Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa

phần 12

Đất Cổ Ngô, Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật

妙法蓮華經綸貫會義

古吳後學蕅益智旭述

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

          Giải thích phẩm An Lạc Hạnh đă xong; kế đó, giải thích phẩm Tùng Địa Dũng Xuất.

 

15. Phẩm thứ mười lăm: Từ dưới đất vọt lên (Tùng địa dũng xuất phẩm đệ thập ngũ, 從地涌出品第十五)

 

          Thầy nghiêm, đạo tôn quư, tận tụy vâng hành. Do mạng lệnh của Như Lai, [các vị Bồ Tát từ] bốn phương ồ ạt vọt lên. V́ thế nói là phẩm Tùng Địa Dũng Xuất (đạo ở nơi thầy, v́ thế là “đạo tôn quư”. Thầy có đạo nên là “thầy nghiêm”. Do thầy nghiêm, cho nên mạng lệnh của thầy chẳng thể trái. Do đạo tôn quư, nên thầy hạ mạng lệnh, [các đệ tử] ắt phải nhóm tới). “Mạng lệnh”:

          - Một, do cuối phẩm Kiến Bảo Tháp có nói: “Phật dục dĩ thử Diệu Pháp Hoa Kinh phó chúc hữu tại” (đức Phật mong có người để phó chúc kinh Diệu Pháp Liên Hoa này). Mạng lệnh ấy là mạng lệnh chung.

          - Hai, do trong phần đầu phẩm này, các vị Bồ Tát ở phương khác thỉnh Phật cho phép hoằng pháp, đức Phật ngăn lại, bảo: Ngă thử Sa Bà thế giới, tự hữu lục vạn Hằng hà sa đẳng” (Thế giới Sa Bà của ta tự có Bồ Tát nhiều như số cát trong sáu vạn sông Hằng). Đó chính là mạng lệnh riêng. Đấy là Thế Giới Tất Đàn.

          Hóa độ chúng sanh khắp ba đời, tạo lợi ích rộng lớn không ngằn hạn. Một vầng trăng có vạn bóng, ai có thể suy lường? Triệu vời [các vị Bồ Tát từ phương dưới] tới để thị hiện, càng nhấn mạnh thêm lợi ích do hoằng kinh. V́ thế nói là phẩm Tùng Địa Dũng Xuất (đó là Vị Nhân Tất Đàn).

          Hư không lặng lẽ, chẳng sáng, chẳng tối, hoặc là do [chúng sanh] chấp Tích mà ẩn khuất Bổn, [đức Phật phải] triệu vời [các đệ tử từ] thuở xưa để chỉ bày hiện tại, phá chấp trước đối với “gần” (tức chấp trước Như Lai chỉ mới thành Phật trong đời này hơn bốn mươi năm) để hiển lộ chuyện “xa” (Ngài đă thành Phật từ vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn kiếp trước). V́ thế nói là phẩm Tùng Địa Dũng Xuất (“Hư không” là sánh ví Lư. Lư chẳng có sáng hay tối. Nương theo Lư mà thành tựu Sự. Sự có Bổn và Tích. Hoặc chấp Tích gần gũi mà đánh mất Bổn xa xôi. Đối với Bổn Tích mà c̣n mê, huống hồ đối với chuyện Nhất Thừa chẳng thể nghĩ bàn! V́ thế, các đệ tử thuộc Bổn sống trong hư không thuộc phương dưới. Vị thầy thuộc Bổn địa, ngự trong hư không đă lâu. Nay thầy tṛ đều ở trong hư không trong hiện thời. Hư không lâu đời và hư không hiện thời, hư không thuộc phương dưới và hư không thuộc phương trên, tuy về Thể là một, nhưng đệ tử nơi Bổn vốn đă biết cận Tích, chứ các đệ tử trong hiện thời vẫn mê nơi viễn Bổn. V́ sự chấp trước đối với Cận (mê chấp đối với cận Tích), [đức Phật] bèn triệu vời [các đệ tử] xưa kia để chỉ bày [cho các đệ tử trong] hiện tại. Nay đệ tử [trong hiện tại] do nghi mà thỉnh vấn, được nghe nói [thọ lượng lâu xa của Như Lai] mới phá điều ác “chấp gần”. Đó là Đối Trị Tất Đàn).

          Nơi Tịch Diệt đạo tràng, cha trẻ tuổi, lại c̣n uống thuốc Chủng Trí trẻ trung đă lâu, cho nên già chẳng bằng trẻ. Con đă già nua nơi Tịch Quang cũng từ lâu đă nhận lấy toa thuốc bất tử thường trụ, cho nên trẻ mà như già, chỉ bày lực dụng của thuốc ấy, khiến cho [chúng sanh nghe pháp này sẽ] đều hay biết. V́ thế nói phẩm Tùng Địa Dũng Xuất (Đó là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn).

          Kinh văn chép “tùng hà sở lai, dĩ hà nhân duyên tập?” (từ chỗ nào đến? Do nhân duyên ǵ mà tụ tập). Hăy nên biết nhân duyên Tứ Tất Đàn; v́ thế “dũng xuất” (món Tất Đàn thứ nhất thuộc kinh văn trong phẩm này. Ư thứ hai kèm thêm kinh văn trong phẩm sau. Món Tất Đàn thứ ba và thứ tư tham chiếu phẩm sau, đều nhằm giúp thành tựu chuyện “hiển viễn” trong phần sau. “Thiện sanh, ác phá” là do đă thấy Bổn. V́ thế biết Thế Giới Tất Đàn chính là nguyên do của ba món Tất Đàn (Vị Nhân, Đối Trị, Đệ Nhất Nghĩa) sau đó. Nay phẩm Dũng Xuất chuyên thuộc Thế Giới Tất Đàn).

 

* Phần “khai cận, hiễn viễn” thuộc Bổn Môn

 

          Chia thành ba phần:

          - Một, từ đầu phẩm này cho tới câu “nhữ đẳng tự đương nhân thị đắc văn” (chính các ông sẽ do đó mà được nghe) là Tự Đoạn (đoạn kinh văn tương ứng với Tự Phần của Bổn Môn).

          - Hai, từ “nhĩ thời, Thích Ca Mâu Ni Phật cáo Di Lặc Bồ Tát (lúc bấy giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Di Lặc Bồ Tát) trở đi cho đến phần đầu phẩm Phân Biệt Công Đức, ngài Di Lặc nói kệ, chính là đoạn Chánh Thuyết [của Bổn Môn].

          - Ba, từ “nhĩ thời, Phật cáo Di Lặc” (Lúc bấy giờ, Phật bảo Di Lặc) cho đến hết phẩm Thường Bất Khinh gồm ba phẩm rưỡi, chính là đoạn Lưu Thông [của Bổn Môn].

 

15.1. Tự đoạn (Tự phần của Bổn Môn)

15.1.1. Từ dưới đất vọt lên

15.1.1.1. Bồ Tát trong phương khác thỉnh cầu hoằng kinh

 

          (Kinh) Nhĩ thời, tha phương quốc độ chư lai Bồ Tát Ma Ha Tát quá bát Hằng hà sa số, ư đại chúng trung khởi, hiệp chưởng tác lễ, nhi bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Nhược thính ngă đẳng ư Phật diệt hậu, tại thử Sa Bà thế giới, cần gia tinh tấn, hộ tŕ, độc tụng, thư tả, cúng dường thị kinh điển giả, đương ư thử độ nhi quảng thuyết chi.

          ()爾時他方國土諸來菩薩摩訶薩。過八恒河沙數。於大眾中起。合掌作禮而白佛言。世尊。若聽我等於佛滅後。在此娑婆世界勤加精進。護持讀誦書寫供養是經典者。當於此土而廣說之。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đến từ các quốc độ ở phương khác nhiều hơn số cát trong tám sông Hằng, từ trong đại chúng đứng dậy, chắp tay làm lễ, bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Nếu cho phép chúng con sau khi đức Phật diệt độ, ở trong thế giới Sa Bà này, càng thêm siêng năng, tinh tấn, hộ tŕ, đọc tụng, biên chép, cúng dường kinh điển này, chúng con sẽ rộng nói trong cơi này).

 

          Các Bồ Tát ở phương khác đă nghe phần Lưu Thông thuộc Tích Môn xong, ngưỡng mộ phước thù thắng do lưu thông kinh, cho nên nguyện trụ trong cơi này để hoằng truyền, tuyên dương.

         

15.1.1.2. Như Lai chẳng hứa khả

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật cáo chư Bồ Tát Ma Ha Tát chúng: - Chỉ! Thiện nam tử! Bất tu nhữ đẳng hộ tŕ thử kinh. Sở dĩ giả hà? Ngă Sa Bà thế giới tự hữu lục vạn Hằng hà sa đẳng Bồ Tát Ma Ha Tát. Nhất nhất Bồ Tát, các hữu lục vạn Hằng hà sa quyến thuộc. Thị chư nhân đẳng năng ư ngă diệt hậu, hộ tŕ, độc tụng, quảng thuyết thử kinh.

          ()爾時佛告諸菩薩摩訶薩眾。止。善男子。不須汝等護持此經。所以者何。我娑婆世界。自有六萬恒河沙等菩薩摩訶薩。一一菩薩。各有六萬恒河沙眷屬。是諸人等。能於我滅後。護持讀誦廣說此經。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các vị Bồ Tát Ma Ha Tát: - Thôi! Thiện nam tử! Chẳng cần các ông hộ tŕ kinh này. V́ lẽ nào vậy? Thế giới Sa Bà của ta tự có hàng Bồ Tát Ma Ha Tát nhiều như số cát trong sáu vạn sông Hằng. Mỗi vị Bồ Tát đều có quyến thuộc nhiều như số cát trong sáu vạn sông Hằng. Những người ấy sau khi ta diệt độ sẽ có thể hộ tŕ, đọc tụng, rộng nói kinh này).

 

          Như Lai ngăn trở, có ba nghĩa:

          - Một, các ông ai nấy đều đă có trách nhiệm của chính ḿnh. Nếu trụ trong cơi này, sẽ bỏ phế lợi ích trong cơi kia!

          - Hai, Bồ Tát ở phương khác kết duyên sự với cơi này nông cạn. Dẫu muốn tuyên nói, truyền trao, ắt chẳng có lợi ích to lớn.

          - Ba, nếu [đức Phật] lại chấp thuận, sẽ chẳng thể triệu vời [các Bồ Tát thuộc] phương dưới. Nếu các Bồ Tát từ phương dưới chẳng đến, sẽ chẳng thể “phá cận, hiển viễn”.

          Hỏi: Chư Phật, Bồ Tát phân thân tán ảnh trọn khắp mười phương, khuyên dụ, giáo hóa hết thảy, há có đây, kia, mà nói là “trách nhiệm của chính ḿnh” và phế bỏ phương kia?

          Đáp: Tâm của Phật, Bồ Tát thật sự chẳng có đây hay kia, nhưng căn cơ th́ có tồn tại hay không; từ vô thỉ vốn đă là như vậy! Thoạt đầu, Phật, Bồ Tát kết duyên từ chỗ này, mà Phật, Bồ Tát cũng thành thục từ chỗ này. Do vậy, cần phải triệu vời [các Bồ Tát] từ phương dưới. Triệu vời các Bồ Tát từ phương dưới tới cũng có ba nghĩa:

          - Một, họ là đệ tử của ta, phải nên hoằng dương pháp của ta.

          - Hai, do [họ có] duyên sâu rộng, họ có thể tạo lợi ích trọn khắp trong cơi này và trọn khắp các cơi ta đă phân thân.

          - Ba, nhằm khai cận, hiển viễn (do mỗi vị [Bồ Tát từ các quốc độ ở phương khác] đều có trách nhiệm riêng của chính họ, sẽ chẳng có Thế Giới Ích [đối với chúng sanh trong cơi Sa Bà]. Do kết duyên sự nông cạn, chẳng có Vị Nhân Ích. Chẳng thể phá [chấp trước Phật Thích Ca mới thành Phật] gần đây, sẽ không có Đối Trị Ích. Chẳng hiển lộ [Như Lai đă thành Phật từ lâu] xa, sẽ chẳng có Đệ Nhất Nghĩa Ích. Do không có bốn điều lợi ích, cho nên [đức Phật] ngăn trở. Con hoằng pháp của cha, sẽ có Thế Giới Ích. Kết duyên sâu rộng, bèn có Vị Nhân Ích. Khai cận (chỉ ra Phật Thích Ca thành Phật mới hơn bốn mươi năm chỉ là thị hiện), bèn có Đối Trị Ích. Hiển viễn (chỉ ra Phật Thích Ca thật sự đă thành Phật từ bao kiếp trước), bèn có Đệ Nhất Nghĩa Ích. Do có bốn điều lợi ích, cho nên triệu vời).

 

15.1.1.3. [Bồ Tát] từ phương dưới vọt lên

15.1.1.3.1. Người kết tập kinh trần thuật sự tướng

15.1.1.3.1.1. Vọt lên

 

          (Kinh) Phật thuyết thị thời, Sa Bà thế giới tam thiên đại thiên quốc độ, địa giai chấn liệt, nhi ư kỳ trung, hữu vô lượng thiên vạn ức Bồ Tát Ma Ha Tát đồng thời dũng xuất.

          ()佛說是時。娑婆世界三千大千國土。地皆振裂。而於其中。有無量千萬億菩薩摩訶薩同時涌出。

          (Kinh: Lúc đức Phật nói như thế, trong tam thiên đại thiên quốc độ của thế giới Sa Bà, đất đều rúng động, nứt ra, nhưng ở trong đó, có vô lượng ngàn vạn ức Bồ Tát Ma Ha Tát cùng lúc vọt ra).

 

          Đất che phủ quyến thuộc tại Bổn, như Tích ẩn Bổn. Nay khai Tích hiển Bổn, cho nên đất nứt ra để biểu thị.

 

15.1.1.3.1.2. Thân tướng [của các vị Bồ Tát ấy]

 

          (Kinh) Thị chư Bồ Tát thân giai kim sắc, tam thập nhị tướng, vô lượng quang minh.

          ()是諸菩薩。身皆金色。三十二相。無量光明。

          (Kinh: Các vị Bồ Tát ấy, thân đều sắc vàng, ba mươi hai tướng, vô lượng quang minh).

 

15.1.1.3.1.3. Trụ xứ

 

          (Kinh) Tiên tận tại thử Sa Bà thế giới chi hạ, thử giới hư không trung trụ.

          ()先盡在此娑婆世界之下。此界虛空中住。

          (Kinh: Trước đó, họ đều ở phía dưới thế giới Sa Bà này, cơi ấy trụ trong hư không).

 

          [Chánh kinh nói] “tại thử thế giới chi hạ” (ở phía dưới thế giới này) tức là chẳng thuộc vào thế giới này. Cơi ấy trụ trong hư không, cho nên chẳng thuộc vào thế giới dưới đó (tức thế giới ở phương dưới của Sa Bà). Chẳng phải đây, chẳng phải kia, chính nhằm biểu thị cơi Trung Đạo Thường Tịch Quang. “Thường” tức là Thường Đức. “Tịch” tức Lạc Đức. “Quang” tức là Pháp Thân. “Tịch” tức là giải thoát, “Quang” chính là Bát Nhă. Tam Đức (Pháp Thân, Bát Nhă, Giải Thoát) không ǵ chẳng phải là “thường, lạc, ngă, tịnh”. Tứ Đức (thường, lạc, ngă, tịnh) không ǵ chẳng chính là “tức Giả, tức Không, tức Trung”. Đó là tạng bí mật chẳng ngang, chẳng dọc. Chẳng chính là cơi này, nhưng chẳng ĺa cơi này; v́ thế dùng “thế giới chi hạ” (ở phía dưới thế giới), và “thử giới hư không trung trụ” (trụ trong hư không của cơi này) để biểu thị.

          “Trụ”: Dùng pháp bất trụ để trụ trong tạng bí mật. Hăy nên biết vốn có Tứ Đức để làm “chỗ nương vào” (sở y). Tu đạt được Tứ Đức để làm “chủ thể nương vào” (năng y). Năng và Sở đều có cái thân để có thể nương vào, nương tựa vào Năng Sở của cơi nước sở y, hai nghĩa đều b́nh đẳng th́ mới là tướng trạng của thân và cơi nước Tỳ Lô Giá Na. V́ thế, khi một người thành Phật, pháp giới đều là y báo và chánh báo của vị Phật ấy. Một vị Phật đă là như thế, hăy nên hết thảy chư Phật cũng lại như thế! Tầng tầng đều trọn khắp, tầng tầng dung nhập lẫn nhau, tầng tầng hiển hiện lẫn nhau, tầng tầng dung nạp lẫn nhau. Lại nữa, chư Phật đă là như thế, hăy nên biết “phần chứng” của hết thảy các vị Bồ Tát cũng là như thế. Lại nữa, Tu Đức măn phần của chư Phật, Bồ Tát đă là như thế, hăy nên biết tất cả Tánh Đức của hết thảy chúng sanh cũng lại là như thế, không ǵ chẳng phải là trọn khắp lẫn nhau, nhập vào lẫn nhau, hiển hiện lẫn nhau, dung nạp lẫn nhau, nhưng mê và ngộ rất khác! V́ thế, tuy tức (chúng sanh chính Phật, Phật chính là chúng sanh, phiền năo chính là Niết Bàn, Niết Bàn chính là phiền năo v.v…) mà thường sáu (tức Lục Tức Phật). Do pháp tánh b́nh đẳng, cho nên tuy sáu mà thường tức. V́ vậy, y báo chánh báo của A Tỳ hoàn toàn ở trong tự tâm của bậc cực thánh, thân và cơi nước của Tỳ Lô Giá Na Phật chẳng ĺa một niệm của kẻ phàm phu bậc hạ!

         

15.1.1.3.1.4. Nghe theo mạng lệnh [triệu tập]

 

          (Kinh) Thị chư Bồ Tát văn Thích Ca Mâu Ni Phật sở thuyết âm thanh, tùng hạ phát lai.

          ()是諸菩薩。聞釋迦牟尼佛所說音聲。從下發來。

          (Kinh: Các vị Bồ Tát ấy nghe âm thanh của Thích Ca Mâu Ni đă nói, bèn từ phương dưới đến đây).

 

          Tức là do nghe mạng lệnh mà đến, do hoằng pháp mà đến, do phá chấp mà đến, do hiển Bổn mà đến.

 

15.1.1.3.1.5. Quyến thuộc

 

          (Kinh) Nhất nhất Bồ Tát giai thị đại chúng xướng đạo chi thủ, các tương lục vạn Hằng hà sa quyến thuộc, huống tương ngũ vạn, tứ vạn, tam vạn, nhị vạn, nhất vạn Hằng hà sa đẳng quyến thuộc giả, huống phục năi chí nhất Hằng hà sa, bán Hằng hà sa, tứ phần chi nhất, năi chí thiên vạn ức na-do-tha phần chi nhất, huống phục thiên vạn ức na-do-tha quyến thuộc, huống phục ức vạn quyến thuộc, huống phục thiên vạn, bách vạn, năi chí nhất vạn, huống phục nhất thiên, nhất bách, năi chí nhất thập, huống phục tương ngũ, tứ, tam, nhị, nhất đệ tử giả, huống phục đơn kỷ nhạo viễn ly hạnh. Như thị đẳng tỷ, vô lượng vô biên, toán số thí dụ sở bất năng tri.

          ()一一菩薩。皆是大眾唱導之首。各將六萬恒河沙眷屬。況將五萬四萬三萬二萬一萬恒河沙等眷屬者。況復乃至一恒河沙。半恒河沙。四分之一。乃至千萬億那由他分之一。況復千萬億那由他眷屬。況復億萬眷屬。況復千萬。百萬。乃至一萬。況復一千。一百。乃至一十。況復將五。四。三。二。一弟子者。況復單己樂遠離行。如是等比。無量無邊。算數譬喻所不能知。

          (Kinh: Mỗi vị Bồ Tát đều là bậc đứng đầu xướng suất, hướng dẫn của đại chúng, mỗi vị đem theo sáu vạn Hằng hà sa quyến thuộc, lại c̣n có vị dẫn theo năm vạn, bốn vạn, ba vạn, hai vạn, một vạn Hằng hà sa quyến thuộc. Cho đến c̣n có vị dẫn theo một Hằng hà sa, nửa Hằng hà sa, một phần tư, cho đến một phần ngàn vạn ức na-do-tha phần, huống hồ ngàn vạn ức na-do-tha quyến thuộc, huống hồ ức vạn quyến thuộc, huống hồ ngàn vạn, trăm vạn, cho đến một vạn. Huống hồ lại có vị [dẫn theo] một ngàn, một trăm, cho đến mười [quyến thuộc]. Có vị c̣n dẫn theo năm, bốn, ba, hai, một đệ tử. Huống hồ c̣n có vị là người thích hạnh viễn ly đến một ḿnh. Số nhiều vô lượng vô biên ngần ấy, [dẫu dùng] toán, số, thí dụ [để tính đếm], đều chẳng thể biết được).

 

          Mỗi vị đều có phẩm đức của bậc đạo sư, có thể dẫn chúng sanh đến chỗ có của báu. Hăy nên biết một đă chẳng phải là một ḿnh, mà sáu vạn quyến thuộc cũng chẳng phải là nhiều! Nếu xét theo pháp môn: Một chính là nhất đạo thanh tịnh. Hai là phước và trí. Ba là Giới, Định, Huệ. Bốn chính là Tứ Đế. Năm là ngũ nhăn. Sáu chính là Lục Độ. Mỗi độ có đủ mười pháp giới. Mỗi giới đều có mười lần mười liền thành một trăm (mỗi giới đều có mười giới kia, nên mười giới thành một trăm). Hễ có trăm liền có ngàn. Thập Thiện bèn có vạn, một độ trọn đủ con số vạn, [cho nên] Lục Độ chính là sáu vạn pháp môn! Nhiều chẳng phải là nhiều, một chẳng phải là một. Chẳng nhiều, chẳng một, mà là nhiều, là một. Phần trần thuật của người kết tập kinh đă xong.

 

15.1.1.3.2. Nêu ra sự thăm hỏi

15.1.1.3.2.1. Tam nghiệp cúng dường

15.1.1.3.2.1.1. Nói về sự cúng dường

 

          (Kinh) Thị chư Bồ Tát tùng địa xuất dĩ, các nghệ hư không thất bảo diệu tháp Đa Bảo Như Lai, Thích Ca Mâu Ni Phật sở. Đáo dĩ, hướng nhị Thế Tôn, đầu diện lễ túc, cập chí chư bảo thụ hạ sư tử ṭa thượng Phật sở, diệc giai tác lễ, hữu nhiễu tam táp, hiệp chưởng cung kính, dĩ chư Bồ Tát chủng chủng tán pháp nhi dĩ tán thán, trụ tại nhất diện, hân nhạo chiêm ngưỡng ư nhị Thế Tôn.

          ()是諸菩薩。從地出已。各詣虛空七寶妙塔多寶如來釋迦牟尼佛所。到已。向二世尊頭面禮足。及至諸寶樹下師子座上佛所。亦皆作禮。右遶三帀。合掌恭敬。以諸菩薩種種讚法而以讚歎。住在一面。欣樂瞻仰於二世尊。

          (Kinh: Các vị Bồ Tát ấy từ đất hiện ra xong, đều tới diệu tháp bằng bảy báu trên hư không là nơi của Đa Bảo Như Lai và Thích Ca Mâu Ni Phật. Đă đến nơi, bèn hướng về hai đức Thế Tôn, đầu mặt lễ dưới chân, và đến chỗ các đức Phật đang ngự trên ṭa sư tử dưới các cây báu, cũng đều làm lễ, nhiễu theo chiều phải ba ṿng, chắp tay cung kính, dùng các cách tán thán của Bồ Tát để tán thán, đứng qua một bên, vui thích, chiêm ngưỡng hai đức Thế Tôn).

 

          Làm lễ, nhiễu theo chiều bên phải” là thân nghiệp cúng dường. Các thứ tán thán là khẩu nghiệp cúng dường. “Vui thích chiêm ngưỡng” là ư nghiệp cúng dường. Dùng ba nghiệp chẳng thể nghĩ bàn ấy để cúng dường tam thân chẳng thể nghĩ bàn, ḥng làm chủ thể cảm vời” (năng cảm), cho nên Phật dùng thần lực để ứng, khiến cho đại chúng cho rằng thời gian dài lâu là ngắn ngủi, từ ngay nơi hẹp mà thấy rộng vậy!

 

5.1.1.3.2.1.2. Nêu ra thời gian đă trải qua

 

          (Kinh) Thị chư Bồ Tát Ma Ha Tát tùng sơ dũng xuất, dĩ chư Bồ Tát chủng chủng tán pháp nhi tán ư Phật. Như thị thời gian kinh ngũ thập tiểu kiếp. Thị thời, Thích Ca Mâu Ni Phật mặc nhiên nhi tọa, cập chư tứ chúng diệc giai mặc nhiên.

          ()是諸菩薩摩訶薩。從初涌出。以諸菩薩種種讚法而讚於佛。如是時間。經五十小劫。是時釋迦牟尼佛。默然而坐。及諸四眾。亦皆默然。

          (Kinh: Các vị Bồ Tát ấy từ lúc mới vọt ra, dùng các cách tán thán của Bồ Tát để tán dương đức Phật, thời gian như thế trải qua năm mươi tiểu kiếp. Khi đó, Thích Ca Mâu Ni Phật ngồi yên lặng, và tứ chúng cũng đều im lặng).

 

          Dùng các cách tán thán để tán Phật, trải qua năm mươi tiểu kiếp, há chỉ là trăm ngàn Hằng hà sa kệ? V́ thế biết Phạn văn (nguyên văn bằng tiếng Phạn của kinh Pháp Hoa) chất tới tám dặm vẫn chưa đủ là nhiều!

          Hỏi: Phật Thích Ca trụ thế chỉ tám mươi năm, thuyết pháp bốn mươi chín năm. Tương truyền Ngài nói kinh Pháp Hoa trong tám năm, sao lại có năm mươi tiểu kiếp này?

          Đáp. Như cái thất vuông vức một trượng của ngài Duy Ma Cật có thể chứa ba vạn hai ngàn ṭa sư tử, mỗi ṭa cao tám vạn bốn ngàn do-tuần[1]. Đă theo chiều ngang luận định lớn nhỏ, nhỏ có thể chứa đựng lớn, th́ theo chiều dọc luận định lâu dài hay tạm thời, há tạm thời chẳng thể dung lâu dài ư?

          Hỏi: Nếu là như vậy, coi kéo dài nửa ngày là năm mươi tiểu kiếp, cớ sao kinh văn trong phần sau nói “do thần lực của Phật khiến cho các đại chúng thấy như nửa ngày”?

          Đáp: Chẳng phải là kéo dài nửa ngày thành năm mươi tiểu kiếp, mà là nạp năm mươi tiểu kiếp vào nửa ngày. Cũng giống như từ xa đem ṭa đại sư tử của cơi [Tu Di] Đăng Vương Phật bỏ vào cái thất vuông vức một trượng, chẳng biến cái thất vuông vức một trượng thành ṭa sư tử.

          Hỏi: “Thời” (thời gian) chẳng phải là thật pháp (pháp thật sự tồn tại), dài và ngắn vốn là Không, c sao lại hư luận có “nạp vào” vậy?

          Đáp: Nếu xét theo Chân Đế th́ lớn, nhỏ, lâu dài, hay tạm thời, thảy đều b́nh đẳng. Nếu xét theo Tục Đế th́ “lớn, nhỏ, dài lâu, tạm thời” vẫn tự rành rành! Nếu xét theo t́nh chấp mê muội, chẳng biết toàn thể Tục chính là Chân, cho nên khi nói theo Tục th́ lớn vốn tự lớn, nhỏ sẽ tự nhỏ, lâu dài tự lâu dài, tạm thời sẽ tự tạm thời, chẳng dung nhiếp lẫn nhau. Khi nói theo Chân, sẽ một mực quét sạch! Nếu xét theo chư Phật, Bồ Tát, [các Ngài] đă liễu đạt “Chân, Tục chẳng hai”, cho nên chẳng phải chỉ là “một Sự nhiếp hết thảy Lư”, mà c̣n “một sự nhiếp hết thảy các sự”. Do đó, cái thất vuông vức một trượng chứa đựng ṭa sư tử, ṭa sư tử chẳng nhỏ, cái thất vuông vức một trượng chẳng lớn. Như vậy th́ sẽ hiểu nửa ngày dung nạp năm mươi kiếp, năm mươi kiếp chẳng rút ngắn, nửa ngày cũng chẳng kéo dài. Lại nữa, nếu luận theo cảnh giới của Tịch Quang và Thật Báo, Bồ Tát ở phương dưới thường đối diện xưng dương, Như Lai im lặng, thường tiếp nhận sự tán thán ấy, cho đến tột cùng đời vị lai, chẳng hề chán mệt, cũng chẳng ngưng nghỉ. Nếu luận theo cơ duyên của Đồng Cư Uế Độ, ắt Phật trụ thế tám mươi năm. Nơi mặt Sự, cần phải xướng “nhập Diệt”, cho nên khiến cho đại chúng tưởng như nửa ngày. Nếu luận theo cơ duyên của cơi Phương Tiện Tịnh Độ, tức là đă phá Kiến Tư trong tam giới, nhưng chưa phá vô minh Biệt Hoặc, sẽ phải nên thấy Bồ Tát tán thán trải qua năm mươi kiếp. Do vậy biết từ ngay Linh Sơn này, theo chiều ngang luận định bốn cơi, chúng sanh do phước mỏng, thấy Phật nhập diệt. Đó là tướng trạng trong cơi Đồng Cư. Năm mươi tiểu kiếp tán thán Phật, nghiễm nhiên chưa tan, chính là tướng trạng trong cơi Phương Tiện. Trong A-tăng-kỳ kiếp, thường tại núi Linh Thứu, “chúng sanh thấy kiếp tận, cơi này của ta luôn an ổn”. Đó là tướng trạng trong cơi Thật Báo Tịnh Quang.

          Hỏi: Nếu trong cơi Phương Tiện, Bồ Tát tán thán năm mươi tiểu kiếp, nay vẫn c̣n chưa giải tán, vậy th́ mười ba phẩm kinh sau phẩm này do đâu mà có?

          Đáp: Thần lực của Phật chẳng thể nghĩ bàn, v́ kẻ này thị hiện dài, v́ kẻ kia thị hiện ngắn. Ba đời nhập vào lẫn nhau, cũng chẳng có nơi chốn. Như người hành hạnh An Lạc nằm mộng c̣n có thể trải qua ngàn vạn ức kiếp, há chẳng thể thâu nhiếp chuyện vị lai vào trong hiện tại, ngơ hầu chúng sanh trong cơi này sẽ được hưởng lợi ích do lưu thông [kinh Pháp Hoa] sau khi đức Phật đă diệt độ ư?        

 

15.1.1.3.2.1.3. Thần lực của Phật gia tŕ

 

          (Kinh) Ngũ thập tiểu kiếp, Phật thần lực cố, linh chư đại chúng vị như bán nhật. Nhĩ thời, tứ chúng diệc dĩ Phật thần lực cố, kiến chư Bồ Tát biến măn vô lượng bách thiên vạn ức quốc độ hư không.

          ()五十小劫。佛神力故。令諸大眾謂如半日。爾時四眾。亦以佛神力故。見諸菩薩徧滿無量百千萬億國土虛空。

          (Kinh: Do thần lực của Phật khiến cho các đại chúng nghĩ năm mươi tiểu kiếp giống như nửa ngày. Lúc bấy giờ, tứ chúng cũng do thần lực của Phật, thấy các Bồ Tát trọn khắp hư không của vô lượng trăm ngàn vạn ức quốc độ).

 

          Nếu xét theo Chân Đế th́ thời kiếp vốn là Không. Nay xét theo Tục Đế, năm mươi tiểu kiếp là thật. V́ thế, người đă phá vô minh biết là năm mươi tiểu kiếp; kẻ chưa phá vô minh chẳng kham nổi lâu dài, do thần lực của Phật, khiến cho họ nghĩ là như nửa ngày, chẳng sanh tâm mệt mỏi. Lại nữa, chư Phật Bồ Tát trọn khắp hư không trong vô lượng quốc độ, há chỉ nhục nhăn chẳng thể thấy xa xôi cùng tột, ngay như thiên nhăn c̣n chẳng thể nh́n trọn! Nhưng nay tứ chúng do thần lực của Phật, bèn có thể thấy trọn khắp. Hăy nên biết là dài mà nói là ngắn do bởi mê t́nh (t́nh kiến mê muội) chưa trừ. Tuy hẹp mà thấy rộng, chính v́ căn cơ mầu nhiệm phát khởi. Hơn nữa, là dài mà nói là ngắn, mang ư nghĩa biểu thị “Bổn bị Tích ẩn lấp”. Tích cần phải phơi bày, cho nên tuy hẹp mà thấy là rộng, mang ư nghĩa biểu thị “Tích chứa đựng trong Bổn”. Bổn cần phải được hiển lộ.

          Lại nữa, nh́n theo Phật nhăn th́ dài và ngắn b́nh đẳng, rộng và hẹp b́nh đẳng. Theo Lư th́ chẳng phải Bổn, chẳng phải Tích. Nh́n bằng bốn loại mắt kia (nhục nhăn, thiên nhăn, pháp nhăn, huệ nhăn) th́ người đă hiểu sẽ thấy dài, thấy rộng, đúng như thật mà biết viễn Bổn. Kẻ mê hoặc sẽ thấy ngắn, thấy hẹp, bèn chấp cận Tích. Nay do mê đối với dài mà nói là ngắn, cũng nói là “do Phật thần lực”, nhằm hiển thị “Phật có thể tùy thuận t́nh kiến [của chúng sanh]”. Ngay như do hẹp mà thấy rộng, vẫn nói là do thần lực của Phật, nhằm hiển thị “Phật có thể phá t́nh kiến”. Hơn nữa, chưa bàn tới thọ lượng, dẫu dài mà khiến cho thấy ngắn, [các vị Bồ Tát] từ phương dưới đă vọt lên. V́ thế, tuy hẹp mà khiến cho thấy rộng. Thấy mưa to biết là rồng to. Thấy hoa [sen] sum suê, biết là ao sâu. Thấy “cái được biến hóa” (sở hóa) nhiều ngần ấy, ắt biết “cái có thể biến hóa” (năng hóa) lâu xa rất lớn. Đă khai hiển, há đại chúng mê hoặc măi? V́ thế, trong phẩm Như Lai Thần Lực thuộc phần sau, [các đức Như Lai hiện tướng thần biến] trọn trăm ngàn năm, sau đấy mới thâu nhiếp tướng lưỡi, chẳng c̣n nói “cho là như nửa ngày”. Phần thứ nhất, “tam nghiệp cúng dường” đă xong.

 

15.1.1.3.2.2. Trần thuật lời thăm hỏi

 

          (Kinh) Thị Bồ Tát chúng trung, hữu tứ đạo sư: Nhất danh Thượng Hạnh, nhị danh Vô Biên Hạnh, tam danh Tịnh Hạnh, tứ danh An Lập Hạnh. Thị tứ Bồ Tát ư kỳ chúng trung, tối vi thượng thủ xướng đạo chi sư. Tại đại chúng tiền, các cộng hiệp chưởng, quán Thích Ca Mâu Ni Phật, nhi vấn tấn ngôn: “Thế Tôn! Thiểu bệnh, thiểu năo, an lạc hạnh phủ? Sở ưng độ giả, thọ giáo dị phủ? Bất linh Thế Tôn sanh b́ lao da?” Nhĩ thời, tứ đại Bồ Tát nhi thuyết kệ ngôn: “Thế Tôn an lạc, thiểu bệnh, thiểu năo, giáo hóa chúng sanh, đắc vô b́ quyện. Hựu chư chúng sanh, thọ hóa dị phủ? Bất linh Thế Tôn, sanh b́ lao da?”         ()是菩薩眾中。有四導師。一名上行。二名無邊行。三名淨行。四名安立行。是四菩薩。於其眾中。最為上首唱導之師。在大眾前。各共合掌。觀釋迦牟尼佛而問訊言。世尊。少病少惱。安樂行不。所應度者。受教易不。不令世尊生疲勞耶。爾時四大菩薩而說偈言。世尊安樂。少病少惱。教化眾生。得無疲倦。又諸眾生。受化易不。不令世尊。生疲勞耶。

          (Kinh: Trong các vị Bồ Tát ấy, có bốn vị đạo sư, một là Thượng Hạnh (Viśiṣṭacāritra), hai là Vô Biên Hạnh (Anantacāritra), ba là Tịnh Hạnh (Viśuddha -cāritra), bốn là An Lập Hạnh (Supratiṣṭhitacāritra)[2]. Bốn vị Bồ Tát ấy là bậc thầy xướng suất, hướng dẫn thượng thủ cao tột nhất trong các vị ấy. Các Ngài ở trước đại chúng, đều cùng chắp tay nh́n Thích Ca Mâu Ni Phật mà thưa hỏi rằng: “Bạch Thế Tôn! Ngài ít bệnh, ít phiền năo, có an vui hay chăng?[3] Những kẻ đáng được hóa độ có tiếp nhận giáo hóa dễ dàng hay không, chẳng khiến cho đức Thế Tôn sanh mệt nhọc hay chăng?” Lúc bấy giờ, bốn vị đại Bồ Tát bèn nói kệ rằng: “Thế Tôn được an lạc, ít bệnh, ít phiền năo, Ngài giáo hóa chúng sanh, có chẳng mệt nhọc chăng? Lại nữa, các chúng sanh, có dễ nghe dạy chăng? Chẳng khiến cho Thế Tôn, sanh mệt nhọc đó chăng?”)

 

          Đầu tiên, nêu ra bốn vị đạo sư, v́ muốn [khiến cho người nghe kinh sẽ được] khai thị ngộ nhập bốn mươi địa vị [Bồ Tát trong Viên Giáo]. Như trong kinh Hoa Nghiêm, chỉ nêu ra Pháp Huệ, Công Đức Lâm, Kim Cang Tràng, Kim Cang Tạng [lần lượt nói] bốn mươi địa vị[4]. Tên của bốn vị ấy (bốn vị thượng thủ Bồ Tát trong phẩm này) đều có chữ Hạnh, tức là thành tựu An Lạc Hạnh. Thượng Hạnh là khai tri kiến của Phật, vượt khỏi chín pháp giới. Vô Biên Hạnh là “thị Phật tri kiến” (chỉ bày tri kiến của Phật). Một hạnh chính là hết thảy các hạnh. Tịnh Hạnh là ngộ Phật tri kiến, Lư và Sự dung hội mầu nhiệm. An Lập Hạnh là “nhập Phật tri kiến”, tự an, an người khác, giống như đại địa.

          Trong lời thưa hỏi bao gồm phần Trường Hàng (văn xuôi) và trùng tụng, mỗi phần đều có hai ư: Một là hỏi Như Lai an lạc, hai là hỏi chúng sanh dễ độ [hay không]? An lạc chính là tự hành, “dễ độ” chính là hóa độ người khác; nói chung chẳng ra ngoài ba thứ “áo, nhà, ṭa” [của Như Lai]. Ba thứ “áo, ṭa, nhà” chính là An Lạc Hạnh. Phẩm trước dùng [ba điều ấy] để đốc thúc bậc Bồ Tát mới hành. Nay [các vị Bồ Tát từ dưới đất] vọt lên hỏi Phật, cũng chẳng qua là nói an lạc hạnh hay không mà thôi! V́ thế biết: Viên Hạnh từ đầu đến cuối có cùng một lư, Phật là an lạc hạnh rốt ráo, Bồ Tát là phần chứng an lạc hạnh. Phẩm trước nói về quán hạnh An Lạc Hạnh, cho đến hết thảy chúng sanh không ǵ chẳng phải là “lư tức An Lạc Hạnh”.

 

15.1.1.3.2.3. Đức Phật trả lời an lạc

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn ư Bồ Tát đại chúng trung, nhi tác thị ngôn: - Như thị, như thị! Chư thiện nam tử! Như Lai an lạc, thiểu bệnh, thiểu năo! Chư chúng sanh đẳng dị khả hóa độ, vô hữu b́ lao. Sở dĩ giả hà? Thị chư chúng sanh thế thế dĩ lai, thường thọ ngă hóa, diệc ư quá khứ chư Phật cung kính, tôn trọng, chủng chư thiện căn. Thử chư chúng sanh thỉ kiến ngă thân, văn ngă sở thuyết, tức giai tín thọ, nhập Như Lai huệ, trừ tiên tu tập học Tiểu Thừa giả. Như thị chi nhân, ngă kim diệc linh đắc văn thị kinh, nhập ư Phật huệ.

          ()爾時世尊。於菩薩大眾中而作是言。如是如是。諸善男子。如來安樂。少病少惱。諸眾生等。易可化度。無有疲勞。所以者何。是諸眾生。世世已來。常受我化。亦於過去諸佛恭敬尊重。種諸善根。此諸眾生。始見我身。聞我所說。即皆信受。入如來慧。除先修習學小乘者。如是之人。我今亦令得聞是經。入於佛慧。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ở trong đại chúng Bồ Tát mà nói như thế này: - Đúng như vậy, đúng như thế. Này các thiện nam tử! Như Lai an lạc, ít bệnh, ít năo. Các hàng chúng sanh dễ hóa độ, chẳng mệt nhọc. V́ sao vậy? Các chúng sanh ấy từ nhiều đời đến nay thường được ta giáo hóa, và cũng cung kính, tôn trọng quá khứ chư Phật, gieo các thiện căn. Các chúng sanh ấy vừa mới thấy thân ta, nghe ta nói pháp, liền đều tin nhận, nhập Như Lai huệ, trừ những kẻ trước đó đă tu tập, học pháp Tiểu Thừa. Đối với kẻ như thế, ta nay cũng khiến cho họ được nghe kinh này, nhập vào trí huệ của Phật).

 

          Đức Phật đáp “an lạc, dễ độ” là do hai chuyện thành tựu lẫn nhau: Do an lạc nên dễ độ; do dễ độ cho nên an lạc. Từ “sở dĩ giả hà” (v́ cớ sao vậy) trở đi, giải thích nguyên do “dễ độ”: Do các chúng sanh đời đời được giáo hóa, nhưng có hai loại:

          - Một là kẻ đă gieo các căn lành, vừa mới thấy thân ta, nghe nói Hoa Nghiêm liền đều tin nhận, nhập trí huệ của Như Lai, hoặc nghe Phương Đẳng, Bát Nhă cũng nhập Phật huệ.

          - Hai là người trước đó đă tu tập Tiểu Thừa, sẽ dần dần được điều phục. Cho tới thời Pháp Hoa, cũng khiến cho họ nghe kinh, được nhập Phật huệ (Đối với Phương Đẳng và Bát Nhă, hàng Tiểu Thừa cũng có người ngầm nhập, nhưng chẳng nêu tỏ, cho nên ở đây chẳng nhắc tới). Do vậy biết Hoa Nghiêm, Phương Đẳng, Bát Nhă, Pháp Hoa, Phật huệ chẳng khác, chớ nên thấy có ưu việt hay kém cỏi. Thế nhưng, Phật huệ tuy đồng, giáo tướng sai khác đôi chút. Lại đối chiếu theo Hoa Nghiêm và Pháp Hoa để biện định, nêu ra đại lược mười điều khác biệt:

          1. Thứ nhất, “thỉ kiến, kim kiến”. Lúc mới thành đạo trong thời Hoa Nghiêm th́ gọi là “thỉ kiến”. Thời Pháp Hoa lâu sau mới nói Thật, v́ thế gọi là “kim kiến”. Thỉ kiến và kim kiến, Phật huệ chẳng khác.

          2. Thứ hai, “khai hợp” và “bất khai hợp”: Thời Hoa Nghiêm như mặt trời chiếu tới núi cao, nói ngay vào Đốn, cho nên chẳng cần khai hợp (tách ra hay gộp lại). V́ kẻ chẳng nhập, liền khai Đốn nói Tiệm, lần lượt điều phục, khiến cho họ dần dần trở về Đốn. V́ thế, Pháp Hoa là đă khai bèn hợp (trước thời Pháp Hoa, khai tam thừa. Đến thời Pháp Hoa, gộp chung tam thừa thành Nhất Thừa). Khai và hợp tuy khác, nhưng hai thứ Đốn chẳng khác.

          3. Thứ ba, “ngang, dọc, cặn kẽ, sơ lược”: Hoa Nghiêm nhanh chóng, thẳng thừng, tiến nhập theo chiều dọc để nhập pháp giới. V́ thế nói là “thụ quảng” (theo chiều dọc th́ nói rộng, tức nói chi tiết). Do chẳng cần trải qua phương tiện, cho nên nói là “hoành lược” (theo chiều ngang th́ đại lược). Pháp Hoa trải đủ năm vị (sữa, lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ) tức là “hoành quảng” (theo chiều ngang th́ nói rộng). Được nhập Phật huệ cũng là “thụ quảng”. Nhưng đă nhập pháp giới, sẽ tự thông đạt hết thảy các phương tiện; [v́ thế] hai kinh chẳng khác nhau!

          4. Thứ tư, “Bổn và Tích bất đồng”: Hoa Nghiêm coi đức Tỳ Lô Giá Na Phật là Bổn, trăm ngàn ức Thích Ca là Tích. Pháp Hoa th́ coi thành Phật đă lâu là Bổn, [đức Thích Ca thị hiện thành Phật] nơi Tịch Diệt đạo tràng là Tích. Như vậy Bổn trong Hoa Nghiêm chỉ là Tích của Pháp Hoa. Lại nữa, Hoa Nghiêm tuy nói “thấy Như Lai vừa mới thành đạo”, hoặc “thấy Như Lai thành đạo đă vô lượng kiếp”, cũng có ư nghĩa ngầm hiển lộ Bổn, nhưng chưa nói rơ ràng, rành rẽ “Phật đă thành đạo lâu xa dường ấy”. Đấy là chẳng phải Bổn, chẳng phải Tích, pháp giới có cùng một Lư. Bổn đă lâu, Tích th́ gần; chuyện được ẩn và hiển khác biệt.

          5. Thứ năm, “được gia bị để nói” và “chẳng gia bị để nói”: Trong kinh Hoa Nghiêm, chỉ có phẩm A Tăng Kỳ và [Như Lai] Tùy Hảo [Quang Minh] do đức Phật tự nói, các phẩm khác đều do các vị Bồ Tát được Phật gia bị mà nói. Pháp Hoa th́ tam châu của Tích Môn và Thọ Lượng của Bổn Môn hoàn toàn do đức Phật tự nói. Tuy là gia bị [hàng Bồ Tát] nói hay tự nói, lư thường b́nh đẳng, nhưng hóa nghi (phương cách giáo hóa) sai khác.

          6. Thứ sáu, “biến đổi cơi nước” hay “chẳng biến đổi”: Hoa Nghiêm th́ ngay từ uế mà tịnh, biểu thị đại đạo viên măn, trực tiếp, cho nên chẳng cần biến đổi [cơi nước]. Pháp Hoa chuyển uế thành tịnh, biểu thị hội Quyền về Thật, cho nên cần phải ba lượt biến đổi. Dù biến đổi hay chẳng biến đổi, Tịnh Độ chẳng hủy, cho nên chẳng khác!

          7. Thứ bảy, nhiều chỗ hay không nhiều chỗ: Kinh Hoa Nghiêm gồm bảy xứ chín hội, tức là có nhiều chỗ. Pháp Hoa th́ [chỉ nói tại] Linh Thứu và trong hư không, cho nên chẳng có nhiều chỗ. Chỗ tuy nhiều hay ít, nhưng lư thường b́nh đẳng.

          8. Thứ tám, “quở trách, phủ định” hay “không quở strách, phủ định”: Trong hội đầu của Hoa Nghiêm hoàn toàn chẳng có Thanh Văn, cho nên chẳng quở trách, phủ định. Pháp Hoa chính v́ nhằm phá chấp trước Tiểu Thừa, cho nên có quở trách, phủ định. Hơn nữa, trong phẩm Nhập Pháp Giới [của kinh Hoa Nghiêm], hàng Nhị Thừa như điếc, như câm, cho nên có quở trách, phủ định. Pháp Hoa thọ kư [mọi căn cơ] đều thành Phật, cho nên chẳng có quở trách, phủ định! Hoa Nghiêm chỉ tiếp độ hai loại căn cơ ngoài tam giới, như chữa hai thứ bệnh nặng và bệnh nhẹ chẳng chết, c̣n dễ đạt được công lao. Pháp Hoa có thể trị định tánh Thanh Văn, giống như khiến cho hạt giống hư nát lại nẩy mầm, đạt được công lao càng lạ lùng!

          9. Thứ chín, trực hiển và khai hiển: Hoa Nghiêm hạnh to lớn, đường lối trực tiếp, được gọi là “trực hiển Thật”. Pháp Hoa th́ phủ quyết pháp Thanh Văn, gọi là “khai Quyền hiển Thật”. Cái Thật được hiển lộ ấy rốt cuộc bất nhị.

          10. Thứ mười, lợi căn và độn căn: Kẻ lợi căn ngộ ngay trong thời Hoa Nghiêm. Kẻ độn căn th́ đến thời Pháp Hoa mới ngộ. Lợi độn tuy khác, ngộ lư là một! Có thể khiến cho kẻ độn căn giải ngộ, công càng khó gấp bội!

          Xét theo lẽ thích nghi khác nhau, đại lược th́ có mười loại khác nhau, nhưng Chủng Trí pháp giới b́nh đẳng chẳng sai biệt. V́ thế nói: “Thỉ kiến ngă thân, văn ngă sở thuyết, tức giai tín thọ, nhập Như Lai huệ. Trừ tiên tu tập học Tiểu Thừa giả, ngă kim diệc linh đắc văn thị kinh, nhập ư Phật huệ” (vừa mới thấy thân ta, nghe lời ta nói, đều liền tin nhận, nhập vào trí huệ của Phật. Trừ những kẻ trước đó đă tu tập, học pháp Tiểu Thừa, nay ta cũng khiến cho họ được nghe kinh này, nhập trí huệ của Phật). Kinh văn đă nói rơ ràng tại đó, chẳng cần nghi nữa! Các vị sư (các vị chú giải hoặc giảng sư thuở trước) do thấy duyên khác nhau, bèn chạy theo duyên mà hiểu sai khác, mê muội chẳng biết phản tỉnh, cách đạo ngày càng xa! Nếu hiểu Lư giống hệt như nhau, ngàn cỗ xe sẽ đi cùng một lối, Phật huệ chẳng khác biệt. Nhưng Hoa Nghiêm nói kèm thêm Biệt Giáo để giảng về Phật huệ. Phương Đẳng th́ đối ứng với tam thừa để giảng Phật huệ. Bát Nhă th́ nói kèm thêm Nhị Thừa để giảng Phật huệ. Chỉ có Pháp Hoa vạch rơ những pháp nói kèm thêm, nói đối ứng, nói phụ thêm, cho đến Tam Tạng chỉ là pháp sanh diệt, nhưng đều thành Phật huệ. Do vậy, viên lư được diễn nói trong pháp này hay các pháp kia chẳng khác. Tuy giáo pháp có thể diễn nói thuần hay tạp sai khác, nhưng đều đặc biệt được gọi là Diệu, v́ [các pháp ấy] chẳng hư huyễn vậy. Cổ nhân nói: “Hoa Nghiêm liễu nghĩa măn tự thường trụ. Pháp Hoa bất liễu nghĩa chẳng măn, chẳng thường”. Nay sử dụng câu ấy để cùng nói th́ “nhập từ thuở đầu” là liễu nghĩa, “cho đến nay mới nhập” là bất liễu nghĩa, cũng phải nên là “nhập từ ban đầu là Phật huệ, nay mới nhập sẽ chẳng phải là Phật huệ”. Nếu Phật huệ đă là như nhau, th́ liễu nghĩa [và bất liễu nghĩa] cũng b́nh đẳng. Măn và thường cũng thế. Lại nữa, các vị bên Địa Luận Tông cho rằng “Hoa Nghiêm là viên tông, Pháp Hoa chẳng phải là chân tông”, nay cũng dùng đoạn kinh văn này để xóa trừ sự chấp trước ấy!

 

15.1.1.3.2.4. Kệ tụng tùy hỷ

 

          (Kinh) Nhĩ thời, chư đại Bồ Tát nhi thuyết kệ ngôn: - Thiện tai, thiện tai! Đại hùng Thế Tôn, chư chúng sanh đẳng, dị khả hóa độ, năng vấn chư Phật, thậm thâm trí huệ, văn dĩ tín hành, ngă đẳng tùy hỷ.

          ()爾時諸大菩薩而說偈言。善哉善哉。大雄世尊。諸眾生等。易可化度。能問諸佛。甚深智慧。聞已信行。我等隨喜。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, các vị đại Bồ Tát bèn nói kệ rằng: - Lành thay, lành thay! Đại hùng Thế Tôn, các hàng chúng sanh, dễ được hóa độ, hay hỏi chư Phật, trí huệ rất sâu, nghe rồi tin, hành. Chúng con tùy hỷ).

 

          “Có thể hỏi” là như trong kinh Hoa Nghiêm, Phương Đẳng, Bát Nhă, đều có bậc Bồ Tát đương cơ hỏi pháp. Cho đến kinh Pháp Hoa, ngài Thân Tử (Xá Lợi Phất) ba lượt thỉnh, đều là “có thể hỏi”. Điều được hỏi chính là trí huệ rất sâu, đó gọi là Như Lai huệ!

         

15.1.1.3.2.5. Như Lai trần thuật, tán thán

 

          (Kinh) Ư thời, Thế Tôn tán thán thượng thủ chư đại Bồ Tát: - Thiện tai! Thiện tai! Thiện nam tử! Nhữ đẳng năng ư Như Lai phát tùy hỷ tâm.

          ()於時世尊。讚歎上首諸大菩薩。善哉善哉。善男子。汝等能於如來發隨喜心。

          (Kinh: Ngay khi đó, đức Thế Tôn tán thán các vị đại Bồ Tát thượng thủ: - Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Các ông có thể phát tâm tùy hỷ đối với Như Lai).

 

          Bồ Tát tùy hỷ người có thể hỏi, có thể tin. Đức Phật bèn tán thán các vị ấy có thể phát tâm tùy hỷ đối với Như Lai, ngụ ư nêu rơ: Những người có thể hỏi đều là bậc cổ Phật thị hiện dấu tích, cho nên Bồ Tát tùy hỷ sự rủ ḷng thị hiện ấy. Như Lai trần thuật, tán thán Bổn của họ, cũng ngầm hiển lộ thọ lượng. Phần thứ nhất, tức “Tự phần trần thuật chuyện từ dưới đất vọt lên” đă xong.

 

15.1.2. Tự phần: Nghi vấn

15.1.2.1. Bồ Tát trong cơi này nghi vấn

15.1.2.1.1. Phần Trường Hàng trần thuật nghi niệm

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Di Lặc Bồ Tát cập bát thiên Hằng hà sa chư Bồ Tát chúng, giai tác thị niệm: “Ngă đẳng tùng tích dĩ lai, bất kiến, bất văn như thị đại Bồ Tát Ma Ha Tát chúng tùng địa dũng xuất, trụ Thế Tôn tiền, hiệp chưởng, cúng dường, vấn tấn Như Lai”.

          ()爾時彌勒菩薩。及八千恒河沙諸菩薩眾。皆作是念。我等從昔已來。不見不聞如是大菩薩摩訶薩眾。從地涌出。住世尊前。合掌供養問訊如來。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Di Lặc Bồ Tát và các vị Bồ Tát nhiều như số cát trong tám ngàn sông Hằng đều nghĩ như thế này: “Từ trước đến nay, chúng ta chẳng thấy, chẳng nghe các vị đại Bồ Tát Ma Ha Tát như thế từ dưới đất vọt lên, ở trước đức Thế Tôn, chắp tay cúng dường, thưa hỏi Như Lai”).


          “Di Lặc và các vị Bồ Tát đều nẩy sanh nghi niệm” có bốn ư nghĩa:

          - Một, kể từ sau Tịch Diệt đạo tràng cho đến trước pháp ṭa này, mười phương đại sĩ đến dự hội [thuyết pháp của đức Phật] chẳng dứt. Tuy chẳng thể nói rơ ngằn hạn, nhưng con dùng trí lực của bậc Bổ Xứ đều biết, đều thấy, cớ sao đối với các vị này, chẳng biết một vị nào? Lại nữa, con du hóa mười phương, phụng sự, thân cận chư Phật. Đối với hết thảy các hải hội đều am hiểu. Ngay như đối với chỗ đă từng trải của họ, cũng chẳng biết dù đến hay đi, dù t́m cầu vẫn chẳng biết. Chẳng biết th́ sẽ không có Thế Giới Ích. Cho nên cần phải nghi hoặc, hỏi han.

          - Hai, các vị đại sĩ đó là bậc tiền bối liễu đạt, ngài Di Lặc là mạt học thuộc lớp sau. Lớp sau chẳng biết lớp trước, chẳng hạn như ngài Văn Thù chẳng biết cảnh giới của nữ nhân nhập Định. Nữ nhân chẳng biết cảnh giới của Khí Chư Ấm Cái Bồ Tát (Sarvanīvaraaviṣkaṃbhin)[5]. Do chẳng biết, sẽ chẳng hiểu sự nội thiện của họ. Do tự thiện chẳng sanh, sẽ chẳng có Vị Nhân Ích. V́ thế, cần phải nghi hoặc, hỏi han.

          - Ba, các vị đại sĩ ấy vốn do căn bản Thật Tướng, ứng hiện trong mười phương, giáo hóa riêng biệt. Tất cả chân ứng đều chẳng phải là cảnh giới của ngài Di Lặc. Đă chẳng biết đạo lợi vật (lợi lạc chúng sanh) của họ, tức là chẳng biết bệnh, sẽ chẳng có Đối Trị Ích. V́ thế, cần phải nghi hoặc, hỏi han.

          - Bốn, đức Phật phó thác chuyện hoằng kinh, triệu tập các vị đại sĩ. Các vị đại sĩ tuân phụng nghiêm mạng của thầy nên tới nhóm họp, ngầm khai thọ lượng. Đại chúng trong hội khi ấy chẳng thể biết được [điều đó]. Đă không biết ư chỉ bí mật của Như Lai, sẽ chẳng có Đệ Nhất Nghĩa Ích. Cho nên cần phải nghi hoặc, thưa hỏi.

          Nhưng ngài Di Lặc nơi Tích thuộc địa vị Bổ Xứ, Bổn cũng phải nên sâu, sao lại chẳng biết như thế? Điều này có hai ư nghĩa:

          - Nếu dựa theo Thật để luận định, Ngài mới thành Bổ Xứ gần đây, sẽ chẳng biết Bổn lâu xa.

          - Nếu dựa theo Quyền để luận định th́ Bổn cao, Tích thấp, Ngài v́ chúng sanh mà nêu lên nghi hoặc vậy!

 

15.1.2.1.2. Kệ tụng nêu lên thắc mắc

15.1.2.1.2.1. Thắc mắc [các vị Bồ Tát ấy] từ đâu đến, do duyên nào mà đến

 

          (Kinh) Thời Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát tri bát thiên Hằng hà sa chư Bồ Tát đẳng tâm chi sở niệm, tịnh dục tự quyết sở nghi, hiệp chưởng hướng Phật, dĩ kệ vấn viết: - Vô lượng thiên vạn ức, đại chúng chư Bồ Tát, tích sở vị tằng kiến, nguyện Lưỡng Túc Tôn thuyết. Thị tùng hà sở lai? Dĩ hà nhân duyên tập? Cự thân, đại thần thông, trí huệ phả tư nghị. Kỳ chí niệm kiên cố, hữu đại nhẫn nhục lực. Chúng sanh sở nhạo kiến, vị tùng hà sở lai?

            ()時彌勒菩薩摩訶薩。知八千恒河沙諸菩薩等心之所念。幷欲自決所疑。合掌向佛。以偈問曰。無量千萬億。大眾諸菩薩。昔所未曾見。願兩足尊說。是從何所來。以何因緣集。巨身大神通。智慧叵思議。其志念堅固。有大忍辱力。眾生所樂見。為從何所來。

          (Kinh: Khi đó, Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát biết tâm niệm của các vị Bồ Tát nhiều như số cát trong tám ngàn sông Hằng, và mong giải quyết điều nghi của chính ḿnh, chắp tay hướng về đức Phật, dùng kệ hỏi rằng: - Vô lượng ngàn vạn ức, đại chúng các Bồ Tát, xưa kia chưa từng thấy. Nguyện Lưỡng Túc Tôn nói, họ từ đâu mà đến, nhân duyên nào nhóm họp? Thân to, thần thông lớn, trí huệ chẳng nghĩ bàn. Chí niệm họ kiên cố, có sức đại nhẫn nhục, chúng sanh ưa thích thấy, từ chỗ nào mà đến?)

 

          Một là hỏi họ từ nơi nào đến? Hai là hỏi do nhân duyên ǵ mà đến? “Cự thân, đại thần thông” (thân to, thần thông lớn): Tán thán đă “vào nhà Như Lai”. “Trí huệ phả tư nghị” (trí huệ chẳng nghĩ bàn): Tán thán đă ngồi ṭa của Như Lai”. “Kỳ chí niệm kiên cố, hữu đại nhẫn nhục lực” (chí niệm họ kiên cố, có sức đại nhẫn nhục): Tán thán mặc áo Như Lai. Ba điều ấy đều là tự hành đức. “Chúng sanh sở nhạo kiến” (chúng sanh ưa thích thấy) là tán thán hóa tha đức (phẩm đức giáo hóa người khác).

 

15.1.2.1.2.2. Trần thuật số lượng quyến thuộc

 

          (Kinh) Nhất nhất chư Bồ Tát, sở tương chư quyến thuộc. Kỳ số vô hữu lượng. Như Hằng hà sa đẳng. Hoặc hữu đại Bồ Tát, tương lục vạn Hằng sa. Như thị chư đại chúng, nhất tâm cầu Phật đạo. Thị chư đại sư đẳng, lục vạn Hằng hà sa, câu lai cúng dường Phật, cập hộ tŕ thị kinh. Tương ngũ vạn Hằng sa. Kỳ số quá ư thị. Tứ vạn cập tam vạn, nhị vạn chí nhất vạn. Nhất thiên, nhất bách đẳng, năi chí nhất Hằng sa. Bán cập tam tứ phần. Ức vạn phần chi nhất. Thiên vạn na-do-tha, vạn ức chư đệ tử, năi chí ư bán ức, kỳ số phục quá thượng. Bách vạn chí nhất vạn, nhất thiên cập nhất bách, ngũ thập dữ nhất thập, năi chí tam, nhị, nhất. Đơn kỷ vô quyến thuộc, nhạo ư độc xử giả, câu lai chí Phật sở. Kỳ số chuyển quá thượng. Như thị chư đại chúng, nhược nhân hành trù số, quá ư Hằng sa kiếp, do bất năng tận tri.

          ()一一諸菩薩。所將諸眷屬。其數無有量。如恒河沙等。或有大菩薩。將六萬恒沙。如是諸大眾。一心求佛道。是諸大師等。六萬恒河沙。俱來供養佛。及護持是經。將五萬恒沙。其數過於是。四萬及三萬。二萬至一萬。一千一百等。乃至一恒沙。半及三四分。億萬分之一。千萬那由他。萬億諸弟子。乃至於半億。其數復過上。百萬至一萬。一千及一百。五十與一十。乃至三二一。單己無眷屬。樂於獨處者。俱來至佛所。其數轉過上。如是諸大眾。若人行籌數。過於恒沙劫。猶不能盡知。

          (Kinh: Mỗi mỗi vị Bồ Tát, dẫn theo các quyến thuộc, số ấy chẳng hạn lượng, nhiều như cát sông Hằng. Hoặc có đại Bồ Tát, dẫn sáu vạn Hằng sa. Các đại chúng như thế, nhất tâm cầu Phật đạo. Các vị đại sư thảy, sáu vạn Hằng hà sa, đều tới cúng dường Phật, và hộ tŕ kinh này. Dẫn năm vạn Hằng sa, số ấy nhiều hơn thế. Bốn vạn và ba vạn, hai vạn tới một vạn, một ngàn, một trăm thảy, cho đến một Hằng sa, nửa và ba bốn phần, một phần của ức vạn. Ngàn vạn na-do-tha. Vạn ức các đệ tử, cho đến chỉ nửa ức. Số ấy lại hơn thế, trăm vạn đến một vạn, một ngàn và một trăm, năm mươi và mười người, cho đến ba, hai, một, đơn độc không quyến thuộc, người thích ở một ḿnh, đều đến chỗ đức Phật. Số ấy nhiều hơn thế. Các đại chúng như vậy, nếu người phát thẻ đếm, hơn một Hằng sa kiếp, vẫn chẳng thể biết trọn).

 

15.1.2.1.2.3. Hỏi họ đă học pháp với vị thầy nào

 

          (Kinh) Thị chư đại oai đức, tinh tấn Bồ Tát chúng, thùy vị kỳ thuyết pháp, giáo hóa nhi thành tựu? Tùng thùy sơ phát tâm? Xưng dương hà Phật pháp? Thọ tŕ hành thùy kinh? Tu tập hà Phật đạo?

          ()是諸大威德。精進菩薩眾。誰為其說法。教化而成就。從誰初發心。稱揚何佛法。受持行誰經。修習何佛道。

          (Kinh: Các vị đại oai đức, tinh tấn Bồ Tát ấy, ai v́ họ thuyết pháp? Giáo hóa mà thành tựu? Từ ai sơ phát tâm? Xưng dương Phật pháp ǵ? Thọ tŕ, hành kinh ǵ? Tu tập Phật đạo nào?)

 

15.1.2.1.2.4. Kết lại lời thỉnh giải quyết mối nghi

15.1.2.1.2.4.1. Kết lại lời tán thán

 

          (Kinh) Như thị chư Bồ Tát, thần thông đại trí lực.

          ()如是諸菩薩。神通大智力。

          (Kinh: Các Bồ Tát như thế, sức thần thông, đại trí).

 

15.1.2.1.2.4.2. Xin giải đáp họ từ chỗ nào đến

 

          (Kinh) Tứ phương địa chấn liệt, giai tùng trung dũng xuất. Thế Tôn, ngă tích lai, vị tằng kiến thị sự. Nguyện thuyết kỳ sở tùng, quốc độ chi danh hiệu. Ngă thường du chư quốc, vị tằng kiến thị chúng. Ngă ư thử chúng trung, năi bất thức nhất nhân.

          ()四方地振裂。皆從中涌出。世尊我昔來。未曾見是事。願說其所從。國土之名號。我常遊諸國。未曾見是眾。我於此眾中。乃不識一人。

          (Kinh: Bốn phương đất rúng nứt, đều từ đó vọt ra. Thế Tôn, con xưa nay, chưa từng thấy chuyện này! Mong nói từ đâu đến, danh hiệu của cơi nước. Con thường dạo các nước, chưa từng thấy bọn họ. Trong số các người ấy, con chẳng biết một ai!)

         

15.1.2.1.2.4. Xin giải đáp do duyên ǵ họ [nhóm đến]

 

          (Kinh) Hốt nhiên tùng địa xuất, nguyện thuyết kỳ nhân duyên.

          ()忽然從地出。願說其因緣。

          (Kinh: Bỗng dưng từ đất ra, nguyện nói nhân duyên ấy).

 

15.1.2.1.2.4. Nêu rơ đại hội cùng thỉnh cầu

 

          (Kinh) Kim thử chi đại hội, vô lượng bách thiên ức, thị chư Bồ Tát đẳng, giai dục tri thử sự. Thị chư Bồ Tát chúng, bổn mạt chi nhân duyên, vô lượng đức Thế Tôn, duy nguyện quyết chúng nghi.

          ()今此之大會。無量百千億。是諸菩薩等。皆欲知此事。是諸菩薩眾。本末之因緣。無量德世尊。唯願決眾疑。

          (Kinh: Nay trong đại hội này, vô lượng trăm ngàn ức, các hàng Bồ Tát thảy, đều muốn biết chuyện ấy: Nhân duyên đầu đến cuối, của các Bồ Tát ấy. Thế Tôn vô lượng đức, mong giải quyết nghi hoặc).

         

          Đă nói muốn biết nhân duyên từ đầu đến cuối, th́ dù là họ đến từ chỗ nào, hay duyên do [v́ sao các vị Bồ Tát ấy] nhóm đến; nói chung, đều cầu Phật giải đáp rơ ràng. Phần thứ nhất, “Bồ Tát cơi này nghi vấn” đă xong.

 

15.1.2.2. Bồ Tát trong cơi khác nghi vấn

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thích Ca Mâu Ni phân thân chư Phật tùng vô lượng thiên vạn ức tha phương quốc độ lai giả, tại ư bát phương, chư bảo thụ hạ sư tử ṭa thượng, kết gia phu tọa, kỳ Phật thị giả, các các kiến thị Bồ Tát đại chúng, ư tam thiên đại thiên thế giới tứ phương tùng địa dũng xuất, trụ ư hư không, các bạch kỳ Phật ngôn: “Thế Tôn! Thử chư vô lượng vô biên A-tăng-kỳ Bồ Tát đại chúng tùng hà sở lai?” Nhĩ thời, chư Phật các cáo thị giả: “Chư thiện nam tử! Thả đăi tu du. Hữu Bồ Tát Ma Ha Tát danh viết Di Lặc, Thích Ca Mâu Ni Phật chi sở thọ kư thứ đương tác Phật, dĩ vấn tư sự, Phật kim đáp chi. Nhữ đẳng tự đương nhân thị đắc văn”.

          ()爾時釋迦牟尼分身諸佛。從無量千萬億他方國土來者。在於八方諸寶樹下師子座上結加趺坐。其佛侍者。各各見是菩薩大眾。於三千大千世界四方從地涌出。住於虛空。各白其佛言。世尊。此諸無量無邊阿僧祇菩薩大眾。從何所來。爾時諸佛各告侍者。諸善男子。且待須臾。有菩薩摩訶薩。名曰彌勒。釋迦牟尼佛之所授記。次當作佛。已問斯事。佛今答之。汝等自當因是得聞。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, chư Phật phân thân của Thích Ca Mâu Ni từ vô lượng ngàn vạn ức quốc độ ở phương khác đến, ngồi xếp bằng trên ṭa sư tử dưới các cây báu trong tám phương, thị giả của các Ngài mỗi vị đều thấy đại chúng Bồ Tát ấy tại bốn phương của tam thiên đại thiên thế giới, từ dưới đất vọt lên, trụ trong hư không, [thấy rồi], đều bạch với đức Phật của ḿnh rằng: “Bạch Thế Tôn! Vô lượng vô biên A-tăng-kỳ đại chúng Bồ Tát này từ đâu mà đến?” Khi đó, chư Phật mỗi vị đều bảo thị giả: “Các thiện nam tử! Hăy chờ trong giây lát. Có Bồ Tát Ma Ha Tát tên là Di Lặc, được Thích Ca Mâu Ni Phật thọ kư sẽ kế tiếp Ngài thành Phật, đă hỏi chuyện ấy. Nay Phật sẽ đáp, các ông sẽ nhờ đó mà được nghe”).

 

          Quyến thuộc của phân thân [chư Phật] theo chiều ngang khắp mười phương cũng chẳng biết Bổn địa, chưa có tứ ích (bốn món Tất Đàn), cho nên có cùng nghi vấn giống như ngài Di Lặc. Chư Phật đều chẳng giải đáp, đều đợi Phật Thích Ca giải đáp cho ngài Di Lặc. Lời hỏi của ngài Di Lặc có sự tích chẳng nhẹ; cả một đời giáo hóa của đức Thích Ca, Ngài chưa từng nói rơ. Do cuộc vấn đáp này, rộng hiển thị sự trường thọ của Như Lai. Sự huyền bí to lớn ấy cần phải đợi Phật Thích Ca tự mở ra. Nhữ tự đương văn” (Các ông sẽ tự được nghe): Phân thân nhóm đến, vốn là để chứng minh. Cho nên [phân thân chư Phật] chẳng nên đáp. Phần thứ nhất, “phần Tự của Bổn Môn” đă xong.

 

15.2. Phần Chánh Thuyết (phần Chánh Tông của Bổn Môn)

15.2.1. Răn nhắc, hứa khả

15.2.1.1. Trường Hàng

15.2.1.1.1. Trần thuật, tán thán

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thích Ca Mâu Ni Phật cáo Di Lặc Bồ Tát: - Thiện tai, thiện tai! A Dật Đa! Năi năng vấn Phật như thị đại sự.

          ()爾時釋迦牟尼佛。告彌勒菩薩。善哉善哉。阿逸多。乃能問佛如是大事。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Di Lặc Bồ Tát: “Lành thay! Lành thay! Này A Dật Đa! Có thể hỏi Phật đại sự như thế”).

 

          “Thiện tai” lần thứ nhất trần thuật [câu hỏi ấy] trên là khế hợp tâm Phật. “Thiện tai” lần thứ hai trần thuật [câu hỏi ấy] dưới là khế hợp ư niệm của quần sanh. “Khai Tích, hiển Bổn” chính là điều chưa được nói rơ trong giáo pháp suốt một đời đức Phật, cho nên đó là đại sự của Phật. Lại cần phải xét theo tu đức và quả vị sâu xa, chẳng xét theo lư thú b́nh đẳng nơi Tánh Đức, cho nên nói là Sự.

 

15.2.1.1.2. Răn truyền

 

          (Kinh) Nhữ đẳng đương cộng nhất tâm, bị tinh tấn khải, phát kiên cố ư.

          ()汝等當共一心被精進鎧。發堅固意。

          (Kinh: Các ông hăy nên nhất tâm, mặc giáp tinh tấn, phát khởi ư niệm bền vững).

 

          [Căn dặn] “nhất tâm” tức là răn đừng loạn. “Tinh tấn” là răn đừng biếng trễ. “Kiên cố” là răn đừng lui sụt. Ấy là v́ Thật Trí của Như Lai thành tựu đă lâu, Quyền Tích lâu xa, giáo hóa cùng tột ba đời, lợi ích trọn khắp mười phương. Những kẻ thấp hơn bậc Đẳng Giác chẳng thể nghĩ bàn được; đấy cũng là thông qua ngài Di Lặc mà răn nhắc [mọi người trong] đại hội.

 

15.2.1.1.3. Hứa khả

 

          (Kinh) Như Lai kim dục hiển phát tuyên thị chư Phật trí huệ, chư Phật tự tại thần thông chi lực, chư Phật sư tử phấn tấn chi lực, chư Phật oai mănh đại thế chi lực.

          ()如來今欲顯發宣示諸佛智慧。諸佛自在神通之力。諸佛師子奮迅之力。諸佛威猛大勢之力。

          (Kinh: Nay Như Lai muốn hiển lộ, phát khởi, tuyên nói, chỉ bày trí huệ của chư Phật, sức thần thông tự tại của chư Phật, sức sư tử phấn tấn của chư Phật, sức thế lực to lớn oai nghiêm, mạnh mẽ của chư Phật).

 

          “Chư Phật trí huệ”: Nêu chung quả trí. “Tự tại” là Ngă đức, “thần thông” là Lạc đức. “Phấn tấn trừ cấu” là Tịnh đức. “Đại thế oai mănh” là Thường đức. Đấy chính là chỉ ra Tứ Đức viên măn, có thể lợi ích trọn khắp chúng sanh trong ba đời. V́ thế, đều gọi là Lực. Xét theo quá khứ rất đỗi lâu xa, th́ gọi là “thần thông tự tại”. Xét ra phân thân nay đang trọn khắp mười phương, th́ gọi là Sư Tử Phấn Tấn. Xét theo vị lai, lợi ích chúng sanh măi măi chẳng cùng tận, th́ gọi là “đại thế oai mănh”. Hoặc có thể nói “phấn tấn” là tướng trạng tiên khởi, biểu thị sự lợi ích chúng sanh trong tương lai. “Đại thế” là chấn động mười phương, tức là lợi ích chúng sanh trong hiện tại, cũng là không ǵ chẳng thể! Lại nữa, thần thông tự tại chính là nhà từ bi rốt ráo. “Sư tử phấn tấn”ṭa Pháp Không rốt ráo. “Oai mănh đại thế” chính là áo nhẫn nhục rốt ráo. Chứng ba đức rốt ráo ấy, cho nên sức trọn khắp mười phương ba đời, tạo lợi ích chẳng cùng tận. Phần thứ nhất, Trường Hàng đă xong.

 

15.2.1.2. Kệ Tụng

15.2.1.2.1. Trùng tụng lời răn nhắc

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Đương tinh tấn nhất tâm. Ngă dục thuyết thử sự, vật đắc hữu nghi hối.

          ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。當精進一心。我欲說此事。勿得有疑悔。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Hăy tinh tấn nhất tâm. Ta muốn nói chuyện này, chớ nên có nghi hối).

 

15.2.1.2.2. Trùng tụng lời hứa khả, lược đi không trùng tụng phần trần thuật, tán thán

         

          (Kinh) Phật trí phả tư nghị, nhữ kim xuất tín lực, trụ ư nhẫn thiện trung. Tích sở vị văn pháp, kim giai đương đắc văn. Ngă kim an ủy nhữ, vật đắc hoài nghi cụ. Phật vô bất thật ngữ, trí huệ bất khả lượng, sở đắc đệ nhất pháp, thậm thâm phả phân biệt. Như thị kim đương thuyết, nhữ đẳng nhất tâm thính.

          ()佛智叵思議。汝今出信力。住於忍善中。昔所未聞法。今皆當得聞。我今安慰汝。勿得懷疑懼。佛無不實語。智慧不可量。所得第一法。甚深叵分別。如是今當說。汝等一心聽。

          (Kinh: Phật trí chẳng nghĩ bàn, ông nay khởi tín lực, trụ vào trong nhẫn thiện, pháp xưa kia chưa nghe, nay sẽ đều được nghe. Ta nay an ủi ông, đừng ôm ḷng nghi sợ. Phật luôn nói chân thật, trí huệ chẳng thể lường, đạt được pháp bậc nhất, rất sâu chẳng phân biệt. Như thế nay sẽ nói, các ông nhất tâm nghe).

 

          Phần thứ nhất, “răn nhắc, hứa khả” đă xong.

 

15.2.2. Chánh thuyết

 

          Chia thành ba đoạn:

          - Từ đây trở đi cho đến hết phẩm Thọ Lượng, chánh thức khai cận hiển viễn.

          - Phần Trường Hàng của phẩm Phân Biệt Công Đức là thọ kư chung cho Pháp Thân.

          - Ngài Di Lặc nói kệ tŕnh bày chung sự lănh nhận, tín giải.

          Phần thứ nhất lại chia làm hai:

          - Một, cho đến hết phẩm này, do [đức Phật] khai hiển đại lược [thọ lượng của Như Lai], thính chúng dấy động chấp trước, sanh nghi.

          - Hai, trong phẩm Thọ Lượng, rộng khai hiển ḥng đoạn nghi sanh tín.

 

15.2.2.1. Khai hiển đại lược

15.2.2.1.1. Trường Hàng

 

          Do đức Phật chẳng đáp nhân duyên ǵ mà [các vị Bồ Tát từ dưới đất vọt lên] nhóm họp, cho nên kinh văn trong phần sau sẽ thỉnh vấn lần nữa.

 

15.2.2.1.1.1. Giải đáp thắc mắc ai là thầy của họ

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn thuyết thử kệ dĩ, cáo Di Lặc Bồ Tát: - Ngă kim ư thử đại chúng, tuyên cáo nhữ đẳng. A Dật Đa! Thị chư đại Bồ Tát Ma Ha Tát vô lượng vô số A-tăng-kỳ tùng địa dũng xuất, nhữ đẳng tích sở vị kiến giả, ngă ư thị Sa Bà thế giới, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề dĩ, giáo hóa, thị đạo thị chư Bồ Tát, điều phục kỳ tâm, linh phát đạo ư.

          ()爾時世尊說此偈已。告彌勒菩薩。我今於此大眾。宣告汝等。阿逸多。是諸大菩薩摩訶薩。無量無數阿僧祇。從地涌出。汝等昔所未見者。我於是娑婆世界。得阿耨多羅三藐三菩提已。教化示導是諸菩薩。調伏其心。令發道意。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ ấy xong, bảo Di Lặc Bồ Tát: - Nay ta ở trong đại chúng này, tuyên cáo với các ông. Này A Dật Đa! Các vị Đại Bồ Tát Ma Ha Tát này vô lượng, vô số A-tăng-kỳ từ dưới đất vọt lên, các ông trước kia chưa thấy, là do ta ở trong thế giới Sa Bà này, sau khi đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đă giáo hóa, chỉ dạy các Bồ Tát ấy, điều phục tâm họ, khiến cho họ phát đạo ư).

 

          Đây là trước hết giải đáp “ai là người thuyết pháp cho họ, giáo hóa khiến cho họ thành tựu, từ ai mà phát tâm ban đầu”.

 

15.2.2.1.1.2. Giải đáp họ từ đâu đến

15.2.2.1.1.2.1. Trả lời

 

          (Kinh) Thử chư Bồ Tát giai ư thị Sa Bà thế giới chi hạ, thử giới hư không trung trụ. Ư chư kinh điển, độc tụng thông lợi, tư duy phân biệt, chánh ức niệm.

          ()此諸菩薩。皆於是娑婆世界之下。此界虛空中住。於諸經典。讀誦通利。思惟分別。正憶念。

          (Kinh: Các vị Bồ Tát ấy đều ở dưới thế giới Sa Bà, cơi đó ở trong hư không. Đối với các kinh điển, [các Bồ Tát ấy] đều đọc tụng thông suốt, tư duy, phân biệt, suy nghĩ chân chánh).

 

          “Giới hạ không trung” (ở phía dưới thế giới này, trong không trung) như đă giải thích đại lược trong phần trước. Đây là giải đáp về trụ xứ, tức là họ đến từ chỗ nào. Từ “ư chư kinh điển” (đối với các kinh điển) trở đi, trả lời câu hỏi “xưng dương hà Phật pháp, thọ tŕ hành thùy kinh, tu tập hà Phật đạo” (xưng dương Phật pháp nào, thọ tŕ, thực hành kinh nào, tu tập Phật đạo nào). “Ư chư kinh điển” (đối với các kinh điển): Người căn tánh Viên giáo thọ pháp, không pháp nào chẳng viên. Diệu điển Pháp Hoa hết thảy kinh điển trong mười phương ba đời đều gom vào đó, Quyền và Thật chẳng hai, trọn chẳng lấy hay xả pháp nào! Đấy là giải đáp về [thắc mắc] “xưng dương” [kinh điển nào]. “Độc tụng thông lợi, tư duy phân biệt” (đọc tụng thông suốt, tư duy phân biệt) là lời đáp về thọ tŕ. “Chánh ức niệm” là giải đáp [thắc mắc về sự] tu tập.

 

15.2.2.1.1.2.2. Giải thích

15.2.2.1.1.2.2.1. Giải thích trụ xứ

 

          (Kinh) A Dật Đa! Thị chư thiện nam tử đẳng, bất nhạo tại chúng đa hữu sở thuyết, thường nhạo tĩnh xứ, cần hành tinh tấn, vị tằng hưu tức, diệc bất y chỉ nhân thiên nhi trụ.

          ()阿逸多。是諸善男子等。不樂在眾多有所說。常樂靜處。勤行精進。未曾休息。亦不依止人天而住。

          (Kinh: Này A Dật Đa! Các thiện nam tử này chẳng thích ở trong đại chúng nhiều điều bàn nói, thường thích ở chỗ tĩnh lặng, siêng hành tinh tấn, chưa từng nghỉ ngơi, cũng chẳng nương tựa người, trời để ở).

 

          “Bất nhạo tại chúng” (chẳng thích ở trong đại chúng): Trong tam giới, ngoài tam giới, Ngũ Ấm th́ gọi là Chúng. Nhị biên phân biệt gọi là “đa hữu sở thuyết” (có nhiều điều bàn nói). “Tĩnh xứ” (chỗ yên tĩnh) chính là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế. Pháp giới nhất tướng, dứt bặt đối đăi, chẳng c̣n thừa sót. V́ thế gọi là “tĩnh xứ”. “Cần hành tinh tấn, vị tằng hưu tức” (siêng hành tinh tấn, chưa từng nghỉ ngơi): Tâm tâm tuôn rót, tùy ư tương ứng với Tát Bà Nhă (Sarvajña, Nhất Thiết Trí). “Bất y nhân thiên” (chẳng nương tựa trời, người): Người biểu thị Hữu biên, trời biểu thị Không biên. Chẳng nương vào hai bên, cho nên dùng hư không trong cơi này để biểu thị, chứ họ thật sự trụ trong Thường Tịch Quang Pháp Tánh Độ.

 

15.2.2.1.1.2.2.2. Giải thích [thắc mắc về] thọ tŕ, xưng dương, tu tập

 

          (Kinh) Thường nhạo thâm trí, vô hữu chướng ngại, diệc thường nhạo ư chư Phật chi pháp, nhất tâm tinh tấn, cầu vô thượng huệ.

          ()常樂深智。無有障礙。亦常樂於諸佛之法。一心精進。求無上慧。

          (Kinh: Thường ưa thích trí sâu, chẳng có chướng ngại, cũng thường ưa thích pháp của chư Phật, nhất tâm tinh tấn cầu trí huệ vô thượng).

 

          Do họ thường ưa thích trí sâu, chẳng có chướng ngại, cho nên đối với các kinh điển, thảy đều xưng tụng, tán dương. Do họ thường ưa thích pháp của chư Phật, cho nên đọc tụng thông suốt, nhanh nhạy, tư duy, phân biệt. Do họ nhất tâm tinh tấn cầu trí huệ vô thượng, cho nên có thể nghĩ nhớ chân chánh. Phần thứ nhất Trường Hàng đă xong.

 

15.2.2.1.2. Kệ tụng

15.2.2.1.2.1. Trùng tụng Trường Hàng

15.2.2.1.2.1.1 Trùng tụng lời đáp về thầy

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - A Dật nhữ đương tri, thị chư đại Bồ Tát, tùng vô số kiếp lai, tu tập Phật trí huệ, tất thị ngă sở hóa, linh phát đại đạo tâm. Thử đẳng thị ngă tử.

            ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。阿逸汝當知。是諸大菩薩。從無數劫來。修習佛智慧。悉是我所化。令發大道心。此等是我子。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, mà nói kệ rằng: - A Dật, ông nên biết. Các đại Bồ Tát này, vô số kiếp đến nay, tu tập trí huệ Phật, đều do ta giáo hóa, khiến phát đại đạo tâm. Bọn này là con ta).

         

          Phần Trường Hàng chỉ nói “đắc Bồ Đề dĩ, hóa linh phát tâm” (sau khi đă đắc Bồ Đề, bèn giáo hóa, khiến cho họ phát tâm), chẳng nói “từ vô số kiếp đến nay”, có thể là ngụ ư “[những người được giáo hóa ấy] chỉ là hàng lợi căn viên đốn, trong một đời bèn siêu việt, chứng đắc”. Ở đây, [kệ tụng] chỉ nói “từ vô số kiếp đến nay, họ do ta giáo hóa”, chẳng nói “sau khi thành đạo”, chắc là có ư nói “chỉ là trong khi tu nhân hạnh, đă giáo hóa khiến cho họ phát tâm”. V́ thế, đức Phật chỉ đáp ai là thầy của họ, chưa hề khai hiển rành rành.

 

15.2.2.1.2.1.2. Trùng tụng lời đáp họ từ đâu đến

         

          (Kinh) Y chỉ thị thế giới, thường hành đầu đà sự, chí nhạo ư tĩnh xứ, xả đại chúng hội náo, bất nhạo đa sở thuyết. Như thị chư tử đẳng, học tập ngă đạo pháp, trú dạ thường tinh tấn, vị cầu Phật đạo cố. Tại Sa Bà thế giới, hạ phương không trung trụ. Chí niệm lực kiên cố, thường cần cầu trí huệ, thuyết chủng chủng diệu pháp. Kỳ tâm vô sở úy.

          ()依止是世界。常行頭陀事。志樂於靜處。捨大眾憒鬧。不樂多所說。如是諸子等。學習我道法。晝夜常精進。為求佛道故。在娑婆世界。下方空中住。志念力堅固。常勤求智慧。說種種妙法。其心無所畏。

          (Kinh: Nương tựa thế giới này, thường hành chuyện đầu-đà. Chí ưa thích chỗ vắng, bỏ đại chúng ồn ào. Chẳng thích nói năng nhiều. Các con như thế ấy, học tập đạo pháp ta, ngày đêm thường tinh tấn, v́ để cầu Phật đạo, trong thế giới Sa Bà, trụ không trung phương dưới. Sức chí niệm bền vững, thường siêng cầu trí huệ, nói đủ loại diệu pháp, tâm họ chẳng sợ hăi).

 

          Phần thứ nhất, “trùng tụng kinh văn Trường Hàng” đă xong.

 

15.2.2.1.2.2. Trùng tụng phần khai hiển đại lược

 

          (Kinh) Ngă ư Già Da[6] thành, Bồ Đề thụ hạ tọa, đắc thành tối Chánh Giác, chuyển vô thượng pháp luân. Nhĩ năi giáo hóa chi, linh sơ phát đạo tâm. Kim giai trụ bất thoái, tất đương đắc thành Phật. Ngă kim thuyết thật ngữ, nhữ đẳng nhất tâm tín. Ngă tùng cửu viễn lai, giáo hóa thị đẳng chúng.

          ()我於伽耶城。菩提樹下坐。得成最正覺。轉無上法輪。爾乃教化之。令初發道心。今皆住不退。悉當得成佛。我今說實語。汝等一心信。我從久遠來。教化是等眾。

          (Kinh: Ta ở thành Già Da, ngồi dưới cội Bồ Đề, thành Chánh Giác tối thượng, chuyển pháp luân vô thượng. Do vậy bèn giáo hóa, khiến sơ phát đạo tâm, nay đều trụ bất thoái, thảy đều sẽ thành Phật. Ta nay nói lời thật, các ông nhất tâm tin. Từ lâu xa tới nay, ta giáo hóa bọn họ).

 

          Đă nói “sau khi thành đạo khiến cho họ sơ phát tâm”, lại nói “từ lâu xa đă giáo hóa bọn họ”, tức là đại lược khai cận hiển viễn. V́ thế, [thính chúng] dấy động chấp trước, sanh nghi. Phần thứ nhất, “[trùng tụng] khai hiển đại lược” đă xong.

 

15.2.2.2. Nghi hoặc, thỉnh vấn

15.2.2.2.1. Trường Hàng

15.2.2.2.1.1. Người kết tập kinh trần thuật

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát, cập vô số chư Bồ Tát đẳng, tâm sanh nghi hoặc, quái vị tằng hữu, nhi tác thị niệm: - Vân hà Thế Tôn ư thiểu thời gian, giáo hóa như thị vô lượng vô biên A-tăng-kỳ chư đại Bồ Tát, linh trụ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề?

          ()爾時彌勒菩薩摩訶薩。及無數諸菩薩等。心生疑惑怪未曾有。而作是念。云何世尊於少時間。教化如是無量無邊阿僧祇諸大菩薩。令住阿耨多羅三藐三菩提。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát và vô số các vị Bồ Tát tâm sanh nghi hoặc, lấy làm lạ chưa từng có, nghĩ như thế này: - Sao đức Thế Tôn có thể trong thời gian ngắn giáo hóa vô lượng vô biên A-tăng-kỳ các vị đại Bồ Tát như thế, khiến cho họ trụ trong Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác?)

 

15.2.2.2.1.2. Phơi bày mối nghi, xin giải đáp

15.2.2.2.1.2.1. Phơi bày mối nghi

15.2.2.2.1.2.1.1. Pháp thuyết

15.2.2.2.1.2.1.1.1. Chấp gần nghi xa[7]

 

          (Kinh) Tức bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Như Lai vi thái tử thời, xuất ư Thích cung, khứ Già Da thành bất viễn, tọa ư đạo tràng, đắc thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Tùng thị dĩ lai, thỉ quá tứ thập dư niên. Thế Tôn! Vân hà ư thử thiểu thời, đại tác Phật sự, dĩ Phật thế lực, dĩ Phật công đức, giáo hóa như thị vô lượng đại Bồ Tát chúng, đương thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề?

          ()即白佛言。世尊。如來為太子時出於釋宮。去伽耶城不遠坐於道場。得成阿耨多羅三藐三菩提。從是已來。始過四十餘年。世尊。云何於此少時。大作佛事。以佛勢力。以佛功德。教化如是無量大菩薩眾。當成阿耨多羅三藐三菩提。

          (Kinh: Liền bạch cùng đức Phật rằng; - Bạch Thế Tôn! Như Lai khi làm thái tử, rời cung họ Thích, cách thành Già Da chẳng xa, ngồi nơi đạo tràng, được thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, từ đó đến nay, mới hơn bốn mươi năm. Bạch Thế Tôn! Sao Ngài có thể trong thời gian ít ỏi ấy, thực hiện Phật sự to lớn, dùng thế lực của Phật, dùng công đức của Phật, giáo hóa vô lượng các vị đại Bồ Tát như thế được thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác?)

         

15.2.2.2.1.2.1.1.2. Chấp xa nghi gần

 

          (Kinh) Thế Tôn! Thử đại Bồ Tát chúng, giả sử hữu nhân, ư thiên vạn ức kiếp, sổ bất năng tận, bất đắc kỳ biên. Tư đẳng cửu viễn dĩ lai, ư vô lượng vô biên chư Phật sở, thực chư thiện căn, thành tựu Bồ Tát đạo, thường tu phạm hạnh.

          ()世尊。此大菩薩眾。假使有人。於千萬億劫。數不能盡。不得其邊。斯等久遠已來。於無量無邊諸佛所植諸善根。成就菩薩道常修梵行。

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Các vị đại Bồ Tát này giả sử có người trong ngàn vạn ức kiếp, đếm chẳng thể hết, chẳng biết được chừng hạn. Các vị ấy từ lâu xa đến nay đă gieo thiện căn nơi vô lượng vô biên chư Phật, thành tựu Bồ Tát đạo, thường tu phạm hạnh).

 

15.2.2.2.1.2.1.1.3. Kết luận là khó tin

 

          (Kinh) Thế Tôn! Như thử chi sự, thế sở nan tín.

          ()世尊。如此之事。世所難信。

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Chuyện như vậy cơi đời khó tin được!)

 

          Phần thứ nhất là Pháp Thuyết đă xong.

 

15.2.2.2.1.2.1.2. Lập thí dụ

 

          (Kinh) Thí như hữu nhân, sắc mỹ, phát hắc, niên nhị thập ngũ, chỉ bách tuế nhân, ngôn thị ngă tử.

          ()譬如有人。色美髮黑。年二十五。指百歲人。言是我子。

          (Kinh: Ví như có người đẹp đẽ, tóc đen, hai mươi lăm tuổi, chỉ người trăm tuổi nói đó là con của ta).

 

          Đây là thí dụ về sự “chấp gần, nghi xa” trong phần trên. “Sắc mỹ, phát hắc” (sắc vóc xinh đẹp, tóc đen) nói chung là người trẻ tuổi vậy.

 

           (Kinh) Kỳ bách tuế nhân, diệc chỉ niên thiếu, ngôn thị ngă phụ, sanh dục ngă đẳng.

          ()其百歲人。亦指年少。言是我父。生育我等。

          (Kinh: Người trăm tuổi đó, cũng chỉ kẻ trẻ tuổi, nói đó là cha ta, đẻ nuôi ta thảy).

 

          Đây là sánh ví chuyện “chấp xa, nghi gần” trong phần trên.

 

          (Kinh) Thị sự nan tín.

          ()是事難信。

          (Kinh: Chuyện ấy khó tin).

 

          Đây là kết lại thí dụ về sự khó tin.

 

15.2.2.2.1.2.1.3. Kết hợp thí dụ với pháp

 

          (Kinh) Phật diệc như thị, đắc đạo dĩ lai, kỳ thật vị cửu.

          ()佛亦如是。得道已來。其實未久。

          (Kinh: Phật cũng như thế, đắc đạo đến nay thật ra chưa lâu).

 

          Đây là ứng thí dụ “tuổi hai mươi lăm, chẳng nên có đứa con đă trăm tuổi”!

 

          (Kinh) Nhi thử đại chúng chư Bồ Tát đẳng, dĩ ư vô lượng thiên vạn ức kiếp vị Phật đạo cố, cần hành tinh tấn, thiện nhập xuất trụ vô lượng bách thiên vạn ức tam-muội, đắc đại thần thông, cửu tu phạm hạnh, thiện năng thứ đệ tập chư thiện pháp, xảo ư vấn đáp, nhân trung chi bảo, nhất thiết thế gian thậm vi hy hữu!

          ()而此大眾諸菩薩等。已於無量千萬億劫為佛道故。勤行精進。善入出住無量百千萬億三昧。得大神通久修梵行。善能次第習諸善法。巧於問答。人中之寶。一切世間甚為希有。

          (Kinh: Nhưng các vị đại Bồ Tát trong đại chúng này đă trong vô lượng ngàn vạn ức kiếp v́ Phật đạo mà siêng hành tinh tấn, khéo nhập, xuất, trụ trong vô lượng trăm ngàn vạn ức tam-muội, đắc đại thần thông, tu phạm hạnh đă lâu, khéo có thể theo thứ tự tu tập các thiện pháp, khéo léo hỏi đáp, là của báu trong loài người, rất hy hữu trong hết thảy thế gian).

 

          Đây là ứng hợp với thí dụ “người trăm tuổi chẳng nên do kẻ hai mươi lăm tuổi sanh ra”.

 

          (Kinh) Kim nhật Thế Tôn phương vân đắc Phật đạo thời, sơ linh phát tâm, giáo hóa, thị đạo, linh hướng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thế Tôn đắc Phật vị cửu, năi năng tác thử đại công đức sự!

          ()今日世尊方云得佛道時。初令發心。教化示導。令向阿耨多羅三藐三菩提。世尊得佛未久。乃能作此大功德事。

          (Kinh: Ngày nay đức Thế Tôn mới nói: Khi Ngài đắc đạo, khiến cho họ phát tâm ban đầu, giáo hóa, chỉ dạy, khiến cho họ hướng tới Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đức Thế Tôn thành Phật chưa lâu bèn có thể làm chuyện công đức to lớn này!)

 

          Đây là ứng hợp với lời kết luận “khó tin” [trong thí dụ]. Phần thứ nhất, “nêu bày mối nghi” đă xong!

 

15.2.2.2.1.2.2. Xin giải đáp

15.2.2.2.1.2.2.1. Nêu rơ ư cầu thỉnh

15.2.2.2.1.2.2.1.1. V́ [chúng sanh] hiện tại [mà cầu thỉnh]

 

          (Kinh) Ngă đẳng tuy phục tín Phật tùy nghi sở thuyết, Phật sở xuất ngôn, vị tằng hư vọng, Phật sở tri giả, giai tất thông đạt.

          ()我等雖復信佛隨宜所說。佛所出言。未曾虛妄。佛所知者。皆悉通達。

          (Kinh: Chúng con dẫu vẫn tin lời đức Phật nói thuận theo cơ nghi, Phật chưa từng thốt lời hư vọng, những điều Phật biết thảy đều thông suốt).

 

          Chúng con tuy chưa biết rơ, do kính ngưỡng mà tin tưởng thôi!

 

15.2.2.2.1.2.2.1.2. V́ vị lai [mà cầu thỉnh]

 

          (Kinh) Nhiên chư tân phát ư Bồ Tát, ư Phật diệt hậu, nhược văn thị ngữ, hoặc bất tín thọ, nhi khởi phá pháp tội nghiệp nhân duyên.

          ()然諸新發意菩薩。於佛滅後。若聞是語。或不信受。而起破法罪業因緣。

          (Kinh: Nhưng các vị Bồ Tát mới phát ư, sau khi đức Phật diệt độ, nếu nghe lời ấy, có thể chẳng tin nhận, bèn dấy lên nhân duyên tội nghiệp phá pháp).

 

          Do hạnh nông cạn, sẽ dễ sanh tâm phỉ báng. Do báng mà đọa vào ác đạo. Hàng Bất Thoái tuy do ngưỡng mộ mà tin tưởng, nhưng chưa biết rơ, sẽ chẳng thể tăng tấn đạo tâm, giảm bớt phiền cấu. V́ thế, cần phải trả lời, giải thích, khiến cho kẻ báng bổ sanh ḷng tin, kẻ đă tin sẽ tăng tấn đạo tâm, giảm bớt phiền cấu. Phần thứ nhất, “nêu ra ư nghĩa cầu thỉnh” đă xong!

 

15.2.2.2.1.2.2.2. Chánh thức cầu giải đáp


          (Kinh)
Dụy nhiên Thế Tôn, nguyện vị giải thuyết, trừ ngă đẳng nghi, cập vị lai thế chư thiện nam tử văn thử sự dĩ, diệc bất sanh nghi.

          ()唯然世尊。願為解說。除我等疑。及未來世諸善男子聞此事已。亦不生疑。

          (Kinh: Thưa vâng đức Thế Tôn! Nguyện v́ con giải nói, trừ mối nghi cho chúng con, và các thiện nam tử trong đời vị lai nghe chuyện này rồi cũng chẳng sanh nghi).

 

          Một là thỉnh trừ nghi cho hiện tại, hai là thỉnh trừ nghi cho vị lai. Phần thứ nhất, kinh văn Trường Hàng đă xong.

 

15.2.2.2.2. Kệ tụng        

15.2.2.2.2.1. Trùng tụng nêu bày mối nghi

15.2.2.2.2.1.1. Trùng tụng Pháp Thuyết

15.2.2.2.2.1.1.1. Trùng tụng chấp gần

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Di Lặc Bồ Tát dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Phật tích tùng Thích chủng, xuất gia cận Già Da, tọa ư Bồ Đề thụ, nhĩ lai thượng vị cửu.

          ()爾時彌勒菩薩。欲重宣此義而說偈言。佛昔從釋種。出家近伽耶。坐於菩提樹。爾來尚未久。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Di Lặc Bồ Tát muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Phật xưa từ họ Thích, xuất gia gần Già Da, ngồi dưới cội Bồ Đề, đến nay c̣n chưa lâu).

 

15.2.2.2.2.1.1.2. Trùng tụng chấp xa

 

          (Kinh) Thử chư Phật tử đẳng, kỳ số bất khả lượng, cửu dĩ hành Phật đạo, trụ ư thần thông lực, thiện học Bồ Tát đạo, bất nhiễm thế gian pháp, như liên hoa tại thủy, tùng địa nhi dũng xuất, giai khởi cung kính tâm, trụ ư Thế Tôn tiền.

          ()此諸佛子等。其數不可量。久已行佛道。住於神通力。善學菩薩道。不染世間法。如蓮華在水。從地而涌出。皆起恭敬心。住於世尊前。

          (Kinh: Các vị Phật tử đây, số lượng chẳng thể lường, hành Phật đạo đă lâu, trụ vào sức thần thông, khéo học đạo Bồ Tát, chẳng nhiễm pháp thế gian, như hoa sen trong nước, từ đất mà vọt lên, đều dấy ḷng cung kính, đứng trước mặt Thế Tôn).

 

15.2.2.2.2.1.1.3. Trùng tụng kết luận “khó tin”

 

          (Kinh) Thị sự nan tư nghị, vân hà nhi khả tín? Phật đắc đạo thậm cận, sở thành tựu thậm đa! Nguyện vị trừ chúng nghi, như thật phân biệt thuyết.

          ()是事難思議。云何而可信。佛得道甚近。所成就甚多。願為除眾疑。如實分別說。

          (Kinh: Chuyện này khó nghĩ bàn, làm sao có thể tin? Phật đắc đạo rất gần, thành tựu lại rất nhiều. Nguyện trừ nghi cho chúng, như thật phân biệt nói).

 

          Phần thứ nhất,trùng tụng Pháp Thuyết đă xong.

 

15.2.2.2.2.1.2. Trùng tụng lập thí dụ

 

          (Kinh) Thí như thiếu tráng nhân, niên thỉ nhị thập ngũ, thị nhân bách tuế tử, phát bạch nhi diện trứu, thị đẳng ngă sở sanh, tử diệc thuyết thị phụ. Phụ thiếu nhi tử lăo, cử thế sở bất tín.

          ()譬如少壯人。年始二十五。示人百歲子。髮白而面皺。是等我所生。子亦說是父。父少而子老。舉世所不信。

          (Kinh: Ví như người trẻ khỏe, tuổi mới hai mươi lăm, chỉ người trăm tuổi già, tóc bạc và mặt nhăn: “Bọn này do ta sanh”. Con cũng nói là cha. Cha trẻ mà con già, cơi đời chẳng tin nổi!)

 

          Năm câu đầu trùng tụng thí dụ về “chấp gần, nghi xa”. Câu kế tiếp trùng tụng thí dụ “chấp xa, nghi gần”. Hai câu cuối trùng tụng kết luận “khó tin”.

 

15.2.2.2.2.1.3. Trùng tụng chuyện kết hợp thí dụ với pháp

         

          (Kinh) Thế Tôn diệc như thị, đắc đạo lai thậm cận. Thị chư Bồ Tát đẳng, chí cố vô khiếp nhược, tùng vô lượng kiếp lai, nhi hành Bồ Tát đạo, xảo ư nan vấn đáp. Kỳ tâm vô sở úy, nhẫn nhục tâm quyết định, đoan chánh hữu oai đức. Thập phương Phật sở tán, thiện năng phân biệt thuyết, bất nhạo tại nhân chúng, thường háo tại Thiền Định. Vị cầu Phật đạo cố, ư hạ không trung trụ.

          ()世尊亦如是。得道來甚近。是諸菩薩等。志固無怯弱。從無量劫來。而行菩薩道。巧於難問答。其心無所畏。忍辱心決定。端正有威德。十方佛所讚。善能分別說。不樂在人眾。常好在禪定。為求佛道故。於下空中住。

          (Kinh: Thế Tôn cũng như thế, đắc đạo rất gần đây, nhưng các Bồ Tát ấy, chí vững, chẳng khiếp nhược. Vô lượng kiếp tới nay, thường hành đạo Bồ Tát, khéo gạn hỏi, giải đáp. Tâm họ chẳng sợ hăi, tâm nhẫn nhục quyết định. Đoan chánh, có oai đức, được mười phương Phật khen, khéo hay phân biệt nói. Chẳng ưa nơi đông người, thường chuộng trụ Thiền Định. V́ mong cầu Phật đạo, trụ hư không phương dưới).

 

          Nửa bài kệ đầu trùng tụng pháp đối ứng với thí dụ “tuổi mới hai mươi lăm”. Ba bài kệ rưỡi kế đó, trùng tụng đối ứng thí dụ “con trăm tuổi”. Lược đi không trùng tụng kết luận “khó tin”. Phần thứ nhất, “trùng tụng nêu bày mối nghi” đă xong.

 

15.2.2.2.2.2. Trùng tụng thỉnh cầu giải đáp

 

          (Kinh) Ngă đẳng tùng Phật văn, ư thử sự vô nghi. Nguyện Phật vị vị lai, diễn thuyết linh khai giải. Nhược hữu ư thử kinh, sanh nghi bất tín giả, tức đương đọa ác đạo. Nguyện kim vị giải thuyết: Thị vô lượng Bồ Tát, vân hà ư thiểu thời, giáo hóa linh phát tâm, nhi trụ Bất Thoái địa.

          ()我等從佛聞。於此事無疑。願佛為未來。演說令開解。若有於此經。生疑不信者。即當墮惡道。願今為解說。是無量菩薩。云何於少時。教化令發心。而住不退地。

    (Kinh: Chúng con nghe lời Phật, chẳng nghi ngờ chuyện này. Nguyện Phật v́ mai sau, diễn nói khiến hiểu rơ. Nếu ai với kinh này, sanh nghi, chẳng tin tưởng, sẽ đọa vào đường ác. Nguyện nay giải nói cho! Vô lượng Bồ Tát này, sao trong thời gian ngắn, giáo hóa khiến phát tâm, trụ địa vị Bất Thoái?)

 

          Phần thứ nhất, “do [đức Phật] khai hiển đại lược, thính chúng dấy động chấp trước, sanh nghi” đă xong. Giải thích phẩm Tùng Địa Dũng Xuất đă xong, kế đến giải thích phẩm Thọ Lượng.

 

16. Phẩm thứ mười sáu: Thọ lượng của Như Lai (Như Lai thọ lượng phẩm đệ thập lục, 如來壽量品第十六)

 

          Như Lai là thông hiệu của mười phương ba đời chư Phật, hai loại Phật (Chân Thân, Ứng Thân), ba loại Phật (Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân), Bổn Phật, và Tích Phật. “Thọ” () là “thọ” (, tiếp nhận). Nói Lượng () là bàn định, cân nhắc công đức của mười phương tam thế chư Phật, hai loại Phật, ba loại Phật, Bổn Phật và Tích Phật. Phẩm này chính là bàn định, cân nhắc công đức của ba loại Phật nơi Bổn Địa. V́ thế, nói là phẩm Như Lai Thọ Lượng. Như Lai có rất nhiều nghĩa, nay chỉ nói về hai thân và ba thân, các loại khác cứ phỏng theo đó để hiểu.

          Hai loại là Chân Thân Như Lai và Ứng Thân Như Lai. Như Thành Thật Luận nói: “Thừa như thật đạo, lai thành Chánh Giác, cố danh Như Lai” (Nương vào đạo như thật để đạt thành Chánh Giác, cho nên gọi là Như Lai). Đó chính là hiển thị ư nghĩa của hai thân. V́ sao? “Thừa” là Như Trí, “Thật” là Như Cảnh, Đạo là nhân, Giác là quả. Nếu chỉ luận về Thừa, sẽ là như không có ǵ để hay biết. Nếu chỉ luận về Thật, sẽ là như không có ǵ có thể biết. Cảnh và trí ḥa hợp, sẽ có nhân quả. Chiếu cảnh chưa cùng tột th́ gọi là Nhân. Tận cùng nguồn cội là Quả. Nhân viên, quả măn, chính là “thừa như thật đạo, lai thành Chánh Giác”. Đó chính là Chân Thân Như Lai. Dùng Như Thật Trí để nương vào đạo như thật, sanh vào tam hữu (ba cơi, tức Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới), thị hiện thành Chánh Giác; đấy chính là Ứng Thân Như Lai (trí huệ của Báo Thân ngầm khế hợp pháp, th́ gọi là Chân Thân. Từ Thể khởi Dụng, th́ gọi là Ứng Thân. Chỉ nói hai thân, đă nhiếp trọn Pháp Thân).   

          Tam thân là Pháp Thân Như Lai, Báo Thân Như Lai, và Hóa Thân Như Lai. Như Đại Luận nói: “Như pháp tướng giải, như pháp tướng thuyết, cố danh Như Lai” (hiểu đúng như pháp tướng, nói đúng như pháp tướng. V́ vậy gọi là Như Lai). Đấy chính là trọn đủ ư nghĩa tam thân. V́ sao? Như tức pháp như, như cảnh, chẳng phải nhân, chẳng phải quả, có Phật, hay không có Phật, tánh và tướng thường hằng, trọn khắp hết thảy các chỗ, chẳng có ǵ sai khác. V́ thế, gọi là Như. Bất động mà đến th́ gọi là Lai. Đó là xét theo sở chứng (pháp được chứng). Đấy chính là Pháp Thân Như Lai. Lại nữa, như trí tương xứng như lư, từ Lư mà gọi là Như, từ trí mà Lai (đến). V́ thế gọi là “như pháp tướng giải”. Đấy là xét theo năng chứng (chủ thể chứng) th́ là Báo Thân Như Lai. Lại do cảnh và trí “như như ḥa hợp”, cho nên có thể thị hiện thành Chánh Giác ở mọi nơi, chuyển chánh pháp luân. V́ thế nói “như pháp tướng thuyết”. Đó là xét theo sự dấy khởi tác dụng, tức là Hóa Thân Như Lai. Kệ rằng: “Thủy ngân ḥa chân kim, năng đồ chư sắc tượng, công đức ḥa Pháp Thân, xứ xứ ứng hiện văng” (Thủy ngân và vàng ṛng, hay thếp các bức tượng. Công đức và Pháp Thân. Tới ứng hiện khắp chốn). Như bóng trăng sáng in xuống khắp muôn sông, cho nên gọi là Ứng, cũng gọi là Hóa. Ba thân ấy chẳng thể giữ riêng lấy một [thân nào]. V́ thế, Đại Kinh nói: “Pháp Thân diệc phi Niết Bàn, Bát Nhă diệc phi Niết Bàn, giải thoát diệc phi Niết Bàn” (Pháp Thân cũng chẳng phải là Niết Bàn, Bát Nhă cũng chẳng phải là Niết Bàn, giải thoát cũng chẳng phải là Niết Bàn). Ba pháp trọn đủ, được gọi là Bí Mật Tạng, đặt tên là Đại Niết Bàn.

          Hăy nên biết: Đối với tam thân, chẳng thể [nẩy sanh ư niệm] “một, khác, ngang, dọc, cùng nhau, khác biệt”. Nắm trọn vẹn ba pháp th́ gọi bằng giả danh Như Lai. Kinh văn nói “phi như, phi dị, phi bỉ thiên Như” (chẳng phải giống nhau, chẳng phải khác nhau, chẳng phải cái Như thiên lệch) nhằm hiển thị Viên Như, tức là ư nghĩa Pháp Thân Như Lai. Lại nói “Như Lai như thật tri kiến tam giới chi tướng” (Như Lai như thật thấy biết tướng của tam giới) tức là Như Như Trí xứng hợp Như Như Cảnh. Dùng Nhất Thiết Chủng Trí để biết, dùng Phật nhăn để thấy. Đó là ư nghĩa Báo Thân Như Lai. Lại nói “hoặc thị kỷ thân, kỷ sự, hoặc thị tha thân, tha sự” (hoặc chỉ bày thân ḿnh, chuyện của chính ḿnh, hoặc chỉ bày thân người khác, chuyện của kẻ khác), đó là ư nghĩa Ứng Thân Như Lai. Nếu chỉ xét tam Như Lai nơi Tánh Đức th́ là chiều ngang. Nếu xét tam Như Lai (Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân) nơi Tu Đức th́ là theo chiều dọc. Nếu nói trước là Pháp Thân, kế đến là Báo Thân, sau cùng là Ứng Thân th́ cũng là theo chiều dọc. Kinh này nói trọn vẹn tam Như Lai chẳng dọc, chẳng ngang. Ba thân dù dọc hay ngang, đều chẳng phải là ư nghĩa trong kinh này, huống hồ Như Lai được nói trong Tam Tạng hoặc Thông Giáo ư? Lại nữa, trước thời Pháp Hoa, cũng nói ư nghĩa ba thân trong Viên Giáo, nhưng đều là ba thân nơi Tích mà thôi! Ba loại Như Lai thuộc “phát Tích hiển Bổn” (chỉ ra Tích để hiển lộ Bổn) rất khác với các kinh. V́ thế, trong luận (Pháp Hoa Luận), ngài Thiên Thân viết:

          “Do thị hiện thành đại Bồ Đề vô thượng, cho nên chỉ bày ba loại Bồ Đề:

          - Một là Ứng Hóa Bồ Đề, tùy theo đáng nên hiện như thế nào, liền thị hiện như thế đó, như kinh nói [Phật Thích Ca] vượt khỏi cung của gịng họ Thích.

          - Hai là Báo Phật Bồ Đề, Thập Địa trọn vẹn, đạt được thường Niết Bàn, như kinh nói: ‘Từ khi ta thật sự thành Phật đến nay, đă là vô lượng vô biên kiếp’.

          - Ba là Pháp Phật Bồ Đề, tức là Như Lai Tạng, tánh tịnh Niết Bàn bất biến, như kinh nói: ‘Như Lai như thật thấy biết tướng của tam giới’.

          Kinh có đủ các nghĩa ấy, c̣n luận th́ nêu ra danh xưng. Chẳng giải thích như trên đây, sao có thể dung hội kinh và luận ư?

          Lại nữa, đối với mỗi thân trong tam thân, đều luận đơn và phức. Ư nghĩa Đơn như trên.

          Pháp Thân phức th́ một là tự tánh thanh tịnh Pháp Thân, hai là ly cấu diệu cực Pháp Thân.

          Báo Thân phức th́ một là Tự Thọ Dụng Báo, hai là Tha Thọ Dụng Báo.

          Ứng Thân phức th́ một là Thắng Ứng, hai là Liệt Ứng. Lại c̣n một là thân ứng hiện trong Phật giới, hai là thân ứng hiện trong chín pháp giới kia.

          Nếu gộp ba thân đơn và phức ấy thành hai thân, th́ hai loại Pháp Thân và Tự Thọ Dụng Báo Thân được gọi là Chân Thân; Tha Thọ Dụng Báo Thân và Thắng Ứng Thân, Liệt Ứng Thân v.v… được gọi là Ứng Thân. V́ thế biết: Dù đơn hay phức, dù hai hay ba, đều là b́nh đẳng. Nếu muốn nói rộng th́ là bốn thân, mười thân, ba mươi hai thân, vô lượng thân v.v… tách ra hay gộp vào tự tại. Nhiều chẳng là nhiều, ít chẳng là ít. Chẳng ít, chẳng nhiều mà là ít, là nhiều. Nếu chấp vào danh tướng để rồi mong xằng bậy so đo các kinh hơn kém, sẽ cách biệt càng xa vậy!

          Kế đó, nói về thọ lượng. Chân Như chẳng ngăn cách các pháp; cho nên gọi là Thọ (, tiếp nhận). Đó là Pháp Thân Thọ (thọ lượng của Pháp Thân). Do cảnh và trí tương ứng, cho nên gọi là Thọ. Đó là Báo Thân Thọ. Thị hiện trong một giai đoạn, duy tŕ liên tục chẳng đoạn, cho nên gọi là Thọ. Đó là Ứng Thân Thọ. Cân nhắc thọ mạng như lư của Pháp Thân Như Lai, cân nhắc thọ mạng trí huệ của Báo Thân Như Lai, cân nhắc thọ mạng đồng duyên của Ứng Thân Như Lai. V́ thế nói là Thọ Lượng.

          “Thọ mạng như lư của Pháp Thân Như Lai”: Có Phật hay không có Phật, tánh và tướng thường hằng. Chẳng luận tương ứng, chẳng luận duy tŕ liên tục, chẳng phải là vô lượng, chẳng phải là hữu lượng. V́ thế, kinh văn nói: “Phi như, phi dị, phi thật, phi hư” (Chẳng như, chẳng khác, chẳng thật, chẳng hư). Do vậy, bàn luận, cân nhắc thọ mạng như lư của Pháp Thân.

          “Thọ mạng trí huệ của Báo Thân Như Lai”: Dùng Như Như Trí khế hợp Như Như Cảnh. Cảnh phát khởi Trí là Báo. Trí ngầm khế hợp Cảnh là Thọ. Cảnh đă là vô lượng vô biên, thường trụ bất diệt, [cho nên] Trí cũng giống như thế. Ví như hộp to th́ nắp to. V́ thế, kinh văn nói: “Ngă trí lực như thị, cửu tu nghiệp sở đắc, huệ quang chiếu vô lượng, thọ mạng vô số kiếp” (Trí lực ta như thế, nghiệp tu lâu đạt được. Huệ quang chiếu vô lượng, thọ mạng vô số kiếp). Đó là nói đến thọ mạng trí huệ của Báo Thân.

          “Thọ mạng đồng duyên của Ứng Thân Như Lai”: Duyên dài, [thọ mạng] sẽ dài; duyên ngắn, ắt [thọ mạng] ngắn ngủi. Như nước trong trăng hiện, trăng thật sự chẳng đến [in bóng trong nước]. Nước đục, bóng trăng mất, trăng cũng chẳng đi. V́ thế, kinh văn nói: “Sổ sổ hiện sanh, sổ sổ hiện diệt. Hoặc phục tự thuyết danh tự bất đồng, niên kỷ đại tiểu” (nhiều lượt hiện sanh, nhiều lượt hiện diệt. Hoặc lại c̣n tự nói danh tự khác nhau, tuổi tác lớn nhỏ). Đó là nói đến thọ mạng đồng duyên của Ứng Thân.

          Hăy nên biết thọ mạng được nói đó chẳng ra ngoài bốn câu: Một là hữu lượng, hai là vô lượng, ba là vừa là hữu lượng vừa vô lượng, bốn là chẳng phải hữu lượng chẳng phải vô lượng. Hữu lượng sẽ vô thường, vô lượng th́ thường. Vừa hữu lượng vừa vô lượng th́ vừa thường vừa vô thường. Chẳng phải hữu lượng chẳng phải vô lượng th́ chẳng phải thường mà cũng chẳng phải vô thường! Nay dùng bốn câu để giải thích theo Biệt và Viên:

          - Một, giải thích theo Biệt Giáo. Đối với “chẳng phải thường, chẳng phải vô thường”, lư “cả hai đằng đều chẳng phải” ấy đến tột cùng chính là Pháp Thân. “Thường” tức là Báo Thân. Báo Trí ngầm khế hợp pháp, cũng là “chẳng phải thường, chẳng phải vô thường”. Nhưng sau khi giữ lấy Kim Cang Đạo, chánh trí viên măn, chẳng c̣n sanh diệt, cho nên gọi là Thường. Lại dựa theo Duy Thức th́ Pháp Thân chẳng sanh, chẳng diệt, cho nên gọi là Thường. Báo Thân được sanh bởi sanh nhân, cho nên chẳng phải là thường. Do [Báo Thân] thành tựu viên măn, cho nên là chẳng phải là vô thường. Đó chính là “song phi cú” (雙非句, câu nói thể hiện ư “cả hai đằng đều chẳng phải”, tức chẳng phải thường, chẳng phải vô thường). Vừa thường, vừa vô thường th́ là Ứng Thân. Do ứng dụng vô tận, nên cũng là thường. Nhiều lần tuyên xướng “diệt độ” nên cũng là vô thường. “Vô thường” tức là tác dụng tăng tấn của trí trước khi đạt được cái tâm kim cang, cho đến phàm phu sanh, diệt, xuất hiện, mất đi, đều là vô thường. Ba loại Phật th́ mỗi loại có một câu, phàm phu có một câu, cho nên là nghĩa sai biệt.

          - Hai, giải thích chung theo Viên Giáo: Trong ba thân, mỗi thân đều có đủ bốn câu:

          a) “Bốn câu của Pháp Thân”: Bất sanh, bất diệt, cho nên gọi là Thường. Chẳng phải là Thường theo kiểu so đo điên đảo hư vọng của phàm phu; v́ thế gọi là Vô Thường. Tịch mà cùng chiếu cả hai (chiếu lẫn Thường và Vô Thường, chiếu sanh và diệt v.v…), v́ thế gọi là “cũng Thường, cũng Vô Thường”. Cùng phá tám món điên đảo của thánh lẫn phàm, cho nên gọi là “chẳng phải thường, chẳng phải vô thường”.

          b) “Bốn câu của Báo Thân”: Vượt khỏi Nhị Thừa, cho nên gọi là Thường. Do chẳng phải là Thường theo kiểu so đo hư vọng, cho nên gọi là Vô Thường. Trí có thể cùng chiếu cả hai bên, cho nên gọi là “vừa thường, vừa vô thường”. Trí ngầm khế hợp cảnh chân thật, cho nên gọi là “chẳng phải thường, chẳng phải vô thường”.

          c) “Bốn câu của Ứng Thân”: Ứng dụng bất tuyệt, cho nên gọi là Thường. Thị hiện cùng sanh diệt [giống như phàm phu], cho nên gọi là Vô Thường. Hai nghĩa đều trọn đủ, nên gọi là “vừa thường, vừa vô thường”. Đă chẳng phải là Thật Báo, mà cũng chẳng phải là nghiệp cảm, cho nên gọi là “chẳng phải thường, chẳng phải vô thường”.

          Thậm chí phàm phu cũng trọn đủ ba loại “bốn câu” ấy: Tâm tánh tùy duyên bất biến, cho nên gọi là Thường. Như đă nói: Từ vô thỉ cho đến tận vị lai, luân hồi sanh tử, tuy sanh nhưng thật sự chẳng sanh, tuy chết mà thật sự chẳng chết. Đấy là tánh trọn đủ “Pháp Thân thường”. Tâm tánh ấy bất biến tùy duyên, lưu chuyển trong năm đường, sanh diệt chẳng ngừng, th́ gọi là vô thường. Đó là nghĩa “vô thường” của Pháp Thân. Do tùy duyên mà bất biến, cho nên cũng là thường. Do bất biến mà tùy duyên, cho nên cũng là vô thường. Đấy là ư nghĩa “song diệc” (cũng thường, cũng vô thường) của Pháp Thân. Tuy bất biến mà chẳng ngưng lặng; tuy tùy duyên mà chẳng đoạn diệt. Đấy chính là ư nghĩa “song phi” (chẳng thường, chẳng vô thường) của Pháp Thân.

          Xét theo Pháp Thân “tánh vốn trọn đủ” th́ đă thành ra bốn câu ấy. Nương theo Pháp Thân mà dấy Hoặc, Hoặc chính là Bát Nhă, tức là Báo Thân “tánh vốn trọn đủ”, cũng tạo thành bốn câu. Nương theo Hoặc và Khổ mà dấy nghiệp, nghiệp chính là giải thoát, tức là Ứng Thân “tánh vốn trọn đủ”, cũng tạo thành bốn câu. Đó chính là Lư Tức Tam Thân của phàm phu, mỗi thân đều có bốn câu. Danh Tự Tứ Cú c̣n chẳng có, hà huống hạnh và dụng? Người thuộc căn cơ Viên Giáo hiểu xứng lư, cho nên có bốn câu thuộc về Danh Tự Tam Thân, bốn câu thuộc về Quán Hạnh Tam Thân, cho đến đă thành tựu quả th́ sẽ là bốn câu thuộc về Cứu Cánh Tam Thân. Từ đầu tới cuối, một thân chính là ba thân, ba thân chính là một thân, chẳng một, chẳng khác, mà cũng chẳng ngang dọc!

          Hăy nên biết một Phật thân trọn đủ công đức thọ mạng của các thân, tùy theo duyên cảm vời mà trông thấy [thọ mạng nơi thân ấy] dài hay ngắn khác nhau. Đại Kinh dạy: “Phàm phu, Nhị Thừa kiến Phật thọ mạng do như Đông nhật. Bồ Tát sở kiến do như Xuân nhật. Duy Phật kiến Phật thọ mạng vô lượng, do như Hạ nhật” (Phàm phu, Nhị Thừa thấy thọ mạng của Phật như ngày Đông, Bồ Tát thấy như ngày mùa Xuân, chỉ có Phật thấy thọ mạng của Phật vô lượng như ngày mùa Hạ). V́ lẽ nào vậy? Phàm phu lè tè sát đất bị chướng lấp mờ mịt. Tạng Thông Nhị Thừa tuy đoạn tứ trụ, chẳng thấy Trung Đạo. Nếu xả Phần Đoạn [sanh tử], thọ Pháp Tánh Thân, chưa phá vô minh, sẽ thấy Phật trong cơi Phương Tiện, vẫn là thân Thắng Ứng. Hăy nên biết Nhị Thừa chỉ thấy [thọ mạng của Phật ngắn ngủi như] ngày mùa Đông. Nếu là các vị Bồ Tát chưa dự vào Sơ Địa trong Biệt Giáo hay Sơ Trụ trong Viên Giáo, sẽ thấy [thọ mạng của Phật] giống như phàm phu và Nhị Thừa. Nếu đă phá vô minh cho đến thọ phần chứng Pháp Thân, nói theo phương diện chấp giữ, sẽ là được thấy thọ mạng của Báo Thân. Nói theo phương diện phủ định, sẽ là Tha Thọ Dụng Báo Thân, vẫn gọi là Thắng Ứng. Do chưa tột cùng nguồn cội của Báo Thân, chưa tột cùng pháp tánh; v́ thế, thấy thọ mạng của Phật giống như ngày mùa Xuân. Chỉ có Phật và Phật, tột cùng tánh, thấu tột nguồn, thấy thọ mạng của Pháp Thân giống như ngày Hè. Do vậy, nêu ra cả ba thí dụ để sánh ví:

          - Một, trong các pháp thường, hư không bậc nhất. Trong hết thảy thọ mạng, [thọ mạng của] Như Lai bậc nhất. Đấy là sánh ví thọ mạng của Pháp Thân chẳng có khởi đầu, chẳng có kết thúc, tánh tướng tĩnh lặng.

          - Hai, ví như bốn con sông đều đổ vào biển cả. Đấy là sánh ví thọ mạng của Báo Thân. Tu tập muôn điều thiện đều cảm vời Phật báo, quy vào biển thọ mạng.

          - Ba là ao to A Nậu Đạt (Anavatapta)[8] chảy ra bốn con sông lớn. Đó là sánh ví thọ mạng của Ứng Thân từ Pháp Thân và Báo Thân lưu xuất, tùy duyên mà dài hay ngắn.

          Sự luận định, cân nhắc [thọ lượng của Phật] trong phẩm này gồm chung cả ba thân. Nếu nói theo biệt ư, th́ chính là nói về Báo Thân. V́ sao vậy? Thuận tiện về nghĩa, dung hội về kinh văn! “Thuận tiện về ư nghĩa”: Trí huệ của Báo Thân ngầm ứng hợp trên dưới (trên là ứng hợp chư Phật, dưới là ứng hợp chúng sanh), tam thân rành rành trọn đủ. “Dung hội kinh văn”: Ngă thành Phật lai, thậm đại cửu viễn” (Ta kể từ khi thành Phật đến nay đă rất lâu xa). V́ thế, có thể lợi ích chúng sanh suốt ba đời. “Cái được thành tựu” (sở thành) chính là Pháp Thân. “Cái có thể thành tựu” (năng thành) chính là Báo Thân. Do Pháp Thân và Báo Thân ḥa hợp bèn có thể lợi ích chúng sanh. Dùng điều này để suy ra, ư nghĩa chủ chốt [trong phẩm này] là luận định công đức của Báo Thân Phật. Các thứ công đức của ba thân như thế đều do [đức Thế Tôn] đă thành tựu dưới cội cây đạo tràng từ bao kiếp lâu xa trong quá khứ trước kia, gọi đó là Bổn. Trong khoảng giữa và ngày nay (tức là trong nhiều lượt thị hiện giáng sanh trong cơi này và các cơi khác), [thị hiện] thành tựu [Phật quả] nơi Tịch Diệt đạo tràng, th́ gọi là Tích. Chẳng có Bổn, sẽ không có ǵ để thùy Tích (thị hiện dấu Tích). Chẳng có Tích, sẽ chẳng có ǵ để hiển lộ Bổn. Bổn và Tích tuy khác, đều chẳng thể nghĩ bàn như nhau! Như Bổn Tích được nói trong các kinh khác, coi Pháp Thân và Báo Thân thành tựu nơi Tịch Diệt đạo tràng là Bổn. Từ Bổn khởi lên hai loại Thắng Ứng Thân và Liệt Ứng Thân, đó là Tích. Nay [kinh Pháp Hoa] coi ba thân thành tựu nơi Tịch Diệt đạo tràng cho đến ba thân đă thành tựu từ vô lượng kiếp đến nay đều gọi là Tích, chỉ riêng coi ba thân được thành tựu do thật sự đắc Bồ Đề thuở ban đầu là Bổn. V́ thế, khác hẳn các kinh kia.

 

* Rộng khai hiển [thọ lượng của Như Lai] ḥng đoạn nghi sanh tín

16.1. Răn hăy tin tưởng

         

          Tổng cộng là bốn lần thỉnh, bốn lần răn nhắc [trong Bổn Môn], cùng với ba lần thỉnh một lần răn nhắc trong Tích Môn, hợp thành năm lượt răn nhắc, bảy lượt thỉnh, [thể hiện ư nghĩa]: Đối với đại sự đặc biệt lạ lùng, phải nên ân cần trịnh trọng.

 

16.1.1. Ba lượt răn nhắc

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật cáo chư Bồ Tát, cập nhất thiết đại chúng: “Chư thiện nam tử! Nhữ đẳng đương tín giải Như Lai thành đế chi ngữ”. Phục cáo đại chúng: “Nhữ đẳng đương tín giải Như Lai thành đế chi ngữ”. Hựu phục cáo chư đại chúng: “Nhữ đẳng đương tín giải Như Lai thành đế chi ngữ”.

          ()爾時佛告諸菩薩及一切大眾。諸善男子。汝等當信解如來誠諦之語。復告大眾。汝等當信解如來誠諦之語。又復告諸大眾。汝等當信解如來誠諦之語。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các vị Bồ Tát và hết thảy đại chúng: “Các thiện nam tử! Các ông hăy nên tin hiểu lời chân thành của Như Lai”. Lại bảo đại chúng: “Các ông hăy nên tin hiểu lời chân thành của Như Lai”. Rồi lại bảo các đại chúng: “Các ông hăy nên tin hiểu lời chân thành của Như Lai”).

 

          “Thành” là trung thành. “Đế” là chân thật. Chẳng lừa dối chúng sanh, lời lẽ dẫn đến lẽ Chân. Trước kia, do căn cơ [của chúng sanh] nông cạn, chỉ có thể thuận theo ư họ để nói. V́ thế, phương tiện thực hiện Quyền, nói tam thừa, nói thọ mạng của Như Lai ngắn ngủi, chưa nói chân thành, thật sự. Nay là nói theo ư ḿnh, cho nên nói lời chân thành, chắc thật.

 

16.1.2. Ba lượt thỉnh

 

          (Kinh) Thị thời, Bồ Tát đại chúng, Di Lặc vi thủ, hiệp chưởng, bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Duy nguyện thuyết chi. Ngă đẳng đương tín thọ Phật ngữ”. Như thị tam bạch dĩ.

          ()是時菩薩大眾。彌勒為首。合掌白佛言。世尊。惟願說之。我等當信受佛語。如是三白已。

          (Kinh: Khi đó, đại chúng Bồ Tát do ngài Di Lặc cầm đầu, chắp thay, bạch cùng đức Phật: “Bạch Thế Tôn! Kính mong hăy nói. Chúng con sẽ tin nhận lời Phật”. Bạch ba lần như thế xong).

         

          Bồ Tát đă vâng nhận lời răn chân thành, chẳng dám nẩy ḷng ngờ vực. Hễ đức Phật nói ra, ắt sẽ tin nhận.

 

16.1.3. Ba lượt trùng thỉnh

 

          (Kinh) Phục ngôn: - Duy nguyện thuyết chi, ngă đẳng tương tín thọ Phật ngữ.

          ()復言。惟願說之。我等當信受佛語。

          (Kinh: Lại nói: - Kính mong hăy nói, chúng con sẽ tin nhận lời Phật).

 

16.1.4. Răn nhắc lần nữa

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn tri chư Bồ Tát tam thỉnh bất chỉ, nhi cáo chi ngôn: - Nhữ đẳng đế thính.

          ()爾時世尊。知諸菩薩三請不止。而告之言。汝等諦聽。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn biết các Bồ Tát thỉnh ba lượt không ngừng, bèn bảo rằng: - Các ông hăy nghe kỹ).

 

          Phần thứ nhất, “răn hăy tin tưởng” đă xong.

 

16.2. Chánh thức giải đáp

16.2.1. Trường Hàng

16.2.1.1. Khai cận hiển viễn

16.2.1.1.1. Nêu ra t́nh kiến chấp gần

 

          (Kinh) Như Lai bí mật thần thông chi lực, nhất thiết thế gian thiên, nhân, cập A Tu La, giai vị kim Thích Ca Mâu Ni Phật xuất Thích thị cung, khứ Già Da thành bất viễn, tọa ư đạo tràng, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          ()如來秘密神通之力。一切世間天人及阿修羅。皆謂今釋迦牟尼佛。出釋氏宮。去伽耶城不遠。坐於道場。得阿耨多羅三藐三菩提。

          (Kinh: Sức thần thông bí mật của Như Lai. Hết thảy trời, người, và A Tu La trong thế gian đều cho rằng nay Thích Ca Mâu Ni Phật ra khỏi cung họ Thích, cách thành Già Da chẳng xa, ngồi nơi đạo tràng, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

          Đoạn kinh văn này có ba ư:

          - Một, nói đến “Như Lai bí mật thần thông chi lực” (sức thần thông bí mật của Như Lai) tức là nói đến pháp để thoát mê.

          - Hai, nói “nhất thiết thế gian thiên, nhân, cập A Tu La” (hết thảy trời, người và A Tu La trong thế gian) là nói đến đại chúng có thể thoát mê.

          - Ba, nói “giai vị Thích Ca…” (đều nói Phật Thích Ca…) là nói đến t́nh kiến do mê mất [thọ mạng] dài lâu của Như Lai mà ra.

          “Bí mật”: Một thân chính là ba thân th́ gọi là Bí. Ba thân chính là một thân th́ gọi là Mật. Lại nữa, trước kia chẳng nói th́ gọi là Bí. Chỉ có Phật tự biết, cho nên gọi là Mật. “Thần thông chi lực” (sức thần thông): Tác dụng của ba thân. “Thần” là lư tự nhiên bất động, tức Pháp Tánh Thân. “Thông” là trí huệ không úng tắc chẳng thể nghĩ bàn, tức là Báo Thân nơi quả. “Lực” là vận dụng tự tại, tức Ứng Hóa Thân. Phật trong ba đời, b́nh đẳng có ba thân. Thật sự đạt được ba thân cho đến nay đă rất lâu. Trong các giáo, giữ kín điều này chẳng nói. V́ thế, hết thảy trời, người, A Tu La đều cho rằng ngày nay đức Phật ở dưới cội Bồ Đề mới đạt được ba thân ấy. Đó chính là chấp gần mà nghi xa vậy.

          Nói theo Bổn, chẳng c̣n nhắc tới Nhị Thừa. Sau khi đă khai bày Nhị Thừa [là pháp quyền biến, tất cả các đệ tử Thanh Văn và Duyên Giác] đều gọi là Bồ Tát. V́ thế, chỉ đối trước Bồ Tát [mà giảng nói]. Bồ Tát được nói gộp trong ba thiện đạo “thiên, nhân, A Tu La”. Ba đường ác kia do tội nặng, căn độn, trí ít, hoàn toàn chẳng biết đến cách nói theo t́nh kiến này. Bồ Tát cũng có ba loại: Hạ phương, phương khác, và cựu trụ. Hạ phương tức những vị được hóa độ nơi Bổn; v́ thế họ chẳng có sự chấp trước đối với thọ mạng gần đây. Phương khác và cựu trụ đều có hai loại:

          - Một là từ Pháp Thân mà ứng hiện sanh ra. Đời trước đă đắc Vô Sanh, hoặc trước đó đă nghe phơi bày Tích, hiển lộ Bổn. Dù là đời trước chưa nghe hay đă được nghe, khi báo tận trong đời trước, sẽ thọ Pháp Tánh Thân. Trong địa vị Pháp Thân, đương nhiên được nghe nói [thọ mạng của Như Lai] dài lâu. V́ thế, họ là ng Sanh Bồ Tát (hàng Bồ Tát do ứng hiện mà sanh trong thế gian này). Phần nhiều [các vị Bồ Tát ấy] chẳng chấp trước [Như Lai mới thành Phật] trong thời gần đây.

          - Hai là các vị trong đời này mới đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn và các vị chưa đắc th́ sẽ đều cùng nói [chấp trước] như thế!

 

16.2.1.1.2. Phá chấp gần để hiển viễn

         

          Lời răn chân thành, chắc thật trong phần trên chỉ nhằm ư này. Phần này lại chia thành hai [tiểu đoạn]:

          - Một, chỉ rơ đức Phật đă thành Phật từ lâu.

          - Hai, nêu thí dụ để sánh ví sự dài lâu ấy.

 

16.2.1.1.2.1. Chỉ rơ đức Phật đă thành Phật từ lâu

 

          (Kinh) Nhiên thiện nam tử, ngă thật thành Phật dĩ lai, vô lượng vô biên bách thiên vạn ức na-do-tha kiếp.

          ()然善男子。我實成佛已來。無量無邊百千萬億那由他劫。

    (Kinh: Nhưng thiện nam tử, ta thật sự thành Phật tới nay đă là vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp).

 

          [Nay do biết đức Phật] thành Phật quá lâu xa, cho nên ư niệm chấp trước [Phật mới đắc đạo] gần đây tại thành Già Da liền bị phá.

 

16.2.1.1.2.2. Nêu thí dụ để sánh ví sự lâu xa

16.2.1.1.2.2.1. Nêu thí dụ để hỏi

 

          (Kinh) Thí như ngũ bách thiên vạn ức na-do-tha A-tăng-kỳ tam thiên đại thiên thế giới, giả sử hữu nhân mạt vi vi trần, quá ư Đông phương ngũ bách thiên vạn ức na-do-tha A-tăng-kỳ quốc, năi hạ nhất trần. Như thị Đông hành, tận thị vi trần. Chư thiện nam tử! Ư ư vân hà? Thị chư thế giới, khả đắc tư duy, giảo kế, tri kỳ số phủ?

          ()譬如五百千萬億那由他阿僧祇三千大千世界。假使有人。抹為微塵。過於東方五百千萬億那由他阿僧祇國。乃下一塵。如是東行。盡是微塵。諸善男子於意云何。是諸世界。可得思惟校計。知其數不。

          (Kinh: Ví như năm trăm ngàn vạn ức na-do-tha A-tăng-kỳ tam thiên đại thiên thế giới, giả sử có người nghiền nát thành vi trần, qua khỏi năm trăm ngàn vạn ức na-do-tha A-tăng-kỳ thế giới ở phương Đông mới để xuống một hạt vi trần. Đi về phương Đông như thế cho đến hết số vi trần ấy. Các thiện nam tử! Ư các ông nghĩ sao? Các thế giới ấy có thể tư duy, so sánh, tính toán để biết được con số hay chăng?)

 

          Ngay như số thế giới đă đặt vi trần c̣n chẳng thể nói, huống hồ các thế giới chẳng đặt vi trần há có thể nói được ư?

         

16.2.1.1.2.2.2. Trả lời

 

          (Kinh) Di Lặc Bồ Tát đẳng câu bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Thị chư thế giới vô lượng vô biên, phi toán số sở tri, diệc phi tâm lực sở cập. Nhất thiết Thanh Văn, Bích Chi Phật dĩ vô lậu trí bất năng tư duy tri kỳ hạn số. Ngă đẳng trụ A Duy Việt Trí địa, ư thị sự trung, diệc sở bất đạt. Thế Tôn! Như thị thế giới vô lượng vô biên.

          ()彌勒菩薩等俱白佛言。世尊。是諸世界。無量無邊。非算數所知。亦非心力所及。一切聲聞辟支佛以無漏智。不能思惟知其限數。我等住阿惟越致地。於是事中亦所不達。世尊。如是世界。無量無邊。

          (Kinh: Các vị như Di Lặc Bồ Tát v.v… đều bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Các thế giới ấy vô lượng vô biên, chẳng thể tính toán để biết được, mà cũng chẳng do tâm lực mà có thể biết được. Hết thảy Thanh Văn và Bích Chi Phật dùng trí vô lậu, chẳng thể tư duy biết nổi chừng hạn của con số ấy. Chúng con trụ trong địa vị A Duy Việt Trí, đối với chuyện này cũng chẳng thông đạt. Bạch Thế Tôn! Các thế giới như thế vô lượng vô biên).

 

          Một là chẳng thể dùng tính toán hay tâm lực để thấu đạt. Hai, chẳng phải do vô lậu trí mà tư duy được. Ba là bậc A Duy Việt Trí chẳng thông đạt, bởi chỉ có Phật trí là hay biết mà thôi! V́ thế, [cổ nhân sánh ví] “công đức của Phật như đất nơi đại địa trong mười phương, công đức của bậc Thập Địa như đất trong cơi Diêm Phù”, chẳng phải là lời hư dối vậy!

 

16.2.1.1.2.2.3. Gộp chung lại để hiển lộ sự lâu xa

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật cáo đại Bồ Tát chúng: - Chư thiện nam tử! Kim đương phân minh tuyên ngữ nhữ đẳng: Thị chư thế giới, nhược trước vi trần, cập bất trước giả, tận dĩ vi trần, nhất trần nhất kiếp. Ngă thành Phật dĩ lai, phục quá ư thử bách thiên vạn ức na-do-tha A-tăng-kỳ kiếp.

          ()爾時佛告大菩薩眾。諸善男子。今當分明宣語汝等。是諸世界若著微塵及不著者。盡以為塵。一塵一劫。我成佛已來。復過於此百千萬億那由他阿僧祇劫。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo đại chúng Bồ Tát: - Các thiện nam tử! Nay ta sẽ tuyên nói phân minh với các ông: Các thế giới ấy dù đặt vi trần hay chẳng đặt, đều coi trọn hết các vi trần [trong các thế giới ấy], cứ một vi trần là một kiếp, ta thành Phật đến nay lại hơn số ấy trăm ngàn vạn ức na-do-tha A-tăng-kỳ kiếp).

 

          Các thế giới dù đặt vi trần hay chẳng đặt vi trần đă là chẳng thể diễn nói, huống hồ số lượng vi trần trong các thế giới ấy? Huống hồ lại c̣n hơn số lượng ấy? Ngài Tăng Phó nói: “Bản dịch cổ của ngài La Thập không có bốn chữ ‘nhất trần, nhất kiếp’, có vị cao tăng là Đàm Phó đời Tề tụng kinh, cảm mộng [thần nhân bảo] ‘[kinh ông tụng] thiếu một câu’. Về sau, quả nhiên có được [câu bị thiếu ấy]”. Kinh Kim Quang Minh nói: “Nhất thiết hải thủy, khả tri trích số, vô hữu năng tri Như Lai chi thọ” (có thể biết số lượng giọt nước trong hết thảy các biển, chẳng ai có thể biết tuổi thọ của Như Lai). Đấy cũng là nói Ngài thường trụ trong vị lai, chẳng phải là nói Ngài đă [thành Phật] từ lâu trong quá khứ. Nếu dẫn câu kinh ấy làm chứng, sẽ chẳng tương ứng cho lắm!

          Lại có người dựa theo Pháp Thân để giải thích điều này, như thế th́ sẽ có hai điều mê:

          - Một, Pháp Thân không có khởi đầu, há luận kiếp lâu xa được ư?

          - Hai, Pháp Thân b́nh đẳng, lẽ đâu riêng ḿnh đức Thích Ca thành tựu Pháp Thân trước?

          V́ thế, biết [giải thích thọ lượng của Như Lai dựa theo Pháp Thân] là chẳng thấu đạt điều cốt lơi của kinh, cầu sâu mà đâm ra nông cạn!

          Hỏi: Hết thảy chư Phật có đều hiển Bổn hay không? Nếu có trường hợp hiển và chẳng hiển, sẽ chẳng thể nói “chư Phật đạo đồng”, cũng chẳng thể nói “phương tiện này của ta, chư Phật cũng thế!” Nếu đều cùng hiển Bổn, chư Phật phải đều cùng nói “đă thành Phật rất lâu xa” chứ?

          Đáp: Hiển Bổn th́ có thể đồng, nhưng xa hay gần khác nhau. Chẳng hạn như Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh có tám người con, Đại Thông Trí Thắng Phật có mười sáu người con, Phật Thích Ca chỉ có một. Có con giống nhau, nhưng số lượng không bắt buộc phải như nhau. Lại nữa, phàm thành Phật th́ chứng đắc ba thân giống nhau, v́ thế nói “chư Phật đạo đồng”. Ba đời lợi ích chúng sanh đều như nhau, cho nên nói “phương tiện này của ta, chư Phật cũng giống như thế”. Huống hồ Bổn cao, Tích thấp, Bổn thấp, Tích cao, Bổn và Tích đều cao, Bổn và Tích đều thấp, có đến bốn câu, khai hiển trong một giai đoạn [giáo hóa], cần ǵ phải đều giống hệt như nhau? Chỉ có đối với nguyên nhân khởi đầu và kết quả kết thúc th́ xét theo bản thể sở chứng của chư Phật, sẽ là cùng viên măn ba thân, c̣n tác dụng khởi lên, sẽ là cùng lợi ích ba đời. Do vậy, chẳng thể nói có sai khác! Phần thứ nhất, “khai cận, hiển viễn” đă xong!

 

16.2.1.2 . Nói rơ ba đời đều lợi lạc chúng sanh

 

          Ở đây, lấy chuyện thành đạo lần đầu tiên làm Thể, làm Bổn. Từ Thể khởi tác dụng là Tích. Lại coi lúc đầu tiên thật sự đắc Thể và Dụng là Bổn. Từ đó trở đi, tất cả các sự khởi tác dụng trong ba đời đều là Tích. Kinh văn chia làm hai phần: Một là pháp thuyết, hai là thí thuyết.

 

16.2.1.2.1. Pháp thuyết (dùng pháp để giảng nói)

16.2.1.2.1.1. Nêu rơ cả ba đời đều lợi ích chúng sanh

16.2.1.2.1.1.1. Lợi ích chúng sanh trong quá khứ

16.2.1.2.1.1.1.1. Chỗ lợi ích chúng sanh trong quá khứ

 

          (Kinh) Tự tùng thị lai, ngă thường tại thử Sa Bà thế giới, thuyết pháp, giáo hóa. Diệc ư dư xứ, bách thiên vạn ức na-do-tha A-tăng-kỳ quốc đạo lợi chúng sanh.

          ()自從是來。我常在此娑婆世界說法教化。亦於餘處百千萬億那由他阿僧祇國導利眾生。

    (Kinh: Từ đó trở đi, ta thường ở trong thế giới Sa Bà này thuyết pháp, giáo hóa. Cũng ở các nơi khác, trong trăm ngàn vạn ức na-do-tha A-tăng-kỳ cơi để hướng dẫn, lợi ích chúng sanh).

 

          Cần phải nêu rơ nơi chốn là v́ trong phần trước đă nói thành đạo rất lâu, nhưng Ngài ở tại chỗ nào đă lâu? Do vậy nói Ngài thường ở trong thế giới này và các cơi khác để thuyết pháp lợi sanh. Cơi Sa Bà này chính là chỗ để Bổn Ứng Thân cư trụ. Hiện thời cư trụ là thị hiện, nhưng chẳng dời khỏi Bổn. Chỉ là xưa nay thời điểm khác nhau, người thấy Kiếp Hỏa thiêu đốt th́ cho là gần (tức là nghĩ Phật mới thành đạo gần đây), người chiếu tỏ Bổn th́ thông đạt xa (tức biết Phật đă thành đạo từ chẳng thể nghĩ bàn vô lượng kiếp trước). V́ thế nói: “Ngă tịnh độ bất hủy, thường tại Linh Thứu sơn” (tịnh độ của ta chẳng hủy hoại, ta thường ở núi Linh Thứu). Chẳng ĺa Già Da để cầu cơi Thường Tịch nào khác, chẳng ra ngoài Tịch Quang mà riêng có Sa Bà được!

 

16.2.1.2.1.1.1.2. Loại trừ mối nghi hoặc đối với Tích trong quá khứ

 

          (Kinh) Chư thiện nam tử! Ư thị trung gian, ngă thuyết Nhiên Đăng Phật đẳng, hựu phục ngôn kỳ “nhập ư Niết Bàn”. Như thị giai dĩ phương tiện phân biệt.   ()諸善男子。於是中間。我說然燈佛等。又復言其入於涅槃。如是皆以方便分別。

          (Kinh: Các thiện nam tử! Trong khoảng trung gian ấy, ta nói Nhiên Đăng Phật [thọ kư cho ta] v.v… lại c̣n nói “nhập Niết Bàn”. [Những điều] giống như vậy đều là phương tiện phân biệt).

 

          Nghi rằng: Nếu đă thành Phật lâu như thế, cớ sao trong kinh nói vào thời Nhiên Đăng Phật, [Phật Thích Ca] mới được thọ kư? Lại nữa, đă thành Phật, chứng thân thường trụ, v́ sao trong thời Phật Nhiên Đăng, Nho Đồng Bồ Tát (tiền thân của Phật Thích Ca) được thọ kư rồi hoằng pháp, hết tuổi thọ bèn nhập diệt, lại sanh trong các xứ khác? Các điều [cật vấn] như thể chẳng thể nói trọn hết từng điều được! Nay để loại trừ [các mối nghi ấy] bèn nói: “Đó đều là phương tiện phân biệt”. Ví như huyễn sư (người làm ảo thuật) biến hiện huyễn sự, chẳng phải là thật sự vào lúc đó (lúc được Phật Nhiên Đăng thọ kư), Phật Thích Ca mới được thọ kư [lần đầu], cũng chẳng phải là thân Phần Đoạn xả thọ, nhập diệt, mà đều là từ Bổn mà thị hiện các dấu vết vậy!

         

16.2.1.2.1.1.1.3. Trong quá khứ, đă lợi ích các chúng sanh đáng được lợi ích như thế nào?

16.2.1.2.1.1.1.3.1. Cảm ứng

 

          (Kinh) Chư thiện nam tử! Nhược hữu chúng sanh lai chí ngă sở, ngă dĩ Phật nhăn quán kỳ tín đẳng, chư căn lợi độn, tùy sở ưng độ.

          ()諸善男子。若有眾生來至我所。我以佛眼觀其信等。諸根利鈍。隨所應度。

          (Kinh: Các thiện nam tử! Nếu có chúng sanh đến chỗ của ta, ta dùng Phật nhăn để xem xét các căn tín, tấn v.v… của họ là lợi hay độn, rồi sẽ tùy theo lẽ đáng nên mà độ họ).

 

          “Chí ngă sở” (đến chỗ của ta), tức là hai căn cơ Tiệm và Đốn của chúng sanh trong quá khứ, ngầm đánh động Pháp Thân. “Phật nhăn quán” tức là Ngài thành Phật đă từ lâu, dùng Phật nhăn để xét soi [căn cơ của người đáng được hóa độ] chẳng hề sai sót; sau đó sẽ dùng Liệt Ứng Thân hay Thắng Ứng Thân ḥng lợi ích họ. Căn cơ thiện có hai lực:

          - Một, cảm hoa báo trong trời người và Quyền quả trong tam thừa.

          - Hai, cảm Thật quả trong Phật đạo.

          Nếu dùng pháp nhăn để quán biết muôn điều thiện, tùy thuộc điều thiện ấy là nhẹ hay nặng, mỗi đằng đều đạt được hoa báo và Quyền quả báo, nhưng chẳng thể rốt ráo biết họ sẽ trọn đạt được quả báo nơi Chủng Trí. Nếu dùng Phật nhăn chiếu soi muôn điều thiện, sẽ có thể biết trọn vẹn hoa báo và quả báo từ đầu đến cuối. Kinh này một mực nói dùng Phật nhăn để quán, sẽ có thể biết tất cả muôn điều thiện của chúng sanh, rốt ráo đạt được cái quả nơi Chủng Trí của Phật.

          “Tín đẳng chư căn” (các căn như Tín v.v…) chính là NCăn [trong ba mươi bảy đạo phẩm]. Huệ căn chính là liễu nhân, c̣n bốn căn Tín, Tấn, Niệm, Định đều thuộc về duyên nhân. Hai thứ thiện căn này, mỗi thứ đều có lợi hay độn, nhiếp chung cơ duyên Đốn và Tiệm. Căn cơ thuộc Đốn dù lợi hay độn đều là căn cơ thuộc Viên Giáo và Biệt Giáo. Căn cơ thuộc Tiệm Giáo dù lợi hay độn đều là căn cơ thuộc về Thông Giáo và Tạng Giáo. Lại nữa, căn cơ Đại Thừa được gọi là Lợi, căn cơ Tiểu Thừa được gọi là Độn. Lại nữa, căn cơ Tiểu Thừa được gọi là Lợi, [căn cơ] nhân thiên thừa được gọi là Độn. Lại nữa, đối với các căn thuộc tứ giáo cho đến các căn cơ thuộc nhân thiên đều luận định là lợi hay độn. Tất cả các thiện căn lợi hay độn của chúng sanh trong mười pháp giới đều là căn cơ. Như Lai đều xét soi, chẳng hề sai sót, tùy thuộc [kẻ ấy] đáng độ như thế nào, bèn hiện h́nh hay dùng âm thanh để tạo lợi ích cho kẻ đó!

         

16.2.1.2.1.1.1.3.2. Thực hiện sự giáo hóa

16.2.1.2.1.1.1.3.2.1. Hai thứ lợi ích bằng h́nh tướng và âm thanh

 

          (Kinh) Xứ xứ tự thuyết danh tự bất đồng, niên kỷ đại tiểu, diệc phục hiện ngôn “đương nhập Niết Bàn”. Hựu dĩ chủng chủng phương tiện thuyết vi diệu pháp.

          ()處處自說名字不同。年紀大小。亦復現言當入涅槃。又以種種方便說微妙法。

          (Kinh: Ở các nơi, tự nói danh tự khác nhau, tuổi tác lớn nhỏ, cũng lại thị hiện nói “sẽ nhập Niết Bàn”. Lại dùng các thứ phương tiện để nói pháp vi diệu).

 

          “Danh tự bất đồng, tuổi tác lớn nhỏ”, tức là chẳng phải sanh mà thị hiện sanh. “Sẽ nhập Niết Bàn” tức là chẳng phải diệt mà thị hiện diệt, đều là dùng h́nh tướng để tạo lợi ích. “Phương tiện thuyết pháp” chính là dùng âm thanh để tạo lợi ích. “Xứ xứ” (nơi nơi) tức là theo chiều dọc th́ là vi trần kiếp số, theo chiều ngang th́ là mười phương sát hải. Trong mỗi kiếp, đều trọn khắp mười phương. Trong mỗi cơi, đều trải qua kiếp số nhiều như vi trần, không ǵ chẳng phải là nơi chốn và thời điểm Như Lai thị hiện dấu tích. “Danh tự bất đồng”: Hoặc thị hiện Thắng Ứng, hoặc thị hiện Liệt Ứng, hoặc thị hiện thân Phật, hoặc thị hiện các thân Bồ Tát, Thanh Văn v.v… Thân đă bất đồng, cho nên danh tự cũng bất đồng.

          “Niên kỷ đại tiểu” (Tuổi tác lớn hay nhỏ): Đă thị hiện có thân, bèn có thọ mạng dài hay ngắn khác nhau! Đáng nên dùng thị hiện sanh để đắc độ th́ đă có thể chốn chốn “chẳng phải sanh mà thị hiện sanh”. Đáng nên thị hiện diệt để đắc độ th́ ắt cũng chốn chốn “chẳng phải diệt mà thị hiện diệt”. V́ thế nói “diệc phục hiện ngôn đương nhập Niết Bàn” (cũng thị hiện nói “sẽ nhập Niết Bàn). “Chủng chủng phương tiện thuyết vi diệu pháp” (các thứ phương tiện để nói pháp vi diệu): Hoặc Đốn, hoặc Tiệm, hoặc Hiển, hoặc Mật, hoặc định, bất định, hoặc nói kèm, hoặc nói đơn độc, hoặc đối ứng, hoặc ngụ ư, hoặc thực hiện [quyền biến], hoặc khai, hoặc phế, hoặc lập, nói chung là phương tiện thiện xảo của Như Lai, luôn khiến cho chúng sanh rốt ráo được thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí. Do vậy là vi diệu!

 

16.2.1.2.1.1.1.3.2.2. [Chúng sanh do] đạt được lợi ích bèn hoan hỷ   

         

          (Kinh) Năng linh chúng sanh phát hoan hỷ tâm.

          ()能令眾生發歡喜心。

          (Kinh: Có thể khiến cho chúng sanh sanh tâm hoan hỷ).

 

          Do hai cách giáo hóa bằng h́nh tướng hay âm thanh, khiến cho [những người được hóa độ] đạt được bốn món lợi ích (Tứ Tất Đàn) Quyền và Thật, nhưng nói là “hoan hỷ”, tức là nêu ra một thứ để gồm chung ba thứ c̣n lại. Phần thứ nhất, “nói về chuyện lợi ích chúng sanh trong quá khứ” đă xong.

 

16.2.1.2.1.1.2. Lợi ích chúng sanh trong hiện tại

16.2.1.2.1.1.2.1. Cảm ứng

 

          (Kinh) Chư thiện nam tử! Như Lai kiến chư chúng sanh nhạo ư tiểu pháp, đức bạc, cấu trọng giả.

          ()諸善男子。如來見諸眾生樂於小法。德薄垢重者。

    (Kinh: Các thiện nam tử! Như Lai thấy các chúng sanh là những kẻ chuộng tiểu pháp, đức mỏng, cấu chướng nặng nề).

 

          “Như Lai kiến” tức là Phật nhăn soi xét. “Chư chúng sanh nhạo tiểu pháp” (các chúng sanh chuộng tiểu pháp) chính là căn cơ được thấy [bởi Phật nhăn]. Tham ái hai mươi lăm Hữu tức là căn cơ nhân thiên, th́ gọi là “chuộng tiểu pháp”. “Tự cầu diệt độ trong hiện tiền” tức là căn cơ Nhị Thừa, được gọi là “chuộng tiểu pháp”. Ưa thích theo thứ tự dần dần tu tập quanh co trong Phật đạo th́ chính là căn cơ Bồ Tát thuộc tam giáo, cũng gọi là “chuộng tiểu pháp”. Cho đến kẻ thích cận thuyết (thích nói Như Lai mới thành đạo trong thời gần đây) cũng gọi là “chuộng tiểu pháp”. V́ hai công dụng nơi duyên thiện và liễu thiện nhỏ nhoi, kém cỏi, cho nên gọi là “đức bạc” (đức mỏng manh). Do ba thứ Hoặc tức Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh sâu dày, nên gọi là “cấu trọng”.

          Hỏi: Chẳng phải sanh mà thị hiện sanh, nhằm thực hiện sự giáo hóa Đốn và Tiệm cho bảy loại phương tiện, có thể gọi [những kẻ đó] là “chuộng tiểu pháp”, chứ căn cơ viên đốn đáng nên gọi là “chuộng đại pháp”, sao lại gọi tuốt là “chuộng tiểu pháp” vậy?

          Đáp: Điều này có bốn nghĩa:

          - Một, xét theo khi xưa tuy đă phát đại tâm, nhưng chẳng thể chuyên ṛng, phần nhiều chấp trước ham muốn hèn tệ, chẳng thể xuất thế. V́ thế, gọi ham muốn hèn tệ là “chuộng tiểu pháp”.

          - Hai, xét theo hiện tại. Như khi đức Phật chưa xuất thế, hàng trời người tuy có căn cơ Đại Thừa, nhưng tâm đắm nhiễm niềm vui thế gian, hoặc chấp vào tà kiến. V́ thế gọi là “chuộng tiểu pháp”. Hai nghĩa này có cùng ư nghĩa với “uyển chuyển ư địa” (quằn quại trên đất) trong thí dụ thuộc phần sau.

          - Ba, xét theo tu hành. Tuy chẳng ưa thích tiểu pháp ái kiến trong tam giới, nhưng ưa chuộng sự hôi đoạn (đoạn chứng diệt thân) trong tam thừa th́ cũng gọi là “tiểu pháp”. Tuy chẳng ưa chuộng cận quả trong tam thừa, nhưng thích tu hành một thừa theo Biệt Giáo, chẳng thể nhất tâm viên đốn tu trọn khắp. V́ thế gọi là “chuộng tiểu pháp”.

          Ba ư này đều xét theo tu nhân mà nói là “chuộng tiểu pháp”.

          - Bốn là xét theo quả môn. Ưa thích nghe “Phật thành đạo mới gần đây” th́ là tiểu, [tức là cho rằng Phật] thoát khỏi cung họ Thích mới đắc Bồ Đề, chẳng thích nghe nói [đức Phật đă thành đạo] từ rất lâu xa. V́ thế nói là “chuộng tiểu pháp”. Cái tâm nhỏ nhoi kiểu đó chẳng phải là ngày nay [mới có]. Nếu trước đó họ đă ưa thích đại pháp, đức Phật sẽ chẳng nói Ngài mới thành Phật. Ngài nói “mới thành Phật” đều là v́ [chúng sanh] ưa thích tiểu pháp vậy.

 

16.2.1.2 .1.1.2.2. Thực hiện sự hóa độ

16.2.1.2.1.1.2.2.1. Hiện thân h́nh

 

          (Kinh) Vị thị nhân thuyết, ngă thiểu xuất gia, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Nhiên ngă thật thành Phật dĩ lai, cửu viễn nhược tư, đản dĩ phương tiện giáo hóa chúng sanh linh nhập Phật đạo, tác như thị thuyết.

          ()為是人說。我少出家。得阿耨多羅三藐三菩提。然我實成佛已來。久遠若斯。但以方便教化眾生令入佛道作如是說。

          (Kinh: Bèn v́ kẻ đó nói: “Ta xuất gia chẳng lâu, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nhưng kể từ khi ta thật sự thành Phật đến nay, đă lâu dường ấy! Chỉ v́ phương tiện giáo hóa chúng sanh, khiến cho họ nhập Phật đạo mà nói như thế).

 

          Đây là nói v́ chúng sanh trong hiện tại, chẳng phải sanh mà thị hiện sanh, tuy sanh nhưng thật sự chẳng sanh. Trước đó, đă nói hai căn cơ Đốn và Tiệm cảm vời Pháp Thân; nay bèn hiện hai thứ Ứng Thân thắng và liệt. Liệt Ứng Thân nhằm thích ứng căn cơ Tiệm. Thắng Ứng Thân nhằm thích ứng căn cơ Đốn. Hai thứ ứng thân ấy đều có tướng thị hiện sanh thân và Pháp Thân. Hai tướng sanh của thân Liệt Ứng chính là do chánh huệ gá vào thai, sanh ra từ hông phải [của mẹ], liền đi bảy bước, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, tự nói: “Thiên thượng, thiên hạ, duy ngô độc tôn” (天上天下。唯吾獨尊, trên trời, dưới trời, chỉ có Ngă là độc tôn). Đấy chính là tướng sanh ra của sanh thân. Ngồi trên cỏ Cát Tường, ba mươi bốn tâm đoạn hết kết tập, chứng trọn hết năm phần Pháp Thân; đấy chính là tướng sanh ra của Pháp Thân. Sanh tướng của hai thân Thắng Ứng th́ ngồi trong cung bằng Chiên Đàn, cùng các vị Bồ Tát ngự trong thai tạng của bà Ma Da, thường nói Đại Thừa, thực hiện Phật sự lớn lao, từ hông phải [của mẹ] sanh ra, trong mười phương, mỗi phương đều đi trọn bảy bước, hiện tướng sư tử hống. Đấy chính là sanh tướng nơi sanh thân. Tại Tịch Diệt đạo tràng, ngồi ṭa Bồ Đề, đắc Kim Cang hậu tâm, đoạn sạch vô minh, diệu giác rạng ngời, chiếu tận cùng pháp tánh, Chủng Trí viên minh, vạn đức trọn đủ. Đó là sanh tướng của Pháp Thân.

          “Xuất gia” chính là Liệt Ứng Thân ra khỏi nhà Phần Đoạn, hoặc Thắng Ứng Thân ra khỏi nhà Nhị Tử (hai thứ sanh tử, tức Phần Đoạn và Biến Dịch). “Đắc Bồ Đề”: Liệt Ứng Thân đắc Sanh Diệt Tứ Đế, phát khởi vô lậu tận vô sanh trí, th́ gọi là Bồ Đề. Thắng Ứng Thân chiếu đạo Nhất Thật nơi Tam Đế, rốt ráo Nhất Thiết Chủng Trí th́ là Bồ Đề (Sanh tướng của hai thứ sanh thân thuộc Thắng Ứng và Liệt Ứng chỉ là một phen gá thai rồi xuất sanh, nhưng căn cơ Đại Thừa và Tiểu Thừa sẽ thấy bất đồng. V́ thế, cần phải thật sự hiểu rơ: Chẳng phải là có hai phen gá thai và xuất sanh. Hai thứ xuất gia, hai thứ thành đạo, hai thứ sanh tướng của Pháp Thân cũng không ǵ chẳng phải là như vậy! V́ thế nói “song thùy lưỡng tướng” (cùng rủ ḷng thị hiện hai tướng), cả hai bắt đầu đồng thời).

          Từ “nhiên ngă thật thành Phật” (nhưng ta thật sự thành Phật) trở đi, nói rơ Bổn thật sự chẳng sanh. Các hàng trời, người, A Tu La kia nay mới thấy hai thứ sanh thân và pháp thân ấy, cho rằng “mới sanh”. Thật ra, chẳng phải vậy! “Nhưng ta thật sự thành Phật đă rất lâu xa”, như trong thí dụ ở phần trên đă nói [thời gian ấy] c̣n nhiều hơn số vi trần trong cơi nước. Nay thị hiện sanh, nhưng chẳng thật sự sanh. Nếu ngờ rằng “đă chẳng phải là thật sự sanh, v́ sao lại thị hiện sanh?” Giải rằng: Chỉ là phương tiện để giáo hóa chúng sanh đức mỏng, nghiệp cấu nặng nề, khiến cho họ nhập Phật đạo. Do đó, nói như thế này “ta xuất gia chẳng lâu bèn đắc Bồ Đề”. Các kinh Đại Thừa khác chỉ phá hai thứ sanh thân và pháp thân của thân Liệt Ứng “tuy sanh mà chẳng phải thật sự sanh”, chẳng phá sanh thân và pháp thân của thân Thắng Ứng. Nay nói “đă thành Phật rất lâu”, chính là nhằm phá trừ [chấp trước] Pháp Thân của Thắng Ứng kể từ Tịch Diệt đạo tràng mới sanh. Do đó, hoàn toàn khác với các kinh khác!

 

16.2.1.2 .1.1.2.2.2. Thuyết pháp

16.2.1.2 .1.1.2.2.2.1. Các pháp đă nói trong một đời giáo hóa

 

          (Kinh) Chư thiện nam tử! Như Lai sở diễn kinh điển, giai vị độ thoát chúng sanh, hoặc thuyết kỷ thân, hoặc thuyết tha thân, hoặc thị kỷ thân, hoặc thị tha thân, hoặc thị kỷ sự, hoặc thị tha sự, chư sở ngôn thuyết, giai thật bất hư.         ()諸善男子。如來所演經典。皆為度脫眾生。或說己身。或說他身。或示己身。或示他身。或示己事。或示他事。諸所言說。皆實不虛。

          (Kinh: Các thiện nam tử! Kinh điển do Như Lai đă diễn nói đều v́ độ thoát chúng sanh, hoặc nói về thân ḿnh, hoặc nói về thân người khác, hoặc chỉ bày thân ḿnh, hoặc chỉ bày thân người khác, hoặc chỉ bày chuyện của ḿnh, hoặc chỉ bày chuyện của người khác, các lời lẽ đă nói đều chân thật chẳng dối).

 

          “Sở diễn kinh điển” là nói khắp tất cả ngũ vị bát giáo trong suốt một đời giáo hóa [của đức Phật]. “Giai vị độ thoát chúng sanh” (đều v́ độ thoát chúng sanh): Giải thích chung [các giáo] Đốn, Tiệm, Hiển, Mật, Định, Bất Định, không ǵ chẳng nhằm ứng với bệnh cho thuốc, khiến cho họ được độ thoát. “Hoặc thuyết kỷ thân…” (hoặc nói thân ḿnh…): Nêu đại lược tất cả các chuyện thị hiện sai biệt trong một đời giáo hóa. Nói nhân duyên xưa kia của chính ḿnh th́ gọi là “thuyết kỷ thân”. Nói các thứ nhân duyên của chư Phật, Bồ Tát, và các đệ tử, th́ gọi là “thuyết tha thân”. Hiện h́nh tượng thuộc Phật giới th́ gọi là “thị kỷ thân”. Hiện h́nh tượng trong chín pháp giới kia th́ gọi là “thị tha thân”. Hoặc hiện thân Thắng Ứng th́ gọi là “thị kỷ thân”. Hiện thân Liệt Ứng th́ gọi là “thị tha thân”. Hiện chuyện thuộc Phật giới th́ gọi là “thị kỷ sự”. Hiện chuyện thuộc chín pháp giới th́ gọi là “thị tha sự”. Hoặc hiện Chủng Trí th́ gọi là “thị kỷ sự”. Hiện sự đoạn chứng của tiểu trí th́ gọi là “thị tha sự”. Hiện đại tự tại th́ gọi là “thị kỷ sự”. Hiện các thứ như chín loại phiền năo v.v… th́ gọi là “thị tha sự”.

          “Chư sở ngôn thuyết giai thật bất hư” (những lời nói ra đều chân thật, chẳng dối): Chỉ rơ [những lời dạy của đức Phật] khác với ngụ ngôn trong thế gian. Do v́ chúng sanh mà mỗi mỗi đều thị hiện, mỗi mỗi đều có nhân, có quả. Mỗi mỗi đều có khởi đầu và kết thúc. Chỉ là dù nói thân ḿnh, hay thân người khác, chỉ bày thân ḿnh, hay thân người khác, chuyện của chính ḿnh hay chuyện của người khác, hoàn toàn chẳng có mảy may thốt lời hư huyễn, dối trá! V́ thế, có thể độ thoát hết thảy chúng sanh. Ví như huyễn sư (nhà ảo thuật) ở ngă tư đường, biến huyễn các loài vật như voi, ngựa, trâu, dê… Voi ra voi, ngựa ra ngựa, chẳng có con vật nào chẳng giống hệt, bèn có thể khiến cho kẻ ngu, tiểu trí vui thích. Phật cũng giống như thế, dùng Pháp Tánh Đại Huyễn tam-muội trọn khắp mười phương ba đời, biến huyễn thân ḿnh, thân người, chuyện ḿnh, chuyện người, chỉ dạy cho kẻ khác, khiến cho các chúng sanh đó đều được thấy nghe, hoàn toàn chẳng có chuyện nào bịa đặt, nói suông, khiến cho chúng sanh hễ tin nhận đều được độ thoát.

 

16.2.1.2.1.1.2.2.2.2. Giải thích nguyên do v́ sao nói thiện xảo

16.2.1.2.1.1.2.2.2.2.1. Do chiếu lư Quyền Thật, đó chính là cái gốc để nói năng, chỉ bày

 

          (Kinh) Sở dĩ giả hà? Như Lai như thật tri kiến tam giới chi tướng, vô hữu sanh tử, nhược thoái, nhược xuất, diệc vô tại thế, cập diệt độ giả, phi thật, phi hư, phi như, phi dị, bất như tam giới, kiến ư tam giới. Như tư chi sự, Như Lai minh kiến, vô hữu thác mậu.

          ()所以者何。如來如實知見三界之相。無有生死若退若出。亦無在世及滅度者。非實非虛。非如非異。不如三界見於三界。如斯之事。如來明見無有錯謬。

          (Kinh: V́ lẽ nào vậy? Như Lai đúng như thật thấy biết tướng của tam giới, chẳng có sanh tử, hoặc thoái, hoặc xuất, cũng chẳng ở đời và diệt độ, chẳng thật, chẳng hư, chẳng như, chẳng khác, chẳng như tam giới mà thấy tam giới. Chuyện như vậy Như Lai thấy rơ, chẳng có sai lầm).

 

          Một niệm hiện tiền Chân Như pháp tánh vốn chẳng có một pháp nào để có thể đạt được, nhưng chẳng có pháp nào không đầy đủ, chẳng có pháp nào không tạo. Hết thảy phàm thánh b́nh đẳng, chẳng sai biệt; nhưng phàm phu và hàng Nhị Thừa vướng mắc nơi hai loại tử (Phần Đoạn và Biến Dịch), chẳng thể tự độ, tự thoát. Các hàng đại Bồ Tát c̣n thuộc địa vị tu nhân th́ hạn cuộc nơi số lượng, chẳng thể theo chiều dọc trọn khắp, theo chiều ngang cùng tột, đều là do chưa thể chứng triệt để viên măn Chân Như pháp tánh ấy. Chỉ có Như Lai từ kiếp lâu xa đến nay đă viên măn chứng triệt để chân pháp tánh ấy. Cho nên Ngài có thể dùng Chủng Trí Phật nhăn như thật thấy biết hai thứ tướng tam giới Phần Đoạn và Biến Dịch. Ngay nơi bản thể chính là Chân Như Thật Tướng, biết rơ hai loại sanh tử chẳng phải là sanh tử. Chẳng có thoái thất mà ở trong thế gian: Đă chẳng có sanh tử để lùi bước, sẽ chẳng có sanh tử để thoát ra. V́ thế chẳng có thoát ra mà diệt độ.

          “Chẳng có sanh tử, hoặc thoái, hoặc xuất” tức là Thật pháp trong mười pháp giới đều là Không. “Diệc vô tại thế, cập diệt độ” (cũng chẳng đang tại thế và diệt độ): Giả danh trong mười pháp giới đều là Không. Sanh tử và Niết Bàn đều b́nh đẳng, giống như giấc mộng đêm qua, cho nên “chẳng thật”. Mê là sanh tử, ngộ bèn chứng Niết Bàn, duyên khởi rành rành; v́ thế “chẳng hư huyễn”. Chẳng sai biệt mà mười pháp giới sai biệt, cho nên “chẳng Như”. Tức là sai biệt, nhưng một tánh dung thông, cho nên “chẳng khác”. Chẳng giống như hai loại người trong tam giới: Hoặc thấy tam giới là Có, hoặc thấy tam giới là Không. V́ thế nói “bất như tam giới kiến ư tam giới” (chẳng như tam giới mà thấy tam giới). “Như tư chi sự” (chuyện như thế đó) chính là tổng kết Chân Tục Diệu Đế vừa được diễn tả trong phần kinh văn trước đó, tức là sanh tử mà chẳng có sanh tử, tức là thoái thất mà chẳng thoái thất, tức là thoát ra mà chẳng thoát ra, tức là ở trong thế gian mà chẳng ở trong thế gian, tức là diệt độ mà chẳng diệt, tức là Chân mà chẳng phải Chân, tức là hư mà chẳng phải hư, tức là Như mà chẳng phải Như, tức là dị (khác biệt) mà chẳng phải dị. Có nghĩa là đối với chuyện “ngay nơi Tục chính là Chân”, Như Lai dùng trí như lư để thấy rơ, chẳng hề sai lầm. V́ thế, Ngài có thể thuận theo trí mà nói theo ư ḿnh, khai Quyền hiển Thật, khai Tích hiển Bổn. [Chúng sanh vốn] chẳng có sanh tử mà hư vọng thấy có sanh tử, chẳng có thoái xuất mà hư vọng thấy thoái xuất, chẳng có tại thế mà hư vọng thấy tại thế, chẳng diệt độ mà hư vọng thấy diệt độ, chẳng thật mà hư vọng thấy là thật, chẳng hư mà hư vọng thấy là hư, chẳng như mà hư vọng thấy là như, chẳng khác mà hư vọng thấy là khác. Đó gọi là đối với chuyện “Chân chính là Tục”, Như Lai dùng như lượng trí để thấy rơ, chẳng hề sai lầm! V́ thế, có thể thuận theo t́nh kiến mà nói thuận theo ư của người khác. Do Thật mà thực hiện Quyền, v́ Bổn mà rủ ḷng thị hiện Tích vậy!

 

16.2.1.2 .1.1.2.2.2.2.2. Do tương xứng với căn cơ Tiệm hay Đốn, đó chính là cái duyên để diễn nói, chỉ bày

 

          (Kinh) Dĩ chư chúng sanh hữu chủng chủng tánh, chủng chủng dục, chủng chủng hạnh, chủng chủng ức tưởng phân biệt cố, dục linh sanh chư thiện căn, dĩ nhược can nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, chủng chủng thuyết pháp, sở tác Phật sự, vị tằng tạm phế.

          ()以諸眾生有種種性。種種欲。種種行。種種憶想分別故。欲令生諸善根。以若干因緣譬喻言辭。種種說法。所作佛事。未曾暫廢。

          (Kinh: Do các chúng sanh có các thứ tánh, các thứ dục, các thứ hạnh, các thứ nhớ nghĩ, phân biệt, muốn khiến cho họ sanh các căn lành, liền dùng ngần ấy nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, các cách thuyết pháp, thực hiện Phật sự, chưa từng tạm bỏ).

 

          “Chủng chủng” (các thứ) là Đốn, Tiệm, lợi, độn, ngàn vạn sai khác! “Tánh” [ở đây phải hiểu là “tập tánh”], tức là do thói quen và ham muốn tạo thành, tức là nói đến các thứ căn cội, chủng tử trong quá khứ. “Dục” là sự ưa muốn, tức là từ chủng tử phát khởi mà hiện hành. “Hạnh” tức là nghiệp hạnh thiện ác đă tạo do thuận theo các thứ ưa muốn, cho đến các hạnh xuất thế trong tam thừa hay nhất thừa. “Ức tưởng phân biệt”: Thuận theo những ǵ đă làm mà sanh ra sự thấu hiểu, tức là tương tự trí huệ. Đối với các thứ tánh, đáng nên sử dụng các thứ Vị Nhân Tất Đàn. Đối với các thứ dục, đáng nên sử dụng các thứ Thế Giới Tất Đàn. Đối với các thứ hạnh, đáng nên sử dụng hai loại Vị Nhân và Đối Trị Tất Đàn. Đối với các thứ nghĩ nhớ, phân biệt, đáng nên sử dụng các thứ Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn. V́ lẽ nào vậy? Thuận theo sự hiểu biết nghĩ nhớ của họ mà v́ họ thuyết pháp, họ sẽ hiểu rơ ràng Đệ Nhất Nghĩa, cho đến hàng Sơ Địa khi ưa muốn tu hành Đệ Nhị Địa, cũng ắt phải nghĩ nhớ cảnh thuộc Nhị Địa. Đó chính là “niệm tưởng”. Nếu phát khởi chân giải (sự thông hiểu chân thật) thuộc Nhị Địa th́ tức là niệm tưởng quán trừ, ngôn ngữ và pháp đều diệt. Cho đến địa vị Phật th́ mới rốt ráo ĺa khỏi nhớ tưởng, đạt được thường tịch chiếu. V́ thế, dùng ngần ấy nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, các cách thuyết pháp, khiến cho họ sanh trưởng các thiện căn, thực hiện các Phật sự chưa từng tạm bỏ! Thiện căn Quyền Thật có ba loại, năm loại, bảy loại, chín loại khác nhau, v́ thế gọi là Chư. Rốt ráo đều quy vào Nhất Thiết Chủng Trí, cho nên gọi là “Phật sự”. Tam luân giáo hóa (dùng thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ư nghiệp để giáo hóa) chẳng thể nghĩ bàn, suốt ngày đêm thường diễn nói, khiến cho người khác đạt được lợi ích chẳng hề có gián đoạn, ngưng nghỉ. Do đó nói là “vị tằng tạm phế” (chưa từng tạm bỏ). Phần thứ hai, “nói về sự lợi ích chúng sanh trong hiện tại” đă xong!

 

16.2.1.2 .1.1.3. Lợi ích chúng sanh trong vị lai

16.2.1.2 .1.1.3.1. Nói rơ “chẳng diệt độ mà xướng sẽ diệt độ” ḥng tạo lợi ích cho vị lai

16.2.1.2 .1.1.3.1.1. Nêu rơ nơi Bổn thật sự chẳng diệt

         

          (Kinh) Như thị ngă thành Phật dĩ lai, thậm đại cửu viễn, thọ mạng vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, thường trụ bất diệt. Chư thiện nam tử! Ngă bổn hành Bồ Tát đạo thời, sở thành thọ mạng, kim do vị tận, phục bội thượng số.

          ()如是我成佛已來。甚大久遠。壽命無量阿僧祇劫。常住不滅。諸善男子。我本行菩薩道時所成壽命。今猶未盡。復倍上數。

    (Kinh: Như thế đó, ta từ khi thành Phật cho đến nay hết sức lâu xa, thọ mạng vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, thường trụ bất diệt. Các thiện nam tử! Khi ta vốn hành Bồ Tát đạo, đă thành tựu thọ mạng cho đến nay vẫn chưa hết, c̣n gấp bội số trên đây).

 

          [Nói] “hết sức lâu xa, thọ mạng vô lượng A-tăng-kỳ kiếp” nhằm nhắc lại chuyện quá khứ trong phần trước. “Thường trụ bất diệt” nghĩa là trong vị lai luôn vĩnh viễn tạo lợi ích cho chúng sanh. Từ “ngă bổn hành” (ta vốn hành) trở đi, nêu ra cái nhân ḥng sánh ví cái quả để nói rơ sự thường trụ. Tức là ở nơi Bổn, trước khi thành Phật, thoạt đầu ngộ viên nhân bèn chứng Viên Trụ (Sơ Trụ trong Viên Giáo), phần chứng tuổi thọ của Pháp Thân thường trụ. [Tuổi thọ ấy] đă chẳng thể tận, gấp bội số lượng vi trần đă nói trong phần trên, huống hồ quả thọ (thọ mạng khi đắc Phật quả) chẳng phải là thường trụ ư? Ví như khi làm Thái Tử, bổng lộc đă chẳng thể tận, huống hồ khi lên ngôi vị tôn quư tột bậc (làm vua), bổng lộc há có thể tận ư? Hăy nên biết thọ mạng của Pháp Thân chẳng có khởi đầu, chẳng có kết thúc. Thọ mạng của Báo Thân có khởi đầu, chẳng có kết thúc. Thọ mạng của Ứng Thân tùy duyên mà dài hay ngắn, thị hiện có khởi đầu và kết thúc. Ở đây, kinh nói tới thọ mạng do Báo Thân tu được, cho nên trong quá khứ tuy đă dựa theo số vi trần trong cơi nước để làm thí dụ, vẫn là có khởi đầu. Đối với vị lai, bèn nói thẳng thừng “thường trụ bất diệt”, tức là chẳng có kết thúc. Nhưng tam thân vốn chẳng phải là một hay khác, kẻ độn căn chỉ thấy thân ứng hóa, chẳng biết đó chính là Báo Thân, chính là Pháp Thân. Do đó, hư vọng so đo vô thường! Kẻ lợi căn đối với thân Ứng Hóa liền ngộ đấy chính là Pháp Thân, hay Báo Thân. V́ vậy, có thể biết là thường trụ!

 

16.2.1.2 .1.1.3.1.2. Nói rơ phương tiện xướng “diệt độ”

 

          (Kinh) Nhiên kim phi thật diệt độ, nhi tiện xướng ngôn “đương thủ diệt độ”, Như Lai dĩ thị phương tiện giáo hóa chúng sanh.

          ()然今非實滅度。而便唱言當取滅度。如來以是方便教化眾生。
    (Kinh: Nhưng nay chẳng phải là thật sự diệt độ, mà bèn xướng rằng “sẽ diệt độ”. Như Lai dùng phương tiện ấy để giáo hóa chúng sanh).

 

          Chúng sanh trong hiện tại thấy Phật, nghe pháp, hoặc mới thấy thân ta, nghe lời ta nói, liền đều tin nhận, nhập Như Lai huệ. Hoặc kẻ trước kia đă tu tập, học pháp Tiểu Thừa, ta nay cũng khiến cho họ được nghe kinh này, nhập vào Phật huệ. Đă nhập Phật huệ, liền biết Như Lai thường trụ bất diệt. [Như Lai] chẳng v́ hạng người như thế mà xướng “diệt độ”. Có các đại chúng kết duyên sơ sài, cho đến năm ngàn người rời pháp hội lui về, hoặc những kẻ được dời sang phương khác, hiện thời chưa gieo duyên, hay duyên chưa chín muồi để được độ thoát; các chúng sanh ấy sẽ hữu duyên trong tương lai. V́ thế, [đức Phật] dùng phương tiện xướng “diệt độ” để giáo hóa họ. Hăy nên biết: Tam thân đều có ư nghĩa “chẳng phải diệt mà xướng diệt”. Pháp Thân chẳng diệt mà xướng là diệt, như kinh Tịnh Danh nói: “Pháp bổn bất sanh, kim tắc vô diệt” (Pháp vốn chẳng sanh, nay th́ chẳng diệt). Đó chính là Pháp Thân chẳng diệt. Kinh lại nói: “Thị tịch diệt nghĩa” (là ư nghĩa tịch diệt), tức là Pháp Thân xướng “diệt độ”. V́ sao? Nếu đă liễu đạt, sẽ chẳng xướng tịch diệt; chỉ v́ kẻ chưa liễu đạt mà xướng [“sẽ diệt độ”] đó thôi! Lại nữa, nếu nói “chiếu tịch” tức là xướng “diệt”. Nếu nói “tịch chiếu” tức là xướng “sanh”.

          Tuy Pháp Thân chẳng sanh, chẳng diệt, nhưng cũng có sanh diệt: Nếu mê tâm chấp trước, sẽ là phiền năo sanh mà trí huệ diệt. Nếu giải tâm vô nhiễm, tức là trí huệ sanh mà phiền năo diệt. Diệt Hoặc sanh giải, đấy chính là vô thường diệt. Nếu giải sanh, Hoặc diệt, th́ chính là tịch diệt. Sự sanh diệt ấy đều xét theo pháp tánh mà biện định. Nếu chẳng có hai duyên mê và giải, sẽ chẳng xướng sự sanh diệt ấy.

          “Báo Thân chẳng diệt mà xướng diệt”: Ai có trí huệ, ai có phiền năo mà nói “trí huệ có thể phá phiền năo”? Đấy chính là sáng và tối chẳng trừ khử lẫn nhau. Đó chính là ư nghĩa “Báo Thân bất diệt”. Chúng sanh chưa hiểu rơ, nghe điều ấy bèn cho rằng chính ḿnh là Phật, sanh ḷng kiêu căng, phóng túng, chẳng c̣n tu đạo. V́ thế, lại xướng rằng: “Đạo có thể diệt Hoặc. Khi có phiền năo th́ sẽ chẳng có trí huệ. Khi có trí huệ th́ sẽ chẳng có phiền năo”, há chẳng phải là trí huệ có thể diệt phiền năo ư?

          “Ứng Thân chẳng diệt mà xướng diệt”: Ứng là tác dụng của Pháp Thân và Báo Thân. Thể đă là chẳng diệt, há Dụng có cùng tận ư? Tức là Ứng Thân bất diệt. Chỉ v́ chúng sanh nếu thường thấy Phật, sẽ sanh tâm kiêu căng, phóng túng. V́ thế xướng ngă ư kim dạ đương thủ diệt độ” (đêm nay ta sẽ diệt độ). Lại nữa, bản thể của Pháp Thân là bất sanh, bất diệt. Báo Thân liễu đạt “chẳng thể sanh diệt”. Ứng Thân liên tục chẳng sanh, chẳng diệt. Do đó, ba thân đều chẳng phải là diệt. Nay v́ phương tiện giáo hóa chúng sanh, nơi Ứng Thân bèn xướng diệt. Về mặt Sự th́ giống như ba thân đều xướng diệt độ. Phần thứ nhất, “nói về chuyện chẳng diệt độ mà xướng diệt độ ḥng lợi ích chúng sanh” đă xong.

 

16.2.1.2 .1.1.3.2. Giải thích ư nghĩa v́ sao cần phải xướng “diệt độ”

16.2.1.2 .1.1.3.2.1. Chẳng diệt độ sẽ có tổn hại

 

          (Kinh) Sở dĩ giả hà? Nhược Phật cửu trụ ư thế, bạc đức chi nhân bất chủng thiện căn, bần cùng, hạ tiện, tham trước ngũ dục, nhập ư ức tưởng, vọng kiến vơng trung. Nhược kiến Như Lai thường tại bất diệt, tiện khởi kiêu tứ, nhi hoài yếm đăi, bất năng sanh nan tao chi tưởng, cung kính chi tâm.

          ()所以者何。若佛久住於世。薄德之人。不種善根。貧窮下賤。貪著五欲。入於憶想妄見網中。若見如來常在不滅。便起憍恣而懷厭怠。不能生難遭之想。恭敬之心。

          (Kinh: V́ lẽ nào vậy? Nếu Phật trụ thế lâu dài, kẻ đức mỏng, chẳng gieo thiện căn, bần cùng, hèn hạ, tham chấp ngũ dục, sẽ rơi vào lưới ức tưởng, kiến giải hư vọng. Nếu họ thấy Như Lai thường c̣n chẳng diệt, sẽ liền dấy ḷng kiêu căng, phóng túng, lười nhác, chẳng thể sanh ư tưởng khó gặp gỡ và tâm cung kính).

 

          Bất chủng thiện căn” (chẳng gieo thiện căn) tức là chẳng sanh hai điều thiện đối với lẽ Chân, sẽ là vô ích. Tư Hoặc tham chấp ngũ dục, Kiến Hoặc rơi vào ức tưởng. Do Kiến Tư mới sanh mà chẳng đoạn, vô minh trùng điệp mà chẳng biết, tức là chẳng đoạn thông ác và biệt ác; đó là có tổn hại! Lại c̣n dấy ḷng kiêu căng, buông lung, tức là tăng thêm Kiến Hoặc. Ôm ḷng lười nhác, biếng trễ, tức là tăng thêm Tư Hoặc. V́ thế có tổn hại. Chẳng sanh ư tưởng khó gặp gỡ, tức là chẳng thể nẩy sanh sự hiểu biết đối với Kiến Đế. Chẳng sanh tâm cung kính tức là chẳng thể sanh tâm tư duy đạo. V́ thế vô ích. Nếu thấy nghe ba loại Phật chẳng diệt, sẽ đều có ư nghĩa kiêu căng, phóng túng. Nghe Pháp Thân bất diệt, sẽ cho rằng “chúng sanh như, Di Lặc như, nhất như, vô dị như”, b́nh đẳng chính là Chân. Do vậy, sanh tâm kiêu ngạo tăng thượng mạn; [sẽ tưởng lầm] hết thảy phiền năo vốn tự chẳng sanh, nay cũng chẳng diệt, cần ǵ tu đạo? Dẫu mặc sức buông lung, vẫn cứ bảo đó là nghĩa Tịch Diệt! Lại nghe “hết thảy chúng sanh chính là Bồ Đề tướng. Bồ Đề tướng chính là phiền năo tướng, sáng và tối chẳng trừ khử lẫn nhau, hiển xuất Bồ Đề của Phật”, liền dấy ḷng ngạo mạn, buông lung, chẳng c̣n tu điều thiện. Giải đăi, buông lung mà bảo là “Báo Thân trí huệ có thể diệt phiền năo. Đối với sức vô minh to lớn, Bồ Đề trí của Phật có thể diệt”. [Tương tự], đối với Ứng Thân bất diệt, sẽ nẩy sanh kiêu ngạo, phóng túng là điều dễ hiểu!

 

16.2.1.2 .1.1.3.2.2. Xướng “diệt độ” sẽ hữu ích

 

          (Kinh) Thị cố, Như Lai dĩ phương tiện thuyết: “Tỳ-kheo đương tri, chư Phật xuất thế nan khả trị ngộ. Sở dĩ giả hà? Chư bạc đức nhân quá vô lượng bách thiên vạn ức kiếp, hoặc hữu kiến Phật, hoặc bất kiến giả, dĩ thử sự cố, ngă tác thị ngôn: “Chư tỳ-kheo! Như Lai nan khả đắc kiến”. Tư chúng sanh đẳng văn như thị ngữ, tất đương sanh ư nan tao chi tưởng, tâm hoài luyến mộ, khát ngưỡng ư Phật, tiện chủng thiện căn. Thị cố, Như Lai tuy bất thật diệt, nhi xướng diệt độ.

          ()是故如來以方便說。比丘當知。諸佛出世。難可值遇。所以者何。諸薄德人。過無量百千萬億劫。或有見佛。或不見者。以此事故。我作是言。諸比丘。如來難可得見。斯眾生等聞如是語。必當生於難遭之想。心懷戀慕。渴仰於佛。便種善根。是故如來雖不實滅。而言滅度。

          (Kinh: V́ thế, Như Lai dùng phương tiện để nói: Tỳ-kheo nên biết! Chư Phật xuất thế, khó thể gặp gỡ. V́ lẽ nào vậy? Những kẻ đức mỏng qua khỏi vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp, có kẻ thấy Phật, hoặc có kẻ chẳng thấy. Do bởi chuyện này, ta nói như thế này: “Các tỳ-kheo! Như Lai khó thể thấy”. Các chúng sanh đó nghe lời như vậy, ắt sẽ sanh ư tưởng khó gặp, ôm ḷng luyến mộ, khát ngưỡng đối với Phật, liền gieo thiện căn. Do vậy, tuy Như Lai chẳng thật sự diệt độ mà nói diệt độ).

 

          “Thị cố, xướng ngôn” (V́ thế, xướng rằng): Tuy pháp vốn chẳng sanh, nhưng nay cũng chẳng diệt, cần phải diệt Hoặc th́ mới tịch diệt. Đấy là ư nghĩa “Pháp Thân khó thấy”. Tuy nói trí huệ chẳng diệt phiền năo, nhưng khi sáng th́ sẽ chẳng tối. Các ông nay trọn đủ phiền năo, sao có thể có huệ cho được? Hăy nên biết: Trí huệ có thể diệt chướng hoặc. Đấy là ư nghĩa “Báo Thân khó thấy”. “Ứng Thân khó thấy” dễ hiểu! Chúng sanh nghe xướng diệt độ như thế, sẽ dễ dàng sanh ư tưởng khó gặp đối với tam thân Phật, bèn luyến mộ, khát ngưỡng, ác diệt, thiện sanh. V́ thế, ba thân tuy chẳng thật sự diệt mà xướng diệt. Phần thứ nhất, “nói về ba đời đều lợi ích chúng sanh” đă xong.

 

16.2.1.2 .1.2. Tổng kết chẳng hư dối

 

          (Kinh) Hựu thiện nam tử! Chư Phật Như Lai pháp giai như thị, vị độ chúng sanh, giai thật bất hư.

          ()又善男子。諸佛如來。法皆如是。為度眾生。皆實不虛。

          (Kinh: Lại này thiện nam tử! Pháp của chư Phật Như Lai đều như thế, v́ độ chúng sanh, đều là chân thật chẳng dối).

 

          Đă thành Phật, sẽ thật sự đắc ba thân, thảy đều bất sanh, bất diệt. V́ các chúng sanh cho đến hết đời vị lai, mà thường hiện sanh, hiện diệt, thật sự đắc ba thân cũng là chân thật chẳng dối. “Hiện sanh, hiện diệt” cũng là chân thật, chẳng dối. V́ vậy, chúng sanh trong ba đời ai nấy đều đạt được lợi ích cũng chẳng hư dối. Nếu chỉ luận định Lư, chẳng luận định Sự, chỉ luận tánh, mà chẳng luận tu, sẽ giống như ngụ ngôn trong thế gian, sao có thể gọi là “chẳng hư dối” cho được? Lại nữa, nếu chỉ luận Sự mà chẳng thấu đạt Lư, chỉ luận tu mà chẳng ngộ tánh, sẽ giống như cảnh giới sanh diệt thuộc Quyền Tiểu, sao có thể gọi là chẳng hư dối cho được? V́ thế, đều chân thật, chẳng hư dối chính là Quyền Thật Bổn Tích, không ǵ chẳng phải là chân thật, chắc chắn. Phần thứ nhất, Pháp Thuyết đă xong.

 

16.2.1.2.2. Thí thuyết

16.2.1.2.2.1. Lập thí dụ

16.2.1.2.2.1.1. Thí dụ về lương y trị bệnh cho con nhằm sánh ví lợi ích chúng sanh trong ba đời” của phần trên

16.2.1.2.2.1.1.1. Thí dụ cha đi xa nhằm sánh ví “lợi ích chúng sanh trong quá khứ”

 

          (Kinh) Thí như lương y trí huệ thông đạt, minh luyện phương dược, thiện trị chúng bệnh. Kỳ nhân đa chư tử tức, nhược thập, nhị thập, năi chí bách số, dĩ hữu sự duyên, viễn chí dư quốc.

          ()譬如良醫。智慧聰達。明練方藥。善治眾病。其人多諸子息。若十。二十。乃至百數。以有事緣。遠至餘國。

          (Kinh: Ví như lương y trí huệ thông đạt, hiểu rành các phương thuốc, khéo trị các bệnh. Người ấy có nhiều con cái, hoặc mười, hai mươi, cho đến số trăm. Do có sự duyên, đến nước xa khác).

 

          Trong phần Pháp Thuyết thuộc phần trước có ba ư: Một là chỗ tạo lợi ích cho chúng sanh, hai là giải trừ mối nghi đối với Tích, ba là nên lợi ích chúng sanh như thế nào. Nay chỉ thí dụ chuyện nên làm như thế nào để lợi ích chúng sanh. Trong phần nên làm như thế nào, lại có [hai tiểu đoạn] là cảm ứng và thực hiện sự giáo hóa, nay đều thí dụ đầy đủ. Ví như lương y khéo trị các căn bệnh, tức là sánh ví cái trí “ta dùng Phật nhăn để nh́n (quan sát căn cơ của chúng sanh) sẽ có thể ứng”. Người ấy có nhiều con cho đến số trăm, sánh ví chuyện “chúng sanh đến chỗ của ta”, tức là căn cơ có thể cảm. Trong phần thực hiện sự giáo hóa, lại có hai loại lợi ích bằng h́nh tướng và âm thanh, cũng như do được lợi ích bèn hoan hỷ. Nay lược đi, chẳng thí dụ chuyện hoan hỷ. Lại lược đi chẳng thí dụ chuyện dùng âm thanh tạo lợi ích. Trong phần tạo lợi ích bằng h́nh tướng, lại lược đi chẳng thí dụ chuyện “chẳng sanh mà thị hiện sanh”, chỉ thí dụ ư “chẳng diệt mà thị hiện diệt”, tức là “dĩ hữu sự duyên, viễn chí tha quốc” (do có sự duyên, đi xa sang nước khác).

          Nói tới “lương y” th́ thầy thuốc có mười loại:

          - Một, chữa bệnh, bệnh tăng thêm, chẳng giảm, hoặc có lúc chết mất. Ví như ngoại đạo Không kiến, làm ác bừa băi, dạy kẻ khác các pháp dấy lên tà kiến, đoạn thiện căn. Pháp Thân đă mất, huệ mạng cũng chết luôn!

          - Hai, là kẻ chữa bệnh, khiến cho bệnh chẳng tăng, chẳng giảm, ví như ngoại đạo khổ hạnh có kiến chấp, gieo ḿnh vào gộp đá, gieo thân vào lửa, khổ hạnh làm lành, chẳng đắc Thiền Định, chẳng thể đoạn kết sử, cho nên [bệnh phiền năo] chẳng tổn (chẳng giảm bớt). Do cũng chẳng đoạn điều lành, cho nên [bệnh phiền năo] chẳng tăng.

          - Ba là kẻ chữa bệnh chỉ giảm, không tăng, nhưng bệnh đă lành rồi phát trở lại. Ví như ngoại đạo tu Định, đoạn kết sử.

          - Bốn là kẻ chữa bệnh có thể khiến cho bệnh đă lành chẳng phát trở lại, nhưng chữa trị chẳng trọn khắp. Ví như hàng Nhị Thừa, chỉ trị một hai loại người hữu duyên, chẳng thể trị khắp hết thảy.

          - Năm là kẻ tuy có thể chữa bệnh trọn khắp, nhưng chẳng có phương tiện khéo léo để trị bệnh, [ngơ hầu chẳng khiến cho bệnh nhân] đau khổ. Ví như Lục Độ Bồ Tát từ bi chữa trị rộng khắp, hành hạnh khó, hạnh khổ. Thích Luận gọi hạng người này là “chuyết độ” (độ bằng phương cách vụng về).

          - Sáu là kẻ chữa bệnh có tài khéo trị bệnh, khiến [cho bệnh nhân] không đau khổ, nhưng chẳng thể chữa trị người ắt phải chết. Ví như Thông Giáo Bồ Tát, hiểu thấu pháp khéo độ, chỉ trị phàm phu qua lại [trong sanh tử], chẳng thể trị hàng Nhị Thừa bại chủng (hạt giống hư lép).

          - Bảy là tuy có thể trị bệnh khó chữa, nhưng không thể cùng lúc trị hết thảy các bệnh. Ví như Biệt Giáo Bồ Tát trước khi tiến nhập Sơ Địa.

          - Tám là có thể cùng lúc trị hết thảy các bệnh, nhưng không thể khiến cho [bệnh nhân] b́nh phục như cũ, ví như Thập Tín Bồ Tát trong Viên Giáo.

          - Chín là có thể trị hết thảy [các bệnh], cũng khiến cho [bệnh nhân] b́nh phục như cũ, nhưng không thể khiến cho họ tốt hơn [thể trạng] vốn sẵn có được! Ví như bốn mươi địa vị [Bồ Tát trong] Viên Giáo.

          - Mười là cùng lúc trị hết thảy các bệnh, khiến cho họ b́nh phục ngay, lại có thể khiến cho họ tốt hơn trước, tức là Như Lai.

          (Y sĩ có mười loại, gồm thâu trọn tà lẫn chánh, thông khắp Thiên lẫn Viên. Ba loại đầu cũng gọi là y sĩ, khi Phật chưa xuất thế, hết thảy ngoại đạo đều tự xưng là xuất gia, đều tự lănh chúng. Trong loại y sĩ thứ ba, nói “bệnh đă lành rồi phát trở lại” tức là tuy đă đoạn Hoặc nơi Sự, vẫn đọa trong tam đồ, do chưa đoạn Kiến Hoặc. V́ thế, sau khi thuận theo Thiền mà thọ sanh, vẫn phải hứng chịu luân hồi. Như kinh A Hàm nói: “Lương y hữu tứ, nhất thiện tri bệnh tướng, nhị tri bệnh nhân khởi, tam thiện tri phương trị, tứ tất cánh bất phát” (Lương y có bốn loại: Một khéo trị chứng bệnh, hai là biết bệnh do nguyên nhân nào phát ra, ba là khéo biết phương cách để chữa trị, bốn là [chữa trị khiến cho] bệnh rốt ráo chẳng phát lại). Nhưng ở đây, hai loại y sĩ thứ tư và thứ năm là trị chứng bệnh (chữa bệnh đằng ngọn), do v́ lẽ nào? Bệnh trạng mà họ đă biết chẳng thoát khỏi tam giới, hoặc biết nguyên nhân gây ra bệnh, chẳng thoát khỏi y báo và chánh báo. Tất cả phương cách để chữa trị không vượt ngoài “sanh, diệt, vô thường, khổ, không, vô ngă, bất tịnh!” Nói “chẳng bị bệnh trở lại” th́ chỉ là “trụ trong hai loại Niết Bàn”. Nếu dùng bốn danh nghĩa áp dụng chung cho các giáo, mỗi giáo sẽ tùy theo giáo nghĩa mà đều sai khác, cho đến Viên Giáo, đối với Lư chẳng trở ngại. Nếu trực tiếp dẫn các điều đó để chứng minh kinh này, sẽ c̣n chẳng giống với cách khéo trị trong Thông Giáo, sao có thể sánh ví nhiều lượt sanh diệt trong Bổn Môn, hết sức chẳng thể! Loại thứ tám chẳng thể khiến cho [bệnh nhân] b́nh phục là do tự nhập chưa sâu, không thể làm cho người khác thấy Pháp Thân vốn có. Pháp Thân bị vô minh che lấp, có ư nghĩa như bệnh gây hao tổn. Khiến cho lại được thấy [Pháp Thân] th́ gọi là “hồi phục”. Loại thứ mười nói “tốt hơn trước khi bệnh”, Pháp Thân vốn sẵn có, nay khiến cho [chúng sanh] chứng cái gốc, th́ gọi là “khôi phục”, do đối ứng với Tánh Đức vô công dụng. V́ thế, tu tập được gọi là “vượt quá”. Nhưng từ Sơ Trụ trở lên, cũng được gọi là “phần quá”. Do Hoặc nông cạn vẫn c̣n, bèn gọi là “khôi phục”. Lại do kém hơn cực địa rốt ráo, nên gọi là “quá”).

          Ba loại thầy thuốc đầu chính là gă thầy thuốc cũ dùng sữa làm thuốc [cho bất cứ căn bệnh nào như] được nói trong Đại Kinh (ở đây là kinh Đại Bát Niết Bàn). Bảy loại sau hoàn toàn là khách y (vị thầy thuốc mới đến). “Vô xảo thuật” (chẳng có thuật khéo): Chỉ dùng pháp “vô thường, khổ, vô ngă” giống như dùng thuốc đắng, chua, mặn. Người thầy thuốc có tài khéo từ xa đến, vẫn cho [bệnh nhân] uống sữa, chính là loại thầy thuốc tối hậu rốt ráo. “Lương” là tốt lành, thông hiểu trọn vẹn tám thuật[9], ví như tam đạt[10], ngũ nhăn. “Trí huệ” là hai trí Quyền và Thật, biết sâu xa Nhị Đế. “Thông đạt”: Ngũ nhăn soi xét căn cơ là Đốn hay Tiệm chẳng sai. “Minh luyện phương dược” (hiểu rành rẽ các toa thuốc) ví như mười hai bộ giáo, văn lư rất sâu. Văn từ có thể diễn nói giống như Phương (toa thuốc), Lư được diễn nói giống như Dược. Dược bao gồm hành và lư, nay nói đến Lư th́ Lư đă bao gồm hạnh. “Thiện trị chúng bệnh” (khéo trị các bệnh) ví như có thể thấy biết các căn là lợi hay độn, khéo vận dụng Tứ Tất Đàn.

          “Đa chư tử tức” (có nhiều con cái): Con có ba loại:

          - Một, chánh nhân Phật tử, tức là hết thảy chúng sanh đều có ba loại tánh đức Phật tánh, tức là Phật tử. Cho nên nói: “Kỳ trung chúng sanh, tất thị ngô tử” (chúng sanh trong ấy đều là con của ta).

          - Duyên nhân Phật tử, tức là kẻ từng nghe một câu, một kệ, vâng theo lời dạy mà tu hành, sanh khởi hiểu biết nhỏ nhiệm, tức là liễu nhân tánh. Tu hạnh nhỏ nhặt chính là duyên nhân tánh. Chánh tánh là gốc, gom chung ba tánh ấy (chánh nhân tánh, duyên nhân tánh, liễu nhân tánh), gọi chung là “duyên nhân”, do nó có thể giúp phát khởi sự giải ngộ Nhất Thật. V́ thế, [phẩm Thí Dụ của kinh Pháp Hoa] nói: “Trưởng giả chư tử nhược thập, nhị thập, năi chí tam thập, tiên nhân du hư, nhập hỏa trạch dă” (Các con của ông trưởng giả hoặc mười, hai mươi, cho đến ba mươi, trước đó do vui chơi mà vào trong nhà lửa).

          - Ba, liễu nhân Phật tử, tức là kẻ nghe pháp ngộ đạo. Ba nhân khai phát, chánh nhân lư tâm phát, tức Pháp Thân đức. Liễu nhân huệ tâm phát, tức Bát Nhă đức. Duyên nhân thiện tâm phát, tức giải thoát đức. Gom ba tánh ấy lại, gọi chung là “liễu nhân”, do có thể liễu đạt nghĩa Trung Đạo. V́ thế nói: “Tùng Phật khẩu sanh, tùng pháp hóa sanh, đắc Phật pháp phần, chân thị Phật tử” (từ miệng Phật sanh, từ pháp hóa sanh, có phần nơi Phật pháp, thật sự là con của Phật).

          Nếu nói theo “con” thuộc loại liễu nhân th́ là “thường được thấy cha, cha chẳng đi xa”. Nếu nói theo “con” thuộc loại duyên nhân,