Nhân Vương Hộ Quốc Kinh Giảng Nghĩa
Viên Anh đại sư biên soạn
仁王護國經講義
圓瑛大師著
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ
Trang và Trịnh Lộc
Phần 3
2.2.4.
Phẩm thứ tư: Nhị Đế (Nhị Đế phẩm đệ tứ, 二諦品第四)
Nhị Đế là Thế Đế và Chân
Đế. Các pháp vốn chẳng hai, do v́ nhân duyên mà phải nói thành hai. Do
nhân duyên nên từ Không mà Có, đó là Thế Đế. Do
nhân duyên tuy Có mà chính là Không; đó là Chân Đế. V́ thế
gọi là phẩm Nhị Đế. Phẩm này do kinh
văn trong hai phẩm trước là Quán Không và [Bồ Tát] Giáo Hóa đều nói về
phương tiện của Thật Trí, đều là do Không bất
nhị mà có. Trí là năng quán (chủ thể có thể quán),
cảnh là sở quán (đối tượng được
quán). Trí năng quán chẳng hai, cảnh sở quán th́ có hai.
V́ thế, nói phẩm này để vấn nạn, biện
minh. Trong phẩm này, có ba lượt vấn đáp, biện
luận Nhị Đế chẳng hai:
- Một, biện luận Nhị Đế
chẳng hai.
- Hai, biện minh thuyết pháp chẳng hai.
- Ba, biện minh pháp môn chẳng hai.
2.2.4.1.
Biện luận Nhị Đế chẳng hai
(Kinh) Nhĩ thời, Ba Tư Nặc
vương ngôn: - Đệ Nhất Nghĩa Đế trung
hữu Thế Đế phủ? Nhược ngôn vô giả,
trí bất ưng nhị. Nhược ngôn hữu giả,
trí bất ưng nhất. Nhất nhị chi nghĩa, kỳ
sự vân hà?
(經)爾時,波斯匿王言:第一義諦中有世諦不?若言無者,智不應二。若言有者,智不應一。一二之義,其事云何?
(Kinh: Lúc bấy giờ, vua Ba
Tư Nặc nói: - Trong Đệ Nhất Nghĩa Đế,
có Thế Đế hay không? Nếu nói là không, trí chẳng
nên có hai. Nếu nói là có, trí chẳng nên có một. Ư nghĩa
một và hai là như thế nào?)
Đệ Nhất Nghĩa Đế chính là
lư Nhất Thừa Trung Đạo tối thượng, cùng
ngăn che hai bên (cùng phủ định Hữu và Không), cùng
chiếu hai bên (cùng phủ định “chẳng phải Hữu, chẳng phải Không”). Nhà vua hỏi có Thế Đế
hay không là do nghi vấn đối với chuyện “Hữu
Vô đều mất”. Nếu nói là “không”, tức là không
có Thế Đế th́ trí chẳng nên có hai. “Hai” chính
là Chân Trí và Tục Trí. Nếu nói là “có”, do đă có Thế
Đế, vậy th́ trí chẳng nên là một. “Một” chính là Đệ Nhất
Nghĩa Đế. Ư chỉ Hữu Vô chưa định,
nghĩa “một, hai” chưa rơ. Do vậy, thưa hỏi
đó là chuyện như thế nào?
(Kinh) Phật cáo đại vương:
- Nhữ ư quá khứ thất Phật, dĩ vấn nhất
nghĩa, nhị nghĩa, nhữ kim vô thính, ngă kim vô thuyết.
Vô thính, vô thuyết, tức vi nhất nghĩa, nhị
nghĩa. Đế thính, đế thính! Thiện tư niệm
chi! Như pháp tu hành!
(經)佛告大王:汝於過去七佛,已問一義二義。汝今無聽,我今無說,無聽無說,即為一義二義。諦聽諦聽!善思念之!如法修行!
(Kinh: Đức Phật bảo đại
vương: - Ông đă đối trước bảy đức
Phật trong quá khứ hỏi nghĩa một, nghĩa hai.
Nay ông chẳng nghe, nay ta chẳng nói. “Chẳng nghe, chẳng
nói” chính là nghĩa một, nghĩa hai. Lắng nghe! Lắng
nghe! Khéo suy nghĩ lấy, đúng như pháp mà tu hành!)
Đoạn kinh văn này trước hết
nêu ra Bổn địa của vua Ba
Tư Nặc: Vua đă đối trước quá khứ thất
Phật hỏi ư nghĩa “một, hai”. Từ “nhữ
kim” (nay ông) trở đi là phần giải đáp. “Nhữ
kim thính nhi vô thính, ngă kim thuyết nhi vô thuyết” (Ông nay
nghe mà chẳng nghe, ta nay nói mà chẳng nói): Nói và nghe đều
là Không, tức chẳng hai. Đó là nghĩa “một”.
Chẳng nghe mà nghe, chẳng nói mà nói, nói và nghe rành rành, tức
là “chẳng một”. Đó là nghĩa “hai”. Đó gọi
là “trên đảnh Diệu Cao, trước nay chẳng
cho thương lượng. Trên đỉnh núi thứ hai,
chư Tổ tạm cho nói năng”. Ba câu từ “đế
thính” (lắng nghe) trở đi, răn truyền siêng tu
Tam Huệ.
(Kinh) Thất Phật kệ như thị:
- Vô
tướng Đệ Nhất Nghĩa, vô tự, vô tha tác, nhân duyên
bổn tự hữu, vô tự, vô tha tác.
(經)七佛偈如是:無相第一義,無自無他作。因緣本自有,無自無他作。
(Kinh: Kệ của thất Phật
như sau: - Đệ Nhất Nghĩa vô tướng, chẳng
tự, chẳng khác làm. Nhân duyên vốn tự có, chẳng tự,
chẳng khác làm).
Xét ra, kệ của thất
Phật tổng cộng gồm ba mươi bốn câu,
[chia thành bốn đoạn]:
- Một, mười hai câu
đầu giảng giải Nhị Đế.
- Hai, mười hai câu kế
tiếp, giải thích nghĩa “bất nhị”.
- Ba, tám câu kế đó, dùng
thí dụ để nói rơ ư nghĩa.
- Bốn, hai câu sau cùng kết
lại để khuyên răn, căn dặn mọi người.
Trong bài kệ đầu tiên
này, “vô tướng Đệ Nhất Nghĩa” chính là
Thật Tướng Bát Nhă. Thật Tướng chẳng phải
là có tướng, chẳng phải là không có tướng. Chữ
Vô ở đây có nghĩa là “chẳng”. Chẳng phải
là các tướng “có, không, nhiễm, tịnh”, cùng xả
cả hai bên Chân và Tục, hoàn toàn quy vào Trung Đạo
Đệ Nhất Nghĩa Đế. Lại nữa, “vô
tướng” chính là ly tướng. Ĺa hết thảy
các tướng th́ gọi là Đệ Nhất Nghĩa.
Trung Đạo, Thật Tướng, chẳng Chân, chẳng
Tục, nhưng có đủ cả Chân lẫn Tục.
“Vô tự, vô tha tác” có ư nghĩa “dứt bặt đối
đăi!” Nếu có tự và tha, tức là trở thành đối
đăi. Nay cái tâm linh diệu dứt bặt đối
đăi, vốn sẵn vô tướng, chẳng giống như pháp hữu vi tạo tác; đó
là Chân Đế. Lại nữa, pháp vô vi chẳng phải
là “tự tác”, hay chẳng phải là “không tự
tác”, chẳng phải là “tha
tác”, hay chẳng phải
là “không tha tác”. Chữ Tác cùng gắn kết với “vô tự,
vô tha” trước đó, [hàm nghĩa] ĺa hẳn tướng
tự tha hữu vi. Hai câu “nhân duyên bổn tự hữu…”
(nhân duyên vốn tự có…) hàm nghĩa: Do nương vào nhân
duyên mà các pháp được thành lập. Đó là Tục Đế.
Đấy cũng là vốn tự sẵn có, chẳng phải
là nay mới có, chẳng nhờ vào tạo tác. Đại
Trí Độ Luận nói: “Mười hai nhân duyên do ai tạo?
Đức Phật dạy:
Chẳng do Phật tạo, chẳng do Bồ Tát tạo, cho
đến chẳng phải do hết thảy thánh nhân tạo
tác”.
V́ thế cũng nói là “vô tự, vô tha tác”.
(Kinh) Pháp tánh bổn vô
tánh, Đệ Nhất Nghĩa Không như. Chư hữu bổn
hữu pháp, tam giả tập giả hữu.
(經)法性本無性,第一義空如。諸有本有法,三假集假有。
(Kinh: Pháp tánh vốn
vô tánh, Đệ Nhất Nghĩa Không như. Các hữu
vốn có pháp, tam giả cùng tụ tập, mà thành ra giả
hữu).
Bài kệ này nhằm giải
thích ư nghĩa của bài kệ trước đó. “Pháp
tánh” chính là thật tánh của các pháp. Thật tánh tức
là Thật Tướng; tên gọi khác nhau, ư nghĩa giống
nhau. Thật Tướng vốn vô tướng; v́ vậy, ở đây nói “thật tánh vốn vô tánh”,
[nghĩa là] chẳng có các tánh “có, không, nhiễm, tịnh”
v.v… hoàn toàn quy vào Trung Đạo Đệ Nhất
Nghĩa Không, như như bất động, vốn sẵn
thanh tịnh. Hai câu “chư hữu bổn hữu pháp…” nghĩa
là: “Chư hữu” như Ngũ Ấm, sắc, tâm v.v…
hết thảy các hữu tướng thuộc Tục
Đế,
cũng thuộc vào pháp vốn sẵn có. Bản Đường
dịch ghi là “chư hữu huyễn hữu pháp” (các hữu
là pháp huyễn có), ư nghĩa càng rơ ràng. Câu kế đó
nhằm giải thích ư nghĩa: Do là pháp giả, thọ giả,
và danh giả, ba thứ giả ấy tụ họp mà thành,
tức là “giả hữu”, chẳng phải là thật
sự có. Nếu chấp chúng là thật có, th́ gọi là Pháp
Chấp.
(Kinh) Vô vô đế thật
vô, tịch diệt đệ nhất không. Chư pháp nhân
duyên hữu, hữu vô nghĩa như thị.
(經)無無諦實無,寂滅第一空。諸法因緣有,有無義如是。
(Kinh: Chẳng hề
có tướng Hữu, chẳng hề có tướng Vô, Hữu
Vô thật chẳng có. Tịch diệt đệ nhất Không. Pháp do nhân
duyên có, nghĩa Hữu Vô như thế).
Đây là kết lại ư
nghĩa của Nhị Đế trong phần trước.
Chữ Vô trong câu thứ nhất là “vô Hữu
tướng” (chẳng có tướng Có), tức “Tục
Đế thật sự là Không”. Chữ Vô thứ
hai nghĩa là “vô Vô tướng” (chẳng có
tướng Không), tức “Chân Đế thật
sự là Không”. Chân và Tục
đều mất, quy vào tịch diệt Đệ Nhất
Nghĩa Không. “Chư pháp nhân duyên hữu” (các pháp do nhân
duyên mà có): Sợ [người nghe] ngờ rằng Chân lẫn
Tục đều mất, dùng ǵ để thấy các pháp
“thánh, phàm, nhiễm, tịnh” trong hiện tại? V́ thế,
giải trừ mối nghi rằng: Các pháp do nhân duyên ḥa hợp
bèn hư huyễn mà có! “Hữu Vô nghĩa như thị”
(Nghĩa Hữu và Vô là như thế): Hữu nghĩa là Tục
Đế, Vô nghĩa là Chân Đế. Muốn biết
nghĩa Chân Đế và Tục Đế th́ đúng như
bài kệ trước đó đă nói. Câu này nhằm tổng
kết vậy!
(Kinh) Hữu Vô bổn tự
nhị, ví như ngưu nhị giác, chiếu giải kiến
vô nhị, Nhị Đế thường bất tức.
(經)有無本自二,譬如牛二角,照解見無二,二諦常不即。
(Kinh: Hữu
Vô vốn là hai, ví như trâu hai sừng, chiếu giải thấy
chẳng hai, Nhị Đế thường chẳng tức).
Mười hai câu từ
đây trở đi,
giải thích ư nghĩa “Nhị Đế bất nhị”.
Nửa bài kệ trước dựa theo t́nh kiến, tức
là [trong t́nh kiến chấp trước của phàm phu], hữu
vi Tục Đế và vô vi Chân Đế vốn là hai, ví
như trâu có hai sừng, đối lập rơ ràng! “Chiếu
giải kiến bất nhị” (chiếu giải thấy chẳng hai): Nửa bài kệ
này xét theo cái Thấy do đă giải
ngộ.
Chân Đế vốn là Không, Tục Đế cũng là
Không, rốt ráo bất nhị. “Chiếu” tức Bát
Nhă trí chiếu hiện tiền. “Giải” tức là giải
ngộ các pháp thanh tịnh. Nương theo Giải để
thấy th́
Chân
và Tục vốn tự chẳng hai, chỉ là Đệ Nhất
Nghĩa Không. Như trâu có hai sừng, nhưng chỉ là một
đầu. Đă chẳng thấy tướng Nhị
Đế, th́ ĺa tướng tịch diệt, há có thể
nói là “tức” ư? Nếu có hai tướng Chân và Tục
th́ mới có thể nói là “tức”! Như nói h́nh chụp tức là ta, nay do thấy
chẳng hai, cho nên “Nhị Đế thường chẳng
tức” (tức là “Chân Đế chẳng
tức là Tục Đế, Tục Đế chẳng tức
là Chân Đế”).
(Kinh) Giải tâm kiến
bất nhị, cầu nhị bất khả đắc,
phi vị Nhị Đế nhất, phi nhị hà khả
đắc?
(經)解心見不二,求二不可得,非謂二諦一,非二何可得?
(Kinh: Tâm giải thấy
chẳng hai. Cầu hai chẳng thể được.
Chẳng phải là toan nói, Nhị Đế
chính là một. Chẳng hai há được ǵ?)
“Giải tâm” là cái tâm giải
ngộ. Do đó, thấy Chân và Tục chẳng hai. Câu thứ
hai giải thích ư nghĩa bất nhị. Do cái Thấy
đă ĺa tướng, cho nên cầu hai tướng sẽ
chẳng thể được! Hai câu từ “phi vị Nhị
Đế Nhất” (chẳng phải là nói “Nhị
Đế là một”) trở đi, [hàm nghĩa]: Do sợ [thính chúng] nghe nói “bất
nhị”
sẽ chấp là một; v́ thế, lại phá rằng:
Chẳng phải là nói “Nhị Đế là một”. “Chẳng
phải là hai” th́ có ǵ để có thể
được! Hai chữ “phi nhị” tức là chữ “nhất”, hàm ư: Vốn
đối với hai mà nói “chẳng phải hai”.
Tướng “hai” đă không có, “một”
làm sao có được? Đó chính là hiển lộ ư
nghĩa “vô nhị” vậy!
(Kiến) Ư giải
thường tự nhất, ư Đế thường tự
nhị, thông đạt thử vô nhị, chân nhập Đệ
Nhất Nghĩa.
(經)於解常自一,於諦常自二。通達此無二,真入第一義。
(Kiến: Với Giải,
thường tự một. Với Đế,
thường tự hai. Thông đạt vô nhị ấy, thật
nhập Đệ Nhất Nghĩa).
Đây là kết lại lời
tán thán. Đối với cái tâm giải ngộ, dùng trí vô
phân biệt để thấy: “Nhị Đế
vốn chẳng hai”, cho nên nói là “thường tự
nhất”. Nhưng Chân Đế và Tục Đế rạch
ṛi, chẳng rối ren, do chẳng hiểu “nhất”
bèn phá hoại tướng Chân và Tục. V́ vậy nói “ư Đế thường tự nhị” (đối với Đế, thường tự
hai). Hai câu sau đó cùng
nhằm kết lại lời tán thán: Nếu có thể thật
sự thông đạt ư chỉ “Nhị Đế chẳng
hai”, sẽ thật sự nhập Đệ Nhất
Nghĩa Đế.
(Kinh) Thế Đế
huyễn hóa khởi, thí như hư không hoa. Như ảnh
tam thủ vô, nhân duyên cố cuống hữu. Huyễn hóa kiến
huyễn hóa, chúng sanh danh huyễn đế. Huyễn sư
kiến huyễn pháp, đế thật tắc giai vô.
(經)世諦幻化起。譬如虛空華。如影三手無。因緣故誑有。幻化見幻化。眾生名幻諦。幻師見幻法。諦實則皆無。
(Kinh: Thế Đế
huyễn hóa khởi, ví hoa đốm trên không, như ảnh,
tay thứ ba, cả ba món đều không, do nhân duyên dối
có. Huyễn hóa thấy huyễn hóa, chúng sanh gọi huyễn
đế. Huyễn sư thấy huyễn pháp, chân thật
th́ đều không).
Tám câu này là dùng thí dụ
để giảng rơ ư nghĩa “Thế Đế
tức là Tục Đế, đều do huyễn hóa mà dấy
lên”.
Không ǵ chẳng phải là “dường như có”; tuy có,
nhưng thật sự là không, chỉ là huyễn hóa. Ví
như hoa đốm trên hư không “hữu danh vô thật”.
Lại như h́nh bóng trong gương, hoặc cánh tay thứ ba
[đều là những thứ] chỉ có danh xưng, vốn
chẳng có cánh tay thứ ba[1]
để có thể hiện. Do nhân duyên mà hư dối có, vốn
chẳng thật sự có. Như người do mắt bị
bệnh, hư dối thấy có hoa đốm (những đốm sáng lởn vởn) trên hư không. Do
nhân duyên tạo tác nên mới hư dối có cánh tay thứ
ba. Bản dịch đời Đường ghi là “huyễn
hữu”[2],
ư nghĩa của kinh văn càng rơ.
“Huyễn hóa kiến huyễn
hóa” (huyễn hóa thấy huyễn hóa): Do chúng sanh là huyễn
hóa, thấy các pháp huyễn hóa. Người trông thấy và
pháp được thấy đều như huyễn. V́
thế,
chúng sanh được gọi là huyễn đế! “Huyễn
sư kiến huyễn pháp” (ảo thuật gia thấy
các pháp biến huyễn): Chư Phật, Bồ Tát ví như
người làm ảo thuật. Do các pháp chẳng thật,
cho nên gọi là “huyễn pháp”. Các huyễn pháp do huyễn
sư biến hiện, kẻ khác nh́n vào, chẳng biết
đó là huyễn! Nhưng người làm ảo thuật
nh́n thấy, sẽ biết là huyễn. “Đế thật
tắc giai vô” (xét theo Chân Đế, thật trí th́ đều
là không): Dùng Thật Trí để chiếu các pháp thuộc Tục
Đế, sẽ thấy chúng chẳng có tự tướng để có thể đạt được.
(Kinh) Danh vi chư Phật
quán, Bồ Tát quán diệc nhiên.
(經)名為諸佛觀,菩薩觀亦然。
(Kinh: Gọi là chư
Phật quán, Bồ Tát quán cũng thế).
Hai câu này nhằm kết lại
để khuyên bảo, căn dặn mọi người,
tức là: Có thể quán Nhị Đế bất nhị th́
gọi là “quán trí viên minh”. Đó là cách quán của
chư Phật. Bồ Tát phần chứng Phật trí, các
Ngài cũng quán như thế. Trích dẫn bài kệ của
thất Phật đă xong!
(Kinh) Đại
vương! Bồ Tát Ma Ha Tát ư Đệ Nhất
Nghĩa trung, thường chiếu Nhị Đế hóa
chúng sanh.
(經)大王!菩薩摩訶薩,於第一義中,常照二諦化眾生。
(Kinh: Này đại
vương! Bồ Tát Ma Ha Tát trong Đệ Nhất
Nghĩa, thường chiếu Nhị Đế để
hóa độ chúng sanh).
Phần trước là dẫn
chứng, phần này giải thích điều vấn nạn,
nêu rơ “Nhị Đế
bất nhị”. Kinh văn gồm
có ba đoạn:
- Một, nêu ra cái quả
đối ứng với cái nhân để minh
thị.
- Hai, từ “ngũ nhăn”
trở xuống, riêng dùng cái quả để giải thích.
- Ba, từ “Bồ Tát vị
thành Phật” (Bồ Tát chưa thành Phật) trở
đi, cùng kết lại nhân và quả để giải
thích. Nay đức Phật bảo “đại
vương! Bồ Tát Ma Ha Tát” là nêu ra Thật Giáo Bồ
Tát để nói. Thật Giáo Bồ Tát th́ mới gọi là
đại Bồ Tát, mới thấy Đệ Nhất
Nghĩa.
“Ư Đệ Nhất
Nghĩa trung, thường chiếu Nhị Đế, hóa
chúng sanh” (Trong Đệ Nhất Nghĩa, thường
chiếu Nhị Đế để hóa độ chúng
sanh): Đệ Nhất Nghĩa chiếu cả hai bên,
ngăn che hai bên. Ở đây nói “thường chiếu
Nhị Đế” tức là xét theo Bi và Trí cùng vận dụng,
Chân và Tục cùng chiếu để nói. Chiếu Tục
Đế th́ suốt ngày vận dụng ḷng Bi, rộng
độ chúng sanh; chẳng giống Nhị Thừa trầm
trệ nơi không tịch. Chiếu Chân Đế th́ suốt
ngày vận dụng trí, chẳng có chúng sanh để có thể
độ, chẳng giống với Quyền Giáo chấp
tướng tu hành. Kinh Kim Cang Bát Nhă dạy: “Nhược
noăn sanh, nhược thai sanh, nhược thấp sanh,
nhược hóa sanh, nhược hữu sắc, nhược
vô sắc, nhược hữu tưởng, nhược vô
tưởng, ngă giai linh nhập Vô Dư Niết Bàn, nhi diệt
độ chi. Như thị diệt độ vô lượng
vô số vô biên chúng sanh, thật vô chúng sanh đắc diệt
độ giả” (Dù là noăn sanh, hay thai sanh, hay thấp
sanh, hay hóa sanh, hay có sắc, hay không sắc, hay có tưởng,
hay không tưởng, ta đều khiến cho họ nhập
Vô Dư Niết Bàn để được diệt độ.
Diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sanh
như thế, nhưng thật sự chẳng có chúng sanh
được diệt độ). Đấy chính là “chiếu
Nhị Đế, hóa độ chúng sanh” vậy!
(Kinh) Phật cập
chúng sanh, nhất nhi vô nhị. Hà dĩ cố? Dĩ chúng
sanh Không cố, đắc trí Bồ Đề không. Dĩ Bồ
Đề không cố, đắc trí chúng sanh không.
(經)佛及眾生,一而無二。何以故?以眾生空故,得置菩提空;以菩提空故,得置眾生空。
(Kinh: Phật và chúng
sanh là một, chẳng hai. V́ sao vậy? Do chúng sanh là Không,
cho nên Bồ Đề là Không. Do Bồ
Đề là Không, cho nên chúng
sanh Không).
Đây là nói “chúng
sanh và Phật chẳng hai”. Nêu ra Phật quả
để so sánh với chúng sanh. Nếu hư vọng phân
biệt, sẽ thấy có chúng sanh và Phật sai khác. Bậc
thấu đạt lư, biết rơ Phật và chúng sanh vốn
sẵn tịch diệt, cho nên nói “nhất nhi vô nhị”
(là một,
chẳng hai). “Hà dĩ cố?” (V́ sao vậy?) là lời
gạn hỏi. Trước hết là cật vấn:
“V́ sao chúng sanh và Phật chẳng hai?” Tiếp đó,
giải thích: Do chúng sanh là Không, cho nên đạt
đến Phật quả Bồ Đề cũng là Không.
Đây là dùng nhân để suy ra quả, đă chẳng có
“cái được hóa độ” (sở hóa), lấy đâu
ra “cái có thể hóa độ” (năng hóa)? Lại do Bồ Đề là Không, cho nên chúng sanh nghiệp báo cũng
là Không. Đây là dùng quả để so với nhân: Đă
không có người giáo hóa, há có kẻ nào được
giáo hóa? Tuy có hai danh xưng “chúng sanh” và Phật, nhưng vốn
là một Thể. Lại nữa, “chúng sanh Không” là Nhân Không, Bồ Đề Không th́ là Pháp Không.
(Kinh) Dĩ nhất thiết
pháp Không cố, Không Không. Hà dĩ cố? Bát Nhă vô tướng,
Nhị Đế hư không. Bát Nhă không ư vô minh, năi chí
Tát Bà Nhă vô tự tướng, vô tha tướng cố.
(經)以一切法空故,空空。何以故?般若無相,二諦虛空。般若空於無明。乃至薩婆若,無自相、無他相故。
(Kinh: V́ hết thảy
các pháp là Không, cái Không ấy cũng là Không. V́ sao vậy? Bát
Nhă vô tướng, Nhị Đế như hư không. Do Bát
Nhă chẳng có vô minh, cho đến Tát Bà Nhă chẳng có
tướng tự, chẳng có tướng tha).
Đây là nói “cảnh
và trí chẳng hai”. “Dĩ” [ở đây có
nghĩa] là “v́”. “Nhất thiết” (hết thảy) mang
ư nghĩa bao hàm trọn hết, chẳng riêng ǵ Tục Đế
là Không, mà ngay
cả Chân Đế cũng là Không. Do “hết thảy
các pháp đều là Không”, cho nên cái trí “có thể
Không” cũng là Không. V́ thế nói là Không Không. Do chúng sanh chỗ
nào cũng chấp Có, đức Phật bèn mượn Không
trí để trừ khử Hữu. Sợ họ lại trầm
trệ nơi Không, cho nên Ngài lại dùng Không
để đối trị Không. V́ thế nói là
Không Không.
Từ “hà dĩ cố”
(v́ cớ sao) trở đi, gạn hỏi nhằm
giải thích ư nghĩa của Không Không. Gạn rằng: “V́
sao ngay cả trí cũng là Không?” Giải rằng: Bát Nhă Chân
Không
diệu trí vốn sẵn vô tướng. Chân Đế và Tục
Đế đều giống như hư không, rốt ráo
thanh tịnh, ĺa các danh tướng. Từ “Bát Nhă không
ư vô minh” trở đi, dùng trí hoặc (智惑, sự mê lầm
vô minh nơi trí) để đối ứng, nhằm hiển
lộ ư chỉ “vô tướng”. Bát Nhă là cái trí “có thể
Không”, vô minh là Hoặc bị không (tức là có thể
được quán chiếu bởi cái trí để thấy
bản thể của nó là Không). Dùng trí Bát Nhă để
“không” vô minh Hoặc, từ nhân tới quả, cho tới biển
Tát Bà Nhă, tu tập ĺa tướng, chẳng có tự tướng
Bát Nhă, mà cũng chẳng có tha tướng của vô minh.
(Kinh) Ngũ nhăn thành tựu
thời, kiến vô sở kiến. Hành diệc bất thọ,
bất hành diệc bất thọ, phi hành phi bất hành diệc
bất thọ, năi chí nhất thiết pháp diệc bất
thọ.
(經)五眼成就時,見無所見。行亦不受,不行亦不受,非行非不行亦不受,乃至一切法亦不受。
(Kinh: Khi ngũ nhăn thành
tựu, sẽ thấy mà không có ǵ để thấy. Hành
cũng chẳng thọ, bất hành cũng chẳng thọ,
“chẳng phải hành, chẳng phải bất hành” cũng
chẳng thọ, cho đến hết thảy các pháp
cũng chẳng thọ).
Đây là chỉ rơ “Năng
và Sở chẳng hai”, riêng dùng ngũ
nhăn để biện định. Ngũ nhăn là nhục
nhăn, thiên nhăn, huệ nhăn, pháp nhăn, và Phật nhăn. Ngũ nhăn
gồm thâu mười pháp giới. Bốn đường
“người, A Tu La, súc sanh, địa ngục” chỉ có
nhục nhăn, thiên tiên quỷ thần do có nghiệp báo
ngũ thông, sẽ có hai loại mắt trước (nhục
nhăn và thiên nhăn). La Hán và Bích Chi Phật thiếu hai loại mắt
sau (pháp nhăn và Phật nhăn). Bồ Tát có đủ bốn loại
trước, chỉ Phật là có trọn đủ năm
loại mắt. Khi ngũ nhăn thành tựu tức là lúc Phật
đạo viên măn. Có bài tụng về ngũ nhăn như sau:
“Thiên nhăn thông phi ngại, nhục nhăn ngại phi thông, pháp
nhăn duy quán Tục, huệ nhăn liễu tri Không, Phật nhăn
như thiên nhật, chiếu dị thể hoàn đồng.
Viên minh pháp giới nội, vô xứ bất hàm dung” (Thiên
nhăn thông suốt chẳng trở ngại, nhục nhăn bị
trở ngại chẳng thông suốt. Pháp nhăn chỉ quán Tục
Đế, huệ nhăn biết rơ không. Phật nhăn như
ngàn mặt trời, chiếu thấu dị thể vẫn
là tương đồng. Viên minh trong pháp giới, không chỗ
nào chẳng dung nhiếp).
“Kiến vô sở kiến”
(thấy “không có ǵ để thấy”): Chữ Kiến
trước là chân kiến chẳng thấy, v́ là chân kiến,
cho nên chẳng có ǵ để thấy. Nếu có ǵ để
thấy, tức là Năng (người thấy) lẫn Sở
(cái được trông thấy) đều là vọng,
như do con mắt bị bệnh mà thấy hoa đốm trên hư không.
Chân kiến như mắt thanh tịnh, quán Không trong lặng,
chỉ là cái Không trong lặng, trọn chẳng có ǵ!
Lại nữa, nói “kiến”
là tùy thuận Tục Đế, như kinh Pháp Hoa dạy: “Phật
nhăn kiến lục đạo chúng sanh” (mắt Phật
thấy chúng sanh trong sáu đường). “Vô sở kiến”
(chẳng có ǵ được thấy) là do tương xứng chân lư, như kinh
Đại Phẩm [Bát Nhă] nói: “Ngũ nhăn bất kiến
chúng sanh” (năm mắt chẳng thấy chúng sanh). Kinh
này hiển thị Nhị Đế viên dung, thuận theo thế
tục bèn chẳng thấy mà thấy, tức là chữ Kiến
trước (trong “kiến vô sở kiến”),
tương xứng với lẽ Chân th́ thấy mà chẳng
có ǵ để thấy, tức là ba chữ sau (vô sở kiến).
“Hành diệc bất thọ,
bất hành diệc bất thọ” (Hành cũng chẳng
thọ (tiếp nhận), bất hành cũng chẳng thọ):
Đối với hành và bất hành, đều chẳng chấp trước.
Đại Trí Độ Luận nói: “Hành cũng chẳng
thọ nhằm đối trị Hữu kiến (kiến giải thấy là Có). Bất hành
cũng chẳng thọ nhằm trừ Vô kiến. Nói Vô nhằm
đối trị Hữu, chẳng phải là có một cái
Vô. Nói Hữu để trừ Vô, chẳng phải là có một
cái Hữu! Nói Vô chưa từng Vô, nói Hữu mà chưa từng
Hữu nhằm đối trị nhân duyên, cho nên có cách nói ấy”. Muốn cho kẻ
có hai thứ kiến chấp đó đều cùng đạt
được chánh quán, do Hữu và Vô đều là sanh diệt,
đạo lẫn tục đều mất, hai bên đều
diệt mất; v́ thế nói “hành và bất hành
đều chẳng thọ”.
“Phi hành, phi bất hành diệc
bất thọ” (“Chẳng phải hành, chẳng phải
không hành” cũng chẳng thọ): “Phi hành” (chẳng phải
hành) chính là ĺa tướng Vô mà tu. “Phi bất hành” (chẳng
phải là không hành) tức là thuận theo tướng Hữu
mà tu. Đối với hai
thứ “phi” ấy đều chẳng chấp. “Năi
chí nhất thiết pháp diệc bất thọ giả”
(cho đến đối với hết thảy các pháp
cũng chẳng thọ) tức là “diệc hành, diệc bất
hành” và “phi hành, phi bất hành” cũng đều chẳng
thọ. Hai chữ “nhất thiết” (hết thảy) bao gồm thánh,
phàm, y báo, chánh báo, nhiễm, tịnh, [đối với
các pháp ấy] đều nhất loạt chẳng chấp
trước. Nói theo Đại Trí Độ Luận th́
chính là chẳng thọ, mà cũng chẳng phải là không thọ!
(Kinh) Bồ Tát vị
thành Phật thời, dĩ Bồ Đề vi phiền năo.
Bồ Tát thành Phật thời, dĩ phiền năo vi Bồ
Đề. Hà dĩ cố? Ư Đệ Nhất Nghĩa
nhi bất nhị cố, chư Phật Như Lai, năi chí nhất
thiết pháp như cố.
(經)菩薩未成佛時,以菩提為煩惱;菩薩成佛時,以煩惱為菩提。何以故?於第一義而不二故。諸佛如來,乃至一切法如故。
(Kinh: Khi Bồ Tát
chưa thành Phật, coi Bồ Đề là phiền năo. Khi
Bồ Tát thành Phật, coi phiền năo là Bồ Đề.
V́ lẽ nào vậy? Do trong Đệ Nhất Nghĩa th́ chẳng
hai, do chư Phật Như Lai cho đến hết thảy
các pháp đều là Như).
Đây là kết lại “nhân
quả bất nhị”. Bồ Tát khi chưa thành Phật
tức là khi c̣n là chúng sanh đang tu nhân, do mê mà bất giác,
chuyển Bồ Đề thành phiền năo, ví như nước
đông cứng thành băng. Khi Bồ Tát thành Phật, tức
là lúc thành tựu quả địa
nơi Chánh Giác, đă giác th́ chẳng mê, chuyển phiền
năo thành Bồ Đề, ví như băng tan thành nước.
Nước và băng tuy có hai tên, nhưng nước và
băng vốn có cùng một Thể. Nhân tâm (cái tâm tu nhân) chẳng
ĺa quả giác, quả giác chẳng ra ngoài nhân tâm. Chỉ là
mê hay giác chia tách, chứ nhân quả có bao giờ là hai?
“Hà dĩ cố” (v́ lẽ
nào vậy?) tức là gạn hỏi “v́ sao nhân quả chẳng
hai?” Giải rằng: Do trong Đệ Nhất Nghĩa là chẳng
hai. “Ư” có nghĩa là “tại”. Trong cái Thể của
Đệ Nhất Nghĩa Đế, phiền năo và Bồ
Đề vốn vô sở hữu. “Mê, giác, sanh, diệt”
đều là giả danh, chỉ là Nhất Chân Thật
Tướng. V́ thế nói là “bất nhị”.
“Chư Phật Như Lai,
năi chí nhất thiết pháp như cố” (Do chư Phật
Như Lai cho đến hết thảy các pháp đều là
Như). “Chư Phật” bao gồm hữu t́nh chánh báo,
“hết thảy các pháp” bao gồm vô t́nh y báo. Ư nói:
Không chỉ chúng sanh và Phật, mê và giác chẳng hai, mà ngay cả
hết thảy các pháp, không ǵ chẳng đều là Như.
Phần biện định Nhị Đế đă xong.
2.2.4.2.
Biện minh thuyết pháp chẳng hai
(Kinh) Bạch Phật
ngôn: - Vân hà thập phương chư
Như Lai, nhất thiết Bồ Tát bất ly văn tự,
nhi hành chư pháp tướng?
(經)白佛言:云何十方諸如來,一切菩薩,不離文字,而行諸法相?
(Kinh: [Vua Ba Tư Nặc]
bạch Phật rằng: - V́ sao mười phương các
đức Như Lai, hết thảy các Bồ Tát chẳng
ĺa văn tự mà hành các pháp tướng?)
Đây là biện minh “thuyết
pháp chẳng hai”. Vua Ba Tư Nặc do [nghe] phần
kinh văn trước đó đă dạy: “Hết thảy
các pháp đều là Không, đều là Như”. V́ thế,
dấy lên sự
biện
định, vấn nạn: Các pháp đă đều là Không,
văn tự cũng là Không, cớ sao chư Phật,
Bồ Tát lại thuyết pháp độ sanh, chẳng ĺa
văn tự mà nói danh tướng các pháp thuộc mười hai bộ loại vậy?
(Kinh)
Đại vương! Pháp luân giả, pháp bổn như,
trùng tụng như; thọ kư như, bất tụng kệ
như, vô vấn nhi tự thuyết như, giới kinh
như, thí dụ như, pháp giới như, bổn sự
như, phương quảng như, vị tằng hữu
như, luận nghị như, thị danh vị cú âm thanh
quả, văn tự kư cú nhất thiết như. Nhược
thủ văn tự giả, bất hành Không dă.
(經)大王!法輪者:法本如,重誦如;受記如,不誦偈如,無問而自說如,戒經如,譬喻如,法界如,本事如,方廣如,未曾有如,論議如;是名味句音聲果;文字記句一切如。若取文字者,不行空也。
(Kinh: Này
đại vương! Pháp luân là pháp bổn như,
trùng tụng như, thọ kư như, bất tụng kệ
như, vô vấn tự thuyết như, giới kinh như,
thí dụ như, pháp giới như, bổn sự như,
phương quảng như, vị tằng hữu như,
luận nghị như. Danh, vị, cú là cái quả của
âm thanh. Văn tự, câu nói trần thuật, hết thảy
đều là Như. Nếu chấp lấy văn tự
th́ chẳng phải là hành Không).
Đây là giải đáp
“Văn Tự Bát Nhă chẳng ĺa Thật Tướng”. “Mười
hai bộ kinh Như” tức là giáo pháp Nhị Đế
như. “Pháp luân” là giáo pháp của Như Lai được
sánh ví như bánh xe. Đó là v́ bánh xe có công năng chuyên chở,
dùng “luân” để biểu thị ư nghĩa “viên
dung”. Pháp do Như Lai nói Chân và Tục vô ngại, v́ Nhị
Đế viên dung. Từ “pháp
bổn như” trở đi, [kinh văn] nêu ra mười hai bộ
loại (thể loại), mỗi mỗi
đều Như. Pháp Bổn tức kinh văn thuộc loại
Trường Hàng, có thể diễn tả giáo pháp và lư pháp, cho nên gọi là “pháp bổn”.
“Như”: Tánh của văn tự là Không. Chẳng ĺa
văn tự mà được giải thoát. “Trùng tụng
Như”: Dùng kệ để nhắc lại ư nghĩa
trong phần Trường Hàng, rút gọn, súc tích, giản
lược, [phần kệ ấy được gọi
là Trùng Tụng]. “Thọ Kư như”: Tiên đoán các chuyện thành
Phật trong tương lai như tên của kiếp, cơi
nước, các thứ trang nghiêm v.v… “Bất tụng kệ
như”: [Kệ tụng] chẳng trùng tụng [các ư nghĩa được nói trong] kinh văn Trường
Hàng, mà là
tự khởi lên để nói [th́ gọi là Bất Kệ
Tụng, tức Cô Khởi Tụng]. “Vô vấn nhi tự
thuyết như”: Quan sát cơ duyên đă chín muồi, chẳng
đợi thưa hỏi mà nói. “Giới kinh như”: Tức
là nhân
duyên kinh, do [trong tăng đoàn] có chuyện [vi phạm, trái lư, gây tỵ hiềm]
mà phải chế định giới. “Thí dụ
như”: Dùng thí dụ để thuyết pháp, nhờ vào
Sự mà hiển Lư. “Pháp giới như” tức là Bổn
Sự Bộ nhằm nói chuyện trong mười tám giới.
“Bổn sanh như”: Nói về sự tích trong cuộc
đời của đức Phật. “Phương Quảng
như”: Dùng để giảng nói chánh lư rộng lớn[3]
của Pháp Không. “Vị tằng hữu như”: Khi thuyết
pháp, phóng quang, hiện điềm lành, đạt được
điều chưa từng có. “Luận nghị như”:
Dùng vấn đáp để nêu rơ, biện định minh bạch
lư thú.
“Thị danh, vị, cú, âm
thanh, quả”: Tức là danh, ngôn, chương cú, nghĩa
vị[4]
của mười hai bộ loại [kinh điển] chính
là cái quả của âm thanh. Nương theo âm thanh mà thành “danh,
cú, văn” ba thân[5].
“Vị” tức là ư nghĩa trong câu chữ. Chữ Cú lẽ
ra phải ở trước chữ Vị. “Văn tự
kư cú, nhất thiết Như” (văn tự,
câu nói trần thuật, hết thảy đều là
Như): Do tánh của nơi bản thể của tất cả
văn tự là Không, Tục chính là Chân, chẳng ĺa Thật
Tướng.
“Nhược thủ
văn tự” (nếu giữ lấy văn tự) tức
là chấp trước văn tự, chẳng liễu giải
tánh Không, bị văn tự gây chướng ngại chẳng
hành Không. Mười hai bộ loại kinh điển do
đức Như Lai đă nói chẳng ĺa văn tự, chẳng
phải chính là văn tự. Kinh Kim Cang Bát Nhă dạy: “Thuyết
pháp giả, vô pháp khả thuyết, thị danh thuyết
pháp” (Thuyết pháp là không có pháp nào để có thể
nói th́ gọi là thuyết pháp) cũng chính là ư nghĩa này.
(Kinh) Đại
vương! Như như văn tự, tu chư Phật
trí mẫu, nhất thiết chúng sanh tánh căn bản trí mẫu,
tức vi Tát Bà Nhă thể.
(經)大王!如如文字,修諸佛智母,一切眾生性根本智母,即為薩婆若體。
(Kinh: Này đại
vương! Dùng văn tự như như để tu mẹ
trí huệ của chư Phật, trí mẫu căn bản
nơi tánh của hết thảy chúng sanh chính là cái Thể
của Tát Bà Nhă).
Đức Phật gọi “đại
vương” để bảo ban. “Như như
văn tự, tu chư Phật trí mẫu” (Dùng văn tự
như như để tu mẹ trí huệ của chư Phật):
Chữ Như thứ nhất [hàm nghĩa] mười hai bộ
kinh đều Như. Chữ Như thứ hai hàm nghĩa “văn
tự kư cú, hết thảy đều là Như”. Văn tự có
thể diễn tả, hiển thị lư tánh, th́ văn tự
chính là Bát Nhă. Nương theo Văn Tự Bát Nhă để
tu quán chiếu Bát Nhă, chiếu Thật Tướng Bát Nhă.
Bát Nhă có thể sanh ra mười phương chư Phật,
là trí mẫu (mẹ trí huệ) của chư Phật.
Chư Phật không vị nào chẳng sanh từ Bát Nhă trí mẫu.
Trí tức là Bát Nhă, “mẫu” hàm nghĩa “có thể
sanh”. Kinh Kim Cang Bát Nhă dạy: “Nhất thiết chư Phật
cập chư Phật A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề pháp giai tùng thử kinh xuất” (Hết thảy
chư Phật và pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác của chư Phật đều từ kinh này mà ra), có cùng một ư nghĩa [với điều
đang nói ở đây].
“Nhất thiết chúng sanh tánh
căn bản trí mẫu, tức vi Tát Bà Nhă Thể” (trí mẫu
căn bản nơi tánh của hết thảy chúng sanh
chính là cái Thể của Tát Bà Nhă): [Nói] “tánh của hết thảy chúng sanh”
là nói đến Phật tánh vốn sẵn có. Tánh ấy có
thể sanh ra hết thảy các pháp [cho nên gọi là “căn bản trí mẫu”]. Hết thảy các pháp đều
nương vào tánh ấy để làm Thể. Đó chính là
cái Thể của Nhất Thiết Trí nơi chư Phật.
(Kinh) Chư Phật vị thành Phật,
dĩ đương Phật vi trí mẫu, vị đắc
vi tánh, dĩ đắc vi Tát Bà Nhă. Tam thừa Bát Nhă bất
sanh, bất diệt, tự tánh thường trụ, nhất
thiết chúng sanh dĩ thử vi giác tánh cố.
(經)諸佛未成佛,以當佛為智母,未得為性,已得為薩婆若。三乘般若,不生不滅,自性常住。一切眾生以此為覺性故。
(Kinh: Chư Phật chưa thành Phật,
[Thật Tướng] sẽ là trí mẫu của Phật.
Khi chưa đắc [Phật quả, Thật Tướng]
sẽ là tánh (Phật tánh sẵn có). Khi đă đắc,
[thật Tướng] chính là Tát Bà Nhă. V́ Bát Nhă của tam thừa bất sanh,
bất diệt, tự tánh thường trụ, hết thảy
chúng sanh dùng điều này làm giác tánh).
Phần trên chỉ nói Thật Tướng
Bát Nhă là cái Thể của Tát Bà Nhă, phần này lần lượt
nói [Thật Tướng Bát Nhă là] cái Thể của mười
pháp giới. Lúc chư Phật chưa thành Phật, vốn
sẵn đủ Thật Tướng Bát Nhă; do chắc chắn
sẽ thành Phật, cho nên gọi là “trí mẫu”.
“Vị đắc vi tánh” (khi chưa đắc [Phật
quả] th́ là tánh): Trước khi chưa thành Phật, Thật
Tướng Bát Nhă bị vùi lấp trong vô minh,
chỉ gọi là “Phật tánh vốn sẵn có”,
như châu Ma Ni rơi vào bùn lầy, tuy chẳng thể phát
sanh tác dụng chiếu soi, nhưng tánh báu bất hoại.
“Dĩ đắc vi Tát Bà Nhă” (Đă
đắc Phật quả, [tánh ấy] là Tát Bà Nhă): Khi
đă thành Phật, Bổn Giác thoát khỏi trói buộc, Phật
tánh mới hiển lộ. Như Lư Trí, Như Lượng
Trí không ǵ chẳng trọn đủ, chính là Nhất Thiết
Trí. Như châu Ma Ni thoát khỏi bùn lầy, trong ngần,
thanh khiết, sáng ngời, Thể lẫn Dụng cùng phô
bày.
“Tam thừa Bát Nhă, bất sanh, bất diệt,
tự tánh thường trụ”: Nối tiếp ư trong phần
trên, há chỉ riêng chư Phật lấy Thật Tướng
Bát Nhă làm Thể, ngay cả tam thừa thánh nhân tu nhân chứng
quả cũng nương vào Thật Tướng Bát Nhă, bất
sanh, bất diệt, tự tánh thường trụ, lấy
đó làm Thể. Hai câu “bất sanh, bất diệt” nhằm
giải thích ư nghĩa của Thật Tướng.
“Nhất thiết chúng sanh dĩ thử vi
giác tánh cố” (Hết thảy chúng sanh dùng điều ấy
làm giác tánh): Không chỉ riêng tam thừa dùng điều
này làm Thể, mà ngay như hết thảy chúng sanh trong lục
đạo khởi Hoặc tạo nghiệp, tuy suốt
ngày mê muội, nhưng suốt ngày chẳng ĺa Thật
Tướng Bát Nhă, cũng dùng Thật Tướng ấy để làm tánh Bổn Giác, làm cái Thể
để thành Phật.
(Kinh) Nhược Bồ Tát vô thọ, vô
văn tự, ly văn tự vi phi văn tự, tu vô tu vi
tu. Tu vô tu giả, đắc Bát Nhă chân tánh, Bát Nhă Ba La Mật.
(經)若菩薩無受無文字。離文字,為非文字。修無修為修。修無修者,得般若真性,般若波羅密。
(Kinh: Nếu Bồ Tát chẳng có thọ,
chẳng có văn tự, ĺa văn tự là chẳng phải văn tự. Tu
“vô tu” là tu. “Tu vô tu” th́ sẽ đắc chân tánh Bát Nhă và Bát
Nhă Ba La Mật).
Nếu Bồ Tát chẳng thọ, tức là
Thọ Không. Chẳng có văn tự tức là Văn Tự
Không. Hai câu “ly văn tự” nhằm giải thích ư nghĩa “vô văn tự”,
tức là ĺa tướng văn tự, chẳng chấp
trước văn tự; đấy chính là Chân Đế.
“Vi phi văn tự” (là chẳng phải văn tự):
Chẳng phải là hoàn toàn không có văn tự. Đấy chính là Tục Đế. Bốn
câu kể từ “tu vô tu vi tu” trở đi, chữ Tu
hàm ư “chẳng phế bỏ tu học”. “Vô tu” tức
là chẳng chấp vào tướng tu. Đó gọi là “tu
chứng tức là chẳng không; nhiễm ô chính là chẳng
được!” Đó gọi là “xứng tánh mà tu”, tu chính là vô tu. “Tu vô tu” là câu nhắc lại ư nghĩa trong phần trên. Người có thể
thật sự tu vô tu th́ mới đạt được
chân không pháp tánh trong Thật Tướng Bát Nhă. Do Bát Nhă mà
đạt đến bờ kia Niết Bàn.
(Kinh) Đại vương! Nhược
Bồ Tát hộ Phật, hộ hóa chúng sanh, hộ Thập
Địa hạnh, vi nhược thử!
(經)大王!若菩薩護佛,護化眾生,護十地行,為若此。
(Kinh: Này đại vương! Nếu
Bồ Tát thủ hộ Phật, thủ hộ, giáo hóa chúng sanh, thủ
hộ hạnh Thập Địa, hăy nên làm như thế đó).
Đây là kết lại lời giải
đáp. “Nhược Bồ Tát hộ Phật” (nếu
Bồ Tát thủ hộ Phật) chính là thủ hộ cái quả.
“Hộ hóa chúng sanh”: Thủ hộ hạnh lợi tha. “Hộ
Thập Địa hạnh” là thủ hộ cái nhân. Ông hỏi
như thế nào th́ [lời giải đáp] là [hăy thực
hiện] như thế đó. Phần “phân biệt thuyết pháp” đă xong.
2.2.4.3.
Biện minh pháp môn bất nhị
(Kinh) Bạch Phật ngôn: - Vô lượng
phẩm chúng sanh, căn diệc vô lượng, hạnh diệc
vô lượng, pháp môn vi nhất, vi nhị, vô lượng
da?
(經)白佛言:無量品眾生,根亦無量,行亦無量。法門為一?為二?無量耶?
(Kinh: [Vua Ba Tư Nặc] bạch Phật
rằng: - Chúng sanh có vô lượng phẩm, căn cơ
cũng vô lượng, hạnh cũng vô lượng, [vậy
th́] pháp môn là một, là hai, hay là vô lượng?)
Đây là biện minh “pháp môn chẳng hai”. Vua
Ba Tư Nặc có ư nói: Chân tánh là một, nhưng chúng sanh
được thủ hộ, giáo hóa có phẩm loại vô
lượng sai biệt. Phẩm loại đă là vô lượng,
căn tánh cũng lại là vô lượng, chẳng biết
pháp môn Bát Nhă để giáo hóa là một, hay là hai, hay là vô
lượng?
(Kinh) Đại vương! Nhất thiết
pháp quán môn, phi nhất, phi nhị, năi hữu vô lượng.
Nhất thiết pháp diệc phi hữu tướng, phi phi
vô tướng.
(經)大王!一切法觀門,非一非二,乃有無量。一切法亦非有相,非非無相。
(Kinh: Này đại vương! Quán
môn của hết thảy các pháp chẳng phải một,
chẳng phải hai, mà có vô lượng. Hết thảy các
pháp cũng chẳng phải là có tướng, chẳng phải
là không phải không có tướng).
Đây là giải đáp “pháp môn chẳng hai”.
“Nhất thiết pháp quán môn” (Quán môn của hết thảy
các pháp): Đức Như Lai nói hết thảy các pháp đều
dùng cái trí có thể quán để làm cửa ngơ nhập
đạo. V́ thế nói là “quán môn”. “Phi nhất, phi
nhị” (chẳng phải một, chẳng phải hai):
Do [thuận theo] căn cơ mà thí giáo, giống như
[lương y] căn cứ theo chứng bệnh mà kê toa. Do
căn cơ chẳng nhất định, cho nên giáo chẳng
phải là một hay là hai!
Đối với câu “năi hữu vô lượng”
(bèn có vô lượng), đáng nên có hai cách giải thích:
- Một, chiếu theo kinh văn ở
đây, do chúng sanh phẩm loại vô lượng, cho nên nói
có vô lượng quán môn.
- Hai, xét theo ư hỏi [pháp môn] là một, là hai,
hay là vô lượng. Câu trước đó “phi nhất,
phi nhị” nhằm giải đáp câu hỏi “là một, hay là hai?”. Câu này
đáng lẽ phải là “phi vô lượng” (chẳng
phải là vô lượng), nhưng kinh văn lại chép là “năi
hữu vô lượng”, e rằng phải là “phi hữu
vô lượng” (chẳng phải là có vô lượng), nhưng do khi sao chép, đă ghi lại
sai ngoa. Bởi lẽ, Như Lai thuyết pháp chỉ là một
sự, chẳng có vô lượng. “Một sự” chính
là đại sự nhân duyên!
“Nhất thiết pháp diệc phi hữu
tướng, phi phi vô tướng” (Hết thảy các
pháp đều chẳng phải là có tướng, mà cũng
chẳng phải là không có tướng): Đây là nhắc lại
bốn câu (có, không, chẳng có chẳng không, cũng có
cũng không) đều ĺa, nhằm hiển thị bất
nhị. Ư nói: Quán môn của hết thảy các pháp cũng chẳng phải là có tướng.
Đó là phá tướng Hữu. Giữa đó, phải nên
có câu “phi vô tướng, phi diệc hữu tướng,
phi diệc vô tướng, phi phi hữu tướng” (chẳng
phải là vô tướng, chẳng phải là cũng có
tướng, chẳng phải là cũng vô tướng, chẳng
phải là không có tướng); câu cuối cùng mới là “phi
phi vô tướng” (chẳng phải là không phải không
có tướng). Chỉ nêu câu đầu tiên và cuối cùng,
các câu giữa đó lược đi. Như Lai thuyết
pháp vốn ĺa tứ cú, tuyệt bách phi, sao có “vô lượng”
để có thể nói ư?
(Kinh) Nhược Bồ Tát kiến chúng
sanh, kiến nhất, kiến nhị, tức bất kiến
nhất, bất kiến nhị. Nhất nhị giả,
Đệ Nhất Nghĩa Đế dă.
(經)菩薩見眾生,見一見二,即不見一不見二。一二者,第一義諦也。
(Kinh: Nếu Bồ Tát thấy chúng sanh,
thấy một, thấy hai, tức là chẳng thấy một,
chẳng thấy hai. “Một, hai” là Đệ Nhất
Nghĩa Đế).
Đây là nêu ra “chẳng phải” nhằm hiển
thị “chính là”. Bồ Tát thấy chúng sanh, nếu “thấy có một hay hai” th́ tức
là giống như phàm phu, dùng cái tâm phân biệt để thấy
Thật Tướng là một, Nhị Đế là hai.
Đó là cái thấy hư vọng chấp tướng, chẳng
thể thật sự thấy Nhất Thừa Thật
Tướng, mà cũng chẳng thể thấy Chân Tục
Nhị Đế. “Nhất nhị giả, Đệ Nhất
Nghĩa Đế dă” (“Một, hai” là Đệ Nhất
Nghĩa Đế): “Nhất, nhị” ở đây
chính là chân thật thấy “một, hai”, biết rơ một vốn chẳng
phải là một, hai vốn chẳng hai. Lại c̣n biết
rơ Thật Tướng chẳng nhất định là một,
Nhị Đế chẳng nhất định là hai. Giải
ngộ như thế, thật sự thấy Đệ Nhất
Nghĩa Đế chính là pháp môn bất nhị.
(Kinh) Đại vương! Nhược
hữu nhược vô giả, tức Thế Đế dă.
Dĩ Tam Đế nhiếp nhất thiết pháp, không đế,
sắc đế, tâm đế. Cố ngă thuyết “nhất
thiết pháp bất xuất Tam Đế, ngă nhân tri kiến, Ngũ Thọ Ấm Không, năi chí nhất
thiết pháp Không”.
(經)大王!若有若無者,即世諦也。以三諦攝一切法,空諦、色諦、心諦,故我說一切法不出三諦。我人知見五受陰空,乃至一切法空。
(Kinh: Này đại
vương! “Như là Có, như là Không” chính là Thế Đế.
Do Tam Đế bao gồm hết thảy các pháp, không đế,
sắc đế, tâm đế. V́ thế, ta nói “hết thảy
các pháp chẳng ra ngoài Tam Đế, ngă nhân tri kiến, Ngũ
Thọ Ấm Không, cho đến hết thảy các pháp đều là Không”).
Đây là nói “các Đế vốn là Không”.
“Nhược hữu, nhược vô” (dường
như là Có, dường như là Không): Chẳng phải là
Có mà dường như có, th́ nói là “nhược Hữu”.
Tuy có mà thật sự là Không, nên nói là “nhược vô”.
Như h́nh bóng trong gương, như trăng trong nước,
đấy chính là Thế Đế. “Dĩ Tam Đế
nhiếp nhất thiết pháp” (Do Tam Đế bao gồm
hết thảy các pháp): [Tam Đế] ở đây chẳng
phải nói Chân, Tục, Trung Tam Đế, mà là nói đến
ba Đế thuộc về Thế Đế. Kinh nêu ra danh
xưng của chúng là Không Đế, Sắc Đế (vô
t́nh thế gian chẳng ngoài hai thứ Sắc và Không), Tâm
Đế (chính là tâm pháp thuộc hữu t́nh thế gian). Sắc,
Không, Tâm pháp bao gồm chẳng sót các pháp trong thế gian. V́
thế, “ngă thuyết nhất thiết pháp bất xuất
Tam Đế” (ta nói “hết thảy các pháp chẳng ra
ngoài Tam Đế”).
Từ “ngă nhân tri kiến” trở
đi, hiển lộ Tam Giả. “Ngă nhân tri kiến”:
Các pháp vốn vô ngă, bất quá giả gọi là Ngă. Do Ngă mà
hiển lộ Nhân. Tất cả tri kiến nhân ngă đều
thuộc về Danh Giả. “Ngũ Thọ Ấm Không”:
Ngũ Ấm mà nói là Thọ (tiếp nhận), v́ chúng sanh do
tiếp nhận Ngũ Ấm ḥa hợp mà thành thân thể.
Chiếu kiến Ngũ Uẩn đều là không, tức
thuộc về Thọ Giả (受假, cảm nhận đều là giả).
“Năi chí nhất thiết pháp Không” (cho đến hết thảy các pháp đều là
Không): Bổn tánh của hết thảy các pháp đều là Không, tức là thuộc về
Pháp Giả. [Những điều vừa nói trên đây]
đủ để hiển thị Thế Đế hoàn
toàn quy vào Không.
(Kinh) Chúng sanh phẩm phẩm căn hạnh
bất đồng, cố phi nhất phi nhị pháp môn.
(經)眾生品品根行不同,故非一非二法門。
(Kinh: Mỗi phẩm loại
chúng sanh căn hạnh khác nhau, cho nên pháp môn chẳng phải một, chẳng
phải hai).
Đây là tổng kết sự đối ứng
khác nhau. “Chúng sanh phẩm phẩm căn hạnh bất
đồng” (chúng sanh có nhiều phẩm, căn hạnh
của mỗi phẩm khác nhau) tức là chúng sanh có từng
phẩm, phẩm loại vô lượng. V́ thế, căn
cơ và hành tướng cũng mỗi mỗi phẩm
đều sai khác. Do v́ lẽ đó, pháp môn được
nói ra cũng chẳng phải là một, chẳng phải
hai!
(Kinh) Đại vương! Thất Phật
thuyết Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật, ngă kim thuyết Bát Nhă Ba La
Mật, vô nhị, vô biệt.
(經)大王!七佛說摩訶般若波羅密,我今說般若波羅密,無二無別。
(Kinh: Này đại vương! Ma Ha
Bát Nhă Ba La Mật do bảy đức Phật nói và Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật do ta nói chẳng
hai, chẳng khác).
Đây là nói “Phật, Phật đạo
đồng”. “Thất Phật”: Ba vị Phật cuối
cùng trong một ngàn vị Phật thuộc quá khứ Trang
Nghiêm Kiếp, và bốn vị Phật trong một ngàn vị
Phật thuộc hiện tại Hiền Kiếp, Phật
Thích Ca xếp hàng thứ tư. [Đoạn kinh văn này] chỉ rơ pháp do Ngài nói hoàn toàn giống
như chư Phật [đă nói], hiển thị pháp chân chánh
đều cùng là
vô sở đắc, chẳng
hai, chẳng khác.
(Kinh) Nhữ đẳng đại
chúng, thọ tŕ, độc tụng, giải thuyết thị
kinh công đức, hữu vô lượng bất khả
thuyết bất khả thuyết chư Phật, nhất
nhất Phật giáo hóa vô lượng bất khả thuyết
chúng sanh, nhất nhất chúng sanh giai đắc thành Phật.
Thị Phật phục giáo hóa vô lượng bất khả
thuyết chúng sanh, giai đắc thành Phật. Thị
thượng tam Phật, thuyết Bát Nhă Ba La Mật kinh,
bát vạn ức kệ, ư nhất kệ trung, phục
phân vi thiên phần, ư nhất phần trung, thuyết
nhất phần cú nghĩa, bất khả cùng tận.
(經)汝等大眾,受持讀誦,解說是經功德,有無量不可說不可說諸佛。一一佛教化無量不可說眾生,一一眾生皆得成佛。是佛復教化無量不可說眾生,皆得成佛。是上三佛,說般若波羅密經,八萬億偈,於一偈中復分為千分,於一分中說一分句義,不可窮盡。
(Kinh: Đại chúng các ngươi
thọ tŕ, đọc tụng, giải nói kinh này, sẽ có
công đức [được diễn tả như sau]: Có
vô lượng bất khả thuyết bất khả thuyết
chư Phật, mỗi vị Phật giáo hóa vô lượng
bất khả thuyết chúng sanh, mỗi chúng sanh đều
được thành Phật. Các vị Phật [vừa
được thành Phật] ấy lại giáo hóa vô lượng
bất khả thuyết chúng sanh [khiến cho họ] đều được thành Phật.
Ba loại Phật trên đây nói kinh Bát Nhă Ba La Mật tám vạn
ức bài kệ, trong một kệ lại chia thành một
ngàn phần, nói một phần ư nghĩa của câu kinh trong
một phần ấy [th́ công đức đạt
được] đă là chẳng thể cùng tận).
Đây là [diễn nói] công đức tŕ kinh. “Thọ
tŕ”: Đại Trí Độ Luận giảng: “Nghe rồi
phụng hành là Thọ, [ǵn giữ] lâu ngày chẳng mất
là Tŕ”. [Tụng niệm kinh mà] đối trước
kinh bổn là Đọc, nhớ thuộc ḷng th́ là Tụng.
“Giải thuyết”: Giải thích, tuyên nói nghĩa lư
trong kinh. Nếu có thể như thế, sẽ tự đạt
được công đức chẳng thể nghĩ bàn,
giống như kinh Kim Cang Bát Nhă đă nói: “Thị kinh
nghĩa bất khả tư nghị, quả báo diệc bất
khả tư nghị” (kinh này nghĩa lư chẳng thể
nghĩ bàn, quả báo cũng chẳng thể nghĩ bàn).
“Hữu vô lượng bất khả thuyết
bất khả thuyết chư Phật” (có vô lượng
bất khả thuyết bất khả thuyết chư Phật):
Vô Lượng và Bất Khả Thuyết đều là danh
xưng của mười con số lớn tại Ấn
Độ. Đầu tiên là A-tăng-kỳ (Asāṃkhya), tức là Vô Số, kế đó là Vô Lượng,
cho đến con số thứ mười là Bất Khả
Thuyết Bất Khả Thuyết[6].
Đấy là nói tột cùng số lượng Phật rất
nhiều. “Nhất nhất Phật giai giáo hóa vô lượng
bất khả thuyết chúng sanh, nhất nhất chúng sanh,
giai đắc thành Phật. Nhất nhất Phật phục
giáo hóa vô lượng bất khả thuyết chúng sanh, tề
thành Phật đạo. Thị thượng tam chư Phật,
đồng thuyết Bát Nhă Ba La Mật kinh, bát vạn ức
kệ” (Mỗi vị Phật đều giáo hóa vô lượng
bất khả thuyết chúng sanh. Mỗi một chúng sanh
đều được thành Phật. Mỗi vị Phật
lại giáo hóa vô lượng chẳng thể nói chúng sanh
đều thành Phật đạo. Ba đời chư Phật như trên đây cùng nói kinh Bát Nhă Ba La Mật,
tám vạn ức bài kệ): Cho thấy pháp được
nói sâu rộng. Trong mỗi bài kệ, lại chia thành một
ngàn phần. Trong một phần ngàn ấy, nếu nói một phần cú nghĩa th́
đă đạt được công đức chẳng thể
cùng tận. Câu cuối cùng là nói về công đức, kinh
văn ghi tỉnh lược.
(Kinh) Huống phục ư thử kinh
trung, khởi nhất niệm tín, thị chư chúng sanh siêu
bách kiếp, thiên kiếp Thập Địa đẳng
công đức, hà huống thọ tŕ, độc tụng,
giải thuyết công đức giả, tức thập
phương chư Phật đẳng vô hữu dị.
(經)況復於此經中,起一念信;是諸眾生,超百劫千劫十地等功德。何況受持讀誦解說者功德,即十方諸佛等無有異。
(Kinh: Huống hồ đối với
kinh này, dấy lên một niệm tin tưởng
th́ các chúng sanh ấy vượt hơn công đức của
bậc Thập Địa trong trăm kiếp, ngàn kiếp,
huống hồ là công đức của người thọ
tŕ, đọc tụng, giải nói, [công đức ấy]
bằng với công đức của mười
phương chư Phật chẳng khác).
Đây là so sánh sự thù thắng. Tiếp nối
[phần kinh văn nói về công đức của người
giải nói] ư nghĩa của một phần ngàn bài kệ
trong phần trước, công đức ấy c̣n là vô cùng. Huống hồ là người
có thể sanh khởi một niệm tịnh tín đối
với kinh này, chẳng sanh ngờ vực, do kinh này là liễu
nghĩa chân thật. Các chúng sanh ấy sẽ đạt
được vô lượng vô biên công đức, nhanh
chóng vượt thoát khổ nạn sanh tử trong trăm
kiếp, ngàn kiếp, mà cũng vượt hơn công đức
của bậc Thập Địa. Một niệm tín tâm c̣n
có thể siêu phàm vượt thánh, huống hồ thọ
tŕ, đọc tụng, giải nói, tự hành, dạy
người
th́ công đức ấy
há có bến bờ ư? Tức là [công đức ấy] bằng với công đức của
mười phương chư Phật, b́nh đẳng chẳng
khác!
(Kinh) Đương tri thị nhân tức
thị Như Lai, đắc Phật bất cửu.
(經)當知是人即是如來,得佛不久。
(Kinh: Hăy nên biết người ấy
chính là Như Lai, chẳng lâu nữa sẽ thành Phật).
“Đương tri thị nhân” (hăy nên
biết người ấy): Đức Phật chứng
minh người ấy giống như Phật, cho nên bảo
đại chúng “hăy nên biết”. “Tức thị Như
Lai” (chính là Như Lai): Do có thể thọ tŕ, đọc
tụng pháp Thật Tướng để tự giác. [Lại
c̣n] v́ người khác giải nói, tức là giác tha. Tự
giác và giác tha hoàn toàn giống hệt hạnh của Phật.
Như Sơ Trụ trong Viên Giáo có thể phân thân trong một
trăm thế giới, thị hiện tám tướng thành
đạo. V́ thế nói “tức thị Như Lai”.
Nhưng do c̣n thuộc vào địa vị tu nhân, chưa dự
vào Quả Giác, cho nên nói “đắc Phật bất cửu”
(chẳng lâu sau sẽ thành Phật). Nói “bất cửu”
tức là [người ấy] sẽ đắc Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác.
(Kinh) Thời chư đại chúng,
văn thuyết thị kinh, thập ức nhân đắc
Tam Không Nhẫn, bách vạn ức nhân đắc Đại
Không Nhẫn, Thập Địa tánh.
(經)時,諸大眾,聞說是經,十億人得三空忍,百萬億人得大空忍,十地性。
(Kinh: Khi đó, các đại chúng nghe
nói kinh này, mười ức người đắc Tam
Không Nhẫn, trăm vạn ức người đắc
Đại Không Nhẫn, Thập Địa tánh).
Đây là nghe kinh đạt được lợi
ích. Mười ức người đắc Tam Không Nhẫn,
tức là địa vị Tam Hiền, chia thành Ngă Không, Pháp
Không, [Ngă Pháp] Câu Không. Trăm vạn ức người
đắc Đại Không Nhẫn, Thập Địa Tánh,
tức là đắc Đệ Nhất Nghĩa Không, chứng
nhập Thánh Chủng Tánh Thập Địa.
(Kinh) Đại vương! Thử kinh
danh vi Nhân Vương Vấn Bát Nhă Ba La Mật
Kinh. Nhữ đẳng thọ tŕ Bát Nhă Ba La Mật kinh, thị
kinh phục hữu vô lượng công đức, danh vi Hộ
Quốc Độ Công Đức, diệc danh Nhất Thiết
Quốc Vương Pháp Dược, phục hành vô bất đại
dụng, hộ xá trạch công đức, diệc hộ nhất
thiết chúng sanh thân, tức thử Bát Nhă Ba La Mật, thị
hộ quốc độ, như thành, tiệm, tường
bích, đao, kiếm, mâu, thuẫn, nhữ ưng thọ tŕ
Bát Nhă Ba La Mật diệc phục như thị.
(經)大王!此經名為『仁王問般若波羅密經』。汝等受持『般若波羅密經』,是經復有無量功德,名為護國土功德,亦名一切國王法藥,服行無不大用。護舍宅功德,亦護一切眾生身。即此般若波羅密,是護國土,如城塹牆壁,刀劍鉾楯。汝應受持般若波羅密,亦復如是。
(Kinh: Này đại
vương! Kinh này tên là kinh Nhân Vương Vấn Bát Nhă Ba La Mật.
Các ông thọ tŕ kinh Bát Nhă Ba La Mật. Kinh
này lại có vô lượng công đức, gọi
là Hộ Quốc Độ Công Đức, cũng gọi
là Nhất Thiết Quốc Vương Pháp Dược (thuốc
pháp của hết thảy quốc vương), uống vào
không ai chẳng có tác dụng to lớn, có công đức thủ
hộ nhà cửa, và cũng thủ hộ thân của hết
thảy chúng sanh, tức là Bát Nhă Ba La Mật này thủ hộ
quốc độ như thành, hào, tường vách, đao,
gươm, mâu, khiên. Các ông hăy nên thọ
tŕ Bát Nhă Ba La Mật cũng lại như thế).
Đây là kết lại bằng
cách đặt tên kinh. Kinh này tên là Nhân Vương Vấn
Bát Nhă Ba La Mật, tức là dùng người thỉnh pháp
để đặt tên. Người kết tập kinh
thêm vào công năng để đặt tên kinh, cho nên
gọi là Phật Thuyết Nhân Vương Hộ Quốc
Bát Nhă Ba La Mật Kinh; thật ra là thủ hộ hết thảy
các thứ suy năo v.v… Do hộ quốc là chuyện trọng yếu,
cho nên dùng điều đó để đặt tên. Hết
thảy chúng sanh đều nên thọ tŕ kinh này. Từ câu
“thị
kinh phục hữu vô lượng công đức” (kinh này lại có
vô lượng công đức) trở đi, hiển lộ
công năng của kinh. “Danh vi Hộ Quốc Độ
Công Đức” (tên là Hộ Quốc Độ Công Đức):
Pháp hộ quốc cần phải nhờ vào Bát Nhă. Dùng Bát
Nhă để giáo hóa dân chúng, dân chúng sẽ tốt lành. Dân tốt
lành, thói tục sẽ tốt đẹp. Thói tục tốt
đẹp, đất nước sẽ b́nh trị. Dân chính
là cái gốc của đất nước. Bát Nhă lại là
cái gốc để giáo hóa dân. Hộ quốc mà nếu có
thể hoằng dương Bát Nhă, ắt đạt
được cái gốc này. Đă đạt được
cái gốc này, bốn biển sẽ trong lành, muôn dân an lạc,
c̣n lo ǵ quốc gia chẳng b́nh trị!
“Diệc danh Nhất Thiết
Quốc Vương Pháp Dược” (Cũng gọi là
thuốc pháp của hết thảy các quốc
vương): Thuốc thế gian có thể trị bệnh
nơi thân của chúng sanh, có thể cứu người,
nhưng Bát Nhă có thể trị hai chứng bệnh thân và
tâm. Vua có thể nương theo môn Bát Nhă này để trở
thành vị vua nhân từ, những ǵ vua thực hiện
đều là sự cai trị bằng ḷng nhân. Các bệnh xấu
ác trong tâm đều có thể hóa trừ, v́ thế gọi
là “pháp dược”. “Phục hành vô bất đại dụng”
nghĩa là có thể uống pháp dược Bát Nhă này,
nương theo pháp này để hành, không ai chẳng đạt
được lực dụng rộng
lớn của kinh này. Lực dụng ǵ vậy? Có thể
thủ hộ thân vua được tự tại an lạc,
ĺa các chuyện sợ hăi, suy năo v.v… Đă có thể thủ hộ vua th́ hộ quốc
cũng bao gồm
trong đó.
“Hộ xá trạch công
đức, diệc hộ nhất thiết chúng sanh thân”
(có công đức thủ hộ nhà cửa, và cũng thủ
hộ thân của hết thảy chúng sanh): Đây là nói tới
lực dụng thủ hộ chung. Vua nương theo Bát
Nhă, có thể hộ quốc, hộ thân; hết thảy
chúng sanh có thể nương theo Bát Nhă, không ǵ đều
chẳng vậy, sẽ tự có thể thủ hộ gia
đ́nh, thủ hộ bản thân. Tức là môn Bát Nhă này
chính là pháp để thủ hộ quốc độ mạnh
mẽ nhất. Bát Nhă như thành, hào, tường
vách, kiên cố chẳng thể phá. Bát Nhă như đao,
gươm, mâu, khiên, sắc bén chẳng thể chạm. “Nhữ ưng đương thọ tŕ thị kinh” (Các ông hăy nên thọ tŕ
kinh này), lời dạy trong
đoạn kinh văn này dường như trùng lặp phần
trước. Suy xét cặn kẽ ư Phật th́ phần
trước là căn dặn chung dành cho đại chúng, c̣n
ở đây là riêng căn dặn quốc vương. Công lực
của kinh này như thành, hào, vách tường, đao,
gươm, mâu, khiên, có thể hộ quốc. V́ thế nói “diệc
phục như thị” (cũng giống như thế).
Phần kết lại để khuyên thọ tŕ đă xong.
Phật Thuyết Nhân Vương
Hộ Quốc
Bát Nhă Ba La Mật Kinh Giảng
Nghĩa,
Quyển hạ
2.2.5. Phẩm thứ năm: Hộ Quốc
(Hộ Quốc phẩm đệ ngũ, 護國品第五)
Trong phần trước,
Như Lai nhập định, phóng quang, hiện chuyện
chẳng thể nghĩ bàn. Sau đó, Ngài xuất Định,
biết ư của mười sáu đại quốc vương
muốn hỏi về nhân duyên hộ quốc. Trước
hết,
đức Phật v́ họ nói nhân duyên thủ hộ Phật
quả, nhân duyên thủ hộ hạnh Thập Địa.
Phẩm này mới nói về chuyện hộ quốc. Phần
trước là nội hộ, phần này là ngoại hộ.
Do nội hộ đă nêu bày, cho nên ngoại hộ cũng
nên tỏ rơ. Quốc độ chính là cơi quả báo do cộng
nghiệp của chúng sanh cảm vời. Vận nước
hưng hay suy, đều do ḷng người chuyển dời.
Nếu trên là bậc vương giả, dưới đến
nhân dân, ai nấy đều có thể thuận theo chánh lư
Bát Nhă, ắt nước sẽ chẳng tranh chấp. Nếu
nhân loại trên toàn thể thế giới, có thể thuận
theo chánh lư Bát Nhă, toàn thể thế giới sẽ chẳng
tranh chấp. Chánh lư Bát Nhă nói về Chân Không, ĺa hết thảy
các tướng. Vô ngă tướng, vô pháp tướng, vô
chúng sanh tướng, vô quốc độ tướng, mà
cũng chẳng có người thủ hộ (năng hộ)
và cái được thủ hộ (sở hộ) để
có thể nói. Nay nói “hộ quốc” chính là nương
theo Tục Đế môn, tùy duyên kiến lập thế giới
chúng sanh, bèn có kiến giải “ta, người” dấy
lên. Đôi bên đối đăi, cương vực mỗi
nước mỗi xác lập, yêu mến dân tộc của
chính ḿnh, các nước đều đề cao nước
ḿnh.
V́ thế, có chuyện đấu tranh, xâm lược dấy
lên. Ḷng người ngày càng bạc bẽo, thế đạo
ngày càng đi xuống, bo bo ham muốn lợi ḿnh, chẳng
màng tổn hại kẻ khác. Người và người
tranh chấp, nước này đánh nước kia, đến
nỗi quốc giới chẳng được an ninh, nhân dân ngày càng bị thống
khổ. Có thể thấy “thế giới nhiễu loạn
đều do ḷng người tạo thành!” V́ thế, đức
Phật nói kinh này ḥng cứu văn ḷng người để
hộ tŕ quốc độ. Ḷng người có thể thuận
theo chánh lư Bát Nhă, hoằng dương đại giáo Bát Nhă,
sẽ xứng hợp Phật tâm, trời, rồng, quỷ
thần đều sanh hoan hỷ, nguyện thủ hộ
quốc độ. V́ thế nói phẩm này.
(Kinh) Nhĩ thời, Phật
cáo đại vương: - Nhữ đẳng thiện
thính, ngô kim chánh thuyết hộ quốc độ pháp dụng,
nhữ đương thọ tŕ Bát Nhă Ba La Mật.
(經)爾時佛告大王:汝等善聽,吾今正說護國土法用,汝當受持般若波羅密。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
đức Phật bảo đại vương: - Các ông
hăy khéo nghe, ta nay nói thẳng vào hành pháp và lực dụng thủ
hộ quốc độ, các ông hăy nên thọ tŕ Bát
Nhă Ba La Mật).
Đức Phật bảo
đại vương, tuy bảo vua Ba Tư Nặc,
nhưng chính là gồm chung mười sáu vị đại
quốc vương. Ngài răn dạy “nhữ đẳng
thiện thính” (các ông hăy khéo nghe), tức là mong họ
đều có thể tai nghe, tâm lănh. “Ngô kim chánh thuyết
pháp dụng” (ta nay nói thẳng vào hành pháp và lực dụng):
Nói về cách thực hành và lực dụng của pháp hộ
quốc, khuyên họ thọ tŕ Bát Nhă.
(Kinh) Đương quốc
độ dục loạn, phá hoại kiếp thiêu, tặc
lai phá quốc thời.
(經)當國土欲亂,破壞劫燒,賊來破國時。
(Kinh: Khi cơi nước
sắp loạn, phá hoại, kiếp thiêu, giặc đến
phá nước).
Đây là luận định
lúc cần phải thủ hộ. Ḷng người chẳng
thuận theo chánh lư Bát Nhă, trăm điều thiện chẳng
thành, chư thánh ẩn tàng. Bảy nạn sắp dấy
lên, tai hại liên tiếp nẩy sanh, quốc độ sắp
loạn. Nếu quốc vương chẳng tu đức
để giải trừ tai nạn, ắt sẽ đến
nỗi quốc độ bị phá hoại, giống
như lúc kiếp hỏa thiêu đốt, khó thể bảo
tồn! “Kiếp thiêu” chính là đại tam tai, kiếp
hỏa cháy tiêu tan, đại thiên bị đốt tan. “Tặc
lai phá quốc” (Giặc đến phá nước): Giặc
có giặc trong và giặc ngoài. “Giặc ngoài” tức là giặc
đối nghịch đất nước, có ư muốn phá
hoại nước nhà. “Giặc trong” tức là giặc phiền
năo trong tâm của vua và dân, thảy đều nhiễu
động, trái nghịch chánh lư Bát Nhă, ươm thành thời
kiếp phá hoại đất nước. “Thời”
chính là lúc phải nên thủ hộ.
(Kinh) Đương thỉnh
bách Phật tượng, bách Bồ Tát tượng, bách La
Hán tượng, bách tỳ-kheo chúng, tứ đại chúng,
thất chúng cộng thính. Thỉnh bách pháp sư, giảng Bát
Nhă Ba La Mật.
(經)當請百佛像,百菩薩像,百羅漢像,百比丘眾,四大眾,七眾,共聽。請百法師,講般若波羅密。
(Kinh: Hăy nên thỉnh một
trăm bức tượng Phật, một trăm tượng
Bồ Tát, một trăm tượng La Hán, một trăm
tỳ-kheo, bốn đại chúng, bảy chúng cùng nghe. Thỉnh
một trăm pháp sư giảng Bát Nhă Ba La Mật).
Đây là giảng về hành
pháp hộ quốc. Trước hết là thỉnh Tam Bảo.
Tượng Phật là Phật Bảo, Bát Nhă là Pháp Bảo,
những vị khác đều là Tăng Bảo. “Tứ
đại chúng” là ảnh hưởng chúng,
đương cơ chúng, phát khởi chúng, và kết duyên
chúng. “Thất chúng” là tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, thức-xoa-ma-ni,
sa-di, sa-di-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di. Năm chúng sau
cũng là Tăng Bảo trong vị lai. Tam Bảo là đại
phước điền. Trước hết, thỉnh [Tam
Bảo] nhằm cầu thỉnh phước lực gia bị,
ḥng tiêu trừ tai nạn. Số lượng của bảy
loại ấy đều là một trăm, do “một
trăm” là con số viên măn.
(Kinh) Bách sư tử hống
cao ṭa tiền, nhiên bách đăng, thiêu bách ḥa hương,
bách chủng sắc hoa, dĩ dụng cúng dường Tam Bảo.
Tam y, thập vật, cúng dường pháp sư, tiểu phạn,
trung thực, diệc phục dĩ thời.
(經)百師子吼高座前,燃百燈,燒百和香,百種色華,以用供養三寶。三衣什物,供養法師。小飯中食,亦復以時。
(Kinh: Đối
trước trăm ṭa cao sư tử hống, thắp một
trăm ngọn đèn, đốt trăm loại
hương ḥa chế, trăm loại hoa đẹp để
cúng dường Tam Bảo. Ba y, các vật dụng
để cúng dường pháp sư. Điểm tâm, cơm
trưa cũng đều đúng thời dâng cúng).
Kế đến là tu cúng
dường. “Sư tử ṭa”: Ṭa ngồi được
gọi là “sư tử” biểu thị thuyết pháp
vô úy. Đèn có thể phá tối tăm, dùng để biểu
thị trí huệ. Hương có thể trừ khử ô uế,
dùng để biểu thị giới. Hoa có thể kết
quả, biểu thị cái nhân. Dùng các thứ ấy để
cúng dường Tam Bảo.
“Tam y, thập vật cúng
dường pháp sư”: Ba y (Trīni-cīvarāni) th́:
- Một,
Tăng-già-lê (Saṁghāti),
phương này dịch là Tạp Toái Y (雜碎衣, áo
do nhiều miếng vụn ghép lại), tức đại y, có chín phẩm[7].
Ba phẩm thượng gồm [nhiều mảnh, mỗi mảnh
gọi là một “điều”, mỗi điều lại
gồm] bốn mảnh dài và một mảnh ngắn [may chằm
lại]. Ba phẩm trung th́ [mỗi điều gồm] ba mảnh
dài một mảnh ngắn [may chằm lại]. Ba phẩm hạ
th́ [mỗi điều lại gồm] hai mảnh dài và một
mảnh ngắn.
- Hai, Uất-đa-la-tăng
(Uttarāsaṅga),
phương này dịch là Nhập Chúng Y (入眾衣), [mỗi điều
trong loại y này] cũng là hai mảnh dài, một mảnh
ngắn.
- Ba, An-đà-hội
(Antarvāsaka),
phương này dịch là Tác Vụ Y (作務衣, áo để mặc khi làm việc), [mỗi điều] gồm một mảnh
dài, một mảnh ngắn.
“Thập vật” tức
là các vật như bát, ngọa cụ v.v… dùng để cúng
dường pháp sư. “Tiểu phạn, trung thực, diệc
phục dĩ thời”: “Tiểu
phạn” tức là tiểu
thực (ăn lót ḷng, điểm tâm). “Trung thực”
là bữa ăn trưa. Cũng phải đúng thời dâng
lên, không để quá Ngọ, biểu thị ḷng thành phụng
sự thầy.
(Kinh) Đại
vương! Nhất nhật nhị thời giảng kinh.
Nhữ quốc độ trung, hữu bách bộ quỷ thần,
thị nhất nhất bộ, phục hữu bách bộ,
nhạo văn thị kinh. Thử chư quỷ thần, hộ
nhữ quốc độ.
(經)大王!一日二時講經。汝國土中,有百部鬼神。是一一部,復有百部。樂聞是經。此諸鬼神,護汝國土。
(Kinh: Này đại
vương! Mỗi ngày hai thời giảng kinh, trong quốc
độ của ông, có trăm bộ quỷ thần, trong
mỗi bộ ấy, lại có một trăm bộ, thích
nghe kinh này. Các quỷ thần ấy sẽ thủ hộ quốc
độ của ông).
Đây là nói đến sự
cơ cảm thủ hộ. Hai thời chia ra thành sáng và chiều.
Có thể giảng kinh này, ắt sẽ cảm quỷ thần
thủ hộ. “Nhữ quốc độ trung, hữu
bách bộ quỷ thần” (Trong quốc độ của
ông có trăm bộ quỷ thần): Theo Kim Ngân Tiên Nhân
Nghĩa Kinh, quỷ thần về căn bản có mười
bộ, một là đại thần bộ,
cho đến bộ thứ mười là La Sát thần bộ.
Trong mỗi bộ, lại có mười bộ. V́ thế
nói là “một trăm bộ”. Mỗi bộ lại có một
trăm bộ, hợp thành một vạn bộ. Họ
ưa thích nghe kinh này, nếu có thể giảng diễn, cố
nhiên sẽ cảm ứng họ ủng hộ, khiến cho
[quốc độ] chẳng có bảy nạn. Bảy nạn
đă chẳng có, có thể luôn giảng diễn, họ sẽ
thường được nghe pháp.
(Kinh) Đại
vương! Quốc độ loạn thời, tiên quỷ
thần loạn. Quỷ thần loạn cố, vạn dân
loạn, tặc lai kiếp quốc, bách tánh vong táng. Quân thần,
thái tử, vương tử, bách quan, cộng sanh thị
phi, thiên địa quái dị, nhị thập bát tú, tinh
đạo nhật nguyệt, thất thời, thất độ, đa hữu tặc
khởi.
(經)大王!國土亂時,先鬼神亂。鬼神亂故,萬民亂,賊來劫國,百姓亡喪。君臣太子,王子百官,共生是非。天地怪異,二十八宿,星道日月,失時失度。多有賊起。
(Kinh: Này đại
vương! Khi quốc độ loạn lạc, quỷ
thần loạn trước. Do quỷ thần loạn,
muôn dân rối loạn, giặc đến cướp
nước, dân chúng mất mạng, tang tóc. Vua tôi, thái tử,
vương tử, trăm quan cùng sanh thị phi với
nhau. Trời đất quái lạ, hai mươi tám ngôi sao,
ngũ tinh, mặt trời, mặt trăng vận hành trái thời, sai lệch, có nhiều giặc
giă nổi lên).
Đây là nói rơ bảy
nạn cùng dấy lên. “Quốc độ loạn thời,
tiên quỷ thần loạn” (khi quốc độ loạn,
quỷ thần loạn trước): Quỷ thần chẳng
nghe chánh pháp, ác tâm tăng trưởng, cho nên nhiễu loạn.
Do quỷ thần loạn, năo loạn vạn dân, cho nên muôn
dân cũng loạn. Giặc ác kéo đến cướp
đoạt đất nước. Do đó dân chúng tử vong,
tang tóc. Đây là nạn quỷ thần và nạn giặc
cướp. Vua tôi, thái tử, vương tử, trăm
quan cùng sanh thị phi với nhau: Do ư kiến nhân ngă chia
cách, trên dưới đua nhau tranh giành lợi lộc,
đến nỗi nẩy sanh thị phi với nhau, đôi
bên chẳng ḥa thuận. Đó chính là cái nhân gây họa cho
đất nước. Điều này thuộc về nạn
vua tôi.
“Thiên địa
quái dị”: Do ḷng người bất thiện, đến
nỗi tổn thương sự hài ḥa trong thiên nhiên, cảm
vời địa chấn. “Quái dị” tức là
mưa băo kéo dài, sông ng̣i tràn bờ gây lụt lội v.v… Các thứ
tai nạn bất tường hiện ra.
“Nhị thập
bát tú, tinh đạo nhật nguyệt, thất thời thất
độ”: Trên bầu trời, tinh tú cực nhiều,
nói “nhị thập bát tú”[8]
là do coi [các tinh ṭa đó] là chủ yếu. Phương
Đông gồm bảy cḥm sao, tức Giác, Cang, Đê, Pḥng,
Tâm, Vĩ, Cơ. Phương Nam gồm bảy cḥm sao, tức
Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.
Phương Tây bảy cḥm sao, tức Khuê, Lâu, Vị, Măo, Tất,
Chủy, Sâm. Phương Bắc gồm bảy cḥm sao, tức
Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích. “Tinh
đạo” tức là năm tinh tú Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, Thổ, cùng với Thái Âm, Thái Dương là nhật
nguyệt. Độ số [của các tinh tú] lầm loạn,
thời tiết, khí hậu chẳng chuẩn, cho nên nói là “thất
thời, thất độ”. Hiện tượng thiên
văn hiển hiện tương ứng với điềm
tai ương trong nhân gian, cho nên có nhiều giặc giă dấy
lên. Như khi mặt trăng hiện có quầng bảy tầng
th́ Hán Minh Đế gặp nạn vây hăm v.v… Điều này
thuộc về nạn tinh tú.
(Kinh) Đại
vương! Nhược hỏa nạn, thủy nạn,
phong nạn, nhất thiết chư nạn, diệc ưng
giảng thử kinh. Pháp dụng như thượng thuyết.
(經)大王!若火難,水難,風難,一切諸難,亦應講此經。法用如上說。
(Kinh: Này đại
vương! Nếu có nạn lửa, nạn nước, nạn
gió, hết thảy các nạn, cũng nên giảng
kinh này. Pháp dụng như trên đă nói).
Nạn lửa, nạn nước,
nạn gió là tam tai. Đây chẳng phải là đại tam
tai. Nếu là đại tam tai, không chỉ một nước
mắc nạn! [Trong đại tam tai], kiếp hỏa trọn
khắp, có thể đốt tới trời Sơ Thiền.
[Thủy tai trong tam tai th́] nước ngập đến Nhị
Thiền. [Phong tai trong tam tai th́] gió quét sạch Tam Thiền.
[Trong đoạn kinh văn này], ba tai nạn ấy
(lửa, nước, gió) chỉ có một nước hứng
chịu, nước khác chẳng bị, một
phương thấy, phương khác chẳng thấy. Các
tai nạn này thuộc về tiểu tam tai. “Nhất thiết chư nạn” (Hết thảy các nạn) là từ ngữ chỉ tổng
quát. Nếu lúc gặp bảy nạn dấy lên, cũng nên
giảng kinh này. Công năng và lực dụng nơi pháp này
cũng giống như trên đă nói. Phần nói về hành
pháp hộ quốc đă xong.
(Kinh) Đại
vương! Bất đản hộ quốc, diệc hữu
hộ phước: Cầu phú quư, quan vị, thất bảo
như ư, hành lai, cầu nam nữ, cầu huệ giải,
danh văn, cầu lục thiên quả báo, nhân trung cửu phẩm
quả báo, diệc giảng thử kinh, pháp dụng như
thượng thuyết.
(經)大王!不但護國,亦有護福。求富貴官位,七寶如意。行來求男女,求慧解,名聞,求六天果報,人中九品果報。亦講此經。法用如上說。
(Kinh: Này
đại vương! Không chỉ hộ quốc, mà
cũng hộ phước: Cầu phú quư, quan chức, bảy
báu như ư, đi lại, cầu con trai hay con gái, cầu huệ
giải, danh vọng, cầu quả báo trong sáu tầng trời,
cầu chín phẩm quả báo trong nhân gian, cũng giảng
kinh này, pháp dụng như trên đă nói).
Đây là nói về pháp dụng
của Bát Nhă. Không chỉ hộ quốc, mà c̣n có thể thủ
hộ phước đức, có thể thủ hộ quan lẫn dân, khiến cho họ đạt
được chín loại phước. Cầu giàu có, sẽ
được giàu có, dư dật. Cầu quư hiển,
đạt được quan chức. Cầu bảy báu tức
vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mă năo là bảy
thứ, sở cầu như ư. “Cầu hành lai” tức
đi, ở, đến, đi, an lạc vô bệnh. Hoặc
cầu có con trai, con gái, hoặc cầu huệ giải, hoặc
cầu danh vọng, hoặc cầu quả báo trong sáu tầng
trời [cơi Dục], được sanh vào Dục Giới.
“Hoặc cầu nhân trung cửu phẩm” (hoặc cầu
chín phẩm trong nhân gian): [Nhân loại được chia thành]
ba phẩm thượng, trung, hạ, mỗi phẩm lại
chia thành ba, hợp thành chín phẩm. Thượng thượng
phẩm Đạo
Chủng
Tánh,
là Kim Luân Vương. Thượng trung phẩm Tánh
Chủng
Tánh
là Ngân Luân Vương. Thượng hạ phẩm Tập
Chủng
Tánh
là Đồng Luân Vương. Trung thượng phẩm là
Thiết Luân Vương. Trung trung phẩm là túc tán
vương. Trung hạ phẩm là tiểu quốc
vương. Hạ thượng phẩm là Sát-lợi, thế
gia, vọng tộc. Hạ trung phẩm là Bà-la-môn. Hạ hạ
phẩm là cư sĩ v.v… Đối với các quả báo
cũng giảng kinh này, pháp dụng như đă nói trong phần
kinh văn trên đây.
(Kinh) Đại
vương! Bất đản hộ phước, diệc
hộ chúng nạn. Nhược tật bệnh khổ nạn,
sửu giới già tỏa, kiểm hệ kỳ thân, phá tứ
trọng tội, tác ngũ nghịch nhân, tác bát nạn tội,
hành lục đạo
sự, nhất thiết vô lượng khổ nạn, diệc
giảng thử kinh. Pháp dụng như thượng thuyết.
(經)大王!不但護福,亦護眾難。若疾病苦難。杻械枷鎖,檢繫其身。破四重罪,作五逆因。作八難罪,行六道事。一切無量苦難,亦講此經。法用如上說。
(Kinh: Này đại
vương! Không chỉ hộ phước mà cũng ngăn ngừa các nạn. Nếu
bệnh tật khổ nạn, c̣ng, cùm, gông, xiềng trói buộc
thân ḿnh, phá bốn trọng tội, tạo cái nhân ngũ nghịch,
tạo tội tám nạn, làm chuyện thuộc sáu
đường, hết thảy vô lượng
khổ nạn, cũng giảng kinh này, pháp dụng như
trên đă nói).
Đây là nói về pháp dụng
Bát Nhă: Không chỉ thủ hộ phước đức, mà
c̣n thủ hộ hành nhân trong các hoạn nạn. Trước
tiên là bệnh nạn, kế đó là tai nạn do bị
hành h́nh. “Sửu giới già tỏa” là h́nh cụ (công cụ
để hành h́nh, trừng phạt), ở tay gọi là Sửu
(c̣ng), ở chân gọi là Giới (cùm), ở cổ gọi
là Già (gông), nơi thân gọi là Tỏa (xiềng xích). “Kiểm”
là niêm phong, Hệ là trói buộc. Thân bị nhốt trong tù ngục, chẳng
được tự do.
“Phá tứ trọng tội”:
Tạo giết, trộm, dâm, đại vọng ngữ, bốn
luật nghi nặng nề. Hễ vi phạm, ắt
sẽ mắc tội nặng. “Tác ngũ nghịch nhân”:
Một là giết cha, hai là giết mẹ, ba là giết A La
Hán, bốn là phá chuyển pháp luân ḥa hợp tăng, năm
là làm thân Phật chảy máu. Tạo trọng tội ngũ
nghịch ấy, ắt đọa Ngũ Vô Gián địa
ngục. “Tác bát nạn tội, hành lục đạo sự”
(tạo tội gây ra tám nạn, làm chuyện khiến phải
sanh vào trong sáu đường): “Bát nạn” chẳng
ra ngoài lục đạo. Tam đồ (địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh) là ba nạn, bốn là nạn sanh
trước Phật hay sau Phật, năm là nạn sanh
nơi biên địa, sáu là nạn “mù, ḷa, câm, ngọng”, bảy
là nạn thế trí biện thông, tám là nạn sanh vào Trường
Thọ Thiên.
“Nhất thiết vô lượng
khổ nạn” (hết thảy vô lượng khổ nạn):
Nói gộp chung các nạn khác. Cũng giảng kinh này, pháp dụng
như trên đă nói. Nếu giảng kinh này, cậy vào pháp lực
công năng của kinh Bát Nhă, sẽ có thể diệt các nạn.
Hỏi: Một kinh Bát Nhă sao
có thể diệt các nạn?
Đáp: Bát Nhă như lửa
có thể đốt các thứ củi, như đèn có thể
phá các tối tăm, dẫu trọng tội Vô Gián cũng
chẳng khó diệt trừ! Hăy nên biết kinh này tuy có công
năng diệt tội, chớ nên cố ư tạo tác tội
tứ trọng, ngũ nghịch, tam đồ v.v… rồi cầu
may mắn thoát khỏi. Giảng đọc kinh này, cần
phải thường nương vào trí Bát Nhă để soi
sáng, sẽ tự có thể tiêu trừ túc tội, chẳng
dấy lên tội mới. Trên đây là phần nói về
hành pháp hộ quốc đă xong.
(Kinh) Đại
vương! Tích nhật hữu vương, Thích Đề
Hoàn Nhân, vi Đảnh Sanh vương lai thiên thượng,
dục diệt kỳ quốc. Thời Đế Thích thiên
vương, tức như thất Phật pháp dụng, phu
bách cao ṭa, thỉnh bách pháp sư, giảng Bát Nhă Ba La Mật,
Đảnh Sanh tức thoái, như Diệt Tội kinh trung
thuyết.
(經)大王!昔日有王,釋提桓因,為頂生王來上天,欲滅其國。時帝釋天王,即如七佛法用,敷百高座,請百法師,講『般若波羅密』,頂生即退。如滅罪經中說。
(Kinh: Này
đại vương! Xưa kia có vua Thích Đề Hoàn
Nhân, v́ vua Đảnh Sanh lên cơi trời, toan diệt quốc
của ông ta. Khi đó, Đế Thích thiên vương
đúng theo pháp dụng của thất Phật, bày một
trăm ṭa cao, mời một trăm vị pháp sư, giảng
Bát Nhă Ba La Mật, Đảnh Sanh liền rút lui, như
trong kinh Diệt Tội đă nói).
Đây là dẫn chuyện
xưa để làm chứng. Trước hết, dẫn
chuyện Đế Thích Thiên để chứng minh Bát Nhă
có thể thủ hộ quốc độ. Từ “tích hữu
Thiên La quốc” (xưa kia có nước Thiên La) trở
đi, chứng minh Bát Nhă có thể thủ hộ thân mạng.
Thích Đề Hoàn Nhân dịch là Năng Chủ. Phẩm
Đảnh Sanh Vương trong kinh Hiền Ngu nói: Trong
đời quá khứ, có đại quốc vương tên
là Thiện Trụ. Khi đó, trên đỉnh đầu vua
bỗng sanh ra một cái bọc, h́nh dạng như cái ấn.
Về sau, dần dần to lên. Một hôm, bọc vỡ ra,
liền có một bé trai [trong đó], hết sức đoan
chánh, đầu tóc xanh ŕ, thân có màu vàng tía. Vua liền gọi
thầy tướng đến xem, [thầy tướng
cho] biết [đứa trẻ] có đức lớn, ắt
sẽ là thánh vương, thống lănh bốn cơi. Do vậy,
đặt tên cho nó là Đảnh Sanh (Mūrdhagata, sanh từ đỉnh đầu).
Tuổi đă khôn lớn, đức hạnh
[của Đảnh Sanh] bộc lộ theo tuổi. Vua cha đă băng hà,
các bầy tôi mong thái tử nối ngôi. Đảnh Sanh
đáp rằng: “Người có phước đức đáng
làm vua, sẽ khiến cho tứ vương và Đế
Thích đến nghênh tiếp th́ mới lên ngôi vua”. Đă lập
thệ nguyện xong, tứ thiên vương giáng hạ, đều cầm b́nh báu chứa đầy
nước thơm để rưới lên đỉnh
đầu ông ta. Khi đó, Thiên Đế Thích lại cầm
măo báu đến đội cho. Trong Diêm Phù Đề, ông ta
tùy ư hưởng thụ ngũ dục trải tám vạn bốn
ngàn năm. Khi đó, thần Dạ Xoa từ dưới
đất trồi lên, thỉnh vua dạo Đông châu, Tây
Châu, lên cơi trời Tứ Thiên Vương. Vua lại thống
lănh bốn đạo quân voi, ngựa, xe, bộ binh
thăng lên trời Đao Lợi. Chư thiên kinh sợ,
đối với cửa ải nhiều tầng của
thành thiên vương, Đảnh Sanh và binh đoàn tiến
thẳng qua chẳng bị trở ngại. Đế Thích
ra khỏi cung, cùng nhau gặp gỡ, tự mời vào cung,
cùng nhau chia ṭa mà ngồi, thọ hưởng dục lạc
cơi trời. Đảnh Sanh ra khỏi cung trời, bèn dấy
tâm ác, muốn diệt Đế Thích.
“Đế Thích thiên
vương, như thất Phật pháp dụng” (Thiên
vương Đế Thích dùng pháp dụng đúng như thất
Phật [đă dạy]): “Như” tức là tuân theo. Bày
một trăm ṭa cao, thỉnh một trăm vị pháp
sư giảng Bát Nhă Ba La Mật. Đấy chính là pháp dụng
của thất Phật, Đế Thích nương theo
đó mà thực hiện. Đảnh Sanh liền lui binh. “Như
Diệt Tội Kinh trung thuyết” (như trong kinh Diệt
Tội đă nói), tức là như trong quyển thứ
mười hai của kinh Niết Bàn đă nói.
(Kinh) Đại
vương! Tích hữu Thiên La quốc vương, hữu
nhất thái tử, dục đăng vương vị. Nhất
danh Ban Túc thái tử, vị ngoại đạo La Đà
sư thọ giáo, ưng thủ thiên vương đầu,
dĩ tế trủng thần, tự đăng kỳ vị.
Dĩ đắc cửu bách cửu thập cửu
vương, thiếu nhất vương, tức Bắc
hành vạn lư, tức đắc nhất vương, danh Phổ
Minh vương.
(經)大王!昔有天羅國王,有一太子,欲登王位。一名班足太子,為外道羅陀師受教,應取千王頭,以祭塚神,自登其位。已得九百九十九王,少一王,即北行萬里,即得一王,名普明王。
(Kinh: Này đại
vương! Xưa kia có quốc vương Thiên La có một
thái tử muốn lên ngôi vua, tên là thái tử Ban Túc, nghe theo
lời dạy của thầy ngoại đạo là La
Đà, phải nên lấy đầu của một ngàn vị
vua để tế thần mồ mả, th́ sẽ lên ngôi.
Ông ta đă bắt được chín trăm chín
mươi chín vị vua, c̣n thiếu một vua, liền
đi sang phương Bắc cả vạn dặm, bắt
được một vị vua tên là vua Phổ Minh).
Đây là chứng minh Bát Nhă
có thể thủ hộ thân mạng. Xưa kia, có quốc
vương Thiên La sanh một thái tử, do chân vằn vện,
bèn đặt tên là Ban Túc (Kalmāsapāda,
chân
có vằn). [Thái tử] muốn lên ngôi vua, lễ ngoại
đạo La Đà làm thầy, tiếp nhận lời dạy
của hắn. Ngoại đạo nói: “Trong mồ mả
có thần tên là Ma Ha Ca La (Mahākāla)[9] (phương này dịch là Đại
Hắc),
là thiên thần. Nếu lễ vị thần ấy, sẽ
có thể tăng thêm oai đức, hành sự như ư,
đánh nhau liền chiến thắng, hễ công phá ắt
đoạt được. Chỉ có điều vị thần
ấy hưởng thụ vật cúng, chẳng phải là
máu thịt của con người th́ sẽ không được.
Thái tử hăy nên lấy đầu của ngàn vị vua
để cúng cho thần mồ mả, thần ắt sẽ
càng gia hộ, ban
phước”. Ban Túc nghe nói, tin theo tà thuyết, liền
dấy lên ác niệm. Từ khi lên ngôi tới nay, đă bắt
được chín trăm chín mươi chín vua, chỉ c̣n
thiếu một vua. Ban Túc liền đi vạn dặm về
phương Bắc, lại bắt được một
vua, tên là vua Phổ Minh. Con số một ngàn đă măn, muốn
giết họ để tế thần mồ mả.
(Kinh) Kỳ Phổ Minh
vương bạch Ban Túc vương ngôn: “Nguyện thính nhất
nhật, phạn thực sa-môn, đảnh lễ Tam Bảo”.
Kỳ Ban Túc vương, hứa chi nhất nhật.
(經)其普明王白班足王言:願聽一日,飯食沙門,頂禮三寶。其班足王,許之一日。
(Kinh: Vua Phổ Minh
thưa với vua Ban Túc: “Xin cho tôi một ngày để dâng
cơm cho sa-môn, đảnh lễ Tam Bảo”. Vua Ban Túc bằng
ḷng cho [Phổ Minh] một ngày).
Vua Phổ Minh xin nghỉ
để giữ chữ tín. Khi đó, vua Phổ Minh khóc
nói: “Tôi suốt đời tŕ giới, nay phải thất
tín”. Ban Túc hỏi: “Ngươi hứa điều ǵ?” Vua Phổ
Minh thưa cùng vua Ban Túc: “Tôi đă hứa bố thí, xin cho
tôi một ngày để dâng cơm cho sa-môn, đảnh lễ
Tam Bảo”. Vua Ban Túc bèn hứa cho vua được nghỉ
một ngày, bảo: “Cho ngươi thực hiện chuyện
bố thí, xong việc phải theo ta”. Vua Phổ Minh hoan hỷ,
vội trở về nước ḿnh, thực hiện đại
pháp hội.
(Kinh) Thời, Phổ
Minh vương tức y quá khứ thất Phật pháp, thỉnh
bách pháp sư, phu bách cao ṭa, nhất nhật nhị thời,
giảng Bát Nhă Ba La Mật, bát thiên ức kệ cánh.
(經)時,普明王即依過去七佛法,請百法師,敷百高座,一日二時,講般若波羅密,八千億偈竟。
(Kinh: Khi đó, vua Phổ
Minh liền vâng theo pháp của thất Phật trong quá khứ,
thỉnh một trăm vị pháp sư, bày một trăm
ṭa cao, mỗi ngày hai thời, giảng Bát Nhă Ba La Mật tám
ngàn ức kệ đă xong).
Phổ Minh trở về
nước liền vâng theo hành pháp của quá khứ thất
Phật, thỉnh Tăng giảng đọc kinh Bát Nhă.
(Kinh) Kỳ đệ nhất pháp
sư, vị vương tức thuyết kệ ngôn: - Kiếp
thiêu chung ngật, càn khôn động nhiên, Tu Di, cự hải,
đô vi hôi dương, thiên long phước tận, ư
trung điêu táng, nhị nghi thượng vẫn, quốc hữu
hà thường?
(經)其第一法師,為王即說偈言:劫燒終訖,乾坤洞燃。須彌巨海,都為灰颺,天龍福盡,於中彫喪。二儀尚殞,國有何常。
(Kinh: Vị
pháp sư thứ nhất liền v́ nhà vua nói kệ rằng:
- Kiếp thiêu tiêu rụi hết, đất trời thảy
rỗng toang, núi Tu Di, biển lớn, đều trở
thành tro bay. Trời, rồng phước đă hết,
đều chết sạch trong đó. Âm dương c̣n tiêu
mất, đất nước há c̣n ư?)
Vị pháp sư thứ nhất
ấy chính là vị đạo cao đức trọng trong
một trăm vị pháp sư. Sư v́ vua Phổ Minh nói kệ
khai thị, nói tất cả tám bài kệ. [Trong đó], cứ mỗi
hai bài
kệ đều [lần lượt nói về] vô
thường, khổ, không, vô ngă. Trước hết,
Sư nói kệ vô thường.
“Kiếp thiêu”: Tiếng
Phạn là Kiếp Ba (Kalpa), ở đây nói là Thời Phần,
chia ra thành đại kiếp, trung kiếp, và tiểu kiếp.
Thế giới mà chúng ta nương vào để trụ có
“thành, trụ, hoại, không” bốn kiếp. Xét theo tuổi
thọ của loài người, từ mười tuổi,
cứ qua một trăm năm, tăng thêm một
tuổi, tăng [lần lượt như thế] tới
tám vạn năm, có khi nói là tám vạn bốn ngàn năm.
Tăng đến tột cùng, sẽ sau một trăm
năm, giảm một tuổi, [giảm dần như thế]
tới mười tuổi. Chu kỳ một tăng một
giảm [như thế] là một tiểu kiếp. Hai
mươi lượt tăng giảm là một trung kiếp.
Thành, trụ, hoại, không, mỗi giai đoạn đều
là hai mươi tiểu kiếp. Gộp tám mươi tiểu
kiếp thành một đại kiếp. Khi thế giới
này hoại, đại tam tai dấy lên. Trước hết
là hỏa tai, có bảy mặt trời mọc ra, sông biển
khô cạn, đá trên núi tóe lửa, thiêu đốt vũ trụ,
gọi là Kiếp Thiêu. “Chung ngật” (chấm dứt):
Khi có kiếp hỏa thiêu đốt, hết
thảy đều hết sạch. Từ Sơ Thiền trở
xuống đều hư hoại, v́ thế nói là “càn khôn
đỗng nhiên” (trời đất rỗng toang).
“Tu Di, cự hải, đô
vi hôi dương” (Núi Tu Di, biển cả, đều
thành tro bụi bay): Tu Di (Sumeru) trong tiếng Phạn
được phương này dịch là Diệu Cao. Núi do
bốn thứ báu hợp thành, nên gọi là Diệu; cao
vượt các ngọn núi khác nên gọi là Cao. Đó là quả
núi lớn nhất trong thế giới. Nước biển
cả sâu nhất, lúc kiếp thiêu, [núi Tu Di lẫn biển
cả] đều thành tro bay.
“Thiên long phước tận,
ư trung điêu táng” (trời rồng phước
đă hết, đều chết sạch trong đó): Hỏa
tai đốt tới Sơ Thiền. Từ Sơ Thiền
trở xuống, trời, người, và thiên long, sơn
long, hải long v.v… do phước đă tận, tan tác, mất
mạng trong ấy. “Điêu táng” tức là tử vong. “Nhị
nghi thượng vẫn, quốc hữu hà thường?”
(Âm
Dương
c̣n tan mất, đất nước há c̣n ư?): “Nhị
nghi” là Âm
Dương,
[do chúng] có thể sanh ra, có thể thành tựu;
cho nên gọi là Nhị Nghi. Nhị Nghi mà c̣n tan diệt, quốc
độ trong thế gian có ǵ là thường trụ để
nói nữa ư? Hăy nên biết các pháp vô thường, không ǵ đáng yêu thích!
(Kinh) Sanh lăo bệnh tử,
luân chuyển vô tế, sự dữ nguyện vi, ưu bi vi
hại, dục thâm họa trọng, sang vưu vô ngoại.
Tam giới giai khổ, quốc hữu hà lại?
(經)生老病死,輪轉無際,事與願違,憂悲為害。欲深禍重,瘡疣無外,三界皆苦,國有何賴?
(Kinh: Sanh, già, và bệnh,
chết, cứ luân chuyển chẳng ngơi, chuyện chẳng
hề xứng ư, buồn lo gây tai hại. Dục sâu, họa
nặng nề; ghẻ chốc chẳng từ ngoài. Tam giới
đều khổ sở, đất nước cậy vào
đâu?)
Hai bài kệ này nói về Khổ.
Trong ấy, có
tám nỗi khổ: Câu đầu nêu ra bốn nỗi khổ,
sanh th́ ở trong thai ngục, già th́ suy yếu, biến
đổi, lúc bệnh th́ buồn bă, đau đớn, lúc
chết th́ diệt mất. Từ sanh đến già, bệnh
rồi chết, luân chuyển chẳng ngơi, chết rồi
lại sanh, sanh rồi lại chết, tử tử sanh
sanh, chẳng có bờ mé. Chưa chứng thánh quả, sẽ
chẳng thể giải thoát. “Sự dữ nguyện vi”
(Sự việc trái nghịch với ư nguyện) tức là
ái biệt ly khổ (khổ v́ yêu thương mà bị chia
ĺa) và cầu bất đắc khổ (khổ v́ mong cầu
chẳng được). Hết thảy ân ái, muốn ḥa hợp
th́ bị đổi dời. Nếu có điều mong cầu,
chẳng được như ư. Những điều
ấy đều là “sự dữ nguyện vi”. “Ưu bi
vi hại” chính là oán tăng hội khổ (khổ v́ oán
ghét mà cứ phải gặp gỡ). Oan gia trong thế gian
muốn ĺa khỏi mà cứ phải gặp gỡ. “Hội”
là tụ hợp. Như trong quyến thuộc, trong các đồng
sự, dẫu oán ghét mà cứ phải tụ tập, chẳng
có cách nào tránh khỏi. Hằng ngày ưu sầu, buồn bực,
sợ bị hăm hại.
“Dục thâm, họa trọng,
sang vưu vô ngoại” (dục sâu và họa nặng, ghẻ
chốc chẳng từ ngoài) chính là Ngũ Ấm
xí thịnh khổ, [tức là] chúng sanh bị Ngũ Ấm
phiền năo hừng hực thiêu đốt, hư vọng dấy lên tham chấp. Cái tâm tham chấp
ngũ dục đă sâu đậm, bèn hứng chịu quả báo họa hại
ắt nặng nề. Như sanh ra ghẻ chốc, ắt
do chính bản thân có độc khí th́ [ghẻ chốc] mới
sanh. Cái có thể sanh và cái được sanh ra đều
chẳng ĺa ngoài thân. “Độc khí” ví như tham dục,
ghẻ chốc ví như họa hại. Tự làm, tự chịu,
cho nên nói là “chẳng ngoài!”
“Tam giới giai khổ, quốc
hữu hà lại” (ba cơi đều khổ sở, đất
nước cậy vào đâu): Y báo và chánh báo trong tam giới,
chẳng có ǵ không phải là khổ. Năm đường
trong Dục Giới là Khổ Khổ, Lục Dục Thiên,
Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền là Hoại Khổ.
Đệ Tứ Thiền và Tứ Không Thiên là Hành Khổ.
Chư thiên trong tam giới c̣n chẳng an ổn, nhân gian quốc
độ uế ác đầy dẫy, có ǵ để
nương cậy?
(Kinh) Hữu bổn tự
vô, nhân duyên thành chư. Thịnh giả tất suy, thật
giả tất hư. Chúng sanh xuẩn xuẩn, đô như
huyễn cư. Thanh hưởng câu không, quốc độ
diệc như.
(經)有本自無,因緣成諸,盛者必衰,實者必虛。眾生蠢蠢,都如幻居,聲響俱空,國土亦如。
(Kinh: Có vốn tự là không, nhân
duyên thành như thế. Hễ thịnh ắt phải suy, thật rồi
ắt phải hư. Chúng sanh luôn ngu xuẩn, đều
như sống huyễn hư. Tiếng và vọng đều
không, quốc độ cũng như thế).
Hai bài kệ này nói về
Không. Hết thảy các pháp hữu vi, không ǵ chẳng phải
là huyễn hữu, vốn tự chẳng có cái Thể
để đạt được, giống như hoa
đốm trên hư không. “Nhân duyên thành chư” (do nhân
duyên mà thành như thế): Do nhân duyên ḥa hợp mà hư vọng
h́nh thành, như hoa đốm trên hư không, do mắt bị
bệnh mà có [hoa đốm], vốn vô sở hữu. Chữ
“chư” là trợ ngữ từ. “Thịnh giả tất
suy”: Các pháp hữu vi trong thế gian có thịnh ắt sẽ
suy. “Thật giả tất hư” (hễ là thật
(hiện hữu) rồi sẽ hư hoại): Chúng sanh chẳng
hiểu, hư vọng chấp là thật. Trong chấp
Ngũ Ấm là thật ngă, ngoài chấp tam giới là thật
pháp, rốt ráo chẳng phải là thật, ắt là hư
huyễn.
“Chúng sanh xuẩn xuẩn,
đô như huyễn cư” (chúng sanh luôn ngu xuẩn,
đều như sống huyễn hư): Chúng sanh ngu xuẩn,
thiếu trí, chẳng có Ngă
Không Trí, chẳng biết thân này vốn chẳng có, đều
giống như hư huyễn cư trụ vậy. Chẳng
có Pháp Không Trí, chẳng biết các pháp cũng chẳng thật,
như âm thanh và tiếng vọng đều là Không. “Hưởng”
là tiếng vọng trong hang, vốn là Không. Các pháp là như thế,
cho nên quốc độ cũng là như thế.
(Kinh) Thức thần vô
h́nh, giả thừa tứ xà. Vô minh cúng dường, dĩ
vi lạc xa. H́nh vô thường chủ, thần vô thường
gia. H́nh thần thượng ly, khởi hữu quốc da?
(經)識神無形,假乘四蛇,無明供養,以為樂車。形無常主,神無常家,形神尚離,豈有國耶?
(Kinh: Thức thần
không h́nh tướng, giả nương rắn Tứ
Đại. Vô minh luôn cung phụng, tưởng là cỗ xe
vui. Vô thường làm chủ thân. Thần thức:
nhà vô thường. Thân, thức c̣n rời ĺa, há có đất
nước ư?)
Hai bài kệ này nói về vô
ngă. “Thức thần vô h́nh” tức là nói tám thức vốn
chẳng có h́nh tướng. “Giả thừa tứ xà”
(giả dối nương vào bốn con rắn): Thần
thức nương gá trong sắc thân Tứ Đại. “Tứ
xà” là sánh ví Tứ Đại, hai con rắn Địa và
Thủy có tánh chất đi xuống; hai con rắn Phong và Hỏa
có tánh thăng lên. Tứ Đại ḥa hợp, giả gọi
là Thân. Nương vào sức vô minh, điều dưỡng
cái thân này, coi đó là cỗ xe vui sướng, làm
phương tiện cho Thức.
“H́nh vô thường chủ,
thần vô thường gia”: Huyễn h́nh Tứ Đại
có sanh ắt diệt, cho nên vô thường làm chủ tể.
Thần thức nương theo nghiệp thọ báo, xả
đời sống này lại tiến nhập đời sống
khác, luân hồi trong sáu đường, cho nên là “vô
thường gia” (nhà vô thường). “H́nh thần
thượng ly” (thân, thức c̣n rời ĺa): “Ly”
chính là diệt. Nhân duyên chia ĺa th́ hư vọng gọi là Diệt;
đấy là nói rơ Vô Ngă. Diệt th́ hết thảy đều
chẳng có. Ngă c̣n chẳng có, há có quốc độ ư?
(Kinh) Nhĩ thời,
pháp sư thuyết thử kệ dĩ, thời, Phổ Minh
vương quyến thuộc, đắc Pháp Nhăn Không. Vương
tự chứng đắc hư không đẳng định,
văn pháp ngộ giải, hoàn chí Thiên La quốc, Ban Túc vương
sở.
(經)爾時,法師說此偈已,時,普明王眷屬,得法眼空,王自證得虛空等定,聞法悟解。還至天羅國,班足王所。
(Kinh: Lúc bấy giờ, pháp sư nói bài kệ ấy
xong, quyến thuộc của vua Phổ Minh đắc Pháp
Nhăn Không. Nhà vua tự chứng đắc Định như
hư không, nghe pháp ngộ giải, trở về chỗ vua
Ban Túc ở nước Thiên La).
Kế đó là nói nghe pháp ngộ giải, dấy
lên hạnh hóa độ người khác. Pháp sư nói kệ
xong, khi đó, quyến thuộc của vua Phổ Minh đắc
Pháp Nhăn Không, ngộ biết tánh của các pháp là Không. Chính
nhà vua đắc chứng Không tam-muội, nghe pháp ngộ giải,
bèn trở về chỗ vua Ban Túc ở nước Thiên La.
Sự trở về này có hai ư nghĩa:
- Một, thực hiện xong ước nguyện
bèn đi chết, do giữ giới chẳng vọng ngữ.
Nho gia nói: “Triêu văn đạo, tịch tử khả hỹ”
(Sáng nghe đạo, tối chết cũng được).
Nhà Phật nói: “Ninh hữu giới tử, bất vô giới
sanh” (thà có giới mà chết, chẳng sống mà mất
giới).
- Hai, tự đạt được pháp
ích, muốn giáo hóa người khác, [khiến cho họ cũng đạt được
pháp ích giống như ta], toan dùng chánh pháp Bát Nhă để
giác ngộ các vua, và chuyển đổi ác tâm của Ban Túc.
(Kinh) Chúng trung, tức cáo cửu bách cửu
thập cửu vương ngôn, tựu mạng thời
đáo, nhân nhân giai ưng tụng quá khứ thất Phật
Nhân Vương Vấn Bát Nhă Ba La Mật
kinh trung kệ cú.
(經)眾中,即告九百九十九王言;就命時到,人人皆應誦:過去七佛『仁王問般若波羅密經』中偈句。
(Kinh: Ở trong đại chúng,
[vua Phổ Minh] liền bảo chín trăm chín mươi
chín vị vua rằng: - Đă đến lúc giao tánh mạng
rồi, ai nấy đều nên tụng câu kệ trong kinh
Nhân Vương Vấn Bát Nhă Ba La Mật của
quá khứ thất Phật).
Đây là khuyến hóa các vua,
bảo rằng: Đă đến lúc giao ra tánh mạng, tức
là đă đến lúc chết, hăy nên tụng diệu pháp
Bát Nhă. Các vua nghe lời đều cùng tụng.
(Kinh) Thời, Ban Túc
vương vấn chư vương ngôn “giai tụng hà
pháp?” Phổ Minh vương tức dĩ thượng kệ
đáp vương. Vương văn thị pháp, đắc
Không tam-muội, cửu bách cửu thập cửu
vương diệc văn pháp dĩ, giai chứng tam Không
môn.
(經)時,班足王問諸王言:皆誦何法?普明王即以上偈答王。王聞是法,得空三昧。九百九十九王,亦聞法已皆證三空門。
(Kinh: Khi đó, vua Ban
Túc hỏi các vua rằng “[các ngươi[ đều tụng
pháp ǵ vậy?” Vua Phổ Minh liền dùng bài kệ trên
đây để đáp lời. Vua [Ban Túc] nghe pháp ấy,
đắc Không tam-muội. Chín trăm chín mươi chín vị
vua cũng nghe pháp ấy xong đều chứng ba Không môn).
Đây là cảm hóa Ban Túc. Khi
đó, vua Ban Túc hỏi tụng pháp ǵ, vua Phổ Minh liền
nói bài kệ trên đây. Vua Ban Túc nghe pháp liền đắc
Không tam-muội, có thể nói là thiện ác vốn không nhất
định, thánh hay phàm chuyển biến trong một niệm. Chín trăm chín mươi chín vị
vua cũng nghe pháp đắc Định, chứng tam không
môn, tức là ba giải thoát môn, ba môn tam-muội. Các vua gieo
thiện căn đă lâu là nhân, được nghe diệu
pháp là duyên. Nhân và duyên đều thù thắng, cho nên ngộ
chứng cũng nhanh chóng.
(Kinh) Thị thời, Ban
Túc vương cực đại hoan hỷ, cáo chư
vương ngôn: - Ngă vị ngoại đạo tà sư sở
ngộ, phi quân đẳng quá. Nhữ khả hoàn bổn quốc,
các các thỉnh pháp sư, giảng Bát Nhă Ba La Mật danh, vị,
cú.
(經)是時,班足王極大歡喜。告諸王言:我為外道邪師所誤,非君等過。汝可還本國,各各請法師,講般若波羅密名味句。
(Kinh: Lúc đó, vua Ban
Túc tột bậc hoan hỷ, bảo các vua rằng: - Ta bị
lầm lẫn bởi tà sư ngoại đạo, chẳng
phải là lỗi của các vị. Các vị có thể trở
về nước ḿnh, ai nấy đều thỉnh pháp
sư giảng “danh, vị, cú” của Bát Nhă Ba La Mật).
“Cực đại hoan hỷ”
là pháp hỷ sung măn. Đă chứng Không định, huệ
nhăn nhanh chóng mở ra, biết [chính ḿnh] bị lầm lạc
bởi tà sư, khiến cho các vua bị oan uổng khuất
nhục. V́ thế, [Ban Túc] tự hối trách sâu xa, đều
thả mỗi vua về nước. Do tự đạt
được pháp ích từ Bát Nhă, cho nên khuyên các vua ai nấy
hăy thỉnh pháp sư giảng giải “danh, vị,
cú” của Bát Nhă Ba La Mật. “Danh” tức là danh ngôn
(từ ngữ), “cú” tức là văn cú (câu văn), “vị”
tức nghĩa vị, đều thuộc về Văn Tự
Bát Nhă. Mong cho hết thảy chúng sanh do văn tự mà ngộ
Thật Tướng; v́ thế, bảo họ hăy truyền
bá rộng răi.
(Kinh) Thời, Ban Túc
vương dĩ quốc phó đệ, xuất gia vi đạo,
chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, như Thập Vương Kinh
trung thuyết, ngũ thiên quốc vương, thường
tụng thị kinh, hiện thế sanh báo.
(經)時,班足王以國付弟,出家為道,證無生法忍。如十王經中說:五千國王,常誦是經,現世生報。
(Kinh: Khi đó, vua Ban
Túc giao nước cho em trai, xuất gia tu đạo, chứng
Vô Sanh Pháp Nhẫn, như trong kinh Thập Vương đă
nói: “Năm ngàn quốc vương do thường tụng
kinh này mà đắc quả báo [tốt đẹp] ngay trong
đời hiện tại”).
Vua Ban Túc đă đắc
Không định, coi thiên hạ quốc gia giống như
chiếc giày rách. V́ thế, giao nước cho em
trai, xuất gia tu đạo, nhanh chóng chứng
Vô Sanh Pháp Nhẫn. Chẳng thấy có chút pháp sanh diệt
nào, th́ gọi là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Như trong kinh Thập
Vương đă nói, năm ngàn quốc vương do
thường tụng kinh này, do pháp lực từ công
năng của kinh, ngay trong đời hiện tại đạt
được quả báo lợi ích.
(Kinh) Đại
vương! Thập lục đại quốc vương
tu hộ quốc chi pháp, ưng diệc như thị, nhữ
đương thọ tŕ. Thiên thượng, nhân trung, lục
đạo chúng sanh, giai ưng thọ tŕ thất Phật
danh, vị, cú. Vị lai thế trung, hữu vô lượng
tiểu quốc vương dục hộ quốc độ,
diệc phục nhĩ giả, ưng thỉnh pháp sư,
thuyết Bát Nhă Ba La Mật.
(經)大王!十六大國王修護國之法,應亦如是,汝當受持。天上人中,六道眾生,皆應受持,七佛名味句。未來世中,有無量小國王,欲護國土,亦復爾者,應請法師,說般若波羅密。
(Kinh: Này đại
vương! Mười sáu đại quốc vương
tu pháp hộ quốc, cũng nên như thế, ông hăy nên thọ
tŕ. Trên cơi trời, trong nhân gian,
chúng sanh thuộc sáu đường đều nên thọ
tŕ “danh,
vị, cú” của thất Phật. Trong đời
vị lai, có vô lượng tiểu quốc vương muốn
thủ hộ quốc độ, cũng lại giống
như thế, hăy nên thỉnh pháp sư nói Bát Nhă Ba La Mật).
Đây là khuyên tŕ Bát Nhă. Trước
hết là khuyên mười sáu đại quốc
vương; kế đó, khuyên người trong thiên hạ.
Sau cùng, khuyên tiểu quốc vương trong vị lai: Muốn
tu pháp hộ quốc, phải nên tuân theo hành pháp của thất
Phật, thỉnh pháp sư nói Bát Nhă Ba La Mật.
(Kinh) Nhĩ thời,
Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết Bát Nhă Ba La Mật thời, chúng
trung ngũ bách ức nhân, đắc nhập Sơ Địa.
Phục hữu Lục Dục chư thiên tử bát thập
vạn nhân đắc trụ Không địa. Phục hữu
thập bát Phạm đắc Vô Sanh Nhẫn, đắc Vô
Sanh Pháp Lạc Nhẫn. Phục hữu tiên dĩ học Bồ
Tát giả, chứng nhất địa, nhị địa,
tam địa, năi chí thập địa. Phục hữu bát
bộ A Tu Luân vương, đắc nhất tam-muội
môn, đắc nhị tam-muội môn, đắc chuyển
quỷ thân, thiên thượng chánh thọ, tại thử hội
giả, giai đắc tự tánh tín, năi chí vô lượng
Không Tín.
(經)爾時,釋迦牟尼佛說「般若波羅密」時,眾中五百億人,得入初地。復有六欲諸天子八十萬人得住空地。復有十八梵,得無生忍,得無生法樂忍。復有先已學菩薩者,證一地二地三地,乃至十地。復有八部阿須輪王,得一三昧門,得二三昧門。得轉鬼身,天上正受。在此會者,皆得自性信,乃至無量空信。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, khi Thích Ca Mâu Ni Phật nói Bát Nhă Ba La Mật, trong
đại chúng có năm trăm ức người
được nhập Sơ Địa. Lại có các thiên
tử thuộc Lục Dục số đến tám mươi
vạn người được trụ Không địa.
Lại có mười tám Phạm vương đắc Vô
Sanh Nhẫn, đắc Vô Sanh Pháp Lạc Nhẫn. Lại có
người trước đó đă học Bồ Tát, chứng
nhất địa, nhị địa, tam địa, cho
đến thập địa. Lại có tám bộ A Tu Luân
vương, đắc một môn tam-muội, đắc
hai môn tam-muội, được chuyển thân quỷ, chân
chánh thọ quả báo trên cơi trời, ở trong hội này,
đều tự đạt được chánh tín, cho
đến vô lượng Không Tín).
Đây là đại chúng
đạt được lợi ích. Thứ nhất,
năm trăm ức đại chúng thuộc loài người đắc
Sơ Địa. Hai là tám mươi vạn vị trời
thuộc sáu tầng trời cơi Dục đắc Tánh Không
Địa, từ Tứ Địa trở lên. Ba là mười
tám vị Phạm vương đắc Vô Sanh Nhẫn, và Vô
Sanh Pháp Lạc Nhẫn, từ Thất Địa trở
lên. Bốn, lại có người đă học Bồ Tát,
chứng Sơ Địa, cho đến Thập Địa.
Năm là tám bộ A Tu Luân vương, tức tám loại A
Tu La, xem giải thích trong phẩm Tự. Họ đắc
một môn tam-muội, đắc hai môn tam-muội, tức
là đối với ba môn tam-muội, đă đắc một
môn hay hai môn. Sáu là quỷ đạo, do nghe pháp bèn được chuyển thân quỷ,
được thật sự hưởng báo
trong đường trời, tức là hữu lậu Thiền
Định. Bảy, người ở trong hội
này, đều đắc tự tánh tín, tức là bốn thứ
tín tâm bất hoại: Tin vào tự tánh Tam Bảo và giới,
thuộc địa vị Thập Tín. Cho đến vô
lượng người đắc Không Tín, tức là từ
Tập Chủng Tánh trở lên th́ gọi là Không Tín.
(Kinh) Ngô kim lược
thuyết thiên đẳng công đức bất khả cụ
tận.
(經)吾今略說,天等功德,不可具盡。
(Kinh: Ta nay nói đại
lược công đức [của các loại đại
chúng] như trời v.v… chẳng thể trọn hết
được).
Đây là
tổng kết. Nói đại lược th́ như thế,
nói cặn kẽ sẽ là vô tận.
2.2.6. Phẩm thứ sáu: Tán Hoa (Tán hoa phẩm đệ
lục, 散華品第六)
Kinh văn thuộc
phần Chánh Tông có sáu phẩm. Trong phần trước là
phẩm Quán Không, phẩm Bồ Tát Giáo Hóa, và phẩm Nhị
Đế, ba phẩm ấy nói về nội hộ, c̣n phẩm
Hộ Quốc nói về ngoại hộ. Mười sáu vị
đại quốc vương có ư muốn hỏi về
nhân duyên thủ hộ quốc độ, đă được
Như Lai nói cặn
kẽ, nghe pháp đạt được lợi ích. V́ thế,
họ rải hoa cúng dường ḥng biểu thị ḷng
thành tôn kính đức Phật. Do vậy, dùng chuyện này để
đặt tên phẩm. Kể từ phẩm Tự, phẩm
này theo thứ tự là phẩm thứ sáu. Kinh văn phẩm
này được chia thành bốn đoạn:
- Một, rải
hoa cúng dường.
- Hai, [đại
chúng] phát nguyện, [đức Phật] ấn chứng và
tán thán.
- Ba, hiện thần
thông thành tựu lợi ích.
- Bốn, phổ
khuyến tu tŕ.
2.2.6.1. Rải hoa cúng dường
(Kinh) Nhĩ thời,
thập lục đại quốc
vương, văn Phật thuyết thập vạn ức
kệ Bát Nhă Ba La Mật, hoan hỷ vô lượng, tức
tán bách vạn ức hạnh hoa, ư hư không trung, biến
vi nhất ṭa. Thập phương chư Phật cộng tọa
nhất ṭa, thuyết Bát Nhă Ba La Mật. Vô lượng
đại chúng cộng tọa nhất ṭa, tŕ kim la hoa, tán
Thích Ca Mâu Ni Phật thượng, thành vạn luân hoa cái, cái
đại chúng thượng.
(經)爾時,十六大國王,聞佛說十萬億偈般若波羅密,歡喜無量。即散百萬億行華,於虛空中,變為一座。十方諸佛共坐一座,說般若波羅密。無量大眾共坐一座,持金羅華,散釋迦牟尼佛上,成萬輪華蓋,蓋大眾上。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
mười sáu đại quốc vương, nghe đức
Phật nói mười vạn ức kệ Bát Nhă Ba La Mật,
hoan hỷ vô lượng, liền rải trăm vạn ức
hạnh hoa, ở trong hư không biến thành một ṭa.
Mười phương chư Phật cùng ngồi trên một
ṭa, nói Bát Nhă Ba La Mật. Vô lượng đại chúng cùng
ngồi một ṭa, cầm hoa kim la, rải trên Thích Ca Mâu Ni
Phật thành một vạn vầng lọng
hoa,
che trên đại chúng).
Đây là rải hoa cúng dường.
Hoa biểu thị nhân hạnh, cúng [dâng hoa lên] đức Phật, biểu thị dùng nhân để
đạt đến quả. “Nhĩ thời” (Lúc bấy
giờ) tức là lúc đức Phật đă nói nội hộ
và ngoại hộ xong. Các vua nghe pháp đắc Nhẫn, hoan
hỷ vô lượng, liền rải trăm vạn ức
hạnh hoa. Địa tiền ba mươi tâm (ba
mươi địa vị thuộc Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng) chính là hạnh nơi
nhân hoa. Ở trong hư không, hoa biến thành một ṭa, biểu
thị Pháp Không Ṭa. “Mười phương chư Phật
cùng ngồi một ṭa”: Chư Phật đều dùng
Pháp Không làm ṭa, nói Bát Nhă Không pháp để lợi ích chúng
sanh. “Vô lượng đại chúng cùng ngồi một
ṭa”: Cùng chứng lư Pháp Không. “Tŕ kim la hoa, tán Thích Ca Mâu
Ni Phật thượng” (Cầm hoa kim la rải trên Thích
Ca Mâu Ni Phật): Hoa tên là Kim La, chính là hoa báu, biểu thị
nhân quả đồng thời, kiên cố bất hoại. “Thành
vạn luân hoa cái, cái đại chúng thượng” (thành
vạn vầng lọng hoa che trên đại chúng): Biểu
thị các hạnh thành tựu, quả đức Nhất
Thừa che chở, gia bị đại chúng.
(Kinh) Phục tán bát vạn
tứ thiên Bát Nhă Ba La Mật hoa, ư hư không trung biến
thành bạch vân đài. Đài trung Quang Minh Vương Phật,
cộng vô lượng đại chúng, thuyết Bát Nhă Ba La
Mật. Đài trung đại chúng, tŕ lôi hống hoa, tán
Thích Ca Mâu Ni Phật, cập chư đại chúng.
(經)復散八萬四千般若波羅密華,於虛空中變成白雲臺。臺中光明王佛,共無量大眾,說般若波羅密。臺中大眾,持雷吼華,散釋迦牟尼佛,及諸大眾。
(Kinh: Lại rải
tám vạn bốn ngàn hoa Bát Nhă Ba La Mật, ở trong hư
không biến thành đài mây trắng. Trên đài, Quang Minh
Vương Phật cùng vô lượng đại chúng nói
Bát Nhă Ba La Mật. Đại chúng trên đài cầm hoa “sấm
rền” rải lên Thích Ca Mâu Ni Phật và các đại
chúng).
Lại rải tám vạn bốn
ngàn hoa Bát Nhă Ba La Mật, biểu thị Sơ Địa
trọn đủ tám vạn bốn ngàn môn Ba La Mật. Ở
trong hư không, hoa biến thành đài mây
trắng, biểu thị trong Tánh Không
Bát Nhă, “vô lượng là một”. Biến thành một loại
đài mây trắng, “trắng” mang ư nghĩa thanh tịnh,
nương vào cái tâm thanh tịnh vô nhiễm, coi đó là
căn bản của vạn hạnh. “Đài trung Quang
Minh Vương Phật, cộng vô lượng đại
chúng” (Trên đài, Quang Minh Vương Phật và vô lượng
đại chúng): “Cộng” có nghĩa là “cùng với”.
[Phật] cùng đại chúng giảng nói diệu pháp Bát Nhă.
“Đại chúng tŕ lôi hống hoa, tán Thích Ca Mâu Ni Phật,
cập chư đại chúng” (đại chúng cầm
hoa “sấm rền” rải trên Thích Ca Mâu Ni và các đại
chúng): Biểu thị chúng sanh và Phật giống hệt
như nhau, trọn khắp cùng cúng dường.
(Kinh) Phục tán diệu
giác hoa, ư hư không trung, biến tác kim cang thành. Thành trung,
Sư Tử Hống Vương Phật, cộng thập
phương Phật, đại Bồ Tát, luận Đệ
Nhất Nghĩa Đế.
(經)復散妙覺華,於虛空中,變作金剛城。城中師子吼王佛,共十方佛大菩薩,論第一義諦。
(Kinh: Lại rải
hoa diệu giác, ở trong hư không, biến ra ṭa thành kim
cang. Trong thành, Sư Tử Hống Vương Phật cùng
mười phương Phật và đại Bồ Tát luận
bàn Đệ Nhất Nghĩa Đế).
Hoa diệu giác biểu thị
hoa trí huệ của Phật, trong tánh Không, ngự trong thành
Niết Bàn, thực hiện đại sư tử hống,
cùng chư Phật và các vị đại Bồ Tát cùng luận
định Đệ Nhất Nghĩa Đế.
(Kinh) Thời, thành trung Bồ
Tát, tŕ quang minh hoa, tán Thích Ca Mâu Ni Phật thượng,
thành nhất hoa đài. Đài trung, thập phương Phật,
cập chư thiên nhân, tán thiên hoa ư Thích Ca Mâu Ni Phật
thượng, hư không trung thành tử vân cái, phú tam thiên
đại thiên thế giới, cái trung thiên nhân, tán hằng
hà sa hoa, như vân nhi hạ.
(經)時,城中菩薩,持光明華,散釋迦牟尼佛上,成一華臺。臺中十方佛,及諸天人,散天華於釋迦牟尼佛上,虛空中成紫雲蓋,覆三千大千世界。蓋中天人,散恆河沙華,如雲而下。
(Kinh: Khi đó, Bồ
Tát trong thành cầm hoa quang minh, rải lên Thích Ca Mâu Ni Phật
thành một đài hoa. Trong đài, mười phương
Phật và các trời, người rải hoa trời lên
trên Thích Ca Mâu Ni Phật, ở trong hư không, trở thành lọng
mây tía, che phủ tam thiên đại thiên thế giới. Trời,
người trong lọng rải hoa nhiều như cát sông Hằng,
như mây sà xuống).
Bồ Tát cầm hoa cúng Phật,
biểu thị nhân hoa khế hợp quả giác. Hoa thành
đài, đài
hiện Phật, mười phương Phật và các trời,
người rải hoa kết thành lọng, che phủ tam
thiên đại thiên thế giới, đó là một cơi hóa
độ của Phật. Ba lượt nói một ngàn th́ mới
là một đại
thiên thế giới, [“tam thiên đại thiên”] chẳng phải
là ba ngàn đại thiên giới. Một tiểu thế giới
có một núi Tu Di ở trong biển cả, Đông, Tây, Nam Bắc
có bốn đại bộ châu, trên đó có mặt trời
và mặt trăng. Lục Dục Thiên (sáu tầng trời
thuộc Dục Giới) và Sơ Thiền Thiên hợp thành
một ngàn tiểu thế giới, đó gọi là một
tiểu thiên thế giới. Trên đó có Nhị Thiền
Thiên. Đó là nói “một ngàn” lần thứ nhất. Hợp
nhất một ngàn tiểu thiên thế giới th́ gọi
là trung thiên thế giới; trên đó có Tam Thiền Thiên.
Đây là “một ngàn” được nói lần thứ hai.
Gộp một ngàn trung thiên thế giới th́ gọi là một
đại thiên thế giới, trên đó có một Tứ
Thiền Thiên. Đó là nói “một ngàn” lần thứ ba; v́
thế gọi là tam thiên đại thiên thế giới (tức
1.000x1.000x1.000).
“Cái trung thiên nhân, tái tán Hằng
hà sa hoa, như vân nhi hạ” (trời, người trong lọng
lại rải hoa nhiều như cát sông Hằng, như mây
sà xuống): Hỏi: Trước sau nhiều lượt rải
hoa, v́ sao trong ấy có khi Phật thuyết pháp, có lúc chẳng
thuyết pháp? Đáp: Phương tiện của chư Phật
dựa theo duyên mà bất đồng, chẳng thể nói nhất
định được!
2.2.6.2. Phát nguyện ấn khả, tán
thán
(Kinh) Thời chư quốc
vương tán hoa cúng dường dĩ, nguyện quá khứ
Phật, hiện tại Phật, vị lai Phật thường
thuyết Bát Nhă Ba La Mật, nguyện nhất thiết thọ
tŕ giả, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, tín nam, tín nữ, sở
cầu như ư, thường hành Bát Nhă Ba La Mật.
(經)時,諸國王,散華供養已。願過去佛,現在佛,未來佛,常說般若波羅密。願一切受持者,比丘,比丘尼,信男,信女,所求如意,常行般若波羅密。
(Kinh: Khi đó, các quốc
vương rải hoa cúng dường xong, nguyện quá khứ
Phật, hiện tại Phật, vị lai Phật thường
nói Bát Nhă Ba La Mật, nguyện hết thảy người
thọ tŕ, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, tín nam, tín nữ sở
cầu như ư, thường hành Bát Nhă Ba La Mật).
Trong phần này có hai đoạn
văn là phát nguyện và ấn tán (ấn khả, tán thán).
Trước hết là [các quốc vương] nguyện tam
thế chư Phật thường nói Bát Nhă chẳng gián
đoạn. Hai là nguyện tứ chúng thọ tŕ thường
được như ư, ĺa các khổ năo. “Thường
hành Bát Nhă” tức là nương theo Văn Tự Bát Nhă
để thường khởi Quán Chiếu Bát Nhă, thường
chiếu Thật Tướng Bát Nhă.
(Kinh) Phật cáo Đại
vương: “Như thị, như thị! Như
vương sở thuyết, Bát Nhă Ba La Mật, ưng thuyết,
ưng thọ, thị chư Phật mẫu, chư Bồ
Tát mẫu, thần thông sanh xứ”.
(經)佛告大王:如是如是!如王所說,般若波羅密,應說應受;是諸佛母,諸菩薩母,神通生處。
(Kinh: Đức
Phật bảo đại vương: “Đúng như thế,
đúng như vậy! Đúng như nhà vua đă nói, hăy nên
nói, hăy nên thọ Bát Nhă Ba La Mật; đấy là mẹ của
chư Phật, là mẹ của các Bồ Tát, là chỗ sanh
ra thần thông”).
“Như thị”
được lặp lại nhằm ấn chứng hai
nguyện [của các quốc vương] xứng hợp ư
Phật. Đúng như nhà vua đă nói, Bát Nhă Ba La Mật là
pháp mà chư Phật thường nên nói, chúng sanh thường
nên thọ tŕ. Ba câu từ “thị chư Phật mẫu”
(là mẹ của chư Phật) trở đi, tán thán nguyên
do phải nên nói, phải nên thọ Bát Nhă. Bát Nhă có thể sanh
ra chư Phật, Bồ Tát. Chư Phật không vị nào chẳng
do nương vào pháp này mà thành Phật đạo, Bồ
Tát không vị nào chẳng do nương vào pháp này mà chứng
thánh quả. V́ thế, Bát Nhă là mẹ của chư Phật,
mẹ của chư Bồ Tát. Điều này tương ứng
với nhân duyên thủ hộ Phật quả và nhân duyên thủ
hộ hạnh Thập Địa trong kinh văn thuộc
phần trước. “Thần thông sanh xứ” (Chỗ
sanh ra thần thông): Tất cả công đức bất cộng
của chư Phật, tất cả công đức vô tác của
Bồ Tát, các thứ diệu dụng thần thông, không ǵ chẳng
sanh từ Bát Nhă.
2.2.6.3. Thần thông thành tựu lợi
ích
(Kinh) Thời, Phật vị
vương hiện ngũ bất tư nghị thần biến,
nhất hoa nhập vô lượng hoa, vô lượng hoa nhập
nhất hoa. Nhất Phật độ nhập vô lượng
Phật độ. Vô lượng Phật độ nhập
nhất Phật độ. Vô lượng Phật độ
nhập nhất mao khổng độ. Nhất mao khổng
độ nhập vô lượng mao khổng độ. Vô
lượng Tu Di, vô lượng đại hải nhập
giới tử trung. Nhất Phật thân nhập vô lượng
chúng sanh thân. Vô lượng chúng sanh thân nhập nhất Phật
thân, nhập lục đạo thân, nhập địa, thủy,
hỏa, phong thân. Phật thân bất khả tư nghị,
chúng sanh thân bất khả tư nghị. Thế giới bất
khả tư nghị.
(經)時,佛為王現五不思議神變。一華入無量華,無量華入一華。一佛土,入無量佛土;無量佛土,入一佛土。無量佛土,入一毛孔土;一毛孔土,入無量毛孔土。無量須彌,無量大海,入芥子中。一佛身,入無量眾生身;無量眾生身,入一佛身,入六道身,入地水火風身。佛身,不可思議。眾生身,不可思議。世界,不可思議。
(Kinh: Khi đó đức
Phật v́ nhà vua hiện năm thứ thần biến chẳng
thể nghĩ bàn: Một hoa vào vô lượng hoa, vô lượng
hoa vào một hoa. Một cơi Phật vào vô lượng cơi Phật,
vô lượng cơi Phật vào một cơi Phật. Vô lượng
cơi Phật vào một cơi trong lỗ chân lông. Cơi trong một
lỗ chân lông vào vô lượng cơi trong lỗ chân lông. Vô
lượng Tu Di, vô lượng biển cả vào trong một
hạt cải. Một thân Phật vào trong thân của vô
lượng chúng sanh. Vô lượng thân chúng sanh vào trong thân
một vị Phật, vào thân lục đạo, vào thân
đất, nước, gió, lửa. Thân Phật chẳng thể
nghĩ bàn. Thân chúng sanh chẳng thể
nghĩ bàn. Thế giới chẳng thể nghĩ bàn).
Hai đoạn văn này nói về
sự thị
hiện thần thông nhằm thành tựu lợi ích. Đức
Phật v́ các vua hiện năm loại sức thần thông
biến hóa chẳng thể nghĩ bàn, khiến cho họ ngộ
pháp giới Sự Sự vô ngại. Kinh văn trong phần
trước hiển lộ dùng trí Bát Nhă chiếu
lư Thật Tướng, hết thảy các pháp đều
Như. Đó chính là pháp giới Lư Sự vô ngại. Đoạn
này hiển thị pháp môn sự tướng, giữa các sự
với nhau cũng lại vô ngại. Một và nhiều dung
nhiếp lẫn nhau, y báo và chánh báo chẳng ngăn cách, lớn
và nhỏ tương dung, chúng sanh và Phật thông triệt lẫn
nhau, chẳng thể nào suy tính, nghĩ bàn nổi!
Pháp hữu tướng thuộc
về y báo và chánh báo của thế gian đều là Sự.
Một hoa nhập vô lượng hoa, một cơi Phật vào
trong vô lượng cơi Phật; đấy là dùng một
để nhập nhiều. Vô lượng hoa vào trong một
hoa, vô lượng cơi Phật vào trong một cơi Phật;
đấy là dùng nhiều để nhập một. Cả hai đều là y báo vào trong chánh báo, hiển thị
“một và nhiều dung nhiếp lẫn nhau”. Cơi Phật là
cái lớn nhất trong y báo. Lỗ chân lông là cái nhỏ nhất
nơi chánh báo. Đưa vô lượng
cơi Phật vào trong một cơi nơi lỗ chân lông. Cơi trong một
lỗ chân lông vào vô lượng cơi Phật. Đấy là y
báo và chánh báo nhập lẫn nhau, nhằm hiển thị “y
báo và chánh báo chẳng ngăn cách”. Vô lượng Tu Di và biển
cả đều là thứ to lớn trong y báo, vào trong một
hạt cải, cũng chính là y báo vào trong y báo. Dùng lớn
để vào trong nhỏ, biểu thị “lớn và nhỏ
dung nhiếp lẫn nhau”.
Thân một vị Phật vào
trong thân của vô lượng chúng sanh; đấy cũng
là dùng một để nhập nhiều. Vô lượng
thân chúng sanh vào trong thân một vị Phật, cũng là dùng
nhiều để nhập một. Hai thứ này đều
là chánh báo nhập vào chánh báo nhằm hiển thị chúng
sanh và Phật thông triệt lẫn nhau. Vào trong thân lục
đạo là nhập thân hữu t́nh. Vào trong thân đất,
nước, lửa, gió là nhập thân vô t́nh. Phật thân là nơi vô lượng
công đức thành tựu, chẳng thể nghĩ bàn! Thân
chúng sanh vốn sẵn đủ hằng sa Tánh Đức,
cố nhiên cũng là chẳng thể nghĩ bàn. Chánh báo chẳng
thể nghĩ bàn. Y báo và chánh báo vốn là cùng một Thể; do vậy, thế giới
cũng là chẳng thể nghĩ bàn!
2.2.6.4. Đại chúng trong hội thành
tựu lợi ích
(Kinh) Phật hiện thần
túc thời, thập phương chư thiên nhân, đắc
Phật Hoa tam-muội. Thập
hằng hà sa Bồ Tát hiện thân thành Phật. Tam hằng
hà sa bát bộ vương thành Bồ Tát đạo. Thập
thiên nữ nhân hiện thân đắc thần thông tam-muội.
(經)佛現神足時,十方諸天人,得佛華三昧。十恆河沙菩薩,現身成佛。三恆河沙八部王成菩薩道。十千女人現身得神通三昧。
(Kinh: Khi
đức Phật hiện thần túc, mười
phương các trời, người đắc Phật Hoa
tam-muội. Mười hằng hà sa Bồ Tát thành Phật
ngay trong thân hiện tại. Ba hằng hà sa vua của tám bộ
[quỷ thần] thành Bồ Tát đạo. Mười ngàn
nữ nhân đắc thần thông tam-muội ngay trong thân hiện
tại).
Đây là đại chúng trong
hội thành tựu lợi ích. Thần Túc chính là thần biến.
Chư thiên đắc Phật Hoa tam-muội tức là Hoa
Nghiêm tam-muội, đó là pháp sở đắc của Thập
Địa Bồ Tát. Mười hằng hà sa Bồ Tát
được thành Phật đạo, chính là nhân tṛn quả
măn. Ba Hằng hà sa vua của tám bộ quỷ thần thành
Bồ Tát đạo, chính là chuyển phàm nhập thánh.
Mười ngàn nữ nhân đắc thần thông tam-muội
ngay trong thân hiện tại, tức là đạt được
năm món thần thông.
(Kinh) Thiện nam tử!
Thị Bát Nhă Ba La Mật hữu tam thế lợi ích, quá khứ
dĩ thuyết, hiện tại kim thuyết, vị lai
đương thuyết, đế thính, đế thính!
Thiện tư niệm chi, như pháp tu hành.
(經)善男子!是般若波羅密有三世利益,過去已說,現在今說,未來當說。諦聽諦聽!善思念之!如法修行!
(Kinh: Này thiện
nam tử! Bát Nhă Ba La Mật này có lợi ích ba đời,
quá khứ đă nói, hiện tại đang nói, vị lai sẽ
nói, lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ lấy, đúng
như pháp mà tu hành).
Đây là phổ khuyến tu
tŕ, do Bát Nhă có thể lợi lạc ba đời, cho nên ba
đời chư Phật đều cùng nói. Ba câu từ “đế
thính” (lắng nghe) trở đi, chính
là đức Phật xót ḷng rát miệng khuyên bảo, khuyên
hăy nương vào Tam Huệ, khuyên tu Bát Nhă.
Nhân Vương Hộ Quốc Kinh Giảng Nghĩa phần
3 hết
[1] Đại Trí Độ Luận quyển
thứ sáu đă giảng ư nghĩa này như sau: “Hỏi:
Chớ nên nói các sự việc được biến hóa
là Không, v́ sao vậy? Cái tâm biến hóa
cũng do tu mà đắc Định, từ cái tâm ấy mà hiện
ra các thứ biến hóa. Dù người hay pháp, đều
là hóa hiện có nhân, có quả, sao lại nói là Không? Đáp:
Nhân duyên ấy tuy có, cái quả của biến hóa là không.
Như lời nói thốt ra từ miệng th́ vô sở
hữu, tuy từ tâm mà sanh ra lời nói, chẳng thể nói
là do tâm mà có miệng. Nói là ‘vô sở hữu’ th́ đă là có, [giống như nói] có cái đầu
thứ hai, cánh tay thứ ba, tuy [những điều được nói ấy]
từ tâm và miệng sinh ra, chẳng thể nói có cái đầu
thứ hai hay cái tay thứ ba ấy”. Như vậy, “tay thứ ba” trong đoạn kinh
văn này chỉ là một cách nói giả dụ,
chẳng phải là thật sự có, tương ứng với
con mắt bị bệnh thấy có đốm sáng lởn vởn
trên không trung (kinh gọi là “không hoa” tức hoa đốm
trên hư không), hoặc thấy ngọn đèn có quầng
sáng sẫm màu bao quanh, hoặc khi quay tṛn bó đuốc sẽ
thấy có một ṿng lửa, hoặc như người do
chuyển tay quá lẹ, nh́n hoa mắt sẽ thấy người
ấy có nhiều hơn hai cánh tay. Đó đều là các hiện
tượng huyễn hóa.
[2] Ngài Bất Không dịch câu này là “nhân
duyên cố huyễn hữu” (do nhân duyên nên huyễn có).
[3] Phương
Quảng có ba nghĩa:
- Phương là chánh lư, bao
hàm trọn vẹn pháp Nhất Thừa, giải ngộ chân
chánh không thiên lệch, ngôn ngữ chánh đáng. Quảng là
phong phú, bao hàm ư nghĩa vô hạn, nghĩa lư trọn đủ,
lời lẽ rộng lớn, cặn kẽ v.v… Nói gộp
lại th́ có thể hiểu giản lược Phương
Quảng hàm nghĩa “ngôn ngữ huyền diệu, nghĩa lư
rộng lớn, phong phú”.
- Phương Quảng hiểu
theo nghĩa hẹp là “quảng phá” (phá trừ rộng lớn),
tức đối trị các chấp trước, thích ứng
với căn tánh của chúng sanh, phá trừ vô minh.
- Phương Quảng c̣n
có thể hiểu là Vô Tỷ (không sánh bằng), hàm ư: Nghĩa
lư rộng lớn, không kinh điển ngoại đạo
hay luận thuyết thế gian nào có thể sánh bằng, nhưng
mang tính chất b́nh đẳng tuyệt đối.
[4] Một chữ được gọi
là Tự hay Ngôn, cứ hai chữ ghép lại th́ gọi là
Danh. Cú do một hay nhiều Danh ghép lại
có ư nghĩa hoàn chỉnh. Chương là một đoạn
văn có ư nghĩa hoàn chỉnh. “Nghĩa vị” là ư nghĩa của một
Cú hoặc một Chương.
[5] Theo Phật Học Đại Từ
Điển, cái để diễn tả ư nghĩa th́ gọi
là Danh, hiển thị ư nghĩa là Cú, âm thanh, mặt chữ
để hai thứ trên đây nương vào th́ gọi là
Văn. Ba thứ này là
căn bản của tất cả ngôn thuyết, cho nên gọi
là Tam Thân.
[6] Các con số
lớn theo thứ tự trong cách tính của cổ Ấn
Độ là A-tăng-kỳ, vô lượng, vô biên, vô đẳng,
bất khả sổ, bất khả xưng, bất khả
tư, bất khả lượng, bất khả thuyết,
bất khả thuyết bất khả thuyết. Theo phẩm
A Tăng Kỳ trong Bát Thập Hoa Nghiêm th́ cách tính như
sau: “Một trăm lạc-xoa (một trăm ngàn) là một
câu-chi, câu-chi lần câu-chi là một a-dữu-đa, a-dữu-đa
lần a-dữu-đa là một na-do-tha, na-do-tha lần na-do-tha
là một tần-bà-la, tần-bà-la lần tần-bà-la là một
căng-yết-la, căng-yết-la lần căng-yết-la
là một a-già-la, a-già-la lần a-già-la là một tối thắng,
tối thắng lần tối thắng là một ma-bà-la,
ma-bà-la lần ma-bà-la là một a-bà-la…. Vô ngă lần vô ngă là một
a-bạn-đa, a-bạn-đa lần a-bạn-đa là một
thanh liên hoa, thanh liên hoa lần thanh liên hoa là một bát-đầu-ma,
bát-đầu-ma lần bát-đầu-ma là một tăng-kỳ,
tăng-kỳ lần tăng-kỳ là một thú, thú lần
thú là một chí, chí lần chí là một a-tăng-kỳ,
a-tăng-kỳ lần a-tăng-kỳ là một a-tăng-kỳ
chuyển, a-tăng-kỳ chuyển lần a-tăng-kỳ
chuyển là một vô lượng, vô lượng lần vô
lượng là một vô lượng chuyển, vô lượng
chuyển lần vô lượng chuyển là một vô biên,
vô biên lần vô biên là một vô biên chuyển, vô biên chuyển
lần vô biên chuyển là một vô đẳng, vô đẳng
lần vô đẳng là một vô đẳng chuyển, vô
đẳng chuyển lần vô đẳng chuyển là một
bất khả sổ, bất khả sổ lần bất
khả sổ là một bất khả sổ chuyển…”
[7] Y Tăng-già-lê gồm những mảnh
vải ghép lại, mỗi mảnh theo chiều dọc của
y gọi là Điều. Điều lại do các mảnh nhỏ
ghép lại, được chia thành ba phẩm:
- Phẩm hạ gồm hạ hạ
phẩm (chín điều), hạ trung phẩm (mười một
điều), hạ thượng phẩm (mười ba
điều). Mỗi điều gồm hai miếng dài, một
miếng ngắn ghép lại.
- Phẩm trung gồm trung hạ phẩm
(mười lăm điều), trung trung phẩm (mười
bảy điều), và trung thượng phẩm (mười
chín điều). Mỗi điều gồm ba miếng dài,
một miếng ngắn ghép lại.
- Phẩm thượng gồm
thượng hạ phẩm (hai mươi mốt điều),
thượng trung phẩm (hai mươi ba điều), và
thượng thượng phẩm (hai mươi lăm
điều). Mỗi điều gồm bốn miếng
dài, một miếng ngắn ghép lại. Như vậy
thượng thượng phẩm tăng-già-lê gồm một
trăm hai mươi lăm miếng vải ghép lại.
Trong truyền thống Phật giáo
Trung Hoa, y thượng thượng phẩm Tăng-già-lê
được gọi là tổ y, và trong các đại lễ, vị
pháp sư chủ pháp có thể mặc tổ y với mép mảnh vải chạy chỉ vàng. Trong quá khứ, chỉ có người
truyền thừa pháp, nối
tiếp ngôi vị của tổ sư trong tông phái th́ mới có
tư cách đắp loại y này, khác với ư nghĩa nguyên thủy của y Tăng-già-lê
may thành hai lớp, dùng để mặc khi khất thực,
nhập chúng, tụng niệm, hoặc giảng pháp, vừa
có tác dụng ngự hàn.
[8] Nhị thập bát tú (c̣n gọi là
Nhị Thập Bát Thứ, Nhị Thập Bát Xá) chính là hai
mươi tám tinh ṭa (constellation, c̣n gọi
là tinh quan), nằm ở phần tiếp giáp giữa đường
hoàng đạo và thiên xích đạo. Hoàng đạo là
đường chuyển động của mặt trời
trong suốt một năm quan sát từ địa cầu.
Mỗi một Tú (một tinh ṭa) lấy một hằng tinh
lớn nhất trong ấy để làm tên cho cả tinh ṭa.
Các tinh ṭa này sử dụng như tọa độ chuẩn
để tính toán hướng chuyển động của
mặt trời, mặt trăng, năm hành tinh lớn
(ngũ tinh, tức Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) ḥng tính toán lịch pháp, thời tiết,
dự đoán khí tượng, dự đoán điềm hung cát của quốc
gia v.v… Ứng với bốn phương, lại chia thành tứ
tượng, phương Đông là Thương Long (rồng
xanh), phương Bắc là Huyền Vũ (rùa đen),
phương Nam là Châu Tước (chim có màu lông đỏ
như lửa), và phương Tây là Bạch Hổ (cọp trắng). Trong mỗi Tú (tinh ṭa) có nhiều
ngôi sao, chẳng hạn tinh tú Giác gồm các sao Giác, B́nh
Đạo, Thiên Điền, Tấn Hiền, Thiên Môn (thuộc
chùm sao Thất Nữ, Virgo), Châu Đỉnh (thuộc chùm
sao Hậu Phát, Coma Berenices), B́nh (thuộc chùm Trường
Xà, Hydra), Khố Lâu, Trụ, Hành, Nam Môn (ứng với chùm
sao Nhân Mă, Centaurus). Sao Đầu chính là một cḥm gồm sáu ngôi sao,
thường được gọi là Nam Đẩu Lục
Tinh.
[9] Ma Ha Ca La c̣n dịch là Đại Hắc,
Đại Thời, Đại Hắc Thiên Thần, là một
vị hộ pháp trong Mật giáo, đồng thời
cũng là thần chữa bệnh và đem lại tài phú (do
vậy, vị này được Phật giáo Nhật Bản
xếp vào nhóm bảy vị phúc thần). Theo kinh Phật Thuyết Ma Ha Ca La Đại
Hắc Thiên Thần Đại Phước Đức Viên
Măn Đà La Ni, vị này chính là Bồ Tát, thành Phật đă
lâu, hiện thân phẫn nộ để ban phước, cứu
độ chúng sanh khổ nạn. Tạng truyền Phật
giáo lại cho rằng vị này là hóa thân của Đại
Nhật Như Lai, làm chủ tam thiên đại thiên thế giới
dưới thân phận Đại Tự Tại Thiên.