Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa

phần 15

Đất Cổ Ngô, hậu học Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật

妙法蓮華經綸貫會義

古吳後學蕅益智旭述

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Thai Tông Hội Nghĩa

          Quyển thứ bảy

 

          Trong phần xét theo sự hóa độ người khác để khuyên lưu thông, tiết thứ hai là khích lệ thọ pháp đệ tử, bao gồm hai phẩm kinh: Một là phẩm Diệu Âm, hai là phẩm Phổ Môn. Nay giải thích phẩm Diệu Âm trước.

 

24. Phẩm thứ hai mươi bốn: Diệu Âm Bồ Tát Bổn Sự (Diệu Âm Bồ Tát Bổn Sự phẩm đệ nhị thập tứ, 妙音菩薩本事品第二十四)

 

          Phóng quang minh triệu vời, [Diệu Âm Bồ Tát] từ phương Đông hiện đến, phẩm này được gọi là Bổn Sự là do lời hỏi của Hoa Đức Bồ Tát, [đức Bổn Sư bèn] nói cặn kẽ nhân duyên quả báo xưa kia [của Diệu Âm Bồ Tát đă] dùng kỹ nhạc và bát báu để cúng Phật. Lại c̣n nêu rơ tác dụng của Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội; v́ thế gọi là phẩm Bổn Sự. Hơn nữa, phẩm Dược Vương chỉ nói về bổn hạnh, chẳng nói về sự du hóa, phẩm Phổ Môn chỉ nói về sự du hóa, chẳng nói đến bổn hạnh [của ngài Quán Âm]; phẩm này nêu trọn vẹn [cả hai chuyện ấy]. Hơn nữa, hai phẩm Dược Vương và Bổn Môn đều là do được hỏi cho nên nói, c̣n phẩm này th́ do quang minh [của đức Phật] triệu vời, cho nên do đức Phật tự nói. Đôi bên tỏ lộ lẫn nhau, cùng hiển lộ viên hạnh, chẳng thể nói là hơn hay kém được!

          Kinh văn trong phẩm này được chia thành sáu phần:

          - Một, [Phật Thích Ca] phóng quang chiếu sang phương Đông triệu vời [Diệu Âm Bồ Tát].

          - Hai, [Diệu Âm Bồ Tát] phụng mạng đến [thế giới Sa Bà] ở phương Tây.

          - Ba, hoằng kinh trong mười phương.

          - Bốn, hai cơi đều được lợi ích.

          - Năm, [Diệu Âm Bồ Tát] trở về cơi ḿnh.

          - Sáu, [chúng sanh] nghe phẩm này đạo bèn tăng tấn.

 

24.1. Phóng quang minh triệu vời [Diệu Âm Bồ Tát] từ phương Đông

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thích Ca Mâu Ni Phật phóng đại nhân tướng nhục kế quang minh, cập phóng mi gian bạch hào tướng quang, biến chiếu Đông phương bách bát vạn ức na-do-tha hằng hà sa đẳng chư Phật thế giới. Quá thị số dĩ, hữu thế giới danh Tịnh Quang Trang Nghiêm. Kỳ quốc hữu Phật, hiệu Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, vị vô lượng vô biên Bồ Tát đại chúng cung kính vi nhiễu, nhi vị thuyết pháp. Thích Ca Mâu Ni Phật bạch hào quang minh biến chiếu kỳ quốc.  

          ()爾時釋迦牟尼佛。放大人相肉髻光明。及放眉間白毫相光。徧照東方百八萬億那由他恆河沙等諸佛世界。過是數已。有世界名淨光莊嚴。其國有佛。號淨華宿王智。如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。為無量無邊菩薩大眾恭敬圍繞。而為說法。釋迦牟尼佛白毫光明徧照其國

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật phóng quang minh từ nhục kế trong tướng đại nhân[1] và quang minh từ tướng bạch hào giữa hai mày, chiếu trọn khắp các thế giới của chư Phật ở phương Đông nhiều như số cát trong một trăm lẻ tám vạn ức na-do-tha sông Hằng. Qua khỏi số đó, có thế giới tên là Tịnh Quang Trang Nghiêm (Vairocanaraśmipratimaṇḍitā). Cơi ấy có Phật, hiệu là Tịnh Hoa Tú Vương Trí (Kamaladalavimalanakṣatrarājasaṃkusumitābhijña)[2] Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, được vô lượng vô biên Bồ Tát đại chúng cung kính vây quanh. Ngài v́ họ thuyết pháp. Quang minh từ bạch hào của Thích Ca Mâu Ni Phật chiếu trọn khắp cơi ấy).

 

          Phật là bậc rốt ráo; v́ thế gọi là “đại nhân”. Pháp Thân thanh tịnh vi diệu, trọn đủ ba mươi hai tướng. Mỗi tướng đều là pháp giới; v́ thế, gọi là “đại nhân tướng”. Nhục kế (Uṣṇīṣa) và bạch hào (Ūrṇākośa) chính là hai loại trong các tướng đại nhân. Nhục kế biểu thị Diệu Quả viên măn tột bậc. Bạch hào biểu thị diệu nhân Trung Đạo, hiển lộ ư nghĩa: Diệu Âm Bồ Tát sau khi đă đắc quả, bèn tu hành cái nhân chẳng khác các vị Văn Thù, Thường Bất Khinh, Dược Vương, Quán Âm, Phổ Hiền v.v…

          Hỏi: Như các vị Bồ Tát từ dưới đất vọt lên và Dược Vương v.v… đă đủ để lưu thông diệu pháp, cớ ǵ phải triệu vời Diệu Âm từ chốn xa xôi?

          Đáp: Ngài Diệu Âm cũng có duyên với cơi này. Chúng sanh trong cơi này đáng nên từ ngài Diệu Âm mà đạt được được tứ ích (Tứ Tất Đàn), cho nên triệu vời.

          Hỏi: Mười phương Bồ Tát có thể khiến cho chúng sanh trong cơi này đạt được tứ ích, theo đúng lẽ ắt sẽ rất nhiều, cớ sao ở đây chỉ triệu vời ngài Diệu Âm ở phương Đông, và nói đến ngài Quán Âm ở phương Tây, chẳng nhắc đến tám phương kia?

          Đáp: Điều này có hai ư:

          - Một, triệu vời trọn khắp: Nói trọn khắp, xét theo mặt Sự th́ chẳng trở ngại ǵ! Kinh Pháp Hoa tại Ấn Độ chất đến tám dặm, làm sao biết [nguyên bản tiếng Phạn] không có phần kinh văn ấy?

          - Hai, triệu vời từ phương Đông, nói tới phương Tây, xét theo Lư th́ đă đủ rồi! Phương Đông biểu thị khởi đầu, phương Tây biểu thị chung cục. Khởi đầu biểu thị phát tâm, chung cục biểu thị rốt ráo. Phát tâm và rốt ráo hai đằng chẳng khác nhau, có chỗ nào mà chẳng gồm thâu? Đức thánh (Phật) chẳng cần rườm lời, nêu lên một điều để chỉ chung các điều khác vậy!

 

24.2. [Diệu Âm Bồ Tát] phụng mạng đến phương Tây

24.2.1. Duyên do tới cơi này

24.2.1.1. Người kết tập kinh trần thuật phẩm đức [của Diệu Âm Bồ Tát]

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm quốc trung, hữu nhất Bồ Tát, danh viết Diệu Âm, cửu dĩ thực chúng đức bổn, cúng dường, thân cận vô lượng bách thiên vạn ức chư Phật, nhi tất thành tựu thậm thâm trí huệ, đắc Diệu Tràng Tướng tam-muội, Pháp Hoa tam-muội, Tịnh Đức tam-muội, Tú Vương Hư tam-muội, Vô Duyên tam-muội, Trí Ấn tam-muội, Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn tam-muội, Tập Nhất Thiết Công Đức tam-muội, Thanh Tịnh tam-muội, Thần Thông Du Hư tam-muội, Huệ Cự tam-muội, Trang Nghiêm Vương tam-muội, Tịnh Quang Minh tam-muội, Tịnh Tạng tam-muội, Bất Cộng tam-muội, Nhật Toàn tam-muội, đắc như thị đẳng bách thiên vạn ức Hằng hà sa đẳng chư đại tam-muội.

          ()爾時一切淨光莊嚴國中。有一菩薩。名曰妙音。久已植眾德本。供養親近無量百千萬億諸佛。而悉成就甚深智慧。得妙幢相三昧。法華三昧。淨德三昧。宿王戲三昧。無緣三昧。智印三昧。解一切眾生語言三昧。集一切功德三昧。清淨三昧。神通遊戲三昧。慧炬三昧。莊嚴王三昧。淨光明三昧。淨藏三昧。不共三昧。日旋三昧。得如是等百千萬億恆河沙等諸大三昧。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, trong cơi Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm, có một vị Bồ Tát tên là Diệu Âm (Gadgadasvara), đă gieo các cội đức từ lâu, cúng dường, thân cận vô lượng trăm ngàn vạn ức chư Phật, đă đều thành tựu trí huệ rất sâu, đắc Diệu Tràng Tướng (Dhvajāgrakeyūra) tam-muội, Pháp Hoa (Saddharma-puṇḍarīka) tam-muội, Tịnh Đức (Vimaladatta) tam-muội, Tú Vương Hư tam-muội (Nakṣatrarājavikrīḍita), Vô Duyên (Anilambha) tam-muội, Trí Ấn (Jñānamudrā) tam-muội, Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn (Sarvarutakauśalya) tam-muội, Tập Nhất Thiết Công Đức (Sarvapuṇyasamuccaya) tam-muội, Thanh Tịnh  (Prasādavatī) tam-muội, Thần Thông Du Hư (Ṛddhivikrvikrīḍita) tam-muội, Huệ Cự (Jñānolkā) tam-muội, Trang Nghiêm Vương (Vyūharāja) tam-muội, Tịnh Quang Minh (Vimalaprabhāsa) tam-muội, Tịnh Tạng (Vimalagarbha) tam-muội, Bất Cộng (Apkṛtsna) tam-muội, Nhật Toàn (Sūryāvarta) tam-muội, đắc trăm ngàn vạn ức hằng hà sa các đại tam-muội như thế đó).

 

          “Đức” chính là hai thứ phước và huệ trang nghiêm. Cúng dường chư Phật, trần thuật cội nguồn của phước huệ. “Thậm thâm trí huệ” (trí huệ rất sâu): Trần thuật phước chính là huệ. “Chư đại tam-muội” (các đại tam-muội): Trần thuật huệ chính là phước. Liệt kê đại lược mười sáu danh hiệu [tam-muội] đều là diệu định thuộc viên đạo:

          - Diệu thể của Thật Tướng cao rạng vô thượng, vô tướng, mà cũng chẳng phải là không có tướng, th́ gọi là Diệu Tràng Tướng tam-muội.

          - Nhân quả chẳng hai, Quyền Thật chẳng hai, Bổn Tích chẳng hai, th́ gọi là Pháp Hoa tam-muội.

          - Ĺa ba Hoặc cấu, chứng tánh thanh tịnh vốn có, gọi là Tịnh Đức tam-muội.

          - Quyền Trí chiếu soi căn cơ, khéo hiện ưu khuyết, th́ gọi là Tú Vương Hư tam-muội (mặt trăng được gọi là Tú Vương, tức là vua của các tinh tú).

          - Đại từ b́nh đẳng, chẳng duyên theo giả danh, chẳng duyên theo Thật pháp, th́ gọi là Vô Duyên tam-muội.

          - Nhất tâm tam trí, ấn hết thảy các pháp, gọi là Trí Ấn tam-muội.

          - Ngôn ngữ trong mười pháp giới đều là pháp sanh bởi các nhân duyên, hiểu mỗi thứ đều chính là Không, Giả, Trung. Hết thảy các ngôn ngữ chính là một ngôn ngữ, một ngôn ngữ chính là hết thảy các ngôn ngữ, chẳng phải một, chẳng phải hết thảy, mà là một, là hết thảy, th́ gọi là Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn tam-muội.

          - Trụ trong một tam-muội, công đức của hết thảy các tam-muội đều nhập vào đó, gọi là Tập Nhất Thiết Công Đức tam-muội.

          - Lục căn thanh tịnh, dùng lẫn cho nhau tự tại, gọi là Thanh Tịnh tam-muội.

          - Tự tại giáo hóa chúng sanh, dạo trong các thế gian, đối với huyễn sự [coi như] con rối, nhiếp khắp hết thảy, gọi là Thần Thông Du Hư tam-muội.

          - Đại huệ b́nh đẳng, chiếu khắp các nẻo đường tối tăm, gọi là Huệ Cự (đuốc huệ) tam-muội.

          - Tánh có đủ vạn đức, duyên nhân và liễu nhân dung thông, tùy ư nêu ra một pháp sẽ thống nhiếp hết thảy các pháp, gọi là Trang Nghiêm Vương tam-muội.

          - Tam trí (Nhất Thiết Trí, Đạo Chủng Trí, Nhất Thiết Chủng Trí) viên măn, thanh tịnh, chiếu pháp chẳng sót, gọi là Tịnh Quang Minh tam-muội.

          - Một niệm tịnh tâm dung nhiếp vạn đức, gọi là Tịnh Tạng tam-muội.

          - Người thuộc bảy phương tiện đều chẳng thể nhập th́ gọi là Bất Cộng tam-muội.

          - Thật trí chiếu lư nhưng chẳng trụ, gọi là Nhật Toàn tam-muội.

 

24.2.1.2. [Diệu Âm Bồ Tát] được quang minh [của Phật Thích Ca] chiếu đến, bèn từ tạ đức Phật [trong cơi của Ngài]

 

          (Kinh) Thích Ca Mâu Ni Phật quang chiếu kỳ thân, tức bạch Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă đương văng nghệ Sa Bà thế giới, lễ bái, thân cận, cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật, cập kiến Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dũng Thí Bồ Tát, Tú Vương Hoa Bồ Tát, Thượng Hạnh Ư Bồ Tát, Trang Nghiêm Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát.

          ()釋迦牟尼佛光照其身。即白淨華宿王智佛言。世尊。我當往詣娑婆世界。禮拜。親近。供養釋迦牟尼佛。及見文殊師利法王子菩薩。藥王菩薩。勇施菩薩。宿王華菩薩。上行意菩薩。莊嚴王菩薩。藥上菩薩。

          (Kinh: Quang minh của Thích Ca Mâu Ni Phật chiếu vào thân Ngài, liền bạch cùng Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật rằng: - Bạch đức Thế Tôn! Con sẽ đi qua thế giới Sa Bà để lễ bái, thân cận, cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật, và gặp Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dũng Thí (Pradānaśūra) Bồ Tát, Tú Vương Hoa Bồ Tát, Thượng Hạnh Ư (Viśiṣṭacāritra) Bồ Tát, Trang Nghiêm Vương (Vyūharāja) Bồ Tát, Dược Thượng (Bhaiṣajyasamudgata) Bồ Tát).

 

24.2.1.3. Đức Phật trong cơi ấy răn nhắc

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật cáo Diệu Âm Bồ Tát: - Nhữ mạc khinh bỉ quốc, sanh hạ liệt tưởng. Thiện nam tử! Bỉ Sa Bà thế giới cao hạ bất b́nh, thổ, thạch chư sơn, uế ác sung măn. Phật thân ty tiểu, chư Bồ Tát chúng kỳ h́nh diệc tiểu, nhi nhữ thân tứ vạn nhị thiên do-tuần. Ngă thân lục bách bát thập vạn do-tuần. Nhữ thân đệ nhất đoan chánh, bách thiên vạn phước, quang minh thù diệu. Thị cố nhữ văng, mạc khinh bỉ quốc, nhược Phật, Bồ Tát, cập quốc độ, sanh hạ liệt tưởng.

          ()爾時淨華宿王智佛。告妙音菩薩。汝莫輕彼國。生下劣想。善男子。彼娑婆世界。高下不平。土石諸山。穢惡充滿。佛身卑小。諸菩薩眾。其形亦小。而汝身四萬二千由旬。我身六百八十萬由旬。汝身第一端正。百千萬福。光明殊妙。是故汝往。莫輕彼國若佛。菩薩及國土。生下劣想。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật bảo Diệu Âm Bồ Tát rằng: - Ông đừng coi thường cơi ấy, nghĩ là kém hèn. Này thiện nam tử! Thế giới Sa Bà ấy cao, thấp chẳng bằng phẳng, các núi bằng đất, đá, dơ xấu đầy dẫy. Thân Phật kém nhỏ, các vị Bồ Tát thân h́nh cũng nhỏ. Nhưng thân ông cao bốn vạn hai ngàn do-tuần. Thân ta cao sáu trăm tám mươi vạn do-tuần. Thân ông đoan chánh bậc nhất, trăm ngàn vạn phước, quang minh đẹp đẽ đặc biệt. V́ thế, ông đến đó, đừng coi thường dù là Phật, Bồ Tát, hay quốc độ trong cơi ấy, nẩy sanh ư niệm cho là hèn kém).

 

          Diệu Âm Bồ Tát hiểu rành rẽ Bổn Tích, cần ǵ phiền Phật phải răn nhắc? [Đó là v́] trong hàng quyến thuộc do Ngài dẫn theo, có thể là có vị chưa thông đạt. Do vậy, răn nhắc người thuộc bậc thượng để uốn nắn kẻ bậc hạ vậy. Phật chứng pháp tánh b́nh đẳng, v́ chúng sanh mà cởi áo quư báu, mặc áo xấu dơ, thị hiện thân kém cỏi, nhỏ bé, và cơi nước xấu ác. Thế nhưng, bản thể của thân và cơi nước nhỏ hèn, xấu ác ấy chính là pháp giới, ǵ là lớn? Ǵ là nhỏ? Ǵ là tịnh? Ǵ là uế? Hăy nên biết: Chẳng phải nhỏ mà hiện nhỏ, chẳng phải uế mà hiện uế, tức “áo nhẫn nhục”. Nhỏ vốn chẳng nhỏ, uế vốn chẳng uế, tức là “ṭa pháp Không”. Dùng nhỏ, dùng uế để khéo léo tùy thuận chúng sanh, chính là “nhà từ bi”. Phật đă là như thế, Bồ Tát cũng như thế. V́ thế, hăy nên liễu đạt ba khuôn phép (tức áo nhẫn nhục, ṭa pháp không, nhà từ bi), chớ giữ t́nh kiến [so đo] hơn kém!

          Hỏi: Trong cơi này, khi thân người cao tám thước th́ thân Phật cao một trượng sáu, bất quá là Ngài cao gấp đôi [mọi người]. Thân tướng của Phật, Bồ Tát trong cơi kia (cơi của Diệu Âm Bồ Tát) sai biệt hơn một trăm năm mươi lần là v́ lẽ nào?

          Đáp: Đó là tướng Thắng Ứng Thân trong Tịnh Độ. Sự chẳng phải nhất loạt như nhau, chẳng thể phỏng theo cùng một lệ được!

          Hỏi: Đă là quyến thuộc thù thắng, cớ sao có người chưa thông đạt?

          Đáp: Trược nhẹ, phước thù thắng, cho nên là Tịnh Độ. [Bồ Tát] thuộc địa vị Quyền th́ trí nông cạn, cho nên cần phải răn bảo!

 

24.2.1.4. Bồ Tát lănh thọ ư chỉ

 

          (Kinh) Diệu Âm Bồ Tát bạch kỳ Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă kim nghệ Sa Bà thế giới, giai thị Như Lai chi lực, Như Lai thần thông du hư, Như Lai công đức trí huệ trang nghiêm.

          ()妙音菩薩白其佛言。世尊。我今詣娑婆世界。皆是如來之力。如來神通遊戲。如來功德智慧莊嚴。

          (Kinh: Diệu Âm Bồ Tát bạch cùng đức Phật ấy rằng: - Bạch Thế Tôn! Con nay đến thế giới Sa Bà, đều là do sức của Như Lai, thần thông du hư của Như Lai, do công đức trí huệ trang nghiêm của Như Lai).

 

          Đức Phật ấy đă dùng ba pháp để nhắn nhủ, răn dạy, Diệu Âm cũng dùng ba pháp để tiếp nhận ư chỉ. “Giai thị Như Lai chi lực” (đều là sức của Như Lai): Quy kết chung công sức về Phật lực, cho nên chẳng dám coi thường. “Thần thông du hư”: Cởi áo quư giá, mặc áo hèn tệ, nhưng thân trưởng giả chẳng đổi, tức là “áo nhẫn nhục”. “Công đức trang nghiêm” chính là nhà đại từ bi. “Trí huệ trang nghiêm” chính là ṭa “các pháp đều là Không”. Nương vào ba lực ấy của Như Lai, nên mới có thể đi qua thế giới Sa Bà. Nhưng ngài Diệu Âm đă phần chứng ba lực; ở đây, Ngài nêu rơ ba lực rốt ráo của Như Lai, khiến cho quyến thuộc của Ngài chẳng khởi tâm coi thường!

 

24.2.1.5. Trước hết hiện tướng [biểu thị] sẽ đến [cơi Sa Bà]

24.2.1.5.1. Gởi hoa sen [đến cơi Sa Bà]

 

          (Kinh) Ư thị, Diệu Âm Bồ Tát bất khởi ư ṭa, thân bất động dao, nhi nhập tam-muội. Dĩ tam-muội lực, ư Kỳ Xà Quật sơn, khứ pháp ṭa bất viễn, hóa tác bát vạn tứ thiên chúng bảo liên hoa, Diêm Phù Đàn kim vi hành, bạch ngân vi diệp, kim cang vi tu, Chân Thúc Ca bảo dĩ vi kỳ đài.

          ()於是妙音菩薩。不起於座。身不動搖。而入三昧。以三昧力。於耆闍崛山。去法座不遠。化作八萬四千眾寶蓮華。閻浮檀金為莖。白銀為葉。金剛為鬚。甄叔迦寶以為其臺

          (Kinh: Ngay khi đó, Diệu Âm Bồ Tát chẳng đứng dậy khỏi chỗ ngồi, thân chẳng lay động, bèn nhập tam-muội. Do sức tam-muội, tại núi Kỳ Xà Quật, cách pháp ṭa chẳng xa, hóa ra tám vạn bốn ngàn các hoa sen báu: Vàng Diêm Phù Đàn làm cọng, bạc trắng làm cánh, kim cang làm tua, báu Chân Thúc Ca[3] dùng làm đài).

24.2.1.5.2. Ngài Văn Thù thưa hỏi

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử kiến thị liên hoa, nhi bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Thị hà nhân duyên tiên hiện thử tướng, hữu nhược can thiên vạn liên hoa, Diêm Phù Đàn kim vi hành, bạch ngân vi diệp, kim cang vi tu, Chân Thúc Ca bảo dĩ vi kỳ đài?

          ()爾時文殊師利法王子。見是蓮華而白佛言。世尊。是何因緣。先現此相。有若干千萬蓮華。閻浮檀金為莖。白銀為葉。金剛為鬚。甄叔迦寶以為其臺。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử thấy các hoa sen ấy, bèn bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên ǵ mà trước hết hiện ra tướng này, có ngần ấy ngàn vạn hoa sen, vàng Diêm Phù Đàn làm cọng, bạc trắng làm cánh, kim cang làm tua, báu Chân Thúc Ca dùng làm đài?)

 

          Hỏi: Nếu ngài Văn Thù có địa vị thấp, khi Diệu Âm Bồ Tát từ tạ đức Phật ấy, chẳng nên nói là [đến thế giới Sa Bà để] gặp Văn Thù”. Nếu ngài Văn Thù có địa vị cao, khi tướng ấy xuất hiện, cớ sao Ngài chẳng biết?

          Đáp: Dẫu có địa vị cao, chưa đạt đến Diệu Giác, chẳng biết tướng ấy th́ cũng chẳng trở ngại ǵ! Giả sử Ngài thuộc địa vị thấp, nhưng Ngài có sở trường riêng, cho nên có người từ xa đến cầu kiến, cũng chẳng có khuyết điểm ǵ! Huống hồ tuy cùng một địa vị, có khởi đầu, chặng giữa, và cuối cùng. Tuy khởi đầu, chặng giữa và cuối cùng cũng đều tương đồng, nhưng đối với cảnh giới tam-muội đạt được, cũng sẽ có những chỗ chưa thấu đạt. Đôi bên giúp cho nhau, đôi bên tạo lợi ích cho nhau, nếu cùng là cổ Phật, sẽ chẳng có cao hay thấp. Ngài Diệu Âm nhằm khiến cho chúng sanh đạt được lợi ích, cho nên nói là “cầu kiến”. Ngài Văn Thù v́ đại chúng trong pháp hội chẳng dám hỏi, cho nên thốt lời phát khởi cho mọi người hay biết.

         

24.2.1.5.3. Phật Thích Ca giải đáp

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thích Ca Mâu Ni Phật cáo Văn Thù Sư Lợi: - Thị Diệu Âm Bồ Tát Ma Ha Tát dục tùng Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật quốc, dữ bát vạn tứ thiên Bồ Tát vi nhiễu, nhi lai chí thử Sa Bà thế giới cúng dường, thân cận, lễ bái ư ngă, diệc dục cúng dường, thính Pháp Hoa kinh.

          ()爾時釋迦牟尼佛。告文殊師利。是妙音菩薩摩訶薩。欲從淨華宿王智佛國。與八萬四千菩薩圍繞。而來至此娑婆世界。供養。親近。禮拜於我。亦欲供養聽法華經。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: - Vị Diệu Âm Bồ Tát ấy muốn từ cơi của Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật, cùng với tám vạn bốn ngàn Bồ Tát vây quanh đến thế giới Sa Bà này để cúng dường, thân cận, lễ bái ta, và cũng cúng dường, nghe kinh Pháp Hoa).

 

24.2.1.5.4. Ngài Văn Thù xin được thấy

 

          (Kinh) Văn Thù Sư Lợi bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Thị Bồ Tát chủng hà thiện bổn, tu hà công đức, nhi năng hữu thị đại thần thông lực, hành hà tam-muội? Nguyện vị ngă đẳng thuyết thị tam-muội danh tự, ngă đẳng diệc dục cần tu hành chi. Hành thử tam-muội, năi năng kiến thị Bồ Tát sắc tướng đại, tiểu, oai nghi tấn chỉ. Duy nguyện Thế Tôn dĩ thần thông lực, bỉ Bồ Tát lai, linh ngă đắc kiến.

          ()文殊師利白佛言。世尊。是菩薩種何善本。修何功德。而能有是大神通力。行何三昧。願為我等說是三昧名字。我等亦欲勤修行之。行此三昧。乃能見是菩薩色相大小。威儀進止。惟願世尊以神通力。彼菩薩來。令我得見。

          (Kinh: Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Vị Bồ Tát ấy gieo cội lành ǵ, tu công đức ǵ, mà có thể có sức thần thông to lớn ấy? Hành tam-muội nào? Xin hăy v́ chúng con nói danh tự của tam-muội ấy, chúng con cũng muốn siêng năng tu hành. Hành tam-muội ấy bèn có thể thấy được sắc tướng lớn nhỏ, oai nghi, cử chỉ của vị Bồ Tát ấy. Kính mong đức Thế Tôn dùng sức thần thông, khiến cho vị Bồ Tát ấy đến [thế giới này], cho con được thấy).

 

24.2.1.5.5. Phật Thích Ca nhượng công cho Phật Đa Bảo

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thích Ca Mâu Ni Phật cáo Văn Thù Sư Lợi: - Thử cửu diệt độ Đa Bảo Như Lai, đương vị nhữ đẳng, nhi hiện kỳ tướng.

          ()爾時釋迦牟尼佛。告文殊師利。此久滅度多寶如來。當為汝等而現其相。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi: - Đa Bảo Như Lai là vị diệt độ đă lâu này sẽ v́ các ông mà hiện tướng ấy).

 

          Ngài Văn Thù tuy hỏi công đức tam-muội, nhưng cốt ư là xin được thấy. V́ thế, [đức Bổn Sư] nhưng cho Phật Đa Bảo triệu vời [Diệu Âm Bồ Tát] đến cơi này. Trong phần sau, do Hoa Đức Bồ Tát lặp lại lời hỏi, [đức Phật] sẽ giải đáp về công đức và tam-muội [của Diệu Âm Bồ Tát]. Nhường cho Phật Đa Bảo thực hiện th́ [Diệu Âm Bồ Tát] phải nên là đệ tử xưa kia của Đa Bảo Như Lai.

 

24.2.1.5.6. Phật Đa Bảo truyền bảo [Diệu Âm Bồ Tát] hăy đến

 

          (Kinh) Thời Đa Bảo Phật cáo bỉ Bồ Tát: - Thiện nam tử lai! Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử dục kiến nhữ thân!

          ()時多寶佛告彼菩薩。善男子來。文殊師利法王子欲見汝身。

          (Kinh: Khi ấy, Đa Bảo Phật bảo vị Bồ Tát ấy: - Thiện nam tử hăy đến! Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử muốn thấy thân ông).

 

          Phần thứ nhất, “duyên do [Diệu Âm Bồ Tát] đến [Sa Bà]” đă xong.

 

24.2.2. Trần thuật sự du hành của [Diệu Âm Bồ Tát]

24.2.2.1. Chỗ Ngài đi qua cùng với quyến thuộc

         

          (Kinh) Ư thời, Diệu Âm Bồ Tát ư bỉ quốc một, dữ bát vạn tứ thiên Bồ Tát câu cộng phát lai, sở kinh chư quốc lục chủng chấn động, giai tất vũ ư thất bảo liên hoa, bách thiên thiên nhạc, bất cổ tự minh.

          ()於時妙音菩薩。於彼國沒。與八萬四千菩薩。俱共發來。所經諸國。六種震動。皆悉雨於七寶蓮華。百千天樂。不鼓自鳴。

          (Kinh: Ngay khi đó, Diệu Âm Bồ Tát biến mất trong cơi ấy, cùng với tám vạn bốn ngàn Bồ Tát đều cùng lên đường. Các cơi nước đi qua đều sáu thứ chấn động, thảy đều mưa hoa sen bảy báu, trăm ngàn nhạc trời chẳng tấu tự kêu).

 

          Xưa kia dâng bát báu, nay được hàng pháp khí Bồ Tát tùy tùng. Xưa kia dâng lên âm nhạc, nay được thiên nhạc cùng theo.

 

24.2.2.2. Trần thuật sắc tướng [của Diệu Âm Bồ Tát] [chuyện Bồ Tát ngự] lên đài [bảy báu]

 

          (Kinh) Thị Bồ Tát mục như quảng đại thanh liên hoa diệp. Chánh sử ḥa hợp bách thiên vạn nguyệt, kỳ diện mạo đoan chánh, phục quá ư thử. Thân chân kim sắc, vô lượng bách thiên công đức trang nghiêm, oai đức xí thịnh, quang minh chiếu diệu, chư tướng cụ túc như Na La Diên kiên cố chi thân. Nhập thất bảo đài, thượng thăng hư không, khứ địa thất Đa La thụ. Chư Bồ Tát chúng cung kính vi nhiễu, nhi lai nghệ thử Sa Bà thế giới Kỳ Xà Quật sơn.

          ()是菩薩。目如廣大青蓮華葉。正使和合百千萬月。其面貌端正。復過於此。身真金色。無量百千功德莊嚴。威德熾盛。光明照曜。諸相具足。如那羅延堅固之身。入七寶臺。上升虛空。去地七多羅樹。諸菩薩眾恭敬圍繞。而來詣此娑婆世界耆闍崛山。

          (Kinh: Vị Bồ Tát ấy mắt như cánh hoa sen xanh[4] rộng lớn. Giả sử ḥa hợp trăm ngàn vạn mặt trăng, diện mạo của Ngài c̣n đoan chánh hơn thế. Thân màu vàng ṛng, vô lượng trăm ngàn công đức trang nghiêm, oai đức hừng hực, quang minh chiếu sáng rực, các tướng đầy đủ như thân Na La Diên[5] kiên cố. Ngài bước lên đài bảy báu, thăng lên hư không, cách đất bảy cây Đa La. Các vị Bồ Tát cung kính vây quanh, đi đến núi Kỳ Xà Quật trong thế giới Sa Bà này).

 

24.2.2.3. Thưa hỏi, truyền đạt ư chỉ [của Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật]

 

          (Kinh) Đáo dĩ, hạ thất bảo đài. Dĩ giá trị bách thiên anh lạc, tŕ chí Thích Ca Mâu Ni Phật sở, đầu diện lễ túc, phụng thượng anh lạc, nhi bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật vấn tấn Thế Tôn, thiểu bệnh, thiểu năo, khởi cư khinh lợi, an lạc hạnh phủ? Tứ Đại điều ḥa phủ? Thế sự khả nhẫn phủ? Chúng sanh dị độ phủ? Vô đa tham dục, sân khuể, ngu si, tật đố, xan, mạn phủ? Vô bất hiếu phụ mẫu, bất kính sa-môn, tà kiến, bất thiện tâm phủ? Nhiếp ngũ t́nh phủ? Thế Tôn! Chúng sanh năng hàng phục chư ma oán phủ? Cửu diệt độ Đa Bảo Như Lai tại thất bảo tháp trung, lai thính pháp phủ? Hựu vấn tấn Đa Bảo Như Lai an ổn, thiểu năo, kham nhẫn cửu trụ phủ?

          ()到已。下七寶臺。以價直百千瓔珞。持至釋迦牟尼佛所。頭面禮足。奉上瓔珞。而白佛言。世尊。淨華宿王智佛。問訊世尊。少病少惱。起居輕利。安樂行不。四大調和不。世事可忍不。眾生易度不。無多貪欲瞋恚愚癡嫉妬慳慢不。無不孝父母不敬沙門。邪見。不善心不。攝五情不。世尊。眾生能降伏諸魔怨不。久滅度多寶如來在七寶塔中。來聽法不。又問訊多寶如來。安隱少惱。堪忍久住不。

          (Kinh: Đến nơi, xuống đài bảy báu. Cầm trăm ngàn chuỗi anh lạc có giá trị đem tới chỗ Thích Ca Mâu Ni Phật, đầu mặt lễ dưới chân, dâng lên chuỗi anh lạc, bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật hỏi thăm đức Thế Tôn: Ít bệnh, ít năo, đi đứng nhẹ nhàng, nhanh nhẹn hay không? Có an lạc hay không? Tứ Đại điều ḥa hay không? Có thể nhẫn chuyện đời hay không? Chúng sanh có dễ độ hay không? Chẳng có kẻ tham dục, sân khuể, ngu si, ghen ghét, keo kiệt, ngạo mạn hay không? Chẳng có kẻ bất hiếu với cha mẹ, chẳng kính trọng sa-môn, tà kiến, tâm bất thiện hay không? Nhiếp ngũ t́nh[6] hay không? Bạch Thế Tôn! Chúng sanh có thể hàng phục các ma oán hay không? Đa Bảo Như Lai diệt độ đă lâu, ở trong tháp bảy báu có đến nghe pháp hay không? Lại hỏi thăm Đa Bảo Như Lai an ổn, ít năo? Kham nhẫn trụ lâu trong đời hay không?)

 

24.2.2.4. Xin được thấy Phật Đa Bảo

 

          (Kinh) Thế Tôn! Ngă kim dục kiến Đa Bảo Phật thân, duy nguyện Thế Tôn thị ngă linh kiến.

          ()世尊。我今欲見多寶佛身。惟願世尊示我令見。

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Con nay muốn thấy thân Phật Đa Bảo, kính mong đức Thế Tôn chỉ bày cho con thấy).

 

24.2.2.5. Phật Thích Ca v́ [Diệu Âm Bồ Tát] thông truyền

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thích Ca Mâu Ni Phật ngữ Đa Bảo Phật: - Thị Diệu Âm Bồ Tát dục đắc tương kiến.

          ()爾時釋迦牟尼佛。語多寶佛。是妙音菩薩。欲得相見。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật nói với Đa Bảo Phật: - Vị Diệu Âm Bồ Tát này muốn được gặp gỡ).

 

24.2.2.6. Trong tháp khen ngợi tốt lành

 

          (Kinh) Thời Đa Bảo Phật cáo Diệu Âm ngôn: - Thiện tai! Thiện tai! Nhữ năng vị cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật, cập thính Pháp Hoa kinh, tịnh kiến Văn Thù Sư Lợi đẳng, cố lai chí thử.

          ()時多寶佛告妙音言。善哉。善哉。汝能為供養釋迦牟尼佛。及聽法華經。幷見文殊師利等。故來至此。

          (Kinh: Lúc đó, Đa Bảo Phật bảo Diệu Âm rằng: - Lành thay! Lành thay! Ông có thể v́ cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật và nghe kinh Pháp Hoa, cùng thấy Văn Thù Sư Lợi v.v… cho nên đến nơi này).

 

          “Khen ngợi tốt lành” chính là gặp gỡ đă xong, chẳng cần mở tháp.

 

24.2.2.7. Hỏi đáp về cái nhân xưa kia của [Diệu Âm Bồ Tát]

24.2.2.7.1. Hỏi

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Hoa Đức Bồ Tát bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Thị Diệu Âm Bồ Tát chủng hà thiện căn? Tu hà công đức, hữu thị thần lực?

          ()爾時華德菩薩白佛言。世尊。是妙音菩薩。種何善根。修何功德。有是神力。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Hoa Đức (Padmaśrī) Bồ Tát bạch Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Vị Diệu Âm Bồ Tát này đă gieo thiện căn ǵ? Tu công đức ǵ mà có thần lực ấy?)

 

          Diệu Âm chính là hậu thân của phu nhân Tịnh Đức. Hoa Đức chính là hậu thân của vua Diệu Trang Nghiêm, vốn là bậc đại thiện tri thức trong đời trước. V́ thế, nay Ngài v́ đại chúng thưa hỏi, hiển thị công đức ấy!

 

24.2.2.7.2. Đáp

 

          (Kinh) Phật cáo Hoa Đức Bồ Tát: - Quá khứ hữu Phật, danh Vân Lôi Âm Vương Đa-đà-a-già-độ, A La Ha, Tam Miệu Tam Phật Đà. Quốc danh Hiện Nhất Thiết Thế Gian, kiếp danh Hỷ Kiến. Diệu Âm Bồ Tát ư vạn nhị thiên tuế, dĩ thập vạn chủng kỹ nhạc, cúng dường Vân Lôi Âm Vương Phật, tịnh phụng thượng bát vạn tứ thiên thất bảo bát. Dĩ thị nhân duyên quả báo, kim sanh Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật quốc, hữu thị thần lực. Hoa Đức! Ư nhữ ư vân hà? Nhĩ thời, Vân Lôi Âm Vương Phật sở Diệu Âm Bồ Tát kỹ nhạc cúng dường, phụng thượng bảo khí giả, khởi dị nhân hồ? Kim thử Diệu Âm Bồ Tát Ma Ha Tát thị. Hoa Đức! Thị Diệu Âm Bồ Tát dĩ tằng cúng dường, thân cận vô lượng chư Phật, cửu thực đức bổn, hựu trị hằng hà sa đẳng bách thiên vạn ức na-do-tha Phật.

          ()佛告華德菩薩。過去有佛。名雲雷音王多陀阿伽度。阿羅訶。三藐三佛陀。國名現一切世間。劫名喜見。妙音菩薩。於萬二千歲。以十萬種伎樂。供養雲雷音王佛。幷奉上八萬四千七寶鉢。以是因緣果報。今生淨華宿王智佛國。有是神力。華德。於汝意云何。爾時雲雷音王佛所妙音菩薩。伎樂供養。奉上寶器者。豈異人乎。今此妙音菩薩摩訶薩是。華德。是妙音菩薩。已曾供養親近無量諸佛。久植德本。又值恆河沙等百千萬億那由他佛。

          (Kinh: Đức Phật bảo Hoa Đức Bồ Tát: - Quá khứ có Phật tên là Vân Lôi Âm Vương (Meghadundubhisvararāja)[7] Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri. Cơi nước tên là Hiện Nhất Thiết Thế Gian (Sarvarūpasaṃdarśana), kiếp tên là Hỷ Kiến (Priyadarśana). Diệu Âm Bồ Tát trong một vạn hai ngàn năm, dùng mười vạn loại kỹ nhạc để cúng dường Vân Lôi Âm Vương Phật, và dâng lên tám vạn bốn ngàn bát bằng bảy báu[8]. Do nhân duyên quả báo ấy, nay sanh trong cơi của Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật, bèn có thần lực ấy. Này Hoa Đức! Ư ông nghĩ sao? Thuở đó, Diệu Âm Bồ Tát ở chỗ Vân Lôi Âm Vương Phật, dùng kỹ nhạc cúng dường, dâng hiến bát báu, há phải là ai khác? Chính là vị Diệu Âm Bồ Tát Ma Ha Tát này trong hiện thời. Này Hoa Đức! Vị Diệu Âm Bồ Tát này đă từng cúng dường, thân cận vô lượng chư Phật, gieo cội đức đă lâu. Lại gặp gỡ hằng hà sa trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật).

 

          Phần thứ hai, “phụng mng sang phương Tây” đă xong.

 

24.3. Hoằng kinh trong mười phương

24.3.1. Nói về sự hiện thân thuyết pháp

 

          (Kinh) Hoa Đức! Nhữ đản kiến Diệu Âm Bồ Tát kỳ thân tại thử, nhi thị Bồ Tát hiện chủng chủng thân, xứ xứ vị chư chúng sanh, thuyết thị kinh điển. Hoặc hiện Phạm Vương thân, hoặc hiện Đế Thích thân, hoặc hiện Tự Tại thiên thân, hoặc hiện Đại Tự Tại thiên thân, hoặc hiện thiên đại tướng quân thân, hoặc hiện Tỳ Sa Môn thiên vương thân, hoặc hiện chuyển luân thánh vương thân, hoặc hiện chư tiểu vương thân, hoặc hiện trưởng giả thân, hoặc hiện cư sĩ thân, hoặc hiện tể quan thân, hoặc hiện Bà La Môn thân, hoặc hiện tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thân, hoặc hiện trưởng giả, cư sĩ, phụ nữ thân, hoặc hiện tể quan phụ nữ thân, hoặc hiện Bà La Môn phụ nữ thân, hoặc hiện đồng nam, đồng nữ thân. Hoặc hiện thiên, long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La. Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân đẳng thân, nhi thuyết thị kinh. Chư hữu địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cập chúng nạn xứ, giai năng cứu tế. Năi chí ư vương hậu cung, biến vi nữ thân, nhi thuyết thị kinh. Hoa Đức! Thị Diệu Âm Bồ Tát năng cứu hộ Sa Bà thế giới chư chúng sanh giả. Thị Diệu Âm Bồ Tát như thị chủng chủng biến hóa hiện thân. Tại thử Sa Bà quốc độ, vị chư chúng sanh thuyết thị kinh điển. Ư thần thông, biến hóa, trí huệ, vô sở tổn giảm. Thị Bồ Tát dĩ nhược can trí huệ minh chiếu Sa Bà thế giới, linh nhất thiết chúng sanh, các đắc sở tri. Ư thập phương hằng hà sa thế giới trung, diệc phục như thị. Nhược ưng dĩ Thanh Văn h́nh đắc độ giả, hiện Thanh Văn h́nh nhi vị thuyết pháp. Ưng dĩ Bích Chi Phật h́nh đắc độ giả, hiện Bích Chi Phật h́nh nhi vị thuyết pháp. Ưng dĩ Bồ Tát h́nh đắc độ giả, hiện Bồ Tát h́nh nhi vị thuyết pháp. Ưng dĩ Phật h́nh đắc độ giả, tức hiện Phật h́nh nhi vị thuyết pháp. Như thị chủng chủng, tùy sở ưng độ, nhi vị hiện h́nh, năi chí ưng dĩ diệt độ nhi đắc độ giả, thị hiện diệt độ. Hoa Đức! Diệu Âm Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu đại thần thông trí huệ chi lực, kỳ sự như thị.

          ()華德。汝但見妙音菩薩。其身在此。而是菩薩。現種種身。處處為諸眾生說是經典。或現梵王身。或現帝釋身。或現自在天身。或現大自在天身。或現天大將軍身。或現毘沙門天王身。或現轉輪聖王身。或現諸小王身。或現長者身。或現居士身。或現宰官身。或現婆羅門身。或現比丘。比丘尼。優婆塞。優婆夷身。或現長者居士婦女身。或現宰官婦女身。或現婆羅門婦女身。或現童男童女身。或現天。龍。夜叉。乾闥婆。阿修羅。迦樓羅。緊那羅。摩睺羅伽。人。非人等身而說是經。諸有地獄。餓鬼。畜生。及眾難處。皆能救濟。乃至於王後宮。變為女身而說是經。華德。是妙音菩薩。能救護娑婆世界諸眾生者。是妙音菩薩。如是種種變化現身。在此娑婆國土。為諸眾生說是經典。於神通變化智慧。無所損減。是菩薩以若干智慧。明照娑婆世界。令一切眾生。各得所知。於十方恆河沙世界中。亦復如是。若應以聲聞形得度者。現聲聞形而說法。應以辟支佛形得度者。現辟支佛形而說法。應以菩薩形得度者。現菩薩形而說法。應以佛形得度者。即現佛形而說法。如是種種。隨所應度而為現形。乃至應以滅度而得度者。示現滅度。華德。妙音菩薩摩訶薩。成就大神通智慧之力。其事如是。

          (Kinh: Này Hoa Đức! Ông chỉ thấy thân của Diệu Âm Bồ Tát ở nơi đây, nhưng vị Bồ Tát này hiện đủ loại thân, tại các chốn v́ các chúng sanh nói kinh điển này. Hoặc hiện thân Phạm Vương, hoặc hiện thân Đế Thích, hoặc hiện thân Tự Tại Thiên (Īśvara), hoặc hiện thân Đại Tự Tại Thiên (Maheśvara), hoặc hiện thân thiên đại tướng quân, hoặc hiện thân Tỳ Sa Môn (Vaiśravaṇa) thiên vương, hoặc hiện thân chuyển luân thánh vương, hoặc hiện các thân tiểu vương, hoặc hiện thân trưởng giả, hoặc hiện thân cư sĩ, hoặc hiện thân tể quan[9], hoặc hiện thân Bà La Môn, hoặc hiện thân tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc hiện thân phụ nữ của trưởng giả, cư sĩ, hoặc hiện thân phụ nữ của tể quan, hoặc hiện thân Bà La Môn phụ nữ, hoặc hiện thân trẻ trai, trẻ gái, hoặc hiện thân trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân v.v… để nói kinh này. Các chỗ có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và các chỗ hoạn nạn, Ngài đều có thể cứu giúp. Thậm chí ở trong hậu cung của nhà vua, biến thành thân nữ để nói kinh này. Này Hoa Đức! Vị Diệu Âm Bồ Tát này có thể cứu độ, bảo vệ các chúng sanh trong thế giới Sa Bà. Vị Diệu Âm Bồ Tát này biến hóa hiện thân đủ loại như thế trong quốc độ Sa Bà này, v́ các chúng sanh nói kinh điển này, nhưng thần thông, biến hóa, trí huệ chẳng bị tổn giảm. Vị Bồ Tát này dùng ngần ấy trí huệ chiếu sáng thế giới Sa Bà, khiến cho hết thảy chúng sanh ai nấy đều biết. Trong các thế giới nhiều như cát sông Hằng thuộc mười phương, cũng lại như thế. Nếu đáng nên dùng h́nh tướng Thanh Văn để đắc độ, bèn hiện h́nh tướng Thanh Văn để thuyết pháp. Đáng nên dùng h́nh tướng Bích Chi Phật để đắc độ, bèn hiện h́nh tướng Bích Chi Phật để thuyết pháp. Đáng nên dùng h́nh tướng Bồ Tát để đắc độ, bèn hiện h́nh tướng Bồ Tát để thuyết pháp. Đáng nên dùng thân Phật để đắc độ, liền hiện thân Phật để thuyết pháp. Các thứ [thân h́nh như thế], tùy theo sự đáng độ mà hiện h́nh tướng, cho đến đáng nên dùng diệt độ để đắc độ, bèn thị hiện diệt độ. Này Hoa Đức! Diệu Âm Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu sức đại thần thông trí huệ, là chuyện như thế đó).

 

          Thị hiện ba mươi bốn phàm thân và bốn thân thánh nhân (Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Bích Chi Phật), kết thành lục đạo mười pháp giới vậy! Điều này tỏ rơ sức khó suy nghĩ của Bồ Tát, tùy loại mà lưu thông kinh. Chúng sanh trông thấy h́nh tích của Ngài, chẳng suy lường được Bổn, chỉ đành nhận lănh pháp vị, đừng chọn lựa h́nh tướng.

 

24.3.2. Hỏi đáp về các tam-muội do Diệu Âm Bồ Tát đă trụ

24.3.2.1. Hỏi

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Hoa Đức Bồ Tát bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Thị Diệu Âm Bồ Tát thâm chủng thiện căn. Thế Tôn! Thị Bồ Tát trụ hà tam-muội, nhi năng như thị tại sở biến hiện, độ thoát chúng sanh?

          ()爾時華德菩薩白佛言。世尊。是妙音菩薩。深種善根。世尊。是菩薩住何三昧。而能如是在所變現。度脫眾生。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Hoa Đức Bồ Tát bạch Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Vị Diệu Âm Bồ Tát này gieo thiện căn sâu đậm. Bạch Thế Tôn! Vị Bồ Tát này trụ trong tam-muội nào mà có thể biến hiện khắp nơi, độ thoát chúng sanh như thế?)

 

          “Thâm chủng thiện căn” tức là lănh ngộ các Phật sự dùng bát báu, kỹ nhạc [cúng dường Phật] trong phần trước. “Trụ hà tam-muội” (trụ trong tam-muội nào) chính là lời hỏi về nguyên do hiện thân hoằng pháp trong mười pháp giới vậy!

 

24.3.2.2. Đáp

 

          (Kinh) Phật cáo Hoa Đức Bồ Tát: - Thiện nam tử! Kỳ tam-muội danh Hiện Nhất Thiết Sắc Thân. Diệu Âm Bồ Tát trụ thị tam-muội trung, năng như thị nhiêu ích vô lượng chúng sanh.

          ()佛告華德菩薩。善男子。其三昧名現一切色身。妙音菩薩住是三昧中。能如是饒益無量眾生。

          (Kinh: Đức Phật bảo Hoa Đức Bồ Tát: - Này thiện nam tử! Tam-muội ấy tên là Hiện Nhất Thiết Sắc Thân (Sarvarūpasaṃdarśana). Diệu Âm Bồ Tát trụ trong tam-muội ấy, có thể lợi ích vô lượng chúng sanh như thế).

 

          Phần thứ ba, “hoằng kinh trong mười phương” đă xong.

 

24.4. Hai cơi được lợi ích

 

          (Kinh) Thuyết thị Diệu Âm Bồ Tát phẩm thời, dữ Diệu Âm Bồ Tát câu lai giả bát vạn tứ thiên nhân, giai đắc Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội. Thử Sa Bà thế giới vô lượng Bồ Tát diệc đắc thị tam-muội cập đà-la-ni.

          ()說是妙音菩薩品時。與妙音菩薩俱來者八萬四千人。皆得現一切色身三昧。此娑婆世界無量菩薩。亦得是三昧及陀羅尼。

          (Kinh: Khi nói phẩm Diệu Âm Bồ Tát, tám vạn bốn ngàn người cùng đến với Diệu Âm Bồ Tát đều đắc Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội. Vô lượng Bồ Tát trong thế giới Sa Bà này cũng đắc môn tam-muội và đà-la-ni ấy).

 

          Tam-muội và Đà La Ni có cùng một Thể, nhưng tác dụng khác nhau. Tác dụng về phương diện Tịch th́ gọi là tam-muội, tác dụng Tŕ được gọi là Đà La Ni. Lại nữa, sắc thân biến hiện th́ gọi là tam-muội, âm thanh biện thuyết th́ gọi là Đà La Ni, chỉ là viên định và viên huệ đó thôi! Đă có thể hiện thân, ắt sẽ có thể thuyết pháp, tức là chẳng có thứ tự cũng được. Theo phẩm Dược Vương, trước đó đă đắc tam-muội, thiêu thân cúng Phật, bèn đạt được tổng tŕ, cho nên nói có sâu hay cạn cũng được! Nay xét theo hai cơi để nói th́ các vị Bồ Tát cùng đến chính là dân trong cơi Tịnh Độ, phước vượt hẳn trí, cho nên chỉ đắc tam-muội. Bồ Tát trong cơi này là người thuộc uế độ, sức nhẫn trí rất mạnh; v́ thế đắc kèm thêm tổng tŕ.

 

24.5. [Diệu Âm Bồ Tát] trở về nước ḿnh

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Diệu Âm Bồ Tát Ma Ha Tát cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật, cập Đa Bảo Phật tháp dĩ, hoàn quy bổn độ. Sở kinh chư quốc, lục chủng chấn động, vũ bảo liên hoa, tác bách thiên vạn ức chủng chủng kỹ nhạc. Kư đáo bổn quốc, dữ bát vạn tứ thiên Bồ Tát vi nhiễu, chí Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật sở, bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă đáo Sa Bà thế giới nhiêu ích chúng sanh, kiến Thích Ca Mâu Ni Phật, cập kiến Đa Bảo Phật tháp, lễ bái, cúng dường. Hựu kiến Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử Bồ Tát, cập kiến Dược Vương Bồ Tát, Đắc Cần Tinh Tấn Lực Bồ Tát, Dũng Thí Bồ Tát đẳng, diệc linh thị bát vạn tứ thiên Bồ Tát đắc Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội.

          ()爾時妙音菩薩摩訶薩。供養釋迦牟尼佛及多寶佛塔已。還歸本土。所經諸國。六種震動。雨寶蓮華。作百千萬億種種伎樂。旣到本國。與八萬四千菩薩圍繞。至淨華宿王智佛所。白佛言。世尊。我到娑婆世界饒益眾生。見釋迦牟尼佛。及見多寶佛塔。禮拜供養。又見文殊師利法王子菩薩。及見藥王菩薩。得勤精進力菩薩。勇施菩薩等。亦令是八萬四千菩薩。得現一切色身三昧。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Diệu Âm Bồ Tát Ma Ha Tát cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật và tháp của Đa Bảo Phật xong, trở về cơi ḿnh. Các nước Ngài đi qua đều sáu thứ chấn động, mưa hoa sen báu, tấu trăm ngàn vạn ức các thứ kỹ nhạc. Đă đến nước ḿnh, cùng với tám vạn bốn ngàn Bồ Tát vây quanh, đến chỗ Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật, bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Con đến thế giới Sa Bà lợi ích chúng sanh, gặp Thích Ca Mâu Ni Phật và thấy tháp của Đa Bảo Phật, lễ bái, cúng dường. Lại thấy Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử Bồ Tát, và thấy Dược Vương Bồ Tát (Bhaiṣajyarāja), Đắc Cần Tinh Tấn Lực Bồ Tát (Vīrya-balavegaprāpta), Dũng Thí Bồ Tát (Pradānaśūra) v.v… Cũng khiến cho tám vạn bốn ngàn Bồ Tát đắc Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội).

 

24.6. Nghe phẩm này đạo tăng tấn

 

          (Kinh) Thuyết thị Diệu Âm Bồ Tát lai văng phẩm thời, tứ vạn nhị thiên thiên tử đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, Hoa Đức Bồ Tát đắc Pháp Hoa tam-muội.

          ()說是妙音菩薩來往品時。四萬二千天子。得無生法忍。華德菩薩。得法華三昧。

          (Kinh: Khi nói phẩm Diệu Âm Bồ Tát đến đi này, bốn vạn hai ngàn thiên tử đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, Hoa Đức Bồ Tát đắc Pháp Hoa tam-muội).

 

          Đắc Vô Sanh Nhẫn là khai Phật tri kiến. Đắc Pháp Hoa tam-muội là tăng tấn trí huệ, tổn giảm phiền cấu sanh tử. Ngài Hoa Đức chính là bậc đương cơ, cho nên đạt được lợi ích sâu gấp bội. Các thiên tử trước đó các căn đă tịnh, nay ngộ viên nhân (cái nhân viên măn). V́ thế biết Chánh Thuyết và Lưu Thông, phần nào cũng đều có người do chủng tử thuần thục mà đạt được lợi ích giải thoát, công dụng chẳng khác nhau. Giải thích phẩm Diệu Âm đă xong. Kế đó, giải thích phẩm Phổ Môn.

 

25. Phẩm thứ hai mươi lăm: Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn (Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn phẩm đệ nhị thập ngũ, 觀世音菩薩普門品第二十五)

 

          “Quán” là năng quán trí (cái trí có thể quán), tức là nhất tâm tam trí. Thế Âm chính là cảnh được quán, tức căn cơ trong mười pháp giới. Cảnh và trí cùng được nêu lên, cảm và ứng được gộp chung lại để nêu ra. V́ thế, gọi là Quán Thế Âm. Từ ngữ Bồ Tát th́ đă giải thích ư nghĩa trong phần trước.

          “Phổ” là trọn khắp. “Môn” có nghĩa là “có thể thông suốt”. Dùng một Thật Tướng có thể mở ra thành mười môn Phổ (trọn khắp), chẳng bị chướng ngăn ǵ! V́ thế gọi là Phổ Môn.

 

25.1. Giải thích danh xưng của phẩm này

         

          Phần giải thích được chia thành hai đoạn: Một là Thông, hai là Biệt. Phần Thông Thích lại được chia làm bốn mục:

          - Một, liệt kê danh xưng [của các khoa mục để thảo luận].

          - Hai, thứ tự [của các khoa mục ấy]

          - Ba, giải thích [nội dung của các khoa mục ấy].

          - Bốn, liệu giản.

 

25.1.1. Thông Thích (phần giải thích chung)

25.1.1.1. Liệt kê danh xưng

 

          Một là Nhân Pháp, hai là từ bi, ba là phước huệ, bốn là chân ứng, năm là dược châu[10], sáu là minh hiển (âm thầm hay hiển lộ), bảy là Quyền Thật, tám là Bổn Tích, chín là duyên liễu (duyên nhân và liễu nhân), mười là trí đoạn (Trí Đức và Đoạn Đức).

 

25.1.1.2. Thứ tự

 

          Lại có hai ư:

          - Một, xét theo Quán để giảng về thứ tự.

          - Hai, xét theo Giáo để giảng về thứ tự.

 

25.1.1.2.1. Xét theo Quán để nói về thứ tự

 

          Xét theo Quán, muốn nói về quán hạnh, ắt phải có người [thực hiện quán hạnh ấy]. Người ắt phải nắm giữ pháp. V́ thế, [nhân và pháp được] đặt đầu tiên. Kế đến là từ bi. Ấy là v́ Quán Âm là người, quán pháp Thật Tướng Phổ Môn, thấu đạt lư Thật Tướng “chẳng phải người, chẳng phải pháp”, biết rơ hết thảy chúng sanh cũng đều giống như thế. V́ vậy, kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm, Phật, cập chúng sanh. Thị tam vô sai biệt” (tâm, Phật và chúng sanh, ba thứ ấy chẳng sai khác). Lư ấy trọn đủ, chẳng có khuyết giảm, cớ sao chúng sanh có đủ lư mà lại mê nơi t́nh, [để rồi] điên đảo, khổ năo? Đă quán như thế rồi, liền dấy lên thệ nguyện từ bi “dẹp khổ, ban vui”.

          Kế đó là Phước Huệ. Trước hết, Nhân Pháp thành tựu lẫn nhau. Đấy là dựa theo Tín. Kế đó, từ bi dẹp khổ, ban vui. Đấy là nói về Nguyện. Muốn thỏa măn nguyện ấy, ắt phải tu hành. Tu hành chẳng ra ngoài phước và huệ. Huệ tức Bát Nhă. Phước tức năm độ (Bố Thí, Tŕ Giới, Nhẫn Nhục…) giúp đỡ, hướng dẫn lẫn nhau. Do hành thuận theo nguyện, Lư Sự trọn vẹn, sẽ có thể dẹp khổ, ban vui.

          Kế đó là Chân Ứng: Phước huệ trọn đủ, khế hợp pháp tánh, pháp tánh tức Thật Tướng, th́ gọi là Pháp Thân. Pháp Thân đă hiển, từ Chân (chân thân) bèn khởi Ứng (ứng thân).

          Kế đó là Dược Châu: Chứng đắc Chân Ứng, đều có thể lợi ích chúng sanh: Phá bệnh Tam Hoặc như cây thuốc chúa (dược thụ vương); có thể tuôn ra báu Tam Đế như Như Ư Châu vương.

          Kế đó là Minh Hiển: Chúng sanh cơ cảm, [Bồ Tát] dùng hai thân (Thắng Ứng Thân và Liệt Ứng Thân) để ứng, hoặc Minh (, ngấm ngầm, âm thầm) hoặc Hiển (, rơ rệt), [chúng sanh] đạt được lợi ích khác nhau.

          Kế đó là Quyền Thật: Đạt được lợi ích khác nhau, đều do hai trí lực (Quyền Trí và Thật Trí), nhưng chẳng hề không hợp lẽ.

          Kế đó là Bổn Tích: Tuy khéo dùng hai trí (Quyền Trí và Thật Trí) để lợi ích hết thảy, nhưng có hơn, kém khác nhau. Ấy là v́ Bổn Tích [gồm có các trường hợp sau]:

          - Bổn và Tích đều cao.

          - Hoặc Bổn cao Tích thấp, hai trí ắt đều ưu việt.

          - Nếu Bổn thấp, Tích cao, hoặc Bổn lẫn Tích đều thấp, hai trí sẽ đều thấp.

          Kế đó là Duyên Liễu: Trong phần trên đă nói hành nhân phát tâm tu hành, từ nhân mà đạt được cái quả, giáo hóa người khác, lợi lạc chúng sanh, [công hạnh] sâu hay cạn khác nhau. Từ Nhân Pháp cho tới Chân Ứng, chính là thứ tự trong tự hành. Từ Dược Châu cho tới Bổn Tích, chính là thứ tự trong sự giáo hóa người khác. [Phán định thứ tự như thế] đều là luận định theo chiều thuận, chưa phải là t́m đến căn bản. Nay xét theo chủng tử trong Tánh Đức, nếu là người quán trí, bi tâm thệ nguyện, trí huệ trang nghiêm, hiển xuất chân thân, sẽ đều là liễu nhân làm chủng tử. Nếu là pháp Phổ Môn th́ từ tâm thệ nguyện, phước đức trang nghiêm, hiển xuất Ứng Thân, sẽ đều là duyên nhân làm chủng tử.

          Kế đó là Trí Đoạn, lại bàn đến căn nguyên th́ chính là luận theo chiều thuận đến rốt ráo, [sẽ thấy]: Khởi đầu là dấy lên liễu nhân của chính ḿnh, kết thúc bằng Bồ Đề đại trí. Khởi đầu bằng dấy lên duyên nhân của chính ḿnh, kết thúc bằng Niết Bàn đoạn đức.

 

25.1.1.2.2. Xét theo Giáo để luận định thứ tự

 

          Lại có Thông và Biệt.

 

25.1.1.2.2.1. Thông luận về Giáo

 

          Thông là năm thời bốn giáo, đối với mỗi điều, đều có thể luận định mười [khoa ư nghĩa trên đây, tức là từ Nhân Pháp, Phước Huệ, cho đến Trí Đoạn], thuận theo pháp nghĩa mà lập, chẳng thể thấu hiểu cùng tột sâu thẳm được.

          Lại như đối với mười cặp [ư nghĩa trên đây] trong Tam Tạng: Dựa theo Ngũ Ấm mà gọi là Nhân Đế (tức Nhân trong Nhân Pháp), dựa theo các Độ (Ba La Mật) mà gọi là Pháp. Pháp duyên của Thanh Văn và sanh duyên của Bồ Tát được gọi là Từ Bi. Tam Học của Thanh Văn và Lục Độ của Bồ Tát được gọi là Phước Huệ. Ngũ phần Pháp Thân (Giới, Định, Huệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến) là Chân, tác ư thần thông (khởi lên ư niệm để thực hiện thần thông) là Ứng. Trị bệnh Tứ Trụ là Dược, tuôn mưa báu tam thừa là Châu. Thấy nghe được lợi ích là Hiển. Chẳng thấy, chẳng nghe là Minh (ngấm ngầm). Tương xứng với Chân là Thật, thuận theo t́nh kiến là Quyền. Tự chứng là Bổn, thị hiện là Tích. Một câu một kệ là Liễu Nhân. Điều thiện nhỏ nhặt nơi tam nghiệp là Duyên Nhân. Tận vô sanh trí là Trí. Hữu dư, vô dư là Đoạn. Thanh Văn chứng dần dần, Bồ Tát đốn thành (thành tựu ngay lập tức). Tam Tạng c̣n có đủ [mười pháp ấy], th́ Thông Giáo và Biệt Giáo có thể biết, chẳng phiền phải rườm lời!

 

25.1.1.2.2.2. Biệt luận về Giáo

         

          Biệt th́ trải qua ngũ vị (sữa, lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ) để nói rơ nhiều hay ít khác nhau:

          - Như Đốn giáo thuộc vị sữa, có giáo pháp tên là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Đại Phương Quảng là Pháp, Phật chính là Nhân (người). Người ấy nắm giữ pháp, ắt đủ từ bi. Nhân hoa chính là phước huệ nhị nghiêm (hai thứ phước và huệ trang nghiêm). Trang nghiêm quả đức chính là Chân Ứng. Đă có thể lợi lạc chúng sanh, ắt biện định Dược Châu. Chúng sanh đạt được lợi ích, ắt có Minh Hiển (rơ rệt hay ngấm ngầm), nhưng Quyền Thật, Bổn Tích, Duyên Liễu, Trí Đoạn, luận định chung th́ có, luận định riêng th́ không. V́ sao vậy? Một thời giáo hóa chúng sanh của đức Phật, được thể hiện bằng Đốn và Tiệm. Nay Hoa Nghiêm là đốn thuyết, Tiệm Giáo chưa được nêu bày. V́ thế, chẳng nói rơ bốn ư (tức chẳng nói rơ bốn ư nghĩa Quyền Thật, Bổn Tích, Duyên Liễu, và Trí Đoạn). [Bởi lẽ], Tiểu cách biệt Đại, như điếc, như câm, c̣n bị che lấp bởi Quyền, chưa hiển lộ Thật. V́ thế, chẳng có Quyền và Thật. Chưa nêu bày sanh thân trong cung vua [Tịnh Phạn] là Tích, chưa chỉ bày Pháp Thân nơi Tịch Diệt Đạo Tràng là Tích, chưa hiển lộ Bổn đă thành Phật từ thuở lâu xa. Do đó, chẳng có Bổn Tích. Chẳng nói Tiểu Thừa vốn có cái nhân duyên nhânliễu nhân nơi Tánh Đức, sẽ nhất quyết đạt được cái quả Trí Đoạn vốn sẵn có. V́ thế, chẳng có hai ư sau.

          - Tiếp đó, Tam Tạng giáo thuộc vị lạc, chỉ nói ba nghĩa Nhân Pháp, Từ Bi và Phước Huệ, chẳng có bảy nghĩa như Chân Ứng v.v… V́ sao vậy? Hôi thân diệt trí (sau khi đă chứng Hữu Dư Niết Bàn bèn nát thân như tro tàn lửa tắt, trí trụ vào Diệt Tận Định), sao có thể từ Chân khởi Ứng cho được? Đă chẳng có Chân Ứng, dùng ǵ để lợi ích chúng sanh? Lại c̣n xét theo Chân Đế, luận định chung th́ có mười [khoa như Nhân Pháp, Từ Bi, Phước Huệ v.v…], nhưng Bồ Tát chế phục Hoặc trong ba A-tăng-kỳ kiếp, cũng chẳng thể luận định Chân Ứng v.v… được!

          - Kế đó, giáo pháp Phương Đẳng thuộc vị sanh tô, đối với Tiểu mà nói Đại, đạt được từ Nhân Pháp thuộc Đại Thừa Trung Đạo cho đến hai món lợi ích Minh và Hiển, nhưng vẫn c̣n vướng mắc nơi phương tiện điều phục, thuần thục chúng sanh. V́ thế, chẳng thể nói bốn ư như Quyền Thật, [Bổn Tích, Trí Đoạn] v.v…

          - Kế đó là giáo pháp Bát Nhă thuộc vị thục tô, tuy đă hiểu pháp Tiểu Thừa đều là Ma Ha Diễn (Đại Thừa), vẫn chưa lănh hội người Tiểu Thừa cũng kèm theo phương tiện. Do vậy, cũng chỉ có sáu nghĩa,chưa nói rơ bốn ư Quyền Thật v.v…

          - Nay giáo pháp Pháp Hoa thuộc vị đề hồ, thấu hiểu hàng Tiểu Thừa “ngươi thật sự là con ta, ta thật sự là cha ngươi. Những điều ngươi hành đều là Bồ Tát đạo, khai Quyền hiển Thật, khai Tích hiển Bổn”, liễu nghĩa quyết định, chẳng c̣n nghi nan, đạt được tám ư từ Nhân Pháp thuộc về Trung Đạo cho đến Bổn Tích v.v… Đại sự nhân duyên điều phục, thuần thục chúng sanh của chư Phật trong ba đời viên măn rốt ráo đều trọn đủ trong kinh này. V́ thế, hai vạn vị Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật chỉ nói Pháp Hoa rồi liền chấm dứt sự giáo hóa. Ca Diếp Như Lai cũng giống như thế. C̣n như [Phật Thích Ca dạy] giáo pháp Niết Bàn là v́ hàng đệ tử độn căn chưa thể ngộ nhập kinh Pháp Hoa, cho nên lại phải bàn luận nguyên do, nói rộng về duyên nhân và liễu nhân, nhằm nêu rơ ba Phật tánh (chánh nhân Phật tánh, duyên nhân Phật tánh, liễu nhân Phật tánh). Liễu nhân chủng tử trong Tánh Đức hễ tu được, sẽ trở thành ba thứ Bát Nhă Trí Đức Bồ Đề. Duyên nhân chủng tử trong Tánh Đức hễ tu được, sẽ trở thành ba thứ Giải Thoát Đoạn Đức Niết Bàn. Tánh Đức chẳng phải là duyên nhân, chẳng phải liễu nhân, mà chính là chánh nhân. Hễ tu thành tựu, sẽ là Pháp Thân ba điểm chẳng dọc, chẳng ngang[11]. V́ thế biết: Điều được minh thị trong kinh Niết Bàn chính là nói: Khởi đầu tám pháp, rốt cuộc thành tựu Trí Đoạn, trọn đủ mười nghĩa. Đă trải khắp ngũ vị để định luận thứ tự của mười pháp, th́ sẽ hiểu: Xét theo bốn giáo, [đáng nên luận định như thế nào].

          Lại nữa, sáu ư (Nhân Pháp, Từ Bi, Phước Huệ v.v…) của thời Hoa Nghiêm đối với người lợi căn sẽ thành đề hồ, đối với kẻ độn căn sẽ thành sữa. Đối với ba ư trong Tam Tạng (Nhân Pháp, Từ Bi, và Phước Huệ), người lợi căn ngầm trừ bỏ, cũng trở thành đề hồ, nhưng đối với người độn căn sẽ thành lạc. Sáu ư nghĩa của thời Phương Đẳng, đối với người lợi căn sẽ thành đề hồ, đối với kẻ độn căn sẽ thành sanh tô. Sáu ư của Bát Nhă đối với người lợi nhân sẽ trở thành đề hồ, đối với người độn căn sẽ trở thành thục tô. Tám ư của Pháp Hoa đối với người độn căn cũng thành đề hồ. Phần thứ ba, “[luận định về] thứ tự” đă xong.

 

25.1.1.3. Giải thích

25.1.1.3.1. Giải thích Nhân Pháp

 

          Trước hết, giải thích Nhân Pháp. Nhân chính là giả danh chúng sanh, Pháp chính là Ngũ Ấm Thật pháp. Pháp là “cái có thể thành” (năng thành), Nhân là “điều được thành” (sở thành). Nhân Pháp ấy chung cho phàm lẫn thánh. Như Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức chính là pháp thế gian; do nắm níu các pháp ấy mà trở thành phàm nhân sanh tử! Như Giới, Định, Huệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến là pháp xuất thế, nắm giữ các pháp ấy, sẽ trở thành thánh nhân xuất thế. V́ thế, Đại Luận nói: “Vô thượng đối với chúng sanh là Phật. Vô thượng đối với pháp là Niết Bàn”. Nhưng tuy chung cho phàm lẫn thánh, chẳng phải là không sai biệt. Thượng, trung, hạ ác chính là Nhân Pháp để thành tựu tam đồ. Thượng, trung, hạ thiện chính là Nhân Pháp để thành tựu ba thiện đạo. Do đó, có sáu đường sai khác. Nếu luận định cặn kẽ hơn, sẽ là trăm ngàn vạn phẩm.

          Nhân Pháp xuất thế cũng lại bất đồng! Như Hữu Môn của Tam Tạng quán ngă nhân của chúng sanh như “lông rùa, sừng thỏ”, rốt ráo chẳng thể được, chỉ có pháp Ngũ Ấm. Đó chính là “nhân không, pháp chẳng không”. Quán chắc chắn pháp vô thường sanh diệt ấy, có thể chế phục Kiến Ái (Kiến Tư Hoặc), phát sanh các điều thiện Ngũ Ấm hữu lậu thuộc các địa vị Noăn, Đảnh v.v… tức là nắm vững pháp phương tiện ấy để thành bậc hiền nhân tự đạo (tương tự đắc đạo). Nếu phát khởi Giới, Định, Huệ v.v… vô lậu chân thật, tức là nắm giữ pháp vô lậu ấy để thành bậc thánh nhân Tứ Quả. Nếu chẳng nghe Thật giáo của Pháp Hoa, tùy ư nương vào Hữu Dư để diệt rồi hôi thân diệt trí, cứ tự cho là “đă nhập Vô Dư Niết Bàn, Nhân lẫn Pháp đều tịch”. Thật ra, [kẻ đó] sanh trong cơi Phương Tiện Hữu Dư ở ngoài tam giới. Do nắm giữ pháp Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức thuộc pháp tánh, trở thành người giả danh trong cơi ấy.

          Không Môn quán Ngũ Ấm ḥa hợp, giả gọi là “người”. Ba thứ hư giả đều hư huyễn, hời hợt, sẽ nhập vào Không, phát sanh [các địa vị] Noăn, Đảnh v.v… như đă nói trong phần trước. Hai môn kia (tức Phi Hữu Phi Không và Diệc Hữu Diệc Không) cũng như thế. Nếu là người hiểu rơ Nhân Pháp trong Ma Ha Diễn th́ cũng chẳng nói “nhân không, pháp bất không”, cũng chẳng nói “nắm giữ cái Thể của Thật pháp để trở thành tác dụng của giả nhân”, chỉ quán tánh của các pháp Ấm, Giới, Nhập và giả danh nhân vốn tự Không. Do chẳng diệt nên là Không. V́ thế, Đại Phẩm nói: “Sắc tánh như ngă tánh, ngă tánh như sắc tánh. Khởi đầu từ sơ tâm, kết thúc nơi hậu tâm, thường quán Nhân và Pháp đều là Không”. Điều này lại chia thành ba ư:

          - Một, chỉ quán Nhị Không (Nhân Không và Pháp Không), phát sanh tương tự giải, tức là nắm lấy pháp thiện hữu lậu như huyễn, trở thành người như huyễn nơi Tánh địa. Kế đó, phát sanh chân giải, đoạn Kiến Tư Hoặc, tức là nắm lấy các pháp vô lậu giới như huyễn v.v… trở thành người như huyễn nơi Kiến địa; nhưng do căn độn, chỉ thấy Không, chẳng thấy Bất Không, vẫn giống như “hôi đoạn” trong Tam Tạng, chẳng nhận biết là đang sống trong cơi Phương Tiện Hữu Dư, nắm giữ pháp của cơi ấy, trở thành người trong cơi ấy. Nếu là kẻ lợi căn, đă phát khởi Chân, sẽ không chỉ thấy Không, mà c̣n thấy Bất Không, biết rơ hai tánh Nhân và Pháp chẳng thể đoạn diệt; tiến nhập Biệt Giáo và Viên Giáo.

          - Hai, biết rơ sanh tử Nhân Pháp và xuất thế Nhân Pháp, gọi là Nhị Biên, nhưng Thật Tướng pháp tánh chẳng phải là Nhân, chẳng phải là Pháp, chẳng phải là thế gian, chẳng phải là xuất thế gian. Thể của nó thường trụ. V́ muốn chứng cái Thể của Thật Tướng ấy, trước hết, hăy quán sanh tử Nhân Pháp vốn là Không, đoạn Kiến Tư Hoặc, dựa vào phương tiện Ngũ Ấm, trở thành người giả danh nơi Thập Trụ. Kế đó, quán xuất thế Nhân Pháp vốn là Không, chẳng trụ vào xuất thế vô lậu đạo, đoạn Trần Sa Hoặc, dựa vào phương tiện Ngũ Ấm, thành tựu người giả danh trong Thập Hạnh. Kế đó, quán nhị biên Nhân Pháp đều là Không, chẳng trụ vào nhị biên, chế phục Vô Minh Hoặc, liền dựa vào phương tiện Ngũ Ấm, thành người giả danh thuộc Thập Hồi Hướng. Kế đó, phát khởi Trung Đạo chân minh, phá Vô Minh Hoặc, liền dựa vào pháp Ngũ Ấm thường trụ trong cơi Thật Báo, trở thành người giả danh thường trụ thuộc Thập Địa Bồ Tát.

          - Ba, biết rơ sanh tử Nhân Pháp và xuất thế Nhân Pháp, mỗi đằng không ǵ chẳng phải là Chân Như Thật Tướng. V́ thế, Đại Luận nói: “Bồ Tát thường quán Niết Bàn hành đạo”. Do quán Nhân Không chính liễu nhân chủng tử, cho nên Đại Luận nói: “Vô thượng đối với chúng sanh là Phật”. Phật chính là Giác, Giác là trí huệ. Đă giác Nhân Không, cũng giác Pháp Không. V́ thế, biết quán Nhân Không chính là liễu nhân chủng tử, quán Pháp Không chính là duyên nhân chủng tử. Do đó, Đại Luận nói: “Vô thượng trong các pháp là Niết Bàn”. Đó chính là v́ sanh tử ấm đă đoạn, Niết Bàn ấm bèn dấy lên. Như nước đông thành băng, băng lại tan thành nước. Đại Kinh dạy: “Nhân diệt thị sắc, hoạch đắc thường Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, diệc phục như thị” (Do diệt Sắc ấy mà đạt được Sắc thường hằng. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng lại giống như thế). Kinh Đại Phẩm nói: “Bồ Tát hành Bát Nhă thời, đắc vô đẳng đẳng Sắc, đắc vô đẳng đẳng Thọ, Tưởng, Hành, Thức” (Bồ Tát khi hành Bát Nhă, đạt được Sắc chẳng thể sánh bằng, đạt được Thọ, Tưởng, Hành, Thức chẳng thể sánh bằng). Hăy nên biết Niết Bàn là pháp vô thượng. Dựa theo pháp ấy để thành tựu vô thượng chúng sanh, bèn được gọi là Phật. V́ thế, biết quán pháp Không là duyên nhân chủng (chủng tử của duyên nhân). Do quán Nhân Pháp là Không, liền biết ba loại Phật tánh. V́ thế, Đại Kinh dạy: “Chúng sanh, Phật tánh, bất tức lục pháp, bất ly lục pháp” (Chúng sanh và sáu pháp chẳng phải chính là sáu pháp, mà cũng chẳng ĺa sáu pháp). “Bất tức” là nói chánh nhân Phật tánh chẳng phải Ấm, chẳng phải Ngă. Do chẳng phải là Ấm, cho nên chẳng phải là Pháp. Do chẳng phải là ngă, cho nên chẳng phải là Nhân. Do chẳng phải là Nhân, cho nên chẳng phải Liễu. Do chẳng phải là Pháp, cho nên chẳng phải là Duyên. V́ thế nói: “Bất tức lục pháp” (Chẳng phải chính là sáu pháp).

           “Bất ly lục pháp” (Chẳng ĺa sáu pháp): Chẳng ĺa chúng sanh Khôngcó liễu nhân. Chẳng ĺa Ngũ Ấm Không có duyên nhân. V́ thế nói “bất ly lục pháp” (chẳng ĺa sáu pháp). Từ sơ phát tâm, Phật quán Nhân và Pháp đều là Không, tu ba Phật tánh (chánh nhân Phật tánh, liễu nhân Phật tánh, duyên nhân Phật tánh), trải qua các địa vị thuộc Lục Tức, thành tựu Lục Tức Nhân Pháp.

          Nay Quán Thế Âm Phổ Môn chưa phải là Nhân Pháp rốt ráo, mà là phần chứng Nhân Pháp. Một phen vấn đáp đầu tiên [trong phẩm Phổ Môn này] nhằm giải thích một phần nhân vô thượng th́ được gọi là Quán Thế Âm”. Lượt vấn đáp sau đó (tức phần hỏi về các phương tiện du hóa của Quán Thế Âm Bồ Tát), nhằm phần nào giải thích “nắm giữ pháp vô thượng th́ gọi là Phổ Môn”. Hăy nên biết nhân duyên của Nhân Pháp, cho nên gọi là phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn.

 

25.1.1.3.2. Giải thích theo Từ Bi

 

          Bi được gọi là “thương xót”, Từ là ái niệm (do yêu mến bèn nghĩ tưởng). Do thương xót nên dẹp khổ; do nghĩ nhớ nên ban vui. Nhưng chỉ khởi từ bi, tâm chẳng bền vững, cần phải phát hoằng thệ để gia tŕ cho kiên cố. Ví như thợ thuyền tạo vật, tuy các khớp mộng tương ứng, nhưng nếu chẳng gắn keo, trét sơn, sẽ có thể bị rơi rớt. Thệ nguyện như keo, khiến cho cái tâm chẳng lui sụt. Bi tâm thương xót, dẹp các khổ quả tập nhân trong thế gian, hưng khởi hai thệ nguyện, tức là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ; phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn”. Từ tâm ái niệm, muốn ban cho sự vui sướng “đạo nhân diệt quả” (Đạo là nhân, Diệt là quả) xuất thế, bèn hưng khởi hai thệ nguyện, tức là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Chỉ là đối với Nhân Pháp trong phần trước, đă nói rơ “phàm thánh bất đồng”.

          Nay biện định Từ Bi, Đại Thừa và Tiểu Thừa cũng khác. Như hành nhân phụng sự Lục Độ trong Tam Tạng, quán tám nỗi khổ thuộc Phần Đoạn sanh tử, thề độ vô biên chúng sanh. Quán Kiến Tư điên đảo kết nghiệp, thề đoạn vô tận phiền năo. Quán nhân quả ấy vô thường sanh diệt, lưu chuyển trong mỗi niệm, bèn tu đối trị, thề học vô lượng pháp môn. Quán lư vô vi nơi Chân Đế, thề thành Phật đạo vô thượng. Từ bi như thế, tức là duyên theo hữu tác Tứ Đế mà khởi.

          Nếu là hành nhân Thông Giáo, do quán tám nỗi khổ sanh tử như huyễn, như hóa, [thế mà] chúng sanh điên đảo, ngỡ là chân thật, [do vậy, hành nhân Thông Giáo] liền khởi thệ nguyện: “Độ chúng sanh như huyễn”. Tham, sân, si v.v… như huyễn, như hóa, nhưng chúng sanh điên đảo, bèn “hứng chịu khổ năo”, [do vậy, hành nhân Thông Giáo] liền dấy lên thệ nguyện: “Đoạn Hoặc như huyễn”. Quán Sắc chính là Không v́ nó như huyễn, cho đến “Thức chính là Không”, tức “tham, sân, si v.v… chính là Không v́ như huyễn”. Do chẳng diệt nên là Không. Tánh vốn tự Không, Không cũng chẳng thể được, nhưng chúng sanh chẳng thể biết rơ “chính là Không”, [cho nên hành nhân trong Thông Giáo] liền khởi thệ nguyện “học pháp môn như huyễn”. Lại quán Niết Bàn, nếu có một pháp vượt khỏi Niết Bàn, ta cũng nói là “như huyễn hóa”. Nhưng chúng sanh cho rằng “có Phật đạo để có thể cầu”, khởi ư tưởng so đo, chấp trước đối với Phật, [v́ thế, hành nhân Thông Giáo] liền khởi thệ nguyện: “Thành như huyễn giác, giác như huyễn chúng”. Từ bi như thế chính là duyên theo Vô Sanh Tứ Đế mà dấy khởi.

           Nếu là hành nhân của Biệt Giáo, quán các pháp sanh bởi nhân duyên, giả gọi là “vô lượng”. Mười pháp giới sâm la[12], hăy nên phân biệt nhằm hướng dẫn, lợi ích chúng sanh, há nên ch́m đắm trong Không, chấp vào sự chứng đắc! Quán khổ quả ấy, không phải chỉ là một thứ. Phần Đoạn và Biến Dịch đều gọi là Khổ, liền dấy lên thệ nguyện: “Độ vô lượng nỗi khổ của chúng sanh trong chín pháp giới”. Do vô lượng Tập, tức là Nhị Hoặc (Kiến Hoặc và Tư Hoặc), Ngũ Trụ, mênh mông như cát bụi, liền khởi thệ nguyện: “Độ các món Tập trong chín pháp giới”. Tập đă là vô lượng th́ cách đối trị cũng vô lượng. Đó gọi pháp môn Tam Chỉ Tam Quán, tức là khởi thệ nguyện “học trọn khắp, hành trọn khắp”. Đối trị đă vô lượng, Diệt cũng vô lượng; đó gọi là “bốn loại Niết Bàn”. Đối với sáu loại vô vi[13], liền dấy lên thệ nguyện: “Khiến cho người khác cùng chứng”. Từ bi như thế, chính là duyên theo Vô Lượng Tứ Đế mà dấy khởi!

          Nếu là hành nhân Viên Giáo, sẽ quán Chân Như Thật Tướng của hết thảy các pháp, viên dung pháp giới, chẳng trái nghịch, chẳng thuận theo, chẳng phải sáng, chẳng phải tối. Nhưng do vô minh tối tăm, cho nên trái nghịch. Hễ trái nghịch, sẽ có nhân quả Khổ Tập. Do trí huệ sáng suốt, cho nên thuận theo. Thuận theo th́ sẽ có nhân quả Đạo Diệt. Duyên theo sự trái nghịch hay tùy thuận nhân quả ấy mà dấy lên hoằng thệ: Ví như nam châm chẳng suy tưởng, cứ tùy ư hút sắt. Từ bi cũng thế, do chẳng tưởng là chúng sanh, cho nên dùng pháp tưởng, tùy ư dẹp khổ, ban vui. V́ thế, gọi là Vô Duyên Đại Từ Đại Bi. Bồ Tát từ lúc sơ phát tâm đă tu ḷng Vô Duyên Từ Bi này, trải qua các địa vị thuộc Lục Tức, gần với địa vị Cứu Cánh. Nay lần vấn đáp đầu tiên [trong phẩm này] nhằm nói rơ “đại bi dẹp khổ”. Nhất tâm xưng danh, liền được giải thoát. Lần vấn đáp sau đó chính là giải thích “đại từ ban vui, hiện thân thuyết pháp, khiến cho [tất cả chúng sanh] đều đắc độ”. Hăy nên biết: Do nhân duyên đại từ, đại bi, cho nên gọi là Quán Thế Âm Phổ Môn.

 

25.1.1.3.3. Giải thích theo phước huệ

 

          Giải thích theo phước huệ, cũng gọi là định huệ. Diệu trí tịch chiếu, không chỗ tối tăm nào chẳng [soi thấu khiến cho] sáng tỏ, như gương sáng đặt trong nhà cao. Phước đức, Thiền Định thuần hậu giúp nhau phát khởi, giống như đèn sáng, dầu sạch, cũng gọi là “mục túc” (mắt và chân). Mắt và chân đều đầy đủ, vào trong ao thanh lương. Ao chính là Niết Bàn. Niết Bàn được gọi là “hai thứ trang nghiêm, trang nghiêm Pháp Thân”. Giải thích Định Huệ th́ cũng có nhiều thứ:

          - Tam Tạng coi quán lư vô thường là huệ, coi quán luyện huân tu các thứ Sự Thiền (Thiền theo sự tướng) là phước. Dùng Định để giúp Huệ, phát khởi vô lậu chân thật, chứng chân lư tự nhiên, gọi là Pháp Thân.

          - Thông Giáo chỉ coi Thể Pháp (thấu hiểu pháp) khác với Tích Pháp (lănh hội pháp bằng cách phân tích, chia chẻ), những điều khác giống như Tam Tạng.

          - Biệt Giáo th́ nương vào tu tập trí huệ và các môn Thiền Định để giúp khai hiển Pháp Thân Trung Đạo.

          - Viên Giáo coi Thật Tướng quán trí là huệ, Thật Tướng tịch định là phước, cùng hiển lộ lư “chẳng phải Định, chẳng phải Huệ” th́ gọi là Thật Tướng Pháp Thân. Bồ Tát từ sơ phát tâm, tu môn Định Huệ bất nhị này, trải qua các địa vị thuộc Lục Tức, gần với Cứu Cánh.

          Nay phần vấn đáp trước [trong phẩm Phổ Môn chính là] trí quang chiếu sáng tối tăm, ứng theo căn cơ mà dẹp khổ. Đó chính là do huệ trang nghiêm mà đặt tên. Điều được vấn đáp trong phần sau chính là Thủ Lăng Nghiêm Định, hiện trọn khắp các sắc thân, tức là do phước trang nghiêm mà thành tên. Hăy nên biết: Do nhân duyên phước huệ, cho nên có tên là Quán Thế Âm Phổ Môn.

 

25.1.1.3.4. Giải thích theo Chân Ứng

 

          Chân là chẳng hư ngụy, chẳng lay động. Ứng là tương xứng, thích đáng với căn duyên. Nếu khế nhập lư “Thật Tướng chẳng hư ngụy, bất động”, sẽ có thể tương xứng, thích ứng với duyên mà ứng. Ví như cầm gương, hễ h́nh sắc đối trước nó, gương sẽ hiện bóng. Chân và Ứng ấy chẳng hề rời nhau. N ngoại đạo tu hữu lậu thông (thần thông hữu lậu), tuy có thể biến hóa, nhưng ví như ngói, đá, chẳng hiện bóng sáng, chẳng thể gọi là Ứng. Do chưa phá tứ trụ, chưa hiển lộ Thiên Chân, há có Viên Chân của Trung Đạo? Như tác ư thần thông của Nhị Thừa, cũng chẳng gọi là Ứng. Ví như vẽ vời, phải tác ư (dấy lên ư niệm suy tưởng) th́ mới thành, trọn chẳng thể tương tự! Do chỉ chứng Thiên Chân, thoát khỏi tam giới, chẳng thấu đạt lư Trung Đạo bất động, cho nên chẳng phải là Viên Chân, sẽ do đâu mà khởi Ứng cho được?

          Đại Thừa chẳng phải vậy! Đạt được Thật Tướng Chân, ví như có gương sáng, chẳng cần phải tác ư, h́nh tượng chân thật trong pháp giới hễ đối [trước gương, gương] sẽ liền ứng (tức hiện bóng), giống như gương sao chụp h́nh tượng vậy, chẳng khác với [h́nh tượng] chân thật [ở ngoài gương]! Như thế th́ mới chân tịch thân ứng. Bồ Tát từ sơ phát tâm, trải qua các địa vị thuộc Lục Tức, gần với Cứu Cánh. Nay phần vấn đáp trước nói rơ “chân tịch bất động”, pháp giới đạt được lợi ích chính là từ chân thân mà có tên như thế. Phần vấn đáp sau đó nói rơ Bồ Tát tùy thuận căn cơ mà tạo lợi ích rộng lớn, xuất hiện hay biến mất nhiều cách. Đấy là từ Ứng Thân mà đặt tên. Hăy nên biết: Do nhân duyên Chân Ứng, cho nên có tên là Quán Thế Âm Phổ Môn.

 

25.1.1.3.5. Giải thích theo Dược Châu

 

          Cây thuốc chúa (dược thụ vương) chữa trị bệnh khổ, [điều này] trích từ kinh Nại Nữ[14]. Như Ư Châu vương có thể mưa các thứ báu, điều này được nói rộng khắp trong các kinh. Tam Tạng, Thông Giáo, Biệt Giáo cũng đều nói rơ chuyện chữa bệnh và tuôn các báu, nhưng chữa trị chẳng trọn khắp, tuôn mưa chẳng trọn khắp. Nay xét theo Viên Giáo để nói th́ như kinh Hoa Nghiêm dạy: “Hữu thượng dược thụ, kỳ căn thâm nhập, chi diệp tứ bố. Căn, hành, chi, diệp, giai năng dũ bệnh. Kiến, văn, khứu, xúc, vô bất đắc ích. Bồ Tát diệc nhĩ, đại bi huân thân, h́nh thanh lợi vật, danh đại dược vương thân. Hựu như Như Ư Châu vương, năng vũ đại thiên trân bảo, tùy ư vô tận. Bồ Tát diệc nhĩ, đại từ huân thân, dữ chúng sanh lạc, danh Như Ư Châu vương thân” (Có cây thuốc bậc thượng, rễ nó mọc sâu, cành lá tỏa ra bốn phía. Rễ, thân, cành, lá đều có thể chữa bệnh. Thấy, nghe, ngửi, chạm, không ǵ chẳng được lợi ích. Bồ Tát cũng thế, đại bi ướp thân, h́nh tướng và âm thanh đều lợi ích chúng sanh, gọi là thân đại dược vương. Lại như Như Ư Châu vương, có thể tuôn ra thứ báu trân quư khắp cơi đại thiên, tùy ư vô tận. Bồ Tát cũng thế, đại từ ướp thân, ban cho chúng sanh vui sướng, gọi là Như Ư Châu vương thân). Đấy cũng chính là dựa theo Lục Tức để phán định địa vị.

          Nay phần vấn đáp trước [nêu tỏ] “cứu trọn khắp các thứ khổ nạn nguy ngập, u ám”, từ thân dược vương mà thành tên. Phần vấn đáp sau do xứng hợp, thích nghi với điều [chúng sanh] mong cầu, mưa pháp vũ to lớn, khiến cho họ đều được độ thoát, từ thân Như Ư Châu vương mà có tên. Hăy nên biết nhân duyên của hai thân (thân dược vương và thân như ư châu), cho nên gọi là Quán Thế Âm Phổ Môn.

 

25.1.1.3.6. Giải thích theo hai thứ lợi ích Minh và Hiển

 

          “Minh” là ngấm ngầm, kín đáo. “Hiển” là hiển lộ. Bậc đại thánh luôn dùng hai thứ lợi ích để làm lợi, an trụ hết thảy, nhưng chúng sanh và những người thuộc các địa vị thấp hằng ngày hưởng dụng [các lợi ích ấy] mà chẳng biết. Ví như mặt trời, mặt trăng chiếu soi thế gian, kẻ mù tuy chẳng thấy, nhưng thật sự đội ân sâu. Thậm chí trong cùng một địa vị, nhưng hạ phẩm chẳng biết tác dụng do thần lực của thượng phẩm. Do chẳng biết, cho nên gọi là “minh ích” (lợi ích ngấm ngầm). Hơn nữa, lợi ích của bậc thánh nhân tuy chẳng thể biết, nhưng nếu thánh nhân muốn cho [chúng sanh] hay biết, dẫu côn trùng v.v… cũng có thể biết được! Do khiến cho hay biết, nên gọi là “hiển ích”. Đây cũng là dựa theo Lục Tức để phán định địa vị.

          Nay trong phần vấn đáp đầu tiên, do chẳng thấy h́nh tượng, âm thanh, nhưng được [Bồ Tát] che chở, gia hộ sâu kín, đó chính là “minh ích” (lợi ích ngầm). Phần vấn đáp sau là do nh́n vào các thân đă biến hiện, nghe Ngài thuyết pháp, đó chính là “hiển ích” (lợi ích hiển nhiên). Hăy nên biết: Do nhân duyên ngấm ngầm hay hiển lộ, cho nên gọi là Quán Thế Âm Phổ Môn.

 

25.1.1.3.7. Giải thích theo Quyền Thật

 

          Bảy, giải thích theo Quyền Thật. Quyền là tạm sử dụng. Thật th́ chẳng phải là tạm sử dụng. Nói đại lược, Quyền Thật có ba thứ:

          - Một, tự hành Quyền Thật. Trung Quán là Thật, hai môn Quán kia (Không Quán và Giả Quán) là Quyền.

          - Hai, hóa tha Quyền Thật. Do người khác căn tánh bất đồng, hoặc nói Quyền là Thật, hoặc nói Thật là Quyền, chẳng thể phán định. Chỉ là xét theo ư người khác để nói là Quyền hay Thật đó thôi!

          - Ba, tự hành và hóa tha cùng hợp lại để luận Quyền Thật. Tự hành có Quyền và Thật, đều gom thành Thật. Hóa tha cũng có Quyền và Thật, nhưng đều gộp chung thành Quyền.

          Dùng ba ư này để trải khắp tứ giáo, lại xét theo tự hành Quyền Thật để phán định Lục Tức, như trong phần Huyền Nghĩa và phẩm Phương Tiện đă nói, có thể lănh hội ư ấy. Nay phần vấn đáp trước tiên chính là xét theo tự và tha gộp chung lại để giảng về Thật Trí lợi ích chúng sanh. Phần vấn đáp sau gộp chung tự và tha để nói về Quyền Trí lợi ích chúng sanh. Hăy nên biết: Do nhân duyên Quyền Thật, cho nên gọi là Quán Thế Âm Phổ Môn.

 

25.1.1.3.8. Giải thích theo Bổn Tích

 

          Bổn là thật sự đạt được, Tích là ứng hiện, đều có bốn câu: Bổn cao, Tích thấp; Bổn thấp, Tích cao v.v… Sự tướng chẳng phải là nhất loạt như nhau, cũng xét theo Lục Tức để phán định địa vị. Nay phần vấn đáp trước [nói rơ] chẳng thể thấy nghe, nhưng đạt được sự gia hộ ngấm ngầm. Đấy là xét theo Bổn Địa mà thành tên. Phần vấn đáp sau đó, [Bồ Tát] ứng hiện các thân h́nh sai khác, thuyết pháp độ thoát [các chúng sanh]. Đấy là từ Tích địa mà thành tên. Hăy nên biết: Do nhân duyên Bổn Tích, cho nên gọi là Quán Thế Âm Phổ Môn.

 

25.1.1.3.9. Giải thích theo duyên liễu

 

          Liễu là phát khởi hiển nhiên. Duyên là giúp đỡ, tức giúp đỡ cho Liễu, nhằm hiển lộ, phát khởi Pháp Thân. Liễu chính là Bát Nhă, c̣n gọi là Huệ Hạnh, c̣n gọi là Chánh Đạo, cũng gọi là trí huệ trang nghiêm. Duyên chính là Giải Thoát, cũng gọi là Hành Hạnh, cũng gọi là Trợ Đạo, cũng gọi là phước đức trang nghiêm. Đại Luận nói: “Một đằng có thể cày, một đằng có thể gieo. Gieo ví như duyên nhân, cày ví như liễu nhân”. Luận định chung th́ bốn giáo đều có hai nghĩa duyên và liễu. Nay nói thẳng vào cái nhân hai thứ trang nghiêm (trí huệ trang nghiêm và phước đức trang nghiêm) của Viên Giáo, Phật có đủ hai loại quả trang nghiêm. Xét đến cội nguồn của nhân quả ấy th́ căn bản chính là duyên và liễu trong Tánh Đức. Tánh Đức ấy vốn tự có, chẳng phải đến nay mới có. Đại Kinh dạy: “Nhất thiết chư pháp, bổn tánh tự không, diệc do Bồ Tát tu tập Không cố, kiến chư pháp không” (Hết thảy các pháp, tánh vốn tự không, cũng do Bồ Tát tu tập Không mà thấy các pháp là Không). Đấy chính là liễu nhân chủng tử vốn tự sẵn có. Lại nói: “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Sơ Địa vị Thiền” (Hết thảy chúng sanh đều có Thiền thuộc địa vị Sơ Địa). Kinh Tư Ích nói: “Nhất thiết chúng sanh tức Diệt Tận Định” (hết thảy chúng sanh chính là Diệt Tận Định). Đấy chính là duyên nhân chủng tử, vốn tự sẵn có. Nương vào duyên liễu chủng tử vốn tự nhiên sẵn có ấy để làm phương tiện tu tập, dần dần tăng trưởng, từ mảy may trở thành cây to cả một ôm tay. Đó gọi là Ma Ha Bát Nhă và Thủ Lăng Nghiêm Định. Khoa này chẳng luận định Lục Tức, chỉ bàn theo Tánh Đức căn bản. Nay phần vấn đáp trước là từ liễu chủng (liễu nhân chủng tử) mà đặt tên. Phần vấn đáp sau là từ duyên nhân chủng tử mà đặt tên. Hăy nên biết: Do nhân duyên của liễu nhân và duyên nhân, cho nên có tên là Quán Thế Âm Phổ Môn.

 

25.1.1.3.10. Giải thích theo Trí Đoạn

 

          Nói theo cách thông thường, Trí chính là công đức hữu vi viên măn, cũng gọi là Bồ Đề; Đoạn chính là công đức vô vi viên măn, cũng gọi là Niết Bàn. Nói “công đức hữu vi” tức theo ư nghĩa, “khi tu nhân, do trí huệ có tác dụng Chiếu mà tu thành [công đức ấy]”. V́ thế gọi là “hữu vi”. Cái nhân tuy vô thường, nhưng quả là thường. Dựa theo nhân mà đặt tên cho quả, nên nói là “công đức hữu vi viên măn”. Nói tới “công đức vô vi” tức là như Tiểu Thừa chỉ coi “diệt phiền năo chẳng c̣n” là Đoạn Đức, tức chỉ ĺa hư vọng th́ gọi là giải thoát, chứ thật ra chưa đạt được hết thảy giải thoát. Đấy chính là Vô Thể Đoạn Đức. Đại Thừa là Hữu Thể Đoạn, chẳng coi “diệt vô” là Đoạn Đức, chỉ quan tâm tới chỗ điều phục chúng sanh, ác chẳng thể nhiễm, tùy ư tự tại, chẳng bị phiền lụy trói buộc, th́ gọi là Đoạn Đức, đặt tên cho điều này là “công đức vô vi”. V́ thế, kinh Tịnh Danh (kinh Duy Ma Cật) dạy: “Bất đoạn si ái, khởi chư minh thoát” (Chẳng đoạn si ái, dấy lên sự giải thoát sáng suốt)[15]. Lại nói: “Ư chư kiến bất động, nhi tu tam thập thất phẩm, ái kiến vi thị giả, diệc danh Như Lai chủng, năi chí Ngũ Vô Gián, giai sanh giải thoát tướng, vô sở nhiễm ngại, danh vi nhất thiết giải thoát” (Bất động đối với các Kiến mà tu ba mươi bảy đạo phẩm. Ái kiến làm kẻ hầu, cũng gọi là chủng tánh Như Lai. Cho đến Ngũ Gián đều là tướng giải thoát, chẳng bị ô nhiễm, chướng ngại, th́ gọi là hết thảy giải thoát), tức là Đoạn Đức vô vi vậy.

          Tịch mà thường chiếu, tức là Trí Đức. Tiểu Thừa hôi thân diệt trí, đă chẳng có thân, lấy ǵ để nhập sanh tử ḥng bàn luận điều phục vô ngại, vô nhiễm? Đă chẳng có trí, chiếu tịch[16] ở chỗ nào? Trí Đoạn của Đại Thừa viên măn tột bậc, cho nên Pháp Thân hiển lộ, tức là ư nghĩa của ba loại Phật tánh viên măn. Pháp Thân tṛn đủ, chính là chánh nhân “chẳng phải nhân, chẳng phải quả” trọn đủ. V́ thế nói: “Ẩn th́ gọi là Như Lai Tạng, hiển th́ gọi là Pháp Thân”. Tuy chẳng phải là nhân, mà gọi là chánh nhân. Tuy chẳng phải là quả, mà gọi là Pháp Thân. Đại Kinh nói: “Phi nhân, phi quả, danh vi Phật tánh” (Chẳng phải nhân, chẳng phải quả, gọi là Phật Tánh). Đấy chính là chánh nhân Phật tánh vậy. Lại nói: “Thị nhân phi quả, danh vi Phật tánh” (là nhân mà chẳng phải là quả, th́ gọi là Phật tánh); đấy là xét theo duyên nhân và liễu nhân trong Tánh Đức, đều gọi là nhân. Lại nói: “Thị quả phi nhân, danh vi Phật tánh” (là quả chẳng phải là nhân th́ gọi là Phật tánh). Đấy là xét theo tu đắc duyên nhân và liễu nhân đều trọn vẹn. Liễu nhân viên măn th́ đổi tên thành Bát Nhă, c̣n gọi là Đại Bồ Đề Quả. Duyên nhân viên măn th́ đổi tên thành Giải Thoát, cũng gọi là Đại Niết Bàn Quả, đều được gọi là Quả. Phật tánh chung cho nhân lẫn quả, chẳng dọc, chẳng ngang. Ba cái nhân nơi Tánh Đức chẳng dọc, chẳng ngang. Khi quả viên măn th́ gọi là Tam Đức, cũng chẳng dọc, chẳng ngang. V́ thế, kinh Phổ Hiền Quán nói: “Đại Thừa nhân giả, chư pháp Thật Tướng. Đại Thừa quả giả, diệc chư pháp Thật Tướng” (cái nhân của Đại Thừa là Thật Tướng của các pháp. Cái quả của Đại Thừa cũng là Thật Tướng của các pháp). Trí Đức đă măn, vắng lặng thường chiếu, thuận theo căn cơ mà ứng, cùng lúc giải thoát. Đoạn Đức đă măn, nơi nơi điều phục, hiện thân thuyết pháp, khiến cho đều đắc độ. Nay th́ phần vấn đáp đầu tiên là v́ Trí Đức được viên măn một phần mà đặt tên. Phần vấn đáp sau là từ Đoạn Đức được viên măn một phần mà đặt tên. Hăy nên biết: Do nhân duyên của Trí Đoạn, cho nên tên là Quán Thế Âm Phổ Môn.

          Phần thứ ba, “giải thích [danh xưng của phẩm này dựa theo mười khoa mục]” đă xong.

 

25.1.1.4. Liệu giản[17]

25.1.1.4.1. Liệu giản Nhân Pháp

 

          Hỏi: Nếu đem Nhân đối ứng với ngài Quán Âm, Pháp đối ứng với Phổ Môn, th́ thời Phương Đẳng có Phổ Môn pháp vương tử, nêu ra tên người như thế là nghĩa như thế nào?

          Đáp: Điều này có hai nghĩa:

          - Một, Nhân chẳng phải là Pháp, Pháp chẳng phải là Nhân.

          - Hai, Nhân chính là Pháp, Pháp chính là Nhân.

          Nếu xét theo Hoa Nghiêm, sẽ có hai ư:

          - Một là ư nghĩa chẳng theo thứ tự. Nhân chính là Thật Tướng, Thật Tướng chính là Nhân. Nhân và Pháp chẳng hai.

          - Hai là ư nghĩa theo thứ tự. Hành nhân thuộc sanh tử trước khi chứng Sơ Địa th́ chưa phải là pháp Thật Tướng. Pháp ấy cũng chẳng phải là người đó. Nếu xét theo Hữu Môn của Tam Tạng th́ chẳng có giả nhân (người giả danh)[18], chỉ có Thật pháp. Pháp ấy chẳng phải là Nhân. Không Môn dạy dựa theo Thật pháp để thành giả nhân, cũng tức là Nhân và Pháp hai đằng khác nhau. Dẫu chẳng ĺa Nhân để luận Pháp, hoặc chẳng ĺa Pháp để luận Nhân, Tục có, Chân không, vẫn là ư nghĩa của Nhị Đế trong tam giới, chẳng phải là Nhân và Pháp theo Trung Đạo. Nếu xét theo Phương Đẳng đối chiếu với Tiểu Thừa để giảng Đại Thừa ḥng luận định Nhân Pháp, th́ Tiểu Thừa giống như Tam Tạng, Đại Thừa giống như Hoa Nghiêm. Bát Nhă và Niết Bàn cũng thế! Nay Phổ Môn Pháp Vương Tử được nói trong thời Phương Đẳng chính là theo ư nghĩa Đại Thừa, giống như trong kinh này. Phổ Môn trong kinh này là Pháp, há có Pháp mà chẳng có Nhân ư? Phổ Môn [pháp vương tử] trong Phương Đẳng là Nhân, há có Nhân mà chẳng có Pháp ư? Chỉ là Nhân và Pháp nêu bày lẫn nhau.

 

25.1.1.4.2. Liệu giản từ bi

 

          Hỏi: Nếu đại bi dẹp khổ, hễ khổ trừ th́ chính là được vui; hoặc đại từ ban vui, đạt được vui chính là dẹp khổ. Do ư nghĩa nào mà tách thành hai?

          Đáp: Luận định chung th́ đúng là như thế, nếu luận định riêng biệt th́ chẳng phải vậy. Ví như dẹp trừ tội địa ngục, chưa ban cho ngũ trần, thân [người mang tội địa ngục] tuy khỏi đau khổ, nhưng tâm t́nh chưa thể vui sướng nổi, [cho nên] chẳng gọi là “ban vui”. Lại như bố thí ngũ trần trong địa ngục, năm t́nh kiến [của tội nhân] tuy vui sướng, chẳng thể gọi là “dẹp khổ”. V́ thuận theo biệt nghĩa, nhằm nêu rơ mỗi bên, cho nên nói riêng biệt (tức là tách từ và bi làm hai phương diện).

          Lại nữa, ngoại đạo tu Tứ Vô Lượng (từ, bi, hỷ, xả), tự chứng Thiền Định, suy tưởng, vận dụng hư huyễn, chẳng có lợi ích thật sự, chẳng thể dẹp khổ, chẳng thể khiến cho người khác được vui sướng. Dẫu đắc Định, nhưng đó là pháp thế gian hư vọng; khi báo hết vẫn phải đọa, chẳng thể thoát khổ được! Ḿnh lẫn người đều chẳng có lợi ích. Nhị Thừa tu Tứ Vô Lượng, chỉ tự dẹp nỗi khổ Phần Đoạn, chẳng tránh khỏi Biến Dịch, [do vậy], chẳng phải là sự vui rốt ráo, mà cũng chẳng lợi ích kẻ khác! Bồ Tát chẳng phải vậy, chẳng phải là hạnh phàm phu, chẳng phải là hạnh hiền thánh! “Chẳng phải là phàm phu”: Chẳng giống như Thiền lạc tự thọ (tự hưởng niềm vui trong Thiền Định). “Chẳng phải là hiền thánh”: Chẳng giống tự dẹp khổ, chẳng giống như tự thọ nhận lạc, tức là ban sự vui cho người khác. Do chẳng giống như tự dẹp khổ; tức là dẹp khổ cho kẻ khác. Cũng có nghĩa “dẹp khổ chính là ban vui, ban vui chính là dẹp khổ”, chỉ là nói phân biệt đó thôi! Trước là nói “dẹp khổ”, sau là nói “ban vui”.

          Lại c̣n chỉ luận từ bi, chẳng bàn tới hỷ xả. Tứ Vô Lượng Tâm tuy danh xưng có bốn món, nghĩa chỉ có ba! Đại Kinh nói: “Ưu tất xoa: Ưu tất xoa danh Xả, tức thị lưỡng xả” (Ưu-tất-xoa (Upekṣa): Ưu-tất xoa là Xả, tức là xả hai thứ). Từ bi và chẳng từ bi có ư nghĩa “chẳng hai”, chẳng hai mà là hai, tức là từ bi. Hỷ: Do lạc mà sanh hỷ. Thoạt đầu nguyện “ban vui”, nhưng chúng sanh khổ sở nặng nề, chẳng thể đạt được lạc, cho nên chẳng thể hỷ. Đă dẹp khổ th́ sẽ liền có thể đạt được vui sướng, do thỏa nguyện ban đầu. V́ thế sẽ hỷ.

 

25.1.1.4.3. Liệu giản phước huệ

 

          Hỏi: V́ sao ngài Quán Âm đối với Huệ, hễ xưng niệm th́ là “dẹp khổ”? Phổ Môn tương ứng với phước, hễ trông thấy bèn “được vui”?

          Đáp: Huệ là quang minh, trực tiếp đối trị Hoặc tối tăm. Hoặc là sanh tử khổ năo. Muốn đối trị nỗi khổ do Hoặc tối tăm, há chẳng dùng ánh sáng trí huệ ư? V́ thế, xưng danh bậc trí huệ chính là “dẹp khổ”. Pháp là pháp môn, Môn là “có thể thông”, thông tới chỗ Niết Bàn an lạc. Thoạt đầu, tu tập pháp này tức là cái nhân để “đắc lạc”. Sau đó, chứng pháp này, tức đạt được lạc quả. V́ thế, đối với pháp Phổ Môn bèn nói là “dữ lạc” (ban vui); nhưng có trí huệ là phước đức, phước đức là trí huệ. [Và cũng] có trí huệ chẳng phải là phước đức, phước đức chẳng phải là trí huệ. Đại Thừa và Tiểu Thừa đều có đủ bốn câu:

          - Bốn câu của Tiểu Thừa: Như Lục Độ Bồ Tát tu Bát Nhă, chia Diêm Phù Đề thành bảy phần. Đấy là trí huệ thế gian, chẳng thể đoạn Hoặc, vẫn thuộc về phước đức. Đó là câu đầu tiên (tức là “vừa là trí huệ, vừa là phước đức”). Gọi phước ấy là trí để dứt tranh căi. Đó là câu thứ hai (tức “phước đức là trí huệ”). Như vị A La Hán đói bụng mà có thể đoạn Hoặc, bèn gọi là trí huệ mà chẳng phải là phước đức. Đó chính là câu thứ ba (“trí huệ chẳng phải là phước đức”). Như voi chúa trắng được thọ dụng to lớn. Đó gọi là phước đức, chẳng phải là trí huệ xuất thế, mà cũng chẳng phải là trí huệ thế gian, chẳng được gọi là trí huệ. Đó chính là câu thứ tư (“phước đức chẳng phải là trí huệ”).

          - Bốn câu của Đại Thừa: Đối với ba mươi tâm (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng) của Biệt Giáo trước khi nhập Sơ Địa, Hành Hạnh gọi là phước đức, Huệ Hạnh gọi là trí huệ. Trí huệ ấy chẳng thể phá vô minh, vẫn thuộc vào phước đức. Đó chính là câu đầu tiên. Phước ấy cũng có thể đối trị “thủ tướng Hoặc” (phiền hoặc do chấp tướng), cũng có thể gọi là “trí huệ”. Đó chính là câu thứ hai. Nếu là từ Sơ Địa trở lên th́ đều gọi là trí huệ, chẳng gọi là phước đức. Đó chính là câu thứ ba. Nếu chưa đạt tới Sơ Địa th́ đều gọi là phước đức, chẳng gọi là trí huệ. Đấy là câu thứ tư. Nay Viên Giáo nói phước chính là huệ, huệ chính là phước, phước và huệ chẳng hai. Do vậy, Đại Luận nói: “Người tôn quư, mầu nhiệm như thế sẽ có thể thấy Bát Nhă”, huệ ấy lẽ nào chẳng định? Lại nói: “Kiện tướng tam-muội có thể phá cường địch”. Định ấy lẽ nào chẳng có huệ? Chẳng hai mà là hai; v́ thế, nói phân biệt đó thôi!

 

25.1.1.4.3. Liệu giản Chân Ứng

         

          Cũng có bốn câu: “Chẳng phải Chân, chẳng phải Ứng”, “là Ứng, chẳng phải Chân”, “là Chân, chẳng phải là Ứng”, “vừa là Chân, vừa là Ứng”.

          1) “Chẳng phải Chân, chẳng phải Ứng”, xét theo Lư sẽ dễ hiểu. Lại nữa, phàm phu chẳng thấy Lư, cho nên chẳng phải Chân. Chẳng có tác dụng, cho nên chẳng phải Ứng.

          2) “Là Ứng, chẳng phải Chân”: Ngoại đạo tu đắc Ngũ Thông, biến hóa cho người khác th́ cũng gọi là Ứng, nhưng chẳng kiến đế (thấy lẽ chân thật, chẳng thấy Đạo Đế), chẳng thể gọi là Chân.

          3) “Là Chân, chẳng phải là Ứng”: Nhị Thừa đoạn kết, kiến đế, cũng được gọi là Chân. Nhưng do hôi thân diệt trí, chẳng thể khởi ứng.

          4) “Vừa là Chân, vừa là Ứng”: Đây chính là riêng hiển thị Trung Đạo là Chân. Từ ngay nơi Chân mà luận định Dụng (tác dụng) th́ là Ứng. Chân và Ứng chẳng hai, chẳng hai mà là hai. V́ thế, nương theo kinh văn cùng nêu ra. Nói chung, phần vấn đáp trước [trong phẩm Phổ Môn] nêu rơ chân thân luôn tạo lợi ích; phần vấn đáp sau đó nêu ra sự lợi ích có thời hạn nơi ứng thân, nhưng sự lợi ích thường hằng và sự lợi ích nơi ứng thân trong một khoảng thời gian đều chẳng hề tách ĺa, giống như hai con chim cùng bay. V́ thế, nói tột cùng lư th́ chân thân vừa là hằng, vừa chẳng hằng, ứng thân vừa là gián cách, vừa chẳng gián cách.

 

25.1.1.4.5. Liệu giản về dược châu

 

          Dược (thuốc) có công năng chữa bệnh, dẹp khổ, mà cũng có công dụng quư báu bảo vệ thân, tăng thọ mạng. Như Ư Châu vương không chỉ tuôn ra chất báu, mà c̣n có thể trừ bệnh. Thái tử Đại Thí[19] vào biển có được châu ấy, cầm về trị bệnh mắt cho cha mẹ. Kinh Đại Phẩm nói: “Nhược nhân nhăn thống, châu trước thân thượng, bệnh tức trừ dũ” (Nếu ai bị đau mắt, đặt châu lên thân, bệnh liền được chữa khỏi). V́ thế biết [châu hay dược thụ, mỗi thứ đều] có trọn đủ cả hai nghĩa, nay cũng chỉ là nói riêng biệt theo một bên đó thôi!


25.1.1.4.6. Liệu giản hai thứ lợi ích Minh và Hiển

 

          Có tất cả ba mươi sáu câu, chi tiết th́ như trong sách Pháp Hoa Huyền Nghĩa [đă nói].

 

25.1.1.4.7. Liệu giản Quyền Thật

 

          Cũng có bốn câu:

          - Hoặc là do Thật Trí mà giải thoát nơi Quyền, bảy nạn (nạn lửa, nạn nước, nạn La Sát v.v…) tiêu trừ; hai điều cầu nguyện (cầu sanh con trai hay sanh con gái) đều được thỏa.

          - Hoặc do Thật Trí mà giải thoát nơi Thật, tam độc đều ĺa.

          - Hoặc do Quyền Trí mà đắc độ nơi Thật, tức là do ba mươi ba thân [ứng hóa] mà [chúng sanh] đắc độ.

          - Hoặc do Quyền Trí mà đắc độ nơi Quyền, tức là trong khi sợ hăi, nạn gấp, có thể đạt được vô úy (chẳng sợ hăi).

          Hoặc là do cả hai mà độ thoát, hoặc là cả hai đều chẳng độ, chẳng thoát. Nay nương theo kinh văn mà lần lượt nêu ra một bên. Kinh văn trong phần đầu sự giải thoát theo Quyền, kinh văn trong phần sau đắc độ theo Thật.

 

25.1.1.4.8. Liệu giản Bổn Tích

 

          Luận định chung th́ Bổn và Tích đều có thể “dẹp khổ, ban vui”. V́ thế, phẩm [Như Lai] Thọ Lượng nói: “Văn Phật thọ vô lượng, đắc vô lượng vô lậu, thanh tịnh chi quả báo” (nghe Phật thọ vô lượng, đắc quả báo vô lượng, vô lậu rất thanh tịnh), tức là từ Bổn mà đắc lạc. Kinh Thỉnh Quán Âm chép: “Hoặc du hư địa ngục, đại bi đại thọ khổ” (hoặc dạo chơi trong địa ngục, đấng đại bi chịu khổ thay [cho các tội nhân]), tức là từ Tích mà dẹp khổ! Nhưng chúng sanh chẳng thấu đạt cội nguồn, cho nên lưu chuyển, khổ năo. Nếu hiểu lư nơi Bổn, liền được giải thoát khỏi khổ, chẳng thấy sự hóa hiện nơi Tích, chẳng thể gieo phước nơi ba nghiệp. Nếu thấy thân, nghe tiếng, đấy chính là cái nhân để đạt được vui sướng. V́ thế, cũng một mực nói đến. Nhưng nếu chẳng có Bổn, sẽ không có ǵ để thùy Tích; chẳng có Tích, sẽ không có ǵ để hiển lộ Bổn, tức là [Bổn và Tích] tuy hai mà chẳng hai.

          Hỏi: Bổn Tích và Chân Ứng có ǵ khác nhau?

          Đáp: Chân Ứng là biện định theo chiều ngang trong một đời, c̣n Bổn Tích là luận định theo chiều dọc suốt ba đời.

 

25.1.1.4.9. Liệu giản duyên liễu

 

          Hỏi: Trong duyên liễu đă có điều thiện thuộc Tánh Đức, vậy th́ cũng có điều ác trong Tánh Đức hay chăng?

          Đáp: Có chứ!

          Hỏi: Xiển Đề và Phật đoạn các loại thiện ác nào?

          Đáp: Xiển Đề đoạn sạch tu thiện, chỉ c̣n tánh thiện tồn tại. Phật đoạn sạch tu ác, nhưng tánh ác c̣n đó.

          Hỏi: V́ sao chẳng thể đoạn thiện và ác trong Tánh Đức?

          Đáp: Thiện ác trong tánh chỉ là pháp môn “thiện, ác”, tánh chẳng thể thay đổi, trải khắp ba đời, ai có thể hủy, cũng lại chẳng thể đoạn hoại! Ví như ma tuy thiêu kinh, há có thể khiến cho pháp môn thiện đoạn sạch ư? Giả sử Phật thiêu các sách vở dạy điều ác, cũng chẳng thể khiến cho ác pháp đoạn sạch! Như nhà Tần đốt sách, chôn Nho sĩ[20], há có thể khiến cho thiện và ác đều bị đoạn sạch ư?

          Hỏi: Xiển Đề chẳng đoạn tánh thiện (điều thiện trong chân tánh), c̣n có thể khiến cho điều thiện dấy lên. Phật đă chẳng đoạn tánh ác (điều ác trong chân tánh), cũng sẽ khiến cho tu ác dấy lên đó chăng?

          Đáp: Xiển Đề chẳng thấu đạt tánh thiện. Do chẳng thấu đạt, nên vẫn bị thiện lây nhiễm. Cho nên tu thiện (điều thiện do tu tập mà có) có thể dấy lên, rộng đối trị các điều ác. Tuy Phật chẳng đoạn tánh ác, nhưng tự tại đối với các ác, cho nên chẳng bị ác nhiễm, vĩnh viễn chẳng tu ác. Lại có thể tự tại rộng dùng các pháp môn ác để hóa độ chúng sanh. Suốt ngày sử dụng, nhưng suốt ngày chẳng nhiễm. Do chẳng nhiễm, cho nên chẳng dấy lên, há có thể dùng Xiển Đề làm lệ [để cật vấn ư?] Nếu Xiển Đề có thể thấu đạt thiện ác, sẽ chẳng gọi là Nhất Xiển Đề nữa!

 

25.1.1.4.10. Liệu giản Trí Đoạn

         

          Đấy là tên gọi khác nhau của cùng một pháp, chẳng hề tách rời. Như người bị trói, vận dụng sức lực bèn được thoát khỏi. Vận dụng sức lực là Trí, thoát khỏi trói buộc th́ gọi là Đoạn. Vận dụng sức lực thuộc về tâm; cho nên gọi là “trí huệ trang nghiêm”. Thoát khỏi trói buộc thuộc về thân, cho nên gọi là “phước đức trang nghiêm”. Kinh này chẳng nói cùng một lúc, cho nên cùng nêu lên Trí và Đoạn.

          Nếu thấu hiểu sâu xa mười ư nghĩa này, hễ hiểu được một điều th́ ngàn điều sẽ thuận theo. Giải thích cặn kẽ Quán Thế Âm Phổ Môn th́ ư nghĩa chẳng thể cùng tận. Phần thứ nhất là “giải thích chung” đă xong.

         

25.1.2. Biệt thích (tách ra để giải thích ư nghĩa của Quán Thế Âm Phổ Môn)

25.1.2.1. Giải thích danh xưng Quán Thế Âm

         

          Do nhân duyên ǵ mà tên là Quán Thế Âm? Giải thích chung th́ như trong phần trên. Giải thích riêng biệt th́ là do nhân duyên cảnh và trí, cho nên tên là Quán Thế Âm. Cảnh và trí cũng có hai: Một là cảnh trí có thể nghĩ bàn, hai là cảnh trí chẳng thể nghĩ bàn!

 

25.1.2.1.1. Cảnh trí có thể nghĩ bàn

 

          Cảnh trí có thể nghĩ bàn lại chia thành hai: Một, xét ngoài lư, hai là xét trong lư.

 

25.1.2.1.1.1. Cảnh trí ở ngoài lư

 

          Cảnh trí ở ngoài lư lại có tất cả bốn câu: Một là cảnh trí tự nhiên. Hai là cảnh trí đối đăi. Ba là cảnh trí nhân duyên. Bốn là cảnh trí dứt bặt đối đăi.

          1) Cảnh trí tự nhiên: Cảnh tự là cảnh, tánh của nó thường hằng. Trí tự là trí, tánh của nó cũng thường hằng, chẳng do Phật, trời, hay người tạo tác. V́ thế gọi là “tự nhiên”. Đó chính là câu “các pháp tự sanh”.

          2) Cảnh trí đối đăi: Cảnh chẳng tự là cảnh, do đối ứng với trí cho nên có cảnh. Trí chẳng tự là trí, do đối ứng với cảnh cho nên là trí. V́ thế, gọi là “đối đăi”, tức là “chư pháp tha sanh” (các pháp do các nhân khác mà sanh).

          3) Cảnh trí nhân duyên: Không chỉ do cảnh mà có cảnh, cũng chẳng phải chỉ do trí cho nên có cảnh. Do cảnh làm nhân, trí làm duyên, cho nên có cảnh. Chẳng phải do trí nên có trí, cũng chẳng phải chỉ do cảnh cho nên có trí. Do trí làm nhân, cảnh làm duyên, cho nên có trí. V́ thế gọi là nhân duyên, tức là câu “các pháp cộng sanh”.

          4) Cảnh trí dứt bặt đối đăi: Chẳng do cảnh mà có cảnh, chẳng do trí mà có cảnh, chẳng do trí và cảnh làm nhân duyên ḥa hợp mà có cảnh th́ gọi là “cảnh dứt bặt đối đăi”. Chẳng do trí mà có trí, chẳng do cảnh mà có trí, chẳng do trí và cảnh làm nhân duyên ḥa hợp mà có trí th́ gọi là “trí dứt bặt đối đăi”. Đó chính là câu “các pháp do không có nhân mà sanh”.

          Nay sẽ theo thứ tự để phá. Nếu cảnh tự là cảnh, sẽ chẳng nên bị trí chiếu. Nếu trí tự là trí, sẽ chẳng nên chiếu cảnh. Nay cảnh đă được chiếu bởi trí, tức là cảnh chẳng tự là cảnh. Trí có thể chiếu cảnh, tức trí chẳng phải tự là trí. Sao lại hư vọng so đo là [cảnh trí] tự nhiên vậy?

          Nếu do đối đăi với trí mà có cảnh th́ cảnh sanh từ trí, cảnh đáng lẽ phải gọi trí, sao lại gọi là cảnh? Như người chỉ nên gọi là người, chẳng nên gọi là gỗ, đá v.v… Lại nữa, nếu cảnh sanh từ trí, khi không có trí, cũng chẳng nên có cảnh! Lại nữa, nếu cảnh sanh từ trí, vậy th́ trí lại sanh từ đâu? [Kiến chấp] “do đối đăi cảnh nên có trí” cũng bị phá giống như thế. Sao lại so đo là [cảnh trí] đối đăi?

          Nếu cảnh làm nhân do trí làm duyên mà có cảnh, th́ sẽ là trong cảnh đă có cảnh; cho nên mới nhờ vào trí làm duyên [để cảnh phát khởi]. Nếu trong cảnh chẳng có cảnh, nhưng nhờ vào trí làm duyên [để có cảnh], tức là trong trí phải có cảnh, thế nhưng [do đă nói] “nhờ vào cảnh làm nhân”, tức là trong trí chẳng có cảnh! [Đă nói] “nhờ vào cảnh làm nhân”, nếu trong cảnh [vốn sẵn] có cảnh, sẽ chẳng cần phải nhờ vào trí [làm duyên] th́ mới có cảnh! Nếu trong trí [đă sẵn] có cảnh, sẽ chẳng cần phải nhờ vào cảnh [làm nhân] th́ mới có [cảnh; tức là kiến chấp “cảnh làm nhân, trí làm duyên, cho nên có cảnh” đă hoàn toàn bị phá].

          Lại nữa, nếu như mỗi đằng đều có, nhưng vẫn phải nương nhờ vào nhau [để phát khởi], trong một thời phải nên có hai cảnh! Nếu trong cảnh chẳng có cảnh, dẫu nhờ vào trí [làm duyên], cũng chẳng nên có cảnh! Nếu trong trí chẳng có cảnh, dẫu nương nhờ cảnh [làm nhân], cũng chẳng nên có cảnh! Ví như một hạt cát chẳng có dầu, tuy gộp nhiều hạt cát lại, cũng chẳng thể sanh ra dầu được! Một kẻ mù chẳng thấy, tuy tập hợp nhiều kẻ mù lại, vẫn chẳng thể thấy! [Tương tự, kiến chấp] “trí làm nhân, cảnh làm duyên, cho nên có trí” cũng bị phá giống như thế. Sao lại so đo hư vọng [cảnh trí] là nhân duyên ư?

          Nếu [chấp rằng] “chẳng do cảnh cho nên có cảnh” v.v… th́ xét theo nhân duyên c̣n chẳng thể được, huống hồ chẳng có nhân duyên mà có thể gọi là cảnh ư? Trí cũng giống như thế. Một mực nói là “dứt bặt”, nhưng xét theo Lư đến cùng tận, sẽ chẳng trở thành dứt bặt đối đăi, v́ c̣n nói là “cảnh có hoặc không có nhân duyên”, cũng như do nói “trí có hoặc không có nhân duyên”, sao lại c̣n so đo hư vọng là “dứt bặt đối đăi” vậy?

          Những thứ ấy đều là tâm hạnh ở ngoài lư, mà vọng tưởng suy đoán, hư luận phân biệt, rốt cuộc chẳng có thật nghĩa. V́ thế, Trung Luận nói: “Các pháp chẳng tự sanh, cũng chẳng từ thứ khác mà sanh, cũng chẳng cùng nhau sanh, cũng chẳng phải là không có nhân”. V́ thế biết là vô sanh, sao lại có bốn thứ chấp trước như vừa nêu trên đây? Hễ chấp vào một thứ, tự cho là thật, sẽ nói những thứ khác là hư vọng. Do kiến ái (Kiến Tư Hoặc) bèn sanh chấp trước, mê nơi Tứ Đế, tám mươi tám Sử, mênh mông chẳng ngằn mé, cho nên mới chuốc vời khổ quả, lưu chuyển chẳng thôi! Tuy dẫn kèm theo kinh luận, dẫn chứng văn tự, [vẫn là] như trùng ăn gỗ, ngẫu nhiên tạo thành chữ, thật sự chẳng thể hiểu đó là chữ hay chẳng phải là chữ. Do chẳng hiểu, bèn từ cảnh và trí sanh khởi kiến chấp, như uống cam lộ mà bị tổn hại mạng, chết yểu. V́ thế gọi là cảnh và trí ở ngoài lư, bị ngài Long Thọ đả phá. Nay chẳng lấy những điều ấy làm cảnh trí để giải thích danh xưng Quán Thế Âm!

 

25.1.2.1.1.2. Cảnh trí ở trong lư

 

          Đối với cảnh trí có thể nghĩ bàn ở trong lư, cũng lập thành bốn môn như trên, danh xưng tuy giống nhau, nhưng quán trí thuần thục, chẳng sanh chấp kiến. Do đă hoàn tất, cho nên chẳng tạo cái mới nhằm thành tựu phương tiện đạo, phát sanh Noăn, Đảnh, cho đến mười sáu thứ tâm nhăn trí minh giác. Rỗng rang đắc ngộ, phá các Kiến Hoặc, tương ứng với Lư. Ví như kẻ mù được kim vàng[21] nạo bỏ màng mộng, [mắt sáng trông thấy] rành rành chẳng sai. Chân Quán ấy được gọi là Trí. Cái lư được chiếu [bởi trí ấy] th́ gọi là cảnh. Do phát khởi vô lậu, cho nên gọi là “cảnh trí ở trong lư”. Tuy thấy lư ấy, rốt cuộc là tác ư để nhập Chân. V́ thế gọi là “cảnh trí có thể nghĩ bàn”. Nay nói đến Quán Thế Âm, cũng chẳng do cảnh trí nhân duyên ấy mà đặt tên.

 

25.1.2.1.2. Cảnh trí chẳng thể nghĩ bàn

 

          Cảnh trí tuy chẳng phải là “tự, tha, cộng, vô nhân”, nhưng dùng Tứ Tất Đàn ứng theo duyên để nói thành giả danh tự, hoặc nói “cảnh tự là cảnh”, “trí tự là trí”, khiến cho kẻ khác hoan hỷ, sanh thiện, diệt ác, nhập lư. Hoặc nói “do trí nên có cảnh”, “do cảnh nên có trí”, hoặc nói “cảnh trí nhân duyên”, hoặc nói “cảnh trí dứt bặt đối đăi”, khiến cho đạt được bốn thứ lợi ích cũng giống như thế. Nếu chẳng có lợi ích Tứ Tất Đàn, chư Phật Như Lai sẽ chẳng nói pháp suông! Tuy nói thành bốn thuyết (tức các thuyết về cảnh trí như “cảnh tự là cảnh, trí tự là trí”, “do cảnh nên có trí, do trí nên có cảnh” v.v…), chẳng sanh bốn món chấp trước đối với tánh. Do chẳng chấp, cho nên chẳng có kiến ái. Chúng sanh nghe xong, giống như ngựa giỏi thấy bóng roi, liền có thể phá Hoặc, nhập đạo. V́ thế gọi là Trí. Cái được trí ấy chiếu soi th́ gọi là Cảnh. Nếu dùng trí chiếu cảnh, nhập Không, coi đó là chứng, sẽ trở thành cảnh trí có thể nghĩ bàn ở trong lư thuộc Chân Đế như đă nói trong phần trước. Nếu chẳng coi Không là chứng, biết cảnh trí ấy chỉ có danh tự, gọi đó là Cảnh Trí th́ danh tự ấy chẳng ở trong, ngoài, hay chặng giữa. Chẳng trụ vào danh tự ấy, mà cũng chẳng không trụ. Do danh tự ấy vô sở hữu, tuy lập ra bốn câu để giảng giải cảnh trí, thật sự chẳng phân biệt bốn câu cảnh trí! Tuy lập ra bốn câu cảnh trí, thật sự chẳng thể có bốn câu cảnh trí. Tuy thấu đạt bốn câu cảnh trí, thật sự chẳng thể dùng bốn câu để suy lường cảnh trí. Ngôn ngữ dứt bặt, tâm hạnh xứ diệt, chẳng thể dùng bốn câu để tư duy, ḍ lường. V́ thế gọi là “cảnh trí chẳng thể nghĩ bàn”. Kinh Kim Quang Minh nói “bất tư nghị trí chiếu bất tư nghị cảnh” (trí chẳng thể nghĩ bàn chiếu cảnh chẳng thể nghĩ bàn). Huyền nghĩa như thế được giảng cặn kẽ trong phần Cảnh Diệu và Trí Diệu [của sách Pháp Hoa Huyền Nghĩa].

          Nay nói Quán th́ chính là trí chẳng thể nghĩ bàn. Nói Thế Âm chính là cảnh chẳng thể nghĩ bàn. Nếu xét theo văn từ, hăy nên giải thích Trí trước; kế đó giải thích Cảnh. Nếu xét theo nghĩa, cần phải giảng rơ cảnh Thế Âm trước rồi mới luận bàn Quán Trí. “Thế” có ba thứ:

          - Một là Ngũ Ấm thế gian.

          - Hai là chúng sanh thế gian.

          - Ba là quốc độ thế gian.

          Đă có Thật pháp, tức là có giả nhân. Giả và Thật hợp thành chánh báo, liền có y báo. V́ thế, gọi là ba loại thế gian. “Thế” có nghĩa là “cách biệt”, tức là thế gian gồm mười pháp giới, cũng là mười loại Ngũ Ấm, mười loại giả danh, mười thứ y báo cách biệt khác nhau. V́ vậy gọi là Thế. “Gian” có nghĩa là “sai khác”. Ba mươi thứ Thế[22] sai biệt, chẳng lầm loạn. Do đó gọi là Gian. Nói đến mười pháp giới, mỗi giới đều có nhân, mỗi giới đều có quả. V́ thế gọi là “pháp”. Mỗi pháp giới đều có giới hạn rạch ṛi, cho nên gọi là Giới. Nay xét ra, mỗi pháp giới lại có mười pháp (Thập Như Thị), tức là Tướng, Tánh, Thể, Lực, Tác, Nhân, Duyên, Quả, Báo, Bổn Mạt Cứu Cánh như thế. [Do vậy], mười pháp giới bèn có một trăm pháp. Mười giới dung hội lẫn nhau, bèn có một trăm pháp. Mười giới lại phối ứng lẫn nhau, bèn có một ngàn pháp. Một ngàn pháp như thế đều là các pháp sanh bởi nhân duyên. Lục đạo mê hoặc đối với các pháp nhân duyên, tứ thánh th́ hiểu các pháp nhân duyên. Do đó, Đại Kinh nói: “Vô lậu diệc hữu nhân duyên. Nhân diệt vô minh, tắc đắc xí nhiên Tam Bồ Đề đăng” (Vô lậu cũng có nhân duyên. Do diệt vô minh bèn đạt được đèn Chánh Giác rạng ngời). Bản thể của các pháp sanh bởi nhân duyên ấy chính là Tam Đế (Không, Giả, Trung). Do đó, Trung Luận nói: “Pháp sanh bởi nhân duyên, ta nói chính là Không, cũng gọi là giả danh, cũng là nghĩa Trung Đạo”. V́ thế, nêu ra mười loại pháp giới, ba mươi loại thế gian, tức là cảnh được quán.

          Cảnh ấy lại gồm có hai, tức là tự và tha. “Tha” tức là chúng sanh và Phật. “Tự” có đủ ngay trong tâm. Như kinh Hoa Nghiêm nói: “Tâm như công họa sư, tạo chủng chủng Ngũ Ấm. Nhất thiết chư thế gian, mạc bất do tâm tạo” (Tâm như thợ vẽ khéo, tạo các thứ Ngũ Ấm. Hết thảy các thế gian, không ǵ chẳng tâm tạo). Lại nói: “Như tâm Phật diệc nhiên. Như Phật chúng sanh nhiên. Tâm Phật cập chúng sanh. Thị tam vô sai biệt” (như tâm, Phật cũng thế. Như Phật, chúng sanh đồng. Tâm, Phật, và chúng sanh, cả ba chẳng sai khác). V́ thế, nêu ra bất cứ một niệm tâm nào, cũng đều trọn đủ ba ngàn tánh tướng[23] trong ba mươi loại thế gian. Nêu ra bất cứ Phật pháp nào, cũng đều trọn đủ ba ngàn tánh tướng của ba mươi loại thế gian. Nêu ra bất cứ một pháp chúng sanh nào, cũng liền trọn đủ ba ngàn tánh tướng trong ba mươi loại thế gian. Hăy nên biết: Dù tự hay tha, mỗi mỗi không ǵ chẳng phải là diệu cảnh Tam Đế chẳng thể nghĩ bàn!

          “Âm” tức là căn cơ thuộc khẩu nghiệp trong mười pháp giới. Pháp giới đă bất đồng, âm cũng sai khác. Phát âm thành tiếng, tức là đầy đủ ba nghiệp. Dùng ba nghiệp ấy để làm cơ cảm. Quy kết cái cảnh “thế âm” ấy, phải nên có sáu loại:

          - Một, quy kết mười pháp giới là cảnh nhân duyên.

          - Hai, quy kết thành cảnh Tứ Đế.

          - Ba, quy kết thành cảnh Tam Đế.

          - Bốn, quy kết thành cảnh Nhị Đế.

          - Năm, quy kết thành cảnh Nhất Thật Đế.

          - Sáu, quy kết thành cảnh Vô Đế.

          Nói cặn kẽ th́ như trong sách Huyền Nghĩa đă giảng.

          Kế đó, nói về quán trí. Kèm theo cảnh để nói về trí, bèn có năm lượt luận định về Quán. Nếu xét theo nhân duyên bèn luận định bốn loại Quán. Nếu xét theo Tứ Đế, cũng là bốn loại Quán. Nếu xét theo Tam Đế, sẽ có hai loại Quán. Nếu xét theo Nhị Đế, sẽ có bảy loại Quán. Nếu xét theo Nhất Thật Đế, chỉ có một loại Quán. Nếu Vô Đế th́ chẳng có Quán. Những điều này cũng được nói cặn kẽ trong sách Huyền Nghĩa.

          Nay lại xét theo mười pháp giới để nói về hai loại Tam Đế: Một là Thông, hai là Biệt. Luận theo Thông, th́ mười pháp giới đều là pháp sanh bởi nhân duyên, chẳng giới nào không phải là “tức Không, tức Giả, tức Trung”. Không là Chân Đế, Giả là Tục Đế, Trung là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế. Biệt luận th́ sáu phàm giới (nhân, thiên, A Tu La…) là pháp sanh bởi nhân duyên. Nhị Thừa giới là Không, Bồ Tát giới là Giả, Phật giới là Trung. Cảnh Đế đă có hai ư là Thông và Biệt.

          Đối cảnh nói đến Quán, cũng có hai ư: Một là Thứ Đệ Tam Quán, hai là Nhất Tâm Tam Quán. Thứ Đệ là như kinh An Lạc dạy: “Tùng Giả nhập Không, danh Nhị Đế Quán. Tùng Không nhập Giả, danh B́nh Đẳng Quán” (từ Giả nhập Không, gọi là Nhị Đế Quán. Từ Không nhập Giả, gọi là B́nh Đẳng Quán). Hai phép Quán làm phương tiện để nhập Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Quán. Ba món Quán ấy chính là Tam Trí được nói trong kinh Đại Phẩm [Bát Nhă]: Một là Nhất Thiết Trí, hai là Đạo Chủng Trí, ba là Nhất Thiết Chủng Trí.

          Luận định chung th́ Quán và Trí chỉ là một pháp, nhưng có tên gọi khác nhau. Luận định riêng th́ khi tu nhân gọi là Quán, khi đắc quả th́ gọi là Trí. Đại Kinh nêu ra mười hai nhân duyên, có bốn loại Quán, tức hạ trí, trung trí, thượng trí, và thượng thượng trí. Tích Không là hạ, tức Tạng Giáo. Thể Không là Trung, tức Thông Giáo. Từ Không nhập Giả là thượng, tức Biệt Giáo. Trung Đạo chánh quán là thượng thượng, tức Viên Giáo.

          Hăy nên biết Tích Quán và Thể Quán đều thuộc về Nhất Thiết Trí. Nếu đem Tam Trí và Tứ Quán phối ứng với Ngũ Nhăn th́:

          - Nhục nhăn và thiên nhăn chiếu chuyện thô hay tế, đều là Thế Trí, đều là cái gốc của các quán cảnh.

          - Huệ nhăn đối ứng với Không Quán, thuộc về Nhất Thiết Trí.

          - Pháp nhăn đối ứng Giả Quán, thuộc về Đạo Chủng Trí.

          - Phật nhăn đối ứng với Trung Quán, thuộc Nhất Thiết Chủng Trí.

          Câu kệ “nhân duyên sở sanh pháp” (pháp sanh bởi nhân duyên) trong Trung Luận chính là cái gốc của Quán Trí. Ba câu sau đó, theo thứ tự đối ứng với Tam Trí.

          Nếu đối ứng với tứ giáo th́ câu đầu tiên đối ứng với Tạng Giáo. Ba câu sau theo thứ tự đối ứng với Thông, Biệt, Viên. V́ thế, hễ đối ứng với tứ giáo, nếu chẳng có giáo, sẽ chẳng có Quán. Nương theo giáo để tu Quán, sẽ thành tựu trí. V́ thế, cần phải nói rơ giáo. Giáo ắt phải có chủ, “chủ” chính là Phật. Hoặc có thể là một vị Phật nói tứ giáo, hoặc có thể là thị hiện bốn tướng để nói bốn loại Phật, tức là phải có bốn loại Bổ Xứ Bồ Tát nhằm phù tá Phật hoằng truyền bốn giáo ấy. Hoặc là nói “tướng tịch diệt của các pháp, chẳng thể dùng ngôn ngữ để diễn tả, th́ sanh sanh[24] c̣n chẳng thể nói, huống hồ sanh bất sanh” v.v… ư? Hoặc nói “do có nhân duyên nên cũng có thể nói” th́ không chỉ sanh sanh có thể nói, mà cho đến bất sanh bất sanh cũng có thể nói! Dùng cửa Phật giáo để thoát khỏi nỗi khổ sanh tử, chớ nên một mực chấp trước “vô thuyết”!

          Bậc Bổ Xứ trong Tam Tạng giáo th́ trăm kiếp gieo nhân nơi tướng hảo, chế phục Hoặc, chứ chưa đoạn được, chỉ có thể đạt tới Nhẫn Vị của Thanh Văn. Chỉ v́ hạnh Lục Độ thành tựu, thệ nguyện sắp măn, từ bi huân chúng sanh, cũng có thể dẹp khổ, ban vui, tức là xét theo Thế Trí thuộc các pháp sanh bởi nhân duyên. [Vị Bổ Xứ trong Tạng Giáo này] quán âm thanh trong lục đạo thế gian, cho nên gọi là Quán Thế Âm.

          Bậc Bổ Xứ trong Thông Giáo quán Chân, đoạn kết sử, chẳng trụ vào Không. Từ Không xuất Giả, Đạo và Quán cùng lưu xuất, du hư thần thông, thanh tịnh quốc độ của Phật, tức là dùng Thể Không Nhất Thiết Trí để quán âm thanh của lục đạo thế gian, bèn gọi là Quán Thế Âm.

          Bậc Bổ Xứ của Biệt Giáo, Thập Trụ đoạn Kiến Tư Hoặc, thành Nhất Thiết Trí. Thập Hạnh th́ dùng tứ môn của tứ giáo để quán Giả, đoạn Trần Sa Hoặc, thành tựu Đạo Chủng Trí. Thập Hồi Hướng tu tập Trung Quán, chế phục vô minh. Sơ Địa đoạn một phần vô minh, thành tựu một phần Nhất Thiết Chủng Trí. Sau khi đă đắc Thập Địa, vô minh sắp hết, quán đảnh thọ chức[25], đại từ, đại bi huân khắp pháp giới, hễ có cơ cảm đều có thể “dẹp khổ, ban vui”, tức là dùng Thứ Đệ Tam Trí để quán âm thanh của mười pháp giới thế gian, cho nên gọi là Quán Thế Âm.

          Bậc Bổ Xứ của Viên Giáo từ sơ phát tâm chánh quán Trung Đạo, biết rơ ba ngàn tánh tướng của chúng sanh trong mười pháp giới như h́nh tượng trong gương, như vầng trăng trong nước, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng thể nói là Có, chẳng thể nói là Không, rốt ráo chẳng thật, nhưng lư Tam Đế rành rành trọn đủ, chẳng trước, chẳng sau, ở trong nhất tâm, chính là một mà luận định là ba, tuy là ba mà luận một. Quán Trí đă là như thế, Đế lư cũng thế. Một Đế chính là Tam Đế, Tam Đế chính là một Đế, tức là từ trong sơ tâm quán trọn hết thảy các Phật pháp thuộc Tam Đế.

          Vô Duyên Từ Bi ở trong nhất tâm, tu trọn vạn hạnh các Ba La Mật, nhập địa vị Thập Tín, đă có thể vĩnh viễn giă biệt khổ luân trong tam giới, tứ trụ rơi rụng trước, sáu căn thanh tịnh, được gọi là Tương Tự Giải. Tấn nhập sơ tâm của Thập Trụ, liền phá vô minh, khai phát Thật Tướng, đắc “một thân là vô lượng thân” của Như Lai, lặng lẽ ứng với hết thảy, trọn đủ Tam Trí. Từ sự thọ dụng thù thắng mà đặt tên, chỉ gọi là Nhất Thiết Chủng Trí. Trọn đủ ngũ nhăn, từ sự thọ dụng thù thắng mà đặt tên, chỉ gọi là Phật nhăn. V́ thế nói là “khai Phật tri kiến”. Công đức của Sơ Trụ đă chẳng thể trọn hết, huống hồ Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, huống hồ bậc Đẳng Giác ư? Nếu có thể hiểu như thế, sẽ gọi là Nhân Pháp của Viên Giáo.

          Xét theo Vô Tác Tứ Đế, khởi Vô Duyên Từ Bi, tu Định Huệ bất nhị, thành tựu hai thân Chân và Ứng, thật sự trọn khắp pháp giới. Dược Châu (dược thụ vương và Như Ư Châu) ứng trọn khắp hết thảy, ngang hay dọc đều thích ứng căn cơ, hai thứ lợi ích ngấm ngầm và rơ rệt, dùng bảo tạng Kim Cang Bát Nhă chẳng khuyết để dẹp trừ các nỗi khổ vi tế thuộc hai loại sanh tử. Dùng Thủ Lăng Nghiêm pháp giới kiện tướng [tam-muội] và tam điểm Niết Bàn đại tự tại lạc, được gọi là “nhất tâm tam trí chẳng thể nghĩ bàn” để quán âm thanh chẳng thể nghĩ bàn thuộc nhất cảnh Tam Đế trong mười pháp giới, th́ gọi là Quán Thế Âm.

          Hỏi: Đă quán chúng sanh “chẳng phải có, chẳng phải không”, cớ sao hành từ bi?

          Đáp: Nếu chẳng hiểu rơ Trung Đạo, sẽ chẳng biết “chẳng phải Quyền, chẳng phải Thật”. Nếu không biết “chẳng phải Quyền, chẳng phải Thật” th́ cũng chính là “vô Quyền, vô Thật”. Nếu vô Quyền, vô Thật, sẽ chẳng có bốn phen nhân quả. Nếu hiểu rơ Trung Đạo th́ Quyền và Thật cùng chiếu. Nếu Quyền và Thật cùng chiếu, sẽ có ba loại nhân quả thế gian và xuất thế gian thuộc Quyền Tứ Đế, và cũng có nhân quả thế gian và xuất thế gian thuộc Nhất Thật Vô Tác Tứ Đế, rành rành trọn đủ trong một niệm tâm. V́ lẽ nào vậy? Dùng Thật Tướng huệ để giác liễu các pháp “chẳng phải không, chẳng phải có” th́ gọi là Phật Bảo. Lư pháp tánh được giác ấy trọn đủ Tam Đế th́ chính là Pháp Bảo. Giác huệ như thế ḥa hợp cùng Lư Sự, gọi là Tăng Bảo.

          “Sự ḥa (ḥa hợp theo phương diện sự tướng) liền có thánh hiền tăng thuộc ba giáo trước (Tạng, Thông, Biệt). “Lư ḥa” bèn có hiền thánh tăng thuộc bốn mươi hai địa vị trong Viên Giáo. V́ thế, Đại Kinh dùng chuyện mặt trăng tăng hay giảm để sánh ví Trí Đức và Đoạn Đức. Trăng trước ngày Rằm, ví như trí quang (quang minh trí huệ) dần dần tăng trưởng, tức là Trí Đức. Quang minh sau Rằm ví như vầng trăng khuyết, dần dần giảm bớt, tức là Đoạn Đức. Bản thể của trăng vốn chẳng có tṛn, khuyết, tướng sáng cũng chẳng có vơi đầy. Thể chẳng thiên lệch hay toàn vẹn ví như Thật Tướng. Ánh sáng có vơi đầy ví như Trí Đoạn. Trí quang tăng thêm, tức là các pháp chẳng sanh mà sanh Bát Nhă. Đoạn quang giảm thiểu, tức các pháp chẳng diệt mà phiền năo diệt. Tăng giảm như thế, hằng ngày đều có. Trí Đoạn như thế, chốn chốn đều đủ. Như trong ngày Rằm, Thể tṛn vẹn, ánh sáng trọn đủ, nhưng trăng chẳng tṛn hơn, ánh sáng chẳng mạnh hơn. Điều này ví như Lư Trung Đạo tột cùng, trí Bồ Đề viên măn. V́ thế nói: “Bất sanh bất diệt gọi là Đại Niết Bàn”.

           Nếu là ngày Ba Mươi, thể tận, quang diệt, rốt ráo chẳng c̣n sót ǵ. Điều này ví như vô minh đă trừ hết, tà vạy, điên đảo vĩnh viễn trừ diệt, chẳng có Hoặc để có thể đoạn. V́ thế nói: “Bất diệt bất diệt gọi là Đại Niết Bàn”. Nói về Trí Đoạn của Tăng Bảo như thế, đều là xét theo pháp Trung Đạo Nhất Thật Tướng, hết thảy nhân quả chẳng bị phá hoại, mất mát. Nếu chẳng hiểu “Trung Đạo chẳng phải Không, chẳng phải Giả”, chỉ chấp trước đoạn, thường v.v… th́ chính là phá nhân quả thế gian và xuất thế gian thuộc Sanh Diệt Tứ Đế, phá Tam Bảo thuộc Tam Tạng Giáo. Nếu chỉ nói “vô thường sanh diệt” th́ chính là phá Vô Sanh Tứ Đế và Tam Bảo của Thông Giáo. Nếu chỉ nói “thấu hiểu Chân Đế chẳng sanh, chẳng diệt” tức là phá Vô Lượng Tứ Đế và Tam Bảo của Biệt Giáo. Nếu chỉ nói theo thứ tự hiển lộ chẳng phải Không chẳng phải Hữu, th́ cũng là phá Vô Tác Tứ Đế và Nhất Thể Tam Bảo của Viên Giáo. Truyền dạy lẫn nhau, người phá hoại, đánh mất điều trước th́ nhiều, kẻ phá hoại đánh mất điều sau th́ ít. Nếu nay hiểu ư Viên Giáo, sẽ là hết thảy đều chẳng bị phá hoại, mất mát.

          Hỏi: Nếu viên tu Thật Tướng th́ nhất pháp Tam Đế, nhất tâm tam quán trọn đủ các pháp, cũng phải nên là một giáo diễn tả trọn đủ bốn giáo. [Vậy th́] chỉ cần nói Viên Giáo là đủ rồi, cần ǵ phải phân biệt bốn giáo như trên đây?

          Đáp: Một giáo nói trọn vẹn hết thảy các pháp th́ chỉ thích đáng cho người lợi căn, c̣n tứ giáo sai biệt nhằm tương ứng kẻ độn căn. Nếu chẳng do phân biệt theo thứ tự, sẽ do đâu để có thể hiểu viên đốn? Dùng Biệt để hiển Viên; v́ thế, trước hết nói bốn giáo. Chẳng hạn như muốn nói rơ Nhất Tâm Tam Quán, trước hết bèn giảng rơ Thứ Đệ Tam Quán. Tuy nói các thứ đạo, thật ra là Nhất Thừa. Nếu có chúng sanh chẳng tin nhận, sẽ được chỉ dạy, đạt lợi ích, hoan hỷ trong các pháp sâu xa khác của Như Lai. “Các pháp khác” chính là ba giáo trước. Đă nhập Phật huệ, phương tiện sẽ tự dứt. V́ thế nói: “Duy thử nhất sự thật, dư nhị tắc phi chân” (chỉ có một sự thật này, hai thứ khác chẳng thật). V́ thế biết: Chỉ một giáo pháp viên đốn, Nhất Thiết Chủng Trí, Trung Đạo chánh quán. Chỉ có điều ấy là Quán Thế Âm nơi Thật, các điều khác đều là nói phương tiện.

          Xét theo Bổn tích, kinh Thiên Thủ Thiên Nhăn Đại Bi nói: “Thử Bồ Tát bất khả tư nghị oai thần chi lực. Ư quá khứ vô lượng kiếp tiền, dĩ tác Phật cánh, hiệu Chánh Pháp Minh Như Lai. Đại bi nguyện lực, an lạc chúng sanh, hiện tác Bồ Tát” (Vị Bồ Tát này có sức oai thần chẳng thể nghĩ bàn. Vô lượng kiếp trong thuở quá khứ trước kia, Ngài đă thành Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Do đại bi nguyện lực, an lạc chúng sanh, bèn hiện làm Bồ Tát). Kinh Quán Âm Tam Muội lại nói: “Tiên dĩ thành Phật, hiệu Chánh Pháp Minh Như Lai, Thích Ca vi bỉ Phật tác khổ hạnh đệ tử” (Trước kia, Ngài đă thành Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Phật Thích Ca làm đệ tử khổ hạnh của đức Phật đó). Kinh Bi Hoa chép: “Quá khứ Bảo Tạng Phật thời, Chuyển Luân vương đệ nhất thái tử, tam nguyệt cúng Phật cập tỳ-kheo tăng, phát Bồ Đề tâm. Nhược hữu chúng sanh, thọ tam đồ đẳng nhất thiết khổ năo, nhược năng niệm ngă, xưng ngă danh tự, vi ngă thiên nhăn, thiên nhĩ văn kiến, bất miễn khổ giả, ngă chung bất thành Vô Thượng Bồ Đề. Bảo Tạng Phật ngôn: - Nhữ quán nhất thiết chúng sanh, dục đoạn chúng khổ. Cố kim tự nhữ vi Quán Thế Âm” (Trong quá khứ, thời Bảo Tạng Phật, Thái Tử thứ nhất của vua Chuyển Luân trong ba tháng cúng Phật và tỳ-kheo tăng, phát Bồ Đề tâm, [phát thệ rằng]: “Nếu có chúng sanh hứng chịu hết thảy các khổ năo như tam đồ v.v... mà nếu có thể niệm ta, xưng danh tự của ta, được ngàn mắt ngàn tay của ta thấy nghe mà chẳng khỏi khổ, ta trọn chẳng thành Vô Thượng Bồ Đề”. Phật Bảo Tạng bảo: “Ông quán hết thảy chúng sanh, muốn đoạn các nỗi khổ. Nay ta đặt tên cho ông là Quán Thế Âm”). Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm, [trong phần Nhĩ Căn Viên Thông] có nói: “Ngă niệm văng tích vô lượng vô số hằng hà sa kiếp, hữu Phật xuất thế, danh Quán Thế Âm. Ngă ư bỉ Phật phát Bồ Đề tâm. Bỉ Phật giáo ngă tùng Văn, Tư, Tu, nhập tam-ma-địa. Sơ ư văn trung, nhập lưu vong sở, năi chí hốt nhiên siêu việt thế xuất thế gian, hoạch nhị thù thắng: Nhất giả, thượng hợp thập phương chư Phật, dữ Phật Như Lai đồng nhất từ lực. Nhị giả, hạ hợp thập phương nhất thiết chúng sanh, dữ chư chúng sanh đồng nhất bi ngưỡng, đắc thành tam thập nhị ứng, thập tứ vô úy, tứ bất tư nghị vô tác diệu đức. Bỉ Phật thán ngă thiện đắc Viên Thông pháp môn, ư đại hội trung, thọ kư ngă vi Quán Thế Âm hiệu. Do ngă quán thính thập phương viên minh, cố Quán Âm danh, biến thập phương giới” (Con nhớ trong vô lượng vô số hằng hà sa kiếp xưa kia, có Phật xuất thế, tên là Quán Thế Âm. Con phát tâm Bồ Đề nơi đức Phật ấy. Đức Phật ấy dạy con từ Văn, Tư, Tu nhập tam-ma-địa. Thoạt đầu, từ cái Nghe, tiến nhập gịng tâm thức, quên đi cái được nghe (trần cảnh), cho đến bỗng dưng siêu việt thế gian và xuất thế gian, đạt được hai thứ thù thắng: Một là trên hợp với mười phương chư Phật, có cùng một từ lực với Phật Như Lai. Hai là dưới th́ hợp với hết thảy chúng sanh trong mười phương, cùng với các chúng sanh cùng một niềm bi ngưỡng, đạt được ba mươi hai ứng thân, mười bốn vô úy, bốn món vô tác diệu đức chẳng thể nghĩ bàn. Đức Phật ấy khen ngợi con khéo đạt được pháp môn Viên Thông, bèn ở trong đại hội, thọ kư cho con hiệu là Quán Thế Âm. Do con xem xét, nghe mười phương viên minh, cho nên danh hiệu Quán Thế Âm trọn khắp mười phương cơi). Kinh Quán Thế Âm Đắc Đại Thế Nhị Bồ Tát Thọ Kư chép: “Thứ A Di Đà Phật hậu, đương thành Chánh Giác, danh Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai” (kế đó, sau A Di Đà Phật, [Quán Thế Âm Bồ Tát] sẽ thành Chánh Giác, hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai). Bổn Tích như thế khó thể suy lường để biết được!

          Giải thích theo quán tâm:

          - Quán tâm được sanh bởi nhân duyên, đó là Quán Thế Âm trong Tam Tạng.

          - Quán tâm chính là Không, đó là Quán Thế Âm trong Thông Giáo.

          - Quán tâm chính là Giả, tức là Quán Thế Âm trong Biệt Giáo.

          - Quán tâm tức Trung, đó là Quán Thế Âm trong Viên Giáo.

          Lại chỉ trong một tâm niệm nhỏ bé hiện tiền ấy, dẫu hôn mê, điên đảo, lầm lạc, nhưng Kiến Phần có thể duyên, bản thể của nó không ǵ chẳng phải là Nhất Tâm Tam Quán. Bản thể của Tướng Phần được duyên [bởi Kiến Phần], không ǵ chẳng phải là nhất cảnh Tam Đế. Tuy bản thể của chúng đều là diệu trí, diệu cảnh, cảnh và trí chẳng hai; nhưng chúng sanh hằng ngày sử dụng mà chẳng biết, oan uổng hứng chịu luân hồi! Tuy luân hồi, Tánh Đức chẳng giảm. Đó là Lư Tức Quán Thế Âm.

          Nếu nghe mà có thể hiểu, sẽ chẳng ở ngoài tâm để riêng hỏi Phật pháp và chúng sanh pháp. Đấy chính là Danh Tự Tức Quán Thế Âm.

          Nếu đúng như điều đă hiểu để tu Chỉ Quán, chế phục trọn vẹn ngũ trụ, đó là Quán Hạnh Tức Quán Thế Âm.

          Nếu sức Chỉ Quán mạnh mẽ, thô cấu rơi rụng trước, sáu căn thanh tịnh, sẽ là Tương Tự Tức Quán Thế Âm.

          Nếu phát khởi chân vô lậu giải thuộc Trung Đạo, khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật, sẽ là Phần Chứng Tức Quán Thế Âm.

          Nếu viên măn Bồ Đề, trở về vô sở đắc, rốt ráo thấu hiểu trọn hết Thật Tướng của cơi tam thiên. Đó chính là Cứu Cánh Tức Quán Thế Âm.

 

25.1.2.2. Giải thích từ ngữ Phổ Môn

 

          Kế đó, giải thích Phổ Môn, lại có hai ư:

          - Một, giải thích Môn theo cách nói thông thường.

          - Hai, xét theo mười nghĩa để giải thích.

 

25.1.2.2.1. Giải thích theo đường lối thông thường

 

          Trong phần giải thích theo cách nói thông thường, lại có bốn ư:

          - Một, liệt kê đại lược danh xưng của Môn.

          - Hai, chỉ bày tướng trạng của Môn.

          - Ba, nêu bày Quyền Thật.

          - Bốn, luận định phổ và chẳng phổ.

 

25.1.2.2.1.1. Liệt kê đại lược danh xưng của Môn

 

          Như cửa trong thế gian thông tới chỗ ở dù sang hay hèn. Kẻ phàm phu kém hèn dùng Thập Ác Ngũ Nghịch làm cửa để thông tới tam đồ. Kẻ thanh khiết hướng thượng dùng Ngũ Giới, Thập Thiện, Tứ Thiền, Tứ Định làm cửa để thông tới nhân thiên. Ngoại đạo dùng Đoạn, Thường làm Môn để thông tới Hoặc khổ! Ái (Tư Hoặc) dùng bốn thứ điên đảo làm Môn, Kiến (Kiến Hoặc) dùng bốn câu làm Môn. Thiện ác tuy khác, nhưng nói tóm lại, đều là cửa dẫn tới hữu lậu thế gian, thông tới sanh tử.

          Nếu nương vào pháp luân của Phật để làm môn, cũng lại rất nhiều:

          - Bốn môn của Tam Tạng thông tới hữu dư và vô dư Niết Bàn.

          - Bốn môn của Thông Giáo, gần th́ thông tới hóa thành, xa th́ thông tới thường trụ.

          - Bốn môn của Biệt Giáo dần dần thông tới thường trụ.

          - Bốn môn của Viên Giáo nhanh chóng thông tới thường trụ.

          Đó chính là bốn lần bốn thành mười sáu giáo môn. Lại có mười sáu quán môn, hợp thành ba mươi hai, đều là ư nghĩa “có thể thông”, chi tiết th́ như trong sách Huyền Nghĩa đă nói.

 

25.1.2.2.1.2. Nêu bày tướng trạng của Môn

 

          Bốn môn trong Tam Tạng (Tạng Giáo), tức A Tỳ Đàm (Abhidharma) là Hữu môn, Thành Thật Luận[26] là Không môn, Côn Lặc[27] là diệc Hữu diệc Không môn (môn vừa Có vừa Không), Xa Nặc[28] là phi Không phi Hữu môn, mỗi mỗi rộng nêu hành pháp để phán định địa vị hiền thánh, do môn thông tới Lư.

          Bốn môn của Thông Giáo tức là Hữu như huyễn, Không như huyễn, cũng có cũng không, chẳng phải có chẳng phải không, cũng là mỗi mỗi đều dựa theo hành tướng để phán định địa vị hiền thánh do môn thông tới Lư.

          Bốn môn của Biệt Giáo tức là: Quán Phật tánh như nhà tối, b́nh, bồn, tức là Hữu môn. Quán Phật tánh như hư không, thành Ca Tỳ La trống rỗng, tức là Vô môn. Quán Phật tánh như vàng trong quặng đá, người có phước đạt được của báu, kẻ có tội thấy là đá. Đó là môn “cũng có, cũng không”. Quán Phật tánh ĺa nhị biên, tức môn “chẳng có, chẳng không” thuộc Trung Đạo. Mỗi mỗi dùng làm hành tướng để phán định địa vị do Môn thông tới Lư.

          Bốn môn của Viên Giáo có danh xưng chẳng sai khác Biệt Giáo, nhưng một môn chính là ba môn, ba môn chính là một môn, chẳng phải một, chẳng phải bốn, không có trải khắp hay riêng biệt sai khác, viên dung chẳng phải bốn môn mà là bốn môn. Mỗi mỗi đều là tướng trạng để phán định hạnh vị chẳng thể nghĩ bàn, cũng do Môn mà thông tới Lư.

 

25.1.2.2.1.3. Nói về Quyền Thật

         

          Hai giáo Tạng và Thông, dù giáo hay quán, tổng cộng mười sáu môn, cái có thể thông (năng thông) và cái được thông (sở thông) hoàn toàn là Quyền. Trong tám môn[29] giáo và quán của Biệt Giáo th́ năng thông là Quyền, sở thông là Thật. Trong tám môn giáo quán của Viên Giáo, năng thông và sở thông đều là Thật.

 

25.1.2.2.1.4. Nói về phổ và chẳng phổ

 

           Các môn Kiến, Ái v.v… của phàm phu và ngoại đạo c̣n chẳng thể dẫn đến thoát khỏi tam giới, huống hồ là Phổ ư? Hai giáo Tạng và Thông chỉ thông tới hóa thành, cũng chẳng phải là Phổ! Biệt Giáo dần dần thông, cũng chẳng phải là ư nghĩa Phổ. Chỉ có giáo và quán của Viên Giáo là pháp môn Thật Tướng, có thể trọn khắp một ngàn tánh tướng Tam Đế của mười pháp giới, cùng lúc viên thông, viên thông Trung Đạo, cùng chiếu hai Đế. V́ thế, gọi là Phổ Môn.

          Phần giải thích Môn theo cách nói thông thường đă xong.

 

25.1.2.2.2. Dựa theo mười nghĩa để giải thích Phổ Môn

 

          Lư tột cùng chẳng thuộc về pháp số, do ứng với duyên ḥng lợi lạc chúng sanh mà lập ra một, hai tên, hoặc nhiều đến vô lượng, rộng hay lược (tức một, hai tên hay vô lượng tên) đều thích đáng. Nay ở đây, nêu ra đại lược mười nghĩa: Một là từ bi phổ, hai là hoằng thệ phổ, ba là tu hành phổ, bốn là đoạn Hoặc phổ, năm là nhập pháp môn phổ, sáu là thần thông phổ, bảy là phương tiện phổ, tám là thuyết pháp phổ, chín là cúng dường chư Phật phổ, mười là thành tựu chúng sanh phổ.

          Phổ Môn theo đường lối chung như trong phần trên là xét theo pháp, c̣n mười môn Phổ ở đây đều dựa trên sự tu hành phước đức trang nghiêm. Năm môn đầu (từ bi, hoằng thệ, tu hành, đoạn Hoặc, nhập pháp môn) là tự hành, ba môn kế tiếp (thần thông, phương tiện, thuyết pháp) là hóa độ người khác, hai môn sau cùng (cúng dường chư Phật và thành tựu chúng sanh) nhằm kết lại hai ư trên đây. Trong phần tự hành, bốn môn đầu (từ bi, hoằng thệ, tu hành, đoạn Hoặc) là tu nhân, môn thứ năm (nhập pháp môn) nói về quả. Tu nhân lại gồm hai phần: Hai môn đầu (từ bi và hoằng thệ) là nguyện, môn ba và bốn (tu hành và đoạn Hoặc) là hạnh.

          Luận về sự sanh khởi chung [theo thứ tự của mười món Phổ ấy], Bồ Tát thấy hết thảy chúng sanh khổ năo, dấy ḷng đại từ bi. Cái tâm ấy tuy chưa phải là Bồ Đề tâm, nhưng có thể sanh khởi Bồ Đề tâm. Ví như địa và thủy tuy chưa phải là chủng tử, nhưng có thể khiến cho [hạt giống] nẩy mầm. Nay do đại bi bèn khởi Bồ Đề tâm cũng giống như thế.

          Kế đó là thệ nguyện. Nếu chỉ từ bi, thường là phần nhiều bị thoái đọa. V́ thế nói: “Ngư tử, Am La hoa, Bồ Tát sơ phát tâm, tam sự nhân trung đa, cập kỳ thành tựu thiểu” (cá con, hoa xoài, Bồ Tát sơ phát tâm. Ba chuyện ấy nơi nhân th́ nhiều, nhưng thành tựu th́ ít) do bất định vậy. Cần phải khởi thệ nguyện, mong quyết đạt được, để duy tŕ cái tâm ấy, khiến cho Bồ Đề kiên cố.

          Tiếp đó là tu hành. Nếu chỉ phát nguyện, chưa lợi ích người khác, như chẳng có tài lực lẫn quyền mưu, sẽ chẳng thể dẹp nạn. Bồ Tát cũng thế, cần phải có “của cải” phước đức, sức thần thông, và mưu lược trí huệ, th́ mới có thể giáo hóa, hướng dẫn. V́ thế, cần phải tu hành để bồi đắp cho nguyện, tức là phương tiện đạo.

          Kế đó là đoạn Hoặc, tức vô ngại đạo.

          Kế đó, nhập pháp môn, tức là giải thoát đạo.

          Đấy chính là thứ tự trong tự hành.

          Kế đến là thần thông v.v… [trong Thập Phổ]. Nếu muốn hóa độ người khác, cần phải chỉ bày tam luân: Thần thông là thân luân, phương tiện là ư luân, thuyết pháp là khẩu luân. Trước hết, dùng Định để đả động; sau đó, dùng Huệ để dẹp trừ [phiền năo, mê hoặc]. Đó chính là thứ tự trong việc hóa độ người khác,

          Kế đó, cúng dường chư Phật nhằm kết lại sự tự hành. Tùy thuận tu hành chính là Pháp Cúng Dường chân thật, là cao quư nhất trong các sự cúng dường. Do đó, Đại Kinh nói: “Nhữ tùy ngă ngữ, tức cúng dường Phật” (Ông tùy thuận lời ta th́ chính là cúng dường Phật). Vâng theo giáo mà hành chính là kết lại sự tự hành. Thành tựu chúng sanh chính là kết lại sự hóa tha (hóa độ người khác). Bồ Tát nhập các pháp môn, thanh tịnh cơi Phật, đều v́ lợi ích hết thảy chúng sanh.

 

25.1.2.2.2.1. Từ bi phổ

 

          Giải thích [Thập Phổ, khởi đầu bằng Từ Bi Phổ]: Khởi đầu từ nhân thiên cho đến [hàng Bồ Tát đă] nhập Sơ Địa đều có từ bi. Nói kiểu ấy chính là Thông (nói chung, nói tổng quát), [từ bi] chẳng ra ngoài [ba loại là] chúng sanh duyên, pháp duyên, và vô duyên. Nếu xét theo thứ tự của ba ḷng Từ th́ khi duyên chúng sanh, do giả danh sai biệt của chúng sanh khác nhau, do nhân quả khổ hay lạc sai khác, vẫn chẳng thể nhập pháp duyên từ, sao có thể gọi là Phổ? Nếu là pháp duyên từ, th́ vô nhân, vô ngă, vô chúng sanh. Từ Giả nhập Không, c̣n chẳng đạt được các giả danh, hà huống là Phổ? Nếu là vô duyên từ th́ chẳng duyên theo giả danh trong hai mươi lăm Hữu (tam giới), chẳng duyên theo pháp Niết Bàn của Nhị Thừa. Tuy chẳng duyên theo, nhưng có thể cùng chiếu cả Không lẫn Giả. Dựa theo đó mà dấy ḷng Từ th́ gọi là Vô Duyên Từ. Tâm thông Tam Đế, bèn gọi là Phổ. Nếu xét theo nhất tâm viên diệu, ba ḷng Từ chẳng phải vậy. [Phân tích cặn kẽ như sau]:

 

25.1.2.2.2.1.1. Chúng Sanh Duyên Từ Bi Phổ

 

          Như chúng sanh duyên từ bi (ḷng từ bi do thấy có chúng sanh để dẹp khổ, ban vui), nếu quán giả danh của chúng sanh trong một pháp giới, sẽ chẳng thể gọi là Phổ. Nay quán giả danh của chúng sanh trong mười pháp giới, mỗi pháp giới đều có [mười món Như Thị là] tướng, tánh, bổn mạt cứu cánh v.v… của mười pháp giới. Mười pháp giới đối ứng lẫn nhau, bèn có “bách giới, thiên như”[30] rành rành trọn đủ ở trong một niệm tâm. Ví như mặt người có đủ các tướng cát, hung, kẻ b́nh phàm chẳng biết, nhưng thầy coi tướng khéo biết. Một tâm của chúng sanh trọn đủ tánh và tướng của bách giới thiên như cũng giống như thế. Phàm phu điên đảo, lư trọn đủ, nhưng mê t́nh; thánh nhân hay biết, giống như thầy tướng biết ngàn loại tánh tướng ấy đều là các pháp sanh bởi nhân duyên. Nếu là pháp sanh bởi nhân duyên ác, sẽ chính là tánh, tướng khổ cho đến bổn mạt khổ. Do họ chưa giải thoát, do quán nỗi khổ ấy, cho nên [Bồ Tát] dấy ḷng đại bi. Nếu là pháp sanh bởi thiện nhân duyên, sẽ có tướng, tánh của lạc cho đến bổn mạt của lạc. Do họ chưa chứng đắc, cho nên quán điều này mà [Bồ Tát] khởi ḷng đại từ. Nói chi tiết th́ như trong sách Huyền Nghĩa đă giải thích cặn kẽ tánh, tướng v.v… của mười pháp giới. Bồ Tát quán sâu xa ngàn loại tánh tướng của chúng sanh trong mười pháp giới đều trọn đủ trong nhất tâm, t́m kiếm cội nguồn xa xôi, soi chiếu điều ác và điều thiện nơi Tánh Đức, c̣n tự lănh hội phân minh; huống hồ chẳng chiếu tỏ thiện ác do tu đắc ư? Như thấy Tuyết sơn có dược vương, mà cũng có cỏ độc. Do quán sự ác độc trong Tánh Đức, sẽ động ḷng xót thương, dấy tâm đại bi, muốn dẹp trừ nỗi khổ ấy. Do quán sự thiện lạc trong Tánh Đức, bèn ái niệm hoan hỷ, khởi tâm đại từ, mong ban cho họ sự vui. Mười pháp giới ấy thâu nhiếp hết thảy chúng sanh chẳng c̣n sót. Duyên theo giả danh của các chúng sanh ấy mà tu từ bi, há chẳng phải là Chúng Sanh Duyên Từ Bi Phổ ư?

          Hỏi: Nỗi khổ nặng nề trong địa ngục chưa dẹp trừ, ban vui bằng cách nào?

          Đáp: Khi chúng sanh vào địa ngục, phần nhiều khởi ba niệm, Bồ Tát thừa dịp [cứu độ]; đấy chính là cái nhân ban vui. V́ thế nói là “ban vui”. Lại nữa, Bồ Tát có thể đại bi chịu khổ thay [cho các tội nhân trong địa ngục], khiến cho họ được ngơi nghỉ. Chín nỗi khổ kia (tức nỗi khổ trong chín pháp giới ngoài địa ngục giới) c̣n nhẹ; ư nghĩa “ban vui” dễ hiểu.

 

25.1.2.2.2.1.2. Pháp Duyên Từ Bi Phổ

 

          Kế đó, nói đến Pháp Duyên Từ Bi Phổ. Quán tánh tướng của mười pháp giới, hết thảy thiện ác đều là hư không, mười pháp giới là giả danh. Giả danh th́ đều là Không. Đối với Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức trong mười pháp giới th́ Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều là Không. Xứ sở trong mười pháp giới, xứ sở đều là Không. Vô ngă, vô ngă sở, đều chẳng thể được, như huyễn, như hóa, chẳng có chân thật, tướng thường tịch diệt, rốt ráo quy vào Không. Cớ sao chúng sanh cưỡng chấp là thật, chẳng hay, chẳng biết, bị khổ, bị năo, chẳng đạt được niềm vui vô vi tịch diệt? Nay muốn dẹp nỗi khổ y, khởi đại bi; do muốn ban cho [chúng sanh] niềm vui ấy, bèn dấy ḷng đại từ. V́ thế, kinh Tịnh Danh nói: “Năng vị chúng sanh thuyết như thử pháp, tức chân thật từ dă” (Có thể v́ chúng sanh nói pháp như thế th́ chính là ḷng từ chân thật). Nếu duyên theo pháp của một pháp giới để khởi ḷng từ bi, sẽ chẳng thể gọi là Phổ! Nay duyên theo pháp của mười pháp giới, há chẳng phải là Phổ ư?

 

25.1.2.2.2.1.3. Vô Duyên Từ Bi Phổ

 

          Nếu duyên theo giả danh sai biệt của tánh, tướng v.v… trong mười pháp giới, th́ cái giả ấy chẳng phải là giả; mười pháp giới như huyễn, như hóa, Không chẳng phải là Không. Do chẳng phải là Giả, cho nên chẳng duyên theo tánh tướng của mười pháp giới. Do chẳng phải là Không, cho nên chẳng duyên theo Chân trong mười pháp. Đă ngăn che hai bên (Không và Giả), chẳng trụ, chẳng chấp, cho nên gọi là Trung Đạo, mà cũng chẳng có Trung để có thể duyên theo, rốt ráo thanh tịnh. Khi quán như thế, tuy chẳng duyên theo Không và Giả, tùy ư cùng chiếu hai bên (Không và Giả), dấy lên Vô Duyên Từ Bi, dẹp trừ hai thứ tử khổ (Phần Đoạn và Biến Dịch), ban cho niềm vui Trung Đạo như nam châm hút sắt, chẳng có ai dạy bảo mà tự nhiên tương ứng. Vô Duyên Từ Bi thu hút căn cơ Tam Đế chẳng hề sai sót, chẳng cần phải dấy lên ư niệm. Hành giả thoạt đầu từ địa vị phàm phu, do tu ḷng từ bi ấy, liền nhập Vô Duyên Từ Bi thuộc Ngũ Phẩm Quán Hạnh, tiến nhập Tương Tự Vô Duyên Từ Bi của Thập Tín. Kế đó, nhập Thập Trụ th́ mới là phần chứng Vô Duyên Từ Bi. Cho đến Đẳng Giác, gần với địa vị từ bi tột cùng, phổ huân chúng sanh, bất động mà ứng, như gương sáng hiện h́nh bóng, như nam châm hút sắt, Tam Đế trọn đủ. V́ thế, gọi là Phổ, do thông tới Trung Đạo. Do đó, gọi là Môn.

 

25.1.2.2.2.2. Hoằng thệ phổ

 

          “Hoằng thệ”: Hoằng () là rộng lớn, Thệ là chế ngự. Nguyện là mong cầu, tức chế ngự cái tâm để rộng cầu pháp thù thắng. V́ thế gọi là Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Hoằng thệ vốn thành tựu từ bi, từ bi đă duyên theo khổ lạc, [cho nên] Hoằng Thệ cũng xét theo Tứ Đế. Nếu thấy Khổ Đế bức bách, tàn độc, đau xót, bèn nương theo đó dấy lên thệ nguyện. V́ thế nói “kẻ chưa độ sẽ khiến cho được độ”. Nếu thấy Tập Đế điên đảo, bị mê hoặc trói buộc, sẽ duyên theo đó dấy lên thệ nguyện. V́ thế nói “sẽ khiến cho người chưa giải được giải”, hành thanh tịnh đạo, có thể thoát khỏi sanh tử, đạt tới địa vị an lạc. Chúng sanh chẳng biết, muốn dạy cho chúng sanh trụ yên nơi đạo ấy. V́ thế nói “kẻ chưa an sẽ khiến cho được an”. Phiền năo diệt mất, sự trói buộc của tử quả[31] bị cắt đứt, th́ gọi là Niết Bàn. Chúng sanh chưa chứng, duyên theo đó để dấy lên thệ nguyện. V́ thế nói “kẻ chưa đắc Niết Bàn, sẽ khiến cho đắc Niết Bàn”. Cái nhân sanh tử khó biết, khổ quả dễ biết. V́ thế, [trong khi dạy bảo nhân quả, phải nói theo thứ tự] “trước là quả, sau là nhân. Diệu lư Niết Bàn cần phải có phương tiện thiện. V́ thế, [cần phải nói theo thứ tự] “trước là nhân, sau là quả. Tứ Đế như thế chẳng ra ngoài nhất tâm. Do mê tâm mà dấy nghiệp, hễ có nghiệp liền cảm quả. Muốn biết cội nguồn của quả, th́ quả chỉ do Tập. Chế phục cái tâm, dứt nghiệp, tức là sanh tử luân hư hoại. Điều phục phiền năo th́ gọi là Đạo. Tu hành chẳng lười nhác, khổ nhẫn sẽ sáng tỏ, dấy khởi, tử quả đều đoạn, th́ gọi là Diệt. Tuy có bốn thứ sai khác (tức Khổ, Tập, Diệt, Đạo), rốt cuộc là một niệm, chẳng có pháp nào khác. Tứ Đế đă là như thế, hoằng thệ cũng thế. Chỉ là do phàm phu chán ngán dưới, nắm níu trên, bèn duyên theo đó mà lập thệ. Hễ chưa thấu đạt Tứ Đế, sẽ chẳng gọi là Phổ.

          Tạng Giáo và Thông Giáo chỉ thấy Phần Đoạn Tứ Đế, cũng chẳng gọi là Phổ. Biệt Giáo trước hết dựa theo Phần Đoạn rồi mới đến Biến Dịch, đấy cũng chẳng gọi là Phổ. Viên Giáo Bồ Tát trong nhất tâm, biết trọn khắp hết thảy Khổ, Tập, Diệt, Đạo. “Biết trọn khắp Tập”: Kiến ái của phàm phu là hữu tác Tập. Nhị Thừa chấp Không, tức là vô tác Tập. V́ thế, kinh Tịnh Danh nói: “Pháp danh vô nhiễm. Nhược nhiễm ư pháp, thị danh nhiễm pháp, phi cầu pháp dă” (Pháp là vô nhiễm. Nếu nhiễm nơi pháp th́ gọi là nhiễm pháp, chẳng phải là cầu pháp). Lại nói: “Kết tập vị tận, hoa tắc trước thân” (Chưa sạch hết kết sử, tập khí th́ hoa dính nơi thân)[32], tức là Biến Dịch Hoặc (chấp trước đối với Biến Dịch sanh tử) hoàn toàn chưa trừ. Đại Kinh nói: “Nhữ chư tỳ-kheo, ư thử Đại Thừa, vị vi chánh pháp trừ chư kết sử, tức Vô Tác Tập dă. Năi chí thuận đạo pháp ái sanh, diệc thị Vô Tác Tập dă” (Tỳ-kheo các ông đối với Đại Thừa này, chưa v́ chánh pháp trừ các kết sử, th́ chính là Vô Tác Tập. Cho đến thuận đạo pháp ái sanh cũng là Vô Tác Tập).

          “Biết trọn khắp Khổ”: Do có Tập, cho nên có thể chuốc khổ. Hữu Tác Tập chuốc vời nỗi khổ Phần Đoạn; Vô Tác Tập chuốc vời nỗi khổ Biến Dịch. V́ thế, Đạo Đế trong tam giới chính là Tập Đế ở ngoài tam giới.

          “Biết trọn khắp Đạo Diệt nhằm đối trị Khổ Tập”: Ngũ Giới của nhân thiên, Thập Thiện, Tứ Thiền, Tứ Định, bất động, bất xuất. Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên của Tạng Giáo và Thông Giáo thông tới hai loại Niết Bàn hữu dư và vô dư. Biệt Giáo trải qua các địa vị thuộc Biệt, thông tới thường trụ. Nhưng chẳng thể trong một đạo mà có vô lượng đạo; [do vậy], chẳng thể gọi là Phổ Đạo. Trung Đạo của Viên Giáo chính là Thật Tướng. Kinh Phổ Hiền Quán nói: “Đại Thừa nhân giả, chư pháp Thật Tướng” (cái nhân của Đại Thừa là Thật Tướng của các pháp). Tu Đạo như thế th́ gọi là “viên nhân” (cái nhân viên măn), cho nên gọi là Phổ Đạo. Đạt được Niết Bàn chính là rốt ráo thường trụ. Hết thảy các phiền năo vĩnh viễn chẳng c̣n thừa sót, ví như kiếp hỏa chẳng c̣n ǵ thừa sót. Kinh Phổ Hiền Quán nói: “Đại Thừa quả giả, chư pháp Thật Tướng” (Quả của Đại Thừa là Thật Tướng của các pháp). Chứng Diệt như thế th́ gọi là “viên quả”. V́ thế gọi là Phổ Diệt. Quán Tứ Đế đă trọn vẹn, duyên theo Đế để dấy lên thệ nguyện, lẽ nào chẳng trọn khắp? V́ thế nói là Hoằng Thệ Phổ.

 

25.1.2.2.2.3. Tu hành phổ

 

          “Tu hành”: Theo thứ tự [tu tập] năm hạnh th́ chẳng phải là Phổ. Nhất tâm [tu tập đồng thời] năm hạnh th́ mới gọi là Phổ, cặn kẽ th́ như đă nói trong phần Hạnh Diệu của sách Huyền Nghĩa.

 

25.1.2.2.2.4. Đoạn Hoặc phổ

 

          “Đoạn Hoặc”: Nếu từ Giả nhập Không, chỉ đoạn Tứ Trụ, hoa vẫn dính nơi thân, chưa v́ chánh pháp trừ các kết sử, chỉ ĺa hư vọng, chưa đạt được hết thảy các giải thoát. Cho nên chẳng gọi là Phổ. Nếu từ Không nhập Giả, chỉ trừ Trần Sa, chẳng nương theo căn bản để đoạn, cũng chẳng gọi là Phổ. Nếu Không và Giả chẳng hai, chánh quán Trung Đạo, cội rễ đă nghiêng, cành, lá tự rụng. Như đại địa bị che phủ, thảo mộc đều nát. V́ thế gọi là Đoạn Hoặc Phổ.

 

25.1.2.2.2.5. Nhập pháp môn phổ

 

          “Nhập pháp môn”: Như Nhị Thừa nhập một pháp môn, chẳng thể nhập hai môn, huống hồ nhiều môn! Nếu tu khắp cách hạnh riêng biệt, giai vị sẽ sâu hay cạn sai khác, cũng chẳng gọi là Phổ. Nếu nhập vương tam-muội, hết thảy tam-muội đều nhập vào đó. Ví như vua đi đến đâu, ắt có quần thần đi theo. Quần thần lại có kẻ hầu cận. Vương tam-muội cũng giống như thế. Nhất Đế tam-muội chính là Tam Đế tam-muội. Tam Đế tam-muội lại có vô lượng pháp môn làm quyến thuộc, cũng đều nhập vào trong vương tam-muội. V́ thế gọi là “nhập pháp môn phổ”.

 

25.1.2.2.2.6. Thần thông phổ

 

          “Thần thông”: La Hán thấy đại thiên (một tam thiên đại thiên thế giới), Sơ Địa thấy một trăm cơi (một trăm cơi tam thiên đại thiên), Nhị Địa thấy một ngàn cơi v.v… đều là thần thông có hạn lượng, cho nên chẳng gọi là Phổ. V́ lẽ nào vậy? Đă duyên theo cảnh hạn hẹp, phát khởi thần thông cũng nhỏ nhoi. Nay Viên Giáo Bồ Tát duyên trọn khắp cảnh của mười pháp giới, phát khởi thần thông thấy trọn khắp mười pháp giới chẳng có cực hạn. Tam thừa c̣n chẳng biết tên gọi, huống hồ thấy các cảnh giới ấy! Mắt thấy đă là như vậy, các điều khác cũng có thể suy ra để biết.

 

25.1.2.2.2.7. Phương tiện phổ

 

          Phương tiện”: Có tiến hành phương tiện, tức là đạo tiền tự hành phương tiện (phương tiện để chính ḿnh tu hành trước khi đắc quả), có khởi dụng phương tiện (phương tiện để phát khởi công dụng) tức là đạo hậu hóa tha phương tiện (phương tiện hóa độ người khác sau khi đă đắc đạo quả). Nay nói về đạo hậu hóa tha phương tiện. Nếu là tự hành phương tiện của Nhị Thừa và Bồ Tát thuộc các địa vị quyền biến th́ chỉ có thể nhập một pháp môn. Do đó, khởi tác dụng hóa độ người khác chỉ có thể ngang bằng với những ǵ chính ḿnh đă đạt được. [Bởi lẽ đó], đạo tiền hay đạo hậu [của Nhị Thừa và Quyền vị Bồ Tát] đều chẳng được gọi là Phổ. Nay Viên Giáo Bồ Tát dùng Nhị Đế làm phương tiện, gồm thâu hết thảy các phương tiện. Đă nhập Trung Đạo, song chiếu Nhị Đế (Chân Đế và Tục Đế). Thần biến (thần thông biến hóa) của Nhị Đế trọn khắp mười pháp giới, nhưng Trung Đạo chẳng bị tổn giảm, dù là đạo tiền hay đạo hậu, đều gọi là Phổ.

 

25.1.2.2.2.8. Thuyết pháp phổ

 

          “Thuyết pháp”: Nhị Thừa và Quyền vị Bồ Tát chẳng thể cùng lúc đáp trọn khắp các chúng sanh. Lại nữa, do xứ sở và phong tục khác biệt, chẳng thể khiến cho [chúng sanh nghe pháp] đều hiểu biết. Nay người thuộc Viên Giáo th́ cùng lúc diễn pháp, mỗi loài đều hiểu. Dùng một diệu âm trọn khắp mười phương, như đàn Tu La[33] tùy theo ư người mà phát ra tiếng. V́ thế gọi là Thuyết Pháp Phổ.

 

25.1.2.2.2.9. Cúng dường chư Phật phổ

 

          “Cúng dường chư Phật” có hai ư: Một là Sự, hai là Lư.

          1) Sự cúng dường th́ như kinh Hoa Nghiêm nói: “Bất vị đản cúng dường nhất Phật cố, năi chí bất vị đản cúng dường bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật cố, vị dục biến cúng dường tận pháp giới hư không giới nhất thiết chư Phật cố, bất khởi Diệt định, hiện chư oai nghi, an Thiền, hiệp chưởng, tán chư pháp vương. Dĩ thân, mạng, tài, nhất thiết cúng cụ, châu chí thập phương” (Chẳng v́ chỉ cúng dường một đức Phật, cho đến chẳng v́ cúng dường bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật, mà là v́ muốn cúng dường trọn khắp hết thảy chư Phật tận pháp giới hư không giới, chẳng khởi Diệt Tận Định, hiện các oai nghi, an trụ trong Thiền Định, chắp tay, tán thán các đấng pháp vương. Dùng thân thể, sanh mạng, tài vật, hết thảy các vật cúng trọn khắp mười phương) như trong Phổ Hiền Nguyện Vương đă nói.

          2) Lư cúng dường là cái tâm viên trí chánh quán được gọi là Giác. Giác tức là Phật. Công đức của vạn hạnh huân tu trí ấy, tức là cúng dường Phật. V́ thế nói Cúng Dường Chư Phật Phổ.

 

25.1.2.2.2.10. Thành tựu chúng sanh phổ

 

          “Thành tựu chúng sanh”: Ví như lửa đom đóm, đèn, đuốc, tinh tú, mặt trăng tạo lợi ích nhỏ nhoi. Nếu ánh sáng mặt trời chiếu thế gian, sẽ khiến cho trọn khắp hết thảy cỏ cây, rừng rậm đều được sanh trưởng, hoa quả thành tựu. Ngoại đạo như đom đóm, Nhị Thừa như đèn đuốc, tiểu Bồ Tát như tinh tú, Biệt Giáo như mặt trăng. Nay Viên Giáo Bồ Tát giống như vầng mặt trời, lại như mây to, cùng lúc b́nh đẳng tuôn mưa, bốn phương đều trút xuống. Ba loại cỏ, hai loại cây [như đă nói trong phẩm Dược Thảo Dụ] mỗi mỗi đều được sanh trưởng. V́ thế nói là Thành Tựu Chúng Sanh Phổ.

          Ư nghĩa của Phổ Môn há có thể cùng tận ư? Nêu đại lược mười nghĩa ḥng chỉ bày đầu mối đó thôi! Chỉ quán một niệm tâm tánh hiện tiền, vốn sẵn trọn đủ ba ngàn tánh tướng, tức Không, tức Giả, tức Trung, chính là diệu cảnh Vô Tác Tứ Đế. Duyên theo diệu cảnh ấy để khởi từ bi, từ bi sẽ trọn khắp (Từ Bi Phổ). Lập thệ nguyện rộng lớn, thệ nguyện rộng lớn ắt trọn khắp (Hoằng Thệ Phổ). Nương theo đấy để tu hành, một hạnh chính là hết thảy các hạnh. V́ thế là Tu Hành Phổ. Nương theo đấy để đoạn Hoặc, một thứ đă đoạn th́ hết thảy đều đoạn. V́ thế là Đoạn Hoặc Phổ. Nương theo đấy để nhập pháp môn, một pháp môn chính là hết thảy các pháp môn. V́ thế Nhập Pháp Môn Phổ. Nương theo đấy để dấy lên thần thông, tức là vô kư hóa hóa[34], cho nên là Thần Thông Phổ. Nương theo đó dấy phương tiện, thích hợp các thứ cơ duyên Đốn Tiệm Quyền Thật trọn khắp mười pháp giới. V́ thế là Phương Tiện Phổ. Nương theo đó để cúng dường chư Phật, một âm bảo khắp các chúng sanh, cho nên là Thuyết Pháp Phổ. Nương theo đó để cúng dường chư Phật, tam thế chư Phật đều tiếp nhận vật cúng ấy. Cho nên là Cúng Dường Phổ. Nương theo đấy để thành tựu chúng sanh, các căn cơ trong pháp giới đều được bốn món lợi ích (Tứ Tất Đàn), cho nên là Thành Tựu Phổ.

          Tâm tánh của hết thảy chúng sanh chẳng giảm, đó là Lư Tức Phổ Môn. Nghe rồi bèn hiểu, cho nên gọi là Danh Tự Tức Phổ Môn. Chế phục trọn vẹn ngũ trụ là Quán Hạnh Tức Phổ Môn. Thanh tịnh sáu căn, tức là Tương Tự Tức Phổ Môn. Khai thị ngộ nhập là Phần Chứng Tức Phổ Môn. Thấu triệt rỗng rang pháp giới, cùng tột nguồn cội của tánh, đó là Cứu Cánh Tức Phổ Môn. Giải thích tên phẩm này đă xong.

          Phẩm này do pháp sư Đàm Ma La Sấm[35] dạy Hà Tây vương Thư Cừ Mông Tốn[36] tụng để trừ bệnh, cho nên [phẩm này] được lưu hành riêng. Ấy là v́ Quán Âm đại sĩ có duyên với phương này nhất. Trí Giả đại sư cũng nói riêng hai quyển Huyền Nghĩa và Nghĩa Sớ [để giảng giải phẩm này]. Huyền Nghĩa [của phẩm Phổ Môn] cũng chia thành năm tầng, tức là dùng nhân, pháp v.v… để đặt tên như đă nói trong phần trước, coi linh trí hợp với Pháp Thân là Thể, cảm ứng là Tông, từ bi lợi lạc chúng sanh là Dụng, lưu thông giáo pháp thuộc vị đề hồ làm Giáo Tướng.

 

25.2. Giải thích kinh văn phẩm Phổ Môn

25.2.1. Trường Hàng

25.2.1.1. Lần vấn đáp thứ nhất

25.2.1.1.1. Hỏi

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Vô Tận Ư Bồ Tát tức tùng ṭa khởi, thiên đản hữu kiên, hiệp chưởng hướng Phật, nhi tác thị ngôn: - Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Tát dĩ hà nhân duyên, danh Quán Thế Âm?

          ()爾時無盡意菩薩。即從座起。偏袒右肩。合掌向佛。而作是言。世尊。觀世音菩薩。以何因緣名觀世音。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Tận Ư (Akṣayamati)[37] Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo vai phải, chắp tay hướng về đức Phật mà nói như thế này: - Bạch Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Đề do nhân duyên nào mà tên là Quán Thế Âm (Avalokiteśvara)?

         

          “Nhĩ thời” (Lúc bấy giờ) tức là lúc nói về vị Bồ Tát ở phương Đông đă xong, kế đó phải nên nói về vị Bồ Tát ở phương Tây (đó là Thế Giới Tất Đàn). Là lúc nói phương Đông sanh thiện đă xong, kế đó phải nên nói phương Tây sanh thiện (Vị Nhân Tất Đàn). Là lúc nói phương Đông đoạn nghi đă xong, kế đó phải nên nói phương Tây đoạn nghi (Đối Trị). Là lúc nói phương Đông đắc đạo đă xong, kế đó, phải nên nói phương Tây đắc đạo (Đệ Nhất Nghĩa).          

          Vô Tận là cảnh. Đại Phẩm nói Không là vô tận (đó là Chân). Kinh Đại Tập nói tám mươi môn vô tận, kinh Hoa Nghiêm nói mười loại chẳng thể tận[38] (đó là Tục). Kinh Tịnh Danh nói: “Phù vô tận giả, phi tận, phi vô tận, cố danh vô tận” (Vô tận: Chẳng tận, chẳng vô tận, th́ gọi là vô tận). Đó là Trung.

          Ư là trí, tức nhất tâm tam trí. Trí khế hợp cảnh, cảnh tùy thuận trí mà là Không, th́ gọi là Vô Tận Ư (đó là Không). Lại nữa, Ư là căn bản của thế gian và xuất thế gian. Trí tùy thuận cảnh. Cảnh nhiều th́ trí nhiều, gọi là Vô Tận Ư (đó là Giả). Lại nữa, Ư chính là pháp giới. Hết thảy đều là pháp giới; v́ thế nói “có thể quán tâm tánh th́ gọi là thượng định” (đó là Trung).

          “Nhi tác thị ngôn” (mà nói như thế này): Đủ hai thứ trang nghiêm, v́ thế có thể hỏi. “Dĩ hà nhân duyên” (do nhân duyên nào): Nếu xét theo phía chúng sanh th́ dùng hai căn cơ thiện và ác làm nhân, linh trí từ bi của thánh nhân làm duyên. Nếu xét theo phía Bồ Tát th́ dùng quán trí từ bi làm nhân, chúng sanh cơ cảm làm duyên.

 

25.2.1.1.2. Giải đáp

25.2.1.1.2.1. Đáp chung

         

          (Kinh) Phật cáo Vô Tận Ư Bồ Tát: - Thiện nam tử! Nhược hữu vô lượng bách thiên vạn ức chúng sanh thọ chư khổ năo, văn thị Quán Thế Âm Bồ Tát, nhất tâm xưng danh. Quán Thế Âm Bồ Tát tức thời quán kỳ âm thanh, giai đắc giải thoát.

          ()佛告無盡意菩薩。善男子。若有無量百千萬億眾生。受諸苦惱。聞是觀世音菩薩。一心稱名。觀世音菩薩即時觀其音聲。皆得解脫。

          (Kinh: Đức Phật bảo Vô Tận Ư Bồ Tát: - Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh chịu các khổ năo, nghe nói đến vị Quán Thế Âm Bồ Tát này, bèn nhất tâm xưng danh, Quán Thế Âm Bồ Tát ngay lập tức quán âm thanh ấy, [khiến cho họ] đều được giải thoát).

 

          “Vô lượng bách thiên vạn ức chúng sanh” (vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh): Nêu ra các loại căn cơ trong mười pháp giới. “Thọ chư khổ năo” (chịu các khổ năo): Nói rơ quả báo bất đồng do biệt nghiệp cảm vời, có các trường hợp: Một người chịu một sự khổ, một người chịu nhiều sự khổ, nhiều người chịu cùng một sự khổ, nhiều người chịu nhiều sự khổ… Nay nói rơ người nhiều, khổ nhiều”, đều là cảnh để Bồ Tát dẹp khổ và ban vui. Gặp khổ v́ sự ác trong hai đời (quá khứ và hiện tại), nghe tên chính là điều thiện trong hai đời (hiện tại và vị lai).

          Nhất tâm xưng danh có Sự, có Lư, thiện và ác kết hợp cơ cảm như thế. “Tức thời quán kỳ âm thanh” (ngay lập tức quán âm thanh ấy): Ứng hiện nhanh chóng. “Giai đắc giải thoát” (đều được giải thoát): Ứng trọn khắp. “Văn” (Nghe) cũng có bốn nghĩa, tức là văn văn, văn bất văn, bất văn văn, và bất văn bất văn[39]. Thấu đạt bất cứ một loại nào, sẽ chính là Văn Huệ trong tứ giáo. Nhất tâm xưng danh tức Tư Huệ và Tu Huệ trong tứ giáo. “Sự nhất tâm” chính là niệm nào cũng tiếp nối, chẳng dấy các ư tưởng tạp loạn. “Lư nhất tâm” tức là cái tâm ấy chẳng phải tự, tha, cộng (do nhiều pháp hợp thành), mà cũng chẳng phải là “vô nhân” (không có nhân). Thể của năng xưng (người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát) và sở xưng (danh hiệu của Bồ Tát) là pháp giới. Sự nhất tâm sẽ giải thoát khó khăn thuộc Sự, Lư nhất tâm sẽ giải thoát khó khăn thuộc Lư. Hễ cảm đều ứng, như “kêu mổ”[40] đồng thời.

          Nếu xưng niệm nhiều năm, vẫn chẳng đạt được mảy may hiệu quả, chỉ là v́ chưa đạt đến Sự nhất tâm, nhưng vẫn có thể tạo thành nhân duyên đắc độ trong vị lai. V́ thế, dẫu tâm tán loạn vừa xưng danh hiệu, công chẳng luống uổng, chỉ là hiệu nghiệm nhanh hay chậm đó thôi!

 

25.2.1.1.2.2. Đáp riêng

25.2.1.1.2.2.1. Xét theo cơ cảm nơi khẩu nghiệp để nói về sự ứng hiện

25.2.1.1.2.2.1.1. Nêu ra bảy nạn

25.2.1.1.2.2.1.1.1. Nạn lửa

 

          (Kinh) Nhược hữu tŕ thị Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả, thiết nhập đại hỏa, hỏa bất năng thiêu, do thị Bồ Tát oai thần lực cố.

          ()若有持是觀世音菩薩名者。設入大火。火不能燒。由是菩薩威神力故。

          (Kinh: Nếu có người tŕ danh Quán Thế Âm Bồ Tát, dẫu vào trong lửa, lửa chẳng thể đốt cháy, là do sức oai thần của vị Bồ Tát này).

 

          Tŕ danh là thiện, vào lửa là ác. Thiện và ác kết hợp thành cơ cảm. Do sức oai thần, lửa chẳng thể đốt, tức là Ứng. Lửa quả báo, dưới là từ địa ngục, trên là đến tầng trời Sơ Thiền, đều luận về cơ ứng (機應, ứng hiện tương ứng với căn cơ). Lửa ác nghiệp dưới là từ địa ngục, trên là đến trời Phi Tưởng, đều luận về cơ ứng. Lửa phiền năo dưới là từ địa ngục, trên là đến bậc Đẳng Giác, đều luận về cơ ứng[41].

 

25.2.1.1.2.2.1.1.2. Nạn nước

 

          (Kinh) Nhược vị đại thủy sở phiêu, xưng kỳ danh hiệu, tức đắc thiển xứ.

          ()若為大水所漂。稱其名號。即得淺處。

          (Kinh: Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Ngài, liền đến được chỗ cạn).

 

          “Nước cuốn trôi” là ác, xưng danh là thiện. Dùng điều này làm Cảm, “đến được chỗ cạn” là ng. Nước quả báo dưới từ địa ngục, trên đến trời Nhị Thiền. Nước ác nghiệp thông tam giới. Nước phiền năo thông chín pháp giới, đều luận về cơ cảm.

 

25.2.1.1.2.2.1.1.3. Nạn La Sát

 

          (Kinh) Nhược hữu bách thiên vạn ức chúng sanh, vị cầu kim, ngân, lưu ly, xa cừ, mă năo, san hô, hổ phách, chân châu đẳng bảo, nhập ư đại hải, giả sử hắc phong xuy kỳ thuyền phảng, phiêu đọa La Sát quỷ quốc. Kỳ trung nhược hữu năi chí nhất nhân xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả, thị chư nhân đẳng giai đắc giải thoát La Sát chi nạn. Dĩ thị nhân duyên, danh Quán Thế Âm.

          ()若有百千萬億眾生。為求金銀。琉璃。硨磲。碼瑙。珊瑚。琥珀。真珠等寶。入於大海。假使黑風吹其船舫。飄墮羅剎鬼國。其中若有乃至一人稱觀世音菩薩名者。是諸人等。皆得解脫羅剎之難。以是因緣。名觀世音。

          (Kinh: Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh v́ cầu các thứ báu: Vàng, bạc, lưu ly, xa cừ mă năo, san hô, hổ phách, chân châu v.v… vào trong biển cả. Giả sử gió đen thổi thuyền bè của họ trôi giạt vào nước quỷ La Sát. Trong đó, thậm chí nếu có một người xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát, những người ấy đều được thoát khỏi nạn La Sát. Do nhân duyên ấy, tên là Quán Thế Âm).

 

          Nạn La Sát này cũng là nạn gió. Quả báo La Sát ở trong Dục Giới. Ác nghiệp La Sát trọn khắp tam giới. Phiền năo La Sát thông khắp chín pháp giới. Lại nữa, gió quả báo tới tận trời Tam Thiền. Gió ác nghiệp trọn khắp tam giới. Gió phiền năo chung khắp chín pháp giới, đều luận định cơ ứng, đều có thể phỏng theo đó để hiểu.

 

25.2.1.1.2.2.1.1.4. Nạn đao gậy

 

          (Kinh) Nhược phục hữu nhân, lâm đương bị hại, xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả, bỉ sở chấp đao trượng, tầm đoạn đoạn hoại, nhi đắc giải thoát.

          ()若復有人。臨當被害。稱觀世音菩薩名者。彼所執刀杖。尋段段壞而得解脫。

          (Kinh: Nếu lại có người sắp sửa bị hại, xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát, những đao, gậy đang bị [kẻ ác] cầm nắm sẽ găy từng khúc, người ấy liền được giải thoát).

 

          Quả báo đao trượng hạn cuộc trong Địa Cư[42]. Ác nghiệp đao trượng trọn khắp tam giới. Phiền năo đao trượng thông khắp chín pháp giới.

 

25.2.1.1.2.2.1.1.5. Nạn quỷ

 

          (Kinh) Nhược tam thiên đại thiên quốc độ, măn trung Dạ Xoa, La Sát, dục lai năo nhân, văn kỳ xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả, thị chư ác quỷ thượng bất năng dĩ ác nhăn thị chi, huống phục gia hại.

          ()若三千大千國土。滿中夜叉。羅剎。欲來惱人。聞其稱觀世音菩薩名者。是諸惡鬼。尚不能以惡眼視之。況復加害。

          (Kinh: Nếu tam thiên đại thiên quốc độ đầy ắp Dạ Xoa, La Sát, muốn đến năo hại người, nghe người đó xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát, các ác quỷ ấy c̣n chẳng thể dùng mắt ác để nh́n, huống hồ làm hại).

 

          Nạn quỷ có thể phỏng theo nạn La Sát trong đoạn trước để hiểu. Nói “đại thiên măn trung” (đầy ắp trong cơi đại thiên) là cách nói giả sử, biểu thị ác quỷ phiền năo đầy dẫy, chỉ có xưng danh th́ mới có thể hàng phục chúng.

 

25.2.1.1.2.2.1.1.6. Nạn gông xiềng

 

          (Kinh) Thiết phục hữu nhân, nhược hữu tội, nhược vô tội, sửu[43] giới già ta kiểm hệ kỳ thân, xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả, giai tất đoạn hoại, tức đắc giải thoát.

          ()設復有人。若有罪。若無罪。杻械枷鎖檢繫其身。稱觀世音菩薩名者。皆悉斷壞。即得解脫。

          (Kinh: Nếu lại có người dù có tội hay không có tội, gông cùm xiềng xích trói buộc thân h́nh, do xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát, [các thứ đó] đều hư găy, liền được giải thoát).

 

          “Hữu tội” là điều ác trong đời hiện tại. “Vô tội” là điều ác trong quá khứ. Ở tay gọi là Sửu (, c̣ng), ở chân gọi là Giới (,cùm). Ở đầu gọi là Già (, gông), dính vào thân là Tỏa (,xiềng xích). Phong kín gọi là Kiểm (), trói buộc là Hệ (). Gông xiềng quả báo thuộc Dục Giới. Gông xiềng ác nghiệp trọn khắp tam giới. Gông xiềng phiền năo thông khắp chín pháp giới.

         

25.2.1.1.2.2.1.1.7. Nạn oán tặc

 

          (Kinh) Nhược tam thiên đại thiên quốc độ măn trung oán tặc, hữu nhất thương chủ, tương chư thương nhân, tê tŕ trọng bảo, kinh quá hiểm lộ. Kỳ trung nhất nhân, tác thị xướng ngôn: “Chư thiện nam tử! Vật đắc khủng bố! Nhữ đẳng ưng đương nhất tâm xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh hiệu. Thị Bồ Tát năng dĩ vô úy thí ư chúng sanh, nhữ đẳng nhược xưng danh giả, ư thử oán tặc, đương đắc giải thoát”. Chúng thương nhân văn, câu phát thanh ngôn: “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”, xưng kỳ danh cố, tức đắc giải thoát.

          ()若三千大千國土。滿中冤賊。有一商主。將諸商人。齎持重寶。經過險路。其中一人作是唱言。諸善男子。勿得恐怖。汝等應當一心稱觀世音菩薩名號。是菩薩能以無畏施於眾生。汝等若稱名者。於此怨賊當得解脫。眾商人聞。俱發聲言南無觀世音菩薩。稱其名故。即得解脫。

          (Kinh: Nếu trong cơi nước tam thiên đại thiên đầy ắp oán tặc, có một thương chủ dẫn các thương nhân chuyên chở vật quư báu đi qua đường hiểm. Trong ấy, có một người xướng như thế này: “Các thiện nam tử! Đừng nên sợ hăi. Các ông hăy nên nhất tâm xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát. Vị Bồ Tát ấy có thể ban cho chúng sanh không sợ hăi. Các ông nếu xưng danh Ngài, sẽ được thoát khỏi oán tặc này”. Các thương nhân nghe nói, đều thốt ra tiếng: “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”. Do xưng danh Ngài, liền được giải thoát).

 

          “Đại thiên măn trung” (đầy ắp trong cơi đại thiên) cũng là lời giả thiết. Đoạt mạng gọi là Oán, cướp tài vật gọi là Tặc. Oán tặc quả báo ở trong Dục Giới. Oán tặc ác nghiệp trọn khắp tam giới. Oán tặc phiền năo thông khắp chín pháp giới.

          Giải thích theo quán tâm, oán tặc đầy khắp trong cơi đại thiên chính là chủng tử phiền năo từ vô thỉ, nhóm họp trong thức thứ tám, tức Tạng Thức (A Lại Da Thức). “Hữu nhất thương chủ” (có một người cầm đầu đoàn buôn) tức là thức thứ sáu. “Các thương nhân” là các tâm sở Biến Hành, Biệt Cảnh, và Thiện Tâm Sở. “Trọng bảo” tức pháp xuất thế của tam thừa. “Kinh quá hiểm lộ” (Đi qua đường hiểm): Các pháp đối trị và các phiền năo gặp nhau. “Kỳ trung nhất nhân” (trong ấy có một người): Hoặc là thắng giải, hoặc là thiện huệ, hoặc là tín. “Nhất tâm xưng danh” tức Văn, Tư, Tu trong tứ giáo. “Câu phát thanh” (cùng thốt ra tiếng): Tâm vương và các tâm sở quyết định tương ứng. “Tức đắc giải thoát” (liền được giải thoát): Chứng lư được nói trong tứ giáo.

          Lại nữa, bảy nạn ấy biểu thị Lục Đại trong thân chúng sanh: Lửa tức Hỏa Đại, nước tức Thủy Đại, gió tức Phong Đại, đao, gậy, gông, xiềng chính là Địa Đại, tam thiên đại thiên biểu thị Không Đại, La Sát và oán tặc biểu thị Thức Đại. Quán Âm Bồ Tát quán sáu đại ấy đều là Như Lai Tạng, mỗi mỗi đều tức là Không, Giả, Trung. Ngài đă tự đạt được giải thoát, cho nên có thể khiến cho người khác được giải thoát. Chúng sanh mê tánh của sáu đại, oan uổng hứng chịu quả báo và các nạn phiền năo ác nghiệp. Nhưng ngay trong khi đang mê, Tánh Đức chẳng đổi, vốn có cùng một Thể với Bồ Tát. V́ thế, nghe tên xưng niệm, tùy theo sự hiểu biết là lệch lạc hay viên măn, hạnh sâu hay cạn, mà đạt được lợi ích nơi tứ giáo cũng có sai khác. Rốt cuộc, [tới khi] đắc Nhất Thiết Chủng Trí, sẽ chẳng sai biệt. Phần thứ nhất, “nói về bảy nạn” đă xong.

 

25.2.1.1.2.2.1.2. Kết lại để tán thán

 

          (Kinh) Vô Tận Ư! Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát oai thần chi lực, nguy nguy như thị.

          ()無盡意。觀世音菩薩摩訶薩威神之力。巍巍如是。

          (Kinh: Này Vô Tận Ư! Sức oai thần của Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát ṿi vọi như thế).

 

          “Nguy nguy” tức là cao hiển. Công siêu việt chín pháp giới nên là Cao, danh vang ba cơi nên là Hiển. Phần thứ nhất, “xét theo căn cơ nơi khẩu nghiệp để nói về sự ứng hiện” đă xong.

 

25.2.1.1.2.2.2. Xét theo cơ cảm nơi ư nghiệp để nói về sự ứng hiện

25.2.1.1.2.2.2.1. Tam độc

 

          (Kinh) Nhược hữu chúng sanh đa ư dâm dục, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, tiện đắc ly dục. Nhược đa sân khuể, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, tiện đắc ly sân. Nhược đa ngu si, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, tiện đắc ly si.

          ()若有眾生。多於婬欲。常念恭敬觀世音菩薩。便得離欲。若多瞋恚。常念恭敬觀世音菩薩。便得離瞋。若多愚癡。常念恭敬觀世音菩薩。便得離癡。

          (Kinh: Nếu có chúng sanh nhiều dâm dục, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát liền được ĺa dục. Nếu nhiều sân hận, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được ĺa sân. Nếu nhiều ngu si, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được ĺa si).

 

          Đa dục, sân khuể, và si là ác. “Thường niệm cung kính” là thiện. Hai thứ ấy là Cơ, được ĺa khỏi [dục, sân, si] chính là Ứng. Sự dục và Sự khuể thuộc vào Dục Giới. Sự si (si nơi sự tướng) thông khắp tam giới. Đối với Lư Tam Độc, Nhị Thừa coi đắm trước nơi Chân là dục, sợ Tục là sân, chẳng liễu giải sanh tử Niết Bàn như huyễn là si. Xuất Giả Bồ Tát coi du hư thần thông là dục, quở trách, chán ngán Nhị Thừa là sân, chẳng liễu đạt Trung Đạo là si. Địa tiền Bồ Tát (hàng Bồ Tát chưa chứng Sơ Địa) coi tương tự ái trong Trung Đạo là dục, bỏ cả hai bên là sân, vô minh chưa phá là si. Cho đến Đẳng Giác hậu tâm (bậc Bồ Tát đă chứng Đẳng Giác) hăy c̣n vô minh vi tế chưa phá tức là vi tế dục khuể chưa trừ. Nay do đại bi Bồ Tát từ sơ phát tâm, quán các phiền năo tham, sân, si ấy đều là pháp sanh bởi nhân duyên, mỗi mỗi đều là Không, Giả, Trung. Do Tức Không, cho nên ĺa Tam Độc của phàm phu. Do tức Giả, nên ĺa Tam Độc của Nhị Thừa. Do tức Trung, nên ĺa Tam Độc của Bồ Tát, thành tựu ba loại thiện căn chẳng thể nghĩ bàn, cũng là thành tựu pháp môn đại tham, đại sân, đại si chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế dạy “thường niệm cung kính”, tùy theo hiểu biết thiên lệch hay viên măn, tùy theo hạnh cạn hay sâu, mà được thoát ĺa cũng có đủ loại sai biệt. Rốt ráo đều quy vào chẳng sai biệt.

 

25.2.1.1.2.2.2.2. Tán thán để kết luận

 

          (Kinh) Vô Tận Ư! Quán Thế Âm Bồ Tát hữu như thị đẳng đại oai thần lực, đa sở nhiêu ích. Thị cố, chúng sanh thường ưng tâm niệm.

          ()無盡意。觀世音菩薩有如是等大威神力。多所饒益。是故眾生常應心念。

          (Kinh: Vô Tận Ư! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức oai thần to lớn như thế, tạo nhiều lợi ích. V́ thế, chúng sanh thường nên tâm niệm).

 

          Phần thứ hai, “xét theo căn cơ nơi ư nghiệp” để nói về sự cảm ứng đă xong.