nhất thiết pháp tập, huyễn hóa
Ngũ Ấm, vô hợp, vô tán, pháp đồng pháp tánh, tịch
nhiên không cố.
(經)一切苦受行空故。一切法集,幻化五陰,無合無散。法同法性,寂然空故。
(Kinh: Do hết thảy khổ, thọ,
hành là Không, hết thảy các pháp nhóm họp, huyễn hóa
Ngũ Ấm, chẳng hợp, chẳng tan, do pháp giống
như pháp tánh, vắng lặng, là Không vậy).
Đây là nói về Pháp Không. Trong câu đầu,
“khổ, thọ, hành Không”, Khổ gồm có ba khổ,
Thọ cũng như thế:
- Khổ Thọ là Khổ Khổ. Tấm
thân này vốn đă là khổ, lại thêm bị cảnh khổ
bức bách, đó là Khổ Khổ.
- Lạc Thọ là Hoại Khổ. Lạc chẳng
lâu dài, trong khoảnh khắc đă biến đổi, diệt
mất, đó là Hoại Khổ.
- Xả Thọ là Hành Khổ. Dẫu khổ
và lạc đều bỏ, nhưng Hành Ấm chuyển dời
trong mỗi niệm, đó là Hành Khổ. Quán thể tánh của
Khổ chính là Không, cho nên nói “hết thảy khổ, thọ,
hành đều là Không”.
“Nhất thiết pháp tập, huyễn hóa
Ngũ Ấm” (Hết thảy pháp tập,
huyễn hóa Ngũ Ấm): Nhân duyên ḥa hợp gọi là Pháp
Tập. Do chẳng có thật thể, bèn gọi là “huyễn
hóa”. Pháp Ngũ Ấm là như thế đó. Duyên tận
bèn diệt, cho nên “vô hợp” (chẳng hợp). Duyên hội
họp bèn sanh, do đó nói là “vô tán” (chẳng tan ĺa). Pháp Ngũ Ấm vốn
đồng pháp tánh, Tục chính là Chân. Kinh Lăng Nghiêm dạy:
“Nhân duyên ḥa hợp, hư vọng hữu sanh; nhân duyên biệt
ly, hư vọng danh diệt. Huyễn vọng xưng
tướng, kỳ tánh chân vi diệu giác minh thể” (Do
nhân duyên ḥa hợp bèn hư vọng có sanh. Do nhân duyên chia ĺa,
hư vọng gọi là diệt. Huyễn vọng gọi là
tướng, nhưng tánh của nó là cái thể diệu giác
sáng suốt). Lại nói: “Ngũ Ấm bổn Như Lai tạng,
diệu Chân Như tánh” (Ngũ Ấm vốn là Như Lai
tạng, tánh Chân Như mầu nhiệm). V́ thế nói là “pháp đồng pháp tánh”. Lặng
lẽ bất động, ĺa hết thảy các tướng; do vậy gọi là “tịch nhiên
Không cố” (do vắng lặng, là Không).
(Kinh) Pháp cảnh giới không, không vô
tướng, bất chuyển, bất điên đảo, bất
thuận huyễn hóa.
(經)法境界空,空無相。不轉,不顛倒,不順幻化。
(Kinh: Cảnh giới do nương
theo pháp là Không, Không vô tướng, chẳng chuyển, chẳng
điên đảo, chẳng thuận theo huyễn hóa).
Đây là nói về Cảnh Không. Phần
trước đă nói về Pháp Không, vậy th́ cảnh giới
do nương vào pháp mà hiện cũng là Không. Cái Không này chẳng giống
với “ngoan không” (cái không trơ trơ) như phàm phu
chấp trước, hay Đoạn Không của ngoại
đạo chấp trước, mà là lư “tự tánh Chân
Không, Thật Tướng vô tướng”; cho nên nói là “Không
vô tướng”. “Bất chuyển”: Do bản thể của
cái Không bất động, chuyển chính là động, chẳng
dấy lên kiến chấp điên đảo, phân biệt,
mà cũng chẳng tùy thuận cảnh giới huyễn hóa
mà sanh chấp trước.
(Kinh) Vô Tam Bảo, vô thánh nhân, vô lục
đạo, như hư không cố.
(經)無三寶,無聖人,無六道,如虛空故。
(Kinh: Không có Tam Bảo, không có
thánh nhân, không có lục đạo, do như hư không).
Đây là nói t́nh kiến [phân biệt] thánh
phàm đă tận. Phật, Pháp, Tăng ba đằng đều
quư trọng cho nên gọi là Bảo. “Vô thánh nhân” (chẳng
có thánh nhân): Phàm t́nh nên đoạn, mà thánh kiến (kiến
chấp thấy có thánh nhân) cũng nên mất. V́ thế “vô
thánh”. “Vô lục đạo” (chẳng có lục đạo):
Khế Kinh dạy: “Nhất thiết chúng sanh bổn lai
thị Phật” (hết thảy chúng sanh vốn sẵn
là Phật), cho nên “vô phàm”. Thánh phàm mười pháp giới
không ǵ chẳng phải là giả danh, cho nên “như hư
không”.
(Kinh) Bát Nhă vô tri, vô kiến, bất hành,
bất duyên, bất nhân, bất thọ, bất đắc nhất thiết chiếu tướng cố. Hành đạo tướng,
tư hành đạo tướng, như hư không cố.
(經)般若無知無見,不行不緣,不因不受,不得一切照相故。行道相,斯行道相,如虛空故。
(Kinh: Bát Nhă chẳng biết, chẳng
thấy, chẳng hành, chẳng duyên theo, chẳng có nhân, chẳng
tiếp nhận, do hết thảy cái có thể chiếu và
tướng được chiếu đều chẳng thể
được, do đối với tướng hành đạo th́ tướng
hành đạo ấy như hư không).
Đây là nói về Trí Không. Phần trước
nói các Không đều nương vào cái trí “năng Không”
(trí có thể quán chiếu các pháp là Không), cho nên là Không. Nếu
cái trí ấy chẳng Không, sẽ trở thành trí chướng.
Nay diệu trí Bát Nhă thật sự biết mà chẳng biết,
thật sự thấy mà chẳng thấy, cho nên ngay cả
cái trí “năng Không” cũng là Không. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Tri kiến
lập tri, tức vô minh bổn. Tri kiến vô kiến,
tư tức Niết Bàn, vô lậu chân tịnh” (từ
trên tri kiến mà đặt ra một cái biết, th́ đó là cái gốc của vô minh.
Tuy hay biết mà chẳng thấy là hay biết, đó chính là Niết Bàn, thật sự
thanh tịnh vô lậu). Câu thứ ba [trong đoạn kinh Lăng Nghiêm
trên đây], tức câu “tri kiến
vô kiến” [hàm
ư] chính là “chẳng có
tri kiến”.
[Chỉ nói là “vô kiến” nhưng] chữ Tri đă được gộp vào trong đó, hoàn toàn tương đồng
với “vô tri, vô kiến” ở đây!
“Bất hành, bất duyên, bất nhân, bất
thọ”: “Bất hành” tức là quán trí chẳng hành
(chẳng quan sát, chẳng tạo tác). “Bất duyên” tức
là duyên cảnh (cảnh để cái trí ấy duyên theo, tức
là đối tượng được quan sát, tư duy bởi
cái trí) chẳng lập. Đấy chính là “duyên và quán đều
vắng lặng”. Chẳng có cái nhân để có thể
nương vào, cho nên nói là “bất nhân”. Chẳng có
pháp nào để thọ (tiếp nhận), cho nên nói là “bất
thọ” (chẳng nhận). “Bất đắc nhất
thiết chiếu tướng cố” (hết thảy sự
quán chiếu và tướng [được quán chiếu]
đều chẳng thể được): Giải thích ư “vô
tri kiến” trước đó. Hoàn toàn chẳng phải
là không có tâm, [tuy
cái tâm vẫn thấy biết rành rẽ] nhưng [chẳng chấp vào sự thấy
biết ấy nên là] “chẳng biết, chẳng thấy”, do diệu lư Thật Tướng duy nhất ĺa
Năng lẫn Sở, dứt bặt đối đăi, cho
nên “năng chiếu trí
tướng” (trí tướng có thể
chiếu) và “sở chiếu cảnh tướng” (cảnh tướng bị chiếu bởi cái trí ấy) đều chẳng thể
được, bèn nói là “bất đắc nhất thiết
chiếu tướng cố” (hết thảy các trí chiếu và tướng được
chiếu đều chẳng thể được).
“Hành đạo tướng” tức là
tướng tu chứng hành đạo của mười bốn
môn Nhẫn. [Nói]
“tư hành đạo tướng” (tướng hành đạo ấy)
nhằm nhắc lại câu trên, hàm ư cái tướng hành
đạo ấy chính là xứng tánh mà tu, tu chính là chẳng
tu, chứng đắc xứng tánh, chứng cũng là chẳng chứng, ví như hư không.
(Kinh) Pháp tướng như thị, hà
khả hữu tâm đắc, vô tâm đắc.
(經)法相如是,何可有心得,無心得。
(Kinh: Pháp tướng như thế,
há có tâm để đắc, hay chẳng có tâm để đắc
ư?)
Câu “pháp tướng như thị” nhằm
tổng kết từ Sanh Không cho đến Trí Không trong phần
trên đều ĺa hết thảy các tướng. Do ĺa hữu
tướng, cho nên chẳng thể dùng hữu tâm để đạt
được. Do đă ĺa vô tướng, cho nên chẳng thể
dùng vô tâm để đạt được.
(Kinh) Thị dĩ Bát Nhă công đức,
bất khả chúng sanh trung hạnh nhi hành, bất khả Ngũ Ấm pháp trung hạnh nhi hành, bất khả cảnh trung hạnh nhi hành, bất khả giải trung hạnh nhi hành.
(經)是以般若功德,不可眾生中行而行,不可五陰法中行而行,不可境中行而行,不可解中行而行。
(Kinh: Do vậy,
công đức Bát Nhă chẳng thể hành theo hạnh của
chúng sanh, chẳng thể hành theo hạnh thuộc Ngũ Ấm,
chẳng thể hành theo hạnh thuộc cảnh, chẳng
thể hành theo hạnh thuộc giải).
Hai chữ “thị dĩ” (do vậy) nhằm
thừa tiếp ư của câu trên, ḥng giải thích Bát Nhă Không
hạnh và công đức của Chân Không Bát Nhă. Do Sanh Không,
chẳng thể nương vào hạnh của chúng sanh
để hành. Do Pháp Không, chẳng thể nương vào hạnh
trong Ngũ Ấm để hành. Do Cảnh Không, chẳng thể
nương vào hạnh thuộc cảnh để hành. Do
Trí Không, chẳng nương vào hạnh thuộc giải
để hành.
(Kinh) Thị cố, Bát
Nhă bất khả tư nghị, nhi nhất thiết chư
Bồ Tát ư trung hành cố, diệc bất khả tư
nghị. Nhất thiết chư Như Lai, ư huyễn
hóa vô trụ pháp trung hóa, diệc bất khả tư nghị.
(經)是故般若不可思議。而一切諸菩薩於中行故,亦不可思議。一切諸如來,於幻化無住法中化,亦不可思議。
(Kinh: V́ thế, Bát Nhă chẳng thể
nghĩ bàn, nhưng hết thảy các Bồ Tát do hành trong ấy
th́ cũng chẳng thể nghĩ bàn. Hết thảy các
Như Lai hóa độ trong pháp huyễn hóa vô trụ th́
cũng chẳng thể nghĩ bàn).
Câu đầu tiên tán thán công đức của
mười bốn môn Nhẫn. Ĺa nói năng, bặt suy
tưởng, th́ gọi là “bất khả tư nghị” (chẳng thể nghĩ bàn). Tam Hiền, Thập Thánh, chẳng nương theo “sanh,
pháp, cảnh, giải” để hành, nhưng hành theo hạnh
trong các môn Nhẫn này, cũng là chẳng thể nghĩ bàn.
Hết thảy các đức Như Lai nương theo “vô
hóa” trong các môn Nhẫn này để giáo hóa, tuy giáo hóa mà
chẳng giáo hóa. Ba chữ “pháp trung hóa” nối liền
với hai từ ngữ “huyễn hóa” và “vô trụ”.
Chẳng giáo hóa mà giáo hóa, tức là giáo hóa trong pháp huyễn
hóa. Giáo hóa mà chẳng giáo hóa tức là giáo hóa trong pháp vô trụ.
Cái thứ nhất chính là chẳng có chúng sanh để có thể
độ, mà suốt ngày độ sanh. Điều kế
tiếp là tuy độ chúng sanh, nhưng chẳng chấp vào tướng
độ. V́ thế, sự giáo hóa ấy cũng là chẳng
thể nghĩ bàn.
(Kinh) Thiện nam tử! Thử công
đức tạng, giả sử vô lượng hằng hà
sa đệ thập tam quán đảnh khai sĩ, thuyết
thị công đức bách thiên ức phần trung, như
vương sở thuyết như hải nhất trích.
(經)善男子!此功德藏,假使無量恆河沙第十三灌頂開士,說是功德百千億分中,如王所說如海一滴。
(Kinh: Này thiện nam tử! Công đức
tạng này, giả sử vô lượng hằng hà sa bậc
Khai Sĩ thuộc địa vị thứ
mười ba nói một phần của trăm ngàn phần
công đức này th́ cũng giống như vua [Ba Tư Nặc]
nói ra một giọt nước biển vậy).
“Công đức tạng này” chính là
mười bốn môn Nhẫn Bát Nhă, bao hàm hết thảy các công đức, chẳng thể nói
cùng tận. V́ thế, nói so sánh rằng: “Giả sử bậc
Pháp Vân Địa Bồ Tát thuộc địa vị thứ
mười [trong Thập Địa] nhiều như số
cát trong vô lượng sông Hằng nói một phần của
trăm ngàn ức phần công đức của môn Bát Nhă
này, giống như vua Nguyệt Quang đă nói trong hiện
thời, [những ǵ được nói ấy chỉ] giống
như một giọt nước biển cả, chẳng
thể nào sánh bằng những điều do bậc Khai Sĩ thuộc địa
vị thứ mười ba là Quán Đảnh Bồ Tát
đă nói, [những điều do bậc Quán Đảnh Bồ
Tát nói] giống như biển cả. Pháp Vân Địa Bồ
Tát khi chứng nhập môn Nhẫn thứ mười ba,
được trí thủy của Như Lai rưới lên
đỉnh đầu, thọ đại trí chức, cho
nên được gọi là Quán Đảnh.
(Kinh) Ngă kim lược thuật phần
nghĩa công đức, hữu đại lợi ích nhất
thiết chúng sanh, diệc vi quá khứ lai kim, vô lượng
chư Như Lai chi sở thuật khả, Tam Hiền, Thập
Thánh tán thán vô lượng, thị Nguyệt Quang
vương phần nghĩa công đức.
(經)我今略述分義功德,有大利益一切眾生。亦為過去來今,無量諸如來之所述可。三賢十聖,讚歎無量。是月光王分義功德。
(Kinh: Ta nay lược thuật một
phần nghĩa công đức, có lợi ích to lớn cho hết
thảy chúng sanh. [Công đức ấy] cũng được
quá khứ, vị lai, hiện tại vô lượng các đức Như Lai trần thuật,
hứa khả. Tam Hiền, Thập Thánh tán thán vô lượng.
Đó là một phần nghĩa công đức của vua
Nguyệt Quang).
Đây là trần thuật lợi ích. “Ngă”
là Phật Thích Ca tự xưng. Ngài lược thuật ư
nghĩa chút phần công đức của Bát Nhă do vua Nguyệt
Quang đă nói. [Công đức ấy tạo] lợi ích to lớn
cho hết thảy chúng sanh. Không chỉ ta là Phật Thích Ca
nói như thế, mà [công đức ấy] cũng
được ba đời chư Phật tán thán, trần
thuật, ấn khả. Tam Hiền, Thập Thánh cũng lại
tán thán Bát Nhă có vô lượng công đức. Vua Nguyệt
Quang có thể nói ư nghĩa “chút phần công đức của
Bát Nhă” tuy như một giọt nước biển,
nhưng đă trọn đủ vị của trăm sông.
(Kinh) Thiện nam tử! Thị thập
tứ pháp môn, tam thế nhất thiết chúng sanh, nhất
thiết tam thừa, nhất thiết chư Phật chi sở
tu tập, vị lai chư Phật diệc phục như
thị. Nhược nhất thiết chư Phật, Bồ
Tát, bất do thử môn đắc Tát Bà Nhă giả, vô hữu
thị xứ. Hà dĩ cố? Nhất thiết chư Phật
cập Bồ Tát, vô dị lộ cố.
(經)善男子!是十四法門,三世一切眾生、一切三乘、一切諸佛之所修習,未來諸佛亦復如是。若一切諸佛菩薩,不由此門得薩婆若者,無有是處。何以故?一切諸佛及菩薩,無異路故。
(Kinh: Này thiện nam tử! Mười
bốn pháp môn này được ba đời hết thảy
chúng sanh, hết thảy tam thừa, hết thảy chư
Phật tu tập. Vị lai chư Phật cũng giống
như thế. Nếu hết thảy chư Phật, Bồ
Tát chẳng do môn này mà đắc Tát Bà Nhă, th́ chẳng có lẽ
ấy. V́ cớ sao? Hết thảy chư Phật và Bồ
Tát chẳng có con đường nào khác!)
Từ đây trở đi là sự kết
khuyến tu học, kinh văn gồm ba đoạn:
Trước hết, tán thán pháp môn thù thắng,
trọng yếu, tức [là tán thán] pháp
môn mười bốn món Nhẫn. Hết thảy chúng sanh
phát tâm tu hành trong ba đời, “chúng sanh” ở đây
là nói tới đại tâm phàm phu, hết thảy tam thừa
thánh nhân, hết thảy quá khứ và hiện tại chư
Phật, đều phải nên cùng tu tập pháp này. Vị
lai chư Phật cũng chẳng thể bỏ pháp môn này.
V́ thế nói “diệc phục như thị” (cũng
giống như thế).
“Nhược nhất thiết chư Phật,
Bồ Tát” (nếu hết thảy chư Phật, Bồ
Tát): Hai chữ “nhất thiết” bao quát mười phương ba đời.
Nếu chẳng do mười bốn pháp môn Nhẫn này mà
[chư Phật, Bồ Tát] có thể đắc Nhất Thiết
Chủng Trí th́ chẳng có lẽ ấy. Điều này nói
rơ [các pháp Nhẫn này] được hiền thánh cùng tu. Ba
câu kể từ “hà dĩ cố” (v́ cớ sao) trở
đi, gạn hỏi nhằm giải thích ư nghĩa “cùng
tu”. Hết thảy chư Phật, Bồ Tát mà bỏ
pháp môn này, sẽ chẳng có con đường nào khác! “Dị”
tức là hai; như kinh Lăng Nghiêm đă dạy:
“Thập phương Bà Già Phạm, nhất lộ Niết
Bàn môn” (mười phương chư Thế Tôn, một
đường thông Niết Bàn).
(Kinh) Thị cố, nhất
thiết chư thiện nam tử! Nhược hữu nhân
văn chư Nhẫn pháp môn, Tín Nhẫn, Chỉ Nhẫn, Kiên
Nhẫn, Thiện Giác Nhẫn, Ly Đạt Nhẫn, Minh Huệ
Nhẫn, Diễm Huệ Nhẫn, Thắng Huệ Nhẫn, Pháp
Hiện Nhẫn, Viễn Đạt Nhẫn, Đẳng Quán
Nhẫn, Huệ Quang Nhẫn, Quán Đảnh Nhẫn, Viên Giác
Nhẫn giả, thị nhân siêu quá bách
kiếp thiên kiếp vô lượng Hằng hà sa sanh sanh khổ
nạn, nhập thử pháp môn, hiện thân đắc báo.
(經)是故,一切諸善男子!若有人聞諸忍法門:信忍、止忍、堅忍、善覺忍、離達忍、明慧忍、燄慧忍、勝慧忍、法現忍、遠達忍、等觀忍、慧光忍、灌頂忍、圓覺忍者,是人超過百劫千劫無量恆河沙生生苦難,入此法門,現身得報。
(Kinh: V́ thế, hết thảy các thiện
nam tử! Nếu có người nghe pháp môn các nhẫn: Tín
Nhẫn, Chỉ Nhẫn, Kiên Nhẫn, Thiện Giác Nhẫn,
Ly Đạt Nhẫn, Minh Huệ Nhẫn, Diễm Huệ
Nhẫn, Thắng Huệ Nhẫn, Pháp Hiện Nhẫn, Viễn
Đạt Nhẫn, Đẳng Quán Nhẫn, Huệ Quang Nhẫn,
Quán Đảnh Nhẫn, Viên Giác Nhẫn, người ấy
vượt khỏi khổ nạn trong trăm kiếp, ngàn
kiếp, vô lượng Hằng hà sa các đời, nhập
pháp môn này, hiện thân được báo).
Đây là tán thán lợi ích, khuyên tu tập.
Hai chữ “thị cố” (v́ thế) nhằm thừa
tiếp đoạn trước, dẫn khởi đoạn
sau, tức là v́ [mười bốn môn Nhẫn] chính là con
đường cùng phải theo của các bậc thánh, ta
nay lại bảo cho các thiện nam tử biết: Nếu
có người nghe pháp môn mười bốn môn Nhẫn này, sẽ có thể siêu việt
khổ nạn trong trăm ngàn kiếp vô lượng đời,
đó là lợi ích “ĺa khổ”. Nếu có thể tu tập, tiến nhập các pháp môn Nhẫn này, chẳng đợi
“cách đời” (sanh sang đời
khác), mà ngay trong thân hiện tại, sẽ đạt
được quả báo. Đó là lợi ích “được
vui”.
Trong kinh văn, Tín Nhẫn chính là địa
vị Thập Trụ thuộc Tập Chủng Tánh. Chỉ
Nhẫn tức là địa vị Thập Hạnh thuộc
Tánh Chủng Tánh. Kiên Nhẫn là địa vị Thập Hồi
Hướng thuộc Đạo Chủng Tánh. Từ Thiện
Giác Nhẫn cho tới Quán Đảnh Nhẫn chính là các địa vị trong Thập Địa thuộc Thánh Chủng Tánh. Viên Giác
Nhẫn chính là nhân viên quả măn, dự vào địa vị
Đại Giác, tức Phật địa.
(Kinh) Thời chư chúng sanh hữu thập
ức đồng danh Hư Không Tạng Hải Bồ Tát,
hoan hỷ pháp lạc, các các tán hoa; ư hư không trung, biến
thành vô lượng hoa đài, thượng hữu vô lượng
đại chúng, thuyết thập tứ chánh hạnh. Thập
bát Phạm, Lục Dục thiên vương, diệc tán bảo
hoa; các tọa hư không đài thượng, thuyết thập
tứ chánh hạnh, thọ tŕ, độc tụng, giải
kỳ nghĩa lư. Vô lượng chư quỷ thần hiện
thân, tu hành Bát Nhă Ba La Mật.
(經)時,諸眾生,有十億同名虛空藏海菩薩,歡喜法樂,各各散華;於虛空中變成無量華臺,上有無量大眾,說十四正行。十八梵,六欲天王,亦散寶華;各坐虛空臺上,說十四正行。受持讀誦解其義理。無量諸鬼神現身,修行般若波羅密。
(Kinh: Khi đó, trong các chúng sanh có
mười ức vị cùng tên là Hư Không Tạng Hải
Bồ Tát do hoan hỷ bởi pháp lạc, ai nấy đều
rải hoa. Ở trong hư không, [các hoa ấy] biến thành
vô lượng đài hoa, trên đó có vô lượng đại
chúng nói mười bốn chánh hạnh. Mười tám Phạm
vương, Lục Dục thiên vương cũng rải
hoa báu, ai nấy ngồi trên đài trong hư không, nói mười
bốn chánh hạnh, thọ tŕ, đọc tụng, giảng
giải nghĩa lư của các chánh hạnh ấy. Vô lượng
các quỷ thần hiện thân, tu hành Bát Nhă Ba La Mật).
Đoạn kinh văn này trần thuật
nghe pháp đạt được lợi ích. Hư Không Tạng:
Coi ĺa tướng là hư không. “Không” có nghĩa là “bao
hàm”, có thể chứa đựng vạn hữu. V́ thế,
gọi là Tạng. Bồ Tát dùng từ ngữ này làm danh hiệu,
v́ đă tu “ĺa tướng”, trọn đủ vạn hạnh. Danh đồng, hạnh
cũng đồng. “Mười ức” là nêu số lượng.
Nghe pháp hoan hỷ, tâm đạt được pháp lạc,
cho nên ai nấy đều rải hoa cúng dường. Hoa ấy
ở trên hư không biến thành vô lượng đài hoa.
Trên mỗi đài, có vô lượng đại chúng do tin hiểu
mà nói chánh hạnh mười bốn Nhẫn. Hạnh được gọi là Chánh v́ là con
đường tu hành chân chánh vậy.
“Mười tám Phạm thiên” xem giải thích trong phần trước.
Lục Dục thiên vương cũng giống như thế.
Họ đều có thể thọ tŕ, đọc tụng,
giải ngộ nghĩa lư trong ấy. Điều được
kinh văn diễn tả th́ gọi là Nghĩa, cái để
nghĩa nương vào th́ gọi là Lư. “Vô lượng
chư quỷ thần đẳng, hiện thân tu hành Bát Nhă”
(Vô lượng các hàng quỷ thần hiện thân tu hành Bát
Nhă): Bát Nhă chính là mười bốn món Nhẫn, giống
như “thừa cấp giới hoăn” trong quá khứ. Do
giới hoăn mà đọa trong đường quỷ. “Thần” chính là quỷ có phước đức. Do thừa cấp
cho nên nghe pháp liền có thể tu hành. Phần kinh văn trên
đây nhằm giải đáp câu hỏi thứ nhất của
Nguyệt Quang: “Bồ Tát thủ hộ hạnh Thập
Địa, hăy nên hành các hạnh nào?” Câu hỏi thứ
hai là “giáo hóa chúng sanh như thế nào?” Hai câu hỏi ấy
đă được giải đáp xong.
(Kinh) Phật cáo đại vương:
- Nhữ tiên ngôn vân hà chúng sanh tướng khả hóa?
(經)佛告大王:汝先言云何眾生相可化?
(Kinh: Đức Phật bảo đại
vương: - Trước đó, ông đă nói tướng
chúng sanh như thế nào th́ có thể hóa độ?)
Đây là giải đáp câu hỏi thứ ba.
Do đến đây đă cách kinh văn [thưa hỏi] quá
xa, cho nên [đức Phật] nhắc lại lời hỏi
để giải đáp.
(Kinh) Nhược dĩ huyễn hóa thân,
kiến huyễn hóa giả, thị Bồ Tát chân hành hóa
chúng sanh.
(經)若以幻化身,見幻化者,是菩薩真行化眾生。
(Kinh: Nếu dùng cái thân huyễn hóa để
thấy người huyễn hóa th́ là Bồ Tát thật
sự hóa độ chúng sanh).
Đây là chánh thức giải đáp câu hỏi
thứ ba. “Huyễn hóa thân”: Biết hết thảy
thân tướng vốn tự chẳng sanh, vô sanh mà sanh, phương
tiện hiện thân, cho nên gọi là “huyễn hóa thân”. “Kiến
huyễn hóa giả” (thấy kẻ huyễn hóa): Chữ
Giả chỉ chúng sanh. Tuy chúng sanh theo nghiệp mà thọ
thân, nương vào huyễn nghiệp mà cảm huyễn
báo, thân ấy cũng là huyễn. Do vậy gọi là “huyễn
hóa giả” (kẻ huyễn hóa). Bồ Tát dùng huyễn thân để
hóa độ huyễn chúng, người có thể hóa độ
và kẻ được hóa độ đều từ
duyên sanh. V́ thế gọi là “huyễn hóa”. Như kinh Tịnh
Danh nói: “Thí như huyễn sĩ, vị huyễn nhân thuyết
pháp” (ví như người huyễn hóa v́ kẻ huyễn thuyết pháp). Đó là thật sự
hóa độ chúng sanh, c̣n ở đây là dùng tướng huyễn
hóa của chúng sanh để giải đáp [câu hỏi
“tướng chúng sanh như thế nào”] th́ có thể hóa
độ.
(Kinh) Chúng sanh thức, sơ nhất niệm
thức dị mộc thạch. Sanh đắc thiện,
sanh đắc ác. Ác vi vô lượng ác thức bổn, thiện
vi vô lượng thiện thức bổn. Sơ nhất niệm,
kim cang chung nhất niệm, ư trung sanh bất khả thuyết
bất khả thuyết thức, thành chúng sanh sắc tâm,
chúng sanh căn bản.
(經)眾生識,初一念識異木石。生得善,生得惡,惡為無量惡識本,善為無量善識本。初一念,金剛終一念,於中生不可說不可說識,成眾生色心,眾生根本。
(Kinh: Chúng sanh thức: Một niệm
thức đầu tiên khác với gỗ, đá, sanh ra thiện,
hay sanh ra ác. Ác là cái gốc của vô lượng ác thức,
thiện là cái gốc của vô lượng thiện thức.
Trong khoảng giữa một niệm ban đầu và một
niệm Kim Cang (kim cang hậu tâm) rốt cục, sanh ra bất
khả thuyết bất khả thuyết thức, tạo
thành sắc và tâm của chúng sanh, là căn bản của chúng sanh).
Đây là xét theo huyễn
hữu của Tục Đế để nói về tướng
chúng sanh. “Chúng sanh thức”: Chúng sanh chỉ
nương vào huyễn thức mà có, tích tụ Ngũ Ấm
thành thân. “Sơ nhất niệm thức dị mộc thạch”
(một niệm thức đầu tiên khác với gỗ,
đá), tức là Chân Như tối sơ chẳng giữ lấy
tự tánh, bỗng dấy động một niệm, sanh
ra tướng vô minh, chẳng sanh, chẳng diệt, ḥa hợp
với sanh diệt, tạo thành A Lại Da Thức. Đó
là “sơ nhất niệm thức”. Thức ấy có
hai nghĩa là giác và bất giác. Do vậy, khác với gỗ,
đá vô tri. “Sanh đắc thiện, sanh đắc ác”:
Thức thứ tám là A Lại Da có thể thâu nhiếp hết
thảy các pháp, có thể sanh ra hết thảy các pháp, có chủng
tử “thiện, ác, nhiễm, tịnh”. “Sanh đắc
thiện” tức là từ Chân Như tự tánh làm chánh
nhân, sanh ra chủng tử thiện. “Sanh đắc ác”
tức là từ cái nhân sanh bởi vô minh huân tập, sanh ra
chủng tử ác.
“Ác, vi vô lượng ác thức bổn; thiện vi vô lượng
thiện thức bổn” (Ác là cái gốc của vô lượng ác thức; thiện là cái gốc
của vô lượng thiện thức): Nương vào chủng
tử ác làm nhân, lại gặp cảnh giới ác làm
duyên, có thể sanh ra ác thức phân biệt. V́ thế nói là
Bổn. Chủng tử thiện cũng giống như thế.
“Sơ nhất niệm, kim cang chung nhất niệm”: “Sơ”
chính là một niệm vô minh tối sơ, bất giác vọng
động, dấy lên thành nghiệp thức. Một niệm
ấy chính là vô minh nghiệp thức. Nay muốn bỏ mê về
giác, quay về nguồn cội, đạt tới kết cục
là kim cang hậu tâm, đoạn trừ sanh tướng vô minh, phá ḥa hợp
thức tướng, tận hết một niệm này th́ mới
thành Đại Giác.
“Ư trung sanh bất khả thuyết bất
khả thuyết thức” (trong khoảng giữa sanh ra bất
khả thuyết bất khả thuyết thức), tức
là trong vô minh nghiệp thức, do nhân duyên ḥa hợp, bèn
hư vọng có sanh. Do nghiệp thức, lại sanh ra bảy
chuyển thức (nhăn thức, nhĩ thức… cho đến
mạt-na thức), thức tướng vô lượng phân biệt.
V́ thế nói là “bất khả thuyết bất khả
thuyết thức”. “Thành chúng sanh sắc tâm, chúng sanh căn
bản” (thành sắc và tâm của chúng sanh, là
căn bản của chúng sanh): Thành tựu thân Ngũ Ấm
của chúng sanh. Ấm đầu tiên trong Ngũ Ấm là Sắc,
bốn Ấm sau đó là Tâm. Sắc và Tâm ḥa
hợp, bèn thành huyễn thân. Tâm pháp nương vào Kiến
Phần của thức thứ tám mà có. Sắc pháp
nương vào Tướng Phần của thức thứ
tám mà có. Do đó, một niệm thức là căn bản của
chúng sanh huyễn hóa.
(Kinh) Sắc, danh Sắc Cái. Tâm danh Thức
Cái, Tưởng Cái, Thọ Cái, Hành Cái.
(經)色,名色蓋。心,名識蓋、想蓋、受蓋、行蓋。
(Kinh: Sắc được gọi Sắc
Cái. Tâm được gọi là Thức Cái, Tưởng
Cái, Thọ Cái, Hành Cái.
Đây là nêu ra tên gọi của
Ngũ Ấm. Cái (蓋) chính là Ấm (蔭), v́ Ấm có nghĩa là
“cái phú” (蓋覆, che lấp).
Chúng sanh vốn sẵn có Chân Như Phật tánh, nhưng bị
năm pháp này che trùm đến nỗi [Chân Như Phật
tánh] chẳng thể hiện tiền.
(Kinh) Cái giả, ấm phú vi dụng.
Thân danh tích tụ. Đại vương! Thử nhất Sắc
pháp sanh vô lượng Sắc; nhăn sở đắc vi Sắc,
nhĩ sở đắc vi Thanh,
tỵ sở đắc vi Hương,
thiệt sở đắc vi Vị,
thân sở đắc vi Xúc. Kiên tŕ danh Địa, thủy
danh nhuận, hỏa danh nhiệt, khinh động danh phong,
sanh ngũ thức xứ, danh Căn.
Như thị nhất sắc, nhất tâm, hữu bất khả
tư nghị sắc tâm.
(經)蓋者,陰覆為用。身名積聚。大王!此一色法,生無量色;眼所得為色,耳所得為聲,鼻所得為香,舌所得為味,身所得為觸。堅持名地,水名潤,火名熱,輕動名風。生五識處名根。如是一色一心,有不可思議色心。
(Kinh: “Cái” là có tác dụng che phủ. Thân là “tích tụ”.
Này đại vương! Một Sắc pháp này sanh ra vô
lượng Sắc, cái được mắt đạt được
là Sắc, cái được tai đạt được
là tiếng, cái được mũi đạt được
là hương, cái được lưỡi đạt
được là vị, cái được thân đạt
được là xúc. Cứng chắc là đất, nước
là thấm ướt, lửa là nóng, nhẹ nhàng lay động
là gió, chỗ sanh ra năm thức gọi là Căn. Một
sắc, một tâm như thế có chẳng thể nghĩ
bàn sắc và tâm).
Từ đây trở đi, giảng rộng
ư nghĩa “thành chúng sanh sắc tâm” (tạo thành sắc
và tâm của chúng sanh). “Cái” là tác dụng che trùm,
tác dụng hư vọng hiện tiền, chân thể ẩn
lấp. Thân là tích tụ, do Ngũ Ấm tích tụ th́ mới thành huyễn
thân. Từ “đại vương” trở đi, “thử
nhất Sắc pháp” (Sắc pháp này) chỉ Sắc thuộc Tướng Phần của thức thứ tám. “Sanh vô
lượng Sắc”: Sáu
căn đối ứng sáu trần, không ǵ chẳng phải
là Sắc pháp. Nay chẳng nói tới pháp trần là do tỉnh
lược; bởi lẽ, Tứ Đại hợp thành ngũ
căn cũng thuộc về Sắc pháp, chỉ có ư căn thuộc
vào tâm pháp. “Kiên tŕ”: Tánh cứng chắc, có thể
ǵn giữ hết thảy th́ gọi là Địa Đại.
Thấm ướt là Thủy Đại. Nóng ấm là Hỏa
Đại. Nhẹ nhàng lay động là Phong Đại. Tứ
Đại ḥa hợp có thể sanh ra ngũ căn.
“Sanh ngũ thức xứ danh Căn”
(chỗ sanh ra năm thức th́ gọi là Căn): Năm thức
nương vào năm căn mà sanh. Căn là chỗ sanh ra thức.
Một sắc, một tâm như thế có thể sanh ra chẳng
thể nghĩ bàn sắc tâm. Hết thảy sắc và tâm đều
nương vào vọng thức mà có, đều chẳng có
thật thể, thảy đều như huyễn.
(Kinh) Đại vương! Phàm phu lục
thức thô, cố đắc giả danh thanh, hoàng,
phương, viên đẳng, vô lượng giả sắc
pháp. Thánh nhân lục thức tịnh, cố
đắc thật pháp sắc, hương, vị, xúc, nhất
thiết thật sắc pháp.
(經)大王!凡夫六識麤,故得假名青黃方圓等,無量假色法。聖人六識淨,故得實法色香味觸,一切實色法。
(Kinh: Này đại vương! Sáu thức
của phàm phu thô, cho nên đạt được các giả
danh như xanh, vàng, vuông, tṛn v.v… vô lượng pháp giả sắc.
Thánh nhân do sáu thức thanh tịnh, cho nên đạt
được sắc, hương, vị, xúc nơi thật
pháp, hết thảy pháp thật sắc).
Đây là nói rơ “sắc tâm sai biệt” giữa thánh và phàm: Do
sáu thức thô hay tịnh khác nhau, cho nên cái được
thấy sẽ là giả hay thật chẳng b́nh đẳng.
Sáu thức của phàm phu do Biến Kế chấp trước
thô thiển, cho nên họ thấy toàn là pháp giả sắc.
Sáu thức của thánh nhân xa ĺa Biến Kế, diệt vô
thường sắc, đạt được thường
sắc thanh tịnh, cho nên trông thấy pháp thật sắc.
(Kinh) Chúng sanh giả, Thế Đế
chi danh dă. Nhược hữu, nhược vô, đản
sanh chúng sanh ức niệm, danh vi Thế Đế. Thế
Đế giả cuống, huyễn hóa cố hữu.
(經)眾生者,世諦之名也,若有若無。但生眾生憶念,名為世諦。世諦假誑,幻化故有。
(Kinh: Chúng sanh là tên gọi trong
Thế Đế. Dù có hay không, chỉ do sanh ra sự ức
niệm của chúng sanh mà gọi là Thế Đế. Thế
Đế giả dối, do huyễn hóa mà có).
Phần trước đă nói Ngũ Ấm
là “pháp giả”, chấp có chúng sanh tức là tiếp nhận
cái giả. Chúng sanh chính là giả danh trong Thế Tục
Đế, chẳng phải là Chân Đế thật sự
có chúng sanh. Đấy tức là “danh giả”. “Nhược
hữu, nhược vô”: Xét theo Tục Đế, chẳng
có mà tựa hồ là có, giống như kẻ ở trong mộng.
V́ thế nói là “nhược hữu” (như là có). Xét
theo Chân Đế, tuy có, nhưng thật sự là không, giống
như trăng trong nước. V́ thế nói là “nhược
vô”. Chỉ do ức tưởng vọng niệm phân biệt
của chúng sanh mà sanh, th́ gọi là Thế Đế. Thế
Đế đều là giả dối, chẳng thật, giống
như huyễn sư (ảo thuật gia) biến ra huyễn
nhân (người hư
huyễn). V́ thế nói là “huyễn
hóa cố hữu” (do huyễn hóa mà có).
(Kinh) Năi chí lục đạo huyễn
hóa, chúng sanh kiến huyễn hóa, huyễn hóa kiến huyễn
hóa. Bà-la-môn, Sát-lợi, Tỳ-xá, Thủ-thí, thần ngă
đẳng sắc tâm, danh vi Huyễn Đế, huyễn
đế pháp.
(經)乃至六道幻化,眾生見幻化,幻化見幻化。婆羅門、剎利、毗舍、首施、神我等色心,名為幻諦,幻諦法。
(Kinh: Cho tới lục đạo
huyễn hóa, chúng sanh thấy huyễn hóa, huyễn hóa thấy
huyễn hóa. Bà-la-môn, Sát-lợi, Tỳ-xá, Thủ-thí, thần
ngă v.v… các thứ sắc tâm như thế được gọi
là Huyễn Đế, là pháp thuộc về Huyễn Đế).
Từ một chúng sanh như huyễn, cho
đến suy ra cùng tận hết thảy chúng sanh trong lục
đạo đều là huyễn. Có chúng sanh thấy là huyễn,
tiến thêm bước nữa là đối với huyễn
hóa, cũng thấy là huyễn. V́ thế nói “huyễn hóa
thấy huyễn hóa”. Bà-la-môn (Brāhmaṇa) trong tiếng Phạn
được phương này dịch là Tịnh Duệ
(淨裔, hậu duệ
của bậc thanh tịnh). Sát-lợi (Kṣatriyaḥ) được
phương này dịch là Vương Chủng (gịng dơi nhà
vua). Tỳ-xá (Vaiśya) được
phương này dịch là Thương Cổ (商賈, thương
nhân, lái buôn). Thủ-thí (Śūdra) được
phương này dịch là Nông Phu. Tây Vực phân chia bốn
chủng tánh lớn “sang, hèn, trí, ngu”. “Thần ngă” (Puruṣa)[7]
chỉ ngoại đạo. Ngoại đạo có hai
mươi lăm Đế, Đế cuối cùng là Thần
Ngă. Ở đây, nêu ra sắc tâm của phàm phu, ngoại
đạo, được
gọi là Huyễn
Đế. Chúng sanh chính là pháp thuộc vào Huyễn Đế,
cho nên gọi là Huyễn Đế pháp.
(Kinh) Vô Phật xuất thế tiền
vô danh tự, vô nghĩa danh, huyễn pháp huyễn hóa, vô danh
tự, vô thể tướng, vô tam giới danh tự, vô
thiện ác quả báo, lục đạo danh tự.
(經)無佛出世前無名字,無義名。幻法幻化,無名字,無體相。無三界名字,無善惡果報、六道名字。
(Kinh: Trước khi có Phật xuất
thế th́ chẳng có danh tự, chẳng có nghĩa danh. Huyễn pháp, huyễn hóa chẳng có
danh tự, chẳng có thể tướng. Chẳng có danh tự tam giới, chẳng
có các danh xưng như quả báo thiện ác và lục đạo).
Đây là giải thích về “danh giả”.
Trước hết nói về vô danh (không có danh tự, tên gọi), sau đó nói về chuyện lập
danh. “Phật vị xuất thế tiền vô danh tự”
(trước khi đức Phật xuất thế, chẳng
có danh tự), tức là không có “nghĩa danh”. “Nghĩa
danh” là ǵ? Nói “danh là giả” th́ chính là “nghĩa danh”.
Trừ đức Phật ra, không ai nói tới. V́ thế
nói là “vô nghĩa danh” (chẳng có nghĩa danh). Ba câu kể
từ “huyễn pháp, huyễn hóa” trở đi, ư nói: Hết
thảy các pháp là vọng huyễn, giống như các pháp do huyễn sư biến
hóa ra, v́ chẳng có thật danh và thật thể. Ba câu từ
“vô tam giới danh tự” (chẳng có danh tự tam giới)
trở đi, [ư nói: Khi] Phật chưa xuất thế, chẳng
có ai có thể nói tam giới là chỗ quả báo của thiện
ác. Thiện nghiệp th́ sanh vào ba
đường lành, ác nghiệp bèn sanh vào ba đường
ác. Do không có Phật để nói, cho nên chẳng có các danh tự
tam giới, quả báo và lục đạo.
(Kinh) Đại vương! Thị cố
Phật Phật xuất hiện ư thế, vị chúng
sanh cố, thuyết tác tam giới lục đạo danh tự,
thị danh vô lượng danh tự, như Không pháp, tứ
đại pháp, tâm pháp, sắc pháp.
(經)大王!是故佛佛出現於世,為眾生故,說作三界六道名字。是名無量名字,如空法、四大法、心法、色法。
(Kinh: Này đại vương! V́ thế,
từng vị Phật xuất hiện trong thế gian, v́
chúng sanh mà nói ra danh tự tam giới, lục đạo.
Đó gọi là vô lượng danh tự, như Không pháp,
pháp Tứ Đại, tâm pháp, sắc pháp).
“Thị cố” (v́ thế) [tức là]
do chẳng có danh tự “quả báo thiện ác, lục
đạo”, [khiến cho] chúng sanh chẳng biết bỏ ác theo thiện. Do vậy,
đức Phật đại bi thị hiện, xuất sanh trong thế gian, v́ chúng sanh chỉ
bày tam giới là chỗ chúng sanh nương theo nghiệp mà
thọ báo. Do nghiệp của chúng sanh có thiện hay ác khác
nhau, cho nên quả báo có khổ hay lạc sai khác. Trong lục
đạo, trời, người, A Tu La là ba thiện đạo,
chính là quả báo do thiện nghiệp cảm
vời. Địa ngục, quỷ, súc sanh là ba ác đạo; đó là quả báo
do ác nghiệp cảm vời. Quả báo khổ hay lạc
trong lục đạo hoàn toàn do cái tâm thiện hay ác của
chúng sanh tạo thành. V́ thế nói: “Tâm tạo thiên
đường, tâm tạo địa ngục”.
Đức Phật nói Ngũ Giới, Thập
Thiện, pháp nhân thiên thừa v́ muốn khiến cho chúng
sanh đoạn ác, tu thiện, vĩnh viễn ĺa ác đạo.
Đấy chính là pháp cứu thế, mà cũng chính là
phương cách để hộ quốc. Quốc gia nếu
thật sự có thể nói tới nhân quả của Phật
giáo, khiến cho phổ cập, sẽ có thể tự khiến
cho ḷng người có phạm vi, bổ trợ các chỗ thiếu
sót trong chánh trị và pháp luật, văn hồi thế đạo,
củng cố nền tảng đất nước há khó
khăn chi? Mỗi nước đều có thể đề
xướng th́ sẽ là thế giới đại đồng,
tức là nhân gian Tịnh Độ vậy!
“Tam giới lục đạo” là danh xưng chung. Trong mỗi giới, mỗi
đường, lại có vô lượng danh tự sai khác,
v́ thế nói là “thị danh vô lượng danh tự”
(đó gọi là vô lượng danh tự). Ba câu cuối liệt
kê vô lượng danh tự, như các danh tự Không pháp,
pháp Tứ Đại, tâm pháp, sắc pháp v.v… Không ǵ chẳng
phải là giả!
(Kinh) Tương tục giả pháp, phi
nhất, phi dị, nhất diệc bất tục, dị
diệc bất tục, phi nhất, phi dị, cố danh Tục
Đế.
(經)相續假法,非一非異。一亦不續,異亦不續。非一非異,故名續諦。
(Kinh: Giả pháp liên tục, chẳng một, chẳng
khác. Một cũng chẳng tiếp tục, khác cũng chẳng
tiếp tục. Do chẳng một, chẳng khác, cho nên gọi là Tục
Đế).
Đây là nói về giả pháp liên tục. Ba câu từ “phi
nhất, phi dị” trở đi giải thích ư nghĩa “tương
tục”. “Phi nhất, phi dị”: Chẳng phải là
Thường Kiến hay Đoạn Kiến. Thường Kiến ngoại đạo
nói “con người đời đời kiếp kiếp
làm người, súc vật đời đời kiếp kiếp
làm súc vật”. Thuyết bài bác “chẳng có nhân quả” ấy có thể phá hoại tâm lư của
chúng sanh, cho nên là sai trái. Đoạn Kiến chúng sanh cho rằng “chết rồi là
đoạn diệt, chẳng có đời sau”. Đấy cũng là bài
bác “chẳng có nhân quả”, chẳng phải là tri kiến chân
chánh, cho nên cũng là sai trái. Hơn nữa, sanh diệt
đổi dời, đắp đổi, cho nên chẳng phải
là một. Trước sau tiếp nối, cho nên chẳng phải
là khác!
“Nhất diệc bất tục, dị diệc
bất tục” (“Một” cũng chẳng phải là tiếp
tục, “khác” cũng chẳng phải
là tiếp tục): Nếu nói là Nhất (một), tức là Thường Kiến. “Thường” th́ chẳng phải là tiếp nối. V́ lẽ nào? Do
chẳng đoạn tuyệt. Nếu nói là Dị, th́ chính
là Đoạn Kiến. “Đoạn” cũng chẳng phải là tiếp
nối. V́ lẽ nào? Do chẳng liên kết, dính líu với
nhau. Hai câu cuối giải thích chánh nghĩa. Đức Phật
biết pháp trước sanh ra pháp sau, pháp trước là
nhân, pháp sau là quả. Pháp sau lại theo thứ tự sanh khởi.
Đấy là nói chánh nghĩa của nhân duyên tiếp nối,
ĺa Thường, ĺa Đoạn, chẳng một, chẳng
khác. V́ thế gọi là Tương Tục Đế.
(Kinh) Tương đăi giả pháp, nhất
thiết danh tương đăi, diệc danh bất định
tương đăi, như ngũ sắc đẳng pháp, hữu
vô nhất thiết đẳng pháp, nhất thiết pháp giai
duyên thành, giả thành chúng sanh.
(經)相待假法,一切名相待,亦名不定相待。如五色等法,有無一切等法,一切法皆緣成,假成眾生。
(Kinh: Giả pháp đối đăi th́
hết thảy các danh là đối đăi, cũng gọi
là đối đăi chẳng nhất định, như
năm pháp Sắc, Thọ v.v… hoặc các pháp như hữu,
vô, hết thảy v.v… Hết thảy các pháp đều do
duyên mà thành, giả thành chúng sanh).
Đây là nói về “tương đăi giả”
(tương đối là giả). Có hai loại: Một
là tương đối đăi, hai là tương h́nh
đăi. “Nhất thiết danh tương đăi” chính
là tương đối đăi. Như Nhăn Thức do đối
ứng với Nhăn Căn và Sắc Trần mà định.
Pháp đối đăi này tạm sanh liền diệt, cho nên
nói là Giả, cũng gọi là Bất Định
Tương Đăi.
Tương H́nh Đăi là như xanh do đối lập với vàng mà tỏ lộ,
dài đối lập với ngắn mà bộc lộ. Nói bất
định th́ xanh đối với đỏ, trắng,
là xanh chẳng phải đỏ, là xanh chẳng phải trắng.
Lại nữa, dài đối với vuông tṛn th́ là dài chẳng phải vuông, là dài chẳng
phải tṛn v.v… Xanh, vàng, đỏ, trắng, dài, ngắn,
vuông, tṛn so sánh bất định. V́ thế nói Bất
Định Tương Đăi. Có, không, đoạn, thường,
tăng, giảm, hết thảy các pháp cứ phỏng theo
đó mà biết.
“Nhất thiết pháp giai duyên thành”
[nghĩa là] hết thảy các pháp đều do nhân duyên ḥa
hợp mà thành. Tức là chúng sanh cũng từ duyên giả hợp mà thành, như do Tứ Vi mà
thành Tứ Đại, Tứ Đại thành ngũ căn,
ngũ căn thành chúng sanh, cho nên nói là “giả thành chúng
sanh”.
(Kinh) Câu thời nhân quả, dị thời
nhân quả, tam thế thiện ác, nhất thiết huyễn
hóa, thị huyễn đế chúng sanh.
(經)俱時因果,異時因果,三世善惡,一切幻化,是幻諦眾生。
(Kinh: Nhân quả đồng thời,
nhân quả khác thời, thiện ác ba đời, hết thảy
huyễn hóa, đó là chúng sanh thuộc vào huyễn đế).
Đây là giải thích “sanh nhân giả”,
nhân đă chẳng thật, quả cũng như huyễn. “Câu
thời nhân quả”: Ngay trong khi tạo nghiệp thiện
ác, đồng thời liền đạt được
khổ báo hay lạc báo. Chẳng hạn như phát tâm bi to
lớn, xả tài cứu tai, đó là nhân. Mọi người
coi trọng, tán dương, cung kính, đó là quả. Nhân và
quả đồng thời, như hang vọng tiếng. Lại
như bỗng dấy tâm tham, đoạt tài, sát hại tánh
mạng, đó là nhân. Bị chánh quyền bắt bớ, hành h́nh trị tội; đó là quả.
Nhân quả báo ứng như bóng theo h́nh.
“Dị thời nhân quả”: Lúc này làm
thiện, tạo ác; lúc khác chịu khổ, hưởng vui.
“Tam thế thiện ác” tức là tiền nhân, hậu quả. Kiếp
trước làm lành, đời này hưởng vui. Kiếp
này làm ác, đời sau chịu khổ. Cổ đức
nói: Muốn biết nhân đời trước, những ǵ
hứng chịu trong đời này chính là nó đấy. Muốn
biết cái quả trong đời sau, [hăy nh́n vào] những
ǵ đă làm trong đời này, dù nhân hay quả, chẳng sai
sót mảy may!
“Nhất thiết huyễn hóa”: Do nhân quả
thiện ác do tâm kiến lập, vốn chẳng có tự thể,
cũng đều là huyễn hóa. Do huyễn hoặc tạo
huyễn nghiệp, nương vào huyễn nghiệp mà hứng
chịu huyễn báo. Tương ứng với lư hư vọng
mà hiện tại có khổ hay lạc. Như cảnh trong mộng,
khổ hiện khổ thọ, lạc hiện lạc thọ,
chớ nên do thấy huyễn hóa mà bài bác chẳng có nhân quả.
Huyễn đế chúng sanh cũng chẳng ĺa nhân quả.
Do huyễn nhân thiện hay ác mà cảm vời huyễn quả,
v́ thế nói là “huyễn đế chúng sanh”.
(Kinh) Đại vương! Nhược
Bồ Tát như thượng sở kiến chúng sanh huyễn
hóa giai thị giả cuống, như không trung hoa, Thập
Trụ Bồ Tát, chư Phật ngũ nhăn, như huyễn
đế nhi kiến, Bồ Tát hóa chúng sanh vi nhược
thử.
(經)大王!若菩薩如上所見眾生幻化皆是假誑,如空中華。十住菩薩,諸佛五眼,如幻諦而見。菩薩化眾生為若此。
(Kinh: Này đại vương! Nếu
Bồ Tát thấy chúng sanh huyễn hóa đều là giả
dối như trên, giống như hoa đốm trong hư
không. Thập Trụ Bồ Tát, chư Phật ngũ nhăn
đều thấy như huyễn đế. Bồ Tát hăy nên hóa độ
chúng sanh như thế đó).
Đoạn kinh văn này dùng thí dụ để
chỉ bày ḥng kết quy. Chúng sanh huyễn hóa giống như hoa đốm trong hư không.
Hư không lặng lẽ, vốn chẳng có tướng
hoa đốm, do mắt bị bệnh mà hư vọng thấy
là có. Pháp giới thanh tịnh vốn chẳng có chúng sanh, do
vô minh vọng thức mà có [chúng sanh]. Thập Trụ Bồ
Tát đă trừ khử, dùng huệ nhăn quán Không, dùng pháp nhăn quán Giả. Chư Phật ngũ nhăn trọn đủ, dẫu thấy
chúng sanh mà đều thấy đúng như huyễn đế.
Ông hỏi Bồ Tát nên đối với chúng sanh tướng
như thế nào mà hóa độ ư? Bồ Tát hóa độ chúng sanh là như thế
đó. “Nhược” là như. Hăy đúng như vừa
nói trên đây [mà hóa độ]!
(Kinh) Thời, chư hữu vô lượng
thiên tử, cập chư đại chúng, đắc Phục
Nhẫn giả, đắc Không Vô Sanh Nhẫn, năi chí nhất địa,
thập địa bất khả thuyết đức hạnh.
(經)時,諸有、無量天子、及諸大眾,得伏忍者、得空無生忍、乃至一地、十地不可說德行。
(Kinh: Khi đó, vô lượng thiên tử
trong các hữu và các đại chúng đạt được
Phục Nhẫn, đắc Không Vô Sanh Nhẫn, cho đến chẳng thể nói các đức hạnh
thuộc Nhất Địa, Thập Địa).
Đây là nghe pháp đạt được lợi
ích. Do đại chúng căn cơ chẳng b́nh đẳng,
cho nên đạt được lợi ích cũng có sâu hay
cạn. “Chư hữu” chính là hai mươi lăm Hữu
(tam giới). “Vô lượng thiên tử” tức là nói
tới Lục Dục và Phạm vương
trong đường trời. “Cập chư đại
chúng” (và các đại chúng) bao gồm [chúng sanh thuộc] các đường khác. Hoặc
đắc Phục Nhẫn thuộc địa vị Tam Hiền,
hoặc đắc Không Vô Sanh Nhẫn thuộc địa vị
Thập Địa. “Bất khả thuyết đức
hạnh” trong câu cuối [hàm ư] đức hạnh giống
như hư không, chẳng thể nghĩ bàn!
Nhân Vương Hộ Quốc Kinh Giảng Nghĩa phần
2 hết
[1] Y Tha tức là pháp do các nhân duyên mà dấy
lên.
[2] Sarvajña trong tiếng Phạn được
phiên âm theo nhiều cách: Tát Bà Nhă, Tát Vân Nhă, Tát Vân Nhược,
Tát Vân Nhiên, Tát Phạt Nhă, Tát Bà Nhă Nẵng, Tát Bà Nhă Na, Tát Bà
Nhă Đa, Tát Phát Cát Nương, Tát Phiệt Nhă v.v…
[3] Đây là một trường phái
triết học cổ Ấn Độ, do Yết Na Đà
(Kanada) sáng lập. Học phái này chủ trương có một
Thật Thể tối cao, khống chế các phần tử
cực vi h́nh thành vạn vật, chủ trương vạn
vật là thật sự có. Họ lập ra sáu phạm trù
(kinh luận Trung Hoa dịch là cú nghĩa, padārtha) là tồn
tại, chất lượng, hành vi, phổ biến tánh,
đặc thù tánh, cố hữu để thuyết minh các
hiện tượng tồn tại trong vũ trụ. Họ
chủ trương vật chất (dù thấy hay không thấy,
vi tế hay thô thiển), vĩnh hằng hay không vĩnh hằng,
luôn biến thiên, nhưng luôn có một thứ vật chất
giản đơn tồn tại trong ấy. Chủ
trương vật chất do thiên ư (tức ư nguyện của
Đại Ngă Atman) mà tồn tại, chủ trương tu
hành để được sanh lên trời, trở về
với Đại Ngă.
[4] “Hàng” ở đây là nói theo cột
chữ in trong sách, mỗi cột gồm hai câu kệ.
[5] Kinh Phạm Ma
Dụ do ngài Chi Khiêm dịch vào thời Đông Ngô. Kinh trần
thuật chuyện Bà La Môn Phạm Ma Dụ (Brahmāyu) hoài nghi ba mươi
hai tướng của đức Phật là chân hay ngụy.
Về sau, ông ta thấy các tướng như tướng
lưỡi rộng dài, tướng mă âm tàng v.v… bèn hân hoan cảm
thán, quy y đức Phật. Sau đó, đức Phật v́
ông ta giảng nói lẽ trọng yếu trong chí đạo.
Phạm Ma Dụ nghe xong, tâm khai ư giải, chứng quả
A Na Hàm.
[6] Câu-lô-xá là khoảng cách lớn nhất
có thể nghe được tiếng trâu rống hay tiếng
trống, khoảng chừng năm dặm Tàu.
[7] Thần ngă là
khái niệm trừu tượng xuất phát từ kinh Vi Đà
(Vedas) và Áo Nghĩa Thư (Upanishad). Theo đó, thần ngă được
hiểu như là một nguyên tố vũ trụ nguyên thủy,
là bản thể của vũ trụ, tồn tại vĩnh
hằng, bất hoại, vô sắc, và hiện diện trọn
khắp. Theo tông phái Số Luận, khi thần ngă kết hợp
với Prakrti (sắc chất) sẽ tạo thành sự sống
cho muôn loài. Có lẽ do quan điểm này mà một số các
giáo phái của Trung Hoa như Bạch Liên, La Giáo v.v… cho rằng
mỗi cá nhân là một điểm linh quang của Đại
Ngă (Chân Ngă hay chân thần của Thượng Đế) tách
ra.