Nhân Vương Hộ Quốc Kinh Giảng Nghĩa
Viên Anh đại sư biên soạn
仁王護國經講義
圓瑛大師著
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang
Phần 4
2.2.7. Phẩm thứ
bảy: Thọ Tŕ (Thọ Tŕ phẩm đệ thất,
受持品第七)
Phẩm này nói về mười ba loại
pháp sư thọ tŕ Bát Nhă, lại c̣n khiến cho người
khác thọ tŕ. V́ thế gọi là phẩm Thọ Tŕ. Đại
Luận nói: “Do tín lực, nghe xong phụng hành th́ là Thọ.
Do niệm lực, lâu ngày chẳng mất là Tŕ”. “Mười
ba loại pháp sư”: Tính từ Tập Nhẫn Thập
Trụ cho đến loại thứ mười ba là Quán
Đảnh Bồ Tát. Phẩm này nêu ra đức hạnh
và tướng mạo hoằng kinh, khuyên nhủ chúng sanh
trong vị lai phải vâng giữ làm khuôn mẫu.
(Kinh) Nhĩ thời, Nguyệt
Quang vương tâm niệm, khẩu ngôn, kiến Thích Ca Mâu
Ni Phật, hiện vô lượng thần lực, diệc
kiến thiên hoa đài thượng Bảo Măn Phật thị
nhất thiết Phật hóa thân chủ. Phục kiến
thiên hoa diệp thế giới thượng Phật, kỳ
trung chư Phật, các các thuyết Bát Nhă Ba La Mật.
(經)爾時,月光王心念口言,見釋迦牟尼佛,現無量神力。亦見千華臺上寶滿佛,是一切佛化身主。復見千華葉世界上佛,其中諸佛,各各說般若波羅密。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
vua Nguyệt Quang tâm nghĩ, miệng nói, thấy Thích Ca Mâu
Ni Phật hiện vô lượng
thần lực, cũng thấy Bảo Măn Phật trên ngàn
đài hoa là chủ của hết thảy hóa thân chư Phật.
Lại thấy Phật trong các thế giới nơi ngàn
cánh hoa, các vị Phật trong ấy, mỗi
vị đều nói Bát Nhă Ba La Mật).
“Nhĩ thời” (Lúc bấy
giờ): Lúc đức Như Lai hiện thần thông đă
xong. Vua Nguyệt Quang tâm nghĩ, miệng nói. “Tâm nghĩ”: Trong các phẩm
trước, do thấy tướng thần biến, tâm
sanh nghi niệm. “Miệng nói” chính là thốt lời
thưa hỏi phương pháp tu học trong phẩm này. “Kiến
Thích Ca Mâu Ni Phật hiện vô lượng thần lực”
(Thấy Thích Ca Mâu Ni Phật hiện vô lượng thần
lực): Hăy nên hiểu đây là nói về Pháp Thân Phật.
V́ sao biết? Kinh Phổ Hiền Quán nói: “Thích Ca Mâu Ni Phật,
danh Tỳ Lô Giá Na” (Thích Ca Mâu Ni Phật tên là Tỳ Lô Giá
Na). Đại kinh nói: “Ngă kim thử thân, tức thị
Pháp Thân” (Thân này của ta chính là Pháp Thân).
“Diệc kiến thiên hoa
đài thượng Bảo Măn Phật” (cũng thấy
Bảo Măn Phật trên ngàn đài hoa): Hăy nên hiểu đây
là nói về Báo Thân Phật. Trí huệ viên măn, quang minh chiếu
trọn khắp, như chất báu tỏa sáng. V́ thế gọi
là Bảo Măn. “Thị nhất thiết Phật hóa thân chủ”
(là chủ của hóa thân hết thảy chư Phật):
Trên ngàn đài hoa, mỗi hoa có trăm ức cơi, Lô Xá Na Phật
là chủ. “Phục kiến thiên diệp thế giới
thượng Phật” (lại thấy Phật trong các thế
giới trên ngàn cánh hoa): Hăy nên hiểu đó là nói về hóa
thân Phật, tức là chư Phật trong một
trăm ức cơi nơi một đóa hoa. Các vị Phật
trong ấy đều nói Bát Nhă Ba La Mật. Thấy tướng
tốt lành này, [vua Ba Tư Nặc] tâm sanh nghi niệm:
Phật ở ba chỗ ấy là một, hay là khác?
(Kinh)
Bạch Phật ngôn: “Như thị vô lượng Bát Nhă Ba
La Mật bất khả thuyết, bất khả giải,
bất khả dĩ thức thức, vân hà chư thiện
nam tử, ư thử kinh trung, minh liễu giác giải,
như pháp vị nhất thiết chúng sanh khai Không pháp
đạo?” (經)白佛言:如是無量般若波羅密,不可說,不可解,不可以識識。云何諸善男子,於此經中,明了覺解,如法為一切眾生開空法道?
(Kinh: [Vua Ba Tư Nặc]
bạch Phật rằng:
- Vô lượng Bát Nhă Ba La Mật như thế chẳng thể
nói, chẳng thể hiểu, chẳng thể dùng thức
để biết, v́ sao các thiện nam tử ở trong
đây có thể biết rơ, giác ngộ, thấu hiểu,
đúng như pháp v́ hết thảy chúng sanh khai giác đạo
Chân Không?)
Vua Nguyệt Quang bạch Phật
rằng: “Như thị vô lượng Bát Nhă Ba La Mật”
(vô lượng Bát Nhă Ba La Mật như thế). “Như
thị” (như thế) là nói đến pháp Bát Nhă vừa
nói trên đây. “Vô lượng”: Tán thán pháp ấy rất
sâu vô lượng. Bát Nhă lấy “ĺa tướng”
làm
Tông. Do ĺa
tướng ngôn thuyết nên “bất khả thuyết”
(chẳng thể nói). Do ĺa tướng tâm duyên,
cho nên chẳng thể dùng trí để hiểu, chẳng thể
dùng thức để biết. Chữ Thức đầu
tiên [trong câu “bất khả dĩ thức thức”] là “thức
tâm”, chữ Thức thứ hai nghĩa là “phân biệt”.
Ba câu này nói đơn giản sẽ là “chẳng thể
nghĩ bàn”.
Từ “vân hà” trở
đi, nêu bày ư
thưa hỏi: Các thiện nam tử đối với kinh
này, ĺa ngôn thuyết, dứt bặt suy nghĩ, v́ sao có thể
hiểu rơ chỉ thú của kinh, giác ngộ, thấu hiểu
nghĩa vị, nương theo pháp để khai đạo
“Chân Không pháp tánh” cho chúng sanh? Lại
nương theo đại pháp Bát Nhă, v́ chúng sanh diễn nói,
khiến cho họ khai ngộ pháp Chân Không Thật Tướng,
tiến nhập Phật đạo?
(Kinh) Đại Mâu Ni
ngôn: - Hữu tu hành thập tam quán môn chư thiện nam tử,
vi đại pháp vương, tùng Tập Nhẫn chí Kim Cang
Đảnh, giai vi pháp sư, y tŕ kiến lập. Nhữ
đẳng đại chúng, ưng như Phật cúng dường,
nhi cúng dường chi. Ưng tŕ bách vạn ức thiên hoa,
thiên hương, nhi dĩ phụng thượng.
(經)大牟尼言:有修行十三觀門諸善男子,為大法王。從習忍至金剛頂,皆為法師,依持建立。汝等大眾,應如佛供養,而供養之。應持百萬億天華天香,而以奉上。
(Kinh: Đức Đại
Mâu Ni nói: - Có các thiện nam tử tu hành mười ba quán
môn làm đại pháp vương, từ Tập Nhẫn cho
đến Kim Cang Đảnh, đều là pháp sư,
nương theo sức thọ tŕ [các môn nhẫn ấy] mà
kiến lập. Đại chúng các vị hăy nên như cúng
dường Phật mà cúng dường họ, hăy nên cầm
trăm vạn ức hoa trời, hương trời để
dâng lên).
Từ đây trở đi,
đức Phật trả lời câu hỏi của Nguyệt
Quang. “Đại Mâu Ni” chính là Thích Ca Mâu Ni. Nói “tu hành
thập tam quán môn chư thiện nam tử vi đại
pháp vương” (các thiện nam tử tu mười ba
quán môn, là đại pháp vương): Đây chính là khuyên tu quán môn, tán
thán đại lược phẩm đức của họ.
“Mười ba quán môn” chính là các quán môn được
tu tập bởi Tam Hiền và Thập Thánh. Bốn môn Nhẫn
đầu (Phục Nhẫn, Tín Nhẫn, Thuận Nhẫn,
Vô Sanh Nhẫn), mỗi môn đều có ba phẩm (thượng,
trung, hạ), bốn lần ba mười hai, và Hạ Nhẫn
Quán thuộc Tịch Diệt Nhẫn của Đệ Thập
Địa, hợp
thành mười ba quán môn. Nếu đă chứng nhập Thượng
Nhẫn
Quán
của Tịch Diệt Nhẫn tức là chuyển thành Diệu
Giác thường trong lặng, trở thành đại pháp
vương.
“Tùng Tập Nhẫn chí Kim
Cang Đảnh” (từ Tập Nhẫn cho tới Kim Cang
Đảnh): Tập Nhẫn (hạ phẩm Phục Nhẫn)
chính là địa vị Thập Trụ, Kim Cang Đảnh
là địa vị Quán Đảnh. Nêu danh xưng của
hai môn Nhẫn đầu tiên và cuối cùng, tỉnh lược
mười một món Nhẫn trong khoảng giữa, tức
là nói chung mười ba môn Nhẫn. “Giai vi pháp sư”
(đều là pháp sư): Tức là y chỉ sức thọ
tŕ Bát Nhă, kiến lập chánh pháp, làm thầy của người
khác. “Nhữ đẳng đại chúng, ưng như Phật
cúng dường nhi cúng dường chi” (Đại chúng
các vị hăy nên như cúng dường Phật mà cúng dường
các pháp sư ấy): Đây chính là khuyên hăy nên cúng dường.
Do vị pháp sư có thể hoằng dương chánh pháp,
khiến cho Phật chủng chẳng đoạn, có thể
sanh ra vị lai chư Phật. V́ thế, hăy nên như cúng
dường Phật để cúng dường [các vị
pháp sư ấy], hăy nên cầm trăm vạn ức hoa trời,
hương trời để dâng cúng vậy!
(Kinh) Thiện nam tử!
Kỳ pháp sư giả, thị Tập Chủng Tánh Bồ
Tát, nhược tại gia Bà Tha, Ưu-bà-tha, nhược xuất gia tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni, tu hành Thập Tín.
(經)善男子!其法師者,是習種性菩薩。若在家婆蹉、優婆蹉,若出家比丘、比丘尼,修行十信。
(Kinh: Này thiện nam tử!
Vị pháp sư ấy là Tập Chủng Tánh Bồ Tát, dù
là tại gia Bà Tha hay ưu-bà-tha, hoặc xuất gia tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni tu hành Thập Tín).
Từ đây trở đi,
giải đáp cặn kẽ về mười ba môn Nhẫn.
“Kỳ pháp sư” (vị pháp sư ấy) tức là
mười ba loại pháp sư. “Thị Tập Chủng
Tánh Bồ Tát” (là Tập Chủng Tánh Bồ Tát): Tính từ
dưới lên, tính từ địa vị thứ nhất,
thuộc địa vị nội phàm. Phục Nhẫn hạ
phẩm là Thập Trụ Bồ Tát. Tập Chủng Tánh là
ǵ? “Tập” là huân tập, đối với pháp chân tịnh
Tam Bảo, dấy lên mười loại tín tâm, huân tập
thành chủng tử, ḥng tiến hướng tánh Phật
đạo. “Nhược tại gia Bà Tha, ưu-bà-tha”
tức là ưu-bà-tắc và ưu-bà-di, do âm tiếng Phạn
đọc nặng hay nhẹ mà [phiên âm] bất đồng,
cùng với xuất gia tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni chính là tứ
chúng đệ tử trong Phật môn. “Tu hành Thập Tín”
tức là mười loại tín tâm, xem giải thích trong phần
trước.
(Kinh) Tự quán kỷ
thân, địa, thủy, hỏa, phong, không, thức, phần
phần bất tịnh. Phục quán thập tứ căn,
sở vị ngũ t́nh, ngũ thọ, nam, nữ, ư, mạng
đẳng căn, hữu vô lượng tội quá cố.
(經)自觀己身,地水火風空識,分分不淨。復觀十四根,所謂五情、五受、男、女、意、命等根,有無量罪過故。
(Kinh: Tự quán thân
ḿnh, đất, nước, lửa, gió, không, thức, từng
phần bất tịnh. Lại quán mười bốn
căn, tức các căn: Năm t́nh, năm thọ, nam, nữ,
ư, mạng v.v… có vô lượng tội lỗi).
Thập Trụ Bồ Tát tu
hành Thập Tín, dấy lên quán chiếu Bát Nhă, tu Bất Tịnh
Quán. Trước hết, quán lục đại trong thân
ḿnh, [tức là quán] đất, nước, lửa, gió,
không, thức. Kế đó, quán mười bốn căn, tức
là trong hai mươi hai căn, trừ ba vô lậu căn[1]
chẳng sanh lầm lỗi, ngũ căn[2]
như tín v.v… chẳng đoạn thiện căn, chẳng
cần phải quán, chỉ quán năm t́nh căn[3],
năm thọ căn[4],
hai căn nam nữ, mạng căn, mười bốn
căn ấy chính là căn bản sanh tử do có thể
sanh ra vô lượng tội lỗi.
(Kinh) Tức phát Vô
Thượng Bồ Đề tâm, thường tu tam giới
nhất thiết niệm niệm giai bất tịnh cố,
đắc Bất Tịnh Nhẫn quán môn, trụ tại Phật
gia, tu Lục Ḥa Kính, sở vị tam nghiệp, đồng
giới, đồng kiến, đồng học, hành bát vạn
tứ thiên Ba La Mật đạo.
(經)即發無上菩提心。常修三界一切念念皆不淨故,得不淨忍觀門。住在佛家,修六和敬,所謂三業、同戒、同見、同學,行八萬四千波羅密道。
(Kinh: Liền phát Vô
Thượng Bồ Đề tâm, do thường tu [quán tưởng]
hết thảy các niệm trong tam giới, niệm nào
cũng đều là bất tịnh, cho nên đắc quán
môn Bất Tịnh Nhẫn, trụ trong nhà Phật, tu Lục
Ḥa Kính, tức là ba nghiệp, cùng giới, cùng kiến giải,
cùng học, hành tám vạn bốn ngàn đạo Ba La Mật).
“Tức phát Vô Thượng
Bồ Đề tâm” (liền phát Vô Thượng Bồ
Đề tâm): Bồ Đề (Bodhi) trong tiếng Phạn
được phương này dịch là Đạo. Bồ
Đề có ba loại:
- Một, Chân Tánh Bồ Đề,
tức coi Lư là đạo.
- Hai, Thật Trí Bồ Đề,
tức coi trí huệ là đạo.
- Ba, Phương Tiện Bồ
Đề, đây là thấu suốt căn cơ để
thí giáo, coi đó là đạo.
Ba loại Bồ Đề
là sở chứng của Phật. Đấy chính là phát Vô
Thượng Bồ Đề tâm, tức là phát tâm thành Phật.
“Thường tu tam giới,
nhất thiết niệm niệm giai bất tịnh cố,
đắc Bất Tịnh Nhẫn quán môn” (do thường
tu [quán tưởng] hết thảy các niệm trong tam giới,
niệm nào cũng đều là bất tịnh, cho nên đắc
quán môn Bất Tịnh Nhẫn): Thường tu Bất Tịnh
Quán. Không chỉ riêng quán ngoại thân bất tịnh, mà c̣n
quán hết thảy các niệm trong nội tâm luôn
duyên theo tam giới, niệm nào cũng tham đắm trần
lao, dấy lên phiền năo, nhuốm bẩn chân tánh. V́ thế,
đều là bất tịnh! Quán lực thành tựu, cho nên
đắc quán môn Bất Tịnh Nhẫn. Lại do niệm
nào cũng dấy lên kiến trược, phiền năo
trược, vẩn đục tự tánh.
“Trụ tại Phật
gia” (trụ trong nhà Phật): Do có thể thường tu
Quán, là đệ tử Phật, th́ gọi là “trụ Phật
gia”. “Tu Lục Ḥa Kính”: Hai câu từ “sở vị”
trở đi, giải thích Lục Ḥa Kính: Thân ḥa thuận
cùng ở, khẩu ḥa thuận chẳng tranh căi, ư ḥa thuận
cùng vui vẻ,
giới ḥa thuận cùng nhận lănh, kiến giải ḥa hợp
cùng hiểu, học ḥa hợp cùng tu, tức là coi “cùng học
tập, tu hành tám vạn bốn ngàn đạo
Ba La Mật” là môn [Ḥa Kính] thứ sáu, [trong khi] các
kinh khác coi “lợi ḥa đồng quân” (ḥa thuận chia
sẻ đồng đều lợi lộc) là môn thứ sáu.
(Kinh) Thiện nam tử!
Tập Nhẫn dĩ tiền, hành Thập Thiện Bồ
Tát, hữu thoái, hữu tấn. Thí như khinh mao, tùy phong
đông tây. Thị chư Bồ Tát, diệc phục như
thị. Tuy dĩ thập thiên kiếp, hành thập chánh
đạo, phát Tam Bồ Đề tâm, năi đương
nhập Tập Nhẫn vị, diệc thường học
tam Phục Nhẫn pháp, nhi bất khả tự danh, thị
bất định nhân.
(經)善男子!習忍以前,行十善菩薩,有退有進。譬如輕毛,隨風東西。是諸菩薩,亦復如是。雖以十千劫,行十正道,發三菩提心,乃當入習忍位,亦常學三伏忍法。而不可字名,是不定人。
(Kinh: Thiện
nam tử! Bồ Tát hành Thập Thiện, trước khi
đạt được Tập Nhẫn, có lùi, có tiến.
Ví như sợi lông nhẹ theo gió bay qua phía Đông hoặc
phía Tây. Các vị Bồ Tát ấy cũng giống như thế.
Tuy dùng mười ngàn kiếp, hành mười chánh đạo,
phát tâm Chánh Giác, sẽ nhập địa vị Tập Nhẫn,
cũng thường học pháp thuộc ba môn Phục Nhẫn,
nhưng chẳng thể gọi tên [là người thuộc
Quyết Định Tụ], mà là người thuộc Bất
Định Tụ).
Đây là nói về hạ phẩm
Phục Nhẫn. Trước khi đạt được
mười tâm thuộc Tập Nhẫn, th́ ngoại phàm Bồ
Tát tu hành Thập Thiện vẫn c̣n có tiến, có lùi. Ví
như sợi lông nhẹ theo gió thổi mà dạt sang
Đông hay cuốn sang Tây không nhất định. Đấy là nêu tỷ dụ. Hai câu “thị
chư Bồ Tát, diệc phục như thị” (các vị
Bồ Tát ấy cũng giống như thế) là kết hợp
thí dụ với pháp. “Tuy dĩ thập thiên kiếp, hành
thập chánh đạo” (tuy dùng mười ngàn kiếp để hành mười chánh đạo): Tức
là trải qua một vạn kiếp, tu hành đạo Thập
Tín, có thể phát khởi, tiến nhập Tam Bồ Đề.
Tam Bồ Đề (Saṁbodhi) dịch
nghĩa là Chánh Giác, tức là phát tâm thành Phật, sẽ nhập
địa vị Tập Nhẫn, cũng thường học
ba phẩm thượng, trung, hạ của pháp Phục Nhẫn,
nhưng chẳng thể lập tức gọi là người
thuộc Quyết Định Tụ, mà là người thuộc
loại Bất Định Tụ.
(Kinh) Thị định
nhân giả, nhập Sanh Không vị, thánh nhân tánh cố, tất
bất khởi Ngũ Nghịch, lục trọng, nhị thập
bát khinh, Phật pháp kinh thư, tác phản nghịch tội,
ngôn phi Phật thuyết, vô hữu thị xứ. Năng
dĩ nhất A-tăng-kỳ kiếp, tu Phục Đạo
Nhẫn hạnh, thỉ đắc nhập
Tăng-già-đà vị.
(經)是定人者,入生空位,聖人性故。必不起五逆,六重,二十八輕。佛法經書,作反逆罪,言非佛說;無有是處。能以一阿僧祇劫,修伏道忍行,始得入僧伽陀位。
(Kinh: Người thuộc
Định Tụ nhập
địa vị Sanh Không, do tánh thánh nhân, ắt chẳng dấy
lên Ngũ Nghịch, sáu tội trọng, hai mươi tám tội
nhẹ. [Nếu người như vậy]
đối với kinh sách Phật pháp mà tạo tội phản
nghịch, bảo chẳng phải do đức Phật
nói, chẳng hề có chuyện ấy! Có thể trong một
A-tăng-kỳ kiếp tu hạnh Phục Đạo Nhẫn,
mới tiến nhập địa vị Tăng-già-đà).
Kinh văn trong phần
trước nói về hạng người thuộc Bất
Định Tụ do tu Tín (tu Thập Tín) chưa viên măn. Ở
đây, nói về người thuộc Quyết Định
Tụ. Do tín tâm đă trọn vẹn, thiện căn chín muồi,
[cho nên] là người thuộc Quyết Định Tụ.
Phá Ngă Không, nhập Sơ Trụ, đắc Vị Bất
Thoái. Sanh Không chính là Ngă Không, c̣n gọi là Nhân Không. “Thánh
nhân tánh cố” (do tánh thánh nhân): Đối với nội
phàm được nói trong phần trước th́ đă
siêu phàm nhập thánh, đạt được tánh thánh nhân.
Đối với Thập Địa trong phần sau, do thuộc
ba phẩm (thượng, trung, hạ) của Phục Nhẫn,
vẫn gọi là Tam Hiền.
Từ “tất bất khởi”
(ắt chẳng dấy lên) trở đi, nói về những
điều khó vượt qua. Xem giải thích về Ngũ
Nghịch trong phần trước. “Lục trọng”:
Giết, trộm, dâm, dối, cộng thêm tội thứ
năm là buôn bán rượu, và tội thứ sáu là kể lỗi
của tứ chúng. “Hai mươi tám tội nhẹ”
theo kinh Thiện Sanh Ưu Bà Tắc th́:
- Một, chẳng cúng dường
cha mẹ, sư trưởng.
- Hai, tham đắm rượu chè.
- Ba, chẳng thể chăm
sóc người mắc bệnh khổ.
- Bốn, có người khất
thực, chẳng thể tùy theo khả
năng cho người ta nhiều hay ít, khiến cho họ rời
đi tay không.
- Năm, đối với tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc v.v… chẳng đứng dậy
lễ bái, thưa hỏi.
- Sáu, nếu thấy bậc
Tứ Quả phạm giới, bèn sanh tâm kiêu mạn.
- Bảy, hằng tháng chẳng
thể giữ Lục Trai, thọ tám chi giới, tức Bát
Quan Trai Giới. Đó là ngũ giới “giết, trộm,
dâm, dối, uống rượu”, cộng thêm giới thứ
sáu “ngồi giường lớn cao rộng”, giới thứ
bảy là “đeo tràng hoa, chuỗi anh lạc, cũng như
dùng dầu thơm bôi thân”, giới thứ tám là “tự ca
múa, hát xướng, cố ư đến nghe”. Do tŕ tám giới
ấy, có thể đóng chặt các cửa đường
ác.
- Tám, trong ṿng bốn
mươi dặm có nơi giảng pháp mà chẳng đến
nghe.
- Chín, hưởng dụng ngọa
cụ, giường, ṭa của Chiêu Đề Tăng[5].
- Mười, nghi nước
có trùng mà cố ư uống.
- Mười một, ở
chỗ hiểm nạn mà đi một ḿnh, chẳng có bầu
bạn.
- Mười hai, không có đồng
bạn mà nghỉ đêm tại chùa ni.
- Mười ba, v́ tài mạng
mà đánh chửi nô tỳ, tôi tớ, người ngoài.
- Mười bốn, dùng thức
ăn thừa thí cho tứ bộ chúng.
- Mười lăm, nuôi nấng
mèo, chồn.
- Mười sáu, nuôi nấng
voi, ngựa, trâu, lừa, hết thảy loài cầm thú, chẳng
hề tịnh thí.
- Mười bảy, [cư
sĩ] chẳng trữ y Tăng-già-lê, bát, tích trượng
[của tăng
chúng].
- Mười tám, v́ chính ḿnh
mà làm ruộng.
- Mười chín, chẳng
nên v́ thân mạng của chính ḿnh mà buôn bán ngoài chợ, cân
đong, mua bán vật dụng. Hễ nói giá, chẳng
được trái lời đă nói, bỏ thứ rẻ,
chọn thứ mắc.
- Hai mươi, hành dục
không đúng chỗ, đúng thời[6].
- Hai mươi mốt, buôn
bán kinh doanh, không được trốn thuế, khai man.
- Hai mươi hai, chớ vi
phạm phép nước.
- Hai mươi ba, có
được trái cây, thức ăn mới, chẳng dâng
cúng Tam Bảo trước, mà để tự ḿnh hưởng
dụng trước.
- Hai mươi bốn, nếu
Tăng chúng chẳng cho phép thuyết pháp, hoặc tán thán, mà cứ tự tiện làm.
- Hai mươi lăm, đi
trước sa-di và tỳ-kheo.
- Hai mươi sáu, ở
trong tăng chúng, khi thọ trai, chẳng được chọn
lấy món ngon, hoặc lấy quá phần.
- Hai mươi bảy, không
được nuôi tằm.
- Hai mươi tám, khi đi
đường, nếu thấy
có người bị bệnh mà không chăm sóc, hoặc dùng
phương tiện căn dặn [người khác chăm
sóc bệnh nhân], cứ bỏ mặc mà đi.
“Phật pháp kinh thư,
ngôn phi Phật thuyết” (đối với kinh sách nhà
Phật, bèn nói chẳng phải do Phật nói): Đối với
kinh sách kết tập Phật pháp, vốn do Phật nói, lại
bảo chẳng phải do Phật nói. Đối với
các kinh thật sự chẳng do Phật nói, lại ngược
ngạo bảo là do đức Phật nói. Câu “vô hữu
thị xứ” (chẳng có lẽ ấy), vốn đối
ứng với chữ “tất bất khởi” (ắt
chẳng dấy lên) trước đó. Đă ắt là chẳng dấy lên, chẳng
có lẽ nào lại tạo hai mươi tám tội khinh!
“Năng dĩ nhất
A-tăng-kỳ kiếp, tu Phục Đạo Nhẫn hạnh,
thỉ đắc nhập Tăng-già-đà vị”
[nghĩa là] có thể trong một A-tăng-kỳ kiếp,
tu hành các hạnh thuộc hạ phẩm của Phục Đạo
Nhẫn th́ mới chứng nhập địa vị
Tăng-già-đà (Saṃgata).
Tăng-già-đà trong tiếng Phạn được
phương này dịch là Tập Chủng Tánh, tức địa
vị Thập Trụ, chính là dùng mười tín tâm huân tập
thành chủng tử, có thể tiến nhập tánh Phật
đạo.
(Kinh) Phục thứ,
Tánh Chủng Tánh hành thập huệ quán, diệt thập
điên đảo, cập ngă nhân tri kiến, phần phần
giả ngụy, đản hữu danh, đản hữu
thọ, tưởng hữu pháp, bất khả đắc,
vô định tướng, vô tự tha tướng cố,
tu hộ Không Quán, diệc thường hành bách vạn Ba La Mật, niệm niệm bất khứ
tâm, dĩ nhị A-tăng-kỳ kiếp hành thập chánh đạo
pháp, trụ Ba La Đà
vị.
(經)復次,性種性,行十慧觀,滅十顛倒,及我人知見,分分假偽。但有名,但有受,想有法,不可得,無定相,無自他相故。修護空觀,亦常行百萬波羅密,念念不去心。以二阿僧祇劫,行十正道法,住波羅陀位。
(Kinh: Lại nữa,
Tánh Chủng Tánh hành mười huệ quán, diệt mười
thứ điên đảo, và tri kiến “ta, người”,
[v́ những thứ ấy] phần nào cũng đều giả
dối, hư ngụy, do chỉ có danh, chỉ
có thọ, tưởng, có pháp, chẳng thể được,
chẳng có tướng nhất định, chẳng có
tướng tự tha. Tu tập, thủ hộ Không Quán,
cũng thường hành trăm vạn Ba La Mật, niệm
nào cũng chẳng ĺa khỏi tâm. Dùng hai A-tăng-kỳ kiếp
để hành pháp mười chánh đạo, trụ trong
địa vị Ba La Đà).
Đây là nói về trung phẩm
của Phục Nhẫn. Tánh Chủng Tánh: Chữ Tánh đầu
tiên chỉ chủng tánh đă tu tập từ trước,
hai chữ Chủng Tánh kế đó chỉ nhân tánh (因性, tánh của cái
nhân). Dùng cái tánh trong phần trước làm nhân tánh, tu hành
mười món huệ quán, tức mười Chỉ Tâm
đă nói trong phẩm Bồ Tát Giáo Hóa, gồm Tứ Niệm
Xứ, ba thiện căn, và tam thế Nhẫn, hoàn toàn cậy
vào trí huệ để quán chiếu. V́ thế, gọi là “mười
huệ quán”. “Diệt mười điên đảo”: Diệt
tức là Ngưng Dứt. Tứ Niệm Xứ diệt bốn
món điên đảo đối với “thường, lạc,
ngă, tịnh”, tam thiện căn diệt ba món điên đảo
tham, sân, si. Tam Thế Nhẫn diệt ba món điên đảo
“không nhân, không quả, không nhân quả”. [Các món điên đảo
ấy] hợp thành mười món điên đảo.
“Cập ngă nhân tri kiến,
phần phần giả ngụy” (và tri kiến “ta,
người”, từng phần đều giả dối,
hư ngụy): Không chỉ có thể diệt mười
món điên đảo, mà c̣n [diệt trừ] tri kiến “ta,
người”, [nhận biết] từng phần [tri kiến
ấy] thảy đều giả dối, hư ngụy.
Năm câu kể từ “đản hữu danh” (chỉ
có danh) trở đi, giải thích ư nghĩa giả ngụy.
Do ba thứ giả ấy đều chẳng thể
được, chẳng có tướng nhất định,
chẳng có tướng tự tha. “Vô tự tướng”:
Quán tướng không có ta. “Vô tha tướng”: Quán tướng
không có kẻ khác.
“Tu hộ Không Quán” (tu tập,
thủ hộ Không Quán), tức là Tam Không Quán. Chưa đạt
được th́ gọi là Tu, đă đạt được
[cố gắng duy tŕ] th́ gọi là Hộ (thủ hộ). “Diệc
thường hành bách vạn Ba La Mật, niệm niệm bất
khứ tâm” (Cũng thường hành trăm vạn Ba La Mật,
niệm nào cũng đều chẳng ĺa khỏi tâm), tức
là niệm nào cũng thường tu Bát Nhă, chẳng có niệm
nào ĺa khỏi cái tâm Bát Nhă. “Dĩ nhị A-tăng-kỳ
kiếp, hành thập chánh đạo pháp” (Dùng hai
A-tăng-kỳ kiếp để hành pháp mười chánh
đạo): Từ sơ tâm cho đến chỗ này, đă
trải qua hai A-tăng-kỳ kiếp, thường hành
chánh đạo. Trụ trong địa vị Ba La Đà (Pālatāpāla-gotra), [Ba La Đà] dịch
ra nghĩa là Tánh Chủng Tánh, lại c̣n dịch là Thủ Hộ,
do giữ vững, chẳng đánh mất mười hạnh
đă tu.
(Kinh) Phục thứ, Đạo
Chủng Tánh trụ Kiên Nhẫn trung, quán nhất thiết
pháp vô sanh, vô trụ, vô diệt, sở vị ngũ thọ,
tam giới, Nhị Đế, vô tự tha tướng,
như thật tánh, bất khả đắc cố.
(經)復次,道種性,住堅忍中。觀一切法,無生、無住、無滅。所謂五受、三界、二諦,無自他相。如實性,不可得故。
(Kinh: Lại
nữa, Đạo Chủng Tánh trụ trong Kiên Nhẫn, quán
hết thảy các pháp vô sanh, vô trụ, vô diệt, tức
là năm thọ, tam giới, và Nhị Đế
đều chẳng có tướng tự tha, như thật
tánh, chẳng thể được).
Đây là nói đến
thượng phẩm của Phục Nhẫn. Đạo Chủng
Tánh: Đạo chính là Trung Đạo b́nh đẳng thuộc
mười địa. Chủng tánh là nhân tánh (tánh làm cái
nhân), do nó có thể làm nhân tánh cho Trung Đạo. ‘Trụ
Kiên Nhẫn trung” (trụ trong Kiên Nhẫn) tức là
mười món Kiên Tâm Quán được nói trong phẩm Bồ
Tát Giáo Hóa. Hết thảy các pháp vốn chẳng có ba tướng
“sanh, trụ, diệt” để có thể
được. Từ chữ “sở vị” trở
đi, giải thích quán cảnh: Quán Ngũ Thọ Ấm vô
tướng, đạt được ngũ phần Pháp
Thân, tức một là Giới Nhẫn, hai là Tri Kiến Nhẫn,
ba là Định Nhẫn, bốn là Huệ Nhẫn, năm
là Giải Thoát Nhẫn. Quán nhân quả tam giới vô tướng,
đạt được ba môn giải thoát, tức Không Nhẫn,
Vô Nguyện Nhẫn, và Vô Tướng Nhẫn. Do quán Nhị
Đế chẳng có tự tướng, chẳng có tha
tướng, như pháp tánh chân thật, chẳng thể
được, bèn đạt được Vô Thường
Nhẫn và Vô Sanh Nhẫn.
(Kinh) Nhi thường nhập
đệ thập, Đệ Nhất Nghĩa Đế,
tâm tâm tịch diệt, nhi thọ sanh tam giới.
(經)而常入第十,第一義諦,心心寂滅,而受生三界。
(Kinh: Mà thường
nhập đệ thập, Đệ Nhất Nghĩa Đế,
tâm luôn tịch diệt, mà thọ sanh trong tam giới).
“Nhi thường nhập
đệ thập” (mà thường nhập môn thứ
mười):
Trước hết là quán Ngũ Ấm, kế đó là tam
giới, sau cùng là Nhị Đế, từ trước
đến sau, theo thứ tự mà nhập, th́ là “thường
nhập”. “Đệ Nhất Nghĩa Đế” nêu
rơ nghĩa rốt ráo. Lại c̣n là Chân Thắng Nghĩa trong
các thắng nghĩa (nghĩa lư thù thắng). Thế Đế
là bất liễu nghĩa, Chân Đế là thắng
nghĩa. Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế
chính là chân thắng nghĩa trong các thắng nghĩa. “Tâm
tâm tịch diệt” tức là niệm nào cũng đều
vô sanh. Trong phần trước, các cảnh được
quán là vô sanh, ở đây là cái tâm có thể duyên theo [các cảnh
ấy để quán] cũng vắng lặng.
“Nhi thọ sanh tam giới”
(mà thọ sanh trong tam giới): Bậc Tam Hiền Bồ Tát
trước khi nhập Sơ Địa, chừa lại Hoặc
để lợi ích chúng sanh. Dùng nguyện lực vô thỉ
làm nhân, đại bi làm duyên, phát tâm “nhập triền”
(入廛, vào trong tam giới bị trói buộc
bởi sanh tử và phiền năo) để x̣e tay cứu vớt,
dùng các thứ phương tiện giáo hóa chúng sanh, thậm
chí đối với tam đồ, không chỗ nào chẳng
vào! Như trong quá khứ, Phật Thích Ca làm nai chúa v.v… Hoặc
ngài Địa Tạng phát nguyện: “Địa ngục
chẳng trống, thề chẳng thành Phật” v.v…
(Kinh) Hà dĩ cố? Nghiệp
tập quả báo, vị hoại tận, cố thuận
đạo sanh.
(經)何以故?業習果報,未壞盡,故順道生。
(Kinh: V́ cớ sao? Do
nghiệp tập quả báo chưa hoại hết, cho nên
thuận đạo mà sanh).
“Hà dĩ cố?” (v́ cớ
sao) là lời gạn hỏi: “Tâm đă tịch diệt, v́ lẽ nào thọ
sanh”? Giải rằng: Chưa lên Sơ Địa, chưa
phá vô minh, kiến ái đă huân tập và quả báo của
nghiệp tập (nghiệp đă tạo tác) chưa từng
phá hoại hết sạch. “Hoại” chính
là đoạn! V́ thế, phải thọ sanh. Nhưng ở
đây là [bậc Bồ Tát Tam Địa] thừa nguyện
(nương theo bổn nguyện) mà đến, do hằng
thuận đạo đại bi cứu thế của Bồ
Tát mà sanh [trong tam giới, chẳng phải do nghiệp lực
lôi kéo sanh vào trong tam giới].
(Kinh) Phục dĩ tam
A-tăng-kỳ kiếp, tu bát vạn ức Ba La Mật,
đương đắc b́nh đẳng thánh nhân địa.
Cố trụ A Tỳ Bạt Trí chánh vị.
(經)復以三阿僧祇劫,修八萬億波羅密,當得平等聖人地。故住阿毗跋致正位。
(Kinh: Lại dùng ba
A-tăng-kỳ kiếp tu tám vạn ức Ba La Mật, sẽ
đắc địa vị thánh nhân b́nh đẳng, cho nên
trụ trong chánh vị A Tỳ Bạt Trí).
Lại trải qua tám
A-tăng-kỳ kiếp, tu tám vạn ức các Độ.
Trong địa vị Thập Hồi Hướng, quay về
Phật tâm, hướng đến Phật quả, sắp
nhập Sơ Địa, cho nên nói là “đương đắc b́nh đẳng thánh nhân địa” (sẽ
đạt được địa vị thánh nhân b́nh
đẳng). “B́nh đẳng” chính là Nhị
Đế viên dung, Trung Đạo b́nh đẳng. Thập
Địa đạt được Thánh Chủng
Tánh, là bậc thánh
nhân. “Cố trụ A Tỳ Bạt Trí chánh vị” (cho
nên trụ trong chánh vị A Tỳ Bạt Trí): [A Tỳ Bạt
Trí (Avaivartika)] dịch là Bất Thoái Địa. Bất
Thoái có ba loại: Một là Vị Bất Thoái, hai là Hạnh
Bất Thoái, ba là Niệm Bất Thoái. Sơ Địa
đắc Niệm Bất Thoái, niệm niệm lưu nhập
biển Tát Bà Nhă. V́ thế, gọi là “chánh
vị”.
(Kinh) Phục thứ, thiện
giác Ma Ha Tát, trụ B́nh Đẳng Nhẫn, tu hành Tứ Nhiếp,
niệm niệm bất khứ tâm.
(經)復次,善覺摩訶薩,住平等忍,修行四攝,念念不去心。
(Kinh: Lại nữa, bậc đại Bồ Tát
khéo giác ngộ, trụ trong B́nh Đẳng Nhẫn, tu hành Tứ
Nhiếp, niệm nào tâm cũng chẳng ĺa).
Đây là nói về hạ phẩm
của Tín Nhẫn. Sơ Địa Bồ Tát khéo giác ngộ
lư Pháp Thân Trung Đạo, cho nên nói là Ma Ha Tát. “Trụ B́nh
Đẳng Nhẫn” là nói về trí Thật Tướng.
Do Sơ Địa cùng quán Không và Hữu, chẳng chấp
hai bên; v́ thế nói là “trụ B́nh Đẳng Nhẫn”.
Hai câu “tu hành Tứ Nhiếp…” nêu bày Phương Tiện
Trí. “Thường hành Tứ Nhiếp”, niệm nào tâm
cũng chẳng rời, rộng tu Bố Thí Độ.
(Kinh) Nhập vô tướng
xả, diệt tam giới tham phiền năo, ư Đệ
Nhất Nghĩa Đế nhi bất nhị, vi pháp tánh vô
vi.
(經)入無相捨,滅三界貪煩惱。於第一義諦而不二,為法性無為。
(Kinh: Nhập vô tướng
xả, diệt tham phiền năo trong tam giới, bất nhị
đối với Đệ Nhất Nghĩa Đế th́ là pháp tánh vô vi).
Từ đây trở đi,
trước hết là giải thích Thật Tướng Trí,
sau đó giải thích Phương Tiện Trí. “Nhập vô
tướng xả”: Nhập vô tướng quán, trí Thật
Tướng hiện tiền, biết rơ mỗi mỗi
đều vô tướng. Có thể xả hết thảy,
chẳng sanh chấp trước. Dùng Bố Thí độ
keo tham, cho nên có thể diệt tham phiền năo trong tam giới.
“Ư Đệ Nhất Nghĩa nhi bất nhị, vi pháp
tánh vô vi” (bất nhị đối với Đệ Nhất
Nghĩa Đế, là pháp tánh vô vi): Từ đây trở
đi, nói về ba món vô vi. Ở đây [kinh văn nói tới]
Hư Không Vô Vi, [tức là] cùng quán Hữu và Vô, chẳng
thiên lệch Chân hay Tục, hoàn toàn quy vào Trung Đạo
Đệ Nhất Nghĩa Không; do vậy bất nhị. “Pháp
tánh vô vi” tức là Hư Không Vô Vi, v́ pháp tánh thanh tịnh
khác nào hư không!
(Kinh) Duyên Lư nhi diệt
nhất thiết tướng cố, vi trí duyên diệt, vô
tướng, vô vi.
(經)緣理而滅一切相故,為智緣滅。無相無為。
(Kinh: Do duyên theo Lư mà
diệt hết thảy các tướng, chính là trí duyên theo
Diệt, vô tướng, vô vi).
Đây là Trạch Diệt Vô
Vi. “Duyên Lư nhi diệt nhất thiết tướng cố”
(do duyên theo Lư mà diệt hết thảy các tướng): Duyên
theo lư Trung Đạo để diệt hết thảy các
tướng hư vọng. Năng duyên (cái có thể duyên)
là chánh trí, dùng chánh trí để duyên cảnh, diệt các
tướng hư vọng. Đó là trí duyên theo Diệt.
Tướng hư vọng đă diệt th́ phiền năo
cũng diệt, cho nên đạt được tướng
vô vi.
(Kinh)
Trụ Sơ Nhẫn thời, vị lai vô lượng sanh
tử, bất do trí duyên nhi diệt cố, phi trí duyên diệt,
vô tướng, vô vi.
(經)住初忍時,未來無量生死,不由智緣而滅故,非智緣滅。無相無為。
(Kinh: Khi trụ
Sơ Nhẫn, v́ vô lượng sanh tử trong vị lai chẳng
do trí duyên mà diệt, chẳng phải do trí duyên theo diệt
mà vô tướng, vô vi).
Đây là Phi Trạch
Diệt Vô Vi. Khi trụ trong hạ phẩm của Tín Nhẫn
thuộc Sơ Địa, đă phá vô minh, đối với
vô lượng sanh tử trong vị lai, chẳng do chánh trí
duyên theo cảnh mà diệt các phiền năo, tức là chẳng
phải do trí duyên theo Diệt mà vô tướng, vô vi.
(Kinh) Vô tự
tha tướng, vô vô vô tướng cố.
(經)無自他相,無無無相故。
(Kinh: Chẳng
có tướng tự hay tha do chẳng phải là không có vô
tướng).
Đây là nói: Đối với chuyện ĺa trong “ĺa tướng”
cũng rời ĺa. “Vô tự tha tướng” (chẳng có
tướng tự hay tha): Tự và tha vốn thuộc vào
pháp đối đăi, nay linh tâm (cái tâm sáng suốt, linh
thông) dứt bặt đối đăi, cho nên chẳng có hai
tướng tự và tha. Tướng tự và tha tuy chẳng
có, nhưng dường như tướng hữu vô hiện
hữu như Tông Môn nói: “Hữu tâm dụng đáo vô tâm xứ,
vô tâm do cách nhất trùng quan” (hữu tâm vận dụng
đến mức vô tâm, nhưng vô tâm vẫn c̣n cách biệt
[chân tâm] một tầng). V́ thế, trong “vô
vô tướng”, dùng một chữ Vô là gạt bỏ cả
hai, dùng chữ Vô ấy để trừ bỏ cả hai
thứ vô, [tức là] “vô vô tự tướng, vô vô tha
tướng” (chẳng phải là
không có tự tướng, chẳng phải là không có tha
tướng), tức là ư nghĩa của “không
không không”.
(Kinh) Vô lượng
phương tiện giai hiện tiền. Quán Thật Tướng
phương tiện giả, ư Đệ Nhất
Nghĩa Đế, bất trầm, bất xuất, bất
chuyển, bất điên đảo.
(經)無量方便皆現前。觀實相方便者,於第一義諦,不沈,不出,不轉,不顛倒。
(Kinh: Vô
lượng phương tiện đều hiện tiền.
Quán phương tiện Thật Tướng là trong Đệ
Nhất Nghĩa Đế, chẳng ch́m, chẳng xuất,
chẳng chuyển, chẳng điên đảo).
Đây là giải thích Phương
Tiện Trí có vô lượng sai biệt, thảy đều
hiện ra trước. Ở đây, nêu đại lược
sáu loại. Một, giải thích Thật Tướng
Phương Tiện Trí. “Quán Thật Tướng
phương tiện giả”: Quán phương tiện chẳng
ĺa Thật Tướng. “Ư Đệ Nhất Nghĩa
Đế” tức là giải thích Thật Tướng
chính là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế.
“Bất trầm” (Chẳng ch́m): Chẳng giống như Nhị Thừa
ch́m đắm trong Không. “Bất xuất”: Chẳng giống
phàm phu xuất Hữu (phàm phu do chấp Hữu, cần phải
vượt thoát ra Hữu mới thấy được
Không). “Bất chuyển”: Chẳng bị Không và Hữu
lay chuyển. “Bất điên đảo”: Chẳng dấy
lên tâm chấp trước điên đảo. Đây chính là
giải thích: “Chẳng phải
là ngoài Thật Trí mà riêng có phương tiện”. V́ thế nói là Thật
Trí phương tiện.
(Kinh) Biến học
phương tiện giả, phi chứng, phi bất chứng,
nhi nhất thiết học.
(經)遍學方便者,非證非不證,而一切學。
(Kinh: Phương tiện
học trọn khắp: Chẳng phải chứng, chẳng
phải không chứng, mà học hết thảy).
Đây là giải thích Biến
Học Phương Tiện Trí (trí
phương tiện học trọn khắp). “Phi chứng,
phi bất chứng” (chẳng phải chứng, chẳng
phải không chứng) tức là “chẳng chứng
mà chứng”.
Sơ Địa xứng tánh khởi tu, tu chính là chẳng
tu. Xứng tánh mà chứng, chứng cũng là vô chứng. Tức
chính là nói: “Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô th́
chẳng được”. “Nhất thiết học” (học
hết thảy) tức là học trọn khắp
Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa.
(Kinh) Hồi hướng
phương tiện giả, phi trụ quả, phi bất
trụ quả, nhi hướng Tát Bà Nhă cố.
(經)回向方便者,非住果,非不住果,而向薩婆若故。
(Kinh: Hồi hướng
phương tiện là chẳng trụ vào quả, chẳng
phải là không trụ vào quả, mà hướng tới Tát
Bà Nhă).
Đây là giải thích Hồi
Hướng Phương Tiện. “Phi trụ quả” (chẳng trụ vào quả): Chẳng trụ
trong phước báo trời người, hoặc quả
Thanh Văn, Duyên Giác. “Phi bất trụ quả” (chẳng phải là không trụ vào quả): Chẳng phải
là không trụ vào quả Sơ Địa. Lưu nhập
vào đó, hướng đến biển Tát Bà Nhă.
(Kinh) Tự tại
phương tiện giả, ư phi đạo nhi hành Phật
đạo, tứ ma sở bất động.
(經)自在方便者,於非道而行佛道,四魔所不動。
(Kinh: Tự tại
phương tiện, ở trong chẳng phải đạo
mà hành Phật đạo, chẳng bị tứ ma lay động).
Đây là giải thích Tự
Tại Phương Tiện Trí. “Ư phi đạo nhi
hành Phật đạo” (ở trong “chẳng phải
đạo”
mà hành Phật đạo), tức là hành phi đạo mà
thành tựu Phật đạo. Thường ở trong chỗ
trần lao tụ tập mà rộng hành Phật sự. “Tứ
ma”:
- Một, Dục Ma: Do ái dục
chưa đoạn, c̣n gọi là Phiền Năo Ma.
- Hai, Thân Ma: Do thọ thân
Ngũ Ấm, ái dục làm nhân, yêu mến tánh mạng là quả.
C̣n gọi là Ngũ Ấm Ma, tức cái thân Ngũ Ấm.
- Ba, Tử Ma: V́ vô thường
sanh diệt.
- Bốn, Thiên Ma: V́ năo loạn
sự tấn tu.
“Sơ Địa Bồ
Tát, tứ ma sở bất động” (Sơ Địa
Bồ Tát chẳng bị lay động bởi bốn loại
ma): Đắc Vô Sanh Nhẫn, đoạn vô minh hoặc, chẳng
bị Phiền Năo Ma lay động. Đắc Pháp
Tánh
Thân,
chẳng c̣n thọ thân (chẳng thọ thân nghiệp báo),
[do vậy] chẳng bị Ngũ Ấm Ma lay động.
Do đắc đạo pháp lực, nương vào chuyện
chẳng có thân như vừa nói trên đây, cho nên chẳng
chết, tức là chẳng bị Tử Ma lay động.
Được ĺa nội ma (tức ba thứ ma trước
đó), sẽ tự chẳng bị Thiên Ma lay động.
V́ thế, có thể tự tại vô ngại.
(Kinh) Nhất thừa
phương tiện giả, ư bất nhị tướng,
thông đạt chúng sanh nhất thiết hạnh cố.
(經)一乘方便者,於不二相,通達眾生一切行故。
(Kinh: Nhất thừa
phương tiện là đối với tướng bất
nhị, bèn thông đạt hết thảy các hạnh của
chúng sanh).
Đây là giải thích trí
phương tiện Nhất Thừa. Nhất Thừa tức
là tối thượng Nhất Thừa. “Bất nhị
tướng” (tướng chẳng hai): Chỉ là b́nh
đẳng nhất tướng, Chân và Tục bất nhị.
Nương vào pháp môn Bất Nhị này, thông đạt hết
thảy các hạnh của chúng sanh.
(Kinh) Biến hóa
phương tiện giả, dĩ nguyện lực tự
tại, sanh nhất thiết tịnh Phật quốc độ.
(經)變化方便者,以願力自在,生一切淨佛國土。
(Kinh: Biến hóa
phương tiện là dùng nguyện lực tự tại
để sanh trong hết thảy các cơi Phật thanh tịnh).
Đây là giải thích trí
phương tiện Biến Hóa. “Biến hóa” tức
là thân nghiệp biến hiện thần thông, đủ các
thứ biến hóa, do nương vào nguyện lực, tự
tại biến hiện, sanh trong hết thảy các cơi Phật
thanh tịnh, giáo hóa hết thảy chúng sanh. Đây chính là
ba thứ Ư Sanh
Thân
của Bồ Tát:
- Một, tam-muội lạc
chánh thọ ư sanh thân: Do sức tam-muội, đắc tự
tại lạc, vào trọn khắp các cơi tùy ư vô ngại.
- Hai, giác pháp tự tánh tánh ư
sanh thân: Giác ngộ trọn vẹn các pháp tự tánh như
huyễn, vốn chẳng có thật tánh. V́ thế, có thể
nhập trọn khắp.
- Ba, chủng loại câu sanh
vô hành tác ư sanh thân: Các chủng loại chúng sanh hiển hiện
như gương hiện bóng, nhưng vô không có hành động.
(Kinh) Như thị thiện
nam tử! Thị sơ giác trí, ư hữu vô tướng
nhi bất nhị, thị Thật Trí chiếu.
(經)如是。善男子!是初覺智,於有無相而不二,是實智照。
(Kinh: Như
thế đó thiện nam tử! Đấy là trí sơ giác,
đối với tướng Hữu và Vô đều là chẳng
hai, đó là Thật Trí chiếu soi).
“Như thị” là từ
ngữ nhằm chỉ các pháp vừa được nói
trong phần kinh văn trước đó. “Thị sơ
giác trí giả” (đó là trí sơ giác) tức là Lư Quán. Lư
chỉ là một, cho nên đối với tướng Hữu và Vô
bèn chẳng hai. Hữu tướng là Tục, vô tướng là Chân; Chân và Tục
b́nh đẳng chẳng hai. Đấy chính là Thật Trí
chiếu Lư vậy.
(Kinh) Xảo dụng, bất
chứng, bất trầm, bất xuất, bất đáo, thị
phương tiện quán.
(經)巧用,不證,不沉,不出,不到,是方便觀。
(Kinh: Khéo dùng, chẳng
chứng, chẳng ch́m, chẳng ra, chẳng đến;
đó là phương tiện quán).
“Xảo dụng”:
Phương tiện quyền xảo, nhiều lượt
dấy lên tác dụng to lớn; đó là Sự Quán. “Bất
chứng”: Chẳng chấp vào tướng chứng.
“Bất trầm”: Không ch́m đắm trong Niết Bàn. “Bất
xuất”: Chẳng ra khỏi sanh tử. “Bất
đáo”, ngờ rằng
chữ Đáo ở đây phải là Đảo (điên đảo),
do
kinh văn trong phần trước nói “bất trầm, bất
xuất, bất chuyển, bất điên đảo”, phần
này chính là Phương
Tiện
Trí
chiếu Sự vậy.
(Kinh) Thí như thủy
chi dữ ba, bất nhất, bất dị, năi chí nhất thiết
hạnh Ba La Mật, Thiền Định, đà-la-ni, bất
nhất, bất nhị cố, nhi nhất nhất hạnh
thành tựu.
(經)譬如水之與波,不一不異。乃至一切行波羅密、禪定、陀羅尼,不一不二故,而一一行成就。
(Kinh: Ví như nước
và sóng, chẳng một, chẳng khác, cho đến hết
thảy hạnh Ba La Mật, Thiền
Định, đà-la-ni, do chẳng một, chẳng khác, mà
mỗi mỗi hạnh đều thành tựu).
Đây là sánh ví “hai
trí (Phương Tiện Trí và Thật Tướng Trí) chẳng hai”, ví như nước
và sóng. Chẳng thể nói chúng là một, v́ động và bất
động khác nhau. Chẳng thể nói là hai, v́ đôi bên
đều cùng có tánh ướt. Dùng nước sánh ví Thật
Tướng Trí, dùng sóng sánh ví Phương Tiện Trí. “Năi
chí nhất thiết hạnh Ba La Mật” (Cho đến
hết thảy các hạnh Ba La Mật): Tức
là hạnh tu lưỡng lợi (tự lợi và lợi
tha) th́ là Sự hạnh, thuộc về Phương Tiện
Trí. “Thiền Định, Đà-la-ni”: Đà-la-ni trong
tiếng Phạn được phương này dịch là
Tổng Tŕ, [hàm nghĩa] “gồm thâu hết thảy các pháp,
nắm giữ vô lượng nghĩa”. Đó chính là Lư Quán,
là Thật Tướng Trí. “Bất nhất, bất nhị
cố” (do chẳng một, chẳng hai): Đây là kết
hợp pháp với thí dụ, cũng chẳng thể nói là một
v́ Sự hạnh có tướng, c̣n Lư tánh th́ vô tướng.
Cũng chẳng thể nói là hai, v́ cái Thể của Sự
hạnh chính là cái Thể của Lư tánh.
“Nhi nhất nhất hạnh
thành tựu” (mà mỗi mỗi hạnh đều thành tựu):
Lại nói rơ “mỗi mỗi hạnh thảy đều
là đồng thể”. Như sóng và
nước, thành tựu ư nghĩa “bất nhất, bất
nhị”. Chẳng giống như kẻ khác nói “ngoài trí
Thật Tướng, riêng có trí Phương Tiện”. Nói tới
Thật th́ chính là Thật nơi phương tiện, nói
“phương tiện” th́ chính là phương tiện trong Thật,
há có một hay khác để có thể nói ư?
(Kinh) Dĩ tứ
A-tăng-kỳ kiếp hành hạnh cố, nhập thử
công đức tạng môn, vô tam giới nghiệp tập
sanh cố, tất cố bất tạo tân. Dĩ nguyện
lực cố, biến hóa sanh nhất thiết Tịnh
Độ.
(經)以四阿僧祇劫,行行故,入此功德藏門。無三界業習生故,畢故不造新。以願力故,變化生一切淨土。
(Kinh: Do bốn
A-tăng-kỳ kiếp hành hạnh, vào trong công đức
tạng môn ấy, do chẳng có nghiệp tập sanh trong
tam giới, rốt cuộc chẳng tạo [nghiệp tập]
mới. Do nguyện lực mà biến hóa sanh vào hết thảy
các Tịnh Độ).
Đây là nói đến chuyện
hạnh tăng tấn để nhập địa vị.
Do đă trải qua ba món Nhẫn trước đó, cho nên
nói là “bốn A-tăng-kỳ kiếp”. Do hành hạnh ấy
đă lâu, nhập công đức tạng môn này, đấy
chính là hạnh thuộc Phương Tiện Trí. “Vô tam giới
nghiệp tập sanh cố, tất cố bất tạo
tân” (Do chẳng có nghiệp tập sanh trong tam giới, rốt
cuộc chẳng tạo [nghiệp tập] mới): Do chẳng
có túc nghiệp trần tập trong tam giới, nghiệp tập
đă không có, chỉ giải quyết xong quả báo do nghiệp
cũ cảm vời, chẳng tạo cái nhân là nghiệp mới,
[cho nên] chẳng c̣n thọ thân quả báo trong tam giới nữa.
“Dĩ nguyện lực cố,
biến hóa sanh nhất thiết Tịnh Độ” (Do
nguyện lực, biến hóa sanh trong hết thảy các Tịnh
Độ): Đây là giải trừ nghi hoặc. Nếu có
kẻ hỏi rằng: “Đă chẳng thọ quả báo
trong tam giới, cớ sao Bồ Tát thường chẳng
ĺa thế gian?” Đáp rằng: Do nương theo nguyện
lực mà đến độ chúng sanh, chẳng phải do
nghiệp trói buộc mà thọ sanh, mà là biến hóa sanh vào hết
thảy các Tịnh
Độ của chư Phật.
(Kinh) Thường tu xả
quán cố, đăng Cưu Ma La Già vị. Dĩ tứ
đại bảo tạng thường thọ dữ nhân.
(經)常修捨觀故,登鳩摩羅伽位。以四大寶藏,常授與人。
(Kinh: Do thường
tu xả quán, dự vào địa vị Cưu La Già, thường
dùng bốn tạng báu lớn trao cho người khác).
“Thường tu xả quán”: Tức là
thường tu Thí Độ, ĺa bỏ phiền năo keo tham,
đạt được Thí Độ viên măn. “Đăng
Cưu Ma La Già vị”: Phương này dịch [Cưu Ma
La Già (Kumāraka)] là Đồng Tử
Địa, do sanh trong nhà Phật, là con chân thật của
Phật, c̣n gọi là Ly Dục Địa. “Dĩ tứ
đại bảo tạng, thường thọ dữ nhân”
(Thường dùng bốn tạng báu lớn để trao
cho người khác): Dùng Tam Tạng Kinh Luật Luận, và
Tạp Tạng[7]
thường trao cho người khác, khiến cho họ tu tập.
Lại dùng [tứ bảo tạng là] nhân thiên thiện
căn tạng, Thanh Văn tạng, Duyên Giác tạng, và Đại
Thừa Bồ Tát tạng để thường giáo hóa
chúng sanh. Hoặc có thể hiểu Tứ Nhiếp là “tứ
đại bảo tạng”.
(Kinh) Phục thứ,
Đức Huệ Bồ Tát dĩ tứ vô lượng tâm,
diệt tam hữu sân đẳng phiền
năo, trụ Trung Nhẫn trung, hành nhất thiết công đức
cố.
(經)復次,德慧菩薩,以四無量心,滅三有瞋等煩惱,住中忍中,行一切功德故。
(Kinh:
Lại nữa, Đức Huệ Bồ Tát dùng tứ vô
lượng tâm, diệt các phiền năo như sân v.v… trong ba
cơi, trụ trong Trung Nhẫn, v́ hành hết thảy công đức).
Đây là
nói đến trung phẩm Tín Nhẫn. Nhị Địa Bồ
Tát tŕ giới thanh tịnh, trụ trong Tam Đức, quán
huệ càng thêm sáng, cho nên gọi là Đức Huệ. Trong
phần trước, [Nhị Địa] được gọi
là Ly Đạt, do đă ĺa cấu nhơ phá giới, thông
đạt Tam Quán, có ư nghĩa tương đồng.
“Dĩ tứ vô lượng tâm, diệt tam hữu sân
đẳng phiền năo” (dùng tứ vô lượng tâm, diệt
các phiền năo như sân v.v… trong tam giới): Đấy là
tu hành trừ chướng. Tu “từ, bi, hỷ, xả”, tứ
vô lượng tâm, trừ diệt các phiền năo như sân
v.v… “Tam hữu” chính là tam giới, gồm Dục Hữu,
Sắc Hữu, và Vô Sắc Hữu. Do nhân quả chẳng mất, nên nói
là Hữu. Theo tông Tát Bà Đa (Sarvāsti-vāda,
Nhất Thiết Hữu Bộ), sân chỉ có trong Dục
Giới, chứ các cơi trên đó (Sắc Giới và Vô Sắc
Giới) [th́ Sân] chẳng hiện hành. Nói theo Thành
Thật Tông (Tattvasiddhi) th́ sân chung khắp
ba cơi. “Trụ Trung Nhẫn trung, hành nhất thiết công
đức” (Trụ trong Trung Nhẫn, hành hết thảy
các công đức): Do trụ trong trung phẩm Tín Nhẫn mà
tu hành hết thảy công đức Bát Nhă.
(Kinh) Dĩ ngũ
A-tăng-kỳ kiếp, hành đại từ quán, tâm tâm thường
hiện tại tiền, nhập vô tướng Xà Đà Ba
La vị, hóa nhất thiết chúng sanh.
(經)以五阿僧祇劫,行大慈觀,心心常現在前。入無相闍陀波羅位,化一切眾生。
(Kinh: Dùng năm
A-tăng-kỳ kiếp để hành đại từ
quán, tâm luôn thường hiện tiền, nhập địa
vị Xà Đà Ba La vô tướng, hóa độ hết thảy
chúng sanh).
Đây là nói về hạnh
tăng tấn để nhập địa vị. Trước
đó đă trải qua bốn A-tăng-kỳ kiếp, c̣n ở
đây là dùng năm A-tăng-kỳ kiếp để
thường hành đại từ quán. Dùng ḷng từ để
đối trị sân, cho nên diệt được sân phiền
năo. “Tâm tâm thường hiện tại tiền” tức
là trong mỗi niệm, từ tâm thường liên tục vô
gián, cho nên nói là “thường hiện”. “Nhập vô tướng
Xà Đà Ba La vị”: Phương này dịch [Xà Đà Ba
La] là Độ Hắc Ám, do có thể vượt thoát sự
tối tăm do phá giới. [Địa vị này] c̣n gọi
là Vô Úy Địa. Do tu tŕ Thi La (giới luật) viên măn, bèn
đạt được Vô Sở Úy (chẳng sợ hăi). Dùng giới pháp
để giáo hóa hết thảy chúng sanh.
(Kinh) Phục thứ,
minh huệ đạo nhân, thường dĩ Vô Tướng
Nhẫn trung hành Tam Minh Quán, tri tam thế
pháp, vô lai, vô khứ, vô trụ xứ, tâm tâm tịch diệt,
tận tam giới si phiền năo, đắc Tam Minh nhất
thiết công đức quán cố.
(經)復次,明慧道人,常以無相忍中行三明觀,知三世法,無來、無去、無住處。心心寂滅,盡三界癡煩惱。得三明一切功德觀故。
(Kinh: Lại nữa,
minh huệ đạo nhân thường trong Vô Tướng
Nhẫn hành Tam Minh
Quán,
biết các pháp trong ba đời chẳng đến, chẳng
đi, chẳng có trụ xứ, tâm tâm luôn tịch diệt,
hết sạch si phiền năo trong tam giới, do đạt
được hết thảy công đức quán thuộc
Tam Minh).
Đây là nói về thượng
phẩm Tín Nhẫn. Tam Địa Bồ Tát có quang minh đại
trí huệ, cho nên gọi là “minh huệ đạo nhân”.
“Thường dĩ Vô Tướng Nhẫn trung hành Tam
Minh
Quán” (thường ở
trong Vô Tướng Nhẫn hành Tam Minh Quán): Trí duyên theo vô
tướng, gọi là Vô Tướng Nhẫn. Ở trong Nhẫn
ấy, tu hành ba thứ Minh Quán, tức Túc Mạng Minh, Thiên Nhăn Minh, và Lậu
Tận Minh, đạt được trí tam thế, biết
các pháp trong ba đời đều là vô sanh. “Vô lai” (chẳng
đến): Vị lai chưa đến. “Vô khứ”
(chẳng đi): Quá khứ chưa rời khỏi. “Vô trụ
xứ”: Hiện tại chẳng trụ. Quán ba đời
đều chẳng thể được, tâm niệm nào
cũng bất động, quy vào tịch diệt, có thể
hết sạch si phiền năo trong tam giới. Do đức
quán trí của hết thảy công đức thuộc Tam
Minh, cho nên có thể khiến cho si hết sạch.
(Kinh) Thường dĩ
lục A-tăng-kỳ kiếp, tập vô lượng Minh
Ba La Mật cố, nhập Già La Đà vị, vô tướng
hạnh, thọ tŕ nhất thiết pháp.
(經)常以六阿僧祇劫,集無量明波羅密故,入伽羅陀位,無相行,受持一切法。
(Kinh: Do thường
dùng sáu A-tăng-kỳ kiếp, tu tập vô lượng Minh
Ba La Mật, tiến nhập địa vị Già La Đà,
vô tướng hạnh thọ tŕ hết thảy các pháp).
Đây là nói đến hạnh
tăng tấn, tiến nhập địa vị. Trước
đó, đă trải qua năm A-tăng-kỳ kiếp, ở
đây th́ thường dùng sáu A-tăng-kỳ kiếp, tu tập
vô lượng Minh Ba La Mật. Đấy là do tu hành
Tam Minh Quán, bèn gom tụ vô lượng trí Bát Nhă từ các
món Minh. “Nhập Già La Đà vị” (tiến nhập
địa vị Già La Đà): Phương này dịch [Già La
Đà] là Độ Biên (vượt ngoài ngằn mé). “Vô
tướng hạnh” chính là hạnh thuộc Vô Tướng
Nhẫn, thọ tŕ hết thảy các pháp.
(Kinh) Phục thứ,
Nhĩ Diễm Thánh giác đạt Bồ Tát, tu hành Thuận
Pháp Nhẫn, nghịch ngũ kiến lưu, tập vô
lượng công đức, trụ Tu Đà Hoàn Hằng.
Thường dĩ Thiên Nhăn, Thiên Nhĩ, Túc Mạng, Tha Tâm,
Thân Thông, ư niệm niệm trung, diệt tam giới nhất
thiết kiến.
(經)復次,爾燄聖、覺達菩薩,修行順法忍,逆五見流,集無量功德,住須陀洹恆。常以天眼、天耳、宿命、他心、身通,於念念中,滅三界一切見。
(Kinh: Lại này, bậc
Bồ Tát Nhĩ Diễm Thánh giác ngộ thông đạt, tu
hành Thuận Pháp Nhẫn, ngược gịng ngũ kiến,
tu tập vô lượng công đức, trụ trong Tu
Đà Hoàn Hằng, thường
dùng Thiên Nhăn, Thiên Nhĩ, Túc Mạng, Tha Tâm, và Thân Thông, trong
mỗi niệm diệt hết thảy các kiến trong tam giới).
Đây là nói về hạ phẩm
Thuận Nhẫn, tức Tứ Địa Bồ Tát. Nhĩ
Diễm Thánh được phương này dịch là Trí Mẫu.
“Giác đạt Bồ Tát” tức Diễm Huệ Địa
Bồ Tát. “Tu hành Thuận Pháp Nhẫn”: Tu hành các hạnh
tùy thuận, hướng đến Vô Sanh Pháp Nhẫn.
“Nghịch ngũ kiến
lưu” (ngược gịng ngũ kiến): Tứ Địa
Bồ Tát có thể diệt tập khí thuộc ngũ kiến
phiền năo, đối trị năm món kiến của Tiểu
Thừa:
- Một, sanh diệt kiến,
do Đại Thừa vô sanh.
- Hai, Tứ Niệm Xứ kiến,
do Đại Thừa rời ĺa bốn món điên đảo
như bất tịnh v.v…
- Ba, thiện ác kiến, do
Đại Thừa nhập vô phân biệt.
- Bốn, chúng sanh kiến, do
Đại Thừa chẳng thấy tướng chúng sanh.
- Năm, chánh pháp kiến, do
Đại Thừa biết rơ chẳng
có chút pháp nào để có thể đạt được,
cho đến viên măn Bồ Đề, trở về “không
có ǵ để đạt được”.
Ngược gịng ngũ kiến
của Tiểu Thừa, tiến nhập gịng pháp trong biển
Tát Bà Nhă, có thể nhóm họp vô lượng công đức.
“Trụ địa vị Tu Đà Hoàn” có thể giải
thích theo hai nghĩa:
- Một, trong địa vị
Tu Đạo, Nhị Địa và Tam Địa tu hữu
lậu đạo, chán nhàm, chế phục phiền năo. Tứ
Địa tu vô lậu đạo, có thể đoạn phiền
năo. Do mới tu đạo vô lậu, cho nên gọi là Tu
Đà Hoàn (Srota-āpanna).
- Hai, từ Tam Địa trở
xuống, tu đạo hữu lậu. Sơ Địa hành
Thí (tu bố thí), Nhị Địa tŕ giới, Tam Địa
tu Bát Thiền trong tam giới.
Từ Tứ Địa trở lên, tu vô lậu đạo, đoạn tam giới
Hoặc, ngược gịng sanh tử, tiến nhập gịng
pháp tánh, gọi là Tu Đà Hoàn, giống như Sơ Quả
của Tiểu Thừa, [nhưng đó chỉ là] đặt
tên tương tự, mượn Tiểu để nói
Đại vậy. Từ “thường dĩ Thiên Nhăn”
(thường dùng Thiên Nhăn) trở đi, do Tam Địa Bồ
Tát thuộc địa vị hữu lậu, tu đạt
được Ngũ Thông. Tứ Địa Bồ Tát thuộc
địa vị vô lậu, tu đạt được
Ngũ Thông, đạt được phần nào Lậu Tận
Thông, có thể trong mỗi niệm, diệt hết thảy
các kiến phiền năo thuộc tam giới.
(Kinh) Diệc dĩ thất
A-tăng-kỳ kiếp, hành ngũ thần thông, Hằng hà
sa Ba La Mật, thường bất ly tâm.
(經)亦以七阿僧祇劫,行五神通。恆河沙波羅密,常不離心。
(Kinh: Cũng dùng bảy
A-tăng-kỳ kiếp để hành năm món thần
thông. Các Ba La Mật nhiều như cát sông Hằng thường
chẳng ĺa tâm).
Đây là nói về hạnh
tăng tấn, chẳng kết lại về chuyện tiến
nhập địa vị là do kinh văn tỉnh lược.
Trước đó đă trải qua sáu A-tăng-kỳ kiếp,
ở đây cũng dùng bảy A-tăng-kỳ kiếp
để tu hành năm món thần thông, và các môn Ba La Mật
nhiều như cát sông Hằng thường chẳng ĺa tâm,
tu hành Bát Nhă trong mỗi niệm.
(Kinh) Phục thứ, thắng
đạt Bồ Tát, ư Thuận Đạo Nhẫn,
dĩ tứ vô úy, quán na-do-tha đế, nội đạo
luận, ngoại đạo luận, dược
phương, công xảo, chú thuật cố, ngă thị Nhất
Thiết Trí nhân.
(經)復次,勝達菩薩,於順道忍。以四無畏,觀那由他諦,內道論,外道論,藥方、工巧、咒術故,我是一切智人。
(Kinh: Lại
nữa, bậc thắng đạt Bồ Tát trong Thuận
Đạo Nhẫn, do dùng bốn món vô úy, quán na-do-tha đế,
nội đạo luận, ngoại đạo luận,
dược phương, nghề khéo, chú thuật, ta là bậc
Nhất Thiết Trí).
Đây là nói tới bậc
trung phẩm Thuận Nhẫn. Ngũ Địa Bồ Tát, “thắng
đạt” là dùng trí huệ thù thắng để quán chiếu Tam Đế, tự
được thông đạt. Kinh văn trong phần
trước gọi địa vị này là Thắng Huệ,
các kinh khác cũng gọi địa vị này là Nan Thắng.
[Bậc Bồ Tát thuộc địa vị này] trụ
trong Thuận Đạo Nhẫn, tu quán nhẫn tùy thuận
Trung Đạo. Trước hết, nêu ra danh xưng chung của
môn quán. “Dĩ tứ vô úy” (dùng tứ vô úy): Muốn
độ hết thảy chúng sanh, cần phải trọn đủ bốn món vô úy
quán. Từ “quán na-do-tha đế” trở đi, trước
hết nêu rơ Nhất Thiết Trí vô úy. “Na-do-tha đế”
nghĩa là “ngàn vạn ức đế”. Do pháp thế
gian và xuất thế gian có vô lượng hành tướng,
hễ chẳng biết một pháp nào, sẽ bị trói buộc
bởi pháp đó. V́ thế, phải nên quán trọn khắp.
“Nội đạo luận” tức là mười hai
phần giáo do Như Lai đă nói; Hiển, Mật, Đốn,
Tiệm, đều phải nên liễu giải.
“Ngoại đạo luận”
tức bốn kinh Vi Đà (Vedas), dịch nghĩa là Trí
Thư (sách trí huệ). Sách ấy chia thành bốn phần:
- Một là A Do, tức là kinh
điển thuộc loại vệ sinh, dưỡng thân.
- Hai là Thù Dạ, tức là
cúng tế, cầu đảo v.v…
- Ba là Sa Ma, tức là lễ
nghi, bói toán, quân trận, binh pháp v.v…
- Bốn là A Đạt Ma, tức
là kỹ năng, toán số, cấm chú, y phương v.v…
“Dược phương”
tức y phương (toa thuốc, thang thuốc). “Công xảo”
tức kỹ năng. “Chú thuật” tức cấm chú.
Đây là nêu đại lược ba hạng mục trong
ngoại luận, chẳng phải là chỉ biết ba hạng
mục ấy, mà là thông hiểu rộng răi kinh điển
Tứ Vi Đà. “Ngă thị Nhất Thiết Trí nhân” (ta
là bậc Nhất Thiết Trí): Do thông suốt nội ngoại
điển tịch, biết người, biết ta, có thể
thuyết phục các ngoại đạo. V́ thế, gọi
là “Nhất Thiết Trí nhân”.
(Kinh) Diệt tam giới
nghi đẳng phiền năo cố, ngă tướng dĩ tận.
(經)滅三界疑等煩惱故,我相已盡。
(Kinh: Do diệt các phiền
năo thuộc tam giới như nghi v.v… ngă tướng đă
tận).
Đây là nói về Lậu Tận
Vô Úy. Nghi là căn bản phiền năo, thuộc về phiền
năo trong tâm, nhưng nói là “tam giới” v́ nó sanh từ
tam giới, chẳng ĺa tam giới. “Đẳng” là nói
các phiền năo khác. Theo Gia Tường Sớ, một là Thân
Kiến, tức chấp thân là ngă, do yêu mến, ǵn giữ
cái thân. Hai là Giới Thủ, tức chẳng phải là nhân
mà ngỡ là nhân. Như ngoại đạo sùng bái lửa,
thờ nước, giữ giới của trâu, giới của
gà v.v… Đó chẳng phải là chánh nhân tu hành, nhưng họ cứ
chấp đó là cái nhân! “Ngă tướng dĩ tận”
(ngă tướng đă tận): Chẳng có ngă mạn.
(Kinh) Tri địa địa
hữu sở xuất, cố danh xuất đạo. Hữu
sở bất xuất, cố danh chướng đạo.
(經)知地地有所出,故名出道。有所不出,故名障道。
(Kinh: Biết
mỗi địa đều có chỗ để thoát ra,
cho nên gọi là “xuất đạo”,
và có chỗ chẳng xuất, do vậy gọi là “chướng
đạo”).
Hai câu trong phần trước
nói về sự vô úy do đă hết sạch khổ đạo.
Hai câu sau nói về chướng đạo vô úy (không sợ
hăi đối với chướng đạo). Biết trong mỗi
địa, đều có hai thứ đạo: Một
là xuất ly đạo, hai là chướng ngại đạo.
Nếu dựa theo lẽ Chân để tu chứng th́ sẽ
thoát ra, cho nên gọi là “xuất ly đạo”. Nếu
chấp tướng mà tu tập th́ sẽ có những điều
chẳng thể thoát ĺa, do vậy gọi là “chướng
ngại đạo”.
(Kinh) Nghịch tam giới
nghi, tu tập vô lượng công đức cố, tức
nhập Tư Đà Hàm vị.
(經)逆三界疑,修集無量功德故,即入斯陀含位。
(Kinh: Do trái nghịch
với nghi trong tam giới, do tu tập vô lượng
công đức, liền nhập địa vị Tư
Đà Hàm).
Đây là nói đến
chuyện trừ chướng, tiến nhập địa
vị. Trái nghịch phiền năo nghi trong tam giới, tu tập
vô lượng công đức, liền nhập quả
Tư Đà Hàm. Phương này dịch [Tư Đà Hàm] là
Nhất Văng Lai, cũng là mượn Tiểu để nói
Đại vậy.
(Kinh) Phục tập hành
bát A-tăng-kỳ kiếp trung, hành chư đà-la-ni môn, cố
thường hành Vô Úy Quán, bất khứ
tâm.
(經)復集行八阿僧祇劫中,行諸陀羅尼門,故常行無畏觀,不去心。
(Kinh: Lại tu tập,
hành tŕ trong tám A-tăng-kỳ kiếp, hành các môn đà-la-ni.
Do vậy, thường hành Vô Úy
Quán,
chẳng ĺa khỏi tâm).
Đây là nói về hạnh tăng tấn. “Phục tập
hành” (lại tu tập, hành tŕ): Tăng tấn tu hành suốt
tám A-tăng-kỳ kiếp, hành tổng tŕ môn. V́ thế,
thường tu Vô Úy Quán, niệm nào cũng chẳng rời
khỏi tâm.
(Kinh) Phục thứ, thường hiện
chân thật, trụ Thuận Nhẫn trung, tác Trung Đạo
Quán, tận tam giới tập nhân, tập nghiệp, nhất
thiết phiền năo cố, quán phi hữu, phi vô, nhất
tướng, vô tướng, nhi vô nhị, chứng A Na Hàm vị.
(經)復次,常現真實,住順忍中,作中道觀。盡三界集因集業,一切煩惱故,觀非有非無,一相無相而無二。證阿那含位。
(Kinh:
Lại nữa, thường hiện chân thật, trụ
trong Thuận Nhẫn, tu Trung Đạo Quán, do đă hết
sạch các tập nhân, tập nghiệp, và hết thảy phiền năo trong
tam giới, quán chẳng phải có, chẳng phải không, một
tướng, vô tướng, nhưng bất nhị, chứng địa
vị A Na Hàm).
Đây là nói đến thượng phẩm
của Thuận Nhẫn. Lục Địa Bồ Tát
thường hiện lư Chân Như Thật Tướng;
đấy chính Hiện Tiền Địa. Trụ thượng
phẩm Thuận Nhẫn, tu tập Trung Đạo quán, vô
tướng tư duy đều hiện tiền. V́ thế
nói là Hiện Tiền Địa. “Tận tam giới tập
nhân, tập nghiệp, nhất thiết phiền năo cố”
(Do hết sạch tập nhân, tập nghiệp, và hết
thảy các phiền năo trong tam giới): Luân hồi
trong tam giới do tập nhân phiền năo và tập nghiệp
thiện ác. Hết thảy phiền năo và nghiệp có thô hay
tế, đang hiện hành hay là chủng tử sai biệt.
Bồ Tát ở nơi đây có thể trừ hết sạch
Sở Tri Chướng, trừ một phần Câu Sanh, do chấp
có các tướng “nhiễm, tịnh, thô”, cho nên tạo thành hiện hành chướng.
“Phi hữu” (chẳng phải có): Các
pháp vốn là Không. “Phi vô” (chẳng phải không): Do chẳng
hoại huyễn tướng. “Nhất tướng”:
Do Hữu lẫn Vô đều là một Thật Tướng. “Vô
tướng”: Thật Tướng chẳng có tướng,
chẳng phải là không có tướng. “Nhi vô nhị”
(mà chẳng hai): Tức là Hữu và Vô hai đằng đều không có, chẳng chấp vào hai bên,
hoàn toàn quy vào Trung Đạo. “Chứng A Na Hàm vị”
(chứng địa vị A Na Hàm): [A Na Hàm (Anāgāmin)] được dịch nghĩa là Bất Hoàn (不還, chẳng trở lại), do chẳng c̣n trở vào thọ sanh trong Dục Giới.
Đây là cũng mượn Tiểu để nói Đại.
Tam Tạng pháp sư nói: “Lục Địa Bồ Tát có tứ
bất hoàn, một là chẳng trở lại cái tâm Nhị
Thừa, hai là chẳng trở lại ma sự. ‘Ma sự’
chính là sáu trần. Ba là chẳng trở lại pháp ái. Bốn
là chẳng trở lại vị thiền[8]”.
(Kinh) Phục tác cửu A-tăng-kỳ
kiếp, tập chiếu minh Trung Đạo cố, nhạo
lực sanh nhất thiết Phật quốc độ.
(經)復作九阿僧祇劫,集照明中道故。樂力生一切佛國土。
(Kinh: Lại do trong chín A-tăng-kỳ
kiếp, tu tập chiếu minh Trung Đạo, do sức
ưa thích mà sanh trong hết thảy các cơi Phật).
Đây là nói về hạnh tăng tấn. “Phục
tác Trung Đạo quán, kinh cửu A-tăng-kỳ kiếp,
tập chiếu minh Trung Đạo cố” (lại tu Trung Đạo Quán trải
qua chín A-tăng-kỳ kiếp, tu tập chiếu minh Trung
Đạo): Hết sạch tập nhân, tập nghiệp,
dùng quán trí soi sáng, không ǵ chẳng phải là Trung Đạo.
Tập nhân và tập nghiệp đă tận, tự nhiên chẳng
thọ quả báo. Chữ Nhạo (樂) trong Nhạo Lực đọc theo Khứ Thanh, [nhạo
lực] tức là nguyện lực. Tùy theo ư muốn ưa thích mà thọ
sanh trong hết thảy các cơi Phật, giáo hóa chúng sanh.
(Kinh) Phục thứ, huyền đạt
Bồ Tát, thập A-tăng-kỳ kiếp trung, tu Vô Sanh Pháp
Lạc Nhẫn, diệt tam giới tập nhân nghiệp quả,
trụ hậu thân trung, vô lượng công đức giai
thành tựu.
(經)復次,玄達菩薩,十阿僧祇劫中,修無生法樂忍,滅三界習因業果,住後身中。無量功德皆成就。
(Kinh: Lại nữa, bậc huyền
đạt Bồ Tát trong mười A-tăng-kỳ kiếp,
tu Vô Sanh Pháp Lạc Nhẫn, diệt tập nhân nghiệp quả
trong tam giới, trụ trong thân tối hậu, vô lượng
công đức đều thành tựu).
Đây là nói về hạ phẩm Vô Sanh Nhẫn
của Thất Địa Bồ Tát. “Huyền đạt”
tức là Viễn Đạt, c̣n gọi là Viễn Hành Địa.
Trải qua mười A-tăng-kỳ kiếp, tu Vô Sanh Nhẫn.
Thất Địa mới đắc Vô Sanh, có pháp lạc
vui thỏa tâm thần, cho nên gọi là Vô Sanh Pháp Lạc Nhẫn.
“Diệt tam giới tập nhân nghiệp quả” (diệt
tập nhân và nghiệp quả trong tam giới): Lục
Địa trong phần trước diệt nhân, c̣n Thất
Địa ở đây th́ diệt quả. Lại nói Lục
Địa đoạn chánh sử, có thể hết sạch
thô tướng hiện hành chướng. Thất Địa
đoạn tập nhân và nghiệp quả, có thể đoạn
trừ tế tướng hiện hành chướng. “Trụ
hậu thân trung” (trụ trong thân tối hậu): Hai
mươi mốt đời, hăy c̣n sót lại một đời.
Trong phần trước đă nói là “chưa độ thân
nghiệp báo, hăy c̣n lại một đời”. Trụ trong
thân cuối cùng, công đức chẳng phải chỉ một,
v́ thế nói là “vô lượng công đức đều
thành tựu”. Nếu tận hết cái đời ấy,
sẽ chính là ĺa Phần Đoạn sanh, bước vào Biến
Dịch sanh.
(Kinh) Vô Sanh Trí, Tận Trí, ngũ phần
Pháp Thân, giai măn túc. Trụ Đệ Thập Địa, A
La Hán phạm thiên vị, thường hành tam không môn quán,
bách thiên vạn tam-muội cụ túc, hoằng hóa pháp tạng.
(經)無生智,盡智,五分法身,皆滿足。住第十地,阿羅漢梵天位。常行三空門觀,百千萬三昧具足,宏化法藏。
(Kinh: Vô Sanh Trí, Tận Trí,
năm phần Pháp Thân thảy đều tṛn đủ. Trụ
Đệ Thập Địa, thuộc địa vị A
La Hán, hoặc Phạm Thiên, thường hành ba món Không Môn
Quán, trăm ngàn vạn tam-muội đầy đủ, hoằng
hóa pháp tạng).
Đây là nói riêng từng công đức. “Vô
Sanh Trí”: Địa vị này đắc Vô Sanh Nhẫn
Trí do đă nhập Vô Sanh. “Tận Trí”: Đă phá hết
Câu Sanh Ngă Chấp, bỏ danh xưng Tạng Thức, cho nên
gọi là Tận Trí. “Ngũ phần Pháp Thân”: Vô lậu
Giới, Định, Huệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri
Kiến thảy đều trọn vẹn. “Trụ Đệ
Thập Địa, A La Hán, phạm thiên vị”: Kết
lại địa vị. Đệ Thập Địa ở
đây chẳng phải là Pháp Vân Địa [trong Thập
Địa của Bồ Tát], mà là xét theo mười bốn
môn Nhẫn th́ môn Nhẫn này đứng hàng thứ mười.
Trụ trong [môn Nhẫn] ấy, đắc A La Hán, làm địa
vị Phạm Thiên Vương thuộc Sơ Thiền.
La Hán có ba loại:
- Một, do đă cùng cực tam giới, bèn
gọi là La Hán, Kiến phiền năo trong tam giới đă hết.
- Hai, do kết hoặc đă hết, bèn gọi
là La Hán. Thất Địa thấy tam giới Hoặc chẳng
phải có, chẳng phải không.
- Ba, đă cùng tột sanh tử, thuộc Phật
địa, gọi là La Hán, thấy hết thảy các Hoặc
chẳng phải có, chẳng phải không.
Lại nói Phần Đoạn sanh tử
đă hết, th́ gọi là A La Hán. Đây cũng là mượn
Tiểu để nói Đại. “Phạm thiên vị”
chính là Sơ Thiền thiên vương. Trong phần trước,
đă có nói Viễn Đạt vô sanh làm vua cơi Sơ Thiền, thường giáo hóa chúng sanh trong một vạn ức
cơi. “Thường hành tam Không Môn Quán” chính là tam giải
thoát môn quán, tức Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, đấy
là vô lậu huệ. “Bách thiên vạn tam-muội cụ
túc” (trăm ngàn vạn tam-muội trọn đủ): Trọn
đủ vô lượng tam-muội, đấy là Vô Lậu
Định. Do vậy, Định và Huệ cùng giúp đỡ,
hoằng dương, giáo hóa tạng báu Phật pháp, cho nên
nói là “hoằng hóa pháp tạng”.
(Kinh) Phục thứ, Đẳng Giác giả,
trụ Vô Sanh Nhẫn trung, quán tâm tâm tịch diệt, nhi vô
tướng tướng, vô thân thân, vô tri tri, nhi dụng tâm
thừa ư quần phương chi phương, đảm
phạ trụ ư vô trụ chi trụ. Tại Hữu
thường tu Không, xử Không thường vạn hóa, song chiếu nhất
thiết pháp.
(經)復次,等覺者,住無生忍中,觀心心寂滅。而無相相,無身身,無知知。而用心乘於群方之方,憺怕住於無住之住。在有常修空,處空常萬化,雙照一切法。
(Kinh: Lại nữa, Đẳng
Giác trụ trong Vô Sanh Nhẫn, quán tâm luôn tịch diệt,
vô tướng mà có tướng, không thân mà có thân, không biết
mà biết, vận dụng cái tâm biến hiện khắp mọi
phương, điềm tĩnh trụ trong chỗ trụ
“vô trụ”. Ở trong Hữu thường tu Không, ở
trong Không mà biến hóa muôn vàn, cùng chiếu hết thảy
các pháp).
Đây là nói đến trung
phẩm Vô Sanh Nhẫn. Bát Địa Đẳng Giác Bồ
Tát đối với Chân Tục Nhị Đế đều
b́nh đẳng giác chiếu. V́ thế, gọi là Đẳng
Giác, c̣n gọi là Bất Động, chẳng phải là
địa vị Đẳng Giác sau khi đă chứng Pháp
Vân Địa. “Trụ Vô Sanh Nhẫn trung” (trụ
trong Vô Sanh Nhẫn): Địa vị này thật sự
đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Trụ trong môn Nhẫn này,
cùng quán Không và Hữu, tịch mà thường dụng, dụng
mà thường tịch.
“Tâm tâm tịch diệt”
tức là vắng lặng, bất động, niệm nào
cũng đều là Vô Sanh. Đấy là nói theo ư nghĩa Tịch.
“Nhi vô tướng tướng, vô thân thân, vô tri tri”:
Đấy là nói theo nghĩa Dụng. [“Nhi
vô tướng tướng” nghĩa là] tuy vô tướng
mà có tướng. [“Vô tướng”
là] chẳng có tướng công dụng của Thất Địa,
nhưng có tướng vô công dụng của Bát Địa.
“Vô thân nhi thân, vô tri nhi tri” (không thân mà có thân, không biết mà biết) cũng giống
như thế. Nói gộp lại th́ sẽ là “tịch mà
thường dụng, Chân Không vốn sẵn đủ Diệu
Hữu”.
“Dụng tâm thừa ư
quần phương chi phương”: [“Dụng tâm”]
nghĩa là từ tâm khởi dụng (dấy lên tác dụng),
nương theo bổn nguyện lợi lạc chúng sanh. “Thừa
ư quần phương chi phương” tức là không
cơi nào chẳng hiện thân. “Đảm phạ trụ
ư vô trụ chi trụ” (điềm tĩnh trụ
trong chỗ trụ “vô trụ”): Dẫu vạn hạnh
nườm nượp dấy lên, rốt cuộc chẳng
lay động mảy may! Điềm tĩnh tự an, trụ
trong chỗ vô trụ. Đấy chính là “dụng mà
thường tịch, Diệu Hữu chẳng ngăn ngại
Chân Không”.
“Tại Hữu thường
tu Không” (ở trong Hữu mà thường tu Không): “Tại
Hữu” tức là chẳng xả Lục Độ. “Tu
Không” tức là chẳng nhiễm mảy trần. “Xử
Không thường vạn hóa” (ở trong Không mà thường
biến hóa muôn vàn): Xử Không tức là nhất niệm vắng
lặng, “vạn hóa” tức là ứng hiện trọn
khắp mười phương. Đấy chính là “dụng
mà thường tịch, tịch mà thường dụng,
Chân Tục dung thông lẫn nhau” th́ mới có thể cùng
chiếu hết thảy các pháp.
(Kinh) Cố tri thị xứ phi thị xứ,
năi chí Nhất Thiết Trí, thập lực quán cố, nhi
đăng Ma Ha La Già vị, hóa nhất thiết quốc
độ chúng sanh.
(經)故知是處非是處,乃至一切智,十力觀故,而豋摩訶羅伽位,化一切國土眾生。
(Kinh:
Do vậy, biết “đúng lư, chẳng đúng lư” cho đến
Nhất Thiết Trí, do thập lực quán mà đạt lên
địa vị Ma Ha La Già, hóa độ chúng sanh trong hết
thảy các quốc độ).
Tiếp nối ư
trong phần trên, “tại hữu bất hữu, hữu bất
ngại không, cư không bất không, không bất ngại hữu”
(ở trong Hữu mà chẳng phải là Hữu, Hữu
chẳng trở ngại Không. Ở trong Không mà chẳng phải
là Không, Không chẳng ngại Hữu). V́ thế, có thể
biết mười trí lực:
- “Thị xứ,
phi thị xứ” chính là môn thứ nhất “thị xứ
phi xứ trí lực” [trong mười trí lực của
Như Lai]. Biết nhân duyên quả báo của chúng sanh, hễ
tạo thiện nghiệp sẽ đạt được
quả báo vui; đó gọi là Thị
Xứ (đúng lư). Nếu tạo ác nghiệp, mà mong mỏi
lạc báo, th́ gọi là Phi Xứ (chẳng đúng lư), tức
là nói “vô hữu thị xứ” (chẳng có lẽ ấy)!
“Năi chí Nhất Thiết Trí” (cho đến Nhất Thiết
Trí) là nói đến chín thứ trí lực kia.
- Thứ hai là nghiệp trí lực,
biết các nghiệp trong ba đời của chúng sanh.
- Thứ ba là định trí
lực, biết hết thảy các Thiền tam-muội.
- Thứ tư là căn trí lực,
biết các căn của chúng sanh là bậc thượng hay
bậc hạ.
- Thứ năm là dục trí
lực, biết chúng sanh ưa thích khác nhau.
- Thứ sáu là giới trí lực,
biết các thứ giới hạn của chúng sanh.
- Thứ bảy là chí xứ
trí lực, biết tướng đạt đến của
hết thảy các đạo.
- Thứ tám là túc mạng trí
lực, biết chuyện trong trăm ngàn vạn đời.
- Thứ chín là thiên nhăn trí lực,
thấy chỗ chúng sanh sẽ hướng đến trong
sanh tử.
- Thứ mười là lậu
tận trí lực, biết lậu tận, chẳng thọ
thân hậu hữu.
Như Lai đạt được
mười lực ấy, Bát Địa Bồ Tát cũng
có thể chứng vài phần của mười quán lực.
Do đó, có thể nhập địa vị Ma Ha La Già (Mahārgha), phương này dịch [Ma Ha
La Già là
Đại Đắc, do tâm vô sở đắc chính là “đại
đắc” (đạt được lớn lao), giáo
hóa chúng sanh trong hết thảy các quốc độ.
(Kinh)
Thiên A-tăng-kỳ kiếp, hành thập lực pháp, tâm tâm tương
ứng, thường nhập Kiến Phật tam-muội.
(經)千阿僧祇劫,行十力法,心心相應,常入見佛三昧。
(Kinh: Trong một ngàn
A-tăng-kỳ kiếp, hành pháp Thập Lực,
tâm tâm tương ứng, thường nhập Kiến Phật
tam-muội).
Đây là nói về hạnh
tăng tấn. Trải một ngàn A-tăng-kỳ kiếp,
tu hành pháp Thập Lực. “Tâm tâm tương ứng” tức
là niệm nào cũng tương ứng với pháp. Bản
thể của hết thảy các pháp chính là pháp giới. Tâm
và Phật như một, tự và tha chẳng cách biệt.
Do vậy, thường nhập Kiến Phật tam-muội.
(Kinh) Phục thứ, huệ
quang thần biến giả, trụ thượng thượng
Vô Sanh Nhẫn, diệt tâm tâm tướng, Pháp Nhăn kiến nhất
thiết pháp, tam nhăn Sắc Không kiến, dĩ đại nguyện
lực, thường sanh nhất thiết Tịnh Độ.
(經)復次,慧光神變者,住上上無生忍。滅心心相,法眼見一切法,三眼色空見。以大願力,常生一切淨土。
(Kinh: Lại nữa,
huệ quang thần biến là trụ trong thượng
thượng Vô Sanh Nhẫn, diệt tâm và tâm tướng, Pháp Nhăn thấy hết
thảy các pháp, tam nhăn (nhục nhăn, thiên nhăn, huệ nhăn) thấy
Sắc, Không, dùng đại nguyện lực, thường
sanh vào hết thảy Tịnh Độ).
Đây là nói về thượng
phẩm Vô Sanh Nhẫn, thuộc Đệ Cửu Địa.
“Huệ quang thần biến” tức là quang minh thiện
huệ sáng ngời, có đại thần biến. “Trụ
thượng thượng phẩm Vô Sanh Nhẫn”: Địa
vị này từ Bát Địa trở lên, lại là Vô Sanh Nhẫn
thượng phẩm, cho nên nói là “thượng thượng”.
“Diệt tâm tâm tướng”: Cửu Địa sắp
nhập Tịch Diệt Nhẫn, cho nên tâm niệm luôn tịch
diệt, lấy vô tướng làm tướng, tâm
được tự tại.
“Pháp Nhăn kiến nhất
thiết pháp” (Pháp
Nhăn thấy hết
thảy các pháp): Chỉ rơ Pháp Nhăn quán Tục, có thể duyên
theo hết thảy các pháp thuộc Tục Đế. “Tam
nhăn Sắc
Không
kiến”
(ba loại mắt thấy Sắc, Không): Nhục nhăn thấy
thô sắc, thiên nhăn thấy tế sắc, huệ nhăn thấy
lư Không. Do đó, nói là “Sắc Không kiến”. Bậc Tam
Hiền trước khi nhập Sơ Địa có đủ
ba loại mắt (nhục nhăn, thiên nhăn, và huệ nhăn). Từ
Sơ Địa trở lên mới đắc pháp nhăn. Do có
đại nguyện lực, thừa nguyện lợi sanh,
thường sanh trong Tịnh Độ của hết thảy
chư Phật.
(Kinh) Vạn A-tăng-kỳ
kiếp, tập vô lượng Phật Quang tam-muội, nhi
năng hiện bách vạn Hằng hà sa chư Phật thần
lực, trụ Bà Già Phạm vị, diệc thường
nhập Phật Hoa tam-muội.
(經)萬阿僧祇劫,集無量佛光三昧。而能現百萬恆河沙諸佛神力,住婆伽梵位,亦常入佛華三昧。
(Kinh: Trong một vạn
A-tăng-kỳ kiếp, tu tập vô lượng Phật Quang
tam-muội, có thể hiện thần lực của
trăm vạn Hằng hà sa chư Phật, trụ trong
địa vị Bà Già Phạm, cũng thường nhập
Phật Hoa tam-muội).
Đây là nói về hạnh tăng
tấn, nhập địa vị. Trải qua một vạn
A-tăng-kỳ kiếp, tu tập vô lượng Phật
Quang tam-muội, rơ ràng chứng nhập Phật
Quang Định, có thể hiện thần lực của
trăm vạn Hằng hà sa chư Phật, lợi ích hữu
t́nh. “Trụ Bà Già Phạm vị”: Phương này dịch
[Bà Già Phạm (Bhagavān)] là Thế
Tôn; do [từ ngữ này] bao hàm nhiều nghĩa nên chẳng
dịch. Bà Già Phạm trong tiếng Phạn có sáu ư nghĩa
là
đoan nghiêm, xí thịnh (lừng lẫy), tự tại,
danh xưng (tiếng tăm tốt đẹp), cát tường,
và tôn quư. Ở đây, chưa phải là Phật Thế Tôn
thật sự, chỉ là đạt đến địa
vị Bổ Xứ. [Hàng Bồ Tát này] cũng thường
nhập Phật Hoa tam-muội, chính là Thủ Lăng Nghiêm
đại định.
(Kinh) Phục thứ,
quán Phật Bồ Tát, trụ Tịch Diệt Nhẫn giả, tùng thỉ phát tâm, chí kim kinh bách vạn
A-tăng-kỳ kiếp, tu bách vạn A-tăng-kỳ kiếp
công đức cố, chứng nhất thiết pháp giải
thoát, trụ kim cang đài.
(經)復次,觀佛菩薩,住寂滅忍者。從始發心,至今經百萬阿僧祇劫,修百萬阿僧祇劫功德故,證一切法解脫,住金剛臺。
(Kinh: Lại
nữa, quán Phật, Bồ Tát trụ trong Tịch Diệt
Nhẫn, từ lúc mới phát tâm cho đến nay, đă trải
qua trăm vạn A-tăng-kỳ kiếp. Do tu công đức
trong trăm vạn A-tăng-kỳ kiếp, bèn chứng hết
thảy các pháp giải thoát, trụ kim cang đài).
Đây là nói về hạ phẩm
Tịch Diệt Nhẫn. “Quán Phật” chính là danh
xưng của đệ thập Pháp Vân Địa Bồ
Tát. “Trụ Tịch Diệt Nhẫn”: Cùng trụ trong
một môn Nhẫn với Phật; đây là hạ phẩm
Tịch Diệt Nhẫn. “Tùng thỉ phát tâm” (từ
thuở mới phát tâm) tức là sơ phát Bồ Đề
tâm. “Chí kim, kinh bách vạn
A-tăng-kỳ kiếp” (tới nay đă trải qua một
trăm vạn A-tăng-kỳ kiếp) tức là từ Tập
Chủng Tánh cho tới Quán Đảnh Nhẫn, nêu rơ thời
gian tu hành dài lâu. “Tu bách vạn A-tăng-kỳ kiếp
công đức” (tu công đức trong trăm vạn
A-tăng-kỳ kiếp): Chỉ rơ tự hành, giáo hóa người
khác, dấy lên rất nhiều hạnh. “Chứng nhất
thiết pháp giải thoát” (chứng hết thảy các
pháp giải thoát): Thuộc vào địa vị tột cùng
trong tu nhân, cho nên chứng hết thảy các pháp giải
thoát, đắc Kim Cang tam-muội. V́ thế nói là “trụ
kim cang đài”.
(Kinh) Thiện nam tử!
Tùng Tập Nhẫn chí Đảnh tam-muội, giai danh vi Phục
Nhất Thiết Phiền Năo, nhi vô tướng tín, diệt
nhất thiết phiền năo, sanh giải thoát trí, chiếu
Đệ Nhất Nghĩa Đế, bất danh vi Kiến.
(經)善男子!從習忍至頂三昧,皆名為伏一切煩惱。而無相信,滅一切煩惱,生解脫智,照第一義諦,不名為見。
(Kinh: Này thiện nam tử!
Từ Tập Nhẫn cho tới Đảnh tam-muội,
đều gọi là chế phục hết thảy phiền
năo, nhưng là vô tướng tín. Diệt hết thảy phiền
năo, sanh trí giải thoát, chiếu Đệ Nhất Nghĩa
Đế, chẳng gọi là thấy).
Đây là so sánh để hiển
thị sự thù thắng. Trước hết, chỉ rơ
nhân khác với quả. Khởi đầu từ Tập Nhẫn
Thập Trụ cho đến Đảnh tam-muội, tức
là Đệ Thập Địa Quán Đảnh Bồ Tát,
đều gọi là Phục Nhất Thiết Phiền Năo
(chế phục hết thảy phiền năo), do chưa phá một
phẩm sanh tướng vô minh tối sơ, cho nên
đều gọi là Phục. Lại nói do đem nhân đối
ứng với quả, nội tâm c̣n vướng mắc Hoặc,
chẳng phải là vĩnh viễn không có, cho nên nói là Phục.
“Nhi vô tướng tín, diệt
nhất thiết phiền năo” (do ḷng tin vô tướng,
diệt hết thảy phiền năo): Đây là nói Sơ
Địa, Nhị Địa, Tam Địa, trong địa
vị Tín Nhẫn, tu Vô Tướng Quán, diệt hết
thảy phiền năo tham, sân, si... sanh ra trí giải thoát,
cũng chiếu Đệ Nhất Nghĩa Đế, đều
chẳng gọi là Thấy. V́ trong địa vị tu nhân
thuộc Thập Địa, chẳng thấy quả tánh,
cho nên chẳng gọi là Thấy. Kinh Niết Bàn dạy: “Thập
Địa Bồ Tát kiến bất liễu liễu” (Thập
Địa Bồ Tát chưa thấy trọn hết).
(Kinh) Sở vị kiến
giả, thị Tát Bà Nhă. Thị cố, ngă tùng tích dĩ lai,
thường thuyết duy Phật sở tri kiến giác.
(經)所謂見者,是薩婆若。是故我從昔以來,常說惟佛所知見覺。
(Kinh: Nói là Thấy th́ chính là Tát Bà Nhă. V́ thế, từ
trước tới nay, ta thường nói chỉ có Phật
là thấy, biết, hiểu).
Đây là nêu rơ “quả khác với
nhân”. Nói tới “chân kiến” th́ chỉ có Phật
ngũ nhăn viên minh, không ǵ chẳng thấy, cho nên gọi là
Tát Bà Nhă. Kế đó, dẫn chuyện xưa để chứng
minh chuyện nay. Hai chữ “thị cố” (v́ thế)
tiếp nối ư nghĩa trong phần trước “chỉ
có Phật là chân thật, cho nên Ngài thấy”, [hàm ư]:
Ta từ trước tới nay, thường nói chỉ có
Phật quả là thấu triệt nguồn cội của
gịng pháp, Lư không ǵ chẳng biết, Sự không ǵ chẳng
thấy, đạt được giác rốt ráo.
(Kinh) Đảnh tam-muội
dĩ hạ, chí ư Tập Nhẫn, sở bất tri, bất
kiến, bất giác.
(經)頂三昧以下,至於習忍,所不知不見不覺。
(Kinh: Từ Đảnh
tam-muội trở xuống, cho đến Tập Nhẫn,
đều chẳng biết, chẳng thấy, chẳng
hay).
Đây là giải thích “nhân
khác với quả”. Từ Quán Đảnh tam-muội trở
xuống, tức là từ Thập Địa trở xuống
cho đến Tập Nhẫn, tức là địa vị
Thập Trụ, tuy có tri kiến, tùy phần cảm nhận,
nhưng đối với Phật tánh là cội nguồn của
nhất tâm, vẫn chẳng biết, chẳng thấy, chẳng
hay!
(Kinh) Duy Phật đốn
giải, bất danh vi Tín.
(經)唯佛頓解,不名為信。
(Kinh: Chỉ có
Phật đốn giải, chẳng gọi là Tín).
Đây là giải
thích “quả khác với nhân”. “Đốn giải”: Vạn
hạnh đều trọn vẹn, hai trí (Quyền Trí và Thật
Trí) trọn đủ, chiếu cùng tột lư pháp giới.
V́ thế, đốn giải chẳng được gọi
là Tín vậy.
(Kinh) Tiệm tiệm phục
giả, huệ tuy khởi diệt, dĩ năng vô sanh, vô
diệt.
(經)漸漸伏者,慧雖起滅,以能無生無滅。
(Kinh: Dần
dần chế phục, huệ tuy dấy lên rồi diệt
mất, nhưng có thể vô sanh, vô diệt).
Đây là kết lại, “nhân
khác với quả”. “Tiệm tiệm phục giả”
(dần dần chế phục): Từ Tập Nhẫn trở
đi, dần dần dùng quán huệ để chế phục.
“Huệ tuy khởi diệt” (huệ tuy khởi lên hay
diệt mất): Do trong khi tu nhân, đạo là vô thường
(tức là không giữ được đạo cho luôn tồn
tại), cho nên quán huệ có lúc dấy lên, có khi diệt mất.
“Dĩ năng vô sanh, vô diệt” (nhưng có thể vô sanh,
vô diệt): Chỉ rơ [quán huệ ấy tuy không tồn tại
thường hằng, nhưng vẫn] có thể phá phiền
năo sanh diệt.
(Kinh) Thử tâm nhược
diệt, tắc lũy vô bất diệt, vô sanh, vô diệt,
nhập Lư Tận Kim Cang tam-muội, đồng
Chân Tế, đẳng pháp tánh, nhi vị năng đẳng,
vô đẳng đẳng.
(經)此心若滅,則累無不滅;無生無滅。入理盡金剛三昧,同真際,等法性,而未能等,無等等。
(Kinh: Nếu
cái tâm ấy diệt th́ nỗi mệt mỏi
[do sanh tử từ vô thỉ] không ǵ
chẳng diệt. Vô sanh, vô diệt, nhập Lư Tận Kim
Cang tam-muội, giống như Chân Tế, bằng với
pháp tánh, [chẳng
có địa vị nào thấp
hơn mà] có thể
sánh bằng, không có ǵ sánh bằng).
Đây là tổng kết “quả
khác với nhân”. “Thử tâm nhược diệt” (nếu
tâm này diệt): Nếu cái tâm vô minh trụ địa này mà
diệt, th́ nỗi sanh tử nhọc
nhằn từ vô thỉ sẽ chẳng có ǵ không diệt. Tới đây là vô sanh, vô diệt.
“Nhập Lư Tận Kim Cang tam-muội”: Nhập nguồn
cội của nhất tâm, Lư không ǵ chẳng cùng tận,
không Hoặc nào chẳng trừ hết, chứng Kim Cang Định,
giống như Chân Như Thật Tế, bằng với
Chân Không pháp tánh, nhưng chưa thể bằng với Hữu.
Địa vị Bồ Tát đến đây là cùng cực.
V́ thế nói là “nhi vị năng đẳng” (chưa
thể bằng được). “Vô đẳng đẳng”:
Tức là không có bậc Bồ Tát nào khác có thể sánh bằng
được; nhưng nếu so với Phật, th́ vẫn
c̣n kém một bậc!
(Kinh) Thí như hữu
nhân, đăng đại cao đài, hạ quán nhất thiết,
vô bất tư liễu.
(經)譬如有人,登大高臺,下觀一切,無不斯了。
(Kinh: Ví như có
người lên cái đài cao lớn, nh́n xuống hết thảy,
không ǵ chẳng thấy rơ).
Đây là nói thí dụ,
như người lên cái đài cao to, tức là sánh ví địa
vị này. “Hạ quán nhất thiết, vô bất tư liễu”
(nh́n xuống hết thảy, không ǵ chẳng thấy rơ): Tức
là bốn phương đều nh́n rơ, chẳng có ǵ không hiểu
rành rẽ!
(Kinh) Trụ Lư Tận
tam-muội, diệc phục như thị.
(經)住理盡三昧,亦復如是。
(Kinh: Trụ
trong Lư Tận tam-muội cũng giống như thế).
Đây là kết hợp [thí dụ] với pháp. Bồ
Tát thuộc địa vị này, trụ trong Lư Tận
tam-muội, quán các Bồ Tát thuộc địa vị thấp
hơn, dù tu (các hạnh họ tu tập) hay chứng (cảnh
giới, quả vị họ chứng đắc), không ǵ
chẳng hiểu rơ, cũng như lên đài cao nh́n xuống.
(Kinh) Thường tu nhất
thiết hạnh, măn công đức tạng, nhập Bà Già
Độ vị, diệc phục thường trụ Phật
Huệ tam-muội.
(經)常修一切行,滿功德藏,入婆伽度位,亦復常住佛慧三昧。
(Kinh: Thường tu
hết thảy các hạnh, trọn đủ công đức
tạng, nhập địa vị Bà Già Độ, cũng thường
trụ trong Phật Huệ tam-muội).
Đây là nói tới hạnh
tăng tấn, nhập địa vị. Thường tu hết
thảy hạnh tự lợi và lợi tha, viên măn công đức
tạng, nhập địa vị Bà Già Độ.
Phương này dịch [Bà Già Độ] là Thí Đức
Địa, có thể dùng đại pháp như mây che khắp
hết thảy, cũng lại thường trụ trong Phật
Huệ tam-muội, tức là “Na Già thường tại
Định, chẳng lúc nào không định”, Định
Huệ cân bằng. V́ thế gọi là Phật Huệ tam-muội.
(Kinh) Thiện nam tử!
Như thị chư Bồ Tát, giai
năng nhất thiết thập phương chư Như
Lai quốc độ trung hóa chúng sanh, chánh thuyết chánh nghĩa,
thọ tŕ, độc tụng, giải đạt Thật
Tướng, như ngă kim nhật, đẳng vô hữu dị.
(經)善男子!如是諸菩薩,皆能一切十方諸如來國土中化眾生。正說正義,受持讀誦,解達實相。如我今日,等無有異。
(Kinh: Này thiện nam tử!
Các vị Bồ Tát như thế đều có thể trong
hết thảy các quốc độ của chư Như
Lai khắp mười phương hóa độ chúng sanh, chánh
thuyết chánh nghĩa, thọ tŕ, đọc tụng, thấu
hiểu, thông đạt Thật Tướng, giống hệt
như ta ngày nay, chẳng có ǵ khác biệt).
Đây là tổng kết. “Như
thị chư Bồ Tát” (Các vị Bồ Tát như thế)
là nói tới mười ba loại pháp sư trên đây, mỗi
vị đều có thể hiện thân trong các quốc
độ của mười phương chư Phật,
giáo hóa chúng sanh. “Chánh thuyết chánh nghĩa”: Xưng
dương chánh lư Trung Đạo, nói chánh nghĩa Thật
Tướng Bát Nhă. “Thọ tŕ, đọc tụng” là
nói theo phương diện tự hành. “Giải nói, thông
đạt” là xét theo lợi tha. “Thật Tướng”:
Vô tướng, nhưng không ǵ chẳng có tướng;
đó gọi là Thật Tướng. Lời nói của
mười ba loại pháp sư chẳng hai, chẳng khác với
lời ta nói trong hiện thời, cho nên nói là “đẳng
vô hữu dị”.
(Kinh)
Phật cáo Ba Tư Nặc vương: - Đương ngă
diệt độ hậu, pháp diệt tận thời, thọ
tŕ Bát Nhă Ba La Mật, đại tác Phật sự, nhất
thiết quốc độ an lập, vạn tánh khoái lạc,
giai do thử Bát Nhă Ba La Mật.
(經)佛告波斯匿王:當我滅度後,法滅盡時。受持般若波羅密,大作佛事,一切國土安立,萬姓快樂。皆由此般若波羅密。
(Kinh: Đức
Phật bảo vua Ba Tư Nặc: - Sau khi ta diệt độ,
lúc pháp diệt hết, thọ tŕ Bát Nhă Ba La Mật, làm Phật
sự to lớn, hết thảy quốc độ sẽ
an ổn, muôn dân vui sướng, đều do môn Bát Nhă Ba La
Mật này).
Từ đây trở
đi là cả một chương dài khuyên thọ tŕ. Do Bát
Nhă có công đức vô tận, Như Lai chẳng tiếc sức rát miệng
buốt ḷng khuyên bảo, khuyên lơn thọ tŕ. Trước
hết, Ngài phó chúc quốc vương v́ hàng
vương giả có thế lực. Nếu họ có thể
hộ tŕ, cả nước sẽ chẳng ai không tôn kính,
sùng phụng, tự có thể tạo phước cho đất
nước, đem lại tốt lành cho toàn dân. Đức
Phật nói: Sau khi ta diệt độ, chánh pháp chẳng tồn
tại lâu dài trong thế gian, ắt có lúc hoại diệt.
Chánh pháp của chư Phật trụ thế hoặc lâu
dài, hoặc ngắn ngủi, đều tùy thuộc nguyện
lực khác nhau. Chánh Pháp của Phật Thích Ca trụ thế
một ngàn năm, Tượng Pháp một ngàn năm, Mạt
Pháp một vạn năm. “Pháp dục diệt thời”
(lúc pháp sắp diệt): Chánh pháp có lúc sắp hoại diệt.
Pháp là tṛng mắt của trời,
người. Pháp diệt, chúng sanh ắt đau khổ. V́
thế, phải nên thọ tŕ, hoằng dương, thủ
hộ. Nếu có thể thọ tŕ Bát Nhă Ba La Mật, làm Phật
sự to lớn, hết thảy các quốc độ đều
có thể an lập, chẳng đến nỗi diệt
vong. Hết thảy muôn dân đều được vui
sướng, chẳng bị đau khổ. Đều do
công năng thù thắng của Bát Nhă cho nên mới đạt
được như vậy.
Hỏi: Phật sự là ǵ?
Đáp: Chính là những chuyện chư Phật đă tu tập,
đă thực hiện trong khi tu nhân đắc quả. “Đại
tác Phật sự” (làm Phật sự to lớn) chính là thọ
tŕ Bát Nhă Ba La Mật. Thọ tŕ Bát Nhă Ba La Mật chính là thực
hiện Phật sự to lớn. Thực hiện mười
ba môn Nhẫn Bát Nhă trên đây chính là Phật sự tự lợi
và lợi tha trong khi tu nhân của chư Phật. Thực hiện
môn Nhẫn thứ mười bốn chính là Phật sự
thừa nguyện lợi sanh của chư Phật khi
đă đắc quả, chẳng phải là Phật sự
theo kiểu ứng phó[9]
đạo tràng của tăng chúng đến tụng kinh,
bái sám!
(Kinh) Thị cố, phó
chúc chư quốc vương, bất phó chúc tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
thanh tín nam, thanh tín nữ. Hà dĩ cố? Vô vương lực
cố, cố bất phó chúc. Nhữ đương thọ
tŕ, độc tụng, giải kỳ nghĩa lư.
(經)是故付囑諸國王,不付囑比丘、比丘尼、清信男、清信女。何以故?無王力故,故不付囑。汝當受持讀誦,解其義理。
(Kinh: V́ thế, phó
chúc các quốc vương, chẳng phó chúc tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
thanh tín nam, thanh tín nữ. V́ sao vậy? Do họ chẳng có
sức như vua; cho nên chẳng phó chúc. Các vị hăy nên thọ
tŕ, đọc tụng, hiểu nghĩa lư của kinh).
Hai chữ “thị cố” (v́
thế) tiếp nối ư nghĩa Bát Nhă có công đức tạo
phước cho đất nước, che chở nhân dân, có
mối quan hệ cực lớn với quốc
vương, quyết định chớ nên bỏ mặc
cho [pháp này] hoại diệt, nhất định phải hộ
tŕ. Do đó, phó chúc quốc vương, chẳng phó chúc tứ
chúng đệ tử. Từ “hà dĩ cố” (v́ sao vậy)
trở đi, nêu ra nguyên do chẳng phó chúc: Do tứ chúng
đệ tử chẳng có oai lực như quốc
vương, ở đây chẳng phó chúc. “Nhữ
đương thọ tŕ, độc tụng, giải kỳ
nghĩa lư” (Các ông hăy nên thọ tŕ, đọc tụng,
hiểu nghĩa lư ấy) tức là nói
đến ư chỉ “phó chúc quốc vương”. Thọ
tŕ và đọc tụng để tự hành, thấu hiểu
nghĩa lư ḥng hóa độ người khác. Nếu chẳng
hiểu nghĩa lư, không chỉ chẳng có cách nào hóa độ
người khác, mà tự hành cũng chẳng triệt
để!
(Kinh) Đại vương! Ngô kim sở
hóa, bách ức Tu Di, bách ức nhật nguyệt, nhất nhất
Tu Di, hữu tứ thiên hạ, kỳ Nam Diêm Phù Đề,
hữu thập lục đại quốc, ngũ bách trung
quốc, thập thiên tiểu quốc.
(經)大王!吾今所化,百億須彌,百億日月。一一須彌,有四天下。其南閻浮提,有十六大國,五百中國,十千小國。
(Kinh: Này đại vương! Nay
trong cơi ta giáo hóa có trăm ức Tu Di, trăm ức mặt
trời, mặt trăng. Trong mỗi Tu Di, có tứ thiên hạ.
Nam Diêm Phù Đề trong đó có mười sáu nước
lớn, năm trăm nước vừa, mười ngàn
nước nhỏ).
Đây là nói về cơi hóa độ của
Như Lai. Bốn câu từ “sở hóa bách ức Tu Di”
nhằm nói đại thiên thế giới là một hóa
độ (cơi nước được giáo hóa
bởi một vị Phật). Tính ra, [một hóa độ] có trăm ức tiểu thế giới.
Một tiểu thế giới có một biển lớn.
Trong biển có núi Tu Di, phía trên và dưới th́ to, chính giữa
thắt eo, cao tám vạn bốn ngàn do-tuần. Trên đỉnh
núi là trời Đao Lợi. Ở lưng núi khoảng bốn
vạn hai ngàn do-tuần, có Tứ Thiên Vương Thiên, nhật
cung và nguyệt cung xoay vần trong đó. Bốn phía của
núi Tu Di, ở trong biển có bốn đại
bộ châu, đó là một tứ thiên hạ. Nam châu Diêm Phù Đề
(Jambudvīpa) [được đặt
tên] theo tên một loài cây. Trong châu ấy có nhiều loại
cây này, cho nên gọi tên như thế. [Diêm Phù Đề]
dịch nghĩa là Thắng Kim Châu (勝金洲, châu có chất vàng thù thắng). Do nhựa cây ấy rơi xuống
đất, cát, đá đều trở thành vàng, tốt đẹp
hơn các loại vàng khác. Châu này có vô lượng tiểu
châu, mười sáu nước lớn, năm trăm nước
vừa, mười ngàn nước nhỏ. Đó là xét theo
một ḿnh Nam Châu mà nói.
(Kinh) Kỳ quốc độ trung, hữu
thất khả úy nạn, nhất thiết quốc
vương vị thị nạn cố, giảng độc
Bát Nhă Ba La Mật, thất nạn tức
diệt, thất phước tức sanh, vạn tánh an lạc,
đế vương hoan hỷ.
(經)其國土中,有七可畏難。一切國王,為是難故,講讀般若波羅密,七難即滅,七福即生。萬姓安樂,帝王歡喜。
(Kinh: Trong quốc độ có
bảy nạn đáng sợ, hết thảy quốc
vương v́ các nạn ấy, giảng đọc Bát Nhă Ba La Mật, bảy
nạn liền diệt, bảy phước liền sanh,
muôn dân an lạc, đế vương hoan hỷ).
Đây là nói về pháp lực
diệt tai nạn. “Kỳ quốc độ trung”
(trong quốc độ ấy) tức là trong trăm ức
Diêm Phù Đề. Trong các quốc độ,
có bảy thứ nạn đáng sợ. Hết thảy các
quốc vương v́ muốn diệt trừ các nạn
đó, cho nên giảng đọc Bát Nhă Ba La Mật. “Giảng”
là hóa độ người khác, “đọc” là tự
hành. Nếu có thể như thế, bảy nạn sẽ
có thể diệt trừ, bảy phước sẽ có thể
sanh khởi. Muôn dân nạn diệt, phước sanh, tự
đạt được an lạc, đế vương
sẽ tự hoan hỷ. Do công thọ tŕ Bát Nhă, sẽ chuyển
sợ hăi thành hoan hỷ.
(Kinh) Vân hà thất nạn?
Nhật nguyệt thất độ, thời tiết phản
nghịch. Hoặc xích nhật xuất, hắc nhật xuất.
Nhị, tam, tứ, ngũ nhật xuất, hoặc nhật
thực vô quang, hoặc nhật luân nhất trùng, nhị,
tam, tứ, ngũ
trùng luân hiện, đương biến quái thời, độc
thuyết thử kinh, vi nhất nạn dă.
(經)云何七難?日月失度,時節反逆。或赤日出,黑日出。二三四五日出,或日蝕無光,或日輪一重二三四五重輪現。當變怪時,讀說此經。為一難也。
(Kinh: Bảy nạn
là ǵ? Mặt trời, mặt trăng vận hành sai lệch,
thời tiết ngược ngạo. Hoặc mặt trời
đỏ mọc, hoặc mặt trời đen mọc. Hoặc
hai, ba, bốn, năm mặt trời mọc ra, hoặc nhật
thực không có ánh sáng. Hoặc mặt trời hiện ra một
quầng, hai, ba, bốn, năm quầng. Trong lúc biến hiện
quái dị, hăy đọc nói kinh này [để trừ diệt
tai nạn]. Đó là một nạn).
Câu đầu gạn hỏi
bảy nạn là ǵ; kế đó, liệt kê. Một là nạn
về mặt trời, mặt trăng, thời tiết. Mặt
trời, mặt trăng xoay vần, đều có quỹ đạo nhất định. “Thất độ”
tức chẳng theo quỹ đạo thông thường. “Thời
tiết phản nghịch”: Thời tiết tuần hoàn,
cũng có chuẩn mực nhất định, như Hè ấm,
Đông lạnh v.v… “Phản nghịch” tức là biến
đổi ngược ngạo, trái lẽ thường, chẳng
thuận theo lệ chuẩn định.
Hoặc mặt trời mọc
ra có màu đỏ bầm hoặc đen tối, hoặc có
hai, ba, bốn, năm vầng mặt trời mọc ra, hoặc
nhật thực chẳng có ánh sáng, hoặc vầng mặt
trời hiện ra có quầng, hoặc hai, ba, bốn, năm
quầng sáng. Trong lúc tai nạn biến đổi quái dị,
không ǵ chẳng phải là do đồng nghiệp (cộng nghiệp) của chúng sanh cảm vời. Những
thứ biến đổi quái lạ ấy đều là
tướng trạng “đói kém, bệnh dịch, chiến
tranh, tai nạn”, hăy gấp nên đọc tụng và giảng
nói kinh này, sẽ có thể diệt trừ!
(Kinh) Nhị thập bát
tú thất độ, Kim tinh, tuệ tinh, luân tinh, Quỷ
tinh, Hỏa tinh, Thủy tinh, Phong tinh, Đao tinh, Nam Đẩu,
Bắc Đẩu, ngũ trấn đại tinh, nhất
thiết quốc chủ tinh, tam công tinh, bách quan tinh, như
thị đẳng tinh, các các biến hiện, diệc
độc thuyết thử kinh, vi nhị nạn dă.
(經)二十八宿失度,金星、彗星、輪星、鬼星、火星、水星、風星、刀星、南斗、北斗、五鎮大星,一切國主星,三公星,百官星。如是等星,各各變現,亦讀說此經。為二難也。
(Kinh: Hai mươi
tám tinh tú vận hành sai lệch, Kim tinh, sao chổi, luân tinh,
Quỷ tinh, Hỏa tinh, Thủy tinh, Phong tinh, Đao tinh, Nam
Đẩu, Bắc Đẩu, ngũ trấn đại
tinh, sao của hết thảy các quốc chúa, sao của tam
công, sao của trăm quan, các tinh tú như thế mỗi mỗi
đều biến hiện, cũng đọc, nói kinh này
[để giải trừ]. Đó là nạn thứ hai).
Thứ hai là nạn tinh tú vận
hành không đúng lệ thường. “Nhị thập bát
tú” đă giải thích trong phần trước. [Bốn
phương, mỗi phương có bảy tinh ṭa, thành ra] bốn
lần bảy là hai mươi tám, [các tinh tú ấy] chẳng
dịch chuyển theo quỹ đạo thông thường
th́ gọi là “thất độ”. Kim Tinh tức là sao
Thái Bạch (sao Hôm, sao Mai, Venus), người ngoại
quốc gọi là Thiên Sư Tinh. Nếu tinh tú vận chuyển
theo quỹ đạo thông thường, đất nước
được mùa. Nếu quỹ đạo sai lệch,
đất nước sẽ đói kém. “Tuệ tinh”
chỉ chung các loại sao xẹt, c̣n gọi là sao chổi,
ngoại quốc gọi nó là Diêm La Vương Tinh[10].
Hễ tinh tú này xuất hiện, ắt có tai nạn.
“Luân tinh” là [tinh tú] có quầng
sáng như bánh xe. Nếu mặt trời, mặt trăng và
ngũ tinh (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) có quầng
sáng, dịch chuyển vào chính giữa bầu trời, ắt
quốc độ phân tán. Nếu nó xoay sang bên phải th́
đất nước an ổn, xoay sang bên trái th́ cũng chẳng
tốt lành. “Quỷ tinh”[11]:
Ngày Rằm tháng Chín, ngôi sao này ẩn mất tại
phương Đông Bắc. Nếu nó dịch chuyển sai
thời, quỷ thần sẽ đến phá hoại đất
nước, gieo rắc bệnh tật trong nhân gian. “Hỏa
tinh” chính là sao Huỳnh Hoặc (熒惑)[12], chủ về giặc
giă. Nếu ngôi sao này mọc cao ở Ngọ cung, sẽ có
giặc giă dấy lên; nếu sao di chuyển xuống cung
Tư, giặc sẽ yên. “Thủy tinh” tức là Thấp
Tinh, cũng là sao Thái Bạch, chủ về nước. Sao
đóng ở cung Thân th́ nước dâng cao, đóng ở
cung Dần th́ nước thấp. Sao này di chuyển một
ṿng [quanh đường hoàng đạo] mất một
năm. Nếu sao này từ dịch chuyển từ bốn
cung Dậu, Tuất, Hợi, Tư th́ không có nước, dịch chuyển từ bốn cung
Măo, Tỵ, Mùi, Thân th́ nhiều nước. Dịch chuyển từ bốn cung
Sửu, Dần, Th́n, Ngọ th́ nước vừa phải,
tức là chẳng nhiều, chẳng ít.
“Phong tinh” tức là sao
Măo[13],
chủ về gió. Sao đóng ở cung Dần th́ là cao,
đóng ở cung Thân là thấp. Nếu cao th́ lắm gió,
không mưa. Nếu thấp th́ lắm mưa, ít gió. Sao di
chuyển theo mặt trời, có ba loại phân biệt: Vào
các tháng Hai, tháng Ba, tháng Tám, tháng Chín, th́ sao di chuyển cùng
lúc với mặt trời. Tháng Mười, tháng Mười
Một, tháng Chạp, tháng Giêng, đi trước mặt trời.
Tháng Tư, tháng Năm, tháng Sáu, tháng Bảy, đi sau mặt
trời. Đó là sự di chuyển b́nh thường, nếu
khác đi th́ là “thất độ”.
“Đao tinh” tức là
sao Măn, đóng tại cung Măo là cao nhất, ở cung Dậu
là thấp nhất. Mỗi chu kỳ dịch chuyển của
nó là hai năm rưỡi. Nếu nó ở vị trí cao th́
nhiều chiến tranh, chúng sanh đói kém, bệnh tật. Nếu
sao đóng thấp th́ ít có chiến tranh. Nam Đẩu và Bắc
Đẩu là diệu, chẳng phải là tú[14].
“Ngũ trấn đại tinh” chính là năm ngôi Kim, Mộc,
Thủy, Hỏa, Thổ. Sao của hết thảy quốc
chúa, sao tam công, sao của trăm quan tức là các ngôi sao ứng
với vua tôi trong nhân gian. Nếu các sao tốt lành đi vào
phạm vi của các ngôi sao ấy, th́ [đất nước]
hết sức an ổn, sung túc, vui sướng. Nếu sao
ác tiến nhập, sẽ có khổ năo to lớn.
“Như thị đẳng
tinh, các các biến hiện” (các tinh tú như thế, mỗi
mỗi đều biến hiện): Nói chung các tinh tú không vận
hành theo quỹ đạo thông thường, cho nên nói là “biến
hiện”. Các điềm tai ương như thế
đều do vua quan cai trị dân chúng vô đạo, phóng dật,
không chừng mực, tai ương sẽ nẩy sanh, bèn ứng
với hiện tượng thiên văn trên bầu trời.
[Khi đó], cũng nên giảng, nói kinh này, ḥng cầu nguyện
giải trừ tai nạn th́ mới có thể văn hồi kiếp
vận.
(Kinh) Đại hỏa thiêu
quốc, vạn tánh thiêu tận, hoặc quỷ hỏa,
long hỏa, thiên hỏa, sơn thần hỏa, nhân hỏa,
thụ mộc hỏa, tặc hỏa, như thị biến
quái, diệc độc thuyết thử kinh, vi tam nạn
dă.
(經)大火燒國,萬姓燒盡;或鬼火、龍火、天火、山神火、人火、樹木火、賊火,如是變怪,亦讀說此經。為三難也。 (Kinh: Lửa lớn
đốt đất nước, muôn dân bị đốt
sạch, hoặc lửa quỷ, lửa rồng, lửa trời,
lửa sơn thần, lửa do người đốt, lửa
từ cây cối, lửa do giặc đốt, [khi có] các thứ
biến hiện quái lạ như thế, cũng đọc, nói kinh này [để diệt trừ]. Đó là nạn
thứ ba).
Nạn thứ ba là lửa
lớn thiêu đốt đất nước. Hai câu đầu
là nói chung, sau đó, riêng nêu bảy loại hỏa tai:
- Một, quỷ hỏa. Quỷ tức
giận v́ chúng sanh làm ác, liền phóng âm hỏa, khiến cho
con người bị nóng sốt.
- Hai, long hỏa: Rồng
phun lửa độc, khiến cho con người bị
úng thũng.
- Ba, thiên hỏa: Tức
là lửa sét đốt cháy. Do sét thuộc về bầu trời
[nên gọi là “thiên hỏa”].
- Bốn là sơn
thần hỏa, năm là nhân hỏa (lửa do người
đốt), và sáu là thụ hỏa (lửa
từ cây cối bốc cháy) dễ hiểu.
- Bảy là tặc hỏa, tức
kẻ giặc phóng hỏa để cướp bóc, cho nên
dùng chữ “tặc” để đặt tên.
[Khi có] bảy thứ hỏa
nạn này, cũng nên đọc, nói kinh này th́ mới có thể
tiêu diệt.
(Kinh) Đại thủy
phiêu một bách tánh, thời tiết phản nghịch,
Đông vũ, Hạ tuyết. Đông thời lôi điện
phích lịch, lục nguyệt lưỡng băng
sương bạc, vũ xích thủy, hắc thủy, thanh
thủy, vũ thổ sơn, thạch sơn, vũ sa lịch
thạch, giang hà nghịch lưu, phù sơn lưu thạch,
như thị biến thời, diệc độc thuyết
thử kinh, vi tứ nạn dă.
(經)大水漂沒百姓。時節反逆。冬雨夏雪,冬時雷電霹靂,六月兩冰霜雹。雨赤水、黑水、青水,雨土山、石山,雨沙礫石。江河逆流,浮山流石。如是變時,亦讀說此經。為四難也。
(Kinh: Nước lớn
cuốn trôi, nhấn ch́m trăm họ, thời tiết trái
mùa: Mùa Đông mưa, mùa Hạ đổ tuyết. Tiết
Đông th́ sấm, chớp, sét. Tháng Sáu th́ hai lượt
băng, sương, mưa đá. Trời mưa nước
đỏ, nước đen, nước xanh, mưa núi
đất, núi đá,
mưa cát, sỏi, đá, sông ng̣i chảy ngược gịng,
núi trôi, đá lở, khi có biến hiện như thế,
cũng đọc nói kinh này [để giải trừ].
Đó là nạn thứ tư).
Bốn là các hoạn nạn do thủy
tai. Trong đoạn kinh này, ngoại trừ “Đông
vũ” (mùa Đông mà trời đổ mưa) ra, tất
cả các chữ Vũ nên đọc theo Khứ Thanh, phải
hiểu [Vũ] có nghĩa là “rơi xuống”. Đổ tuyết,
sấm sét, băng, sương, mưa đá v.v… chẳng
phù hợp thời tiết, th́ gọi là “phản nghịch”.
Mưa ra nước đỏ, sẽ có nhiều chuyện
binh đao. Mưa nước đen nhiều bệnh tật.
Mưa nước xanh nhiều đói kém. Mưa núi đất,
núi đá, cát, sỏi, đá là do tiên nhân hoặc La Sát sân hận.
Sông ng̣i đổi gịng, nước biển dâng trào, chủ yếu là sẽ có giặc giă dấy lên.
(Kinh) Đại phong xuy
sát vạn tánh, quốc độ sơn, hà, thụ mộc, nhất thời diệt
một, phi thời đại phong, hắc phong, xích phong,
thanh phong, thiên phong, địa phong, hỏa phong. Như thị
biến thời, diệc độc thuyết thử kinh,
vi ngũ nạn dă.
(經)大風吹殺萬姓,國土山河樹木,一時滅沒。非時大風黑風、赤風、青風、天風、地風、火風。如是變時,亦讀說此經。為五難也。
(Kinh: Gió lớn thổi
giết chết muôn dân, cơi nước, núi, sông, cây cối
cùng lúc diệt mất, gió lớn trái thời, gió đen, gió
đỏ, gió xanh, gió trời, gió đất, gió lửa. Khi
biến hiện như thế, cũng đọc,
nói kinh này [để giải trừ]. Đó là nạn thứ
năm).
Năm là các thứ
tai nạn về gió. Trong thế giới, sức gió lớn
nhất. Nhỏ th́ bay nhà, trốc cây; lớn th́ núi sông nghiêng ngửa. V́
thế nói là “xuy sát bách tánh” (thổi giết chết
trăm họ). Quốc độ, núi, sông, cây cối cùng
lúc bị diệt mất. “Phi thời đại phong”
(gió lớn trái
thời) tức
là gió lốc. “Hắc phong” thổi tung cát đen
nơi bờ biển, che lấp trời đất, đối mặt nhau mà chẳng thấy
rơ. “Xích phong” tức gió thổi cát đỏ tung bay. “Thanh
phong” tức gió cuốn cát xanh. “Thiên phong, địa
phong” dễ hiểu. “Hỏa phong” tức gió nóng.
Khi các tai biến như thế dấy lên, cũng nên đọc,
nói kinh này để mong tiêu trừ tai ách.
(Kinh) Thiên địa quốc
độ kháng dương, viêm hỏa động nhiên, bách
thảo kháng hạn, ngũ cốc bất đăng, thổ
địa hách nhiên, vạn tánh diệt tận. Như thị
biến thời, diệc độc thuyết thử kinh,
vi lục nạn dă.
(經)天地國土亢陽,炎火洞然。百草亢旱,五穀不登,土地赫然,萬姓滅盡。如是變時,亦讀說此經。為六難也。
(Kinh: Trời đất,
cơi nước bị hạn hán, lửa nóng thiêu đốt,
thảo mộc khô cằn, ngũ cốc không kết hạt,
đất đai cằn cỗi, muôn dân diệt sạch.
Khi tai biến như thế, cũng nên đọc, nói kinh
này [để giải trừ]. Đó là nạn thứ sáu).
Thứ sáu là nạn hạn
hán. “Kháng dương”: Hạn hán gọi là “kháng
dương”. Ánh nắng gay gắt, cho nên nói là “viêm hỏa
động nhiên”. Từ “bách thảo” trở
đi, đều là các hiện tượng hạn hán. Khi
tai biến như thế dấy lên, cũng nên đọc
nói kinh này để cầu được ban cơn mưa
ngọt.
(Kinh) Tứ phương
tặc lai xâm quốc, nội ngoại tặc khởi, hỏa
tặc, thủy tặc, phong tặc, quỷ tặc, bách
tánh hoang loạn, đao binh kiếp khởi, như thị
quái thời, diệc độc thuyết thử kinh, vi thất
nạn dă.
(經)四方賊來侵國,內外賊起。火賊、水賊、風賊、鬼賊。百姓荒亂,刀兵劫起。如是怪時,亦讀說此經。為七難也。
(Kinh: Bốn
phương giặc đến xâm lăng đất nước,
giặc trong, giặc ngoài dấy lên. Giặc lửa, giặc
nước, giặc gió, giặc quỷ, trăm họ
đói rách, rối loạn, kiếp đao binh dấy lên.
Khi có sự quái dị như thế, cũng đọc nói
kinh này [để giải trừ]. Đó là nạn thứ bảy).
Thứ bảy là nạn giặc
đến xâm lăng đất nước. [T́nh h́nh] các thứ
giặc được nói trong kinh văn dễ hiểu.
[Trong lúc giặc giă như thế], cũng nên đọc,
nói kinh này để có thể chuyển nguy thành an. Bảy nạn
trên đây, đều do hết thảy nhân dân bất hiếu
với cha mẹ, bất kính sư trưởng, sa-môn,
bà-la-môn. Quốc vương và đại thần chẳng làm theo
chánh pháp, do các điều ác ấy mà các tai nạn dấy
lên. Nếu có thể đọc, nói kinh này, tự hành, dạy
người khác đều nương theo chánh pháp Bát Nhă, dẫu
điềm tai ương, hoặc điềm bất
tường đă hiện, vẫn chẳng khó trừ khử.
Kinh này giống như thuốc A Già Đà, có thể trị
các bệnh, là của báu cứu đời.
(Kinh) Đại
vương! Thị Bát Nhă Ba La Mật thị chư Phật,
Bồ Tát, nhất thiết chúng sanh, tâm thức chi thần
bổn dă, nhất thiết quốc vương chi phụ mẫu
dă, diệc danh thần phù, diệc danh tịch quỷ châu,
diệc danh như ư châu, diệc danh hộ quốc châu, diệc
danh thiên địa kính, diệc danh long bảo thần
vương.
(經)大王!是般若波羅密,是諸佛菩薩,一切眾生,心識之神本也;一切國王之父母也。亦名神符,亦名辟鬼珠,亦名如意珠,亦名護國珠,亦名天地鏡,亦名龍寶神王。
(Kinh: Này đại
vương! Bát Nhă Ba La Mật này là cái gốc thần diệu
nơi tâm thức của chư Phật, Bồ Tát, và hết
thảy chúng sanh, là cha mẹ của hết thảy quốc
vương, cũng gọi là bùa thần, cũng gọi là
châu đuổi quỷ, cũng gọi là như ư châu,
cũng gọi là hộ quốc châu, cũng gọi là tấm
gương trong trời đất, cũng gọi là long bảo
thần vương).
Đây là tán thán Bát Nhă có thể
làm chỗ nương tựa cho mười pháp giới, có
thể diệt trừ bảy loại tai nạn. Pháp hạnh
trong nhân địa của chư Phật đều
nương vào tướng viên chiếu thanh tịnh giác.
“Có thể chiếu” chính là Bát Nhă. V́ thế, Bát Nhă là cái gốc
của chư Phật. Các Độ do Bồ Tát tu tập
đều dùng Bát Nhă để dẫn đường; v́
thế, Bát Nhă cũng là cội gốc của Bồ Tát.
“Nhất thiết chúng sanh
tâm thức chi thần bổn” (cái gốc thần diệu
nơi tâm thức của hết thảy chúng sanh): “Nhất
thiết” (hết thảy)
bao
gồm Nhị Thừa và lục đạo. Do hết thảy
chúng sanh đều có tâm thức; nhóm họp dấy lên th́ gọi
là Tâm, nhận biết rành rẽ th́ gọi là Thức,
nhưng Thật Tướng Bát Nhă lại là cái gốc
để tâm thức nương vào. Chữ Thần hàm
nghĩa “linh diệu, chẳng lường được”.
“Nhất thiết quốc
vương chi phụ mẫu” (cha mẹ của hết
thảy quốc vương): Bát Nhă có thể thủ hộ
thân vua; v́ thế, giống
như cha mẹ bảo vệ con cái. “Diệc danh thần
phù” (cũng gọi là bùa thần): Có oai đức
như phù ấn thần diệu. Cơi đời có lá bùa ấy
th́ có thể đuổi yêu, dẹp quái; Bát Nhă có thể trừ
khử các điều ác, ǵn giữ các điều thiện.
V́ thế, cũng được gọi bằng danh
xưng ấy!
“Diệc danh tịch quỷ
châu” (cũng gọi là “viên châu đuổi quỷ”): Viên
châu ấy có thể trừ tà yêu, quỷ mị, khiến
cho chúng nó trốn xa, ẩn mất, chẳng dấy lên họa
loạn. Bát Nhă có thể trừ tà đạo giống hệt
như thế. “Diệc danh như ư châu” (cũng gọi
là như ư châu): Có người nói viên châu này (như ư châu) là do tinh khí của Kim Xí Điểu
Vương (vua loài chim cánh vàng) hợp thành, có trọn đủ
các thứ báu. Hễ thành tâm bái cầu, sẽ đều
được như ư, châu sẽ tuôn ra các thứ báu. Do vậy
gọi là Như Ư Châu. “Diệc danh hộ quốc châu”
(cũng gọi là “viên châu thủ hộ đất nước”):
Đất nước có viên châu ấy, sẽ
chẳng bị xâm hại. Bát Nhă có thể thủ hộ quốc
độ cũng giống như thế. Kinh văn trong phần
trước có câu: “Như thành, tiệm, tường bích,
đao, kiếm, mâu,
thuẫn…”
(Như thành, hào, tường vách, đao, gươm, mâu,
khiên)… [đều nhằm tán thán công năng thủ hộ của
Bát Nhă].
“Diệc danh thiên địa
kính” (cũng gọi là gương trời đất):
Trí Bát Nhă có thể chiếu hết thảy, như dùng trời
đất làm gương, không ǵ chẳng chiếu. “Diệc
danh long bảo thần vương” (cũng gọi là
long bảo thần vương): Dùng trí Bát Nhă có thể sanh ra hết thảy các thiện
pháp, ví như bảo châu trong búi tóc của long vương,
có thể tuôn ra các báu. V́ thế gọi là “long bảo thần
vương”.
(Kinh) Phật cáo đại
vương: - Ưng tác cửu sắc phan, trường cửu
trượng; cửu sắc hoa, cao nhị trượng;
thiên chi đăng, cao ngũ trượng, cửu ngọc
sương, cửu ngọc cân, diệc tác thất bảo
án, dĩ kinh trí thượng. Nhược vương hành
thời, thường ư kỳ tiền, túc nhất bách bộ,
thị kinh thường phóng thiên quang minh, linh thiên lư nội,
thất nạn bất khởi, tội quá bất sanh.
(經)佛告大王:應作九色幡,長九丈;九色華,高二丈;千枝燈,高五丈;九玉箱;九玉巾。亦作七寶案,以經置上。若王行時,常於其前,足一百步。是經常放千光明,令千里內,七難不起,罪過不生。
(Kinh: Đức Phật
bảo đại vương: - Hăy nên làm lá phan chín màu, dài
chín trượng, hoa chín màu cao hai trượng, ngàn ngọn
đèn cao năm trượng, chín cái rương ngọc, chín chiếc
khăn ngọc. Cũng làm cái bàn bảy báu, để đặt
kinh trên đó. Nếu như khi vua đi, thường đặt
[bàn chứa kinh ấy] ở đằng trước, cách
xa vừa đúng một trăm bước, kinh ấy sẽ
thường tỏa một ngàn quang minh khiến cho trong
ṿng ngàn dặm, bảy nạn chẳng dấy lên, tội lỗi
chẳng sanh).
Đây là khuyên tu cúng dường,
phan, hoa, đèn đều là các vật cúng. Rương ngọc,
khăn ngọc, án báu cũng là vật dụng để
dâng cúng. “Phan” có ư nghĩa là “cao, rạng”. Làm lá phan chín
màu, dài chín trượng, nhằm biểu thị chúng sanh
trong chín pháp giới kiến lập tràng phan Bát Nhă thù thắng,
vượt khỏi chín sự khổ. Hoa chín màu, cao hai
trượng, biểu thị chúng sanh trong chín pháp giới
tu hoa nhân hạnh Bát Nhă, hiển lộ Nhị Đế.
Một ngàn ngọn đèn, cao năm trượng, biểu
thị công đức Thập Thiện, dùng Bát Nhă xoay vần
bổ trợ, sẽ thành tựu một ngàn món trí huệ.
“Cao năm trượng” biểu thị chiếu sáng năm
đường.
Chín cái rương ngọc,
chín cái khăn ngọc, biểu thị chúng sanh trong chín pháp
giới dùng thanh tịnh làm pháp khí. Án bằng bảy báu
để đặt kinh lên đó, biểu thị người
thuộc bảy phương tiện dùng hai thứ Văn Tự Bát Nhă và Quán Chiếu Bát Nhă ḥng khế hợp Thật
Tướng Bát Nhă b́nh đẳng. Nếu như lúc vua
đi, thỉnh kinh đi trước, biểu thị ư
nghĩa kính trọng pháp. Lại dùng Bát Nhă để dẫn
đường, biểu thị trí quang Bát Nhă có công năng
“thoát nạn, diệt tội” thù thắng.
(Kinh)
Nhược vương trụ thời, tác thất bảo
trướng, trướng trung thất bảo cao ṭa,
dĩ kinh quyển trí thượng. Nhật nhật cúng
dường, tán hoa, thiêu hương, như sự phụ mẫu,
như sự Đế Thích.
(經)若王住時,作七寶帳,帳中七寶高座,以經卷置上。日日供養,散花燒香,如事父母,如事帝釋。
(Kinh:
Như khi vua ở lại, hăy tạo trướng bảy
báu, trong trướng là ṭa cao bảy báu, đặt kinh quyển
trên đó. Hằng ngày cúng dường, rải hoa, thắp
hương, như thờ cha mẹ, như thờ Đế
Thích).
Đây là nói đến
sự cúng dường khi ở lại. Trướng báu,
ṭa báu để đặt kinh trên đó, cũng mang ư
nghĩa tôn trọng. Hằng ngày cúng dường
hương, hoa, như thờ cha mẹ, như thờ thiên
đế, ḥng tỏ lộ ḷng thành hiếu kính, chẳng dám
sơ sót.
(Kinh) Đại
vương! Ngă kim ngũ nhăn minh kiến, tam thế nhất
thiết quốc vương, giai do quá khứ thị
ngũ bách Phật, đắc vi đế vương chủ.
Thị cố, nhất thiết thánh nhân, La Hán, nhi vị lai
sanh bỉ quốc, tác đại lợi ích. Nhược
vương phước tận thời, nhất thiết
thánh nhân, giai vi xả khứ. Nhược nhất thiết
thánh nhân xả khứ thời, thất nạn tất khởi.
(經)大王!我今五眼明見,三世一切國王,皆由過去侍五百佛,得為帝王主。是故一切聖人羅漢,而為來生彼國,作大利益。若王福盡時,一切聖人,皆為捨去。若一切聖人捨去時,七難必起。
(Kinh: Đại
vương! Ta nay dùng ngũ nhăn thấy rơ hết
thảy các quốc vương trong ba đời đều
do trong quá khứ đă hầu năm trăm vị Phật
mà được làm đế vương, chúa tể. V́ thế,
hết thảy thánh nhân, La Hán đều v́ họ mà sanh vào
nước ấy, tạo lợi ích to lớn. Nếu khi
vua đă hết phước, hết thảy thánh nhân đều
bỏ đi. Nếu lúc hết thảy thánh nhân đều
bỏ đi, bảy nạn ắt dấy lên).
Đức Phật trọn
đủ ngũ nhăn, cho nên có thể thấy rơ nhân duyên xa
xưa của mười phương ba đời hết
thảy các quốc vương, họ đều do trong
đời quá khứ đă hầu nhiều vị Phật,
gieo sâu thiện căn, cho nên được làm vua. V́ thế,
cảm vời hết thảy thánh nhân La
Hán, những người cùng hạnh thuở trước
đều sanh vào cơi ấy. Đồng tâm, đồng
đức, trên dưới giúp đỡ lẫn
nhau, giáo hóa chúng sanh, tạo lợi ích to lớn. “Nhược
vương phước tận thời” (Nếu khi vua hết
phước), phước hữu lậu ắt có lúc hết
sạch. Nếu chẳng hành theo chánh
pháp, sao có thể mong “phước tộ” (福祚, phước lộc, tiếp nối thịnh vượng) lâu dài? Phước
ấy nếu hết, chư thánh bỏ đi, nước ấy
sẽ ngày càng suy vi, tai họa liền kéo tới, bảy nạn
ắt dấy lên!
(Kinh)
Đại vương! Nhược vị lai thế, hữu
chư quốc vương hộ tŕ Tam Bảo giả, ngă sử
ngũ đại lực Bồ Tát, văng hộ kỳ quốc.
Nhất, Kim Cang Hống Bồ Tát, thủ tŕ thiên bảo tướng
luân, văng hộ bỉ quốc. Nhị, Long Vương Hống
Bồ Tát, thủ tŕ kim luân đăng, văng hộ bỉ quốc.
Tam, Vô Úy Thập Lực Hống Bồ Tát, thủ tŕ kim cang
xử, văng hộ bỉ quốc. Tứ, Lôi Điện Hống
Bồ Tát, thủ tŕ thiên bảo la vơng, văng hộ bỉ quốc.
Ngũ, Vô Lượng Lực Hống Bồ Tát, thủ tŕ ngũ
thiên kiếm luân, văng hộ bỉ quốc. Ngũ đại
sĩ, ngũ thiên đại thần vương, ư nhữ
quốc trung, đại tác lợi ích, đương lập
h́nh tượng, nhi cúng dường chi!
(經)大王!若未來世,有諸國王護持三寶者。我使五大力菩薩,往護其國。一、金剛吼菩薩,手持千寶相輪,往護彼國。二、龍王吼菩薩,手持金輪燈,往護彼國。三、無畏十力吼菩薩,手持金剛杵,往護彼國。四、雷電吼菩薩,手持千寶羅網,往護彼國。五、無量力吼菩薩,手持五千劍輪,往護彼國。五大士,五千大神王,於汝國中,大作利益。當立形像,而供養之。
(Kinh: Này đại
vương! Nếu trong đời vị lai, có các quốc
vương hộ tŕ Tam Bảo, ta sai năm vị đại
lực Bồ Tát tới thủ hộ nước ấy. Một
là Kim Cang Hống Bồ Tát, tay cầm bánh xe ngàn tướng
báu đến thủ hộ nước ấy. Hai là Long
Vương Hống Bồ Tát, tay cầm đèn bánh xe vàng,
đến thủ hộ nước ấy. Ba là Vô Úy Thập
Lực Hống Bồ Tát, tay cầm chày kim cang, đến
thủ hộ nước ấy. Bốn là Lôi Điện Hống
Bồ Tát, tay cầm lưới mành bằng ngàn thứ báu,
đến thủ hộ nước ấy. Năm là Vô
Lượng Lực Hống Bồ Tát, tay cầm năm ngàn
vầng kiếm đến thủ hộ nước ấy.
Năm vị đại sĩ, năm ngàn đại thần
vương ở trong nước các ông, tạo lợi ích
to lớn, hăy nên lập h́nh tượng họ để
cúng dường).
Đây là nói quốc
vương trong đời mai sau nếu có thể vâng theo lời
dạy, hộ tŕ Tam Bảo, sẽ cảm vời đức
Phật sai năm vị Bồ Tát có oai lực to lớn
đến thủ hộ nước ấy. Như vậy th́ sở dĩ hộ giáo là để
hộ quốc. Kế đó, [đức Phật] nêu ra danh
hiệu của năm vị đại Bồ Tát, cùng với
năm ngàn vị đại thần, chủ và bạn cùng
đến [thủ hộ], chẳng phải là nhân duyên nhỏ
nhoi!
Do có thể ở trong nước ấy, tạo lợi ích
to lớn, cho nên họ dùng thần lực gia bị hiển
nhiên hay âm thầm. Do có sự giúp đỡ ấy, cho nên
tai nạn tự nhiên tiêu mất. Đức Phật căn
dặn: Để báo ân hộ quốc của họ, hăy thiết
lập h́nh tượng họ để cúng dường.
(Kinh) Đại
vương! Ngô kim Tam Bảo, phó chúc nhữ đẳng, nhất
phó chư vương: Kiều Tát La quốc, Tỳ Xá Ly quốc,
Xá Vệ quốc, Ma Kiệt Đề quốc, Ba La Nại
quốc, Ca Di La Vệ quốc, Cưu Thi Na quốc, Cưu
Thiểm Di quốc, Cưu Lưu quốc, Kế Tân quốc,
Già La Càn quốc, Càn Đà Vệ quốc, Sa Đà quốc,
Tăng Già Đà quốc, Kiện Noa Quật Xà quốc, Ba
Đề quốc, như thị nhất thiết chư quốc
vương đẳng, giai ưng thọ tŕ Bát Nhă Ba La Mật.
(經)大王!吾今三寶,付囑汝等一付諸王。憍薩羅國、毗舍離國、舍衛國、摩竭提國、波羅奈國、迦夷羅衛國、鳩尸那國、鳩睒彌國、鳩留國、罽賓國、伽羅乾國、乾陀衛國、沙陀國、僧伽陀國、健拏掘闍國、波提國,如是一切諸國王等,皆應受持般若波羅密。
(Kinh: Này đại
vương! Nay ta đem Tam Bảo phó chúc cho các vị, nhất
loạt phó chúc các vua nước Kiều Tát La, nước
Tỳ Xá Ly, nước Xá Vệ, nước Ma Kiệt
Đề, nước Ba La Nại, nước Ca Di La Vệ,
nước Cưu Thi Na, nước Cưu Thiểm Di,
nước Cưu Lưu, nước Kế Tân, nước
Già La Càn, nước Càn Đà Vệ, nước Sa Đà,
nước Tăng Già Đà, nước Kiện Noa Quật
Xà, nước Ba Đề, hết thảy các quốc
vương như thế đều nên thọ tŕ Bát Nhă Ba
La Mật).
Đây là khuyên tŕ Bát Nhă. Bát Nhă
có trọn đủ Tam Bảo: Kinh điển ở
nơi đâu, nơi đó có thân xá-lợi của Như
Lai, tức là Phật Bảo. Bát Nhă là pháp Ma ha Diễn
(Đại Thừa), tức là Pháp Bảo.
Mười ba loại pháp sư trong kinh đều tu Bát Nhă, đấy chính là Đại Thừa Tăng Bảo.
Phó chúc các vua thọ tŕ kinh này, tức là hộ tŕ Tam Bảo.
Nước Kiều
Tát La (Kośala), c̣n phiên
âm là Câu Tát La quốc, dịch nghĩa là Công Xảo (tài khéo),
hoặc Vô Đấu Chiến, ở Nam Ấn Độ. Đối
ứng
với Bắc Kiều Tát La quốc, ở đây là nói Nam
Kiều Tát La quốc, hoặc c̣n gọi là Đại Kiều
Tát La quốc. Long Thọ Bồ Tát phần nhiều trụ
trong nước này, được vua Sa Đa Bà Ha (Sādavāhana)[15]
quy
kính. Ở trong núi, vua kiến tạo năm ngôi đại
già-lam. Hơn nữa, sách Huyền Ứng Âm Nghĩa quyển
hai mươi hai trích dẫn Tây Vực Kư nói đây là tên một
nước cổ ở Trung Ấn Độ. Do
đối ứng với nước Kiều Tát La ở
phương Nam mà gọi là Bắc Kiều Tát La quốc, là
một trong mười sáu nước lớn.
Thủ phủ chính là Xá Vệ quốc, Phật từng trụ
tại đó trong một thời gian dài. Theo những điều
đă nói trên đây, Nam Bắc khác nhau, chẳng biết nước
nào mới là đúng.
Tỳ Xá Ly quốc
(Vaiśālī), c̣n dịch
là Tỳ Da Ly quốc, dịch nghĩa là Quảng Nghiêm, thuộc
khu vực Nam sông Hằng tại Trung Ấn Độ. Đại
sĩ Duy Ma trụ tại nước này. Đức Phật
diệt độ một trăm năm, bảy trăm vị
hiền
thánh thực hiện cuộc kết tập kinh điển
lần thứ hai tại đây.
Nước Xá Vệ là tên
đô thành của vua Ba Tư Nặc. Nước này vốn
có tên là nước Kiều Tát La, do có hai nước Nam Bắc
cùng tên; cho nên phần nhiều dùng danh xưng Xá Vệ (Śrāvastī) làm tên nước.
[Xá Vệ trong tiếng Phạn] phiên âm theo lối tân dịch
là Thất La Phạt Tất Để, dịch nghĩa là Văn
Vật (聞物); do thành này sanh ra nhiều
người nổi tiếng, sản xuất nhiều vật
trân quư. Tinh xá Kỳ Viên của đức Phật ở tại
nước này.
Nước Ma Kiệt Đề
(Magadha) tức là nước Ma Kiệt Đà, phương
này dịch là “Thiện Thắng quốc”,
hoặc dịch là “Vô Năo Hại quốc”. Pháp luật nước
ấy cấm xử tử. Hễ có kẻ phạm tội
chết, bèn tống vào rừng
hoang. Nước này ở Trung Ấn Độ. Trong Ngũ
Ấn Độ, nước này lớn nhất. Thành
Vương Xá (Rājagṛha) ở
trong nước này.
Nước Ba La Nại
(Vārāṇasī) c̣n gọi
là nước Ba La Nại Tư, dịch nghĩa là Giang Nhiễu
Thành (thành có sông vây quanh), do nước này thuộc lưu vực
sông Hằng tại Trung Ấn Độ. Vườn Lộc
Dă (Mṛgá-dāva) ở
trong nước này, tức là nơi cổ đế vương
nuôi nai, c̣n gọi là Lộc Uyển.
Nước Ca Di La Vệ (Kapilavatsu, Ca Tỳ
La Vệ), c̣n gọi là Ca Duy La Vệ quốc, lại c̣n gọi
là Ca
Duy La Duyệt quốc, dịch nghĩa là Diệu Đức,
là chỗ ở của bốn anh em vua Tịnh Phạn, là
nước mà Như Lai giáng sanh, là xứ cai trị của
vua Tịnh Phạn.
Nước Kế Tân chính là
nước Ca Thấp Di La (Kāśmīra), cựu
dịch là Kế Tân tức là sai. Xứ này ở Bắc Ấn
Độ, rộng hơn bảy ngàn dặm, bốn phía dựa
vào
núi. Núi non hết
sức cao ngất, hiểm trở. Tuy có đường nẻo,
nhưng lại chật hẹp. Từ cổ, kẻ địch
lân cận chẳng thể tấn công, chinh phạt. Phía Tây
đô thành giáp sông lớn, từ Nam đến Bắc là
mười hai dặm, từ Đông sang Tây là bốn
năm dặm. [Xứ ấy] thích hợp trồng
trọt, nhiều hoa quả,
sanh
ra nhiều loại ngựa quư và uất kim hương[16],
hỏa châu, dược thảo v.v… Khí hậu lạnh buốt, nhiều
tuyết, ít gió, [dân chúng] dùng y phục bằng lông thú, khoác áo
nỉ trắng.
Nước
Càn Đà Vệ, sách Tây Vực Kư quyển thứ hai nói “Càn Đà La quốc (Gandhāra), cựu dịch
phiên âm thành Càn Đà Vệ là sai”[17]. [Xứ này] thuộc
Bắc Ấn Độ, phương này dịch nghĩa là
Tŕ Địa quốc, ư nói: Xứ này thuở trước
có nhiều vị thánh hiền đắc đạo quả,
trụ tŕ nơi ấy, chẳng bị nước khác xâm
hại. Nước này sanh nhiều loại hoa có mùi
thơm, lại có các loại hương nổi tiếng cả
nước.
Trong danh xưng
của mười sáu nước ấy, tám nước có
dịch nghĩa. Những nước kia như nước
Cưu Thi Na (Kuśinagara), nước
Cưu Thiểm Di (Kaushambi), nước
Cưu Lưu (Kuru), nước Già La Càn, nước Sa Đà,
nước Tăng Già Đà, nước Kiện Noa Quật
Xà (Kanyakubja), nước Ba
Đề, tám nước ấy chẳng được dịch
nghĩa.
(Kinh) Thời, chư
đại chúng, A Tu Luân vương, văn Phật thuyết
vị lai thế thất khả úy, thân mao vi thụ, hô thanh
đại khiếu nhi ngôn: “Nguyện bất sanh bỉ quốc”.
(經)時,諸大眾,阿須輪王,聞佛說未來世七可畏,身毛為豎,呼聲大叫而言:願不生彼國。
(Kinh: Khi đó, các
đại chúng, vua A Tu Luân, nghe đức Phật nói bảy
điều đáng sợ trong đời vị lai, lông trên
thân dựng cả lên, hô to lên rằng: “Nguyện chẳng
sanh vào cơi ấy”).
Đây là nghe kinh phát nguyện.
Khi đó, trong đại chúng, các vua A Tu Luân nghe đức
Phật nói bảy nạn trong đời vị lai rất
đáng sợ hăi, rởn da gà, lớn tiếng kêu gào, phát
nguyện rằng: “Nguyện chẳng sanh trong cơi có bảy
nạn ấy”.
(Kinh) Thời, thập lục
đại quốc vương, tức dĩ quốc phó
đệ, xuất gia tu đạo. Quán Tứ Đại sắc,
thắng xuất tướng. Tứ Đại tứ sắc,
bất dụng Thức Không, nhập hành tướng. Tam thập
nhẫn, Sơ Địa tướng. Đệ Nhất
Nghĩa Đế, Cửu Địa tướng. Thị
cố, đại vương! Xả phàm phu thân, nhập lục
trụ thân, xả thất báo thân, nhập bát Pháp Thân, chứng
nhất thiết hạnh Bát Nhă Ba La Mật.
(經)時,十六大國王,即以國付弟,出家修道。觀四大色,勝出相。四大四色,不用識空,入行相。三十忍,初地相;第一義諦,九地相。是故,大王!捨凡夫身,入六住身。捨七報身,入八法身。證一切行,般若波羅密。
(Kinh: Khi đó, mười
sáu vua nước lớn liền giao nước cho em trai,
xuất gia tu đạo. Quán Tứ Đại và tứ sắc
(xanh, vàng, đỏ, trắng) [thành tựu th́ gọi là] “thắng
xuất tướng”. Đối với Tứ Đại,
Tứ Sắc, chẳng dùng [đến Vô Sở Hữu Xứ,
chỉ dùng] Thức Xứ và Không Xứ để nhập
hành tướng. Trong ba mươi môn Nhẫn [thuộc
mười địa trong Thập Địa], tướng
Sơ Địa là đắc Đệ Nhất Nghĩa
Đế, [sẽ là tiền phương tiện cho] các
tướng của chín địa kia. V́ thế, này đại
vương! Bỏ thân phàm phu, nhập thân Lục Trụ, bỏ
Báo Thân thuộc Thất Địa, nhập Pháp Thân của
Bát Địa, chứng hết thảy các hạnh Bát Nhă Ba
La Mật)[18].
Các quốc vương ấy
ngộ đạo. Khi đó, mười sáu vị đại
quốc vương sau khi nghe pháp, biết rơ thế gian và
quốc độ đều giống như mộng huyễn,
liền đem quốc sự giao cho em trai, phát tâm xuất
gia tu đạo.
“Quán tứ đại sắc,
thắng xuất tướng”, tức là Bát Thắng Xứ.
Tu tám pháp ấy, có thể đạt được lợi
ích thù thắng, có thể chế phục cảnh giới,
cái tâm đối trước cảnh chẳng bị cảnh
dẫn dắt. Do vậy, gọi là Thắng Xứ. Đây
là nói về sự tu đạo:
- Một là trong quán sắc,
ngoài quán sắc ít, tức là trong th́ quán sắc bất tịnh
của Tứ Đại, ngoài th́ quán đôi chút tịnh sắc.
Do quán lực ít ỏi, chẳng thể quán nhiều.
- Hai là trong quán sắc, ngoài
th́ quán sắc nhiều. Do quán lực dần dần tăng
trưởng, cho nên có thể quán nhiều.
- Ba, trong không có sắc tưởng,
ngoài quán sắc ít.
- Bốn, trong không có sắc
tưởng, ngoài quán sắc nhiều.
- Năm, trong không có sắc
tưởng, ngoài quán sắc xanh.
- Sáu là [quán sắc] vàng.
- Bảy là [quán sắc] đỏ.
- Tám là [quán sắc] trắng.
Đối với sáu thắng
xứ [sau cùng], do tu quán hạnh lâu ngày, sẽ có thể chế
phục sắc tưởng trong nội tâm, cho nên nói là “trong
th́ vô sắc, quán tịnh sắc ở bên ngoài”. Từ ít
tới nhiều, có thể hiện ra quang minh màu xanh,
vàng v.v… chuyển biến tự tại, chẳng sanh pháp ái.
Quán thành tựu tám thắng xứ th́ gọi “thắng xuất
tướng”.
“Tứ đại, tứ
sắc, bất dụng Thức Không, nhập hành tướng”:
Tức là Thập Biến Xứ, c̣n gọi là mười
món Nhất Thiết Nhập, tức là đối với Tứ
Đại “địa, thủy, hỏa, phong”, và tứ sắc
là xanh, vàng, đỏ, trắng, “bất dụng Thức
Không”: “Bất dụng” là Vô Sở Hữu Xứ, Thức
là Thức Xứ, Không là Không Xứ. Trong các pháp số, không
có Vô Sở Hữu Xứ, chỉ có Thức Xứ và
Không Xứ. Mười món ấy (Tứ Đại, tứ
sắc, Thức Xứ và Không Xứ) trọn khắp hết
thảy các xứ, cho nên gọi là Thập Biến Xứ.
Do chúng lại đều có thể nhập vào hết thảy,
nên gọi là Thập Nhất Thiết Nhập (mười
món nhập vào hết thảy). Như quán sắc xanh, th́ trọn
khắp hết thảy mọi nơi đều là màu xanh
v.v… Trước đó đă nói tới Thắng Xứ, hàm ư
“có thể chế phục cảnh giới”. Ở
đây nói là Biến Xứ (遍處, trọn khắp các xứ), hàm nghĩa “rộng
lớn trọn khắp”. Do chỗ nương vào của
chúng là Không, chúng đều có thể duyên Thức vô biên.
Quán thành tựu mười món Nhất Thiết Nhập này,
th́ gọi là Nhập Hành Tướng.
Từ “tam thập Nhẫn”
trở đi, kế đó là nói đến chuyện “nhập
đạo”. Từ Sơ Địa trở lên, mỗi
địa trong mười địa đều có ba môn Nhẫn,
hợp thành ba mươi môn Nhẫn. “Sơ Địa
tướng”: Phá vô minh, chứng Pháp Thân, đắc
Đệ Nhất Nghĩa Đế. “Cửu địa
tướng” [trong đoạn kinh văn này] không phải
là nói đến Đệ Cửu Địa [trong Thập
Địa], mà là nói Sơ Địa đắc Đệ
Nhất Nghĩa Đế, sẽ làm tướng
phương tiện cho chín địa sau đó như Ly Cấu
Địa v.v… Hễ dự vào Sơ Địa, sẽ dễ
dàng tiến nhập các Địa khác. Nhiếp Luận nói:
“Như đục thủng lóng trúc đầu tiên, sẽ
có thể nhanh chóng đục thủng các lóng sau. Đắc
chân trí của Sơ Địa, các Địa khác sẽ
nhanh chóng thành tựu”.
“Thị cố, đại
vương! Xả phàm phu thân, nhập Lục Trụ thân”
(Do vậy, này đại vương! Xả thân phàm phu, nhập
thân Lục Trụ): Tức là do đă nhập đạo,
bèn xả thân phàm phu thuộc địa vị Ngoại
Phàm, tiến nhập thân Tập Chủng Tánh của địa
vị Lục Trụ [trong Thập Trụ]. “Xả thất
Báo Thân, nhập Bát Pháp Thân” có hai cách hiểu:
- Một, xả thân thất
phương tiện thuộc Địa Tiền (các địa
vị chưa tiến nhập Sơ Địa), đạt
được Pháp Thân thứ tám thuộc Sơ Địa.
- Hai, bỏ Báo Thân Phần
Đoạn thuộc Thất Địa trước đó
để tiến nhập Pháp Thân Vô Công Dụng của
Đệ Bát Địa.
(Kinh) Thập bát Phạm
thiên, A Tu Luân vương đắc tam thừa quán, đồng
vô sanh cảnh. Phục tán hoa cúng dường: Không hoa, pháp
tánh hoa, thánh nhân hoa, thuận hoa, vô sanh hoa, pháp lạc hoa, kim
cang hoa, duyên quán Trung Đạo hoa, tam thập thất phẩm
hoa nhi tán Phật thượng.
(經)十八梵天、阿須輪王得三乘觀,同無生境。復散華供養:空華、法性華、聖人華、順華、無生華、法樂華、金剛華、緣觀中道華、三十七品華而散佛上。
(Kinh: Mười tám
Phạm thiên, vua A Tu Luân đạt được tam thừa
quán, cùng nhập cảnh Vô Sanh. Lại rải hoa cúng dường:
Không hoa, pháp tánh hoa, thánh nhân hoa, thuận hoa, vô sanh hoa, pháp lạc
hoa, kim cang hoa, duyên quán Trung Đạo hoa, hoa ba mươi bảy
phẩm để rải trên đức Phật).
Từ đây trở
đi là nói đại chúng trong pháp hội đạt
được lợi ích, có phàm, có thánh. Ở đây là Phạm
thiên và A Tu La đắc tam thừa quán, tức là đắc
đại, trung, tiểu tam thừa quán. “Đồng Vô
Sanh cảnh” tức là đắc Đại Thừa Quán.
Do vậy, họ rải hoa cúng dường. Các hoa ấy
chính là hoa nhân hạnh của tam thừa. Trước hết
rải hoa Ngũ Nhẫn của Đại
Thừa: Không hoa biểu thị Nhân Không, Pháp Tánh hoa biểu
thị Pháp Không, địa vị Tam Hiền chưa chứng
Sơ Địa là hoa Phục Nhẫn. “Thánh nhân hoa” là
Sơ Địa, Nhị Địa, Tam Địa đă chứng
thánh vị, rải hoa Tín Nhẫn. Tứ Địa, Ngũ
Địa, Lục Địa, thuận Vô Sanh Nhẫn, rải
hoa Thuận Nhẫn. Thất Địa, Bát Địa, Cửu
Địa thật sự chứng Vô Sanh, rải hoa Vô
Sanh Nhẫn. Tứ biện tài tự tại
thuyết pháp, rải hoa Pháp Lạc. Thập Địa chứng
kim cang tâm, có thể đoạn kết sử, rải hoa
Kim Cang.
Kế đến là rải
hoa Nhị Thừa:
- Hoa duyên quán Trung Đạo:
Duyên Giác trung thừa, quán sát mười hai nhân duyên mà đắc
Vô Sanh, cho nên rải hoa Duyên Quán Trung Đạo.
- Hoa ba mươi bảy phẩm:
Thanh Văn Tiểu Thừa nương theo ba mươi bảy
đạo phẩm để tu học, đắc chứng
Niết Bàn. Do đó, rải hoa ba mươi bảy phẩm.
“Nhi tán Phật thượng”
(mà rải lên đức Phật) tức là cúng dường.
Lại dùng hoa nhân hạnh ấy để thượng cầu
Phật quả.
(Kinh) Cập cửu bách ức
đại Bồ Tát chúng, kỳ dư nhất thiết chúng, chứng Đạo Tích quả, tán tâm
không hoa, tâm thụ hoa, Lục Ba La Mật hoa, Diệu Giác hoa, nhi tán Phật thượng, cập nhất
thiết chúng.
(經)及九百億大菩薩眾,其餘一切眾,證道跡果。散心空華、心樹華、六波羅密華、妙覺華而散佛上,及一切眾。
(Kinh: Và chín trăm ức
vị đại Bồ Tát, hết thảy các đại
chúng khác, chứng Đạo Tích Quả, rải hoa Không Tâm,
hoa từ cây tâm, hoa Lục Ba La Mật, hoa Diệu Giác để
rải lên đức Phật và hết thảy đại
chúng).
“Cùng với Bồ Tát đại
chúng đắc chứng đạo tích quả”: Đạt
được sự giải ngộ nơi Sơ Địa,
chứng lư Trung Đạo Pháp Thân, th́ gọi là Chứng.
Đạo có nghĩa là “có thể thông suốt”. Hễ chứng
liền có thể thông, th́ gọi là Đạo. “Tích” là
nói dấu tích tấn tu. Có thể tiến nhập Đạo
th́ gọi là Tích. Quả là thành thục viên măn. Ngộ và tu
trọn vẹn th́ gọi là Quả.
“Tán tâm không hoa”: Tức
là hoa lư Không vô sanh. “Tâm thụ hoa”: Tức hoa nơi cây
ư. “Lục Ba La Mật hoa” tức hạnh hoa của Bồ
Tát. “Diệu Giác hoa” tức là hoa nơi Phật địa
quả. “Nhi tán Phật thượng cập nhất thiết
chúng” (mà rải lên đức Phật và hết thảy
đại chúng): B́nh đẳng cúng dường chúng sanh và
Phật.
(Kinh) Thập thiên Bồ
Tát, niệm lai thế chúng sanh, tức chứng Diệu Giác
tam-muội, Viên Minh tam-muội, Kim Cang tam-muội, Thế
Đế tam-muội, Chân Đế tam-muội, Đệ
Nhất Nghĩa Đế tam-muội. Thử Tam Đế
tam-muội thị nhất thiết tam-muội vương
tam-muội, diệc đắc vô lượng tam-muội,
Thất Tài tam-muội, Nhị Thập Ngũ Hữu tam-muội, Nhất Thiết Hạnh
tam-muội.
(經)十千菩薩,念來世眾生,即證:妙覺三昧,圓明三昧,金剛三昧,世諦三昧,真諦三昧,第一義諦三昧。此三諦三昧是一切三昧王三昧,亦得無量三昧。七財三昧,二十五有三昧,一切行三昧。
(Kinh: Mười ngàn
Bồ Tát nghĩ đến chúng sanh trong đời vị
lai, liền chứng Diệu Giác tam-muội, Viên Minh tam-muội,
Kim Cang tam-muội, Thế Đế tam-muội, Chân Đế
tam-muội, Đệ Nhất Nghĩa Đế tam-muội.
Các tam-muội thuộc ba Đế ấy chính là
vương tam-muội của hết thảy các tam-muội,
cũng đắc vô lượng tam-muội, Thất Tài
tam-muội, Nhị Thập
Ngũ
Hữu
tam-muội, Nhất Thiết Hạnh tam-muội).
Mười ngàn Bồ Tát
nghĩ thương xót chúng sanh vốn trọn đủ Phật
tánh, chỉ v́ trái nghịch giác, xuôi theo trần lao, cho nên chẳng
thể chứng đắc. Nay nghe nói pháp môn mười bốn
Nhẫn, đại bi hun đúc cái tâm, hộ niệm
chúng sanh trong đời mai sau, muốn khiến cho họ lập
tức chứng Diệu Giác tam-muội, tức là cực quả
Diệu Giác rốt ráo, là tối thượng nhất thừa
tam-muội.
Viên Minh tam-muội: Chiếu
thấu triệt lư cội nguồn của nhất tâm. Kim
Cang tam-muội tức là nhập Kim Cang Định kiên cố,
chẳng thể phá hoại. Thế Đế tam-muội tức
là nhập Tục Đế tam-muội, dấn ḿnh vào cơi tục
mà chẳng nhiễm mảy trần. Đó gọi là “đi
qua cả trăm hoa, áo chẳng dính mẩu lá”. Chân Đế
tam-muội chính là Diệt Tận Định do Nhị Thừa
đă nhập. Đệ Nhất Nghĩa Đế tam-muội
chính là đại định Trung Đạo viên diệu do
Bồ Tát đă nhập, c̣n gọi là Thật Tướng
tam-muội. Ba môn tam-muội này là vua trong các tam-muội, nhiếp
trọn hết thảy các tam-muội, v́ thế nói nói “diệc
đắc vô lượng tam-muội” (cũng đắc
vô lượng tam-muội).
Thất Tài tam-muội tức
là đắc Thất Thánh Tài: Một là Tín, hai là Giới, ba
là Tàm, bốn là Quư, năm là Đa Văn, sáu là Trí Huệ, bảy
là Xả Ly. Nhị Thập Ngũ Hữu tam-muội: Bốn
châu, bốn đường ác, Lục Dục, và Phạm Thiên, Tứ Thiền, Tứ
Không Định, Vô Tưởng A Na Hàm, gọi [gộp
chung] là “hai mươi lăm Hữu”. Nhập hai
mươi lăm môn tam-muội có thể phá hai mươi
lăm hữu. Đắc Vô Cấu tam-muội, có thể
phá Địa Ngục Thú Hữu. Đắc Bất Thoái
tam-muội, có thể phá Súc Sanh Thú Hữu. Đắc Tâm Lạc
tam-muội, có thể phá Ngạ Quỷ Thú Hữu.
Đắc Hoan Hỷ tam-muội, có thể phá A Tu La Thú Hữu.
Đắc Nhật Quang tam-muội, có thể phá Phất Bà
Đề Châu Hữu (Đông Thắng Thần Châu Hữu). Đắc
Như Huyễn tam-muội, có thể phá Diêm Phù Đề
Châu Hữu. Đắc Nguyệt Quang tam-muội, có thể
phá Cù Da Ni Châu Hữu (Tây Ngưu Hóa Châu Hữu). Đắc Nhiệt
Viêm tam-muội, có thể phá Uất Đan Việt Châu Hữu (Bắc Câu Lô Châu Hữu). Đắc Nhất
Thiết Pháp Bất Động tam-muội, có thể phá Tứ
Vương Thiên Hữu. Đắc Nan Phục tam-muội,
có thể phá Đao Lợi Thiên Hữu. Đắc Duyệt
Ư tam-muội, có thể phá Diễm Ma Thiên Hữu. Đắc
Thanh Sắc tam-muội, có thể phá Đâu Suất Thiên Hữu.
Đắc Hoàng Sắc tam-muội có thể phá Hóa Lạc
Thiên Hữu. Đắc Xích Sắc tam-muội, có thể phá
Tha Hóa Tự Tại Thiên Hữu. Đắc Bạch Sắc
tam-muội, có thể phá Sơ Thiền Thiên Hữu. Đắc
Chủng Chủng tam-muội, có thể phá Đại Phạm
Thiên Hữu. Đắc Song tam-muội, có thể phá Nhị
Thiền Thiên Hữu. Đắc Lôi Âm tam-muội, có thể
phá Tam Thiền Thiên Hữu. Đắc Vũ Vũ tam-muội,
có thể phá Tứ Thiền Thiên Hữu. Đắc Như
Hư Không tam-muội, có thể phá Vô Tưởng Thiên Hữu.
Đắc Chiếu Cảnh tam-muội, có thể phá Tịnh
Cư A Na Hàm Hữu. Đắc Vô Ngại tam-muội, có thể
phá Không Vô Biên Xứ Định Hữu. Đắc Thường
tam-muội, có thể phá Thức Vô Biên Xứ Định Hữu.
Đắc Lạc tam-muội, có thể phá Không Vô Sở Hữu
Xứ Định Hữu. Đắc Ngă tam-muội, có thể
phá Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định Hữu.
Bồ Tát đắc Nhị Thập Ngũ Hữu tam-muội
có thể phá hai mươi lăm Hữu. “Hữu”
là do c̣n thuộc trong tam giới, nhân quả chẳng mất,
th́ gọi là Hữu.
(Kinh) Phục hữu thập
ức Bồ Tát, đăng Kim Cang Đảnh, hiện
thành Chánh Giác.
(經)復有十億菩薩,登金剛頂,現成正覺。
(Kinh: Lại có mười
ức Bồ Tát, lên Kim Cang Đảnh, hiện thành Chánh
Giác).
Đây là nói mười ức
Bồ Tát lên đỉnh núi Kim Cang, lấy hư không làm ṭa,
hiện thành Chánh Giác, đạt được lợi ích
rốt ráo. Phần Chánh Tông đă xong.
2.3. Phẩm thứ tám: Chúc Lụy (Chúc
Lụy phẩm đệ bát, 囑累品第八)
Phẩm này thuộc vào Lưu
Thông Phần. Đức Phật sắp đem pháp Bát Nhă
chánh tông phó chúc quốc vương, phiền lụy
họ hộ tŕ. V́ thế gọi là phẩm Chúc Lụy. Lại
c̣n phó chúc kinh này, nhọc công họ lưu thông, nên gọi
là phẩm Chúc Lụy. Kinh này không giống kinh Đại Phẩm
Bát Nhă phó chúc hàng Thanh Văn, chẳng giống kinh Diệu
Pháp Liên Hoa phó chúc cho Bồ Tát, mà phó chúc cho quốc
vương. V́ lẽ nào? Ở đây có ba ư:
- Một, kinh này là của báu
hộ quốc, có thể trừ quốc nạn. V́ thế,
phó chúc quốc vương.
- Hai, do quốc vương
có oai lực lớn, dễ hoằng dương, đáng nên
phó chúc quốc vương.
- Ba, ắt vua tôi phải hợp
đạo, một đức, một ḷng, chánh pháp mới
được lưu hành. V́ thế, kiêm cả ư phó chúc hàng
đại thần.
(Kinh) Phật cáo Ba Tư
Nặc vương: - Ngă giới nhữ đẳng, ngô diệt
hậu bát thập niên, bát bách niên, bát thiên niên, vô Phật, vô
Pháp, vô Tăng, vô tín nam, tín nữ thời, thử kinh Tam Bảo
phó chúc chư quốc vương, tứ bộ đệ tử,
thọ tŕ, độc tụng, giải nghĩa, vị tam
giới chúng sanh khai Không Huệ Đạo, tu thất hiền
hạnh, thập thiện hạnh, hóa nhất thiết chúng
sanh.
(經)佛告波斯匿王:我誡汝等,吾滅後八十年,八百年,八千年,無佛、無法、無僧、無信男信女時,此經三寶,付囑諸國王、四部弟子,受持、讀誦、解義。為三界眾生開空慧道,修七賢行、十善行,化一切眾生。
(Kinh: Đức Phật
bảo vua Ba Tư Nặc: - Ta răn các vị, sau khi ta diệt
hậu tám mươi năm, tám trăm năm, tám ngàn
năm, lúc không có Phật, không có Pháp, không có Tăng, không có
tín nam và tín nữ, kinh Tam Bảo này phó chúc các quốc
vương, bốn bộ đệ tử thọ tŕ,
đọc tụng, giải nghĩa, v́ chúng sanh trong tam giới
mở ra đạo Không Huệ, tu bảy hiền hạnh,
mười thiện hạnh, giáo hóa hết thảy chúng
sanh).
Đây là khuyên lưu
thông chung. Đức Phật răn truyền các vị
như vua Ba Tư Nặc v.v… Trước hết, Ngài phó
chúc rơ ràng thời tiết hoằng pháp. “Ngô diệt hậu”
(Sau khi ta diệt độ), tức là đức Phật tự
nói sau khi Ngài diệt độ, có ba thời kỳ: Thoạt
đầu là tám mươi năm, kế đó là tám
trăm năm, sau cùng là tám ngàn năm. “Vô Phật, vô Pháp,
vô Tăng”: Chẳng phải là tám mươi năm sau liền
chẳng có Tam Bảo. Nếu thật sự chẳng có Tam
Bảo, phó chúc có ích ǵ? Nay hăy nên theo thứ tự
tương xứng [để luận định]: Sau khi
đức Phật diệt độ tám mươi năm,
Phật chẳng trụ thế, cho nên nói là “vô Phật”.
Tám trăm năm là cuối thời Chánh Pháp, tà pháp lừng
lẫy, dùng tà đoạt chánh, nhiều kẻ tin tà. V́ thế
nói là “vô Pháp”. Tám ngàn năm th́ đă quá nửa thời
Mạt Pháp, tất cả tăng chúng chỉ
là có h́nh dáng tương tự tỳ-kheo, chứ hạnh giống
hệt như kẻ tại gia. V́ thế nói là “vô
Tăng”.
“Vô tín nam, tín nữ”:
Đạo do người hoằng dương. Nếu không
có Tăng, Phật pháp gởi gắm vào đâu? Do thấy tăng
chúng chẳng khác thế tục, không thể dấy ḷng tin.
Do không tin Tăng,
sẽ chẳng tin Phật pháp. Hiện thời đă có chuyện
như thế. Người đời thấy người
xuất gia chẳng có tăng hạnh, chẳng thể quy
kính, hoàn toàn chẳng tin Tam Bảo. V́ thế nói “vô tín nam,
tín nữ”. “Thời” là nói đến ba thời kỳ ấy,
kinh Tam Bảo này phó chúc các quốc vương và bốn bộ
đệ tử lưu thông.
“Thọ tŕ, đọc tụng”
tức là tự hành lưu thông, “giải nghĩa” là
khai giải nghĩa lư trong kinh, tức là hóa tha lưu thông
(lưu thông nhằm giáo hóa người khác). Như Lai ra rả
răn truyền, muốn khiến cho đại chúng hoằng
dương, hộ tŕ Tam Bảo, khiến cho chẳng
đoạn tuyệt vậy.
“Vị tam giới chúng sanh
khai Không Huệ Đạo” (v́ chúng sanh trong tam giới mà
mở ra Không Huệ đạo): V́ chúng sanh khai thị
đạo quán huệ Nhân Không và Pháp Không. Nhị Không (Nhân
Không và Pháp Không) chính là hạnh thánh hiền Bát Nhă. “Tu thất
hiền hạnh”: Tức là bảy phương tiện
hạnh, một là Ngũ Đ́nh Tâm, hai là Biệt Tướng
Niệm, ba là Tổng Tướng Niệm, bốn là Noăn
Địa, năm là Đảnh Địa, sáu là Nhẫn
Địa, bảy là Thế Đệ Nhất Địa.
Thập Thiện hạnh là
ba điều thiện nơi thân, chẳng giết, chẳng
trộm, chẳng dâm; bốn điều thiện nơi miệng,
tức không nói dối, không nói thêu dệt, không ác khẩu,
không nói đôi chiều, ba điều thiện nơi ư là chẳng
tham, chẳng sân, chẳng si. Hai hạnh thánh hiền trên
đây thuộc về Nhân Thiên Thừa, dùng đó để
giáo hóa hết thảy chúng sanh. Phần tổng khuyến
lưu thông đă xong.
(Kinh) Hậu ngũ
trược thế, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, tứ bộ
đệ tử, thiên long bát bộ, nhất thiết thần
vương, quốc vương, đại thần, thái tử,
vương tử, tự thị cao quư, diệt phá ngô pháp,
minh tác chế pháp, chế ngă đệ tử, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
bất thính xuất gia, hành đạo, diệc phục bất
thính tạo tác Phật tượng h́nh, Phật tháp h́nh, lập
thống quan chế chúng, an tịch kư tăng, tỳ-kheo
địa lập, bạch y cao ṭa, binh nô vi tỳ-kheo, thọ
biệt thỉnh pháp, tri thức, tỳ-kheo cộng vi nhất
tâm thân thiện, tỳ-kheo vị tác trai hội cầu
phước, như ngoại đạo pháp; giai phi ngô pháp.
Đương tri nhĩ thời, chánh pháp tương diệt
bất cửu.
(經)後五濁世,比丘、比丘尼、四部弟子、天龍八部、一切神王,國王、大臣、太子、王子,自恃高貴,滅破吾法,明作制法,制我弟子比丘、比丘尼,不聽出家行道,亦復不聽造作佛像形、佛塔形,立統官制眾,安籍記僧,比丘地立,白衣高座,兵奴為比丘;受別請法;知識、比丘共為一心親善,比丘為作齋會求福,如外道法;都非吾法。當知爾時,正法將滅不久。
(Kinh: Trong đời
ngũ trược mai sau, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, bốn bộ
đệ tử, trời rồng tám bộ, hết thảy
thần vương, quốc vương, đại thần,
thái tử, vương tử, tự cậy cao quư, diệt
phá pháp của ta, chế định pháp tắc rành rành, hạn
chế đệ tử của ta, tức là chẳng cho tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni xuất gia, hành đạo, cũng chẳng cho
phép tạo tác h́nh tượng Phật hoặc xây tháp thờ
Phật, đặt chức quan thống lănh, chế ngự
tăng chúng, đặt sổ sách ghi chép tăng chúng. Tỳ-kheo
đứng dưới đất, kẻ tại gia ngự
ṭa cao, coi tỳ-kheo như binh lính, nô tỳ. [Tăng chúng]
thọ pháp biệt thỉnh, tri thức và tỳ-kheo một
mực thân thiện, tỳ-kheo v́ kẻ đó làm pháp hội
trai tăng cầu phước, giống như pháp của
ngoại đạo. Đấy đều chẳng phải
là pháp của ta. Hăy nên biết khi đó chánh pháp chẳng lâu
sau sẽ diệt).
Đây là bảy môn
răn truyền riêng biệt.
Một là răn “không được
chướng ngại người xuất gia”. “Ngũ trược
thế” (đời năm thứ ô trược) tức
là Kiếp Trược, Kiến Trược, Phiền Năo
Trược, Chúng Sanh Trược, và Mạng Trược.
Những ǵ là Trược? Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Thí
như thanh thủy, thanh khiết bổn nhiên, như nhược
hữu nhân, đầu dĩ sa thổ, thổ thất
lưu ngại, thủy vong thanh khiết, dung mạo mịch
nhiên, danh chi vi trược” (Ví như nước trong, vốn
sẵn thanh khiết. Nếu như có kẻ ném cát, đất
vào đó, đất mất tánh chất ngăn ngại,
nước mất sự thanh khiết, dung mạo bị
biến đổi, th́ gọi là Trược). Đức
Phật bi tâm đặc biệt tha thiết, sanh trong đời
ác ngũ trược nơi cơi Sa Bà để cứu độ
chúng sanh.
1. Kiếp Trược: “Kiếp”
nói đầy đủ theo tiếng Phạn th́ phải nói
là Kiếp Ba (Kalpa). Chỉ nói là Kiếp, tức là
tỉnh lược, dịch nghĩa là Thời Phần, tức
là một khoảng thời gian dài, chia thành đại,
trung, tiểu kiếp. Con người thọ từ mười
tuổi, cứ sau một trăm năm, tăng thêm một
tuổi, tăng tới tám vạn bốn ngàn tuổi.
Đă tăng tới cực đại, th́ sau một
trăm năm, bèn giảm một tuổi, giảm dần dần
tới mười tuổi. Cứ một chu kỳ một
tăng một giảm là một tiểu kiếp. Hai
mươi lượt tăng giảm là một trung kiếp.
Tám mươi lượt tăng giảm là một đại
kiếp. Khi tuổi thọ của con người giảm
tới hai vạn tuổi th́ chúng sanh sẽ có đủ bốn
món trược sau (Kiến Trược, Phiền Năo Trược,
Chúng Sanh Trược, Mạng Trược), cho nên gọi là Kiếp
Trược. Khi giảm tới một trăm tuổi, th́
gọi là “ác thế” (đời ác). Kiếp Trược
chẳng có bản thể riêng biệt, chỉ do bốn món
trược tụ tập, xen lẫn trở thành tướng
trạng của Kiếp Trược. Khi Kiếp Trược,
thiện căn của chúng sanh nông cạn, mỏng manh, nghiệp
chướng sâu nặng, dễ đọa vào đường
ác. Do vậy gọi là Kiếp Trược.
2. Kiến Trược:
Năm lợi sử làm Thể, các kiến chấp lừng lẫy
chính là tướng trạng của nó. Năm lợi sử
chính là năm thứ vọng kiến (kiến chấp
hư vọng), có thể khiến cho chúng sanh tạo nghiệp
thọ báo, do vậy gọi là Sử (sai khiến). Phần
sau sẽ nói tới ngũ độn sử, [c̣n ngũ lợi
sử ở đây] do chúng nhỏ nhiệm, nhanh chóng, cho nên
gọi là Lợi:
- Một là Thân Kiến, chấp
thân là ta, khởi kiến chấp ngă thân, hư vọng sanh
ra tham ái. Chẳng hiểu đó là Tứ Đại giả
hợp, mộng huyễn vô thường.
- Hai là Biên Kiến, chấp
đoạn, hoặc chấp thường, khởi lên kiến
chấp nhị biên, một mực thiên chấp, chẳng hiểu
kiến giải đă lệch lạc, đánh mất lẽ
Trung Đạo.
- Ba là Tà Kiến, bài bác “chẳng
có nhân quả”, dấy lên kiến giải tà vạy, ngoại
đạo, bất chánh, khiến chúng sanh ngờ vực, lầm
lạc. Chẳng ngộ chính ḿnh đang đọa trong
Khoát Đạt Không, ắt vào địa ngục.
- Bốn là Giới Thủ,
chẳng phải nhân mà ngỡ là nhân, dấy lên kiến chấp
“ta có thể tŕ giới”, tu tập lầm loạn. Chẳng
ngộ “nấu cát làm cơm”, dẫu trải kiếp số
nhiều như vi trần khó thể thành tựu!
- Năm là Kiến Thủ, chẳng
phải quả mà ngỡ là quả, khởi lên kiến chấp
tự phụ với kiến giải của chính ḿnh,
chưa chứng mà nói đă chứng, chẳng ngộ hữu
lậu thiên (cơi trời hữu lậu) chẳng phải
là Niết Bàn.
Năm thứ kiến chấp
hư vọng ấy hôn muội, ch́m đắm, vẩn
đục tự tánh, cho nên gọi là Trược.
3. Phiền Năo Trược:
Dùng năm độn sử làm Thể, cảm vời tam
tai chính là tướng trạng của nó. Năm độn
sử là năm loại vọng tâm, có thể khiến cho
chúng ta tạo nghiệp, thọ báo, cho nên gọi là Sử.
So với năm lợi sử trong phần trước,
chúng hơi nặng nề, tŕ trệ, cho nên gọi là Độn:
- Một, tham tâm: Đối
với cảnh vừa ư bèn dấy lên các tham ái, chẳng thể
thấy thấu suốt.
- Hai, sân tâm: Đối với
cảnh trái ư, dấy lên các sân hận, chẳng thể chịu
đựng.
- Ba, si tâm: Đối với
hết thảy các cảnh, dấy lên các si mê, chẳng thể
giác ngộ.
- Bốn, mạn tâm: Đối
với các chúng sanh, dấy tâm kiêu mạn, chẳng thể
khiêm tốn.
- Năm, nghi tâm: Đối với
các thiện pháp, tâm bèn ngờ vực, do dự, chẳng thể
chọn lựa dứt khoát.
Năm thứ vọng tâm ấy
phiền động năo loạn, vẩn đục tự
tánh, cho nên gọi là Phiền Năo Trược.
4. Chúng Sanh Trược: Nắm
giữ quả báo của Ngũ Ấm, Kiến và Mạn làm
Thể, danh xưng uế ác chính là tướng trạng của
nó. Chúng sanh gom Địa, Thủy, Hỏa, Phong mà thành thân,
gom Thọ, Tưởng, Hành, Thức mà thành tâm. Kiến là
chấp trước ngang ngược làm chủ tể,
hư vọng chấp trước ngă kiến. Mạn là câu
sanh chủ tể, hư vọng dấy lên ngă mạn. Do
nghiệp nhân đă tạo trong đời trước mà
phải chịu quả báo trong đời này, lấy đó
làm Thể. Danh xưng Chúng Sanh hèn tệ, sắc tâm kém cỏi,
nhơ uế. V́ thế gọi là Chúng Sanh Trược.
5. Mạng
Trược: Sắc và tâm liên tục duy tŕ làm Thể,
năm tháng trôi qua, thọ mạng giảm dần; đó
chính là tướng trạng của nó. Sắc chính là các sắc
pháp Địa, Thủy, Hỏa, Phong. Tâm tức là các tâm pháp
“thấy, nghe, hay, biết”. Đời người nắm
giữ Địa, Thủy, Hỏa, Phong, coi chúng là thân. Tứ
Đại vốn là vật vô tri, do Kiến Phần của
thức thứ tám, khiến cho chúng cảm nhận, thấy
biết. Kiến Phần vốn là một cái Thể tinh
minh, do bị Địa, Thủy, Hỏa, Phong ngăn trở,
khiến cho bị chướng ngại. Vốn là một
thứ tinh minh, bị tách thành sáu món ḥa hợp, nơi mắt
gọi là thấy, nơi tai gọi là nghe, nơi mũi gọi
là ngửi, nơi lưỡi gọi là nếm, nơi thân gọi
là cảm nhận, nơi ư gọi là biết. Do vậy, sắc
và tâm liên thuộc lẫn nhau, ba thứ hơi thở, hơi ấm,
và thức duy tŕ lẫn nhau chẳng ĺa tan th́ là mạng
căn. Hễ chúng chẳng tiếp tục duy tŕ được
nữa, mạng căn liền đoạn, cho nên coi [ba thứ
ấy] là Thể [của mạng căn]. Năm tháng dần
trôi, tuổi thọ
giảm dần tức là nóng lạnh đắp đổi,
biến hóa âm thầm đổi dời, rút ngắn tuổi
tác, thọ mạng giảm bớt. V́ thế nói là Mạng
Trược.
Trong đời ngũ trược
mai sau, lắm kẻ tệ ác, tin tà, ghét chánh, người
tŕ giới tu phước ít ỏi, mà người có thể
giác ngộ đời người huyễn hóa, tướng
thế gian vô thường đă ít lại càng ít ỏi
hơn! Huống hồ chánh pháp Bát Nhă này! Do vậy, cần
phải phó chúc các quốc vương. Sau khi đă khuyên
chung, lại nên răn dạy riêng!
Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, bốn
bộ đệ tử xem giải thích trong phần trước.
“Thiên long bát bộ”:
- Một là Thiên tức các vị
trời trong tam giới.
- Hai, Long, tức long
vương trong biển, vua rồng trong núi, rồng canh giữ
cung điện của chư thiên, rồng canh giữ kho
tàng, rồng kéo mây tuôn mưa.
- Ba, Dạ Xoa, phương
này dịch là Khinh Tiệp (輕捷, nhẹ
nhàng, nhanh nhẹn).
- Bốn, Càn Thát Bà,
phương này dịch là Tầm Hương (尋香, t́m
kiếm mùi thơm), là nhạc thần của thiên đế.
- Năm, A Tu La, phương
này dịch là Phi Thiên (非天, chẳng phải
trời).
- Sáu, Ca Lâu La, phương này
dịch là Kim Xí Điểu Vương (金翅鳥王, chim
chúa cánh vàng).
- Bảy, Khẩn Na La,
phương này dịch là Nghi Thần (疑神, ngờ chẳng phải là thần), là thần ca hát của
thiên đế.
- Tám, Ma Hô La Già,
phương này dịch là Măng Thần (蟒神, thần rắn lớn).
“Nhất thiết
thần vương” là các vị chúa tể của
chư thần trong thế gian.
“Quốc vương, đại
thần, thái tử, vương tử, tự thị cao
quư”: Tự phụ quyền thế, chẳng coi trọng Phật pháp,
chỉ
phô bày tư dục của riêng ḿnh, quên bẵng quan niệm
hộ quốc. “Phá diệt ngô pháp, minh tác pháp chế”
(phá diệt pháp của ta, rành rành đặt ra các pháp tắc
cấm đoán): “Chế” là cấm đoán. Coi chánh
đáng là điên đảo. Cơi đời lắm kẻ có
hành vi rối đời loạn dân, tổn hoại phong tục,
nhưng [kẻ cầm quyền] trọn chẳng ngăn cấm,
ngược ngạo cấm đoán đệ tử của
ta, tức tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, chẳng cho phép họ xuất
gia tu hành chánh đạo. Giới, Định, Huệ là
chánh đạo, tu Giới có thể thoát khỏi tam đồ,
tu Định có thể ĺa lục dục, tu Huệ có thể
siêu thoát tam giới. Chẳng cho phép xuất gia tu học chính
là hoại diệt Phật pháp. “Diệc phục bất
thính tạo tác Phật tượng h́nh, tháp tượng
h́nh” (cũng chẳng cho phép tạo tác h́nh tượng
Phật, dựng tháp): Phật tháp, h́nh tượng có thể
khiến cho chúng sanh cầu phước. Chẳng cho phép tạo
tác, tức là hoại diệt phước điền.
“Lập
thống quan chế chúng, an tịch kư tăng” (lập quan thống lănh để chế
ngự tăng chúng, đặt sổ sách ghi chép tăng):
Đại chúng xuất gia thời đức Phật chỉ
có vâng theo giới luật do đức Phật chế
định để làm khuôn phép ǵn giữ thân tâm, tùy ư cho
họ tự hành tu đạo, hoàn toàn chẳng có chuyện
đặt ra chế độ có quan chức thống lănh,
lập riêng sổ bộ để đăng kư, thống
kê tăng chúng. Nếu trái nghịch chế định của
Phật, tức là thuộc loại phi pháp.
“Tỳ-kheo lập
địa, bạch y cao ṭa, binh nô vi tỳ-kheo” (Tỳ-kheo
đứng dưới đất, kẻ tại gia ngự
ṭa cao, coi tỳ-kheo như binh lính, nô tỳ): Tỳ-kheo thân
mặc áo nâu ṣng, theo đúng lẽ th́ phải nên ngồi
trên ṭa cao. Vua, quan tuy quư hiển,
nhưng do thân phận là bạch y, chớ nên ngồi trên
ṭa cao, nhưng rốt cuộc, tỳ-kheo đứng dưới
đất, kẻ tại gia ở trên ṭa cao. Đấy là
dùng cách đối xử với binh lính, nô tỳ để
tiếp đăi tỳ-kheo. Lính hầu tướng, tớ hầu
chủ, đều là đứng hầu. “Đứng hầu”
chính là cách thức của binh lính, nô tỳ!
“Thọ biệt thỉnh
pháp”: Hoặc v́ cầu danh vọng, lợi dưỡng,
chẳng thuận theo vị thứ trong Tăng mà nhận lời
thỉnh riêng, đều chẳng phù hợp chế định
của Phật. Thời cổ, kiệu cáng đến tận
cửa, [các tăng sĩ phẩm đức cao thượng]
viện cớ bệnh tật chẳng dậy nổi
[để chối từ], chiếu vua ba lượt triệu
vời, kiên quyết chẳng ra khỏi núi, so với kẻ
nhận lời biệt thỉnh, cách biệt đến mức
nào?
“Tri thức, tỳ-kheo cộng
vi nhất tâm thân thiện, tỳ-kheo vị tác trai hội cầu
phước” (tri thức và tỳ-kheo cùng nhất tâm thân
thiện, tỳ-kheo v́ họ làm pháp hội trai tăng để
cầu phước): Đây là nói các tỳ-kheo quen biết
nhau, đồng tâm thân thiện, lừa dối đàn-na tổ
chức trai tăng cầu phước. Điều ấy
giống như pháp ngoại đạo, đều chẳng
phải là Phật pháp của ta đáng nên làm như thế.
Hăy nên biết khi đó, tà pháp đă dấy lên, chánh pháp sắp
diệt chẳng c̣n bao lâu nữa!
(Kinh) Đại
vương! Hoại loạn ngô pháp thị nhữ đẳng
tác, tự thị oai lực, chế ngă tứ bộ đệ
tử, bách tánh tật bệnh, vô bất khổ nạn, thị
phá quốc nhân duyên. Thuyết ngũ trược tội
quá, cùng kiếp bất tận.
(經)大王!壞亂吾法,是汝等作。自恃威力,制我四部弟子。百姓疾病,無不苦難。是破國因緣。說五濁罪過,窮劫不盡。
(Kinh: Đại
vương! Hoại loạn pháp của ta là do các vị
làm, tự cậy oai lực, cấm đoán bốn bộ
đệ tử của ta, trăm họ bệnh tật,
không ai chẳng khổ nạn. Đó là nhân duyên phá nước.
Nói đến tội lỗi trong đời ngũ trược,
dẫu trọn hết kiếp, vẫn chẳng nói trọn
hết được).
Điều thứ hai là
răn cấm “chớ dùng quan lại thế tục để
cai trị tăng”. “Hoại loạn ngô pháp” (hoại
loạn pháp của ta) tức
là chẳng thuận theo giới luật do đức Phật
chế định để khích lệ tăng chúng, mà lại
lập ra các quan chức thế tục để thống
trị tăng. Tự cậy vào oai lực của quốc
độ để cấm đoán bốn bộ đệ
tử của đức Phật, đến nỗi thiện
thần hộ pháp sân hận, giận dữ, gieo tai, giáng họa,
khiến cho dân chúng bệnh tật, cả nước không
đâu chẳng khổ nạn. “Thị phá quốc nhân duyên”
(đó là nhân duyên phá nước): Quốc vương chẳng
kính Tam Bảo là nhân, thiết lập quy chế phi pháp là
duyên, phá hoại đất nước; đó là nguyên nhân. “Ngũ
trược tội quá, cùng kiếp bất tận” (tội
lỗi ngũ trược, nói trọn kiếp vẫn chẳng
thể hết được): Ngũ trược lừng
lẫy, chúng sanh tạo nhiều tội lỗi. Nếu muốn
kể ra, dẫu hết kiếp vẫn chẳng thể
cùng tận!
(Kinh) Đại vương!
Pháp mạt thế thời, hữu chư tỳ-kheo, tứ
bộ đệ tử, quốc vương đa tác phi
pháp chi hạnh, hoành dữ Phật pháp chúng tăng tác đại
phi pháp, tác chư tội quá, phi pháp, phi luật, hệ
phược tỳ-kheo, như ngục tù pháp.
Đương nhĩ chi thời, pháp diệt bất cửu.
(經)大王!法末世時,有諸比丘、四部弟子、國王多作非法之行。橫與佛法眾僧作大非法,作諸罪過,非法非律,繫縛比丘,如獄囚法。當爾之時,法滅不久。
(Kinh: Đại
vương! Vào lúc pháp mạt, có các tỳ-kheo, bốn bộ
đệ tử, quốc vương làm nhiều hạnh
phi pháp, ngang ngược thực hiện chuyện phi pháp to
lớn đối với Phật, Pháp, và chúng tăng, tạo
các tội lỗi, trái pháp, trái luật, trói buộc tỳ-kheo
như cách đối xử kẻ bị tù, giam cầm.
Trong lúc như thế, chánh pháp chẳng lâu sau sẽ bị
diệt).
Điều thứ ba là
răn “đừng trói buộc tỳ-kheo”. “Đa
tác phi pháp chi hạnh” (làm nhiều hạnh phi pháp) là nói
chung các hạnh phi pháp, chẳng thể tính kể được.
“Hoành dữ” (ngang ngược áp đặt): Đối
với Phật, Pháp, và tăng chúng, chớ nên làm như thế,
nhưng họ cứ làm như vậy, th́ gọi là Hoành. “Phi
pháp”: Chẳng thuận theo phép nước. “Phi luật”
chẳng thuận theo giới luật. “Câu hệ, thúc phược tỳ-kheo”
(Bắt giữ, trói
buộc tỳ-kheo), dùng cách thức
đối đăi với phạm nhân trong tù ngục để
đối đăi tăng chúng. Trong lúc như thế, chánh
pháp chẳng lâu sau sẽ diệt mất!
(Kinh) Đại
vương! Ngă diệt độ hậu, vị lai thế
trung, tứ bộ đệ tử, chư tiểu quốc
vương, thái tử, vương tử, năi thị trụ
tŕ hộ Tam Bảo giả, chuyển cánh diệt phá Tam Bảo,
như sư tử thân trung trùng, tự thực sư tử
thân trung nhục, phi ngoại đạo dă.
(經)大王!我滅度後,未來世中,四部弟子、諸小國王、太子、王子,乃是住持護三寶者,轉更滅破三寶。如師子身中蟲,自食師子身中肉,非外道也。
(Kinh: Đại
vương! Sau khi ta diệt độ, trong đời vị
lai, bốn bộ đệ tử, các tiểu quốc
vương, thái tử, vương tử là người duy tŕ, thủ hộ
Tam Bảo, lại đâm ra diệt phá Tam Bảo, như trùng
trong thân sư tử tự ăn thịt nơi thân sư tử,
chẳng phải là ngoại đạo).
Điều thứ tư là
răn “chớ nên tự diệt Phật pháp”. “Chư
tiểu quốc vương, thái tử, vương tử,
năi thị trụ tŕ hộ Tam Bảo giả” (các tiểu
quốc vương, thái tử, vương tử là kẻ
duy tŕ, thủ hộ Tam Bảo): Theo luật, quốc
vương, đại thần, trăm quan, sau khi nhận
chức, trước hết nên thọ Bồ Tát Giới, dùng
đó để “dứt ác, ngừa sai”.
Đă thọ Bồ Tát giới pháp, tức là đệ tử
trong Phật môn, cố nhiên là người duy tŕ, thủ hộ
Tam Bảo, lại đâm ra diệt phá Tam Bảo, tức là
tự diệt vậy.
“Như sư tử thân
trung trùng, tự thực sư tử thân trung nhục”
(như trùng trong thân sư tử tự ăn thịt
nơi thân sư tử): Đây là thí dụ. Sư tử là
vua của các loài thú. Hễ sư tử rống lên, trăm
thú đều nứt năo. Nghe tiếng sư tử, chúng
đều trốn chạy, ẩn nấp trong hang hốc,
nào dám ở bên cạnh, huống hồ dám ăn thịt nó
ư? Chỉ có trùng trong thân sư tử tự ăn thịt
nó. Ví như Phật pháp tối cao vô thượng, các học
thuyết thế gian chẳng có ǵ sánh bằng. Hết thảy
ngoại đạo chẳng thể phá hoại, chỉ có kẻ
gánh vác trách nhiệm hộ tŕ, tức là bốn bộ đệ
tử, quốc vương v.v… tự phá diệt, chẳng
khác trùng trong thân sư tử, há chẳng đáng buồn
ư?
(Kinh) Đa hoại ngă Phật
pháp, đắc đại tội quá, chánh giáo suy bạc,
dân vô chánh hạnh, dĩ tiệm vi ác, kỳ thọ nhật
giảm, chí ư bách tuế, nhân hoại Phật giáo, vô phục
hiếu tử, lục thân bất ḥa, thiên thần bất hựu,
tật dịch ác quỷ, nhật lai xâm hại, tai quái thủ
vĩ liên họa tung hoành.
(經)多壞我佛法,得大罪過。正教衰薄,民無正行,以漸為惡,其壽日減。至於百歲,人壞佛教,無復孝子,六親不和。天神不祐,疾疫惡鬼,日來侵害。災怪首尾,連禍縱橫。
(Kinh: Phần nhiều
phá hoại Phật pháp của ta, mắc tội lỗi to lớn,
chánh giáo suy vi, đọa lạc, dân không có chánh hạnh, dần
dần làm ác, tuổi thọ ngày một giảm, cho đến
trăm tuổi, con người phá hoại Phật giáo, chẳng
c̣n con hiếu, thân thuộc bất ḥa, thiên thần chẳng
ban phước, bệnh dịch, ác quỷ, ngày ngày xâm hại,
tai ương quái lạ từ đầu đến
đuôi liên tiếp dấy lên khắp nơi).
Kẻ hộ tŕ Tam Bảo lại
ngược ngạo phá hoại pháp của ta! Hết thảy
tội lỗi, không ǵ lớn bằng phá pháp. Phá pháp tức
là phá hoại chánh tri chánh kiến của chúng sanh, khiến
cho chánh tín chẳng sanh. Do vậy, chánh giáo suy bại. Có
chánh giáo th́ mới có thể đưa ḷng người vào
khuôn khổ, khiến họ chẳng phóng túng. Giáo pháp suy th́
dân chúng chẳng có chánh hạnh, dần dần làm ác, ác nghiệp
ngày càng tăng, thọ mạng ngày càng giảm. Tới khi
con người thọ một trăm năm th́ chính là đời
ác ngũ trược. Do con người phá hoại Phật
giáo, cho nên chẳng có hiếu tử. Phật nói hiếu là
giới, giáo pháp suy hoại th́ con c̣n bất hiếu với
cha mẹ, huống hồ đối với họ hàng
ư? V́ thế cũng bất ḥa!
Hiếu đứng đầu
trăm hạnh. Cha mẹ có đức sanh thành lồng lộng
như trời cao, dẫu tan xương nát thân, c̣n khó báo
đền! Nếu bất hiếu, chính là diệt tuyệt
nhân luân, trái nghịch thiên lư. Do vậy, thiên thần chẳng
che chở, tật dịch ác quỷ nổi sân, ngày ngày
đến xâm hại. Do vậy, bèn có đủ loại tai
ương lạ lùng biến hiện quái dị. Từ
đầu đến cuối, liên tục gây họa tứ
tung, chẳng phải chỉ một chuyện!
(Kinh) Tử nhập
địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nhược xuất
vi nhân, binh nô, quả báo, như ảnh, như hưởng,
như nhân dạ thư, hỏa diệt, tự tồn, tam
giới quả báo diệc phục như thị.
(經)死入地獄、餓鬼、畜生。若出為人,兵奴果報,如影如響。如人夜書,火滅字存,三界果報,亦復如是。
(Kinh: Chết rồi
đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nếu
thoát ra làm người, sẽ mắc quả báo làm binh lính,
nô tỳ, như bóng, như tiếng vang, như người
viết lách ban đêm, lửa tắt, chữ c̣n, quả báo
trong tam giới cũng giống như thế).
Địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh là đường khổ trong tam đồ,
cũng gọi là ba ác đạo, chính là ác quả do cái nhân
ác cảm vời. Phá hoại Phật pháp mắc tội lỗi
to lớn; đó là cái nhân ác. Nương theo nhân mà cảm quả,
đó là lẽ đương nhiên. Giống như nói: “Trời
tạo nghiệp c̣n có thể chống lại. Tự ḿnh tạo
nghiệp, chẳng thể sống”. Kinh Lăng Nghiêm nói:
“Địa ngục tội tất, thượng xuất
vi quỷ. Quỷ nghiệp tội tất, tắc vi súc
sanh. Súc sanh tội tất, hoàn phục vi nhân” (Chịu hết
tội trong địa ngục, sẽ thoát ra làm quỷ. Tội
chịu nghiệp làm quỷ đă xong, bèn làm súc sanh. Chịu
tội súc sanh xong, lại được làm người).
Nếu được thoát ra làm người, do dư báo
chưa hết, phải chịu quả báo làm binh lính, nô tỳ.
[Nói] như bóng theo h́nh, tiếng vọng ắt ứng theo
âm thanh, chính là sánh ví “quả
chẳng ĺa nhân” vậy.
“Như dạ thư, hỏa
diệt, tự tồn” (như ban đêm viết chữ,
lửa tắt, chữ c̣n): Sánh ví tạo nghiệp nơi
kín đáo, như người viết lách vào ban đêm. Chỉ
cần đă tạo, như nương theo lửa [soi sáng]
mà thành (viết chữ xong). Thân tuy đă chết, nhưng
nghiệp chẳng mất, như lửa tắt nhưng chữ vẫn
c̣n. Chúng sanh trong tam giới tạo tác các nghiệp, chiêu cảm
quả báo, cũng giống như thế. Đấy là sánh
ví “do nhân ắt cảm quả”.
(Kinh) Đại
vương! Vị lai thế trung, nhất thiết quốc
vương, thái tử, vương tử, tứ bộ
đệ tử hoành dữ Phật đệ tử,
thư kư, chế giới, như bạch y pháp, như binh nô
pháp, nhược ngă đệ tử, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
lập tịch vi quan sở sử, đô phi ngă đệ tử,
thị binh nô pháp, lập thống quan nhiếp tăng,
điển chủ tăng tịch, đại tiểu
tăng thống, cộng tương nhiếp phược,
như ngục tù pháp, binh nô chi pháp, đương nhĩ
chi thời, Phật pháp bất cửu.
(經)大王!未來世中,一切國王、太子、王子,四部弟子橫與佛弟子,書記制戒,如白衣法,如兵奴法。若我弟子比丘、比丘尼立籍為官所使,都非我弟子,是兵奴法。立統官攝僧,典主僧籍,大小僧統,共相攝縛,如獄囚法,兵奴之法。當爾之時,佛法不久。
(Kinh: Đại
vương! Trong đời vị lai, hết thảy quốc
vương, thái tử, vương tử, bốn bộ
đệ tử ngang ngược cho ghi chép, hạn chế
đệ tử Phật giống như pháp tắc đối
với kẻ tại gia, như cách đối xử với
binh lính, nô tỳ. Đối với đệ tử của
ta, tức tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, họ lập sổ bộ
để quan lại sai khiến, [làm như vậy] đều
chẳng phải là đệ tử của ta, mà là cách quản
trị binh lính, nô tỳ, lập chức quan thống lănh
cai quản chư tăng, quản lư tăng tịch, thống
nhiếp tăng chúng lớn nhỏ, cùng nhau cai quản, bó
buộc như pháp tắc đối với phạm nhân, hoặc
binh lính, nô tỳ. Trong lúc như thế, Phật pháp chẳng
sẽ tồn tại lâu dài được!)
Điều thứ năm là
răn “không được lập sổ bộ, hạn
chế tăng chúng như cách đối đăi với binh
lính, nô tỳ, dùng sổ bộ quản lư tăng như cách
cai quản tù nhân”. Trong lúc như thế, Phật pháp chẳng
lâu sau sẽ bị diệt mất.
(Kinh) Đại
vương! Vị lai thế trung, chư tiểu quốc
vương, tứ bộ đệ tử tự tác thử
tội, phá quốc nhân duyên, thân tự thọ chi, phi Phật,
Pháp, Tăng.
(經)大王!未來世中,諸小國王、四部弟子自作此罪。破國因緣。身自受之,非佛法僧。
(Kinh: Đại
vương! Trong đời vị lai, các tiểu quốc
vương, bốn bộ đệ tử tự tạo tội
ấy, tạo nhân duyên phá quốc, thân tự hứng chịu,
chẳng phải là Phật, Pháp, Tăng).
Điều thứ sáu là
răn “chớ nên phi pháp
mắc tội”. Nếu tự
ḿnh tạo tội ấy, phá hoại quốc độ, sẽ
tự hứng chịu quả báo, chẳng phải là chuyện
liên quan đến Tam Bảo.
(Kinh) Đại
vương! Vị lai thế trung, lưu thông thử kinh,
thất Phật pháp khí, thập phương chư Phật,
thường sở hành đạo. Chư ác tỳ-kheo
đa cầu danh lợi, ư quốc vương, thái tử,
vương tử tiền, tự thuyết phá Phật pháp
nhân duyên, phá quốc nhân duyên. Kỳ vương bất biệt,
thính tín thử ngữ, hoành tác pháp chế, bất y Phật
giới. Thị vi phá Phật, phá quốc nhân duyên.
Đương nhĩ chi thời, chánh pháp bất cửu.
(經)大王!未來世中,流通此經,七佛法器,十方諸佛,常所行道。諸惡比丘,多求名利,於國王、太子、王子前,自說破佛法因緣、破國因緣。其王不別,聽信此語,橫作法制,不依佛戒,是為破佛破國因緣。當爾之時,正法不久。
(Kinh: Đại
vương! Trong đời vị lai, người lưu
thông kinh này đều là pháp khí của thất Phật, là
người thường hành đạo của mười
phương chư Phật. Các ác tỳ-kheo cầu nhiều
danh lợi, đối trước quốc vương,
thái tử, vương tử, tự nói nhân duyên phá Phật
pháp, nhân duyên phá nước. Nhà vua chẳng phân biệt, nghe
theo, tin tưởng lời đó, ngang ngược lập
pháp hạn chế, chẳng vâng theo giới luật của
Phật. Đó là nhân duyên phá Phật, phá quốc. Ngay trong
lúc như thế, chánh pháp sẽ chẳng tồn tại lâu
dài).
Điều thứ bảy là
răn “chớ nên chẳng nương theo giới luật
của Phật”. Trong đời vị lai, người
có thể lưu thông kinh này, đều là đệ tử
của thất Phật, là pháp khí trong Phật môn,
nương theo đạo thường hành của mười
phương chư Phật. Có các tỳ-kheo ác, cầu nhiều
danh lợi thế gian, đối trước các quốc
vương v.v… tự nói nhân duyên phá Phật, phá quốc. Quốc
vương chẳng biết Tam Bảo, chẳng phân biệt
đúng sai, cứ nghe theo, tin tưởng lời lẽ
đó, ngang ngược thiết lập những quy chế
phi pháp, chẳng thuận theo giới luật của đức
Phật. Đấy chính là nhân duyên phá Phật pháp, phá quốc
độ. Ngay trong lúc đó, chánh pháp chẳng bao lâu sẽ
diệt mất.
(Kinh) Nhĩ thời, thập
lục đại quốc vương, văn Phật thất
giới, sở thuyết vị lai thế sự, bi hào thế
lệ, thanh động tam thiên. Nhật, nguyệt, ngũ
tinh, nhị thập bát tú thất quang bất hiện. Thời
chư vương đẳng, các các chí tâm thọ tŕ Phật
ngữ, bất chế tứ bộ đệ tử xuất
gia hành đạo, đương như Phật giáo.
(經)爾時,十六大國王,聞佛七誡,所說未來世事,悲號涕泣,聲動三千。日月五星、二十八宿失光不現。時,諸王等各各至心受持佛語,不制四部弟子出家行道,當如佛教。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, mười sáu đại quốc vương nghe
đức Phật bảy lượt răn dạy, nói
chuyện trong đời vị lai, buồn khóc rơi lệ,
tiếng rền tam thiên đại thiên thế giới. Mặt
trời, mặt trăng, năm tinh tú, hai mươi tám tinh
tú, đều mất ánh sáng chẳng hiện. Lúc đó, các
vua v.v… ai nấy chí tâm thọ tŕ lời Phật, chẳng hạn
chế bốn bộ đệ tử xuất gia hành đạo,
đều theo đúng lời Phật dạy).
Các vị vua ấy nghe nói
“phá pháp chính là phá quốc”, than thở cho sự tệ ác
trong đời Mạt, xót thương chúng sanh đau khổ,
cảm ngộ buồn khóc. Âm thanh ấy chấn động
đại thiên thế giới. Trời đất tối
tăm, tam quang (ánh sáng của mặt trời, mặt
trăng, và tinh tú) chẳng hiện. Các vị vua ai nấy
đều chí tâm thọ tŕ lời Phật, chẳng
ngăn trở bốn bộ đệ tử xuất gia
hành đạo. Xuất gia có ba loại, hoặc là xuất
thế tục gia, hoặc xuất tam giới gia, hoặc
xuất Ngũ Ấm phiền năo gia. Hành đạo cũng
có ba loại: Hoặc là hành đạo Tiểu Thừa, hoặc
hành đạo Đại Thừa, hoặc hành đạo tối
thượng Nhất Thừa. “Đương như Phật
giáo” nghĩa là sẽ hành theo lời đức Phật răn
dạy.
(Kinh) Nhĩ thời,
đại chúng, thập bát Phạm thiên vương, Lục
Dục chư thiên tử thán ngôn: “Đương nhĩ chi
thời, thế gian không hư, thị vô Phật thế”.
(經)爾時,大眾、十八梵天王、六欲諸天子歎言:當爾之時,世間空虛,是無佛世。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
đại chúng, mười tám Phạm thiên vương,
chư thiên Lục Dục than rằng: “Ngay trong lúc ấy,
thế gian trống rỗng, là cơi đời chẳng có Phật”).
“Nhĩ thời” (lúc bấy
giờ) là lúc pháp hội viên măn. Đại chúng dự hội
và Tứ Thiền, Lục Dục chư thiên, than thở
chánh pháp diệt sạch, lúc đó thế gian chẳng có Tam
Bảo, cho nên nói là “trống rỗng”, tức là thế gian
chẳng có Phật!
(Kinh) Nhĩ thời, vô
lượng đại chúng trung, bách ức Bồ Tát, Di Lặc,
Sư Tử Nguyệt đẳng, bách ức Thanh Văn, Xá
Lợi Phất, Tu Bồ Đề đẳng, ngũ bách ức
thập bát Phạm vương, Lục Dục chư thiên,
tam giới lục đạo, A Tu Luân vương đẳng,
văn Phật sở thuyết, hộ Phật quả nhân
duyên, hộ quốc độ nhân duyên, hoan hỷ vô lượng,
vị Phật tác lễ, thọ tŕ Bát Nhă Ba La Mật.
(經)爾時,無量大眾中:百億菩薩彌勒、師子月等;百億聲聞舍利弗、須菩提等;五百億十八梵王、六欲諸天、三界六道、阿須輪王等聞佛所說,護佛果因緣,護國土因緣。歡喜無量,為佛作禮,受持般若波羅密。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
trong vô lượng đại chúng, một trăm ức Bồ
Tát như Di Lặc, Sư Tử Nguyệt v.v… một
trăm ức Thanh Văn như Xá Lợi Phất, Tu Bồ
Đề v.v… Năm trăm ức Phạm vương thuộc mười tám loại, chư thiên trong Lục Dục, sáu đường trong tam giới,
A
Tu Luân vương v.v… nghe đức Phật nói nhân duyên thủ
hộ Phật quả, và nhân
duyên thủ hộ quốc độ, bèn hoan hỷ vô
lượng, làm lễ đức Phật, thọ tŕ Bát Nhă
Ba La Mật).
Lúc ấy, đại chúng nghe pháp, hoan hỷ phụng hành. “Vô lượng đại chúng” là biểu thị chung [đại chúng nghe pháp] đông đảo. Riêng liệt kê Bồ Tát, Thanh Văn mỗi loại có một trăm ức, cũng có năm trăm ức Phạm vương thuộc mười tám loại, Lục Dục chư vương, tam giới lục đạo, A Tu Luân vương v.v… nghe đức Phật nói hai