Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa
phần
14
Đất
Cổ Ngô, hậu học Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật
妙法蓮華經綸貫會義
古吳後學蕅益智旭述
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức
Phong và Huệ Trang
20. Phẩm thứ hai mươi: Thường Bất
Khinh Bồ Tát (Thường Bất Khinh Bồ Tát phẩm đệ
nhị thập, 常不輕菩薩品第二十)
Trong tâm giữ sự hiểu
biết chẳng khinh thường, ngoài th́ kính trọng cảnh
chẳng khinh. (Thế Giới Tất Đàn) là thân lập
hạnh chẳng khinh. (Vị Nhân Tất
Đàn): Miệng tuyên nói giáo pháp bất khinh. (Đối Trị
Tất Đàn): Làm con mắt chẳng khinh cho mọi người.
(Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn) chính là kiến giải
chẳng khinh. Pháp Hoa Luận viết: “Vị Bồ Tát này
biết chúng sanh có Phật tánh, chẳng dám khinh rẻ”. Phật
tánh gồm năm điều:
- Chánh nhân Phật tánh là tánh chung
khắp đương nhiên sẵn có (nhân quả chung cho mê
lẫn ngộ).
- Duyên nhân Phật tánh và liễu
nhân Phật tánh: Chủng tử vốn có, chẳng phải
là nay mới có (vẫn là xét theo Tánh Đức mà nêu ra hai nhân (duyên nhân và liễu
nhân), nhằm đối ứng với trường hợp
mới huân tập, do tu giới mà đạt được).
- Quả Phật tánh (Bồ Đề).
- Quả quả Phật tánh
(Niết Bàn) nhất định sẽ đạt được,
quyết chẳng hư dối.
(Khi liễu nhân đạt tới
quả, đổi tên thành Bồ Đề. Duyên nhân khi đạt
tới quả, đổi tên thành Niết Bàn. Lại nữa,
ba nhân nơi Phật tánh khi đạt tới quả, liễu
nhân được gọi là “ba loại Bồ Đề”,
duyên nhân được gọi là “ba loại Niết Bàn”).
Đó gọi là hiểu “bất
khinh”. Dùng sự hiểu biết đó để đối
xử với người khác, [thấu hiểu] người
khác cũng giống như thế; đó gọi là cảnh “kính
trọng, chẳng khinh”. Do kính trọng cảnh ấy, cho nên
gọi là “hạnh chẳng khinh”. Tuyên nói lời ấy, sẽ
gọi là “giáo pháp chẳng khinh”. Xưa kia, kẻ hủy báng
dùng từ ngữ ấy (Bất Khinh) để đặt
tên cho vị ấy; nay người kết tập kinh dùng
danh xưng này để đặt tên cho phẩm. Đó là
giải thích theo nhân duyên.
Xét theo giáo, Tạng Giáo và Thông
Giáo chẳng diễn nói Trung Đạo Phật tánh. [Tuy vậy],
Biệt nhập Thông, Thông chứa Biệt (tức là giáo pháp
thuộc Thông Giáo mà có chứa đựng phần nào giáo nghĩa
của Biệt Giáo) th́ nói hai loại người có Phật
tánh và ba hạng người chẳng có Phật tánh. Biệt
Giáo th́ chỉ nói đến chánh nhân Phật tánh, chẳng nói
đến có duyên nhân và liễu nhân Phật tánh, huống hồ
có quả tánh và quả quả tánh ư? Nay nói “nhữ đẳng
giai đương tác Phật” (các vị đều sẽ
thành Phật) là v́ có năm loại Phật tánh, tức là
khai hiển Viên Giáo vậy. V́ thế, kinh Kiến Thật
Tam Muội chép: “Phật vị phụ vương thuyết:
‘Nhất thiết giai thị Phật’. Vương vấn: ‘Nhất
thiết chúng sanh tức thị Phật phủ?’ Phật đáp:
- Nhược như thật kiến chúng sanh, ư kỳ tức
thị Phật” (Đức Phật nói với phụ vương:
“Hết thảy đều là Phật”. Vua hỏi: “Hết
thảy chúng sanh chính là Phật ư?” Đức Phật đáp:
“Nếu như thật thấy chúng sanh th́ họ chính là Phật”).
Nay dùng lời ấy để suy diễn tương đồng: Nếu chẳng như
thật thấy Phật, sẽ thấy họ (chúng sanh) chẳng phải là thánh! Ví như lúc mới học
bắn tên, trật nhiều, trúng ít. Nếu lấy mặt đất
làm đích để bắn, không mũi tên nào chẳng
bắn trúng! Nếu phân biệt hiền thánh, ai đúng, ai
sai? Nếu nh́n như thật, [mọi người đều]
chính là Phật.
Xét theo Bổn Tích, Bổn đă
thành Phật, hết sức lâu xa. Trong chặng giữa, thị
hiện dấu tích, lại ở trong thời Oai Âm Vương
Phật làm Thường Bất Khinh. Lưu thông Bổn Tích
Tứ Nhất (giáo nhất, nhân nhất, hạnh nhất,
lư nhất), hóa độ
chúng sanh, nay lại thị hiện dấu tích thành Chánh Giác,
nhiều lượt vô tận, do thế lực to lớn, oai
mănh.
Xét theo quán tâm, Khổ chính là
chánh nhân Phật tánh, Hoặc chính là liễu nhân Phật tánh,
Nghiệp tức duyên nhân Phật tánh. Liễu nhân chính là Quả
Phật tánh. Duyên nhân chính là Quả Quả Phật tánh. Lại
nữa, khi ba nhân đạt tới quả, liền đổi
tên thành ba loại Bồ Đề, ba loại Niết Bàn. V́
vậy, do ba nhân nơi Tánh Đức mà thành quả tánh và quả quả
tánh. Một niệm trọn đủ ba nhân và năm nhân,
chẳng dọc ngang, chẳng đồng, chẳng khác. Hết
thảy chúng sanh không ai đều chẳng phải là như
vậy. Thường hiểu như thế th́ chính là Thường
Bất Khinh.
* Dẫn “phước do tin, tội do hủy báng” làm
chứng để khuyên lưu thông
20.1 Trường Hàng
20.1.1. Cùng nhắc đến tội và phước đă
nói trong phẩm trước
(Kinh) Nhĩ thời,
Phật cáo Đắc Đại Thế Bồ Tát Ma Ha Tát:
- Nhữ kim đương tri, nhược tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, tŕ Pháp Hoa kinh giả, nhược
hữu ác khẩu, mạ lỵ, phỉ báng, hoạch đại
tội báo như tiền sở thuyết. Kỳ sở đắc
công đức như hướng sở thuyết nhăn, nhĩ,
tỵ, thiệt, thân, ư thanh tịnh.
(經)爾時佛告得大勢菩薩摩訶薩。汝今當知。若比丘。比丘尼。優婆塞。優婆夷。持法華經者。若有惡口罵詈誹謗。獲大罪報。如前所說。其所得功德。如向所說眼耳鼻舌身意清淨。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
đức Phật bảo Đắc Đại Thế (Mahāsthāmaprāpta)[1] Bồ Tát Ma Ha Tát:
- Ông nay hăy nên biết, nếu tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di tŕ kinh Pháp Hoa, mà nếu có kẻ ác khẩu, chửi
bới, phỉ báng, sẽ mắc tội báo như trong phần
trước (tức phẩm Pháp Sư) đă nói, [người
tŕ kinh sẽ] đạt được công đức như
trong phần trước (tức phẩm Pháp Sư Công Đức)
đă nói mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư thanh tịnh).
20.1.2. Cùng nêu quả báo do tin tưởng hay hủy
báng trong quá khứ
20.1.2.1. Nói về Sự Bổn (tức là nói về Oai
Âm Vương Phật thời quá khứ, coi chuyện của
ngài Bất Khinh là gốc)
20.1.2.1.1. Vị Phật đầu tiên
20.1.2.1.1.1. Thời tiết
(Kinh) Đắc
Đại Thế! Năi văng cổ tích, quá vô lượng vô biên
bất khả tư nghị A-tăng-kỳ kiếp.
(經)得大勢。乃往古昔。過無量無邊不可思議阿僧祇劫。
(Kinh: Đắc
Đại Thế! Thuở xa xưa kia, qua khỏi vô lượng
vô biên chẳng thể nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp).
Tuy nói là “vô lượng vô
biên”, nhưng nếu so với
phẩm Thọ Lượng nói “trần kiếp” (số
kiếp nhiều như số vi trần) th́ [vô lượng vô biên vẫn là] khá gần!
Cho nên biết đây chính là tướng thị hiện tu
nhân sau khi đă thật sự đắc quả.
Hỏi: Trước đó đă
phơi bày Tích, hiển lộ Bổn, nay sao lại nêu ra nhân
hạnh nơi Tích?
Đáp: Chính v́ đă hiển
Bổn, đại chúng trong pháp hội thuở ấy biết
rơ chuyện thời Phật Nhiên Đăng, chuyện thời
Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật, chuyện thời
Đại Thông Trí Thắng Phật, chuyện thời Oai Âm Vương Phật
như đă nói, hoàn toàn thuộc về phương tiện
hóa độ người khác trong khoảng trung gian, hoàn toàn
thuộc về sức thần thông tự
tại, sức sư tử phấn tấn, đại thế
lực oai mănh.
Hỏi: Sau khi đă đắc
Phật quả, quyền biến thị hiện hạnh Bất
Khinh, cho nên chỉ lưu truyền một câu “sẽ thành
Phật” bèn thanh tịnh sáu căn. Nếu thật sự
là sơ tâm, sợ rằng chưa chắc đă được
như vậy?
Đáp: Phàm nói đến Quyền
th́ đều nhằm dẫn khởi Thật. Nếu Thật
hạnh mà chẳng được như thế, ắt Quyền
hạnh uổng công thực hiện! Huống hồ hiểu
“bất khinh” chính là sơ tâm nhất niệm tùy hỷ. Công
đức của sơ tâm đă là chẳng thể nghĩ
bàn! Nương theo giải mà lập hạnh, ắt thanh tịnh
sáu căn, cần ǵ phải ngờ? Nhưng hạnh Bất
Khinh chẳng phải là chuyên lễ bái, nói cặn kẽ th́
như kinh văn trong phần sau sẽ nói.
20.1.2.1.1.2. Danh hiệu
(Kinh) Hữu Phật
danh Oai Âm Vương, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật,
Thế Tôn.
(經)有佛名威音王。如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。
(Kinh: Có Phật
hiệu là Oai Âm Vương (Bhīṣmagarjitasvararāja)[2], Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn).
20.1.2.1.1.3. Tên kiếp và cơi nước
(Kinh) Kiếp danh Ly
Suy, quốc danh Đại Thành.
(經)劫名離衰。國名大成。
(Kinh: Kiếp
tên là Ly Suy (Vinirbhoga), cơi tên Đại Thành[3] - Mahāsaṃbhavā).
20.1.2.1.1.4. Thuyết pháp
(Kinh) Kỳ Oai Âm
Vương Phật ư bỉ thế trung, vị thiên,
nhân, A Tu La thuyết pháp. Vị cầu Thanh Văn giả,
thuyết ứng Tứ Đế pháp, độ sanh lăo bệnh
tử cứu cánh Niết Bàn. Vị cầu Bích Chi Phật giả,
thuyết ứng thập nhị nhân duyên pháp. Vị chư Bồ
Tát, nhân A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề,
thuyết ứng Lục Ba La Mật pháp, cứu cánh Phật
huệ.
(經)其威音王佛。於彼世中。為天人阿修羅說法。為求聲聞者。說應四諦法。度生老病死。究竟涅槃。為求辟支佛者。說應十二因緣法。為諸菩薩。因阿耨多羅三藐三菩提。說應六波羅蜜法。究竟佛慧。
(Kinh: Oai Âm
Vương Phật trong đời ấy, v́ trời, người,
A Tu La thuyết pháp. V́ người cầu Thanh Văn mà nói tương
ứng pháp Tứ Đế, độ thoát sanh, lăo, bệnh,
tử, rốt ráo Niết Bàn. V́ người cầu Bích Chi Phật
mà nói pháp tương ứng mười hai nhân duyên. V́ các Bồ
Tát, do Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà nói tương
ứng pháp Lục Ba La Mật, rốt ráo Phật huệ).
Trước là phương
tiện thí tam thừa, sau rốt ráo Phật huệ là “hiển nhất”, đều giống
như đức Phật trong hiện tại.
20.1.2.1.1.5. Thọ mạng của Phật
(Kinh) Đắc
Đại Thế! Thị Oai Âm Vương Phật thọ
tứ thập vạn ức na-do-tha Hằng hà sa kiếp.
(經)得大勢。是威音王佛。壽四十萬億那由他恆河沙劫。
(Kinh: Đắc
Đại Thế! Vị Oai Âm Vương Phật ấy thọ
bốn mươi vạn ức na-do-tha Hằng hà sa kiếp).
20.1.2.1.1.6. Chánh Pháp và Tượng Pháp
(Kinh) Chánh Pháp trụ
thế, kiếp số như nhất Diêm Phù Đề vi trần.
Tượng Pháp trụ thế, kiếp số như tứ
thiên hạ vi trần. Kỳ Phật nhiêu ích chúng sanh dĩ,
nhiên hậu diệt độ.
(經)正法住世。劫數如一閻浮提微塵。像法住世。劫數如四天下微塵。其佛饒益眾生已。然後滅度。
(Kinh: Chánh Pháp trụ
thế kiếp số như số vi trần trong một Diêm
Phù Đề. Tượng Pháp trụ thế kiếp số
như số vi trần trong một tứ thiên hạ. Vị
Phật ấy lợi ích chúng sanh rồi sau đó mới diệt
độ).
Phần thứ nhất, “nói về
vị Phật đầu tiên” đă xong.
20.1.2.1.2. Hai vạn ức Phật kế đó theo thứ
tự [xuất thế]
(Kinh) Chánh Pháp, Tượng
Pháp diệt tận chi hậu, ư thử quốc độ,
phục hữu Phật xuất, diệc hiệu Oai Âm
Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật,
Thế Tôn. Như thị thứ đệ hữu nhị vạn
ức Phật, giai đồng nhất hiệu.
(經)正法像法滅盡之後。於此國土。復有佛出。亦號威音王如來應供正徧知明行足善逝世間解無上士調御丈夫天人師佛世尊。如是次第有二萬億佛。皆同一號。
(Kinh: Sau khi Chánh Pháp và
Tượng Pháp diệt hết, trong quốc độ ấy,
lại có Phật xuất thế, cũng hiệu là Oai Âm
Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật,
Thế Tôn. Có hai vạn ức Phật theo thứ tự như
thế, đều có cùng một hiệu).
Sau khi Chánh Pháp và Tượng
Pháp diệt hết, vị Phật sau đó mới xuất
thế. Cơ duyên độ thoát do chúng sanh đă gieo được
chín muồi, cho nên pháp ứng hiện như thế. Phần
thứ nhất, Sự Bổn đă xong.
20.1.2.2. Nói về Bổn Sự
Riêng nói về chuyện
của ngài Bất Khinh trong thời đức Phật Oai Âm
Vương đầu tiên, ngài Bất Khinh chính là đức
Bổn Sư Thế Tôn thị hiện Tích, trùng lặp thị
hiện chuyện thuộc Bồ Tát đạo nơi bổn
hạnh.
20.1.2.2.1. Cùng nêu tên của hai vị trong Bổn
(Kinh) Tối sơ Oai
Âm Vương Như Lai kư dĩ diệt độ, Chánh Pháp
diệt hậu, ư Tượng Pháp trung, tăng thượng
mạn tỳ-kheo hữu đại thế lực. Nhĩ
thời, hữu nhất Bồ Tát tỳ-kheo, danh Thường
Bất Khinh.
(經)最初威音王如來旣已滅度。正法滅後。於像法中。增上慢比丘有大勢力。爾時有一菩薩比丘。名常不輕。
(Kinh: Khi vị Oai
Âm Vương Như Lai đầu tiên đă diệt độ,
sau khi Chánh Pháp đă diệt, trong thời Tượng Pháp,
tăng thượng mạn tỳ-kheo có thế lực lớn.
Lúc bấy giờ, có một vị Bồ Tát tỳ-kheo tên là
Thường Bất Khinh - Sadāparibhūta).
Vào lúc Bổn, trong thời Tượng
Pháp của Oai Âm Vương Phật tối sơ, kẻ hủy
báng khi đó được gọi là “tăng thượng
mạn”, c̣n người tin tưởng trong thuở ấy
được gọi là Thường Bất Khinh. Kẻ tăng
thượng mạn do chấp giữ Quyền giáo, tu Quyền
hạnh, có chút sở đắc, chẳng biết địa
vị theo thứ tự sâu hay cạn, ngộ nhận tứ
Thiền noăn pháp là Tứ Quả,
lầm lạc sanh ư tưởng thỏa măn. Bọn họ thuộc
loại tỳ-kheo “vô văn” (không được nghe
chánh pháp), dẫu không phạm tội lớn là áp bức ngài
Bất Khinh, cũng ắt bị đọa lạc, đều
bị đọa lạc. Phải nên coi họ như chủng
tánh bậc hạ trong Viên Giáo, cho nên ngài [Thường Bất
Khinh] dùng lễ bái và thọ kư để làm nhân duyên đắc
độ [cho những người ấy].
20.1.2.2.2. Nói về hai tướng tin tưởng và hủy
báng
20.1.2.2.2.1. Nói về điều đạt được
của người tin tưởng
(Kinh) Đắc
Đại Thế! Dĩ hà nhân duyên danh Thường Bất
Khinh? Thị tỳ-kheo phàm hữu sở kiến, nhược
tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, giai tất
lễ bái, tán thán, nhi tác thị ngôn: “Ngă thâm kính nhữ đẳng,
bất cảm khinh mạn. Sở dĩ giả hà? Nhữ đẳng
giai hành Bồ Tát đạo, đương đắc tác Phật”.
Nhi thị tỳ-kheo, bất chuyên độc tụng kinh điển,
đản hành lễ bái. Năi chí viễn kiến tứ chúng,
diệc phục cố văng lễ bái, tán thán, nhi tác thị ngôn:
“Ngă bất cảm khinh ư nhữ đẳng. Nhữ đẳng
giai đương tác Phật”.
(經)得大勢。以何因緣。名常不輕。是比丘凡有所見。若比丘比丘尼優婆塞優婆夷。皆悉禮拜讚歎而作是言。我深敬汝等。不敢輕慢。所以者何。汝等皆行菩薩道當得作佛。而是比丘。不專讀誦經典。但行禮拜。乃至遠見四眾。亦復故往禮拜讚歎而作是言。我不敢輕於汝等。汝等皆當作佛。
(Kinh: Đắc
Đại Thế! Do nhân duyên ǵ mà tên là Thường Bất
Khinh? Vị tỳ-kheo ấy hễ trông thấy dù là tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, hay ưu-bà-di, thảy đều
lễ bái, tán thán, nói như thế này: “Tôi kính trọng các vị
sâu xa, chẳng dám khinh mạn. V́ lẽ nào vậy? Quư vị
đều hành Bồ Tát đạo, sẽ đều thành Phật”.
Nhưng vị tỳ-kheo ấy chẳng chuyên đọc tụng
kinh điển, chỉ hành lễ bái. Thậm chí hễ thấy
tứ chúng từ xa, cũng cố ư đến đó lễ
bái, tán thán, mà nói như thế này: “Tôi chẳng dám khinh các vị,
các vị đều sẽ thành Phật”).
Tên là Thường Bất
Khinh, tức Nhân Nhất. “Phàm hữu sở kiến” (Hễ
trông thấy) tức là Lư Nhất. “Giai tất lễ bái”
(Thảy đều lễ bái) tức là Hạnh Nhất. “Nhi
tác thị ngôn” (Mà nói như thế này) tức là Giáo Nhất.
Đấy là tự hành Tứ Nhất (Lư Nhất, Nhân Nhất,
Hạnh Nhất, Giáo Nhất). “Nhữ đẳng” (Các
vị) tức là Nhân Nhất. “Giai hành Bồ Tát đạo”
(Đều hành Bồ Tát đạo) tức là Hạnh Nhất.
“Đương đắc tác Phật” (Sẽ đều
thành Phật) là chứng Lư Nhất. Nói ba điều Nhất ấy, chính là Giáo Nhất. Đấy
chính là Tứ Nhất trong sự hóa độ người
khác của đức Phật. Đó là phương tiện
trong các phương tiện nhằm đối ứng với
tứ chúng phần nhiều dấy lên tăng thượng
mạn trong thuở ấy, chấp pháp nhỏ nhất trong
các tiểu pháp (Tạng Giáo đă là phương tiện, Noăn
pháp lại là phương tiện của Tạng Giáo. Tứ
Quả đă là nhỏ, Tứ Thiền lại là nhỏ nhất
trong các tiểu pháp). V́ thế, dùng Thật Nghĩa của Đại
Thừa để khai thị, huấn dụ, chẳng dám
khinh mạn, nhằm đối trị lỗi lầm tăng
thượng mạn. Nói “nhữ đẳng giai hành Bồ
Tát đạo” (các vị đều hành Bồ Tát đạo):
Tứ Niệm Xứ là Ma Ha Diễn (Mahāyāna, Đại Thừa), Noăn pháp, Tứ Thiền,
hoàn toàn giúp đỡ Thật Tướng. Nếu biết
sở hành là Bồ Tát đạo, th́ từ đầu đến
cuối lư b́nh đẳng, địa vị theo thứ tự rành
rành, sẽ trọn chẳng khởi
tăng thượng mạn. “Bất chuyên độc tụng,
đản hành lễ bái” (Chẳng chuyên đọc tụng,
chỉ hành lễ bái): Chỉ bày tướng trạng của
phẩm đầu, tức phẩm Tùy Hỷ [trong ngũ phẩm],
tùy hỷ hết
thảy các pháp, đều có tánh chất an lạc, đều là một
Thật Tướng. Tùy hỷ hết thảy mọi người,
[v́ ai nấy] đều có
ba Phật tánh (chánh nhân, liễu nhân và duyên nhân Phật tánh).
Người có tâm sẽ đều được thành Phật,
chính là chánh nhân tánh. Đọc tụng di pháp Quyền thừa
của Oai Âm Vương Phật tức là liễu nhân tánh.
Noăn pháp, Tứ Thiền đều
là Bồ Tát đạo, tức là duyên nhân tánh. V́ thế, chẳng
dám khinh mạn, mà kính trọng sâu xa. Kính người, kính pháp,
chẳng dấy lên tranh đua, chính là ư nghĩa tùy hỷ, cho đến “viễn kiến tứ
chúng…” (thấy tứ chúng từ đằng xa…) biểu thị Tứ Nhất nơi Bổn. Thấy tứ chúng từ đằng xa, biểu thị
Nhân Nhất nơi Bổn. “Cố văng lễ bái” (Cố
ư đến chỗ họ lễ bái) biểu thị Hạnh Nhất nơi Bổn. “Nhi tác thị
ngôn” (Mà nói như thế này) biểu thị Giáo Nhất
nơi Bổn. “Giai đương tác Phật” (Đều
sẽ thành Phật) biểu thị Lư Nhất nơi Bổn.
Dùng Tứ Nhất nơi Bổn Tích để cưỡng
ép kẻ tăng thượng mạn, khiến cho họ thành
tựu diệu chủng (chủng tử mầu nhiệm)
viên đốn. Có thể nói đó là cốt lơi hoằng truyền
phần Chánh Thuyết (Chánh Tông) vậy. Lại chẳng
khinh mạn, kính trọng sâu xa, tức là “Như Lai ṭa”. Chịu đựng các
đánh chửi chính là “áo Như Lai”. Dùng tâm từ bi thường hành như
thế chẳng đổi, tức “Như Lai thất”. Lại nữa, kính trọng sâu xa là ư
nghiệp. Nói lời chẳng khinh rẻ chính là khẩu nghiệp.
Cố ư đến lễ bái chính là thân nghiệp. Ba điều
này tương ứng với từ bi, tức là Thệ Nguyện
An Lạc Hạnh. Có thể nói là đă đạt được
lợi ích mầu nhiệm trong Lưu Thông.
Hỏi: Luật Tiểu Thừa
và Đại Thừa đều chế định tỳ-kheo
chẳng lễ người thế tục, sao Bất Khinh Bồ
Tát lại lễ trọn khắp tứ chúng?
Đáp: V́ độ kẻ tăng
thượng mạn, khiến cho họ đạt được
hai lợi ích gần và xa (trong tứ chúng, có người nhận,
hoặc chẳng nhận [sự lễ bái ấy]. Tiếp
nhận th́ đạt được lợi ích gần, chẳng
tiếp nhận th́ đạt được lợi ích xa).
Đại Quyền phương tiện biết căn cơ,
chẳng trở ngại phá cách (vượt ngoài khuôn khổ)
bốn hạnh An Lạc của hàng sơ tâm, [chứ nếu
không v́ độ kẻ tăng thượng mạn], sẽ cần phải nương
theo kinh văn trong giới luật.
Hỏi: Kinh Đại Thừa
[dạy] lễ người biết pháp, trong kinh Tịnh
Danh, [các tỳ-kheo đến thăm bệnh] lễ người
thế tục (tức các tỳ-kheo lễ cư sĩ Duy
Ma Cật), [so với
chuyện ngài Thường Bất Khinh lễ tứ chúng ở
đây] giống và khác
nhau như thế nào?
Đáp: Khác nhau! Đại kinh
chuyên nói về cách thức tỏ bày chí nguyện cung kính, do
từ người đó thỉnh pháp mà đạt được lợi
ích, cho nên quên bẵng t́nh kiến mà kính lễ. C̣n trong kinh Tịnh
Danh là do có ân đạt được Pháp Nhẫn [từ
những lời quở trách, chỉ dạy của cư sĩ
Duy Ma], cho nên không tuân theo quy củ thông thường. V́ thế,
chẳng quản trái phạm quy tắc mà lễ kính. Nếu
xét theo chánh nghi của Đại Thừa, trong quy tắc thường
hằng của người thoát tục, trọn chẳng có
quy định “v́ đạo mà lễ kẻ thế tục”.
Nay ngài Bất Khinh lập hạnh, đă chẳng phải là
do thỉnh pháp mà đạt được lợi ích, hay
do báo ân, lại chẳng thuộc luật Đại Tiểu
Thừa chế định, thẳng thừng là sau khi đă
đắc quả bèn làm chuyện tu nhân, là phương tiện
vượt ngoài khuôn khổ nhằm hóa độ người khác, chẳng
thể coi đó là khuôn mẫu! V́ thế, đem so với
Tứ An Lạc Hạnh để biện định, Lư
tuy chẳng khác, nhưng về Sự th́ có bảy điểm
khác biệt:
- Một, An Lạc Hạnh là
an trụ nơi pháp ṭa, thuận theo lời hỏi mà nói; c̣n
ở đây là từ xa trông thấy tứ chúng, cố ư qua
chỗ họ lễ bái.
- Hai, An Lạc Hạnh th́ có người
cật vấn th́ mới trả lời cho người ấy;
ở đây là bị quăng ngói, đá, đánh đập,
vẫn cưỡng tuyên nói.
- Ba, An Lạc Hạnh thường
chuộng tọa Thiền tại chỗ thanh vắng; ở
đây th́ chẳng chuyên đọc tụng, cứ vào trong đại chúng để giăi bày.
- Bốn, An Lạc Hạnh th́
dẫu đối với kẻ yêu mến pháp sâu xa, vẫn
chẳng v́ kẻ đó
nói nhiều; ở
đây th́ dẫu bị hư vọng báng bổ, vẫn cưỡng
xưng dương!
- Năm, An Lạc Hạnh th́
thoạt đầu tu Lư Quán, quán mười tám pháp Không; c̣n
ở đây là tuyên nói một câu kiến giải “sẽ
thành Phật”.
- Sáu, An Lạc Hạnh là giáo
hóa kẻ thuận tùng, hộ tŕ luật nghi; ở đây v́
giáo hóa kẻ trái nghịch, bỏ
mất các pháp tắc
thông thường.
- Bảy, An Lạc Hạnh là
sơ tâm thành tựu hạnh, mộng thấy được
Phật thọ kư. Ở đây th́ sau khi đắc quả,
thị hiện rộng thọ kư cho người khác.
Lại so sánh phẩm này với
phẩm Pháp Sư Công Đức, [hành giả trong] phẩm ấy hoằng dương toàn
bộ kinh văn, c̣n phẩm này hoằng truyền đại
lược ư kinh. Tuy nói toàn thể hay đại lược
khác nhau, nhưng cái quả đạt được chẳng
hai. Lại dùng ư này đối chiếu với các kinh giáo khác,
sẽ có bốn điểm khác
biệt:
- Một, sanh ḷng tin đối
với kinh điển Tiểu Thừa, chưa phải là cái
nhân thành Phật. Nay th́ dẫu hủy báng kinh này, vẫn trở
thành chủng tử mầu nhiệm.
- Hai, các kinh chỉ nói giáo hóa,
hoằng truyền cho người tín thuận, phẩm này
th́ lễ người thế tục, giáo hóa những kẻ
trái nghịch để lưu
thông kinh.
- Ba, các kinh khác đối với
chuyện biểu thị Quyền và Thật c̣n bị cách
trở, phẩm này phơi bày những điều được
khơi mở, không ǵ chẳng phải là Tứ Nhất.
- Bốn, các kinh khác biểu lộ
Tích vẫn chưa trọn hết, phẩm này biểu thị
cả hai tướng Bổn và Tích.
20.1.2.2.2.2. Nói về những mất mát của người
hủy báng
(Kinh) Tứ chúng chi
trung, hữu sanh sân khuể, tâm bất tịnh giả, ác khẩu,
mạ lỵ, ngôn: “Thị vô trí tỳ-kheo tùng hà sở lai?
Tự ngôn ngă bất khinh nhữ, nhi dữ ngă đẳng thọ
kư đương đắc tác Phật. Ngă đẳng bất
dụng như thị hư vọng thọ kư”.
(經)四眾之中。有生瞋恚。心不淨者。惡口罵詈。言是無智比丘。從何所來。自言我不輕汝。而與我等授記當得作佛。我等不用如是虛妄授記。
(Kinh: Trong tứ
chúng, có kẻ sanh sân khuể, tâm bất tịnh, bèn ác khẩu,
chửi bới rằng: “Gă tỳ-kheo vô trí này từ chỗ
nào đến? Tự nói tôi chẳng dám khinh ngài, c̣n thọ kư chúng ta sẽ đều làm
Phật. Chúng ta chẳng cần sự thọ kư hư vọng
như thế”).
Đây là nói về kẻ tăng
thượng mạn, chẳng tin Tứ Nhất, cho nên hủy báng, chửi rủa. Chẳng
cần sự thọ kư hư vọng như thế, tức
là chẳng tin Giáo Nhất. Coi thọ kư là hư vọng, tức
là chẳng biết những ǵ chính ḿnh đang hành chính là Bồ
Tát đạo, tức là chẳng tin Hạnh Nhất. Chẳng
biết “chúng ta sẽ đều
thành Phật”, tức là chẳng
tin Nhân Nhất và Lư Nhất.
(Kinh) Như thử kinh lịch
đa niên, thường bị mạ lỵ, bất sanh sân
khuể, thường tác thị ngôn: “Nhữ đương
tác Phật”. Thuyết thị ngữ thời, chúng nhân hoặc
dĩ trượng, mộc, ngơa, thạch nhi đả trịch
chi. Tỵ tẩu viễn trụ, do cao thanh xướng
ngôn: “Ngă bất cảm khinh ư nhữ đẳng. Nhữ
đẳng giai đương tác Phật”. Dĩ kỳ thường
tác thị ngữ cố, tăng thượng mạn tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di hiệu chi vi Thường
Bất Khinh.
(經)如此經歷多年。常被罵詈。不生瞋恚。常作是言。汝當作佛。說是語時。眾人或以杖木瓦石而打擲之。避走遠住。猶高聲唱言。我不敢輕於汝等。汝等皆當作佛。以其常作是語故。增上慢比丘比丘尼優婆塞優婆夷。號之為常不輕。
(Kinh: Trải qua
nhiều năm như thế, thường bị chửi
rủa, chẳng sanh sân khuể, thường nói như thế
này: “Quư vị sẽ thành Phật”. Lúc nói lời ấy, mọi
người hoặc dùng gậy, gỗ, ngói, đá, đánh
ném. Chạy tránh, đứng đằng xa, vẫn lớn
tiếng xướng rằng: “Tôi chẳng dám khinh các vị.
Các vị đều sẽ thành Phật”. Do thường nói
lời ấy, các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di
tăng thượng mạn gọi Ngài là Thường Bất
Khinh).
[Chánh kinh nói] “bị chửi
không giận, thường nói lời ấy”, ḥng kết
lại tướng tín tâm sâu đậm chẳng thoái chuyển.
“Bị đánh ném bằng gậy, đá v.v…” nhằm kết
lại [ư nghĩa] Tứ Nhất khai Quyền hiển Thật.
“Chạy tránh, đứng đằng xa, vẫn lớn
tiếng xướng. Do hủy báng, chê gièm, bèn gọi Ngài là
Thường Bất Khinh”: Kết lại ư họ chẳng
tiếp nhận Tứ Nhất khai cận hiển viễn.
Hỏi: Hơn bốn mươi
năm, đức Thích Ca chẳng chú trọng nói ngay, c̣n Thường
Bất Khinh hễ trông thấy ai đều lỗ măng nói,
là v́ lẽ nào?
Đáp: Đối với kẻ
đă có thiện căn, đức Phật Thích Ca dùng Tiểu
pháp để ǵn giữ họ. [Trong thuở ấy], đối với kẻ vốn chẳng có
thiện căn, ngài Thường Bất Khinh dùng pháp Đại
Thừa để cưỡng ép họ. Phần thứ
hai, “cùng nêu ra tướng tin tưởng và hủy báng” đă
xong.
20.1.2.2.3. Cùng nêu quả báo của tin tưởng và hủy
báng
20.1.2.2.3.1. Nêu quả báo của người tin tưởng
20.1.2.2.3.1.1. Nêu bày quả báo
(Kinh) Thị tỳ-kheo
lâm dục chung thời, ư hư không trung, cụ văn Oai
Âm Vương Phật tiên sở thuyết Pháp Hoa kinh nhị
thập thiên vạn ức kệ, tất năng thọ tŕ,
tức đắc như thượng nhăn căn thanh tịnh,
nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ư căn thanh tịnh. Đắc
thị lục căn thanh tịnh dĩ, cánh tăng thọ
mạng nhị bách vạn ức na-do-tha tuế. Quảng vị
nhân thuyết thị Pháp Hoa kinh. Ư thời, tăng thượng
mạn tứ chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di khinh tiện thị nhân, vị tác Bất Khinh
danh giả, kiến kỳ đắc đại thần thông
lực, nhạo thuyết biện lực, đại thiện
tịch lực, văn kỳ sở thuyết, giai tín phục,
tùy tùng. Thị Bồ Tát phục hóa thiên vạn ức chúng, linh trụ A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Mạng chung chi hậu,
đắc trị nhị thiên ức Phật, giai hiệu Nhật
Nguyệt Đăng Minh. Ư kỳ pháp trung, thuyết thị
Pháp Hoa kinh. Dĩ thị nhân duyên, phục
trị nhị thiên ức Phật, đồng hiệu Vân Tự
Tại Đăng Vương. Ư thử chư Phật
pháp trung, thọ tŕ, độc tụng, vị chư tứ
chúng thuyết thử kinh điển cố, đắc thị
thường nhăn thanh tịnh, nhĩ, tỵ, thiệt, thân,
ư, chư căn thanh tịnh. Ư tứ chúng trung thuyết
pháp, tâm vô sở úy. Đắc Đại Thế! Thị Thường
Bất Khinh Bồ Tát Ma Ha Tát cúng dường như thị
nhược can chư Phật, cung kính, tôn trọng, tán thán,
chủng chư thiện căn. Ư hậu, phục trị thiên vạn
ức Phật, diệc ư chư Phật pháp trung, thuyết
thị kinh điển, công đức thành tựu, đương
đắc tác Phật.
(經)是比丘臨欲終時。於虛空中。具聞威音王佛先所說法華經二十千萬億偈。悉能受持。即得如上眼根清淨。耳鼻舌身意根清淨。得是六根清淨已。更增壽命二百萬億那由他歲。廣為人說是法華經。於時增上慢四眾比丘比丘尼優婆塞優婆夷輕賤是人。為作不輕名者。見其得大神通力。樂說辨力。大善寂力。聞其所說。皆信伏隨從。是菩薩復化千萬億眾令住阿耨多羅三藐三菩提。命終之後。得值二千億佛。皆號日月燈明。於其法中。說是法華經。以是因緣。復值二千億佛。同號云自在燈王。於此諸佛法中。受持讀誦。為諸四眾說此經典故。得是常眼清淨。耳鼻舌身意諸根清淨。於四眾中說法。心無所畏。得大勢。是常不輕菩薩摩訶薩供養如是若干諸佛。恭敬尊重讚歎。種諸善根。於後復值千萬億佛。亦於諸佛法中說是經典。功德成就。當得作佛。
(Kinh: Vị tỳ-kheo
ấy khi sắp mạng chung, ở trong hư không, nghe trọn
vẹn hai mươi ngàn vạn ức bài kệ của kinh
Pháp Hoa do Oai Âm Vương Phật đă nói trước đó,
đều có thể thọ tŕ, liền được nhăn
căn thanh tịnh như trên, tai, mũi, lưỡi, thân, ư
căn đều thanh tịnh. Đă đắc sáu căn
thanh tịnh như thế rồi, thọ mạng lại tăng
thêm hai trăm vạn ức na-do-tha năm, rộng v́ người
khác nói kinh Pháp Hoa này. Lúc đó, tứ chúng tăng thượng
mạn tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di
khinh rẻ vị ấy, đặt tên cho Ngài là Bất Khinh,
thấy Ngài đắc sức thần thông to lớn, sức
nhạo thuyết biện tài, sức đại thiện tịch,
nghe lời Ngài nói đều tin phục, vâng theo. Vị Bồ
Tát ấy lại giáo hóa ngàn vạn ức người, khiến
cho họ trụ trong Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác. Sau khi mạng chung, được gặp hai ngàn ức
Phật, đều có hiệu là Nhật Nguyệt
Đăng Minh (Candrasūryapradīpa). Ở trong pháp của
chư Phật, nói kinh Pháp Hoa này. Do nhân duyên ấy, lại được
gặp hai ngàn ức Phật, có cùng hiệu là Vân Tự Tại
Đăng Vương (Meghasvararāja). Ở trong pháp của
các vị Phật ấy, thọ tŕ, đọc tụng, do v́
các tứ chúng nói kinh điển này, đạt được
mắt phàm thanh tịnh,
tai, mũi, lưỡi, thân, ư, các căn thanh tịnh. Ở
trong tứ chúng thuyết pháp, tâm không sợ hăi. Này Đắc
Đại Thế! Vị Thường Bất Khinh Bồ
Tát Ma Ha Tát ấy cúng dường ngần ấy chư Phật
như thế, cung kính, tôn trọng, tán thán, gieo các thiện
căn. Sau đó, lại gặp gỡ ngàn vạn ức Phật,
cũng ở trong pháp của chư Phật nói kinh điển
này, công đức thành tựu, sẽ được thành Phật).
Hỏi: Ngài Bất Khinh là Phật
Thích Ca thị hiện Tích, đối với kẻ đáng
nên dùng thân Bồ Tát tỳ-kheo đắc độ, liền hiện
thân Bồ Tát tỳ-kheo để thuyết pháp cho kẻ đó.
Lại c̣n chẳng sanh mà hiện sanh, chẳng diệt mà hiện
diệt. Cố nhiên chẳng nghi. C̣n như khi lâm chung nghe trọn
vẹn kinh Pháp Hoa do Oai Âm Vương Phật đă nói mà đạt
được sáu căn thanh tịnh, sao chẳng dùng quả
Phật để hiện thân, c̣n phải đợi nghe
[kinh Pháp Hoa] từ vị Phật khác, [trước đó, các]
căn c̣n chưa tịnh, do văn tŕ th́ mới tịnh vậy?
Đáp: Đă thuộc về
sự thị hiện sau khi đắc quả, có ǵ là chẳng
được? Trước hết, sáu căn chưa thanh
tịnh chính là Bệnh Hạnh trong Viên Giáo. Lâm chung, nghe kinh
thọ tŕ, chính là Anh Nhi Hạnh trong Viên Giáo. Sức đại
thần thông tức là “Như Lai thất”. Sức nhạo thuyết biện tài tức
là “Như Lai ṭa”. Sức đại thiện
tịch tức là “áo Như Lai”. Dùng ba pháp ấy để
trang nghiêm sáu căn, có thể khiến cho tứ chúng chuyển
hủy báng thành tin tưởng.
Lại hỏi: Vốn đă
thành Phật, cớ sao lại nói “gieo các thiện căn”,
cho đến “công đức thành tựu, sẽ được
thành Phật?”
Đáp: Ví như Đào Châu Công
(Phạm Lăi) khéo có thuật lạ để làm giàu, trụ
ở một chỗ, buôn bán kiếm được vạn
ức. Lại bỏ đi, chẳng mang theo một đồng,
sang xứ khác, tay trắng lập nghiệp, thành công kinh
doanh vạn ức. Lại bỏ đi, sang xứ khác, lại
kinh doanh giàu vạn ức. Đức Phật cũng như
thế, công đức nơi Bổn địa hoàn toàn để
đó chẳng dùng tới, lại thị hiện tu nhân, lại
thị hiện đắc quả, trọn khắp mười
phương, trọn khắp ba đời, nhiều lượt
chẳng thôi, chẳng thể nghĩ bàn! V́ thế nói: “Thọ
mạng thành tựu khi ta hành Bồ Tát đạo nơi Bổn
đến nay vẫn chưa hết. Khi đă thành Phật,
chẳng dùng tới thọ mạng đă thành tựu khi tu Bồ
Tát”. Vậy th́ khi thị hiện Tích, cũng chẳng dùng
tất cả công đức nơi Bổn địa. Lại
nữa, kinh Phạm Vơng chép: “Ngô kim lai thử thế giới
bát thiên phản, vị thử Sa Bà thế giới, tọa
kim cang hoa quang vương ṭa” (Ta nay đến thế giới
này tám ngàn lần, v́ thế giới Sa Bà này, ngồi trên ṭa
kim cang hoa quang vương). Ngài đă thị hiện thành Phật
tám ngàn lượt trong Sa Bà. Đối với phân thân của
Ngài trọn khắp các xứ thuộc phương khác, cũng
có thể phỏng theo đó mà biết. Ở đây, kinh đă luận định
chung ba thứ báo của người tin tưởng:
- Sáu căn thanh tịnh bèn tăng
thêm thọ mạng. Đó là hiện báo.
- Mạng chung gặp Phật.
Đó là sanh báo.
- Lại gặp chư Phật,
cho đến sẽ được làm Phật. Đó là hậu
báo.
20.1.2.2.3.1.2. Dung hội xưa nay để kết luận
(Kinh) Đắc
Đại Thế! Ư ư vân hà? Nhĩ thời, Thường
Bất Khinh Bồ Tát khởi dị nhân hồ? Tắc ngă
thân thị. Nhược ngă ư túc thế, bất thọ
tŕ, độc tụng thử kinh, vị tha nhân thuyết
giả, bất năng tật đắc A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề. Ngă ư tiên Phật sở,
thọ tŕ, độc tụng thử kinh, vị nhân thuyết
cố, tật đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề.
(經)得大勢。於意云何。爾時常不輕菩薩。豈異人乎。則我身是。若我於宿世。不受持讀誦此經。為他人說者。不能疾得阿耨多羅三藐三菩提。我於先佛所。受持讀誦此經。為人說故。疾得阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh: Này Đắc
Đại Thế! Ư ông nghĩ sao? Thường Bất
Khinh Bồ Tát thuở đó há có phải là ai khác? Chính là thân
ta. Nếu ta trong đời trước chẳng thọ tŕ,
đọc tụng kinh này, v́ người khác nói, sẽ chẳng
thể mau chóng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác. Ta ở chỗ chư Phật quá khứ, do thọ tŕ,
đọc tụng kinh này, v́ người khác nói mà mau chóng đắc
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).
Phần đầu là kết
luận để dung hội. Kế đó,
từ “nhược ngă ư túc thế” (nếu ta trong
đời trước) trở đi, nêu ra tấm gương
của người tin tưởng để khuyên nên thuận
tùng. Như Đào Châu Công tay trắng lại sang xứ khác,
nếu chẳng vận dụng thuật lạ để làm
giàu, sẽ chẳng thể mau chóng kinh doanh vạn ức. Hăy
nên biết Pháp Hoa chính là “thuật lạ” để mau chóng thành Phật. Phần thứ
nhất, “nêu ra quả báo của người tin tưởng”
đă xong.
20.1.2.2.3.2. Nói về quả báo của kẻ hủy
báng
20.1.2.2.3.2.1. Nêu ra quả báo
(Kinh) Đắc
Đại Thế! Bỉ thời tứ chúng, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di dĩ sân khuể ư khinh tiện ngă cố, nhị bách ức kiếp,
thường bất trị Phật, bất văn pháp, bất
kiến tăng, thiên kiếp ư A Tỳ địa ngục, thọ đại khổ
năo. Tất thị tội dĩ, phục ngộ Thường
Bất Khinh Bồ Tát giáo hóa A Nậu Đa La Tam Miệu Tam
Bồ Đề.
(經)得大勢。彼時四眾比丘比丘尼優婆塞優婆夷以瞋恚意輕賤我故。二百億劫。常不值佛。不聞法。不見僧。千劫於阿鼻地獄受大苦惱。畢是罪已。復遇常不輕菩薩。教化阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh: Này Đắc
Đại Thế! Khi đó, tứ chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di do ư sân khuể, khinh rẻ ta mà
trong hai trăm ức kiếp, thường chẳng gặp
Phật, chẳng nghe pháp, chẳng thấy tăng, ngàn kiếp
ở trong địa ngục A Tỳ chịu khổ năo to lớn.
Tội đó đă hết, lại gặp Thường
Bất Khinh Bồ Tát giáo hóa Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác).
Do báng mà đọa khổ.
Do nghe thọ kư “sẽ thành Phật” mà cái duyên viên đốn.
Lại do sức thệ nguyện rộng lớn của Thường
Bất Khinh Bồ Tát nhiếp thọ mà lại được
gặp gỡ, tiếp nhận giáo hóa.
Hỏi: Tứ chúng thuở đó
đă đều tin phục, vâng theo, cớ sao vẫn đọa
khổ lâu dài?
Đáp: Điều này có hai ư:
- Một, do thân đánh, miệng
chửi, đă trở thành nghiệp nặng, theo đúng lư
phải thọ báo. Nêu ra ư này nhằm cảnh tỉnh hành nhân
chớ nên vừa nghe lọt qua tai liền nổi sân, dấy
lỗi.
- Hai, trải qua thời gian đă
lâu, trong tứ chúng có kẻ c̣n, người mất. Người
c̣n th́ tin phục, kẻ mất chưa hối hận. Lại
nữa, trong số kẻ tin phục, vâng theo, hối lỗi
có cạn và sâu, hành có siêng năng hay biếng nhác. Nếu hối
sâu, tu hành siêng năng, chắc cũng chẳng đọa! Dẫu
bị đọa, dễ thoát ra. Nếu hối cạn, tu hành
biếng nhác, tự nhiên sẽ bị đọa trước,
sau đó mới đạt được lợi ích. Nếu
kẻ chưa hối, sẽ đọa khổ lâu dài. Nhưng
do được Bồ Tát nhiếp thọ, rốt cuộc
sẽ được độ thoát.
Hỏi: Nếu do phỉ báng
mà đọa khổ, cớ sao Bồ Tát tạo ra cái nhân gây
khổ vậy?
Đáp: Bọn họ đă ôm
ḷng tăng thượng mạn. Dẫu chẳng hủy báng, ắt cũng đọa
khổ! Nay do báng bị đọa, tạo thành cái nhân xa [để
được độ thoát]. Như người ngă xuống
đất, vẫn phải từ đất đứng lên.
V́ thế, dùng chánh báng để tiếp dẫn kẻ tà đọa.
Hỏi: V́ sao chẳng dùng sức
thần thông khiến cho họ đều liền tin phục,
vâng theo?
Đáp: Chư Phật Bồ
Tát không vị nào chẳng muốn thế, nhưng do chúng
sanh cơ nghi mỗi người mỗi khác, sẽ có kẻ
rốt cuộc nếu chẳng rơi vào địa ngục,
chắc chắn chẳng chịu phát tâm. Ví như lương
y v́ trị bệnh ngặt, chẳng thể không dùng châm cứu
và thuốc đắng!
20.1.2.2.3.2.2. Kết luận dung hội xưa nay
(Kinh) Đắc Đại Thế! Ư
nhữ ư vân hà? Nhĩ thời, tứ chúng thường khinh
thị Bồ Tát giả, khởi dị nhân hồ? Kim thử
hội trung Bạt Đà Bà La đẳng ngũ bách Bồ
Tát, Sư Tử Nguyệt đẳng ngũ bách tỳ-kheo, Ni Tư Phật đẳng ngũ bách
Ưu-bà-tắc, giai ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề bất thoái chuyển giả thị.
(經)得大勢。於汝意云何。爾時四眾常輕是菩薩者。豈異人乎。今此會中跋陀婆羅等五百菩薩。師子月等五百比丘。尼思佛等五百優婆塞。皆於阿耨多羅三藐三菩提不退轉者是。
(Kinh: Này Đắc Đại
Thế! Ư ông nghĩ sao? Tứ chúng thuở đó thường
khinh rẻ Bồ Tát há có phải là ai khác? Nay trong hội này
là năm trăm vị Bồ Tát như Bạt Đà Bà La (Bhadrapāla), năm
trăm vị tỳ-kheo như Sư Tử Nguyệt (Siṃhacandrā),
năm trăm ưu-bà-tắc như Ni Tư Phật (Sugatacetanā), đều chẳng thoái chuyển nơi Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).
Phần thứ hai, “cùng nói quả
báo do tin tưởng và hủy báng xưa kia” đă xong.
20.1.3. Khuyến tŕ
(Kinh) Đắc Đại
Thế! Đương tri thị Pháp Hoa kinh, đại nhiêu
ích chư Bồ Tát Ma Ha Tát, năng linh chí ư A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thị cố, chư
Bồ Tát Ma Ha Tát ư Như Lai diệt hậu, thường
ưng thọ tŕ, độc tụng, giải thuyết, thư
tả thị kinh.
(經)得大勢。當知是法華經。大饒益諸菩薩摩訶薩。能令至於阿耨多羅三藐三菩提。是故諸菩薩摩訶薩。於如來滅後。常應受持讀誦解說書寫是經。
(Kinh: Đắc Đại
Thế! Hăy nên biết kinh Pháp Hoa này lợi ích to lớn các
vị Bồ Tát Ma Ha Tát, có thể khiến cho họ đạt
tới Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. V́ thế,
các vị Bồ Tát Ma Ha Tát sau khi Như Lai diệt độ,
hăy thường nên thọ tŕ, đọc tụng, giải
nói, biên chép kinh này).
Tiếp nối điều được
nói trên đây: Không chỉ người tin tưởng sẽ
mau chóng được thành Phật, mà c̣n khiến cho người
hủy báng rốt cuộc đạt được bất
thoái. V́ thế, hăy nên siêng năng tu tập năm loại hạnh,
tức là thọ tŕ, đọc, tụng, giải nói, biên chép.
Phần thứ nhất là Trường Hàng đă xong.
20.2. Kệ tụng
20.2.1. Trùng tụng quả báo do tin tưởng hay hủy
báng
20.2.1.1. Trùng tụng Sự Bổn
(Kinh) Nhĩ thời,
Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ
ngôn: - Quá khứ hữu Phật, hiệu Oai Âm Vương, thần trí
vô lượng, tương đạo nhất thiết, thiên,
nhân, long, thần, sở cộng cúng dường.
(經)爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。過去有佛。號威音王。神智無量。將導一切。天人龍神。所共供養。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa
này, bèn nói kệ rằng: - Đời quá khứ có Phật,
hiệu là Oai Âm Vương, thần thông, trí vô lượng,
hướng dẫn khắp hết thảy. Trời, người,
rồng cùng thần, đều cùng nhau cúng dường).
20.2.1.2. Trùng tụng Bổn Sự
20.2.1.2.1. Trùng tụng nêu tên hai vị (tức nêu tên Oai Âm Vương
Phật và Thường Bất Khinh Bồ Tát)
(Kinh) Thị Phật
diệt hậu, pháp dục tận thời, hữu nhất
Bồ Tát, danh Thường Bất Khinh. Thời chư tứ
chúng, kế trước ư pháp.
(經)是佛滅後。法欲盡時。有一菩薩。名常不輕。時諸四眾。計著於法。
(Kinh: Sau khi Phật
diệt độ, lúc Phật pháp sắp diệt, có một
vị Bồ Tát, tên là Thường Bất Khinh. Khi đó, cả
bốn chúng, so đo, chấp trước pháp).
Nói “kế trước ư
pháp” (so đo, chấp trước pháp) nhằm trùng tụng
[ư nghĩa đại chúng thuở đó phần nhiều là
kẻ] tăng thượng mạn. “Thị pháp bất
khả thị, ngôn từ tướng tịch diệt”
(pháp ấy chẳng thể chỉ, tướng ngôn từ vắng
lặng): Nếu khăng khăng cho là có, tức là chấp
pháp. Nếu nhất quyết cho là không, cũng là chấp pháp.
Khăng khăng cho là “cũng có, cũng không”, cũng là chấp pháp.
Khăng khăng bảo “chẳng phải có, chẳng phải
không”, cũng là chấp pháp.
Khăng khăng bảo “do ĺa bốn câu cho nên chẳng thể nói”
th́ cũng là chấp pháp. V́ thế, kinh Phật Tạng dạy:
“Đao luân hại Diêm Phù nhân, kỳ tội do thiểu. Hữu
sở đắc tâm thuyết Đại Thừa giả, kỳ
tội quá bỉ” (Dùng vầng đao hại người
trong Diêm Phù, tội ấy c̣n ít. Dùng cái tâm có sở đắc
để nói Đại Thừa th́ tội c̣n nhiều hơn thế
nữa). Đại
Luận nói: “Chấp trước tranh căi có và không, cho đến
chấp trước tranh căi chẳng phải có, chẳng phải
không cùng với có không ví như da ḅ, râu rồng[4], đều chẳng
tránh khỏi mối họa”. Trung Luận nói: “Chư Phật
nói pháp Không, vốn v́ giáo hóa các cơi. Nếu có kẻ chấp
Không, chư Phật chẳng giáo hóa”. Nếu nói quyết
định “các pháp chẳng phải có, chẳng phải không”
th́ gọi là ngu si luận. Hăy nên
biết: Nếu hiểu ư nghĩa Tứ Tất Đàn, tự
hành, giáo hóa người khác, sẽ đều có thể chẳng
chấp! Nếu chấp vào ư nghĩa Tứ Tất Đàn,
tự hành, giáo hóa người khác, sẽ đều gọi
là chấp trước pháp. Do chấp pháp, sẽ có cái tâm có
sở đắc, sẽ sanh ḷng kiêu
căng, cao ngạo đối
với những chứng đắc kém cỏi, hẹp ḥi, được
gọi là “tăng thượng mạn”.
20.2.1.2.2. Trùng tụng cùng nêu chuyện tin tưởng
và hủy báng
(Kinh) Bất Khinh Bồ
Tát, văng đáo kỳ sở, nhi ngữ chi ngôn, ngă bất khinh
nhữ. Nhữ đẳng hành đạo, giai đương
tác Phật. Chư nhân văn dĩ, khinh hủy mạ lỵ.
Bất Khinh Bồ Tát, năng nhẫn thọ chi.
(經)不輕菩薩。往到其所。而語之言。我不輕汝。汝等行道。皆當作佛。諸人聞已。輕毀罵詈。不輕菩薩。能忍受之。
(Kinh: Thường
Bất Khinh Bồ Tát, đi đến chỗ của họ,
mà nói như thế này: “Tôi chẳng dám khinh ngài. Các ngài đều
hành đạo, sẽ đều được thành Phật”.
Bọn họ nghe nói xong, khinh, hủy báng, chửi bới.
Thường Bất Khinh Bồ Tát, có thể chịu đựng
được).
20.2.1.2.3. Trùng tụng cùng nêu ra hai thứ quả báo
20.2.1.2.3.1. Trùng tụng quả báo của người
tin tưởng
(Kinh) Kỳ tội
tất dĩ, lâm mạng chung thời, đắc văn thử
kinh, lục căn thanh tịnh. Thần thông lực cố,
tăng ích thọ mạng. Phục vị chư nhân, quảng
thuyết thị kinh. Chư trước pháp chúng, giai mông Bồ
Tát, giáo hóa thành tựu, linh trụ Phật đạo. Bất
Khinh mạng chung, trị vô số Phật, thuyết thị
kinh cố, đắc vô lượng phước, tiệm
cụ công đức, tật thành Phật đạo. Bỉ
thời Bất Khinh, tắc ngă thân thị.
(經)其罪畢已。臨命終時。得聞此經。六根清淨。神通力故。增益壽命。復為諸人。廣說是經。諸著法眾。皆蒙菩薩。教化成就。令住佛道。不輕命終。值無數佛。說是經故。得無量福。漸具功德。疾成佛道。彼時不輕。則我身是。
(Kinh: Tội ấy
đă hết rồi, khi sắp sửa mạng chung, do
được nghe kinh này, sáu căn đều thanh tịnh.
Do bởi sức thần thông, thọ mạng được
tăng trưởng. Lại v́ khắp mọi người,
rộng nói kinh điển này. Những kẻ chấp
trước pháp, đều được Bồ Tát này,
giáo hóa khiến thành tựu, khiến trụ trong Phật
đạo. Thường Bất Khinh mạng chung, gặp gỡ
vô số Phật. Do v́ nói kinh này, đạt được
vô lượng phước. Dần dần đủ công
đức, mau chóng thành Phật đạo. Thường Bất
Khinh thuở đó, chính là thân của ta).
“Kỳ tội tất
dĩ” (tội ấy đă hết rồi): Đă thị
hiện Tích, v́ kẻ lục căn chưa thanh tịnh, ắt
[Bồ Tát] sẽ thị hiện mắc tội có cùng Bệnh
Hạnh. Do v́ tội ấy,
chuốc lấy nhiều sự đánh, mắng. Do có thể
chịu đựng, tội hết, căn tịnh.
20.2.1.2.3.2. Trùng tụng quả báo của kẻ hủy
báng
(Kinh) Thời tứ
bộ chúng, trước pháp chi giả, văn Bất Khinh
ngôn. Nhữ đương tác Phật. Dĩ thị nhân duyên,
trị vô số Phật. Thử hội Bồ Tát, ngũ bách
chi chúng, tịnh cập tứ bộ, thanh tín sĩ nữ, kim
ư ngă tiền, thính pháp giả thị. Ngă ư tiền thế,
khuyến thị chư nhân, thính thọ tư kinh, đệ
nhất chi pháp, khai thị giáo nhân, linh trụ Niết Bàn.
Thế thế thọ tŕ, như thị kinh điển.
(經)時四部眾。著法之者。聞不輕言。汝當作佛。以是因緣。值無數佛。此會菩薩。五百之眾。幷及四部。清信士女。今於我前。聽法者是。我於前世。勸是諸人。聽受斯經。第一之法。開示教人。令住涅槃。世世受持。如是經典。
(Kinh: Bốn bộ
chúng thuở đó, là kẻ chấp trước pháp, nghe lời
Bất Khinh nói, các vị sẽ thành Phật. Do bởi nhân
duyên ấy, gặp gỡ vô số Phật. Bồ Tát trong hội
này, số đến năm trăm vị, cùng với
bốn bộ chúng, gồm thanh tín nam nữ. Nay chính
là những kẻ, đang nghe pháp trước ta. Ta ở trong
đời trước, khuyên lơn những kẻ đó,
nghe nhận kinh điển này, là diệu pháp bậc nhất,
khai thị, dạy người khác, khiến họ trụ
Niết Bàn. Đời đời luôn thọ tŕ, kinh điển
như thế đó).
Phần đầu, “trùng tụng
quả báo do tin tưởng hay hủy báng” đă xong!
20.2.2. Trùng tụng khuyến tŕ
(Kinh) Ức ức vạn
kiếp, chí bất khả nghị, thời năi đắc văn,
thị Pháp Hoa kinh. Ức ức vạn kiếp, chí bất
khả nghị. Chư Phật Thế Tôn, thời thuyết
thị kinh. Thị cố hành giả, ư Phật diệt
hậu, văn như thị kinh, vật sanh nghi hoặc. Ưng
đương nhất tâm, quảng thuyết thử kinh,
thế thế trị Phật, tật thành Phật đạo.
(經)億億萬劫。至不可議。時乃得聞。是法華經。億億萬劫。至不可議。諸佛世尊。時說是經。是故行者。於佛滅後。聞如是經。勿生疑惑。應當一心。廣說此經。世世值佛。疾成佛道。
(Kinh: Trải ức ức
vạn kiếp, tới chẳng thể suy nghĩ, khi đó
mới được nghe, bộ kinh Pháp Hoa này. Trải ức
ức vạn kiếp, tới chẳng thể suy nghĩ, các
vị Phật Thế Tôn, mới bèn nói kinh này. V́ thế, các
hành giả, sau khi Phật diệt độ, nghe kinh như
thế này, chớ sanh ḷng nghi hoặc. Hăy nên dốc một
ḷng, rộng nói kinh điển này, sẽ đời đời
gặp Phật, mau chóng thành Phật đạo).
Hỏi: Phần kinh văn Trường Hàng đă
nói rơ kinh này có sự lợi ích to lớn, thậm chí kẻ
hủy báng rốt cuộc cũng hưởng lợi ích. V́
sao ức ức vạn kiếp cho đến chẳng thể
nghĩ [kiếp số], chư Phật mới nói kinh này vậy?
Đáp: Do có lợi ích Tứ
Tất Đàn cho nên có thể nói. Chẳng có bốn lợi
ích Tất Đàn, chư Phật sẽ trọn chẳng lầm
lạc thuyết pháp. V́ thế, muốn hoằng dương
đại pháp, trước tiên cần phải hiểu rơ nhân
duyên Tứ Tất Đàn. Phần thứ hai, “nói riêng về
hai môn Bổn Tích” đă xong.
* Phần Lưu Thông của hai môn Bổn và Tích
Bao gồm tám phẩm kinh,
chia thành ba ư:
- Một, hai phẩm Thần
Lực và Chúc Lụy nói về chuyện phó chúc lưu thông.
- Hai, năm phẩm từ phẩm
Dược Vương trở đi, xét theo sự hóa độ
người khác để khuyên lưu thông.
- Ba, phẩm Phổ Hiền Khuyến
Phát xét theo tự hành để khuyên lưu thông.
Trong ư thứ nhất:
1) Phẩm Thần Lực
nói rơ Bồ Tát vâng mạng hoằng kinh.
2) Phẩm Chúc Lụy nói đến
chuyện Như Lai xoa đầu, phó chúc.
Giải thích phẩm Thường
Bất Khinh Bồ Tát đă xong; kế đó, giải thích
phẩm Như Lai Thần Lực.
21. Phẩm hai mươi mốt: Như Lai Thần Lực
(Như Lai Thần Lực phẩm đệ nhị thập
nhất, 如來神力品第二十一)
[Ư nghĩa của] Như
Lai như trong phần trên đă giải thích. “Thần”
là chẳng lường được. “Lực” là vận
dụng. “Chẳng lường được” th́ cái Thể
tự nhiên sâu xa. “Vận dụng” th́
sức chuyển biến to lớn. Ở đây, v́ phó chúc
pháp sâu, [đức Thế Tôn] hiện mười thứ lực
mạnh mẽ; cho nên gọi là phẩm Thần Lực (Thần
ở bên trong, tức là cái Tông của Thể. Lực là vận
dụng, tức là hiển thị tác dụng của kinh. Đức
Phật nói Bổn Tích, lực dụng của khẩu luân đă
nói xong trong phần trước. Nay thân luân lại hiện tác
dụng thù thắng để làm giáo pháp, ḥng khiến cho đại chúng lưu thông
Bổn Tích. V́ thế nói là “Thể sâu, lực lớn”).
* Bồ Tát vâng mạng hoằng kinh
21.1. Trường Hàng
21.1.1. Bồ Tát vâng mạng
(Kinh) Nhĩ thời,
thiên thế giới vi trần đẳng Bồ Tát Ma Ha Tát
tùng địa dũng xuất giả, giai ư Phật tiền,
nhất tâm hiệp chưởng, chiêm ngưỡng tôn nhan,
nhi bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă đẳng ư Phật
diệt hậu, Thế Tôn phân thân sở tại quốc
độ diệt độ chi xứ, đương quảng
thuyết thử kinh. Sở dĩ giả hà? Ngă đẳng
diệc tự dục đắc thị chân tịnh đại
pháp, thọ tŕ, độc tụng, giải thuyết, thư
tả, nhi cúng dường chi.
(經)爾時千世界微塵等菩薩摩訶薩。從地涌出者。皆於佛前。一心合掌。瞻仰尊顏。而白佛言。世尊。我等於佛滅後。世尊分身所在國土滅度之處。當廣說此經。所以者何。我等亦自欲得是真淨大法。受持讀誦解說書寫而供養之。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, các vị Bồ Tát nhiều như số vi trần
trong một ngàn thế giới từ dưới đất
vọt lên, đều ở trước đức Phật,
nhất tâm chắp tay, chiêm ngưỡng tôn nhan, mà bạch
cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Chúng
con sau khi đức Phật diệt độ, sẽ ở
trong các quốc độ là nơi phân thân của đức
Thế Tôn diệt độ mà rộng nói kinh này. V́ lẽ
nào vậy? Chúng con cũng tự muốn đạt được
đại pháp chân thật thanh tịnh này, thọ tŕ, đọc
tụng, giải nói, biên chép để cúng dường).
Phát thệ hoằng kinh gồm
ba ư:
- Một, nêu ra thời tiết,
tức là sau khi đức Phật diệt độ.
- Hai, nêu ra xứ sở, chính
là quốc độ của các phân thân.
- Ba, nêu ra lợi ích. Nếu
chẳng lợi ích cho người khác th́ cũng mong tự
ḿnh đạt được đại pháp chân tịnh,
giúp cho ḿnh lẫn người. Thật Thể là Chân, Quyền
dụng (tác dụng nơi Quyền) là Tịnh. Quyền
Thật bất nhị là Đại; lại chẳng phải
Quyền, chẳng phải Thật th́ là Chân. Có thể Quyền,
có thể Thật th́ là Tịnh, cùng chiếu bất nhị
th́ gọi là Đại.
21.1.2. Đức Phật hiện thần lực
21.1.2.1. Nêu chung đại chúng đối diện Phật
(Kinh) Nhĩ thời,
Thế Tôn ư Văn Thù Sư Lợi đẳng vô lượng
bách thiên vạn ức cựu trụ Sa Bà thế giới Bồ
Tát Ma Ha Tát, cập chư tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di, thiên, long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn
Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng, nhất thiết
chúng tiền, hiện đại thần lực.
(經)爾時世尊。於文殊師利等。無量百千萬億舊住娑婆世界菩薩摩訶薩。及諸比丘。比丘尼。優婆塞。優婆夷。天龍。夜叉。乾闥婆。阿修羅。迦樓羅。緊那羅。摩睺羅伽。人非人等一切眾前。現大神力。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, đức Thế Tôn đối trước các vị
như Văn Thù Sư Lợi v.v… vô lượng trăm ngàn
vạn ức cựu trụ Bồ Tát Ma Ha Tát trong thế
giới Sa Bà, và các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di, trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu
La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân v.v… hết thảy
đại chúng, hiện đại thần lực).
Các vị như Văn Thù v.v…
chính là đại chúng được giáo hóa nơi Tích. “Cựu
trụ” chính là đại chúng ở phương
dưới được
giáo hóa nơi Bổn. “Cập chư tỳ-kheo đẳng
nhất thiết chúng” (và các hàng tỳ-kheo v.v… hết thảy
các đại chúng): Từ phương khác đến và từ
chỗ của các phân thân Phật mà đến.
21.1.2.2. Hiển hiện các tướng để biểu
thị trong mười phương
21.1.2.2.1. Hiện tướng lưỡi và lỗ chân
lông phóng quang
(Kinh) Xuất quảng
trường thiệt, thượng chí Phạm Thế. Nhất
thiết mao khổng phóng ư vô lượng vô số sắc
quang, giai tất biến chiếu thập phương thế
giới. Chúng bảo thụ hạ sư tử ṭa thượng
chư Phật, diệc phục như thị xuất quảng
trường thiệt, phóng vô lượng quang. Thích Ca Mâu Ni
Phật cập bảo thụ hạ chư Phật hiện
thần lực thời, măn bách thiên tuế, nhiên hậu hoàn
nhiếp thiệt tướng.
(經)出廣長舌。上至梵世。一切毛孔。放於無量無數色光。皆悉徧照十方世界。眾寶樹下師子座上諸佛。亦復如是出廣長舌。放無量光。釋迦牟尼佛及寶樹下諸佛現神力時。滿百千歲。然後還攝舌相。
(Kinh: Hiện tướng
lưỡi rộng dài lên đến trời Phạm Thế.
Hết thảy các lỗ chân lông tỏa ra vô lượng vô
số ánh sáng có màu, thảy đều chiếu trọn khắp
mười phương thế giới. Chư Phật trên
ṭa sư tử dưới các cây báu cũng giống như
thế, hiện tướng lưỡi rộng dài, phóng vô
lượng quang. Khi Thích Ca Mâu Ni Phật và chư Phật dưới
các cây báu hiện thần lực trọn trăm ngàn năm,
sau đấy mới thu lại tướng lưỡi).
Hiện tướng lưỡi
rộng dài biểu thị lời nói thành thật. Người
phước đức lưỡi [thè ra] chạm tới
chót mũi, Phật trong Tam Tạng (Tạng Giáo) [lưỡi
thè ra] chạm tới mí tóc. Nay [tướng lưỡi thè
ra] tới trời Phạm Thiên, [tức là] vượt ngoài
phàm thánh. Tướng đă hết sức khác thường,
lời nói hết sức đáng tin. Hăy nên biết “khai
tam hiển nhất, khai cận hiển viễn” đều
chân thật, chẳng hư dối. Lỗ chân lông tỏa
ánh sáng chiếu trọn khắp, biểu thị nhị môn
nhất lư. Trong phẩm Tự, [quang minh từ] bạch hào
chiếu sang phương Đông, biểu thị “bảy phương
tiện thoạt đầu thấy một lư”, nay Bổn Môn
đă xong, phóng hết thảy quang minh, chiếu hết thảy
cơi, có thể khiến cho kẻ sơ tâm lănh hội rốt ráo Phật
huệ, trọn hết trí cảnh. Hóa đạo của phân
thân chư Phật cũng tương đồng, cho nên cũng
lại [hiện thần lực] giống như thế. “Trọn trăm ngàn năm” mang ư nghĩa biểu thị theo chiều
ngang gồm khắp bách giới thiên như, theo chiều dọc
tột cùng mười đời xưa nay. Trong tám năm
mà lại trọn trăm ngàn năm [th́ ư nghĩa ẩn tàng
trong ấy] như đă giải thích “năm mươi tiểu
kiếp” trong phần trước. Nay đại hội
này hoàn toàn phá vô minh, cho nên chẳng cần dùng thần lực
khiến cho họ cảm thấy giống như nửa ngày.
21.1.2.2.2. Đằng hắng và khảy ngón tay
(Kinh) Nhất thời
khánh khái, câu cộng đàn chỉ. Thị nhị âm thanh biến
chí thập phương chư Phật thế giới.
(經)一時謦咳。俱共彈指。是二音聲。徧至十方諸佛世界。
(Kinh: Cùng lúc đằng
hắng, và cùng khảy ngón tay. Hai âm thanh ấy vang trọn khắp các thế
giới pháp giới trong mười phương).
“Đằng hắng” là
tướng trạng thông thoáng, lưu loát. Lại c̣n là biểu
hiện sắp nói [điều chi đó, bèn hắng giọng].
Hơn bốn mươi năm chưa thể nói về Thật,
nay được thoải mái [diễn bày Thật Đế],
chẳng c̣n vướng mắc ǵ! Đại sự đă
thông thoáng, trôi chảy; v́ thế đằng hắng. Muốn
đem pháp này phó chúc các Bồ Tát, ḥng hướng dẫn, tạo
lợi ích cho chúng sanh trong đời sau, sắp nói chuyện
ấy, cho nên đằng hắng. Đó chính là biểu thị
Giáo Nhất. “Khảy ngón tay” là tùy hỷ, tùy hỷ bảy
phương tiện cùng nhập Viên đạo. Tùy hỷ các
địa vị thuộc Viên Giáo tăng trưởng trí
huệ, tổn giảm Biến Dịch sanh tử. Tùy hỷ
các Bồ Tát tŕ chân tịnh đại pháp. Tùy hỷ đời
sau đạt được của báu vô thượng, tức
là biểu thị Nhân Nhất. V́ vậy, khảy ngón tay và đằng
hắng theo chiều dọc th́ cùng tột ba đời, theo
chiều ngang bèn trọn khắp mười phương.
21.1.2.2.3. Đại địa chấn động và
thấy trọn khắp đại hội
(Kinh) Địa giai
lục chủng chấn động. Kỳ trung chúng sanh, thiên,
long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu
La Già, nhân phi nhân đẳng, dĩ Phật thần lực
cố, giai kiến thử Sa Bà thế giới vô lượng
vô biên bách thiên vạn ức chúng bảo thụ hạ
sư tử ṭa thượng chư Phật, cập kiến
Thích Ca Mâu Ni Phật, cộng Đa Bảo
Như Lai tại bảo tháp trung, tọa sư tử ṭa. Hựu
kiến vô lượng vô biên bách thiên vạn ức Bồ
Tát Ma Ha Tát, cập chư tứ chúng, cung kính vi nhiễu Thích
Ca Mâu Ni Phật. Kư kiến thị dĩ, giai đại hoan
hỷ, đắc vị tằng hữu.
(經)地皆六種震動。其中眾生。天龍夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽人非人等。以佛神力故。皆見此娑婆世界無量無邊百千萬億眾寶樹下師子座上諸佛。及見釋迦牟尼佛。共多寶如來。在寶塔中坐師子座。又見無量無邊百千萬億菩薩摩訶薩及諸四眾。恭敬圍繞釋迦牟尼佛。旣見是已。皆大歡喜。得未曾有。
(Kinh: Đại
địa đều sáu thứ chấn động. Chúng
sanh trong đó: Trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La,
Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… do thần
lực của Phật, đều thấy trong thế giới
Sa Bà này, chư Phật trên ṭa
sư tử dưới vô lượng vô biên trăm ngàn vạn
ức các cây báu, và thấy Thích Ca Mâu Ni Phật cùng với Đa Bảo
Như Lai ngồi trên ṭa sư tử trong tháp báu. Lại thấy vô lượng
vô biên trăm ngàn vạn ức Bồ Tát Ma Ha Tát và các tứ
chúng, cung kính vây quanh Thích Ca Mâu Ni Phật. Đă thấy như
thế, đều hết sức
hoan hỷ, đạt được điều chưa từng
có).
Đất trong mười phương
thế giới đều sáu thứ chấn động, biểu
thị chấn động sáu căn của hết thảy
chúng sanh ḥng được thanh tịnh, cũng biểu thị
Viên Đạo từ đầu đến cuối sáu lượt
phá vô minh, biểu thị Hạnh Nhất. Thấy trọn
khắp đại hội trong thế gian này, biểu thị
chư Phật đạo đồng, hiện tại và mai
sau cũng đều là như thế. Trước đó, năm
ngàn người rời đi, ba lượt [đại
chúng trong thế giới Sa Bà và các quốc độ do đức
Phật Thích Ca biến hóa ra] bị dời [sang phương
khác], cho đến nhân, phi nhân
v.v… vốn trụ
trong mười phương chính là những kẻ căn cơ
chưa thuần thục, đă chẳng thể vân tập tới
pháp hội này, nay do thần lực [của đức Bổn
Sư và các phân thân chư Phật] đều khiến cho họ
từ xa trông thấy [pháp hội Pháp Hoa này], kết duyên hoan
hỷ, tức là điều lành chung [biểu thị] họ
sẽ đắc độ trong vị lai.
21.1.2.2.4. Trong hư không vang ra âm thanh
(Kinh) Tức thời
chư thiên ư hư không trung, cao thanh xướng ngôn: - Quá
thử vô lượng vô biên bách thiên vạn ức A-tăng-kỳ
thế giới, hữu quốc danh Sa Bà. Thị trung hữu
Phật, danh Thích Ca Mâu Ni. Kim vị chư Bồ Tát Ma Ha Tát
thuyết Đại Thừa kinh, danh Diệu Pháp Liên Hoa, giáo
Bồ Tát pháp, Phật sở hộ niệm. Nhữ đẳng
đương thâm tâm tùy hỷ, diệc đương lễ
bái, cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật.
(經)即時諸天。於虛空中。高聲唱言。過此無量無邊百千萬億阿僧祇世界。有國名娑婆。是中有佛。名釋迦牟尼。今為諸菩薩摩訶薩說大乘經。名妙法蓮華。教菩薩法。佛所護念。汝等當深心隨喜。亦當禮拜供養釋迦牟尼佛。
(Kinh: Ngay lập tức,
chư thiên ở trong hư không, lớn tiếng xướng
rằng: - Qua khỏi vô lượng vô biên trăm ngàn vạn
ức A-tăng-kỳ thế giới, có cơi nước tên
là Sa Bà. Trong ấy có Phật, tên là Thích Ca Mâu Ni, nay v́ các vị
Bồ Tát Ma Ha Tát nói kinh Đại Thừa, tên là Diệu Pháp
Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm. Các ông
hăy nên thâm tâm tùy hỷ, cũng nên lễ bái, cúng dường
Thích Ca Mâu Ni Phật).
Tuy do Phật lực khiến
cho họ trông thấy đại
hội từ xa, nhưng vẫn chẳng biết Phật có
danh hiệu như thế nào, do duyên ǵ mà [đại chúng] tụ tập. Nay chư thiên trong hư
không tuyên xướng, khiến cho mọi
người nghe biết, khiến cho mọi người tùy
hỷ diệu pháp, cúng dường đức Thế Tôn, tức là biểu thị trong vị lai họ
sẽ có Giáo Nhất.
21.1.2.2.5. Quy mạng từ xa
(Kinh) Bỉ chư
chúng sanh văn hư không
trung thanh dĩ, hiệp chưởng hướng Sa Bà thế
giới, tác như thị ngôn: “Nam-mô Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam-mô
Thích Ca Mâu Ni Phật”.
(經)彼諸眾生。聞虛空中聲已合掌向娑婆世界。作如是言。南無釋迦牟尼佛。南無釋迦牟尼佛。
(Kinh: Các chúng
sanh ấy nghe tiếng trong hư không rồi, chắp tay hướng
về thế giới Sa Bà, nói như thế này: “Nam-mô Thích
Ca Mâu Ni Phật, Nam-mô Thích Ca Mâu Ni Phật”).
Chắp tay, xưng Nam-mô, là đệ
tử của Phật, biểu thị sẽ là Nhân Nhất
trong vị lai.
21.1.2.2.6. Cúng dường từ xa
(Kinh) Dĩ chủng
chủng hoa, hương, anh lạc, phan, cái, cập chư
nghiêm thân chi cụ, trân bảo diệu vật, giai cộng
dao tán Sa Bà thế giới. Sở tán chư vật tùng thập
phương lai. Thí như vân tập, biến thành bảo
trướng, biến phú thử gian chư Phật chi thượng.
(經)以種種華香瓔珞旛葢。及諸嚴身之具。珍寶妙物。皆共遙散娑婆世界。所散諸物。從十方來。譬如雲集。變成寶帳。徧覆此間諸佛之上。
(Kinh: Dùng các
thứ hoa, hương, anh lạc, phan, lọng, và các vật
trang nghiêm thân, các vật trân bảo mầu nhiệm, đều
cùng từ xa rải lên thế giới Sa Bà. Các vật được
rải từ mười phương đến ví như mây
nhóm, biến thành trướng báu, phủ khắp trên chư
Phật trong cơi này).
Các vật được
rải biến thành trướng báu, che trên chư Phật,
biểu thị “vạn thiện đồng quy”, đều
chứa đựng Phật quả, tức là sẽ có Hạnh
Nhất trong vị lai.
21.1.2.2.7. Mười phương thế giới thông đạt
như một cơi Phật
(Kinh) Ư thời,
thập phương thế giới thông đạt vô
ngại như nhất Phật độ.
(經)於時十方世界。通達無礙。如一佛土。
(Kinh: Khi ấy,
mười phương thế giới
thông đạt vô ngại như một cơi Phật).
Điều này biểu
thị Lư Nhất trong vị lai. Đă ngộ lư “Quyền, Thật, Bổn, Tích chẳng
thể nghĩ bàn như nhau”. Sai biệt chính là chẳng
sai biệt. Phần thứ hai, “Phật hiện thần lực”
đă xong.
21.1.3. Kết lại điểm trọng yếu để
khuyên thọ tŕ
21.1.3.1. Xưng thán, phó chúc
(Kinh) Nhĩ thời,
Phật cáo Thượng Hạnh đẳng Bồ Tát đại
chúng: - Chư Phật thần lực như thị vô lượng
vô biên bất khả tư nghị. Nhược ngă dĩ thị
thần lực, ư vô lượng vô biên bách thiên vạn ức
A-tăng-kỳ kiếp, vị chúc lụy cố, thuyết
thử kinh công đức, do bất năng tận.
(經)爾時佛告上行等菩薩大眾。諸佛神力。如是無量無邊不可思議。若我以是神力。於無量無邊百千萬億阿僧祇劫。為囑累故。說此經功德。猶不能盡。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
đức Phật bảo các vị như Thượng Hạnh
v.v… Bồ Tát đại chúng: - Thần lực của chư
Phật vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn như
thế! Nếu ta dùng thần lực ấy trong vô lượng
vô biên trăm ngàn vạn ức A-tăng-kỳ kiếp v́ chúc
lụy mà nói công đức của kinh này, vẫn chẳng
thể hết).
21.1.3.2. Kết lại điểm trọng yếu để
phó chúc
(Kinh) Dĩ yếu
ngôn chi, Như Lai nhất thiết sở hữu chi pháp, Như
Lai nhất thiết tự tại thần lực, Như
Lai nhất thiết bí yếu chi tạng, Như Lai nhất
thiết thậm thâm chi sự, giai ư thử kinh tuyên thị,
hiển thuyết.
(經)以要言之。如來一切所有之法。如來一切自在神力。如來一切秘要之藏。如來一切甚深之事。皆於此經宣示顯說。
(Kinh: Nói tóm lại,
hết thảy tất cả các pháp của Như Lai, hết
thảy thần lực tự tại của Như Lai, hết
thảy tạng bí mật trọng yếu của Như
Lai, hết thảy các chuyện rất sâu của Như Lai,
đều được tuyên nói, chỉ bày, nêu rơ trong kinh
này).
Tất cả các pháp,
hết thảy các pháp, đều là Phật pháp. Đó là tổng
kết “hết thảy đều là diệu danh”. “Tự
tại thần lực”: Thông đạt vô ngại, có đủ
tám món tự tại, nhằm kết lại diệu dụng. “Tạng bí mật, trọng yếu”:
Trọn khắp hết thảy các chỗ đều là Thật
Tướng, kết lại diệu thể. “Chuyện rất
sâu”: Hết thảy nhân quả, đại sự duy nhất,
kết lại diệu tông, đều được tuyên
nói, chỉ bày, nêu rơ trong kinh này, nhằm tổng kết một
bộ kinh chỉ có bốn điều trên đây mà thôi, được gom thành cốt lơi để trao truyền.
21.1.3.3. Khuyên lơn, khích lệ để phó chúc
(Kinh) Thị cố
nhữ đẳng, ư Như
Lai diệt hậu, ưng nhất tâm thọ tŕ, độc,
tụng, giải thuyết, thư tả, như thuyết
tu hành. Sở tại
quốc độ, nhược hữu thọ tŕ, độc,
tụng, giải thuyết, thư tả, như thuyết tu
hành, nhược kinh quyển sở trụ chi xứ, nhược
ư viên trung, nhược ư lâm trung, nhược ư thụ
hạ, nhược ư tăng phường, nhược
bạch y xá, nhược tại điện đường,
nhược sơn cốc, khoáng dă, thị trung giai ưng khởi
tháp cúng dường.
(經)是故汝等。於如來滅後。應一心受持讀誦解說書寫。如說修行。所在國土。若有受持讀誦解說書寫。如說修行。若經卷所住之處。若於園中。若於林中。若於樹下。若於僧坊。若白衣舍。若在殿堂。若山谷曠野。是中皆應起塔供養。
(Kinh: V́ thế,
các ông sau khi Như Lai diệt độ, hăy nên nhất
tâm thọ tŕ, đọc, tụng, giải nói, biên chép, tu
hành đúng như lời dạy. Ở trong cơi nước,
nếu có người thọ tŕ, đọc, tụng, giải
nói, biên chép, tu hành đúng như lời dạy, hoặc chỗ
có kinh quyển, hoặc ở trong vườn, hoặc ở
trong rừng, hoặc dưới cội cây, hoặc trong tăng
phường, hoặc nhà bạch y, hoặc tại điện
đường, hoặc hang núi, đồng hoang, đều
nên dựng tháp cúng dường tại đó).
21.1.3.4. Giải thích việc phó chúc
(Kinh) Sở dĩ
giả hà? Đương tri thị xứ tức thị đạo
tràng, chư Phật ư thử đắc A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề, chư Phật ư thử
chuyển ư pháp luân, chư Phật ư thử nhi bát Niết
Bàn.
(經)所以者何。當知是處即是道場。諸佛於此得阿耨多羅三藐三菩提。諸佛於此轉於法輪。諸佛於此而般涅槃。
(Kinh: V́ cớ sao
vậy? Hăy nên biết chỗ ấy chính là đạo tràng,
chư Phật đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác tại đó, chư Phật chuyển pháp luân tại đó,
chư Phật bát Niết Bàn tại đó).
Đoạn này nhằm giải
thích v́ sao chỗ có kinh quyển
đều phải nên dựng tháp. Do chỗ ấy chính là đạo
tràng. Chỗ đắc đạo,
chỗ chuyển pháp luân, chỗ nhập Niết Bàn, đều
gọi là “đạo tràng”. Đạo tràng là nói chung, nhằm
giải thích “hết thảy đều là diệu danh”. “Đắc
Bồ Đề” là chứng tạng bí mật, trọng
yếu, nhằm giải thích diệu thể. “Chuyển
pháp luân”: Tuyên nói, chỉ bày chuyện rất sâu thuộc
tự hạnh, nhân quả Bổn Tích, nhằm giải thích
diệu tông. “Bát Niết Bàn”: Chẳng phải diệt
mà xướng diệt, thần lực tự tại, giải
thích diệu dụng. Đắc Bồ Đề là Pháp Thân,
chuyển pháp luân là Bát Nhă, nhập Niết Bàn là giải thoát. Ba pháp hợp
thành tạng bí mật, Phật trụ trong đó, tức là
đạo tràng, tức là ư nghĩa của tháp. V́ thế, hăy
nên dựng tháp để biểu thị rơ rệt. Phần
thứ nhất, Trường Hàng đă xong.
21.2. Kệ tụng
21.2.1. Trùng tụng thần lực
(Kinh) Nhĩ thời,
Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ
ngôn: - Chư Phật cứu thế giả, trụ ư
đại thần thông. Vị duyệt chúng sanh cố, hiện
vô lượng thần lực. Thiệt tướng chí Phạm
Thiên, thân phóng vô số quang. Vị cầu Phật đạo
giả, hiện thử hy hữu sự, chư Phật khánh
khái thanh, cập đàn chỉ chi thanh, châu văn thập phương
quốc. Địa giai lục chủng động. Dĩ Phật
diệt độ hậu, năng tŕ thị kinh cố, chư
Phật giai hoan hỷ, hiện vô lượng thần lực.
(經)爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。諸佛救世者。住於大神通。為悅眾生故。現無量神力。舌相至梵天。身放無數光。為求佛道者。現此希有事。諸佛謦咳聲。及彈指之聲。周聞十方國。地皆六種動。以佛滅度後。能持是經故。諸佛皆歡喜。現無量神力。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa
này, bèn nói kệ rằng: - Chư Phật đấng cứu
đời, trụ trong đại thần thông. V́ vui sướng
chúng sanh, hiện vô lượng thần lực. Tướng
lưỡi tới Phạm Thiên, thân phóng vô số quang. V́ người
cầu Phật đạo, hiện chuyện hiếm có này.
Tiếng chư Phật đằng hắng, và tiếng khảy
ngón tay, nghe trọn mười phương cơi, đất chấn
động sáu cách. Do Phật diệt độ rồi, ai
có thể tŕ kinh, chư Phật đều hoan hỷ, hiện
vô lượng thần lực).
Đối với mười
loại thần lực, chỉ trùng tụng năm thứ đầu,
năm thứ sau đều do hai âm thanh chấn động
mà hiện, cho nên lược đi. Lại nữa, năm
thứ đầu và năm thứ sau biểu thị ư nghĩa
chẳng khác biệt, nhưng có hiện tại và vị lai
sai khác, cho nên tỉnh lược.
21.2.2. Trùng tụng kết lại những điều
trọng yếu, khuyên thọ tŕ
21.2.2.1. Trùng tụng xưng thán
(Kinh) Chúc lụy thị
kinh cố, tán mỹ thọ tŕ giả, ư vô lượng
kiếp trung, do cố bất năng tận. Thị nhân chi
công đức, vô biên vô hữu cùng, như thập
phương hư không, bất khả đắc biên tế.
(經)囑累是經故。讚美受持者。於無量劫中。猶故不能盡。是人之功德。無邊無有窮。如十方虛空。不可得邊際。
(Kinh: Do chúc lụy
kinh này, khen ngợi người thọ tŕ, trong vô lượng
ức kiếp, vẫn chẳng thể cùng tận. Công đức
của người ấy, vô biên, chẳng cùng tận, như
mười phương hư không, chẳng thể đạt
bờ mé).
Phần kinh văn Trường Hàng chỉ
nói công đức của kinh này chẳng thể cùng tận.
Nay kệ tụng nói công đức của người ấy (người
thọ tŕ) là vô biên, chẳng thể
cùng tận. Do pháp diệu nên người diệu. Do người
diệu nên pháp diệu, hiển hiện lẫn nhau!
21.2.2.2. Trùng tụng kết lại điểm trọng
yếu, kiêm giải thích
21.2.2.2.1. Trùng tụng hết thảy các pháp
(Kinh) Năng tŕ thị
kinh giả, tắc vi dĩ kiến ngă, diệc kiến Đa
Bảo Phật, cập chư phân thân giả. Hựu kiến
ngă kim nhật, giáo hóa chư Bồ Tát.
(經)能持是經者。則為已見我。亦見多寶佛。及諸分身者。又見我今日。教化諸菩薩。
(Kinh: Người
hay tŕ kinh này, chính là đă thấy ta, cũng thấy Phật
Đa Bảo, và các vị phân thân. Lại thấy ta ngày nay,
giáo hóa các Bồ Tát).
Tất cả các pháp chẳng
ngoài người có thể giáo hóa, người có thể chứng,
và đối tượng được giáo hóa. Do chẳng
có Nhị Thừa, chẳng nói kèm theo, pháp này thuần diệu.
Đó là dùng ba điều để h́nh dung tổng quát đạo
tràng.
21.2.2.2.2. Trùng tụng thần lực tự tại
(Kinh) Năng tŕ thị
kinh giả, linh ngă cập phân thân, diệt độ Đa
Bảo Phật, nhất thiết giai hoan hỷ. Thập phương
hiện tại Phật, tịnh quá khứ, vị lai, diệc
kiến, diệc cúng dường, diệc linh đắc hoan
hỷ.
(經)能持是經者。令我及分身。滅度多寶佛。一切皆歡喜。十方現在佛。幷過去未來。亦見亦供養。亦令得歡喜。
(Kinh: Người
hay tŕ kinh này, khiến ta và phân thân, diệt độ Đa
Bảo Phật, hết thảy đều hoan hỷ. Mười
phương hiện tại Phật, và quá khứ, vị
lai, cũng thấy, cũng cúng dường, cũng khiến
được hoan hỷ).
“Hoan hỷ” chính là tác dụng
thông suốt của thần lực, cũng chính là Niết
Bàn, nơi an ổn nhất.
21.2.2.2.3. Trùng tụng tạng bí yếu
(Kinh) Chư Phật
tọa đạo tràng, sở đắc bí yếu pháp, năng
tŕ thị kinh giả, bất cửu diệc đương
đắc.
(經)諸佛坐道場。所得秘要法。能持是經者。不久亦當得。
(Kinh: Chư Phật ngồi
đạo tràng, đạt được pháp bí yếu, người
hay tŕ kinh này, chẳng lâu cũng sẽ được).
Giống như chư Phật
đắc Chánh Giác, chứng diệu thể bí mật tạng.
21.2.2.2.4. Trùng tụng chuyện rất sâu
(Kinh) Năng tŕ thị
kinh giả, ư chư pháp chi nghĩa, danh tự cập
ngôn từ, nhạo thuyết vô cùng tận. Như phong ư
không trung, nhất thiết vô chướng ngại. Ư
Như Lai diệt hậu, tri Phật sở thuyết kinh.
Nhân duyên cập thứ đệ, tùy nghĩa như thật
thuyết. Như nhật nguyệt quang minh, năng trừ
chư u minh. Tư nhân hành thế gian, năng diệt chúng sanh
ám, giáo vô lượng Bồ Tát, tất cánh trụ Nhất
Thừa.
(經)能持是經者。於諸法之義。名字及言辭。樂說無窮盡。如風於空中。一切無障礙。於如來滅後。知佛所說經。因緣及次第。隨義如實說。如日月光明。能除諸幽冥。斯人行世間。能滅眾生闇。教無量菩薩。畢竟住一乘。
(Kinh: Người
hay tŕ kinh này, đối với nghĩa các pháp, danh tự
và ngôn từ, thích nói chẳng cùng tận. Như gió trong
hư không, hết thảy chẳng chướng ngại.
Như Lai diệt độ rồi, biết kinh do Phật
nói, nhân duyên và thứ tự, thuận nghĩa, như thật
nói. Như ánh sáng nhật nguyệt, hay trừ các tối
tăm. Người ấy trong thế gian, hay diệt chúng
sanh tối, dạy vô lượng Bồ Tát, rốt ráo trụ
Nhất Thừa).
Dùng cốt lơi của nhân quả
Nhất Thừa để giáo hóa Bồ Tát, tức là chuyển
pháp luân. Phần thứ hai, “kết lại những điểm
trọng yếu và kiêm giải thích” đă xong.
21.2.2.3. Trùng tụng ư khuyên lơn, khích lệ
(Kinh) Thị cố
hữu trí giả, văn thử công đức lợi, ư
ngă diệt độ hậu, ưng thọ tŕ tư kinh. Thị
nhân ư Phật đạo, quyết định vô hữu
nghi.
(經)是故有智者。聞此功德利。於我滅度後。應受持斯經。是人於佛道。決定無有疑。
(Kinh: V́ thế, người
có trí, nghe công đức lợi này, sau khi ta diệt độ,
nên thọ tŕ kinh này. Người ấy trong Phật đạo,
quyết định chẳng có nghi).
Lược đi không trùng tụng
chuyện dựng tháp cúng dường, chỉ nói “đối
với Phật đạo chẳng nghi ngờ”. Bởi lẽ,
tin sâu chỗ ấy chính là đạo
tràng. Ở đấy, chư Phật đắc Bồ
Đề, chuyển pháp luân, nhập Niết Bàn. Phần thứ
nhất, “nói về chuyện Bồ Tát vâng mạng hoằng
kinh” đă xong.
Giải thích phẩm
Như Lai Thần Lực đă xong, kế đó, giải thích
phẩm Chúc Lụy.
22. Phẩm hai mươi hai: Chúc Lụy (Chúc Lụy phẩm
đệ nhị thập nhị, 囑累品第二十二)
“Chúc” là Phật phó chúc
(giao phó, căn dặn). “Lụy” là phiền ngươi
hăy tuyên truyền. Đây là tuân theo thánh chỉ của Như
Lai mà gọi như thế. “Chúc” là cung kính tiếp nhận
lời căn dặn, “Lụy” là cam ḷng chẳng mệt
nhọc. Đấy là do Bồ Tát kính thuận mà gọi như
vậy. “Chúc” là kim khẩu của Như Lai căn dặn.
“Lụy” là Bồ Tát ḷng son kính cẩn gánh vác. Đấy
là gộp chung trao và nhận lại để luận định.
V́ thế, Như Lai vươn ḿnh từ chỗ ngồi đứng
dậy, duỗi tay xoa đỉnh đầu [các Bồ Tát],
truyền trao pháp khó được. Đại chúng nghiêng ḿnh
chắp tay, tuân phụng lời sắc truyền của đức
Thế Tôn, sẽ phụng hành đầy đủ. Ân cần
trao nhận; v́ thế gọi là phẩm Chúc Lụy.
22.1. Như Lai xoa đỉnh đầu phó chúc
22.1.1. Phó chúc
22.1.1.1. Như Lai phó chúc
22.1.1.1.1. Chánh thức phó chúc
(Kinh) Nhĩ thời, Thích
Ca Mâu Ni Phật, tùng (bảo tháp trung) pháp ṭa khởi, hiện
đại thần lực, dĩ hữu thủ ma vô lượng
Bồ Tát Ma Ha Tát đảnh, nhi tác thị ngôn: “Ngă ư vô
lượng bách thiên vạn ức A-tăng-kỳ kiếp
tu tập thị nan đắc A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề pháp. Kim dĩ phó chúc nhữ đẳng.
Nhữ đẳng ưng đương nhất tâm lưu
bố thử pháp, quảng linh tăng ích”. Như thị
tam ma chư Bồ Tát Ma Ha Tát đảnh, nhi tác thị ngôn:
“Ngă ư vô lượng bách thiên vạn ức A-tăng-kỳ
kiếp, tu tập thị nan đắc A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề pháp, kim dĩ phó chúc nhữ đẳng.
Nhữ đẳng đương thọ tŕ, độc, tụng,
quảng tuyên thử pháp, linh nhất thiết chúng sanh phổ
đắc văn tri.
(經)爾時釋迦牟尼佛。從(寶塔中)法座起。現大神力。以右手摩無量菩薩摩訶薩頂。而作是言。我於無量百千萬億阿僧祇劫修習是難得阿耨多羅三藐三菩提法。今以付囑汝等。汝等應當一心流布此法。廣令增益。如是三摩諸菩薩摩訶薩頂。而作是言。我於無量百千萬億阿僧祇劫。修習是難得阿耨多羅三藐三菩提法。今以付囑汝等。汝等當受持讀誦廣宣此法。令一切眾生。普得聞知。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật từ pháp ṭa (trong bảo tháp) đứng
dậy[5], hiện đại
thần lực, dùng tay phải xoa đỉnh đầu[6] vô lượng Bồ
Tát Ma Ha Tát, mà nói như thế này: “Ta trong vô lượng trăm
ngàn vạn ức A-tăng-kỳ kiếp tu tập pháp Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác khó được này, nay đem phó
chúc cho các ông. Các ông hăy nên nhất tâm lưu truyền pháp này,
khiến cho nó rộng tăng trưởng”. Xoa đỉnh
đầu các Bồ Tát Ma Ha Tát ba lượt như thế,
nói như thế này: “Ta trong vô lượng trăm ngàn vạn
ức A-tăng-kỳ kiếp tu tập pháp Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác khó được này, nay phó chúc cho
các ông. Các ông hăy nên thọ tŕ, đọc, tụng, rộng
tuyên dương pháp này, khiến cho hết thảy chúng sanh
đều được nghe biết trọn khắp”).
Như Lai dùng tay Quyền Trí
thiện xảo, cùng lúc xoa trọn khắp đỉnh đầu
Thật Trí của vô lượng Bồ Tát; v́ thế nói là “hiện
đại thần lực”. Như Lai trao truyền hóa đạo
cho họ. V́ thế, dùng tay phải để biểu thị
Quyền. Bồ Tát tự hành tiếp nhận đạo,
cho nên dùng đỉnh đầu để biểu thị
Thật. Duỗi tay xoa đỉnh đầu tức là “thân
phó chúc”. Quyền Trí gặp Thật Trí tức là “ư phó chúc”. “Mà
nói như thế này” tức là “khẩu phó chúc”. Ba lượt
xoa đỉnh đầu, ba lượt căn dặn, ân cần
chẳng nhẹ, khiến cho tự hành và hóa độ người
khác trọn khắp, khiến cho đạt được
Tứ Tất Đàn vĩnh viễn vô tận.
22.1.1.1.2. Giải thích sự phó chúc
(Kinh) Sở dĩ giả
hà? Như Lai hữu đại từ bi, vô chư xan lận,
diệc vô sở úy, năng dữ chúng sanh Phật chi trí huệ.
Như Lai trí huệ, tự nhiên trí huệ. Như Lai thị
nhất thiết chúng sanh chi đại thí chủ, nhữ đẳng
diệc ưng tùy học Như Lai chi pháp, vật sanh xan lận.
(經)所以者何。如來有大慈悲。無諸慳悋。亦無所畏。能與眾生佛之智慧。如來智慧。自然智慧。如來是一切眾生之大施主。汝等亦應隨學如來之法。勿生慳悋。
(Kinh: V́ lẽ
nào vậy? Như Lai có đại từ bi, chẳng có các
thứ keo tiếc, cũng chẳng sợ hăi, có thể ban
cho chúng sanh trí huệ của Phật, trí huệ Như Lai, trí
huệ tự nhiên. Như Lai là đại thí chủ của
hết thảy chúng sanh, các ông cũng nên học theo pháp của
Như Lai, đừng sanh ḷng keo tiếc).
“Có ḷng đại
từ bi” là “Như
Lai thất”. “Vô chư
xan lận” (Chẳng có các thứ keo tiếc) là “[Như
Lai] y rốt ráo”. “Diệc
vô sở úy” (cũng chẳng sợ hăi) là “[Như
Lai] ṭa rốt ráo”. “Phật
chi trí huệ” (trí huệ của Phật) là thật tánh
của giác pháp, tức Nhất Thiết Trí. “Như Lai trí
huệ” (trí huệ của Như Lai) từ tánh khởi
tu, từ nhân tới quả, tức Đạo Chủng Trí.
“Tự nhiên trí huệ”: Thể của nó tự nhiên,
song chiếu bất nhị, tức Nhất Thiết Chủng
Trí. Ba thứ “y, ṭa, thất”, mỗi thứ đều
có đủ ba trí. Ba và một chính là lẫn nhau, ba và một
dung nhập lẫn nhau. Dùng điều này để giáo hóa
người khác, gọi là “đại thí chủ”. Thất
mà chẳng có y và ṭa, hoằng thệ sẽ chẳng trọn
khắp. Y mà chẳng có thất và ṭa, Pháp Thân sẽ chẳng
trọn đủ. Ṭa mà chẳng có y và thất, sẽ phá Hoặc
chẳng trọn vẹn. “Vật sanh xan lận” (chớ
sanh ḷng keo tiếc): Khuyên phần chứng thí chủ hăy nên
học theo vị đại thí chủ rốt ráo. Nếu có
keo tiếc, tức là chẳng từ bi. Đó là có sợ hăi;
v́ thế, nêu ra một lời, tức là khuyên hăy vâng theo ba khuôn
khổ (y, thất, ṭa của Như Lai) để hoằng
kinh.
22.1.1.1.3. Phó chúc răn dạy
(Kinh) Ư vị
lai thế, nhược hữu thiện nam tử, thiện
nữ nhân tín Như Lai trí huệ giả, đương vị
diễn thuyết thử Pháp Hoa kinh, sử đắc văn
tri, vị linh kỳ nhân đắc Phật huệ cố.
Nhược hữu chúng sanh bất tín thọ
giả, đương ư Như Lai dư thâm pháp trung thị
giáo lợi hỷ. Nhữ đẳng nhược năng
như thị, tắc vi dĩ báo chư Phật chi ân.
(經)於未來世。若有善男子善女人。信如來智慧者。當為演說此法華經。使得聞知。為令其人得佛慧故。若有眾生不信受者。當於如來餘深法中示教利喜。汝等若能如是。則為已報諸佛之恩。
(Kinh: Trong đời
vị lai, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân,
tin trí huệ của Như Lai, hăy v́ người ấy diễn
nói kinh Pháp Hoa này, khiến cho người ấy nghe biết,
v́ khiến cho người ấy đắc Phật huệ.
Nếu có các chúng sanh chẳng tin nhận, hăy nên dùng các pháp sâu
khác của Như Lai để chỉ dạy
khiến cho họ đạt được lợi ích,
hoan hỷ. Nếu các ông có thể làm như thế th́ chính
là đă báo ân của chư Phật).
Trừ Phật huệ
ra, những điều khác đều gọi là “dư”.
V́ Thật mà hành Quyền, Quyền chứa đựng Thật.
V́ thế, đều gọi là “thâm” (sâu). Do đó biết:
Chỉ khen ngợi Phật thừa, sẽ chẳng thể
thông trọn khắp ba giáo pháp trước (Tạng, Thông,
Biệt), chẳng phải là truyền pháp báo ân Phật. Phần
thứ nhất, “Như Lai phó chúc” đă xong.
22.1.1.2. Bồ Tát lănh nhận
(Kinh) Thời
chư Bồ Tát Ma Ha Tát, văn Phật tác thị thuyết
dĩ, giai đại hoan hỷ, biến măn kỳ thân, ích
gia cung kính, khúc cung, đê đầu, hiệp chưởng hướng
Phật, câu phát thanh ngôn: “Như Thế Tôn sắc, đương
cụ phụng hành. Dụy nhiên Thế Tôn, nguyện bất
hữu lự”. Chư Bồ Tát Ma Ha Tát chúng như thị
tam phản câu phát thanh ngôn: “Như Thế Tôn sắc, đương
cụ phụng hành, dụy nhiên Thế Tôn, nguyện bất
hữu lự”.
(經)時諸菩薩摩訶薩。聞佛作是說已。皆大歡喜。徧滿其身。益加恭敬。曲躬低頭。合掌向佛。俱發聲言。如世尊敕。當具奉行。唯然世尊。願不有慮。諸菩薩摩訶薩眾。如是三反俱發聲言。如世尊敕。當具奉行。唯然世尊。願不有慮。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, các Bồ Tát Ma Ha Tát nghe Phật nói như thế rồi
đều hết sức hoan hỷ trọn khắp cả
thân, càng thêm cung kính, khom ḿnh, cúi đầu, chắp
tay hướng về đức Phật, đều phát ra
tiếng thưa: “Như Thế Tôn sắc truyền, chúng
con sẽ phụng hành trọn vẹn. Kính vâng đức Thế
Tôn, xin chớ
có lo”. Các vị Bồ Tát Ma Ha Tát ba lượt đều
phát ra tiếng thưa như thế: “Như Thế Tôn sắc
truyền, chúng con sẽ phụng hành trọn vẹn. Kính vâng
đức Thế Tôn. Xin chớ có lo”).
Hoan hỷ cung kính tức là “ư lănh nhận”. Khom ḿnh,
cúi đầu là “thân lănh nhận”. “Đều phát ra tiếng thưa tŕnh” chính là khẩu
lănh nhận. “Như Thế Tôn sắc”: Lănh nhận lời
giao phó. “Đương cụ phụng hành” (sẽ phụng
hành trọn vẹn): Hành trọn ba pháp, lănh nhận sự phó
chúc. “Nguyện bất hữu lự” (xin chớ có lo):
Lănh nhận lời giao phó răn truyền. Như Lai ba lượt
giao phó, Bồ Tát ba lượt tiếp nhận, ân cần
trịnh trọng, suốt cả đời chẳng sót!
22.1.1.3. Xong việc bèn xướng tán
(Kinh) Nhĩ thời,
Thích Ca Mâu Ni Phật linh thập phương lai chư phân
thân Phật các hoàn bổn độ, nhi tác thị ngôn: “Chư
Phật các tùy sở an, Đa Bảo Phật tháp hoàn khả
như cố”.
(經)爾時釋迦牟尼佛。令十方來諸分身佛。各還本土。而作是言。諸佛各隨所安。多寶佛塔。還可如故。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
Thích Ca Mâu Ni Phật bảo các vị Phật phân thân đến
từ mười phương đều trở về cơi
ḿnh, mà nói như thế này: “Chư Phật mỗi vị hăy
nên an trụ trong cơi ḿnh hóa độ. Tháp Phật Đa Bảo
hăy nên trở lại như cũ”).
Phân thân [chư Phật]
v́ mở tháp mà tụ tập. Chuyện mở tháp đă
xong, cho nên bảo các vị hăy thuận theo cơi các Ngài vốn
an trụ mà trở về từng cơi. Tháp báu v́ chứng minh
kinh mà hiện đến, nay hai môn Bổn và Tích đă xong,
v́ thế kính khuyên hăy đóng lại như cũ. Tháp chẳng
mở nữa, cho nên các phân thân rời đi chẳng hiện.
Tháp vẫn nghe pháp, cho nên trong kinh văn thuộc phần
sau, tháp tuy đóng nhưng vẫn c̣n đó.
Hỏi: Nếu tháp
nghe pháp, cũng phải nên chẳng đóng lại?
Đáp: Do đă chứng
minh xong phần Chánh Thuyết, cho nên đóng lại. Do nghe lưu
thông nên vẫn c̣n đó. Phần thứ nhất là “phó chúc” đă
xong.
22.1.2. Hoan hỷ
(Kinh) Thuyết
thị ngữ thời, thập phương vô lượng
phân thân chư Phật, tọa bảo thụ hạ sư tử
ṭa thượng giả, cập Đa Bảo Phật, tịnh
Thượng Hạnh đẳng vô biên A-tăng-kỳ Bồ
Tát đại chúng, Xá Lợi Phất đẳng Thanh
Văn tứ chúng, cập nhất thiết thế gian thiên,
nhân, A Tu La đẳng văn Phật sở thuyết, giai đại
hoan hỷ.
(經)說是語時。十方無量分身諸佛。坐寶樹下師子座上者。及多寶佛幷上行等無邊阿僧祇菩薩大眾。舍利弗等聲聞四眾。及一切世間天人阿修羅等。聞佛所說。皆大歡喜。
(Kinh: Khi nói
lời ấy, mười phương vô lượng phân
thân chư Phật ngồi trên ṭa sư tử dưới cây
báu, và Đa Bảo Phật, cùng với Thượng Hạnh
v.v… vô biên A-tăng-kỳ Bồ Tát đại chúng. Xá Lợi
Phất v.v… Thanh Văn tứ chúng, và hết thảy trời,
người, A Tu La v.v… trong hết thảy các thế gian
nghe lời đức Phật
dạy, đều hết sức hoan hỷ).
Chư Phật v́
chuyện hóa độ người khác đă toại, cho nên
hoan hỷ. Bồ Tát v́ tự hành đắc pháp nên hoan hỷ.
Lại do người nói thanh tịnh, tức là đức
Phật, cho nên hoan hỷ. Do nghe pháp thanh tịnh, tức diệu
kinh, cho nên hoan hỷ. Do chứng đắc thanh tịnh, tức
là những người đạt được lợi ích
trong hiện tại và vị lai, cho nên hoan hỷ. Phần
thứ nhất, “phó chúc lưu thông” đă xong.
Năm phẩm kể
từ Dược Vương trở đi là xét theo sự
hóa độ người khác để lưu thông. [Phần
này] lại chia thành bốn đoạn:
- Một, phẩm Dược
Vương khích lệ bậc thầy hoằng pháp hăy nên như
ngài Dược Vương, dốc cạn thần lực,
trọn hết thân mạng, chỉ mong sao đại pháp được
hoằng truyền rộng răi, chúng sanh đạt được
lợi ích, ngơ hầu các đệ tử có pháp để
noi theo.
- Hai phẩm Diệu
Âm và Quán Âm khích lệ các đệ tử thọ pháp đừng
sanh ư tưởng coi thường đối với người
hoằng pháp. V́ lẽ nào vậy? Các vị đại sĩ
ở phương khác phụng mạng hoằng kinh, hiện
trọn khắp các sắc thân, h́nh dạng không nhất định! Chớ nên
dùng mắt trâu dê để nh́n, chớ nên dùng phàm t́nh ngu phàm
để suy lường.
- Ba là phẩm Đà
La Ni nhằm nêu ra chuyện dùng chú để hộ tŕ.
- Bốn là phẩm
Diệu Trang Nghiêm nhằm nói về chuyện thủ hộ
người sáng suốt.
Lại nữa, phẩm
Dược Vương dùng khổ hạnh để thực
hiện Nhất Thừa. Phẩm Diệu Âm và Quán Âm dùng tam-muội
để thực hiện Nhất Thừa. Phẩm Đà
La Ni dùng Tổng Tŕ để thực hiện Nhất Thừa.
Phẩm Diệu Trang Nghiêm dùng thệ nguyện để thực
hiện Nhất Thừa. Phẩm Phổ Hiền dùng thần
thông để thực hiện Nhất Thừa. Chân Như
Thật Tướng là cái Thể để thực hiện.
Phật giới, nhân giới là chuyện để thực
hiện. Các chuyện như khổ hạnh, tam-muội v.v…
là duyên để thực hiện Nhất Thừa. Thuận
theo cơ nghi của chúng sanh, cho nên khiến cho người
hoằng kinh nêu bày cơ duyên bất đồng, nhưng cái
Thể để thực hiện đều là diệu pháp.
Tất cả nhân quả hoàn toàn nương vào Nhất Thật.
Dùng điều này để lợi ích chúng sanh, cho nên nói “thực
hiện Nhất Thừa”.
Giải thích phẩm
Chúc Lụy đă xong; kế đó, giải thích phẩm Dược Vương
Bồ Tát Bổn Sự.
23. Phẩm thứ hai mươi ba: Dược
Vương Bồ Tát Bổn Sự (Dược
Vương Bồ Tát Bổn Sự phẩm đệ nhị
thập tam,
藥王菩薩本事品第二十三)
Kinh Quán Dược
Vương Dược Thượng Bồ Tát[7]
nói: “Tích danh Tinh Quang, tùng tôn giả Nhật Tạng văn
thuyết Phật huệ, dĩ Tuyết Sơn thượng
dược cúng dường chúng tăng. Nguyện ngă vị
lai, năng trị chúng sanh thân tâm lưỡng bệnh. Cử
thế hoan hỷ, hiệu viết Dược Vương”
(Xưa tên là Tinh Quang, từ tôn giả Nhật Tạng nghe
nói Phật huệ, dùng thuốc tốt nhất ở Tuyết
Sơn để cúng dường chúng tăng, nguyện ta
trong vị lai có thể trị hai căn bệnh nơi thân
và tâm của chúng sanh. Cả cơi đời hoan hỷ, gọi
Ngài là Dược Vương). Kinh Đại Phật Đảnh
(Lăng Nghiêm) nói: “Ngă vô thỉ kiếp, vi thế lương
y, khẩu thường Sa Bà thế giới sở hữu dược
vị, thừa sự Như Lai, phân biệt vị nhân, tùng
thị khai ngộ. Như Lai ấn ngă côn quư Dược
Vương, Dược Thượng nhị Bồ Tát danh”
(Trong vô thỉ kiếp trước, con làm lương y
trong thế gian, miệng nếm tất cả dược
vị trong thế giới Sa Bà, thừa sự Như Lai. Do phân biệt
các vị, từ đó mà khai ngộ. Như Lai đặt tên
cho anh em con là Dược Vương, Dược Thượng
Bồ Tát). Kinh văn trong phẩm này nói Nhất Thiết
Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát nhanh chóng xả thân, lại
thiêu hai cánh tay, khinh mạng sống, tôn trọng pháp, mất
mạng để duy tŕ đạo. Nêu chuyện xưa để
hiển lộ hiện tại; v́ thế
nói là phẩm Bổn Sự. Nói các phẩm này, hoàn toàn khiến
cho chúng sanh đạt được Tứ Tất Ích (bốn
lợi ích Tất Đàn), chẳng cần khăng khăng
phân định đoạn nào tương ứng với pháp
Tất Đàn nào!
* Khích lệ bậc thầy hoằng
pháp
23.1. Thưa hỏi
(Kinh)
Nhĩ thời, Tú Vương Hoa Bồ Tát bạch Phật
ngôn: - Thế Tôn! Dược Vương Bồ Tát vân hà du ư
Sa Bà thế giới? Thế Tôn! Thị Dược Vương
Bồ Tát hữu nhược can bách thiên vạn ức na-do-tha
nan hành khổ hạnh? Thiện tai Thế Tôn! Nguyện thiểu
giải thuyết, chư thiên, long, thần, Dạ Xoa, Càn Thát
Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng.
Hựu tha quốc độ chư lai Bồ Tát, cập thử Thanh
Văn chúng văn giai hoan hỷ.
(經)爾時宿王華菩薩白佛言。世尊。藥王菩薩云何遊於娑婆世界。世尊。是藥王菩薩。有若干百千萬億那由他難行苦行。善哉世尊。願少解說。諸天龍神夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽人非人等。又他國土諸來菩薩。及此聲聞眾。聞皆歡喜。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Tú Vương Hoa (Nakṣatrarājasaṃkusumitābhijña)
Bồ Tát bạch Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Dược
Vương (Bhaiṣajyarāja) Bồ Tát dạo chơi trong
thế giới Sa Bà như thế nào? Bạch Thế Tôn! Vị
Dược Vương Bồ Tát này có ngần nào trăm ngàn
vạn ức na-do-tha khổ hạnh khó hành? Lành thay đức
Thế Tôn! Xin hăy giải nói đôi chút, chư thiên, rồng,
thần, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma
Hầu La Già, người, phi nhân v.v… và các vị Bồ Tát
từ các quốc độ khác đến, cũng như các
vị Thanh Văn này nghe rồi sẽ đều hoan hỷ).
Từ chữ “Thế Tôn” thứ nhất trở đi, hỏi
chung về sự du hóa. Từ “Thế Tôn! Thị Dược
Vương Bồ Tát nhược hữu...” (Bạch Thế
Tôn! Vị Dược Vương Bồ Tát ấy nếu có…)
trở đi, hỏi riêng về khổ hạnh. Từ “thiện
tai” (lành thay) trở đi là xin giải đáp. Du hóa là lợi
tha, khổ hạnh là tự lợi. Du hóa cũng là khổ
hạnh, khổ hạnh cũng là lợi tha. [Từ phẩm
này] cho đến kinh văn thuộc các phẩm sau như Diệu
Âm v.v… nói chung chẳng ngoài hai hạnh tự lợi và lợi
tha. Tự hành nói chung chẳng ngoài Trí Đức, Đoạn
Đức, phước, huệ. Lợi tha chẳng ngoài tam-muội
và thần thông. Hỏi chung về sự du hóa, th́ du hóa
ắt sẽ trọn đủ tất cả các thân trong mười
pháp giới, hoàn toàn giống như Diệu Âm và Quán Âm, nhưng
[phẩm này] chỉ nêu ra khổ hạnh nhằm
thích hợp cơ nghi. V́ được thỉnh nên đáp
như vậy, ư ở nơi khổ hạnh.
23.2. Trả lời
23.2.1. Chỉ đáp [câu hỏi về]
khổ hạnh, du hóa là nói tới Phổ Hiện Sắc Thân
tam-muội, hoặc nói tới hai phẩm sau.
23.2.1.1. Nói về Sự Bổn
(Kinh)
Nhĩ thời, Phật cáo Tú Vương Hoa Bồ Tát: - Năi văng quá khứ vô
lượng hằng hà sa kiếp, hữu Phật hiệu Nhật
Nguyệt Tịnh Minh Đức, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh
Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Kỳ Phật hữu bát thập
ức đại Bồ Tát Ma Ha Tát, thất thập nhị
hằng hà sa đại Thanh Văn chúng. Phật thọ tứ
vạn nhị thiên kiếp, Bồ Tát thọ mạng diệc
đẳng. Bỉ quốc vô hữu nữ nhân, địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh A Tu La đẳng, cập dĩ
chư nạn. Địa b́nh như chưởng, lưu ly
sở thành. Bảo thụ trang nghiêm. Bảo trướng
phú thượng, thùy bảo hoa phan, bảo b́nh, hương
lô, châu biến quốc giới. Thất bảo vi đài, nhất
thụ nhất đài. Kỳ thụ khứ đài tận
nhất tiễn đạo. Thử chư bảo thụ giai
hữu Bồ Tát, Thanh Văn nhi tọa kỳ hạ. Chư
bảo đài thượng, các hữu
bách ức chư thiên, tác thiên kỹ nhạc, ca thán ư Phật, dĩ vi
cúng dường.
(經)爾時佛告宿王華菩薩乃往過去無量恆河沙劫。有佛號日月淨明德。如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。其佛有八十億大菩薩摩訶薩。七十二恆河沙大聲聞眾。佛壽四萬二千劫。菩薩壽命亦等。彼國無有女人地獄餓鬼畜生阿修羅等及以諸難。地平如掌。琉璃所成。寶樹莊嚴。寶帳覆上。垂寶華幡。寶瓶香爐。周徧國界。七寶為臺。一樹一臺。其樹去臺盡一箭道。此諸寶樹皆有菩薩聲聞而坐其下。諸寶臺上。各有百億諸天。作天技樂。歌歎於佛以為供養。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Tú Vương
Hoa Bồ Tát: - Trong quá khứ vô lượng hằng hà sa kiếp trước kia, có Phật hiệu là Nhật
Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai (Candrasūryavimalaprabhāsaśrī),
Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Vị Phật
ấy có tám mươi ức đại Bồ Tát Ma Ha Tát,
bảy mươi hai hằng hà sa các vị đại Thanh Văn. Phật thọ bốn vạn
hai ngàn kiếp. Bồ Tát thọ mạng cũng như thế.
Nước ấy không có nữ nhân, địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh, A Tu La v.v… cùng với các nạn. Đất
bằng phẳng như ḷng bàn tay, do lưu ly hợp thành. Cây
báu trang nghiêm, trướng báu phủ bên trên, treo rủ các phan
báu, b́nh báu, ḷ hương trọn khắp cơi nước. Bảy
báu làm đài, cứ mỗi cây là một đài. Cây cách đài
một tầm mũi tên. Các cây báu ấy đều có Bồ
Tát, Thanh Văn ngồi dưới gốc. Trên các đài báu,
đều có trăm ức chư thiên tấu các kỹ nhạc trời, ca tụng,
tán thán Phật để cúng dường).
23.2.1.2. Nói về Bổn Sự
23.2.1.2.1. Đức Phật thuyết
pháp
(Kinh)
Nhĩ thời, bỉ Phật vị Nhất Thiết Chúng
Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát, cập chúng Bồ Tát, chư Thanh
Văn chúng, thuyết Pháp Hoa kinh.
(經)爾時彼佛。為一切眾生喜見菩薩。及眾菩薩諸聲聞眾。說法華經。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, đức Phật v́ Nhất Thiết Chúng
Sanh Hỷ Kiến (Sarvarūpasaṃdarśana)[8] Bồ Tát, và các vị
Bồ Tát, các vị Thanh Văn nói kinh Pháp Hoa).
Cũng giống như
nay đức Phật bảo Xá Lợi Phất, hoặc Nhật
Nguyệt Đăng Minh Phật bảo dạy ngài Diệu
Quang.
23.2.1.2.2. Tu cúng dường
23.2.1.2.2.1. Cúng dường trong hiện
đời
23.2.1.2.2.1.1. Tu hành đắc pháp
(Kinh)
Thị Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát nhạo
tập khổ hạnh ư Nhật Nguyệt Tịnh Minh
Đức Phật pháp trung, tinh tấn kinh hành, nhất tâm
cầu Phật, măn vạn nhị thiên tuế dĩ, đắc
Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội.
(經)是一切眾生喜見菩薩。樂習苦行於日月淨明德佛法中。精進經行。一心求佛。滿萬二千歲已。得現一切色身三昧。
(Kinh:
Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát ưa
thích tu tập khổ hạnh trong pháp của Nhật Nguyệt
Tịnh Minh Đức Phật, tinh tấn kinh hành[9], một ḷng cầu
Phật, măn một vạn hai ngàn năm rồi, đắc
Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội[10] - Sarvarūpasaṃdarśana).
23.2.1.2.2.1.2. Nghĩ báo ân
23.2.1.2.2.1.2.1. Cúng dường bằng sức tam-muội
(Kinh)
Đắc thử tam-muội dĩ, tâm đại hoan hỷ,
tức tác niệm ngôn: “Ngă đắc Hiện Nhất Thiết
Sắc Thân tam-muội, giai thị đắc văn Pháp Hoa
kinh lực. Ngă kim đương cúng dường Nhật
Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật, cập Pháp Hoa kinh”.
Tức thời nhập thị tam-muội, ư hư không
trung, vũ Mạn-đà-la hoa, Ma-ha Mạn-đà-la hoa, tế
mạt kiên hắc chiên đàn măn hư không trung, như vân
nhi hạ, cập vũ Hải Thử Ngạn Chiên Đàn
chi hương. Thử hương lục thù giá trị Sa
Bà thế giới, dĩ cúng dường Phật.
(經)得此三昧已。心大歡喜。即作念言。我得現一切色身三昧。皆是得聞法華經力。我今當供養日月淨明德佛及法華經。即時入是三昧。於虛空中。雨曼陀羅華。摩訶曼陀羅華。細末堅黑栴檀。滿虛空中。如雲而下。及雨海此岸栴檀之香。此香六銖價直。娑婆世界。以供養佛。
(Kinh: Đă
đắc tam-muội rồi, tâm hết sức hoan hỷ,
liền nghĩ như thế này: “Ta đắc Hiện Nhất
Thiết Sắc Thân tam-muội, đều do sức của nghe kinh Pháp
Hoa. Ta nay nên cúng dường Nhật Nguyệt Tịnh Minh
Đức Phật và kinh Pháp Hoa”. Tức thời nhập tam-muội ấy, ở
trong hư không, mưa hoa Mạn-đà-la, Ma-ha Mạn-đà-la, bột
mịn kiên hắc chiên đàn (Kālānusāri-gandha) đầy khắp hư không, như mây sà xuống, và
mưa hương Hải Thử Ngạn Chiên Đàn[11]. Sáu thù[12] hương ấy
có giá trị bằng thế giới Sa Bà, dùng để cúng
dường Phật).
Phổ Hiện tam-muội
xét theo Lư th́ chẳng xuất nhập, biểu thị dùng sức
tam-muội, cho nên nói là “nhập”.
23.2.1.2.2.1.2.2. Thiêu thân để cúng
dường
23.2.1.2.2.1.2.2.1. Thiêu thân
(Kinh)
Tác thị cúng dường dĩ, tùng tam-muội khởi,
nhi tự niệm ngôn: “Ngă tuy dĩ thần lực cúng
dường ư Phật, bất như dĩ thân cúng
dường”. Tức phục chư hương: Chiên Đàn, Huân Lục, Đâu Lâu Bà,
Tất Lực Ca, trầm thủy, giao hương. Hựu ẩm
Chiêm Bặc chư hoa hương du, măn thiên nhị bách tuế
dĩ, hương du đồ thân, ư Nhật Nguyệt
Tịnh Minh Đức Phật tiền, dĩ thiên bảo y
nhi tự triền thân, quán chư hương du, dĩ thần
thông lực nguyện, nhi tự
nhiên thân, quang minh biến chiếu bát thập ức hằng
hà sa thế giới.
(經)作是供養已。從三昧起。而自念言。我雖以神力供養於佛。不如以身供養。即服諸香栴檀薰陸。兜樓婆。畢力迦。沉水膠香。又飲薝蔔諸華香油。滿千二百歲已。香油塗身。於日月淨明德佛前。以天寶衣而自纏身。灌諸香油。以神通力願而自然身。光明徧照八十億恆河沙世界。
(Kinh: Cúng
dường như thế xong, từ tam-muội dậy, bèn
tự nghĩ rằng[13]: “Ta tuy dùng thần
lực cúng dường đức Phật, không bằng dùng
thân cúng dường”. Liền ăn các thứ hương
Chiên Đàn, Huân Lục[14], Đâu Lâu Bà[15], Tất Lực Ca[16], trầm thủy,
giao hương[17]. Lại uống
các thứ dầu thơm từ các loại hoa như Chiêm Bặc
trọn một ngàn hai trăm năm xong, dùng dầu thơm
bôi thân. Đối trước Nhật Nguyệt Tịnh
Minh Đức Phật, dùng áo trời báu để tự
quấn thân, rưới các dầu thơm, dùng thần thông
lực nguyện để tự đốt thân. Ánh sáng chiếu
trọn khắp tám mươi ức hằng hà sa thế giới).
“Thần thông lực
nguyện”: Nói rơ chẳng dùng lửa thế gian, vẫn là
nương vào tam-muội đă đạt được để
khởi lên thệ nguyện lợi lạc người khác,
dùng lửa Quán Trí đốt cảnh khó nghĩ. V́ thế,
khiến cho quang minh chiếu trọn khắp nhiều cơi nước.
23.2.1.2.2.1.2.2.2. Phật tán thán
(Kinh) Kỳ (bát thập
ức hằng hà sa thế giới) trung chư Phật
đồng thời tán ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Thiện
nam tử! Thị chân tinh tấn, thị danh chân pháp cúng
dường Như Lai. Nhược dĩ hoa, hương,
anh lạc, thiêu hương, mạt hương, đồ
hương, thiên tăng phan cái, cập
Hải Thử Ngạn Chiên Đàn chi hương, như thị
đẳng chủng chủng chư vật cúng dường,
sở bất năng cập. Giả sử quốc thành, thê
tử bố thí, diệc sở bất cập. Thiện nam tử!
Thị danh đệ nhất chi thí. Ư chư thí trung, tối
tôn, tối thượng, dĩ pháp cúng dường chư Như
Lai cố”. Tác thị ngữ dĩ, nhi các mặc nhiên.
(經)其(八十億恆河沙世界)中諸佛。同時讚言。善哉善哉。善男子。是真精進。是名真法供養如來。若以華香瓔珞燒香末香塗香天繒幡葢。及海此岸栴檀之香。如是等種種諸物供養。所不能及。假使國城妻子佈施亦所不及。善男子。是名第一之施。於諸施中最尊最上。以法供養諸如來故。作是語已。而各默然。
(Kinh: Chư
Phật trong (tám mươi ức hằng hà sa thế giới)
cùng lúc khen rằng: “Lành
thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Đó là thật sự
tinh tấn, là pháp cúng dường Như Lai thật sự.
Nếu dùng hoa, hương, anh lạc, hương đốt,
hương bột, hương bôi, tràng phan lụa cơi trời,
và hương Hải Thử Ngạn Chiên Đàn, dùng các thứ
vật như thế để cúng dường, đều
chẳng thể sánh bằng. Giả sử bố thí quốc
thành, vợ con, cũng chẳng sánh bằng! Này thiện nam
tử! Đó gọi là bố thí bậc nhất[18]. Trong các thứ
bố thí, sẽ là tôn quư nhất,
cao nhất, do dùng pháp để cúng dường Như Lai”.
Nói lời ấy xong, đều cùng im lặng).
“Chân pháp cúng dường”
(pháp cúng dường chân thật): Chính là trong th́ vận dụng
quán trí, quán nhân quả phiền năo, đều dùng Không Huệ
để gột sạch. V́ thế nói là “chân pháp”. Lại
quán dù thân hay lửa, người cúng hay vật để cúng,
đều là Thật Tướng, ai đốt, ai cháy, ai cúng,
ai nhận? V́ thế gọi là “chân pháp”. Khi quán như
thế, khổ là pháp giới, thấy hay nghe đều đạt
được lợi ích, cho nên nói là “thừa thừa”
(nương vào thừa). Nếu chẳng phải như vậy,
sẽ trở thành khổ hạnh vô ích!
23.2.1.2.2.1.2.2.3. Thời tiết
(Kinh)
Kỳ thân hỏa nhiên thiên nhị bách tuế. Quá thị dĩ
hậu, kỳ thân năi tận.
(經)其身火然千二百歲。過是已後。其身乃盡。
(Kinh: Thân
ấy đốt cháy trong một ngàn hai trăm năm. Sau
thời gian đó, thân ấy mới tận).
Trước đó,
uống dầu thơm trọn một ngàn hai trăm năm,
biểu thị “sử dụng phương tiện đạo”.
Trước hết là tịnh trừ các khổ tập mười
hai nhân duyên trong tam giới, nay dùng lửa đốt thân, cũng
tṛn một ngàn hai trăm năm, biểu thị dùng lửa
Thật Trí vĩnh viễn trừ hết các Khổ Tập
thuộc mười hai nhân duyên ngoài tam giới. Phần thứ
nhất, “khổ hạnh cúng dường trong đời hiện
tại” đă xong.
23.2.1.2.2.2. Cúng dường trong đời
kế tiếp
23.2.1.2.2.2.1. Sanh trong vương cung
(Kinh)
Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát tác như
thị pháp cúng dường dĩ, mạng chung chi hậu,
phục sanh Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật
quốc trung. Ư Tịnh Đức vương gia, kết
già phu tọa, hốt nhiên hóa sanh.
(經)一切眾生喜見菩薩作如是法供養已。命終之後。復生日月淨明德佛國中。於淨德王家。結跏。趺坐。忽然化生。
(Kinh:
Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát thực
hiện pháp cúng dường như thế xong, sau khi mạng
chung, lại sanh trong cơi của Nhật Nguyệt Tịnh
Minh Đức Phật. Ở trong cung vua Tịnh Đức
(Vimaladatta), ngồi xếp bằng, bỗng dưng hóa sanh).
23.2.1.2.2.2.2. Nói Bổn Sự
(Kinh)
Tức vị kỳ phụ, nhi thuyết kệ ngôn: “Đại
vương kim đương tri. Ngă kinh hành bỉ xứ,
tức thời đắc Nhất Thiết, Hiện Chư
Thân tam-muội, cần hành đại tinh tấn, xả sở
ái chi thân”. Thuyết thị kệ dĩ, nhi bạch phụ
ngôn: - Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật, kim
cố hiện tại. Ngă tiên cúng dường Phật dĩ,
đắc Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn Đà
La Ni. Phục văn thị Pháp Hoa kinh, bát bách thiên vạn ức
na-do-tha, chân-già-la, tần-bà-la, a-súc-bà đẳng kệ.
Đại vương! Ngă kim đương hoàn cúng dường
thử Phật.
(經)即為其父而說偈言。大王今當知。我經行彼處。即時得一切。現諸身三昧。勤行大精進。捨所愛之身。說是偈已。而白父言。日月淨明德佛。今故現在。我先供養佛已。得解一切眾生語言陀羅尼。復聞是法華經。八百千萬億那由他。甄迦羅。頻婆羅。阿閦婆等偈。大王我今當還供養此佛。
(Kinh:
Liền v́ cha ḿnh mà nói kệ rằng: “Đại vương
nay nên biết! Con kinh hành chốn kia, lập tức đắc
Nhất Thiết, Hiện Chư Thân tam-muội. Siêng hành đại
tinh tấn, bỏ thân đáng yêu mến”. Nói kệ ấy
xong, liền bạch với cha rằng: - Nhật Nguyệt
Tịnh Minh Đức Phật nay vẫn c̣n trụ thế.
Trước kia, con cúng dường đức Phật ấy
rồi, đắc Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ
Ngôn Đà La Ni. Lại nghe kinh Pháp Hoa này, tám trăm ngàn vạn
ức na-do-tha, chân-già-la, tần-bà-la, a-súc-bà[19] các kệ. Tâu đại
vương! Nay con sẽ trở về cúng dường đức
Phật ấy).
Thiêu thân cúng dường
Phật xong, đắc đà-la-ni. Nghe kệ của kinh Pháp
Hoa, tức là đắc pháp tánh thân, do thường chẳng
rời Phật. Nếu xét theo sự tướng thị hiện
th́ là trong thân Trung Ấm này, được nghe diệu pháp,
như Phật c̣n tự vào cơi Trung Ấm để giáo hóa,
huống Bồ Tát mà chẳng có thân Trung Ấm ư?
23.2.1.2.2.2.3. Tới chỗ Phật
(Kinh)
Bạch dĩ, tức tọa thất bảo chi đài, thượng
thăng hư không, cao thất đa-la thụ, văng đáo Phật
sở, đầu diện lễ túc, hợp thập chỉ
trảo, dĩ kệ tán Phật: “Dung nhan thậm kỳ diệu,
quang minh chiếu thập phương. Ngă thích tằng cúng
dường, kim phục hoàn thân cận”. Nhĩ thời, Nhất
Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát thuyết thị
kệ dĩ, nhi bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Thế Tôn
do cố tại thế?”
(經)白已。即坐七寶之臺。上升虛空。高七多羅樹。往到佛所。頭面禮足。合十指爪。以偈讚佛。容顏甚奇妙。光明照十方。我適曾供養。今復還親覲。爾時一切眾生喜見菩薩。說是偈已。而白佛言。世尊。世尊猶故在世。
(Kinh:
Bạch xong, liền ngồi đài bảy báu, bay lên
hư không cao bảy cây Đa-la, đến chỗ đức
Phật, đầu mặt lễ dưới chân Phật,
chắp mười ngón tay, dùng kệ tán Phật: “Dung nhan rất kỳ diệu, quang minh chiếu mười
phương. Con vừa mới từng cúng dường, nay
trở về thân cận”. Lúc bấy giờ, Nhất Thiết
Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát nói bài kệ ấy xong, bạch
cùng đức Phật rằng: “Thế Tôn! V́ lẽ nào mà
Thế Tôn c̣n tại thế?”)
23.2.1.2.2.2.4. Như Lai phó chúc
(Kinh)
Nhĩ thời, Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật
cáo Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát: “Thiện
nam tử! Ngă Niết Bàn thời đáo, diệt tận thời
chí, nhữ khả an thi sàng ṭa. Ngă ư kim dạ, đương
bát Niết Bàn”. Hựu sắc Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ
Kiến Bồ Tát: “Thiện nam tử! Ngă dĩ Phật pháp
chúc lụy ư nhữ, cập chư Bồ Tát, đại
đệ tử, tịnh A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề pháp. Diệc dĩ tam thiên đại thiên thất
bảo thế giới chư bảo thụ, bảo đài,
cập cấp thị chư thiên, tất phó ư nhữ.
Ngă diệt độ hậu, sở hữu xá-lợi, diệc
phó chúc nhữ, đương linh lưu bố, quảng thiết
cúng dường, ưng khởi nhược can thiên tháp”. Như
thị Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật sắc
Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát dĩ, ư
dạ hậu phần, nhập ư Niết Bàn.
(經)爾時日月淨明德佛。告一切眾生喜見菩薩。善男子。我涅槃時到。滅盡時至。汝可安施牀座。我於今夜。當般涅槃。又敕一切眾生喜見菩薩。善男子。我以佛法囑累於汝。及諸菩薩大弟子。 幷阿耨多羅三藐三菩提法。亦以三千大千七寶世界諸寶樹寶臺。及給侍諸天。悉付於汝。我滅度後。所有舍利。亦付囑汝。當令流布廣設供養。應起若干千塔。如是日月淨明德佛。敕一切眾生喜見菩薩已。於夜後分。入於涅槃。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật bảo
Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát: “Thiện
nam tử! Thời Niết Bàn của ta đă đến, đă
đến lúc diệt tận. Ông hăy nên sắp đặt
giường, ṭa. Đêm nay, ta sẽ nhập Niết Bàn”. Lại
sắc truyền Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ
Tát: “Thiện nam tử! Ta đem Phật pháp giao phó cho ông, và
các Bồ Tát, đại đệ tử, và pháp Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác. Cũng đem tam thiên đại
thiên thế giới bảy báu, các cây báu và đài báu, các chư
thiên hầu hạ, đều giao phó cho ông. Sau khi ta diệt
độ, tất cả xá-lợi cũng phó chúc cho ông. Hăy nên lưu
truyền, rộng xếp đặt cúng dường. Hăy nên
dựng ngần đó một ngàn tháp”. Nhật Nguyệt Tịnh
Minh Đức Phật sắc truyền Nhất Thiết
Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát như
thế xong, trong đêm
hôm đó, nhập Niết Bàn).
“Phật pháp”
chỉ chung cho các giáo pháp đă
nói trong một đời đức Phật. Pháp A Nậu Bồ
Đề là nói riêng về kinh Pháp Hoa.
23.2.1.2.2.2.5. Phụng mạng đảm
nhiệm hộ tŕ
23.2.1.2.2.2.5.1. Dựng tháp
(Kinh)
Nhĩ thời, Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ
Tát kiến Phật diệt độ, bi cảm áo hối,
luyến mộ ư Phật, tức dĩ Hải Thử
Ngạn Chiên Đàn vi tích, cúng dường Phật thân, nhi dĩ
thiêu chi. Hỏa diệt dĩ hậu, thâu thủ xá-lợi,
tác bát vạn tứ thiên bảo b́nh, dĩ khởi bát vạn
tứ thiên tháp, cao tam thế giới, biểu sát trang nghiêm,
thùy chư phan cái, huyền chúng bảo linh.
(經)爾時一切眾生喜見菩薩。見佛滅度。悲感懊悔。戀慕於佛。即以海此岸栴檀為𧂐。供養佛身而以燒之。火滅已後。收取舍利。作八萬四千寶瓶。以起八萬四千塔。高三世界。表剎莊嚴。垂諸幡葢。懸眾寶鈴。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ
Kiến Bồ Tát thấy Phật diệt độ, bi cảm,
áo năo, hối hận, luyến mộ đức Phật. Liền
dùng Hải Thử Ngạn Chiên Đàn chất lại[20] để cúng
dường thân Phật rồi thiêu hóa. Sau khi lửa đă
tắt, thâu thập xá-lợi, làm tám vạn bốn ngàn b́nh
báu [để đựng], dựng tám vạn bốn ngàn tháp.
[Mỗi tháp]
cao ba thế giới, tràng báu trang nghiêm [đỉnh tháp], treo
rủ phan, lọng, treo các linh báu).
23.2.1.2.2.2.5.2. Thiêu tay
(Kinh)
Nhĩ thời, Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ
Tát, phục tự niệm ngôn: “Ngă tuy tác thị cúng dường,
tâm do vị túc. Ngă kim đương cánh cúng dường xá-lợi”.
Tiện ngữ chư Bồ Tát đại đệ tử,
cập thiên, long, Dạ Xoa đẳng, nhất thiết đại
chúng: “Nhữ đẳng đương nhất tâm niệm.
Ngă kim cúng dường Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức
Phật xá-lợi”. Tác thị ngữ dĩ, tức ư bát
vạn tứ thiên tháp tiền, nhiên bách phước trang
nghiêm tư, thất vạn nhị thiên tuế nhi dĩ cúng
dường.
(經)爾時一切眾生喜見菩薩。復自念言。我雖作是供養。心猶未足。我今當更供養舍利。便語諸菩薩大弟子。及天龍夜叉等。一切大眾。汝等當一心念。我今供養日月淨明德佛舍利。作是語已。即於八萬四千塔前。然百福莊嚴臂。七萬二千歲而以供養。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ
Tát lại tự nghĩ rằng: “Nay ta tuy đă cúng dường
như thế, nhưng tâm chưa thỏa. Nay ta phải nên cúng
dường xá-lợi”. Liền bảo các Bồ Tát đại
đệ tử, và trời, rồng, Dạ Xoa v.v… hết thảy
đại chúng: “Các ông hăy nên nhất tâm nghĩ, ta nay cúng
dường xá-lợi của Nhật Nguyệt Tịnh Minh
Đức Phật”. Nói lời ấy xong, liền ở trước
tám vạn bốn ngàn tháp, đốt cánh tay trăm phước
trang nghiêm suốt bảy vạn hai ngàn năm để cúng
dường).
Hỏi: Thiêu thân chỉ
một ngàn hai trăm năm, cớ sao thiêu cánh tay thời gian
lại dài như thế?
Đáp: Chuyện trước
đó là tự hành, thân hết bèn nhập diệt. Nay v́ hoằng
pháp, khiến cho chúng sanh hiểu thấu tam thừa, v́ thế
nói “khiến cho vô số…” Đă nói vô số Thanh
Văn phát Bồ Đề tâm, do vậy biết là sau khi đức
Phật diệt độ, ngài Hỷ Kiến chẳng khiến
cho bọn họ trụ trong Tiểu Quả. Trong cơi này cũng
thế.
23.2.1.2.2.2.5.3. Lợi ích
(Kinh)
Linh vô số cầu Thanh Văn chúng, vô lượng A-tăng-kỳ
nhân phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm,
giai sử đắc trụ Hiện
Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội.
(經)令無數求聲聞眾。無量阿僧祇人。發阿耨多羅三藐三菩提心。皆使得住現一切色身三昧。
(Kinh:
Khiến cho vô số người cầu Thanh Văn, vô
lượng A-tăng-kỳ người phát tâm Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, đều khiến cho họ đều trụ trong Hiện Nhất
Thiết Sắc Thân tam-muội).
23.2.1.2.2.2.5.4. Hiện báo
(Kinh)
Nhĩ thời, chư Bồ Tát, thiên, nhân, A Tu La đẳng
kiến kỳ vô tư, ưu năo, bi ai, nhi tác thị ngôn: “Thử
Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát thị ngă
đẳng sư, giáo hóa ngă giả, nhi kim thiêu tư, thân bất
cụ túc”. Ư thời, Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến
Bồ Tát ư đại chúng trung, lập thử thệ
ngôn: “Ngă xả lưỡng tư, tất đương đắc
Phật kim sắc chi thân. Nhược
thật bất hư, linh ngă lưỡng tư hoàn phục
như cố”. Tác thị thệ dĩ, tự nhiên hoàn phục.
Do tư Bồ Tát phước đức trí huệ thuần
hậu sở trí. Đương nhĩ chi thời, tam thiên
đại thiên thế giới lục chủng
chấn động, thiên vũ bảo hoa, nhất thiết
nhân thiên đắc vị tằng hữu. (經)爾時諸菩薩天人阿修羅等。見其無臂。憂惱悲哀。而作是言。此一切眾生喜見菩薩。是我等師。教化我者。而今燒臂。身不具足。於時一切眾生喜見菩薩。於大眾中立此誓言。我捨兩臂。必當得佛金色之身。若實不虛。令我兩臂還復如故。作是誓已。自然還復。由斯菩薩福德智慧湻厚所致。當爾之時。三千大千世界六種震動。天雨寶華。一切人天得未曾有。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, các vị Bồ Tát, trời, người, A
Tu La v.v… thấy Ngài không tay, ưu năo, buồn bă, nói như
thế này: “Vị Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ
Tát này là thầy của chúng ta, giáo hóa chúng ta, mà nay đốt
cánh tay, thân chẳng toàn vẹn”. Khi đó, Nhất Thiết
Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát ở trong đại chúng,
lập lời thề này: “Tôi bỏ hai cánh tay, ắt sẽ
đạt được thân kim sắc của Phật. Nếu
chân thật chẳng dối, sẽ khiến cho hai tay tôi hồi
phục như cũ”. Thề như thế xong, tự nhiên
khôi phục, do phước đức và trí huệ thuần
hậu của vị Bồ Tát ấy khiến thành như
thế. Ngay khi đó, tam thiên đại thiên thế giới
sáu loại chấn động, trời mưa hoa báu, hết
thảy trời, người đạt được điều
chưa từng có).
Thân kim sắc là nói
tới thường sắc rốt ráo của Diệu Giác cực
quả. Phần thứ hai, “tu cúng dường” đă xong.
23.2.1.2.3. Dung hội kết lại xưa
nay
23.2.1.2.3.1. Kết lại để
dung hội
(Kinh)
Phật cáo Tú Vương Hoa Bồ Tát: - Ư nhữ ư vân hà?
Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát khởi dị
nhân hồ? Kim Dược Vương Bồ Tát thị dă. Kỳ
sở xả thân bố thí như thị vô lượng bách
thiên vạn ức na-do-tha số.
(經)佛告宿王華菩薩。於汝意云何。一切眾生喜見菩薩。豈異人乎。今藥王菩薩是也。其所捨身佈施。如是無量百千萬億那由他數。
(Kinh:
Đức Phật bảo Tú Vương Hoa Bồ Tát: - Ư ông
nghĩ sao? Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát
há có phải người nào khác ư? Chính là Dược Vương
Bồ Tát trong hiện thời. Ngài xả thân bố thí số
đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha như
thế).
23.2.1.2.3.2. Khuyên tu
(Kinh)
Tú Vương Hoa! Nhược hữu phát tâm dục đắc
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề giả, năng
nhiên thủ chỉ, năi chí túc nhất chỉ, cúng dường
Phật tháp, thắng dĩ quốc thành, thê tử, cập
tam thiên đại thiên quốc độ sơn, lâm, hà, tŕ,
chư trân bảo vật nhi cúng dường giả.
(經)宿王華。若有發心欲得阿耨多羅三藐三菩提者。能然手指。乃至足一指。供養佛塔。勝以國城妻子。及三千大千國土山林河池諸珍寶物而供養者。
(Kinh: Này
Tú Vương Hoa! Nếu có người phát tâm muốn đắc
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có thể đốt
ngón tay, cho đến một ngón chân để cúng dường
tháp của Phật, hơn dùng quốc thành, vợ con và núi,
rừng, sông, ao, các bảo vật trong tam thiên đại
thiên quốc độ để cúng dường).
“Thủ chỉ”
tức là nói một lóng hay hai lóng [ngón tay]. “Túc nhất chỉ”
tức là trong một bàn chân toàn vẹn, bèn đốt một
lóng chân cho cháy sạch. Thân Kiến của chúng sanh khó dẹp
trừ nhất. V́ thế, công đức đốt lóng tay
vượt xa ngoại thí (bố thí bằng tài vật bên
ngoài). Vợ con là ngoại thân, quốc thành v.v… là ngoại
tài.
Hỏi: Trong Tỳ
Ni (giới luật) chế định cấm đốt thân,
ở đây lại khuyên đốt ngón tay, đó là chuyện
như thế nào?
Đáp: Đại
Tiểu Thừa chế định khác biệt, giáo ư (ư nghĩa
dạy bảo) khác biệt. Chế định Tiểu Thừa
kết tội, chế định Đại Thừa khuyên
thiêu. V́ thế, kinh Phạm Vơng dạy: “Nhược bất
thiêu thân tư chỉ cúng dường chư Phật, phi xuất
gia Bồ Tát” (nếu chẳng đốt thân, cánh tay, ngón tay để cúng dường chư Phật,
chẳng phải là hàng xuất gia Bồ Tát). Kinh Đại
Phật Đảnh (kinh Lăng Nghiêm) dạy: “Năng ư
Như Lai tượng tiền, thân nhiên nhất đăng,
thiêu nhất chỉ tiết, cập ư thân thượng nhiệt
nhất hương chú, vô thỉ túc trái, nhất thời thù
tất” (Có thể đối trước tượng Như
Lai, dùng thân thắp một ngọn đèn, đốt một
lóng tay, và ở trên thân đốt một lọn hương
th́ nợ nần xưa từ vô thỉ đến nay sẽ
cùng lúc trả sạch). Thuận theo hạnh Tiểu Thừa
th́ dễ, chẳng thiêu th́ có khó khăn chi? Theo hạnh Đại
Thừa thật khó, thiêu chẳng dễ đâu nhé! Cơi đời
coi “chẳng vâng giữ” là Đại, vậy th́ Đại
Thừa lẫn Tiểu Thừa đều bị khuynh đảo.
Hăy nên biết cơ duyên trong cơi này đều là mê đối với Đại và Tiểu, chẳng biết trước là Tiểu sau là
Đại, nương theo thứ tự của các tiết
Hạ như thế nào? (Phải mở ra tiết Tiểu
Hạ để thành tựu tiết Đại Hạ). Trước
Đại sau Tiểu, tâm nào thọ? (V́ biết giới pháp
tỳ-kheo là điều Đại Thừa phải nên học
đó ư? Hay là v́ hâm mộ địa vị
cao cả của tỳ-kheo mà mong đeo cái danh suông? Hay là
v́ thoái Đại cầu Tiểu mà học ngược lại
Tiểu pháp ư?) Trước Tiểu, sau Đại, có khai
những điều ngăn che bởi Tiểu Thừa hay
không? Trước Đại sau Tiểu, có ngăn che các pháp
được khai của Bồ Tát hay không? (Pháp ngăn che
hay cho phép (khai giá) được nói chi tiết trong Bồ
Tát Giới Bổn. Trước Đại sau Tiểu vẫn
gọi là Bồ Tát tỳ-kheo). Trong một giới, hai chúng
như thế nào? (Tức là chúng Đại Thừa th́ nương
theo giới Đại Thừa. Chúng Tiểu Thừa th́ nương
theo giới Tiểu Thừa). Trong một thân, hai Thể giống
và khác (Đại Thừa là vô tác giới thể, đạt
đến tột cùng là thân Phật. Vô tác luật nghi của
tỳ-kheo đều là phải thọ suốt đời).
Đại Thừa đối với Tiểu Thừa đạt
được lợi ích do đâu? (Do Trụ Tŕ Tăng Bảo,
làm tấm gương cho trời người, đối với
khuôn phép của tỳ-kheo, chẳng
thể thiếu sót một điều nào). Tiểu Thừa
mà tụng đọc [giới luật] Đại Thừa,
sẽ chuốc lấy tổn hại ai lường được
(kẻ chưa thọ Đại Giới, chẳng nên trộm
nghe, hà huống tự tụng?) Hăy nên siêng gắng suy xét, phân
định ḥng làm chủng tử trong vị lai. Cái thừa
để nương theo mà hành tŕ đều là diệu pháp.
Do nương vào Nhất Thật, do lập nhân quả, nương
vào cái thừa đă được sử dụng ấy để
lợi lạc chúng sanh, chỉ tự xét đức ḿnh, trải
cảnh để quán tâm, tương ứng với cái tâm,
sẽ thuận tùng chế định nào[21]?
Phần thứ nhất, “đáp về khổ hạnh” đă
xong!
23.2.2. Tán thán kinh
23.2.2.1. Tán thán người có thể
tŕ kinh
(Kinh)
Nhược phục hữu nhân, dĩ thất bảo măn tam
thiên đại thiên thế giới, cúng dường ư Phật,
cập đại Bồ Tát, Bích Chi Phật, A La Hán, thị
nhân sở đắc công đức bất như thọ
tŕ thử Pháp Hoa kinh năi chí nhất tứ cú kệ, kỳ
phước tối đa.
(經)若復有人。以七寶滿三千大千世界。供養於佛及大菩薩辟支佛阿羅漢。是人所得功德。不如受持此法華經乃至一四句偈。其福最多。
(Kinh: Nếu
lại có người dùng bảy báu đầy ắp tam thiên đại thiên thế giới
để cúng dường Phật, và đại Bồ Tát,
Bích Chi Phật, A La Hán, người ấy đạt được
công đức chẳng bằng thọ tŕ kinh Pháp Hoa này dù
chỉ một bài kệ bốn câu, phước ấy nhiều nhất).
Bảy báu dâng cúng tứ
thánh (Phật, Bồ Tát, Bích Chi Phật, A La Hán) chẳng bằng
tŕ một kệ. [Bởi lẽ], pháp là thánh sư (thầy
của các vị thánh hiền), có thể sanh, có thể dưỡng,
có thể thành tựu, có thể tươi nhuận, không ǵ hơn được pháp.
23.2.2.2. Tán thán pháp được tŕ
23.2.2.2.1. Tán thán pháp thể
Thể
chẳng phải là Thể trong tông thể, mà chỉ chung cả
một bộ kinh là Thể. Dụng chẳng phải là dụng
trong tông dụng, mà là nói đến ba điều trong một
bộ kinh tức là Thể, Tông, Dụng, bao gồm tác dụng
dẹp trừ và ban cho như thế đó.
(Kinh) Tú
Vương Hoa! Thí như nhất thiết xuyên lưu, giang,
hà, chư thủy chi trung, hải vi đệ nhất. Thử
Pháp Hoa kinh diệc phục như thị, ư chư Như
Lai sở thuyết kinh trung, tối vi thâm đại.
(經)宿王華。譬如一切川流江河諸水之中。海為第一。此法華經。亦復如是。於諸如來所說經中。最為深大。
(Kinh: Này Tú Vương
Hoa! Ví như trong hết thảy sông ng̣i, sông cái, các chỗ có nước, biển
là bậc nhất. Kinh Pháp Hoa này cũng lại như vậy,
trong các kinh do Như Lai đă nói là sâu rộng nhất).
Sông ng̣i, sông cái ví như
giáo pháp thuộc bốn vị “sữa,
lạc, sanh tô, thục tô”. Biển
ví như Pháp Hoa là vị đề hồ nói cùng tột Bổn
địa; đó là sâu nhất. Khai trọn khắp hết
thảy tức là lớn nhất.
(Kinh) Hựu như
thổ sơn, hắc sơn, Tiểu Thiết Vi sơn, Đại
Thiết Vi sơn, cập thập bảo sơn, chúng sơn
chi trung, Tu Di sơn vi đệ nhất. Thử Pháp Hoa kinh
diệc phục như thị, ư chư kinh trung, tối
vi kỳ thượng.
(經)又如土山黑山小鐵圍山大鐵圍山及十寶山。眾山之中。須彌山為第一。此法華經。亦復如是。於諸經中。最為其上。
(Kinh: Lại
như trong các núi: Núi đất, hắc sơn, Tiểu Thiết
Vi Sơn, Đại Thiết Vi Sơn, và mười núi báu,
núi Tu Di là bậc nhất, kinh Pháp Hoa này cũng lại như
thế, trong các kinh là cao hơn hết).
Tên của mười
núi báu[22]
xuất phát từ kinh Hoa Nghiêm, Tu Di cũng là bậc nhất.
Thổ, hắc, Thiết Vi cố nhiên chẳng phải là núi
báu. Chín thứ khác tuy là báu, nhưng do một, hoặc hai
[thứ báu hợp thành]. Thần và rồng sống lẫn
lộn trong ấy, chỉ có Tu Di do bốn báu hợp thành,
thuần là chư thiên cư trụ. Ví như những điều
được diễn giảng trong các giáo khác, có thể nương
vào bốn mươi tâm, Thập Địa, hoặc phàm, hoặc
hiền, hoặc thánh. Lư để [các giáo
pháp ấy] nương vào hoặc Tục, hoặc Chân, hoặc
Trung. Đó là kém hèn. Giáo pháp được nói trong kinh này th́
năng y (chủ thể để nương vào) là “thiên
chúng” khai thị ngộ nhập, cái được nương
vào (sở y) là chất báu “thường, lạc, ngă, tịnh”. V́ thế, tối thượng bậc nhất.
(Kinh) Hựu như
chúng tinh chi trung, nguyệt thiên tử tối vi đệ nhất. Thử Pháp
Hoa kinh diệc phục như thị, ư thiên vạn
ức chủng chư kinh pháp trung, tối vi chiếu minh.
(經)又如眾星之中。月天子最為第一。此法華經。亦復如是。於千萬億種諸經法中。最為照明。
(Kinh: Lại
như trong các tinh tú, mặt trăng là bậc nhất. Kinh
Pháp Hoa này cũng giống như thế, trong ngàn vạn ức các kinh pháp, [kinh này] chiếu sáng nhất).
Tinh tú và mặt trăng
đều hiện ra vào ban đêm, có thể ví như Quyền
Trí. Sao nhiều mà nhỏ, lại chẳng có tṛn, khuyết,
ví như các kinh diễn nói phương tiện thuận
theo t́nh kiến. Mỗi kinh thích ứng với một căn
cơ, chẳng được tự tại. Mặt trăng
có một ḿnh mà to lớn, lại có thể tṛn, khuyết, ví
như kinh này diễn nói phương tiện thuận theo trí
huệ, ngay nơi Thật mà chính là Quyền. Mặt trăng
chiếu hết thảy các pháp sáng tỏ nhất!
(Kinh)
Hựu như nhật thiên tử năng trừ chư ám,
thử kinh diệc phục như thị, năng phá nhất
thiết bất thiện chi ám.
(經)又如日天子能除諸闇。此經亦復如是。能破一切不善之闇。
(Kinh:
Lại như mặt trời có thể trừ các tối
tăm, kinh này cũng lại giống như thế, có thể
phá hết thảy các tối tăm bất thiện).
Mặt trời mọc
th́ gọi là “ban ngày”, có thể ví như Thật Trí. Các kinh khác
chẳng khai hiển “chỉ có Nhất Thật”, cho nên chẳng
thể trừ tối tăm “chấp trước ba thừa”.
Lại chẳng thể trừ sự tối tăm do chấp
gần (chấp Như Lai thành Phật mới gần đây).
Kinh này c̣n phá sự tối tăm nơi địa vị Đẳng
Giác, huống hồ các thứ tối tăm khác mà chẳng
phá ư?
(Kinh)
Hựu như chư tiểu vương trung, Chuyển Luân
Thánh Vương tối vi đệ nhất, thử kinh diệc
phục như thị, ư chúng kinh trung, tối vi kỳ tôn.
(經)又如諸小王中。轉輪聖王最為第一。此經亦復如是。於眾經中最為其尊。
(Kinh: Lại
như trong các tiểu vương, Chuyển Luân Thánh Vương
bậc nhất, kinh này cũng
giống như thế, là tôn quư nhất trong các kinh).
Tam Tạng giáo
như túc tán vương[23],
tam thừa đều khác biệt. Thông Giáo như Thiết Luân
Vương, tam thừa đồng vị. Biệt Giáo như
Đồng Luân Vương, theo thứ tự diễn nói lư
Chân và Trung. Các kinh luận định viên lư c̣n thiên lệch,
cách ngăn giống như Ngân Luân Vương. Đốn
giáo nói Tam Đế, nhưng chẳng gồm thâu định
tánh Nhị Thừa. Kinh này khai hiển viên, như Kim Luân Vương,
[chúng sanh trong] Bắc Châu (Bắc Câu Lô Châu) tan hoại chấp
trước, chẳng có ngă sở (chẳng chấp có cái thuộc về chính ḿnh), cũng
quy vào sự thống ngự [của Chuyển Luân Vương].
(Kinh) Hựu như
Đế Thích, ư tam thập tam thiên trung vương, thử
kinh diệc phục như thị, chư kinh trung vương.
(經)又如帝釋。於三十三天中王。此經亦復如是。諸經中王。
(Kinh: Lại
như Đế Thích là vua trong Tam Thập Tam Thiên, kinh này cũng
lại như thế, là vua trong các kinh).
Tam Thập Tam Thiên:
Bốn phương, mỗi phương đều có tám thiên
vương, có thể sánh ví các giáo mỗi giáo đều có
bốn môn tự hành, hóa độ người khác, kinh này đều
thống ngự. V́ thế, giống như Đế Thích là
vua cơi trời Đao Lợi.
(Kinh) Hựu như
Đại Phạm Thiên Vương, nhất thiết chúng
sanh chi phụ. Thử kinh diệc phục như thị, nhất
thiết hiền thánh học, vô học, cập phát Bồ
Đề tâm giả chi phụ.
(經)又如大梵天王。一切眾生之父。此經亦復如是。一切賢聖學無學及發菩薩心者之父。
(Kinh:
Lại như Đại Phạm Thiên Vương là cha của
hết thảy chúng sanh, kinh này cũng giống như thế,
là cha của hết thảy hiền thánh học, vô học,
và người phát tâm Bồ Đề).
Lúc kiếp sắp
hết, hết thảy chúng sanh trong thế gian tự nhiên sẽ
đắc Nhị Thiền, sanh lên Quang Thiên ([các tầng trời]
Thiểu Quang, Vô Lượng Quang và Quang Âm được gọi
chung là Quang Thiên). Kiếp hỏa vừa mới bốc lên, Hoại
Kiếp rồi thành Không Kiếp, Không Kiếp rồi trở
lại Thành Kiếp. Thế giới đă
h́nh thành, chúng sanh trong Quang Thiên có kẻ mạng tận, do sức
phước đức, hóa sanh trong Sơ Thiền, tức Đại Phạm Thiên
Vương là người duy nhất sanh vào đó đầu
tiên, bèn nghĩ thế này: “Cớ sao ở đây chẳng có bạn
lữ?” Từ đó về sau, từ Quang Thiên lại có người
mạng tận, cũng đến hóa sanh trong Sơ Thiền,
tức là Phạm Phụ và Phạm Chúng. V́ thế, Đại
Phạm Vương tự bảo “ta là cha của hết thảy
chúng sanh”. Đó là suy tính hư vọng, chẳng phải là
thật nghĩa. Nay thuận theo cách nói thuộc t́nh kiến
của chúng sanh, mượn chuyện này để so sánh ḥng
diễn tả đó thôi. Kinh này diễn nói diệu lư Thật
Tướng. Thật Tướng có thể sanh trọn khắp
hết thảy các pháp, hết thảy hiền thánh, học,
vô học và người phát Bồ Đề tâm trong tứ
giáo, đều nương vào Thật Tướng mà được
thành tựu. V́ thế, [kinh Pháp Hoa] là cha của họ.
(Kinh) Hựu như
nhất thiết phàm phu nhân trung, Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm,
A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật vi đệ nhất. Thử
kinh diệc phục như thị, nhất thiết Như
Lai sở thuyết, nhược Bồ Tát sở thuyết,
nhược Thanh Văn sở thuyết, chư kinh pháp trung,
tối vi đệ nhất. Hữu năng thọ tŕ thị
kinh điển giả diệc phục như thị, ư
nhất thiết chúng sanh trung, diệc vi đệ nhất.
(經)又如一切凡夫人中。須陀洹。斯陀含。阿那含。阿羅漢。辟支佛為第一。此經亦復如是。一切如來所說。若菩薩所說。若聲聞所說。諸經法中最為第一。有能受持是經典者。亦復如是。於一切眾生中。亦為第一。
(Kinh: Lại
như trong hết thảy kẻ phàm phu, Tu Đà Hoàn, Tư
Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, th́ Bích Chi Phật
là bậc nhất. Kinh này cũng giống như thế,
trong hết thảy các lời
dạy của Như Lai, hoặc lời nói của Bồ
Tát, hoặc lời nói của Thanh Văn, và các kinh pháp, đều là
bậc nhất. Có ai có thể thọ tŕ kinh điển này
th́ cũng giống như thế, trong hết thảy chúng
sanh cũng là bậc nhất).
Bích Chi Phật xuất
sanh trong cơi đời không có Phật, chẳng nhờ vào
nghe pháp, riêng ḿnh tự ngộ, siêu thoát. V́ thế, phước
điền của các Ngài có thể vượt
xa Tứ Quả. Những điều được nói
trong các kinh khác đều dính líu đến phương tiện,
như người thuộc Tứ Quả do Văn, Tư,
Tu mới đắc ngộ. Những điều được
nói trong kinh này thuần minh thị lư Vô Tác Nhất Thật,
chỉ ngộ Thật Tướng, tùy ư khế nhập, như
Bích Chi Phật chẳng nhờ vào ngoại duyên.
(Kinh) Nhất
thiết Thanh Văn, Bích Chi Phật trung, Bồ
Tát vi đệ nhất, thử kinh diệc phục như
thị, ư nhất thiết chư kinh pháp trung, tối vi
đệ nhất.
(經)一切聲聞辟支佛中。菩薩為第一。此經亦復如是。於一切諸經法中。最為第一。
(Kinh:
Trong hết thảy các Thanh Văn và Bích Chi Phật th́ Bồ Tát là bậc nhất.
Kinh này cũng lại giống như thế, trong hết thảy
các kinh pháp, thật là bậc nhất).
Tam thừa đều thuộc
địa vị tu nhân, chỉ có Bồ Tát là bậc nhất.
Các kinh khác nói về người thuộc bảy
phương tiện, ví như Nhị Thừa. Kinh này nói về
cái nhân viên măn vô thượng, ví như Bồ Tát, tức là
cái nhân bậc nhất vậy.
(Kinh) Như Phật vi
chư pháp vương, thử kinh diệc phục như thị,
chư kinh trung vương.
(經)如佛為諸法王。此經亦復如是。諸經中王。
(Kinh: Như Phật là
vua của các pháp, kinh này cũng giống như thế, là
vua trong các kinh).
Các kinh nói đức Phật
thành Phật mới gần đây nơi Tịch Diệt Đạo
Tràng. Kinh này nói đức Phật đă thành Phật rất
lâu. V́ thế, bản kinh mầu nhiệm này thống nhiếp
những lời dạy trong cả một đời của
đức Phật, tức là quả bậc nhất. Biển
cả, núi Tu Di, mặt trời, mặt trăng, Chuyển
Luân Vương, Đế Thích, Đại Phạm Vương,
Bích Chi, Bồ Tát, Phật, dùng mười thí dụ để
hiển lộ sự tôn quư, mầu nhiệm [của
kinh Pháp Hoa]. Phần thứ
nhất, “tán thán pháp thể” đă xong.
2.2.2.2. Tán thán pháp dụng (khen ngợi tác dụng của pháp)
(Kinh)
Tú Vương
Hoa! Thử kinh năng cứu nhất thiết chúng sanh giả,
thử kinh năng linh nhất thiết chúng sanh ly chư khổ
năo. Thử kinh năng đại nhiêu ích nhất thiết chúng
sanh, sung măn kỳ nguyện, như thanh lương tŕ, năng
măn nhất thiết chư khát phạp giả, như hàn giả
đắc hỏa, như khỏa giả đắc y, như
thương nhân đắc chủ, như tử
đắc mẫu, như độ đắc thuyền,
như bệnh đắc y, như ám đắc đăng,
như bần đắc bảo, như dân đắc vương,
như cổ khách đắc hải, như cự trừ ám.
Thử Pháp Hoa kinh diệc phục như thị, năng linh
chúng sanh ly nhất thiết khổ, nhất thiết bệnh
thống, năng giải nhất thiết sanh tử chi phược.
(經)宿王華。此經能救一切眾生者。此經能令一切眾生離諸苦惱。此經能大饒益一切眾生。充滿其願。如清涼池。能滿一切諸渴乏者。如寒者得火。如躶者得衣。如商人得主。如子得母。如渡得船。如病得醫。如闇得燈。如貧得寶。如民得王。如賈客得海。如炬除闇。此法華經。亦復如是。能令眾生離一切苦一切病痛。能解一切生死之縛。
(Kinh: Này Tú Vương Hoa! Kinh này
có thể cứu hết thảy chúng sanh, kinh này có thể
khiến cho hết thảy chúng sanh ĺa các khổ năo. Kinh này
có thể lợi ích rộng lớn hết thảy chúng sanh,
thỏa măn trọn vẹn nguyện của họ, như
ao nước trong mát có thể thỏa măn hết thảy những
kẻ khát nước, như kẻ lạnh được
lửa, như kẻ lơa lồ được áo, như thương
nhân có chủ, như con có mẹ, như vượt sông biển
có thuyền, như bệnh có thầy thuốc, như tối
tăm mà có đèn, như nghèo nàn được của báu,
như dân có vua, như lái buôn gặp biển, như đuốc
trừ tối. Kinh Pháp Hoa này cũng lại giống như
thế, có thể khiến cho chúng sanh ĺa hết thảy các
khổ, hết thảy đau bệnh, có thể tháo gỡ
hết thảy trói buộc sanh tử)[24].
Phần thứ hai,
“tán thán pháp được tŕ” đă xong.
23.2.2.3. Nêu rơ phước sâu do tŕ
kinh
23.2.2.3.1. Phước do tŕ toàn bộ
kinh này
(Kinh)
Nhược nhân đắc văn thử Pháp Hoa kinh, nhược
tự thư, nhược sử nhân thư, sở đắc
công đức, dĩ Phật trí huệ trù lượng đa
thiểu, bất đắc kỳ biên. Nhược thư
thị kinh quyển, hoa, hương, anh lạc, thiêu hương,
mạt hương, đồ hương, phan, cái, y phục,
chủng chủng chi đăng, tô đăng, du
đăng, chư hương du đăng, Chiêm Bặc du đăng,
Tu Mạn Na du đăng, Ba La La du đăng, Bà Lợi Sư
Ca du đăng, Na Bà Ma Lợi du đăng cúng dường,
sở đắc công đức, diệc phục vô lượng.
(經)若人得聞此法華經。若自書。若使人書。所得功德。以佛智慧籌量多少。不得其邊。若書是經卷。華.香。瓔珞。燒香。末香。塗香。幡葢。衣服。種種之燈。酥燈。油燈。諸香油燈。薝蔔油燈。須曼那油燈。波羅羅油燈。婆利師迦油燈。那婆摩利油燈供養。所得功德。亦復無量。
(Kinh:
Nếu ai được nghe kinh Pháp Hoa này, nếu tự
chép, hoặc sai người khác chép, đạt
được công đức dùng trí huệ của Phật
để suy lường nhiều hay ít, sẽ chẳng
biết được ngằn mé. Nếu chép quyển kinh
này, dùng hoa, hương, anh lạc, hương đốt,
hương bột, hương bôi, phan, lọng, y phục,
các thứ đèn: Đèn bơ, đèn dầu, các thứ đèn
dầu thơm như đèn dầu Chiêm Bặc, đèn dầu
Tu Mạn Na, đèn dầu Ba La La[25], đèn dầu Bà
Lợi Sư Ca[26], đèn dầu Na
Bà Ma Lợi[27],
đạt được công đức cũng lại là vô lượng).
23.2.2.3.2. Phước do tŕ phẩm này
23.2.2.3.2.1. So lường
(Kinh)
Tú Vương Hoa! Nhược hữu nhân văn thị Dược
Vương Bồ Tát Bổn Sự phẩm giả, diệc
đắc vô lượng, vô biên công đức. Nhược
hữu nữ nhân, văn thị Dược Vương Bồ
Tát Bổn Sự phẩm, năng thọ tŕ giả, tận
thị nữ thân, hậu bất phục thọ. Nhược
Như Lai diệt hậu, hậu ngũ bách tuế trung, nhược
hữu nữ nhân văn thị kinh điển, như thuyết
tu hành, ư thử mạng chung, tức văng An Lạc thế
giới. A Di Đà Phật, đại Bồ Tát chúng vi nhiễu
trụ xứ, sanh liên hoa trung, bảo ṭa chi thượng, bất
phục vị tham dục sở năo, diệc phục bất
vị sân khuể, ngu si sở
năo, diệc phục bất vị kiêu, mạn, tật đố,
chư cấu sở năo, đắc Bồ Tát thần thông, Vô
Sanh Pháp Nhẫn. Đắc thị nhẫn dĩ, nhăn căn
thanh tịnh. Dĩ thị thanh tịnh nhăn căn, kiến
thất bách vạn nhị thiên ức na-do-tha hằng hà sa đẳng
chư Phật Như Lai. Thị thời chư Phật, dao
cộng tán ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Thiện nam tử!
Nhữ năng ư Thích Ca Mâu Ni Phật pháp trung, thọ tŕ,
độc tụng, tư duy thị kinh, vị tha nhân thuyết,
sở đắc phước đức, vô lượng vô
biên. Hỏa bất năng phần, thủy bất năng
phiêu. Nhữ chi công đức, thiên Phật cộng thuyết, bất
năng linh tận. Nhữ kim dĩ năng phá chư ma tặc,
hoại sanh tử quân. Chư dư oán địch giai tất
tồi diệt. Thiện nam tử! Bách thiên chư Phật
dĩ thần thông lực, cộng thủ hộ nhữ. Ư
nhất thiết thế gian thiên nhân chi trung, vô như nhữ
giả, duy trừ Như Lai. Kỳ chư Thanh Văn, Bích
Chi Phật, năi chí Bồ Tát trí huệ, Thiền Định,
vô hữu dữ nhữ đẳng giả”. Tú Vương
Hoa! Thử Bồ Tát thành tựu như thị công đức
trí huệ chi lực. Nhược hữu nhân văn
thị Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự phẩm,
năng tùy hỷ tán thiện giả, thị nhân hiện thế,
khẩu trung thường xuất thanh liên hoa hương,
thân mao khổng trung thường xuất Ngưu Đầu Chiên Đàn chi
hương, sở đắc công đức như thượng
sở thuyết.
(經)宿王華。若有人聞是藥王菩薩本事品者。亦得無量無邊功德。若有女人。聞是藥王菩薩本事品。能受持者。盡是女身。後不復受。若如來滅後。後五百歲中。若有女人聞是經典。如說修行。於此命終。即往安樂世界。阿彌陀佛。大菩薩眾圍繞住處。生蓮華中。寶座之上。不復為貪欲所惱。亦復不為瞋恚愚癡所惱。亦復不為憍慢嫉妬諸垢所惱。得菩薩神通無生法忍。得是忍已。眼根清淨。以是清淨眼根。見七百萬二千億那由他恆河沙等諸佛如來。是時諸佛。遙共讚言。善哉善哉。善男子。汝能於釋迦牟尼佛法中。受持讀誦思惟是經。為他人說所得福德。無量無邊。火不能焚。水不能漂。汝之功德。千佛共說。不能令盡。汝今已能破諸魔賊。壞生死軍。諸餘怨敵。皆悉摧滅。善男子。百千諸佛以神通力。共守護汝。於一切世間天人之中。無如汝者。唯除如來。其諸聲聞辟支佛乃至菩薩智慧禪定。無有與汝等者。宿王華。此菩薩成就如是功德智慧之力。若有人聞是藥王菩薩本事品。能隨喜讚善者是人現世。口中常出青蓮華香。身毛孔中。常出牛頭栴檀之香。所得功德。如上所說。
(Kinh: Này
Tú Vương Hoa! Nếu có người nghe phẩm Dược
Vương Bồ Tát Bổn Sự này, cũng đạt được
vô lượng vô biên công đức. Nếu có nữ nhân nghe
phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự này
mà có thể thọ tŕ, hết một thân nữ này, đời
sau sẽ không thọ [thân nữ] nữa. Như sau khi đức
Như Lai diệt độ, trong năm trăm năm sau, nếu
có nữ nhân nghe kinh điển này, đúng như lời dạy
mà tu hành, mạng chung nơi đây liền sanh về thế
giới An Lạc. A Di Đà Phật và các vị đại
Bồ Tát vây quanh chỗ ở, sanh trong hoa sen, ở trên ṭa
báu, chẳng c̣n bị tham dục năo loạn, cũng chẳng
bị sân khuể, ngu si năo loạn, cũng chẳng bị các
cấu như kiêu, mạn, ghen ghét năo loạn, đắc thần
thông và Vô Sanh Pháp Nhẫn của Bồ Tát. Đă đắc
môn nhẫn ấy, nhăn căn thanh tịnh. Dùng nhăn căn
thanh tịnh ấy, thấy chư Phật Như Lai nhiều như số cát
trong bảy trăm vạn hai ngàn ức na-do-tha sông Hằng. Khi đó,
chư Phật từ xa cùng tán thán rằng: “Lành thay! Lành thay!
Thiện nam tử! Ông có thể ở trong pháp của Thích
Ca Mâu Ni Phật, thọ tŕ, đọc tụng, tư duy kinh
này, v́ người khác nói, th́ sẽ đạt được
công đức vô lượng vô biên, lửa chẳng thể
đốt, nước chẳng thể cuốn trôi. Ngàn vị
Phật cùng nói công đức của ông đều chẳng
thể hết. Ông nay có thể phá các giặc ma, phá hoại
quân sanh tử, các oán địch khác thảy
đều dẹp tan. Này thiện nam tử! Trăm ngàn chư
Phật dùng sức thần thông cùng thủ hộ ông. Trong hết
thảy trời, người thuộc thế gian, không có ai
bằng ông, chỉ trừ Như Lai. Trí huệ
và Thiền Định của các Thanh Văn, Bích Chi Phật,
cho đến Bồ Tát, chẳng có ai bằng ông”. Này Tú Vương
Hoa! Vị Bồ Tát ấy thành tựu sức công đức
trí huệ như thế. Nếu có ai nghe phẩm Dược
Vương Bồ
Tát Bổn Sự này mà có thể
tùy hỷ, khen tốt lành, th́ người
ấy trong đời hiện tại, miệng thường
tỏa ra mùi hoa sen xanh. Trong các lỗ chân lông, thường
tỏa mùi ngưu đầu chiên đàn, đạt được
công đức như trên đă nói).
Thọ tŕ phẩm
này chẳng thọ thân nữ nữa. Nữ nhân kiến chấp
rất nặng nề, nay do công đức khổ hạnh
xả thân, bèn có thể dẹp trừ, tu hành đúng như
lời dạy, sẽ có thể sanh về thế giới
An Lạc, tức là dùng kinh này làm cái nhân cho Tịnh Độ,
giống như Thập Lục Quán Kinh, Đại Tiểu A
Di Đà Kinh v.v… chẳng
hai, chẳng khác. Kinh nói như thế, tu hành ba khuôn phép, bốn
hạnh an lạc. Nếu chế phục ngũ trụ, sẽ
sanh vào Đồng Cư Tịnh Độ. Nếu thanh tịnh
sáu căn, liền sanh vào Phương Tiện Tịnh Độ.
Nếu phá vô minh, liền sanh vào Thật Báo Tịnh Độ,
cũng lại phần chứng cơi Tịch Quang.
Hỏi: Tịnh Độ
rất nhiều, cớ ǵ cứ phải [văng sanh] cơi An Lạc?
Đáp: Do nguyện
của Như Lai nhiếp thọ chúng sanh. Do căn cơ và
túc duyên của chúng sanh sâu dày, chú tâm vào một phương ḥng
chuyên chú. Do một chính là hết thảy, chẳng thể
nghĩ bàn, cho nên các kinh phần nhiều tán dương, nói
về cơi An Lạc. Kinh văn nói thân và miệng đều
tỏa hương, tức là hiện báo (báo ứng trong đời
hiện tại), các điều khác là sanh báo và hậu báo.
23.2.2.3.2.2. Chúc lụy
(Kinh)
Thị cố Tú Vương Hoa! Dĩ thử Dược Vương
Bồ Tát Bổn Sự phẩm chúc lụy ư nhữ.
Ngă diệt độ hậu, hậu ngũ bách tuế
trung, quảng tuyên lưu bố ư Diêm Phù Đề, vô linh
đoạn tuyệt, ác ma, ma
dân, chư thiên, long, Dạ Xoa, Cưu Bàn Trà đẳng đắc
kỳ tiện dă. Tú Vương Hoa! Nhữ đương
dĩ thần thông chi lực thủ hộ thị kinh. Sở
dĩ giả hà? Thử kinh tắc vi Diêm Phù Đề nhân bệnh
chi lương dược. Nhược nhân hữu bệnh,
đắc văn thị kinh, bệnh tức tiêu diệt, bất
lăo, bất tử. Tú Vương Hoa! Nhữ nhược kiến
hữu thọ tŕ thị kinh giả, ưng dĩ thanh liên
hoa thịnh măn mạt hương, cúng tán kỳ thượng.
Tán dĩ, tác thị niệm ngôn: “Thử nhân bất cửu
tất đương thủ thảo, tọa ư đạo
tràng, phá chư ma quân, đương xuy pháp loa, kích đại
pháp cổ, độ thoát nhất thiết chúng sanh lăo bệnh
tử hải”. Thị cố cầu Phật đạo giả,
kiến hữu thọ tŕ thị kinh điển nhân, ưng
đương
như thị sanh cung kính tâm.
(經)是故宿王華。以此藥王菩薩本事品囑累於汝。我滅度後。後五百歲中。廣宣流布於閻浮提。無令斷絕。惡魔魔民。諸天龍夜叉鳩槃茶等。得其便也。宿王華。汝當以神通之力。守護是經。所以者何。此經則為閻浮提人病之良藥。若人有病。得聞是經。病即消滅。不老不死。宿王華。汝若見有受持是經者。應以青蓮華盛滿末香。供散其上。散已。作是念言。此人不久。必當取草坐於道場。破諸魔軍。當吹法螺。擊大法鼓。度脫一切眾生老病死海。是故求佛道者。見有受持是經典人。應當如是生恭敬心。
(Kinh: V́
thế, Tú Vương Hoa! Ta đem phẩm Dược
Vương Bồ Tát Bổn Sự này chúc lụy cho ông. Sau
khi ta diệt độ, vào năm trăm năm sau cùng, hăy tuyên
nói, lưu truyền rộng răi phẩm kinh này trong Diêm Phù Đề,
chớ để đoạn tuyệt, [chẳng để
cho] ác ma, ma dân, các trời, rồng, Dạ Xoa, Cưu Bàn Trà v.v…
có dịp thuận tiện [hăm hại người tŕ kinh].
Này Tú Vương Hoa! Ông hăy nên dùng sức thần thông thủ
hộ kinh này. V́ lẽ nào vậy? Kinh này chính là thuốc tốt
lành cho bệnh tật của người trong
Diêm Phù Đề. Nếu ai có bệnh, được nghe
kinh này, bệnh liền tiêu diệt, chẳng già, chẳng
chết. Này Tú Vương Hoa! Nếu ông thấy có người
thọ tŕ kinh này, hăy nên dùng hoa sen xanh chứa đầy hương
bột để cúng rải lên người đó. Rải
xong, nghĩ như thế này: “Người này chẳng lâu
sau, ắt sẽ kết cỏ, ngồi nơi đạo
tràng, phá các ma quân, sẽ thổi ốc pháp, sẽ đánh
trống pháp, độ thoát biển sanh già bệnh chết
của hết thảy chúng sanh”. V́ thế, người cầu
Phật đạo thấy có người thọ tŕ kinh điển
này, hăy nên sanh tâm cung kính như thế).
Chẳng
già là vui, chẳng chết là thường, nghe kinh luôn thường
lạc giải, bệnh Tam Hoặc tiêu diệt. Phần thứ
nhất là hỏi và phần thứ hai là đáp trong phẩm
này đă xong.
23.3. Lợi ích
(Kinh)
Thuyết thị Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự
phẩm thời, bát vạn tứ thiên Bồ Tát, đắc
Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn Đà-la-ni.
(經)說是藥王菩薩本事品時。八萬四千菩薩。得解一切眾生語言陀羅尼。
(Kinh:
Lúc nói phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự
này, tám vạn bốn ngàn Bồ Tát đắc Giải Nhất
Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn Đà La Ni).
23.4. Phật Đa Bảo khen ngợi
(Kinh) Đa Bảo
Như Lai ư bảo tháp trung, tán Tú Vương Hoa Bồ
Tát ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Tú Vương Hoa! Nhữ
thành tựu bất khả tư nghị công đức, năi
năng vấn Thích Ca Mâu Ni Phật như thử chi sự,
lợi ích vô lượng nhất thiết chúng sanh.
(經)多寶如來於寶塔中。讚宿王華菩薩言。善哉善哉。宿王華。汝成就不可思議功德。乃能問釋迦牟尼佛如此之事。利益無量一切眾生。
(Kinh:
Đa Bảo Như Lai ở trong tháp báu khen ngợi Tú
Vương Hoa Bồ Tát rằng: - Lành thay! Lành thay! Này Tú
Vương Hoa. Ông đă thành tựu công đức chẳng
thể nghĩ bàn, có thể hỏi Thích Ca Mâu Ni Phật chuyện
như thế, lợi ích vô lượng hết thảy
chúng sanh).
Phần thứ nhất,
phẩm Dược Vương khích lệ các pháp sư hoằng
pháp đă xong.
Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa
phần
14 hết
[1] Đắc
Đại Thế là cách dịch khác của danh xưng
Đại Thế Chí. Do trí huệ quang của Ngài chiếu
trọn khắp hết thảy, khiến cho chúng sanh ĺa tam
đồ, đắc vô thượng lực. Lại nữa,
khi Ngài đi, hết thảy các cơi trong mười
phương thế giới đều chấn động.
V́ thế gọi là Đại Thế Chí. Theo kinh Quán Vô
Lượng Thọ, Ngài luôn niệm A Di Đà Phật, dùng
quang minh trí huệ chiếu trọn khắp hết thảy,
oai thế tự tại, khiến cho mọi người
được vô thượng lực, tiếp dẫn chúng
sanh văng sanh Tịnh Độ. Do Ngài dùng pháp môn niệm Phật
để tu hành chứng quả, cho nên được tôn
xưng là Tịnh Tông Sơ Tổ trong pháp giới. Ngài
thường được tạc tượng với
dung mạo hiền từ, đứng bên phải A Di Đà
Phật, tay cầm kinh văn, hoặc ngọc như ư,
nhưng phổ biến nhất là cầm cành hoa sen. Đầu
đội măo trời, trong măo trời có bảo b́nh chứa
đựng quang minh chẳng thể nghĩ bàn, có thể hiện
trọn khắp sự nghiệp của chư Phật. Theo
kinh Bi Hoa, trong quá khứ lâu xa, có thế giới tên là San
Đề Lam. Trong cơi ấy, Chuyển Luân Vương Vô
Tránh Niệm có một ngàn con trai. Trưởng tử là Bất
Huyến, con thứ hai là Ni Ma. Vua Vô Tránh Niệm phát nguyện,
tu hành thành Phật, tức tiền thân của A Di Đà Phật.
Bất Huyến thành Quán Thế Âm, Ni Ma thành Đại Thế
Chí Bồ Tát. Trong Tạng Truyền Phật giáo, Kim Cang Thủ
Bồ Tát được coi là thân phẫn nộ của
Đại Thế Chí Bồ Tát. Trong khi đó, Đông Mật
coi Kim Cang Thủ Bồ Tát là thân phẫn nộ của Phổ
Hiền Bồ Tát. Tại Trung Hoa, chùa Quảng Giáo tại
Lang Sơn (thuộc thành phố Nam Thông, tỉnh Giang Tô) do
ngài Tăng Già đại thánh khai sơn vào năm Tổng
Chương thứ hai (669) đời Đường được
coi là đạo tràng của Đại Thế Chí Bồ
Tát. Tổ Ấn Quang cũng được coi là hóa thân của
Đại Thế Chí Bồ Tát.
[2] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Phật
là pháp vương, viên âm trọn khắp, oai thế chế
phục mười phương, v́ thế tên là Oai Âm
Vương”.
[3] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Gặp
thời hưng thịnh nên kiếp có tên là Ly Suy. Y báo do nhân
duyên to lớn cảm vời, v́ thế cơi nước tên là
Đại Thành”.
[4] Đây là một điển tích hàm
ư “bị trói buộc khó khăn”, như người khoác da
ḅ gặp ánh nắng mặt trời hun đốt, da ḅ sẽ khô quắt lại, siết chặt thân. Người quấn
râu rồng xuống nước, sẽ bị râu rồng siết chặt lại,
kinh luận dùng chuyện này để sánh ví phước hữu lậu trong nhân thiên.
Sách Ma Ha Chỉ Quán quyển năm viết: “Nếu muốn
xả tam đồ bèn ưa thích Ngũ Giới, Thập Thiện
mà tu phước, như đổi chác nơi chợ búa,
càng đổi càng thêm tội, giống như cá chui vào ống,
thiêu thân lao vào đèn… khát uống nước mặn,
râu rồng quấn thân vào nước sẽ chuyển thành
đau khổ. Da trâu buộc ḿnh, phơi mặt trời
càng cứng, kẻ mù vào rừng gai”.
[5] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Từ
nơi nửa ṭa do Đa Bảo Phật chia cho mà đứng
dậy, biểu thị từ Đệ Nhất Nghĩa
Không khởi vô lượng đại dụng”.
[6] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Xoa
đỉnh đầu biểu thị ḷng từ ái của
đức Phật đối với các đệ tử,
dùng tay Quyền Trí xoa đỉnh đầu Thật Trí, biểu
thị Quyền chính là Thật, Thật chính là Quyền”.
[7] Quán Dược
Vương Dược Thượng Bồ Tát Kinh (Bhaiṣajyarāja Bhaiṣajyasamudgata Bodhisattva Sūtra) do ngài
Cương Lương Da Xá dịch vào đời Lưu Tống.
Kinh trần thuật đức Phật ngự tại tinh
xá Thanh Liên Hoa Tŕ ở nước Tỳ Da Ly giảng về
công hạnh của vị Dược Vương và Dược
Thượng Bồ Tát, cách quán tưởng, và các nhân duyên
trong quá khứ của hai Ngài. Hai Ngài trong đời quá khứ
có tên là Tinh Tú Quang và Điện Quang, dùng trái Ha Lê Lặc và
đề-hồ làm thuốc cúng dường tỳ-kheo Nhật
Tạng. Do bởi nhân duyên ấy, các Ngài đời đời
dùng pháp dược để cứu vớt chúng sanh, diệt
trừ hết thảy phiền năo. Trong nghi thức sám hối
Hồng Danh Bảo Sám, năm mươi ba vị Phật từ
Phổ Quang Phật cho đến Nhất Thiết Pháp Tràng
Măn Vương Phật được trích từ phần dạy
sám hối của kinh Quán Dược Vương Dược
Thượng Bồ Tát này.
[8] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Nhất
Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến: Vị Bồ Tát này thích tu khổ hạnh, đắc Hiện
Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội, tự tại hóa
độ người khác, được hết thảy
chúng sanh thích thấy, cho nên có tên như thế”.
[9] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Tinh
tấn kinh hành tức là tấn tu chuyên ṛng, chẳng ngồi,
chẳng nằm, đích thân tu tập pháp Ban Châu tam-muội
chẳng gián đoạn”.
[10] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Hiện
Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội tức là tự tại
thị hiện sắc thân của hết thảy chúng sanh
để thuyết pháp cho họ, giống hệt như
các vị Diệu Âm và Quán Âm”.
[11] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Hải
Thử Ngạn Chiên Đàn: Loại hương này phát xuất
từ vùng duyên hải Nam Ấn Độ, tại vùng núi Ma
La Da. Do núi có h́nh dáng giống như đầu trâu, nên gọi
là Ngưu Đầu. Hương xuất phát từ núi này
nên cũng gọi là Ngưu Đầu Chiên Đàn”.
[12] Thù là đơn vị đo lường
thời cổ. Hai mươi bốn Thù là một Lượng. Trong khi
đó, Lượng biến thiên theo thời gian, chẳng hạn
thời Chiến Quốc, một Lượng là 15.8g, đời Hán là 13.8g, đời Đường là 41.3g. Đời Minh Thanh là 36.9g. Từ
năm 1959 trở đi, Trung Quốc quy định một
Lượng là 50g. Trong khi đó, Trung Hoa Dân Quốc
(Đài Loan) dùng Lượng là 100g (và đơn vị này
được gọi là Công Lượng). Tại Việt
Nam, Lượng (thường đọc là Lạng)
cũng được hiểu là 100g (áp dụng cho trà,
đường, bột, gạo…), nhưng một lạng vàng th́ chỉ là 37.5g. Kinh Phật phần lớn dịch
vào đời Tùy - Đường, cho nên một Lượng
trong kinh Phật ước chừng 41g. V́ thế, một Thù khoảng 1.7g. Kinh thường nói áo của chư thiên chỉ nặng
sáu thù.
[13] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Tam-muội
là Định, ‘tự nghĩ’ là Huệ. Định có thể
sanh ra Huệ. V́ thế nói: ‘Từ tam-muội dậy, bèn tự
nghĩ rằng’. Dùng thần lực cúng dường, chẳng
qua là ngoại tài. V́ thế, chẳng bằng
dùng thân cúng dường. Sắc thân bất tịnh, sao có thể
kham cúng dường Phật? V́ thế, cần phải uống các thứ hương, gột
rửa cho thanh tịnh”.
[14] Huân Lục là phiên âm của chữ
Kundura (c̣n viết là Kunduru, Kundu, hay Kunduruka) trong tiếng Phạn. Đây chính
là Nhũ Hương (Frankincense, Olibanum). Nhũ Hương
là nhựa của các loài cây có tên khoa học bắt đầu
bằng từ ngữ
Boswellia như Boswellia
Sacra chẳng hạn. Cây Nhũ Hương cao từ hai tới tám mét, có hoa trắng pha vàng,
năm cánh. Cây thường mọc trên triền dốc và nổi
tiếng nhất là loại Nhũ
Hương từ bán đảo Ả Rập.
[15] Đâu Lâu Bà (Turuṣka), c̣n được phiên âm là
Đẩu Lâu Bà, Đâu Lâu Ba, Đâu Lũ Bà, Đô Rô Bà,
Đố Lộ Bà, Đốt Bà, hoặc Tốt Đổ
Lỗ Ca, dịch nghĩa là Bạch Mao Hương, Mao
Hương, Hương Thảo, tức là hương Tô Hợp (một loại
Nhũ Hương).
[16] Tất Lực Ca (Śephālikā) là một loại
hương chế từ loài cỏ thơm Trigonella
Corniculata (thường biết với tên gọi là Fenugreek, tức cỏ Hồ Lô Ba hay Khổ Đậu). Tuy thế, các nhà
nghiên cứu kinh Vệ Đà nói loại
thảo mộc này chính là loài cỏ thuốc có tên khoa học
Nyctanthes Arbor-tristis (loài hoa nhài nở về đêm). Hoa nở vào lúc hoàng hôn
và rụng cánh vào sáng hôm sau.
[17] Giao Hương chính là Bạch Giao
Hương, tức là nhựa của một loại cây
phong (Phong Hương Thụ, có tên khoa học là Liquidambar Formosana, tiếng Anh gọi
là Formosa Gum). Nhựa, lá và quả hạt của cây này đều
có thể dùng làm thuốc.
[18] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Bồ
Tát chẳng liễu giải Ngă và Pháp đều là Không, sao có thể khế hội lư Thật
Tướng Chân Như, sẽ chẳng thể thiêu thân cúng
dường, hành bố thí như pháp. Do vậy, chư Phật
xưng thán. Hỏi: Đốt thân cúng dường há chẳng
phải là đă phạm tội Thâu Lan Giá trong giới luật
do đức Phật chế định ư? V́ sao chư
Phật lại tán thán? Đáp: Giới luật Tiểu Thừa
th́ ngăn cấm, giới luật Đại Thừa cho
phép. V́ thế, kinh Phạm Vơng chép: - Nếu chẳng đốt
thân, hoặc đốt ngón tay để cúng dường
chư Phật, sẽ chẳng phải là xuất gia Bồ
Tát”.
[19] Chân Già La (Kimkara, kaṅkara) là một con số lớn (c̣n phiên âm
là Căng Yết La, Hằng Ca La), tức là một ngàn vạn
ức.
Tần Bà La (Bimbara)
là mười triệu.
A Súc Bà (Akṣobhya)
là một vạn tải (nếu tính theo cách đếm nhỏ
nhất, th́ một Tải là 10 lũy thừa 44, tức sau
số 1 có 44 con số không).
[20] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Chất
chứa Chiên Đàn làm củi [để thiêu] nhằm biểu
thị tịnh đức của Phật. Trà-tỳ hỏa thiêu nhằm
biểu thị sự giáo hóa đă chấm dứt. Thâu thập
xá-lợi, biểu thị vĩnh viễn tịch diệt”.
[21] Ư nói: Đối với giới luật,
phải nghiêm túc suy xét, đừng ham cao chuộng xa, đừng
xằng bậy tự cho là ḿnh đă liễu giải Đại
Thừa, thấu hiểu Bát Nhă, không c̣n chấp tướng, để rồi buông lung, tùy tiện,
chẳng vâng giữ giới luật, thanh quy. Phải nghiêm
túc suy xét bẩm tánh của chính ḿnh, rèn luyện cái tâm trong
trần cảnh, quan sát tâm ḿnh đă tương ứng với
cảnh giới Đại Thừa hay vẫn c̣n là Tiểu Thừa, để rồi sẽ
thuận theo cái tâm ấy mà vâng giữ giới luật theo
tinh thần Đại Thừa hay Tiểu Thừa.
[22] Mười núi báu được
nêu tên trong phẩm Thập Địa của kinh Hoa Nghiêm là
Tuyết Sơn (Himālaya),
Hương sơn (Gandhamādana), Khư La Đà (Kharādīya, Loa Lâm sơn), Bệ Đà Lê sơn (Vaidharī, dịch nghĩa là
Chủng Chủng Tŕ, núi này toàn do các chất báu tạo thành),
Do Càn Đà sơn (Yugaṁdhara, dịch nghĩa là Tŕ Song),
Mă Nhĩ sơn (Aśvakarṇa), Ni Dân Đà La sơn (Nemiṁdhara,
dịch nghĩa là Tŕ Biên), Chước Ca La (Cakravāda, dịch
nghĩa là Luân Vi, hay
Kim Cang Luân Vi), Kế Độ
Mạt Để sơn (Ketumati, dịch nghĩa là Tràng Huệ),
và Tu Di Lô sơn (Sumeru, Diệu Cao).
[23] Túc tán
vương: Tức là các tiểu vương. Do các tiểu
vương trong thế gian quá nhiều ví như đem hạt
bắp rải tung trên đất, nên gọi là Túc Tán
Vương. Theo Nhân Vương Bát Nhă Kinh Sớ quyển ba:
“Tu Thập Thiện có ba phẩm, thượng phẩm
thiện là Thiết Luân Vương giáo hóa một thiên hạ.
Trung phẩm Thập Thiện là Túc Tán Vương, hạ phẩm
thiện là vua trong những thiện nhân”. Như vậy,
Túc Tán Vương là người kiếp trước đă
tu Thập Thiện trung và hạ phẩm, cai trị nước
nhỏ.
[24] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Dựa
theo sự diệt ác để tán thán, nhằm hiển thị
kinh có tác dụng do lớn. Kinh dùng mười hai thí dụ
để tuyên thị:
- Như ao nước nhằm hiển
thị nước lư Pháp Tánh.
- Như lửa, nhằm hiển thị
trí huệ chói rực.
- Như áo nhằm hiển thị
trang nghiêm.
- Như chủ, nhằm hiển thị
sự hướng về.
- Như mẹ, nhằm hiển thị
đại từ.
- Như thuyền, nhằm hiển
thị có thể đạt tới bờ kia.
- Như thầy thuốc, nhằm hiển
thị có thể khiến cho người nghe được
an ổn.
- Như đèn, nhằm hiển thị
kinh có thể phá Hoặc.
- Như của báu, nhằm hiển
thị pháp diệu.
- Như vua, nhằm hiển thị
pháp tự tại.
- Như biển, nhằm hiển thị
pháp sâu rộng.
- Như đuốc, nhằm hiển
thị trí quang”.
[25] Ba La La (Pātali,
Pulila), c̣n phiên âm là Ba Trá La, Ba La Lợi, Ba Trá Ly, dịch
nghĩa là Trùng Diệp Thụ, Trùng Sanh Hoa, hoặc Thanh Đồng,
có tên khoa học là Bignonia Suaveolens, thuộc loại thân mộc, có
hoa tím h́nh loa kèn, nở vào cuối mùa Xuân, hương
thơm nồng đậm.
[26] Bà Lợi Sư Ca (Varṣikāla), c̣n phiên âm là Bà Sử Ca, Bà Lợi Sư,
Bà Lợi Sử Ca La, Bà Sư Ba Lợi, dịch nghĩa là Vũ
Thời Hoa, nở hoa trắng vào mùa Hạ, rất thơm.
Khi hoa này nở sẽ sắp đến mùa mưa, cho nên có tên gọi như vậy.
[27] Na Bà Ma Lợi (Navamālikā), dịch nghĩa là Như Thứ Đệ Hoa, là một
loại dây leo, có tên khoa học là Jasminum Sambac, thuộc họ
Nhài, hoa bé màu trắng, rất thơm. Tinh dầu chiết từ
loại hoa này thường dùng để chế dầu thắp
có mùi thơm hay làm nước hoa.