Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa
phần
15
Đất
Cổ Ngô, hậu học Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật
妙法蓮華經綸貫會義
古吳後學蕅益智旭述
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức
Phong và Huệ
Trang
Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh Thai Tông Hội Nghĩa
Quyển thứ bảy
Trong phần xét theo
sự hóa độ người khác để khuyên lưu
thông, tiết thứ hai là khích lệ thọ pháp đệ
tử, bao gồm hai phẩm kinh: Một là phẩm Diệu
Âm, hai là phẩm Phổ Môn. Nay giải thích phẩm Diệu
Âm trước.
24. Phẩm thứ hai mươi bốn:
Diệu Âm Bồ Tát Bổn Sự (Diệu Âm Bồ Tát Bổn
Sự phẩm đệ nhị thập tứ, 妙音菩薩本事品第二十四)
Phóng quang minh triệu
vời, [Diệu Âm Bồ Tát] từ phương
Đông hiện đến, phẩm này được gọi
là Bổn Sự là do lời hỏi của Hoa Đức Bồ
Tát, [đức Bổn Sư bèn] nói cặn
kẽ nhân duyên quả báo xưa kia [của Diệu Âm Bồ
Tát đă] dùng kỹ nhạc và bát báu để cúng Phật.
Lại c̣n nêu rơ tác dụng của Hiện Nhất Thiết
Sắc Thân tam-muội; v́ thế gọi là phẩm Bổn Sự.
Hơn nữa, phẩm Dược Vương
chỉ nói về bổn hạnh, chẳng nói về sự
du hóa, phẩm Phổ Môn chỉ nói về sự du hóa, chẳng
nói đến bổn hạnh [của ngài Quán Âm]; phẩm này
nêu trọn vẹn [cả hai chuyện ấy]. Hơn nữa,
hai phẩm Dược Vương và Bổn Môn đều là do được
hỏi cho nên nói, c̣n phẩm này th́ do quang minh [của đức
Phật] triệu vời, cho nên do đức Phật tự nói. Đôi bên tỏ lộ lẫn nhau, cùng hiển lộ
viên hạnh, chẳng thể nói là hơn hay kém được!
Kinh văn trong phẩm
này được chia thành sáu phần:
- Một, [Phật
Thích Ca] phóng quang chiếu sang phương Đông triệu vời
[Diệu Âm Bồ Tát].
- Hai, [Diệu Âm Bồ
Tát] phụng mạng đến [thế giới Sa Bà] ở
phương Tây.
- Ba, hoằng kinh trong
mười phương.
- Bốn, hai cơi đều
được lợi ích.
- Năm, [Diệu Âm
Bồ Tát] trở về cơi ḿnh.
- Sáu, [chúng sanh] nghe
phẩm này đạo bèn tăng tấn.
24.1. Phóng quang minh triệu vời [Diệu
Âm Bồ Tát] từ phương Đông
(Kinh) Nhĩ thời,
Thích Ca Mâu Ni Phật phóng đại nhân tướng nhục
kế quang minh, cập phóng mi gian bạch hào tướng quang,
biến chiếu Đông phương bách bát vạn ức na-do-tha
hằng hà sa đẳng chư Phật thế giới. Quá thị
số dĩ, hữu thế giới danh Tịnh Quang Trang Nghiêm.
Kỳ quốc hữu Phật, hiệu Tịnh Hoa Tú Vương
Trí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn,
vị vô lượng vô biên Bồ Tát đại chúng cung
kính vi nhiễu, nhi vị thuyết pháp. Thích Ca Mâu Ni Phật bạch hào quang minh biến
chiếu kỳ quốc.
(經)爾時釋迦牟尼佛。放大人相肉髻光明。及放眉間白毫相光。徧照東方百八萬億那由他恆河沙等諸佛世界。過是數已。有世界名淨光莊嚴。其國有佛。號淨華宿王智。如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。為無量無邊菩薩大眾恭敬圍繞。而為說法。釋迦牟尼佛白毫光明。徧照其國。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật phóng quang minh từ nhục kế
trong tướng đại nhân[1] và quang minh từ
tướng bạch hào giữa hai mày, chiếu trọn khắp
các thế giới của chư Phật ở phương Đông nhiều
như số cát trong một trăm lẻ tám vạn ức
na-do-tha sông Hằng. Qua khỏi số đó, có thế giới
tên là Tịnh Quang Trang Nghiêm (Vairocanaraśmipratimaṇḍitā).
Cơi ấy có Phật, hiệu là Tịnh Hoa Tú Vương Trí
(Kamaladalavimalanakṣatrarājasaṃkusumitābhijña)[2] Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, được vô
lượng vô biên Bồ Tát đại chúng cung kính vây quanh. Ngài v́ họ
thuyết pháp. Quang minh từ bạch hào của Thích Ca Mâu Ni
Phật chiếu trọn khắp cơi ấy).
Phật là bậc rốt
ráo; v́ thế gọi là “đại nhân”. Pháp Thân thanh tịnh
vi diệu, trọn đủ ba mươi hai tướng.
Mỗi tướng đều là pháp giới; v́ thế, gọi
là “đại nhân tướng”. Nhục kế (Uṣṇīṣa) và bạch
hào (Ūrṇākośa) chính là hai loại trong các tướng đại nhân.
Nhục kế biểu thị Diệu Quả viên măn tột
bậc. Bạch hào biểu thị diệu nhân Trung Đạo,
hiển lộ ư nghĩa: Diệu Âm Bồ Tát sau khi đă đắc
quả, bèn tu hành
cái nhân chẳng khác các vị Văn Thù, Thường Bất
Khinh, Dược Vương, Quán Âm, Phổ Hiền v.v…
Hỏi: Như các vị
Bồ Tát từ dưới đất vọt lên và Dược
Vương v.v… đă đủ để lưu thông diệu
pháp, cớ ǵ phải triệu vời Diệu Âm từ chốn
xa xôi?
Đáp: Ngài Diệu
Âm cũng có duyên với cơi này. Chúng sanh trong cơi này đáng nên
từ ngài Diệu Âm mà đạt được được
tứ ích (Tứ Tất Đàn), cho nên triệu vời.
Hỏi: Mười
phương Bồ Tát có thể khiến cho chúng sanh trong cơi
này đạt được tứ ích, theo đúng lẽ ắt
sẽ rất nhiều, cớ sao ở đây chỉ triệu
vời ngài Diệu Âm ở phương Đông, và nói đến
ngài Quán Âm ở phương Tây, chẳng nhắc đến
tám phương kia?
Đáp: Điều
này có hai ư:
- Một, triệu
vời trọn khắp: Nói “trọn khắp”, xét theo
mặt Sự th́ chẳng trở ngại ǵ! Kinh Pháp Hoa tại Ấn Độ chất đến
tám dặm, làm sao biết [nguyên bản tiếng Phạn] không
có phần kinh văn ấy?
- Hai, triệu vời
từ phương Đông, nói tới phương Tây, xét
theo Lư th́ đă đủ rồi! Phương Đông biểu
thị khởi đầu, phương Tây biểu thị
chung cục. Khởi đầu biểu thị phát tâm, chung
cục biểu thị rốt ráo. Phát tâm và rốt ráo hai đằng
chẳng khác nhau, có chỗ nào mà chẳng gồm thâu? Đức
thánh (Phật) chẳng cần rườm lời, nêu lên một
điều để chỉ chung các điều khác vậy!
24.2. [Diệu Âm Bồ Tát] phụng mạng
đến phương Tây
24.2.1. Duyên do tới cơi này
24.2.1.1. Người kết tập kinh
trần thuật phẩm đức [của Diệu Âm Bồ
Tát]
(Kinh)
Nhĩ thời, Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm quốc
trung, hữu nhất Bồ Tát, danh viết Diệu Âm, cửu
dĩ thực chúng đức bổn, cúng dường, thân
cận vô lượng bách thiên vạn ức chư Phật,
nhi tất thành tựu thậm thâm trí huệ, đắc Diệu
Tràng Tướng tam-muội, Pháp Hoa tam-muội, Tịnh Đức
tam-muội, Tú Vương Hư tam-muội, Vô Duyên tam-muội, Trí
Ấn tam-muội, Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ
Ngôn tam-muội, Tập Nhất Thiết Công Đức tam-muội,
Thanh Tịnh tam-muội, Thần Thông Du Hư tam-muội, Huệ
Cự tam-muội, Trang Nghiêm Vương tam-muội, Tịnh
Quang Minh tam-muội, Tịnh Tạng tam-muội, Bất Cộng
tam-muội, Nhật Toàn tam-muội, đắc như thị
đẳng bách thiên vạn ức Hằng hà sa đẳng
chư đại tam-muội.
(經)爾時一切淨光莊嚴國中。有一菩薩。名曰妙音。久已植眾德本。供養親近無量百千萬億諸佛。而悉成就甚深智慧。得妙幢相三昧。法華三昧。淨德三昧。宿王戲三昧。無緣三昧。智印三昧。解一切眾生語言三昧。集一切功德三昧。清淨三昧。神通遊戲三昧。慧炬三昧。莊嚴王三昧。淨光明三昧。淨藏三昧。不共三昧。日旋三昧。得如是等百千萬億恆河沙等諸大三昧。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, trong cơi Nhất Thiết Tịnh Quang
Trang Nghiêm, có một vị Bồ Tát tên là Diệu Âm (Gadgadasvara),
đă gieo các cội đức từ lâu, cúng dường, thân
cận vô lượng trăm ngàn vạn ức chư Phật,
đă đều thành tựu trí huệ rất sâu, đắc
Diệu Tràng Tướng (Dhvajāgrakeyūra) tam-muội, Pháp
Hoa (Saddharma-puṇḍarīka) tam-muội, Tịnh Đức
(Vimaladatta) tam-muội, Tú Vương Hư tam-muội (Nakṣatrarājavikrīḍita),
Vô Duyên (Anilambha) tam-muội, Trí Ấn (Jñānamudrā) tam-muội,
Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn (Sarvarutakauśalya)
tam-muội, Tập Nhất Thiết Công Đức (Sarvapuṇyasamuccaya)
tam-muội, Thanh Tịnh (Prasādavatī)
tam-muội, Thần Thông Du Hư (Ṛddhivikrvikrīḍita) tam-muội,
Huệ Cự (Jñānolkā) tam-muội, Trang Nghiêm Vương
(Vyūharāja) tam-muội, Tịnh Quang Minh (Vimalaprabhāsa)
tam-muội, Tịnh Tạng (Vimalagarbha) tam-muội, Bất
Cộng (Apkṛtsna) tam-muội, Nhật Toàn (Sūryāvarta)
tam-muội, đắc trăm ngàn vạn ức hằng hà
sa các đại tam-muội như thế đó).
“Đức” chính là
hai thứ phước và huệ trang nghiêm. Cúng dường
chư Phật, trần thuật cội nguồn của phước
huệ. “Thậm thâm trí huệ” (trí huệ rất sâu):
Trần thuật phước chính là huệ. “Chư đại
tam-muội” (các đại tam-muội): Trần thuật
huệ chính là phước. Liệt kê đại lược
mười sáu danh hiệu [tam-muội] đều là diệu
định thuộc viên đạo:
- Diệu thể của
Thật Tướng cao rạng vô thượng, vô tướng,
mà cũng chẳng phải là không có tướng, th́ gọi
là Diệu Tràng Tướng tam-muội.
- Nhân quả chẳng
hai, Quyền Thật chẳng hai, Bổn Tích chẳng hai, th́
gọi là Pháp Hoa tam-muội.
- Ĺa ba Hoặc cấu,
chứng tánh thanh tịnh vốn
có, gọi là Tịnh Đức tam-muội.
- Quyền Trí chiếu
soi căn cơ, khéo hiện ưu khuyết, th́ gọi là Tú Vương
Hư tam-muội (mặt trăng được gọi là Tú Vương,
tức là vua của các tinh tú).
- Đại từ
b́nh đẳng, chẳng duyên theo giả danh, chẳng duyên
theo Thật pháp, th́ gọi là Vô Duyên tam-muội.
- Nhất tâm tam trí,
ấn hết thảy các pháp, gọi là Trí Ấn tam-muội.
- Ngôn ngữ trong mười
pháp giới đều là pháp sanh bởi các nhân duyên, hiểu
mỗi thứ đều chính là Không, Giả, Trung. Hết
thảy các ngôn ngữ chính là một ngôn ngữ, một
ngôn ngữ chính là hết thảy các ngôn ngữ, chẳng phải
một, chẳng phải hết thảy, mà là một, là hết
thảy, th́ gọi là Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ
Ngôn tam-muội.
- Trụ trong một
tam-muội, công đức của hết thảy các tam-muội
đều nhập vào đó, gọi là Tập Nhất Thiết
Công Đức tam-muội.
- Lục căn
thanh tịnh, dùng lẫn cho nhau tự tại, gọi là Thanh
Tịnh tam-muội.
- Tự tại giáo
hóa chúng sanh, dạo trong các thế
gian, đối với huyễn sự [coi như] con rối,
nhiếp khắp hết thảy, gọi là Thần Thông Du Hư
tam-muội.
- Đại huệ
b́nh đẳng, chiếu khắp các nẻo đường
tối tăm, gọi là Huệ Cự (đuốc huệ)
tam-muội.
- Tánh có đủ vạn
đức, duyên nhân và liễu nhân dung thông, tùy ư nêu ra một
pháp sẽ thống nhiếp hết thảy các pháp, gọi
là Trang Nghiêm Vương tam-muội.
- Tam trí (Nhất Thiết Trí, Đạo Chủng Trí, Nhất
Thiết Chủng Trí) viên măn, thanh tịnh,
chiếu pháp chẳng sót, gọi là Tịnh Quang Minh tam-muội.
- Một niệm tịnh
tâm dung nhiếp vạn đức, gọi là Tịnh Tạng
tam-muội.
- Người thuộc
bảy phương tiện đều chẳng thể nhập
th́ gọi là Bất Cộng tam-muội.
- Thật trí chiếu
lư nhưng chẳng trụ, gọi là Nhật Toàn tam-muội.
24.2.1.2. [Diệu Âm Bồ
Tát] được quang minh [của Phật Thích Ca] chiếu
đến, bèn từ tạ đức Phật [trong
cơi của Ngài]
(Kinh)
Thích Ca Mâu Ni Phật quang chiếu kỳ thân, tức bạch
Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă đương
văng nghệ Sa Bà thế giới, lễ bái, thân cận, cúng
dường Thích Ca Mâu Ni Phật, cập kiến Văn Thù
Sư Lợi pháp vương tử Bồ Tát, Dược
Vương Bồ Tát, Dũng Thí Bồ Tát, Tú Vương
Hoa Bồ Tát, Thượng Hạnh Ư Bồ Tát, Trang Nghiêm Vương
Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát.
(經)釋迦牟尼佛光照其身。即白淨華宿王智佛言。世尊。我當往詣娑婆世界。禮拜。親近。供養釋迦牟尼佛。及見文殊師利法王子菩薩。藥王菩薩。勇施菩薩。宿王華菩薩。上行意菩薩。莊嚴王菩薩。藥上菩薩。
(Kinh:
Quang minh của Thích Ca Mâu Ni Phật chiếu vào thân Ngài,
liền bạch cùng Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật rằng: - Bạch
đức
Thế Tôn! Con sẽ đi qua thế giới Sa Bà để
lễ bái, thân cận, cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật,
và gặp Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử Bồ
Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dũng Thí (Pradānaśūra)
Bồ Tát, Tú Vương Hoa Bồ Tát, Thượng Hạnh
Ư (Viśiṣṭacāritra) Bồ Tát, Trang Nghiêm Vương
(Vyūharāja) Bồ Tát, Dược Thượng (Bhaiṣajyasamudgata)
Bồ Tát).
24.2.1.3. Đức Phật trong cơi ấy
răn nhắc
(Kinh)
Nhĩ thời, Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật cáo Diệu
Âm Bồ Tát: - Nhữ mạc khinh bỉ quốc, sanh hạ
liệt tưởng. Thiện nam tử! Bỉ Sa Bà thế
giới cao hạ bất b́nh, thổ, thạch chư sơn,
uế ác sung măn. Phật thân ty tiểu, chư Bồ Tát
chúng kỳ h́nh diệc tiểu, nhi nhữ thân tứ vạn
nhị thiên do-tuần. Ngă thân lục bách bát thập vạn
do-tuần. Nhữ thân đệ nhất đoan chánh, bách thiên
vạn phước, quang minh thù diệu. Thị cố nhữ
văng, mạc khinh bỉ quốc, nhược Phật, Bồ
Tát, cập quốc độ, sanh hạ liệt tưởng.
(經)爾時淨華宿王智佛。告妙音菩薩。汝莫輕彼國。生下劣想。善男子。彼娑婆世界。高下不平。土石諸山。穢惡充滿。佛身卑小。諸菩薩眾。其形亦小。而汝身四萬二千由旬。我身六百八十萬由旬。汝身第一端正。百千萬福。光明殊妙。是故汝往。莫輕彼國若佛。菩薩及國土。生下劣想。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật bảo
Diệu Âm Bồ Tát rằng: - Ông đừng
coi thường cơi ấy, nghĩ là kém hèn. Này thiện nam tử!
Thế giới Sa Bà ấy cao, thấp chẳng bằng phẳng,
các núi bằng đất, đá, dơ xấu đầy dẫy.
Thân Phật kém nhỏ, các vị Bồ Tát thân h́nh cũng nhỏ.
Nhưng thân ông cao bốn vạn hai ngàn do-tuần. Thân ta cao
sáu trăm tám mươi vạn do-tuần. Thân ông đoan chánh
bậc nhất, trăm ngàn vạn phước, quang minh đẹp
đẽ đặc biệt. V́ thế, ông đến đó,
đừng coi thường dù là Phật, Bồ Tát, hay quốc độ
trong cơi ấy, nẩy sanh ư niệm cho là hèn kém).
Diệu Âm Bồ
Tát hiểu rành rẽ Bổn Tích, cần ǵ phiền Phật
phải răn nhắc? [Đó là v́] trong hàng quyến thuộc
do Ngài dẫn theo, có thể là có vị chưa thông đạt.
Do vậy, răn nhắc người thuộc bậc thượng
để uốn nắn kẻ bậc hạ vậy. Phật
chứng pháp tánh b́nh đẳng, v́ chúng sanh mà cởi áo quư báu,
mặc áo xấu dơ, thị hiện thân kém cỏi, nhỏ
bé, và cơi nước xấu ác. Thế nhưng, bản thể
của thân và cơi nước nhỏ hèn, xấu ác ấy chính
là pháp giới, ǵ là lớn? Ǵ là nhỏ? Ǵ là tịnh? Ǵ là uế?
Hăy nên biết: Chẳng phải nhỏ mà hiện nhỏ,
chẳng phải uế mà hiện uế, tức “áo nhẫn
nhục”. Nhỏ vốn chẳng nhỏ, uế vốn chẳng
uế, tức là “ṭa pháp Không”. Dùng nhỏ, dùng uế để
khéo léo tùy thuận chúng sanh, chính là “nhà từ bi”. Phật đă
là như thế, Bồ Tát cũng như thế. V́
thế, hăy nên liễu đạt ba khuôn phép (tức áo nhẫn nhục, ṭa pháp không, nhà từ bi), chớ
giữ t́nh kiến [so đo] hơn kém!
Hỏi: Trong cơi này,
khi thân người cao tám thước th́ thân Phật cao một
trượng sáu, bất quá là Ngài cao gấp đôi [mọi người].
Thân tướng của Phật, Bồ Tát trong cơi kia (cơi của
Diệu Âm Bồ Tát) sai biệt hơn một trăm năm
mươi lần là v́ lẽ nào?
Đáp: Đó là tướng
Thắng Ứng Thân trong Tịnh Độ. Sự chẳng
phải nhất loạt như nhau, chẳng thể phỏng
theo cùng một lệ được!
Hỏi: Đă là quyến
thuộc thù thắng, cớ sao có người chưa thông đạt?
Đáp: Trược
nhẹ, phước thù thắng, cho nên là Tịnh Độ. [Bồ Tát] thuộc địa
vị Quyền th́ trí nông cạn, cho nên cần phải răn
bảo!
24.2.1.4. Bồ Tát lănh thọ ư chỉ
(Kinh)
Diệu Âm Bồ Tát bạch kỳ Phật ngôn: - Thế Tôn!
Ngă kim nghệ Sa Bà thế giới, giai thị Như Lai chi
lực, Như Lai thần thông du hư, Như Lai công đức
trí huệ trang nghiêm.
(經)妙音菩薩白其佛言。世尊。我今詣娑婆世界。皆是如來之力。如來神通遊戲。如來功德智慧莊嚴。
(Kinh: Diệu
Âm Bồ Tát bạch cùng đức Phật ấy rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con nay đến thế giới Sa Bà, đều
là do sức của Như Lai, thần thông du hư của Như
Lai, do công đức trí huệ trang nghiêm của Như Lai).
Đức
Phật ấy đă dùng ba pháp để nhắn nhủ, răn
dạy, Diệu Âm cũng dùng ba pháp để tiếp nhận
ư chỉ. “Giai thị Như Lai chi lực” (đều
là sức của Như Lai): Quy kết chung công sức về
Phật lực, cho nên chẳng dám coi thường. “Thần
thông du hư”: Cởi áo quư giá, mặc áo hèn tệ, nhưng
thân trưởng giả chẳng đổi, tức là “áo
nhẫn nhục”. “Công đức trang nghiêm” chính là “nhà đại
từ bi”. “Trí huệ
trang nghiêm” chính là ṭa “các pháp đều là Không”. Nương
vào ba lực ấy của Như Lai, nên mới có thể đi
qua thế giới Sa Bà. Nhưng ngài Diệu Âm đă phần
chứng ba lực; ở đây, Ngài nêu rơ ba lực rốt
ráo của Như Lai, khiến cho quyến thuộc của
Ngài chẳng khởi tâm coi thường!
24.2.1.5. Trước hết hiện
tướng [biểu thị] sẽ đến [cơi Sa Bà]
24.2.1.5.1. Gởi hoa sen [đến cơi
Sa Bà]
(Kinh)
Ư thị, Diệu Âm Bồ Tát bất khởi ư ṭa,
thân bất động dao, nhi nhập tam-muội. Dĩ tam-muội
lực, ư Kỳ Xà Quật sơn, khứ pháp ṭa bất
viễn, hóa tác bát vạn tứ thiên chúng bảo liên hoa, Diêm
Phù Đàn kim vi hành, bạch ngân vi diệp, kim cang vi tu, Chân
Thúc Ca bảo dĩ vi kỳ đài.
(經)於是妙音菩薩。不起於座。身不動搖。而入三昧。以三昧力。於耆闍崛山。去法座不遠。化作八萬四千眾寶蓮華。閻浮檀金為莖。白銀為葉。金剛為鬚。甄叔迦寶以為其臺。
(Kinh:
Ngay khi đó, Diệu Âm Bồ Tát chẳng
đứng dậy khỏi chỗ ngồi, thân chẳng lay
động, bèn nhập tam-muội. Do sức tam-muội, tại
núi Kỳ Xà Quật, cách pháp ṭa chẳng xa, hóa ra tám vạn
bốn ngàn các hoa sen báu: Vàng Diêm Phù Đàn làm cọng, bạc
trắng làm cánh, kim cang làm tua, báu Chân Thúc Ca[3] dùng làm đài).
24.2.1.5.2. Ngài Văn Thù thưa hỏi
(Kinh)
Nhĩ thời, Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử
kiến thị liên hoa, nhi bạch Phật ngôn: - Thế Tôn!
Thị hà nhân duyên tiên hiện thử tướng, hữu
nhược can thiên vạn liên hoa, Diêm Phù Đàn kim vi hành, bạch
ngân vi diệp, kim cang vi tu, Chân Thúc Ca bảo dĩ vi kỳ đài?
(經)爾時文殊師利法王子。見是蓮華而白佛言。世尊。是何因緣。先現此相。有若干千萬蓮華。閻浮檀金為莖。白銀為葉。金剛為鬚。甄叔迦寶以為其臺。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử
thấy các hoa sen ấy, bèn bạch cùng đức Phật
rằng: - Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên ǵ mà trước hết
hiện ra tướng này, có ngần ấy ngàn vạn hoa
sen, vàng Diêm Phù Đàn làm cọng, bạc trắng làm cánh, kim
cang làm tua, báu Chân Thúc Ca dùng làm đài?)
Hỏi: Nếu ngài
Văn Thù có địa vị thấp, khi Diệu Âm Bồ
Tát từ tạ đức Phật ấy, chẳng nên nói là
“[đến
thế giới Sa Bà để] gặp Văn
Thù”. Nếu ngài Văn Thù có địa vị cao, khi tướng
ấy xuất hiện, cớ sao Ngài chẳng biết?
Đáp: Dẫu có địa
vị cao, chưa đạt
đến Diệu Giác, chẳng biết tướng ấy th́ cũng
chẳng trở ngại ǵ! Giả sử Ngài thuộc địa
vị thấp, nhưng Ngài có sở trường riêng, cho nên
có người từ xa đến cầu kiến, cũng
chẳng có khuyết điểm ǵ! Huống
hồ tuy cùng một địa vị, có khởi đầu,
chặng giữa, và cuối cùng. Tuy khởi đầu, chặng
giữa và cuối cùng cũng đều tương đồng,
nhưng đối với cảnh giới tam-muội đạt
được, cũng
sẽ có những chỗ chưa thấu đạt. Đôi
bên giúp cho nhau, đôi bên tạo lợi ích cho nhau, nếu
cùng là cổ Phật, sẽ chẳng có cao hay thấp. Ngài Diệu
Âm nhằm khiến cho chúng sanh đạt được lợi
ích, cho nên nói là “cầu kiến”. Ngài Văn Thù v́ đại
chúng trong pháp hội chẳng dám hỏi, cho nên thốt lời
phát khởi cho mọi người hay biết.
24.2.1.5.3. Phật Thích Ca giải đáp
(Kinh)
Nhĩ thời, Thích Ca Mâu Ni Phật cáo Văn Thù Sư Lợi:
- Thị Diệu Âm Bồ Tát Ma Ha Tát dục tùng Tịnh Hoa
Tú Vương Trí Phật quốc, dữ bát vạn tứ
thiên Bồ Tát vi nhiễu, nhi lai chí thử Sa Bà thế giới
cúng dường, thân cận, lễ bái ư ngă, diệc dục
cúng dường, thính Pháp Hoa kinh.
(經)爾時釋迦牟尼佛。告文殊師利。是妙音菩薩摩訶薩。欲從淨華宿王智佛國。與八萬四千菩薩圍繞。而來至此娑婆世界。供養。親近。禮拜於我。亦欲供養聽法華經。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Văn
Thù Sư Lợi: - Vị Diệu Âm Bồ Tát ấy muốn
từ cơi của Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật, cùng với
tám vạn bốn ngàn Bồ Tát vây quanh đến thế giới
Sa Bà này để cúng dường, thân cận, lễ bái ta,
và cũng cúng dường, nghe kinh Pháp Hoa).
24.2.1.5.4. Ngài Văn Thù xin được
thấy
(Kinh)
Văn Thù Sư Lợi bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Thị
Bồ Tát chủng hà thiện bổn, tu hà công đức,
nhi năng hữu thị đại thần thông lực, hành
hà tam-muội? Nguyện vị ngă đẳng thuyết thị
tam-muội danh tự, ngă đẳng diệc dục cần
tu hành chi. Hành thử
tam-muội, năi năng kiến thị Bồ Tát sắc tướng
đại, tiểu, oai nghi tấn chỉ. Duy nguyện Thế
Tôn dĩ thần thông lực, bỉ Bồ Tát lai, linh ngă đắc
kiến.
(經)文殊師利白佛言。世尊。是菩薩種何善本。修何功德。而能有是大神通力。行何三昧。願為我等說是三昧名字。我等亦欲勤修行之。行此三昧。乃能見是菩薩色相大小。威儀進止。惟願世尊以神通力。彼菩薩來。令我得見。
(Kinh:
Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch cùng đức Phật
rằng: - Bạch Thế Tôn! Vị Bồ Tát ấy gieo cội
lành ǵ, tu công đức ǵ, mà có thể có sức
thần thông to lớn ấy? Hành tam-muội
nào? Xin hăy v́ chúng con nói danh tự của tam-muội ấy, chúng
con cũng muốn siêng năng tu hành. Hành tam-muội ấy
bèn có thể thấy được sắc tướng lớn
nhỏ, oai nghi, cử chỉ của vị Bồ Tát ấy.
Kính mong đức Thế Tôn dùng sức thần thông, khiến
cho vị Bồ Tát ấy đến [thế giới này], cho con được
thấy).
24.2.1.5.5. Phật Thích Ca nhượng
công cho Phật Đa Bảo
(Kinh)
Nhĩ thời, Thích Ca Mâu Ni Phật cáo Văn Thù Sư Lợi:
- Thử cửu diệt độ Đa Bảo Như Lai, đương
vị nhữ đẳng, nhi hiện
kỳ tướng.
(經)爾時釋迦牟尼佛。告文殊師利。此久滅度多寶如來。當為汝等而現其相。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi:
- Đa Bảo Như Lai là vị diệt độ đă lâu
này sẽ v́ các ông mà hiện tướng ấy).
Ngài Văn Thù tuy hỏi
công đức tam-muội, nhưng cốt ư là xin được
thấy. V́ thế, [đức Bổn Sư] nhường cho Phật Đa Bảo triệu vời [Diệu Âm
Bồ Tát] đến cơi này. Trong phần sau, do Hoa Đức Bồ Tát lặp lại lời hỏi,
[đức Phật] sẽ giải đáp về công đức
và tam-muội [của Diệu Âm Bồ Tát]. Nhường
cho Phật Đa Bảo thực hiện th́ [Diệu Âm Bồ
Tát] phải nên là đệ tử xưa kia của Đa Bảo
Như Lai.
24.2.1.5.6. Phật Đa Bảo truyền
bảo [Diệu Âm Bồ Tát] hăy đến
(Kinh)
Thời Đa Bảo Phật cáo bỉ Bồ Tát: - Thiện
nam tử lai! Văn Thù Sư Lợi pháp
vương tử dục kiến nhữ thân!
(經)時多寶佛告彼菩薩。善男子來。文殊師利法王子欲見汝身。
(Kinh: Khi ấy,
Đa Bảo Phật bảo vị Bồ Tát ấy: - Thiện
nam tử hăy đến! Văn Thù Sư Lợi pháp
vương tử muốn thấy thân ông).
Phần thứ nhất,
“duyên do [Diệu Âm Bồ Tát] đến
[Sa Bà]” đă xong.
24.2.2. Trần thuật sự du hành
của [Diệu Âm Bồ Tát]
24.2.2.1. Chỗ Ngài đi qua cùng với
quyến thuộc
(Kinh)
Ư thời, Diệu Âm Bồ Tát ư bỉ quốc một,
dữ bát vạn tứ thiên Bồ Tát câu cộng phát lai, sở
kinh chư quốc lục chủng chấn động, giai
tất vũ ư thất bảo liên hoa, bách thiên thiên nhạc,
bất cổ tự minh.
(經)於時妙音菩薩。於彼國沒。與八萬四千菩薩。俱共發來。所經諸國。六種震動。皆悉雨於七寶蓮華。百千天樂。不鼓自鳴。
(Kinh: Ngay
khi đó, Diệu Âm Bồ Tát biến mất trong cơi ấy,
cùng với tám vạn bốn ngàn Bồ Tát đều cùng lên
đường. Các cơi nước đi qua đều sáu
thứ chấn động, thảy đều mưa hoa sen
bảy báu, trăm ngàn nhạc trời chẳng tấu tự
kêu).
Xưa kia dâng bát báu,
nay được hàng pháp khí Bồ Tát tùy tùng. Xưa kia dâng
lên âm nhạc, nay được thiên nhạc cùng theo.
24.2.2.2. Trần thuật sắc tướng [của Diệu Âm Bồ Tát] và [chuyện Bồ Tát ngự] lên đài
[bảy báu]
(Kinh)
Thị Bồ Tát mục như quảng đại thanh liên
hoa diệp. Chánh sử ḥa hợp bách thiên vạn nguyệt, kỳ diện mạo
đoan chánh, phục quá ư thử. Thân chân kim sắc, vô
lượng bách thiên công đức trang nghiêm, oai đức
xí thịnh, quang minh chiếu diệu, chư tướng cụ
túc như Na La Diên kiên cố chi thân. Nhập thất bảo
đài, thượng thăng hư không, khứ địa
thất Đa La thụ. Chư Bồ Tát chúng cung kính vi nhiễu,
nhi lai nghệ thử Sa Bà thế giới Kỳ Xà Quật sơn.
(經)是菩薩。目如廣大青蓮華葉。正使和合百千萬月。其面貌端正。復過於此。身真金色。無量百千功德莊嚴。威德熾盛。光明照曜。諸相具足。如那羅延堅固之身。入七寶臺。上升虛空。去地七多羅樹。諸菩薩眾恭敬圍繞。而來詣此娑婆世界耆闍崛山。
(Kinh:
Vị Bồ Tát ấy mắt như cánh hoa sen xanh[4] rộng lớn.
Giả sử ḥa hợp trăm ngàn vạn mặt trăng,
diện mạo của Ngài c̣n đoan chánh hơn thế. Thân
màu vàng ṛng, vô lượng trăm ngàn công đức trang
nghiêm, oai đức hừng hực, quang minh chiếu sáng rực,
các tướng đầy đủ như thân Na La Diên[5] kiên cố. Ngài bước lên đài
bảy báu, thăng lên hư không, cách đất bảy cây Đa
La. Các vị Bồ Tát cung kính vây quanh, đi đến núi Kỳ
Xà Quật trong thế giới Sa Bà này).
24.2.2.3. Thưa hỏi, truyền đạt
ư chỉ [của Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật]
(Kinh)
Đáo dĩ, hạ thất bảo đài. Dĩ giá trị
bách thiên anh lạc, tŕ chí Thích Ca Mâu Ni Phật sở, đầu
diện lễ túc, phụng thượng anh lạc, nhi bạch
Phật ngôn: - Thế Tôn!
Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật vấn tấn Thế
Tôn, thiểu bệnh, thiểu năo, khởi cư khinh lợi,
an lạc hạnh phủ? Tứ Đại điều ḥa
phủ? Thế sự khả nhẫn phủ? Chúng sanh dị
độ phủ? Vô đa tham dục, sân khuể, ngu si, tật
đố, xan, mạn phủ? Vô bất hiếu phụ mẫu,
bất kính sa-môn, tà kiến, bất thiện tâm phủ? Nhiếp
ngũ t́nh phủ? Thế Tôn! Chúng sanh năng hàng phục chư
ma oán phủ? Cửu diệt độ Đa Bảo Như
Lai tại thất bảo tháp trung, lai thính pháp phủ? Hựu
vấn tấn Đa Bảo Như Lai an ổn, thiểu năo,
kham nhẫn cửu trụ phủ?
(經)到已。下七寶臺。以價直百千瓔珞。持至釋迦牟尼佛所。頭面禮足。奉上瓔珞。而白佛言。世尊。淨華宿王智佛。問訊世尊。少病少惱。起居輕利。安樂行不。四大調和不。世事可忍不。眾生易度不。無多貪欲瞋恚愚癡嫉妬慳慢不。無不孝父母不敬沙門。邪見。不善心不。攝五情不。世尊。眾生能降伏諸魔怨不。久滅度多寶如來在七寶塔中。來聽法不。又問訊多寶如來。安隱少惱。堪忍久住不。
(Kinh:
Đến nơi, xuống đài bảy báu. Cầm trăm
ngàn chuỗi anh lạc có giá trị đem tới chỗ Thích
Ca Mâu Ni Phật, đầu mặt lễ dưới chân, dâng
lên chuỗi anh lạc, bạch cùng đức Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật hỏi
thăm đức Thế Tôn: Ít bệnh, ít năo, đi đứng
nhẹ nhàng, nhanh nhẹn hay không? Có an lạc hay không? Tứ
Đại điều ḥa hay không? Có thể nhẫn chuyện
đời hay không? Chúng sanh có dễ độ hay không? Chẳng
có kẻ tham dục, sân khuể, ngu si, ghen ghét, keo kiệt,
ngạo mạn hay không? Chẳng có kẻ bất hiếu với
cha mẹ, chẳng kính trọng sa-môn, tà kiến,
tâm bất thiện hay không? Nhiếp ngũ t́nh[6] hay không? Bạch
Thế Tôn! Chúng sanh có thể hàng phục các ma oán hay không? Đa
Bảo Như Lai diệt độ đă lâu, ở trong tháp
bảy báu có đến nghe pháp hay không? Lại hỏi thăm
Đa Bảo Như Lai an ổn, ít năo? Kham nhẫn trụ lâu
trong đời hay không?)
24.2.2.4. Xin được thấy Phật
Đa Bảo
(Kinh)
Thế Tôn! Ngă kim dục kiến Đa Bảo Phật thân,
duy nguyện Thế Tôn thị ngă linh kiến.
(經)世尊。我今欲見多寶佛身。惟願世尊示我令見。
(Kinh:
Bạch Thế Tôn! Con nay muốn thấy thân Phật Đa
Bảo, kính mong đức Thế Tôn chỉ bày cho con thấy).
24.2.2.5. Phật Thích Ca v́ [Diệu Âm Bồ
Tát] thông truyền
(Kinh)
Nhĩ thời, Thích Ca Mâu Ni Phật ngữ Đa Bảo Phật:
- Thị Diệu Âm Bồ Tát dục đắc tương
kiến.
(經)爾時釋迦牟尼佛。語多寶佛。是妙音菩薩。欲得相見。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật nói với Đa Bảo
Phật: - Vị Diệu Âm Bồ Tát này muốn được
gặp gỡ).
24.2.2.6. Trong tháp khen ngợi tốt
lành
(Kinh)
Thời Đa Bảo Phật cáo Diệu Âm ngôn: - Thiện
tai! Thiện tai! Nhữ năng vị cúng dường Thích
Ca Mâu Ni Phật, cập thính Pháp Hoa kinh, tịnh kiến Văn
Thù Sư Lợi đẳng, cố lai chí thử.
(經)時多寶佛告妙音言。善哉。善哉。汝能為供養釋迦牟尼佛。及聽法華經。幷見文殊師利等。故來至此。
(Kinh: Lúc
đó, Đa Bảo Phật bảo Diệu Âm rằng: - Lành
thay! Lành thay! Ông có thể v́ cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật
và nghe kinh Pháp Hoa, cùng thấy Văn Thù Sư Lợi v.v… cho
nên đến nơi này).
“Khen ngợi tốt
lành” chính là gặp gỡ đă xong, chẳng cần mở
tháp.
24.2.2.7. Hỏi đáp về cái nhân xưa kia của [Diệu
Âm Bồ Tát]
24.2.2.7.1. Hỏi
(Kinh)
Nhĩ thời, Hoa Đức Bồ Tát bạch Phật ngôn:
- Thế Tôn! Thị Diệu Âm Bồ Tát chủng hà thiện
căn? Tu hà công đức, hữu thị thần lực?
(經)爾時華德菩薩白佛言。世尊。是妙音菩薩。種何善根。修何功德。有是神力。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, Hoa Đức (Padmaśrī) Bồ Tát bạch
Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Vị Diệu Âm Bồ
Tát này đă gieo thiện căn ǵ? Tu công đức ǵ mà có
thần lực ấy?)
Diệu Âm chính là hậu
thân của phu nhân Tịnh Đức. Hoa Đức chính là
hậu thân của vua Diệu Trang Nghiêm, vốn là bậc đại
thiện tri thức trong đời trước. V́ thế,
nay Ngài v́ đại chúng thưa hỏi, hiển thị công
đức ấy!
24.2.2.7.2. Đáp
(Kinh)
Phật cáo Hoa Đức Bồ Tát: - Quá khứ hữu Phật,
danh Vân Lôi Âm Vương Đa-đà-a-già-độ, A La Ha,
Tam Miệu Tam Phật Đà. Quốc danh Hiện Nhất
Thiết Thế Gian, kiếp danh Hỷ Kiến. Diệu Âm Bồ
Tát ư vạn nhị thiên tuế, dĩ thập vạn chủng
kỹ nhạc, cúng dường Vân Lôi Âm Vương Phật, tịnh phụng thượng bát vạn
tứ thiên thất bảo bát. Dĩ thị nhân duyên quả
báo, kim sanh Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật quốc, hữu
thị thần lực. Hoa Đức! Ư nhữ ư vân hà?
Nhĩ thời, Vân Lôi Âm Vương Phật sở Diệu
Âm Bồ Tát kỹ nhạc cúng dường, phụng thượng
bảo khí giả, khởi dị nhân hồ? Kim thử Diệu
Âm Bồ Tát Ma Ha Tát thị. Hoa Đức! Thị Diệu
Âm Bồ Tát dĩ tằng cúng dường, thân cận vô
lượng chư Phật, cửu thực đức bổn,
hựu trị hằng hà sa đẳng bách thiên vạn ức
na-do-tha Phật.
(經)佛告華德菩薩。過去有佛。名雲雷音王多陀阿伽度。阿羅訶。三藐三佛陀。國名現一切世間。劫名喜見。妙音菩薩。於萬二千歲。以十萬種伎樂。供養雲雷音王佛。幷奉上八萬四千七寶鉢。以是因緣果報。今生淨華宿王智佛國。有是神力。華德。於汝意云何。爾時雲雷音王佛所妙音菩薩。伎樂供養。奉上寶器者。豈異人乎。今此妙音菩薩摩訶薩是。華德。是妙音菩薩。已曾供養親近無量諸佛。久植德本。又值恆河沙等百千萬億那由他佛。
(Kinh:
Đức Phật bảo Hoa Đức Bồ Tát: - Quá
khứ có Phật tên là Vân Lôi Âm Vương (Meghadundubhisvararāja)[7] Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri. Cơi nước tên là Hiện Nhất Thiết
Thế Gian (Sarvarūpasaṃdarśana), kiếp tên là Hỷ Kiến (Priyadarśana). Diệu
Âm Bồ Tát trong một vạn hai ngàn năm, dùng mười
vạn loại kỹ nhạc để cúng dường Vân Lôi
Âm Vương Phật, và dâng lên tám vạn bốn ngàn bát bằng
bảy báu[8].
Do nhân duyên quả báo ấy, nay sanh trong cơi của Tịnh
Hoa Tú Vương Trí Phật, bèn có thần lực ấy. Này
Hoa Đức! Ư ông nghĩ sao? Thuở đó, Diệu Âm Bồ
Tát ở chỗ Vân Lôi Âm Vương Phật, dùng kỹ nhạc
cúng dường, dâng hiến bát báu, há phải là ai khác? Chính là vị Diệu Âm Bồ
Tát Ma Ha Tát này trong hiện thời. Này Hoa Đức! Vị
Diệu Âm Bồ Tát này đă từng cúng dường, thân cận
vô lượng chư Phật, gieo cội đức đă
lâu. Lại gặp gỡ hằng hà sa trăm ngàn vạn ức
na-do-tha Phật).
Phần
thứ hai, “phụng mạng sang phương Tây” đă xong.
24.3. Hoằng kinh trong mười phương
24.3.1. Nói về sự hiện thân thuyết
pháp
(Kinh)
Hoa Đức! Nhữ đản kiến Diệu Âm Bồ
Tát kỳ thân tại thử, nhi thị Bồ Tát hiện chủng
chủng thân, xứ xứ vị chư chúng sanh, thuyết thị kinh điển. Hoặc
hiện Phạm Vương thân, hoặc hiện Đế
Thích thân, hoặc hiện Tự Tại thiên thân, hoặc hiện
Đại Tự Tại thiên thân, hoặc hiện thiên
đại tướng quân thân, hoặc hiện Tỳ Sa
Môn thiên vương thân, hoặc hiện chuyển luân thánh
vương thân, hoặc hiện chư tiểu vương
thân, hoặc hiện trưởng giả thân, hoặc hiện
cư sĩ thân, hoặc hiện tể quan thân, hoặc hiện
Bà La Môn thân, hoặc hiện tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc,
Ưu-bà-di thân, hoặc hiện trưởng giả, cư
sĩ, phụ nữ thân, hoặc hiện tể quan phụ
nữ thân, hoặc hiện Bà La Môn phụ nữ thân, hoặc
hiện đồng nam, đồng nữ thân. Hoặc hiện
thiên, long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La. Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma
Hầu La Già, nhân, phi nhân đẳng thân, nhi thuyết thị
kinh. Chư hữu địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh,
cập chúng nạn xứ, giai năng cứu tế. Năi chí ư
vương hậu cung, biến vi nữ thân, nhi thuyết
thị kinh. Hoa Đức! Thị Diệu Âm Bồ Tát năng
cứu hộ Sa Bà thế giới chư chúng sanh giả. Thị
Diệu Âm Bồ Tát như thị chủng chủng biến
hóa hiện thân. Tại thử Sa Bà quốc độ, vị
chư chúng sanh thuyết thị kinh điển. Ư thần
thông, biến hóa, trí huệ, vô sở tổn giảm. Thị
Bồ Tát dĩ nhược can trí huệ minh chiếu Sa Bà
thế giới, linh nhất thiết chúng sanh, các đắc
sở tri. Ư thập phương hằng hà sa thế giới
trung, diệc phục như thị. Nhược ưng dĩ
Thanh Văn h́nh đắc độ giả, hiện Thanh
Văn h́nh nhi vị thuyết pháp. Ưng dĩ Bích Chi Phật
h́nh đắc độ giả, hiện Bích Chi Phật
h́nh nhi vị thuyết pháp. Ưng dĩ Bồ Tát h́nh đắc
độ giả, hiện Bồ Tát h́nh nhi vị thuyết
pháp. Ưng dĩ Phật h́nh đắc độ giả,
tức hiện Phật h́nh nhi vị thuyết pháp. Như
thị chủng chủng, tùy sở ưng độ, nhi vị
hiện h́nh, năi chí ưng dĩ diệt độ nhi đắc
độ giả, thị hiện diệt độ. Hoa
Đức! Diệu Âm Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu đại
thần thông trí huệ chi lực, kỳ sự như thị.
(經)華德。汝但見妙音菩薩。其身在此。而是菩薩。現種種身。處處為諸眾生說是經典。或現梵王身。或現帝釋身。或現自在天身。或現大自在天身。或現天大將軍身。或現毘沙門天王身。或現轉輪聖王身。或現諸小王身。或現長者身。或現居士身。或現宰官身。或現婆羅門身。或現比丘。比丘尼。優婆塞。優婆夷身。或現長者居士婦女身。或現宰官婦女身。或現婆羅門婦女身。或現童男童女身。或現天。龍。夜叉。乾闥婆。阿修羅。迦樓羅。緊那羅。摩睺羅伽。人。非人等身而說是經。諸有地獄。餓鬼。畜生。及眾難處。皆能救濟。乃至於王後宮。變為女身而說是經。華德。是妙音菩薩。能救護娑婆世界諸眾生者。是妙音菩薩。如是種種變化現身。在此娑婆國土。為諸眾生說是經典。於神通變化智慧。無所損減。是菩薩以若干智慧。明照娑婆世界。令一切眾生。各得所知。於十方恆河沙世界中。亦復如是。若應以聲聞形得度者。現聲聞形而為說法。應以辟支佛形得度者。現辟支佛形而為說法。應以菩薩形得度者。現菩薩形而為說法。應以佛形得度者。即現佛形而為說法。如是種種。隨所應度而為現形。乃至應以滅度而得度者。示現滅度。華德。妙音菩薩摩訶薩。成就大神通智慧之力。其事如是。
(Kinh: Này Hoa
Đức! Ông chỉ thấy thân của Diệu Âm Bồ
Tát ở nơi đây, nhưng vị Bồ Tát này hiện đủ loại thân, tại các chốn v́
các chúng sanh nói kinh điển này. Hoặc hiện thân Phạm
Vương, hoặc hiện thân Đế Thích, hoặc hiện
thân Tự Tại Thiên (Īśvara), hoặc hiện thân Đại
Tự Tại Thiên (Maheśvara), hoặc hiện thân thiên đại
tướng quân, hoặc hiện thân Tỳ Sa Môn (Vaiśravaṇa)
thiên vương, hoặc hiện thân chuyển luân thánh
vương, hoặc hiện các thân tiểu vương, hoặc
hiện thân trưởng giả, hoặc hiện thân cư
sĩ, hoặc hiện thân tể quan[9], hoặc hiện
thân Bà La Môn, hoặc hiện thân tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc hiện thân phụ nữ
của trưởng giả, cư sĩ, hoặc hiện
thân phụ nữ của tể quan, hoặc hiện thân Bà La Môn phụ nữ,
hoặc hiện thân trẻ trai, trẻ gái, hoặc hiện
thân trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn
Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân v.v… để nói kinh này. Các
chỗ có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và các chỗ
hoạn nạn, Ngài đều có thể cứu giúp. Thậm
chí ở trong hậu cung của nhà vua, biến thành thân nữ
để nói kinh này. Này Hoa Đức! Vị Diệu Âm Bồ
Tát này có thể cứu độ, bảo vệ các chúng sanh
trong thế giới Sa Bà. Vị Diệu Âm Bồ Tát này biến
hóa hiện thân đủ loại như thế trong quốc
độ Sa Bà này, v́ các chúng sanh nói kinh điển này, nhưng
thần thông, biến hóa, trí huệ chẳng bị tổn
giảm. Vị Bồ Tát này dùng ngần ấy trí huệ chiếu
sáng thế giới Sa Bà, khiến cho hết thảy chúng sanh
ai nấy đều biết. Trong các thế giới nhiều
như cát sông Hằng thuộc mười phương, cũng
lại như thế. Nếu đáng nên dùng h́nh tướng
Thanh Văn để đắc độ, bèn hiện h́nh
tướng Thanh Văn để thuyết pháp. Đáng nên
dùng h́nh tướng Bích Chi Phật để đắc
độ, bèn hiện h́nh tướng Bích Chi Phật để
thuyết pháp. Đáng nên dùng h́nh tướng Bồ Tát để
đắc độ, bèn hiện h́nh tướng Bồ Tát
để thuyết pháp. Đáng nên dùng thân Phật để
đắc độ, liền hiện thân Phật để
thuyết pháp. Các thứ [thân h́nh như thế], tùy theo sự
đáng độ mà hiện h́nh tướng, cho đến
đáng nên dùng diệt độ để đắc độ,
bèn thị hiện diệt độ. Này Hoa Đức! Diệu
Âm Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu sức đại thần
thông trí huệ, là chuyện như thế đó).
Thị hiện ba mươi
bốn phàm thân và bốn thân thánh nhân (Phật,
Bồ Tát, Thanh Văn, Bích Chi Phật), kết
thành lục đạo mười pháp giới vậy! Điều
này tỏ rơ sức khó suy nghĩ của Bồ Tát, tùy loại
mà lưu thông kinh. Chúng sanh trông thấy h́nh tích của Ngài,
chẳng suy lường được Bổn, chỉ đành nhận lănh pháp vị, đừng chọn
lựa h́nh tướng.
24.3.2. Hỏi đáp về các tam-muội
do Diệu Âm Bồ Tát đă trụ
24.3.2.1. Hỏi
(Kinh)
Nhĩ thời, Hoa Đức Bồ Tát bạch Phật ngôn:
- Thế Tôn! Thị Diệu Âm Bồ Tát thâm chủng thiện
căn. Thế Tôn! Thị Bồ Tát trụ hà tam-muội,
nhi năng như thị tại sở biến hiện, độ
thoát chúng sanh?
(經)爾時華德菩薩白佛言。世尊。是妙音菩薩。深種善根。世尊。是菩薩住何三昧。而能如是在所變現。度脫眾生。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Hoa Đức Bồ Tát bạch Phật
rằng: - Bạch Thế Tôn! Vị Diệu Âm Bồ Tát này
gieo thiện căn sâu đậm. Bạch
Thế Tôn! Vị Bồ Tát này trụ trong tam-muội nào mà
có thể biến hiện khắp nơi, độ thoát chúng
sanh như thế?)
“Thâm chủng thiện
căn” tức là lănh ngộ các Phật sự dùng bát báu,
kỹ nhạc [cúng dường Phật] trong phần trước.
“Trụ hà tam-muội” (trụ trong tam-muội nào) chính
là lời hỏi về nguyên do hiện thân hoằng pháp
trong mười pháp giới vậy!
24.3.2.2. Đáp
(Kinh)
Phật cáo Hoa Đức Bồ Tát: - Thiện nam tử! Kỳ
tam-muội danh Hiện Nhất Thiết Sắc Thân. Diệu
Âm Bồ Tát trụ thị tam-muội trung, năng như thị
nhiêu ích vô lượng chúng sanh.
(經)佛告華德菩薩。善男子。其三昧名現一切色身。妙音菩薩住是三昧中。能如是饒益無量眾生。
(Kinh: Đức
Phật bảo Hoa Đức Bồ Tát: - Này thiện
nam tử! Tam-muội ấy tên là Hiện Nhất Thiết
Sắc Thân (Sarvarūpasaṃdarśana). Diệu Âm Bồ Tát
trụ trong tam-muội ấy, có thể lợi ích vô lượng
chúng sanh như thế).
Phần thứ ba, “hoằng
kinh trong mười phương” đă xong.
24.4. Hai cơi được lợi ích
(Kinh)
Thuyết thị Diệu Âm Bồ Tát phẩm thời, dữ
Diệu Âm Bồ Tát câu lai giả bát vạn tứ thiên nhân,
giai đắc Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội.
Thử Sa Bà thế giới vô lượng Bồ Tát diệc
đắc thị tam-muội cập đà-la-ni.
(經)說是妙音菩薩品時。與妙音菩薩俱來者八萬四千人。皆得現一切色身三昧。此娑婆世界無量菩薩。亦得是三昧及陀羅尼。
(Kinh: Khi
nói phẩm Diệu Âm Bồ Tát, tám vạn bốn ngàn người
cùng đến với Diệu Âm Bồ Tát đều đắc
Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội. Vô lượng
Bồ Tát trong thế giới Sa Bà này cũng đắc môn tam-muội
và đà-la-ni ấy).
Tam-muội và Đà
La Ni có cùng một Thể, nhưng tác dụng khác nhau. Tác dụng
về phương diện Tịch th́ gọi là tam-muội,
tác dụng Tŕ được gọi là Đà La Ni. Lại nữa,
sắc thân biến hiện th́ gọi là tam-muội, âm thanh
biện thuyết th́ gọi là Đà La Ni, chỉ là viên định
và viên huệ đó thôi! Đă có thể hiện thân, ắt
sẽ có thể thuyết pháp, tức
là chẳng có thứ tự cũng được. Theo
phẩm Dược Vương, trước đó đă đắc
tam-muội, thiêu thân cúng Phật, bèn đạt được
tổng tŕ, cho nên nói có sâu hay cạn cũng được!
Nay xét theo hai cơi để nói th́ các vị Bồ Tát cùng đến
chính là dân trong cơi Tịnh Độ, phước vượt
hẳn trí, cho nên chỉ đắc tam-muội. Bồ Tát
trong cơi này là người thuộc uế độ, sức
nhẫn trí rất mạnh; v́ thế đắc kèm thêm tổng
tŕ.
24.5. [Diệu Âm Bồ Tát] trở về
nước ḿnh
(Kinh) Nhĩ thời,
Diệu Âm Bồ Tát Ma Ha Tát cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật, cập Đa Bảo Phật tháp dĩ,
hoàn quy bổn độ. Sở kinh chư quốc, lục
chủng chấn động, vũ bảo liên hoa, tác bách
thiên vạn ức chủng chủng kỹ nhạc. Kư đáo
bổn quốc, dữ bát vạn tứ thiên Bồ Tát vi nhiễu,
chí Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật sở, bạch Phật
ngôn: - Thế Tôn! Ngă đáo Sa Bà thế giới nhiêu ích chúng
sanh, kiến Thích Ca Mâu Ni Phật, cập kiến Đa Bảo
Phật tháp, lễ bái, cúng dường. Hựu kiến Văn
Thù Sư Lợi pháp vương tử Bồ Tát, cập kiến
Dược Vương Bồ Tát, Đắc Cần Tinh Tấn
Lực Bồ Tát, Dũng Thí Bồ
Tát đẳng, diệc linh thị bát vạn tứ thiên Bồ
Tát đắc Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội.
(經)爾時妙音菩薩摩訶薩。供養釋迦牟尼佛及多寶佛塔已。還歸本土。所經諸國。六種震動。雨寶蓮華。作百千萬億種種伎樂。旣到本國。與八萬四千菩薩圍繞。至淨華宿王智佛所。白佛言。世尊。我到娑婆世界饒益眾生。見釋迦牟尼佛。及見多寶佛塔。禮拜供養。又見文殊師利法王子菩薩。及見藥王菩薩。得勤精進力菩薩。勇施菩薩等。亦令是八萬四千菩薩。得現一切色身三昧。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Diệu Âm Bồ Tát Ma Ha Tát cúng dường Thích Ca Mâu
Ni Phật và tháp của Đa Bảo Phật xong, trở về
cơi ḿnh. Các nước Ngài đi qua đều sáu thứ chấn
động, mưa hoa sen báu, tấu trăm ngàn vạn ức
các thứ kỹ nhạc. Đă đến nước ḿnh, cùng với tám vạn bốn
ngàn Bồ Tát vây quanh, đến chỗ Tịnh Hoa Tú
Vương Trí Phật, bạch cùng đức Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con đến thế giới Sa Bà lợi
ích chúng sanh, gặp Thích Ca Mâu Ni Phật và thấy tháp của
Đa Bảo Phật, lễ bái, cúng dường. Lại thấy
Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử Bồ Tát, và
thấy Dược Vương Bồ Tát (Bhaiṣajyarāja),
Đắc Cần Tinh Tấn Lực Bồ Tát (Vīrya-balavegaprāpta),
Dũng Thí Bồ Tát (Pradānaśūra) v.v… Cũng khiến
cho tám vạn bốn ngàn Bồ Tát đắc Hiện Nhất
Thiết Sắc Thân tam-muội).
24.6. Nghe phẩm này đạo tăng
tấn
(Kinh) Thuyết
thị Diệu Âm Bồ Tát lai văng phẩm thời, tứ vạn
nhị thiên thiên tử đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, Hoa
Đức Bồ Tát đắc Pháp Hoa tam-muội.
(經)說是妙音菩薩來往品時。四萬二千天子。得無生法忍。華德菩薩。得法華三昧。
(Kinh:
Khi nói phẩm Diệu Âm Bồ Tát đến đi này, bốn
vạn hai ngàn thiên tử đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, Hoa
Đức Bồ Tát đắc Pháp Hoa tam-muội).
Đắc Vô Sanh Nhẫn
là khai Phật tri kiến. Đắc Pháp Hoa tam-muội là tăng
tấn trí huệ, tổn giảm phiền cấu sanh tử.
Ngài Hoa Đức chính là bậc đương cơ, cho nên
đạt được lợi ích sâu gấp bội. Các
thiên tử trước đó các căn đă tịnh, nay ngộ
viên nhân (cái nhân viên măn). V́ thế biết Chánh Thuyết và Lưu
Thông, phần nào cũng đều có người do chủng
tử thuần thục mà đạt được lợi
ích giải thoát, công dụng chẳng khác nhau. Giải thích
phẩm Diệu Âm đă xong. Kế đó, giải thích phẩm
Phổ Môn.
25. Phẩm thứ hai mươi lăm:
Quán Thế Âm Bồ Tát
Phổ Môn (Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn phẩm đệ
nhị thập ngũ, 觀世音菩薩普門品第二十五)
“Quán” là năng quán trí (cái trí có thể
quán), tức là nhất tâm tam trí. Thế Âm chính là cảnh
được quán, tức căn cơ trong mười
pháp giới. Cảnh và trí cùng được nêu lên, cảm và ứng được gộp
chung lại để nêu ra. V́ thế, gọi là Quán Thế
Âm. Từ ngữ Bồ Tát th́ đă giải thích ư nghĩa
trong phần trước.
“Phổ” là trọn khắp. “Môn”
có nghĩa là “có thể thông suốt”. Dùng một Thật
Tướng có thể mở ra thành mười môn Phổ
(trọn khắp), chẳng bị chướng ngăn ǵ!
V́ thế gọi là Phổ Môn.
25.1.
Giải thích danh xưng của phẩm này
Phần
giải thích được chia thành hai đoạn: Một
là Thông, hai là Biệt. Phần Thông Thích lại được chia làm bốn mục:
- Một, liệt kê danh xưng [của các khoa mục để thảo luận].
- Hai, thứ tự [của các khoa mục ấy]
- Ba, giải thích [nội dung của các khoa mục ấy].
- Bốn, liệu giản.
25.1.1.
Thông Thích (phần giải thích chung)
25.1.1.1.
Liệt kê danh xưng
Một là Nhân Pháp, hai là từ bi, ba là phước huệ, bốn là chân
ứng, năm là dược châu[10],
sáu là minh hiển (âm thầm hay hiển lộ), bảy là Quyền Thật,
tám là Bổn Tích, chín là duyên liễu (duyên nhân và liễu
nhân), mười là trí đoạn (Trí Đức và Đoạn
Đức).
25.1.1.2.
Thứ tự
Lại có hai ư:
- Một, xét theo Quán để giảng về
thứ tự.
- Hai, xét theo Giáo để giảng về thứ
tự.
25.1.1.2.1.
Xét theo Quán để nói về thứ tự
Xét theo Quán, muốn nói về quán hạnh,
ắt phải có người [thực hiện quán hạnh ấy]. Người ắt phải nắm
giữ pháp. V́ thế, [nhân và pháp được] đặt
đầu tiên. Kế đến là từ bi. Ấy là v́
Quán Âm là người, quán pháp Thật Tướng Phổ
Môn, thấu đạt lư Thật Tướng “chẳng phải người, chẳng phải pháp”, biết rơ hết thảy chúng sanh cũng đều
giống như thế. V́ vậy, kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm,
Phật, cập chúng sanh. Thị tam vô sai biệt” (tâm, Phật
và chúng sanh, ba thứ ấy chẳng sai khác). Lư ấy trọn
đủ, chẳng có khuyết giảm,
cớ sao chúng sanh có đủ lư mà lại mê nơi t́nh,
[để rồi] điên đảo, khổ năo? Đă quán
như thế rồi, liền dấy lên thệ nguyện từ
bi “dẹp khổ, ban vui”.
Kế đó là Phước Huệ. Trước
hết, Nhân và Pháp thành tựu lẫn
nhau. Đấy là dựa theo Tín. Kế đó, từ bi dẹp khổ,
ban vui. Đấy là nói về Nguyện. Muốn thỏa măn nguyện ấy, ắt
phải tu hành. Tu hành chẳng ra ngoài phước và huệ.
Huệ tức Bát Nhă. Phước tức năm độ
(Bố Thí, Tŕ Giới, Nhẫn Nhục…) giúp đỡ,
hướng dẫn lẫn nhau. Do hành thuận theo nguyện,
Lư Sự trọn vẹn, sẽ có thể dẹp khổ,
ban vui.
Kế đó là Chân Ứng: Phước huệ
trọn đủ, khế hợp pháp tánh, pháp tánh tức Thật Tướng, th́ gọi
là Pháp Thân. Pháp Thân đă hiển, từ Chân (chân thân) bèn khởi
Ứng (ứng thân).
Kế đó là Dược Châu: Chứng
đắc Chân Ứng, đều có thể lợi ích chúng
sanh: Phá bệnh Tam Hoặc như cây thuốc chúa (dược
thụ vương); có thể tuôn ra báu Tam Đế như
Như Ư Châu vương.
Kế đó là Minh Hiển: Chúng sanh cơ cảm,
[Bồ Tát] dùng hai thân (Thắng Ứng Thân và Liệt Ứng
Thân) để ứng, hoặc Minh (冥, ngấm ngầm, âm thầm) hoặc
Hiển (顯, rơ rệt), [chúng sanh]
đạt được lợi ích khác nhau.
Kế đó là Quyền Thật: Đạt
được lợi ích khác nhau, đều do hai trí lực
(Quyền Trí và Thật Trí), nhưng chẳng hề không hợp
lẽ.
Kế đó là Bổn Tích: Tuy khéo dùng hai trí
(Quyền Trí và Thật Trí) để lợi ích hết thảy,
nhưng có hơn, kém khác nhau. Ấy là v́ Bổn Tích [gồm
có các trường hợp sau]:
- Bổn và Tích đều cao.
- Hoặc Bổn cao Tích thấp, hai trí ắt
đều ưu việt.
- Nếu Bổn thấp, Tích cao, hoặc Bổn
lẫn Tích đều thấp, hai trí sẽ đều thấp.
Kế đó là Duyên Liễu: Trong phần trên
đă nói hành nhân phát tâm tu hành, từ nhân mà đạt
được cái quả, giáo hóa người khác, lợi lạc
chúng sanh, [công hạnh] sâu hay cạn khác nhau. Từ Nhân Pháp
cho tới Chân Ứng, chính là thứ tự trong tự hành.
Từ Dược Châu cho tới Bổn Tích, chính là thứ
tự trong sự
giáo hóa người
khác. [Phán định thứ tự như thế] đều
là luận định theo chiều thuận, chưa phải
là t́m đến căn bản. Nay xét theo chủng tử
trong Tánh Đức, nếu là người quán trí, bi tâm thệ
nguyện, trí huệ trang nghiêm, hiển xuất chân thân, sẽ
đều là liễu nhân làm chủng tử. Nếu là pháp
Phổ Môn th́ từ tâm thệ nguyện, phước đức
trang nghiêm, hiển xuất Ứng Thân, sẽ đều là
duyên nhân làm chủng tử.
Kế đó là Trí Đoạn, lại bàn
đến căn nguyên th́ chính là luận theo chiều thuận
đến rốt ráo, [sẽ thấy]: Khởi đầu
là dấy lên liễu nhân của chính ḿnh, kết thúc bằng
Bồ Đề đại trí. Khởi đầu bằng
dấy lên duyên nhân của chính ḿnh, kết thúc bằng Niết
Bàn đoạn đức.
25.1.1.2.2.
Xét theo Giáo để luận định thứ tự
Lại có Thông và Biệt.
25.1.1.2.2.1.
Thông luận về Giáo
Thông là năm thời bốn giáo,
đối với mỗi điều, đều có thể
luận định mười [khoa ư nghĩa trên đây, tức
là từ Nhân Pháp, Phước Huệ, cho đến Trí
Đoạn], thuận theo pháp nghĩa mà lập, chẳng thể
thấu hiểu cùng tột sâu thẳm được.
Lại như đối với mười
cặp [ư nghĩa trên đây] trong Tam Tạng: Dựa theo
Ngũ Ấm mà gọi là Nhân Đế (tức Nhân trong Nhân
Pháp), dựa theo các Độ (Ba La Mật) mà gọi là Pháp.
Pháp duyên của Thanh Văn và sanh duyên của Bồ Tát
được gọi là Từ Bi. Tam Học của Thanh
Văn và Lục Độ của Bồ Tát được
gọi là Phước Huệ. Ngũ phần Pháp Thân (Giới, Định,
Huệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến) là Chân, tác ư thần thông (khởi lên
ư niệm để thực hiện thần thông) là Ứng.
Trị bệnh Tứ Trụ là Dược, tuôn mưa báu tam
thừa là Châu. Thấy nghe được lợi ích là Hiển.
Chẳng thấy, chẳng nghe là Minh (ngấm ngầm).
Tương xứng với Chân là Thật, thuận theo t́nh
kiến là Quyền. Tự chứng là Bổn, thị hiện
là Tích. Một câu một kệ là Liễu Nhân. Điều thiện nhỏ nhặt nơi tam nghiệp
là Duyên Nhân. Tận vô sanh trí là Trí. Hữu dư, vô dư là
Đoạn. Thanh Văn chứng dần dần, Bồ Tát
đốn thành (thành tựu ngay lập tức). Tam Tạng
c̣n có đủ [mười pháp ấy], th́ Thông Giáo và Biệt
Giáo có thể biết, chẳng phiền phải rườm
lời!
25.1.1.2.2.2.
Biệt luận về Giáo
Biệt th́ trải qua ngũ vị (sữa,
lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ) để nói rơ
nhiều hay ít khác nhau:
- Như Đốn giáo thuộc vị sữa,
có giáo pháp tên là Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm. Đại Phương Quảng là Pháp, Phật chính
là Nhân (người). Người ấy nắm giữ pháp,
ắt đủ từ bi. Nhân hoa chính là phước huệ
nhị nghiêm (hai thứ phước và huệ trang nghiêm).
Trang nghiêm quả đức chính là Chân Ứng. Đă có thể
lợi lạc chúng sanh, ắt biện định Dược
Châu. Chúng sanh đạt được lợi ích, ắt có
Minh Hiển (rơ rệt hay ngấm ngầm), nhưng Quyền
Thật, Bổn Tích, Duyên Liễu, Trí Đoạn, luận
định chung th́ có, luận định riêng th́ không. V́
sao vậy? Một thời giáo hóa chúng sanh của đức
Phật, được thể hiện bằng Đốn
và Tiệm. Nay Hoa Nghiêm là đốn thuyết, Tiệm Giáo
chưa được nêu bày. V́ thế, chẳng nói rơ bốn
ư (tức chẳng nói rơ bốn ư nghĩa Quyền Thật, Bổn Tích, Duyên Liễu,
và Trí Đoạn). [Bởi lẽ], Tiểu cách biệt
Đại, như điếc, như câm, c̣n bị che lấp bởi Quyền, chưa hiển lộ Thật. V́ thế, chẳng có
Quyền và Thật. Chưa nêu bày sanh thân trong cung vua [Tịnh
Phạn] là Tích, chưa chỉ bày Pháp Thân nơi Tịch Diệt
Đạo Tràng là Tích, chưa hiển lộ Bổn đă
thành Phật từ thuở lâu xa. Do đó, chẳng có Bổn Tích. Chẳng
nói Tiểu Thừa vốn có cái nhân “duyên nhân”
và “liễu
nhân”
nơi Tánh Đức, sẽ nhất quyết đạt
được cái quả Trí Đoạn vốn sẵn có.
V́ thế, chẳng có hai ư sau.
- Tiếp đó, Tam Tạng
giáo thuộc vị lạc, chỉ nói ba nghĩa Nhân Pháp, Từ Bi và Phước Huệ, chẳng
có bảy nghĩa như Chân Ứng v.v… V́ sao vậy? Hôi thân
diệt trí (sau khi đă chứng Hữu Dư Niết Bàn
bèn nát thân như tro tàn lửa tắt, trí trụ vào Diệt Tận Định),
sao có thể từ Chân khởi Ứng cho được?
Đă chẳng có Chân Ứng, dùng ǵ để lợi ích chúng
sanh? Lại c̣n xét theo Chân Đế, luận định
chung th́ có mười [khoa như Nhân Pháp, Từ Bi, Phước
Huệ v.v…], nhưng Bồ Tát chế phục Hoặc trong
ba A-tăng-kỳ kiếp, cũng chẳng thể luận
định Chân Ứng v.v… được!
- Kế đó, giáo pháp
Phương Đẳng thuộc vị sanh tô, đối với
Tiểu mà nói Đại, đạt được từ
Nhân Pháp thuộc Đại Thừa Trung Đạo cho đến
hai món lợi ích Minh và Hiển, nhưng vẫn c̣n vướng
mắc nơi phương tiện điều phục, thuần
thục chúng sanh. V́ thế, chẳng thể nói bốn ư
như Quyền Thật, [Bổn Tích, Trí Đoạn] v.v…
- Kế đó là giáo pháp Bát
Nhă thuộc vị thục tô, tuy đă hiểu pháp Tiểu
Thừa đều là Ma Ha Diễn (Đại Thừa), vẫn
chưa lănh hội người Tiểu Thừa cũng kèm
theo phương tiện. Do vậy, cũng chỉ có sáu
nghĩa, v́ chưa
nói rơ bốn ư Quyền Thật v.v…
- Nay giáo pháp Pháp Hoa thuộc vị
đề hồ, thấu hiểu hàng Tiểu Thừa “ngươi
thật sự là con ta, ta thật sự là cha ngươi.
Những điều ngươi hành đều là Bồ Tát
đạo, khai Quyền hiển Thật, khai Tích hiển Bổn”,
liễu nghĩa quyết định, chẳng c̣n nghi nan,
đạt được tám ư từ Nhân Pháp thuộc về
Trung Đạo cho đến Bổn Tích v.v… Đại sự
nhân duyên điều phục, thuần thục chúng sanh của
chư Phật trong ba đời viên măn rốt ráo đều
trọn đủ trong kinh này. V́ thế, hai vạn vị
Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật chỉ nói Pháp Hoa rồi
liền chấm dứt sự giáo hóa. Ca Diếp Như Lai
cũng giống như thế. C̣n như [Phật Thích Ca dạy]
giáo pháp Niết Bàn là v́ hàng đệ tử độn
căn chưa
thể ngộ nhập kinh Pháp Hoa, cho nên lại phải bàn
luận nguyên do, nói rộng về duyên nhân và liễu nhân, nhằm
nêu rơ ba Phật tánh (chánh nhân Phật tánh, duyên nhân Phật
tánh, liễu nhân Phật tánh). Liễu nhân chủng tử
trong Tánh Đức hễ tu được, sẽ trở
thành ba thứ Bát Nhă Trí Đức Bồ Đề. Duyên
nhân chủng tử trong Tánh Đức hễ tu
được, sẽ trở thành ba thứ Giải Thoát
Đoạn Đức Niết Bàn. Tánh Đức chẳng
phải là duyên nhân, chẳng phải liễu nhân, mà chính là
chánh nhân. Hễ tu thành tựu, sẽ là Pháp Thân
ba điểm chẳng dọc, chẳng ngang[11].
V́ thế biết: Điều được minh thị
trong kinh Niết Bàn chính là nói: “Khởi đầu
là
tám pháp, rốt cuộc thành tựu Trí Đoạn,
trọn đủ mười nghĩa”. Đă trải khắp
ngũ vị để định luận thứ tự của
mười pháp, th́ sẽ hiểu: Xét theo bốn giáo,
[đáng nên luận định như thế nào].
Lại nữa, sáu ư (Nhân Pháp,
Từ Bi, Phước Huệ v.v…) của thời Hoa Nghiêm
đối với người lợi căn
sẽ thành đề hồ, đối với kẻ độn
căn sẽ thành sữa. Đối với ba ư trong Tam Tạng
(Nhân Pháp, Từ Bi, và Phước Huệ), người
lợi căn ngầm trừ bỏ, cũng trở thành đề
hồ, nhưng đối với người độn căn
sẽ thành lạc. Sáu ư nghĩa của thời Phương
Đẳng, đối với người lợi căn sẽ
thành đề hồ, đối với kẻ độn
căn sẽ thành sanh tô. Sáu ư của Bát Nhă đối với người lợi
nhân sẽ trở thành đề hồ, đối với
người độn căn sẽ trở thành thục
tô. Tám ư của Pháp Hoa đối với người độn
căn cũng thành đề hồ. Phần thứ ba, “[luận
định về] thứ tự” đă xong.
25.1.1.3. Giải thích
25.1.1.3.1. Giải thích Nhân Pháp
Trước hết,
giải thích Nhân Pháp. Nhân chính là giả danh chúng sanh, Pháp chính
là Ngũ Ấm Thật pháp. Pháp là “cái có thể thành”
(năng thành), Nhân là “điều được thành” (sở
thành). Nhân Pháp ấy chung cho phàm lẫn thánh. Như Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành và Thức chính là pháp thế gian;
do nắm níu các pháp ấy mà trở thành phàm nhân sanh tử!
Như Giới, Định, Huệ, Giải Thoát, Giải
Thoát Tri Kiến là pháp xuất thế, nắm giữ các pháp
ấy, sẽ
trở thành thánh nhân xuất thế. V́ thế, Đại
Luận nói: “Vô thượng đối với chúng sanh là
Phật. Vô thượng đối với pháp là Niết
Bàn”. Nhưng tuy chung cho phàm lẫn thánh, chẳng phải
là không sai biệt. Thượng, trung, hạ ác chính là Nhân
Pháp để thành tựu tam đồ. Thượng, trung,
hạ thiện chính là Nhân Pháp để thành tựu ba thiện
đạo. Do đó, có sáu đường sai khác. Nếu luận
định cặn kẽ hơn, sẽ là trăm ngàn vạn
phẩm.
Nhân Pháp xuất thế
cũng lại bất đồng! Như Hữu Môn của
Tam Tạng quán ngă nhân của chúng sanh như “lông rùa, sừng
thỏ”, rốt ráo chẳng thể được, chỉ
có pháp Ngũ Ấm. Đó chính là “nhân không, pháp chẳng
không”. Quán chắc chắn pháp vô thường sanh diệt
ấy, có thể chế phục Kiến Ái (Kiến Tư
Hoặc), phát sanh các điều thiện Ngũ Ấm hữu
lậu thuộc các địa vị Noăn, Đảnh v.v… tức là
nắm vững pháp phương tiện ấy để
thành bậc hiền nhân tự đạo (tương tự
đắc đạo). Nếu phát khởi Giới,
Định, Huệ v.v… vô lậu chân thật, tức là nắm
giữ pháp vô lậu ấy để thành bậc thánh nhân Tứ
Quả. Nếu chẳng nghe Thật giáo của Pháp Hoa, tùy ư
nương vào Hữu Dư để diệt rồi hôi thân diệt trí, cứ
tự cho là “đă nhập Vô Dư Niết Bàn, Nhân lẫn
Pháp đều tịch”. Thật ra, [kẻ đó] sanh
trong cơi Phương Tiện Hữu Dư ở ngoài tam giới.
Do nắm giữ pháp Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức
thuộc pháp tánh, trở thành người giả danh trong
cơi ấy.
Không Môn quán Ngũ Ấm ḥa hợp,
giả gọi là “người”. Ba
thứ hư giả đều hư huyễn, hời hợt,
sẽ nhập vào Không, phát sanh [các địa vị] Noăn,
Đảnh v.v… như đă nói trong phần trước.
Hai môn kia (tức Phi Hữu Phi Không và Diệc Hữu Diệc
Không) cũng
như thế. Nếu là người hiểu rơ Nhân Pháp trong
Ma Ha Diễn th́ cũng chẳng
nói “nhân không, pháp bất không”, cũng chẳng nói “nắm
giữ cái Thể của Thật pháp để trở thành
tác dụng của giả nhân”, chỉ quán tánh của các
pháp Ấm, Giới, Nhập và giả danh nhân vốn tự
Không.
Do chẳng diệt nên là Không. V́ thế, Đại Phẩm
nói: “Sắc tánh như ngă tánh, ngă tánh như sắc tánh. Khởi
đầu từ sơ tâm, kết thúc nơi hậu tâm,
thường quán Nhân và Pháp đều là Không”. Điều
này lại chia thành ba ư:
- Một, chỉ quán Nhị
Không (Nhân Không và Pháp Không), phát sanh tương tự giải,
tức là nắm lấy pháp thiện hữu lậu như huyễn, trở thành
người như huyễn nơi Tánh địa. Kế đó, phát sanh
chân giải, đoạn Kiến Tư Hoặc, tức là nắm
lấy các pháp vô lậu giới như huyễn v.v… trở
thành người như huyễn nơi Kiến địa;
nhưng do căn độn, chỉ thấy Không, chẳng
thấy Bất Không, vẫn giống như “hôi đoạn”
trong Tam Tạng, chẳng nhận biết là đang sống
trong cơi Phương Tiện Hữu Dư, nắm giữ pháp của cơi ấy, trở thành
người trong cơi ấy. Nếu là kẻ lợi căn,
đă phát khởi Chân, sẽ không chỉ thấy Không, mà c̣n
thấy Bất Không, biết rơ hai tánh Nhân và Pháp chẳng thể
đoạn diệt; tiến nhập
Biệt Giáo và Viên Giáo.
- Hai, biết rơ sanh tử
Nhân Pháp và xuất thế Nhân Pháp, gọi là Nhị Biên,
nhưng Thật Tướng pháp tánh chẳng phải là
Nhân, chẳng phải là Pháp, chẳng phải là thế gian,
chẳng phải là xuất thế gian. Thể của nó
thường trụ. V́ muốn chứng cái Thể của
Thật Tướng ấy, trước hết, hăy quán sanh
tử Nhân Pháp vốn là Không, đoạn Kiến Tư Hoặc,
dựa vào phương tiện Ngũ Ấm, trở thành
người giả danh nơi Thập Trụ. Kế
đó, quán xuất thế Nhân Pháp vốn là Không, chẳng trụ
vào xuất thế vô lậu đạo, đoạn Trần
Sa Hoặc, dựa vào phương tiện Ngũ Ấm,
thành tựu người giả danh trong Thập Hạnh. Kế
đó, quán nhị biên Nhân Pháp đều là Không, chẳng trụ
vào nhị biên, chế phục Vô Minh Hoặc, liền dựa
vào phương tiện Ngũ Ấm, thành người giả
danh thuộc Thập Hồi Hướng. Kế đó, phát
khởi Trung Đạo chân minh, phá Vô Minh Hoặc, liền dựa
vào pháp Ngũ Ấm thường trụ trong cơi Thật
Báo, trở thành người giả danh thường trụ
thuộc Thập Địa Bồ Tát.
- Ba, biết rơ sanh tử Nhân
Pháp và xuất thế Nhân Pháp, mỗi đằng không ǵ chẳng
phải là Chân Như Thật Tướng. V́ thế, Đại
Luận nói: “Bồ Tát thường quán Niết Bàn hành
đạo”. Do quán Nhân Không chính là liễu nhân chủng tử, cho nên
Đại Luận nói: “Vô thượng đối với
chúng sanh là Phật”. Phật chính là Giác, Giác là trí huệ.
Đă giác Nhân Không, cũng giác Pháp Không. V́ thế, biết
quán Nhân Không chính là liễu nhân chủng tử, quán Pháp Không
chính là duyên nhân chủng tử. Do đó, Đại Luận
nói: “Vô thượng trong các pháp là Niết Bàn”. Đó
chính là v́ sanh tử ấm đă đoạn, Niết Bàn ấm
bèn dấy lên. Như nước đông thành băng,
băng lại tan thành nước. Đại Kinh dạy: “Nhân
diệt thị sắc, hoạch đắc thường Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức, diệc phục như
thị” (Do diệt Sắc ấy mà đạt được
Sắc thường hằng. Thọ, Tưởng,
Hành, Thức cũng lại giống như thế). Kinh
Đại Phẩm nói: “Bồ Tát hành Bát Nhă thời, đắc
vô đẳng đẳng Sắc, đắc vô đẳng
đẳng Thọ, Tưởng, Hành, Thức” (Bồ
Tát khi hành Bát Nhă, đạt được Sắc chẳng
thể sánh bằng, đạt được Thọ,
Tưởng, Hành, Thức chẳng thể sánh bằng).
Hăy nên biết Niết Bàn là pháp vô thượng. Dựa theo
pháp ấy để thành tựu vô thượng chúng
sanh, bèn được gọi là Phật. V́ thế, biết
quán pháp Không là duyên nhân chủng (chủng tử của duyên
nhân). Do quán Nhân Pháp là Không, liền biết ba loại Phật
tánh. V́ thế, Đại Kinh dạy: “Chúng sanh, Phật
tánh, bất tức lục pháp, bất ly lục pháp”
(Chúng sanh và sáu pháp chẳng phải chính là sáu pháp, mà cũng
chẳng ĺa sáu pháp). “Bất tức” là nói chánh nhân Phật
tánh chẳng phải Ấm, chẳng phải Ngă. Do chẳng
phải là Ấm, cho nên chẳng phải
là Pháp. Do chẳng phải là ngă, cho
nên chẳng phải là Nhân. Do chẳng phải là Nhân, cho nên chẳng phải Liễu.
Do chẳng phải là Pháp, cho nên
chẳng phải là Duyên. V́ thế nói: “Bất tức lục
pháp” (Chẳng phải chính là sáu pháp).
“Bất ly lục pháp” (Chẳng ĺa sáu
pháp): Chẳng
ĺa chúng sanh Không mà có liễu nhân. Chẳng ĺa Ngũ Ấm
Không mà
có duyên nhân. V́ thế nói “bất ly lục pháp” (chẳng
ĺa sáu pháp). Từ sơ phát tâm, Phật quán Nhân và Pháp đều
là Không, tu ba Phật tánh (chánh nhân Phật tánh, liễu nhân Phật tánh, duyên nhân
Phật tánh),
trải qua các địa vị thuộc Lục Tức,
thành tựu Lục Tức Nhân Pháp.
Nay Quán Thế Âm Phổ Môn
chưa phải là Nhân Pháp rốt ráo, mà là phần chứng Nhân
Pháp. Một phen vấn đáp đầu tiên [trong phẩm
Phổ Môn này] nhằm giải thích một phần “nhân vô thượng
th́ được gọi là Quán Thế Âm”. Lượt vấn
đáp sau đó (tức phần hỏi về các
phương tiện du hóa của Quán Thế Âm Bồ Tát),
nhằm phần nào giải thích “nắm giữ pháp vô
thượng th́ gọi là Phổ Môn”. Hăy nên biết nhân
duyên của Nhân Pháp, cho nên gọi là phẩm Quán Thế Âm Bồ
Tát Phổ Môn.
25.1.1.3.2.
Giải thích theo Từ Bi
Bi được gọi là
“thương xót”, Từ là ái niệm (do yêu mến bèn
nghĩ tưởng). Do thương xót nên dẹp khổ; do
nghĩ nhớ nên ban vui. Nhưng chỉ khởi từ bi,
tâm chẳng bền vững, cần phải phát hoằng thệ
để gia tŕ cho kiên cố. Ví như thợ thuyền tạo
vật, tuy các khớp mộng tương ứng, nhưng
nếu chẳng gắn keo, trét sơn, sẽ có thể bị
rơi rớt. Thệ nguyện như keo, khiến cho cái
tâm chẳng lui sụt. Bi tâm thương xót, dẹp các khổ
quả tập nhân trong thế gian, hưng khởi hai thệ
nguyện, tức là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ;
phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn”. Từ
tâm ái niệm, muốn ban cho sự vui sướng “đạo
nhân diệt quả” (Đạo là nhân, Diệt là quả)
xuất thế, bèn hưng khởi hai thệ nguyện, tức
là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Phật
đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Chỉ
là đối với Nhân Pháp trong phần trước,
đă nói rơ “phàm thánh bất đồng”.
Nay biện định Từ
Bi, Đại Thừa và Tiểu Thừa cũng khác. Như
hành nhân phụng sự Lục Độ trong Tam Tạng, quán tám nỗi khổ thuộc Phần
Đoạn
sanh tử, thề độ vô biên chúng sanh. Quán Kiến
Tư điên đảo kết nghiệp, thề đoạn
vô tận phiền năo. Quán nhân quả ấy
vô thường sanh diệt, lưu chuyển trong mỗi niệm,
bèn tu đối trị, thề học vô lượng pháp
môn. Quán lư vô vi nơi Chân Đế, thề thành Phật
đạo vô thượng. Từ bi như thế, tức
là duyên theo hữu tác Tứ Đế mà khởi.
Nếu là hành nhân Thông Giáo, do
quán tám nỗi khổ sanh tử như huyễn, như hóa,
[thế mà] chúng sanh điên đảo, ngỡ là chân thật,
[do vậy, hành nhân Thông Giáo] liền khởi thệ nguyện:
“Độ chúng sanh như huyễn”. Tham, sân, si v.v…
như huyễn, như hóa, nhưng chúng sanh điên đảo,
bèn
“hứng chịu khổ năo”, [do vậy, hành nhân Thông Giáo] liền dấy lên thệ nguyện: “Đoạn Hoặc
như huyễn”. Quán Sắc chính là Không v́ nó
như huyễn, cho đến “Thức chính là Không”, tức
“tham, sân, si v.v… chính là Không v́ như huyễn”. Do chẳng diệt
nên là Không. Tánh vốn tự Không, Không cũng chẳng thể
được, nhưng chúng sanh chẳng thể biết rơ
“chính là Không”, [cho nên hành nhân trong Thông
Giáo] liền khởi thệ nguyện “học pháp môn
như huyễn”. Lại quán Niết Bàn, nếu có một
pháp vượt khỏi Niết Bàn, ta
cũng nói là “như huyễn hóa”. Nhưng chúng sanh cho rằng
“có Phật đạo để có thể cầu”, khởi
ư tưởng so đo, chấp trước đối với
Phật, [v́ thế, hành nhân Thông Giáo]
liền khởi thệ nguyện: “Thành như huyễn
giác, giác như huyễn chúng”. Từ bi như thế
chính là duyên theo Vô Sanh Tứ Đế mà dấy khởi.
Nếu là hành nhân của Biệt
Giáo, quán các pháp sanh bởi nhân duyên, giả gọi là “vô
lượng”. Mười pháp giới sâm la[12],
hăy nên phân biệt nhằm hướng dẫn, lợi ích
chúng sanh, há nên ch́m đắm trong Không, chấp vào sự chứng
đắc! Quán khổ quả
ấy, không phải chỉ là một thứ. Phần Đoạn
và Biến Dịch đều gọi là Khổ, liền dấy lên thệ nguyện: “Độ vô
lượng nỗi khổ của chúng sanh trong chín pháp giới”.
Do vô lượng Tập, tức là Nhị Hoặc (Kiến
Hoặc và Tư Hoặc), Ngũ Trụ, mênh mông như cát bụi,
liền khởi thệ nguyện: “Độ các món Tập
trong chín pháp giới”. Tập đă là vô lượng th́
cách đối trị cũng vô lượng. Đó gọi là
pháp môn Tam Chỉ Tam
Quán, tức là khởi
thệ nguyện “học trọn khắp, hành trọn khắp”.
Đối trị đă vô lượng, Diệt cũng vô
lượng; đó gọi là “bốn loại Niết
Bàn”. Đối với sáu loại vô vi[13],
liền dấy lên thệ nguyện: “Khiến cho
người khác cùng chứng”. Từ bi như thế,
chính là duyên theo Vô Lượng Tứ Đế mà dấy khởi!
Nếu là hành nhân Viên Giáo, sẽ
quán Chân Như Thật Tướng của hết thảy
các pháp, viên dung pháp giới, chẳng trái nghịch, chẳng
thuận theo, chẳng phải sáng, chẳng phải tối.
Nhưng do vô minh tối tăm, cho nên trái nghịch. Hễ
trái nghịch, sẽ có nhân quả Khổ
Tập. Do trí huệ sáng suốt, cho nên thuận theo. Thuận
theo th́ sẽ có nhân quả Đạo Diệt. Duyên theo sự trái nghịch
hay tùy thuận nhân quả ấy mà dấy lên hoằng thệ: Ví như nam
châm chẳng suy tưởng, cứ tùy ư hút sắt. Từ
bi cũng thế, do chẳng tưởng là chúng sanh, cho nên dùng pháp tưởng, tùy ư dẹp khổ,
ban vui. V́ thế, gọi là Vô Duyên Đại Từ
Đại Bi. Bồ Tát từ lúc sơ phát tâm đă tu ḷng
Vô Duyên Từ Bi này, trải qua các địa vị thuộc
Lục Tức, gần với địa vị Cứu
Cánh. Nay lần vấn đáp đầu tiên [trong phẩm
này] nhằm nói rơ “đại bi dẹp khổ”. Nhất
tâm xưng danh, liền được giải thoát. Lần
vấn đáp sau đó chính là giải thích “đại từ
ban vui, hiện thân thuyết pháp, khiến cho [tất cả chúng sanh] đều đắc
độ”. Hăy nên biết: Do nhân duyên đại từ,
đại bi, cho nên gọi là Quán Thế Âm Phổ Môn.
25.1.1.3.3.
Giải thích theo phước huệ
Giải thích theo phước
huệ, cũng gọi là định huệ. Diệu trí tịch
chiếu, không chỗ tối tăm nào chẳng [soi thấu
khiến cho] sáng tỏ, như gương sáng đặt
trong nhà cao. Phước đức, Thiền Định thuần
hậu giúp nhau phát khởi, giống như đèn sáng, dầu
sạch, cũng gọi là “mục túc” (mắt và chân).
Mắt và chân đều đầy đủ, vào trong ao
thanh lương. Ao chính là Niết Bàn. Niết Bàn được
gọi là “hai thứ trang nghiêm, trang nghiêm Pháp Thân”. Giải
thích Định Huệ th́ cũng có nhiều thứ:
- Tam Tạng coi quán lư vô
thường là huệ, coi quán luyện huân tu các thứ Sự
Thiền (Thiền theo sự tướng) là phước.
Dùng Định để giúp Huệ, phát khởi vô lậu
chân thật, chứng chân lư tự nhiên, gọi là Pháp Thân.
- Thông Giáo chỉ coi Thể
Pháp (thấu hiểu pháp) khác với Tích Pháp (lănh hội pháp
bằng cách phân tích, chia chẻ), những điều khác giống
như Tam Tạng.
- Biệt Giáo th́ nương
vào tu tập trí huệ và các môn Thiền Định để
giúp khai hiển Pháp Thân Trung Đạo.
- Viên Giáo coi Thật Tướng
quán trí là huệ, Thật Tướng tịch định
là phước, cùng hiển lộ lư “chẳng phải Định,
chẳng phải Huệ” th́ gọi là Thật Tướng
Pháp Thân. Bồ Tát từ sơ phát tâm, tu môn Định Huệ
bất nhị này, trải qua các địa vị thuộc
Lục Tức, gần với Cứu Cánh.
Nay phần vấn đáp
trước [trong phẩm Phổ Môn chính là] trí quang chiếu sáng tối
tăm, ứng theo căn cơ mà dẹp khổ. Đó chính
là do huệ trang nghiêm mà đặt tên. Điều
được vấn đáp trong phần sau chính là Thủ
Lăng Nghiêm Định, hiện trọn khắp các sắc
thân, tức là do phước trang nghiêm mà thành tên. Hăy nên biết:
Do nhân duyên phước huệ, cho nên có tên là Quán Thế Âm
Phổ Môn.
25.1.1.3.4.
Giải thích theo Chân Ứng
Chân là chẳng hư ngụy,
chẳng lay động. Ứng là tương xứng, thích
đáng với căn duyên. Nếu khế nhập lư “Thật
Tướng chẳng hư ngụy, bất động”,
sẽ có thể tương
xứng, thích ứng với duyên mà ứng. Ví như cầm
gương, hễ h́nh sắc đối trước nó,
gương sẽ hiện bóng. Chân và Ứng ấy chẳng
hề rời nhau. Như
ngoại đạo tu hữu lậu thông (thần thông hữu
lậu), tuy có thể biến hóa, nhưng ví như ngói,
đá, chẳng hiện bóng
sáng, chẳng thể gọi là Ứng. Do chưa phá tứ
trụ, chưa hiển lộ Thiên Chân, há có Viên Chân của
Trung Đạo? Như tác ư thần thông của Nhị Thừa,
cũng chẳng gọi là Ứng. Ví như vẽ vời,
phải tác ư (dấy lên ư niệm suy tưởng) th́ mới
thành, trọn chẳng thể tương tự! Do chỉ
chứng Thiên Chân, thoát khỏi tam giới, chẳng thấu
đạt lư Trung Đạo bất động, cho nên chẳng
phải là Viên Chân, sẽ do đâu mà khởi
Ứng cho được?
Đại Thừa chẳng
phải vậy! Đạt được Thật Tướng
Chân, ví như có gương sáng, chẳng cần phải tác
ư, h́nh tượng chân thật trong pháp giới hễ đối
[trước gương, gương] sẽ liền ứng (tức hiện bóng), giống như gương sao chụp
h́nh tượng vậy, chẳng khác với [h́nh tượng]
chân thật [ở ngoài gương]! Như thế th́ mới
là chân
tịch thân ứng. Bồ Tát từ sơ phát tâm, trải
qua các địa vị thuộc Lục Tức, gần với
Cứu Cánh. Nay phần vấn đáp trước nói rơ “chân
tịch bất động”, pháp giới đạt
được lợi ích chính là từ chân thân mà có tên
như thế. Phần vấn đáp sau đó nói rơ Bồ
Tát tùy thuận căn cơ mà tạo lợi ích rộng lớn,
xuất hiện hay biến
mất
nhiều cách. Đấy là từ Ứng Thân mà đặt
tên. Hăy nên biết: Do nhân duyên Chân Ứng, cho nên có tên là Quán
Thế Âm Phổ Môn.
25.1.1.3.5.
Giải thích theo Dược Châu
Cây thuốc chúa (dược
thụ vương) chữa trị bệnh khổ, [điều
này] trích từ kinh Nại Nữ[14].
Như Ư Châu vương có thể mưa các thứ báu,
điều này được nói rộng khắp trong các
kinh. Tam Tạng, Thông Giáo, Biệt Giáo cũng đều nói
rơ chuyện chữa bệnh và tuôn các báu, nhưng chữa trị
chẳng trọn khắp, tuôn mưa chẳng trọn khắp.
Nay xét theo Viên Giáo để nói th́ như kinh Hoa Nghiêm dạy:
“Hữu thượng dược thụ, kỳ căn
thâm nhập, chi diệp tứ bố. Căn, hành, chi, diệp,
giai năng dũ bệnh. Kiến, văn, khứu, xúc, vô bất
đắc ích. Bồ Tát diệc nhĩ, đại bi huân
thân, h́nh thanh lợi vật, danh đại dược
vương thân. Hựu như Như Ư Châu vương,
năng vũ đại thiên trân bảo, tùy ư vô tận. Bồ
Tát diệc nhĩ, đại từ huân thân, dữ chúng sanh
lạc, danh Như Ư Châu vương thân” (Có cây thuốc bậc
thượng, rễ nó mọc sâu, cành lá tỏa ra bốn phía. Rễ, thân,
cành, lá đều có thể chữa bệnh. Thấy, nghe,
ngửi, chạm, không ǵ chẳng được lợi
ích. Bồ Tát cũng thế, đại bi ướp thân, h́nh
tướng và âm thanh đều lợi ích chúng sanh, gọi
là thân đại dược vương. Lại như Như
Ư Châu vương, có thể tuôn ra thứ báu trân quư khắp
cơi đại thiên, tùy ư vô tận. Bồ Tát cũng thế,
đại từ
ướp thân, ban cho chúng sanh vui sướng, gọi
là Như Ư Châu vương thân). Đấy cũng chính là dựa
theo Lục Tức để phán định địa vị.
Nay phần vấn đáp
trước [nêu tỏ] “cứu trọn khắp các thứ
khổ nạn nguy ngập, u ám”, từ thân dược
vương mà thành tên. Phần vấn đáp sau do xứng hợp,
thích nghi với điều [chúng sanh] mong cầu, mưa pháp
vũ to lớn, khiến cho họ đều được
độ thoát, từ thân Như Ư Châu vương mà có tên.
Hăy nên biết nhân duyên của hai thân (thân dược
vương và thân như ư châu), cho nên gọi là Quán Thế
Âm Phổ Môn.
25.1.1.3.6.
Giải thích theo hai thứ lợi ích Minh và Hiển
“Minh” là ngấm ngầm,
kín đáo. “Hiển” là hiển lộ. Bậc đại
thánh luôn dùng hai thứ lợi ích để làm lợi, an trụ hết thảy, nhưng
chúng sanh và những người thuộc các địa vị
thấp hằng ngày hưởng dụng [các lợi ích ấy]
mà chẳng biết. Ví như mặt trời, mặt
trăng chiếu soi thế gian, kẻ mù tuy chẳng thấy,
nhưng thật sự đội ân sâu. Thậm chí trong cùng
một địa vị, nhưng hạ phẩm chẳng
biết tác dụng do thần lực của thượng
phẩm. Do chẳng biết, cho nên gọi là “minh
ích” (lợi ích ngấm ngầm). Hơn nữa, lợi
ích của bậc thánh nhân tuy chẳng thể biết,
nhưng nếu thánh nhân muốn cho [chúng sanh] hay biết, dẫu
côn trùng v.v… cũng có thể biết được! Do khiến
cho hay biết, nên gọi là “hiển ích”. Đây
cũng là dựa theo Lục Tức để phán định
địa vị.
Nay trong phần vấn
đáp đầu tiên, do chẳng thấy h́nh tượng,
âm thanh, nhưng được [Bồ Tát] che chở, gia hộ
sâu kín, đó chính là “minh ích” (lợi ích ngầm). Phần vấn
đáp sau là do nh́n vào các thân đă biến hiện, nghe Ngài
thuyết pháp, đó chính là “hiển ích” (lợi ích hiển nhiên). Hăy nên biết: Do nhân
duyên ngấm ngầm hay hiển lộ, cho nên gọi là Quán Thế
Âm Phổ Môn.
25.1.1.3.7.
Giải thích theo Quyền Thật
Bảy, giải thích theo Quyền
Thật. Quyền là tạm sử dụng. Thật th́ chẳng
phải là tạm sử dụng. Nói đại lược,
Quyền Thật có ba thứ:
- Một, tự hành Quyền
Thật. Trung Quán là Thật, hai môn Quán kia (Không Quán và Giả
Quán) là Quyền.
- Hai, hóa tha Quyền Thật.
Do người khác căn tánh bất đồng, hoặc
nói Quyền là Thật, hoặc nói Thật là Quyền, chẳng
thể phán định. Chỉ là xét theo ư người khác
để nói là Quyền hay Thật đó thôi!
- Ba, tự hành và hóa tha cùng hợp
lại để luận Quyền Thật. Tự hành có Quyền
và Thật, đều gom thành Thật. Hóa tha cũng có Quyền
và Thật, nhưng đều gộp chung thành Quyền.
Dùng ba ư này để trải
khắp tứ giáo, lại xét theo tự hành Quyền Thật
để phán định Lục Tức, như trong phần
Huyền Nghĩa và phẩm Phương Tiện đă nói,
có thể lănh hội ư ấy. Nay phần vấn đáp
trước tiên chính là xét theo tự và tha
gộp chung lại để giảng về Thật Trí lợi
ích chúng sanh. Phần vấn đáp sau gộp chung tự và
tha để nói về Quyền Trí lợi ích chúng sanh. Hăy
nên biết: Do nhân duyên Quyền Thật, cho nên gọi là Quán
Thế Âm Phổ Môn.
25.1.1.3.8.
Giải thích theo Bổn Tích
Bổn là thật sự
đạt được, Tích là ứng hiện, đều
có bốn câu: Bổn cao, Tích thấp; Bổn thấp,
Tích cao v.v… Sự tướng chẳng phải là nhất loạt
như nhau, cũng xét theo Lục Tức để phán định
địa vị. Nay phần vấn đáp trước
[nói rơ] chẳng thể thấy nghe, nhưng đạt
được sự gia hộ ngấm ngầm. Đấy
là xét theo Bổn Địa mà thành tên. Phần vấn
đáp sau đó, [Bồ Tát] ứng hiện các thân h́nh sai
khác, thuyết pháp độ thoát [các chúng sanh]. Đấy là
từ Tích địa mà thành tên. Hăy nên biết: Do nhân duyên Bổn
Tích, cho nên gọi là Quán Thế Âm Phổ Môn.
25.1.1.3.9.
Giải thích theo duyên liễu
Liễu là phát khởi hiển
nhiên. Duyên là giúp đỡ, tức giúp đỡ cho Liễu,
nhằm hiển lộ, phát khởi Pháp Thân. Liễu chính là
Bát Nhă, c̣n gọi là Huệ Hạnh, c̣n gọi
là Chánh
Đạo,
cũng gọi là “trí huệ trang
nghiêm”. Duyên chính là Giải
Thoát,
cũng gọi là Hành Hạnh, cũng gọi
là Trợ
Đạo,
cũng gọi là “phước đức
trang nghiêm”. Đại Luận nói: “Một
đằng có thể cày, một đằng có thể gieo.
Gieo ví như duyên nhân, cày ví như liễu nhân”. Luận định chung th́ bốn giáo đều có hai
nghĩa duyên và liễu. Nay nói thẳng vào cái nhân “hai
thứ trang nghiêm” (trí huệ trang nghiêm
và phước đức trang nghiêm) của Viên Giáo, Phật
có đủ hai loại quả trang nghiêm. Xét đến cội
nguồn của nhân quả ấy th́ căn bản chính là
duyên và liễu trong Tánh Đức. Tánh Đức ấy vốn
tự có, chẳng phải đến nay mới có. Đại
Kinh dạy: “Nhất thiết chư pháp, bổn tánh tự
không, diệc do Bồ Tát tu tập Không cố, kiến
chư pháp không” (Hết thảy các pháp, tánh vốn tự
không, cũng do Bồ Tát tu tập Không mà thấy các pháp là
Không). Đấy chính là liễu nhân chủng tử vốn
tự sẵn có. Lại nói: “Nhất thiết chúng sanh
giai hữu Sơ Địa vị Thiền” (Hết thảy
chúng sanh đều có Thiền thuộc địa vị
Sơ Địa). Kinh Tư Ích nói: “Nhất thiết chúng
sanh tức Diệt Tận Định” (hết thảy
chúng sanh chính là Diệt Tận Định). Đấy chính
là duyên nhân chủng tử, vốn tự sẵn có.
Nương vào duyên liễu chủng tử vốn tự
nhiên sẵn có ấy để làm phương
tiện tu tập, dần dần tăng trưởng, từ
mảy may trở thành cây to cả một ôm tay. Đó gọi
là Ma Ha Bát Nhă và Thủ Lăng Nghiêm Định. Khoa này chẳng
luận định Lục Tức, chỉ bàn theo Tánh Đức
căn bản. Nay phần vấn đáp trước là từ
liễu chủng (liễu nhân chủng tử) mà đặt
tên. Phần vấn đáp sau là từ duyên nhân chủng tử
mà đặt tên. Hăy nên biết: Do nhân duyên của liễu
nhân và duyên nhân, cho nên có tên là Quán Thế Âm Phổ Môn.
25.1.1.3.10.
Giải thích theo Trí Đoạn
Nói theo cách thông thường,
Trí chính là công đức hữu vi viên măn, cũng gọi là
Bồ Đề; Đoạn chính là công đức vô vi viên
măn, cũng gọi là Niết Bàn. Nói “công đức hữu
vi” tức theo ư nghĩa, “khi tu nhân, do trí huệ có tác dụng
Chiếu
mà tu thành [công đức ấy]”. V́ thế gọi là “hữu
vi”. Cái nhân tuy vô thường, nhưng quả là thường.
Dựa theo nhân mà đặt tên cho quả, nên nói là “công
đức hữu vi viên măn”. Nói tới “công đức
vô vi” tức là như Tiểu Thừa chỉ coi “diệt
phiền năo chẳng c̣n” là Đoạn Đức, tức
chỉ ĺa hư vọng th́ gọi là giải thoát, chứ
thật ra chưa đạt được hết thảy
giải thoát. Đấy chính là Vô Thể Đoạn Đức.
Đại Thừa là Hữu Thể Đoạn, chẳng
coi “diệt vô” là Đoạn Đức, chỉ quan tâm tới
chỗ điều phục chúng sanh, ác chẳng thể nhiễm,
tùy ư tự tại, chẳng bị phiền lụy
trói
buộc, th́ gọi là Đoạn Đức, đặt tên
cho điều này là “công đức vô vi”. V́ thế,
kinh Tịnh Danh (kinh Duy Ma Cật) dạy: “Bất đoạn
si ái, khởi chư minh thoát” (Chẳng đoạn si ái,
dấy lên sự giải thoát sáng suốt)[15].
Lại nói: “Ư chư kiến bất động, nhi tu
tam thập thất phẩm, ái kiến vi thị giả, diệc
danh Như Lai chủng, năi chí Ngũ Vô Gián, giai sanh giải
thoát tướng, vô sở nhiễm ngại, danh vi nhất
thiết giải thoát” (Bất động đối với
các Kiến
mà tu ba mươi bảy đạo phẩm. Ái kiến làm
kẻ hầu, cũng gọi là chủng tánh Như Lai. Cho
đến Ngũ Vô Gián đều là
tướng giải thoát, chẳng bị ô nhiễm, chướng
ngại, th́ gọi là hết thảy giải thoát), tức
là Đoạn Đức vô vi vậy.
Tịch mà thường chiếu, tức là Trí Đức. Tiểu Thừa
hôi thân diệt trí, đă chẳng có thân, lấy ǵ để nhập sanh tử ḥng bàn luận điều phục vô
ngại, vô nhiễm? Đă chẳng có trí, chiếu tịch[16]
ở chỗ nào? Trí Đoạn của Đại
Thừa viên măn tột bậc, cho nên Pháp Thân hiển lộ,
tức là ư nghĩa của ba loại Phật tánh viên măn.
Pháp Thân tṛn đủ, chính là chánh nhân “chẳng phải nhân,
chẳng phải quả” trọn đủ. V́ thế nói: “Ẩn
th́ gọi là Như Lai Tạng, hiển th́ gọi là Pháp
Thân”. Tuy chẳng phải là nhân, mà gọi là chánh nhân. Tuy chẳng
phải là quả, mà gọi là Pháp Thân. Đại Kinh nói: “Phi
nhân, phi quả, danh vi Phật tánh” (Chẳng phải nhân,
chẳng phải quả, gọi là Phật Tánh). Đấy
chính là chánh nhân Phật tánh vậy. Lại nói: “Thị
nhân phi quả, danh vi Phật tánh” (là nhân mà chẳng phải
là quả, th́ gọi là Phật tánh); đấy là xét theo duyên nhân và liễu
nhân trong Tánh Đức, đều gọi là nhân. Lại
nói: “Thị quả phi nhân, danh vi Phật tánh” (là quả
chẳng phải là nhân th́ gọi là Phật tánh). Đấy
là xét theo tu đắc duyên nhân và liễu nhân
đều trọn vẹn. Liễu nhân viên măn th́ đổi
tên thành Bát Nhă, c̣n gọi là Đại Bồ Đề Quả.
Duyên nhân viên măn th́ đổi tên thành Giải Thoát, cũng gọi
là Đại Niết Bàn Quả, đều được gọi là Quả. Phật tánh chung
cho nhân lẫn quả, chẳng dọc, chẳng ngang. Ba cái
nhân nơi Tánh Đức chẳng dọc, chẳng ngang. Khi
quả viên măn th́ gọi là Tam Đức, cũng chẳng dọc,
chẳng ngang. V́ thế, kinh Phổ Hiền Quán nói: “Đại
Thừa nhân giả, chư pháp Thật Tướng. Đại
Thừa quả giả, diệc chư pháp Thật Tướng”
(cái nhân của Đại Thừa là Thật Tướng của
các pháp. Cái quả của Đại Thừa cũng là Thật
Tướng của các pháp). Trí Đức đă măn, vắng
lặng thường chiếu, thuận theo căn cơ mà ứng,
cùng lúc giải thoát. Đoạn Đức đă măn, nơi
nơi điều phục, hiện thân thuyết pháp, khiến
cho đều đắc độ. Nay th́ phần vấn
đáp đầu tiên là v́ Trí Đức được viên
măn một phần mà đặt tên. Phần vấn đáp
sau là từ Đoạn Đức được viên măn một
phần mà đặt tên. Hăy nên biết: Do nhân duyên của
Trí Đoạn, cho nên tên là Quán Thế Âm Phổ Môn.
Phần thứ ba, “giải
thích [danh xưng của
phẩm này dựa theo mười khoa mục]” đă xong.
25.1.1.4.
Liệu giản[17]
25.1.1.4.1.
Liệu giản Nhân Pháp
Hỏi: Nếu đem Nhân
đối ứng với ngài Quán Âm, Pháp đối ứng
với Phổ Môn, th́ thời Phương Đẳng
có Phổ Môn pháp vương tử, nêu ra tên người
như thế là nghĩa như thế nào?
Đáp: Điều này có hai nghĩa:
- Một, Nhân chẳng phải
là Pháp, Pháp chẳng phải là Nhân.
- Hai, Nhân chính là Pháp, Pháp chính
là Nhân.
Nếu xét theo Hoa Nghiêm, sẽ
có hai ư:
- Một là ư nghĩa chẳng
theo thứ tự. Nhân chính là Thật Tướng, Thật
Tướng chính là Nhân. Nhân và Pháp chẳng hai.
- Hai là ư nghĩa theo thứ tự.
Hành nhân thuộc sanh tử trước khi chứng Sơ
Địa th́ chưa phải là pháp Thật
Tướng.
Pháp ấy cũng chẳng phải là người đó. Nếu xét theo Hữu Môn của Tam Tạng th́ chẳng
có giả nhân (người giả danh)[18],
chỉ có Thật pháp. Pháp ấy chẳng phải là Nhân. Không Môn dạy dựa
theo Thật pháp để thành giả nhân, cũng tức là
Nhân và Pháp hai đằng khác nhau. Dẫu chẳng ĺa Nhân
để luận Pháp, hoặc chẳng ĺa Pháp để luận
Nhân, Tục có, Chân không, vẫn là ư nghĩa của Nhị
Đế trong tam giới, chẳng phải là Nhân và Pháp theo
Trung Đạo. Nếu xét theo Phương Đẳng
đối chiếu với Tiểu Thừa để giảng
Đại Thừa ḥng luận định Nhân Pháp,
th́ Tiểu Thừa giống như Tam Tạng, Đại
Thừa giống như Hoa Nghiêm. Bát Nhă và Niết Bàn cũng
thế! Nay Phổ Môn Pháp Vương Tử được
nói trong thời Phương Đẳng chính là theo ư nghĩa
Đại Thừa, giống như trong kinh này. Phổ Môn
trong kinh này là Pháp, há có Pháp mà chẳng có Nhân ư? Phổ Môn
[pháp vương tử] trong Phương Đẳng là Nhân,
há có Nhân mà chẳng có Pháp ư? Chỉ là Nhân và Pháp nêu bày lẫn
nhau.
25.1.1.4.2.
Liệu giản từ bi
Hỏi: Nếu
đại bi dẹp khổ, hễ khổ trừ th́ chính là
được vui; hoặc đại từ ban vui, đạt
được vui chính là dẹp khổ. Do ư nghĩa nào mà
tách thành hai?
Đáp: Luận định
chung th́ đúng là như thế, nếu luận định
riêng biệt th́ chẳng phải vậy. Ví như dẹp trừ
tội địa ngục, chưa ban cho ngũ trần,
thân [người mang tội địa ngục] tuy khỏi
đau khổ, nhưng tâm t́nh chưa thể vui sướng
nổi, [cho nên] chẳng gọi là “ban vui”. Lại như bố
thí ngũ trần trong địa ngục, năm t́nh kiến
[của tội nhân] tuy vui sướng, chẳng thể gọi
là “dẹp khổ”. V́ thuận theo biệt nghĩa, nhằm
nêu rơ mỗi bên, cho nên nói riêng biệt (tức là tách
từ và bi làm hai phương diện).
Lại nữa, ngoại
đạo tu Tứ Vô Lượng (từ, bi, hỷ, xả),
tự chứng Thiền Định, suy tưởng, vận
dụng hư huyễn, chẳng có lợi ích thật sự,
chẳng thể dẹp khổ, chẳng thể khiến cho người khác
được vui sướng. Dẫu đắc Định,
nhưng đó là pháp thế gian hư vọng; khi
báo hết vẫn phải đọa, chẳng thể thoát
khổ được! Ḿnh lẫn người đều
chẳng có lợi ích. Nhị Thừa tu Tứ Vô Lượng,
chỉ tự dẹp nỗi khổ Phần Đoạn, chẳng
tránh khỏi Biến Dịch, [do vậy], chẳng phải
là sự vui rốt ráo, mà cũng chẳng lợi ích kẻ
khác! Bồ Tát chẳng phải vậy, chẳng phải là
hạnh phàm phu, chẳng phải là hạnh hiền thánh! “Chẳng
phải là phàm phu”: Chẳng giống như Thiền lạc
tự thọ (tự hưởng niềm vui trong Thiền
Định). “Chẳng phải là hiền thánh”: Chẳng
giống tự dẹp khổ, chẳng giống như tự
thọ nhận lạc, tức là ban sự vui cho người
khác. Do chẳng giống như tự dẹp khổ; tức
là dẹp khổ cho kẻ khác. Cũng có nghĩa “dẹp
khổ chính là ban vui, ban vui chính là dẹp khổ”, chỉ
là nói phân biệt đó thôi! Trước là nói “dẹp khổ”,
sau là nói “ban vui”.
Lại c̣n chỉ luận từ
bi, chẳng bàn tới hỷ xả. Tứ Vô Lượng
Tâm tuy danh xưng có bốn món, nghĩa chỉ có ba! Đại
Kinh nói: “Ưu tất xoa: Ưu tất xoa danh Xả, tức
thị lưỡng xả” (Ưu-tất-xoa (Upekṣa): Ưu-tất xoa
là Xả, tức là xả hai thứ). Từ bi và chẳng từ
bi có ư nghĩa “chẳng hai”, chẳng hai mà là hai, tức là từ
bi. Hỷ: Do lạc mà sanh hỷ. Thoạt đầu nguyện
“ban vui”, nhưng chúng sanh khổ sở nặng nề,
chẳng thể đạt được lạc, cho nên chẳng
thể hỷ. Đă dẹp khổ th́ sẽ liền có thể
đạt được vui sướng, do thỏa nguyện
ban đầu. V́ thế sẽ hỷ.
25.1.1.4.3.
Liệu giản phước huệ
Hỏi: V́ sao ngài
Quán Âm đối với
Huệ, hễ xưng niệm th́ là “dẹp khổ”?
Phổ Môn tương ứng với phước, hễ trông thấy bèn “được
vui”?
Đáp: Huệ là quang minh, trực tiếp đối trị Hoặc
tối tăm. Hoặc là sanh tử khổ năo. Muốn
đối trị nỗi khổ do Hoặc tối tăm,
há chẳng dùng ánh sáng trí huệ ư?
V́ thế, xưng danh bậc trí huệ chính là “dẹp khổ”.
Pháp là pháp môn, Môn là “có thể thông”, thông tới chỗ
Niết Bàn an lạc. Thoạt đầu, tu tập pháp này tức là cái nhân
để “đắc lạc”. Sau đó, chứng pháp
này, tức là đạt
được lạc quả. V́ thế, đối với
pháp Phổ Môn bèn nói là “dữ lạc” (ban vui); nhưng
có trí huệ là phước đức, phước đức
là trí huệ. [Và cũng] có trí huệ chẳng phải là
phước đức, phước đức chẳng phải
là trí huệ. Đại Thừa và Tiểu Thừa đều
có đủ bốn câu:
- Bốn câu của Tiểu
Thừa: Như Lục
Độ Bồ Tát tu Bát Nhă, chia Diêm Phù Đề thành bảy
phần. Đấy là trí huệ thế gian, chẳng thể
đoạn Hoặc, vẫn thuộc về phước
đức. Đó là câu đầu tiên (tức là “vừa là
trí huệ, vừa là phước đức”). Gọi
phước ấy là trí để dứt tranh căi. Đó là
câu thứ hai (tức “phước đức là trí huệ”).
Như vị A La Hán đói bụng mà có thể đoạn
Hoặc, bèn gọi là trí huệ mà chẳng phải là
phước đức. Đó chính là câu thứ ba (“trí huệ
chẳng phải là phước đức”). Như voi chúa
trắng được thọ dụng to lớn. Đó gọi
là phước đức, chẳng phải là trí huệ xuất
thế, mà cũng chẳng phải là trí huệ thế gian,
chẳng được gọi là trí huệ. Đó chính là
câu thứ tư (“phước đức chẳng phải
là trí huệ”).
- Bốn câu của Đại
Thừa: Đối với ba mươi tâm (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng)
của Biệt Giáo trước khi nhập Sơ Địa,
Hành
Hạnh
gọi là phước đức, Huệ Hạnh
gọi là trí huệ. Trí huệ ấy chẳng thể phá vô
minh, vẫn thuộc vào
phước đức. Đó chính là câu đầu tiên.
Phước ấy cũng có thể đối
trị “thủ tướng Hoặc” (phiền hoặc
do chấp tướng), cũng có thể gọi là “trí huệ”.
Đó chính là câu thứ hai. Nếu là từ Sơ Địa
trở lên th́ đều gọi là trí huệ, chẳng gọi
là phước đức. Đó chính là câu thứ ba. Nếu chưa đạt tới Sơ Địa th́
đều gọi là phước đức, chẳng gọi
là trí huệ. Đấy là câu thứ tư. Nay Viên Giáo nói
phước chính là huệ, huệ chính là phước,
phước và huệ chẳng hai. Do vậy, Đại Luận
nói: “Người tôn quư, mầu nhiệm như thế sẽ có thể thấy
Bát Nhă”,
huệ ấy lẽ nào chẳng định? Lại nói: “Kiện
tướng tam-muội có thể phá cường địch”.
Định ấy lẽ nào chẳng có huệ? Chẳng hai
mà là hai; v́ thế,
nói phân biệt đó thôi!
25.1.1.4.3.
Liệu giản Chân Ứng
Cũng
có bốn câu: “Chẳng phải Chân, chẳng phải Ứng”, “là Ứng, chẳng phải là Chân”, “là
Chân, chẳng phải là Ứng”, “vừa là Chân, vừa
là Ứng”.
1) “Chẳng phải
Chân, chẳng phải Ứng”, xét theo Lư sẽ dễ hiểu.
Lại nữa, phàm phu chẳng thấy Lư, cho nên chẳng phải
Chân. Chẳng có tác dụng, cho nên chẳng phải Ứng.
2) “Là Ứng, chẳng
phải là Chân”: Ngoại
đạo tu đắc Ngũ Thông, biến hóa cho người
khác th́ cũng gọi là Ứng, nhưng chẳng kiến
đế (thấy lẽ chân thật, chẳng thấy
Đạo Đế), chẳng thể gọi là Chân.
3) “Là Chân, chẳng
phải là Ứng”: Nhị Thừa đoạn kết,
kiến đế, cũng được gọi là Chân. Nhưng
do hôi thân diệt trí, chẳng thể khởi ứng.
4) “Vừa là Chân,
vừa là Ứng”: Đây chính là riêng hiển thị “Trung
Đạo là Chân”. Từ ngay nơi Chân mà luận định Dụng
(tác dụng) th́ là Ứng. Chân và Ứng chẳng hai, chẳng
hai mà là hai. V́ thế, nương theo kinh văn cùng nêu ra.
Nói chung, phần vấn đáp trước [trong phẩm Phổ Môn] nêu rơ “chân thân luôn tạo lợi
ích”;
phần vấn đáp sau đó nêu ra
“sự lợi ích
có thời hạn nơi ứng thân”, nhưng sự “lợi ích thường hằng” và sự “lợi
ích nơi ứng thân trong một khoảng thời gian” đều chẳng hề tách
ĺa, giống như hai con chim cùng bay. V́ thế, nói tột cùng
lư th́ “chân thân vừa là
hằng, vừa là chẳng hằng”, “ứng
thân vừa là gián cách,
vừa là chẳng gián cách”.
25.1.1.4.5.
Liệu giản về dược châu
Dược
(thuốc) có công năng “chữa
bệnh, dẹp khổ”,
mà cũng có công dụng quư báu “bảo
vệ thân, tăng thọ mạng”. Như Ư Châu vương không chỉ tuôn ra chất báu, mà c̣n có thể trừ
bệnh. Thái tử Đại Thí[19]
vào biển có được châu ấy, cầm về trị
bệnh mắt cho cha mẹ. Kinh Đại Phẩm nói: “Nhược
nhân nhăn thống, châu trước thân thượng, bệnh
tức trừ dũ” (Nếu ai bị đau mắt,
đặt châu lên thân, bệnh liền được chữa
khỏi). V́ thế biết [châu hay dược thụ, mỗi
thứ đều] có trọn đủ cả hai nghĩa,
nay cũng chỉ là nói riêng biệt theo một bên đó
thôi!
25.1.1.4.6. Liệu giản
hai thứ lợi ích Minh và Hiển
Có tất cả ba mươi sáu câu,
chi tiết th́ như trong sách Pháp Hoa Huyền Nghĩa [đă
nói].
25.1.1.4.7.
Liệu giản Quyền Thật
Cũng có bốn câu:
- Hoặc là do Thật Trí mà
giải thoát nơi Quyền, bảy nạn (nạn lửa, nạn nước, nạn La Sát v.v…)
tiêu
trừ; hai điều cầu
nguyện (cầu sanh con trai hay sanh con gái) đều
được thỏa.
- Hoặc do Thật Trí mà giải
thoát nơi Thật, tam độc đều ĺa.
- Hoặc do Quyền Trí mà
đắc độ nơi Thật, tức là do ba
mươi ba thân [ứng hóa] mà [chúng sanh] đắc độ.
- Hoặc do Quyền Trí mà
đắc độ nơi Quyền, tức là trong khi sợ
hăi, nạn gấp, có thể đạt được vô
úy (chẳng sợ hăi).
Hoặc là do cả hai mà
độ thoát, hoặc là cả hai đều chẳng
độ, chẳng thoát. Nay nương
theo kinh văn mà lần lượt nêu ra một bên. Kinh
văn trong phần đầu là sự giải thoát theo Quyền, kinh
văn trong phần sau là đắc độ theo Thật.
25.1.1.4.8.
Liệu giản Bổn Tích
Luận định chung th́ Bổn
và Tích đều có thể “dẹp khổ, ban vui”. V́ thế,
phẩm [Như Lai] Thọ Lượng nói: “Văn Phật
thọ vô lượng, đắc vô lượng vô lậu,
thanh tịnh chi quả báo” (nghe Phật thọ vô lượng,
đắc quả báo vô lượng, vô lậu rất thanh
tịnh), tức là từ Bổn mà đắc lạc. Kinh
Thỉnh Quán Âm chép: “Hoặc du hư địa ngục,
đại bi đại thọ khổ” (hoặc dạo
chơi trong địa ngục, đấng đại bi chịu
khổ thay [cho các tội nhân]), tức là từ Tích mà dẹp
khổ! Nhưng chúng sanh chẳng thấu đạt cội
nguồn, cho nên lưu chuyển, khổ năo. Nếu
hiểu lư nơi Bổn, liền được giải
thoát khỏi khổ, chẳng thấy sự hóa hiện
nơi Tích, chẳng thể gieo phước nơi ba nghiệp.
Nếu thấy thân, nghe tiếng, đấy chính là cái nhân
để đạt được vui sướng. V́ thế,
cũng một mực nói đến. Nhưng nếu chẳng
có Bổn, sẽ không có ǵ để thùy Tích; chẳng có
Tích, sẽ không có ǵ để hiển lộ Bổn, tức
là [Bổn và Tích] tuy hai mà chẳng hai.
Hỏi: Bổn Tích và Chân Ứng
có ǵ khác nhau?
Đáp: Chân Ứng là biện
định theo chiều ngang trong một đời, c̣n Bổn
Tích là luận định theo chiều dọc suốt ba
đời.
25.1.1.4.9.
Liệu giản duyên liễu
Hỏi: Trong duyên
liễu đă có điều thiện thuộc Tánh Đức,
vậy th́ cũng có điều ác trong Tánh Đức hay
chăng?
Đáp: Có chứ!
Hỏi: Xiển Đề và
Phật đoạn các loại thiện ác nào?
Đáp: Xiển Đề
đoạn sạch tu thiện, chỉ c̣n tánh thiện tồn
tại. Phật đoạn sạch tu ác, nhưng tánh ác c̣n
đó.
Hỏi: V́ sao chẳng thể
đoạn thiện và ác trong Tánh Đức?
Đáp: Thiện ác trong tánh chỉ
là pháp môn “thiện, ác”, tánh chẳng thể thay đổi,
trải khắp ba đời, ai có thể hủy, cũng lại
chẳng thể đoạn hoại! Ví như ma tuy thiêu
kinh, há có thể khiến cho pháp môn thiện đoạn sạch ư?
Giả sử Phật thiêu các sách vở dạy điều
ác, cũng chẳng thể khiến cho ác pháp đoạn sạch!
Như nhà Tần đốt sách, chôn Nho sĩ[20],
há có thể khiến cho thiện và ác đều bị
đoạn sạch ư?
Hỏi: Xiển Đề chẳng
đoạn tánh thiện (điều thiện trong chân tánh),
c̣n có thể khiến cho điều thiện dấy lên. Phật
đă chẳng đoạn tánh ác (điều ác trong chân
tánh), cũng sẽ khiến cho tu ác dấy lên đó
chăng?
Đáp: Xiển Đề chẳng
thấu đạt tánh thiện. Do chẳng thấu đạt, nên vẫn bị thiện
lây nhiễm. Cho nên tu thiện (điều thiện do tu tập
mà có) có thể dấy lên, rộng đối trị các
điều ác. Tuy Phật chẳng đoạn tánh ác,
nhưng tự tại đối với các ác, cho nên chẳng
bị ác nhiễm, vĩnh viễn chẳng tu ác. Lại có
thể tự tại rộng dùng các pháp môn ác để hóa
độ chúng sanh. Suốt ngày sử dụng, nhưng suốt ngày chẳng
nhiễm. Do chẳng nhiễm, cho
nên chẳng dấy lên, há có thể dùng Xiển Đề
làm lệ [để cật vấn ư?] Nếu Xiển
Đề có thể thấu đạt thiện ác, sẽ
chẳng gọi là Nhất Xiển Đề nữa!
25.1.1.4.10.
Liệu giản Trí Đoạn
Đấy là tên gọi khác
nhau của cùng một pháp, chẳng hề tách rời.
Như người bị trói, vận dụng sức lực
bèn được thoát khỏi. Vận dụng sức lực
là Trí, thoát khỏi trói buộc th́ gọi là Đoạn. Vận
dụng sức lực thuộc về tâm; cho nên gọi là
“trí huệ trang nghiêm”. Thoát khỏi trói buộc thuộc về
thân, cho nên gọi là “phước đức trang nghiêm”. Kinh
này chẳng nói cùng một lúc, cho nên cùng nêu lên Trí và Đoạn.
Nếu thấu hiểu sâu xa
mười ư nghĩa này, hễ hiểu được một
điều th́ ngàn điều sẽ thuận theo. Giải
thích cặn kẽ Quán Thế Âm Phổ Môn th́ ư nghĩa chẳng
thể cùng tận. Phần thứ nhất là “giải thích
chung” đă xong.
25.1.2.
Biệt thích (tách ra để giải thích ư nghĩa của Quán Thế
Âm Phổ Môn)
25.1.2.1.
Giải thích danh xưng Quán Thế Âm
Do nhân duyên ǵ mà tên là Quán Thế
Âm? Giải thích chung th́ như trong phần trên. Giải thích
riêng biệt th́ là do nhân duyên cảnh và trí, cho nên tên là Quán Thế
Âm. Cảnh và trí cũng có hai: Một là cảnh trí có thể
nghĩ bàn,
hai là cảnh trí chẳng thể nghĩ bàn!
25.1.2.1.1.
Cảnh trí có thể nghĩ bàn
Cảnh trí có thể nghĩ
bàn lại chia thành hai: Một, xét ngoài lư, hai là xét trong lư.
25.1.2.1.1.1.
Cảnh trí ở ngoài lư
Cảnh trí ở ngoài lư lại
có tất cả bốn câu: Một là cảnh trí tự nhiên.
Hai là cảnh trí đối đăi. Ba là cảnh trí nhân duyên.
Bốn là cảnh trí dứt bặt đối đăi.
1) Cảnh trí tự nhiên: Cảnh
tự là cảnh, tánh của nó thường hằng. Trí tự
là trí, tánh của nó cũng thường hằng, chẳng
do Phật, trời, hay người tạo tác. V́ thế gọi
là “tự nhiên”. Đó chính là câu “các pháp tự sanh”.
2) Cảnh trí đối
đăi: Cảnh chẳng tự là cảnh, do đối ứng
với trí cho nên có cảnh. Trí chẳng tự là trí, do đối
ứng với cảnh cho nên là trí. V́ thế, gọi là “đối
đăi”, tức là “chư pháp tha sanh” (các pháp do các nhân
khác mà sanh).
3) Cảnh trí nhân duyên: Không chỉ
do cảnh mà có cảnh, cũng chẳng phải chỉ do
trí cho nên có cảnh. Do cảnh làm nhân, trí làm duyên, cho nên có cảnh.
Chẳng phải do trí nên có trí, cũng chẳng phải chỉ
do cảnh cho nên có trí. Do trí làm nhân, cảnh làm duyên, cho nên có
trí. V́ thế gọi là nhân duyên, tức là câu “các pháp cộng
sanh”.
4) Cảnh trí dứt bặt
đối đăi: Chẳng do cảnh mà có cảnh, chẳng
do trí mà có cảnh, chẳng do trí và cảnh làm nhân duyên ḥa hợp
mà có cảnh th́ gọi là “cảnh dứt bặt đối
đăi”. Chẳng do trí mà có trí, chẳng do cảnh mà có trí,
chẳng do trí và cảnh làm nhân duyên ḥa hợp mà có trí th́ gọi
là “trí dứt bặt đối đăi”. Đó chính là
câu “các pháp do không có nhân mà sanh”.
Nay sẽ theo thứ tự
để phá. Nếu cảnh tự là cảnh, sẽ chẳng
nên bị trí chiếu. Nếu trí tự là trí, sẽ chẳng
nên chiếu cảnh. Nay cảnh đă được chiếu
bởi trí, tức là cảnh chẳng tự là cảnh. Trí
có thể chiếu cảnh, tức trí chẳng phải tự là
trí. Sao lại hư vọng so đo là [cảnh trí] tự
nhiên vậy?
Nếu do đối đăi với
trí mà có cảnh th́ cảnh sanh từ trí, cảnh đáng lẽ
phải gọi trí, sao lại gọi là cảnh? Như
người chỉ nên gọi là người, chẳng nên gọi
là gỗ, đá v.v… Lại nữa, nếu cảnh sanh từ
trí, khi không có trí, cũng chẳng nên có cảnh! Lại nữa,
nếu cảnh sanh từ trí, vậy th́ trí lại sanh từ
đâu? [Kiến chấp] “do đối đăi cảnh nên có
trí” cũng bị phá giống như thế. Sao lại so
đo là [cảnh trí] đối đăi?
Nếu cảnh làm nhân do trí
làm duyên mà có cảnh, th́ sẽ là trong cảnh đă có cảnh;
cho nên mới nhờ vào trí làm duyên [để cảnh phát khởi].
Nếu trong cảnh chẳng có cảnh, nhưng nhờ vào
trí làm duyên [để có cảnh], tức là trong trí phải
có cảnh, thế nhưng [do đă nói] “nhờ vào cảnh
làm nhân”, tức là trong trí chẳng có cảnh! [Đă nói] “nhờ
vào cảnh làm nhân”, nếu trong cảnh [vốn sẵn] có cảnh,
sẽ chẳng cần phải nhờ vào trí [làm duyên] th́ mới
có cảnh! Nếu trong trí [đă sẵn] có cảnh, sẽ
chẳng cần phải nhờ vào cảnh [làm nhân] th́ mới
có [cảnh; tức là kiến chấp “cảnh làm nhân, trí làm
duyên, cho nên có cảnh” đă hoàn toàn bị phá].
Lại nữa, nếu
như mỗi đằng đều có, nhưng vẫn
phải nương nhờ vào nhau [để phát khởi], trong một thời
phải nên có hai cảnh! Nếu trong cảnh chẳng có cảnh,
dẫu nhờ vào trí [làm duyên], cũng chẳng nên có cảnh!
Nếu trong trí chẳng có cảnh, dẫu nương nhờ
cảnh [làm nhân], cũng chẳng nên có cảnh! Ví như một
hạt cát chẳng có dầu, tuy gộp nhiều hạt cát
lại, cũng chẳng thể sanh ra dầu
được! Một kẻ mù chẳng thấy, tuy tập
hợp nhiều kẻ mù lại, vẫn chẳng thể thấy!
[Tương tự, kiến chấp] “trí làm nhân, cảnh làm
duyên, cho nên có trí” cũng bị phá giống như thế.
Sao lại so đo hư vọng [cảnh trí] là nhân duyên ư?
Nếu [chấp rằng] “chẳng
do cảnh cho nên có cảnh” v.v… th́ xét theo nhân duyên c̣n chẳng
thể được, huống hồ chẳng có nhân duyên
mà có thể gọi là cảnh ư? Trí cũng giống
như thế. Một mực nói là “dứt bặt”,
nhưng xét theo Lư đến cùng tận, sẽ chẳng trở
thành dứt bặt đối đăi, v́ c̣n nói là “cảnh có hoặc không có nhân duyên”, cũng như do nói
“trí có hoặc không có nhân duyên”, sao lại c̣n so đo hư vọng
là “dứt bặt đối đăi” vậy?
Những thứ ấy đều
là tâm hạnh ở ngoài lư, mà vọng tưởng suy
đoán, hư luận phân biệt, rốt cuộc chẳng có thật
nghĩa. V́ thế, Trung Luận nói: “Các pháp chẳng tự
sanh, cũng chẳng từ thứ khác mà sanh, cũng chẳng
cùng nhau sanh, cũng chẳng phải là không có nhân”. V́ thế
biết là vô sanh, sao lại có bốn thứ chấp trước
như vừa nêu trên đây? Hễ chấp vào một thứ,
tự cho là thật, sẽ nói những thứ khác là hư
vọng. Do
kiến ái (Kiến Tư Hoặc) bèn sanh chấp
trước, mê nơi Tứ Đế, tám mươi tám Sử,
mênh mông chẳng ngằn mé, cho nên mới chuốc vời khổ
quả, lưu chuyển chẳng thôi! Tuy dẫn kèm theo kinh
luận, dẫn chứng văn tự, [vẫn là] như
trùng ăn gỗ, ngẫu nhiên tạo thành chữ, thật
sự chẳng thể hiểu đó là chữ hay chẳng
phải là chữ. Do chẳng hiểu, bèn từ cảnh và
trí mà
sanh khởi kiến chấp, như uống cam lộ mà bị
tổn hại mạng, chết
yểu. V́ thế gọi là “cảnh
và trí ở ngoài lư”, bị ngài Long Thọ
đả phá. Nay chẳng lấy những điều ấy
làm cảnh trí để giải thích danh xưng Quán Thế
Âm!
25.1.2.1.1.2.
Cảnh trí ở trong lư
Đối với
cảnh
trí có thể nghĩ bàn ở trong lư, cũng lập
thành bốn môn như trên, danh xưng tuy giống nhau,
nhưng quán trí thuần thục, chẳng sanh chấp kiến.
Do
đă hoàn tất, cho nên chẳng tạo cái
mới nhằm thành tựu phương tiện đạo,
phát sanh Noăn, Đảnh, cho đến mười sáu thứ
tâm nhăn trí minh giác. Rỗng rang đắc ngộ, phá các Kiến
Hoặc, tương ứng với Lư. Ví như kẻ mù
được kim vàng[21]
nạo bỏ màng mộng, [mắt sáng trông thấy] rành rành
chẳng sai. Chân Quán ấy được gọi là Trí. Cái
lư được chiếu [bởi trí ấy] th́ gọi là cảnh.
Do phát khởi vô lậu, cho nên gọi là “cảnh trí ở
trong lư”. Tuy thấy lư ấy, rốt cuộc là tác ư để
nhập Chân. V́ thế gọi là “cảnh trí có thể
nghĩ bàn”. Nay nói đến Quán Thế Âm, cũng chẳng
do cảnh trí nhân duyên ấy mà đặt tên.
25.1.2.1.2.
Cảnh trí chẳng thể nghĩ bàn
Cảnh trí tuy chẳng phải
là “tự, tha, cộng, vô nhân”, nhưng dùng Tứ Tất
Đàn ứng theo duyên để nói thành giả danh tự,
hoặc nói “cảnh tự là cảnh”, “trí tự là trí”,
khiến cho kẻ khác hoan hỷ, sanh thiện, diệt ác,
nhập lư. Hoặc nói “do trí nên có cảnh”, “do cảnh nên
có trí”, hoặc nói “cảnh trí nhân duyên”, hoặc nói “cảnh
trí dứt bặt đối đăi”, khiến cho đạt
được bốn thứ lợi ích cũng giống
như thế. Nếu chẳng có lợi ích Tứ Tất
Đàn, chư Phật Như Lai sẽ chẳng nói pháp suông!
Tuy nói thành bốn thuyết (tức các thuyết về cảnh
trí như “cảnh tự là cảnh, trí tự là trí”, “do cảnh
nên có trí, do trí nên có cảnh” v.v…), chẳng sanh bốn món
chấp trước đối với tánh. Do chẳng chấp,
cho nên chẳng có kiến ái. Chúng sanh nghe xong, giống
như ngựa giỏi thấy bóng roi, liền có thể phá
Hoặc, nhập đạo. V́ thế gọi là Trí. Cái
được trí ấy chiếu soi th́ gọi là Cảnh.
Nếu dùng trí chiếu cảnh, nhập Không, coi đó là chứng,
sẽ trở thành “cảnh trí có thể
nghĩ bàn ở trong lư thuộc Chân Đế” như đă nói trong phần trước.
Nếu chẳng coi Không là chứng, biết cảnh trí ấy
chỉ có danh tự, gọi đó là Cảnh Trí th́ danh tự ấy chẳng
ở trong, ngoài, hay chặng giữa. Chẳng trụ vào
danh tự ấy, mà cũng chẳng
không trụ. Do danh tự ấy vô sở hữu, tuy lập
ra bốn câu để giảng giải cảnh trí, thật
sự chẳng phân biệt bốn câu cảnh trí! Tuy lập
ra bốn câu cảnh trí, thật
sự chẳng thể có bốn câu cảnh trí. Tuy thấu
đạt bốn câu cảnh trí, thật sự chẳng thể
dùng bốn câu để suy lường cảnh trí. Ngôn ngữ
dứt bặt, tâm hạnh xứ diệt, chẳng thể
dùng bốn câu để tư duy, ḍ lường. V́ thế
gọi là “cảnh trí chẳng thể nghĩ bàn”. Kinh
Kim Quang Minh nói “bất tư nghị trí chiếu bất
tư nghị cảnh” (trí chẳng thể nghĩ bàn chiếu
cảnh chẳng thể nghĩ bàn). Huyền nghĩa
như thế được giảng cặn kẽ
trong phần Cảnh Diệu và Trí Diệu [của sách Pháp
Hoa Huyền Nghĩa].
Nay nói Quán th́ chính là trí chẳng
thể nghĩ bàn. Nói Thế Âm chính là cảnh
chẳng thể nghĩ bàn. Nếu xét theo văn từ, hăy
nên giải thích Trí trước; kế đó giải thích Cảnh. Nếu xét theo nghĩa, cần
phải giảng rơ cảnh Thế Âm trước rồi mới
luận bàn Quán Trí. “Thế” có ba thứ:
- Một là Ngũ Ấm thế
gian.
- Hai là chúng sanh thế gian.
- Ba là quốc độ thế
gian.
Đă có Thật pháp, tức
là có giả nhân. Giả và Thật hợp thành chánh báo, liền
có y báo. V́ thế, gọi là ba loại thế gian. “Thế”
có nghĩa là “cách biệt”, tức là thế gian gồm
mười pháp giới, cũng là mười loại
Ngũ Ấm, mười loại giả danh, mười
thứ y báo cách biệt khác nhau. V́ vậy gọi là Thế.
“Gian” có nghĩa là “sai khác”. Ba mươi thứ
Thế[22]
sai biệt, chẳng lầm loạn. Do đó gọi là Gian.
Nói đến mười pháp giới, mỗi giới đều
có nhân, mỗi giới đều có quả. V́ thế gọi
là “pháp”. Mỗi pháp giới đều có giới hạn
rạch ṛi, cho nên gọi là Giới. Nay xét ra, mỗi pháp giới
lại có mười pháp (Thập Như Thị), tức là Tướng,
Tánh, Thể, Lực, Tác, Nhân, Duyên, Quả, Báo, Bổn Mạt
Cứu Cánh như thế. [Do vậy], mười pháp giới
bèn có một trăm pháp. Mười giới dung hội lẫn
nhau, bèn có một trăm pháp. Mười giới lại phối
ứng lẫn nhau, bèn có một ngàn pháp. Một ngàn pháp
như thế đều là các pháp sanh bởi nhân duyên. Lục
đạo mê hoặc đối với các pháp nhân duyên, tứ
thánh th́ hiểu các pháp nhân duyên. Do đó, Đại Kinh nói: “Vô
lậu diệc hữu nhân duyên. Nhân diệt vô minh, tắc
đắc xí nhiên Tam Bồ Đề đăng” (Vô lậu
cũng có nhân duyên. Do diệt vô minh bèn đạt được
đèn Chánh Giác rạng ngời). Bản thể của các
pháp sanh bởi nhân duyên ấy chính là Tam Đế (Không, Giả,
Trung). Do đó, Trung Luận nói: “Pháp sanh bởi nhân duyên, ta
nói chính là Không, cũng gọi là giả danh, cũng là
nghĩa Trung Đạo”. V́ thế, nêu ra mười loại
pháp giới, ba mươi loại thế gian, tức là cảnh
được quán.
Cảnh ấy lại gồm
có hai, tức là tự và tha. “Tha” tức là chúng sanh và
Phật. “Tự” có đủ ngay trong tâm. Như kinh
Hoa Nghiêm nói: “Tâm như công họa sư, tạo chủng
chủng Ngũ Ấm. Nhất thiết chư thế gian,
mạc bất do tâm tạo” (Tâm như thợ vẽ
khéo, tạo các thứ Ngũ Ấm. Hết thảy các thế
gian, không ǵ chẳng tâm tạo). Lại
nói: “Như tâm Phật diệc nhiên. Như Phật chúng sanh
nhiên. Tâm Phật cập chúng sanh. Thị tam vô sai biệt”
(như tâm, Phật cũng thế. Như Phật, chúng sanh
đồng. Tâm, Phật, và chúng sanh, cả ba chẳng sai
khác). V́ thế, nêu ra bất cứ một niệm tâm nào,
cũng đều trọn đủ ba ngàn tánh tướng[23]
trong ba mươi loại thế gian. Nêu ra bất cứ Phật
pháp nào, cũng đều trọn đủ ba ngàn tánh
tướng của ba mươi loại thế gian. Nêu ra
bất cứ một pháp chúng sanh nào, cũng liền trọn
đủ ba ngàn tánh tướng trong ba mươi loại
thế gian. Hăy nên biết: Dù tự hay tha, mỗi mỗi
không ǵ chẳng phải là diệu cảnh Tam Đế chẳng
thể nghĩ bàn!
“Âm” tức là căn
cơ thuộc khẩu nghiệp trong mười pháp giới.
Pháp giới đă bất đồng, âm cũng sai khác. Phát
âm thành tiếng, tức là đầy đủ ba nghiệp.
Dùng ba nghiệp ấy để làm cơ cảm. Quy kết
cái cảnh “thế âm” ấy, phải nên có sáu loại:
- Một, quy kết mười
pháp giới là cảnh nhân duyên.
- Hai, quy kết thành cảnh
Tứ Đế.
- Ba, quy kết thành cảnh
Tam Đế.
- Bốn, quy kết thành cảnh
Nhị Đế.
- Năm, quy kết thành cảnh
Nhất Thật Đế.
- Sáu, quy kết thành cảnh
Vô Đế.
Nói cặn kẽ th́ như
trong sách Huyền Nghĩa đă giảng.
Kế đó, nói về quán
trí. Kèm theo cảnh để nói về trí, bèn có năm
lượt luận định về Quán. Nếu xét theo
nhân duyên bèn luận định bốn loại Quán. Nếu
xét theo Tứ Đế, cũng là bốn loại Quán. Nếu
xét theo Tam Đế, sẽ có hai loại Quán. Nếu xét theo
Nhị Đế, sẽ có bảy loại Quán. Nếu xét
theo Nhất Thật Đế, chỉ có một loại
Quán. Nếu Vô Đế th́ chẳng có Quán. Những điều
này cũng được nói cặn kẽ trong sách Huyền
Nghĩa.
Nay lại xét theo mười
pháp giới để nói về hai loại Tam Đế: Một
là Thông, hai là Biệt. Luận theo Thông, th́ mười pháp giới đều
là pháp sanh bởi nhân duyên, chẳng giới nào không phải
là “tức Không, tức Giả, tức Trung”. Không là
Chân Đế, Giả là Tục Đế, Trung là Trung Đạo
Đệ Nhất Nghĩa Đế. Biệt luận th́ sáu
phàm giới (nhân, thiên, A Tu La…) là pháp sanh bởi nhân duyên. Nhị
Thừa giới là Không, Bồ Tát giới là Giả, Phật
giới là Trung. Cảnh Đế đă có hai ư là Thông và Biệt.
Đối cảnh nói đến
Quán, cũng có hai ư: Một là Thứ Đệ Tam Quán, hai là
Nhất Tâm Tam Quán. Thứ Đệ là như kinh An Lạc
dạy: “Tùng Giả nhập Không, danh Nhị Đế
Quán. Tùng Không nhập Giả, danh B́nh Đẳng Quán” (từ
Giả nhập Không, gọi là Nhị Đế Quán. Từ
Không nhập Giả, gọi là B́nh Đẳng Quán). Hai phép
Quán làm phương tiện để nhập Trung Đạo
Đệ Nhất Nghĩa Quán. Ba món Quán ấy chính là Tam Trí
được nói trong kinh Đại Phẩm [Bát Nhă]: Một
là Nhất Thiết Trí, hai là Đạo Chủng Trí, ba là Nhất
Thiết Chủng Trí.
Luận định chung th́
Quán và Trí chỉ là một pháp, nhưng có tên gọi khác nhau.
Luận định riêng th́ khi tu nhân gọi là Quán, khi đắc
quả th́ gọi là Trí. Đại Kinh nêu ra mười hai
nhân duyên, có bốn loại Quán, tức hạ trí, trung trí,
thượng trí, và thượng thượng trí. Tích Không
là hạ, tức Tạng Giáo. Thể Không là Trung, tức
Thông Giáo. Từ Không nhập Giả là thượng, tức
Biệt Giáo. Trung Đạo chánh quán là thượng thượng,
tức Viên Giáo.
Hăy nên biết Tích Quán và Thể
Quán đều thuộc về Nhất Thiết Trí. Nếu
đem Tam Trí và Tứ Quán phối ứng với Ngũ Nhăn
th́:
- Nhục nhăn và thiên nhăn chiếu
chuyện thô hay tế, đều là Thế Trí, đều
là cái gốc của các quán cảnh.
- Huệ nhăn đối ứng
với Không Quán, thuộc về Nhất Thiết Trí.
- Pháp nhăn đối ứng
Giả Quán, thuộc về
Đạo Chủng Trí.
- Phật nhăn đối ứng
với Trung Quán, thuộc Nhất Thiết Chủng Trí.
Câu kệ “nhân duyên sở
sanh pháp” (pháp sanh bởi nhân duyên) trong Trung Luận chính là
cái gốc của Quán Trí. Ba câu sau đó, theo thứ tự
đối ứng với Tam Trí.
Nếu đối ứng với
tứ giáo th́ câu đầu tiên đối ứng với Tạng
Giáo. Ba câu sau theo thứ tự đối ứng với
Thông, Biệt, Viên. V́ thế, hễ đối ứng với
tứ giáo, nếu chẳng có giáo, sẽ chẳng có Quán.
Nương theo giáo để tu Quán, sẽ thành tựu
trí. V́ thế, cần phải nói rơ giáo. Giáo ắt phải
có chủ, “chủ” chính là Phật. Hoặc có thể là một
vị Phật nói tứ giáo, hoặc có thể là thị hiện
bốn tướng để nói bốn loại Phật, tức
là phải có bốn loại Bổ Xứ Bồ Tát nhằm
phù tá Phật hoằng truyền bốn giáo ấy. Hoặc
là nói “tướng tịch diệt của các pháp, chẳng
thể dùng ngôn ngữ để diễn tả, th́ sanh sanh[24]
c̣n chẳng thể nói, huống hồ sanh bất sanh”
v.v… ư? Hoặc nói “do có nhân duyên nên cũng có thể nói”
th́ không chỉ sanh sanh có thể nói, mà cho đến bất
sanh bất sanh cũng có thể nói! Dùng cửa Phật giáo
để thoát khỏi nỗi khổ sanh tử, chớ nên
một mực chấp trước “vô thuyết”!
Bậc Bổ Xứ trong
Tam Tạng giáo th́ trăm kiếp gieo nhân nơi tướng
hảo, chế phục Hoặc, chứ chưa đoạn
được, chỉ có thể đạt tới Nhẫn
Vị của Thanh Văn. Chỉ v́ hạnh Lục Độ
thành tựu, thệ nguyện sắp măn, từ bi huân chúng
sanh, cũng có thể dẹp khổ, ban vui, tức là xét
theo Thế Trí thuộc các pháp sanh bởi nhân duyên. [Vị Bổ
Xứ trong Tạng Giáo này] quán âm thanh trong lục đạo
thế gian, cho nên gọi là Quán Thế Âm.
Bậc Bổ Xứ trong Thông
Giáo quán Chân, đoạn kết sử, chẳng trụ vào
Không. Từ Không xuất Giả, Đạo và Quán cùng
lưu xuất, du hư thần thông, thanh tịnh quốc độ
của Phật, tức là dùng Thể Không Nhất Thiết
Trí để quán âm thanh của lục đạo thế
gian, bèn gọi là Quán Thế
Âm.
Bậc Bổ Xứ của
Biệt Giáo, Thập Trụ đoạn Kiến Tư Hoặc,
thành Nhất Thiết Trí. Thập Hạnh th́ dùng tứ môn của
tứ giáo để quán Giả, đoạn Trần
Sa Hoặc, thành tựu Đạo Chủng Trí. Thập Hồi
Hướng tu tập Trung Quán, chế phục vô minh. Sơ Địa
đoạn một phần vô minh, thành tựu một phần
Nhất Thiết Chủng Trí. Sau khi đă đắc Thập
Địa, vô minh sắp hết, quán đảnh thọ chức[25],
đại từ, đại bi huân khắp pháp giới, hễ
có cơ cảm đều có thể “dẹp khổ, ban
vui”, tức là dùng Thứ Đệ Tam Trí để quán âm
thanh của mười pháp giới thế gian, cho nên gọi
là Quán Thế Âm.
Bậc Bổ Xứ của
Viên Giáo từ sơ phát tâm chánh quán Trung Đạo, biết
rơ ba ngàn tánh tướng của chúng sanh trong mười pháp giới như
h́nh tượng trong gương, như vầng trăng
trong nước, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng
thể nói là Có, chẳng thể nói là Không,
rốt ráo chẳng thật, nhưng lư Tam Đế rành rành
trọn đủ, chẳng trước, chẳng sau, ở
trong nhất tâm, chính là một mà luận định là ba,
tuy là ba mà luận một. Quán Trí đă là như thế,
Đế lư cũng thế. Một Đế chính là Tam
Đế, Tam Đế chính là một Đế, tức là
từ trong
sơ tâm mà quán trọn hết
thảy các Phật pháp thuộc Tam Đế.
Vô Duyên Từ Bi ở trong nhất
tâm, tu trọn vạn hạnh và các Ba La Mật,
nhập địa vị Thập Tín, đă có thể
vĩnh viễn giă biệt khổ luân trong tam giới, tứ
trụ rơi rụng trước, sáu căn thanh tịnh, được
gọi là Tương Tự Giải. Tấn nhập sơ
tâm của Thập Trụ, liền phá vô minh, khai phát Thật
Tướng, đắc “một thân là vô lượng thân” của
Như Lai, lặng lẽ ứng với hết thảy, trọn
đủ Tam Trí. Từ sự thọ dụng thù thắng
mà đặt tên, chỉ gọi là Nhất Thiết Chủng
Trí. Trọn đủ ngũ nhăn, từ sự thọ dụng
thù thắng mà đặt tên, chỉ gọi là Phật nhăn.
V́ thế nói là “khai Phật tri kiến”. Công đức
của Sơ Trụ đă chẳng thể trọn hết,
huống hồ Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng, Thập Địa, huống hồ bậc
Đẳng Giác ư? Nếu có thể hiểu như thế,
sẽ gọi là Nhân Pháp của Viên Giáo.
Xét theo Vô Tác Tứ Đế,
khởi Vô Duyên Từ Bi, tu Định Huệ bất nhị,
thành tựu hai thân Chân và Ứng, thật sự trọn khắp
pháp giới. Dược Châu (dược thụ
vương và Như Ư Châu) ứng trọn khắp
hết thảy, ngang hay dọc đều thích ứng
căn cơ, hai thứ lợi ích ngấm ngầm và rơ rệt,
dùng bảo tạng Kim Cang Bát Nhă chẳng khuyết để
dẹp trừ các nỗi khổ vi tế thuộc hai loại
sanh tử. Dùng Thủ Lăng Nghiêm pháp giới kiện
tướng [tam-muội] và tam điểm Niết Bàn đại
tự tại lạc, được gọi là “nhất
tâm tam trí chẳng thể nghĩ bàn” để quán âm
thanh chẳng thể nghĩ bàn thuộc nhất cảnh Tam
Đế trong mười pháp giới, th́ gọi là Quán Thế
Âm.
Hỏi: Đă quán chúng sanh “chẳng
phải có, chẳng phải không”, cớ sao hành từ bi?
Đáp: Nếu chẳng hiểu
rơ Trung Đạo, sẽ chẳng biết “chẳng phải
Quyền, chẳng phải Thật”. Nếu không biết “chẳng
phải Quyền, chẳng phải Thật” th́ cũng chính
là “vô Quyền, vô Thật”. Nếu vô Quyền, vô Thật, sẽ
chẳng có bốn phen nhân quả. Nếu hiểu
rơ Trung Đạo th́ Quyền và Thật cùng chiếu. Nếu
Quyền và Thật cùng chiếu, sẽ có ba loại nhân quả
thế gian và xuất thế gian thuộc Quyền Tứ
Đế, và cũng có nhân quả thế gian và xuất thế
gian thuộc Nhất Thật Vô Tác Tứ Đế, rành rành
trọn đủ trong một niệm tâm. V́ lẽ nào vậy?
Dùng Thật Tướng huệ để giác liễu các pháp “chẳng
phải không, chẳng phải có” th́ gọi là Phật Bảo.
Lư pháp tánh được giác ấy trọn đủ
Tam Đế th́ chính là Pháp Bảo. Giác huệ như
thế ḥa hợp cùng Lư Sự, gọi là Tăng Bảo.
“Sự ḥa”
(ḥa hợp theo phương diện sự tướng) liền
có thánh hiền tăng thuộc ba giáo trước (Tạng,
Thông, Biệt). “Lư ḥa” bèn có hiền thánh tăng thuộc
bốn mươi hai địa vị trong Viên Giáo. V́ thế,
Đại Kinh dùng chuyện mặt trăng tăng hay giảm
để sánh ví Trí Đức và Đoạn Đức.
Trăng trước ngày Rằm, ví như trí quang (quang minh
trí huệ) dần dần tăng trưởng, tức là
Trí Đức. Quang minh sau Rằm ví như vầng trăng
khuyết, dần dần giảm bớt, tức là Đoạn
Đức. Bản thể của trăng vốn chẳng
có tṛn, khuyết, tướng sáng cũng chẳng có vơi
đầy. Thể chẳng thiên lệch hay toàn vẹn ví
như Thật Tướng. Ánh sáng có vơi đầy ví
như Trí Đoạn. Trí quang tăng thêm, tức là các pháp
chẳng sanh mà sanh Bát Nhă. Đoạn quang giảm thiểu,
tức các pháp chẳng diệt mà phiền năo diệt. Tăng
giảm như thế, hằng ngày đều có. Trí Đoạn
như thế, chốn chốn đều có
đủ. Như trong ngày Rằm, Thể tṛn vẹn, ánh
sáng trọn đủ, nhưng trăng chẳng tṛn hơn,
ánh sáng chẳng mạnh hơn. Điều này ví như Lư
Trung Đạo tột cùng, trí Bồ Đề viên măn. V́ thế
nói: “Bất sanh bất diệt gọi là Đại Niết
Bàn”.
Nếu là ngày Ba Mươi, thể
tận, quang diệt, rốt ráo chẳng c̣n sót ǵ. Điều
này ví như vô minh đă trừ hết, tà vạy, điên
đảo vĩnh viễn trừ diệt, chẳng có Hoặc
để có thể đoạn. V́ thế nói: “Bất diệt
bất diệt gọi là Đại Niết Bàn”. Nói về
Trí Đoạn của Tăng Bảo như thế, đều
là xét theo pháp Trung Đạo Nhất Thật Tướng, hết
thảy nhân quả chẳng bị phá hoại, mất mát. Nếu
chẳng hiểu “Trung Đạo chẳng phải Không,
chẳng phải Giả”, chỉ chấp trước
đoạn, thường v.v… th́ chính là phá nhân quả thế
gian và xuất thế gian thuộc Sanh Diệt Tứ Đế,
phá Tam Bảo thuộc Tam Tạng Giáo. Nếu chỉ nói “vô
thường sanh diệt” th́ chính là phá Vô Sanh Tứ Đế
và Tam Bảo của Thông Giáo. Nếu chỉ nói “thấu
hiểu Chân Đế chẳng sanh, chẳng diệt” tức
là phá Vô Lượng Tứ Đế và Tam Bảo của Biệt
Giáo. Nếu chỉ nói theo thứ tự hiển lộ chẳng
phải Không chẳng phải Hữu, th́ cũng là phá Vô Tác
Tứ Đế và Nhất Thể Tam Bảo của Viên
Giáo. Truyền dạy lẫn nhau, người phá hoại,
đánh mất điều trước th́ nhiều, kẻ
phá hoại đánh mất điều sau th́ ít. Nếu nay hiểu
ư Viên Giáo, sẽ là hết thảy đều chẳng bị
phá hoại, mất mát.
Hỏi: Nếu viên tu Thật
Tướng th́ nhất pháp Tam Đế, nhất tâm tam quán
trọn đủ các pháp, cũng phải nên là “một giáo diễn tả trọn
đủ bốn giáo”. [Vậy th́] chỉ cần nói
Viên Giáo là đủ rồi, cần ǵ phải phân biệt bốn
giáo như trên đây?
Đáp: “Một giáo nói trọn
vẹn hết thảy các pháp” th́ chỉ thích đáng cho
người lợi căn, c̣n tứ giáo sai biệt nhằm
tương ứng kẻ độn căn. Nếu chẳng
do phân biệt theo thứ tự, sẽ do đâu để có thể hiểu viên đốn?
Dùng Biệt để hiển Viên; v́ thế, trước hết
nói bốn giáo. Chẳng hạn như muốn nói rơ Nhất
Tâm Tam Quán, trước hết bèn giảng rơ Thứ Đệ
Tam Quán. Tuy nói các thứ đạo, thật ra là Nhất Thừa.
Nếu có chúng sanh chẳng tin nhận, sẽ được
chỉ dạy, đạt lợi ích, hoan hỷ trong các pháp
sâu xa khác của Như Lai. “Các pháp khác” chính là ba giáo
trước. Đă nhập Phật huệ, phương tiện
sẽ tự dứt. V́ thế nói: “Duy thử nhất sự
thật, dư nhị tắc phi chân” (chỉ có một sự
thật này, hai thứ khác chẳng thật). V́ thế biết:
Chỉ một giáo pháp viên đốn, Nhất Thiết Chủng
Trí, Trung Đạo chánh quán. Chỉ có điều ấy là
Quán Thế Âm nơi Thật, các điều khác đều
là nói phương tiện.
Xét theo Bổn tích, kinh Thiên Thủ
Thiên Nhăn Đại Bi nói: “Thử Bồ Tát bất khả
tư nghị oai thần chi lực. Ư quá khứ vô lượng
kiếp tiền, dĩ tác Phật cánh, hiệu Chánh Pháp Minh
Như Lai. Đại bi nguyện lực, an lạc chúng
sanh, hiện tác Bồ Tát” (Vị Bồ Tát này có sức
oai thần chẳng thể nghĩ bàn. Vô lượng kiếp trong
thuở
quá khứ trước kia, Ngài đă thành Phật, hiệu
là Chánh Pháp Minh Như Lai. Do đại bi nguyện lực,
an lạc chúng sanh, bèn hiện làm Bồ Tát). Kinh Quán Âm Tam Muội
lại nói: “Tiên dĩ thành Phật, hiệu Chánh Pháp Minh
Như Lai, Thích Ca vi bỉ Phật tác khổ hạnh đệ
tử” (Trước kia, Ngài đă thành Phật, hiệu
là Chánh Pháp Minh Như Lai. Phật Thích Ca làm đệ tử
khổ hạnh của đức Phật đó). Kinh Bi Hoa
chép: “Quá khứ Bảo Tạng Phật thời, Chuyển
Luân vương đệ nhất thái tử, tam nguyệt
cúng Phật cập tỳ-kheo tăng, phát Bồ Đề
tâm. Nhược hữu chúng sanh, thọ tam đồ đẳng
nhất thiết khổ năo, nhược năng niệm
ngă, xưng ngă danh tự, vi ngă thiên nhăn, thiên nhĩ văn kiến,
bất miễn khổ giả, ngă chung bất thành Vô Thượng
Bồ Đề. Bảo Tạng Phật ngôn: - Nhữ quán
nhất thiết chúng sanh, dục đoạn chúng khổ. Cố
kim tự nhữ vi Quán Thế Âm” (Trong quá khứ,
thời Bảo Tạng Phật, Thái Tử thứ nhất
của vua Chuyển Luân trong ba tháng cúng Phật và tỳ-kheo
tăng, phát Bồ Đề tâm, [phát thệ rằng]:
“Nếu có chúng sanh hứng chịu hết thảy các khổ
năo như tam đồ v.v... mà nếu có thể niệm ta,
xưng danh tự của ta, được ngàn mắt ngàn tay
của ta thấy nghe mà chẳng khỏi khổ, ta trọn
chẳng thành Vô Thượng Bồ Đề”. Phật Bảo
Tạng bảo: “Ông quán hết thảy chúng
sanh, muốn đoạn các nỗi khổ. Nay ta đặt
tên cho ông là Quán Thế Âm”). Kinh Đại Phật Đảnh
Thủ Lăng Nghiêm, [trong phần Nhĩ Căn Viên Thông] có
nói: “Ngă niệm văng tích vô lượng vô số hằng hà
sa kiếp, hữu Phật xuất thế, danh Quán Thế
Âm. Ngă ư bỉ Phật phát Bồ Đề tâm. Bỉ Phật
giáo ngă tùng Văn, Tư, Tu, nhập tam-ma-địa. Sơ
ư văn trung, nhập lưu vong sở, năi chí hốt
nhiên siêu việt thế xuất thế gian, hoạch nhị
thù thắng: Nhất giả, thượng hợp thập
phương chư Phật, dữ Phật Như Lai đồng
nhất từ lực. Nhị giả, hạ hợp thập
phương nhất thiết chúng sanh, dữ chư chúng
sanh đồng nhất bi ngưỡng, đắc thành tam
thập nhị ứng, thập tứ vô úy, tứ bất
tư nghị vô tác diệu đức. Bỉ Phật thán
ngă thiện đắc Viên Thông pháp môn, ư đại hội
trung, thọ kư ngă vi Quán Thế Âm hiệu. Do ngă quán thính thập
phương viên minh, cố Quán Âm danh, biến thập
phương giới” (Con nhớ trong vô lượng vô số
hằng hà sa kiếp xưa kia, có Phật xuất thế,
tên là Quán Thế Âm. Con phát tâm Bồ Đề nơi đức
Phật ấy. Đức Phật ấy dạy con từ
Văn, Tư, Tu nhập tam-ma-địa. Thoạt đầu,
từ cái Nghe, tiến nhập gịng tâm thức, quên đi cái
được nghe (trần cảnh), cho đến bỗng
dưng siêu việt thế gian và xuất thế gian, đạt
được hai thứ thù thắng: Một là trên hợp
với mười phương chư Phật, có cùng một
từ lực với Phật Như Lai. Hai là dưới
th́ hợp với hết thảy chúng sanh trong mười
phương, cùng với các chúng sanh cùng một niềm bi
ngưỡng, đạt được ba mươi hai ứng
thân, mười bốn vô úy, bốn món vô tác diệu đức
chẳng thể nghĩ bàn. Đức Phật ấy khen ngợi
con khéo đạt được pháp môn Viên Thông, bèn ở
trong đại hội, thọ kư cho con hiệu là Quán Thế
Âm. Do con xem xét, nghe mười phương viên minh, cho
nên danh hiệu Quán Thế Âm trọn khắp mười
phương cơi). Kinh Quán Thế Âm Đắc Đại Thế
Nhị Bồ
Tát Thọ
Kư chép: “Thứ A Di Đà Phật hậu, đương
thành Chánh Giác, danh Phổ Quang Công Đức Sơn
Vương Như Lai” (kế đó, sau A Di Đà Phật,
[Quán Thế Âm Bồ Tát] sẽ thành Chánh Giác, hiệu là Phổ
Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai). Bổn
Tích như thế khó thể suy lường để biết
được!
Giải thích theo quán tâm:
- Quán tâm được sanh bởi
nhân duyên, đó là Quán Thế Âm trong Tam Tạng.
- Quán tâm chính là Không, đó là
Quán Thế Âm trong Thông Giáo.
- Quán tâm chính là Giả, tức
là Quán Thế Âm trong Biệt Giáo.
- Quán tâm tức Trung, đó là
Quán Thế Âm trong Viên Giáo.
Lại chỉ trong một
tâm niệm nhỏ bé hiện tiền ấy, dẫu hôn mê,
điên đảo, lầm lạc, nhưng Kiến Phần
có thể duyên, bản thể của nó không ǵ chẳng phải
là Nhất Tâm Tam Quán. Bản thể của Tướng Phần
được duyên [bởi Kiến Phần], không ǵ chẳng
phải là nhất cảnh Tam Đế. Tuy bản thể
của chúng đều là diệu trí, diệu cảnh, cảnh
và trí chẳng hai; nhưng chúng sanh hằng
ngày sử dụng mà chẳng biết, oan uổng hứng
chịu luân hồi! Tuy luân hồi, Tánh Đức chẳng
giảm. Đó là Lư Tức Quán Thế Âm.
Nếu nghe mà có thể hiểu,
sẽ chẳng ở ngoài tâm để riêng hỏi Phật
pháp và chúng sanh pháp. Đấy chính là Danh Tự Tức Quán
Thế Âm.
Nếu đúng như điều
đă hiểu để tu Chỉ Quán, chế phục trọn
vẹn ngũ trụ, đó là Quán Hạnh Tức Quán Thế
Âm.
Nếu sức Chỉ Quán mạnh
mẽ, thô cấu rơi rụng trước, sáu căn
thanh tịnh, sẽ là Tương Tự Tức Quán Thế
Âm.
Nếu phát khởi chân vô lậu
giải thuộc Trung Đạo, khai thị ngộ nhập
tri kiến của Phật, sẽ là Phần Chứng Tức
Quán Thế Âm.
Nếu viên măn Bồ Đề,
trở về vô sở đắc, rốt ráo thấu hiểu
trọn hết Thật Tướng của cơi tam thiên.
Đó chính là Cứu Cánh Tức Quán Thế Âm.
25.1.2.2.
Giải thích từ ngữ Phổ Môn
Kế đó, giải thích Phổ
Môn, lại có hai ư:
- Một, giải thích Môn theo
cách nói thông thường.
- Hai, xét theo mười nghĩa để giải thích.
25.1.2.2.1.
Giải
thích theo đường lối thông thường
Trong phần giải thích theo
cách nói thông thường, lại có bốn ư:
- Một, liệt kê đại
lược danh xưng của Môn.
- Hai, chỉ bày tướng
trạng của Môn.
- Ba, nêu bày Quyền Thật.
- Bốn, luận định
phổ và chẳng phổ.
25.1.2.2.1.1.
Liệt kê đại lược danh xưng của Môn
Như cửa trong thế gian thông tới
chỗ ở dù sang hay hèn. Kẻ phàm phu kém hèn dùng Thập Ác
Ngũ Nghịch làm cửa để thông tới tam đồ.
Kẻ thanh khiết hướng thượng dùng Ngũ Giới,
Thập Thiện, Tứ Thiền, Tứ Định làm cửa
để thông tới nhân thiên. Ngoại đạo
dùng Đoạn, Thường làm Môn
để thông tới Hoặc khổ! Ái (Tư Hoặc)
dùng bốn thứ điên đảo làm Môn, Kiến (Kiến
Hoặc) dùng bốn câu làm Môn. Thiện
ác tuy khác, nhưng nói tóm lại, đều là cửa dẫn
tới hữu lậu thế gian, thông tới sanh tử.
Nếu nương vào pháp
luân của Phật để làm môn, cũng lại rất
nhiều:
- Bốn môn của Tam Tạng
thông tới hữu dư và vô dư Niết Bàn.
- Bốn môn của Thông Giáo,
gần th́ thông tới hóa thành, xa th́ thông tới thường
trụ.
- Bốn môn của Biệt
Giáo dần dần thông tới thường trụ.
- Bốn môn của Viên Giáo
nhanh chóng thông tới thường trụ.
Đó chính là bốn lần bốn
thành mười sáu giáo môn. Lại có mười sáu quán môn,
hợp thành ba mươi hai, đều là ư nghĩa “có thể
thông”, chi tiết th́ như trong sách Huyền Nghĩa đă
nói.
25.1.2.2.1.2.
Nêu bày tướng trạng của Môn
Bốn môn trong Tam Tạng (Tạng
Giáo), tức A Tỳ Đàm (Abhidharma) là Hữu môn, Thành Thật
Luận[26]
là Không môn, Côn Lặc[27]
là diệc Hữu diệc Không môn (môn vừa Có vừa
Không), Xa Nặc[28]
là phi Không phi Hữu môn, mỗi mỗi rộng nêu hành pháp
để phán định địa vị hiền thánh, do
môn thông tới Lư.
Bốn môn của Thông Giáo tức là Hữu
như huyễn, Không như huyễn, cũng có cũng không,
chẳng phải có chẳng phải không, cũng là mỗi
mỗi đều dựa theo hành tướng để
phán định địa vị hiền thánh do môn thông tới
Lư.
Bốn môn của Biệt Giáo tức là: Quán
Phật tánh như nhà tối, b́nh, bồn, tức là Hữu
môn. Quán Phật tánh như hư không, thành Ca Tỳ La trống
rỗng, tức là Vô môn. Quán Phật tánh như vàng trong quặng
đá, người có phước đạt được
của báu, kẻ có tội thấy là đá. Đó là môn
“cũng có, cũng không”. Quán Phật tánh ĺa nhị biên, tức
môn “chẳng có, chẳng không” thuộc Trung Đạo. Mỗi
mỗi dùng làm hành tướng để phán định
địa vị do Môn thông tới Lư.
Bốn môn của Viên Giáo có danh xưng chẳng
sai khác Biệt Giáo, nhưng một môn chính là ba môn, ba môn
chính là một
môn, chẳng phải một, chẳng phải bốn, không
có trải khắp hay riêng biệt sai khác, viên dung chẳng
phải bốn môn mà là bốn môn. Mỗi mỗi đều
là tướng trạng để phán định hạnh vị
chẳng thể nghĩ bàn, cũng do Môn mà thông tới Lư.
25.1.2.2.1.3.
Nói về Quyền Thật
Hai giáo Tạng và Thông, dù giáo
hay quán, tổng cộng mười sáu môn, cái có thể thông
(năng thông) và cái được thông (sở thông) hoàn toàn
là Quyền. Trong tám môn[29]
giáo và quán của Biệt Giáo th́ năng thông là Quyền, sở
thông là Thật. Trong tám môn giáo quán của
Viên Giáo, năng thông và sở thông đều là Thật.
25.1.2.2.1.4.
Nói về phổ và chẳng phổ
Các môn Kiến, Ái v.v… của phàm phu
và ngoại đạo c̣n chẳng thể
dẫn đến thoát khỏi tam giới, huống hồ
là Phổ ư? Hai giáo Tạng và Thông chỉ thông tới hóa
thành, cũng chẳng phải là Phổ! Biệt Giáo dần
dần thông, cũng chẳng phải là ư nghĩa Phổ. Chỉ
có giáo và quán của Viên Giáo là pháp môn Thật Tướng, có thể trọn khắp một
ngàn tánh tướng Tam Đế của mười pháp giới,
cùng lúc viên thông, viên thông Trung Đạo, cùng chiếu hai
Đế. V́ thế, gọi là Phổ Môn.
Phần giải thích Môn theo
cách nói thông thường đă xong.
25.1.2.2.2.
Dựa theo mười nghĩa để giải thích Phổ
Môn
Lư tột cùng chẳng thuộc về pháp số,
do ứng với duyên ḥng lợi lạc chúng sanh mà lập
ra một, hai tên, hoặc nhiều đến vô lượng,
rộng hay lược (tức một, hai tên hay vô lượng
tên) đều thích đáng. Nay ở
đây, nêu ra đại lược mười nghĩa: Một là từ bi phổ, hai là hoằng thệ
phổ, ba là tu hành phổ, bốn là đoạn Hoặc phổ,
năm là nhập pháp môn phổ, sáu là thần thông phổ, bảy là
phương tiện phổ, tám là thuyết pháp phổ, chín là cúng dường
chư Phật phổ, mười là thành tựu chúng sanh phổ.
Phổ Môn theo
đường lối chung như trong phần trên là xét
theo pháp, c̣n mười môn Phổ ở đây đều dựa trên sự tu hành
phước đức trang nghiêm. Năm môn đầu (từ bi, hoằng thệ, tu hành, đoạn
Hoặc, nhập pháp môn) là tự hành, ba môn kế tiếp (thần thông, phương tiện, thuyết pháp) là hóa độ
người khác, hai môn sau cùng (cúng dường
chư Phật và thành tựu chúng sanh) nhằm kết lại
hai ư trên đây. Trong phần tự hành, bốn môn đầu
(từ bi, hoằng thệ, tu hành, đoạn Hoặc)
là
tu nhân, môn thứ năm (nhập pháp môn) nói về quả.
Tu nhân lại gồm hai phần: Hai môn đầu (từ bi và hoằng thệ) là nguyện, môn
ba và bốn (tu hành và đoạn Hoặc) là hạnh.
Luận về sự sanh khởi
chung [theo thứ tự của mười món Phổ ấy],
Bồ Tát thấy hết thảy chúng sanh khổ năo, dấy
ḷng đại từ bi. Cái tâm ấy tuy chưa phải là Bồ
Đề tâm, nhưng có thể sanh khởi Bồ Đề
tâm. Ví như địa và thủy tuy chưa phải là chủng
tử, nhưng có thể khiến cho [hạt giống] nẩy
mầm. Nay do đại bi bèn khởi Bồ Đề tâm
cũng giống như thế.
Kế đó là thệ nguyện.
Nếu chỉ từ bi, thường là phần nhiều bị
thoái đọa. V́ thế nói: “Ngư tử, Am La hoa, Bồ
Tát sơ phát tâm, tam sự nhân trung đa, cập kỳ thành
tựu thiểu” (cá con, hoa xoài, Bồ Tát sơ phát tâm. Ba
chuyện ấy nơi nhân th́ nhiều, nhưng thành tựu
th́ ít) do bất định vậy.
Cần phải khởi thệ nguyện, mong quyết đạt được, để
duy tŕ cái tâm ấy, khiến cho Bồ Đề kiên cố.
Tiếp đó là tu hành. Nếu
chỉ phát nguyện, chưa lợi ích người khác,
như chẳng có tài lực lẫn quyền mưu, sẽ
chẳng thể dẹp nạn. Bồ Tát cũng thế, cần
phải có “của cải” phước đức, sức
thần thông, và mưu lược trí huệ, th́ mới có thể giáo hóa, hướng
dẫn. V́ thế, cần phải tu hành để bồi
đắp cho nguyện, tức là phương tiện
đạo.
Kế đó là đoạn Hoặc,
tức vô ngại đạo.
Kế đó, nhập pháp môn,
tức là giải thoát đạo.
Đấy chính là thứ tự
trong tự hành.
Kế đến là thần
thông v.v… [trong Thập Phổ]. Nếu muốn hóa
độ người khác, cần phải chỉ bày tam
luân: Thần thông là thân luân, phương tiện là ư luân,
thuyết pháp là khẩu luân. Trước hết, dùng Định
để đả động;
sau đó, dùng
Huệ để dẹp trừ [phiền năo, mê hoặc].
Đó chính là thứ tự trong việc hóa độ người
khác,
Kế đó, cúng dường
chư Phật nhằm kết lại sự
tự hành. Tùy thuận tu hành chính là Pháp Cúng Dường chân
thật, là cao quư nhất trong các sự cúng dường. Do
đó, Đại Kinh nói: “Nhữ tùy ngă ngữ, tức
cúng dường Phật” (Ông tùy thuận lời ta th́ chính
là cúng dường Phật). Vâng theo giáo mà hành chính là kết
lại sự tự hành. Thành tựu chúng sanh chính là kết
lại sự hóa tha (hóa độ người khác). Bồ
Tát nhập các pháp môn, thanh tịnh cơi Phật,
đều v́ lợi ích hết thảy chúng sanh.
25.1.2.2.2.1.
Từ bi phổ
Giải thích [Thập Phổ,
khởi đầu bằng Từ Bi Phổ]: Khởi đầu
từ nhân thiên cho đến [hàng Bồ Tát đă] nhập
Sơ Địa đều có từ bi. Nói kiểu ấy
chính là Thông (nói chung, nói tổng quát), [từ bi] chẳng ra
ngoài [ba loại là] chúng sanh duyên, pháp duyên, và vô duyên. Nếu
xét theo thứ tự của ba ḷng Từ th́ khi duyên
chúng sanh, do giả danh sai biệt của chúng sanh khác nhau, do nhân quả khổ hay lạc
sai khác, vẫn chẳng thể
nhập pháp duyên từ, sao có thể gọi là Phổ? Nếu
là pháp duyên từ, th́ vô nhân, vô ngă, vô chúng sanh. Từ Giả
nhập Không, c̣n chẳng đạt được các giả
danh, hà huống là Phổ? Nếu là vô duyên từ th́ chẳng
duyên theo giả danh trong hai mươi lăm Hữu (tam giới),
chẳng duyên theo pháp Niết Bàn của Nhị Thừa. Tuy
chẳng duyên theo, nhưng có thể cùng chiếu cả Không
lẫn Giả. Dựa theo đó mà dấy ḷng Từ th́ gọi
là Vô
Duyên
Từ.
Tâm thông Tam Đế, bèn gọi là Phổ. Nếu xét theo nhất
tâm viên diệu, ba ḷng Từ chẳng phải vậy. [Phân tích cặn kẽ như sau]:
25.1.2.2.2.1.1.
Chúng Sanh Duyên Từ Bi Phổ
Như chúng sanh duyên từ bi (ḷng từ bi do thấy có chúng sanh để dẹp
khổ, ban vui), nếu quán giả danh của chúng
sanh trong một pháp giới, sẽ chẳng thể gọi
là Phổ. Nay quán giả danh của chúng sanh trong mười
pháp giới, mỗi pháp giới đều có [mười món Như Thị là] tướng, tánh,
bổn mạt cứu cánh v.v… của mười pháp giới.
Mười pháp giới đối ứng lẫn nhau, bèn có
“bách giới, thiên như”[30]
rành rành trọn đủ ở trong một niệm tâm. Ví
như mặt người có đủ các tướng cát,
hung, kẻ b́nh phàm chẳng biết, nhưng thầy coi
tướng khéo biết. Một tâm của chúng sanh trọn
đủ tánh và tướng của bách giới thiên như
cũng giống như thế. Phàm phu điên đảo, lư
trọn đủ, nhưng mê t́nh; thánh nhân hay biết, giống
như thầy tướng biết ngàn loại tánh tướng
ấy đều là các pháp
sanh bởi nhân duyên. Nếu là pháp sanh bởi nhân duyên ác, sẽ
chính là tánh, tướng khổ cho đến bổn mạt
khổ. Do họ chưa giải thoát, do quán nỗi khổ ấy,
cho nên [Bồ Tát] dấy ḷng đại bi. Nếu là pháp sanh
bởi thiện nhân duyên, sẽ có tướng, tánh của lạc cho đến
bổn mạt của lạc. Do họ chưa
chứng đắc, cho nên quán điều này mà [Bồ Tát]
khởi ḷng đại từ. Nói chi tiết th́ như trong
sách Huyền Nghĩa đă giải thích cặn kẽ tánh,
tướng v.v… của mười pháp giới. Bồ Tát
quán sâu xa ngàn loại tánh tướng của chúng sanh trong
mười pháp giới đều trọn đủ trong
nhất tâm, t́m kiếm cội nguồn xa xôi, soi chiếu
điều ác và điều thiện nơi Tánh Đức,
c̣n tự lănh
hội phân minh; huống hồ chẳng chiếu tỏ
thiện ác do tu đắc ư? Như thấy Tuyết
sơn có dược vương, mà cũng có cỏ độc.
Do quán sự ác độc trong Tánh Đức, sẽ động
ḷng xót thương, dấy tâm đại bi, muốn dẹp
trừ nỗi khổ ấy. Do quán sự thiện lạc
trong Tánh Đức, bèn ái niệm hoan hỷ, khởi tâm
đại từ, mong ban cho họ sự vui. Mười
pháp giới ấy thâu nhiếp hết thảy chúng sanh chẳng
c̣n sót. Duyên theo giả danh của các chúng sanh ấy mà tu từ
bi, há chẳng phải là Chúng Sanh Duyên Từ Bi Phổ ư?
Hỏi: Nỗi khổ nặng
nề trong địa ngục chưa dẹp trừ, ban vui
bằng cách nào?
Đáp: Khi chúng sanh vào địa
ngục, phần nhiều khởi ba niệm, Bồ Tát thừa
dịp [cứu độ]; đấy chính là cái nhân ban vui.
V́ thế nói là “ban vui”. Lại nữa, Bồ Tát có thể
đại bi chịu khổ thay [cho các tội nhân trong
địa ngục], khiến cho họ được
ngơi nghỉ. Chín nỗi khổ kia (tức nỗi khổ
trong chín pháp giới ngoài địa ngục giới) c̣n nhẹ;
ư nghĩa “ban vui” dễ hiểu.
25.1.2.2.2.1.2.
Pháp Duyên Từ Bi Phổ
Kế đó, nói đến
Pháp Duyên Từ Bi Phổ. Quán tánh tướng của mười
pháp giới, hết thảy thiện ác đều là hư
không, mười pháp giới là giả danh. Giả danh th́
đều là Không. Đối với Sắc, Thọ,
Tưởng, Hành, Thức trong mười pháp giới th́ Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức đều là Không. Xứ sở trong mười
pháp giới, xứ sở đều là Không. Vô ngă, vô ngă sở,
đều chẳng thể được, như huyễn,
như hóa, chẳng có chân thật, tướng thường
tịch diệt, rốt ráo quy vào Không. Cớ sao chúng sanh
cưỡng chấp là thật, chẳng hay, chẳng biết,
bị khổ, bị năo, chẳng đạt được
niềm vui vô vi tịch diệt?
Nay muốn dẹp nỗi khổ ấy, khởi đại bi; do muốn
ban cho [chúng sanh] niềm vui ấy, bèn dấy ḷng đại
từ. V́ thế, kinh Tịnh Danh nói: “Năng vị chúng sanh
thuyết như thử pháp, tức chân thật từ dă”
(Có thể v́ chúng sanh nói pháp như thế th́ chính là ḷng từ
chân thật). Nếu duyên theo pháp của một pháp giới
để khởi ḷng từ bi, sẽ chẳng thể gọi
là Phổ! Nay duyên theo pháp của mười pháp giới, há
chẳng phải là Phổ ư?
25.1.2.2.2.1.3.
Vô Duyên Từ Bi Phổ
Nếu duyên theo giả danh
sai biệt của tánh, tướng v.v… trong mười pháp
giới, th́ cái giả ấy chẳng phải là giả;
mười pháp giới như huyễn, như hóa, Không chẳng
phải là Không. Do chẳng phải là Giả, cho nên chẳng duyên theo
tánh tướng của mười pháp giới. Do chẳng
phải là Không, cho nên chẳng duyên
theo Chân trong mười pháp. Đă ngăn che hai bên (Không và
Giả), chẳng trụ, chẳng chấp, cho nên gọi là
Trung Đạo, mà cũng chẳng có Trung để có thể
duyên theo, rốt ráo thanh tịnh. Khi quán như thế, tuy chẳng
duyên theo Không và Giả, tùy ư cùng chiếu hai bên (Không và Giả), dấy lên Vô Duyên Từ Bi, dẹp
trừ hai thứ tử khổ (Phần Đoạn và Biến
Dịch), ban cho niềm vui Trung Đạo như nam châm hút
sắt, chẳng có ai dạy bảo mà tự nhiên tương
ứng. Vô Duyên Từ Bi thu hút căn cơ Tam Đế chẳng
hề sai sót, chẳng cần phải dấy lên ư niệm.
Hành giả thoạt đầu từ địa vị phàm
phu, do tu ḷng từ bi ấy,
liền nhập Vô Duyên Từ Bi thuộc Ngũ Phẩm Quán
Hạnh, tiến nhập Tương Tự Vô Duyên Từ Bi
của Thập Tín. Kế đó, nhập Thập Trụ th́
mới là phần chứng Vô Duyên Từ Bi. Cho đến
Đẳng Giác, gần với địa vị từ bi tột
cùng, phổ huân chúng sanh, bất động mà ứng,
như gương sáng hiện h́nh bóng, như
nam châm hút sắt, Tam Đế trọn đủ. V́ thế,
gọi là Phổ, do thông tới Trung Đạo. Do đó, gọi
là Môn.
“Hoằng thệ”: Hoằng
(宏) là rộng lớn, Thệ là chế
ngự. Nguyện là mong cầu, tức là chế ngự
cái tâm để rộng cầu pháp thù thắng. V́ thế gọi
là Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Hoằng thệ vốn
thành tựu từ bi, mà từ
bi đă duyên
theo khổ lạc, [cho nên] Hoằng Thệ
cũng xét theo Tứ Đế. Nếu thấy Khổ
Đế bức bách, tàn độc, đau xót, bèn
nương theo đó dấy lên thệ nguyện. V́ thế
nói “kẻ chưa độ sẽ khiến cho được
độ”. Nếu thấy Tập Đế điên
đảo, bị mê hoặc trói buộc, sẽ duyên theo
đó dấy lên thệ nguyện. V́ thế nói “sẽ khiến
cho người chưa giải được giải”,
hành thanh tịnh đạo, có thể thoát khỏi sanh tử,
đạt tới địa vị an lạc. Chúng sanh chẳng
biết, muốn dạy cho chúng sanh trụ yên nơi đạo
ấy. V́ thế nói “kẻ chưa an sẽ khiến cho
được an”. Phiền năo diệt mất, sự
trói buộc của tử quả[31]
bị cắt đứt, th́ gọi là Niết Bàn. Chúng sanh
chưa chứng, duyên theo đó để dấy lên thệ
nguyện. V́ thế nói “kẻ chưa đắc Niết
Bàn, sẽ khiến cho đắc Niết Bàn”. Cái nhân sanh
tử khó biết, khổ quả dễ biết. V́ thế, [trong khi dạy bảo nhân quả, phải nói theo thứ
tự] “trước
là quả, sau là nhân”. Diệu lư Niết Bàn cần phải
có phương tiện thiện. V́ thế, [cần phải nói theo thứ tự] “trước là
nhân, sau là quả”. Tứ Đế như thế chẳng
ra ngoài nhất tâm. Do mê tâm mà dấy nghiệp, hễ có nghiệp
liền cảm quả. Muốn biết cội nguồn của
quả, th́ quả chỉ do Tập. Chế phục cái tâm,
dứt nghiệp, tức là sanh tử luân hư hoại.
Điều phục phiền năo th́ gọi là Đạo. Tu
hành chẳng lười nhác, khổ nhẫn sẽ sáng tỏ,
dấy khởi, tử quả đều đoạn, th́ gọi
là Diệt. Tuy có bốn thứ sai khác (tức Khổ, Tập,
Diệt, Đạo), rốt cuộc là một niệm, chẳng
có pháp nào khác. Tứ Đế đă là như thế, hoằng
thệ cũng thế. Chỉ là do phàm phu chán ngán dưới, nắm níu trên, bèn duyên
theo đó mà lập thệ. Hễ chưa thấu đạt
Tứ Đế, sẽ chẳng gọi là Phổ.
Tạng Giáo và Thông Giáo chỉ
thấy Phần Đoạn Tứ Đế, cũng chẳng
gọi là Phổ. Biệt Giáo trước hết dựa
theo Phần Đoạn rồi mới đến Biến Dịch,
đấy cũng chẳng gọi là Phổ. Viên
Giáo Bồ Tát trong nhất tâm, biết trọn khắp hết
thảy Khổ, Tập, Diệt, Đạo. “Biết trọn
khắp Tập”: Kiến ái của phàm phu là hữu tác Tập.
Nhị Thừa chấp Không, tức là vô tác Tập. V́ thế,
kinh Tịnh Danh nói: “Pháp danh vô nhiễm. Nhược nhiễm
ư pháp, thị danh nhiễm pháp, phi cầu pháp dă” (Pháp
là vô nhiễm. Nếu nhiễm nơi pháp th́ gọi là nhiễm
pháp, chẳng phải là cầu pháp). Lại nói: “Kết tập
vị tận, hoa tắc trước thân” (Chưa sạch
hết kết sử, tập khí th́ hoa dính nơi thân)[32],
tức là Biến Dịch Hoặc (chấp
trước đối với Biến Dịch sanh tử) hoàn toàn chưa trừ.
Đại Kinh nói: “Nhữ chư tỳ-kheo, ư thử
Đại Thừa, vị vi chánh pháp trừ chư kết
sử, tức Vô Tác Tập dă. Năi chí thuận đạo
pháp ái sanh, diệc thị Vô Tác Tập dă” (Tỳ-kheo các
ông đối với Đại Thừa này, chưa v́ chánh
pháp trừ các kết sử, th́ chính là Vô Tác Tập. Cho
đến thuận đạo pháp ái sanh cũng là Vô Tác Tập).
“Biết trọn khắp
Khổ”: Do có Tập, cho nên có thể chuốc khổ. Hữu
Tác Tập chuốc vời nỗi khổ Phần Đoạn;
Vô Tác Tập chuốc vời nỗi khổ Biến Dịch.
V́ thế, Đạo Đế trong tam giới
chính là Tập Đế ở ngoài tam giới.
“Biết trọn
khắp Đạo Diệt nhằm đối trị Khổ
Tập”: Ngũ Giới của nhân thiên, Thập Thiện,
Tứ Thiền, Tứ Định, bất động, bất
xuất. Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên của Tạng
Giáo và Thông Giáo thông tới hai loại Niết Bàn hữu
dư và vô dư. Biệt Giáo trải qua các địa vị
thuộc Biệt, thông tới thường trụ.
Nhưng chẳng thể trong một đạo mà có vô
lượng đạo; [do vậy], chẳng thể gọi là Phổ
Đạo. Trung Đạo của Viên Giáo chính là Thật
Tướng. Kinh Phổ Hiền Quán nói: “Đại
Thừa nhân giả, chư pháp Thật Tướng” (cái
nhân của Đại Thừa là Thật Tướng của
các pháp). Tu Đạo như thế th́ gọi là “viên nhân”
(cái nhân viên măn), cho nên gọi là Phổ Đạo. Đạt
được Niết Bàn chính là rốt ráo thường trụ.
Hết thảy các phiền năo vĩnh viễn chẳng c̣n
thừa sót, ví như kiếp hỏa chẳng c̣n ǵ thừa
sót. Kinh Phổ Hiền Quán nói: “Đại Thừa quả
giả, chư pháp Thật Tướng” (Quả của
Đại Thừa là Thật Tướng của các pháp).
Chứng Diệt như thế th́ gọi là “viên quả”.
V́ thế gọi là Phổ Diệt. Quán Tứ Đế
đă trọn vẹn, duyên theo Đế để dấy
lên thệ nguyện, lẽ nào chẳng trọn khắp? V́
thế nói là Hoằng Thệ Phổ.
25.1.2.2.2.3.
Tu hành phổ
“Tu hành”: Theo thứ tự
[tu tập] năm hạnh th́ chẳng phải là Phổ. Nhất
tâm [tu tập đồng thời] năm hạnh th́ mới
gọi là Phổ, cặn kẽ th́ như đă nói trong phần
Hạnh Diệu của sách Huyền Nghĩa.
25.1.2.2.2.4.
Đoạn Hoặc phổ
“Đoạn Hoặc”: Nếu
từ Giả nhập Không, chỉ đoạn Tứ Trụ,
hoa vẫn dính nơi thân, chưa v́ chánh pháp trừ các kết
sử, chỉ ĺa hư vọng, chưa đạt
được hết thảy các giải thoát. Cho nên chẳng
gọi là Phổ. Nếu từ Không nhập Giả, chỉ
trừ Trần Sa, chẳng nương theo căn bản
để đoạn, cũng chẳng gọi là Phổ. Nếu
Không và Giả chẳng hai, chánh quán Trung Đạo, cội
rễ đă nghiêng, cành, lá tự rụng. Như đại
địa bị che phủ, thảo mộc đều nát.
V́ thế gọi là Đoạn Hoặc Phổ.
25.1.2.2.2.5.
Nhập pháp môn phổ
“Nhập pháp môn”: Như Nhị Thừa
nhập một pháp môn, chẳng thể nhập hai môn, huống
hồ nhiều môn! Nếu tu khắp
cách hạnh riêng biệt, giai vị sẽ sâu hay cạn
sai khác, cũng chẳng gọi là Phổ. Nếu nhập
vương tam-muội, hết thảy tam-muội đều
nhập vào đó. Ví như vua đi đến đâu, ắt
có quần thần đi theo. Quần thần lại có kẻ
hầu cận. Vương tam-muội cũng giống như thế. Nhất Đế tam-muội
chính là Tam Đế tam-muội. Tam Đế tam-muội lại
có vô lượng pháp môn làm quyến thuộc, cũng đều
nhập vào trong vương tam-muội. V́ thế gọi là “nhập
pháp môn phổ”.
25.1.2.2.2.6.
Thần thông phổ
“Thần
thông”: La Hán thấy đại
thiên (một tam thiên đại thiên thế giới), Sơ
Địa thấy một trăm cơi (một trăm cơi tam
thiên đại thiên), Nhị Địa thấy một ngàn
cơi v.v… đều là thần thông có hạn lượng, cho
nên chẳng gọi là Phổ. V́ lẽ nào vậy? Đă duyên theo cảnh hạn hẹp, phát khởi thần thông
cũng nhỏ nhoi. Nay Viên Giáo Bồ Tát duyên trọn khắp
cảnh của mười pháp giới, phát khởi thần
thông thấy trọn khắp mười pháp giới chẳng
có cực hạn. Tam thừa c̣n chẳng biết tên gọi,
huống hồ thấy các cảnh giới ấy! Mắt
thấy đă là như vậy, các điều khác cũng có
thể suy ra để biết.
25.1.2.2.2.7.
Phương tiện phổ
“Phương
tiện”: Có tiến hành
phương tiện, tức là đạo tiền tự
hành phương tiện (phương tiện để
chính ḿnh tu hành trước khi đắc quả), có khởi
dụng phương tiện (phương tiện để phát khởi công dụng) tức là
đạo hậu hóa tha phương tiện (phương
tiện hóa độ người khác sau khi đă đắc
đạo quả). Nay nói về đạo hậu hóa tha
phương tiện. Nếu là tự hành phương tiện
của Nhị Thừa và Bồ Tát thuộc các địa vị
quyền biến th́ chỉ có thể nhập một pháp
môn. Do đó, khởi tác dụng hóa độ người
khác chỉ có thể ngang bằng với những ǵ chính
ḿnh đă đạt được. [Bởi lẽ đó],
đạo tiền hay đạo hậu [của Nhị Thừa
và Quyền vị Bồ Tát] đều chẳng được
gọi là Phổ. Nay Viên Giáo Bồ Tát dùng Nhị Đế
làm phương tiện, gồm thâu hết thảy các
phương tiện. Đă nhập Trung Đạo, song chiếu
Nhị Đế (Chân Đế và Tục Đế). Thần
biến (thần thông biến hóa) của Nhị Đế
trọn khắp mười pháp giới, nhưng Trung Đạo
chẳng bị tổn giảm, dù là đạo tiền hay đạo
hậu, đều gọi là Phổ.
25.1.2.2.2.8.
Thuyết pháp phổ
“Thuyết pháp”: Nhị
Thừa và Quyền vị Bồ Tát chẳng thể cùng lúc
đáp trọn khắp các chúng sanh. Lại nữa, do xứ
sở và phong tục khác biệt, chẳng thể khiến
cho [chúng sanh nghe pháp] đều hiểu biết. Nay người thuộc Viên Giáo th́ cùng lúc diễn
pháp, mỗi loài đều hiểu. Dùng một diệu âm trọn
khắp mười phương, như đàn Tu La[33]
tùy theo ư người mà phát ra tiếng. V́ thế gọi là
Thuyết Pháp Phổ.
25.1.2.2.2.9.
Cúng dường chư Phật phổ
“Cúng dường chư Phật”
có hai ư: Một là Sự, hai là Lư.
1) Sự cúng dường
th́ như kinh Hoa Nghiêm nói: “Bất vị đản cúng
dường nhất Phật cố, năi chí bất vị
đản cúng dường bất khả thuyết Phật
sát vi trần số Phật cố, vị dục biến
cúng dường tận pháp giới hư không giới nhất
thiết chư Phật cố, bất khởi Diệt
định, hiện chư oai nghi, an Thiền, hiệp
chưởng, tán chư pháp vương. Dĩ thân,
mạng, tài, nhất thiết cúng cụ, châu
chí thập phương” (Chẳng v́ chỉ cúng dường
một đức Phật, cho đến chẳng v́ cúng
dường bất khả thuyết Phật sát vi trần
số Phật, mà là v́ muốn cúng dường trọn khắp
hết thảy chư Phật tận pháp giới hư
không giới, chẳng khởi Diệt Tận Định,
hiện các oai nghi, an trụ trong Thiền Định, chắp
tay, tán thán các đấng pháp vương. Dùng thân thể, sanh mạng, tài vật, hết thảy
các vật cúng trọn khắp mười phương)
như trong Phổ Hiền Nguyện Vương đă nói.
2) Lư cúng dường
là cái tâm viên trí chánh quán được gọi là Giác. Giác tức
là Phật. Công đức của vạn hạnh huân tu trí ấy,
tức là cúng dường Phật. V́ thế nói Cúng Dường
Chư Phật Phổ.
25.1.2.2.2.10.
Thành tựu chúng sanh phổ
“Thành tựu chúng sanh”:
Ví như lửa đom đóm, đèn, đuốc, tinh tú, mặt
trăng tạo lợi ích nhỏ nhoi. Nếu ánh sáng mặt
trời chiếu thế gian, sẽ khiến cho trọn khắp
hết thảy cỏ cây, rừng rậm đều
được sanh trưởng, hoa quả thành tựu. Ngoại
đạo như đom đóm, Nhị Thừa như
đèn đuốc, tiểu Bồ Tát như tinh tú, Biệt
Giáo như mặt trăng. Nay Viên Giáo Bồ Tát giống
như vầng mặt trời, lại như mây to, cùng lúc
b́nh đẳng tuôn mưa, bốn phương đều
trút xuống. Ba loại cỏ, hai loại cây [như đă
nói trong phẩm Dược Thảo Dụ] mỗi mỗi
đều được sanh trưởng. V́ thế nói là
Thành Tựu Chúng Sanh Phổ.
Ư nghĩa của Phổ Môn
há có thể cùng tận ư? Nêu đại lược
mười nghĩa ḥng chỉ bày đầu mối đó
thôi! Chỉ quán một niệm tâm tánh hiện tiền, vốn
sẵn trọn đủ ba ngàn tánh tướng, tức
Không, tức Giả, tức Trung, chính là diệu cảnh Vô
Tác Tứ Đế. Duyên theo diệu cảnh ấy để
khởi từ bi, từ bi sẽ trọn khắp (Từ Bi
Phổ). Lập thệ nguyện rộng lớn, thệ
nguyện rộng lớn ắt trọn khắp (Hoằng
Thệ Phổ). Nương theo đấy để tu
hành, một hạnh chính là hết thảy các hạnh.
V́ thế là Tu Hành Phổ. Nương theo đấy để
đoạn Hoặc, một thứ đă đoạn th́ hết
thảy đều đoạn. V́ thế là Đoạn Hoặc
Phổ. Nương theo đấy để nhập pháp
môn, một pháp môn chính là hết thảy các
pháp môn. V́ thế Nhập Pháp Môn Phổ. Nương theo
đấy để dấy lên thần thông, tức là vô kư
hóa hóa[34],
cho nên là Thần Thông Phổ. Nương theo đó dấy
phương tiện, thích hợp các thứ cơ duyên Đốn
Tiệm Quyền Thật trọn khắp mười pháp giới.
V́ thế là Phương Tiện Phổ. Nương theo
đó để cúng dường chư Phật, một âm bảo
khắp các chúng
sanh, cho nên là Thuyết Pháp Phổ. Nương theo đó
để cúng dường chư Phật, tam thế chư
Phật đều tiếp nhận vật cúng ấy. Cho
nên là Cúng Dường Phổ. Nương theo đấy
để thành tựu chúng sanh, các căn cơ trong pháp giới
đều được bốn món lợi ích (Tứ Tất
Đàn), cho nên là Thành Tựu Phổ.
Tâm tánh của hết thảy
chúng sanh chẳng giảm, đó là Lư Tức Phổ Môn. Nghe
rồi bèn hiểu, cho nên gọi là Danh Tự Tức Phổ
Môn. Chế phục trọn vẹn ngũ trụ là Quán Hạnh
Tức Phổ Môn. Thanh tịnh sáu căn, tức là
Tương Tự Tức Phổ Môn. Khai thị ngộ nhập
là Phần Chứng Tức Phổ Môn. Thấu triệt rỗng
rang pháp giới, cùng tột nguồn cội của tánh,
đó là Cứu Cánh Tức Phổ Môn. Giải thích tên phẩm
này đă xong.
Phẩm này do pháp sư
Đàm Ma La Sấm[35]
dạy Hà Tây vương Thư Cừ Mông Tốn[36]
tụng để trừ bệnh, cho nên [phẩm này] được
lưu hành riêng. Ấy là v́ Quán Âm đại sĩ có duyên với
phương này nhất. Trí Giả đại sư cũng
nói riêng hai quyển Huyền Nghĩa và Nghĩa Sớ [để
giảng giải phẩm này]. Huyền Nghĩa [của phẩm Phổ Môn] cũng chia thành
năm tầng, tức là dùng nhân, pháp v.v… để đặt
tên như đă nói trong phần trước, coi linh trí hợp
với Pháp Thân là Thể, cảm ứng là Tông, từ bi lợi
lạc chúng sanh là Dụng, lưu thông giáo pháp thuộc vị
đề hồ làm Giáo Tướng.
25.2. Giải thích kinh văn phẩm Phổ
Môn
25.2.1.
Trường Hàng
25.2.1.1.
Lần vấn đáp thứ nhất
25.2.1.1.1.
Hỏi
(Kinh) Nhĩ thời, Vô
Tận Ư Bồ Tát tức tùng ṭa khởi, thiên đản hữu
kiên, hiệp chưởng hướng Phật, nhi tác thị
ngôn: - Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Tát dĩ hà nhân duyên,
danh Quán Thế Âm?
(經)爾時無盡意菩薩。即從座起。偏袒右肩。合掌向佛。而作是言。世尊。觀世音菩薩。以何因緣名觀世音。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Vô Tận Ư (Akṣayamati)[37] Bồ Tát liền
từ chỗ ngồi đứng dậy, trật
áo vai phải, chắp tay hướng về đức Phật
mà nói như thế này: - Bạch Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ
Đề do nhân duyên nào mà tên là Quán Thế
Âm (Avalokiteśvara)?
“Nhĩ thời” (Lúc bấy
giờ) tức là lúc nói về vị Bồ Tát ở
phương Đông đă xong, kế đó phải nên nói về vị Bồ
Tát ở phương Tây (đó là Thế Giới Tất
Đàn). Là lúc nói phương Đông sanh thiện đă xong,
kế đó phải nên nói phương Tây sanh thiện (Vị
Nhân Tất Đàn). Là lúc nói
phương Đông đoạn nghi đă xong, kế đó
phải nên nói phương Tây đoạn nghi (Đối Trị).
Là lúc nói phương Đông đắc đạo đă
xong, kế đó, phải nên nói phương Tây đắc
đạo (Đệ Nhất Nghĩa).
Vô Tận là cảnh. Đại
Phẩm nói Không là vô tận (đó là Chân).
Kinh Đại Tập nói tám mươi môn vô tận, kinh Hoa
Nghiêm nói mười loại chẳng thể tận[38]
(đó là Tục). Kinh Tịnh Danh nói: “Phù vô tận giả,
phi tận, phi vô tận, cố danh vô tận” (Vô tận:
Chẳng tận, chẳng vô tận, th́ gọi là vô tận).
Đó là Trung.
Ư là trí, tức nhất tâm tam
trí. Trí khế hợp cảnh, cảnh tùy thuận trí mà là
Không, th́ gọi là Vô Tận Ư (đó là Không). Lại nữa,
Ư là căn bản của thế gian và xuất thế gian.
Trí tùy thuận cảnh. Cảnh nhiều th́ trí nhiều, gọi
là Vô Tận Ư (đó là Giả). Lại nữa, Ư chính là pháp
giới. Hết thảy đều là pháp giới; v́ thế nói “có thể quán tâm tánh
th́ gọi là thượng định” (đó là Trung).
“Nhi tác thị ngôn” (mà
nói như thế này): Đủ hai thứ trang nghiêm, v́ thế
có thể hỏi. “Dĩ hà nhân duyên” (do nhân duyên nào): Nếu
xét theo phía chúng sanh th́ dùng hai căn cơ thiện và ác làm nhân,
linh trí từ bi của thánh nhân làm duyên. Nếu xét theo phía Bồ
Tát th́ dùng quán trí từ bi làm nhân, chúng sanh cơ cảm làm
duyên.
25.2.1.1.2.
Giải đáp
25.2.1.1.2.1.
Đáp chung
(Kinh) Phật cáo Vô Tận Ư Bồ
Tát: - Thiện nam tử! Nhược hữu vô lượng
bách thiên vạn ức chúng sanh thọ chư khổ năo,
văn thị Quán Thế Âm Bồ Tát, nhất tâm xưng danh.
Quán Thế Âm Bồ Tát tức thời quán kỳ âm thanh,
giai đắc giải thoát.
(經)佛告無盡意菩薩。善男子。若有無量百千萬億眾生。受諸苦惱。聞是觀世音菩薩。一心稱名。觀世音菩薩即時觀其音聲。皆得解脫。
(Kinh: Đức Phật bảo
Vô Tận Ư Bồ Tát: - Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm ngàn
vạn ức chúng sanh chịu các khổ năo, nghe nói đến
vị Quán Thế Âm Bồ Tát này, bèn nhất tâm xưng danh, Quán Thế
Âm Bồ Tát ngay lập tức quán âm thanh ấy, [khiến
cho họ] đều được giải thoát).
“Vô lượng bách thiên vạn ức chúng
sanh” (vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh):
Nêu ra các loại căn cơ trong mười pháp giới. “Thọ
chư khổ năo” (chịu các khổ năo): Nói rơ quả
báo bất đồng do biệt nghiệp cảm vời,
có các trường hợp: Một người chịu một
sự khổ, một người chịu nhiều sự khổ,
nhiều người chịu cùng một sự khổ, nhiều
người chịu nhiều sự khổ… Nay nói rơ “người nhiều, khổ nhiều”, đều là cảnh để Bồ
Tát dẹp khổ và ban vui. Gặp khổ v́ sự ác trong
hai đời
(quá khứ và hiện tại), nghe tên chính là điều thiện trong hai đời (hiện tại và vị
lai).
Nhất tâm xưng danh có Sự, có Lư, thiện
và ác kết hợp cơ cảm như thế. “Tức
thời quán kỳ âm thanh” (ngay lập tức quán âm thanh ấy):
Ứng hiện nhanh chóng. “Giai đắc giải thoát”
(đều được giải thoát): Ứng trọn khắp.
“Văn” (Nghe) cũng có bốn nghĩa, tức là văn
văn, văn bất văn, bất văn văn, và bất
văn bất văn[39].
Thấu đạt bất cứ một loại
nào, sẽ chính là Văn Huệ trong tứ giáo. Nhất tâm
xưng danh tức Tư Huệ và Tu Huệ trong tứ giáo.
“Sự nhất tâm” chính là niệm nào cũng tiếp nối,
chẳng dấy các ư tưởng tạp loạn. “Lư nhất
tâm” tức là cái tâm ấy chẳng phải tự, tha, cộng
(do nhiều pháp hợp thành), mà cũng chẳng phải là “vô
nhân” (không có nhân). Thể của năng xưng (người
xưng niệm danh hiệu Bồ Tát) và sở xưng (danh
hiệu của Bồ Tát) là pháp giới. Sự nhất tâm
sẽ giải thoát khó khăn thuộc Sự, Lư nhất tâm
sẽ giải thoát khó khăn thuộc Lư. Hễ cảm
đều ứng, như “kêu mổ”[40]
đồng thời.
Nếu xưng niệm nhiều năm, vẫn chẳng đạt được mảy may hiệu quả,
chỉ là v́ chưa đạt đến Sự nhất
tâm, nhưng vẫn có thể tạo thành nhân duyên đắc
độ trong vị lai. V́ thế, dẫu tâm tán loạn vừa
xưng danh hiệu, công chẳng luống uổng, chỉ
là hiệu nghiệm nhanh hay chậm đó thôi!
25.2.1.1.2.2.
Đáp riêng
25.2.1.1.2.2.1.
Xét theo cơ cảm nơi khẩu nghiệp để nói về
sự ứng hiện
25.2.1.1.2.2.1.1.
Nêu ra bảy nạn
25.2.1.1.2.2.1.1.1.
Nạn lửa
(Kinh) Nhược hữu tŕ
thị Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả, thiết nhập
đại hỏa, hỏa bất năng thiêu, do thị Bồ
Tát oai thần lực cố.
(經)若有持是觀世音菩薩名者。設入大火。火不能燒。由是菩薩威神力故。
(Kinh: Nếu có người tŕ danh
Quán Thế Âm Bồ Tát, dẫu vào trong lửa, lửa chẳng
thể đốt cháy, là do sức oai thần của vị
Bồ Tát này).
Tŕ danh là thiện, “vào lửa” là ác. Thiện và ác kết hợp thành cơ cảm. Do sức
oai thần, lửa chẳng thể đốt, tức là Ứng.
Lửa quả báo, dưới là từ địa ngục,
trên là đến tầng trời Sơ Thiền, đều
luận về cơ ứng (機應, ứng hiện tương ứng
với căn cơ). Lửa ác nghiệp dưới là từ địa
ngục, trên là đến trời Phi Tưởng, đều
luận về cơ ứng. Lửa phiền năo dưới
là từ địa ngục, trên là đến bậc Đẳng
Giác, đều luận về cơ ứng[41].
25.2.1.1.2.2.1.1.2.
Nạn nước
(Kinh) Nhược vị
đại thủy sở phiêu, xưng kỳ danh hiệu, tức
đắc thiển xứ.
(經)若為大水所漂。稱其名號。即得淺處。
(Kinh: Nếu bị nước
lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Ngài, liền đến
được chỗ cạn).
“Nước cuốn trôi” là ác, xưng danh là
thiện. Dùng điều này làm Cảm, “đến được
chỗ cạn” là Ứng. Nước quả báo dưới từ địa
ngục, trên đến trời Nhị Thiền. Nước
ác nghiệp thông tam giới. Nước phiền năo thông
chín pháp giới, đều luận về cơ cảm.
25.2.1.1.2.2.1.1.3.
Nạn La Sát
(Kinh) Nhược hữu bách
thiên vạn ức chúng sanh, vị cầu kim, ngân, lưu ly, xa cừ,
mă năo, san hô, hổ phách, chân châu đẳng bảo, nhập
ư đại hải, giả sử hắc phong xuy kỳ
thuyền phảng, phiêu đọa La Sát quỷ quốc. Kỳ
trung nhược hữu năi chí nhất nhân xưng Quán Thế
Âm Bồ Tát danh giả, thị chư nhân đẳng giai
đắc giải thoát La Sát chi nạn. Dĩ thị nhân
duyên, danh Quán Thế Âm.
(經)若有百千萬億眾生。為求金銀。琉璃。硨磲。碼瑙。珊瑚。琥珀。真珠等寶。入於大海。假使黑風吹其船舫。飄墮羅剎鬼國。其中若有乃至一人稱觀世音菩薩名者。是諸人等。皆得解脫羅剎之難。以是因緣。名觀世音。
(Kinh: Nếu
có trăm ngàn vạn ức chúng sanh v́ cầu các thứ báu: Vàng, bạc, lưu ly, xa cừ mă năo,
san hô, hổ phách, chân châu v.v… vào
trong biển cả. Giả sử gió đen thổi thuyền bè của họ
trôi giạt vào nước quỷ La Sát. Trong đó, thậm
chí nếu có một người xưng danh Quán Thế Âm Bồ
Tát, những người ấy đều được
thoát khỏi nạn La Sát. Do nhân duyên ấy, tên là Quán Thế
Âm).
Nạn La Sát này cũng là nạn gió. Quả
báo La Sát ở trong Dục Giới. Ác nghiệp La Sát trọn
khắp tam giới. Phiền năo La Sát thông khắp chín pháp giới.
Lại nữa, gió quả báo tới tận trời Tam Thiền.
Gió ác nghiệp trọn khắp tam giới. Gió phiền năo
chung khắp chín pháp giới, đều luận định
cơ ứng, đều có thể phỏng theo đó để
hiểu.
25.2.1.1.2.2.1.1.4.
Nạn đao gậy
(Kinh) Nhược phục hữu
nhân, lâm đương bị hại, xưng Quán Thế Âm
Bồ Tát danh giả, bỉ sở chấp đao trượng,
tầm đoạn đoạn hoại, nhi đắc giải
thoát.
(經)若復有人。臨當被害。稱觀世音菩薩名者。彼所執刀杖。尋段段壞而得解脫。
(Kinh: Nếu lại có người
sắp sửa bị hại, xưng danh Quán Thế Âm Bồ
Tát, những đao, gậy đang bị [kẻ ác] cầm
nắm sẽ găy từng khúc, người ấy liền
được giải thoát).
Quả báo đao trượng hạn cuộc
trong Địa Cư[42]. Ác nghiệp đao trượng trọn
khắp tam giới. Phiền năo đao trượng thông khắp
chín pháp giới.
25.2.1.1.2.2.1.1.5.
Nạn quỷ
(Kinh) Nhược tam thiên
đại thiên quốc độ, măn trung Dạ Xoa, La Sát,
dục lai năo nhân, văn kỳ xưng Quán Thế Âm Bồ
Tát danh giả, thị chư ác quỷ thượng bất
năng dĩ ác nhăn thị chi, huống phục gia hại.
(經)若三千大千國土。滿中夜叉。羅剎。欲來惱人。聞其稱觀世音菩薩名者。是諸惡鬼。尚不能以惡眼視之。況復加害。
(Kinh: Nếu tam thiên đại
thiên quốc độ đầy ắp Dạ Xoa, La Sát, muốn
đến năo hại người, nghe người đó
xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát, các ác quỷ ấy c̣n chẳng
thể dùng mắt ác để nh́n, huống hồ làm hại).
Nạn quỷ có thể phỏng theo nạn
La Sát trong đoạn trước để hiểu. Nói “đại
thiên măn trung” (đầy ắp trong cơi đại thiên)
là cách nói giả sử, biểu thị ác quỷ phiền
năo đầy dẫy, chỉ có xưng danh th́ mới có thể
hàng phục chúng.
25.2.1.1.2.2.1.1.6.
Nạn gông xiềng
(Kinh) Thiết
phục hữu nhân, nhược hữu tội, nhược
vô tội, sửu[43] giới già tỏa kiểm hệ kỳ
thân, xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả, giai tất đoạn
hoại, tức đắc giải thoát.
(經)設復有人。若有罪。若無罪。杻械枷鎖檢繫其身。稱觀世音菩薩名者。皆悉斷壞。即得解脫。
(Kinh: Nếu lại có người
dù có tội hay không có tội, gông cùm xiềng xích trói buộc
thân h́nh, do xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát, [các thứ
đó] đều hư găy, liền được giải
thoát).
“Hữu tội” là
điều ác trong đời hiện tại. “Vô tội”
là điều ác trong quá khứ. Ở tay gọi là Sửu (杻, c̣ng), ở chân gọi
là Giới (械,cùm). Ở đầu gọi là Già (枷, gông), dính vào thân là Tỏa (鎖,xiềng xích). Phong kín gọi
là Kiểm (檢), trói buộc là Hệ (繫). Gông xiềng quả báo thuộc Dục Giới.
Gông xiềng ác nghiệp trọn khắp tam giới.
Gông xiềng phiền năo thông khắp chín pháp giới.
25.2.1.1.2.2.1.1.7.
Nạn oán tặc
(Kinh) Nhược tam thiên đại
thiên quốc độ măn trung oán tặc, hữu nhất
thương chủ, tương chư thương nhân, tê
tŕ trọng bảo, kinh quá hiểm lộ. Kỳ trung nhất
nhân, tác thị xướng ngôn: “Chư thiện nam tử!
Vật đắc khủng bố! Nhữ đẳng
ưng đương nhất tâm xưng Quán Thế Âm Bồ
Tát danh hiệu. Thị Bồ Tát năng dĩ vô úy thí ư
chúng sanh, nhữ đẳng nhược xưng danh giả,
ư thử oán tặc, đương đắc giải
thoát”. Chúng thương nhân văn, câu phát thanh ngôn: “Nam-mô Quán
Thế Âm Bồ Tát”, xưng kỳ danh cố, tức đắc
giải thoát.
(經)若三千大千國土。滿中冤賊。有一商主。將諸商人。齎持重寶。經過險路。其中一人作是唱言。諸善男子。勿得恐怖。汝等應當一心稱觀世音菩薩名號。是菩薩能以無畏施於眾生。汝等若稱名者。於此怨賊當得解脫。眾商人聞。俱發聲言南無觀世音菩薩。稱其名故。即得解脫。
(Kinh: Nếu trong cơi nước tam
thiên đại thiên đầy ắp oán tặc, có một
thương chủ dẫn các thương nhân chuyên chở
vật quư báu đi qua đường hiểm. Trong ấy,
có một người xướng như thế này: “Các thiện
nam tử! Đừng nên sợ hăi. Các ông hăy nên nhất tâm
xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát. Vị Bồ Tát
ấy có thể ban cho chúng sanh không sợ hăi. Các ông nếu
xưng danh Ngài, sẽ được thoát khỏi oán tặc
này”. Các thương nhân nghe nói, đều thốt ra tiếng:
“Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”. Do xưng danh Ngài, liền
được giải thoát).
“Đại thiên măn trung” (đầy ắp
trong cơi đại thiên) cũng là lời giả thiết.
Đoạt mạng gọi là Oán, cướp tài vật gọi
là Tặc. Oán tặc quả báo ở trong Dục Giới.
Oán tặc ác nghiệp trọn khắp tam giới. Oán tặc
phiền năo thông khắp chín pháp giới.
Giải thích theo quán tâm, oán tặc đầy
khắp trong cơi đại thiên chính là chủng tử phiền
năo từ vô thỉ, nhóm họp trong thức thứ tám, tức
Tạng Thức (A Lại Da Thức). “Hữu nhất
thương chủ” (có một người cầm đầu
đoàn buôn) tức là thức thứ sáu. “Các thương
nhân” là các tâm sở Biến Hành, Biệt Cảnh, và Thiện
Tâm Sở. “Trọng bảo” tức pháp xuất thế
của tam thừa. “Kinh quá hiểm lộ” (Đi qua
đường hiểm): Các pháp đối trị và các phiền
năo gặp nhau. “Kỳ trung nhất nhân” (trong ấy có
một người): Hoặc là thắng giải, hoặc là thiện
huệ, hoặc là tín. “Nhất
tâm xưng danh” tức Văn, Tư, Tu trong tứ giáo. “Câu phát
thanh” (cùng thốt ra tiếng): Tâm vương và các tâm sở
quyết định tương ứng. “Tức đắc
giải thoát” (liền được giải thoát): Chứng
lư được nói trong tứ giáo.
Lại nữa, bảy nạn ấy biểu
thị Lục Đại trong thân chúng sanh: Lửa tức Hỏa Đại,
nước tức Thủy Đại, gió tức Phong Đại,
đao, gậy, gông, xiềng chính là Địa
Đại, tam thiên đại thiên biểu thị Không
Đại, La Sát và oán tặc biểu thị Thức Đại.
Quán Âm Bồ Tát quán sáu đại ấy đều là
Như Lai Tạng, mỗi mỗi đều tức là Không,
Giả, Trung. Ngài đă tự đạt được giải
thoát, cho nên có thể khiến cho người khác được
giải thoát. Chúng sanh mê tánh của sáu đại, oan uổng
hứng chịu quả báo và các nạn phiền năo ác nghiệp.
Nhưng ngay trong khi đang mê, Tánh Đức chẳng
đổi, vốn có cùng một Thể với Bồ Tát.
V́ thế, nghe tên xưng niệm, tùy theo sự hiểu biết
là lệch lạc hay viên măn, hạnh sâu hay cạn, mà đạt
được lợi ích nơi tứ giáo cũng có sai
khác. Rốt cuộc, [tới khi] đắc Nhất Thiết
Chủng Trí, sẽ chẳng sai biệt. Phần thứ nhất,
“nói về bảy nạn” đă xong.
25.2.1.1.2.2.1.2.
Kết lại để tán thán
(Kinh) Vô Tận Ư! Quán Thế
Âm Bồ Tát Ma Ha Tát oai thần chi lực, nguy nguy như thị.
(經)無盡意。觀世音菩薩摩訶薩威神之力。巍巍如是。
(Kinh: Này Vô Tận Ư! Sức oai
thần của Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát ṿi vọi
như thế).
“Nguy nguy” tức là cao hiển. Công siêu
việt chín pháp giới nên là Cao, danh vang ba cơi nên là Hiển.
Phần thứ nhất, “xét theo căn cơ nơi khẩu
nghiệp để nói về sự ứng hiện” đă
xong.
25.2.1.1.2.2.2.
Xét theo cơ cảm nơi ư nghiệp để nói về sự
ứng hiện
25.2.1.1.2.2.2.1.
Tam độc
(Kinh) Nhược hữu chúng
sanh đa ư dâm dục, thường niệm cung kính Quán
Thế Âm Bồ Tát, tiện đắc ly dục. Nhược
đa sân khuể, thường niệm cung kính Quán Thế
Âm Bồ Tát, tiện đắc ly sân. Nhược đa ngu
si, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, tiện
đắc ly si.
(經)若有眾生。多於婬欲。常念恭敬觀世音菩薩。便得離欲。若多瞋恚。常念恭敬觀世音菩薩。便得離瞋。若多愚癡。常念恭敬觀世音菩薩。便得離癡。
(Kinh: Nếu có chúng sanh nhiều
dâm dục, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ
Tát liền được ĺa dục. Nếu nhiều sân hận,
thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, liền
được ĺa sân. Nếu nhiều ngu si, thường niệm
cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được ĺa
si).
Đa dục, sân khuể, và si là ác. “Thường
niệm cung kính” là thiện. Hai thứ ấy là Cơ, được
ĺa khỏi [dục,
sân, si] chính là Ứng. Sự dục
và Sự khuể thuộc vào Dục Giới. Sự si (si nơi sự
tướng) thông
khắp tam giới. Đối với Lư Tam Độc, Nhị
Thừa coi đắm trước nơi Chân là dục, sợ
Tục là sân, chẳng liễu giải “sanh tử và Niết Bàn như huyễn” là si. Xuất Giả Bồ Tát coi du
hư thần thông là dục, quở trách, chán ngán Nhị Thừa
là sân, chẳng liễu đạt Trung Đạo là si.
Địa tiền Bồ Tát (hàng Bồ Tát chưa chứng
Sơ Địa) coi tương tự ái trong Trung Đạo
là dục, bỏ cả hai bên là sân, vô minh chưa phá là si.
Cho đến Đẳng Giác hậu tâm (bậc Bồ Tát
đă chứng Đẳng Giác) hăy c̣n vô minh vi tế chưa phá tức là
vi tế dục khuể chưa trừ. Nay do đại bi
Bồ Tát từ sơ phát tâm, quán các phiền năo
tham, sân, si ấy đều là pháp sanh bởi nhân duyên, mỗi
mỗi đều là Không, Giả, Trung. Do Tức Không, cho
nên ĺa Tam Độc của phàm phu. Do tức Giả, nên ĺa
Tam Độc của Nhị Thừa. Do tức Trung, nên ĺa
Tam Độc của Bồ Tát, thành tựu ba loại thiện
căn chẳng thể nghĩ bàn, cũng là thành tựu pháp
môn “đại tham, đại sân, đại
si” chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế
dạy “thường niệm cung kính”, tùy theo hiểu
biết thiên lệch hay viên măn, tùy theo hạnh cạn hay
sâu, mà được thoát ĺa cũng có đủ loại
sai biệt. Rốt ráo đều quy vào chẳng sai biệt.
25.2.1.1.2.2.2.2.
Tán thán để kết luận
(Kinh) Vô Tận Ư! Quán Thế
Âm Bồ Tát hữu như thị đẳng đại oai
thần lực, đa sở nhiêu ích. Thị cố, chúng
sanh thường ưng tâm niệm.
(經)無盡意。觀世音菩薩有如是等大威神力。多所饒益。是故眾生常應心念。
(Kinh: Vô Tận Ư! Quán Thế Âm Bồ
Tát có sức oai thần to lớn như thế, tạo nhiều
lợi ích. V́ thế, chúng sanh thường nên tâm niệm).
Phần thứ hai, “xét theo căn cơ
nơi ư nghiệp” để nói về sự cảm ứng
đă xong.