Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa
phần
10
Đất
Cổ Ngô, Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật
妙法蓮華經綸貫會義
古吳後學蕅益智旭述
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ
Trang
11. Phẩm thứ mười một:
Kiến Bảo Tháp (Kiến Bảo Tháp phẩm đệ
thập nhất, 見寶塔品第十一)
“Tháp” nói đủ
là Tháp Bà (塔婆, Stūpa),
hoặc là Thâu Bà (偷婆), tân dịch
là Tốt Đổ Ba (窣堵波), phương
này dịch là Phương Phần (方墳, mộ
vuông), c̣n dịch là Linh Miếu (靈廟, miếu
thiêng), cũng dịch là Cao Hiển (高顯, cao rạng),
cũng dịch là Phù Đồ (浮圖)[1].
Có chứa xá-lợi th́ gọi là Tháp, không có xá-lợi th́ gọi
là Chi Đề (支提, Caitya). Xá-lợi (Śarīra) lại
c̣n luận định là toàn thân hay nát vụn. Như Phật
Thích Ca nát thân thành tám hộc xá-lợi. Về sau, vua A Dục
(Aśoka) tạo tám vạn bốn
ngàn tháp báu để cúng dường trọn khắp các danh
sơn trong thiên hạ. Cho đến nay, xá-lợi toàn thân của
Phật Đa Bảo chẳng tiêu tan; v́ thế,
chỉ có một tháp.
Lại nữa, theo Luật Tạng, có bốn
chỗ để dựng tháp: Chỗ Phật đản
sanh, chỗ Phật đắc đạo, chỗ Phật
chuyển pháp luân, và chỗ Phật nhập
Niết Bàn. Nay tam thân của chư Phật đều sanh
từ Thật Tướng Pháp Hoa, chư Phật ngồi
đạo tràng ở đó, chư
Phật chuyển pháp luân tại đó, chư Phật bát Niết
Bàn tại đó. Chỉ riêng kinh Pháp Hoa này chính là bốn ṭa tháp của tam thế
Phật. Phật quá khứ đă ngự tại đó, Phật
hiện tại đều cùng ngự tại
đó, Phật vị lai cũng thế. Tháp này xuất hiện
nhằm nêu tỏ chuyện ấy, tứ chúng đều
trông thấy; v́ thế
gọi là phẩm Kiến Bảo Tháp (thấy tháp báu; đó
là giải thích theo Thế Giới Tất Đàn).
Kinh Anh Lạc nói: “Cúng
dường nhất Phật xá-lợi, khởi tháp măn tứ
thiên hạ, bất như cúng dường Như Lai sanh
thân. Do sắc thân hữu xá-lợi cố. Hựu khởi
tháp măn đại thiên cúng dường sắc thân, bất
như cúng dường Pháp Thân, do Pháp Thân hữu sắc thân
cố” (Cúng dường xá-lợi của một vị
Phật, dựng tháp trọn khắp tứ thiên hạ, chẳng
bằng cúng dường sanh thân (sắc thân tại thế)
của Như Lai, do sắc thân có xá-lợi. Lại dựng
tháp trọn khắp đại thiên thế giới để
cúng dường sắc thân, chẳng bằng cúng dường
Pháp Thân, do Pháp Thân có sắc thân). Hăy nên biết: Thấy sắc
chẳng sánh bằng nghe kinh, do từ nghe kinh mà có Pháp Thân.
Kinh có Thiên
hay Viên,
tức là Pháp Thân toàn vẹn hay nát vụn, công đức
khác nhau. Nay kinh này thuần diễn
nói Viên lư, tức là Pháp Thân toàn vẹn. V́ thế, tŕ kinh có
công đức sâu xa, có sức hoằng truyền, tuyên
dương to lớn. Tháp của Phật Đa Bảo từ
dưới đất vọt lên để chứng minh
chuyện này. Tứ chúng đều trông thấy; do đó
nói là phẩm Kiến Bảo Tháp (Đó là Vị Nhân Tất
Đàn).
Tam châu thuyết pháp đă
xong, [tháp báu] từ dưới đất vọt lên, phát ra
âm thanh to lớn, lại c̣n tán thán “lành thay”. Xét theo sự
thành tựu nơi Thật để nói th́ là “chứng tiền”
(chứng thực những điều đă nói trước
đó). V́ để mở tháp, cần phải nhóm họp
phân thân. Đă mở tháp rồi, [Phật Thích Ca] vào tháp cùng
ngồi, dùng tiếng to lớn bảo trọn khắp, triệu
vời các đệ tử nơi Bổn. Do [đại
chúng] đều nghi [các vị Bồ Tát] từ dưới
đất vọt lên, [đức Phật] mới nói rơ thọ
lượng, lần lượt nêu ra nguyên do, tức là “thỉnh
hậu”. Chính v́ “chứng tiền” mà “thỉnh hậu”.
Từ dưới đất vọt lên, tứ chúng đều
trông thấy. V́ thế nói là phẩm Kiến Bảo Tháp
(đó là Đối Trị Tất Đàn).
Phật Đa Bảo thị
hiện diệt độ, toàn thân xá-lợi nghiễm nhiêm
chẳng tan. Lại nghe Ngài (Phật Đa Bảo) nói, tức
là “diệt mà chẳng diệt”, có thể biểu thị
Pháp Thân. Đức Thích Ca vào tháp, hai thân (thân của Phật
Đa Bảo và thân Phật Thích Ca) tương xứng.
Như và Trí tương xứng với cảnh, có thể
biểu thị Báo Thân. Phân thân [của Phật Thích Ca] vân tập
(nhóm lại cuồn cuộn như mây đùn), có thể biểu
thị Ứng Thân. Tam thân của tam thế Phật chẳng
phải là một hay khác, khiến cho tứ chúng trông thấy.
V́ thế nói là phẩm Kiến Bảo Tháp (đó là Đệ
Nhất Nghĩa Tất Đàn).
Tháp xuất hiện có hai ư:
- Một, phát ra âm thanh để
“chứng tiền”. Tam châu thuyết pháp, công đức
do lưu thông đều là chân thật, chẳng giống các
lời đàm luận nói kèm thêm hoặc đối ứng.
Đó chính là xét theo giáo nghĩa.
- Hai, v́ mở tháp mà phát khởi
cho phần sau. Tiếng nói thấu triệt phương
dưới, triệu vời các đệ tử nơi Bổn,
nói rơ sự trường thọ, nhanh chóng phá tan mối nghi
[Phật Thích Ca mới chỉ] thành Phật trong thời
gian gần đây nơi Tịch Diệt Đạo Tràng.
Đấy chính là ư nghĩa xét theo Bổn Tích.
Lại nữa, tháp từ thuở
xa xôi từ dưới đất vọt ra, tỏ lộ
sức thần thông tự tại, hiển lộ đời
quá khứ đă từng lợi ích chúng sanh. Phát ra âm thanh to
lớn, hiển lộ sức Sư Tử Phấn Tấn[2],
hiển hiện chuyện “khai Quyền, hiển Thật”
trong hiện tại nơi mười
phương. Ngài (Phật Đa Bảo) có đại thệ
nguyện “nếu vị lai chư Phật nói kinh này, tháp
báu của ta sẽ đều tới đó để chứng
minh”, tỏ lộ sức oai mănh thế lực to lớn,
hiển lộ vị lai thường trụ bất diệt.
Giải thích theo quán tâm,
nương theo kinh để tu Quán, tương ứng với
Pháp Thân, ắt thấu hiểu cảnh và trí. Như tháp hiện
đến chứng minh kinh, cảnh và trí đă hiểu, sẽ
là đại báo viên măn. Như Phật Thích Ca và Phật
Đa Bảo ngồi chung một ṭa, do v́ đại
báo viên măn, sẽ
tùy cơ xuất hiện, ứng hóa. Như phân thân đều
tụ tập, do Đa Bảo Phật xuất hiện, Phật
ba đời đều hiển lộ. Do tŕ kinh liền trọn
đủ ba thân. Kinh Phổ Hiền Quán[3]
chép: “Phật tam chủng thân tùng Phương Đẳng
sanh” (ba loại thân của Phật sanh từ
Phương Đẳng) chính là nghĩa này.
11.1. Trường Hàng
11.1.1. [Tháp báu của] Phật Đa Bảo
vọt lên, hiện ra
11.1.1.1. Tháp hiện tướng
(Kinh)
Nhĩ thời, Phật tiền hữu thất bảo tháp,
cao ngũ bách do-tuần, tung quảng nhị bách ngũ thập
do-tuần, tùng địa dũng xuất, trụ tại
không trung. Chủng chủng bảo vật nhi trang hiệu
chi, ngũ thiên lan thuẫn, khám thất thiên vạn, vô số
tràng phan dĩ vi nghiêm sức, thùy bảo anh lạc. Bảo
linh vạn ức nhi huyền kỳ thượng. Tứ diện
giai xuất Đa Ma La Bạt Chiên Đàn chi hương,
sung biến thế giới. Kỳ chư phan, cái, dĩ kim,
ngân, lưu ly, xa cừ, mă năo, chân châu, mai khôi, thất bảo hợp thành, cao chí Tứ Thiên Vương cung.
(經)爾時佛前有七寶塔。高五百由旬。縱廣二百五十由旬。從地涌出。住在空中。種種寶物而莊校之。五千欄楯。龕室千萬。無數幢幡以為嚴飾。垂寶瓔珞。寶鈴萬億而懸其上。四面皆出多摩羅跋栴檀之香。充徧世界。其諸幡葢。以金銀琉璃硨磲碼瑙真珠玫瑰七寶合成。高至四天王宮。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
trước đức Phật có tháp bảy báu cao năm
trăm do-tuần (yojanas), ngang dọc mỗi bề hai
trăm năm mươi do-tuần, từ dưới
đất vọt ra, trụ trong không trung. Các thứ vật
báu để trang điểm. Năm ngàn lan can, ngàn vạn
khám thất[4].
Vô số tràng phan dùng để trang hoàng. Treo rủ các chuỗi
ngọc báu, vạn ức linh báu treo trên đó. Bốn mặt
đều tỏa ra mùi hương Đa Ma La Bạt Chiên
Đàn, đầy khắp thế giới. Các phan, lọng
do vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mă năo, chân châu, mai khôi,
bảy báu hợp thành, cao đến cung điện của
tứ thiên vương).
Bảy báu biểu
thị Thất Giác, Thất Thánh Pháp Tài trong Tánh Đức.
“Tháp” biểu thị cảnh Thật Tướng, là
chỗ Pháp Thân nương vào (bốn giáo, mỗi giáo đều
luận định Thất Giác, Thất Tài, nay chỉ luận
theo Viên Giáo. Nơi địa vị tu nhân cũng có Thất
Giác, Thất Tài, nay chỉ xét theo cực quả. Thất
Giác, Thất Tài đều do tu được; nay nói rơ “toàn
tánh khởi tu, toàn tu hiển tánh”. V́ thế là vô tác Tánh
Đức).
“Cao ngũ bách do-tuần”
(cao năm trăm do-tuần) là cao hai vạn dặm, theo chiều
dọc biểu thị vạn hạnh nơi cái nhân, là vạn
đức nơi cái quả. “Tung quảng nhị bách
ngũ thập do-tuần” (ngang dọc mỗi bề là
hai trăm năm mươi do-tuần): Tức là một vạn dặm, theo chiều ngang,
biểu thị vạn thiện trang nghiêm. “Đất”
biểu thị vô minh tâm địa, “không” (không gian) biểu
thị Đệ Nhất Nghĩa Không. Dùng “không có ǵ để
phá” mà phá đất vô minh. Dùng vô sở trụ (chẳng trụ
vào đâu) để trụ trong Đệ Nhất Nghĩa
Không. V́ thế nói “tùng địa dũng xuất” (từ
trong đất vọt ra).
“Trụ tại không trung”
(trụ trong hư không) cũng nhằm “chứng tiền,
khởi hậu”. Người thuộc
bảy phương tiện chưa khai Tạng lư, bị vô
minh ẩn lấp, như tháp ở trong đất. Nay nghe “khai
tam, hiển nhất” trong tam châu khai tri kiến của Phật,
hiển lộ Pháp Thân như tháp vọt lên hư không. Đấy
chính là “chứng tiền”. Tu đắc Pháp Thân, đă
rành rẽ từ lâu. Như tháp ở trên hư không, không ai
có thể mở được, biểu thị nơi bổn
địa đă thành tựu từ lâu, nhưng mọi
người chẳng biết. Nếu nêu bày Tích, hiển lộ
Bổn, sẽ liễu đạt
chẳng nghi. Đấy chính là “khởi hậu”
(phát khởi cho phần sau, tức là mở đầu phần
Bổn Môn). Như tháp từ đất hiện ra, biểu
thị Pháp Thân hiển hiện, vừa giống vừa khác với
các kinh. Bồ Tát hiển lộ Pháp Thân th́ đồng; Nhị
Thừa hiển lộ Pháp Thân th́ dị (khác). Như tháp ở
trên hư không, mở cửa tháp bèn thấy Phật, biểu
thị “tỏ
bày Tích, hiển lộ Bổn”, vĩnh viễn
khác với các kinh! Như tháp đến “chứng tiền”,
sự đă rành rành, cho nên chẳng cần phải nghi nữa!
Tháp đến “khởi hậu”, ngầm có ư ấy,
nhưng mọi người
chẳng biết!
“Chủng chủng bảo
vật” (các thứ vật báu) biểu thị sử dụng rất nhiều thứ
Định
và Huệ để trang nghiêm. “Lan thuẫn” (lan can) biểu
thị Tổng Tŕ. “Khám thất” biểu thị vô
lượng từ bi thất, và cũng biểu thị vô lượng Không xá (nhà Không). “Tràng phan” biểu
thị tướng thần thông thù thắng. “Thùy chư
anh lạc” (treo rủ các chuỗi ngọc) biểu thị
công đức thuộc Giới, Định, Huệ,
đà-la-ni nơi bốn mươi địa vị. Trên
là trang nghiêm Pháp Thân, dưới là tiếp độ chúng
sanh. “Bảo linh” (linh báu) biểu thị bát âm[5],
tứ biện tài. “Tứ diện xuất hương”
(bốn phía tỏa mùi thơm) biểu thị gió đạo
Vô Tác Tứ Đế thổi qua, tỏa ngát hương Tứ Đức. “Thất
bảo phan cái cao chí Tứ Thiên
Vương
cung”
(phan, lọng bảy báu cao tới cung điện của bốn
thiên vương), biểu thị thần thông từ lực,
đều do Thất Giác và Thất Tài trong Tánh Đức tạo
thành, đều thấu tột cùng tận lư Vô Tác Tứ
Đế.
11.1.1.2. Chư thiên cúng dường
(Kinh)
Tam thập tam thiên vũ thiên Mạn-đà-la hoa cúng dường
bảo tháp. Dư chư thiên, long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu
La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng
thiên vạn ức chúng, dĩ nhất thiết hoa,
hương, anh lạc, phan, cái, kỹ nhạc, cúng dường bảo tháp, cung kính
tôn trọng, tán thán.
(經)三十三天。雨天曼陀羅華供養寶塔。餘諸天龍夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽人非人等千萬億眾。以一切華香瓔珞幡葢技樂供養寶塔。恭敬尊重讚歎。
(Kinh: Trời
Tam Thập Tam (trời Đao Lợi) mưa hoa Mạn-đà-la
(Māndārava) cúng dường tháp báu. Các vị trời
khác, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na
La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… ngàn vạn ức người,
dùng hết thảy các thứ hoa, hương, chuỗi ngọc,
phan, lọng, kỹ nhạc để cúng dường tháp
báu, cung kính, tôn trọng, tán thán).
Giải thích theo
phương diện sự tướng th́ dễ hiểu.
Lại xét theo Lư, Tam Thập Tam Thiên biểu thị ba
mươi địa vị thuộc Trụ, Hạnh, Hồi
Hướng. Thập Địa là một, Đẳng Giác
là một nữa, Diệu Giác là một nữa, gộp chung
thành ba mươi ba, cùng nương vào cảnh Thật
Tướng Đệ Nhất Nghĩa. “Vũ thiên Mạn-đà-la
hoa” (Tuôn mưa hoa Mạn-đà-la cơi trời): Sơ tâm
cũng trọn đủ công đức thuộc bốn
mươi hai địa vị, hậu tâm cũng thế,
đều dùng tất cả nhân hoa thuộc bốn
mươi địa vị quy hướng Pháp Thân. Từ
“dư chư thiên long” (các trời, rồng khác) trở đi là biểu
thị nội phàm, ngoại phàm v.v… cũng nương vào
Thật Tướng, hướng theo quả để tu
hành cái nhân.
11.1.1.3. Phật Đa Bảo xưng
dương, tán thán
(Kinh)
Nhĩ thời, bảo tháp trung xuất đại âm thanh, thán ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Thích Ca Mâu
Ni Thế Tôn năng dĩ b́nh đẳng đại huệ
giáo Bồ Tát pháp Phật sở hộ niệm Diệu Pháp
Hoa kinh, vị đại chúng thuyết. Như thị, như
thị, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, như sở thuyết giả,
giai thị chân thật”.
(經)爾時寶塔中出大音聲。歎言善哉善哉。釋迦牟尼世尊。能以平等大慧教菩薩法佛所護念妙法華經為大眾說。如是如是。釋迦牟尼世尊。如所說者。皆是真實。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, trong tháp báu phát ra âm thanh lớn, khen rằng:
- Lành thay! Lành thay! Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn có thể đem
kinh Diệu Pháp Liên Hoa là pháp đại huệ b́nh đẳng
để dạy các Bồ Tát, được chư Phật
hộ niệm mà v́ đại chúng nói. Đúng như thế, đúng
như thế, như những lời Thích Ca Mâu Ni Thế
Tôn đă nói đều là chân thật).
“Thiện tai, thiện
tai”
(lành thay! Lành thay): Tán thán khế lư, khế cơ. “B́nh
đẳng” có hai nghĩa:
- Một, pháp b́nh đẳng,
tức lư Trung Đạo.
- Hai, chúng sanh b́nh đẳng:
Hết thảy chúng sanh đều cùng đạt được
Phật huệ.
“Đại” giống như ư nghĩa “cao quảng” trong phần
trước. “Như thị, như thị”: Một,
đúng như pháp tánh thật lư. Hai, đúng như căn
tánh của chúng sanh. V́ thế, đều là chân thật.
Đấy chính là chứng minh “khai Quyền, hiển Thật”
trong phần trước là chân thật, chẳng dối!
11.1.1.4. Đại chúng trong thuở ấy
kinh nghi
(Kinh)
Nhĩ thời, tứ chúng kiến đại bảo tháp trụ
tại không trung. Hựu văn tháp trung sở xuất âm
thanh, giai đắc pháp hỷ, quái vị tằng hữu,
tùng ṭa nhi khởi, cung kính, hiệp chưởng, khước
trụ nhất diện.
(經)爾時四眾。見大寶塔住在空中。又聞塔中所出音聲。皆得法喜。怪未曾有。從座而起。恭敬合掌。卻住一面。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, tứ chúng thấy tháp báu lớn trụ
trong hư không. Lại nghe trong tháp phát ra âm thanh, đều
được pháp hỷ, cảm thấy lạ lùng chưa
từng có, từ chỗ ngồi đứng lên, cung kính chắp
tay rồi đứng qua một phía).
“Giai đắc pháp hỷ”
(đều được pháp hỷ): Tỏ rơ họ
đă lănh ngộ “chứng tiền”. “Quái vị tằng
hữu, khởi trụ nhất diện” (lạ lùng chưa
từng có, đứng dậy, đứng qua một phía)
ngầm giúp cho “khởi hậu”.
11.1.1.5. Ngài Đại Nhạo Thuyết
thưa hỏi
(Kinh)
Nhĩ thời, hữu Bồ Tát Ma Ha Tát, danh Đại Nhạo
Thuyết, tri nhất thiết thế gian thiên, nhân, A Tu La
đẳng tâm chi sở nghi, nhi bạch Phật ngôn: - Thế
Tôn! Dĩ hà nhân duyên hữu thử bảo tháp tùng địa
dũng xuất. Hựu ư kỳ trung phát thị âm thanh?
(經)爾時有菩薩摩訶薩。名大樂說。知一切世間天人阿修羅等心之所疑而白佛言。世尊。以何因緣。有此寶塔從地涌出。又於其中發是音聲。
(Kinh: Lúc
đó, có Bồ Tát Ma Ha Tát tên là Đại Nhạo Thuyết
(Mahā- pratibhāna) biết điều nghi trong tâm của
hết thảy trời, người, A Tu La v.v… trong thế
gian, bèn bạch với đức Phật rằng: - Bạch
Thế Tôn! Do nhân duyên ǵ mà có tháp báu này từ dưới
đất vọt lên, lại từ trong đó phát ra âm thanh
ấy?)
Dựa theo ư trong lời
đáp thuộc phần sau th́ lời hỏi cũng có ba ư:
- Một, hỏi do đâu mà
có tháp ấy?
- Hai, hỏi do nguyên cớ
nào mà tháp ấy từ đất vọt ra?
- Ba, do nguyên nhân nào phát ra âm
thanh ấy?
11.1.1.6. Như Lai giải đáp
11.1.1.6.1. Giải đáp v́ sao [tháp báu] vọt
ra
(Kinh) Nhĩ
thời, Phật cáo Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát:
- Thử bảo tháp trung, hữu Như Lai toàn thân. Năi văng quá
khứ, Đông phương vô lượng thiên vạn ức
A-tăng-kỳ thế giới, quốc danh Bảo Tịnh.
Bỉ trung hữu Phật, hiệu viết Đa Bảo. Kỳ
Phật hành Bồ Tát đạo thời, tác đại thệ
nguyện: “Nhược ngă thành Phật, diệt độ
chi hậu, ư thập phương quốc độ, hữu
thuyết Pháp Hoa kinh xứ, ngă chi tháp miếu vị thính thị
kinh cố, dũng hiện kỳ tiền, vị tác chứng
minh, tán ngôn thiện tai”.
(經)爾時佛告大樂說菩薩。此寶塔中。有如來全身。乃往過去。東方無量千萬億阿僧祇世界。國名寶淨。彼中有佛。號曰多寶。其佛行菩薩道時。作大誓願。若我成佛。滅度之後。於十方國土。有說法華經處。我之塔廟為聽是經故。涌現其前。為作證明。讚言善哉。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo
Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát: - Trong tháp báu này, có toàn thân của Như
Lai. Trong đời quá khứ, qua khỏi vô lượng ngàn
vạn ức A-tăng-kỳ thế giới ở phương Đông, có cơi nước
tên là Bảo Tịnh (Ratnaviśuddha)[6]. Trong ấy có Phật,
hiệu là Đa Bảo (Prabhūtaratna). Vị Phật ấy
khi hành Bồ Tát đạo, đă phát ra thệ nguyện to
lớn: “Nếu ta thành Phật, sau khi diệt độ, sẽ
ở trong mười phương quốc độ, chỗ
nào có nói kinh Pháp Hoa, tháp miếu của ta sẽ v́ nghe kinh ấy mà vọt
lên, hiện ra trước đó để chứng minh, khen
ngợi “lành thay!”)
Đây là nói rơ tháp báu v́ chứng
minh kinh Pháp Hoa cho nên từ đất vọt ra.
Hỏi: Trước đó
đă nói “từ đất vọt lên”, nay nói là
phương Đông là v́ lẽ nào? Đáp:
Nói “phương Đông” là nói đến bổn duyên, “vọt
hiện ra” là trần thuật nguyện xưa, chẳng hề
mâu thuẫn. Nếu xét theo sự biểu pháp,
phương Đông đứng đầu các phương.
V́ thế, biểu thị sự mở đầu. “Từ
đất vọt lên” nhằm biểu thị sự
hiển lộ.
11.1.1.6.2. Giải đáp do nhân duyên nào
mà có tháp
Do đức Phật
ấy căn dặn, dạy [đại chúng] tạo tháp ấy.
(Kinh)
Bỉ Phật thành đạo dĩ, lâm diệt độ
thời, ư thiên nhân đại chúng trung, cáo chư tỳ-kheo:
- Ngă diệt độ hậu, dục cúng dường ngă
toàn thân giả, ưng khởi nhất đại tháp.
(經)彼佛成道已。臨滅度時。於天人大眾中。告諸比丘。我滅度後。欲供養我全身者。應起一大塔。
(Kinh: Đức
Phật ấy đă thành đạo, khi sắp diệt
độ, đă ở giữa đại chúng trời,
người, bảo các tỳ-kheo: - Sau khi ta diệt độ,
muốn cúng dường toàn thân của ta, hăy nên dựng một
tháp lớn).
11.1.1.6.3. Giải đáp v́ sao phát ra âm
thanh ấy: Do có thần thông và bổn nguyện
(Kinh)
Kỳ Phật dĩ thần thông nguyện lực, thập
phương thế giới tại tại xứ xứ,
nhược hữu thuyết Pháp Hoa kinh giả, bỉ chi bảo
tháp giai dũng xuất kỳ tiền, toàn thân tại ư
tháp trung, tán ngôn: “Thiện tai, thiện tai!” Đại Nhạo
Thuyết! Kim Đa Bảo Như Lai tháp văn thuyết
Pháp Hoa kinh cố, tùng địa dũng xuất, tán ngôn “thiện
tai, thiện tai”.
(經)其佛以神通願力。十方世界在在處處。若有說法華經者。彼之寶塔皆涌出其前。全身在於塔中。讚言善哉善哉。大樂說。今多寶如來塔。聞說法華經故。從地涌出。讚言善哉善哉。
(Kinh: Vị
Phật ấy do thần thông nguyện lực, nơi
nơi chốn chốn trong mười phương thế
giới, nếu [chỗ nào] có nói kinh Pháp Hoa,
tháp báu ấy sẽ vọt lên, hiện ra trước đó, toàn thân [của Đa Bảo Như
Lai] ở trong tháp, khen ngợi: “Lành thay, lành thay!” Này Đại
Nhạo Thuyết! Nay tháp của Đa Bảo Như Lai do
nghe nói kinh Pháp Hoa bèn từ đất vọt lên, khen rằng
“lành thay, lành thay”).
Thích Luận nói “Phật
Đa Bảo do chẳng thể thuyết pháp mà diệt
độ”. Nam Nhạc đại sư (Huệ Tư
đại sư) nói: “Vị Phật ấy bảo các tỳ-kheo,
tỳ-kheo chính là người được giáo hóa, sao lại
nói Ngài hoàn toàn chẳng thuyết pháp? Hăy nên hiểu là Ngài chỉ
có thể nói tam thừa, chẳng thể hiển thị Nhất
Thừa. V́ thế [Thích Luận nói Ngài] chẳng thể thuyết
pháp”. Do bởi nghĩa ấy, tuy đă diệt độ,
nhưng nơi nơi chốn chốn, hễ chỗ nào nói
kinh Pháp Hoa, Ngài đều tùy hỷ, chứng minh.
Hỏi: Mười
phương thế giới, há chẳng có vị Phật
nào khác chẳng thể khai tam hiển nhất ư? Nếu
chẳng thể khai hiển, th́ đều phải nên phát
nguyện, sao lại riêng ḿnh Phật Đa Bảo? Nếu
chẳng phát nguyện, Phật đạo bất đồng!
Nếu đă phát nguyện, đều phải nên đến
nghe kinh. Hơn nữa, chư Phật giáo hóa đều phải
soi xét căn cơ từ trước, há đợi tới
khi thành Phật rồi mới biết là chẳng thể
khai tam hiển nhất ư?
Đáp: Đồng và bất
đồng, khai và chẳng khai, có nguyện hay chẳng có
nguyện, đều là tùy duyên. Nếu phải nên có nguyện,
sẽ đều hiện đến [chứng minh] trọn
hết, cần ǵ phải lo các Ngài chẳng nhóm họp? Sau
đó mới phát nguyện cũng là do soi xét căn cơ!
Phần thứ nhất, “nói
về chuyện [tháp báu của] Phật Đa Bảo vọt
hiện ra” đă xong.
11.1.2. Phân thân [của Phật Thích Ca] từ
xa nhóm họp
11.1.2.1. Ngài Đại Nhạo Thuyết
thỉnh cầu được thấy Phật
Đa Bảo
(Kinh) Thị thời,
Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát dĩ Như Lai thần
lực cố, bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă đẳng
nguyện dục kiến thử Phật thân.
(經)是時大樂說菩薩。以如來神力故。白佛言。世尊。我等願欲見此佛身。
(Kinh: Khi đó, Đại
Nhạo Thuyết Bồ Tát do thần lực của Như
Lai, bạch cùng đức Phật: - Bạch Thế Tôn!
Chúng con mong được thấy thân của đức Phật
ấy).
Muốn mở tháp, cần phải
nhóm họp [các phân thân của đức] Phật. Nhóm họp
chư Phật, sẽ phó chúc. Phó chúc bèn triệu vời [các
vị Bồ Tát ở] phương dưới. Từ
phương dưới hiện ra, tức là phải nên “khai
cận, hiển viễn” (chỉ bày thọ mạng
ngắn ngủi trong hiện thời là thị hiện, chứ
thọ mạng của Như Lai thật sự rất lâu
xa).
Đấy chính là nguyên do của sự vân tập to lớn.
V́ thế, Như Lai dùng thần lực khiến cho [ngài
Đại Nhạo Thuyết] thưa hỏi[7].
11.1.2.2. Nói rơ phải nên nhóm họp các
phân thân
(Kinh)
Phật cáo Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát Ma Ha Tát: -
Thị Đa Bảo Phật hữu thâm trọng nguyện:
“Nhược ngă bảo tháp, vị thính Pháp Hoa kinh cố, xuất
ư chư Phật tiền thời, kỳ hữu dục
dĩ ngă thân thị tứ chúng giả, bỉ Phật phân
thân chư Phật tại ư thập phương thế
giới thuyết pháp, tận hoàn tập nhất xứ,
nhiên hậu ngă thân năi xuất hiện nhĩ”. Đại Nhạo
Thuyết! Ngă phân thân chư Phật tại ư thập
phương thế giới thuyết pháp giả, kim ưng
đương tập.
(經)佛告大樂說菩薩摩訶薩。是多寶佛。有深重願。若我寶塔。為聽法華經故。出於諸佛前時。其有欲以我身示四眾者。彼佛分身諸佛在於十方世界說法。盡還集一處。然後我身乃出現耳。大樂說。我分身諸佛在於十方世界說法者。今應當集。
(Kinh: Đức
Phật bảo Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát Ma Ha
Tát: - Vị Đa Bảo Phật này có nguyện sâu nặng:
“Nếu tháp báu của ta v́ nghe kinh Pháp Hoa mà xuất hiện
trước chư Phật, nếu vị nào muốn chỉ
bày thân ta cho tứ chúng th́ phân thân chư Phật của vị
Phật ấy đang thuyết pháp trong mười
phương thế giới đều phải nhóm họp
trọn hết về một chỗ,
sau đó, thân ta mới xuất
hiện”. Này Đại Nhạo Thuyết! Phân thân chư Phật
của ta đang thuyết pháp trong mười phương
thế giới nay phải nên nhóm họp).
Cần phải nhóm họp
các phân thân th́ mới có thể mở tháp, đấy chính là
ngầm nêu bày công đức nơi Bổn địa. Rễ
sâu, ắt
cành sum suê. Nguồn xa,
ắt gịng chảy sẽ dài. Phân thân đă theo
chiều ngang trọn khắp mười phương, Bổn
địa há chẳng theo chiều dọc vượt khỏi
kiếp số nhiều như vi trần!
11.1.2.3. Ngài Đại Nhạo Thuyết
thỉnh cầu phân thân [của đức Phật] nhóm họp
(Kinh)
Đại Nhạo Thuyết bạch Phật ngôn: - Thế
Tôn! Ngă đẳng diệc nguyện dục kiến Thế
Tôn phân thân chư Phật, lễ bái, cúng dường.
(經)大樂說白佛言。世尊。我等亦願欲見世尊分身諸佛禮拜供養。
(Kinh: Ngài
Đại Nhạo Thuyết bạch cùng đức Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng muốn thấy phân thân
chư Phật của đức Thế Tôn để lễ
bái, cúng dường).
11.1.2.4. Phóng quang chiếu thấu
phương xa để triệu tập
(Kinh)
Nhĩ thời, Phật phóng bạch hào nhất
quang, tức kiến Đông phương ngũ bách vạn ức
na-do-tha hằng hà sa đẳng quốc độ chư Phật.
Bỉ chư quốc độ, giai dĩ pha ly vi địa,
bảo thụ, bảo y dĩ vi trang nghiêm. Vô số thiên vạn
ức Bồ Tát sung măn kỳ trung, biến
trương bảo mạn, bảo vơng phú thượng. Bỉ
quốc chư Phật dĩ đại diệu âm nhi thuyết
chư pháp, cập kiến vô lượng thiên vạn ức
Bồ Tát biến măn chư quốc, vị chúng thuyết
pháp. Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ,
bạch hào tướng quang sở chiếu chi xứ, diệc phục như thị.
(經)爾時佛放白毫一光。即見東方五百萬億那由他恆河沙等國土諸佛。彼諸國土。皆以玻璃為地。寶樹寶衣以為莊嚴。無數千萬億菩薩充滿其中。徧張寶幔。寶網覆上。彼國諸佛。以大妙音而說諸法。及見無量千萬億菩薩。徧滿諸國。為眾說法。南西北方。四維上下。白毫相光所照之處。亦復如是。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
đức Phật phóng một tia sáng từ bạch hào, liền
thấy chư Phật trong các quốc độ ở phương Đông số nhiều như cát trong năm trăm vạn ức na-do-tha
(nayutas) sông Hằng . Các quốc độ
đó đều dùng pha lê làm đất, cây báu và y báu để
trang nghiêm. Vô số ngàn vạn ức Bồ Tát đầy ắp
trong đó. Màn báu treo khắp, lưới báu phủ lên trên.
Chư Phật trong các cơi ấy dùng âm thanh mầu nhiệm
to lớn để nói các pháp. Và thấy vô lượng ngàn
vạn ức Bồ Tát đầy khắp cơi ấy, v́
đại chúng thuyết pháp. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn
góc, trên, dưới, chỗ nào được quang minh từ
tướng bạch hào chiếu đến cũng đều
giống như vậy).
Phân thân chư Phật phần
lớn ngự tại tịnh độ, chỉ có Sa Bà này
là uế độ. Đức Phật [Thích Ca] có thể nói kinh
Pháp Hoa trong Sa Bà uế độ, đó là điều khó nhất
trong các điều khó khăn. Nhưng do v́ ở trong cơi uế
độ này, cho nên ắt cần phải v́ Thật
mà thực hiện Quyền. Lại do thực hiện Quyền,
cho nên ắt cần phải khai Quyền hiển Thật.
V́ thế, hiển Thật th́ mới phơi bày trọn vẹn
sự khéo nhiệm nơi cách lập bày giáo hóa của
Như Lai, nguyên khởi và kết quả từ đầu
đến cuối được phơi bày không ǵ chẳng
trọn hết. Có thể nói là “sen trổ từ bùn lầy”.
Lại cũng nên biết: [Nói đến] đức Phật
Thích Ca trong cơi này tức là nói “chư Phật là phân thân”, [thị
hiện thành] Phật trong mỗi cơi. Lại cũng có
nghĩa là nói chư Phật và Phật Thích Ca là phân thân [của
Pháp Thân Phật]. Nói kinh Pháp Hoa trong cơi này, chư Phật
đă vân tập, đều bày tỏ ư muốn mở tháp.
Trong các cơi, nơi nào có nói kinh Pháp Hoa, chư Phật và Phật
Thích Ca cũng ắt cùng tới đó tỏ ư muốn mở
tháp. Đó là tịnh uế giao xen lẫn nhau, dung thông lẫn
nhau, khách và chủ rành rành, năng và sở chẳng hai.
Đấy là tông chỉ Thật Tướng của Nhất
Thừa, là cốt lơi của “pháp giới vô ngại” rạng
ngời nơi thấy nghe vậy!
11.1.2.5. Chư Phật cùng đến
(Kinh)
Nhĩ thời, thập phương chư Phật các cáo
chúng Bồ Tát ngôn: “Thiện nam tử! Ngă kim ưng văng Sa Bà
thế giới Thích Ca Mâu Ni Phật sở, tịnh cúng
dường Đa Bảo Như Lai bảo tháp”.
(經)爾時十方諸佛。各告眾菩薩言。善男子。我今應往娑婆世界釋迦牟尼佛所。幷供養多寶如來寶塔。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, mười phương chư Phật, mỗi
vị đều bảo hàng Bồ Tát rằng: “Thiện
nam tử! Nay ta nên đến chỗ
của Thích Ca Mâu Ni Phật trong thế giới Sa Bà, và cúng
dường tháp báu của Đa Bảo Như Lai”).
11.1.2.6. Nghiêm tịnh quốc giới
11.1.2.6.1. Biến đổi cơi Sa Bà
(Kinh)
Thời Sa Bà thế giới tức biến thanh tịnh,
lưu ly vi địa, bảo thụ trang nghiêm. Hoàng kim vi
thằng, dĩ giới bát đạo. Vô chư tụ lạc,
thôn doanh, thành ấp, đại hải, giang, hà, sơn,
xuyên, lâm tẩu. Thiêu đại bảo hương, Mạn-đà-la
hoa biến bố kỳ địa. Dĩ bảo vơng mạn
la phú kỳ thượng. Huyền chư bảo linh. Duy
lưu thử hội chúng, di chư thiên nhân, trí ư tha
độ. Thị thời chư Phật, các tương nhất
đại Bồ Tát dĩ vi thị giả, chí Sa Bà thế
giới, các đáo bảo thụ hạ. Nhất nhất bảo
thụ, cao ngũ bách do-tuần. Chi, diệp, hoa, quả, thứ
đệ trang nghiêm. Chư bảo thụ hạ, giai hữu
sư tử chi ṭa, cao ngũ do-tuần. Diệc dĩ đại
bảo nhi hiệu sức chi. Nhĩ thời, chư Phật
các ư kỳ ṭa, kết già phu tọa. Như thị triển
chuyển, biến măn tam thiên đại thiên thế giới,
nhi ư Thích Ca Mâu Ni Phật nhất phương sở phân
chi thân, do cố vị tận.
(經)時娑婆世界。即變清淨。琉璃為地。寶樹莊嚴。黃金為繩。以界八道。無諸聚落村營城邑大海江河山川林藪。燒大寶香曼陀羅華徧布其地。以寶網幔羅覆其上。懸諸寶鈴。唯留此會眾。移諸天人置於他土。是時諸佛。各將一大菩薩以為侍者。至娑婆世界。各到寶樹下。一一寶樹。高五百由旬。枝葉華果。次第莊嚴。諸寶樹下。皆有師子之座。高五由旬。亦以大寶。而校飾之。爾時諸佛。各於其座結跏趺坐。如是展轉。徧滿三千大千世界。而於釋迦牟尼佛一方所分之身。猶故未盡。
(Kinh: Khi đó, thế
giới Sa Bà liền biến thành thanh tịnh: Lưu ly làm
đất, cây báu trang nghiêm. Vàng ṛng làm dây để phân ranh
đường thông sang tám phương. Chẳng có làng xóm,
thôn xă, doanh trại, thành, ấp, biển cả, sông ng̣i,
núi, sông, rừng rú. Đốt hương báu lớn, hoa Mạn
Đà La phủ khắp mặt đất. Dùng màn lưới
báu phủ lên trên. Treo các linh báu. Chỉ để lại
đại chúng trong hội này, dời các trời, người
đặt sang cơi khác. Khi đó, chư Phật mỗi vị
dẫn theo một vị đại Bồ Tát làm thị giả,
tới thế giới Sa Bà, mỗi vị
đến dưới cội cây báu. Mỗi cây báu cao
năm trăm do-tuần, cành, lá, hoa, quả, theo thứ tự
trang nghiêm. Dưới các cây báu đều có ṭa sư tử,
cao năm do-tuần, cũng dùng chất báu lớn để
tô điểm. Lúc bấy giờ, chư Phật đều
ngồi xếp bằng trên ṭa ấy. Lần lượt
như vậy trọn khắp tam thiên đại thiên thế
giới, nhưng phân thân của Thích Ca Mâu Ni trong một
phương vẫn chưa hết được)[8].
11.1.2.6.2. Ở mỗi phương
trong tám phương đều biến ra hai trăm vạn
ức na-do-tha cơi
(Kinh)
Thời Thích Ca Mâu Ni Phật dục dung thọ sở phân
thân chư Phật cố, bát phương các cánh biến nhị
bách vạn ức na-do-tha quốc, giai linh thanh tịnh. Vô hữu
địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cập A Tu La. Hựu
di chư thiên nhân trí ư tha độ. Sở hóa chi quốc,
diệc dĩ lưu ly vi địa, bảo thụ trang
nghiêm. Thụ cao ngũ bách do-tuần, chi, diệp, hoa, quả
thứ đệ nghiêm sức. Thụ hạ giai hữu bảo
sư tử ṭa, cao ngũ do-tuần. Chủng chủng
chư bảo, dĩ vi trang hiệu.
Diệc vô đại hải, giang, hà, cập Mục Chân Lân
Đà sơn, Ma Ha Mục Chân Lân Đà sơn, Thiết Vi
sơn, Đại Thiết Vi sơn, Tu Di sơn đẳng
chư sơn vương, thông vi nhất Phật quốc
độ, bảo địa b́nh chánh. Bảo giao lộ mạn
biến phú kỳ thượng. Huyền chư phan cái. Thiêu
đại bảo hương. Chư thiên bảo hoa biến
bố kỳ địa.
(經)時釋迦牟尼佛。欲容受所分身諸佛故。八方各更變二百萬億那由他國。皆令清淨。無有地獄餓鬼畜生及阿修羅。又移諸天人置於他土。所化之國。亦以琉璃為地。寶樹莊嚴。樹高五百由旬。枝葉華果次第嚴飾。樹下皆有寶師子座。高五由旬。種種諸寶以為莊校。亦無大海江河。及目真鄰陀山。摩訶目真鄰陀山。鐵圍山。大鐵圍山。須彌山等諸山王。通為一佛國土。寶地平正。寶交露幔徧覆其上。懸諸幡葢。燒大寶香。諸天寶華徧布其地。
(Kinh: Khi
đó, Thích Ca Mâu Ni Phật muốn dung nạp phân thân chư
Phật, ở mỗi phương trong tám phương,
lại biến hiện hai trăm vạn ức na-do-tha quốc
độ, đều khiến cho [các cơi ấy] thanh tịnh.
Chẳng có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, và A
Tu La. Lại dời trời, người, đặt sang cơi
khác. Cơi được biến hóa cũng dùng lưu ly làm
đất, cây báu trang nghiêm. Cây cao năm trăm do-tuần,
cành, lá, hoa, quả theo thứ tự trang nghiêm đẹp
đẽ. Dưới mỗi cây đều có ṭa sư tử
báu, cao năm do-tuần. Các thứ món báu dùng để trang
hoàng. Cũng chẳng có biển cả, sông ng̣i, và núi Mục
Chân Lân Đà (Mucilinda)[9],
núi Ma Ha Mục Chân Lân Đà (Mahā-mucilinda), núi Thiết Vi (Cakravāḍa),
núi Đại Thiết Vi, núi Tu Di (Sumeru) v.v… các núi chúa. Thông
thoáng làm một cơi Phật, đất báu bằng phẳng,
các màn báu giăng xen, phủ lên trên. Treo các phan, lọng, thiêu hương báu lớn. Hoa báu của
chư thiên phủ khắp mặt đất).
11.1.2.6.3. Lại biến ra hai trăm vạn
ức na-do-tha cơi ở mỗi phương trong tám phương
(Kinh)
Thích Ca Mâu Ni Phật vị chư Phật đương
lai tọa cố, phục ư bát phương, các cánh biến
nhị bách vạn ức na-do-tha quốc, giai linh thanh tịnh.
Vô hữu địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cập
A Tu La. Hựu di chư thiên nhân trí ư tha độ. Sở
hóa chi quốc, diệc dĩ lưu ly vi địa, bảo
thụ trang nghiêm. Thụ cao ngũ bách do-tuần. Chi, diệp,
hoa, quả, thứ đệ trang nghiêm. Thụ
hạ giai hữu bảo sư tử ṭa, cao ngũ do-tuần.
Diệc dĩ đại bảo nhi hiệu sức chi. Diệc
vô đại hải, giang, hà, cập Mục Chân Lân Đà
sơn, Ma Ha Mục Chân Lân Đà sơn, Thiết Vi sơn,
Đại Thiết Vi sơn, Tu Di sơn đẳng chư
sơn vương, thông vi nhất Phật quốc độ.
Bảo địa b́nh chánh. Bảo giao lộ mạn biến
phú kỳ thượng, huyền chư phan cái. Thiêu đại
bảo hương. Chư thiên bảo hoa biến bố kỳ
địa. Nhĩ thời, Đông phương Thích Ca Mâu Ni
Phật sở phân chi thân, bách thiên vạn ức na-do-tha hằng
hà sa đẳng quốc độ trung chư Phật, các
các thuyết pháp, lai tập ư thử. Như thị thứ
đệ, thập phương chư Phật giai tất
lai tập, tọa ư bát phương. Nhĩ thời, nhất
nhất phương, tứ bách vạn ức na-do-tha quốc
độ, chư Phật Như Lai biến măn kỳ trung.
(經)釋迦牟尼佛。為諸佛當來坐故。復於八方。各更變二百萬億那由他國。皆令清淨。無有地獄餓鬼畜生及阿修羅。又移諸天人置於他土。所化之國。亦以琉璃為地。寶樹莊嚴。樹高五百由旬。枝葉華果次第莊嚴。樹下皆有寶師子座。高五由旬。亦以大寶而校飾之。亦無大海江河。及目真鄰陀山。摩訶目真鄰陀山。鐵圍山。大鐵圍山。須彌山等諸山王。通為一佛國土。寶地平正。寶交露幔徧覆其上。懸諸幡葢。燒大寶香。諸天寶華徧布其地。爾時東方釋迦牟尼佛所分之身。百千萬億那由他恆河沙等國土中諸佛。各各說法。來集於此。如是次第。十方諸佛皆悉來集。坐於八方。爾時一一方。四百萬億那由他國土。諸佛如來徧滿其中。
(Kinh: Thích Ca Mâu Ni Phật v́ chư Phật sẽ đến
ngồi, lại trong tám phương, nơi mỗi phương
đều biến ra hai trăm vạn ức na-do-tha cơi, đều
khiến cho thanh tịnh. Chẳng có địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh, và A Tu La. Lại dời các trời, người,
đặt sang cơi khác. Cơi nước được hóa ra cũng
dùng lưu ly làm đất. Cây báu trang nghiêm, cây cao năm
trăm do-tuần. Cành, lá, hoa, quả theo thứ tự trang
nghiêm. Dưới mỗi cây đều có ṭa sư tử báu,
cao năm do-tuần, cũng dùng chất báu lớn để
trang hoàng. Cũng chẳng có biển cả, sông ng̣i, và núi Mục
Chân Lân Đà, núi Ma Ha Mục Chân Lân Đà, núi Thiết Vi, núi Đại Thiết
Vi, núi Tu Di v.v… các núi chúa, thông thoáng thành một cơi Phật.
Đất báu bằng phẳng, các màn báu giăng xen, phủ
lên trên. Treo các phan, lọng, đốt các
hương báu lớn. Hoa báu của chư thiên phủ khắp
mặt đất. Lúc bấy giờ, chư Phật là phân
thân của Thích Ca Mâu Ni Phật ở phương Đông
trong các cơi nước nhiều như số cát trong trăm
ngàn vạn ức na-do-tha sông Hằng, mỗi
vị đều thuyết pháp, đến tụ họp ở
nơi đây. Theo thứ tự như thế, mười
phương chư Phật đều tới nhóm họp, ngồi
ở tám phương. Lúc bấy giờ, nơi mỗi phương
có bốn trăm vạn ức na-do-tha quốc độ, chư
Phật Như Lai đầy ắp trong đó).
Ba lượt biến hóa cơi
nước thanh tịnh, chính là v́ tam-muội. Tam-muội có
ba thứ:
- Lần đầu tiên, biến
đổi cơi Sa Bà là do bối xả lực, có thể biến
uế thành tịnh.
- Kế đó, nơi mỗi
phương trong tám phương, đều có hai
trăm vạn ức na-do-tha cơi. Đó là thắng xứ lực,
chuyển biến tự tại.
- Lần thứ ba là trong tám
phương, mỗi phương lại biến ra hai
trăm vạn ức na-do-tha cơi, chính là do mười món Nhất
Thiết Xứ Lực, trọn khắp vô ngại.
Lại nữa, phép biến
hóa thứ nhất biểu thị trừ sạch Kiến
Tư. Lần biến hóa thứ hai, biểu thị trừ
sạch Trần Sa. Lần biến hóa thứ ba, biểu thị
trừ sạch vô minh.
Hỏi: Trong kinh Hoa Nghiêm,
mười phương chư Phật, Bồ Tát có cùng danh
hiệu đến chứng minh pháp môn đă nói, chỉ nói
trọn khắp mười phương, chẳng nói biến
hiện uế hay tịnh, nhằm hiển thị “tịnh
và uế b́nh đẳng, tịnh và uế chẳng có tánh”.
Lại c̣n hiển thị “tự tha chẳng ngăn cách,
lớn nhỏ vô ngại”. Nay biến uế thành tịnh,
tức là tịnh và uế chưa quên. Dời các trời người
[sang cơi khác], tức là tự và tha ngăn cách. Muốn
dung nạp phân thân bèn biến thêm cơi nước, tức là
lớn nhỏ rành rành tồn tại, há chẳng sánh bằng Hoa Nghiêm ư?
Đáp: Thần thông
được vận dụng trong các kinh, bất luận
nhiều, ít, rộng, hẹp, cốt sao phù hợp căn
cơ, hiển lộ Lư. Hoa Nghiêm riêng tương ứng với
căn cơ to lớn, hiển thị thẳng thừng viên
lư. V́ thế, cảnh giới thần lực vừa nhiều,
vừa rộng, chẳng phải là chuyện khó khăn! Nay
kinh này khai Tiểu để thành tựu Đại, từ
ngay Thiên mà nói đến Viên, như phá kẻ giặc hùng mạnh;
cho nên là hy hữu. Huống hồ nếu tịnh và uế
là tánh có thật, sao có thể biến uế thành tịnh? Nếu
tự và tha thật sự có ngăn cách, há có thể bị an ổn dời đi ư? Nếu
lớn và nhỏ thật sự có ngăn ngại, sao có thể
thông thoáng thành một cơi nước? Hăy nên biết dung thông
tuyệt đối sự tướng “tịnh, uế,
đây, kia, lớn, nhỏ” để hiển Lư, có khác ǵ
môn Sự Lư Vô Ngại? Chẳng hoại sự tướng
“tịnh, uế, đây, kia, lớn, nhỏ” để hiển
lư “chẳng tịnh, chẳng uế, chẳng kia, chẳng
đây, chẳng lớn, chẳng nhỏ”. Tuy hiển thị
lư “chẳng tịnh, chẳng uế, chẳng kia, chẳng
đây, chẳng lớn, chẳng nhỏ”, nhưng “tịnh,
uế, kia, đây, lớn, nhỏ” nơi Sự vẫn rành
rành. Đấy chính là Sự Sự Vô Ngại môn! V́ thế,
nếu xét theo đại huệ b́nh đẳng th́ đối
với Hoa Nghiêm, Phương Đẳng, Bát Nhă, Pháp Hoa, chớ
nên xằng bậy so đo hơn kém. Nếu xét theo “khai Quyền hiển Thật,
khai Tích hiển Bổn” th́ chỉ riêng Pháp Hoa có công
năng ấy. Người khéo đọc kinh, quư ở chỗ
thấu đạt Thể, Tông, Dụng, Tướng, chớ
nên uổng công dùng các dấu vết nơi sự tướng
để xằng bậy so đo, phê phán, đến nỗi đối với
đại pháp của Như Lai một đằng tán thán,
đằng khác lại hủy báng, giống như ca ngợi
Đế Thích mà hủy báng Kiều Thi Ca[10]!
Hỏi: Ba lượt biến
hóa cơi nước thanh tịnh, phải nên là do sức Thủ
Lăng Nghiêm tam-muội, sao lại coi đó là Thiền thuộc
sự tướng của Tiểu Thừa?
Đáp: Bối Xả của
Tiểu Thừa chỉ có thể biến hóa trong một tiểu
thiên thế giới. Thắng Xứ chỉ có thể biến
hóa trong một trung thiên thế giới. Mười món Nhất
Thiết Xứ chỉ có thể biến hóa trong một
đại thiên thế giới. Nay khai Quyền hiển Thật
th́ Thiền thuộc vào sự tướng của Tiểu
Thừa chính là Thủ Lăng Nghiêm. V́ thế, tuy xếp vào
Tiểu Thừa, nhưng lực dụng là Đại Thừa.
Hỏi: Nếu là như vậy,
tùy ư [sử dụng] một môn tam-muội sẽ có thể
biến hóa ba lượt, cần ǵ phải nhất định
dùng ba môn tam-muội?
Đáp: Cũng chính v́ chẳng
hoại giả danh của các pháp.
Hỏi: Như ba loại tam-muội
của Tiểu Thừa chẳng thể phá trọn khắp
Tam Hoặc. Nếu chẳng thể phá trọn khắp Tam
Hoặc, vậy th́ ba loại tam-muội của Phật quả
chẳng nên phá Hoặc theo thứ tự?
Đáp: Thủ Lăng Nghiêm
đă là Sự từ ngay nơi Lư, sẽ tự có thể mỗi
mỗi đều phá Tam Hoặc trọn vẹn. Nay chỉ
xét theo tam-muội để luận định công dụng.
Lại c̣n xét theo điều được biểu thị,
cho nên nói là “phá Hoặc”. Công dụng thuộc
nơi Phật, c̣n cái được biểu thị thuộc
về căn cơ. Căn cơ th́ tuy đối với ba
loại căn đă phá Tam Hoặc, nhưng về sau vẫn
phải phá lần nữa.
Phần thứ sáu, “nghiêm tịnh
quốc giới” đă xong.
11.1.2.7. Tỏ ư mong muốn mở tháp
11.1.2.7.1. Chư Phật [sai thị giả]
thưa hỏi, nêu bày ư muốn
(Kinh)
Thị thời chư Phật các tại bảo thụ hạ,
tọa sư tử ṭa, giai khiển thị giả vấn
tấn[11]
Thích Ca Mâu Ni Phật, các tê bảo hoa măn cúc, nhi cáo chi ngôn: -
Thiện nam tử! Nhữ văng nghệ Kỳ Xà Quật
sơn Thích Ca Mâu Ni Phật sở, như ngă từ viết:
“Thiểu bệnh, thiểu năo, khí lực an lạc, cập
Bồ Tát, Thanh Văn chúng tất an ổn phủ? Dĩ thử
bảo hoa tán Phật cúng dường, nhi tác thị ngôn: Bỉ
mỗ giáp Phật dữ dục khai thử bảo tháp”.
Chư Phật khiển sứ, diệc phục như thị.
(經)是時諸佛。各在寶樹下。坐師子座。皆遣侍者問訊釋迦牟尼佛。各齎寶華滿掬而告之言。善男子。汝往詣耆闍崛山釋迦牟尼佛所。如我辭曰。少病少惱。氣力安樂。及菩薩聲聞眾。悉安隱不。以此寶華散佛供養。而作是言。彼某甲佛。與欲開此寶塔。諸佛遣使。亦復如是。
(Kinh: Khi đó chư
Phật, mỗi vị ở dưới cây báu, ngồi trên
ṭa sư tử, đều sai thị giả đến thưa
hỏi Thích Ca Mâu Ni Phật, đều trao cho [mỗi thị giả] một vốc
đầy hoa báu, bảo rằng: “Này thiện nam tử!
Ông nên sang chỗ Thích Ca Mâu Ni Phật ở núi Kỳ Xà Quật,
thưa lời ta rằng: ‘Ít bệnh, ít năo, khí lực an vui[12],
và đại chúng Bồ Tát, Thanh Văn, có
đều được an ổn hay chăng?’ Dùng hoa báu rải
lên Phật để cúng dường,
mà nói như thế này: - Vị Phật có danh hiệu là… tỏ
ư mong mở tháp báu”. Chư Phật sai thị giả đều
giống như thế).
Chư Phật cùng nêu bày ư muốn
mong mở tháp, giống như cách tác pháp nêu bày ư muốn
trong Tăng chúng. Nhóm họp đông đảo, tỏ rơ bao
nhiêu vị Phật đều nêu rơ ư muốn. Kinh Đại
Phẩm cũng nói một ngàn vị Phật cùng thuyết
Bát Nhă, nhưng đều chẳng nói các Ngài chính là phân thân
của Phật Thích Ca. Chuẩn theo kinh này, phải nên hiểu
là phân thân. Do các Ngài kèm theo phương tiện, cho nên chẳng
nói rơ! Trong kinh này, không chỉ là số lượng nhiều,
mà c̣n nói thẳng thừng là phân thân đều đến tỏ
ư muốn [Phật Thích Ca mở tháp báu].
11.1.2.7.2. Phật Thích Ca mở tháp
(Kinh)
Nhĩ thời, Thích Ca Mâu Ni Phật kiến sở phân thân
Phật tất dĩ lai tập, các các tọa ư sư tử
chi ṭa, giai văn chư Phật dữ dục đồng
khai bảo tháp, tức tùng ṭa khởi, trụ hư không
trung. Nhất thiết tứ chúng, khởi lập hiệp
chưởng, nhất tâm quán Phật. Ư thị, Thích Ca
Mâu Ni Phật dĩ hữu chỉ khai thất bảo tháp hộ,
xuất đại âm thanh như khước quan thược,
khai đại thành môn.
(經)爾時釋迦牟尼佛。見所分身佛悉已來集。各各坐於師子之座。皆聞諸佛與欲同開寶塔。即從座起。住虛空中。一切四眾。起立合掌。一心觀佛。於是釋迦牟尼佛。以右指開七寶塔戶。出大音聲。如卻關鑰。開大城門。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật thấy phân thân của Ngài
đều đă nhóm đến, mỗi
vị đều ngồi nơi ṭa sư tử, đều
nghe chư Phật tỏ ư muốn cùng mở tháp báu, liền
từ ṭa đứng dậy, đứng trong hư không. Hết
thảy tứ chúng đứng dậy, chắp tay, nhất
tâm quán Phật. Khi đó, Thích Ca Mâu Ni Phật dùng ngón tay phải
mở cửa tháp bảy báu, vang ra âm thanh lớn như tháo
chốt khóa, mở cửa thành lớn).
Dùng ngón tay bên phải
để mở, biểu thị dùng Quyền. “Mở
tháp” biểu thị khai Quyền. “Thấy Phật”
biểu thị hiển lộ Thật, tức là “chứng
tiền”. Lại c̣n sẽ “khai hậu”. V́ thế, “như
tháo chốt khóa” biểu thị trừ chướng. “Mở
cửa thành lớn” ngầm biểu thị khai Tích.
11.1.2.7.3. Tứ chúng đều cùng thấy
nghe
(Kinh)
Tức thời nhất thiết chúng hội, giai kiến
Đa Bảo Như Lai, ư bảo tháp trung, tọa sư
tử ṭa, toàn thân bất tán, như nhập Thiền Định.
Hựu văn kỳ ngôn: “Thiện tai, thiện tai! Thích Ca
Mâu Ni Phật khoái thuyết thị Pháp Hoa kinh. Ngă vị
thính thị kinh cố, nhi lai chí thử”. Nhĩ thời, tứ
chúng đẳng kiến quá khứ vô lượng
thiên vạn ức kiếp diệt độ Phật thuyết
như thị ngôn, thán vị tằng hữu, dĩ thiên bảo
hoa tụ, tán Đa Bảo Phật cập Thích Ca Mâu Ni Phật
thượng.
(經)即時一切眾會。皆見多寶如來。於寶塔中坐師子座。全身不散。如入禪定。又聞其言。善哉善哉。釋迦牟尼佛。快說是法華經。我為聽是經故而來至此。爾時四眾等。見過去無量千萬億劫滅度佛說如是言。歎未曾有。以天寶華聚。散多寶佛及釋迦牟尼佛上。
(Kinh: Ngay khi đó, hết thảy đại chúng
trong hội đều thấy Đa Bảo Như Lai ngồi
trên ṭa sư tử trong tháp báu, toàn thân chẳng tan hoại,
như nhập Thiền Định. Lại nghe Ngài nói: “Lành
thay! Lành thay! Thích Ca Mâu Ni Phật vui sướng nói kinh Pháp
Hoa này. Ta v́ nghe kinh này, cho nên đến nơi đây”. Lúc bấy
giờ, tứ chúng đều thấy quá khứ chư Phật đă diệt
độ trong vô lượng số ngàn vạn ức kiếp đều
nói như thế, bèn than là “chưa từng có”, dùng đống
hoa trời rải lên Đa Bảo Phật và Thích Ca Mâu Ni Phật).
11.1.2.7.4. Hai vị Phật chia ṭa cùng
ngồi
(Kinh)
Nhĩ
thời, Đa Bảo Phật ư bảo tháp trung, phân bán
ṭa dữ Thích Ca Mâu Ni Phật, nhi tác thị ngôn: “Thích Ca Mâu
Ni Phật khả tựu thử ṭa”. Tức thời, Thích
Ca Mâu Ni Phật nhập kỳ tháp trung, tọa kỳ bán
ṭa, kết già phu tọa. (經)爾時多寶佛。於寶塔中分半座與釋迦牟尼佛。而作是言。釋迦牟尼佛。可就此座。即時釋迦牟尼佛。入其塔中。坐其半座。結跏趺坐。
(Kinh: Lúc
đó, Đa Bảo Phật ở trong tháp báu, chia nửa ṭa
cho Thích Ca Mâu Ni Phật, mà nói như thế
này: “Thích Ca Mâu Ni Phật có thể đến ngồi trên
ṭa này”. Ngay khi ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật vào trong tháp đó,
ngồi xếp bằng trên nửa ṭa ấy)[13].
11.1.2.7.5. Tứ chúng thỉnh cầu
được gia bị ngự lên hư không
(Kinh)
Nhĩ thời, đại chúng kiến nhị Như Lai tại
thất bảo tháp trung, sư tử ṭa thượng, kết
già phu tọa, các tác thị niệm: “Phật ṭa cao viễn,
duy nguyện Như Lai dĩ thần thông lực, linh ngă
đẳng bối, câu xử hư không”. Tức thời,
Thích Ca Mâu Ni Phật dĩ thần thông lực, tiếp
chư đại chúng giai tại hư không.
(經)爾時大眾。見二如來。在七寶塔中師子座上結跏趺坐。各作是念。佛坐高遠。惟願如來以神通力。令我等輩俱處虛空。即時釋迦牟尼佛以神通力。接諸大眾皆在虛空。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, đại chúng thấy hai vị Như Lai
ngồi xếp bằng trên ṭa sư tử trong tháp bảy
báu, đều nghĩ như thế này: “Ṭa Phật cao xa,
kính mong Như Lai dùng sức thần thông,
khiến cho chúng con đều ở trên hư không”. Ngay lập
tức, Thích Ca Mâu Ni dùng sức thần thông đưa các
đại chúng đều lên hư không).
Hỏi: Đại
chúng đều ở trên hư không, cớ sao phân thân vẫn
ở dưới đất?
Đáp: Đại chúng lúc
đó đă nghe phần Khai Quyền thuộc Tích Môn, mới
vào cơi Thường Tịch Quang. V́ thế, dùng hư không
để biểu thị. Phân thân thị hiện Tích, mỗi
vị đều có quốc độ để giáo hóa, cho
nên ở trên đất để biểu thị. Lại nữa,
không lâu nữa, Phật Thích Ca sẽ hiển Bổn,
trước hết cũng dùng chuyện ở trên hư không để biểu
thị. Mỗi đằng đều có lư do riêng, chớ
nên ngờ vực!
Phần thứ hai, “nói về các phân
thân từ xa đến nhóm họp” đă xong.
11.1.3. Phật Thích Ca xướng lời
tuyển mộ
(Kinh)
Dĩ đại âm thanh, phổ cáo tứ chúng: - Thùy năng
ư thử Sa Bà quốc độ, quảng thuyết Diệu
Pháp Hoa kinh, kim chánh thị thời. Như Lai bất cửu
đương nhập Niết Bàn, Phật dục dĩ thử
Diệu Pháp Hoa kinh phó chúc hữu tại.
(經)以大音聲。普告四眾。誰能於此娑婆國土。廣說妙法華經。今正是時。如來不久當入涅槃。佛欲以此妙法華經付囑有在。
(Kinh: Dùng âm thanh
to lớn, bảo khắp bốn chúng: “Ai có thể ở
trong quốc độ Sa Bà, rộng nói kinh Diệu Pháp Liên
Hoa th́ nay chính là đúng lúc. Như Lai chẳng lâu sau sẽ
nhập Niết Bàn. Phật mong sẽ có người để
phó chúc [lưu thông] kinh Diệu Pháp Liên Hoa này).
- Một, tuyển mộ ai
có thể rộng nói? Tức là [tuyển mộ người
hoằng dương] trong cơi Sa Bà.
- Hai, đă tới lúc phó chúc,
tức là Ngài sẽ nhập Niết Bàn.
- Ba, có người để
Ngài phó chúc. Điều này lại có hai ư:
1) Một, nói về người
được phó chúc ở gần, tức là nói đến
tám vạn đại sĩ thuộc phần đầu phẩm
Pháp Sư, hai vạn đại Bồ Tát trong phẩm Tŕ,
và tám mươi vạn ức na-do-tha các vị Bồ Tát do
đức Thế Tôn trông thấy.
2) Hai là nói tới người
phó chúc ở xa, tức là nói tới các vị đệ tử
thuộc Bổn địa sẽ từ dưới
đất vọt lên. Đức Phật dạy họ
lưu thông [kinh Pháp Hoa] khắp chốn, lại c̣n phát khởi
[sự thật về] thọ lượng.
Phần thứ nhất, văn Trường
Hàng đă xong.
11.2. Kệ tụng
11.2.1. Trùng tụng về Phật
Đa Bảo
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa,
nhi thuyết kệ ngôn: - Thánh chúa Thế Tôn, tuy cửu diệt
độ, tại bảo tháp trung, thượng vị pháp
lai. Chư nhân vân hà, bất cần vị pháp? Thử Phật
diệt độ, vô ương số kiếp, xứ xứ
thính pháp, dĩ nan ngộ cố. Bỉ Phật bổn nguyện,
“ngă diệt độ hậu, tại tại sở trụ,
thường vị thính pháp”.
(經)爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。聖主世尊。雖久滅度。在寶塔中。尚為法來。諸人云何。不勤為法。此佛滅度。無央數劫。處處聽法。以難遇故。彼佛本願。我滅度後。在在所住。常為聽法。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại
nghĩa này, bèn nói kệ rằng:
- Đức thánh chúa Thế Tôn, tuy diệt độ đă
lâu, ngự trong ṭa tháp báu, c̣n v́ pháp mà đến. Các người
bởi cớ nào, chẳng v́ pháp siêng gắng? Vị Phật
ấy diệt độ, đă vô ương số kiếp,
nghe pháp tại khắp nơi, v́ pháp này khó gặp. Phật ấy
có bổn nguyện: “Sau khi ta diệt độ, trụ ở
khắp các nơi, thường v́ để nghe pháp”).
11.2.2. Trùng tụng phân thân
(Kinh)
Hựu ngă phân thân, vô lượng chư Phật, như Hằng
sa đẳng, lai dục thính pháp, cập kiến diệt
độ, Đa Bảo Như Lai, các xả diệu độ,
cập đệ tử chúng. Thiên, nhân, long thần, chư cúng
dường sự, linh pháp cửu trụ; cố lai chí thử.
Vị tọa chư Phật, dĩ thần thông lực, di
vô lượng chúng, linh quốc thanh tịnh. Chư Phật
các các, nghệ bảo thụ hạ, như thanh tịnh
tŕ, liên hoa trang nghiêm. Kỳ bảo thụ hạ, chư
sư tử ṭa, Phật tọa kỳ thượng, quang
minh nghiêm sức, như dạ ám trung, nhiên đại cự
hỏa. Thân xuất diệu hương, biến thập
phương quốc. Chúng sanh mông huân, hỷ bất tự
thắng. Thí như đại phong, xuy tiểu thụ chi.
Dĩ thị phương tiện, linh pháp cửu trụ.
(經)又我分身。無量諸佛。如恆沙等。來欲聽法。及見滅度。多寶如來。各捨妙土。及弟子眾。天人龍神。諸供養事。令法久住。故來至此。為坐諸佛。以神通力。移無量眾。令國清淨。諸佛各各。詣寶樹下。如清淨池。蓮華莊嚴。其寶樹下。諸師子座。佛坐其上。光明嚴飾。如夜闇中。然大炬火。身出妙香。徧十方國。眾生蒙熏。喜不自勝。譬如大風。吹小樹枝。以是方便。令法久住。
(Kinh: Ta
lại c̣n phân thân, thành vô lượng chư Phật, nhiều
như cát sông Hằng, nhóm tới muốn nghe pháp, và thấy
Phật diệt độ, là Đa Bảo Như Lai. Mỗi
vị bỏ cơi diệu, và các hàng đệ tử, trời,
người, rồng, các thần, cùng các sự cúng dường,
khiến pháp trụ dài lâu. V́ thế đến nơi
đây. Để chư Phật an tọa, ta dùng sức thần
thông, dời đi vô lượng chúng, khiến cơi nước
thanh tịnh. Chư Phật mỗi vị đều, đến
ngồi dưới cây báu, như ao nước thanh tịnh,
trang nghiêm bằng hoa sen. Dưới các cội cây báu, có các
ṭa sư tử, Phật ngồi trên ṭa ấy, dùng quang minh
trang nghiêm, như trong đêm tối tăm, thắp bó đuốc
to lớn. Thân tỏa hương nhiệm mầu, trọn
khắp mười phương cơi. Chúng sanh được
xông ướp, vui mừng khôn ngăn nổi! Ví như trận
gió lớn, thổi qua cành cây nhỏ. Dùng phương tiện
như thế, khiến pháp trụ dài lâu).
Trong phần trên,
chánh kinh nói các phân thân từ phương xa nhóm họp gồm
bảy đoạn kinh văn. Nay kệ tụng rất giản
lược. Ba bài kệ đầu, trùng tụng ư nghĩa
của đoạn kinh thứ hai nói tới các ứng thân
nhóm họp, nghĩa đă kiêm ư thứ nhất là [Đại
Nhạo Thuyết Bồ Tát] thỉnh cầu, mong
được thấy Đa Bảo Phật, và [phân
thân của Phật Thích Ca] ba lượt nhóm họp để
cầu thỉnh [Phật Thích Ca mở tháp]. Bài kệ kế
đó trùng tụng chuyện trang nghiêm thanh tịnh quốc
giới. Bốn bài kệ rưỡi sau đó trùng tụng
chuyện chư Phật cùng đến.
11.2.3. Trùng tụng sự phó chúc
11.2.3.1. Nêu ra tam thế Phật để
khuyên lưu thông
11.2.3.1.1. Tuyển mộ t́m kiếm
người để phó chúc [hộ tŕ, hoằng truyền
kinh này]
(Kinh)
Cáo chư đại chúng, ngă diệt độ hậu, thùy
năng hộ tŕ, độc thuyết tư kinh, kim ư Phật
tiền, tự thuyết thệ ngôn.
(經)告諸大眾。我滅度後。誰能護持。讀說斯經。今於佛前。自說誓言。
(Kinh: Bảo cùng các
đại chúng: Sau khi ta diệt độ, ai có thể hộ
tŕ, đọc, diễn nói kinh này, nay hăy đối trước
Phật, tự nói lời thệ nguyện).
11.2.3.1.2. Nêu ra ba loại Phật (quá khứ,
hiện tại, vị lai) để khuyên tŕ kinh
(Kinh)
Kỳ Đa Bảo Phật, tuy cửu diệt độ,
dĩ đại thệ nguyện, nhi sư tử hống.
Đa Bảo Như Lai, cập dữ ngă thân, sở tập
hóa Phật, đương tri thử ư. Chư Phật tử
đẳng, thùy năng hộ pháp, đương phát đại
nguyện, linh đắc cửu trụ.
(經)其多寶佛。雖久滅度。以大誓願。而師子吼。多寶如來。及與我身。所集化佛。當知此意。諸佛子等。誰能護法。當發大願。令得久住。
(Kinh: Vị
Phật Đa Bảo ấy, tuy diệt độ đă
lâu, do bởi đại thệ nguyện, bèn hiện sư
tử hống. Đức Đa Bảo Như Lai, cùng với
các hóa Phật, do chính ta phân thân, thảy đều cùng nhóm
lại. Hăy nên biết ư ấy. Hỡi các vị Phật tử,
ai có thể hộ pháp, hăy nên phát đại nguyện, khiến
pháp trụ dài lâu).
11.2.3.1.3. Giải thích ư nghĩa khuyên
lơn
(Kinh) Kỳ hữu năng hộ, thử
kinh pháp giả, tắc vi cúng dường, ngă cập Đa
Bảo. Thử Đa Bảo Phật, xử ư bảo
tháp, thường du thập phương. Vị thị kinh
cố, diệc phục cúng dường, chư lai hóa Phật,
trang nghiêm quang sức. Chư thế giới giả, nhược
thuyết thử kinh, tắc vi kiến ngă, Đa Bảo
Như Lai, cập chư hóa Phật. (經)其有能護。此經法者。則為供養。我及多寶。此多寶佛。處於寶塔。常遊十方。為是經故。亦復供養。諸來化佛。莊嚴光飾。諸世界者。若說此經。則為見我。多寶如來。及諸化佛。
(Kinh: Nếu
là người có thể, hộ tŕ kinh pháp này, tức là
đă cúng dường, ta và Phật Đa Bảo. Vị Phật
Đa Bảo này, ngự trong ṭa tháp báu, thường dạo
chơi mười phương. Do v́ bộ kinh này, cũng
sẽ lại cúng dường, các hóa Phật nhóm đến,
trang nghiêm bằng quang minh. Ở trong các thế giới, nếu
diễn nói kinh này, tức là sẽ thấy ta, và Đa Bảo
Như Lai, cùng với các hóa Phật).
Có thể hộ
tŕ kinh tức là cúng dường tam thế Phật. Nếu
nói kinh này, tức là thấy trọn tam thế Phật. V́
thế, giải thích ư nghĩa khuyên lơn. Phần thứ
nhất, “nêu ra tam thế Phật để khuyên lưu
thông” đă xong.
11.2.3.2. Nêu ra pháp khó tŕ để khuyên
lưu thông
11.2.3.2.1. Nêu ra lời khuyên
11.2.3.2.1.1. Khuyên răn
(Kinh)
Chư thiện nam tử, các đế tư duy. Thử vi
nan sự, nghi phát đại nguyện.
(經)諸善男子。各諦思惟。此為難事。宜發大願。
(Kinh: Hỡi
các thiện nam tử, hăy tư duy chắc thật.
Đây là chuyện khó khăn, hăy nên phát đại nguyện).
11.2.3.2.1.2. Nêu ra sự khó tŕ để
khuyên lơn
(Kinh)
Chư dư kinh điển, số như Hằng sa. Tuy
thuyết thử đẳng, vị túc vi nan. Nhược
tiếp Tu Di, trịch trí tha phương, vô số Phật
độ, diệc vị vi nan. Nhược dĩ túc chỉ,
động đại thiên giới, viễn trịch tha quốc,
diệc vị vi nan. Nhược lập Hữu Đảnh,
vị chúng diễn thuyết, vô lượng dư kinh, diệc
vị vi nan. Nhược Phật diệt hậu, ư ác thế
trung, năng thuyết thử kinh, thị tắc vi nan. Giả
sử hữu nhân, thủ bả hư không, nhi dĩ du hành,
diệc vị vi nan. Ư ngă diệt hậu, nhược tự
thư tŕ, nhược sử nhân thư, thị tắc vi
nan. Nhược dĩ đại địa, trí túc giáp
thượng, thăng ư Phạm Thiên, diệc vị vi
nan. Phật diệt độ hậu, ư ác thế trung,
tạm độc thử kinh, thị tắc vi nan. Giả
sử kiếp thiêu, đảm phụ càn thảo,
nhập trung bất thiêu, diệc vị vi nan. Ngă diệt
độ hậu, nhược tŕ thử kinh, vị nhất
nhân thuyết, thị tắc vi nan. Nhược tŕ bát vạn,
tứ thiên pháp tạng, thập nhị bộ kinh, vị
nhân diễn thuyết, linh chư thính giả, đắc lục
thần thông. Tuy năng như thị, diệc vị vi nan. Ư ngă diệt hậu, thính thọ
thử kinh, vấn kỳ nghĩa thú, thị tắc vi nan.
Nhược nhân thuyết pháp, linh thiên vạn ức, vô
lượng vô số, hằng sa chúng sanh, đắc A La
Hán, cụ lục thần thông. Tuy hữu thị ích, diệc
vị vi nan. Ư ngă diệt hậu, nhược năng phụng
tŕ, như tư kinh điển, thị tắc vi nan.
(經)諸餘經典。數如恆沙。雖說此等。未足為難。若接須彌。擲置他方。無數佛土。亦未為難。若以足指。動大千界。遠擲他國。亦未為難。若立有頂。為眾演說。無量餘經。亦未為難。若佛滅後。於惡世中。能說此經。是則為難。假使有人。手把虛空。而以遊行。亦未為難。於我滅後。若自書持。若使人書。是則為難。若以大地。置足甲上。升於梵天。亦未為難。佛滅度後。於惡世中。暫讀此經。是則為難。假使劫燒。擔負乾草。入中不燒。亦未為難。我滅度後。若持此經。為一人說。是則為難。若持八萬。四千法藏。十二部經。為人演說。令諸聽者。得六神通。雖能如是。亦未為難。於我滅後。聽受此經。問其義趣。是則為難。若人說法。令千萬億。無量無數。恆沙眾生。得阿羅漢。具六神通。雖有是益。亦未為難。於我滅後。若能奉持。如斯經典。是則為難。
(Kinh: Các bộ kinh
điển khác, số như cát sông Hằng, tuy nói các kinh ấy,
chưa đáng gọi là khó. Hoặc đỡ lấy Tu Di,
đem quăng sang phương khác, vô số các cơi Phật,
vẫn chẳng phải là khó. Nếu lấy ngón chân động,
cả đại thiên thế giới, hất sang nước
xa khác, vẫn chưa phải là khó. Nếu đứng trên
Hữu Đảnh[14],
v́ đại chúng diễn thuyết, vô lượng các kinh
khác, vẫn chưa phải là khó. Nếu Phật đă diệt
độ, ở trong đời ác trược, có thể
nói kinh này, đấy chính là khó khăn. Giả sử có một
người, tay nắm lấy hư không, để cầm
đi du hành, vẫn chưa phải là khó. Sau khi ta diệt
độ, nếu tự ḿnh chép, tŕ, hoặc khiến
người khác chép, đó chính là khó khăn. Nếu đem
cả đại địa, đặt trên móng ngón chân,
vượt lên cơi Phạm Thiên, vẫn chưa phải là
khó. Sau khi Phật diệt độ, ở trong cơi đời
ác, tạm đọc bộ kinh này,
đó chính là khó khăn. Giả sử kiếp
hỏa đốt, gánh một gánh cỏ khô, vào trong lửa
chẳng cháy, vẫn chưa đáng là khó. Sau khi ta diệt
độ, nếu phụng tŕ kinh này, v́ một người
mà nói, đó chính là khó khăn. Nếu phụng tŕ tám vạn,
bốn ngàn thứ pháp tạng, gồm mười hai bộ
kinh, v́ người khác diễn nói, khiến cho các thính chúng,
đắc sáu món thần thông, tuy làm được như
thế, vẫn chưa phải là khó. Sau khi ta diệt độ,
nghe nhận bộ kinh này, hỏi han các nghĩa thú, đó
chính là khó khăn. Nếu có người thuyết pháp, khiến
cho ngàn vạn ức, vô lượng và vô số, hằng sa
các chúng sanh, đều đắc A La Hán, trọn đủ
sáu thần thông. Tuy hữu ích như thế, vẫn chưa
phải là khó. Sau khi ta diệt độ, nếu có thể
phụng tŕ, kinh điển như thế này, đó chính là khó
khăn).
Tám vạn bốn ngàn pháp tạng,
mười hai bộ kinh đều thông Đại và Tiểu.
Hoằng dương, lưu thông các giáo thuộc bốn vị
trước (sữa, lạc, sanh tô, thục tô), đều
kèm theo phương tiện. V́ thế, vẫn là dễ dàng.
Do tŕ và
nói kinh này chính là thuần
nêu ra Nhất
Thật, cho nên khó khăn gấp bội!
11.2.3.2.1.3. Giải thích ư nghĩa khó tŕ
(Kinh)
Ngă vị Phật đạo, ư vô lượng độ,
tùng thỉ chí kim, quảng thuyết chư kinh, nhi ư kỳ
trung, thử kinh đệ nhất. Nhược hữu
năng tŕ, tắc tŕ Phật thân.
(經)我為佛道。於無量土。從始至今。廣說諸經。而於其中。此經第一。若有能持。則持佛身。
(Kinh: Ta
chính v́ Phật đạo, trong vô lượng cơi nước,
từ đầu cho tới nay, rộng nói các kinh điển,
nhưng trong các kinh ấy, kinh này là bậc nhất. Nếu
ai có thể tŕ, chính là tŕ thân Phật).
Không chỉ hơn bốn
mươi năm trong cơi này, chưa từng nói rơ rệt,
mà ngay cả trong vô lượng cơi, từ đầu cho tới
nay, tuy nói rất nhiều kinh, [các kinh ấy] vẫn chẳng
đàm luận sâu xa ư Phật như kinh này. Ba thứ Thể,
Tông, Dụng của kinh này, ba thứ “áo, ṭa, nhà”
chính là tam thân của Phật. Có thể tŕ kinh này chính là tŕ
thân Phật, ư ấy há dễ dàng ư? Phần thứ nhất,
“nêu ra lời khuyên” đă xong.
11.2.3.2.2. Giải thích ư khuyên lơn
11.2.3.2.2.1. Nhắc lại ư tuyển mộ
người tŕ kinh
(Kinh)
Chư thiện nam tử! Ư ngă diệt hậu, thùy
năng thọ tŕ, độc tụng thử kinh, kim ư
Phật tiền, tự thuyết thệ ngôn.
(經)諸善男子。於我滅後。誰能受持。讀誦此經。今於佛前。自說誓言。
(Kinh: Này các
thiện nam tử! Sau khi ta diệt độ, ai có thể
thọ tŕ, đọc tụng bộ kinh này, nay hăy đối
trước Phật, tự thốt lời thệ nguyện).
11.2.3.2.2.2. Có thể tŕ kinh khó tŕ th́ sẽ
được chư Phật hoan hỷ tán thán
(Kinh)
Thử kinh nan tŕ, nhược tạm tŕ giả, ngă tắc
hoan hỷ, chư Phật diệc nhiên. Như thị
chi nhân, chư Phật sở thán.
(經)此經難持。若暫持者。我則歡喜。諸佛亦然。如是之人。諸佛所歎。
(Kinh: Kinh này
khó thể tŕ, nếu có kẻ tạm tŕ, th́ ta sẽ hoan hỷ,
chư Phật cũng như thế. Người làm
được như thế, được chư Phật
khen ngợi).
11.2.3.2.2.3. Chỉ rơ đó chính là thành tựu
hạnh thù thắng tự hành, hóa độ người
khác
(Kinh) Thị tắc
dũng mănh, thị tắc tinh tấn, thị danh tŕ giới,
hành đầu đà giả, tắc vi tật đắc,
vô thượng Phật đạo. Năng ư lai thế,
độc tŕ thử kinh, thị chân Phật tử, trụ
thuần thiện địa.
(經)是則勇猛。是則精進。是名持戒。行頭陀者。則為疾得。無上佛道。能於來世。讀持此經。是真佛子。住湻善地。
(Kinh: Đấy chính
là dũng mănh, đấy chính là tinh tấn, đấy gọi
là tŕ giới, là người hành đầu đà, sẽ
nhanh chóng đạt được, Phật đạo quả
vô thượng. Có thể trong tương lai, đọc,
phụng tŕ kinh này, th́ là chân Phật tử, trụ địa
vị thuần thiện).
Đấy chính là
tự hành hạnh thù thắng.
(Kinh) Phật diệt
độ hậu, năng giải kỳ nghĩa, thị
chư thiên nhân, thế gian chi nhăn, ư khủng úy thế,
năng tu du thuyết. Nhất thiết thiên nhân, giai ưng
cúng dường.
(經)佛滅度後。能解其義。是諸天人。世間之眼。於恐畏世。能須臾說。一切天人。皆應供養。
(Kinh: Sau khi Phật diệt
độ, có thể hiểu nghĩa này, các hàng trời
người ấy, là mắt của thế gian, ở trong
đời kinh sợ, diễn nói trong khoảnh khắc. Hết
thảy các trời người, nên cúng dường người
ấy).
Đây là hạnh hóa độ
người khác thù thắng. Phẩm Kiến Bảo Tháp
đă xong.
12.
Phẩm mười hai: Đề Bà Đạt Đa (Đề
Bà Đạt Đa phẩm đệ thập nhị, 提婆達多品第十二)
Đề Bà Đạt
Đa (Devadatta)[15]
c̣n gọi là Đạt Đâu, cũng gọi là Điều
Đạt, phương này dịch là Thiên Nhiệt, do Ngài ứng
hiện thực hành ba chuyện ác nghịch. Cho nên khi Ngài
sanh ra, tâm của trời lẫn người đều
nóng nảy. V́ thế, đặt tên như thế. Đó là
giải thích theo Nhân Duyên (Hỏi: Người ác ra đời,
sao gọi là cảm ứng? Đáp: Khiến cho vô lượng
người chẳng dám tạo ác, [tức là] cũng trọn đủ Tứ Tất
Đàn. Người trông thấy [Đề Bà Đạt
Đa do tạo ác, chuốc lấy ác quả] sẽ mừng
rỡ chính ḿnh chẳng làm. Đó chính là Thế Giới Tất
Đàn. Chẳng tạo [ác nghiệp], sẽ sanh điều
lành. Đó là Vị Nhân Tất Đàn. Chẳng làm ác, tức
là Đối Trị Tất Đàn. Không có chuyện chướng
ngại chứng quả, tức là Đệ Nhất
Nghĩa Tất Đàn).
Xét theo giáo, trong ba giáo trước,
nghịch chỉ là nghịch, nay tuy nghịch mà thuận;
đó chính là ư nghĩa trong Viên Giáo.
Xét theo Bổn Tích, Bổn
địa thanh lương, chúng sanh phiền năo. V́ thế,
Bồ Tát thị hiện nóng bức, có cùng bệnh hạnh để độ thoát họ.
Đại Kinh chép: “Đề Bà Đạt Đa tất
bất phá tăng” (Đề Bà Đạt Đa ắt
chẳng phá hoại Tăng đoàn). Kinh Báo Ân chép: “Nhược
hữu nhân ngôn Đề Bà Đạt Đa thật thị
ác nhân, nhập A Tỳ ngục giả, vô hữu thị xứ”
(Nếu có kẻ nói Đề Bà Đạt Đa thật sự
là kẻ ác, là kẻ vào địa ngục A Tỳ, chẳng
có lẽ ấy!) Kinh Đại Vân nói: “Đề Bà Đạt
Đa bất khả tư nghị, sở hữu hạnh
nghiệp đồng ư Như Lai” (Đề Bà Đạt
Đa chẳng thể nghĩ bàn, tất cả hạnh nghiệp
giống như Như Lai).
Xét theo quán tâm, rốt ráo
đoạn các tướng khác nhau do các Ấm ḥa hợp và
tích tập, th́ gọi là “phá Tăng”. Rốt ráo đoạn
chủng tử tập khí của các Sử th́ gọi là “hại
A La Hán”. Rốt ráo đoạn các thứ ô nhiễm thuộc
bảy loại thức thân phiền năo sở tri th́ gọi
là “ác tâm khiến cho thân Phật chảy máu” (trích từ
quyển thứ ba của kinh Lăng Già). Ngài La Thập dịch
kinh xong, cung nhân xin đem phẩm này ẩn tàng, vùng Giang
Đông chỉ truyền hai mươi bảy phẩm.
Đời Lương có Măn pháp sư giảng kinh một
trăm lượt, thiêu thân tại quận Trường
Sa, Sư đem phẩm này đặt trước phẩm
Tŕ. Nam Nhạc đại sư cũng đặt phẩm
này sau phẩm Kiến Bảo Tháp. Về sau, tôi thấy cựu
bản tại Trường An, mới biết hai vị
đă thấu đạt sâu xa ư kinh.
Duyên do của phẩm thứ
ba trong phần Lưu Thông của Tích Môn: Dẫn
gương xưa hoằng truyền kinh [ḥng chứng
minh] lợi ích do truyền bá càng chẳng sai lầm. Nay
nói tới sự
tuyên dương, giáo hóa, nhằm dùng sự việc
để chứng nghiệm chẳng hư dối. Nêu chuyện
trước để khuyên lơn trong hiện tại, khiến
cho kinh được lưu thông. Kinh văn chia thành hai phần:
- Một, xưa kia Đạt
Đa lưu thông kinh, Phật Thích Ca thành đạo.
- Hai, hiện thời, ngài
Văn Thù lưu thông kinh, long nữ thành Phật.
Vâng nhận giáo
pháp mà c̣n [thành tựu] như thế, huống hồ đổ
công tuyên dương, lưu thông, lợi ích há chẳng to lớn
ư? V́ thế, Đạt Đa được thọ kư,
đối với ngài Văn Thù [tuy kinh không nói Ngài
được thọ kư], nhưng có thể suy ra ư đó!
12.1. Đạt Đa lưu thông kinh,
Phật Thích Ca thành đạo
12.1.1. Tướng trạng thầy tṛ
tŕ kinh thuở trước
12.1.1.1. Trường Hàng
12.1.1.1.1. Thời tiết cầu pháp
sư
(Kinh)
Nhĩ thời, Phật cáo chư Bồ Tát, cập thiên nhân
tứ chúng: - Ngô ư quá khứ vô lượng kiếp
trung, cầu Pháp Hoa kinh, vô hữu giải quyện.
(經)爾時佛告諸菩薩及天人四眾。吾於過去無量劫中。求法華經。無有懈倦。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, đức Phật bảo các Bồ Tát và tứ
chúng trời, người: - Ta trong vô lượng kiếp
quá khứ cầu kinh Pháp Hoa chẳng hề lười
nhác, mệt mỏi).
12.1.1.1.2. Trần thuật chuyện cầu
pháp
12.1.1.1.2.1. Phát nguyện
(Kinh)
Ư đa kiếp trung, thường tác quốc
vương, phát nguyện cầu ư Vô Thượng Bồ
Đề, tâm bất thoái chuyển.
(經)於多劫中。常作國王。發願求於無上菩提。心不退轉。
(Kinh: Trong nhiều
kiếp, thường làm quốc vương, phát nguyện
cầu Vô Thượng Bồ Đề, tâm chẳng thoái
chuyển).
12.1.1.1.2.2. Tu hành
12.1.1.1.2.2.1. Mong muốn viên măn Đàn
Na [Ba La Mật], siêng năng hành bố thí
(Kinh)
Vị dục măn túc Lục Ba La Mật,
cần hành bố thí, tâm vô lận tích, tượng, mă, thất
trân, quốc thành, thê tử, nô tỳ, bộc tùng, đầu,
mục, tủy, năo, thân nhục, thủ, túc, bất tích khu
mạng.
(經)為欲滿足六波羅蜜。勤行佈施。心無悋惜。象馬七珍。國城妻子。奴婢僕從。頭目髓腦。身肉手足。不惜軀命。
(Kinh: V́
muốn viên măn Lục Ba La Mật, siêng hành bố thí, tâm chẳng
keo tiếc. Voi, ngựa, bảy báu, quốc thành, vợ con,
nô tỳ, tôi tớ, đầu, mắt, tủy, năo, trên
thân, tay, chân, chẳng tiếc thân mạng).
12.1.1.1.2.2. V́ viên măn Bát Nhă, siêng năng
cầu diệu pháp
(Kinh)
Thời thế nhân dân, thọ mạng vô lượng. Vị
ư pháp cố, quyên xả quốc vị, ủy chánh Thái Tử,
kích cổ, tuyên lệnh tứ phương cầu pháp: “Thùy
năng vị ngă thuyết Đại Thừa giả, ngô
đương chung thân cung cấp tẩu sử”.
(經)時世人民。壽命無量。為於法故。捐捨國位。委政太子。擊鼓宣令。四方求法。誰能為我說大乘者。吾當終身供給走使。
(Kinh: Nhân
dân thuở ấy thọ mạng vô lượng. Nhà vua v́
pháp, vứt bỏ ngôi vua, giao việc triều chánh cho Thái Tử,
đánh trống, tuyên bố mạng lệnh cầu pháp bốn
phương: “Ai có thể v́ ta nói pháp Đại Thừa, ta
sẽ suốt đời làm kẻ hầu hạ cho người
đó”).
Phần thứ
hai, “nói
về chuyện cầu pháp” đă xong.
12.1.1.1.3. Cầu được pháp
sư
(Kinh)
Thời hữu tiên nhân, lai bạch vương ngôn: - Ngă hữu
Đại Thừa, danh Diệu Pháp Hoa kinh. Nhược bất
vi ngă, đương vị tuyên thuyết.
(經)時有仙人。來白王言。我有大乘。名妙法華經。若不違我。當為宣說。
(Kinh: Khi
ấy có tiên nhân đến bạch với vua rằng: - Ta
có pháp Đại Thừa tên là kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nếu
chẳng trái nghịch ta, ta sẽ v́ nhà vua tuyên nói).
12.1.1.1.4. Nhận lănh pháp, phụng hành
(Kinh) Vương
văn tiên ngôn, hoan hỷ, dũng dược, tức tùy
tiên nhân, cung cấp sở tu, thải quả, cấp thủy,
thập tân, thiết thực, năi chí dĩ thân nhi vi sàng ṭa,
thân tâm vô quyện. Ư thời phụng sự, kinh ư
thiên tuế, vị ư pháp cố, tinh cần cấp thị,
linh vô sở phạp.
(經)王聞仙言。歡喜踊躍。即隨仙人。供給所須。采果汲水。拾薪設食。乃至以身。而為牀座。身心無倦。於時奉事。經於千歲。為於法故。精勤給侍。令無所乏。
(Kinh: Nhà vua nghe tiên nhân nói, hoan hỷ, hớn
hở, liền theo tiên nhân cung cấp những thứ cần
dùng: Hái quả, gánh nước, nhặt củi, nấu
ăn, cho đến dùng thân làm giường, ṭa, thân tâm chẳng
mệt mỏi. Khi đó, nhà vua phụng sự trải qua một
ngàn năm, do v́ pháp, siêng ṛng hầu hạ, khiến cho tiên
nhân chẳng thiếu thốn).
Phần văn
Trường Hàng đă xong.
12.1.1.2. Kệ Tụng
12.1.1.2.1. Trùng tụng thời tiết
và cầu chánh pháp
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa,
nhi thuyết kệ ngôn: - Ngă niệm quá khứ kiếp, vị
cầu đại pháp cố. Tuy tác thế quốc
vương, bất tham ngũ dục lạc, chùy chung cáo tứ
phương, thùy hữu đại pháp giả, nhược
vị ngă giải thuyết, thân đương vi nô bộc.
(經)爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。我念過去劫。為求大法故。雖作世國王。不貪五欲樂。椎鐘告四方。誰有大法者。若為我解說。身當為奴僕。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại
nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Ta nhớ kiếp quá khứ,
v́ mong cầu đại pháp, tuy làm vua trong đời, chẳng
tham vui ngũ dục, gơ chuông báo bốn phương, nếu
ai có đại pháp, nếu v́ ta giải nói, ta sẽ làm nô bộc).
12.1.1.2.2. Trùng tụng cầu được
pháp sư
(Kinh)
Thời hữu A Tư tiên, lai bạch ư đại
vương: “Ngă hữu vi diệu pháp, thế gian sở hy
hữu. Nhược năng tu hành giả, ngô
đương vị nhữ thuyết”.
(經)時有阿私仙。來白於大王。我有微妙法。世間所希有。若能修行者。吾當為汝說。
(Kinh: Khi
đó, A Tư tiên (Asita)[16],
đến bạch cùng đại vương: - Ta có pháp vi
diệu, hiếm có trong thế
gian. Nếu có thể tu hành, ta sẽ v́ vua nói).
12.1.1.2.3. Trùng tụng chuyện thọ
pháp, phụng hành
(Kinh)
Thời vương văn tiên ngôn, tâm sanh đại hỷ
duyệt, tức tiện tùy tiên nhân, cung cấp ư sở
tu, thái tân cập quả lơa, tùy thời cung kính dữ. T́nh tồn
diệu pháp cố, thân tâm vô giải quyện, phổ vị
chư chúng sanh, cần cầu ư đại pháp.
(經)時王聞仙言。心生大喜悅。即便隨仙人。供給於所須。采薪及果蓏。隨時恭敬與。情存妙法故。身心無懈倦。普為諸眾生。勤求於大法。
(Kinh: Lúc
vua nghe tiên nói, tâm sanh đại hoan hỷ, liền đi
theo tiên nhân, cung phụng các nhu cầu, đẵn củi,
hái quả, củ, luôn cung kính đưa cho, do tâm v́ diệu
pháp, thân tâm chẳng lười, mệt, v́ khắp các chúng
sanh, siêng cầu đắc đại pháp).
12.1.1.2.4. Kết lại lời chứng
minh để khuyến tín
(Kinh)
Diệc bất vị kỷ thân, cập dĩ ngũ dục
lạc, cố vi đại quốc vương, cần cầu
hoạch thử pháp, toại trí đắc thành Phật, kim
cố vị nhữ thuyết.
(經)亦不為己身。及以五欲樂。故為大國王。勤求獲此法。遂致得成佛。今故為汝說。
(Kinh: Cũng
chẳng v́ chính ḿnh, chẳng v́ năm dục lạc, mà làm
đại quốc vương. Siêng cầu đắc pháp
này, v́ thế được thành Phật. Nên nay v́ ông nói).
Phần thứ nhất,
“tướng trạng thầy tṛ tŕ kinh thuở trước”
đă xong.
12.1.2. Kết lại, dung hội
xưa và nay
12.1.2.1. Kết lại để dung hội
(Kinh)
Phật cáo chư tỳ-kheo: - Nhĩ thời, vương
giả tắc ngă thân thị. Thời tiên nhân giả, kim
Đề Bà Đạt Đa thị.
(經)佛告諸比丘。爾時王者。則我身是。時仙人者。今提婆達多是。
(Kinh: Đức
Phật bảo các tỳ-kheo: “Nhà vua thuở đó là thân ta.
Tiên nhân khi ấy nay là Đề Bà Đạt Đa).
12.1.2. Chỉ rơ thầy lẫn tṛ công
đức và phước báo đều viên măn
12.1.2.1. Nói rơ đệ tử nhân tṛn
quả vẹn
(Kinh)
Do Đề Bà Đạt Đa thiện tri thức cố,
linh ngă cụ túc Lục Ba La Mật, từ, bi, hỷ, xả.
(經)由提婆達多善知識故。令我具足六波羅蜜。慈悲喜捨。
(Kinh: Do thiện
tri thức Đề Bà Đạt Đa khiến cho ta trọn
đủ Lục Ba La Mật, từ, bi, hỷ, xả).
Đây là trước hết
nói về cái nhân viên măn.
Hỏi: Đề Bà Đạt
Đa đời đời là kẻ oán của đức Phật, cớ sao
nói là thiện tri thức?
Đáp: Nhập Đại Thừa
Luận nói: “Nếu là kẻ oán, sao có thể đời
đời gặp gỡ? Như hai người đi
đường, mỗi người hướng về
Đông, hoặc tiến về Tây khác nhau, từng
bước cách xa, há trở thành bầu bạn ư?”
Ư nghĩa của Lục
Độ rất nhiều, nay chỉ nói đại lược.
Như Đại Luận nói: “Xả y báo và chánh báo gọi
là Đàn (bố thí). Pḥng ngừa bảy chi[17]
gọi là Giới. Bị chửi mắng chẳng đáp trả
là Nhẫn. Làm mọi việc [đều hoàn tất] từ
đầu đến cuối là Tinh Tấn. Tứ Thiền
Bát Định là Thiền. Tùy thuộc vào địa vị
mà chấm dứt đua tranh th́ là Bát Nhă”. Lại c̣n gom
Thập Thiện thành Lục Độ: Từ “chẳng giết
chóc” cho đến “chẳng nói dối” là Đàn (bố thí). Chẳng nói đôi chiều là Thi La (giới). Chẳng ác khẩu là Nhẫn. Chẳng
nói thêu dệt là Tấn (Tinh Tấn). Chẳng tham và sân là
Thiền. Chẳng tà kiến là Bát Nhă. Lại nữa, kinh Bồ
Tát Thiện Giới quyển thứ mười chép: “Lục
Ba La Mật hữu tam chủng: Nhất, đối trị,
vị xan, ố, sân, đăi, loạn, si. Nhị,
tương sanh, vị xả gia tŕ giới, ngộ nhục
tu nhẫn, nhẫn dĩ tinh tấn, tấn dĩ điều
ngũ căn, căn điều tri pháp giới. Tam quả
báo, vị đại phú nhiêu tài, chư căn cụ túc,
dung sắc đoan chánh, hữu đại oai lực, thọ
mạng an khang, biện tài vô ngại” (Lục Ba La Mật
có ba loại: Một là đối trị, tức là [đối
trị] keo kiệt, ghét bỏ, giận dữ, lười
nhác, tán loạn, si mê. Hai là sanh ra nhau, tức là do bỏ nhà
(xuất gia) bèn tŕ giới, gặp nhục bèn tu nhẫn, do
đă nhẫn nên tinh tấn, do đă tinh tấn nên điều
phục năm căn. Do đă điều phục các
căn nên biết pháp giới. Ba là quả
báo, tức là giàu to, lắm của, các căn đầy đủ, dung mạo và h́nh sắc
đoan chánh, có oai lực lớn, sống lâu, an ổn, khỏe
mạnh, biện tài vô ngại). Các kinh khác lại nói: Quả
báo của Thí là giàu, quả báo của Giới là [sanh trong]
đường lành. Quả báo của Nhẫn là đoan
chánh. Quả báo của Tinh Tấn là thần thông. Quả
báo của Thiền là sanh lên trời. Quả báo của Huệ
là phá phiền năo. Những điều giống như thế
đều là tướng trạng của Lục Độ
được nói trong Tam Tạng.
Nếu ba sự “người
thí”, “người nhận”, và “tài vật” [dùng để bố
thí] đều là Không th́ gọi là Đàn. Chẳng thấy
tŕ giới hay phạm giới, gọi là Giới. Người có thể nhẫn và điều phải
nhẫn đều chẳng thể được th́ gọi
là
Nhẫn. Thân tâm bất động gọi là Tinh Tấn. Chẳng
loạn, chẳng đắm chấp Thiền vị th́ gọi
là Thiền. Chẳng phải trí, chẳng phải ngu th́ gọi
là Bát Nhă. Những cách giải thích theo kiểu như vậy
chính là tướng trạng của Lục Độ theo
Thông Giáo.
Nếu nói Đàn có mười
điều lợi:
- Một là điều phục
Xan phiền năo (phiền năo keo tham).
- Hai là bỏ cái tâm tiếp nối.
- Ba là khiến cho chúng sanh đều cùng có của cải.
- Bốn là sanh trong nhà giàu có,
quyền thế.
- Năm là sanh tâm bố thí hiện
tiền.
- Sáu là tứ chúng yêu thích.
- Bảy là ở trong đại
chúng chẳng khiếp nhược, sợ hăi.
- Tám là danh xưng thù thắng
trọn khắp.
- Chín là tay chân mềm mại.
- Mười là sẽ đến
đạo tràng, luôn gặp gỡ thiện tri thức.
Giới có mười điều
lợi:
- Một là viên măn Nhất Thiết
Trí.
- Hai là học giống
như Phật.
- Ba là chẳng hủy báng bậc
trí.
- Bốn là thệ nguyện
chẳng lui sụt.
- Năm là an trụ trong chánh
hạnh.
- Sáu là vứt bỏ sanh tử.
- Bảy là hâm mộ, ưa
thích Niết Bàn.
- Tám là đạt được
cái tâm chẳng trói buộc.
- Chín là đạt được
tam-muội thù thắng.
- Mười là chẳng thiếu
tín tài.
Nhẫn có mười điều
lợi:
- Các điều một, hai,
ba, bốn chính là lửa, đao, chất độc, nước
đều chẳng thể làm hại.
- Năm là được phi
nhân bảo vệ.
- Sáu là thân tướng trang
nghiêm.
- Bảy là đóng chặt
đường ác.
- Tám là sanh lên Phạm Thiên.
- Chín là ngày đêm thường
an ổn.
- Mười là thân chẳng
ĺa hỷ lạc.
Tinh Tấn có mười
điều lợi:
- Một là kẻ khác chẳng
thể chiết phục.
- Hai là được Phật
nhiếp thọ.
- Ba là được phi nhân
hộ vệ.
- Bốn là nghe pháp chẳng
quên.
- Năm là [pháp] chưa nghe sẽ
có thể được nghe.
- Sáu là tăng trưởng
biện tài.
- Bảy là đạt
được tam-muội tánh.
- Tám là ít bệnh tật phiền
năo.
- Chín là ăn liền có thể
tiêu[18].
- Mười là tăng
trưởng như hoa Ưu Bát (Utpala, hoa sen xanh).
Thiền có mười điều
lợi:
- Một là an trụ nghi thức.
- Hai là hành cảnh giới của ḷng
Từ.
- Ba là chẳng bứt rứt,
hối hận.
- Bốn là thủ hộ các
căn.
- Năm là đạt
được niềm vui chẳng ăn (tức chẳng
cần ăn uống v́ trụ trong Thiền Duyệt Thực).
- Sáu là ĺa ái dục.
- Bảy là tu Thiền
bất không.
- Tám là giải thoái khỏi
lưới rập của ma.
- Chín là an trụ trong cảnh
Phật.
- Mười là giải thoát
thành thục.
Bát Nhă có mười điều
lợi:
- Một là chẳng giữ lấy
tướng Thí.
- Hai là chẳng nương
vào Giới.
- Ba là chẳng trụ trong Nhẫn
lực.
- Bốn là chẳng ĺa thân
tâm tinh tấn.
- Năm là Thiền chẳng
trụ vào đâu.
- Sáu là ma chẳng thể nhiễu
loạn.
- Bảy là ngôn luận của kẻ khác chẳng thể
lay động.
- Tám là thấu đạt tận
đáy sanh tử.
- Chín là dấy ḷng Từ
tăng thượng.
- Mười là chẳng thích
địa vị Nhị Thừa.
Lại c̣n có bốn sự phải
nên tu Đàn:
- Một là phá keo
tham.
- Hai là trang nghiêm Bồ
Đề.
- Ba là tự ḿnh lẫn
người khác đều đạt được lợi
ích. Khi sắp thí, khi đang thí, khi đă thí xong đều
hoan hỷ th́ gọi là tự lợi. Trừ đói khát cho
kẻ khác th́ gọi là lợi tha.
- Bốn là đạt
được đại thiện quả trong đời
sau, tức là tôn quư, tài sản phong phú.
Có bốn sự hăy nên tŕ giới:
- Một là tự tu
thiện pháp diệt ác giới.
- Hai là trang nghiêm Bồ
Đề nhiếp thọ chúng sanh.
- Ba là ngủ an ổn,
tỉnh giấc an ổn, chẳng hối hận, chẳng
có tâm hại chúng sanh.
- Bốn là mai sau sẽ
được hưởng sự vui nơi nhân, thiên, Niết
Bàn.
Có bốn sự hăy nên tu nhẫn:
- Một là trừ
khử chẳng nhẫn.
- Hai là trang nghiêm Bồ
Đề, nhiếp thọ chúng sanh.
- Ba là đôi bên đều
xa ĺa nỗi sợ hăi, đời sau chẳng sân, quyến
thuộc chẳng hoại, chẳng chịu khổ năo.
- Bốn là đạt
được niềm vui nhân, thiên, Niết Bàn.
Có bốn sự hăy nên tu tinh
tấn:
- Một là phá giải
đăi.
- Hai là trang nghiêm Bồ
Đề nhiếp thọ chúng sanh.
- Ba là tăng thêm thiện
pháp tức là tự lợi, chẳng năo hại người
khác th́ chính là lợi tha.
- Bốn là sau đó
sẽ đắc đại lực, đạt đến
Bồ Đề.
Có bốn sự phải nên
tu Thiền:
- Một là phá loạn
tâm.
- Hai là trang nghiêm Bồ
Đề nhiếp thọ chúng sanh
- Ba là thân tâm tịch
tĩnh, đó là tự lợi. Chẳng năo hại
chúng sanh là lợi tha.
- Bốn là về sau
sẽ được thân thanh tịnh, an ổn đắc
Niết Bàn.
Có bốn sự phải nên
tu Bát Nhă:
- Một là phá vô minh.
- Hai là trang nghiêm Bồ
Đề nhiếp thọ chúng sanh.
- Ba là trí huệ tự
vui sướng, đó là tự lợi. Có thể dạy
chúng sanh là lợi tha.
- Bốn là có thể
phá hoại phiền năo và trí chướng. Đó là đại
quả.
Các cách nói giống như thế
đều là tướng trạng của Lục Độ
được nói trong Biệt Giáo.
Kinh Nguyệt Tạng quyển
thứ nhất nói: “Nhược chúng sanh duy y độc
tụng, cầu Bồ Đề, thị nhân vị trước thế tục, thượng
bất điều kỷ phiền năo, hà năng điều
tha? Thị nhân trước tật đố, danh lợi,
phú quư, cao tâm tự thị, khinh mạn, hủy tha, thượng
bất đắc Dục Giới thiện căn, huống
Sắc, Vô Sắc thiện căn? Huống Nhị Thừa
Bồ Đề? Huống Vô Thượng Bồ Đề?
Như tinh hỏa bất năng càn hải, khẩu khí bất
năng động sơn, ngẫu ty bất năng xứng
nhạc. Đương tri thế tục bất năng
măn Bồ Đề, hà đẳng thị Đệ Nhất
Nghĩa? Vị tạo nhất thiết phước sự,
cập tu thân, tu tâm, tu huệ, dĩ Đệ Nhất
Nghĩa huân tu, tắc tốc măn Lục Ba La Mật. Nhược
hành, nhược tọa, xả phan duyên tưởng, thị
Đàn. Xả phan duyên bất phạm, thị Thi. Ư cảnh
giới, bất sanh sang vưu, thị Sạn. Bất xả
ư ly, thị Tinh Tấn. Ư sự trung bất phóng dật,
thị Thiền. Ư chư pháp thể tánh vô sanh, thị
Bát Nhă. Phục thứ ư Ấm xả, thị Đàn. Bất
kế niệm Ấm, thị Thi. Ư Ấm vô ngă tưởng,
thị Sạn. Ư Ấm khởi oán tưởng,
thị Tấn. Ư Ấm bất xí nhiên,
thị Thiền. Ư Ấm tất cánh khí, thị Bát Nhă.
Ư giới xả, thị Đàn. Ư giới bất nhiễu
trược, thị Thi. Ư
giới xả nhân duyên, thị Sạn.
Ư giới sổ sổ xả, thị Tấn. Ư giới
bất khởi phát, thị Thiền.
Ư giới như huyễn tưởng,
thị Bát Nhă. Như thị đẳng thị danh Đệ
Nhất Nghĩa Đế thiện xảo phương tiện
thậm thâm pháp yếu, năng măn Lục Ba La Mật.
Dĩ thử pháp tự vi, vi tha, tam thế Bồ Tát tất
tu thị pháp thành Bồ Đề cố, phi thế tục
dă. Thử pháp năng tức chúng sanh phiền năo đạo,
khổ đạo, an trí Bồ Đề đạo” (Nếu chúng sanh
chỉ nương vào đọc tụng để cầu
Bồ Đề, người ấy v́ chấp trước
thế tục, c̣n chẳng thể điều phục phiền
năo của chính ḿnh, sao có thể điều phục người
khác? Kẻ đó chấp trước ghen ghét, danh lợi,
phú quư, tâm cao ngạo, tự cho là đúng, khinh mạn, hủy
báng người khác, c̣n chẳng đạt được
thiện căn trong Dục Giới, huống hồ thiện
căn trong Sắc Giới và Vô Sắc Giới ư? Huống
hồ Nhị Thừa Bồ Đề ư? Huống hồ
Vô Thượng Bồ Đề ư? Như đốm
lửa chẳng thể khô cạn biển, một hơi thổi chẳng thể
lay động núi, sợi tơ từ ngó sen chẳng thể
cân quả núi. Hăy nên biết thế tục chẳng thể
viễn măn Bồ Đề. Những ǵ là Đệ Nhất
Nghĩa? Chính là tạo hết thảy phước sự,
và tu thân, tu tâm, tu huệ, dùng Đệ Nhất Nghĩa
để huân tu, sẽ mau chóng viên măn Lục Ba La Mật.
Dù đi, dù ngồi, đều bỏ ư tưởng nắm
níu, đó là Đàn Na (Bố Thí). Bỏ nắm níu chẳng
phạm th́ là Thi La (Giới). Đối với cảnh giới,
chẳng sanh đau ngứa, là Sạn Đề
(Nhẫn). Chẳng xả ĺa bỏ, đó là Tinh Tấn. Chẳng
buông lung nơi Sự, là Thiền. Đối với các pháp [thấu hiểu] thể tánh vô sanh, th́ là Bát Nhă. Lại
c̣n xả Ấm là Đàn. Chẳng so đo, nghĩ tới Ấm
là Thi La. Đối với Ấm, tưởng là vô ngă, chính
là Sạn Đề. Đối với Ấm, tưởng
như oán cừu th́
là Tinh Tấn. Chẳng khiến cho Ấm lừng lẫy
th́ là Thiền. Rốt ráo bỏ Ấm th́ là Bát Nhă. Đối
với Giới bèn xả là Đàn. Chẳng nhiễu loạn,
ô trược Giới th́ là Thi La. Xả nhân duyên nơi Giới
th́ là Sạn Đề. Đối với Giới nhiều
lượt xả th́ là Tinh Tấn. Đối với Giới,
chẳng dấy động, phát khởi th́ là Thiền.
Tưởng Giới như huyễn th́ là Bát Nhă. Những
điều như thế gọi là pháp yếu phương
tiện thiện xảo rất sâu trong Đệ Nhất
Nghĩa Đế, có thể toàn vẹn Lục Ba La Mật.
Dùng các pháp ấy để tự hành, hành cho người
khác, Bồ Tát trong ba đời đều do tu pháp này mà
thành Bồ Đề, chẳng phải là pháp thế tục.
Pháp này có thể dứt phiền năo đạo và
khổ đạo cho chúng sanh, an trí họ nơi Bồ Đề
đạo).
Kinh Hoa Nghiêm lại nói Thất
Địa Bồ Tát trong mỗi niệm đều trọn
đủ mười Ba La Mật. Hăy nên biết các địa
đều là “niệm nào cũng đều trọn đủ”;
chỉ v́ dạy bảo thích đáng, cho nên tới Thất
Địa mới nói. Những cách nói giống như thế
chính là tướng trạng của Lục Độ trong
Viên Giáo.
Nay nói đến nhân hạnh
của Phật Thích Ca, cần phải biết nơi Tích, Ngài
thị hiện bốn tướng, nhưng nơi Bổn
th́ chỉ hành Viên. Kế đó, từ, bi,
hỷ,
xả, mỗi pháp đều có sanh duyên, pháp duyên, và vô duyên,
ba loại bất đồng. Tam Tạng là sanh duyên, Nhị
Thừa chỉ có thể điều phục chính ḿnh, chỉ
có thể thâu nhiếp vào Định học. Bồ Tát v́
độ hết thảy, riêng tu tứ vô lượng tâm.
Nếu quả vị thành tựu, sẽ được gọi
là “đại
từ, đại bi, đại hỷ, đại xả”.
Pháp duyên trong Thông Giáo th́ tam thừa đều cùng tu,
nhưng nơi Tích th́ tự lợi và lợi tha cách biệt.
Biệt Giáo th́ theo thứ tự tu ba món. Viên Giáo th́ nhất
tâm trọn đủ, nơi Tích là bốn, nhưng nơi Bổn
chỉ là một. Phỏng theo Lục Độ trong đoạn
trước, sẽ có thể biết.
(Kinh) Tam thập nhị
tướng, bát thập chủng hảo, tử ma kim sắc,
Thập Lực, Tứ Vô Sở Úy, Tứ Nhiếp Pháp, thập
bát bất cộng, thần thông, đạo lực, thành
Đẳng Chánh Giác, quảng độ chúng sanh.
(經)三十二相。八十種好。紫磨金色。十力。四無所畏。四攝法。十八不共。神通道力。成等正覺。廣度眾生。
(Kinh: Ba mươi hai
tướng, tám mươi thứ hảo, sắc vàng tía
được giồi mài, Thập Lực, Tứ Vô Sở
Úy, Tứ Nhiếp Pháp, mười tám món bất cộng, thần
thông, đạo lực, thành Đẳng Chánh Giác, rộng
độ chúng sanh).
Kế đó, đoạn này
nói đến cái quả đă viên măn. Ba mươi hai
tướng được nói chi tiết trong Pháp Giới
Thứ Đệ Sơ Môn[19]
và Pháp Số v.v… Sách Pháp Hoa Văn Cú cũng nêu đại
lược, ở đây chẳng phiền trích lục. Tam
Tạng coi tinh tấn và tŕ giới là căn bản của
[ba mươi hai] tướng. Nếu chẳng tŕ giới
th́ c̣n chẳng thể đạt được thân trời
người, huống hồ thân tướng của Phật!
Thông Giáo coi Không và Vô Sanh là căn bản của các tướng.
Biệt Giáo coi Đạo Chủng Trí là căn bản của
các tướng. Viên Giáo coi Thật Tướng là căn bản
của các tướng. Nay nghe Pháp Hoa khiến cho ta trọn
đủ, tức là xứng tánh mà phát khởi để
đạt được, cũng là do nơi Tích đă tu
ba món [căn bản của các tướng] trước
đó. Tám mươi thứ hảo, Thập Lực, thần
thông v.v… như sách Pháp Số đă nói cặn kẽ. Phỏng
theo trên đây, sẽ biết trong tứ giáo, mỗi giáo
đều có tướng trạng bất đồng. Sau
đó, đều kết quy vào Viên tông.
(Kinh) Giai nhân Đề Bà
Đạt Đa thiện tri thức cố.
(經)皆因提婆達多善知識故。
(Kinh: Đều do
Đề Bà Đạt Đa làm thiện tri thức).
Điều này kết lại
điều chứng minh “do lưu thông kinh mà đạt
được lợi ích”. Phần thứ nhất, “đệ
tử nhân tṛn quả vẹn” đă xong.
12.1.2.2. Nói rơ pháp sư sẽ thành tựu
diệu quả
12.1.2.2.1. Thành tựu chánh quả
(Kinh)
Cáo chư tứ chúng, Đề Bà Đạt Đa khước
hậu quá vô lượng kiếp, đương đắc
thành Phật, hiệu viết Thiên Vương Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thế
giới danh Thiên Đạo.
(經)告諸四眾。提婆達多。卻後過無量劫。當得成佛。號曰天王如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。世界名天道。
(Kinh: Bảo tứ
chúng: - Đề Bà Đạt Đa trong vô lượng kiếp sau, sẽ
được thành Phật, hiệu là Thiên Vương
(Devarāja) Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư,
Phật, Thế Tôn. Thế giới tên là Thiên Đạo -
Devasopānā).
Nơi nhân tên là Thiên Nhiệt,
nơi quả hiệu là Thiên Vương, nước tên là
Thiên Đạo, đều là do triệt ngộ Đệ
Nhất Nghĩa Thiên trong Tánh Đức, chẳng nghịch,
chẳng thuận, mà là nghịch, là thuận. Chẳng nghịch
mà nghịch chẳng thể nghĩ bàn. Chính từ nghịch
mà thuận, cho nên gọi là Thiên Nhiệt. Chẳng thuận
mà thuận, sự thuận ấy chẳng thể nghĩ
bàn. Gom nghịch thành thuận, cho nên tên là Thiên
Vương. Hành phi đạo mà thông đạt Phật
đạo, cho nên gọi là Thiên Đạo.
Hỏi: Trong Tỳ Ni Tạng
nói rơ Điều Đạt khi sắp vào địa ngục,
đă đạt được Vô Căn Tín, miệng
xưng Nam-mô, chưa kịp xưng chữ Phật, thân liền
hăm đọa. Đức Phật thọ kư sau ba
kiếp, [Đề Bà
Đạt Đa] sẽ hết tội, thoát khỏi địa
ngục,
sanh làm người, sẽ đạt được quả
vị Bích Chi Phật, hiệu là Nam Mô. Đă ngộ đạo,
ôm bát khất thực, khi mới vừa xin được
thức ăn, do Túc Mạng Thông, tự quán túc hạnh, biết
là do sức thiện căn v́ xưng Nam-mô khi lâm chung, hổ
thẹn chẳng thọ thực, bèn diệt độ, sao
lại rất khác với sự thọ kư trong kinh này?
Đáp: Du hư thần thông, phổ
môn thị hiện, ba mươi hai ứng hiện của
chư đại Bồ Tát, trọn đủ các thân trong mười pháp giới, trọn khắp
pháp giới đến tột cùng vị lai. Chẳng hạn
như chuyện của Ương Quật Ma La, Tát Giá Ni Kiền,
Ca Lưu Đà Di v.v… căn cơ Đại, Tiểu Thừa,
đều do đạt được một phần Ba
La Mật của Như Lai. Nếu biết ư này, sẽ biết
đức Thích Ca đă thành Phật từ lâu xa, nhưng vẫn
thị hiện hành nhân hạnh nơi Đại Thông Trí Thắng
Phật, Oai Âm Vương Phật v.v… cho đến trong phẩm
này nêu chuyện Ngài cầu pháp, được Phật Nhiên
Đăng thọ kư, mỗi mỗi không ǵ chẳng phải
là phương tiện quyền biến khéo léo thị hiện dấu
tích ḥng lợi sanh, là phương tiện ân cần xưng
dương, tán thán, đều có nguyên do vậy!
12.1.2.2.2. Nói về người
được hóa độ
(Kinh)
Thời Thiên Vương Phật trụ thế nhị thập
trung kiếp, quảng vị chúng sanh thuyết ư diệu
pháp. Hằng hà sa chúng sanh đắc A La Hán quả, vô lượng
chúng sanh phát Duyên Giác tâm. Hằng hà sa chúng sanh phát vô thượng
đạo tâm, đắc Vô Sanh Nhẫn, chí bất thoái chuyển.
(經)時天王佛。住世二十中劫。廣為眾生說於妙法。恆河沙眾生得阿羅漢果。無量眾生發緣覺心。恆河沙眾生發無上道心。得無生忍。至不退轉。
(Kinh: Khi
đó, Thiên Vương Phật trụ thế hai
mươi trung kiếp, rộng v́ chúng sanh nói diệu pháp.
Hằng hà sa chúng sanh đắc quả A La Hán, vô lượng
chúng sanh phát tâm Duyên Giác. Hằng hà sa chúng sanh phát vô thượng
đạo tâm, đắc Vô Sanh Nhẫn, cho đến chẳng
thoái chuyển).
12.1.2.2.3. Lợi ích sau khi diệt độ
(Kinh)
Thời Thiên Vương Phật bát Niết Bàn hậu, chánh
pháp trụ thế nhị thập trung kiếp, toàn thân xá-lợi
khởi thất bảo tháp, cao lục thập do-tuần.
Tung quảng tứ thập do-tuần. Chư thiên, nhân dân tất
dĩ tạp hoa, mạt hương, thiêu hương, đồ
hương, y phục, anh lạc, tràng phan, bảo cái, kỹ
nhạc, ca tụng, lễ bái, cúng dường
thất bảo diệu tháp. Vô lượng chúng sanh đắc
A La Hán quả. Vô lượng chúng sanh ngộ Bích Chi Phật.
Bất khả tư nghị chúng sanh phát Bồ Đề
tâm, chí bất thoái
chuyển.
(經)時天王佛般涅槃後。正法住世二十中劫。全身舍利起七寶塔。高六十由旬。縱廣四十由旬。諸天人民。悉以雜華末香燒香塗香衣服瓔珞幢幡寶蓋技樂歌頌禮拜供養七寶妙塔。無量眾生得阿羅漢果。無量眾生悟辟支佛。不可思議眾生發菩提心。至不退轉。
(Kinh: Thuở
ấy, sau khi Thiên Vương Phật bát Niết Bàn, chánh
pháp trụ thế hai mươi trung kiếp, dựng tháp bảy
báu thờ toàn thân xá-lợi, cao sáu mươi do-tuần,
ngang dọc mỗi bề bốn mươi do-tuần.
Chư thiên, nhân dân đều dùng các thứ hoa, hương
bột, hương đốt, hương bôi, y phục,
chuỗi ngọc, tràng phan, lọng báu, kỹ nhạc để
ca tụng, lễ bái, cúng dường diệu tháp bảy
báu. Vô lượng chúng sanh đắc quả A La Hán, vô
lượng chúng sanh ngộ Bích Chi Phật. Chẳng thể
nghĩ bàn chúng sanh phát Bồ Đề tâm cho đến chẳng
thoái chuyển).
Phần thứ
hai, “kết lại, dung hội cổ kim” đă xong.
12.1.3. Khuyến tín
(Kinh) Phật cáo chư tỳ-kheo:
- Vị lai thế trung, nhược hữu
thiện nam tử, thiện nữ nhân văn Diệu Pháp
Hoa kinh Đề Bà Đạt Đa phẩm, tịnh tâm tín
kính, bất sanh nghi hoặc giả, bất đọa địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sanh thập phương
Phật tiền. Sở sanh chi xứ thường văn thử
kinh. Nhược sanh nhân thiên trung, thọ thắng diệu
lạc. Nhược tại Phật tiền, liên hoa hóa sanh.
(經)佛告諸比丘。未來世中。若有善男子善女人。聞妙法華經提婆達多品。淨心信敬。不生疑惑者。不墮地獄餓鬼畜生。生十方佛前。所生之處。常聞此經。若生人天中受勝妙樂。若在佛前蓮華化生。
(Kinh: Đức Phật
bảo các tỳ-kheo: - Trong đời vị lai, nếu có
thiện nam tử, thiện nữ nhân, nghe phẩm Đề
Bà Đạt Đa của kinh Diệu Pháp Liên Hoa mà tịnh
tâm tin tưởng, kính trọng, chẳng sanh ngờ vực,
sẽ chẳng đọa địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh, sẽ sanh trước chư Phật
trong mười phương. Ở nơi sanh về, thường
nghe kinh này. Nếu sanh trong trời, người, sẽ hưởng lạc thù thắng, mầu
nhiệm. Nếu sanh trước chư Phật, sẽ là hóa
sanh trong hoa sen).
“Tịnh tâm tín kính”: Chẳng
lầm lạc nẩy sanh phiền năo đối với dấu
tích thị hiện thiện ác th́ gọi là “tịnh tâm”.
Biết rơ đời đời thị hiện làm kẻ
oán chính là ḷ rèn để thành tựu “thành Phật” to lớn,
th́ gọi là Tín. Đối với kẻ oán cừu, bức
năo, có thể khởi lên ư tưởng “đó là thiện tri
thức chân thật” th́ gọi là Kính. Liễu đạt chuông
do gơ mà ngân vang, đao do được mài mà sắc
bén, vàng do nung luyện bèn tinh ṛng, hoa mai do trời lạnh
mà ngát hương, chỉ quan tâm đến lợi ích, chẳng
màng những điều sai trái khác, như con bú sữa, chẳng
chê mẹ xấu xí. Như người hái quả, chẳng
hiềm cành cây cong queo, đó là “bất sanh nghi hoặc”
(chẳng sanh ḷng ngờ vực). Như thế mới là
Văn Huệ, Tư Huệ, Tu Huệ, mới có thể
vĩnh viễn ĺa tam đồ, thường phụng sự
chư Phật, luôn nghe diệu pháp, liên hoa hóa sanh. Phần
thứ nhất, “Đạt Đa lưu thông kinh thuở
trước, Phật Thích Ca thành đạo” đă xong.
12.2. Hiện thời, ngài Văn Thù lưu thông kinh, long nữ
thành Phật
12.2.1. Nói về chuyện lưu thông
kinh
12.2.1.1. Trí Tích Bồ Tát thỉnh
[Đa Bảo Phật] lui về
(Kinh)
Ư thời, hạ phương Đa Bảo Thế Tôn sở
tùng Bồ Tát, danh viết Trí Tích, bạch Đa Bảo Phật
đương hoàn bổn độ.
(經)於時下方多寶世尊所從菩薩。名曰智積。白多寶佛。當還本土。
(Kinh: Khi
đó, vị Bồ Tát đi theo Đa Bảo Thế Tôn ở
phương dưới tên là Trí Tích (Prajñākūṭa) bạch
Đa Bảo Phật hăy nên trở về cơi ḿnh).
Hỏi: Đa Bảo
Phật đă thị hiện nhập diệt, sao lại có
Bồ Tát đi theo Ngài?
Đáp: Ắt hẳn là
người cúng dường, hầu cận tháp của Phật
Đa Bảo trong cơi đó, có thể vận dụng thần
thông nguyện lực đi theo tháp báu tới nghe kinh các
nơi, mà cũng do thần lực của Đa Bảo
Như Lai dẫn khởi, nhiếp thọ.
12.2.1.2. Phật Thích Ca ngăn cản
(Kinh)
Thích Ca Mâu Ni Phật cáo Trí Tích viết: - Thiện nam tử!
Thả đăi tu du, thử hữu Bồ Tát danh Văn Thù
Sư Lợi, khả dữ tương kiến, luận
thuyết diệu pháp, khả hoàn bổn thổ.
(經)釋迦牟尼佛告智積曰。善男子。且待須臾。此有菩薩。名文殊師利。可與相見。論說妙法。可還本土。
(Kinh: Thích
Ca Mâu Ni Phật bảo Trí Tích rằng: - Này thiện nam tử!
Hăy chờ giây lát, nơi đây có Bồ Tát tên là Văn Thù
Sư Lợi, ông có thể gặp gỡ, luận nói diệu
pháp rồi hăy trở về cơi ḿnh).
Ư của ngài Trí
Tích cho rằng tháp của Đa Bảo Phật chỉ v́ chứng
minh kinh mà xuất hiện. Nay phần khuyên lơn chúng sanh
lưu thông đă xong, cho nên thỉnh Phật trở về.
Phật Thích Ca th́ do Tích Môn đă xong, Bổn Môn chưa nêu
bày, cho nên mượn ngài Văn Thù làm cớ để
lưu Phật Đa Bảo lại. Mật ư của Phật,
Bồ Tát chẳng biết được!
12.2.1.3. Ngài Văn Thù liền đến
(Kinh)
Nhĩ thời, Văn Thù Sư Lợi tọa thiên diệp
liên hoa, đại như xa luân, câu lai Bồ Tát diệc tọa
bảo liên hoa, tùng ư đại hải Sa Kiệt La long
cung, tự nhiên dũng xuất, trụ hư không trung, nghệ
Linh Thứu sơn, tùng liên hoa hạ, chí ư Phật sở,
đầu diện kính lễ nhị Thế Tôn túc. Tu kính
dĩ tất, văng Trí Tích sở, cộng tương úy vấn,
khước tọa nhất diện.
(經)爾時文殊師利。坐千葉蓮華。大如車輪。俱來菩薩。亦坐寶蓮華。從於大海娑竭羅龍宮。自然涌出。住虛空中。詣靈鷲山。從蓮華下。至於佛所。頭面敬禮二世尊足。修敬已畢。往智積所。共相慰問。卻坐一面。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Văn Thù Sư Lợi ngồi trên hoa sen ngàn cánh, to
như bánh xe, các Bồ Tát cùng đến với Ngài cũng
ngồi trên hoa sen báu, từ cung rồng
Sa Kiệt La (Sāgara)[20]
trong biển cả, tự nhiên vọt ra, trụ trong hư
không, tới núi Linh Thứu (Gṛdhrakūṭa), từ
hoa sen bước xuống, đến chỗ đức Phật,
đầu mặt kính lễ dưới chân hai đức
Thế Tôn. Tu kính xong xuôi, qua chỗ ngài Trí Tích,
cùng nhau chào hỏi rồi ngồi qua một bên).
Hỏi: Trong phẩm Tự
có nói ngài Văn Thù hiện diện trong pháp hội, nay sao lại
từ biển xuất hiện?
Đáp: Có ba nghĩa:
- Một, chẳng rời khỏi
hội này, giáo hóa chúng sanh trong biển. Thánh cảnh ẩn
hiển, phàm phu chẳng thể suy lường được!
- Hai, trong phẩm Tự, sau
khi Ngài đă tạo lợi ích xong, lúc Ngài rời đi, há ắt
chẳng biết rơ ư? Khi Ngài đến th́ lợi ích to
lớn mới sanh, cùng với đại chúng từ biển
mà đến.
- Ba, Phạn văn rất rộng,
truyền dịch [sang tiếng Hán] rất đại lược.
Trong bản ấy (nguyên bản bằng tiếng Phạn),
không chừng có chép lúc Ngài rời khỏi hội. Chẳng
hạn như phẩm Nhập Pháp Giới trong kinh Hoa Nghiêm[21]
v.v…
Hỏi: Ngoài tam thiên, đều
có bốn trăm vạn ức na-do-tha cơi [do Phật Thích Ca
biến hóa ra, các cơi ấy đều] chẳng có biển cả.
V́ sao vẫn nói ngài Văn Thù từ biển đến?
Đáp: Giải thích theo sự
tướng mà c̣n chẳng thể nói rơ rệt
được, huống hồ [bàn luận] chuyện chẳng
thể nghĩ bàn ư! Nay dùng ba nghĩa để đả
thông:
- Một, đă dời trời,
người [sang cơi khác] và biến hóa biển
cả, nay do sức thần thông, từ chốn xa xôi đă
dời đi đó mà đến, đương nhiên là chẳng
bị xa xôi ngăn trở.
- Hai, dẫu đại chúng
đă được dời đi, nhưng cung rồng bất
động. Rồng cho là bất động, nhưng chỗ
họ ở đă biến đổi. Do từ chỗ “biến nhưng
chẳng biến” mà đến, có ǵ là không được?
- Ba, kẻ chẳng có duyên bị
dời đi, người có duyên th́ nay mới đến. Núi,
sông chẳng thể nghĩ bàn rành rành mà khiến cho đại
chúng chẳng thấy, chỉ là biến Kiến (cái Thấy
bị biến đổi), chẳng phải là cái Thể biến
đổi. Ngài Văn Thù đă chẳng khởi mà đến,
cơi ấy cũng chính là uế mà tịnh. V́ thế, kinh Tịnh
Danh nói “di trí tha độ, đô bất sử nhân hữu
văng lai tướng” (dời đặt sang cơi khác đều chẳng khiến cho mọi người
có tướng đến đi);
ở đây tuy khiến cho có tướng đến
đi, nhưng vốn chẳng dời. V́ thế, phải
nên biết là đối với căn cơ hữu duyên,
cơi nước biến đổi, đại chúng
được dời đi, nhưng vẫn đến. Kẻ
vô duyên dẫu cơi nước trở lại như cũ,
đại chúng t́m đến [pháp hội này
để nghe kinh Pháp Hoa], nhưng kẻ đó (kẻ vô duyên) chẳng đến. Do vậy, lư
tuy chẳng động, nhưng chuyện biến hóa tuân
theo nề nếp, cho nên khiến cho [mọi người] được
thấy khác nhau. Qua lại khác thời, quy cách
ứng
hóa của Bồ Tát c̣n
là như thế, há Phật lập cách biến hóa giống
như phàm phu ư?
Hỏi: Chẳng khởi mà
qua tới, sao lại nói là “đến”?
Đáp: Thị hiện cho
đại chúng đây kia biết công lực của kinh, biết
đến lợi ích do lănh thọ giáo pháp. V́ thế, cần
phải nói là “đến”. Chẳng qua mà qua, không đến
mà đến, đều v́ lợi lạc chúng sanh, cần
ǵ phải căn vặn điều này? V́ thế biết
là tuy nói “dời
khỏi cơi này”, nhưng nơi cơi khác
chưa chắc đă thấy đến! Cơi kia chẳng thấy
đến, cơi này chẳng thấy đi. Chẳng đến,
chẳng đi, nhưng chuyện dời
đi rành rành. Như trong kinh Tịnh Danh (kinh Duy Ma Cật), Như Lai ấn ngón chân xuống
đất, khi đó, đại chúng tự thấy [chính
ḿnh] ngồi trên hoa sen báu, mà cơi nước vẫn là uế
độ như cũ.
12.2.1.4. Trí Tích hỏi han
(Kinh)
Trí Tích Bồ Tát vấn Văn Thù Sư Lợi: - Nhân văng
long cung, sở hóa chúng sanh, kỳ số kỷ hà?
(經)智積菩薩問文殊師利。仁往龍宮。所化眾生。其數幾何。
(Kinh: Trí
Tích Bồ Tát hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi: - Nhân giả
qua long cung, hóa độ chúng sanh số lượng là bao
nhiêu?)
12.2.1.5. Ngài Văn Thù giải đáp
12.2.1.5.1. Trả lời: Lợi ích rất
nhiều
(Kinh)
Văn Thù Sư Lợi ngôn: - Kỳ số vô lượng, bất
khả xưng kế, phi khẩu sở tuyên, phi tâm sở
trắc. Thả đăi tu du, tự đương chứng
tri.
(經)文殊師利言。其數無量。不可稱計。非口所宣。非心所測。且待須臾。自當證知。
(Kinh: Ngài
Văn Thù Sư Lợi nói: - Số ấy vô lượng, chẳng
thể tính kể, miệng chẳng thể nói được,
tâm chẳng thể lường được. Hăy chờ
giây lát, sẽ tự chứng biết).
12.2.1.5.2. Kẻ được lợi
ích đều nhóm đến chứng thực
(Kinh)
Sở ngôn vị cánh, vô số Bồ Tát tọa bảo liên
hoa, tùng hải dũng xuất, nghệ Linh Thứu sơn,
trụ tại hư không. Thử chư Bồ Tát giai thị
Văn Thù Sư Lợi chi sở hóa độ, cụ Bồ
Tát hạnh, giai cộng luận thuyết Lục Ba La Mật.
Bổn Thanh Văn nhân tại hư không trung thuyết Thanh
Văn hạnh, kim giai tu hành Đại Thừa Không
nghĩa.
(經)所言未竟。無數菩薩坐寶蓮華。從海涌出。詣靈鷲山。住在虛空。此諸菩薩。皆是文殊師利之所化度。具菩薩行。皆共論說六波羅蜜。本聲聞人。在虛空中說聲聞行。今皆修行大乘空義。
(Kinh: Nói chưa
xong, vô số Bồ Tát ngồi trên hoa sen báu từ biển
vọt ra, tới núi Linh Thứu, trụ trong hư không. Các
vị Bồ Tát ấy đều do ngài Văn Thù Sư Lợi
hóa độ, trọn đủ Bồ Tát hạnh, đều
cùng luận bàn Lục Ba La Mật. Những vị vốn
là Thanh Văn ở trong hư không, nói hạnh Thanh Văn,
nay đều tu hành nghĩa Không của Đại Thừa).
Vô số Bồ Tát ngồi
trên hoa sen báu, có hai loại:
- Một là những vị vốn
phát tâm Đại Thừa.
- Hai là những vị vốn
là Thanh Văn, nay được ngài Văn Thù giáo hóa, cùng
quy vào Nhất Thật.
“Đại Thừa Không
nghĩa” chính là Thật Tướng của các pháp.
12.2.1.5.3. Ngài Văn Thù kết lại lợi
ích
(Kinh)
Văn Thù Sư Lợi vị Trí Tích viết: - Ư hải
giáo hóa, kỳ sự như thị.
(經)文殊師利謂智積曰。於海教化。其事如是。
(Kinh: Ngài
Văn Thù Sư Lợi bảo ngài Trí Tích: - Chuyện giáo hóa
trong biển là như thế đó).
12.2.1.5.4. Ngài Trí Tích nói kệ tán thán
(Kinh)
Nhĩ thời, Trí Tích Bồ Tát dĩ kệ tán viết: -
Đại trí đức dũng kiện, hóa độ vô lượng chúng. Kim
thử chư đại hội, cập ngă giai dĩ kiến,
diễn sướng Thật Tướng nghĩa, khai xiển Nhất
Thừa pháp, quảng đạo chư chúng sanh, linh tốc
thành Bồ Đề.
(經)爾時智積菩薩以偈讚曰。大智德勇健。化度無量眾。今此諸大會。及我皆已見。演暢實相義。開闡一乘法。廣導諸眾生。令速成菩提。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Trí Tích Bồ Tát dùng kệ tán thán rằng: - Đại
trí đức mạnh mẽ, hóa độ vô lượng
người. Nay
trong các đại hội, tôi đều đă trông thấy,
diễn bày nghĩa Thật Tướng, khai xiển pháp Nhất
Thừa, rộng hướng dẫn chúng sanh, khiến mau
thành Bồ Đề).
Phần thứ nhất,
“nói về chuyện lưu thông” kinh đă xong.
12.2.2. Giảng về lợi ích
12.2.2.1. Ngài Văn Thù tự trần thuật
(Kinh)
Văn Thù Sư Lợi ngôn: - Ngă ư hải trung, duy thường
tuyên thuyết Diệu Pháp Hoa kinh.
(經)文殊師利言。我於海中。唯常宣說妙法華經。
(Kinh: Ngài
Văn Thù Sư Lợi nói: - Tôi ở trong biển chỉ
thường tuyên nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa).
12.2.2.2. Ngài Trí Tích hỏi han
(Kinh)
Trí Tích vấn Văn Thù Sư Lợi ngôn: - Thử kinh thậm
thâm vi diệu, chư kinh trung bảo, thế sở hy hữu,
phả hữu chúng sanh cần gia tinh tấn, tu hành thử
kinh, tốc đắc Phật phủ?
(經)智積問文殊師利言。此經甚深微妙。諸經中寶。世所希有。頗有眾生勤加精進。修行此經。速得佛不。
(Kinh: Ngài
Trí Tích hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: - Kinh ấy
rất sâu vi diệu, là của báu trong các kinh, hiếm có
trong cơi đời, há có chúng sanh nào siêng năng, ra sức
tinh tấn tu hành kinh này, mau chóng thành Phật hay không?)
12.2.2.3. Văn Thù trả lời
(Kinh)
Văn Thù Sư Lợi ngôn: - Hữu Sa Kiệt La long
vương nữ, niên thỉ bát tuế, trí huệ lợi
căn, thiện tri chúng sanh chư căn hạnh nghiệp,
đắc đà-la-ni. Chư Phật sở thuyết thậm
thâm bí tạng, tất năng thọ tŕ, thâm nhập Thiền
Định, liễu đạt chư pháp, ư sát-na khoảnh,
phát Bồ Đề tâm, đắc bất thoái chuyển,
biện tài vô ngại, từ niệm chúng sanh, do như xích
tử, công đức cụ túc. Tâm niệm khẩu diễn,
vi diệu quảng đại, từ bi nhân nhượng,
chí ư ḥa nhă, năng chí Bồ Đề.
(經)文殊師利言。有娑竭羅龍王女年始八歲。智慧利根。善知眾生諸根行業。得陀羅尼。諸佛所說。甚深秘藏。悉能受持。深入禪定。了達諸法。於剎那頃。發菩提心。得不退轉。辯才無礙。慈念眾生。猶如赤子。功德具足。心念口演。微妙廣大。慈悲仁讓。志意和雅。能至菩提。
(Kinh: Ngài
Văn Thù Sư Lợi nói: - Có con gái của vua rồng Sa Kiệt
La mới tám tuổi, trí huệ lợi căn, khéo biết
các căn và hạnh nghiệp của chúng sanh, đắc
đà-la-ni. Tạng bí mật rất sâu do chư Phật
đă nói, đều có thể thọ tŕ, thâm nhập Thiền
Định, liễu đạt các pháp. Trong khoảng sát-na,
phát Bồ Đề tâm, đắc bất thoái chuyển,
biện tài vô ngại, từ bi nghĩ thương chúng sanh
khác nào con đỏ. Công đức đầy đủ,
tâm nghĩ, miệng nói, vi diệu rộng lớn, từ
bi, nhân từ, nhường nhịn, chí ư ḥa nhă, có thể
đạt tới Bồ Đề).
Trí huệ khéo biết
chúng sanh, tổng tŕ có thể thọ lănh Phật tạng,
đều là viên huệ. Thâm nhập Thiền Định,
liễu đạt các pháp chính là viên định. Do Định
Huệ b́nh đẳng, cho nên có thể trong khoảng sát-na
phát Bồ Đề tâm. Nói “ngộ Vô Sanh mới thấy
sát-na” chính là Sát Na Tế tam-muội. Thông đạt
sát-na ấy vô sanh, vô tánh, nhanh chóng nhập pháp giới chẳng
thể nghĩ bàn. Đó gọi là “giới nhĩ hữu
tâm, tam thiên cụ túc” (vừa mới nẩy chút tâm, tam thiên đại
thiên thế giới đă trọn đủ). Tam
thiên tức
Không, đạt được Vị Bất Thoái. Tam thiên
tức Giả, đạt được Hạnh Bất
Thoái. Tam thiên tức Trung, đạt được Niệm
Bất Thoái. Biết rơ chẳng ngang, chẳng dọc, cùng
chiếu ngang lẫn dọc, cho nên biện tài vô ngại, tự
ngộ tâm tánh và chư Phật giống nhau, nghĩ
thương xót chúng sanh đồng thể vẫn đang
mê. V́ thế “từ niệm do như xích tử” (từ
bi nghĩ tưởng ví như con đỏ). Đă có thể
trên ứng hợp chư Phật, dưới là giống
như chúng sanh. Cho nên công đức trọn đủ, có
thể đạt tới Bồ Đề. Bốn câu kể
từ “tâm niệm, khẩu diễn” (tâm nghĩ, miệng
nói) đều nhằm tán thán Viên hạnh.
12.2.2.4. Ngài Trí Tích do chấp Biệt
Giáo bèn nghi ngờ
(Kinh)
Trí Tích Bồ Tát ngôn: - Ngă kiến Thích Ca Như Lai ư vô
lượng kiếp nan hành khổ hạnh, tích công lũy đức, cầu Bồ
Đề đạo, vị tằng chỉ tức. Quán tam
thiên đại thiên thế giới, năi chí vô hữu như
giới tử hứa, phi thị Bồ Tát xả thân mạng
xứ vị chúng sanh cố. Nhiên hậu năi đắc thành
Bồ Đề đạo, bất tín thử nữ ư
tu du khoảnh tiện thành Chánh Giác.
(經)智積菩薩言。我見釋迦如來。於無量劫難行苦行。積功累德。求菩提道。未曾止息。觀三千大千世界。乃至無有如芥子許。非是菩薩捨身命處為眾生故。然後乃得成菩提道。不信此女於須臾頃。便成正覺。
(Kinh: Trí Tích Bồ
Tát nói: - Tôi thấy Thích Ca Như Lai trong vô lượng kiếp
hành khổ hạnh khó làm, tích lũy công đức để
cầu Bồ Đề đạo chưa từng ngưng
dứt. Xem cả tam thiên đại thiên thế giới, thậm
chí chẳng có chỗ nào to bằng hạt cải mà chẳng
phải là chỗ Bồ Tát xả thân mạng v́ chúng sanh.
Sau đấy Ngài mới được thành đạo Bồ
Đề, chẳng tin cô gái này trong khoảnh khắc sẽ liền
thành Chánh Giác).
Trí Tích theo hầu bảo
tháp, chuyên chứng minh kinh Viên Giáo, há có nên chẳng tin? Đấy
chính là Ngài v́ chúng sanh mà nêu bày mối nghi. Phật Thích Ca khổ
hạnh, thị hiện Tích giống với Biệt Giáo,
đó chính là phương tiện quyền biến để
hóa độ kẻ khác. Long nữ phát tâm liền ngự
lên Bất Thoái, tức là tự hành Thật (đây chỉ
là đối ứng với Thiên mà coi là Quyền,
coi Viên là Thật). “Tu du” (khoảnh khắc, giây lát) tức
là “sát-na khoảnh” (trong khoảng sát-na) trong câu trước
đó. Nhưng Quyền và Thật chẳng hai, Lư và Sự
dung thông lẫn nhau. Phật Thích Ca thị hiện dấu
tích hành trọn khắp các chuyện khó khăn, nhưng
trước đó Ngài đă chứng Viên lư từ lâu. Long nữ
thị hiện phát tâm trong sát-na, ắt cũng tích lũy
tư lương rất lâu, huống vô lượng kiếp
ư? Giải rằng: Vốn là nhất niệm, chỉ
trong khoảnh khắc, tánh trọn đủ mười
đời xưa nay. Như tiên nhân Cù Mục[22]
nắm tay Thiện Tài, trong ṿng một niệm, [Thiện
Tài] trải khắp số kiếp như số vi trần trong
một cơi nước để thừa sự chư Phật,
hành Bồ Tát đạo. Lư tánh bất động, Phật
sự rành rành. Nếu bảo Biệt Giáo một mực thuộc
về Sự, Viên Giáo một mực thuộc về
Lư, th́ Lư và Sự tách rời, vẫn đọa vào chấp
trước Biên Kiến. Sự chẳng có Lư th́ dùng ǵ để
tự lập? Lư chẳng có Sự th́ dùng ǵ để tự
phô bày? Nguyện người đọc kinh hăy suy xét!
12.2.2.5. Long nữ nêu bày Viên Giáo để cởi gỡ mối nghi
(Kinh) Ngôn luận vị ngật, thời long
vương nữ hốt hiện ư tiền, đầu
diện lễ kính, khước trụ nhất diện,
dĩ kệ tán viết: “Thâm đạt tội phước
tướng, biến chiếu ư thập phương. Vi
diệu tịnh Pháp Thân, cụ tướng tam thập nhị.
Dĩ bát thập chủng hảo, dụng trang nghiêm Pháp
Thân. Thiên nhân sở đới ngưỡng, long thần hàm
cung kính. Nhất thiết chúng sanh loại, vô bất tông phụng
giả. Hựu văn thành Bồ Đề, duy Phật
đương chứng tri. Ngă xiển Đại Thừa
giáo, độ thoát khổ chúng sanh”.
(經)言論未訖。時龍王女。忽現於前。頭面禮敬卻住一面。以偈讚曰。深達罪福相。徧照於十方。微妙淨法身。具相三十二。以八十種好。用莊嚴法身。天人所戴仰。龍神咸恭敬。一切眾生類。無不宗奉者。又聞成菩提。唯佛當證知。我闡大乘教。度脫苦眾生。
(Kinh: Bàn nói
chưa xong, khi đó, con gái của long vương bỗng
hiện ra trước mặt, đầu mặt lễ kính,
đứng lui qua một bên, dùng kệ tán thán [đức Phật] rằng: “Hiểu
sâu tướng tội phước, chiếu trọn khắp
mười phương. Pháp Thân sạch vi diệu, đủ
ba mươi hai tướng, dùng tám mươi thứ hảo,
để trang nghiêm Pháp Thân. Trời, người đều
kính ngưỡng, long thần cùng cung kính. Hết thảy
loài chúng sanh, không ai chẳng sùng phụng. Lại nghe
thành Bồ Đề, chỉ Phật sẽ chứng biết.
Con xiển giáo Đại Thừa,
độ thoát chúng sanh khổ”).
Đấy là do long nữ tŕ
kinh mà được
hiểu. V́ thế, lưu loát tán Phật, chính là nêu rơ Viên
Giáo ḥng tháo gỡ mối nghi. Hai bài kệ rưỡi đầu
tiên, tán thán đức Phật đă nêu bày Viên Giáo. Bài kệ
sau đó là dẫn
chứng để cởi gỡ mối nghi. Thoạt đầu
nói “thâm đạt tội phước tướng, biến
chiếu ư thập phương” (liễu đạt
sâu xa tướng tội phước, chiếu trọn khắp
mười phương): Tướng tội phước
chỉ là tướng mười pháp giới. Tam đồ
là tội, nhân thiên là phước. Hữu lậu là tội,
vô lậu là phước. Thiên Không là tội, xuất Giả
là phước. Nhị Biên là tội, Trung Đạo là
phước. Đản Trung (chỉ chấp vào Trung) là tội,
viên Trung là phước. Đă nêu ra tướng của
mười pháp giới, vậy th́ Tánh, Thể, cho đến
Quả Báo, không ǵ chẳng được gồm thâu trọn
vẹn. Tướng tội phước của mười
pháp giới v.v… đều là các pháp sanh bởi nhân duyên. Ngay
nơi bản thể chính là Không, là Giả, là Trung. Tam Tạng
chỉ thấu đạt một câu nhân duyên, chiếu sáu
pháp giới chứ không chiếu mười. Thấu đạt
chẳng sâu, chẳng chiếu trọn khắp.
Thông Giáo chỉ thấu đạt nhân duyên của sáu pháp giới
chính là Không, nhưng thấu đạt
cũng chẳng sâu, chiếu cũng chẳng trọn khắp.
Biệt Giáo thấu đạt theo thứ tự, và cũng
chiếu theo thứ tự, vẫn chẳng thể gọi “thấu
đạt sâu xa, chiếu trọn khắp”. Chỉ có
người thuộc Viên Giáo biết rơ một niệm hiện
tiền theo chiều dọc tột cùng tận đáy của
Tam Đế, theo chiều ngang tột cùng bờ mé của
mười pháp giới, chẳng Đế nào không phải
là mười pháp giới, tức là theo chiều dọc mà
chẳng phải là chiều dọc. Không pháp giới nào chẳng
phải là Tam Đế, tức là theo chiều ngang
mà chẳng phải chiều ngang. Chẳng phải dọc,
chẳng phải ngang, mà vừa ngang, vừa dọc. Do
đó, nói: “Thâm đạt tội phước tướng,
biến chiếu ư thập phương” (thấu
đạt sâu xa tướng tội phước, chiếu
trọn khắp mười phương). Lại gồm
thâu ngang và dọc, cùng gọi là Tánh Đức. Tánh Đức
chẳng phải ngang, chẳng phải dọc, do các phàm
thánh thường b́nh đẳng. Lại nói là chiều
ngang, nắm vững tánh thành tu, cần phải hiểu rơ Lục
Tức. Tu cũng chẳng phải là ngang, chẳng phải
là dọc, do pháp vô vi mà có sai biệt. Lại nói là dọc,
Lư ở ngay nơi mê, thấu đạt mà chẳng thấu
đạt, chiếu mà chẳng chiếu, danh tự đă mất,
được gọi là “đạt chiếu”. Khi
đă rốt ráo, thấu đạt bèn sâu nhất, chiếu
bèn trọn khắp nhất. Nay tán thán Phật đức rốt
ráo, v́ thế nói “thâm đạt tội phước
tướng, biến chiếu ư thập phương”.
“Vi diệu tịnh Pháp
Thân”: Tam thiên tức Giả, nên là Vi. Tam thiên tức Trung,
nên Diệu. Tam thiên tức Không, nên Tịnh. Tam đức
chẳng ngang dọc, chẳng cùng nhau hay tách biệt; đó
chính là Pháp Thân do chư Phật đă chứng. Pháp Thân vô
tướng, không ǵ chẳng phải là tướng. Thật
Tướng là cội gốc của tướng hải
trong Đại Thừa và Tiểu Thừa. V́ thế, trọn
đủ ba mươi hai tướng và tám mươi
tướng thứ hảo. Mỗi tướng hảo
đều chính là pháp giới, Pháp Thân vốn trọn đủ,
lại dùng để trang nghiêm Pháp Thân. Đó gọi là “toàn
tánh thành tu, toàn tu hiển tánh”.
Bốn câu từ “thiên nhân”
trở đi dễ hiểu. Lại nữa, “văn thành
Bồ Đề” (nghe thành tựu Bồ Đề) nhắc
lại ư nghĩa ngài Văn Thù ca ngợi long nữ “trong
khoảng sát-na có thể đạt tới Bồ Đề”
trong phần trên. “Duy Phật đương chứng tri”
(chỉ có Phật sẽ chứng biết): Dẫn Phật
để làm chứng, nhằm tháo gỡ mối nghi của
ngài Trí Tích. “Ngă văn Đại Thừa giáo, độ
thoát khổ chúng sanh” (con nghe
giáo pháp Đại Thừa, độ cho chúng sanh đang khổ
sở được giải thoát) nhằm tỏ lộ ư
nghĩa: Không lâu sau, [long nữ] sẽ qua thế giới Vô
Cấu ở phương Nam, thành Đẳng Chánh Giác, chuyển
đại pháp luân!
12.2.2.6. Ngài Thân Tử do chấp vào Tam
Tạng Quyền Giáo bèn cật vấn
(Kinh) Thời Xá Lợi Phất ngữ long nữ
ngôn: - Nhữ vị bất cửu đắc vô thượng
đạo, thị sự nan tín. Sở dĩ giả hà? Nữ
thân cấu uế, phi thị
pháp khí, vân hà năng đắc Vô Thượng Bồ Đề?
Phật đạo huyền khoáng, kinh vô lượng kiếp
cần khổ tích hạnh, cụ tu chư độ, nhiên
hậu năi thành. Hựu nữ nhân thân, do hữu ngũ chướng:
Nhất giả, bất đắc tác Phạm thiên vương,
nhị giả, Đế Thích, tam giả, ma vương, tứ
giả, Chuyển Luân Thánh Vương, ngũ giả, Phật
thân. Vân hà nữ thân tốc đắc thành Phật? “
(經)時舍利弗語龍女言。汝謂不久得無上道。是事難信。所以者何。女身垢穢。非是法器。云何能得無上菩提。佛道懸曠。經無量劫勤苦積行。具修諸度。然後乃成。又女人身。猶有五障。一者不得作梵天王。二者帝釋。三者魔王。四者轉輪聖王。五者佛身。云何女身速得成佛。
(Kinh: Khi
đó, ngài Xá Lợi Phất nói với long nữ rằng: -
Ngươi nói không lâu sẽ đắc vô thượng
đạo, chuyện ấy khó tin. V́ lẽ nào vậy? Thân
nữ cấu uế, chẳng phải là pháp khí, sao có thể
đắc Vô Thượng Bồ Đề? Phật đạo
lâu xa, phải trải qua vô lượng kiếp siêng khổ
tích lũy công hạnh, tu trọn các Độ rồi mới
thành tựu. Lại nữa, thân nữ nhân c̣n có năm chướng:
Một, chẳng thể làm Phạm thiên vương, hai là [chẳng
thể làm] Đế Thích, ba là [chẳng
thể làm] ma vương, bốn là [chẳng
thể làm] Chuyển Luân Thánh
Vương, năm là [chẳng thể
làm] thân
Phật. Lẽ nào thân nữ nhanh chóng thành Phật cho
được?)
Trong kinh Tịnh Danh, Thân Tử
từng vấn đáp với thiên nữ, đă biết rơ
nam nữ chẳng có tướng nhất định, huống
nay Ngài đă đắc ngộ ngay trong châu đầu tiên
(Pháp Thuyết Châu), dự vào địa vị Sơ Trụ
trong Viên Giáo, sở chứng tương đồng với
long nữ, há thật sự có chuyện bắt bẻ này ư?
Đấy cũng là v́ lợi ích chúng sanh mà nêu lời cật
vấn ấy!
12.2.2.7. Long nữ dùng Nhất Thật
để trừ nghi
(Kinh)
Nhĩ thời, long nữ hữu nhất bảo châu, giá trị
tam thiên đại thiên thế giới, tŕ dĩ thượng
Phật, Phật tức thọ chi. Long nữ vị Trí Tích
Bồ Tát, tôn giả Xá Lợi Phất ngôn: “Ngă hiến bảo
châu, Thế Tôn nạp thọ, thị sự tật phủ?”
Đáp ngôn: “Thậm tật”. Nữ ngôn: - Dĩ nhữ thần
lực quán ngă thành Phật, phục tốc ư thử!
(經)爾時龍女有一寶珠。價值三千大千世界。持以上佛。佛即受之。龍女謂智積菩薩。尊者舍利弗言。我獻寶珠。世尊納受。是事疾不。荅言。甚疾。女言。以汝神力觀我成佛。復速於此。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, long nữ có một viên bảo châu, giá trị bằng tam thiên đại thế giới, cầm
dâng lên Phật. Đức Phật liền nhận lấy.
Long nữ bảo Trí Tích Bồ Tát và tôn giả Xá Lợi Phất
rằng: “Tôi dâng bảo châu, đức Thế Tôn tiếp
nhận, chuyện ấy có nhanh chóng hay không?” Đáp rằng:
“Rất nhanh”. Cô ta bảo: “Hăy dùng thần lực của
các vị để quán tôi thành Phật c̣n nhanh hơn thế”).
“Bảo châu” biểu thị
tu tập viên nhân. “Dâng lên Phật”: Biểu thị do
cái nhân quyết đạt được cái quả. “Phật
tức thọ chi” (Phật liền nhận lấy): Biểu
thị đạt được cái quả rất nhanh. Giải
thích theo quán tâm th́ Thỉ Giác là bảo châu, Bổn Giác là Phật.
Thỉ Giác xứng hợp Bổn Giác, tức là dùng châu dâng
lên Phật, Phật liền nhận thấy.
(Kinh)
Đương thời chúng hội giai kiến long nữ hốt
nhiên chi gian, biến thành nam tử, cụ Bồ Tát hạnh,
tức văng Nam phương Vô Cấu thế giới, tọa
bảo liên hoa, thành Đẳng Chánh Giác, tam thập nhị
tướng, bát thập chủng hảo, phổ vị thập
phương nhất thiết chúng sanh diễn thuyết diệu
pháp.
(經)當時眾會。皆見龍女。忽然之間。變成男子。具菩薩行。即往南方無垢世界。坐寶蓮華。成等正覺。三十二相。八十種好。普為十方一切眾生演說妙法。
(Kinh: Chúng hội khi ấy
đều thấy long nữ bỗng dưng biến thành
nam tử, trọn đủ hạnh Bồ Tát, liền qua
thế giới Vô Cấu (Vimalā) ở phương Nam,
ngồi trên hoa sen báu, thành Đẳng Chánh Giác, ba
mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo, khắp
v́ hết thảy chúng sanh trong mười phương thế
giới diễn nói diệu pháp).
Hỏi: Thai kinh (kinh Bồ
Tát Xử Thai) nói: “Ma, Phạm, Thích, nữ, giai bất xả
thân, bất thọ thân, tất ư hiện thân đắc
thành Phật” (Ma, Phạm, Đế Thích, nữ nhân
đều chẳng xả thân, chẳng thọ thân, đều
từ ngay trong thân hiện tại mà được thành Phật).
Nay [long nữ] biến thành nam tử rồi mới thành Phật,
Quyền Thật như thế nào?
Đáp: Thai Kinh nói đến
chuyện thành Phật nơi thân hiện tại là nói theo
khía cạnh tự hành phá Vô Minh Hoặc, đó là Thật.
Kinh này nói “biến thành nam tử” tức là nói theo khía
cạnh hóa độ người khác, thị hiện tám
tướng thành đạo, tức là Quyền. Cần phải
biết: Nương theo giáo pháp viên đốn để tu
diệu hạnh, đích xác có thể ngay lập tức
thành Phật. V́ thế nói: “Pháp tánh như đại hải,
bất thuyết hữu thị phi, phàm phu, hiền thánh
nhân. B́nh đẳng vô cao hạ, duy tại tâm cấu diệt,
thủ chứng như phản chưởng” (pháp tánh
như biển cả, chẳng nói có đúng sai. Phàm phu, bậc
hiền thánh, b́nh đẳng, chẳng cao thấp. Cốt
sao tâm cấu diệt, chứng đắc như lật
tay). Do v́ hành theo Thật rất nhanh chóng, cho nên
dùng Quyền hạnh để thị hiện chứng minh
sự thành tựu, khiến cho kẻ khác tin sâu, chẳng
nghi.
Hỏi: Nữ biến thành
nam liền ngồi nơi đạo tràng, đă chẳng có
các tướng giáng thần [nhập thai mẹ], ở trong
thai, xuất gia v.v… Sao gọi là tám tướng thành đạo?
Đáp: Cơi tịnh hay uế
khác biệt, tám tướng việc ǵ phải hoàn toàn giống
hệt như nhau! Hơn nữa, Pháp Thân thị hiện chẳng
thể nghĩ bàn. Trong cơi này, tự thấy biến nữ
thành nam, cơi kia từ đầu đến cuối vẫn
thấy tám tướng cũng chẳng hề không thể!
Hỏi: Các vị như Xá Lợi
Phất v.v… đă dự vào Sơ Trụ của Viên Giáo,
cũng có thể [thị hiện] tám tướng thành Phật,
v́ lẽ nào [đức Phật] thọ kư [các vị ấy]
phải trong bao kiếp rộng lớn mai sau [mới
được thành Phật]?
Đáp: Tự hành theo Thật,
ắt sở chứng xét theo Lư sẽ như nhau. Hóa độ
người khác tuân theo Quyền, ắt v́ căn cơ của
chúng sanh [mà thị hiện
sự tướng] khác nhau! Huống hồ các vị
đại đệ tử toàn là Pháp Thân ứng hiện,
thị hiện dấu tích ở các chỗ đều khác
nhau? Sao dám biết chắc Ngài chẳng thị hiện thành
Phật ở cơi khác ư?
Hỏi: Giả sử các vị
như Xá Lợi Phất v.v… đều đă thành Phật ở
thế giới khác, v́ sao lại thị hiện được
thọ kư trong cơi này?
Đáp: Thọ kư ở
nơi đây ḥng khiến cho chúng sanh thấy nghe, sẽ kết
duyên trong mai sau, khiến cho họ đắc độ
trong vị lai. Như thế th́ theo chiều ngang trọn khắp
mười phương, theo chiều dọc sẽ nhiều
lượt chẳng ngớt rộng độ chúng sanh.
Chúng sanh giới vẫn chẳng thể tận, há có thể
dùng cái tâm t́nh kiến so đo để suy lường
đại sự pháp giới ư?
12.2.2.8. Đại chúng thuở đó
thấy nghe bèn đạt được lợi ích
(Kinh)
Nhĩ thời, Sa Bà thế giới Bồ Tát, Thanh Văn,
thiên long bát bộ, nhân dữ phi nhân, giai dao kiến bỉ long nữ
thành Phật, phổ vị thời hội nhân thiên thuyết
pháp, tâm đại hoan hỷ, tất dao kính lễ. (Bỉ
độ) vô lượng chúng sanh văn pháp giải ngộ,
đắc bất thoái chuyển. Vô lượng chúng sanh
đắc thọ đạo kư. Vô Cấu thế giới lục
phản chấn động. Sa Bà thế giới tam thiên
chúng sanh trụ Bất Thoái địa, tam thiên chúng sanh phát Bồ
Đề tâm nhi đắc thọ kư.
(經)爾時娑婆世界菩薩聲聞天龍八部。人與非人。皆遙見彼龍女成佛。普為時會人天說法。心大歡喜。悉遙敬禮。(彼土)無量眾生。聞法解悟。得不退轉。無量眾生。得受道記。無垢世界。六反震動。娑婆世界三千眾生。住不退地。三千眾生。發菩提心而得受記。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, Bồ Tát, Thanh Văn, thiên long bát bộ,
nhân và phi nhân trong thế giới Sa Bà đều
từ xa thấy cô long nữ ấy thành Phật, khắp
v́ trời người trong hội thuở ấy thuyết
pháp, tâm đại hoan hỷ, đều vọng bái kính lễ.
Vô lượng chúng sanh (trong cơi ấy) nghe pháp giải ngộ,
đắc bất thoái chuyển. Vô lượng chúng sanh thọ
đạo kư. Thế giới Vô Cấu chấn động
sáu lượt. Ba ngàn chúng sanh trong thế giới Sa Bà trụ
địa vị bất thoái, ba ngàn chúng sanh phát tâm Bồ
Đề bèn được thọ kư).
Trước hết nói “dao
kiến, dao văn” (thấy từ xa, nghe từ xa); v́ thế
“dao kính lễ” (hướng đến phương xa
kính lễ). Kế đó, nói rơ cơi ấy được lợi
ích, sau đó nói cơi này được lợi ích. V́
phương Nam duyên đă chín muồi, đáng nên dùng tám
tướng thành Phật. Cơi này duyên mỏng, chỉ dùng
[thân phận] long nữ để giáo hóa, đều là từ
Thể khởi Dụng, do sức của Phổ Hiện Sắc
Thân tam-muội mà đạt được,
thân
và hết thảy các thân đều có thể
tùy nghi thị hiện.
12.2.2.9. Trí Tích và Thân Tử im lặng
tin nhận
(Kinh) Trí Tích Bồ
Tát cập Xá Lợi Phất, nhất thiết hội chúng,
mặc nhiên tín thọ.
(經)智積菩薩。及舍利弗。一切眾會。默然信受。
(Kinh: Trí Tích Bồ Tát
và Xá Lợi Phất, hết thảy đại chúng trong hội
đều im lặng tin nhận).
Phẩm Đề Bà Đạt
Đa đă xong.
Diệu Pháp Liên Hoa
Kinh Luân Quán Hội Nghĩa
phần 10 hết
[1] Phù Đồ
vốn là cách phiên âm xưa của chữ Buddha trong thời
kỳ đầu dịch kinh. Trong các bản dịch cổ,
chữ Phật được phiên âm là Phật Đồ,
Phù Đà, Phù Đồ, Bột Đồ v.v… từ đời
Tùy - Đường trở đi, luôn phiên âm thống nhất
là Phật Đà hay Phật. Tháp thờ Phật thoạt đầu
thường được gọi là Phù Đồ Tháp rồi
dần dần chữ Tháp bị rơi mất, dân gian vẫn
quen gọi tháp thờ Phật là Phù Đồ.
[2] Theo nghĩa thông thường, Phấn Tấn là trạng thái tinh thần
phấn chấn, mạnh mẽ, hành động nhanh chóng, mạnh
mẽ, hùng tráng. Giải thích về Sư Tử Phấn Tấn
tam-muội, ông
Đinh Phước Bảo
viết: “Khi sư tử phấn tấn, các căn đều
căng ra, lông trên thân dựng lên, hiện tướng trạng
oai vũ, phẫn nộ, gào rống. Phật nhập môn
tam-muội này, chấn động thân đại bi pháp giới,
mở toang đại bi môn căn, hiện oai thế
tương ứng căn cơ, khiến cho hàng ngoại đạo,
Tiểu Thừa đều khiếp phục. V́ thế gọi
là Sư Tử Phấn Tấn tam-muội”.
[3] Bộ kinh này
có tên gọi đầy đủ là Phật Thuyết Phổ
Hiền Bồ Tát Hành Pháp, là một trong ba bộ kinh trọng
yếu để lập cước của tông Thiên Thai
(kinh Vô Lượng Nghĩa, kinh Pháp Hoa, và kinh Phổ Hiền
Hành Pháp). Kinh này do ngài Đàm Ma Mật Đa dịch sang tiếng
Hán vào năm Nguyên Gia nguyên niên đời Lưu Tống
(424). Kinh giới thiệu pháp quán Phổ Hiền Bồ Tát
và cách tu tập Pháp Hoa tam-muội.
[4] Khám là danh từ để gọi
chung các cấu trúc nhỏ để thờ Phật, thần
thánh, hay tổ tiên, có thể hiểu đại lược
như trang thờ của người Việt. “Khám thất”
thường là các ô lơm khắc vào trong tường,
vách của một kiến trúc (như tháp, chùa, miếu)
để thờ Phật, Bồ Tát, thường
được trang trí, điêu khắc như một cung
điện nhỏ hay một điện đường
nhỏ.
[5] Bát âm ở đây là tám loại âm
thanh của đức Phật:
1) Cực hảo âm: Do Phật đức rộng lớn,
âm thanh cực tốt đẹp, khiến người người được nghe đều nhập đường
lành.
2) Nhu nhuyễn âm: Tiếng nói mềm
mỏng, dịu dàng, khiến cho người
nghe vui sướng, đều bỏ tâm ương ngạnh,
tự nhiên tuân hành luật hạnh.
3) Ḥa thích âm: Phật ngự trong lư
Trung Đạo, v́ thế âm thanh có thể khiến cho
người nghe được điều phục, dịu
dàng, tự hiểu lư.
4) Tôn huệ âm: Người nghe thấy
Phật nói sẽ tôn trọng, trí thông hiểu, tỏ ngộ.
5) Bất nữ âm: Âm thanh chẳng ẻo
lả, mà hùng tráng, khiến cho người
nghe trấn định, sanh ḷng kính ngưỡng.
6) Bất ngộ âm: Phật trí viên
minh, chiếu liễu chẳng sai lầm, khiến cho
người nghe ai nấy đạt được chánh kiến.
7) Thâm viễn âm: Phật trí thấu
đạt Chân Tế, hạnh vị cực
cao, âm thanh thấu triệt mười phương, khiến
cho kẻ ở gần chẳng nghe to, kẻ ở xa chẳng
nghe nhỏ, nghe xong đều chứng nhập lư rất
sâu.
8) Bất kiệt âm: Như Lai cực
quả nguyện hạnh vô tận, trụ trong pháp tạng
vô tận. V́ thế, âm thanh thao thao bất tận, âm vang chẳng
cạn kiệt, khiến cho người nghe lănh hội ngay
ư nghĩa, đạt được cái quả thường
trụ, thấy rơ thứ tự trong pháp giới.
[6] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Thế
giới do bảy báu hợp thành, thanh tịnh vô cấu, nên
gọi là Bảo Tịnh”.
[7] Pháp sư Phổ Hành chú giải: “Phật
Đa Bảo hiện tháp, không chỉ nhằm chứng minh
kinh Pháp Hoa, mà c̣n v́ hiển thị Pháp Thân bất diệt.
Do vậy, ngài Đại Nhạo Thuyết muốn thấy
Phật Đa Bảo, cũng là v́ đă biết Pháp Thân bất diệt”.
[8] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Lưu
ly làm đất, cây báu trang nghiêm nhằm phá t́nh kiến chấp
trước mê tịnh của chúng sanh. Nói ‘lưu ly làm
đất…’ là nói tướng cơi đất trang nghiêm. Nói
‘chẳng có làng xóm…’ là ẩn tàng tướng mạo của
cơi Sa Bà. Nhưng Sa Bà tuy ẩn mà chẳng diệt, Tịnh
Độ tuy hiển mà chẳng tăng. Chẳng tăng,
chẳng giảm, nhiễm và tịnh thật sự là một
tướng. Nói ‘đốt hương báu lớn…’ là nói
đến quả đức trang nghiêm, hiển thị diệu
hạnh nơi nhân địa. Thiêu đại bảo
hương chính là nghe pháp trong khi tu nhân, treo các linh báu chính
là thuyết pháp vô ngại. Chư Phật đến thế
giới Sa Bà biểu thị hoàn Tích về Bổn. Nói
‘như thị triển chuyển’ hàm nghĩa thế giới
có cùng tận, nhưng Chân Như vô tận”.
[9] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Mục
Chân Lân Đà là tên của một long vương. Núi ấy
là nơi long vương đó cư ngụ, cho nên núi được đặt tên
theo long vương. Ṭa núi sắt vây quanh một tiểu thế
giới được gọi là núi Thiết Vi. Núi sắt vây quanh một tam thiên
đại thiên thế giới th́ được gọi là Đại
Thiết Vi”. Chính
long vương Mục Chân Lân Đà (c̣n phiên âm là Mục Chi
Lân Đà) đă dùng thân làm ṭa và dùng chín cái đầu để
làm lọng che mưa cho Phật Thích Ca khi Ngài ngồi dưới
cội Bồ Đề tư duy ḥng đắc đạo.
Do chuyện này, các chùa theo truyền thống Nam Tông thường
đắp tượng h́nh rắn hổ mang chín đầu
chầu hai bên lối vào chánh điện, cũng như
tượng Phật ngồi Thiền trên ḿnh rắn chín
đầu.
[10] Kiều Thi Ca (Kauśika) là
tên gọi khác của Đế Thích, c̣n được phiên
âm là Kiều Chi Ca. Theo quyển bốn mươi sáu của
Đại Trí Độ Luận: Xưa kia, Đế Thích làm Bà-la-môn trong xứ Ma Già Đà (Ma Kiệt
Đà), có họ là Kiều Thi Ca, tên là Ma Già. Do nhân duyên ấy,
khi thuyết pháp, đôi lúc đức Phật vẫn gọi
Đế Thích là Kiều Thi Ca. Trong thuở ấy, Bà-la-môn Ma Già Kiều Thi Ca cùng với ba mươi hai người
cùng tu trí huệ và phước đức, cho nên khi mạng chung, họ đều sanh vào tầng trời
thứ hai. Ma Già làm thiên chúa (tức
Đao Lợi thiên vương), ba mươi hai người
kia làm phụ thần (quan lại phù tá). Do có ba
mươi ba người cầm đầu, cho nên cơi trời ấy mới
có danh xưng là Đao Lợi (Trāyastriṃśa, Tam Thập Tam Thiên).
Đế Thích cùng với Phạm Vương là hai vị
thần hộ pháp chủ yếu của Phật giáo, cho nên
có nhiều nơi tạc tượng hai vị này chầu
hầu bên Phật.
[11] Hiện thời, trong Phật môn,
khi nói “vấn tấn”, thường
được hiểu là “chắp tay cúi đầu xá
trước khi đảnh lễ”, nhưng nghĩa gốc
của Vấn Tấn là hỏi thăm để tỏ ḷng quan tâm.
Nay gọi xá trước khi đảnh lễ là Vấn Tấn
vẫn hàm nghĩa, khi đối trước Phật, Bồ
Tát, tôn đức, xá trước khi lễ giống như một biểu hiện quan
tâm thăm hỏi trước khi đảnh lễ. Sách
Thích Thị Yếu Lăm chép: “Thiên Trúc có chín nghi thức tỏ ḷng cung kính”. Tây Vực Kư chép kỹ càng hơn: “Nghi thức tỏ
ḷng tôn kính tại Thiên Trúc có chín cách: Một là thốt lời thưa hỏi, hai là cúi đầu tỏ ḷng tôn kính, ba là
khẽ cúi đầu, ṿng tay giơ lên cao, bốn là chắp
tay, năm là khụy gối, sáu là quỳ thẳng, bảy
là áp khủy tay sát đất, tám là năm vóc đều chạm
đất, chín là năm vóc ép sát đất”.
[12] Đây là cách hỏi thăm thông thường giữa Phật với
Phật, Bồ Tát đối với Phật, đệ tử
thưa hỏi Phật, Phật hỏi các vị tỳ-kheo,
chư tăng hoặc Phật tử hỏi thăm nhau
như thường thấy chép trong các kinh luật luận, chẳng hạn như kinh Ma Ha Bát Nhă, kinh Duy Ma Cật, kinh Pháp Hoa, Tứ Phần
Luật, kinh Tạp A Hàm, Ngũ Phần Luật, Du Già Sư Địa
Luận, Đại Trí Độ Luận, Ma Ha Tăng Kỳ
Luật v.v... Đại Trí Độ Luận
quyển mười giải thích v́ sao “vấn tấn”
Phật, người khác cũng hỏi Ngài ít bệnh, ít năo
như sau: “Phật tuy là Nhất Thiết Trí, nhưng tùy
thuận pháp thế gian, người đời thăm hỏi
Phật cũng hỏi han: Phật ở trong nhân gian, thọ
pháp của nhân gian, nóng, lạnh, sanh tử giống như
con người, cho nên cách thăm hỏi cũng giống
như thế”. Luận c̣n giảng thêm: “Có hai cách vấn
tấn, hỏi han về thân và hỏi han về tâm. Hỏi
ít bệnh, ít năo, đi lại nhanh nhẹn, và
khí lực, tức là hỏi han về thân. Nếu nói an lạc hay chăng, th́ là hỏi han về tâm. Các thứ
bệnh trong ngoài, gọi là thân bệnh. Các thứ phiền
năo như dâm dục, sân khuể, ghen ghét, keo tham, ưu sầu,
sợ hăi v.v… là tâm bệnh. Đối với mỗi thứ
bệnh đều hỏi han, cho nên nói ‘ít bệnh, ít năo, đi đứng
nhanh nhẹn, khí lực an lạc hay chăng?” Theo Ma Ha Tăng Kỳ Luật,
người được hỏi cũng trả lời: “Nhân
giả ít bệnh, ít năo, đi đường có mệt mỏi,
nhọc nhằn hay không?”
[13] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Điều
này có hai ư nghĩa:
- Một, hiển thị chư Phật
đạo đồng, chẳng hai mà hai, tuy hai mà chẳng
hai.
- Hai, nhằm phá trừ chấp
trước Phật Thích Ca có sanh diệt. V́ thế, dùng
chuyện Đa Bảo Phật tuy diệt mà chẳng diệt,
chẳng diệt mà thị hiện diệt độ, nhằm hiển thị Thích Ca Mâu Ni
Phật chẳng sanh mà sanh, sanh mà chẳng sanh”.
[14] Hữu Đảnh (Akaniṣṭha) c̣n gọi
là A Ca Nị Trá thiên, dịch nghĩa là Sắc Cứu Cánh
Thiên, tức là tầng trời cao nhất trong Sắc Giới.
Đây là tầng trời cao nhất mà chúng sanh trong đó c̣n
có h́nh sắc, cho nên c̣n gọi là Hữu Đảnh (tột
cùng của cơi hữu h́nh).
[15] Kinh sách c̣n phiên âm tên vị này thành
Đề Bà Đạt Đâu, Đế Bà Đạt
Đa, Địa Bà Đạt Đa, Địa Bà Đạt
Đâu, Điều Bà Đạt Đa v.v… Nếu dịch
nghĩa th́ ngoài Thiên Nhiệt, c̣n được dịch
thành Thiên Thọ (trời truyền trao) và Thiên Dữ (trời trao cho). Vị này là con của Hộc Phạn Vương (Dronodana, em của Tịnh Phạn Vương), là anh ruột của ngài A Nan. Do vậy, Ngài chính là em
họ bên nội của đức Phật. Từ bé, khi
cùng học tập nghệ thuật, vũ thuật, Đề Bà Đạt
Đa đă luôn tranh chấp
với thái tử Tất Đạt Đa. Sau khi Phật
thành đạo, bèn theo đức Phật xuất gia, thiện
tâm tu hành suốt mười hai năm, siêng gắng chẳng
lười nhác. Sau đó, v́ không đắc thánh quả, bèn thoái chuyển, dần dần nẩy
sanh ác niệm, muốn học thần thông để cầu
lợi dưỡng. Do không được Phật chấp
thuận, ông ta bèn lén gạt ngài Thập Lực Ca
Diếp học được thần thông. Sau đó, thị
hiện thần thông, lôi cuốn vua A Xà Thế tin tưởng
cúng dường. Sau đó, thị hiện chia rẽ
tăng đoàn, cũng như nhiều lần toan hăm hại
hoặc sát hại Phật.
[16] Pháp sư Phổ Hành giảng: “A
Tư dịch nghĩa là Vô Tỷ Đoan Chánh (đoan chánh
không ai sánh bằng), do h́nh mạo và pháp của vị tiên
nhân này đoan chánh không ai bằng, cho nên có tên như thế”.
[17] “Bảy chi” được nói
ở đây chính là ba điều ác nơi thân (giết, trộm,
dâm) và bốn điều ác nơi miệng (nói dối, nói
đôi chiều, nói thêu dệt, nói lời thô ác).
[18] Ở đây, “tiêu” nên hiểu theo nghĩa “có thể kham lănh thọ sự cúng
dường của đại chúng”, giống như câu kệ trong nghi thức Quán
Đường “tán tâm tạp thoại, tín thí nan tiêu”
(tâm tán loạn, chuyện gẫu, đồ cúng dường của tín thí sẽ
khó tiêu).
[19] Pháp Giới Thứ Đệ Sơ
Môn là tác phẩm do ngài Trí Khải (Trí Giả đại
sư) biên soạn, thường được gọi tắt
là Pháp Giới Thứ Đệ, nói về các danh tướng
và giáo nghĩa trong A Tỳ Đàm. Đồng thời, Tổ
c̣n luận định mức độ cạn sâu của
các giáo để hướng dẫn hành nhân tu tập Tam Quán theo thứ tự,
bao gồm sáu mươi môn kể từ Danh Sắc cho tới
Tứ Niệm Xứ.
[20] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Sa
Kiệt La dịch nghĩa là Hàm Hải (biển nước
mặn) ở ngoài phía rặng Kim Sơn thứ bảy [bao
quanh núi Tu Di]. Rồng sống ở đó, nên gọi là long
cung”.
[21] Trong kinh Hoa Nghiêm, vừa mở
đầu, Văn Thù Bồ Tát đă hiện diện và Ngài
giảng nói mấy phẩm liền về công hạnh của
hàng Thập Tín Bồ Tát, chẳng hạn như phẩm Tịnh
Hạnh. Nhưng đến phẩm Nhập Pháp Giới,
Thiện Tài đồng tử lại cầu pháp với
ngài Văn Thù tại rừng Thệ Đa (tức vườn
Kỳ Đà), có sáu ngàn vị tỳ-kheo tùy tùng Bồ Tát.
Đồng tử được Bồ Tát dạy đi
tham học với năm mươi ba vị thiện tri thức,
tức là Bồ Tát có đến dự và rời pháp hội.
[22] Cù Mục tiên nhân gọi đầy
đủ là Tỳ Mục Cù Sa tiên nhân (Bhīşmottara-nirghoşa) là vị thiện
tri thức thứ tám trong năm mươi ba lần tham học
của Thiện Tài đồng tử. Theo lời dạy của
ưu-bà-di Hưu Xả (Ashā), Thiện Tài đồng
tử đến nước Na Lại Tố, t́m được
vị tiên nhân này trong một khu rừng lớn. Tiên nhân có hơn
một vạn đồ chúng. Tiên nhân cho biết Ngài đă đắc
Bồ Tát Vô Thắng Tràng Giải Thoát pháp môn. Tiên nhân dùng tay
xoa đầu Thiện Tài, rồi cầm tay Thiện Tài. Thiện
Tài liền nhập tam-muội, thấy đạo tràng của
chư Phật trong mười phương thế giới,
thấy các cơi ấy, thấy tướng hảo trang nghiêm
của chư Phật, đồng thời nghe hết thảy
chư Phật đồng thời thuyết pháp, nghe hiểu,
tin nhận từng câu từng chữ chẳng sót v.v… Đồng
thời, trải trần số kiếp, vào các cơi Phật,
phụng sự chư Phật, hành Bồ Tát đạo, thâm
nhập Tỳ Lô Giá Na Tạng tam-muội…