Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa
phần 13
Đất
Cổ Ngô, Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật
妙法蓮華經綸貫會義
古吳後學蕅益智旭述
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong và
Huệ Trang
17. Phẩm thứ mười bảy: Phân Biệt Công
Đức (Phân Biệt Công Đức phẩm đệ thập
thất, 分別功德品第十七)
Phẩm này có thọ kư và lănh
giải. Sự lưu thông trong phần Thọ Kư và Lưu
Thông đều có [mức độ] cạn hay sâu khác nhau;
v́ thế nói là Phân Biệt. Đức Phật nói thọ
lượng, hai loại đệ tử Bổn và Tích đều
đạt được các thứ lợi ích. Cho đến
Tứ Tín trong hiện tại và Ngũ Phẩm sau khi [đức
Phật] diệt độ, cũng đều được
lợi ích. V́ thế nói là Công Đức (đệ tử
thuộc Bổn tức là các vị từ dưới đất
vọt lên. Đệ tử nơi Tích tức là các vị tại
Linh Sơn).
17.1. Thọ kư chung cho hàng Pháp Thân
17.1.1. Người kết tập kinh trần thuật
chung
(Kinh) Nhĩ thời,
đại hội văn Phật thuyết thọ mạng
kiếp số trường viễn như thị, vô lượng
vô biên A-tăng-kỳ chúng sanh đắc đại nhiêu ích.
(經)爾時大會。聞佛說壽命劫數長遠如是。無量無邊阿僧祇眾生得大饒益。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, đại hội nghe đức Phật nói
thọ mạng kiếp số dài lâu như thế, vô lượng
vô biên A-tăng-kỳ chúng sanh đạt được lợi
ích to lớn).
17.1.2. Như Lai phân biệt [các công đức]
(Kinh) Ư thời,
Thế Tôn cáo Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát: - A Dật Đa!
Ngă thuyết thị Như Lai thọ mạng trường
viễn thời, lục bách bát thập vạn ức na-do-tha
hằng hà sa chúng sanh đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.
(經)於時世尊。告彌勒菩薩摩訶薩。阿逸多。我說是如來壽命長遠時。六百八十萬億那由他恆河沙眾生得無生法忍。
(Kinh: Khi đó, đức
Thế Tôn bảo Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát: - Này A Dật
Đa (Ajita)! Khi ta nói thọ mạng dài lâu của Như
Lai, sáu trăm tám mươi vạn ức na-do-tha hằng
hà sa chúng sanh đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn).
Tam châu thuyết pháp trong Tích
Môn, ba loại căn cơ đều được thọ
kư, đều là địa vị Kiến Đạo Vô Sanh
Pháp Nhẫn[1] thuộc Sơ Trụ.
Nay nghe Bổn Môn, lại có ngần ấy chúng sanh được
nhập Sơ Trụ trong Viên Giáo. V́ thế biết [kinh Pháp
Hoa] là lời tuyên xướng tột bậc trong giáo pháp suốt
một đời [của đức Phật], có lợi ích khó thể nghĩ tưởng!
(Kinh) Phục hữu thiên
bội Bồ Tát Ma Ha Tát đắc Văn Tŕ Đà La Ni môn.
(經)復有千倍菩薩摩訶薩。得聞持陀羅尼門。
(Kinh: Lại có gấp
ngàn lần Bồ Tát Ma Ha Tát đạt được Văn
Tŕ Đà La Ni[2]
môn).
Người trước đó
đă chứng Vô Sanh, nay nghe lời tuyên xướng tột
bậc trong Bổn Môn, chuyển nhập [địa vị]
Tu Đạo, tăng trưởng đạo viên măn, mầu
nhiệm, giảm thiểu Biến Dịch Sanh Tử, chứng
Thập Trụ trong Viên Giáo, đắc đại Văn Tŕ,
diệu pháp viên đốn. Có thể thọ, có thể tŕ,
giống như biển cả có thể thọ tŕ trọn
khắp mưa của long vương.
(Kinh) Phục hữu nhất
thế giới vi trần số Bồ Tát Ma Ha Tát đắc
nhạo thuyết vô ngại biện tài.
(經)復有一世界微塵數菩薩摩訶薩。得樂說無礙辯才。
(Kinh: Lại có một
thế giới vi trần số[3] Bồ Tát Ma Ha Tát
đắc nhạo thuyết vô ngại biện tài[4]).
Đây là tăng tấn trí huệ,
tổn giảm phiền năo sanh tử, chứng Giả thuộc
Thập Hạnh chẳng thể nghĩ bàn trong Viên Giáo. Hằng
sa Phật pháp ngang dọc đều gồm thâu, cho nên có thể
tự tại diễn nói, biện tài vô ngại.
(Kinh) Phục hữu
nhất thế giới vi trần số Bồ Tát Ma Ha Tát đắc
bách thiên vạn ức vô lượng Toàn Đà La Ni.
(經)復有一世界微塵數菩薩摩訶薩。得百千萬億無量旋陀羅尼。
(Kinh: Lại có một
thế giới vi trần số Bồ Tát Ma Ha Tát đắc
trăm ngàn vạn ức vô lượng Toàn Đà La Ni[5]).
Đây là tăng trưởng
trí huệ, tổn giảm phiền năo sanh tử, chứng pháp
Thập Hồi Hướng thuộc Viên Giáo, Lư Sự viên
dung, Chân Tục chẳng hai, vô lượng trong một, một
trong vô lượng, trùng trùng xoay chuyển, tổng tŕ lẫn
nhau.
(Kinh) Phục hữu
tam thiên đại thiên thế giới vi trần số Bồ
Tát Ma Ha Tát năng chuyển bất thoái pháp luân.
(經)復有三千大千世界微塵數菩薩摩訶薩。能轉不退法輪。
(Kinh: Lại có một
tam thiên đại thiên thế giới vi trần số Bồ
Tát Ma Ha Tát có thể chuyển pháp luân bất thoái).
Đây là tăng trưởng
trí huệ, tổn giảm sanh tử phiền năo, chứng
Sơ Địa trong Viên Giáo, tâm luôn tưới rót biển
Tát Bà Nhă (Sarvajñā, Nhất Thiết
Trí), chuyển trọn ba thứ bất thoái luân.
(Kinh) Phục hữu
nhị thiên trung thiên quốc độ vi trần số Bồ
Tát Ma Ha Tát năng chuyển thanh tịnh pháp luân.
(經)復有二千中千國土微塵數菩薩摩訶薩。能轉清淨法輪。
(Kinh: Lại có số
lượng Bồ Tát Ma Ha Tát bằng số vi trần thuộc
nhị thiên trung thiên quốc độ[6] có thể chuyển
pháp luân thanh tịnh).
Đây là tăng trưởng
trí huệ, tổn giảm sanh tử phiền năo, chứng Nhị
Địa trong Viên Giáo, tự ĺa cấu nhơ Tam Hoặc,
cũng khiến cho người khác ĺa cấu chướng
Tam Hoặc. V́ thế nói là “chuyển pháp luân thanh tịnh”.
(Kinh) Phục hữu tiểu
thiên quốc độ vi trần số Bồ Tát Ma Ha Tát bát
sanh đương đắc A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề.
(經)復有小千國土微塵數菩薩摩訶薩。八生當得阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh: Lại có hàng Bồ
Tát Ma Ha Tát bằng số vi trần thuộc các quốc
độ trong một tiểu thiên thế giới sau tám đời
sẽ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).
Đây là tăng trưởng
trí huệ, tổn giảm sanh tử phiền năo, chứng
Tứ Địa trong Viên Giáo, chỉ c̣n sót lại tám phẩm
Vô Minh vi tế. V́ thế nói là “bát sanh đương đắc
Bồ Đề” (tám đời sẽ đắc Bồ
Đề). Đoạn một phẩm, nhập Ngũ Địa.
Đoạn hai phẩm, nhập Lục Địa. Đoạn
ba phẩm, nhập Thất Địa. Đoạn bốn
phẩm, nhập Bát Địa. Đoạn năm phẩm,
nhập Cửu Địa. Đoạn sáu phẩm, nhập
Thập Địa. Đoạn bảy phẩm, nhập Đẳng
Giác. Đoạn sạch tám phẩm, nhập Diệu Giác. Mỗi
lần đoạn một phẩm vô minh, chính là tổn giảm
Biến Dịch Sanh Tử, tăng thêm hiểu rơ một phần
Trung Đạo.
(Kinh) Phục hữu tứ
tứ thiên hạ vi trần số Bồ Tát Ma Ha Tát tứ
sanh đương đắc A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề.
(經)復有四四天下微塵數菩薩摩訶薩。四生當得阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh: Lại có hàng
Bồ Tát Ma Ha Tát bằng số vi trần trong bốn tứ
thiên hạ[7],
qua bốn đời sẽ đắc Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác).
Đây là tăng trưởng
trí huệ, tổn giảm sanh tử phiền năo, đă chứng
Bát Địa trong Viên Giáo, chỉ c̣n sót lại bốn phẩm
vi tế Vô Minh. Giảm tổn một phẩm sanh tử phiền
năo, nhập Cửu Địa. Tổn giảm hai phẩm sanh
tử phiền năo, nhập Thập Địa. Tổn ba phẩm
sanh tử phiền năo, nhập Đẳng Giác. Tổn giảm
hết sạch bốn phẩm sanh tử phiền năo, liền
thành Diệu Giác.
(Kinh) Phục hữu tam
tứ thiên hạ vi trần số Bồ Tát Ma Ha Tát tam sanh đương
đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
(經)復有三四天下微塵數菩薩摩訶薩。三生當得阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh: Lại có hàng Bồ
Tát Ma Ha Tát bằng số vi trần trong ba tứ thiên hạ,
qua ba đời sẽ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác).
Đây là tăng trưởng
trí huệ, tổn giảm sanh tử phiền năo, chứng
Cửu Địa trong Viên Giáo, cho nên chỉ c̣n dư lại
ba đời.
(Kinh) Phục hữu nhị
tứ thiên hạ vi trần số Bồ Tát Ma Ha Tát nhị
sanh đương đắc A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề.
(經)復有二四天下微塵數菩薩摩訶薩。二生當得阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh: Lại có hàng Bồ
Tát Ma Ha Tát bằng số vi trần trong hai tứ thiên hạ,
sau hai đời sẽ đắc Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác).
Đây là tăng trưởng
trí huệ, tổn giảm sanh tử phiền năo, chứng
Thập Địa trong Viên Giáo. V́ thế, chỉ c̣n sót lại
hai đời.
(Kinh) Phục hữu nhất
tứ thiên hạ vi trần số Bồ Tát Ma Ha Tát, nhất
sanh đương đắc A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề.
(經)復有一四天下微塵數菩薩摩訶薩。一生當得阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh: Lại có hàng Bồ
Tát Ma Ha Tát bằng số vi trần trong một tứ thiên
hạ, trong một đời sẽ đắc Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác).
Đây là tăng trưởng
trí huệ, tổn giảm sanh tử phiền năo, chứng Đẳng
Giác trong Viên Giáo. V́ thế, chỉ c̣n sót lại một đời.
(Kinh) Phục hữu bát thế
giới vi trần số chúng sanh, giai phát A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề tâm.
(經)復有八世界微塵數眾生。皆發阿耨多羅三藐三菩提心。
(Kinh: Lại có chúng
sanh bằng số vi trần trong tám thế giới đều
phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).
Đây chính là kẻ phàm phu lè
tè sát đất, do sức nghe kinh, chứng Thập Tín của
Viên Giáo, phát sanh tương tự tâm. Trong Bổn Môn, đắc
đạo nhiều như thế đó, hết thảy các kinh đều
chẳng sánh bằng. Ấy là do từ Bổn mà thị hiện
Tích, chốn chốn khơi mở, dẫn đắt, gặp
gỡ trong khoảng giữa, nhiều lần được
thành thục. Đời này th́ [dùng giáo pháp thuộc] năm vị (sữa, lạc, sanh tô,
thục tô, đề hồ) để điều
phục từng bước một, thâu thập, gom nắm
quy về dung hội Pháp Hoa. Ví như nhà nông mùa Xuân sanh thành,
mùa Hạ tăng trưởng, cày cuốc, gieo hạt, chăm bón,
mùa Thu thâu hoạch, mùa Đông tàng ẩn. Thâu hoạch, hái gặt
một phen. Từ đấy về sau, dẫu có người
đắc đạo th́ cũng đều được
gom về [Nhất Thừa].
Hỏi: Thọ kư cho Pháp Thân,
v́ sao lại thiếu các vị thuộc Ngũ Địa,
Lục Địa, Thất Địa vậy?
Đáp: Chuyện này chẳng
thể suy nghĩ mà ḥng biết được! Chỉ có Như
Lai có thể phân biệt. Chỉ có bậc Bổ Xứ là có thể lănh nhận, ngộ giải!
Cần ǵ cứ phải sanh
nghi như thế?
Hỏi: Các pháp như Văn Tŕ
Đà La Ni v.v… nếu đối chiếu với các địa vị trong
các kinh văn thuộc phần trước, v́ sao lại có đôi
chút khác biệt?
Đáp: Các danh tự như Vô
Sanh Nhẫn v.v… đều thông với Thiên, Viên, Quyền,
Thật, vốn chẳng nhất định, chỉ cần
giải thích để [người nghe] lănh hội viên lư.
Nay xét theo ư nghĩa thuận tiện, mà phân định như
thế. Nếu muốn dung thông lẫn nhau, có ǵ là chẳng
thể? Hăy nên biết chỉ có các thứ tự như tám đời,
bốn đời v.v… Những điều khác xét theo nghĩa
để giải thích tương ứng là được
rồi. Phần thứ hai, “Như Lai phân biệt [các công
đức do nghe thọ mạng của Như Lai]” đă xong.
17.1.3. Điềm lành biểu thị sự lợi ích
trong Viên Giáo
(Kinh) Phật thuyết thị
chư Bồ Tát Ma Ha Tát đắc đại pháp lợi thời,
ư hư không trung, vũ Mạn-đà-la hoa, Ma Ha Mạn-đà-la
hoa, dĩ tán vô lượng bách thiên vạn ức bảo thụ
hạ sư tử ṭa thượng chư Phật. Tịnh
tán thất bảo tháp trung sư tử ṭa thượng Thích
Ca Mâu Ni Phật, cập cửu diệt độ Đa Bảo
Như Lai, diệc tán nhất thiết chư đại Bồ
Tát cập tứ bộ chúng. Hựu vũ tế mạt
chiên đàn, trầm thủy hương đẳng. Ư hư
không trung, thiên cổ tự minh, diệu thanh thâm viễn. Hựu
vũ thiên chủng thiên y, thùy chư anh lạc, chân châu anh lạc,
Ma Ni châu anh lạc, Như Ư Châu anh lạc, biến ư cửu
phương. Chúng bảo hương lô thiêu vô giá hương,
tự nhiên châu chí, cúng dường đại hội. Nhất
nhất Phật thượng, hữu chư Bồ Tát chấp
tŕ phan, cái, thứ đệ nhi thượng,
chí ư Phạm Thiên. Thị chư Bồ Tát dĩ diệu
âm thanh, ca vô lượng tụng, tán thán chư Phật.
(經)佛說是諸菩薩摩訶薩得大法利時。於虛空中。雨曼陀羅華。摩訶曼陀羅華。以散無量百千萬億寶樹下師子座上諸佛。幷散七寶塔中師子座上釋迦牟尼佛。及久滅度多寶如來。亦散一切諸大菩薩及四部眾。又雨細末栴檀沉水香等。於虛空中。天鼓自鳴。妙聲深遠。又雨千種天衣。垂諸瓔珞。真珠瓔珞。摩尼珠瓔珞。如意珠瓔珞。徧於九方。眾寶香鑪燒無價香。自然周至。供養大會。一一佛上。有諸菩薩執持幡葢。次第而上。至於梵天。是諸菩薩。以妙音聲。歌無量頌。讚歎諸佛。
(Kinh: Khi đức
Phật nói các Bồ Tát Ma Ha Tát ấy đạt được
lợi ích to lớn nơi pháp, ở trong hư không, mưa
hoa Mạn-đà-la, hoa Ma Ha Mạn-đà-la, dùng để rải
lên chư Phật trên các ṭa sư tử dưới vô lượng
trăm ngàn vạn ức cây báu, và rải lên Thích Ca Mâu Ni và Đa
Bảo Như Lai đă diệt độ từ lâu [đang ngự]
trên ṭa sư tử
trong tháp bảy báu. Cũng rải lên hết thảy các vị
đại Bồ Tát và bốn bộ chúng. Lại mưa các
thứ bột mịn Chiên Đàn, trầm thủy
hương v.v… Ở trong hư không, trống trời tự
kêu, tiếng mầu nhiệm sâu xa. Lại mưa ngàn loại
áo trời, rủ các chuỗi anh lạc: Anh lạc bằng chân
châu, anh lạc bằng ma-ni châu, anh lạc bằng Như Ư
Châu trọn khắp chín phương. Các thứ ḷ hương
báu đốt hương vô giá, tự nhiên lan tỏa trọn
khắp, cúng dường đại hội. Trên mỗi vị
Phật, có các vị Bồ Tát cầm nắm phan, lọng,
lần lượt cao dần lên đến tận Phạm
Thiên. Các vị Bồ Tát ấy dùng âm thanh mầu nhiệm,
ca vô lượng kệ tụng để tán thán chư Phật).
Trong đoạn này, cũng có sáu điềm lành:
- Một là điềm
lành mưa hoa.
- Hai là điềm
lành mưa hương, [điềm lành thứ nhất và thứ
hai] biểu thị phước và huệ viên măn, nhiệm mầu,
tức tự hành đức.
- Ba là điềm lành
trống trời.
- Bốn là điềm
lành áo trời và anh lạc. [Điềm
lành thứ ba và thứ tư] biểu thị giáo hạnh viên
măn, mầu nhiệm, tức hóa tha đức.
- Năm là điềm
lành đốt hương cúng dường.
- Sáu là điềm
lành phan, lọng, tán thán, [hai điềm lành này] biểu thị
tự hành và hóa tha viên măn, mầu nhiệm, cùng quy vào cực
quả.
Trước hết,
hư không mưa hoa: Hư không biểu thị pháp tánh b́nh
đẳng. Từ pháp tánh ấy, sanh ra huệ hoa viên diệu
thuộc bốn mươi địa vị chân thật.
Kinh văn trong phần trước đă mượn phân thân
[của Phật Thích Ca] để biểu thị Ứng Thân,
Phật Thích Ca biểu thị Báo Thân, Phật Đa Bảo
biểu thị Pháp Thân. Nay trước hết, rải [hoa cúng
dường] phân thân chư Phật, kế đến là Phật
Thích Ca rồi Phật Đa Bảo, mang ư nghĩa hiển
thị tuy ba thân “chẳng
một, chẳng khác”, nhưng
do được thấy Ứng Thân mà biết Tu Đức của
Báo Thân và Tánh Đức của
Pháp Thân. Cũng rải lên hết thảy các Bồ Tát và tứ
chứng, tức là biểu thị đại hội đều
đạt được viên nhân diệu huệ, đều
thành diệu quả tam thân chẳng sai biệt. Bột mịn
chiên đàn, trầm thủy… chính là các thứ hương phước
đức, cũng xuất sanh từ
pháp tánh, cũng dùng chúng để phụng cúng tam thân, cúng khắp
tứ chúng, nhưng kinh văn nói lược qua.
“Thiên cổ tự
minh” (Trống trời tự kêu) biểu thị viên âm diễn
bày giáo pháp sâu mầu. “Thiên chủng thiên y” (Ngàn loại
áo trời) biểu thị áo Tịch Diệt Nhẫn che khắp
hết thảy. “Thùy chư anh lạc” (Rủ các chuỗi
anh lạc): Biểu thị bốn loại anh lạc gồm
Giới, Định, Huệ và Đà La Ni nhiếp hóa chúng sanh,
khiến cho họ sanh ḷng vui sướng. Ma Ni được phương
này dịch là Như Ư; lại nói là Như Ư Châu, hoặc là đôi
khi trùng lập, ghép chung tiếng Hán và tiếng Phạn (tức
là nói “Ma Ni Như Ư Châu”). [Ở đây, kinh văn] dùng bốn lần
chữ “anh lạc” chắc là để
diễn tả bốn thứ anh lạc Giới, Định
v.v… “Biến ư cửu phương” (trọn khắp
chín phương): Vốn từ phương trên tuôn xuống, trọn khắp tám phương và dưới đất.
Hỏi: Sao không như
Hoa Nghiêm nói “sung măn mười phương”?
Đáp: Hoa Nghiêm dùng
“mười” để biểu thị vô tận, kinh này dùng
“một” để biểu thị “đồng quy”. Nay
nói “trọn khắp chín phương” chính là biểu thị
lư một Phật giới. Trọn khắp cả chín giới,
chín giới không ǵ chẳng phải là một Phật giới.
“Chúng bảo hương
lô thiêu vô giá hương, tự nhiên châu chí cúng dường
đại hội” (Các thứ ḷ hương báu đốt
hương vô giá, tự nhiên lan tỏa trọn khắp cúng
dường đại hội): Tức là biểu thị tự
hành diệu đức luôn hướng tới cực quả.
Trước đó đă mưa hoa, mưa hương, nhằm
biểu thị phước huệ. Nay th́ đốt hương,
tức là dùng “đốt” để biểu thị huệ,
dùng “hương” để biểu thị phước. Cúng
dường tam thân của chư Phật trong đại hội,
cũng dùng đó để [cúng dường] trọn khắp
Bồ Tát, và tứ chúng là các vị Phật trong tương
lai. V́ thế nói là “tiến hướng cực quả”.
Nói “tự nhiên” nghĩa là chẳng dùng đến sức
người, cũng từ pháp tánh hư không mà hiển hiện.
“Hữu chư Bồ
Tát” (có các Bồ Tát): Cũng là tự nhiên hóa hiện các
h́nh tượng Bồ Tát, cũng từ pháp tánh hư không
mà sanh ra. “Phan” có nghĩa là “chuyển”, tức là
biểu thị tăng trưởng trí huệ, tổn giảm
phiền năo. “Cái” (lọng) có nghĩa là “che phủ”,
tức là biểu thị từ bi lợi ích chúng sanh. “Thứ
đệ nhi thượng” (Theo thứ tự mà lên cao),
tức là biểu thị từ nhân đến quả. “Chí
ư Phạm Thiên” (đến trời Phạm Thiên): “Phạm”
có nghĩa là thanh tịnh, tức biểu thị Tứ Đức
rốt ráo. “Diệu âm ca tụng tán thán chư Phật” tức
là biểu thị dùng âm thanh Phật đạo khiến cho
hết thảy đều được nghe. Trong phần
trước đă dùng trống trời để biểu
thị giáo pháp hóa độ người khác, dùng áo trời
và anh lạc để biểu thị hạnh hóa độ
người khác. Nay c̣n dùng phan và lọng để biểu
thị hạnh. “Ca tán” (ca vịnh tán thán) biểu thị
giáo pháp. Hai loại diệu đức hóa độ người
khác cùng tiến nhập cực quả. Lợi ích trong Viên
Giáo sâu xa, cho
nên hiện điềm lành để biểu thị. Các
kinh Hoa Nghiêm và Phật Đảnh (Thủ Lăng Nghiêm) nói đại
pháp xong, đều hiện tướng lành lạ lùng, há kinh
này lại riêng chẳng vậy ư? Phần
thứ hai, “thọ kư chung cho Pháp Thân” đă xong.
17.2. Ngài Di Lặc thưa bày sự lănh ngộ chung
Trong phần
Tích Môn trước đó, Bồ Tát cũng ngộ, nhưng
đại sự chưa xong, cho nên chẳng trần thuật.
Nay Bổn Môn đă [diễn bày] xong, cho nên cậy vào bậc
Bổ Xứ để trần thuật chung.
17.2.1. Trùng tụng sự giải ngộ của đại
chúng khi đó
(Kinh) Nhĩ thời,
Di Lặc Bồ Tát tùng ṭa nhi khởi, thiên đản hữu
kiên, hiệp chưởng hướng Phật, nhi thuyết
kệ ngôn.
(經)爾時彌勒菩薩從座而起。偏袒右肩。合掌向佛而說偈言。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Di Lặc Bồ Tát từ chỗ ngồi đứng
dậy, trật áo vai phải, chắp tay, hướng về
đức Phật mà nói kệ rằng).
Hết thảy các vị Bồ
Tát phần chứng Pháp Không th́ gọi là Ṭa. Nay từ chỗ
ngồi đứng dậy, biểu thị “chẳng
trụ vào pháp đă chứng”, lần lượt tăng
tấn. Bổn là Thật, Tích là Quyền, trước nay
chưa phơi bày, giống như vai phải bị che phủ. Nay đă
khơi mở xong, cho nên dùng “thiên đản hữu kiên”
(trật vai áo phải) để biểu thị. Bổn và
Tích tuy khác, nhưng chẳng thể nghĩ bàn như nhau. V́
thế dùng “chắp tay” để biểu thị. Tăng
trưởng trí huệ, tổn giảm sanh tử phiền
năo, mau chóng tiến hướng cực quả, v́ thế, dùng “hướng
về đức Phật” để biểu thị.
(Kinh) Phật
thuyết hy hữu pháp, tích sở vị tằng văn. Thế
Tôn hữu đại lực, thọ mạng bất khả
lượng. Vô số chư Phật tử, văn Thế
Tôn phân biệt, thuyết đắc pháp lợi giả, hoan
hỷ sung biến thân.
(經)佛說希有法。昔所未曾聞。世尊有大力。壽命不可量。無數諸佛子。聞世尊分別。說得法利者。歡喜充徧身。
(Kinh:
Phật nói pháp hiếm có, xưa chưa hề được
nghe. Thế Tôn có đại lực, thọ mạng chẳng
thể lường. Vô số các Phật tử, nghe Thế
Tôn phân biệt, nói pháp lợi đạt được,
hoan hỷ ngập tràn thân).
17.2.2. Trùng tụng các lời phân biệt công đức
của Như Lai
(Kinh) Hoặc
trụ bất thoái địa, hoặc đắc Đà La
Ni, hoặc vô ngại nhạo thuyết, vạn ức Toàn tổng
tŕ.
(經)或住不退地。或得陀羅尼。或無礙樂說。萬億旋總持。
(Kinh: Hoặc
trụ bất thoái địa, hoặc đắc Đà La
Ni, hoặc vô ngại nhạo thuyết, vạn ức Toàn Tổng
Tŕ).
[Nói] “bất thoái
địa” (địa vị chẳng thoái chuyển) tức
là trùng tụng Vô Sanh Pháp Nhẫn. Sơ Trụ là địa
vị Niệm Bất Thoái, [cứ phỏng theo đó]
cũng biết các địa vị khác!
(Kinh) Hoặc hữu
đại thiên giới, vi trần số Bồ Tát, các các
giai năng chuyển, bất
thoái chi pháp luân. Phục hữu trung thiên giới, vi trần
số Bồ Tát, các các giai năng chuyển, thanh tịnh
chi pháp luân. Phục hữu tiểu thiên giới, vi trần
số Bồ Tát. Dư các bát sanh tại, đương
đắc thành Phật đạo. Phục hữu tứ,
tam, nhị, như thử tứ thiên hạ, vi trần
chư Bồ Tát. Tùy sổ sanh thành Phật. Hoặc nhất
tứ thiên hạ, vi trần số Bồ Tát, dư hữu
nhất sanh tại, đương thành Nhất Thiết
Trí. Như thị đẳng chúng sanh, văn Phật thọ
trường viễn, đắc vô lượng vô lậu,
thanh tịnh chi quả báo.
(經)或有大千界。微塵數菩薩。各各皆能轉。不退之法輪。復有中千界。微塵數菩薩。各各皆能轉。清淨之法輪。復有小千界。微塵數菩薩。餘各八生在。當得成佛道。復有四三二。如此四天下。微塵諸菩薩。隨數生成佛。或一四天下。微塵數菩薩。餘有一生在。當成一切智。如是等眾生。聞佛壽長遠。得無量無漏。清淨之果報。
(Kinh: Hoặc
có đại thiên giới, vi trần số Bồ Tát, ai nấy
đều hay chuyển, pháp luân chẳng thoái chuyển. Lại
trung thiên thế giới, vi trần số Bồ Tát, ai nấy
đều có thể, chuyển pháp luân thanh tịnh. Lại
có tiểu thiên giới, vi trần số Bồ Tát, chỉ
sót lại tám đời, sẽ được thành Phật
đạo. Lại có bốn, ba, hai, tứ thiên hạ như
thế, vi trần số Bồ Tát, vài đời sẽ thành
Phật. Hoặc một tứ thiên hạ, vi trần số
Bồ Tát, c̣n sót lại một đời, sẽ thành Nhất
Thiết Trí. Các chúng sanh như thế, nghe Phật thọ dài
lâu, đắc vô lượng vô lậu, quả báo rất thanh
tịnh).
[Nói] “vô lượng
vô lậu” nhằm [biểu thị] khác với Nhị Thừa.
Do diệu nhân cảm vời, cho nên nói là “thanh tịnh”.
Do cơi nước chẳng chướng ngại, cho nên nói là
“quả báo”.
(Kinh) Phục hữu
bát thế giới, vi trần số chúng sanh, văn Phật
thuyết thọ mạng, giai phát vô thượng tâm.
(經)復有八世界。微塵數眾生。聞佛說壽命。皆發無上心。
(Kinh: Lại
có tám thế giới, vi trần số chúng sanh, nghe Phật
nói thọ mạng, đều phát vô thượng tâm).
Phần thứ hai,
“trùng tụng các công đức do Như Lai phân biệt” đă
xong.
17.2.3. Trùng tụng tướng lành biểu thị lợi
ích viên măn
(Kinh) Thế
Tôn thuyết vô lượng, bất khả tư nghị pháp,
đa hữu sở nhiêu ích, như hư không vô biên. Vũ
thiên Mạn-đà-la, Ma-ha Mạn-đà-la. Thích, Phạm như
hằng sa, vô số Phật độ lai, vũ chiên đàn,
trầm thủy. Tân phân nhi loạn trụy, như điểu
phi không hạ, cúng tán ư chư Phật.
(經)世尊說無量。不可思議法。多有所饒益。如虛空無邊。雨天曼陀羅。摩訶曼陀羅。釋梵如恆沙。無數佛土來。雨栴檀沉水。繽紛而亂墜。如鳥飛空下。供散於諸佛。
(Kinh: Thế
Tôn thuyết vô lượng, pháp chẳng thể nghĩ bàn,
có nhiều điều lợi ích, như hư không vô biên. Mưa
Mạn-đà-la trời, Ma-ha Mạn-đà-la. Thích, Phạm
như hằng sa, từ vô số cơi Phật, tuôn chiên
đàn, trầm thủy, phất phới
rơi tán loạn, như chim đang đáp xuống, cúng tán
lên chư Phật).
Đây là trùng tụng
hai điềm lành mưa hoa và mưa hương, đều
là rải cúng dường chư Phật. Thêm vào hai câu “Thích,
Phạm” để biểu thị các căn cơ trọn
khắp mười phương.
(Kinh) Thiên cổ
hư không trung, tự nhiên xuất diệu thanh. Thiên y thiên
vạn chủng, toàn chuyển nhi lai hạ.
(經)天鼓虛空中。自然出妙聲。天衣千萬種。旋轉而來下。
(Kinh: Trống
trời trong hư không, tự nhiên vang tiếng diệu. Ngàn
vạn loại áo trời, xoay tṛn rồi rơi xuống).
Đây là trùng tụng
hai điềm lành trống trời và áo trời, lược
đi chẳng trùng tụng anh lạc. Đối với áo
trời, có thêm chữ Vạn, nhằm hiển lộ ư che
phủ rất nhiều.
(Kinh) Chúng bảo
diệu hương lô, thiêu vô giá chi hương, tự nhiên
tất châu biến, cúng dường chư Thế Tôn.
(經)眾寶妙香鑪。燒無價之香。自然悉周徧。供養諸世尊。
(Kinh: Các ḷ hương
báu diệu, đốt loại hương vô giá, tự nhiên
đều trọn khắp, cúng dường các Thế Tôn).
Đây là trùng tụng
điềm lành “đốt hương cúng dường”. Phần
Trường Hàng nói là “đại hội”, nay [kệ
tụng] nói là Thế Tôn. Hăy nên biết “đại hội”
đều là tam thế Phật.
(Kinh) Kỳ đại
Bồ Tát chúng, chấp thất bảo phan cái, cao diệu vạn
ức chủng, thứ đệ chí Phạm Thiên. Nhất
nhất chư Phật tiền, bảo tràng, huyền thắng
phan. Diệc
dĩ thiên vạn kệ, ca vịnh chư Như Lai.
(經)其大菩薩眾。執七寶幡葢。高妙萬億種。次第至梵天。一一諸佛前。寶幢懸勝幡。亦以千萬偈。歌詠諸如來。
(Kinh: Các vị
đại Bồ Tát, cầm phan lọng bảy báu, cao đẹp
vạn ức thứ, lần lượt tới Phạm
Thiên. Ở trước mỗi đức Phật, treo tràng
báu, phan đẹp, cũng dùng ngàn vạn kệ, ca vịnh
các Như Lai).
Đây là trùng tụng
điềm lành “phan, lọng, tán thán”.
(Kinh) Như thị
chủng chủng sự, tích sở vị tằng hữu,
văn Phật thọ vô lượng, nhất thiết giai hoan
hỷ. Phật danh văn thập phương, quảng nhiêu
ích chúng sanh. Nhất thiết cụ thiện căn, dĩ trợ
vô thượng tâm.
(經)如是種種事。昔所未曾有。聞佛壽無量。一切皆歡喜。佛名聞十方。廣饒益眾生。一切具善根。以助無上心。
(Kinh: Các thứ
chuyện như thế, xưa kia chưa từng có. Nghe Phật
thọ vô lượng, hết thảy đều hoan hỷ.
Phật tiếng rền mười phương, rộng lợi
ích chúng sanh. Hết thảy vẹn thiện căn, giúp đỡ
tâm vô thượng).
Bài tụng này kết
lại các điềm lành biểu thị sự lợi ích
viên măn. Các tướng lành chẳng giống với lẽ
thường, cho nên nói là “tích sở vị tằng hữu”
(xưa kia chưa từng có). Phần thứ hai, Chánh Thuyết
(Chánh Tông Phần) của Bổn Môn đă xong.
Đoạn thứ
ba là Lưu Thông. Phẩm này cùng với tất cả mười
một phẩm kinh rưỡi trong phần sau đều
thuộc về Lưu Thông. Nay xét theo phương diện gần
th́ ba phẩm rưỡi là phần Lưu Thông của Bổn
Môn, có hai ư:
- Một, tứ tín
và ngũ phẩm hoàn toàn do nghe nói thọ mạng dài lâu mà khởi
nguồn. Hai phẩm Tùy Hỷ Công Đức và Pháp Sư Công
Đức chỉ nhằm nói rơ công đức nhân quả
thuộc sơ phẩm (phẩm đầu tiên trong ngũ phẩm,
tức tùy hỷ). Phẩm Thường Bất Khinh chỉ
nhằm dẫn chứng “phước do tán thán, tội do
hủy báng”. Hăy nên biết ba phẩm rưỡi này chính
là để lưu thông Bổn Môn, giống như từ phẩm
Pháp Sư cho tới An Lạc Hạnh là phần Lưu Thông
của Tích Môn.
- Hai, đă coi phần
Biệt Tự trong phẩm Tự thứ nhất là phần
Tự của Tích Môn, mà Tích Môn đă có đủ ba đoạn
(Tự, Chánh Tông, Lưu Thông), cho nên ba phẩm rưỡi này
(tức nửa phần c̣n lại của phẩm Phân Biệt
Công Đức với Tùy Hỷ Công Đức và Pháp Sư
Công Đức) chính là phần Lưu Thông của Bổn Môn.
[Như vậy th́] Bổn Môn cũng có đủ ba đoạn.
Bổn và Tích mỗi môn đều có ba đoạn, được
gom thành phần Chánh Thuyết [của toàn thể kinh này]. Dùng
năm chuyện thuộc Thông Tự để làm Tự Phần
cho cả hai môn (Bổn Môn và Tích Môn). Tám phẩm kể từ
Chúc Lụy trở đi là phần Lưu Thông cho cả hai
môn, thể cách trọn vẹn, chính đáng, mày mắt phân
minh.
Nay xét theo ba phẩm
rưỡi [thuộc Bổn Môn] mà chia thành ba ư:
- Một phẩm rưỡi
nhằm nói rơ công đức của cái nhân thuộc sơ phẩm
để khuyên lưu thông.
- Hai, phẩm Pháp Sư
Công Đức nhằm nói rơ công đức của cái quả
thuộc sơ phẩm ḥng khuyên lưu thông.
- Ba, phẩm Thường
Bất Khinh dẫn tội phước do tin nhận hay hủy
báng làm chứng ḥng khuyên lưu thông.
17.3. Nói rơ công đức của cái nhân
thuộc sơ phẩm để khuyên lưu thông
17.3.1. Nêu ra tứ tín trong hiện tại
17.3.1.1. Nhất niệm tín giải
17.3.1.1.1. Trường Hàng
17.3.1.1.1.1. Nêu tướng mạo
(Kinh)
Nhĩ thời, Phật cáo Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát: - A Dật
Đa! Kỳ hữu chúng sanh văn Phật thọ mạng
trường viễn như thị, năi chí năng sanh nhất
niệm tín giải.
(經)爾時佛告彌勒菩薩摩訶薩。阿逸多。其有眾生。聞佛壽命長遠如是。乃至能生一念信解。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Di Lặc Bồ
Tát Ma Ha Tát: - Này A Dật Đa! Có chúng sanh nghe thọ mạng
của Phật dài lâu như thế, tối thiểu là có thể
sanh một niệm tin hiểu).
Trong phần trước,
đă phân biệt người nghe thọ mạng dài lâu của
đức Phật sẽ đạt được lợi
ích sâu rộng. Người chưa nhập Sơ Trụ, ngộ
Vô Sanh Nhẫn. Người đă chứng nhập Sơ Trụ,
sẽ tăng trưởng trí huệ, tổn giảm nghiệp
cấu sanh tử, địa vị gần với bậc
cực thánh. Người chưa phát tâm, sẽ phát tâm vô thượng,
dự vào hàng Thập Tín. Những người ấy đều
đă gieo chủng tử sâu đậm trong đời trước,
nay [chủng tử] chín muồi, được độ
thoát. Hai địa vị Vô Sanh và Phát Tâm hoàn toàn thuộc vào
bậc đương cơ. “Tăng trưởng trí huệ,
tổn giảm Biến Dịch sanh tử” chung cho cả
ba chúng Ảnh Hưởng, Phát Khởi và Đương Cơ.
V́ thế, thuộc vào phần Thọ Kư của đoạn
Chánh Thuyết. Nay khởi
đầu phần Lưu Thông, xét theo người mới kết
duyên. Người chưa dự vào Thập Tín, hoặc do được
nghe đại lược trong hội này, hoặc từ các
vị Bồ Tát trong hiện tại mà lần lượt được
nghe, [tức là] nghe thọ mạng của đức Phật
dài lâu như thế, dẫu thời gian nghe rất ngắn
ngủi, mà cũng
chẳng nghe được nhiều, cho nên nói “năi chí năng
sanh nhất niệm tín giải” (tối thiểu có thể
sanh một niệm tin hiểu). Nói tột bậc, do thời gian [được
nghe] ngắn ngủi, [cho nên] đạt được
lợi ích nông cạn. “Nhất niệm” chính là một
niệm tâm nhỏ bé trong hiện tiền. “Tín giải”
là tin vào Lư được chứng bởi đức Phật
nơi Bổn Địa, [Lư ấy] chính là diệu lư pháp giới.
Lư ấy chẳng phải Thật, chẳng phải Quyền,
mà có thể là Thật, có thể là Quyền. Tự hành ngầm
khế hợp Lư th́ gọi
là Thật. Các thứ phương tiện hóa độ người
khác th́ gọi là Quyền. Lư ấy chẳng phải Bổn,
chẳng phải Tích, mà có thể là Bổn, có thể là Tích. Thoạt đầu, chứng
Thể và Dụng của Quyền và Thật th́ gọi là Bổn. Sau khi đă chứng, thực hiện Thể và
Dụng của Quyền Thật th́ gọi là Tích. Lại c̣n
tin hiểu lư ấy chính là lư được chứng đă
lâu bởi đức Thích Ca, đó cũng là chỗ chúng
sanh mê muội đă lâu, mà đấy cũng là chỗ cùng trọn đủ
của một niệm nhỏ bé trong hiện tiền. V́ thế
nói: “Như tâm, Phật diệc nhĩ. Như Phật, chúng
sanh nhiên. Tâm, Phật, cập chúng sanh, thị tam vô sai biệt”
(Giống như tâm, Phật cũng thế. Giống như
Phật, chúng sanh cũng thế. Tâm, Phật và chúng sanh, ba điều
ấy chẳng sai biệt).
Thuận theo chỗ
được nghe như thế, bỗng dưng sáng tỏ; thuận theo lời nói mà nhập, chẳng bị vướng
mắc, tin “hết
thảy các pháp đều là Phật pháp” (ngay nơi Quyền chính là Thật, đó là Chân chẳng
thể nghĩ bàn). Lại tin “Phật pháp chẳng cách biệt hết thảy các pháp” (ngay nơi
Thật mà chính là Quyền, tức là Tục
chẳng thể nghĩ bàn). Chẳng đạt được
Phật pháp, chẳng đạt được hết thảy
các pháp (đó
là “song giá”, tức cùng ngăn che đôi bên),
mà thấy hết thảy các pháp, cũng thấy Phật pháp
(song chiếu
cả hai câu ấy, đó chính là Trung chẳng thể nghĩ bàn). Tuy một mà
chính là ba (nêu ra bất cứ một Đế nào, đều trọn đủ Tam Đế),
tuy ba mà là một (tuy chia thành Tam Đế, chỉ là nhất
tâm), cũng là hành nơi phi đạo mà thông đạt Phật
đạo (chín pháp giới chẳng phải là đạo,
thuần là tác dụng của diệu đạo thuộc Phật
pháp giới, [đó là] giải thích câu “hết
thảy các pháp đều là Phật pháp” trên đây). Hành nơi
Phật đạo mà thông đạt hết thảy các đạo
(giải thích câu “Phật
pháp chẳng ngăn cách hết thảy các pháp” trên đây). Chẳng
đạt được Phật đạo, chẳng đạt
được hết thảy các đạo (giải thích về “song giá”, tức
là phủ định cả hai bên), mà thông đạt hết
thảy Phật đạo và hết thảy các đạo
(song chiếu). Vô sở hữu mà có (Tam Đế đều
có); tuy có mà vô sở hữu (Tam Đế đều là Không),
chẳng phải là sở hữu,
chẳng phải là vô sở
hữu (Tam Đế đều chẳng phải có, chẳng
phải không), giống như đường trước
cửa thông đạt hết thảy Đông, Tây, Nam, Bắc,
chẳng bị ngăn ngại. Mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ư, hễ có đối tượng [để nhận
biết] th́ đều là như thế (bản thể của
lục trần là pháp giới, dù xưa
hay nay, không ǵ chẳng phải là Tam Đế viên diệu).
Chẳng nghi là Tín, hiểu rơ là Giải, tức là cái tâm nhất niệm tín giải vậy (trên đây là xét theo
chuyện nghe pháp mà tín giải, tức là “tín hạnh”). Nếu
ngồi tư duy, thuận theo điều được tư
duy mà rỗng rang khai ngộ, thông đạt Tam Đế,
cũng giống như thế (lại dựa theo tư duy mà
sanh một niệm tín giải, tức là “pháp hạnh”). Tín giải
như thế chính là Sơ Tâm trong Thập Tín, chưa đạt
được sáu căn thanh tịnh, chưa nhập chánh
vị Thiết Luân[8].
17.3.1.1.1.2. Nói rơ công đức
17.3.1.1.1.2.1. Tổng luận vô lượng
(Kinh)
Sở đắc công đức, vô hữu hạn lượng.
(經)所得功德。無有限量。
(Kinh:
Đạt được công đức chẳng có hạn
lượng).
17.3.1.1.1.2.2. Suy lường ḥng hiển
thị [công đức] rất nhiều
17.3.1.1.1.2.2.1. Nêu ra ngũ Độ để
suy lường Bổn
(Kinh)
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân,
vị A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cố,
ư bát thập vạn ức na-do-tha kiếp hành ngũ Ba
La Mật, Đàn Ba La Mật, Thi La Ba La Mật, Sạn Đề
Ba La Mật, Tỳ Lê Da Ba La Mật, Thiền Ba La Mật, trừ
Bát Nhă Ba La Mật.
(經)若有善男子善女人。為阿耨多羅三藐三菩提故。於八十萬億那由他劫行五波羅蜜。檀波羅蜜。尸羅波羅蜜。羼提波羅蜜。毗梨耶波羅蜜。禪波羅蜜。除般若波羅蜜。
(Kinh:
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân v́ Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác mà trong tám mươi vạn ức
na-do-tha kiếp hành năm Ba La Mật, tức Đàn Ba La Mật
(Dāna-pāramitā,
Bố Thí Độ), Thi La Ba La Mật (Śīla-pāramitā, Giới Độ), Sạn
Đề Ba La Mật (Ksānti-pāramitā,
Nhẫn Độ), Tỳ Lê Da Ba La Mật
(Vīrya-pāramitā,
Tinh Tấn Độ), và Thiền Ba La Mật
(Dhyāna-pāramitā,
Thiền Độ), ngoại trừ Bát
Nhă Ba La Mật).
Bát Nhă (Prajñā) tức là chánh huệ trong hiện
thời, v́ thế nói “ngoại trừ Bát Nhă”.
Hỏi: Đă ĺa Bát
Nhă th́ năm Độ trước chẳng nên gọi là Ba
La Mật!
Đáp: Xét theo người
thuộc Biệt Giáo, v́ cầu Vô Thượng Bồ Đề
đều trọn hết năm độ ấy th́ cũng
được gọi là Độ (Ba La Mật), do trong Biệt
Giáo, sau khi đă viên măn tâm Thập Hồi Hướng th́ được
gọi là “giả biên tế”.
Hỏi: Biệt
Giáo cũng có Bát Nhă theo thứ tự, so ra vẫn tương
đồng, cớ sao lại loại ra?
Đáp: Theo chiều
dọc, chẳng luận Không và Giả Bát Nhă, có thể coi là
tương đồng. Nhưng đă chứng Trung th́ sẽ
chẳng khác, gọi là Thể b́nh đẳng. V́ thế, cần
phải loại trừ.
17.3.1.1.1.2.2.2. Phán định công đức
tín giải rất nhiều
(Kinh) Dĩ
thị (ngũ độ) công đức, tỷ tiền (nhất
niệm tín giải) công đức, bách phần, thiên phần,
bách thiên vạn ức phần, bất cập kỳ nhất,
năi chí toán số, thí dụ
sở bất năng tri.
(經)以是(五度)功德。比前(一念信解)功德。百分。千分。百千萬億分。不及其一。乃至算數譬喻所不能知。
(Kinh:
Đem công đức của [Ngũ Độ] ấy so
với công đức [của một niệm tín giải] trên đây, th́ trong trăm phần,
ngàn phần, trăm ngàn vạn ức phần, [công đức
tu tŕ Ngũ Độ] chẳng thể bằng một phần
[của công đức nhất niệm tín giải], cho đến
dùng toán số, thí dụ [để suy lường], đều
chẳng thể biết được).
17.3.1.1.1.3. Chỉ ra Vị và Hạnh
Bất Thoái
(Kinh)
Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân hữu
như thị công đức, ư A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề thoái giả, vô hữu thị xứ.
(經)若善男子善女人有如是功德。於阿耨多羅三藐三菩提退者。無有是處。
(Kinh: Nếu
thiện nam tử, thiện nữ nhân có công đức như
thế mà thoái thất Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác th́ chẳng có lẽ ấy).
Trong Biệt Giáo, Lục Tâm
c̣n thoái thất, Thất Tâm bất thoái. Nay Sơ Tâm trong Viên
Giáo đă bất thoái, do công đức của việc nghe thọ
lượng giúp sức từ bên ngoài, sẽ thuận theo mà
tín giải trọn vẹn, [được công đức]
từ bên trong huân tập, cho nên bất thoái. Phần thứ
nhất, Trường Hàng đă xong.
17.3.1.1.2. Kệ Tụng
17.3.1.1.2.1. Trùng tụng công đức
17.3.1.1.2.1.1. Trùng tụng sự suy lường
để hiển thị công đức rất nhiều
17.3.1.1.2.1.1.1. Trùng tụng “nêu ra ngũ
Độ để suy lường Bổn”
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa,
nhi thuyết kệ ngôn: - Nhược nhân cầu Phật huệ,
ư bát thập vạn ức, na-do-tha kiếp số, hành
ngũ Ba La Mật. Ư thị chư kiếp trung, bố
thí, cúng
dường Phật, cập Duyên Giác đệ tử, tịnh
chư Bồ Tát chúng, trân dị chi ẩm thực, thượng
phục dữ ngọa cụ. Chiên đàn lập tinh xá. Dĩ
viên lâm trang nghiêm. Như thị đẳng bố thí, chủng
chủng giai vi diệu. Tận thử chư kiếp số,
dĩ hồi hướng Phật đạo. Nhược
phục tŕ cấm giới, thanh tịnh vô khuyết lậu,
cầu ư vô thượng đạo, chư Phật chi sở
thán. Nhược phục hành nhẫn nhục, trụ ư điều
nhu địa. Thiết chúng ác lai gia, kỳ tâm bất khuynh
động. Chư hữu đắc pháp giả, hoài ư tăng
thượng mạn, vị tư sở khinh năo. Như thị
diệc năng nhẫn. Nhược phục cần tinh tấn,
chí niệm thường kiên cố. Ư vô lượng ức
kiếp, nhất tâm bất giải tức. Hựu ư vô
số kiếp, trụ ư không nhàn xứ, nhược tọa,
nhược kinh hành, trừ thụy, thường nhiếp
tâm. Dĩ thị nhân duyên cố, năng sanh chư Thiền
Định. Bát thập ức vạn kiếp, an trụ tâm
bất loạn. Tŕ thử nhất tâm phước, nguyện
cầu vô thượng đạo. Ngă đắc Nhất Thiết
Trí, tận chư Thiền Định trí. Thị nhân ư bách
thiên, vạn ức kiếp số trung, hành thử chư công
đức, như thượng chi sở thuyết.
(經)爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。若人求佛慧。於八十萬億。那由他劫數。行五波羅蜜。於是諸劫中。佈施供養佛。及緣覺弟子。幷諸菩薩眾。珍異之飲食。上服與臥具。栴檀立精舍。以園林莊嚴。如是等佈施。種種皆微妙。盡此諸劫數。以迴向佛道。若復持禁戒。清淨無缺漏。求於無上道。諸佛之所歎。若復行忍辱。住於調柔地。設眾惡來加。其心不傾動。諸有得法者。懷於增上慢。為斯所輕惱。如是亦能忍。若復勤精進。志念常堅固。於無量億劫。一心不懈息。又於無數劫。住於空閑處。若坐若經行。除睡常攝心。以是因緣故。能生諸禪定。八十億萬劫。安住心不亂。持此一心福。願求無上道。我得一切智。盡諸禪定智。是人於百千。萬億劫數中。行此諸功德。如上之所說。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc
lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Nếu người
cầu Phật huệ, trong tám mươi vạn ức, na-do-tha
kiếp số, hành năm Ba La Mật. Ở trong các kiếp
đó, bố thí cúng dường Phật, và đệ tử
Duyên Giác, cùng các vị Bồ Tát. Các thức ăn quư lạ,
áo đẹp, đồ trải nằm, tinh xá bằng Chiên
Đàn, dùng vườn rừng trang nghiêm. Bố thí như
thế đó, các thứ đều vi diệu. Trọn hết
các kiếp số, để hồi hướng Phật
đạo. Nếu lại giữ giới cấm, thanh tịnh,
chẳng thiếu sót. Cầu nơi đạo vô thượng,
được chư Phật khen ngợi. Nếu lại hành
nhẫn nhục, trụ địa vị điều nhu. Nếu
các ác đưa đến, tâm chẳng bị khuynh động.
Những kẻ đă hiểu pháp, ôm ḷng tăng thượng
mạn. Bị bọn họ khinh năo, như thế vẫn
nhẫn được. Nếu lại siêng tinh tấn, chí
niệm thường kiên cố. Trong vô lượng ức
kiếp, nhất tâm chẳng lười nghỉ. Lại
trong vô số kiếp, trụ trong chỗ thanh vắng, dù ngồi
hay kinh hành, trừ ngủ, thường nhiếp tâm. Do bởi
nhân duyên ấy, hay sanh các Thiền Định, Tám
mươi ức vạn kiếp, an trụ tâm chẳng loạn.
Phước do tŕ nhất tâm, nguyện cầu đạo vô
thượng. Ta đắc Nhất Thiết Trí, trọn các
trí Thiền Định. Người ấy trong trăm ngàn,
muôn ức kiếp số đó, hành các công đức ấy,
như trên đây đă nói).
17.3.1.1.2.1.1.2. Trùng tụng suy lường
công đức tín giải rất nhiều
(Kinh)
Hữu thiện nam nữ đẳng, văn
ngă thuyết thọ mạng, năi chí nhất niệm tín. Kỳ
phước quá ư bỉ.
(經)有善男女等。聞我說壽命。乃至一念信。其福過於彼。
(Kinh:
Có các thiện nam nữ, nghe ta nói thọ mạng, dẫu chỉ
một niệm tin, phước này hơn phước trước).
Phần thứ nhất,
“trùng tụng chuyện
so lường nhằm hiển thị công đức rất
nhiều” đă xong.
17.3.1.1.2.1.2. Trùng tụng tổng luận
vô lượng
(Kinh)
Nhược
nhân tất vô hữu, nhất thiết chư nghi hối, thâm
tâm tu du tín, kỳ phước vi như thử.
(經)若人悉無有。一切諸疑悔。深心須臾信。其福為如此。
(Kinh:
Nếu người đều chẳng có, hết thảy
các nghi hối, thâm
tâm tin chốc lát, phước ấy như thế đó).
“Tu du” tức là một
niệm. Phần thứ nhất, “trùng tụng công đức”
đă xong.
17.3.1.1.2.2. Trùng tụng Vị Hạnh Bất Thoái
17.3.1.1.2.2.1. Nói rơ “chẳng dễ tín
giải”
(Kinh)
Kỳ hữu
chư Bồ Tát, vô lượng kiếp hành đạo, văn
ngă thuyết thọ mạng, thị tắc năng tín thọ.
(經)其有諸菩薩。無量劫行道。聞我說壽命。是則能信受。
(Kinh:
Nếu có các Bồ Tát, hành đạo vô
lượng kiếp, nghe ta nói thọ mạng, bèn có thể
tin nhận).
“Kỳ hữu chư Bồ
Tát” (có các Bồ Tát): Nói đến
các vị độn căn Bồ Tát, hành đạo trải qua vô lượng
kiếp, thiện căn thuần thục
th́ mới có thể tin nhận. Nếu căn cơ chưa
chín muồi, Phật sẽ chẳng v́ kẻ đó nói. Dẫu
có được nghe, kẻ đó ắt ngờ vực. V́
thế, tín giải đúng là chẳng dễ. Nay nếu là bậc
lợi căn, vừa nghe liền có thể sanh một niệm
tín giải, liền có thể bằng với các Bồ Tát khổ
hạnh đă lâu, lại c̣n vượt hơn họ!
17.3.1.1.2.2.2. Đă tín giải, ắt sẽ
phát nguyện, cho nên đắc bất thoái
(Kinh)
Như thị chi nhân đẳng, đảnh thọ[9] thử kinh điển:
“Nguyện ngă ư vị lai, trường thọ độ
chúng sanh, như kim nhật Thế Tôn. Chư Thích trung chi vương,
đạo tràng sư tử hống, thuyết pháp vô sở
úy. Ngă đẳng vị lai thế, nhất thiết sở
tôn kính, tọa ư đạo tràng thời, thuyết thọ
diệc như thị”.
(經)如是之人等。頂受此經典。願我於未來。長壽度眾生。如今日世尊。諸釋中之王。道場師子吼。說法無所畏。我等未來世。一切所尊敬。坐於道場時。說壽亦如是。
(Kinh: Những
người như thế đó, cung kính nhận kinh này: -
Nguyện con trong vị lai, trường thọ độ
chúng sanh, như Thế Tôn ngày nay, là vua trong họ Thích, đạo
tràng sư tử rống, thuyết pháp chẳng sợ hăi.
Chúng con trong mai sau, được hết thảy tôn kính, lúc
ngồi nơi đạo tràng, nói thọ lượng cũng
thế).
“Như thị
chi nhân đẳng” (những người như thế)
chỉ cả hai hạng người lợi căn lẫn
độn căn. Hễ nghe rồi tín giải, ắt sẽ
cung kính tiếp nhận, phát nguyện, cho nên chắc chắn
bất thoái.
Hỏi: Người
mới thành đạo gần đây th́ chẳng thể nói
lâu dài như thế, sao lại đều nói là “cũng như
thế”?
Đáp: Nói “như
thế” nghĩa nói là đến trường thọ. Nếu
đạt được trường thọ, sẽ tột
cùng đời vị lai, ắt sẽ vượt hơn số
đó, chẳng phải chỉ là như thế! Nay [nói] từ
lúc thật sự thành đạo trở đi, cho nên nêu ra
số kiếp nhiều như vi trần. Phần thứ
hai, “trùng tụng Hạnh Vị Bất Thoái” đă xong.
17.3.1.1.2.3. Trùng tụng tướng mạo
(Kinh)
Nhược hữu thâm tâm giả, thanh tịnh nhi chất trực,
đa văn năng tổng tŕ, tùy nghĩa giải Phật
ngữ. Như thị chi nhân đẳng, ư thử vô hữu
nghi.
(經)若有深心者。清淨而質直。多聞能總持。隨義解佛語。如是之人等。於此無有疑。
(Kinh: Nếu
ai có thâm tâm, thanh tịnh, lại chất trực, đa văn,
hay tổng tŕ, hiểu
nghĩa lời Phật dạy. Những người như
thế đó, chẳng nghi ngờ chuyện này).
Phần Trường
Hàng nói thẳng thừng “năi chí năng sanh nhất niệm
tín giải” (dẫu chỉ có thể sanh một niệm
tin hiểu) rồi so sánh nêu rơ công đức. Phần này chánh
thức giải thích tướng mạo, ḥng tỏ
rơ “khó đạt được một niệm tín giải”.
Nếu muốn đối với chuyện Phật thọ
dài lâu này mà chẳng nghi, bất luận tu lâu hay mới tu, đều
cần phải có thâm tâm. Lại c̣n phải thanh tịnh, chất
trực. Lại c̣n phải đa văn, tổng tŕ, có thể
hiểu theo nghĩa, chẳng thuận
theo văn tự (tức là thấu
hiểu nghĩa lư ẩn tàng trong giáo pháp, chẳng
chấp trước văn tự). Có đủ ba pháp ấy
th́ mới có thể một niệm tín giải, như thế
th́ một niệm tín giải há dễ dàng ư? Tín giải
đă chẳng dễ dàng, cho nên công đức chẳng thể
không nhiều.
“Thâm tâm” là cái
tâm “thượng cầu, hạ hóa” (trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ
chúng sanh), biết rơ tâm, Phật, và chúng sanh về lư vốn
chẳng hai. Nương vào đó, dấy khởi Vô Tác Tứ
Hoằng Thệ. V́ thế, gọi là “thâm tâm”, tức “Như
Lai thất” (nhà
Như Lai). Thanh tịnh, chất trực, tức là chẳng bị
ngũ trụ ô nhiễm, chánh niệm Chân Như, tức “áo của
Như Lai”. Đa văn
và có thể tổng tŕ, thuận theo nghĩa mà hiểu lời
Phật dạy, tức là thuận
theo điều được nghe bèn có thể tổng tŕ hết
thảy các pháp, tŕ hết thảy các nghĩa, sẽ có thể
hiểu những lời Như Lai đă nói là “tùy theo t́nh” (tức
là thuận theo t́nh kiến chấp trước của chúng
sanh để nói) hay “tùy theo trí”. V́ thế,
tuy nghe ít mà hiểu nhiều nghĩa, cũng gọi là “đa
văn”, tức Như Lai ṭa. Có ba pháp quán hạnh ấy,
bèn có thể tin hiểu rốt ráo ba pháp. Đă tin lư rốt
ráo của ba pháp, bèn cũng có thể chẳng ngờ đối
với tất cả các chuyện thuộc Bổn Tích trong địa
vị rốt ráo. Phần thứ nhất, “một niệm
tín giải” đă xong.
17.3.1.2. Thấu hiểu ư thú trong ngôn
từ
(Kinh)
Hựu A Dật Đa! Nhược hữu văn Phật
thọ mạng trường viễn, giải kỳ ngôn
thú, thị nhân sở đắc công đức vô hữu hạn
lượng, năng khởi Như Lai vô thượng chi huệ.
(經)又阿逸多。若有聞佛壽命長遠。解其言趣。是人所得功德。無有限量。能起如來無上之慧。
(Kinh: Lại
này A Dật Đa! Nếu có người nghe nói thọ
mạng dài lâu của đức Phật, thấu hiểu ư
thú trong ngôn từ, người ấy đạt được
công đức chẳng có hạn lượng, có thể dấy
lên trí huệ vô thượng của Như Lai).
Một niệm tín
giải trước đó như người uống
nước, lạnh nóng tự biết. Ở đây là hiểu
ư thú trong ngôn từ, sẽ có thể nêu đại lược
[ư nghĩa] tương tự cho người khác. V́ vậy,
có thể phát khởi trí huệ vô thượng cho cả
ḿnh lẫn người.
17.3.1.3. Nghe rồi ǵn giữ, cúng
dường
(Kinh)
Hà huống quảng văn thị kinh. Nhược giáo nhân văn,
nhược tự tŕ, nhược giáo nhân tŕ, nhược tự
thư, nhược giáo nhân thư, nhược dĩ hoa, hương,
anh lạc, tràng phan, tăng cái, hương du, tô đăng
cúng dường kinh quyển, thị nhân công đức vô
lượng, vô biên, năng sanh Nhất Thiết Chủng Trí.
(經)何況廣聞是經。若教人聞。若自持。若教人持。若自書。若教人書。若以華香瓔珞幢幡繒葢香油蘇燈供養經卷。是人功德。無量無邊。能生一切種智。
(Kinh: Huống
hồ nghe rộng kinh này, hoặc dạy người khác nghe,
hoặc tự tŕ, hoặc dạy người khác tŕ, hoặc tự chép, hoặc
bảo người khác chép, hoặc dùng
hoa, hương, anh lạc, tràng, phan, lọng lụa, đèn
dầu thơm, dầu tô để cúng dường kinh quyển[10], người ấy
công đức vô lượng, vô biên, có thể sanh Nhất
Thiết Chủng Trí).
Rộng nghe, rộng
tŕ, rộng viết, rộng tu cúng dường, công đức
tự hành và hóa độ người khác sẽ giúp đỡ
bên ngoài, khiến cho [người ấy] nhanh chóng nhập
nội trí. V́ thế, có thể sanh ra Nhất Thiết Chủng
Trí.
17.3.1.4. Tin sâu, quán thành tựu
(Kinh)
A Dật Đa! Nhược thiện nam tử, thiện nữ
nhân văn ngă thuyết thọ mạng trường viễn,
thâm tâm tín giải, tắc vi kiến Phật thường tại
Kỳ Xà Quật sơn, cộng đại Bồ Tát, chư
Thanh Văn chúng vi nhiễu thuyết pháp. Hựu kiến thử
Sa Bà thế giới, kỳ địa lưu ly thản
nhiên, b́nh chánh. Diêm Phù Đàn kim dĩ giới bát đạo,
bảo thụ hàng liệt. Chư đài, lâu quán, giai tất
bảo thành. Kỳ Bồ Tát chúng hàm xử kỳ trung. Nhược
hữu năng như thị quán giả, đương tri
thị vi thâm tín giải tướng.
(經)阿逸多。若善男子善女人。聞我說壽命長遠。深心信解。則為見佛常在耆闍崛山。共大菩薩諸聲聞眾圍遶說法。又見此娑婆世界。其地琉璃坦然平正。閻浮檀金以界八道寶樹行列。諸臺樓觀皆悉寶成。其菩薩眾。咸處其中。若有能如是觀者。當知是為深信解相。
(Kinh: Này
A Dật Đa! Nếu thiện nam tử, thiện nữ
nhân nghe ta nói thọ mạng dài lâu, thâm tâm tin hiểu, tức
là thấy Phật thường ở núi Kỳ Xà Quật,
cùng với các đại Bồ Tát, các vị Thanh Văn vây
quanh thuyết pháp. Lại thấy thế giới Sa Bà này, đất
bằng lưu ly phẳng phiu, ngay ngắn, dùng vàng Diêm Phù Đàn
để phân ranh đường thông tám phương, cây báu
bày hàng. Các đài, lầu gác đều do chất báu tạo
thành. Các vị Bồ Tát ấy đều ở trong đó.
Nếu có ai có thể quán như thế, hăy nên biết đó
là tướng tín giải sâu đậm).
“Thấy đức
Phật thường ở Linh Sơn cùng các vị đại
Bồ Tát, các vị Thanh Văn thuyết pháp” chính là tướng
trạng của cơi Phương Tiện Hữu Dư. Lại
thấy đất Sa Bà bằng lưu ly, cho đến [trông thấy] Bồ
Tát đều ở trong ấy; đó là tướng trạng
của cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Lư có tướng ấy. Nay
nương theo Lư để tu Quán; v́ thế, quán thành tựu sẽ
liền có thể thấy tướng. Lại nữa,
thấy tướng ấy, tuy chưa thật sự chứng,
nhưng do quán lực, sẽ tạm thấy hai cơi. Nếu
diệt được một phần Tam Hoặc th́ mới
là vĩnh viễn tương ứng. Trong cơi Hữu Dư
có Thanh Văn, chính là Nhị Thừa thuộc Tạng Giáo và
Thông Giáo đă đoạn Thông Hoặc, xuất sanh trong đó,
nhưng vốn chỉ là danh tự (gọi phân biệt như
vậy). Trong cơi Thật Báo, thuần là các Bồ Tát, cũng là Tha Thọ Dụng. Nhưng
nương vào phép Quán này, sẽ dần dần thâm nhập,
dần dần thành tựu. Nhập Sơ Trụ của Viên
Giáo, sẽ tùy ư thấy trọn khắp, ứng dụng không
ngăn ngại.
Hỏi: Xứng Lư
tu Quán, chỉ quán nhất niệm diệu lư là đủ rồi,
cần ǵ phải dựa theo cơi nước để nói rơ
tướng tín giải sâu đậm?
Đáp: Sơ tâm
trong Tạng Giáo và Thông Giáo đều diệt Ấm, Nhập,
huống hồ có thể thấy cơi nước. Sơ tâm
trong Biệt Giáo cũng đă phá Ấm, hậu tâm bèn thấy
cơi nước đế vơng[11].
Chỉ có Viên Giáo là quán nhất niệm tam thiên, Tam Đế trọn
đủ, tức là “một tâm
chính là hết thảy các tâm, một thân là hết thảy các
thân, một cơi là hết thảy các cơi”. Trong một
niệm cùng quán “thân, tâm, cơi nước” dù Không, Giả, hay
Trung, đều chẳng có trước sau. V́ thế, khi Quán
thành tựu, một tâm thấy hết thảy các tâm, một
thân thấy hết thảy các thân, một cơi thấy hết
thảy các cơi, do hiện trong thân của mười
phương chư Phật, cho nên trong Thường Tịch
Quang nơi tự tâm, thấy trọn khắp mười
phương hết thảy các thân và
cơi. Nếu chỉ quán tâm mà chẳng quán trọn khắp,
có khác ǵ Quyền Thừa? Nếu chỉ quán cơi của đức
Tỳ Lô Giá Na, ắt sẽ mê cảnh của chính ḿnh. Nếu
hiểu rơ tâm và cảnh, tự
sẽ chính là tha, tha chính là tự. Quán cơi nước đă là
như thế, [quán] “thân, tâm, Phật” cũng thế. V́ vậy,
nghe nói trường thọ, cần phải liễu giải
tông chỉ. Do đó, nghe trường thọ trong Bổn Môn
có lợi ích gấp bội các kinh khác. Ấy là do điều được nghe khác hẳn lẽ thường.
Phần thứ nhất, “nói về tứ tín trong hiện tại”
đă xong.
17.3.2. Ngũ phẩm sau khi đức
Phật đă diệt độ
Chia thành hai phần:
- Một, liệt kê
[danh tướng] ngũ phẩm, so lường đại
lược công đức của bốn phẩm sau [trong
ngũ phẩm].
- Hai, phẩm Tùy Hỷ
Công Đức sẽ so lường cặn kẽ công đức
của phẩm đầu (tức tùy hỷ).
Đă so lường
cặn kẽ xong, nhờ vào đó để suy ra các điều
thù thắng, ngơ hầu [người nghe] có thể tự lănh
hội ư nghĩa, đức Phật chẳng tốn công nói
nhiều, khéo nói dường ấy!
17.3.2.1. Liệt kê năm phẩm
17.3.2.1.1. Trường Hàng
17.3.2.1.1.1. Trực tiếp dấy lên
tâm tùy hỷ
(Kinh) Hựu phục Như
Lai diệt hậu, nhược văn thị kinh, nhi bất
hủy tư, khởi tùy hỷ tâm, đương tri dĩ
vi thâm tín giải tướng.
(經)又復如來滅後。若聞是經而不毀訾。起隨喜心。當知已為深信解相。
(Kinh: Lại
nữa, sau khi Như Lai diệt độ, nếu nghe kinh này
mà chẳng hủy báng, chê gièm, dấy ḷng tùy hỷ, hăy biết
đó đă là tướng tín giải sâu đậm).
Phẩm đầu
tiên chỉ nêu ra “người” (tức đối tượng
để biện định công đức) mà thôi, phần
suy lường sẽ được nói trong phẩm sau.
17.3.2.1.1.2. Kể thêm thọ
tŕ, đọc tụng
17.3.2.1.1.2.1. Nêu tướng người
(đối tượng thực hiện hành vi thọ
tŕ và đọc tụng)
(Kinh)
Hà huống độc tụng, thọ tŕ chi giả.
(經)何況讀誦受持之者。
(Kinh:
Huống hồ người đọc tụng, thọ
tŕ).
17.3.2.1.1.2.2. So lường công đức
(Kinh)
Tư nhân tắc vi đảnh đới[12] Như Lai. A Dật
Đa! Thị thiện nam tử, thiện nữ nhân bất
tu vị ngă phục khởi tháp tự, cập tác tăng phường,
dĩ tứ sự cúng dường chúng tăng. Sở dĩ
giả hà? Thị thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ
tŕ, độc, tụng thị kinh điển giả, vị
dĩ khởi tháp, tạo lập tăng phường[13], cúng dường
chúng tăng, tắc vị dĩ Phật xá-lợi khởi
thất bảo tháp, cao quảng tiệm tiểu chí ư Phạm
Thiên, huyền chư phan cái, cập chúng bảo linh, hoa, hương,
anh lạc, mạt hương, đồ hương, thiêu
hương, chúng cổ kỹ nhạc, tiêu, địch, không
hầu, chủng chủng vũ hư, dĩ diệu âm thanh ca bái,
tán tụng, tắc vi ư vô lượng thiên vạn ức
kiếp tác thị cúng dường dĩ.
(經)斯人則為頂戴如來。阿逸多。是善男子善女人。不須為我復起塔寺及作僧坊。以四事供養眾僧。所以者何。是善男子善女人。受持讀誦是經典者。為已起塔。造立僧坊。供養眾僧。則為以佛舍利起七寶塔。高廣漸小至於梵天。懸諸幡葢。及眾寶鈴。華香。瓔珞。末香。塗香。燒香。眾鼓伎樂。簫笛。箜篌。種種舞戲。以妙音聲歌唄讚頌。則為於無量千萬億劫作是供養已。
(Kinh: Người
ấy chính là đầu đội Như Lai. Này A Dật Đa!
Thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy chẳng cần
v́ ta dựng tháp, chùa, và xây tăng phường nữa, hoặc
dùng tứ sự để cúng dường chúng tăng. V́
lẽ nào vậy? Thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy
thọ tŕ, đọc tụng kinh điển này là đă dựng
tháp, tạo lập
tăng phường, cúng dường chúng tăng, chính
là đă dùng xá-lợi của Phật để dựng
tháp bảy báu, cao rộng, nhỏ dần, cao đến Phạm
Thiên. Treo các phan, lọng, và các linh báu, hoa, hương, anh lạc,
hương bột, hương bôi, hương đốt,
tấu các kỹ nhạc, tiêu, sáo, đàn không hầu, các thứ
ca vũ, dùng âm thanh mầu nhiệm để ca vịnh tán tụng,
tức là đă trong vô lượng ngàn vạn ức kiếp
cúng dường như thế rồi).
“Bất tu vị
ngă phục khởi tháp tự…” (Chẳng cần v́ ta tạo
dựng tháp, chùa nữa…): Sợ kẻ sơ tâm bị sự
duyên lắm nỗi khuấy động, trở ngại tu
tập chánh nghiệp. “Tắc vi dĩ Phật xá-lợi”
(tức là đă dùng xá-lợi của Phật): Ư nói lư được
diễn tả trong kinh này chính toàn thân xá-lợi của Pháp
Thân. Kinh văn diễn tả [lư ấy] chẳng khác diệu
tháp cao rộng bằng bảy báu. Năng (kinh là chủ thể
diễn tả lư ấy) và sở (lư ấy chính là toàn thân xá-lợi
của Pháp Thân, được diễn tả bởi kinh này) ḥa hợp
chẳng hai, cũng là Đệ Nhất Nghĩa Tăng. V́
thế, thẳng thừng chuyên tŕ kinh này chính là cúng dường
rộng lớn. Bỏ Sự tuân theo Lư, lợi ích rộng
nhiều. Nếu đạt tới hậu tâm, Lư Quán đă
thuần thục, dẫu dính líu bên ngoài, chẳng trở ngại
nội quán, Sự sẽ giúp đỡ đạo, như dầu
nhiều th́ lửa mạnh, thuận gịng, căng
buồm, lại thêm chèo chống, thế ắt chuyển dời
nhanh chóng.
Hỏi: Nếu tŕ
kinh tức là dựng tháp, cho đến chính là Đệ
Nhất Nghĩa Tăng, chẳng cần dựng tháp, cúng tăng;
vậy th́ tŕ kinh cũng chính là Đệ Nhất Nghĩa
giới, chẳng cần tŕ giới nữa
ư?
Đáp: Tŕ kinh chính
là thuận theo lư giới, tùy ư chẳng phạm tánh tội[14],
và cũng tự tùy ư tŕ thiên thứ nhất và thiên thứ hai.
Đó gọi là “thừa cấp, giới hoăn”, chẳng
phải là hoàn toàn không có giới. Nếu đạt đến mức “kiêm hành Lục Độ” th́ năm
thiên, bảy
tụ[15], tánh nghiệp, giá
nghiệp[16], thảy đều
thanh tịnh, tức là “thừa và giới đều cấp”.
Lại nữa, phàm là người tu Viên Quán, cần phải
tự suy nghĩ lư. Nếu sơ tâm niệm nào cũng thường
ở trong bốn thứ tam-muội, ở ngoài hai thiên (tức
chẳng phạm Ba La Di và Tăng Già Bà Thi Sa), đối với
tất cả tánh tội, có lẽ trái phạm đôi
chút. Nếu chưa thể chuyên tâm nơi bốn loại tam-muội,
th́ đối với năm thiên, bảy tụ, giới Bồ
Tát trọng hay khinh, đều chẳng thể vi phạm đôi
chút; đấy
mới là hợp
nhất với ư chỉ chánh yếu của giáo môn trong một
đời [đức Phật]. V́ lẽ nào vậy? Xuất
gia Bồ Tát giữ
vững trọn đủ Tỳ Ni Thiên Tụ, chính là ư nghĩa
của giới Đại Thừa. Hết thảy
đều là như thế, huống hồ chỉ ǵn giữ
Thiên Tụ ư? Tám vạn
luật nghi theo kinh Phạm Vơng c̣n chưa đủ coi là tướng
tŕ giới! Chỉ v́ căn khí trong cơi này kém cỏi, đành phải
lấy sự kiềm chế nhỏ nhặt ḥng thành tựu
oai nghi to lớn. Vẫn cần phải hiểu “khai, giá, nặng,
nhẹ, chế duyên (duyên do chế định
giới luật), tiệm, đốn, có ư nghĩa xả hay không, phân định
tội lỗi theo thứ tự, cách sám hối không để
tội lỗi cách ngày”[17].
Lại có thất chúng[18]
giống nhau hay khác nhau, [hiểu rơ] chỗ
giống nhau và khác nhau của giới Đại Thừa và
Tiểu Thừa th́ mới tự hành. Hăy cân nhắc theo đúng phẩm
vị của chính ḿnh để chọn
lựa thích đáng thời nghi, đừng hâm mộ bản
lănh to lớn để rồi mê muội đối với sự “mất c̣n” (c̣n giữ
giới hay không), đừng chấp theo kinh văn Tiểu
Thừa để rồi mê mất quán đạo! Nếu
hiểu ư trong đoạn kinh văn này, trước hết, hăy nên dùng Lư và Giáo để quyết định; kế đến
là kiểm điểm
hạnh vị [của chính ḿnh]. Nếu chẳng phải như vậy, sẽ
là phường chim kêu, chuột rúc[19],
há luận phẩm vị nữa ư? Kính xin hăy nhận lấy
di ngôn của đức Phật, cung kính vâng giữ chút phần!
17.3.2.1.1.3. Cộng thêm dạy bảo người khác
17.3.2.1.1.3.1. Nêu tướng trạng
người [thực hiện hạnh dạy người
khác]
(Kinh)
A Dật Đa! Nhược ngă diệt hậu, văn thị
kinh điển, hữu năng thọ tŕ, nhược tự
thư, nhược giáo nhân thư.
(經)阿逸多。若我滅後。聞是經典。有能受持。若自書。若教人書。
(Kinh:
Này A Dật Đa! Nếu sau khi ta diệt độ, có
người nghe kinh điển này, mà có thể thọ tŕ, hoặc
tự ḿnh chép, hoặc bảo người khác chép).
17.3.2.1.1.3.2. So lường công đức
(Kinh)
Tắc vi khởi lập tăng phường, dĩ xích Chiên
Đàn tác chư điện đường tam thập hữu
nhị, cao bát Đa La thụ, cao quảng nghiêm hảo. Bách
thiên tỳ-kheo ư kỳ trung chỉ. Viên lâm, dục tŕ, kinh
hành, thiền quật, y phục, ẩm thực, sàng nhục,
thang dược, nhất thiết lạc cụ, sung măn kỳ
trung. Như thị tăng phường, đường các,
nhược can bách thiên vạn ức. Kỳ số vô
lượng, dĩ thử hiện tiền cúng dường
ư ngă cập tỳ-kheo tăng. Thị cố, ngă thuyết
Như Lai diệt hậu, nhược hữu thọ tŕ,
độc tụng, vị tha nhân thuyết, nhược tự
thư, nhược giáo nhân thư, cúng dường kinh quyển,
bất tu phục khởi tháp tự, cập tạo tăng
pḥng, cúng dường chúng Tăng.
(經)則為起立僧坊。以赤栴檀作諸殿堂三十有二。高八多羅樹。高廣嚴好。百千比丘於其中止。園林浴池。經行禪窟。衣服飲食。牀褥湯藥。一切樂具。充滿其中。如是僧坊堂閣。若干百千萬億。其數無量。以此現前供養於我及比丘僧。是故我說如來滅後。若有受持讀誦為他人說。若自書。若教人書。供養經卷。不須復起塔寺。及造僧房供養眾僧。
(Kinh: Tức
là tạo dựng tăng phường. Dùng Chiên Đàn đỏ
để cất các điện đường ba mươi
hai chỗ, cao bằng tám cây Đa La (Tāla)[20], cao rộng, trang
nghiêm đẹp đẽ. Trăm ngàn tỳ-kheo ở trong
đó. Vườn rừng, ao tắm, chỗ kinh hành, hang ngồi
Thiền, y phục, thức ăn, giường đệm,
thuốc men, hết thảy các vật vui sướng đầy
ắp trong đó. Tăng phường, điện gác như
thế trăm ngàn vạn ức ngần ấy, số đến
vô lượng, dùng các thứ đó để
hiện tiền cúng dường ta và các tỳ-kheo Tăng.
V́ thế ta nói: Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có
kẻ thọ tŕ, đọc tụng, v́ người khác giảng
nói, hoặc tự chép, hoặc bảo người khác chép,
cúng dường quyển kinh, chẳng cần dựng chùa,
tháp và xây tăng pḥng, cúng dường chúng tăng nữa).
Trong phần trước,
chỉ là chính ḿnh đọc tụng, thọ tŕ, th́ đă là trọn đủ
cúng dường Tam Bảo, huống hồ nay lần lượt
dạy cho người khác, ắt công đức pháp thí há
chẳng phải là sự cúng dường cao tột nhất
ư?
17.3.2.1.1.4. Cộng thêm kiêm hành Lục
Độ
17.3.2.1.1.4.1. Nêu ra tướng người
(Kinh)
Huống phục hữu nhân, năng tŕ thị kinh, kiêm hành
bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất
tâm, trí huệ.
(經)況復有人。能持是經。兼行佈施持戒忍辱精進一心智慧。
(Kinh: Huống
hồ lại c̣n có người có thể tŕ kinh này, kiêm hành
bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất
tâm, trí huệ).
Viên Quán sâu dần,
dẫu dính dáng Sự, vẫn
chẳng trở ngại chánh hạnh. V́ thế, dùng Sự để
giúp Lư, gọi là Kiêm Hạnh.
17.3.2.1.1.4.2. So lường công đức
(Kinh)
Kỳ đức tối thắng vô lượng, vô biên. Thí
như hư không, Đông, Tây, Nam, Bắc, tứ duy, thượng,
hạ, vô lượng vô biên. Thị nhân công đức diệc
phục như thị vô lượng, vô biên, tật chí Nhất Thiết Chủng Trí.
(經)其德最勝。無量無邊。譬如虛空。東西南北四維上下無量無邊。是人功德。亦復如是無量無邊。疾至一切種智。
(Kinh:
Đức ấy tối thắng, vô lượng, vô biên. Ví như hư không, Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn
góc, trên, dưới, vô lượng, vô biên. Công đức của người ấy cũng
vô lượng vô biên giống như thế, mau đạt
tới Nhất Thiết Chủng Trí).
17.3.2.1.1.5. Cộng thêm chánh hành Lục
Độ
17.3.2.1.1.5.1. Nêu tướng người
[tu chánh
hạnh Lục Độ]
(Kinh)
Nhược nhân độc tụng, thọ tŕ thị kinh,
vị tha nhân thuyết, nhược
tự thư, nhược giáo nhân thư. Phục năng khởi
tháp, cập tạo tăng pḥng, cúng dường, tán thán Thanh
Văn chúng tăng. Diệc dĩ bách thiên vạn ức tán
thán chi pháp tán thán Bồ Tát công đức. Hựu vị tha
nhân chủng chủng nhân duyên, tùy nghĩa giải thuyết
thử Pháp Hoa kinh. Phục năng thanh tịnh tŕ giới,
dữ nhu ḥa giả, nhi cộng
đồng chỉ, nhẫn
nhục vô sân, chí niệm kiên cố, thường
quư tọa Thiền, đắc chư thâm Định, tinh tấn
dũng mănh, nhiếp chư thiện pháp, lợi căn trí huệ,
thiện đáp vấn nạn.
(經)若人讀誦受持是經。為他人說。若自書。若教人書。復能起塔。及造僧房。供養讚歎聲聞眾僧。亦以百千萬億讚歎之法。讚歎菩薩功德。又為他人種種因緣。隨義解說此法華經。復能清淨持戒。與柔和者而共同止。忍辱無瞋。志念堅固。常貴坐禪。得諸深定。精進勇猛。攝諸善法。利根智慧。善荅問難。
(Kinh:
Nếu ai đọc tụng, thọ tŕ kinh này, v́ người
khác nói, hoặc tự chép, hoặc bảo người khác chép,
lại có thể dựng tháp, và tạo tăng pḥng, cúng
dường tán thán các vị tăng Thanh Văn. Cũng dùng
trăm ngàn vạn ức cách tán thán để tán thán công
đức của Bồ Tát. Lại v́ người khác, dùng các thứ nhân duyên để thuận
theo nghĩa mà giải
nói kinh Pháp Hoa này. Lại có thể tŕ giới thanh tịnh, cùng
với người nhu ḥa ở chung, nhẫn nhục, chẳng
sân, chí niệm
vững vàng, thường chuộng tọa Thiền, đạt
được các Định sâu, tinh tấn, dũng mănh,
nhiếp các thiện pháp, lợi căn, trí huệ, khéo trả
lời các thứ cật vấn).
Trong An Lạc Hạnh, [đức Thế Tôn dạy] “chẳng
thân cận người cầu Thanh Văn”, cũng chẳng
kể lỗi họ, cũng chẳng ca ngợi họ. Nay
nói “cúng dường, tán thán các vị tăng Thanh Văn”
là v́ lẽ nào? Thoạt đầu tâm quán nông cạn, sợ
nhiễm tập khí Tiểu Thừa. V́ thế, răn đừng
thân cận. Nay quán sâu, lực lớn, cho nên cúng dường,
tán thán họ, liền có thể hóa độ họ tiến nhập Đại Thừa. Lại c̣n giúp đỡ
rất lớn cho diệu quán Quyền Thật bất nhị.
Trong kinh văn, Thiền được nói trước Tinh
Tấn, nhưng ư nghĩa chẳng có trước hay sau!
17.3.2.1.1.5.2. So lường công đức
(Kinh)
A Dật Đa! Nhược ngă diệt hậu, chư thiện
nam tử, thiện nữ nhân thọ tŕ, độc tụng
thị kinh điển giả, phục hữu như thị
chư thiện công đức, đương tri thị nhân
dĩ thú đạo tràng, cận A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề, tọa đạo thụ hạ. A Dật
Đa! Thị thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhược
tọa, nhược lập, nhược hành xứ, thử
trung tiện ưng khởi tháp, nhất thiết thiên nhân giai
ưng cúng dường như Phật chi tháp.
(經)阿逸多。若我滅後。諸善男子善女人。受持讀誦是經典者。復有如是諸善功德。當知是人。已趣道場。近阿耨多羅三藐三菩提。坐道樹下。阿逸多。是善男子善女人。若坐若立若行處。此中便應起塔。一切天人。皆應供養如佛之塔。
(Kinh:
Này A Dật Đa! Nếu sau khi ta diệt độ, các
thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ tŕ, đọc
tụng kinh điển này, lại có các thiện công đức
như thế, hăy nên biết người ấy đă đến
đạo tràng, gần với Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, ngồi dưới gốc đạo thụ. Này
A Dật Đa! Chỗ thiện nam tử, thiện nữ
nhân ấy dù ngồi, dù đứng, hay đi, ở nơi đó
đều nên dựng tháp, hết thảy trời, người
đều nên cúng dường như tháp của Phật).
“Dĩ thú đạo
tràng, tọa đạo thụ hạ” (đă đến
đạo tràng, ngồi dưới đạo thụ): Thuộc địa vị Thiết Luân, chẳng lâu sau
sẽ được nhập Đồng Luân, có thể dùng tám tướng
thành Phật. “Tọa, lập, hành xứ, tiện ưng khởi tháp, giai ưng cúng dường
như Phật tháp” (đối với chỗ
[người ấy] ngồi, đứng, đi, hăy nên dựng
tháp, đều nên cúng dường như tháp thờ Phật):
Thoạt đầu nương vào người mà gọi là
Như Lai. Kết lại năm phẩm này th́ ba phẩm đầu
là Văn Huệ, phẩm thứ tư là Tư Huệ, phẩm
thứ năm là Tu Huệ, đều là trước khi đạt
đến Thập Tín. Hoặc có người nói phẩm tùy hỷ thứ nhất chính
là nhập địa vị Tín tâm (Sơ Tín), chia một phẩm
thành hai tâm, năm phẩm chính là mười tín tâm, tức
là địa vị Thiết Luân lục căn thanh tịnh.
Nay tôi cho rằng: Hai cách giải thích ấy xét theo Lư đều
chấp thuận được. Nếu là lợi căn
thuộc Viên Giáo, một niệm tùy hỷ, thoạt đầu phiền
cấu rơi trước, cho đến [khi đạt
tới phẩm thứ năm là] Chánh Hành [Lục Độ], Trần Sa cũng hết,
tức là Tương Tự Như Lai, thuộc địa
vị Thiết Luân. Nếu Giải tuy viên đốn,
nhưng sự chướng (chướng ngại nơi mặt
Sự) chưa trừ, chỉ có thể chế phục trọn
vẹn ngũ trụ, chủng tử của Thông Hoặc vẫn
c̣n, th́ là Quán Hạnh Như Lai. Phàm phu trọn đủ trói
buộc [bởi phiền năo] mà có thể biết được
tạng bí mật của Như Lai! Nếu đem
ngũ phẩm đối ứng với Tứ Tín trong phần
trước th́ hai phẩm đầu chính là nhất niệm
tín giải. Phẩm thứ ba là hiểu ư thú trong ngôn từ.
Phẩm thứ tư chính là Văn Tŕ cúng dường.
Phẩm thứ năm là tin sâu, quán thành tựu. Nghĩa lư của
chúng b́nh đẳng, phẩm bốn và năm chẳng khác,
chỉ là sau khi đă diệt độ, bèn thêm địa
vị đọc tụng làm phẩm thứ hai đó thôi!
Phần thứ nhất, Trường Hàng đă xong.
17.3.2.1.2. Kệ Tụng
17.3.2.1.2.1. Trùng tụng phẩm thứ
hai [trong
ngũ phẩm]
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa,
nhi thuyết kệ ngôn: - Nhược ngă diệt độ
hậu, năng phụng tŕ thử kinh. Tư nhân phước
vô lượng, như thượng chi sở thuyết. Thị
tắc vi cụ túc, nhất thiết chư cúng dường. Dĩ xá-lợi khởi
tháp, thất bảo nhi trang nghiêm. Biểu sát thậm cao quảng,
tiệm tiểu chí Phạm Thiên. Bảo linh thiên vạn ức,
phong động xuất diệu âm. Hựu ư vô lượng
kiếp, nhi cúng dường thử tháp: Hoa, hương, chư
anh lạc; thiên y, chúng
kỹ nhạc. Nhiên hương du, tô đăng. Châu táp thường
chiếu minh. Ác thế, pháp mạt
thời, năng tŕ thị kinh giả, tắc vi dĩ
như thượng, cụ túc chư cúng dường.
(經)爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。若我滅度後。能奉持此經。斯人福無量。如上之所說。是則為具足。一切諸供養。以舍利起塔。七寶而莊嚴。表剎甚高廣。漸小至梵天。寶鈴千萬億。風動出妙音。又於無量劫。而供養此塔。華香諸瓔珞。天衣眾伎樂。然香油蘇燈。周匝常照明。惡世法末時。能持是經者。則為已如上。具足諸供養。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc
lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Sau khi ta diệt độ,
hay phụng tŕ kinh này, người đó phước vô
lượng; như trên đây đă nói. Đó chính là trọn
đủ, hết thảy các cúng dường. Đem xá-lợi
dựng tháp, bảy báu để trang nghiêm. Biểu sát[21] rất cao rộng,
nhỏ dần đến Phạm Thiên. Ngàn vạn ức linh
báu, gió lay phát
diệu âm. Lại trong vô lượng kiếp, cúng dường
ṭa tháp ấy. Hoa, hương, chuỗi anh lạc. Áo trời,
các kỹ nhạc. Thắp đèn dầu thơm, tô, thường
chiếu sáng quanh khắp. Thời Mạt Pháp đời ác,
người hay tŕ kinh này, tức là đă trọn đủ,
cúng dường như trên đây).
17.3.2.1.2.2. Trùng tụng phẩm thứ
ba
(Kinh)
Nhược năng tŕ thử kinh, tắc như Phật hiện
tại. Dĩ ngưu đầu chiên đàn, khởi tăng
pḥng cúng dường. Đường hữu tam thập nhị,
cao bát Đa La thụ. Thượng soạn, diệu y phục.
Sàng ngọa giai cụ túc. Bách thiên chúng trụ xứ. Viên lâm,
chư dục tŕ. Kinh hành cập thiền quật. Chủng
chủng giai nghiêm hảo.
(經)若能持此經。則如佛現在。以牛頭栴檀。起僧房供養。堂有三十二。高八多羅樹。上饌妙衣服。牀臥皆具足。百千眾住處。園林諸浴池。經行及禪窟。種種皆嚴好。
(Kinh:
Nếu hay tŕ kinh này, sẽ như Phật hiện diện.
Dùng ngưu đầu chiên đàn[22], dựng tăng
pḥng cúng dường. Ba mươi hai ṭa điện, cao tám
cây Đa La. Cỗ ngon, y phục đẹp. Giường nằm
đều đầy đủ. Trăm ngàn chỗ để
ở. Vườn rừng, các ao tắm. Chỗ kinh hành,
hang Thiền. Các thứ trang nghiêm, đẹp).
17.3.2.1.2.3. Trùng tụng phẩm thứ
tư
(Kinh)
Nhược hữu tín giải tâm, thọ tŕ, độc tụng giả, nhược
phục giáo nhân thư, cập cúng dường kinh quyển.
Tán hoa, hương, mạt hương. Dĩ Tu Mạn, Chiêm
Bặc, A Đề Mục Đa Già, huân du thường
nhiên chi. Như thị cúng dường giả, đắc
vô lượng công đức, như hư không vô biên, kỳ
phước diệc như thị.
(經)若有信解心。受持讀誦者。若復教人書。及供養經卷。散華香末香。以須曼薝蔔。阿提目多伽。熏油常然之。如是供養者。得無量功德。如虛空無邊。其福亦如是。
(Kinh: Nếu
ai tâm tin hiểu, thọ tŕ và đọc tụng, hoặc dạy
người khác chép, và cúng dường kinh quyển. Rải
hoa, hương, hương bột, hoa Tu Mạn, Chiêm Bặc,
A Đề Mục Đa Già, dầu thơm thường thắp
đèn. Người cúng dường như thế, được
vô lượng công đức. Như hư không vô biên, phước
ấy cũng như thế).
Kinh văn Trường
Hàng chỉ nói kiêm hành bố thí. Nay kệ tụng nói “cúng dường
kinh quyển”, tức
là kiêm thêm ư phụng hành. Tu Mạn Hoa (Sumanā)[23] được phương
này dịch là Thiện Nhiếp Ư Hoa. Hoa Chiêm Bặc (Campaka)[24]
phương này dịch là Hoàng Hoa. A Đề Mục Đa
Già (Atimukta)[25], phương này dịch
là Long Thỉ Hoa, c̣n dịch là Thiện Tư Di Hoa.
17.3.2.1.2.4. Trùng tụng phẩm thứ
năm
(Kinh) Huống phục
tŕ thử kinh, kiêm bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục,
nhạo Thiền Định. Bất sân, bất ác khẩu,
cung kính ư tháp miếu. Khiêm hạ chư tỳ-kheo, viễn
ly tự cao tâm. Thường tư duy trí huệ. Hữu vấn
nạn bất sân. Tùy vấn vị giải thuyết. Nhược
năng hành thị hạnh, công đức bất khả lượng.
Nhược kiến thử pháp sư, thành tựu như thị
đức. Ưng dĩ thiên hoa tán, thiên y phú kỳ thân. Đầu
diện tiếp túc lễ, sanh tâm như Phật tưởng.
Hựu ưng tác thị niệm: Bất cửu nghệ đạo
thụ, đắc vô lậu, vô vi, quảng lợi chư
nhân thiên. Kỳ sở trụ chỉ xứ, kinh hành, nhược
tọa, ngọa, năi chí thuyết nhất kệ. Thị trung
ưng khởi tháp, trang nghiêm linh diệu hảo. Chủng
chủng dĩ cúng dường. Phật tử trụ thử
địa, tắc thị Phật thọ dụng, thường
tại ư kỳ trung, kinh hành cập tọa ngọa.
(經)況復持此經。兼佈施持戒。忍辱樂禪定。不瞋不惡口。恭敬於塔廟。謙下諸比丘。遠離自高心。常思惟智慧。有問難不瞋。隨問為解說。若能行是行。功德不可量。若見此法師。成就如是德。應以天華散。天衣覆其身。頭面接足禮。生心如佛想。又應作是念。不久詣道樹。得無漏無為。廣利諸人天。其所住止處。經行若坐臥。乃至說一偈。是中應起塔。莊嚴令妙好。種種以供養。佛子住此地。則是佛受用。常在於其中。經行及坐臥。
(Kinh: Huống
hồ tŕ kinh này, kiêm bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục,
chuộng Thiền Định. Chẳng sân, chẳng nói ác. Đối
tháp miếu cung kính. Khiêm hạ với tỳ-kheo. Xa ĺa tâm tự
cao, thường tư duy trí huệ. Bị căn vặn chẳng
sân, giải nói theo lời hỏi. Nếu hay hành hạnh ấy,
công đức chẳng thể lường. Nếu thấy
pháp sư ấy, thành tựu đức như thế, nên dùng
hoa trời rải, dùng áo trời phủ thân. Đầu mặt
áp chân lễ, sanh tâm tưởng như Phật. Lại nên
nghĩ thế này: Chẳng lâu tới đạo thụ, đắc
vô lậu, vô vi, rộng lợi các trời, người. Nơi
người ấy cư trụ, kinh hành và ngồi, nằm,
cho tới nói một kệ, nên xây tháp tại đó. Trang hoàng
cho đẹp đẽ, dùng các thứ cúng dường. Phật
tử trụ nơi đây, chính là Phật thọ dụng.
Thường trụ ở trong đó, kinh hành và ngồi, nằm).
Phần thứ nhất,
liệt kê năm phẩm, so lường đại lược
công đức của bốn phẩm sau đă xong. Giải
thích phẩm Phân Biệt Công Đức đă xong; kế đó
giải thích phẩm Tùy Hỷ Công Đức.
18. Phẩm Tùy Hỷ Công Đức
(Tùy Hỷ Công Đức phẩm đệ thập bát, 隨喜功德品第十八)
“Tùy”: Nghe pháp
sâu thẳm, uyên áo, tùy thuận Sự Lư chẳng hai, chẳng
khác. “Hỷ” là mừng cho ḿnh, mừng cho người.
“Lư” chính là bản tánh của một niệm tâm hiện
tiền, tức là cái Thể của Thật Tướng
pháp giới. Chẳng phải Bổn, chẳng phải Tích,
gọi là Lư Bổn. Chẳng phải Thật, chẳng phải
Quyền, gọi là Thật Lư. “Sự” là Như Lai đă chứng diệu
lư ấy từ lâu xa. V́ thế gọi là Bổn. Từ Bổn,
hiện ra các thứ ứng hóa trọn khắp mười
phương ba đời. Do vậy gọi
là Tích. Bổn là Tu Đức tự hành khế lư; Tích là diệu
dụng lợi tha sau khi đắc quả. Hai chuyện Bổn
và Tích cùng nương vào một Lư. V́ thế nói: “Bổn
và Tích tuy khác, nhưng chẳng thể nghĩ bàn như
nhau”. Nói thẳng thừng Lư Sự viên diệu như thế,
th́ gọi là Thật. Các thứ phương tiện hướng
dẫn chúng sanh th́ gọi là Quyền. Chẳng có Thật
th́ Quyền chẳng có ǵ để nương vào! Chẳng
có Quyền, Thật sẽ không do đâu hiển lộ
được. Gọi Thật Lư, Thật Sự là Lư; gọi
Quyền Lư, Quyền Sự là Sự. Sự và Lư tuy khác, ngoài
tâm chẳng có pháp, cũng là chẳng thể nghĩ bàn giống
hệt như nhau. Nay “thuận Lư” là nghe bổn địa lâu
xa của Phật, chứng diệu lư đă lâu xa, tín thuận
chẳng trái nghịch, chẳng có mảy may nghi ngờ, trầm
trệ. “Thuận Sự” là nghe nói Phật lợi ích
chúng sanh suốt ba đời, ngang lẫn dọc đều
gồm thâu, trọn khắp hết thảy các xứ, cũng
chẳng có mảy may nghi ngờ, trầm trệ. Từ
ngay nơi Sự rộng răi mà thấu đạt Lư sâu, từ Lư sâu mà thấu
đạt Sự rộng. Chẳng
hai mà là hai, cho nên nói là Sự Lư. Chẳng khác mà là khác, cho
nên nói Bổn Tích (Bổn và Tích đều là nói theo Sự).
Tuy hai, tuy khác, nhưng chẳng hai, chẳng khác (Lư trọn đủ
tam thiên, Sự tạo tam thiên, cùng ở trong một niệm.
V́ thế, tuy hai mà chẳng hai. Sự Lư nơi Bổn và Sự
Lư nơi Tích chẳng thể nghĩ bàn như nhau. V́ thế,
tuy khác mà chẳng khác!)
Tín giải như
thế th́ gọi là Tùy. Do Như Lai đă chứng Thật
Tướng trong một niệm hiện tiền này, Bổn, Tích, Quyền
Thật đều chẳng thể nghĩ bàn. Ta và chúng
sanh có cùng tâm tánh ấy. Phật đă là như thế, ta và
chúng sanh cũng sẽ đạt được! V́ thế,
mừng cho ḿnh, mừng cho người khác, cho nên gọi là
Hỷ.
Hơn nữa, tuy Bổn, Tích, Quyền, Thật
tánh vốn sẵn đủ, Như Lai xuất thế hơn
bốn mươi năm, chưa hiển lộ lẽ chân
thật. Người thuộc bảy phương tiện
chẳng nghe lẽ chân thật. Mừng
cho ta và người: [V́ nghe kinh Pháp Hoa],
do cái tâm phàm phu mà hiểu biết giống như Phật; dùng con mắt [phàm tục] bẩm
sanh mà thấy giống như Như Lai. Tri kiến như
thế rốt ráo pháp giới, sâu rộng không ngằn mé, không
ǵ sánh bằng. Cho nên gọi là Tùy Hỷ. Do thuận Lư, bèn có Thật công đức. Do thuận Sự, bèn có Quyền công đức. Do mừng cho chính ḿnh, bèn
có công đức trí huệ tự hành. Do mừng cho người
khác, có công đức từ bi hóa độ người khác.
Do gộp chung Quyền, Thật, Tự, Tha để nói, cho
nên gọi là phẩm Tùy Hỷ Công Đức. Đó là ư nghĩa
Thế Giới Tất Đàn (Lư Sự, Bổn Tích, Tự
Tha xưa nay đối ứng. V́ thế là Thế Giới).
Người thứ
năm mươi [do lần lượt được nghe
nói lại kinh Pháp Hoa rồi tùy hỷ] chính là người sơ
sài nhất trong sơ phẩm (phẩm thứ nhất trong ngũ
phẩm, tức Tùy Hỷ), chỉ có một niệm diệu
giải, chỉ có một niệm mừng cho ḿnh, mừng
cho người khác, chưa có viên hạnh, ân chưa thấm đến người khác, mà đă đạt được
công đức chẳng thể sánh bằng. Huống hồ
người được nghe đầu tiên trong
hội ư? Huống hồ người đọc tụng,
giảng nói, kiêm hành chánh hạnh ư? Huống hồ lại
c̣n [thuộc vào các địa
vị] Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh,
cho đến Đẳng Giác, Diệu Giác ư? Ai nghe công
đức sâu mầu như thế mà chẳng kính ngưỡng,
hâm mộ? Như Lai nói điều này khiến cho chúng sanh
ngưỡng vọng. V́ thế gọi là phẩm Tùy Hỷ
Công Đức. Đó là ư nghĩa Vị Nhân Tất Đàn.
Trong phần trước
đă ca ngợi công đức tŕ kinh, đại chúng khi ấy
đều cho rằng đă nhập địa vị “chân
nhân” (cái nhân chân thật), đă đạt tới đức
ấy. Đối với kẻ sơ sài nhất trong những
kẻ sơ tâm, dấy lên ư tưởng yếu ớt, bỗng
nghe chỗ tốt đẹp chắc thật, mầm mống
đă nẩy sanh trăm mối. Chim Ca Lăng Tần Già c̣n
đang ở trong trứng, tiếng hót đă vượt xa
các loài chim, [người được nghe công đức]
hy hữu, đặc biệt, lạ lùng [của kinh Pháp Hoa],
ư tưởng khinh thường đă được cởi
gỡ, cho nên gọi là phẩm Tùy Hỷ Công Đức. Đó
là ư nghĩa Đối Trị Tất Đàn.
Hàng ngoại đạo
đắc Ngũ Thông có thể dời núi, cạn biển, nhưng chẳng
thể chế phục kiến ái (Kiến Tư Hoặc), chẳng
sánh bằng người đắc pháp Noăn. Bậc Nhị
Thừa Vô Học đều thoát các quả sanh bởi chủng
tử, nhưng vẫn c̣n bị Niết Bàn trói buộc, chẳng
biết nhân và quả ấy đều là Quyền. Bậc Thông
Giáo tu nhân tuy khéo léo, phát tâm chẳng biết [chỗ có của
báu ở ngoài] năm trăm do-tuần, tuy đắc quả,
chỉ trừ Tứ Trụ Thông Hoặc. Hàng Biệt Giáo
tuy vượt xa Nhị Thừa, nhưng tu nhân thiên lệch,
đường nẻo lại vụng
về, chẳng được Phật khen ngợi, đều
chẳng sánh bằng người tùy hỷ thoạt đầu.
Nay đức Phật nêu ra quán hạnh sơ tâm để
[người nghe] sẽ so sánh, ḥng nhận biết cực quả vượt xa các giáo.
V́ thế nói là phẩm Tùy Hỷ Công Đức. Đấy
chính là xét theo giáo để hiển thị Đệ Nhất
Nghĩa vậy!
* So lường cặn kẽ công đức
của phẩm đầu tiên
18.1. Hỏi
(Kinh)
Nhĩ thời, Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật
ngôn: “Thế Tôn! Nhược hữu thiện nam tử, thiện
nữ nhân văn thị Pháp Hoa kinh tùy hỷ giả, đắc
kỷ sở phước?” Nhi thuyết kệ ngôn: - Thế
Tôn diệt độ hậu, kỳ hữu văn thị kinh,
nhược năng tùy hỷ giả, vi đắc kỷ sở
phước?
(經)爾時彌勒菩薩摩訶薩白佛言。世尊。若有善男子善女人聞是法華經隨喜者。得幾所福。而說偈言。世尊滅度後。其有聞是經。若能隨喜者。為得幾所福。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát bạch cùng
đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Nếu có thiện
nam tử, thiện nữ nhân nghe kinh Pháp Hoa này rồi tùy hỷ,
sẽ được bao nhiêu phước?” Ngài bèn nói kệ
rằng: - Thế Tôn diệt độ rồi, có kẻ
nghe kinh này, nếu có thể tùy hỷ, sẽ được
bao nhiêu phước?)
Phẩm trước
đă so lường công đức của bốn phẩm
sau, chẳng nói đến phẩm đầu. V́ thế, ngài
Di Lặc thừa dịp nêu câu hỏi.
18.2. Đức Phật trả lời
18.2.1. Trường Hàng
18.2.1.1. Trả lời công đức
của người trong tâm tùy hỷ
18.2.1.1.1. Xét theo sự lần lượt
dạy bảo lẫn nhau, nêu ra
công đức của người cuối cùng để hiển
thị công đức của người đầu tiên
trong những người sơ tâm
(Kinh)
Nhĩ thời, Phật cáo Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát: - A Dật
Đa! Như Lai diệt hậu, nhược tỳ-kheo, nhược
tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cập dư trí giả,
nhược trưởng, nhược ấu, văn thị
kinh tùy hỷ dĩ, tùng pháp hội xuất, chí ư dư xứ.
Nhược tại tăng phường, nhược không
nhàn địa, nhược thành ấp hạng mạch, tụ
lạc, điền lư, như kỳ sở văn, vị phụ
mẫu, tông thân, thiện hữu tri thức, tùy lực diễn
thuyết. Thị chư nhân đẳng văn dĩ tùy hỷ,
phục hành chuyển giáo. Dư nhân văn dĩ, diệc tùy
hỷ chuyển giáo. Như thị triển chuyển, chí đệ
ngũ thập. A Dật Đa! Kỳ đệ ngũ thập
thiện nam tử, thiện nữ nhân tùy hỷ công đức,
ngă kim thuyết chi, nhữ đương thiện thính.
(經)爾時佛告彌勒菩薩摩訶薩。阿逸多。如來滅後。若比丘。比丘尼。優婆塞。優婆夷。及餘智者。若長若幼聞是經隨喜已。從法會出。至於餘處。若在僧坊。若空閑地。若城邑巷陌。聚落田里。如其所聞。為父母宗親善友知識隨力演說。是諸人等。聞已隨喜復行轉教。餘人聞已。亦隨喜轉教。如是展轉。至第五十。阿逸多。其第五十善男子善女人隨喜功德。我今說之。汝當善聽。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, đức Phật bảo Di Lặc Bồ Tát Ma Ha
Tát: - Này A Dật Đa! Sau khi Như Lai diệt độ,
nếu tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di,
và những người có trí khác dù lớn hay bé, nghe kinh này
bèn tùy hỷ, từ pháp hội trở ra, tới các chỗ
khác, hoặc là tại tăng phường, hoặc chỗ
thanh vắng, hoặc nơi đường phố của
chốn thành ấp, thôn xóm, làng quê, đúng như điều
đă được nghe, v́ cha mẹ, họ hàng, bạn lành,
người quen biết, tùy sức diễn nói. Những người
ấy nghe xong tùy hỷ, lại dạy cho người khác.
Người khác nghe xong, cũng tùy hỷ, dạy lại
cho người khác nữa. Xoay vần như thế cho đến
người thứ năm mươi. Này A Dật Đa! Ta
nay sẽ nói công đức tùy hỷ của thiện nam tử
hay thiện nữ nhân thứ năm mươi ấy, ông hăy
nên khéo nghe!)
Lần lượt
tới người thứ năm mươi, có ư nghĩa “càng
về sau, càng kém hơn
người trước đó”. V́ sao? Nương vào Tứ
Y để hoằng pháp, ắt phải có biện tài. Nghe rồi
tùy hỷ, pháp vị ắt sâu đậm. Tới khi người
ấy từ pháp hội trở ra, tùy sức diễn nói,
tuy nói đúng như điều đă được nghe, lư
chắc chắn chẳng sai lầm, nhưng biện thuyết
trang nghiêm chưa chắc đă có thể giống như pháp
sư, huống hồ có thể vượt hơn ư?
Xoay vần như thế, người thứ hai, thứ
ba, hoặc hai mươi, đă dần dần chẳng bằng,
huống hồ tới người thứ năm mươi,
há chẳng càng thua kém hơn ư? Hơn nữa, bốn mươi
chín người trước đó đều có công đức
dạy lại. Nay đối với người thứ năm
mươi, chỉ luận một niệm tùy hỷ, chẳng
luận sẽ lại dạy cho người khác! Hăy nên biết
[người thứ năm mươi] đúng là
quá xa xôi lợt lạt so với những người
thuộc phẩm đầu (tùy hỷ)! Nay xét theo
kẻ xa vời nhất ấy để nói rơ công đức
của một niệm tùy hỷ th́ công đức của
những người trước đó chẳng
cần nói cũng biết. Nói “triển chuyển chí ngũ
thập giả” (xoay vần đến người thứ năm mươi) chỉ
nhằm nêu rơ pháp vị dần dần nhạt bớt, công đức
dần dần kém hơn, chẳng cần phải giải
thích theo ư nghĩa biểu pháp.
18.2.1.1.2. So lường Bổn
(Kinh)
Nhược tứ bách vạn ức A-tăng-kỳ thế
giới lục thú tứ sanh chúng sanh, noăn sanh, thai sanh, thấp
sanh, hóa sanh, nhược hữu h́nh, vô h́nh, hữu tưởng,
vô tưởng, phi hữu tưởng, phi vô tưởng,
vô túc, nhị túc, tứ túc, đa túc. Như thị đẳng
tại chúng sanh số giả, hữu nhân cầu phước,
tùy kỳ sở dục ngu lạc chi cụ, giai cấp dữ
chi. Nhất nhất chúng sanh dữ măn Diêm Phù Đề kim,
ngân, lưu ly, xa cừ, mă năo, san hô, hổ phách, chư diệu
trân bảo, cập tượng, mă, xa thặng, thất bảo
sở thành cung điện, lâu các đẳng. Thị đại
thí chủ như thị bố thí măn bát thập niên dĩ,
nhi tác thị niệm: “Ngă dĩ thí chúng sanh ngu lạc chi cụ,
tùy ư sở dục. Nhiên thử chúng sanh giai dĩ suy lăo, niên
quá bát thập, phát bạch, b́ trứu, tương tử bất
cửu. Ngă đương dĩ Phật pháp nhi huấn
đạo chi”. Tức tập thử chúng sanh, tuyên bố pháp
hóa, thị giáo lợi hỷ. Nhất thời giai đắc
Tu Đà Hoàn đạo, Tư Đà Hàm đạo, A Na Hàm
đạo, A La Hán đạo, tận chư hữu lậu,
ư thâm Thiền Định, giai đắc tự tại,
cụ bát giải thoát.
(經)若四百萬億阿僧祇世界六趣四生眾生。卵生。胎生。濕生。化生。若有形無形。有想無想。非有想非無想。無足二足。四足多足。如是等在眾生數者。有人求福。隨其所欲娛樂之具。皆給與之。一一眾生。與滿閻浮提金銀琉璃硨磲碼碯珊瑚琥珀諸妙珍寶。及象馬車乘。七寶所成宮殿樓閣等。是大施主。如是佈施滿八十年已。而作是念。我已施眾生娛樂之具。隨意所欲。然此眾生。皆已衰老。年過八十。髮白皮皺。將死不久。我當以佛法而訓導之。即集此眾生。宣佈法化。示教利喜。一時皆得須陀洹道。斯陀含道。阿那含道。阿羅漢道。盡諸有漏。於深禪定皆得自在。具八解脫。
(Kinh: Như
chúng sanh thuộc tứ sanh sáu đường trong bốn
trăm vạn ức A-tăng-kỳ thế giới: Sanh bằng
trứng, sanh bằng thai, sanh nơi ẩm ướt, hóa
sanh, hoặc hữu h́nh, vô h́nh, có tư tưởng, chẳng
có tư tưởng, chẳng phải hữu tưởng chẳng
phải vô tưởng, không chân, hai chân, bốn chân, nhiều
chân. Đối với số lượng chúng sanh như thế
đó, có người cầu phước, tùy theo các vật
ưa thích mà chúng sanh mong muốn đều ban cho. Với mỗi chúng sanh, đều
cho vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mă năo, san hô, hổ phách,
các món trân bảo nhiệm mầu đầy ắp Diêm Phù Đề
(Jambudvīpa), và voi, ngựa, xe cộ, cung điện, lầu
gác v.v… do bảy báu tạo thành. Vị đại thí chủ
đó bố thí như thế tṛn tám mươi năm xong,
bèn nghĩ thế này: “Ta đă thí cho chúng sanh vật ưa thích,
thuận theo ư họ mong muốn. Nhưng các chúng sanh này đều
đă già suy, tuổi quá tám mươi, tóc bạc, da nhăn,
không lâu sau sẽ chết. Ta nên dùng Phật pháp để dạy
bảo họ”. Liền nhóm họp các chúng sanh ấy, tuyên nói
pháp giáo hóa, chỉ dạy, khiến cho họ được lợi ích, vui
mừng, cùng lúc đắc đạo Tu Đà Hoàn (Srota-āpanna),
đạo Tư Đà Hàm (Sakṛdāgāmin), đạo
A Na Hàm (Anāgāmin), đạo A La Hán (Arhat), hết các hữu
lậu, nơi Thiền Định sâu đều được
tự tại, đủ tám món giải thoát).
“Lục thú” (sáu
đường): Trời, người, A Tu La, địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Phương pháp thọ sanh
chẳng ra ngoài bốn loại: Ở trong vỏ th́ gọi
là Trứng, ở trong bụng là Thai, do hơi nóng là Thấp,
biến đổi là Hóa. Chư thiên chỉ hóa sanh; loài người
có đủ tứ sanh, nhưng phần nhiều là thai sanh.
Tu La tứ sanh, địa ngục hóa sanh, Quỷ và súc sanh đủ
bốn cách sanh. “Hữu h́nh” tức là Dục Giới
và Sắc Giới. “Vô h́nh” là Vô Sắc Giới. “Hữu
tưởng” là Không Xứ Thiên (Ākāśānantyāyatana) và Thức
Xứ Thiên (Vijñānānantyāyatana). “Vô tưởng”
là Vô Sở Hữu Xứ Thiên (Ākiñcanyāyatana). “Phi hữu
tưởng phi vô tưởng” tức là Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng Xứ Thiên (Naivasaṃjñānāsaṃjñāyatana).
18.2.1.1.3. Hỏi
(Kinh)
Ư nhữ ư vân hà? Thị đại thí chủ sở đắc
công đức, ninh vi đa phủ?
(經)於汝意云何。是大施主所得功德。寧為多不。
(Kinh:
Ư ông nghĩ sao? Vị đại thí chủ ấy đạt
được công đức há có nhiều chăng?)
18.2.1.1.4. Đáp
(Kinh)
Di Lặc bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Thị nhân công
đức thậm đa, vô lượng, vô biên. Nhược
thị thí chủ đản thí chúng sanh nhất thiết lạc
cụ, công đức vô lượng, hà huống linh đắc
A La Hán quả.
(經)彌勒白佛言。世尊。是人功德甚多。無量無邊。若是施主。但施眾生一切樂具。功德無量。何況令得阿羅漢果。
(Kinh:
Ngài Di Lặc bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch
Thế Tôn! Người ấy công đức rất nhiều,
vô lượng, vô biên. Nếu vị thí chủ ấy chỉ
thí cho chúng sanh hết thảy các vật vui thích, công đức
đă là vô lượng, huống hồ khiến cho họ đắc
quả A La Hán).
18.2.1.1.5. Thật sự so lường
(Kinh)
Phật cáo Di Lặc: - Ngă kim phân minh ngữ nhữ: Thị
nhân dĩ nhất thiết lạc cụ, thí ư tứ bách
vạn ức A-tăng-kỳ thế giới lục thú
chúng sanh, hựu linh đắc A La Hán quả, sở đắc
công đức, bất như thị đệ ngũ thập
nhân văn Pháp Hoa kinh nhất kệ tùy hỷ công đức,
bách phần, thiên phần, bách thiên vạn ức phần, bất
cập kỳ nhất. Năi chí toán số, thí dụ, sở bất
năng tri! A Dật Đa! Như thị đệ ngũ
thập nhân triển chuyển văn Pháp Hoa kinh tùy hỷ
công đức thượng vô lượng vô biên A-tăng-kỳ,
hà huống tối sơ ư hội trung văn nhi tùy hỷ
giả. Kỳ phước phục thắng vô lượng
vô biên A-tăng-kỳ, bất khả đắc tỷ!
(經)佛告彌勒。我今分明語汝。是人以一切樂具。施於四百萬億阿僧祇世界六趣眾生。又令得阿羅漢果。所得功德。不如是第五十人聞法華經一偈隨喜功德。百分。千分。百千萬億分。不及其一。乃至算數譬喻所不能知。阿逸多。如是第五十人。展轉聞法華經隨喜功德。尚無量無邊阿僧祇。何況最初於會中聞而隨喜者。其福復勝無量無邊阿僧祇。不可得比。
(Kinh: Đức
Phật bảo ngài Di Lặc: - Ta nay nói rơ ràng với ông, người
ấy dùng hết thảy các vật vui thích thí cho chúng sanh
trong sáu đường thuộc bốn trăm vạn ức
A-tăng-kỳ thế giới, lại khiến cho họ đắc
quả A La Hán, [người ấy] đạt được
công đức chẳng bằng công đức của người
thứ năm mươi nghe một bài kệ của kinh Pháp
Hoa mà tùy hỷ, chẳng sánh bằng một phần trăm,
một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn ức
phần. Cho đến dùng toán số, thí dụ [để
suy lường], đều chẳng thể biết. Này A Dật
Đa! Công đức
tùy hỷ của người thứ năm
mươi do được
lần lượt nghe kinh Pháp Hoa c̣n là vô lượng vô biên
A-tăng-kỳ như thế, huống hồ người
đầu tiên trong hội nghe rồi tùy hỷ! Phước
ấy lại vượt hơn vô lượng vô biên A-tăng-kỳ
lần, chẳng thể sánh bằng!)
Người nhận
bố thí trọn khắp bốn trăm vạn ức A-tăng-kỳ
thế giới chẳng thể coi là không nhiều! Trước
hết, ban cho họ sự vui sướng thế tục
tṛn tám mươi năm; sau đó, ban cho pháp lạc chứng
tứ thánh quả, chẳng thể coi là không lớn! Nhưng
chẳng sánh bằng người có một niệm
tùy hỷ trọn vẹn sau rốt nhất, v́ một niệm
ấy ắt sẽ trọn hết hư không giới, trọn
hết thời vị lai, phổ độ hết thảy,
khiến cho người
ấy thành Phật. Công đức cuối cùng chẳng ĺa một
niệm tối sơ. Lại dựa theo ư so sánh trong Đại Luận để giải thích ư chỉ này.
Phước của toàn thể người trong Diêm Phù
Đề (Jambudvīpa) chẳng
bằng phước của một người thuộc Tây
Cù Da Ni châu (Aparagodānīya,
Tây Ngưu Hóa Châu). Phước của toàn thể người
trong Tây Châu chẳng bằng phước của một người
thuộc châu Đông Phất Bà Đề (Pūrvavideha,
Đông Thắng Thần Châu). Phước
của toàn thể mọi người thuộc ba châu (Diêm
Phù Đề, Cù Da Ni, Phất Bà Đề) chẳng sánh bằng
phước của một người thuộc Bắc Uất
Đan Việt (Uttarakuru, Bắc Câu Lô Châu). Phước của
toàn thể người trong khắp cả bốn châu chẳng
sánh kịp [phước của] một vị trong tứ
thiên vương. Bốn vị thiên vương chẳng sánh
bằng một vị
Đế Thích. Cho đến Đệ Lục Thiên
(Tha Hóa Tự Tại Thiên) chẳng sánh bằng phước
của một vị Phạm Thiên. Lại nữa, Sơ Thiền
chẳng sánh bằng Nhị Thiền, Nhị Thiền chẳng
sánh bằng Tam Thiền, Tam Thiền chẳng sánh bằng Tứ
Thiền. Cho đến Vô Sở Hữu Xứ chẳng sánh
bằng Phi Phi Tưởng Xứ. Phi Phi Tưởng Xứ
cực tôn quư trong ba cơi, chẳng sánh bằng phước của
Tu Đà Hoàn. Phước của Tu Đà Hoàn chẳng sánh bằng
Nhị Quả. Nhị Quả chẳng sánh bằng Tam Quả.
Tam Quả chẳng sánh bằng Tứ Quả. Tứ Quả
chẳng sánh bằng Bích Chi Phật. Tạng
Giáo Nhị Thừa chẳng sánh bằng bậc Nhị Thừa
thấu hiểu pháp trong Thông Giáo. Bậc Nhị Thừa thấu
hiểu pháp [trong Thông Giáo] chẳng sánh bằng xuất Giả
Bồ Tát. Thông Giáo Bồ Tát chẳng sánh bằng sơ tâm
trong Biệt Giáo do nghe Trung. Bậc hậu tâm Thập Hồi
Hướng trong Biệt Giáo chẳng sánh bằng tùy hỷ
sơ tâm trong Viên Giáo do nghe Viên Giáo. V́ thế biết kinh Hoa
Nghiêm so sánh công đức phát tâm vẫn chưa là kỳ lạ.
Kinh này so sánh công đức tùy hỷ khó tin nhất! Nhưng
một niệm tùy hỷ liền trọn đủ mười
thừa. Nếu hiểu mười thừa, ắt công đức
sẽ có căn cứ. Xin hăy hiểu đại lược
như thế.
“Tùy” là thuận
Sự, thuận Lư, Sự Lư chính là cảnh chẳng thể
nghĩ bàn. “Hỷ” là mừng cho ḿnh, mừng cho người,
tức là Bồ Đề tâm. Một niệm tùy hỷ chẳng
tán loạn tức là Chỉ, chẳng hôn trầm tức là
Quán, chính là khéo léo an tâm. Thuận Lư chế phục trọn
vẹn vô minh Kiến Tư. Thuận Sự, chế phục
trọn vẹn Trần Sa và Vô Minh. Đó là cách
phá trọn khắp. Liễu đạt Quyền và Thật
chẳng hai, tức là biết thông và tắc, chỉ trong một
niệm tâm, tin hiểu Phật pháp chẳng thể nghĩ
bàn. Đó là Niệm Xứ của Viên Giáo. Pháp vốn sẵn
trọn đủ bảy khoa đạo phẩm, điều
ḥa thích đáng! Đă tùy hỷ, xót xa, bi thương, ắt
cần phải tu Ngũ Hối[26],
đó là giúp mở mang. Đă có thể tín thuận Sự Lư,
Bổn Tích, quyết chẳng dùng phàm t́nh hư vọng để
suy lường bậc thượng thánh. Đó là biết địa
vị. Thuận Sự, thuận Lư, các loại ma dù cứng
cỏi hay mềm mỏng đều chẳng thể động.
Đó là “có thể an nhẫn”. Thật tâm chuyên chú nơi Thật
cảnh, Thật duyên theo thứ đệ nẩy sanh. Thật
lần lượt chuyển vào Thật; đó là ĺa pháp ái.
Công đức như thế, há tài thí của thế
gian hoặc pháp thí của tiểu quả có thể sánh bằng
ư? Viên quán như thế, há kẻ tu Trung Quán theo
thứ tự có thể sánh bằng được ư? Phần
thứ nhất, “giải đáp về công đức của
người tùy hỷ từ trong nội tâm” đă xong.
18.2.1.2. Nói rơ công đức của
người được nghe pháp từ bên ngoài
18.2.1.2.1. Tự đến nghe
(Kinh)
Hựu A Dật Đa! Nhược nhân vị thị kinh cố,
văng nghệ tăng phường, nhược tọa, nhược
lập, tu du thính thọ, duyên thị công đức, chuyển
thân sở sanh, đắc hảo thượng diệu tượng,
mă, xa thặng, trân bảo liễn dư, cập thừa thiên
cung.
(經)又阿逸多。若人為是經故。往詣僧坊。若坐。若立。須臾聽受。緣是功德。轉身所生。得好上妙象馬車乘。珍寶輦輿。及乘天宮。
(Kinh:
Này A Dật Đa! Nếu có người v́ kinh này, đi
đến tăng phường, dù ngồi,
hay đứng, nghe nhận trong khoảnh khắc, do công đức
ấy, khi chuyển sanh vào thân sau, sẽ được
voi, ngựa, xe cộ tốt đẹp nhất, kiệu cáng
trân quư và ngự nơi cung trời[27]).
18.2.1.2.2. Chia chỗ ngồi
(Kinh)
Nhược phục hữu nhân, ư giảng pháp xứ tọa,
cánh hữu nhân lai, khuyến linh tọa thính. Nhược phân
ṭa linh tọa, thị nhân công đức chuyển thân đắc
Đế Thích tọa xứ, nhược
Phạm Vương tọa xứ, nhược
Chuyển Luân Thánh Vương sở tọa chi xử.
(經)若復有人。於講法處坐。更有人來。勸令坐聽。若分座令坐。是人功德。轉身得帝釋坐處。若梵王坐處。若轉輪聖王所坐之處。
(Kinh:
Nếu lại có người ngồi nơi chỗ giảng
pháp, lại có người khác đến,
bèn khuyên ngồi nghe, hoặc chia chỗ cho ngồi. Công đức
của người ấy là trong đời sau sẽ được chỗ ngồi
của Đế Thích, hoặc chỗ ngồi của
Phạm Vương, hoặc chỗ ngồi của
Chuyển Luân Thánh Vương).
18.2.1.2.3. Khuyên người khác
(Kinh)
A Dật Đa! Nhược phục hữu nhân ngữ dư
nhân ngôn: “Hữu kinh danh Pháp Hoa, khả cộng văng thính”, tức
thọ kỳ giáo, năi chí tu du gian văn. Thị nhân công
đức chuyển thân đắc dữ Đà La Ni Bồ
Tát cộng sanh nhất xứ, lợi căn, trí huệ. Bách thiên vạn thế
chung bất ấm á. Khẩu
khí bất xú, thiệt thường vô bệnh, khẩu diệc
vô bệnh. Xỉ bất
cấu hắc, bất hoàng, bất sơ, diệc bất
khuyết lạc, bất sai, bất khúc. Thần bất hạ
thùy, diệc bất khiên súc, bất thô sáp, bất sang chẩn,
diệc bất khuyết hoại, diệc bất oa tà, bất
hậu, bất đại, diệc bất lê hắc, vô chư
khả ố. Tỵ bất biển thê, diệc bất khúc
lệ. Diện sắc bất hắc, diệc bất hiệp
trường, diệc bất dũ khúc, vô hữu nhất
thiết bất khả hỷ tướng. Thần, thiệt, nha xỉ tất giai nghiêm hảo. Tỵ tu cao trực,
diện mạo viên măn, my cao nhi trường. Ngạch quảng
b́nh chánh, nhân tướng cụ túc. Thế thế sở sanh,
kiến Phật văn pháp, tín thọ giáo hối.
(經)阿逸多。若復有人。語餘人言。有經名法華。可共往聽。即受其教。乃至須臾間聞。是人功德。轉身得與陀羅尼菩薩共生一處。利根。智慧。百千萬世終不瘖啞。口氣不臭。舌常無病。口亦無病。齒不垢黑。不黃。不疎。亦不缺落。不差。不曲。唇不下垂。亦不褰縮。不麤澀。不瘡胗。亦不缺壞。亦不咼斜。不厚。不大。亦不黧黑。無諸可惡。鼻不匾㔸。亦不曲戾。面色不黑。亦不陿長。亦不窳曲。無有一切不可喜相。唇舌牙齒。悉皆嚴好。鼻脩高直。面貌圓滿。眉高而長。額廣平正。人相具足世世所生。見佛聞法。信受教誨。
(Kinh: Này A
Dật Đa! Nếu lại có người nói với người
khác: “Có kinh tên là Pháp Hoa, hăy nên cùng đến nghe”. [Người
đó] liền vâng lời, dẫu chỉ tới nghe trong khoảnh
khắc. Công đức của người ấy (người
khuyên đi nghe kinh) là thân sau sẽ được sanh cùng một
chỗ với Đà La Ni Bồ Tát[28], lợi căn, trí
huệ. Trong trăm ngàn vạn năm, trọn chẳng câm ngọng.
Hơi miệng chẳng thối, lưỡi thường
không bệnh, miệng cũng không bệnh. Răng chẳng
đen dơ, chẳng vàng, chẳng thưa, cũng chẳng
thiếu rụng, chẳng so le, chẳng cong vẹo. Môi chẳng
trề, cũng chẳng co rút, chẳng thô rít, chẳng ghẻ
nhọt, cũng chẳng thiếu khuyết (môi trớt hoặc sứt môi), hư hoại,
cũng chẳng cong quặp, chẳng dày, chẳng to, cũng
chẳng đen đúa, không có các h́nh dạng khó ưa. Mũi
chẳng tẹt xẹp, cũng chẳng cong vẹo. Sắc
mặt chẳng đen, mặt chẳng hẹp dài, cũng
chẳng cong găy, chẳng
có hết thảy các tướng khó ưa. Môi, lưỡi,
răng lợi thảy đều ngay ngắn, đẹp đẽ,
mũi dài, cao, thẳng, diện mạo viên măn, lông mày cao dài.
Trán rộng phẳng phiu. Tướng người trọn
vẹn, đời đời sanh ra đều thấy Phật,
nghe pháp, tin nhận lời răn dạy).
Đoạn kinh
văn này cũng nêu ra công đức nơi sáu căn. “Lợi căn” là
sáu căn đều nhạy bén. “Trí huệ” là công
đức nơi ư. “Chẳng
câm ngọng” là công đức nơi lưỡi.
“Dài cao, thẳng” là công đức nơi mũi. “Thấy
Phật” là công đức nơi mắt. “Nghe pháp” là
công đức nơi tai. Các điều khác là công đức
nơi thân. Phần sau (tức phẩm Pháp Sư Công Đức)
nói sáu căn thanh tịnh chính là công đức nơi địa
vị Tương Tự. Ở đây là công đức trước
khi đạt tới địa vị Tương Tự.
Nhưng năm mươi công đức ấy, hoặc trọn
đủ, hoặc chẳng trọn đủ, hoặc đạt
được một, hai phần,
tùy theo sức công đức, chẳng thể
nhất loạt như nhau được!
Lại nữa, Tùy Hỷ là địa vị Quán Hạnh, nay nói ba loại
là tự đến [nghe kinh], chia chỗ ngồi, và khuyên người
khác [nghe kinh], chưa bàn tới Lư Quán, tức là địa
vị Danh Tự. Công đức của [địa vị] Danh Tự
mà c̣n là như thế, huống hồ [địa vị] Quán Hạnh
ư? Huống hồ Tương Tự Phần Chứng và
Cứu Cánh ư?
18.2.1.2.4. Nghe trọn vẹn rồi
tu hành
(Kinh)
A Dật Đa! Nhữ thả quán thị, khuyến
ư nhất nhân linh văng thính pháp, công đức như thử,
hà huống nhất tâm thính thuyết, độc tụng,
nhi ư đại chúng vị nhân phân biệt, như thuyết
tu hành.
(經)阿逸多。汝且觀是勸於一人令往聽法。功德如此。何況一心聽說讀誦。而於大眾為人分別。如說修行。
(Kinh:
Này A Dật Đa! Ông hăy xem khuyên một người, khiến cho người ấy đến nghe pháp, công
đức như thế đó, huống hồ nhất tâm
nghe nói, đọc, tụng, ở trong đại chúng v́ người
khác phân biệt, tu hành đúng như lời dạy).
Phần
thứ nhất, Trường Hàng đă xong.
18.2.2. Kệ tụng
18.2.2.1. Trùng tụng công đức do
nội tâm tùy hỷ
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa,
nhi thuyết kệ ngôn: - Nhược nhân ư pháp hội, đắc
văn thị kinh điển, năi chí ư nhất kệ, tùy
hỷ vị tha thuyết. Như thị triển chuyển
giáo, chí ư đệ ngũ thập. Tối hậu nhân hoạch
phước, kim đương phân biệt chi. Như hữu
đại thí chủ, cung cấp vô lượng chúng, cụ
măn bát thập tuế, tùy ư chi sở dục. Kiến bỉ
suy lăo tướng, phát bạch nhi diện trứu, xỉ sơ,
h́nh khô kiệt. Niệm kỳ tử bất cửu, ngă kim ưng
đương giáo, linh đắc ư đạo quả.
Tức vị phương tiện thuyết, Niết Bàn chân
thật pháp. Thế giai bất lao cố, như thủy mạt,
bào, diễm. Nhữ đẳng hàm ưng đương, tật
sanh yếm ly tâm. Chư nhân văn thị pháp, giai đắc
A La Hán, cụ túc lục thần thông, tam minh, bát giải
thoát. Tối hậu đệ ngũ thập, văn nhất
kệ tùy hỷ. Thị nhân phước thắng bỉ, bất
khả vi thí dụ. Như thị triển chuyển văn,
kỳ phước thượng vô lượng. Hà huống
ư pháp hội, sơ văn tùy hỷ giả.
(經)爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。若人於法會。得聞是經典。乃至於一偈。隨喜為他說。如是展轉教。至於第五十。最後人獲福。今當分別之。如有大施主。供給無量眾。具滿八十歲。隨意之所欲。見彼衰老相。髮白而面皺。齒疎形枯竭。念其死不久。我今應當教。令得於道果。即為方便說。涅槃真實法。世皆不牢固。如水沫泡燄。汝等咸應當。疾生厭離心。諸人聞是法。皆得阿羅漢。具足六神通。三明八解脫。最後第五十。聞一偈隨喜。是人福勝彼。不可為譬喻。如是展轉聞。其福尚無量。何況於法會。初聞隨喜者。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại
nghĩa này bèn nói kệ rằng: - Nếu ai trong pháp hội,
được nghe kinh điển này, dẫu chỉ một
bài kệ, tùy hỷ v́ người nói. Lần lượt dạy
như thế, tới người thứ năm mươi.
Người cuối cùng được phước, nay sẽ
phân biệt nói. Như có đại thí chủ, cung cấp
vô lượng chúng, trọn đủ tám mươi
năm. Thuận ḷng họ mong muốn, thấy họ tướng già suy, tóc
bạc và mặt nhăn, răng thưa, thân c̣m cơi. Nghĩ không
lâu sẽ chết, ta nay nên dạy họ, khiến họ đắc
đạo quả. Liền phương tiện giảng nói,
pháp Niết Bàn chân thật. Đời đều không chắc
chắn, như bọt nước, gợn nắng. Các ngươi
hăy đều nên, mau sanh ḷng chán ĺa. Mọi người nghe
pháp ấy, đều đắc A La Hán, trọn đủ
sáu thần thông, tam minh, tám giải thoát. Người năm
mươi cuối cùng, nghe một kệ tùy hỷ, được
phước hơn thí chủ, chẳng thể thí dụ được!
Lần lượt nghe như thế, c̣n hưởng phước
vô lượng. Huống hồ trong pháp hội, nghe tùy hỷ đầu
tiên).
18.2.2.2. Trùng tụng công đức của
người nghe pháp ngoài pháp hội
18.2.2.2.1. Trùng tụng [công đức]
của người khuyên kẻ khác
(Kinh)
Nhược hữu khuyến nhất nhân, tương dẫn
thính Pháp Hoa, ngôn thử kinh thâm diệu. Thiên vạn kiếp
nan ngộ. Tức thọ giáo văng thính, năi chí tu du văn. Tư
nhân chi phước báo, kim đương phân biệt thuyết.
Thế thế vô khẩu hoạn. Xỉ bất sơ hoàng
hắc, thần bất hậu, khiên, khuyết, vô hữu khả
ố tướng. Thiệt bất càn, hắc, đoản.
Tỵ cao tu thả trực. Ngạch
quảng nhi b́nh chánh. Diện mục tất đoan nghiêm, vị
nhân sở hỷ kiến. Khẩu khí vô xú uế, Ưu Bát
hoa chi hương, thường tùng kỳ khẩu xuất.
(經)若有勸一人。將引聽法華。言此經深妙。千萬劫難遇。即受教往聽。乃至須臾聞。斯人之福報。今當分別說。世世無口患。齒不疎黃黑。唇不厚褰缺。無有可惡相。舌不乾黑短。鼻高脩且直。額廣而平正。面目悉端嚴。為人所喜見。口氣無臭穢。優鉢華之香。常從其口出。
(Kinh: Nếu
ai khuyên một người, dẫn dụ nghe Pháp Hoa, nói
kinh ấy sâu mầu, ngàn vạn kiếp khó gặp. Liền
nghe lời tới nghe, dẫu chỉ trong giây lát. Phước
báo của kẻ đó, nay sẽ phân biệt nói: Đời đời miệng chẳng bệnh, răng
chẳng thưa, vàng, đen. Môi chẳng
dày, túm, khuyết. Chẳng có tướng đáng ghét. Lưỡi
chẳng khô, đen, ngắn. Mũi cao, dài và thẳng. Trán rộng mà phẳng
phiu, diện mạo đều đoan nghiêm, người khác
thích trông thấy. Hơi miệng chẳng hôi thối. Mùi hương
hoa Ưu Bát, thường từ miệng phả ra).
18.2.2.2.2. Trùng tụng chuyện tự đến
nghe
(Kinh)
Nhược cố nghệ tăng phường, dục thính
Pháp Hoa kinh. Tu du văn hoan hỷ, kim đương thuyết
kỳ phước. Hậu sanh thiên nhân trung, đắc diệu
tượng, mă xa. Trân bảo chi liễn dư. Cập thừa
thiên cung điện.
(經)若故詣僧坊。欲聽法華經。須臾聞歡喜。今當說其福。後生天人中。得妙象馬車。珍寶之輦輿。及乘天宮殿。
(Kinh:
Cố ư đến tăng phường, muốn nghe kinh Pháp
Hoa. Nghe giây lát, hoan hỷ. Nay sẽ nói phước đó: Sau
sanh trong trời, người, được voi, xe ngựa
đẹp, kiệu cáng bằng trân bảo, và ngự cung điện
trời).
18.2.2.2.3. Trùng tụng chuyện chia chỗ
ngồi
(Kinh)
Nhược ư giảng pháp xứ, khuyến nhân tọa thính
kinh. Thị phước nhân duyên đắc, Thích, Phạm,
Chuyển Luân ṭa.
(經)若於講法處。勸人坐聽經。是福因緣得。釋梵轉輪座。
(Kinh:
Nếu ở chỗ giảng pháp, khuyên người ngồi
nghe kinh. Nhân duyên phước sẽ đắc, ṭa Thích, Phạm,
Chuyển Luân).
18.2.2.2.4. Trùng tụng nghe trọn đủ,
tu hành
(Kinh)
Hà huống nhất tâm thính, giải thuyết kỳ nghĩa
thú, như thuyết nhi tu hành, kỳ phước bất khả
hạn.
(經)何況一心聽。解說其義趣。如說而修行。其福不可限。
(Kinh: Huống
hồ một dạ nghe, giải nói nghĩa thú ấy, tu hành
đúng lời dạy, phước đó chẳng thể ngằn).
Phần
thứ nhất, “dùng công đức nơi nhân để
khuyên lưu thông” đă xong.
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Thai
Tông Hội Nghĩa quyển thứ sáu
(Diệu Pháp Liên Hoa Kinh
Thai Tông Hội Nghĩa quyển lục)
妙法蓮華經台宗會義卷六
Giải thích phẩm
Tùy Hỷ Công Đức đă xong; kế đó, giải thích
phẩm Pháp Sư Công Đức.
19. Phẩm thứ mười chín: Công
đức của pháp sư (Pháp Sư Công Đức Phẩm
đệ thập cửu, 法師功德品第十九)
“Pháp sư” tức
là năm loại pháp sư: Thọ tŕ, đọc tụng v.v…
như đă giải thích cặn kẽ trong phẩm Pháp Sư
thuộc phần trước. Năm loại hạnh ấy
bắt đầu từ Danh Tự cho đến Phần
Chứng, đều có thể thực hiện. Bất cứ
hạnh nào, đều do ngũ phẩm mà thanh tịnh lục
căn; nhưng ngũ phẩm thuộc về Quán, c̣n năm
loại [pháp sư] thuộc về Sự. V́ thế, “đọc
tụng” được nói trong phẩm này chưa chắc
là đă nói đến
hạng người thứ hai [trong năm loại người
được nói trong phẩm Phân Biệt Công Đức].
“Giải nói” trong phẩm này chưa chắc là nói đến
hạng người thứ ba. Phẩm Tùy Hỷ Công Đức
trên đây đă nói rơ công đức của kẻ sơ tâm
trong phẩm thứ nhất, c̣n phẩm này xét chung năm sự,
bất luận hành chuyện ǵ, sẽ
đều đạt được sáu căn thanh tịnh.
Đă nói là “đương đắc” (sẽ đạt
được), tức là nêu ra cái quả để khuyên, chính là [nêu ra] công đức đạt được bởi
năm loại pháp sư. Nhưng muốn thanh tịnh sáu căn,
cần phải tu quán pháp thuộc mười thừa, hoặc
dùng đọc để tu mười pháp Quán, hoặc dùng
tụng để tu mười pháp Quán, hoặc dùng giải
nói để tu mười pháp Quán, hoặc dùng biên chép để
tu mười pháp Quán.
Bậc
thượng căn quán cảnh liền thanh tịnh sáu
căn. Trung căn th́ từ hai tới sáu căn trong lục
căn sẽ được thanh tịnh. Hạ căn vận
dụng trọn mười pháp, đối với lục
căn thanh tịnh đều là phần chứng. Năm căn
(mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) thanh tịnh được
gọi là “ngoại trang nghiêm” (trang nghiêm bên ngoài). Ư căn
thanh tịnh gọi là “nội trang nghiêm” (trang nghiêm bên
trong). Lại nữa, từ địa ngục cho đến
sắc tượng của hết thảy chư Phật đều
hiện trong thân th́ gọi là “nội trang nghiêm”. Dùng Phổ
Hiện Sắc Thân tam-muội, hiện h́nh tượng của
mười pháp giới, hóa độ hết thảy, gọi
là “ngoại trang nghiêm”. Thân căn đă là như thế,
năm căn kia cũng thế. Thọ tŕ đă là như vậy,
bốn chuyện kia (đọc, tụng, giải nói, biên chép)
cũng thế. Phẩm Tùy Hỷ đă là như thế, bốn
phẩm kia càng bội phần. Tương Tự đă là
như thế, Phần Chân sẽ đều
như thế. V́ thế nói là phẩm Pháp Sư Công Đức.
Đó là ư nghĩa Thế Giới Tất Đàn.
Hành giả nghe nói công
đức lợi ích ấy, vui mừng khôn ngằn, siêng cầu chẳng chán! Tín và Tinh Tấn
tăng gấp bội. V́ thế nói là phẩm Pháp Sư Công
Đức. Đó là ư nghĩa Vị Nhân Tất Đàn.
Nghe nói điều
này xong, biết sâu xa Đại Thừa có thế lực lớn,
quyết chẳng mắc vào lưới ngờ! V́ thế nói
phẩm Pháp Sư Công Đức. Đó là ư nghĩa Đối
Trị Tất Đàn.
Kẻ sơ sài nhất
nơi Tương Tự Giải mà [công đức] gấp
trăm ngàn vạn lần bậc tột bậc nơi Nhị
Thừa, chỉ ra cái khởi đầu để hiển
lộ cái chung cục, càng hiểu Đệ Nhất Nghĩa
Đế chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế nói là phẩm
Pháp Sư Công Đức. Đó là ư nghĩa Nhập Lư vậy.
* Nêu ra công
đức của cái quả nơi phẩm đầu (phẩm
tùy hỷ) để khuyên lưu thông
19.1. Liệt kê số lượng
(Kinh)
Nhĩ thời, Phật cáo Thường Tinh Tấn Bồ
Tát Ma Ha Tát: - Nhược thiện nam tử, thiện nữ
nhân thọ tŕ thị Pháp Hoa kinh, nhược độc, nhược
tụng, nhược giải thuyết, nhược thư
tả, thị nhân đương đắc bát bách nhăn công
đức, thiên nhị bách nhĩ công đức, bát bách tỵ
công đức, thiên nhị bách thiệt công đức, bát
bách thân công đức, thiên nhị bách ư công đức. Dĩ
thị công đức trang nghiêm lục căn, giai linh
thanh tịnh.
(經)爾時佛告常精進菩薩摩訶薩。若善男子善女人。受持是法華經。若讀。若誦。若解說。若書寫。是人當得八百眼功德。千二百耳功德。八百鼻功德。千二百舌功德。八百身功德。千二百意功德。以是功德莊嚴六根。皆令清淨。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, đức Phật bảo Thường
Tinh Tấn Bồ Tát Ma Ha Tát (Satatasamitābhiyukta): - Nếu
thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ tŕ kinh Pháp Hoa
này, dù đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc
biên chép, người ấy sẽ được tám trăm
công đức nơi mắt, một ngàn hai trăm công
đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi,
một ngàn hai trăm công đức nơi lưỡi, tám
trăm công đức nơi thân, một ngàn hai trăm công
đức nơi ư. Dùng công đức ấy để trang
nghiêm sáu căn khiến cho đều thanh tịnh).
Ngũ phẩm quán
hạnh theo chiều dọc xét theo một người. Năm
loại pháp sư theo chiều ngang bao gồm năm loại
người. Nhưng quán bất cứ loại người
nào, cũng đều có thể thanh tịnh trọn vẹn
sáu căn, tức là theo chiều dọc mà chẳng phải
là dọc. Bất cứ người nào cũng đều
có thể kiêm hành năm sự, tức là theo chiều ngang mà
chẳng ngang. Nay nhờ vào “ngang mà chẳng phải là ngang”
để đối ứng với “dọc mà chẳng phải
là dọc”. Tin tưởng, lănh nhận gọi là Thọ, gánh
vác là Tŕ. Thọ tức là Tùy (thuận theo), Tŕ chính là Hỷ.
V́ thế, dùng thọ tŕ để mô phỏng phẩm Tùy Hỷ.
Đọc và tụng c̣n dùng để tương ứng
với phẩm thứ hai, giải nói tương
ứng với phẩm thứ ba. Biên chép và cúng dường
tương ứng với hai phẩm thứ tư và thứ
năm, do trong mỗi phẩm, ắt tương ứng với quán pháp của mười thừa. V́ thế, sẽ
đạt được quả báo sáu căn thanh tịnh.
Tám trăm hay một ngàn hai trăm [công đức] v.v… chỉ
là dựa theo kinh Đại Phật Đảnh (kinh Lăng
Nghiêm) để giải thích các tướng là do Tánh Đức
tu được, cả hai nghĩa đều thành tựu.
Ấy là v́ một niệm tâm tánh hiện tiền vốn sẵn
theo chiều dọc cùng tột, theo chiều ngang trọn khắp.
Do theo chiều dọc cùng tột, cho nên huyễn
hiện ba đời. Do theo chiều ngang trọn khắp, cho nên huyễn
hiện bốn phương. Xét theo đời th́ đời
nào cũng có phương, ba lần bốn cũng là mười
hai. Xét theo phương th́ phương nào cũng có đời,
bốn lần ba cũng là mười hai! Do vậy, nói “ba
lần bốn” hay “bốn lần ba” uyển chuyển thành
mười hai. Bất cứ mỗi phương hay mỗi
đời nào, ắt cũng đều
có mười pháp giới. Đó là một trăm hai mươi.
Trong mỗi pháp giới, đều có Thập Như (tánh như thị, tướng
như thị v.v…). Cho nên [mười
nhân với một trăm hai mươi] thành một ngàn hai
trăm. V́ thế nói: “Lưu xuất, biến
ba tầng từ một thành mười, trăm, ngàn” (Vốn
chỉ là nhất tâm, lần biến đổi thứ nhất
là ba lần bốn hoặc bốn lần ba thành mười
hai. Tầng thứ hai, do [mười hai nhân với] mười
giới mà thành một trăm hai mươi. Tầng thứ
ba, [một trăm hai mươi ấy] nhân với Thập
Như mà thành một ngàn hai trăm).
Xét theo mười
phương ba đời, hết thảy mười pháp
giới, cũng chỉ có con số “một ngàn hai trăm” này
đủ để gồm trọn hết. Xét theo mỗi
chúng sanh, ai nấy cũng đều có đủ con số
một ngàn hai trăm ấy, chẳng thừa, chẳng thiếu!
Xét theo mỗi chúng sanh, đă trọn đủ con số một
ngàn hai trăm ấy. Xét theo mỗi căn, cũng hoàn toàn có
đủ con số một ngàn hai trăm ấy. Đấy
là pháp tánh chẳng thể nghĩ bàn. Toàn chân thành vọng, toàn
vọng tức chân. Nơi thánh chẳng tăng, nơi phàm
không giảm. Nơi sáu căn chẳng nhiều, nơi một
căn chẳng ít! V́ thế gọi là Tánh Đức. Chúng
sanh do mê Tánh Đức ấy mà tu hành trái nghịch, đến
nỗi khiến cho tác dụng của sáu căn có nhiều,
có ít! Mắt th́ thấy đằng trước mà chẳng
thấy đằng sau, đối với bốn góc th́ bỏ
sót một nửa. V́ thế chỉ có tám trăm [công đức].
Tai nghe trọn khắp mười phương, v́ thế là
một ngàn hai trăm [công đức]. Mũi th́ thở ra bèn
giữ hơi, hít vào liền biết mùi, giữa hai khoảng
ấy sẽ chẳng có lực dục thù thắng. V́ thế
chỉ có tám trăm [công đức]. Lưỡi tuyên dương
vô tận, cho nên có một ngàn hai trăm [công đức]. Thân
th́ có tiếp xúc mới biết là vừa ḷng hay trái ư, [hễ
các trần] tách khỏi thân th́ chẳng biết; cho nên chỉ
có tám trăm. Ư ngầm dung hợp pháp thế gian hay xuất
thế gian, tột cùng bờ mé, cho nên là một ngàn hai
trăm [công đức]. Đó là xét riêng theo mê t́nh để
nói. Người thuộc Viên Giáo nương theo Tánh Đức
ấy mà dấy khởi sự thuận tu, sáu căn sẽ dùng lẫn
cho nhau, chẳng c̣n hơn kém! Một căn chiếu trọn
khắp hết thảy các cảnh, một cảnh đối
ứng trọn khắp hết thảy các căn. Căn căn,
trần trần, hiển lộ trọn vẹn pháp giới.
Đó là riêng xét theo khai ngộ để nói. Nay trên là thuận
theo khai ngộ, cho nên nói “công đức trang nghiêm thanh tịnh”;
dưới thuận theo mê t́nh, cho nên vẫn là tám trăm
hay một ngàn hai khác nhau! Kinh văn chép: “Tuy vị đắc
Thiên nhăn” (tuy chưa đắc Thiên Nhăn), tức là dưới
th́ thuận theo mê t́nh. Lại nói: “Nhục nhăn lực như
thị” (sức của nhục nhăn là như thế), tức
là trên th́ thuận theo khai ngộ. Một căn đă là như
thế, các căn khác đều có thể suy ra mà biết!
19.2. Giải thích riêng biệt
19.2.1. Nhăn căn
(Kinh)
“Thị thiện nam tử, thiện nữ nhân phụ mẫu
sở sanh thanh tịnh nhục nhăn kiến ư tam thiên
đại thiên thế giới nội ngoại sở hữu
sơn, lâm, hà, hải, hạ chí A Tỳ địa ngục,
thượng chí Hữu Đảnh, diệc kiến kỳ
trung nhất thiết chúng sanh, cập nghiệp nhân duyên, quả
báo, sanh xứ, tất kiến, tất tri”. Nhĩ thời,
Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ
ngôn: - Nhược ư đại chúng trung, dĩ vô sở
úy tâm, thuyết thị Pháp Hoa kinh, nhữ thính kỳ công
đức. Thị nhân đắc bát bách, công đức thù
thắng nhăn. Dĩ thị trang nghiêm cố. Kỳ mục thậm
thanh tịnh. Phụ mẫu sở sanh nhăn, tất kiến
tam thiên giới, nội ngoại Di Lâu sơn, Tu Di cập
Thiết Vi, tịnh dư chư sơn lâm, đại hải,
giang hà thủy, hạ chí A Tỳ ngục, thượng chí
Hữu Đảnh xứ, kỳ trung chư chúng sanh, nhất
thiết giai tất kiến. Tuy vị đắc Thiên Nhăn,
nhục nhăn lực như thị.
(經)是善男子善女人。父母所生清淨肉眼。見於三千大千世界內外所有山林河海。下至阿鼻地獄。上至有頂。亦見其中一切眾生。及業因緣果報生處。悉見悉知。爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。若於大眾中。以無所畏心。說是法華經。汝聽其功德。是人得八百。功德殊勝眼。以是莊嚴故。其目甚清淨。父母所生眼。悉見三千界。內外彌樓山。須彌及鐵圍。幷餘諸山林。大海江河水。下至阿鼻獄。上至有頂處。其中諸眾生。一切皆悉見。雖未得天眼。肉眼力如是。
(Kinh: “Thiện
nam tử, thiện nữ nhân đó dùng nhục nhăn thanh tịnh
do cha mẹ sanh ra mà thấy tam thiên đại thiên thế
giới trong ngoài tất cả núi, rừng, sông, biển, dưới
là tới địa ngục A Tỳ, trên là đến trời
Hữu Đảnh. Cũng thấy hết thảy chúng sanh
trong đó và nghiệp nhân duyên, quả báo, chỗ họ
sanh sống, đều thấy, đều biết”. Lúc bấy
giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa
này, bèn nói kệ rằng: - Nếu ở trong đại
chúng, dùng tâm không sợ hăi, nói kinh Pháp Hoa này, ông hăy nghe công đức,
người ấy đắc tám trăm, mắt công đức
thù thắng. Do được trang nghiêm vậy, mắt hết
sức thanh tịnh, nhục nhăn cha mẹ sanh, thấy trọn
cơi tam thiên, trong ngoài núi Di Lâu (Meru), Tu Di (Sumeru) và Thiết Vi
(Cakravāḍa), và các núi rừng khác. Nước biển
cả, sông ng̣i, dưới tới ngục A Tỳ, trên đến
trời Hữu Đảnh. Các chúng sanh trong đó, hết thảy
đều thấy trọn. Dẫu chưa đắc Thiên
Nhăn, sức nhục nhăn như thế).
Xét ngũ nhăn theo thứ
tự, nhục nhăn thường thấy Hiển Đối
Sắc[29], thiên nhăn thấy
chướng ngoại sắc[30],
huệ nhăn quán Không, pháp nhăn quán Tục, Phật nhăn quán
Trung. Xét theo thiên nhăn th́ trên có thể thấy dưới,
dưới chẳng thể thấy trên[31].
Báo đắc thiên nhăn của Phạm Vương thấy
trọn khắp các cơi thuộc quyền thống trị,
nhưng chẳng thể thấy các cơi bên cạnh. Thiên nhăn
của Nhị Thừa có thể thấy đại thiên thế giới,
nhưng tác ư th́ thấy, chẳng tác ư sẽ không thấy. Lại
như ngài Mục Kiền Liên dùng tám ngàn tam-muội, có thể
thấy tám ngàn thế giới. Ngài Xá Lợi Phất dùng một
vạn tam-muội có thể thấy một vạn thế
giới v.v… Hoàn toàn là do nhập Định mới thấy,
xuất Định sẽ chẳng thấy. Nay kinh nói rơ nhục
nhăn do cha mẹ sanh thành có thể thấy đại thiên
trong, ngoài, trên, dưới, hoàn toàn chẳng do người khác dạy
bảo. Hăy nên biết đó chính là nhục
nhăn viên dung, một mắt là hết thảy các mắt. Chỉ
trong nhục nhăn mà có đủ tác dụng của ngũ
nhăn:
- Thấy
đại thiên tức là tác dụng của thiên nhăn.
- Thấy
nghiệp nhân duyên quả báo tức là tác dụng của pháp
nhăn.
- Do thanh tịnh
nên chẳng có Kiến Tư Hoặc, tức là tác dụng của
huệ nhăn.
- Do thanh tịnh,
nên chế phục Vô Minh Hoặc, tức
là tác dụng của Phật nhăn.
Đại Kinh nói: “Tuy
thị nhục nhăn, danh vi Phật nhăn” (Tuy là nhục nhăn,
mà gọi là Phật nhăn). Do chính là Phật nhăn, nên gọi là “thanh tịnh”. Do trọn đủ
ngũ nhăn, nên gọi là “trang nghiêm”, tức là tương
tự Phật nhăn, mà cũng là tương tự Phật
ngũ nhăn. Do là thân phần đoạn, cho nên gọi là “phụ
mẫu sở sanh nhục nhăn” (nhục nhăn do cha mẹ
sanh ra). V́ thế, thuận theo mê t́nh mà nói tám trăm [công
đức]. Đă chứng tương tự giải, cho nên
giống như ngũ nhăn xứng tánh của Như Lai. Do
thuận theo khai ngộ mà nói đến công đức. Lại
chuẩn theo kinh văn trong phần sau, cũng phải nên
thấy trọn Phật, và các vị Bồ Tát, Thanh Văn
v.v… Cũng phải nên thấy trọn thanh, hương, vị,
xúc và pháp v.v… Đă đắc tương tự viên dung ngũ
nhăn, ắt sẽ đắc tương tự lục căn
dùng lẫn cho nhau, nhưng kinh văn lược đi [chẳng
nói cặn kẽ].
Ba câu đầu trong
phần kệ đă hiển thị trọn vẹn ba khuôn
khổ. “Nhược ư đại chúng trung” (nếu
ở trong đại chúng) tức là “nhà Như Lai”. “Dĩ
vô sở úy tâm” (dùng tâm chẳng sợ hăi) tức là “áo Như
Lai”. “Thuyết
thị Pháp Hoa kinh” (nói kinh Pháp Hoa này) là “ṭa Như Lai”. Ba khuôn
khổ hoằng kinh, mười thừa trọn đủ.
V́ thế, đạt được sáu căn thanh tịnh,
há có phải là bỗng dưng ư? Di Lâu được phương
này dịch là Quang, tức là một trong bảy rặng Kim
Sơn.
19.2.2. Nhĩ Căn
(Kinh) “Phục
thứ Thường Tinh Tấn! Nhược thiện nam tử,
thiện nữ nhân thọ tŕ thử kinh, nhược độc,
nhược tụng, nhược giải thuyết, nhược
thư tả, đắc thiên nhị bách nhĩ công đức.
Dĩ thị thanh tịnh nhĩ, văn tam thiên đại
thiên thế giới, hạ chí A Tỳ địa ngục,
thượng chí Hữu Đảnh. Kỳ trung nội ngoại
chủng chủng ngữ ngôn, âm thanh, tượng thanh, mă thanh,
ngưu thanh, xa thanh, đề khốc thanh, sầu thán thanh,
loa thanh, cổ thanh, chung thanh, linh thanh, tiếu thanh, ngữ
thanh, nam thanh, nữ thanh, đồng tử thanh, đồng
nữ thanh, pháp thanh, phi pháp thanh, khổ thanh, lạc thanh, phàm
phu thanh, thánh nhân thanh, hỷ thanh, bất hỷ thanh, thiên
thanh, long thanh, Dạ Xoa thanh, Càn Thát Bà thanh, A Tu La thanh,
Ca Lâu La thanh, Khẩn Na La thanh, Ma Hầu La Già thanh, hỏa
thanh, thủy thanh, phong thanh, địa ngục thanh, súc sanh
thanh, ngạ quỷ thanh, tỳ-kheo thanh, tỳ-kheo-ni thanh, Thanh
Văn thanh, Bích Chi Phật thanh, Bồ Tát thanh, Phật
thanh. Dĩ yếu ngôn chi, tam thiên đại thiên thế giới
trung nhất thiết nội ngoại sở hữu chư
thanh, tuy vị
đắc Thiên Nhĩ, dĩ phụ mẫu sở sanh thanh
tịnh thường nhĩ, giai tất văn tri. Như thị
phân biệt chủng chủng âm thanh, nhi bất hoại nhĩ
căn”. Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử
nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Phụ mẫu sở sanh
nhĩ, thanh tịnh vô trược uế. Dĩ thử thường
nhĩ văn. Tam thiên thế giới thanh. Tượng, mă
xa, ngưu thanh. Chung, linh, loa, cổ thanh. Cầm, sắt, không
hầu thanh. Tiêu, địch chi âm thanh. Thanh tịnh hảo
ca thanh. Thính chi nhi bất trước. Vô số chủng
nhân thanh. Văn tất năng giải liễu. Hựu văn
chư thiên thanh, vi diệu chi ca âm, cập văn nam nữ
thanh. Đồng tử, đồng nữ thanh. Sơn, xuyên,
hiểm cốc trung, Ca Lăng Tần Già thanh, Mạng Mạng
đẳng chư điểu, tất văn kỳ âm thanh.
Địa ngục chúng khổ thống, chủng chủng
sở độc thanh. Ngạ quỷ cơ khát bức, cầu
sách ẩm thực thanh. Chư A Tu La đẳng, cư tại
đại hải biên, tự cộng ngôn ngữ thời, xuất
ư đại âm thanh. Như thị thuyết pháp giả,
an trụ ư thử gian, dao văn thị chúng thanh, nhi bất
hoại nhĩ căn. Thập phương thế giới
trung, cầm thú minh tương hô. Kỳ thuyết pháp chi nhân,
ư thử tất văn chi. Kỳ chư Phạm Thiên
thượng, Quang Âm cập Biến Tịnh, năi chí Hữu
Đảnh Thiên, ngôn ngữ chi âm thanh. Pháp sư trụ ư
thử, tất giai đắc văn chi. Nhất thiết tỳ-kheo
chúng, cập chư tỳ-kheo-ni. Nhược độc tụng
kinh điển, nhược vị tha nhân thuyết. Pháp
sư trụ ư thử, tất giai đắc văn chi.
Phục hữu chư Bồ Tát, độc tụng ư
kinh pháp. Nhược vị tha nhân thuyết, soạn tập
giải kỳ nghĩa. Như thị chư âm thanh, tất
giai đắc văn chi. Chư Phật đại thánh tôn,
giáo hóa chúng sanh giả, ư chư đại hội trung,
diễn thuyết vi diệu pháp. Tŕ thử Pháp Hoa giả, tất
giai đắc văn chi. Tam thiên đại thiên giới, nội
ngoại chư âm thanh. Hạ chí A Tỳ ngục, thượng
chí Hữu Đảnh thiên, giai văn kỳ âm thanh, nhi bất
hoại nhĩ căn. Kỳ nhĩ thông lợi cố, tất
năng phân biệt tri. Tŕ thị Pháp Hoa giả, tuy vị đắc
Thiên Nhĩ, đản dụng sở sanh nhĩ, công đức
dĩ như thị.
(經)復次常精進。若善男子善女人。受持此經。若讀。若誦。若解說。若書寫。得千二百耳功德。以是清淨耳。聞三千大千世界。下至阿鼻地獄。上至有頂。其中內外種種語言音聲。象聲。馬聲。牛聲。車聲。啼哭聲。愁歎聲。螺聲。鼓聲。鐘聲。鈴聲。笑聲。語聲。男聲。女聲。童子聲。童女聲。法聲非法聲。苦聲。樂聲。凡夫聲。聖人聲。喜聲。不喜聲。天聲。龍聲。夜叉聲。乾闥婆聲。阿修羅聲。迦樓羅聲。緊那羅聲。摩睺羅伽聲。火聲。水聲。風聲。地獄聲。畜生聲。餓鬼聲。比丘聲。比丘尼聲。聲聞聲。辟支佛聲。菩薩聲。佛聲。以要言之。三千大千世界中一切內外所有諸聲。雖未得天耳。以父母所生清淨常耳。皆悉聞知。如是分別種種音聲。而不壞耳根。爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。父母所生耳。清淨無濁穢。以此常耳聞。三千世界聲。象馬車牛聲。鐘鈴螺鼓聲。琴瑟箜篌聲。簫笛之音聲。清淨好歌聲。聽之而不著。無數種人聲。聞悉能解了。又聞諸天聲。微妙之歌音。及聞男女聲。童子童女聲。山川險谷中。迦陵頻伽聲。命命等諸鳥。悉聞其音聲。地獄眾苦痛。種種楚毒聲。餓鬼饑渴逼。求索飲食聲。諸阿修羅等。居在大海邊。自共言語時。出於大音聲。如是說法者。安住於此間。遙聞是眾聲。而不壞耳根。十方世界中。禽獸鳴相呼。其說法之人。於此悉聞之。其諸梵天上。光音及徧淨。乃至有頂天。言語之音聲。法師住於此。悉皆得聞之。一切比丘眾。及諸比丘尼。若讀誦經典。若為他人說。法師住於此。悉皆得聞之。復有諸菩薩。讀誦於經法。若為他人說。撰集解其義。如是諸音聲。悉皆得聞之。諸佛大聖尊。教化眾生者。於諸大會中。演說微妙法。持此法華者。悉皆得聞之。三千大千界。內外諸音聲。下至阿鼻獄。上至有頂天。皆聞其音聲。而不壞耳根。其耳聰利故。悉能分別知。持是法華者。雖未得天耳。但用所生耳。功德已如是。
(Kinh: Lại
này Thường Tinh Tấn! Nếu thiện nam tử, thiện
nữ nhân thọ tŕ kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng,
hoặc giải nói, hoặc biên chép, sẽ đắc một
ngàn hai trăm công đức nơi tai. Dùng tai thanh tịnh ấy,
nghe trong tam thiên đại thiên thế giới, dưới
là tới địa ngục A Tỳ, trên là đến trời
Hữu Đảnh, các thứ ngôn ngữ âm thanh trong ngoài nơi
đó: Tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng trâu, tiếng
xe, tiếng gào khóc, tiếng sầu than, tiếng tù và, tiếng
trống, tiếng chuông, tiếng linh, tiếng cười,
tiếng nói, tiếng nam, tiếng nữ, tiếng trẻ
trai, tiếng trẻ gái, tiếng pháp, tiếng phi pháp, tiếng
khổ, tiếng lạc, tiếng phàm phu, tiếng thánh nhân,
tiếng mừng, tiếng chẳng mừng, tiếng trời,
tiếng rồng, tiếng Dạ Xoa, tiếng Càn Thát Bà, tiếng
A Tu La, tiếng Ca Lâu La, tiếng Khẩn Na La, tiếng Ma Hầu
La Già, tiếng lửa, tiếng nước, tiếng gió, tiếng
địa ngục, tiếng súc sanh, tiếng ngạ quỷ,
tiếng tỳ-kheo, tiếng tỳ-kheo-ni, tiếng Thanh
Văn, tiếng Bích Chi Phật, tiếng Bồ Tát, tiếng
Phật. Nói chung, hết thảy tất
cả các thứ tiếng
trong ngoài tam thiên đại thiên thế giới. Tuy chưa đắc
Thiên Nhĩ, dùng tai b́nh thường thanh tịnh
do cha mẹ sanh ra, thảy đều
nghe biết, phân biệt
các thứ âm thanh như vậy, nhưng chẳng hoại nhĩ
căn”. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc
lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Tai do cha mẹ
sanh, thanh tịnh, chẳng nhơ bẩn. Dùng tai thường
ấy nghe, tiếng
trong cơi tam thiên. Tiếng voi, ngựa, xe, trâu. Tiếng chuông,
linh, ốc, trống. Tiếng cầm, sắt, không hầu.
Âm thanh của tiêu, sáo. Tiếng ca hay thanh tịnh. Tuy nghe, chẳng
chấp trước. Tiếng vô số loại người,
nghe rồi đều hiểu được. Lại nghe
tiếng chư thiên, tiếng ca ngâm vi diệu. Và nghe tiếng
nam, nữ. Tiếng bé trai, bé gái. Núi, sông, hang hiểm trở.
Tiếng Ca Lăng Tần Già (Kalaviṅka), tiếng Mạng
Mạng (Jīvakajīvaka)[32]… các chim. Đều
nghe âm thanh ấy. Địa ngục các đau khổ, các
thứ tiếng khổ độc, ngạ quỷ đói khát
bức, tiếng cầu t́m thức ăn. Các loài A Tu La, ở
bên cạnh biển cả, lúc cùng nhau tṛ chuyện, vang ra âm
thanh lớn. Người thuyết pháp như thế, an trụ
ở nơi đây, vẳng nghe các tiếng ấy, nhưng
chẳng hư nhĩ căn. Trong mười phương thế
giới, tiếng cầm thú gọi nhau. Người thuyết
pháp khi ấy, ở đây thảy đều nghe. Âm thanh của
ngôn ngữ, trên cơi trời Phạm Thiên, Quang Âm (Ābhāsvara)
và Biến Tịnh (Śubhakṛtsna)[33], cho đến trời
Hữu Đảnh. Âm thanh các ngôn ngữ, pháp sư ở nơi
đây, thảy đều được nghe thấy. Hết
thảy các tỳ-kheo, và các tỳ-kheo-ni, hoặc đọc
tụng kinh điển, hoặc v́ người khác nói. Pháp
sư trụ nơi đây, thảy đều nghe thấy
rơ. Lại có các Bồ Tát, đọc tụng các kinh pháp, hoặc
v́ người khác nói, soạn tập, giải ư nghĩa. Các
âm thanh như thế, thảy đều được
nghe thấy. Chư Phật đại thánh tôn, đấng
giáo hóa chúng sanh, ở trong các đại hội, diễn nói
pháp vi diệu. Người tŕ kinh Pháp Hoa, thảy đều
được nghe thấy. Cơi tam thiên đại thiên, các âm
thanh trong ngoài, dưới tới ngục A Tỳ, trên đến
trời Hữu Đảnh, đều nghe âm thanh ấy, mà
chẳng hoại nhĩ căn. Do v́ tai thông sáng, đều
hay phân biệt biết. Người tŕ kinh Pháp Hoa, tuy chưa
đắc Thiên Nhĩ, nhưng nơi tai bẩm sanh, công đức
đă như vậy).
Nghe trọn khắp
mười pháp giới trong ngoài cơi đại thiên, nghe tiếng
của lục đạo, tức là nhục nhĩ và thiên
nhĩ. Nghe Nhị Thừa, tức là huệ nhĩ. Nghe Bồ
Tát tức là pháp nhĩ. Nghe Phật tức là Phật
nhĩ. Lại tai do cha mẹ sanh ra tức là nhục nhĩ.
Có thể nghe trong ngoài tức là thiên nhĩ. Nghe mà chẳng chấp
trước chính là huệ nhĩ. Đều có thể phân
biệt biết rơ, tức là pháp nhĩ. Cùng lúc nghe lẫn
nhau, chẳng thể nghĩ bàn, tức là Phật nhĩ.
19.2.3. Tỵ căn
(Kinh)
“Phục
thứ Thường Tinh Tấn! Nhược thiện nam tử,
thiện nữ nhân, thọ tŕ thị kinh, nhược độc,
nhược tụng, nhược giải thuyết, nhược
thư tả, thành tựu bát bách tỵ công đức. Dĩ
thị thanh tịnh tỵ căn, văn ư tam thiên đại
thiên thế giới thượng, hạ, nội, ngoại
chủng chủng chư hương: Tu Mạn Na hoa
hương, Xà Đề hoa hương, Mạt Lợi hoa
hương, Chiêm Bặc hoa hương, Ba La La hoa
hương, xích liên hoa hương, thanh liên hoa hương,
bạch liên hoa hương, hoa thụ hương, quả thụ
hương, Chiên Đàn hương, trầm thủy hương,
Đa Ma La Bạt hương, Đa Già La hương, cập
thiên vạn chủng ḥa
hương. Nhược mạt, nhược hoàn, nhược
đồ hương. Tŕ thị kinh giả, ư thử gian
trụ, tất năng phân biệt. Hựu phục biệt
tri chúng sanh chi hương: Tượng
hương, mă hương, ngưu dương đẳng hương,
nam hương, nữ hương, đồng tử
hương, đồng nữ hương, cập thảo
mộc tùng lâm hương. Nhược cận, nhược
viễn, sở hữu chư hương, tất giai đắc văn, phân biệt
bất thác. Tŕ thị kinh giả, tuy trụ ư thử,
diệc văn thiên thượng chư thiên chi hương,
Ba Lợi Chất Đa La, Câu Bệ Đà La thụ hương,
cập Mạn Đà La hoa hương, Ma Ha Mạn Đà La
hoa hương, Mạn Thù Sa hoa hương, Ma Ha Mạn Thù
Sa hoa hương, Chiên Đàn, trầm thủy, chủng chủng
mạt hương, chư tạp hoa hương. Như thị
đẳng thiên hương ḥa hợp sở xuất chi
hương, vô bất văn tri. Hựu văn chư thiên thân
hương, Thích Đề Hoàn Nhân tại thắng điện
thượng, ngũ dục ngu lạc hy hư thời hương.
Nhược tại Diệu Pháp Đường thượng,
vị Đao Lợi chư thiên thuyết pháp thời hương.
Nhược ư chư viên du hư thời hương, cập
dư thiên đẳng nam nữ thân hương, giai tất
dao văn. Như thị triển chuyển, năi chí Phạm
Thế. Thượng chí Hữu Đảnh chư thiên thân
hương, diệc giai văn chi. Tịnh văn chư
thiên sở thiêu chi hương, cập Thanh Văn hương,
Bích Chi Phật hương, Bồ Tát hương, chư Phật
thân hương, diệc
giai dao văn, tri kỳ sở tại. Tuy văn thử hương,
nhiên ư tỵ căn bất hoại, bất thác. Nhược
dục phân biệt, vị tha nhân thuyết, ức niệm
bất mậu”. Nhĩ
thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết
kệ ngôn: - Thị nhân tỵ thanh tịnh, ư thử thế
giới trung. Nhược hương, nhược xú vật,
chủng chủng tất văn tri. Tu Mạn Na, Xà Đề,
Đa Ma La, Chiên Đàn, trầm thủy cập quế
hương. Chủng chủng hoa quả hương. Cập
chư chúng sanh hương. Nam tử nữ nhân
hương. Thuyết pháp giả viễn trụ, văn
hương tri sở tại. Đại thế Chuyển Luân
Vương, tiểu Chuyển Luân cập tử, quần thần
chư cung nhân. Văn hương tri sở tại. Thân sở
trước trân bảo, cập địa trung bảo tạng,
Chuyển luân vương bảo nữ. Văn hương tri
sở tại. Chư nhân nghiêm thân cụ, y phục cập
anh lạc, chủng chủng sở đồ hương.
Văn hương tri kỳ thân. Chư thiên nhược hành,
tọa, du hư cập thần biến. Tŕ thị Pháp Hoa giả,
văn hương tất năng tri. Chư thụ hoa quả
thật, cập tô du hương khí. Tŕ kinh giả trụ
thử, tất tri kỳ sở tại. Chư sơn thâm hiểm
xứ, Chiên Đàn thụ hoa phu, chúng sanh tại trung giả,
văn hương tất năng tri. Thiết Vi sơn, đại
hải, địa trung chư chúng sanh. Tŕ kinh giả văn
hương, tất tri kỳ sở tại. A Tu La nam nữ,
cập kỳ chư quyến thuộc. Đấu tránh du hư
thời, văn hương giai năng tri. Khoáng dă, hiểm ải
xứ, sư tử, tượng, hổ, lang, dă ngưu, thủy
ngưu đẳng, văn hương tri sở tại. Nhược
hữu hoài nhâm giả, vị biện kỳ nam nữ, vô căn
cập phi nhân, văn hương tất năng tri. Dĩ văn
hương lực cố, tri kỳ sơ hoài nhâm, thành tựu,
bất thành tựu. An lạc sản phước tử. Dĩ
văn hương lực cố, tri nam nữ sở niệm,
nhiễm dục si khuể tâm. Diệc tri tu thiện giả.
Địa trung chúng phục tạng, kim ngân chư trân bảo,
đồng khí chi sở thịnh. Văn hương tất
năng tri. Chủng chủng chư anh lạc, vô năng thức
kỳ giá, văn hương tri quư tiện, xuất xứ
cập sở tại. Thiên thượng chư hoa đẳng,
Mạn Đà, Mạn Thù Sa, Ba Lợi Chất Đa thụ,
văn hương tất năng tri. Thiên thượng
chư cung điện, thượng trung hạ sai biệt,
chúng bảo hoa trang nghiêm, văn hương tất năng
tri. Thiên viên lâm thắng điện, chư quán, diệu pháp
đường. Tại trung nhi ngu lạc, văn hương
tất năng tri. Chư thiên nhược thính pháp, hoặc
thọ ngũ dục thời, lai văng hành tọa ngọa, văn
hương tất năng tri. Thiên nữ sở trước
y, hảo hoa hương trang nghiêm, châu toàn du hư thời, văn
hương tất năng tri. Như thị triển chuyển
thượng, năi chí ư Phạm Thế. Nhập Thiền,
xuất Thiền giả, văn hương tất năng
tri. Quang Âm, Biến Tịnh thiên, năi chí ư Hữu Đảnh,
sơ sanh cập thoái một, văn hương tất
năng tri. Chư tỳ-kheo chúng đẳng. Ư pháp thường
tinh tấn. Nhược tọa, nhược kinh hành, cập
độc tụng kinh điển. Hoặc tại lâm thụ
hạ, chuyên tinh nhi tọa Thiền. Tŕ kinh giả văn hương,
tất tri kỳ sở tại. Bồ Tát chí kiên cố, tọa
Thiền, nhược độc tụng, hoặc vị nhân
thuyết pháp, văn hương tất năng tri. Tại
tại phương Thế Tôn, nhất thiết sở cung
kính, mẫn chúng nhi thuyết pháp, văn hương tất
năng tri. Chúng sanh tại Phật tiền, văn kinh giai hoan
hỷ. Như pháp nhi tu hành, văn hương tất
năng tri. Tuy vị đắc Bồ Tát, vô lậu pháp sanh
tỵ, nhi thị tŕ kinh giả, tiên đắc thử tỵ
tướng.
(經)復次常精進。若善男子善女人。受持是經。若讀。若誦。若解說。若書寫。成就八百鼻功德。以是清淨鼻根。聞於三千大千世界上下內外種種諸香。須曼那華香。闍提華香。末利華香。薝蔔華香。波羅羅華香。赤蓮華香。青蓮華香。白蓮華香。華樹香。果樹香。旃檀香。沉水香。多摩羅跋香。多伽羅香。及千萬種和香。若末。若丸。若塗香。持是經者於此間住。悉能分別。又復別知眾生之香。象香。馬香。牛羊等香。男香。女香。童子香。童女香。及草木叢林香。若近若遠所有諸香。悉皆得聞。分別不錯。持是經者。雖住於此。亦聞天上諸天之香。波利質多羅。拘鞞陀羅樹香。及曼陀羅華香。摩訶曼陀羅華香。曼殊沙華香。摩訶曼殊沙華香。旃檀。沉水。種種末香。諸雜華香。如是等天香和合所出之香。無不聞知。又聞諸天身香。釋提桓因在勝殿上。五欲娛樂嬉戲時香。若在妙法堂上。為忉利諸天說法時香。若於諸園遊戲時香。及餘天等男女身香。皆悉遙聞。如是展轉。乃至梵世。上至有頂諸天身香。亦皆聞之。幷聞諸天所燒之香。及聲聞香。辟支佛香。菩薩香。諸佛身香。亦皆遙聞。知其所在。雖聞此香。然於鼻根不壞不錯。若欲分別為他人說。憶念不謬。爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。是人鼻清淨。於此世界中。若香若臭物。種種悉聞知。須曼那闍提。多摩羅旃檀。沉水及桂香。種種華果香。及諸眾生香。男子女人香。說法者遠住。聞香知所在。大勢轉輪王。小轉輪及子。群臣諸宮人。聞香知所在。身所著珍寶。及地中寶藏。轉輪王寶女。聞香知所在。諸人嚴身具。衣服及瓔珞。種種所塗香。聞香知其身。諸天若行坐。遊戲及神變。持是法華者。聞香悉能知。諸樹華果實。及酥油香氣。持經者住此。悉知其所在。諸山深險處。栴檀樹華敷。眾生在中者。聞香悉能知。鐵圍山大海。地中諸眾生。持經者聞香。悉知其所在。阿修羅男女。及其諸眷屬。鬥諍遊戲時。聞香皆能知。曠野險隘處。師子象虎狼。野牛水牛等。聞香知所在。若有懷妊者。未辨其男女。無根及非人。聞香悉能知。以聞香力故。知其初懷妊。成就不成就。安樂產福子。以聞香力故。知男女所念。染欲癡恚心。亦知修善者。地中眾伏藏。金銀諸珍寶。銅器之所盛。聞香悉能知。種種諸瓔珞。無能識其價。聞香知貴賤。出處及所在。天上諸華等。曼陀曼殊沙。波利質多樹。聞香悉能知。天上諸宮殿。上中下差別。眾寶華莊嚴。聞香悉能知。天園林勝殿。諸觀妙法堂。在中而娛樂。聞香悉能知。諸天若聽法。或受五欲時。來往行坐臥。聞香悉能知。天女所著衣。好華香莊嚴。周旋遊戲時。聞香悉能知。如是展轉上。乃至於梵世。入禪出禪者。聞香悉能知。光音徧淨天。乃至於有頂。初生及退沒。聞香悉能知。諸比丘眾等。於法常精進。若坐若經行。及讀誦經典。或在林樹下。專精而坐禪。持經者聞香。悉知其所在。菩薩志堅固。坐禪若讀誦。或為人說法。聞香悉能知。在在方世尊。一切所恭敬。愍眾而說法。聞香悉能知。眾生在佛前。聞經皆歡喜。如法而修行。聞香悉能知。雖未得菩薩。無漏法生鼻。而是持經者。先得此鼻相。
(Kinh: “Lại
này Thường Tinh Tấn! Nếu thiện nam tử, thiện
nữ nhân thọ tŕ kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng,
hoặc giải nói, hoặc biên chép, sẽ thành tựu tám
trăm công đức nơi mũi. Dùng tỵ căn thanh tịnh
ấy để ngửi các thứ mùi hương trong tam
thiên đại thiên thế giới, trong, ngoài, trên dưới:
Mùi hoa Tu Mạn Na, mùi hoa Xà Đề (Jati)[34], mùi hoa Mạt Lợi
(Mallikā)[35],
mùi hoa Chiêm Bặc, mùi hoa Ba La La (Pāṭala)[36], mùi hoa sen đỏ,
mùi hoa sen xanh, mùi hoa sen trắng, mùi cây có hoa, mùi cây ăn trái,
mùi Chiên Đàn, mùi trầm thủy, mùi Đa Ma La Bạt (Tamāla),
mùi Đa Già La (Tagara)[37], và ngàn vạn các thứ hương
ḥa hợp: Hoặc bột, hoặc viên, hoặc hương
bôi. Người tŕ kinh này ở nơi đây đều có
thể phân biệt. Lại c̣n phân biệt
biết từng mùi của chúng sanh: Mùi voi, mùi ngựa, mùi trâu, dê v.v… mùi
nam, mùi nữ, mùi bé trai, mùi bé gái, và mùi hương thảo mộc,
rừng rậm. Dù gần hay xa, tất cả các mùi đều
ngửi thấy, phân biệt chẳng sai. Người tŕ kinh
này tuy trụ ở đây, cũng ngửi thấy mùi của
chư thiên trên cơi trời: Mùi cây Ba Lợi Chất Đa La
(Pāracitraka)[38], cây Câu Bệ
Đà La (Kovidāra)[39], và mùi hoa Mạn
Đà La, mùi hoa Ma Ha Mạn Đà La, mùi hoa Mạn Thù Sa, mùi hoa
Ma Ha Mạn Thù Sa, Chiên Đàn, trầm thủy, các thứ hương
bột, mùi của các thứ hoa. Mùi sanh từ các thứ hương
trời ḥa hợp như thế, không ǵ chẳng ngửi thấy.
Lại ngửi thấy mùi hương nơi thân của chư
thiên: Mùi hương lúc Thích Đề Hoàn Nhân ở trong cung
điện thù thắng, hưởng thụ ngũ dục,
vui chơi, hoặc mùi hương khi [ông ta] ở Diệu Pháp
Đường v́ chư thiên Đao Lợi thuyết pháp.
Hoặc mùi hương khi dạo chơi nơi các vườn,
và mùi hương nơi thân của chư thiên nam nữ khác,
thảy đều từ xa ngửi thấy. Lần lượt
như thế cho đến trời Phạm Thế, cho tới
mùi hương nơi thân của chư thiên Hữu Đảnh,
cũng đều ngửi thấy. Và ngửi thấy mùi hương
do chư thiên đốt, và mùi Thanh Văn, mùi Bích Chi Phật,
mùi Bồ Tát, mùi nơi thân chư Phật, cũng đều
ngửi thấy từ xa, biết các Ngài ở nơi đâu.
Tuy ngửi các mùi ấy, nhưng tỵ căn chẳng hoại,
chẳng sai lầm. Nếu muốn phân biệt, v́ người
khác nói, sẽ nhớ nghĩ chẳng sai lầm”. Lúc bấy
giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa
này, bèn nói kệ rằng: - Người ấy mũi thanh tịnh,
ở trong thế giới này, vật dù thơm hay thối, các
thứ đều ngửi biết. Tu Mạn Na, Xà Đề,
Đa Ma La, Chiên Đàn, trầm thủy và quế
hương. Mùi các thứ hoa quả, và mùi các chúng sanh. Mùi nam
tử, nữ nhân. Người thuyết pháp ở xa, ngửi
mùi biết ở đâu. Vua Chuyển Luân thế lớn, tiểu
Chuyển Luân và con, quần thần, các cung nhân, ngửi mùi
biết ở đâu. Thân đeo khoác trân bảo, và kho báu
trong đất, Chuyển Luân Vương bảo nữ, ngửi
mùi biết ở đâu. Vật trang hoàng thân người, y
phục và chuỗi ngọc, các thứ hương để
bôi, ngửi mùi biết thân họ. Chư thiên đi hay ngồi,
vui chơi và thần biến. Người tŕ Pháp Hoa ấy,
ngửi mùi đều biết trọn. Hoa, quả, hạt các
cây, và mùi hương bơ, dầu. Người tŕ kinh ở
đây, đều biết được nơi chốn. Các
núi sâu, chốn hiểm, cây Chiên Đàn trổ hoa, chúng sanh ở
trong đó, ngửi hương đều biết trọn.
Núi Thiết Vi, biển cả, các chúng sanh trong đất.
Người tŕ kinh ngửi mùi, đều biết được
nơi chốn. A Tu La nam nữ, cùng với các quyến
thuộc, khi đấu tranh, vui chơi, ngửi hương
đều biết trọn. Nơi hoang vu hiểm trở, sư
tử, voi, hổ, sói, trâu rừng, trâu nước thảy,
ngửi mùi biết chỗ ở. Nếu có người mang
thai, chưa phân định trai, gái, thiếu căn hoặc
phi nhân, ngửi mùi đều biết trọn. Do bởi sức ngửi
mùi, biết người mới hoài thai, thành tựu hay không
thành. An lạc sanh con phước. Do nhờ sức ngửi
mùi, biết nam nữ ư niệm, nhiễm dục, tâm si, giận.
Cũng biết người tu thiện. Các kho tàng trong đất,
vàng, bạc, các trân bảo, chỗ có chứa chất đồng,
ngửi mùi đều biết hết. Đủ mọi thứ
anh lạc, chẳng thể biết giá trị, ngửi mùi
biết mắc rẻ, xuất xứ và chỗ có. Các loại
hoa cơi trời, Mạn Đà, Mạn Thù Sa, cây Ba Lợi Chất
Đa, ngửi mùi đều biết trọn. Các cung điện
cơi trời, thượng, trung, hạ sai khác. Các hoa báu trang
nghiêm, ngửi mùi đều biết trọn. Vườn rừng
trời, điện đẹp, đền đài, diệu
pháp đường, vui sướng ngự trong đó, ngửi
mùi đều biết trọn. Nếu chư thiên nghe pháp, hoặc
lúc hưởng ngũ dục. Qua lại, đi, ngồi, nằm,
ngửi mùi đều biết trọn. Thiên nữ khoác áo trời,
hoa hương tốt trang nghiêm, lúc qua lại vui chơi, ngửi
mùi đều biết trọn. Dần cao hơn như thế,
cho đến trời Phạm Thế, kẻ nhập Thiền,
xuất Thiền, ngửi mùi đều biết trọn. Trời
Quang Âm, Biến Tịnh, cho đến trời Hữu Đảnh,
mới sanh và mất đi. Ngửi mùi đều biết
trọn. Các bậc tỳ-kheo tăng, nơi pháp thường
tinh tấn, tĩnh tọa hoặc kinh hành, và đọc tụng
kinh điển. Hoặc ở dưới rừng cây, chuyên
tinh để tọa Thiền. Người tŕ kinh ngửi
mùi, đều biết chỗ của họ. Bồ Tát chí kiên
cố, tọa Thiền hoặc đọc tụng. Hoặc
v́ người thuyết pháp, ngửi mùi đều biết
trọn. Thế Tôn khắp mọi nơi, được hết
thảy cung kính, thương chúng sanh thuyết pháp. Ngửi
mùi đều biết trọn. Chúng sanh đối trước
Phật, nghe kinh đều hoan hỷ, đúng như pháp tu
hành. Ngửi mùi đều biết trọn. Tuy chưa đắc
Bồ Tát, mũi vô lậu pháp sanh, nhưng người tŕ
kinh đó, được trước tướng mũi này).
Mũi do cha mẹ sanh
ra tức nhục tỵ. [Ngửi khắp các mùi] trong ngoài đại
thiên tức là thiên tỵ. Chẳng nhiễm, chẳng chấp,
tức huệ tỵ. Phân biệt chẳng lầm, tức pháp
tỵ. Cùng lúc dùng lẫn cho nhau, tức là Phật tỵ. Đấy
là nói rơ [các căn] dùng lẫn cho nhau rơ ràng, cặn kẽ nhất.
Biết tốt xấu, biện định sang hèn, phân định
sự trang nghiêm nơi cung trời v.v… tức là mũi có tác
dụng của mắt. Đọc kinh, thuyết pháp, ngửi
mùi đều biết trọn, tức là mũi có tác dụng
của tai. Hoa quả, hạt của các thứ cây và mùi bơ
dầu [người tŕ kinh đều ngửi biết], tức
là mũi có tác dụng của lưỡi. Nhập Thiền,
xuất Thiền, Thiền có tám cảm xúc, ngũ dục
vui đùa, cũng là Xúc Trần, tức là mũi có tác dụng
của thân. Tâm nhiễm, dục, si khuể, cũng biết
người tu thiện, tức là mũi có tác dụng của
ư. Phàm mê t́nh, chấp kiến, tác dụng của mũi sẽ
kém cỏi nhất. V́ thế Lục Thông của Tiểu Thừa
chỉ nói Nhăn, Nhĩ, Thân, Ư, chẳng nói đến hai thứ
thần thông nơi mũi và lưỡi. Nhưng lưỡi
có thể thuyết pháp, vẫn c̣n thù thắng hơn đôi
chút. Mũi chỉ để thở, chẳng thể làm ǵ
khác! Nay riêng chương này nêu cặn kẽ tác dụng thù
thắng của nó, chánh hiển viên thông diệu tánh, quả
thật chẳng có hơn kém! Chỉ
là thuận theo mê t́nh, bèn nói tám trăm
[công đức]. Tương tự Phật tỵ sẽ rành
rành là một ngàn hai trăm [công đức]!
19.2.4. Thiệt căn
(Kinh) “Phục thứ Thường
Tinh Tấn! Nhược thiện nam tử, thiện nữ
nhân thọ tŕ thị kinh, nhược độc, nhược
tụng, nhược giải thuyết, nhược thư
tả, đắc thiên nhị bách thiệt công đức.
Nhược hảo, nhược xú, nhược mỹ, bất
mỹ, cập chư khổ sáp vật, tại kỳ thiệt
căn, giai biến thành thượng vị, như thiên cam
lộ, vô bất mỹ giả. Nhược dĩ thiệt
căn, ư đại chúng trung hữu sở diễn thuyết,
xuất thâm diệu thanh, năng nhập kỳ tâm, giai linh hoan
hỷ, khoái lạc. Hựu chư thiên tử, thiên nữ,
Thích, Phạm chư thiên, văn thị thâm diệu âm thanh,
hữu sở diễn thuyết, ngôn luận thứ đệ,
giai tất lai thính, cập chư long, long nữ, Dạ Xoa,
Dạ Xoa nữ, Càn Thát Bà, Càn Thát Bà nữ, A Tu La, A Tu La nữ,
Ca Lâu La, Ca Lâu La nữ, Khẩn Na La, Khẩn Na La nữ, Ma
Hầu La Già, Ma Hầu La Già nữ, vị thính pháp cố, giai lai
thân cận, cung kính, cúng dường, cập tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, quốc vương, vương
tử, quần thần, quyến thuộc, tiểu Chuyển
Luân Vương, đại Chuyển Luân Vương, thất
bảo, thiên tử, nội ngoại quyến thuộc, thừa
kỳ cung điện, câu lai
thính pháp. Dĩ thị Bồ Tát thiện thuyết pháp cố,
Bà-la-môn, cư sĩ, quốc nội nhân dân, tận kỳ h́nh
thọ, tùy thị cúng dường. Hựu chư Thanh
Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, chư Phật thường
nhạo kiến chi. Thị nhân sở tại phương diện,
chư Phật giai hướng kỳ xứ thuyết pháp,
tất năng thọ tŕ nhất thiết Phật pháp. Hựu
năng xuất ư thâm diệu pháp âm”. Nhĩ thời, Thế
Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn:
- Thị nhân thiệt căn tịnh, chung bất thọ ác
vị. Kỳ hữu sở thực đạm, tất giai
thành cam lộ. Dĩ thâm tịnh diệu thanh, ư đại
chúng thuyết pháp. Dĩ chư nhân duyên dụ, dẫn đạo
chúng sanh tâm. Văn giả giai hoan hỷ, thiết chư thượng
cúng dường. Chư thiên, long, Dạ Xoa, cập A Tu La đẳng,
giai dĩ cung kính tâm, nhi cộng lai thính pháp. Thị thuyết
pháp chi nhân, nhược dục dĩ diệu âm, biến măn
tam thiên giới, tùy ư tức năng chí. Đại, tiểu
Chuyển Luân Vương, cập thiên tử, quyến thuộc,
hiệp chưởng cung kính tâm, thường lai thính thọ
pháp. Chư thiên, long, Dạ Xoa, La Sát, Tỳ Xá Xà, diệc dĩ
hoan hỷ tâm, thường nhạo lai cúng dường. Phạm
thiên vương, ma vương, Tự Tại, Đại Tự
Tại, như thị chư thiên chúng, thường lai chí kỳ
sở, chư Phật cập đệ tử, văn kỳ
thuyết pháp âm, thường niệm nhi thủ hộ, hoặc
thời vị hiện thân.
(經)復次常精進。若善男子善女人。受持是經。若讀。若誦。若解說。若書寫。得千二百舌功德。若好若醜。若美不美。及諸苦澀物。在其舌根。皆變成上味。如天甘露。無不美者。若以舌根。於大眾中有所演說。出深妙聲。能入其心。皆令歡喜快樂。又諸天子天女釋梵諸天。聞是深妙音聲。有所演說。言論次第。皆悉來聽。及諸龍。龍女。夜叉。夜叉女。乾闥婆。乾闥婆女。阿修羅。阿修羅女。迦樓羅。迦樓羅女。緊那羅。緊那羅女。摩睺羅伽。摩睺羅伽女。為聽法故。皆來親近恭敬供養。及比丘。比丘尼。優婆塞。優婆夷。國王。王子。群臣眷屬。小轉輪王。大轉輪王。七寶千子。內外眷屬。乘其宮殿。俱來聽法。以是菩薩善說法故。婆羅門居士。國內人民。盡其形壽。隨侍供養。又諸聲聞。辟支佛。菩薩。諸佛。常樂見之。是人所在方面。諸佛皆向其處說法。悉能受持一切佛法。又能出於深妙法音。爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。是人舌根淨。終不受惡味。其有所食噉。悉皆成甘露。以深淨妙聲。於大眾說法。以諸因緣喻。引導眾生心。聞者皆歡喜。設諸上供養。諸天龍夜叉。及阿修羅等。皆以恭敬心。而共來聽法。是說法之人。若欲以妙音。徧滿三千界。隨意即能至。大小轉輪王。及千子眷屬。合掌恭敬心。常來聽受法。諸天龍夜叉。羅剎毗舍闍。亦以歡喜心。常樂來供養。梵天王魔王。自在大自在。如是諸天眾。常來至其所。諸佛及弟子。聞其說法音。常念而守護。或時為現身。
(Kinh: Lại này Thường
Tinh Tấn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ
tŕ kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải
nói, hoặc biên chép, sẽ được một ngàn hai trăm
công đức nơi lưỡi. Dù tốt hay xấu, dù ngon,
hay không ngon, và các vật đắng rít, ở trên cái lưỡi
ấy, đều biến thành vị ngon lành nhất như
cam lộ cơi trời, không ǵ chẳng ngon lành. Nếu dùng cái
lưỡi ấy để diễn thuyết trong đại
chúng, phát ra tiếng sâu xa, mầu nhiệm, sẽ có thể
lọt vào tâm họ, khiến cho đều hoan hỷ, sung
sướng. Lại nữa, các thiên tử, thiên nữ, Đế
Thích, Phạm Vương, chư thiên nghe âm thanh diễn nói sâu
xa, mầu nhiệm ấy, ngôn luận có thứ lớp, thảy
đều đến nghe. Và các rồng, long nữ, Dạ Xoa,
Dạ Xoa nữ, Càn Thát Bà, Càn Thát Bà nữ, A Tu La, A Tu La nữ,
Ca Lâu La, Ca Lâu La nữ, Khẩn Na La, Khẩn Na La nữ, Ma
Hầu La Già, Ma Hầu La Già nữ v́ nghe pháp đều đến
thân cận, cung kính, cúng dường. Và tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, quốc vương, vương
tử, quần thần, quyến thuộc, tiểu Chuyển
Luân Vương, đại Chuyển Luân Vương, bảy
báu, ngàn con[40],
quyến thuộc trong ngoài, nương theo cung điện
của họ, đều đến nghe pháp. Do vị Bồ
Tát ấy khéo thuyết pháp, Bà-la-môn, cư sĩ, nhân dân trong
nước cho đến hết tuổi thọ, luôn theo hầu,
cúng dường. Các Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát,
chư Phật lại thường thích trông
thấy. Chỗ người ấy ở, chư Phật đều
hướng về chỗ đó thuyết pháp, [người
ấy] đều có thể thọ tŕ hết thảy Phật
pháp. Lại có thể phát ra pháp âm sâu mầu”. Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn
nói kệ rằng: - Người ấy lưỡi thanh tịnh,
trọn chẳng nếm vị xấu. Hễ ăn nuốt
thứ ǵ, đều biến thành cam lộ. Dùng diệu thanh
sâu tịnh, thuyết pháp trong đại chúng. Dùng thí dụ,
nhân duyên, hướng dẫn tâm chúng sanh. Người nghe đều
hoan hỷ, bày đồ cúng thượng diệu. Các trời,
rồng, Dạ Xoa, và A Tu La thảy, đều dùng tâm cung
kính, cùng nhau đến nghe pháp. Nếu người thuyết
pháp ấy, muốn dùng tiếng mầu nhiệm, trọn khắp
cơi tam thiên, tùy ư liền đạt tới. Chuyển Luân Vương
lớn, bé, ngàn con trai, quyến thuộc, chắp tay, tâm cung
kính, thường tới nghe nhận pháp. Các trời, rồng,
Dạ Xoa (Yakṣa), La Sát (Rākṣasas), Tỳ Xá Xà (Piśāca)[41], cũng dùng tâm hoan
hỷ, thường thích đến cúng dường. Phạm
thiên vương, ma vương, Tự Tại, Đại Tự
Tại, các chúng trời như thế, thường đến
chỗ người ấy. Chư Phật và đệ tử,
nghe tiếng thuyết pháp ấy, thường nghĩ nhớ
thủ hộ, hoặc có lúc hiện thân).
[Lưỡi
do] cha mẹ sanh
ra tức nhục thiệt. Có thể nói trong mười pháp
giới, tức ư nghĩa ngũ thiệt đă rơ rệt rồi.
Có thể nói trong mười pháp giới tức là thiên thiệt.
Chẳng hoại tức huệ thiệt. Chẳng sai lầm
tức pháp thiệt. Cùng lúc dùng lẫn nhau tức là Phật
thiệt.
Hỏi: Các vị xấu đắng
rít, chạm vào lưỡi đều biến thành vị
ngon lành nhất, sao các sắc chạm vào mắt chẳng biến
thành diệu sắc?
[Đáp]: Các bản chú giải
cũ trả lời: Chẳng phỏng theo lệ đó được,
v́ vị có tổn hại hay lợi ích. Tổn th́ biến đổi,
chẳng tổn th́ không biến đổi. Các sắc chẳng
hoại mắt, cho nên không phỏng theo lệ ấy. Nay tôi
giải thích không giống vậy! Hết thảy các sắc
chẳng đồng Phật sắc. Hết thảy các thanh
đồng Phật thanh. Cho đến hết thảy các
pháp đều đồng Phật pháp,
đều cùng b́nh đẳng thanh tịnh, dẫu có phỏng
theo cùng một lệ vẫn chẳng trở ngại ǵ! Biết
trọn khắp hết thảy các sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp chẳng loạn, chẳng sai lầm, dẫu
phân biệt cũng chẳng trở ngại ǵ! Tuy chẳng chấp
trước mà có thể phân biệt, há giống như Nhị
Thừa quán Không ư? Tuy phân biệt mà chẳng hoại các
căn, há giống như phàm phu vướng mắc nơi
Có? [Các cách chú giải cũ chính là] đối với căn
tự tại mà lại hiểu là có trở ngại trơ trơ
vậy!
19.2.5. Thân căn
(Kinh) “Phục thứ Thường
Tinh Tấn! Nhược thiện nam tử, thiện nữ
nhân thọ tŕ thị kinh, nhược độc, nhược
tụng, nhược giải thuyết, nhược thư
tả, đắc bát bách thân công đức, đắc
thanh tịnh thân như tịnh lưu ly, chúng sanh hỷ kiến.
Kỳ thân tịnh cố, tam thiên đại thiên thế giới
chúng sanh sanh thời, tử thời, thượng, hạ, hảo,
xú, sanh thiện xứ, ác xứ, tất ư trung hiện,
cập Thiết Vi sơn, Đại Thiết Vi sơn, Di Lâu
sơn, Ma Ha Di Lâu sơn đẳng chư sơn, cập kỳ
trung chúng sanh, tất ư trung hiện. Hạ chí A Tỳ địa
ngục, thượng chí Hữu Đảnh, sở hữu
cập chúng sanh, tất ư trung hiện. Nhược Thanh
Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, chư Phật thuyết
pháp, giai ư thân trung, hiện kỳ sắc
tượng”. Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử
nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Nhược tŕ Pháp Hoa giả,
kỳ thân thậm thanh tịnh. Như bỉ tịnh lưu
ly, chúng sanh giai hỷ kiến. Hựu như tịnh minh
kính, tất kiến chư sắc tượng. Bồ Tát ư
tịnh thân, giai kiến thế sở hữu. Duy độc
tự minh liễu, dư nhân sở bất kiến. Tam thiên
thế giới trung, nhất thiết chư quần manh, thiên,
nhân, A Tu La, địa ngục, quỷ, súc sanh. Như thị
chư sắc tượng, giai ư thân trung hiện.
Chư thiên đẳng cung điện, năi chí ư Hữu
Đảnh, Thiết Vi cập Di Lâu, Ma Ha Di Lâu sơn, chư
đại hải thủy đẳng, giai ư thân trung hiện.
Chư Phật cập Thanh Văn, Phật tử Bồ Tát đẳng.
Nhược độc, nhược tại chúng, thuyết pháp tất
giai hiện. Tuy vị đắc vô lậu, pháp tánh chi diệu
thân. Dĩ thanh tịnh thường thể, nhất thiết
ư trung hiện.
(經)復次常精進。若善男子善女人。受持是經。若讀。若誦。若解說。若書寫。得八百身功德。得清淨身。如淨琉璃。眾生喜見。其身淨故。三千大千世界眾生生時。死時。上下好醜。生善處惡處。悉於中現。及鐵圍山。大鐵圍山。彌樓山。摩訶彌樓山等諸山。及其中眾生。悉於中現。下至阿鼻地獄。上至有頂。所有及眾生。悉於中現。若聲聞辟支佛菩薩諸佛說法。皆於身中現其色像。爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。若持法華者。其身甚清淨。如彼淨琉璃。眾生皆喜見。又如淨明鏡。悉見諸色像。菩薩於淨身。皆見世所有。唯獨自明了。餘人所不見。三千世界中。一切諸群萌。天人阿修羅。地獄鬼畜生。如是諸色像。皆於身中現。諸天等宮殿。乃至於有頂。鐵圍及彌樓。摩訶彌樓山。諸大海水等。皆於身中現。諸佛及聲聞。佛子菩薩等。若獨若在眾。說法悉皆現。雖未得無漏。法性之妙身。以清淨常體。一切於中現。
(Kinh: “Lại này Thường Tinh Tấn! Nếu
thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ tŕ kinh này, hoặc
đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên
chép, sẽ đắc tám trăm công đức nơi thân,
có được thân thanh tịnh như lưu ly sạch, chúng
sanh thích thấy. Do thân ấy thanh tịnh, nên chúng sanh trong
tam thiên đại thiên thế giới khi sanh, khi chết, trên,
dưới, tốt, xấu, sanh trong chốn thiện hay chốn ác, đều hiện
trong thân. Và các núi như núi Thiết Vi, núi Đại Thiết
Vi, núi Di Lâu, núi Ma Ha Di Lâu v.v… cùng với chúng sanh trong ấy đều
hiện trong đó. Dưới là đến
địa ngục A Tỳ, trên là đến trời Hữu
Đảnh, tất cả chúng sanh đều hiện trong đó. Nếu Thanh Văn, Bích
Chi Phật, Bồ Tát, chư Phật thuyết pháp, sẽ đều
hiện h́nh ảnh trong thân”. Lúc bấy giờ, đức Thế
Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng:
- Nếu người tŕ Pháp Hoa, thân sẽ rất thanh tịnh.
Như lưu ly thanh tịnh, chúng sanh đều thích thấy.
Lại như gương sáng sạch, đều thấy các h́nh sắc.
Bồ Tát nơi tịnh
thân, thấy tất cả trong đời. Chỉ riêng ḿnh
hiểu rơ, người khác chẳng trông thấy. Trong tam
thiên thế giới, hết thảy các quần manh, trời,
người, A Tu La, địa ngục, quỷ, súc sanh, các
h́nh sắc như thế, thảy đều hiện nơi
thân. Cung điện của chư thiên, cho đến trời
Hữu Đảnh. Thiết Vi và Di Lâu, núi Ma Ha Di Lâu, biển
cả, các gịng nước, đều hiện ở trong thân.
Chư Phật và Thanh Văn, Phật tử, Bồ Tát thảy.
Ở riêng hay trong chúng, thuyết pháp thảy đều hiện.
Tuy chưa đắc vô lậu, thân pháp tánh mầu nhiệm,
dùng thân thường thanh tịnh, hết thảy đều
hiện trong).
Tất cả thế gian đều
hiện trong thân [người tŕ kinh Pháp Hoa], đó là tác dụng
của nhục thân. Trên đến trời Hữu Đảnh
hiện bóng nơi thân, đó là tác dụng của thiên thân. Nhị
Thừa hiện h́nh nơi thân, đó là tác dụng của huệ
thân. Bồ Tát hiện trong thân, tức là tác dụng của
Pháp Thân. Phật hiện trong thân, tức tác dụng của
Phật thân. Cùng lúc hiện trọn vẹn, cùng lúc dùng lẫn
nhau (Phật thân). Cùng lúc chẳng sai lầm (Pháp Thân). Cùng lúc
chẳng chấp trước (huệ thân).
19.2.6. Ư căn
(Kinh) “Phục thứ Thường
Tinh Tấn. Nhược thiện nam tử, thiện nữ
nhân, Như Lai diệt hậu, thọ tŕ thị kinh, nhược
độc, nhược tụng, nhược giải thuyết,
nhược thư tả, đắc thiên nhị bách ư công
đức. Dĩ thị thanh tịnh ư căn, năi chí văn
nhất kệ, nhất cú, thông đạt vô lượng vô
biên chi nghĩa. Giải thị nghĩa dĩ, năng diễn
thuyết nhất cú, nhất kệ, chí ư nhất nguyệt,
tứ nguyệt, năi chí nhất tuế. Chư sở thuyết
pháp, tùy kỳ nghĩa thú, giai dữ Thật Tướng bất
tương vi bối. Nhược thuyết tục gian kinh
thư, trị thế ngữ ngôn, tư sanh nghiệp đẳng,
giai thuận chánh pháp. Tam thiên đại thiên thế giới
lục thú chúng sanh tâm chi sở hành, tâm sở động tác,
tâm sở hư luận, giai tất tri chi. Tuy vị đắc
vô lậu trí huệ, nhi kỳ ư căn thanh tịnh như
thử. Thị nhân hữu sở tư duy trù lượng,
giai thị Phật pháp, vô bất chân thật, diệc thị
tiên Phật kinh trung sở thuyết”. Nhĩ thời, Thế
Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn:
- Thị nhân ư thanh tịnh, minh lợi, vô trược uế.
Dĩ thử diệu ư căn, tri thượng trung hạ
pháp. Năi chí văn nhất kệ, thông đạt vô lượng
nghĩa, thứ đệ như pháp thuyết. Nguyệt, tứ
nguyệt, chí tuế. Thị thế giới nội ngoại,
nhất thiết chư chúng sanh. Nhược thiên, long, cập
nhân, Dạ Xoa, quỷ thần đẳng. Kỳ tại lục
thú trung, sở niệm nhược can chủng, tŕ Pháp Hoa
chi báo, nhất thời giai tất tri. Thập phương
vô số Phật, bách phước trang nghiêm tướng, vị
chúng sanh thuyết pháp, tất văn năng thọ tŕ. Tư
duy vô lượng nghĩa, thuyết pháp diệc vô lượng.
Chung thỉ bất
vong thác. Dĩ tŕ Pháp Hoa cố, tất tri chư pháp tướng.
Tùy nghĩa thức thứ đệ, đạt danh tự
ngữ ngôn. Như sở tri diễn thuyết. Thử nhân hữu
sở thuyết, giai thị tiên Phật pháp. Dĩ diễn thử
pháp cố, ư chúng vô sở úy. Tŕ Pháp Hoa kinh giả, ư căn
tịnh nhược tư. Tuy vị đắc vô lậu,
tiên hữu như thị tướng. Thị nhân tŕ thử
kinh, an trụ hy hữu địa, vị nhất thiết
chúng sanh, hoan hỷ nhi ái kính. Năng dĩ thiên vạn chủng,
thiện xảo chi ngữ ngôn, phân biệt nhi thuyết pháp,
tŕ Pháp Hoa kinh cố.
(經)復次常精進。若善男子善女人。如來滅後。受持是經。若讀。若誦。若解說。若書寫。得千二百意功德。以是清淨意根。乃至聞一偈一句通達無量無邊之義。解是義已。能演說一句一偈。至於一月四月乃至一歲。諸所說法。隨其義趣。皆與實相不相違背。若說俗間經書。治世語言。資生業等。皆順正法。三千大千世界六趣眾生心之所行。心所動作。心所戲論。皆悉知之。雖未得無漏智慧。而其意根清淨如此。是人有所思惟籌量。皆是佛法。無不真實。亦是先佛經中所說。爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。是人意清淨。明利無濁穢。以此妙意根。知上中下法。乃至聞一偈。通達無量義。次第如法說。月四月至歲。是世界內外。一切諸眾生。若天龍及人。夜叉鬼神等。其在六趣中。所念若干種。持法華之報。一時皆悉知。十方無數佛。百福莊嚴相。為眾生說法。悉聞能受持。思惟無量義。說法亦無量。終始不忘錯。以持法華故。悉知諸法相。隨義識次第。達名字語言。如所知演說。此人有所說。皆是先佛法。以演此法故。於眾無所畏。持法華經者。意根淨若斯。雖未得無漏。先有如是相。是人持此經。安住希有地。為一切眾生。歡喜而愛敬。能以千萬種。善巧之語言。分別而說法。持法華經故。
(Kinh: Lại này Thường
Tinh Tấn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân
sau khi Như Lai diệt độ, thọ tŕ kinh này, hoặc
đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên
chép, sẽ đắc một ngàn hai trăm công đức
nơi ư. Dùng ư căn thanh tịnh ấy, dẫu chỉ nghe một
kệ, một câu, bèn thông đạt vô lượng vô biên nghĩa.
Đă hiểu nghĩa ấy rồi, có thể diễn nói một
câu, một kệ trong một tháng, bốn tháng, cho tới một
năm. Những lời thuyết pháp thuận theo nghĩa thú,
đều chẳng trái nghịch Thật Tướng. Nếu
nói kinh sách thế tục, các lời lẽ làm khuôn phép cho cơi
đời, các nghề nghiệp kiếm sống v.v… đều
thuận theo chánh pháp. Đối với tâm hạnh, những
vận hành trong tâm, hư luận trong tâm của chúng sanh thuộc
sáu đường trong tam thiên đại thiên thế giới, thảy đều hay biết.
Tuy chưa đắc trí huệ vô lậu, nhưng ư căn đă
thanh tịnh như thế. Những điều người
ấy suy nghĩ, trù tính, cân nhắc đều là Phật
pháp, không ǵ chẳng chân thật, mà cũng là những điều
đă được nói trong kinh của cổ Phật”. Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại
nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Người ấy ư thanh
tịnh, sáng nhạy, không trược uế. Dùng diệu ư
căn ấy, biết pháp thượng, trung, hạ. Dẫu
chỉ nghe một kệ, thông đạt vô lượng
nghĩa. Đúng pháp nói thứ tự. Một, bốn tháng,
tới năm. Trong ngoài thế giới này, hết thảy các chúng
sanh, dù trời, rồng, và người, Dạ Xoa, các quỷ
thần… Ở trong khắp sáu đường, suy nghĩ
bao nhiêu thứ. Do báo tŕ Pháp Hoa, cùng lúc đều biết hết.
Mười phương vô số Phật, tướng trăm
phước trang nghiêm, v́ chúng sanh thuyết pháp, đều
nghe rồi thọ tŕ, tư duy vô lượng nghĩa. Thuyết
pháp cũng vô lượng. Đầu cuối, chẳng quên
lầm. Do tŕ kinh Pháp Hoa, đều biết các pháp tướng.
Theo nghĩa biết thứ tự, hiểu danh tự, ngôn
ngữ. Diễn thuyết theo chỗ biết. Người ấy
hễ nói năng, đều là pháp cổ Phật. V́ diễn
thuyết pháp ấy, trong chúng chẳng sợ hăi. Người
tŕ kinh Pháp Hoa, ư căn tịnh dường ấy. Tuy
chưa đắc vô lậu, đă có tướng ấy trước.
Người ấy tŕ kinh này, an trụ hy hữu địa,
được hết thảy chúng sanh, hoan hỷ mà yêu kính.
Hay dùng ngàn vạn loại, ngôn ngữ đều hay khéo, phân
biệt mà thuyết pháp. Do tŕ Pháp Hoa vậy).
Các sản nghiệp kiếm
sống trong thế gian đều thuận chánh pháp, tức
là nhân ư tịnh. Sở hành trong tâm, động tác của chư
thiên đều biết, chính là thiên ư tịnh. Bốn tháng biểu
thị Tứ Đế. Một năm là mười hai tháng,
tức biểu thị Thập Nhị Nhân Duyên. Đều
chẳng trái nghịch Thật Tướng tức là huệ
ư tịnh. Một tháng biểu thị Đại Thừa, tức
pháp ư tịnh. Những điều suy lường đều
đă được nói trong kinh Phật của Phật quá
khứ, tức là Phật ư tịnh. Cùng lúc viên minh, cùng lúc giúp
nhau, cùng lúc chẳng nhiễm, cùng lúc chẳng sai lầm. Phần
thứ hai, “nêu ra công đức
nơi cái quả của phẩm đầu để khuyên
lưu thông” đă xong!
Giải thích phẩm Pháp Sư
Công Đức đă xong; kế đó sẽ giải thích phẩm
Thường Bất Khinh Bồ Tát.
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân
Quán Hội Nghĩa
phần 13
hết
[1] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Vô
Sanh Pháp Nhẫn: Chân trí an trụ trong Thật Tướng
Lư Thể của hết thảy các pháp vốn chẳng sanh
diệt, chẳng dấy lên nghiệp hạnh”.
[2] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Văn
Tŕ Đà La Ni: Đă đắc Vô Sanh, đối với
giáo pháp đă được nghe, liền
nhớ giữ chẳng
quên”.
[3] Thế giới vi trần số: Số
lượng bằng số vi trần trong một thế giới
(một tiểu thế giới là một hệ thống vũ trụ
gồm có một núi Tu Di, nhật, nguyệt, và bốn bộ châu vây quanh núi Tu Di).
[4] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Nhạo
Thuyết Vô Ngại Biện Tài: Văn Tŕ chỉ có thể
tự hiểu. Nhạo thuyết (ưa thích nói) là
kiêm giáo hóa chúng sanh, ư nghĩa càng thêm thù thắng”.