Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa
phần 12
Đất
Cổ Ngô, Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật
妙法蓮華經綸貫會義
古吳後學蕅益智旭述
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong và
Huệ Trang
Giải thích phẩm An Lạc
Hạnh đă xong; kế đó, giải thích phẩm Tùng Địa
Dũng Xuất.
15. Phẩm thứ mười lăm:
Từ dưới đất vọt lên (Tùng địa dũng
xuất phẩm đệ thập ngũ, 從地涌出品第十五)
Thầy nghiêm, đạo
tôn quư, tận tụy vâng hành. Do mạng lệnh của Như
Lai, [các vị Bồ Tát từ] bốn phương ồ ạt vọt lên. V́ thế nói là phẩm Tùng
Địa Dũng Xuất (đạo ở nơi thầy,
v́ thế là “đạo tôn quư”. Thầy có đạo nên
là “thầy nghiêm”. Do thầy nghiêm, cho nên mạng
lệnh của thầy chẳng thể trái. Do đạo tôn
quư, nên thầy hạ mạng lệnh, [các đệ
tử] ắt phải nhóm tới). “Mạng
lệnh”:
- Một, do cuối
phẩm Kiến Bảo Tháp có nói: “Phật dục dĩ thử Diệu
Pháp Hoa Kinh phó chúc hữu tại” (đức Phật mong có người
để phó chúc kinh Diệu Pháp Liên Hoa này). Mạng
lệnh ấy là mạng lệnh chung.
- Hai, do trong phần
đầu phẩm này, các vị Bồ
Tát ở phương khác thỉnh Phật cho phép hoằng pháp,
đức Phật ngăn lại, bảo: “Ngă thử Sa Bà thế giới,
tự hữu lục vạn Hằng hà sa đẳng” (Thế
giới Sa Bà của ta tự có Bồ Tát nhiều như số
cát trong sáu vạn sông Hằng). Đó chính là mạng
lệnh riêng. Đấy là Thế Giới Tất Đàn.
Hóa độ chúng
sanh khắp ba đời, tạo lợi ích rộng lớn
không ngằn hạn. Một vầng trăng có vạn bóng, ai
có thể suy lường? Triệu vời [các vị Bồ
Tát từ phương dưới] tới để thị hiện, càng nhấn mạnh
thêm lợi ích do hoằng kinh. V́ thế nói là phẩm Tùng Địa
Dũng Xuất (đó là Vị Nhân Tất Đàn).
Hư không lặng
lẽ, chẳng sáng, chẳng
tối, hoặc là do [chúng sanh] chấp
Tích mà ẩn khuất Bổn, [đức
Phật phải] triệu vời [các đệ tử từ] thuở xưa để chỉ bày hiện tại,
phá chấp trước đối với “gần” (tức
chấp trước “Như Lai chỉ mới thành Phật trong đời này
hơn bốn mươi năm”) để hiển lộ
chuyện “xa” (Ngài đă thành Phật
từ vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn kiếp
trước). V́ thế nói là phẩm Tùng Địa Dũng
Xuất (“Hư không” là sánh ví Lư. Lư chẳng có sáng hay tối. Nương
theo Lư mà thành tựu Sự. Sự có Bổn và Tích. Hoặc chấp
Tích gần gũi mà đánh mất Bổn xa xôi. Đối
với Bổn Tích mà c̣n mê, huống hồ đối với
chuyện Nhất Thừa chẳng thể nghĩ bàn! V́ thế, các đệ tử thuộc Bổn sống trong hư
không thuộc phương dưới. Vị thầy thuộc
Bổn địa, ngự trong hư không đă lâu. Nay thầy
tṛ đều ở trong hư không trong hiện thời. Hư
không lâu đời và hư không hiện thời, hư không
thuộc phương dưới và hư không thuộc phương
trên, tuy về Thể là một, nhưng đệ tử nơi
Bổn vốn đă biết cận Tích, chứ các đệ
tử trong hiện thời vẫn mê nơi viễn Bổn.
V́ sự
chấp trước đối với Cận (mê
chấp đối với cận Tích), [đức
Phật] bèn triệu vời [các đệ tử] xưa kia để
chỉ bày [cho các đệ tử trong] hiện tại. Nay đệ
tử [trong hiện tại] do nghi mà thỉnh vấn, được
nghe nói [thọ lượng lâu xa của Như Lai] mới
phá điều ác “chấp gần”. Đó là Đối
Trị Tất Đàn).
Nơi Tịch Diệt
đạo tràng, cha trẻ tuổi, lại c̣n uống thuốc
Chủng Trí trẻ trung đă lâu, cho nên già chẳng bằng
trẻ. Con đă già nua nơi Tịch Quang cũng từ lâu
đă nhận lấy toa thuốc bất tử thường
trụ, cho nên trẻ mà như già, chỉ bày lực dụng
của thuốc ấy, khiến cho [chúng
sanh nghe pháp này sẽ] đều
hay biết. V́ thế nói phẩm Tùng Địa Dũng Xuất
(Đó là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn).
Kinh văn chép “tùng
hà sở lai, dĩ hà nhân duyên tập?” (từ chỗ nào đến?
Do nhân duyên ǵ mà tụ tập). Hăy nên biết nhân duyên Tứ
Tất Đàn; v́ thế “dũng xuất” (món Tất Đàn
thứ nhất thuộc kinh văn trong phẩm này. Ư thứ
hai kèm thêm kinh văn trong phẩm sau. Món Tất Đàn thứ
ba và thứ tư tham chiếu phẩm sau, đều nhằm
giúp thành tựu chuyện “hiển viễn” trong phần
sau. “Thiện sanh, ác phá” là do đă thấy Bổn. V́
thế biết Thế Giới Tất Đàn chính là nguyên do
của ba món Tất Đàn (Vị Nhân, Đối Trị, Đệ
Nhất Nghĩa) sau đó. Nay phẩm Dũng Xuất chuyên
thuộc Thế Giới Tất Đàn).
* Phần “khai cận, hiễn viễn”
thuộc Bổn Môn
Chia thành ba phần:
- Một, từ đầu
phẩm này cho tới câu “nhữ đẳng tự đương
nhân thị đắc văn” (chính các ông sẽ
do đó mà được nghe) là Tự Đoạn (đoạn
kinh văn tương ứng với Tự Phần của
Bổn Môn).
- Hai, từ “nhĩ
thời, Thích Ca Mâu Ni Phật cáo Di Lặc Bồ Tát” (lúc bấy giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Di Lặc
Bồ Tát) trở
đi cho đến phần đầu phẩm Phân Biệt Công Đức,
ngài Di Lặc nói kệ, chính là đoạn Chánh Thuyết [của
Bổn Môn].
- Ba, từ “nhĩ
thời, Phật cáo Di Lặc” (Lúc bấy giờ, Phật
bảo Di Lặc) cho đến hết phẩm Thường
Bất Khinh gồm ba phẩm rưỡi, chính là đoạn
Lưu Thông [của
Bổn Môn].
15.1. Tự đoạn (Tự
phần của Bổn Môn)
15.1.1. Từ dưới đất
vọt lên
15.1.1.1. Bồ Tát trong phương khác
thỉnh cầu hoằng kinh
(Kinh)
Nhĩ thời, tha phương quốc độ chư lai
Bồ Tát Ma Ha Tát quá bát Hằng hà sa số, ư đại
chúng trung khởi, hiệp chưởng tác lễ, nhi bạch
Phật ngôn: - Thế Tôn! Nhược thính ngă đẳng ư
Phật diệt hậu, tại thử Sa Bà thế giới,
cần gia tinh tấn, hộ tŕ, độc tụng, thư
tả, cúng dường thị kinh điển giả, đương
ư thử độ nhi quảng thuyết chi.
(經)爾時他方國土諸來菩薩摩訶薩。過八恒河沙數。於大眾中起。合掌作禮而白佛言。世尊。若聽我等於佛滅後。在此娑婆世界勤加精進。護持讀誦書寫供養是經典者。當於此土而廣說之。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đến từ các quốc
độ ở phương khác nhiều hơn số cát trong
tám sông Hằng, từ trong đại chúng đứng dậy,
chắp tay làm lễ, bạch cùng đức Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu cho phép chúng con sau khi đức
Phật diệt độ, ở trong thế giới Sa Bà này,
càng thêm siêng năng, tinh tấn, hộ tŕ, đọc tụng,
biên chép, cúng dường kinh điển này, chúng con sẽ rộng
nói trong cơi này).
Các Bồ Tát ở
phương khác đă nghe phần Lưu Thông thuộc Tích Môn
xong, ngưỡng mộ phước thù thắng do lưu
thông kinh, cho nên nguyện trụ trong cơi này để hoằng truyền, tuyên dương.
15.1.1.2. Như Lai chẳng hứa khả
(Kinh)
Nhĩ thời, Phật cáo chư Bồ Tát Ma Ha Tát chúng: - Chỉ! Thiện nam tử! Bất
tu nhữ đẳng hộ tŕ thử kinh. Sở dĩ giả
hà? Ngă Sa Bà thế giới tự hữu lục vạn Hằng
hà sa đẳng Bồ Tát Ma Ha Tát. Nhất nhất Bồ
Tát, các hữu lục vạn Hằng hà sa quyến thuộc.
Thị chư nhân đẳng năng ư ngă diệt hậu,
hộ tŕ, độc tụng, quảng thuyết thử kinh.
(經)爾時佛告諸菩薩摩訶薩眾。止。善男子。不須汝等護持此經。所以者何。我娑婆世界。自有六萬恒河沙等菩薩摩訶薩。一一菩薩。各有六萬恒河沙眷屬。是諸人等。能於我滅後。護持讀誦廣說此經。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các vị Bồ
Tát Ma Ha Tát: - Thôi! Thiện nam tử! Chẳng cần các ông
hộ tŕ kinh này. V́ lẽ nào vậy? Thế giới Sa Bà của
ta tự có hàng Bồ Tát Ma Ha Tát nhiều như số cát trong
sáu vạn sông Hằng. Mỗi vị Bồ Tát đều có
quyến thuộc nhiều như số cát trong sáu vạn sông
Hằng. Những người ấy sau khi ta diệt độ
sẽ có thể hộ tŕ, đọc tụng, rộng nói kinh
này).
Như Lai ngăn trở,
có ba nghĩa:
- Một, các ông ai nấy
đều đă có trách nhiệm của chính ḿnh. Nếu trụ
trong cơi này, sẽ bỏ phế lợi ích trong cơi kia!
- Hai, Bồ Tát ở
phương khác kết duyên sự với cơi này
nông cạn. Dẫu muốn tuyên nói, truyền trao, ắt chẳng
có lợi ích to lớn.
- Ba, nếu [đức
Phật] lại chấp thuận, sẽ chẳng thể triệu
vời [các Bồ Tát thuộc] phương dưới. Nếu
các Bồ Tát từ phương dưới chẳng đến,
sẽ chẳng thể “phá cận, hiển viễn”.
Hỏi: Chư Phật,
Bồ Tát phân thân tán ảnh trọn khắp mười
phương, khuyên dụ, giáo hóa hết thảy, há có đây,
kia, mà nói là “trách nhiệm của chính ḿnh” và “phế bỏ phương kia?”
Đáp: Tâm của Phật,
Bồ Tát thật sự chẳng có đây hay kia, nhưng căn
cơ th́ có tồn tại hay không; từ vô
thỉ vốn đă là như vậy! Thoạt đầu, Phật,
Bồ Tát kết duyên từ chỗ này, mà Phật, Bồ
Tát cũng thành thục từ chỗ này. Do vậy, cần
phải triệu vời [các Bồ Tát] từ phương dưới.
Triệu vời các Bồ Tát từ phương dưới
tới
cũng có ba nghĩa:
- Một, họ là đệ
tử của ta, phải nên hoằng dương pháp của
ta.
- Hai, do [họ có]
duyên sâu rộng, họ có thể tạo lợi ích trọn khắp
trong cơi này và trọn khắp các cơi ta đă phân thân.
- Ba, nhằm khai cận,
hiển viễn (do mỗi vị [Bồ Tát từ các quốc
độ ở phương khác] đều có trách nhiệm
riêng của chính họ, sẽ chẳng có Thế Giới Ích
[đối với chúng sanh trong cơi Sa Bà]. Do kết duyên sự nông cạn, chẳng có Vị Nhân Ích. Chẳng thể
phá [chấp trước Phật Thích Ca mới thành Phật]
gần đây, sẽ không có Đối Trị Ích. Chẳng hiển
lộ [Như Lai đă thành Phật
từ lâu] xa, sẽ chẳng có Đệ Nhất Nghĩa Ích.
Do không có bốn điều lợi ích, cho nên [đức Phật]
ngăn trở. Con hoằng pháp của cha, sẽ có Thế
Giới Ích. Kết duyên sâu rộng, bèn có Vị Nhân Ích. Khai
cận (chỉ ra Phật Thích Ca thành Phật mới hơn
bốn mươi năm chỉ là thị hiện), bèn có Đối
Trị Ích. Hiển viễn (chỉ ra Phật Thích Ca thật
sự đă thành Phật từ bao kiếp trước), bèn
có Đệ Nhất Nghĩa Ích. Do có bốn điều lợi
ích, cho nên triệu vời).
15.1.1.3. [Bồ Tát] từ phương
dưới vọt lên
15.1.1.3.1. Người kết tập
kinh trần thuật sự tướng
15.1.1.3.1.1. Vọt lên
(Kinh)
Phật thuyết thị thời, Sa Bà thế giới tam
thiên đại thiên quốc độ, địa giai chấn
liệt, nhi ư kỳ trung, hữu vô lượng thiên vạn
ức Bồ Tát Ma Ha Tát đồng thời dũng xuất.
(經)佛說是時。娑婆世界三千大千國土。地皆振裂。而於其中。有無量千萬億菩薩摩訶薩同時涌出。
(Kinh: Lúc đức
Phật nói như thế, trong tam thiên đại thiên quốc
độ của thế giới Sa Bà, đất đều
rúng động, nứt ra, nhưng ở trong đó, có vô
lượng ngàn vạn ức Bồ Tát Ma Ha Tát cùng lúc vọt
ra).
Đất che phủ
quyến thuộc tại Bổn, như Tích ẩn Bổn.
Nay khai Tích hiển Bổn, cho nên đất nứt ra để
biểu thị.
15.1.1.3.1.2. Thân tướng [của các
vị Bồ Tát ấy]
(Kinh)
Thị chư Bồ Tát thân giai kim sắc, tam thập nhị
tướng, vô lượng quang minh.
(經)是諸菩薩。身皆金色。三十二相。無量光明。
(Kinh: Các vị
Bồ Tát ấy, thân đều sắc vàng, ba mươi
hai tướng, vô lượng quang minh).
15.1.1.3.1.3. Trụ xứ
(Kinh) Tiên tận tại
thử Sa Bà thế giới chi hạ, thử giới hư
không trung trụ.
(經)先盡在此娑婆世界之下。此界虛空中住。
(Kinh: Trước
đó, họ đều ở phía dưới thế giới
Sa Bà này, cơi ấy trụ
trong hư không).
[Chánh kinh
nói] “tại thử thế giới chi hạ” (ở phía
dưới thế giới này) tức là chẳng thuộc
vào thế giới này. Cơi ấy trụ trong hư không, cho nên
chẳng thuộc vào thế giới dưới đó (tức
thế giới ở phương dưới của Sa Bà).
Chẳng phải đây, chẳng phải kia, chính nhằm biểu
thị cơi Trung Đạo Thường Tịch Quang. “Thường”
tức là Thường Đức. “Tịch” tức
Lạc Đức. “Quang” tức là Pháp Thân. “Tịch”
tức là giải thoát, “Quang” chính là Bát Nhă. Tam Đức (Pháp Thân, Bát Nhă, Giải Thoát) không ǵ chẳng
phải là “thường, lạc, ngă, tịnh”. Tứ Đức (thường, lạc, ngă, tịnh) không ǵ
chẳng chính là “tức Giả, tức Không, tức Trung”.
Đó là tạng bí mật chẳng ngang, chẳng dọc. Chẳng
chính là cơi này, nhưng chẳng ĺa cơi này; v́ thế dùng “thế
giới chi hạ” (ở phía dưới thế giới),
và “thử giới hư không trung trụ” (trụ trong
hư không của cơi này) để biểu thị.
“Trụ”: Dùng
pháp bất trụ để trụ trong tạng bí mật.
Hăy nên biết vốn có Tứ Đức để làm “chỗ
nương vào” (sở y). Tu đạt được Tứ
Đức để làm “chủ thể nương vào” (năng
y). Năng và Sở đều có cái thân để có thể
nương vào, nương tựa vào Năng và Sở của
cơi nước sở y, hai nghĩa đều b́nh đẳng
th́ mới là tướng trạng của thân và cơi nước
Tỳ Lô Giá Na. V́ thế, khi một người thành Phật,
pháp giới đều là y báo và chánh báo của vị Phật
ấy. Một vị Phật đă là như thế, hăy nên
hết thảy chư Phật cũng lại như thế!
Tầng tầng đều trọn khắp, tầng tầng
dung nhập lẫn nhau, tầng tầng hiển hiện lẫn
nhau, tầng tầng dung nạp lẫn nhau. Lại nữa,
chư Phật đă là như thế, hăy nên biết “phần
chứng” của hết thảy các vị Bồ Tát cũng
là như thế. Lại nữa, Tu Đức măn phần của
chư Phật, Bồ Tát đă là như thế, hăy nên biết
tất cả Tánh Đức của hết thảy chúng
sanh cũng lại là như thế, không ǵ chẳng phải
là trọn khắp lẫn nhau, nhập vào lẫn nhau, hiển
hiện lẫn nhau, dung nạp lẫn nhau, nhưng mê và ngộ
rất khác! V́ thế, tuy “tức” (chúng sanh chính là Phật,
Phật chính là chúng sanh, phiền năo chính là Niết Bàn, Niết
Bàn chính là phiền năo v.v…) mà thường sáu (tức Lục
Tức Phật). Do pháp tánh b́nh đẳng, cho nên tuy sáu mà thường
tức. V́ vậy, y báo và chánh báo của
A Tỳ hoàn toàn ở trong tự tâm của bậc
cực thánh, thân và cơi nước của Tỳ Lô Giá Na Phật
chẳng ĺa một niệm của kẻ phàm phu bậc hạ!
15.1.1.3.1.4. Nghe theo mạng lệnh [triệu
tập]
(Kinh)
Thị chư Bồ Tát văn Thích Ca Mâu Ni Phật sở
thuyết âm thanh, tùng hạ phát lai.
(經)是諸菩薩。聞釋迦牟尼佛所說音聲。從下發來。
(Kinh: Các
vị Bồ Tát ấy nghe âm thanh của Thích Ca Mâu Ni đă
nói, bèn từ phương dưới đến đây).
Tức là do nghe mạng
lệnh mà đến, do hoằng pháp mà đến, do phá chấp
mà đến, do hiển Bổn mà đến.
15.1.1.3.1.5. Quyến thuộc
(Kinh)
Nhất nhất Bồ Tát giai thị đại chúng xướng
đạo chi thủ, các tương lục vạn Hằng
hà sa quyến thuộc, huống tương ngũ vạn,
tứ vạn, tam vạn, nhị vạn, nhất vạn Hằng
hà sa đẳng quyến thuộc giả, huống phục
năi chí nhất Hằng hà sa, bán Hằng hà sa, tứ phần
chi nhất, năi chí thiên vạn ức na-do-tha phần chi nhất,
huống phục thiên vạn ức na-do-tha quyến thuộc,
huống phục ức vạn quyến thuộc, huống
phục thiên vạn, bách vạn, năi chí nhất vạn, huống
phục nhất thiên, nhất bách, năi chí nhất thập, huống
phục tương ngũ, tứ, tam, nhị, nhất đệ
tử giả, huống phục đơn kỷ nhạo viễn
ly hạnh. Như thị đẳng tỷ, vô lượng
vô biên, toán số thí dụ sở bất năng tri.
(經)一一菩薩。皆是大眾唱導之首。各將六萬恒河沙眷屬。況將五萬四萬三萬二萬一萬恒河沙等眷屬者。況復乃至一恒河沙。半恒河沙。四分之一。乃至千萬億那由他分之一。況復千萬億那由他眷屬。況復億萬眷屬。況復千萬。百萬。乃至一萬。況復一千。一百。乃至一十。況復將五。四。三。二。一弟子者。況復單己樂遠離行。如是等比。無量無邊。算數譬喻所不能知。
(Kinh:
Mỗi vị Bồ Tát đều là bậc đứng đầu
xướng suất, hướng dẫn của đại
chúng, mỗi vị đem theo sáu vạn Hằng hà sa quyến
thuộc, lại c̣n có vị dẫn theo năm vạn, bốn
vạn, ba vạn, hai vạn, một vạn Hằng hà sa
quyến thuộc. Cho đến c̣n có vị dẫn
theo một Hằng hà sa, nửa Hằng hà sa, một phần
tư, cho đến một phần ngàn vạn ức
na-do-tha phần, huống hồ ngàn vạn ức
na-do-tha quyến thuộc, huống hồ
ức
vạn quyến thuộc, huống hồ ngàn vạn,
trăm vạn, cho đến một vạn. Huống hồ
lại có vị [dẫn theo] một ngàn, một trăm, cho
đến mười [quyến thuộc]. Có vị c̣n dẫn
theo năm, bốn, ba, hai, một đệ tử. Huống
hồ c̣n có vị là người thích hạnh viễn ly
đến một ḿnh. Số nhiều vô lượng vô biên
ngần ấy, [dẫu dùng] toán, số, thí dụ [để
tính đếm], đều chẳng thể biết
được).
Mỗi vị
đều có phẩm đức của bậc đạo
sư, có thể dẫn chúng sanh đến chỗ có của
báu. Hăy nên biết một đă chẳng phải là một ḿnh,
mà sáu vạn quyến thuộc cũng chẳng phải là nhiều!
Nếu xét theo pháp môn: Một chính là nhất đạo thanh
tịnh. Hai là phước và trí. Ba là Giới, Định,
Huệ. Bốn chính là Tứ Đế. Năm là ngũ nhăn.
Sáu chính là Lục Độ. Mỗi độ có đủ mười
pháp giới. Mỗi giới đều có mười lần
mười liền thành một trăm (mỗi
giới đều có mười giới kia, nên mười
giới thành một trăm). Hễ có trăm
liền có ngàn. Thập Thiện bèn có vạn, một độ
trọn đủ con số vạn, [cho nên] Lục Độ
chính là sáu vạn pháp môn! Nhiều chẳng phải là nhiều,
một chẳng phải là một. Chẳng nhiều, chẳng
một, mà là nhiều, là một. Phần trần thuật của
người kết tập kinh đă xong.
15.1.1.3.2. Nêu ra sự thăm hỏi
15.1.1.3.2.1. Tam nghiệp cúng dường
15.1.1.3.2.1.1. Nói về sự cúng dường
(Kinh)
Thị chư
Bồ Tát tùng địa xuất dĩ, các nghệ hư không
thất bảo diệu tháp Đa Bảo Như Lai, Thích Ca
Mâu Ni Phật sở. Đáo dĩ, hướng nhị Thế
Tôn, đầu diện lễ túc, cập chí chư bảo thụ
hạ sư tử ṭa thượng Phật sở, diệc
giai tác lễ, hữu nhiễu tam táp, hiệp chưởng
cung kính, dĩ chư Bồ Tát chủng chủng tán pháp nhi dĩ
tán thán, trụ tại nhất diện, hân nhạo chiêm
ngưỡng ư nhị Thế Tôn.
(經)是諸菩薩。從地出已。各詣虛空七寶妙塔多寶如來釋迦牟尼佛所。到已。向二世尊頭面禮足。及至諸寶樹下師子座上佛所。亦皆作禮。右遶三帀。合掌恭敬。以諸菩薩種種讚法而以讚歎。住在一面。欣樂瞻仰於二世尊。
(Kinh:
Các vị Bồ Tát ấy từ đất hiện ra xong,
đều tới diệu tháp bằng bảy báu trên hư
không là nơi của Đa Bảo Như Lai và Thích Ca Mâu Ni Phật.
Đă đến nơi, bèn hướng về hai đức
Thế Tôn, đầu mặt lễ dưới chân, và đến chỗ các đức
Phật đang ngự trên ṭa sư tử dưới các cây
báu, cũng đều làm lễ, nhiễu theo chiều phải
ba ṿng, chắp tay cung kính, dùng các cách tán thán của Bồ Tát
để tán thán, đứng qua một bên, vui thích, chiêm ngưỡng
hai đức Thế Tôn).
“Làm lễ, nhiễu theo
chiều bên phải” là thân nghiệp cúng dường. Các thứ
tán thán là khẩu nghiệp cúng dường. “Vui thích chiêm
ngưỡng” là ư nghiệp cúng dường. Dùng ba nghiệp
chẳng thể nghĩ bàn ấy để cúng dường
tam thân chẳng thể nghĩ bàn, ḥng làm “chủ thể cảm vời” (năng cảm), cho nên
Phật dùng thần lực để ứng, khiến cho đại
chúng cho rằng thời gian dài lâu là ngắn ngủi, từ
ngay nơi hẹp mà thấy rộng vậy!
5.1.1.3.2.1.2. Nêu ra thời gian đă trải
qua
(Kinh)
Thị chư
Bồ Tát Ma Ha Tát tùng sơ dũng xuất, dĩ chư Bồ
Tát chủng chủng tán pháp nhi tán ư Phật. Như thị
thời gian kinh ngũ thập tiểu kiếp. Thị thời,
Thích Ca Mâu Ni Phật mặc nhiên nhi tọa, cập chư tứ
chúng diệc giai mặc nhiên.
(經)是諸菩薩摩訶薩。從初涌出。以諸菩薩種種讚法而讚於佛。如是時間。經五十小劫。是時釋迦牟尼佛。默然而坐。及諸四眾。亦皆默然。
(Kinh:
Các vị Bồ Tát ấy từ lúc mới vọt ra, dùng
các cách tán thán của Bồ Tát để tán dương đức Phật,
thời gian như thế trải qua năm mươi tiểu
kiếp. Khi đó, Thích Ca Mâu Ni Phật ngồi yên lặng,
và tứ chúng cũng đều im lặng).
Dùng các cách tán thán để
tán Phật, trải qua năm mươi tiểu kiếp, há
chỉ là trăm ngàn Hằng hà sa kệ? V́ thế biết
Phạn văn (nguyên văn bằng tiếng Phạn của
kinh Pháp Hoa) chất tới tám dặm vẫn chưa đủ
là nhiều!
Hỏi: Phật Thích Ca trụ
thế chỉ tám mươi năm, thuyết pháp bốn mươi
chín năm. Tương truyền Ngài nói kinh Pháp Hoa trong tám năm,
sao lại có năm mươi tiểu kiếp này?
Đáp. Như cái thất vuông
vức một trượng của ngài Duy Ma Cật có thể
chứa ba vạn hai ngàn ṭa sư tử, mỗi ṭa cao tám vạn
bốn ngàn do-tuần[1].
Đă theo chiều ngang luận định lớn nhỏ,
nhỏ có thể chứa đựng lớn, th́ theo chiều
dọc luận định lâu dài hay tạm thời, há tạm
thời chẳng thể dung lâu dài ư?
Hỏi: Nếu là như vậy,
coi kéo dài nửa ngày là năm mươi tiểu kiếp, cớ
sao kinh văn
trong phần sau nói “do thần lực của Phật khiến cho các đại chúng thấy như nửa
ngày”?
Đáp: Chẳng phải là kéo
dài nửa ngày thành năm mươi tiểu kiếp, mà là nạp
năm mươi tiểu kiếp vào nửa ngày. Cũng giống
như từ xa đem ṭa đại sư tử của cơi
[Tu Di] Đăng Vương Phật bỏ vào cái thất vuông vức một
trượng, chẳng biến cái thất vuông vức một
trượng thành ṭa sư tử.
Hỏi: “Thời” (thời
gian) chẳng phải là thật pháp (pháp thật sự tồn
tại), dài và ngắn vốn là Không, cớ sao lại hư luận có “nạp vào”
vậy?
Đáp: Nếu xét theo Chân Đế
th́ lớn, nhỏ, lâu dài, hay tạm thời, thảy đều b́nh
đẳng. Nếu xét theo Tục Đế th́ “lớn, nhỏ,
dài lâu, tạm thời” vẫn tự rành rành! Nếu xét theo
t́nh chấp mê muội, chẳng biết toàn thể Tục
chính là Chân, cho nên khi nói theo Tục th́ lớn vốn tự
lớn, nhỏ sẽ tự nhỏ, lâu dài tự lâu dài, tạm
thời sẽ tự tạm thời, chẳng dung nhiếp
lẫn nhau. Khi nói theo Chân, sẽ một mực quét sạch!
Nếu xét theo chư Phật, Bồ Tát, [các Ngài] đă liễu
đạt “Chân, Tục chẳng hai”, cho nên chẳng phải
chỉ là “một Sự nhiếp hết thảy Lư”, mà
c̣n là “một sự nhiếp
hết thảy các sự”. Do đó, cái thất vuông vức một
trượng chứa đựng ṭa sư tử, ṭa sư
tử chẳng nhỏ, cái thất vuông vức một trượng
chẳng lớn. Như vậy th́ sẽ hiểu nửa ngày
dung nạp năm mươi kiếp, năm mươi kiếp
chẳng rút ngắn, nửa ngày cũng chẳng kéo dài. Lại
nữa, nếu luận theo cảnh giới của Tịch
Quang và Thật Báo, Bồ Tát ở phương dưới
thường đối diện xưng dương, Như
Lai im lặng, thường tiếp nhận sự tán thán ấy,
cho đến tột cùng đời vị lai, chẳng hề
chán mệt, cũng chẳng ngưng nghỉ. Nếu luận
theo cơ duyên của Đồng Cư Uế Độ, ắt
Phật trụ thế tám mươi năm. Nơi mặt
Sự, cần phải xướng “nhập Diệt”,
cho nên khiến cho đại chúng tưởng như nửa
ngày. Nếu luận theo cơ duyên của cơi Phương Tiện
Tịnh Độ, tức là đă phá Kiến Tư trong tam
giới, nhưng chưa phá vô minh Biệt Hoặc, sẽ phải
nên thấy Bồ Tát tán thán trải qua năm mươi kiếp.
Do vậy biết từ ngay Linh Sơn này, theo chiều ngang
luận định bốn cơi, chúng sanh do phước mỏng,
thấy Phật nhập diệt. Đó là tướng trạng
trong cơi Đồng Cư. Năm mươi tiểu kiếp
tán thán Phật, nghiễm nhiên chưa tan, chính là tướng
trạng trong cơi Phương Tiện. Trong A-tăng-kỳ kiếp,
thường tại núi Linh Thứu, “chúng sanh thấy kiếp
tận, cơi này của ta luôn an ổn”. Đó là tướng
trạng trong cơi Thật Báo Tịnh Quang.
Hỏi: Nếu trong cơi Phương
Tiện, Bồ Tát tán thán năm mươi tiểu kiếp,
nay vẫn c̣n chưa giải tán, vậy th́ mười ba phẩm
kinh sau phẩm này do đâu mà có?
Đáp: Thần lực của
Phật chẳng thể nghĩ bàn, v́ kẻ này thị hiện
dài, v́ kẻ kia mà thị hiện ngắn. Ba đời nhập
vào lẫn nhau, cũng chẳng có nơi chốn. Như người
hành hạnh An Lạc nằm mộng c̣n có thể trải qua
ngàn vạn ức kiếp, há chẳng thể thâu nhiếp
chuyện vị lai vào trong hiện tại, ngơ hầu chúng sanh
trong cơi này sẽ được hưởng lợi ích do lưu
thông [kinh Pháp Hoa] sau khi đức Phật đă diệt độ
ư?
15.1.1.3.2.1.3. Thần lực của Phật
gia tŕ
(Kinh)
Ngũ thập tiểu
kiếp, Phật thần lực cố, linh chư đại
chúng vị như bán nhật. Nhĩ thời, tứ chúng diệc
dĩ Phật thần lực cố, kiến chư Bồ
Tát biến măn vô lượng bách thiên vạn ức quốc
độ hư không.
(經)五十小劫。佛神力故。令諸大眾謂如半日。爾時四眾。亦以佛神力故。見諸菩薩徧滿無量百千萬億國土虛空。
(Kinh:
Do thần lực của
Phật khiến cho các đại chúng nghĩ năm
mươi tiểu kiếp giống như nửa ngày. Lúc bấy
giờ, tứ chúng cũng do thần lực của Phật,
thấy các Bồ Tát trọn khắp hư không của vô
lượng trăm ngàn vạn ức quốc độ).
Nếu xét theo Chân Đế th́ thời
kiếp vốn là Không. Nay xét theo Tục Đế, năm
mươi tiểu kiếp là thật. V́ thế, người
đă phá vô minh biết là năm mươi tiểu kiếp;
kẻ chưa phá vô minh chẳng kham nổi lâu dài, do thần lực của Phật, khiến
cho họ nghĩ là như nửa ngày, chẳng sanh tâm mệt
mỏi. Lại nữa, chư Phật Bồ Tát trọn khắp
hư không trong vô lượng quốc độ, há chỉ
nhục nhăn chẳng thể thấy xa xôi cùng tột, ngay
như thiên nhăn c̣n chẳng thể nh́n trọn! Nhưng nay tứ
chúng do thần lực của Phật, bèn có thể thấy
trọn khắp. Hăy nên biết là dài mà nói là ngắn do bởi mê t́nh (t́nh kiến mê muội)
chưa trừ. Tuy hẹp mà thấy là rộng, chính
v́ căn cơ mầu nhiệm
phát khởi. Hơn nữa, là dài mà nói là ngắn, mang ư
nghĩa biểu thị “Bổn bị Tích ẩn lấp”.
Tích cần phải phơi bày, cho nên tuy hẹp mà thấy là
rộng, mang ư nghĩa biểu thị “Tích chứa đựng
trong Bổn”. Bổn cần phải được
hiển lộ.
Lại nữa, nh́n theo Phật nhăn th́ dài và
ngắn b́nh đẳng, rộng và hẹp b́nh đẳng.
Theo Lư th́ chẳng phải Bổn, chẳng phải Tích. Nh́n
bằng bốn loại mắt kia (nhục nhăn, thiên nhăn,
pháp nhăn, huệ nhăn) th́ người đă hiểu sẽ thấy
dài, thấy rộng, đúng như thật mà biết viễn
Bổn. Kẻ mê hoặc sẽ thấy ngắn, thấy hẹp,
bèn chấp cận Tích. Nay do mê đối với dài mà nói là
ngắn, cũng nói là “do Phật thần lực”, nhằm
hiển thị “Phật có thể tùy thuận t́nh kiến
[của chúng sanh]”. Ngay như do hẹp mà thấy rộng, vẫn
nói là “do thần lực của Phật”, nhằm hiển thị “Phật có thể phá t́nh kiến”.
Hơn nữa, chưa bàn tới thọ lượng, dẫu
dài mà khiến cho thấy là ngắn, [các vị Bồ
Tát] từ phương dưới đă vọt lên. V́ thế,
tuy hẹp mà khiến cho thấy là rộng. Thấy mưa to biết là rồng to. Thấy
hoa [sen] sum suê, biết là ao sâu. Thấy “cái được
biến hóa” (sở hóa) nhiều ngần ấy, ắt biết
“cái có thể biến hóa” (năng hóa) lâu xa rất lớn.
Đă khai hiển, há đại chúng mê hoặc măi? V́ thế,
trong phẩm Như Lai Thần Lực thuộc phần sau,
[các đức Như Lai hiện tướng thần biến]
trọn trăm ngàn năm, sau đấy mới thâu nhiếp
tướng lưỡi, chẳng c̣n nói “cho là như nửa
ngày”. Phần thứ nhất, “tam nghiệp cúng dường”
đă xong.
15.1.1.3.2.2.
Trần thuật lời thăm hỏi
(Kinh)
Thị Bồ Tát chúng
trung, hữu tứ đạo sư: Nhất danh Thượng
Hạnh, nhị danh Vô Biên Hạnh, tam danh Tịnh Hạnh,
tứ danh An Lập Hạnh. Thị tứ Bồ Tát ư kỳ
chúng trung, tối vi thượng thủ xướng đạo
chi sư. Tại đại chúng tiền, các cộng hiệp
chưởng, quán Thích Ca Mâu Ni Phật, nhi vấn tấn
ngôn: “Thế Tôn! Thiểu bệnh, thiểu năo, an lạc hạnh
phủ? Sở ưng độ giả, thọ giáo dị
phủ? Bất linh Thế Tôn sanh b́ lao da?” Nhĩ thời, tứ
đại Bồ Tát nhi thuyết kệ ngôn: “Thế Tôn an lạc,
thiểu bệnh, thiểu năo, giáo hóa chúng sanh, đắc vô
b́ quyện. Hựu chư chúng sanh, thọ hóa dị phủ?
Bất linh Thế Tôn, sanh b́ lao da?” (經)是菩薩眾中。有四導師。一名上行。二名無邊行。三名淨行。四名安立行。是四菩薩。於其眾中。最為上首唱導之師。在大眾前。各共合掌。觀釋迦牟尼佛而問訊言。世尊。少病少惱。安樂行不。所應度者。受教易不。不令世尊生疲勞耶。爾時四大菩薩而說偈言。世尊安樂。少病少惱。教化眾生。得無疲倦。又諸眾生。受化易不。不令世尊。生疲勞耶。
(Kinh: Trong các vị
Bồ Tát ấy, có bốn vị đạo sư, một là
Thượng Hạnh (Viśiṣṭacāritra), hai là Vô
Biên Hạnh (Anantacāritra), ba là Tịnh Hạnh (Viśuddha
-cāritra), bốn là An Lập Hạnh (Supratiṣṭhitacāritra)[2]. Bốn vị Bồ Tát ấy là bậc
thầy xướng suất, hướng dẫn thượng
thủ cao tột nhất trong các vị ấy. Các Ngài ở
trước đại chúng, đều cùng chắp tay nh́n
Thích Ca Mâu Ni Phật mà thưa hỏi rằng: “Bạch Thế
Tôn! Ngài ít bệnh, ít phiền năo, có an vui hay chăng?[3]
Những kẻ đáng được hóa độ có tiếp
nhận giáo hóa dễ dàng hay không, chẳng khiến
cho đức Thế Tôn sanh mệt nhọc hay chăng?” Lúc
bấy giờ, bốn vị đại Bồ Tát bèn nói kệ
rằng: “Thế Tôn được an lạc, ít bệnh, ít
phiền năo, Ngài giáo hóa chúng sanh, có chẳng mệt nhọc
chăng? Lại nữa, các chúng sanh, có dễ nghe dạy
chăng? Chẳng khiến cho Thế Tôn, sanh mệt nhọc
đó chăng?”)
Đầu tiên, nêu ra bốn vị đạo
sư, v́ muốn [khiến cho người nghe kinh sẽ
được] khai thị ngộ nhập bốn
mươi địa vị [Bồ Tát trong Viên Giáo]. Như
trong kinh Hoa Nghiêm, chỉ nêu ra Pháp Huệ, Công Đức
Lâm, Kim Cang Tràng, Kim Cang Tạng [lần lượt nói] bốn
mươi địa vị[4].
Tên của bốn vị ấy (bốn vị thượng
thủ Bồ Tát trong phẩm này) đều có chữ Hạnh,
tức là thành tựu An Lạc Hạnh. Thượng Hạnh
là khai tri kiến của Phật, vượt khỏi chín
pháp giới. Vô Biên Hạnh là “thị Phật tri kiến”
(chỉ bày tri kiến của Phật). Một hạnh chính
là hết thảy các hạnh. Tịnh Hạnh là ngộ Phật
tri kiến, Lư và Sự dung hội mầu nhiệm. An Lập
Hạnh là “nhập Phật tri kiến”, tự an, an
người khác, giống như đại địa.
Trong lời thưa hỏi bao gồm phần
Trường Hàng (văn xuôi) và trùng tụng, mỗi phần
đều có hai ư: Một là hỏi Như Lai an lạc, hai
là hỏi chúng sanh dễ độ [hay không]? “An lạc” chính là tự hành, “dễ
độ” chính là hóa độ người khác; nói chung chẳng
ra ngoài ba thứ “áo, nhà, ṭa” [của Như Lai]. Ba thứ
“áo, ṭa, nhà” chính là An Lạc Hạnh. Phẩm trước
dùng [ba điều ấy] để đốc thúc bậc
Bồ Tát mới hành. Nay [các vị Bồ Tát từ dưới
đất] vọt lên hỏi Phật, cũng chẳng qua là
nói an lạc hạnh hay không mà thôi! V́ thế biết: Viên Hạnh
từ đầu đến cuối có cùng một lư, Phật
là an lạc hạnh rốt ráo, Bồ Tát là phần chứng
an lạc hạnh. Phẩm trước nói về quán hạnh
An Lạc Hạnh, cho đến hết thảy chúng sanh
không ǵ chẳng phải là “lư tức An Lạc Hạnh”.
15.1.1.3.2.3. Đức Phật trả
lời an lạc
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế
Tôn ư Bồ Tát đại chúng trung, nhi tác thị ngôn: -
Như thị, như thị! Chư thiện nam tử!
Như Lai an lạc, thiểu bệnh, thiểu năo! Chư
chúng sanh đẳng dị khả hóa độ, vô hữu
b́ lao. Sở dĩ giả hà? Thị chư chúng sanh thế
thế dĩ lai, thường thọ ngă hóa, diệc ư
quá khứ chư Phật cung kính, tôn trọng, chủng chư
thiện căn. Thử chư chúng sanh thỉ kiến ngă
thân, văn ngă sở thuyết, tức giai tín thọ, nhập
Như Lai huệ, trừ tiên tu tập học Tiểu Thừa
giả. Như thị chi nhân, ngă kim diệc linh đắc
văn thị kinh, nhập ư Phật huệ.
(經)爾時世尊。於菩薩大眾中而作是言。如是如是。諸善男子。如來安樂。少病少惱。諸眾生等。易可化度。無有疲勞。所以者何。是諸眾生。世世已來。常受我化。亦於過去諸佛恭敬尊重。種諸善根。此諸眾生。始見我身。聞我所說。即皆信受。入如來慧。除先修習學小乘者。如是之人。我今亦令得聞是經。入於佛慧。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ở trong đại chúng
Bồ Tát mà nói như thế này: - Đúng như vậy,
đúng như thế. Này các thiện nam tử! Như Lai an
lạc, ít bệnh, ít năo. Các hàng chúng sanh dễ hóa độ,
chẳng mệt nhọc. V́ sao vậy? Các chúng sanh ấy từ
nhiều đời đến nay thường được
ta giáo hóa, và cũng cung kính, tôn trọng quá khứ chư Phật,
gieo các thiện căn. Các chúng sanh ấy vừa mới thấy
thân ta, nghe ta nói pháp, liền đều tin nhận, nhập
Như Lai huệ, trừ những kẻ trước đó
đă tu tập, học pháp Tiểu Thừa. Đối với
kẻ như thế, ta nay cũng khiến cho họ
được nghe kinh này, nhập vào trí huệ của Phật).
Đức
Phật đáp “an lạc,
dễ độ” là do hai chuyện thành tựu lẫn
nhau: Do an lạc nên dễ độ; do dễ độ cho
nên an lạc. Từ “sở dĩ giả hà” (v́ cớ
sao vậy) trở đi, giải thích nguyên do “dễ
độ”: Do các chúng sanh đời đời
được giáo hóa, nhưng có hai loại:
- Một là kẻ đă gieo các căn lành, vừa
mới thấy thân ta, nghe nói Hoa Nghiêm liền đều tin
nhận, nhập trí huệ của Như Lai, hoặc nghe
Phương Đẳng, Bát Nhă cũng nhập Phật huệ.
- Hai là người trước đó đă
tu tập Tiểu Thừa, sẽ dần dần được
điều phục. Cho tới thời Pháp Hoa, cũng khiến
cho họ nghe kinh, được nhập Phật huệ
(Đối với Phương Đẳng và Bát Nhă, hàng Tiểu
Thừa cũng có người ngầm nhập, nhưng chẳng nêu tỏ,
cho nên ở đây chẳng nhắc tới). Do vậy biết Hoa Nghiêm,
Phương Đẳng, Bát Nhă, Pháp Hoa, Phật huệ chẳng
khác, chớ nên thấy có ưu việt hay kém cỏi. Thế
nhưng, Phật huệ tuy đồng, giáo tướng sai
khác đôi chút. Lại đối chiếu theo Hoa Nghiêm và
Pháp Hoa để biện định, nêu ra đại
lược mười điều khác biệt:
1. Thứ nhất, “thỉ kiến, kim kiến”.
Lúc mới thành đạo trong thời Hoa Nghiêm th́ gọi là
“thỉ kiến”. Thời Pháp Hoa lâu sau mới nói Thật,
v́ thế gọi là “kim kiến”. Thỉ kiến và kim
kiến, Phật huệ chẳng khác.
2. Thứ hai, “khai hợp” và “bất khai hợp”:
Thời Hoa Nghiêm như mặt trời chiếu tới núi
cao, nói ngay vào Đốn, cho nên chẳng cần khai hợp
(tách ra hay gộp lại). V́ kẻ chẳng nhập, liền
khai Đốn nói Tiệm, lần lượt điều
phục, khiến cho họ dần dần trở về
Đốn. V́ thế, Pháp Hoa là “đă khai bèn hợp” (trước thời
Pháp Hoa, khai tam thừa. Đến thời Pháp Hoa, gộp
chung tam thừa thành Nhất Thừa). Khai và hợp tuy khác,
nhưng hai thứ Đốn chẳng khác.
3. Thứ ba, “ngang, dọc, cặn kẽ,
sơ lược”: Hoa Nghiêm nhanh chóng, thẳng thừng, tiến
nhập theo chiều dọc để nhập pháp giới.
V́ thế nói là “thụ quảng” (theo chiều dọc
th́ nói rộng, tức nói chi tiết). Do chẳng cần trải qua
phương tiện, cho nên nói là “hoành lược”
(theo chiều ngang th́ đại lược). Pháp Hoa trải
đủ năm vị (sữa, lạc, sanh tô, thục tô,
đề hồ) tức là “hoành quảng” (theo chiều
ngang th́ nói rộng). Được nhập Phật huệ
cũng là “thụ quảng”. Nhưng đă nhập pháp
giới, sẽ tự thông đạt hết thảy các
phương tiện; [v́ thế] hai kinh chẳng khác nhau!
4. Thứ tư, “Bổn và Tích bất đồng”:
Hoa Nghiêm coi đức Tỳ Lô Giá Na Phật là Bổn, trăm ngàn ức Thích Ca là Tích. Pháp Hoa th́
coi thành Phật đă lâu là Bổn, [đức Thích Ca thị
hiện thành Phật] nơi Tịch Diệt đạo
tràng là Tích. Như vậy Bổn trong Hoa Nghiêm chỉ là Tích
của Pháp Hoa. Lại nữa, Hoa Nghiêm tuy nói “thấy
Như Lai vừa mới thành đạo”, hoặc “thấy
Như Lai thành đạo đă vô lượng kiếp”,
cũng có ư nghĩa ngầm hiển lộ Bổn, nhưng
chưa nói rơ ràng, rành rẽ “Phật đă thành đạo
lâu xa dường ấy”. Đấy là chẳng phải Bổn,
chẳng phải Tích, pháp giới có cùng một Lư. Bổn
đă lâu, Tích th́ gần; chuyện được ẩn và
hiển khác biệt.
5. Thứ năm, “được gia bị
để nói” và “chẳng gia bị để nói”: Trong kinh
Hoa Nghiêm, chỉ có phẩm A Tăng Kỳ và [Như Lai] Tùy
Hảo [Quang Minh] do đức Phật tự nói, các phẩm
khác đều do các vị Bồ Tát được Phật gia bị mà nói. Pháp Hoa th́ tam châu của
Tích Môn và Thọ Lượng của Bổn Môn hoàn toàn do
đức Phật tự nói. Tuy là gia bị [hàng Bồ Tát]
nói hay tự nói, lư thường b́nh đẳng, nhưng hóa
nghi (phương cách giáo hóa) sai khác.
6. Thứ sáu, “biến đổi cơi nước”
hay “chẳng biến đổi”: Hoa Nghiêm th́ ngay từ uế
mà tịnh, biểu thị đại đạo viên măn, trực
tiếp, cho nên chẳng cần biến đổi [cơi
nước]. Pháp Hoa chuyển uế thành tịnh, biểu
thị hội Quyền về Thật, cho nên cần phải
ba lượt biến đổi. Dù biến đổi hay
chẳng biến đổi, Tịnh Độ chẳng hủy,
cho nên chẳng khác!
7. Thứ bảy, nhiều chỗ hay không nhiều
chỗ: Kinh Hoa Nghiêm gồm bảy xứ chín hội, tức
là có nhiều chỗ. Pháp Hoa th́ [chỉ nói tại] Linh Thứu
và trong hư không, cho nên chẳng có nhiều chỗ. Chỗ
tuy nhiều hay ít, nhưng lư thường b́nh đẳng.
8. Thứ tám, “quở trách, phủ định” hay “không quở strách, phủ định”: Trong hội
đầu của Hoa Nghiêm hoàn toàn chẳng có Thanh Văn,
cho nên chẳng quở trách, phủ định. Pháp Hoa chính
v́ nhằm phá chấp trước Tiểu Thừa, cho nên có
quở trách, phủ định. Hơn nữa, trong phẩm
Nhập Pháp Giới [của kinh Hoa Nghiêm], hàng Nhị Thừa như điếc, như câm, cho
nên có quở trách, phủ định. Pháp Hoa thọ kư [mọi
căn cơ] đều thành Phật, cho nên chẳng có quở
trách, phủ định! Hoa Nghiêm chỉ tiếp độ hai
loại căn cơ ngoài tam giới, như chữa hai thứ
bệnh nặng và bệnh nhẹ chẳng
chết, c̣n dễ đạt được công lao. Pháp Hoa
có thể trị định tánh Thanh Văn, giống
như khiến cho hạt giống hư nát lại nẩy
mầm, đạt được công lao càng lạ lùng!
9. Thứ chín, “trực
hiển và khai hiển”: Hoa Nghiêm hạnh to lớn,
đường lối trực tiếp, được gọi
là “trực hiển Thật”. Pháp Hoa th́ phủ quyết pháp
Thanh Văn, gọi là “khai Quyền hiển Thật”.
Cái Thật được hiển lộ ấy rốt cuộc
bất nhị.
10. Thứ mười, “lợi
căn và độn căn”: Kẻ lợi
căn ngộ ngay trong thời Hoa Nghiêm. Kẻ độn
căn th́ đến thời Pháp Hoa mới ngộ. Lợi
độn tuy khác, ngộ lư là một! Có thể khiến
cho kẻ độn căn giải ngộ, công càng khó gấp
bội!
Xét theo lẽ thích nghi khác nhau, đại
lược th́ có mười loại khác nhau, nhưng Chủng
Trí pháp giới b́nh đẳng chẳng sai biệt. V́ thế
nói: “Thỉ kiến ngă thân, văn ngă sở thuyết, tức
giai tín thọ, nhập Như Lai huệ. Trừ tiên tu tập
học Tiểu Thừa giả, ngă kim diệc linh đắc
văn thị kinh, nhập ư Phật huệ” (vừa
mới thấy thân ta, nghe lời ta nói, đều liền
tin nhận, nhập vào trí huệ của Phật. Trừ những
kẻ trước đó đă tu tập, học pháp Tiểu
Thừa, nay ta cũng khiến cho họ được nghe
kinh này, nhập trí huệ của Phật). Kinh văn đă
nói rơ ràng tại đó, chẳng cần nghi nữa! Các vị
sư (các vị chú giải
hoặc giảng sư thuở trước) do thấy duyên khác
nhau, bèn chạy theo duyên mà hiểu sai khác,
mê muội chẳng biết phản tỉnh, cách đạo
ngày càng xa! Nếu hiểu Lư giống hệt như nhau,
ngàn cỗ xe sẽ đi cùng một
lối, Phật huệ chẳng khác biệt. Nhưng Hoa
Nghiêm nói kèm thêm Biệt Giáo để giảng về Phật
huệ. Phương Đẳng th́ đối ứng với
tam thừa để giảng Phật huệ. Bát Nhă th́ nói
kèm thêm Nhị Thừa để giảng Phật huệ. Chỉ có
Pháp Hoa vạch rơ những pháp nói kèm thêm, nói đối ứng,
nói phụ thêm, cho đến Tam Tạng chỉ là
pháp sanh diệt, nhưng đều thành Phật huệ. Do
vậy, viên lư được diễn nói trong pháp này hay các pháp kia chẳng khác. Tuy
giáo pháp có thể diễn nói thuần hay tạp sai khác,
nhưng đều đặc biệt được gọi
là Diệu, v́ [các pháp ấy] chẳng hư huyễn vậy.
Cổ nhân nói: “Hoa Nghiêm liễu nghĩa măn tự thường
trụ. Pháp Hoa bất liễu nghĩa chẳng măn, chẳng
thường”. Nay sử dụng câu ấy để cùng
nói th́ “nhập từ thuở đầu” là liễu
nghĩa, “cho đến nay mới nhập” là bất liễu
nghĩa, cũng phải
nên là “nhập từ ban đầu là Phật huệ, nay mới
nhập sẽ chẳng phải là Phật huệ”. Nếu
Phật huệ đă là như nhau, th́ liễu nghĩa [và bất
liễu nghĩa] cũng b́nh đẳng. Măn và thường
cũng thế. Lại nữa, các vị bên Địa Luận
Tông cho rằng “Hoa Nghiêm là viên tông, Pháp Hoa chẳng phải
là chân tông”, nay cũng dùng đoạn kinh văn này để
xóa trừ sự chấp trước ấy!
15.1.1.3.2.4. Kệ tụng tùy hỷ
(Kinh)
Nhĩ thời, chư đại Bồ Tát nhi thuyết kệ
ngôn: - Thiện tai, thiện tai! Đại hùng Thế Tôn,
chư chúng sanh đẳng, dị khả hóa độ,
năng vấn chư Phật, thậm thâm trí huệ,
văn dĩ tín hành, ngă đẳng tùy hỷ.
(經)爾時諸大菩薩而說偈言。善哉善哉。大雄世尊。諸眾生等。易可化度。能問諸佛。甚深智慧。聞已信行。我等隨喜。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, các vị đại Bồ Tát bèn nói kệ
rằng: - Lành thay, lành thay! Đại hùng Thế Tôn, các hàng
chúng sanh, dễ được hóa độ, hay hỏi
chư Phật, trí huệ rất sâu, nghe rồi tin, hành.
Chúng con tùy hỷ).
“Có thể hỏi” là
như trong kinh Hoa Nghiêm, Phương Đẳng, Bát Nhă,
đều có bậc Bồ Tát đương cơ hỏi
pháp. Cho đến kinh Pháp Hoa, ngài Thân Tử (Xá Lợi Phất) ba lượt thỉnh, đều
là “có thể hỏi”. Điều được hỏi
chính là trí huệ rất sâu, đó gọi là Như Lai huệ!
15.1.1.3.2.5. Như Lai trần thuật,
tán thán
(Kinh)
Ư thời, Thế Tôn tán thán thượng
thủ chư đại Bồ Tát: - Thiện tai! Thiện
tai! Thiện nam tử! Nhữ đẳng năng ư
Như Lai phát tùy hỷ tâm.
(經)於時世尊。讚歎上首諸大菩薩。善哉善哉。善男子。汝等能於如來發隨喜心。
(Kinh:
Ngay khi đó, đức Thế Tôn tán thán các vị
đại Bồ Tát thượng thủ: - Lành thay! Lành
thay! Này thiện nam tử! Các ông có thể phát tâm tùy hỷ
đối với Như Lai).
Bồ Tát tùy hỷ người
có thể hỏi, có thể tin. Đức Phật bèn tán
thán các vị ấy có thể phát tâm tùy hỷ đối với
Như Lai, ngụ ư nêu rơ: Những người có thể hỏi
đều là bậc cổ Phật thị hiện dấu
tích, cho nên Bồ Tát tùy hỷ sự rủ ḷng thị hiện
ấy. Như Lai trần thuật, tán thán Bổn của họ,
cũng ngầm hiển lộ thọ lượng. Phần
thứ nhất, tức “Tự phần trần thuật
chuyện từ dưới đất vọt lên” đă
xong.
15.1.2. Tự phần: Nghi vấn
15.1.2.1. Bồ Tát trong cơi này nghi vấn
15.1.2.1.1. Phần Trường Hàng trần
thuật nghi niệm
(Kinh)
Nhĩ
thời, Di Lặc Bồ Tát cập bát thiên Hằng hà sa
chư Bồ Tát chúng, giai tác thị niệm: “Ngă đẳng
tùng tích dĩ lai, bất kiến, bất văn như thị
đại Bồ Tát Ma Ha Tát chúng tùng địa dũng xuất,
trụ Thế Tôn tiền, hiệp chưởng, cúng dường,
vấn tấn Như Lai”.
(經)爾時彌勒菩薩。及八千恒河沙諸菩薩眾。皆作是念。我等從昔已來。不見不聞如是大菩薩摩訶薩眾。從地涌出。住世尊前。合掌供養問訊如來。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Di Lặc Bồ Tát và các vị Bồ
Tát nhiều như số cát trong tám ngàn sông Hằng đều
nghĩ như thế này: “Từ trước đến
nay, chúng ta chẳng thấy, chẳng nghe các vị đại
Bồ Tát Ma Ha Tát như thế từ dưới đất
vọt lên, ở trước đức Thế Tôn, chắp
tay cúng dường, thưa hỏi Như Lai”).
“Di Lặc và các vị
Bồ Tát đều nẩy sanh nghi niệm” có bốn ư
nghĩa:
- Một, kể từ sau Tịch
Diệt đạo tràng cho đến trước pháp ṭa
này, mười phương đại sĩ đến dự
hội [thuyết pháp của đức Phật] chẳng dứt.
Tuy chẳng thể nói rơ ngằn hạn, nhưng con dùng trí
lực của bậc Bổ Xứ đều biết,
đều thấy, cớ sao đối với các vị
này, chẳng biết một vị nào? Lại nữa, con du
hóa mười phương, phụng sự, thân cận
chư Phật. Đối với hết thảy các hải hội đều
am hiểu. Ngay như đối với chỗ đă từng
trải của họ, cũng chẳng biết dù đến
hay đi, dù t́m cầu vẫn chẳng biết. Chẳng biết
th́ sẽ không có Thế Giới Ích. Cho nên cần phải
nghi hoặc, hỏi han.
- Hai, các vị đại
sĩ đó là bậc tiền bối liễu đạt,
ngài Di Lặc là mạt học thuộc lớp sau. Lớp
sau chẳng biết lớp trước, chẳng hạn
như ngài Văn Thù chẳng biết cảnh giới của nữ nhân nhập Định. Nữ
nhân chẳng biết cảnh giới của Khí Chư Ấm
Cái Bồ Tát (Sarvanīvaraṇaviṣkaṃbhin)[5]. Do chẳng
biết, sẽ chẳng hiểu sự nội thiện của
họ. Do tự thiện chẳng sanh, sẽ chẳng có Vị
Nhân Ích. V́ thế, cần phải nghi hoặc, hỏi han.
- Ba, các vị đại
sĩ ấy vốn do căn bản Thật Tướng, ứng
hiện trong mười phương, giáo hóa riêng biệt. Tất
cả chân ứng đều chẳng phải là cảnh giới
của ngài Di Lặc. Đă chẳng biết đạo “lợi vật” (lợi lạc chúng sanh) của họ,
tức là chẳng biết bệnh, sẽ chẳng có Đối
Trị Ích. V́ thế, cần phải nghi hoặc, hỏi
han.
- Bốn, đức Phật
phó thác chuyện hoằng kinh, triệu tập các vị
đại sĩ. Các vị đại sĩ tuân phụng
nghiêm mạng của thầy nên tới nhóm họp, ngầm
khai thọ lượng. Đại
chúng trong hội khi ấy chẳng thể biết
được [điều đó]. Đă không biết ư chỉ
bí mật của Như Lai, sẽ chẳng có Đệ Nhất
Nghĩa Ích. Cho nên cần phải nghi hoặc, thưa hỏi.
Nhưng ngài Di Lặc nơi
Tích thuộc địa vị Bổ Xứ, Bổn cũng
phải nên sâu, sao lại chẳng biết như thế?
Điều này có hai ư nghĩa:
- Nếu dựa theo Thật
để luận định, Ngài mới thành Bổ Xứ
gần đây, sẽ chẳng biết Bổn lâu xa.
- Nếu dựa theo Quyền
để luận định th́ Bổn cao, Tích thấp,
Ngài v́ chúng sanh mà nêu lên nghi hoặc vậy!
15.1.2.1.2. Kệ tụng nêu lên thắc
mắc
15.1.2.1.2.1. Thắc mắc [các vị
Bồ Tát ấy] từ đâu đến, do duyên nào mà đến
(Kinh)
Thời Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát tri bát
thiên Hằng hà sa chư Bồ Tát đẳng tâm chi sở
niệm, tịnh dục tự quyết sở nghi, hiệp
chưởng hướng Phật, dĩ kệ vấn viết:
- Vô lượng thiên vạn ức, đại chúng chư Bồ
Tát, tích sở vị tằng kiến, nguyện Lưỡng
Túc Tôn thuyết. Thị tùng hà sở lai? Dĩ hà nhân duyên tập?
Cự thân, đại thần thông, trí huệ phả tư
nghị. Kỳ chí niệm kiên cố, hữu đại nhẫn
nhục lực. Chúng sanh sở nhạo kiến, vị tùng
hà sở lai?
(經)時彌勒菩薩摩訶薩。知八千恒河沙諸菩薩等心之所念。幷欲自決所疑。合掌向佛。以偈問曰。無量千萬億。大眾諸菩薩。昔所未曾見。願兩足尊說。是從何所來。以何因緣集。巨身大神通。智慧叵思議。其志念堅固。有大忍辱力。眾生所樂見。為從何所來。
(Kinh:
Khi đó, Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát biết tâm niệm
của các vị Bồ Tát nhiều như số cát trong tám
ngàn sông Hằng, và mong giải quyết điều nghi của
chính ḿnh, chắp tay hướng về đức Phật,
dùng kệ hỏi rằng: - Vô lượng ngàn vạn ức,
đại chúng các Bồ Tát, xưa kia chưa từng thấy.
Nguyện Lưỡng Túc Tôn nói, họ từ đâu mà đến,
nhân duyên nào nhóm họp? Thân to, thần thông lớn, trí huệ
chẳng nghĩ bàn. Chí niệm họ kiên cố, có sức
đại nhẫn nhục, chúng sanh ưa thích thấy, từ
chỗ nào mà đến?)
Một là hỏi họ từ
nơi nào đến? Hai là hỏi do nhân duyên ǵ mà đến?
“Cự thân, đại thần thông” (thân to, thần
thông lớn): Tán thán đă “vào nhà Như Lai”. “Trí huệ phả
tư nghị” (trí huệ chẳng nghĩ bàn): Tán thán “đă
ngồi ṭa của Như Lai”. “Kỳ chí niệm kiên cố,
hữu đại nhẫn nhục lực” (chí niệm họ
kiên cố, có sức đại nhẫn nhục): Tán thán mặc
áo Như Lai. Ba điều ấy đều là tự hành
đức. “Chúng sanh sở nhạo kiến” (chúng sanh
ưa thích thấy) là tán thán hóa tha đức (phẩm đức
giáo hóa người khác).
15.1.2.1.2.2. Trần thuật số lượng
quyến thuộc
(Kinh)
Nhất
nhất chư Bồ Tát, sở tương chư quyến
thuộc. Kỳ số vô hữu lượng. Như Hằng
hà sa đẳng. Hoặc hữu đại Bồ Tát,
tương lục vạn Hằng sa. Như thị chư
đại chúng, nhất tâm cầu Phật đạo. Thị
chư đại sư đẳng, lục vạn Hằng
hà sa, câu lai cúng dường Phật, cập hộ tŕ thị
kinh. Tương ngũ vạn Hằng sa. Kỳ số quá
ư thị. Tứ vạn cập tam vạn, nhị vạn
chí nhất vạn. Nhất thiên, nhất bách đẳng,
năi chí nhất Hằng sa. Bán cập tam tứ phần. Ức
vạn phần chi nhất. Thiên vạn na-do-tha, vạn ức
chư đệ tử, năi chí ư bán ức, kỳ số
phục quá thượng. Bách vạn chí nhất vạn, nhất
thiên cập nhất bách, ngũ thập dữ nhất thập,
năi chí tam, nhị, nhất. Đơn kỷ vô quyến thuộc,
nhạo ư độc xử giả, câu lai chí Phật sở.
Kỳ số chuyển quá thượng. Như thị
chư đại chúng, nhược nhân hành trù số, quá
ư Hằng sa kiếp, do bất năng tận tri.
(經)一一諸菩薩。所將諸眷屬。其數無有量。如恒河沙等。或有大菩薩。將六萬恒沙。如是諸大眾。一心求佛道。是諸大師等。六萬恒河沙。俱來供養佛。及護持是經。將五萬恒沙。其數過於是。四萬及三萬。二萬至一萬。一千一百等。乃至一恒沙。半及三四分。億萬分之一。千萬那由他。萬億諸弟子。乃至於半億。其數復過上。百萬至一萬。一千及一百。五十與一十。乃至三二一。單己無眷屬。樂於獨處者。俱來至佛所。其數轉過上。如是諸大眾。若人行籌數。過於恒沙劫。猶不能盡知。
(Kinh:
Mỗi mỗi vị Bồ Tát, dẫn theo các quyến thuộc,
số ấy chẳng hạn lượng, nhiều như
cát sông Hằng. Hoặc có đại Bồ Tát, dẫn
sáu vạn Hằng sa. Các
đại chúng như thế, nhất tâm cầu Phật
đạo. Các vị đại sư thảy, sáu vạn Hằng
hà sa, đều tới cúng dường Phật, và hộ
tŕ kinh này. Dẫn năm vạn Hằng sa, số ấy nhiều
hơn thế. Bốn vạn và ba vạn, hai vạn tới
một vạn, một ngàn, một trăm thảy, cho đến
một Hằng sa, nửa và ba bốn phần, một phần
của ức vạn. Ngàn vạn na-do-tha. Vạn ức các
đệ tử, cho đến chỉ nửa ức. Số
ấy lại hơn thế, trăm vạn đến một
vạn, một ngàn và một trăm, năm mươi và
mười người, cho đến ba, hai, một,
đơn độc không quyến thuộc, người
thích ở một ḿnh, đều đến chỗ đức
Phật. Số ấy nhiều
hơn thế. Các đại chúng như vậy, nếu
người phát thẻ đếm, hơn một Hằng
sa kiếp, vẫn chẳng thể biết trọn).
15.1.2.1.2.3. Hỏi họ đă học
pháp với vị thầy nào
(Kinh)
Thị
chư đại oai đức, tinh tấn Bồ Tát chúng,
thùy vị kỳ thuyết pháp, giáo hóa nhi thành tựu? Tùng thùy
sơ phát tâm? Xưng dương hà Phật pháp? Thọ tŕ hành
thùy kinh? Tu tập hà Phật đạo?
(經)是諸大威德。精進菩薩眾。誰為其說法。教化而成就。從誰初發心。稱揚何佛法。受持行誰經。修習何佛道。
(Kinh:
Các vị đại oai đức, tinh tấn Bồ Tát
ấy, ai v́ họ thuyết pháp? Giáo hóa mà thành tựu?
Từ ai sơ phát tâm? Xưng dương Phật pháp ǵ? Thọ
tŕ, hành kinh ǵ? Tu tập Phật đạo nào?)
15.1.2.1.2.4. Kết lại lời thỉnh
giải quyết mối nghi
15.1.2.1.2.4.1. Kết lại lời tán
thán
(Kinh)
Như
thị chư Bồ Tát, thần thông đại trí lực.
(經)如是諸菩薩。神通大智力。
(Kinh:
Các Bồ Tát như thế, sức thần thông, đại trí).
15.1.2.1.2.4.2. Xin giải đáp họ
từ chỗ nào đến
(Kinh)
Tứ
phương địa chấn liệt, giai tùng trung
dũng xuất. Thế Tôn, ngă tích lai, vị tằng kiến
thị sự. Nguyện thuyết kỳ sở tùng, quốc
độ chi danh hiệu. Ngă thường du chư quốc,
vị tằng kiến thị chúng. Ngă ư thử chúng
trung, năi bất thức nhất nhân.
(經)四方地振裂。皆從中涌出。世尊我昔來。未曾見是事。願說其所從。國土之名號。我常遊諸國。未曾見是眾。我於此眾中。乃不識一人。
(Kinh:
Bốn phương đất rúng nứt, đều từ
đó vọt ra. Thế Tôn, con xưa nay, chưa từng thấy
chuyện này! Mong nói từ đâu đến, danh hiệu của
cơi nước. Con thường dạo các nước, chưa
từng thấy bọn họ. Trong số các người ấy, con chẳng biết
một ai!)
15.1.2.1.2.4. Xin giải đáp do duyên ǵ
họ [nhóm đến]
(Kinh)
Hốt nhiên tùng địa xuất, nguyện thuyết kỳ
nhân duyên.
(經)忽然從地出。願說其因緣。
(Kinh:
Bỗng dưng từ đất ra, nguyện nói nhân
duyên ấy).
15.1.2.1.2.4. Nêu rơ đại hội cùng thỉnh
cầu
(Kinh)
Kim thử chi đại hội, vô lượng bách thiên ức,
thị chư Bồ Tát đẳng, giai dục tri thử sự.
Thị chư Bồ Tát chúng, bổn mạt chi nhân
duyên, vô lượng đức Thế Tôn, duy nguyện quyết
chúng nghi.
(經)今此之大會。無量百千億。是諸菩薩等。皆欲知此事。是諸菩薩眾。本末之因緣。無量德世尊。唯願決眾疑。
(Kinh:
Nay trong đại hội này, vô lượng trăm ngàn ức,
các hàng Bồ Tát thảy, đều muốn biết chuyện
ấy: Nhân duyên đầu đến cuối, của các Bồ
Tát ấy. Thế Tôn vô lượng đức, mong giải
quyết nghi hoặc).
Đă nói muốn biết nhân
duyên từ đầu đến cuối, th́ dù là họ
đến từ chỗ nào, hay duyên do [v́ sao các vị
Bồ Tát ấy] nhóm đến; nói chung, đều cầu
Phật giải đáp rơ ràng. Phần thứ nhất, “Bồ
Tát cơi này nghi vấn” đă xong.
15.1.2.2. Bồ Tát trong cơi khác nghi vấn
(Kinh)
Nhĩ
thời, Thích Ca Mâu Ni phân thân chư Phật tùng vô lượng
thiên vạn ức tha phương quốc độ lai giả,
tại ư bát phương, chư bảo thụ hạ
sư tử ṭa thượng, kết gia phu tọa, kỳ
Phật thị giả, các các kiến thị Bồ Tát
đại chúng, ư tam thiên đại thiên thế giới
tứ phương tùng địa dũng xuất, trụ
ư hư không, các bạch kỳ Phật ngôn: “Thế Tôn!
Thử chư vô lượng vô biên A-tăng-kỳ Bồ
Tát đại chúng tùng hà sở lai?” Nhĩ thời, chư
Phật các cáo thị giả: “Chư thiện nam tử! Thả
đăi tu du. Hữu Bồ Tát Ma Ha Tát danh viết Di Lặc,
Thích Ca Mâu Ni Phật chi sở thọ kư thứ
đương tác Phật, dĩ vấn tư sự, Phật
kim đáp chi. Nhữ đẳng tự đương nhân
thị đắc văn”.
(經)爾時釋迦牟尼分身諸佛。從無量千萬億他方國土來者。在於八方諸寶樹下師子座上結加趺坐。其佛侍者。各各見是菩薩大眾。於三千大千世界四方從地涌出。住於虛空。各白其佛言。世尊。此諸無量無邊阿僧祇菩薩大眾。從何所來。爾時諸佛各告侍者。諸善男子。且待須臾。有菩薩摩訶薩。名曰彌勒。釋迦牟尼佛之所授記。次當作佛。已問斯事。佛今答之。汝等自當因是得聞。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, chư Phật phân thân của Thích
Ca Mâu Ni từ vô lượng ngàn vạn ức quốc
độ ở phương khác đến, ngồi xếp
bằng trên ṭa sư tử dưới các cây báu trong tám phương, thị giả của
các Ngài mỗi vị đều thấy đại chúng Bồ
Tát ấy tại bốn phương của tam thiên đại
thiên thế giới, từ dưới đất vọt
lên, trụ trong hư không, [thấy rồi],
đều bạch với đức Phật của ḿnh rằng:
“Bạch Thế Tôn! Vô lượng vô biên A-tăng-kỳ
đại chúng Bồ Tát này từ đâu mà đến?” Khi
đó, chư Phật mỗi vị đều bảo thị
giả: “Các thiện nam tử! Hăy chờ trong giây lát. Có Bồ
Tát Ma Ha Tát tên là Di Lặc, được Thích Ca Mâu Ni Phật
thọ kư sẽ kế tiếp Ngài thành Phật, đă hỏi
chuyện ấy. Nay Phật sẽ đáp, các ông sẽ nhờ
đó mà được nghe”).
Quyến thuộc
của phân thân [chư Phật] theo chiều ngang khắp
mười phương cũng chẳng biết Bổn
địa, chưa có tứ ích (bốn
món Tất Đàn), cho nên có cùng nghi vấn
giống như ngài Di Lặc. Chư Phật đều chẳng
giải đáp, đều đợi Phật Thích Ca giải
đáp cho ngài Di Lặc. Lời hỏi của ngài Di Lặc
có sự tích chẳng nhẹ; cả một
đời giáo hóa của đức Thích Ca, Ngài chưa từng
nói rơ. Do cuộc vấn đáp này, rộng hiển thị sự
trường thọ của Như Lai. Sự huyền bí to
lớn ấy cần phải đợi Phật Thích Ca tự
mở ra. “Nhữ tự đương
văn” (Các
ông sẽ tự được nghe): Phân thân nhóm đến,
vốn là để chứng minh. Cho nên [phân thân chư Phật]
chẳng nên đáp. Phần thứ nhất, “phần Tự
của Bổn Môn” đă xong.
15.2. Phần Chánh Thuyết (phần
Chánh Tông của Bổn Môn)
15.2.1. Răn nhắc, hứa khả
15.2.1.1. Trường Hàng
15.2.1.1.1. Trần thuật, tán thán
(Kinh)
Nhĩ
thời, Thích Ca Mâu Ni Phật cáo Di Lặc Bồ Tát: - Thiện
tai, thiện tai! A Dật Đa! Năi năng vấn Phật
như thị đại sự.
(經)爾時釋迦牟尼佛。告彌勒菩薩。善哉善哉。阿逸多。乃能問佛如是大事。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Di Lặc
Bồ Tát: “Lành thay! Lành thay! Này A Dật Đa! Có thể hỏi
Phật đại sự như thế”).
“Thiện tai” lần thứ
nhất trần thuật [câu hỏi ấy] trên là khế hợp
tâm Phật. “Thiện tai” lần thứ hai trần thuật
[câu
hỏi ấy] dưới là khế hợp ư niệm
của quần sanh. “Khai Tích, hiển Bổn” chính là
điều chưa được nói rơ trong giáo pháp suốt
một đời đức Phật, cho nên đó là đại
sự của Phật. Lại cần phải xét theo tu
đức và quả vị sâu xa, chẳng xét theo lư thú b́nh
đẳng nơi Tánh Đức, cho nên nói là Sự.
15.2.1.1.2. Răn truyền
(Kinh)
Nhữ
đẳng đương cộng nhất tâm, bị tinh tấn
khải, phát kiên cố ư.
(經)汝等當共一心被精進鎧。發堅固意。
(Kinh:
Các ông hăy nên nhất tâm, mặc giáp tinh tấn, phát khởi ư niệm bền vững).
[Căn dặn] “nhất
tâm” tức là răn đừng loạn. “Tinh tấn”
là răn đừng biếng trễ. “Kiên cố” là
răn đừng lui sụt. Ấy là v́ Thật Trí của
Như Lai thành tựu đă lâu, Quyền Tích lâu xa, giáo hóa
cùng tột ba đời, lợi ích trọn khắp mười
phương. Những kẻ thấp hơn bậc Đẳng
Giác chẳng thể nghĩ bàn được; đấy cũng là thông qua ngài Di Lặc
mà răn nhắc [mọi người trong] đại hội.
15.2.1.1.3. Hứa khả
(Kinh)
Như
Lai kim dục hiển phát tuyên thị chư Phật trí huệ,
chư Phật tự tại thần thông chi lực, chư
Phật sư tử phấn tấn chi lực, chư Phật
oai mănh đại thế chi lực.
(經)如來今欲顯發宣示諸佛智慧。諸佛自在神通之力。諸佛師子奮迅之力。諸佛威猛大勢之力。
(Kinh:
Nay
Như Lai muốn hiển lộ, phát khởi, tuyên nói, chỉ
bày trí huệ của chư Phật, sức thần thông tự
tại của chư Phật, sức sư tử phấn
tấn của chư Phật, sức thế lực to lớn
oai nghiêm, mạnh mẽ của chư Phật).
“Chư Phật trí huệ”:
Nêu chung quả trí. “Tự tại” là Ngă đức, “thần
thông” là Lạc đức. “Phấn tấn trừ cấu”
là Tịnh đức. “Đại thế oai mănh” là
Thường đức. Đấy
chính là chỉ ra Tứ Đức viên măn, có thể lợi
ích trọn khắp chúng sanh trong ba đời. V́ thế,
đều gọi là Lực. Xét theo quá khứ rất đỗi
lâu xa, th́ gọi là “thần thông tự tại”. Xét ra
phân thân nay đang trọn khắp mười phương,
th́ gọi là Sư Tử Phấn Tấn. Xét theo vị lai,
lợi ích chúng sanh măi măi chẳng cùng tận, th́ gọi là “đại
thế oai mănh”. Hoặc có thể nói “phấn tấn”
là tướng trạng tiên khởi, biểu thị sự
lợi ích chúng sanh trong tương lai. “Đại thế”
là chấn động mười phương, tức là lợi
ích chúng sanh trong hiện tại, cũng là không ǵ chẳng thể!
Lại nữa, thần thông tự tại chính là “nhà”
từ bi rốt ráo. “Sư tử phấn tấn” là “ṭa”
Pháp Không rốt ráo. “Oai mănh đại thế” chính là “áo”
nhẫn nhục rốt ráo. Chứng ba đức rốt
ráo ấy, cho nên sức trọn khắp mười
phương ba đời, tạo lợi ích chẳng cùng tận.
Phần thứ nhất, Trường Hàng đă xong.
15.2.1.2. Kệ Tụng
15.2.1.2.1. Trùng tụng lời răn
nhắc
(Kinh)
Nhĩ
thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết
kệ ngôn: - Đương tinh tấn nhất tâm. Ngă dục
thuyết thử sự, vật đắc hữu nghi hối.
(經)爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。當精進一心。我欲說此事。勿得有疑悔。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn
nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Hăy tinh tấn
nhất tâm. Ta muốn nói chuyện này, chớ nên có nghi hối).
15.2.1.2.2. Trùng tụng lời hứa
khả, lược đi không trùng tụng phần trần
thuật, tán thán
(Kinh)
Phật
trí phả tư nghị, nhữ kim xuất tín lực, trụ
ư nhẫn thiện trung. Tích sở vị văn pháp, kim
giai đương đắc văn. Ngă kim an ủy nhữ,
vật đắc hoài nghi cụ. Phật vô bất thật
ngữ, trí huệ bất khả lượng, sở đắc
đệ nhất pháp, thậm thâm phả phân biệt.
Như thị kim đương thuyết, nhữ đẳng
nhất tâm thính.
(經)佛智叵思議。汝今出信力。住於忍善中。昔所未聞法。今皆當得聞。我今安慰汝。勿得懷疑懼。佛無不實語。智慧不可量。所得第一法。甚深叵分別。如是今當說。汝等一心聽。
(Kinh: Phật trí chẳng
nghĩ bàn, ông nay khởi tín lực, trụ vào trong nhẫn
thiện, pháp xưa kia chưa nghe, nay sẽ đều
được nghe. Ta nay an ủi ông, đừng ôm ḷng nghi
sợ. Phật luôn nói chân thật, trí huệ chẳng thể
lường, đạt được pháp bậc nhất,
rất sâu chẳng phân biệt. Như thế nay sẽ nói,
các ông nhất tâm nghe).
Phần thứ nhất,
“răn nhắc, hứa khả” đă xong.
15.2.2. Chánh thuyết
Chia thành ba
đoạn:
- Từ đây
trở đi cho đến hết phẩm Thọ Lượng,
chánh thức khai cận hiển viễn.
- Phần Trường
Hàng của phẩm Phân Biệt Công Đức là thọ kư
chung cho Pháp Thân.
- Ngài Di Lặc nói kệ
tŕnh bày chung sự lănh nhận, tín giải.
Phần
thứ nhất lại chia làm hai:
- Một, cho đến
hết phẩm này, do [đức Phật] khai hiển đại
lược [thọ
lượng của Như Lai], thính chúng dấy
động chấp trước, sanh nghi.
- Hai, trong phẩm
Thọ Lượng, rộng khai hiển ḥng đoạn nghi
sanh tín.
15.2.2.1. Khai hiển đại lược
15.2.2.1.1. Trường Hàng
Do đức
Phật chẳng đáp nhân duyên ǵ mà [các vị Bồ Tát từ
dưới đất vọt lên] nhóm họp, cho nên kinh văn
trong phần sau sẽ thỉnh vấn lần nữa.
15.2.2.1.1.1. Giải đáp thắc mắc
ai là thầy của họ
(Kinh)
Nhĩ
thời, Thế Tôn thuyết thử kệ dĩ, cáo Di Lặc
Bồ Tát: - Ngă kim ư thử đại chúng, tuyên cáo nhữ
đẳng. A Dật Đa! Thị chư đại Bồ
Tát Ma Ha Tát vô lượng vô số A-tăng-kỳ tùng địa
dũng xuất, nhữ đẳng
tích sở vị kiến giả, ngă ư thị Sa Bà thế
giới, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề dĩ, giáo hóa, thị đạo thị chư Bồ
Tát, điều phục kỳ tâm, linh phát đạo ư.
(經)爾時世尊說此偈已。告彌勒菩薩。我今於此大眾。宣告汝等。阿逸多。是諸大菩薩摩訶薩。無量無數阿僧祇。從地涌出。汝等昔所未見者。我於是娑婆世界。得阿耨多羅三藐三菩提已。教化示導是諸菩薩。調伏其心。令發道意。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ ấy
xong, bảo Di Lặc Bồ Tát: - Nay ta ở trong đại
chúng này, tuyên cáo với các ông. Này A Dật Đa! Các vị
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát này vô lượng, vô số A-tăng-kỳ
từ dưới đất vọt lên, các ông trước
kia chưa thấy, là do ta ở trong thế giới Sa Bà
này, sau khi đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác đă giáo hóa, chỉ dạy các Bồ Tát ấy, điều phục
tâm họ, khiến cho họ phát đạo ư).
Đây là trước hết
giải đáp “ai là người thuyết pháp cho họ,
giáo hóa khiến cho họ thành tựu, từ ai mà phát tâm ban đầu”.
15.2.2.1.1.2. Giải đáp họ từ
đâu đến
15.2.2.1.1.2.1. Trả lời
(Kinh)
Thử chư Bồ Tát giai ư thị Sa
Bà thế giới chi hạ, thử giới hư không trung
trụ. Ư chư kinh điển,
độc tụng thông lợi, tư duy phân biệt, chánh ức
niệm.
(經)此諸菩薩。皆於是娑婆世界之下。此界虛空中住。於諸經典。讀誦通利。思惟分別。正憶念。
(Kinh:
Các vị Bồ Tát ấy đều ở dưới
thế giới Sa Bà, cơi đó ở trong hư không. Đối
với các kinh điển, [các Bồ Tát ấy] đều
đọc tụng thông suốt, tư duy, phân biệt, suy
nghĩ chân chánh).
“Giới hạ không trung”
(ở phía dưới thế giới này, trong không trung)
như đă giải thích đại lược trong phần
trước. Đây là giải đáp về trụ xứ,
tức là họ đến từ chỗ nào. Từ “ư
chư kinh điển” (đối với các kinh điển)
trở đi, trả lời câu hỏi “xưng
dương hà Phật pháp, thọ tŕ hành thùy kinh, tu tập hà Phật đạo” (xưng
dương Phật pháp nào, thọ tŕ, thực hành kinh nào, tu tập
Phật đạo nào). “Ư chư kinh điển” (đối với các kinh điển): Người
căn tánh Viên giáo thọ pháp, không pháp nào chẳng viên. Diệu
điển Pháp Hoa hết thảy kinh điển trong
mười phương ba đời đều gom vào
đó, Quyền và Thật chẳng hai, trọn chẳng lấy
hay xả pháp nào! Đấy là giải đáp về [thắc
mắc] “xưng dương” [kinh điển nào]. “Độc
tụng thông lợi, tư duy phân biệt” (đọc tụng
thông suốt, tư duy phân biệt) là lời đáp về
thọ tŕ. “Chánh ức niệm” là giải đáp [thắc
mắc về sự] tu tập.
15.2.2.1.1.2.2. Giải thích
15.2.2.1.1.2.2.1. Giải thích trụ xứ
(Kinh)
A
Dật Đa! Thị chư thiện nam tử đẳng,
bất nhạo tại chúng đa hữu sở thuyết, thường
nhạo tĩnh xứ, cần hành tinh tấn, vị tằng
hưu tức, diệc bất y chỉ nhân thiên nhi trụ.
(經)阿逸多。是諸善男子等。不樂在眾多有所說。常樂靜處。勤行精進。未曾休息。亦不依止人天而住。
(Kinh:
Này A Dật Đa! Các thiện nam tử này chẳng
thích ở trong đại chúng nhiều điều bàn nói,
thường thích ở chỗ tĩnh lặng, siêng hành tinh
tấn, chưa từng nghỉ ngơi, cũng chẳng
nương tựa người, trời để ở).
“Bất nhạo tại
chúng” (chẳng thích ở trong đại chúng): Trong tam giới,
ngoài tam giới, và Ngũ Ấm th́ gọi
là Chúng. Nhị biên phân biệt gọi là “đa hữu sở
thuyết” (có nhiều điều bàn nói). “Tĩnh xứ”
(chỗ yên tĩnh)
chính
là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế. Pháp
giới nhất tướng, dứt bặt đối
đăi,
chẳng c̣n thừa sót. V́ thế gọi là “tĩnh xứ”.
“Cần hành tinh tấn, vị tằng hưu tức”
(siêng hành tinh tấn, chưa từng nghỉ
ngơi): Tâm tâm tuôn rót, tùy ư tương ứng với Tát Bà
Nhă (Sarvajña,
Nhất Thiết Trí). “Bất y nhân thiên” (chẳng
nương tựa trời, người): Người biểu
thị Hữu biên, trời biểu thị Không biên. Chẳng
nương vào hai bên, cho nên dùng hư không trong cơi này để
biểu thị, chứ họ thật sự trụ trong Thường
Tịch Quang Pháp Tánh Độ.
15.2.2.1.1.2.2.2. Giải thích [thắc mắc
về] thọ tŕ, xưng dương, tu tập
(Kinh)
Thường
nhạo thâm trí, vô hữu chướng ngại, diệc
thường nhạo ư chư Phật chi pháp, nhất
tâm tinh tấn, cầu vô thượng huệ.
(經)常樂深智。無有障礙。亦常樂於諸佛之法。一心精進。求無上慧。
(Kinh:
Thường ưa thích trí sâu, chẳng có chướng
ngại, cũng thường ưa thích pháp của chư Phật, nhất tâm tinh tấn
cầu trí huệ vô thượng).
Do họ thường ưa
thích trí sâu, chẳng có chướng ngại, cho nên đối
với các kinh điển, thảy đều
xưng tụng, tán dương. Do họ thường
ưa thích pháp của chư Phật, cho nên đọc tụng
thông suốt, nhanh nhạy, tư duy, phân biệt. Do họ
nhất tâm tinh tấn cầu trí huệ vô thượng, cho
nên có thể nghĩ nhớ chân chánh. Phần thứ nhất là Trường Hàng
đă xong.
15.2.2.1.2. Kệ tụng
15.2.2.1.2.1. Trùng tụng Trường
Hàng
15.2.2.1.2.1.1 Trùng tụng lời đáp
về thầy
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế
Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - A Dật nhữ
đương tri, thị chư đại Bồ Tát, tùng
vô số kiếp lai, tu tập Phật trí huệ, tất thị
ngă sở hóa, linh phát đại đạo tâm. Thử đẳng
thị ngă tử.
(經)爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。阿逸汝當知。是諸大菩薩。從無數劫來。修習佛智慧。悉是我所化。令發大道心。此等是我子。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế
Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, mà nói kệ rằng:
- A Dật, ông nên biết. Các đại Bồ Tát này, vô số
kiếp đến nay, tu tập trí huệ Phật, đều
do ta giáo hóa, khiến phát đại đạo tâm. Bọn
này là con ta).
Phần Trường Hàng chỉ nói “đắc
Bồ Đề dĩ, hóa linh phát tâm” (sau khi đă đắc
Bồ Đề, bèn giáo hóa, khiến cho họ phát
tâm), chẳng nói “từ vô số kiếp đến nay”,
có thể là ngụ ư “[những người được
giáo hóa ấy] chỉ là hàng lợi căn viên đốn,
trong một đời bèn siêu việt, chứng đắc”.
Ở đây, [kệ tụng] chỉ nói “từ vô số
kiếp đến nay, họ do ta giáo hóa”, chẳng nói “sau
khi thành đạo”, chắc là có ư nói “chỉ là trong khi tu nhân hạnh, đă giáo hóa khiến cho họ phát
tâm”. V́ thế, đức Phật chỉ đáp ai là thầy
của họ, chưa hề khai hiển rành rành.
15.2.2.1.2.1.2. Trùng tụng lời đáp
họ từ đâu đến
(Kinh)
Y chỉ thị thế
giới, thường hành đầu đà sự, chí nhạo
ư tĩnh xứ, xả đại chúng hội náo, bất
nhạo đa sở thuyết. Như thị chư tử
đẳng, học tập ngă đạo pháp, trú dạ
thường tinh tấn, vị cầu Phật đạo
cố. Tại Sa Bà thế giới, hạ phương không
trung trụ. Chí niệm lực kiên cố, thường cần
cầu trí huệ, thuyết chủng chủng diệu pháp.
Kỳ tâm vô sở úy.
(經)依止是世界。常行頭陀事。志樂於靜處。捨大眾憒鬧。不樂多所說。如是諸子等。學習我道法。晝夜常精進。為求佛道故。在娑婆世界。下方空中住。志念力堅固。常勤求智慧。說種種妙法。其心無所畏。
(Kinh: Nương tựa thế giới
này, thường hành chuyện đầu-đà. Chí ưa
thích chỗ vắng, bỏ đại chúng ồn ào. Chẳng
thích nói năng nhiều. Các con như thế ấy, học
tập đạo pháp ta, ngày đêm thường tinh tấn,
v́ để cầu Phật đạo, trong thế giới
Sa Bà, trụ không trung phương dưới. Sức chí niệm
bền vững, thường siêng cầu trí huệ, nói
đủ loại diệu pháp, tâm họ chẳng sợ
hăi).
Phần thứ nhất, “trùng tụng kinh
văn Trường Hàng” đă xong.
15.2.2.1.2.2. Trùng tụng phần khai hiển
đại lược
(Kinh)
Ngă ư Già Da[6] thành, Bồ Đề thụ hạ
tọa, đắc thành tối Chánh Giác, chuyển vô thượng
pháp luân. Nhĩ năi giáo hóa chi, linh
sơ phát đạo tâm. Kim giai trụ bất thoái, tất
đương đắc thành Phật. Ngă kim thuyết thật
ngữ, nhữ đẳng nhất tâm tín. Ngă tùng cửu viễn
lai, giáo hóa thị đẳng chúng.
(經)我於伽耶城。菩提樹下坐。得成最正覺。轉無上法輪。爾乃教化之。令初發道心。今皆住不退。悉當得成佛。我今說實語。汝等一心信。我從久遠來。教化是等眾。
(Kinh: Ta ở thành Già Da, ngồi
dưới cội Bồ Đề, thành Chánh Giác tối thượng, chuyển
pháp luân vô thượng. Do vậy
bèn giáo hóa, khiến sơ phát đạo tâm, nay đều
trụ bất thoái, thảy đều sẽ thành Phật.
Ta nay nói lời thật, các ông nhất tâm tin. Từ lâu xa tới
nay, ta giáo hóa bọn họ).
Đă nói “sau khi thành đạo khiến
cho họ sơ phát tâm”, lại nói “từ lâu xa đă
giáo hóa bọn họ”, tức là đại lược
khai cận hiển viễn. V́ thế, [thính chúng] dấy
động chấp trước, sanh nghi. Phần thứ nhất,
“[trùng tụng] khai hiển đại lược” đă
xong.
15.2.2.2. Nghi hoặc, thỉnh vấn
15.2.2.2.1. Trường Hàng
15.2.2.2.1.1. Người kết tập
kinh trần thuật
(Kinh)
Nhĩ thời, Di Lặc
Bồ Tát Ma Ha Tát, cập vô số chư Bồ Tát đẳng,
tâm sanh nghi hoặc, quái vị tằng hữu, nhi tác thị
niệm: - Vân hà Thế Tôn ư thiểu thời gian, giáo hóa
như thị vô lượng vô biên A-tăng-kỳ chư
đại Bồ Tát, linh trụ A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề?
(經)爾時彌勒菩薩摩訶薩。及無數諸菩薩等。心生疑惑怪未曾有。而作是念。云何世尊於少時間。教化如是無量無邊阿僧祇諸大菩薩。令住阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát và vô số
các vị Bồ Tát tâm sanh nghi hoặc, lấy làm lạ
chưa từng có, nghĩ như thế này: - Sao đức
Thế Tôn có thể trong thời gian ngắn giáo hóa vô lượng
vô biên A-tăng-kỳ các vị đại Bồ Tát như thế,
khiến cho họ trụ trong Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác?)
15.2.2.2.1.2. Phơi bày mối nghi, xin
giải đáp
15.2.2.2.1.2.1. Phơi bày mối nghi
15.2.2.2.1.2.1.1. Pháp thuyết
15.2.2.2.1.2.1.1.1. Chấp gần nghi xa[7]
(Kinh)
Tức bạch Phật
ngôn: - Thế Tôn! Như Lai vi thái tử thời, xuất
ư Thích cung, khứ Già Da thành bất viễn, tọa
ư đạo tràng, đắc thành A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề. Tùng thị dĩ lai, thỉ quá tứ
thập dư niên. Thế Tôn! Vân hà ư thử thiểu thời,
đại tác Phật sự, dĩ Phật thế lực,
dĩ Phật công đức, giáo hóa như thị vô lượng
đại Bồ Tát chúng, đương thành A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề?
(經)即白佛言。世尊。如來為太子時出於釋宮。去伽耶城不遠坐於道場。得成阿耨多羅三藐三菩提。從是已來。始過四十餘年。世尊。云何於此少時。大作佛事。以佛勢力。以佛功德。教化如是無量大菩薩眾。當成阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh:
Liền bạch cùng
đức Phật rằng; - Bạch Thế Tôn! Như Lai
khi làm thái tử, rời cung họ Thích, cách thành Già Da chẳng
xa, ngồi nơi đạo tràng, được thành Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, từ đó đến
nay, mới hơn bốn mươi năm. Bạch Thế
Tôn! Sao Ngài có thể trong thời gian ít ỏi ấy, thực
hiện Phật sự to lớn, dùng thế lực của
Phật, dùng công đức của Phật, giáo hóa vô lượng
các vị đại Bồ Tát như thế được
thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác?)
15.2.2.2.1.2.1.1.2. Chấp xa nghi gần
(Kinh)
Thế Tôn! Thử
đại Bồ Tát chúng, giả sử hữu nhân, ư
thiên vạn ức kiếp, sổ bất năng tận, bất
đắc kỳ biên. Tư đẳng cửu viễn
dĩ lai, ư vô lượng vô biên chư Phật sở, thực
chư thiện căn, thành tựu Bồ Tát đạo,
thường tu phạm hạnh.
(經)世尊。此大菩薩眾。假使有人。於千萬億劫。數不能盡。不得其邊。斯等久遠已來。於無量無邊諸佛所植諸善根。成就菩薩道常修梵行。
(Kinh:
Bạch Thế Tôn! Các vị đại Bồ Tát này giả sử
có người trong ngàn vạn ức kiếp, đếm chẳng
thể hết, chẳng biết được chừng hạn.
Các vị ấy từ lâu xa đến nay đă gieo thiện
căn nơi vô lượng vô biên chư Phật, thành tựu
Bồ Tát đạo, thường tu phạm hạnh).
15.2.2.2.1.2.1.1.3. Kết luận là khó
tin
(Kinh)
Thế Tôn! Như thử
chi sự, thế sở nan tín.
(經)世尊。如此之事。世所難信。
(Kinh:
Bạch Thế
Tôn! Chuyện như vậy cơi đời khó tin được!)
Phần thứ nhất là Pháp Thuyết
đă xong.
15.2.2.2.1.2.1.2. Lập thí dụ
(Kinh)
Thí như hữu nhân, sắc
mỹ, phát hắc, niên nhị thập ngũ, chỉ bách tuế
nhân, ngôn thị ngă tử.
(經)譬如有人。色美髮黑。年二十五。指百歲人。言是我子。
(Kinh:
Ví như có người đẹp đẽ, tóc đen, hai mươi lăm
tuổi, chỉ người trăm tuổi nói đó là con
của ta).
Đây là thí dụ về sự “chấp gần,
nghi xa” trong phần trên. “Sắc mỹ, phát hắc” (sắc
vóc xinh đẹp, tóc đen) nói chung là người trẻ
tuổi vậy.
(Kinh) Kỳ bách tuế nhân, diệc
chỉ niên thiếu, ngôn thị ngă phụ, sanh dục ngă đẳng.
(經)其百歲人。亦指年少。言是我父。生育我等。
(Kinh:
Người trăm tuổi đó, cũng chỉ kẻ
trẻ tuổi, nói đó là cha ta, đẻ nuôi ta thảy).
Đây là sánh ví chuyện “chấp xa, nghi gần”
trong phần trên.
(Kinh)
Thị sự nan tín.
(經)是事難信。
(Kinh:
Chuyện ấy khó tin).
Đây là kết lại thí dụ về sự
khó tin.
15.2.2.2.1.2.1.3. Kết hợp thí dụ
với pháp
(Kinh)
Phật diệc như
thị, đắc đạo dĩ lai, kỳ thật vị
cửu.
(經)佛亦如是。得道已來。其實未久。
(Kinh:
Phật cũng như
thế, đắc đạo đến nay thật ra
chưa lâu).
Đây là ứng thí dụ “tuổi hai mươi
lăm, chẳng nên có đứa con đă trăm tuổi”!
(Kinh) Nhi thử đại chúng chư Bồ
Tát đẳng, dĩ ư vô lượng thiên vạn ức
kiếp vị Phật đạo cố, cần hành tinh tấn,
thiện nhập xuất trụ vô lượng bách thiên vạn
ức tam-muội, đắc đại thần thông, cửu
tu phạm hạnh, thiện năng thứ đệ tập
chư thiện pháp, xảo ư vấn đáp, nhân trung chi
bảo, nhất thiết thế gian thậm vi hy hữu!
(經)而此大眾諸菩薩等。已於無量千萬億劫為佛道故。勤行精進。善入出住無量百千萬億三昧。得大神通久修梵行。善能次第習諸善法。巧於問答。人中之寶。一切世間甚為希有。
(Kinh: Nhưng các vị đại Bồ
Tát trong đại chúng này đă trong vô lượng ngàn vạn
ức kiếp v́ Phật đạo mà siêng hành tinh tấn, khéo
nhập, xuất, trụ trong vô lượng trăm ngàn vạn
ức tam-muội, đắc đại thần thông, tu phạm
hạnh đă lâu, khéo có thể theo thứ tự tu tập
các thiện pháp, khéo léo hỏi
đáp, là của báu trong loài người, rất hy hữu
trong hết thảy thế gian).
Đây là ứng hợp với thí dụ
“người trăm tuổi chẳng nên do kẻ hai
mươi lăm tuổi sanh ra”.
(Kinh) Kim nhật Thế Tôn phương
vân đắc Phật đạo thời, sơ linh phát tâm,
giáo hóa, thị đạo, linh hướng A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thế Tôn đắc Phật
vị cửu, năi năng tác thử đại công đức
sự!
(經)今日世尊方云得佛道時。初令發心。教化示導。令向阿耨多羅三藐三菩提。世尊得佛未久。乃能作此大功德事。
(Kinh:
Ngày nay đức Thế Tôn mới nói: Khi Ngài đắc
đạo, khiến cho họ phát tâm ban đầu, giáo hóa, chỉ dạy, khiến cho họ hướng
tới Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đức
Thế Tôn thành Phật chưa lâu bèn có thể làm chuyện
công đức to lớn này!)
Đây là ứng hợp với lời kết
luận “khó tin” [trong thí dụ]. Phần thứ nhất,
“nêu bày mối nghi” đă xong!
15.2.2.2.1.2.2. Xin giải đáp
15.2.2.2.1.2.2.1. Nêu rơ ư cầu thỉnh
15.2.2.2.1.2.2.1.1. V́ [chúng sanh] hiện tại
[mà cầu thỉnh]
(Kinh)
Ngă đẳng
tuy phục tín Phật tùy nghi sở thuyết, Phật sở
xuất ngôn, vị tằng hư vọng, Phật sở
tri giả, giai tất thông đạt.
(經)我等雖復信佛隨宜所說。佛所出言。未曾虛妄。佛所知者。皆悉通達。
(Kinh:
Chúng con dẫu vẫn tin lời đức Phật nói thuận
theo cơ nghi, Phật chưa từng thốt lời
hư vọng, những điều Phật biết thảy
đều thông suốt).
Chúng con tuy chưa biết rơ, do kính ngưỡng
mà tin tưởng thôi!
15.2.2.2.1.2.2.1.2. V́ vị lai [mà cầu
thỉnh]
(Kinh)
Nhiên chư tân phát ư Bồ
Tát, ư Phật diệt hậu, nhược văn thị
ngữ, hoặc bất tín thọ, nhi khởi phá pháp tội
nghiệp nhân duyên.
(經)然諸新發意菩薩。於佛滅後。若聞是語。或不信受。而起破法罪業因緣。
(Kinh: Nhưng các vị Bồ Tát mới
phát ư, sau khi đức Phật diệt độ, nếu
nghe lời ấy, có thể chẳng tin nhận, bèn dấy
lên nhân duyên tội nghiệp phá pháp).
Do hạnh nông cạn, sẽ dễ sanh tâm phỉ
báng. Do báng mà đọa vào ác đạo. Hàng Bất Thoái tuy
do ngưỡng mộ mà tin tưởng, nhưng chưa biết
rơ, sẽ chẳng thể tăng tấn đạo tâm, giảm bớt phiền cấu. V́
thế, cần phải trả lời, giải thích, khiến
cho kẻ báng bổ sanh ḷng tin, kẻ đă tin sẽ
tăng tấn đạo tâm, giảm bớt phiền
cấu. Phần thứ nhất, “nêu ra ư nghĩa cầu thỉnh”
đă xong!
15.2.2.2.1.2.2.2. Chánh thức cầu giải
đáp
(Kinh) Dụy nhiên Thế Tôn, nguyện vị
giải thuyết, trừ ngă đẳng nghi, cập vị
lai thế chư thiện nam tử văn thử sự
dĩ, diệc bất sanh nghi.
(經)唯然世尊。願為解說。除我等疑。及未來世諸善男子聞此事已。亦不生疑。
(Kinh:
Thưa vâng đức Thế Tôn! Nguyện v́ con giải
nói, trừ mối nghi cho chúng con, và các thiện nam tử
trong đời vị lai nghe chuyện này rồi cũng chẳng
sanh nghi).
Một là thỉnh trừ nghi cho hiện
tại, hai là thỉnh trừ nghi cho vị lai. Phần thứ
nhất, kinh văn Trường Hàng đă xong.
15.2.2.2.2. Kệ tụng
15.2.2.2.2.1. Trùng tụng nêu bày mối
nghi
15.2.2.2.2.1.1. Trùng tụng Pháp Thuyết
15.2.2.2.2.1.1.1. Trùng tụng chấp gần
(Kinh)
Nhĩ thời, Di Lặc
Bồ Tát dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ
ngôn: - Phật tích tùng Thích chủng, xuất gia cận Già
Da, tọa ư Bồ Đề thụ, nhĩ lai thượng
vị cửu.
(經)爾時彌勒菩薩。欲重宣此義而說偈言。佛昔從釋種。出家近伽耶。坐於菩提樹。爾來尚未久。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Di Lặc Bồ Tát muốn nhắc lại nghĩa này,
bèn nói kệ rằng: - Phật xưa từ họ Thích, xuất
gia gần Già Da, ngồi dưới cội Bồ Đề,
đến nay c̣n chưa lâu).
15.2.2.2.2.1.1.2. Trùng tụng chấp xa
(Kinh)
Thử chư Phật tử đẳng, kỳ số bất
khả lượng, cửu dĩ hành Phật đạo,
trụ ư thần thông lực, thiện học Bồ Tát
đạo, bất nhiễm thế gian pháp, như liên hoa tại
thủy, tùng địa nhi dũng xuất, giai khởi cung
kính tâm, trụ ư Thế Tôn tiền.
(經)此諸佛子等。其數不可量。久已行佛道。住於神通力。善學菩薩道。不染世間法。如蓮華在水。從地而涌出。皆起恭敬心。住於世尊前。
(Kinh:
Các vị Phật tử
đây, số lượng chẳng thể lường, hành
Phật đạo đă lâu, trụ vào sức thần
thông, khéo học đạo Bồ Tát, chẳng nhiễm pháp
thế gian, như hoa sen trong nước, từ đất
mà vọt lên, đều dấy ḷng cung kính, đứng trước
mặt Thế Tôn).
15.2.2.2.2.1.1.3. Trùng tụng kết luận
“khó tin”
(Kinh)
Thị sự nan tư nghị, vân hà nhi khả tín? Phật
đắc đạo thậm cận, sở thành tựu thậm
đa! Nguyện vị trừ chúng nghi, như thật phân biệt
thuyết.
(經)是事難思議。云何而可信。佛得道甚近。所成就甚多。願為除眾疑。如實分別說。
(Kinh: Chuyện này khó nghĩ bàn,
làm sao có thể tin? Phật đắc đạo rất gần,
thành tựu lại rất nhiều. Nguyện trừ nghi
cho chúng, như thật phân biệt nói).
Phần thứ nhất, “trùng tụng Pháp Thuyết” đă xong.
15.2.2.2.2.1.2. Trùng tụng lập thí dụ
(Kinh)
Thí như thiếu tráng
nhân, niên thỉ nhị thập ngũ, thị nhân bách tuế
tử, phát bạch nhi diện trứu, thị đẳng
ngă sở sanh, tử diệc thuyết thị phụ. Phụ
thiếu nhi tử lăo, cử thế sở bất tín.
(經)譬如少壯人。年始二十五。示人百歲子。髮白而面皺。是等我所生。子亦說是父。父少而子老。舉世所不信。
(Kinh: Ví như người
trẻ khỏe, tuổi mới hai mươi lăm, chỉ
người trăm tuổi già, tóc bạc và mặt nhăn:
“Bọn này do ta sanh”. Con cũng nói là cha. Cha trẻ mà con già, cơi đời chẳng tin nổi!)
Năm câu đầu trùng tụng thí dụ về
“chấp gần, nghi xa”. Câu kế tiếp trùng tụng thí dụ
“chấp xa, nghi gần”. Hai câu cuối trùng tụng
kết luận “khó tin”.
15.2.2.2.2.1.3. Trùng tụng chuyện kết
hợp thí dụ với pháp
(Kinh)
Thế Tôn diệc
như thị, đắc đạo lai thậm cận. Thị
chư Bồ Tát đẳng, chí cố vô khiếp nhược,
tùng vô lượng kiếp lai, nhi hành Bồ Tát đạo,
xảo ư nan vấn đáp. Kỳ tâm vô sở
úy, nhẫn nhục tâm quyết định, đoan chánh hữu
oai đức. Thập phương Phật sở tán, thiện
năng phân biệt thuyết, bất nhạo tại nhân
chúng, thường háo tại Thiền Định. Vị cầu
Phật đạo cố, ư hạ không trung trụ.
(經)世尊亦如是。得道來甚近。是諸菩薩等。志固無怯弱。從無量劫來。而行菩薩道。巧於難問答。其心無所畏。忍辱心決定。端正有威德。十方佛所讚。善能分別說。不樂在人眾。常好在禪定。為求佛道故。於下空中住。
(Kinh: Thế Tôn cũng như thế,
đắc đạo rất gần đây, nhưng các Bồ
Tát ấy, chí vững, chẳng khiếp nhược. Vô
lượng kiếp tới nay, thường hành đạo
Bồ Tát, khéo gạn hỏi, giải đáp. Tâm họ chẳng
sợ hăi, tâm nhẫn nhục quyết định. Đoan
chánh, có oai đức, được mười
phương Phật khen, khéo hay phân biệt nói. Chẳng
ưa nơi đông người, thường chuộng trụ
Thiền Định. V́ mong cầu Phật đạo, trụ
hư không phương dưới).
Nửa bài kệ đầu trùng tụng pháp
đối ứng với thí dụ “tuổi mới hai
mươi lăm”. Ba bài kệ rưỡi kế đó,
trùng tụng đối ứng thí dụ “con trăm tuổi”.
Lược đi không trùng tụng kết luận “khó tin”.
Phần thứ nhất, “trùng tụng nêu bày mối nghi”
đă xong.
15.2.2.2.2.2. Trùng tụng thỉnh cầu
giải đáp
(Kinh)
Ngă đẳng tùng Phật
văn, ư thử sự vô nghi. Nguyện Phật vị vị
lai, diễn thuyết linh khai giải. Nhược hữu
ư thử kinh, sanh nghi bất tín giả, tức
đương đọa ác đạo. Nguyện kim vị
giải thuyết: Thị vô lượng Bồ Tát, vân hà
ư thiểu thời, giáo hóa linh phát tâm, nhi trụ Bất
Thoái địa.
(經)我等從佛聞。於此事無疑。願佛為未來。演說令開解。若有於此經。生疑不信者。即當墮惡道。願今為解說。是無量菩薩。云何於少時。教化令發心。而住不退地。
(Kinh:
Chúng con nghe lời Phật, chẳng nghi ngờ chuyện
này. Nguyện Phật v́ mai sau, diễn nói khiến hiểu
rơ. Nếu ai với kinh này, sanh nghi, chẳng tin tưởng,
sẽ đọa vào đường ác. Nguyện nay giải
nói cho! Vô lượng Bồ Tát này, sao trong thời gian ngắn,
giáo hóa khiến phát tâm, trụ địa vị Bất Thoái?)
Phần thứ nhất, “do [đức Phật]
khai hiển đại lược, thính chúng dấy động
chấp trước, sanh nghi” đă xong. Giải thích phẩm
Tùng Địa Dũng Xuất đă xong, kế đến
giải thích phẩm Thọ Lượng.
16. Phẩm
thứ mười sáu: Thọ lượng của Như
Lai (Như Lai thọ lượng phẩm đệ thập
lục, 如來壽量品第十六)
Như Lai là thông hiệu của mười
phương ba đời chư Phật, hai loại Phật
(Chân Thân, Ứng Thân), ba loại Phật (Pháp Thân, Báo Thân, Ứng
Thân), Bổn Phật, và Tích Phật. “Thọ” (壽) là “thọ” (受, tiếp nhận). Nói Lượng (量) là bàn định, cân nhắc công
đức của mười phương tam thế
chư Phật, hai loại Phật, ba loại Phật, Bổn
Phật và Tích Phật. Phẩm này chính là bàn định, cân
nhắc công đức của ba loại Phật nơi Bổn
Địa. V́ thế, nói là phẩm Như Lai Thọ Lượng.
Như Lai có rất nhiều nghĩa, nay chỉ nói về
hai thân và ba thân, các loại khác cứ phỏng theo đó
để hiểu.
Hai loại là Chân Thân Như Lai và Ứng Thân
Như Lai. Như Thành Thật Luận nói: “Thừa như
thật đạo, lai thành Chánh Giác, cố danh Như Lai”
(Nương vào đạo như thật để đạt
thành Chánh Giác, cho nên gọi là Như Lai). Đó chính là hiển
thị ư nghĩa của hai thân. V́ sao? “Thừa” là
Như Trí, “Thật” là Như Cảnh, Đạo là
nhân, Giác là quả. Nếu chỉ luận về Thừa, sẽ
là như không có ǵ để hay biết. Nếu chỉ luận
về Thật, sẽ là như không có ǵ có thể biết.
Cảnh và trí ḥa hợp, sẽ có nhân quả. Chiếu cảnh
chưa cùng tột th́ gọi là Nhân. Tận cùng nguồn cội
là Quả. Nhân viên, quả măn, chính là “thừa như thật
đạo, lai thành Chánh Giác”. Đó chính là Chân Thân Như Lai.
Dùng Như Thật
Trí để nương
vào đạo như thật, sanh vào tam hữu (ba cơi, tức Dục Giới,
Sắc Giới, Vô Sắc Giới), thị hiện thành Chánh Giác; đấy
chính là Ứng Thân Như Lai (trí huệ của Báo Thân ngầm
khế hợp pháp, th́ gọi là Chân Thân. Từ Thể khởi
Dụng, th́ gọi là Ứng Thân. Chỉ nói hai thân, đă
nhiếp trọn Pháp Thân).
Tam thân là Pháp Thân Như Lai, Báo Thân Như Lai,
và Hóa Thân Như Lai. Như Đại Luận nói: “Như
pháp tướng giải, như pháp tướng thuyết,
cố danh Như Lai” (hiểu đúng như pháp tướng,
nói đúng như pháp tướng. V́ vậy gọi là
Như Lai). Đấy chính là trọn đủ ư nghĩa tam thân. V́ sao? “Như” tức pháp như, như cảnh, chẳng phải
nhân, chẳng phải quả, có Phật, hay không có Phật,
tánh và tướng thường hằng, trọn khắp hết
thảy các chỗ, chẳng có ǵ sai khác. V́ thế, gọi là
Như. Bất động mà đến th́ gọi là Lai.
Đó là xét theo sở chứng (pháp được chứng).
Đấy chính là Pháp Thân Như Lai. Lại nữa, như
trí tương xứng như lư, từ Lư mà gọi là
Như, từ trí mà Lai (đến). V́ thế gọi là “như
pháp tướng giải”. Đấy
là xét theo năng chứng (chủ
thể chứng) th́ là Báo Thân Như Lai. Lại do cảnh và
trí “như như ḥa hợp”, cho nên có thể thị hiện
thành Chánh Giác ở mọi nơi, chuyển chánh pháp luân. V́ thế
nói “như pháp tướng thuyết”. Đó là xét theo sự
dấy khởi tác dụng, tức là Hóa Thân Như Lai. Kệ
rằng: “Thủy ngân ḥa chân kim, năng đồ chư
sắc tượng, công đức ḥa Pháp Thân, xứ xứ
ứng hiện văng” (Thủy ngân và vàng ṛng, hay thếp
các bức tượng. Công đức và Pháp Thân. Tới ứng
hiện khắp chốn). Như bóng trăng sáng in xuống
khắp muôn sông, cho nên gọi là Ứng, cũng gọi là
Hóa. Ba thân ấy chẳng thể giữ riêng lấy một
[thân nào]. V́ thế, Đại Kinh nói: “Pháp Thân diệc phi
Niết Bàn, Bát Nhă diệc phi Niết Bàn, giải thoát diệc
phi Niết Bàn” (Pháp Thân cũng chẳng phải là Niết
Bàn, Bát Nhă cũng chẳng phải là Niết Bàn, giải
thoát cũng chẳng phải là Niết Bàn). Ba pháp trọn
đủ, được gọi là Bí Mật Tạng,
đặt tên là Đại Niết Bàn.
Hăy nên biết: Đối với
tam thân, chẳng thể [nẩy sanh ư niệm] “một, khác,
ngang, dọc, cùng nhau, khác biệt”. Nắm trọn vẹn
ba pháp th́ gọi bằng giả danh Như Lai. Kinh văn nói
“phi như, phi dị, phi bỉ thiên Như” (chẳng
phải giống nhau, chẳng phải khác nhau, chẳng phải
cái Như thiên lệch) nhằm hiển thị Viên Như, tức
là ư nghĩa Pháp Thân Như Lai. Lại nói “Như Lai như thật
tri kiến tam giới chi tướng” (Như Lai như
thật thấy biết tướng của tam giới) tức
là Như Như Trí xứng hợp Như Như Cảnh.
Dùng Nhất Thiết Chủng Trí để biết, dùng Phật
nhăn để thấy. Đó là ư nghĩa Báo Thân Như Lai. Lại
nói “hoặc thị kỷ thân, kỷ sự, hoặc thị
tha thân, tha sự” (hoặc chỉ bày thân ḿnh, chuyện của
chính ḿnh, hoặc chỉ bày thân người khác, chuyện của
kẻ khác), đó là ư nghĩa Ứng Thân Như Lai. Nếu
chỉ xét tam Như Lai nơi Tánh Đức th́ là chiều
ngang. Nếu xét tam Như Lai (Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân)
nơi Tu Đức th́ là theo chiều dọc. Nếu nói trước
là Pháp Thân, kế đến là Báo Thân, sau cùng là Ứng Thân
th́ cũng là theo chiều dọc. Kinh này nói trọn vẹn
tam Như Lai chẳng dọc, chẳng ngang. Ba thân dù dọc
hay ngang, đều chẳng phải là ư nghĩa trong kinh
này, huống hồ Như Lai được nói trong Tam Tạng
hoặc Thông Giáo ư? Lại nữa, trước thời
Pháp Hoa, cũng nói ư nghĩa ba thân trong Viên Giáo, nhưng đều
là ba thân nơi Tích mà thôi! Ba loại Như Lai thuộc “phát
Tích hiển Bổn” (chỉ ra Tích để hiển lộ
Bổn) rất khác với các kinh. V́ thế, trong luận (Pháp Hoa Luận), ngài Thiên Thân viết:
“Do thị hiện thành đại Bồ
Đề vô thượng, cho nên chỉ bày ba loại Bồ
Đề:
- Một là Ứng Hóa Bồ Đề, tùy
theo đáng nên hiện như thế nào, liền thị hiện
như thế đó, như kinh nói [Phật Thích Ca] vượt
khỏi cung của gịng họ Thích.
- Hai là Báo Phật Bồ Đề, Thập
Địa trọn vẹn, đạt được
thường Niết Bàn, như kinh nói: ‘Từ khi ta thật
sự thành Phật đến nay, đă là vô lượng vô biên kiếp’.
- Ba là Pháp Phật Bồ Đề, tức
là Như Lai Tạng, tánh tịnh Niết Bàn bất biến,
như kinh nói: ‘Như Lai như thật thấy biết
tướng của tam giới’.
Kinh có đủ các nghĩa ấy, c̣n luận
th́ nêu ra danh xưng. Chẳng giải thích như trên đây,
sao có thể dung hội kinh và luận ư?
Lại nữa, đối với mỗi
thân trong tam thân, đều luận đơn và phức. Ư
nghĩa Đơn như trên.
Pháp Thân phức th́ một là tự tánh thanh tịnh
Pháp Thân, hai là ly cấu diệu cực Pháp Thân.
Báo Thân phức th́ một là Tự Thọ Dụng
Báo, hai là Tha Thọ Dụng Báo.
Ứng Thân phức th́ một là Thắng Ứng,
hai là Liệt Ứng. Lại c̣n một là thân ứng hiện
trong Phật giới, hai là thân ứng hiện trong chín pháp
giới kia.
Nếu gộp ba thân đơn và phức ấy
thành hai thân, th́ hai loại Pháp Thân và Tự Thọ Dụng
Báo Thân được gọi là Chân Thân; Tha Thọ Dụng
Báo Thân và Thắng Ứng Thân, Liệt Ứng Thân v.v… được
gọi là Ứng Thân. V́ thế biết: Dù đơn hay phức,
dù hai hay ba, đều là b́nh đẳng. Nếu muốn nói
rộng th́ là bốn thân, mười thân, ba mươi hai
thân, vô lượng thân v.v… tách ra hay gộp vào tự tại.
Nhiều chẳng là nhiều, ít chẳng là ít. Chẳng ít,
chẳng nhiều mà là ít, là nhiều. Nếu chấp vào danh
tướng để rồi mong xằng bậy so đo các kinh hơn kém, sẽ cách biệt
càng xa vậy!
Kế đó, nói về thọ
lượng. Chân Như chẳng ngăn cách các pháp; cho nên gọi
là Thọ (受, tiếp nhận). Đó là Pháp Thân Thọ (thọ
lượng của Pháp Thân). Do cảnh và trí tương ứng, cho
nên gọi là Thọ. Đó là Báo Thân Thọ. Thị hiện
trong một giai đoạn, duy tŕ liên tục chẳng
đoạn, cho nên gọi là Thọ. Đó là Ứng Thân Thọ.
Cân nhắc thọ mạng như lư của Pháp Thân Như
Lai, cân nhắc thọ mạng trí huệ của Báo Thân
Như Lai, cân nhắc thọ mạng đồng duyên của
Ứng Thân Như Lai. V́ thế nói là Thọ Lượng.
“Thọ mạng như lư của
Pháp Thân Như Lai”: Có Phật hay không có Phật, tánh và
tướng thường hằng. Chẳng luận
tương ứng, chẳng luận duy tŕ liên tục, chẳng
phải là vô lượng, chẳng phải là hữu lượng.
V́ thế, kinh văn nói: “Phi
như, phi dị, phi thật, phi hư” (Chẳng như,
chẳng khác, chẳng thật, chẳng hư). Do vậy,
bàn luận, cân nhắc thọ mạng như lư của Pháp
Thân.
“Thọ mạng trí huệ của Báo Thân Như Lai”: Dùng Như
Như Trí khế hợp Như Như Cảnh. Cảnh phát
khởi Trí là Báo. Trí ngầm khế hợp Cảnh là Thọ.
Cảnh đă là vô lượng vô biên, thường trụ
bất diệt, [cho nên] Trí cũng giống như thế.
Ví như hộp to th́ nắp to. V́ thế, kinh văn nói: “Ngă
trí lực như thị, cửu tu nghiệp sở đắc,
huệ quang chiếu vô lượng, thọ mạng
vô số kiếp” (Trí lực ta như thế, nghiệp
tu lâu đạt được. Huệ quang chiếu vô
lượng, thọ mạng vô số kiếp). Đó là nói
đến thọ mạng trí huệ của Báo Thân.
“Thọ mạng đồng
duyên của Ứng Thân Như Lai”: Duyên dài, [thọ mạng]
sẽ dài; duyên ngắn, ắt [thọ mạng] ngắn ngủi.
Như nước trong trăng hiện, trăng thật sự
chẳng đến [in bóng trong nước]. Nước
đục, bóng trăng mất, trăng cũng chẳng
đi. V́ thế, kinh văn nói: “Sổ sổ hiện sanh,
sổ sổ hiện diệt. Hoặc phục tự thuyết
danh tự bất đồng, niên kỷ đại tiểu” (nhiều lượt
hiện sanh, nhiều lượt hiện diệt. Hoặc
lại c̣n tự nói danh tự khác nhau, tuổi tác lớn nhỏ).
Đó là nói đến thọ mạng đồng duyên của
Ứng Thân.
Hăy nên biết thọ mạng
được nói đó chẳng ra ngoài bốn câu: Một
là hữu lượng, hai là vô lượng, ba là vừa là hữu
lượng vừa vô lượng, bốn là chẳng phải
hữu lượng chẳng phải vô lượng. Hữu
lượng sẽ vô thường, vô lượng th́
thường. Vừa hữu lượng vừa vô lượng
th́ vừa thường vừa vô thường. Chẳng phải
hữu lượng chẳng phải vô lượng th́ chẳng
phải thường mà cũng chẳng phải vô thường!
Nay dùng bốn câu để giải thích theo Biệt và Viên:
- Một, giải thích theo Biệt
Giáo. Đối với “chẳng phải thường, chẳng
phải vô thường”, lư “cả hai đằng đều
chẳng phải” ấy đến tột cùng chính là Pháp
Thân. “Thường” tức là Báo Thân. Báo Trí ngầm khế hợp
pháp, cũng là “chẳng phải thường, chẳng phải
vô thường”. Nhưng sau khi giữ lấy Kim Cang Đạo,
chánh trí viên măn, chẳng c̣n sanh diệt, cho nên gọi là
Thường. Lại dựa theo Duy Thức th́ Pháp Thân chẳng
sanh, chẳng diệt, cho nên gọi là Thường. Báo Thân
được sanh bởi sanh nhân, cho nên chẳng phải
là thường. Do [Báo Thân] thành tựu viên măn, cho nên là chẳng phải
là vô thường. Đó chính là “song phi cú” (雙非句, câu nói thể hiện ư “cả hai
đằng đều chẳng phải”, tức chẳng
phải thường, chẳng phải vô thường). “Vừa thường, vừa vô thường” th́ là Ứng Thân. Do ứng dụng
vô tận, nên cũng là thường. Nhiều lần tuyên
xướng “diệt độ” nên cũng là vô thường.
“Vô thường” tức là tác dụng tăng tấn của
trí trước khi đạt được cái tâm kim cang,
cho đến phàm phu sanh, diệt, xuất hiện, mất
đi, đều là vô thường. Ba loại Phật th́ mỗi
loại có một câu, phàm phu có một câu, cho nên là nghĩa
sai biệt.
- Hai, giải thích chung theo Viên Giáo: Trong ba thân,
mỗi thân đều có đủ bốn câu:
a) “Bốn câu của
Pháp Thân”:
Bất sanh, bất diệt,
cho nên gọi là Thường. Chẳng phải là Thường
theo kiểu so đo điên đảo hư vọng của
phàm phu; v́ thế gọi là Vô Thường. Tịch mà cùng chiếu cả hai (chiếu lẫn Thường và
Vô Thường, chiếu sanh và diệt v.v…), v́ thế gọi
là “cũng Thường, cũng Vô Thường”. Cùng phá tám
món điên đảo của thánh lẫn phàm, cho nên gọi
là “chẳng phải thường, chẳng phải vô
thường”.
b) “Bốn câu của
Báo Thân”:
Vượt khỏi Nhị Thừa, cho nên gọi là Thường.
Do chẳng phải là Thường theo kiểu so đo
hư vọng, cho nên gọi là Vô Thường. Trí có thể
cùng chiếu cả hai bên, cho nên gọi là
“vừa thường, vừa vô thường”. Trí ngầm khế
hợp cảnh chân thật, cho nên gọi là “chẳng phải
thường, chẳng phải vô thường”.
c) “Bốn câu của
Ứng Thân”: Ứng dụng bất tuyệt, cho
nên gọi là Thường. Thị hiện cùng sanh diệt
[giống như phàm phu], cho nên gọi là Vô Thường. Hai
nghĩa đều trọn đủ, nên gọi là “vừa
thường, vừa vô thường”. Đă chẳng phải
là Thật Báo, mà cũng chẳng phải là nghiệp cảm,
cho nên gọi là “chẳng phải thường, chẳng phải
vô thường”.
Thậm chí phàm phu cũng trọn
đủ ba loại “bốn câu” ấy: Tâm tánh tùy duyên bất
biến, cho nên gọi là Thường. Như đă nói: Từ
vô thỉ cho đến tận vị lai, luân hồi sanh tử,
tuy sanh nhưng thật sự chẳng sanh, tuy chết mà thật
sự chẳng chết. Đấy là tánh trọn đủ
“Pháp Thân thường”. Tâm tánh ấy bất biến
tùy duyên, lưu chuyển trong năm đường, sanh diệt
chẳng ngừng, th́ gọi là vô thường. Đó là
nghĩa “vô thường” của Pháp Thân. Do tùy duyên mà bất
biến, cho nên cũng là thường. Do bất biến mà
tùy duyên, cho nên cũng là vô thường. Đấy là ư nghĩa
“song diệc” (cũng thường, cũng vô thường)
của Pháp Thân. Tuy bất biến mà chẳng ngưng lặng;
tuy tùy duyên mà chẳng đoạn diệt. Đấy chính
là ư nghĩa “song phi” (chẳng thường, chẳng
vô thường) của Pháp Thân.
Xét theo Pháp Thân “tánh vốn
trọn đủ” th́ đă thành ra bốn câu ấy.
Nương theo Pháp Thân mà dấy Hoặc, Hoặc chính là Bát
Nhă, tức là Báo Thân “tánh vốn trọn đủ”,
cũng tạo thành bốn câu. Nương theo Hoặc và Khổ
mà dấy nghiệp, nghiệp chính là giải thoát, tức là
Ứng Thân “tánh vốn trọn đủ”, cũng tạo
thành bốn câu. Đó chính là Lư Tức Tam Thân của phàm phu,
mỗi thân đều có bốn câu. Danh Tự Tứ Cú c̣n
chẳng có, hà huống hạnh và dụng? Người thuộc căn cơ Viên
Giáo hiểu xứng lư, cho nên có bốn câu thuộc về Danh Tự Tam Thân, bốn câu thuộc về Quán Hạnh Tam Thân, cho đến đă thành tựu quả
th́ sẽ là bốn câu thuộc
về Cứu
Cánh Tam Thân. Từ đầu tới cuối, một thân
chính là ba thân, ba thân chính là một thân, chẳng một, chẳng
khác, mà cũng chẳng ngang dọc!
Hăy nên biết
một Phật thân trọn đủ công đức thọ
mạng của các thân, tùy theo duyên cảm vời mà trông thấy
[thọ mạng nơi thân ấy] dài hay ngắn khác
nhau. Đại Kinh dạy: “Phàm phu, Nhị Thừa kiến
Phật thọ mạng do như Đông nhật. Bồ Tát
sở kiến do như Xuân nhật. Duy Phật kiến Phật
thọ mạng vô lượng, do như Hạ
nhật”
(Phàm phu, Nhị Thừa thấy thọ mạng của Phật
như ngày Đông, Bồ Tát thấy như ngày mùa Xuân, chỉ
có Phật thấy thọ mạng của Phật vô lượng
như ngày mùa Hạ). V́ lẽ nào vậy? Phàm phu lè tè sát
đất bị chướng lấp mờ mịt. Tạng
Thông Nhị Thừa tuy đoạn tứ trụ, chẳng
thấy Trung Đạo. Nếu xả Phần Đoạn [sanh tử], thọ Pháp Tánh Thân, chưa phá vô minh,
sẽ thấy Phật trong cơi Phương Tiện, vẫn
là thân Thắng Ứng. Hăy nên biết Nhị Thừa chỉ
thấy [thọ mạng của Phật ngắn ngủi
như] ngày mùa Đông. Nếu là các vị Bồ Tát chưa
dự vào Sơ Địa trong Biệt Giáo hay Sơ Trụ
trong Viên Giáo, sẽ thấy [thọ mạng của Phật]
giống như phàm phu và Nhị Thừa. Nếu đă phá vô
minh cho đến thọ phần chứng Pháp Thân, nói theo
phương diện chấp giữ, sẽ là được
thấy thọ mạng của Báo Thân. Nói theo phương
diện phủ định, sẽ là Tha Thọ Dụng Báo
Thân, vẫn gọi là Thắng Ứng. Do chưa tột
cùng nguồn cội của Báo Thân, chưa tột cùng pháp
tánh; v́
thế, thấy thọ mạng của Phật giống
như ngày mùa Xuân. Chỉ có Phật và Phật, tột cùng
tánh, thấu tột nguồn, thấy thọ mạng của
Pháp Thân giống như ngày Hè. Do vậy, nêu ra cả ba thí dụ
để sánh ví:
- Một, trong các pháp thường,
hư không bậc nhất. Trong hết thảy thọ mạng,
[thọ mạng của] Như Lai bậc nhất. Đấy
là sánh ví thọ mạng của Pháp Thân chẳng có khởi
đầu, chẳng có kết thúc, tánh tướng tĩnh
lặng.
- Hai, ví như bốn con sông
đều đổ vào biển cả. Đấy là sánh ví
thọ mạng của Báo Thân. Tu tập muôn điều thiện
đều cảm vời Phật báo, quy vào biển thọ
mạng.
- Ba là ao to A Nậu Đạt (Anavatapta)[8]
chảy ra bốn con sông lớn. Đó là sánh ví thọ
mạng của Ứng Thân từ Pháp Thân và Báo Thân lưu xuất,
tùy duyên mà dài hay ngắn.
Sự luận định,
cân nhắc [thọ lượng của Phật] trong phẩm
này gồm chung cả ba thân. Nếu nói theo biệt ư, th́
chính là nói về Báo Thân. V́ sao vậy? Thuận tiện về
nghĩa, dung hội về kinh văn! “Thuận tiện về
ư nghĩa”: Trí huệ của Báo Thân ngầm ứng
hợp trên dưới (trên là ứng hợp chư Phật, dưới là ứng
hợp chúng sanh), tam
thân rành rành trọn đủ. “Dung hội kinh văn”:
“Ngă thành Phật
lai, thậm đại cửu viễn” (Ta kể từ khi thành Phật đến
nay đă rất lâu xa).
V́ thế, có thể lợi ích chúng sanh suốt ba đời.
“Cái được thành tựu” (sở thành) chính là Pháp Thân.
“Cái có thể thành tựu” (năng thành) chính là Báo Thân. Do Pháp
Thân và Báo Thân ḥa hợp bèn có thể
lợi ích chúng sanh. Dùng điều này để suy ra, ư
nghĩa chủ chốt [trong phẩm này] là luận định công đức
của Báo Thân Phật. Các thứ công đức của ba
thân như thế đều do [đức Thế Tôn] đă thành tựu
dưới cội cây đạo tràng từ bao kiếp lâu
xa trong quá khứ trước kia, gọi đó là Bổn.
Trong khoảng giữa và ngày nay (tức là trong nhiều lượt thị hiện giáng
sanh trong cơi này và các cơi khác), [thị hiện] thành tựu [Phật
quả] nơi Tịch Diệt đạo tràng, th́ gọi
là Tích. Chẳng có Bổn, sẽ không có ǵ để thùy Tích
(thị hiện dấu Tích). Chẳng có Tích, sẽ chẳng
có ǵ để hiển lộ Bổn. Bổn và Tích tuy khác,
đều chẳng thể nghĩ bàn như nhau! Như Bổn
Tích được nói trong các kinh khác, coi Pháp Thân và Báo Thân
thành tựu nơi Tịch Diệt đạo tràng là Bổn.
Từ Bổn khởi lên hai loại Thắng Ứng Thân và
Liệt Ứng Thân, đó là Tích. Nay [kinh Pháp Hoa] coi ba thân
thành tựu nơi Tịch Diệt đạo tràng cho đến
ba thân đă thành tựu từ vô lượng kiếp đến
nay đều gọi là Tích, chỉ riêng coi ba thân được
thành tựu do thật sự đắc Bồ Đề
thuở ban đầu là Bổn. V́ thế, khác hẳn các
kinh kia.
* Rộng khai hiển [thọ lượng của Như
Lai] ḥng đoạn nghi sanh tín
16.1. Răn hăy tin tưởng
Tổng cộng
là bốn lần thỉnh, bốn lần răn nhắc
[trong Bổn Môn], cùng với ba lần thỉnh một lần
răn nhắc trong Tích Môn, hợp thành năm lượt
răn nhắc, bảy lượt thỉnh,
[thể hiện ư nghĩa]: Đối với đại sự
đặc biệt lạ lùng, phải nên ân cần trịnh
trọng.
16.1.1. Ba lượt răn nhắc
(Kinh)
Nhĩ thời, Phật cáo chư Bồ Tát, cập nhất
thiết đại chúng: “Chư thiện nam tử! Nhữ
đẳng đương tín giải Như Lai thành đế
chi ngữ”. Phục cáo đại chúng: “Nhữ đẳng
đương tín giải Như Lai thành đế chi ngữ”.
Hựu phục cáo chư đại chúng: “Nhữ đẳng
đương tín giải Như Lai thành đế chi ngữ”.
(經)爾時佛告諸菩薩及一切大眾。諸善男子。汝等當信解如來誠諦之語。復告大眾。汝等當信解如來誠諦之語。又復告諸大眾。汝等當信解如來誠諦之語。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
đức Phật bảo các vị Bồ Tát và hết thảy
đại chúng: “Các thiện nam tử! Các ông hăy nên tin hiểu
lời chân thành của Như Lai”. Lại bảo đại
chúng: “Các ông hăy nên tin hiểu lời chân thành của Như
Lai”. Rồi lại bảo các đại chúng: “Các ông hăy nên
tin hiểu lời chân thành của Như Lai”).
“Thành” là trung thành. “Đế”
là chân thật. Chẳng lừa dối chúng sanh, lời lẽ
dẫn đến lẽ Chân. Trước kia, do căn
cơ [của chúng sanh] nông cạn, chỉ có thể thuận
theo ư họ để nói. V́ thế, phương tiện thực
hiện Quyền, nói tam thừa, nói thọ mạng của
Như Lai ngắn ngủi, chưa nói chân thành, thật sự.
Nay là nói theo ư ḿnh, cho nên nói lời chân thành, chắc thật.
16.1.2. Ba lượt thỉnh
(Kinh)
Thị thời, Bồ Tát đại chúng, Di Lặc vi thủ,
hiệp chưởng, bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Duy
nguyện thuyết chi. Ngă đẳng đương tín thọ
Phật ngữ”. Như thị tam bạch dĩ.
(經)是時菩薩大眾。彌勒為首。合掌白佛言。世尊。惟願說之。我等當信受佛語。如是三白已。
(Kinh: Khi đó, đại
chúng Bồ Tát do ngài Di Lặc cầm đầu, chắp
thay, bạch cùng đức Phật: “Bạch Thế Tôn!
Kính mong hăy nói. Chúng con sẽ tin nhận lời Phật”. Bạch
ba lần như thế xong).
Bồ Tát đă vâng nhận lời
răn chân thành, chẳng dám nẩy ḷng ngờ vực. Hễ
đức Phật nói ra, ắt sẽ tin nhận.
16.1.3. Ba lượt trùng thỉnh
(Kinh)
Phục ngôn: - Duy nguyện thuyết chi, ngă đẳng
tương tín thọ Phật ngữ.
(經)復言。惟願說之。我等當信受佛語。
(Kinh: Lại
nói: - Kính mong hăy nói, chúng con sẽ tin nhận lời Phật).
16.1.4. Răn nhắc lần nữa
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn tri chư Bồ Tát tam thỉnh bất
chỉ, nhi cáo chi ngôn: - Nhữ đẳng đế thính.
(經)爾時世尊。知諸菩薩三請不止。而告之言。汝等諦聽。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn biết các Bồ Tát thỉnh ba lượt
không ngừng, bèn bảo rằng: - Các ông hăy nghe kỹ).
Phần thứ nhất,
“răn hăy tin tưởng” đă xong.
16.2. Chánh thức giải đáp
16.2.1. Trường Hàng
16.2.1.1. Khai cận hiển viễn
16.2.1.1.1. Nêu ra t́nh kiến chấp gần
(Kinh)
Như Lai bí mật thần thông chi lực, nhất thiết
thế gian thiên, nhân, cập A Tu La, giai vị kim Thích Ca Mâu
Ni Phật xuất Thích thị cung, khứ Già Da thành bất
viễn, tọa ư đạo tràng, đắc A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
(經)如來秘密神通之力。一切世間天人及阿修羅。皆謂今釋迦牟尼佛。出釋氏宮。去伽耶城不遠。坐於道場。得阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh: Sức thần
thông bí mật của Như Lai. Hết thảy trời,
người, và A Tu La trong thế gian đều cho rằng
nay Thích Ca Mâu Ni Phật ra khỏi cung họ Thích, cách thành
Già Da chẳng xa, ngồi nơi đạo tràng, đắc
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).
Đoạn kinh văn này có
ba ư:
- Một, nói đến “Như
Lai bí mật thần thông chi lực” (sức thần thông
bí mật của Như Lai) tức là nói đến pháp
để thoát mê.
- Hai, nói “nhất thiết
thế gian thiên, nhân, cập A Tu La” (hết thảy trời,
người và A Tu La trong thế gian) là nói đến đại
chúng có thể thoát mê.
- Ba, nói “giai vị Thích Ca…”
(đều nói Phật Thích Ca…) là nói đến t́nh kiến
do mê mất [thọ mạng] dài lâu của Như Lai mà ra.
“Bí mật”: Một thân
chính là ba thân th́ gọi là Bí. Ba thân chính là một thân th́ gọi
là Mật. Lại nữa, trước kia chẳng nói th́ gọi
là Bí. Chỉ có Phật tự biết, cho nên gọi là Mật.
“Thần thông chi lực” (sức thần thông): Tác dụng
của ba thân. “Thần” là lư tự nhiên bất động,
tức Pháp Tánh Thân. “Thông” là trí huệ không úng tắc
chẳng thể nghĩ bàn, tức là Báo Thân nơi quả. “Lực”
là vận dụng tự tại, tức Ứng Hóa Thân. Phật
trong ba đời, b́nh đẳng có ba thân. Thật sự
đạt được ba thân cho đến nay đă rất
lâu. Trong các giáo, giữ kín điều này chẳng nói. V́ thế,
hết thảy trời, người, A Tu La đều cho rằng
ngày nay đức Phật ở dưới cội Bồ
Đề mới đạt được ba thân ấy.
Đó chính là chấp gần mà nghi xa vậy.
Nói theo Bổn, chẳng c̣n nhắc
tới Nhị Thừa. Sau khi đă khai bày Nhị Thừa
[là pháp quyền biến, tất cả các đệ tử
Thanh Văn và Duyên Giác] đều gọi là Bồ Tát. V́ thế,
chỉ đối trước Bồ Tát [mà giảng
nói]. Bồ Tát được nói gộp trong ba thiện
đạo “thiên, nhân, A Tu La”. Ba đường ác kia do tội
nặng, căn độn, trí ít, hoàn toàn chẳng biết
đến cách nói theo t́nh kiến này. Bồ
Tát cũng có ba loại: Hạ phương, phương
khác, và cựu trụ. Hạ phương tức những vị
được hóa độ nơi Bổn; v́ thế họ
chẳng có sự chấp trước đối với thọ
mạng gần đây. Phương khác và cựu trụ
đều có hai loại:
- Một là từ Pháp Thân mà ứng
hiện sanh ra. Đời trước đă đắc Vô
Sanh, hoặc trước đó đă nghe phơi bày Tích, hiển
lộ Bổn. Dù là đời trước chưa nghe hay
đă được nghe, khi báo tận trong đời
trước, sẽ thọ Pháp Tánh Thân. Trong địa vị
Pháp Thân, đương nhiên được nghe nói [thọ
mạng của Như Lai] dài lâu. V́ thế, họ là Ứng
Sanh
Bồ Tát (hàng Bồ Tát do ứng hiện mà sanh trong thế
gian này). Phần nhiều
[các vị Bồ Tát ấy] chẳng chấp trước [“Như
Lai mới thành Phật”] trong thời gần đây.
- Hai là các vị trong đời
này mới đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn và các
vị chưa đắc th́ sẽ đều cùng nói [chấp
trước] như thế!
16.2.1.1.2. Phá chấp gần để hiển
viễn
Lời răn chân
thành, chắc thật trong phần trên chỉ nhằm ư này.
Phần này lại chia thành hai [tiểu đoạn]:
- Một, chỉ rơ đức
Phật đă thành Phật từ lâu.
- Hai, nêu thí dụ để
sánh ví sự dài lâu ấy.
16.2.1.1.2.1. Chỉ rơ đức Phật
đă thành Phật từ lâu
(Kinh)
Nhiên thiện nam tử, ngă thật thành Phật dĩ lai, vô
lượng vô biên bách thiên vạn ức na-do-tha kiếp.
(經)然善男子。我實成佛已來。無量無邊百千萬億那由他劫。
(Kinh: Nhưng
thiện nam tử, ta thật sự thành Phật tới nay
đă là vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức
na-do-tha kiếp).
[Nay do biết đức Phật]
thành Phật quá lâu xa, cho nên ư niệm chấp trước [“Phật
mới đắc đạo”] gần đây tại
thành Già Da liền bị phá.
16.2.1.1.2.2. Nêu thí dụ để sánh
ví sự lâu xa
16.2.1.1.2.2.1. Nêu thí dụ để hỏi
(Kinh)
Thí như ngũ bách thiên vạn ức na-do-tha A-tăng-kỳ
tam thiên đại thiên thế giới, giả sử hữu
nhân mạt vi vi trần, quá ư Đông phương ngũ
bách thiên vạn ức na-do-tha A-tăng-kỳ quốc, năi hạ
nhất trần. Như thị Đông hành, tận thị
vi trần. Chư thiện nam tử! Ư ư vân hà? Thị
chư thế giới, khả đắc tư duy, giảo
kế, tri kỳ số phủ?
(經)譬如五百千萬億那由他阿僧祇三千大千世界。假使有人。抹為微塵。過於東方五百千萬億那由他阿僧祇國。乃下一塵。如是東行。盡是微塵。諸善男子於意云何。是諸世界。可得思惟校計。知其數不。
(Kinh: Ví
như năm trăm ngàn vạn ức na-do-tha A-tăng-kỳ
tam thiên đại thiên thế giới, giả sử có
người nghiền nát thành vi trần, qua khỏi năm
trăm ngàn vạn ức na-do-tha A-tăng-kỳ thế giới
ở phương Đông mới để xuống một
hạt vi trần. Đi về phương Đông như
thế cho đến hết số vi trần ấy. Các thiện
nam tử! Ư các ông nghĩ sao? Các thế giới ấy có thể
tư duy, so sánh, tính toán để biết được
con số hay chăng?)
Ngay như số thế giới
đă đặt vi trần c̣n chẳng thể nói, huống
hồ các thế giới chẳng đặt vi trần há
có thể nói được ư?
16.2.1.1.2.2.2. Trả lời
(Kinh)
Di Lặc Bồ Tát đẳng câu bạch Phật ngôn: - Thế
Tôn! Thị chư thế giới vô lượng vô biên, phi
toán số sở tri, diệc phi tâm lực sở cập. Nhất
thiết Thanh Văn, Bích Chi Phật dĩ vô lậu trí bất
năng tư duy tri kỳ hạn số. Ngă đẳng trụ
A Duy Việt Trí địa, ư thị sự trung, diệc
sở bất đạt. Thế Tôn! Như thị thế
giới vô lượng vô biên.
(經)彌勒菩薩等俱白佛言。世尊。是諸世界。無量無邊。非算數所知。亦非心力所及。一切聲聞辟支佛以無漏智。不能思惟知其限數。我等住阿惟越致地。於是事中亦所不達。世尊。如是世界。無量無邊。
(Kinh: Các vị
như Di Lặc Bồ Tát v.v… đều bạch cùng đức
Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Các thế giới ấy
vô lượng vô biên, chẳng thể tính toán để biết
được, mà cũng chẳng do tâm lực mà có thể
biết được. Hết thảy Thanh Văn và Bích
Chi Phật dùng trí vô lậu, chẳng thể tư duy biết
nổi chừng hạn của con số ấy. Chúng con trụ
trong địa vị A Duy Việt Trí,
đối với chuyện này cũng chẳng thông đạt.
Bạch Thế Tôn! Các thế giới như thế vô
lượng vô biên).
Một là chẳng thể
dùng tính toán hay tâm lực để thấu đạt. Hai,
chẳng phải do vô lậu trí mà tư duy được.
Ba là bậc A Duy Việt Trí chẳng thông đạt, bởi chỉ có Phật
trí là hay biết mà thôi! V́ thế, [cổ nhân sánh ví] “công
đức của Phật như đất nơi đại
địa trong mười phương, công đức của
bậc Thập Địa như đất trong cơi Diêm Phù”,
chẳng phải là lời hư dối vậy!
16.2.1.1.2.2.3. Gộp chung lại để
hiển lộ sự lâu xa
(Kinh)
Nhĩ thời, Phật cáo đại Bồ Tát chúng: -
Chư thiện nam tử! Kim đương phân minh tuyên ngữ
nhữ đẳng: Thị chư thế giới, nhược
trước vi trần, cập bất trước giả,
tận dĩ vi trần, nhất trần nhất kiếp.
Ngă thành Phật dĩ lai, phục quá ư thử bách thiên vạn ức
na-do-tha A-tăng-kỳ kiếp.
(經)爾時佛告大菩薩眾。諸善男子。今當分明宣語汝等。是諸世界若著微塵及不著者。盡以為塵。一塵一劫。我成佛已來。復過於此百千萬億那由他阿僧祇劫。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, đức Phật bảo đại chúng Bồ
Tát: - Các thiện nam tử! Nay ta sẽ tuyên nói phân minh với
các ông: Các thế giới ấy dù đặt vi trần hay
chẳng đặt, đều coi trọn hết
các vi trần [trong các thế giới ấy], cứ một vi
trần là một kiếp, ta thành Phật đến nay lại
hơn số ấy trăm ngàn vạn ức na-do-tha A-tăng-kỳ
kiếp).
Các thế giới dù đặt
vi trần hay chẳng đặt vi trần đă là chẳng
thể diễn nói, huống hồ số lượng vi trần
trong các thế giới ấy? Huống hồ lại c̣n
hơn số lượng ấy? Ngài Tăng Phó nói: “Bản
dịch cổ của ngài La Thập không có bốn chữ ‘nhất
trần, nhất kiếp’, có vị cao tăng là Đàm Phó
đời Tề tụng kinh, cảm mộng [thần nhân
bảo] ‘[kinh ông tụng] thiếu một câu’. Về sau,
quả nhiên có được [câu bị thiếu ấy]”. Kinh Kim Quang Minh
nói: “Nhất thiết hải thủy, khả tri trích số,
vô hữu năng tri Như Lai chi thọ” (có thể biết
số lượng giọt nước trong hết thảy
các biển, chẳng ai có thể biết tuổi thọ của
Như Lai). Đấy cũng là nói Ngài thường trụ
trong vị lai, chẳng phải là nói Ngài đă [thành Phật]
từ lâu trong quá khứ. Nếu dẫn câu kinh ấy làm chứng,
sẽ chẳng tương ứng cho lắm!
Lại có người dựa
theo Pháp Thân để giải thích điều này, như thế
th́ sẽ có hai điều mê:
- Một, Pháp Thân không có khởi
đầu, há luận kiếp lâu xa được ư?
- Hai, Pháp Thân b́nh đẳng,
lẽ đâu riêng ḿnh đức Thích Ca thành tựu Pháp Thân
trước?
V́ thế, biết [giải
thích thọ lượng của Như Lai dựa theo Pháp
Thân] là chẳng thấu đạt điều cốt lơi của
kinh, cầu sâu mà đâm ra nông cạn!
Hỏi: Hết thảy
chư Phật có đều hiển Bổn hay không? Nếu
có trường hợp hiển và chẳng hiển, sẽ
chẳng thể nói “chư Phật đạo đồng”,
cũng chẳng thể nói “phương tiện này của
ta, chư Phật cũng thế!” Nếu đều cùng
hiển Bổn, chư Phật phải đều cùng nói “đă
thành Phật rất lâu xa” chứ?
Đáp: Hiển Bổn th́ có
thể đồng, nhưng xa hay gần khác nhau. Chẳng hạn
như Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh có tám người
con, Đại Thông Trí Thắng Phật có mười sáu
người con, Phật Thích Ca chỉ có một. Có con giống
nhau, nhưng số lượng không bắt buộc phải
như nhau. Lại nữa, phàm thành Phật th́ chứng
đắc ba thân giống nhau, v́ thế nói “chư Phật
đạo đồng”. Ba đời lợi ích chúng sanh
đều như nhau, cho nên nói “phương tiện này của
ta, chư Phật cũng giống như thế”. Huống
hồ Bổn cao, Tích thấp, Bổn thấp, Tích cao, Bổn
và Tích đều cao, Bổn và Tích đều thấp, có
đến bốn câu, khai hiển trong một giai đoạn
[giáo hóa], cần ǵ phải đều giống hệt
như nhau? Chỉ có đối với nguyên nhân khởi
đầu và kết quả kết thúc th́ xét theo bản thể
sở chứng của chư Phật, sẽ là “cùng
viên măn ba thân”, c̣n tác dụng khởi lên, sẽ là
“cùng
lợi ích ba đời”. Do vậy, chẳng thể nói có sai
khác! Phần thứ nhất, “khai cận, hiển viễn”
đă xong!
16.2.1.2 . Nói rơ ba đời đều
lợi lạc chúng sanh
Ở đây, lấy
chuyện thành đạo lần đầu tiên làm Thể,
làm Bổn. Từ
Thể khởi tác dụng là Tích. Lại coi lúc đầu
tiên thật sự đắc Thể và Dụng là Bổn. Từ
đó trở đi, tất cả các sự khởi tác dụng
trong ba đời đều là Tích. Kinh văn chia làm hai phần:
Một là pháp thuyết, hai là thí thuyết.
16.2.1.2.1. Pháp thuyết (dùng pháp để
giảng nói)
16.2.1.2.1.1. Nêu rơ cả ba đời
đều lợi ích chúng sanh
16.2.1.2.1.1.1. Lợi ích chúng sanh trong quá
khứ
16.2.1.2.1.1.1.1. Chỗ lợi ích chúng
sanh trong quá khứ
(Kinh)
Tự tùng thị lai, ngă thường tại thử Sa Bà thế
giới, thuyết pháp, giáo hóa. Diệc ư dư xứ,
bách thiên vạn ức na-do-tha A-tăng-kỳ quốc đạo
lợi chúng sanh.
(經)自從是來。我常在此娑婆世界說法教化。亦於餘處百千萬億那由他阿僧祇國導利眾生。
(Kinh: Từ
đó trở đi, ta thường ở trong thế giới
Sa Bà này thuyết pháp, giáo hóa. Cũng ở các nơi khác,
trong trăm ngàn vạn ức na-do-tha A-tăng-kỳ cơi
để hướng dẫn, lợi ích chúng sanh).
Cần phải nêu rơ nơi
chốn là v́ trong phần trước đă nói thành đạo
rất lâu, nhưng Ngài ở tại chỗ nào đă lâu? Do
vậy nói Ngài thường ở trong thế giới này và
các cơi khác để thuyết pháp lợi sanh. Cơi Sa Bà này
chính là chỗ để Bổn Ứng Thân cư trụ. Hiện
thời cư trụ là thị hiện, nhưng chẳng dời
khỏi Bổn. Chỉ là xưa nay thời điểm khác
nhau, người thấy Kiếp Hỏa thiêu đốt th́
cho là gần (tức là nghĩ “Phật mới
thành đạo gần đây”), người chiếu
tỏ Bổn th́ thông đạt xa (tức biết Phật
đă thành đạo từ chẳng thể nghĩ bàn vô
lượng kiếp trước). V́ thế nói: “Ngă tịnh
độ bất hủy, thường tại Linh Thứu
sơn” (tịnh độ của ta chẳng hủy hoại,
ta thường ở núi Linh Thứu). Chẳng ĺa Già Da
để cầu cơi Thường Tịch nào khác, chẳng
ra ngoài Tịch Quang mà riêng có Sa Bà được!
16.2.1.2.1.1.1.2. Loại trừ mối
nghi hoặc đối với Tích trong quá khứ
(Kinh) Chư thiện nam tử! Ư thị
trung gian, ngă thuyết Nhiên Đăng Phật đẳng, hựu
phục ngôn kỳ “nhập
ư Niết Bàn”. Như thị giai dĩ phương tiện
phân biệt. (經)諸善男子。於是中間。我說然燈佛等。又復言其入於涅槃。如是皆以方便分別。
(Kinh: Các
thiện nam tử! Trong khoảng trung gian ấy, ta nói Nhiên
Đăng Phật [thọ kư cho ta] v.v… lại c̣n nói “nhập
Niết Bàn”. [Những điều] giống như vậy
đều là phương tiện phân biệt).
Nghi rằng: Nếu đă
thành Phật lâu như thế, cớ sao trong kinh nói vào thời
Nhiên Đăng Phật, [Phật Thích Ca] mới được
thọ kư? Lại nữa, đă thành Phật, chứng thân
thường trụ, v́ sao trong thời Phật Nhiên
Đăng, Nho Đồng Bồ Tát (tiền thân của Phật
Thích Ca) được thọ kư rồi hoằng pháp, hết
tuổi thọ bèn nhập diệt, lại sanh trong các xứ
khác? Các điều [cật vấn] như thể chẳng
thể nói trọn hết từng điều được!
Nay để loại trừ [các mối nghi ấy] bèn nói:
“Đó đều là phương tiện phân biệt”. Ví
như huyễn sư (người làm ảo thuật) biến
hiện huyễn sự, chẳng phải là thật sự
vào lúc đó (lúc được Phật Nhiên Đăng thọ
kư), Phật Thích Ca mới được thọ kư [lần
đầu], cũng chẳng phải là thân Phần Đoạn
xả thọ, nhập diệt, mà đều là từ Bổn
mà thị hiện các dấu vết vậy!
16.2.1.2.1.1.1.3. Trong quá khứ, đă lợi ích các chúng sanh đáng được lợi ích như
thế nào?
16.2.1.2.1.1.1.3.1. Cảm ứng
(Kinh)
Chư thiện nam tử! Nhược hữu chúng sanh lai
chí ngă sở, ngă dĩ Phật nhăn quán kỳ tín đẳng,
chư căn lợi độn, tùy sở ưng độ.
(經)諸善男子。若有眾生來至我所。我以佛眼觀其信等。諸根利鈍。隨所應度。
(Kinh: Các thiện
nam tử! Nếu có chúng sanh đến chỗ của ta, ta
dùng Phật nhăn để xem xét các căn tín, tấn v.v… của họ là lợi hay độn,
rồi sẽ tùy theo lẽ đáng nên mà độ họ).
“Chí ngă sở” (đến
chỗ của ta), tức là hai căn cơ Tiệm và Đốn
của chúng sanh trong quá khứ, ngầm đánh động
Pháp Thân. “Phật nhăn quán” tức là Ngài thành Phật
đă từ lâu, dùng Phật nhăn để xét soi [căn
cơ của người đáng được hóa độ]
chẳng hề sai sót; sau đó sẽ dùng Liệt Ứng
Thân hay Thắng Ứng Thân ḥng lợi ích họ. Căn
cơ thiện có hai lực:
- Một, cảm hoa báo trong
trời người và Quyền quả trong tam thừa.
- Hai, cảm Thật quả
trong Phật đạo.
Nếu dùng pháp nhăn để
quán biết muôn điều thiện, tùy thuộc điều
thiện ấy là nhẹ hay nặng, mỗi đằng
đều đạt được hoa báo và Quyền quả
báo, nhưng chẳng thể rốt ráo biết họ sẽ trọn đạt được quả báo nơi
Chủng Trí. Nếu dùng Phật nhăn chiếu soi muôn điều
thiện, sẽ có thể biết trọn vẹn hoa báo và quả
báo từ đầu đến cuối. Kinh này một mực
nói dùng Phật nhăn để quán, sẽ có thể biết tất
cả muôn điều thiện của chúng sanh, rốt ráo
đạt được cái quả nơi Chủng Trí của
Phật.
“Tín đẳng chư
căn” (các căn như Tín v.v…) chính là Ngũ
Căn [trong ba mươi bảy đạo phẩm]. Huệ căn
chính là liễu nhân, c̣n bốn căn Tín, Tấn, Niệm,
Định đều thuộc về duyên nhân. Hai thứ
thiện căn này, mỗi thứ đều có lợi hay
độn, nhiếp chung cơ duyên Đốn và Tiệm.
Căn cơ thuộc Đốn dù lợi hay độn
đều là căn cơ thuộc Viên Giáo và Biệt Giáo.
Căn cơ thuộc Tiệm Giáo dù lợi hay
độn đều là căn cơ thuộc về Thông
Giáo và Tạng Giáo. Lại nữa, căn cơ Đại
Thừa được gọi là Lợi, căn cơ Tiểu
Thừa được gọi là Độn. Lại nữa,
căn cơ Tiểu Thừa được gọi là Lợi,
[căn cơ] nhân thiên thừa được gọi là Độn. Lại
nữa, đối với các căn thuộc tứ giáo cho
đến các căn cơ thuộc nhân thiên đều luận
định là lợi hay độn. Tất cả các thiện
căn lợi hay độn của chúng sanh trong mười
pháp giới đều là căn cơ. Như Lai đều
xét soi, chẳng hề sai sót, tùy thuộc [kẻ ấy] đáng độ
như thế nào, bèn hiện h́nh
hay dùng âm thanh để tạo lợi ích cho kẻ đó!
16.2.1.2.1.1.1.3.2. Thực hiện sự
giáo hóa
16.2.1.2.1.1.1.3.2.1. Hai thứ lợi ích bằng
h́nh tướng và âm thanh
(Kinh)
Xứ xứ tự thuyết danh tự bất đồng,
niên kỷ đại tiểu, diệc phục hiện ngôn
“đương nhập Niết Bàn”. Hựu dĩ chủng
chủng phương tiện thuyết vi diệu pháp.
(經)處處自說名字不同。年紀大小。亦復現言當入涅槃。又以種種方便說微妙法。
(Kinh: Ở các
nơi, tự nói danh tự khác nhau, tuổi
tác lớn nhỏ, cũng lại thị hiện nói “sẽ
nhập Niết Bàn”. Lại dùng các thứ phương tiện
để nói pháp vi diệu).
“Danh tự bất đồng,
tuổi tác lớn nhỏ”, tức là chẳng phải
sanh mà thị hiện sanh. “Sẽ nhập Niết Bàn”
tức là chẳng phải diệt mà thị hiện diệt,
đều là dùng h́nh tướng để tạo lợi
ích. “Phương tiện thuyết pháp” chính là dùng âm
thanh để tạo lợi ích. “Xứ xứ”
(nơi nơi) tức là theo chiều dọc th́ là vi trần
kiếp số, theo chiều ngang th́ là mười
phương sát hải. Trong mỗi kiếp, đều trọn
khắp mười phương. Trong mỗi cơi, đều
trải qua kiếp số nhiều như vi trần, không ǵ
chẳng phải là nơi chốn và thời điểm
Như Lai thị hiện dấu tích. “Danh tự bất
đồng”: Hoặc thị hiện Thắng Ứng, hoặc
thị hiện Liệt Ứng, hoặc thị hiện thân
Phật, hoặc thị hiện các thân Bồ Tát,
Thanh Văn v.v… Thân đă bất đồng, cho nên danh tự
cũng bất đồng.
“Niên kỷ đại tiểu”
(Tuổi tác lớn hay nhỏ): Đă thị hiện có thân,
bèn có thọ mạng dài hay ngắn khác nhau! Đáng nên dùng thị
hiện sanh để đắc độ th́ đă có thể chốn
chốn “chẳng phải sanh mà thị hiện sanh”.
Đáng nên thị hiện diệt để đắc
độ th́ ắt cũng chốn chốn “chẳng phải
diệt mà thị hiện diệt”. V́ thế nói “diệc
phục hiện ngôn đương nhập Niết Bàn”
(cũng thị hiện nói “sẽ nhập Niết Bàn”).
“Chủng chủng phương tiện thuyết vi diệu
pháp” (các thứ phương tiện để nói pháp vi
diệu): Hoặc Đốn, hoặc Tiệm, hoặc Hiển,
hoặc Mật, hoặc định, bất định, hoặc
nói kèm, hoặc nói đơn độc, hoặc đối
ứng, hoặc ngụ ư, hoặc thực hiện [quyền
biến], hoặc khai, hoặc phế, hoặc lập, nói
chung là phương tiện thiện xảo của Như
Lai, luôn khiến cho chúng sanh rốt ráo được thành tựu
Nhất Thiết Chủng Trí. Do vậy là vi diệu!
16.2.1.2.1.1.1.3.2.2. [Chúng sanh do] đạt
được lợi ích bèn hoan hỷ
(Kinh)
Năng linh chúng sanh phát hoan hỷ tâm.
(經)能令眾生發歡喜心。
(Kinh: Có thể
khiến cho chúng sanh sanh tâm hoan hỷ).
Do hai cách giáo hóa bằng h́nh
tướng hay âm thanh, khiến cho [những người
được hóa độ] đạt được bốn
món lợi ích (Tứ Tất Đàn) Quyền và Thật,
nhưng nói là “hoan hỷ”, tức là nêu ra một thứ
để gồm chung ba thứ c̣n lại. Phần thứ
nhất, “nói về chuyện lợi ích chúng sanh trong quá khứ”
đă xong.
16.2.1.2.1.1.2. Lợi ích chúng sanh trong hiện
tại
16.2.1.2.1.1.2.1. Cảm ứng
(Kinh)
Chư thiện nam tử!
Như Lai kiến chư chúng sanh nhạo ư tiểu pháp,
đức bạc, cấu trọng giả.
(經)諸善男子。如來見諸眾生樂於小法。德薄垢重者。
(Kinh: Các
thiện nam tử! Như Lai thấy các chúng sanh là những kẻ chuộng
tiểu pháp, đức mỏng, cấu chướng nặng
nề).
“Như Lai kiến” tức là Phật nhăn
soi xét. “Chư chúng sanh nhạo tiểu pháp” (các chúng
sanh chuộng tiểu pháp) chính là căn cơ được
thấy [bởi Phật nhăn]. Tham ái hai mươi lăm Hữu
tức là căn cơ nhân thiên, th́ gọi là “chuộng tiểu
pháp”. “Tự cầu diệt độ trong hiện tiền”
tức là căn cơ Nhị Thừa, được gọi
là “chuộng tiểu pháp”. Ưa thích theo thứ tự
dần dần tu tập quanh co trong Phật đạo th́
chính là căn cơ Bồ Tát thuộc tam giáo, cũng gọi
là “chuộng tiểu pháp”. Cho đến kẻ thích “cận thuyết” (thích nói “Như Lai mới thành đạo
trong thời gần đây”) cũng gọi là “chuộng
tiểu pháp”. V́ hai công dụng nơi duyên thiện và liễu
thiện nhỏ nhoi, kém cỏi, cho nên gọi là “đức
bạc” (đức mỏng manh). Do ba thứ Hoặc tức Kiến Tư, Trần Sa, Vô
Minh sâu dày, nên gọi là “cấu trọng”.
Hỏi: Chẳng phải sanh mà thị hiện
sanh, nhằm thực hiện sự giáo hóa Đốn và Tiệm
cho bảy loại phương tiện, có thể gọi
[những kẻ đó] là “chuộng tiểu pháp”, chứ
căn cơ viên đốn đáng nên gọi là “chuộng
đại pháp”, sao lại gọi tuốt là “chuộng
tiểu pháp” vậy?
Đáp: Điều này có bốn nghĩa:
- Một, xét theo khi xưa tuy đă phát đại
tâm, nhưng chẳng thể chuyên ṛng, phần nhiều chấp
trước ham muốn hèn tệ, chẳng thể xuất
thế. V́ thế, gọi ham muốn hèn tệ là “chuộng
tiểu pháp”.
- Hai, xét theo hiện tại. Như khi đức
Phật chưa xuất thế, hàng trời người tuy
có căn cơ Đại Thừa, nhưng tâm đắm
nhiễm niềm vui thế gian, hoặc chấp vào tà kiến.
V́ thế gọi là “chuộng tiểu pháp”. Hai nghĩa
này có cùng ư nghĩa với “uyển chuyển ư địa”
(quằn quại trên đất) trong thí dụ thuộc phần
sau.
- Ba, xét theo tu hành. Tuy chẳng ưa thích tiểu pháp ái kiến trong tam giới,
nhưng ưa chuộng
sự “hôi đoạn” (đoạn chứng diệt thân)
trong tam thừa th́ cũng gọi là “tiểu pháp”. Tuy chẳng
ưa chuộng cận quả trong tam thừa, nhưng thích
tu hành một thừa theo Biệt Giáo, chẳng thể nhất
tâm viên đốn tu trọn khắp. V́ thế gọi là “chuộng
tiểu pháp”.
Ba ư này đều xét theo tu nhân mà nói là “chuộng
tiểu pháp”.
- Bốn là xét theo quả môn. Ưa thích nghe “Phật thành đạo mới gần đây” th́ là tiểu, [tức là
cho rằng Phật] thoát khỏi cung họ Thích mới
đắc Bồ Đề, chẳng thích nghe nói [đức
Phật đă thành đạo] từ rất lâu xa. V́ thế
nói là “chuộng tiểu pháp”. Cái tâm nhỏ nhoi kiểu
đó chẳng phải là ngày nay [mới có]. Nếu trước
đó họ đă ưa thích đại pháp, đức Phật
sẽ chẳng nói Ngài mới thành Phật.
Ngài nói “mới thành Phật” đều là v́ [chúng sanh]
ưa thích tiểu pháp vậy.
16.2.1.2 .1.1.2.2. Thực hiện sự
hóa độ
16.2.1.2.1.1.2.2.1. Hiện thân h́nh
(Kinh)
Vị thị nhân thuyết,
ngă thiểu xuất gia, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề. Nhiên ngă thật thành Phật dĩ lai,
cửu viễn nhược tư, đản dĩ
phương tiện giáo hóa chúng sanh linh nhập Phật
đạo, tác như thị thuyết.
(經)為是人說。我少出家。得阿耨多羅三藐三菩提。然我實成佛已來。久遠若斯。但以方便教化眾生令入佛道作如是說。
(Kinh: Bèn v́ kẻ đó nói: “Ta xuất gia
chẳng lâu, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác”. Nhưng kể từ khi ta thật sự thành Phật đến
nay, đă lâu dường ấy! Chỉ v́ phương tiện giáo
hóa chúng sanh, khiến cho họ nhập Phật đạo mà nói
như thế).
Đây là nói v́ chúng sanh trong hiện tại, chẳng
phải sanh mà thị hiện sanh, tuy sanh nhưng thật sự
chẳng sanh. Trước đó, đă nói hai căn cơ
Đốn và Tiệm cảm vời Pháp Thân; nay bèn hiện hai thứ Ứng Thân
thắng và liệt. Liệt Ứng Thân nhằm thích ứng
căn cơ Tiệm. Thắng Ứng Thân nhằm thích ứng
căn cơ Đốn. Hai thứ ứng thân ấy đều
có tướng thị hiện sanh thân và Pháp Thân. Hai tướng
sanh của thân Liệt Ứng chính là do
chánh huệ gá vào thai, sanh ra từ hông phải [của mẹ], liền đi bảy
bước, một tay chỉ trời, một tay chỉ
đất, tự nói: “Thiên thượng, thiên hạ, duy ngô
độc tôn” (天上天下。唯吾獨尊, trên trời, dưới trời, chỉ
có Ngă là độc tôn). Đấy chính là tướng sanh ra
của sanh thân. Ngồi trên cỏ Cát Tường, ba
mươi bốn tâm đoạn hết kết tập, chứng
trọn hết năm phần Pháp Thân; đấy chính là
tướng sanh ra của Pháp Thân. Sanh tướng của
hai thân Thắng Ứng th́ là ngồi
trong cung bằng Chiên Đàn, cùng các vị Bồ
Tát ngự trong thai tạng của bà Ma Da, thường nói
Đại Thừa, thực hiện Phật sự lớn
lao, từ hông phải [của mẹ] sanh ra, trong mười
phương, mỗi phương đều đi trọn
bảy bước, hiện tướng sư tử hống.
Đấy chính là sanh tướng nơi sanh thân. Tại Tịch
Diệt đạo tràng, ngồi ṭa Bồ Đề, đắc
Kim Cang hậu tâm, đoạn sạch vô minh, diệu giác rạng
ngời, chiếu tận cùng pháp tánh, Chủng Trí viên minh, vạn
đức trọn đủ. Đó là sanh tướng của
Pháp Thân.
“Xuất gia” chính là Liệt
Ứng Thân ra khỏi nhà Phần Đoạn, hoặc Thắng
Ứng Thân ra khỏi nhà Nhị Tử (hai thứ sanh tử,
tức Phần Đoạn và Biến Dịch). “Đắc
Bồ Đề”: Liệt Ứng Thân đắc Sanh
Diệt Tứ Đế, phát khởi vô lậu tận vô
sanh trí, th́ gọi là Bồ Đề. Thắng Ứng Thân
chiếu đạo Nhất Thật nơi Tam Đế, rốt
ráo Nhất Thiết Chủng Trí th́ là Bồ Đề (Sanh
tướng của hai thứ sanh thân thuộc Thắng Ứng
và Liệt Ứng chỉ là một phen gá thai rồi xuất
sanh, nhưng căn cơ Đại Thừa và Tiểu Thừa
sẽ thấy bất đồng. V́ thế, cần phải
thật sự hiểu rơ: Chẳng phải là có hai phen gá
thai và xuất sanh. Hai thứ xuất gia, hai thứ thành
đạo, hai thứ sanh tướng của Pháp Thân
cũng không ǵ chẳng phải là như vậy! V́ thế
nói “song thùy lưỡng tướng” (cùng rủ ḷng thị
hiện hai tướng), cả hai bắt đầu đồng
thời).
Từ “nhiên ngă thật
thành Phật” (nhưng ta thật sự thành Phật) trở
đi, nói rơ Bổn thật sự chẳng sanh. Các hàng trời,
người, A Tu La kia nay mới thấy hai thứ sanh thân
và pháp thân ấy, cho rằng “mới sanh”. Thật ra,
chẳng phải vậy! “Nhưng ta thật sự thành
Phật đă rất lâu xa”, như trong thí dụ ở
phần trên đă nói [thời gian ấy] c̣n nhiều hơn số vi trần trong cơi nước.
Nay thị hiện sanh, nhưng chẳng thật
sự sanh. Nếu ngờ rằng “đă chẳng phải là thật sự
sanh, v́ sao lại thị hiện sanh?” Giải rằng: Chỉ
là phương tiện để giáo hóa chúng sanh
đức mỏng, nghiệp cấu nặng nề, khiến
cho họ nhập Phật đạo. Do đó, nói như thế
này “ta xuất gia chẳng lâu bèn đắc Bồ Đề”.
Các kinh Đại Thừa khác chỉ phá hai thứ sanh
thân và pháp thân của thân Liệt Ứng “tuy sanh mà chẳng
phải thật sự sanh”, chẳng phá sanh thân và pháp thân của
thân Thắng Ứng. Nay nói “đă thành Phật rất lâu”,
chính là nhằm phá trừ [chấp trước] “Pháp
Thân của Thắng Ứng kể từ Tịch Diệt
đạo tràng mới sanh”. Do đó, hoàn toàn
khác với các kinh khác!
16.2.1.2 .1.1.2.2.2. Thuyết pháp
16.2.1.2 .1.1.2.2.2.1. Các pháp đă nói trong một
đời giáo hóa
(Kinh)
Chư thiện nam tử! Như Lai sở diễn kinh
điển, giai vị độ thoát chúng sanh, hoặc thuyết
kỷ thân, hoặc thuyết tha thân, hoặc thị kỷ
thân, hoặc thị tha thân, hoặc thị kỷ sự, hoặc
thị tha sự, chư sở ngôn thuyết, giai thật bất
hư. (經)諸善男子。如來所演經典。皆為度脫眾生。或說己身。或說他身。或示己身。或示他身。或示己事。或示他事。諸所言說。皆實不虛。
(Kinh: Các thiện
nam tử! Kinh điển do Như Lai đă diễn nói
đều v́ độ thoát chúng sanh, hoặc nói về thân
ḿnh, hoặc nói về thân người khác, hoặc chỉ bày
thân ḿnh, hoặc chỉ bày thân người khác, hoặc chỉ bày chuyện của
ḿnh, hoặc chỉ bày chuyện của người khác, các lời lẽ
đă nói đều chân thật chẳng dối).
“Sở diễn kinh điển”
là nói khắp tất
cả ngũ
vị bát giáo trong suốt một đời giáo hóa [của
đức Phật]. “Giai vị độ thoát chúng sanh”
(đều v́ độ thoát chúng sanh): Giải thích chung
[các giáo] Đốn, Tiệm, Hiển, Mật, Định,
Bất Định, không ǵ chẳng nhằm ứng với bệnh mà cho thuốc, khiến
cho họ được độ thoát. “Hoặc thuyết
kỷ thân…” (hoặc nói thân ḿnh…): Nêu đại lược
tất cả các chuyện thị hiện sai biệt trong một
đời giáo hóa. Nói nhân duyên xưa kia của chính ḿnh th́ gọi
là “thuyết kỷ thân”. Nói các thứ nhân duyên của
chư Phật, Bồ Tát, và các đệ tử, th́ gọi là “thuyết
tha thân”. Hiện h́nh tượng thuộc Phật giới
th́ gọi là “thị kỷ thân”. Hiện h́nh tượng
trong chín pháp giới kia th́ gọi là “thị tha thân”.
Hoặc hiện thân Thắng Ứng th́ gọi
là “thị kỷ thân”. Hiện thân Liệt Ứng
th́ gọi là “thị tha thân”. Hiện chuyện thuộc
Phật giới th́ gọi là “thị kỷ sự”. Hiện
chuyện thuộc chín pháp giới th́ gọi là “thị
tha sự”. Hoặc hiện Chủng Trí th́ gọi là
“thị kỷ sự”. Hiện sự đoạn chứng
của tiểu trí th́ gọi là “thị tha sự”. Hiện
đại tự tại th́ gọi là “thị kỷ sự”.
Hiện các thứ như chín loại phiền năo v.v… th́ gọi
là “thị tha sự”.
“Chư sở ngôn thuyết
giai thật bất hư” (những lời nói ra
đều chân thật, chẳng dối): Chỉ rơ [những lời dạy của đức Phật] khác với ngụ
ngôn trong thế gian. Do v́ chúng sanh mà mỗi mỗi đều
thị hiện, mỗi mỗi đều có nhân, có quả.
Mỗi mỗi đều có khởi đầu và kết
thúc. Chỉ là dù nói thân ḿnh, hay thân người khác, chỉ
bày thân ḿnh, hay thân người khác, chuyện của chính
ḿnh hay chuyện của người khác, hoàn toàn chẳng có
mảy may thốt lời hư huyễn, dối trá! V́ thế,
có thể độ thoát hết thảy chúng sanh. Ví như
huyễn sư (nhà ảo thuật) ở ngă tư
đường, biến huyễn các loài vật như voi,
ngựa, trâu, dê… Voi ra voi, ngựa ra ngựa, chẳng có con
vật nào chẳng giống hệt, bèn có thể khiến
cho kẻ ngu, tiểu trí vui thích. Phật cũng giống
như thế, dùng Pháp Tánh Đại
Huyễn
tam-muội trọn khắp mười phương ba đời,
biến huyễn thân ḿnh, thân người, chuyện ḿnh,
chuyện người, chỉ dạy cho kẻ khác, khiến
cho các chúng sanh đó đều được thấy nghe,
hoàn toàn chẳng có chuyện nào bịa đặt, nói suông,
khiến cho chúng sanh hễ tin nhận đều được
độ thoát.
16.2.1.2.1.1.2.2.2.2. Giải thích nguyên do v́
sao nói thiện xảo
16.2.1.2.1.1.2.2.2.2.1. Do chiếu lư Quyền
Thật, đó chính là cái gốc để nói năng, chỉ
bày
(Kinh)
Sở dĩ giả hà? Như Lai như thật tri kiến
tam giới chi tướng, vô hữu sanh tử, nhược
thoái, nhược xuất, diệc vô tại thế, cập
diệt độ giả, phi thật, phi hư, phi như,
phi dị, bất như tam giới, kiến ư tam giới.
Như tư chi sự, Như Lai minh kiến, vô hữu thác
mậu.
(經)所以者何。如來如實知見三界之相。無有生死若退若出。亦無在世及滅度者。非實非虛。非如非異。不如三界見於三界。如斯之事。如來明見無有錯謬。
(Kinh: V́ lẽ nào vậy?
Như Lai đúng như thật thấy biết tướng
của tam giới, chẳng có sanh tử, hoặc thoái, hoặc
xuất, cũng chẳng ở đời và diệt độ,
chẳng thật, chẳng hư, chẳng như, chẳng
khác, chẳng như tam giới mà thấy tam giới. Chuyện
như vậy Như Lai thấy rơ, chẳng có sai lầm).
Một niệm hiện tiền
Chân Như pháp tánh vốn chẳng có một pháp nào để
có thể đạt được, nhưng chẳng có
pháp nào không đầy đủ, chẳng có pháp nào không tạo.
Hết thảy phàm thánh b́nh đẳng, chẳng sai biệt;
nhưng phàm phu và hàng Nhị Thừa vướng mắc
nơi hai loại tử (Phần Đoạn và Biến Dịch),
chẳng thể tự độ, tự thoát. Các hàng đại
Bồ Tát c̣n thuộc địa vị tu nhân th́ hạn cuộc
nơi số lượng, chẳng thể theo chiều dọc
trọn khắp, theo chiều ngang cùng tột, đều là do chưa
thể chứng triệt để viên măn Chân Như pháp
tánh ấy. Chỉ có Như Lai từ kiếp lâu xa đến
nay đă viên măn chứng triệt để chân pháp tánh ấy.
Cho nên Ngài có thể dùng Chủng Trí Phật nhăn như thật
thấy biết hai thứ tướng tam giới
Phần
Đoạn và Biến Dịch. Ngay nơi bản thể
chính là Chân Như Thật Tướng, biết rơ hai loại
sanh tử chẳng phải là sanh tử. Chẳng có thoái thất
mà ở trong thế gian: Đă chẳng có sanh tử để
lùi bước, sẽ chẳng có sanh tử để thoát
ra. V́ thế chẳng có thoát ra mà diệt độ.
“Chẳng có sanh tử, hoặc
thoái, hoặc xuất” tức là Thật pháp trong mười
pháp giới đều là Không. “Diệc vô tại thế,
cập diệt độ” (cũng chẳng đang tại
thế và diệt độ): Giả danh trong mười
pháp giới đều là Không. Sanh tử và Niết Bàn đều
b́nh đẳng, giống như giấc mộng đêm qua,
cho nên “chẳng thật”. Mê là sanh tử, ngộ bèn chứng
Niết Bàn, duyên khởi rành rành; v́ thế “chẳng hư
huyễn”. Chẳng sai biệt mà mười pháp giới sai
biệt, cho nên “chẳng Như”. Tức là sai biệt,
nhưng một tánh dung thông, cho nên “chẳng khác”. Chẳng
giống như hai loại người trong tam giới: Hoặc
thấy tam giới là Có, hoặc thấy tam giới là Không.
V́ thế nói “bất như tam giới kiến ư tam giới”
(chẳng như tam giới mà thấy tam giới). “Như
tư chi sự” (chuyện như thế đó) chính là tổng
kết Chân Tục Diệu Đế vừa được
diễn tả trong phần kinh văn trước đó, tức
là sanh tử mà chẳng có sanh tử, tức là thoái thất
mà chẳng thoái thất, tức là thoát ra mà chẳng thoát ra,
tức là ở trong thế gian mà chẳng ở trong thế
gian, tức là diệt độ mà chẳng diệt, tức
là Chân mà chẳng phải Chân,
tức là hư mà chẳng phải hư, tức là Như
mà chẳng phải Như, tức là dị (khác biệt) mà
chẳng phải dị. Có nghĩa là đối với chuyện
“ngay nơi Tục chính là Chân”, Như Lai dùng trí như
lư để thấy rơ, chẳng hề sai lầm. V́ thế,
Ngài có thể thuận theo trí mà nói theo ư ḿnh, khai Quyền hiển
Thật, khai Tích hiển Bổn. [Chúng sanh vốn] chẳng
có sanh tử mà hư vọng thấy có sanh tử, chẳng
có thoái xuất mà hư vọng thấy thoái xuất, chẳng
có tại thế mà hư vọng thấy tại thế, chẳng
diệt độ mà hư vọng thấy diệt độ,
chẳng thật mà hư vọng thấy là thật, chẳng
hư mà
hư vọng thấy là hư, chẳng như mà hư vọng
thấy là như, chẳng khác mà hư vọng thấy là
khác. Đó gọi là đối với chuyện “Chân chính
là Tục”, Như Lai dùng như lượng trí để
thấy rơ, chẳng hề sai lầm! V́ thế, có thể thuận theo t́nh kiến
mà nói thuận theo ư của người khác. Do Thật mà thực
hiện Quyền, v́ Bổn mà rủ ḷng thị hiện Tích
vậy!
16.2.1.2 .1.1.2.2.2.2.2. Do tương xứng
với căn cơ Tiệm hay Đốn, đó chính là cái
duyên để diễn nói, chỉ bày
(Kinh)
Dĩ chư chúng sanh hữu chủng chủng tánh, chủng
chủng dục, chủng chủng hạnh, chủng chủng
ức tưởng phân biệt cố, dục linh sanh
chư thiện căn, dĩ nhược can nhân duyên, thí dụ,
ngôn từ, chủng chủng thuyết pháp, sở tác Phật
sự, vị tằng tạm phế.
(經)以諸眾生有種種性。種種欲。種種行。種種憶想分別故。欲令生諸善根。以若干因緣譬喻言辭。種種說法。所作佛事。未曾暫廢。
(Kinh: Do các chúng
sanh có các thứ tánh, các thứ dục, các thứ hạnh,
các thứ nhớ nghĩ, phân biệt, muốn khiến cho
họ sanh các căn lành, liền dùng ngần ấy nhân
duyên, thí dụ, ngôn từ, các cách thuyết pháp, thực hiện
Phật sự, chưa từng tạm bỏ).
“Chủng chủng” (các thứ) là Đốn, Tiệm, lợi, độn,
ngàn vạn sai khác! “Tánh” [ở đây phải hiểu
là “tập tánh”], tức là do thói quen và ham muốn tạo
thành, tức là nói đến các thứ căn cội, chủng
tử trong quá khứ. “Dục” là sự ưa muốn,
tức là từ chủng tử phát khởi mà hiện hành. “Hạnh”
tức là nghiệp hạnh thiện ác đă tạo do thuận
theo các thứ ưa muốn, cho đến các hạnh xuất
thế trong tam thừa hay nhất thừa. “Ức tưởng
phân biệt”: Thuận theo những ǵ đă làm mà sanh ra sự
thấu hiểu, tức là tương tự trí huệ.
Đối với các thứ tánh, đáng nên sử dụng
các thứ Vị Nhân Tất Đàn. Đối với các thứ
dục, đáng nên sử dụng các thứ Thế Giới
Tất Đàn. Đối với các thứ hạnh,
đáng nên sử dụng hai loại Vị Nhân và Đối
Trị Tất Đàn. Đối với các thứ nghĩ
nhớ, phân biệt, đáng nên sử dụng các thứ
Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn. V́ lẽ nào vậy?
Thuận theo sự hiểu biết nghĩ nhớ của họ
mà v́ họ thuyết pháp, họ sẽ hiểu rơ ràng Đệ
Nhất Nghĩa, cho đến hàng Sơ Địa khi
ưa muốn tu hành Đệ Nhị Địa, cũng ắt
phải nghĩ nhớ cảnh thuộc Nhị Địa.
Đó chính là “niệm tưởng”. Nếu phát khởi
chân giải (sự thông hiểu chân thật) thuộc Nhị
Địa th́ tức là niệm tưởng quán trừ,
ngôn ngữ và pháp đều diệt. Cho đến địa
vị Phật th́ mới rốt ráo ĺa khỏi nhớ
tưởng, đạt được thường tịch
chiếu. V́ thế, dùng ngần ấy nhân duyên, thí dụ,
ngôn từ, các cách thuyết pháp, khiến cho họ sanh
trưởng các thiện căn, thực hiện các Phật
sự chưa từng tạm bỏ! Thiện căn Quyền
Thật có ba loại, năm loại, bảy loại, chín loại
khác nhau, v́ thế gọi là Chư. Rốt ráo đều quy
vào Nhất Thiết Chủng Trí, cho nên gọi là “Phật
sự”. Tam luân giáo hóa (dùng thân nghiệp, khẩu nghiệp,
và ư nghiệp để giáo hóa) chẳng thể nghĩ bàn,
suốt ngày đêm thường diễn nói, khiến cho
người khác đạt được lợi
ích chẳng hề có gián đoạn, ngưng nghỉ. Do
đó nói là “vị tằng tạm phế” (chưa từng
tạm bỏ). Phần thứ hai, “nói về sự lợi
ích chúng sanh trong hiện tại” đă xong!
16.2.1.2 .1.1.3. Lợi ích chúng sanh trong vị
lai
16.2.1.2 .1.1.3.1. Nói rơ “chẳng diệt
độ mà xướng sẽ diệt độ” ḥng tạo
lợi ích cho vị lai
16.2.1.2 .1.1.3.1.1. Nêu rơ nơi Bổn thật
sự chẳng diệt
(Kinh)
Như thị ngă thành Phật dĩ lai, thậm đại
cửu viễn, thọ mạng vô lượng A-tăng-kỳ
kiếp, thường trụ bất diệt. Chư thiện
nam tử! Ngă bổn hành Bồ Tát đạo thời, sở
thành thọ mạng, kim do vị tận, phục bội
thượng số.
(經)如是我成佛已來。甚大久遠。壽命無量阿僧祇劫。常住不滅。諸善男子。我本行菩薩道時所成壽命。今猶未盡。復倍上數。
(Kinh: Như
thế đó, ta từ khi thành Phật cho đến nay hết
sức lâu xa, thọ mạng vô lượng A-tăng-kỳ
kiếp, thường trụ bất diệt. Các thiện
nam tử! Khi ta vốn hành Bồ Tát đạo, đă thành
tựu thọ mạng cho đến nay vẫn chưa hết,
c̣n gấp bội số trên đây).
[Nói] “hết sức lâu xa,
thọ mạng vô lượng A-tăng-kỳ kiếp”
nhằm nhắc lại chuyện quá khứ trong phần
trước. “Thường trụ bất diệt”
nghĩa là trong vị lai luôn vĩnh viễn tạo lợi
ích cho chúng sanh. Từ “ngă bổn hành” (ta vốn hành) trở
đi, nêu ra cái nhân ḥng sánh ví cái quả để nói rơ sự
thường trụ. Tức là ở nơi Bổn,
trước khi thành Phật, thoạt đầu ngộ
viên nhân bèn chứng Viên Trụ (Sơ Trụ trong Viên Giáo),
phần chứng tuổi thọ của Pháp Thân thường
trụ. [Tuổi thọ ấy]
đă chẳng thể tận, gấp bội số lượng
vi trần đă nói trong phần trên, huống hồ quả
thọ (thọ mạng khi đắc Phật quả) mà chẳng
phải là thường trụ ư? Ví như khi làm Thái Tử,
bổng lộc đă chẳng thể tận, huống hồ
khi lên ngôi vị tôn quư tột bậc (làm vua), bổng lộc
há có thể tận ư? Hăy nên biết thọ mạng của
Pháp Thân chẳng có khởi đầu, chẳng có kết
thúc. Thọ mạng của Báo Thân có khởi đầu, chẳng
có kết thúc. Thọ mạng của Ứng Thân tùy duyên mà
dài hay ngắn, thị hiện có khởi đầu và kết
thúc. Ở đây, kinh nói tới thọ mạng do Báo Thân tu
được, cho nên trong quá khứ tuy đă dựa theo số
vi trần trong cơi nước để làm thí dụ, vẫn
là có khởi đầu. Đối với vị lai, bèn nói thẳng thừng “thường
trụ bất diệt”, tức là chẳng có kết
thúc. Nhưng tam thân vốn chẳng phải là một hay
khác, kẻ độn căn chỉ thấy thân ứng hóa,
chẳng biết đó chính là Báo Thân, chính là Pháp Thân. Do
đó, hư vọng so đo vô thường! Kẻ lợi
căn đối với thân Ứng Hóa liền
ngộ đấy chính là Pháp Thân, hay Báo Thân. V́ vậy, có thể
biết là thường trụ!
16.2.1.2 .1.1.3.1.2. Nói rơ phương tiện
xướng “diệt độ”
(Kinh)
Nhiên kim phi thật diệt độ, nhi tiện xướng
ngôn “đương thủ diệt độ”, Như Lai dĩ thị phương tiện
giáo hóa chúng sanh.
(經)然今非實滅度。而便唱言當取滅度。如來以是方便教化眾生。
(Kinh:
Nhưng nay chẳng phải là thật sự diệt
độ, mà bèn xướng rằng “sẽ diệt độ”.
Như Lai dùng phương tiện ấy để giáo hóa
chúng sanh).
Chúng sanh trong hiện
tại thấy Phật, nghe pháp, hoặc mới thấy
thân ta, nghe lời ta nói, liền đều tin nhận, nhập
Như Lai huệ. Hoặc kẻ trước kia đă tu tập,
học pháp Tiểu Thừa, ta nay cũng khiến cho họ
được nghe kinh này, nhập vào Phật huệ.
Đă nhập Phật huệ, liền biết Như Lai thường
trụ bất diệt. [Như Lai] chẳng v́ hạng
người như thế mà xướng “diệt độ”.
Có các đại chúng kết duyên sơ sài, cho đến
năm ngàn người rời pháp hội lui về, hoặc
những kẻ được dời sang phương khác,
hiện thời chưa
gieo duyên, hay duyên chưa chín muồi để được
độ thoát; các chúng sanh ấy sẽ hữu
duyên trong tương lai. V́ thế, [đức Phật] dùng
phương tiện xướng “diệt độ”
để giáo hóa họ. Hăy nên biết: Tam thân đều có ư nghĩa “chẳng
phải diệt mà xướng diệt”. Pháp Thân chẳng
diệt mà xướng là diệt, như kinh Tịnh Danh
nói: “Pháp bổn bất sanh, kim tắc vô diệt” (Pháp
vốn chẳng sanh, nay th́ chẳng diệt). Đó chính là
Pháp Thân chẳng diệt. Kinh lại nói: “Thị tịch
diệt nghĩa” (là ư nghĩa tịch diệt), tức là
Pháp Thân xướng “diệt độ”. V́ sao? Nếu
đă liễu đạt, sẽ chẳng xướng tịch
diệt; chỉ v́
kẻ chưa liễu đạt mà xướng [“sẽ diệt
độ”] đó thôi! Lại nữa, nếu nói “chiếu
tịch” tức là xướng “diệt”. Nếu
nói “tịch chiếu” tức là xướng “sanh”.
Tuy Pháp Thân chẳng sanh, chẳng
diệt, nhưng cũng có sanh diệt: Nếu mê tâm chấp
trước, sẽ là phiền năo sanh mà trí huệ diệt.
Nếu giải tâm vô nhiễm, tức là trí huệ sanh mà phiền
năo diệt. Diệt Hoặc sanh giải, đấy chính là
vô thường diệt. Nếu giải sanh, Hoặc diệt,
th́ chính là tịch diệt. Sự sanh diệt ấy đều
xét theo pháp tánh mà biện định. Nếu chẳng có hai
duyên mê và giải, sẽ chẳng xướng có sự sanh diệt ấy.
“Báo Thân chẳng diệt mà
xướng diệt”: Ai có trí huệ, ai có phiền năo mà
nói “trí huệ có thể phá phiền năo”? Đấy chính là
sáng và tối chẳng trừ khử lẫn nhau. Đó chính
là ư nghĩa “Báo Thân bất diệt”. Chúng sanh chưa hiểu
rơ, nghe điều ấy bèn cho rằng chính ḿnh là Phật,
sanh ḷng kiêu căng, phóng túng, chẳng c̣n tu đạo. V́ thế,
lại xướng rằng: “Đạo có thể diệt
Hoặc. Khi có phiền năo th́ sẽ chẳng có trí huệ.
Khi có trí huệ th́ sẽ chẳng có phiền năo”, há chẳng
phải là trí huệ có thể diệt phiền năo ư?
“Ứng Thân chẳng diệt
mà xướng diệt”: Ứng là tác dụng của Pháp
Thân và Báo Thân. Thể đă là chẳng diệt, há Dụng có
cùng tận ư? Tức là Ứng Thân bất
diệt. Chỉ v́ chúng sanh nếu thường thấy Phật,
sẽ sanh tâm kiêu căng, phóng túng. V́ thế xướng “ngă ư kim dạ đương
thủ diệt độ” (đêm
nay ta sẽ diệt độ).
Lại nữa, bản thể của Pháp Thân là bất sanh,
bất diệt. Báo Thân liễu đạt “chẳng thể
sanh diệt”. Ứng Thân liên tục chẳng sanh, chẳng
diệt. Do đó, ba thân đều chẳng phải là diệt.
Nay v́ phương tiện giáo hóa chúng sanh, nơi Ứng Thân
bèn xướng diệt. Về mặt Sự th́ giống
như ba thân đều xướng diệt độ. Phần
thứ nhất, “nói về chuyện chẳng diệt độ
mà xướng diệt độ ḥng lợi ích chúng sanh”
đă xong.
16.2.1.2 .1.1.3.2. Giải thích ư nghĩa v́ sao cần
phải xướng “diệt độ”
16.2.1.2 .1.1.3.2.1. Chẳng diệt độ sẽ có tổn hại
(Kinh)
Sở dĩ giả hà? Nhược Phật cửu trụ
ư thế, bạc đức chi nhân bất chủng thiện
căn, bần cùng, hạ tiện, tham trước ngũ dục,
nhập ư ức tưởng, vọng kiến vơng trung.
Nhược kiến Như Lai thường tại bất
diệt, tiện khởi kiêu tứ, nhi hoài yếm đăi, bất
năng sanh nan tao chi tưởng, cung kính chi tâm.
(經)所以者何。若佛久住於世。薄德之人。不種善根。貧窮下賤。貪著五欲。入於憶想妄見網中。若見如來常在不滅。便起憍恣而懷厭怠。不能生難遭之想。恭敬之心。
(Kinh: V́ lẽ
nào vậy? Nếu Phật trụ thế lâu dài, kẻ
đức mỏng, chẳng gieo thiện căn, bần
cùng, hèn hạ, tham chấp ngũ dục, sẽ rơi vào
lưới ức tưởng, kiến giải hư vọng. Nếu họ thấy Như Lai thường c̣n chẳng
diệt, sẽ liền dấy
ḷng kiêu căng, phóng túng, lười nhác, chẳng thể
sanh ư tưởng khó gặp gỡ và tâm cung kính).
“Bất chủng thiện căn” (chẳng gieo thiện
căn) tức là chẳng
sanh hai điều thiện đối với lẽ Chân, sẽ
là vô ích. Tư Hoặc tham chấp ngũ dục, Kiến Hoặc
rơi vào ức tưởng. Do Kiến Tư mới sanh mà
chẳng đoạn, vô minh trùng điệp mà chẳng biết,
tức là chẳng đoạn thông ác và biệt ác;
đó là có tổn hại! Lại c̣n dấy ḷng kiêu căng,
buông lung, tức là tăng thêm Kiến Hoặc. Ôm ḷng lười
nhác, biếng trễ, tức là tăng thêm Tư Hoặc. V́
thế có tổn hại. Chẳng sanh ư tưởng khó gặp
gỡ, tức là chẳng thể nẩy sanh sự hiểu
biết đối với Kiến Đế. Chẳng sanh
tâm cung kính tức là chẳng thể sanh tâm tư duy đạo.
V́ thế vô ích. Nếu thấy nghe ba loại Phật chẳng
diệt, sẽ đều có ư nghĩa “kiêu căng, phóng
túng”.
Nghe Pháp Thân bất diệt, sẽ cho rằng “chúng sanh
như, Di Lặc như, nhất như, vô dị như”,
b́nh đẳng chính là Chân. Do vậy, sanh tâm kiêu ngạo
tăng thượng mạn; [sẽ tưởng lầm] “hết
thảy phiền năo vốn tự chẳng sanh, nay cũng
chẳng diệt, cần ǵ tu đạo?” Dẫu mặc sức
buông lung, vẫn cứ bảo đó là nghĩa Tịch Diệt!
Lại nghe “hết thảy chúng sanh chính là Bồ Đề
tướng. Bồ Đề tướng chính là phiền
năo tướng, sáng và tối chẳng trừ khử lẫn
nhau, hiển xuất Bồ Đề của Phật”,
liền dấy ḷng ngạo mạn, buông lung, chẳng c̣n tu điều
thiện. Giải đăi, buông lung mà bảo là “Báo Thân trí huệ
có thể diệt phiền năo. Đối với
sức
vô minh to lớn, Bồ Đề trí của Phật có thể
diệt”. [Tương tự], đối với Ứng
Thân bất diệt, sẽ nẩy sanh kiêu ngạo, phóng túng
là điều dễ hiểu!
16.2.1.2 .1.1.3.2.2. Xướng “diệt
độ” sẽ hữu ích
(Kinh)
Thị cố, Như Lai dĩ phương tiện thuyết: “Tỳ-kheo
đương tri, chư Phật xuất thế nan khả
trị ngộ”. Sở dĩ giả hà? Chư bạc
đức nhân quá vô lượng bách thiên vạn ức kiếp,
hoặc hữu kiến Phật, hoặc bất kiến giả,
dĩ thử sự cố, ngă tác thị ngôn: “Chư tỳ-kheo!
Như Lai nan khả đắc kiến”. Tư chúng sanh
đẳng văn như thị ngữ, tất
đương sanh ư nan tao chi tưởng, tâm hoài luyến
mộ, khát ngưỡng ư Phật, tiện chủng thiện
căn. Thị cố, Như Lai tuy bất
thật diệt, nhi xướng diệt độ.
(經)是故如來以方便說。比丘當知。諸佛出世。難可值遇。所以者何。諸薄德人。過無量百千萬億劫。或有見佛。或不見者。以此事故。我作是言。諸比丘。如來難可得見。斯眾生等聞如是語。必當生於難遭之想。心懷戀慕。渴仰於佛。便種善根。是故如來雖不實滅。而言滅度。
(Kinh: V́ thế,
Như Lai dùng phương tiện để nói: “Tỳ-kheo
nên biết! Chư Phật xuất thế, khó thể gặp
gỡ”. V́ lẽ nào vậy?
Những kẻ đức mỏng qua khỏi vô lượng
trăm ngàn vạn ức kiếp, có kẻ thấy Phật,
hoặc có kẻ chẳng thấy. Do bởi chuyện này,
ta nói như thế này: “Các tỳ-kheo!
Như Lai khó thể thấy”. Các chúng sanh đó nghe lời
như vậy, ắt sẽ sanh ư tưởng khó gặp, ôm
ḷng luyến mộ, khát ngưỡng đối với Phật,
liền gieo thiện căn. Do vậy, tuy Như Lai chẳng
thật sự diệt độ mà nói diệt độ).
“Thị cố, xướng
ngôn” (V́ thế, xướng rằng): Tuy pháp vốn chẳng
sanh, nhưng nay cũng chẳng diệt, cần phải diệt
Hoặc th́ mới tịch diệt. Đấy là ư nghĩa “Pháp
Thân khó thấy”. Tuy nói “trí huệ chẳng
diệt phiền năo”, nhưng khi sáng
th́ sẽ chẳng tối. Các ông nay trọn đủ phiền
năo, sao có thể có huệ cho được? Hăy nên biết: Trí
huệ có thể diệt chướng hoặc. Đấy
là ư nghĩa “Báo Thân khó thấy”. “Ứng Thân khó thấy”
dễ hiểu! Chúng sanh nghe xướng diệt độ
như thế, sẽ dễ dàng sanh ư tưởng khó gặp
đối với tam thân Phật, bèn luyến mộ,
khát ngưỡng, ác diệt, thiện sanh. V́ thế, ba thân
tuy chẳng thật sự diệt mà xướng diệt.
Phần thứ nhất, “nói về ba đời đều
lợi ích chúng sanh” đă xong.
16.2.1.2 .1.2. Tổng kết chẳng
hư dối
(Kinh)
Hựu thiện nam tử! Chư Phật Như Lai pháp giai
như thị, vị độ chúng sanh, giai thật bất
hư.
(經)又善男子。諸佛如來。法皆如是。為度眾生。皆實不虛。
(Kinh: Lại này
thiện nam tử! Pháp của chư Phật Như Lai
đều như thế, v́ độ chúng sanh, đều
là chân thật chẳng dối).
Đă thành Phật, sẽ
thật sự đắc ba thân, thảy đều bất
sanh, bất diệt. V́ các chúng sanh cho đến hết
đời vị lai, mà thường hiện sanh, hiện
diệt, thật sự đắc ba thân cũng là chân thật
chẳng dối. “Hiện sanh, hiện
diệt” cũng là chân thật, chẳng dối. V́ vậy, chúng
sanh trong ba đời ai nấy đều đạt
được lợi ích cũng chẳng
hư dối. Nếu chỉ luận định Lư, chẳng
luận định Sự, chỉ luận tánh, mà chẳng
luận tu, sẽ giống như ngụ ngôn trong thế
gian, sao có thể gọi là “chẳng hư dối” cho
được? Lại nữa, nếu chỉ luận Sự
mà chẳng thấu đạt Lư, chỉ luận tu mà chẳng
ngộ tánh, sẽ giống như cảnh giới sanh diệt
thuộc Quyền Tiểu, sao có thể gọi là chẳng
hư dối cho được? V́ thế, “đều
chân thật, chẳng hư dối”
chính là Quyền Thật Bổn Tích, không ǵ chẳng phải
là chân thật, chắc chắn. Phần thứ nhất,
Pháp Thuyết đă xong.
16.2.1.2.2. Thí thuyết
16.2.1.2.2.1. Lập thí dụ
16.2.1.2.2.1.1. Thí dụ về
lương y trị bệnh cho con nhằm sánh ví “lợi ích chúng sanh trong ba đời” của phần trên
16.2.1.2.2.1.1.1. Thí dụ “cha đi xa” nhằm sánh ví “lợi ích chúng sanh trong
quá khứ”
(Kinh)
Thí như lương y trí huệ thông đạt, minh luyện
phương dược, thiện trị chúng bệnh. Kỳ
nhân đa chư tử tức, nhược thập, nhị
thập, năi chí bách số, dĩ hữu sự duyên, viễn
chí dư quốc.
(經)譬如良醫。智慧聰達。明練方藥。善治眾病。其人多諸子息。若十。二十。乃至百數。以有事緣。遠至餘國。
(Kinh: Ví như
lương y trí huệ thông đạt, hiểu rành các
phương thuốc, khéo trị các bệnh. Người ấy
có nhiều con cái, hoặc mười, hai mươi, cho
đến số trăm. Do có sự duyên, đến nước
xa khác).
Trong phần Pháp Thuyết thuộc
phần trước có ba ư: Một là chỗ tạo lợi
ích cho chúng sanh, hai là giải trừ mối nghi đối với
Tích, ba là nên lợi ích chúng sanh như thế nào. Nay
chỉ thí dụ chuyện nên làm như thế nào để
lợi ích chúng sanh. Trong phần nên làm như thế nào, lại
có [hai tiểu đoạn] là cảm ứng và thực hiện
sự giáo hóa, nay đều thí dụ đầy đủ.
Ví như lương y khéo trị các căn
bệnh, tức là sánh ví cái trí “ta dùng Phật nhăn để
nh́n (quan sát căn cơ của chúng sanh) sẽ có
thể ứng”. Người ấy có nhiều con cho đến
số trăm, sánh ví chuyện “chúng sanh đến chỗ của
ta”, tức là căn cơ có thể cảm. Trong phần thực
hiện sự giáo hóa, lại có hai loại lợi ích bằng
h́nh tướng và âm thanh, cũng như do được lợi
ích bèn hoan hỷ. Nay lược đi, chẳng thí dụ
chuyện hoan hỷ. Lại lược đi chẳng thí dụ
chuyện dùng âm thanh tạo lợi ích. Trong phần tạo
lợi ích bằng h́nh tướng, lại lược
đi chẳng thí dụ chuyện “chẳng sanh mà thị hiện
sanh”, chỉ thí dụ ư “chẳng diệt mà thị hiện
diệt”, tức là “dĩ hữu sự duyên, viễn
chí tha quốc” (do có sự duyên, đi xa sang nước
khác).
Nói tới “lương y”
th́ thầy thuốc có mười loại:
- Một, chữa bệnh, bệnh
tăng thêm, chẳng giảm,
hoặc có lúc chết mất. Ví như ngoại đạo
Không kiến, làm ác bừa băi, dạy kẻ khác các pháp dấy lên
tà kiến, đoạn thiện căn. Pháp Thân đă mất,
huệ mạng cũng chết luôn!
- Hai, là kẻ chữa bệnh, khiến cho bệnh chẳng
tăng, chẳng giảm, ví như ngoại đạo khổ
hạnh có kiến chấp, gieo ḿnh vào gộp đá, gieo thân
vào lửa, khổ hạnh làm lành, chẳng đắc Thiền
Định, chẳng thể đoạn kết sử, cho
nên [bệnh phiền năo] chẳng tổn (chẳng giảm
bớt). Do cũng chẳng đoạn
điều lành, cho nên [bệnh phiền năo] chẳng tăng.
- Ba là kẻ chữa bệnh
chỉ giảm, không tăng, nhưng bệnh đă lành rồi
phát trở lại. Ví như ngoại đạo tu Định,
đoạn kết sử.
- Bốn là kẻ chữa bệnh
có thể khiến cho bệnh đă lành chẳng phát trở
lại, nhưng chữa trị chẳng trọn khắp.
Ví như hàng Nhị Thừa, chỉ trị một hai loại
người hữu duyên, chẳng thể trị khắp hết
thảy.
- Năm là kẻ tuy có thể
chữa bệnh trọn khắp, nhưng chẳng có
phương tiện khéo léo để trị bệnh, [ngơ hầu chẳng khiến cho bệnh nhân]
đau khổ. Ví như Lục Độ Bồ Tát từ
bi chữa trị rộng khắp,
hành hạnh khó, hạnh khổ. Thích Luận gọi hạng
người này là “chuyết độ” (độ bằng
phương cách vụng về).
- Sáu là kẻ chữa bệnh
có tài khéo trị bệnh,
khiến [cho bệnh nhân] không đau khổ, nhưng chẳng
thể chữa trị người ắt phải chết.
Ví như Thông Giáo Bồ Tát, hiểu thấu pháp khéo độ,
chỉ trị phàm phu qua lại [trong sanh tử], chẳng thể
trị hàng Nhị Thừa bại chủng (hạt giống hư lép).
- Bảy là tuy có thể trị
bệnh khó chữa, nhưng không thể
cùng lúc trị hết thảy các bệnh. Ví như Biệt
Giáo Bồ Tát trước khi tiến nhập Sơ Địa.
- Tám là có thể cùng lúc trị
hết thảy các bệnh, nhưng không thể khiến cho
[bệnh nhân] b́nh phục như cũ, ví như Thập Tín
Bồ Tát trong Viên Giáo.
- Chín là có thể trị hết
thảy [các bệnh], cũng khiến cho [bệnh nhân] b́nh
phục như cũ, nhưng không thể khiến cho họ
tốt hơn [thể trạng] vốn sẵn có được!
Ví như bốn mươi địa vị [Bồ Tát
trong] Viên Giáo.
- Mười là cùng lúc trị
hết thảy các bệnh, khiến cho họ b́nh phục
ngay, lại có thể khiến cho họ tốt hơn
trước, tức là Như Lai.
(Y sĩ có mười loại,
gồm thâu trọn tà lẫn chánh, thông khắp Thiên lẫn
Viên. Ba loại đầu cũng gọi là y sĩ, khi Phật
chưa xuất thế, hết thảy ngoại đạo
đều tự xưng là xuất gia, đều tự
lănh chúng. Trong loại y sĩ thứ ba, nói “bệnh đă
lành rồi phát trở lại” tức là tuy đă đoạn
Hoặc nơi Sự, vẫn đọa trong tam đồ,
do chưa đoạn Kiến Hoặc. V́ thế, sau khi thuận
theo Thiền mà thọ sanh, vẫn phải hứng chịu
luân hồi. Như kinh A Hàm nói: “Lương y hữu tứ,
nhất thiện tri bệnh tướng, nhị tri bệnh
nhân khởi, tam thiện tri phương trị, tứ tất
cánh bất phát” (Lương y có bốn loại: Một
khéo trị chứng bệnh, hai là biết bệnh do nguyên
nhân nào phát ra, ba là khéo biết phương cách để chữa
trị, bốn là [chữa trị khiến cho] bệnh rốt
ráo chẳng phát lại). Nhưng ở đây, hai loại y
sĩ thứ tư và thứ năm là trị chứng bệnh
(chữa bệnh đằng ngọn), do v́ lẽ nào? Bệnh
trạng mà họ đă biết chẳng thoát khỏi tam giới,
hoặc biết nguyên nhân gây ra bệnh, chẳng thoát khỏi
y báo và chánh báo. Tất cả phương cách để chữa
trị không vượt ngoài “sanh, diệt, vô thường,
khổ, không, vô ngă, bất tịnh!” Nói “chẳng bị bệnh
trở lại” th́ chỉ là “trụ trong hai loại Niết
Bàn”. Nếu dùng bốn danh nghĩa áp dụng chung cho các
giáo, mỗi giáo sẽ tùy theo giáo nghĩa mà đều
sai khác, cho đến Viên Giáo, đối với Lư chẳng
trở ngại. Nếu trực tiếp dẫn các điều
đó để chứng minh kinh này, sẽ c̣n chẳng giống
với cách khéo trị trong Thông Giáo, sao có thể sánh ví nhiều
lượt sanh diệt trong Bổn Môn, hết sức chẳng
thể! Loại thứ tám chẳng thể khiến cho [bệnh
nhân] b́nh phục là do tự nhập chưa sâu, không thể
làm cho người khác thấy Pháp Thân vốn có. Pháp Thân bị
vô minh che lấp, có ư nghĩa như bệnh gây hao tổn.
Khiến cho lại được thấy [Pháp Thân] th́ gọi là “hồi phục”. Loại
thứ mười nói “tốt hơn trước khi bệnh”,
Pháp Thân vốn sẵn có, nay khiến cho [chúng sanh] chứng
cái gốc, th́ gọi là “khôi phục”, do đối ứng
với Tánh Đức vô công dụng. V́ thế, tu tập
được gọi là “vượt quá”. Nhưng từ
Sơ Trụ trở lên, cũng được gọi là “phần
quá”. Do Hoặc nông cạn vẫn c̣n, bèn gọi là “khôi
phục”. Lại do kém hơn cực địa
rốt ráo,
nên gọi là “quá”).
Ba loại thầy thuốc
đầu chính là gă thầy thuốc cũ dùng sữa làm
thuốc [cho bất cứ
căn bệnh nào như] được nói trong Đại
Kinh (ở đây là kinh Đại Bát Niết Bàn). Bảy loại
sau hoàn toàn là khách y (vị thầy thuốc mới đến).
“Vô xảo thuật” (chẳng có thuật khéo): Chỉ
dùng pháp “vô thường, khổ, vô ngă” giống như dùng
thuốc đắng, chua, mặn. Người thầy thuốc
có tài khéo từ xa đến, vẫn cho [bệnh nhân] uống
sữa, chính là loại thầy thuốc tối hậu rốt
ráo. “Lương” là tốt lành, thông hiểu trọn vẹn
tám thuật[9],
ví như tam đạt[10],
ngũ nhăn. “Trí huệ” là hai trí Quyền và Thật, biết
sâu xa
Nhị
Đế. “Thông đạt”: Ngũ nhăn soi xét căn
cơ là Đốn hay Tiệm chẳng sai. “Minh luyện
phương dược” (hiểu rành rẽ các toa thuốc)
ví như mười hai bộ giáo, văn lư rất sâu.
Văn từ có thể diễn nói giống như
Phương (toa thuốc), Lư được diễn nói giống như Dược.
Dược bao gồm hành và lư, nay nói đến Lư th́ Lư
đă bao gồm hạnh. “Thiện trị chúng bệnh”
(khéo trị các bệnh) ví như có thể thấy biết
các căn là lợi hay độn, khéo vận dụng Tứ
Tất Đàn.
“Đa chư tử tức”
(có nhiều con cái): Con có ba loại:
- Một, chánh nhân Phật tử,
tức là hết thảy chúng sanh đều có ba loại
tánh đức Phật tánh, tức là Phật tử. Cho nên
nói: “Kỳ trung chúng sanh, tất thị ngô tử”
(chúng sanh trong ấy đều là con của ta).
- Duyên nhân Phật tử, tức
là kẻ từng nghe một câu, một kệ, vâng theo lời
dạy mà tu hành, sanh khởi hiểu biết nhỏ nhiệm,
tức là liễu nhân tánh. Tu hạnh nhỏ nhặt chính là
duyên nhân tánh. Chánh tánh là gốc, gom chung ba tánh ấy (chánh nhân tánh, duyên nhân tánh, liễu
nhân tánh),
gọi chung là “duyên nhân”, do nó có thể giúp phát khởi
sự giải ngộ Nhất Thật. V́ thế, [phẩm Thí Dụ của kinh Pháp
Hoa]
nói: “Trưởng giả chư tử nhược thập,
nhị thập, năi chí tam thập, tiên nhân du hư, nhập hỏa
trạch dă” (Các con của ông trưởng giả hoặc
mười, hai mươi, cho đến ba mươi, trước
đó do vui chơi mà vào trong nhà lửa).
- Ba, liễu nhân Phật tử,
tức là kẻ nghe pháp ngộ đạo. Ba nhân khai phát, chánh
nhân lư tâm phát, tức Pháp Thân đức. Liễu nhân huệ
tâm phát, tức Bát Nhă đức. Duyên nhân thiện tâm phát, tức
giải thoát đức. Gom ba tánh ấy lại,
gọi chung là “liễu nhân”, do có thể liễu đạt
nghĩa Trung Đạo. V́ thế nói: “Tùng Phật khẩu
sanh, tùng pháp hóa sanh, đắc Phật pháp phần, chân thị
Phật tử” (từ miệng Phật sanh, từ pháp
hóa sanh, có phần nơi Phật pháp, thật sự là con của
Phật).
Nếu nói theo “con” thuộc loại liễu nhân th́ là “thường được thấy cha, cha chẳng đi xa”. Nếu nói theo “con” thuộc loại duyên nhân,