Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa

phần 14

Đất Cổ Ngô, hậu học Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật

妙法蓮華經綸貫會義

古吳後學蕅益智旭述

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

20. Phẩm thứ hai mươi: Thường Bất Khinh Bồ Tát (Thường Bất Khinh Bồ Tát phẩm đệ nhị thập, 常不輕菩薩品第二十)

 

          Trong tâm giữ sự hiểu biết chẳng khinh thường, ngoài th́ kính trọng cảnh chẳng khinh. (Thế Giới Tất Đàn) là thân lập hạnh chẳng khinh. (Vị Nhân Tất Đàn): Miệng tuyên nói giáo pháp bất khinh. (Đối Trị Tất Đàn): Làm con mắt chẳng khinh cho mọi người. (Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn) chính là kiến giải chẳng khinh. Pháp Hoa Luận viết: “Vị Bồ Tát này biết chúng sanh có Phật tánh, chẳng dám khinh rẻ”. Phật tánh gồm năm điều:

          - Chánh nhân Phật tánh là tánh chung khắp đương nhiên sẵn có (nhân quả chung cho mê lẫn ngộ).

          - Duyên nhân Phật tánh và liễu nhân Phật tánh: Chủng tử vốn có, chẳng phải là nay mới có (vẫn là xét theo Tánh Đức mà nêu ra hai nhân (duyên nhân và liễu nhân), nhằm đối ứng với trường hợp mới huân tập, do tu giới mà đạt được).

          - Quả Phật tánh (Bồ Đề).

          - Quả quả Phật tánh (Niết Bàn) nhất định sẽ đạt được, quyết chẳng hư dối.

          (Khi liễu nhân đạt tới quả, đổi tên thành Bồ Đề. Duyên nhân khi đạt tới quả, đổi tên thành Niết Bàn. Lại nữa, ba nhân nơi Phật tánh khi đạt tới quả, liễu nhân được gọi là “ba loại Bồ Đề”, duyên nhân được gọi là “ba loại Niết Bàn”).

          Đó gọi là hiểu “bất khinh”. Dùng sự hiểu biết đó để đối xử với người khác, [thấu hiểu] người khác cũng giống như thế; đó gọi là cảnh “kính trọng, chẳng khinh”. Do kính trọng cảnh ấy, cho nên gọi là “hạnh chẳng khinh”. Tuyên nói lời ấy, sẽ gọi là “giáo pháp chẳng khinh”. Xưa kia, kẻ hủy báng dùng từ ngữ ấy (Bất Khinh) để đặt tên cho vị ấy; nay người kết tập kinh dùng danh xưng này để đặt tên cho phẩm. Đó là giải thích theo nhân duyên.

          Xét theo giáo, Tạng Giáo và Thông Giáo chẳng diễn nói Trung Đạo Phật tánh. [Tuy vậy], Biệt nhập Thông, Thông chứa Biệt (tức là giáo pháp thuộc Thông Giáo mà có chứa đựng phần nào giáo nghĩa của Biệt Giáo) th́ nói hai loại người có Phật tánh và ba hạng người chẳng có Phật tánh. Biệt Giáo th́ chỉ nói đến chánh nhân Phật tánh, chẳng nói đến có duyên nhân và liễu nhân Phật tánh, huống hồ có quả tánh và quả quả tánh ư? Nay nói “nhữ đẳng giai đương tác Phật” (các vị đều sẽ thành Phật) là v́ có năm loại Phật tánh, tức là khai hiển Viên Giáo vậy. V́ thế, kinh Kiến Thật Tam Muội chép: “Phật vị phụ vương thuyết: ‘Nhất thiết giai thị Phật’. Vương vấn: ‘Nhất thiết chúng sanh tức thị Phật phủ?’ Phật đáp: - Nhược như thật kiến chúng sanh, ư kỳ tức thị Phật” (Đức Phật nói với phụ vương: “Hết thảy đều là Phật”. Vua hỏi: “Hết thảy chúng sanh chính là Phật ư?” Đức Phật đáp: “Nếu như thật thấy chúng sanh th́ họ chính là Phật”). Nay dùng lời ấy để suy diễn tương đồng: Nếu chẳng như thật thấy Phật, sẽ thấy họ (chúng sanh) chẳng phải là thánh! Ví như lúc mới học bắn tên, trật nhiều, trúng ít. Nếu lấy mặt đất làm đích để bắn, không mũi tên nào chẳng bắn trúng! Nếu phân biệt hiền thánh, ai đúng, ai sai? Nếu nh́n như thật, [mọi người đều] chính là Phật.

          Xét theo Bổn Tích, Bổn đă thành Phật, hết sức lâu xa. Trong chặng giữa, thị hiện dấu tích, lại ở trong thời Oai Âm Vương Phật làm Thường Bất Khinh. Lưu thông Bổn Tích TNhất (giáo nhất, nhân nhất, hạnh nhất, lư nhất), hóa độ chúng sanh, nay lại thị hiện dấu tích thành Chánh Giác, nhiều lượt vô tận, do thế lực to lớn, oai mănh.

          Xét theo quán tâm, Khổ chính là chánh nhân Phật tánh, Hoặc chính là liễu nhân Phật tánh, Nghiệp tức duyên nhân Phật tánh. Liễu nhân chính là Quả Phật tánh. Duyên nhân chính là Quả Quả Phật tánh. Lại nữa, khi ba nhân đạt tới quả, liền đổi tên thành ba loại Bồ Đề, ba loại Niết Bàn. V́ vậy, do ba nhân nơi Tánh Đức mà thành quả tánh và quả quả tánh. Một niệm trọn đủ ba nhân và năm nhân, chẳng dọc ngang, chẳng đồng, chẳng khác. Hết thảy chúng sanh không ai đều chẳng phải là như vậy. Thường hiểu như thế th́ chính là Thường Bất Khinh.

 

* Dẫn “phước do tin, tội do hủy báng” làm chứng để khuyên lưu thông

20.1 Trường Hàng

20.1.1. Cùng nhắc đến tội và phước đă nói trong phẩm trước

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật cáo Đắc Đại Thế Bồ Tát Ma Ha Tát: - Nhữ kim đương tri, nhược tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, tŕ Pháp Hoa kinh giả, nhược hữu ác khẩu, mạ lỵ, phỉ báng, hoạch đại tội báo như tiền sở thuyết. Kỳ sở đắc công đức như hướng sở thuyết nhăn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ư thanh tịnh.

          ()爾時佛告得大勢菩薩摩訶薩。汝今當知。若比丘。比丘尼。優婆塞。優婆夷。持法華經者。若有惡口罵詈誹謗。獲大罪報。如前所說。其所得功德。如向所說眼耳鼻舌身意清淨。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Đắc Đại Thế (Mahāsthāmaprāpta)[1] Bồ Tát Ma Ha Tát: - Ông nay hăy nên biết, nếu tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di tŕ kinh Pháp Hoa, mà nếu có kẻ ác khẩu, chửi bới, phỉ báng, sẽ mắc tội báo như trong phần trước (tức phẩm Pháp Sư) đă nói, [người tŕ kinh sẽ] đạt được công đức như trong phần trước (tức phẩm Pháp Sư Công Đức) đă nói mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư thanh tịnh).

 

20.1.2. Cùng nêu quả báo do tin tưởng hay hủy báng trong quá khứ

20.1.2.1. Nói về Sự Bổn (tức là nói về Oai Âm Vương Phật thời quá khứ, coi chuyện của ngài Bất Khinh là gốc)

20.1.2.1.1. Vị Phật đầu tiên

20.1.2.1.1.1. Thời tiết

 

          (Kinh) Đắc Đại Thế! Năi văng cổ tích, quá vô lượng vô biên bất khả tư nghị A-tăng-kỳ kiếp.

          ()得大勢。乃往古昔。過無量無邊不可思議阿僧祇劫。

          (Kinh: Đắc Đại Thế! Thuở xa xưa kia, qua khỏi vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp).

 

          Tuy nói là “vô lượng vô biên”, nhưng nếu so với phẩm Thọ Lượng nói “trần kiếp” (số kiếp nhiều như số vi trần) th́ [vô lượng vô biên vẫn là] khá gần! Cho nên biết đây chính là tướng thị hiện tu nhân sau khi đă thật sự đắc quả.

          Hỏi: Trước đó đă phơi bày Tích, hiển lộ Bổn, nay sao lại nêu ra nhân hạnh nơi Tích?

          Đáp: Chính v́ đă hiển Bổn, đại chúng trong pháp hội thuở ấy biết rơ chuyện thời Phật Nhiên Đăng, chuyện thời Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật, chuyện thời Đại Thông Trí Thắng Phật, chuyện thời Oai Âm Vương Phật như đă nói, hoàn toàn thuộc về phương tiện hóa độ người khác trong khoảng trung gian, hoàn toàn thuộc về sức thần thông tự tại, sức sư tử phấn tấn, đại thế lực oai mănh.

          Hỏi: Sau khi đă đắc Phật quả, quyền biến thị hiện hạnh Bất Khinh, cho nên chỉ lưu truyền một câu “sẽ thành Phật” bèn thanh tịnh sáu căn. Nếu thật sự là sơ tâm, sợ rằng chưa chắc đă được như vậy?

          Đáp: Phàm nói đến Quyền th́ đều nhằm dẫn khởi Thật. Nếu Thật hạnh mà chẳng được như thế, ắt Quyền hạnh uổng công thực hiện! Huống hồ hiểu “bất khinh” chính là sơ tâm nhất niệm tùy hỷ. Công đức của sơ tâm đă là chẳng thể nghĩ bàn! Nương theo giải mà lập hạnh, ắt thanh tịnh sáu căn, cần ǵ phải ngờ? Nhưng hạnh Bất Khinh chẳng phải là chuyên lễ bái, nói cặn kẽ th́ như kinh văn trong phần sau sẽ nói.

 

20.1.2.1.1.2. Danh hiệu

 

          (Kinh) Hữu Phật danh Oai Âm Vương, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

          ()有佛名威音王。如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。

          (Kinh: Có Phật hiệu là Oai Âm Vương (Bhīṣmagarjitasvararāja)[2], Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn).

 

20.1.2.1.1.3. Tên kiếp và cơi nước

 

          (Kinh) Kiếp danh Ly Suy, quốc danh Đại Thành.

          ()劫名離衰。國名大成。

          (Kinh: Kiếp tên là Ly Suy (Vinirbhoga), cơi tên Đại Thành[3] - Mahāsaṃbhavā).

 

20.1.2.1.1.4. Thuyết pháp

 

          (Kinh) Kỳ Oai Âm Vương Phật ư bỉ thế trung, vị thiên, nhân, A Tu La thuyết pháp. Vị cầu Thanh Văn giả, thuyết ứng Tứ Đế pháp, độ sanh lăo bệnh tử cứu cánh Niết Bàn. Vị cầu Bích Chi Phật giả, thuyết ứng thập nhị nhân duyên pháp. Vị chư Bồ Tát, nhân A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, thuyết ứng Lục Ba La Mật pháp, cứu cánh Phật huệ.

          ()其威音王佛。於彼世中。為天人阿修羅說法。為求聲聞者。說應四諦法。度生老病死。究竟涅槃。為求辟支佛者。說應十二因緣法。為諸菩薩。因阿耨多羅三藐三菩提。說應六波羅蜜法。究竟佛慧。

          (Kinh: Oai Âm Vương Phật trong đời ấy, v́ trời, người, A Tu La thuyết pháp. V́ người cầu Thanh Văn mà nói tương ứng pháp Tứ Đế, độ thoát sanh, lăo, bệnh, tử, rốt ráo Niết Bàn. V́ người cầu Bích Chi Phật mà nói pháp tương ứng mười hai nhân duyên. V́ các Bồ Tát, do Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà nói tương ứng pháp Lục Ba La Mật, rốt ráo Phật huệ).

 

          Trước là phương tiện thí tam thừa, sau rốt ráo Phật huệ là hiển nhất, đều giống như đức Phật trong hiện tại.

 

20.1.2.1.1.5. Thọ mạng của Phật

 

          (Kinh) Đắc Đại Thế! Thị Oai Âm Vương Phật thọ tứ thập vạn ức na-do-tha Hằng hà sa kiếp.

          ()得大勢。是威音王佛。壽四十萬億那由他恆河沙劫。

          (Kinh: Đắc Đại Thế! Vị Oai Âm Vương Phật ấy thọ bốn mươi vạn ức na-do-tha Hằng hà sa kiếp).

 

20.1.2.1.1.6. Chánh Pháp và Tượng Pháp

 

          (Kinh) Chánh Pháp trụ thế, kiếp số như nhất Diêm Phù Đề vi trần. Tượng Pháp trụ thế, kiếp số như tứ thiên hạ vi trần. Kỳ Phật nhiêu ích chúng sanh dĩ, nhiên hậu diệt độ.

          ()正法住世。劫數如一閻浮提微塵。像法住世。劫數如四天下微塵。其佛饒益眾生已。然後滅度。

          (Kinh: Chánh Pháp trụ thế kiếp số như số vi trần trong một Diêm Phù Đề. Tượng Pháp trụ thế kiếp số như số vi trần trong một tứ thiên hạ. Vị Phật ấy lợi ích chúng sanh rồi sau đó mới diệt độ).

 

          Phần thứ nhất, “nói về vị Phật đầu tiên” đă xong.

 

20.1.2.1.2. Hai vạn ức Phật kế đó theo thứ tự [xuất thế]

 

          (Kinh) Chánh Pháp, Tượng Pháp diệt tận chi hậu, ư thử quốc độ, phục hữu Phật xuất, diệc hiệu Oai Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như thị thứ đệ hữu nhị vạn ức Phật, giai đồng nhất hiệu.

          ()正法像法滅盡之後。於此國土。復有佛出。亦號威音王如來應供正徧知明行足善逝世間解無上士調御丈夫天人師佛世尊。如是次第有二萬億佛。皆同一號。

          (Kinh: Sau khi Chánh Pháp và Tượng Pháp diệt hết, trong quốc độ ấy, lại có Phật xuất thế, cũng hiệu là Oai Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Có hai vạn ức Phật theo thứ tự như thế, đều có cùng một hiệu).

 

          Sau khi Chánh Pháp và Tượng Pháp diệt hết, vị Phật sau đó mới xuất thế. Cơ duyên độ thoát do chúng sanh đă gieo được chín muồi, cho nên pháp ứng hiện như thế. Phần thứ nhất, Sự Bổn đă xong.

 

20.1.2.2. Nói về Bổn Sự

 

          Riêng nói về chuyện của ngài Bất Khinh trong thời đức Phật Oai Âm Vương đầu tiên, ngài Bất Khinh chính là đức Bổn Sư Thế Tôn thị hiện Tích, trùng lặp thị hiện chuyện thuộc Bồ Tát đạo nơi bổn hạnh.

 

20.1.2.2.1. Cùng nêu tên của hai vị trong Bổn

 

          (Kinh) Tối sơ Oai Âm Vương Như Lai kư dĩ diệt độ, Chánh Pháp diệt hậu, ư Tượng Pháp trung, tăng thượng mạn tỳ-kheo hữu đại thế lực. Nhĩ thời, hữu nhất Bồ Tát tỳ-kheo, danh Thường Bất Khinh.

          ()最初威音王如來旣已滅度。正法滅後。於像法中。增上慢比丘有大勢力。爾時有一菩薩比丘。名常不輕。

          (Kinh: Khi vị Oai Âm Vương Như Lai đầu tiên đă diệt độ, sau khi Chánh Pháp đă diệt, trong thời Tượng Pháp, tăng thượng mạn tỳ-kheo có thế lực lớn. Lúc bấy giờ, có một vị Bồ Tát tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh - Sadāparibhūta).

 

          Vào lúc Bổn, trong thời Tượng Pháp của Oai Âm Vương Phật tối sơ, kẻ hủy báng khi đó được gọi là “tăng thượng mạn”, c̣n người tin tưởng trong thuở ấy được gọi là Thường Bất Khinh. Kẻ tăng thượng mạn do chấp giữ Quyền giáo, tu Quyền hạnh, có chút sở đắc, chẳng biết địa vị theo thứ tự sâu hay cạn, ngộ nhận tứ Thiền noăn pháp Tứ Quả, lầm lạc sanh ư tưởng thỏa măn. Bọn họ thuộc loại tỳ-kheo “vô văn” (không được nghe chánh pháp), dẫu không phạm tội lớn là áp bức ngài Bất Khinh, cũng ắt bị đọa lạc, đều bị đọa lạc. Phải nên coi họ như chủng tánh bậc hạ trong Viên Giáo, cho nên ngài [Thường Bất Khinh] dùng lễ bái và thọ kư để làm nhân duyên đắc độ [cho những người ấy].

 

20.1.2.2.2. Nói về hai tướng tin tưởng và hủy báng

20.1.2.2.2.1. Nói về điều đạt được của người tin tưởng

 

          (Kinh) Đắc Đại Thế! Dĩ hà nhân duyên danh Thường Bất Khinh? Thị tỳ-kheo phàm hữu sở kiến, nhược tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, giai tất lễ bái, tán thán, nhi tác thị ngôn: “Ngă thâm kính nhữ đẳng, bất cảm khinh mạn. Sở dĩ giả hà? Nhữ đẳng giai hành Bồ Tát đạo, đương đắc tác Phật”. Nhi thị tỳ-kheo, bất chuyên độc tụng kinh điển, đản hành lễ bái. Năi chí viễn kiến tứ chúng, diệc phục cố văng lễ bái, tán thán, nhi tác thị ngôn: “Ngă bất cảm khinh ư nhữ đẳng. Nhữ đẳng giai đương tác Phật”.

          ()得大勢。以何因緣。名常不輕。是比丘凡有所見。若比丘比丘尼優婆塞優婆夷。皆悉禮拜讚歎而作是言。我深敬汝等。不敢輕慢。所以者何。汝等皆行菩薩道當得作佛。而是比丘。不專讀誦經典。但行禮拜。乃至遠見四眾。亦復故往禮拜讚歎而作是言。我不敢輕於汝等。汝等皆當作佛。

          (Kinh: Đắc Đại Thế! Do nhân duyên ǵ mà tên là Thường Bất Khinh? Vị tỳ-kheo ấy hễ trông thấy dù là tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, hay ưu-bà-di, thảy đều lễ bái, tán thán, nói như thế này: “Tôi kính trọng các vị sâu xa, chẳng dám khinh mạn. V́ lẽ nào vậy? Quư vị đều hành Bồ Tát đạo, sẽ đều thành Phật”. Nhưng vị tỳ-kheo ấy chẳng chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ hành lễ bái. Thậm chí hễ thấy tứ chúng từ xa, cũng cố ư đến đó lễ bái, tán thán, mà nói như thế này: “Tôi chẳng dám khinh các vị, các vị đều sẽ thành Phật”).

 

          Tên là Thường Bất Khinh, tức Nhân Nhất. “Phàm hữu sở kiến” (Hễ trông thấy) tức là Lư Nhất. “Giai tất lễ bái” (Thảy đều lễ bái) tức là Hạnh Nhất. “Nhi tác thị ngôn” (Mà nói như thế này) tức là Giáo Nhất. Đấy là tự hành Tứ Nhất (Lư Nhất, Nhân Nhất, Hạnh Nhất, Giáo Nhất). “Nhữ đẳng” (Các vị) tức là Nhân Nhất. “Giai hành Bồ Tát đạo” (Đều hành Bồ Tát đạo) tức là Hạnh Nhất. “Đương đắc tác Phật” (Sẽ đều thành Phật) là chứng Lư Nhất. Nói ba điều Nhất ấy, chính là Giáo Nhất. Đấy chính là Tứ Nhất trong sự hóa độ người khác của đức Phật. Đó là phương tiện trong các phương tiện nhằm đối ứng với tứ chúng phần nhiều dấy lên tăng thượng mạn trong thuở ấy, chấp pháp nhỏ nhất trong các tiểu pháp (Tạng Giáo đă là phương tiện, Noăn pháp lại là phương tiện của Tạng Giáo. Tứ Quả đă là nhỏ, Tứ Thiền lại là nhỏ nhất trong các tiểu pháp). V́ thế, dùng Thật Nghĩa của Đại Thừa để khai thị, huấn dụ, chẳng dám khinh mạn, nhằm đối trị lỗi lầm tăng thượng mạn. Nói “nhữ đẳng giai hành Bồ Tát đạo” (các vị đều hành Bồ Tát đạo): Tứ Niệm Xứ là Ma Ha Diễn (Mahāyāna, Đại Thừa), Noăn pháp, Tứ Thiền, hoàn toàn giúp đỡ Thật Tướng. Nếu biết sở hành là Bồ Tát đạo, th́ từ đầu đến cuối lư b́nh đẳng, địa vị theo thứ tự rành rành, sẽ trọn chẳng khởi tăng thượng mạn. “Bất chuyên độc tụng, đản hành lễ bái” (Chẳng chuyên đọc tụng, chỉ hành lễ bái): Chỉ bày tướng trạng của phẩm đầu, tức phẩm Tùy Hỷ [trong ngũ phẩm], tùy hỷ hết thảy các pháp, đều có tánh chất an lạc, đều là một Thật Tướng. Tùy hỷ hết thảy mọi người, [ai nấy] đều có ba Phật tánh (chánh nhân, liễu nhân và duyên nhân Phật tánh). Người có tâm sẽ đều được thành Phật, chính là chánh nhân tánh. Đọc tụng di pháp Quyền thừa của Oai Âm Vương Phật tức là liễu nhân tánh. Noăn pháp, Tứ Thiền đều là Bồ Tát đạo, tức là duyên nhân tánh. V́ thế, chẳng dám khinh mạn, mà kính trọng sâu xa. Kính người, kính pháp, chẳng dấy lên tranh đua, chính là ư nghĩa tùy hỷ, cho đến “viễn kiến tứ chúng…” (thấy tứ chúng từ đằng xa…) biểu thị Tứ Nhất nơi Bổn. Thấy t chúng từ đằng xa, biểu thị Nhân Nhất nơi Bổn. “Cố văng lễ bái” (Cố ư đến chỗ họ lễ bái) biểu thị Hạnh Nhất nơi Bổn. “Nhi tác thị ngôn” (Mà nói như thế này) biểu thị Giáo Nhất nơi Bổn. “Giai đương tác Phật” (Đều sẽ thành Phật) biểu thị Lư Nhất nơi Bổn. Dùng Tứ Nhất nơi Bổn Tích để cưỡng ép kẻ tăng thượng mạn, khiến cho họ thành tựu diệu chủng (chủng tử mầu nhiệm) viên đốn. Có thể nói đó là cốt lơi hoằng truyền phần Chánh Thuyết (Chánh Tông) vậy. Lại chẳng khinh mạn, kính trọng sâu xa, tức là Như Lai ṭa. Chịu đựng các đánh chửi chính là áo Như Lai. Dùng tâm từ bi thường hành như thế chẳng đổi, tức Như Lai thất. Lại nữa, kính trọng sâu xa là ư nghiệp. Nói lời chẳng khinh rẻ chính là khẩu nghiệp. Cố ư đến lễ bái chính là thân nghiệp. Ba điều này tương ứng với từ bi, tức là Thệ Nguyện An Lạc Hạnh. Có thể nói là đă đạt được lợi ích mầu nhiệm trong Lưu Thông.

          Hỏi: Luật Tiểu Thừa và Đại Thừa đều chế định tỳ-kheo chẳng lễ người thế tục, sao Bất Khinh Bồ Tát lại lễ trọn khắp tứ chúng?

          Đáp: V́ độ kẻ tăng thượng mạn, khiến cho họ đạt được hai lợi ích gần và xa (trong tứ chúng, có người nhận, hoặc chẳng nhận [sự lễ bái ấy]. Tiếp nhận th́ đạt được lợi ích gần, chẳng tiếp nhận th́ đạt được lợi ích xa). Đại Quyền phương tiện biết căn cơ, chẳng trở ngại phá cách (vượt ngoài khuôn khổ) bốn hạnh An Lạc của hàng sơ tâm, [chứ nếu không v́ độ kẻ tăng thượng mạn], sẽ cần phải nương theo kinh văn trong giới luật.

          Hỏi: Kinh Đại Thừa [dạy] lễ người biết pháp, trong kinh Tịnh Danh, [các tỳ-kheo đến thăm bệnh] lễ người thế tục (tức các tỳ-kheo lễ cư sĩ Duy Ma Cật), [so với chuyện ngài Thường Bất Khinh lễ tứ chúng ở đây] giống và khác nhau như thế nào?

          Đáp: Khác nhau! Đại kinh chuyên nói về cách thức tỏ bày chí nguyện cung kính, do từ người đó thỉnh pháp mà đạt được lợi ích, cho nên quên bẵng t́nh kiến mà kính lễ. C̣n trong kinh Tịnh Danh là do có ân đạt được Pháp Nhẫn [từ những lời quở trách, chỉ dạy của cư sĩ Duy Ma], cho nên không tuân theo quy củ thông thường. V́ thế, chẳng quản trái phạm quy tắc mà lễ kính. Nếu xét theo chánh nghi của Đại Thừa, trong quy tắc thường hằng của người thoát tục, trọn chẳng có quy định “v́ đạo mà lễ kẻ thế tục”. Nay ngài Bất Khinh lập hạnh, đă chẳng phải là do thỉnh pháp mà đạt được lợi ích, hay do báo ân, lại chẳng thuộc luật Đại Tiểu Thừa chế định, thẳng thừng là sau khi đă đắc quả bèn làm chuyện tu nhân, là phương tiện vượt ngoài khuôn khổ nhằm hóa độ người khác, chẳng thể coi đó là khuôn mẫu! V́ thế, đem so với Tứ An Lạc Hạnh để biện định, Lư tuy chẳng khác, nhưng về Sự th́ có bảy điểm khác biệt:

          - Một, An Lạc Hạnh là an trụ nơi pháp ṭa, thuận theo lời hỏi mà nói; c̣n ở đây là từ xa trông thấy tứ chúng, cố ư qua chỗ họ lễ bái.

          - Hai, An Lạc Hạnh th́ có người cật vấn th́ mới trả lời cho người ấy; ở đây là bị quăng ngói, đá, đánh đập, vẫn cưỡng tuyên nói.

          - Ba, An Lạc Hạnh thường chuộng tọa Thiền tại chỗ thanh vắng; ở đây th́ chẳng chuyên đọc tụng, cứ vào trong đại chúng để giăi bày.

          - Bốn, An Lạc Hạnh th́ dẫu đối với kẻ yêu mến pháp sâu xa, vẫn chẳng v́ kẻ đó nói nhiều; ở đây th́ dẫu bị hư vọng báng bổ, vẫn cưỡng xưng dương!

          - Năm, An Lạc Hạnh th́ thoạt đầu tu Lư Quán, quán mười tám pháp Không; c̣n ở đây là tuyên nói một câu kiến giải “sẽ thành Phật”.

          - Sáu, An Lạc Hạnh là giáo hóa kẻ thuận tùng, hộ tŕ luật nghi; ở đây v́ giáo hóa kẻ trái nghịch, bỏ mất các pháp tắc thông thường.

          - Bảy, An Lạc Hạnh là sơ tâm thành tựu hạnh, mộng thấy được Phật thọ kư. Ở đây th́ sau khi đắc quả, thị hiện rộng thọ kư cho người khác.

          Lại so sánh phẩm này với phẩm Pháp Sư Công Đức, [hành giả trong] phẩm ấy hoằng dương toàn bộ kinh văn, c̣n phẩm này hoằng truyền đại lược ư kinh. Tuy nói toàn thể hay đại lược khác nhau, nhưng cái quả đạt được chẳng hai. Lại dùng ư này đối chiếu với các kinh giáo khác, sẽ bốn điểm khác biệt:

          - Một, sanh ḷng tin đối với kinh điển Tiểu Thừa, chưa phải là cái nhân thành Phật. Nay th́ dẫu hủy báng kinh này, vẫn trở thành chủng tử mầu nhiệm.

          - Hai, các kinh chỉ nói giáo hóa, hoằng truyền cho người tín thuận, phẩm này th́ lễ người thế tục, giáo hóa những kẻ trái nghịch để lưu thông kinh.

          - Ba, các kinh khác đối với chuyện biểu thị Quyền và Thật c̣n bị cách trở, phẩm này phơi bày những điều được khơi mở, không ǵ chẳng phải là Tứ Nhất.

          - Bốn, các kinh khác biểu lộ Tích vẫn chưa trọn hết, phẩm này biểu thị cả hai tướng Bổn và Tích.

 

20.1.2.2.2.2. Nói về những mất mát của người hủy báng

 

          (Kinh) Tứ chúng chi trung, hữu sanh sân khuể, tâm bất tịnh giả, ác khẩu, mạ lỵ, ngôn: “Thị vô trí tỳ-kheo tùng hà sở lai? Tự ngôn ngă bất khinh nhữ, nhi dữ ngă đẳng thọ kư đương đắc tác Phật. Ngă đẳng bất dụng như thị hư vọng thọ kư”.

          ()四眾之中。有生瞋恚。心不淨者。惡口罵詈。言是無智比丘。從何所來。自言我不輕汝。而與我等授記當得作佛。我等不用如是虛妄授記。

          (Kinh: Trong tứ chúng, có kẻ sanh sân khuể, tâm bất tịnh, bèn ác khẩu, chửi bới rằng: “Gă tỳ-kheo vô trí này từ chỗ nào đến? Tự nói tôi chẳng dám khinh ngài, c̣n thọ kư chúng ta sẽ đều làm Phật. Chúng ta chẳng cần sự thọ kư hư vọng như thế”).

 

          Đây là nói về kẻ tăng thượng mạn, chẳng tin Tứ Nhất, cho nên hủy báng, chửi rủa. Chẳng cần sự thọ kư hư vọng như thế, tức là chẳng tin Giáo Nhất. Coi thọ kư là hư vọng, tức là chẳng biết những ǵ chính ḿnh đang hành chính là Bồ Tát đạo, tức là chẳng tin Hạnh Nhất. Chẳng biết chúng ta sẽ đều thành Phật, tức là chẳng tin Nhân Nhất và Lư Nhất.

 

          (Kinh) Như thử kinh lịch đa niên, thường bị mạ lỵ, bất sanh sân khuể, thường tác thị ngôn: “Nhữ đương tác Phật”. Thuyết thị ngữ thời, chúng nhân hoặc dĩ trượng, mộc, ngơa, thạch nhi đả trịch chi. Tỵ tẩu viễn trụ, do cao thanh xướng ngôn: “Ngă bất cảm khinh ư nhữ đẳng. Nhữ đẳng giai đương tác Phật”. Dĩ kỳ thường tác thị ngữ cố, tăng thượng mạn tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di hiệu chi vi Thường Bất Khinh.

          ()如此經歷多年。常被罵詈。不生瞋恚。常作是言。汝當作佛。說是語時。眾人或以杖木瓦石而打擲之。避走遠住。猶高聲唱言。我不敢輕於汝等。汝等皆當作佛。以其常作是語故。增上慢比丘比丘尼優婆塞優婆夷。號之為常不輕。

          (Kinh: Trải qua nhiều năm như thế, thường bị chửi rủa, chẳng sanh sân khuể, thường nói như thế này: “Quư vị sẽ thành Phật”. Lúc nói lời ấy, mọi người hoặc dùng gậy, gỗ, ngói, đá, đánh ném. Chạy tránh, đứng đằng xa, vẫn lớn tiếng xướng rằng: “Tôi chẳng dám khinh các vị. Các vị đều sẽ thành Phật”. Do thường nói lời ấy, các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di tăng thượng mạn gọi Ngài là Thường Bất Khinh).

 

          [Chánh kinh nói] “bị chửi không giận, thường nói lời ấy”, ḥng kết lại tướng tín tâm sâu đậm chẳng thoái chuyển. “Bị đánh ném bằng gậy, đá v.v…” nhằm kết lại [ư nghĩa] Tứ Nhất khai Quyền hiển Thật. “Chạy tránh, đứng đằng xa, vẫn lớn tiếng xướng. Do hủy báng, chê gièm, bèn gọi Ngài là Thường Bất Khinh”: Kết lại ư họ chẳng tiếp nhận Tứ Nhất khai cận hiển viễn.

          Hỏi: Hơn bốn mươi năm, đức Thích Ca chẳng chú trọng nói ngay, c̣n Thường Bất Khinh hễ trông thấy ai đều lỗ măng nói, là v́ lẽ nào?

          Đáp: Đối với kẻ đă có thiện căn, đức Phật Thích Ca dùng Tiểu pháp để ǵn giữ họ. [Trong thuở ấy], đối với kẻ vốn chẳng có thiện căn, ngài Thường Bất Khinh dùng pháp Đại Thừa để cưỡng ép họ. Phần thứ hai, “cùng nêu ra tướng tin tưởng và hủy báng” đă xong.

 

20.1.2.2.3. Cùng nêu quả báo của tin tưởng và hủy báng

20.1.2.2.3.1. Nêu quả báo của người tin tưởng

20.1.2.2.3.1.1. Nêu bày quả báo

 

          (Kinh) Thị tỳ-kheo lâm dục chung thời, ư hư không trung, cụ văn Oai Âm Vương Phật tiên sở thuyết Pháp Hoa kinh nhị thập thiên vạn ức kệ, tất năng thọ tŕ, tức đắc như thượng nhăn căn thanh tịnh, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ư căn thanh tịnh. Đắc thị lục căn thanh tịnh dĩ, cánh tăng thọ mạng nhị bách vạn ức na-do-tha tuế. Quảng vị nhân thuyết thị Pháp Hoa kinh. Ư thời, tăng thượng mạn tứ chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di khinh tiện thị nhân, vị tác Bất Khinh danh giả, kiến kỳ đắc đại thần thông lực, nhạo thuyết biện lực, đại thiện tịch lực, văn kỳ sở thuyết, giai tín phục, tùy tùng. Thị Bồ Tát phục hóa thiên vạn ức chúng, linh trụ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Mạng chung chi hậu, đắc trị nhị thiên ức Phật, giai hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Ư kỳ pháp trung, thuyết thị Pháp Hoa kinh. Dĩ thị nhân duyên, phục trị nhị thiên ức Phật, đồng hiệu Vân Tự Tại Đăng Vương. Ư thử chư Phật pháp trung, thọ tŕ, độc tụng, vị chư tứ chúng thuyết thử kinh điển cố, đắc thị thường nhăn thanh tịnh, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ư, chư căn thanh tịnh. Ư tứ chúng trung thuyết pháp, tâm vô sở úy. Đắc Đại Thế! Thị Thường Bất Khinh Bồ Tát Ma Ha Tát cúng dường như thị nhược can chư Phật, cung kính, tôn trọng, tán thán, chủng chư thiện căn. Ư hậu, phục trị thiên vạn ức Phật, diệc ư chư Phật pháp trung, thuyết thị kinh điển, công đức thành tựu, đương đắc tác Phật.

          ()是比丘臨欲終時。於虛空中。具聞威音王佛先所說法華經二十千萬億偈。悉能受持。即得如上眼根清淨。耳鼻舌身意根清淨。得是六根清淨已。更增壽命二百萬億那由他歲。廣為人說是法華經。於時增上慢四眾比丘比丘尼優婆塞優婆夷輕賤是人。為作不輕名者。見其得大神通力。樂說辨力。大善寂力。聞其所說。皆信伏隨從。是菩薩復化千萬億眾令住阿耨多羅三藐三菩提。命終之後。得值二千億佛。皆號日月燈明。於其法中。說是法華經。以是因緣。復值二千億佛。同號云自在燈王。於此諸佛法中。受持讀誦。為諸四眾說此經典故。得是常眼清淨。耳鼻舌身意諸根清淨。於四眾中說法。心無所畏。得大勢。是常不輕菩薩摩訶薩供養如是若干諸佛。恭敬尊重讚歎。種諸善根。於後復值千萬億佛。亦於諸佛法中說是經典。功德成就。當得作佛。

          (Kinh: Vị tỳ-kheo ấy khi sắp mạng chung, ở trong hư không, nghe trọn vẹn hai mươi ngàn vạn ức bài kệ của kinh Pháp Hoa do Oai Âm Vương Phật đă nói trước đó, đều có thể thọ tŕ, liền được nhăn căn thanh tịnh như trên, tai, mũi, lưỡi, thân, ư căn đều thanh tịnh. Đă đắc sáu căn thanh tịnh như thế rồi, thọ mạng lại tăng thêm hai trăm vạn ức na-do-tha năm, rộng v́ người khác nói kinh Pháp Hoa này. Lúc đó, tứ chúng tăng thượng mạn tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di khinh rẻ vị ấy, đặt tên cho Ngài là Bất Khinh, thấy Ngài đắc sức thần thông to lớn, sức nhạo thuyết biện tài, sức đại thiện tịch, nghe lời Ngài nói đều tin phục, vâng theo. Vị Bồ Tát ấy lại giáo hóa ngàn vạn ức người, khiến cho họ trụ trong Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Sau khi mạng chung, được gặp hai ngàn ức Phật, đều có hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh (Candrasūryapradīpa). Ở trong pháp của chư Phật, nói kinh Pháp Hoa này. Do nhân duyên ấy, lại được gặp hai ngàn ức Phật, có cùng hiệu là Vân Tự Tại Đăng Vương (Meghasvararāja). Ở trong pháp của các vị Phật ấy, thọ tŕ, đọc tụng, do v́ các tứ chúng nói kinh điển này, đạt được mắt phàm thanh tịnh, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, các căn thanh tịnh. Ở trong tứ chúng thuyết pháp, tâm không sợ hăi. Này Đắc Đại Thế! Vị Thường Bất Khinh Bồ Tát Ma Ha Tát ấy cúng dường ngần ấy chư Phật như thế, cung kính, tôn trọng, tán thán, gieo các thiện căn. Sau đó, lại gặp gỡ ngàn vạn ức Phật, cũng ở trong pháp của chư Phật nói kinh điển này, công đức thành tựu, sẽ được thành Phật).

 

          Hỏi: Ngài Bất Khinh là Phật Thích Ca thị hiện Tích, đối với kẻ đáng nên dùng thân Bồ Tát tỳ-kheo đắc độ, liền hiện thân Bồ Tát tỳ-kheo để thuyết pháp cho kẻ đó. Lại c̣n chẳng sanh mà hiện sanh, chẳng diệt mà hiện diệt. Cố nhiên chẳng nghi. C̣n như khi lâm chung nghe trọn vẹn kinh Pháp Hoa do Oai Âm Vương Phật đă nói mà đạt được sáu căn thanh tịnh, sao chẳng dùng quả Phật để hiện thân, c̣n phải đợi nghe [kinh Pháp Hoa] từ vị Phật khác, [trước đó, các] căn c̣n chưa tịnh, do văn tŕ th́ mới tịnh vậy?

          Đáp: Đă thuộc về sự thị hiện sau khi đắc quả, có ǵ là chẳng được? Trước hết, sáu căn chưa thanh tịnh chính là Bệnh Hạnh trong Viên Giáo. Lâm chung, nghe kinh thọ tŕ, chính là Anh Nhi Hạnh trong Viên Giáo. Sức đại thần thông tức là Như Lai thất. Sức nhạo thuyết biện tài tức là Như Lai ṭa. Sức đại thiện tịch tức là áo Như Lai. Dùng ba pháp ấy để trang nghiêm sáu căn, có thể khiến cho tứ chúng chuyển hủy báng thành tin tưởng.

          Lại hỏi: Vốn đă thành Phật, cớ sao lại nói “gieo các thiện căn”, cho đến “công đức thành tựu, sẽ được thành Phật?”

          Đáp: Ví như Đào Châu Công (Phạm Lăi) khéo có thuật lạ để làm giàu, trụ ở một chỗ, buôn bán kiếm được vạn ức. Lại bỏ đi, chẳng mang theo một đồng, sang xứ khác, tay trắng lập nghiệp, thành công kinh doanh vạn ức. Lại bỏ đi, sang xứ khác, lại kinh doanh giàu vạn ức. Đức Phật cũng như thế, công đức nơi Bổn địa hoàn toàn để đó chẳng dùng tới, lại thị hiện tu nhân, lại thị hiện đắc quả, trọn khắp mười phương, trọn khắp ba đời, nhiều lượt chẳng thôi, chẳng thể nghĩ bàn! V́ thế nói: “Thọ mạng thành tựu khi ta hành Bồ Tát đạo nơi Bổn đến nay vẫn chưa hết. Khi đă thành Phật, chẳng dùng tới thọ mạng đă thành tựu khi tu Bồ Tát”. Vậy th́ khi thị hiện Tích, cũng chẳng dùng tất cả công đức nơi Bổn địa. Lại nữa, kinh Phạm Vơng chép: “Ngô kim lai thử thế giới bát thiên phản, vị thử Sa Bà thế giới, tọa kim cang hoa quang vương ṭa” (Ta nay đến thế giới này tám ngàn lần, v́ thế giới Sa Bà này, ngồi trên ṭa kim cang hoa quang vương). Ngài đă thị hiện thành Phật tám ngàn lượt trong Sa Bà. Đối với phân thân của Ngài trọn khắp các xứ thuộc phương khác, cũng có thể phỏng theo đó mà biết. Ở đây, kinh đă luận định chung ba thứ báo của người tin tưởng:

          - Sáu căn thanh tịnh bèn tăng thêm thọ mạng. Đó là hiện báo.

          - Mạng chung gặp Phật. Đó là sanh báo.

          - Lại gặp chư Phật, cho đến sẽ được làm Phật. Đó là hậu báo.

 

20.1.2.2.3.1.2. Dung hội xưa nay để kết luận

 

          (Kinh) Đắc Đại Thế! Ư ư vân hà? Nhĩ thời, Thường Bất Khinh Bồ Tát khởi dị nhân hồ? Tắc ngă thân thị. Nhược ngă ư túc thế, bất thọ tŕ, độc tụng thử kinh, vị tha nhân thuyết giả, bất năng tật đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Ngă ư tiên Phật sở, thọ tŕ, độc tụng thử kinh, vị nhân thuyết cố, tật đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          ()得大勢。於意云何。爾時常不輕菩薩。豈異人乎。則我身是。若我於宿世。不受持讀誦此經。為他人說者。不能疾得阿耨多羅三藐三菩提。我於先佛所。受持讀誦此經。為人說故。疾得阿耨多羅三藐三菩提。

          (Kinh: Này Đắc Đại Thế! Ư ông nghĩ sao? Thường Bất Khinh Bồ Tát thuở đó há có phải là ai khác? Chính là thân ta. Nếu ta trong đời trước chẳng thọ tŕ, đọc tụng kinh này, v́ người khác nói, sẽ chẳng thể mau chóng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ta ở chỗ chư Phật quá khứ, do thọ tŕ, đọc tụng kinh này, v́ người khác nói mà mau chóng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

         

          Phần đầu là kết luận để dung hội. Kế đó, từ “nhược ngă ư túc thế” (nếu ta trong đời trước) trở đi, nêu ra tấm gương của người tin tưởng để khuyên nên thuận tùng. Như Đào Châu Công tay trắng lại sang xứ khác, nếu chẳng vận dụng thuật lạ để làm giàu, sẽ chẳng thể mau chóng kinh doanh vạn ức. Hăy nên biết Pháp Hoa chính là thuật lạ để mau chóng thành Phật. Phần thứ nhất, “nêu ra quả báo của người tin tưởng” đă xong.

 

20.1.2.2.3.2. Nói về quả báo của kẻ hủy báng

20.1.2.2.3.2.1. Nêu ra quả báo

 

          (Kinh) Đắc Đại Thế! Bỉ thời tứ chúng, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di dĩ sân khuể ư khinh tiện ngă cố, nhị bách ức kiếp, thường bất trị Phật, bất văn pháp, bất kiến tăng, thiên kiếp ư A Tỳ địa ngục, thọ đại khổ năo. Tất thị tội dĩ, phục ngộ Thường Bất Khinh Bồ Tát giáo hóa A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          ()得大勢。彼時四眾比丘比丘尼優婆塞優婆夷以瞋恚意輕賤我故。二百億劫。常不值佛。不聞法。不見僧。千劫於阿鼻地獄受大苦惱。畢是罪已。復遇常不輕菩薩。教化阿耨多羅三藐三菩提。

          (Kinh: Này Đắc Đại Thế! Khi đó, tứ chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di do ư sân khuể, khinh rẻ ta mà trong hai trăm ức kiếp, thường chẳng gặp Phật, chẳng nghe pháp, chẳng thấy tăng, ngàn kiếp ở trong địa ngục A Tỳ chịu khổ năo to lớn. Tội đó đă hết, lại gặp Thường Bất Khinh Bồ Tát giáo hóa Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

          Do báng mà đọa khổ. Do nghe thọ kư “sẽ thành Phật” mà cái duyên viên đốn. Lại do sức thệ nguyện rộng lớn của Thường Bất Khinh Bồ Tát nhiếp thọ mà lại được gặp gỡ, tiếp nhận giáo hóa.

          Hỏi: Tứ chúng thuở đó đă đều tin phục, vâng theo, cớ sao vẫn đọa khổ lâu dài?

          Đáp: Điều này có hai ư:

          - Một, do thân đánh, miệng chửi, đă trở thành nghiệp nặng, theo đúng lư phải thọ báo. Nêu ra ư này nhằm cảnh tỉnh hành nhân chớ nên vừa nghe lọt qua tai liền nổi sân, dấy lỗi.

          - Hai, trải qua thời gian đă lâu, trong tứ chúng có kẻ c̣n, người mất. Người c̣n th́ tin phục, kẻ mất chưa hối hận. Lại nữa, trong số kẻ tin phục, vâng theo, hối lỗi có cạn và sâu, hành có siêng năng hay biếng nhác. Nếu hối sâu, tu hành siêng năng, chắc cũng chẳng đọa! Dẫu bị đọa, dễ thoát ra. Nếu hối cạn, tu hành biếng nhác, tự nhiên sẽ bị đọa trước, sau đó mới đạt được lợi ích. Nếu kẻ chưa hối, sẽ đọa khổ lâu dài. Nhưng do được Bồ Tát nhiếp thọ, rốt cuộc sẽ được độ thoát.

          Hỏi: Nếu do phỉ báng mà đọa khổ, cớ sao Bồ Tát tạo ra cái nhân gây khổ vậy?

          Đáp: Bọn họ đă ôm ḷng tăng thượng mạn. Dẫu chẳng hủy báng, ắt cũng đọa khổ! Nay do báng bị đọa, tạo thành cái nhân xa [để được độ thoát]. Như người ngă xuống đất, vẫn phải từ đất đứng lên. V́ thế, dùng chánh báng để tiếp dẫn kẻ tà đọa.

          Hỏi: V́ sao chẳng dùng sức thần thông khiến cho họ đều liền tin phục, vâng theo?

          Đáp: Chư Phật Bồ Tát không vị nào chẳng muốn thế, nhưng do chúng sanh cơ nghi mỗi người mỗi khác, sẽ có kẻ rốt cuộc nếu chẳng rơi vào địa ngục, chắc chắn chẳng chịu phát tâm. Ví như lương y v́ trị bệnh ngặt, chẳng thể không dùng châm cứu và thuốc đắng!

 

20.1.2.2.3.2.2. Kết luận dung hội xưa nay

 

          (Kinh) Đắc Đại Thế! Ư nhữ ư vân hà? Nhĩ thời, tứ chúng thường khinh thị Bồ Tát giả, khởi dị nhân hồ? Kim thử hội trung Bạt Đà Bà La đẳng ngũ bách Bồ Tát, Sư Tử Nguyệt đẳng ngũ bách tỳ-kheo, Ni Tư Phật đẳng ngũ bách Ưu-bà-tắc, giai ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề bất thoái chuyển giả thị.

          ()得大勢。於汝意云何。爾時四眾常輕是菩薩者。豈異人乎。今此會中跋陀婆羅等五百菩薩。師子月等五百比丘。尼思佛等五百優婆塞。皆於阿耨多羅三藐三菩提不退轉者是。

          (Kinh: Này Đắc Đại Thế! Ư ông nghĩ sao? Tứ chúng thuở đó thường khinh rẻ Bồ Tát há có phải là ai khác? Nay trong hội này là năm trăm vị Bồ Tát như Bạt Đà Bà La (Bhadrapāla), năm trăm vị tỳ-kheo như Sư Tử Nguyệt (Siṃhacandrā), năm trăm ưu-bà-tắc như Ni Tư Phật (Sugatacetanā), đều chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

          Phần thứ hai, “cùng nói quả báo do tin tưởng và hủy báng xưa kia” đă xong.

 

20.1.3. Khuyến tŕ

         

          (Kinh) Đắc Đại Thế! Đương tri thị Pháp Hoa kinh, đại nhiêu ích chư Bồ Tát Ma Ha Tát, năng linh chí ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thị cố, chư Bồ Tát Ma Ha Tát ư Như Lai diệt hậu, thường ưng thọ tŕ, độc tụng, giải thuyết, thư tả thị kinh.

          ()得大勢。當知是法華經。大饒益諸菩薩摩訶薩。能令至於阿耨多羅三藐三菩提。是故諸菩薩摩訶薩。於如來滅後。常應受持讀誦解說書寫是經。

          (Kinh: Đắc Đại Thế! Hăy nên biết kinh Pháp Hoa này lợi ích to lớn các vị Bồ Tát Ma Ha Tát, có thể khiến cho họ đạt tới Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. V́ thế, các vị Bồ Tát Ma Ha Tát sau khi Như Lai diệt độ, hăy thường nên thọ tŕ, đọc tụng, giải nói, biên chép kinh này).

 

          Tiếp nối điều được nói trên đây: Không chỉ người tin tưởng sẽ mau chóng được thành Phật, mà c̣n khiến cho người hủy báng rốt cuộc đạt được bất thoái. V́ thế, hăy nên siêng năng tu tập năm loại hạnh, tức là thọ tŕ, đọc, tụng, giải nói, biên chép. Phần thứ nhất là Trường Hàng đă xong.

 

20.2. Kệ tụng                           

20.2.1. Trùng tụng quả báo do tin tưởng hay hủy báng

20.2.1.1. Trùng tụng Sự Bổn

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Quá khứ hữu Phật, hiệu Oai Âm Vương, thần trí vô lượng, tương đạo nhất thiết, thiên, nhân, long, thần, sở cộng cúng dường.

          ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。過去有佛。號威音王。神智無量。將導一切。天人龍神。所共供養。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Đời quá khứ có Phật, hiệu là Oai Âm Vương, thần thông, trí vô lượng, hướng dẫn khắp hết thảy. Trời, người, rồng cùng thần, đều cùng nhau cúng dường).

 

20.2.1.2. Trùng tụng Bổn Sự

20.2.1.2.1. Trùng tụng nêu tên hai vị (tức nêu tên Oai Âm Vương Phật và Thường Bất Khinh Bồ Tát)

 

          (Kinh) Thị Phật diệt hậu, pháp dục tận thời, hữu nhất Bồ Tát, danh Thường Bất Khinh. Thời chư tứ chúng, kế trước ư pháp.

          ()是佛滅後。法欲盡時。有一菩薩。名常不輕。時諸四眾。計著於法。

          (Kinh: Sau khi Phật diệt độ, lúc Phật pháp sắp diệt, có một vị Bồ Tát, tên là Thường Bất Khinh. Khi đó, cả bốn chúng, so đo, chấp trước pháp).

 

          Nói “kế trước ư pháp” (so đo, chấp trước pháp) nhằm trùng tụng [ư nghĩa đại chúng thuở đó phần nhiều là kẻ] tăng thượng mạn. “Thị pháp bất khả thị, ngôn từ tướng tịch diệt” (pháp ấy chẳng thể chỉ, tướng ngôn từ vắng lặng): Nếu khăng khăng cho là có, tức là chấp pháp. Nếu nhất quyết cho là không, cũng là chấp pháp. Khăng khăng cho là “cũng có, cũng không”, cũng là chấp pháp. Khăng khăng bảo “chẳng phải có, chẳng phải không”, cũng là chấp pháp. Khăng khăng bảo “do ĺa bốn câu cho nên chẳng thể nói” th́ cũng là chấp pháp. V́ thế, kinh Phật Tạng dạy: “Đao luân hại Diêm Phù nhân, kỳ tội do thiểu. Hữu sở đắc tâm thuyết Đại Thừa giả, kỳ tội quá bỉ” (Dùng vầng đao hại người trong Diêm Phù, tội ấy c̣n ít. Dùng cái tâm có sở đắc để nói Đại Thừa th́ tội c̣n nhiều hơn thế nữa). Đại Luận nói: “Chấp trước tranh căi có và không, cho đến chấp trước tranh căi chẳng phải có, chẳng phải không cùng với có không ví như da ḅ, râu rồng[4], đều chẳng tránh khỏi mối họa”. Trung Luận nói: “Chư Phật nói pháp Không, vốn v́ giáo hóa các cơi. Nếu có kẻ chấp Không, chư Phật chẳng giáo hóa”. Nếu nói quyết định “các pháp chẳng phải có, chẳng phải không” th́ gọi là ngu si luận. Hăy nên biết: Nếu hiểu ư nghĩa Tứ Tất Đàn, tự hành, giáo hóa người khác, sẽ đều có thể chẳng chấp! Nếu chấp vào ư nghĩa Tứ Tất Đàn, tự hành, giáo hóa người khác, sẽ đều gọi là chấp trước pháp. Do chấp pháp, sẽ có cái tâm có sở đắc, sẽ sanh ḷng kiêu căng, cao ngạo đối với những chứng đắc kém cỏi, hẹp ḥi, được gọi là “tăng thượng mạn”.

 

20.2.1.2.2. Trùng tụng cùng nêu chuyện tin tưởng và hủy báng

 

          (Kinh) Bất Khinh Bồ Tát, văng đáo kỳ sở, nhi ngữ chi ngôn, ngă bất khinh nhữ. Nhữ đẳng hành đạo, giai đương tác Phật. Chư nhân văn dĩ, khinh hủy mạ lỵ. Bất Khinh Bồ Tát, năng nhẫn thọ chi.

          ()不輕菩薩。往到其所。而語之言。我不輕汝。汝等行道。皆當作佛。諸人聞已。輕毀罵詈。不輕菩薩。能忍受之。

          (Kinh: Thường Bất Khinh Bồ Tát, đi đến chỗ của họ, mà nói như thế này: “Tôi chẳng dám khinh ngài. Các ngài đều hành đạo, sẽ đều được thành Phật”. Bọn họ nghe nói xong, khinh, hủy báng, chửi bới. Thường Bất Khinh Bồ Tát, có thể chịu đựng được).

 

20.2.1.2.3. Trùng tụng cùng nêu ra hai thứ quả báo

20.2.1.2.3.1. Trùng tụng quả báo của người tin tưởng

         

          (Kinh) Kỳ tội tất dĩ, lâm mạng chung thời, đắc văn thử kinh, lục căn thanh tịnh. Thần thông lực cố, tăng ích thọ mạng. Phục vị chư nhân, quảng thuyết thị kinh. Chư trước pháp chúng, giai mông Bồ Tát, giáo hóa thành tựu, linh trụ Phật đạo. Bất Khinh mạng chung, trị vô số Phật, thuyết thị kinh cố, đắc vô lượng phước, tiệm cụ công đức, tật thành Phật đạo. Bỉ thời Bất Khinh, tắc ngă thân thị.

          ()其罪畢已。臨命終時。得聞此經。六根清淨。神通力故。增益壽命。復為諸人。廣說是經。諸著法眾。皆蒙菩薩。教化成就。令住佛道。不輕命終。值無數佛。說是經故。得無量福。漸具功德。疾成佛道。彼時不輕。則我身是。

          (Kinh: Tội ấy đă hết rồi, khi sắp sửa mạng chung, do được nghe kinh này, sáu căn đều thanh tịnh. Do bởi sức thần thông, thọ mạng được tăng trưởng. Lại v́ khắp mọi người, rộng nói kinh điển này. Những kẻ chấp trước pháp, đều được Bồ Tát này, giáo hóa khiến thành tựu, khiến trụ trong Phật đạo. Thường Bất Khinh mạng chung, gặp gỡ vô số Phật. Do v́ nói kinh này, đạt được vô lượng phước. Dần dần đủ công đức, mau chóng thành Phật đạo. Thường Bất Khinh thuở đó, chính là thân của ta).

 

          “Kỳ tội tất dĩ” (tội ấy đă hết rồi): Đă thị hiện Tích, v́ kẻ lục căn chưa thanh tịnh, ắt [Bồ Tát] sẽ thị hiện mắc tội có cùng Bệnh Hạnh. Do v́ tội ấy, chuốc lấy nhiều sự đánh, mắng. Do có thể chịu đựng, tội hết, căn tịnh.

         

20.2.1.2.3.2. Trùng tụng quả báo của kẻ hủy báng

         

          (Kinh) Thời tứ bộ chúng, trước pháp chi giả, văn Bất Khinh ngôn. Nhữ đương tác Phật. Dĩ thị nhân duyên, trị vô số Phật. Thử hội Bồ Tát, ngũ bách chi chúng, tịnh cập tứ bộ, thanh tín sĩ nữ, kim ư ngă tiền, thính pháp giả thị. Ngă ư tiền thế, khuyến thị chư nhân, thính thọ tư kinh, đệ nhất chi pháp, khai thị giáo nhân, linh trụ Niết Bàn. Thế thế thọ tŕ, như thị kinh điển.

          ()時四部眾。著法之者。聞不輕言。汝當作佛。以是因緣。值無數佛。此會菩薩。五百之眾。幷及四部。清信士女。今於我前。聽法者是。我於前世。勸是諸人。聽受斯經。第一之法。開示教人。令住涅槃。世世受持。如是經典。

          (Kinh: Bốn bộ chúng thuở đó, là kẻ chấp trước pháp, nghe lời Bất Khinh nói, các vị sẽ thành Phật. Do bởi nhân duyên ấy, gặp gỡ vô số Phật. Bồ Tát trong hội này, số đến năm trăm vị, cùng với bốn bộ chúng, gồm thanh tín nam nữ. Nay chính là những kẻ, đang nghe pháp trước ta. Ta ở trong đời trước, khuyên lơn những kẻ đó, nghe nhận kinh điển này, là diệu pháp bậc nhất, khai thị, dạy người khác, khiến họ trụ Niết Bàn. Đời đời luôn thọ tŕ, kinh điển như thế đó).

 

          Phần đầu, “trùng tụng quả báo do tin tưởng hay hủy báng” đă xong!

         

20.2.2. Trùng tụng khuyến tŕ

         

          (Kinh) Ức ức vạn kiếp, chí bất khả nghị, thời năi đắc văn, thị Pháp Hoa kinh. Ức ức vạn kiếp, chí bất khả nghị. Chư Phật Thế Tôn, thời thuyết thị kinh. Thị cố hành giả, ư Phật diệt hậu, văn như thị kinh, vật sanh nghi hoặc. Ưng đương nhất tâm, quảng thuyết thử kinh, thế thế trị Phật, tật thành Phật đạo.

          ()億億萬劫。至不可議。時乃得聞。是法華經。億億萬劫。至不可議。諸佛世尊。時說是經。是故行者。於佛滅後。聞如是經。勿生疑惑。應當一心。廣說此經。世世值佛。疾成佛道。

          (Kinh: Trải ức ức vạn kiếp, tới chẳng thể suy nghĩ, khi đó mới được nghe, bộ kinh Pháp Hoa này. Trải ức ức vạn kiếp, tới chẳng thể suy nghĩ, các vị Phật Thế Tôn, mới bèn nói kinh này. V́ thế, các hành giả, sau khi Phật diệt độ, nghe kinh như thế này, chớ sanh ḷng nghi hoặc. Hăy nên dốc một ḷng, rộng nói kinh điển này, sẽ đời đời gặp Phật, mau chóng thành Phật đạo).

 

          Hỏi: Phần kinh văn Trường Hàng đă nói rơ kinh này có sự lợi ích to lớn, thậm chí kẻ hủy báng rốt cuộc cũng hưởng lợi ích. V́ sao ức ức vạn kiếp cho đến chẳng thể nghĩ [kiếp số], chư Phật mới nói kinh này vậy?

          Đáp: Do có lợi ích Tứ Tất Đàn cho nên có thể nói. Chẳng có bốn lợi ích Tất Đàn, chư Phật sẽ trọn chẳng lầm lạc thuyết pháp. V́ thế, muốn hoằng dương đại pháp, trước tiên cần phải hiểu rơ nhân duyên Tứ Tất Đàn. Phần thứ hai, “nói riêng về hai môn Bổn Tích” đă xong.

 

* Phần Lưu Thông của hai môn Bổn và Tích

         

          Bao gồm tám phẩm kinh, chia thành ba ư:

          - Một, hai phẩm Thần Lực và Chúc Lụy nói về chuyện phó chúc lưu thông.

          - Hai, năm phẩm từ phẩm Dược Vương trở đi, xét theo sự hóa độ người khác để khuyên lưu thông.

          - Ba, phẩm Phổ Hiền Khuyến Phát xét theo tự hành để khuyên lưu thông.

          Trong ư thứ nhất:

          1) Phẩm Thần Lực nói rơ Bồ Tát vâng mạng hoằng kinh.

          2) Phẩm Chúc Lụy nói đến chuyện Như Lai xoa đầu, phó chúc.

          Giải thích phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát đă xong; kế đó, giải thích phẩm Như Lai Thần Lực.

 

21. Phẩm hai mươi mốt: Như Lai Thần Lực (Như Lai Thần Lực phẩm đệ nhị thập nhất, 如來神力品第二十一)

 

          [Ư nghĩa của] Như Lai như trong phần trên đă giải thích. “Thần” là chẳng lường được. “Lực” là vận dụng. “Chẳng lường được” th́ cái Thể tự nhiên sâu xa. Vận dụng th́ sức chuyển biến to lớn. Ở đây, v́ phó chúc pháp sâu, [đức Thế Tôn] hiện mười thứ lực mạnh mẽ; cho nên gọi là phẩm Thần Lực (Thần ở bên trong, tức là cái Tông của Thể. Lực là vận dụng, tức là hiển thị tác dụng của kinh. Đức Phật nói Bổn Tích, lực dụng của khẩu luân đă nói xong trong phần trước. Nay thân luân lại hiện tác dụng thù thắng để làm giáo pháp, ḥng khiến cho đại chúng lưu thông Bổn Tích. V́ thế nói là “Thể sâu, lực lớn”).

 

* Bồ Tát vâng mạng hoằng kinh

21.1. Trường Hàng

21.1.1. Bồ Tát vâng mạng

 

          (Kinh) Nhĩ thời, thiên thế giới vi trần đẳng Bồ Tát Ma Ha Tát tùng địa dũng xuất giả, giai ư Phật tiền, nhất tâm hiệp chưởng, chiêm ngưỡng tôn nhan, nhi bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă đẳng ư Phật diệt hậu, Thế Tôn phân thân sở tại quốc độ diệt độ chi xứ, đương quảng thuyết thử kinh. Sở dĩ giả hà? Ngă đẳng diệc tự dục đắc thị chân tịnh đại pháp, thọ tŕ, độc tụng, giải thuyết, thư tả, nhi cúng dường chi.

          ()爾時千世界微塵等菩薩摩訶薩。從地涌出者。皆於佛前。一心合掌。瞻仰尊顏。而白佛言。世尊。我等於佛滅後。世尊分身所在國土滅度之處。當廣說此經。所以者何。我等亦自欲得是真淨大法。受持讀誦解說書寫而供養之。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, các vị Bồ Tát nhiều như số vi trần trong một ngàn thế giới từ dưới đất vọt lên, đều ở trước đức Phật, nhất tâm chắp tay, chiêm ngưỡng tôn nhan, mà bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Chúng con sau khi đức Phật diệt độ, sẽ ở trong các quốc độ là nơi phân thân của đức Thế Tôn diệt độ mà rộng nói kinh này. V́ lẽ nào vậy? Chúng con cũng tự muốn đạt được đại pháp chân thật thanh tịnh này, thọ tŕ, đọc tụng, giải nói, biên chép để cúng dường).

         

          Phát thệ hoằng kinh gồm ba ư:

          - Một, nêu ra thời tiết, tức là sau khi đức Phật diệt độ.

          - Hai, nêu ra xứ sở, chính là quốc độ của các phân thân.

          - Ba, nêu ra lợi ích. Nếu chẳng lợi ích cho người khác th́ cũng mong tự ḿnh đạt được đại pháp chân tịnh, giúp cho ḿnh lẫn người. Thật Thể là Chân, Quyền dụng (tác dụng nơi Quyn) là Tịnh. Quyền Thật bất nhị là Đại; lại chẳng phải Quyền, chẳng phải Thật th́ là Chân. Có thể Quyền, có thể Thật th́ là Tịnh, cùng chiếu bất nhị th́ gọi là Đại.

 

21.1.2. Đức Phật hiện thần lực

21.1.2.1. Nêu chung đại chúng đối diện Phật

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn ư Văn Thù Sư Lợi đẳng vô lượng bách thiên vạn ức cựu trụ Sa Bà thế giới Bồ Tát Ma Ha Tát, cập chư tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, thiên, long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng, nhất thiết chúng tiền, hiện đại thần lực.

          ()爾時世尊。於文殊師利等。無量百千萬億舊住娑婆世界菩薩摩訶薩。及諸比丘。比丘尼。優婆塞。優婆夷。天龍。夜叉。乾闥婆。阿修羅。迦樓羅。緊那羅。摩睺羅伽。人非人等一切眾前。現大神力。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đối trước các vị như Văn Thù Sư Lợi v.v… vô lượng trăm ngàn vạn ức cựu trụ Bồ Tát Ma Ha Tát trong thế giới Sa Bà, và các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân v.v… hết thảy đại chúng, hiện đại thần lực).

 

          Các vị như Văn Thù v.v… chính là đại chúng được giáo hóa nơi Tích. “Cựu trụ” chính là đại chúng ở phương dưới được giáo hóa nơi Bổn. “Cập chư tỳ-kheo đẳng nhất thiết chúng” (và các hàng tỳ-kheo v.v… hết thảy các đại chúng): Từ phương khác đến và từ chỗ của các phân thân Phật mà đến.

 

21.1.2.2. Hiển hiện các tướng để biểu thị trong mười phương

21.1.2.2.1. Hiện tướng lưỡi và lỗ chân lông phóng quang

 

          (Kinh) Xuất quảng trường thiệt, thượng chí Phạm Thế. Nhất thiết mao khổng phóng ư vô lượng vô số sắc quang, giai tất biến chiếu thập phương thế giới. Chúng bảo thụ hạ sư tử ṭa thượng chư Phật, diệc phục như thị xuất quảng trường thiệt, phóng vô lượng quang. Thích Ca Mâu Ni Phật cập bảo thụ hạ chư Phật hiện thần lực thời, măn bách thiên tuế, nhiên hậu hoàn nhiếp thiệt tướng.

          ()出廣長舌。上至梵世。一切毛孔。放於無量無數色光。皆悉徧照十方世界。眾寶樹下師子座上諸佛。亦復如是出廣長舌。放無量光。釋迦牟尼佛及寶樹下諸佛現神力時。滿百千歲。然後還攝舌相。

          (Kinh: Hiện tướng lưỡi rộng dài lên đến trời Phạm Thế. Hết thảy các lỗ chân lông tỏa ra vô lượng vô số ánh sáng có màu, thảy đều chiếu trọn khắp mười phương thế giới. Chư Phật trên ṭa sư tử dưới các cây báu cũng giống như thế, hiện tướng lưỡi rộng dài, phóng vô lượng quang. Khi Thích Ca Mâu Ni Phật và chư Phật dưới các cây báu hiện thần lực trọn trăm ngàn năm, sau đấy mới thu lại tướng lưỡi).

 

          Hiện tướng lưỡi rộng dài biểu thị lời nói thành thật. Người phước đức lưỡi [thè ra] chạm tới chót mũi, Phật trong Tam Tạng (Tạng Giáo) [lưỡi thè ra] chạm tới mí tóc. Nay [tướng lưỡi thè ra] tới trời Phạm Thiên, [tức là] vượt ngoài phàm thánh. Tướng đă hết sức khác thường, lời nói hết sức đáng tin. Hăy nên biết “khai tam hiển nhất, khai cận hiển viễn” đều chân thật, chẳng hư dối. Lỗ chân lông tỏa ánh sáng chiếu trọn khắp, biểu thị nhị môn nhất lư. Trong phẩm Tự, [quang minh từ] bạch hào chiếu sang phương Đông, biểu thị “bảy phương tiện thoạt đầu thấy một lư”, nay Bổn Môn đă xong, phóng hết thảy quang minh, chiếu hết thảy cơi, có thể khiến cho kẻ sơ tâm lănh hội rốt ráo Phật huệ, trọn hết trí cảnh. Hóa đạo của phân thân chư Phật cũng tương đồng, cho nên cũng lại [hiện thần lực] giống như thế. Trọn trăm ngàn năm mang ư nghĩa biểu thị theo chiều ngang gồm khắp bách giới thiên như, theo chiều dọc tột cùng mười đời xưa nay. Trong tám năm mà lại trọn trăm ngàn năm [th́ ư nghĩa ẩn tàng trong ấy] như đă giải thích “năm mươi tiểu kiếp” trong phần trước. Nay đại hội này hoàn toàn phá vô minh, cho nên chẳng cần dùng thần lực khiến cho họ cảm thấy giống như nửa ngày.

 

21.1.2.2.2. Đằng hắng và khảy ngón tay

 

          (Kinh) Nhất thời khánh khái, câu cộng đàn chỉ. Thị nhị âm thanh biến chí thập phương chư Phật thế giới.

          ()一時謦咳。俱共彈指。是二音聲。徧至十方諸佛世界。

          (Kinh: Cùng lúc đằng hắng, và cùng khảy ngón tay. Hai âm thanh ấy vang trọn khắp các thế giới pháp giới trong mười phương).

 

          “Đằng hắng” là tướng trạng thông thoáng, lưu loát. Lại c̣n là biểu hiện sắp nói [điều chi đó, bèn hắng giọng]. Hơn bốn mươi năm chưa thể nói về Thật, nay được thoải mái [diễn bày Thật Đế], chẳng c̣n vướng mắc ǵ! Đại sự đă thông thoáng, trôi chảy; v́ thế đằng hắng. Muốn đem pháp này phó chúc các Bồ Tát, ḥng hướng dẫn, tạo lợi ích cho chúng sanh trong đời sau, sắp nói chuyện ấy, cho nên đằng hắng. Đó chính là biểu thị Giáo Nhất. “Khảy ngón tay” là tùy hỷ, tùy hỷ bảy phương tiện cùng nhập Viên đạo. Tùy hỷ các địa vị thuộc Viên Giáo tăng trưởng trí huệ, tổn giảm Biến Dịch sanh tử. Tùy hỷ các Bồ Tát tŕ chân tịnh đại pháp. Tùy hỷ đời sau đạt được của báu vô thượng, tức là biểu thị Nhân Nhất. V́ vậy, khảy ngón tay và đằng hắng theo chiều dọc th́ cùng tột ba đời, theo chiều ngang bèn trọn khắp mười phương.

 

21.1.2.2.3. Đại địa chấn động và thấy trọn khắp đại hội

 

          (Kinh) Địa giai lục chủng chấn động. Kỳ trung chúng sanh, thiên, long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng, dĩ Phật thần lực cố, giai kiến thử Sa Bà thế giới vô lượng vô biên bách thiên vạn ức chúng bảo thụ hạ sư tử ṭa thượng chư Phật, cập kiến Thích Ca Mâu Ni Phật, cộng Đa Bảo Như Lai tại bảo tháp trung, tọa sư tử ṭa. Hựu kiến vô lượng vô biên bách thiên vạn ức Bồ Tát Ma Ha Tát, cập chư tứ chúng, cung kính vi nhiễu Thích Ca Mâu Ni Phật. Kư kiến thị dĩ, giai đại hoan hỷ, đắc vị tằng hữu.

          ()地皆六種震動。其中眾生。天龍夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽人非人等。以佛神力故。皆見此娑婆世界無量無邊百千萬億眾寶樹下師子座上諸佛。及見釋迦牟尼佛。共多寶如來。在寶塔中坐師子座。又見無量無邊百千萬億菩薩摩訶薩及諸四眾。恭敬圍繞釋迦牟尼佛。旣見是已。皆大歡喜。得未曾有。

          (Kinh: Đại địa đều sáu thứ chấn động. Chúng sanh trong đó: Trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… do thần lực của Phật, đều thấy trong thế giới Sa Bà này, chư Phật trên ṭa sư tử dưới vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức các cây báu, và thấy Thích Ca Mâu Ni Phật cùng với Đa Bảo Như Lai ngồi trên ṭa sư tử trong tháp báu. Lại thấy vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức Bồ Tát Ma Ha Tát và các tứ chúng, cung kính vây quanh Thích Ca Mâu Ni Phật. Đă thấy như thế, đều hết sức hoan hỷ, đạt được điều chưa từng có).

 

          Đất trong mười phương thế giới đều sáu thứ chấn động, biểu thị chấn động sáu căn của hết thảy chúng sanh ḥng được thanh tịnh, cũng biểu thị Viên Đạo từ đầu đến cuối sáu lượt phá vô minh, biểu thị Hạnh Nhất. Thấy trọn khắp đại hội trong thế gian này, biểu thị chư Phật đạo đồng, hiện tại và mai sau cũng đều là như thế. Trước đó, năm ngàn người rời đi, ba lượt [đại chúng trong thế giới Sa Bà và các quốc độ do đức Phật Thích Ca biến hóa ra] bị dời [sang phương khác], cho đến  nhân, phi nhân v.v… vốn trụ trong mười phương chính là những kẻ căn cơ chưa thuần thục, đă chẳng thể vân tập tới pháp hội này, nay do thần lực [của đức Bổn Sư và các phân thân chư Phật] đều khiến cho họ từ xa trông thấy [pháp hội Pháp Hoa này], kết duyên hoan hỷ, tức là điều lành chung [biểu thị] họ sẽ đắc độ trong vị lai.

 

21.1.2.2.4. Trong hư không vang ra âm thanh

 

          (Kinh) Tức thời chư thiên ư hư không trung, cao thanh xướng ngôn: - Quá thử vô lượng vô biên bách thiên vạn ức A-tăng-kỳ thế giới, hữu quốc danh Sa Bà. Thị trung hữu Phật, danh Thích Ca Mâu Ni. Kim vị chư Bồ Tát Ma Ha Tát thuyết Đại Thừa kinh, danh Diệu Pháp Liên Hoa, giáo Bồ Tát pháp, Phật sở hộ niệm. Nhữ đẳng đương thâm tâm tùy hỷ, diệc đương lễ bái, cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật.

          ()即時諸天。於虛空中。高聲唱言。過此無量無邊百千萬億阿僧祇世界。有國名娑婆。是中有佛。名釋迦牟尼。今為諸菩薩摩訶薩說大乘經。名妙法蓮華。教菩薩法。佛所護念。汝等當深心隨喜。亦當禮拜供養釋迦牟尼佛。

          (Kinh: Ngay lập tức, chư thiên ở trong hư không, lớn tiếng xướng rằng: - Qua khỏi vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức A-tăng-kỳ thế giới, có cơi nước tên là Sa Bà. Trong ấy có Phật, tên là Thích Ca Mâu Ni, nay v́ các vị Bồ Tát Ma Ha Tát nói kinh Đại Thừa, tên là Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm. Các ông hăy nên thâm tâm tùy hỷ, cũng nên lễ bái, cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật).

 

          Tuy do Phật lực khiến cho họ trông thấy đại hội từ xa, nhưng vẫn chẳng biết Phật có danh hiệu như thế nào, do duyên ǵ mà [đại chúng] tụ tập. Nay chư thiên trong hư không tuyên xướng, khiến cho mọi người nghe biết, khiến cho mọi người tùy hỷ diệu pháp, cúng dường đức Thế Tôn, tức là biểu thị trong vị lai họ sẽ có Giáo Nhất.

 

21.1.2.2.5. Quy mạng từ xa

 

          (Kinh) Bỉ chư chúng sanh văn hư không trung thanh dĩ, hiệp chưởng hướng Sa Bà thế giới, tác như thị ngôn: “Nam-mô Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam-mô Thích Ca Mâu Ni Phật”.

          ()彼諸眾生。聞虛空中聲已合掌向娑婆世界。作如是言。南無釋迦牟尼佛。南無釋迦牟尼佛。

    (Kinh: Các chúng sanh ấy nghe tiếng trong hư không rồi, chắp tay hướng về thế giới Sa Bà, nói như thế này: “Nam-mô Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam-mô Thích Ca Mâu Ni Phật”).

 

          Chắp tay, xưng Nam-mô, là đệ tử của Phật, biểu thị sẽ là Nhân Nhất trong vị lai.

 

21.1.2.2.6. Cúng dường từ xa

 

          (Kinh) Dĩ chủng chủng hoa, hương, anh lạc, phan, cái, cập chư nghiêm thân chi cụ, trân bảo diệu vật, giai cộng dao tán Sa Bà thế giới. Sở tán chư vật tùng thập phương lai. Thí như vân tập, biến thành bảo trướng, biến phú thử gian chư Phật chi thượng.

          ()以種種華香瓔珞旛葢。及諸嚴身之具。珍寶妙物。皆共遙散娑婆世界。所散諸物。從十方來。譬如雲集。變成寶帳。徧覆此間諸佛之上。

          (Kinh: Dùng các thứ hoa, hương, anh lạc, phan, lọng, và các vật trang nghiêm thân, các vật trân bảo mầu nhiệm, đều cùng từ xa rải lên thế giới Sa Bà. Các vật được rải từ mười phương đến ví như mây nhóm, biến thành trướng báu, phủ khắp trên chư Phật trong cơi này).

 

          Các vật được rải biến thành trướng báu, che trên chư Phật, biểu thị “vạn thiện đồng quy”, đều chứa đựng Phật quả, tức là sẽ có Hạnh Nhất trong vị lai.

 

21.1.2.2.7. Mười phương thế giới thông đạt như một cơi Phật

 

          (Kinh) Ư thời, thập phương thế giới thông đạt vô ngại như nhất Phật độ.

          ()於時十方世界。通達無礙。如一佛土。

          (Kinh: Khi ấy, mười phương thế giới thông đạt vô ngại như một cơi Phật).

 

          Điều này biểu thị Lư Nhất trong vị lai. Đă ngộ lư Quyền, Thật, Bổn, Tích chẳng thể nghĩ bàn như nhau. Sai biệt chính là chẳng sai biệt. Phần thứ hai, “Phật hiện thần lực” đă xong.

 

21.1.3. Kết lại điểm trọng yếu để khuyên thọ tŕ

21.1.3.1. Xưng thán, phó chúc

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật cáo Thượng Hạnh đẳng Bồ Tát đại chúng: - Chư Phật thần lực như thị vô lượng vô biên bất khả tư nghị. Nhược ngă dĩ thị thần lực, ư vô lượng vô biên bách thiên vạn ức A-tăng-kỳ kiếp, vị chúc lụy cố, thuyết thử kinh công đức, do bất năng tận.

          ()爾時佛告上行等菩薩大眾。諸佛神力。如是無量無邊不可思議。若我以是神力。於無量無邊百千萬億阿僧祇劫。為囑累故。說此經功德。猶不能盡。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các vị như Thượng Hạnh v.v… Bồ Tát đại chúng: - Thần lực của chư Phật vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn như thế! Nếu ta dùng thần lực ấy trong vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức A-tăng-kỳ kiếp v́ chúc lụy mà nói công đức của kinh này, vẫn chẳng thể hết).

 

21.1.3.2. Kết lại điểm trọng yếu để phó chúc

 

          (Kinh) Dĩ yếu ngôn chi, Như Lai nhất thiết sở hữu chi pháp, Như Lai nhất thiết tự tại thần lực, Như Lai nhất thiết bí yếu chi tạng, Như Lai nhất thiết thậm thâm chi sự, giai ư thử kinh tuyên thị, hiển thuyết.

          ()以要言之。如來一切所有之法。如來一切自在神力。如來一切秘要之藏。如來一切甚深之事。皆於此經宣示顯說。

          (Kinh: Nói tóm lại, hết thảy tất cả các pháp của Như Lai, hết thảy thần lực tự tại của Như Lai, hết thảy tạng bí mật trọng yếu của Như Lai, hết thảy các chuyện rất sâu của Như Lai, đều được tuyên nói, chỉ bày, nêu rơ trong kinh này).

                   

          Tất cả các pháp, hết thảy các pháp, đều là Phật pháp. Đó là tổng kết “hết thảy đều là diệu danh”. “Tự tại thần lực”: Thông đạt vô ngại, có đủ tám món tự tại, nhằm kết lại diệu dụng. “Tạng bí mật, trọng yếu”: Trọn khắp hết thảy các chỗ đều là Thật Tướng, kết lại diệu thể. “Chuyện rất sâu”: Hết thảy nhân quả, đại sự duy nhất, kết lại diệu tông, đều được tuyên nói, chỉ bày, nêu rơ trong kinh này, nhằm tổng kết một bộ kinh chỉ có bốn điều trên đây mà thôi, được gom thành cốt lơi để trao truyền.

 

21.1.3.3. Khuyên lơn, khích lệ để phó chúc

 

          (Kinh) Thị cố nhữ đẳng, ư Như Lai diệt hậu, ưng nhất tâm thọ tŕ, độc, tụng, giải thuyết, thư tả, như thuyết tu hành. Sở tại quốc độ, nhược hữu thọ tŕ, độc, tụng, giải thuyết, thư tả, như thuyết tu hành, nhược kinh quyển sở trụ chi xứ, nhược ư viên trung, nhược ư lâm trung, nhược ư thụ hạ, nhược ư tăng phường, nhược bạch y xá, nhược tại điện đường, nhược sơn cốc, khoáng dă, thị trung giai ưng khởi tháp cúng dường.

          ()是故汝等。於如來滅後。應一心受持讀誦解說書寫。如說修行。所在國土。若有受持讀誦解說書寫。如說修行。若經卷所住之處。若於園中。若於林中。若於樹下。若於僧坊。若白衣舍。若在殿堂。若山谷曠野。是中皆應起塔供養。

          (Kinh: V́ thế, các ông sau khi Như Lai diệt độ, hăy nên nhất tâm thọ tŕ, đọc, tụng, giải nói, biên chép, tu hành đúng như lời dạy. Ở trong cơi nước, nếu có người thọ tŕ, đọc, tụng, giải nói, biên chép, tu hành đúng như lời dạy, hoặc chỗ có kinh quyển, hoặc ở trong vườn, hoặc ở trong rừng, hoặc dưới cội cây, hoặc trong tăng phường, hoặc nhà bạch y, hoặc tại điện đường, hoặc hang núi, đồng hoang, đều nên dựng tháp cúng dường tại đó).

 

21.1.3.4. Giải thích việc phó chúc

 

          (Kinh) Sở dĩ giả hà? Đương tri thị xứ tức thị đạo tràng, chư Phật ư thử đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, chư Phật ư thử chuyển ư pháp luân, chư Phật ư thử nhi bát Niết Bàn.

          ()所以者何。當知是處即是道場。諸佛於此得阿耨多羅三藐三菩提。諸佛於此轉於法輪。諸佛於此而般涅槃。

          (Kinh: V́ cớ sao vậy? Hăy nên biết chỗ ấy chính là đạo tràng, chư Phật đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tại đó, chư Phật chuyển pháp luân tại đó, chư Phật bát Niết Bàn tại đó).

 

          Đoạn này nhằm giải thích v́ sao chỗ có kinh quyển đều phải nên dựng tháp. Do chỗ ấy chính là đạo tràng. Chỗ đắc đạo, chỗ chuyển pháp luân, chỗ nhập Niết Bàn, đều gọi là “đạo tràng”. Đạo tràng là nói chung, nhằm giải thích “hết thảy đều là diệu danh”. “Đắc Bồ Đề” là chứng tạng bí mật, trọng yếu, nhằm giải thích diệu thể. “Chuyển pháp luân”: Tuyên nói, chỉ bày chuyện rất sâu thuộc tự hạnh, nhân quả Bổn Tích, nhằm giải thích diệu tông. “Bát Niết Bàn”: Chẳng phải diệt mà xướng diệt, thần lực tự tại, giải thích diệu dụng. Đắc Bồ Đề là Pháp Thân, chuyển pháp luân là Bát Nhă, nhập Niết Bàn là giải thoát. Ba pháp hợp thành tạng bí mật, Phật trụ trong đó, tức là đạo tràng, tức là ư nghĩa của tháp. V́ thế, hăy nên dựng tháp để biểu thị rơ rệt. Phần thứ nhất, Trường Hàng đă xong.

 

21.2. Kệ tụng                 

21.2.1. Trùng tụng thần lực    

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Chư Phật cứu thế giả, trụ ư đại thần thông. Vị duyệt chúng sanh cố, hiện vô lượng thần lực. Thiệt tướng chí Phạm Thiên, thân phóng vô số quang. Vị cầu Phật đạo giả, hiện thử hy hữu sự, chư Phật khánh khái thanh, cập đàn chỉ chi thanh, châu văn thập phương quốc. Địa giai lục chủng động. Dĩ Phật diệt độ hậu, năng tŕ thị kinh cố, chư Phật giai hoan hỷ, hiện vô lượng thần lực.

          ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。諸佛救世者。住於大神通。為悅眾生故。現無量神力。舌相至梵天。身放無數光。為求佛道者。現此希有事。諸佛謦咳聲。及彈指之聲。周聞十方國。地皆六種動。以佛滅度後。能持是經故。諸佛皆歡喜。現無量神力。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Chư Phật đấng cứu đời, trụ trong đại thần thông. V́ vui sướng chúng sanh, hiện vô lượng thần lực. Tướng lưỡi tới Phạm Thiên, thân phóng vô số quang. V́ người cầu Phật đạo, hiện chuyện hiếm có này. Tiếng chư Phật đằng hắng, và tiếng khảy ngón tay, nghe trọn mười phương cơi, đất chấn động sáu cách. Do Phật diệt độ rồi, ai có thể tŕ kinh, chư Phật đều hoan hỷ, hiện vô lượng thần lực).

 

          Đối với mười loại thần lực, chỉ trùng tụng năm thứ đầu, năm thứ sau đều do hai âm thanh chấn động mà hiện, cho nên lược đi. Lại nữa, năm thứ đầu và năm thứ sau biểu thị ư nghĩa chẳng khác biệt, nhưng có hiện tại và vị lai sai khác, cho nên tỉnh lược.

 

21.2.2. Trùng tụng kết lại những điều trọng yếu, khuyên thọ tŕ

21.2.2.1. Trùng tụng xưng thán

 

          (Kinh) Chúc lụy thị kinh cố, tán mỹ thọ tŕ giả, ư vô lượng kiếp trung, do cố bất năng tận. Thị nhân chi công đức, vô biên vô hữu cùng, như thập phương hư không, bất khả đắc biên tế.

          ()囑累是經故。讚美受持者。於無量劫中。猶故不能盡。是人之功德。無邊無有窮。如十方虛空。不可得邊際。

          (Kinh: Do chúc lụy kinh này, khen ngợi người thọ tŕ, trong vô lượng ức kiếp, vẫn chẳng thể cùng tận. Công đức của người ấy, vô biên, chẳng cùng tận, như mười phương hư không, chẳng thể đạt bờ mé).

 

          Phần kinh văn Trường Hàng chỉ nói công đức của kinh này chẳng thể cùng tận. Nay kệ tụng nói công đức của người ấy (người thọ tŕ) là vô biên, chẳng thể cùng tận. Do pháp diệu nên người diệu. Do người diệu nên pháp diệu, hiển hiện lẫn nhau!

 

21.2.2.2. Trùng tụng kết lại điểm trọng yếu, kiêm giải thích

21.2.2.2.1. Trùng tụng hết thảy các pháp

         

          (Kinh) Năng tŕ thị kinh giả, tắc vi dĩ kiến ngă, diệc kiến Đa Bảo Phật, cập chư phân thân giả. Hựu kiến ngă kim nhật, giáo hóa chư Bồ Tát.

          ()能持是經者。則為已見我。亦見多寶佛。及諸分身者。又見我今日。教化諸菩薩。

    (Kinh: Người hay tŕ kinh này, chính là đă thấy ta, cũng thấy Phật Đa Bảo, và các vị phân thân. Lại thấy ta ngày nay, giáo hóa các Bồ Tát).

 

          Tất cả các pháp chẳng ngoài người có thể giáo hóa, người có thể chứng, và đối tượng được giáo hóa. Do chẳng có Nhị Thừa, chẳng nói kèm theo, pháp này thuần diệu. Đó là dùng ba điều để h́nh dung tổng quát đạo tràng.

         

21.2.2.2.2. Trùng tụng thần lực tự tại

 

          (Kinh) Năng tŕ thị kinh giả, linh ngă cập phân thân, diệt độ Đa Bảo Phật, nhất thiết giai hoan hỷ. Thập phương hiện tại Phật, tịnh quá khứ, vị lai, diệc kiến, diệc cúng dường, diệc linh đắc hoan hỷ.

          ()能持是經者。令我及分身。滅度多寶佛。一切皆歡喜。十方現在佛。幷過去未來。亦見亦供養。亦令得歡喜。

          (Kinh: Người hay tŕ kinh này, khiến ta và phân thân, diệt độ Đa Bảo Phật, hết thảy đều hoan hỷ. Mười phương hiện tại Phật, và quá khứ, vị lai, cũng thấy, cũng cúng dường, cũng khiến được hoan hỷ).

         

          “Hoan hỷ” chính là tác dụng thông suốt của thần lực, cũng chính là Niết Bàn, nơi an ổn nhất.

 

21.2.2.2.3. Trùng tụng tạng bí yếu

 

          (Kinh) Chư Phật tọa đạo tràng, sở đắc bí yếu pháp, năng tŕ thị kinh giả, bất cửu diệc đương đắc.

          ()諸佛坐道場。所得秘要法。能持是經者。不久亦當得。

          (Kinh: Chư Phật ngồi đạo tràng, đạt được pháp bí yếu, người hay tŕ kinh này, chẳng lâu cũng sẽ được).

 

          Giống như chư Phật đắc Chánh Giác, chứng diệu thể bí mật tạng.

 

21.2.2.2.4. Trùng tụng chuyện rất sâu

 

          (Kinh) Năng tŕ thị kinh giả, ư chư pháp chi nghĩa, danh tự cập ngôn từ, nhạo thuyết vô cùng tận. Như phong ư không trung, nhất thiết vô chướng ngại. Ư Như Lai diệt hậu, tri Phật sở thuyết kinh. Nhân duyên cập thứ đệ, tùy nghĩa như thật thuyết. Như nhật nguyệt quang minh, năng trừ chư u minh. Tư nhân hành thế gian, năng diệt chúng sanh ám, giáo vô lượng Bồ Tát, tất cánh trụ Nhất Thừa.

          ()能持是經者。於諸法之義。名字及言辭。樂說無窮盡。如風於空中。一切無障礙。於如來滅後。知佛所說經。因緣及次第。隨義如實說。如日月光明。能除諸幽冥。斯人行世間。能滅眾生闇。教無量菩薩。畢竟住一乘。

          (Kinh: Người hay tŕ kinh này, đối với nghĩa các pháp, danh tự và ngôn từ, thích nói chẳng cùng tận. Như gió trong hư không, hết thảy chẳng chướng ngại. Như Lai diệt độ rồi, biết kinh do Phật nói, nhân duyên và thứ tự, thuận nghĩa, như thật nói. Như ánh sáng nhật nguyệt, hay trừ các tối tăm. Người ấy trong thế gian, hay diệt chúng sanh tối, dạy vô lượng Bồ Tát, rốt ráo trụ Nhất Thừa).

 

          Dùng cốt lơi của nhân quả Nhất Thừa để giáo hóa Bồ Tát, tức là chuyển pháp luân. Phần thứ hai, “kết lại những điểm trọng yếu và kiêm giải thích” đă xong.

         

21.2.2.3. Trùng tụng ư khuyên lơn, khích lệ

 

          (Kinh) Thị cố hữu trí giả, văn thử công đức lợi, ư ngă diệt độ hậu, ưng thọ tŕ tư kinh. Thị nhân ư Phật đạo, quyết định vô hữu nghi.

          ()是故有智者。聞此功德利。於我滅度後。應受持斯經。是人於佛道。決定無有疑。

          (Kinh: V́ thế, người có trí, nghe công đức lợi này, sau khi ta diệt độ, nên thọ tŕ kinh này. Người ấy trong Phật đạo, quyết định chẳng có nghi).

 

          Lược đi không trùng tụng chuyện dựng tháp cúng dường, chỉ nói “đối với Phật đạo chẳng nghi ngờ”. Bởi lẽ, tin sâu chỗ ấy chính là đạo tràng. Ở đấy, chư Phật đắc Bồ Đề, chuyển pháp luân, nhập Niết Bàn. Phần thứ nhất, “nói về chuyện Bồ Tát vâng mạng hoằng kinh” đă xong.

          Giải thích phẩm Như Lai Thần Lực đă xong, kế đó, giải thích phẩm Chúc Lụy.

 

22. Phẩm hai mươi hai: Chúc Lụy (Chúc Lụy phẩm đệ nhị thập nhị, 囑累品第二十二)

 

          “Chúc” là Phật phó chúc (giao phó, căn dặn). “Lụy” là phiền ngươi hăy tuyên truyền. Đây là tuân theo thánh chỉ của Như Lai mà gọi như thế. “Chúc” là cung kính tiếp nhận lời căn dặn, “Lụy” là cam ḷng chẳng mệt nhọc. Đấy là do Bồ Tát kính thuận mà gọi như vậy. “Chúc” là kim khẩu của Như Lai căn dặn. “Lụy” là Bồ Tát ḷng son kính cẩn gánh vác. Đấy là gộp chung trao và nhận lại để luận định. V́ thế, Như Lai vươn ḿnh từ chỗ ngồi đứng dậy, duỗi tay xoa đỉnh đầu [các Bồ Tát], truyền trao pháp khó được. Đại chúng nghiêng ḿnh chắp tay, tuân phụng lời sắc truyền của đức Thế Tôn, sẽ phụng hành đầy đủ. Ân cần trao nhận; v́ thế gọi là phẩm Chúc Lụy.

 

22.1. Như Lai xoa đỉnh đầu phó chúc

22.1.1. Phó chúc

22.1.1.1. Như Lai phó chúc

22.1.1.1.1. Chánh thức phó chúc

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thích Ca Mâu Ni Phật, tùng (bảo tháp trung) pháp ṭa khởi, hiện đại thần lực, dĩ hữu thủ ma vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát đảnh, nhi tác thị ngôn: “Ngă ư vô lượng bách thiên vạn ức A-tăng-kỳ kiếp tu tập thị nan đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề pháp. Kim dĩ phó chúc nhữ đẳng. Nhữ đẳng ưng đương nhất tâm lưu bố thử pháp, quảng linh tăng ích”. Như thị tam ma chư Bồ Tát Ma Ha Tát đảnh, nhi tác thị ngôn: “Ngă ư vô lượng bách thiên vạn ức A-tăng-kỳ kiếp, tu tập thị nan đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề pháp, kim dĩ phó chúc nhữ đẳng. Nhữ đẳng đương thọ tŕ, độc, tụng, quảng tuyên thử pháp, linh nhất thiết chúng sanh phổ đắc văn tri.

          ()爾時釋迦牟尼佛。從(寶塔中)法座起。現大神力。以右手摩無量菩薩摩訶薩頂。而作是言。我於無量百千萬億阿僧祇劫修習是難得阿耨多羅三藐三菩提法。今以付囑汝等。汝等應當一心流布此法。廣令增益。如是三摩諸菩薩摩訶薩頂。而作是言。我於無量百千萬億阿僧祇劫。修習是難得阿耨多羅三藐三菩提法。今以付囑汝等。汝等當受持讀誦廣宣此法。令一切眾生。普得聞知。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật từ pháp ṭa (trong bảo tháp) đứng dậy[5], hiện đại thần lực, dùng tay phải xoa đỉnh đầu[6] vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát, mà nói như thế này: “Ta trong vô lượng trăm ngàn vạn ức A-tăng-kỳ kiếp tu tập pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác khó được này, nay đem phó chúc cho các ông. Các ông hăy nên nhất tâm lưu truyền pháp này, khiến cho nó rộng tăng trưởng”. Xoa đỉnh đầu các Bồ Tát Ma Ha Tát ba lượt như thế, nói như thế này: “Ta trong vô lượng trăm ngàn vạn ức A-tăng-kỳ kiếp tu tập pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác khó được này, nay phó chúc cho các ông. Các ông hăy nên thọ tŕ, đọc, tụng, rộng tuyên dương pháp này, khiến cho hết thảy chúng sanh đều được nghe biết trọn khắp”).

 

          Như Lai dùng tay Quyền Trí thiện xảo, cùng lúc xoa trọn khắp đỉnh đầu Thật Trí của vô lượng Bồ Tát; v́ thế nói là “hiện đại thần lực”. Như Lai trao truyền hóa đạo cho họ. V́ thế, dùng tay phải để biểu thị Quyền. Bồ Tát tự hành tiếp nhận đạo, cho nên dùng đỉnh đầu để biểu thị Thật. Duỗi tay xoa đỉnh đầu tức là “thân phó chúc”. Quyền Trí gặp Thật Trí tức là “ư phó chúc”. “Mà nói như thế này” tức là “khẩu phó chúc”. Ba lượt xoa đỉnh đầu, ba lượt căn dặn, ân cần chẳng nhẹ, khiến cho tự hành và hóa độ người khác trọn khắp, khiến cho đạt được Tứ Tất Đàn vĩnh viễn vô tận.

 

22.1.1.1.2. Giải thích sự phó chúc

 

          (Kinh) Sở dĩ giả hà? Như Lai hữu đại từ bi, vô chư xan lận, diệc vô sở úy, năng dữ chúng sanh Phật chi trí huệ. Như Lai trí huệ, tự nhiên trí huệ. Như Lai thị nhất thiết chúng sanh chi đại thí chủ, nhữ đẳng diệc ưng tùy học Như Lai chi pháp, vật sanh xan lận.

          ()所以者何。如來有大慈悲。無諸慳悋。亦無所畏。能與眾生佛之智慧。如來智慧。自然智慧。如來是一切眾生之大施主。汝等亦應隨學如來之法。勿生慳悋。

    (Kinh: V́ lẽ nào vậy? Như Lai có đại từ bi, chẳng có các thứ keo tiếc, cũng chẳng sợ hăi, có thể ban cho chúng sanh trí huệ của Phật, trí huệ Như Lai, trí huệ tự nhiên. Như Lai là đại thí chủ của hết thảy chúng sanh, các ông cũng nên học theo pháp của Như Lai, đừng sanh ḷng keo tiếc).

 

          “Có ḷng đại từ bi”Như Lai thất. “Vô chư xan lận” (Chẳng có các thứ keo tiếc) là [Như Lai] y rốt ráo. “Diệc vô sở úy” (cũng chẳng sợ hăi) là [Như Lai] ṭa rốt ráo. “Phật chi trí huệ” (trí huệ của Phật) là thật tánh của giác pháp, tức Nhất Thiết Trí. “Như Lai trí huệ” (trí huệ của Như Lai) từ tánh khởi tu, từ nhân tới quả, tức Đạo Chủng Trí. “Tự nhiên trí huệ”: Thể của nó tự nhiên, song chiếu bất nhị, tức Nhất Thiết Chủng Trí. Ba thứ “y, ṭa, thất”, mỗi thứ đều có đủ ba trí. Ba và một chính là lẫn nhau, ba và một dung nhập lẫn nhau. Dùng điều này để giáo hóa người khác, gọi là “đại thí chủ”. Thất mà chẳng có y và ṭa, hoằng thệ sẽ chẳng trọn khắp. Y mà chẳng có thất và ṭa, Pháp Thân sẽ chẳng trọn đủ. Ṭa mà chẳng có y và thất, sẽ phá Hoặc chẳng trọn vẹn. “Vật sanh xan lận” (chớ sanh ḷng keo tiếc): Khuyên phần chứng thí chủ hăy nên học theo vị đại thí chủ rốt ráo. Nếu có keo tiếc, tức là chẳng từ bi. Đó là có sợ hăi; v́ thế, nêu ra một lời, tức là khuyên hăy vâng theo ba khuôn khổ (y, thất, ṭa của Như Lai) để hoằng kinh.

 

22.1.1.1.3. Phó chúc răn dạy

 

          (Kinh) Ư vị lai thế, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân tín Như Lai trí huệ giả, đương vị diễn thuyết thử Pháp Hoa kinh, sử đắc văn tri, vị linh kỳ nhân đắc Phật huệ cố. Nhược hữu chúng sanh bất tín thọ giả, đương ư Như Lai dư thâm pháp trung thị giáo lợi hỷ. Nhữ đẳng nhược năng như thị, tắc vi dĩ báo chư Phật chi ân.

          ()於未來世。若有善男子善女人。信如來智慧者。當為演說此法華經。使得聞知。為令其人得佛慧故。若有眾生不信受者。當於如來餘深法中示教利喜。汝等若能如是。則為已報諸佛之恩。

          (Kinh: Trong đời vị lai, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, tin trí huệ của Như Lai, hăy v́ người ấy diễn nói kinh Pháp Hoa này, khiến cho người ấy nghe biết, v́ khiến cho người ấy đắc Phật huệ. Nếu có các chúng sanh chẳng tin nhận, hăy nên dùng các pháp sâu khác của Như Lai để chỉ dạy khiến cho họ đạt được lợi ích, hoan hỷ. Nếu các ông có thể làm như thế th́ chính là đă báo ân của chư Phật).

 

          Trừ Phật huệ ra, những điều khác đều gọi là “dư”. V́ Thật mà hành Quyền, Quyền chứa đựng Thật. V́ thế, đều gọi là “thâm” (sâu). Do đó biết: Chỉ khen ngợi Phật thừa, sẽ chẳng thể thông trọn khắp ba giáo pháp trước (Tạng, Thông, Biệt), chẳng phải là truyền pháp báo ân Phật. Phần thứ nhất, “Như Lai phó chúc” đă xong.

         

22.1.1.2. Bồ Tát lănh nhận

 

          (Kinh) Thời chư Bồ Tát Ma Ha Tát, văn Phật tác thị thuyết dĩ, giai đại hoan hỷ, biến măn kỳ thân, ích gia cung kính, khúc cung, đê đầu, hiệp chưởng hướng Phật, câu phát thanh ngôn: “Như Thế Tôn sắc, đương cụ phụng hành. Dụy nhiên Thế Tôn, nguyện bất hữu lự”. Chư Bồ Tát Ma Ha Tát chúng như thị tam phản câu phát thanh ngôn: “Như Thế Tôn sắc, đương cụ phụng hành, dụy nhiên Thế Tôn, nguyện bất hữu lự”.

          ()時諸菩薩摩訶薩。聞佛作是說已。皆大歡喜。徧滿其身。益加恭敬。曲躬低頭。合掌向佛。俱發聲言。如世尊敕。當具奉行。唯然世尊。願不有慮。諸菩薩摩訶薩眾。如是三反俱發聲言。如世尊敕。當具奉行。唯然世尊。願不有慮。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, các Bồ Tát Ma Ha Tát nghe Phật nói như thế rồi đều hết sức hoan hỷ trọn khắp cả thân, càng thêm cung kính, khom ḿnh, cúi đầu, chắp tay hướng về đức Phật, đều phát ra tiếng thưa: “Như Thế Tôn sắc truyền, chúng con sẽ phụng hành trọn vẹn. Kính vâng đức Thế Tôn, xin chớ có lo”. Các vị Bồ Tát Ma Ha Tát ba lượt đều phát ra tiếng thưa như thế: “Như Thế Tôn sắc truyền, chúng con sẽ phụng hành trọn vẹn. Kính vâng đức Thế Tôn. Xin chớ có lo”).

 

          Hoan hỷ cung kính tức ư lănh nhận. Khom ḿnh, cúi đầu là thân lănh nhận. “Đều phát ra tiếng thưa tŕnh” chính là khẩu lănh nhận. “Như Thế Tôn sắc”: Lănh nhận lời giao phó. “Đương cụ phụng hành” (sẽ phụng hành trọn vẹn): Hành trọn ba pháp, lănh nhận sự phó chúc. “Nguyện bất hữu lự” (xin chớ có lo): Lănh nhận lời giao phó răn truyền. Như Lai ba lượt giao phó, Bồ Tát ba lượt tiếp nhận, ân cần trịnh trọng, suốt cả đời chẳng sót!

 

22.1.1.3. Xong việc bèn xướng tán

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Thích Ca Mâu Ni Phật linh thập phương lai chư phân thân Phật các hoàn bổn độ, nhi tác thị ngôn: “Chư Phật các tùy sở an, Đa Bảo Phật tháp hoàn khả như cố”.

          ()爾時釋迦牟尼佛。令十方來諸分身佛。各還本土。而作是言。諸佛各隨所安。多寶佛塔。還可如故。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo các vị Phật phân thân đến từ mười phương đều trở về cơi ḿnh, mà nói như thế này: “Chư Phật mỗi vị hăy nên an trụ trong cơi ḿnh hóa độ. Tháp Phật Đa Bảo hăy nên trở lại như cũ”).

 

          Phân thân [chư Phật] v́ mở tháp mà tụ tập. Chuyện mở tháp đă xong, cho nên bảo các vị hăy thuận theo cơi các Ngài vốn an trụ mà trở về từng cơi. Tháp báu v́ chứng minh kinh mà hiện đến, nay hai môn Bổn và Tích đă xong, v́ thế kính khuyên hăy đóng lại như cũ. Tháp chẳng mở nữa, cho nên các phân thân rời đi chẳng hiện. Tháp vẫn nghe pháp, cho nên trong kinh văn thuộc phần sau, tháp tuy đóng nhưng vẫn c̣n đó.

          Hỏi: Nếu tháp nghe pháp, cũng phải nên chẳng đóng lại?

          Đáp: Do đă chứng minh xong phần Chánh Thuyết, cho nên đóng lại. Do nghe lưu thông nên vẫn c̣n đó. Phần thứ nhất là “phó chúc” đă xong.

 

22.1.2. Hoan hỷ

 

          (Kinh) Thuyết thị ngữ thời, thập phương vô lượng phân thân chư Phật, tọa bảo thụ hạ sư tử ṭa thượng giả, cập Đa Bảo Phật, tịnh Thượng Hạnh đẳng vô biên A-tăng-kỳ Bồ Tát đại chúng, Xá Lợi Phất đẳng Thanh Văn tứ chúng, cập nhất thiết thế gian thiên, nhân, A Tu La đẳng văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ.

          ()說是語時。十方無量分身諸佛。坐寶樹下師子座上者。及多寶佛幷上行等無邊阿僧祇菩薩大眾。舍利弗等聲聞四眾。及一切世間天人阿修羅等。聞佛所說。皆大歡喜。

          (Kinh: Khi nói lời ấy, mười phương vô lượng phân thân chư Phật ngồi trên ṭa sư tử dưới cây báu, và Đa Bảo Phật, cùng với Thượng Hạnh v.v… vô biên A-tăng-kỳ Bồ Tát đại chúng. Xá Lợi Phất v.v… Thanh Văn tứ chúng, và hết thảy trời, người, A Tu La v.v… trong hết thảy các thế gian nghe lời đức Phật dạy, đều hết sức hoan hỷ).

 

          Chư Phật v́ chuyện hóa độ người khác đă toại, cho nên hoan hỷ. Bồ Tát v́ tự hành đắc pháp nên hoan hỷ. Lại do người nói thanh tịnh, tức là đức Phật, cho nên hoan hỷ. Do nghe pháp thanh tịnh, tức diệu kinh, cho nên hoan hỷ. Do chứng đắc thanh tịnh, tức là những người đạt được lợi ích trong hiện tại và vị lai, cho nên hoan hỷ. Phần thứ nhất, “phó chúc lưu thông” đă xong.

          Năm phẩm kể từ Dược Vương trở đi là xét theo sự hóa độ người khác để lưu thông. [Phần này] lại chia thành bốn đoạn:

          - Một, phẩm Dược Vương khích lệ bậc thầy hoằng pháp hăy nên như ngài Dược Vương, dốc cạn thần lực, trọn hết thân mạng, chỉ mong sao đại pháp được hoằng truyền rộng răi, chúng sanh đạt được lợi ích, ngơ hầu các đệ tử có pháp để noi theo.

          - Hai phẩm Diệu Âm và Quán Âm khích lệ các đệ tử thọ pháp đừng sanh ư tưởng coi thường đối với người hoằng pháp. V́ lẽ nào vậy? Các vị đại sĩ ở phương khác phụng mạng hoằng kinh, hiện trọn khắp các sắc thân, h́nh dạng không nhất định! Chớ nên dùng mắt trâu dê để nh́n, chớ nên dùng phàm t́nh ngu phàm để suy lường.

          - Ba là phẩm Đà La Ni nhằm nêu ra chuyện dùng chú để hộ tŕ.

          - Bốn là phẩm Diệu Trang Nghiêm nhằm nói về chuyện thủ hộ người sáng suốt.

          Lại nữa, phẩm Dược Vương dùng khổ hạnh để thực hiện Nhất Thừa. Phẩm Diệu Âm và Quán Âm dùng tam-muội để thực hiện Nhất Thừa. Phẩm Đà La Ni dùng Tổng Tŕ để thực hiện Nhất Thừa. Phẩm Diệu Trang Nghiêm dùng thệ nguyện để thực hiện Nhất Thừa. Phẩm Phổ Hiền dùng thần thông để thực hiện Nhất Thừa. Chân Như Thật Tướng là cái Thể để thực hiện. Phật giới, nhân giới là chuyện để thực hiện. Các chuyện như khổ hạnh, tam-muội v.v… là duyên để thực hiện Nhất Thừa. Thuận theo cơ nghi của chúng sanh, cho nên khiến cho người hoằng kinh nêu bày cơ duyên bất đồng, nhưng cái Thể để thực hiện đều là diệu pháp. Tất cả nhân quả hoàn toàn nương vào Nhất Thật. Dùng điều này để lợi ích chúng sanh, cho nên nói “thực hiện Nhất Thừa”.

          Giải thích phẩm Chúc Lụy đă xong; kế đó, giải thích phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự.

 

23. Phẩm thứ hai mươi ba: Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự (Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự phẩm đệ nhị thập tam, 藥王菩薩本事品第二十三)

 

          Kinh Quán Dược Vương Dược Thượng Bồ Tát[7] nói: “Tích danh Tinh Quang, tùng tôn giả Nhật Tạng văn thuyết Phật huệ, dĩ Tuyết Sơn thượng dược cúng dường chúng tăng. Nguyện ngă vị lai, năng trị chúng sanh thân tâm lưỡng bệnh. Cử thế hoan hỷ, hiệu viết Dược Vương” (Xưa tên là Tinh Quang, từ tôn giả Nhật Tạng nghe nói Phật huệ, dùng thuốc tốt nhất ở Tuyết Sơn để cúng dường chúng tăng, nguyện ta trong vị lai có thể trị hai căn bệnh nơi thân và tâm của chúng sanh. Cả cơi đời hoan hỷ, gọi Ngài là Dược Vương). Kinh Đại Phật Đảnh (Lăng Nghiêm) nói: “Ngă vô thỉ kiếp, vi thế lương y, khẩu thường Sa Bà thế giới sở hữu dược vị, thừa sự Như Lai, phân biệt vị nhân, tùng thị khai ngộ. Như Lai ấn ngă côn quư Dược Vương, Dược Thượng nhị Bồ Tát danh” (Trong vô thỉ kiếp trước, con làm lương y trong thế gian, miệng nếm tất cả dược vị trong thế giới Sa Bà, thừa sự Như Lai. Do phân biệt các vị, từ đó mà khai ngộ. Như Lai đặt tên cho anh em con là Dược Vương, Dược Thượng Bồ Tát). Kinh văn trong phẩm này nói Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát nhanh chóng xả thân, lại thiêu hai cánh tay, khinh mạng sống, tôn trọng pháp, mất mạng để duy tŕ đạo. Nêu chuyện xưa để hiển lộ hiện tại; v́ thế nói là phẩm Bổn Sự. Nói các phẩm này, hoàn toàn khiến cho chúng sanh đạt được Tứ Tất Ích (bốn lợi ích Tất Đàn), chẳng cần khăng khăng phân định đoạn nào tương ứng với pháp Tất Đàn nào!

 

* Khích lệ bậc thầy hoằng pháp

23.1. Thưa hỏi

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Tú Vương Hoa Bồ Tát bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Dược Vương Bồ Tát vân hà du ư Sa Bà thế giới? Thế Tôn! Thị Dược Vương Bồ Tát hữu nhược can bách thiên vạn ức na-do-tha nan hành khổ hạnh? Thiện tai Thế Tôn! Nguyện thiểu giải thuyết, chư thiên, long, thần, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng. Hựu tha quốc độ chư lai Bồ Tát, cập thử Thanh Văn chúng văn giai hoan hỷ.

          ()爾時宿王華菩薩白佛言。世尊。藥王菩薩云何遊於娑婆世界。世尊。是藥王菩薩。有若干百千萬億那由他難行苦行。善哉世尊。願少解說。諸天龍神夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽人非人等。又他國土諸來菩薩。及此聲聞眾。聞皆歡喜。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Tú Vương Hoa (Nakṣatrarājasaṃkusumitābhijña) Bồ Tát bạch Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Dược Vương (Bhaiṣajyarāja) Bồ Tát dạo chơi trong thế giới Sa Bà như thế nào? Bạch Thế Tôn! Vị Dược Vương Bồ Tát này có ngần nào trăm ngàn vạn ức na-do-tha khổ hạnh khó hành? Lành thay đức Thế Tôn! Xin hăy giải nói đôi chút, chư thiên, rồng, thần, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, phi nhân v.v… và các vị Bồ Tát từ các quốc độ khác đến, cũng như các vị Thanh Văn này nghe rồi sẽ đều hoan hỷ).

 

          Từ chữ “Thế Tôn” thứ nhất trở đi, hỏi chung về sự du hóa. Từ “Thế Tôn! Thị Dược Vương Bồ Tát nhược hữu...” (Bạch Thế Tôn! Vị Dược Vương Bồ Tát ấy nếu có…) trở đi, hỏi riêng về khổ hạnh. Từ “thiện tai” (lành thay) trở đi là xin giải đáp. Du hóa là lợi tha, khổ hạnh là tự lợi. Du hóa cũng là khổ hạnh, khổ hạnh cũng là lợi tha. [Từ phẩm này] cho đến kinh văn thuộc các phẩm sau như Diệu Âm v.v… nói chung chẳng ngoài hai hạnh tự lợi và lợi tha. Tự hành nói chung chẳng ngoài Trí Đức, Đoạn Đức, phước, huệ. Lợi tha chẳng ngoài tam-muội và thần thông. Hỏi chung về sự du hóa, th́ du hóa ắt sẽ trọn đủ tất cả các thân trong mười pháp giới, hoàn toàn giống như Diệu Âm và Quán Âm, nhưng [phẩm này] chỉ nêu ra khổ hạnh nhằm thích hợp cơ nghi. V́ được thỉnh nên đáp như vậy, ư ở nơi khổ hạnh.

 

23.2. Trả lời

23.2.1. Chỉ đáp [câu hỏi về] khổ hạnh, du hóa là nói tới Phổ Hiện Sắc Thân tam-muội, hoặc nói tới hai phẩm sau.

23.2.1.1. Nói về Sự Bổn

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật cáo Tú Vương Hoa Bồ Tát: - Năi văng quá khứ vô lượng hằng hà sa kiếp, hữu Phật hiệu Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Kỳ Phật hữu bát thập ức đại Bồ Tát Ma Ha Tát, thất thập nhị hằng hà sa đại Thanh Văn chúng. Phật thọ tứ vạn nhị thiên kiếp, Bồ Tát thọ mạng diệc đẳng. Bỉ quốc vô hữu nữ nhân, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh A Tu La đẳng, cập dĩ chư nạn. Địa b́nh như chưởng, lưu ly sở thành. Bảo thụ trang nghiêm. Bảo trướng phú thượng, thùy bảo hoa phan, bảo b́nh, hương lô, châu biến quốc giới. Thất bảo vi đài, nhất thụ nhất đài. Kỳ thụ khứ đài tận nhất tiễn đạo. Thử chư bảo thụ giai hữu Bồ Tát, Thanh Văn nhi tọa kỳ hạ. Chư bảo đài thượng, các hữu bách ức chư thiên, tác thiên kỹ nhạc, ca thán ư Phật, dĩ vi cúng dường.

          ()爾時佛告宿王華菩薩乃往過去無量恆河沙劫。有佛號日月淨明德。如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。其佛有八十億大菩薩摩訶薩。七十二恆河沙大聲聞眾。佛壽四萬二千劫。菩薩壽命亦等。彼國無有女人地獄餓鬼畜生阿修羅等及以諸難。地平如掌。琉璃所成。寶樹莊嚴。寶帳覆上。垂寶華幡。寶瓶香爐。周徧國界。七寶為臺。一樹一臺。其樹去臺盡一箭道。此諸寶樹皆有菩薩聲聞而坐其下。諸寶臺上。各有百億諸天。作天技樂。歌歎於佛以為供養。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Tú Vương Hoa Bồ Tát: - Trong quá khứ vô lượng hằng hà sa kiếp trước kia, có Phật hiệu là Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai (Candrasūryavimalaprabhāsaśrī), Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Vị Phật ấy có tám mươi ức đại Bồ Tát Ma Ha Tát, bảy mươi hai hằng hà sa các vị đại Thanh Văn. Phật thọ bốn vạn hai ngàn kiếp. Bồ Tát thọ mạng cũng như thế. Nước ấy không có nữ nhân, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A Tu La v.v… cùng với các nạn. Đất bằng phẳng như ḷng bàn tay, do lưu ly hợp thành. Cây báu trang nghiêm, trướng báu phủ bên trên, treo rủ các phan báu, b́nh báu, ḷ hương trọn khắp cơi nước. Bảy báu làm đài, cứ mỗi cây là một đài. Cây cách đài một tầm mũi tên. Các cây báu ấy đều có Bồ Tát, Thanh Văn ngồi dưới gốc. Trên các đài báu, đều có trăm ức chư thiên tấu các kỹ nhạc trời, ca tụng, tán thán Phật để cúng dường).

 

23.2.1.2. Nói về Bổn Sự

23.2.1.2.1. Đức Phật thuyết pháp

 

          (Kinh) Nhĩ thời, bỉ Phật vị Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát, cập chúng Bồ Tát, chư Thanh Văn chúng, thuyết Pháp Hoa kinh.

          ()爾時彼佛。為一切眾生喜見菩薩。及眾菩薩諸聲聞眾。說法華經。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật v́ Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến (Sarvarūpasaṃdarśana)[8] Bồ Tát, và các vị Bồ Tát, các vị Thanh Văn nói kinh Pháp Hoa).

 

          Cũng giống như nay đức Phật bảo Xá Lợi Phất, hoặc Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật bảo dạy ngài Diệu Quang.

 

23.2.1.2.2. Tu cúng dường

23.2.1.2.2.1. Cúng dường trong hiện đời

23.2.1.2.2.1.1. Tu hành đắc pháp

 

          (Kinh) Thị Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát nhạo tập khổ hạnh ư Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật pháp trung, tinh tấn kinh hành, nhất tâm cầu Phật, măn vạn nhị thiên tuế dĩ, đắc Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội.

          ()是一切眾生喜見菩薩。樂習苦行於日月淨明德佛法中。精進經行。一心求佛。滿萬二千歲已。得現一切色身三昧。

          (Kinh: Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát ưa thích tu tập khổ hạnh trong pháp của Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật, tinh tấn kinh hành[9], một ḷng cầu Phật, măn một vạn hai ngàn năm rồi, đắc Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội[10] - Sarvarūpasaṃdarśana).

 

23.2.1.2.2.1.2. Nghĩ báo ân

23.2.1.2.2.1.2.1. Cúng dường bằng sức tam-muội

 

          (Kinh) Đắc thử tam-muội dĩ, tâm đại hoan hỷ, tức tác niệm ngôn: “Ngă đắc Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội, giai thị đắc văn Pháp Hoa kinh lực. Ngă kim đương cúng dường Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật, cập Pháp Hoa kinh”. Tức thời nhập thị tam-muội, ư hư không trung, vũ Mạn-đà-la hoa, Ma-ha Mạn-đà-la hoa, tế mạt kiên hắc chiên đàn măn hư không trung, như vân nhi hạ, cập vũ Hải Thử Ngạn Chiên Đàn chi hương. Thử hương lục thù giá trị Sa Bà thế giới, dĩ cúng dường Phật.

          ()得此三昧已。心大歡喜。即作念言。我得現一切色身三昧。皆是得聞法華經力。我今當供養日月淨明德佛及法華經。即時入是三昧。於虛空中。雨曼陀羅華。摩訶曼陀羅華。細末堅黑栴檀。滿虛空中。如雲而下。及雨海此岸栴檀之香。此香六銖價直。娑婆世界。以供養佛。

          (Kinh: Đă đắc tam-muội rồi, tâm hết sức hoan hỷ, liền nghĩ như thế này: “Ta đắc Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội, đều do sức của nghe kinh Pháp Hoa. Ta nay nên cúng dường Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật và kinh Pháp Hoa”. Tức thời nhập tam-muội ấy, ở trong hư không, mưa hoa Mạn-đà-la, Ma-ha Mạn-đà-la, bột mịn kiên hắc chiên đàn (Kālānusāri-gandha) đầy khắp hư không, như mây sà xuống, và mưa hương Hải Thử Ngạn Chiên Đàn[11]. Sáu thù[12] hương ấy có giá trị bằng thế giới Sa Bà, dùng để cúng dường Phật).

 

          Phổ Hiện tam-muội xét theo Lư th́ chẳng xuất nhập, biểu thị dùng sức tam-muội, cho nên nói là “nhập”.

 

23.2.1.2.2.1.2.2. Thiêu thân để cúng dường

23.2.1.2.2.1.2.2.1. Thiêu thân

 

          (Kinh) Tác thị cúng dường dĩ, tùng tam-muội khởi, nhi tự niệm ngôn: “Ngă tuy dĩ thần lực cúng dường ư Phật, bất như dĩ thân cúng dường”. Tức phục chư hương: Chiên Đàn, Huân Lục, Đâu Lâu Bà, Tất Lực Ca, trầm thủy, giao hương. Hựu ẩm Chiêm Bặc chư hoa hương du, măn thiên nhị bách tuế dĩ, hương du đồ thân, ư Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật tiền, dĩ thiên bảo y nhi tự triền thân, quán chư hương du, dĩ thần thông lực nguyện, nhi tự nhiên thân, quang minh biến chiếu bát thập ức hằng hà sa thế giới.

          ()作是供養已。從三昧起。而自念言。我雖以神力供養於佛。不如以身供養。即服諸香栴檀薰陸。兜樓婆。畢力迦。沉水膠香。又飲薝蔔諸華香油。滿千二百歲已。香油塗身。於日月淨明德佛前。以天寶衣而自纏身。灌諸香油。以神通力願而自然身。光明徧照八十億恆河沙世界。

          (Kinh: Cúng dường như thế xong, từ tam-muội dậy, bèn tự nghĩ rằng[13]: “Ta tuy dùng thần lực cúng dường đức Phật, không bằng dùng thân cúng dường”. Liền ăn các thứ hương Chiên Đàn, Huân Lục[14], Đâu Lâu Bà[15], Tất Lực Ca[16], trầm thủy, giao hương[17]. Lại uống các thứ dầu thơm từ các loại hoa như Chiêm Bặc trọn một ngàn hai trăm năm xong, dùng dầu thơm bôi thân. Đối trước Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật, dùng áo trời báu để tự quấn thân, rưới các dầu thơm, dùng thần thông lực nguyện để tự đốt thân. Ánh sáng chiếu trọn khắp tám mươi ức hằng hà sa thế giới).

 

          “Thần thông lực nguyện”: Nói rơ chẳng dùng lửa thế gian, vẫn là nương vào tam-muội đă đạt được để khởi lên thệ nguyện lợi lạc người khác, dùng lửa Quán Trí đốt cảnh khó nghĩ. V́ thế, khiến cho quang minh chiếu trọn khắp nhiều cơi nước.

 

23.2.1.2.2.1.2.2.2. Phật tán thán

 

          (Kinh) Kỳ (bát thập ức hằng hà sa thế giới) trung chư Phật đồng thời tán ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Thiện nam tử! Thị chân tinh tấn, thị danh chân pháp cúng dường Như Lai. Nhược dĩ hoa, hương, anh lạc, thiêu hương, mạt hương, đồ hương, thiên tăng phan cái, cập Hải Thử Ngạn Chiên Đàn chi hương, như thị đẳng chủng chủng chư vật cúng dường, sở bất năng cập. Giả sử quốc thành, thê tử bố thí, diệc sở bất cập. Thiện nam tử! Thị danh đệ nhất chi thí. Ư chư thí trung, tối tôn, tối thượng, dĩ pháp cúng dường chư Như Lai cố”. Tác thị ngữ dĩ, nhi các mặc nhiên.

          ()(八十億恆河沙世界)中諸佛。同時讚言。善哉善哉。善男子。是真精進。是名真法供養如來。若以華香瓔珞燒香末香塗香天繒幡葢。及海此岸栴檀之香。如是等種種諸物供養。所不能及。假使國城妻子佈施亦所不及。善男子。是名第一之施。於諸施中最尊最上。以法供養諸如來故。作是語已。而各默然。

          (Kinh: Chư Phật trong (tám mươi ức hằng hà sa thế giới) cùng lúc khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Đó là thật sự tinh tấn, là pháp cúng dường Như Lai thật sự. Nếu dùng hoa, hương, anh lạc, hương đốt, hương bột, hương bôi, tràng phan lụa cơi trời, và hương Hải Thử Ngạn Chiên Đàn, dùng các thứ vật như thế để cúng dường, đều chẳng thể sánh bằng. Giả sử bố thí quốc thành, vợ con, cũng chẳng sánh bằng! Này thiện nam tử! Đó gọi là bố thí bậc nhất[18]. Trong các thứ bố thí, sẽ tôn quư nhất, cao nhất, do dùng pháp để cúng dường Như Lai”. Nói lời ấy xong, đều cùng im lặng).

 

          “Chân pháp cúng dường” (pháp cúng dường chân thật): Chính là trong th́ vận dụng quán trí, quán nhân quả phiền năo, đều dùng Không Huệ để gột sạch. V́ thế nói là “chân pháp”. Lại quán dù thân hay lửa, người cúng hay vật để cúng, đều là Thật Tướng, ai đốt, ai cháy, ai cúng, ai nhận? V́ thế gọi là “chân pháp”. Khi quán như thế, khổ là pháp giới, thấy hay nghe đều đạt được lợi ích, cho nên nói là “thừa thừa” (nương vào thừa). Nếu chẳng phải như vậy, sẽ trở thành khổ hạnh vô ích!

 

23.2.1.2.2.1.2.2.3. Thời tiết

 

          (Kinh) Kỳ thân hỏa nhiên thiên nhị bách tuế. Quá thị dĩ hậu, kỳ thân năi tận.

          ()其身火然千二百歲。過是已後。其身乃盡。

          (Kinh: Thân ấy đốt cháy trong một ngàn hai trăm năm. Sau thời gian đó, thân ấy mới tận).

 

          Trước đó, uống dầu thơm trọn một ngàn hai trăm năm, biểu thị “sử dụng phương tiện đạo”. Trước hết là tịnh trừ các khổ tập mười hai nhân duyên trong tam giới, nay dùng lửa đốt thân, cũng tṛn một ngàn hai trăm năm, biểu thị dùng lửa Thật Trí vĩnh viễn trừ hết các Khổ Tập thuộc mười hai nhân duyên ngoài tam giới. Phần thứ nhất, “khổ hạnh cúng dường trong đời hiện tại” đă xong.

         

23.2.1.2.2.2. Cúng dường trong đời kế tiếp

23.2.1.2.2.2.1. Sanh trong vương cung

 

          (Kinh) Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát tác như thị pháp cúng dường dĩ, mạng chung chi hậu, phục sanh Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật quốc trung. Ư Tịnh Đức vương gia, kết già phu tọa, hốt nhiên hóa sanh.

          ()一切眾生喜見菩薩作如是法供養已。命終之後。復生日月淨明德佛國中。於淨德王家。結跏。趺坐。忽然化生。

          (Kinh: Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát thực hiện pháp cúng dường như thế xong, sau khi mạng chung, lại sanh trong cơi của Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật. Ở trong cung vua Tịnh Đức (Vimaladatta), ngồi xếp bằng, bỗng dưng hóa sanh).

 

23.2.1.2.2.2.2. Nói Bổn Sự

 

          (Kinh) Tức vị kỳ phụ, nhi thuyết kệ ngôn: “Đại vương kim đương tri. Ngă kinh hành bỉ xứ, tức thời đắc Nhất Thiết, Hiện Chư Thân tam-muội, cần hành đại tinh tấn, xả sở ái chi thân”. Thuyết thị kệ dĩ, nhi bạch phụ ngôn: - Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật, kim cố hiện tại. Ngă tiên cúng dường Phật dĩ, đắc Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn Đà La Ni. Phục văn thị Pháp Hoa kinh, bát bách thiên vạn ức na-do-tha, chân-già-la, tần-bà-la, a-súc-bà đẳng kệ. Đại vương! Ngă kim đương hoàn cúng dường thử Phật.

          ()即為其父而說偈言。大王今當知。我經行彼處。即時得一切。現諸身三昧。勤行大精進。捨所愛之身。說是偈已。而白父言。日月淨明德佛。今故現在。我先供養佛已。得解一切眾生語言陀羅尼。復聞是法華經。八百千萬億那由他。甄迦羅。頻婆羅。阿閦婆等偈。大王我今當還供養此佛。

    (Kinh: Liền v́ cha ḿnh mà nói kệ rằng: “Đại vương nay nên biết! Con kinh hành chốn kia, lập tức đắc Nhất Thiết, Hiện Chư Thân tam-muội. Siêng hành đại tinh tấn, bỏ thân đáng yêu mến”. Nói kệ ấy xong, liền bạch với cha rằng: - Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật nay vẫn c̣n trụ thế. Trước kia, con cúng dường đức Phật ấy rồi, đắc Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn Đà La Ni. Lại nghe kinh Pháp Hoa này, tám trăm ngàn vạn ức na-do-tha, chân-già-la, tần-bà-la, a-súc-bà[19] các kệ. Tâu đại vương! Nay con sẽ trở về cúng dường đức Phật ấy).

 

          Thiêu thân cúng dường Phật xong, đắc đà-la-ni. Nghe kệ của kinh Pháp Hoa, tức là đắc pháp tánh thân, do thường chẳng rời Phật. Nếu xét theo sự tướng thị hiện th́ là trong thân Trung Ấm này, được nghe diệu pháp, như Phật c̣n tự vào cơi Trung Ấm để giáo hóa, huống Bồ Tát mà chẳng có thân Trung Ấm ư?

 

23.2.1.2.2.2.3. Tới chỗ Phật

 

          (Kinh) Bạch dĩ, tức tọa thất bảo chi đài, thượng thăng hư không, cao thất đa-la thụ, văng đáo Phật sở, đầu diện lễ túc, hợp thập chỉ trảo, dĩ kệ tán Phật: “Dung nhan thậm kỳ diệu, quang minh chiếu thập phương. Ngă thích tằng cúng dường, kim phục hoàn thân cận”. Nhĩ thời, Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát thuyết thị kệ dĩ, nhi bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Thế Tôn do cố tại thế?”

          ()白已。即坐七寶之臺。上升虛空。高七多羅樹。往到佛所。頭面禮足。合十指爪。以偈讚佛。容顏甚奇妙。光明照十方。我適曾供養。今復還親覲。爾時一切眾生喜見菩薩。說是偈已。而白佛言。世尊。世尊猶故在世。

          (Kinh: Bạch xong, liền ngồi đài bảy báu, bay lên hư không cao bảy cây Đa-la, đến chỗ đức Phật, đầu mặt lễ dưới chân Phật, chắp mười ngón tay, dùng kệ tán Phật: “Dung nhan rất kỳ diệu, quang minh chiếu mười phương. Con vừa mới từng cúng dường, nay trở về thân cận”. Lúc bấy giờ, Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát nói bài kệ ấy xong, bạch cùng đức Phật rằng: “Thế Tôn! V́ lẽ nào mà Thế Tôn c̣n tại thế?”)

 

23.2.1.2.2.2.4. Như Lai phó chúc

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật cáo Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát: “Thiện nam tử! Ngă Niết Bàn thời đáo, diệt tận thời chí, nhữ khả an thi sàng ṭa. Ngă ư kim dạ, đương bát Niết Bàn”. Hựu sắc Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát: “Thiện nam tử! Ngă dĩ Phật pháp chúc lụy ư nhữ, cập chư Bồ Tát, đại đệ tử, tịnh A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề pháp. Diệc dĩ tam thiên đại thiên thất bảo thế giới chư bảo thụ, bảo đài, cập cấp thị chư thiên, tất phó ư nhữ. Ngă diệt độ hậu, sở hữu xá-lợi, diệc phó chúc nhữ, đương linh lưu bố, quảng thiết cúng dường, ưng khởi nhược can thiên tháp”. Như thị Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật sắc Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát dĩ, ư dạ hậu phần, nhập ư Niết Bàn.

          ()爾時日月淨明德佛。告一切眾生喜見菩薩。善男子。我涅槃時到。滅盡時至。汝可安施牀座。我於今夜。當般涅槃。又敕一切眾生喜見菩薩。善男子。我以佛法囑累於汝。及諸菩薩大弟子。 幷阿耨多羅三藐三菩提法。亦以三千大千七寶世界諸寶樹寶臺。及給侍諸天。悉付於汝。我滅度後。所有舍利。亦付囑汝。當令流布廣設供養。應起若干千塔。如是日月淨明德佛。敕一切眾生喜見菩薩已。於夜後分。入於涅槃。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật bảo Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát: “Thiện nam tử! Thời Niết Bàn của ta đă đến, đă đến lúc diệt tận. Ông hăy nên sắp đặt giường, ṭa. Đêm nay, ta sẽ nhập Niết Bàn”. Lại sắc truyền Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát: “Thiện nam tử! Ta đem Phật pháp giao phó cho ông, và các Bồ Tát, đại đệ tử, và pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Cũng đem tam thiên đại thiên thế giới bảy báu, các cây báu và đài báu, các chư thiên hầu hạ, đều giao phó cho ông. Sau khi ta diệt độ, tất cả xá-lợi cũng phó chúc cho ông. Hăy nên lưu truyền, rộng xếp đặt cúng dường. Hăy nên dựng ngần đó một ngàn tháp”. Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật sắc truyền Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát như thế xong, trong đêm hôm đó, nhập Niết Bàn).

 

          “Phật pháp” chỉ chung cho các giáo pháp đă nói trong một đời đức Phật. Pháp A Nậu Bồ Đề là nói riêng về kinh Pháp Hoa.

 

23.2.1.2.2.2.5. Phụng mạng đảm nhiệm hộ tŕ

23.2.1.2.2.2.5.1. Dựng tháp

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát kiến Phật diệt độ, bi cảm áo hối, luyến mộ ư Phật, tức dĩ Hải Thử Ngạn Chiên Đàn vi tích, cúng dường Phật thân, nhi dĩ thiêu chi. Hỏa diệt dĩ hậu, thâu thủ xá-lợi, tác bát vạn tứ thiên bảo b́nh, dĩ khởi bát vạn tứ thiên tháp, cao tam thế giới, biểu sát trang nghiêm, thùy chư phan cái, huyền chúng bảo linh.

          ()爾時一切眾生喜見菩薩。見佛滅度。悲感懊悔。戀慕於佛。即以海此岸栴檀為𧂐。供養佛身而以燒之。火滅已後。收取舍利。作八萬四千寶瓶。以起八萬四千塔。高三世界。表剎莊嚴。垂諸幡葢。懸眾寶鈴。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát thấy Phật diệt độ, bi cảm, áo năo, hối hận, luyến mộ đức Phật. Liền dùng Hải Thử Ngạn Chiên Đàn chất lại[20] để cúng dường thân Phật rồi thiêu hóa. Sau khi lửa đă tắt, thâu thập xá-lợi, làm tám vạn bốn ngàn b́nh báu [để đựng], dựng tám vạn bốn ngàn tháp. [Mỗi tháp] cao ba thế giới, tràng báu trang nghiêm [đỉnh tháp], treo rủ phan, lọng, treo các linh báu).

 

23.2.1.2.2.2.5.2. Thiêu tay

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát, phục tự niệm ngôn: “Ngă tuy tác thị cúng dường, tâm do vị túc. Ngă kim đương cánh cúng dường xá-lợi”. Tiện ngữ chư Bồ Tát đại đệ tử, cập thiên, long, Dạ Xoa đẳng, nhất thiết đại chúng: “Nhữ đẳng đương nhất tâm niệm. Ngă kim cúng dường Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật xá-lợi”. Tác thị ngữ dĩ, tức ư bát vạn tứ thiên tháp tiền, nhiên bách phước trang nghiêm tư, thất vạn nhị thiên tuế nhi dĩ cúng dường.

          ()爾時一切眾生喜見菩薩。復自念言。我雖作是供養。心猶未足。我今當更供養舍利。便語諸菩薩大弟子。及天龍夜叉等。一切大眾。汝等當一心念。我今供養日月淨明德佛舍利。作是語已。即於八萬四千塔前。然百福莊嚴臂。七萬二千歲而以供養。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát lại tự nghĩ rằng: “Nay ta tuy đă cúng dường như thế, nhưng tâm chưa thỏa. Nay ta phải nên cúng dường xá-lợi”. Liền bảo các Bồ Tát đại đệ tử, và trời, rồng, Dạ Xoa v.v… hết thảy đại chúng: “Các ông hăy nên nhất tâm nghĩ, ta nay cúng dường xá-lợi của Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật”. Nói lời ấy xong, liền ở trước tám vạn bốn ngàn tháp, đốt cánh tay trăm phước trang nghiêm suốt bảy vạn hai ngàn năm để cúng dường).

 

          Hỏi: Thiêu thân chỉ một ngàn hai trăm năm, cớ sao thiêu cánh tay thời gian lại dài như thế?

          Đáp: Chuyện trước đó là tự hành, thân hết bèn nhập diệt. Nay v́ hoằng pháp, khiến cho chúng sanh hiểu thấu tam thừa, v́ thế nói “khiến cho vô số…” Đă nói vô số Thanh Văn phát Bồ Đề tâm, do vậy biết là sau khi đức Phật diệt độ, ngài Hỷ Kiến chẳng khiến cho bọn họ trụ trong Tiểu Quả. Trong cơi này cũng thế.

 

23.2.1.2.2.2.5.3. Lợi ích

 

          (Kinh) Linh vô số cầu Thanh Văn chúng, vô lượng A-tăng-kỳ nhân phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm, giai sử đắc trụ Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội.

          ()令無數求聲聞眾。無量阿僧祇人。發阿耨多羅三藐三菩提心。皆使得住現一切色身三昧。

          (Kinh: Khiến cho vô số người cầu Thanh Văn, vô lượng A-tăng-kỳ người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều khiến cho họ đều trụ trong Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội).

 

23.2.1.2.2.2.5.4. Hiện báo

 

          (Kinh) Nhĩ thời, chư Bồ Tát, thiên, nhân, A Tu La đẳng kiến kỳ vô tư, ưu năo, bi ai, nhi tác thị ngôn: “Thử Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát thị ngă đẳng sư, giáo hóa ngă giả, nhi kim thiêu tư, thân bất cụ túc”. Ư thời, Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát ư đại chúng trung, lập thử thệ ngôn: “Ngă xả lưỡng tư, tất đương đắc Phật kim sắc chi thân. Nhược thật bất hư, linh ngă lưỡng tư hoàn phục như cố”. Tác thị thệ dĩ, tự nhiên hoàn phục. Do tư Bồ Tát phước đức trí huệ thuần hậu sở trí. Đương nhĩ chi thời, tam thiên đại thiên thế giới lục chủng chấn động, thiên vũ bảo hoa, nhất thiết nhân thiên đắc vị tằng hữu.      ()爾時諸菩薩天人阿修羅等。見其無臂。憂惱悲哀。而作是言。此一切眾生喜見菩薩。是我等師。教化我者。而今燒臂。身不具足。於時一切眾生喜見菩薩。於大眾中立此誓言。我捨兩臂。必當得佛金色之身。若實不虛。令我兩臂還復如故。作是誓已。自然還復。由斯菩薩福德智慧湻厚所致。當爾之時。三千大千世界六種震動。天雨寶華。一切人天得未曾有。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, các vị Bồ Tát, trời, người, A Tu La v.v… thấy Ngài không tay, ưu năo, buồn bă, nói như thế này: “Vị Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát này là thầy của chúng ta, giáo hóa chúng ta, mà nay đốt cánh tay, thân chẳng toàn vẹn”. Khi đó, Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát ở trong đại chúng, lập lời thề này: “Tôi bỏ hai cánh tay, ắt sẽ đạt được thân kim sắc của Phật. Nếu chân thật chẳng dối, sẽ khiến cho hai tay tôi hồi phục như cũ”. Thề như thế xong, tự nhiên khôi phục, do phước đức và trí huệ thuần hậu của vị Bồ Tát ấy khiến thành như thế. Ngay khi đó, tam thiên đại thiên thế giới sáu loại chấn động, trời mưa hoa báu, hết thảy trời, người đạt được điều chưa từng có).

 

          Thân kim sắc là nói tới thường sắc rốt ráo của Diệu Giác cực quả. Phần thứ hai, “tu cúng dường” đă xong.

 

23.2.1.2.3. Dung hội kết lại xưa nay

23.2.1.2.3.1. Kết lại để dung hội

 

          (Kinh) Phật cáo Tú Vương Hoa Bồ Tát: - Ư nhữ ư vân hà? Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát khởi dị nhân hồ? Kim Dược Vương Bồ Tát thị dă. Kỳ sở xả thân bố thí như thị vô lượng bách thiên vạn ức na-do-tha số.

          ()佛告宿王華菩薩。於汝意云何。一切眾生喜見菩薩。豈異人乎。今藥王菩薩是也。其所捨身佈施。如是無量百千萬億那由他數。

          (Kinh: Đức Phật bảo Tú Vương Hoa Bồ Tát: - Ư ông nghĩ sao? Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát há có phải người nào khác ư? Chính là Dược Vương Bồ Tát trong hiện thời. Ngài xả thân bố thí số đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha như thế).

 

23.2.1.2.3.2. Khuyên tu

 

          (Kinh) Tú Vương Hoa! Nhược hữu phát tâm dục đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề giả, năng nhiên thủ chỉ, năi chí túc nhất chỉ, cúng dường Phật tháp, thắng dĩ quốc thành, thê tử, cập tam thiên đại thiên quốc độ sơn, lâm, hà, tŕ, chư trân bảo vật nhi cúng dường giả.

          ()宿王華。若有發心欲得阿耨多羅三藐三菩提者。能然手指。乃至足一指。供養佛塔。勝以國城妻子。及三千大千國土山林河池諸珍寶物而供養者。

          (Kinh: Này Tú Vương Hoa! Nếu có người phát tâm muốn đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có thể đốt ngón tay, cho đến một ngón chân để cúng dường tháp của Phật, hơn dùng quốc thành, vợ con và núi, rừng, sông, ao, các bảo vật trong tam thiên đại thiên quốc độ để cúng dường).

 

          “Thủ chỉ” tức là nói một lóng hay hai lóng [ngón tay]. “Túc nhất chỉ” tức là trong một bàn chân toàn vẹn, bèn đốt một lóng chân cho cháy sạch. Thân Kiến của chúng sanh khó dẹp trừ nhất. V́ thế, công đức đốt lóng tay vượt xa ngoại thí (bố thí bằng tài vật bên ngoài). Vợ con là ngoại thân, quốc thành v.v… là ngoại tài.

          Hỏi: Trong Tỳ Ni (giới luật) chế định cấm đốt thân, ở đây lại khuyên đốt ngón tay, đó là chuyện như thế nào?

          Đáp: Đại Tiểu Thừa chế định khác biệt, giáo ư (ư nghĩa dạy bảo) khác biệt. Chế định Tiểu Thừa kết tội, chế định Đại Thừa khuyên thiêu. V́ thế, kinh Phạm Vơng dạy: “Nhược bất thiêu thân tư chỉ cúng dường chư Phật, phi xuất gia Bồ Tát” (nếu chẳng đốt thân, cánh tay, ngón tay để cúng dường chư Phật, chẳng phải là hàng xuất gia Bồ Tát). Kinh Đại Phật Đảnh (kinh Lăng Nghiêm) dạy: “Năng ư Như Lai tượng tiền, thân nhiên nhất đăng, thiêu nhất chỉ tiết, cập ư thân thượng nhiệt nhất hương chú, vô thỉ túc trái, nhất thời thù tất” (Có thể đối trước tượng Như Lai, dùng thân thắp một ngọn đèn, đốt một lóng tay, và ở trên thân đốt một lọn hương th́ nợ nần xưa từ vô thỉ đến nay sẽ cùng lúc trả sạch). Thuận theo hạnh Tiểu Thừa th́ dễ, chẳng thiêu th́ có khó khăn chi? Theo hạnh Đại Thừa thật khó, thiêu chẳng dễ đâu nhé! Cơi đời coi “chẳng vâng giữ” là Đại, vậy th́ Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa đều bị khuynh đảo. Hăy nên biết cơ duyên trong cơi này đều là mê đối với Đại và Tiểu, chẳng biết trước là Tiểu sau là Đại, nương theo thứ tự của các tiết Hạ như thế nào? (Phải mở ra tiết Tiểu Hạ để thành tựu tiết Đại Hạ). Trước Đại sau Tiểu, tâm nào thọ? (V́ biết giới pháp tỳ-kheo là điều Đại Thừa phải nên học đó ư? Hay là v́ hâm mộ địa vị cao cả của tỳ-kheo mà mong đeo cái danh suông? Hay là v́ thoái Đại cầu Tiểu mà học ngược lại Tiểu pháp ư?) Trước Tiểu, sau Đại, có khai những điều ngăn che bởi Tiểu Thừa hay không? Trước Đại sau Tiểu, có ngăn che các pháp được khai của Bồ Tát hay không? (Pháp ngăn che hay cho phép (khai giá) được nói chi tiết trong Bồ Tát Giới Bổn. Trước Đại sau Tiểu vẫn gọi là Bồ Tát tỳ-kheo). Trong một giới, hai chúng như thế nào? (Tức là chúng Đại Thừa th́ nương theo giới Đại Thừa. Chúng Tiểu Thừa th́ nương theo giới Tiểu Thừa). Trong một thân, hai Thể giống và khác (Đại Thừa là vô tác giới thể, đạt đến tột cùng là thân Phật. Vô tác luật nghi của tỳ-kheo đều là phải thọ suốt đời). Đại Thừa đối với Tiểu Thừa đạt được lợi ích do đâu? (Do Trụ Tŕ Tăng Bảo, làm tấm gương cho trời người, đối với khuôn phép của tỳ-kheo, chẳng thể thiếu sót một điều nào). Tiểu Thừa mà tụng đọc [giới luật] Đại Thừa, sẽ chuốc lấy tổn hại ai lường được (kẻ chưa thọ Đại Giới, chẳng nên trộm nghe, hà huống tự tụng?) Hăy nên siêng gắng suy xét, phân định ḥng làm chủng tử trong vị lai. Cái thừa để nương theo mà hành tŕ đều là diệu pháp. Do nương vào Nhất Thật, do lập nhân quả, nương vào cái thừa đă được sử dụng ấy để lợi lạc chúng sanh, chỉ tự xét đức ḿnh, trải cảnh để quán tâm, tương ứng với cái tâm, sẽ thuận tùng chế định nào[21]? Phần thứ nhất, “đáp về khổ hạnh” đă xong!

 

23.2.2. Tán thán kinh

23.2.2.1. Tán thán người có thể tŕ kinh

 

          (Kinh) Nhược phục hữu nhân, dĩ thất bảo măn tam thiên đại thiên thế giới, cúng dường ư Phật, cập đại Bồ Tát, Bích Chi Phật, A La Hán, thị nhân sở đắc công đức bất như thọ tŕ thử Pháp Hoa kinh năi chí nhất tứ cú kệ, kỳ phước tối đa.

          ()若復有人。以七寶滿三千大千世界。供養於佛及大菩薩辟支佛阿羅漢。是人所得功德。不如受持此法華經乃至一四句偈。其福最多。

          (Kinh: Nếu lại có người dùng bảy báu đầy ắp tam thiên đại thiên thế giới để cúng dường Phật, và đại Bồ Tát, Bích Chi Phật, A La Hán, người ấy đạt được công đức chẳng bằng thọ tŕ kinh Pháp Hoa này dù chỉ một bài kệ bốn câu, phước ấy nhiều nhất).

 

          Bảy báu dâng cúng tứ thánh (Phật, Bồ Tát, Bích Chi Phật, A La Hán) chẳng bằng tŕ một kệ. [Bởi lẽ], pháp là thánh sư (thầy của các vị thánh hiền), có thể sanh, có thể dưỡng, có thể thành tựu, có thể tươi nhuận, không ǵ hơn được pháp.

 

23.2.2.2. Tán thán pháp được tŕ

23.2.2.2.1. Tán thán pháp thể

 

          Thể chẳng phải là Thể trong tông thể, mà chỉ chung cả một bộ kinh là Thể. Dụng chẳng phải là dụng trong tông dụng, mà là nói đến ba điều trong một bộ kinh tức là Thể, Tông, Dụng, bao gồm tác dụng dẹp trừ và ban cho như thế đó.

 

          (Kinh) Tú Vương Hoa! Thí như nhất thiết xuyên lưu, giang, hà, chư thủy chi trung, hải vi đệ nhất. Thử Pháp Hoa kinh diệc phục như thị, ư chư Như Lai sở thuyết kinh trung, tối vi thâm đại.

          ()宿王華。譬如一切川流江河諸水之中。海為第一。此法華經。亦復如是。於諸如來所說經中。最為深大。

          (Kinh: Này Tú Vương Hoa! Ví như trong hết thảy sông ng̣i, sông cái, các chỗ có nước, biển là bậc nhất. Kinh Pháp Hoa này cũng lại như vậy, trong các kinh do Như Lai đă nói là sâu rộng nhất).

 

          Sông ng̣i, sông cái ví như giáo pháp thuộc bốn vị sữa, lạc, sanh tô, thục tô. Biển ví như Pháp Hoa là vị đề hồ nói cùng tột Bổn địa; đó là sâu nhất. Khai trọn khắp hết thảy tức là lớn nhất.

         

          (Kinh) Hựu như thổ sơn, hắc sơn, Tiểu Thiết Vi sơn, Đại Thiết Vi sơn, cập thập bảo sơn, chúng sơn chi trung, Tu Di sơn vi đệ nhất. Thử Pháp Hoa kinh diệc phục như thị, ư chư kinh trung, tối vi kỳ thượng.

          ()又如土山黑山小鐵圍山大鐵圍山及十寶山。眾山之中。須彌山為第一。此法華經。亦復如是。於諸經中。最為其上。

          (Kinh: Lại như trong các núi: Núi đất, hắc sơn, Tiểu Thiết Vi Sơn, Đại Thiết Vi Sơn, và mười núi báu, núi Tu Di là bậc nhất, kinh Pháp Hoa này cũng lại như thế, trong các kinh là cao hơn hết).

 

          Tên của mười núi báu[22] xuất phát từ kinh Hoa Nghiêm, Tu Di cũng là bậc nhất. Thổ, hắc, Thiết Vi cố nhiên chẳng phải là núi báu. Chín thứ khác tuy là báu, nhưng do một, hoặc hai [thứ báu hợp thành]. Thần và rồng sống lẫn lộn trong ấy, chỉ có Tu Di do bốn báu hợp thành, thuần là chư thiên cư trụ. Ví như những điều được diễn giảng trong các giáo khác, có thể nương vào bốn mươi tâm, Thập Địa, hoặc phàm, hoặc hiền, hoặc thánh. Lư để [các giáo pháp ấy] nương vào hoặc Tục, hoặc Chân, hoặc Trung. Đó là kém hèn. Giáo pháp được nói trong kinh này th́ năng y (chủ thể để nương vào) là “thiên chúng” khai thị ngộ nhập, cái được nương vào (sở y) là chất báu thường, lạc, ngă, tịnh. V́ thế, tối thượng bậc nhất.

 

          (Kinh) Hựu như chúng tinh chi trung, nguyệt thiên tử tối vi đệ nhất. Thử Pháp Hoa kinh diệc phục như thị, ư thiên vạn ức chủng chư kinh pháp trung, tối vi chiếu minh.

          ()又如眾星之中。月天子最為第一。此法華經。亦復如是。於千萬億種諸經法中。最為照明。

          (Kinh: Lại như trong các tinh tú, mặt trăng là bậc nhất. Kinh Pháp Hoa này cũng giống như thế, trong ngàn vạn ức các kinh pháp, [kinh này] chiếu sáng nhất).

 

          Tinh tú và mặt trăng đều hiện ra vào ban đêm, có thể ví như Quyền Trí. Sao nhiều mà nhỏ, lại chẳng có tṛn, khuyết, ví như các kinh diễn nói phương tiện thuận theo t́nh kiến. Mỗi kinh thích ứng với một căn cơ, chẳng được tự tại. Mặt trăng có một ḿnh mà to lớn, lại có thể tṛn, khuyết, ví như kinh này diễn nói phương tiện thuận theo trí huệ, ngay nơi Thật mà chính là Quyền. Mặt trăng chiếu hết thảy các pháp sáng tỏ nhất!         

 

          (Kinh) Hựu như nhật thiên tử năng trừ chư ám, thử kinh diệc phục như thị, năng phá nhất thiết bất thiện chi ám.

          ()又如日天子能除諸闇。此經亦復如是。能破一切不善之闇。

          (Kinh: Lại như mặt trời có thể trừ các tối tăm, kinh này cũng lại giống như thế, có thể phá hết thảy các tối tăm bất thiện).

 

          Mặt trời mọc th́ gọi là “ban ngày”, có thể ví như Thật Trí. Các kinh khác chẳng khai hiển “chỉ có Nhất Thật”, cho nên chẳng thể trừ tối tăm “chấp trước ba thừa”. Lại chẳng thể trừ sự tối tăm do chấp gần (chấp Như Lai thành Phật mới gần đây). Kinh này c̣n phá sự tối tăm nơi địa vị Đẳng Giác, huống hồ các thứ tối tăm khác mà chẳng phá ư?

 

          (Kinh) Hựu như chư tiểu vương trung, Chuyển Luân Thánh Vương tối vi đệ nhất, thử kinh diệc phục như thị, ư chúng kinh trung, tối vi kỳ tôn.

          ()又如諸小王中。轉輪聖王最為第一。此經亦復如是。於眾經中最為其尊。

          (Kinh: Lại như trong các tiểu vương, Chuyển Luân Thánh Vương bậc nhất, kinh này cũng giống như thế, là tôn quư nhất trong các kinh).

 

          Tam Tạng giáo như túc tán vương[23], tam thừa đều khác biệt. Thông Giáo như Thiết Luân Vương, tam thừa đồng vị. Biệt Giáo như Đồng Luân Vương, theo thứ tự diễn nói lư Chân và Trung. Các kinh luận định viên lư c̣n thiên lệch, cách ngăn giống như Ngân Luân Vương. Đốn giáo nói Tam Đế, nhưng chẳng gồm thâu định tánh Nhị Thừa. Kinh này khai hiển viên, như Kim Luân Vương, [chúng sanh trong] Bắc Châu (Bắc Câu Lô Châu) tan hoại chấp trước, chẳng có ngă sở (chẳng chấp có cái thuộc về chính ḿnh), cũng quy vào sự thống ngự [của Chuyển Luân Vương].

 

          (Kinh) Hựu như Đế Thích, ư tam thập tam thiên trung vương, thử kinh diệc phục như thị, chư kinh trung vương.

          ()又如帝釋。於三十三天中王。此經亦復如是。諸經中王。

          (Kinh: Lại như Đế Thích là vua trong Tam Thập Tam Thiên, kinh này cũng lại như thế, là vua trong các kinh).

 

          Tam Thập Tam Thiên: Bốn phương, mỗi phương đều có tám thiên vương, có thể sánh ví các giáo mỗi giáo đều có bốn môn tự hành, hóa độ người khác, kinh này đều thống ngự. V́ thế, giống như Đế Thích là vua cơi trời Đao Lợi.

 

          (Kinh) Hựu như Đại Phạm Thiên Vương, nhất thiết chúng sanh chi phụ. Thử kinh diệc phục như thị, nhất thiết hiền thánh học, vô học, cập phát Bồ Đề tâm giả chi phụ.

          ()又如大梵天王。一切眾生之父。此經亦復如是。一切賢聖學無學及發菩薩心者之父。

          (Kinh: Lại như Đại Phạm Thiên Vương là cha của hết thảy chúng sanh, kinh này cũng giống như thế, là cha của hết thảy hiền thánh học, vô học, và người phát tâm Bồ Đề).

 

          Lúc kiếp sắp hết, hết thảy chúng sanh trong thế gian tự nhiên sẽ đắc Nhị Thiền, sanh lên Quang Thiên ([các tầng trời] Thiểu Quang, Vô Lượng Quang và Quang Âm được gọi chung là Quang Thiên). Kiếp hỏa vừa mới bốc lên, Hoại Kiếp rồi thành Không Kiếp, Không Kiếp rồi trở lại Thành Kiếp. Thế giới đă h́nh thành, chúng sanh trong Quang Thiên có kẻ mạng tận, do sức phước đức, hóa sanh trong Sơ Thiền, tức Đại Phạm Thiên Vương là người duy nhất sanh vào đó đầu tiên, bèn nghĩ thế này: “Cớ sao ở đây chẳng có bạn lữ?” Từ đó về sau, từ Quang Thiên lại có người mạng tận, cũng đến hóa sanh trong Sơ Thiền, tức là Phạm Phụ và Phạm Chúng. V́ thế, Đại Phạm Vương tự bảo “ta là cha của hết thảy chúng sanh”. Đó là suy tính hư vọng, chẳng phải là thật nghĩa. Nay thuận theo cách nói thuộc t́nh kiến của chúng sanh, mượn chuyện này để so sánh ḥng diễn tả đó thôi. Kinh này diễn nói diệu lư Thật Tướng. Thật Tướng có thể sanh trọn khắp hết thảy các pháp, hết thảy hiền thánh, học, vô học và người phát Bồ Đề tâm trong tứ giáo, đều nương vào Thật Tướng mà được thành tựu. V́ thế, [kinh Pháp Hoa] là cha của họ.

 

          (Kinh) Hựu như nhất thiết phàm phu nhân trung, Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật vi đệ nhất. Thử kinh diệc phục như thị, nhất thiết Như Lai sở thuyết, nhược Bồ Tát sở thuyết, nhược Thanh Văn sở thuyết, chư kinh pháp trung, tối vi đệ nhất. Hữu năng thọ tŕ thị kinh điển giả diệc phục như thị, ư nhất thiết chúng sanh trung, diệc vi đệ nhất.

          ()又如一切凡夫人中。須陀洹。斯陀含。阿那含。阿羅漢。辟支佛為第一。此經亦復如是。一切如來所說。若菩薩所說。若聲聞所說。諸經法中最為第一。有能受持是經典者。亦復如是。於一切眾生中。亦為第一。

      (Kinh: Lại như trong hết thảy kẻ phàm phu, Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, th́ Bích Chi Phật là bậc nhất. Kinh này cũng giống như thế, trong hết thảy các lời dạy của Như Lai, hoặc lời nói của Bồ Tát, hoặc lời nói của Thanh Văn, và các kinh pháp, đều là bậc nhất. Có ai có thể thọ tŕ kinh điển này th́ cũng giống như thế, trong hết thảy chúng sanh cũng là bậc nhất).

 

          Bích Chi Phật xuất sanh trong cơi đời không có Phật, chẳng nhờ vào nghe pháp, riêng ḿnh tự ngộ, siêu thoát. V́ thế, phước điền của các Ngài có thể vượt xa Tứ Quả. Những điều được nói trong các kinh khác đều dính líu đến phương tiện, như người thuộc Tứ Quả do Văn, Tư, Tu mới đắc ngộ. Những điều được nói trong kinh này thuần minh thị lư Vô Tác Nhất Thật, chỉ ngộ Thật Tướng, tùy ư khế nhập, như Bích Chi Phật chẳng nhờ vào ngoại duyên.

 

          (Kinh) Nhất thiết Thanh Văn, Bích Chi Phật trung, Bồ Tát vi đệ nhất, thử kinh diệc phục như thị, ư nhất thiết chư kinh pháp trung, tối vi đệ nhất.

          ()一切聲聞辟支佛中。菩薩為第一。此經亦復如是。於一切諸經法中。最為第一。

          (Kinh: Trong hết thảy các Thanh Văn và Bích Chi Phật th́ Bồ Tát là bậc nhất. Kinh này cũng lại giống như thế, trong hết thảy các kinh pháp, thật là bậc nhất).

 

          Tam thừa đều thuộc địa vị tu nhân, chỉ có Bồ Tát là bậc nhất. Các kinh khác nói về người thuộc bảy phương tiện, ví như Nhị Thừa. Kinh này nói về cái nhân viên măn vô thượng, ví như Bồ Tát, tức là cái nhân bậc nhất vậy.

 

          (Kinh) Như Phật vi chư pháp vương, thử kinh diệc phục như thị, chư kinh trung vương.

          ()如佛為諸法王。此經亦復如是。諸經中王。

          (Kinh: Như Phật là vua của các pháp, kinh này cũng giống như thế, là vua trong các kinh).

 

          Các kinh nói đức Phật thành Phật mới gần đây nơi Tịch Diệt Đạo Tràng. Kinh này nói đức Phật đă thành Phật rất lâu. V́ thế, bản kinh mầu nhiệm này thống nhiếp những lời dạy trong cả một đời của đức Phật, tức là quả bậc nhất. Biển cả, núi Tu Di, mặt trời, mặt trăng, Chuyển Luân Vương, Đế Thích, Đại Phạm Vương, Bích Chi, Bồ Tát, Phật, dùng mười thí dụ để hiển lộ sự tôn quư, mầu nhiệm [của kinh Pháp Hoa]. Phần thứ nhất, “tán thán pháp thể” đă xong.

 

2.2.2.2. Tán thán pháp dụng (khen ngợi tác dụng của pháp)

 

          (Kinh) Tú Vương Hoa! Thử kinh năng cứu nhất thiết chúng sanh giả, thử kinh năng linh nhất thiết chúng sanh ly chư khổ năo. Thử kinh năng đại nhiêu ích nhất thiết chúng sanh, sung măn kỳ nguyện, như thanh lương tŕ, năng măn nhất thiết chư khát phạp giả, như hàn giả đắc hỏa, như khỏa giả đắc y, như thương nhân đắc chủ, như tử đắc mẫu, như độ đắc thuyền, như bệnh đắc y, như ám đắc đăng, như bần đắc bảo, như dân đắc vương, như cổ khách đắc hải, như cự trừ ám. Thử Pháp Hoa kinh diệc phục như thị, năng linh chúng sanh ly nhất thiết khổ, nhất thiết bệnh thống, năng giải nhất thiết sanh tử chi phược.

          ()宿王華。此經能救一切眾生者。此經能令一切眾生離諸苦惱。此經能大饒益一切眾生。充滿其願。如清涼池。能滿一切諸渴乏者。如寒者得火。如躶者得衣。如商人得主。如子得母。如渡得船。如病得醫。如闇得燈。如貧得寶。如民得王。如賈客得海。如炬除闇。此法華經。亦復如是。能令眾生離一切苦一切病痛。能解一切生死之縛。

    (Kinh: Này Tú Vương Hoa! Kinh này có thể cứu hết thảy chúng sanh, kinh này có thể khiến cho hết thảy chúng sanh ĺa các khổ năo. Kinh này có thể lợi ích rộng lớn hết thảy chúng sanh, thỏa măn trọn vẹn nguyện của họ, như ao nước trong mát có thể thỏa măn hết thảy những kẻ khát nước, như kẻ lạnh được lửa, như kẻ lơa lồ được áo, như thương nhân có chủ, như con có mẹ, như vượt sông biển có thuyền, như bệnh có thầy thuốc, như tối tăm mà có đèn, như nghèo nàn được của báu, như dân có vua, như lái buôn gặp biển, như đuốc trừ tối. Kinh Pháp Hoa này cũng lại giống như thế, có thể khiến cho chúng sanh ĺa hết thảy các khổ, hết thảy đau bệnh, có thể tháo gỡ hết thảy trói buộc sanh tử)[24].

 

          Phần thứ hai, “tán thán pháp được tŕ” đă xong.

 

23.2.2.3. Nêu rơ phước sâu do tŕ kinh

23.2.2.3.1. Phước do tŕ toàn bộ kinh này

 

          (Kinh) Nhược nhân đắc văn thử Pháp Hoa kinh, nhược tự thư, nhược sử nhân thư, sở đắc công đức, dĩ Phật trí huệ trù lượng đa thiểu, bất đắc kỳ biên. Nhược thư thị kinh quyển, hoa, hương, anh lạc, thiêu hương, mạt hương, đồ hương, phan, cái, y phục, chủng chủng chi đăng, tô đăng, du đăng, chư hương du đăng, Chiêm Bặc du đăng, Tu Mạn Na du đăng, Ba La La du đăng, Bà Lợi Sư Ca du đăng, Na Bà Ma Lợi du đăng cúng dường, sở đắc công đức, diệc phục vô lượng.

          ()若人得聞此法華經。若自書。若使人書。所得功德。以佛智慧籌量多少。不得其邊。若書是經卷。華.香。瓔珞。燒香。末香。塗香。幡葢。衣服。種種之燈。酥燈。油燈。諸香油燈。薝蔔油燈。須曼那油燈。波羅羅油燈。婆利師迦油燈。那婆摩利油燈供養。所得功德。亦復無量。

          (Kinh: Nếu ai được nghe kinh Pháp Hoa này, nếu tự chép, hoặc sai người khác chép, đạt được công đức dùng trí huệ của Phật để suy lường nhiều hay ít, sẽ chẳng biết được ngằn mé. Nếu chép quyển kinh này, dùng hoa, hương, anh lạc, hương đốt, hương bột, hương bôi, phan, lọng, y phục, các thứ đèn: Đèn bơ, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm như đèn dầu Chiêm Bặc, đèn dầu Tu Mạn Na, đèn dầu Ba La La[25], đèn dầu Bà Lợi Sư Ca[26], đèn dầu Na Bà Ma Lợi[27], đạt được công đức cũng lại vô lượng).

 

23.2.2.3.2. Phước do tŕ phẩm này

23.2.2.3.2.1. So lường

 

          (Kinh) Tú Vương Hoa! Nhược hữu nhân văn thị Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự phẩm giả, diệc đắc vô lượng, vô biên công đức. Nhược hữu nữ nhân, văn thị Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự phẩm, năng thọ tŕ giả, tận thị nữ thân, hậu bất phục thọ. Nhược Như Lai diệt hậu, hậu ngũ bách tuế trung, nhược hữu nữ nhân văn thị kinh điển, như thuyết tu hành, ư thử mạng chung, tức văng An Lạc thế giới. A Di Đà Phật, đại Bồ Tát chúng vi nhiễu trụ xứ, sanh liên hoa trung, bảo ṭa chi thượng, bất phục vị tham dục sở năo, diệc phục bất vị sân khuể, ngu si sở năo, diệc phục bất vị kiêu, mạn, tật đố, chư cấu sở năo, đắc Bồ Tát thần thông, Vô Sanh Pháp Nhẫn. Đắc thị nhẫn dĩ, nhăn căn thanh tịnh. Dĩ thị thanh tịnh nhăn căn, kiến thất bách vạn nhị thiên ức na-do-tha hằng hà sa đẳng chư Phật Như Lai. Thị thời chư Phật, dao cộng tán ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Thiện nam tử! Nhữ năng ư Thích Ca Mâu Ni Phật pháp trung, thọ tŕ, độc tụng, tư duy thị kinh, vị tha nhân thuyết, sở đắc phước đức, vô lượng vô biên. Hỏa bất năng phần, thủy bất năng phiêu. Nhữ chi công đức, thiên Phật cộng thuyết, bất năng linh tận. Nhữ kim dĩ năng phá chư ma tặc, hoại sanh tử quân. Chư dư oán địch giai tất tồi diệt. Thiện nam tử! Bách thiên chư Phật dĩ thần thông lực, cộng thủ hộ nhữ. Ư nhất thiết thế gian thiên nhân chi trung, vô như nhữ giả, duy trừ Như Lai. Kỳ chư Thanh Văn, Bích Chi Phật, năi chí Bồ Tát trí huệ, Thiền Định, vô hữu dữ nhữ đẳng giả”. Tú Vương Hoa! Thử Bồ Tát thành tựu như thị công đức trí huệ chi lực. Nhược hữu nhân văn thị Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự phẩm, năng tùy hỷ tán thiện giả, thị nhân hiện thế, khẩu trung thường xuất thanh liên hoa hương, thân mao khổng trung thường xuất Ngưu Đầu Chiên Đàn chi hương, sở đắc công đức như thượng sở thuyết.

          ()宿王華。若有人聞是藥王菩薩本事品者。亦得無量無邊功德。若有女人。聞是藥王菩薩本事品。能受持者。盡是女身。後不復受。若如來滅後。後五百歲中。若有女人聞是經典。如說修行。於此命終。即往安樂世界。阿彌陀佛。大菩薩眾圍繞住處。生蓮華中。寶座之上。不復為貪欲所惱。亦復不為瞋恚愚癡所惱。亦復不為憍慢嫉妬諸垢所惱。得菩薩神通無生法忍。得是忍已。眼根清淨。以是清淨眼根。見七百萬二千億那由他恆河沙等諸佛如來。是時諸佛。遙共讚言。善哉善哉。善男子。汝能於釋迦牟尼佛法中。受持讀誦思惟是經。為他人說所得福德。無量無邊。火不能焚。水不能漂。汝之功德。千佛共說。不能令盡。汝今已能破諸魔賊。壞生死軍。諸餘怨敵。皆悉摧滅。善男子。百千諸佛以神通力。共守護汝。於一切世間天人之中。無如汝者。唯除如來。其諸聲聞辟支佛乃至菩薩智慧禪定。無有與汝等者。宿王華。此菩薩成就如是功德智慧之力。若有人聞是藥王菩薩本事品。能隨喜讚善者是人現世。口中常出青蓮華香。身毛孔中。常出牛頭栴檀之香。所得功德。如上所說。

          (Kinh: Này Tú Vương Hoa! Nếu có người nghe phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự này, cũng đạt được vô lượng vô biên công đức. Nếu có nữ nhân nghe phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự này mà có thể thọ tŕ, hết một thân nữ này, đời sau sẽ không thọ [thân nữ] nữa. Như sau khi đức Như Lai diệt độ, trong năm trăm năm sau, nếu có nữ nhân nghe kinh điển này, đúng như lời dạy mà tu hành, mạng chung nơi đây liền sanh về thế giới An Lạc. A Di Đà Phật và các vị đại Bồ Tát vây quanh chỗ ở, sanh trong hoa sen, ở trên ṭa báu, chẳng c̣n bị tham dục năo loạn, cũng chẳng bị sân khuể, ngu si năo loạn, cũng chẳng bị các cấu như kiêu, mạn, ghen ghét năo loạn, đắc thần thông và Vô Sanh Pháp Nhẫn của Bồ Tát. Đă đắc môn nhẫn ấy, nhăn căn thanh tịnh. Dùng nhăn căn thanh tịnh ấy, thấy chư Phật Như Lai nhiều như số cát trong bảy trăm vạn hai ngàn ức na-do-tha sông Hằng. Khi đó, chư Phật từ xa cùng tán thán rằng: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ông có thể ở trong pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật, thọ tŕ, đọc tụng, tư duy kinh này, v́ người khác nói, th́ sẽ đạt được công đức vô lượng vô biên, lửa chẳng thể đốt, nước chẳng thể cuốn trôi. Ngàn vị Phật cùng nói công đức của ông đều chẳng thể hết. Ông nay có thể phá các giặc ma, phá hoại quân sanh tử, các oán địch khác thảy đều dẹp tan. Này thiện nam tử! Trăm ngàn chư Phật dùng sức thần thông cùng thủ hộ ông. Trong hết thảy trời, người thuộc thế gian, không có ai bằng ông, chỉ trừ Như Lai. Trí huệ và Thiền Định của các Thanh Văn, Bích Chi Phật, cho đến Bồ Tát, chẳng có ai bằng ông”. Này Tú Vương Hoa! Vị Bồ Tát ấy thành tựu sức công đức trí huệ như thế. Nếu có ai nghe phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự này có thể tùy hỷ, khen tốt lành, th́ người ấy trong đời hiện tại, miệng thường tỏa ra mùi hoa sen xanh. Trong các lỗ chân lông, thường tỏa mùi ngưu đầu chiên đàn, đạt được công đức như trên đă nói).

 

          Thọ tŕ phẩm này chẳng thọ thân nữ nữa. Nữ nhân kiến chấp rất nặng nề, nay do công đức khổ hạnh xả thân, bèn có thể dẹp trừ, tu hành đúng như lời dạy, sẽ có thể sanh về thế giới An Lạc, tức là dùng kinh này làm cái nhân cho Tịnh Độ, giống như Thập Lục Quán Kinh, Đại Tiểu A Di Đà Kinh v.v… chẳng hai, chẳng khác. Kinh nói như thế, tu hành ba khuôn phép, bốn hạnh an lạc. Nếu chế phục ngũ trụ, sẽ sanh vào Đồng Cư Tịnh Độ. Nếu thanh tịnh sáu căn, liền sanh vào Phương Tiện Tịnh Độ. Nếu phá vô minh, liền sanh vào Thật Báo Tịnh Độ, cũng lại phần chứng cơi Tịch Quang.

          Hỏi: Tịnh Độ rất nhiều, cớ ǵ cứ phải [văng sanh] cơi An Lạc?

          Đáp: Do nguyện của Như Lai nhiếp thọ chúng sanh. Do căn cơ và túc duyên của chúng sanh sâu dày, chú tâm vào một phương ḥng chuyên chú. Do một chính là hết thảy, chẳng thể nghĩ bàn, cho nên các kinh phần nhiều tán dương, nói về cơi An Lạc. Kinh văn nói thân và miệng đều tỏa hương, tức là hiện báo (báo ứng trong đời hiện tại), các điều khác là sanh báo và hậu báo.

 

23.2.2.3.2.2. Chúc lụy

 

          (Kinh) Thị cố Tú Vương Hoa! Dĩ thử Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự phẩm chúc lụy ư nhữ. Ngă diệt độ hậu, hậu ngũ bách tuế trung, quảng tuyên lưu bố ư Diêm Phù Đề, vô linh đoạn tuyệt, ác ma, ma dân, chư thiên, long, Dạ Xoa, Cưu Bàn Trà đẳng đắc kỳ tiện dă. Tú Vương Hoa! Nhữ đương dĩ thần thông chi lực thủ hộ thị kinh. Sở dĩ giả hà? Thử kinh tắc vi Diêm Phù Đề nhân bệnh chi lương dược. Nhược nhân hữu bệnh, đắc văn thị kinh, bệnh tức tiêu diệt, bất lăo, bất tử. Tú Vương Hoa! Nhữ nhược kiến hữu thọ tŕ thị kinh giả, ưng dĩ thanh liên hoa thịnh măn mạt hương, cúng tán kỳ thượng. Tán dĩ, tác thị niệm ngôn: “Thử nhân bất cửu tất đương thủ thảo, tọa ư đạo tràng, phá chư ma quân, đương xuy pháp loa, kích đại pháp cổ, độ thoát nhất thiết chúng sanh lăo bệnh tử hải”. Thị cố cầu Phật đạo giả, kiến hữu thọ tŕ thị kinh điển nhân, ưng đương như thị sanh cung kính tâm.

          ()是故宿王華。以此藥王菩薩本事品囑累於汝。我滅度後。後五百歲中。廣宣流布於閻浮提。無令斷絕。惡魔魔民。諸天龍夜叉鳩槃茶等。得其便也。宿王華。汝當以神通之力。守護是經。所以者何。此經則為閻浮提人病之良藥。若人有病。得聞是經。病即消滅。不老不死。宿王華。汝若見有受持是經者。應以青蓮華盛滿末香。供散其上。散已。作是念言。此人不久。必當取草坐於道場。破諸魔軍。當吹法螺。擊大法鼓。度脫一切眾生老病死海。是故求佛道者。見有受持是經典人。應當如是生恭敬心。

          (Kinh: V́ thế, Tú Vương Hoa! Ta đem phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự này chúc lụy cho ông. Sau khi ta diệt độ, vào năm trăm năm sau cùng, hăy tuyên nói, lưu truyền rộng răi phẩm kinh này trong Diêm Phù Đề, chớ để đoạn tuyệt, [chẳng để cho] ác ma, ma dân, các trời, rồng, Dạ Xoa, Cưu Bàn Trà v.v… có dịp thuận tiện [hăm hại người tŕ kinh]. Này Tú Vương Hoa! Ông hăy nên dùng sức thần thông thủ hộ kinh này. V́ lẽ nào vậy? Kinh này chính là thuốc tốt lành cho bệnh tật của người trong Diêm Phù Đề. Nếu ai có bệnh, được nghe kinh này, bệnh liền tiêu diệt, chẳng già, chẳng chết. Này Tú Vương Hoa! Nếu ông thấy có người thọ tŕ kinh này, hăy nên dùng hoa sen xanh chứa đầy hương bột để cúng rải lên người đó. Rải xong, nghĩ như thế này: “Người này chẳng lâu sau, ắt sẽ kết cỏ, ngồi nơi đạo tràng, phá các ma quân, sẽ thổi ốc pháp, sẽ đánh trống pháp, độ thoát biển sanh già bệnh chết của hết thảy chúng sanh”. V́ thế, người cầu Phật đạo thấy có người thọ tŕ kinh điển này, hăy nên sanh tâm cung kính như thế).

 

          Chẳng già là vui, chẳng chết là thường, nghe kinh luôn thường lạc giải, bệnh Tam Hoặc tiêu diệt. Phần thứ nhất là hỏi và phần thứ hai là đáp trong phẩm này đă xong.

 

23.3. Lợi ích

 

          (Kinh) Thuyết thị Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự phẩm thời, bát vạn tứ thiên Bồ Tát, đắc Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn Đà-la-ni.

          ()說是藥王菩薩本事品時。八萬四千菩薩。得解一切眾生語言陀羅尼。

          (Kinh: Lúc nói phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự này, tám vạn bốn ngàn Bồ Tát đắc Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn Đà La Ni).

 

23.4. Phật Đa Bảo khen ngợi

                   

          (Kinh) Đa Bảo Như Lai ư bảo tháp trung, tán Tú Vương Hoa Bồ Tát ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Tú Vương Hoa! Nhữ thành tựu bất khả tư nghị công đức, năi năng vấn Thích Ca Mâu Ni Phật như thử chi sự, lợi ích vô lượng nhất thiết chúng sanh.

          ()多寶如來於寶塔中。讚宿王華菩薩言。善哉善哉。宿王華。汝成就不可思議功德。乃能問釋迦牟尼佛如此之事。利益無量一切眾生。

          (Kinh: Đa Bảo Như Lai ở trong tháp báu khen ngợi Tú Vương Hoa Bồ Tát rằng: - Lành thay! Lành thay! Này Tú Vương Hoa. Ông đă thành tựu công đức chẳng thể nghĩ bàn, có thể hỏi Thích Ca Mâu Ni Phật chuyện như thế, lợi ích vô lượng hết thảy chúng sanh).

 

          Phần thứ nhất, phẩm Dược Vương khích lệ các pháp sư hoằng pháp đă xong.

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa

phần 14 hết

 

         



[1] Đắc Đại Thế là cách dịch khác của danh xưng Đại Thế Chí. Do trí huệ quang của Ngài chiếu trọn khắp hết thảy, khiến cho chúng sanh ĺa tam đồ, đắc vô thượng lực. Lại nữa, khi Ngài đi, hết thảy các cơi trong mười phương thế giới đều chấn động. V́ thế gọi là Đại Thế Chí. Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ, Ngài luôn niệm A Di Đà Phật, dùng quang minh trí huệ chiếu trọn khắp hết thảy, oai thế tự tại, khiến cho mọi người được vô thượng lực, tiếp dẫn chúng sanh văng sanh Tịnh Độ. Do Ngài dùng pháp môn niệm Phật để tu hành chứng quả, cho nên được tôn xưng là Tịnh Tông Sơ Tổ trong pháp giới. Ngài thường được tạc tượng với dung mạo hiền từ, đứng bên phải A Di Đà Phật, tay cầm kinh văn, hoặc ngọc như ư, nhưng phổ biến nhất là cầm cành hoa sen. Đầu đội măo trời, trong măo trời có bảo b́nh chứa đựng quang minh chẳng thể nghĩ bàn, có thể hiện trọn khắp sự nghiệp của chư Phật. Theo kinh Bi Hoa, trong quá khứ lâu xa, có thế giới tên là San Đề Lam. Trong cơi ấy, Chuyển Luân Vương Vô Tránh Niệm có một ngàn con trai. Trưởng tử là Bất Huyến, con thứ hai là Ni Ma. Vua Vô Tránh Niệm phát nguyện, tu hành thành Phật, tức tiền thân của A Di Đà Phật. Bất Huyến thành Quán Thế Âm, Ni Ma thành Đại Thế Chí Bồ Tát. Trong Tạng Truyền Phật giáo, Kim Cang Thủ Bồ Tát được coi là thân phẫn nộ của Đại Thế Chí Bồ Tát. Trong khi đó, Đông Mật coi Kim Cang Thủ Bồ Tát là thân phẫn nộ của Phổ Hiền Bồ Tát. Tại Trung Hoa, chùa Quảng Giáo tại Lang Sơn (thuộc thành phố Nam Thông, tỉnh Giang Tô) do ngài Tăng Già đại thánh khai sơn vào năm Tổng Chương thứ hai (669) đời Đường được coi là đạo tràng của Đại Thế Chí Bồ Tát. Tổ Ấn Quang cũng được coi là hóa thân của Đại Thế Chí Bồ Tát.

[2] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Phật là pháp vương, viên âm trọn khắp, oai thế chế phục mười phương, v́ thế tên là Oai Âm Vương”.

[3] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Gặp thời hưng thịnh nên kiếp có tên là Ly Suy. Y báo do nhân duyên to lớn cảm vời, v́ thế cơi nước tên là Đại Thành”.

[4] Đây là một điển tích hàm ư “bị trói buộc khó khăn”, như người khoác da ḅ gặp ánh nắng mặt trời hun đốt, da ḅ sẽ khô quắt lại, siết chặt thân. Người quấn râu rồng xuống nước, sẽ bị râu rồng siết chặt lại, kinh luận dùng chuyện này để sánh ví phước hữu lậu trong nhân thiên. Sách Ma Ha Chỉ Quán quyển năm viết: “Nếu muốn xả tam đồ bèn ưa thích Ngũ Giới, Thập Thiện mà tu phước, như đổi chác nơi chợ búa, càng đổi càng thêm tội, giống như cá chui vào ống, thiêu thân lao vào đèn… khát uống nước mặn, râu rồng quấn thân vào nước sẽ chuyển thành đau khổ. Da trâu buộc ḿnh, phơi mặt trời càng cứng, kẻ mù vào rừng gai”.

[5] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Từ nơi nửa ṭa do Đa Bảo Phật chia cho mà đứng dậy, biểu thị từ Đệ Nhất Nghĩa Không khởi vô lượng đại dụng”.

[6] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Xoa đỉnh đầu biểu thị ḷng từ ái của đức Phật đối với các đệ tử, dùng tay Quyền Trí xoa đỉnh đầu Thật Trí, biểu thị Quyền chính là Thật, Thật chính là Quyền”.

[7] Quán Dược Vương Dược Thượng Bồ Tát Kinh (Bhaiajyarāja Bhaiajyasamudgata Bodhisattva Sūtra) do ngài Cương Lương Da Xá dịch vào đời Lưu Tống. Kinh trần thuật đức Phật ngự tại tinh xá Thanh Liên Hoa Tŕ ở nước Tỳ Da Ly giảng về công hạnh của vị Dược Vương và Dược Thượng Bồ Tát, cách quán tưởng, và các nhân duyên trong quá khứ của hai Ngài. Hai Ngài trong đời quá khứ có tên là Tinh Tú Quang và Điện Quang, dùng trái Ha Lê Lặc và đề-hồ làm thuốc cúng dường tỳ-kheo Nhật Tạng. Do bởi nhân duyên ấy, các Ngài đời đời dùng pháp dược để cứu vớt chúng sanh, diệt trừ hết thảy phiền năo. Trong nghi thức sám hối Hồng Danh Bảo Sám, năm mươi ba vị Phật từ Phổ Quang Phật cho đến Nhất Thiết Pháp Tràng Măn Vương Phật được trích từ phần dạy sám hối của kinh Quán Dược Vương Dược Thượng Bồ Tát này.

[8] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến: Vị Bồ Tát này thích tu khổ hạnh, đắc Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội, tự tại hóa độ người khác, được hết thảy chúng sanh thích thấy, cho nên có tên như thế”.

[9] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Tinh tấn kinh hành tức là tấn tu chuyên ṛng, chẳng ngồi, chẳng nằm, đích thân tu tập pháp Ban Châu tam-muội chẳng gián đoạn”.

[10] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội tức là tự tại thị hiện sắc thân của hết thảy chúng sanh để thuyết pháp cho họ, giống hệt như các vị Diệu Âm và Quán Âm”.

[11] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Hải Thử Ngạn Chiên Đàn: Loại hương này phát xuất từ vùng duyên hải Nam Ấn Độ, tại vùng núi Ma La Da. Do núi có h́nh dáng giống như đầu trâu, nên gọi là Ngưu Đầu. Hương xuất phát từ núi này nên cũng gọi là Ngưu Đầu Chiên Đàn”.

[12] Thù là đơn vị đo lường thời cổ. Hai mươi bốn Thù là một Lượng. Trong khi đó, Lượng biến thiên theo thời gian, chẳng hạn thời Chiến Quốc, một Lượng là 15.8g, đời Hán là 13.8g, đời Đường là 41.3g. Đời Minh Thanh là 36.9g. Từ năm 1959 trở đi, Trung Quốc quy định một Lượng là 50g. Trong khi đó, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) dùng Lượng là 100g (và đơn vị này được gọi là Công Lượng). Tại Việt Nam, Lượng (thường đọc là Lạng) cũng được hiểu là 100g (áp dụng cho trà, đường, bột, gạo…), nhưng một lạng vàng th́ chỉ là 37.5g. Kinh Phật phần lớn dịch vào đời Tùy - Đường, cho nên một Lượng trong kinh Phật ước chừng 41g. V́ thế, một Thù khoảng 1.7g. Kinh thường nói áo của chư thiên chỉ nặng sáu thù.

[13] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Tam-muội là Định, ‘tự nghĩ’ là Huệ. Định có thể sanh ra Huệ. V́ thế nói: ‘Từ tam-muội dậy, bèn tự nghĩ rằng’. Dùng thần lực cúng dường, chẳng qua là ngoại tài. V́ thế, chẳng bằng dùng thân cúng dường. Sắc thân bất tịnh, sao có thể kham cúng dường Phật? V́ thế, cần phải uống các thứ hương, gột rửa cho thanh tịnh”.

[14] Huân Lục là phiên âm của chữ Kundura (c̣n viết là Kunduru, Kundu, hay Kunduruka) trong tiếng Phạn. Đây chính là Nhũ Hương (Frankincense, Olibanum). Nhũ Hương là nhựa của các loài cây có tên khoa học bắt đầu bằng từ ngữ Boswellia như Boswellia Sacra chẳng hạn. Cây Nhũ Hương cao từ hai tới tám mét, có hoa trắng pha vàng, năm cánh. Cây thường mọc trên triền dốc và nổi tiếng nhất là loại Nhũ Hương từ bán đảo Ả Rập.

[15] Đâu Lâu Bà (Turuka), c̣n được phiên âm là Đẩu Lâu Bà, Đâu Lâu Ba, Đâu Lũ Bà, Đô Rô Bà, Đố Lộ Bà, Đốt Bà, hoặc Tốt Đổ Lỗ Ca, dịch nghĩa là Bạch Mao Hương, Mao Hương, Hương Thảo, tức là hương Tô Hợp (một loại Nhũ Hương).

[16] Tất Lực Ca (Śephālikā) là một loại hương chế từ loài cỏ thơm Trigonella Corniculata (thường biết với tên gọi là Fenugreek, tức cỏ Hồ Lô Ba hay Khổ Đậu). Tuy thế, các nhà nghiên cứu kinh Vệ Đà nói loại thảo mộc này chính là loài cỏ thuốc có tên khoa học Nyctanthes Arbor-tristis (loài hoa nhài nở về đêm). Hoa nở vào lúc hoàng hôn và rụng cánh vào sáng hôm sau.

[17] Giao Hương chính là Bạch Giao Hương, tức là nhựa của một loại cây phong (Phong Hương Thụ, có tên khoa học là Liquidambar Formosana, tiếng Anh gọi là Formosa Gum). Nhựa, lá và quả hạt của cây này đều có thể dùng làm thuốc.

[18] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Bồ Tát chẳng liễu giải Ngă và Pháp đều là Không, sao có thể khế hội lư Thật Tướng Chân Như, sẽ chẳng thể thiêu thân cúng dường, hành bố thí như pháp. Do vậy, chư Phật xưng thán. Hỏi: Đốt thân cúng dường há chẳng phải là đă phạm tội Thâu Lan Giá trong giới luật do đức Phật chế định ư? V́ sao chư Phật lại tán thán? Đáp: Giới luật Tiểu Thừa th́ ngăn cấm, giới luật Đại Thừa cho phép. V́ thế, kinh Phạm Vơng chép: - Nếu chẳng đốt thân, hoặc đốt ngón tay để cúng dường chư Phật, sẽ chẳng phải là xuất gia Bồ Tát”.

[19] Chân Già La (Kimkara, kakara) là một con số lớn (c̣n phiên âm là Căng Yết La, Hằng Ca La), tức là một ngàn vạn ức.

Tần Bà La (Bimbara) là mười triệu.

A Súc Bà (Akṣobhya) là một vạn tải (nếu tính theo cách đếm nhỏ nhất, th́ một Tải là 10 lũy thừa 44, tức sau số 1 có 44 con số không).

[20] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Chất chứa Chiên Đàn làm củi [để thiêu] nhằm biểu thị tịnh đức của Phật. Trà-tỳ hỏa thiêu nhằm biểu thị sự giáo hóa đă chấm dứt. Thâu thập xá-lợi, biểu thị vĩnh viễn tịch diệt”.

[21] Ư nói: Đối với giới luật, phải nghiêm túc suy xét, đừng ham cao chuộng xa, đừng xằng bậy tự cho là ḿnh đă liễu giải Đại Thừa, thấu hiểu Bát Nhă, không c̣n chấp tướng, để rồi buông lung, tùy tiện, chẳng vâng giữ giới luật, thanh quy. Phải nghiêm túc suy xét bẩm tánh của chính ḿnh, rèn luyện cái tâm trong trần cảnh, quan sát tâm ḿnh đă tương ứng với cảnh giới Đại Thừa hay vẫn c̣n là Tiểu Thừa, để rồi sẽ thuận theo cái tâm ấy mà vâng giữ giới luật theo tinh thần Đại Thừa hay Tiểu Thừa.

[22] Mười núi báu được nêu tên trong phẩm Thập Địa của kinh Hoa Nghiêm là Tuyết Sơn (Himālaya), Hương sơn (Gandhamādana), Khư La Đà (Kharādīya, Loa Lâm sơn), Bệ Đà Lê sơn (Vaidharī, dịch nghĩa là Chủng Chủng Tŕ, núi này toàn do các chất báu tạo thành), Do Càn Đà sơn (Yugaṁdhara, dịch nghĩa là Tŕ Song), Mă Nhĩ sơn (Aśvakarṇa), Ni Dân Đà La sơn (Nemiṁdhara, dịch nghĩa là Tŕ Biên), Chước Ca La (Cakravāda, dịch nghĩa là Luân Vi, hay Kim Cang Luân Vi), Kế Độ Mạt Để sơn (Ketumati, dịch nghĩa là Tràng Huệ), và Tu Di Lô sơn (Sumeru, Diệu Cao).

[23] Túc tán vương: Tức là các tiểu vương. Do các tiểu vương trong thế gian quá nhiều ví như đem hạt bắp rải tung trên đất, nên gọi là Túc Tán Vương. Theo Nhân Vương Bát Nhă Kinh Sớ quyển ba: “Tu Thập Thiện có ba phẩm, thượng phẩm thiện là Thiết Luân Vương giáo hóa một thiên hạ. Trung phẩm Thập Thiện là Túc Tán Vương, hạ phẩm thiện là vua trong những thiện nhân”. Như vậy, Túc Tán Vương là người kiếp trước đă tu Thập Thiện trung và hạ phẩm, cai trị nước nhỏ.

[24] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Dựa theo sự diệt ác để tán thán, nhằm hiển thị kinh có tác dụng do lớn. Kinh dùng mười hai thí dụ để tuyên thị:

- Như ao nước nhằm hiển thị nước lư Pháp Tánh.

- Như lửa, nhằm hiển thị trí huệ chói rực.

- Như áo nhằm hiển thị trang nghiêm.

- Như chủ, nhằm hiển thị sự hướng về.

- Như mẹ, nhằm hiển thị đại từ.

- Như thuyền, nhằm hiển thị có thể đạt tới bờ kia.

- Như thầy thuốc, nhằm hiển thị có thể khiến cho người nghe được an ổn.

- Như đèn, nhằm hiển thị kinh có thể phá Hoặc.

- Như của báu, nhằm hiển thị pháp diệu.

- Như vua, nhằm hiển thị pháp tự tại.

- Như biển, nhằm hiển thị pháp sâu rộng.

- Như đuốc, nhằm hiển thị trí quang”.

[25] Ba La La (Pātali, Pulila), c̣n phiên âm là Ba Trá La, Ba La Lợi, Ba Trá Ly, dịch nghĩa là Trùng Diệp Thụ, Trùng Sanh Hoa, hoặc Thanh Đồng, có tên khoa học là Bignonia Suaveolens, thuộc loại thân mộc,  hoa tím h́nh loa kèn, nở vào cuối mùa Xuân, hương thơm nồng đậm.

[26] Bà Lợi Sư Ca (Varṣikāla), c̣n phiên âm là Bà Sử Ca, Bà Lợi Sư, Bà Lợi Sử Ca La, Bà Sư Ba Lợi, dịch nghĩa là Vũ Thời Hoa, nở hoa trắng vào mùa Hạ, rất thơm. Khi hoa này nở sẽ sắp đến mùa mưa, cho nên có tên gọi như vậy.

[27] Na Bà Ma Lợi (Navamālikā), dịch nghĩa là Như Thứ Đệ Hoa, là một loại dây leo, có tên khoa học là Jasminum Sambac, thuộc họ Nhài, hoa bé màu trắng, rất thơm. Tinh dầu chiết từ loại hoa này thường dùng để chế dầu thắp có mùi thơm hay làm nước hoa.