Diệu Pháp Liên
Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa
phần 16
Đất Cổ
Ngô, hậu học Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật
妙法蓮華經綸貫會義
古吳後學蕅益智旭述
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức
Phong và Huệ Trang
26. Phẩm
thứ hai mươi sáu: Đà La Ni (Đà La Ni phẩm
đệ nhị thập lục, 陀羅尼品第二十六)
Đà
La Ni (Dhāraṇī) phương này dịch là Tổng
Tŕ, [hàm nghĩa]: “Giữ cho điều ác chẳng dấy
lên, giữ cho điều thiện chẳng mất”
(đó là Thế Giới Tất Đàn). Lại c̣n dịch
là Giá Tŕ (遮持, ngăn che, ǵn giữ), tức là có thể
ǵn giữ điều thiện (đó là Vị Nhân Tất
Đàn), có thể ngăn che điều ác (đó là Đối Trị Tất
Đàn). Ngăn che Biên Ác (điều ác do chấp trước
nhị biên), ǵn giữ Trung Thiện (điều thiện
thuộc vào Trung Đạo). Đó là Đệ Nhất
Nghĩa Tất Đàn. Cách sử dụng [Đà La Ni] trong
các kinh khác nhau, hoặc chuyên chữa bệnh, như kinh Liệu
Trĩ v.v… Hoặc chuyên hộ pháp như trong kinh văn ở
đây, hoặc chuyên diệt tội, như trong [các kinh thuộc
thời] Phương Đẳng, hoặc
dùng chung để chữa bệnh, diệt tội, hộ
tŕ kinh như kinh Thỉnh Quán Âm v.v... Hoặc là
đại thần chú, đại
minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú
(chú không có ǵ sánh bằng) th́
chẳng phải là chữa bệnh, chẳng phải là diệt
tội, chẳng phải
là thủ hộ kinh.
Lại
nữa, Mật Bộ có tất cả ba loại:
-
Một là Phật Bộ, tự chia thành năm bộ [nhỏ
hơn], tức [các Đà La Ni] do ngũ Phật[1]
nói.
-
Hai là Bồ Tát Bộ.
-
Ba là quỷ thần Bộ.
Trong
mỗi bộ đều luận định ba pháp thượng,
trung, hạ:
-
Thành tựu, tăng ích th́ gọi là thượng pháp.
-
Nhương tai (giải trừ tai nạn), nhiếp triệu
(nhiếp thọ và triệu thỉnh) là trung pháp.
-
Hàng phục th́ gọi là hạ pháp.
Trong
thượng pháp, lại chia ra ba phẩm, mỗi phẩm
đều có hành nghi (nghi thức, quy cách để thực
hiện riêng). Mỗi loại đều có quán pháp (cách quán
tưởng vị tôn thánh nói ra thần chú
và các chủng tử trong thần
chú v.v…). Mỗi loại đều có những điều
nghiêm cấm riêng, nhưng đều lấy tâm Vô Thượng
Bồ Đề làm chủ. Nếu chẳng có thầy truyền,
[mà tự tiện hành tŕ] th́ gọi là “đạo pháp”
(盜法, trộm pháp). Nếu trái nghịch hành nghi,
ắt chuốc lấy ác báo. Nếu phạm nghiêm cấm, tự
tiện nói với người khác sự hiệu nghiệm
của pháp tu ấy, ắt sẽ chuốc phải tai vạ
lạ lùng. [Các quy định nghiêm ngặt ấy] hoàn toàn
là bốn món Tất Đàn ḥng lợi ích chúng sanh chẳng
thể nghĩ bàn! Rất cần phải nương theo
kinh, mong chớ trái nghịch giáo!
[Đà
La Ni dịch nghĩa sang tiếng Hán] theo lối cựu dịch
gọi là Chú, tân dịch th́ gọi là Chân Ngôn, c̣n gọi là
Minh. [Đà La Ni] có thể là tên của chúa các quỷ thần,
cho nên có thể hàng phục quỷ thần (Thế Giới
Tất Đàn), hoặc như mật hiệu trong quân đội,
xướng lên sẽ sai khiến tương ứng (Vị
Nhân Tất Đàn), hoặc như pháp bí mật, kín nhiệm
để nghiêm trị điều ác (Đối
Trị Tất Đàn), hoặc là mật ngữ của Như
Lai. Như vua đ̣i Tiên Đà Bà (Saindhava)[2], quần thần chẳng hiểu.
Chỉ có bầy tôi có trí mới có thể biết. Khi rửa
bèn dâng nước, khi uống bèn dâng đồ đựng,
khi ăn bèn dâng muối, khi [vua muốn] đi chơi bèn
dâng ngựa. Đà La Ni cũng thế, chỉ là một pháp mà có trọn
khắp các sức mạnh, chữa lành bệnh, trừ tội,
sanh trưởng điều thiện, phù hợp đạo
(đó là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn). V́ thế,
giữ nguyên âm đọc (chỉ phiên âm), chẳng phiên dịch
[ư nghĩa][3].
“Thần
chú thủ hộ”: Hoằng truyền kinh trong đời
ác, thường gặp nhiều bức năo, tai nạn. V́ thế,
dùng chân ngôn để bảo vệ, khiến cho đạo
được lưu thông. Kinh văn chia làm bốn phần:
-
Một, thưa hỏi công đức tŕ kinh.
-
Hai, giải đáp [công đức ấy] rất nhiều.
-
Ba, xin dùng chú thủ hộ.
-
Bốn, nghe phẩm này đạt được lợi
ích.
26.1. Thưa
hỏi công đức tŕ kinh
(Kinh)
Nhĩ thời, Dược Vương Bồ Tát tức
tùng ṭa khởi, thiên đản hữu kiên, hiệp chưởng
hướng Phật, nhi bạch Phật ngôn: - Thế Tôn!
Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân hữu
năng thọ tŕ Pháp Hoa kinh giả, nhược độc
tụng thông lợi, nhược thư tả kinh quyển,
đắc kỷ sở phước?
(經)爾時藥王菩薩。即從座起。偏袒右肩。合掌向佛。而白佛言。世尊。若善男子。善女人。有能受持法華經者。若讀誦通利。若書寫經卷。得幾所福。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Dược
Vương Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, trật áo vai phải, chắp tay hướng về
đức Phật, bạch với đức Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ
nhân, có ai có thể thọ tŕ kinh Pháp Hoa, hoặc đọc
tụng thông suốt, hoặc biên chép kinh quyển, sẽ
được bao nhiêu phước?)
26.2. Giải
đáp [công đức ấy] rất nhiều
(Kinh)
Phật cáo Dược Vương: “Nhược hữu thiện
nam tử, thiện nữ nhân cúng dường bát bách vạn
ức na-do-tha Hằng hà sa đẳng chư Phật, ư
nhữ ư vân hà? Kỳ sở đắc phước, ninh vi
đa phủ?” “Thậm đa, Thế Tôn!” Phật ngôn:
“Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân,
năng ư thị kinh, năi chí thọ tŕ nhất tứ cú kệ,
độc tụng, giải nghĩa, như thuyết tu
hành, công đức thậm đa”.
(經)佛告藥王。若有善男子。善女人。供養八百萬億那由他恆河沙等諸佛。於汝意云何。其所得福。寍為多不。甚多。世尊。佛言。若善男子。善女人。能於是經乃至受持一四句偈。讀誦解義。如說修行。功德甚多。
(Kinh: Đức Phật bảo Dược
Vương: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ
nhân cúng dường chư Phật nhiều như số
cát trong tám trăm vạn ức na-do-tha sông Hằng, ư ông
nghĩ sao? Người ấy đạt được
phước đức, há có nhiều chăng?” “Bạch Thế
Tôn, rất nhiều”. Đức Phật nói: “Nếu thiện nam tử, thiện
nữ nhân có thể đối với kinh này, dẫu chỉ
thọ tŕ một bài kệ gồm bốn câu, đọc tụng,
hiểu nghĩa, tu hành đúng như lời dạy, công
đức rất nhiều”).
26.3. Xin phép
dùng chú để thủ hộ
26.3.1. Dược
Vương Bồ Tát
26.3.1.1. Thỉnh
cầu
(Kinh) Nhĩ thời, Dược
Vương Bồ Tát bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă
kim đương dữ thuyết pháp giả Đà La Ni chú
dĩ thủ hộ chi.
(經)爾時藥王菩薩白佛言。世尊。我今當與說法者陀羅尼咒以守護之。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Dược
Vương Bồ Tát bạch cùng đức Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con nay sẽ cho người thuyết
pháp chú Đà La Ni để thủ hộ họ).
“Chú” là tiếng Hán, hàm
nghĩa “cấm chú, chú chúc, chú nguyện”. Do bí mật
chẳng phiên dịch, bèn dùng tên gọi ấy. Ở đây,
do nêu danh xưng cả Hán lẫn Phạn, cho nên nói là “Đà La Ni chú”.
26.3.1.2. Nói thần
chú
(Kinh) Tức thuyết chú viết:
- An
nhĩ, mạn nhĩ. Ma nễ, ma ma nễ. Chỉ lệ,
giá lê đệ. Xa mế, xa lư đa vĩ, chiên đế,
mục đế, mục đa lư, sa lư. A vĩ sa lư, tang lư,
sa lư. Xoa duệ, a xoa duệ. A kỳ nị. Chiên đế.
Xa lư. Đà la ni, a lô già bà sa, bả giá tỳ xoa nị. Nễ
tỳ thế. A tiện đá la nễ lư thế. A đản
đá ba lệ thâu địa. Âu cứu lệ, mâu cứu lệ.
A la lệ, ba la lệ. Thủ ca sai, a tam ma tam lư. Phật
đà tỳ cát lợi trật đế. Đạt ma ba lợi
sai đế. Tăng già niết cù sa nễ. Bà xá bà xá thâu
địa. Mạn đá la. Mạn đá la xoa dạ
đa. Bưu lâu đá. Bưu lâu đá kiêu xá lược. Ác
xoa la. Ác xoa dă đa dă. A bà lô. A ma nhă na đa dạ.
(經)即說咒曰。安爾。曼爾。摩禰。摩摩禰。旨隸。遮梨第。賒咩。賒履多瑋。羶帝。目帝。目多履。娑履。阿瑋娑履。桑履。娑履。叉裔。阿叉裔。阿耆膩。羶帝。賒履。陀羅尼。阿盧伽婆娑。簸蔗毗叉膩。禰毗剃。阿便哆邏禰履剃。阿亶。哆波隸輸地。歐究隸。牟究隸。阿羅隸。波羅隸。首迦差。阿三磨三履。佛陀毗吉利袠帝。達磨波利差帝。僧伽涅瞿沙禰。婆舍婆舍輸地。曼哆邏。曼哆邏叉夜多。郵樓哆。郵樓哆憍舍略。惡叉邏。惡叉冶多冶。阿婆盧。阿摩若那多夜。
(Kinh: Liền nói chú rằng: - Anye manye
mane mamane, citte carite, same samitāviśānte, mukte muktatame, same
avisame samasame jaye kṣaye akṣaye akṣiṇe
śānte samite, dhāraṇi ālokabhāṣe,
pratyavekṣaṇi nidhiru, abhyantara-nirviṣte abhyantara pāriśuddhi, mutkule,
araḍe paraḍe sukāṇkṣi, asamasame. Buddhavilokite dharma parikśite. Saṃgha nirghoṣa nirghoṇi. Bhayābhaya- viśodhani mantre. Mantrākṣayate
rute rutakauśalye akṣaye akṣaya vanatāye vakkule valoḍa
amanyanatāye)[4].
26.3.1.3. Tán
thán
(Kinh) Thế Tôn! Thị Đà
La Ni thần chú, lục thập nhị ức Hằng hà sa
đẳng chư Phật sở thuyết. Nhược hữu
xâm hủy thử pháp sư giả, tắc vi xâm hủy thị
chư Phật dĩ.
(經)世尊。是陀羅尼神咒。六十二億恆河沙等諸佛所說。若有侵毀此法師者。則為侵毀是諸佛已。
(Kinh: Bạch Thế Tôn! Thần
chú Đà La Ni này được chư Phật nhiều
như số cát trong sáu mươi hai ức sông Hằng nói
ra. Nếu có kẻ nào xâm phạm, hủy báng pháp sư này,
tức là đă xâm phạm, hủy báng chư Phật).
26.3.1.4. Ấn
khả
(Kinh) Thời Thích Ca Mâu Ni Phật
tán Dược Vương Bồ Tát ngôn: - Thiện tai! Thiện
tai! Dược Vương! Nhữ mẫn niệm, ủng hộ thử pháp sư cố,
thuyết thị Đà La Ni, ư chư chúng sanh, đa sở
nhiêu ích.
(經)時釋迦牟尼佛。讚藥王菩薩言。善哉善哉。藥王。汝愍念擁護此法師故。說是陀羅尼。於諸眾生多所饒益。
(Kinh: Khi ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật tán
thán Dược Vương Bồ Tát rằng: - Lành thay! Lành
thay! Này Dược Vương! Ông do nghĩ thương
xót, ủng hộ vị pháp sư ấy mà nói Đà La Ni
này, tạo nhiều lợi ích cho các chúng sanh).
26.3.2.
Dũng Thí Bồ Tát [nói thần chú ủng hộ]
26.3.2.1. Xin
phép
(Kinh) Nhĩ thời, Dũng
Thí Bồ Tát bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă diệc vị
ủng hộ độc tụng, thọ tŕ Pháp Hoa kinh giả,
thuyết Đà La Ni. Nhược thử pháp sư đắc
thị Đà La Ni, nhược Dạ Xoa, nhược La
Sát, nhược Phú Đan Na, nhược Cát Giá, nhược
Cưu Bàn Trà, nhược ngạ quỷ đẳng, tứ cầu kỳ đoản, vô
năng đắc tiện.
(經)爾時勇施菩薩白佛言。世尊。我亦為擁護讀誦受持法華經者。說陀羅尼。若此法師得是陀羅尼。若夜叉。若羅剎。若富單那。若吉蔗。若鳩槃茶。若餓鬼等。伺求其短。無能得便。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
Dũng Thí Bồ Tát (Pradānaśūra) bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con cũng v́ ủng hộ người
đọc tụng, thọ tŕ kinh Pháp Hoa mà nói Đà La Ni. Nếu
vị pháp sư ấy có được Đà La Ni này, dù Dạ Xoa (Yakṣa), dù La Sát (Rākṣasa),
dù Phú Đan Na (Pūtana), dù Cát Giá (Kṛtya), dù Cưu Bàn Trà
(Kumbhāṇḍa), hay quỷ đói v.v… t́m cầu khuyết
điểm của người ấy đều chẳng
thể có cơ hội).
Phú Đan Na là quỷ gây bệnh
nhiệt. Cát Giá là khởi thi quỷ (quỷ khiến cho xác
chết vùng dậy).
26.3.2.2. Nói thần
chú
(Kinh) Tức ư Phật tiền nhi thuyết
chú viết: - Toa lệ, ma ha toa lệ. Úc chỉ, mục chỉ.
A lệ, a la bà đệ. Niết lệ đệ. Niết
lệ đa bà đệ. Y trí nỉ, vi trí nỉ, chỉ
trí nỉ, niết lệ tŕ nỉ. Niết lê tŕ bà để.
(經)即於佛前而說咒曰。痤隸。摩訶痤隸。郁枳。目枳。阿隸。阿羅婆第。涅隸第。涅隸多婆第。伊緻柅。韋緻柅。旨緻柅。涅隸墀柅。涅犁墀婆底。
(Kinh: Liền ở trước
đức Phật, mà nói chú rằng: - Jvale
mahājvale, ukke mukke. Aḍe aḍāvati nṛtye nṛtyāvati
iṭṭini viṭṭini ciṭṭini nṛtyani nṛtyāvati).
26.3.2.3. Tán
thán
(Kinh) Thế Tôn! Thị Đà
La Ni thần chú, Hằng hà sa đẳng chư Phật sở
thuyết, diệc giai tùy hỷ. Nhược hữu xâm hủy
thử pháp sư giả, tắc vi xâm hủy thị chư
Phật dĩ.
(經)世尊。是陀羅尼神咒。恆河沙等諸佛所說。亦皆隨喜。若有侵毀此法師者。則為侵毀是諸佛已。
(Kinh:
Bạch Thế Tôn! Thần chú Đà La Ni này được
chư Phật nhiều như số cát sông Hằng nói ra,
và cũng đều tùy hỷ. Nếu có kẻ xâm phạm, hủy
báng vị pháp sư này, tức là đă xâm phạm, hủy
báng các đức Phật ấy).
26.3.3. Tỳ
Sa Môn [nói thần chú]
26.3.3.1. Xin phép
nói
(Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Sa
Môn thiên vương hộ thế giả, bạch Phật
ngôn: - Thế Tôn! Ngă diệc vị mẫn niệm chúng sanh,
ủng hộ thử pháp sư cố, thuyết thị
Đà La Ni.
(經)爾時毗沙門天王護世者。白佛言。世尊。我亦為愍念眾生。擁護此法師故。說是陀羅尼。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Tỳ
Sa Môn thiên vương là bậc hộ tŕ thế gian, bạch
với đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Con
cũng v́ nghĩ thương xót chúng sanh, ủng hộ vị
pháp sư ấy mà nói Đà La Ni này).
26.3.3.2. Nói thần
chú
(Kinh) Tức thuyết chú viết:
- A lê, na lê, nậu na lê, a na lô, na lư, câu na lư. (經)即說咒曰。阿梨。那梨。㝹那梨。阿那盧。那履。拘那履。
(Kinh: Liền nói chú rằng: - Aṭṭe naṭṭe
vanaṭṭe anaḍe nāḍi kunaḍi).
26.3.3.3. Tán
thán
(Kinh) Thế Tôn! Dĩ thị
thần chú ủng hộ pháp sư, ngă diệc tự
đương ủng hộ tŕ thị kinh giả, linh bách
do-tuần nội, vô chư suy hoạn.
(經)世尊。以是神咒擁護法師。我亦自當擁護持是經者。令百由旬內。無諸衰患。
(Kinh: Bạch Thế Tôn! Dùng thần
chú này để ủng hộ pháp sư, con cũng sẽ tự ủng hộ người
tŕ kinh này, khiến cho trong ṿng một trăm do-tuần
không có các suy hoạn[5]).
26.3.4. Tŕ Quốc
thiên vương [nói thần chú]
26.3.4.1. Thỉnh
cầu
(Kinh) Nhĩ thời, Tŕ Quốc
thiên vương tại thử hội trung, dữ thiên vạn
ức na-do-tha Càn Thát Bà chúng, cung kính vi nhiễu, tiền nghệ
Phật sở, hiệp chưởng, bạch Phật ngôn:
- Thế Tôn! Ngă diệc dĩ Đà La Ni thần chú, ủng hộ tŕ Pháp Hoa kinh giả.
(經)爾時持國天王在此會中。與千萬億那由他乾闥婆眾。恭敬圍繞。前詣佛所。合掌白佛言。世尊。我亦以陀羅尼神咒。擁護持法華經者。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Tŕ Quốc
thiên vương (Dhṛtarāṣṭra)[6] ở
trong hội này, cùng với ngàn vạn ức na-do-tha các Càn
Thát Bà cung kính vây quanh, đến trước đức Phật,
chắp tay, bạch Phật rằng: - Bạch Thế Tôn!
Con cũng dùng thần chú Đà La Ni để ủng hộ
người tŕ kinh Pháp Hoa).
26.3.4.2. Nói thần
chú
(Kinh) Tức thuyết
chú viết: - A già nễ, già nễ, cù
lợi, càn đà lợi, chiên đà lợi, ma đắng kỳ, thường cầu
lợi, phù lâu sa nỉ, át để.
(經)即說咒曰。阿伽禰。伽禰。瞿利。乾陀利。旃陀利。摩蹬耆。常求利。浮樓莎柅。頞底。
(Kinh: Liền nói
chú rằng: - Agaṇe gaṇe gauri gandhāri caṇḍāli
mātaṅgi jaṅguli vrūsaṇi agasti).
26.3.4.3. Tán
thán
(Kinh) Thế Tôn! Thị Đà
La Ni thần chú, tứ thập nhị ức chư Phật
sở thuyết. Nhược hữu xâm hủy thử pháp
sư giả, tắc vi xâm hủy thị chư Phật dĩ.
(經)世尊。是陀羅尼神咒。四十二億諸佛所說。若有侵毀此法師者。則為侵毀是諸佛已。
(Kinh: Bạch Thế
Tôn! Đà La Ni thần chú này do bốn mươi hai ức
chư Phật đă nói. Nếu có kẻ xâm phạm, hủy
báng pháp sư ấy, tức là đă xâm phạm hủy báng các
vị Phật ấy).
26.3.5. La Sát nữ
26.3.5.1. Nêu
tên các La Sát nữ cùng thỉnh
(Kinh) Nhĩ thời, hữu La
Sát nữ đẳng, nhất danh Lam Bà, nhị danh Tỳ
Lam Bà, tam danh Khúc Xỉ, tứ danh Hoa Xỉ, ngũ danh Hắc
Xỉ, lục danh Đa Phát, thất danh Vô Yếm Túc, bát
danh Tŕ Anh Lạc, cửu danh Cao Đế, thập danh
Đoạt Nhất Thiết Chúng Sanh
Tinh Khí. Thị thập La Sát nữ, dữ Quỷ Tử Mẫu,
tịnh kỳ tử cập quyến thuộc, câu nghệ
Phật sở, đồng thanh bạch Phật ngôn: - Thế
Tôn! Ngă đẳng diệc dục ủng hộ độc
tụng, thọ tŕ Pháp Hoa kinh giả, trừ kỳ suy hoạn.
Nhược hữu tứ cầu pháp sư đoản giả,
linh bất đắc tiện.
(經)爾時有羅剎女等。一名藍婆。二名毗藍婆。三名曲齒。四名華齒。五名黑齒。六名多髮。七名無厭足。八名持瓔珞。九名臯帝。十名奪一切眾生精氣。是十羅剎女。與鬼子母。幷其子及眷屬。俱詣佛所。同聲白佛言。世尊。我等亦欲擁護讀誦受持法華經者。除其衰患。若有伺求法師短者。令不得便。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
có các La Sát nữ (Rākṣasīs), một tên là Lam Bà
(Lambā), hai tên là Tỳ Lam Bà (Vilambā), ba tên là Khúc Xỉ
(Kūṭadantī), bốn tên là Hoa Xỉ (Puṣpadantī), năm tên là
Hắc Xỉ (Makuṭadantī), sáu tên là Đa Phát
(Keśinī), bảy tên là Vô Yếm Túc (Acalā), tám tên là
Tŕ Anh Lạc (Mālādhāri), chín tên là Cao Đế (Kuntī),
mười tên là Đoạt Nhất Thiết Chúng Sanh Tinh Khí
(Sarvasattvojohārī). Mười La Sát nữ[7] ấy
cùng với Quỷ Tử Mẫu (Hārītī), các con bà
ta, và quyến thuộc cùng đến chỗ đức Phật,
đồng thanh bạch Phật rằng: - Bạch Thế
Tôn! Chúng con cũng muốn ủng hộ người đọc
tụng, thọ tŕ kinh Pháp Hoa, trừ các suy hoạn. Nếu
có kẻ t́m cầu khuyết điểm của pháp sư,
sẽ chẳng có cơ hội).
26.3.5.2. Nói thần
chú
(Kinh) Tức ư Phật tiền,
nhi thuyết chú viết: - Y đề lư, y đề mẫn,
y đề lư, a đề lư, y đề lư, nê lư, nê lư, nê lư,
nê lư, nê lư, lâu hê, lâu hê, lâu hê, lâu hê, đa hê, đa hê, đa
hê, đâu hê, nậu hê.
(經)即於佛前而說咒曰。伊提履。伊提泯。伊提履。阿提履。伊提履。泥履。泥履。泥履。泥履。泥履。樓醯。樓醯。樓醯。樓醯。多醯。多醯。多醯。兜醯。㝹醯。
(Kinh: Liền
đối trước Phật, mà nói chú rằng: - Itime itime itime itime itime,
nime nime nime nime nime, ruhe ruhe ruhe ruhe, stuhe stuhe stuhe stuhe stuhe).
26.3.5.3. Tán
thán
(Kinh) Ninh thướng ngă đầu
thượng, mạc năo ư pháp sư. Nhược Dạ
Xoa, nhược La Sát, nhược ngạ quỷ, nhược
Phú Đan Na, nhược Cát Giá, nhược Tỳ Đà
La, nhược Kiền Đà, nhược Ô Ma Lặc Già, nhược A Bạt Ma
La, nhược Dạ Xoa Cát Giá, nhược Nhân Cát Giá,
nhược nhiệt bệnh, nhược nhất nhật,
nhược nhị nhật, nhược tam nhật,
nhược tứ nhật, nhược chí thất nhật,
nhược thường nhiệt bệnh, nhược nam
h́nh, nhược nữ h́nh, nhược đồng nam
h́nh, nhược đồng nữ h́nh, năi chí mộng trung,
diệc phục mạc năo. Tức ư Phật tiền,
nhi thuyết kệ ngôn: - Nhược bất thuận ngă
chú, năo loạn thuyết pháp giả, đầu phá tác thất
phần, như A Lê thụ chi. Như sát phụ mẫu tội,
diệc như áp du ương, đẩu xứng khi cuống
nhân. Điều Đạt phá Tăng tội. Phạm thử
pháp sư giả, đương hoạch như thị
ương.
(經)寍上我頭上。莫惱於法師。若夜叉。若羅剎。若餓鬼。若富單那。若吉蔗。若毗陀羅。若犍馱。若烏摩勒伽。若阿跋摩羅。若夜叉吉蔗。若人吉蔗。若熱病。若一日。若二日。若三日。若四日。若至七日。若常熱病。若男形。若女形。若童男形。若童女形。乃至夢中。亦復莫惱。即於佛前而說偈言。若不順我咒。惱亂說法者。頭破作七分。如阿梨樹枝。如殺父母罪。亦如壓油殃。斗秤欺誑人。調達破僧罪。犯此法師者。當獲如是殃。
(Kinh: “Thà trèo lên đầu
con, đừng năo hại pháp sư. Dù Dạ Xoa, hoặc La
Sát, hoặc ngạ quỷ, hoặc Phú Đan Na, hoặc Cát
Giá, hoặc Tỳ Đà La (Vetāla), hoặc Kiền
Đà (Skanda), hoặc Ô Ma Lặc Già (Omāraka), hoặc A Bạt Ma La
(Apasmāraka), hoặc Dạ Xoa Cát Giá (Yakṣakṛtya), hoặc
Nhân Cát Giá (Manuṣyakṛtya)[8], hoặc
nhiệt bệnh, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc
ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc cho tới bảy ngày, hoặc
thường nhiệt bệnh, hoặc thân nam, hoặc thân
nữ, hoặc thân bé trai, hoặc thân bé gái, cho tới trong mộng
cũng đừng năo hại”. Họ liền đối
trước Phật, mà nói kệ rằng: - Chẳng thuận
chú của ta, năo loạn người thuyết pháp, đầu
nứt thành bảy miếng, như cành cây A Lê. Như tội
giết cha mẹ, cũng như họa ép dầu, cân
đong lường gạt người. Tội Điều
Đạt[9]
phá Tăng. Kẻ xâm phạm
pháp sư, chuốc ương họa dường ấy).
Tỳ Đà La[10]
là quỷ sắc đỏ. Kiền Đà
là quỷ màu vàng. Ô Ma Lạc Già là quỷ màu đen. A Bạt
Ma La: Quỷ màu xanh. Cành cây A Lê (Arjaka) rơi
xuống đất, tự nhiên liền nứt vỡ thành
bảy miếng. “Giết cha, giết mẹ, phá Tăng” là ba tội trong Ngũ Nghịch. “Áp du
ương” (tội ương do ép dầu): Tây Trúc ép dầu,
nghiền mè cho sanh trùng rồi mới ép dầu. [Làm như
vậy] th́ dầu nhiều mà lại béo, sát
nghiệp rất nặng. Kẻ lường cân tráo đấu
lừa gạt người khác, khi chi ra th́ dùng đấu
nhỏ hơn, quả cân nhẹ hơn. Khi thâu vào th́ dùng quả
cân nặng hơn, đấu to hơn; nghiệp trộm cắp
rất nặng. V́ thế, phải răn nhắc kẻ vi
phạm, tội ác [do phạm lỗi ấy] chẳng nhẹ!
26.3.5.4. Phát
thệ
(Kinh) Chư La Sát nữ thuyết
thử kệ dĩ, bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă
đẳng diệc đương thân tự ủng hộ
thọ tŕ, độc tụng, tu hành thị kinh giả,
linh đắc an ổn, ly chư suy hoạn, tiêu chúng độc
dược.
(經)諸羅剎女說此偈已。白佛言。世尊。我等亦當身自擁護受持讀誦修行是經者。令得安隱。離諸衰患。消眾毒藥。
(Kinh: Các La Sát nữ nói bài kệ ấy xong, bạch
cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Chúng con
cũng sẽ đích thân ủng hộ người thọ
tŕ, đọc tụng, tu hành kinh này, khiến cho họ được
an ổn, ĺa các suy hoạn, tiêu trừ các thuốc độc).
26.3.5.5. [Đức
Phật] ấn khả
(Kinh) Phật cáo chư La Sát nữ:
- Thiện tai! Thiện tai! Nhữ đẳng đản
năng ủng hộ thọ tŕ Pháp Hoa danh giả, phước
bất khả lượng, hà huống ủng hộ cụ
túc thọ tŕ, cúng dường kinh quyển, hoa,
hương, anh lạc, mạt hương, đồ
hương, thiêu hương, phan, cái, kỹ nhạc, nhiên chủng
chủng đăng, tô đăng, du đăng, chư
hương du đăng, Tô Ma Na hoa du đăng, Chiêm Bặc
hoa du đăng, Bà Sư Ca hoa du đăng, Ưu Bát La hoa
du đăng. Như thị đẳng bách thiên chủng
cúng dường giả, Cao Đế! Nhữ đẳng cập
quyến thuộc ưng đương ủng hộ
như thị pháp sư.
(經)佛告諸羅剎女。善哉善哉。汝等但能擁護受持法華名者。福不可量。何況擁護具足受持供養經卷。華。香。瓔珞。末香。塗香。燒香。幡。葢。伎樂。然種種燈。酥燈。油燈。諸香油燈。酥摩那華油燈。薝蔔華油燈。婆師迦華油燈。優鉢羅華油燈。如是等百千種供養者。臯帝。汝等及眷屬應當擁護如是法師。
(Kinh: Đức Phật bảo
các La Sát nữ: - Lành thay! Lành thay! Các ngươi có thể ủng
hộ người thọ tŕ tên kinh Pháp Hoa, phước
đă chẳng thể lường, huống hồ ủng
hộ người thọ tŕ trọn vẹn quyển kinh,
cúng dường quyển
kinh bằng
hoa, hương, chuỗi anh lạc, hương bột,
hương bôi, hương đốt, phan, lọng, kỹ
nhạc, thắp các thứ đèn: Đèn thắp bằng
tô, đèn dầu, đèn thắp bằng các thứ dầu
thơm: Đèn dầu hoa Tô Ma Na, đèn dầu hoa Chiêm Bặc,
đèn dầu hoa Bà Sư Ca, đèn dầu hoa Ưu Bát La.
Trăm ngàn loại cúng dường như thế. Này Cao
Đế! Các ngươi và quyến thuộc hăy nên ủng
hộ pháp sư như thế).
Phần thứ ba, “xin phép
dùng thần chú” ủng hộ đă xong.
26.4. Nghe phẩm
này đạt được lợi ích
(Kinh) Thuyết thị Đà
La Ni phẩm thời, lục vạn bát thiên nhân đắc Vô
Sanh Pháp Nhẫn.
(經)說是陀羅尼品時。六萬八千人得無生法忍。
(Kinh: Khi nói phẩm
Đà La Ni này, sáu vạn tám ngàn người đắc Vô
Sanh Pháp Nhẫn).
Giải thích các bài chú trong phẩm
Đà La Ni đă xong; kế đó, giải thích phẩm Diệu
Trang Nghiêm Vương Bổn Sự.
27. Phẩm
thứ hai mươi bảy: Bổn Sự của vua Diệu
Trang Nghiêm (Diệu Trang Nghiêm vương bổn sự phẩm
đệ nhị thập thất, 妙莊嚴王本事品第二十七)
Nhân
duyên này xuất phát từ kinh khác. Trong thời Mạt Pháp của
quá khứ Phật, có bốn vị tỳ-kheo sanh ḷng trân trọng
tột bậc đối với kinh Pháp Hoa. Thoạt đầu, họ
nghiên cứu, t́m cầu, vẫn chẳng ngộ, bèn kết
bạn vào núi. Lại v́ trợ đạo gian nan, chẳng
thể chuyên tâm dốc chí. Một
người nói: “Bốn đứa ḿnh nghèo túng, thân c̣n chẳng
giữ nổi, pháp sẽ gởi gắm vào đâu? Ba
người các anh chỉ nên dốc hết tánh mạng
để tuân phụng đạo, chẳng cần lo
nghĩ. Tôi sẽ xả thân lực này, thề cung cấp
các thứ cần thiết”. Do vậy, ba người kia có
thể dốc trọn ḷng thành, công siêu nhiều kiếp,
c̣n người ấy do nhiều lượt lăn lộn
trong nhân gian, đạo lực chẳng vững, gặp cỗ
xe của vua, hâm mộ sự vinh hoa ấy, do phước
lực vun đắp, thuận theo ư niệm mà thọ báo,
thường được làm vua trong cơi người và
trên trời. Hưởng thụ đă lâu, dần dần dấy
lên lầm lỗi. Ba người kia do đạo nhăn trông
thấy, bàn bạc cùng nhau tế độ, biết người
ấy chấp dục, lại c̣n tà kiến. Nếu chẳng
dùng Ái để lôi kéo, sẽ không có cách nào cứu bạt!
V́ thế, một người làm vợ, hai người làm
con, chi tiết th́ như kinh này đă nói. Vợ tức là Diệu
Âm Bồ Tát. Vua chính là Hoa Đức Bồ Tát, hai con chính là
Dược Vương và Dược Thượng. Diệu
Âm hoằng kinh khắp chốn, Dược Vương nói
chú hộ pháp, lưu thông diệu điển. Tứ thánh (bốn
vị Bồ Tát tức Hoa Đức, Diệu Âm…) công sâu
xa, nói duyên trước của họ, cho nên gọi là phẩm
Diệu Trang Nghiêm Bổn Sự (đó là Thế Giới Tất
Đàn).
Lại
nữa, Diệu Trang Nghiêm là công đức của diệu
pháp trang nghiêm sáu căn. Vị vua này thuở trước có
duyên với diệu pháp. Lúc đạo được hun
đúc chín muồi, các căn đều thanh tịnh, tuy
chưa đạt Vô Sanh, nhưng Lư ắt đă thấu
đạt. V́ thế, điềm lành linh ứng cảm
thông, danh hiệu tốt lành đă sớm lập. Chẳng
hạn như ngài Thiện Cát (Tu Bồ Đề), tuy
chưa phải là hoàn toàn chẳng tranh chấp, đă có hiệu
là Không Sanh. Trong phần sau kinh văn có nói: “Bát vạn tứ
thiên tuế tinh tấn tu hành Diệu Pháp Hoa kinh, đắc
Nhất Thiết Tịnh Công Đức Trang Nghiêm tam-muội”
(trong tám vạn bốn ngàn năm tinh tấn tu hành kinh Diệu
Pháp Liên Hoa, đắc Nhất Thiết Tịnh Công Đức
Trang Nghiêm tam-muội). Do bởi nghĩa này, tên là Diệu
Trang Nghiêm (Danh hiệu tốt lành đă sớm lập, tức
là Vị Nhân Tất Đàn. Tinh tấn tu hành là Đối Trị
Tất Đàn. Đắc tam-muội là Đệ Nhất
Nghĩa Tất Đàn).
Xét
theo Bổn Tích, Tích là một phàm (vua Diệu Trang Nghiêm) ba
thánh (phu nhân Tịnh Đức và hai con, tức Tịnh Tạng
và Tịnh Nhăn). Bổn th́ cả bốn vị đều
là bậc đại Bồ Tát. V́ muốn hướng dẫn
quyến thuộc thuở ấy và các chúng sanh [mà thị hiện
như thế].
Xét
theo quán tâm, bất động đối với các kiến
mà thông đạt chánh kiến, thống lănh, chế ngự
chẳng sót, cho nên tên là Diệu Trang Nghiêm Vương.
Trong
tiết thứ tư, tức “hộ tŕ người khác”, của
phần “xét theo sự hóa độ người khác để
khuyên lưu thông [kinh Pháp Hoa]”, có sáu tiểu đoạn:
-
Một, nêu ra Sự Bổn.
-
Hai, cùng nêu ra người được giáo hóa và người
giáo hóa.
-
Ba, phương tiện để giáo hóa.
-
Bốn, người được giáo hóa đạt lợi
ích.
-
Năm, kết lại để dung hội xưa nay.
-
Sáu, nghe phẩm này ngộ đạo.
27.1. Nêu ra Sự
Bổn
(Kinh) Nhĩ thời, Phật
cáo chư đại chúng: - Năi văng cổ thế, quá vô
lượng vô biên bất khả tư nghị A-tăng-kỳ
kiếp, hữu Phật danh Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí
Đa-đà-a-già-độ, A-la-ha, Tam-miệu Tam-phật-đà,
quốc danh Quang Minh Trang Nghiêm, kiếp danh Hỷ Kiến.
(經)爾時佛告諸大眾。乃往古世。過無量無邊不可思議阿僧祇劫。有佛名雲雷音宿王華智多陀阿伽度阿羅訶三藐三佛陀。國名光明莊嚴。劫名喜見。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các đại
chúng: Vào
thời xưa kia, cách đây vô lượng vô biên chẳng
thể nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp, có Phật hiệu
là Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai (Jaladharagarjitaghoṣasusvaranakṣatrarājasaṃ-kusumitābhijña), Ứng Cúng, Chánh Biến
Tri, cơi nước tên là Quang Minh Trang Nghiêm (Vairocanaraśmipratimaṇḍitā),
kiếp tên là Hỷ Kiến - Priyadarśana)[11].
27.2. Cùng nêu
ra người được hóa độ và người
hóa độ
(Kinh) Bỉ Phật pháp trung,
hữu vương danh Diệu Trang Nghiêm. Kỳ vương
phu nhân, danh viết Tịnh Đức. Hữu nhị tử,
nhất danh Tịnh Tạng, nhị danh Tịnh Nhăn. Thị
nhị tử hữu đại thần lực, phước
đức, trí huệ, cửu tu Bồ Tát sở hành chi
đạo. Sở vị Đàn Ba La Mật, Thi La Ba La Mật,
Sạn Đề Ba La Mật, Tỳ Ly Da Ba La Mật, Thiền Ba La Mật, Bát Nhă Ba La Mật, Phương
Tiện Ba La Mật, từ bi hỷ xả, năi chí tam thập
thất phẩm trợ đạo pháp, giai tất minh liễu,
thông đạt. Hựu đắc Bồ Tát Tịnh tam-muội,
Nhật Tinh Tú tam-muội, Tịnh Quang tam-muội, Tịnh Sắc
tam-muội, Tịnh Chiếu Minh tam-muội, Trường Trang
Nghiêm tam-muội, Đại Oai Đức Tạng tam-muội.
Ư thử tam-muội, diệc tất thông đạt.
(經)彼佛法中有王。名妙莊嚴。其王夫人。名曰淨德。有二子。一名淨藏。二名淨眼。是二子有大神力。福德。智慧。久修菩薩所行之道。所謂檀波羅蜜。尸羅波羅密。羼提波羅蜜。毗離耶波羅蜜。禪波羅蜜。般若波羅蜜。方便波羅蜜。慈悲喜捨。乃至三十七品助道法。皆悉明了通達。又得菩薩淨三昧。日星宿三昧。淨光三昧。淨色三昧。淨照明三昧。長莊嚴三昧。大威德藏三昧。於此三昧。亦悉通達。
(Kinh:
Trong pháp của đức Phật ấy, có vua tên là Diệu Trang Nghiêm (Śubhavyūha)[12]. Phu nhân
của nhà vua tên là Tịnh Đức (Vimaladatta). Có hai
người con: Một tên là Tịnh Tạng (Vimalagarbha),
hai tên là Tịnh Nhăn (Vimalanetra). Hai người con ấy có
đại thần lực, phước đức, trí huệ,
đă tu tập đạo sở hành của Bồ Tát
đă lâu. Tức là Đàn Ba La Mật (Bố Thí Ba La Mật),
Thi La Ba La Mật (Tŕ Giới Ba La Mật), Sạn Đề
Ba La Mật (Nhẫn Nhục Ba La Mật), Tỳ Ly Da Ba La Mật
(Tinh Tấn Ba La Mật), Thiền Ba La Mật, Bát Nhă Ba La Mật,
Phương Tiện Ba La Mật, từ bi hỷ xả, cho
đến ba mươi bảy phẩm trợ đạo
pháp, thảy đều hiểu rơ, thông đạt. Lại
đắc Bồ Tát Tịnh tam-muội (Vimalasamādhi), Nhật
Tinh Tú tam-muội (Nakṣatrarājāditya), Tịnh Quang
tam-muội (Vimalanirbhāsa), Tịnh Sắc tam-muội (Vimalarūpa).
Tịnh Chiếu Minh tam-muội, Trường Trang Nghiêm tam-muội
(Alaṃkāraśubha), Đại Oai Đức Tạng tam-muội
(Mahā-tejogarbha).
Đối với các tam-muội ấy, cũng đều
thông đạt).
Vua
là người được giáo hóa; phu nhân và hai con là
người giáo hóa. Riêng nêu công đức của hai con:
Đại thần lực là “áo Như Lai”. Đại
phước đức là “nhà Như Lai”. Đại trí huệ
là “ṭa Như Lai”. Lục Độ
cộng thêm Phương Tiện thành bảy. Hoặc là từ
Quyền Huệ mở rộng thành Phương Tiện,
Nguyện, Lực, Trí, bèn thành Thập Độ. Nay chỉ
nói Phương Tiện, tức là gồm chung ba Độ
kia (Nguyện, Lực, Trí). Từ bi hỷ xả là Tứ
Vô Lượng Tâm. Ba mươi bảy phẩm (có kinh gọi các phẩm ấy là Chánh Đạo, v́ đó là huệ hạnh. Ở
đây là nói đến trợ đạo, do bảy khoa
được ghép thêm vào theo chiều dọc, ngụ ư: Thập
Độ là chánh đạo). Nhưng Thập Độ, Tứ Đẳng
(Tứ Vô Lượng Tâm) và ba mươi bảy phẩm của
Viên Giáo đều là vô tác diệu đạo xứng tánh,
chẳng phải chánh, chẳng phải trợ, một mực
tùy theo ư nghĩa mà gọi là chánh hay trợ đó thôi! Trong
Thiền có các tam-muội, mỗi phẩm trong đạo phẩm
cũng đều có tam-muội. Nay kinh văn nêu tên bảy
môn tam-muội, đều là dựa theo công dụng mà đặt
tên, chứ lư chẳng khác! Ĺa trọn vẹn tam cấu, th́ gọi là
Tịnh tam-muội. Thật Trí như mặt trời, Quyền
Trí như tinh tú, Quyền và Thật chẳng hai, gọi là
Nhật Tinh Tú tam-muội. Tánh thanh tịnh tỏa quang minh,
gọi là Tịnh Quang tam-muội. Hiện trọn khắp
các sắc thân, gọi là Tịnh Sắc tam-muội. Quang
minh của tự tánh thanh tịnh chiếu
rơ các pháp th́ gọi là Tịnh Chiếu
Minh tam-muội. Thị hiện trang nghiêm chẳng diệt
trong một thời gian dài, gọi là Trường Trang
Nghiêm tam-muội. Thập Lực oai đức chứa đựng các
pháp, gọi là Đại Oai Đức Tạng tam-muội.
27.3.
Phương tiện giáo hóa
27.3.1. Đă
tới lúc
(Kinh) Nhĩ thời, bỉ
Phật dục dẫn đạo Diệu Trang Nghiêm
vương, cập mẫn niệm chúng sanh cố, thuyết
thị Pháp Hoa kinh.
(經)爾時彼佛。欲引導妙莊嚴王。及愍念眾生故。說是法華經。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức
Phật ấy do muốn hướng dẫn vua Diệu
Trang Nghiêm và thương xót chúng sanh nên nói kinh Pháp Hoa này).
Đức
Phật ấy xuất thế, thường tuyên nói chánh
pháp, thấy căn cơ của nhà vua và chúng sanh đă chín
muồi, bèn nói pháp này. Nói kinh Pháp Hoa tức là lúc đắc
độ của nhà vua đă tới.
27.3.2. Bàn luận
(Kinh) Thời Tịnh Tạng,
Tịnh Nhăn nhị tử, đáo kỳ mẫu sở, hợp
thập chỉ trảo chưởng, bạch ngôn: “Nguyện
mẫu văng nghệ Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật sở,
ngă đẳng diệc đương
thị tùng, thân cận, cúng dường, lễ bái. Sở
dĩ giả hà? Thử Phật ư nhất thiết thiên
nhân chúng trung thuyết Pháp Hoa kinh, nghi ưng thính thọ”. Mẫu
cáo tử ngôn: “Nhữ phụ tín thọ ngoại đạo,
thâm trước Bà La Môn pháp. Nhữ đẳng ưng văng bạch
phụ, dữ cộng câu khứ”. Tịnh Tạng, Tịnh
Nhăn hợp thập chỉ trảo chưởng, bạch mẫu: “Ngă đẳng
thị pháp vương tử, nhi sanh thử tà kiến gia”.
Mẫu cáo tử ngôn: “Nhữ đẳng đương ưu niệm nhữ phụ,
vị hiện thần biến. Nhược đắc kiến
giả, tâm tất thanh tịnh, hoặc thính ngă đẳng
văng đáo Phật sở”.
(經)時淨藏。淨眼二子。到其母所。合十指爪掌白言。願母往詣雲雷音宿王華智佛所。我等亦當侍從。親近。供養。禮拜。所以者何。此佛於一切天人眾中說法華經。宜應聽受。母告子言。汝父信受外道。深著婆羅門法。汝等應往白父。與共俱去。淨藏。淨眼合十指爪掌白母。我等是法王子。而生此邪見家。母告子言。汝等當憂念汝父。為現神變。若得見者。心必清淨。或聽我等往到佛所。
(Kinh: Khi ấy, hai người
con là Tịnh Tạng và Tịnh Nhăn tới chỗ mẹ ḿnh,
chắp mười ngón tay, thưa rằng: “Xin mẹ tới
chỗ Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật, chúng con cũng
sẽ theo hầu, thân cận, cúng dường, lễ bái.
V́ lẽ nào vậy? Vị Phật ấy đang nói kinh Pháp
Hoa trong hết thảy đại chúng trời người,
hăy nên nghe nhận”. Mẹ bảo con rằng: “Cha con tin nhận
ngoại đạo, chấp sâu pháp Bà La Môn. Các con hăy nên
đến thưa với cha để cùng đi”. Tịnh
Tạng, Tịnh Nhăn chắp mười ngón tay, thưa với
mẹ: “Chúng con là pháp vương tử mà sanh vào nhà tà kiến
này”. Mẹ bảo con rằng: “Các con hăy nghĩ
thương cha ḿnh, mà hiện thần thông biến hóa. Nếu
cha con được thấy, tâm ắt thanh tịnh, chắc
sẽ cho phép chúng ta đến chỗ Phật”).
Con
thưa với mẹ “đă đến lúc”, mẹ bảo
con hóa độ cha. Con oán thán “sanh vào nhà tà kiến”, mẹ
quở trách, bảo hăy nghĩ thương xót cha. Đó là
xét theo hóa nghi (phương cách giáo hóa). Cơ duyên đă chín
muồi, cần phải nên phát khởi. Nếu xét theo Bổn,
mẹ lẫn con vốn biết. Nếu xét theo thói đời,
phải thưa với mẹ trước. Nếu xét theo
chuyện lợi tha, th́ ḷng Từ càng phải đặt
hàng đầu.
27.3.3. Hóa hiện
(Kinh) Ư thị, nhị tử
niệm kỳ phụ cố, dũng tại hư không, cao
thất Đa La thụ, hiện chủng chủng thần
biến. Ư hư không trung, hành, trụ, tọa, ngọa,
thân thượng xuất thủy, thân hạ xuất hỏa.
Thân hạ xuất thủy, thân thượng xuất hỏa.
Hoặc hiện đại thân măn hư không trung, nhi phục
hiện tiểu. Tiểu phục hiện đại, ư
không trung diệt, hốt nhiên tại địa. Nhập
địa như thủy, lư thủy như địa. Hiện
như thị đẳng chủng chủng thần biến,
linh kỳ phụ vương tâm tịnh tín giải.
(經)於是二子念其父故。涌在虛空。高七多羅樹。現種種神變。於虛空中。行。住。坐。臥。身上出水。身下出火。身下出水。身上出火。或現大身。滿虛空中。而復現小。小復現大。於空中滅。忽然在地。入地如水。履水如地。現如是等種種神變。令其父王心淨信解。
(Kinh: Ngay khi đó, hai người
con v́ nghĩ đến cha, vọt lên hư không cao bảy
cây Đa La, hiện các thứ thần biến: Ở trong
hư không, đi, đứng, ngồi, nằm. Phía trên thân
tuôn nước, phía dưới tuôn lửa. Phía dưới
thân tuôn nước, phía trên thân tuôn lửa. Hoặc hiện
thân lớn, đầy ắp hư không, hoặc lại hiện
thân nhỏ, nhỏ lại hiện lớn, biến mất trên không trung, bỗng hiện
ra nơi đất. Vào đất như nước,
đi trong nước như trên mặt đất. Hiện
các thứ thần biến như thế đó, khiến cho
phụ vương của họ tâm thanh tịnh, tin hiểu).
Phần thứ ba, “nói về phương tiện
hóa hiện” đă xong.
27.4. Người
được giáo hóa đạt được lợi ích
27.4.1. Do tin
con bèn kính phục thầy [của con]
(Kinh) Thời phụ kiến
tử thần lực như thị, tâm đại hoan hỷ,
đắc vị tằng hữu, hiệp chưởng
hướng tử ngôn: “Nhữ đẳng sư vi thị
thùy? Thùy chi đệ tử?” Nhị tử bạch ngôn:
“Đại vương! Bỉ Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí
Phật kim tại thất bảo Bồ Đề thụ
hạ pháp ṭa thượng tọa, ư nhất thiết thế
gian thiên nhân chúng trung, quảng thuyết Pháp Hoa kinh thị
ngă đẳng sư, ngă thị đệ tử”. Phụ ngữ
tử ngôn: “Ngă kim diệc dục kiến nhữ đẳng
sư, khả cộng câu văng”.
(經)時父見子神力如是。心大歡喜。得未曾有。合掌向子言。汝等師為是誰。誰之弟子。二子白言。大王。彼雲雷音宿王華智佛。今在七寶菩提樹下法座上坐。於一切世間天人眾中廣說法華經。是我等師。我是弟子。父語子言。我今亦欲見汝等師。可共俱往。
(Kinh:
Khi đó, cha thấy thần lực của con như thế,
tâm hết sức hoan hỷ, đạt được
điều chưa từng có, chắp thay, hướng về
con, nói: “Thầy của các con là ai? Con là đệ tử của
ai?” Hai con thưa rằng: “Tâu đại vương! Vân Lôi
Âm Tú Vương Hoa Trí Phật đang ngồi trên pháp ṭa bảy
báu dưới cội cây Bồ Đề, ở trong hết
thảy đại chúng trời người nơi thế
gian mà rộng nói kinh Pháp Hoa là thầy của con, con là đệ
tử”. Cha bảo con: “Ta nay cũng muốn thấy thầy
của các con, có thể cùng đi”).
Nhà
vua xưa kia tin nhận ngoại đạo, được
trông thấy các sự biến hóa tà vạy [của ngoại
đạo] chẳng qua là một hoặc hai chuyện,
đă hẹp c̣n vụng. Do đó, nay thấy thần biến
của con liền tin nhận, cầu kiến.
27.4.2.
Thưa với mẹ xin xuất gia
(Kinh) Ư thị, nhị tử
tùng không trung hạ, đáo kỳ mẫu sở, hiệp
chưởng bạch mẫu: “Phụ vương kim dĩ
tín giải, kham nhậm phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam
Bồ Đề tâm. Ngă đẳng vị phụ dĩ tác
Phật sự, nguyện mẫu kiến thính, ư bỉ
Phật sở, xuất gia tu đạo”. Nhĩ thời nhị
tử, dục trùng tuyên kỳ ư, dĩ kệ bạch mẫu:
“Nguyện mẫu phóng ngă đẳng, xuất gia tác sa-môn.
Chư Phật thậm nan trị, ngă đẳng tùy Phật
học, như Ưu Đàm Bát hoa, trị Phật phục
nan thị. Thoát chư nạn diệc nan. Nguyện thính ngă
xuất gia”. Mẫu tức cáo ngôn: - Thính nhữ xuất gia,
sở dĩ giả hà? Phật nan trị cố.
(經)於是二子從空中下。到其母所。合掌白母。父王今已信解。堪任發阿耨多羅三藐三菩提心。我等為父已作佛事。願母見聽。於彼佛所出家修道。爾時二子。欲重宣其意。以偈白母。願母放我等。出家作沙門。諸佛甚難值。我等隨佛學。如優曇鉢華。值佛復難是。脫諸難亦難。願聽我出家。母即告言。聽汝出家。所以者何。佛難值故。
(Kinh:
Khi đó, hai con từ không trung hạ xuống, đến
chỗ mẹ, chắp tay thưa với mẹ: “Nay cha
đă tin hiểu, kham phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác. Chúng con đă v́ cha làm Phật sự. Mong mẹ cho
phép [chúng con] xuất gia tu đạo nơi đức Phật ấy”.
Lúc bấy giờ, hai người con muốn nhắc lại
ư này, bèn nói kệ rằng: “Xin buông xả chúng con, xuất gia
làm sa-môn. Chư Phật rất khó gặp, chúng con theo Phật
học, như hoa Ưu Đàm Bát, gặp Phật khó hơn
thế. Muốn thoát nạn cũng khó, xin cho con xuất
gia”. Mẹ liền bảo rằng: “Cho phép các con xuất
gia. V́ lẽ nào vậy? Do Phật khó gặp gỡ”).
Vua cha đă tin, [căn cơ] của tám vạn
bốn ngàn người trong cung lại chín muồi. V́ thế,
thưa cùng mẹ, ca tụng, vui mừng, mong cầu xuất
gia, mẹ cũng chấp thuận.
27.4.3. Lại
thúc giục [cha mẹ] đến gặp Phật
(Kinh) Ư thị, nhị tử
bạch phụ mẫu ngôn: - Thiện tai phụ mẫu!
Nguyện thời văng nghệ Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí
Phật sở thân cận, cúng dường. Sở dĩ giả
hà? Phật nan đắc trị, như Ưu Đàm Bát La hoa.
Hựu như nhất nhăn chi quy, trị phù mộc khổng,
nhi ngă đẳng túc phước thâm hậu, sanh trị Phật
pháp. Thị cố phụ mẫu! Đương thính ngă
đẳng linh đắc xuất gia. Sở dĩ giả
hà? Chư Phật nan trị, thời diệc nan ngộ.
(經)於是二子白父母言。善哉。父母。願時往詣雲雷音宿王華智佛所親近供養。所以者何。佛難得值。如優曇鉢羅華。又如一眼之龜。值浮木孔。而我等宿福深厚。生值佛法。是故父母。當聽我等令得出家。所以者何。諸佛難值。時亦難遇。
(Kinh: Khi đó, hai con thưa với
cha mẹ rằng: - Lành thay thưa cha mẹ! Xin hăy kịp
thời đến chỗ Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật
để thân cận, cúng dường. V́ lẽ nào vậy?
Phật khó thể gặp gỡ, như hoa Ưu Đàm Bát
La[13], như
con rùa một mắt gặp được bộng gỗ
nổi[14],
nhưng chúng ta do túc phước sâu dày, sanh nhằm lúc gặp
gỡ Phật pháp. V́ thế, cha mẹ hăy nên cho phép con xuất gia, v́ sao
vậy? Chư Phật khó gặp gỡ, thời cũng khó
gặp gỡ).
“Nhất
nhăn quy” (con rùa một mắt): Xét theo sự, chỉ là
thí dụ về sự khó gặp gỡ. Nếu xét theo sự
biểu pháp, phàm mắt cá hay rùa đều là dùng hai mắt
để nh́n. Đă nói là “một mắt” th́ sẽ thấy chẳng chánh đáng, ở
trong biển sanh tử lại là tà kiến, há có thể gặp
được bọng gỗ nổi Thật Đế của
Phật pháp ư?
27.4.4.Trần
thuật công đức tán thán
(Kinh) Bỉ thời, Diệu
Trang Nghiêm vương hậu cung bát vạn tứ thiên nhân,
giai tất kham nhậm thọ tŕ thị Pháp Hoa kinh. Tịnh Nhăn Bồ
Tát ư Pháp Hoa tam-muội cửu dĩ thông đạt. Tịnh
Tạng Bồ Tát dĩ ư vô lượng bách thiên vạn
ức kiếp thông đạt Ly Chư Ác Thú tam-muội, dục
linh nhất thiết chúng sanh ly chư ác thú cố. Kỳ
vương phu nhân đắc Chư Phật Tập tam-muội,
năng tri chư Phật bí mật chi tạng. Nhị tử
như thị dĩ phương tiện lực thiện
hóa kỳ phụ, linh tâm tín giải, hảo nhạo Phật
pháp.
(經)彼時妙莊嚴王後宮八萬四千人。皆悉堪任受持是法華經。淨眼菩薩於法華三昧久已通達。淨藏菩薩。已於無量百千萬億劫通達離諸惡趣三昧。欲令一切眾生離諸惡趣故。其王夫人。得諸佛集三昧。能知諸佛秘密之藏。二子如是以方便力。善化其父。令心信解。好樂佛法。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, tám vạn bốn ngàn người
trong hậu cung của vua Diệu Trang Nghiêm thảy đều
kham nhiệm, thọ tŕ kinh Pháp Hoa này. Tịnh Nhăn Bồ Tát
đă thông đạt Pháp Hoa (Saddharmapuṇḍarīka)
tam-muội từ lâu. Tịnh Tạng Bồ Tát đă trong vô
lượng trăm ngàn vạn ức kiếp thông đạt
Ly Chư Ác Thú tam-muội (Sarvasattvapāpajahana), v́ muốn
khiến cho hết thảy chúng sanh ĺa các đường
ác. Phu nhân của nhà vua đắc Chư Phật Tập (Sarvabuddhasaṃgīti)
tam-muội, có thể biết tạng bí mật của
chư Phật. Hai con dùng sức phương tiện
như thế khéo giáo hóa cha ḿnh, khiến cho tâm cha tin hiểu,
ưa thích Phật pháp).
Pháp
Hoa tam-muội nhiếp hết thảy các pháp quy vào Nhất
Thật Tướng như trong phần trước đă
nói. Ly Chư Ác Thú tam-muội: Cửu giới Tam Hoặc là cái
có thể tiến nhập [đường ác], hai loại
sanh tử (Biến Dịch và Phần Đoạn) là cái
được tiến nhập. Viên đạo chánh định
có thể ĺa [các đường ác], tức là hai mươi
lăm môn vương tam-muội phá trọn vẹn hai
mươi lăm Hữu. Phật Tập tam-muội là tạng
Tam Đức bí mật. Phật nhóm họp trong ấy, chỉ
có nơi đó là hành xứ của Phật.
27.4.5. Cùng
đến chỗ Phật nghe pháp, cúng dường, thấy
tướng lành hoan hỷ
(Kinh) Ư thị, Diệu
Trang Nghiêm vương dữ quần thần quyến thuộc
câu. Tịnh Đức phu nhân dữ hậu cung thể nữ
quyến thuộc câu. Kỳ vương nhị tử, dữ
tứ vạn nhị thiên nhân câu, nhất thời cộng
nghệ Phật sở. Đáo dĩ, đầu diện lễ
túc, nhiễu Phật tam táp, khước trụ nhất diện.
Nhĩ thời, bỉ Phật vị vương thuyết
pháp, thị giáo lợi hỷ. Vương đại hoan
duyệt. Nhĩ thời, Diệu Trang Nghiêm vương cập
kỳ phu nhân, giải cảnh chân châu anh lạc giá trị
bách thiên, dĩ tán Phật thượng. Ư hư không
trung, hóa thành tứ trụ bảo đài. Đài trung hữu
đại bảo sàng, phu bách thiên vạn thiên y. Kỳ thượng
hữu Phật kết gia phu tọa, phóng đại quang
minh. Nhĩ thời, Diệu Trang Nghiêm vương tác thị
niệm: “Phật thân hy hữu, đoan nghiêm thù đặc,
thành tựu đệ nhất vi diệu chi sắc”.
(經)於是妙莊嚴王。與群臣眷屬俱。淨德夫人。與後宮采女眷屬俱。其王二子。與四萬二千人俱。一時共詣佛所。到已。頭面禮足。繞佛三帀。郤住一面。爾時彼佛。為王說法。示教利喜。王大歡悅。爾時妙莊嚴王及其夫人。解頸真珠瓔珞。價直百千以散佛上。於虛空中化成四柱寶臺。臺中有大寶牀。敷百千萬天衣。其上有佛結加趺坐。放大光明。爾時妙莊嚴王作是念。佛身希有。端嚴殊特。成就第一微妙之色。
(Kinh:
Khi đó, vua Diệu Trang Nghiêm cùng với quần thần,
quyến thuộc, phu nhân Tịnh Đức cùng với các
thể nữ và quyến thuộc trong hậu cung, hai người
con của nhà vua cùng
với bốn vạn hai ngàn người, đồng thời
cùng đến chỗ đức Phật. Đă đến
nơi, đầu mặt lễ dưới chân, nhiễu quanh
đức Phật ba ṿng, rồi lui ra đứng một bên. Lúc bấy
giờ, đức Phật ấy v́ nhà vua thuyết pháp, chỉ
dạy khiến cho được lợi ích, vui mừng.
Vua hết sức vui sướng. Lúc bấy giờ, vua Diệu
Trang Nghiêm và phu nhân tháo chuỗi chân châu anh lạc đeo ở
cổ, giá trị trăm ngàn, để rải lên trên đức
Phật. Ở trong hư không, hóa thành đài báu có bốn trụ.
Trong đài có giường báu lớn, phủ trăm ngàn vạn áo trời báu.
Trên đó, có
Phật ngồi xếp bằng, tỏa quang minh to lớn. Lúc
bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm nghĩ thế này: “Thân
Phật hy hữu, đoan nghiêm đặc biệt thù thắng,
thành tựu h́nh sắc vi diệu bậc nhất”).
Thành
tựu h́nh sắc vi diệu bậc nhất giống
như long nữ đă tán thán “Pháp Thân thanh tịnh vi diệu,
trọn đủ ba mươi hai tướng”. Đă
ngộ Thật Tướng của sắc thân, cho nên Phật
liền thọ kư.
27.4.6. Phật
thọ kư cho nhà vua
(Kinh) Thời, Vân Lôi Âm Tú
Vương Hoa Trí Phật cáo tứ chúng ngôn: - Nhữ đẳng
kiến thị Diệu Trang Nghiêm vương, ư ngă tiền
hiệp chưởng lập phủ? Thử vương
ư ngă pháp trung tác tỳ-kheo, tinh cần tu tập trợ
Phật đạo pháp, đương đắc tác Phật,
hiệu Sa La Thụ Vương. Quốc danh Đại
Quang, kiếp danh Đại Cao Vương. Kỳ Sa La Thụ
Vương Phật hữu vô lượng Bồ Tát chúng, cập
vô lượng Thanh Văn. Kỳ quốc b́nh chánh, công đức
như thị.
(經)時雲雷音宿王華智佛告四眾言。汝等見是妙莊嚴王。於我前合掌立不。此王於我法中作比丘。精勤修習助佛道法。當得作佛。號娑羅樹王。國名大光。劫名大高王。其娑羅樹王佛。有無量菩薩眾。及無量聲聞。其國平正。功德如是。
(Kinh: Khi đó, Vân Lôi Âm Tú
Vương Hoa Trí Phật bảo tứ chúng rằng: - Các
ông có thấy vua Diệu Trang Nghiêm đang đứng chắp
tay trước mặt ta hay không? Vị vua này làm tỳ-kheo
trong pháp của ta, siêng năng chuyên ṛng tu tập trợ Phật
đạo pháp, sẽ được thành Phật, hiệu
là Sa La Thụ Vương (Śālendrarāja)[15], cơi
nước tên là Đại Quang (Vistīrṇavatī), kiếp
tên là Đại Cao Vương (Abhyudgatarāja). Vị Sa La
Thụ Vương Phật này có vô lượng Bồ Tát
chúng, và vô lượng Thanh Văn. Cơi ấy bằng phẳng,
công đức như thế).
27.4.7. Xuất
gia tu hành
(Kinh) Kỳ vương tức
thời dĩ quốc phó đệ, dữ phu nhân, nhị tử,
tịnh chư quyến thuộc, ư Phật pháp trung, xuất gia tu đạo.
Vương xuất gia dĩ, ư bát vạn tứ thiên tuế,
thường cần tinh tấn, tu hành Diệu Pháp Hoa kinh.
Quá thị dĩ hậu, đắc Nhất Thiết Tịnh
Công Đức Trang Nghiêm tam-muội.
(經)其王即時以國付弟。與夫人二子幷諸眷屬。於佛法中出家修道。王出家已。於八萬四千歲。常勤精進。修行妙法華經。過是已後。得一切淨功德莊嚴三昧。
(Kinh: Vị vua ấy ngay lập
tức đem nước giao cho em trai, cùng với phu nhân,
hai con, và các quyến thuộc xuất gia tu đạo trong
Phật pháp. Vua đă xuất gia, trong tám vạn bốn ngàn
năm, thường siêng năng tinh tấn, tu hành kinh Diệu
Pháp Liên Hoa. Sau thời gian đó, đạt được
Nhất Thiết Tịnh Công Đức Trang Nghiêm (Sarvaguṇālaṃkāravyūha)
tam-muội).
27.4.8. Ca ngợi
hai con
(Kinh) Tức thăng hư
không, cao thất Đa La thụ, nhi bạch Phật ngôn: -
Thế Tôn! Thử ngă nhị tử, dĩ tác Phật sự,
dĩ thần thông biến hóa, chuyển ngă tà tâm, linh đắc
an trụ ư Phật pháp trung, đắc kiến Thế
Tôn. Thử nhị tử giả, thị ngă thiện tri thức,
vị dục phát khởi túc thế thiện căn, nhiêu
ích ngă cố, lai sanh ngă gia.
(經)即升虛空。高七多羅樹。而白佛言。世尊。此我二子。已作佛事。以神通變化。轉我邪心。令得安住於佛法中。得見世尊。此二子者。是我善知識。為欲發起宿世善根。饒益我故。來生我家。
(Kinh: Liền bay lên hư
không cao bảy cây Đa La, bạch cùng đức Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Hai đứa con này của con đă
làm Phật sự, dùng thần thông biến hóa chuyển tà
tâm của con, khiến cho con được an trụ trong
Phật pháp, được thấy đức Thế Tôn.
Hai đứa con này là thiện tri thức của con, v́ muốn
phát khởi thiện căn đời trước, lợi
lạc con mà sanh vào nhà con).
27.4.9. Đức
Phật trần thuật hạnh cao vời [của hai
vương tử]
(Kinh) Nhĩ thời, Vân Lôi Âm
Tú Vương Hoa Trí Phật cáo Diệu Trang Nghiêm
vương ngôn: - Như thị, như thị. Như nhữ
sở ngôn. Nhược thiện nam tử, thiện nữ
nhân chủng thiện căn cố, thế thế đắc
thiện tri thức. Kỳ thiện tri thức năng tác
Phật sự, thị giáo lợi hỷ, linh nhập A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Đại
vương đương tri: Thiện tri thức giả,
thị đại nhân duyên. Sở dĩ hóa đạo, linh
đắc kiến Phật, phát A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề tâm. Đại vương! Nhữ kiến
thử nhị tử phủ? Thử nhị tử dĩ tằng
cúng dường lục thập ngũ bách thiên vạn ức
na-do-tha hằng hà sa chư Phật, thân cận, cung kính,
ư chư Phật sở, thọ tŕ Pháp Hoa kinh, mẫn niệm
tà kiến chúng sanh, linh trụ chánh kiến.
(經)爾時雲雷音宿王華智佛。告妙莊嚴王言。如是如是。如汝所言。若善男子。善女人種善根故。世世得善知識。其善知識。能作佛事。示教利喜。令入阿耨多羅三藐三菩提。大王當知。善知識者。是大因緣。所以化導。令得見佛。發阿耨多羅三藐三菩提心。大王。汝見此二子不。此二子已曾供養六十五百千萬億那由他恆河沙諸佛。親近恭敬。於諸佛所。受持法華經。愍念邪見眾生令住正見。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Vân Lôi Âm
Tú Vương Hoa Trí Phật bảo vua Diệu Trang Nghiêm rằng:
- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Đúng
như lời ông đă nói. Nếu thiện nam tử, thiện
nữ nhân do đă gieo căn lành, đời đời sẽ
có thiện tri thức. Vị thiện tri thức ấy có
thể làm Phật sự, chỉ dạy khiến cho lợi
lạc, hoan hỷ, khiến cho người ấy nhập Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đại
vương hăy nên biết: Thiện tri thức là nhân duyên to
lớn, bởi có thể giáo hóa, hướng dẫn, khiến
cho được thấy Phật, phát tâm Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác. Đại vương! Ông có thấy
hai người con này hay chăng? Hai người con này
đă từng cúng dường sáu mươi lăm trăm
ngàn vạn ức na-do-tha hằng hà sa chư Phật, thân cận,
cung kính. Ở chỗ
chư Phật thọ tŕ kinh Pháp Hoa, nghĩ thương xót
chúng sanh tà kiến, khiến cho họ trụ trong chánh kiến).
Thiện
tri thức có ba loại: Một là ngoại hộ, hai là
đồng hạnh, ba là giáo thọ (dạy bảo). Lại
có ba loại: Một là chư Phật, Bồ Tát; hai là đạo
phẩm Lục Độ; ba là thực tế Thật
Tướng. Sáu loại tri thức đều có thể làm
Phật sự. Hai loại giáo thọ và Phật, Bồ Tát
có thể chỉ dạy tạo lợi ích, hoan hỷ. Ba loại
giáo thọ, đồng hạnh và các Bồ Tát có thể
giáo hóa, hướng dẫn khiến cho được thấy
Phật. Thật Tướng thực tế có thể khiến
cho nhập Bồ Đề. Sáu loại [thiện tri thức
ấy] đều có sức toàn vẹn, trọn chẳng thể
khuyết. V́ thế nói là “đại nhân duyên”.
27.4.10. [Vua]
tán thán Phật, tự thề
(Kinh) Diệu Trang Nghiêm
vương tức tùng hư không trung hạ, nhi bạch Phật
ngôn: “Thế Tôn! Như Lai thậm hy hữu, dĩ công đức,
trí huệ cố, đảnh thượng nhục kế,
quang minh hiển chiếu. Kỳ nhăn trường quảng,
nhi cám thanh sắc. Mi gian hào tướng, bạch như kha
nguyệt. Xỉ bạch tề mật, thường hữu
quang minh. Thần sắc xích hảo như tần bà quả”.
Nhĩ thời, Diệu Trang Nghiêm vương tán thán Phật
như thị đẳng vô lượng bách thiên vạn ức
công đức dĩ, ư Như Lai tiền, nhất tâm hiệp
chưởng, phục bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Vị
tằng hữu dă, Như Lai chi pháp cụ túc thành tựu bất
khả tư nghị vi diệu công đức, giáo giới
sở hành, an ổn khoái thiện. Ngă tùng kim nhật, bất
phục tự tùy tâm hạnh, bất sanh tà kiến, kiêu, mạn,
sân khuể, chư ác chi tâm”. Thuyết thị ngữ
dĩ, lễ Phật nhi xuất.
(經)妙莊嚴王。即從虛空中下。而白佛言。世尊。如來甚希有。以功德智慧故。頂上肉髻。光明顯照。其眼長廣。而紺青色。眉間毫相。白如珂月。齒白齊密。常有光明。脣色赤好。如頻婆果。爾時妙莊嚴王。讚歎佛如是等無量百千萬億功德已。於如來前一心合掌。復白佛言。世尊。未曾有也。如來之法。具足成就不可思議微妙功德。教戒所行。安隱快善。我從今日。不復自隨心行。不生邪見。憍慢。瞋恚諸惡之心。說是語已。禮佛而出。
(Kinh: Vua Diệu Trang Nghiêm liền
từ hư không hạ xuống, bạch cùng đức Phật
rằng: “Bạch Thế Tôn! Như Lai rất hy hữu, do
công đức trí huệ mà nhục kế trên đỉnh
đầu, quang minh chiếu rạng ngời. Mắt Ngài
dài rộng, có sắc xanh biếc. Tướng bạch hào
giữa hai mày trắng như kha nguyệt[16]. Răng
trắng, kín, ngay ngắn, thường có quang minh. Màu môi
đỏ đẹp, như trái Tần Bà”[17]. Lúc bấy
giờ, vua Diệu Trang Nghiêm tán thán vô lượng trăm
ngàn vạn ức công đức của Phật như thế
xong, liền đối trước Như Lai, nhất tâm
chắp tay. Lại bạch cùng đức Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Chưa từng có vậy. Pháp của
Như Lai thành tựu trọn đủ công đức vi diệu
chẳng thể nghĩ bàn, dạy răn, tu hành an ổn, vui sướng, tốt lành. Từ hôm nay trở
đi, con chẳng c̣n thuận theo tâm hạnh của chính
ḿnh, chẳng sanh tà kiến, kiêu, mạn, sân khuể, các tâm
xấu ác”. Nói lời ấy xong, lễ Phật lui ra).
Liễu
đạt sâu xa Thật Tướng. V́ thế, ngoài th́ khâm
ngưỡng Phật đức, trong là sửa đổi
tâm ḿnh, như liễu ngộ “băng và nước có
cùng một tánh ướt”. Dùng nước nóng để
tiêu băng, vĩnh viễn chẳng c̣n đông cứng nữa.
Phần thứ tư, “nói về sự lợi ích do
được giáo hóa” đă xong!
27.5. Kết
lại để dung hội cổ kim
(Kinh) Phật cáo đại chúng:
- Ư ư vân hà? Diệu Trang Nghiêm vương khởi dị
nhân hồ? Kim Hoa Đức Bồ Tát thị. Kỳ Tịnh
Đức phu nhân, kim Phật Tiền Quang Chiếu Trang
Nghiêm Tướng Bồ Tát thị, ai mẫn Diệu Trang
Nghiêm vương cập chư quyến thuộc cố,
ư bỉ trung sanh. Kỳ nhị tử giả, kim Dược
Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát thị.
Thị Dược Vương, Dược Thượng Bồ
Tát thành tựu như thử chư đại công đức,
dĩ ư vô lượng bách thiên vạn ức chư Phật
sở, thực chúng đức bổn, thành tựu bất
khả tư nghị chư thiện công đức. Nhược
hữu nhân thức thị nhị Bồ Tát danh tự giả,
nhất thiết thế gian chư thiên nhân dân diệc
ưng lễ bái.
(經)佛告大眾。於意云何。妙莊嚴王。豈異人乎。今華德菩薩是。其淨德夫人。今佛前光照莊嚴相菩薩是。哀愍妙莊嚴王及諸眷屬故。於彼中生。其二子者。今藥王菩薩。藥上菩薩是。是藥王藥上菩薩。成就如此諸大功德。已於無量百千萬億諸佛所。植眾德本。成就不可思議諸善功德。若有人識是二菩薩名字者。一切世間諸天人民亦應禮拜。
(Kinh: Đức Phật bảo
đại chúng: - Ư các ông nghĩ sao? Vua Diệu Trang Nghiêm há
có phải ai khác? Nay chính là Hoa Đức (Padmaśrī) Bồ
Tát. Phu nhân Tịnh Đức nay là Phật Tiền Quang Chiếu
Trang Nghiêm Tướng[18] Bồ
Tát (Vairocanaraśmipratimaṇḍitādhvajarāja), do
thương xót vua Diệu Trang Nghiêm và các quyến thuộc
mà sanh trong cơi ấy. Hai người con nay là Dược
Vương (Bhaiṣajyarāja) Bồ Tát và Dược
Thượng (Bhaiṣajyasamudgata) Bồ Tát, thành tựu các công
đức to lớn như thế, đă ở chỗ vô
lượng trăm ngàn vạn ức chư Phật, gieo
các cội đức, thành tựu các thiện công đức
chẳng thể nghĩ bàn. Nếu có người nào nhận
biết danh tự của hai vị Bồ Tát ấy, hết
thảy chư thiên và nhân dân trong thế gian cũng phải
nên lễ bái).
27.6. Nghe phẩm
này ngộ đạo
(Kinh) Phật thuyết thị
Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự phẩm thời,
bát vạn tứ thiên nhân viễn trần ly cấu, ư
chư pháp trung, đắc pháp nhăn tịnh.
(經)佛說是妙莊嚴王本事品時。八萬四千人。遠塵離垢。於諸法中得法眼淨。
(Kinh:
Khi đức Phật nói phẩm Diệu Trang Nghiêm
Vương Bổn Sự, tám vạn bốn ngàn người
xa ĺa trần cấu, ở trong các pháp, đắc pháp nhăn tịnh).
Ở
trong các pháp, đắc pháp nhăn tịnh, tức là soi tỏ
trọn khắp ba ngàn tướng tánh của
các pháp giả thật, thông
đạt chẳng vướng mắc, chẳng đắm
nhiễm. Hoặc là phần chứng, hoặc là tương
tự hậu tâm. Phần thứ hai, “xét theo sự hóa độ
người khác để khuyên lưu thông” đă xong.
28. Phẩm
thứ hai mươi tám: Phổ Hiền Bồ Tát khuyên
lơn, phát khởi lưu thông (Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát
lưu thông phẩm đệ nhị thập bát, 普賢菩薩勸發品第二十八)
[Phổ
Hiền trong] tiếng Phạn là Bật Thâu Bạt Đà
(Viśvabhadra), Đại Luận và Quán Kinh đều dịch
nghĩa là Biến Cát (徧吉, tốt lành
trọn khắp). Kinh này dịch là Phổ Hiền. Phổ
có nghĩa là Biến (trọn khắp), Hiền nghĩa là
Cát. Đẳng Giác cao tột nhất trong những người
đă chế phục Hoặc, phục đạo[19]
trọn khắp. V́ thế gọi là Phổ. Đoạn
đạo sắp hết, gần như chẳng c̣n mấy,
đă gần với địa vị cùng tột, cho nên gọi
là Hiền. Như trăng đêm Mười Bốn, gần
giống trăng đêm Rằm. Kinh Đại Phật
Đảnh nói: “Ngă dụng tâm văn, phân biệt chúng
sanh sở hữu tri kiến. Nhược ư tha
phương Hằng sa giới ngoại, hữu nhất chúng sanh tâm trung phát minh Phổ Hiền
hạnh giả, ngă thừa lục nha tượng, phân thân
bách thiên, giai chí kỳ xứ. Túng bỉ chướng thâm, vị
đắc kiến ngă, ngă dữ kỳ nhân ám trung ma đảnh,
ủng hộ, an úy, linh kỳ thành tựu” (Ta dùng tâm để nghe,
phân biệt tất cả tri kiến của chúng sanh. Nếu
ở ngoài các thế giới nhiều
như cát sông Hằng nơi phương khác, có một
chúng sanh trong tâm phát khởi hạnh Phổ Hiền, ta sẽ
cưỡi voi sáu ngà, phân thân trăm ngàn, đều đến
chỗ người ấy. Nếu người ấy
chướng sâu, chưa được thấy ta, ta sẽ
âm thầm xoa đầu người ấy, ủng hộ,
an ủi, khiến cho người ấy thành tựu). Nay
nói “khuyến phát” tức từ ngữ [ngụ ư] “luyến mộ pháp”. [Phổ Hiền Bồ Tát] ở nơi
nước xa kia, đă nghe trọn vẹn kinh này từ
đầu đến đuôi, muốn tự hành và giáo hóa
người khác vĩnh viễn chẳng ngơi. V́ thế,
Ngài từ phương Đông đến [cơi Sa Bà], ḥng thỉnh chánh thuyết, khuyên lơn phát
khởi [chúng sanh nghe kinh] hăy tự hành, c̣n thưa hỏi
[phương cách] lưu thông, khuyến phát hóa độ
người khác. Lại c̣n dùng thệ nguyện để
khuyến phát chung. Kinh văn [trong phẩm
này] có đủ bốn ư nghĩa Tất Đàn:
- Ta v́ cúng dường kinh
Pháp Hoa mà tự hiện thân ḿnh. Nếu thấy thân ta, [hành
nhân] sẽ hết sức hoan hỷ. Đó là Thế Giới
Tất Đàn.
- Do thấy thân ta, càng thêm
tinh tấn, liền đắc tam-muội và Đà La Ni.
Đó là Vị Nhân Tất Đàn.
- Chẳng có phi nhân nào có thể
phá hoại, cũng chẳng bị nữ nhân mê hoặc, làm
rối loạn, tức là Đối Trị Tất Đàn.
- Bồ Tát nhiều như số
vi trần trong một cơi nước trọn đủ
đạo Phổ Hiền, tức là Đệ Nhất
Nghĩa Tất Đàn.
Dùng bốn môn Tất Đàn ấy làm nhân duyên, cho nên Ngài đến [thế
giới Sa Bà] để khuyến phát. Trong phần trước,
đă phán định phần Lưu Thông [của kinh Pháp Hoa]
được chia thành ba tiết:
- Hai phẩm Như Lai Thần
Lực và Chúc Lụy nói về chuyện phó chúc lưu thông.
- Năm phẩm từ Dược
Vương trở đi, nêu ra sức hóa đạo (giáo
hóa, hướng dẫn) to lớn của Bồ Tát để
khuyên lưu thông.
- Phẩm này nêu ra sức thệ
nguyện rộng lớn của Phổ Hiền Bồ Tát
để khuyên lưu thông.
Kinh văn được
chia làm bốn tiết:
- Một, Bồ Tát đến
cơi này.
- Hai, phát khởi [lưu
thông] bằng cách khuyên nhủ.
- Ba, phát khởi bằng cách
trần thuật.
- Bốn, lợi ích do khuyến
phát.
28.1. Bồ Tát đến cơi này
28.1.1. Dâng cúng
(Kinh)
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ
Tát dĩ tự tại thần thông lực, oai đức
danh văn, dữ đại Bồ Tát vô lượng vô biên
bất khả xưng số, tùng Đông phương lai. Sở
kinh chư quốc, phổ giai chấn động, vũ bảo
liên hoa, tác vô lượng bách thiên vạn ức chủng chủng
kỹ nhạc.
(經)爾時普賢菩薩。以自在神通力。威德名聞。與大菩薩無量無邊不可稱數。從東方來。所經諸國。普皆震動。雨寶蓮華。作無量百千萬億種種伎樂。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Phổ Hiền Bồ Tát
do sức thần thông tự tại mà oai đức vang dội,
cùng với các vị đại Bồ Tát vô lượng vô
biên chẳng thể tính kể từ phương Đông
đến. Các cơi nước đi qua khắp đều
chấn động, mưa hoa sen báu, tấu vô lượng
trăm ngàn ức các thứ kỹ nhạc).
“Tự tại” là Lư Nhất.
“Thần thông” là Hạnh Nhất. “Oai đức”
là Nhân Nhất. “Danh văn” là Giáo Nhất. Lại nữa,
“tự tại” là Thường, “thần thông” là
Lạc, “oai đức” là Ngă, “danh văn” là Tịnh.
Nói như thế th́ một chính là bốn, không đức
nào chẳng trọn! Do oai đức nên chấn động.
Do nổi danh nên tuôn mưa hoa. Do thần thông nên tấu nhạc.
Do tự tại cho nên [các cơi Ngài đi qua]
đều động theo. Thuận theo mà mưa, thuận
theo mà tấu nhạc, ví như rồng lớn phi hành,
giăng mây, tuôn mưa. Đấy là tâm lực, pháp lực,
chúng sanh lực, ứng hóa lực, bất tư nghị lực
cảm vời. Dùng diệu lực Tứ Đức ấy
để từ xa đến để khuyến phát Tứ
Nhất. Những chỗ Ngài đi qua, tự hành cúng dường,
chuyện là như thế đó.
Hỏi: Kinh Hoa Nghiêm nói Phổ
Hiền Bồ Tát nương vào Chân mà trụ, chẳng phải
là quốc độ. Nay v́ sao nói Ngài từ phương
Đông đến?
Đáp: Kinh kia (kinh Hoa Nghiêm)
nêu bày tự thể của pháp do Ngài đă chứng. Kinh này
nói theo những ǵ Ngài ứng tích. Đối với Chân
Như pháp tánh, Sơ Trụ đă có thể phần chứng,
huống hồ ngài Phổ Hiền ư? Thuận theo sự
ứng tích th́ cũng nói là Phật Đa Bảo từ
phương Đông. Nếu biết ngoài chân tánh chẳng có
quốc độ, sẽ biết ngoài chân tánh cũng chẳng
phải riêng có Chân để có thể trụ!
28.1.2. Hạ hóa
(Kinh) Hựu
dữ vô số chư thiên, long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La,
Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng, đại chúng vi nhiễu,
các hiện oai đức thần thông chi lực.
(經)又與無數諸天龍夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽人非人等大眾圍繞。各現威德神通之力。
(Kinh: Lại cùng vô số các trời, rồng, Dạ
Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già,
nhân phi nhân v.v… đại chúng vây quanh, ai nấy hiện sức
oai đức thần thông).
Tùy thuận thích đáng đối
với [căn cơ của] người khác mà hiện h́nh
tượng tám bộ [quỷ thần]. Chủ và bạn đều trọn đủ
Tứ Đức, nhưng chỉ nêu ra hai đức để
gồm thâu hai đức kia. V́ thế nói là “các hiện oai
đức thần thông lực” (đều hiện sức
oai đức thần thông). Hăy nên biết những vị
đi theo [Phổ Hiền Bồ Tát] đều là bậc
Pháp Thân. Lại c̣n “cùng với các đại Bồ Tát”, tức
là hiện Thật công đức, “cùng với tám bộ” tức
là thị hiện Quyền công đức. Quyền và Thật
đều trọn đủ Tứ Đức, đều
có hai ư nghĩa “trên là dâng cúng, dưới
hóa độ [chúng sanh]”.
28.1.3. Tu kính
(Kinh)
Đáo Sa Bà thế giới, Kỳ Xà Quật sơn trung,
đầu diện lễ Thích Ca Mâu Ni Phật, hữu nhiễu
thất táp.
(經)到娑婆世界耆闍崛山中。頭面禮釋迦牟尼佛。右遶七匝。
(Kinh: Đến
núi Kỳ Xà Quật trong thế giới Sa Bà, đầu mặt
lễ Thích Ca Mâu Ni Phật, nhiễu theo chiều phải bảy
ṿng).
Phần thứ nhất, “đến
thế giới Sa Bà” đă xong.
28.2. Khuyến phát
28.2.1. Thưa hỏi khuyến phát
28.2.1.1. Hỏi
(Kinh) Bạch
Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă ư Bảo Oai Đức
Thượng Vương Phật quốc, dao văn thử
Sa Bà thế giới thuyết Pháp Hoa kinh, dữ vô lượng
vô biên bách thiên vạn ức chư Bồ Tát chúng, cộng
lai thính thọ. Duy nguyện Thế Tôn đương vị
thuyết chi, nhược thiện nam tử, thiện nữ
nhân ư Như Lai diệt hậu, vân hà năng đắc
thị Pháp Hoa kinh?
(經)白佛言。世尊。我於寶威德上王佛國。遙聞此娑婆世界說法華經。與無量無邊百千萬億諸菩薩眾。共來聽受。惟願世尊當為說之。若善男子善女人。於如來滅後。云何能得是法華經。
(Kinh: Bạch cùng
đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Con ở
trong cơi của Bảo Oai Đức Thượng Vương
Phật[20]
(Ratnatejo’bhyudgatarāja), từ xa nghe thế giới Sa Bà nói
kinh Pháp Hoa, bèn cùng với vô lượng vô biên trăm ngàn vạn
ức các vị Bồ Tát cùng đến nghe nhận. Kính
mong đức Thế Tôn hăy v́ chúng con nói: Nếu thiện
nam tử, thiện nữ nhân sau khi Như Lai đă diệt
độ, phải làm như thế nào để được
kinh Pháp Hoa này?)
“Đương vị thuyết
chi” (hăy nên v́ chúng con mà nói): Xin hăy nói thẳng vào ư chỉ
trọng yếu trong lưu thông. Làm như thế nào để
có thể đạt được kinh này, hàm nghĩa “đạt
được diệu giải trong sự chánh thuyết
lưu thông”. Xin đức Phật chánh thuyết, tức
là khuyến phát tự hành, xin lưu thông tức là khuyến
phát hóa độ người khác, mong cho quang minh diệu
pháp sẽ lưu truyền vô cực. Đấy chính là ư
nghĩa “luyến mộ pháp” chẳng ngơi vậy!
28.2.1.2. Đáp
(Kinh) Phật cáo Phổ
Hiền Bồ Tát: - Nhược thiện nam tử, thiện
nữ nhân thành tựu tứ pháp, ư Như Lai diệt hậu,
đương đắc thị Pháp Hoa kinh: Nhất giả,
vị chư Phật hộ niệm. Nhị giả, thực
chúng đức bổn. Tam giả, nhập Chánh Định
Tụ. Tứ giả, phát cứu nhất thiết chúng sanh
chi tâm. Thiện nam tử, thiện nữ nhân như thị
thành tựu tứ pháp, ư Như Lai diệt hậu, tất đắc thị
kinh.
(經)佛告普賢菩薩。若善男子。善女人。成就四法。於如來滅後。當得是法華經。一者為諸佛護念。二者植眾德本。三者入正定聚。四者發救一切眾生之心。善男子。善女人如是成就四法。於如來滅後。必得是經。
(Kinh: Đức
Phật bảo Phổ Hiền Bồ Tát: - Nếu thiện
nam tử, thiện nữ nhân thành tựu bốn pháp th́ sau
khi Như Lai diệt độ, sẽ có được
kinh Pháp Hoa này: Một là được chư Phật hộ
niệm. Hai là trồng các cội đức. Ba là nhập Chánh
Định Tụ. Bốn là phát tâm cứu hết thảy
chúng sanh. Thiện nam tử, thiện nữ nhân thành tựu
bốn pháp như thế, sau khi Như Lai diệt độ,
ắt sẽ được kinh này).
Phổ Hiền Bồ Tát
đă thỉnh [đức Phật dạy] cả hai chuyện
chánh thuyết và lưu thông. Nay đức Phật cũng
dùng bốn pháp để giải đáp cả hai chuyện.
Trước là giải đáp về chánh thuyết, tức
khai Quyền hiển Thật. Tuy đối với chúng sanh, đức Phật đại từ
b́nh đẳng phổ độ, nhưng các chúng sanh mê trái
pháp tánh, như cái chậu úp xuống, tự ngăn cách ánh
sáng mặt trời. Nếu có thể xa ĺa điều ác (Thế
Giới Tất Đàn), tuân theo điều thiện (Vị
Nhân Tất Đàn), bỏ mê (Đối Trị Tất
Đàn) trở về ngộ (Đệ Nhất Nghĩa Tất
Đàn), khai tri kiến [của Phật] cho chúng sanh, hiển
lộ tri kiến của Phật, sẽ xứng hợp
thánh tâm. Đó chính là “được chư Phật
hộ niệm” (đấy là Pháp Thân). Nếu
tri kiến của Phật được khai, Bát Nhă sẽ
tỏa sáng. Đấy là “thực chúng đức bổn”
(gieo trồng các cội đức). Đó cũng là bất
loạn, bất muội (chẳng mê mờ), chẳng lấy,
chẳng bỏ; tức là “nhập Chánh Định Tụ”
(đấy là Bát Nhă). Cũng tức là trên th́ hợp với
từ lực, dưới là cùng một niềm bi ngưỡng,
tức là “phát cứu chúng sanh chi tâm” (đấy là Giải
Thoát). Hăy nên biết bốn pháp chỉ là khai Quyền hiển
Thật, chứng Tam Đức trong Viên Giáo.
Lại nữa, “chư Phật
hộ niệm” chính là khai Phật tri kiến. “Thực
chúng đức bổn” là thị Phật tri kiến. “Nhập
Chánh Định Tụ” là nhập Phật tri kiến. “Phát
cứu chúng sanh chi tâm” là ngộ Phật tri kiến. Điều
trọng yếu trong Tích Môn đă được gồm
thâu trong bốn điều ấy. Lại nữa, Tích ắt
có Bổn, từ Tam Đức của Bổn, cho nên Tích có Tam Đức. Từ Bổn mà
khai, thị, ngộ, nhập. Do đó, trong Tích có khai, thị, ngộ, nhập. Nay khai Tích chính là hiển
Bổn, Bổn và Tích chẳng hai, chẳng khác. Bởi thế,
dùng bốn pháp ấy để đáp
lời thưa hỏi về chánh thuyết.
Kế đó, giải đáp
về lưu thông. Điều trọng yếu trong lưu thông
chỉ là ba hay bốn điều. Nay chư Phật hộ
niệm và nhập Chánh Định Tụ chính là “mặc áo
Như Lai”. Gieo trồng các cội đức chính là “ngồi
ṭa Như Lai”. Phát tâm cứu chúng sanh chính là “vào nhà Như
Lai” [Đó là ba điều chánh yếu trong lưu thông]. Lại
nữa, chư Phật hộ niệm chính là thân an lạc hạnh.
Gieo trồng các cội đức tức khẩu an lạc
hạnh. Nhập Chánh Định Tụ tức ư an lạc
hạnh. Phát tâm cứu chúng sanh chính là thệ nguyện an lạc
hạnh. V́ thế, dùng bốn pháp ấy để đáp lời thưa hỏi về lưu thông. Một câu giải
đáp ứng với hai lời thỉnh. Nêu ra bốn
điều, thâu tóm toàn thể một kinh. Từ
phương xa đến khuyến phát, có ư nghĩa như
thế đó. Có thể hành bốn pháp, ắt hiểu bản
thể của kinh. V́ thế nói “tất đắc thị
kinh” (ắt đạt được kinh này). Đấy
chính là kết lại lời thỉnh về chánh thuyết.
Có thể truyền tải sự hiểu biết này cho
người khác, người khác sẽ đạt
được sự tín giải ấy, tức là người
thành tựu điều nương tựa thứ nhất
[trong Tứ Y, tức “y pháp, bất y nhân”]. Nếu thật
sự hiểu, sẽ là người thành tựu điều
nương tựa thứ hai, thứ ba, và thứ tư. Đấy
chính là kết lại lời thỉnh về lưu thông vậy.
Phần thứ nhất, “thưa hỏi về sự khuyến
phát” đă xong.
28.2.2. Thệ nguyện khuyến phát
28.2.2.1. Thệ nguyện hộ tŕ người
[thọ tŕ, lưu thông]
28.2.2.1.1. Giải trừ tai nạn bên ngoài
(Kinh)
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát bạch Phật ngôn:
- Thế Tôn! Ư hậu ngũ bách tuế, trược ác
thế trung, kỳ hữu thọ tŕ thị kinh điển
giả, ngă đương thủ hộ, trừ kỳ suy
hoạn, linh đắc an ổn, sử vô tứ cầu
đắc kỳ tiện giả. Nhược ma, nhược
ma tử, nhược ma nữ, nhược ma dân, nhược
vị ma sở trước giả, nhược Dạ Xoa,
nhược La Sát, nhược Cưu Bàn Trà, nhược Tỳ
Xá Xà, nhược Cát Giá, nhược Phú Đan Na, nhược
Vi Đà La đẳng, chư năo nhân giả, giai bất
đắc tiện.
(經)爾時普賢菩薩白佛言。世尊。於後五百歲濁惡世中。其有受持是經典者。我當守護。除其衰患。令得安隱。使無伺求得其便者。若魔。若魔子。若魔女。若魔民。若為魔所著者。若夜叉。若羅剎。若鳩槃茶。若毘舍闍。若吉蔗。若富單那。若韋陀羅等諸惱人者。皆不得便。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
Phổ Hiền Bồ Tát bạch Phật rằng: - Bạch
Thế Tôn! Trong đời trược ác năm trăm năm sau, nếu có người thọ
tŕ kinh điển này, con sẽ thủ hộ, diệt trừ
sự suy hoạn cho người ấy, khiến cho
được an ổn, khiến cho chẳng có ai t́m cầu
cơ hội hại người ấy. Dù là ma, dù ma tử,
dù ma nữ, dù là ma dân, hoặc kẻ bị ma dựa, hoặc
Dạ Xoa, hoặc La Sát, hoặc Cưu Bàn Trà, hoặc Tỳ
Xá Xà, hoặc Cát Giá, hoặc Phú Đan Na, hoặc Vi Đà La
v.v… những kẻ năo hại người khác đều chẳng
có dịp làm hại).
Vi Đà La là quỷ chuyên yếm
đảo, phương này dịch là Thiện Diệu.
28.2.2.1.2. Dạy cho nội pháp
28.2.2.1.2.1. Đi, đứng đọc tụng
(Kinh) Thị
nhân nhược hành, nhược lập, độc tụng thử kinh,
ngă nhĩ thời thừa lục nha bạch tượng
vương, dữ đại Bồ Tát chúng, câu nghệ kỳ
sở, nhi tự hiện thân cúng dường, thủ hộ,
an úy kỳ tâm, diệc vị cúng dường Pháp Hoa kinh cố.
(經)是人若行若立讀誦此經。我爾時乘六牙白象王。與大菩薩眾。俱詣其所。而自現身供養守護。安慰其心。亦為供養法華經故。
(Kinh: Người ấy
nếu đi hay đứng đọc tụng kinh này, khi
đó, con sẽ cưỡi voi chúa trắng sáu ngà[21] với
các vị đại Bồ Tát cùng tới chỗ người
ấy để tự hiện thân cúng dường, thủ
hộ, an ủi tâm người đó, cũng v́ cúng dường
kinh Pháp Hoa).
28.2.2.1.2.2. Nếu ngồi tư duy
(Kinh) Thị
nhân nhược tọa tư duy thử kinh, nhĩ thời,
ngă phục thừa bạch tượng vương, hiện
kỳ nhân tiền. Kỳ nhân nhược ư Pháp Hoa kinh,
hữu sở vong thất nhất cú, nhất kệ, ngă
đương giáo chi, dữ cộng độc tụng,
hoàn linh thông lợi. Nhĩ thời, thọ tŕ, độc tụng
Pháp Hoa kinh giả đắc kiến ngă thân, thậm đại
hoan hỷ, chuyển phục tinh tấn. Dĩ kiến ngă cố,
tức đắc tam-muội, cập Đà La Ni, danh vi Toàn
Đà La Ni, bách thiên vạn ức Toàn Đà La Ni, Pháp Âm
Phương Tiện Đà La Ni, đắc như thị
đẳng Đà La Ni.
(經)是人若坐思惟此經。爾時我復乘白象王。現其人前。其人若於法華經有所忘失一句一偈。我當教之。與共讀誦。還令通利。爾時受持讀誦法華經者。得見我身。甚大歡喜。轉復精進。以見我故。即得三昧及陀羅尼。名為旋陀羅尼。百千萬億旋陀羅尼。法音方便陀羅尼。得如是等陀羅尼。
(Kinh: Người ấy
nếu ngồi tư duy kinh này, khi đó, con lại cưỡi
voi chúa trắng hiện trước người ấy. Nếu
người ấy quên mất một câu, một kệ
trong kinh Pháp Hoa, con sẽ dạy bảo cho người ấy đọc tụng lại
được thông suốt. Lúc đó, người thọ
tŕ, đọc tụng kinh Pháp Hoa được thấy
thân con, hoan hỷ rất lớn, càng thêm tinh tấn. Do
được thấy con, liền đắc tam-muội và
Đà La Ni, tên là Toàn Đà La Ni, trăm ngàn vạn ức
Toàn Đà La Ni, Pháp Âm Phương Tiện Đà La Ni, đạt
được các Đà La Ni như thế đó).
“Toàn” là chuyển từ
Giả nhập Không. “Trăm ngàn vạn ức”: Chuyển
từ Không nhập Giả. “Pháp âm phương tiện”:
Dùng hai thứ làm phương tiện để nhập
Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế.
28.2.2.1.2.3. Hai mươi mốt ngày tinh tấn
(Kinh) “Thế
Tôn! Nhược hậu thế hậu ngũ bách tuế, trược ác thế trung, tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cầu sách giả,
thọ tŕ giả, độc tụng giả, thư tả
giả, dục tu tập thị Pháp Hoa kinh, ư tam thất
nhật trung, ưng nhất tâm tinh tấn. Măn tam thất nhật
dĩ, ngă đương thừa lục nha bạch tượng,
dữ vô lượng Bồ Tát nhi tự vi nhiễu, dĩ
nhất thiết chúng sanh sở hỷ kiến thân, hiện
kỳ nhân tiền, nhi vị thuyết pháp, thị giáo lợi
hỷ, diệc phục dữ kỳ Đà La Ni chú. Đắc
thị Đà La Ni cố, vô hữu phi nhân năng phá hoại
giả, diệc bất vị nữ nhân chi sở hoặc
loạn. Ngă thân diệc tự thường hộ thị
nhân. Duy nguyện Thế Tôn, thính ngă thuyết thử Đà
La Ni chú”. Tức ư Phật tiền, nhi thuyết chú viết:
- A đàn địa, đàn đà bà địa, đàn
đà bà đế, đàn đà cưu xá lệ, đàn
đà tu đà lệ. Tu đà lệ, tu đà la bà để,
Phật đà ba chiên nễ. Tát bà đà la ni a bà đa ni. Tát
bà bà sa a bà đa ni. Tu a bà đa ni. Tăng già bà lư xoa ni.
Tăng già niết già đà ni, a tăng kỳ. Tăng già bà
già địa. Đế lệ. A nọa tăng già đâu
lược. A la đế ba la đế. Tát bà tăng già
địa tam ma địa già lan địa. Tát bà đạt
ma tu ba lợi sát đế. Tát bà tát đóa lâu đà kiêu xá
lược a nậu già địa. Tân a tỳ cát lợi
địa đế.
(經)世尊。若後世後五百歲濁惡世中。比丘比丘尼優婆塞優婆夷。求索者。受持者。讀誦者。書寫者。欲修習是法華經。於三七日中。應一心精進。滿三七日已。我當乘六牙白象。與無量菩薩而自圍繞。以一切眾生所喜見身。現其人前而為說法。示教利喜。亦復與其陀羅尼咒。得是陀羅尼故。無有非人能破壞者。亦不為女人之所惑亂。我身亦自常護是人。惟願世尊。聽我說此陀羅尼咒。即於佛前而說咒曰。阿檀地。檀陀婆地。檀陀婆帝。檀陀鳩舍隸。檀陀修陀隸。修陀隸。修陀羅婆底。佛陀波羶禰。薩婆陀羅尼阿婆多尼。薩婆婆沙阿婆多尼。修阿婆多尼。僧伽婆履叉尼。僧伽涅伽陀尼。阿僧祇。僧伽婆伽地。帝隸。阿惰僧伽兜略。阿羅帝波羅帝。薩婆僧伽地三摩地伽蘭地。薩婆達磨修波利剎帝。薩婆薩埵樓馱憍舍略阿㝹伽地。辛阿毗吉利地帝。
(Kinh: “Thế
Tôn! Nếu trong đời trược ác trong năm
trăm năm thuộc đời sau, có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di hoặc t́m cầu, hoặc thọ
tŕ, hoặc đọc tụng, hoặc biên chép, muốn tu
tập kinh Pháp Hoa này, trong hai mươi mốt ngày, hăy nên
nhất tâm tinh tấn. Trọn hai mươi mốt ngày
xong, con sẽ cưỡi voi trắng sáu ngà, cùng vô lượng Bồ Tát tự vây quanh,
dùng thân mà hết thảy chúng sanh ưa thích thấy để
hiện trước người ấy, v́ người ấy
thuyết pháp, chỉ dạy khiến cho được lợi
ích, hoan hỷ. Lại c̣n truyền trao chú Đà La Ni. Do có
được Đà La Ni ấy, sẽ chẳng có phi nhân
có thể phá hoại, cũng chẳng bị nữ nhân mê hoặc,
gây rối. Con cũng đích thân thường bảo vệ
người ấy. Kính mong đức Thế Tôn nghe con nói
chú Đà La Ni này”. Liền đối trước Phật,
mà nói chú rằng: - Adaṇḍe daṇḍapati daṇḍāvartani
daṇḍakuśale daṇḍa sudhāri sudhāri
sudhārapati buddhapaśyane sarvadhāraṇī āvartani
sarvabhāṣyāvartane suāvartane saṃgha-parīkṣani saṃgha-nirghātani asaṃge saṃgāpagate tṛadhva-saṃgatulya prāpte sarva-saṃgasama tikrānte sarvadharma suparīkṣite
sarvasattva rutakauśalyānugate siṃhavikrīḍite).
Phần thứ hai, “dạy
cho nội pháp” đă xong.
28.2.2.1.3. Dùng thần lực che chở
(Kinh) Thế
Tôn! Nhược hữu Bồ Tát đắc văn thị
Đà La Ni giả, đương tri Phổ Hiền thần
thông chi lực. Nhược Pháp Hoa kinh hành Diêm Phù Đề
hữu thọ tŕ giả, ưng tác thử niệm, giai thị
Phổ Hiền oai thần chi lực.
(經)世尊。若有菩薩得聞是陀羅尼者。當知普賢神通之力。若法華經行閻浮提有受持者。應作此念。皆是普賢威神之力。
(Kinh: Bạch
Thế Tôn! Nếu có Bồ Tát được nghe Đà La
Ni này, hăy nên biết là do sức thần thông của Phổ
Hiền. Nếu kinh Pháp Hoa lưu truyền trong cơi Diêm Phù
Đề, có người thọ tŕ, hăy nên nghĩ thế
này: Đều là do sức oai thần của Phổ Hiền).
28.2.2.1.4. Nêu bày cái nhân thù thắng
(Kinh)
Nhược hữu thọ tŕ, độc tụng, chánh ức
niệm, giải kỳ nghĩa thú, như thuyết tu hành,
đương tri thị nhân hành Phổ Hiền hạnh,
ư vô lượng vô biên chư Phật sở, thâm chủng
thiện căn, vị chư Như Lai thủ ma kỳ
đầu.
(經)若有受持讀誦正憶念解其義趣如說修行。當知是人行普賢行。於無量無邊諸佛所。深種善根。為諸如來手摩其頭。
(Kinh: Nếu có
người thọ tŕ, đọc tụng, nghĩ nhớ
chân chánh, thấu hiểu ư nghĩa, tu hành đúng như lời
dạy, hăy nên biết người ấy hành hạnh Phổ
Hiền, gieo thiện căn sâu xa nơi vô lượng vô
biên chư Phật, được Như Lai dùng tay xoa đầu).
Hành Phổ Hiền hạnh,
cùng vị lai Phật được giải thoát. “Thâm chủng
thiện căn” (gieo sâu thiện căn): Chủng tử
gieo nơi quá khứ Phật, nay chín muồi nơi Phật
hiện tại.
28.2.2.1.5. Chỉ bày cái quả gần
(Kinh)
Nhược đản thư tả, thị nhân mạng
chung, đương sanh Đao Lợi thiên thượng. Thị
thời, bát vạn tứ thiên thiên nữ tác chúng kỹ nhạc,
nhi lai nghênh chi. Kỳ nhân tức trước thất bảo
quan, ư thể nữ trung ngu lạc khoái lạc. Hà huống
thọ tŕ, độc tụng, chánh ức niệm, giải
kỳ nghĩa thú, như thuyết tu hành? Nhược hữu
nhân thọ tŕ, độc tụng, giải kỳ nghĩa
thú, thị nhân mạng chung, vị thiên Phật thọ thủ,
linh bất khủng bố, bất đọa ác thú, tức
văng Đâu Suất thiên thượng Di Lặc Bồ Tát sở.
Di Lặc Bồ Tát hữu tam thập nhị tướng,
đại Bồ Tát chúng sở cộng vi nhiễu, hữu
bách thiên vạn ức thiên nữ quyến thuộc, nhi
ư trung sanh, hữu như thị đẳng công đức
lợi ích.
(經)若但書寫。是人命終。當生忉利天上。是時八萬四千天女。作眾伎樂而來迎之。其人即著七寶冠。於采女中娛樂快樂。何況受持讀誦正憶念解其義趣如說修行。若有人受持讀誦解其義趣。是人命終。為千佛授手。令不恐怖。不墮惡趣。即往兜率天上彌勒菩薩所。彌勒菩薩有三十二相。大菩薩眾所共圍繞。有百千萬億天女眷屬。而於中生。有如是等功德利益。
(Kinh: Nếu chỉ
biên chép, người ấy mạng chung, sẽ sanh lên cơi trời
Đao Lợi. Khi đó, tám vạn bốn ngàn thiên nữ tấu
các kỹ nhạc đến nghênh đón. Người ấy
liền đội măo bảy báu, hưởng vui sướng
trong các thể nữ. Huống hồ người thọ
tŕ, đọc tụng, nghĩ nhớ chân chánh, thấu hiểu nghĩa lư, đúng như lời dạy
tu hành? Nếu có người thọ tŕ, đọc tụng,
thấu hiểu nghĩa lư, người ấy mạng chung
được ngàn đức Phật x̣e tay [đón tiếp],
khiến cho chẳng sợ hăi, chẳng đọa vào
đường ác, liền sanh vào trời Đâu Suất là
chỗ của Di Lặc Bồ Tát. Di Lặc Bồ Tát có ba
mươi hai tướng, các vị đại Bồ Tát cùng
vây quanh. Có trăm ngàn vạn ức thiên nữ làm quyến
thuộc, sanh vào trong đó, có công đức và lợi ích
như thế).
Chỉ có thể biên chép, gần
th́ sanh vào trời Đao Lợi. Pháp sư trọn đủ
năm loại (tức thọ tŕ, đọc tụng….) sẽ
có thể sanh lên trời Đâu Suất, được làm
quyến thuộc của bậc Bổ Xứ.
Hỏi: Sao chẳng sanh về
cơi An Lạc?
Đáp: Nếu phát tịnh
nguyện, sẽ tùy theo quán hạnh sâu hay cạn mà sanh vào bốn
loại cơi An Lạc (Phương Tiện, Thật Báo,
Đồng Cư, Thường Tịch Quang). Chẳng phát
tịnh nguyện, sẽ tùy theo mức thành tựu của
công đức do ngũ phẩm (thọ tŕ, đọc tụng,
biên chép v.v…) mà sanh vào trời Đâu Suất.
28.2.2.1.6. Tổng kết lời khuyên
(Kinh) Thị
cố trí giả, ưng đương nhất tâm tự
thư, hoặc sử nhân thư, thọ tŕ, độc tụng,
chánh ức niệm, như thuyết tu hành.
(經)是故智者。應當一心自書。若使人書。受持讀誦。正憶念。如說修行。
(Kinh: V́ thế,
người có trí hăy nên nhất tâm tự chép, hoặc sai
người chép, thọ tŕ, đọc tụng, nghĩ nhớ
chân chánh, đúng như lời dạy mà tu hành).
Phần thứ nhất, “phát
nguyện hộ tŕ người [hành tŕ, biên chép, đọc
tụng…kinh Pháp Hoa]” đă xong.
28.2.2.2. Thệ nguyện hộ tŕ pháp
(Kinh) Thế
Tôn! Ngă kim dĩ thần thông lực cố, thủ hộ thị
kinh, ư Như Lai diệt hậu, Diêm Phù Đề nội
quảng linh lưu bố, sử bất đoạn tuyệt.
(經)世尊。我今以神通力故。守護是經。於如來滅後。閻浮提內廣令流布。使不斷絕。
(Kinh: Bạch
đức Thế Tôn! Con nay do dùng sức thần thông mà thủ
hộ kinh này. Sau khi Như Lai diệt độ, sẽ
lưu truyền rộng răi trong Diêm Phù Đề, khiến
cho chẳng đoạn tuyệt).
Phần thứ hai, “khuyến
phát” đă xong.
28.3. Trần thuật để phát khởi
28.3.1. Trước là trần thuật sự hộ
tŕ pháp
(Kinh)
Nhĩ thời, Thích Ca Mâu Ni Phật tán
ngôn: - Thiện tai! Thiện tai! Phổ Hiền, nhữ
năng hộ trợ thị kinh, linh đa sở
chúng sanh an lạc, lợi ích. Nhữ dĩ thành tựu bất
khả tư nghị công đức, thâm đại từ
bi, tùng cửu viễn lai, phát A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề ư, nhi năng tác thị thần thông chi
nguyện, thủ hộ thị kinh. Ngă đương
dĩ thần thông lực thủ hộ
năng thọ tŕ Phổ Hiền Bồ Tát danh giả.
(經)爾時釋迦牟尼佛讚言。善哉善哉。普賢。汝能護助是經。令多所眾生安樂利益。汝已成就不可思議功德。深大慈悲。從久遠來。發阿耨多羅三藐三菩提意。而能作是神通之願。守護是經。我當以神通力守護能受持普賢菩薩名者。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật khen rằng: - Lành thay! Lành thay!
Này Phổ Hiền, ông có thể hộ tŕ, giúp đỡ
kinh này, khiến cho nhiều chúng sanh an lạc, lợi ích.
Ông đă thành tựu công đức chẳng thể nghĩ
bàn, đại từ bi sâu đậm. Từ lâu xa đến
nay, ông phát ư Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có thể
phát ra nguyện thần thông ấy để thủ hộ
kinh này. Ta sẽ dùng sức thần thông thủ hộ
người có thể thọ tŕ danh tự của Phổ
Hiền Bồ Tát).
Nghe kinh Pháp Hoa, thọ tŕ Pháp
Hoa, đều do thần lực của ngài Phổ Hiền.
Nghe danh hiệu Phổ Hiền, thọ tŕ danh hiệu Phổ
Hiền, đều do thần lực của Như Lai, tức
là chuyện được nói kèm thêm trong phần thứ ba,
tức dùng thần lực để che chở trong phần
“hộ tŕ người [thọ tŕ kinh này]”.
28.3.2. Trần thuật chuyện hộ tŕ hành
giả
28.3.2.1. Trần thuật chuyện thứ hai:
Dùng nội pháp để dạy
(Kinh) Phổ
Hiền! Nhược hữu thọ tŕ, độc tụng,
chánh ức niệm, tu tập, thư tả thị Pháp Hoa
kinh giả, đương tri thị nhân tắc kiến
Thích Ca Mâu Ni Phật, như tùng Phật khẩu, văn thử
kinh điển. Đương tri thị nhân cúng dường
Thích Ca Mâu Ni Phật, đương tri thị nhân Phật tán “thiện tai”,
đương tri thị nhân vị Thích Ca Mâu Ni Phật thủ ma kỳ
đầu, đương tri thị nhân vị Thích Ca Mâu
Ni Phật y chi sở phú.
(經)普賢。若有受持讀誦正憶念修習書寫是法華經者。當知是人。則見釋迦牟尼佛。如從佛口聞此經典。當知是人供養釋迦牟尼佛。當知是人佛讚善哉。當知是人為釋迦牟尼佛手摩其頭。當知是人為釋迦牟尼佛衣之所覆。
(Kinh: Phổ Hiền!
Nếu có người thọ tŕ, đọc tụng,
nghĩ nhớ chân chánh, tu tập, biên chép kinh Pháp Hoa này, hăy
nên biết người ấy thấy Thích Ca Mâu Ni Phật,
như từ miệng Phật được nghe kinh điển
này. Hăy nên biết người ấy đă cúng dường
Thích Ca Mâu Ni Phật. Hăy nên biết người ấy
được đức Phật khen “lành thay”. Hăy nên biết
người ấy được tay của Thích Ca Mâu Ni Phật xoa đầu. Hăy nên biết
người đó được y của Thích Ca Mâu Ni Phật
che phủ).
“Thấy Phật Thích Ca”:
Không chỉ thấy thân Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi
trên voi trắng sáu ngà. “Từ miệng Phật được
nghe”: Không chỉ cùng ngài Phổ Hiền đọc tụng.
“Phật khen lành thay, xoa đầu, y che phủ”: Không
chỉ ngài Phổ Hiền chú nguyện, gia hộ. Khen lành
thay là “hạnh Không ṭa” thành tựu. Xoa đầu là hạnh
“nhà từ bi” thành tựu. Y che phủ là hạnh “áo nhẫn
nhục” thành tựu.
28.3.2. Trần thuật điều thứ
tư: Cái nhân thù thắng
(Kinh)
Như thị chi nhân, bất phục tham trước thế
lạc, bất háo ngoại đạo kinh thư, thủ
bút, diệc phục bất hỷ thân cận kỳ nhân, cập
chư ác giả, nhược đồ nhi, nhược súc
trư, dương, kê, cẩu, nhược liệp sư,
nhược huyễn mại nữ sắc. Thị nhân tâm ư
chất trực, hữu chánh ức niệm, hữu phước
đức lực. Thị nhân bất vị tam độc
sở năo, diệc bất vị tật đố, ngă mạn,
tà mạn, tăng thượng mạn sở năo. Thị
nhân thiểu dục, tri túc, năng tu Phổ Hiền chi hạnh.
(經)如是之人。不復貪著世樂。不好外道經書手筆。亦復不喜親近其人及諸惡者。若屠兒。若畜豬羊雞狗。若獵師。若衒賣女色。是人心意質直。有正憶念。有福德力。是人不為三毒所惱。亦不為嫉妬我慢邪慢增上慢所惱。是人少欲知足。能修普賢之行。
(Kinh: Người
như thế chẳng c̣n tham đắm niềm vui thế
gian, chẳng chuộng kinh sách và tác phẩm viết lách của
ngoại đạo, cũng chẳng ưa thân cận họ
và những kẻ ác, như là đồ tể, hoặc kẻ
nuôi lợn, dê, gà, chó, hoặc kẻ săn bắn, hoặc
kẻ buôn bán nữ sắc. Người ấy tâm ư chất
phác, ngay thẳng, nghĩ nhớ chân chánh, có sức phước
đức. Người ấy chẳng bị tam độc
năo hại, cũng chẳng bị ghen ghét, ngă mạn, tà mạn,
tăng thượng mạn năo hại. Người ấy
ít ham muốn, biết đủ, có thể tu hạnh Phổ
Hiền).
28.3.3. Trần thuật điều thứ
năm: Chỉ bày cái quả gần
(Kinh) Phổ
Hiền! Nhược Như Lai diệt hậu, hậu
ngũ bách tuế, nhược hữu nhân kiến thọ
tŕ, độc tụng Pháp Hoa kinh giả, ưng tác thị
niệm: Thử nhân bất cửu đương nghệ
đạo tràng, phá chư ma chúng, đắc A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề, chuyển pháp luân, kích pháp
cổ, xuy pháp loa, vũ pháp vũ, đương tọa
thiên nhân đại chúng trung sư tử pháp ṭa thượng.
Phổ Hiền! Nhược ư hậu thế thọ
tŕ, độc tụng thị kinh điển giả, thị
nhân bất phục tham trước y phục, ngọa cụ, ẩm thực, tư sanh chi vật,
sở nguyện bất hư, diệc ư hiện thế
đắc kỳ phước báo.
(經)普賢。若如來滅後。後五百歲。若有人見受持讀誦法華經者。應作是念。此人不久當詣道場。破諸魔眾。得阿耨多羅三藐三菩提。轉法輪。擊法鼓。吹法螺。雨法雨。當坐天人大眾中師子法座上。普賢。若於後世受持讀誦是經典者。是人不復貪著衣服臥具飲食資生之物。所願不虛。亦於現世得其福報。
(Kinh: Này Phổ
Hiền! Nếu sau khi Như Lai diệt độ, vào năm
trăm năm sau, có ai thấy người thọ tŕ, đọc
tụng kinh Pháp Hoa, hăy nên nghĩ như thế này: Người
này chẳng lâu sau, sẽ đến đạo tràng, phá các ma
chúng, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác,
chuyển pháp luân, đánh trống pháp, thổi ốc pháp,
tuôn mưa pháp, sẽ ngồi trên pháp ṭa sư tử trong
đại chúng trời, người. Này Phổ Hiền! Nếu
trong đời sau, ai thọ tŕ, đọc tụng kinh
điển này, người ấy sẽ chẳng c̣n tham
đắm y phục, đồ trải nằm, thức
ăn, vật dụng sinh hoạt, sở nguyện chẳng
dối, và cũng đạt được phước
đức ấy trong đời hiện tại).
“Đương nghệ đạo
tràng” (Sẽ đến đạo tràng): Ắt thành tựu
cái quả lâu xa, đâu chỉ là quả gần [được
sanh lên các cơi trời] Đao Lợi, Đâu Suất! Tuy chẳng
tham đắm tứ sự, cũng sẽ đạt
được phước báo ấy trong đời hiện
tại, đâu phải chỉ mạng chung rồi mới
sanh lên trời!
28.3.4. Trần thuật chuyện thứ nhất:
Giải trừ tai nạn bên ngoài
(Kinh)
Nhược hữu nhân khinh hủy chi ngôn: “Nhữ cuồng
nhân nhĩ, không tác thị hạnh, chung vô sở hoạch”.
Như thị tội báo, đương thế thế vô
nhăn. Nhược hữu cúng dường, tán thán chi giả,
đương ư kim thế, đắc hiện quả
báo. Nhược phục kiến thọ tŕ thị kinh giả,
xuất kỳ quá ác, nhược thật, nhược bất thật, thử
nhân hiện thế đắc bạch lại bệnh.
Nhược khinh tiếu chi giả, đương thế
thế nha xỉ sơ khuyết, xú thần, b́nh tỵ, thủ
cước liêu lệ, nhăn mục giác lăi, thân thể xú uế,
ác sang nùng huyết, thủy phúc, đoản khí, chư ác trọng
bệnh.
(經)若有人輕毀之言。汝狂人耳。空作是行。終無所獲。如是罪報。當世世無眼。若有供養讚歎之者。當於今世得現果報。若復見受持是經者。出其過惡。若實若不實。此人現世得白癩病。若輕笑之者。當世世牙齒疎缺。醜脣平鼻。手腳繚戾。眼目角睞。身體臭穢。惡瘡膿血。水腹短氣。諸惡重病。
(Kinh: Nếu có kẻ
khinh miệt, hủy báng, nói như thế này: “Ngươi
là kẻ cuồng, uổng công làm chuyện này, trọn chẳng
đạt được ǵ!” Do tội báo như thế, sẽ
đời đời không có mắt. Nếu có ai cúng dường,
tán thán, sẽ được quả báo hiện tại ngay
trong đời này. Nếu lại thấy người thọ
tŕ kinh này, mà nêu ra lỗi lầm, khuyết
điểm của người đó, dù thật hay chẳng
thật, người ấy trong đời này sẽ mắc
bệnh bạch lại[22]. Nếu
là kẻ khinh miệt, cười cợt, sẽ đời
đời răng lợi thưa thớt, thiếu khuyết,
môi xấu, mũi tẹt, chân tay c̣ng quèo, mắt lé lệch lạc, thân thể
hôi thối, ghẻ độc mủ máu, bụng phù đầy
nước, hụt hơi, các bệnh nặng ngặt
nghèo).
Đức Phật dạy cặn
kẽ tội hủy báng, khiến cho [người nghe] biết
lỗi, ắt sửa, chẳng năo loạn nhau, không chỉ
là người tŕ kinh tai nạn tiêu diệt, mà c̣n muốn
cho kẻ hủy báng được sanh phước. Chẳng
hủy báng, chẳng chướng nạn, đôi bên an lạc,
rộng cứu tế khôn ngằn. Ḷng từ cùng cực vậy!
28.3.5. Tổng kết để khuyên lơn
(Kinh) Thị
cố, Phổ Hiền! Nhược kiến thọ tŕ thị
kinh điển giả, đương khởi viễn
nghênh, đương như kính Phật.
(經)是故普賢。若見受持是經典者。當起遠迎。當如敬佛。
(Kinh: V́ thế,
này Phổ Hiền! Nếu thấy người thọ
tŕ kinh điển này, hăy nên đứng dậy, đón tiếp
từ xa, hăy nên như kính Phật).
Phần thứ ba, “trần
thuật để phát khởi” đă xong.
28.4. Lợi ích do phát khởi
28.4.1. Lợi ích do nghe phẩm này
(Kinh) Thuyết
thị Phổ Hiền Khuyến Phát phẩm thời, Hằng
hà sa đẳng vô lượng vô biên Bồ Tát đắc
bách thiên vạn ức Toàn Đà La Ni, tam thiên đại
thiên thế giới vi trần đẳng chư Bồ Tát
cụ Phổ Hiền đạo.
(經)說是普賢勸發品時。恆河沙等無量無邊菩薩。得百千萬億旋陀羅尼。三千大千世界微塵等諸菩薩。具普賢道。
(Kinh: Khi nói phẩm
Phổ Hiền Khuyến Phát này, vô lượng vô biên Bồ
Tát nhiều như cát sông Hằng đắc trăm ngàn vạn
ức Toàn Đà La Ni. Các vị Bồ Tát nhiều như vi
trần trong tam thiên đại thiên thế giới trọn
đủ đạo Phổ Hiền).
Trăm ngàn vạn ức Toàn
Đà La Ni chỉ là pháp giới sai biệt trí mà thôi! “Cụ
Phổ Hiền đạo” (trọn đủ đạo
Phổ Hiền) tức là viên măn Thập Địa, gần
với bậc cực thánh.
28.4.2. Lợi ích do nghe kinh này
(Kinh) Phật
thuyết thị kinh thời, Phổ Hiền đẳng
chư Bồ Tát, Xá Lợi Phất đẳng chư Thanh
Văn, cập chư thiên, long, nhân, phi nhân đẳng, nhất
thiết đại hội, giai đại hoan hỷ, thọ
tŕ Phật ngữ, tác lễ nhi khứ.
(經)佛說是經時。普賢等諸菩薩舍利弗等諸聲聞。及諸天龍人非人等。一切大會。皆大歡喜。受持佛語。作禮而去。
(Kinh: Khi đức
Phật nói kinh này, các vị Bồ Tát như Phổ Hiền
v.v… các vị Thanh Văn như Xá Lợi Phất v.v… và các
trời, rồng, nhân, phi nhân v.v… hết thảy đại
hội đều hết sức hoan hỷ, thọ tŕ lời
Phật, làm lễ lui ra).
Ba chuyện hoan hỷ như
đă nói trong phần trước. Ở đây v́ sao vẫn
nói là Thanh Văn? Đó là v́ người kết tập kinh
vẫn giữ địa vị vốn có của họ. Lại
nữa, kinh này nói đến Đại Thừa Thanh
Văn, tức là dùng Phật đạo thanh khiến cho hết
thảy đều được nghe.
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Thai Tông Hội
Nghĩa hết
Lời Bạt
Than ôi! Diệu pháp viên đốn,
bao kiếp lâu xa khó gặp gỡ, tôi là kẻ ngu muội,
do duyên ǵ may mắn gặp gỡ? Mỗi lần giở
xem, dường như đă được nghe từ
trước, há chẳng phải do sức oai thần của
ngài Phổ Hiền, do công thủ hộ của đức
Thích Ca ư? Trí Giả đại sư chẳng thể
biên soạn thêm, bậc hậu hiền chấp chặt,
tranh đấu ào ạt nẩy sanh, [khiến cho] pháp môn ‘viên
dung, dứt bặt đối đăi’ gần như trở
thành t́nh kiến “đây, kia, đúng, sai!” Tường thành,
hào lũy của người hoằng kinh ngày càng cao, càng
sâu. Kẻ ngóng nh́n, nỗi nghi sợ mỗi
ngày thêm nẩy! Tai nghe, mắt nh́n, vặn tay, đau ḷng, chẳng
nề hà bản thân kém cỏi, vụng về, dông dài [viết
lời] giới thiệu. Cất bút từ ngày Mồng
Năm tháng Mười Một năm Kỷ Sửu, mới
viết xong lời tựa, nằm bệnh mất nửa
tháng. Tới ngày Mười Chín, mới có thể miễn
cưỡng tiến hành. Sáng tối siêng gắng, tay chẳng
ngừng viết, mắt không ngừng đọc, tới
ngày Hai Mươi Sáu tháng Chạp chỉ hoàn
thành ba quyển kinh văn, tính ra được tám quyển
Hội Nghĩa, nghỉ ba ngày Tết, tới hôm Nguyên
Đán năm Canh Dần, liền thử nhắc bút. Lại
phải qua một tháng mới hoàn thành, tính ra Hội
Nghĩa gồm mười sáu quyển, vận dụng trọn
tâm lực suốt sáu mươi tám ngày. Chao ơi! Từng
nghe cổ nhân trong một nén hương, liền có thể
tụng rành rẽ một bộ Hoa Nghiêm, nhưng Húc tôi
cũng là hạng độn căn, cặm cụi đến
mức ấy, cũng đáng chê cười lắm thay!
Nhưng nhờ vào lời khuyên nhủ này để tiếp
dẫn kẻ sơ học, khiến cho họ dần dần ngộ Thật Tướng
của Pháp Hoa, chẳng đến nỗi rốt cuộc
gác kiếm, mà cũng chẳng ngó nh́n biển khơi [ngao
ngán], th́ Thích Ca, Phổ Hiền, và Trí Giả cũng đều
soi thấu nỗi khổ tâm của Húc vậy.
Giờ Tỵ, ngày mồng Một
tiết Trọng Xuân năm Canh Dần, gác bút đề lời
bạt.
[1] Ngũ Phật tức Ngũ Trí Như Lai
(c̣n gọi là Ngũ Thiền Na Phật), tức năm vị Phật biểu thị
tác dụng chuyển bát thức thành ngũ trí.
Nếu xét theo Thai Tạng Giới được
dạy trong kinh Đại Nhật (Mahavairocana Tantra), Ngũ Trí Như Lai có danh xưng là:
- Đông phương Bảo Tràng Phật
(Ratnaketu).
- Nam phương Khai Hoa Phu Vương Phật
(Samkusumitaraja).
- Tây phương Vô Lượng Thọ Phật.
- Bắc phương Thiên Cổ Lôi Âm Phật
(Divyadundubhimeganirghoṣa).
- Trung ương Đại Nhật Phật.
Năm vị Phật này được
đặt ở trung tâm của Thai Tạng Mạn Đà
La, bốn góc là bốn vị Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền,
Quán Âm và Di Lặc, hợp thành đóa sen tám cánh, nên thường
gọi là Trung Đài Bát Diệp.
Trong hệ thống Kim Cang Giới
(được diễn giảng trong kinh Kim Cang Đảnh)
th́ năm vị Phật là:
- Đông phương A Súc Bệ Phật (Akṣobhya), tương ứng
với Đại Viên Kính Trí.
- Nam phương Bảo Sanh Phật
(Ratnashambava), tương ứng với B́nh Đẳng Tánh
Trí.
- Tây phương A Di Đà Phật (Amitabha),
tương ứng với Diệu Quán Sát Trí.
- Bắc phương Bất Không Thành Tựu
Phật (Amoghasiddhi), tương ứng với Thành Sở Tác
Trí.
- Trung ương Tỳ Lô Giá Na Phật
(Vairocana), tương ứng Pháp Giới Thể Tánh Trí.
Tuy danh xưng khác nhau, năm vị Phật này trong hai hệ
thống Thai Tạng và Kim Cang Giới là một (do
xét theo phương diện tu
hành mà lập danh xưng khác nhau). Tương ứng với
Ngũ Phật,
Kim Cang Giới chia các mật chú thành năm hệ thống,
gọi là Ngũ Bộ, tức Phật Bộ của Tỳ
Lô Giá Na Phật, Yết Ma Bộ (Karma) của Bất Không
Thành Tựu Phật, Liên Hoa Bộ của A Di Đà Phật
làm bộ chủ), Bảo Bộ của Bảo Sanh Phật,
và Kim Cang Bộ của A Súc Bệ Phật. Trong mỗi bộ,
lại lập ra một vị Bồ Tát làm bộ chủ
(giống như trưởng tử của vị Phật
đứng đầu bộ ấy), bộ mẫu (vị
Bồ Tát nữ tánh thể hiện
lực dụng từ bi), minh vương (thân phẫn nộ
có tác dụng chiết phục) v.v… Chẳng hạn như
trong Liên Hoa Bộ, bộ chủ là Quán Thế Âm Bồ Tát,
bộ mẫu là Độ Mẫu (Tara), minh vương là
Mă Đầu Minh Vương (Hayagriva) v.v...
Cách chia thành ba bộ như tổ Ngẫu Ích nói chính là
cách chia theo Thai Tạng Bộ.
[2] Theo một thí
dụ trong kinh Đại Bát Niết Bàn, chữ Tiên Đà Bà
có bốn nghĩa là nước, đồ đựng, muối,
và ngựa.
[3] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Đà La
Ni dịch sang tiếng Hán là Tổng Tŕ, tức là nắm giữ
pháp ngôn, chia thành bốn loại là pháp, nghĩa, chú, và nhẫn.
Pháp và Nghĩa là nói dùng huệ và niệm làm Thể, c̣n chú
th́ dùng Định làm Thể, Nhẫn th́ dùng vô phân biệt trí làm Thể.
Nói cách khác, dùng niệm lực để tổng tŕ giáo pháp
của Phật, khiến cho chẳng quên th́ gọi là Pháp
Đà La Ni. Dùng huệ lực để tổng tŕ nghĩa
lư của các pháp th́ gọi là Nghĩa Đà La Ni. Dùng Định
lực để tổng tŕ các mật ngữ đă phát khởi
nhằm trừ khử khổ hoạn cho chúng sanh, có sự hiệu
nghiệm thần diệu chẳng thể lường th́ gọi
là Chú Đà La Ni. Dùng trí vô phân biệt, an trụ trong hiện
thể Thật Tướng của các pháp, bất động,
th́ gọi là Nhẫn Đà La Ni”.
[4] Phần tiếng Phạn trong phẩm này
hoàn toàn dựa theo bản dịch Anh ngữ “Lotus Sutra” của Tsugunari Kubo (Cửu Bảo Kế
Thành) và Akira Yuyama (Thang Sơn Chiêu) của Phật Giáo Truyền
Đạo Hiệp Hội (Bukkyō Dendō Kyōkai)
Nhật Bản do tiến
sĩ Yehan Numata (Chiêu Điền Huệ Phạm) sáng lập.
Ông Numata vốn là một tu sĩ thuộc phái Tịnh Độ
Chân Tông của Nhật Bản, từng theo học thống
kê tại Mỹ khi sang Mỹ làm công tác truyền giáo. Trở
về Nhật, ông sáng lập công ty Mitutoyo (chuyên sản xuất
các dụng cụ đo lường vi mô) thành công vang dội.
Ông sáng lập Phật Giáo Truyền Đạo Hiệp Hội
vào năm 1965 và chủ trương ấn hành tác phẩm
Teachings of Buddha để đặt trong mọi pḥng của
các khách sạn tại Nhật giống như kiểu hội
Gideon Bible của Mỹ đặt Kinh Thánh trong các khách sạn
tại Mỹ. Năm 1986, ông chủ tŕ công tŕnh dịch
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh sang tiếng
Anh, đồng thời tích cực truyền bá giáo nghĩa
của Tịnh Độ Chân Tông tại phương Tây.
[5] Theo Đinh Phước Bảo trong Phật
Học Đại Từ Điển, “suy hoạn” có
nghĩa là các tai ương, hoạn nạn như dịch
bệnh, đói kém, chiến tranh v.v…
[6] Tŕ Quốc thiên vương, phiên âm tiếng
Phạn là Đề Đầu Lại Tra, là một trong bốn
vị thiên vương của tầng trời thứ nhất
trong Dục Giới, thủ hộ phương Đông. Tên
gọi của vị thiên vương này hàm nghĩa: “Do ḷng từ bi mà bảo vệ chúng sanh, hộ
tŕ đất nước”. Vị
này thường được tạc tượng thành
h́nh thiên tướng, mặc giáp trụ, tay cầm đàn tỳ
bà (tại Nhật, vị này được tạc tượng
tay cầm cung). Tại các tùng lâm,
khi tiến vào sơn môn, điện thờ đầu tiên
là Thiên Vương Điện, thờ Di Lặc Bồ Tát
ngồi chính giữa, bốn góc là bốn vị thiên vương.
Tŕ Quốc thiên vương thống lănh Càn Thát Bà, Tất Xá
Giá (Tỳ Xá Xà), Khẩn Na La… Do hai bộ thuộc hạ của
Tŕ Quốc thiên vương đều là nhạc thần, cho nên tạc tượng Tŕ Quốc thiên
vương cầm đàn tỳ bà, hàm ư: Vị thiên
vương này dùng âm nhạc để nhiếp thọ
chúng sanh hướng về Phật đạo. Đôi khi
kinh c̣n gọi Tŕ Quốc thiên vương là Càn Thát Bà
vương.
[7] Phật giáo Nhật Bản coi mười
La Sát nữ là tùy tùng của Phổ Hiền Bồ Tát. Theo
kinh Diệu Pháp Liên Hoa Tam Muội Da Bí Mật Tam Ma Da, họ
là hóa thân của các vị Phật và Bồ Tát:
- Lam Bà là hóa thân của Thượng Hạnh
(Viśiṣṭacāritra)
Bồ Tát.
- Tỳ Lam Bà là hóa thân của Vô Biên Hạnh
(Anantacāritra) Bồ Tát.
- Khúc Xỉ là hóa thân của Tịnh Hạnh
(Anantacāritra) Bồ Tát.
- Hoa Xỉ là hóa thân của An Lập Hạnh (Supratiṣṭhitacāritra)
Bồ Tát.
- Hắc Xỉ là hóa thân của Phật
Thích Ca.
- Đa Phát là hóa thân của Phổ Hiền
Bồ Tát.
- Vô Yếm Túc là hóa thân của Văn Thù
Sư Lợi Bồ Tát,
- Tŕ Anh Lạc là hóa thân của Quán Thế
Âm Bồ Tát,
- Cao Đế là hóa thân của Di Lặc Bồ
Tát.
- Đoạt Nhất Thiết Chúng Sanh Tinh
Khí là hóa thân của Đa Bảo Như Lai.
[8] Theo pháp sư Phổ Hành, Nhân Cát Giá là quỷ
khiến cho xác chết vùng dậy giết người, c̣n
Dạ Xoa Cát Giá là quỷ nhập vào xác chết để
giết Dạ Xoa.
[9] Điều Đạt
là phiên âm tắt của Đề Bà Đạt Đa.
[10] Tỳ Đà La tức là quỷ nhập
tràng. Theo Thập Tụng Luật, quyển thứ hai, tại
Tây Vực có thuật tụng chú vào xác chết c̣n nguyên vẹn,
triệu quỷ hồn sai khiến thây ma ấy đi giết
người. Các loại quỷ nhập thây chết ấy được
gọi là Tỳ Đà La. Nếu
người bị hại có công đức lớn, hoặc
nhập Diệt Tận Định, hoặc có vị chú
sư mạnh hơn bảo vệ, hoặc được
thiên thần bảo vệ, quỷ sẽ quay lại tấn
công kẻ sai khiến nó.
[11] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Phật
pháp như mây, che rợp hết thảy, không căn cơ
nào chẳng tiếp độ. Pháp âm như sấm, chẳng
trái nghịch, chẳng ẩn khuất, quả trí viên minh,
như vua của các tinh tú, rực rỡ chói ngời. V́ thế,
hiệu là Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí. Quốc độ
được quang minh của Phật trang nghiêm, được
mọi người ưa thích thấy. Do đó, cơi nước
có tên là Quang Minh Trang Nghiêm, kiếp tên là Hỷ Kiến”.
[12] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Dùng các
phước đức mầu nhiệm để trang
nghiêm các căn, cho nên gọi là Diệu Trang Nghiêm. Tuy hiện
nhiễm tướng, đức vốn thanh tịnh, cho
nên tên là Tịnh Tạng. Tạng thức chỉ chứa
đựng chủng tử thanh tịnh, cho nên tên là Tịnh
Tạng. Đạt được pháp nhăn thanh tịnh, cho
nên có tên là Tịnh Nhăn”.
[13] Ưu Đàm
Bát La (Udumbara), c̣n gọi là hoa Ưu Đàm, Ô Đàm hay Đàm
hoa, dịch nghĩa là Linh Thụy, hoặc Thụy Ứng.
Sách Pháp Hoa Văn Cú giảng: “Hoa Ưu Đàm, phương
này dịch là Linh Thụy, ba ngàn năm mới xuất hiện
một lần. Hễ xuất hiện, Kim Luân Vương
xuất thế”.
[14] Đây là một thí dụ được
nhắc đến trong nhiều kinh luận nhằm sánh ví
chuyện được làm người, được gặp
gỡ Phật pháp rất khó khăn. Nói chi tiết nhất
là như trong kinh Tạp A Hàm, quyển mười lăm
đă chép: “Đức Thế Tôn bảo các tỳ-kheo: ‘Ví
như đại địa đều trở
thành biển cả, có một con
rùa mù từ vô lượng kiếp,
trăm năm mới nổi lên một lần. Trong biển
có một khúc gỗ nổi, [khúc gỗ ấy] chỉ có một
lỗ hổng, trôi giạt trong biển, theo gió trôi nổi
Đông, Tây. Con rùa mù trăm năm mới nổi lên một
lần, có gặp được bộng cây ấy hay không?’
Ngài A Nan bạch Phật: ‘Thưa Thế Tôn, chẳng thể!
V́ lẽ nào? Con rùa mù ấy nếu đến phía Đông của
biển, bọng gỗ đă bị gió thổi, có thể
giạt sang phía Tây, Nam, hoặc Bắc, hoặc bốn góc của
biển, chẳng dễ gặp được’. Đức
Phật bảo A Nan: - Rùa mù và bộng gỗ tuy rất khó
có thể gặp gỡ, nhưng vẫn c̣n có thể. Kẻ
phàm ngu trôi giạt trong năm đường, tạm
được thân người, c̣n khó hơn thế nữa!”
[15] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Vua phát tâm
kiên cố, như cây Sa La, dẫu trời
lạnh cách mấy chẳng rụng
lá. V́ thế khi thành Phật, hiệu là Sa La Thụ Vương. Xa ĺa tà
si ám, cho nên
quốc độ tên là Đại Quang. Pháp vương cao
tột, to lớn nhất, vượt xa chín pháp giới,
cho nên kiếp có tên là Đại Cao Vương”.
[16] “Kha” là một loại bảo thạch
rất trắng sạch, kém hơn ngọc, nhưng rất
đẹp, thường dùng để trang trí yên
cương cho người quyền quư. Kinh dùng cả Kha lẫn
Nguyệt (mặt trăng) để sánh ví sự trắng
ngần, tươi sạch.
[17] Tần Bà (Bimba) là một loài quả có màu
đỏ tươi đẹp. Đôi khi c̣n gọi là
Tương Tư Quả. Cây này có thể cao đến
mười mét, thân có gai lớn. Mùa Hạ trổ hoa, kết
thành trái h́nh cầu trông như trái cam. Hoa loại cây này có thể
dùng để chế nước hoa, rễ và vỏ cây
đều có thể dùng làm thuốc.
[18] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Phật
Tiền Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng Bồ Tát chính
là Diệu Âm Bồ Tát được nói trong phẩm
trước. Do Diệu Âm Bồ Tát biến hiện các thứ
thân tướng được trang nghiêm bởi các thứ
tam-muội như Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội
v.v… nên gọi là Trang Nghiêm Tướng”.
[19] Phục Đạo có nghĩa là sức chế
phục khiến cho Hoặc chướng hữu lậu, vô
lậu chẳng thể dấy lên hiện hành.
[20] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Oai đức
cao vời đáng trọng, ví như chất báu (Bảo),
đáng tôn kính ngưỡng tột bậc, nên tôn xưng là
Thượng Vương. V́ thế có tên là Bảo Oai Đức
Thượng Vương”.
[21] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Voi trắng
sáu ngà biểu thị Lục Độ thanh tịnh, Lục
Độ đứng đầu vạn hạnh”.
[22] Bạch lại là một chứng bệnh
cùi.