Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa
phần 11
Đất Cổ Ngô,
Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật
妙法蓮華經綸貫會義
古吳後學蕅益智旭述
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
duyệt: Đức Phong và Huệ Trang
13. Phẩm thứ mười ba: Phẩm
Tŕ (Tŕ phẩm đệ thập tam, 持品第十三)
Hai vạn Bồ
Tát phụng mạng hoằng kinh; v́ thế gọi là phẩm
Tŕ. Lại khuyên tám mươi vạn ức na-do-tha [Bồ
Tát] hoằng kinh; do vậy gọi là phẩm Tŕ.
Đây là phẩm thứ
tư thuộc phần Lưu Thông của Tích Môn, kinh văn được chia làm hai phần:
- Một là nói về
sự thọ tŕ.
- Hai là khuyến tŕ.
13.1. Nói về sự thọ tŕ
13.1.1. Hai vạn Bồ Tát phụng mạng
tŕ kinh trong cơi này
(Kinh)
Nhĩ thời, Dược Vương Bồ Tát Ma Ha Tát, cập
Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát Ma Ha Tát, dữ nhị
vạn Bồ Tát quyến thuộc câu, giai ư Phật tiền,
tác thị thệ ngôn: - Duy nguyện Thế Tôn bất dĩ
vi lự. Ngă đẳng ư Phật diệt hậu, đương
phụng tŕ, độc tụng, thuyết thử kinh điển.
Hậu ác thế chúng sanh thiện căn chuyển thiểu,
đa tăng thượng mạn, tham lợi cúng dường,
tăng bất thiện căn, viễn ly giải thoát. Tuy
nan khả giáo hóa, ngă đẳng đương khởi
đại nhẫn lực, độc tụng thử kinh,
tŕ thuyết, thư tả, chủng chủng cúng dường,
bất tích thân mạng.
(經)爾時藥王菩薩摩訶薩。及大樂說菩薩摩訶薩。與二萬菩薩眷屬俱。皆於佛前作是誓言。惟願世尊不以為慮。我等於佛滅後。當奉持讀誦說此經典。後惡世眾生。善根轉少。多增上慢。貪利供養。增不善根。遠離解脫。雖難可教化。我等當起大忍力。讀誦此經。持說書寫。種種供養。不惜身命。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Dược Vương (Bhaiṣajyarāja)
Bồ Tát Ma Ha Tát, và Đại Nhạo Thuyết (Mahāpratibhāna)
Bồ Tát Ma Ha Tát, cùng với hai vạn Bồ
Tát quyến thuộc, đều đối trước đức
Phật, thốt lời thề rằng: - Kính mong đức
Thế Tôn đừng lo nghĩ. Sau khi đức Phật
diệt độ, chúng con sẽ phụng
tŕ, đọc tụng, nói kinh điển này. Chúng sanh trong đời
ác sau này, thiện căn chuyển thành ít đi, nhiều tăng
thượng mạn, tham lợi lộc cúng dường, tăng
thêm bất thiện căn, xa ĺa giải thoát. Tuy khó thể
giáo hóa, chúng con sẽ dấy lên nhẫn lực to lớn, đọc
tụng kinh này, ǵn giữ, giảng nói, biên chép, cúng dường
đủ mọi cách, chẳng tiếc thân mạng).
13.1.2. Hàng Thanh Văn phát thệ lưu
thông [kinh này] trong cơi khác
(Kinh)
Nhĩ thời, chúng trung ngũ bách A La Hán đắc thọ
kư giả, bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Ngă đẳng diệc
tự thệ nguyện ư dị quốc độ, quảng
thuyết thử kinh”. Phục hữu Học, Vô Học bát thiên nhân đắc thọ
kư giả, tùng ṭa nhi khởi, hiệp chưởng hướng
Phật, tác thị thệ ngôn: - Thế Tôn! Ngă đẳng
diệc đương ư tha quốc độ, quảng
thuyết thử kinh. Sở dĩ giả hà? Thị Sa Bà quốc
trung, nhân đa tệ ác, hoài tăng thượng mạn, công
đức thiển bạc, sân trược, siểm khúc, tâm
bất thật cố.
(經)爾時眾中五百阿羅漢得受記者。白佛言。世尊。我等亦自誓願於異國土廣說此經。復有學無學八千人得受記者。從座而起。合掌向佛。作是誓言。世尊。我等亦當於他國土廣說此經。所以者何。是娑婆國中。人多弊惡。懷增上慢。功德淺薄。瞋濁諂曲。心不實故。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, trong đại chúng, năm trăm vị
A La Hán đă được thọ kư bạch cùng đức
Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng tự
thệ nguyện rộng nói kinh này ở cơi khác”. Lại có
tám ngàn vị Học và Vô Học đă được thọ
kư, từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng
về đức Phật, thốt lời thề rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ ở trong quốc
độ khác, rộng
nói kinh này. V́ lẽ nào vậy? V́ trong cơi Sa Bà này, lắm kẻ
tệ ác, ôm ḷng tăng thượng mạn, công đức
cạn mỏng, sân hận, uế trược, siểm khúc,
tâm chẳng chân thật).
Hỏi: Các vị Thanh
Văn ấy đă thành đại sĩ, v́ sao chẳng thể
hoằng kinh trong cơi này?
Đáp: Nhằm dẫn
khởi những người sơ tâm mới hành Bồ Tát
chẳng thể lưu thông kinh trong đời ác khổ sở.
Lại c̣n v́ muốn mở ra phẩm An Lạc Hạnh vậy!
13.1.3. Các tỳ-kheo-ni xin được
thọ kư
13.1.3.1. Thọ kư cho bà Đại Ái Đạo
và sáu ngàn vị ni
(Kinh)
Nhĩ thời, Phật di mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề tỳ-kheo-ni,
dữ Học Vô Học tỳ-kheo-ni lục thiên nhân câu, tùng
ṭa nhi khởi, nhất tâm hiệp chưởng, chiêm ngưỡng
tôn nhan, mục bất tạm xả. Ư thời, Thế
Tôn cáo Kiều Đàm Di: - Hà cố ưu sắc nhi thị Như
Lai? Nhữ tâm tương vô vị ngă bất thuyết nhữ
danh, thọ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề
kư da? Kiều Đàm Di! Ngă tiên tổng thuyết nhất thiết
Thanh Văn giai dĩ thọ kư. Kim dục nhữ tri kư giả.
Tương lai chi thế, đương ư lục vạn
bát thiên ức chư Phật pháp trung, vi đại pháp
sư, cập lục thiên Học Vô Học tỳ-kheo-ni câu
vi pháp sư. Nhữ như thị tiệm tiệm cụ Bồ
Tát đạo, đương đắc tác Phật, hiệu
Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Kiều
Đàm Di! Thị Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Phật,
cập lục thiên Bồ Tát, chuyển thứ thọ kư đắc A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề.
(經)爾時佛姨母摩訶波闍波提比丘尼。與學無學比丘尼六千人俱。從座而起。一心合掌。瞻仰尊顏。目不暫捨。於時世尊告憍曇彌。何故憂色而視如來。汝心將無謂我不說汝名。授阿耨多羅三藐三菩提記耶。憍曇彌。我先總說一切聲聞。皆已授記。今欲汝知記者。將來之世。當於六萬八千億諸佛法中為大法師。及六千學無學比丘尼。俱為法師。汝如是漸漸具菩薩道當得作佛。號一切眾生喜見如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。憍曇彌。是一切眾生喜見佛。及六千菩薩。轉次授記得阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, d́ của đức Phật là tỳ-kheo-ni
Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahāprajāpatī Gautamī), cùng
với sáu ngàn vị tỳ-kheo Học và Vô Học, từ
chỗ ngồi đứng dậy, nhất tâm chắp tay,
chiêm ngưỡng tôn nhan, mắt chẳng tạm rời. Lúc
đó, đức Thế Tôn bảo bà Kiều Đàm Di: - V́
sao bà lộ vẻ buồn rầu nh́n Như Lai? Chẳng phải
là trong tâm bà cho rằng ta không nhắc đến tên bà để thọ kư Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác ư? Này Kiều Đàm Di! Trước
đó, ta đă nói chung, đều đă thọ kư cho hết
thảy các Thanh Văn. Nay bà muốn biết chuyện thọ kư th́ trong đời
tương lai, bà sẽ làm đại pháp sư trong pháp của
sáu vạn tám ngàn ức chư Phật, và sáu ngàn tỳ-kheo-ni
Học và Vô Học đều làm pháp sư. Bà dần dần
trọn đủ Bồ Tát đạo như thế, sẽ
được thành Phật, hiệu là Nhất Thiết Chúng
Sanh Hỷ Kiến (Sarvarūpasaṃdarśana)[1] Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Này Kiều
Đàm Di! Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Phật và
sáu ngàn Bồ Tát sẽ lần lượt thọ kư Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác cho nhau).
Kiều Đàm Di (Gautamī)
c̣n dịch là Kiều Đáp Ma, tức Cù Đàm (Gautama)[2],
do phiên âm tiếng Phạn nặng hay nhẹ. Phương này
dịch là Địa Tối Thắng, chính là gịng họ Sát-lợi
tôn quư. V́ thế, dùng danh xưng ấy để gọi.
13.1.3.2. Thọ kư cho Da Thâu Đà La
(Kinh)
Nhĩ thời, La Hầu La mẫu Da Thâu Đà La tỳ-kheo-ni
tác thị niệm: “Thế Tôn ư thọ kư trung, độc
bất thuyết ngă danh”. Phật cáo Da Thâu Đà La: - Nhữ
ư lai thế bách thiên vạn ức chư Phật pháp
trung, tu Bồ Tát hạnh, vi đại pháp sư, tiệm cụ
Phật đạo, ư Thiện Quốc trung, đương
đắc tác Phật, hiệu Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng
Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Phật thọ vô lượng A-tăng-kỳ kiếp.
(經)爾時羅睺羅母耶輸陀羅比丘尼作是念。世尊於授記中。獨不說我名。佛告耶輸陀羅。汝於來世百千萬億諸佛法中。修菩薩行。為大法師。漸具佛道。於善國中。當得作佛。號具足千萬光相如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。佛壽無量阿僧祇劫。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, mẹ của La Hầu La là tỳ-kheo-ni Da Thâu Đà La (Yaśodharā) nghĩ như thế này:
“Trong khi thọ kư, đức Thế Tôn chỉ không nói đến
một ḿnh tên tôi”. Đức Phật bảo Da Thâu Đà La:
- Bà trong pháp của trăm ngàn vạn ức chư Phật
trong đời mai sau, tu Bồ Tát hạnh, làm đại pháp
sư, dần dần trọn đủ Phật đạo,
trong cơi Thiện Quốc (Bhadrā), sẽ được thành
Phật, hiệu là Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng (Raśmiśatasahasraparipūrṇadhvaja)[3] Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Phật
thọ vô lượng A-tăng-kỳ kiếp).
13.1.3.3. Các tỳ-kheo-ni lănh ngộ
(Kinh)
Nhĩ thời, Ma Ha Ba Xà Ba Đề tỳ-kheo-ni, cập Da
Thâu Đà La tỳ-kheo-ni, tịnh kỳ quyến thuộc,
giai đại hoan hỷ, đắc vị tằng hữu,
tức ư Phật tiền, nhi thuyết kệ ngôn: - Thế
Tôn đạo sư, an ổn thiên nhân. Ngă đẳng
văn kư, tâm an cụ túc.
(經)爾時摩訶波闍波提比丘尼。及耶輸陀羅比丘尼。幷其眷屬。皆大歡喜。得未曾有。即於佛前而說偈言。世尊導師。安隱天人。我等聞記。心安具足。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, tỳ-kheo-ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề và tỳ-kheo-ni
Da Thâu Đà La cùng với quyến thuộc đều hết
sức hoan hỷ, đạt được chưa từng
có, liền đối trước đức Phật, nói kệ
rằng: - Đức Thế Tôn đạo sư, an ổn
trời và người, chúng con nghe thọ kư, tâm an ổn trọn
đủ).
13.1.3.4. Các tỳ-kheo-ni phát nguyện
(Kinh)
Chư tỳ-kheo-ni thuyết thị kệ dĩ, bạch Phật
ngôn: - Thế Tôn! Ngă đẳng diệc năng ư tha phương
quốc, quảng tuyên thử kinh.
(經)諸比丘尼說是偈已。白佛言。世尊。我等亦能於他方國。廣宣此經。
(Kinh: Các
tỳ-kheo-ni nói bài kệ ấy xong, bạch với đức
Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng có thể
ở trong quốc độ phương khác rộng tuyên nói
kinh này).
Khiêm tốn nhường
cơi này, ư muốn giống như các Thanh Văn trong phần
trên. Hoặc có thể là các vị ni và Thanh Văn đều
do duyên đă chín muồi ở phương khác. Phần thứ
nhất, “nói về sự thọ tŕ” đă xong.
13.2. Khuyến tŕ
13.2.1. Trường Hàng
13.2.1.1. Phật nh́n đại chúng
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn thị bát thập vạn ức na-do-tha
chư Bồ Tát Ma Ha Tát.
(經)爾時世尊。視八十萬億那由他諸菩薩摩訶薩。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn nh́n tám mươi vạn
ức na-do-tha các vị Bồ Tát Ma Ha Tát).
Đại chúng thấy
đức Phật ngầm khuyên, nhưng chẳng truyền
dạy. Trong phần trên, tuy Ngài không đặc biệt truyền
bảo, nhưng đă nêu ra công đức tŕ kinh sâu dày, dẫn
chứng phân minh. Phật Đa Bảo và các phân thân [của
Phật Thích Ca] từ xa đến khuyên lơn [đại
chúng] phát tâm. Sự lẫn nghĩa của ḷng ân cần ấy đều
vẹn toàn. Có ai muốn vâng theo mạng lệnh, hăy nên phát
thệ, chẳng phiền phải
rườm lời nữa! Lại v́ hộ tŕ ư nguyện [hoằng
dương kinh này] ở phương khác của hàng Thanh
Văn, cho nên [đức Phật] chẳng xưng dương.
13.2.1.2. Bồ Tát thỉnh cầu [đức
Phật] sắc truyền
(Kinh)
Thị chư Bồ Tát giai thị A Duy Việt Trí, chuyển
bất thoái pháp luân, đắc chư đà-la-ni, tức
tùng ṭa khởi, chí ư Phật tiền, nhất tâm hiệp
chưởng, nhi tác thị niệm: - Nhược Thế
Tôn cáo sắc[4]
ngă đẳng tŕ thuyết thử kinh giả, đương
như Phật giáo, quảng tuyên tư pháp.
(經)是諸菩薩。皆是阿惟越致。轉不退法輪。得諸陀羅尼。即從座起。至於佛前。一心合掌而作是念。若世尊告敕我等持說此經者。當如佛教。廣宣斯法。
(Kinh:
Các vị Bồ Tát ấy đều là A Duy Việt Trí, chuyển
pháp luân bất thoái, đạt được các đà-la-ni,
liền từ chỗ ngồi đứng dậy, tới
trước đức Phật, nhất tâm chắp tay, nghĩ
như thế này: - Nếu đức Thế Tôn truyền dạy
chúng con hộ tŕ, tuyên nói kinh này, chúng con sẽ làm đúng như
lời đức Phật dạy, rộng tuyên nói pháp này).
13.2.1.3. Suy nghĩ v́ sao đức Phật
vẫn im lặng
(Kinh)
Phục tác thị niệm: - Phật kim mặc nhiên, bất kiến cáo sắc, ngă
đương vân hà?
(經)復作是念。佛今默然不見告敕。我當云何。
(Kinh:
Lại nghĩ như thế này: - Nay đức
Phật im lặng, chẳng truyền bảo, chúng ta nên làm
như thế nào?)
13.2.1.4. Tùy thuận ư Phật bèn phát
nguyện
(Kinh)
Thời chư Bồ Tát kính thuận Phật ư, tịnh dục
tự măn bổn nguyện, tiện ư Phật tiền, tác
sư tử hống, nhi phát thệ ngôn: - Thế Tôn! Ngă
đẳng ư Như Lai diệt hậu, châu toàn văng phản
thập phương thế giới, năng linh chúng sanh thư
tả thử kinh, thọ tŕ, độc tụng, giải
thuyết kỳ nghĩa, như pháp tu hành, chánh ức niệm,
giai thị Phật chi oai lực. Duy nguyện Thế Tôn tại
ư tha phương dao kiến thủ hộ.
(經)時諸菩薩。敬順佛意。幷欲自滿本願。便於佛前作師子吼。而發誓言。世尊。我等於如來滅後。周旋往反十方世界。能令眾生書寫此經。受持讀誦。解說其義。如法修行。正憶念。皆是佛之威力。惟願世尊。在於他方遙見守護。
(Kinh:
Khi đó, các Bồ Tát kính thuận ư Phật và muốn tự
thỏa măn bổn nguyện, liền đối trước
Phật, thực hiện sư tử hống để phát
thệ rằng: - Bạch Thế Tôn! Sau khi Như
Lai diệt độ, chúng con qua lại trọn khắp mười
phương thế giới, có thể khiến cho chúng sanh
biên chép kinh này, thọ tŕ, đọc tụng, giải nói ư
nghĩa, tu hành đúng như pháp, nghĩ nhớ chánh đáng,
đều là do oai lực của Phật. Kính mong đức
Thế Tôn ở nơi phương xa nh́n thấy, thủ hộ
[chúng con]).
Phần thứ nhất
là Trường Hàng trong đoạn thứ hai là Khuyến
Tŕ đă xong.
13.2.2. Kệ tụng
Kệ tụng là Cô Khởi[5]. Các vị Bồ Tát
thỉnh cầu, hộ tŕ, hoằng truyền kinh này, cho nên
tự trần thuật phương pháp và đường
lối hoằng kinh. Bởi lẽ, trong phẩm Pháp Sư,
[đức Phật] đă nói phương pháp, đường
lối. Trong phần Kiến Bảo Tháp, Ngài lại tuyển
mộ, t́m kiếm người vận dụng phương
pháp, đường lối ấy. Trong phẩm Đề Bà
Đạt Đa, Ngài lại dẫn
dụng phương pháp và đường lối
[hoằng truyền kinh] trong quá khứ. [Trong phẩm đó],
Phật Thích Ca là người vâng hành theo khuôn khổ ấy.
V́ thế, kinh nói Ngài dùng thân làm giường, ṭa cho [thầy ngồi,
hoặc dựa] v.v… Phẩm này nói đến đường
lối, khuôn phép [hoằng truyền kinh] trong đời ác.
Phẩm An Lạc Hạnh mới là bắt đầu thực
hành khuôn phép. V́ thế nói “trụ nhẫn nhục địa”
(trụ trong địa vị nhẫn nhục) v.v… như
trong phần sau sẽ rộng nói. Nếu chẳng như vậy,
hoằng truyền kinh sẽ chẳng có khuôn phép, như ḿnh
trần xông vào trận, sẽ bị thương tổn chẳng
sai ngoa! Lời khuyên “mặc áo giáp” đâu phải là nói
suông! Xét theo kinh văn, th́ gồm
có bốn phần:
- Nêu rơ mặc áo [Như
Lai] để hoằng truyền kinh.
- Nêu rơ nhà [Như
Lai] để hoằng truyền kinh.
- Nêu rơ ngồi trên
ṭa [Như Lai] để hoằng truyền kinh.
- Tổng kết bằng
lời thỉnh cầu [đức Phật] chứng tri.
13.2.2.1. Nêu rơ mặc áo Như Lai để
hoằng truyền kinh
13.2.2.1.1. Tổng luận thời tiết
để nói rơ chuyện mặc áo [Như Lai]
(Kinh)
Tức thời chư Bồ Tát câu đồng phát thanh, nhi
thuyết kệ ngôn: - Duy nguyện bất vi lự, ư Phật
diệt độ hậu, khủng bố ác thế trung, ngă
đẳng đương quảng thuyết.
(經)即時諸菩薩。俱同發聲而說偈言。惟願不為慮。於佛滅度後。恐怖惡世中。我等當廣說。
(Kinh:
Ngay khi đó, các vị Bồ Tát đều cùng phát ra tiếng,
nói kệ rằng: - Kính mong chớ lo nghĩ, sau khi Phật
diệt độ, trong đời ác đáng sợ, chúng con
sẽ rộng nói).
13.2.2.1.2. Nói riêng về cảnh
kham nhẫn
Đoạn
này chia thành ba phần [nhằm phân loại các đối tượng
mà người hoằng kinh phải chịu đựng]:
- Một là kẻ thông minh tà kiến, tức những
kẻ thế tục.
- Hai là kẻ tăng thượng mạn trong nhà Phật.
- Ba là kẻ tăng thượng mạn tiếm xưng thánh
nhân.
Đối với
hạng thứ nhất vẫn có thể nhẫn, hạng thứ
hai khó nhẫn hơn, hạng thứ ba khó nhẫn nhất.
Càng về sau, càng khó nhận biết hơn.
13.2.2.1.2.1 [Nhẫn đối với]
kẻ thông minh tà kiến
(Kinh)
Hữu chư vô trí nhân, ác khẩu mạ lỵ đẳng,
cập gia đao trượng giả, ngă đẳng giai
đương nhẫn.
(經)有諸無智人。惡口罵詈等。及加刀杖者。我等皆當忍。
(Kinh: Có những
kẻ vô trí, nói ác và chửi rủa, dùng đao, trượng
đánh đập, chúng con sẽ đều nhẫn).
13.2.2.1.2.2. [Nhẫn đối với]
kẻ tăng thượng mạn trong nhà Phật
(Kinh)
Ác thế trung tỳ-kheo, tà trí, tâm siểm
khúc, vị đắc vị vi đắc, ngă mạn tâm sung
măn.
(經)惡世中比丘。邪智心諂曲。未得謂為得。我慢心充滿。
(Kinh:
Tỳ-kheo trong đời ác, tà trí, tâm siểm khúc, chưa
đắc bảo đă đắc, tâm ngă mạn tràn trề).
13.2.2.1.2.3. [Nhẫn đối với]
kẻ tăng thượng mạn tiếm xưng thánh nhân
(Kinh)
Hoặc hữu A Luyện Nhă, nạp y tại không nhàn, tự
vị hành chân đạo, khinh tiện nhân gian giả, tham
trước lợi dưỡng cố, dữ bạch y thuyết
pháp. Vị thế sở cung kính, như Lục Thông La Hán.
Thị nhân hoài ác tâm, thường niệm thế tục sự,
giả danh A Luyện Nhă, háo xuất ngă đẳng quá, nhi tác
như thị ngôn: “Thử chư tỳ-kheo đẳng, vị
tham lợi dưỡng cố, thuyết ngoại đạo
luận nghị. Tự tác thử kinh điển, cuống
hoặc thế gian nhân. Vị cầu danh văn cố, phân
biệt ư thị kinh”. Thường tại đại
chúng trung, dục hủy ngă đẳng cố, hướng
quốc vương đại thần, Bà-la-môn, cư
sĩ, cập dư tỳ-kheo chúng, phỉ báng thuyết ngă
ác. Vị thị tà kiến nhân, thuyết ngoại đạo
luận nghĩa.
(經)或有阿練若。納衣在空閑。自謂行真道。輕賤人間者。貪著利養故。與白衣說法。為世所恭敬。如六通羅漢。是人懷惡心。常念世俗事。假名阿練若。好出我等過。而作如是言。此諸比丘等。為貪利養故。說外道論議。自作此經典。誑惑世間人。為求名聞故。分別於是經。常在大眾中。欲毀我等故。向國王大臣。婆羅門居士。及餘比丘眾。誹謗說我惡。謂是邪見人。說外道論義。
(Kinh:
Hoặc kẻ trụ Lan Nhă, y chằm[6], trụ chỗ vắng, tự nói hành chân đạo, khinh rẻ người
trong đời! V́ tham đắm lợi dưỡng, thuyết
pháp cho tại gia, được cơi đời cung kính, như
Lục Thông La Hán. Kẻ đó ôm ḷng ác, thường nghĩ
chuyện thế tục, giả danh trụ
Lan Nhă, chuộng nói lỗi chúng con, mà nói như thế này: “Cái
lũ tỳ-kheo này, v́ tham chuộng lợi dưỡng, nói
luận thuyết ngoại đạo, tự soạn kinh điển
này, dối lừa người thế gian. V́ cầu mong tiếng
tăm, phân biệt giảng kinh này”. Hắn thường
trong đại chúng, muốn hủy báng chúng con, bảo quốc
vương, đại thần, Bà-la-môn, cư sĩ, và các tỳ-kheo
khác, phỉ báng, vạch lỗi con, quở là phường
tà kiến, nói luận nghĩa ngoại đạo).
A Luyện
Nhă (Araṇya) c̣n gọi
là A Lan Nhă, cũng gọi là A Lan Na, hoặc gọi là A Luyện
Nhi, phương này dịch là Vô Tránh (無諍, không tranh chấp), cũng dịch là Vô Huyên Tạp
Xứ (無喧雜處, chỗ chẳng ồn ào, tạp loạn). Nếu
sống trong chỗ A Luyện Nhă, đấy là v́ muốn điều
phục phiền năo. Nay [kẻ đó] tự đề cao ḿnh,
miệt thị kẻ khác, chẳng phải là hạnh Vô Tránh.
Do đó, nói là “giả danh A Luyện Nhă”. Trong Tỳ
Ni Tạng (Luật Tạng), và pháp hội Bảo Lương
Tụ trong kinh Đại Bảo Tích[7],
cùng với kinh Bảo Vân[8],
kinh Phật Tạng[9]
v.v… mỗi mỗi đều nói cặn kẽ về hạnh
A Luyện Nhă. Nếu chưa tương ứng, hăy nên tầm
sư vấn đạo, sao lại giữ lấy sự
ngu muội, tự cho là đúng? Nguyện các hành giả hăy
nên tự suy xét cặn kẽ. Phần thứ hai, “nêu riêng cảnh kham nhẫn” đă xong!
13.2.2.1.3. Nêu ư nghĩa mặc áo [Như
Lai]
(Kinh)
Ngă đẳng kính Phật cố, tất nhẫn thị chư
ác, vi tư sở khinh ngôn: “Nhữ đẳng giai thị Phật”.
Như thử khinh mạn ngôn, giai đương nhẫn
thọ chi. Trược kiếp ác thế trung, đa hữu
chư khủng bố. Ác quỷ nhập kỳ thân, mạ
lỵ hủy nhục ngă. Ngă đẳng kính tín Phật, đương
trước nhẫn nhục khải. Vị thuyết thị
kinh cố, nhẫn thử chư nan sự. Ngă bất ái thân
mạng, đản tích vô thượng đạo. Ngă đẳng
ư lai thế, hộ tŕ Phật sở chúc. Thế Tôn tự
đương tri: Trược ác thế tỳ-kheo, bất
tri Phật phương tiện, tùy nghi sở thuyết pháp,
ác khẩu nhi tần túc, sổ sổ kiến tẫn xuất,
viễn ly ư tháp tự. Như thị đẳng chúng ác,
niệm Phật cáo sắc cố, giai đương nhẫn
thị sự.
(經)我等敬佛故。悉忍是諸惡。為斯所輕言。汝等皆是佛。如此輕慢言。皆當忍受之。濁劫惡世中。多有諸恐怖。惡鬼入其身。罵詈毀辱我。我等敬信佛。當著忍辱鎧。為說是經故。忍此諸難事。我不愛身命。但惜無上道。我等於來世。護持佛所囑。世尊自當知。濁惡世比丘。不知佛方便。隨宜所說法。惡口而嚬蹙。數數見擯出。遠離於塔寺。如是等眾惡。念佛告敕故。皆當忍是事。
(Kinh:
Chúng con do kính Phật, đều nhẫn các ác ấy. Bị
họ khinh rẻ nói: “Các ngươi đều là Phật”.
Lời khinh mạn như thế, sẽ đều nhẫn,
chịu đựng. Trong đời ác kiếp trược,
có nhiều nỗi hoảng sợ. Kẻ ác quỷ dựa
thân, chửi bới, hủy nhục con. Chúng con kính tin Phật,
sẽ mặc giáp nhẫn nhục. Do v́ nói kinh này, nhẫn các
chuyện khó ấy. Con chẳng yêu thân mạng, chỉ tiếc
đạo vô thượng. Con trong đời tương
lai, hộ tŕ lời Phật dặn. Thế Tôn hăy tự biết!
Tỳ kheo đời trược ác, chẳng biết Phật
phương tiện, tùy cơ nghi thuyết pháp, buông lời
ác, cau mặt, nhiều lượt bị trục xuất,
xa ĺa nơi tháp, chùa. Các điều ác như thế, do nghĩ
Phật dạy răn, đều nhẫn các chuyện ấy).
“Khải” (鎧) là áo giáp.
“Nhẫn nhục khải” (áo giáp nhẫn nhục) tức
là có thể nhẫn nhục, dẫu vào trong đời ác, vẫn
chẳng bị thương tổn. Ví như vào trong chiến
trận mà có áo giáp, chẳng bị tổn thương bởi
đao, tên. Cần phải biết tứ giáo, mỗi giáo đều
có áo giáp nhẫn nhục.
Như trong kinh Trung
A Hàm, tỳ-kheo Hắc Xỉ (Kaḷāra) mách với
đức Phật: “Xá Lợi Phất chửi con, cằn
nhằn con”. Đức Phật liền gọi ngài Xá Lợi
Phất, hỏi rằng: “Ông có thật sự chửi mắng,
cằn nhằn tỳ-kheo Hắc Xỉ hay không?” Ngài Xá Lợi
Phất thưa: “Kẻ tâm chưa định th́ có lẽ
sẽ cằn nhằn, mắng chửi. Tâm con đă định,
làm sao cằn nhằn, mắng chửi cho được? Như sừng trâu găy
chẳng đụng chạm, quấy nhiễu người
khác. Như đứa bé tàn tật
hổ thẹn, chẳng năo hại người khác. Tâm
con như đất, nước, lửa, gió, đối với
tịnh và bất tịnh, đại tiện, tiểu tiện,
mũi răi đều hứng chịu mà chẳng chửi bới.
Tâm như chổi quét, tịnh và bất tịnh đều
quét. Lại như đồ đựng bị hư nứt
chứa mỡ, để qua một ngày, luôn rỉ từng giọt. Tự quán chín lỗ
thường ṛ rỉ thứ bất tịnh, sao lại chửi
bới, cằn nhằn người khác cho được?
Lại như rắn, chó v.v… đă chết, buộc vào cổ
đứa bé thanh tịnh, hổ thẹn, tự ngượng,
chẳng chửi bới, cằn nhằn người khác”.
Đức Phật
hỏi: “Đối với kẻ ác như thế, ông quán
như thế nào?” Ngài Xá Lợi Phất đáp rằng: “Người
có năm loại: Một là thân thiện, khẩu và ư bất
thiện, chỉ nghĩ tới điều thiện của
người ấy, chẳng nghĩ tới điều bất
thiện. Như tỳ-kheo áo chằm, thấy vải rách bám
phân, tay trái nắm lấy, tay phải căng ra, cắt bỏ
chỗ bất tịnh, giữ lấy chỗ thanh tịnh.
Nghĩ dùng điều thanh tịnh nơi thân của người
ấy để làm khuôn phép cho thân ta, vứt bỏ [điều
ác nơi] khẩu và ư của kẻ đó để răn
dè khẩu và ư của ta. Hai là người khẩu hạnh
thanh tịnh, nhưng thân và ư bất tịnh, cũng nghĩ
tới khẩu [thanh tịnh] của người ấy, bỏ
đi thân hạnh và ư hạnh. Như người bị nóng
bức quá khát, gặp cái ao có nhiều cỏ, gạt
cỏ ra, vốc nước để mát thân, hết khát.
Ba là ư tịnh, thân, khẩu bất tịnh, vẫn chỉ
nghĩ tới ư, chẳng màng đến thân và khẩu. Như
đi đường nóng bức, quá khát, chỉ có chút nước
nơi dấu chân trâu. Nếu dùng tay vốc nước, ắt
nước sẽ vẩn đục, hăy nên quỳ sát hai gối,
hai tay bám xuống đất, miệng hút lấy nước
để trừ nóng và khát. Bốn là tam nghiệp đều
bất tịnh, tuy chẳng thể dùng, hăy nên đau đáu
nghĩ tưởng, như trên đường thấy người
bệnh, bèn sắp đặt ổn thỏa cho người
ấy, nghĩ tới người ấy bất tịnh,
khiến cho người ấy gặp được bậc
thiện tri thức đối trị ba nghiệp của kẻ
đó, chẳng để kẻ đó đọa trong tam đồ.
Năm là ba nghiệp đều tịnh, thường nghĩ
tới người ấy để tự uốn nắn chính ḿnh, mong được
bằng, nguyện được bằng, như ao nước
trong mát, có nhiều các loại hoa cỏ, kẻ khát nước
nóng bức vào trong đó liền thoải mái, thường
nghĩ tới cảnh giới để trừ điều
ác của ta”. Đó là [giáo huấn] trong giáo pháp Tam
Tạng, dùng khổ, vô thường, bất tịnh, vô ngă,
và không làm áo giáp.
Nho gia nói: “Kiến
hiền tư tề, kiến bất hiền nhi nội tự
tỉnh” (thấy người hiền bèn mong được
bằng, thấy kẻ chẳng hiền, trong tâm bèn tự phản tỉnh). Lại nói: “Tam nhân
hành, tất hữu ngă sư, trạch kỳ thiện giả
nhi tùng chi, kỳ bất thiện giả nhi cải chi”
(ba người cùng đi, ắt có người là thầy
ta; chọn lấy điều tốt lành của người
ấy mà vâng theo. Đối với điều chẳng tốt
của người ấy bèn sửa đổi) cũng là
nghĩa này. Luận Tỳ Bà Sa nói: “Nghĩ câu chửi là
một lời nói, những điều khác đều là tiếng
kêu réo. Suốt ngày kêu réo, liên quan ǵ đến ta” (chữ
A Câu Lô Xa (Akrośa) [trong tiếng
Phạn] được phương này dịch là “mạ”
(chửi bới). Câu Lô Xá (krośa) được
phương này dịch là “hoán thanh” (tiếng kêu réo). Nay
ta chẳng nên đọc chữ A, v́ nếu có chữ A, sẽ
gọi là “chửi bới”. Nếu chẳng có chữ A, sẽ
là tiếng kêu réo).
Hơn nữa, ở
nơi này, [một từ ngữ] có thể là lời lẽ
hèn hạ, thô lậu, nơi phương khác lại là lời
khen ngợi. Nếu ta nghĩ đó là lời thô hèn, sẽ
chẳng có chỗ nào được vui sướng (Lệ
này rất nhiều, như Thi La (Giới) và Sạn Đề (Nhẫn Nhục)[10], ở cơi
này chẳng phải là từ ngữ đẹp đẽ,
nhưng nơi cơi kia (Thiên Trúc) th́ là hai môn Ba La Mật. Lại
như ngay trong cơi này, Nam Bắc
gọi bằng danh xưng khác nhau, đất Chiết và đất
Mân gọi khác nhau. Ở phương kia là khen ngợi, nơi
phương này là hủy báng, chẳng thể nêu trọn). Lại
quán chữ [bị
coi là] chửi bới ấy, nếu đảo
ngược lại chữ ấy, sẽ thành khen ngợi
(như thấy khách ra đi, nếu nói “khứ tảo”
(đi sớm thế) sẽ thành ư giữ khách. Nếu nói “tảo
khứ” (đi cho sớm) th́ thành ư xua đuổi! Xua đuổi
tức là chửi, giữ lại tức là khen ngợi. Lại
như lúc đang ăn, gặp khách đến, nếu nói “lai
tảo” (đến sớm quá), tức là chửi. Nếu
nói “tảo lai” (hăy đến sớm) tức là ư khen ngợi.
Người đời chấp trước, nắm chặt
thứ tự trước sau, đều cùng cho là khen hay chửi,
t́nh kiến hư vọng tích tụ, [chẳng biết] ngôn
từ và âm thanh tánh Không!)
Lại nữa, chửi
là một chút phần của Giới, một chút phần của
Nhập, một chút phần của Ấm, chửi là phần
nhỏ, chẳng chửi là phần nhiều (trong mười
tám giới, [chửi] là chút phần của Thanh Giới.
Trong mười hai Nhập, [chửi] là chút phần của
Thanh Nhập. Trong Ngũ Ấm, nó là chút phần của Sắc
Ấm. Chỉ có chút phần ấy là chửi, những thứ
khác chẳng phải là chửi). Lại nữa, kẻ nào thành
tựu chửi? Kẻ chửi thành tựu! Thành tựu nơi
hắn, liên quan ǵ đến ta? (Kẻ đó tự nắm
giữ âm thanh để thành danh từ, câu chữ, mà gọi
là “chửi”, như cái mặt xấu xí, liên quan ǵ đến
tấm gương!) Hơn nữa, Chửi là một chữ, một chữ
chẳng thành chửi. Hai chữ sẽ thành chửi, chẳng
có lúc nào đồng thời nói hai chữ! Nếu nói chữ
sau th́ chữ trước đă mất! Lại nữa, người
chửi và kẻ bị chửi trong cùng lúc, ngay trong một
sát-na đều diệt mất, liên quan ǵ đến ta? [Suy
nghĩ] giống như thế chính là dùng Tích Không (phân tích cái
Không) để làm áo giáp.
Lại nữa kẻ
chửi và kẻ bị chửi đều giống như
huyễn nhân (kẻ
huyễn hóa), chữ dùng để chửi và âm thanh chửi bới
giống như tiếng vang trong hang. Quán kỹ thật ngă
và thật pháp đều trọn chẳng thể được,
cớ sao chẳng nhẫn? Đấy chính là dùng Tức Không
làm áo giáp. Hơn nữa, phàm phu chẳng thể chửi bới
Không, dấy các ưu năo, tăng trưởng tam độc.
V́ thế có tam đồ pháp giới. Hoặc do cưỡng
chế an trụ nơi Nhẫn, cho nên có nhân thiên pháp giới.
Thánh nhân hiểu chửi là Không, tự đoạn kết sử,
v́ thế có Nhị Thừa pháp giới. Lại c̣n sanh tâm đại
bi đối với kẻ chửi bới, nghĩ dẹp
trừ nỗi khổ cho kẻ đó. Như con do cuồng
mê chửi mẹ, mẹ thường nghĩ xót thương,
mong cho con khỏi bệnh. V́ thế có chư Phật, Bồ
Tát pháp giới. Theo thứ tự quán sát Chửi như thế, bèn sanh ra mười pháp
giới sai biệt bất đồng; đó là dùng “tức
Giả” làm áo giáp.
Kinh này nói “niệm
Phật cáo sắc cố, giai đương nhẫn thị
sự” (do nghĩ tới lời Phật răn truyền,
đều nhẫn được chuyện ấy). Phật
chính là Phật Bảo, “cáo sắc” chính là Pháp Bảo, Phật
và Pháp chẳng hai, tức là Tăng Bảo. Nhất Thể Tam
Bảo phàm thánh b́nh đẳng, chư Phật
đă ngộ, chúng sanh vẫn c̣n mê. Ta là chúng sanh bỏ mê về
ngộ, tŕ nói kinh này, biết rơ tâm ta “trên là bằng với
chư Phật, dưới là bằng với chúng sanh”.
Chư Phật ngộ chính là tâm ta ngộ, chúng sanh mê chính là
tâm ta mê. Áo giáp như thế chính là “từ bi
thất” (nhà từ
bi), tức ṭa “pháp Không”. Một thứ thành áo giáp, hết
thảy đều là áo giáp. Đó chính là áo giáp trong Viên Giáo.
Phần thứ nhất, “nói về chuyện mặc áo [Như
Lai] để hoằng kinh” đă xong.
13.2.2.2. Vào nhà [Như Lai] để hoằng kinh
(Kinh)
Chư tụ lạc, thành ấp, kỳ hữu cầu pháp
giả, ngă giai đáo kỳ sở, thuyết Phật sở
chúc pháp.
(經)諸聚落城邑。其有求法者。我皆到其所。說佛所囑法。
(Kinh:
Các làng xóm, thành ấp, nếu có người cầu pháp,
con đều đến chỗ họ, nói pháp Phật phó
chúc).
13.2.2.3. Ngồi trên ṭa [Như Lai] hoằng
kinh
(Kinh)
Ngă thị Thế Tôn sứ, xử chúng vô sở úy, ngă đương
thiện thuyết pháp, nguyện Phật an ổn trụ.
(經)我是世尊使。處眾無所畏。我當善說法。願佛安隱住。
(Kinh:
Con là sứ Thế Tôn, trong chúng chẳng sợ hăi. Con sẽ
khéo thuyết pháp, nguyện Phật an ổn trụ).
13.2.2.4. Tổng kết bằng chuyện
thỉnh cầu chứng tri
(Kinh)
Ngă ư Thế Tôn tiền, chư lai thập phương Phật,
phát như thị thệ ngôn, Phật tự tri ngă tâm.
(經)我於世尊前。諸來十方佛。發如是誓言。佛自知我心。
(Kinh: Con đối
trước Thế Tôn, và chư Phật mười
phương, phát lời thề như thế, Phật tự
biết tâm con).
Phẩm Tŕ đă xong.
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Thai
Tông Hội Nghĩa quyển 4 hết
Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh Thai Tông Hội Nghĩa quyển 5
Đất Cổ Ngô, hậu
học Ngẫu Ích Trí Húc soạn thuật
妙法蓮華經台宗會義卷五
古吳後學蕅益智旭述
14. Phẩm thứ mười bốn:
An Lạc Hạnh (An Lạc Hạnh phẩm đệ thập
tứ, 安樂行品第十四)
Giải thích phẩm
này, chia thành ba phần:
- Một là giải
thích dựa theo sự tướng.
- Hai là giải thích
bằng cách kèm thêm kinh văn.
- Ba là giải thích
dựa theo pháp môn.
Mỗi phần đều
có giải thích đại lược hay chi tiết.
- Giải
thích đại lược dựa theo sự tướng:
Thân chẳng có nguy hiểm, cho nên An. Tâm chẳng ưu năo,
cho nên Lạc. Thân tâm an lạc, cho nên có thể tiến nhập
hạnh hoằng kinh bằng khẩu nghiệp.
- Giải
thích đại lược kèm thêm kinh văn th́ trước
hết là nói kèm thêm kinh văn trong phẩm trước: Mặc
áo Như Lai th́ Pháp Thân an. Vào nhà Như Lai, do tâm giải thoát
nên lạc. Do ngồi ṭa của Như Lai, cho nên Bát Nhă hướng
dẫn hạnh thăng tấn. Lại nữa, kèm thêm kinh văn
trong phẩm này: Do trụ nhẫn nhục địa, cho nên thân an; do trọn chẳng bộp chộp nên tâm lạc.
Do quán Thật Tướng của các pháp, cho nên hạnh thăng
tấn.
- Giải
thích đại lược dựa theo pháp môn: An là bất động, Lạc là vô thọ (chẳng
tiếp nhận), Hạnh là vô hành. “Bất
động”: Lục đạo sanh tử, Niết Bàn của
Nhị Thừa chẳng thể động. Đă chẳng
duyên theo nhị biên, cho nên Pháp Thân chẳng lay động. An
trụ bất động như núi Tu Di, th́ gọi là pháp
môn “thường trụ bất động”. Trong phần
trước, kinh
văn có nói: “Thân thể cập thủ túc, tịch nhiên an
bất động. Kỳ tâm thường đảm phạ,
vị tằng hữu tán loạn” (Thân thể và chân tay,
vắng lặng, an bất động, tâm thường luôn
tĩnh lặng, chưa từng có tán loạn). Đấy chính là nghĩa
này. “Vô
thọ”
là chẳng nhận lănh năm thứ cảm nhận của
phàm phu, cho đến ngũ thọ sanh kiến của Viên
Giáo cũng đều chẳng tiếp nhận (Trước
hết là xét theo ngoại đạo, bốn câu (có, không, vừa
có vừa không, chẳng phải có chẳng phải không) và
tuyệt ngôn (dứt bặt nói năng) được gọi
là “ngũ
thọ” (năm thứ cảm nhận). Kế đó, xét theo Tạng,
Thông, Biệt Giáo, đối với mỗi giáo đều
có bốn môn và một môn tuyệt ngôn, cũng gọi là “ngũ
thọ”. Sau đó, xét theo bốn môn và một
môn tuyệt ngôn của Viên Giáo, nếu chưa chứng Thật
mà sanh chấp trước nơi kiến giải th́
cũng gọi là Ngũ Thọ. Thấu hiểu giáo, nhập
Lư, Lư chẳng có ǵ để tiếp nhận
th́ mới gọi là “chẳng thọ”). Có thọ sẽ có
khổ, chẳng có thọ sẽ chẳng khổ. Chẳng
khổ, chẳng vui, bèn gọi là “đại lạc”.
“Vô hành”: Nếu có cái để hứng chịu,
th́ sẽ có cái để hành. “Vô thọ” th́ chẳng có ǵ để hành, chẳng hành hạnh phàm
phu, chẳng hành hạnh hiền thánh. Cho nên nói là “vô hành”,
mà hành Trung Đạo. V́ thế gọi là Hành.
Kế đó, giải
thích chi tiết theo sự tướng. An lạc chính là Đại
Niết Bàn, tức là đặt tên dựa theo quả. Hạnh
chính là đạo Niết Bàn, đặt tên dựa theo nhân.
Như thường kiến ngoại đạo (kẻ ngoại đạo chấp mọi thứ là
thường hằng) hành khổ hạnh, tức
là nhân lẫn quả đều
khổ. Như đoạn kiến ngoại đạo mặc
sức chấp giữ lạc, cho nên nhân là lạc, mà quả
là khổ. Như “tích pháp” Nhị Thừa (hàng Nhị Thừa tư duy bằng
cách phân tích các pháp) tu tập bằng phương pháp vụng
về, đổ công vất vả cùng cực th́ mới nhập
Niết Bàn, tức là nhân khổ, quả vui. Nay kinh này là “như thật
xảo độ” (khéo léo tu tập như thật), cho nên nhân
lẫn quả đều vui. Đại Kinh nói: “Định
khổ hành giả,
vị chư phàm phu. Khổ lạc hành giả, Thanh Văn, Duyên Giác. Định lạc hành giả, vị chư Bồ Tát” (Kẻ
chắc chắn làm chuyện khổ là phàm phu, người
làm chuyện khổ lẫn vui là Thanh Văn, Duyên Giác. Người
chắc chắn làm chuyện vui là các Bồ Tát). Nay trong hàng
Bồ Tát, càng phải nên phân biệt:
- Tam Tạng
Bồ Tát có giáo mà chẳng có người.
- Tam thừa
trong Thông Giáo th́ nhân lẫn quả đều lệch lạc.
- Biệt
Giáo Bồ Tát th́ nhân thiên lệch, nhưng quả viên măn.
- Viên Giáo Bồ
Tát th́ nhân lẫn quả đều viên.
Nay do diệu nhân và
diệu quả đều vui, đều viên măn, cho nên gọi
là An Lạc Hạnh.
Kế đó, giải
thích chi tiết bằng cách nói kèm
thêm kinh văn: An Lạc Hạnh là Niết
Bàn đạo. Niết Bàn có ba nghĩa, tức là tam đức
bí tạng (Pháp Thân, Bát Nhă, và giải
thoát). Hạnh có ba nghĩa, tức là Chỉ Hạnh, Quán Hạnh,
và Từ Bi Hạnh:
- Chỉ Hạnh
th́ ba nghiệp nhu ḥa, trái nghịch hay thuận theo đều
vắng lặng, tức là thấu hiểu Pháp Thân hạnh,
tức là “áo Như Lai” được nói trong kinh văn
thuộc phần trước.
- Quán Hạnh
là trí huệ nhất Thật Tướng, là quang minh vô phân
biệt, tức là thấu hiểu hạnh Bát Nhă, tức là
“ṭa Như Lai” được nói trong kinh văn thuộc
phần trước.
- Từ Bi
Hạnh là Tứ Hoằng Thệ Nguyện, rộng độ
hết thảy, tức là
thấu hiểu giải thoát hạnh, tức là “nhà Như
Lai” được nói trong kinh văn thuộc phần trên.
Gộp chung ba hạnh ấy thành Niết Bàn đạo.
Gộp chung ba đức,
sẽ thành cảnh của hạnh. Cảnh được
gọi lả An Lạc, c̣n đạo được gọi
là Hạnh.
Đại Luận
nói: “Bồ Tát từ sơ phát tâm, thường quán Niết
Bàn hành đạo, do luôn dùng ba pháp để hướng dẫn
ba nghiệp làm hạnh, v́ ba nghiệp thanh tịnh chính là sáu
căn thanh tịnh”. Sáu căn nếu thanh tịnh, sẽ
phát khởi tương tự giải mà được nhập
Chân. Khi ở quả th́ gọi là Phật nhăn, Phật nhĩ
v.v… c̣n cái Nhân được gọi là Chỉ Hạnh, quả
được gọi là Đoạn Đức. Lại nữa,
nhân được gọi là Quán Hạnh, quả được
gọi là Trí Đức. Nhân được gọi là Từ
Bi Hạnh, quả được gọi là Ân Đức.
Lại nữa, nhân
được gọi là Tam Nghiệp, quả được
gọi là Tam Mật. Khi ở nhân th́ từ bi hướng dẫn
ba nghiệp lợi lạc người khác, nơi quả
th́ gọi là tam luân (thân luân, khẩu luân, ư luân) giáo hóa chẳng
nghĩ bàn. Khi quán như thế, chẳng c̣n phân biệt. Trong
hết thảy các pháp, đều có tánh an lạc. Hết
thảy chúng sanh chính là Đại Niết Bàn, chẳng thể
diệt nữa. Hành nơi phi đạo mà thông đạt Phật
đạo; do đó gọi là An Lạc Hạnh. Hạnh ấy
ứng hợp với ư nghĩa Niết Bàn. Kinh đó (tức kinh Đại Bát
Niết Bàn) c̣n nói có một hạnh là Như Lai hạnh. Như Lai
là người, An Lạc là pháp. Như Lai là người an
lạc. An lạc là Như Lai pháp. Nói tóm gọn, nghĩa này
chẳng khác, mà Biệt cũng chẳng khác. Kinh đó nói “cây
báu bằng vàng bạc” nhằm sánh ví rừng
báu vô lậu, ứng hợp “áo Tịch
Diệt Nhẫn” trong kinh
này. Kinh ấy nói “sông lớn phủ cát vàng đổ thẳng
vào biển Tây” nhằm sánh ví trí huệ Nhất Thật,
ứng với “ṭa Không pháp” trong kinh này. Kinh ấy nói “nữ nhân đắc đạo
chẳng có siểm khúc” nhằm sánh ví vô duyên đại
từ, ứng hợp với “từ bi thất” trong kinh này.
Kinh đó gọi là “vô dư nghĩa” (chẳng có nghĩa
nào khác), c̣n kinh này gọi là Vô Thượng Đạo. Kinh ấy
lại nói tới Thánh Hạnh tức là Như Lai ṭa, Thiên Hạnh
là Như Lai Y. Phạm Hạnh, Bệnh Hạnh và Anh Nhi Hạnh
chính là Như Lai thất (nhà Như Lai).
Hỏi: Đại
Kinh nói “thân cận quốc vương, đeo cung, mang tên để chế
phục kẻ ác”. Kinh này dạy “xa ĺa
kẻ quyền thế. Hăy khiêm hạ, từ thiện”,
[tức là hai kinh] cương nhu khá trái nghịch, sao lại
[bảo hai kinh] chẳng khác?
Đáp: Đại
Kinh riêng luận định về sự chiết phục,
trụ trong địa vị “con một”, chưa từng
chẳng nhiếp thọ. Kinh này riêng nói về sự nhiếp
thọ, nhưng [như phẩm Đà La Ni nói”] “đầu
phá tác thất phần” (đầu nứt làm bảy miếng)[11],
há chưa từng chiết phục ư? Tuy mỗi kinh đều
nêu riêng một phương diện, nhưng Lư ắt trọn
đủ bốn [Tất Đàn]. “Thời
tiết thích đáng, cơ nghi xứng hợp” chính là ư nghĩa Thế Giới Tất Đàn. “Nhiếp
thọ” tức là
ư nghĩa Vị Nhân Tất Đàn. “Chiết
phục” chính là ư
nghĩa Đối Trị Tất Đàn. “Ngộ
đạo” chính là ư
nghĩa Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn.
Kế đó, giải
thích cặn kẽ theo pháp môn, sẽ được gọi
là “bất động
môn”, “bất thọ
môn”, và “bất hành
môn”. Nói cặn
kẽ th́ như mười thứ “ba pháp” trong sách Pháp
Hoa Huyền Nghĩa, cứ chuẩn theo đó sẽ biết.
Nếu coi nghĩa này là Tứ Tất Đàn th́ ba pháp khác
nhau chính là Thế Giới Tất Đàn. Giải Thoát chính là
Vị Nhân Tất Đàn. Bát Nhă tức là Đối Trị
Tất Đàn. Pháp Thân tức Đệ Nhất Nghĩa Tất
Đàn.
Hỏi: An Lạc Hạnh
có thứ tự như thế nào?
Đáp: Viên hạnh
Pháp Hoa, một hạnh là vô lượng hạnh chẳng thể
nghĩ bàn, há định ra trước sau? Nay một mực
nói theo kinh văn th́ trong phẩm Pháp Sư đă chỉ bày đại
lược chuyện hoằng kinh, tức là lấy chuyện
“lợi ích kẻ khác” làm gốc.
V́ thế, trước hết nói đến chuyện “nhập
thất” (vào trong nhà của Như Lai). Phẩm này biện
định chuyện hoằng kinh trong đời ác, an định
các thứ bức bách, năo hại. Do vậy, trước
hết nói đến chuyện “mặc áo” [Như Lai]. Trước
sau hiển hiện lẫn nhau. Nếu xét theo hạnh để
nói, các pháp từ thuở đầu thường là tướng
tịch diệt. Do trái nghịch
tịch diệt mà dấy lên
tướng, trước hết, hăy nên dùng Bát Nhă để
trừ sạch. Đó là “ngồi ṭa Như Lai”. Các pháp
chẳng sanh mà Bát Nhă sanh, đồng thể từ bi. V́ thương
xót chúng sanh mà hành đạo. Kế đó, “nhập Như
Lai thất” (vào nhà của Như Lai). Đă dùng từ bi để
hóa độ cơi đời, ắt sẽ dính dáng tới trái nghịch
hay thuận tùng, chắc chắc cần phải an nhẫn.
Kế đó, “trước Như Lai y” (mặc áo Như
Lai). Nhưng tuy nói theo thứ tự, khi hành chẳng theo thứ
tự. Khi hành, nhập Không tức là có đủ hết thảy
các pháp, huống hồ là Từ và Nhẫn ư?
Tứ An Lạc Hạnh:
- Một là Chỉ
Quán từ bi hướng dẫn thân nghiệp.
- Hai là Chỉ Quán từ
bi hướng dẫn khẩu nghiệp.
- Ba là Chỉ Quán từ
bi hướng dẫn ư nghiệp.
- Bốn là Chỉ
Quán từ bi hướng dẫn thệ nguyện.
Do thân nghiệp có
Chỉ, bèn ĺa nghiệp
thô nơi thân. Do có Quán, cho nên chẳng
có thân, chẳng có thân nghiệp, chẳng có cái có thể ĺa,
chẳng có cái để đạt được, cho nên
chẳng đọa vào địa vị phàm phu. Do có từ
bi, siêng tu thân nghiệp, rộng lợi ích hết thảy, sẽ chẳng đọa
vào địa vị Nhị Thừa. Do có Chỉ Hạnh, mặc
áo Như Lai. Do có Quán Hạnh, ngồi ṭa Như Lai. Do có từ
bi, vào nhà Như Lai. Chỉ Hạnh ĺa lỗi, tức thành tựu
Đoạn Đức. Quán Hạnh chẳng chấp trước,
tức thành tựu Trí Đức. Từ bi lợi lạc kẻ
khác, tức thành tựu Ân Đức. Ân Đức giúp cho Trí
Đức thành tựu. Trí Đức có thể thông đạt
Đoạn Đức; đó gọi là “thân nghiệp An Lạc
Hạnh”. Các thệ nguyện nơi khẩu và ư cũng
giống như thế. Đó là ư nghĩa tồn tại của
phẩm này.
Nếu các vị đại
Bồ Tát vâng mạng hoằng kinh, biết Quyền Thật
sâu xa, rộng biết Tiệm và Đốn, lại thấu
đạt cơ duyên, thần lực tự tại, chẳng có năo loạn nào trong đời ô trược
có thể chướng ngại, ngăn trở được,
sẽ chẳng đợi chỉ dạy phương pháp. Nhưng
nếu là kẻ mới nương vào cái tâm ban đầu,
muốn tu viên hạnh, vào cơi ô trược để hoằng kinh, bị ô trược bức
năo, tự hạnh chẳng lập, cũng chẳng có công năng
hóa độ người khác, ắt cần phải chỉ
dạy An Lạc Hạnh.
Đây là phẩm kinh
thứ năm thuộc phần Lưu Thông của Tích Môn,
chia thành hai phần: Một là hỏi, hai là đáp.
14.1. Thưa hỏi
14.1.1. Tán thán bậc Bồ
Tát hạnh sâu trong phẩm trước có thể hoằng
kinh đúng như pháp
(Kinh)
Nhĩ thời, Văn Thù Sư Lợi pháp vương
tử Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật
ngôn: - Thế Tôn! Thị chư Bồ Tát thậm vi hy hữu,
kính thuận Phật cố, phát đại thệ nguyện:
Ư hậu ác thế, hộ tŕ, độc thuyết thị Pháp Hoa
kinh.
(經)爾時文殊師利法王子菩薩摩訶薩白佛言。世尊。是諸菩薩。甚為希有。敬順佛故。發大誓願。於後惡世。護持讀說是法華經。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử
Bồ Tát Ma Ha Tát bạch với đức Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các vị Bồ Tát này rất là hy hữu,
do kính thuận Phật nên phát thệ nguyện lớn: Trong đời ác mai sau, hộ tŕ, đọc, nói kinh
Pháp Hoa này).
14.1.2. Thưa hỏi “hàng Bồ Tát mới hành [Bồ Tát đạo]
th́ nên hoằng kinh trong đời ác như thế nào?”
(Kinh)
Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát ư hậu ác thế, vân hà năng
thuyết thị kinh?
(經)世尊。菩薩摩訶薩。於後惡世。云何能說是經。
(Kinh: Bạch
Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát trong đời ác mai sau, như
thế nào th́ sẽ có thể nói kinh này?)
14.2. Trả lời
14.2.1. Nêu chung các đề mục
(Kinh)
Phật cáo Văn Thù Sư Lợi: - Nhược Bồ Tát Ma
Ha Tát ư hậu ác thế, dục thuyết thị kinh, đương
an trụ tứ pháp.
(經)佛告文殊師利。若菩薩摩訶薩。於後惡世欲說是經。當安住四法。
(Kinh:
Đức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi: - Nếu
Bồ Tát Ma Ha Tát trong đời ác mai sau muốn nói kinh này,
hăy nên an trụ trong bốn pháp).
14.2.2. Giải thích phương pháp tu
hành
14.2.2.1. Thân an lạc hạnh
14.2.2.1.1. Trường Hàng
14.2.2.1.1.1. Nêu đề mục
(Kinh)
Nhất giả, an trụ Bồ Tát hành xứ, thân cận xứ,
năng vị chúng sanh diễn thuyết thị kinh.
(經)一者安住菩薩行處親近處。能為眾生演說是經。
(Kinh:
Một là an trụ trong hành xứ và thân cận xứ của
Bồ Tát, sẽ có thể v́ chúng sanh diễn nói kinh này).
Hướng
theo lư nói đại lược th́ gọi là Hành Xứ, tức
là xét theo chánh hạnh. Kèm theo sự để nói cặn kẽ
th́ gọi là Thân Cận Xứ, tức là xét theo trợ hạnh.
Nhưng giải nói [các hạnh An Lạc] th́ có chi tiết
hay đại lược, chứ Lư chẳng có cạn hay sâu.
Giải thích cặn kẽ như sau:
14.2.2.1.1.2. Giải thích
14.2.2.1.1.2.1. Giải thích Hành Xứ
(Kinh)
Văn Thù Sư Lợi! Vân hà danh Bồ Tát Ma Ha Tát hành xứ?
Nhược Bồ Tát Ma Ha Tát trụ nhẫn nhục địa,
nhu ḥa, thiện thuận, nhi bất tốt bạo, tâm diệc
bất kinh[12].
Hựu phục ư pháp vô sở hành[13], nhi quán chư pháp
như thật tướng[14], diệc bất
hành, bất phân biệt. Thị danh Bồ Tát Ma Ha Tát hành xứ.
(經)文殊師利。云何名菩薩摩訶薩行處。若菩薩摩訶薩。住忍辱地。柔和善順。而不卒暴。心亦不驚。又復於法無所行。而觀諸法如實相。亦不行不分別。是名菩薩摩訶薩行處。
(Kinh: Này
Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là Hành Xứ của Bồ
Tát Ma Ha Tát? Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát trụ nơi nhẫn nhục
địa, nhu ḥa, khéo tùy thuận, chẳng bộp chộp,
tâm cũng chẳng kinh sợ, lại c̣n đối với
pháp tuy hành mà như chẳng hành, quán tướng như thật
của các pháp, cũng chẳng hành, chẳng phân biệt. Đó
gọi là Hành Xứ của Bồ Tát Ma Ha Tát).
Giải thích đoạn
này có ba phần:
- Một là xét theo một
pháp, tức là một Thật Đế.
- Hai là xét theo hai pháp,
tức là Sanh Nhẫn và Pháp Nhẫn.
- Ba là xét theo ba pháp,
tức là Tam Đế chẳng thể nghĩ bàn.
1) Xét theo một Thật
Đế, đó là chỗ để hết thảy các pháp
quay về. Nó làm gốc cho hết thảy, nhưng trọn
khắp, chẳng
phân biệt, là chỗ nương về của hết thảy.
V́ thế nói là “trụ nhẫn nhục địa”. Do
các pháp quy vào, cho nên gọi
là Địa. Các hạnh đều ngưng dứt, cho nên gọi là Nhẫn Nhục. Đấy là hạnh “hành
mà chẳng hành”, tức “áo của
Như Lai!” (Lư tuy chẳng có hành, nhưng nương theo Lư mà hành. Hành sao cho
Lư ngưng bặt th́ gọi là Bất Hành. Hành tức là Bất
Hành. V́ thế nói “hành hạnh chẳng hành mà hành”). Đó
là cái gốc của hết thảy. V́ thế nói “nhu ḥa,
thiện thuận” v.v… Các hạnh do đạt được
lư mà thành tựu. Ví như vạn vật
do có đất mà sanh. Nếu đạt được cái
gốc nơi Lư, tại chỗ cương mà có thể nhu,
nơi nghịch mà có thể thuận, nơi cấp bách mà có
thể an định, nơi kinh hoàng mà có thể an tĩnh,
vô lượng công đức sanh từ đất Nhất
Thật Trung Đạo. Đất chẳng sanh ǵ mà sanh ra công
đức. Đấy chính là hạnh “chẳng hành mà hành”,
tức “nhà của Như Lai” (nương theo lư chẳng
hành mà hành nơi hạnh), trọn khắp chẳng phân biệt.
V́ thế nói “hựu phục ư pháp…” (lại c̣n đối
với pháp), ngụ ư: Biết rơ hành và bất hành, tánh và tướng
chẳng hai, thấy lẽ Thật nơi các pháp, th́ gọi
là “chẳng phân biệt”. Nhưng cũng không có tướng
“chẳng phân biệt” để có thể đạt
được! Đó là “diệc bất hành, bất phân biệt” (cũng chẳng hành, chẳng
phân biệt), tức là hạnh “chẳng hành, chẳng không
hành”, tức là “Như Lai ṭa” (đối với pháp
[tuy hành, mà thấy như] chẳng có ǵ để hành, cho nên nói
“phi hành” (chẳng phải hành). Cũng do chẳng hành,
chẳng phân biệt, cho nên nói là “phi bất hành”). Chẳng
có tam hạnh (Chỉ Hạnh, Quán Hạnh, Từ Bi Hạnh),
mà là tam hạnh, cho nên gọi là Hành, có cùng một Thật Đế.
V́ thế gọi là Xứ. Trước hết, “xét theo pháp để giải thích Hành Xứ” đă xong.
2) Kế đó, [xét
theo hai pháp] Sanh Nhẫn và Pháp Nhẫn, tức là Sanh Không và
Pháp Không. Đó là chỗ khác biệt so với Nhị Thừa.
Sanh Không của Nhị Thừa chỉ phá Ngă Chấp trong tam
giới. Pháp Không của Nhị
Thừa chỉ phá pháp chấp “tà nhân duyên, vô nhân duyên”
trong tam giới. Nay nói rơ Nhị Không (Sanh Không và Pháp Không) theo
Viên Giáo. Xét theo “giả danh ‘mười
pháp giới’ chính là Trung Đạo”, sẽ chẳng
c̣n có giả danh “mười
pháp giới” để đạt được. V́ thế gọi
là Sanh Không. Xét theo “Thật pháp của mười pháp giới
chính là Trung Đạo”, sẽ chẳng c̣n Thật pháp
trong mười pháp giới để có thể đạt
được, cho nên gọi là Pháp Không. Nếu mở rộng
ra, sẽ là Tứ Nhẫn, tức Phục Nhẫn, Thuận
Nhẫn, Vô Sanh Nhẫn, và Tịch Diệt Nhẫn. Hoặc
là Ngũ Nhẫn, tức là [Tứ Nhẫn trên đây] kể
thêm Tín Nhẫn. Hoặc thành sáu nhẫn, tức là [Ngũ Nhẫn]
kể thêm Ḥa Tùng Nhẫn (nhẫn pháp ḥa thuận, vâng theo).
Hoặc đối ứng với bốn mươi hai địa
vị [Bồ
Tát trong Viên Giáo] mà thành bốn
mươi hai món Nhẫn. Một địa vị bèn có công
đức của bốn mươi hai địa vị; một
Nhẫn há chẳng có bốn mươi hai Nhẫn pháp ư?
Nay lại xét theo Tứ
Nhẫn để giải thích kinh văn, nhưng rất
khác với Biệt Giáo. Phục Nhẫn và Thuận Nhẫn
của Biệt Giáo chính là địa vị Sanh Nhẫn, cho
nên nông cạn. Vô Sanh Nhẫn và Tịch Diệt Nhẫn thuộc
địa vị Pháp Nhẫn th́ sâu. Viên Giáo chẳng như
vậy. Hai Nhẫn và bốn Nhẫn đều thông trước
sau, v́ sao? Lư Nhị Không chính là Trung Đạo. Thoạt đầu
tu bốn môn Nhẫn, nhập Trung Đạo, thấy lư Nhị Không, cho đến hậu tâm, cũng
chỉ cùng tận lư Nhị Không. V́ thế, Đại Kinh
nói: “Phát tâm tất cánh nhị bất biệt” ([vừa mới] phát tâm và [đă chứng đắc]
rốt ráo hai thứ chẳng sai khác). Nếu xét theo “chẳng
sâu hay cạn” để phán định bốn môn Nhẫn
th́ từ sơ phát tâm, chế phục trọn vẹn ngũ
trụ, đạt tới kim cang đảnh[15],
đều gọi là Phục Nhẫn. Do trước và sau đều
chẳng trái nghịch Thật Tướng, cho nên đều
gọi là Thuận Nhẫn. Do sơ tâm (vừa mới phát tâm) và hậu
tâm (đă
chứng đắc) đều chẳng khởi
tâm nhị biên, cho nên đều
gọi là Vô Sanh Nhẫn. Do sơ tâm và hậu tâm đều
ngưng dứt các hạnh, cho nên đều
gọi là Tịch Diệt Nhẫn (phàm phu đang mê. Đó là Lư Tức
Nhị Không Tứ Nhẫn. Nghe kinh sanh giải th́ gọi là
Danh Tự Nhị Không Tứ Nhẫn. Chế phục trọn
vẹn ngũ trụ th́ là Quán Hạnh Nhị Không Tứ Nhẫn.
Sáu căn thanh tịnh th́ là Tương Tự Nhị Không Tứ
Nhẫn. Bốn mươi mốt địa vị (tức
là từ
Sơ Trụ cho đến Đẳng Giác) chính là Phần
Chứng Nhị Không Tứ Nhẫn. Diệu giác cực quả (Phật quả rốt
ráo) chính là Cứu Cánh Nhị Không Tứ Nhẫn). Kinh nói “trụ
nhẫn nhục địa” tức là trụ trong “Nhị
Không Tứ Nhẫn địa”.
“Nhu ḥa” chính là
Phục Nhẫn. “Thiện thuận” v.v… chính là Thuận
Nhẫn. Nghe nỗi khổ sanh tử, chẳng bộp chộp
sanh ḷng sợ hăi. Nghe niềm vui Niết Bàn, chẳng bộp
chộp cầu chứng. Nghe Phật thường và vô thường,
Nhị Thừa thành Phật hay chẳng thành Phật, sanh tử
và Niết Bàn khác nhau hay chẳng khác, Phật đạo dài,
ngắn, khó, dễ, hay chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng
khó, chẳng dễ v.v… đều chẳng kinh sợ. V́ thế
gọi là Thuận Nhẫn. Lại c̣n đối với “pháp
chẳng có ǵ để hành” (tức tuy hành mà chẳng thấy
có hành) mà quán tướng như thật của các pháp. Đó
chính là Vô Sanh Nhẫn. “Cũng chẳng hành, chẳng phân biệt”, tức
là Tịch Diệt Nhẫn. Hai món đầu (Phục Nhẫn
và Thuận Nhẫn) gọi là Sanh Nhẫn, hai món sau gọi
là Pháp Nhẫn. Từ đầu tới cuối, dùng lư Nhị
Không để nhẫn các pháp, tức là “mặc áo Như
Lai”. An trụ nơi lư Nhị Không, tức là “ngồi
ṭa của Như Lai”. Thương xót các chúng sanh, tức
là “vào nhà Như Lai”. Nhị Không Tứ Nhẫn là Hạnh,
Lư tức là Xứ. V́ thế nói là “Bồ Tát hành xứ”.
Xét theo hai pháp để giải thích Hành Xứ đă xong!
3) Kế đó, xét
theo Tam Đế chẳng thể nghĩ bàn [để giải
thích Hành Xứ]. Trụ Nhẫn Nhục địa, luận
định chung Tam Đế. Như có đất để
nương cậy th́ mới có thể nhẫn nhục. “Nhu
ḥa, thiện thuận”: Khéo thuận theo Chân Đế, có
thể nhẫn các thứ kiến ái[16],
nóng, lạnh v.v… hư vọng trong tam giới và ngoài tam giới,
chẳng sanh tâm bộp chộp. “Diệc bất kinh”
(cũng chẳng kinh sợ), tức là an trụ trong Tục Đế,
nhẫn các căn duyên, tương xứng, thích đáng cơ
nghi. V́ thế chẳng bộp chộp. Thấu hiểu, kham
nhẫn trái nghịch và thuận tùng, cho nên tâm chẳng kinh
sợ. “Ư pháp vô sở hành” v.v… (đối với
pháp [tuy hành mà như] chẳng có ǵ để
hành) tức là an trụ trong Trung Đế, có thể nhẫn
thọ Nhị Biên. V́ thế nói “vô sở hành”. Chánh trụ
Trung Đạo, cho nên nói “quán như thật tướng”.
Do cũng chẳng đạt được Trung hay Thật,
cho nên nói “diệc bất hành, bất phân biệt” (cũng
chẳng hành, chẳng phân biệt). Đấy chính là dựa
trên đất Tam Đế, cho nên gọi là Xứ. Kham nhẫn
nỗi nhục ngũ trụ, cho nên gọi là Hạnh. Hạnh
cũng là ba, tức là:
- Chỉ Hạnh chính
là hành mà chẳng hành; đó là “mặc áo
Như Lai”.
- Quán Hạnh tức
là chẳng phải hành, chẳng phải không hành; đó là “ngồi ṭa Như Lai”.
- Từ Bi Hạnh tức
là chẳng hành mà hành; đó là “vào nhà Như
Lai”.
Đấy là xét
theo ba pháp để giải thích Hành Xứ của Bồ
Tát, ḥng nêu rơ
phương pháp và đường
lối để hoằng kinh vậy.
14.2.2.1.1.2.2. Giải thích Thân Cận Xứ
14.2.2.1.1.2.2.1. Xét theo sự xa ĺa để
luận định sự thân cận
Tức là
kèm thêm Giới môn để giúp cho Chỉ Quán, ḥng thành tựu
ḷng từ bi, mà cũng là nói rộng “hành mà chẳng hành”
thuộc “trụ nhẫn nhục địa” trong phần
trên. Kinh văn được chia thành mười đoạn,
từ đoạn thứ nhất là “xa lánh kẻ quyền
thế” cho đến điều thứ mười là “xa
ĺa sự nuôi nấng”. Trong đó, điều thứ chín là
sanh tử, điều thứ năm tức là Niết Bàn của
chủng tánh Nhị Thừa. Hai đằng đều
xa ĺa, cho nên gọi là “thân cận Trung Đạo”.
14.2.2.1.1.2.2.1.1. Xa ĺa kẻ quyền
thế
(Kinh)
Vân hà danh Bồ
Tát Ma Ha Tát thân cận xứ? Bồ Tát Ma Ha Tát bất thân cận
quốc vương, vương tử, đại thần,
quan trưởng.
(經)云何名菩薩摩訶薩親近處。菩薩摩訶薩。不親近國王王子大臣官長。
(Kinh:
Thế nào là
chỗ thân cận của Bồ Tát Ma Ha Tát? Bồ Tát Ma Ha
Tát chẳng thân cận quốc vương, vương tử,
đại thần, trưởng quan).
Do sợ người mới
hành sẽ dựa dẫm thế lực, đánh mất chánh
đạo. Thoạt đầu tựa hồ là điều
lợi ích nhỏ nhặt, nhưng lâu ngày sẽ là tổn hại
to lớn.
14.2.2.1.1.2.2.1.2. Xa ĺa tà nhân, tà pháp
(Kinh)
Bất thân cận
chư ngoại đạo, Phạm Chí, Ni Kiền Tử đẳng,
cập tạo thế tục văn bút, tán vịnh ngoại
thư, cập lộ già da đà, nghịch lộ già da đà
giả.
(經)不親近諸外道梵志尼犍子等。及造世俗文筆。讚詠外書。及路伽耶陀逆路伽耶陀者。
(Kinh:
Chẳng thân cận các ngoại đạo, Phạm Chí, Ni Kiền
Tử v.v… và kẻ biên soạn, viết lách thế tục,
ca ngợi, ngâm vịnh sách vở ngoại đạo, và lộ
già da đà, nghịch lộ già da đà).
Phạm Chí c̣n gọi là Tịnh
Duệ (淨裔, hậu duệ của gịng dơi thanh tịnh),
tức kẻ tại gia thờ phụng Phạm thiên. Ni Kiền
(Nirgrantha)[17], phương này dịch
là Ly Hệ (ĺa trói buộc), là tiếng gọi chung những
kẻ xuất gia ngoại đạo. Lộ già da đà (Lokāyatika,
thuận theo thế gian), c̣n gọi là Vi Đà (Vedas), là kinh
sách của ngoại đạo tại Tây Vực, nương
theo ái kiến mà giải đáp, giải thích. “Nghịch”
có nghĩa là gạn hỏi (cật vấn), tức là nương
theo ái kiến để bắt bẻ! Chánh quán chưa thành,
rất cần phải ngăn ngừa, cắt dứt, sợ
[thân cận những thứ đó sẽ] nhiễm đắm
tập khí, mê mất chánh lư.
14.2.2.1.1.2.2.1.3. Xa ĺa những tṛ hung
bạo, nguy hiểm
(Kinh)
Diệc bất thân cận chư hữu hung hư, tương
xoa, tương phác[18], cập Na La đẳng
chủng chủng biến hiện chi hư.
(經)亦不親近諸有兇戲。相扠相撲。及那羅等種種變現之戲。
(Kinh:
Cũng không
thân cận các thứ tṛ chơi biến hiện có tánh chất
hung bạo, đấm nhau, vật nhau, và Na La v.v…)
Na La (Naṭa) phương này dịch là Lực, tức là tṛ thi đấu
sức mạnh. Cũng chẳng thân cận [những tṛ ấy]
v́ sợ tán loạn, phóng dật.
14.2.2.1.1.2.2.1.4. Xa ĺa Chiên-đà-la
(Kinh)
Hựu bất thân cận Chiên-đà-la[19], cập súc trư,
dương, kê, cẩu, điền liệp, ngư bộ,
chư ác luật nghi. Như thị nhân đẳng hoặc
thời lai giả, tắc vị thuyết pháp, vô sở hy
vọng.
(經)又不親近旃陀羅。及畜豬羊雞狗。畋獵漁捕諸惡律儀。如是人等或時來者。則為說法。無所希望。
(Kinh: Lại
chẳng thân cận Chiên-đà-la, và những kẻ nuôi lợn,
dê, gà, chó, săn bắn, bắt cá, các [kẻ hành theo] ác luật
nghi. Nếu có lúc hạng người như vậy t́m đến,
liền v́ họ thuyết pháp, nhưng chẳng mong mỏi).
Thân cận Chiên-đà-la
sẽ khiến cho người ta chẳng có ḷng Từ.
14.2.2.1.1.2.2.1.5. Xa ĺa hàng Nhị Thừa
(Kinh)
Hựu bất thân cận cầu Thanh Văn tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, diệc bất vấn tấn.
Nhược ư pḥng trung, nhược kinh hành xứ, nhược
tại giảng đường trung, bất cộng trụ
chỉ. Hoặc thời lai giả, tùy nghi thuyết pháp, vô sở
hy cầu.
(經)又不親近求聲聞比丘比丘尼優婆塞優婆夷。亦不問訊。若於房中。若經行處。若在講堂中。不共住止。或時來者。隨宜說法。無所希求。
(Kinh:
Lại chẳng thân cận tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di cầu Thanh Văn, cũng chẳng chào hỏi. Dù
là ở trong nhà, hoặc chỗ kinh hành, hoặc trong giảng
đường, đều chẳng cùng họ ở chung.
Nếu có lúc họ t́m đến, sẽ tùy nghi thuyết pháp,
chẳng mong cầu ǵ).
Gần hàng Nhị
Thừa, sẽ khiến cho người ta xa ĺa Bồ
Đề. Tại Tây Trúc, Đại Thừa và Tiểu Thừa
đều ở riêng, chẳng xen tạp. V́ thế nói là “hoặc
lai” (có khi đến). Đă chẳng tiếp nhận Đại
pháp, chẳng phương ngại chí hướng Tiểu Thừa,
cho nên nói “tùy nghi thuyết pháp”.
14.2.2.1.1.2.2.1.6. Xa ĺa dục tưởng
(Kinh)
Văn Thù Sư Lợi! Hựu Bồ Tát Ma Ha Tát bất ưng
ư nữ nhân thân, thủ năng sanh dục tưởng
tướng, nhi vị thuyết pháp, diệc bất nhạo
kiến. Nhược nhập tha gia, bất dữ tiểu
nữ, xử nữ, quả nữ đẳng cộng ngữ.
(經)文殊師利。又菩薩摩訶薩。不應於女人身。取能生欲想相而為說法。亦不樂見。若入他家。不與小女處女寡女等共語。
(Kinh: Này
Văn Thù Sư Lợi! Lại Bồ Tát Ma Ha Tát chớ nên đối
với thân người nữ chấp giữ ư tưởng, coi đó là h́nh tướng có thể nẩy sanh dục
vọng mà v́ họ thuyết pháp, cũng chẳng thích thấy.
Nếu vào nhà người khác, chẳng cùng bé gái, gái trinh, gái góa v.v… tṛ chuyện).
Dục tưởng
có thể sát hại tâm Bồ Đề mạnh nhất.
14.2.2.1.1.2.2.1.7. Xa ĺa hạng bất
nam
(Kinh)
Diệc phục bất cận ngũ chủng bất nam chi
nhân, dĩ vi
thân hậu.
(經)亦復不近五種不男之人以為親厚。
(Kinh: Cũng
lại đừng thân cận năm loại bất nam, coi
là thân thiết).
Do kẻ bất nam
có thể hoại loạn chí hướng Bồ Đề
nhất. Năm loại bất nam là:
- Một là sanh bất
nam, tức là ở trong thai, hoặc lúc mới sanh ra đă
thiếu nam căn.
- Hai là kiền bất
nam (“kiền” (犍) là thiến), tức là do cắt bỏ hay bị hư
nát.
- Ba là đố bất
nam (“đố” là ghen ghét), tức là do kẻ khác dâm dục,
[kẻ đó] chợt sanh ra nam căn, nhưng không dùng được.
- Bốn là biến
bất nam, tức là thấy người nam, [kẻ đó]
liền biến thành nữ. Thấy người nữ, liền
biến thành nam.
- Năm là bán bất
nam, tức là nửa tháng sử dụng được, nửa
tháng chẳng thể.
Những kẻ ấy
đều là xưa kia đă tạo ác nghiệp, nay cảm
ác báo, chẳng kham tải đạo, chẳng phải là pháp
khí của Phật. V́ thế, gọi là “trọng nạn”
(nạn lớn), chẳng được phép xuất gia, và
cũng chớ nên thân thiết với họ.
14.2.2.1.1.2.2.1.8. Xa ĺa nguy hại
(Kinh)
Bất độc nhập tha gia. Nhược hữu nhân
duyên, tu độc nhập thời, đản nhất tâm niệm
Phật.
(經)不獨入他家。若有因緣須獨入時。但一心念佛。
(Kinh: Đừng
một ḿnh vào nhà người khác. Nếu lúc có nhân duyên, cần
phải một ḿnh đi vào, chỉ nhất tâm niệm Phật).
Một ḿnh vào nhà kẻ
khác, sợ chuốc phải nỗi nguy hại. Nhất tâm
niệm Phật, chướng nạn đều trừ!
14.2.2.1.1.2.2.1.9. Xa ĺa sự chê gièm
(Kinh)
Nhược vị nữ nhân thuyết pháp, bất lộ xỉ
tiếu, bất hiện hung ức, năi chí vị pháp, do bất
thân hậu, huống phục dư sự.
(經)若為女人說法。不露齒笑。不現胸臆。乃至為法。猶不 親厚。況復餘事。
(Kinh: Nếu
v́ người nữ thuyết pháp, chớ cười lộ
răng, chẳng để lộ ngực, cho đến v́
pháp c̣n chẳng nên thân thiết, huống hồ các chuyện
khác!)
Theo Luật, nếu
v́ kẻ nữ thuyết pháp, cần phải có người
nam biết tốt xấu ở bên cạnh. Nếu chẳng
có kẻ nam hiểu biết, chẳng được nói hơn
năm sáu câu, [những
điều này] đều nhằm xa ĺa tỵ hiềm, ngờ
vực, chẳng khiến cho kẻ khác tăng trưởng
tâm bất thiện.
14.2.2.1.1.2.2.1.10. Xa ĺa chuyện nuôi nấng
(Kinh)
Bất nhạo súc niên thiếu đệ tử, sa di, tiểu
nhi, diệc bất nhạo dữ đồng sư.
(經)不樂畜年少弟子沙彌小兒。亦不樂與同師。
(Kinh: Chẳng
thích nuôi đệ tử, sa di nhỏ tuổi, trẻ nhỏ,
cũng chẳng thích cùng thầy với chúng nó).
Thiếu niên tập
tánh chưa định, [nếu người muốn hoằng
kinh Pháp Hoa mà] tự ḿnh nuôi, sẽ trở ngại cho việc
tu tập chánh nghiệp. Cùng thầy, ắt sẽ nhiễu loạn sự thỉnh ích (thưa
hỏi cầu pháp ích). Kinh văn trong phần trước
chỉ nói “trụ nhẫn nhục địa” tức
là trực tiếp duyên theo lư. Nay giới môn nêu rộng các
duyên tạo thành các nỗi nhục, phải nên xa ĺa. Chẳng
cầm đao, trượng, mà cũng chẳng vứt bỏ,
chỉ dùng chánh huệ để xa ĺa. Mười pháp như
thế đều được các giáo dạy như thế,
chỉ là đối với chuyện ĺa Nhị Thừa, các
giáo sai khác đôi chút. Nay hoằng dương diệu điển,
cần phải phó chúc cho người thuộc Viên Giáo.
Giải thích theo quán
tâm th́ phải nên chia thành hai loại Tổng và Biệt. Tổng
th́ không ǵ chẳng phải là pháp giới, có ǵ để có
thể ĺa? Có ǵ để chẳng ĺa? Chẳng ĺa, chẳng
không ĺa, mà bàn luận “ĺa” đó thôi! Vẫn giống như chẳng xa ĺa, chẳng
thân cận, mà luận định thân cận. Sơ tâm tuy hiểu
“hết thảy vốn là không”, nhưng cần phải nhiều
lượt xa ĺa. Nói theo Biệt
th́ xa ĺa giáo chủ oai thế của tam giáo, pháp nhị biên
chính là tà pháp. Kẻ nhị biên được gọi là “tà
nhân”. Thần thông do hai phép Quán được gọi là “hung
hư” (tṛ chơi hung bạo). Tam Hoặc là Chiên-đà-la giết
mạng Tam Trí. Ư tưởng diệt độ Thiên Không được
gọi là “Nhị Thừa chúng”. Quán lệch về Chân
hay Tục, cho đến Trung Đạo pháp ái, đều gọi là “dục tưởng”. Diệt
Sắc, trụ vào Không th́ là “bất nam”. Phương
tiện quán trí đều gây hại cho sự tột cùng viên
măn. Hết thảy tục cảnh được gọi là
“cơ hiềm” (chê gièm). Thiện căn trong ba giáo trước
được gọi là “thiếu niên, trẻ nít”.
Phần thứ nhất, “dựa theo xa ĺa để luận
định thân cận” đă xong.
14.2.2.1.1.2.2.2. Xét theo sự thân cận
để luận định thân cận
Chính là kèm
theo Định môn để giúp cho Chỉ Quán, thành tựu
từ bi, cũng là mở rộng ư “nhu ḥa, thiện thuận,
chẳng bộp chộp, tâm cũng chẳng kinh sợ, hành
mà chẳng hành” trong phần trên. Trong phần trên, [kinh
văn] đă nói thẳng thừng “chẳng bộp chộp, chẳng
kinh sợ”. Nay rộng
nêu cái tâm tu Định, chỗ tu Định, và điều
cốt yếu trong tu Định. Do sức của Định,
sẽ ở trong chỗ gấp rút mà an b́nh, trong kinh hăi mà an định.
(Kinh) Thường
hảo tọa Thiền, tại ư nhàn xứ, tu nhiếp
kỳ tâm. Văn Thù Sư Lợi! Thị danh sơ thân cận
xứ.
(經)常好坐禪。在於閑處。修攝其心。文殊師利。是名初親近處。
(Kinh:
Thường thích tọa Thiền, ở nơi thanh vắng,
tu tập, thâu nhiếp cái tâm. Này Văn Thù Sư Lợi! Đó
gọi là chỗ thân cận thứ nhất).
“Thường thích tọa Thiền” là cái tâm tu Định. Thích Thiền pháp nơi Trung Đạo
Thật Tướng, tức là đối với Dục trong ngũ pháp, kèm thêm tinh tấn, niệm, xảo huệ, nhất tâm. “Tại ư nhàn xứ” (ở
nơi thanh vắng) tức là chỗ tu Định, tức
là Xứ trong năm duyên. “Tu nhiếp kỳ tâm” (tu tập,
thâu nhiếp cái tâm) chính là điều
trọng yếu trong tu Định, tức là quở trách ngũ
dục, vứt bỏ Ngũ Cái, điều
phục ngũ sự. Trong hai mươi lăm môn phương
tiện, kinh văn trong phần trước đă nói kèm thêm Giới môn, ĺa mười
thứ năo loạn, tức là điều thứ nhất “tŕ
giới thanh tịnh”. Nay nói “tại ư nhàn xứ” (ở nơi thanh vắng)
tức là điều thứ ba “nhàn cư tĩnh xứ” (ở
nơi thanh vắng). Đă ở nơi thanh vắng, đương
nhiên sẽ gồm thâu điều thứ tư “tức
chư duyên vụ” (dứt các duyên và sự vụ), chỉ
lược đi chẳng nói đến điều thứ
hai là “y thực cụ túc” (áo cơm đầy đủ)
và điều thứ năm là “có thiện tri thức”.
Nếu xét theo quán tâm
để luận định trọn
đủ năm duyên, th́ Tam Quán là áo, Thiền Duyệt Pháp
Hỷ là thức ăn. Chư Phật, Bồ Tát, Lục Độ,
đạo phẩm, pháp tánh, Thật Tế, đều là thiện
tri thức. “Quở trách ngũ dục” tức là nói đến
sắc, thanh, hương, vị, xúc, những thứ ấy
đều là giặc cướp bóc công đức. Biết
rất rơ lỗi của chúng, ngưng dứt tham nhiễm. “Vứt
bỏ Ngũ Cái”: [Ngũ Cái] tức là tham dục, sân khuể, ngủ
nghê, điệu hối (lao chao, thường làm chuyện ǵ
rồi lại sanh ḷng hối hận), và nghi hoặc [đều
phải nên xả trừ]. Chúng nó che lấp Định, Huệ,
cho nên cần phải nhanh chóng trừ bỏ. Như chặt
bỏ cây cối có chất độc, như kiềm chế
kẻ trộm cắp. “Điều ḥa ngũ sự”, tức
là nói điều ḥa ăn uống sao cho chẳng đói, chẳng
no. Điều ḥa ngủ nghê sao cho chẳng thiếu ngủ, chẳng
ngủ quá nhiều. Điều ḥa cái thân sao cho chẳng buông
lung, chẳng tất bật. Điều ḥa
hơi thở sao cho chẳng thô rít, chẳng thở gấp.
Điều tâm sao cho chẳng ch́m đắm, chẳng phập
phều. Hai mươi pháp ấy, mỗi pháp đều có sự tướng, lư quán, nói cặn kẽ
th́ như sách Ma Ha Chỉ Quán [đă dạy], người
cần biết hăy nên t́m đọc. “Hành
ngũ pháp” do muốn đạt được Sơ Thiền, cũng tu năm pháp, cho đến các môn Thiền cũng
giống như thế.
Nay xét theo Viên quán th́
là muốn từ nhị biên mà chánh nhập Trung Đạo.
Chẳng xen tạp nhị biên th́ là Tinh, tùy ư lưu nhập
th́ là Tấn. Duyên gắn chặt với pháp giới, nhất niệm pháp giới là Niệm. Tu
phương tiện Trung Quán th́ gọi là Xảo Huệ. Dứt
bặt nhị biên, tâm thủy lắng trong, có thể biết
pháp tướng sanh diệt trong thế gian. Đấy là “cái
tâm bất nhị, thanh tịnh thường chuyên nhất”, sẽ có
thể thấy Bát Nhă. Dùng hai môn Giới và Định ấy
để làm tiền phương tiện. V́ thế nói tổng
kết là “phần Thân Cận Xứ đầu
tiên”.
14.2.2.1.1.2.2.3. Xét theo “chẳng xa ĺa, chẳng thân cận” để
luận định thân cận
Đây là
nói kèm thêm Huệ môn để giúp đỡ
Chỉ Quán, thành tựu ḷng từ bi, cũng là nói rộng
“nơi pháp không có ǵ để hành, mà quán tướng
như thật của các pháp, cũng chẳng hành, chẳng
phân biệt”, cũng như “chẳng
hành, chẳng bất hành” trong phần trên.
14.2.2.1.1.2.2.3.1. Nêu chung cảnh
trí
(Kinh)
Phục thứ Bồ Tát Ma Ha Tát quán nhất thiết pháp Không.
(經)復次菩薩摩訶薩。觀一切法空。
(Kinh:
Lại nữa, Bồ Tát Ma Ha Tát quán hết thảy các pháp
là Không).
“Quán” chính là
quán trí Trung Đạo. “Hết thảy các pháp” chính là
cảnh thuộc mười pháp giới. “Không” tức
là Đệ Nhất Nghĩa Đế chẳng thể
nghĩ bàn. Nếu chỉ luận về trí, th́ trí chẳng
có ǵ để quán, cho nên nêu lên “hết thảy” để
hiển thị [các pháp] đều là Không. Cái Không ấy chính
là Thật Tướng của các pháp, chỉ có Phật và Phật
mới có thể thấu suốt cùng tận. Nay Bồ Tát
sơ tâm vận dụng Trung Đạo Chỉ Quán để
quan sát. Thường nói là “từ đầu đến
cuối, đều dùng tri kiến của Phật để
tu hành”. V́ thế, có thể
khai, thị, ngộ, nhập. Trong chặng giữa, vĩnh
viễn không có các tướng cong vạy!
14.2.2.1.1.2.2.3.2. Giải thích riêng
(Kinh)
Như Thật Tướng bất điên đảo, bất
động, bất thoái, bất chuyển, như hư không,
vô sở hữu tánh. Nhất thiết ngữ ngôn đạo
đoạn, bất sanh, bất xuất, bất khởi, vô
danh, vô tướng, thật vô sở hữu, vô lượng,
vô biên, vô ngại, vô chướng.
(經)如實相。不顛倒。不動。不退。不轉。如虛空。無所有性。一切語言道斷。不生。不出。不起。無名。無相。實無所有。無量。無邊。無礙。無障。
(Kinh: Như
Thật Tướng chẳng điên đảo, bất động,
chẳng lui sụt, chẳng chuyển. Như hư không chẳng
có tánh sở hữu. Hết thảy ngôn ngữ dứt bặt,
chẳng sanh, chẳng xuất, chẳng dấy lên, chẳng có tên, chẳng
có tướng, thật sự vô sở hữu, vô lượng,
vô biên, chẳng ngăn ngại, chẳng ngăn chướng).
Câu “như Thật
Tướng” nhằm giải thích riêng cảnh thuộc
mười pháp giới để quán. Từ “bất điên
đảo” trở đi, giải thích riêng về trí
Trung Đạo có thể quán. Nhị biên và Tam Đế chẳng
một, chẳng khác, th́ gọi là Như. Chẳng phải
là bảy loại phương tiện, cho nên gọi là Thật.
Dùng Thật để làm tướng, cho nên nói “như thật
tướng” (Đối ứng nhị biên với Trung
th́ Trung ắt có Tam Đế. Tuy là ba mà chẳng phải là
ba, th́ gọi là “chẳng một, chẳng khác”. Tam Đế
như thật, do đối ứng với bảy loại
phương tiện mà biện định sai khác. Cho nên nói
là Thật. Thật chính là vô tướng, tướng trọn
khắp hết thảy).
“Bất điên đảo”:
Chẳng có bốn thứ điên đảo “thường,
lạc, ngă, tịnh” của phàm phu, chẳng có bốn thứ
điên đảo “vô thường, khổ, vô ngă, bất tịnh”
của Nhị Thừa, cũng chẳng có bốn thứ điên
đảo “thường, lạc, ngă, tịnh” xuất Giả,
tức là “chẳng tươi tốt, chẳng khô héo, cùng chiếu
tươi tốt lẫn khô héo”. Đó chính là Chánh Trung Đạo
Quán. “Bất động” là chẳng bị lay động
bởi hai thứ tử (Phần Đoạn và Biến Dịch).
“Bất thoái” là tâm luôn tịch diệt, tự nhiên lưu
nhập biển Tát Bà Nhă (Sarvajña,
Nhất Thiết Trí). “Bất chuyển”: Chẳng
như phàm phu luân chuyển sanh tử, chẳng như Nhị
Thừa chuyển phàm thành thánh.
“Như hư không”:
Chỉ có danh tự, danh tự chẳng thể được.
Trung Đạo quán trí cũng chỉ có danh tự, cầu
chẳng thể được! “Vô sở hữu tánh”:
Chẳng có tự tánh, chẳng có tha tánh, chẳng có cộng
tánh, chẳng có vô nhân tánh. “Nhất thiết ngữ ngôn đạo
đoạn” (hết thảy ngôn ngữ dứt bặt):
Ĺa bốn câu, tuyệt bách phi. V́ thế, chẳng thể
nghĩ bàn. “Bất sanh”: Hoặc (phiền năo) và trí lư đều
chẳng sanh, tức là “cái bị
phá” (sở phá) và “cái có thể
phá” (năng phá) do xứng lư nên đều chẳng sanh, tức
là hạnh, vị, nhân, quả v.v… đều chẳng sanh. “Bất
xuất”: Được Như Lai đối trị, toàn
thể chính là [tâm tánh], cho nên chẳng thể xuất, rốt
ráo chẳng c̣n phát khởi. “Bất khởi” là do nhập
Lư. Hết thảy phương tiện lư giáo đều là
tịch diệt. “Vô danh”: Hết thảy các tên gọi
đều chẳng thể diễn nói được, tức
là từ “chẳng điên đảo” cho đến bất
khởi cũng chẳng đáng gọi là “danh tự”
vậy! “Vô tướng”: Hết thảy các tướng
đều chẳng thể h́nh dung, tức là từ “chẳng
điên đảo” cho đến “bất khởi” cũng đều
chẳng đủ để h́nh dung. “Vô danh” chính là tánh
Không. “Vô tướng” chính là tướng Không. “Thật
vô sở hữu” là lần nữa tán thán Quán Thể chẳng
phải là Hữu trong nhị biên. “Vô lượng”: Chẳng
phải là các pháp số Ấm, Nhập, Giới v.v… “Vô biên”:
Chẳng phải các pháp có ngằn hạn, Thiên, Tiểu
v.v.. “Vô ngại”: Nhập khắp hết thảy các pháp.
“Vô chướng”: Chẳng có một pháp nào có thể
che lấp, ngăn trở. Tuy nói nhiều câu, chỉ nhằm
nêu bày: Trí có thể quán vô tướng, vô tác, và cái cảnh được
quán đều tương xứng với Thật Tướng
đó thôi!
14.2.2.1.1.2.2.3.3. Kết luận
(Kinh)
Đản dĩ nhân duyên hữu, tùng điên đảo sanh,
cố thuyết: “Thường nhạo quán như thị pháp
tướng”. Thị danh Bồ Tát Ma Ha Tát đệ nhị
thân cận xứ.
(經)但以因緣有。從顛倒生。故說。常樂觀如是法相。是名菩薩摩訶薩第二親近處。
(Kinh: Chỉ
do nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sanh. Ví thế nói:
“Thường thích quán pháp tướng như thế”. Đấy
gọi là chỗ thân cận thứ hai của Bồ Tát Ma Ha
Tát).
“Đản dĩ
nhân duyên hữu” (chỉ do nhân duyên mà có) là kết luận.
Trong phần trên, đă thẳng thừng nói về Trung Đạo
quán huệ, nay nói về sự song chiếu nhị biên. Lư tánh
rốt ráo thanh tịnh. Như trong phần trên đă nói, [lư
tánh] chẳng phải là hiểu, chẳng phải là mê hoặc,
nhưng do mê hoặc đối với nhân duyên mà sanh ra sanh
tử, từ thấu hiểu nhân duyên mà sanh ra Niết Bàn. Sanh
tử và Niết Bàn như sáu con rồng múa! Do từ điên
đảo mà có sanh tử; do từ sanh tử mà có Niết
Bàn. V́ thế, [Niết Bàn và sanh tử] đều từ điên
đảo mà sanh! Do có sanh tử và Niết Bàn, cho nên có mười
pháp giới và hết thảy các pháp để có thể nói. Nhưng hết thảy các pháp trong mười pháp giới
rốt ráo đều là Không, đều là tướng như thật (trong phần
trên đă trực tiếp nói đến Trung Đạo Quán
Huệ, nhưng phần nhiều xét theo song phi (hai bên đều
chẳng có), nhưng há có Trung Đạo chẳng chiếu
nhị biên? Ở đây, nhắc lại chuyện “chiếu nhị biên” để
kết lại phần kinh văn, ḥng hiển thị cái Thể
chẳng thể nghĩ bàn của Trung Quán).
Lại do nhân duyên mà
có, cho nên có Niết Bàn. Từ điên đảo mà sanh, cho nên
sanh trong sanh tử. Do có Niết Bàn và sanh tử, cho nên có thể
nói. Nhưng cái Thể của Trung Đạo Thật Tướng
chứng Niết Bàn mà chẳng phải là Niết
Bàn, ở trong sanh tử mà chẳng phải là sanh tử, trọn chẳng thể nói. V́ thế, Bồ
Tát thường thích quán. Quán Niết Bàn là Chân Đế, sanh
tử là Tục Đế. Cái Thể để Niết Bàn
và sanh tử nương vào chẳng phải là Niết Bàn
hay sanh tử, mà là Trung Đế (đây cũng là tách nhân
duyên và điên đảo thành nhị biên, ư nghĩa càng rơ rệt.
Nhưng sanh tử vốn thuộc về nhân duyên, lại c̣n
thuộc về phía điên đảo, cho nên gọi
là “điên đảo”. Nếu
thấu đạt nhân duyên, sẽ có Niết Bàn. V́ thế,
phán định câu đầu tiên thuộc về Niết
Bàn. Hơn nữa, ba loại Niết Bàn đều do quán nhân
duyên mà có. Hai loại sanh tử đều từ Tam Hoặc
điên đảo mà sanh. Chỉ ra mê, trở về ngộ,
cho nên có ngôn thuyết).
Lại dùng câu “đản
dĩ nhân duyên hữu, tùng điên đảo sanh” (chỉ
do nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sanh) để kết
luận cảnh Tam Đế chẳng thể nghĩ bàn. V́
thế, “thuyết” là giáo pháp chẳng thể nghĩ
bàn. “Thường nhạo quán” (thường thích quán)
là Tam Quán chẳng thể nghĩ bàn (hết thảy các pháp điên
đảo sanh từ nhân duyên, không ǵ chẳng phải là diệu
cảnh. Do diệu cảnh vốn có ấy mà nói đến Trung Đạo
diệu quán trong phần trên. Nương vào diệu thuyết
ấy, thường thích quán diệu cảnh như thế).
Ba tiểu mục trên đây chính là cùng dựa vào cảnh và
trí để giải thích đă xong.
Nay lại dựa
theo kinh văn của cả ba tiểu mục trên đây, hoàn
toàn xét theo Quán để giải thích. Trước hết,
nói “quán nhất thiết pháp không như thật tướng”
(quán tướng như thật của hết thảy các
pháp không) chính là nêu ra cái Thể của Quán. Thật Tướng
chính là cái được quán. Dùng “đối tượng được
quán” (sở quán) để hiển lộ “chủ thể thực
hiện quán” (năng quán) th́ phép Quán mới có cái Thể. [Các
câu kinh] từ “bất điên đảo” trở đi,
đều nhằm giải thích quán tướng. Chẳng bị
nhị biên, tám món điên đảo lay động, cho nên nói
“bất đảo, bất động” (chẳng điên
đảo, chẳng dao động). Chẳng đọa vào
hai địa vị phàm phu và Nhị Thừa, cho nên nói là “bất thoái, bất chuyển”. Chẳng
phải là vị lai, cho nên “bất
sanh”. Chẳng phải quá khứ, cho nên “bất
xuất”. Chẳng phải là hiện tại, cho nên “bất khởi”. Thích Luận nói: “Như
hư không chẳng nhập, chẳng xuất, chẳng trụ
tướng”. Nhiếp Đại Thừa Luận cũng
nói như thế. Chẳng có chỗ nhập nơi vị
lai (do chẳng từ hiện tại mà nhập vị lai, tức
là “bất sanh”). Chẳng có chỗ xuất trong quá khứ
(do chẳng từ hiện tại để ra khỏi quá
khứ). Chẳng có chỗ trụ trong hiện tại (hiện
tại chẳng trụ, tức là chẳng khởi). Những
điều khác đều có thể hiểu như trong phần trên.
Kinh văn lại có
mười chín câu. Câu đầu tiên là Tổng, mười
tám câu sau đó đối ứng với mười tám món
Không trong kinh Đại Phẩm [Bát Nhă]:
- “Như Thật
Tướng” tức là Đệ Nhất Nghĩa Không.
- “Bất điên
đảo” tức là Nội Không, tức là trong th́ chẳng
có Lục Nhập, chấp trước Ngă và Ngă Sở (cái của
ta), cho nên chẳng điên đảo.
- “Bất động”
tức là Ngoại Không, chính là ngoài th́ chẳng bị sáu trần
dao động.
- “Bất thoái” chính
là Nội Ngoại không, v́ mười hai Nhập đều
là Không, cho nên nói là “bất thoái”.
- “Bất chuyển”
tức Không Không, do Không phá sạch các pháp. Các pháp đều
là cái bị phá (sở phá), c̣n Không là cái có thể phá (năng
phá). Chẳng c̣n các pháp, chỉ có Không tồn tại. Cái Không
ấy cũng là Không. Cho nên nói là Không Không. Không đă là không,
chẳng c̣n ǵ để có thể
chuyển; cho nên nói là “bất chuyển”.
- “Như hư không”
tức là Đại Không. Có chấp th́ mới tính đến
phá; cho nên nói “như hư không”.
- “Vô sở hữu
tánh” tức là Tất Cánh Không. Các pháp chẳng thừa sót,
cho nên nói là Tất Cánh Không. Do đă rốt ráo là Không, cho nên
chẳng có tánh.
- “Nhất thiết
ngữ ngôn đạo đoạn” (hết thảy nói năng
dứt bặt) tức là Nhất Thiết Không. Hết thảy
là Không th́ chẳng thể nói; v́ thế, nói năng dứt bặt!
- “Bất sanh”
tức là Hữu Vi Không. Hữu Vi là do nhân duyên ḥa hợp. Đă
chẳng ḥa hợp, cho nên chẳng sanh.
- “Bất xuất”
tức là Vô Vi Không. Vô vi được gọi là xuất ly.
Xuất ly Pháp Không, cho nên nói là “bất xuất”.
- “Bất khởi”
chính là Vô Thỉ Không. T́m cầu cái nguyên sơ chẳng thể
được, v́ thế “bất khởi”.
- “Vô danh” chính
là tánh Không.
- “Vô tướng”
chính là Tướng Không. Hai điều này dễ hiểu.
- “Thật vô sở
hữu” chính là Bất Khả Đắc Không.
- “Vô lượng”
chính là Hữu Pháp Không. Có pháp th́ sẽ có hạn lượng.
Có hạn lượng đă là Không, cho nên nói “vô lượng”.
- “Vô biên” tức
là Vô Pháp Không. Chẳng có pháp chính là biểu hiện của
Biên (ngằn mé, chừng hạn). Nay do đă là Không, cho nên nói “vô biên”.
- “Vô ngại”
tức là Hữu Pháp Vô Pháp Không, cả hai (Hữu Pháp và Vô
Pháp) đều chẳng thể được. Cho nên nói là
“vô ngại”.
- “Vô chướng”
tức Tán Không, trở ngại, ngăn chướng đều
chẳng thể được. V́ thế nói là “vô chướng”.
Mười tám món
Không đều là Trung Đạo chánh huệ, đều gọi
là Không. Thuận theo mười tám loại cảnh, nên nói là
“mười tám món”. Đại Kinh nói: “Như Lai thường
tu thập bát Không nghĩa” (Như Lai thường tu mười
tám nghĩa Không). Do vậy, dùng mười tám món Không để
giải thích mười tám câu.
Lại c̣n dựa
theo mười tám món Không có thể nói “câu đầu là Tổng,
các câu sau là Biệt”. Trong phần trước, xét theo thể
tướng, cũng có thể nói là “Tổng Thể, Biệt
Thể, Tổng Tướng, Biệt Tướng”. Lại
nữa, phần trước là cùng dựa theo cảnh và trí
để giải thích. Kế đó, hoàn toàn dựa theo Quán
để giải thích. Nhưng Quán ắt phải có quán cảnh. V́ thế, có thể chỉ
hoàn toàn dựa theo Quán. Cảnh có thể phát khởi Quán, cũng
có thể chỉ hoàn toàn dựa theo cảnh [để giải
thích]. Nay riêng hoàn toàn dựa theo cảnh để giải
thích, tức là Bồ Tát quán hết thảy các pháp không ǵ chẳng
đều là Không. Hết thảy các pháp đều là tướng như thật. Hết thảy
các pháp đều chẳng điên đảo. Hết thảy
các pháp đều bất động, đều bất thoái,
đều bất chuyển. Hết thảy các pháp đều
như hư không, chẳng có tánh sở hữu. Hết thảy
ngôn ngữ dứt bặt, chẳng sanh, chẳng xuất,
chẳng khởi. Hết thảy các pháp đều vô danh. Hết
thảy các pháp đều vô tướng. Hết thảy các
pháp đều thật sự chẳng sở hữu. Hết
thảy các pháp đều vô lượng. Hết thảy
các pháp đều vô biên. Hết thảy các pháp đều vô
ngại, vô chướng. Điều này hiển thị các
pháp trong bách giới thiên như, mỗi pháp không ǵ chẳng
phải là Thật Tướng. Ngay từ Quyền mà là Thật,
ngay từ Tục mà chính là Chân. Chỉ do nhân duyên mà có, từ
điên đảo mà sanh, cho nên có nói năng. Điều này
hiển thị bản thể vô tướng của Thật
Tướng. Tùy thuộc cái duyên là nhiễm hay tịnh, mà tạo
trọn đủ mười giới, bách giới thiên như,
hết thảy các pháp. Ngay nơi Thật mà chính là Quyền.
Đă là Chân mà là Tục. Quyền và Thật bất nhị.
Đó chính là Nhị Đế viên dung chẳng thể
nghĩ bàn. Thể của chúng chính là lẫn nhau, bèn gọi
là Nhất Thật Đế. Nói là Không th́ hết thảy đều
là Không. Nói là Có th́ hết thảy đều là Có. Nói là Trung
th́ hết thảy đều là Trung. Lại gọi là “viên
dung Tam Đế”. Chẳng phải là “một, hai, ba”, mà
là “một, hai, ba”. Tuy là “một, hai, ba”, nhưng nơi chân
lư chẳng có tên gọi “một, hai, ba”. Lại gọi nó là
“viên diệu Vô Đế”. Thường
thích quán pháp tướng như thế tức là chánh quán nơi
cảnh chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế, kết luận
là “chỗ thân cận thứ hai”.
Hỏi: Trong phần
trước đă nói “Hành Xứ là chánh hạnh, Thân Cận
Xứ là trợ hạnh”; nay sao Thân
Cận Xứ thứ hai lại được gọi là
Chánh Quán?
Đáp: Trong phần
trước đă chẳng nói rồi đó sao? Dựa theo
lư để nói đại lược th́ gọi là Hành Xứ.
Phần nói đại lược gọi là Chánh. Kèm theo sự để nói cặn kẽ th́ gọi là
Thân Cận Xứ. Nói cặn kẽ th́ gọi là Trợ. Tuy nói có sơ lược hay chi tiết, nhưng Lư chẳng
có sâu hay cạn. Chánh Hạnh và Trợ Hạnh trong Viên Giáo
th́ Chánh lẫn Trợ đều viên, thật sự là diệu
lư viên đạo chẳng chánh, chẳng trợ. Xét theo phần
kinh văn nói cặn kẽ, sẽ có thể quán Thiền lư,
bèn gọi là Trợ. Trong phần thứ nhất của An
Lạc Hạnh, phần Trường Hàng đă xong.
14.2.2.1.2. Kệ tụng
14.2.2.1.2.1. Trùng tụng đề mục
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa,
nhi thuyết kệ ngôn: - Nhược hữu Bồ Tát, ư
hậu ác thế, vô bố úy tâm, dục thuyết thị
kinh, ưng nhập Hành Xứ, cập Thân Cận Xứ.
(經)爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。若有菩薩。於後惡世。無怖畏心。欲說是經。應入行處。及親近處。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại
nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Nếu có hàng Bồ Tát,
trong đời ác mai sau, chẳng có ḷng sợ hăi, muốn
tuyên nói kinh này, hăy nên nhập Hành Xứ, cùng với Thân Cận
Xứ).
14.2.2.1.2.2. Trùng tụng phần giải
thích
Trong phần
Trường Hàng, Hành Xứ và Thân Cận Xứ được
tách ra để giải thích, nhưng trong
kệ tụng, gộp chung ư nghĩa để trùng tụng,
chẳng theo thứ tự, nhằm hiển thị kinh
văn nói đại lược hay chi tiết, nhưng lư
chẳng có cạn hay sâu.
14.2.2.1.2.2.1. Trùng tụng dựa theo
xa ĺa để luận định thân cận
(Kinh)
Thường ly quốc vương, cập quốc
vương tử, đại thần, quan trưởng, hung
hiểm hư giả, cập Chiên-đà-la, ngoại đạo,
Phạm Chí. Diệc bất thân cận, tăng thượng
mạn nhân, tham trước Tiểu Thừa, Tam Tạng học
giả, phá giới tỳ-kheo, danh tự La Hán, cập tỳ-kheo-ni.
Hảo hư tiếu giả, thâm trước ngũ dục, cầu
hiện diệt độ, chư ưu-bà-di, giai vật thân
cận. Nhược thị nhân đẳng, dĩ hảo tâm
lai, đáo Bồ Tát sở, vị văn Phật đạo.
Bồ Tát tắc dĩ, vô sở úy tâm, bất hoài hy vọng,
nhi vị thuyết pháp. Quả nữ, xử nữ, cập
chư bất nam, giai vật thân cận, dĩ vi thân hậu.
Diệc mạc thân cận, đồ nhi, khôi khoái, điền
liệp, ngư bộ, vị lợi sát hại, phiến nhục
tự hoạt, huyễn mại nữ sắc. Như thị
chi nhân, giai vật thân cận. Hung hiểm tương phác,
chủng chủng hy hư, chư dâm nữ đẳng, tận
vật thân cận. Mạc độc b́nh xứ, vị nữ
thuyết pháp. Nhược thuyết pháp thời, vô đắc
hư tiếu. Nhập lư khất thực, tương nhất tỳ-kheo.
Nhược vô tỳ-kheo, nhất tâm niệm Phật. Thị
tắc danh vi, Hành Xứ, Cận Xứ. Dĩ thị nhị
xứ, năng an lạc thuyết.
(經)常離國王。及國王子。大臣官長。兇險戲者。及旃陀羅。外道梵志。亦不親近。增上慢人。貪著小乘。三藏學者。破戒比丘。名字羅漢。及比丘尼。好戲笑者。深著五欲。求現滅度。諸優婆夷。皆勿親近。若是人等。以好心來。到菩薩所。為聞佛道。菩薩則以。無所畏心。不懷希望。而為說法。寡女處女。及諸不男。皆勿親近。以為親厚。亦莫親近。屠兒魁膾。畋獵漁捕。為利殺害。販肉自活。衒賣女色。如是之人。皆勿親近。兇險相撲。種種嬉戲。諸淫女等。盡勿親近。莫獨屏處。為女說法。若說法時。無得戲笑。入里乞食。將一比丘。若無比丘。一心念佛。是則名為。行處近處。以此二處。能安樂說。
(Kinh: Thường
rời ĺa quốc vương, cùng với các vương tử.
Đại thần, hàng trưởng quan. Kẻ chơi đùa
hung hiểm, cùng bọn Chiên-đà-la, ngoại đạo và
Phạm Chí. Cũng đừng nên thân cận, những kẻ
tăng thượng mạn, tham đắm nơi Tiểu
Thừa, kẻ học pháp Tam Tạng, hàng tỳ-kheo phá giới,
La Hán mang danh suông, và các tỳ-kheo ni. Kẻ ưa chuộng cười
đùa, đắm chấp sâu ngũ dục, cầu diệt
độ hiện tại, các hàng ưu-bà-di, đều chớ
nên thân cận. Nếu như hạng người ấy, v́
hảo tâm t́m tới, đến chỗ của Bồ Tát, để
được nghe Phật đạo. Bồ Tát liền vận
dụng, cái tâm chẳng sợ hăi, chẳng ôm ḷng mong mỏi,
để v́ họ thuyết pháp. Gái góa và gái trinh, cùng các loại
bất nam, đều đừng nên thân cận, coi họ
là thân thiết. Cũng chớ nên thân cận, kẻ đồ
tể, đao phủ, săn bắn và đánh cá, v́ lợi
mà giết hại, bán thịt để tự sống, kẻ
buôn bán nữ sắc. Các hạng người như thế,
đều chớ nên thân cận. Hung hiểm quăng ném
nhau, đủ mọi thứ tṛ vui, cùng các dâm nữ thảy,
tận lực đừng thân cận. Đừng ở riêng chỗ khuất, v́ nữ nhân thuyết
pháp. Nếu lúc cần thuyết pháp, chớ nên đùa giỡn
cười. Vào trong làng khất thực, dắt theo một
tỳ-kheo. Nếu chẳng có tỳ-kheo, hăy nhất tâm niệm
Phật. Các điều ấy gọi là, hành xứ, thân cận
xứ. Do bởi hai xứ ấy, có thể an lạc nói).
Kẻ “tăng thượng mạn” tức là [nói tới] hạng người tọa Thiền
được đôi chút khinh an, bèn xằng bậy nói [chính
ḿnh] đă chứng đắc. “Tham trước Tiểu
Thừa, Tam Tạng học giả” (kẻ tham đắm
Tiểu Thừa, học Tam Tạng) có nghĩa là kẻ chuyên
cầu t́m danh tướng, có học vấn suông do tai nghe,
miệng nói, chẳng chịu quán tâm tu chứng! “Danh tự
La Hán” tức là kẻ giả danh trụ A Luyện Nhă. “Thâm
trước ngũ dục” (Đắm chấp sâu ngũ
dục) chính là kẻ chuyên ưa chuộng ngũ trần sắc, thanh, hương,
vị, xúc. “Cầu hiện diệt độ” (cầu diệt độ trong hiện tại) tức
là kẻ chỉ cầu quả chứng Tiểu Thừa,
chẳng có ḷng đại từ bi. Đắm chấp ngũ
dục thuộc về bên sanh tử; cầu diệt độ
thuộc về bên Niết Bàn. Đối với cả hai bên đó,
đừng nên thân cận. Hăy nên thân cận Trung Đạo,
[ư nghĩa ấy] đă rơ lắm rồi! Đó chính là những
điều được kể ra trong phần Thân Cận
Xứ của đoạn Trường Hàng, nhưng trong phần
kết luận, lại nói là Hành Xứ và Thân Cận Xứ. Do vậy biết Chánh
hay Trợ chỉ là xét theo nói chi tiết hay đại lược,
chắc chắn chẳng có sâu hay cạn!
14.2.2.1.2.2.2. Trùng tụng chẳng xa
ĺa, chẳng thân cận
(Kinh)
Hựu phục bất hành, thượng trung hạ pháp, hữu
vi, vô vi, thật, bất thật pháp, diệc bất phân biệt,
thị nam, thị nữ. Bất đắc chư pháp, bất
tri, bất kiến, Thị tắc danh vi, Bồ Tát hành xứ.
(經)又復不行。上中下法。有為無為。實不實法。亦不分別。是男是女。不得諸法。不知不見。是則名為。菩薩行處。
(Kinh: Lại
c̣n chẳng có hành, các pháp thượng, trung, hạ, hữu
vi hay vô vi, pháp thật và chẳng thật, cũng lại chẳng
phân biệt, là nam hay là nữ. Các pháp đều chẳng được,
chẳng biết và chẳng thấy. Đó bèn được
gọi là, hành xứ của Bồ Tát).
Biệt Giáo gọi
là thượng pháp. Thông Giáo gọi là trung pháp. Tạng Giáo
gọi là hạ pháp, [các pháp ấy] đều mở ra để
nhập Viên. Lại chẳng có các pháp Tạng, Thông, Biệt
để có thể đạt được, v́ thế “bất
hành” (chẳng hành). Hoặc, Nghiệp, Khổ v.v… của
lục phàm pháp giới được gọi là pháp hữu
vi, hữu lậu. Công đức và trí huệ của tứ
thánh pháp giới được gọi là pháp vô lậu. Tánh
Chân Như b́nh đẳng của mười pháp giới được
gọi là pháp vô vi. Sắc tâm hữu vi tạm có Thể và Dụng,
được gọi là “thật pháp”, chẳng tương
ứng với hạnh. Nương vào phận vị giả lập của
sắc tâm th́ gọi là “pháp chẳng thật”.
Lại nữa, hoặc
có hữu vi được gọi là “pháp chẳng thật”,
do tánh của nó sanh diệt. Vô vi được gọi là “thật
pháp”, do tánh chẳng thay đổi. Hoặc có hữu lậu
được gọi là “pháp chẳng thật”, do trái nghịch
với Tánh. Vô lậu được gọi là “thật pháp”,
do v́ xứng tánh, hoặc là hết thảy đều thật,
cả hai đều được gọi là Đế (hữu
vi là Tục Đế, vô vi là Chân Đế). Hết thảy chẳng thật,
t́nh có, lư không. Do lư có, t́nh không (hữu lậu th́ là “t́nh có, lư
không”. Do lư là không, nên gọi là “chẳng thật”. Vô lậu
th́ do “lư có, t́nh không”, do t́nh là không, cho nên gọi
là “chẳng thật”). Nay đều chẳng hành, do quán các
pháp như Thật Tướng, th́ hữu vi cũng là Thật
Tướng, chẳng c̣n là hữu vi. Vô vi cũng là Thật
Tướng, chẳng c̣n vô vi. Thật cũng là Thật
Tướng, chẳng c̣n là Thật. “Chẳng thật” cũng
là Thật Tướng, chẳng c̣n “chẳng thật”. Cho nên
chẳng hành! Đây là trùng tụng ư “ư pháp vô sở hành,
nhi quán chư pháp như thật tướng” (đối
với pháp chẳng có ǵ để hành, mà quán tướng
như thật của các pháp).
“Diệc bất
phân biệt thị nam, thị nữ” (cũng chẳng phân
biệt là nam hay nữ): Nam chính là Huệ, nữ chính là Định.
Pháp Định Huệ tánh vốn dứt bặt nói năng,
cho nên chẳng thể phân biệt. “Bất đắc chư
pháp” (Chẳng đạt được các pháp) do tướng
thường tự tịch diệt. “Bất tri, bất
kiến” (chẳng biết, chẳng thấy): Xa ĺa tướng
hư luận của “chủ
thể giữ lấy” (năng
thủ) và “cái được giữ lấy” (sở thủ). Đây là trùng tụng ư “diệc bất
hành, bất phân biệt” (cũng chẳng hành, chẳng phân
biệt).
(Kinh) Nhất
thiết chư pháp, không vô sở hữu, vô hữu thường
trụ, diệc vô khởi diệt. Thị danh trí giả, sở
thân cận xứ.
(經)一切諸法。空無所有。無有常住。亦無起滅。是名智者。所親近處。
(Kinh:
Hết thảy các pháp, Không, vô sở hữu, chẳng có
thường trụ, cũng chẳng khởi, diệt, là
thân cận xứ, của người có trí).
Đây là trùng tụng
đại lược đoạn kinh văn “quán nhất
thiết pháp Không…” (quán hết thảy các pháp là Không…) [Nói]
“vô hữu thường trụ” (chẳng
có thường trụ) nhằm ngăn trở
[chấp trước đối với] Chân Đế. [Lại
nói] “diệc bất khởi diệt” (cũng chẳng
dấy lên, hay diệt mất): Ngăn trở sự chấp
trước đối với Tục Đế. Chân lẫn
Tục đều bị ngăn che, chân thật hiển thị
Trung Đạo. Tuy nói đại lược, nhưng ư nghĩa
trọn vẹn.
(Kinh)
Điên đảo phân biệt, chư pháp hữu vô, thị
thật, phi thật. Thị sanh, phi sanh. Tại ư nhàn xứ,
tu nhiếp kỳ tâm, an trụ bất động, như
Tu Di sơn. Quán nhất thiết pháp, giai vô sở hữu,
do như hư không, vô hữu kiên cố, bất sanh, bất
xuất, bất động, bất thoái, thường trụ
nhất tướng, thị danh Cận Xứ.
(經)顛倒分別。諸法有無。是實非實。是生非生。在於閑處。修攝其心。安住不動。如須彌山。觀一切法。皆無所有。猶如虛空。無有堅固。不生不出。不動不退。常住一相。是名近處。
(Kinh: Điên
đảo phân biệt, các pháp có, không, là thật, chẳng
thật, là sanh, chẳng sanh. Ở nơi thanh vắng, tu
nhiếp tâm ḿnh. An trụ bất động, như núi Tu
Di, quán hết thảy pháp, đều vô sở hữu. Giống
như hư không, chẳng hề kiên cố. Chẳng sanh,
chẳng xuất, bất động, bất thoái, thường
trụ một tướng, là chỗ thân cận).
Đây là trùng tụng
ư “từ điên đảo mà sanh”, cho nên nói là “dùng làm cảnh
được quán”, kiêm trùng tụng “xét theo xa ĺa để
luận định thân cận” ḥng làm phương tiện.
Sau đó, trùng tụng “chánh quán hết thảy các pháp đều
là Không…” Kinh văn trong phần trước nói kèm thêm Giới
và Định, hợp thành chỗ thân cận thứ nhất.
Huệ được gọi là chỗ thân cận thứ
hai. Nay gộp chung Định và Huệ để trùng tụng,
nhưng trùng tụng Giới môn th́ đă tổng kết cả
hai môn Hành Xứ và Thân Cận Xứ, hiển thị Tam Học
dung thông lẫn nhau, Lư và Sự chẳng hai.
Hỏi: Trong phần
trên đă nói “chẳng có thường trụ”, nay nói “thường
trụ nhất tướng” là v́ lẽ nào?
Đáp: Nếu đối
ứng với “khởi, diệt” mà nói là thường trụ,
đó chính là t́nh chấp so đo. V́ thế, cần phải
phá. Đă phá t́nh kiến so đo th́ lư vốn là thường
trụ. Lại nữa, đối với “khởi, diệt”
mà nói là “thường trụ” th́ [thành
ra] có hai tướng! Nay hết thảy các pháp đều vô
sở hữu, cho nên chẳng khởi, chẳng diệt. Bản
thể thường trụ, cho nên gọi
là “nhất tướng”. Nhất tướng chính là
Thật Tướng. Thật Tướng tức là các pháp
mà chẳng phải là các pháp. Các pháp chính là phi pháp. V́ thế
gọi là Thật Tướng. Phần thứ hai, “giải
thích ư nghĩa của kệ tụng” đă xong.
14.2.2.1.2.3. Hạnh thành tựu
14.2.2.1.2.3.1. Nêu ra hạnh thành tựu
(Kinh)
Nhược hữu tỳ-kheo, ư ngă diệt hậu, nhập
thị Hành Xứ, cập Thân Cận Xứ, thuyết tư
kinh thời, vô hữu khiếp nhược.
(經)若有比丘。於我滅後。入是行處。及親近處。說斯經時。無有怯弱。
(Kinh: Nếu
có các tỳ-kheo, sau khi ta diệt độ, tiến nhập
Hành Xứ này, và môn Thân Cận Xứ, khi nói bộ kinh này, sẽ
chẳng có khiếp nhược).
Sự đă thành th́
biểu hiện ra ngoài sẽ chẳng sai lệch; lư đă
thành th́ nội tâm không trầm trệ, cho nên “chẳng khiếp
nhược”.
14.2.2.1.2.3.2. Giải thích do hạnh thành
tựu bèn được an lạc
(Kinh)
Bồ Tát hữu thời, nhập ư tĩnh thất, dĩ
chánh ức niệm, tùy nghĩa quán pháp. Tùng Thiền Định
khởi, vị chư quốc vương, vương tử,
thần dân, Bà-la-môn đẳng, khai hóa diễn sướng,
thuyết tư kinh điển. Kỳ tâm an ổn, vô hữu
khiếp nhược.
(經)菩薩有時。入於靜室。以正憶念。隨義觀法。從禪定起。為諸國王。王子臣民。婆羅門等。開化演暢。說斯經典。其心安隱。無有怯弱。
(Kinh: Bồ
Tát có lúc, vào trong tĩnh thất, dùng chánh ức niệm,
theo nghĩa quán pháp. Từ Thiền Định dậy, v́ các
quốc vương, vương tử, quan, dân, Bà-la-môn thảy,
khai hóa, diễn bày, nói kinh điển này. Tâm họ an ổn,
chẳng có khiếp nhược).
Đây là giải thích
cái nhân an lạc. Do tu Thiền Định, dứt các lỗi
ác, đắc Nhân Vô Ngă, bên ngoài th́ chẳng tổn. Do tu trí
huệ, ĺa các chấp trước, đắc Pháp Vô Ngă, bên
trong chẳng điên đảo. V́ vậy,
tâm chẳng khiếp nhược. Chẳng khiếp nhược
th́ gọi là An Lạc.
14.2.2.1.2.3.3. Trùng tụng tổng kết
(Kinh)
Văn Thù Sư Lợi! Thị danh Bồ Tát, an trụ sơ
pháp, năng ư hậu thế, thuyết Pháp Hoa kinh.
(經)文殊師利。是名菩薩。安住初法。能於後世。說法華經。
(Kinh: Này
Văn Thù Sư Lợi! Đó gọi là Bồ Tát, an trụ
pháp đầu tiên, có thể trong đời sau, nói kinh Pháp
Hoa này).
Phần thứ nhất,
“hạnh An Lạc nơi thân” đă xong.
14.2.2.2. Khẩu an lạc hạnh
14.2.2.2.1. Trường Hàng
14.2.2.2.1.1. Nêu ra đề mục
(Kinh)
Hựu Văn Thù Sư Lợi! Như Lai diệt hậu, ư
mạt pháp trung, dục thuyết thị kinh, ưng trụ
An Lạc Hạnh.
(經)又文殊師利。如來滅後。於末法中。欲說是經。應住安樂行。
(Kinh:
Lại này Văn Thù Sư Lợi! Sau khi Như Lai diệt hậu,
trong đời Mạt Pháp, muốn nói kinh này, hăy nên trụ
trong An Lạc Hạnh).
14.2.2.2.1.2. Giải thích
Phần này chia làm hai:
Một là Chỉ Hạnh, hai là Quán Hạnh. Chỉ Hạnh
nhằm ngăn ngừa sai trái, tức là “áo của Như
Lai”. Quán Hạnh thuyết pháp, là “ṭa của
Như Lai”. Lại nữa, Chỉ Hạnh dẹp khổ,
Quán Hạnh ban vui, tức là “nhà của Như Lai”.
14.2.2.2.1.2.1. Chỉ Hạnh
14.2.2.2.1.2.1.1. Chẳng nói lỗi [của
người khác]
(Kinh)
Nhược khẩu tuyên thuyết, nhược độc
kinh thời, bất nhạo thuyết nhân, cập kinh điển
quá.
(經)若口宣說。若讀經時。不樂說人。及經典過。
(Kinh: Hoặc
là miệng tuyên nói, hoặc khi đọc kinh điển,
chẳng thích nói khuyết điểm, của người
và kinh điển).
Người khác dẫu
có lỗi, liên quan ǵ đến ta? Chỉ nên trong tâm tự
phản tỉnh [chính ḿnh có phạm lỗi ấy hay chăng],
rảnh đâu mà chê bai kẻ khác! Nếu thích đàm tiếu
lỗi của kẻ khác, sẽ giống như phô
bày phân nhơ, xông sực cả ḿnh lẫn người,
tổn hại, bức năo thật nặng, chẳng phải
là An Lạc Hạnh! Hết thảy các kinh điển đều
là phương tiện tùy thuận cơ nghi để nói của Như
Lai, như ăn thạch mật, ở giữa [chén mật]
hay ngoài ŕa đều ngọt, há có khuyết điểm? Rao
nói khuyết điểm của kinh điển đều
là v́ chẳng hiểu diệu lư Quyền Thật, cho nên cũng
chẳng phải là An Lạc Hạnh.
14.2.2.2.1.2.1.2. Chẳng khinh mạn
(Kinh)
Diệc bất khinh mạn, chư dư pháp sư.
(經)亦不輕慢。諸餘法師。
(Kinh: Cũng
đừng nên khinh mạn các vị pháp sư khác).
Chẳng cậy Viên
mà miệt thị Thiên, chẳng trọng Thật mà khinh Quyền.
Phật c̣n dùng phương tiện lạ để giúp hiển
thị Đệ Nhất Nghĩa Đế, [phàm phu như
bọn ta] há nên tự hợm hĩnh, chẳng
hộ tŕ căn cơ của chúng sanh ư?
14.2.2.2.1.2.1.3. Chẳng khen ngợi
hay hủy báng
(Kinh)
Bất thuyết tha nhân, hảo ác, trường đoản.
Ư Thanh Văn nhân, diệc bất xưng danh, thuyết kỳ
quá ác, diệc bất xưng danh, tán thán kỳ mỹ.
(經)不說他人。好惡長短。於聲聞人。亦不稱名。說其過惡。亦不稱名。讚歎其美。
(Kinh: Chẳng
nói điều tốt xấu, hay dở của kẻ khác.
Đối với bậc Thanh Văn, cũng chẳng nêu tên
họ, kể lỗi, vạch khuyết điểm. Cũng
chẳng nêu tên họ để khen ngợi điều
tốt lành).
Con người đều
chẳng thích nghe [kẻ khác phơi bày] khuyết điểm
của chính ḿnh, cho nên chẳng bàn tán khuyết điểm.
Ca ngợi kẻ khác trước mặt người này, sẽ
giống như hủy báng người này! V́ thế, chẳng
ca ngợi ưu điểm. Đại Luận nói: “Kẻ
tự ca ngợi th́ là phường kiêu căng. Kẻ tự
gièm chê chính ḿnh là phường dối gạt người!
Ca ngợi kẻ khác th́ là phường siểm nịnh, hư
ngụy. Kẻ hủy báng người khác th́ là hạng người
sàm tặc. Người trí hăy nên dùng bốn món Tất Đàn
để trù tính, suy lường, ḥng tự bảo vệ ḿnh và bảo vệ người
khác”. Kinh Nhật Tạng[20]
lại nói: “Sơ, trung, hậu dạ, giảm tỉnh thụy
miên, tinh tấn tọa Thiền, tụng kinh, tu đạo,
bối xả sanh tử, hướng Niết Bàn lộ. Bất
xưng tha đoản, bất thuyết kỷ trường,
khiêm hạ, ty tốn, bất tự kiêu cao, y phục tri túc,
bất phóng dật hành, hệ niệm tư duy, tâm bất tŕ
tán. Ư nhất thiết chúng sanh, khởi từ bi tâm”
(Đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm, giảm
bớt ngủ nghê, tinh tấn tọa Thiền, tụng kinh,
tu đạo, trái bỏ sanh tử, hướng theo con đường
Niết Bàn. Chẳng kể lỗi của kẻ khác, chẳng
nói ưu điểm của chính ḿnh. Khiêm tốn, nhún nhường,
chẳng tự kiêu căng, cao ngạo, dùng sự biết đủ
làm y phục, chẳng làm chuyện buông lung. Hệ niệm
tư duy, tâm chẳng rong ruổi, tán loạn, dấy ḷng từ
bi đối với hết thảy chúng sanh). Đấy chính
là tướng trạng của An Lạc Hạnh. Đối
với hạng người Thanh Văn, do căn
tánh của họ bất định, nếu tán thán Nhị
Thừa, có thể sẽ khiến cho họ thoái thất Đại
Thừa, chấp lấy Tiểu Thừa. Nếu hủy báng,
chê bai Nhị Thừa, sẽ có thể khiến cho họ Đại
Thừa lẫn Tiểu Thừa đều mất sạch,
hai đằng đều chẳng giữ lấy!
14.2.2.2.1.2.1.4. Chẳng oán hiềm
(Kinh)
Hựu diệc bất sanh oán hiềm chi tâm.
(經)又亦不生怨嫌之心。
(Kinh:
Cũng lại chẳng sanh tâm oán hiềm).
Nếu nói người
đó hoặc pháp đó gây hại cho đạo của ta,
tức là tâm hờn oán. Nếu bảo người đó,
pháp đó hèn kém, tức là tâm tỵ hiềm. Hễ tâm
cơ dấy động, bèn thốt ra lời nói. Để
ngăn dứt cội nguồn của sự kể lỗi,
cho nên chẳng sanh tâm oán hiềm! Kinh Đại Tập dạy:
“Quá khứ Câu Lưu Tôn Phật pháp trung, hữu nhất
tỳ-kheo phát Bồ Đề tâm, tụng tŕ Đại Tiểu
thừa pháp tụ các bát vạn tứ thiên, ư hiềm đầu
đà tỳ-kheo bất tụng kinh điển, do như
chu ngột. Do thử, đọa ngục, thọ đại
khổ năo. Tùng địa ngục xuất, thọ La Sát thân,
chí Hiền Kiếp Phật, Lâu Chí Phật thời,
phương thoát quỷ thân” (Trong pháp của Câu Lưu
Tôn Phật thời quá khứ, có một tỳ-kheo phát Bồ
Đề tâm, tụng tŕ pháp tụ Đại Thừa và Tiểu
Thừa, mỗi đằng đều tám vạn bốn
ngàn, ư chê gièm đầu đà tỳ-kheo chẳng tụng kinh
điển giống như cái cây bị cụt ngọn. Do
vậy, đọa vào địa ngục, chịu khổ
năo to lớn. Từ địa ngục thoát ra, thọ thân
La Sát, tới thời Lâu Chí Phật là vị Phật [cuối cùng] trong Hiền
Kiếp mới thoát thân quỷ). Người thường
c̣n như thế, huống hồ [người hành] An Lạc
Hạnh ư? V́ hoằng dương kinh điển
Đại Thừa, hộ tŕ người hành hạnh Tiểu
Thừa, tâm niệm há chẳng nên cẩn thận ư? Oán hờn,
trách móc, tỵ hiềm, chê trách, oán th́ sâu, tỵ hiềm th́
cạn, nhưng dù cạn hay sâu đều bỏ th́ mới
gọi là Chánh Hạnh. Đó chính là nói đến cái tâm của
An Lạc Hạnh nơi miệng nhằm chế ngự cái
miệng! Phần thứ nhất, Chỉ Hạnh đă
xong.
14.2.2.2.1.2.2. Quán Hạnh
(Kinh)
Thiện tu như thị an lạc tâm cố, chư hữu
thính giả, bất nghịch kỳ ư, hữu sở nạn
vấn, bất dĩ Tiểu Thừa pháp đáp, đản
dĩ Đại Thừa nhi vị giải thuyết, linh đắc
Nhất Thiết Chủng Trí.
(經)善修如是安樂心故。諸有聽者。不逆其意。有所難問。不以小乘法答。但以大乘而為解說。令得一切種智。
(Kinh: Do
khéo tu cái tâm an lạc như thế, hễ có người
nghe, sẽ chẳng trái nghịch ư họ. Có ai cật vấn,
chẳng dùng pháp Tiểu Thừa để đáp, chỉ dùng
Đại Thừa để giải nói cho họ, khiến
cho họ đắc Nhất Thiết Chủng Trí).
Quán các pháp Không, chẳng
chấp giữ. Nếu tâm chẳng chấp, sẽ chẳng
trái nghịch ư người khác, chẳng trái nghịch
pháp tướng. V́ thế, chẳng dùng pháp Tiểu Thừa
để đáp. Nếu thấy [người đó] chẳng
có căn cơ Đại Thừa, bèn nói pháp
Tiểu Thừa cho người ấy, khiến cho người
ấy đạt được lợi ích nơi phương
tiện. Nếu chẳng thấy [người
đến hỏi pháp] không có căn cơ Đại
Thừa mà nói pháp Tiểu Thừa cho người ấy, sợ
rằng sẽ trở ngại nhân duyên Đại Thừa của
người đó. V́ thế, người thuộc địa
vị sâu, có trí biết căn cơ, sẽ có thể tùy nghi
thuyết pháp. Người
mới hành chẳng có năng lực soi xét căn cơ, chỉ
nên nói pháp Đại Thừa! Phần thứ nhất, “kinh
văn Trường Hàng của khẩu An Lạc Hạnh” đă
xong.
14.2.2.2.2. Kệ tụng
14.2.2.2.2.1. Trùng tụng nêu bày đề
mục
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa,
nhi thuyết kệ ngôn: - Bồ Tát thường lạc, an ổn
thuyết pháp. Ư thanh tịnh địa, nhi thi sàng ṭa. Dĩ
du đồ thân, tháo dục trần uế, trước tân
tịnh y, nội ngoại câu tịnh.
(經)爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。菩薩常樂。安隱說法。於清淨地。而施牀座。以油塗身。澡浴塵穢。著新淨衣。內外俱淨。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại
nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Bồ Tát thường vui
sướng, an ổn mà thuyết pháp. Ở nơi đất
thanh tịnh, bèn đặt bày giường, ṭa. Dùng dầu để
bôi thân, tắm gội sạch bụi dơ, khoác mặc áo
mới sạch, trong ngoài đều thanh tịnh).
Phần Trường
Hàng chỉ nói “ưng trụ” (hăy nên trụ). Ở đây,
riêng nêu ra hành tướng. “An ổn thuyết pháp” là
muốn cho người được nói trong đoạn
trước sẽ đạt được đạo an
ổn và cái quả an ổn, tức là “vào nhà Như Lai”.
Ở nơi chỗ đất thanh tịnh, đặt bày
giường, ṭa, tức là “ngồi ṭa của Như Lai”.
Bốn câu kể từ “dĩ du đồ thân” (dùng dầu
để bôi thân) tức là “mặc áo Như Lai”. Dùng
ba pháp ấy để hướng dẫn khẩu nghiệp
th́ gọi là An Lạc Hạnh.
14.2.2.2.2.2. Trùng tụng giải thích
14.2.2.2.2.2.1. Trùng tụng Chỉ Hạnh
Phần
Trường Hàng nói theo phương diện Chỉ Thiện
(điều thiện do ngăn dứt lỗi ác), c̣n kệ
tụng nói theo phương diện Hành Thiện
(làm lành).
14.2.2.2.2.2.1.1. Trùng tụng hạnh thứ
hai “chẳng khinh mạn”
(Kinh)
An xử pháp ṭa, tùy vấn
vi thuyết.
(經)安處法座。隨問為說。
(Kinh: Ngồi
yên trên pháp ṭa, tùy theo hỏi mà nói).
Khinh mạn th́ sẽ
chẳng tùy thuận, “tùy” có nghĩa là chẳng khinh mạn.
14.2.2.2.2.2.1.2. Trùng tụng hạnh thứ
ba “chẳng tán thán hay hủy báng”
(Kinh)
Nhược hữu tỳ-kheo, cập tỳ-kheo ni, chư ưu-bà-tắc,
cập ưu-bà-di, quốc vương, vương tử, quần
thần, sĩ dân, dĩ vi diệu nghĩa, ḥa nhan vị thuyết.
Nhược hữu nạn vấn, tùy nghĩa nhi đáp.
(經)若有比丘。及比丘尼。諸優婆塞。及優婆夷。國王王子。群臣士民。以微妙義。和顏為說。若有難問。隨義而答。
(Kinh:
Nếu có hàng tỳ-kheo, cùng với tỳ-kheo-ni, các vị ưu-bà-tắc,
và hàng ưu-bà-di, quốc vương, và vương tử,
quần thần và dân chúng, đều dùng nghĩa vi diệu,
vui vẻ nói với họ. Nếu có kẻ cật vấn,
thuận theo nghĩa mà đáp).
Chỉ nương
theo nghĩa lư, chẳng bàn điều tốt xấu của
kẻ khác. “Tùy nghĩa đáp” có hai nghĩa: Một là
có thể đáp, hai là chẳng thể đáp. Như vấn
đáp và cật vấn để phân định thượng
hạ, dù thắng hay thua th́ tự ḿnh biết. Đó là lời
lẽ của người trí, trường hợp này th́ có
thể đáp. Nếu [là hạng người] mặc
t́nh khoái ư, kẻ nào dám trái nghịch sẽ giết ngay. Đó là giọng điệu của vua chúa. Nếu hay, dở,
đúng sai đều chẳng biết, chỉ mong giành phần
thắng mà thôi! Đó là ngôn luận của kẻ ngu. Đối
với hai loại ấy, đều
chớ nên đáp.
14.2.2.2.2.2.1.3. Trùng tụng hạnh đầu
tiên “chẳng nói lỗi”
(Kinh)
Nhân duyên thí dụ, phu diễn phân biệt, dĩ thị phương
tiện, giai sử phát tâm. Tiệm tiệm tăng ích, nhập
ư Phật đạo.
(經)因緣譬喻。敷演分別。以是方便。皆使發心。漸漸增益。入於佛道。
(Kinh:
Nhân duyên và thí dụ, phô diễn và phân biệt, sử dụng
phương tiện ấy, khiến họ đều phát
tâm, dần dần sẽ tăng
tấn, tiến hướng nhập Phật đạo).
Nếu chuộng kể
lỗi của người khác và kinh điển, sẽ sanh
ra ư niệm độc hại. Nay do chẳng nói lỗi, sẽ
khiến cho người khác phát tâm tiến nhập Phật
đạo. Phật đạo sanh từ ḷng hoan hỷ.
14.2.2.2.2.2.1.4. Trùng tụng hạnh thứ
tư “chẳng oán hiềm”
(Kinh)
Trừ lăn nọa ư, cập giải đăi tưởng, ly chư
ưu năo, từ tâm thuyết pháp.
(經)除懶惰意。及懈怠想。離諸憂惱。慈心說法。
(Kinh:
Trừ khử ư lười nhác, và ư tưởng giải
đăi, ĺa bỏ các ưu năo, từ tâm mà thuyết pháp).
Tâm oán hiềm dấy
lên, sẽ lười nhác, ưu năo. Nay do từ tâm thuyết
pháp, sẽ tinh tấn, vui sướng. Phần thứ nhất,
“trùng tụng Chỉ Hạnh” đă xong.
14.2.2.2.2.2.2. Trùng tụng Quán Hạnh
(Kinh)
Trú dạ thường thuyết, vô thượng đạo
giáo. Dĩ chư nhân duyên, vô lượng thí dụ, khai thị
chúng sanh, hàm linh hoan hỷ. Y phục, ngọa cụ, ẩm
thực, y dược, nhi ư kỳ trung, vô sở hy vọng.
Đản nhất tâm niệm, thuyết pháp nhân duyên. Nguyện
thành Phật đạo, linh chúng diệc nhĩ. Thị tắc
đại lợi, an lạc cúng dường.
(經)晝夜常說。無上道教。以諸因緣。無量譬喻。開示眾生。咸令歡喜。衣服臥具。飲食醫藥。而於其中。無所希望。但一心念。說法因緣。願成佛道。令眾亦爾。是則大利。安樂供養。
(Kinh:
Suốt ngày đêm thường nói, giáo pháp vô thượng
đạo, vận dụng các nhân duyên, và vô lượng thí
dụ, để khai thị chúng sanh, khiến họ đều
hoan hỷ. Y phục, đồ trải nằm, thức ăn
và thuốc thang, nhưng đối với các thứ đó,
tâm chẳng hề mong mỏi. Chỉ có nhất tâm niệm,
nhân duyên thuyết pháp thôi, nguyện sẽ thành Phật đạo,
khiến mọi người
cũng thế. Đó chính là lợi lớn, an lạc mà cúng
dường).
“Thuyết vô
thượng đạo” chính là “chỉ dùng pháp Đại
Thừa để đáp”. “Nguyện thành Phật đạo,
linh chúng diệc nhĩ” (nguyện sẽ thành Phật đạo,
khiến đại chúng cũng thế) tức là trùng tụng
“khiến cho [mọi người] đều đắc Nhất
Thiết Chủng Trí”. Phần thứ hai, “trùng tụng ư
giải thích” đă xong.
14.2.2.2.2.3. Trùng tụng hạnh thành
tựu
14.2.2.2.2.3.1. Nêu ra hạnh thành tựu
(Kinh)
Ngă diệt độ hậu, nhược hữu tỳ-kheo,
năng diễn thuyết tư, Diệu Pháp Hoa kinh.
(經)我滅度後。若有比丘。能演說斯。妙法華經。
(Kinh: Sau khi
ta diệt độ, nếu có bậc tỳ-kheo, có thể
diễn thuyết kinh, Diệu Pháp Liên Hoa này).
14.2.2.2.2.3. Nói rơ “do trong tâm chẳng
có lỗi lầm, nạn bên ngoài chẳng sanh, như chẳng
có vật hôi thối, ruồi nhặng sẽ không bu đến”
(Kinh) Tâm vô tật
khuể, chư năo chướng ngại, diệc vô ưu sầu,
cập mạ lỵ giả. Hựu vô bố úy, gia đao
trượng đẳng, diệc vô tẫn xuất, an trụ
nhẫn cố.
(經)心無嫉恚。諸惱障礙。亦無憂愁。及罵詈者。又無怖畏。加刀杖等。亦無擯出。安住忍故。
(Kinh: Tâm
chẳng có ghét, giận, các năo chẳng chướng ngại,
cũng chẳng bị ưu sầu, và bị chửi rửa. Lại chẳng có
kinh sợ, chẳng bị dao gậy hại, cũng chẳng
bị xua đuổi, do an trụ nơi nhẫn).
14.2.2.2.2.3. Nói rơ “do trong tâm có thiện
pháp, cho nên hạnh thành tựu”
(Kinh)
Trí giả như thị, thiện tu kỳ tâm, năng trụ
an lạc, như ngă thượng thuyết.
(經)智者如是。善修其心。能住安樂。如我上說。
(Kinh: Bậc
trí như thế đó, khéo tu cái tâm ḿnh, hay trụ trong an lạc,
như ta đă nói trên).
Nếu trong tâm chẳng
có lầm lỗi, sẽ như phần
kinh văn Trường Hàng đă nói. Trong tâm có điều
thiện th́ như phần Kệ Tụng đă nói.
14.2.2.2.2.4. Phẩm định
công đức
(Kinh)
Kỳ nhân công đức, thiên vạn ức kiếp, toán số
thí dụ, thuyết bất năng tận.
(經)其人功德。千萬億劫。算數譬喻。說不能盡。
(Kinh: Công
đức của người ấy, trải ngàn vạn ức
kiếp, dùng toán, số, thí dụ, vẫn chẳng thể nói
hết).
Phần thứ hai,
“khẩu An Lạc Hạnh” đă xong.
14.2.2.3. Ư an lạc hạnh
14.2.2.3.1. Trường Hàng
14.2.2.3.1.1. Nêu đề mục
(Kinh)
Hựu Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát Ma Ha Tát, ư hậu
mạt thế, pháp dục diệt thời, thọ tŕ, độc
tụng tư kinh điển giả.
(經)又文殊師利。菩薩摩訶薩。於後末世法欲滅時。受持讀誦斯經典者。
(Kinh: Lại
này Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát Ma Ha Tát vào cuối
thời Mạt
mai sau, khi pháp sắp diệt, thọ tŕ, đọc tụng
kinh điển này).
14.2.2.3.1.2. Giải thích
Chỉ Hạnh
là áo, Quán Hạnh là ṭa. “Dẹp
khổ, ban vui” là nhà.
14.2.2.3.1.2.1. Chỉ Hạnh
14.2.2.3.1.2.1.1. Chẳng ghen ghét, dối
trá
(Kinh)
Vô hoài tật đố, siểm cuống chi tâm.
(經)無懷嫉妬諂誑之心。
(Kinh: Chẳng
ôm ḷng ghen ghét, siểm khúc, dối gạt).
Chẳng chịu nổi
người khác vẻ vang th́ là “tật đố” (ghen
ghét, ganh tỵ). Do v́ tham nên sân; sân cấu nặng nề
nhất. Cong vạy lừa gạt người khác th́ gọi là Siểm.
Giấu diếm chống đối, làm ra vẻ thuận tùng,
chẳng kham răn dạy, tham và si làm Thể, hết sức
trái nghịch đạo. Dối trá làm ra vẻ có đức
để mong cầu lợi dưỡng, th́ gọi là Cuống.
Do v́ tham, si, đọa
vào pháp tà mạng, xằng bậy tiếp nhận [người
khác] cung kính, chuốc khổ vô cùng. V́ vậy, các cái tâm như vậy đều
là chướng ngại to lớn cho người học đạo.
Nếu có một thứ đó, c̣n chẳng thể đạt
được Bồ Đề của Nhị Thừa, huống
hồ hoằng
dương, lưu thông đại pháp, thượng cầu,
hạ hóa ư? An Lạc Hạnh Bồ Tát cần phải
gấp trừ bỏ!
14.2.2.3.1.2.1.2. Chẳng khinh rẻ, chửi
bới
(Kinh)
Diệc vật
khinh mạ học Phật đạo giả, cầu kỳ
trường đoản.
(經)亦勿輕罵學佛道者。求其長短。
(Kinh:
Cũng chớ
khinh rẻ, chửi bới người học Phật đạo,
t́m kiếm điều hay, thói dở của họ).
Họ đă phát tâm học Phật,
tức là đă thuộc số các vị Phật trong
vị lai. Dẫu cho tập tánh phiền năo khác nhau, có hay, có
dở, chỉ nên học theo điều hay của họ để
tự ḿnh được lợi ích, chớ bới t́m khuyết
điểm để chống trái họ.
14.2.2.3.1.2.1.3. Chẳng năo loạn
(Kinh)
Nhược tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cầu Thanh Văn giả,
cầu Bích Chi Phật giả, cầu Bồ Tát đạo giả,
vô đắc năo chi, linh kỳ nghi hối, ngữ
kỳ nhân ngôn: “Nhữ đẳng khứ đạo thậm
viễn, chung bất năng đắc Nhất Thiết Chủng
Trí. Sở dĩ giả hà? Nhữ thị phóng dật chi nhân,
ư đạo giải đăi cố”.
(經)若比丘比丘尼優婆塞優婆夷求聲聞者。求辟支佛者。求菩薩道者。無得惱之。令其疑悔。語其人言。汝等去道甚遠。終不能得一切種智。所以者何。汝是放逸之人。於道懈怠故。
(Kinh:
Nếu tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cầu Thanh Văn,
cầu Bích Chi Phật, cầu Bồ Tát đạo, chẳng
được năo loạn, khiến cho người ấy
nghi ngờ, hối hận, chẳng được nói với
người ấy: “Các ngươi cách đạo rất
xa, trọn chẳng thể đắc Nhất Thiết Chủng
Trí. V́ lẽ nào vậy? V́ các ngươi là kẻ buông lung,
giải đăi nơi đạo”).
Mỗi chúng trong tứ chúng đều
có người cầu tam thừa. Tam thừa do họ cầu
có ư nghĩa chung cho cả ba giáo
Tạng, Thông, Biệt. Ba giáo pháp ấy đều là phương
tiện thiện xảo của Như Lai, khéo khuyên dụ dần
dần, v́ Thật mà thực thi Quyền. Nếu tứ chúng
có thể nương theo đó để cầu đạo,
sẽ tự có thể dần dần được
dẫn dắt trở về Viên. Nếu cậy ḿnh hiểu biết Viên
Giáo, chê trách họ cách đạo
c̣n xa, tự cậy chính ḿnh có đôi
chút hạnh môn
bèn quở trách họ buông lung, giải đăi; họ bị
quở trách, sẽ sanh ḷng ngờ vực, hối hận, sẽ
chẳng thể tiến lên nắm giữ viên lư, sẽ lui sụt, chẳng thể tuân thủ
ba Quyền giáo. Đấy chính là năo loạn hành nhân, chuốc
lỗi chẳng nhỏ vậy! Nếu biết căn cơ
và có trí nhăn th́ có thể tán đồng hay phủ quyết
thích nghi!
14.2.2.3.1.2.1.4. Chẳng tranh giành
(Kinh)
Hựu diệc
bất ưng hư luận chư pháp, hữu sở tránh cạnh.
(經)又亦不應戲論諸法。有所諍競。
(Kinh:
Lại cũng chẳng nên hư luận các pháp, có những chuyện
tranh đua).
Người thuộc địa
vị Danh Tự hiểu văn nghĩa sơ sài, chưa thể
niệm nào cũng quán tâm, thường đối với
chuyện giải thích văn nghĩa dấy lên chuyện tranh
căi. Chỉ riêng tranh căi kiểu đó, đă gọi là Hư Luận.
Huống hồ kẻ có tập khí buông lung, ăn nói trào phúng,
bỡn cợt, khiến cho tâm thần ô trược, tán loạn,
tăng trưởng sự buông lung, chẳng phải là An Lạc
Hạnh. Rất nên răn dè! Phần thứ nhất, Chỉ
Hạnh đă xong.
14.2.2.3.1.2.2. Quán Hạnh
14.2.2.3.1.2.2.1. Dùng đại bi tưởng
để đối trị ghen ghét, dối trá
(Kinh)
Đương
ư nhất thiết chúng sanh, khởi đại bi tưởng.
(經)當於一切眾生起大悲想。
(Kinh:
Hăy nên phát khởi ư tưởng đại bi đối với
hết thảy chúng sanh).
Đă dấy ḷng đại
bi, thề sẽ dẹp khổ, há c̣n nỡ ḷng ghen ghét, siểm
khúc, dối gạt ư?
14.2.2.3.1.2.2.2. Tưởng như cha
lành để đối trị khinh rẻ, chửi mắng
(Kinh)
Ư chư Như Lai, khởi từ phụ
tưởng.
(經)於諸如來。起慈父想。
(Kinh:
Đối với các đức Như Lai, tưởng
như cha lành).
Đă học Phật đạo,
tức là vị lai Phật. Phật chính là vị cha đại
từ bi của chúng ta, há có thể khinh rẻ, chửi mắng,
bới móc điều hay, thói dở của người ấy
nữa chăng?
14.2.2.3.1.2.2.3. Tưởng như đại
sư để đối trị năo loạn
(Kinh)
Ư chư Bồ Tát, khởi đại sư tưởng.
Ư thập phương chư đại Bồ Tát, thường
ưng thâm tâm, cung kính lễ bái.
(經)於諸菩薩。起大師想。於十方諸大菩薩。常應深心恭敬禮拜。
(Kinh:
Đối với
các Bồ Tát, khởi lên ư tưởng coi như đại
sư. Đối với các vị Bồ Tát trong mười
phương, thường hăy nên thâm tâm cung kính lễ bái).
Tứ chúng trong tam thừa,
không ai chẳng phải là Bồ Tát, có đức hạnh giáo
huấn, đều là thầy của chúng sanh, thường
phải nên thâm tâm lễ kính, há nên năo loạn khiến cho họ
hoài nghi ư?
14.2.2.3.1.2.2.4. B́nh đẳng thuyết
pháp để đối trị sự tranh chấp
(Kinh)
Ư nhất thiết chúng sanh, b́nh đẳng
thuyết pháp, dĩ thuận pháp cố, bất đa, bất
thiểu, năi chí thâm ái pháp giả, diệc bất vị đa
thuyết.
(經)於一切眾生。平等說法。以順法故。不多不少。乃至深愛法者。亦不為多說。
(Kinh:
Đối với hết thảy chúng sanh, b́nh đẳng
thuyết pháp. V́ thuận theo pháp, cho nên [thuyết
pháp] chẳng nhiều, chẳng ít. Thậm chí đối với
kẻ yêu mến pháp sâu xa, cũng chẳng v́ họ nói nhiều).
Văn tùy nghĩa, nghĩa tùy
văn, th́ gọi là b́nh đẳng. B́nh đẳng th́ chẳng
thiên lệch, chấp trước, cho nên chẳng dấy lên
tranh chấp. “Dĩ thuận pháp cố, bất đa, bất
thiểu” (v́ thuận theo pháp, cho nên [thuyết pháp]
chẳng nhiều, chẳng ít): Cân nhắc căn cơ là lợi
hay độn, thuận theo căn khí mà trao truyền. Nói nhiều
sẽ trở thành hư luận, do kẻ đó chẳng kham lănh
nhận, thông hiểu, chỉ uổng phí văn từ, chẳng
có lợi ích thật sự. Nếu có thể lănh nhận,
giải ngộ, sẽ như long vương Sa Kiệt La tuôn
mưa xuống biển cả, cho đến vi trần
nói, cơi nước nói, vẫn chẳng là nhiều. Phần
thứ hai là giải thích đă xong.
14.2.2.3.1.3. Kết lại hạnh thành
tựu
(Kinh)
Văn Thù
Sư Lợi! Thị Bồ Tát Ma Ha Tát ư hậu mạt
thế, pháp dục diệt thời, hữu thành tựu thị
đệ tam an lạc hạnh giả, thuyết thị pháp
thời, vô năng năo loạn.
(經)文殊師利。是菩薩摩訶薩。於後末世法欲滅時。有成就是第三安樂行者。說是法時。無能惱亂。
(Kinh:
Này Văn Thù
Sư Lợi! Đó là Bồ Tát Ma Ha Tát trong cuối đời
Mạt mai sau, khi pháp sắp diệt, hễ thành tựu hạnh
an lạc thứ ba này, lúc nói pháp này, sẽ chẳng có ǵ có
thể năo loạn được).
Đây là do Chỉ Hạnh mà
thành, sự ác chẳng thể quấy nhiễu được!
(Kinh) Đắc hảo
đồng học, cộng độc tụng thị kinh,
diệc đắc đại chúng nhi lai thính thọ. Thính dĩ
năng tŕ. Tŕ dĩ năng tụng. Tụng dĩ năng thuyết.
Thuyết dĩ năng thư. Nhược sử nhân thư,
cúng dường kinh quyển, cung kính, tôn trọng, tán thán.
(經)得好同學。共讀誦是經。亦得大眾而來聽受。聽已能持。持已能誦。誦已能說。說已能書。若使人書供養經卷。恭敬尊重讚歎。
(Kinh: Có đồng học
tốt đẹp cùng đọc tụng kinh này, cũng được đại chúng đến
nghe nhận. Nghe rồi có thể tŕ, tŕ rồi có thể tụng, tụng rồi có thể
nói, nói rồi có thể biên
chép. Nếu có thể khiến cho người khác biên chép, cúng
dường kinh quyển, cung kính, tôn trọng, tán thán).
Điều này do Quán Hạnh
mà thành: Người thù thắng nhóm đến. Phần Trường
Hàng của Ư An Lạc Hạnh đă xong.
14.2.2.3.2. Kệ tụng
Lược
đi không trùng tụng phần nêu đề mục.
14.2.2.3.2.1. Trùng tụng phần giải
thích
14.2.2.3.2.1.1. Trùng tụng Chỉ Hạnh
(Kinh)
Nhĩ thời,
Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ
ngôn: - Nhược dục thuyết thị kinh, đương
xả tật, khuể, mạn, siểm cuống,
tà ngụy tâm, thường tu chất trực hạnh, bất
khinh miệt ư nhân, diệc bất hư luận pháp, bất
linh tha nghi hối, vân nhữ bất đắc Phật.
(經)爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。若欲說是經。當捨嫉恚慢。諂誑邪偽心。常修質直行。不輕蔑於人。亦不戲論法。不令他疑悔。云汝不得佛。
(Kinh:
Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này, bèn
nói kệ rằng: - Nếu muốn nói kinh này, nên bỏ
ghen, giận, mạn, siểm cuống, tâm tà ngụy, thường
tu hạnh chất trực, chẳng khinh miệt người
khác, cũng chẳng hư luận pháp, chẳng khiến họ
nghi hối, nói “ngươi chẳng thành Phật”).
Bốn câu đầu trùng tụng
điều thứ nhất “không ghen ghét, dối gạt”.
Hai chữ “khuể mạn” (sân hận và ngạo mạn)
chính là cái gốc của ghen ghét. Hai chữ “tà ngụy”
là cước chú của “siểm cuống”. “Thường
tu chất trực hạnh” (thường tu hạnh chất
trực) chính là nói đến cách đối trị. Câu thứ
năm trùng tụng điều thứ hai tức “chẳng
khinh rẻ, chửi rủa”. Câu thứ sáu trùng tụng
điều thứ tư “chẳng tranh giành”. Hai câu cuối,
trùng tụng điều thứ ba “chẳng năo loạn”.
14.2.2.3.2.1.2. Trùng tụng Quán Hạnh
(Kinh)
Thị Phật tử thuyết pháp, thường
nhu ḥa năng nhẫn, từ bi ư nhất thiết, bất
sanh giải đăi tâm. Thập phương đại Bồ
Tát, mẫn chúng cố hành đạo. Ưng sanh cung kính tâm,
thị tắc ngă đại sư. Ư chư Phật Thế
Tôn, sanh vô thượng phụ tưởng, phá ư kiêu mạn
tâm, thuyết pháp vô chướng ngại.
(經)是佛子說法。常柔和能忍。慈悲於一切。不生懈怠心。十方大菩薩。愍眾故行道。應生恭敬心。是則我大師。於諸佛世尊。生無上父想。破於憍慢心。說法無障礙。
(Kinh:
Phật tử ấy thuyết pháp, thường
nhu ḥa, nhẫn nhục, từ bi với hết thảy, chẳng
sanh tâm giải đăi. Mười phương đại Bồ
Tát, thương chúng sanh hành đạo. Nên sanh tâm cung kính,
coi là bậc đại sư. Với chư Phật Thế
Tôn, nghĩ cha lành vô thượng, phá cái tâm kiêu mạn, thuyết
pháp chẳng chướng ngại).
Bài kệ thứ nhất, trùng
tụng điều thứ nhất là “đại bi tưởng”.
Bài kệ thứ hai, trùng tụng điều thứ ba “tưởng
như đại sư”. Nửa bài kệ kế đó,
trùng tụng điều thứ hai “tưởng như
cha lành”. Nửa bài kệ cuối, trùng tụng điều
thứ tư “b́nh đẳng thuyết pháp”. Phần thứ
nhất, “trùng tụng lời giải thích” đă xong.
14.2.2.3.2.2. Trùng tụng hạnh thành
tựu
(Kinh)
Đệ tam pháp như thị, trí giả ưng
thủ hộ, nhất tâm an lạc hạnh, vô lượng
chúng sở kính.
(經)第三法如是。智者應守護。一心安樂行。無量眾所敬。
(Kinh:
Pháp thứ ba như thế, bậc trí nên thủ hộ,
nhất tâm an lạc hạnh, vô lượng chúng cung kính).
Phần thứ ba, Ư An Lạc
Hạnh đă xong.
14.2.2.4. Thệ nguyện an lạc hạnh
14.2.2.4.1. Trường Hàng
14.2.2.4.1.1. Nêu ra hành pháp
14.2.2.4.1.1.1. Nêu đề mục
(Kinh)
Hựu Văn
Thù Sư Lợi! Bồ Tát Ma Ha Tát ư hậu mạt thế,
pháp dục diệt thời, hữu tŕ thị Pháp Hoa kinh giả.
(經)又文殊師利。菩薩摩訶薩。於後末世。法欲滅時。有持是法華經者。
(Kinh:
Lại này Văn
Thù Sư Lợi! Bồ Tát Ma Ha Tát trong đời Mạt mai sau, lúc pháp sắp
diệt, có người tŕ kinh Pháp Hoa này).
14.2.2.4.1.1.2. Giải thích
14.2.2.4.1.1.2.1. Nêu rơ cảnh sở duyên
của thệ nguyện
(Kinh)
Ư tại gia, xuất gia nhân trung, sanh đại từ
tâm. Ư phi Bồ Tát nhân trung,
sanh đại bi tâm.
(經)於在家出家人中。生大慈心。於非菩薩人中。生大悲心。
(Kinh:
Đối với người tại gia, xuất gia, sanh tâm đại từ.
Đối với kẻ chẳng phải là Bồ Tát, hăy
sanh tâm đại bi).
Đă phát tâm tam thừa xuất
thế th́ gọi là “tại gia”. Người xuất
gia hoàn toàn chưa phát tâm th́ gọi là “phi Bồ Tát nhân”
(kẻ chẳng phải là Bồ Tát). Trong số người
đă phát tâm, người chưa đoạn Thông Hoặc, ở
trong tam giới, th́ gọi là “tại gia nhân”. Đă đoạn
Thông Hoặc, thoát khỏi tam giới, th́ gọi là “xuất
gia nhân”. Điều này bao
gồm trọn hết ba thừa trong Tạng Giáo và Thông Giáo cũng như bốn mươi tâm
trong Biệt Giáo. “Phi Bồ Tát nhân” bao gồm
trọn hết lục đạo tứ sanh. Cảnh mười
pháp giới như thế, mỗi cảnh đều có Khổ
và Tập cần phải dẹp trừ, hăy đều nên
khởi ḷng đại bi. [Mỗi giáo] đều có Đạo
và Diệt phải nên ban cho, đều phải nên dấy ḷng
đại từ. Nhưng người đă phát tâm, mầm
thiện đă nẩy sanh, do điều thiện
ấy mà thành tựu tốt đẹp. V́ vậy, dấy ḷng đại
từ. Ḷng Từ ấy có thể dẹp trừ nỗi khổ
do Tam Hoặc. Kẻ chưa phát tâm, tập khí ác đặc
biệt mạnh mẽ, do điều ác ấy phải nên cứu
vớt, cho nên dấy ḷng đại bi. Ḷng bi ấy có thể
ban cho niềm vui Tam Đức. Đó gọi là “duyên theo Vô Tác Đế, dấy lên thệ nguyện
Vô Tác”.
14.2.2.4.1.1.2.2. Nêu ra nguyên do của thệ
nguyện
(Kinh)
Ưng tác thị niệm: Như thị chi
nhân, tắc vi đại thất. Như Lai phương tiện
tùy nghi thuyết pháp, bất văn, bất tri, bất giác,
bất vấn, bất tín, bất giải.
(經)應作是念。如是之人。則為大失。如來方便隨宜說法。不聞不知不覺。不問不信不解。
(Kinh:
Hăy nên nghĩ
như thế này: Người như thế chính là bị mất
mát to lớn. Đối với phương tiện tùy nghi
thuyết pháp của Như Lai, [kẻ đó] chẳng nghe,
chẳng biết, chẳng hay, chẳng hỏi, chẳng tin,
chẳng hiểu).
“Như Lai phương tiện
tùy nghi thuyết pháp” là nói chung giáo pháp trong cả một đời
[đức Phật], dù Đốn, hay Tiệm, dù Đại,
hay Tiểu, dù Viên hay Thiên, dù Hiển hay Mật, hoặc định,
bất định, cho đến nói kèm theo, hoặc nói đơn
độc, hoặc là đối lập, hoặc dung ḥa, hoặc
khai, hoặc hiển, hoặc phế, hoặc lập, mỗi
mỗi đều là phương tiện thiện xảo chẳng
thể nghĩ bàn! Mỗi mỗi đều là tùy thuận
thích đáng với chúng sanh. Kẻ chẳng phải là Bồ
Tát sẽ chẳng nghe, chẳng biết, chẳng hay Quyền
pháp. Tại gia, xuất gia Bồ Tát chẳng hỏi, chẳng
tin, chẳng hiểu diệu pháp. Do chẳng nghe, cho nên chẳng có Văn Huệ nơi tam thừa.
Do chẳng biết, cho nên chẳng có Tư Huệ
nơi tam thừa. Do chẳng hay, nên chẳng có
Tu Huệ nơi tam thừa. Do chẳng hỏi, nên chẳng
có Văn Huệ nơi Nhất Thừa. Do chẳng tin, nên chẳng
có Tư Huệ nơi Nhất Thừa. Do chẳng hiểu,
nên chẳng có Tu Huệ nơi Nhất Thừa. Đấy đều
là v́ mê đối với Đạo và Diệt nơi
Bổn, cho nên đều là các thứ Khổ và
Tập trong và ngoài tam giới, chẳng thấu đạt
bản thể của Khổ và Tập chính là Đạo,
Diệt! Đấy chính là nguyên do dấy lên thệ nguyện
rộng lớn!
14.2.2.4.1.1.2.3. Chánh lập thệ nguyện
(Kinh)
Kỳ nhân tuy
bất vấn, bất tín, bất giải thị kinh, ngă đắc
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề thời, tùy
tại hà địa, dĩ thần thông lực, trí huệ
lực, dẫn chi linh đắc trụ thị pháp trung.
(經)其人雖不問不信不解是經。我得阿耨多羅三藐三菩提時。隨在何地以神通力。智慧力。引之令得住是法中。
(Kinh:
Người ấy tuy chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng
hiểu kinh này, khi ta đắc Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, sẽ tùy theo người ấy thuộc địa
vị nào mà dùng sức thần thông, sức trí huệ dẫn
dắt, khiến cho người ấy được trụ
trong pháp này).
Trong phần trước đă
nói về nguyên do của
sự thệ nguyện, cùng nêu chẳng có Tam Huệ Quyền
Thật. Nay chỉ xét theo “không có Viên Giáo Tam Huệ” để
lập thệ. Do Thật có thể nhiếp Quyền, chỉ
thiếu Viên huệ, vẫn c̣n đáng thương! Huống
hồ những kẻ đang trầm mê, càng phải nên đau
đáu xót thương. “Thần thông lực” chính là sức
từ “áo Như Lai” và “nhà Như Lai”, chẳng khởi Diệt
Định, hiện các oai nghi. Trước hết, dùng Định
để lay động họ. “Trí huệ lực” là
sức từ “ṭa của Như
Lai”, tứ biện tài trang
nghiêm. Sau đó, dùng Huệ để cứu bạt, dẫn
dắt họ trụ trong pháp này, ắt v́ Thật mà thực
hiện Quyền, khai Quyền hiển Thật. Phần thứ
hai, “giải thích” đă xong.
14.2.2.4.1.1.3. Kết luận về hạnh
thành tựu
14.2.2.4.1.1.3.1. Nói về ĺa lỗi
(Kinh)
Văn Thù
Sư Lợi! Thị Bồ Tát Ma Ha Tát ư Như Lai diệt
hậu, hữu thành tựu thử đệ tứ pháp giả,
thuyết thị pháp thời, vô hữu quá thất.
(經)文殊師利。是菩薩摩訶薩。於如來滅後。有成就此第四法者。說是法時。無有過失。
(Kinh:
Này Văn Thù
Sư Lợi! Vị Bồ Tát Ma Ha Tát ấy sau khi Như
Lai diệt hậu, thành tựu pháp thứ tư này, lúc nói
pháp này, sẽ chẳng có lầm lỗi).
Dấy ḷng đại từ
bi là thành tựu hạnh “nhập Như Lai thất”. Biết
các Bồ Tát, chẳng phải Bồ Tát v.v… mất mát Tam Huệ
Quyền Thật, chính là thành tựu hạnh “ngồi ṭa Như
Lai”. Hoằng thệ chế phục cái tâm, từ đầu
tới cuối chẳng mệt mỏi, chính là thành tựu
hạnh “áo của Như Lai”. Do thành tựu hạnh “Như Lai thất” (nhà của
Như Lai), chẳng có lỗi
lầm sân cấu. Do thành tựu hạnh “ngồi ṭa Như
Lai”, chẳng có lỗi lầm siểm khúc, dối lừa.
Do thành tựu hạnh “áo Như Lai”, chẳng có lỗi
lầm giải đăi. Đă tự dẹp khổ, lại
c̣n dẹp khổ trọn khắp cho người khác, có ư
nghĩa giống như thành tựu Chỉ Hạnh.
14.2.2.4.1.1.3.2. Nêu ra lợi ích
14.2.2.4.1.1.3.2.1. Nêu ra điều lợi
ích
(Kinh)
Thường
vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di,
quốc vương, vương tử, đại thần,
nhân dân, Bà-la-môn, cư sĩ đẳng cúng dường,
cung kính, tôn trọng, tán thán. Hư không chư thiên vị thính
pháp cố, diệc thường tùy thị. Nhược tại
tụ lạc, thành ấp, không nhàn, lâm trung, hữu nhân lai dục
nạn vấn giả, chư thiên trú dạ thường vị
pháp cố, nhi vệ hộ chi, năng linh thính giả giai đắc
hoan hỷ.
(經)常為比丘比丘尼優婆塞優婆夷國王王子大臣人民婆羅門居士等供養恭敬尊重讚歎。虛空諸天為聽法故。亦常隨侍。若在聚落城邑空閑林中。有人來欲難問者。諸天晝夜常為法故而衞護之。能令聽者皆得歡喜。
(Kinh:
Thường được
tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, quốc
vương, vương tử, đại thần, nhân dân,
Bà-la-môn, cư sĩ v.v… cúng dường, cung kính, tôn trọng,
tán thán. Chư thiên trong hư không v́ nghe pháp, cũng thường
theo hầu. Nếu ở trong xóm làng, thành ấp, chỗ thanh
vắng, hoặc trong rừng, có người đến muốn
vặn hỏi, chư thiên ngày đêm thường v́ pháp mà
bảo vệ, khiến cho người nghe đều được
hoan hỷ).
Do thành tựu hạnh “Như Lai thất”, được trời,
người cúng dường. “Tùy thị thính pháp” (theo
hầu nghe pháp) là hạnh “áo Như Lai” thành tựu. “Chư
thiên bảo vệ, [kẻ khác] chẳng thể vặn
hỏi” là do hạnh “ṭa
Như Lai” thành tựu. Người nghe hoan hỷ là tự
ḿnh đă đạt được an lạc,
làm cho trọn khắp người khác cũng được
vui sướng, có ư nghĩa giống như Quán Hạnh thành
tựu!
14.2.2.4.1.1.3.2.2. Kết lại lời
giải thích
(Kinh)
Sở dĩ
giả hà? Thử kinh thị nhất thiết quá khứ, vị
lai, hiện tại chư Phật thần lực sở hộ
cố.
(經)所以者何。此經是一切過去未來現在諸佛神力所護故。
(Kinh:
V́ lẽ nào vậy? Do kinh này được gia hộ bởi
thần lực của hết thảy quá khứ, vị
lai, hiện tại chư Phật).
Tam thế chư Phật đều
cùng thủ hộ kinh điển mầu nhiệm như thế.
Người nói kinh há chẳng đạt được lợi
ích to lớn như vậy ư? Phần thứ nhất, “nói
về hành pháp” đă xong.
14.2.2.4.1.2. Tán thán kinh
14.2.2.4.1.2.1. Dựa theo pháp, tán thán đại
lược
(Kinh)
Văn Thù Sư
Lợi! Thị Pháp Hoa kinh ư vô lượng quốc trung,
năi chí danh tự bất khả đắc văn, hà huống
đắc kiến thọ tŕ, độc tụng.
(經)文殊師利。是法華經。於無量國中。乃至名字不可得聞。何況得見受持讀誦。
(Kinh:
Này Văn Thù Sư
Lợi! Kinh Pháp Hoa này trong vô lượng cơi, thậm chí c̣n
chẳng thể được nghe danh tự, huống hồ
là được thấy, thọ tŕ, đọc tụng).
Chư Phật xuất thế
lâu xa khó gặp gỡ. Ngay như khi Phật xuất thế,
[vẫn phải] giữ kín điều trọng yếu này đă
lâu. V́ thế, nghe tên c̣n chẳng thể được, huống
hồ được thấy ư? Huống hồ thọ
tŕ ư? Huống hồ đọc tụng ư? Có nghĩa
là nay được thấy, thọ tŕ, đọc tụng [kinh này], th́ chính là nhân duyên chẳng
thể nghĩ bàn, hăy nên trân trọng, tu hành đúng như lời
dạy.
14.2.2.4.1.2.2. Dùng thí dụ để
tán thán cặn kẽ
14.2.2.4.1.2.2.1. Thí dụ chẳng ban
cho viên châu
14.2.2.4.1.2.2.1.1. Lập thí dụ
14.2.2.4.1.2.2.1.1.1. Oai thế chế phục
các nước
(Kinh) Văn Thù Sư Lợi!
Thí như cường lực Chuyển Luân Thánh Vương,
dục dĩ oai thế hàng phục chư quốc.
(經)文殊師利。譬如強力轉輪聖王。欲以威勢降伏諸國。
(Kinh:
Này Văn Thù
Sư Lợi! Ví như Chuyển Luân Thánh Vương có sức
mạnh mẽ, muốn dùng oai thế để hàng phục
các nước).
Luân Vương ví như Như
Lai hóa độ cơi đời. “Chư quốc” ví như
các cảnh Ấm, Nhập, Giới.
14.2.2.4.1.2.2.1.1.2. Tiểu vương
chẳng tuân phục
(Kinh)
Nhi chư tiểu
vương bất thuận kỳ mạng.
(經)而諸小王。不順其命。
(Kinh:
Nhưng các tiểu vương chẳng tuân theo mạng
lệnh của vua).
“Tiểu vương” ví
như các phiền năo ma “kiến, ái” v.v… tức là phường
giặc cướp thường được gọi là “vua
trong rừng”. Chưa được vô lậu điều
phục th́ gọi là “bất thuận kỳ mạng”.
14.2.2.4.1.2.2.1.1.3. Khởi binh thảo
phạt
(Kinh)
Thời Chuyển
Luân Vương khởi chủng chủng binh, nhi văng thảo phạt.
(經)時轉輪王。起種種兵而往討伐。
(Kinh:
Khi đó, Chuyển Luân Vương dấy các thứ
quân tới đánh dẹp).
Giới như áo giáp cứng,
Định như doanh trại, thành lũy. Huệ như vũ
khí sắc bén, Phương pháp trong Thất Hiền như tiền
quân. Phương pháp của Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm là thứ
quân. Phương pháp của A Na Hàm, A La Hán là hậu quân. Đối
tượng bị phá là tám vạn bốn ngàn loại giặc
cướp như Tam Độc v.v… Người phá giặc
chính là binh lính tám vạn bốn ngàn pháp môn (tức tám vạn
bốn ngàn pháp uẩn trong Tiểu Thừa).
14.2.2.4.1.2.2.1.1.4. Do [binh tướng]
có công nên hoan hỷ ban thưởng
(Kinh)
Vương kiến
binh chúng chiến hữu công giả, tức đại hoan
hỷ, tùy công thưởng tứ. Hoặc dữ điền
trạch, tụ lạc, thành ấp, hoặc dữ y phục,
nghiêm thân chi cụ, hoặc dữ chủng chủng trân bảo,
kim, ngân, lưu ly, xa cừ, mă năo, san hô, hổ phách, tượng,
mă, xa thặng, nô tỳ, nhân dân.
(經)王見兵眾戰有功者。即大歡喜。隨功賞賜。或與田宅聚落城邑。或與衣服嚴身之具。或與種種珍寶。金銀琉璃硨磲碼瑙珊瑚琥珀。象馬車乘。奴婢人民。
(Kinh:
Vua thấy các binh sĩ chiến đấu có công, liền
hết sức hoan hỷ, tùy theo công mà ban thưởng, hoặc
ban cho ruộng, nhà, làng xóm, thành ấp, hoặc ban cho y phục,
vật dụng trang hoàng nơi thân, hoặc ban cho các thứ
trân bảo, vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mă năo, san hô, hổ
phách, voi, ngựa, xe cộ, nô tỳ, nhân dân).
Ruộng ví như Thiền
Định, nhà ví như giải thoát, làng xóm ví như Sơ
Quả, Nhị Quả. Ấp sánh ví Tam Quả. Thành ví như
Niết Bàn, tức đệ tứ quả. Y phục ví như
Tàm, Nhẫn, các thiện pháp. Vật dụng trang sức thân
thể ví như hết thảy thiện pháp trợ đạo.
Các thứ bảy báu ví như bảy khoa vô lậu đạo
phẩm. Voi, ngựa, xe cộ ví như Tận Trí và Vô Sanh
Trí của Nhị Thừa. Nô tỳ ví như thần thông. Nhân
dân ví như thiện pháp hữu lậu.
14.2.2.4.1.2.2.1.1.5. Chỉ không ban cho bảo
châu