Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa

phần 10

Đất Cổ Ngô, Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật

妙法蓮華經綸貫會義

古吳後學蕅益智旭述

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

11. Phẩm thứ mười một: Kiến Bảo Tháp (Kiến Bảo Tháp phẩm đệ thập nhất, 見寶塔品第十一)

 

          “Tháp” nói đủ là Tháp Bà (塔婆, Stūpa), hoặc là Thâu Bà (偷婆), tân dịch là Tốt Đổ Ba (窣堵波), phương này dịch là Phương Phần (方墳, mộ vuông), c̣n dịch là Linh Miếu (靈廟, miếu thiêng), cũng dịch là Cao Hiển (高顯, cao rạng), cũng dịch là Phù Đồ (浮圖)[1]. Có chứa xá-lợi th́ gọi là Tháp, không có xá-lợi th́ gọi là Chi Đề (支提, Caitya). Xá-lợi (Śarīra) lại c̣n luận định là toàn thân hay nát vụn. Như Phật Thích Ca nát thân thành tám hộc xá-lợi. Về sau, vua A Dục (Aśoka) tạo tám vạn bốn ngàn tháp báu để cúng dường trọn khắp các danh sơn trong thiên hạ. Cho đến nay, xá-lợi toàn thân của Phật Đa Bảo chẳng tiêu tan; v́ thế, chỉ có một tháp.

          Lại nữa, theo Luật Tạng, có bốn chỗ để dựng tháp: Chỗ Phật đản sanh, chỗ Phật đắc đạo, chỗ Phật chuyển pháp luân, chỗ Phật nhập Niết Bàn. Nay tam thân của chư Phật đều sanh từ Thật Tướng Pháp Hoa, chư Phật ngồi đạo tràng ở đó, chư Phật chuyển pháp luân tại đó, chư Phật bát Niết Bàn tại đó. Chỉ riêng kinh Pháp Hoa này chính là bốn ṭa tháp của tam thế Phật. Phật quá khứ đă ngự tại đó, Phật hiện tại đều cùng ngự tại đó, Phật vị lai cũng thế. Tháp này xuất hiện nhằm nêu tỏ chuyện ấy, tứ chúng đều trông thấy; v́ thế gọi là phẩm Kiến Bảo Tháp (thấy tháp báu; đó là giải thích theo Thế Giới Tất Đàn).

          Kinh Anh Lạc nói: “Cúng dường nhất Phật xá-lợi, khởi tháp măn tứ thiên hạ, bất như cúng dường Như Lai sanh thân. Do sắc thân hữu xá-lợi cố. Hựu khởi tháp măn đại thiên cúng dường sắc thân, bất như cúng dường Pháp Thân, do Pháp Thân hữu sắc thân cố” (Cúng dường xá-lợi của một vị Phật, dựng tháp trọn khắp tứ thiên hạ, chẳng bằng cúng dường sanh thân (sắc thân tại thế) của Như Lai, do sắc thân có xá-lợi. Lại dựng tháp trọn khắp đại thiên thế giới để cúng dường sắc thân, chẳng bằng cúng dường Pháp Thân, do Pháp Thân có sắc thân). Hăy nên biết: Thấy sắc chẳng sánh bằng nghe kinh, do từ nghe kinh mà có Pháp Thân. Kinh có Thiên hay Viên, tức là Pháp Thân toàn vẹn hay nát vụn, công đức khác nhau. Nay kinh này thuần diễn nói Viên lư, tức là Pháp Thân toàn vẹn. V́ thế, tŕ kinh có công đức sâu xa, có sức hoằng truyền, tuyên dương to lớn. Tháp của Phật Đa Bảo từ dưới đất vọt lên để chứng minh chuyện này. Tứ chúng đều trông thấy; do đó nói là phẩm Kiến Bảo Tháp (Đó là Vị Nhân Tất Đàn).

          Tam châu thuyết pháp đă xong, [tháp báu] từ dưới đất vọt lên, phát ra âm thanh to lớn, lại c̣n tán thán “lành thay”. Xét theo sự thành tựu nơi Thật để nói th́ là “chứng tiền” (chứng thực những điều đă nói trước đó). V́ để mở tháp, cần phải nhóm họp phân thân. Đă mở tháp rồi, [Phật Thích Ca] vào tháp cùng ngồi, dùng tiếng to lớn bảo trọn khắp, triệu vời các đệ tử nơi Bổn. Do [đại chúng] đều nghi [các vị Bồ Tát] từ dưới đất vọt lên, [đức Phật] mới nói rơ thọ lượng, lần lượt nêu ra nguyên do, tức là “thỉnh hậu”. Chính v́ “chứng tiền”“thỉnh hậu”. Từ dưới đất vọt lên, tứ chúng đều trông thấy. V́ thế nói là phẩm Kiến Bảo Tháp (đó là Đối Trị Tất Đàn).

          Phật Đa Bảo thị hiện diệt độ, toàn thân xá-lợi nghiễm nhiêm chẳng tan. Lại nghe Ngài (Phật Đa Bảo) nói, tức là “diệt mà chẳng diệt”, có thể biểu thị Pháp Thân. Đức Thích Ca vào tháp, hai thân (thân của Phật Đa Bảo và thân Phật Thích Ca) tương xứng. Như và Trí tương xứng với cảnh, có thể biểu thị Báo Thân. Phân thân [của Phật Thích Ca] vân tập (nhóm lại cuồn cuộn như mây đùn), có thể biểu thị Ứng Thân. Tam thân của tam thế Phật chẳng phải là một hay khác, khiến cho tứ chúng trông thấy. V́ thế nói là phẩm Kiến Bảo Tháp (đó là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn).

          Tháp xuất hiện có hai ư:

          - Một, phát ra âm thanh để “chứng tiền”. Tam châu thuyết pháp, công đức do lưu thông đều là chân thật, chẳng giống các lời đàm luận nói kèm thêm hoặc đối ứng. Đó chính là xét theo giáo nghĩa.

          - Hai, v́ mở tháp mà phát khởi cho phần sau. Tiếng nói thấu triệt phương dưới, triệu vời các đệ tử nơi Bổn, nói rơ sự trường thọ, nhanh chóng phá tan mối nghi [Phật Thích Ca mới chỉ] thành Phật trong thời gian gần đây nơi Tịch Diệt Đạo Tràng. Đấy chính là ư nghĩa xét theo Bổn Tích.

          Lại nữa, tháp từ thuở xa xôi từ dưới đất vọt ra, tỏ lộ sức thần thông tự tại, hiển lộ đời quá khứ đă từng lợi ích chúng sanh. Phát ra âm thanh to lớn, hiển lộ sức Sư Tử Phấn Tấn[2], hiển hiện chuyện “khai Quyền, hiển Thật” trong hiện tại nơi mười phương. Ngài (Phật Đa Bảo) có đại thệ nguyện “nếu vị lai chư Phật nói kinh này, tháp báu của ta sẽ đều tới đó để chứng minh”, tỏ lộ sức oai mănh thế lực to lớn, hiển lộ vị lai thường trụ bất diệt.

          Giải thích theo quán tâm, nương theo kinh để tu Quán, tương ứng với Pháp Thân, ắt thấu hiểu cảnh và trí. Như tháp hiện đến chứng minh kinh, cảnh và trí đă hiểu, sẽ là đại báo viên măn. Như Phật Thích Ca và Phật Đa Bảo ngồi chung một ṭa, do v́ đại báo viên măn, sẽ tùy cơ xuất hiện, ứng hóa. Như phân thân đều tụ tập, do Đa Bảo Phật xuất hiện, Phật ba đời đều hiển lộ. Do tŕ kinh liền trọn đủ ba thân. Kinh Phổ Hiền Quán[3] chép: “Phật tam chủng thân tùng Phương Đẳng sanh” (ba loại thân của Phật sanh từ Phương Đẳng) chính là nghĩa này.

 

11.1. Trường Hàng

11.1.1. [Tháp báu của] Phật Đa Bảo vọt lên, hiện ra

11.1.1.1. Tháp hiện tướng

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật tiền hữu thất bảo tháp, cao ngũ bách do-tuần, tung quảng nhị bách ngũ thập do-tuần, tùng địa dũng xuất, trụ tại không trung. Chủng chủng bảo vật nhi trang hiệu chi, ngũ thiên lan thuẫn, khám thất thiên vạn, vô số tràng phan dĩ vi nghiêm sức, thùy bảo anh lạc. Bảo linh vạn ức nhi huyền kỳ thượng. Tứ diện giai xuất Đa Ma La Bạt Chiên Đàn chi hương, sung biến thế giới. Kỳ chư phan, cái, dĩ kim, ngân, lưu ly, xa cừ, mă năo, chân châu, mai khôi, thất bảo hợp thành, cao chí TThiên Vương cung.

          ()爾時佛前有七寶塔。高五百由旬。縱廣二百五十由旬。從地涌出。住在空中。種種寶物而莊校之。五千欄楯。龕室千萬。無數幢幡以為嚴飾。垂寶瓔珞。寶鈴萬億而懸其上。四面皆出多摩羅跋栴檀之香。充徧世界。其諸幡葢。以金銀琉璃硨磲碼瑙真珠玫瑰七寶合成。高至四天王宮。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, trước đức Phật có tháp bảy báu cao năm trăm do-tuần (yojanas), ngang dọc mỗi bề hai trăm năm mươi do-tuần, từ dưới đất vọt ra, trụ trong không trung. Các thứ vật báu để trang điểm. Năm ngàn lan can, ngàn vạn khám thất[4]. Vô số tràng phan dùng để trang hoàng. Treo rủ các chuỗi ngọc báu, vạn ức linh báu treo trên đó. Bốn mặt đều tỏa ra mùi hương Đa Ma La Bạt Chiên Đàn, đầy khắp thế giới. Các phan, lọng do vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mă năo, chân châu, mai khôi, bảy báu hợp thành, cao đến cung điện của tứ thiên vương).

 

          Bảy báu biểu thị Thất Giác, Thất Thánh Pháp Tài trong Tánh Đức. “Tháp” biểu thị cảnh Thật Tướng, là chỗ Pháp Thân nương vào (bốn giáo, mỗi giáo đều luận định Thất Giác, Thất Tài, nay chỉ luận theo Viên Giáo. Nơi địa vị tu nhân cũng có Thất Giác, Thất Tài, nay chỉ xét theo cực quả. Thất Giác, Thất Tài đều do tu được; nay nói rơ “toàn tánh khởi tu, toàn tu hiển tánh”. V́ thế là vô tác Tánh Đức).

          “Cao ngũ bách do-tuần” (cao năm trăm do-tuần) là cao hai vạn dặm, theo chiều dọc biểu thị vạn hạnh nơi cái nhân, là vạn đức nơi cái quả. “Tung quảng nhị bách ngũ thập do-tuần” (ngang dọc mỗi bề là hai trăm năm mươi do-tuần): Tức là một vạn dặm, theo chiều ngang, biểu thị vạn thiện trang nghiêm. “Đất” biểu thị vô minh tâm địa, “không” (không gian) biểu thị Đệ Nhất Nghĩa Không. Dùng “không có ǵ để phá” mà phá đất vô minh. Dùng vô sở trụ (chẳng trụ vào đâu) để trụ trong Đệ Nhất Nghĩa Không. V́ thế nói “tùng địa dũng xuất” (từ trong đất vọt ra).

          “Trụ tại không trung” (trụ trong hư không) cũng nhằm chứng tiền, khởi hậu. Người thuộc bảy phương tiện chưa khai Tạng lư, bị vô minh ẩn lấp, như tháp ở trong đất. Nay nghe “khai tam, hiển nhất” trong tam châu khai tri kiến của Phật, hiển lộ Pháp Thân như tháp vọt lên hư không. Đấy chính là “chứng tiền”. Tu đắc Pháp Thân, đă rành rẽ từ lâu. Như tháp ở trên hư không, không ai có thể mở được, biểu thị nơi bổn địa đă thành tựu từ lâu, nhưng mọi người chẳng biết. Nếu nêu bày Tích, hiển lộ Bổn, sẽ liễu đạt chẳng nghi. Đấy chính là “khởi hậu” (phát khởi cho phần sau, tức là mở đầu phần Bổn Môn). Như tháp từ đất hiện ra, biểu thị Pháp Thân hiển hiện, vừa giống vừa khác với các kinh. Bồ Tát hiển lộ Pháp Thân th́ đồng; Nhị Thừa hiển lộ Pháp Thân th́ dị (khác). Như tháp ở trên hư không, mở cửa tháp bèn thấy Phật, biểu thị tỏ bày Tích, hiển lộ Bổn, vĩnh viễn khác với các kinh! Như tháp đến “chứng tiền”, sự đă rành rành, cho nên chẳng cần phải nghi nữa! Tháp đến “khởi hậu”, ngầm có ư y, nhưng mọi người chẳng biết!

          “Chủng chủng bảo vật” (các thứ vật báu) biểu thị sử dụng rất nhiều thứ Định và Huệ để trang nghiêm. “Lan thuẫn” (lan can) biểu thị Tổng Tŕ. “Khám thất” biểu thị vô lượng từ bi thất, và cũng biểu thị vô lượng Không xá (nhà Không). “Tràng phan” biểu thị tướng thần thông thù thắng. “Thùy chư anh lạc” (treo rủ các chuỗi ngọc) biểu thị công đức thuộc Giới, Định, Huệ, đà-la-ni nơi bốn mươi địa vị. Trên là trang nghiêm Pháp Thân, dưới là tiếp độ chúng sanh. “Bảo linh” (linh báu) biểu thị bát âm[5], tứ biện tài. “Tứ diện xuất hương” (bốn phía tỏa mùi thơm) biểu thị gió đạo Vô Tác Tứ Đế thổi qua, tỏa ngát hương Tứ Đức. “Thất bảo phan cái cao chí TThiên Vương cung” (phan, lọng bảy báu cao tới cung điện của bốn thiên vương), biểu thị thần thông từ lực, đều do Thất Giác và Thất Tài trong Tánh Đức tạo thành, đều thấu tột cùng tận lư Vô Tác Tứ Đế.

         

11.1.1.2. Chư thiên cúng dường

 

          (Kinh) Tam thập tam thiên vũ thiên Mạn-đà-la hoa cúng dường bảo tháp. Dư chư thiên, long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng thiên vạn ức chúng, dĩ nhất thiết hoa, hương, anh lạc, phan, cái, kỹ nhạc, cúng dường bảo tháp, cung kính tôn trọng, tán thán.

          ()三十三天。雨天曼陀羅華供養寶塔。餘諸天龍夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽人非人等千萬億眾。以一切華香瓔珞幡葢技樂供養寶塔。恭敬尊重讚歎。

          (Kinh: Trời Tam Thập Tam (trời Đao Lợi) mưa hoa Mạn-đà-la (Māndārava) cúng dường tháp báu. Các vị trời khác, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… ngàn vạn ức người, dùng hết thảy các thứ hoa, hương, chuỗi ngọc, phan, lọng, kỹ nhạc để cúng dường tháp báu, cung kính, tôn trọng, tán thán).

 

          Giải thích theo phương diện sự tướng th́ dễ hiểu. Lại xét theo Lư, Tam Thập Tam Thiên biểu thị ba mươi địa vị thuộc Trụ, Hạnh, Hồi Hướng. Thập Địa là một, Đẳng Giác là một nữa, Diệu Giác là một nữa, gộp chung thành ba mươi ba, cùng nương vào cảnh Thật Tướng Đệ Nhất Nghĩa. “Vũ thiên Mạn-đà-la hoa” (Tuôn mưa hoa Mạn-đà-la cơi trời): Sơ tâm cũng trọn đủ công đức thuộc bốn mươi hai địa vị, hậu tâm cũng thế, đều dùng tất cả nhân hoa thuộc bốn mươi địa vị quy hướng Pháp Thân. Từ “dư chư thiên long” (các trời, rồng khác) trở đi là biểu thị nội phàm, ngoại phàm v.v… cũng nương vào Thật Tướng, hướng theo quả để tu hành cái nhân.

 

11.1.1.3. Phật Đa Bảo xưng dương, tán thán

 

          (Kinh) Nhĩ thời, bảo tháp trung xuất đại âm thanh, thán ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn năng dĩ b́nh đẳng đại huệ giáo Bồ Tát pháp Phật sở hộ niệm Diệu Pháp Hoa kinh, vị đại chúng thuyết. Như thị, như thị, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, như sở thuyết giả, giai thị chân thật”.

          ()爾時寶塔中出大音聲。歎言善哉善哉。釋迦牟尼世尊。能以平等大慧教菩薩法佛所護念妙法華經為大眾說。如是如是。釋迦牟尼世尊。如所說者。皆是真實。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, trong tháp báu phát ra âm thanh lớn, khen rằng: - Lành thay! Lành thay! Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn có thể đem kinh Diệu Pháp Liên Hoa là pháp đại huệ b́nh đẳng để dạy các Bồ Tát, được chư Phật hộ niệm mà v́ đại chúng nói. Đúng như thế, đúng như thế, như những lời Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn đă nói đều là chân thật).

 

          “Thiện tai, thiện tai” (lành thay! Lành thay): Tán thán khế lư, khế cơ. “B́nh đẳng” có hai nghĩa:

          - Một, pháp b́nh đẳng, tức lư Trung Đạo.

          - Hai, chúng sanh b́nh đẳng: Hết thảy chúng sanh đều cùng đạt được Phật huệ.

          “Đại” giống như ư nghĩa “cao quảng” trong phần trước. “Như thị, như thị”: Một, đúng như pháp tánh thật lư. Hai, đúng như căn tánh của chúng sanh. V́ thế, đều là chân thật. Đấy chính là chứng minh “khai Quyền, hiển Thật” trong phần trước là chân thật, chẳng dối!

 

11.1.1.4. Đại chúng trong thuở ấy kinh nghi

 

          (Kinh) Nhĩ thời, tứ chúng kiến đại bảo tháp trụ tại không trung. Hựu văn tháp trung sở xuất âm thanh, giai đắc pháp hỷ, quái vị tằng hữu, tùng ṭa nhi khởi, cung kính, hiệp chưởng, khước trụ nhất diện.

          ()爾時四眾。見大寶塔住在空中。又聞塔中所出音聲。皆得法喜。怪未曾有。從座而起。恭敬合掌。卻住一面。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, tứ chúng thấy tháp báu lớn trụ trong hư không. Lại nghe trong tháp phát ra âm thanh, đều được pháp hỷ, cảm thấy lạ lùng chưa từng có, từ chỗ ngồi đứng lên, cung kính chắp tay rồi đứng qua một phía).

 

          “Giai đắc pháp hỷ” (đều được pháp hỷ): Tỏ rơ họ đă lănh ngộ “chứng tiền”. “Quái vị tằng hữu, khởi trụ nhất diện” (lạ lùng chưa từng có, đứng dậy, đứng qua một phía) ngầm giúp cho “khởi hậu”.

 

11.1.1.5. Ngài Đại Nhạo Thuyết thưa hỏi

 

          (Kinh) Nhĩ thời, hữu Bồ Tát Ma Ha Tát, danh Đại Nhạo Thuyết, tri nhất thiết thế gian thiên, nhân, A Tu La đẳng tâm chi sở nghi, nhi bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Dĩ hà nhân duyên hữu thử bảo tháp tùng địa dũng xuất. Hựu ư kỳ trung phát thị âm thanh?

          ()爾時有菩薩摩訶薩。名大樂說。知一切世間天人阿修羅等心之所疑而白佛言。世尊。以何因緣。有此寶塔從地涌出。又於其中發是音聲。

          (Kinh: Lúc đó, có Bồ Tát Ma Ha Tát tên là Đại Nhạo Thuyết (Mahā- pratibhāna) biết điều nghi trong tâm của hết thảy trời, người, A Tu La v.v… trong thế gian, bèn bạch với đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên ǵ mà có tháp báu này từ dưới đất vọt lên, lại từ trong đó phát ra âm thanh ấy?)

 

          Dựa theo ư trong lời đáp thuộc phần sau th́ lời hỏi cũng có ba ư:

          - Một, hỏi do đâu mà có tháp ấy?

          - Hai, hỏi do nguyên cớ nào mà tháp ấy từ đất vọt ra?

          - Ba, do nguyên nhân nào phát ra âm thanh ấy?

 

11.1.1.6. Như Lai giải đáp

11.1.1.6.1. Giải đáp v́ sao [tháp báu] vọt ra

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật cáo Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát: - Thử bảo tháp trung, hữu Như Lai toàn thân. Năi văng quá khứ, Đông phương vô lượng thiên vạn ức A-tăng-kỳ thế giới, quốc danh Bảo Tịnh. Bỉ trung hữu Phật, hiệu viết Đa Bảo. Kỳ Phật hành Bồ Tát đạo thời, tác đại thệ nguyện: “Nhược ngă thành Phật, diệt độ chi hậu, ư thập phương quốc độ, hữu thuyết Pháp Hoa kinh xứ, ngă chi tháp miếu vị thính thị kinh cố, dũng hiện kỳ tiền, vị tác chứng minh, tán ngôn thiện tai”.

          ()爾時佛告大樂說菩薩。此寶塔中。有如來全身。乃往過去。東方無量千萬億阿僧祇世界。國名寶淨。彼中有佛。號曰多寶。其佛行菩薩道時。作大誓願。若我成佛。滅度之後。於十方國土。有說法華經處。我之塔廟為聽是經故。涌現其前。為作證明。讚言善哉。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát: - Trong tháp báu này, có toàn thân của Như Lai. Trong đời quá khứ, qua khỏi vô lượng ngàn vạn ức A-tăng-kỳ thế giới ở phương Đông, có cơi nước tên là Bảo Tịnh (Ratnaviśuddha)[6]. Trong ấy có Phật, hiệu là Đa Bảo (Prabhūtaratna). Vị Phật ấy khi hành Bồ Tát đạo, đă phát ra thệ nguyện to lớn: “Nếu ta thành Phật, sau khi diệt độ, sẽ ở trong mười phương quốc độ, chỗ nào có nói kinh Pháp Hoa, tháp miếu của ta sẽ v́ nghe kinh y mà vọt lên, hiện ra trước đó để chứng minh, khen ngợi “lành thay!”)

 

          Đây là nói rơ tháp báu v́ chứng minh kinh Pháp Hoa cho nên từ đất vọt ra.

          Hỏi: Trước đó đă nói “từ đất vọt lên”, nay nói là phương Đông là v́ lẽ nào? Đáp: Nói “phương Đông” là nói đến bổn duyên, “vọt hiện ra” là trần thuật nguyện xưa, chẳng hề mâu thuẫn. Nếu xét theo sự biểu pháp, phương Đông đứng đầu các phương. V́ thế, biểu thị sự mở đầu. “Từ đất vọt lên” nhằm biểu thị sự hiển lộ.

 

11.1.1.6.2. Giải đáp do nhân duyên nào mà có tháp

 

          Do đức Phật ấy căn dặn, dạy [đại chúng] tạo tháp ấy.

 

          (Kinh) Bỉ Phật thành đạo dĩ, lâm diệt độ thời, ư thiên nhân đại chúng trung, cáo chư tỳ-kheo: - Ngă diệt độ hậu, dục cúng dường ngă toàn thân giả, ưng khởi nhất đại tháp.

          ()彼佛成道已。臨滅度時。於天人大眾中。告諸比丘。我滅度後。欲供養我全身者。應起一大塔。

          (Kinh: Đức Phật ấy đă thành đạo, khi sắp diệt độ, đă ở giữa đại chúng trời, người, bảo các tỳ-kheo: - Sau khi ta diệt độ, muốn cúng dường toàn thân của ta, hăy nên dựng một tháp lớn).

 

11.1.1.6.3. Giải đáp v́ sao phát ra âm thanh ấy: Do có thần thông và bổn nguyện

 

          (Kinh) Kỳ Phật dĩ thần thông nguyện lực, thập phương thế giới tại tại xứ xứ, nhược hữu thuyết Pháp Hoa kinh giả, bỉ chi bảo tháp giai dũng xuất kỳ tiền, toàn thân tại ư tháp trung, tán ngôn: “Thiện tai, thiện tai!” Đại Nhạo Thuyết! Kim Đa Bảo Như Lai tháp văn thuyết Pháp Hoa kinh cố, tùng địa dũng xuất, tán ngôn “thiện tai, thiện tai”.

          ()其佛以神通願力。十方世界在在處處。若有說法華經者。彼之寶塔皆涌出其前。全身在於塔中。讚言善哉善哉。大樂說。今多寶如來塔。聞說法華經故。從地涌出。讚言善哉善哉。

            (Kinh: Vị Phật ấy do thần thông nguyện lực, nơi nơi chốn chốn trong mười phương thế giới, nếu [chỗ nào] có nói kinh Pháp Hoa, tháp báu ấy sẽ vọt lên, hiện ra trước đó, toàn thân [của Đa Bảo Như Lai] ở trong tháp, khen ngợi: “Lành thay, lành thay!” Này Đại Nhạo Thuyết! Nay tháp của Đa Bảo Như Lai do nghe nói kinh Pháp Hoa bèn từ đất vọt lên, khen rằng “lành thay, lành thay”).

 

          Thích Luận nói “Phật Đa Bảo do chẳng thể thuyết pháp mà diệt độ”. Nam Nhạc đại sư (Huệ Tư đại sư) nói: “Vị Phật ấy bảo các tỳ-kheo, tỳ-kheo chính là người được giáo hóa, sao lại nói Ngài hoàn toàn chẳng thuyết pháp? Hăy nên hiểu là Ngài chỉ có thể nói tam thừa, chẳng thể hiển thị Nhất Thừa. V́ thế [Thích Luận nói Ngài] chẳng thể thuyết pháp”. Do bởi nghĩa ấy, tuy đă diệt độ, nhưng nơi nơi chốn chốn, hễ chỗ nào nói kinh Pháp Hoa, Ngài đều tùy hỷ, chứng minh.

          Hỏi: Mười phương thế giới, há chẳng có vị Phật nào khác chẳng thể khai tam hiển nhất ư? Nếu chẳng thể khai hiển, th́ đều phải nên phát nguyện, sao lại riêng ḿnh Phật Đa Bảo? Nếu chẳng phát nguyện, Phật đạo bất đồng! Nếu đă phát nguyện, đều phải nên đến nghe kinh. Hơn nữa, chư Phật giáo hóa đều phải soi xét căn cơ từ trước, há đợi tới khi thành Phật rồi mới biết là chẳng thể khai tam hiển nhất ư?

          Đáp: Đồng và bất đồng, khai và chẳng khai, có nguyện hay chẳng có nguyện, đều là tùy duyên. Nếu phải nên có nguyện, sẽ đều hiện đến [chứng minh] trọn hết, cần ǵ phải lo các Ngài chẳng nhóm họp? Sau đó mới phát nguyện cũng là do soi xét căn cơ!

          Phần thứ nhất, “nói về chuyện [tháp báu của] Phật Đa Bảo vọt hiện ra” đă xong.

 

11.1.2. Phân thân [của Phật Thích Ca] từ xa nhóm họp

11.1.2.1. Ngài Đại Nhạo Thuyết thỉnh cầu được thấy Phật Đa Bảo

         

          (Kinh) Thị thời, Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát dĩ Như Lai thần lực cố, bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă đẳng nguyện dục kiến thử Phật thân.

          ()是時大樂說菩薩。以如來神力故。白佛言。世尊。我等願欲見此佛身。

          (Kinh: Khi đó, Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát do thần lực của Như Lai, bạch cùng đức Phật: - Bạch Thế Tôn! Chúng con mong được thấy thân của đức Phật ấy).

 

          Muốn mở tháp, cần phải nhóm họp [các phân thân của đức] Phật. Nhóm họp chư Phật, sẽ phó chúc. Phó chúc bèn triệu vời [các vị Bồ Tát ở] phương dưới. Từ phương dưới hiện ra, tức là phải nên “khai cận, hiển viễn” (chỉ bày thọ mạng ngắn ngủi trong hiện thời là thị hiện, chứ thọ mạng của Như Lai thật sự rất lâu xa). Đấy chính là nguyên do của sự vân tập to lớn. V́ thế, Như Lai dùng thần lực khiến cho [ngài Đại Nhạo Thuyết] thưa hỏi[7].

 

11.1.2.2. Nói rơ phải nên nhóm họp các phân thân

 

          (Kinh) Phật cáo Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát Ma Ha Tát: - Thị Đa Bảo Phật hữu thâm trọng nguyện: “Nhược ngă bảo tháp, vị thính Pháp Hoa kinh cố, xuất ư chư Phật tiền thời, kỳ hữu dục dĩ ngă thân thị tứ chúng giả, bỉ Phật phân thân chư Phật tại ư thập phương thế giới thuyết pháp, tận hoàn tập nhất xứ, nhiên hậu ngă thân năi xuất hiện nhĩ”. Đại Nhạo Thuyết! Ngă phân thân chư Phật tại ư thập phương thế giới thuyết pháp giả, kim ưng đương tập.

          ()佛告大樂說菩薩摩訶薩。是多寶佛。有深重願。若我寶塔。為聽法華經故。出於諸佛前時。其有欲以我身示四眾者。彼佛分身諸佛在於十方世界說法。盡還集一處。然後我身乃出現耳。大樂說。我分身諸佛在於十方世界說法者。今應當集。

          (Kinh: Đức Phật bảo Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát Ma Ha Tát: - Vị Đa Bảo Phật này có nguyện sâu nặng: “Nếu tháp báu của ta v́ nghe kinh Pháp Hoa mà xuất hiện trước chư Phật, nếu vị nào muốn chỉ bày thân ta cho tứ chúng th́ phân thân chư Phật của vị Phật ấy đang thuyết pháp trong mười phương thế giới đều phải nhóm họp trọn hết về một chỗ, sau đó, thân ta mới xuất hiện”. Này Đại Nhạo Thuyết! Phân thân chư Phật của ta đang thuyết pháp trong mười phương thế giới nay phải nên nhóm họp).

 

          Cần phải nhóm họp các phân thân th́ mới có thể mở tháp, đấy chính là ngầm nêu bày công đức nơi Bổn địa. Rễ sâu, ắt cành sum suê. Nguồn xa, ắt gịng chảy sẽ dài. Phân thân đă theo chiều ngang trọn khắp mười phương, Bổn địa há chẳng theo chiều dọc vượt khỏi kiếp số nhiều như vi trần!

         

11.1.2.3. Ngài Đại Nhạo Thuyết thỉnh cầu phân thân [của đức Phật] nhóm họp

 

          (Kinh) Đại Nhạo Thuyết bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă đẳng diệc nguyện dục kiến Thế Tôn phân thân chư Phật, lễ bái, cúng dường.

          ()大樂說白佛言。世尊。我等亦願欲見世尊分身諸佛禮拜供養。

          (Kinh: Ngài Đại Nhạo Thuyết bạch cùng đức Phật: - Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng muốn thấy phân thân chư Phật của đức Thế Tôn để lễ bái, cúng dường).

 

11.1.2.4. Phóng quang chiếu thấu phương xa để triệu tập

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật phóng bạch hào nhất quang, tức kiến Đông phương ngũ bách vạn ức na-do-tha hằng hà sa đẳng quốc độ chư Phật. Bỉ chư quốc độ, giai dĩ pha ly vi địa, bảo thụ, bảo y dĩ vi trang nghiêm. Vô số thiên vạn ức Bồ Tát sung măn kỳ trung, biến trương bảo mạn, bảo vơng phú thượng. Bỉ quốc chư Phật dĩ đại diệu âm nhi thuyết chư pháp, cập kiến vô lượng thiên vạn ức Bồ Tát biến măn chư quốc, vị chúng thuyết pháp. Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, bạch hào tướng quang sở chiếu chi xứ, diệc phục như thị.

          ()爾時佛放白毫一光。即見東方五百萬億那由他恆河沙等國土諸佛。彼諸國土。皆以玻璃為地。寶樹寶衣以為莊嚴。無數千萬億菩薩充滿其中。徧張寶幔。寶網覆上。彼國諸佛。以大妙音而說諸法。及見無量千萬億菩薩。徧滿諸國。為眾說法。南西北方。四維上下。白毫相光所照之處。亦復如是。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật phóng một tia sáng từ bạch hào, liền thấy chư Phật trong các quốc độ ở phương Đông số nhiều như cát trong năm trăm vạn ức na-do-tha (nayutas) sông Hằng . Các quốc độ đó đều dùng pha lê làm đất, cây báu và y báu để trang nghiêm. Vô số ngàn vạn ức Bồ Tát đầy ắp trong đó. Màn báu treo khắp, lưới báu phủ lên trên. Chư Phật trong các cơi ấy dùng âm thanh mầu nhiệm to lớn để nói các pháp. Và thấy vô lượng ngàn vạn ức Bồ Tát đầy khắp cơi ấy, v́ đại chúng thuyết pháp. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc, trên, dưới, chỗ nào được quang minh từ tướng bạch hào chiếu đến cũng đều giống như vậy).

 

          Phân thân chư Phật phần lớn ngự tại tịnh độ, chỉ có Sa Bà này là uế độ. Đức Phật [Thích Ca] có thể nói kinh Pháp Hoa trong Sa Bà uế độ, đó là điều khó nhất trong các điều khó khăn. Nhưng do v́ ở trong cơi uế độ này, cho nên ắt cần phải v́ Thật mà thực hiện Quyền. Lại do thực hiện Quyền, cho nên ắt cần phải khai Quyền hiển Thật. V́ thế, hiển Thật th́ mới phơi bày trọn vẹn sự khéo nhiệm nơi cách lập bày giáo hóa của Như Lai, nguyên khởi và kết quả từ đầu đến cuối được phơi bày không ǵ chẳng trọn hết. Có thể nói là “sen trổ từ bùn lầy”. Lại cũng nên biết: [Nói đến] đức Phật Thích Ca trong cơi này tức là nói “chư Phật là phân thân”, [thị hiện thành] Phật trong mỗi cơi. Lại cũng có nghĩa là nói chư Phật và Phật Thích Ca là phân thân [của Pháp Thân Phật]. Nói kinh Pháp Hoa trong cơi này, chư Phật đă vân tập, đều bày tỏ ư muốn mở tháp. Trong các cơi, nơi nào có nói kinh Pháp Hoa, chư Phật và Phật Thích Ca cũng ắt cùng tới đó tỏ ư muốn mở tháp. Đó là tịnh uế giao xen lẫn nhau, dung thông lẫn nhau, khách và chủ rành rành, năng và sở chẳng hai. Đấy là tông chỉ Thật Tướng của Nhất Thừa, là cốt lơi của “pháp giới vô ngại” rạng ngời nơi thấy nghe vậy!

 

11.1.2.5. Chư Phật cùng đến

 

          (Kinh) Nhĩ thời, thập phương chư Phật các cáo chúng Bồ Tát ngôn: “Thiện nam tử! Ngă kim ưng văng Sa Bà thế giới Thích Ca Mâu Ni Phật sở, tịnh cúng dường Đa Bảo Như Lai bảo tháp”.

          ()爾時十方諸佛。各告眾菩薩言。善男子。我今應往娑婆世界釋迦牟尼佛所。幷供養多寶如來寶塔。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, mười phương chư Phật, mỗi vị đều bảo hàng Bồ Tát rằng: “Thiện nam tử! Nay ta nên đến chỗ của Thích Ca Mâu Ni Phật trong thế giới Sa Bà, và cúng dường tháp báu của Đa Bảo Như Lai”).

         

11.1.2.6. Nghiêm tịnh quốc giới

11.1.2.6.1. Biến đổi cơi Sa Bà

 

          (Kinh) Thời Sa Bà thế giới tức biến thanh tịnh, lưu ly vi địa, bảo thụ trang nghiêm. Hoàng kim vi thằng, dĩ giới bát đạo. Vô chư tụ lạc, thôn doanh, thành ấp, đại hải, giang, hà, sơn, xuyên, lâm tẩu. Thiêu đại bảo hương, Mạn-đà-la hoa biến bố kỳ địa. Dĩ bảo vơng mạn la phú kỳ thượng. Huyền chư bảo linh. Duy lưu thử hội chúng, di chư thiên nhân, trí ư tha độ. Thị thời chư Phật, các tương nhất đại Bồ Tát dĩ vi thị giả, chí Sa Bà thế giới, các đáo bảo thụ hạ. Nhất nhất bảo thụ, cao ngũ bách do-tuần. Chi, diệp, hoa, quả, thứ đệ trang nghiêm. Chư bảo thụ hạ, giai hữu sư tử chi ṭa, cao ngũ do-tuần. Diệc dĩ đại bảo nhi hiệu sức chi. Nhĩ thời, chư Phật các ư kỳ ṭa, kết già phu tọa. Như thị triển chuyển, biến măn tam thiên đại thiên thế giới, nhi ư Thích Ca Mâu Ni Phật nhất phương sở phân chi thân, do cố vị tận.

          ()時娑婆世界。即變清淨。琉璃為地。寶樹莊嚴。黃金為繩。以界八道。無諸聚落村營城邑大海江河山川林藪。燒大寶香曼陀羅華徧布其地。以寶網幔羅覆其上。懸諸寶鈴。唯留此會眾。移諸天人置於他土。是時諸佛。各將一大菩薩以為侍者。至娑婆世界。各到寶樹下。一一寶樹。高五百由旬。枝葉華果。次第莊嚴。諸寶樹下。皆有師子之座。高五由旬。亦以大寶。而校飾之。爾時諸佛。各於其座結跏趺坐。如是展轉。徧滿三千大千世界。而於釋迦牟尼佛一方所分之身。猶故未盡。

          (Kinh: Khi đó, thế giới Sa Bà liền biến thành thanh tịnh: Lưu ly làm đất, cây báu trang nghiêm. Vàng ṛng làm dây để phân ranh đường thông sang tám phương. Chẳng có làng xóm, thôn xă, doanh trại, thành, ấp, biển cả, sông ng̣i, núi, sông, rừng rú. Đốt hương báu lớn, hoa Mạn Đà La phủ khắp mặt đất. Dùng màn lưới báu phủ lên trên. Treo các linh báu. Chỉ để lại đại chúng trong hội này, dời các trời, người đặt sang cơi khác. Khi đó, chư Phật mỗi vị dẫn theo một vị đại Bồ Tát làm thị giả, tới thế giới Sa Bà, mỗi vị đến dưới cội cây báu. Mỗi cây báu cao năm trăm do-tuần, cành, lá, hoa, quả, theo thứ tự trang nghiêm. Dưới các cây báu đều có ṭa sư tử, cao năm do-tuần, cũng dùng chất báu lớn để tô điểm. Lúc bấy giờ, chư Phật đều ngồi xếp bằng trên ṭa ấy. Lần lượt như vậy trọn khắp tam thiên đại thiên thế giới, nhưng phân thân của Thích Ca Mâu Ni trong một phương vẫn chưa hết được)[8].

 

11.1.2.6.2. Ở mỗi phương trong tám phương đều biến ra hai trăm vạn ức na-do-tha cơi

 

          (Kinh) Thời Thích Ca Mâu Ni Phật dục dung thọ sở phân thân chư Phật cố, bát phương các cánh biến nhị bách vạn ức na-do-tha quốc, giai linh thanh tịnh. Vô hữu địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cập A Tu La. Hựu di chư thiên nhân trí ư tha độ. Sở hóa chi quốc, diệc dĩ lưu ly vi địa, bảo thụ trang nghiêm. Thụ cao ngũ bách do-tuần, chi, diệp, hoa, quả thứ đệ nghiêm sức. Thụ hạ giai hữu bảo sư tử ṭa, cao ngũ do-tuần. Chủng chủng chư bảo, dĩ vi trang hiệu. Diệc vô đại hải, giang, hà, cập Mục Chân Lân Đà sơn, Ma Ha Mục Chân Lân Đà sơn, Thiết Vi sơn, Đại Thiết Vi sơn, Tu Di sơn đẳng chư sơn vương, thông vi nhất Phật quốc độ, bảo địa b́nh chánh. Bảo giao lộ mạn biến phú kỳ thượng. Huyền chư phan cái. Thiêu đại bảo hương. Chư thiên bảo hoa biến bố kỳ địa.

          ()時釋迦牟尼佛。欲容受所分身諸佛故。八方各更變二百萬億那由他國。皆令清淨。無有地獄餓鬼畜生及阿修羅。又移諸天人置於他土。所化之國。亦以琉璃為地。寶樹莊嚴。樹高五百由旬。枝葉華果次第嚴飾。樹下皆有寶師子座。高五由旬。種種諸寶以為莊校。亦無大海江河。及目真鄰陀山。摩訶目真鄰陀山。鐵圍山。大鐵圍山。須彌山等諸山王。通為一佛國土。寶地平正。寶交露幔徧覆其上。懸諸幡葢。燒大寶香。諸天寶華徧布其地。

          (Kinh: Khi đó, Thích Ca Mâu Ni Phật muốn dung nạp phân thân chư Phật, ở mỗi phương trong tám phương, lại biến hiện hai trăm vạn ức na-do-tha quốc độ, đều khiến cho [các cơi ấy] thanh tịnh. Chẳng có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, và A Tu La. Lại dời trời, người, đặt sang cơi khác. Cơi được biến hóa cũng dùng lưu ly làm đất, cây báu trang nghiêm. Cây cao năm trăm do-tuần, cành, lá, hoa, quả theo thứ tự trang nghiêm đẹp đẽ. Dưới mỗi cây đều có ṭa sư tử báu, cao năm do-tuần. Các thứ món báu dùng để trang hoàng. Cũng chẳng có biển cả, sông ng̣i, và núi Mục Chân Lân Đà (Mucilinda)[9], núi Ma Ha Mục Chân Lân Đà (Mahā-mucilinda), núi Thiết Vi (Cakravāḍa), núi Đại Thiết Vi, núi Tu Di (Sumeru) v.v… các núi chúa. Thông thoáng làm một cơi Phật, đất báu bằng phẳng, các màn báu giăng xen, phủ lên trên. Treo các phan, lọng, thiêu hương báu lớn. Hoa báu của chư thiên phủ khắp mặt đất).

 

11.1.2.6.3. Lại biến ra hai trăm vạn ức na-do-tha cơi ở mỗi phương trong tám phương

 

          (Kinh) Thích Ca Mâu Ni Phật vị chư Phật đương lai tọa cố, phục ư bát phương, các cánh biến nhị bách vạn ức na-do-tha quốc, giai linh thanh tịnh. Vô hữu địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cập A Tu La. Hựu di chư thiên nhân trí ư tha độ. Sở hóa chi quốc, diệc dĩ lưu ly vi địa, bảo thụ trang nghiêm. Thụ cao ngũ bách do-tuần. Chi, diệp, hoa, quả, thứ đệ trang nghiêm. Thụ hạ giai hữu bảo sư tử ṭa, cao ngũ do-tuần. Diệc dĩ đại bảo nhi hiệu sức chi. Diệc vô đại hải, giang, hà, cập Mục Chân Lân Đà sơn, Ma Ha Mục Chân Lân Đà sơn, Thiết Vi sơn, Đại Thiết Vi sơn, Tu Di sơn đẳng chư sơn vương, thông vi nhất Phật quốc độ. Bảo địa b́nh chánh. Bảo giao lộ mạn biến phú kỳ thượng, huyền chư phan cái. Thiêu đại bảo hương. Chư thiên bảo hoa biến bố kỳ địa. Nhĩ thời, Đông phương Thích Ca Mâu Ni Phật sở phân chi thân, bách thiên vạn ức na-do-tha hằng hà sa đẳng quốc độ trung chư Phật, các các thuyết pháp, lai tập ư thử. Như thị thứ đệ, thập phương chư Phật giai tất lai tập, tọa ư bát phương. Nhĩ thời, nhất nhất phương, tứ bách vạn ức na-do-tha quốc độ, chư Phật Như Lai biến măn kỳ trung.

          ()釋迦牟尼佛。為諸佛當來坐故。復於八方。各更變二百萬億那由他國。皆令清淨。無有地獄餓鬼畜生及阿修羅。又移諸天人置於他土。所化之國。亦以琉璃為地。寶樹莊嚴。樹高五百由旬。枝葉華果次第莊嚴。樹下皆有寶師子座。高五由旬。亦以大寶而校飾之。亦無大海江河。及目真鄰陀山。摩訶目真鄰陀山。鐵圍山。大鐵圍山。須彌山等諸山王。通為一佛國土。寶地平正。寶交露幔徧覆其上。懸諸幡葢。燒大寶香。諸天寶華徧布其地。爾時東方釋迦牟尼佛所分之身。百千萬億那由他恆河沙等國土中諸佛。各各說法。來集於此。如是次第。十方諸佛皆悉來集。坐於八方。爾時一一方。四百萬億那由他國土。諸佛如來徧滿其中。

          (Kinh: Thích Ca Mâu Ni Phật v́ chư Phật sẽ đến ngồi, lại trong tám phương, nơi mỗi phương đều biến ra hai trăm vạn ức na-do-tha cơi, đều khiến cho thanh tịnh. Chẳng có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, và A Tu La. Lại dời các trời, người, đặt sang cơi khác. Cơi nước được hóa ra cũng dùng lưu ly làm đất. Cây báu trang nghiêm, cây cao năm trăm do-tuần. Cành, lá, hoa, quả theo thứ tự trang nghiêm. Dưới mỗi cây đều có ṭa sư tử báu, cao năm do-tuần, cũng dùng chất báu lớn để trang hoàng. Cũng chẳng có biển cả, sông ng̣i, và núi Mục Chân Lân Đà, núi Ma Ha Mục Chân Lân Đà, núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, núi Tu Di v.v… các núi chúa, thông thoáng thành một cơi Phật. Đất báu bằng phẳng, các màn báu giăng xen, phủ lên trên. Treo các phan, lọng, đốt các hương báu lớn. Hoa báu của chư thiên phủ khắp mặt đất. Lúc bấy giờ, chư Phật là phân thân của Thích Ca Mâu Ni Phật ở phương Đông trong các cơi nước nhiều như số cát trong trăm ngàn vạn ức na-do-tha sông Hằng, mỗi vị đều thuyết pháp, đến tụ họp ở nơi đây. Theo thứ tự như thế, mười phương chư Phật đều tới nhóm họp, ngồi ở tám phương. Lúc bấy giờ, nơi mỗi phương có bốn trăm vạn ức na-do-tha quốc độ, chư Phật Như Lai đầy ắp trong đó).

 

          Ba lượt biến hóa cơi nước thanh tịnh, chính là v́ tam-muội. Tam-muội có ba thứ:

          - Lần đầu tiên, biến đổi cơi Sa Bà là do bối xả lực, có thể biến uế thành tịnh.

          - Kế đó, nơi mỗi phương trong tám phương, đều có hai trăm vạn ức na-do-tha cơi. Đó là thắng xứ lực, chuyển biến tự tại.

          - Lần thứ ba là trong tám phương, mỗi phương lại biến ra hai trăm vạn ức na-do-tha cơi, chính là do mười món Nhất Thiết Xứ Lực, trọn khắp vô ngại.

          Lại nữa, phép biến hóa thứ nhất biểu thị trừ sạch Kiến Tư. Lần biến hóa thứ hai, biểu thị trừ sạch Trần Sa. Lần biến hóa thứ ba, biểu thị trừ sạch vô minh.

          Hỏi: Trong kinh Hoa Nghiêm, mười phương chư Phật, Bồ Tát có cùng danh hiệu đến chứng minh pháp môn đă nói, chỉ nói trọn khắp mười phương, chẳng nói biến hiện uế hay tịnh, nhằm hiển thị “tịnh và uế b́nh đẳng, tịnh và uế chẳng có tánh”. Lại c̣n hiển thị “tự tha chẳng ngăn cách, lớn nhỏ vô ngại”. Nay biến uế thành tịnh, tức là tịnh và uế chưa quên. Dời các trời người [sang cơi khác], tức là tự tha ngăn cách. Muốn dung nạp phân thân bèn biến thêm cơi nước, tức là lớn nhỏ rành rành tồn tại, há chẳng sánh bằng Hoa Nghiêm ư?

          Đáp: Thần thông được vận dụng trong các kinh, bất luận nhiều, ít, rộng, hẹp, cốt sao phù hợp căn cơ, hiển lộ Lư. Hoa Nghiêm riêng tương ứng với căn cơ to lớn, hiển thị thẳng thừng viên lư. V́ thế, cảnh giới thần lực vừa nhiều, vừa rộng, chẳng phải là chuyện khó khăn! Nay kinh này khai Tiểu để thành tựu Đại, từ ngay Thiên mà nói đến Viên, như phá kẻ giặc hùng mạnh; cho nên là hy hữu. Huống hồ nếu tịnh và uế là tánh có thật, sao có thể biến uế thành tịnh? Nếu tự và tha thật sự có ngăn cách, há có thể bị an ổn dời đi ư? Nếu lớn và nhỏ thật sự có ngăn ngại, sao có thể thông thoáng thành một cơi nước? Hăy nên biết dung thông tuyệt đối sự tướng “tịnh, uế, đây, kia, lớn, nhỏ” để hiển Lư, có khác ǵ môn Sự Lư Vô Ngại? Chẳng hoại sự tướng “tịnh, uế, đây, kia, lớn, nhỏ” để hiển lư “chẳng tịnh, chẳng uế, chẳng kia, chẳng đây, chẳng lớn, chẳng nhỏ”. Tuy hiển thị lư “chẳng tịnh, chẳng uế, chẳng kia, chẳng đây, chẳng lớn, chẳng nhỏ”, nhưng “tịnh, uế, kia, đây, lớn, nhỏ” nơi Sự vẫn rành rành. Đấy chính là Sự Sự Vô Ngại môn! V́ thế, nếu xét theo đại huệ b́nh đẳng th́ đối với Hoa Nghiêm, Phương Đẳng, Bát Nhă, Pháp Hoa, chớ nên xằng bậy so đo hơn kém.         Nếu xét theo “khai Quyền hiển Thật, khai Tích hiển Bổn” th́ chỉ riêng Pháp Hoa có công năng ấy. Người khéo đọc kinh, quư ở chỗ thấu đạt Thể, Tông, Dụng, Tướng, chớ nên uổng công dùng các dấu vết nơi sự tướng để xằng bậy so đo, phê phán, đến nỗi đối với đại pháp của Như Lai một đằng tán thán, đằng khác lại hủy báng, giống như ca ngợi Đế Thích mà hủy báng Kiều Thi Ca[10]!

          Hỏi: Ba lượt biến hóa cơi nước thanh tịnh, phải nên là do sức Thủ Lăng Nghiêm tam-muội, sao lại coi đó là Thiền thuộc sự tướng của Tiểu Thừa?

          Đáp: Bối Xả của Tiểu Thừa chỉ có thể biến hóa trong một tiểu thiên thế giới. Thắng Xứ chỉ có thể biến hóa trong một trung thiên thế giới. Mười món Nhất Thiết Xứ chỉ có thể biến hóa trong một đại thiên thế giới. Nay khai Quyền hiển Thật th́ Thiền thuộc vào sự tướng của Tiểu Thừa chính là Thủ Lăng Nghiêm. V́ thế, tuy xếp vào Tiểu Thừa, nhưng lực dụng là Đại Thừa.

          Hỏi: Nếu là như vậy, tùy ư [sử dụng] một môn tam-muội sẽ có thể biến hóa ba lượt, cần ǵ phải nhất định dùng ba môn tam-muội?

          Đáp: Cũng chính v́ chẳng hoại giả danh của các pháp.

          Hỏi: N ba loại tam-muội của Tiểu Thừa chẳng thể phá trọn khắp Tam Hoặc. Nếu chẳng thể phá trọn khắp Tam Hoặc, vậy th́ ba loại tam-muội của Phật quả chẳng nên phá Hoặc theo thứ tự?

          Đáp: Thủ Lăng Nghiêm đă là Sự từ ngay nơi Lư, sẽ tự có thể mỗi mỗi đều phá Tam Hoặc trọn vẹn. Nay chỉ xét theo tam-muội để luận định công dụng. Lại c̣n xét theo điều được biểu thị, cho nên nói là phá Hoặc”. Công dụng thuộc nơi Phật, c̣n cái được biểu thị thuộc về căn cơ. Căn cơ th́ tuy đối với ba loại căn đă phá Tam Hoặc, nhưng về sau vẫn phải phá lần nữa.

          Phần thứ sáu, “nghiêm tịnh quốc giới” đă xong.

         

11.1.2.7. Tỏ ư mong muốn mở tháp

11.1.2.7.1. Chư Phật [sai thị giả] thưa hỏi, nêu bày ư muốn

 

          (Kinh) Thị thời chư Phật các tại bảo thụ hạ, tọa sư tử ṭa, giai khiển thị giả vấn tấn[11] Thích Ca Mâu Ni Phật, các tê bảo hoa măn cúc, nhi cáo chi ngôn: - Thiện nam tử! Nhữ văng nghệ Kỳ Xà Quật sơn Thích Ca Mâu Ni Phật sở, như ngă từ viết: “Thiểu bệnh, thiểu năo, khí lực an lạc, cập Bồ Tát, Thanh Văn chúng tất an ổn phủ? Dĩ thử bảo hoa tán Phật cúng dường, nhi tác thị ngôn: Bỉ mỗ giáp Phật dữ dục khai thử bảo tháp”. Chư Phật khiển sứ, diệc phục như thị.

          ()是時諸佛。各在寶樹下。坐師子座。皆遣侍者問訊釋迦牟尼佛。各齎寶華滿掬而告之言。善男子。汝往詣耆闍崛山釋迦牟尼佛所。如我辭曰。少病少惱。氣力安樂。及菩薩聲聞眾。悉安隱不。以此寶華散佛供養。而作是言。彼某甲佛。與欲開此寶塔。諸佛遣使。亦復如是。

          (Kinh: Khi đó chư Phật, mỗi vị ở dưới cây báu, ngồi trên ṭa sư tử, đều sai thị giả đến thưa hỏi Thích Ca Mâu Ni Phật, đều trao cho [mỗi thị giả] một vốc đầy hoa báu, bảo rằng: “Này thiện nam tử! Ông nên sang chỗ Thích Ca Mâu Ni Phật ở núi Kỳ Xà Quật, thưa lời ta rằng: ‘Ít bệnh, ít năo, khí lực an vui[12], và đại chúng Bồ Tát, Thanh Văn, có đều được an ổn hay chăng?’ Dùng hoa báu rải lên Phật để cúng dường, mà nói như thế này: - Vị Phật có danh hiệu là… tỏ ư mong mở tháp báu”. Chư Phật sai thị giả đều giống như thế).

 

          Chư Phật cùng nêu bày ư muốn mong mở tháp, giống như cách tác pháp nêu bày ư muốn trong Tăng chúng. Nhóm họp đông đảo, tỏ rơ bao nhiêu vị Phật đều nêu rơ ư muốn. Kinh Đại Phẩm cũng nói một ngàn vị Phật cùng thuyết Bát Nhă, nhưng đều chẳng nói các Ngài chính là phân thân của Phật Thích Ca. Chuẩn theo kinh này, phải nên hiểu là phân thân. Do các Ngài kèm theo phương tiện, cho nên chẳng nói rơ! Trong kinh này, không chỉ là số lượng nhiều, mà c̣n nói thẳng thừng là phân thân đều đến tỏ ư muốn [Phật Thích Ca mở tháp báu].

 

11.1.2.7.2. Phật Thích Ca mở tháp

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Thích Ca Mâu Ni Phật kiến sở phân thân Phật tất dĩ lai tập, các các tọa ư sư tử chi ṭa, giai văn chư Phật dữ dục đồng khai bảo tháp, tức tùng ṭa khởi, trụ hư không trung. Nhất thiết tứ chúng, khởi lập hiệp chưởng, nhất tâm quán Phật. Ư thị, Thích Ca Mâu Ni Phật dĩ hữu chỉ khai thất bảo tháp hộ, xuất đại âm thanh như khước quan thược, khai đại thành môn.      

          ()爾時釋迦牟尼佛。見所分身佛悉已來集。各各坐於師子之座。皆聞諸佛與欲同開寶塔。即從座起。住虛空中。一切四眾。起立合掌。一心觀佛。於是釋迦牟尼佛。以右指開七寶塔戶。出大音聲。如卻關鑰。開大城門。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật thấy phân thân của Ngài đều đă nhóm đến, mỗi vị đều ngồi nơi ṭa sư tử, đều nghe chư Phật tỏ ư muốn cùng mở tháp báu, liền từ ṭa đứng dậy, đứng trong hư không. Hết thảy tứ chúng đứng dậy, chắp tay, nhất tâm quán Phật. Khi đó, Thích Ca Mâu Ni Phật dùng ngón tay phải mở cửa tháp bảy báu, vang ra âm thanh lớn như tháo chốt khóa, mở cửa thành lớn).    

         

          Dùng ngón tay bên phải để mở, biểu thị dùng Quyền. “Mở tháp” biểu thị khai Quyền. “Thấy Phật” biểu thị hiển lộ Thật, tức là “chứng tiền”. Lại c̣n sẽ “khai hậu”. V́ thế, “như tháo chốt khóa” biểu thị trừ chướng. “Mở cửa thành lớn” ngầm biểu thị khai Tích.

 

11.1.2.7.3. Tứ chúng đều cùng thấy nghe

         

          (Kinh) Tức thời nhất thiết chúng hội, giai kiến Đa Bảo Như Lai, ư bảo tháp trung, tọa sư tử ṭa, toàn thân bất tán, như nhập Thiền Định. Hựu văn kỳ ngôn: “Thiện tai, thiện tai! Thích Ca Mâu Ni Phật khoái thuyết thị Pháp Hoa kinh. Ngă vị thính thị kinh cố, nhi lai chí thử”. Nhĩ thời, tứ chúng đẳng kiến quá khứ vô lượng thiên vạn ức kiếp diệt độ Phật thuyết như thị ngôn, thán vị tằng hữu, dĩ thiên bảo hoa tụ, tán Đa Bảo Phật cập Thích Ca Mâu Ni Phật thượng.

          ()即時一切眾會。皆見多寶如來。於寶塔中坐師子座。全身不散。如入禪定。又聞其言。善哉善哉。釋迦牟尼佛。快說是法華經。我為聽是經故而來至此。爾時四眾等。見過去無量千萬億劫滅度佛說如是言。歎未曾有。以天寶華聚。散多寶佛及釋迦牟尼佛上。

          (Kinh: Ngay khi đó, hết thảy đại chúng trong hội đều thấy Đa Bảo Như Lai ngồi trên ṭa sư tử trong tháp báu, toàn thân chẳng tan hoại, như nhập Thiền Định. Lại nghe Ngài nói: “Lành thay! Lành thay! Thích Ca Mâu Ni Phật vui sướng nói kinh Pháp Hoa này. Ta v́ nghe kinh này, cho nên đến nơi đây”. Lúc bấy giờ, tứ chúng đều thấy quá khứ chư Phật đă diệt độ trong vô lượng số ngàn vạn ức kiếp đều nói như thế, bèn than là “chưa từng có”, dùng đống hoa trời rải lên Đa Bảo Phật và Thích Ca Mâu Ni Phật).

 

11.1.2.7.4. Hai vị Phật chia ṭa cùng ngồi

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Đa Bảo Phật ư bảo tháp trung, phân bán ṭa dữ Thích Ca Mâu Ni Phật, nhi tác thị ngôn: “Thích Ca Mâu Ni Phật khả tựu thử ṭa”. Tức thời, Thích Ca Mâu Ni Phật nhập kỳ tháp trung, tọa kỳ bán ṭa, kết già phu tọa.    ()爾時多寶佛。於寶塔中分半座與釋迦牟尼佛。而作是言。釋迦牟尼佛。可就此座。即時釋迦牟尼佛。入其塔中。坐其半座。結跏趺坐。

          (Kinh: Lúc đó, Đa Bảo Phật ở trong tháp báu, chia nửa ṭa cho Thích Ca Mâu Ni Phật, mà nói như thế này: “Thích Ca Mâu Ni Phật có thể đến ngồi trên ṭa này”. Ngay khi ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật vào trong tháp đó, ngồi xếp bằng trên nửa ṭa ấy)[13].

 

11.1.2.7.5. Tứ chúng thỉnh cầu được gia bị ngự lên hư không

 

          (Kinh) Nhĩ thời, đại chúng kiến nhị Như Lai tại thất bảo tháp trung, sư tử ṭa thượng, kết già phu tọa, các tác thị niệm: “Phật ṭa cao viễn, duy nguyện Như Lai dĩ thần thông lực, linh ngă đẳng bối, câu xử hư không”. Tức thời, Thích Ca Mâu Ni Phật dĩ thần thông lực, tiếp chư đại chúng giai tại hư không.

          ()爾時大眾。見二如來。在七寶塔中師子座上結跏趺坐。各作是念。佛坐高遠。惟願如來以神通力。令我等輩俱處虛空。即時釋迦牟尼佛以神通力。接諸大眾皆在虛空。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đại chúng thấy hai vị Như Lai ngồi xếp bằng trên ṭa sư tử trong tháp bảy báu, đều nghĩ như thế này: “Ṭa Phật cao xa, kính mong Như Lai dùng sức thần thông, khiến cho chúng con đều ở trên hư không”. Ngay lập tức, Thích Ca Mâu Ni dùng sức thần thông đưa các đại chúng đều lên hư không).

 

          Hỏi: Đại chúng đều ở trên hư không, cớ sao phân thân vẫn ở dưới đất?

          Đáp: Đại chúng lúc đó đă nghe phần Khai Quyền thuộc Tích Môn, mới vào cơi Thường Tịch Quang. V́ thế, dùng hư không để biểu thị. Phân thân thị hiện Tích, mỗi vị đều có quốc độ để giáo hóa, cho nên ở trên đất để biểu thị. Lại nữa, không lâu nữa, Phật Thích Ca sẽ hiển Bổn, trước hết cũng dùng chuyện ở trên hư không để biểu thị. Mỗi đằng đều có lư do riêng, chớ nên ngờ vực!

Phần thứ hai, “nói về các phân thân từ xa đến nhóm họp” đă xong.

 

11.1.3. Phật Thích Ca xướng lời tuyển mộ

 

          (Kinh) Dĩ đại âm thanh, phổ cáo tứ chúng: - Thùy năng ư thử Sa Bà quốc độ, quảng thuyết Diệu Pháp Hoa kinh, kim chánh thị thời. Như Lai bất cửu đương nhập Niết Bàn, Phật dục dĩ thử Diệu Pháp Hoa kinh phó chúc hữu tại.

          ()以大音聲。普告四眾。誰能於此娑婆國土。廣說妙法華經。今正是時。如來不久當入涅槃。佛欲以此妙法華經付囑有在。

          (Kinh: Dùng âm thanh to lớn, bảo khắp bốn chúng: “Ai có thể ở trong quốc độ Sa Bà, rộng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa th́ nay chính là đúng lúc. Như Lai chẳng lâu sau sẽ nhập Niết Bàn. Phật mong sẽ có người để phó chúc [lưu thông] kinh Diệu Pháp Liên Hoa này).

 

          - Một, tuyển mộ ai có thể rộng nói? Tức là [tuyển mộ người hoằng dương] trong cơi Sa Bà.

          - Hai, đă tới lúc phó chúc, tức là Ngài sẽ nhập Niết Bàn.

          - Ba, có người để Ngài phó chúc. Điều này lại có hai ư:

          1) Một, nói về người được phó chúc ở gần, tức là nói đến tám vạn đại sĩ thuộc phần đầu phẩm Pháp Sư, hai vạn đại Bồ Tát trong phẩm Tŕ, và tám mươi vạn ức na-do-tha các vị Bồ Tát do đức Thế Tôn trông thấy.

          2) Hai là nói tới người phó chúc ở xa, tức là nói tới các vị đệ tử thuộc Bổn địa sẽ từ dưới đất vọt lên. Đức Phật dạy họ lưu thông [kinh Pháp Hoa] khắp chốn, lại c̣n phát khởi [sự thật về] thọ lượng.

Phần thứ nhất, văn Trường Hàng đă xong.

 

11.2. Kệ tụng

11.2.1. Trùng tụng về Phật Đa Bảo

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Thánh chúa Thế Tôn, tuy cửu diệt độ, tại bảo tháp trung, thượng vị pháp lai. Chư nhân vân hà, bất cần vị pháp? Thử Phật diệt độ, vô ương số kiếp, xứ xứ thính pháp, dĩ nan ngộ cố. Bỉ Phật bổn nguyện, “ngă diệt độ hậu, tại tại sở trụ, thường vị thính pháp”.

            ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。聖主世尊。雖久滅度。在寶塔中。尚為法來。諸人云何。不勤為法。此佛滅度。無央數劫。處處聽法。以難遇故。彼佛本願。我滅度後。在在所住。常為聽法。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Đức thánh chúa Thế Tôn, tuy diệt độ đă lâu, ngự trong ṭa tháp báu, c̣n v́ pháp mà đến. Các người bởi cớ nào, chẳng v́ pháp siêng gắng? Vị Phật ấy diệt độ, đă vô ương số kiếp, nghe pháp tại khắp nơi, v́ pháp này khó gặp. Phật ấy có bổn nguyện: “Sau khi ta diệt độ, trụ ở khắp các nơi, thường v́ để nghe pháp”).

 

11.2.2. Trùng tụng phân thân

 

          (Kinh) Hựu ngă phân thân, vô lượng chư Phật, như Hằng sa đẳng, lai dục thính pháp, cập kiến diệt độ, Đa Bảo Như Lai, các xả diệu độ, cập đệ tử chúng. Thiên, nhân, long thần, chư cúng dường sự, linh pháp cửu trụ; cố lai chí thử. Vị tọa chư Phật, dĩ thần thông lực, di vô lượng chúng, linh quốc thanh tịnh. Chư Phật các các, nghệ bảo thụ hạ, như thanh tịnh tŕ, liên hoa trang nghiêm. Kỳ bảo thụ hạ, chư sư tử ṭa, Phật tọa kỳ thượng, quang minh nghiêm sức, như dạ ám trung, nhiên đại cự hỏa. Thân xuất diệu hương, biến thập phương quốc. Chúng sanh mông huân, hỷ bất tự thắng. Thí như đại phong, xuy tiểu thụ chi. Dĩ thị phương tiện, linh pháp cửu trụ.

          ()又我分身。無量諸佛。如恆沙等。來欲聽法。及見滅度。多寶如來。各捨妙土。及弟子眾。天人龍神。諸供養事。令法久住。故來至此。為坐諸佛。以神通力。移無量眾。令國清淨。諸佛各各。詣寶樹下。如清淨池。蓮華莊嚴。其寶樹下。諸師子座。佛坐其上。光明嚴飾。如夜闇中。然大炬火。身出妙香。徧十方國。眾生蒙熏。喜不自勝。譬如大風。吹小樹枝。以是方便。令法久住。

          (Kinh: Ta lại c̣n phân thân, thành vô lượng chư Phật, nhiều như cát sông Hằng, nhóm tới muốn nghe pháp, và thấy Phật diệt độ, là Đa Bảo Như Lai. Mỗi vị bỏ cơi diệu, và các hàng đệ tử, trời, người, rồng, các thần, cùng các sự cúng dường, khiến pháp trụ dài lâu. V́ thế đến nơi đây. Để chư Phật an tọa, ta dùng sức thần thông, dời đi vô lượng chúng, khiến cơi nước thanh tịnh. Chư Phật mỗi vị đều, đến ngồi dưới cây báu, như ao nước thanh tịnh, trang nghiêm bằng hoa sen. Dưới các cội cây báu, có các ṭa sư tử, Phật ngồi trên ṭa ấy, dùng quang minh trang nghiêm, như trong đêm tối tăm, thắp bó đuốc to lớn. Thân tỏa hương nhiệm mầu, trọn khắp mười phương cơi. Chúng sanh được xông ướp, vui mừng khôn ngăn nổi! Ví như trận gió lớn, thổi qua cành cây nhỏ. Dùng phương tiện như thế, khiến pháp trụ dài lâu).

 

          Trong phần trên, chánh kinh nói các phân thân từ phương xa nhóm họp gồm bảy đoạn kinh văn. Nay kệ tụng rất giản lược. Ba bài kệ đầu, trùng tụng ư nghĩa của đoạn kinh thứ hai nói tới các ứng thân nhóm họp, nghĩa đă kiêm ư thứ nhất là [Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát] thỉnh cầu, mong được thấy Đa Bảo Phật, và [phân thân của Phật Thích Ca] ba lượt nhóm họp để cầu thỉnh [Phật Thích Ca mở tháp]. Bài kệ kế đó trùng tụng chuyện trang nghiêm thanh tịnh quốc giới. Bốn bài kệ rưỡi sau đó trùng tụng chuyện chư Phật cùng đến.

 

11.2.3. Trùng tụng sự phó chúc

11.2.3.1. Nêu ra tam thế Phật để khuyên lưu thông

11.2.3.1.1. Tuyển mộ t́m kiếm người để phó chúc [hộ tŕ, hoằng truyền kinh này]

 

          (Kinh) Cáo chư đại chúng, ngă diệt độ hậu, thùy năng hộ tŕ, độc thuyết tư kinh, kim ư Phật tiền, tự thuyết thệ ngôn.

          ()告諸大眾。我滅度後。誰能護持。讀說斯經。今於佛前。自說誓言。    

          (Kinh: Bảo cùng các đại chúng: Sau khi ta diệt độ, ai có thể hộ tŕ, đọc, diễn nói kinh này, nay hăy đối trước Phật, tự nói lời thệ nguyện).

         

11.2.3.1.2. Nêu ra ba loại Phật (quá khứ, hiện tại, vị lai) để khuyên tŕ kinh

         

          (Kinh) Kỳ Đa Bảo Phật, tuy cửu diệt độ, dĩ đại thệ nguyện, nhi sư tử hống. Đa Bảo Như Lai, cập dữ ngă thân, sở tập hóa Phật, đương tri thử ư. Chư Phật tử đẳng, thùy năng hộ pháp, đương phát đại nguyện, linh đắc cửu trụ.

          ()其多寶佛。雖久滅度。以大誓願。而師子吼。多寶如來。及與我身。所集化佛。當知此意。諸佛子等。誰能護法。當發大願。令得久住。

          (Kinh: Vị Phật Đa Bảo ấy, tuy diệt độ đă lâu, do bởi đại thệ nguyện, bèn hiện sư tử hống. Đức Đa Bảo Như Lai, cùng với các hóa Phật, do chính ta phân thân, thảy đều cùng nhóm lại. Hăy nên biết ư ấy. Hỡi các vị Phật tử, ai có thể hộ pháp, hăy nên phát đại nguyện, khiến pháp trụ dài lâu).

 

11.2.3.1.3. Giải thích ư nghĩa khuyên lơn

 

          (Kinh) Kỳ hữu năng hộ, thử kinh pháp giả, tắc vi cúng dường, ngă cập Đa Bảo. Thử Đa Bảo Phật, xử ư bảo tháp, thường du thập phương. Vị thị kinh cố, diệc phục cúng dường, chư lai hóa Phật, trang nghiêm quang sức. Chư thế giới giả, nhược thuyết thử kinh, tắc vi kiến ngă, Đa Bảo Như Lai, cập chư hóa Phật.               ()其有能護。此經法者。則為供養。我及多寶。此多寶佛。處於寶塔。常遊十方。為是經故。亦復供養。諸來化佛。莊嚴光飾。諸世界者。若說此經。則為見我。多寶如來。及諸化佛。

            (Kinh: Nếu là người có thể, hộ tŕ kinh pháp này, tức là đă cúng dường, ta và Phật Đa Bảo. Vị Phật Đa Bảo này, ngự trong ṭa tháp báu, thường dạo chơi mười phương. Do v́ bộ kinh này, cũng sẽ lại cúng dường, các hóa Phật nhóm đến, trang nghiêm bằng quang minh. Ở trong các thế giới, nếu diễn nói kinh này, tức là sẽ thấy ta, và Đa Bảo Như Lai, cùng với các hóa Phật).         

 

            Có thể hộ tŕ kinh tức là cúng dường tam thế Phật. Nếu nói kinh này, tức là thấy trọn tam thế Phật. V́ thế, giải thích ư nghĩa khuyên lơn. Phần thứ nhất, “nêu ra tam thế Phật để khuyên lưu thông” đă xong.

 

11.2.3.2. Nêu ra pháp khó tŕ để khuyên lưu thông

11.2.3.2.1. Nêu ra lời khuyên

11.2.3.2.1.1. Khuyên răn

 

          (Kinh) Chư thiện nam tử, các đế tư duy. Thử vi nan sự, nghi phát đại nguyện.

          ()諸善男子。各諦思惟。此為難事。宜發大願。

          (Kinh: Hỡi các thiện nam tử, hăy tư duy chắc thật. Đây là chuyện khó khăn, hăy nên phát đại nguyện).

 

11.2.3.2.1.2. Nêu ra sự khó tŕ để khuyên lơn

         

          (Kinh) Chư dư kinh điển, số như Hằng sa. Tuy thuyết thử đẳng, vị túc vi nan. Nhược tiếp Tu Di, trịch trí tha phương, vô số Phật độ, diệc vị vi nan. Nhược dĩ túc chỉ, động đại thiên giới, viễn trịch tha quốc, diệc vị vi nan. Nhược lập Hữu Đảnh, vị chúng diễn thuyết, vô lượng dư kinh, diệc vị vi nan. Nhược Phật diệt hậu, ư ác thế trung, năng thuyết thử kinh, thị tắc vi nan. Giả sử hữu nhân, thủ bả hư không, nhi dĩ du hành, diệc vị vi nan. Ư ngă diệt hậu, nhược tự thư tŕ, nhược sử nhân thư, thị tắc vi nan. Nhược dĩ đại địa, trí túc giáp thượng, thăng ư Phạm Thiên, diệc vị vi nan. Phật diệt độ hậu, ư ác thế trung, tạm độc thử kinh, thị tắc vi nan. Giả sử kiếp thiêu, đm phụ càn thảo, nhập trung bất thiêu, diệc vị vi nan. Ngă diệt độ hậu, nhược tŕ thử kinh, vị nhất nhân thuyết, thị tắc vi nan. Nhược tŕ bát vạn, tứ thiên pháp tạng, thập nhị bộ kinh, vị nhân diễn thuyết, linh chư thính giả, đắc lục thần thông. Tuy năng như thị, diệc vị vi nan. Ư ngă diệt hậu, thính thọ thử kinh, vấn kỳ nghĩa thú, thị tắc vi nan. Nhược nhân thuyết pháp, linh thiên vạn ức, vô lượng vô số, hằng sa chúng sanh, đắc A La Hán, cụ lục thần thông. Tuy hữu thị ích, diệc vị vi nan. Ư ngă diệt hậu, nhược năng phụng tŕ, như tư kinh điển, thị tắc vi nan.

          ()諸餘經典。數如恆沙。雖說此等。未足為難。若接須彌。擲置他方。無數佛土。亦未為難。若以足指。動大千界。遠擲他國。亦未為難。若立有頂。為眾演說。無量餘經。亦未為難。若佛滅後。於惡世中。能說此經。是則為難。假使有人。手把虛空。而以遊行。亦未為難。於我滅後。若自書持。若使人書。是則為難。若以大地。置足甲上。升於梵天。亦未為難。佛滅度後。於惡世中。暫讀此經。是則為難。假使劫燒。擔負乾草。入中不燒。亦未為難。我滅度後。若持此經。為一人說。是則為難。若持八萬。四千法藏。十二部經。為人演說。令諸聽者。得六神通。雖能如是。亦未為難。於我滅後。聽受此經。問其義趣。是則為難。若人說法。令千萬億。無量無數。恆沙眾生。得阿羅漢。具六神通。雖有是益。亦未為難。於我滅後。若能奉持。如斯經典。是則為難。

          (Kinh: Các bộ kinh điển khác, số như cát sông Hằng, tuy nói các kinh ấy, chưa đáng gọi là khó. Hoặc đỡ lấy Tu Di, đem quăng sang phương khác, vô số các cơi Phật, vẫn chẳng phải là khó. Nếu lấy ngón chân động, cả đại thiên thế giới, hất sang nước xa khác, vẫn chưa phải là khó. Nếu đứng trên Hữu Đảnh[14], v́ đại chúng diễn thuyết, vô lượng các kinh khác, vẫn chưa phải là khó. Nếu Phật đă diệt độ, ở trong đời ác trược, có thể nói kinh này, đấy chính là khó khăn. Giả sử có một người, tay nắm lấy hư không, để cầm đi du hành, vẫn chưa phải là khó. Sau khi ta diệt độ, nếu tự ḿnh chép, tŕ, hoặc khiến người khác chép, đó chính là khó khăn. Nếu đem cả đại địa, đặt trên móng ngón chân, vượt lên cơi Phạm Thiên, vẫn chưa phải là khó. Sau khi Phật diệt độ, ở trong cơi đời ác, tạm đọc bộ kinh này, đó chính là khó khăn. Giả sử kiếp hỏa đốt, gánh một gánh cỏ khô, vào trong lửa chẳng cháy, vẫn chưa đáng là khó. Sau khi ta diệt độ, nếu phụng tŕ kinh này, v́ một người mà nói, đó chính là khó khăn. Nếu phụng tŕ tám vạn, bốn ngàn thứ pháp tạng, gồm mười hai bộ kinh, v́ người khác diễn nói, khiến cho các thính chúng, đắc sáu món thần thông, tuy làm được như thế, vẫn chưa phải là khó. Sau khi ta diệt độ, nghe nhận bộ kinh này, hỏi han các nghĩa thú, đó chính là khó khăn. Nếu có người thuyết pháp, khiến cho ngàn vạn ức, vô lượng và vô số, hằng sa các chúng sanh, đều đắc A La Hán, trọn đủ sáu thần thông. Tuy hữu ích như thế, vẫn chưa phải là khó. Sau khi ta diệt độ, nếu có thể phụng tŕ, kinh điển như thế này, đó chính là khó khăn).

 

          Tám vạn bốn ngàn pháp tạng, mười hai bộ kinh đều thông Đại và Tiểu. Hoằng dương, lưu thông các giáo thuộc bốn vị trước (sữa, lạc, sanh tô, thục tô), đều kèm theo phương tiện. V́ thế, vẫn là dễ dàng. Do tŕ nói kinh này chính là thuần nêu ra Nhất Thật, cho nên khó khăn gấp bội!

 

11.2.3.2.1.3. Giải thích ư nghĩa khó tŕ

 

          (Kinh) Ngă vị Phật đạo, ư vô lượng độ, tùng thỉ chí kim, quảng thuyết chư kinh, nhi ư kỳ trung, thử kinh đệ nhất. Nhược hữu năng tŕ, tắc tŕ Phật thân.

          ()我為佛道。於無量土。從始至今。廣說諸經。而於其中。此經第一。若有能持。則持佛身。

          (Kinh: Ta chính v́ Phật đạo, trong vô lượng cơi nước, từ đầu cho tới nay, rộng nói các kinh điển, nhưng trong các kinh ấy, kinh này là bậc nhất. Nếu ai có thể tŕ, chính là tŕ thân Phật).

 

          Không chỉ hơn bốn mươi năm trong cơi này, chưa từng nói rơ rệt, mà ngay cả trong vô lượng cơi, từ đầu cho tới nay, tuy nói rất nhiều kinh, [các kinh ấy] vẫn chẳng đàm luận sâu xa ư Phật như kinh này. Ba thứ Thể, Tông, Dụng của kinh này, ba thứ áo, ṭa, nhà chính là tam thân của Phật. Có thể tŕ kinh này chính là tŕ thân Phật, ư ấy há dễ dàng ư? Phần thứ nhất, “nêu ra lời khuyên” đă xong.

 

11.2.3.2.2. Giải thích ư khuyên lơn

11.2.3.2.2.1. Nhắc lại ư tuyển mộ người tŕ kinh

 

          (Kinh) Chư thiện nam tử! Ư ngă diệt hậu, thùy năng thọ tŕ, độc tụng thử kinh, kim ư Phật tiền, tự thuyết thệ ngôn.

          ()諸善男子。於我滅後。誰能受持。讀誦此經。今於佛前。自說誓言。

          (Kinh: Này các thiện nam tử! Sau khi ta diệt độ, ai có thể thọ tŕ, đọc tụng bộ kinh này, nay hăy đối trước Phật, tự thốt lời thệ nguyện).

 

11.2.3.2.2.2. Có thể tŕ kinh khó tŕ th́ sẽ được chư Phật hoan hỷ tán thán

 

          (Kinh) Thử kinh nan tŕ, nhược tạm tŕ giả, ngă tắc hoan hỷ, chư Phật diệc nhiên. Như thị chi nhân, chư Phật sở thán.

          ()此經難持。若暫持者。我則歡喜。諸佛亦然。如是之人。諸佛所歎。

          (Kinh: Kinh này khó thể tŕ, nếu có kẻ tạm tŕ, th́ ta sẽ hoan hỷ, chư Phật cũng như thế. Người làm được như thế, được chư Phật khen ngợi).

 

11.2.3.2.2.3. Chỉ rơ đó chính là thành tựu hạnh thù thắng tự hành, hóa độ người khác          

         

          (Kinh) Thị tắc dũng mănh, thị tắc tinh tấn, thị danh tŕ giới, hành đầu đà giả, tắc vi tật đắc, vô thượng Phật đạo. Năng ư lai thế, độc tŕ thử kinh, thị chân Phật tử, trụ thuần thiện địa.

          ()是則勇猛。是則精進。是名持戒。行頭陀者。則為疾得。無上佛道。能於來世。讀持此經。是真佛子。住湻善地。

          (Kinh: Đấy chính là dũng mănh, đấy chính là tinh tấn, đấy gọi là tŕ giới, là người hành đầu đà, sẽ nhanh chóng đạt được, Phật đạo quả vô thượng. Có thể trong tương lai, đọc, phụng tŕ kinh này, th́ là chân Phật tử, trụ địa vị thuần thiện).

 

          Đấy chính là tự hành hạnh thù thắng.

 

          (Kinh) Phật diệt độ hậu, năng giải kỳ nghĩa, thị chư thiên nhân, thế gian chi nhăn, ư khủng úy thế, năng tu du thuyết. Nhất thiết thiên nhân, giai ưng cúng dường.

          ()佛滅度後。能解其義。是諸天人。世間之眼。於恐畏世。能須臾說。一切天人。皆應供養。

          (Kinh: Sau khi Phật diệt độ, có thể hiểu nghĩa này, các hàng trời người ấy, là mắt của thế gian, ở trong đời kinh sợ, diễn nói trong khoảnh khắc. Hết thảy các trời người, nên cúng dường người ấy).

 

          Đây là hạnh hóa độ người khác thù thắng. Phẩm Kiến Bảo Tháp đă xong.

 

12. Phẩm mười hai: Đề Bà Đạt Đa (Đề Bà Đạt Đa phẩm đệ thập nhị, 提婆達多品第十二)

 

          Đề Bà Đạt Đa (Devadatta)[15] c̣n gọi là Đạt Đâu, cũng gọi là Điều Đạt, phương này dịch là Thiên Nhiệt, do Ngài ứng hiện thực hành ba chuyện ác nghịch. Cho nên khi Ngài sanh ra, tâm của trời lẫn người đều nóng nảy. V́ thế, đặt tên như thế. Đó là giải thích theo Nhân Duyên (Hỏi: Người ác ra đời, sao gọi là cảm ứng? Đáp: Khiến cho vô lượng người chẳng dám tạo ác, [tức là] cũng trọn đủ Tứ Tất Đàn. Người trông thấy [Đề Bà Đạt Đa do tạo ác, chuốc lấy ác quả] sẽ mừng rỡ chính ḿnh chẳng làm. Đó chính là Thế Giới Tất Đàn. Chẳng tạo [ác nghiệp], sẽ sanh điều lành. Đó là Vị Nhân Tất Đàn. Chẳng làm ác, tức là Đối Trị Tất Đàn. Không có chuyện chướng ngại chứng quả, tức là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn).

          Xét theo giáo, trong ba giáo trước, nghịch chỉ là nghịch, nay tuy nghịch mà thuận; đó chính là ư nghĩa trong Viên Giáo.

          Xét theo Bổn Tích, Bổn địa thanh lương, chúng sanh phiền năo. V́ thế, Bồ Tát thị hiện nóng bức, có cùng bệnh hạnh để độ thoát họ. Đại Kinh chép: “Đề Bà Đạt Đa tất bất phá tăng” (Đề Bà Đạt Đa ắt chẳng phá hoại Tăng đoàn). Kinh Báo Ân chép: “Nhược hữu nhân ngôn Đề Bà Đạt Đa thật thị ác nhân, nhập A Tỳ ngục giả, vô hữu thị xứ” (Nếu có kẻ nói Đề Bà Đạt Đa thật sự là kẻ ác, là kẻ vào địa ngục A Tỳ, chẳng có lẽ ấy!) Kinh Đại Vân nói: “Đề Bà Đạt Đa bất khả tư nghị, sở hữu hạnh nghiệp đồng ư Như Lai” (Đề Bà Đạt Đa chẳng thể nghĩ bàn, tất cả hạnh nghiệp giống như Như Lai).

          Xét theo quán tâm, rốt ráo đoạn các tướng khác nhau do các Ấm ḥa hợp và tích tập, th́ gọi là “phá Tăng”. Rốt ráo đoạn chủng tử tập khí của các Sử th́ gọi là “hại A La Hán”. Rốt ráo đoạn các thứ ô nhiễm thuộc bảy loại thức thân phiền năo sở tri th́ gọi là “ác tâm khiến cho thân Phật chảy máu” (trích từ quyển thứ ba của kinh Lăng Già). Ngài La Thập dịch kinh xong, cung nhân xin đem phẩm này ẩn tàng, vùng Giang Đông chỉ truyền hai mươi bảy phẩm. Đời Lương có Măn pháp sư giảng kinh một trăm lượt, thiêu thân tại quận Trường Sa, Sư đem phẩm này đặt trước phẩm Tŕ. Nam Nhạc đại sư cũng đặt phẩm này sau phẩm Kiến Bảo Tháp. Về sau, tôi thấy cựu bản tại Trường An, mới biết hai vị đă thấu đạt sâu xa ư kinh.

          Duyên do của phẩm thứ ba trong phần Lưu Thông của Tích Môn: Dẫn gương xưa hoằng truyền kinh [ḥng chứng minh] lợi ích do truyền bá càng chẳng sai lầm. Nay nói tới sự tuyên dương, giáo hóa, nhằm dùng sự việc để chứng nghiệm chẳng hư dối. Nêu chuyện trước để khuyên lơn trong hiện tại, khiến cho kinh được lưu thông. Kinh văn chia thành hai phần:

          - Một, xưa kia Đạt Đa lưu thông kinh, Phật Thích Ca thành đạo.

          - Hai, hiện thời, ngài Văn Thù lưu thông kinh, long nữ thành Phật.

          Vâng nhận giáo pháp mà c̣n [thành tựu] như thế, huống hồ đổ công tuyên dương, lưu thông, lợi ích há chẳng to lớn ư? V́ thế, Đạt Đa được thọ kư, đối với ngài Văn Thù [tuy kinh không nói Ngài được thọ kư], nhưng có thể suy ra ư đó!

 

12.1. Đạt Đa lưu thông kinh, Phật Thích Ca thành đạo

12.1.1. Tướng trạng thầy tṛ tŕ kinh thuở trước

12.1.1.1. Trường Hàng

12.1.1.1.1. Thời tiết cầu pháp sư

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật cáo chư Bồ Tát, cập thiên nhân tứ chúng: - Ngô ư quá khứ vô lượng kiếp trung, cầu Pháp Hoa kinh, vô hữu giải quyện.

          ()爾時佛告諸菩薩及天人四眾。吾於過去無量劫中。求法華經。無有懈倦。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các Bồ Tát và tứ chúng trời, người: - Ta trong vô lượng kiếp quá khứ cầu kinh Pháp Hoa chẳng hề lười nhác, mệt mỏi).

 

12.1.1.1.2. Trần thuật chuyện cầu pháp

12.1.1.1.2.1. Phát nguyện

 

          (Kinh) Ư đa kiếp trung, thường tác quốc vương, phát nguyện cầu ư Vô Thượng Bồ Đề, tâm bất thoái chuyển.

          ()於多劫中。常作國王。發願求於無上菩提。心不退轉。

          (Kinh: Trong nhiều kiếp, thường làm quốc vương, phát nguyện cầu Vô Thượng Bồ Đề, tâm chẳng thoái chuyển).

 

12.1.1.1.2.2. Tu hành

12.1.1.1.2.2.1. Mong muốn viên măn Đàn Na [Ba La Mật], siêng năng hành bố thí

 

          (Kinh) Vị dục măn túc Lục Ba La Mật, cần hành bố thí, tâm vô lận tích, tượng, mă, thất trân, quốc thành, thê tử, nô tỳ, bộc tùng, đầu, mục, tủy, năo, thân nhục, thủ, túc, bất tích khu mạng.

          ()為欲滿足六波羅蜜。勤行佈施。心無悋惜。象馬七珍。國城妻子。奴婢僕從。頭目髓腦。身肉手足。不惜軀命。

          (Kinh: V́ muốn viên măn Lục Ba La Mật, siêng hành bố thí, tâm chẳng keo tiếc. Voi, ngựa, bảy báu, quốc thành, vợ con, nô tỳ, tôi tớ, đầu, mắt, tủy, năo, trên thân, tay, chân, chẳng tiếc thân mạng).

 

12.1.1.1.2.2. V́ viên măn Bát Nhă, siêng năng cầu diệu pháp

 

          (Kinh) Thời thế nhân dân, thọ mạng vô lượng. Vị ư pháp cố, quyên xả quốc vị, ủy chánh Thái Tử, kích cổ, tuyên lệnh tứ phương cầu pháp: “Thùy năng vị ngă thuyết Đại Thừa giả, ngô đương chung thân cung cấp tẩu sử”.

          ()時世人民。壽命無量。為於法故。捐捨國位。委政太子。擊鼓宣令。四方求法。誰能為我說大乘者。吾當終身供給走使。

          (Kinh: Nhân dân thuở ấy thọ mạng vô lượng. Nhà vua v́ pháp, vứt bỏ ngôi vua, giao việc triều chánh cho Thái Tử, đánh trống, tuyên bố mạng lệnh cầu pháp bốn phương: “Ai có thể v́ ta nói pháp Đại Thừa, ta sẽ suốt đời làm kẻ hầu hạ cho người đó”).

 

          Phần thứ hai, nói về chuyện cầu pháp đă xong.

 

12.1.1.1.3. Cầu được pháp sư

 

          (Kinh) Thời hữu tiên nhân, lai bạch vương ngôn: - Ngă hữu Đại Thừa, danh Diệu Pháp Hoa kinh. Nhược bất vi ngă, đương vị tuyên thuyết.

          ()時有仙人。來白王言。我有大乘。名妙法華經。若不違我。當為宣說。

          (Kinh: Khi ấy có tiên nhân đến bạch với vua rằng: - Ta có pháp Đại Thừa tên là kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nếu chẳng trái nghịch ta, ta sẽ v́ nhà vua tuyên nói).

         

12.1.1.1.4. Nhận lănh pháp, phụng hành

 

          (Kinh) Vương văn tiên ngôn, hoan hỷ, dũng dược, tức tùy tiên nhân, cung cấp sở tu, thải quả, cấp thủy, thập tân, thiết thực, năi chí dĩ thân nhi vi sàng ṭa, thân tâm vô quyện. Ư thời phụng sự, kinh ư thiên tuế, vị ư pháp cố, tinh cần cấp thị, linh vô sở phạp.

          ()王聞仙言。歡喜踊躍。即隨仙人。供給所須。采果汲水。拾薪設食。乃至以身。而為牀座。身心無倦。於時奉事。經於千歲。為於法故。精勤給侍。令無所乏。

          (Kinh: Nhà vua nghe tiên nhân nói, hoan hỷ, hớn hở, liền theo tiên nhân cung cấp những thứ cần dùng: Hái quả, gánh nước, nhặt củi, nấu ăn, cho đến dùng thân làm giường, ṭa, thân tâm chẳng mệt mỏi. Khi đó, nhà vua phụng sự trải qua một ngàn năm, do v́ pháp, siêng ṛng hầu hạ, khiến cho tiên nhân chẳng thiếu thốn).

 

          Phần văn Trường Hàng đă xong.

 

12.1.1.2. Kệ Tụng

12.1.1.2.1. Trùng tụng thời tiết và cầu chánh pháp

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Ngă niệm quá khứ kiếp, vị cầu đại pháp cố. Tuy tác thế quốc vương, bất tham ngũ dục lạc, chùy chung cáo tứ phương, thùy hữu đại pháp giả, nhược vị ngă giải thuyết, thân đương vi nô bộc.

            ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。我念過去劫。為求大法故。雖作世國王。不貪五欲樂。椎鐘告四方。誰有大法者。若為我解說。身當為奴僕。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Ta nhớ kiếp quá khứ, v́ mong cầu đại pháp, tuy làm vua trong đời, chẳng tham vui ngũ dục, gơ chuông báo bốn phương, nếu ai có đại pháp, nếu v́ ta giải nói, ta sẽ làm nô bộc).

 

12.1.1.2.2. Trùng tụng cầu được pháp sư

 

          (Kinh) Thời hữu A Tư tiên, lai bạch ư đại vương: “Ngă hữu vi diệu pháp, thế gian sở hy hữu. Nhược năng tu hành giả, ngô đương vị nhữ thuyết”.

          ()時有阿私仙。來白於大王。我有微妙法。世間所希有。若能修行者。吾當為汝說。

          (Kinh: Khi đó, A Tư tiên (Asita)[16], đến bạch cùng đại vương: - Ta có pháp vi diệu, hiếm có trong thế gian. Nếu có thể tu hành, ta sẽ v́ vua nói).

 

12.1.1.2.3. Trùng tụng chuyện thọ pháp, phụng hành

 

          (Kinh) Thời vương văn tiên ngôn, tâm sanh đại hỷ duyệt, tức tiện tùy tiên nhân, cung cấp ư sở tu, thái tân cập quả lơa, tùy thời cung kính dữ. T́nh tồn diệu pháp cố, thân tâm vô giải quyện, phổ vị chư chúng sanh, cần cầu ư đại pháp.

          ()時王聞仙言。心生大喜悅。即便隨仙人。供給於所須。采薪及果蓏。隨時恭敬與。情存妙法故。身心無懈倦。普為諸眾生。勤求於大法。

          (Kinh: Lúc vua nghe tiên nói, tâm sanh đại hoan hỷ, liền đi theo tiên nhân, cung phụng các nhu cầu, đẵn củi, hái quả, củ, luôn cung kính đưa cho, do tâm v́ diệu pháp, thân tâm chẳng lười, mệt, v́ khắp các chúng sanh, siêng cầu đắc đại pháp).

 

12.1.1.2.4. Kết lại lời chứng minh để khuyến tín

 

          (Kinh) Diệc bất vị kỷ thân, cập dĩ ngũ dục lạc, cố vi đại quốc vương, cần cầu hoạch thử pháp, toại trí đắc thành Phật, kim cố vị nhữ thuyết.

          ()亦不為己身。及以五欲樂。故為大國王。勤求獲此法。遂致得成佛。今故為汝說。

          (Kinh: Cũng chẳng v́ chính ḿnh, chẳng v́ năm dục lạc, mà làm đại quốc vương. Siêng cầu đắc pháp này, v́ thế được thành Phật. Nên nay v́ ông nói).

 

          Phần thứ nhất, “tướng trạng thầy tṛ tŕ kinh thuở trước” đă xong.

 

12.1.2. Kết lại, dung hội xưa và nay

12.1.2.1. Kết lại để dung hội

 

          (Kinh) Phật cáo chư tỳ-kheo: - Nhĩ thời, vương giả tắc ngă thân thị. Thời tiên nhân giả, kim Đề Bà Đạt Đa thị.

          ()佛告諸比丘。爾時王者。則我身是。時仙人者。今提婆達多是。

          (Kinh: Đức Phật bảo các tỳ-kheo: “Nhà vua thuở đó là thân ta. Tiên nhân khi ấy nay là Đề Bà Đạt Đa).

 

12.1.2. Chỉ rơ thầy lẫn tṛ công đức và phước báo đều viên măn

12.1.2.1. Nói rơ đệ tử nhân tṛn quả vẹn

         

          (Kinh) Do Đề Bà Đạt Đa thiện tri thức cố, linh ngă cụ túc Lục Ba La Mật, từ, bi, hỷ, xả.

          ()由提婆達多善知識故。令我具足六波羅蜜。慈悲喜捨。

          (Kinh: Do thiện tri thức Đề Bà Đạt Đa khiến cho ta trọn đủ Lục Ba La Mật, từ, bi, hỷ, xả).

 

          Đây là trước hết nói về cái nhân viên măn.

          Hỏi: Đề Bà Đạt Đa đời đời là kẻ oán của đức Phật, cớ sao nói là thiện tri thức?

          Đáp: Nhập Đại Thừa Luận nói: “Nếu là kẻ oán, sao có thể đời đời gặp gỡ? Như hai người đi đường, mỗi người hướng về Đông, hoặc tiến về Tây khác nhau, từng bước cách xa, há trở thành bầu bạn ư?”

          Ư nghĩa của Lục Độ rất nhiều, nay chỉ nói đại lược. Như Đại Luận nói: “Xả y báo và chánh báo gọi là Đàn (bố thí). Pḥng ngừa bảy chi[17] gọi là Giới. Bị chửi mắng chẳng đáp trả là Nhẫn. Làm mọi việc [đều hoàn tất] từ đầu đến cuối là Tinh Tấn. Tứ Thiền Bát Định là Thiền. Tùy thuộc vào địa vị mà chấm dứt đua tranh th́ là Bát Nhă”. Lại c̣n gom Thập Thiện thành Lục Độ: Từ “chẳng giết chóc” cho đến “chẳng nói dối” là Đàn (bố thí). Chẳng nói đôi chiều là Thi La (giới). Chẳng ác khẩu là Nhẫn. Chẳng nói thêu dệt là Tấn (Tinh Tấn). Chẳng tham và sân là Thiền. Chẳng tà kiến là Bát Nhă. Lại nữa, kinh Bồ Tát Thiện Giới quyển thứ mười chép: “Lục Ba La Mật hữu tam chủng: Nhất, đối trị, vị xan, ố, sân, đăi, loạn, si. Nhị, tương sanh, vị xả gia tŕ giới, ngộ nhục tu nhẫn, nhẫn dĩ tinh tấn, tấn dĩ điều ngũ căn, căn điều tri pháp giới. Tam quả báo, vị đại phú nhiêu tài, chư căn cụ túc, dung sắc đoan chánh, hữu đại oai lực, thọ mạng an khang, biện tài vô ngại” (Lục Ba La Mật có ba loại: Một là đối trị, tức là [đối trị] keo kiệt, ghét bỏ, giận dữ, lười nhác, tán loạn, si mê. Hai là sanh ra nhau, tức là do bỏ nhà (xuất gia) bèn tŕ giới, gặp nhục bèn tu nhẫn, do đă nhẫn nên tinh tấn, do đă tinh tấn nên điều phục năm căn. Do đă điều phục các căn nên biết pháp giới. Ba quả báo, tức là giàu to, lắm của, các căn đầy đủ, dung mạo và h́nh sắc đoan chánh, có oai lực lớn, sống lâu, an ổn, khỏe mạnh, biện tài vô ngại). Các kinh khác lại nói: Quả báo của Thí là giàu, quả báo của Giới là [sanh trong] đường lành. Quả báo của Nhẫn là đoan chánh. Quả báo của Tinh Tấn là thần thông. Quả báo của Thiền là sanh lên trời. Quả báo của Huệ là phá phiền năo. Những điều giống như thế đều là tướng trạng của Lục Độ được nói trong Tam Tạng.

          Nếu ba sự “người thí”, “người nhận”, và “tài vật” [dùng để bố thí] đều là Không th́ gọi là Đàn. Chẳng thấy tŕ giới hay phạm giới, gọi là Giới. Người có thể nhẫn và điều phải nhẫn đều chẳng thể được th́ gọi là Nhẫn. Thân tâm bất động gọi là Tinh Tấn. Chẳng loạn, chẳng đắm chấp Thiền vị th́ gọi là Thiền. Chẳng phải trí, chẳng phải ngu th́ gọi là Bát Nhă. Những cách giải thích theo kiểu như vậy chính là tướng trạng của Lục Độ theo Thông Giáo.

          Nếu nói Đàn có mười điều lợi:

          - Một là điều phục Xan phiền năo (phiền năo keo tham).

          - Hai là bỏ cái tâm tiếp nối.

          - Ba là khiến cho chúng sanh đều cùng có của cải.

          - Bốn là sanh trong nhà giàu có, quyền thế.

          - Năm là sanh tâm bố thí hiện tiền.

          - Sáu là tứ chúng yêu thích.

          - Bảy là ở trong đại chúng chẳng khiếp nhược, sợ hăi.

          - Tám là danh xưng thù thắng trọn khắp.

          - Chín là tay chân mềm mại.

          - Mười là sẽ đến đạo tràng, luôn gặp gỡ thiện tri thức.

          Giới có mười điều lợi:

          - Một là viên măn Nhất Thiết Trí.

          - Hai là học giống như Phật.

          - Ba là chẳng hủy báng bậc trí.

          - Bốn là thệ nguyện chẳng lui sụt.

          - Năm là an trụ trong chánh hạnh.

          - Sáu là vứt bỏ sanh tử.

          - Bảy là hâm mộ, ưa thích Niết Bàn.

          - Tám là đạt được cái tâm chẳng trói buộc.

          - Chín là đạt được tam-muội thù thắng.

          - Mười là chẳng thiếu tín tài.

          Nhẫn có mười điều lợi:

          - Các điều một, hai, ba, bốn chính là lửa, đao, chất độc, nước đều chẳng thể làm hại.

          - Năm là được phi nhân bảo vệ.

          - Sáu là thân tướng trang nghiêm.

          - Bảy là đóng chặt đường ác.

          - Tám là sanh lên Phạm Thiên.

          - Chín là ngày đêm thường an ổn.

          - Mười là thân chẳng ĺa hỷ lạc.

          Tinh Tấn có mười điều lợi:

          - Một là kẻ khác chẳng thể chiết phục.

          - Hai là được Phật nhiếp thọ.

          - Ba là được phi nhân hộ vệ.

          - Bốn là nghe pháp chẳng quên.

          - Năm là [pháp] chưa nghe sẽ có thể được nghe.

          - Sáu là tăng trưởng biện tài.

          - Bảy là đạt được tam-muội tánh.

          - Tám là ít bệnh tật phiền năo.

          - Chín là ăn liền có thể tiêu[18].

          - Mười là tăng trưởng như hoa Ưu Bát (Utpala, hoa sen xanh).

          Thiền có mười điều lợi:

          - Một là an trụ nghi thức.

          - Hai là hành cảnh giới của ḷng Từ.

          - Ba là chẳng bứt rứt, hối hận.

          - Bốn là thủ hộ các căn.

          - Năm là đạt được niềm vui chẳng ăn (tức chẳng cần ăn uống v́ trụ trong Thiền Duyệt Thực).

          - Sáu là ĺa ái dục.

          - Bảy là tu Thiền bất không.

          - Tám là giải thoái khỏi lưới rập của ma.     

          - Chín là an trụ trong cảnh Phật.

          - Mười là giải thoát thành thục.

          Bát Nhă có mười điều lợi:

          - Một là chẳng giữ lấy tướng Thí.

          - Hai là chẳng nương vào Giới.

          - Ba là chẳng trụ trong Nhẫn lực.

          - Bốn là chẳng ĺa thân tâm tinh tấn.

          - Năm là Thiền chẳng trụ vào đâu.

          - Sáu là ma chẳng thể nhiễu loạn.

          - Bảy là ngôn luận của kẻ khác chẳng thể lay động.

          - Tám là thấu đạt tận đáy sanh tử.

          - Chín là dấy ḷng Từ tăng thượng.

          - Mười là chẳng thích địa vị Nhị Thừa.

          Lại c̣n có bốn sự phải nên tu Đàn:

          - Một là phá keo tham.

          - Hai là trang nghiêm Bồ Đề.

          - Ba là tự ḿnh lẫn người khác đều đạt được lợi ích. Khi sắp thí, khi đang thí, khi đă thí xong đều hoan hỷ th́ gọi là tự lợi. Trừ đói khát cho kẻ khác th́ gọi là lợi tha.

          - Bốn là đạt được đại thiện quả trong đời sau, tức là tôn quư, tài sản phong phú.

          Có bốn sự hăy nên tŕ giới:

          - Một là tự tu thiện pháp diệt ác giới.

          - Hai là trang nghiêm Bồ Đề nhiếp thọ chúng sanh.

          - Ba là ngủ an ổn, tỉnh giấc an ổn, chẳng hối hận, chẳng có tâm hại chúng sanh.

          - Bốn là mai sau sẽ được hưởng sự vui nơi nhân, thiên, Niết Bàn.

          Có bốn sự hăy nên tu nhẫn:

          - Một là trừ khử chẳng nhẫn.

          - Hai là trang nghiêm Bồ Đề, nhiếp thọ chúng sanh.

          - Ba là đôi bên đều xa ĺa nỗi sợ hăi, đời sau chẳng sân, quyến thuộc chẳng hoại, chẳng chịu khổ năo.

          - Bốn là đạt được niềm vui nhân, thiên, Niết Bàn.  

          Có bốn sự hăy nên tu tinh tấn:

          - Một là phá giải đăi.

          - Hai là trang nghiêm Bồ Đề nhiếp thọ chúng sanh.

          - Ba là tăng thêm thiện pháp tức là tự lợi, chẳng năo hại người khác th́ chính là lợi tha.

          - Bốn là sau đó sẽ đắc đại lực, đạt đến Bồ Đề.

          Có bốn sự phải nên tu Thiền:

          - Một là phá loạn tâm.

          - Hai là trang nghiêm Bồ Đề nhiếp thọ chúng sanh

          - Ba là thân tâm tịch tĩnh, đó là tự lợi. Chẳng năo hại chúng sanh là lợi tha.

          - Bốn là về sau sẽ được thân thanh tịnh, an ổn đắc Niết Bàn.

          Có bốn sự phải nên tu Bát Nhă:

          - Một là phá vô minh.

          - Hai là trang nghiêm Bồ Đề nhiếp thọ chúng sanh.

          - Ba là trí huệ tự vui sướng, đó là tự lợi. Có thể dạy chúng sanh là lợi tha.

          - Bốn là có thể phá hoại phiền năo và trí chướng. Đó là đại quả.

          Các cách nói giống như thế đều là tướng trạng của Lục Độ được nói trong Biệt Giáo.

          Kinh Nguyệt Tạng quyển thứ nhất nói: “Nhược chúng sanh duy y độc tụng, cầu Bồ Đề, thị nhân v trước thế tục, thượng bất điều kỷ phiền năo, hà năng điều tha? Thị nhân trước tật đố, danh lợi, phú quư, cao tâm tự thị, khinh mạn, hủy tha, thượng bất đắc Dục Giới thiện căn, huống Sắc, Vô Sắc thiện căn? Huống Nhị Thừa Bồ Đề? Huống Vô Thượng Bồ Đề? Như tinh hỏa bất năng càn hải, khẩu khí bất năng động sơn, ngẫu ty bất năng xứng nhạc. Đương tri thế tục bất năng măn Bồ Đề, hà đẳng thị Đệ Nhất Nghĩa? Vị tạo nhất thiết phước sự, cập tu thân, tu tâm, tu huệ, dĩ Đệ Nhất Nghĩa huân tu, tắc tốc măn Lục Ba La Mật. Nhược hành, nhược tọa, xả phan duyên tưởng, thị Đàn. Xả phan duyên bất phạm, thị Thi. Ư cảnh giới, bất sanh sang vưu, thị Sạn. Bất xả ư ly, thị Tinh Tấn. Ư sự trung bất phóng dật, thị Thiền. Ư chư pháp thể tánh vô sanh, thị Bát Nhă. Phục thứ ư Ấm xả, thị Đàn. Bất kế niệm Ấm, thị Thi. Ư Ấm vô ngă tưởng, thị Sạn. Ư Ấm khởi oán tưởng, thị Tấn. Ư Ấm bất xí nhiên, thị Thiền. Ư Ấm tất cánh khí, thị Bát Nhă. Ư giới xả, thị Đàn. Ư giới bất nhiễu trược, thị Thi. Ư giới xả nhân duyên, thị Sạn. Ư giới sổ sổ xả, thị Tấn. Ư giới bất khởi phát, thị Thiền. Ư giới như huyễn tưởng, thị Bát Nhă. Như thị đẳng thị danh Đệ Nhất Nghĩa Đế thiện xảo phương tiện thậm thâm pháp yếu, năng măn Lục Ba La Mật. Dĩ thử pháp tự vi, vi tha, tam thế Bồ Tát tất tu thị pháp thành Bồ Đề cố, phi thế tục dă. Thử pháp năng tức chúng sanh phiền năo đạo, khổ đạo, an trí Bồ Đề đạo” (Nếu chúng sanh chỉ nương vào đọc tụng để cầu Bồ Đề, người ấy v́ chấp trước thế tục, c̣n chẳng thể điều phục phiền năo của chính ḿnh, sao có thể điều phục người khác? Kẻ đó chấp trước ghen ghét, danh lợi, phú quư, tâm cao ngạo, tự cho là đúng, khinh mạn, hủy báng người khác, c̣n chẳng đạt được thiện căn trong Dục Giới, huống hồ thiện căn trong Sắc Giới và Vô Sắc Giới ư? Huống hồ Nhị Thừa Bồ Đề ư? Huống hồ Vô Thượng Bồ Đề ư? Như đốm lửa chẳng thể khô cạn biển, một hơi thổi chẳng thể lay động núi, sợi tơ từ ngó sen chẳng thể cân quả núi. Hăy nên biết thế tục chẳng thể viễn măn Bồ Đề. Những ǵ là Đệ Nhất Nghĩa? Chính là tạo hết thảy phước sự, và tu thân, tu tâm, tu huệ, dùng Đệ Nhất Nghĩa để huân tu, sẽ mau chóng viên măn Lục Ba La Mật. Dù đi, dù ngồi, đều bỏ ư tưởng nắm níu, đó là Đàn Na (Bố Thí). Bỏ nắm níu chẳng phạm th́ là Thi La (Giới). Đối với cảnh giới, chẳng sanh đau ngứa, là Sạn Đề (Nhẫn). Chẳng xả ĺa bỏ, đó là Tinh Tấn. Chẳng buông lung nơi Sự, là Thiền. Đối với các pháp [thấu hiểu] thể tánh vô sanh, th́ là Bát Nhă. Lại c̣n xả Ấm là Đàn. Chẳng so đo, nghĩ tới Ấm là Thi La. Đối với Ấm, tưởng là vô ngă, chính là Sạn Đề. Đối với Ấm, tưởng như oán cừu th́ là Tinh Tấn. Chẳng khiến cho Ấm lừng lẫy th́ là Thiền. Rốt ráo bỏ Ấm th́ là Bát Nhă. Đối với Giới bèn xả là Đàn. Chẳng nhiễu loạn, ô trược Giới th́ là Thi La. Xả nhân duyên nơi Giới th́ là Sạn Đề. Đối với Giới nhiều lượt xả th́ là Tinh Tấn. Đối với Giới, chẳng dấy động, phát khởi th́ là Thiền. Tưởng Giới như huyễn th́ là Bát Nhă. Những điều như thế gọi là pháp yếu phương tiện thiện xảo rất sâu trong Đệ Nhất Nghĩa Đế, có thể toàn vẹn Lục Ba La Mật. Dùng các pháp ấy để tự hành, hành cho người khác, Bồ Tát trong ba đời đều do tu pháp này mà thành Bồ Đề, chẳng phải là pháp thế tục. Pháp này có thể dứt phiền năo đạo khổ đạo cho chúng sanh, an trí họ nơi Bồ Đề đạo).

          Kinh Hoa Nghiêm lại nói Thất Địa Bồ Tát trong mỗi niệm đều trọn đủ mười Ba La Mật. Hăy nên biết các địa đều là “niệm nào cũng đều trọn đủ”; chỉ v́ dạy bảo thích đáng, cho nên tới Thất Địa mới nói. Những cách nói giống như thế chính là tướng trạng của Lục Độ trong Viên Giáo.

          Nay nói đến nhân hạnh của Phật Thích Ca, cần phải biết nơi Tích, Ngài thị hiện bốn tướng, nhưng nơi Bổn th́ chỉ hành Viên. Kế đó, từ, bi, hỷ, xả, mỗi pháp đều có sanh duyên, pháp duyên, và vô duyên, ba loại bất đồng. Tam Tạng là sanh duyên, Nhị Thừa chỉ có thể điều phục chính ḿnh, chỉ có thể thâu nhiếp vào Định học. Bồ Tát v́ độ hết thảy, riêng tu tứ vô lượng tâm. Nếu quả vị thành tựu, sẽ được gọi là đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Pháp duyên trong Thông Giáo th́ tam thừa đều cùng tu, nhưng nơi Tích th́ tự lợi và lợi tha cách biệt. Biệt Giáo th́ theo thứ tự tu ba món. Viên Giáo th́ nhất tâm trọn đủ, nơi Tích là bốn, nhưng nơi Bổn chỉ là một. Phỏng theo Lục Độ trong đoạn trước, sẽ có thể biết.

 

          (Kinh) Tam thập nhị tướng, bát thập chủng hảo, tử ma kim sắc, Thập Lực, Tứ Vô Sở Úy, Tứ Nhiếp Pháp, thập bát bất cộng, thần thông, đạo lực, thành Đẳng Chánh Giác, quảng độ chúng sanh.

          ()三十二相。八十種好。紫磨金色。十力。四無所畏。四攝法。十八不共。神通道力。成等正覺。廣度眾生。

          (Kinh: Ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo, sắc vàng tía được giồi mài, Thập Lực, Tứ Vô Sở Úy, Tứ Nhiếp Pháp, mười tám món bất cộng, thần thông, đạo lực, thành Đẳng Chánh Giác, rộng độ chúng sanh).

 

          Kế đó, đoạn này nói đến cái quả đă viên măn. Ba mươi hai tướng được nói chi tiết trong Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn[19] và Pháp Số v.v… Sách Pháp Hoa Văn Cú cũng nêu đại lược, ở đây chẳng phiền trích lục. Tam Tạng coi tinh tấn và tŕ giới là căn bản của [ba mươi hai] tướng. Nếu chẳng tŕ giới th́ c̣n chẳng thể đạt được thân trời người, huống hồ thân tướng của Phật! Thông Giáo coi Không và Vô Sanh là căn bản của các tướng. Biệt Giáo coi Đạo Chủng Trí là căn bản của các tướng. Viên Giáo coi Thật Tướng là căn bản của các tướng. Nay nghe Pháp Hoa khiến cho ta trọn đủ, tức là xứng tánh mà phát khởi để đạt được, cũng là do nơi Tích đă tu ba món [căn bản của các tướng] trước đó. Tám mươi thứ hảo, Thập Lực, thần thông v.v… như sách Pháp Số đă nói cặn kẽ. Phỏng theo trên đây, sẽ biết trong tứ giáo, mỗi giáo đều có tướng trạng bất đồng. Sau đó, đều kết quy vào Viên tông.

 

          (Kinh) Giai nhân Đề Bà Đạt Đa thiện tri thức cố.

          ()皆因提婆達多善知識故。

          (Kinh: Đều do Đề Bà Đạt Đa làm thiện tri thức).

 

          Điều này kết lại điều chứng minh “do lưu thông kinh mà đạt được lợi ích”. Phần thứ nhất, “đệ tử nhân tṛn quả vẹn” đă xong.

 

12.1.2.2. Nói rơ pháp sư sẽ thành tựu diệu quả

12.1.2.2.1. Thành tựu chánh quả

 

          (Kinh) Cáo chư tứ chúng, Đề Bà Đạt Đa khước hậu quá vô lượng kiếp, đương đắc thành Phật, hiệu viết Thiên Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thế giới danh Thiên Đạo.

          ()告諸四眾。提婆達多。卻後過無量劫。當得成佛。號曰天王如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。世界名天道。

          (Kinh: Bảo tứ chúng: - Đề Bà Đạt Đa trong vô lượng kiếp sau, sẽ được thành Phật, hiệu là Thiên Vương (Devarāja) Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thế giới tên là Thiên Đạo - Devasopānā).

 

          Nơi nhân tên là Thiên Nhiệt, nơi quả hiệu là Thiên Vương, nước tên là Thiên Đạo, đều là do triệt ngộ Đệ Nhất Nghĩa Thiên trong Tánh Đức, chẳng nghịch, chẳng thuận, mà là nghịch, là thuận. Chẳng nghịch mà nghịch chẳng thể nghĩ bàn. Chính từ nghịch mà thuận, cho nên gọi là Thiên Nhiệt. Chẳng thuận mà thuận, sự thuận ấy chẳng thể nghĩ bàn. Gom nghịch thành thuận, cho nên tên là Thiên Vương. Hành phi đạo mà thông đạt Phật đạo, cho nên gọi là Thiên Đạo.

          Hỏi: Trong Tỳ Ni Tạng nói rơ Điều Đạt khi sắp vào địa ngục, đă đạt được Vô Căn Tín, miệng xưng Nam-mô, chưa kịp xưng chữ Phật, thân liền hăm đọa. Đức Phật thọ kư sau ba kiếp, [Đề Bà Đạt Đa] sẽ hết tội, thoát khỏi địa ngục, sanh làm người, sẽ đạt được quả vị Bích Chi Phật, hiệu là Nam Mô. Đă ngộ đạo, ôm bát khất thực, khi mới vừa xin được thức ăn, do Túc Mạng Thông, tự quán túc hạnh, biết là do sức thiện căn v́ xưng Nam-mô khi lâm chung, hổ thẹn chẳng thọ thực, bèn diệt độ, sao lại rất khác với sự thọ kư trong kinh này?      

          Đáp: Du hư thần thông, phổ môn thị hiện, ba mươi hai ứng hiện của chư đại Bồ Tát, trọn đủ các thân trong mười pháp giới, trọn khắp pháp giới đến tột cùng vị lai. Chẳng hạn như chuyện của Ương Quật Ma La, Tát Giá Ni Kiền, Ca Lưu Đà Di v.v… căn cơ Đại, Tiểu Thừa, đều do đạt được một phần Ba La Mật của Như Lai. Nếu biết ư này, sẽ biết đức Thích Ca đă thành Phật từ lâu xa, nhưng vẫn thị hiện hành nhân hạnh nơi Đại Thông Trí Thắng Phật, Oai Âm Vương Phật v.v… cho đến trong phẩm này nêu chuyện Ngài cầu pháp, được Phật Nhiên Đăng thọ kư, mỗi mỗi không ǵ chẳng phải là phương tiện quyền biến khéo léo thị hiện dấu tích ḥng lợi sanh, là phương tiện ân cần xưng dương, tán thán, đều có nguyên do vậy!

 

12.1.2.2.2. Nói về người được hóa độ

 

          (Kinh) Thời Thiên Vương Phật trụ thế nhị thập trung kiếp, quảng vị chúng sanh thuyết ư diệu pháp. Hằng hà sa chúng sanh đắc A La Hán quả, vô lượng chúng sanh phát Duyên Giác tâm. Hằng hà sa chúng sanh phát vô thượng đạo tâm, đắc Vô Sanh Nhẫn, chí bất thoái chuyển.

          ()時天王佛。住世二十中劫。廣為眾生說於妙法。恆河沙眾生得阿羅漢果。無量眾生發緣覺心。恆河沙眾生發無上道心。得無生忍。至不退轉。

          (Kinh: Khi đó, Thiên Vương Phật trụ thế hai mươi trung kiếp, rộng v́ chúng sanh nói diệu pháp. Hằng hà sa chúng sanh đắc quả A La Hán, vô lượng chúng sanh phát tâm Duyên Giác. Hằng hà sa chúng sanh phát vô thượng đạo tâm, đắc Vô Sanh Nhẫn, cho đến chẳng thoái chuyển).

 

12.1.2.2.3. Lợi ích sau khi diệt độ

 

          (Kinh) Thời Thiên Vương Phật bát Niết Bàn hậu, chánh pháp trụ thế nhị thập trung kiếp, toàn thân xá-lợi khởi thất bảo tháp, cao lục thập do-tuần. Tung quảng tứ thập do-tuần. Chư thiên, nhân dân tất dĩ tạp hoa, mạt hương, thiêu hương, đồ hương, y phục, anh lạc, tràng phan, bảo cái, kỹ nhạc, ca tụng, lễ bái, cúng dường thất bảo diệu tháp. Vô lượng chúng sanh đắc A La Hán quả. Vô lượng chúng sanh ngộ Bích Chi Phật. Bất khả tư nghị chúng sanh phát Bồ Đề tâm, chí bất thoái chuyển.

          ()時天王佛般涅槃後。正法住世二十中劫。全身舍利起七寶塔。高六十由旬。縱廣四十由旬。諸天人民。悉以雜華末香燒香塗香衣服瓔珞幢幡寶蓋技樂歌頌禮拜供養七寶妙塔。無量眾生得阿羅漢果。無量眾生悟辟支佛。不可思議眾生發菩提心。至不退轉。

          (Kinh: Thuở ấy, sau khi Thiên Vương Phật bát Niết Bàn, chánh pháp trụ thế hai mươi trung kiếp, dựng tháp bảy báu thờ toàn thân xá-lợi, cao sáu mươi do-tuần, ngang dọc mỗi bề bốn mươi do-tuần. Chư thiên, nhân dân đều dùng các thứ hoa, hương bột, hương đốt, hương bôi, y phục, chuỗi ngọc, tràng phan, lọng báu, kỹ nhạc để ca tụng, lễ bái, cúng dường diệu tháp bảy báu. Vô lượng chúng sanh đắc quả A La Hán, vô lượng chúng sanh ngộ Bích Chi Phật. Chẳng thể nghĩ bàn chúng sanh phát Bồ Đề tâm cho đến chẳng thoái chuyển).

 

          Phần thứ hai, “kết lại, dung hội cổ kim” đă xong.

 

12.1.3. Khuyến tín                   

         

          (Kinh) Phật cáo chư tỳ-kheo: - Vị lai thế trung, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân văn Diệu Pháp Hoa kinh Đề Bà Đạt Đa phẩm, tịnh tâm tín kính, bất sanh nghi hoặc giả, bất đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sanh thập phương Phật tiền. Sở sanh chi xứ thường văn thử kinh. Nhược sanh nhân thiên trung, thọ thắng diệu lạc. Nhược tại Phật tiền, liên hoa hóa sanh.

          ()佛告諸比丘。未來世中。若有善男子善女人。聞妙法華經提婆達多品。淨心信敬。不生疑惑者。不墮地獄餓鬼畜生。生十方佛前。所生之處。常聞此經。若生人天中受勝妙樂。若在佛前蓮華化生。 

          (Kinh: Đức Phật bảo các tỳ-kheo: - Trong đời vị lai, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, nghe phẩm Đề Bà Đạt Đa của kinh Diệu Pháp Liên Hoa mà tịnh tâm tin tưởng, kính trọng, chẳng sanh ngờ vực, sẽ chẳng đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sẽ sanh trước chư Phật trong mười phương. Ở nơi sanh về, thường nghe kinh này. Nếu sanh trong trời, người, sẽ hưởng lạc thù thắng, mầu nhiệm. Nếu sanh trước chư Phật, sẽ là hóa sanh trong hoa sen).

         

          “Tịnh tâm tín kính”: Chẳng lầm lạc nẩy sanh phiền năo đối với dấu tích thị hiện thiện ác th́ gọi là “tịnh tâm”. Biết rơ đời đời thị hiện làm kẻ oán chính là ḷ rèn để thành tựu “thành Phật” to lớn, th́ gọi là Tín. Đối với kẻ oán cừu, bức năo, có thể khởi lên ư tưởng “đó là thiện tri thức chân thật” th́ gọi là Kính. Liễu đạt chuông do gơ mà ngân vang, đao do được mài sắc bén, vàng do nung luyện bèn tinh ṛng, hoa mai do trời lạnh mà ngát hương, chỉ quan tâm đến lợi ích, chẳng màng những điều sai trái khác, như con bú sữa, chẳng chê mẹ xấu xí. Như người hái quả, chẳng hiềm cành cây cong queo, đó là “bất sanh nghi hoặc” (chẳng sanh ḷng ngờ vực). Như thế mới là Văn Huệ, Tư Huệ, Tu Huệ, mới có thể vĩnh viễn ĺa tam đồ, thường phụng sự chư Phật, luôn nghe diệu pháp, liên hoa hóa sanh. Phần thứ nhất, “Đạt Đa lưu thông kinh thuở trước, Phật Thích Ca thành đạo” đă xong.

 

12.2. Hiện thời, ngài Văn Thù lưu thông kinh, long nữ thành Phật

12.2.1. Nói về chuyện lưu thông kinh

12.2.1.1. Trí Tích Bồ Tát thỉnh [Đa Bảo Phật] lui về

 

          (Kinh) Ư thời, hạ phương Đa Bảo Thế Tôn sở tùng Bồ Tát, danh viết Trí Tích, bạch Đa Bảo Phật đương hoàn bổn độ.

          ()於時下方多寶世尊所從菩薩。名曰智積。白多寶佛。當還本土。

          (Kinh: Khi đó, vị Bồ Tát đi theo Đa Bảo Thế Tôn ở phương dưới tên là Trí Tích (Prajñākūṭa) bạch Đa Bảo Phật hăy nên trở về cơi ḿnh).

 

          Hỏi: Đa Bảo Phật đă thị hiện nhập diệt, sao lại có Bồ Tát đi theo Ngài?

          Đáp: Ắt hẳn là người cúng dường, hầu cận tháp của Phật Đa Bảo trong cơi đó, có thể vận dụng thần thông nguyện lực đi theo tháp báu tới nghe kinh các nơi, mà cũng do thần lực của Đa Bảo Như Lai dẫn khởi, nhiếp thọ.

 

12.2.1.2. Phật Thích Ca ngăn cản

 

          (Kinh) Thích Ca Mâu Ni Phật cáo Trí Tích viết: - Thiện nam tử! Thả đăi tu du, thử hữu Bồ Tát danh Văn Thù Sư Lợi, khả dữ tương kiến, luận thuyết diệu pháp, khả hoàn bổn thổ.

          ()釋迦牟尼佛告智積曰。善男子。且待須臾。此有菩薩。名文殊師利。可與相見。論說妙法。可還本土。

          (Kinh: Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Trí Tích rằng: - Này thiện nam tử! Hăy chờ giây lát, nơi đây có Bồ Tát tên là Văn Thù Sư Lợi, ông có thể gặp gỡ, luận nói diệu pháp rồi hăy trở về cơi ḿnh).

 

          Ư của ngài Trí Tích cho rằng tháp của Đa Bảo Phật chỉ v́ chứng minh kinh mà xuất hiện. Nay phần khuyên lơn chúng sanh lưu thông đă xong, cho nên thỉnh Phật trở về. Phật Thích Ca th́ do Tích Môn đă xong, Bổn Môn chưa nêu bày, cho nên mượn ngài Văn Thù làm cớ để lưu Phật Đa Bảo lại. Mật ư của Phật, Bồ Tát chẳng biết được!

 

12.2.1.3. Ngài Văn Thù liền đến

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Văn Thù Sư Lợi tọa thiên diệp liên hoa, đại như xa luân, câu lai Bồ Tát diệc tọa bảo liên hoa, tùng ư đại hải Sa Kiệt La long cung, tự nhiên dũng xuất, trụ hư không trung, nghệ Linh Thứu sơn, tùng liên hoa hạ, chí ư Phật sở, đầu diện kính lễ nhị Thế Tôn túc. Tu kính dĩ tất, văng Trí Tích sở, cộng tương úy vấn, khước tọa nhất diện.

          ()爾時文殊師利。坐千葉蓮華。大如車輪。俱來菩薩。亦坐寶蓮華。從於大海娑竭羅龍宮。自然涌出。住虛空中。詣靈鷲山。從蓮華下。至於佛所。頭面敬禮二世尊足。修敬已畢。往智積所。共相慰問。卻坐一面。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Văn Thù Sư Lợi ngồi trên hoa sen ngàn cánh, to như bánh xe, các Bồ Tát cùng đến với Ngài cũng ngồi trên hoa sen báu, từ cung rồng Sa Kiệt La (Sāgara)[20] trong biển cả, tự nhiên vọt ra, trụ trong hư không, tới núi Linh Thứu (Gṛdhrakūṭa), từ hoa sen bước xuống, đến chỗ đức Phật, đầu mặt kính lễ dưới chân hai đức Thế Tôn. Tu kính xong xuôi, qua chỗ ngài Trí Tích, cùng nhau chào hỏi rồi ngồi qua một bên).

 

          Hỏi: Trong phẩm Tự có nói ngài Văn Thù hiện diện trong pháp hội, nay sao lại từ biển xuất hiện?

          Đáp: Có ba nghĩa:

          - Một, chẳng rời khỏi hội này, giáo hóa chúng sanh trong biển. Thánh cảnh ẩn hiển, phàm phu chẳng thể suy lường được!

          - Hai, trong phẩm Tự, sau khi Ngài đă tạo lợi ích xong, lúc Ngài rời đi, há ắt chẳng biết rơ ư? Khi Ngài đến th́ lợi ích to lớn mới sanh, cùng với đại chúng từ biển mà đến.

          - Ba, Phạn văn rất rộng, truyền dịch [sang tiếng Hán] rất đại lược. Trong bản ấy (nguyên bản bằng tiếng Phạn), không chừng có chép lúc Ngài rời khỏi hội. Chẳng hạn như phẩm Nhập Pháp Giới trong kinh Hoa Nghiêm[21] v.v…

          Hỏi: Ngoài tam thiên, đều có bốn trăm vạn ức na-do-tha cơi [do Phật Thích Ca biến hóa ra, các cơi ấy đều] chẳng có biển cả. V́ sao vẫn nói ngài Văn Thù từ biển đến?

          Đáp: Giải thích theo sự tướng mà c̣n chẳng thể nói rơ rệt được, huống hồ [bàn luận] chuyện chẳng thể nghĩ bàn ư! Nay dùng ba nghĩa để đả thông:

          - Một, đă dời trời, người [sang cơi khác] và biến hóa biển cả, nay do sức thần thông, từ chốn xa xôi đă dời đi đó mà đến, đương nhiên là chẳng bị xa xôi ngăn trở.

          - Hai, dẫu đại chúng đă được dời đi, nhưng cung rồng bất động. Rồng cho là bất động, nhưng chỗ họ ở đă biến đổi. Do từ chỗ “biến nhưng chẳng biến” mà đến, có ǵ là không được?

          - Ba, kẻ chẳng có duyên bị dời đi, người có duyên th́ nay mới đến. Núi, sông chẳng thể nghĩ bàn rành rành mà khiến cho đại chúng chẳng thấy, chỉ là biến Kiến (cái Thấy bị biến đổi), chẳng phải là cái Thể biến đổi. Ngài Văn Thù đă chẳng khởi mà đến, cơi ấy cũng chính là uế mà tịnh. V́ thế, kinh Tịnh Danh nói “di trí tha độ, đô bất sử nhân hữu văng lai tướng” (dời đặt sang cơi khác đều chẳng khiến cho mọi người có tướng đến đi); ở đây tuy khiến cho có tướng đến đi, nhưng vốn chẳng dời. V́ thế, phải nên biết là đối với căn cơ hữu duyên, cơi nước biến đổi, đại chúng được dời đi, nhưng vẫn đến. Kẻ vô duyên dẫu cơi nước trở lại như cũ, đại chúng t́m đến [pháp hội này để nghe kinh Pháp Hoa], nhưng kẻ đó (kẻ vô duyên) chẳng đến. Do vậy, lư tuy chẳng động, nhưng chuyện biến hóa tuân theo nề nếp, cho nên khiến cho [mọi người] được thấy khác nhau. Qua lại khác thời, quy cách ứng hóa của Bồ Tát c̣n là như thế, há Phật lập cách biến hóa giống như phàm phu ư?

          Hỏi: Chẳng khởi mà qua tới, sao lại nói là “đến”?

          Đáp: Thị hiện cho đại chúng đây kia biết công lực của kinh, biết đến lợi ích do lănh thọ giáo pháp. V́ thế, cần phải nói là “đến”. Chẳng qua mà qua, không đến mà đến, đều v́ lợi lạc chúng sanh, cần ǵ phải căn vặn điều này? V́ thế biết là tuy nói dời khỏi cơi này, nhưng nơi cơi khác chưa chắc đă thấy đến! Cơi kia chẳng thấy đến, cơi này chẳng thấy đi. Chẳng đến, chẳng đi, nhưng chuyện dời đi rành rành. Như trong kinh Tịnh Danh (kinh Duy Ma Cật), Như Lai ấn ngón chân xuống đất, khi đó, đại chúng tự thấy [chính ḿnh] ngồi trên hoa sen báu, mà cơi nước vẫn là uế độ như cũ.

 

12.2.1.4. Trí Tích hỏi han

 

          (Kinh) Trí Tích Bồ Tát vấn Văn Thù Sư Lợi: - Nhân văng long cung, sở hóa chúng sanh, kỳ số kỷ hà?

          ()智積菩薩問文殊師利。仁往龍宮。所化眾生。其數幾何。

          (Kinh: Trí Tích Bồ Tát hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi: - Nhân giả qua long cung, hóa độ chúng sanh số lượng là bao nhiêu?)

 

12.2.1.5. Ngài Văn Thù giải đáp

12.2.1.5.1. Trả lời: Lợi ích rất nhiều

 

          (Kinh) Văn Thù Sư Lợi ngôn: - Kỳ số vô lượng, bất khả xưng kế, phi khẩu sở tuyên, phi tâm sở trắc. Thả đăi tu du, tự đương chứng tri.

          ()文殊師利言。其數無量。不可稱計。非口所宣。非心所測。且待須臾。自當證知。

          (Kinh: Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: - Số ấy vô lượng, chẳng thể tính kể, miệng chẳng thể nói được, tâm chẳng thể lường được. Hăy chờ giây lát, sẽ tự chứng biết).

 

12.2.1.5.2. Kẻ được lợi ích đều nhóm đến chứng thực

 

          (Kinh) Sở ngôn vị cánh, vô số Bồ Tát tọa bảo liên hoa, tùng hải dũng xuất, nghệ Linh Thứu sơn, trụ tại hư không. Thử chư Bồ Tát giai thị Văn Thù Sư Lợi chi sở hóa độ, cụ Bồ Tát hạnh, giai cộng luận thuyết Lục Ba La Mật. Bổn Thanh Văn nhân tại hư không trung thuyết Thanh Văn hạnh, kim giai tu hành Đại Thừa Không nghĩa.

          ()所言未竟。無數菩薩坐寶蓮華。從海涌出。詣靈鷲山。住在虛空。此諸菩薩。皆是文殊師利之所化度。具菩薩行。皆共論說六波羅蜜。本聲聞人。在虛空中說聲聞行。今皆修行大乘空義。

          (Kinh: Nói chưa xong, vô số Bồ Tát ngồi trên hoa sen báu từ biển vọt ra, tới núi Linh Thứu, trụ trong hư không. Các vị Bồ Tát ấy đều do ngài Văn Thù Sư Lợi hóa độ, trọn đủ Bồ Tát hạnh, đều cùng luận bàn Lục Ba La Mật. Những vị vốn là Thanh Văn ở trong hư không, nói hạnh Thanh Văn, nay đều tu hành nghĩa Không của Đại Thừa).

 

          Vô số Bồ Tát ngồi trên hoa sen báu, có hai loại:

          - Một là những vị vốn phát tâm Đại Thừa.

          - Hai là những vị vốn là Thanh Văn, nay được ngài Văn Thù giáo hóa, cùng quy vào Nhất Thật.

          “Đại Thừa Không nghĩa” chính là Thật Tướng của các pháp.

 

12.2.1.5.3. Ngài Văn Thù kết lại lợi ích

 

          (Kinh) Văn Thù Sư Lợi vị Trí Tích viết: - Ư hải giáo hóa, kỳ sự như thị.

          ()文殊師利謂智積曰。於海教化。其事如是。

          (Kinh: Ngài Văn Thù Sư Lợi bảo ngài Trí Tích: - Chuyện giáo hóa trong biển là như thế đó).

 

12.2.1.5.4. Ngài Trí Tích nói kệ tán thán

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Trí Tích Bồ Tát dĩ kệ tán viết: - Đại trí đức dũng kiện, hóa độ vô lượng chúng. Kim thử chư đại hội, cập ngă giai dĩ kiến, diễn sướng Thật Tướng nghĩa, khai xiển Nhất Thừa pháp, quảng đạo chư chúng sanh, linh tốc thành Bồ Đề.         

          ()爾時智積菩薩以偈讚曰。大智德勇健。化度無量眾。今此諸大會。及我皆已見。演暢實相義。開闡一乘法。廣導諸眾生。令速成菩提。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Trí Tích Bồ Tát dùng kệ tán thán rằng: - Đại trí đức mạnh mẽ, hóa độ vô lượng người. Nay trong các đại hội, tôi đều đă trông thấy, diễn bày nghĩa Thật Tướng, khai xiển pháp Nhất Thừa, rộng hướng dẫn chúng sanh, khiến mau thành Bồ Đề).  

 

          Phần thứ nhất, “nói về chuyện lưu thông” kinh đă xong.

 

12.2.2. Giảng về lợi ích

12.2.2.1. Ngài Văn Thù tự trần thuật

 

          (Kinh) Văn Thù Sư Lợi ngôn: - Ngă ư hải trung, duy thường tuyên thuyết Diệu Pháp Hoa kinh.

          ()文殊師利言。我於海中。唯常宣說妙法華經。

          (Kinh: Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: - Tôi ở trong biển chỉ thường tuyên nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa).

 

12.2.2.2. Ngài Trí Tích hỏi han

         

          (Kinh) Trí Tích vấn Văn Thù Sư Lợi ngôn: - Thử kinh thậm thâm vi diệu, chư kinh trung bảo, thế sở hy hữu, phả hữu chúng sanh cần gia tinh tấn, tu hành thử kinh, tốc đắc Phật phủ?

          ()智積問文殊師利言。此經甚深微妙。諸經中寶。世所希有。頗有眾生勤加精進。修行此經。速得佛不。

          (Kinh: Ngài Trí Tích hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: - Kinh ấy rất sâu vi diệu, là của báu trong các kinh, hiếm có trong cơi đời, há có chúng sanh nào siêng năng, ra sức tinh tấn tu hành kinh này, mau chóng thành Phật hay không?)

 

12.2.2.3. Văn Thù trả lời

 

          (Kinh) Văn Thù Sư Lợi ngôn: - Hữu Sa Kiệt La long vương nữ, niên thỉ bát tuế, trí huệ lợi căn, thiện tri chúng sanh chư căn hạnh nghiệp, đắc đà-la-ni. Chư Phật sở thuyết thậm thâm bí tạng, tất năng thọ tŕ, thâm nhập Thiền Định, liễu đạt chư pháp, ư sát-na khoảnh, phát Bồ Đề tâm, đắc bất thoái chuyển, biện tài vô ngại, từ niệm chúng sanh, do như xích tử, công đức cụ túc. Tâm niệm khẩu diễn, vi diệu quảng đại, từ bi nhân nhượng, chí ư ḥa nhă, năng chí Bồ Đề.

          ()文殊師利言。有娑竭羅龍王女年始八歲。智慧利根。善知眾生諸根行業。得陀羅尼。諸佛所說。甚深秘藏。悉能受持。深入禪定。了達諸法。於剎那頃。發菩提心。得不退轉。辯才無礙。慈念眾生。猶如赤子。功德具足。心念口演。微妙廣大。慈悲仁讓。志意和雅。能至菩提。

          (Kinh: Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: - Có con gái của vua rồng Sa Kiệt La mới tám tuổi, trí huệ lợi căn, khéo biết các căn và hạnh nghiệp của chúng sanh, đắc đà-la-ni. Tạng bí mật rất sâu do chư Phật đă nói, đều có thể thọ tŕ, thâm nhập Thiền Định, liễu đạt các pháp. Trong khoảng sát-na, phát Bồ Đề tâm, đắc bất thoái chuyển, biện tài vô ngại, từ bi nghĩ thương chúng sanh khác nào con đỏ. Công đức đầy đủ, tâm nghĩ, miệng nói, vi diệu rộng lớn, từ bi, nhân từ, nhường nhịn, chí ư ḥa nhă, có thể đạt tới Bồ Đề).

 

          Trí huệ khéo biết chúng sanh, tổng tŕ có thể thọ lănh Phật tạng, đều là viên huệ. Thâm nhập Thiền Định, liễu đạt các pháp chính là viên định. Do Định Huệ b́nh đẳng, cho nên có thể trong khoảng sát-na phát Bồ Đề tâm. Nói “ngộ Vô Sanh mới thấy sát-na” chính là Sát Na Tế tam-muội. Thông đạt sát-na ấy vô sanh, vô tánh, nhanh chóng nhập pháp giới chẳng thể nghĩ bàn. Đó gọi là “giới nhĩ hữu tâm, tam thiên cụ túc” (vừa mới ny chút tâm, tam thiên đại thiên thế giới đă trọn đủ). Tam thiên tức Không, đạt được Vị Bất Thoái. Tam thiên tức Giả, đạt được Hạnh Bất Thoái. Tam thiên tức Trung, đạt được Niệm Bất Thoái. Biết rơ chẳng ngang, chẳng dọc, cùng chiếu ngang lẫn dọc, cho nên biện tài vô ngại, tự ngộ tâm tánh và chư Phật giống nhau, nghĩ thương xót chúng sanh đồng thể vẫn đang mê. V́ thế “từ niệm do như xích tử” (từ bi nghĩ tưởng ví như con đỏ). Đă có thể trên ứng hợp chư Phật, dưới là giống như chúng sanh. Cho nên công đức trọn đủ, có thể đạt tới Bồ Đề. Bốn câu kể từ “tâm niệm, khẩu diễn” (tâm nghĩ, miệng nói) đều nhằm tán thán Viên hạnh.

 

12.2.2.4. Ngài Trí Tích do chấp Biệt Giáo bèn nghi ngờ

         

          (Kinh) Trí Tích Bồ Tát ngôn: - Ngă kiến Thích Ca Như Lai ư vô lượng kiếp nan hành khổ hạnh, tích công lũy đức, cầu Bồ Đề đạo, vị tằng chỉ tức. Quán tam thiên đại thiên thế giới, năi chí vô hữu như giới tử hứa, phi thị Bồ Tát xả thân mạng xứ vị chúng sanh cố. Nhiên hậu năi đắc thành Bồ Đề đạo, bất tín thử nữ ư tu du khoảnh tiện thành Chánh Giác.

          ()智積菩薩言。我見釋迦如來。於無量劫難行苦行。積功累德。求菩提道。未曾止息。觀三千大千世界。乃至無有如芥子許。非是菩薩捨身命處為眾生故。然後乃得成菩提道。不信此女於須臾頃。便成正覺。

          (Kinh: Trí Tích Bồ Tát nói: - Tôi thấy Thích Ca Như Lai trong vô lượng kiếp hành khổ hạnh khó làm, tích lũy công đức để cầu Bồ Đề đạo chưa từng ngưng dứt. Xem cả tam thiên đại thiên thế giới, thậm chí chẳng có chỗ nào to bằng hạt cải mà chẳng phải là chỗ Bồ Tát xả thân mạng v́ chúng sanh. Sau đấy Ngài mới được thành đạo Bồ Đề, chẳng tin cô gái này trong khoảnh khắc sẽ liền thành Chánh Giác).

 

          Trí Tích theo hầu bảo tháp, chuyên chứng minh kinh Viên Giáo, há có nên chẳng tin? Đấy chính là Ngài v́ chúng sanh mà nêu bày mối nghi. Phật Thích Ca khổ hạnh, thị hiện Tích giống với Biệt Giáo, đó chính là phương tiện quyền biến để hóa độ kẻ khác. Long nữ phát tâm liền ngự lên Bất Thoái, tức là tự hành Thật (đây chỉ là đối ứng với Thiên mà coi là Quyền, coi Viên là Thật). “Tu du” (khoảnh khắc, giây lát) tức là sát-na khoảnh” (trong khoảng sát-na) trong câu trước đó. Nhưng Quyền và Thật chẳng hai, Lư và Sự dung thông lẫn nhau. Phật Thích Ca thị hiện dấu tích hành trọn khắp các chuyện khó khăn, nhưng trước đó Ngài đă chứng Viên lư từ lâu. Long nữ thị hiện phát tâm trong sát-na, ắt cũng tích lũy tư lương rất lâu, huống vô lượng kiếp ư? Giải rằng: Vốn là nhất niệm, chỉ trong khoảnh khắc, tánh trọn đủ mười đời xưa nay. Như tiên nhân Cù Mục[22] nắm tay Thiện Tài, trong ṿng một niệm, [Thiện Tài] trải khắp số kiếp như số vi trần trong một cơi nước để thừa sự chư Phật, hành Bồ Tát đạo. Lư tánh bất động, Phật sự rành rành. Nếu bảo Biệt Giáo một mực thuộc về Sự, Viên Giáo một mực thuộc về Lư, th́ Lư và Sự tách rời, vẫn đọa vào chấp trước Biên Kiến. Sự chẳng có Lư th́ dùng ǵ để tự lập? Lư chẳng có Sự th́ dùng ǵ để tự phô bày? Nguyện người đọc kinh hăy suy xét!

 

12.2.2.5. Long nữ nêu bày Viên Giáo để cởi gỡ mối nghi

         

          (Kinh) Ngôn luận vị ngật, thời long vương nữ hốt hiện ư tiền, đầu diện lễ kính, khước trụ nhất diện, dĩ kệ tán viết: “Thâm đạt tội phước tướng, biến chiếu ư thập phương. Vi diệu tịnh Pháp Thân, cụ tướng tam thập nhị. Dĩ bát thập chủng hảo, dụng trang nghiêm Pháp Thân. Thiên nhân sở đới ngưỡng, long thần hàm cung kính. Nhất thiết chúng sanh loại, vô bất tông phụng giả. Hựu văn thành Bồ Đề, duy Phật đương chứng tri. Ngă xiển Đại Thừa giáo, độ thoát khổ chúng sanh”.

          ()言論未訖。時龍王女。忽現於前。頭面禮敬卻住一面。以偈讚曰。深達罪福相。徧照於十方。微妙淨法身。具相三十二。以八十種好。用莊嚴法身。天人所戴仰。龍神咸恭敬。一切眾生類。無不宗奉者。又聞成菩提。唯佛當證知。我闡大乘教。度脫苦眾生。

          (Kinh: Bàn nói chưa xong, khi đó, con gái của long vương bỗng hiện ra trước mặt, đầu mặt lễ kính, đứng lui qua một bên, dùng kệ tán thán [đức Phật] rằng: “Hiểu sâu tướng tội phước, chiếu trọn khắp mười phương. Pháp Thân sạch vi diệu, đủ ba mươi hai tướng, dùng tám mươi thứ hảo, để trang nghiêm Pháp Thân. Trời, người đều kính ngưỡng, long thần cùng cung kính. Hết thảy loài chúng sanh, không ai chẳng sùng phụng. Lại nghe thành Bồ Đề, chỉ Phật sẽ chứng biết. Con xiển giáo Đại Thừa, độ thoát chúng sanh khổ”).

 

          Đấy là do long nữ tŕ kinh được hiểu. V́ thế, lưu loát tán Phật, chính là nêu rơ Viên Giáo ḥng tháo gỡ mối nghi. Hai bài kệ rưỡi đầu tiên, tán thán đức Phật đă nêu bày Viên Giáo. Bài kệ sau đó dẫn chứng để cởi gỡ mối nghi. Thoạt đầu nói “thâm đạt tội phước tướng, biến chiếu ư thập phương” (liễu đạt sâu xa tướng tội phước, chiếu trọn khắp mười phương): Tướng tội phước chỉ là tướng mười pháp giới. Tam đồ là tội, nhân thiên là phước. Hữu lậu là tội, vô lậu là phước. Thiên Không là tội, xuất Giả là phước. Nhị Biên là tội, Trung Đạo là phước. Đản Trung (chỉ chấp vào Trung) là tội, viên Trung là phước. Đă nêu ra tướng của mười pháp giới, vậy th́ Tánh, Thể, cho đến Quả Báo, không ǵ chẳng được gồm thâu trọn vẹn. Tướng tội phước của mười pháp giới v.v… đều là các pháp sanh bởi nhân duyên. Ngay nơi bản thể chính là Không, là Giả, là Trung. Tam Tạng chỉ thấu đạt một câu nhân duyên, chiếu sáu pháp giới chứ không chiếu mười. Thấu đạt chẳng sâu, chẳng chiếu trọn khắp. Thông Giáo chỉ thấu đạt nhân duyên của sáu pháp giới chính là Không, nhưng thấu đạt cũng chẳng sâu, chiếu cũng chẳng trọn khắp. Biệt Giáo thấu đạt theo thứ tự, và cũng chiếu theo thứ tự, vẫn chẳng thể gọi “thấu đạt sâu xa, chiếu trọn khắp”. Chỉ có người thuộc Viên Giáo biết rơ một niệm hiện tiền theo chiều dọc tột cùng tận đáy của Tam Đế, theo chiều ngang tột cùng bờ mé của mười pháp giới, chẳng Đế nào không phải là mười pháp giới, tức là theo chiều dọc mà chẳng phải là chiều dọc. Không pháp giới nào chẳng phải là Tam Đế, tức theo chiều ngang mà chẳng phải chiều ngang. Chẳng phải dọc, chẳng phải ngang, mà vừa ngang, vừa dọc. Do đó, nói: “Thâm đạt tội phước tướng, biến chiếu ư thập phương” (thấu đạt sâu xa tướng tội phước, chiếu trọn khắp mười phương). Lại gồm thâu ngang và dọc, cùng gọi là Tánh Đức. Tánh Đức chẳng phải ngang, chẳng phải dọc, do các phàm thánh thường b́nh đẳng. Lại nói là chiều ngang, nắm vững tánh thành tu, cần phải hiểu rơ Lục Tức. Tu cũng chẳng phải là ngang, chẳng phải là dọc, do pháp vô vi mà có sai biệt. Lại nói là dọc, Lư ở ngay nơi mê, thấu đạt mà chẳng thấu đạt, chiếu mà chẳng chiếu, danh tự đă mất, được gọi là “đạt chiếu”. Khi đă rốt ráo, thấu đạt bèn sâu nhất, chiếu bèn trọn khắp nhất. Nay tán thán Phật đức rốt ráo, v́ thế nói “thâm đạt tội phước tướng, biến chiếu ư thập phương”.

          “Vi diệu tịnh Pháp Thân”: Tam thiên tức Giả, nên là Vi. Tam thiên tức Trung, nên Diệu. Tam thiên tức Không, nên Tịnh. Tam đức chẳng ngang dọc, chẳng cùng nhau hay tách biệt; đó chính là Pháp Thân do chư Phật đă chứng. Pháp Thân vô tướng, không ǵ chẳng phải là tướng. Thật Tướng là cội gốc của tướng hải trong Đại Thừa và Tiểu Thừa. V́ thế, trọn đủ ba mươi hai tướng và tám mươi tướng thứ hảo. Mỗi tướng hảo đều chính là pháp giới, Pháp Thân vốn trọn đủ, lại dùng để trang nghiêm Pháp Thân. Đó gọi là “toàn tánh thành tu, toàn tu hiển tánh”.

          Bốn câu từ “thiên nhân” trở đi dễ hiểu. Lại nữa, “văn thành Bồ Đề” (nghe thành tựu Bồ Đề) nhắc lại ư nghĩa ngài Văn Thù ca ngợi long nữ “trong khoảng sát-na có thể đạt tới Bồ Đề” trong phần trên. “Duy Phật đương chứng tri” (chỉ có Phật sẽ chứng biết): Dẫn Phật để làm chứng, nhằm tháo gỡ mối nghi của ngài Trí Tích. “Ngă văn Đại Thừa giáo, độ thoát khổ chúng sanh” (con nghe giáo pháp Đại Thừa, độ cho chúng sanh đang khổ sở được giải thoát) nhằm tỏ lộ ư nghĩa: Không lâu sau, [long nữ] sẽ qua thế giới Vô Cấu ở phương Nam, thành Đẳng Chánh Giác, chuyển đại pháp luân!

           

12.2.2.6. Ngài Thân Tử do chấp vào Tam Tạng Quyền Giáo bèn cật vấn

         

          (Kinh) Thời Xá Lợi Phất ngữ long nữ ngôn: - Nhữ vị bất cửu đắc vô thượng đạo, thị sự nan tín. Sở dĩ giả hà? Nữ thân cấu uế, phi thị pháp khí, vân hà năng đắc Vô Thượng Bồ Đề? Phật đạo huyền khoáng, kinh vô lượng kiếp cần khổ tích hạnh, cụ tu chư độ, nhiên hậu năi thành. Hựu nữ nhân thân, do hữu ngũ chướng: Nhất giả, bất đắc tác Phạm thiên vương, nhị giả, Đế Thích, tam giả, ma vương, tứ giả, Chuyển Luân Thánh Vương, ngũ giả, Phật thân. Vân hà nữ thân tốc đắc thành Phật?

          ()時舍利弗語龍女言。汝謂不久得無上道。是事難信。所以者何。女身垢穢。非是法器。云何能得無上菩提。佛道懸曠。經無量劫勤苦積行。具修諸度。然後乃成。又女人身。猶有五障。一者不得作梵天王。二者帝釋。三者魔王。四者轉輪聖王。五者佛身。云何女身速得成佛。

          (Kinh: Khi đó, ngài Xá Lợi Phất nói với long nữ rằng: - Ngươi nói không lâu sẽ đắc vô thượng đạo, chuyện ấy khó tin. V́ lẽ nào vậy? Thân nữ cấu uế, chẳng phải là pháp khí, sao có thể đắc Vô Thượng Bồ Đề? Phật đạo lâu xa, phải trải qua vô lượng kiếp siêng khổ tích lũy công hạnh, tu trọn các Độ rồi mới thành tựu. Lại nữa, thân nữ nhân c̣n có năm chướng: Một, chẳng thể làm Phạm thiên vương, hai là [chẳng thể làm] Đế Thích, ba là [chẳng thể làm] ma vương, bốn là [chẳng thể làm] Chuyển Luân Thánh Vương, năm là [chẳng thể làm] thân Phật. Lẽ nào thân nữ nhanh chóng thành Phật cho được?)

 

          Trong kinh Tịnh Danh, Thân Tử từng vấn đáp với thiên nữ, đă biết rơ nam nữ chẳng có tướng nhất định, huống nay Ngài đă đắc ngộ ngay trong châu đầu tiên (Pháp Thuyết Châu), dự vào địa vị Sơ Trụ trong Viên Giáo, sở chứng tương đồng với long nữ, há thật sự có chuyện bắt bẻ này ư? Đấy cũng là v́ lợi ích chúng sanh mà nêu lời cật vấn ấy!

 

12.2.2.7. Long nữ dùng Nhất Thật để trừ nghi

 

          (Kinh) Nhĩ thời, long nữ hữu nhất bảo châu, giá trị tam thiên đại thiên thế giới, tŕ dĩ thượng Phật, Phật tức thọ chi. Long nữ vị Trí Tích Bồ Tát, tôn giả Xá Lợi Phất ngôn: “Ngă hiến bảo châu, Thế Tôn nạp thọ, thị sự tật phủ?” Đáp ngôn: “Thậm tật”. Nữ ngôn: - Dĩ nhữ thần lực quán ngă thành Phật, phục tốc ư thử!

          ()爾時龍女有一寶珠。價值三千大千世界。持以上佛。佛即受之。龍女謂智積菩薩。尊者舍利弗言。我獻寶珠。世尊納受。是事疾不。荅言。甚疾。女言。以汝神力觀我成佛。復速於此。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, long nữ có một viên bảo châu, giá trị bằng tam thiên đại thế giới, cầm dâng lên Phật. Đức Phật liền nhận lấy. Long nữ bảo Trí Tích Bồ Tát và tôn giả Xá Lợi Phất rằng: “Tôi dâng bảo châu, đức Thế Tôn tiếp nhận, chuyện ấy có nhanh chóng hay không?” Đáp rằng: “Rất nhanh”. Cô ta bảo: “Hăy dùng thần lực của các vị để quán tôi thành Phật c̣n nhanh hơn thế”).

 

          “Bảo châu” biểu thị tu tập viên nhân. “Dâng lên Phật”: Biểu thị do cái nhân quyết đạt được cái quả. “Phật tức thọ chi” (Phật liền nhận lấy): Biểu thị đạt được cái quả rất nhanh. Giải thích theo quán tâm th́ Thỉ Giác là bảo châu, Bổn Giác là Phật. Thỉ Giác xứng hợp Bổn Giác, tức là dùng châu dâng lên Phật, Phật liền nhận thấy.

 

          (Kinh) Đương thời chúng hội giai kiến long nữ hốt nhiên chi gian, biến thành nam tử, cụ Bồ Tát hạnh, tức văng Nam phương Vô Cấu thế giới, tọa bảo liên hoa, thành Đẳng Chánh Giác, tam thập nhị tướng, bát thập chủng hảo, phổ vị thập phương nhất thiết chúng sanh diễn thuyết diệu pháp.

          ()當時眾會。皆見龍女。忽然之間。變成男子。具菩薩行。即往南方無垢世界。坐寶蓮華。成等正覺。三十二相。八十種好。普為十方一切眾生演說妙法。

          (Kinh: Chúng hội khi ấy đều thấy long nữ bỗng dưng biến thành nam tử, trọn đủ hạnh Bồ Tát, liền qua thế giới Vô Cấu (Vimalā) ở phương Nam, ngồi trên hoa sen báu, thành Đẳng Chánh Giác, ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo, khắp v́ hết thảy chúng sanh trong mười phương thế giới diễn nói diệu pháp).

 

          Hỏi: Thai kinh (kinh Bồ Tát Xử Thai) nói: “Ma, Phạm, Thích, nữ, giai bất xả thân, bất thọ thân, tất ư hiện thân đắc thành Phật” (Ma, Phạm, Đế Thích, nữ nhân đều chẳng xả thân, chẳng thọ thân, đều từ ngay trong thân hiện tại mà được thành Phật). Nay [long nữ] biến thành nam tử rồi mới thành Phật, Quyền Thật như thế nào?

          Đáp: Thai Kinh nói đến chuyện thành Phật nơi thân hiện tại là nói theo khía cạnh tự hành phá Vô Minh Hoặc, đó là Thật. Kinh này nói “biến thành nam tử” tức là nói theo khía cạnh hóa độ người khác, thị hiện tám tướng thành đạo, tức là Quyền. Cần phải biết: Nương theo giáo pháp viên đốn để tu diệu hạnh, đích xác có thể ngay lập tức thành Phật. V́ thế nói: “Pháp tánh như đại hải, bất thuyết hữu thị phi, phàm phu, hiền thánh nhân. B́nh đẳng vô cao hạ, duy tại tâm cấu diệt, thủ chứng như phản chưởng” (pháp tánh như biển cả, chẳng nói có đúng sai. Phàm phu, bậc hiền thánh, b́nh đẳng, chẳng cao thấp. Cốt sao tâm cấu diệt, chứng đắc như lật tay). Do v́ hành theo Thật rất nhanh chóng, cho nên dùng Quyền hạnh để thị hiện chứng minh sự thành tựu, khiến cho kẻ khác tin sâu, chẳng nghi.

          Hỏi: Nữ biến thành nam liền ngồi nơi đạo tràng, đă chẳng có các tướng giáng thần [nhập thai mẹ], ở trong thai, xuất gia v.v… Sao gọi là tám tướng thành đạo?

          Đáp: Cơi tịnh hay uế khác biệt, tám tướng việc ǵ phải hoàn toàn giống hệt như nhau! Hơn nữa, Pháp Thân thị hiện chẳng thể nghĩ bàn. Trong cơi này, tự thấy biến nữ thành nam, cơi kia từ đầu đến cuối vẫn thấy tám tướng cũng chẳng hề không thể!

          Hỏi: Các vị như Xá Lợi Phất v.v… đă dự vào Sơ Trụ của Viên Giáo, cũng có thể [thị hiện] tám tướng thành Phật, v́ lẽ nào [đức Phật] thọ kư [các vị ấy] phải trong bao kiếp rộng lớn mai sau [mới được thành Phật]?

          Đáp: Tự hành theo Thật, ắt sở chứng xét theo Lư sẽ như nhau. Hóa độ người khác tuân theo Quyền, ắt v́ căn cơ của chúng sanh [mà thị hiện sự tướng] khác nhau! Huống hồ các vị đại đệ tử toàn là Pháp Thân ứng hiện, thị hiện dấu tích ở các chỗ đều khác nhau? Sao dám biết chắc Ngài chẳng thị hiện thành Phật ở cơi khác ư?

          Hỏi: Giả sử các vị như Xá Lợi Phất v.v… đều đă thành Phật ở thế giới khác, v́ sao lại thị hiện được thọ kư trong cơi này?

          Đáp: Thọ kư ở nơi đây ḥng khiến cho chúng sanh thấy nghe, sẽ kết duyên trong mai sau, khiến cho họ đắc độ trong vị lai. Như thế th́ theo chiều ngang trọn khắp mười phương, theo chiều dọc sẽ nhiều lượt chẳng ngớt rộng độ chúng sanh. Chúng sanh giới vẫn chẳng thể tận, há có thể dùng cái tâm t́nh kiến so đo để suy lường đại sự pháp giới ư?

         

12.2.2.8. Đại chúng thuở đó thấy nghe bèn đạt được lợi ích

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Sa Bà thế giới Bồ Tát, Thanh Văn, thiên long bát bộ, nhân dữ phi nhân, giai dao kiến bỉ long nữ thành Phật, phổ vị thời hội nhân thiên thuyết pháp, tâm đại hoan hỷ, tất dao kính lễ. (Bỉ độ) vô lượng chúng sanh văn pháp giải ngộ, đắc bất thoái chuyển. Vô lượng chúng sanh đắc thọ đạo kư. Vô Cấu thế giới lục phản chấn động. Sa Bà thế giới tam thiên chúng sanh trụ Bất Thoái địa, tam thiên chúng sanh phát Bồ Đề tâm nhi đắc thọ kư.

            ()爾時娑婆世界菩薩聲聞天龍八部。人與非人。皆遙見彼龍女成佛。普為時會人天說法。心大歡喜。悉遙敬禮。(彼土)無量眾生。聞法解悟。得不退轉。無量眾生。得受道記。無垢世界。六反震動。娑婆世界三千眾生。住不退地。三千眾生。發菩提心而得受記。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Bồ Tát, Thanh Văn, thiên long bát bộ, nhân và phi nhân trong thế giới Sa Bà đều từ xa thấy cô long nữ ấy thành Phật, khắp v́ trời người trong hội thuở ấy thuyết pháp, tâm đại hoan hỷ, đều vọng bái kính lễ. Vô lượng chúng sanh (trong cơi ấy) nghe pháp giải ngộ, đắc bất thoái chuyển. Vô lượng chúng sanh thọ đạo kư. Thế giới Vô Cấu chấn động sáu lượt. Ba ngàn chúng sanh trong thế giới Sa Bà trụ địa vị bất thoái, ba ngàn chúng sanh phát tâm Bồ Đề bèn được thọ kư).

          Trước hết nói “dao kiến, dao văn” (thấy từ xa, nghe từ xa); v́ thế “dao kính lễ” (hướng đến phương xa kính lễ). Kế đó, nói rơ cơi ấy được lợi ích, sau đó nói cơi này được lợi ích. V́ phương Nam duyên đă chín muồi, đáng nên dùng tám tướng thành Phật. Cơi này duyên mỏng, chỉ dùng [thân phận] long nữ để giáo hóa, đều là từ Thể khởi Dụng, do sức của Phổ Hiện Sắc Thân tam-muội mà đạt được, thân và hết thảy các thân đều có thể tùy nghi thị hiện.

 

12.2.2.9. Trí Tích và Thân Tử im lặng tin nhận

         

          (Kinh) Trí Tích Bồ Tát cập Xá Lợi Phất, nhất thiết hội chúng, mặc nhiên tín thọ.

          ()智積菩薩。及舍利弗。一切眾會。默然信受。  

          (Kinh: Trí Tích Bồ Tát và Xá Lợi Phất, hết thảy đại chúng trong hội đều im lặng tin nhận).

 

          Phẩm Đề Bà Đạt Đa đă xong.

         

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa

phần 10 hết

 

         

         

                   

         



[1] Phù Đồ vốn là cách phiên âm xưa của chữ Buddha trong thời kỳ đầu dịch kinh. Trong các bản dịch cổ, chữ Phật được phiên âm là Phật Đồ, Phù Đà, Phù Đồ, Bột Đồ v.v… từ đời Tùy - Đường trở đi, luôn phiên âm thống nhất là Phật Đà hay Phật. Tháp thờ Phật thoạt đầu thường được gọi là Phù Đồ Tháp rồi dần dần chữ Tháp bị rơi mất, dân gian vẫn quen gọi tháp thờ Phật là Phù Đồ.

[2] Theo nghĩa thông thường, Phấn Tấn là trạng thái tinh thần phấn chấn, mạnh mẽ, hành động nhanh chóng, mạnh mẽ, hùng tráng. Giải thích về Sư Tử Phấn Tấn tam-muội, ông Đinh Phước Bảo viết: “Khi sư tử phấn tấn, các căn đều căng ra, lông trên thân dựng lên, hiện tướng trạng oai vũ, phẫn nộ, gào rống. Phật nhập môn tam-muội này, chấn động thân đại bi pháp giới, mở toang đại bi môn căn, hiện oai thế tương ứng căn cơ, khiến cho hàng ngoại đạo, Tiểu Thừa đều khiếp phục. V́ thế gọi là Sư Tử Phấn Tấn tam-muội”.

[3] Bộ kinh này có tên gọi đầy đủ là Phật Thuyết Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp, là một trong ba bộ kinh trọng yếu để lập cước của tông Thiên Thai (kinh Vô Lượng Nghĩa, kinh Pháp Hoa, và kinh Phổ Hiền Hành Pháp). Kinh này do ngài Đàm Ma Mật Đa dịch sang tiếng Hán vào năm Nguyên Gia nguyên niên đời Lưu Tống (424). Kinh giới thiệu pháp quán Phổ Hiền Bồ Tát và cách tu tập Pháp Hoa tam-muội.

[4] Khám là danh từ để gọi chung các cấu trúc nhỏ để thờ Phật, thần thánh, hay tổ tiên, có thể hiểu đại lược như trang thờ của người Việt. “Khám thất” thường là các ô lơm khắc vào trong tường, vách của một kiến trúc (như tháp, chùa, miếu) để thờ Phật, Bồ Tát, thường được trang trí, điêu khắc như một cung điện nhỏ hay một điện đường nhỏ.

[5] Bát âm ở đây là tám loại âm thanh của đức Phật:

1) Cực hảo âm: Do Phật đức rộng lớn, âm thanh cực tốt đẹp, khiến người người được nghe đều nhập đường lành.

2) Nhu nhuyễn âm: Tiếng nói mềm mỏng, dịu dàng, khiến cho người nghe vui sướng, đều bỏ tâm ương ngạnh, tự nhiên tuân hành luật hạnh.

3) Ḥa thích âm: Phật ngự trong lư Trung Đạo, v́ thế âm thanh có thể khiến cho người nghe được điều phục, dịu dàng, tự hiểu lư.

4) Tôn huệ âm: Người nghe thấy Phật nói sẽ tôn trọng, trí thông hiểu, tỏ ngộ.

5) Bất nữ âm: Âm thanh chẳng ẻo lả, hùng tráng, khiến cho người nghe trấn định, sanh ḷng kính ngưỡng.

6) Bất ngộ âm: Phật trí viên minh, chiếu liễu chẳng sai lầm, khiến cho người nghe ai nấy đạt được chánh kiến.

7) Thâm viễn âm: Phật trí thấu đạt Chân Tế, hạnh vị cực cao, âm thanh thấu triệt mười phương, khiến cho kẻ ở gần chẳng nghe to, kẻ ở xa chẳng nghe nhỏ, nghe xong đều chứng nhập lư rất sâu.

8) Bất kiệt âm: Như Lai cực quả nguyện hạnh vô tận, trụ trong pháp tạng vô tận. V́ thế, âm thanh thao thao bất tận, âm vang chẳng cạn kiệt, khiến cho người nghe lănh hội ngay ư nghĩa, đạt được cái quả thường trụ, thấy rơ thứ tự trong pháp giới.

[6] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Thế giới do bảy báu hợp thành, thanh tịnh vô cấu, nên gọi là Bảo Tịnh”.

[7] Pháp sư Phổ Hành chú giải: “Phật Đa Bảo hiện tháp, không chỉ nhằm chứng minh kinh Pháp Hoa, mà c̣n v́ hiển thị Pháp Thân bất diệt. Do vậy, ngài Đại Nhạo Thuyết muốn thấy Phật Đa Bảo, cũng là v́ đă biết Pháp Thân bất diệt”.

[8] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Lưu ly làm đất, cây báu trang nghiêm nhằm phá t́nh kiến chấp trước mê tịnh của chúng sanh. Nói ‘lưu ly làm đất…’ là nói tướng cơi đất trang nghiêm. Nói ‘chẳng có làng xóm…’ là ẩn tàng tướng mạo của cơi Sa Bà. Nhưng Sa Bà tuy ẩn mà chẳng diệt, Tịnh Độ tuy hiển mà chẳng tăng. Chẳng tăng, chẳng giảm, nhiễm và tịnh thật sự là một tướng. Nói ‘đốt hương báu lớn…’ là nói đến quả đức trang nghiêm, hiển thị diệu hạnh nơi nhân địa. Thiêu đại bảo hương chính là nghe pháp trong khi tu nhân, treo các linh báu chính là thuyết pháp vô ngại. Chư Phật đến thế giới Sa Bà biểu thị hoàn Tích về Bổn. Nói ‘như thị triển chuyển’ hàm nghĩa thế giới có cùng tận, nhưng Chân Như vô tận”.

[9] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Mục Chân Lân Đà là tên của một long vương. Núi ấy là nơi long vương đó cư ngụ, cho nên núi được đặt tên theo long vương. Ṭa núi sắt vây quanh một tiểu thế giới được gọi là núi Thiết Vi. Núi sắt vây quanh một tam thiên đại thiên thế giới th́ được gọi là Đại Thiết Vi. Chính long vương Mục Chân Lân Đà (c̣n phiên âm là Mục Chi Lân Đà) đă dùng thân làm ṭa và dùng chín cái đầu để làm lọng che mưa cho Phật Thích Ca khi Ngài ngồi dưới cội Bồ Đề tư duy ḥng đắc đạo. Do chuyện này, các chùa theo truyền thống Nam Tông thường đắp tượng h́nh rắn hổ mang chín đầu chầu hai bên lối vào chánh điện, cũng như tượng Phật ngồi Thiền trên ḿnh rắn chín đầu.

[10] Kiều Thi Ca (Kauśika) là tên gọi khác của Đế Thích, c̣n được phiên âm là Kiều Chi Ca. Theo quyển bốn mươi sáu của Đại Trí Độ Luận: Xưa kia, Đế Thích làm Bà-la-môn trong xứ Ma Già Đà (Ma Kiệt Đà), có họ là Kiều Thi Ca, tên là Ma Già. Do nhân duyên ấy, khi thuyết pháp, đôi lúc đức Phật vẫn gọi Đế Thích là Kiều Thi Ca. Trong thuở ấy, Bà-la-môn Ma Già Kiều Thi Ca cùng với ba mươi hai người cùng tu trí huệ và phước đức, cho nên khi mạng chung, họ đều sanh vào tầng trời thứ hai. Ma Già làm thiên chúa (tức Đao Lợi thiên vương), ba mươi hai người kia làm phụ thần (quan lại phù tá). Do có ba mươi ba người cầm đầu, cho nên cơi trời ấy mới có danh xưng là Đao Lợi (Trāyastriṃśa, Tam Thập Tam Thiên). Đế Thích cùng với Phạm Vương là hai vị thần hộ pháp chủ yếu của Phật giáo, cho nên có nhiều nơi tạc tượng hai vị này chầu hầu bên Phật.

[11] Hiện thời, trong Phật môn, khi nói “vấn tấn”, thường được hiểu là “chắp tay cúi đầu xá trước khi đảnh lễ”, nhưng nghĩa gốc của Vấn Tấn là hỏi thăm để tỏ ḷng quan tâm. Nay gọi xá trước khi đảnh lễ là Vấn Tấn vẫn hàm nghĩa, khi đối trước Phật, Bồ Tát, tôn đức, xá trước khi lễ giống như một biểu hiện quan tâm thăm hỏi trước khi đảnh lễ. Sách Thích Thị Yếu Lăm chép: “Thiên Trúc có chín nghi thức tỏ ḷng cung kính”. Tây Vực Kư chép kỹ càng hơn: “Nghi thức tỏ ḷng tôn kính tại Thiên Trúc có chín cách: Một thốt lời thưa hỏi, hai cúi đầu tỏ ḷng tôn kính, ba là khẽ cúi đầu, ṿng tay giơ lên cao, bốn là chắp tay, năm là khụy gối, sáu là quỳ thẳng, bảy là áp khủy tay sát đất, tám là năm vóc đều chạm đất, chín là năm vóc ép sát đất”.

[12] Đây là cách hỏi thăm thông thường giữa Phật với Phật, Bồ Tát đối với Phật, đệ tử thưa hỏi Phật, Phật hỏi các vị tỳ-kheo, chư tăng hoặc Phật tử hỏi thăm nhau như thường thấy chép trong các kinh luật luận, chẳng hạn như kinh Ma Ha Bát Nhă, kinh Duy Ma Cật, kinh Pháp Hoa, Tứ Phần Luật, kinh Tạp A Hàm, Ngũ Phần Luật, Du Già Sư Địa Luận, Đại Trí Độ Luận, Ma Ha Tăng Kỳ Luật v.v... Đại Trí Độ Luận quyển mười giải thích v́ sao “vấn tấn” Phật, người khác cũng hỏi Ngài ít bệnh, ít năo như sau: “Phật tuy là Nhất Thiết Trí, nhưng tùy thuận pháp thế gian, người đời thăm hỏi Phật cũng hỏi han: Phật ở trong nhân gian, thọ pháp của nhân gian, nóng, lạnh, sanh tử giống như con người, cho nên cách thăm hỏi cũng giống như thế”. Luận c̣n giảng thêm: “Có hai cách vấn tấn, hỏi han về thân và hỏi han về tâm. Hỏi ít bệnh, ít năo, đi lại nhanh nhẹn, và khí lực, tức là hỏi han về thân. Nếu nói an lạc hay chăng, th́ là hỏi han về tâm. Các thứ bệnh trong ngoài, gọi là thân bệnh. Các thứ phiền năo như dâm dục, sân khuể, ghen ghét, keo tham, ưu sầu, sợ hăi v.v… là tâm bệnh. Đối với mỗi thứ bệnh đều hỏi han, cho nên nói ‘ít bệnh, ít năo, đi đứng nhanh nhẹn, khí lực an lạc hay chăng?” Theo Ma Ha Tăng Kỳ Luật, người được hỏi cũng trả lời: “Nhân giả ít bệnh, ít năo, đi đường có mệt mỏi, nhọc nhằn hay không?”

[13] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Điều này có hai ư nghĩa:

- Một, hiển thị chư Phật đạo đồng, chẳng hai mà hai, tuy hai mà chẳng hai.

- Hai, nhằm phá trừ chấp trước Phật Thích Ca có sanh diệt. V́ thế, dùng chuyện Đa Bảo Phật tuy diệt mà chẳng diệt, chẳng diệt mà thị hiện diệt độ, nhằm hiển thị Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng sanh mà sanh, sanh mà chẳng sanh”.

[14] Hữu Đảnh (Akaniṣṭha) c̣n gọi là A Ca Nị Trá thiên, dịch nghĩa là Sắc Cứu Cánh Thiên, tức là tầng trời cao nhất trong Sắc Giới. Đây là tầng trời cao nhất mà chúng sanh trong đó c̣n có h́nh sắc, cho nên c̣n gọi là Hữu Đảnh (tột cùng của cơi hữu h́nh).

[15] Kinh sách c̣n phiên âm tên vị này thành Đề Bà Đạt Đâu, Đế Bà Đạt Đa, Địa Bà Đạt Đa, Địa Bà Đạt Đâu, Điều Bà Đạt Đa v.v… Nếu dịch nghĩa th́ ngoài Thiên Nhiệt, c̣n được dịch thành Thiên Thọ (trời truyền trao) và Thiên Dữ (trời trao cho). Vị này là con của Hộc Phạn Vương (Dronodana, em của Tịnh Phạn Vương), là anh ruột của ngài A Nan. Do vậy, Ngài chính là em họ bên nội của đức Phật. Từ bé, khi cùng học tập nghệ thuật, vũ thuật, Đề Bà Đạt Đa đă luôn tranh chấp với thái tử Tất Đạt Đa. Sau khi Phật thành đạo, bèn theo đức Phật xuất gia, thiện tâm tu hành suốt mười hai năm, siêng gắng chẳng lười nhác. Sau đó, v́ không đắc thánh quả, bèn thoái chuyển, dần dần nẩy sanh ác niệm, muốn học thần thông để cầu lợi dưỡng. Do không được Phật chấp thuận, ông ta bèn lén gạt ngài Thập Lực Ca Diếp học được thần thông. Sau đó, thị hiện thần thông, lôi cuốn vua A Xà Thế tin tưởng cúng dường. Sau đó, thị hiện chia rẽ tăng đoàn, cũng như nhiều lần toan hăm hại hoặc sát hại Phật.

[16] Pháp sư Phổ Hành giảng: “A Tư dịch nghĩa là Vô Tỷ Đoan Chánh (đoan chánh không ai sánh bằng), do h́nh mạo và pháp của vị tiên nhân này đoan chánh không ai bằng, cho nên có tên như thế”.

[17] “Bảy chi” được nói ở đây chính là ba điều ác nơi thân (giết, trộm, dâm) và bốn điều ác nơi miệng (nói dối, nói đôi chiều, nói thêu dệt, nói lời thô ác).

[18] Ở đây, “tiêu” nên hiểu theo nghĩa có thể kham lănh thọ sự cúng dường của đại chúng, giống như câu kệ trong nghi thức Quán Đường “tán tâm tạp thoại, tín thí nan tiêu” (tâm tán loạn, chuyện gẫu, đồ cúng dường của tín thí sẽ khó tiêu).

[19] Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn là tác phẩm do ngài Trí Khải (Trí Giả đại sư) biên soạn, thường được gọi tắt là Pháp Giới Thứ Đệ, nói về các danh tướng và giáo nghĩa trong A Tỳ Đàm. Đồng thời, Tổ c̣n luận định mức độ cạn sâu của các giáo để hướng dẫn hành nhân tu tập Tam Quán theo thứ tự, bao gồm sáu mươi môn kể từ Danh Sắc cho tới Tứ Niệm Xứ.

[20] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Sa Kiệt La dịch nghĩa là Hàm Hải (biển nước mặn) ở ngoài phía rặng Kim Sơn thứ bảy [bao quanh núi Tu Di]. Rồng sống ở đó, nên gọi là long cung”.

[21] Trong kinh Hoa Nghiêm, vừa mở đầu, Văn Thù Bồ Tát đă hiện diện và Ngài giảng nói mấy phẩm liền về công hạnh của hàng Thập Tín Bồ Tát, chẳng hạn như phẩm Tịnh Hạnh. Nhưng đến phẩm Nhập Pháp Giới, Thiện Tài đồng tử lại cầu pháp với ngài Văn Thù tại rừng Thệ Đa (tức vườn Kỳ Đà), có sáu ngàn vị tỳ-kheo tùy tùng Bồ Tát. Đồng tử được Bồ Tát dạy đi tham học với năm mươi ba vị thiện tri thức, tức là Bồ Tát có đến dự và rời pháp hội.

[22] Cù Mục tiên nhân gọi đầy đủ là Tỳ Mục Cù Sa tiên nhân (Bhīşmottara-nirghoşa) là vị thiện tri thức thứ tám trong năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử. Theo lời dạy của ưu--di Hưu Xả (Ashā), Thiện Tài đồng tử đến nước Na Lại Tố, t́m được vị tiên nhân này trong một khu rừng lớn. Tiên nhân có hơn một vạn đồ chúng. Tiên nhân cho biết Ngài đă đắc Bồ Tát Vô Thắng Tràng Giải Thoát pháp môn. Tiên nhân dùng tay xoa đầu Thiện Tài, rồi cầm tay Thiện Tài. Thiện Tài liền nhập tam-muội, thấy đạo tràng của chư Phật trong mười phương thế giới, thấy các cơi ấy, thấy tướng hảo trang nghiêm của chư Phật, đồng thời nghe hết thảy chư Phật đồng thời thuyết pháp, nghe hiểu, tin nhận từng câu từng chữ chẳng sót v.v… Đồng thời, trải trần số kiếp, vào các cơi Phật, phụng sự chư Phật, hành Bồ Tát đạo, thâm nhập Tỳ Lô Giá Na Tạng tam-muội…