Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội
Nghĩa
phần 1
Đất Cổ
Ngô, Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật
妙法蓮華經綸貫會義
古吳後學蕅益智旭述
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức
Phong và Huệ Trang
Đôi lời giăi bày
Có lẽ trong hàng Phật
tử chúng ta, đối với các bộ kinh lớn, rất
nhiều người chưa hề có dịp đọc hoặc
nghe nói tới các kinh Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm, Đại Bát Niết
Bàn, Đại Bát Nhă, Lăng Già, Đại Thừa Mật
Nghiêm, Giải Thâm Mật, Duy Ma Cật, Thắng Man, Đại
Bảo Tích v.v…, nhưng hễ là Phật tử theo truyền
thống Bắc Tông, ắt hẳn không ai chưa từng đọc
tụng kinh Pháp Hoa, tối thiểu là tụng phẩm Phổ
Môn. Có vị c̣n dùng phẩm Phổ Môn làm công khóa hằng
ngày, hoặc có vị chuyên tụng Pháp Hoa. Có thể nói là “nhà
nhà tụng Pháp Hoa, chùa chùa tụng Pháp Hoa”. Thậm chí có
vị c̣n chuyên cần lễ bái từng chữ trong kinh Pháp
Hoa. Trong đạo tràng Pháp Hoa, có vị c̣n thuộc nằm
ḷng mấy phẩm. Có các liên hữu c̣n dùng việc tụng tŕ kinh Pháp Hoa làm trợ hạnh
để cầu sanh Tịnh Độ. Có thể nói là kinh
Pháp Hoa được giảng giải rất rộng răi,
hầu như vị giảng sư nào cũng đă từng
giảng kinh Pháp Hoa, hay một vài phẩm Pháp Hoa. Tuy vậy,
có một điều rất lạ là các bản chú giải
về kinh Pháp Hoa được phiên dịch sang Việt ngữ
khá ít. V́ thế, khi vị đạo huynh anh cả của
chúng tôi có hứng thú t́m hiểu kinh Pháp Hoa, chúng tôi đă t́m
kiếm rất nhiều trên các trang mạng, nhưng không
t́m được một bản chú giải kinh văn Pháp
Hoa chi tiết, tường tận. Điểm qua các bài giảng,
có lẽ v́ thời gian hạn chế, hay v́ căn cơ của
đại chúng, có rất nhiều chi tiết trong kinh bị các vị giảng
sư lướt qua không giảng, khiến cho chúng
tôi ôm nghi vấn đă lâu, nhưng chưa t́m được
lời giải đáp. Mang tâm tư t́m kiếm một bản
chú giải gần gũi, dễ hiểu, chúng tôi đă
đọc thử bản chú giải của Thái Hư đại
sư th́ thấy Ngài chỉ giảng đại lược
những nét chánh yếu, rất nhiều chi tiết lược
đi. Một số bản chú giải cận đại
như Pháp Hoa Kinh Dị Giải của pháp sư Phổ
Hành th́ lại chuyên giảng từ ngữ và gần như
là bản Bạch Thoại của chánh kinh, chứ không hoàn
toàn chú trọng nghĩa lư thẳm sâu trong kinh văn. Bản
dịch của Pháp Hoa Văn Cú th́ dịch quá sát từng chữ,
nên rất khó đọc, khó lănh hội mật nghĩa, và
khó gợi lên hứng thú cho độc giả.
Sực nhớ vào
năm 2000, khi đến Tịnh Tông Học Hội Dallas, mạt
nhân đă thấy bộ Pháp Hoa Luân Quán Hội Nghĩa của
tổ Ngẫu Ích (gồm 1.761 trang do Phật Đà Giáo Dục
Cơ Kim Hội ấn tống, gồm hai phần là Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán và Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Thai Tông Hội
Nghĩa), dày cộp như một quyển tự điển
Anh Việt cỡ lớn. Do ḷng tham pháp, chúng tôi đă thỉnh
về, lâu lâu lật xem vài trang mỗi khi rảnh rỗi,
chứ không dám mong ước chuyển ngữ v́ tác phẩm
này quá dài, quá khó. Trộm nghĩ Ngẫu Ích đại
sư là tổ trung hưng của tông Thiên Thai, thâm nhập tột bậc giáo nghĩa
Thiên Thai. Ngài lại được suy tôn là tổ Tịnh
Độ, chắc chắn những lời chú giải của
Ngài sẽ càng củng cố niềm tin Tịnh Độ
cho các học nhân Tịnh Độ. Tiếc rằng văn
phong của Tổ uyên áo, súc tích, sâu thẳm, giáo nghĩa
Thiên Thai quá phức tạp, rất khó chuyển ngữ găy gọn
được. Khổ nỗi kiến thức của mạt
nhân chắp vá, thế học lẫn Phật học đều
lem nhem, chẳng có khả năng viết lách cho nên hồn,
chẳng biết cứ liều lĩnh chuyển ngữ lời
dạy của Tổ th́ sẽ gieo thiện duyên hay tạo
thêm tội nghiệp khiến cho người khác lầm lạc.
Sư huynh Đức Phong vẫn rộng dung, luôn khuyến
khích mạt nhân hăy gắng chuyển ngữ. Phần v́ muốn
báo đáp thâm t́nh sách tấn, đảm đương việc ấn tống
bao năm qua của anh, phần th́ mong chính ḿnh do dịp này
mà có thiện duyên hiểu sâu hơn kinh Pháp Hoa, phần v́ tiếc
nuối một tác phẩm trân quư cho đến nay vẫn chưa
có ai dịch, cho nên đành bịt tai trộm chuông làm càn.
Trong bản chuyển ngữ này, nếu lời giảng của
pháp sư Phổ Hành đối với các từ ngữ
trong chánh kinh chứa đựng những kiến thức hữu
ích, chúng tôi sẽ ghi thêm thành lời chú thích và ghi rơ “pháp
sư Phổ Hành chú thích”.
Do tŕnh độ
quá hạn chế, thấp kém, bản thân mạt nhân lại
hoàn toàn chẳng có sự tu dưỡng và thâm nhập nào,
chỉ hiểu theo nghĩa văn tự (mà cũng chẳng
dám tin tưởng là chính ḿnh hiểu chánh xác), chắc chắn
bản chuyển ngữ này chẳng tránh khỏi những
sai sót không thể nào chấp nhận được, lời
văn sẽ lôi thôi, rườm rà, gai mắt người
đọc. Ngưỡng mong các vị thiện tri thức
từ bi phủ chánh, hoặc dịch lại để một
phen từ bi giảng giải của Tổ không bị mai một
trong ḍng thời gian vô t́nh.
Bửu Quang Tự đệ
tử Như Ḥa khấu đầu kính bạch.
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh
Luân Quán
Đất Cổ Ngô, hậu học Ngẫu
Ích Trí Húc soạn
妙法蓮華經綸貫
古吳後學蕅益智旭述
Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa là lời đàm luận rốt ráo cùng tột của
chư Phật. Vốn do Thích Ca Mâu Ni Như Lai kể từ
khi thật sự thành Phật đến nay, đă trải qua chẳng thể nghĩ bàn
A-tăng-kỳ kiếp, v́ độ chúng sanh, chẳng hề
ngơi nghỉ, nhiều lượt thị hiện giáng
sanh, nhiều lượt thị hiện nhập diệt,
khiến cho kẻ chưa gieo thiện căn bèn gieo thiện
căn, kẻ đă gieo thiện căn sẽ được
thành thục, khiến cho kẻ đă thành thục
được giải thoát. Tất cả các pháp vị chẳng
ngoài bốn loại Tạng, Thông, Biệt, Viên. Tất cả
các hóa nghi[1] chẳng ngoài bốn
loại Đốn, Tiệm, Bí Mật, Bất Định.
Lại c̣n dựa vào tám tướng thành đạo lần
này để thuyết pháp suốt bốn mươi chín
năm, đại lược gồm năm thời:
1) Đầu tiên, [đức Phật] ngồi nơi Bồ
Đề đạo tràng, v́ chúng sanh đại căn mà
nói pháp Đại Thừa, được gọi là thời
thứ nhất, tức thời Hoa Nghiêm. Xét theo hóa nghi th́ là
Đốn. Ví như mặt trời mọc, chiếu vào núi
cao trước. Lại như từ ḅ mà sanh ra sữa. Xét
theo hóa pháp th́ kiêm cả Biệt và Viên. Viên nhằm thích hợp
hàng lợi căn thuộc giới ngoại[2];
Biệt nhằm thích hợp hàng độn căn thuộc
giới ngoại. Kẻ căn cơ nhỏ trọn chẳng
có phần nơi pháp này, chẳng thấy, chẳng nghe.
2) Do vậy, [đức
Phật] chẳng ĺa đạo tràng Tịch Diệt[3],
mà đến Lộc Uyển, v́ năm vị tỳ-kheo thuyết
pháp Tứ Đế, diễn nói lư sanh diệt, và nói mười
hai nhân duyên, chú trọng Lục Độ v.v… Thời này
được là thời thứ hai, tức thời A Hàm.
Xét theo hóa nghi th́ là khởi đầu của Tiệm Giáo. Ví như mặt trời chiếu xuống hang sâu,
lại như từ sữa sanh ra lạc. Xét theo hóa pháp th́
là Tạng, chỉ phù hợp hàng độn căn thuộc
giới nội (trong tam giới), khiến cho họ
chuyển phàm thành thánh.
3) Kế đó, nhờ
vào các vị Đại Sĩ như Duy Ma v.v… xướng họa
lẫn nhau, chê trách [các giáo nghĩa] thiên, tiểu, ca ngợi
[các giáo nghĩa] đại và viên. Đó gọi là thời
thứ ba, tức thời Phương Đẳng. Xét theo
hóa nghi th́ thuộc về chặng giữa của Tiệm,
ví như đến giờ thọ thực. Lại như từ
lạc trở thành sanh tô. Xét theo hóa pháp th́ bàn trọn cả
bốn giáo (Tạng, Thông, Biệt, Viên). Đối ứng
với Bán Giáo mà nêu rơ Măn Giáo. Tạng là Bán Tự Giáo; Thông,
Biệt, Viên là Măn Tự Giáo[4],
khiến cho hàng lợi căn đạt được lợi
ích viên măn, c̣n độn căn th́ đạt được
lợi ích nửa phần. Trước hết [là khiến
cho người được giáo hóa] trở thành bậc
thánh, ngầm đạt được lợi ích chung.
4) Kế đó, cùng
với bốn vị đại đệ tử đồng
chuyển pháp luân, dung hội hết thảy các pháp đều
là Ma Ha Diễn (Mahāyāna, Đại Thừa),
được gọi là thời thứ tư, tức thời
Bát Nhă. Xét theo hóa nghi th́ là kết cục của Tiệm. Ví
như gần chánh ngọ. Lại như từ trong sanh tô
mà sanh ra thục tô. Xét theo hóa pháp th́ kèm theo Thông và Biệt;
hoàn toàn giảng về Viên Giáo, khiến cho các căn cơ
thuộc giới nội đều đạt được
lợi ích “cộng Bát Nhă” của tam thừa trong Thông
Giáo, c̣n các căn cơ thuộc giới ngoại sẽ
đạt được lợi ích bất cộng Bát Nhă
thuộc Biệt Giáo và Viên Giáo, trước hết là trở
thành bậc thánh, ngầm đạt được lợi
ích riêng biệt.
5) Kế đó,
trong hội Linh Sơn bèn khai Quyền, hiển Thật, khai
cận, hiển viễn[5],
được gọi là thời thứ năm, tức thời
Pháp Hoa. Xét theo hóa nghi th́ là dung hội Tiệm để quy
vào Đốn, mà cũng có thể nói là “chẳng phải
Đốn, chẳng phải Tiệm”. Ví như mặt
trời lúc chánh Ngọ, chiếu trọn khắp đại
địa, [vạn vật] trọn chẳng có bóng nghiêng. Lại
như từ thục tô sanh ra đề hồ. Xét theo hóa
pháp th́ là thuần Viên, không một ai chẳng được
làm Phật. Bổn hoài xuất thế do vậy mới
được thỏa thích. Toàn thể phương tiện
hóa độ chúng sanh của Như Lai, giềng mối rộng
lớn lập bày giáo pháp đều được mở
toang, nêu rơ trong kinh này. V́ thế, [kinh này] riêng được
gọi là Diệu. C̣n như kinh Niết Bàn phù luật
đàm thường[6]
bất quá là uyển chuyển nhằm thích hợp kẻ
độn căn trong thời Mạt, thực thi
phương tiện lần nữa khiến cho họ cùng
trở về chân thật.
Hai loại hóa nghi
Bí Mật và Bất Định hiện diện trọn khắp
trong bốn thời trước, chỉ có thời Pháp Hoa
là hiển lộ, chẳng phải là bí mật, là quyết
định, chẳng phải là bất định.
Kinh này được
diễn thuyết tại Linh Sơn suốt tám năm, lá bối
[chép kinh] được lưu truyền, ǵn giữ, chất
đến tám dặm. Kinh được truyền vào Chấn
Đán (Trung Hoa), gồm ba bản dịch[7].
Nay [bản kinh đang được đàm luận ở
đây] chính là bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập,
gồm bảy quyển, hai mươi tám phẩm. Từ
xưa, các vị chú giải [kinh này] gồm nhiều loại
khác nhau[8],
hoặc đơn giản, hoặc rườm rà, nhưng chẳng
đạt được lẽ chân thật, trọng yếu.
Chỉ có Thiên Thai Trí Giả đại sư, thoạt
đầu gặp Nam Nhạc Huệ Tư đại
sư tại núi Đại Tô ở Quang Châu[9],
ngài Huệ Tư truyền trao đạo tràng Phổ Hiền,
dạy [ngài Trí Giả] tu Pháp Hoa tam-muội. Tụng kinh tới
đoạn “thị chân tinh tấn, thị danh chân pháp
cúng dường Như Lai” (đó là tinh tấn thật sự,
được gọi là pháp cúng dường Như Lai thật
sự) trong phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn
Sự, Ngài (Trí Giả
đại sư) hoát nhiên đại ngộ,
lặng lẽ nhập định, đích thân trông thấy
một hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan, đạt
được Nhất Toàn đà-la-ni. Từ đấy trở
đi, hiểu thấu suốt kinh Pháp Hoa như Hy Ḥa[10]
đối trước muôn h́nh tượng [trong thế
gian], thấu đạt tướng của các pháp, dường
gió mát lùa qua thái hư. Ngài bèn dùng năm tầng huyền
nghĩa để giải thích Tổng Đề
(đề mục chung, tức tên kinh Pháp Hoa). Tôn giả
Chương An ghi thành bộ [Pháp Hoa] Huyền Nghĩa gồm
mười quyển. [Trí Giả đại sư] lại
dùng bốn ư để giải thích, quy kết ư nghĩa kinh
văn. Tôn giả Chương An chép thành bộ [Pháp Hoa]
Văn Cú gồm mười quyển.
I. Ngũ trùng huyền nghĩa
Nói “năm tầng
huyền nghĩa” th́:
1) Một là dùng pháp
và dụ (thí dụ) để đặt tên.
2) Hai là kinh dùng Thật
Tướng làm Thể.
3) Ba là dùng nhân quả
Nhất Thừa làm Tông.
4) Bốn là lấy
đoạn nghi, sanh tín làm Dụng.
5) Năm là dùng vô
thượng đề hồ làm giáo tướng.
Nói “dùng bốn ư
để giải thích kinh văn” th́:
- Một là nhân
duyên.
- Hai là xét theo giáo [tức
là dùng tứ giáo Tạng, Thông, Biệt, Viên để luận
định].
- Ba là Bổn, Tích.
- Bốn là quán tâm.
Phần giải
thích kinh văn rộng lớn, chưa thể nói cặn kẽ
được. Nay nêu đại lược năm tầng
huyền nghĩa:
1. [Tầng huyền nghĩa thứ
nhất]: Dùng pháp và dụ để đặt tên kinh
Hai chữ Diệu
Pháp nói đến
pháp. Hai chữ Liên Hoa là Dụ (thí dụ).
Nói đại
lược, Pháp là chúng sanh pháp, Phật pháp, và tâm pháp.
1.1. Diệu:
Diệu, nói đại
lược th́ gồm tương đăi diệu (相待妙, diệu do có sự
đối đăi, so sánh) và tuyệt đăi diệu (絕待妙, diệu tuyệt
đối, dứt bặt đối đăi, so sánh). Kinh dạy: “Vị linh chúng sanh khai thị ngộ
nhập Phật chi tri kiến” (v́ khiến cho
chúng sanh khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật).
a) Nếu chúng sanh
chẳng có tri kiến của Phật, làm sao bàn luận,
khơi mở cho được? Hăy nên biết tri kiến
của Phật uẩn tàng trong chúng sanh. V́ thế,
chúng sanh pháp là Diệu.
b) Phật pháp chẳng
ra ngoài Quyền và Thật. Kinh dạy: “Thị pháp thậm
thâm diệu, nan kiến, nan khả liễu, nhất thiết
chúng sanh loại, vô năng tri Phật giả” (pháp này rất
sâu mầu nhiệm, khó thấy, khó thể thấu hiểu.
Hết thảy các loài chúng sanh, không ai có thể hiểu biết
Phật), tức là tán thán Thật Trí mầu nhiệm. Kinh lại
dạy: “Cập Phật chư dư pháp, diệc vô
năng trắc giả” (và các pháp khác của Phật,
cũng chẳng thể lường được), tức
là tán thán Quyền Trí mầu nhiệm. Chỉ có Phật và
Phật mới có thể thấu suốt cùng tận Thật
Tướng của các pháp. Các pháp là Quyền nơi Thật,
Thật Tướng là Thật trong Quyền. V́ vậy, Phật
pháp là Diệu.
c) Phẩm An Lạc
Hạnh chép: “Tu nhiếp kỳ tâm, quán nhất thiết
pháp bất động, bất thoái” (Tu tập, thâu nhiếp
cái tâm, quán hết thảy các pháp bất động, chẳng
lui sụt). Kinh Phổ Hiền Quán nói: “Ngă tâm tự không,
tội phước vô chủ. Quán tâm vô tâm, pháp bất trụ
pháp” (Tâm ta tự không, tội phước chẳng có chủ.
Quán tâm chẳng có tâm, pháp chẳng trụ vào pháp). Kinh Tịnh
Danh dạy: “Quán thân Thật Tướng, quán Phật diệc
nhiên, chư Phật giải thoát, đương ư chúng
sanh tâm hạnh trung cầu” (Quán Thật Tướng của
thân, quán Phật cũng thế. Hăy nên từ trong tâm hạnh
của chúng sanh mà cầu sự giải thoát của chư Phật).
Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm, Phật, cập chúng sanh, thị
tam vô sai biệt” (Tâm, Phật, và chúng sanh, ba pháp ấy chẳng
sai khác). V́ thế, tâm pháp là Diệu.
“Tương
đăi diệu” (sự mầu nhiệm tương đối,
có tánh chất đối đăi): Do pháp Bán Tự có
đối đăi nên là Thô, thấu hiểu
pháp Măn Tự th́ là Diệu. Trong Tam
Tạng, chỉ có pháp Bán Tự thuộc về Sanh Diệt
Môn, chẳng thể thông với lư viên măn; cho nên là Thô. Pháp Măn Tự là Bất Sanh Bất Diệt Môn; cho
nên là Diệu. Lại như Phương Đẳng, Bát Nhă
kèm theo phương tiện, thông với lư viên măn, cho nên là Thô. Nay kinh này hiển thị thẳng thừng lư viên
măn, cho nên là Diệu.
“Tuyệt đăi
diệu” (sự mầu nhiệm tuyệt đối, chẳng
có đối đăi): Nói ra pháp chẳng phân biệt, biên
chính là trung[11], không ǵ chẳng phải
là Phật pháp, mất sạch [các t́nh kiến chấp
trước], thanh tịnh, chẳng c̣n có pháp để h́nh
dung, so sánh. Đối đăi với điều ǵ mà là Thô? H́nh dung điều ǵ mà là Diệu? Chẳng
có ǵ để đối đăi, chẳng biết gọi
tên là ǵ, bèn cưỡng gọi là Tuyệt.
“Diệu” hàm ư
“chẳng thể nghĩ bàn”. Chẳng v́ Thô mà gọi là Diệu! Nếu
nói là riêng có pháp giới rộng lớn, độc đáo,
tuyệt diệu, th́ sẽ là có quá nhiều thứ, sao có thể
gọi là Tuyệt cho được? Nay pháp giới thanh tịnh,
chẳng thể dùng đối đăi để nêu bày, chẳng
thể dùng Tuyệt (dứt
bặt đối đăi) để nêu bày, đối
đăi và tuyệt đối đều bị diệt mất.
V́ thế nói là Tịch Diệt.
Dùng hai thứ Diệu ấy [để phán dịnh] th́ trong ba pháp diệu
trên đây (tức chúng sanh pháp, tâm pháp, và Phật pháp), chúng
sanh pháp cũng có đủ hai thứ
Diệu (tức tương đăi diệu và tuyệt
đăi diệu), Phật pháp và tâm pháp cũng có đủ
hai thứ Diệu. V́ thế, gọi là Diệu Pháp.
Lại nữa, giải
thích Diệu rộng răi hơn th́ Tích Môn[12]
gồm mười thứ diệu, Bổn Môn gồm mười
thứ diệu, quán tâm gồm mười thứ diệu.
1.1.1. Mười điều diệu
của Tích Môn:
Một là cảnh
diệu, hai là trí diệu, ba là hạnh diệu, bốn là vị
diệu (địa vị mầu nhiệm), năm là tam
pháp diệu (Giới, Định, Huệ đều diệu),
sáu là cảm ứng diệu, bảy là thần thông diệu,
tám là thuyết pháp diệu, chín là quyến thuộc diệu,
mười là công đức lợi ích diệu.
Cảnh Thật
Tướng chẳng phải do Phật, chư thiên, hay con
người tạo tác, mà vốn tự có, chẳng phải
tới nay mới có. V́ thế, xếp điều này đầu
tiên. Do mê lư nên dấy lên Hoặc (phiền năo); do thấu hiểu
lư nên sanh trí. Trí là cái gốc của
hạnh. Do có con mắt trí, bèn dấy lên chân Hạnh. Mắt,
chân, và cảnh, ba pháp làm thành phương tiện, ngơ hầu nương
vào phương tiện ấy, vào trong ao thanh
lương, đạt các địa vị. Các địa
vị trụ vào đâu? Trụ trong tạng bí mật của
ba pháp. Đă trụ trong pháp ấy, tịch mà thường
chiếu, chiếu các căn cơ trong mười pháp giới.
Hễ có căn cơ thích hợp bèn ứng. Để ứng
hiện phù hợp căn cơ th́ trước hết dùng
thần thông nơi thân luân khiến cho họ (chúng sanh
được hóa độ) kinh hăi, chấn động. Kế
đến dùng khẩu luân để tuyên nói, chỉ dạy,
khơi gợi, hướng dẫn. Họ đă được
nhuần thấm mưa pháp, vâng nhận giáo pháp, trở
thành quyến thuộc trong pháp, nhổ trừ gốc sanh tử,
mở mang tri kiến của Phật, đạt được
lợi ích to lớn. Năm điều diệu đầu
tiên thuộc về tự hành, có đủ nhân và quả.
Năm điều diệu sau đó thuộc về hóa tha
(giáo hóa người khác), trọn đủ Năng và Sở
(tức có người giáo hóa và đối tượng
được giáo hóa).
Kinh dạy: “Duy
Phật dữ Phật năi năng cứu tận chư pháp
Thật Tướng. Sở vị chư pháp như thị
tướng, như thị tánh, như thị thể,
như thị lực, như thị tác, như thị nhân,
như thị duyên, như thị quả, như thị báo,
như thị bổn mạt cứu cánh đẳng” (Chỉ
có Phật và Phật mới có thể thấu suốt cùng tột
Thật Tướng của các pháp, tức là các pháp tướng
như thế, tánh như thế, lực như thế, tác
như thế, nhân như thế, duyên như thế, quả
như thế, báo như thế, gốc ngọn rốt ráo
như thế). Đấy chính là cảnh diệu.
“Ngă sở đắc
trí huệ, vi diệu tối đệ nhất” (ta đạt
được trí huệ, vi diệu tột bậc nhất):
Dùng diệu huệ ấy để cầu vô thượng
đạo, chính là trí diệu.
“Bổn tùng vô số
Phật, cụ túc hành chư đạo” (vốn từ
vô số Phật, hành trọn đủ các đạo):
Đă hành các đạo ấy rồi, đắc quả
nơi đạo tràng. Phật tử đă hành đạo,
đời sau sẽ thành Phật; đấy là hạnh diệu.
Trời tuôn xuống bốn loại hoa, biểu thị Trụ,
Hạnh, Hướng, Địa. Khai thị ngộ nhập
cũng có ư nghĩa [nói đến] các địa vị. “Thừa
thị bảo thừa, du ư tứ phương, trực
chí đạo tràng” (ngồi xe báu ấy, dạo khắp bốn phương, đến thẳng
đạo tràng): “Bốn phương” là nhân vị (địa
vị trong khi tu nhân), “đạo tràng” là quả vị
(địa vị khi chứng quả). Đấy chính là vị
diệu.
“Phật tự trụ
Đại Thừa, như kỳ sở đắc pháp,
định huệ lực trang nghiêm” (Phật tự trụ
Đại Thừa, các pháp Ngài đă chứng, sức định
huệ trang nghiêm): Đại Thừa chính là khuôn phép chân
tánh. Định chính là khuôn phép giúp cho thành tựu. Huệ
là khuôn phép để quán chiếu. Đấy chính là tam pháp
diệu.
“Ư tam thất
nhật trung, tư duy như thị sự. Ngă dĩ Phật
nhăn quán, kiến lục đạo chúng sanh” (Trong hai
mươi mốt ngày, tư duy chuyện như thế. Ta
dùng mắt Phật quán, thấy lục đạo chúng
sanh): Đấy chính là cảm ứng diệu.
Các chuyện như
nhập định, tuôn mưa hoa, cơi đất chấn
động, phóng quang v.v… chính là thần thông diệu.
[Tu tập] các pháp
do Ngài đă nói, sẽ đều đạt đến
địa vị Nhất Thiết Trí. Đă nói, nay đang
nói, sẽ nói, khó tin, khó hiểu nhất v.v… chính là thuyết
pháp diệu.
“Đản giáo
hóa Bồ Tát, vô Thanh Văn đệ tử” (chỉ giáo
hóa Bồ Tát, chẳng có đệ tử Thanh Văn), tức
là quyến thuộc diệu.
“Hiện tại,
vị lai, nhược văn nhất cú, nhất kệ, ngă
giai dữ thọ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề kư, tu du văn chi, tức
đắc cứu cánh Tam Bồ Đề,
bất linh nhất nhân độc đắc diệt độ,
giai dĩ Như Lai diệt độ nhi diệt độ
chi” (Hiện tại, vị lai, nếu nghe một câu, một
kệ, ta đều thọ kư Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác. Trong khoảnh
khắc được nghe, liền đạt Chánh Giác rốt
ráo, chẳng để cho riêng một ai được diệt
độ, mà đều dùng sự diệt độ của
Như Lai để độ họ). Đó chính là công đức
lợi ích diệu.
1.1.2. Mười điều diệu
thuộc Bổn Môn:
Một là bổn
nhân diệu, hai là bổn quả diệu, ba là bổn quốc
độ diệu, bốn là bổn cảm ứng diệu,
năm là bổn thần thông diệu, sáu là bổn thuyết
pháp diệu, bảy là bổn quyến thuộc diệu, tám
là bổn Niết Bàn diệu, chín là bổn thọ mạng
diệu, mười là bổn lợi ích diệu.
Bổn nhân diệu
là từ nơi Bổn, thoạt đầu phát Bồ Đề
tâm, hành Bồ Tát đạo. Như mười sáu vị
vương tử trong thời Phật Đại Thông [Trí
Thắng], hoằng truyền kinh để kết duyên,
đều là những chuyện thực hiện trong thuở
trung gian (tức là thời gian sau lúc đức Phật thật
sự thành đạo trong quá khứ và trước lần
thị hiện thành đạo trong thời hiện tại),
chẳng phải là bổn nhân diệu. Trải qua số kiếp
nhiều như mảy bụi mà hành đạo th́ gọi
là bổn nhân diệu.
Bổn quả diệu
là nơi Bổn, thoạt đầu hành cái nhân viên diệu,
khế đắc Thường Lạc Ngă Tịnh rốt
ráo. Đó là bổn quả. Chẳng giữ lấy đạo
tràng Tịch Diệt; báo thân Lô Xá Na thành Phật chính là bổn
quả, chỉ giữ lấy cái quả đă chứng khi
thành Phật thuở đầu từ bao kiếp rất rộng lớn
lâu xa đến nay, đó là bổn quả diệu.
Bổn quốc
độ diệu: Vốn đă thành tựu cái quả, ắt
có cơi nước để nương vào. Nay đă thị
hiện ở trong cơi Đồng Cư, hoặc trong ba cơi (Tịch
Quang, Thật Báo và Phương Tiện Hữu Dư). Trong
khoảng trung gian, cũng có bốn cơi. Bổn Phật (Phật
nơi Bổn Môn) cũng có bốn cơi, lại ở trong cơi
nào? Kinh chép: “Tự tùng thị lai, ngă thường tại
thử Sa Bà thế giới thuyết pháp, giáo hóa” (Từ đấy trở đi, ta
thường ở trong thế giới Sa Bà này thuyết
pháp, giáo hóa): Xét theo đoạn kinh văn ấy, đúng là
chẳng phải hiện thời mới thị hiện
trong Sa Bà, cũng chẳng phải là nơi chốn quyền
biến thị hiện trong chặng giữa, mà chính là Sa Bà
trong Bổn. Đó chính là bổn độ diệu!
Bổn cảm ứng
là đă thành tựu cái quả, liền có hai mươi
lăm môn vương tam-muội đă chứng trong thuở
ấy (lúc Phật Thích Ca thật sự thành Phật). Thệ
nguyện từ bi, căn cơ và sự cảm vời có
liên quan với nhau, có thể từ ngay nơi Tịch mà có
thể Chiếu. Do vậy, gọi là bổn cảm ứng.
Bổn thần
thông là môn Hóa Thiền Vô Kư Hóa[13]
đă chứng đắc xưa kia phù hợp với các môn
từ bi thuộc lúc tu nhân nơi Bổn địa, thực
hiện, hóa hiện các thứ thần thông, khiến cho
chúng sanh kinh hăi, chấn động để độ
chúng sanh. V́ thế nói là bổn thần thông.
Bổn thuyết
pháp chính là xưa kia thoạt đầu ngồi đạo
tràng, thành Chánh Giác lần đầu tiên, chuyển pháp luân lần
đầu tiên, dùng tứ biện tài để nói các pháp,
th́ gọi là bổn thuyết pháp.
Bổn quyến thuộc
là những người được hóa độ trong khi
thuyết pháp nơi Bổn địa. Như các vị [Bồ
Tát] trụ ở phương dưới, ngài Di Lặc chẳng
nhận biết, đấy chính là bổn quyến thuộc.
Bổn Niết Bàn chính
là đoạn đức Niết Bàn đă chứng trong bổn
thời (lúc đức Phật thật sự thành đạo
lần đầu tiên), mà cũng là đối với hai
cơi Phương Tiện và Đồng Cư, [nơi đức Phật]
đă trụ trong bổn thời, khi kẻ hữu duyên
đă hết, đức Phật bèn nói là “nhập diệt”.
Đấy chính là bổn Niết Bàn.
Bổn thọ mạng: Đă nói “nhập
diệt”, bèn có thọ mạng dài, ngắn, xa, gần.
Bổn lợi ích
là các công đức do quyến thuộc đă đạt
được trong bổn thời.
1.1.3. Mười điều diệu
thuộc về quán tâm:
Tích Môn và Bổn Môn
đều luận định quán tâm. Quán tâm thuộc Tích
Môn được nói rải rác trong kinh văn. Quán tâm trong
Bổn Môn th́ là “Phật như, chúng sanh như, nhất như,
vô nhị như”. Phật đă quán tâm, đạt
được bổn diệu. Vận dụng [quán tâm]
trong Tích Môn th́ rộng lớn, chẳng thể xưng nói. “Ngă
như, như Phật như” cũng nên quán tâm lưu xuất
điều lợi to lớn ấy, cũng nguyện
Như của ta sẽ mau chóng giống như Như của
Phật. V́ thế, kinh văn chép: “Văn Phật thọ
vô lượng, thâm tâm tu du tín. Kỳ phước quá ư bỉ,
nguyện ngă ư vị lai, trường thọ độ
chúng sanh. Như kim nhật Thế Tôn, chư Thích trung chi
vương, đạo tràng sư tử hống, thuyết
pháp vô sở úy. Ngă đẳng ư vị lai, nhất thiết
sở tôn kính, tọa ư đạo tràng thời, thuyết
thọ diệc như thị” (nghe nói đức Phật
thọ vô lượng, thâm tâm tin tưởng trong khoảnh
khắc, phước ấy hơn hẳn phước
trước. Nguyện con trong đời mai sau, trường
thọ độ chúng sanh, giống như đức Thế
Tôn trong hiện thời là vua trong các vị Thích tử,
sư tử hống nơi đạo tràng, thuyết pháp chẳng
sợ hăi. Chúng con trong đời mai sau, được hết
thảy tôn kính, lúc ngồi nơi đạo tràng, cũng sẽ
giảng nói thọ mạng giống như thế). Đấy
chính là bổn diệu thuộc về quán tâm, đạt
được lợi ích nơi Lục Tức Tướng.
1.2. Liên Hoa:
Kế đó, nói về
Liên Hoa. [Hoa sen dùng để] thí dụ diệu pháp. Hoa có nhiều
loại. Hoặc là chi chít toàn hoa, chẳng có quả, ví
như ngoại đạo tu phạm hạnh rỗng tuếch, chẳng đạt
được ǵ. Hoặc một hoa, nhiều quả, ví
như phàm phu cúng dường cha mẹ, được quả
báo sanh lên Phạm Thiên. Hoặc là nhiều hoa một quả,
ví như các thứ khổ hạnh của Thanh Văn, chỉ
đắc Niết Bàn. Hoặc là một hoa, một quả,
ví như một hạnh viễn ly của Duyên Giác, cũng
đắc Niết Bàn. Hoặc trước quả, sau là
hoa, ví như đă đắc Tu Đà Hoàn rồi sau đó mới
tu đạo. Hoặc là trước hoa, sau là quả, ví
như Bồ Tát trước hết nhờ vào các duyên để
tu, sau đấy
sanh khởi sự chân tu. Các loại ấy
đều là thô hoa, chẳng thể sánh ví Diệu Pháp
được! Chỉ có hoa sen là hoa lẫn quả (hạt
sen) đều nhiều, có thể sánh ví “nhân chứa
đựng vạn hạnh, quả viên măn vạn đức”.
Lại v́ có hạt
mà trổ hoa, hoa lẫn hạt đều trọn đủ,
có thể sánh ví “từ ngay nơi Thật mà là Quyền”.
Hoa nở th́ hạt sen hiện ra, có thể sánh ví “từ
ngay nơi Quyền mà là Thật”. Hoa rụng, hạt
sen chín, hạt sen đă chín cũng rơi mất, có thể
sánh ví “chẳng phải Quyền, chẳng phải Thật”.
V́ thế, dùng hoa sen để sánh ví Diệu Pháp,
Lại dùng hoa sen
để sánh ví hai môn Tích và Bổn. Đối với mỗi
môn, đều có ba thí dụ.
Ba thí dụ thuộc
về Tích Môn là:
a. Một là hoa sen
sanh ra, trong hoa ắt có hạt sen. Đó là v́ hiển lộ
hạt sen mà trổ hoa, nhưng chẳng thể thấy hạt
sen [khi hoa chưa nở tung]. Điều này ví như “v́
Thật mà khai Quyền”, có nghĩa là chưa thể biết
Thật.
b. Hai là hoa sen nở,
hạt sen lộ ra, nhưng cần phải dùng hoa sen để
dưỡng hạt sen. Ví như trong Quyền có Thật.
Trước nay chẳng có ai biết, cho nên nay khai Quyền
hiển Thật. Có nghĩa là cần phải do Quyền mà
nhận biết rộng răi hằng sa Phật pháp. Chỉ
v́ để thành tựu Thật, mà khiến cho [chúng sanh] nhận
biết sâu xa tri kiến của Phật.
c. Ba là hoa rụng,
hạt sen chín, ví như phế Quyền lập Thật, chỉ
có một Phật thừa, tiến thẳng đến
đạo tràng. Bồ Tát do c̣n “có hành” (c̣n thấy có
pháp để hành), cho nên chẳng thấy rơ ràng, chỉ giống
như hoa sen nở, [nhưng hạt sen chưa chín]. Do
chư Phật chẳng hành, nên thấy thấu suốt. Ví
như hoa rụng th́ hạt sen đă chín muồi.
Ba thí dụ thuộc
về Bổn Môn:
a. Một là hoa sen ắt
có hạt, ví như Tích ắt có Bổn, Tích chứa đựng
Bổn. Có nghĩa là tuy ở ngay nơi Bổn, nhưng khó
biết ư chỉ của Phật, [chẳng hạn như bậc
Bổ Xứ Bồ Tát như] ngài Di Lặc chẳng biết.
b. Hai là hoa nở, hạt
sen hiện ra, ví như khai Tích hiển Bổn (chỉ ra
Tích để nêu bày Bổn), có nghĩa là từ ngay nơi
Tích, có thể khiến cho Bồ Tát nhận biết phương
tiện của Phật. Đă nhận biết Tích th́ sẽ
lại biết Bổn, tăng đạo, tổn sanh[14].
c. Ba là hoa rụng,
hạt sen chín. Ví như phế Tích, hiển Bổn: Đă
biết Bổn, chẳng c̣n mê Tích, chỉ thuộc về
địa vị tu đạo nhằm viên măn Pháp Thân.
Trong kinh lại có bảy
thí dụ đều nhằm sánh ví Quyền và Thật; nay
dùng hoa sen làm thí dụ chung. Bảy thí dụ là:
- Một là thí dụ
về ba loại xe và một loại xe thoát khỏi nhà lửa.
Dùng ba loại xe để sánh ví Quyền, xe trâu trắng lớn
nhằm sánh ví Thật.
- Hai là thí dụ về
đứa con nghèo túng trong phẩm Tín Giải. Dùng chuyện
làm mướn để sánh ví Quyền, [được
cha] giao phó gia nghiệp ví như Thật.
- Ba là thí dụ về
dược thảo. Dùng ba loại cỏ, hai loại cây
để sánh ví Quyền, một cơi
đất để sánh ví Thật.
- Bốn là thí dụ
về hóa thành (cái thành được biến hóa ra). Dùng chỗ
biến hóa để sánh ví Quyền, bảo xứ (chỗ có của
báu) nhằm sánh ví Thật.
- Năm là thí dụ
viên châu buộc vào chéo áo trong phẩm Thọ Kư. Dùng chuyện
[người có viên châu buộc trong chéo áo mà chẳng hay biết,
cứ làm thuê đắp đổi qua ngày], đạt
được chút ít [đă vui sướng] để sánh
ví Quyền, [được thiện tri thức chỉ ra
viên châu trong chéo áo bèn] dùng bảo châu đổi chác để
sánh ví Thật.
- Sáu là thí dụ về
Luân Vương trong phẩm An Lạc Hạnh. Dùng [chuyện
Luân Vương] tùy theo công lao mà ban thưởng [cho quần thần] để sánh ví Quyền,
[vua] tháo minh châu trong búi tóc [để ban thưởng] nhằm
sánh ví Thật.
Sáu thí dụ này
đều là thí dụ “khai Quyền hiển Thật”
trong Tích Môn.
- Bảy là thí dụ
về lương y trong phẩm Thọ Lượng. Dùng
chuyện sai người báo tin cha đă chết để
sánh ví Quyền, [lương y] trở về cho [các con] trông
thấy nhằm sánh ví Thật. Đây chính là thí dụ nhằm
“khai cận hiển viễn” (nêu rơ chuyện đức
Phật thành Phật tại Bồ Đề đạo
tràng cách lúc giảng kinh Pháp Hoa không xa là quyền biến thị
hiện, nói rơ đức Phật đă thành đạo từ
bao kiếp lâu xa) thuộc Bổn Môn.
Lại c̣n có hai thí
dụ “cỗ vua” (như người đói trông thấy
cỗ vua mà chẳng dám ăn) và “đào giếng”
đều chẳng phải hoàn toàn thí dụ về chuyện
khai hiển trong một thời. V́ thế, Trí Giả đại
sư lược đi, chẳng nêu ra. Người đời
sau cứ nói là “chín thí dụ”, có thể nói [những
người chủ trương như vậy] chỉ xét
theo kinh văn, chẳng xét theo ư nghĩa!
1.3. Kinh
“Kinh” là tên gọi
chung các pháp do đức Phật đă nói. [Tên gọi của
kinh này trong] tiếng Phạn là Tát Đạt Ma Phân Đà Lợi
Tu Đa La (Saddharma
Puṇḍarīka Sūtra). Tát Đạt Ma (Saddharma) được
phương này (Trung Hoa) dịch là Diệu Pháp. Phân Đà Lợi
(Puṇḍarīka, hoa sen trắng) dịch thành Liên Hoa,
đă giải thích đầy đủ trong phần trước.
Tên kinh này khác với các kinh; v́ thế, [Diệu Pháp Liên Hoa]
gọi là Biệt [Đề]. Giáo pháp trong suốt một
đời đức Phật đều gọi là Tu Đa
La; v́ thế, [chữ Kinh] gọi là Thông [Đề].
Tu Đa La (Sūtra) hoặc dịch
là Kinh (經), hoặc dịch
là Khế (契, phù hợp), hoặc
dịch là Pháp Bổn (法本), hoặc dịch
là Tuyến (線, sợi dây), hoặc
dịch là Thiện Ngữ Giáo (善語教), hoặc chẳng
phiên dịch [chỉ phiên âm]. Từ ngữ này bao hàm năm
nghĩa:
- Một là Pháp Bổn (cội gốc của pháp), c̣n gọi là Xuất
Sanh (出生).
- Hai là Vi Phát (微發, phát khởi những
điều vi tế), c̣n nói là Hiển Thị (顯示).
- Ba là Dũng Tuyền
(湧泉, suối trào).
- Bốn là Thằng
Mặc (繩墨, dây mực
để đánh dấu của thợ mộc).
- Năm là Kết
Man (結鬘, xâu tràng hoa).
Như vậy th́
năm cách dịch, năm ư nghĩa bao hàm, mỗi mỗi
đều trọn đủ ba thứ Giáo, Hạnh, Lư. Giáo
chính là Thế Giới Tất Đàn, Hạnh tức là Vị
Nhân và Đối Trị Tất Đàn. Lư tức là Đệ
Nhất Nghĩa Tất Đàn[15].
Lại nữa, các điều bậc
thánh phương này (Trung Hoa) nói ra th́ được gọi
là Kinh. Kinh là huấn pháp (訓法, pháp tắc giáo huấn), có nghĩa là dạy bảo
pháp thường hằng để làm khuôn phép vâng giữ.
Giáo đáng noi theo, Hạnh đáng noi theo, Lư đáng noi theo.
V́ thế, gọi là Pháp. “Thường” có nghĩa là
“chẳng thay đổi”. Thiên ma và ngoại đạo chẳng
thể thay đổi, phá hoại, tức là Giáo
Thường. Chân chánh chẳng xen tạp, chẳng thể
vượt qua, tức là Hạnh Thường. Trong lặng,
bất động, quyết chẳng hướng theo
đường khác, chính là Lư Thường.
2. [Tầng huyền nghĩa thứ
hai]: Dùng Thật Tướng làm Thể
Kinh dạy: “Kim
Phật phóng quang minh, trợ phát Thật Tướng
nghĩa” (nay đức Phật tỏa quang minh, để
giúp phát khởi nghĩa Thật Tướng). Lại nói: “Chư
pháp Thật Tướng nghĩa, dĩ vị nhữ
đẳng thuyết” (nghĩa Thật
Tướng của các pháp đă v́ các ông mà nói). Lại nói: “Duy
Phật dữ Phật, năi năng cứu tận chư pháp
Thật Tướng” (Chỉ có Phật và Phật mới
có thể thấu hiểu tột cùng Thật Tướng của
các pháp). Lại nói: “Chư Phật pháp cửu hậu, yếu
đương thuyết chân thật” (pháp của chư
Phật đă lâu ngày, phải nên nói chân thật). Lại
nói: “Ngă dĩ tướng nghiêm thân, vị thuyết Thật
Tướng ấn” (ta dùng các tướng để
trang nghiêm thân thể, nhằm nói ấn Thật Tướng).
Lại nói: “Khai phương tiện môn, thị chân thật
tướng” (mở cửa phương tiện, chỉ
bày tướng chân thật). Lại nói: “Quán chư pháp Thật
Tướng” (quán Thật Tướng của các pháp).
V́ thế biết chư Phật v́ một đại sự
nhân duyên mà xuất hiện trong cơi đời, chỉ nhằm khiến cho chúng sanh mở mang tri kiến của
Phật. Thấy lư Nhất Thật tức là lư “chẳng
phải nhân, chẳng phải quả”.
3. [Tầng huyền nghĩa thứ
ba]: Dùng nhân quả Nhất Thừa làm Tông
Kinh này từ phẩm
Tự cho đến phẩm An Lạc Hạnh nhằm phá
trừ, phế bỏ phương tiện, khai hiển tri
kiến chân thật của Phật, mà cũng nhằm nói rơ
“thật nhân, thật quả” của các vị đệ
tử, cũng như nêu bày “quyền nhân, quyền quả”
của sư môn. Văn nghĩa tuy rộng, nhưng
tóm gọn lại th́ chính là điều then chốt, trọng
yếu này: Nhằm thành tựu
“thật nhân, thật quả” cho các đệ tử. Nhân là chánh, quả là phụ.
Do vậy, trong phần trước của kinh bèn nói về
nhân và quả thuộc Tích Môn. Từ phẩm Tùng Địa
Dũng Xuất cho đến phẩm Khuyến Phát nhằm
từ Tích mà hiển thị Bổn, phế trừ
phương tiện “tuổi thọ [thị hiện] gần
đây” (tức tuổi thọ tám mươi năm của
đức Phật Thích Ca trong thời đại chúng ta),
nhằm nêu rơ thật quả dài lâu, cũng như chỉ rơ
thật nhân, thật quả của các đệ tử, mà
cũng nói rơ thật nhân, thật quả của sư môn. Tức
là tỏ rơ thật quả của thầy, quả là chánh,
nhân là phụ. V́ thế, phần sau của kinh đă nói rơ “bổn
nhân, bổn quả”.
4. [Tầng huyền nghĩa thứ
tư]: Lấy đoạn nghi sanh tín làm Dụng
Tích Môn dùng Phật
trí và Bồ Đề trí để đoạn vô minh lớn
nhất trong bảy thứ phương tiện, cùng nhập
cái nhân viên măn nơi Bổn Môn, phá trừ t́nh kiến chấp
trước cận Tích (các sự tướng thị hiện
trong đời đức Phật), sanh ḷng tin sâu xa đối
với Bổn địa, cho đến đối với
Đẳng Giác cũng khiến cho đoạn nghi, sanh tín.
5. [Tầng huyền nghĩa thứ
năm]: Vô thượng đề hồ làm giáo tướng
Các thí dụ về năm thời
[giáo hóa trong một đời giáo hóa của đức Phật]
đă được nói đại lược trong phần
trước. Như thời Hoa Nghiêm nhằm thích ứng
căn cơ thuộc Viên và Biệt, chiếu đến núi
cao trước hết, nói thẳng vào công đức tu hành
theo thứ tự hoặc không theo thứ tự thuộc
[các địa vị trong] Thập Địa và Thập Trụ,
chẳng biện định ư nghĩa Như Lai nói Đốn
Giáo. Tứ A Hàm th́ nói chung về vô thường, biết
Khổ, đoạn Tập, chứng Diệt, tu Đạo,
nhưng chẳng nêu rơ ư nghĩa Như Lai do khéo léo tùy thuận
cơ nghi mà lập bày Tiểu pháp. Các kinh thuộc thời
Phương Đẳng phá trừ Tiểu pháp, quở trách
những kiến chấp thiên lệch, ca ngợi Viên, khen ngợi
Đại, hạnh nguyện từ bi, sự lư thù thắng
tuyệt diệu, nhưng chẳng nêu rơ ư nghĩa [v́ sao] nói
kèm thêm quở trách, tán thán. Thời Bát Nhă, cộng pháp th́
người thuộc cả ba thừa đều cùng nhập,
biệt pháp th́ riêng Bồ Tát tiến nhập. [Nội dung
các giáo pháp ấy] bao gồm rộng khắp Ấm, Nhập,
thanh tịnh tột cùng, dung thông rỗng rang, mà cũng chẳng
nêu rơ ư nghĩa Biệt và Cộng. Thời Niết Bàn sau
cùng, đại lược phá trừ các pháp tu tập trong
ba thời trước, dạy đại lược về
ngũ vị[16],
cũng chẳng nói cặn kẽ ư nghĩa v́ sao Như Lai lập
bày giáo pháp từ khởi đầu để kết thúc bằng
quy kết [các giáo pháp phương tiện về Nhất Thừa].
Các kinh ấy đều
nhằm phù hợp ư của người khác, khiến cho họ
đạt được lợi ích, chẳng nói đến
ư Phật, ư thú của Ngài là như thế nào. Nay kinh này chẳng
vậy, phàm đối với chuyện nêu ra toàn bộ
cương mục của pháp môn, các pháp Quán đại, tiểu,
Thập Lực, Vô Úy, các thứ quy củ, thảy đều chẳng
luận, v́ các kinh trước đó đă nói rồi. Kinh
này chỉ luận định đại sự nhân duyên “nguồn
cội ban bố giáo pháp của Như Lai”, [v́ sao dạy
chúng sanh] giữ điều này, bỏ điều kia trong
thời trung gian (tức là từ thời A Hàm đến thời
Bát Nhă), [giảng dạy các pháp] Tiệm hoặc Đốn
nhằm thích hợp thời cơ, và kết cục
rốt ráo [của cả một đời giáo hóa]. Do vậy biết
kinh này chỉ luận định đại cương về
sự lập bày giáo pháp, chẳng nêu bày cương mục
chi tiết. Ví như người tính toán, trước là lập ra các phép toán trung gian, sau đó loại bỏ
các phép toán trung gian [chỉ giữ lấy kết quả cuối
cùng] để t́m ra con số chánh yếu, không giữ lại
[các con số lẻ] mấy đấu, mấy hộc. Chỉ
v́ luận định thánh giáo sâu xa, khéo giảng nói thánh
tâm, gần là khiến cho [chúng sanh nghe pháp sẽ] thấu hiểu
cái nhân viên măn, xa là nêu bày bổn quả
(cái quả thuộc bổn địa, bổn môn). Do vậy,
[bậc đương cơ trong hội này] thưa hỏi
nghi vấn chẳng ngớt. Nếu có thể biết tinh
tường giáo tướng, sẽ biết hai trí Quyền
và Thật của Như Lai.
II. Khoa phán kinh
văn
Đối với
hai mươi tám phẩm của kinh văn, Trí Giả đại
sư chia thành ba phần:
- Phần đầu
là phẩm Tự.
- Từ phẩm
Phương Tiện cho đến mười chín gịng kệ
thuộc phẩm Phân Biệt Công Đức, mười
lăm phẩm rưỡi ấy được gọi là
Chánh Tông.
- Từ sau phần
kệ ấy (phần kệ tụng trong phẩm Phân Biệt
Công Đức) cho đến hết kinh gồm mười
một phẩm rưỡi gọi là phần Lưu Thông.
Trong một thời
(tức là đối với nội dung giáo pháp của kinh
này), lại chia thành hai:
- Từ phẩm Tự
cho tới phẩm An Lạc Hạnh gồm mười bốn
phẩm, thuộc về khai Quyền hiển Thật trong
Tích Môn.
- Từ phẩm
Tùng Địa Dũng Xuất cho đến hết kinh, gồm
mười bốn phẩm, chính là các phần Tự, Chánh
Tông, và Lưu Thông nhằm khai cận hiển viễn của
Bổn Môn.
[Trong Tích Môn], phẩm
đầu tiên (tức phẩm Tự) là Tự Phần, từ
phẩm Phương Tiện cho đến phẩm Thọ
Học Vô Học Nhân Kư là Chánh Tông. Từ phẩm Pháp Sư
cho đến phẩm An Lạc Hạnh là Lưu Thông Phần.
[Trong Bổn Môn,
trong phẩm Tùng Địa Dũng Xuất], từ lúc các vị
Bồ Tát từ phương dưới vọt lên cho tới khi ngài Di Lặc
thưa hỏi chuyện ấy, đức Phật giải
đáp; nửa phẩm ấy là Tự Phần. Từ câu “Phật
cáo A Dật Đa” (đức Phật bảo ngài A Dật
Đa) trở đi cho đến phần kệ của phẩm
Phân Biệt Công Đức thuộc về phần Chánh Tông.
Từ đó cho đến hết kinh, thuộc về phần
Lưu Thông.
Trước tiên, Tự
th́ có Thông và Biệt. Thông là bao gồm chung hai môn; Biệt là
phần chánh thuyết nói về tam châu (ba tầng thuyết
pháp). Sau cùng là Lưu Thông th́ gồm có khuyến tŕ (khuyên nên
thọ tŕ) và chúc lụy. Phần Khuyến Tŕ riêng thuộc
về Bổn Môn. Chúc Lụy th́ chung cho toàn bộ đại
kinh. Năm phẩm cuối của phần Tích Môn chỉ là
phần Khuyến Tŕ thuộc Tích Môn. Trong phần Bổn
Môn, phần Tự chỉ nhằm phát khởi Bổn Môn.
1. Khoa phán Tích Môn
* Phẩm Tự (Nidāna) đứng
đầu, gồm
các phần Thứ Tự (次序, phần tựa nêu bày các điều
theo thứ tự), Do Tự (由序, phần tựa nêu bày nguyên do), và
Thuật Tự (述序, phần tựa
trần thuật). Dùng sáu nghĩa như Như Thị, Thời
v.v… để chứng tín (khiến cho người nghe do thấy
các điều ấy mà tin tưởng kinh này thật sự
do đức Phật nói ra); đó là Thứ Tự. Phóng
quang minh hiện ra sáu loại tướng lành để làm
duyên do phát khởi. Đó là Do Tự. Hỏi đáp để
giải trừ nghi hoặc nhằm dẫn khởi phần
chánh thuyết (Chánh Tông Phần), đó chính là phần Thuật
Tự. V́ thế, phẩm này được gọi Tự
Phẩm.
* Kế đó là từ
phẩm Phương Tiện (Upāyakauśalya) trở đi, có
tam châu thuyết pháp:
- Nay nói đến
phẩm Phương Tiện, nêu ra tam thừa để nói Nhất Thừa, được
gọi là Pháp Thuyết Châu (法說週). Thượng
căn đắc ngộ, [đức Phật] thọ kư cho
ngài Xá Lợi Phất.
- Kế đó là phẩm
Thí Dụ, nói đến ba loại xe và một loại xe, được gọi
là Thí Thuyết Châu (譬說週). Trung căn
đắc ngộ, thọ kư cho bốn vị đại
đệ tử.
- Kế đó là phẩm
Hóa Thành Dụ, nói rơ chuyện kết duyên trong đời
trước đă xong, lại nói đến chuyện [chỗ
có của báu] cách xa ba trăm do-tuần, hoặc năm
trăm do-tuần. Phần này được gọi là Nhân
Duyên Thuyết Châu (因緣說週). Hạ căn
đắc ngộ, thọ kư cho năm trăm và hai ngàn vị
đệ tử.
Đấy chính là phần
Chánh Tông “khai Quyền hiển Thật” của Tích Môn.
Nói đến phẩm
Phương Tiện th́ đại lược có ba cách giải
thích:
1) Phương là
pháp, Tiện là sử dụng. Khéo dùng pháp thiên lệch nhằm
thích ứng với căn cơ của chúng sanh th́ gọi
là Phương Tiện. Cách hiểu này có thể dùng để
giải thích các kinh khác, chẳng phải là ư nghĩa của
phẩm này.
2) Phương Tiện
là Môn. Môn có nghĩa là “có thể thông
qua” (xuyên suốt), thông với pháp được thông.
Phương Tiện là dùng chân thật làm môn, hiển lộ
chân thật. Công năng [hóa độ] do từ
phương tiện. Cách hiểu này có thể dùng để
giải thích kinh này, nhưng chẳng phải là ư nghĩa của
phẩm này.
3) Phương là bí
(祕, ẩn mật),
Tiện là diệu. Khéo thông đạt phương tiện
th́ là bí mật chân thật. Chỉ ra hạt châu vô giá trong
chéo áo, cũng như viên châu duy nhất trên đỉnh
đầu của vua, chẳng hai, chẳng khác. Chỉ ra kẻ
làm công tự coi ḿnh là khách chính là con ông trưởng giả,
cũng chẳng hai, chẳng khác. Nói như thế chính là bí
mật, là diệu; đúng là ư nghĩa của phẩm này.
Phẩm này thật
sự nêu rơ tam thừa là Quyền, hiển thị Nhất
Thừa là Thật, trong ấy lại có đại lược
và nói rộng. Nói đại lược th́ hễ chấp
trước bèn sanh nghi; nói rộng th́ là đoạn nghi,
sanh tín. Ư chỉ trọng yếu nói đại lược
chẳng ngoài mấy câu “chỉ có Phật và Phật mới
có thể thấu suốt rốt ráo Thật Tướng của
các pháp”. Đó chính là giềng mối rộng lớn của
cả bản kinh, là chỗ sâu thẳm của các nghĩa.
Nam Nhạc đại sư (ngài Huệ Tư) đă dựa
theo ba nghĩa để lần lượt giảng giải:
- Một, tướng ấy là Như, tánh ấy là Như, cho
đến báo ấy là Như. Như có nghĩa là “chẳng
khác”. Đó chính là nghĩa Không.
- Hai là như thị
tướng, như thị tánh, cho đến như thị
báo, chỉ bày tánh và tướng của Không, đặt ra
các danh tự dằng dặc sai khác. Đó chính là nghĩa Giả.
- Ba là tướng
như thế, tánh như thế, cho đến báo như thế.
Như chính là Thị trong Trung Đạo Thật Tướng,
tức là nghĩa Trung.
Phân biệt cho dễ
giải thích, cho nên nói là Không, Giả, Trung. Hễ thấu
hiểu ư, bèn nói Không chính là Giả và Trung. Dựa theo
Như để giải thích Không, một thứ là không th́
hết thảy đều không. Nêu ra Như để chỉ
rơ tướng, một thứ giả th́ hết thảy
đều là giả, chính là luận định về
Trung. Một thứ trung th́ hết đều là trung, chẳng
phải là một, hai, ba, nhưng lại là một, hai, ba,
chẳng dọc, chẳng ngang, nên gọi là Thật Tướng.
Chỉ có Phật và Phật thấu hiểu cùng tận rốt
ráo pháp này. Mười pháp ấy thâu nhiếp hết thảy
các pháp. Trí Giả đại sư lại dùng bốn lượt
giải thích:
- Một là dựa
theo mười pháp giới.
- Hai là dựa theo
Phật giới.
- Ba là dựa theo sự
tách ra hay gộp lại.
- Bốn là dựa
theo địa vị.
1) Một là dựa
theo mười pháp giới, [mười pháp giới] chính
là lục đạo và tứ thánh (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát, Phật). Pháp tuy vô lượng, nhưng xét ra chẳng
ngoài mười pháp giới ấy. Trong mỗi pháp giới,
tuy lại có nhiều tiểu loại, nhưng chẳng ra
ngoài Thập Như (như thị tánh, như thị tướng,
như thị nhân, như thị quả v.v…) Chẳng hạn
như trong địa ngục giới, trong ấy có trọn
đủ tướng, tánh… [cho đến] bổn mạt
[cứu cánh như thế], mà cũng có đủ tánh,
tướng, bổn mạt của súc sanh giới, cho đến
trọn đủ tánh, tướng, bổn mạt của
Phật giới, chẳng hề khuyết, giảm! Do vậy
biết trong mỗi pháp giới đều có Thập
Như của chín pháp giới kia. Nếu xét Thập Như
của chín pháp giới trong địa vị của chính ḿnh
th́ đều gọi là Quyền. Nếu xét theo Thập
Như của Phật giới trong địa vị của
chính ḿnh th́ gọi là Thật. Trong một, trọn đủ
vô lượng; trong vô lượng có một. V́ thế, gọi
là “chẳng thể nghĩ bàn”. Phàm phu tuy trọn đủ,
nhưng tuyệt lư, mê muội nơi t́nh. Nhị Thừa
tuy trọn đủ, nhưng lại xả ly (ĺa bỏ), cầu giải thoát.
Bồ Tát tuy trọn đủ, nhưng chiếu chẳng
trọn vẹn, cho nên gọi là “chẳng liễu giải”.
Như Lai thấu hiểu trọn vẹn, ngang dọc đều
trọn đủ.
2) Hai là dựa theo
Phật pháp giới để giải thích. Phật giới
chẳng phải tướng, chẳng phải không có
tướng, mà nói “như thị tướng” tức
là nói đến nhân duyên của vạn thiện. V́ thế, kinh
văn trong phần sau có chép: “Chúng bảo trang hiệu”
(các thứ báu trang hoàng). Phật giới chẳng phải
là tánh, chẳng phải không là tánh, mà nói “như thị
tánh”, tức là nói đến liễu nhân[17]
của trí huệ. V́ thế,
kinh văn trong phần sau có nói: “Hữu đại bạch
ngưu” (có trâu trắng lớn). Phật giới chẳng
phải là Thể, chẳng phải không là Thể, mà nói “như
thị Thể” tức là chánh nhân của Thật Tướng.
V́ thế, trong kinh văn thuộc phần sau có câu: “Kỳ
xa cao quảng” (xe ấy cao rộng). Phật giới chẳng
phải là lực, chẳng phải không là lực, mà nói “như
thị lực”, tức là nói tới căn, lực v.v… từ
thiện của Bồ Đề đạo tâm. V́ thế,
kinh văn trong phần sau có nói: “Hựu ư kỳ
thượng, trương thiết hiến cái” (lại ở
trên ấy, căng che rèm, lọng). Phật giới chẳng
phải là tác, chẳng phải là bất tác, mà nói “như
thị tác”, tức là nói vô công dụng đạo tùy ư.
V́ thế, kinh văn trong phần sau có câu: “Kỳ tật
như phong”
(xe ấy chạy nhanh như gió). Phật giới chẳng
phải là nhân, chẳng phải không có nhân, mà nói là “như
thị nhân”, tức là nói đến bốn mươi mốt
địa vị. V́ thế, kinh văn trong phần sau có câu: “Thừa thị
bảo thừa, du ư tứ phương” (ngồi xe
báu ấy, dạo khắp bốn phương). Phật giới
chẳng phải là duyên, chẳng phải
là không có duyên, mà nói là “như thị duyên”, tức
là nói đến hết thảy Bồ Đề trợ
đạo. V́ thế, kinh văn trong phần sau có câu: “Hựu
đa bộc tùng nhi thị vệ chi” (lại có nhiều
người hầu theo hầu, bảo vệ). Phật giới
chẳng phải là quả, chẳng phải là không có quả, mà nói “như thị quả”, tức
là nói Diệu Giác là rạng ngời, là do cái nhân viên măn mà đạt được.
V́ thế, kinh văn trong phần sau có nói: “Trực chí
đạo tràng” (đến thẳng đạo tràng). Phật
giới chẳng phải là báo, chẳng phải là không có
báo, mà nói là “như thị báo” tức là nói đến
Đại Bát Niết Bàn. V́ thế, kinh văn trong phần
sau có nói: “Đắc vô lượng vô lậu thanh tịnh
chi quả báo” (đạt được quả báo vô
lượng thanh tịnh vô lậu). Phật giới chẳng
phải ngọn, chẳng phải gốc, mà nói “gốc,
ngọn”. Gốc chính là Phật tướng, ngọn chính là Phật
báo, chính là Quyền nơi tự hành. Phật giới chẳng
phải b́nh đẳng, chẳng phải bất b́nh đẳng,
mà nói “rốt ráo b́nh đẳng” chính là nói đến
Thật Tướng. Đó là Thật nơi tự hành, ngay
nơi Thật mà chính là Quyền, cho nên nói là “bổn mạt”
(本末, gốc và ngọn).
Do ngay nơi Quyền chính là Thật, cho nên nói là Đẳng (b́nh đẳng).
3) Ba là xét theo sự tách ra hay gộp
vào. Như thập giới và thập như được
quán nơi Phật tâm đều là vô thượng tướng
cho đến vô thượng quả báo, chỉ là một
Phật pháp giới như biển cả gồm thâu muôn
gịng, ngàn xe đi cùng một đường. Đấy
chính là Quyền và Thật nơi tự hành. Nếu thuận
theo ư của kẻ khác th́ sẽ có Thập Như tức
tánh, tướng v.v… của chín pháp giới khác; đó chính
là Quyền và Thật nơi hóa độ người khác.
Tuy hóa độ người khác có Thật, nhưng đều
gắn bó với Quyền.
Tự hành tuy có Quyền, nhưng đều là Thật.
Đấy chính là Quyền và Thật nơi tự hành và hóa
độ người khác. Thuận theo người khác là
tách ra, thuận theo chính ḿnh th́ là gộp lại. Chiếu trọn
vẹn theo chiều dọc lẫn chiều ngang, tách ra hay gộp
lại đều tự tại.
4) Bốn là xét theo
địa vị mà giải thích tướng như thế.
Hết thảy chúng sanh đều có Thật Tướng,
vốn tự sẵn có, đấy chính là tướng mạo
của Như Lai Tạng. “Tánh như thế” chính là
Đệ Nhất Nghĩa Không nơi trí huệ thuộc về
Tánh Đức. “Thể như thế” chính là lư pháp
tánh nơi Trung Đạo. Đấy là Tam Đức, mỗi địa
vị trong mười pháp giới đều có. Nếu thấu
suốt ba đức ấy, dự vào địa vị Thập
Tín, th́ gọi là “lực như thế” và “tác như
thế”. Dự vào bốn mươi mốt địa
vị [từ Sơ Trụ cho đến Đẳng Giác]
th́ gọi là “nhân như thế, duyên như thế”. Nếu
đạt tới địa vị Phật th́ gọi là “quả
như thế, báo như thế”. Ba món đầu tiên gọi
là gốc, ba món sau cùng gọi là ngọn. Đầu và sau đều
cùng là ba đức.
V́ thế nói là “rốt ráo b́nh
đẳng”.
Trong chuyện mở
rộng “khai tam, hiển nhất” (vạch ra tam thừa
nhằm hiển lộ nhất thừa), tuy dẫn trọn
khắp “mười phương ba đời, Phật
Phật đạo đồng”, đều chẳng ra
ngoài “tứ nhất”, tức là Lư Nhất, Nhân Nhất, Hạnh Nhất, và Giáo Nhất.
1. Lư Nhất: Xét
theo “khai, thị, ngộ, nhập” tri kiến của
Phật để nói th́ lại có bốn ư: Một là xét
theo viên vị, hai là xét theo viên trí, ba là xét theo viên môn, bốn
là xét theo quán tâm.
1.1. Xét theo viên vị
(các địa vị trong Viên Giáo), Khai chính là Thập Trụ.
Đầu tiên là phá vô minh để mở Như Lai Tạng,
thấy lư Thật Tướng. Thị chính là Thập Hạnh,
đă trừ Hoặc chướng, hiển lộ cái Thể
của tri kiến. Thể trọn vẹn vạn đức,
các đức trong pháp giới được hiển thị
phân minh. Ngộ chính là Thập Hồi Hướng, chướng
đă trừ, Thể hiển lộ, hạnh pháp giới
sáng tỏ, sự lư viên dung, chẳng c̣n hai nẻo. Nhập
chính là Thập Địa, Lư và Sự đă dung thông, tự tại vô ngại, tự tại
lưu truyền, tưới gội, tùy ḷng từ A đến
Trà[18],
vào trong biển Tát Bà Nhă (Sarvajñā, Nhất
Thiết Trí). Nhưng đối với các giai vị mầu
nhiệm của Viên đạo (Viên Giáo), trong mỗi địa
vị đều trọn đủ công đức của
bốn mươi mốt địa vị. Chỉ một
môn Khai đă trọn đủ Thị, Ngộ, Nhập, cũng chẳng
phải là tâm nào khác, chỉ là tri kiến như lư, chẳng
có tướng phân biệt sâu hay cạn. Nhằm muốn tỏ
rơ tri kiến như lượng, cho nên chia thành bốn giai
vị (Trụ, Hạnh, Hồi Hướng, Địa).
1.2. Hai là xét theo viên
trí:
- Một là đạo
huệ, kiến đạo thật tánh. Trong thật tánh bèn
được khai tri kiến của Phật.
- Hai là đạo
chủng huệ. Biết tướng riêng biệt “giải
trừ nghi hoặc” của các đạo chủng thuộc
mười pháp giới, mỗi mỗi đều là “thị
tri kiến của Phật”.
- Ba là Nhất Thiết
Trí, biết hết thảy các pháp đều là nhất
tướng tịch diệt. Tịch diệt tức là ngộ
tri kiến của Phật.
- Bốn là Nhất
Thiết Chủng Trí, biết hết thảy các pháp nhất
tướng, tức tịch diệt tướng. Các thứ
hạnh, loại, tướng mạo đều biết, tức
là nhập tri kiến của Phật.
Lại nữa,
đạo huệ đúng lư th́ gọi là Khai. Đạo chủng
huệ như lượng th́ gọi là Thị. Nhất Thiết
Trí lư và lượng chẳng hai th́ gọi là Ngộ. Nhất Thiết Chủng Trí lư và lượng
cùng chiếu th́ gọi là Nhập. Đây cũng là xét theo thật
lư, chẳng phân biệt là cạn hay sâu.
1.3. Ba là xét theo bốn
môn của Viên Giáo để giải thích bốn câu:
- Không môn: Một thứ là không th́
hết thảy đều không, tức là Khai tri kiến của
Phật.
- Hữu môn: Một
thứ có th́ hết thảy đều có, tức là Thị
tri kiến của Phật.
- Diệc Không diệc
Hữu môn (môn vừa có vừa không): Hết thảy đều
là vừa không vừa có, chính là Ngộ tri kiến của Phật.
- Phi Không phi Hữu
môn: Hết thảy chẳng phải có, chẳng phải
không, chính là Nhập tri kiến của Phật.
Chủ thể có thể thông (năng
thông) gồm có bốn môn (tức bốn môn Có, Không, Cũng
Có Cũng Không, Chẳng Có Chẳng Không), đối tượng
được thông (sở thông) chỉ có một. Khai, Thị,
Ngộ, Nhập là năng thông. Cái được biết,
được thấy chính là lư sở thông.
1.4. Xét theo quán tâm
để giải thích: Quán lư Tam Đế (Không, Giả,
Trung) nơi tâm tánh chẳng thể nghĩ bàn. Phép Quán ấy
sáng sạch là Khai. Tuy chẳng thể nghĩ bàn, nhưng có
thể phân biệt tâm “Không, Giả, Trung” rành rẽ, chẳng
sai lạm, th́ gọi là Thị. Tâm Không, Giả, Trung tuy ba
mà chính là một, tuy một mà là ba, cho nên gọi là Ngộ.
Tâm Không, Giả, Trung chẳng phải là Không, Giả, Trung,
nhưng cùng chiếu Không, Giả, Trung, th́ gọi là Nhập.
Đấy là Nhất Tâm Tam Quán, mà chia thành Khai, Thị, Ngộ,
Nhập sai khác.
Đối với
bốn cách giải thích ấy, tùy theo từng địa vị
mà thấy Lư. Mỗi địa vị lại do trí mà lập.
Trí phát sanh từ các môn. Mỗi môn được thành lập
do quán [khác biệt]. Do quán nên thông với các môn. Do các môn
được thông mà thành trí. Do trí được thành lập
mà các địa vị được kiến lập. Do
các địa vị được kiến lập nên thấy
lư. Do thấy Lư nên là Lư Nhất.
2. Chư Phật
Như Lai chỉ giáo hóa hàng Bồ Tát, tức là Nhân Nhất.
3. Các việc
được thực hiện thường v́ một sự,
tức là Hạnh Nhất.
4. Chỉ v́ một
Phật Thừa mà v́ chúng sanh thuyết pháp, tức là Giáo Nhất.
Bốn môn Nhất ấy
(Lư Nhất, Nhân Nhất, Giáo Nhất, Hạnh Nhất) dung hội
trọn khắp quyền lư, quyền nhân, quyền hạnh,
quyền giáo xưa kia, trở thành thật lư, thật nhân,
thật hạnh, thật giáo trong hiện thời. V́ thế,
gọi là “khai Quyền, hiển Thật”, khéo thông
đạt các phương pháp, tức là “chân bí” vậy.
* Phẩm thứ ba là phẩm Thí Dụ
(Aupamya). Do sánh ví với
t́nh huống thật sự, nên gọi là Thí. Răn dạy
ḥng thấu hiểu th́ gọi là Dụ. Mượn điều
này để sánh ví điều kia, nhờ vào chuyện nông
cạn để huấn thị điều sâu xa. Trong phần
Pháp Thuyết Châu thuộc kinh văn trong phẩm trước,
bậc thượng căn đắc ngộ, hàng trung hạ
căn vẫn chưa dứt mê muội. [Đức Phật]
đại bi không ngơi, trí xảo mầu nhiệm vô biên,
mượn chuyện cha con trong thế gian để sánh ví
thầy tṛ nơi đạo xuất thế. Mượn
nhà lửa để sánh ví tam giới; nhờ vào ba loại
xe và một loại xe để thí dụ tam thừa và nhất
thừa. V́ thế, gọi là phẩm Thí Dụ.
* Phẩm thứ
tư là phẩm Tín Giải (Adhimukti). Hàng trung hạ
căn nghe Thí Thuyết Châu, phát khởi tín tâm, sanh khởi
giải ngộ, trừ nghi, hiểu rơ lư, bèn tự trần
thuật thí dụ về đứa con nghèo túng, lănh ngộ
ư chỉ của Pháp Thuyết Châu và Thí Thuyết Châu trên
đây.
* Phẩm thứ
năm là phẩm Dược Thảo Dụ (Oṣadhī). Đất
đai có thể sanh thành, mây mưa có thể nhuần tưới.
Thảo mộc là cái được sanh thành, cái được
nhuần tưới. Cái được sanh, được
nhuận đều hữu dụng, mà dược thảo
có tác dụng mạnh mẽ ví như các điều thiện
hữu lậu đều có thể trừ ác, nhưng vô lậu
là tối thắng. Bốn vị đại đệ tử
trong đại chúng vô lậu dùng thí dụ để
lănh hội thí dụ của Phật, thấu hiểu sâu xa
thánh tâm. V́ thế, đức Phật trần thuật sự
thành tựu của họ để mở rộng thêm.
* Phẩm thứ
sáu là phẩm Thọ Kư (Vyākaraṇa). [Thọ Kư
trong] tiếng Phạn là Ḥa Già La (Vyākaraṇa), phương này dịch là Thọ
Kư (授記), lại c̣n nói
là Thọ Kư (受記), hoặc Thọ
Quyết (受決), Thọ Bôn (受倴). Thọ (授) có nghĩa là trao cho,
c̣n Thọ (受) nghĩa là “nhận
được”. Kư (記) là ghi nhớ sự
việc. Quyết (決) là quyết
định. Bôn (倴)[19]
là đă hết ngu muội. Đấy chính là thọ kư cho bốn
người thuộc trung căn sẽ thành Phật.
* Phẩm thứ bảy
là phẩm Hóa Thành Dụ (Pūrvayoga). Tuy không có mà hiện
hữu trong thoáng chốc th́ gọi là Hóa. Ngăn ngừa kẻ
sai trái, chống lại kẻ đối địch, th́ gọi là Thành. Dùng
điều này để sánh ví Niết Bàn của Nhị Thừa,
[Niết Bàn] ấy do Quyền Trí của Như Lai thiết
lập. Do sức của Quyền Trí, tuy là không mà nói là có.
Dùng giáo để hóa hiện, pḥng ngự Kiến Tư, gọi
là Niết Bàn. Đối với hai thừa Tạng và Thông,
sanh ư tưởng “an ổn, diệt
độ”, chẳng biết đó là hóa hiện. Thông Giáo Bồ
Tát vào rồi lại ra, cũng chẳng biết
đó là hóa hiện. Biệt Giáo từ cửa thành mà đi
qua, chẳng coi đó là cùng cực, cũng chẳng nói
đó là hóa hiện. Chỉ có Viên Giáo hiểu
biết không lầm lẫn, cũng chẳng cần thành nữa. V́ thế nói là “hóa thành”. Đấy chính
là v́ kẻ hạ căn mà nói ra một phen nhân duyên trong
đời trước.
* Phẩm thứ tám
là phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Kư (Pañcabhikṣuśata-vyākaraṇa). Phẩm thứ
chín là phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Kư (Vyākaraṇa), tức là thọ
kư trọn khắp kẻ hạ căn sẽ thành Phật.
Phần Chánh Tông của Tích Môn đến đây là hết,
năm phẩm sau đó thuộc phần Lưu Thông.
* Hai phẩm Pháp
Sư và Hiện Bảo Tháp nói rơ: Hoằng dương kinh sẽ
có công phước sâu nặng. Phần Lưu Thông [nhằm
giảng rơ cho kẻ] chưa nghe [sẽ được biết kinh này có] lợi ích rất lớn. Phẩm
Đề Bà Đạt Đa dẫn chuyện hoằng
dương kinh trong quá khứ, ta và người đều
được lợi ích. Dùng điều đó để
chứng tỏ công đức sâu nặng. Phẩm Tŕ [nhằm
nói] tám vạn Đại Sĩ thành tựu nhẫn lực,
hoằng dương kinh trong cơi này, những người vừa mới được thọ kư sẽ hoằng dương
kinh trong cơi khác. Phẩm An Lạc Hạnh là v́ kẻ ngoại
phàm[20]
sơ tâm ham thích phước thù thắng, do thấy hàng
Thanh Văn sợ hăi, Bồ Tát bị quở trách, tự
xét chính ḿnh sức yếu ớt, vô ích cho chính ḿnh lẫn người,
liền sanh tâm thoái thất. Đức Phật v́ kẻ
như thế bèn nói các hạnh An Lạc. Nương theo
các hạnh ấy để hoằng pháp, sẽ chẳng lo
nguy hiểm, khổ sở. Lại nữa, trong phẩm Pháp
Sư, đức Thích Ca tự nói công đức và phước
báo do hoằng dương kinh, truyền nói lưu thông. Trong
phẩm Hiện Bảo Tháp, Phật Đa Bảo và phân thân
của Phật đều cùng chứng minh, phụ trợ,
khuyên nhủ lưu thông.
* Phẩm thứ
mười là phẩm Pháp Sư (Dharmabhāṇaka). Pháp là quỹ tắc
(軌則, quy tắc, chuẩn
mực). Sư là bậc thầy răn dạy. Pháp tuy có thể
noi theo, nhưng nó chẳng thể tự hoằng truyền,
phải do có người thực hiện. Năm hạng người
thông hiểu kinh đều có thể gọi là Sư. Nêu ra
pháp để thành tựu sự tự hành, đều lấy
diệu pháp làm thầy. Tôn diệu pháp làm thầy th́ tự
hành sẽ được thành tựu. V́ thế nói là “pháp
sư”. Lại dùng diệu pháp để dạy bảo
người khác; v́ thế, nêu ra pháp, gọi pháp ấy
là thầy. Do đó, gọi là pháp sư. Kinh văn [trong
phẩm này] trước là tán thán năm loại pháp sư
có thể tŕ pháp: Một là thọ tŕ, hai là đọc, ba là
tụng, bốn là giải nói, năm là biên
chép.
Sau đó, khen ngợi
pháp được tŕ, và dạy khuôn phép để lưu
thông kinh, tức là “nhập Như Lai thất, trước
Như Lai y, tọa Như Lai ṭa” (vào nhà Như Lai, mặc
áo Như Lai, ngồi ṭa của Như Lai). “Như Lai thất”
là đại từ bi. Nếu là đồng thể [đại
bi] th́ sẽ là Pháp Thân. Nếu hóa độ chúng sanh th́ là giải
thoát. Có thể khiến cho chúng sanh quy về đồng thể
th́ là Bát Nhă. “Áo Như Lai”: Nếu xét theo phương
diện “được che phủ” th́ là Pháp Thân. Nếu xét
theo phương diện “che phủ, trang nghiêm thân” th́ là Tịch
Diệt Nhẫn. Nếu ḥa quang đồng trần nhằm lợi lạc chúng sanh th́ chính là giải
thoát. Ṭa của Như Lai, nếu xét theo chủ thể có thể
ngồi th́ chính là Bát Nhă. Nếu xét theo cái bị ngồi th́
là Pháp Thân. Thân và ṭa ngầm xứng hợp, chính là giải
thoát. Tuy mỗi thứ đều có đủ [tam đức
tức Pháp Thân, Bát Nhă và giải thoát], chỉ là một mà thành
ba, dẫu là ba mà vẫn chẳng phải là ba, há tách ĺa
thành chín đức ư? Do vậy, Bồ Tát thường
quán Niết Bàn. V́ thế, khuyên người hoằng
dương kinh hăy thường quán. Chẳng quán cái tâm hoằng
truyền, sao có thể hiểu cái lư được hoằng
dương? V́ thế, đức Phật dạy “vào nhà
của ta, mặc áo của ta, ngồi ṭa của ta”. Nếu
chẳng có ba pháp ấy, lấy ǵ để hoằng truyền
kinh?
* Phẩm thứ
mười một là phẩm Hiện Bảo Tháp (Stūpasaṃdarśana). Tháp của
Đa Bảo Phật (Prabhūtaratna) từ trong ḷng
đất vọt ra, đại chúng đều trông thấy.
[Từ trong tháp], phát ra âm thanh to lớn để chứng
phần trước, phát khởi phần sau: Nhóm họp [phân
thân của] Phật để mở tháp, ḥng phát khởi
cho phần sau.
* Phẩm thứ
mười hai là Đề Bà Đạt Đa (Devadatta).
Đề Bà Đạt Đa được phương này dịch là
Thiên Nhiệt (天熱), v́ khi ông ta sanh
ra, trời lẫn người đều cảm thấy
nóng bức. Do vậy, đặt tên như thế. [Đề
Bà Đạt Đa] thị hiện dấu tích hành nghịch
hạnh, nhưng vốn là thầy của đức Phật.
Chúng sanh bị phiền năo thiêu đốt nóng bức, cho
nên Bồ Tát thị hiện mắc cùng bệnh để
độ thoát. Kinh văn [trong phẩm này] trước là
nói thuở xưa Đề Bà Đạt Đa truyền dạy
kinh điển, [nhờ đó], đức Thích Ca thành đạo.
Phần kinh văn tiếp đó nói hiện thời ngài
Văn Thù giảng kinh, long nữ thành Phật.
* Phẩm thứ
mười ba là phẩm Tŕ (Utsāha), có thọ tŕ và khuyến
tŕ.
* Phẩm thứ
mười bốn là phẩm An Lạc Hạnh (Sukhavihāra). Do thân chẳng
có nguy hiểm, nên an. Do tâm chẳng có ưu năo, nên lạc.
Do thân tâm an lạc, cho nên có thể
thực hiện. Đó là dựa theo Sự để giải
thích. Mặc áo Như Lai th́ Pháp Thân an. Vào nhà Như Lai th́ tâm
giải thoát vui sướng. Ngồi ṭa của Như Lai
th́ đạo hạnh Bát Nhă tăng tấn. Đấy là
kèm thêm kinh văn của phẩm trước để giải
thích. Trụ nơi địa vị nhẫn nhục, cho
nên thân an; do không nóng vội, cho nên tâm lạc. Quán Thật Tướng
của các pháp, nên có thể tăng tấn.
Đấy là dựa theo kinh văn trong phẩm này để
giải thích.
“An” là bất
động, tức lục đạo sanh tử lẫn Niết
Bàn của thánh nhân Nhị Thừa đều chẳng thể
động. “Lạc” là chẳng thọ (tiếp nhận).
Chẳng tiếp nhận tác dụng rộng lớn của
tam-muội, chẳng lănh thọ năm thứ thọ[21]
của phàm phu, cho đến năm thứ thọ (cảm
nhận) sanh kiến giải trong Viên Giáo cũng đều
chẳng thọ. Hễ có thọ, sẽ có khổ. Chẳng
có thọ, sẽ không có khổ. Chẳng khổ, chẳng lạc,
bèn gọi là đại lạc. Hạnh là chẳng hành, tức
chẳng hành hạnh phàm phu, chẳng hành hạnh của hiền
thánh. V́ thế nói là “chẳng hành”, mà hành Trung Đạo.
V́ thế, gọi là Hạnh. Đấy là giải thích theo
pháp môn này.
Kinh văn chia thành
bốn đoạn, tức là dùng Chỉ, Quán, và từ bi
để hướng dẫn tam nghiệp và thệ nguyện.
Thân nghiệp có Chỉ; v́ thế, ĺa thô nghiệp nơi
thân. Do có Quán, nên chẳng đạt được thân, chẳng
đạt được thân nghiệp, chẳng đạt
được chủ thể có thể ĺa (năng ly). Do
không có ǵ để đạt được, chẳng
đọa phàm phu. Do có từ bi, siêng tu thân nghiệp, lợi
ích rộng răi hết thảy, chẳng đọa vào các
địa vị thuộc Nhị Thừa. Do có Chỉ hạnh,
bèn mặc áo Nhẫn Nhục. Do có Quán hạnh, ngồi ṭa của
Như Lai. Do có từ bi, vào nhà của Như Lai. Hạnh Chỉ
ĺa lỗi, liền thành Đoạn Đức.
Quán hạnh chẳng chấp trước, liền thành Trí Đức. Từ bi
lợi lạc người khác, liền thành Ân Đức. Ân
Đức giúp cho Trí Đức thành tựu, Trí Đức có thể thông đạt
Đoạn Đức. Đó gọi là an lạc hạnh
nơi thân nghiệp. Các thệ nguyện nơi khẩu và ư
cũng giống như thế. Tới đây, phần
Lưu Thông của Tích Môn đă xong.
2. Khoa phán Bổn Môn
* Phẩm thứ
mười lăm là phẩm Tùng Địa Dũng Xuất
(Bodhisattva-pṛthivīvivara-samudgama). Các vị Pháp
Thân từ trong hư không thuộc phương dưới,
chính là các đệ tử của đức Thích Ca trong bổn
thời. Nay họ phụng mạng vọt lên để hoằng
dương kinh. Ngài Di Lặc c̣n chẳng nhận biết.
Do chuyện này mà phát khởi đại giáo “khai cận, hiển viễn”.
* Phẩm thứ
mười sáu là phẩm Như Lai Thọ Lượng (Tathāgatāyuṣpramāṇa), thật sự
chỉ ra cận tích (dấu tích thị hiện trong thời
gần đây, tức sự thị hiện thành Phật
trong thế giới Sa Bà) để hiển lộ đức
Phật đă vốn thành Phật từ thời lâu xa.
Như Lai (Tathāgata) là hiệu chung
của mười phương tam thế chư Phật,
hai Phật, ba Phật, Bổn Phật, Tích Phật. Thọ
(壽) là thọ (受, lănh nhận). Lượng
(量) là nói đến
hạn lượng. Phẩm này nói thẳng vào công đức
của Báo Thân nơi bổn địa, nhưng trí huệ
của Báo Thân ngầm khế hợp cả trên lẫn
dưới, tam thân rành rành trọn đủ. V́ thế, gọi
là phẩm Như Lai Thọ Lượng.
* Phẩm thứ
mười bảy là phẩm Phân Biệt Công Đức (Puṇyaparyāya). Đức Phật
nói thọ lượng, các đệ tử cả ba đời
đều đạt được các thứ lợi ích.
Do nói ra công đức cạn hay sâu khác nhau, nên bảo là
Phân Biệt. Trong phẩm này, có phần thọ kư, [đại
chúng nghe giảng] bèn lănh ngộ, thông hiểu, và lưu thông. Đức
Phật nói phần Trường Hàng nhằm thọ kư chung
về Pháp Thân. Ngài Di Lặc nói kệ để tŕnh bày sự
tiếp nhận, giải ngộ chung.
Từ đấy
trở đi là phần Lưu Thông. Trong phần này, trước
hết nói đến Tứ Tín trong hiện tại, kế
đó nói về ngũ phẩm sau khi diệt độ.
Tứ Tín là:
- Một là mỗi niệm đều
tín giải, nhưng chưa thể diễn nói.
- Hai là giải thích
đại lược về tông thú [của kinh này].
- Ba là rộng v́
người khác giảng nói.
- Bốn là tin sâu,
quán thành tựu.
Ngũ phẩm là:
- Một là trực
tiếp phát khởi cái tâm tùy hỷ.
- Hai là [đă có tâm
tùy hỷ], lại c̣n tự thọ tŕ, đọc tụng.
- Ba là khuyên người
khác thọ tŕ, đọc tụng.
- Bốn là c̣n thêm
kiêm hành Lục Độ.
- Năm là lại
c̣n chánh hành Lục Độ.
* Phẩm mười
tám là phẩm Tùy Hỷ Công Đức (Anumodanāpuṇya-nirdeśa), nói về công
đức do cái nhân thuộc sơ phẩm để khuyên
lưu thông. “Tùy” là tùy thuận sự lư chẳng hai, chẳng
khác. Hỷ là mừng cho ḿnh, mừng cho người. “Thuận
lư” là nghe bổn địa hết sức lâu xa của
Phật, tín thuận chẳng trái nghịch, chẳng hề
vướng mắc mảy may ngờ vực. “Thuận sự”
là nghe nói đức Phật lợi ích chúng sanh khắp ba
đời, theo chiều dọc lẫn chiều ngang (tức
là xét theo không gian và thời gian) đều gồm trọn,
trọn khắp hết thảy mọi nơi, cũng chẳng
có mảy may vướng mắc ngờ vực. Thuận lư
sẽ có công đức chân thật. Thuận sự bèn có
quyền công đức. Vui mừng v́ chính ḿnh tức là có
trí huệ. Vui mừng v́ người khác
là có từ bi. Gộp chung Quyền Trí Đoạn và Thật
Trí Đoạn để nói; v́ vậy, nói là phẩm Tùy Hỷ
Công Đức.
* Phẩm thứ mười
chín là phẩm Pháp Sư Công Đức (Dharmabhāṇa-kānuśamsṃā), nêu ra
công đức của cái quả thuộc sơ phẩm để
khuyên bảo lưu thông. [Cái quả ấy] chính là sáu căn
thanh tịnh.
* Phẩm thứ
hai mươi là phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát
(Sadāparibhūta), dẫn
giải tội phước do tin tưởng hay hủy
báng, nhằm làm chứng để khuyên lưu thông. Trong tâm ǵn giữ sự
giải ngộ chẳng khinh, ngoài là tôn kính chẳng khinh cảnh.
Thân lập hạnh Bất Khinh, miệng tuyên dương
giáo nghĩa bất khinh. Người ta gọi Ngài là Bất
Khinh. V́ thế, có tên là Thường Bất Khinh.
Kinh văn thuộc
ba phẩm rưỡi trên đây chính là phần Khuyến
Tŕ Lưu Thông đă xong. Kế đó, kinh văn gồm tám phẩm, nói về sự phó chúc lưu
thông, lại chia thành ba phần:
- Hai phẩm Như
Lai Thần Lực và Chúc Lụy giảng về chúc lụy
lưu thông.
- Năm phẩm từ
phẩm Dược Vương trở đi, xét theo sự
hóa độ người khác mà khuyên lưu thông.
- Một phẩm Phổ
Hiền là xét theo tự hành để khuyên lưu thông.
* Phẩm thứ
hai mươi mốt là phẩm Như Lai Thần Lực (Tathāgatarddhy-abhisaṃskāra). “Thần”
là chẳng thể lường. “Lực” là vận dụng.
“Chẳng thể lường” tức là cái Thể tự
nhiên sâu xa; vận dụng th́ sức chuyển biến to lớn.
Trong phẩm này, phó chúc pháp sâu, hiện mười thứ đại
lực. V́ thế, gọi là phẩm Thần
Lực.
* Phẩm thứ
hai mươi hai là phẩm Chúc Lụy (Anuparīndana). Chúc (囑) là đức
Phật giao phó, căn dặn. Lụy (累) là làm phiền
các vị tuyên truyền. Đấy là do xét theo thánh chỉ (ư
chỉ của Phật) mà đặt tên như vậy. Lại
nữa, Chúc là cung kính tiếp nhận lời căn
dặn, Lụy là cam tâm [thực hiện] chẳng nhọc
nhằn. Đấy là sự đặt tên phẩm dựa
theo ḷng kính thuận của Bồ Tát. Chúc lại là miệng
vàng của Như Lai căn dặn, Lụy là Bồ Tát sắt
son cung kính lănh nhận, gánh vác. Đó là luận định
xét theo sự truyền trao và tiếp nhận gộp chung lại.
V́ thế, Như Lai vươn ḿnh từ ṭa đứng dậy,
duỗi tay xoa đỉnh đầu [đại chúng], truyền
trao pháp khó được. Đại chúng khom ḿnh, chắp tay,
đúng như lời sắc truyền của đức Thế
Tôn mà phụng hành trọn vẹn, ân cần trao nhận; v́
thế gọi là Chúc Lụy.
* Phẩm thứ
hai mươi ba là phẩm Dược Vương Bồ
Tát Bổn Sự (Bhaisajyarāja-pūrvayoga), nhằm
đôn đốc bậc thầy hoằng pháp hăy nên dốc
cạn thần lực, trọn hết thân mạng để
hoằng dương đại pháp.
* Phẩm thứ
hai mươi bốn là phẩm Diệu Âm (Gadgadasvara). Phẩm thứ
hai mươi lăm là phẩm Quán Thế Âm Phổ Môn (Samantamukha) đều nhằm
khuyên hàng đệ tử thọ pháp hăy nên biết các vị
Đại Sĩ ở phương khác tuân phụng mạng
lệnh mà hoằng dương kinh, hiện trọn khắp
các sắc thân, chẳng có h́nh tướng nhất định.
Chớ nên dùng con mắt của trâu, dê để nh́n, đừng
nên dùng sự hiểu biết phàm tục để suy
lường! Đối với các điều được
nghe, chớ nên sanh ư tưởng coi thường. Sanh ư
tưởng coi thường th́ tâm sẽ chẳng nhiễm
pháp.
* Phẩm thứ
hai mươi sáu là phẩm Đà La Ni (Dhāraṇī). Hoằng
dương kinh trong đời ác, thường gặp nhiều
năo hại, nguy nan. V́ thế, dùng chú để bảo vệ,
khiến cho đạo được lưu thông.
*
Phẩm thứ hai mươi bảy là phẩm Diệu
Trang Nghiêm Vương Bổn Sự (Śubhavyūharājapūrvayoga), nói
duyên trước của bốn vị thánh, hiển lộ công
đức của người hộ tŕ.
* Phẩm thứ
hai mươi tám là phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến
Phát (Samantabhadrotsāhana). Tiếng
Phạn là Bật Thâu Tung Đà[22],
cơi này dịch là Phổ Hiền, c̣n dịch là Biến
Cát (徧吉, tốt lành trọn
khắp). Đạo hàng phục trọn khắp là Phổ
(普), gần với
địa vị tột cùng gọi là Hiền (賢). Khuyến Phát (勸發) là từ ngữ
nói về sự quyến luyến pháp. Ngài ở cơi xa, nghe
trọn vẹn kinh này, từ đầu đến cuối
đă trọn vẹn, muốn khiến cho [đại chúng
trong hiện tại và tương lai] đều cùng tự
hành, giáo hóa người khác, vĩnh viễn chẳng ngớt.
Do vậy, từ phương Đông đến [Sa Bà] để
khuyến phát.
Lại xét chung
đối với sự sanh khởi theo thứ tự trong
phần Lưu Thông thuộc mười một phẩm
rưỡi này, hiện thời nghe kinh sẽ đạt
được hai thứ lợi ích chân thật và tương tự.
Như trong phần trước đă nói: Nếu được
trực tiếp nghe một câu mà sanh
ḷng tùy hỷ, sẽ có công đức c̣n hơn tứ tín trong
hiện tại. Đời vị lai chẳng có Phật, sợ
có kẻ sẽ sanh ḷng nghi ít phước, cho nên nói ngũ
phẩm công đức sau khi đức Phật diệt
độ. Do công đức nơi nhân vi diệu, bí mật,
chẳng rơ ràng, lồ lộ như công đức nơi quả,
cho nên nói phẩm Pháp Sư Công Đức. Nhân và quả cùng
nêu, không ǵ bằng dẫn chứng phân minh. V́ thế nói phẩm Thường Bất Khinh.
Tuy nêu ra chuyện của người trong quá khứ,
chẳng bằng biến hóa trong hiện tại. V́ thế
nói phẩm Như Lai Thần Lực. Tuy tỏ bày thần lực,
chẳng bằng xoa đỉnh đầu phó chúc. V́ thế,
nói phẩm Chúc Lụy. Tuy đă chúc lụy theo lối thông
thường, chẳng bằng nêu bày trọn đủ thuật
trọng yếu xả thân giữ
đạo. V́ thế, nói phẩm Dược Vương. Tuy có thể giáo hóa bằng răn dạy, chẳng bằng
răn dạy kẻ được giáo hóa hăy nên thuận
theo pháp được nghe mà sanh ư tưởng coi đó
như là Phật. V́ thế nói phẩm Diệu Âm và Quán Âm.
Sơ tâm hoằng dương kinh, đă chẳng có thần
lực, hăy nên nương vào sự chế ngự bên trong.
V́ thế, nói phẩm Đà La Ni. Lại cần phải có ngoại hộ (sự hộ tŕ từ bên ngoài), nên
nói các phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương và Phổ Hiền,
liên miên trùng điệp khiến cho đại pháp
được phổ biến rộng khắp.
Lại nữa, Phổ
Hiền lại thỉnh đức Phật chánh thuyết,
khuyến phát [người nghe] tự hành, rồi lại
xin lưu thông để khuyến phát, giáo hóa người
khác. Đức Phật dùng bốn pháp để đáp
chung. Một là được chư Phật hộ niệm.
Hai là gieo trồng các cội đức. Ba là nhập Chánh
Định Tụ. Bốn là phát tâm cứu hết thảy
chúng sanh. Đó chính là ư chỉ chánh yếu để giải
đáp [thắc mắc] về chánh thuyết và lưu thông.
V́ sao vậy? Tuy Phật chẳng thiên lệch, nhưng nếu
có thể tránh xa ác, hướng theo thiện, bỏ mê
hướng về chánh, khai quyền tri kiến, hiển lộ
Phật tri kiến, th́ sẽ xứng hợp thánh tâm,
được chư Phật hộ niệm. Nếu tri kiến
của Phật đă khơi mở, ắt Bát Nhă chiếu
sáng; đó là “gieo trồng các cội đức”, mà
cũng là “nhập Chánh Định Tụ”, chẳng loạn,
chẳng mê muội, chẳng lấy, chẳng bỏ, đó
cũng là “phát tâm cứu chúng sanh”. Hăy nên biết bốn
điều ấy và “khai Quyền hiển Thật” tuy
tên gọi khác nhau, nhưng có cùng một Thể, chẳng
hai, chẳng khác.
Hơn
nữa, “Phật hộ niệm” là Khai tri kiến
của Phật. “Gieo trồng các cội đức” là
Thị tri kiến của Phật. “Phát tâm cứu chúng
sanh” là Ngộ tri kiến của Phật. “Nhập
Chánh Định Tụ” là Nhập tri kiến của Phật.
Lẽ trọng yếu trong Tích Môn được gồm
thâu trong bốn điều ấy. Lại nữa, Tích ắt
có Bổn, từ Bổn mà khai, thị, ngộ, nhập. V́
thế, trong Tích có khai, thị, ngộ, nhập. Nay khai Tích
bèn hiển Bổn. Bổn và Tích chẳng hai, chẳng khác.
Dùng bốn pháp ấy để giải đáp lời thỉnh
về chánh thuyết, ư nghĩa đă rơ ràng. Dùng bốn pháp ấy
để đáp lời thưa hỏi về Lưu Thông,
phương pháp để lưu thông th́ có ba hoặc bốn.
Phát tâm cứu chúng sanh là “vào nhà Như Lai”. Nhập
Chánh Định Tụ và được Phật hộ niệm
là “mặc áo của Như Lai”. Gieo trồng các cội
đức là “ngồi ṭa của Như Lai”. Đó là lẽ
trọng yếu trong chuyện hoằng dương, tuyên nói, tuy có
bốn pháp mà là ba.
Lại nữa, phát
tâm cứu chúng sanh là thệ nguyện an lạc hạnh.
Nhập Chánh Định Tụ là ư an lạc hạnh. Gieo trồng
các cội đức là khẩu an lạc hạnh. Chư Phật
hộ niệm là thân an lạc hạnh. Hăy nên biết bốn
điều sau chính là bốn điều trước. Một
lời đáp tương ứng với hai lời thưa
hỏi, nêu lên bốn điều để gồm trọn
một bộ kinh. Trùng tuyên Pháp Hoa há chẳng vừa hay khéo, vừa mầu nhiệm
ư?
Ngưỡng mong một
câu thấm đượm tâm thần, đều giúp lên bờ
kia. Tư duy, tu tập, vĩnh viễn dùng làm tàu thuyền.
Tùy hỷ thấy nghe, luôn làm chủ và bạn. Dù lấy hay
bỏ, hễ lọt qua tai đều trở thành duyên.
[Người thấy nghe] dù thuận tùng hay chống trái, rốt
cuộc đều nhờ đấy mà giải thoát. Nguyện
vào lúc giải thoát th́ y báo và chánh báo sẽ thường tuyên
nói kinh mầu nhiệm này. Một cơi nước hay một
mảy trần, không ǵ chẳng lợi lạc chúng sanh. Chỉ
nguyện chư Phật ngầm hun đúc, gia bị. Hết
thảy các vị Bồ Tát đều ngầm giúp oai linh, bất
cứ chỗ nào chưa nói kinh này, sẽ đều khuyến
thỉnh [diễn nói]. Phàm chỗ nào có kinh này được
tuyên nói, sẽ đích thân thừa sự, cúng dường.
Một câu, hay một kệ [của kinh này, sẽ đều
giúp cho người thấy nghe] tăng tấn Bồ Đề.
Một sắc, một hương, vĩnh viễn chẳng
thoái chuyển.
Phần tự sau Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán
Xưa kia, ông Lư
Thanh Liên (Lư Bạch)[23]
lên lầu Hoàng Hạc, thấy bài thơ do Thôi Hạo[24]
đă viết, bèn gác bút, do biết ḿnh chẳng thể làm
thơ hay hơn được! Trí Giả đại
sư đích thân chứng Pháp Hoa tam-muội, [kiến giải
của] Quang Trạch[25]
c̣n bị phá, huống hồ là các vị chú giải khác!
Người đời sau lại lũ lượt tŕnh bày
kiến giải, v́ chưa có học thức như Thanh Liên.
Tôi đă viết bộ Phật Đảnh Huyền Văn
(chú giải phần Huyền Nghĩa của kinh Lăng
Nghiêm), các bạn đều khuyên chú giải Pháp Hoa, tôi kiên
quyết dùng ư này để từ chối. Vừa khéo diễn
giảng kinh điển mầu nhiệm tại Tử Vân,
có pháp hữu Đạt Tế đứng trông coi khắc
in kinh, mong tôi tóm tắt ư chỉ chánh yếu của toàn bộ
bản kinh để tạo thuận tiện cho hàng sơ
học. Do vậy, kính dựa theo Huyền Nghĩa và Văn
Cú, trích lục những điều đại cương,
đặt tên là Luân Quán, ngơ hầu người bén mảng
sẽ biết ư vị của toàn thể. Nếu có ai chê
cười tôi chỉ sao lục văn từ trong các sách
đă có từ trước, tôi nào dám chối căi. Ngẫu
Ích Trí Húc kính đề.
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh
Thai Tông Hội Nghĩa
Quyển 1
Đất Cổ Ngô, hậu học
Ngẫu Ích Trí Húc biên soạn
古吳後學蕅益智旭述
Nếu có ai hỏi
Ngẫu Ích rằng:
- Tôi nghe giảng
kinh Pháp Hoa th́ không ai hay hơn tông Thiên Thai. V́ thế, Trí Giả
đại sư sau khi diệu ngộ, dùng tứ vô ngại
biện tài chẳng thể nghĩ bàn để tuyên nói hai
sách Huyền Nghĩa và Văn Cú. Tôn giả Chương An
ghi lại mỗi sách gồm mười quyển, chẳng
khác ǵ ngài A Nan kết tập. Cho tới tôn giả Kinh Khê lại
dùng sách Thích Thiêm để chắp cánh cho Huyền
Nghĩa, viết sách Văn Cú Kư để chắp cánh cho Văn
Cú. Do vậy, Giáo Quán sáng ngời, được xưng tụng
là các vị tổ trung hưng [tông Thiên Thai]. Nương
theo đó để tu chứng, người đắc
đạo như rừng. Dẫu có thánh nhân xuất hiện
lần nữa, cũng chẳng thể nói thêm một chữ
thừa thăi nào! Trước kia, đă từng thấy trong
lời Bạt cho phần Luân Quán của ông có nói: “Ví như
bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hạo đă khiến
cho Lư Bạch phải gác bút”. Tôi cũng khâm phục lời ấy. Nay sao lại
vô duyên cớ viết lách vậy?
Ngẫu Ích thưa:
- Ôi! Đấy cũng là nỗi khổ tâm muôn phần bắt
đắc dĩ của tôi. Tôi ngụ tại Ôn Lăng, viết
Luân Quán là v́ muốn dẫn dụ người học Phật
trong thiên hạ chẳng ai không dốc ḷng nơi tam đại
bộ[26]. Nay bấm ngón tay
đếm đă mười mấy năm rồi! Lưỡi
đớ, tai điếc, chưa thể khuyên được
đôi ba người dốc sức nơi Giáo Quán, họ đều
than thở các bộ sách ấy mênh mông, rườm rà khác
nào nh́n vào biển cả bát ngát. Nếu chẳng bỏ công
trích yếu đại lược đôi chút, các pháp viên
đốn trong các sách Huyền Nghĩa, Thích Thiêm của
ngài Diệu Lạc[27]
sẽ đành đến nỗi cất trên gác cao!
Hỏi: - Nếu là
như vậy, chỉ cần sao lục, trích yếu Văn
Cú và Văn Cú Kư, phỏng theo lệ của sách Diệu Huyền
Tiết Yếu là được rồi, sao lại khoa
phán, đổi văn, lén trộm thêm vào ư ḿnh, gọi
thẳng thừng là Hội Nghĩa vậy?
Đáp: - Đấy
càng là chuyện bất đắc dĩ! Thời cổ,
kinh và chú sớ đều cùng lưu hành, cho nên sớ giải
ư nghĩa của kinh, đối với các điều uyên
áo, chẳng ngại nêu rơ tường tận, sâu xa, c̣n
đối với những chỗ kinh nói rơ ràng th́ chỉ
chia khoa, chỉ điểm đôi chút mà thôi. Người
đời sau gượng ép ghép sớ vào kinh, khiến cho
câu chữ trong kinh văn bị xé lẻ khi đọc. Nay
muốn thuận theo kinh văn để diễn giải ư
nghĩa, mà vẫn chẳng tổn thương huyết mạch
của kinh văn, lẽ nào chẳng chia đại lược
thành từng khoa? Trí Giả đại sư biện tài phô
diễn. Sau khi đại sư thị tịch, ngài Chương
An mới phỏng theo ngài A Nan kết tập. Tuy hoàn toàn phù
hợp ư nghĩa của đại sư [đă dạy], chưa
chắc đă một mực đều là lời văn của
đại sư? V́ thế, văn phong cổ kính, chất
phác, chẳng chú trọng gọt giũa bóng bảy, chỉ có đọc lâu mới biết sự hay khéo. Kẻ
sơ tâm đối trước các tác phẩm ấy đều
mờ mịt, lẽ nào chẳng thay đổi lời
văn đôi chút ư? Tôn giả Kinh Khê vàng ṛng qua trăm lần
luyện, văn lẫn nghĩa đều sâu xa, nhưng
cũng v́ mang hơi hướng thuở Lục Triều[28],
hơi chẳng hợp thời cơ cho lắm. Đối
với chuyện xiển dương, tiết lộ ư chỉ
ngoài lời của đại sư, kẻ luôn theo gịng
đếm chữ sẽ trọn chẳng thể biết
được, há cũng chẳng giống như lén thêm
vào ư kiến của ḿnh ư? Pháp Hoa kinh tạng sâu chắc,
u viễn, Trí Giả đại sư có thể khế hội
cội nguồn kinh ấy, há có thể
tuyên nói trọn hết những điều uẩn tàng
ư? Tôn giả Chương An ghi lại những điểm
trọng yếu, há có thể chép tường
tận trọn hết được ư? Ngay như tôn
giả Kinh Khê có thể xiển dương yếu
nghĩa, cũng có thể phân tích trọn hết các lẽ
khúc chiết ư? Nay tôi dùng điều sở đắc do
suy nghĩ ngàn mối của phàm phu để phù hợp thời
nghi, há v́ sợ bị chê gièm trái nghịch cổ nhân mà chẳng
dốc cạn đôi chút hiểu biết ư? Ai biết
tôi trộm lấy ư nghĩa để ghép thêm vào các khoa th́
chính là người hiểu tôi. C̣n ai chỉ thấy là hội
nghĩa th́ trách tội tôi, đó cũng chỉ hội nghĩa đó
thôi! Ngày mồng Năm giữa tiết Đông năm Kỷ
Sửu (1649)[29], cất bút viết lời tựa.
*
Để giải thích
kinh này, lời văn được chia thành hai phần:
Trước hết là [giải thích] đề mục, sau
đó là nhập văn (dựa theo kinh văn để giải
thích).
* Đề mục
Phần đề
mục gồm có hai phần: Một là tựa đề của
kinh, hai là tựa đề của từng phẩm.
Tựa đề của
kinh đă giải thích đầy đủ như trong sách
Huyền Nghĩa và Thích Thiêm, hoặc đại lược
như trong sách Diệu Huyền Tiết Yếu; ở
đây chẳng nhắc lại nữa. Nay trước hết
giải thích tựa đề của mỗi phẩm,
sau đấy mới nhập văn. Có hai mươi tám tựa
đề của các phẩm, nay trước hết giải
thích phẩm Tự, các phẩm khác th́ khi đến phần
kinh văn [của phẩm ấy] sẽ giải thích.
1. Tự Phẩm đệ nhất (序品第一)
“Tự”
được giải thích là “tường tự” (庠序, dạy bảo)[30],
ư nói giai vị, chủ khách vấn đáp đều
được chỉ vẽ rành rẽ. Tự lại có ba
nghĩa là Thứ, Do, và Thuật. Năm chuyện như thế
được xếp ở đầu kinh, đó là Thứ
Tự (lời tựa trần thuật theo thứ lớp).
Phóng quang, hiện sáu loại tướng lành để làm
đầu mối khởi phát [thuyết giảng kinh này].
Đó là Do Tự (phần tựa nhằm nêu duyên do). Hỏi
đáp nhằm giải trừ điều nghi, dẫn
khởi phần Chánh Thuyết (Chánh Tông), chính là trần thuật
(tức Thuật Tự). Do có ba nghĩa ấy, cho nên gọi [phẩm này]
là Tự.
Phẩm trong tiếng
Phạn là Bạt Cừ (Varga), phương này dịch là Phẩm.
Những điều có ư nghĩa và thể loại giống
nhau tụ tập trong một đoạn; v́ thế, gọi
là Phẩm. Phẩm là do đức Phật tự nêu ra,
như phẩm Tâm Địa trong kinh Phạm Vơng; hoặc do
khi kết tập mà đặt tên, như
Đại Luận trần thuật Đại Phẩm Bát
Nhă vốn chỉ có ba phẩm (một là Tự, hai là Ma Sự,
ba là Chúc Lụy), hoặc do người dịch thêm vào,
như kinh Ma Ha Bát Nhă được ngài La Thập dịch
thành chín mươi phẩm. Nay phẩm Dược Vương
Bổn Sự là do đức Phật tự nói ra, phẩm
Diệu Âm và Quán Âm là người kết tập [đặt
tên phẩm]. Trong Phạn
bản (nguyên văn bằng tiếng Phạn), các phẩm vốn
đă có sẵn từ trước, trọn chẳng phải
do người dịch thêm vào. Do [phẩm Tự] là khởi
đầu của các phẩm, cho nên nói là “đệ
nhất”.
Phần giải
thích kinh văn được chia thành ba:
1) Trần thuật
chung hai môn Bổn và Tích.
2) Nói riêng Tích Môn và
Bổn Môn.
3) Lưu thông của
Tích Môn và Bổn Môn.
Để giải
thích kinh văn, có bốn điều: Một là nhân duyên, hai
là xét theo giáo (ước giáo), ba là Bổn và Tích, bốn là
quán tâm. Từ khởi đầu là “như thị” cho đến kết
thúc, đều dùng bốn ư ấy để giải thích
kinh văn, nhưng nay viết đại lược, hoặc
[chỉ nêu ra] ba, hai, hay một ư, cốt sao thấu hiểu
ư mà thôi! Sở dĩ dùng bốn ư để giải thích là
v́ nói rộng th́ khiến cho người trí không vui thích, nói
đại lược th́ ư chẳng trọn. Tôi nay nói theo
cách chiết trung để dễ hiểu nghĩa.
Nhân duyên c̣n gọi
là Cảm Ứng. Chúng sanh nếu chẳng phải là căn
cơ, dẫu thân cận mà chẳng thấy. Do sức của
thiện căn và ḷng từ, dẫu cách xa
mà tự thông, cảm ứng đạo giao! V́ thế, dùng
nhân duyên để giải thích. Phàm chúng sanh cầu giải
thoát, căn cơ ấy đông nhiều. Thánh nhân ứng hiện,
cũng ứng hiện thật nhiều. Nghĩa ấy càng
rộng, chiết trung như thế nào? Đại Kinh[31]
dạy: “Do sức thiện căn của ḷng Từ có vô lượng
môn, nói đại lược th́ là thần thông”. Thần thông
chính là tên gọi khác của Ứng. Đối ứng với
Cảm bèn gọi là Ứng. Dẫu lập ra nhiều thứ
ứng, chẳng ra ngoài ḷng Từ. Cầu giải thoát tuy
nhiều, há vượt ngoài Cảm? V́ thế, hai chữ
Cảm Ứng chiết trung sẽ hiểu rơ ngay.
Mười
phương cơ cảm rộng dường hư không,
giáo pháp mênh mông, như thế nào là chiết trung? Nay luận
theo quốc độ Sa Bà, dùng âm thanh làm Phật sự th́
cửa cam lộ sẽ mở. Nương theo tiếng
để giáo hóa, giải thích, hoàn toàn dùng kim khẩu làm gốc,
chẳng ít, chẳng nhiều, cách nói chiết trung đă rơ
ràng. Phàm ứng cơ lập giáo th́ giáo có quyền, thật,
cạn, sâu khác nhau.
Từ Bổn mà đối
ứng với Tích th́ do có nhiều căn cơ, nên giáo sai
khác, Tích ắt rộng lớn, chiết trung như thế
nào? Nay bỏ qua ngón tay [chỉ mặt trăng], giữ lấy
vầng trăng, quên Tích, t́m Bổn. Tích tuy rộng, nhiều,
luận theo Bổn th́ duy nhất, chiết trung đă rơ ràng
vậy! Nếu truy tầm theo Tích th́ Tích rộng lớn, chỉ
tự nhọc nhằn. T́m Bổn th́ Bổn cao, cao chẳng
thể cùng cực. Như đếm vật báu của
người khác, chính ḿnh chẳng có nửa đồng. Chỉ
quán tâm ḿnh ḿnh cao rộng, đả động sự cảm
ứng vô cùng của bậc thánh (Phật, Bồ Tát). Do căn cơ mà cảm ḥng chính ḿnh
được lợi. V́ thế, dùng quán tâm để giải
thích.
Chứng xét theo nhân
duyên là như phẩm Phương Tiện đă nói: “Thập
phương chư Phật, vị nhất đại sự
nhân duyên cố, xuất hiện ư thế” (Mười
phương chư Phật, v́ một đại sự nhân
duyên mà xuất hiện trong cơi đời).
Chứng mà xét theo
giáo th́ như phẩm Phương Tiện đă dạy: “Dĩ
chủng chủng pháp môn tuyên thị ư Phật đạo”
(dùng các thứ pháp môn tuyên nói, chỉ bày Phật đạo).
Đại Kinh nói: “Thô ngôn, cập nhuyễn ngữ, giai
quy Đệ Nhất Nghĩa” (Lời thô, lời mềm
mỏng, đều quy vào Đệ Nhất Nghĩa).
Chứng xét theo Bổn
Tích th́ như phẩm Thọ Lượng đă nói: “Kim
thiên, nhân, A Tu La, giai vị ngă thiểu xuất gia, khứ
Già Da thành bất viễn, đắc Tam Bồ Đề,
nhiên ngă thật thành Phật dĩ lai, vô lượng vô biên
A-tăng-kỳ kiếp, dĩ tư phương tiện
đạo lợi chúng sanh” (Nay trời, người, A Tu
La đều nói ta xuất gia chẳng bao lâu, cách thành Già Da chẳng
xa, đắc Chánh Giác, nhưng kể từ lúc ta thật sự
thành Phật đến nay đă là vô lượng vô biên
A-tăng-kỳ kiếp, dùng phương tiện ấy
để hướng dẫn, lợi ích chúng sanh). Phẩm
Ngũ Bách Thọ Kư nói: “Nội bí Bồ Tát hạnh, ngoại
hiện thị Thanh Văn. Thật tự tịnh Phật
độ, thị chúng hữu tam độc. Hựu hiện
tà kiến tướng, ngă đệ tử như thị,
phương tiện độ chúng sanh” (Trong ẩn hạnh
Bồ Tát, ngoài hiện làm Thanh Văn. Thật tịnh cơi Phật
ḿnh, thị hiện có tam độc. Lại hiện tướng
tà kiến, đệ tử ta như thế, phương
tiện độ chúng sanh). Đó chính là đối với
thầy và tṛ đều nói Bổn Tích.
Chứng xét theo quán
tâm th́ như phẩm Thí Dụ nói: “Nhược nhân tín nhữ
sở thuyết, tức vi kiến ngă, diệc kiến
ư nhữ, cập tỳ-kheo tăng, tịnh chư Bồ
Tát” (nếu có ai tin lời ông nói th́ chính là thấy ta,
cũng thấy ông, và các tỳ-kheo tăng cùng với các Bồ
Tát). Hăy nên biết: Đối với điều đă
được nghe, tâm chắc thật quan sát, từ trong
tín tâm, được thấy Tam Bảo. “Nghe nói” là Pháp
Bảo. “Thấy ta” là Phật Bảo. “Thấy các
ông” là Tăng Bảo.
Nay lại dựa
theo ba đoạn (Tự Phần, Chánh Tông, Lưu Thông)
để nêu bày tướng nhân duyên. Chúng sanh từ lâu xa
đă được Phật thiện xảo dạy cho
gieo nhân duyên nơi Phật đạo. Trong khoảng thời
gian ấy, mỗi khi gặp gỡ, Ngài lại dùng phương
tiện khác lạ để giúp hiển thị Đệ
Nhất Nghĩa ḥng thành thục họ. Ngày nay tuôn mưa
hoa, chấn động cơi đất, dùng sự diệt độ
của Như Lai để diệt độ họ. Lại
nữa, đă gieo [cái nhân thành Phật] từ lâu xa, [cái nhân ấy]
đă chín muồi trong quá khứ, đời gần đây
được giải thoát, cho nên từ dưới đất
vọt lên. Lại nữa, gieo nhân trong khoảng trung gian, bốn
vị (sữa, lạc, sanh tô, thục tô) đă chín muồi,
thoát khỏi thành Vương Xá, nay bèn khai, thị, ngộ,
nhập.
Lại nữa,
đời này gieo nhân, đời kế tiếp chín muồi,
đời sau nữa được giải thoát. Đắc
độ trong vị lai là dựa theo ư này để nói.
Đối với mỗi đoạn, đều nói ba đời,
hoặc chín đời gieo nhân, chín muồi, giải thoát. Do
có các nhân duyên như thế đó, cho nên có Tự Phần.
Đại chúng thấy tướng lành hy hữu, bèn ngưỡng mộ,
khâm kính, khát ngưỡng, muốn nghe đạo trọn
đủ. Đức Phật bèn thừa dịp lập
cách hóa độ, khai thị ngộ nhập tri kiến của
Phật. V́ thế có phần Chánh Thuyết. Không chỉ
đại chúng thuở ấy đạt được lợi
ích to lớn, năm trăm năm sau đều được
thấm nhuần diệu đạo. V́ thế có Lưu
Thông Phần. Đó chính là dựa theo ba đoạn để
chỉ bày giáo tướng.
Phần Tự này
chẳng v́ trời, người hướng đến sự
thanh cao mà tạo Tự, chẳng v́ Nhị Thừa tiểu
đạo mà tạo Tự, chẳng v́ từ ngay nơi
Không thông với Tam Đế mà tạo Tự, chẳng
riêng v́ pháp Bồ Tát mà tạo Tự, mà chính là v́ “chánh trực
xả phương tiện, chỉ nói vô thượng Phật
đạo” mà tạo Tự. Phần Chánh Tông chẳng v́
chỉ bày thế gian mà chánh thuyết, chẳng v́ cái trí phân
tích [leo lét] như ánh sáng đom đóm mà chánh thuyết, chẳng
v́ chỉ bày Thể Pháp Trí giống như đèn đuốc
mà chánh thuyết, chẳng v́ Đạo Chủng Trí giống
như tinh tú và mặt trăng mà chánh thuyết, mà v́ chỉ
bày Nhất Thiết Chủng Trí như ánh sáng mặt trời
mà chánh thuyết. Phần Lưu Thông chẳng phải lá
dương, trâu gỗ, ngựa gỗ mà lưu thông, chẳng
phải lưu thông bán tự, chẳng phải lưu thông cộng
tự, chẳng phải lưu thông biệt tự, mà thuần
là lưu thông viên măn pháp măn tự trong Tu Đa La.
Kế đó, xét
theo ba đoạn chỉ bày Bổn Tích. Trong kiếp lâu xa,
khi hành Bồ Tát đạo, đă tuyên
dương kinh Pháp Hoa của vị Phật quá khứ,
cũng có ba phần thượng, trung, hạ ngữ,
cũng có Bổn và Tích, nhưng Phật Phật đối
ứng nhau, cho nên vô cùng. Nay riêng lấy chuyện đức
Thích Ca thoạt đầu thành Phật đă nói ra kinh Pháp
Hoa gồm ba phần thượng, trung, hạ ngữ,
chuyên gọi [kinh Pháp Hoa thuở đó] là Thượng,
chuyên gọi [chuyện trong thuở đó] là Bổn. V́ lẽ
nào? Do thành Phật lúc ban sơ, thuyết pháp thuở ban
đầu. Trong chặng giữa, bèn tiến hành
giáo hóa, giúp các vị Phật Đại Thông Trí Thắng, Nhiên
Đăng v.v… tuyên dương ba phần của Pháp Hoa, chỉ
gọi đó là Trung, là Tích. V́ lẽ nào? Trước đó
đă có Thượng, đă có Bổn. Hiện thời, tại
thành Vương Xá nói ba phần [của kinh Pháp Hoa] th́ gọi
là Hạ, gọi là Tích. Cho tới vị lai, vĩnh viễn
nói ra ba phần, vẫn chỉ có [ba phần kinh Pháp Hoa
được nói] vào lúc ban sơ là Thượng, là Bổn.
Ví như cây to, tuy có ngàn cành, vạn lá, luận về
căn bản th́ cùng đều phát xuất từ một cội,
chẳng thể nào truyền thừa cho nhau mà không chỉ về
một cội ấy.
Kế đó, dựa
theo ba đoạn (Tự, Chánh Tông, Lưu Thông) để
nêu bày chuyện quán tâm tướng. Xét theo cái tâm của chính
ḿnh mà luận bàn ba phần Giới, Định, Huệ. Tu
hành th́ Giới đầu tiên, Định là chặng giữa,
Huệ sau cùng. Nếu xét theo pháp môn th́ Huệ là Bổn, Giới
và Định là Tích. Lại nữa, Giới, Định,
Huệ, mỗi môn đều có ba phần. Ba phần của
Giới th́ trước hết là tiền phương tiện,
chặng giữa là bạch yết-ma, cuối cùng là hoàn tất.
Ba phần của Định th́ thoạt đầu là hai
mươi lăm duyên, giữa là chánh quán, sau cùng là trải
qua các duyên. Lại nữa, khéo “nhập, xuất,
trụ” là ba phần của Định. Ba phần của Huệ
th́ Không là phần Tự, Trung là Chánh Tông, Giả là Lưu
Thông. Đă dựa theo ba phần để chỉ bày bốn
loại tướng th́ phải nên sử dụng nghĩa
này. Từ đầu
là “như thị” cho đến rốt
cuộc “tác lễ nhi
khứ” (làm lễ rời
đi), đều dùng
bốn ư (nhân duyên, xét theo giáo tướng, Bổn Tích, và
quán tâm) để giải thích kinh văn. Hành giả hăy khéo
suy lường. Bởi lẽ, nếu thoạt đầu,
chẳng dùng nhân duyên để giải thích th́ vẫn chẳng
khác ǵ kiến chấp của ngoại đạo! Dùng nhân
duyên để nói th́ sẽ thông suốt, thông với toàn thể
sự giáo hóa trong một đời đức Phật. Cần
phải biết nay [luận định
về] Tứ Tất Đàn nơi đại sự [xuất
thế của đức Phật], chứ chẳng phải là cảm
ứng nào khác. Khai hiển Tứ Tất Đàn th́ chẳng
có ǵ ở ngoài một đạo. Tứ Tất Đàn lâu xa,
các kinh khác đều chẳng có. Áp dụng Tứ Tất
Đàn vào quán tâm th́ một phép Quán thâu nhiếp trọn các
phép Quán khác. Dùng bốn phép Tứ
Tất Đàn ấy, sẽ thông suốt từ đầu đến cuối.
Đối với
ba điều như xét theo giáo, Bổn Tích v.v… cũng cần
phải trần thuật trọn khắp. Nếu kế
đó, chẳng xét theo giáo để giải thích, sẽ chẳng
thể biện định pháp nào là Thiên, Tiểu. V́ thế,
dùng bốn pháp hay tám pháp để giản lược
khơi mở, phế trừ v.v… Đối với các giáo
pháp trước kia th́ giáo pháp hiện thời (tức giáo
nghĩa trong kinh Pháp Hoa) mới là chân thật; hết thảy
những ǵ có thể diễn nói không
c̣n danh xưng khác nữa. V́ thế, cần phải nói rơ
để phô tỏ kinh điển mầu nhiệm này.
Nếu chẳng
dùng điều thứ ba là Bổn Tích để giải
thích, ai biết được sự siêu xuất? Giáo pháp
trong một thời bàn về thân và cơi, chặng giữa và
ngày nay, không ǵ chẳng nhằm lập bày Tích Môn. Chỉ ra
Đại Thông [Trí Thắng Phật trong nhiều kiếp
lâu xa về trước] giống như [chuyện mới vừa cách đây] hai ngày, [chúng sanh] trước là
đă không thấu hiểu giáo nghĩa kín mật, lại
c̣n mê muội đối với thân nơi Tích Môn, đến
nay [do nghe thọ mạng vô lượng của Như Lai] mới
trừ khử [sự mê chấp ấy]. V́ họ vẫn
c̣n mê muội ôm cây đợi thỏ, nếu chẳng dùng
điều thứ tư là quán tâm để giải thích, sẽ
dùng ǵ để biện định công năng giáo hóa do
kinh diễn nói, dùng ǵ để thực hiện cội gốc
tu hành đă thành lập từ lâu? V́ thế, mỗi một
câu nhập vào tâm thành quán, quán ứng hợp với kinh, chẳng
phải là đếm của báu cho người khác, mới
biết một bộ [Ma Ha] Chỉ Quán chính là công cụ
để tu Pháp Hoa tam-muội. Gồm trọn bốn
nghĩa ấy th́ mới có thể hiển thị đại
lược chỗ chỉ quy của cả một bộ
kinh. Hăy nên biết [chỉ dùng] hai hay ba điều [trong bốn
ư ấy để giải thích] th́ vẫn c̣n đại
lược, nếu chỉ dùng một điều để
giảng giải th́ làm sao được nữa? V́ thế,
đối với mỗi một câu đều có bốn
nghĩa ấy, cho nên câu nào [trong kinh này] cũng đều
khác với các giáo pháp khác!
1.1. Phần Thông Tự trần thuật
Bổn Môn và Tích Môn
Gồm hai phần:
Một là nơi chốn nghe pháp, hai là đại chúng nghe giảng
và phụng tŕ.
1.1.1. Nơi chốn nghe pháp
(Kinh) Như thị
ngă văn, nhất thời Phật trụ Vương Xá thành,
Kỳ Xà Quật sơn trung.
(經)如是我聞。一時佛住王舍城耆闍崛山中。
(Kinh: Tôi nghe
như thế này, một thời đức Phật trụ
tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật).
“Như thị”
là nêu ra cái Thể của pháp được nghe. “Ngă
văn” là người có thể tŕ. “Nhất thời”
[là lúc] nghe và tŕ ḥa hợp, chẳng phải là thời nào
khác. “Phật” là nói đến lúc được nghe từ
Phật. “Vương thành Kỳ sơn” (thành
Vương Xá, núi Kỳ Xà Quật) là chỗ nghe và thọ
tŕ, cùng với “dữ đại tỳ-kheo” (và các
đại tỳ-kheo) là đại chúng nghe và thọ tŕ. V́
thế, năm chuyện ấy được đặt ở
đầu các kinh.
1.1.1.1. Như Thị
1.1.1.1.1. Giải thích Như Thị
theo nhân duyên
Đầu các kinh của
tam thế chư Phật đều đặt chữ
Như Thị. Đạo của chư Phật giống
nhau, chẳng tranh chấp với cơi đời. Đó là Thế
Giới Tất Đàn. Đại Luận (Đại Trí
Độ Luận) viết: “Nêu lên thời và nơi chốn, khiến cho kẻ khác sanh ḷng tin”. Đó là Vị
Nhân Tất Đàn. Lại nhằm đối trị, phá trừ
hai chữ A và Âu của ngoại đạo, [hai chữ
đó] chẳng Như, [mà cũng] chẳng Thị (A là
không, Âu là có. Kinh của hết thảy ngoại đạo
lấy hai chữ ấy làm đầu, bởi họ chấp
trước hai điều ấy là cơ bản. Những
điều được diễn giảng trong kinh của
họ chẳng ra ngoài hai chữ ấy). Lại nữa,
Như Thị là từ ngữ tín thuận. Tín th́ sẽ lănh
hội Lư được nghe. Thuận th́ đạo thầy
tṛ được thành tựu. Đó chính là Đệ Nhất
Nghĩa Tất Đàn.
1.1.1.1.2. Giải thích Như Thị
theo giáo tướng
Xét theo giáo để
giải thích [Như Thị], do các kinh bất đồng, Như Thị cũng
khác; chớ nên dùng một cái ch́a khóa để mở các
cánh cửa! Lại nữa, kinh của Phật nói ra và [kinh
do] ngài A Nan trùng tuyên chẳng khác, đó là Như. Năng
thuyên (người nói kinh, tức Phật) diễn nói pháp sở
thuyên (pháp được tuyên nói) là Thị. Nay A Nan truyền
lại kinh văn, đức Phật nói như thế nào,
Ngài sẽ diễn nói đúng như thế đó, chẳng
thể dùng kinh văn thuộc Tiệm Giáo để truyền
pháp chân thật thuộc Đốn Giáo, hoặc dùng
kinh văn thuộc Thiên pháp để diễn nói pháp chân thật
thuộc Viên Giáo. Nếu truyền lại hoặc diễn
nói sai lầm, th́ kinh văn sẽ chẳng phải là
Như. Văn chẳng Như th́ Lư chẳng Thị.
Nghĩa này khó hiểu, cho nên phải xét kỹ thêm. Nếu
nói: Đức Phật dạy rơ Tục Đế có văn
tự, Chân Đế chẳng có văn tự. A Nan truyền
lại văn tự thuộc về Tục Đế, chẳng
khác lời đức Phật đă nói. V́ thế, gọi
là Như. Nhờ vào văn tự thuộc về Tục Đế
mà lănh hội lư Chân Đế, nên gọi là Thị. Đấy
chính là Như Thị được nêu ra đầu tiên
trong các kinh thuộc Tam Tạng.
Nếu nói: Đức
Phật giảng Sắc chính là Không, Không chính là Sắc, Sắc
Không, Không Sắc, chẳng hai, chẳng khác. “Không và Sắc
chẳng khác” là Như. Từ ngay nơi Sự chính là
Chân, đó là Thị. A Nan truyền kinh văn của đức
Phật chẳng sai khác, đó là Như. Năng Thuyên chính là
Sở Thuyên, đó là Thị. Đó chính là ư nghĩa v́ sao
Như Thị được đặt ở đầu các
kinh thuộc Thông Giáo.
Nếu nói đức
Phật dạy sanh tử là hữu biên, Niết Bàn là vô
biên, xuất sanh tử hữu biên, nhập Niết Bàn vô
biên. Xuất Niết Bàn vô biên, nhập Trung Đạo. A Nan
truyền pháp “xuất Hữu, nhập Vô, xuất Vô, nhập
Trung” này chẳng khác lời Phật dạy, đó là
Như. Từ cạn tới sâu, không ǵ chẳng phải là
Thị. Đấy
chính là Như Thị ở đầu các kinh thuộc Biệt
Giáo.
Nếu nói đức
Phật giảng sanh tử chính là Niết Bàn, cũng chính
là Trung Đạo, vậy th́ Niết Bàn há chẳng phải
là Trung Đạo ư? Chân Như pháp giới, thật tánh,
Thật Tế trọn khắp
hết thảy mọi nơi, không ǵ chẳng phải là Phật
pháp. A Nan truyền điều này chẳng khác lời Phật
dạy, v́ thế gọi là Như. Như như bất
động, cho nên gọi là Thị. Đấy chính là
Như Thị ở đầu các kinh thuộc Viên Giáo.
1.1.1.1.3. Giải thích Như Thị
theo Bổn Tích
Xét theo Bổn Tích
để giải thích Như Thị, th́ ba đời
mười phương, ngang dọc đều như thế.
Quá khứ xa vời vợi, hiện tại chầm chậm
[trôi qua], vị lai vĩnh viễn, thảy đều
như thế, chỗ nào là Bổn, chỗ nào là Tích? Lại
xét Như Thị lúc đức Thích Tôn tối sơ thành
đạo, đó là Bổn. Như Thị ở đầu
các kinh khi Ngài thị hiện thành Phật trong chặng giữa
và hiện thời đều là Tích. Lại nữa, Như
Thị do A Nan truyền lại là Tích, c̣n Như Thị khi
đức Phật nói chính là Bổn. Lại nữa, Như
Thị do thầy lẫn tṛ cùng thông đạt, chẳng phải
là khởi đầu hay hiện tại, mà cũng chẳng
phải chặng giữa, đó là Bổn; c̣n Như Thị
trong khoảng giữa và hiện tại th́ chính là Tích.
1.1.1.1.4. Giải thích Như Thị
theo quán tâm
Dùng quán tâm để
giải thích [Như Thị] th́ quán các nghĩa Như Thị
theo Tất Đàn, giáo tướng, Tích Môn v.v… như trên
đều là các pháp sanh bởi nhân duyên. Duyên sanh (sanh bởi
duyên) th́ là Không, tức là Thông Quán. Nhân duyên chính là Không, là Giả,
tức là Biệt Quán. Hai phép Quán ấy là phương tiện
đạo để nhập Trung Đạo Đệ Nhất
Nghĩa, cùng chiếu hai Đế (Chân Đế và Tục
Đế), vừa là Thông Quán, vừa là Biệt Quán. Trên
đây đều là Trung Đạo, chẳng phải Thông
Quán, chẳng phải Biệt Quán.
Kinh văn dạy: “Nhược
nhân tín nhữ sở thuyết, tức đắc kiến
ngă, diệc kiến ư nhữ cập tỳ-kheo tăng,
tịnh chư Bồ Tát” (nếu ai có thể tin lời
ông nói th́ chính là được thấy ta, mà cũng thấy
ông và tỳ-kheo tăng cùng các vị Bồ Tát); đấy
là phần kinh văn nói rơ về quán hạnh vậy. “Tín”
là luận về căn cơ, c̣n Kiến th́ chính là Ứng, tức nhân duyên. Tín lại có cạn hay sâu,
Kiến có Quyền và Thật, đủ mọi thứ phân
biệt bất đồng. Đấy chính là xét theo giáo. Lại
nữa, tin kinh văn của Pháp Hoa, sẽ thấy Bổn
nơi Thật Tướng. Nếu thấy sự ứng
hóa của Thân Tử (ngài Xá Lợi Phất), sẽ thấy
Bổn của Ngài là Long Đà Phật (ngài Chân Đế
nói ngài Tu Bồ Đề là Đông phương Thanh Long
Đà Phật. Lại dẫn kinh Đại Bảo Tích nói
ngài Xá Lợi Phất thành Phật, hiệu là Kim Long Đà.
Chưa kiểm chứng [điều này]). Nếu thấy vị
Thích Tôn mới thành Phật, cũng sẽ thấy vị Phật
đă thành đạo trước đó đă lâu. Nếu thấy
một ngàn hai trăm tỳ-kheo và tám vạn Bồ Tát,
cũng sẽ thấy Bổn.
Lại nữa, nghe
kinh, tâm tin tưởng chẳng nghi ngờ, nhận biết
tín tâm ấy sáng sạch, tức là “thấy Phật”.
Huệ số (các tâm sở thuộc về Huệ)
phân minh là “thấy ngài Thân Tử”. Các pháp số
phân minh là “thấy các tỳ-kheo”. Tâm từ bi thanh tịnh
là “thấy các vị Bồ Tát”.
Bốn lượt
giải thích Như Thị đă xong.
1.1.1.2. Ngă Văn
1.1.1.2.1. Giải thích Ngă Văn theo nhân duyên
Giải thích Ngă
Văn theo nhân duyên th́ có khi gọi điều này là Văn
Như Thị v́ kinh vốn bất đồng, trước
sau cùng nêu[32]. Đại Luận
chép: “Nhĩ căn chẳng hư hoại, hễ có tiếng
th́ có thể nghe”. Dấy ḷng muốn nghe, các duyên ḥa hợp
[bèn có thể nghe], cho nên nói là Ngă Văn.
Hỏi: - Phải
nên nói là Nhĩ Văn (tai nghe), sao lại nói là Ngă Văn?
Đáp: - Ngă là chủ
thể của tai. Nêu ra Ngă sẽ thâu nhiếp các duyên. Đấy
là giải thích [Ngă Văn] theo Thế Giới [Tất
Đàn].
Ngài A Nan thăng ṭa,
nói là “ngă văn”, đại chúng đều buồn
khóc, giống như trông thấy Như Lai, nay xưng là Ngă
Văn. Lại nữa, ngài Văn Thù kết tập, trước
xướng đề mục (tên gọi của
bộ kinh), kế đó nói “như thị ngă văn”, đại
chúng khi ấy đều buồn khóc. Cả hai trường
hợp đều khiến cho [người nghe] sanh ḷng quyến
luyến, hâm mộ điều thiện. Đấy là giải
thích theo Vị Nhân [Tất Đàn].
Thân A Nan
tương tự thân Phật, chỉ thấp hơn Phật
ba ngón tay (một ngón tay là hai tấc), đại chúng ngờ
là đức Thích Ca lại xuất thế, hoặc [ngờ
A Nan] là Phật từ phương khác đến, hoặc
[ngờ rằng] A Nan đă thành Phật. Nay Ngài xướng
“ngă văn”, ba mối nghi đều dứt. Đó là
giải thích theo Đối Trị [Tất Đàn].
A Nan là người
đang học đạo, thuận theo thế tục,
xưng là “ngă văn”. Trong Đệ Nhất Nghĩa,
chẳng có Ngă, chẳng có Văn.
Các lời giải
thích [“ngă văn”] từ xưa đến nay đều
là nương theo nghĩa nhân duyên. Nương theo nhân duyên
[để giải thích] th́ ba nghĩa trước c̣n
chưa trọn vẹn, huống hồ Đệ Nhất
Nghĩa. Huống hồ xét theo giáo, Bổn Tích, quán tâm
ư?
1.1.1.2.2. Giải thích Ngă theo giáo
tướng
Kế đó, xét
theo giáo [để giải thích Ngă Văn] th́ Thích Luận[33]
nói phàm phu do ba thứ mà xưng là Ngă, tức là ngă kiến,
ngă mạn, và danh tự Ngă được lưu truyền
trong cơi đời. Hàng hữu học chẳng có ngă kiến,
chỉ có hai thứ sau. Hàng vô học hoàn toàn chẳng có ngă
mạn, chỉ có một thứ [là danh tự Ngă]. Khi ngài A
Nan nghe pháp, vẫn thuộc vào địa vị hữu học;
nhưng Ngài chẳng có ngă kiến và có thể chế phục
ngă mạn, chỉ thuận theo danh xưng thế tục,
cho nên xưng là Ta chẳng phạm lỗi ǵ! Đấy là
dùng ư nghĩa trong Tam Tạng (Tạng Giáo) để giải
thích Ngă.
Thập Trụ Tỳ
Bà Sa Luận[34] viết: “Bốn
câu xưng là ngă đều đọa vào tà kiến. Trong
chánh pháp của Phật, chẳng có Ngă th́ ai nghe”. Đấy
là dùng ư nghĩa của Thông Giáo để giải thích.
Đại Kinh chép:
“A Nan đa văn sĩ, tri ngă vô ngă nhi bất nhị,
song phân biệt ngă vô ngă” (A Nan là bậc đa văn, biết
ngă và vô ngă chẳng hai, cùng phân biệt ngă và vô ngă). Đó là
dùng ư nghĩa của Biệt Giáo [để giải thích
Ngă] (bất nhị là đăng địa (từ Sơ
Địa trở lên), song chiếu là Địa Tiền[35]).
Lại nữa, ngài
A Nan biết ngă và vô ngă bất nhị, nhưng phương
tiện làm thị giả, truyền tŕ trí huệ
vô ngại của Như Lai, dùng âm thanh tự tại để
truyền Quyền, truyền Thật, có ǵ là chẳng thể?
Đó là dùng ư nghĩa Viên Giáo để giải thích Ngă.
Lại nữa, kinh
Chánh Pháp Niệm Xứ nói có ba vị A Nan:
- A Nan Đà, phương này dịch là
Hoan Hỷ, tŕ Tiểu Thừa Tạng.
- A Nan Bạt
Đà, phương này là dịch
Hoan Hỷ Hiền, thọ tŕ Tạp Tạng.
- A Nan Sa Già, phương này dịch là
Hoan Hỷ Hải, tŕ Phật Tạng.
Kinh A Hàm c̣n nói ngài
Điển Tạng A Nan tŕ Bồ Tát Tạng.
Đó là nói một
người mà có trọn đủ tứ đức để
truyền tŕ bốn pháp môn, ư nghĩa tự hiển lộ.
1.1.1.2.3. Giải thích Ngă theo Bổn
Tích
Nếu chưa
lănh hội, tiến nhập, th́ có thể nói “A Nan do tùy thuận
thế tục mà nói là Ngă”. Nếu nêu ra Tích để hiển
Bổn, th́ Ngài đồng thời phát tâm [với Phật
Thích Ca] ở chỗ Không Vương Phật, nhưng phương tiện thị hiện
làm người truyền pháp, có ǵ là chẳng thể?
1.1.1.2.4. Giải thích Ngă theo Quán Tâm
Quán tâm là quán các pháp
được sanh bởi nhân duyên, tức Không, tức Giả,
tức Trung. Tức Không là Ngă mà vô ngă. Tức Giả là phân
biệt Ngă và Vô Ngă. Tức Trung là chân diệu ngă.
Bốn lượt
giải thích Ngă đă xong.
1.1.1.3. Giải thích chữ Văn
Kế đó, giải
thích chữ Văn.
Giải thích theo nhân duyên th́ ngài A Nan sanh trong
đêm đức Phật đắc đạo, hầu Phật
chỉ hai mươi mấy năm. Lúc Ngài chưa hầu
Phật, đương nhiên là chẳng nghe [các kinh do đức
Phật đă nói trước đó]. Đại Luận viết:
“Khi ngài A Nan kết tập pháp, tự nói: - Đức Phật
chuyển pháp luân lần đầu tiên, lúc đó, tôi không thấy”.
Do lần lượt nghe [từ người khác truyền
lại] như thế, nên biết không phải kinh nào Ngài
cũng đều [đích thân] nghe, [mà có những kinh Ngài] lần
lượt được nghe từ người khác. Do tự
ḿnh và người
khác sai khác, cho nên nghe và chẳng nghe sai khác. Kinh chưa
được nghe th́ ưa muốn nghe, đối với
kinh đă được nghe bèn sanh hoan hỷ. Đó chính là
Thế Giới Tất Đàn.
Cổ nhân giải
rằng: “A Nan đắc Phật Giác tam-muội lực,
có thể tự nghe”. Đấy chính là Vị Nhân Tất
Đàn. Kinh Báo Ân nói A Nan [khi được chư Tăng
khuyên làm thị giả của đức Phật, bèn] có bốn
điều cầu xin, [trong đó có một điều] là “kinh nào chưa
được nghe, xin đức Phật nói lại”. Kinh lại nói
đức Phật ngầm v́ ngài A Nan truyền dạy. Thai
Kinh (kinh Bồ Tát Xử Thai) nói: “Phật tùng kim quan xuất
kim tư, trùng vị A Nan hiện nhập thai chi tướng” (Từ
trong kim quan, đức Phật duỗi cánh tay vàng ṛng, lần
nữa v́ A Nan chỉ bày tướng nhập thai). Các kinh
đều nghe, huống hồ các kinh được thuyết
ở nơi khác. Đó chính là Đối Trị Tất
Đàn. Nay kinh này nói ngài A Nan được thọ kư, liền
nhớ lại bổn nguyện, phụng tŕ pháp của các
vị Phật thuở trước đều như ngày
nay. Đó chính là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn.
Nếu xét theo giáo,
Hoan Hỷ A Nan mặt như vầng trăng tṛn thanh tịnh,
mắt như hoa sen xanh, đích thân truyền thừa ư chỉ
của đức Phật chỉ, như đồ đựng
hoàn chỉnh (không bị ṛ rỉ, sứt mẻ), truyền
dạy, hóa độ người khác, như đổ từ
b́nh này sang b́nh khác [chẳng rỉ sót giọt nào]. Đấy
là truyền thừa pháp đă nghe mà thấy là có nghe. Hoan Hỷ
Hiền trụ trong địa vị Hữu Học, đắc
Không, Vô Tướng nguyện, các căn mắt, tai, mũi,
lưỡi vô lậu, truyền tŕ pháp tuy nghe mà như chẳng
nghe. Điển Tạng A Nan thọ lănh nhiều thứ,
như mây to chứa mưa; đấy là truyền tŕ pháp chẳng
nghe mà nghe vậy. A Nan Hải là bậc đa văn, tự
nhiên có thể liễu giải thường và vô thường.
Nếu biết Như Lai thường chẳng thuyết
pháp, th́ gọi là “Bồ Tát trọn đủ đa
văn”. Nước biển cả Phật pháp chảy
vào tâm A Nan. Đấy là truyền tŕ pháp chẳng nghe mà chẳng
nghe. Kinh này là do Hải A Nan tŕ ba thứ Bổn Tích của
diệu pháp chẳng nghe mà chẳng nghe.
Bốn loại Nghe trên đây đều là dẫn theo Tích, chứ Bổn
địa chẳng thể nghĩ bàn, do chuyện thuộc
về Bổn cao vời, khó lường được. Lư
nơi Bổn sâu xa khó nghĩ, do sự giáo hóa nơi Bổn
và Tích chẳng thể lường!
Điều thứ
tư là giải thích [chữ Văn] theo quán tâm. Quán pháp nhân
duyên là quán “nghe mà nghe”. Quán Không là quán “nghe mà chẳng nghe”.
Quán Giả là quán “chẳng nghe mà nghe”. Quán Trung tức là quán
“chẳng nghe mà chẳng nghe”. Nhất niệm quán là diệu
quán. Bốn lượt giải thích Ngă Văn đă xong.
1.1.1.4. Nhất thời
a) Giải
thích “nhất thời” theo nhân duyên, ngài Tăng Triệu
nói: “[Nhất thời là] lúc đấng pháp vương mở
pháp hội tốt lành”. Đó là Thế Giới Tất
Đàn. Luận chép: “Ca La[36] là
cách tính thời gian trong thực tế, nhằm lúc dạy
các nội đệ tử, lúc ăn, đắp y”.
Đó là Vị Nhân Tất Đàn. “Tam-ma-da là giả thời,
nhằm phá tà kiến của ngoại đạo”. Đó
là Đối Trị Tất Đàn. Nếu thời hợp
với đạo th́ là Đệ Nhất Nghĩa Tất
Đàn.
b) Xét theo giáo, nếu
từ Kiến Đế trở lên, từ Vô Học trở
xuống th́ gọi là “hạ nhất thời”. Nếu
người thuộc tam thừa cùng nhập Đệ Nhất
Nghĩa th́ gọi là “trung nhất thời”. Nếu từ
đăng địa trở lên th́ gọi là “thượng
nhất thời”. Nếu từ Sơ Trụ trở lên
th́ gọi là “thượng thượng nhất thời”.
Nay kinh này là “thượng thượng nhất thời”.
c) Xét theo Bổn
Tích, các loại “nhất thời” trên đây đều
là Tích. “Một thời” khi đức Phật thật
sự đắc đạo trong kiếp lâu xa th́ là Bổn.
d) Xét theo quán tâm,
quán tâm th́ trước là Không, kế đó là Giả, sau cùng
là Trung. Đó là quán tâm theo thứ tự. Quán tâm tức
Không, tức Giả, tức Trung; đó là viên diệu quán
tâm. Các pháp Quán ấy là thô diệu, v́ đều có quán ứng
hợp với cảnh, bèn gọi là “nhất thời”.
Tướng tức là Quán th́ chính là phép Quán trong kinh này.
Bốn phen giải
thích “nhất thời” đă xong.
1.1.1.5. Phật
a)
Xét theo nhân duyên để giải thích Phật th́ từ kiếp
sơ chẳng bệnh, kiếp tận lắm bệnh. Lúc
trường thọ th́ vui, lúc đoản thọ th́ khổ.
Đông thiên hạ (Đông Thắng Thần Châu) th́ giàu và thọ,
Tây thiên hạ (Tây Ngưu Hóa Châu) th́ lắm châu báu, nhiều
ḅ, dê. Bắc thiên hạ (Bắc Câu Lô Châu) th́ chẳng có ǵ
là của ta, chẳng có bầy tôi hay thuộc hạ. Thời
và xứ như thế sẽ chẳng cảm Phật xuất
thế. Lúc tám vạn tuổi, cho đến lúc [con người]
thọ một trăm năm, Nam thiên hạ (Nam Diêm Phù Đề) chưa thấy quả
mà đă tu nhân; v́ thế, đức Phật xuất hiện
nơi ấy. Đó là giải thích theo Thế Giới Tất
Đàn.
Nếu mặt trời
chẳng mọc, các hoa chưa sanh hay đă sanh trong ao đều
bị héo tàn, chết rụi, chẳng c̣n ngờ chi. Nếu
Phật xuất thế, sẽ có sát-lợi, bà-la-môn, cư
sĩ, tứ thiên vương, cho đến Hữu Đảnh.
Đấy là giải thích theo Vị Nhân Tất Đàn.
Căn tánh tam thừa
cảm Phật xuất thế, các căn tánh khác
chẳng thể cảm, khéo đoạn chủng tánh Hữu
Đảnh, vĩnh viễn thoát khỏi gịng sanh tử.
Đó là nói theo Đối Trị Tất Đàn.
Đức Phật
đối với pháp tánh, chẳng động, chẳng xuất,
có thể cảm chúng sanh khiến cho họ thấy động
và xuất, nhưng Như Lai thật sự chẳng có
động xuất, đó là nói theo Đệ Nhất
Nghĩa Tất Đàn.
b) Kế đến
là xét theo giáo, Phật được gọi là Giác Giả,
Tri Giả (bậc giác ngộ, bậc hiểu biết). Ở
dưới cội đạo tràng (cội cây Bồ Đề),
ba mươi bốn tâm đoạn tập khí Chánh Sử,
nhận biết tổng tướng và biệt tướng
của thế gian và xuất thế gian. Giác ngộ thế
gian chính là Khổ, Tập; giác ngộ xuất thế gian th́
là Đạo, Diệt, và cũng có thể giác ngộ người
khác. Thân cao một trượng sáu, thọ tám mươi
năm, giống như một vị lăo tỳ-kheo. Đó
chính là Phật tự giác, giác tha trong Tam Tạng (Tạng
Giáo), có h́nh tướng giống như tỳ-kheo, hiện
thân tôn quư đặc thù.
Một niệm
tương ứng, đoạn trừ các tàn dư tập
khí; đó chính là Phật tự giác, giác tha trong Thông Giáo.
Chỉ hiện
tướng tôn quư, đặc thù, ngồi trên đài hoa sen,
thọ Phật chức. Đó chính là Phật tự giác,
giác tha trong Biệt Giáo.
Ẩn ba tướng
trên đây, chỉ hiện tướng như hư không chẳng
thể nghĩ bàn, tức là vị Phật tự giác, giác
tha trong Viên Giáo.
V́ thế, kinh Tượng
Pháp Quyết Nghi dạy: “Hoặc kiến Như Lai,
trượng lục chi thân (Tạng), hoặc kiến tiểu
thân, đại thân (Thông), hoặc kiến tọa liên hoa
đài, vị thiên bách ức Thích Ca thuyết tâm địa
pháp môn (Biệt), hoặc kiến thân đồng hư
không, biến ư pháp giới, vô hữu phân biệt
(Viên)” (hoặc thấy Như Lai thân cao một trượng
sáu (Tạng Giáo); hoặc thấy thân lớn, thân nhỏ
(Thông Giáo), hoặc thấy ngồi trên đài hoa sen, v́ ngàn
trăm ức Thích Ca nói pháp môn tâm địa; hoặc thấy
thân giống như hư không, trọn khắp pháp giới,
chẳng có phân biệt. Đó là Viên Giáo), tức là nói về
ư nghĩa này (Khoa Chú rằng: - Kinh này nhằm phơi bày khai
hiển, chỉ ra quả đầu Phật[37]
trong ba giáo trước chính là Pháp Thân Phật trong Viên Giáo. V́
thế, ba mươi hai tướng, tướng nào
cũng vô biên. Đấy chính là tướng tôn quư, đặc
thù, mà cũng chính là Pháp Thân. Do vậy, long nữ tán rằng:
“Pháp Thân tịnh vi diệu, đủ ba mươi hai
tướng”).
c) Thứ ba là xét
theo Bổn Tích, một Phật (Viên Giáo Phật) là Bổn, ba Phật
(Phật trong Tạng,
Thông, Biệt) là Tích (điều này nói theo Thể
và Dụng nơi Bổn). Trong khoảng giữa, thị hiện
nhiều lần xướng sanh, xướng diệt,
đều là Tích. Chỉ có bốn vị Phật nơi Bổn
Địa đều là Bổn (Thể và Dụng nơi
Tích th́ đều là Tích, Thể và Dụng của Bổn
th́ đều là Bổn).
d) Thứ tư là
giải thích theo quán tâm. Quán cái tâm sanh bởi nhân duyên.
Trước là Không, kế đó là Giả, sau là Trung, th́
đều là Biến Giác (徧覺, giác trọn khắp).
Quán tâm tức Không, tức Giả, tức Trung th́ là Viên Giác
(Giác chỉ là trí; hăy nên dùng Lục Tức để phán
định. Nếu dùng điều này để xét ba
điều giải thích trước th́ cảnh trí chính là
nhân duyên Phật. Cách quán theo Tạng, Thông v.v… chính là tứ
giáo Phật. Từ Trung mà quán Không và Giả th́ chính là Bổn
Tích Phật, chính là cái tâm của ta, tức là quán tâm Phật
vậy). Bốn lượt giải thích chữ Phật
đă xong.
1.1.1.6. Trụ
a) Dùng nhân duyên
để giải thích chữ Trụ, năng trụ (chủ
thể trụ, ở đây là Phật) trụ tại chỗ
để trụ. Chỗ để trụ chính là thành
Vương Xá[38]
trong Nhẫn độ (thế giới Sa Bà). “Năng trụ”
tức là bốn oai nghi trụ thế chưa diệt.
Đó chính là Thế Giới Tất Đàn. Lại nữa,
Trụ là trụ trong mười thiện đạo, trụ
trong Tứ Thiền. Đó là Vị Nhân Tất Đàn. Lại
nữa, Trụ là trụ trong ba tam-muội (Không tam-muội, Vô Tướng tam-muội, Vô Nguyện
tam-muội). Đó chính là Đối Trị Tất Đàn. Lại
nữa, Trụ là trụ trong Thủ Lăng Nghiêm, tức
Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn,
b) Kế đó, xét
theo giáo. Tam Tạng Phật từ Tích Môn (析門, phân tích, chia chẻ)
phát sanh chân vô lậu, trụ Hữu Dư, Vô Dư Niết Bàn. Thông Giáo Phật từ Thể môn
(thấu hiểu ngay nơi bản chất, không cần trải
qua phân tích), phát sanh chân vô lậu, trụ Hữu Dư hoặc Vô Dư Niết
Bàn. Biệt Giáo Phật từ thứ
đệ môn (tu tập lần lượt theo các giai đoạn,
địa vị) mà nhập, trụ trong bí mật tạng.
Viên Giáo Phật hoàn toàn chẳng theo thứ đệ môn mà
nhập, trụ trong bí mật tạng. Chỗ trụ của
ba loại Phật đầu tiên đều là Năng lẫn
Sở đều thô. Loại trụ sau cùng của Phật
(chỗ trụ của Viên Giáo Phật), Năng lẫn Sở
đều diệu. Trong kinh này, Viên Giáo Phật trụ trong
diệu trụ.
c) Thứ ba là luận
theo Bổn Tích. Tam Tạng Phật đáng nên nhập Niết
Bàn, do từ bi mà rủ ḷng thị hiện, dùng sanh thân trụ
thế. Thông Giáo Phật thệ nguyện từ bi nâng đỡ
những ai c̣n sót thừa tập khí, do độ chúng sanh mà
làm Phật sự. Biệt Giáo Phật và Viên Giáo Phật
đều do từ bi hun đúc pháp tánh, v́ thương xót
chúng sanh mà rủ ḷng ứng hiện trong pháp giới. Hăy nên
biết bốn loại Phật ấy đều trụ
trong chỗ trụ của Bổn Phật, nhưng v́ ḷng từ
bi mà trụ trong thành Vương Xá của Nhẫn Độ.
Oai nghi trụ thế th́ gọi là Tích Trụ.
d) Thứ tư là quán
tâm. Quán trụ trong cảnh, hoặc trụ trong cảnh vô
thường, tức các cảnh Không, cảnh Giả, cảnh
Trung. Dùng pháp vô trụ để trụ trong cảnh; v́ thế
gọi là Trụ (Nói “vô trụ” thông cả bốn
giáo. Thô trí là thật sự chẳng trụ vào Lư. Nếu trụ nơi Viên Giáo th́ sẽ
thành dứt bặt đối đăi). Bốn phen giải
thích về Trụ đă xong.
1.1.1.7. Vương Xá
Thành Kỳ Xà Quật sơn
a) Giải
thích “Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật sơn” theo
nhân duyên th́ giống như sách Văn Cú đă giảng, không
trích lục[39].
b) Xét theo Giáo th́
như kinh Tượng Pháp Quyết Nghi dạy: “Nhất
thiết đại chúng sở kiến bất đồng,
hoặc kiến Sa La lâm địa, tất thị thổ,
sa, thảo mộc, thạch bích. Hoặc kiến thất bảo
thanh tịnh trang nghiêm, hoặc kiến thử lâm thị
tam thế chư Phật sở du hành xứ. Hoặc kiến
thử lâm tức thị bất khả tư nghị
chư Phật cảnh giới chân thật pháp thể”
(Hết thảy đại chúng thấy khác nhau, hoặc thấy
cuộc đất nơi rừng Sa La đều là đất,
cát, cây cỏ, vách đá. Hoặc thấy bảy báu thanh tịnh
trang nghiêm, hoặc thấy rừng này là chỗ du hành của
ba đời chư Phật, hoặc thấy rừng này
chính là pháp thể chân thật nơi cảnh giới chẳng
thể nghĩ bàn của chư Phật). Phỏng theo
đó mà biết nghĩa ở đây, có bốn cách thấy
khác nhau. Chỗ trụ đă như thế th́ người
trụ cũng vậy.
c) Xét theo Bổn
Tích th́ đối với Bổn, trụ trong thành tam đức (Pháp Thân, Bát Nhă, Giải Thoát) của
vương tam-muội; c̣n Tích th́ là trụ nơi thành
Vương Xá trong Nhẫn độ (cơi Sa Bà). Bổn là trụ
trong núi Đại Niết Bàn tam đức, c̣n Tích th́ ngự
tại núi Linh Thứu. Lại nữa, Bổn và Tích đều
có núi Linh Thứu. Phẩm Thọ Lượng có nói: “Thường
tại Linh Thứu sơn” (thường ở tại
núi Linh Thứu); đó chính là Bổn.
4) Xét theo quán tâm th́ Vương chính
là tâm vương, Xá chính là Ngũ Ấm. Tâm vương
tạo thành ngôi nhà ấy. Nếu chia chẻ ngôi nhà Ngũ Ấm, sẽ thấy
nó là Không, Không chính là thành Niết Bàn. Quán kiểu này là nông cạn.
Nếu thấy đất, cây cối, mà thấu hiểu
ngôi nhà Ngũ Ấm chính là Không, Không là thành Niết Bàn.
Đó là [cách quán của] Thông Giáo. Nếu quán ngôi nhà Ngũ Ấm,
do diệt cái sắc ấy mà đạt được
thường sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng lại
như thế. Bốn đức ấy chính là chỗ
chư Phật thường dạo chơi. Đó là Biệt
Giáo. Nếu quán Ngũ Ấm chính là pháp tánh. Pháp tánh chẳng
có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Hết thảy
chúng sanh chính là Niết Bàn, chẳng thể diệt nữa,
là ngôi nhà rốt ráo không tịch. Niết Bàn như thế chính
là Chân Như Thật Thể; đó chính là Viên quán (quán tâm
trong Viên Giáo).
Lại nữa, Sắc
Ấm vô tri như núi. Thức Ấm như Linh, ba ấm Thọ,
Tưởng, Hành như Thứu. Quán núi Linh Thứu vô
thường, đó là Tích Không Quán. Quán núi Linh Thứu tức
là Không, đó là Thể Không Quán. Quán Linh tức là trí tánh;
đó là liễu nhân. Trí huệ trang nghiêm, Thứu liền tụ
tập; đó là duyên nhân. Phước đức trang nghiêm,
núi tức là pháp tánh. Chánh nhân bất động, ba pháp ấy
được gọi là Bí Mật Tạng. Tụ trụ
trong đó, mà cũng dùng điều đó để độ
người khác; đấy chính là hai pháp quán Viên và Biệt;
đó chính là Trung.
Đối với
Trung, Phật chuộng Trung Đạo,
thăng lên trung thiên (thăng lên trời Đao Lợi thuyết
pháp báo ân mẹ), giữa trưa [từ trời Đao Lợi]
giáng xuống chính giữa đất nước, diệt độ
lúc nửa đêm, [những điều ấy đều nhằm]
biểu thị Trung Đạo. Nay ở trong núi, nói Trung
Đạo (thường chuộng Trung Đạo là Thế
Giới Tất Đàn. Thăng lên trung thiên, giữa trưa
giáng xuống là Vị Nhân Tất Đàn. Diệt độ
giữa đêm là Đối Trị Tất Đàn. Nói Trung
Đạo th́ là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn.
Các giáo đều có Trung Đạo, nhưng chia ra thành hữu
thể hay vô thể sai khác. Xét theo Bổn Tích th́ quán viên lư,
đó là Trung nơi Bổn. Thị hiện ĺa đoạn
thường, đó là Trung nơi Tích. Đối với
Trung được khai hiển trong kinh này, nếu xét theo
Quán, sẽ chính là Không, chính là Trung, có đủ hai loại
trong ấy). Phần thứ nhất luận về nơi
chốn và thời gian nghe pháp đă xong.
1.1.2. Đại chúng nghe pháp và phụng tŕ
Gồm hai phần:
- Một là liệt
kê đại chúng.
- Hai là tổng kết
đại chúng vân tập.
1.1.2.1. Liệt kê đại chúng
Chia thành ba phần:
- Một là chúng
Thanh Văn.
- Hai là chúng Bồ
Tát.
- Ba là tạp chúng
(nhiều loại đại chúng).
Các kinh phần nhiều
là như thế. Cổ nhân nói là “có sự, có nghĩa”.
“Sự” là xét theo sự thân cận về h́nh tích. H́nh
tướng của hàng Thanh Văn đă thoát khỏi lưới
tục, về dấu tích th́ họ thân cận Như Lai, so
ra thân thiết hơn [các loại đại chúng khác] để
chứng minh một bộ kinh, cho nên liệt kê đầu
tiên. Trời người xét về h́nh tướng, y phục khác nhau; xét về dấu tích th́ cũng chẳng
phải là kẻ chầu hầu, cho nên đối
với việc chứng kinh, chẳng thân thiết cho lắm.
V́ thế, xếp ra sau. Bồ Tát th́ h́nh tướng chẳng
ràng buộc trong khuôn khổ, về dấu tích th́ không có chỗ
nhất định. Đă chẳng giống như tục
nhân, lại khác với Tăng; v́ thế, xếp vào giữa.
Xét theo nghĩa,
Thanh Văn chuộng Niết Bàn, trời người chấp
trước sanh tử, mỗi đằng đều có chỗ
thiên vị. Bồ Tát chẳng ưa chuộng, chẳng
đắm chấp, ở nơi Trung Đạo cầu lấy những điều cốt lơi.
V́ thế, các Ngài ở giữa hai đằng. Thích Luận
cũng nói theo ư này. Cách giải nói này giống như giải
thích cả hai điều. Giải thích theo mặt Sự
th́ giống như [luận định theo phương diện]
nhân duyên. Giải thích theo nghĩa th́ giống như xét theo
giáo (Sự giống như nhân duyên, cần phải có đủ
bốn món Tất Đàn. Nghĩa giống như xét theo
giáo, lại cần phải luận định tám pháp. Sự
chính là xét theo thân thể, cho nên nói thân hay
sơ. Nghĩa chính là đế lư, cho nên nói Niết Bàn v.v…
H́nh tướng, y phục khác nhau, tức là Thế Giới
Tất Đàn. Thân cận là Sanh Thiện Tất Đàn.
Sơ (lợt lạt) th́ là Phá Ác Tất Đàn. “Chẳng thân, chẳng
sơ” tức là Đệ
Nhất Nghĩa Tất Đàn. Xét theo nghĩa, tức là xét
theo Tam Đế (Chân Đế, Tục Đế, Trung Đế), đem Đế đối ứng với
Giáo th́ có thể biết bốn giáo (Tạng, Thông, Biệt,
Viên). Đối với bốn giáo, biện định bốn
[cơ nghi để giáo hóa] th́ có thể biết các
nghĩa Tiệm, Đốn v.v…
Lại nữa, hai
thừa thuộc Nhị Thừa (Thanh Văn và Duyên Giác)
đều ưa thích Niết Bàn, và bốn loại Bồ
Tát (các vị Bồ
Tát thuộc tứ giáo) đều chẳng
ưa thích, chẳng chấp trước. V́ thế, các Ngài
luôn thuộc Trung Đạo, chỉ hướng đến
thật lư và lợi lạc người khác. V́ thế, ở
trong Trung Đạo, cầu lấy điều cốt lơi,
vượt xa phàm thánh. Nếu coi nhập Trung Đạo là
Bồ Tát th́ tức là nói địa vị Bồ Tát trong Biệt
Giáo, Viên Giáo, Thỉ Giáo, và Chung Giáo.
Dựa theo Bổn
Tích để giải thích, hàng Thanh Văn trong ẩn giấu
hạnh Bồ Tát, ngoài hiện h́nh tướng Thanh Văn,
có bao giờ chấp chặt Niết Bàn? Trời người
đều là bậc đại Bồ Tát, há c̣n đắm
nhiễm sanh tử? Đều là từ nơi h́nh tích mà dẫn
khởi thành hai bên (chấp Có và chấp Không), chứ
nơi Bổn th́ luôn là Trung Đạo.
Giải thích dựa
theo quán tâm th́ từ Giả nhập Không Quán, là thiên về phá
sanh tử. Từ Không mà nhập Giả Quán th́ chính là thiên trọng
phá Niết Bàn. Trung Đạo chánh quán chẳng c̣n có trước
sau (cũng nên xét theo nhân duyên để nói rơ về quán, khai
hiển các giáo và quán theo phương diện Bổn Tích).
1.1.2.1.1. Chúng Thanh Văn
1.1.2.1.1.1. Chúng tỳ-kheo
1.1.2.1.1.1.1. [Nói về các vị
được] nhiều người hay biết
1.1.2.1.1.1.1.1. Nêu bày chủng loại
và số lượng
(Kinh) Dữ
đại tỳ-kheo chúng, vạn nhị thiên câu.
(經)與大比丘眾。萬二千人俱。
(Kinh: Cùng với
các vị đại tỳ-kheo, một vạn hai ngàn vị
nhóm họp).
“Dữ đại
tỳ-kheo chúng” là nêu ra căn cơ của họ. “Một
vạn hai ngàn người” nhằm nói số lượng
đông đảo. “Dữ” (與) là “cộng” (共, cùng với).
Thích Luận dùng “thất nhất” (bảy điều
“cùng một”) để giải thích chữ Cộng, tức
là “nhất thời” (cùng một thời), “nhất xứ”
(cùng một chỗ); đó là Thế Giới Tất Đàn,
“nhất giới” (cùng một giới luật) (đó
là Vị Nhân Tất Đàn), “nhất tâm, nhất kiến”
(cùng một tâm, cùng một kiến giải); đó là Đối Trị Tất Đàn, “nhất
đạo, nhất giải thoát” (đó là Đệ Nhất
Nghĩa Tất Đàn). Nếu dựa theo các giáo để
nêu rơ “thất nhất” trong mỗi giáo th́:
- Tam Tạng (Tạng
Giáo) có một loại “thất nhất”, tức
là “cùng cảm vời sanh trong thời có Phật, cùng ở
Lộc Uyển, có cùng một biệt
giải thoát giới, cùng có tâm Nhất Thiết Trí, cùng có vô
lậu chánh kiến, cùng có ba mươi bảy pháp trợ đạo,
cùng có Hữu Dư Niết Bàn).
- Thông Giáo có hai loại
“thất nhất” (do chia thành lợi căn và độn
căn, mà lợi ích có Viên và Biệt. Phải nên nói “ba loại
thất nhất”, nhưng do nói tổng quát, cho nên cùng theo một lệ).
- Biệt Giáo có vô
lượng “thất nhất” (tự hành, giáo hóa
người khác, theo chiều ngang hay theo chiều dọc
đều có bốn môn, mỗi môn đều có Tứ Tất
Đàn, cho nên tiến nhập sai khác).
- Viên Giáo có một
loại “thất nhất” (phát tâm và rốt ráo tuy là hai, nhưng chẳng khác
biệt).
Nếu chưa thấu
đạt Tích th́ chính là “thất nhất” của Tam Tạng
và Thông Giáo. Nếu đạt tới “khai tam thừa, hiển
lộ nhất thừa” th́ liền nhập “thất nhất”
của Viên Giáo.
“Đại”
trong tiếng Phạn là Ma Ha, cơi này dịch là Đại,
cũng dịch là Đa (nhiều), và cũng dịch là Thắng.
Độ lượng đáng tôn trọng, được
các bậc đại nhân như thiên vương v.v… tôn kính;
v́ thế nói là Đại. Vượt xa chín mươi
lăm thứ ngoại đạo, cho nên nói là Thắng. Biết
trọn khắp các kinh sách trong và ngoài giáo, cho nên nói là
Đa.
Lại nữa, số
lượng tới một vạn hai ngàn vị, v́ thế nói
là Đa. Nay nói rơ [các vị Thanh Văn ấy] có đại
đạo, có đại dụng, có đại tri (大知, sự hiểu biết to lớn), cho nên nói là Đại.
“Thắng” là đạo thù thắng, dụng thù thắng, hiểu biết thù thắng. V́ thế nói là Thắng.
“Đa” là đạo nhiều, dụng nhiều, hiểu
biết nhiều. V́ thế nói là Đa. Đạo chính là
tánh niệm xứ, lớn hơn nhất thiết trí ngoại
đạo. Dụng tức là Cộng Niệm Xứ,
hơn hẳn bọn ngoại đạo có thần thông.
Tri tức là Duyên Niệm Xứ, hơn hẳn Tứ Vi
Đà (bốn kinh Vedas) của ngoại đạo (Đại là Thế Giới
Tất Đàn, Đa là Vị Nhân và Đối Trị Tất
Đàn. Thắng chính là Đệ Nhất Nghĩa).
Xét theo giáo để
giải thích “Đại, Đa, Thắng” th́:
- “Được
bậc đại nhân tôn kính” là cách giải thích trong Tam Tạng.
- Đại là
được bậc đại lực La Hán tôn kính.
Đa là biết trọn khắp pháp sanh diệt chính là pháp
vô sanh diệt. Thắng là hơn hẳn bốn môn trong Tam Tạng.
Đó là cách giải thích trong Thông Giáo.
- Lại nữa,
Đại là được bậc đại lực La
Hán đă thấu hiểu pháp tôn kính. Đa là
hằng sa Phật pháp đều biết. Thắng là
hơn hẳn hàng Nhị Thừa. Đó là cách giải thích
theo Biệt Giáo.
- Lại nữa,
Đại là được các vị đại Bồ Tát
tôn kính. Đa là chẳng thể lường các pháp trong pháp
giới đều biết. Thắng là hơn hẳn các vị
Bồ Tát. Đấy là cách giải thích theo Viên Giáo.
Xét theo Bổn Tích,
các vị đại đức ấy từ lâu đă được
chư Phật khen ngợi. Nơi Bổn, các Ngài đă
đắc Thắng Tràng tam-muội từ trước,
thành tựu Chủng Trí Biến Tri siêu việt các ngoại
đạo. Về Tích, các Ngài đến phù tá Phật giáo
hóa, thị hiện “đại, đa, thắng” trong ái kiến,
ḥng dẫn khởi sữa trở thành lạc. Lại c̣n thị
hiện “đại, đa, thắng” trong Tam Tạng, ḥng dẫn
khởi lạc biến thành sanh tô. Lại thị hiện
“đại, đa, thắng” trong Phương Đẳng, ḥng dẫn khởi
sanh tô trở thành thục tô. Thị hiện “đại,
đa, thắng” trong chuyển giáo[40]
Bát Nhă, ḥng dẫn khởi
thục tô trở thành đề hồ. V́ thế, thị
hiện “đại, đa, thắng” trong thời Pháp Hoa;
nhưng nơi Bổn th́ các Ngài “đại, đa, thắng”
đă lâu.
Xét theo quán tâm, Không
Quán là Đại, Giả Quán là Đa, Trung Quán là Thắng. Lại
nữa, thẳng thừng tiến nhập Trung Quán, tâm tánh rộng
lớn, dường như hư không. V́ thế, gọi là
Đại. Cùng ngăn che hai bên, vào biển tịch diệt;
v́ thế, gọi là Thắng. Cùng chiếu cả hai Đế
(Chân Đế và Tục Đế), chứa đựng rất
nhiều, một tâm là hết thảy các tâm. V́ thế, gọi
là Đa.
Tỳ-kheo bao gồm
ba nghĩa Bố Ma (khiến cho ma sợ hăi), Phá Ác, và Khất
Sĩ:
- Ma thích sanh tử,
do người này xuất gia, lại c̣n giáo hóa người
khác cùng ĺa khỏi tam giới, trái nghịch ư ma. Ma dùng sức
chế ngự, đâm ra lại bị năm thứ trói buộc,
chỉ đành buồn rầu, sợ hăi mà thôi. V́ thế, gọi
là Bố Ma.
- Người xuất
gia ắt phá bảy điều ác nơi thân và miệng[41].
V́ thế, gọi là Phá Ác.
- Kẻ tại gia
có ba thứ dưỡng mạng đúng như pháp, một
là ruộng đất, hai là buôn bán, ba là làm quan. Đức
Phật chẳng cho phép kẻ xuất gia làm các điều
đó, chỉ xin ăn để tự nuôi sống. Thân an,
đạo c̣n, phước lợi thí chủ. V́ thế gọi
là Khất Sĩ.
Ba nghĩa phối
hợp th́ chính là ư nghĩa
của “tỳ-kheo” (Bố Ma tức Thế Giới Tất
Đàn. Khất Sĩ tức Vị Nhân Tất Đàn. Phá Ác
tức Đối Trị Tất Đàn. Vượt khỏi
tam giới chính là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn).
Vừa mới thọ giới, tu Định, tu Huệ,
đă có ba nghĩa Phá Ác, Bố Ma và Khất Sĩ, chẳng
riêng hàng hậu tâm[42].
Cách giải thích của các vị chú sớ kinh, đều
là tán thán các vị hậu tâm tỳ-kheo. Đó đều là
[tuân theo] ư nghĩa giải thích trong Tam Tạng (Tạng Giáo). Nếu trải khắp các duyên để cầu
lẽ chân th́ gọi là Khất Sĩ. Phá các phiền hoặc
gây chướng ngại Lư th́ gọi là Phá Ác. Tu các hạnh ấy khiến
cho bốn loại ma[43]
kinh sợ. Đó là ư nghĩa [của tỳ-kheo] theo Thông
Giáo. Nếu trải khắp Tam Đế
để cầu lư th́ gọi là Khất Sĩ. Trừ Thông Hoặc và Biệt Hoặc th́ gọi là Phá
Ác. Khiến cho tám ma, mười ma[44]
kinh sợ, đó là ư nghĩa trong Biệt Giáo. Từ ngay
nơi sanh tử mà cầu diệu vị Thật Tướng
th́ gọi là Khất Sĩ. Thấu đạt “phiền
năo tức Bồ Đề” th́ gọi là Phá Ác. Ma giới
chính là Phật giới; đó là ư nghĩa trong Viên Giáo.
Nếu chưa nêu
ra Tích th́ chỉ hiểu hai nghĩa trước. Nếu
đă phô bày Bổn, sẽ có đủ các ư nghĩa sau.
Xét theo Bổn Tích,
nơi Bổn đă lên đỉnh núi Niết Bàn, giă biệt
cha mẹ “vô minh si ái” và vợ con “kết nghiệp”, ra khỏi
căn nhà Phần Đoạn, Biến Dịch, trừ
Ngũ Trụ đă lâu, có ác nào mà chẳng phá, đạt
được pháp hỷ chân thật như ăn cháo sữa,
chẳng cần ǵ nữa! Tŕ Nhiếp Thủ Chúng Sanh Giới
của Đạo Cộng Thi La Ba La Mật để hàng
phục ma giới, tức là có thể tiếp nhận, nắm
vững “Phật giới Như”. Công đức nơi Bổn
Địa đă thành tựu từ lâu, v́ điều phục
chúng sanh bèn nơi Tích thị
hiện thành “ngũ vị” tỳ-kheo (các tỳ-kheo
thuộc năm vị “sữa, lạc, sanh tô, thục tô,
đề hồ”) để truyền dạy, dẫn dắt
chúng sanh. [Nếu muốn nói tỉ mỉ] th́ hăy phỏng theo
lời giải thích trong phần trước.
Xét
theo quán tâm, quán một niệm tâm thanh tịnh như hư
không, chẳng bị gông cùm Nhị Biên trở ngại.
Đại huệ b́nh đẳng, chẳng trụ, chẳng
chấp, th́ gọi
là “xuất gia”. Dùng Trung Quán để tự bồi
đắp, nuôi sống Pháp Thân huệ mạng th́ gọi là
Khất Sĩ. Quán Ngũ Trụ phiền năo[45]
chính là Bồ Đề, th́ gọi là Phá Ác. Hết thảy
điên đảo nơi các biên (tức các chấp trước
đối đăi) không ǵ chẳng phải là Trung Đạo,
tức là Bố Ma (Trung Quán đă là như thế, đem
Không, Giả, theo thứ tự, không theo thứ tự v.v… đối
ứng với từng giáo sẽ có thể biết).
“Chúng” trong tiếng
Phạn là Tăng Già (Saṃgha), cơi này
dịch là Ḥa Hợp Chúng. Một người, hai người,
ba người, đều chẳng gọi là Tăng, từ
bốn người trở lên mới gọi là Tăng. Ḥa
theo mặt Sự là không có chúng khác[46].
Ḥa theo mặt Pháp là không có lư khác. Đức
Phật thường cùng một ngàn hai trăm năm
mươi người quây quần, các kinh có thể nói [số
lượng Thường Tùy Chúng] nhiều hoặc ít
hơn, không nhất định. Thích Luận nói có bốn
loại Tăng:
- Chẳng
nương theo tịnh mạng th́ gọi là phá giới Tăng.
- Chẳng hiểu
pháp và giới luật, gọi là ngu si Tăng.
- [Thông hiểu]
ngũ phương tiện th́ gọi là tàm quư Tăng (vị Tăng biết hổ
thẹn).
- Nhẫn được
pháp khổ sở th́ gọi là chân thật Tăng.
Ở đây, chỉ
có các vị chân thật Tăng (Tứ Niệm
và tứ thiện căn, gọi là Ngũ Phương Tiện.
Chúng ḥa hợp là Thế Giới Tất Đàn. Thường
theo Phật là Vị Nhân Tất Đàn v́ sanh điều
lành cho chúng sanh. Từ câu “Thích Luận nói” trở
đi, chính là Đối Trị Tất Đàn, v́ loại trừ
kẻ ác. Từ chữ “ở đây” trở đi
chính là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn v́ ở
nơi chân thật).
Nếu xét theo bốn
giáo, các vị Tăng ấy (Tăng chúng trong hội Pháp Hoa) trọn khắp năm
địa vị Thiên, Viên v.v… đều cùng làm người
nghe pháp. Đấy chính là sự chứng tín trong Viên Giáo vậy.
Xét theo Bổn Tích,
nơi Bổn th́ ḥa hợp cùng lư Thật Tướng. Lại
c̣n ḥa hợp với cơ duyên của chúng sanh trong pháp giới.
Nơi Tích th́ là vị Tăng bán tự
sự lư (chỉ thông hiểu một phần sự lư, chưa
liễu đạt trọn vẹn), gồm khắp “ngũ
vị” nhằm dẫn khởi chúng sanh.
Xét theo quán tâm, thoạt
đầu học Trung Quán, dự vào địa vị
tương tự. Chưa phát khởi lẽ chân, thẹn với
các vị Đệ Nhất Nghĩa Thiên, xấu hổ
đối với các vị thánh nhân. Đó chính là tàm quư Tăng. Nếu quán huệ đă phát th́ chính là chân thật
Tăng. Nếu khác với điều này th́ là hai loại
Tăng trước đó. Chẳng nương theo quán
hạnh th́ là phá giới Tăng. Chẳng
hiểu quán tướng th́ gọi là ngu si Tăng.
Nêu ra bộ loại
đă xong, nói đến số lượng th́ là một vạn
hai ngàn người (số lượng khác biệt [với
các kinh khác] chính là Thế Giới Tất Đàn. [Chúng sanh]
do nghe số lượng [đông đảo] ấy mà sanh
khởi điều thiện th́ là Vị Nhân Tất Đàn.
Phá Ác (tức Đối Trị Tất Đàn) và nhập
chân (Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn) có thể phỏng
theo đó mà biết. Chẳng luận định theo bốn
giáo v́ giáo khác nhau, nhưng số lượng giống nhau; cho nên chẳng giải thích khác biệt. Nếu tùy
theo con số mà sanh kiến giải th́ là giáo sai khác. Hỏi:
“Hễ liệt kê đại chúng và người đắc
đạo, v́ sao con số ấy phải là số tṛn, không
khuyết thiếu?” Đáp: Phần giải thích về con số tổng quát “năm ngàn” trong Thích Luận
đă viết: “Dù nhiều hay ít hơn, đều tính
tṛn số”).
Xét theo Bổn Tích,
nơi Bổn th́ là một vạn hai ngàn vị Bồ Tát.
Nơi Tích th́ là một vạn hai ngàn vị Thanh Văn.
Xét theo quán tâm, quán
mười hai Nhập, mỗi Nhập có đủ mười
pháp giới. Mỗi giới lại có đủ mười
giới, thành ra Bách Giới (một trăm giới). Mỗi
giới đều có mười môn Như Thị (như
thị tướng, như thị tánh v.v…) thành ra Thiên
Như. Mỗi Nhập đă là như thế th́ mười
hai Nhập sẽ thành một vạn hai ngàn pháp môn.
1.1.2.1.1.1.1.2. Nêu rơ địa vị
và tán thán phẩm đức
(Kinh) Giai thị
A La Hán, chư lậu dĩ tận, vô phục phiền năo,
đăi đắc kỷ lợi, tận chư hữu kết,
tâm đắc tự tại.
(經)皆是阿羅漢。諸漏已盡。無復煩惱。逮得己利。盡諸有結。心得自在。
(Kinh: Đều
là A La Hán, đă hết các lậu, chẳng c̣n phiền năo,
chính ḿnh đă đạt được lợi ích, hết
sạch các hữu kết, tâm đạt được tự
tại).
“A La Hán” là nêu
ra địa vị. Từ chữ “chư lậu” trở
đi là lời tán thán phẩm đức.
A
La Hán (Arhat) dịch là Ứng Chân (應真), hoặc
dịch là Chân Nhân (真人), hoặc
dịch là Vô Trước (無著, chẳng
chấp trước), hoặc dịch là Bất Sanh (不生), hay Ứng Cúng
(應供), hoặc chẳng
dịch. [Danh từ này] bao gồm ba nghĩa:
- Nghĩa thứ nhất
là Vô Sanh (無生), do chẳng thọ
thân sau.
- Nghĩa thứ
hai là Sát Tặc (殺賊, giết giặc)
do đă đoạn sạch Kiến Tư.
- Nghĩa thứ ba
là Ứng Cúng do có thể làm phước điền.
Cách giải thích này
chính là ư nghĩa trong Tạng Giáo và Thông Giáo. Nếu xét theo
Biệt Giáo và Viên Giáo, không chỉ sát tặc mà c̣n sát bất
tặc! “Bất tặc” chính là Niết Bàn, cũng cần
phải phá. Đấy chính là nghĩa Sát Tặc (nói là “bất
tặc” v́ từ Nhị Thừa mà đặt tên. Nếu
đối với Viên Giáo và Biệt Giáo, [Thiên Chân Niết Bàn] vẫn
gọi là “tặc”. V́ thế, cần phải giết!)
Chẳng sanh nơi sanh, mà cũng chẳng sanh nơi “chẳng
sanh”. Vô lậu là bất sanh (coi Vô là chứng, sẽ sanh ở
ngoài tam giới, [như vậy th́] bất sanh mà lại là
sanh, cho nên chẳng cho nó sanh). Không chỉ là ứng cúng, mà
c̣n là cúng ứng (tức cúng dường người
đáng được cúng dường th́ gọi là “cúng
ứng”. Như Phật hóa hiện làm đạo nhân, đến
cúng dường các tỳ-kheo trong A Lan Nhă). Đấy đều
là tán thán công đức của Sơ Địa trong Biệt
Giáo hoặc Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên.
Xét theo Bổn Tích,
nơi Bổn bèn chẳng nhận lấy tam-muội, đối
với hai bên đều không chấp trước. V́ thế
gọi là Bất Sanh. Do đoạn Ngũ Trụ Hoặc,
nên gọi là Sát Tặc. Có thể tạo phước cho
chín đường, lợi ích rộng lớn chúng sanh; v́
thế gọi là Ứng Cúng. Phương tiện độ
chúng sanh trong ngũ vị lần lượt truyền dạy
“Bất Sanh, Sát Tặc, Ứng Cúng” th́ đều thuộc
về Tích. Lại nữa, Bổn là Pháp Thân, Tích là chính ḿnh
thị hiện tự đạt được lợi ích.
Nơi Bổn là Bát Nhă, c̣n Tích là Bất Sanh. Nơi Bổn
là giải thoát, nơi Tích là Sát Tặc (Bổn là b́nh đẳng
đại huệ. Chẳng phá, chẳng không phá th́ mới
có thể thị hiện dấu tích Bất Sanh nơi các
giáo. Nơi Bổn đă chứng giải thoát. Chẳng tặc,
chẳng bất tặc th́ mới có thể thị hiện
Sát Tặc trong các địa vị. Nơi Bổn đă
đắc Pháp Thân, chẳng phải là Ứng hay Bất Ứng
th́ mới có thể thị hiện làm Ứng Cúng).
Xét theo quán tâm, Không
Quán là Bát Nhă, Giả Quán là giải thoát, Trung Quán là Pháp Thân. Lại
từ Giả nhập Không Quán, cũng có ba
nghĩa. Cho đến Trung Đạo Quán giết giặc
vô minh, chẳng sanh tâm nhị biên. Cúng dường vị ấy
sẽ giống như cúng dường đức Thế
Tôn. Kinh Phương Đẳng dạy: “Cúng Phật cập
Văn Thù, bất như thí hành Phương Đẳng giả
nhất thực sung khu” (Cúng Phật và Văn Thù chẳng
bằng cúng dường một bữa ăn cho người
hành Phương Đẳng được no ḷng). Kinh này dạy:
“Hủy tán Phật, tội phước do khinh, hủy
tán tŕ kinh giả, tội phước thậm trọng”
(Hủy báng hay tán thán Phật, tội phước vẫn
c̣n nhẹ; hủy báng hay tán thán người tŕ kinh, tội
phước rất nặng). V́ sao vậy? Phật chẳng
có ư tưởng ăn, đă ĺa tám gió[47]
từ lâu, chẳng bị hao tổn hay tăng ích. Thí cho
người tŕ kinh khiến cho họ được toàn vẹn
thân xác, tiếp tục mạng báo, sanh trưởng Pháp
Thân, tăng huệ mạng; cho nên có ích. Nếu hủy báng,
sẽ khiến cho họ ưu năo,
lui sụt, hối hận. Nếu họ đă đánh mất
dịp tốt th́ sẽ chẳng thể cứu chữa, cho
nên tổn hại to lớn.
Hai câu “chư lậu dĩ tận,
vô phục phiền năo” (các lậu đă hết, chẳng
c̣n phiền năo) nhằm tán thán phẩm đức Sát Tặc.
Lậu chính là Tam Lậu[48].
Câu “đăi đắc kỷ lợi” (chính ḿnh đă
đạt được lợi) nhằm tán thán phẩm đức Ứng Cúng. Nhân quả trong
tam giới đều gọi là Tha (người khác); công
đức của Trí Đoạn đều gọi là “kỷ
lợi”. Chính ḿnh có lợi ích trọn đủ, cho nên
trở thành Ứng Cúng.
Hai câu “tận
chư hữu kết, tâm đắc tự tại” (hết
sạch kết phược trong tam hữu, tâm được
tự tại) nhằm tán thán phẩm đức Bất
Sanh. “Chư hữu” chính là hai mươi lăm chỗ
Hữu Sanh. “Kết” chính là cái nhân của hai
mươi lăm chỗ hữu sanh[49].
Tâm tự tại, ắt huệ tự tại. Định
và Huệ trọn đủ, đều là người giải
thoát.
Xét theo Bổn Tích, Bất Sanh chẳng
sanh là đại Niết Bàn, gịng phiền năo hữu lậu
đă cạn nguồn từ lâu, chẳng
c̣n đọa lạc trong các địa vị thuộc Nhị
Thừa và phàm phu. Đấy chính Bất Sanh nơi Bổn.
Công đức Trí Đoạn Thật Tướng của
Pháp Thân th́ gọi là “kỷ lợi” nơi Bổn.
Đạt được vương tam-muội, phá hai
mươi lăm hữu, hiển xuất Ngă tánh, trọn
đủ tám món tự tại[50],
th́ gọi là Sát Tặc nơi Bổn, c̣n nơi Tích th́ là phô
bày công đức của Nhị Thừa.
Xét theo quán tâm, Trung
Đạo chánh quán chẳng ṛ rỉ hai bên Không và Giả,
đă diệt phiền năo nhị biên. Tâm tánh có thể quán gọi
là “thượng định”. Viên châu trong chéo áo, kho
tàng bí mật chính là “kỷ lợi”. Chánh quán Trung Đạo
th́ sẽ đoạn trừ kết tặc (giặc kết
sử). Do chẳng có kết sử, các hữu cũng
đoạn. Nhị biên chẳng thể trói buộc cái tâm,
cho nên tâm tự tại. Dẫu có phiền năo mà như chẳng
có phiền năo. “Chẳng đoạn phiền năo mà nhập
Niết Bàn” chính là ư nghĩa của đoạn kinh này.
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh
Luân Quán Hội Nghĩa phần 1 hết
[1] Hóa nghi (化儀) là phương
thức giáo hóa chúng sanh của đức Phật, c̣n nội
dung của kinh điển dùng để giáo hóa chúng sanh th́
gọi là “hóa pháp”. Hóa pháp gồm:
1. Tam Tạng Giáo
(thường gọi tắt là Tạng Giáo), tức là Tiểu
Thừa Giáo. Đức Phật v́ hàng tam thừa nói kinh A Hàm, chỉ
nói về Không, và tu Tích Không Quán (phép Quán Không bằng cách chia
chẻ, phân tích sự vật. Phép Quán này c̣n gọi là Chuyết
Độ Quán), nhập Vô Dư Niết Bàn, chỉ chế
phục Kiến Tư phiền năo, chưa hoàn toàn đoạn
trừ.
2. Thông Giáo: Tức giáo pháp
dạy chung cho Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát. Đây là
bước đầu của Đại Thừa do thấu
hiểu lư “như huyễn
tức không” (vạn vật
do nhân duyên thành lập, giống như huyễn giả).
3. Biệt Giáo tức
giáo pháp chẳng thông với hai giáo trước, chỉ nói với
hàng Bồ Tát v́ Nhị Thừa chẳng thể lănh hội
được. Giáo này nương theo thứ đệ tam
quán (quán Không, Giả, Trung theo thứ tự).
4. Viên Giáo có nghĩa là
giáo pháp chẳng lệch lạc, viên dung, trọn đủ,
hiển thị sở ngộ của Phật, cũng chính
là giáo pháp nội chứng của Phật. Phép Quán trong giáo
này là Nhất Tâm Tam Quán và Thể Không Quán (thấu hiểu trực tiếp
Không, chẳng cần phải trải qua phân tích, chia chẻ
các pháp).
Hóa nghi gồm:
1. Đốn: Thoạt
đầu lúc mới thành đạo, đức Phật
đem giáo pháp Ngài đă nội chứng trực tiếp dạy
cho chúng sanh, tương đương với kinh Hoa Nghiêm.
2. Tiệm: Nội dung
các giáo pháp từ cạn đến sâu, tương
đương với các kinh thuộc ba thời A Hàm,
Phương Đẳng và Bát Nhă.
3. Bí Mật: Tùy theo
căn cơ và năng lực của chúng sanh mà đức
Phật dạy các giáo pháp phù hợp. Do giáo pháp tương ứng
với một loại căn cơ nhất định, chẳng
phải là căn cơ ấy sẽ không thể lănh hội,
nên gọi là Bí Mật.
4. Bất Định:
Các căn cơ bất đồng tuy cùng hiện diện
trong cùng một pháp ṭa, sẽ do năng lực khác biệt, mà
lănh hội, đạt được pháp ích sai khác. V́ thế,
gọi là Bất Định.
[2] Giới ngoại
(界外): Quốc độ
ở ngoài tam giới, tức Tịnh Độ của
chư Phật, Bồ Tát. Tam giới được gọi
là “giới nội”.
[3] Tịch Diệt
đạo tràng, c̣n gọi là A Lan Nhă Pháp Bồ Đề
Tràng, tức là ṭa kim cang nơi đức Phật ngồi
dưới cội Bồ Đề thành đạo ở
phía Nam thành Già Da trong nước Ma Kiệt Đà. Theo Hoa
Nghiêm Thám Huyền Kư, nói là Tịch Diệt bao hàm bốn
nghĩa:
1. Chướng diệt.
2. Chứng diệt, tức
chứng ngộ lư tịch diệt.
3. Hiển lộ đức
tịch diệt: Thị hiện mười thân của Phật
và pháp Phổ Hiền v.v…
4. Do lợi ích chúng sanh mà
thành tựu Diệt.
[4] Bán Tự: Giáo
pháp chưa diễn tả trọn vẹn chân lư, mang tính chất
quyền biến, ví như chữ chưa viết trọn vẹn.
Bán Tự thường dùng để sánh ví giáo pháp quyền
tiểu, Măn Tự là giáo pháp diễn tả trọn vẹn
chân lư, phô bày Thật Tướng.
[5] Khai cận, hiển
viễn: Tức là như trong phẩm Thọ Lượng,
đức Phật chỉ ra chuyện thị hiện thành
Phật nơi Bồ Đề Đạo Tràng, tu khổ hạnh
sáu năm v.v... đều là thị hiện các tướng
thành đạo trong thời gần đây, chứ thật
ra, đức Phật đă thành đạo từ vô lượng
kiếp lâu xa.
[6] “Phù luật đàm thường” (扶律談常) là dụng ngữ
của tông Thiên Thai mô tả giáo pháp của kinh Niết Bàn.
Do đức Phật xót thương chúng sanh đời Mạt
là phường độn căn, dễ dấy lên đoạn
kiến, phá hủy giới luật, quên mất giáo thừa,
ngỡ Như Lai là vô thường, đọc tụng, tin
tưởng kinh sách ngoại đạo. V́ thế, trong kinh
Niết Bàn, đức Phật ra rả nhắc nhở giới
luật. Đó là “phù luật”. Lại chuyên nói về lư
Phật tánh thường trụ, cho nên gọi là “đàm
thường”.
[7] Theo pháp sư Phổ Hành, ba bản
dịch của kinh Pháp Hoa là:
- Bản sớm nhất là kinh Chánh
Pháp Hoa do sa-môn Trúc Pháp Hộ ở Đôn Hoàng dịch trong
niên hiệu Vĩnh Khang thời Tấn Huệ Đế tại
An Thanh Môn của Trường An, gồm hai mươi tám
phẩm.
- Bản dịch thứ hai tức
là bản dịch Diệu Pháp Liên Hoa Kinh của ngài Cưu
Ma La Thập dịch vào năm Đinh Dậu
(397) trong niên hiệu Hoàng Sơ thời
Văn Hoàn Đế (Diêu Hưng) nhà Hậu Tần tại vườn Tây Minh ở
Trường An, gồm hai mươi bảy phẩm.
- Bản thứ ba là Thiêm Phẩm Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh gồm bảy quyển, hai mươi tám phẩm,
do ngài Xà Na Quật Đa và Đạt Ma Cấp Đa dịch
vào năm Tân Dậu (601) thời Tùy Văn Đế trong
niên hiệu Nhân Thọ. Kinh được dịch tại
chùa Đại Hưng Thiện ở Trường An.
Bản của ngài La Thập thiếu
mất phẩm Đề Bà Đạt Đa, và một số
bài kệ (chẳng hạn phần kệ trong phẩm Phổ
Môn), các phần này về sau được lấy từ bản
Thiêm Phẩm ghép vào bản dịch của ngài La Thập.
Theo tự điển Phật Quang Sơn, thật ra, có sáu
bản dịch, nhưng ngoài ba bản vừa kể trên, ba
bản kia đều bị thất lạc, chỉ c̣n biết
tên gọi (dựa theo danh mục trong Khai Nguyên Thích Giáo Lục)
là Chánh Pháp Hoa Tam Muội Kinh (sáu quyển), Tát Đàm Phân
Đà Lợi Kinh (sáu quyển), và Phương Đẳng
Pháp Hoa Kinh (năm quyển).
[8] Kinh Pháp Hoa
được chú giải sớm nhất bởi ngài Thế
Thân qua tác phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Ba Đề
Xá (hiện thời có hai bản dịch bằng tiếng
Hán của Bồ Đề Lưu Chi và Lặc Na Ma Đề).
Chú giải bộ luận này có bộ Pháp Hoa Kinh Luận Thuật
Kư (do ngài Nghĩa Tịch và Nghĩa Nhất cùng biên soạn)
và bộ Pháp Hoa Luận Sớ của ngài Cát Tạng. Chú sớ
kinh Pháp Hoa tại Trung Hoa qua các thời đại (chỉ
tính đến thời ngài Ngẫu Ích) bao gồm các tác phẩm
sau:
- Pháp Hoa Kinh Sớ (hai quyển)
do ngài Trúc Đạo Sanh soạn vào thời Lưu Tống.
- Pháp Hoa Kinh Nghĩa Kư do
ngài Quang Trạch viết trong thời Nam Lương.
- Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh
Nghĩa do ngài Nam Nhạc Huệ Tư viết vào đời
Trần.
- Pháp Hoa Văn Cú và Pháp Hoa
Huyền Nghĩa của ngài Trí Khải (Trí Giả đại
sư).
- Pháp Hoa Nghĩa Sớ,
Pháp Hoa Huyền Luận, Pháp Hoa Thống Lược, Pháp Hoa
Du Ư của ngài Gia Tường Cát Tạng viết vào đời
Tùy.
- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền
Tán do ngài Khuy Cơ soạn vào đời Đường.
- Pháp Hoa Ngũ Bách Vấn
Luận do ngài Kinh Khê Trạm Nhiên soạn vào đời
Đường.
- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Yếu
Giải do ngài Giới Hoàn soạn vào đời Tống.
- Pháp Hoa Kinh Hợp Luận
của Huệ Cung và Trương Thương Anh biên soạn
vào đời Tống.
- Pháp Hoa Kinh Khoa Chú do ngài Nhất
Như viết dưới đời Minh.
- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh
Thai Tông Hội Nghĩa, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền
Nghĩa Tiết Yếu, và Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán của
ngài Ngẫu Ích viết vào đời Minh.
- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh
Thông Nghĩa và Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Hệ Tiết của
ngài Hám Sơn Đức Thanh.
Ngoài ra c̣n phải kể
đến các tác phẩm chú giải của chú sớ
như Pháp Hoa Văn Cú Kư (chú giải Pháp Hoa Văn Cú) và Pháp
Hoa Kinh Huyền Nghĩa Thích Thiêm của ngài Trạm Nhiên, các
bộ Khoa Chú của các vị Thủ Luân (đời Tống),
Từ Thiện Hành (đời Nguyên) v.v… Hoặc các sách khai
triển từ giáo nghĩa của kinh Pháp Hoa như Ma Ha Chỉ
Quán (của tổ Trí Khải), Chỉ Quán Phụ Hành Truyền
Hoằng Quyết, Chỉ Quán Sưu Yếu Kư, Chỉ Quán
Đại Ư, Pháp Hoa Tam Muội Bổ Trợ Hành Nghi, Thỉ
Chung Tâm Yếu (các tác phẩm này đều do ngài Kinh Khê viết)
v.v…
[9] Quang Châu (光州, đừng
lầm với Quảng Châu) nay là huyện Quang Sơn, tỉnh
Hà Nam. Núi Đại Tô cách thành phố Tín Dương 22 km. Chùa
Tịnh Cư trên núi này được coi là tổ đ́nh
của tông Thiên Thai v́ tổ Nam Nhạc Huệ Tư đă đến
đây kết am tu hành, khai đàn truyền pháp vào năm Thiên
Bảo thứ năm (554) đời Bắc Tề. Nơi đây
c̣n nhiều cảnh đẹp được ghi vào huyện
chí như Túy Chúc Phong, Bạch Liên Tŕ, Nhị Môn Quán Thiên, Tiên
Nhân Động, Điếu Ngư Đài v.v… Trong Phật giáo
Trung Hoa, núi này được coi là nơi hành đạo của
Nhị Thánh (tổ Huệ Tư và tổ Trí Khải, tức
Trí Giả đại sư v́ tổ Trí Khải đắc
pháp nơi đây), Nhị Vĩ (tức luật sư Đạo
Ngạn, tổ khai sơn chùa Tịnh Cư trên nền thảo
am của tổ Huệ Tư. Vị kia là Giám Chân, đệ
tử của ngài Đạo Ngạn. Ngài Giám Chân đă sáu lần
từ Trung Hoa vượt biển sang Nhật, truyền thừa
Luật Tông, được tôn là Sơ Tổ Luật Tông của
Nhật Bản).
[10] Hy Ḥa là gọi tắt của Hy thị
và Ḥa thị. Theo truyền thuyết, vua Nghiêu đă sai Hy Trọng,
Hy Thúc, Ḥa Trọng và Ḥa Thúc chia nhau ở bốn
phương quan sát thiên tượng (các diễn biến
trên bầu trời) để chế định lịch
pháp.
[11] “Biên” là chấp vào một
phương diện đối đăi, chẳng hạn có, không, tốt, xấu, thiện, ác
v.v… thường gọi là Nhị Biên. Trung là không chấp
trước vào sự đối đăi.
[12] Tích Môn là những điều thuộc
về sự ứng hiện, Bổn Môn là sự nội chứng,
thật sự. Nói cách khác, Bổn Môn ví như vầng
trăng thật sự, c̣n Tích Môn là bóng trăng in trong
nước. Chẳng hạn như Bổn Môn là đức
Phật đă thành đạo từ nhiều kiếp lâu xa,
c̣n Tích Môn là Ngài thị hiện giáng sanh tại thành Ca Tỳ
La Vệ, hiện tám tướng thành đạo, thuyết
pháp bốn mươi chín năm v.v…
[13] Vô Kư Hóa Hóa Thiền
chỉ trong sự vô ngại tương ứng, tu tập
Thiền Định biến hóa vô cùng. Theo Pháp Hoa Huyền
Nghĩa, trong Pháp Giới Thứ Đệ Môn có chín loại
đại Thiền, trong đó môn thứ sáu là Nhất Thiết
Hạnh Thiền, hàm nhiếp hết thảy các hành pháp Thiền
Định trong Đại Thừa. Nhất Thiết Hạnh
Thiền lại được chia nhỏ thành mười
ba loại, loại thứ hai trong ấy được gọi
là Vô Kư Hóa Hóa Thiền, tức là môn Thiền Định tùy
ư vận dụng theo ư muốn, biến hóa vô cùng, tự tại
vô ngại.
[14] Đây là một thuật ngữ của
tông Thiên Thai nhằm diễn tả lợi ích của Bổn
Môn Pháp Hoa. “Đạo” là trí Trung Đạo, “sanh” là Biến Dịch Sanh Tử. “Tăng
đạo tổn sanh” nghĩa là trí Trung Đạo dần
dần tăng tấn, Biến Dịch Sanh Tử dần dần
tổn giảm. Nói cách khác, đây là quá tŕnh tăng tấn
từ Sơ Trụ tiến dần đến địa vị
Đẳng Giác trong bốn mươi hai địa vị
của Bồ Tát.
[15] Tất Đàn (Siddhānta) có nghĩa là “bố thí trọn
khắp”, hoặc “thành tựu”. Tứ Tất Đàn tức
là dùng bốn sự thành tựu để giáo hóa chúng sanh,
nhằm đối ứng với các nhu cầu của chúng
sanh có căn cơ khác biệt gồm:
- Đệ Nhất Nghĩa Tất
Đàn c̣n gọi là Nhập Lư Tất Đàn, nhằm hướng
dẫn chúng sanh tiến nhập thật lư. Tức là đức
Phật dùng trí huệ Thật Tướng Bát Nhă của
Đại Thừa, thông qua các thứ phương tiện
thiện xảo để hướng dẫn chúng sanh tiến
nhập trực tiếp nội chứng của Phật, chứng
nhập chân lư, phá trừ nghi hoặc.
- Thế Giới Tất Đàn, c̣n gọi
là Lạc Dục Tất Đàn, tức là tùy thuận pháp thế
gian để xiển minh đạo lư nhân duyên ḥa hợp.
- Các Các Vị Nhân Tất Đàn
(thường gọi tắt là Vị Nhân Tất Đàn),
c̣n gọi là Sanh Thiện Tất Đàn, ứng theo căn
cơ và năng lực bất đồng của chúng sanh
mà giải nói các pháp xuất thế, khiến cho chúng sanh
sanh khởi thiện căn, kiến lập tín tâm, tuần
tự thăng tấn.
- Đối Trị Tất Đàn,
c̣n gọi là Đoạn Ác Tất Đàn, đối trị
các phiền năo của chúng sanh, tùy theo căn bệnh mà nói
pháp dược, khiến cho chúng sanh giải thoát ác nghiệp.
[16] Ngũ vị là năm vị của
sữa (sữa, lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ)
được dùng làm thí dụ trong kinh Đại Bát Niết
Bàn. Trí Giả đại sư đă dùng chuyện này để
phán định năm thời giáo pháp của đức Phật:
Năm thời giáo pháp được tuần tự nói ra
nhằm tương ứng với căn cơ của chúng
sanh tuần tự thăng tấn:
1. Vị sữa (Kṣīraṁ), như thời Hoa Nghiêm giống như sữa sanh ra
từ ḅ. Lúc đó, căn cơ của Nhị Thừa
chưa chín muồi, rất nhạt mỏng giống như
sữa mới vắt.
2. Vị lạc (Dadhi): Sữa biến thành lạc,
giống như sau thời Hoa Nghiêm đức Phật nói
kinh A Hàm, căn cơ nghe hiểu kinh A Hàm là Tiểu Thừa.
3. Vị sanh tô (Navanītaṁ): Căn cơ Tiểu Thừa chín muồi, dần dần
tiến nhập Đại Thừa Thông Giáo.
4. Vị thục tô (Gholaṁ): Chất
tô càng được tinh chế hơn, căn cơ Thông
Giáo đă chín muồi, trở thành căn cơ Đại
Thừa Biệt Giáo.
5. Vị đề hồ (Sarpimaṇḍa): Thục Tô được nung luyện trở thành
Đề Hồ. Ví như sau thời Bát Nhă, nói kinh Pháp Hoa
và Niết Bàn khiến cho căn cơ Biệt Giáo thành
căn cơ Viên Giáo.
[17] Gọi là “liễu nhân” v́ xét
theo bản thể của cái nhân. Liễu có nghĩa là làm
sáng tỏ hoặc liễu ngộ. Như đèn chiếu
soi khiến cho người khác có thể thấy rơ mọi
vật th́ đèn là liễu nhân của cái Thấy.
[18] Trong văn tự Tất Đàm (Siddhāṃ) của tiếng
Phạn cổ, gồm có bốn mươi hai chữ, khởi
đầu bằng chữ A và kết thúc bằng chữ Trà
(ksa). Kinh Hoa Nghiêm có một chương riêng nói về Hoa
Nghiêm Tự Mẫu, tức là bốn mươi hai chữ
Phạn này, mỗi chữ tương ứng với một
môn giải thoát. Các kinh Mật Giáo như Kim Cang Đảnh, Văn Thù Sở Vấn
đă mở rộng thành năm mươi hai tự mẫu,
và coi đó là Pháp Mạn Đà La, bao gồm trọn vẹn
hết thảy các pháp trong tam giới. Do vậy, nói “từ
A đến Trà” tức là nói hết thảy các pháp từ đầu đến cuối
chẳng c̣n thừa sót.
[19] Bôn ở đây là cách viết lối
chữ cổ của Bổn (笨, ngu muội). V́
thế, Tổ giải thích Bôn là “liễu bôn” (đă hết
ngu muội).
[20] Ngoại phàm chính là địa vị
phàm phu trong sự tu hành, thấp hơn nội phàm. Nói cụ
thể, địa vị Ngũ Đ́nh Tâm trong Thanh Văn,
Niệm Trụ trong Biệt Giáo, Thập Tín Phục Nhẫn
trong Viên Giáo được gọi là ngoại phàm. Sách Đại
Thừa Nghĩa Chương giảng: “Ngoại phàm là kẻ
hướng ra ngoài cầu lư, chưa thể dứt tướng
để nội duyên chân tánh, cho nên gọi là ngoại phàm.
Chưa xả phàm thân Phần Đoạn trong lục đạo,
nên gọi là Phàm”.
[21] Ngũ Thọ của phàm phu là
năm thứ cảm nhận, tức ưu thọ, hỷ
thọ, khổ thọ, lạc thọ, và xả thọ.
[22] Phổ Hiền
Bồ Tát c̣n có danh xưng khác là Vishvabhadra (thường dịch
là Biến Cát), và thường được phiên âm là Bật
Thâu Bạt Đà. Có lẽ chữ Tung Đà ở đây là
Bạt Đà bị chép sai.
[23] Lư Bạch
(701-762), tự là Thái Bạch, hiệu là Thanh Liên cư sĩ,
là một đại thi nhân thuộc đời Thịnh
Đường. Cùng với Đỗ Phủ trở thành
biểu tượng cho Đường thi. Do thích uống
rượu và tài làm thơ, ông được người
đương thời gọi là Tửu Tiên, hay Trích Tiên
Nhân. Trong tác phẩm nổi tiếng về thơ Đường
là Đường Thi Tam Bách Thủ (ba trăm bài thơ
Đường) do Tôn Thù biên soạn, có đến 42 bài là
thơ của ông.
[24] Thôi Hạo (?-754) là một thi nhân
đời Đường, quê ở Biện Châu (nay là thành
phố Khai Phong tỉnh Hà Nam), không được ghi chép
nhiều về tiểu sử. Chỉ biết ông đỗ
Tiến Sĩ năm Khai Nguyên 10 (722), từng làm Giám Sát Ngự
Sử, rồi làm thuộc hạ của Tiết Độ
Sứ Hà Đông, huyện úy huyện Phù Câu, Thái Bộc Tự
Thừa, chức quan cao nhất của ông là Tư Huân Viên
Ngoại Lang, tức là quan trường lận đận.
Thơ của ông hay, nhưng bị thất lạc nhiều,
chỉ c̣n giữ được bốn mươi hai bài.
Bài thơ nổi tiếng nhất của ông chính là bài
thơ vịnh Hoàng Hạc Lâu. Hoàng Hạc Lâu là một ṭa lầu
trên núi Xà Sơn thuộc Vũ Xương, thành phố
Vũ Hán (tỉnh Hồ Bắc), là một trong bốn ngôi
lầu nổi tiếng của đất Giang Nam. Hoàng Hạc
Lâu hiện thời có năm tầng, cao 50,4 mét. Ṭa lầu
này được xây từ năm Hoàng Vũ thứ hai
(223) đời Đông Ngô do sắc lệnh của vua
nước Ngô là Tôn Quyền. Ṭa lầu này bị thiêu hủy
và xây lại nhiều lần (riêng trong thời Minh – Thanh,
ngôi lầu này đă bị bảy lần phá hủy v́ chiến
tranh, loạn lạc). Ngôi lầu hiện thời được
xây dựng lại vào năm 1985 trên nền cũ. Theo truyền
thuyết, tiên nhân Vương Tử An thích tu tiên, từng
thấy trên lầu này có vị tiên cưỡi hạc vàng
giáng xuống, cùng họ Vương uống rượu.
Sau đó cỡi hạc bay đi mất. V́ thế, lầu
này có tên gọi là Hoàng Hạc Lâu.
Bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hạo
như sau: “Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ, thử
địa không dư Hoàng Hạc Lâu. Hoàng hạc nhất khứ
bất phục phản, bạch vân thiên tải không du du,
t́nh xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
phương thảo thê thê Anh Vũ châu. Nhật mộ
hương quan hà xứ thị? Yên ba giang thượng sử
nhân sầu”. Thi sĩ Tản Đà dịch như sau: “Hạc vàng ai
cưỡi đi đâu? Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu
c̣n trơ! Hạc vàng đi mất từ xưa, ngh́n
năm mây trắng bây giờ c̣n bay. Hán Dương sông tạnh
cây bày, băi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non. Quê hương khuất
bóng hoàng hôn, trên sông khói sóng cho buồn ḷng ai?”
[25] Quang Trạch (467-529) là vị Tăng sống vào đời Nam Triều.
Bảy tuổi xuất gia, có pháp hiệu là Pháp Vân. Cùng với
Tăng Mân và Trí Tạng được xưng ba vị
đại pháp sư đời Lương. Sư thường
trụ tích tại chùa Quang Trạch ở Giang Tô, nên người
đời thường gọi Sư là Quang Trạch.
Sư khéo giảng Pháp Hoa, tác phẩm chú sớ kinh Pháp Hoa của
Sư được gọi là Quang Trạch Sớ, có tên gọi
đầy đủ là Pháp Hoa Kinh Nghĩa Kư.
[26] Tức là ba bộ sớ giải
kinh Pháp Hoa của tổ Trí Giả, gồm Diệu Pháp Liên
Hoa Kinh Văn Cú (giải thích kinh văn), Diệu Pháp Liên Hoa
Kinh Huyền Nghĩa (giảng về ngũ trùng huyền
nghĩa của kinh Pháp Hoa), và Ma Ha Chỉ Quán (cách tu Chỉ
Quán), mỗi bộ gồm mười quyển. Các tác phẩm
này đều do ngài Quán Đảnh Chương An ghi lại.
Ba bộ chú sớ này được tôn là điển tịch
căn bản của người học giáo nghĩa Thiên
Thai.
[27] Diệu Lạc là biệt hiệu
của ngài Kinh Khê Trạm Nhiên, tổ thứ sáu của tông
Thiên Thai. Do Ngài trụ tích tại chùa Diệu Lạc ở
Thường Châu, chuyên giảng Pháp Hoa, người
đương thời gọi Ngài là Diệu Lạc đại
sư.
[28] Lục Triều là từ ngữ của người
đời Đường tạo ra để gọi sáu triều
đại trước thời Tùy - Đường, chủ
yếu là nói đến các triều đại ở phương
Nam Trung Hoa, gồm:
- Nhà Đông Ngô (c̣n gọi
là Tôn Ngô, Tam Quốc Ngô) do Tôn Quyền sáng lập, tồn tại
từ năm 229 đến năm 280, truyền được bốn đời vua, đóng đô ở
Kiến Nghiệp (tức Nam Kinh hiện thời).
- Nhà Đông Tấn (317-420) do Tư
Mă Duệ sáng lập (tức là tiếp nối của nhà
Tây Tấn sau khi Hoa Bắc lần lượt bị các dân
tộc ngoài biên ải, tức các sắc dân Nam Hung Nô, Bạch
Nô, Đinh Linh, Thiết Phất, Lô Thủy Hồ, Thác Bạt
Tiên Ty, Vũ Văn Tiên Ty, Khương, Phù Dư v.v… tràn vào
chia cắt lănh thổ, lập thành mười sáu quốc
gia, sử gọi là Ngũ Hồ Thập Lục Quốc).
Nhà Đông Tấn đóng đô ở Kiến Khang (Nam Kinh), truyền được mười một đời
vua. Tới đời Tấn An Đế (Tư Mă Đức
Tông) bị quyền thần Hoàn Huyền ép nhường ngôi.
Hoàn Huyền đổi quốc hiệu thành Sở, sử
thường gọi là nhà Hoàn Sở. Lưu Dụ khởi
binh chinh phạt, giết chết Hoàn Huyền, khôi phục
nhà Đông Tấn. Sau một thời gian, đến năm
420, Lưu Dụ phế Tấn Cung Đế (Tư Mă Đức
Văn), tự lên ngôi, đổi quốc hiệu thành Tống,
tức nhà Lưu Tống.
- Lưu Tống (420-479), c̣n gọi
là nhà Tiền Tống, do Lưu Dụ sáng lập, cũng
đóng đô ở Kiến Khang, truyền được
chín đời vua. Vua cuối cùng Lưu Chuẩn (Tống Thuận
Đế) là con rối trong tay quyền thần Tiêu Đạo
Thành, được ông ta đưa lên ngôi năm 477 rồi
bị phế thành Nhữ Âm Vương năm 479, Tiêu Đạo
Thành lên làm vua, đổi quốc hiệu thành Tề. Tháng Năm
năm ấy, Lưu Chuẩn bị giết khi mới tṛn 12
tuổi.
- Nam Tề (479-502), c̣n gọi là Tiêu
Tề, do Tiêu Đạo Thành sáng lập, cũng đóng
đô tại Kiến Khang, truyền được
bảy đời vua.
- Nam Lương (502-557), c̣n gọi
là Tiêu Lương, Tiền Lương, hoặc Nam Triều
Lương, do Tiêu Diễn (Lương Vũ Đế)
sáng lập, đóng đô tại Kiến Khang, truyền được sáu đời vua.
- Trần (557-589), c̣n gọi là Nam Trần,
do Trần Bá Tiên soán ngôi nhà Lương từ tay Lương Kính Đế (Tiêu Phương
Trí), cũng đóng đô
tại Kiến Khang, truyền được
năm đời vua. Vua cuối cùng là Trần Hậu Chủ
(Trần Thúc Bảo) si ám, ham ăn chơi, hưởng lạc,
bị Tùy Văn Đế xua quân nam chinh, tiêu diệt nhà Trần,
thống nhất Trung Hoa.
Ngài Kinh Khê Trạm Nhiên (717-782) sống
vào thời Đường.
[29] Đại sư
viết bộ Hội Nghĩa này lúc Ngài 51 tuổi (tức
năm Thuận Trị thứ sáu đời nhà Thanh. Nếu
tính theo niên hiệu đời Minh th́ là năm Vĩnh Lịch
thứ ba nhà Nam Minh, năm Khánh Đức thứ nhất đời
Lê Thần Tông nhà Hậu Lê của Việt Nam). Theo pháp
sư Hoằng Nhất viết trong bộ Ngẫu Ích Đại
Sư Niên Phổ, tổ Ngẫu Ích trụ tại Linh Phong,
đang bị bệnh vẫn cất bút viết Hội Nghĩa
vào tháng Chạp năm ấy, đến tháng Giêng năm sau
th́ hoàn thành.
[30] “Tường tự” trong
nghĩa gốc là “trường học”. Đời Ân Thương gọi
trường học là Tường, từ đời Châu th́ gọi là Tự. Do vậy,
trường học được gọi chung là Tường
Tự; sau đó, mở rộng thành ư
nghĩa “dạy bảo”.
[31] Đại Kinh có thể hiểu tổng
quát là các kinh Đại Thừa, hoặc tùy theo tông phái mà
Đại Kinh có thể hiểu khác nhau. Chẳng hạn Tịnh
Độ Đại Kinh th́ là kinh Vô Lượng Thọ,
c̣n ở đây, do Tổ hoàn toàn nói theo cách giảng giải
của tông Thiên Thai, th́ Đại Kinh chính
là kinh Ma Ha Bát Nhă.
[32] Ư nói tùy theo từng thời đại
mà có vị dịch kinh ghi là “như thị ngă văn”,
“ngă văn như thị”, hoặc “văn như thị”.
[33] Thông thường, Thích Luận là tên gọi khác của Đại Trí
Độ Luận, v́ bộ luận này nhằm giải
thích kinh Đại Phẩm Bát Nhă, cho nên thường gọi là Đại Luận hay Thích
Luận. Nếu xét theo Mật Giáo th́ Thích Luận chính là bộ Thích Ma Ha Diễn Luận,
tức là sách chú giải bộ Đại Thừa Khởi
Tín Luận do Long Thọ Bồ Tát trước tác. Bộ luận
này được ngài Phiệt Đề Ma Đa dịch
sang tiếng Hán vào thời Diêu Tần, gồm mười
quyển. Khi ngài Không Hải đem bộ luận này về
Nhật Bản và hoằng dương Mật Tông, đă chủ
trương bộ luận này là kinh sách căn bản phải
học của tất cả các hành giả Chân Ngôn Tông. Ngu ư
cho rằng ở đây phải hiểu Thích Luận theo
nghĩa thứ hai, v́ trong toàn bộ tác phẩm, Tổ luôn
dùng chữ Đại Luận để chỉ Đại
Trí Độ Luận.
[34] Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận
c̣n gọi là Thập Trụ Luận, do ngài Long Thọ
trước tác nhằm giải thích kinh Thập Trụ (tức
là bản dịch khác của phẩm Thập Địa
trong kinh Hoa Nghiêm). Tác phẩm này được ngài Cưu
Ma La Thập dịch sang tiếng Hán gồm mười sáu
quyển. Hiện thời, bộ luận này chỉ c̣n lại
phần nói về hai địa đầu tiên trong Thập
Địa (tức Hoan Hỷ Địa và Ly Cấu Địa).
Có thuyết nói là Ngài chỉ dịch hai địa vị
đầu tiên. Tương truyền, khi ngài Long Thọ ở
trong long cung, đọc bộ Hoa Nghiêm Kinh tiểu bổn gồm
mười vạn bài tụng (tức 40.000 câu) đă soạn
một bộ sách chú giải có tựa đề là Đại
Bất Tư Nghị Luận, Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận
chỉ là một phẩm trong bộ sách ấy.
[35] Địa Tiền là các địa
vị trước khi đạt tới Sơ Địa,
tức Thập Trụ, Thập Hạnh, và Thập Hồi
Hướng.
[36] Ca La (Kāla), c̣n phiên âm là Ca Lă, dịch nghĩa là Thật
Thời. Theo Duy Thức, Thời có hai loại: Thật Thời
(Ca La) và Giả Thời (Tam-ma-da). Khi luật điển nói
đến các thời gian thọ trai, đắp y, chấp tác, tụng
niệm, thiền quán v.v… th́ đó là Thật Thời, c̣n như kinh nói một
thời, một ngày, cho đến một kiếp th́ là Giả Thời. Theo Danh
Nghĩa Tập, Thật Thời tức là thời gian hiểu
theo Tục Đế, c̣n Tam-ma-da (Giả Thời) là nói phương
tiện, hay nói theo Đệ Nhất Nghĩa Đế.
[37] “Quả đầu Phật” là một thuật ngữ trong tông
Thiên Thai để nói đến quả vị Phật trong
mỗi giáo. Do quả vị Phật cao nhất, nên gọi
là “quả đầu”.
[38] Vương Xá (Rājagṛha), đôi khi được
phiên âm là La Duyệt Kỳ, là kinh đô của nước
Ma Kiệt Đà (Magādha),
tức quốc gia của vua A Xà Thế thuộc
vương triều Haryanka thuở đức Phật tại
thế. Vương Xá nay là thành phố Rajgir thuộc
tiểu bang Bihar của Ấn Độ.
[39] Nhằm thuận tiện cho các liên
hữu tham khảo, chúng tôi xin trích dịch đoạn
giải thích về thành Vương Xá trong Pháp Hoa Văn Cú
như sau: “Thành Vương Xá được Thiên Trúc gọi
là La Duyệt Kỳ Già La. Phương này (Trung Hoa) dịch La Duyệt Kỳ là
Vương Xá. Già La được cơi này dịch là Thành.
Tên nước là Ma Già Đà, phương
này dịch là Bất Hại,
do không có tử h́nh. Nước này c̣n gọi là Ma Kiệt
Đề, phương này dịch là Thiên La. Thiên La là tên của
nhà vua. Dùng tên vua để đặt tên cho nước. Vị
vua ấy là cha của Bác Túc. Trong kiếp lâu xa xưa kia, vị
vua ấy đứng đầu một tiểu quốc.
Vua đi tuần trong núi, gặp một con sư tử cái.
Mọi người bỏ chạy tán loạn, sư tử
cái bèn cùng vua giao phối. Tṛn một tháng sau, nó đến
điện vua để sanh nở. Vua biết đó là con
ḿnh, nói dối ‘ta không có con; đây là trời ban cho’. Bèn
đặt tên cho đứa bé là Thiên Tứ (trời ban), nuôi làm
Thái Tử. Do chân [Thái Tử] có vằn nhiều màu, nên gọi
là Bác Túc (chân vằn vện). Về sau, [Bác Túc] nối ngôi vua, thích ăn thịt, dặn
nhà bếp không được thiếu thịt. Có một
lúc thiếu thịt, [đầu bếp] bèn lấy trẻ
nhỏ mới chết ở phía Tây kinh thành làm món ăn. Vua
khen rất ngon, truyền lệnh thường nấu món thịt
ấy. Đầu bếp mỗi ngày bắt một người
[làm thịt], toàn quốc âu sầu, sợ hăi. Một ngàn tiểu
quốc dấy binh phế vua, bỏ [nhà vua] trong núi Kỳ Xà Quật. Các La Sát bắt vua làm quỷ
vương. Do vậy, vua thề với sơn thần sẽ
bắt một ngàn vị vua đem tế núi. Vua bắt
được chín trăm chín mươi chín người,
c̣n thiếu vua Phổ Minh. Về sau, vua Bác Túc t́m
cách bắt được vua Phổ Minh. Vua Phổ Minh khóc ṛng, tiếc hận
‘suốt đời nói thật, mà nay phải trái lời’. Bác Túc thả cho Phổ
Minh về nước. Phổ Minh bèn bố thí to lớn, lập
Thái Tử, rồi đến chịu chết, vẻ mặt
vui sướng, tâm an ổn. Bác Túc hỏi duyên cớ, vua
đáp: “Do được nghe thánh pháp”. Do vậy,
Bác Túc bảo Phổ Minh nhắc lại, [giáo pháp ấy]
khen ngợi rộng răi ḷng Từ, chê trách
chuyện giết hại; [Phổ Minh] lại c̣n nói Tứ
Phi Thường Kệ. Bác Túc nghe pháp, đạt đến
địa vị Không B́nh Đẳng, tức Sơ Địa.
Bèn đối với một ngàn vị vua, lấy mỗi
người một giọt máu, ba cọng tóc cho xong lời
nguyện với sơn thần. Bác Túc và một ngàn vị
vua cùng lập thành quách tạo thành một đại quốc
trong năm quả núi, giao các tiểu quốc cho con cháu của
một ngàn vị vua. Một ngàn vị vua đều thay phiên nhau
trông coi việc nước của đại quốc.
Đă thế, trăm họ trong năm quả núi bảy
lượt làm nhà, bảy lượt bị lửa cháy.
Trăm họ bàn với nhau: “Do chúng ta bạc phước
nên nhiều lần bị cháy sạch, vua có phước lực,
cho nên nhà cửa chẳng cháy. Từ nay trở đi đều
chẳng gọi là nhà của ta mà là nhà của vua”. V́ thế,
gọi là thành Vương Xá. Hơn nữa, Bác Túc đắc
đạo, bèn tha cho ngàn vị vua. Ngàn vị vua được
ân xá ở nơi ấy, nên gọi là Vương Xá (vua xá tội).
Nhưng các nhà chú giải kinh mượn âm chữ Xá trong ốc
xá (nhà cửa) để ghi lại. Nhân duyên trích từ
Đại Luận và các kinh… Núi Kỳ Xà Quật được
cơi này dịch là Linh Thứu, cũng dịch là Thứu
Đầu, c̣n dịch là Lang Tích… Đỉnh núi giống
chim Thứu (chim ưng), bèn đặt tên núi theo h́nh dáng
đỉnh núi. Lại nói phía Nam núi có rừng Thi Đà (rừng
bỏ xác người chết), chim Thứu ăn xác chết
xong bèn đậu trong núi ấy. Người
đương thời gọi là Thứu Sơn. Lại có
người giải thích: Phật trong quá khứ và Phật
hiện tại đều ngự tại núi ấy. Sau khi
đức Phật diệt độ th́ La Hán trụ ở
đó. Lúc pháp diệt th́ Bích Chi Phật trụ. Không có Bích
Chi Phật th́ quỷ thần ở đó. Đă là nơi ở
của thánh nhân linh thiêng th́ nói chung có ba chuyện, v́ vậy
gọi là núi Linh Thứu. [Nơi đó] có năm tinh xá: Bệ
Bà La Bạt Thứ, phương
này dịch là Chủ
Huyệt, Tát Đa Ban Na Cầu Ha, phương này dịch là Thất Diệp, Nhân Đà Thế La Cầu
Ha, phương này dịch là Xà Thần Sơn, Tát Bá Thứ
Hồn Trực Ca Bát Bà La, phương
này dịch là Thiếu
Độc Lực Sơn; năm là Kỳ Xà Quật
Sơn”.
[40] Đây là một
thuật ngữ chuyên biệt của tông Thiên Thai để
mô tả thời Bát Nhă. Từ ngữ này xuất phát từ
bộ Thiên Thai Tứ Giáo Nghi của ngài Đế Quán. Nói đầy
đủ th́ là “chuyển giáo, phó tài, dung thông, đào thải”.
Trong hội Bát Nhă, do được Phật lực gia bị,
ngài Tu Bồ Đề thay đức Phật diễn nói pháp
môn Bát Nhă cho các hàng Bồ Tát. Đó gọi là “chuyển giáo”.
“Dung thông” tức là dung hội vô ngại. V́ Bát Nhă xiển
dương hết thảy các pháp đều là Đại
Thừa, Đại và Tiểu dung hội, chẳng hai, chẳng
khác. “Phó tài” (giao phó tài sản), ngụ ư kể từ
trong phẩm Tín Giải, các Thanh Văn chuyển giáo hiển
lộ ư Phật, tức là đă đem gia nghiệp, tài sản
của Phật giao phó cho các Thanh Văn, khác nào trưởng
giả giao phó tài sản cho đứa con nghèo túng. “Đào
thải” hàm ư gột trừ cấu uế. Do các thời
trước đó gây nên t́nh chấp có Đại, Tiểu
sai biệt, đến thời Bát Nhă chỉ bày Đại
Tiểu dung thông, phá chấp trước đối với
nhị biên và Trung Đạo, gột sạch các cấu uế
kiến hoặc.
[41] Bảy điều
ác nơi thân và miệng là giết, trộm, dâm, nói dối, nói
đôi chiều, nói thêu dệt, và ác khẩu.
[42] “Hậu tâm” có nghĩa là sau
khi đă sơ phát tâm, đă có thời gian tu tập lâu dài,
an trụ trong pháp mà ḿnh đang tu tập, chẳng bị
thoái chuyển.
[43] Tứ ma: Phiền Năo Ma, Uẩn Ma,
Tử Ma và Thiên Ma.
[44] Tám ma tức là bốn loại ma
trên đây, cộng với vô thường, vô lạc,
vô ngă, vô tịnh. Bốn loại trước là ma của
phàm phu, bốn loại sau là ma của Nhị Thừa.
Thập ma gồm Uẩn
Ma (Ngũ Uẩn khiến cho chúng sanh bị chướng lấp
thánh đạo), phiền năo ma, nghiệp ma, tâm ma (tức
cái tâm ngă mạn), tử ma (thọ mạng hữu hạn,
chưa tu thành công th́ đă phải chết), thiên ma, thiện
căn ma (chấp trước thiện căn do ḿnh đă
làm), tam-muội ma (chấp trước cảnh giới Thiền
Định mà ḿnh đă đạt được), thiện
tri thức ma (keo tiếc pháp, chẳng thể chỉ bày,
hướng dẫn người khác), Bồ Đề pháp trí
ma (khởi trí chấp trước đối với Bồ
Đề, chướng lấp chánh đạo, gây hại
cho huệ mạng).
[45] Căn bản phiền năo có thể
sanh ra các thứ chi mạt phiền năo (phiền năo cành
nhánh), th́ gọi là Trụ Địa. Phiền năo nơi Trụ
Địa có năm thứ:
1. Kiến Nhất Xứ Trụ
Địa tức các Kiến Hoặc trong tam giới
như Thân Kiến v.v…
2. Dục Ái Trụ Địa tức
là phiền năo trong Dục Giới, ngoại trừ Kiến
Hoặc và vô minh.
3. Sắc Ái Trụ Địa là phiền
năo thuộc Sắc Giới ngoại trừ Kiến Hoặc
và Vô Minh.
4. Hữu Ái Trụ Địa là phiền
năo thuộc về Vô Sắc Giới, ngoại trừ Kiến
Hoặc và vô minh.
5. Vô Minh Trụ Địa là hết
thảy vô minh trong tam giới.
[46] Ư nói Tăng chúng ḥa hợp
th́ không xé lẻ thành từng nhóm riêng biệt hay phân chia phe
phái.
[47] “Tám gió” (bát phong) là tám thứ thái độ của
người khác đối với ta, c̣n gọi là Thế
Bát Pháp (tám pháp thế gian) bao gồm lợi (có lợi), suy (hao
tổn), hủy (hủy báng), dự (đề cao), xưng
(ca ngợi), cơ (chê trách), khổ, lạc. Tám điều
ấy dấy động phiền năo bùng cháy, nên gọi là “bát phong”.
[48] Tam Lậu (Traya āsravāh) là Dục Lậu (Kāmāsrava,
hết thảy phiền
năo trong Dục Giới ngoại trừ vô minh), Hữu Lậu
(Bhavāsrava, các phiền năo trong Sắc Giới
và Vô Sắc Giới, ngoại trừ vô minh), và Vô Minh Lậu (Avidyāsrava, vô minh trong khắp tam giới).
[49] Tức là hai mươi lăm chỗ
luân hồi sanh tử trong tam giới. V́ có nhân ắt có quả,
nhân quả chẳng mất nên gọi là Hữu, tức là
cái quả Dị Thục của hữu t́nh trong tam giới,
gồm địa ngục hữu, súc sanh hữu, ngạ quỷ
hữu, A Tu La hữu, Phất Bà Đề hữu (Đông
Thắng Thần Châu), Cù Da Ni hữu (Tây Ngưu Hóa Châu), Uất
Đan Việt hữu (Bắc Câu Lô Châu), Diêm Phù Đề hữu,
Tứ Thiên Xứ hữu, Tam Thập Tam Thiên Xứ hữu,
Diễm Ma Thiên hữu, Đâu Suất Thiên hữu, Hóa Lạc
Thiên hữu, Tha Hóa Tự Tại Thiên hữu, Sơ Thiền
hữu, Đại Phạm Thiên hữu, Nhị Thiền hữu,
Tam Thiền hữu, Tứ Thiền hữu, Vô Tưởng
hữu, Tịnh Cư A Na Hàm hữu, Không Xứ hữu, Thức
Xứ hữu, Bất Dụng Xứ hữu, và Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng Xứ hữu.
[50] Bát tự tại c̣n gọi là Bát Biến
Hóa, hoặc Bát Thần Biến:
1. Có thể thị hiện một
thân thành nhiều thân.
2. Có thể thị hiện thân nhỏ
như vi trần mà trọn khắp tam thiên đại thiên
thế giới.
3. Thân to lớn nhưng nhẹ nhàng
cất ḿnh lên đến chỗ rất xa.
4. Thấy vô lượng loại
chúng sanh.
5. Các căn có thể sử dụng
lẫn nhau, chẳng hạn mắt có thể nghe, tai có thể
thấy v.v…
6. Đạt được hết
thảy các pháp mà chẳng có ư tưởng là đă đắc.
7. Nói một bài kệ mà trải qua
vô lượng kiếp.
8. Thân trọn khắp các xứ ví
như hư không.