Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa
phần
17
Phụ lục
1: Pháp Hoa Kinh Hiển Ứng Lục (ghi chép
những điều linh ứng hiển nhiên của kinh Pháp
Hoa)
Tứ Minh Thạch Chi
sa-môn Tông Hiểu[1] biên soạn
(四明石芝沙門宗曉編)
I. Pháp Hoa Kinh
Hiển Ứng Lục, quyển thượng (法華經顯應錄卷上)
Xưa kia, Vĩnh Minh Trí Giác
thiền sư (tổ Vĩnh Minh Diên Thọ) dùng đại
biện tài, soạn ra năm bài phú, tức là Hoa Nghiêm Cảm
Thông, Kim Cang Chứng Nghiệm, Pháp Hoa Linh Thụy, Quán Âm Hiện
Thần (Quán Âm biến hiện thần thông), và Thần Thê
An Dưỡng (gởi tâm nơi Cực Lạc), ngơ hầu
điểm xuyết thánh giáo, cổ vũ các căn cơ. Có
thể nói Ngài có công to lớn đối với pháp vận trong thời
Tượng Pháp. Nhưng soạn phú th́ đặc biệt chú
trọng dùng [phương cách] ca vịnh, tán dương, đối
với các sự tích nếu chẳng t́m từ truyện kư,
sẽ chẳng thể biết trọn vẹn từ đầu
đến cuối được! V́ thế,
đối với Hoa Nghiêm bèn có Cảm Ứng Truyện, Kim
Cang th́ có Ứng Nghiệm Lục, Pháp Hoa th́ có Linh Thụy Tập,
Quán Âm th́ có Cảm Ứng Tập, Tịnh Độ bèn có Văng
Sanh Truyện. Đọc kỹ, xem rộng, sẽ biết
sự ứng nghiệm linh dị trong Phật pháp chẳng
phải là một vài trường hợp đơn lẻ.
Nay Linh Thụy Tập được lưu hành trong cơi đời
có hai bản, tức là [một bản] chỉ ghi là Linh Thụy
Tập, và [bản
kia là] Tục Linh Thụy Tập.
Trong Linh Thụy Tập, ghi chép
sáu mươi chuyện, nhưng chẳng ghi tên người
sưu tập, biên soạn, chỉ có lời tựa do Dương
Hy soạn trong niên hiệu Gia Hựu[2].
Bản này đă có từ lâu, gần đây được khắc
in vài lượt; nhưng trong ấy chẳng nêu xuất xứ
[của các câu chuyện], mà cũng chẳng phân loại đạo
tục. Đối với sự tích của chư Tổ, cũng chẳng ghi chép niên hiệu. Do có các thiếu sót
ấy, cho nên chẳng phải là điển tịch mẫu
mực.
Tục Linh Thụy Tập do
pháp sư Nguyên Dĩnh tại Ngô Hưng biên soạn trong niên
hiệu Đại Quán[3]
nhằm tiếp nối bản cũ. Sách được chia
thành mười khoa, bắt đầu từ ngài Phổ Hiền
chứng minh, cuối cùng là Hương Quang tỏ lộ điềm
lành. Bản này khá tốt đẹp, đă loại trừ
các khuyết điểm trong bản trước, hiềm rằng
quê quán [của các nhân vật được nhắc tới
trong sách] đă bị mất từ lâu, thường là phần
nhiều chẳng được nhắc đến!
Tôi trộm cho rằng bảo
điển cùng tột Pháp Hoa quả thật là cội gốc
to lớn để thể hiện sự linh hiển của
chư Phật, là nguồn cội sâu thẳm để các loài
chúng sanh đạt đạo, được bậc á thánh
đại sĩ[4]
khuyến phát, được các vị thượng thủ
của chư thiên hộ tŕ. Hiện thời, dù hàng xuất
gia hay kẻ tại gia, không ai chẳng dốc ḷng thành đọc
tụng, tâm nghĩ nhớ tột bậc
tu tập. Nếu công năng thần diệu, sự tích vĩ
đại chẳng được ghi chép trong các sách vở,
cơi đời sẽ chẳng được nghe ngôn hạnh
của tiền nhân, sao có thể tạo thành đầu mối
để khuyến tín cho được? Tông Hiểu lạm
dự vào Tăng chúng, chí ưa thích Văn Tŕ, than thở sâu
xa bản cũ chưa toàn vẹn, tục bản lại tàn
khuyết. Do vậy, đổ công t́m ṭi khắp trong Đại
Tạng, các truyện kư của chư Tăng trong ba triều,
và các nội điển, ngoại thư, [hễ t́m được
các sự tích linh ứng] dù ẩn hay hiển đều gom góp; cũ, mới
cùng xếp bày, hợp thành hai trăm ba mươi chín chuyện.
Trước là nêu bày [sự tích của các] bậc cổ thánh,
xếp vào đầu sách; kế đó, phân biệt theo bốn
thể lệ, tức là cao tăng, cao ni, tín nam, và tín nữ,
chia thành hai quyển, đặt tên là Pháp Hoa Hiển Ứng
Lục. Đó là v́ dựa theo tướng trạng thù thắng
do thân khẩu cảm vời trong đời hiện tại
[của các vị] thuộc tông Thiên Thai, coi đó là Hiển
Cơ Hiển Ứng vậy. Mong sao sách này đều khiến
cho người đọc dốc ḷng nơi Thật Tướng,
bàn luận, nghĩ ngợi chân thừa, giữ vững tiết
tháo vượt hơn tùng trúc, ḷng tinh thành đủ để
xuyên thủng đá vàng! V́ thế, ḷng thành trần thuật
sự ứng nghiệm, khác nào tiếng sáo triệu vời chim phượng
hoàng, dùng điều này để biếu tặng cho người
đời sau: Một người hiểu sẽ khuyên bảo
ngàn vạn người. Không ai chẳng phải là kẻ ở
trong ṭa nhà hư nát mà hay biết nạn lửa, đào bới
[t́m nước] chốn cao nguyên, liền ngự trên cỗ
xe cao rộng, thẳng thừng tạo tác cảnh giới
rất sâu! Đấy chính là điều tôi mong mỏi! Trong
các vị được ghi lại, có vị chỉ có sự
tích, chẳng có sự cảm ứng [rơ rệt]. Đấy
lại chính là “hiển cơ minh ứng” (căn cơ
hiển nhiên, cảm ứng ngấm ngầm), mong người
đọc hăy hiểu cho.
Ngày mồng Một giữa
Xuân (tháng Hai) năm Mậu Ngọ (1198) thuộc niên hiệu
Khánh Nguyên[5], Tông Hiểu kính cẩn
đề tựa.
1. Cổ
thánh (bảy chuyện này đều trích từ kinh Pháp Hoa)
* Tháp báu
của Phật Đa Bảo do nghe kinh mà từ dưới
đất hiện lên
Trong quá khứ, có vị Phật hiệu là Đa Bảo. Khi vị Phật
này hành Bồ Tát đạo, đă phát đại thệ nguyện:
“Nếu ta thành Phật, sau khi diệt độ, các quốc
độ trong mười phương, hễ chỗ nào có nói kinh Pháp Hoa, tháp miếu
của ta do nghe kinh sẽ vọt lên, hiện ra nơi đó
để chứng minh”. Nay tháp của Đa Bảo
Như Lai, do nghe nói kinh Pháp
Hoa bèn từ đất vọt ra, khen ngợi: “Lành thay, lành
thay!” Phật Đa Bảo có nguyện: “Ai muốn chỉ
bày thân ta cho tứ chúng, cần phải nhóm họp phân thân
chư Phật của vị Phật ấy. Đă nhóm đủ
rồi mới mở tháp được!” Phật Đa
Bảo chia ṭa ngồi, Phật Thích Ca cùng ngồi thuyết
pháp. Thánh chúa Thế Tôn tuy diệt độ đă lâu, ở
trong tháp báu c̣n v́ pháp mà đến, sao mọi người chẳng
siêng năng v́ pháp?
* Phật
Thích Ca làm vua cầu kinh chẳng mệt mỏi
Đức Phật bảo tứ
chúng: - Trong quá khứ vô lượng kiếp, ta cầu kinh Pháp
Hoa chẳng lười nhác, mệt mỏi. Trong nhiều kiếp,
thường làm quốc vương, phát nguyện cầu Vô
Thượng Bồ Đề, tâm chẳng thoái chuyển; v́
pháp bỏ ngôi vua, giao việc triều chánh cho Thái Tử, đánh
trống tuyên lệnh cầu
pháp tứ phương: “Ai có thể v́ ta nói Đại Thừa,
ta sẽ suốt đời cung cấp, hầu hạ”.
Khi đó, có A Tư tiên đến thưa cùng vua rằng: “Ta
có pháp Đại Thừa tên là kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nếu
chẳng trái nghịch ta, ta sẽ tuyên nói cho nhà vua”. Vua
nghe lời tiên nhân nói, hoan hỷ, hớn hở, liền theo
tiên nhân cung cấp các thứ cần dùng: Hái quả, gánh nước,
nhặt củi, nấu nướng. Thậm chí dùng thân thể
làm giường, ṭa [cho tiên nhân dựa, ngồi], thân tâm
chẳng mệt mỏi. Khi đó, vua phụng sự trải
qua ngàn năm, v́ pháp mà siêng năng, chuyên ṛng hầu hạ, khiến
cho tiên nhân chẳng thiếu thốn. Vị vua khi ấy chính
là đức Thích Ca Văn (Thích Ca Mâu Ni Phật). Tiên nhân thuở
đó nay là Đề Bà Đạt Đa. [Đức Phật nói]:
Do thiện tri thức Đề Bà Đạt Đa
khiến cho ta trọn đủ Lục Ba La Mật, thành Đẳng
Chánh Giác, rộng độ chúng sanh.
* Thường
Bất Khinh Bồ Tát lưu thông kinh Pháp Hoa
Vào thuở xa xưa, trong thời
Tượng Pháp của Oai Âm Vương Như Lai, tăng
thượng mạn tỳ-kheo có thế lực to lớn.
Lúc bấy giờ, có một vị tỳ-kheo tên là Thường
Bất Khinh. Vị tỳ-kheo ấy hễ trông thấy tứ
chúng, thảy đều lễ bái, tán thán, nói như thế
này: “Tôi tôn kính quư vị sâu xa, chẳng dám khinh mạn. Các
vị hành Bồ Tát đạo, sẽ được thành Phật”.
Vị tỳ-kheo ấy chẳng chuyên đọc tụng
kinh điển, chỉ hành lễ bái. Trong tứ chúng, có kẻ
sanh ḷng sân khuể, tâm bất tịnh, ác khẩu rủa sả:
“Gă vô trí tỳ-kheo này từ đâu đến đây? Chúng
ta chẳng cần lời thọ kư hư vọng ấy!” Mọi
người có khi dùng gậy gộc, ngói, đá đánh ném.
Vị ấy chạy tránh ra đứng đằng xa, vẫn
lớn tiếng xướng rằng: “Tôi chẳng dám khinh các vị.
Các vị sẽ đều thành Phật”. Do thường
nói lời ấy, cho nên bị
gọi là Thường Bất Khinh. Vị tỳ-kheo ấy
khi lâm chung, nghe từ hư không trọn đủ kinh Pháp
Hoa do Oai Âm Vương Phật đă nói trước đó, đều
có thể thọ tŕ, liền được sáu căn thanh
tịnh, rộng v́ người khác nói kinh Pháp Hoa này. Bất
Khinh thuở đó chính là Thích Ca Văn. Nếu trong đời
trước ta chẳng thọ tŕ kinh này, v́ người khác
giảng nói, sẽ chẳng thể mau chóng đắc Bồ
Đề. Sách Pháp Hoa Văn Cú viết: “Thích Ca xuất thế,
chần chừ chẳng nói. Bất Khinh vừa trông thấy
[người khác], bèn lỗ
măng nói, v́ lẽ nào? Đáp: [Những kẻ được
Thường Bất Khinh nói “chẳng dám khinh”] vốn đă
có điều thiện. Phật Thích Ca v́ bảo vệ hàng Tiểu
Thừa, v́ họ chưa có điều thiện [cho nên Ngài
chần chừ chẳng nói]. Bất Khinh do thấy họ đă
có căn cơ Đại Thừa bèn cưỡng ép”. Trong bài
Uẩn Tế Tụng của ngài Nam B́nh Thanh Biện có viết:
“Gươm báu chưa dùng, cất hộp ngọc. Thất
tinh bóng lạnh, hiện lờ mờ. Ân cần nói với người
bên cạnh, Long Tuyền trong hộp chớ xem thường”.
* Ngài Hỷ
Kiến đốt thân cúng dường kinh mầu nhiệm
Trong quá khứ, Nhật Nguyệt
Tịnh Minh Đức Phật v́ Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ
Kiến Bồ Tát và các Thanh Văn nói kinh Pháp Hoa. Vị Bồ
Tát ấy thích tu tập khổ hạnh, nhất tâm cầu Phật đạo, tṛn một
vạn hai ngàn năm, đắc Hiện Nhất Thiết Sắc
Thân tam-muội. Đă đắc tam-muội ấy, liền
nghĩ rằng: “Ta đắc tam-muội này đều do
sức nghe kinh Pháp Hoa. Ta nay nên cúng dường Phật và kinh
Pháp Hoa. Tuy ta đă dùng thần lực để cúng dường,
chẳng bằng dùng thân cúng dường”. Liền đối
trước Phật tự đốt thân, quang minh soi trọn
khắp các thế giới nhiều như số cát trong tám
mươi ức sông Hằng. Chư Phật trong các cơi ấy
đồng thời tán thán: “Lành thay! Lành thay! Là chân tinh tấn,
được gọi là pháp cúng dường thật sự”.
Thân ấy cháy trong một ngàn hai trăm năm. Sau khi mạng
chung, [Bồ
Tát] lại sanh trong cơi của Nhật Nguyệt Tịnh
Minh Đức Phật, trong vương cung của vua Tịnh
Đức, bạch với cha rằng: “Con trước đó
đă cúng dường Phật, đạt được
Giải Nhất Thiết Chúng Ngữ Ngôn Đà La Ni. Lại
nghe kinh Pháp Hoa này”. Cho đến sau khi đức Phật ấy
diệt độ, ngài Hỷ Kiến liền đối trước
tám vạn bốn ngàn tháp thờ xá-lợi,
đốt cánh tay trăm phước trang nghiêm suốt bảy
vạn hai ngàn năm để cúng dường. Sách Pháp Hoa
Văn Cú chú giải: “Hỷ Kiến nhanh chóng bỏ một
thân, lại đốt hai cánh tay, khinh sanh mạng, tôn trọng
pháp, mạng mất, đạo c̣n”.
* Ngài Diệu
Âm từ xa đến nghe kinh Pháp Hoa
Thích Ca Mâu Ni Phật phóng quang
minh từ nhục kế, chiếu trọn khắp các thế
giới nhiều như cát trong một trăm lẻ tám vạn
ức na-do-tha sông Hằng. Qua khỏi số ấy, có cơi của
Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật. Cơi đó có Bồ Tát tên
là Diệu Âm, đă gieo trồng cội đức từ lâu.
Vị Bồ Tát ấy từ cơi của Tịnh Hoa Tú Vương
Trí Phật, cùng với tám vạn bốn ngàn Bồ Tát đến
thế giới Sa Bà này, cúng dường Phật Thích Ca, và cũng
muốn cúng dường, nghe kinh Pháp Hoa. Khi đó, Diệu Âm
Bồ Tát biến mất trong cơi kia, cùng với tám vạn bốn
ngàn Bồ Tát tới đây. Lúc ấy, Phật Đa Bảo
bảo ngài Diệu Âm rằng: “Lành thay! Lành thay! Ông có thể v́ cúng
dường Thích Ca Mâu Ni Phật và nghe kinh Pháp Hoa mà đến
nơi đây”.
* Bốn
vị tỳ-kheo tu tập Pháp Hoa thuở trước
Xưa kia, có bốn vị tỳ-kheo,
sanh ḷng ân cần, trân trọng tột bậc đối với
kinh Pháp Hoa, nhưng chưa được cam lộ từ
giáo pháp bí mật của kinh điển tưới tắm.
Do vậy, họ kết bạn vào núi tu hành để cùng mong đắc
Phật huệ. Ẩn cư lâu ngày, lương thực cạn
sạch. Một bữa ăn phải đi vạn dặm,
chí xông thấu trời thẳm há có thể đạt được
ư? Một người bèn nói: “Bốn người bọn
ta nghèo đến nỗi chẳng giữ nổi cái thân, pháp
sẽ gởi gắm vào đâu? Ba người các anh hăy nên
dốc hết tánh mạng phụng sự đạo, một
ḿnh tôi sẽ cung cấp các thứ cần dùng cho các anh”. Từ
đó, [vị ấy] chống tích trượng
nơi xóm làng để t́m cầu các thứ cung cấp, dẫu
nóng lạnh đắp đổi, vẫn cam tâm vui sướng,
chẳng bực bội! V́ thế, ba người kia công đức
viên thành, lợi ích trong một đời mà thành vô lượng
đời. Người kia do nhiều lượt lăn lộn
trong nhân gian, nhiều lần gặp thanh sắc, đồ
gốm chưa nung khó thể ǵn giữ. Ngẫu nhiên thấy
bậc vương giả ra vào, xe cộ rộn rịp, tâm
sanh động niệm, mến chuộng sự vinh hoa ấy.
Do công đức huân tu, theo niệm thọ báo, thường
được làm vua trên cơi trời và nhân gian. Phước
tuy chẳng thể lường, nhưng vẫn hữu hạn!
Ba người đă đắc đạo, tụ lại bàn
bạc: “Ta thoát khỏi lồng bẫy do công của người
này. Ông ta đắm đuối quả báo, tăng trưởng
hữu vi. Từ đây chết đi, sẽ ch́m vào hố
lửa. May vẫn c̣n chưa đọa, đúng là lúc hăy nên
lập cách giáo hóa. Một người nói: “Vị vua này chấp
dục, lại c̣n tà kiến. Nếu chẳng dùng ái để
lôi móc, sẽ chẳng có cách nào cứu bạt! Một người
có thể làm vợ đoan chánh, hai người kia làm con thông
minh. Vợ con như thế, ắt vua sẽ thuận theo.
Lập cách giáo hóa như thế, ắt vua sẽ cải tà!”
Quốc vương khi đó chính là vua Diệu Trang Nghiêm,
nay là Hoa Đức Bồ Tát. Người vợ là phu nhân Tịnh
Đức, nay là Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng Bồ
Tát. Hai con khi xưa tức là Tịnh Nhăn và Tịnh Tạng,
nay là hai vị Bồ Tát Dược Vương và Dược
Thượng. Nêu ra cái nhân trước của bốn vị
thánh, cho nên phẩm này có tên là Bổn Sự. Nói cặn kẽ
th́ như trong Pháp Hoa Văn Cú. Ngài Nam B́nh tụng rằng: “Tích
niên tụ thủ tịch liêu khê, tam bộ thanh vân, nhất
đọa nê. Tiểu kỹ lược thi cam chiết giác,
đại gia phủ chưởng nhiếp thiên thê” (lược
dịch: Năm xưa tụ họp chốn hoang vu, ba người
giải thoát, một người mê. Tṛ mọn tạm bày thôi
đắm đuối, nắm tay vượt thoát chốn
tam đồ).
1.7. Phổ
Hiền Bồ Tát khuyến phát lưu thông
Lúc bấy giờ, Phổ Hiền
Bồ Tát từ phương Đông đến, bạch Phật
rằng: “Con từ cơi nước của Bảo Oai Đức
Thượng Vương Phật, vẳng nghe thế giới
Sa Bà này nói kinh Pháp Hoa, bèn cùng với
các vị đại Bồ Tát cùng đến nghe nhận.
Kính xin đức Thế Tôn hăy v́ con mà nói: Sau khi đức
Như Lai diệt độ, người ta phải làm như
thế nào để được kinh Pháp Hoa?” Đức
Phật bảo ngài Phổ Hiền: “Nếu người đó
thành tựu bốn pháp th́ sau khi Như Lai diệt độ,
sẽ đạt được kinh Pháp Hoa này. Một là được
chư Phật hộ niệm, hai là gieo các cội đức,
ba là nhập Chánh Định Tụ, bốn là phát tâm cứu
hết thảy chúng sanh. Thành tựu bốn pháp như thế,
ắt sẽ đạt được
kinh này”. Phổ Hiền bạch Phật rằng: “Trong đời
ác trược vào năm trăm năm sau, hễ có người
thọ tŕ kinh điển này, con sẽ thủ hộ, trừ
các suy hoạn cho người ấy. Người ấy dù đi,
hay đứng, đọc tụng kinh này, con sẽ liền cưỡi
voi trắng sáu ngà, cùng các vị đại Bồ Tát tự
hiện thân để cúng dường, thủ hộ, cũng
v́ cúng dường kinh Pháp Hoa vậy. Nếu người ấy
đối với kinh Pháp Hoa quên mất một câu, một
kệ, con sẽ dạy cho”. Sách Pháp Hoa Văn
Cú giải thích: “Phật nêu ra bốn pháp thâu tóm trọn vẹn một kinh. Pháp Hoa được
trùng diễn, Phật huệ được trùng tuyên. Từ
xa đến khuyến phát, có ư nghĩa như thế đó”. Ngài Nam B́nh
tụng rằng: “Biến Cát tầm thanh đắc đắc
lai, cự linh tài tịch tuyệt tiêm ai. Tượng
vương hà sự tần di bộ, vị ái Phân Đà măn
thế đài” (tạm dịch: Theo tiếng, Phổ
Hiền đến cơi này. Thần linh tránh né, sạch trần
ai. Voi chúa v́ đâu dời bước măi? Do chuộng kinh sen
giẫm bậc rêu).
2. Cao tăng
(gồm một trăm bảy mươi ba người)
* Tỳ-kheo
Ma Ha La tại Thiên Trúc
Xưa kia, tại nước
Thiên Trúc, có một vị tỳ-kheo trụ A Lan Nhă, tên là Ma
Ha La, đọc kinh Đại
Thừa rất nhiều, đức hạnh hiển hách. Quốc
vương chánh tín, từng trải tóc phủ chỗ đất
bùn để tỳ-kheo đi qua. Lại có tỳ-kheo đến
tâu với vua rằng: “Vị này chẳng đọc nhiều
kinh điển, sao bệ hạ lại cúng
dường trọng thể?” Vua đáp: “Có một hôm, trẫm
từng nửa đêm muốn đến gặp vị tỳ-kheo
ấy, liền đến chỗ Ngài, thấy Ngài ở
trong một cái hang đọc kinh Pháp Hoa. Có một người
quang minh sắc vàng ṛng, cưỡi voi chúa trắng
[ở bên cạnh], chắp
tay cúng dường. Trẫm vừa mới
đến gần, người ấy liền biến mất.
Trẫm hỏi đại đức: ‘V́ sao trẫm đến
th́ người có quang minh sắc vàng ṛng ấy diệt mất?’
Tỳ-kheo bảo: ‘Đấy là Biến Cát Bồ Tát. Ngài Biến
Cát tự nói: ‘Nếu có ai tụng kinh Pháp Hoa, ta sẽ cưỡi
voi trắng đến dạy bảo. Tôi đọc kinh này,
ngài Biến Cát tự đến’. Biến Cát chính là Phổ
Hiền Bồ Tát trong kinh Pháp Hoa vậy. Trẫm nghe xong, lễ
dưới chân [vị tỳ-kheo ấy] rồi lui về.
V́ thế, trẫm nay thường cúng dường” (trích
từ Đại Trí Độ Luận).
* Tam Tạng
Hộ Pháp sư ở Đôn Hoàng
Ngài Tam Tạng Đàm Ma La Sát
(Dharma-rakṣa), phương
này dịch là Pháp Hộ, vốn là người xứ Nhục
Chi[6],
tám tuổi ĺa cơi tục. Hễ kinh sách nào lướt qua mắt, Sư đều thuộc ḷng; mỗi ngày nhớ được một vạn chữ.
Sư đi sang phương Tây, trải qua các nước, thông thạo ba mươi sáu loại ngôn ngữ, văn pháp, cách giải
thích, âm đọc của chúng. Sự trụ tại Đôn
Hoàng đă lâu, người thời ấy gọi Sư là Đôn
Hoàng Bồ Tát. Vào thời Vũ Đế nhà Tây Tấn, Sư
mang kinh bản tiếng Phạn đến Lạc Dương.
Sư
c̣n thông thạo rộng răi ngũ kinh, sử truyện [của
Trung Hoa]. Trong niên hiệu Vĩnh Khang[7],
Sư trụ trong ngôi chùa lớn ở ngoài cửa Thanh Môn của
Trường An, dịch bộ Chánh Pháp Hoa Kinh gồm mười
quyển, lại c̣n v́ tứ chúng diễn giảng. Sư c̣n dịch các kinh khác, tổng cộng một trăm
năm mươi bốn bộ, đều được
sắc truyền lưu thông. Thuở đó, Sư ẩn cư
trong núi sâu, trong núi có con suối trong vắt, có thể dùng để
tắm rửa. Một hôm, do có tiều phu nhuốm bẩn,
suối bỗng khô cạn. Ngài Pháp Hộ than rằng: “Người
vô đức đến nỗi suối trong ngưng chảy.
Đă thiếu thứ cần dùng, ta nên rời đi”. Nói xong,
nước suối trong vắt lại trào lên. Chi Độn[8]
tán thán: “Hộ công chứng Tịch, đạo đức
uyên mỹ, vi ngâm khung cốc, khô tuyền sấu thủy. Mạc
dĩ Hộ Công, thiên đĩnh hoằng ư, trạc túc lưu
sa, khuynh bạt huyền trí” (Hộ công chứng tịch
diệt, đạo đức thật sâu mầu, khẽ
than chốn hang thẳm, suối khô bỗng nước trào,
ngài Pháp Hộ cao thẳm, bẩm tánh đẹp tót vời,
rửa chân chốn lưu sa, nắm vững lẽ huyền
diệu) (theo Lương Cao Tăng Truyện).
* Tam Tạng
pháp sư Cưu La Ma Thập thời Diêu Tần
Pháp sư Cưu Ma La Thập,
Hán dịch là Đồng Thọ, người xứ Quy Tư.
Bảy tuổi xuất gia, mỗi ngày tụng một ngàn bài
kệ. Mẹ Ngài từng dẫn con sang nước Nhục
Chi, gặp một vị La Hán bảo: “Sa Di này tới năm
ba mươi lăm tuổi, nếu chẳng phá giới, sẽ
tuyên dương Phật giáo rộng lớn, độ vô số
người. Nếu giới chẳng toàn vẹn, sẽ chỉ
là một vị pháp sư tài năng, sáng suốt mà thôi!” Mẹ
suy nghĩ lời ấy, một hôm bảo con: “Đối
với giáo pháp sâu thẳm như Phương Đẳng,
phải nên dốc
một tấm ḷng son xiển dương rộng
lớn. Chỉ có điều tận lực làm như thế
th́ chẳng có ích cho bản thân con”. Ngài La Thập đáp: “Đạo
của bậc đại sĩ là vong thân ḥng lợi lạc
người khác. Nếu khiến cho đại pháp lưu truyền,
sẽ có thể gột rửa cơi tục mông muội. Dẫu
thân con trong ḷ than, vạc dầu, cũng chẳng hối hận!”
Khi đó, Phù Kiên chiếm đóng Quan Trung[9].
Quan Thái Sử tâu rằng: “Có đức tinh xuất hiện
trong phận dă[10]
của ngoại quốc, sẽ có bậc đại trí vào phù
tá Trung Quốc”. Phù Kiên nói: “Trẫm nghe Tây Vực có sư La
Thập, chẳng phải là người đó hay sao?” Vua liền
sai Lữ Quang dẫn binh chinh phạt Quy Tư. Lữ Quang đă
bắt được ngài La Thập, về tới Lương
Châu, nghe Phù Kiên đă bị Diêu Trành làm hại, bèn chiếm đóng
vùng Quan Ngoại[11],
tiếm xưng quốc hiệu là Hậu Lương.
Diêu Trành chết, con là Diêu
Hưng kế vị. Trong sân chầu, bỗng
mọc cây có cành nhánh giao kết với nhau. Hành trong vườn Tiêu
Dao đều biến thành cỏ Xỉ[12].
Vua cho đó là điềm lành, bèn chinh phạt Lữ Long[13],
đón Sư vào Trường An, dùng lễ quốc sư để
đối đăi. Diêu Hưng suất lănh các sa-môn nghe ngài La
Thập giảng kinh trong vườn Tiêu Dao. Biện tài của
ngài La Thập vang khắp Hoa Hạ. Sư thấy các bản
dịch cũ sai lệch so với bản tiếng Phạn,
bèn vào năm Hoằng Thỉ thứ tám (406), ở chùa Thảo
Đường, cùng với
hơn tám trăm người như Tăng Triệu v.v… khảo
đính các bản dịch kinh trước đó. Sư dịch
kinh Diệu Pháp Liên Hoa thành một bộ bảy quyển.
Diêu Hưng nói: “Pháp sư thông
minh, giác ngộ siêu quần, thiên hạ không hai, sao có thể
để Ngài không có người nối dơi cho được!”
Do vậy, đem mười kỹ nữ ép Sư nhận
lấy. Từ đó, người tịnh hạnh thẹn
nghe nói đến chuyện ấy. Sư tới giảng
thuyết, ắt đều bảo trước: “Ví như
bùn thối sanh ra hoa sen, chỉ quan tâm hoa sen, đừng nh́n
vào bùn thối!” Về sau, Sư bỗng ngă bệnh, liền
bảo đại chúng: “Do pháp mà gặp gỡ, vẫn chưa
trọn hết tấm ḷng, không thể nhờ vào đâu để
đáp tạ. Mong cho các kinh đă dịch như Pháp Hoa v.v…
đều cùng được truyền bá. Nếu tôi dịch
chẳng sai lầm, nguyện sau khi thiêu thân, lưỡi chẳng
cháy nát!” Nói xong, Sư qua đời. Đến khi xà-duy
(Jhāpeti, trà-tỳ,
hỏa thiêu), quả nhiên lưỡi chẳng cháy tan. Xem chi
tiết cặn kẽ trong Lương Tăng Truyện (Lương
Cao Tăng Truyện) và Tấn Thư[14].
Trong Nam Sơn Cảm Thông Truyện[15],
Vi Đà Thiên đă nói: “Ngài La Thập thông minh, khéo hiểu
Đại Thừa. Kể từ thời bảy đức
Phật, Sư đă truyền bá, dịch thuật, đạt
được những điều pháp vương gởi
gắm! Thế tục phê phán Sư khuyết giới, chẳng
cần bàn tới! Ngài La Thập thuộc địa vị
Tam Hiền, há có phải là kẻ lơ mơ ư?”
* Pháp sư
Huệ Duệ ở Trường An
Thích Huệ Duệ là người
Kư Châu, giữ khí tiết thanh cao, nghiêm túc. Sư tham học
khắp nơi, đi tới tận địa giới của
Nam Thiên Trúc. Đối với các sách vở ở chốn
khác, không ǵ chẳng hiểu rơ. Chúa nhà Tần là Diêu Hưng vời
Sư vào gặp, trông thấy
phong thái, ngôn từ của Sư, vua hết sức tán thưởng,
gọi Ngài là Tứ Hải Tiêu Lănh (người cầm đầu
tiêu biểu trong bốn biển). Xưa kia, ngài Pháp Hộ dịch
kinh Chánh Pháp Hoa, phẩm Thọ Quyết có câu: “Thiên kiến
nhân, nhân kiến thiên” (người thấy trời, trời
thấy người). Ngài La Thập dịch kinh Pháp Hoa, đến
chỗ đó, bèn nói: “Lời này tương đồng cách
nói tại Tây Vực, nhưng lời lẽ quá thô ráp!” Huệ
Duệ nói: “Há chẳng phải là trời người giao tiếp
đôi bên trông thấy nhau ư?” La Thập vui mừng nói: “Thật
vậy!” Sư lănh ngộ cao vời dường ấy. Kinh
phiên dịch vừa xong, [ngài La Thập] bèn sai Huệ Duệ
giảng giải. Huệ Duệ bèn châm chước những
điều u huyền, chia thành “cửu triệt” (九轍, chín khuôn
phép, đường lối):
- Một, hôn thánh tương
khấu triệt (phàm thánh gặp gỡ), tức phẩm Tự.
- Hai, thiệp giáo quy Chân triệt
(gom các giáo về lẽ chân), là bậc thượng căn
(tức phẩm Phương Tiện).
- Ba, hưng loại tiềm
h́nh triệt (nêu bày sự thật, v́ chúng sanh chấp
trước mà phải thị hiện quyền pháp ḥng dẫn
về Nhất Thừa), tức người trung căn.
- Bốn, thuật kim thông tích
triệt (trần thuật chuyện hiện tại, phơi
bày Bổn nơi Tích), trung căn lănh ngộ.
- Năm, chương nhân tấn
ngộ triệt (nêu bày cái nhân để kẻ hạ căn
được lănh ngộ), tức là kẻ hạ căn
(tiêu biểu là phẩm Hóa Thành).
- Sáu, tán dương hạnh
lư triệt, tức phẩm Pháp Sư.
- Bảy, Bổn Tích vô sanh
triệt, Đa Bảo bất diệt là Bổn, Thích Ca bất
sanh là Tích. Bổn và Tích tuy khác, nhưng đều chẳng
thể nghĩ bàn như nhau.
- Tám, cử nhân trưng quả
triệt (nêu ra cái nhân, gạn hỏi cái quả), tức các
phẩm Dũng Xuất và Thọ Lượng.
- Chín, xưng dương viễn
tế triệt (khen ngợi công đức, lực dụng
cùng cực của kinh ), tức là từ phẩm Tùy Hỷ cho
đến hết phần Lưu Thông.
Ngài Huệ Duệ lại viết
lời tựa cho kinh này, xem [lời tựa ấy] trong Đại
Tạng. [Lại chỉ rơ] kinh lại có hai mươi tám
phẩm sanh khởi (tức là duyên khởi v́ sao có hai mươi
tám phẩm theo thứ tự). Ngài Kinh Khê khen ngợi [lập
luận của ngài Huệ Duệ] hết sức có thứ
lớp phân minh. Sư thường hồi hướng, tán
dương lợi ích tốt lành [của kinh Pháp Hoa] để
nguyện sanh về Tây Phương. Ngày lâm chung, Sư tắm
rửa, thay áo, đốt hương, lễ bái, ngồi chắp
tay, hướng về Tây. Khi Sư mất, [đại
chúng] thấy mây thơm năm màu từ trong pḥng thoát ra. Cơi
đời xưng tụng “Thập Môn tứ thánh” (bốn
vị thánh nhân môn đồ của ngài La Thập) là Sanh, Triệu,
Dung, Duệ. Sư là một trong bốn vị ấy (xem
Lương Cao Tăng Truyện, “cửu triệt” trích từ
quyển thứ tám của Pháp Hoa Văn Cú).
* Pháp sư
Đạo Sanh ở Hổ Khâu
Sư húy là Đạo Sanh, lấy
họ theo thầy là Trúc[16].
Sư quanh năm dốc chí học tập, lời lẽ trong
sáng, mới mẻ, mọi người đều nể phục.
Sư thường cho rằng: “Điều trọng yếu
để nhập đạo là phải dùng huệ giải
làm gốc”. V́ thế,
Sư dùi mài nơi các kinh, chẳng nề hà nhọc nhằn,
khổ sở, liền đến Quan Trung theo học với
ngài La Thập. Do biện luận, vấn đáp cao vời,
Sư thường được xưng tụng là bậc
“thần ngộ”. Về sau, Sư ẩn giấu tung tích
tại chùa Hổ Khâu, đá nơi giảng đài hăy c̣n.
Có một thuở, Sư ở
Bán Đường tụng kinh Pháp Hoa, bỗng có một con
trĩ thường đến nghe kinh. Một hôm, chẳng
thấy nó, Sư nghĩ tới nó, đêm mộng thấy nó
nói: “Con do nghe kinh mà được thay đổi quả báo,
nay làm con ở nhà nọ. Đợi sau mấy năm nữa,
con sẽ đến phụng sự”. Tới khi Sư ḍ hỏi,
quả đúng là như thế. Đến khi [đứa
bé ấy] xuất gia, nào ngờ chưa trưởng thành mà
đă mạng chung. Do vậy, Sư đem chôn trong rừng.
Một tối, chợt có quang minh chiếu sáng vùng Đường
Ổ, người trong làng kinh ngạc. Đào lên xem th́ thấy
cái lưỡi [của đứa bé ấy] sanh hoa sen xanh. Do
đó, dựng tháp, sau này biến thành chùa, tức là chùa Bán Đường
hiện thời.
Sư từng lập thuyết:
“Chớ nên thọ báo do hành thiện, hăy đốn ngộ
thành Phật”, nhưng kẻ chấp trước văn
tự, thủ cựu cho đó là tà thuyết. Sư đối
trước đại chúng phát thệ: “Nếu thuyết
do tôi đă lập chẳng trái nghịch kinh, lúc xả mạng
sẽ ngồi trên ṭa sư tử”. Về sau, kinh Đại
Niết Bàn được dịch ra, quả nhiên phù hợp
với các điều Sư đă nói. Sư liền thăng
ṭa, giảng diễn, người nghe đều giải ngộ,
vui sướng. Tiệc pháp sắp hoàn tất, bỗng đuôi
của chiếc phất trần [Sư đang cầm nơi
tay] lả tả rụng xuống. Sư vẻ mặt đoan
nghiêm qua đời, dường như đang nhập Định.
Người thời ấy nói: “Sanh Duệ phát thiên chân”
(Đạo Sanh và Huệ Duệ giác ngộ chân tánh). V́ thế
biết Ngài là bậc lỗi lạc (sự tích chùa Bán Đường
trích từ Tục Linh Thụy Tập, các chuyện khác trích
từ Lương Cao Tăng Truyện).
* Đại
thiền sư Nam Nhạc Huệ Tư
Sư húy Huệ Tư, sanh trong
nhà họ Lư ở Vũ Tân. Thuở bé, Sư mộng thấy
vị Phạm tăng khuyên xuất gia, liền
nhập đạo. Sư lập chí mỗi ngày chỉ ăn
một bữa, chẳng nhận cúng dường riêng. Suốt
mười năm, Sư chuyên tụng Pháp Hoa, bảy năm
thường hành Phương Đẳng, suốt chín mươi
ngày thường ngồi tu Nhất Hạnh tam-muội. Do công
tinh tấn ấy, Sư thấy thấu triệt sự tích
hành đạo suốt ba đời. Tiếp đó, Sư đến
chỗ thiền sư Huệ Văn nhà Bắc Tề[17]
để theo học Thiền pháp. Sư nhiếp tâm suốt
thời gian kết hạ. Cho đến khi an cư
mùa Hạ đă hết, tuổi Hạ được
tăng thêm, Sư bùi ngùi chẳng chứng
được ǵ! Sư thả lỏng thân, dựa vào vách,
trong khoảnh khắc lưng chưa kịp tựa vào vách,
đă rỗng rang khai ngộ Pháp Hoa tam-muội và các pháp môn Đại
Tiểu Thừa khác.
Về sau, Sư trụ tại núi Đại
Tô ở Quang Châu. Tăng tục làm phước quyên góp cho Sư chép kinh Bát Nhă và kinh Pháp Hoa bằng chữ vàng. Đại
chúng thỉnh Sư giảng hai kinh, Sư liền diễn thuật,
không ǵ chẳng sâu thẳm. Sau đó, Sư tới Nam Nhạc,
thấy rừng suối thanh tịnh, bèn nói: “Đây là chỗ
nền của chùa cũ”. [Đại chúng] vâng lời đào
lên, quả nhiên thu được các vật dụng và nền
cũ của điện đường. Sư lại tới
dưới gộp đá, bảo: “Đời trước,
tôi đă tọa Thiền tại đây, bị giặc chém đầu,
do đó mạng chung, cho nên mới có đời này”. Mọi
người cùng t́m kiếm, bèn t́m được đầu
lâu. Sư t́m được, bèn đội lên đầu. V́
thế, dựng tháp để báo ơn trước. Trần
Tuyên Đế[18]
hạ chiếu vời Sư trụ tại chùa Thê Huyền,
tăng tục đều kính ngưỡng.
Sư từng đến chùa
Ngơa Quan, gặp mưa mà chẳng ướt, đi trên bùn
chẳng bị nhuốm bẩn. Hoặc hiện thân lớn
nhỏ, hoặc lặng lẽ ẩn thân. B́nh đựng nước
thường đầy ắp, dường như có đồng
tử cơi trời hầu hạ. Nếu có người hỏi
địa vị của Sư, đáp: “Tôi thuộc địa
vị Thập Tín”. Ngày lâm chung, Sư nhóm họp môn đồ
đông đảo để thuyết pháp, người nghe
lạnh ḷng. Sư bèn nói: “Nếu có mười người
chẳng tiếc thân mạng, thường tu Pháp Hoa hoặc
Ban Châu tam-muội, tôi sẽ tận lực cung cấp. Nếu
chẳng có người như vậy, tôi liền đi ngay”.
Chuyện khổ hạnh khó khăn, chẳng có ai đáp lời!
Do vậy, Sư liền thâu liễm ư niệm, xướng
rằng: “Thánh chúng đến đón”, ung dung mạng
chung, cảm vời mùi hương lạ đầy nhà, xa gần
đều ngửi thấy. Sư thọ sáu mươi bốn
tuổi, tức là năm Đại Kiến thứ chín
(576) nhà Trần. Từ thuở có Phật pháp đến
nay, phần nhiều [tăng sĩ] chú trọng nghĩa môn
(giải thích, phô diễn giáo nghĩa), chỉ riêng Sư cùng
hoằng dương Định Huệ. Sư thốt lời
sâu tột, Thiền Tông Nam Bắc chẳng ai không tuân phụng.
Ngài từng được Phổ Hiền Bồ Tát xoa đỉnh
đầu, khiến [đầu Sư] bỗng mọc nhục
kế, người khác trông thấy đều cho là hiếm
có. Sư hành đại từ bi, vâng giữ giới Bồ
Tát, chẳng dùng hay mặc các thứ làm bằng da, hoặc
lụa là, chỉ khoác áo chằm vá bằng vải thô, xông xáo
gió sương. Những điều Sư trước
thuật, hoặc truyền dạy đều được
chép thành sách, nhưng do lâu ngày, các văn từ của Sư
đă bị thất lạc chẳng c̣n, chỉ c̣n Pháp Hoa
An Lạc Hạnh Nghĩa và Phát Nguyện Văn lưu hành
trong cơi đời (trích từ Đường Tục Cao
Tăng Truyện).
* Trí Giả
đại sư ở núi Thiên Thai
Ngài Trí Khải[19]
là quốc sư hai triều Trần và Tùy, quê ở Dĩnh
Xuyên. [Ḍng họ] nhiều đời sống tại huyện
Hoa Dung thuộc Kinh Châu. Sư là con thứ hai của quan
Thường Thị[20]
Trần Khởi Tổ, mẹ họ Từ, mộng thấy
mây thơm sáng ngời soi vào bụng, bèn mang thai Sư. Tới
khi sanh nở, trong nhà hiện thần quang. Sư mỗi mắt
có hai tṛng như vua Thuấn, lông mày có tám sắc như vua
Nghiêu. Bảy tuổi Sư đến chùa, Tăng dạy
truyền khẩu phẩm Phổ Môn một
lượt bèn thông suốt. Mười lăm tuổi,
Sư bèn đối trước tượng ở Trường
Sa phát thệ, nguyện làm sa-môn gánh vác chánh pháp. Mười
tám tuổi, xuất gia tại chùa Quả Nguyện ở Tương Châu. Hai mươi tuổi, xuống
tóc, thọ Cụ Túc, liền đến núi Đại Hiền,
tụng kinh Pháp Hoa, kinh Vô Lượng Nghĩa, kinh Phổ
Hiền Quán suốt hai mươi ngày. Tụng xong ba bộ
kinh ấy, Sư miệng tụng lời vàng, tay viết
kinh, vẽ tượng, tâm thần sảng khoái, linh lợi,
lại c̣n vui hưởng Thiền duyệt.
Sau đó, Sư lại đến
núi Đại Tô lễ đại thiền sư Huệ Tư.
Ngài Huệ Tư trông thấy, than rằng: “Xưa kia cùng
nghe kinh Pháp Hoa tại Linh Sơn, túc duyên theo đuổi, nay
lại gặp gỡ”. Do vậy, truyền dạy Tứ
An Lạc Hạnh thuộc Phổ Hiền đạo tràng. Sư
ngày đêm cần mẫn hết mực, đúng như lời
dạy mà mở mang tâm trí. Trải qua mười bốn ngày,
Sư tụng kinh Pháp Hoa đến chỗ ngài Dược
Vương xả thân được chư Phật cùng khen
ngợi: “Thị chân tinh tấn, thị chân pháp cúng dường
Như Lai” (Đấy là tinh tấn thật sự, là pháp
cúng dường Như Lai chân thật). Tụng đến đó,
tâm bám chặt nơi khổ hạnh, rỗng rang nhập Định,
thấu hiểu Pháp Hoa dường như ánh sáng chiếu từ
nơi cao thấu đến hang thẳm, liễu đạt
các pháp tướng, dường như gió mát thổi qua thái
hư. Ngài Huệ Tư ấn khả: “Chẳng phải là
ông chẳng chứng, chẳng phải là tôi không biết. Ông
nhập Định chính là tiền phương tiện của
Pháp Hoa tam-muội. Tổng tŕ mà ông đă phát chính là Toàn Đà
La Ni. Hạng pháp sư chấp trước văn tự dẫu
ngàn người vạn kẻ, đều chẳng thể
thấu hiểu cùng tột biện tài của ông được.
Tôi hâm mộ Nam Nhạc đă lâu, hận pháp chẳng có người
giao phó. Ông có thể truyền đăng hóa độ chúng
sanh, đừng là kẻ cuối cùng đoạn diệt Phật
chủng!”
Sư tuân phụng lời giáo
huấn nghiêm cẩn ấy, bèn chấn tích[21]
ở Kim Lăng,
trụ tại chùa Ngơa Quan, bắt đầu mở ra Pháp
Hoa Huyền Nghĩa. Từ đấy, diễn giảng suốt
tám năm. Sau đó, đồ chúng đông dần, nhưng người
đắc đạo ít ỏi. Sư bèn lánh đời, giữ
lấy sự huyền nhiệm, ẩn cư tại núi Thiên
Thai. Thoạt đầu, Sư náu ḿnh nơi Ngân Địa,
có lúc đi kinh hành trên ngọn Đông Nam, hoặc ở
trong phương trượng tụng kinh Pháp Hoa, nhập tam-muội.
Lũ ma và ác quỷ tranh nhau đến năo hại, Sư trụ
trong Thiền Định, trọn chẳng cảm thấy
sự biến hiện quái lạ của
các thần. Có lúc nọ, Sư giảng tụng Pháp Hoa, cảm đức
Phổ Hiền cưỡi voi trắng giáng xuống trước
mặt. Sư thuyết pháp, dùng “ngũ thời, bát giáo” để phán thích các kinh trong suốt một đời
giáo hóa của đức Phật, không ǵ chẳng cùng tận.
Giáo nghĩa Thiên Thai thật sự do Sư khởi
xướng.
Không lâu sau, Sư vâng chiếu
trở ra Kim Lăng, giảng đại luận tại Đại
Cực Điện, giảng kinh Nhân Vương tại chùa
Quang Trạch. Vua nhà Trần lễ Sư ba lạy tỏ ḷng
tôn kính. Tới khi nhà Tùy thôn tính nhà Trần, Sư bèn ẩn
cư tại Lư Sơn. Trong niên hiệu Khai Hoàng[22],
Dượng Đế cư phiên, thỉnh Sư làm vị
thầy truyền Bồ Tát Giới, ban cho Sư
hiệu là Trí Giả. Sau đó, Sư dưỡng già tại
Thiên Thai.
Một đêm, Sư bỗng
mộng thấy gió to thổi sập bảo tháp. Khi đó, chiếu thư liên tiếp vời Sư
đến chứng minh tượng tại Thạch Thành. Sư
bèn cáo bệnh, rồi dặn bảo các đệ tử xướng
kinh Pháp Hoa. Sư tự tán thán rằng: “Pháp môn như cha
mẹ, huệ giải bởi đó sanh, Bổn và Tích mênh mông,
vi diệu khó lường được. Phá búa, đứt
dây đàn[23],
chính là ngày hôm nay”. Lại bảo: “Nếu ta không lănh chúng,
ắt thanh tịnh lục căn. V́ kẻ khác mà tổn ḿnh,
lui sụt xuống ngũ phẩm. Các thầy bạn của
ta và Quán Âm đến đón!” Nói xong, Sư ngồi xếp
bằng qua đời, nhằm giờ Mùi ngày Hai Mươi
Bốn tháng Mười một năm Kỷ Tỵ, tức
năm Khai Hoàng 17 (597), xuân thu sáu mươi tuổi, hạ
lạp bốn mươi năm. [Triều đ́nh] sắc
truyền phong [nhục thể của Sư] trong tháp thiêng
thuộc ngọn Tây Nam của rặng Phật Lũng. Mỗi
năm, sai sứ giả đúng ngày đến mở tháp cúng
tế. Lần mở niêm phong cuối cùng, chẳng thấy
toàn thân của Ngài đâu nữa. Ngô Việt Tiền vương
từng truy tặng Ngài thụy hiệu là Pháp Không Bảo
Giác.
Kể từ lúc Sư nhập
diệt, đến nay đă là sáu trăm lẻ hai năm.
Sư hoằng dương Giáo Quán, không chú trọng viết
sớ giải, chỉ dùng biện tài như “sông treo”[24]
giảng các ư nghĩa vượt ngoài văn tự của
kinh. Sư nói Pháp Hoa Huyền Nghĩa và Văn Cú để
mở mang diệu giải. Kế đó, diễn giảng
[Ma Ha] Chỉ Quán để [hành nhân] nương vào giải
mà lập chánh hạnh. V́ thế, ngài Kinh Khê nói: “Chẳng
có Huyền Nghĩa, sẽ không có ǵ để hướng
dẫn. Chẳng có Văn Cú, sẽ không có ǵ để ǵn
giữ. Chẳng có Chỉ Quán, sẽ không có ǵ để thông
đạt. Chẳng do một nhà (tông Thiên Thai) [lập giáo],
sẽ không có ǵ để tiến nhập, chính là nói đến
điều này đó chăng? Vĩ đại thay! Đạo
sáng cứu đời được thấy trong ba bộ
sách của tông Thiên Thai!” Sư giáo hóa, dẫn dắt hơn
sáu mươi châu, đạo ấy càng lâu càng thêm rạng
rỡ. Phàm các sự tích của Ngài đều được
chép cặn kẽ trong truyện kư riêng và các ghi chép nơi mười
hai đạo tràng của Thiên Thai!
* Trừng
Chiếu luật sư ở Nam Sơn
Luật chủ
Đạo Tuyên là người xứ Đan Đồ, cha
là Lại Bộ Thị Lang[25]
Tiền Thân. Lúc mẹ mang thai Sư, mộng thấy mặt
trăng xuyên vào ḷng. Rồi lại mộng thấy một
vị Phạm tăng bảo: “Bà đang mang thai luật
sư Tăng Hựu đời Lương (Tăng Hựu
tức là ngài Tăng Hộ chùa Ẩn Nhạc tại Diệm
Khê đời Nam Tề). Hăy nên cho [đứa bé này] xuất
gia để hoằng dương Phật giáo rộng khắp”.
Tới lúc Sư mười lăm tuổi, mẹ nhớ lại
giấc mộng ấy, liền cho phép con ĺa tục. Sư
miệt mài tụng các kinh như Pháp Hoa v.v… không ǵ chẳng
thông suốt.
Lúc mười sáu tuổi,
Sư xuống tóc, thọ Cụ Túc, chuyên học Tỳ Ni
(Luật Tạng). Về sau, Sư lại trung hưng đạo
ấy, là người khéo kế tục ngài Ưu Ba Ly. Ba y
của Sư đều bằng vải thô, ngày ăn một
bữa chỉ toàn đậu. Chấy rận mặc sức
sanh sôi, thân h́nh như gỗ, đất. Sư ở đâu
cũng cảm thần hay loài vật dâng hiến hoa quả,
cúng dường thức ăn cơi trời. Nếu Sư
trượt chân nơi bậc thang, liền có Na Tra nâng đỡ;
hoặc đắp đàn báu (giới đàn), có thần Tăng
lễ bái, tán thán. Từ năm Càn Phong[26]
trở đi, trời người lũ lượt kéo đến,
cùng Sư đàm luận các tướng trạng trong Luật
học. V́ thế, sớ sao[27]
do Sư trước tác thể hiện được bổn
ư của Phật, do cảm thông thần minh mà được
như thế, thiên hạ hậu thế đều tôn sùng.
Đạo của Sư là “pḥng phi, chỉ ác” (ngăn
ngừa sai trái, dứt điều ác), được gọi
là Nam Sơn giáo. Sư soạn bài tựa hoằng truyền
kinh Pháp Hoa đặt ở đầu kinh ấy, chỉ thú
rộng sâu, ngôn từ cao diệu, trăm vua chẳng sửa
đổi được, ngàn đời truyền tụng.
Sư nêu bày bổn nguyện rằng: “Mong được
sớm thanh tịnh sáu căn, ngưỡng vọng hội
tốt lành của đấng Từ Tôn, mau thành Tứ Đức,
hướng đến cơ mưu huyền diệu nơi
lạc độ” (sự tích của Sư có thể
thấy trong bộ Đại Tống Cao Tăng Truyện).
* Pháp sư
Từ Ân ở Kinh Triệu
Sư húy Khuy Cơ, là cháu[28]
của Uất Tŕ Kính Đức (Uất
Tŕ Cung) đời Đường, cha là Kim Ngô Vệ Tướng
Quân Uất Tŕ Kính Tông. Mẹ họ Bùi, đêm
mộng thấy nuốt mặt trăng, bèn có thai. Sanh ra, Sư
mới sáu tuổi đă thông huệ hơn người, lập
tức viết binh thư tới mấy ngàn chữ. Thuở
đó, Tam Tạng Huyền Trang sang phương Tây, thâu nhận
một bé trai có trí nhớ rất mạnh. Do vậy, Ngài dẫn
nó theo đến gặp ông Tông. Ông Tông gọi Khuy Cơ ra chào. Huyền Trang sai nó đọc
[binh thư do Khuy Cơ] đă trước tác. Ngài Huyền
Trang cho xem vài lượt, đứa bé đă nhớ như
in văn từ đă đọc xong. Ngài Huyền Trang đùa
bảo: “Đấy là sách cổ”. Kính Tông chẳng tin, Huyền
Trang bảo đứa bé nhắc lại, [nó đọc] chẳng
sai một chữ. Kính Tông giận con đạo văn, toan
giết chết [Khuy Cơ]. Ngài Huyền Trang liền xin cho
Khuy Cơ xuất gia. Khuy Cơ nói: “Chấp thuận cho tôi
ba chuyện, tức ăn mặn, không kiêng sắc dục, ăn
tối, th́ tôi liền
xuất gia. Nếu không, thà chết dưới kiếm!” Huyền
Trang ái mộ [Khuy Cơ] tài năng cao vời, giả vờ
chấp thuận. Khuy Cơ nhập đạo tại chùa Đại
Từ Ân, khéo thông hiểu Đại Tiểu Thừa. Phàm là
luận sớ hễ đọc qua một lượt, bèn ghi nhớ chẳng sai.
Trước đó, ở Tây
Vực, ngài Huyền Trang nhận lănh Du Già Sư Địa
Luận và tông chỉ Duy Thức từ luận sư Giới
Hiền, nhưng chưa có ai kế thừa. [Đến nay
truyền cho] Khuy Cơ lănh thọ. Sư hoặc tông, hoặc
thích[29],
soạn thuật hơn một trăm bộ sách, nên được
gọi là Bách Bộ Luận Sư. Sư (ngài Khuy Cơ) giáo
hóa đồ chúng các nơi, người được lợi
ích rất đông. Sư sang phía Đông, tới Bác Lăng,
có người thỉnh Sư giảng kinh Pháp Hoa, Sư bèn
soạn bộ Pháp Hoa Huyền Tán Đại Sớ gồm mười
quyển. Ngài giải thích tựa đề kinh như sau: “Nêu
lời tuyên xướng tột bậc về giềng mối
rộng lớn, phô tỏ danh xưng đẹp đẽ
của cả bộ kinh. Pháp chứa đựng khuôn phép,
xuyên suốt các điều tốt lành, nên gọi là Diệu.
Hoa kèm thêm sự phát khởi tươi đẹp, gồm
trọn các điều đẹp đẽ ḥng tỏ rơ
hoa sen”. Ngài lập thuyết, dựng tông, xiển dương
nghĩa lư uyên áo, các vị tông sư nơi đất Bắc
thường nghiên cứu, học tập (ngôn hạnh của
Sư được chép tường tận trong Đại
Tống Tăng Truyện. Chuyện lúc Sư xuất gia được
chép trong bộ Thích Thị Biên, quyển năm).
* Quốc
sư Thanh Lương ở Ngũ Đài
Ngài Thích Trừng Quán họ Hạ
Hầu, người xứ Sơn Âm[30].
Sư xuất gia tại chùa Ứng Thiên, tụng kinh Pháp Hoa.
Lúc mười bốn tuổi, Sư được ân chuẩn
đắc độ[31].
Thoạt đầu, Sư học Nam Sơn Luật Tạng;
sau đó, tại Kim Lăng, được truyền thừa
Tam Luận. Lại sang núi Thiên Trúc học tập Hoa Nghiêm đại
kinh. Về già, Sư trụ tại Tô Châu, nghe thiền sư
Kinh Khê truyền dạy Thiên Thai Chỉ Quán, nghe giảng các
kinh Pháp Hoa, Duy Ma v.v… Sư lại tham học với các vị
Ngưu Đầu Huệ Trung, Kính Sơn Đạo Khâm, thấu
đạt pháp Thiền của Nam và Bắc Tông [trong nhà Thiền].
Sư học rộng, nghiên
cứu sâu xa, kiến thức sâu rộng, trước tác các
bộ sớ giải như Hoa Nghiêm Trinh Quán Sớ v.v… Sư tạc tượng,
chép kinh chẳng thể kể trọn. Sư từng phát mười
đại nguyện để suốt đời tu tập:
- Một, chỉ giữ ba y
một bát, chẳng chứa thêm thứ dư thừa nào khác.
- Hai, vứt bỏ danh lợi
đương thời như đồ thừa thăi.
- Ba, mắt chẳng nh́n người
nữ.
- Bốn, chẳng in bóng nơi
nhà người thế tục.
- Năm, quanh năm tụng
kinh Pháp Hoa.
- Sáu, miệt mài đọc
kinh Đại Thừa.
- Bảy, miệt mài giảng
kinh Hoa Nghiêm.
- Tám, cả đời suốt
ngày đêm chẳng nằm.
- Chín, chẳng dối gạt
đại chúng, khoe tài.
- Mười, chẳng thoái thất ḷng đại từ bi.
Sư sống qua chín đời
vua, là thầy của bảy hoàng đế[32].
Đường Hiến Tông từng vời Sư vào cung giảng
tông chỉ đại lược của kinh Hoa Nghiêm. Vua đẹp
dạ, sắc truyền Hữu Ty đúc ấn, phong làm quốc
sư, thống lănh Tăng chúng
trong thiên hạ. Sư thọ một trăm lẻ hai tuổi,
thân cao chín thước hai tấc, ban đêm mắt tỏa
sáng, ngày th́ nh́n chẳng nháy. Thơ văn của Sư thanh
điệu, âm vận như chuông rung. Phạm tăng xưng
tụng Sư là hậu thân của ngài Văn Thù. [Sau khi Sư
đă mất], trà-tỳ, lưỡi
[chẳng cháy], giống như sen hồng, xá-lợi sáng ngời, tươi nhuận. Quan Tướng
Quốc Bùi Hưu vâng sắc chỉ soạn bia [nơi tháp
thờ xá-lợi của Ngài] (chuyện ngài sống qua chín
triều vua, xem quyển năm bộ Thích Thị Biên. Những
điều khác trích từ Đại Tống Cao Tăng
Truyện).
* Quang thiền
sư xứ Cao Ly
Sa-môn Huyền Quang người
đất Hùng Châu (Ungjin) thuộc Hải Đông (Cao Ly, Đại
Hàn), từ bé đă chán trần tục, chuyên tu phạm hạnh.
Tới lớn, Sư bèn vượt
biển thẳm sang Trung Hoa cầu Thiền pháp. Do vậy, du
lăm Trung Hoa. Sư đến Hành Sơn, tham yết
đại thiền sư Huệ Tư. Ngài Huệ Tư
xem xét căn khí của Sư, truyền dạy Tứ An Lạc
Hạnh. Huyền Quang thông minh, lanh lợi như búa thần,
không chỗ cứng rắn nào chẳng phá được.
Sư đă được bẩm thọ bèn hành tŕ, không lâu
sau chứng Pháp Hoa tam-muội. Ngài Huệ Tư ấn khả
rằng: “Sở chứng của ông chân thật, chẳng
dối. Hăy nên trở về nước ḿnh, lập bày, thực
hiện phương tiện quyền biến để hoằng
dương giáo pháp của ta”. Huyền Quang đảnh
lễ, từ biệt thầy, quẩy tích trượng trở
lại Giang Nam, ngồi thuyền ra biển cả. Bỗng
dưng trong đám mây màu, có người phơi phới, cầm
cờ tiết đỏ rực[33]
đi tới. Trong hư không có tiếng nói: “Thiên Đế
triệu vời thiền sư Huyền Quang ở Hải Đông
đích thân nói pháp môn Ngài chứng đắc tại cung rồng”.
Huyền Quang ṿng tay thoái thác, chỉ thấy người áo
xanh dẫn đường, liền vào cung thành.
[Sư thấy long cung] chẳng
giống như phủ thự của quan lại trong nhân
gian, không đâu chẳng phải là quỷ thần có mai, có vảy. Đă tới điện báu. Tiếp đó. Sư
bước lên đài báu, thuận theo lời hỏi mà đàm
luận suốt bảy ngày. Xong việc, vua khom ḿnh tiễn
biệt. Huyền Quang lại lên thuyền. Người trong
thuyền cho biết chỉ mới trôi nổi trên biển
nửa ngày mà thôi. Huyền Quang bèn đến Ông Sơn ở
Hùng Châu kết lều tranh, [về sau] trở thành cảnh
chùa. Sư thăng đường [thuyết pháp, trong số
các người nghe], một người chứng Hỏa
Quang tam-muội, một người nữa chứng Thủy
Quang tam-muội, những người khác như các loài chim bám vào núi Tu Di, đều có cùng một sắc. Đối
với chuyện thị hiện nhập diệt, chẳng
biết rơ! Trong hai mươi tám vị được thờ
tại tổ đường ở Nam Nhạc, Sư là một
vị trong số đó (theo Đại Tống Cao
Tăng Truyện).
* Thành thiền
sư ở Kinh Châu
Vị Tăng Huệ Thành là
con nhà họ Đoàn ở Lễ Dương, làm Tăng sống tại chùa Thập Trụ. Sư tụng
kinh Pháp Hoa và Đại Phẩm [Bát Nhă] hai mươi
mấy quyển. Về sau, đi khắp nơi hỏi đạo,
đến Lư Sơn, gặp gỡ Thiên Thai Khải thiền
sư (Trí Giả đại sư). Do nghe giáo nghĩa Lục
Túc của Nam Nhạc Huệ Tư đại ḥa thượng,
liền tới yết kiến. Đă được gặp
gỡ, bèn dốc ḷng ngưỡng mộ, muốn học Định
nghiệp. Ngài Huệ Tư nói: “Công ông soạn sớ giải
suốt một đời c̣n chẳng nóng bằng tôi thiêu
tay, phí uổng công phu, tiếc thay!” Huệ Thành phát phẫn,
vứt bỏ, đốt rụi các bản sớ giải
[do chính ḿnh đă trước tác]. Suốt từ đêm đến
sáng, Sư mở mắt tọa Thiền trải qua mười
lăm năm. Ngài Huệ Tư lại dạy Sư
vào đạo tràng Pháp Hoa và Ban Châu để tiêu chướng
trong ba năm, lại c̣n dạy bảo chánh pháp. Sư bèn chứng
Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn tam-muội, so
với chuyện “nhắm
mắt nhập Quán, mở mắt liền mất”, khác nào một trời một vực. Ngài Huệ Tư
nói: “Trí Khải trước là phát khởi tam-muội, sau
chứng tổng tŕ. Huệ Thành ngang ngửa, hai ông giải
hạnh ngang nhau”. Huệ Thành bèn đến Chi Giang ở
Kinh Châu dựng chùa. Do đạo đức lan tỏa, chẳng
mấy chốc, chùa đă
hoàn thành. Vua nhà Trần nhiều lần triệu vời, Sư mới đến truyền
trao giới pháp rồi quay về. Khi Sư
sắp siêu hóa, bèn giảng kinh Niết Bàn. Bỗng ngài Trí Giả
từ chùa Ngọc Tuyền đến đó, ngầm phù hợp,
cùng nhau đàm luận lư huyền diệu hồi lâu rồi
qua đời (theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Siêu thiền
sư ở Chung Nam
Sư tên là Huệ Siêu, sanh
trong nhà họ Trầm ở Đan Dương. Tánh t́nh ôn ḥa,
rộng răi. Sư xuất gia từ bé, công khóa chuyên tụng
Pháp Hoa. Sư nghe danh đại thiền sư Huệ Tư
ở Quang Châu, thông tỏ Định lẫn Huệ, lại
c̣n giỏi giới luật, liền cùng với ngài
Trí Giả trống ḷng, tịnh tâm, cung kính cầu học. Ngài Huệ
Tư nói: “Huệ Siêu có tâm tánh của người đắc
nhẫn”. Tới khi sang Hành sơn, Sư lại cùng ở
với ngài Trí Giả, tụng kinh nhiều năm. Về
sau, Sư ẩn cư tại Chung Nam, trải tám năm hành
đạo, Tam Huệ tăng trưởng gấp bội. Tới
niên hiệu Đại Nghiệp[34],
vua xuống chiếu vời Sư vào cung cấm. Nhà Đại
Đường khai quốc, Sư càng được trọng
vọng tại kinh đô. Từ lúc nhập đạo, Sư
liền tụng kinh Pháp Hoa suốt năm mươi mấy
năm, hơn cả một vạn lượt. Cho tới
khi mắc bệnh, sắp mất, Sư gọi đại
chúng bảo rằng: “Đến đi là chuyện b́nh thường
của chúng ta. Trường sanh chẳng mừng, [sáng sanh] tối
chết chẳng sầu. Đệ Nhất Nghĩa Không, thanh
tịnh trí quán chính là chỗ nương cậy của ta”.
Nói xong, hướng về Tây, qua đời. Sư có di ngôn
dặn để thi thể phơi trên ḥn đá dưới
gốc tùng để thí cho chim, thú. Đệ tử vâng lời
dạy, quàn xác hơn một tháng, vẻ mặt Sư vẫn
như c̣n sống; sau đó, họ đặt [di
thể] vào trong tháp (theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Quán pháp
sư ở Thiên Trúc
Thích Chân Quán, họ Phạm, người
xứ Tiền Đường. Mẹ Ngài tụng kinh Dược
Sư và Quán Âm để cầu con, sanh ra Sư. Sư từ
bé đă sẵn tiết tháo, trên lưỡi có vằn màu tía,
tay hiện tướng lạ. Sư tụng kinh Pháp Hoa, mỗi ngày hết một quyển. Từ thầy được
nghe Thập Tụng Luật, bèn dũng mănh tu tập. Sư bỗng
mộng thấy có người nói: “Ông có căn cơ Đại
Thừa, sao lại giữ tiểu đạo?” Sư bèn học
Ma Ha Diễn, sáng tỏ mọi nỗi nghi nan, dũng mănh tiến
nhập cửa huyền. Ngạn ngữ thời ấy có câu:
“Tiền Đường có Chân Quán, là một vị tăng
rưỡi trong thiên hạ”. Tuổi Sư xấp xỉ
ngài Trí Giả, là pháp huynh, pháp đệ với nhau, đàm
luận lẽ tịch chiếu cao siêu, vàng đá tương
hợp.
Về sau, Sư dựng chùa Nam
Thiên Trúc ở núi Linh Ẩn để ở. Sư thường
giảng kinh Pháp Hoa, coi đó là tâm yếu, thọ tŕ, đọc
tụng, cung kính biên chép, hoằng dương, trọn đủ
hạnh của năm loại pháp sư. Mỗi khi Sư rửa
mặt, nước văng ra, đất chẳng thấm ướt,
mọi người đều lấy làm lạ. Một ngày
nọ, thần Cao Đ́nh thỉnh Ngài giảng Pháp Hoa, cảm
vời thần [nghe giảng xong, xả] đền biến
thành chùa. Có quan Tư Mă là Lư Tử Thâm thỉnh Sư giảng Niết Bàn. Giảng
tới phẩm Hiện Bệnh, Sư mộng thấy ba người
cầm phan đến bảo: “Tịnh Cư Thiên sai chúng tôi
đến đón”. Kế đó, Sư ngă bệnh, mộng
thấy ngồi cùng xe với ngài Trí Giả, theo chầu đức
Phật trở về núi. Tỉnh giấc, Sư than rằng:
“Xưa kia đă có người bảo ta đến sáu mươi
hai tuổi ắt phải chết. Do sức giảng kinh Pháp
Hoa, tăng thêm tuổi thọ mười hai năm. Nay đă
bảy mươi bốn tuổi, lại gặp chuyện
ứng nghiệm này, sanh mạng ắt đă tới lúc chấm
dứt vậy!” Sư bèn bảo người thân cận:
“Muốn thoát sanh tử, phải nên tŕ giới, tu Định,
học Huệ, hoằng dương, lưu thông chánh pháp, chớ
để luống qua!” Khi đó, [mọi người]
nghe trên không trung có tiếng âm nhạc. Tới nửa
đêm, Sư liền ngồi xếp bằng mà tịch.
Sư chính là thỉ tổ
khai sơn của chùa Linh Sơn ở Hạ Thiên Trúc, hạnh
nghiệp thần dị. Xưa kia, thiền sư Chương
An Quán Đảnh đă soạn biệt truyện để
ghi chép đức hạnh của Sư, lâu ngày [tác phẩm ấy]
đă thất lạc. Nay chỉ thấy [hành trạng của
Sư được ghi] trong Tục Cao Tăng Truyện. Mộ
tháp của Sư vẫn c̣n, Từ Vân Tuân Thức sám chủ
từng trùng tu. Chuyện này được chép cặn kẽ
trong Linh Uyển Tập, đại lược như sau: Sư
dốc chí nơi Phật thừa, khế hợp đạo
tột bậc, trọn chẳng bị ảnh hưởng
bởi thế lực to lớn của đế vương,
công, hầu, hoàn toàn chẳng bị kẻ lắm tài khéo hay
biện tài, danh vọng to lớn nhiễu loạn. Ṿi vọi
nêu gương cho đời sau, thăm thẳm chẳng thể
phỏng theo được! Nay cửa tháp tự mở, chẳng
c̣n sót một vật ǵ. Chẳng biết có phải là toàn thân
[của Sư] đă theo Phật Đa Bảo [đến mười
phương] chứng minh kinh hay không? Hay giống như ngài
Phật Lũng (Trí Giả đại sư) đến khắp
nơi giáo hóa đó chăng? Kính cẩn soạn sáu bài thơ
để vĩnh viễn nêu bày khuôn mẫu như sau: “Chẳng
khuất phục vương hầu (ba lần Sư được
vua Tùy vời vào chầu hỏi đạo, Tần Vương
hai lượt mời coi phủ, thảy đều viện
cớ bệnh tật để chẳng đến), giữ
vững thân xuất gia, xương trắng đă thành đất,
gió lành vẫn mát người. Mộ nát rồi lại đắp,
chùa hoang lại trùng tu, riêng ḿnh đất chẳng ướt,
không ai sánh gót Ngài” (những bài thơ khác xem trong Linh Uyển
Tập).
* Thiền
sư Chương An Tổng Tŕ
Sư húy Quán Đảnh, Tổng
Tŕ là thụy hiệu do Ngô Việt Vương phong tặng.
Sư sanh trong gia đ́nh họ Ngô ở huyện Chương
An (nay thuộc huyện Lâm Hải, tỉnh Chiết Giang). Kể
từ thuở bé, mới ba tuổi, Sư đă có thể
theo mẹ xưng danh hiệu Tam Bảo, người thuở
đó đều kinh ngạc. Do vậy, Sư được
đặt tiểu tự (tên gọi thân mật cho trẻ
nhỏ) là Phi Phàm. Đă nhập đạo, mỗi ngày Sư
có thể nhớ một vạn chữ. Dốc sức nơi
lẽ huyền và đạo Nho, bẩm thừa pháp Định
Huệ của tổ Thiên Thai, nối tiếp chí tổ, củng
cố tông phong. Phàm những pháp do tổ Trí Giả nói, đều
do Sư ghi chép thành văn bản.
Về già, Sư trụ tại
Xứng Tâm tinh xá, liên tục giảng Pháp Hoa, pháp hóa lưu
truyền khắp cơi tục, tác dụng thần kỳ chẳng
ngằn. Thuở đó, có người dân ở thôn Pháp Long,
cách núi ba mươi dặm, nhiễm bệnh sắp chết.
Con của người ấy chạy đến núi cầu
cứu. Sư v́ người ấy tụng kinh Pháp Hoa, đốt
hương chiên đàn. Người bệnh từ xa, ngửi
thấy mùi hương bèn lành bệnh. Vùng núi phía Nam của
vùng Lạc An được gọi là An Châu, cây biếc, suối
trong, nhưng đường đi chẳng thông. Sư đến
xem xét, lẩn quẩn chẳng rời, bèn phát thệ rằng:
“Nếu cơi đất này khoảng khoát, bằng phẳng,
tôi sẽ đến đây giảng kinh Pháp Hoa”. Chưa đầy
mười ngày, cát trắng trào lên khắp nơi, [nơi ấy]
phẳng phiu như gương ngọc. Để đền
đáp chí nguyện khi trước, Sư đến đó
giảng kinh. Sư lại từng giảng kinh Niết Bàn ở
chùa Nhiếp Tĩnh, gặp phải cướp biển đến
cướp đoạt. Sư gơ chuông, giảng kinh. Lũ
giặc xông vào, thấy cờ quạt của quân đội
chói rực ánh mặt trời. Kẻ cầm cung, người
vác kích đều cao hơn cả trượng. Do vậy,
chúng tháo chạy.
Năm Trinh Quán thứ sáu (632),
Sư thị hiện bị bệnh tại chùa Quốc
Thanh, chẳng cho chữa trị. Trong thất có mùi hương
lạ. Sư bảo đệ tử rằng: “Kinh Di Lặc
nói ngày đức Phật nhập diệt, khói hương
như mây. Quư vị hăy thắp nhiều hương, tôi sắp
đi rồi”. Nói xong, Sư qua đời. Khi đó,
có thiền sư Trí Hy đă nhập diệt trước vào
năm Trinh Quán nguyên niên (627), lúc sắp mất, [ngài Trí Hy] bảo:
“Ta sanh lên trời Đâu Suất, thấy tổ Trí Giả
ngồi trên một ṭa báu. Các hàng ghế đều có người,
chỉ có một chỗ để trống. Thiên tử nói:
- Đợi sáu năm nữa, thiền sư Quán Đảnh
sẽ lên đây thuyết pháp”. Ư nghĩa ứng nghiệm
của việc [Sư bảo đại chúng] dâng hương
chính là v́ ngài Từ Thị (Di Lặc Bồ Tát) giáng hạ (theo
Cô Sơn Nhàn Cư Biên).
* Thiên
Thai Tảo thiền sư
Sa-môn Trí Tảo, họ Trương,
người xứ Thanh Nghi. Lúc mười bảy tuổi,
song thân đều mất. Sư bị bệnh ngặt nghèo,
biết là chẳng c̣n có cơ hội sống sót, ban đêm
bỗng thấy mặt trăng, bèn niệm Nguyệt Quang Bồ
Tát. Do vậy, lành bệnh, biết sâu xa Tam Bảo là chỗ
nương cậy của ḿnh, liền
đến chùa An Tĩnh xin xuất gia. Sư chí hướng
kiệt xuất, cao vời, ngôn hạnh đều chân thật.
Nghe nói ngài Trí Giả ngộ giải siêu quần, bèn t́m đến
núi Thiên Thai thọ học. Tổ Trí Giả quan sát căn khí,
dạy Sư hành Pháp Hoa tam-muội. Sư tu tập mười
bốn ngày, đầu đêm tọa Thiền, thấy một
con rồng chín đầu từ dưới đất trồi
lên, bay lên hư không. Hôm sau, Sư thưa với
thầy. Thầy dạy: “Điều ấy biểu thị
chúng sanh trong chín pháp giới nghe kinh Pháp Hoa, trong tương
lai sẽ phá vô minh nơi thế gian, nhập pháp tánh Không”.
Sư lại từng ở
chùa Bảo Lâm mong đắc Pháp Hoa tam-muội. Đêm đầu tiên vừa tu, dường như có người
đến lắc cánh cửa. Sư hỏi th́ có tiếng đáp:
“Tôi đến thắp đèn”. Mấy lượt như thế,
hỏi đáp đều như trước. Trong chùa có thiền
sư Huệ Thành nghe chuyện ấy, bèn nói: “Trong ṭa nhà ấy,
trước nay có đại ác quỷ. Nay nghe tiếng ấy,
ắt sẽ bị hại”. Trời sáng, vị ấy đến
gơ cửa hỏi thăm, thấy Sư vẫn c̣n đó, rất
mừng. Nhân đó, Huệ Thành báo lên Vĩnh Dương Vương[35],
vương liền sai mấy chục quân lính và thuộc hạ
cầm vũ khí bảo vệ. Sư đáp: “Mạng do
nghiệp, há do pḥng vệ”. Sư cảm tạ,
từ khước. Tới đêm thứ hai, quỷ vào đập
mọi thứ. Suốt trong hai mươi mốt ngày luôn gây
rối như thế. Sư thản nhiên, chẳng sợ hăi.
Hành pháp sắp hoàn tất, thấy một bé trai mặc áo
xanh khen ngợi “lành thay!” Nói xong, chẳng thấy đâu nữa!
Sư đức hạnh đều vẹn toàn, là người
phù tá tổ Trí Giả. Sư triều kiến thiên tử chín
lần, hành sự tốt đẹp từ đầu đến
cuối. Sư thọ tám mươi ba tuổi mới mất
(theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Chí thiền
sư ở Lư Sơn
Sư là con nhà họ Cố ở
Cối Kê, đến tuổi vỡ ḷng bèn xuất gia. Sư
theo hầu ngài Thiên Thai Trí Giả. Tổ Trí Giả thấy
Sư thần thái ung dung, cao vời, đáng làm gương
cho mọi người, bèn đặt tên là Đại Chí. Sư
tụng kinh Pháp Hoa, âm thanh mộc mạc, nhàn tĩnh, trong trẻo, lan xa, khiến cho người
nghe quên mệt. Về sau, Sư hành hạnh Đầu Đà
tại ngọn núi Cam Lộ thuộc Lư Sơn. Có lúc lạc
bước vào giữa bầy mănh thú, chúng đều tránh né.
Nếu hết lương thực, Sư chỉ dùng
trái cây để duy tŕ tánh mạng mà thôi. Suốt bảy năm
như thế, Sư tọa Thiền, tụng kinh chẳng
ngơi.
Về già, Sư trụ tại
chùa Phước Lâm. Trong niên hiệu Đại Nghiệp,
triều đ́nh phế trừ Phật giáo, Sư cảm khái
đại pháp gặp cảnh ngược đăi, bèn mặc
đồ tang, khóc lóc buồn bă suốt ba ngày đêm trong Phật
đường, thề xả h́nh hài để nêu tỏ
chánh giáo, liền tới Đông Đô dâng biểu[36]
rằng: “Nguyện bệ hạ hưng long Tam Bảo, bần
đạo sẽ đốt một tay nơi Tung Nhạc ḥng
báo ân nước nhà”. Vua chấp thuận. Sư bèn tổ
chức trai đàn lớn, bảy chúng đều tụ tập.
Sư nhịn ăn ba ngày, lên một chiếc giàn lớn, dùng
vải quấn chặt cánh tay, tưới sáp lên rồi đốt
như thắp đuốc. Ánh sáng soi khắp núi non, hang hốc
đều sáng ngời. Đại chúng thấy Ngài khổ
hạnh, đau ḷng tận xương tủy, nhưng ngài Đại
Chí thần sắc bất biến, hoặc tụng kinh
văn, hoặc tán dương Phật đức, hoặc
v́ đại chúng thuyết pháp, từng tiếng chẳng
ngớt. Thiêu xong, Sư xuống khỏi giàn, ngồi xếp
bằng nhập Định, bảy ngày sau liền qua đời.
Sư lưu lại hơn bảy mươi trang nguyện
văn, ngụ ư muốn làm thiện tri thức cho chúng sanh.
Ai đọc cũng đều cảm kích, không ai chẳng
rơi lệ! (theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Duyệt
thiền sư ở Kinh Châu
Vị tăng Đạo Duyệt,
họ ngoài đời là Trương, người Kinh Châu.
Mười hai tuổi, Sư xuất
gia tại chùa Ngọc Tuyền, bản tính trầm ổn, cam
sống nghèo hèn, nỗ lực giữ vững khí tiết. Sư
quanh năm tụng Pháp Hoa để làm đức nghiệp.
Chùa Ngọc Tuyền do tổ Trí Giả khai sơn, chưa
có chuông, khánh. Tại đầu nguồn con suối, Sư
t́m được một mảnh đá kỳ lạ, đem
treo lên, mỗi khi tụng kinh đều gơ một lượt. Tiếng nó vang vọng
trong trẻo, người nghe đều nghiêm túc; nẻo u
minh nhiều lượt cảm vời điềm lành. Sư
biết nhưng chẳng nói. Sư từng bị thủy
thũng, bụng to như cái trống. Một đêm tụng
kinh, nước bỗng tuôn ra, thủy thũng nhanh chóng tiêu
mất.
Thuở đó, Châu Sán[37]
làm giặc cướp bóc, chỉ
có ḿnh ngài Đạo Duyệt giữ chùa. Giặc sai Sư
dẫn đường, Sư đáp: “Tăng chẳng phải
là kẻ dẫn đường! H́nh hài hư huyễn này phó
mặc cho gươm sắc!” Giặc kính nể, tha cho. Lúc
đó, Hán Dương Vương thỉnh Sư làm thầy
truyền giới, ban cho áo màu. Ngài Đạo Duyệt chẳng
nhận. Vương hỏi v́ sao không mặc tơ lụa?
Ngài Đạo Duyệt đáp: “Áo bằng tơ tằm tổn
mạng, trái nghịch danh xưng nhẫn nhục. Áo vải
giản dị, thanh bạch, biểu thị h́nh tướng
từ bi”. Vương nói: “Trọng Do[38] chẳng thẹn
với lời khen của phu tử. Sa-môn từ bi, nhẫn
nhục là lẽ đương nhiên!” (theo Tục Cao
Tăng Truyện).
* Việt
thiền sư ở Thiên Thai
Vị tăng Trí Việt,
sanh trong nhà họ Trịnh ở Nam Dương, từ bé đă
mang chí hướng thoát tục. Cha tính chuyện hôn nhân cho Sư,
Sư dùng phương tiện tránh né. Thuở đó, Nhạc
Dương điện hạ[39]
thống lănh Kinh Châu, lấy làm lạ, cho Sư xuống tóc.
Về sau, Sư vấn đạo khắp nơi. Tới Kim Lăng, gặp tổ Trí Giả đang xiển
dương, giáo hóa, Sư bèn lắng ḷng theo học, thấu
đạt sâu xa yếu nghĩa nhà Thiền. Sư lại c̣n
giữ giới phẩm chuyên ṛng, tụng kinh Pháp Hoa hơn
một vạn bộ. B́nh chứa nước luôn đầy,
mọi người đều lấy làm lạ. Người
theo học với tổ Trí Giả tuy đông, nhưng ngài
Trí Việt đứng đầu. Tại Lộ Sơn Tinh
Xá ở Lâm Hải, tổ Trí Giả sai Trí Việt làm người
ảnh hưởng. Suốt hai mươi năm, Sư ngoan ngoăn
vâng theo lệnh thầy. Sau đó, Sư dưỡng bệnh
tại chùa Quốc Thanh, nằm bên hông phải mà hóa, cảm
vời núi lở, động đất, đạo tục
đều thấy nghe (theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Quán pháp
sư ở Tiền Đường
Sư Đẳng Quán sanh
trong nhà họ Tôn ở Phú Dương. Sau khi đă xuất
gia, Sư nghe ngài
Trí Giả khai pháp ở Phật Lũng, bèn theo nương
cậy, thọ học. Sư chuyên tụng Pháp Hoa, lại c̣n
có thể giảng nói. Trong niên hiệu Trinh Quán, Sư sang giảng
tại chùa Pháp Nhẫn ở Dư Hàng. Bỗng một đêm,
Sư thấy một vị thần nói: “Con là thần đền
Cao Đ́nh tại Tiền Đường. Thầy từng
đi qua miếu đ́nh, đệ tử tuần du chẳng
gặp, nay đặc biệt đến cầu thầy
truyền giới pháp”. Sư liền v́ thần thắp hương,
tuyên dạy. Tới nửa đêm hôm sau, Sư tắm rửa,
thay áo sạch, gọi Huệ pháp sư đến, giảng
giải giáo nghĩa Tam Quán rồi nói: “Ta đích thân được
tổ Trí Giả dạy truyền khẩu pháp này”. Nói xong,
Sư ngồi xếp bằng hướng về Tây, xưng
danh hiệu Phật và tôn hiệu của tổ Thiên Thai Trí
Giả, lặng lẽ qua đời (theo Linh Thụy Tập).
* Măn pháp sư
đời Lương
Pháp sư La Thập dịch
kinh Pháp Hoa tại Trường An gồm hai mươi tám
phẩm. Cung nhân tại Trường An thỉnh Ngài giảng
phẩm Đề Bà Đạt Đa, phẩm này bị cất
giấu trong nội cung. Kinh được lưu truyền
tại Giang Đông[40]
chỉ có hai mươi bảy phẩm. Đời Lương,
có Măn pháp sư giảng kinh này một trăm lượt,
thiêu thân phụng sự pháp tại Trường Sa. Sư từng
đem phẩm ấy đặt trước phẩm Tŕ. Đó
là do Sư tự xếp đặt, chưa được
lưu truyền trong thiên hạ. Đời Trần có đại
thiền sư Nam Nhạc Huệ Tư đặt phẩm
này sau phẩm Bảo Tháp. Văn bối dùng kinh Chánh Pháp Hoa để
đối chiếu, thấy rất tương ứng. Nay
bốn biển lặng trong, được thấy cựu
bản ở Trường An, cho nên biết hai vị ấy
đă thấu hiểu sâu xa ư kinh (trích từ Pháp Hoa Văn
Cú).
* Trang pháp
sư ở Lư Sơn
Tỳ-kheo Pháp Trang là
người ở Hoài Nam. Sư mười tuổi xuất
gia, làm đệ tử tổ Huệ Viễn ở Lư
Sơn. Sư bẩm tánh thẳng thắn, chất phác, nổi
danh khổ hạnh. Sư lấy chuyện tụng kinh Pháp
Hoa làm hạnh thường tu. Thường trong đêm vắng,
nghe trước pḥng của Sư có tiếng quân binh thủ
vệ, há chẳng phải không duyên cớ mà thành như vậy
ư? (theo Tục Linh Thụy Tập).
* Mạng
pháp sư đời Hậu Châu
Tỳ-kheo Huệ Mạng, họ
Quách, người xứ Tấn Dương, thân thiết với
đạo, nhàm ĺa vật chất, châu quận đều tán
thán, tôn trọng. Từ mười lăm tuổi, Sư tụng kinh Pháp Hoa, trong ṿng hai mươi ngày đă
tụng trôi chảy từ đầu đến
đuôi. Tới khi xuất gia, Sư chuyên tu Pháp Hoa Sám Pháp. Vào
ngày mồng Năm giữa mùa Đông năm Thiên Ḥa thứ
ba (568)[41] nhà Châu, Sư ngồi
xếp bằng, hướng thẳng về Tây, thấy Phật
đến đón tiếp, bèn chắp tay thị tịch. Toàn
thể đại chúng đều mộng thấy chư thiên
giáng hạ, tràng phan chiếu sáng ngời. Lại nghe nhạc
lạ, hương lạ, khen ngợi “lành thay!” (theo Tục
Cao Tăng Truyện).
* Minh pháp
sư ở Thiên Thai
Sư có tên trước đó
là Pháp Kinh, họ Châu, người đất Cối Kê. Thuở
bé, Sư gom cát làm tháp, cắt rơm làm điện
đường, chắp tay xưng danh hiệu Phật. Bỗng
gặp một vị Tăng khất thực khuyên rằng:
“Con nên sang núi Thiên Thai xuất gia. Nơi đó có bậc Bồ
Tát áo mỏng thuyết pháp hóa độ cơi đời”. Đứa
trẻ liền đi ngay, theo hầu tổ Trí Giả làm đệ
tử. Tổ Trí Giả cười bảo: “Do xưa có nguyện
lực, nay được gặp nhau”. Do vậy, Sư
sáng tối chầu hầu quanh thầy, chẳng biếng
nhác. Thầy nhân đó, dạy Sư tụng một bộ kinh
Pháp Hoa, kiêm tu sám pháp. Về sau, Sư theo hầu ngài Trí Giả
vào Lư Sơn. Sư ở trong gác đặt bức tượng
tốt lành của Đào Khản[42],
muốn soạn Pháp Hoa tam-muội, bỗng thấy một
vị Tăng nói: “Pháp danh của thầy chưa hay lắm.
Hăy nên sửa thành Phổ Minh sẽ chiếu tỏ ba đời!”
Từ đấy, Sư đổi pháp hiệu [thành Phổ
Minh]. Tuổi già, Sư quay về chùa Quốc Thanh. Pḥng Sư
đang ở thiếu nước. Sư vừa nghĩ ngợi,
trên đá bỗng tuôn ra gịng suối. Sư từng đúc tượng
Phật Lô Xá Na cao một trượng sáu, cảm dị nhân
thí vàng rồi ẩn mất. Có lúc, Sư ở trong rừng
tùng tại Xích Thành hiện thân cao mấy chục trượng,
thiền sư Chương An Quán Đảnh đích thân trông
thấy. Dơi nh́n tác dụng của Sư, Ngài há có phải là
kẻ tầm thường ư? (theo Tục Linh Thụy
Tập).
* Thúy pháp
sư ở Hà Âm
Vị tăng Đàm Thúy không
rơ họ, xuất gia trụ tại chùa Bạch Mă ở Hà Âm,
ăn rau, mặc áo vải, hằng ngày tụng bộ kinh
Chánh Pháp Hoa gồm mười quyển, lại c̣n v́ đại
chúng giảng nói ư chỉ chung [của kinh ấy]. Bỗng Sư đêm mộng
thấy có người gơ cửa, thưa: “Muốn thỉnh
pháp sư giảng kinh chín mươi ngày”. Ngài Đàm Thúy chẳng chấp thuận. Người ấy cố
kèo nài, Sư liền đi, dường như tỉnh giấc
mà chưa tỉnh. Bỗng dưng Sư thấy ḿnh đang
ở trong đền thờ thần Bạch Mă Ổ, một
người đệ tử cũng tham dự. Từ đấy,
mỗi ngày Sư đều ngầm đến, kẻ khác
chẳng hay biết. Một hôm, có vị tăng trong chùa đi
qua đền thờ thần, ngẫu nhiên thấy hai ṭa
cao: Ngài Đàm Thúy ngồi ở ṭa phía Bắc, đệ tử
ngồi ṭa phía Nam. Thoảng nghe tiếng giảng nói, lại
ngửi thấy mùi hương lạ thơm ngào ngạt. Đạo
tục truyền tụng, đều xưng tụng là thần
dị. Kết hạ xong, thần cúng một con ngựa trắng,
năm con dê trắng, năm mươi xấp lụa để
cúng dường công lao giảng pháp. Sư chú nguyện,
nhận lấy rồi đi; về sau, chẳng biết kết
cục như thế nào (Theo Lương Cao Tăng Truyện).
* Sanh tự
chủ tại Thành Đô
Tăng Sanh là người huyện
Phi thuộc Thục Quận (Tứ Xuyên). Họ ngoài đời
là Viên, làm Tăng từ bé. Do có tiếng khổ hạnh, Sư được
Thái Thú Thành Đô là Tống Phong thỉnh trụ
tŕ chùa Tam Hiền. Sư tụng kinh Pháp Hoa, lại tu tập
Thiền Định. Sư từng tụng kinh trong núi, bỗng
có một con cọp đến ngồi chồm hổm trước
mặt. Sư tụng kinh xong nó mới đi. Sau này, sau khi
tụng niệm, tu tập xong, Sư thường thấy
bốn vị thần chầu hầu, bảo vệ chung
quanh. Tuổi tuy đă già suy, hạnh nghiệp của Sư
càng vững bền. Tới khi mắc bệnh, Sư căn
dặn môn đệ rồi ngồi
xếp bằng mà hóa (Theo Lương Cao Tăng Truyện).
* Tự
sư tại nước Cao Xương
Vị tăng Pháp Tự ở
Cao Xương[43],
đức hạnh nghiêm cẩn, cao cả, ăn rau, uống nước. Sau đó, Sư vào đất
Thục, sống tại vùng mộ của Lưu Sư để
hành hạnh Đầu Đà. Hổ, rắn thấy Sư chẳng
gây thương tổn. Sư thường ở trong nhà đá,
tụng ba kinh Pháp Hoa, Duy Ma, Kim Quang Minh. Trong một Hạ,
Sư bỗng ở trong nhà đá, nằm bên hông trái, mạng
chung, bảy ngày [thi thể] chẳng hoại. Mùi thơm lôi
kéo người khác t́m đến. Mỗi tối, tỏa sáng
chiếu thấu mấy dặm. Người làng lấy làm
lạ, liền dựng tháp mộ nơi di thể. Sư là
người thời Tấn (theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Nghĩa
pháp sư ở Cối Kê
Sư Pháp Nghĩa, họ ngoài
đời là Trúc. Mười ba tuổi nhập đạo,
chuyên ṛng siêng hành phạm hạnh, tụng kinh Chánh Pháp Hoa,
trụ tại chùa Ngơa Quan. Sau Sư dời sang Bảo Sơn
tinh xá ở Cối Kê. Năm Hàm Ḥa (327)[44]
thứ hai, Sư nhiễm bệnh, nhưng tụng niệm,
tu tập chẳng thiếu sót. Đêm mộng thấy một
vị Tăng lôi ruột và bao tử của Sư ra gột
rửa cấu uế xong, lại nhét vào trong bụng. Tỉnh
giấc, bệnh tật đă tiêu trừ. Vua Tấn từng
tuyên triệu Sư vào cung cấm để truyền thọ
Ngũ Giới, cung phụng trọng
hậu. Tới niên hiệu Đại Ḥa, Sư chẳng bệnh
tật mà mất. Vua sắc truyền dựng tháp an táng tại
Tân Đ́nh Cương, nay là chùa Trung Hưng (theo Linh Thụy
Tập).
* Đạt
thượng nhân ở đất Khương
Trong niên hiệu Long An[45]
đời Tấn, vị tăng Huệ Đạt khi đào
cam thảo ở Sơn Bắc Lũng, người Khương[46]
do đói kém đă bắt người về ăn thịt.
Ngài Huệ Đạt bị chúng bắt, nhốt trong cũi.
Chúng nó chọn người mập để ăn trước.
Huệ Đạt hết sức hoảng sợ, nhất
tâm xưng niệm danh hiệu Quán Âm, và tụng phẩm Phổ
Môn. Người trong cũi bị chúng ăn sạch, chỉ
c̣n Huệ Đạt và một đứa nhỏ, mạng
chỉ c̣n lại một ngày. Huệ Đạt suốt đêm
tŕ niệm, chẳng bỏ. Tới sáng, bỗng có một
con hổ từ trong đám cỏ chạy ra, gào rống chấn
động cả núi. Lũ người Khương hoảng
sợ, tháo chạy. Cọp bèn cắn cũi thủng thành lỗ
rồi bỏ đi. Huệ Đạt và đứa bé vội
bỏ chạy, thoát nạn (theo Thai Tông Biệt Hành Nghĩa
Sớ).
* Khoáng pháp
sư ở Ngô Hưng
Pháp sư Trúc Pháp Khoáng, họ
ngoài đời là Cao, ngụ cư[47]
ở Ngô Hưng. Sư chí hướng cao cả, trác tuyệt,
giới hạnh uyên thâm. Do bổn sư ngă bệnh, Pháp Khoáng
v́ thầy chí thành cầu đảo, lễ sám suốt bảy
ngày đêm. Do vậy, cảm vời quang minh năm màu chiếu
vào pḥng, bệnh thầy liền khỏi. Về sau, Sư trụ
tại thạch thất trong núi Tiềm Thanh, thường diễn
nói ư chỉ “hội tam thừa quy vào nhất thừa” của
kinh Pháp Hoa và cái nhân của Tịnh Độ. Sư thường
ngâm vịnh hai bộ (tức kinh Pháp Hoa và kinh Vô Lượng
Thọ), có người th́ giảng, không có người th́ tụng
niệm. Tạ An là Thái Thú ở Ngô Hưng, đặc biệt
tới chỗ Sư bày tỏ ḷng tôn kính. Tấn Giản Văn
Đế (Tư Mă Dục) triệu vời, sai Sư làm trai đàn, hành sám pháp để đuổi sao
xấu. Sư về già, dời sang chùa Xương Nguyên ở
Vũ Huyệt, v́ bá tánh cứu vớt khổ ách, không ǵ chẳng
hiệu nghiệm. Có người thường thấy tại
chỗ Sư đi hay ngồi, luôn có quỷ thần mấy
chục kẻ hộ vệ trước sau. Sư thọ bảy
mươi sáu tuổi, quan Thường Thị là Cố Khải
soạn truyện ghi chép lại đức hạnh của
Sư (theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Vị
sư bị quên mất tên ở Trường Sa
Trong năm Kiến Hưng thứ
hai (314) đời Tây Tấn (nhằm đời vua Tấn
Mẫn Đế Tư Mă Nghiệp), ở phía Tây huyện
Trường Sa, cách hơn một trăm dặm, trổ
hai gốc hoa sen xanh mọc trên đất bằng. Đạo
tục tranh nhau đến xem. Do vậy, đào sâu xuống
một trượng hai thước đất, t́m được
một cỗ quan tài bằng sành. Hoa sen mọc
từ chỗ bị hư hoại của quan tài. Mở
quan tài ra xem, thấy đầu lâu bị hoa sen xuyên qua. Rễ
hoa sen mọc từ chỗ xương má và răng hàm của
đầu lâu. Khi đó, có người nói: “Xưa kia có vị
Tăng, chẳng biết tên họ, tụng kinh Pháp Hoa mười
vạn bộ, không bệnh tật mà hóa, có di ngôn dùng áo liệm
bằng giấy, dùng sành làm quan tài.
Đây chính là quan tài của Sư”. Nay dựng
chùa trên nền cũ tại Dịch Đ́nh[48],
đặt tên là Liên Hoa vậy (xem trong Hồng Giác Phạm
Văn Tự Thiền Tập).
* Hai vị
tăng đă quên mất tên thời cổ
Vị Tăng chùa
Vương Hầu ở Phạm Dương đă quên mất
tên, chuyên lấy việc tụng kinh Pháp Hoa làm công khóa thường
nhật. Lúc Sư mới mất, tạm thời chôn dưới
đê. Về sau cải táng, hài cốt
đều hư nát, chỉ có cái lưỡi chẳng nát. Tại
Ung Châu, lại có một vị Tăng cũng tụng Pháp Hoa,
ẩn cư trong núi Bạch Lộc, cảm một bé trai đến
hầu hạ. Tới khi Sư mất, vùi thân dưới gộp
đá, các phần khác đều khô quắt, chỉ có cái lưỡi
vẫn như cũ! (trích từ Tam Bảo Cảm Thông Lục).
* Vũ pháp
sư ở Kư Châu
Vị tăng Pháp Vũ người
Kư Châu, lúc mười lăm tuổi đă quyết chí xuất
gia, làm đệ tử ngài Huệ Thỉ. Ngài Huệ Thỉ
giới hạnh tinh nghiêm, tu hạnh Đầu Đà. Pháp Vũ
có phong phạm cao cả, dũng mănh, thấu đạt sâu
xa đạo của thầy. Do tụng kinh Pháp Hoa, Sư ngưỡng
mộ, thề phỏng theo ngài Dược Vương thiêu
thân cúng dường Đại Thừa. Khi đó, Tấn Vương
nhà Ngụy Tần là Diêu Tự đang trấn thủ vùng Bồ
Bản. Sư đem chuyện ấy tâu với vương,
vương bảo: “Nhập đạo có nhiều lối,
cần ǵ cứ phải hủy thân mạng! Chẳng dám cố
trái ư, mong thầy hăy suy nghĩ đôi ba lượt”. Chí hướng,
thệ nguyện của Pháp Vũ đă sâu nặng, Sư liền
uống dầu thơm, dùng vải quấn thân, tưới
dầu sáp lên, tụng phẩm Dược Vương rồi
nổi lửa tự thiêu. Đạo tục tranh nhau đến
xem, đều sanh ḷng thương tiếc (theo Lương
Cao Tăng Truyện).
* Thiệu
pháp sư ở Lâm Xuyên
Ngài Huệ Thiệu
chẳng biết quê quán. Lúc c̣n thơ, hễ mẹ mớm
cá thịt, Sư liền phun ra. Do vậy, chẳng ăn mặn.
Tám tuổi, Sư xuất gia làm Tăng, thông hiểu kinh Pháp Hoa, dùng khổ
hạnh để nêu bày khí tiết. Về sau, do sư
tăng yêu cầu, Sư trụ tại chùa Chiêu Đề ở
Lâm Xuyên. Sư thường nghĩ ân Phật sâu nặng, thề
muốn xả thân để báo đáp, bèn thuê người
đẵn cũi, chất tại hang đá tại Đông
Sơn cao đến một trượng. Chính giữa, khoét một cái khám. Trở về chùa, thưa với
thầy, thầy can gián, nhưng Sư chẳng nghe. Do vậy,
chọn ngày mở hội Bát Quan Trai trong núi. Cả xứ tụ
về đầy nghẹt hang núi. Tới đêm, ngài Huệ
Thiệu tự chạy hương, cầm đuốc
đốt củi rồi vào khám ngồi, tụng phẩm
Dược Vương xả thân. Lửa cháy tới trán vẫn
nghe tiếng Sư tụng kinh. Đại chúng bỗng thấy
một ngôi sao to như cái đấu giáng thẳng xuống
lửa, chốc lát bay lên trời, đều cho đó là
điềm lành thiên cung nghênh tiếp. Huệ Thiệu
từng nói với một vị đồng học: “Chỗ
tôi thiêu thân sẽ mọc một cây ngô đồng, xin đừng
chặt”. Ba ngày sau, quả nhiên cây mọc lên. Đạo
tục đều lấy làm lạ. Đó là năm Nguyên Gia
28 (451)[49] đời Tống
(theo Lương Cao Tăng Truyện).
* Khánh pháp
sư ở Lư Sơn
Vị tăng Huệ Khánh, người
xứ Quảng Lăng. Trong niên hiệu Nguyên Gia đời Tống, Sư trụ tại Lư
Sơn, học thông thạo kinh luật, giới hạnh tinh
nghiêm. Suốt đêm, Sư tụng các kinh Pháp Hoa, Duy Ma v.v…
thường nghe trong bóng tối có tiếng khảy ngón tay
tán thán. Sư từng gặp cơn lốc tại Tiểu
Lôi, thuyền sắp ch́m, Huệ Khánh một dạ tụng
kinh để cầu an ổn. Thuyền đang bị vùi dập
trong sóng, bỗng cảm thấy có người nâng đỡ,
kéo đi, chốc lát đến được
bờ. Từ đấy, Sư tụng niệm, tu tập đến
già chẳng lười nhác (theo Pháp Uyển Châu Lâm).
* Quynh pháp sư ở Quảng Lăng
Vị tăng Đạo Quynh, họ Mă, người xứ Phù Phong. Sư bỏ
nhà lễ ngài Đạo Ư làm thầy. Thầy bị bệnh,
sai nhóm Đạo Quưnh bốn người đến Hoắc
Sơn hái chung nhũ[50].
Vào hang được mấy dặm, cưỡi bè gỗ
vượt sông. Ba người chết ch́m, đèn đuốc
lại tắt mất. Đạo Quynh một
mực tụng kinh Pháp Hoa, niệm thánh hiệu Quán Âm. Trong
chốc lát, thấy một tia sáng như lửa đóm, noi theo
đó thoát ra. Sư lại từng cùng bốn vị đồng
học đi về phương Nam lên kinh đô, trong đêm
đi trên băng vượt sông. Giữa ḍng, băng nứt,
đồng học không thể cứu giúp được. Đạo
Quynh chỉ dựa vào tụng niệm, bỗng dưng dưới
chân như có vật nâng đỡ. Lại thấy ánh sáng đỏ
dẫn đường đằng trước, bèn tới
được chùa Nam Giản.
Lại có một đêm, Sư
nhập Định, chợt thấy bốn người ngồi
xe báu mời Đạo Quynh lên xe.
Sư lên xe, bỗng thấy đang ở cạnh cầu Trầm
Gia tại châu ấy. Bên đường, có một người
ngồi trên hồ sàng[51]
chỉ huy mọi người: “Trước đó, ta chỉ
hạ lệnh cho mọi người biết trụ xứ
của Sư thôi, sao lại phiền Sư từ xa đến
tận đây? Hăy mau đưa Sư về!” Về đến
chùa, mọi người đều chẳng biết Sư
mới vừa đi về. Khi đó nhằm niên hiệu Nguyên
Gia đời Tống (theo Lương Cao Tăng Truyện).
* Minh pháp
sư ở Lâm Truy
Trong niên hiệu Kiến Sơ
đời Tống, có vị Tăng tên Phổ Minh, xuất
gia từ bé, tánh t́nh thuần lương, chất phác, thường
ăn rau, mặc áo vải. Sư dùng Pháp
Hoa và Duy Ma làm nhật khóa. Khi tụng có áo riêng, ṭa riêng, chưa
hề hỗn tạp. Thường là khi tụng tới phẩm
Khuyến Phát, liền thấy đức Phổ Hiền cưỡi
voi đứng trước mặt. Khi Sư tụng
kinh Duy Ma, liền
nghe trong hư không có tiếng xướng nhạc. Vợ ông
Vương Đạo Chân trong làng bệnh ngặt, thỉnh
Sư tŕ chú. Sư mới vừa vào cửa, người bệnh
đă chết ngất, bỗng thấy có một
vật giống như con lửng chó (raccoon) dài mấy
thước, chui theo lỗ chó trốn mất, bà ta liền
lành bệnh. Lại có lần Sư đi gần chỗ có
nước, có kẻ đồng cốt nói: “Thần minh trông
thấy pháp sư đều rảo chạy” (theo Lương
Cao Tăng Truyện).
* Huệ
pháp sư ở Việt Châu
Sa-môn Pháp Huệ, họ Hạ
Hầu. Kể từ lúc mười lăm tuổi, Sư đă
có kiến thức trác tuyệt, đến lúc thôi để
chỏm, ngôn hạnh càng thêm cao cả. Trong niên hiệu Đại
Minh[52]
đời Tống, Sư sang Vũ Huyệt ở phương
Đông, về dưỡng già tại ngọn Thiên Trụ,
suốt đời dùng tụng niệm Pháp Hoa làm công khóa chẳng
lười nhác, thọ dụng thanh đạm, ăn rau, mặc
áo vải mà thôi! Sư thường ở riêng trong một
ngôi gác, chẳng dính líu đến nhân gian suốt ba mươi
mấy năm. Vương hầu mời mọc, đón rước, Sư đều chẳng gặp
gỡ. Chỉ có Châu Ngung do có tín giải đều sâu là được Sư đặc biệt tiếp kiến.
Khi đó, người mộ đức chiêm lễ có thể
nhờ theo Châu Ngung[53]
mà gặp Sư (Theo Lương Cao Tăng Truyện).
* Hầu
pháp sư ở Kinh Châu
Ngài Tăng Hầu, họ ngoài
đời là Cung, nhiều đời sống ở Tây Lương.
Trong niên hiệu Hiếu Kiến[54]
đời Tống, Sư tới
kinh đô. Đối với các kinh Pháp Hoa, Duy Ma, và Kim Quang
Minh, cứ hai ngày là Sư tụng xong
một bộ. Như thế cho đến sáu mươi mấy
năm chẳng thiếu sót. Về sau, Sư ẩn cư tại
một hang đá thuộc rặng núi phía sau kinh thành để
làm chỗ tu Thiền và tụng niệm. Một hôm, Sư mắc
bệnh nhẹ, bèn thay áo, rửa mặt, súc miệng, oai
dung nghiêm túc, chắp tay qua đời, thọ tám mươi
chín tuổi. Sư từ thuở mười tám tuổi cho
đến lúc xả mạng, hễ bóng mặt trời chênh
quá Ngọ đôi chút, [mà chưa kịp ăn trưa, Sư]
sẽ chẳng thọ trai (theo Lương Cao Tăng Truyện).
* Tấn
pháp sư ở kinh đô
Sư tên là Huệ Tấn, là
con cháu nhà họ Diêu ở Ngô Hưng. Từ thuở bé đă
thích đi khắp nơi hành hiệp, tới bốn mươi tuổi
mới tỉnh ngộ. Do vậy, xuất gia, bèn trụ tại
chùa Cao Ṭa ở kinh đô. Sư chuyên tu phạm hạnh, một
mực đạm bạc, thề tụng kinh Pháp Hoa. Sư dụng tâm
nhọc nhằn, tụng niệm đến nỗi thành bệnh.
Do vậy, Sư phát tâm tạo một trăm bộ kinh Pháp
Hoa để sám hối tội lỗi thuở xưa. Bởi
đó, hằng ngày tích cóp tiền bạc do thí chủ quyên tặng
[để thuê người chép kinh]. Kinh chép đủ số
th́ bệnh cũng lành. Sau đó, Sư càng phúng tụng gấp
bội, hồi hướng các phước nghiệp, nguyện
sanh Tây Phương. Một hôm, Sư bỗng nghe trên không
trung có tiếng nói: “Đúng như ông ước nguyện,
ắt sẽ được văng sanh”. Tới năm Vĩnh
Minh thứ ba (485) đời Tề [Vũ Đế (Tiêu Trách)
thuộc Nam Triều], Sư không bệnh mà hóa, thọ tám mươi
lăm tuổi (theo Lương Cao Tăng Truyện).
* Quả
pháp sư ở kinh đô
Vị tăng Huệ Quả
là người ở Dự Châu. Sư
chẳng ăn mặn từ bé, trụ tại chùa Ngơa Quan
ở kinh đô, để tụng các kinh như Pháp Hoa v.v…
Sư từng ở trong nhà xí thấy một con quỷ cung
kính thưa: “Xưa kia, tôi làm duy-na, do có chút việc không đúng
pháp, phải đọa làm quỷ ăn phân. Tôi từng có
ba ngàn đồng, chôn dưới cây thị. Xin pháp sư từ
bi dùng món tiền ấy làm phước”. Sư liền bảo
đại chúng đem món tiền ấy tạo một bộ
kinh Pháp Hoa để truy điệu. Sau đó, Sư bỗng
mộng thấy quỷ ấy đến cảm tạ, thưa:
“Đă được sửa thành quả báo tốt đẹp
hơn trước rất nhiều”. Đó là chuyện
trong niên hiệu Thái Thỉ (465-471) đời Lưu Tống
(theo Lương Cao Tăng Truyện).
* Du pháp
sư ở Lư Sơn
Sư húy là Tăng Du, họ
ngoài đời là Châu, người xứ Ngô Hưng. Tuổi
hai mươi xuất gia, hạnh nghiệp tinh thuần, trọn
đủ. Sư dựng chùa Chiêu Đề ở phía Nam Lư
Sơn để ở, thường tŕ kinh Pháp Hoa, chưa
tùng thiếu sót chút nào! Một hôm, Sư bảo bạn bè: “Do
kết sử gây lụy tam đồ cho nên có h́nh hài, nay t́nh
kiến sắp hết, h́nh thể cũng nên bỏ đi, đường
lối của ngài Dược Vương há xa xôi ư?”
Sư bèn chất củi làm khám, sắp đặt trai tăng,
từ biệt đại chúng. Hôm ấy, mưa lắc rắc,
trời kéo mây. Sư bèn phát thệ rằng: “Nếu tôi bỏ
thân chẳng hối tiếc, trời sẽ quang tạnh. Nếu
không, trời sẽ đổ mưa to”. Nói xong, quả
nhiên tạnh mưa. Đến đêm, Sư vào khám, chắp
tay, ngồi xếp bằng, tụng phẩm Dược Vương
Bổn Sự. Lửa cháy tới thân, Sư vẫn ngồi
thản nhiên. Mọi người thấy một luồng hơi
tía túa lên trời mấy ngày chẳng tan mất. Khi đó, Sư
bốn mươi bốn tuổi, nhằm ngày mồng Ba tháng
Sáu năm Hiếu Kiến thứ hai (455) đời Tống.
Mười bốn ngày sau, nơi
pḥng cũ của ngài Tăng Du bỗng mọc hai cây ngô đồng,
cành lá sum suê, mọc vươn thẳng tắp. Người
hiểu biết bảo đó là Sa La song thụ, quyết nêu
rạng đạo Nê Hoàn (Niết Bàn), chắc ngài Tăng
Du có phần, cho nên hiện điềm lành này! Do vậy, Sư
có hiệu là Song Đồng Sa Môn. Trưởng biện của
Ngô Quận là quan trưởng sử B́nh Nam đích thân trông
thấy chuyện đó, bèn khen rằng: “Du du huyền cơ,
mang mang chí đạo. Xuất sanh nhập tử, thục
vi chí bảo” (Huyền cơ dằng dặc, đạo
cực mênh mang, vào sanh ra tử, đúng là chí bảo). Đó
là bài thứ nhất. “Tự tích Dược Vương,
thù hóa tuyệt luân. Văng văn kỳ thuyết, kim đổ
tư nhân” (Dấu xưa Dược Vương, giáo hóa
tuyệt vời, xưa nghe nói đến, nay đích thân thấy).
Đó là bài thứ hai. “Anh anh sa môn. Huệ định tâm
cố, ngưng thần tử khí, biểu tích song thụ”
(Bậc sa-môn anh tài, tâm huệ định kiên cố, ngưng
thần hơi tía xong, biểu lộ thành Song Thụ). Đó
là bài thứ ba. “Kỳ đức khả nhạo, kỳ
tháo khả quư, văn chi tác hỹ, thức dương phảng
phất” (đức ngài đáng chuộng, tiết tháo đáng
quư, soạn văn tán dương, phong phạm phảng phất).
Đó là bài thứ tư (theo Lương Cao Tăng Truyện).
* Ích pháp
sư ở Chung Sơn
Sư tên là Huệ Ích, người
xứ Quảng Lăng. Sư xuất
gia tại Thọ Xuân, sau này, náu ḿnh tại chùa Trúc Lâm. Sư
khí tiết trác tuyệt, chuyên ṛng tụng Pháp Hoa, thệ nguyện đốt thân để thực hiện
chân pháp cúng dường. Thoạt đầu, Sư thôi ăn
ngũ cốc, chỉ uống bơ. Kẻ thấy nghe hủy
báng hay tán thán rất nhiều. Sau đó, Sư thôi uống bơ,
chỉ nuốt các viên hương. Tuy Tứ Đại yếu
ớt, nhưng tinh thần thanh tỉnh, chánh niệm. Tống
Hiếu Vũ Đế càng thêm kính trọng, ngạc nhiên sâu
đậm, sai sứ giả đến can gián Sư thôi làm
thế. Sư chẳng nghe theo.
Trong ngày Phật Đản năm
Đại Minh thứ bảy (463), Sư đặt cái vạc
ở phía Nam của Chung Sơn,
chuẩn bị dầu, rồi đến cung khuyết từ
biệt hoàng đế. Vua nh́n Sư, sắc mặt bi thương,
Sư đôi ba lượt dùng Phật
pháp căn dặn rồi lui về. Vua đích thân xa giá đến
xem. Khi đó, tứ chúng vội vàng kéo đến. Sư vào
trong vạc, dùng bông vải bó thân, tưới dầu lên. Sư
sắp nhóm lửa th́ vua ngăn lại. Ngài Huệ Ích kiên
quyết, chẳng tuân theo, lại nói: “Thân hèn mạng tệ
nào đáng để thánh ư quan tâm. Kính xin bệ hạ độ
hai mươi người xuất gia ḥng giúp đỡ Phật
pháp”. Vua đồng ư, Huệ Ích cầm đuốc tự
thiêu, chắp tay tụng phẩm Dược Vương. Lửa
cháy tới lông mi, lông mày, vẫn nghe tiếng tụng kinh. Mọi
người nh́n vào, tiếng
kêu đau ḷng vang rền hang núi. Vua bỗng nghe trên hư không
có tiếng đàn, sáo, mùi hương lạ tỏa ngào ngạt
cả ngày mới tan. Đêm đó, vua lại mộng thấy
ngài Huệ Ích chống tích trượng t́m đến, lại
căn dặn vua tuân hành Phật pháp. Hôm sau, vua mở đại
hội, độ hai mươi người xuất gia, sắc
truyền dựng chùa Dược Vương nơi Sư
thiêu thân (theo Lương Cao Tăng Truyện).
* Tông pháp
sư ở Pháp Hoa Đài
Vị tăng Pháp Tông, người
xứ Lâm Hải. Thuở bé, Sư thích săn
bắn, từng ở Diệm Xuyên bắn trúng con nai có chửa,
nó bỗng trở dạ sanh con. Nai mẹ vẫn mang mũi
tên liếm con. Pháp Tông hối hận nói: “Tham sống, yêu
con, loài có t́nh thức đều giống nhau”, bèn bẻ
gẫy cung tên, xuống tóc làm Tăng, khất thực để
tự nuôi thân. Mỗi ngày, Sư chỉ ăn một bữa,
sáu thời lễ Phật để sám hối tội khiên
thuở trước. Sư thường ngâm vịnh hai kinh
Pháp Hoa và Duy Ma, tiếng vọng khắp bốn phương.
Nam nữ theo Sư thọ Tam Quy, Ngũ Giới hơn ba ngàn
người. Sư mở rộng chỗ cư trụ làm
tinh xá, dùng kinh đă tụng để đặt tên, nên gọi
là Pháp Hoa Đài (theo Lương Cao Tăng Truyện).
* Đăng
pháp sư ở Lư Sơn
Vị sư Tăng Đăng
trụ tại chùa Đại Lâm núi Khuông Lư, chuyên tụng
kinh Pháp Hoa suốt ngày đêm chẳng ngớt. Một hôm, Sư bỗng thấy một ṭa điện đường
bằng bạc từ từ hạ xuống nơi tăng pḥng,
bỗng biến thành điện vàng. Sư bèn vào điện,
ngồi, đứng, kinh hành như thế suốt ba năm.
Tấn An Vương (Tiêu Tử Loan, con
trai thứ bảy của Tề Vũ Đế Tiêu Trách) nghe nói, nhiều
lần xuống chiếu nghênh đón. Do vậy, Sư tạm
xuống núi. Vương và tứ
chúng nghiêm cẩn cầm hương, hoa xin Sư truyền
giới. Ngài Tăng Đăng nói: “Ban ngày nhiều tiếng
ồn ào, xen tạp, tâm lắm nỗi tán loạn. Hăy nên thọ
giới trong đêm khuya thanh vắng”. Đến đêm, đang
trong lúc Sư thuyết giới tướng, Tam Quy, khóe miệng
Sư bỗng tỏa quang minh chiếu khắp đại
chúng. Mọi người thấy quang minh, đua nhau lễ
bái, ồn ào. Sư liền thôi nói, quang minh thâu lại. Sư
nói: “Ta vốn muốn truyền giới, nhưng kẻ thấy
quang minh liền kêu gào. Quang minh hiện ra chỉ là tướng
lành thọ giới, chưa phải là chánh duyên đắc giới.
Nay làm lại từ đầu”. Đại chúng im lặng,
Sư lại thuyết pháp, lại tỏa ra quang minh. Đại
chúng lại ồn ào. Do vậy, Sư bèn thôi, [bảo họ]
ngày mai lại tới. Sư liền từ biệt, trở
về núi. Điện vàng đă hiện lại hồi phục
như cũ. Một hôm, Sư bỗng bảo người
cùng chùa: “Nay tôi lên điện vàng, chẳng trở lại
nữa!” Ngay trong hôm ấy, Sư thong dong siêu hóa (theo Linh
Thụy Tập).
* Chí thiền
sư ở Dư Hàng
Thời Đông Tấn, có vị tăng Pháp Chí kết am ở núi Dư Hàng, tụng
kinh Pháp Hoa, sáng tối chẳng lười nhác. Có con chim trĩ làm
tổ cạnh am. Mỗi khi nghe tiếng tụng kinh, nó bèn
bay lượn cạnh ṭa, hoặc đứng chầu bên cạnh,
tỏ vẻ nghe nhận. Bảy năm như thế, một
ngày chim tiều tụy. Sư vỗ về bảo: “Ngươi
tuy thuộc loài chim mà có thể nghe kinh, nếu thoát khỏi
thân nghiệp báo, ắt sanh làm người”. Hôm sau, nó chết.
Sư liền đem chôn. Đến đêm, Sư vừa nằm
nghỉ, mộng thấy một bé trai đến bái tạ:
“Con chính là chim trĩ, do nghe thầy tụng kinh mà được
thoát thân chim. Đời này, làm con nhà họ Vương trước
núi. Nách bên phải có lông chim trĩ, thầy có thể kiểm
nghiệm”. Tới sáng, vị tăng đến nhà ấy, hỏi
thăm th́ đúng là như thế. Một hôm, nhà họ Vương đăi trai tăng. Ngài Pháp Chí vừa
đặt chân đến cửa, đứa nhỏ bỗng
nói: “Ḥa thượng của con đă đến”, mọi người
đều lấy làm lạ, ôm đứa bé cho Sư
xem. Ngài Pháp Chí vỗ về, bảo: “Đây là bé trĩ của
ta”, liền cởi áo nó xem kỹ. Dưới nách nó, quả
nhiên có ba cọng lông chim trĩ, [bảo họ]: “Tới bảy
tuổi nên cho nó xuất gia”. Cha mẹ nó vâng lời. Tới
tuổi, bèn cho nó vào núi. Mười sáu tuổi xuống tóc,
do nách nó có lông trĩ, đặt tên là Đàm Dực. Sư truyền
dạy kinh Pháp Hoa, nó nhớ không sai một chữ. Đàm Dực
chính là tổ thứ hai của núi ấy!
* Thiên y Phi
Vân đại sư
Sư húy Đàm Dực, gịng
họ xem trong phần trước. Sư đă thành Tăng, tham học khắp nơi. Thoạt đầu, Sư đến Lư Sơn,
nương tựa pháp sư Huệ Viễn để liễu ngộ tông
thừa. Sau đó, vào Quan Trung lễ quán kinh luận do ngài La
Thập đă dịch, thông đạt vô ngại, đắc
đại biện tài. Về sau, Sư cùng đồng học
là Đàm Học sang Cối Kê ở phương Đông, đến
núi Tần Vọng, thấy núi có riêng năm ngọn, hai con
suối, khí tượng hào hùng, tuyệt vời. Do vậy, bèn xẻ
đá, trừ cỏ, tính ở lại trong núi. Sư chuyên tụng
Pháp Hoa suốt mười hai năm. Một hôm, lúc sắp
hoàng hôn, có một nữ nhân khoác áo màu, tay xách lồng trúc. Trong
đó, có một con lợn trắng, hai củ tỏi. Cô ta đứng
trước Sư khóc lóc nói: “Thiếp
là con gái nhà nọ ở trước núi, vào núi hái rau Vi, trên đường
gặp cọp dữ, rảo chạy đến đây. Trời
đă tối, cây cỏ rậm rạp, sài lang tung hoành, trở
về sẽ chẳng có lẽ sống, dám xin Sư cho ở
nhờ một đêm có được hay chăng?” Sư viện
lẽ hiềm nghi, kiên quyết khước từ, chẳng
thuận. Cô ta chảy nước mắt, buồn khóc. Bất
đắc dĩ, Sư phải nhường cho cô ta nằm
trên giường cỏ rồi liền che đầu tụng
kinh.
Tới canh ba, cô ta kêu gào bị
bệnh, bảo bụng đau quặn, mong Sư xem thử.
Sư trao thuốc, cô ta càng đau đớn nhiều hơn,
rên siết không dứt tiếng: “Nếu được Sư
xoa bụng, may ra sẽ yên đôi chút. Nếu không, sẽ chết.
Phật pháp lấy phương tiện từ bi làm gốc.
Sư nỡ ḷng ngồi nh́n mà chẳng đưa tay cứu
vớt ư?” Sư đáp: “Ta là tăng sĩ đă thọ
đại giới, lư đâu xoa bóp thân người nữ!”
Cô ta càng khẩn cầu tha thiết. Sư liền dùng khăn
vải bọc đầu tích trượng để xoa bóp
từ xa. Trong khoảnh khắc, cô ta bảo: “Đă chẳng
cần nữa!”
Sáng hôm sau, cô ta bước ra
sân, áo màu biến thành mây lành, lợn biến thành voi trắng,
tỏi hóa thành hai đóa hoa sen. Cô gái chân đạp lên hoa
sen, cưỡi voi, ngự lên mây, bảo Sư: “Ta là Phổ
Hiền Bồ Tát. Do chẳng lâu sau, ông sẽ về trong hàng
đại chúng của ta, cho nên đặc biệt đến
thử. Xem ra, tâm ông như nước, như trăng, chẳng
thể ô nhiễm”. Nói xong, phơi phới ra đi. Lúc bấy
giờ, trời tuôn mưa hoa, cơi đất đều rúng
động. Người làng thấy nghe, không ai chẳng ca
ngợi. Ngày hôm ấy, Thái Thú là Mạnh Công Nghĩ sáng sớm
thức dậy xem xét công việc, bỗng thấy phương
Nam mây lành ùn ùn giăng bủa, ánh sáng chiếu rực tới
sân nhà. Phía dưới mây, mơ hồ
có tiếng vàng, đá, tơ trúc. Ḍ hỏi mới biết là
tướng trạng biến hóa do Sư gặp đức
Phổ Hiền, bèn tâu tŕnh đạo hạnh của Sư
lên triều đ́nh. Ông Mạnh bèn vâng chiếu dựng chùa,
đề tên là Pháp Hoa (tức là chùa Thiên Y hiện thời).
Khi đó nhằm năm Nghĩa Hy 13 (417) đời Tấn
An Đế (Tư Mă Đức Tông).
Sư thọ bảy mươi
tuổi, viên tịch trong núi ấy. Tăng chúng trong chùa dùng
chân thân của Sư để tạo thành tượng. Tới
khi Đường Vũ Tông phế trừ Phật giáo, tăng
chúng đem tượng ấy giấu trong ruột cây tại
phía Nam của chùa, cho nên chẳng bị hủy hoại. Vũ
Túc Vương nước Ngô Việt phong thụy hiệu
là Phi Vân đại sư (Sự tích của Sư được
các bộ Cao Tăng Truyện và Pháp Uyển Châu Lâm ghi chép. Đối
với chuyện áo trời, lại có truyện ghi chép riêng.
Đối với tất cả các chỗ giống nhau hay
khác nhau, đều
sao lục cẩn thận, tường tận).
* Minh pháp
sư ở Việt Châu
Sa-môn Hoằng Minh sanh trong nhà
họ Doanh ở Cối Kê; xuất gia tại chùa Vân Môn, khí
tiết, phẩm hạnh cao vời, mọi người đều
chiêm ngưỡng. Sư tụng kinh Pháp Hoa, tọa Thiền,
lễ sám, sáu thời chẳng thiếu sót, cảm vời nước
trong tịnh b́nh thường đầy ắp. Mọi người
nói là các thiên đồng tử hầu cận. Một hôm, Sư
tọa Thiền xong, bỗng có một con hổ phủ phục
trước mặt, một lúc lâu sau mới bỏ đi.
Sau đó, Sư sang Thạch Mỗ Nham ở Vĩnh Hưng
nhập định, cũng có sơn tinh đến quấy
nhiễu. Ngài Hoằng Minh dùng dây lưng trói nó, sơn tinh nhún
nhường, tạ lỗi, xin cởi trói, liền nói: “Sau
này chẳng dám tới nữa!” Từ đó, nó tuyệt tích.
Đó là chuyện vào năm Vĩnh Minh đời Tề (theo
Lương Cao Tăng Truyện).
* Dự pháp
sư ở kinh đô
Vị tăng Huệ Dự người
xứ Hoàng Long, từ bé đă chuyên học tập. Sư lên
kinh đô, trụ tại chùa Linh Tướng, tham học trọn
khắp các vị danh sư. Nếu nghe có kẻ phê phán ai đó,
liền bịt tai không nghe. Sư tụng các kinh Pháp Hoa, Đại
Niết Bàn v.v… Lại c̣n tu tập Thiền Định. Một
hôm, nằm ngủ, Sư chợt mộng thấy ba người
gơ cửa, áo mũ rạng rỡ, cầm lọng nghênh tiếp.
Hỏi lư do, họ nói: “Tử kỳ của pháp sư đă
đến, cho nên chúng tôi đến đón tiếp”. Huệ
Dự nói: “C̣n có duyên nhỏ chưa xong, có thể tŕ hoăn một
năm hay không?” Họ vâng lời ra đi. Tới đúng ngày
ấy năm sau, lại mộng thấy ba người như
trước. Do vậy, Sư liền qua đời. Sư
cũng sống vào đời Tề (theo Lương Cao
Tăng Truyện).
* Quỹ
pháp sư ở kinh đô
Vị tăng Pháp
Quỹ đời Tề, họ ngoài đời là Nguyễn.
Thuở nhỏ, Sư theo xuất
gia tại Kỳ Viên Tự. Bản tánh cung kính, trầm lặng,
lấy chuyện tụng kinh Pháp Hoa làm hạnh nghiệp. Hễ
được cúng thí, Sư đều
gom góp để tạc tượng. Gia đ́nh Sư kiều
cư (ngụ cư) tại một ngôi chợ lớn tại
kinh đô. Một hôm Sư về nhà, lại tới chùa Định Lâm, lại c̣n ở Kỳ Viên. Sau đó, có
người hỏi ḍ ba chỗ, họ đều nói thấy
Sư đến thọ trai. Ngày hôm ấy, Sư trở về
pḥng cũ, nằm lặng yên qua đời. Thi thể thơm
tho, mềm mại, gập hai ngón tay lại. Mọi người
cho rằng Sư đă chứng Nhị Quả. Lương
Vũ Đế khâm phục sự thần dị, thiết
trai tăng tại chùa ấy, sắc truyền nhà chùa vâng
chiếu an táng (theo Lương Cao Tăng Truyện).
* Biện
pháp sư ở kinh đô
Đời Tề có sa-môn Siêu
Biện tại Đôn Hoàng, dĩnh ngộ từ bé, hành xử
sâu xa, trầm tĩnh. Sư ở kinh đô; sau đó, Sư từ kinh đô đến Kiến Khang, qua Đông Việt[55],
t́m đến tham lễ các vị danh sư. Sau đó, Sư
quay về trụ tại chùa Định Lâm, nhàn cư dưỡng
chí, vui thỏa chốn núi rừng cho đến hết đời.
Sư mỗi lần tụng, đều tụng trọn một bộ Pháp Hoa bảy
quyển, tâm mẫn tiệp, miệng thốt lời, luôn có
thừa sức. Sư lễ danh hiệu một ngàn vị Phật
hơn một trăm năm mươi vạn lạy. Sư
chẳng ra khỏi cửa suốt ba mươi năm, thọ
bảy mươi ba tuổi rồi tịch. Toàn thân được
chôn tại phía Nam chùa. Ngài Tăng
Hựu lập bia ghi chép đức hạnh của Sư (theo
Lương Cao Tăng Truyện).
* Sa môn Trừng
pháp sư
Ngài Bạt Trừng lúc hai mươi
tuổi xuất gia làm Tăng, căn khí quê kệch, chậm
lụt, chẳng thể làm thế nào được! Sư
bèn lập chí, thề tụng kinh Pháp Hoa để cầu về
Tây. Mỗi ngày, Sư ghi nhớ
một ḍng kinh, hoặc nhớ nửa bài kệ. Siêng khổ
như thế tới tám mươi tuổi mới thông suốt
cả bộ. Một hôm, Sư ngồi xếp bằng nhập
Định, bỗng thấy một vị thần mặc áo
đỏ, tay cầm tờ sớ cầu thỉnh, tới nói: “Thiên
đế nghênh đón đại đức Bạt Trừng”. Sư nói:
“Ta sanh ra ngu độn, tùy sức tụng tŕ, chuyên cầu
Cực Lạc. Đao Lợi tuy là chỗ thù thắng, chẳng
phải là nơi ta ước nguyện!” Do vậy, vị
thần tạ từ rời đi.
Lại một lúc khác, Sư mộng thấy tháp lớn bằng bảy báu, thân Sư
đang ở trong tầng thứ năm, nh́n ra xa thấy có
thành tŕ bằng bảy báu chẳng có ngằn hạn. Phía ngoài,
có hai vị Kim Cang cầm xử đứng hai bên, mấy chục
người áo xanh tay cầm phất trần trắng, phẩy bậc thềm. Ngài Bạt Trừng hỏi th́ họ
đáp: “Đây chính là bậc thềm của thành báu chốn
Tây Phương”. Sư tỉnh mộng, liền bảo đệ
tử: “Ông hăy đem y bát của ta để lo liệu cơm
chay dâng cúng đại chúng”, lại nói: “Các ông lúc này có thấy
ngàn đức Phật hay không?” Mọi người đáp:
“Không thấy!” Lại nói: “Có cảm thấy mùi hương
lạ thường hay không?” Đáp rằng: “Đều ngửi
thấy”. Sư nói xong, hướng về Tây, lặng lẽ qua đời (theo Linh Thụy Tập).
* Vân pháp
sư ở Kim Lăng
Pháp sư là người xứ
Dương Tiện, họ ngoài đời là Châu. Lúc mẹ
Sư mới sanh ra Sư, thấy mây phủ đầy nhà.
Do vậy, dùng chữ Vân làm tiểu tự. Sư bảy tuổi
xuất gia, được đặt pháp danh là Pháp Vân. Sư
điển trai, anh tuấn, trác tuyệt thuở đó. Lượng
pháp sư trông thấy, khen ngợi:
“Tâm trí của ta chẳng sánh bằng Vân. Ông này ắt sẽ
là bậc rường cột nơi đại pháp”. Lúc ba mươi
tuổi, Sư giảng Pháp Hoa và Tịnh Danh, biện tài như
gió cuốn, học tṛ tụ về đông đảo. Lương
Vũ Đế kính phục, sắc truyền Sư trụ
tŕ chùa Quang Trạch. Pháp Vân từ thuở làm Sa Di đă yêu
chuộng Pháp Hoa, chuyên ṛng tham cứu, suy niệm, từng đến
chỗ vách đá sâu để riêng ḿnh đọc, giảng
kinh này. Sư bày đá làm học tṛ, bẻ cành tùng làm phất
trần, tự xướng, tự hướng dẫn, lại
c̣n tự cật vấn. Hơn nữa, sớ giải tầng
tầng, trước sau soi tỏ cặn kẽ lẫn nhau.
Sư từng diễn giảng
kinh này tại một ngôi chùa, bỗng cảm hoa trời có
h́nh dạng như tuyết bay rơi xuống đầy trời,
tràn vào trong điện, lơ lửng trên hư không chẳng
rơi xuống. Sư giảng xong, chúng liền biến mất.
Thuở đó, ngài Chí Công đạo siêu việt chư tăng,
có lúc tới chỗ ngài Pháp Vân nói: “Tôi muốn hiểu sư
tử hống, xin sư hăy giảng cho”. Sư liền lên pháp ṭa phân tích, ngài Chí Công khảy ngón tay nói:
“Lành thay! Vi diệu quá!” Vũ Đế một hôm đem
chuyện trời hạn hán hỏi ngài Chí Công: “Làm cách nào để
có mưa?” Chí Công đáp: “Pháp Vân có thể khiến cho trời
mưa. Hăy nên thỉnh sư Pháp Vân giảng kinh”. Ngài Pháp Vân
giảng kinh Pháp Hoa, đến câu “kỳ trạch phổ
hiệp” (nhuần thấm tưới khắp), trời
liền giáng trận mưa to nhuần thấm. Quan Nghi Đồng[56]
là Viên Ngang nói: “Nhà tôi có người thường cúng
dường Tăng, phát nguyện ‘nguyện đạt được
huệ giải như ngài Pháp Vân’, bỗng mộng thấy
một vị Tăng bảo: ‘Sư Pháp Vân vào thời Nhật
Nguyệt Đăng Minh Phật đă giảng kinh này’, sao
có thể sánh bằng được?” (theo Tục Cao
Tăng Truyện).
* Viễn
pháp sư đời Hậu Châu[57]
Ngài Huệ Viễn làm Tăng, khí lượng
chẳng cạn. Ngài cao chín thước năm tấc, lưng rộng
chín ṿng ôm. Ngài lên ṭa thuyết pháp như sấm rền khiến
sâu bọ tỉnh giấc. Nhằm lúc Châu Vũ Đế (Vũ
Văn Ung) muốn phế trừ hai giáo Thích và Đạo,
triệu các sa-môn vào triều. Vua trần thuật: “Trẫm
vâng lănh mạng trời, nuôi nấng dân đen. Tam giáo lưu
truyền trong cơi đời, suy xét lư cùng tột, Nho th́ lễ,
nghĩa, trung, tiết, thích đáng cho cơi đời, cần
phải lập định. Chân Phật th́ chẳng có h́nh tượng,
kính ngưỡng từ xa trong tâm, nhưng Phật tháp cao vót,
tráng lệ. Đấy thật sự là thứ vô t́nh, sao có
thể ban ân huệ, chẳng đáng để giữ lại!
Ư trẫm như thế đó, các vị tôn đức nghĩ
như thế nào?” Khi đó, hơn năm trăm vị Tăng
thất sắc, không nói được ǵ!
Ngài Huệ Viễn từ
trong đại chúng bước ra, tâu: “Bệ hạ nói: ‘Chân
Phật chẳng có h́nh tượng’, đúng như Ngài đă
nói. Nhưng tai mắt sanh ra linh tri, nhờ vào kinh để
nghe Phật pháp, cậy vào tượng để biểu
thị lẽ chân. Nếy phế trừ, sẽ chẳng có ǵ để dấy ḷng tôn kính”. Vua nói: “Chân
Phật trong hư không đều tự biết”. Huệ Viễn
đáp: “Trước thời Hán Minh Đế, kinh tượng
chưa truyền đến cơi này, v́ lẽ ǵ chẳng biết?”
Vua chẳng đáp được. Ngài Huệ Viễn nói: “Nếu
chẳng nhờ vào kinh giáo, trước thời Tam Hoàng chưa
có văn tự, nhân loại phải nên hiểu Ngũ Thường
rồi chứ?” Vua chẳng đáp được. Huệ
Viễn nói: “Nếu cho rằng h́nh tượng vô t́nh phải
phế bỏ, vậy th́ bảy miếu[58] của nước
nhà há có phải là hữu t́nh ư?” Vua nói: “Trẫm cũng
không cho rằng bảy miếu là đúng!” Huệ Viễn nói:
“Nếu phế bảy miếu tức là chẳng tôn kính
tổ tiên, sao có thể nói là giữ đạo Nho ư? Nếu
tam giáo đều phế, lấy ǵ để trị quốc
vậy?” Vua cũng chẳng đáp được. Huệ
Viễn nói: “Bệ hạ nay dùng sức vua để phá diệt
Tam Bảo, địa ngục chẳng chọn lựa sang
hèn, sao chẳng sợ hăi?” Vua nói: “Chỉ khiến cho trăm
họ được vui sướng, nào ngại địa
ngục!” Huệ Viễn đáp: “Bệ hạ dùng tà kiến
hóa độ người khác, dân chúng sẽ theo bệ hạ
cùng vào A Tỳ, há có vui chi?” Vua giận dữ, truyền
chư Tăng lui ra, sẽ lại triệu tập sau. Từ đó,
vua thi hành chánh sách bạo ngược, cùng phế cả hai
giáo Phật và Đạo. Ngài Huệ Viễn bèn ẩn cư
ở Tây Sơn thuộc Cấp Quận, chuyên tụng kinh
Pháp Hoa và Duy Ma, mỗi kinh trọn một ngàn lượt,
thâm nhập lư càng sâu, kinh luôn để trong túi sách chẳng
bỏ. Tới niên hiệu Đại Tượng[59],
giáo pháp nhà Phật mới bắt đầu khôi phục. Đầu
triều đại Đại Tùy, Sư mới lại dự
vào hàng Tăng chúng[60],
tiếng vang đến cung vua. Vua xuống chiếu sắc
truyền Sư đứng đầu các sa-môn ở Lạc
Châu để khuông pḥ Phật pháp. Tuy Huệ Viễn từ
chối, vua chẳng thuận, Sư liền phải nhận
địa vị ấy (theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Phương
pháp sư ở Dương Châu
Sa-môn Trí Phương là người
đất Thục (Tứ Xuyên), nổi danh xứ Dương
Việt (vùng Dương Châu, Tô Châu). Sư
[nói năng] từ nghĩa trong sáng, phong phú. Sư giảng
kinh Pháp Hoa tới phẩm Bảo Tháp: “Tháp báu cao đẹp
năm trăm do-tuần, ngang dọc mỗi bề hai trăm
năm mươi do-tuần”, bèn nói: “Sao cứ phải
khăng khăng cơi Phật xưa kia có sự cao đẹp
ấy, ngay phước địa Dương Châu này cũng
rất trang nghiêm. Ngay như tháp Di Thiên bảy tầng cùng
nhật nguyệt tranh sáng, tháp Đồng
Thái chín tầng đua sắc với khói mây. Giếng vuông
th́ thả lá sen, thùng tṛn th́ đặt hoa sen bên cạnh. Giống
như để an trụ th́ sống ở phương
Nam, dường như Ni Khư th́ để trấn phương
Bắc. Tai nghe, mắt
thấy, có thể sánh đôi so lường vậy”. Ngài thốt
lời thành vần điệu như thế đó. Thuở đó, có pháp sư Bảo Hải.
Sư từng đối trước Lương Vũ Đế
diễn giảng; hôm ấy, [Bảo Hải] cũng hiện diện, liền cật vấn rằng: “Trong kinh, cơi nước
ba lượt biến đổi, phương này đổi
uế thành tịnh. [Vậy th́] cũng có thể biến phàm
thành thánh hay chăng?” Ngài Trí Phương đáp: “Hóa Phật
rất nhiều, do [cơi nước] hẹp ḥi nên cần phải
[biến hóa cho] rộng, chứ phàm thánh vốn tự như
thế, cần ǵ phải nhọc công biến đổi?”
Pháp Hải lại cật vấn: “Nếu nói sáu mươi
tiểu kiếp như trong khoảng bữa ăn, chỉ
là bậc thánh trông thấy [như thế. Vậy
th́] chỉ là thánh thấy, chứ phàm chẳng thể thấy.
Nếu phàm và thánh cùng thấy, phàm lẫn thánh đều là
thánh hay sao?” Trí Phương cười bảo: “Cao ṭa có bao
giờ nói như vậy, mà chính ḿnh tự nói, tự bắt
bẻ”. Pháp Hải nhận biết ḿnh đă lỡ lời,
bèn bào chữa: “Cái thưng gỗ ba ngăn, sao gọi là Trí
Phương?” Trí Phương liền đáp ngay: “Ao tù toàn
ngói, sỏi, sao gọi là Bảo Hải?” Mọi người
cười x̣a, giải tán (theo Tục
Cao Tăng Truyện).
* Tịnh
pháp sư ở Chân Thừa
Sư Huệ Tịnh người
xứ Chân Thừa, gia đ́nh nhiều đời học Nho.
Sư bẩm tánh hiểu biết trác tuyệt, mỗi ngày học
thuộc tám ngàn câu, hiếm ai sánh bằng, đến nỗi
thanh danh đẹp ḷng vua, quan liêu đều ngưỡng
mộ. Năm Trinh Quán 13 (639), vua sắc truyền các học
sĩ thuộc tam giáo tranh luận tại điện Hoằng
Văn, vời Huệ Tịnh đến giảng kinh Pháp
Hoa, đạo sĩ Thái Hoảng giảng Đạo Luận.
Thái Hoảng hỏi: “Kinh đề là Tự Phẩm đệ
nhất, chẳng rơ Tự và Đệ phân định như
thế nào?” Huệ Tịnh đáp: “Như Lai nhập định,
phóng quang, mưa hoa, chính là nền tảng to lớn để
phá Nhị Thừa, lần lượt sẽ nói Nhất Thừa.
V́ thế nói là Tự. Đệ là vị trí. Nhất là khởi
đầu. Phần Tự đặt ở trước nhất;
v́ thế nói là đệ nhất”. Thái Hoảng nói: “Đệ
là em, là em th́ chẳng được gọi là Nhất. Hễ nói Nhất th́ chẳng nói Đệ!
Hai chữ mâu thuẫn, sao có thể dung hội cho được?”
Huệ Tịnh đáp: “Trước đó, tôi chẳng nói
rồi đó sao. Đệ là vị trí. Nhất là khởi đầu.
Tiên sinh chẳng hiểu câu đáp trước, lầm lẫn
nêu bày lời cật vấn sau đó!” Thái Hoảng nói: “Lời Sư chẳng ra khỏi mép,
sao có thể lănh hội được?” Huệ Tịnh đáp:
“Bồ Tát thuyết pháp, tiếng
vang rền mười phương, đạo sĩ hiện
diện tại đó, như mê, như say”. Thái Hoảng
nói: “Dă can thuyết pháp, do đâu mà nghe được?” Huệ
Tịnh nói: “Thiên cung pḥng vệ nghiêm mật, theo đúng
lư chẳng có dấu vết loài thú! Đạo sĩ thần
trí mông muội, nói người là súc vật”. Tâm vua hết
sức vui sướng, cả hội hoan hỷ, hớn hở
giải tán. Ngài Huệ Tịnh là bậc then chốt trong giáo
pháp của chúng ta như thế đó (theo Tục Cao
Tăng Truyện).
* Tam Tạng
Kiệt pháp sư
Vào đầu niên hiệu
Nguyên Gia đời Tống, có sa-môn Đàm Vô Kiệt (Dharmodgata,
Pháp Dũng) ở Hoàng Long siêng ṛng hành khổ hạnh. Sư thường tụng phẩm Phổ Môn của kinh Pháp
Hoa, cùng với hai mươi lăm đồ chúng đi qua
phương Tây, sang Thiên Trúc, trải đủ mọi hiểm
nạn. Đàm Vô Kiệt chí nguyện càng kiên cố. Đă
tới Xá Vệ, trên đường gặp bầy voi, Đàm
Vô Kiệt tâm kiền thành tụng niệm, liền cảm
sư tử từ trong rừng chạy ra, lũ voi tháo chạy.
Lại có bầy trâu rừng rống lên ùa tới, sắp làm
hại. Đàm Vô Kiệt miệt mài niệm như cũ, bỗng
có con chim kên kên lớn bay tới, lũ trâu kinh hoảng, chạy
mất hút. Mọi người được thoát nạn (theo
Pháp Uyển Châu Lâm).
* Lăng pháp
sư
Vị tăng Pháp Lăng, tụng
tŕ kinh Diệu Pháp Liên Hoa có công. Một đêm, Sư mộng
thấy vào cơi âm. Quan cơi âm hỏi hạnh nghiệp xong, liền
ghi lời phán định rằng: “Ba ác đạo bít lấp,
đường nhân thiên thông suốt. Thấy Phật, siêng
hành, không chỉ ngừng ở hóa thành, có thể chỉ bày
cung trời là nơi sẽ thấy vị Phật tương
lai” (Theo Linh Thụy Phú Chú Văn).
* Chiêu thượng
nhân ở Tần Châu
Trong niên hiệu Vĩnh Thái
nhà Ngụy, tại chùa Đan Lănh tại Tần Châu, có vị
tăng tên là Tăng Chiêu, bẩm tánh thanh nhàn, thường
thích đi đây đó văn cảnh. Một hôm, Sư tới
Huỳnh Sơn, thấy dưới thác nước có một
cái hang, liền vào đó. Đi chừng năm sáu dặm, lại
ra khỏi hang, thấy có con suối chảy xen trong đá mấy
dặm về phía Đông Bắc. Bỗng thấy một căn
nhà bụi phủ tới tận đầu gối, nh́n bốn
phía là rừng sâu. Trong chốc lát, Sư gặp một vị
Tăng, khoảng sáu mươi tuổi, lông mày bạc trắng dài hơn
một trượng quấn ṿng trên tai, vui vẻ tiếp chuyện.
Hỏi ra, vị Tăng ấy đáp: “Ba người đồng
học chúng tôi đến đây lánh đời, một người
chưa trở lại, một người th́ đang nhập
Diệt Định”. Sư lại hỏi: “Hiện thời người
nào làm vua?” v.v…Vị Tăng lấy thóc lúa
giă ra để làm bữa ăn. Vị tăng hỏi Tăng
Chiêu: “Ông thường tụng kinh ǵ?” Tăng Chiêu thưa: “Tụng
kinh Pháp Hoa”. Sư gật đầu nói: “Nghiệp tinh tấn
rất tốt”. Tăng liền chỉ: “Các kinh
ở chái Đông nhà này đều do ta tụng, có muốn
nghe hay không?” Tăng Chiêu chắp tay thưa vâng. Vị tăng
liền tụng, âm điệu rơ ràng, Sư tụng từ đêm
tới sáng. Tăng Chiêu buồn ngủ, vị tăng bảo:
“Ông hăy tự ngủ, ta vẫn thường [thức suốt đêm tụng niệm] như
thế”. Sáng hôm sau, Tăng lại dọn thức ăn. Tăng Chiêu từ tạ
lui về, vị tăng cũng chẳng giữ lại, chỉ
nói: “Đồng học của ta đă ra ngoài. Nếu ông được
gặp, ắt sẽ đại khai ngộ”. Tăng Chiêu trở
về, kết bạn trở lại t́m kiếm, chẳng
thấy ở chỗ nào (Theo Tục Linh Thụy Tập).
* Thừa
pháp sư đời Nguyên Ngụy
Trong thời Nguyên Ngụy, tại
phương Bắc có Thừa thiền sư thọ tŕ Pháp
Hoa, tinh tấn chẳng lười nhác. Mạng chung, Sư
thác sanh làm con thứ năm nhà họ Tiết ở Hà Đông.
Sanh ra, đă có thể nói chuyện đời trước,
chẳng thích ở trong cơi tục, ư muốn lại làm Tăng. Cha ông ta làm thứ sử Tứ Châu, bèn theo cha đến
chỗ trấn nhậm. Tới chùa Thất Đế ở
Trung Sơn, ông ta giật ḿnh nhớ chỗ kinh hành thuở
trước. Do vậy, t́m đệ tử thuở đó,
bảo: “Ông c̣n nhớ chuyện khi theo tôi vượt sông đến
Lang Sơn hay không? Thừa thiền sư nay chính là thân tôi! Bàn
thờ linh trong pḥng có thể bỏ đi!” Cha mẹ sợ
ông ta xuất gia, liền cưới vợ cho. Sau đó, ông
ta quên hẳn chuyện túc mạng, nhưng thường
sanh ḷng chán ĺa, giữ ḿnh đoan chánh, sống thanh tĩnh (theo
Tục Cao Tăng Truyện).
* Trạm
pháp sư ở Tề Châu
Vị tăng Chí Trạm, người
Tề Châu, bẩm tánh thuần hậu, giảm bớt muôn
duyên, chất trực, chỉ lấy nhân từ làm gốc.
Sư trụ tại chùa Hàm Thảo nơi hang sâu thuộc núi
Nhân Đầu, quanh năm tụng Pháp Hoa, chưa từng bỏ
lỡ chút nào. Hôm Sư sắp mất, Chí Công tâu với Lương
Vũ Đế rằng: “Bậc thánh tăng Tu Đà Hoàn
tại chùa Hàm
Thảo ở phương Bắc hôm nay diệt
độ”. Trong ngoài nghe tin, đều hướng
về đó vọng bái, “ngài Chí Trạm sắp mất!” Ngài
Chí Trạm vắng lặng, chẳng c̣n thừa sót phiền
năo, đoan nghiêm qua đời. Hai tay đều có một
ngón duỗi ra. Khi đó, có vị phạm tăng luận rằng:
“Duỗi một ngón tay là chứng Sơ Quả”. Đạo
tục tôn sùng, kính trọng, dựng tháp thờ toàn thân Sư
tại núi ấy. Chim thú chẳng làm bẩn tháp, tới nay
vẫn c̣n (theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Thiên pháp
sư ở Giang Lăng
Vị tăng tên là Tăng
Thiên ở Ngô Quận, sanh từ nhà họ Nghiêm. Sư từ
bé đă sắc sảo, thần dị, người quen biết
đều lấy làm lạ. Sư theo hầu pháp sư Đạo
Tắc, cũng là sự quyền biến biểu lộ ra
bên ngoài, coi trọng sâu xa. Ngài Tăng Thiên đến các nơi
giảng pháp, biện tài mặc sức tung hoành. Lương
Cao Tổ (Lương Vũ Đế)[61]
sắc truyền Sư giảng tập giáo nghĩa tại điện
Hưng Thiện. Vua coi trọng Sư thông duệ, bèn phong Sư làm gia tăng[62].
Ngài Tăng Thiên từ lúc tṛn hai mươi tuổi liền
tụng kinh Pháp Hoa, vượt hơn sáu ngàn bộ. Một
hôm, Sư đang tĩnh tọa, dường như ngủ thiếp đi, mộng thấy
Phổ Hiền Bồ Tát quang minh thơm ngát chiếu chạm
thân thể, Bồ Tát đích thân xoa đầu. Sư ghi lại
chuyện ấy, nhưng chẳng kể với ai. Đến
khi đă lớn tuổi, mới dần dần kể cho người
cùng chí hướng biết. Đối mỗi kinh trong mười
tám bộ như Pháp Hoa, Đại Phẩm, Niết Bàn v.v… Sư
đều giảng mười lượt, đều soạn
nghĩa sớ (sách chú giải ư nghĩa) lưu truyền hàng
hậu học. Về sau, Sư thị tịch, chôn tại
núi Trung Hoa ở Giang Lăng (theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Quán pháp
sư ở Nam Giản
Huệ Quán làm Tăng, do nghe
Tiên pháp sư ở chùa Nam Giản giảng pháp, mà thành
người lănh đạo. Về sau, do mắc bệnh, Sư bèn đóng cửa, không ra ngoài, chuyên tụng Pháp Hoa, kiền
thành cầu sám hối, bệnh liền khỏi hẳn. Từ
đấy, Sư chẳng bỏ sót hạnh nghiệp ấy.
Lương Vũ Đế kính trọng, sắc truyền
Sư trụ tŕ chùa Nam Giản để hoằng
dương, giảng giải Pháp Hoa. Sư từ ngữ
phong phú, ư nghĩa dồi dào, luôn hơn hẳn các cách diễn
đạt của người khác. V́ thế,
đương thời có câu ngạn ngữ: “Ca la ngữ,
Huệ Quán lục” (chép lại kịp lúc lời sư
Huệ Quán nói ra), [hàm ư] người đương thời
chép lại [lời Sư giảng giải] coi như châu ngọc
(theo Linh Thụy Tập).
* Nhẫn
thiền sư ở Kinh Châu
Vị tăng Pháp Nhẫn
người xứ Giang Lăng, xuất gia tại chùa Thiên
Hoàng, giới hạnh trọn đủ, chuyên tŕ Pháp Hoa và
Duy Ma, mỗi ngày hai lượt. Do chùa đông người
tụ tập, nhiều tiếng ồn ào, Sư bèn qua Phúc
Thuyền Nham ở Kinh Châu để hành hạnh Đầu
Đà, yên tĩnh quán tưởng suốt ba mươi năm. Sư
tự vào núi, chẳng cần ngoại hộ. Lương
thực đă cạn sạch, bèn dùng trái cây, hoặc bảy
ngày ăn một bữa. Từng có lúc cả một kỳ
Kết Hạ (ba tháng) mà chỉ tốn ba đấu gạo,
tới ngày Tự Tứ, hăy c̣n năm
thưng. Sư chỉ bó gối trong khám thất, chưa từng
bước ra ngoài. Một hôm, bỗng có con voi đến
phía sau khám. Sư nằm bệnh mười ngày rồi nằm
bên hông phải mà hóa. Y bát bụi phủ, hư nát, đại
chúng ước lượng chưa đáng giá mười đồng.
Khi đó nhằm thời Hậu Lương[63]
(theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Lẫm
pháp sư tại Ngọc Tuyền
Vị tăng Pháp Lẫm đời
Hậu Lương là con nhà họ Nghiêm ở Chi Giang. Sư
mới mười lăm tuổi, kiến thức đă khác
lạ tót vời. Sư xuất gia tại chùa Ngọc Tuyền,
chẳng mặc lụa là, khất thực tự nuôi thân. Dùng
vải thô làm áo, Thiền niệm làm nghiệp, quanh năm tụng
Pháp Hoa, chẳng đặt hông xuống giường. Sư
đi khắp nơi tham yết, tầm đạo, không nơi
xa xôi nào chẳng tới. Sư khí chất, dung mạo thanh cao,
nghiêm túc, người trông thấy không ai chẳng ngưỡng
mộ phong thái cao cả. Sư từng đến Đại
Nhạc, gặp một vị huyện lệnh, xét hỏi giấy
thông hành. Pháp Lẫm thường mang theo một hộp đựng
kinh Pháp Hoa, liền bảo: “Trong
hộp này có giấy thông hành”. Quan huyện lục soát, chẳng
t́m thấy, bèn tức giận, [chất vấn]. Sư đáp:
“Kinh này là h́nh tích đă hành của chư Phật, bần
đạo noi theo đó để hành. Đấy chính là giấy
thông hành của Lẫm vậy”. Huyện lệnh bỏ
tù Sư, suốt bảy ngày chẳng cho ăn. Sư chỉ
nhất tâm tụng kinh. Huyện lệnh bị ác mộng,
bèn sám hối, thả Sư. Về sau, Sư ở lại Mặc
Sơn, ngồi mất dưới gộp đá. Mọi người
ngửi thấy mùi hương lạ, mười ngày mới
tan (theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Lăng Pháp
Hoa ở Ngạc Châu
Tăng Lăng, họ ngoài đời
là Hứa, người xứ Nam Dương. Đến tuổi
hai mươi bèn ĺa tục, dự kỳ thi dành cho tăng
sĩ. Sư phần nhiều sống ở Ngạc Chử,
thường nuôi một con khỉ và một con chó. Sư dùng
bát gỗ thọ thực, thức ăn c̣n dư th́ cho hai
con thú ăn. Ăn xong, khỉ cầm bát không, cưỡi
chó mà đi. Tăng Lăng mặc cho chó đi ḷng ṿng, trọn
chẳng quản tới. Sư đọc tụng các kinh, riêng
lấy Pháp Hoa làm kinh trọng yếu, tịnh tâm tu tŕ. Mỗi
lần tụng là tṛn bảy lượt, thậm chí bảy
mươi, hoặc bảy trăm lượt, số lượng
chẳng ít. Âm thanh phóng khoáng, có khi như tiếng đàn, tiếng
sáo. Người bên cạnh nh́n vào, [nhận thấy] Sư chẳng
c̣n thấy nghe, chân tay của Tăng Lăng đều rút vào trong
ḷng, h́nh dạng giống như con rùa rúc vào trong mai. Hoặc
có lúc Sư ở chốn tửu quán, ăn thịt, uống
rượu, đều là chẳng biết do đâu mà có! V́
thế, ngạn ngữ có câu: “Lăng Pháp Hoa, năm chỗ đều
co rút, thịt lợn đầy miệng, má”. Khi đó,
tại ngôi chùa gần đó, có vị tỳ-kheo-ni ngộ
giải kinh luận, xướng suất giảng dạy, người
nghe kéo tới như mây đùn. Tăng Lăng nghe vậy, bảo:
“Đó là do tà quỷ gia tŕ, há có chánh lư? Cần phải đến
giảo nghiệm”. Một hôm, Sư đến chùa ấy
nhằm lúc vị ni đang giảng nói, Tăng Lăng bèn lớn
tiếng quở trách: “Tiểu tỳ! Ta đă đến
sao ngươi không xuống khỏi ṭa?” Ni vừa nghe tiếng
liền ngă nhào, đứng trước điện đường,
mồ hôi tuôn ướt đất, đứng sững bất
động. Sư hỏi đến huệ giải, bà ta câm
lặng như kẻ si điếc. Một trăm ngày sau mới
khôi phục bổn tánh. Đó là chuyện trong niên hiệu Đại
Nghiệp đời Tùy (theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Kiên pháp
sư ở Đông Nhạc
Thích Hạnh Kiên đời
Tùy chẳng biết người xứ nào, thường tu Thiền
Quán, giữ tiết tháo hết sức nghiêm cẩn. Do có việc
đi qua Thái Sơn, đến đêm, Sư vào miếu thờ
thần núi để nghỉ đêm. Người giữ đền
nói: “Nơi đây chẳng có quán xá, chỉ có ṭa thần miếu
này, nhưng người ngủ lại nơi này, ắt sẽ chết bất ngờ”. Hạnh Kiên nói “chẳng
sao”, bèn trải rơm dưới chái miếu. Hạnh Kiên
ngồi ngay ngắn, tụng kinh chừng một canh giờ,
bỗng thấy vị thần ấy áo mũ rất lớn,
hướng về Sư chắp tay. Hạnh Kiên hỏi: “Nghe
nói ai nghỉ lại đây phần nhiều bị chết
mất, có phải là v́ đàn việt làm hại hay không?” Thần
đáp: “Do người sắp chết t́nh cờ tới đây,
nghe tiếng đệ tử mà tự chết, chẳng phải
là đệ tử giết”. Sư lại hỏi: “Cơi đời
truyền tụng Thái Sơn cai trị quỷ đúng không?”
Thần nói: “Đệ tử phước bạc, có chuyện
ấy”. Hạnh Kiên nói: “Có hai vị Tăng đồng học
đă chết, nay c̣n là quỷ hay không?” Thần hỏi tên rồi
cho biết: Một người đă sanh trong nhân gian, người
kia đang chịu đối chất trong tù ngục. Sư
muốn đến gặp, thần sai thuộc hạ dẫn
vào trong viện. Sư thấy một người đang kêu
gào trong lửa, thân h́nh biến đổi chẳng nhận
biết được, máu thịt cháy khét. Hạnh Kiên chẳng
nỡ nh́n, liền trở về chái miếu, lại ngồi
cùng với thần. Hạnh Kiên nói: “Tôi muốn cứu vị
Tăng ấy có được hay không?” Thần đáp: “Được
chứ! Có thể v́ người ấy chép kinh Pháp Hoa, ắt
sẽ được thoát khỏi!” Sau đó, Sư từ
biệt thần. Sáng ra, người trông miếu thấy Hạnh
Kiên chẳng chết, ngạc nhiên. Hạnh Kiên rời đi,
nhanh chóng hoàn nguyện trước. Kinh chép, đóng thành sách
xong, cầm đến miếu. Thần xuất hiện như
cũ, Sư báo cho thần biết chuyện ấy. Thần
nói: “Sư v́ người ấy vừa chép tựa đề
kinh, người ấy đă thoát khỏi rồi. Nay ông ta
sanh trong nhân gian, nhưng nơi đây không thanh khiết, chẳng
nên đặt kinh. Xin thầy lại đem về tặng vào
chùa để cúng dường”. Sư bèn giă biệt thần
(theo Đại Tống Cao Tăng Truyện).
* Luân pháp
sư ở Việt Châu
Thích Tăng Luân lúc mới năm
tuổi, tự thấy quang minh màu trắng đầy nhà,
bèn đến chùa Vân Môn ở Việt Châu xin xuất gia. Hạnh
tu của Sư là tụng kinh Pháp Hoa. Trong niên hiệu Khai Hoàng,
Phật pháp hết sức hưng thịnh. Sư nghe Lư luật
sư giảng pháp tại Vũ Dương, bỗng thấy
quang minh năm màu giống như bánh xe chiếu vào tự tâm,
liền ở trong quang minh lễ năm mươi ba vị
Phật. Quang minh vẫn chưa mất, Sư lại lễ
năm mươi lăm vị Phật, quang minh mới thu
lại. Lúc Sư tám mươi lăm tuổi, bỗng gọi
đệ tử, bảo: “Đêm thanh hôm nay, ta sẽ được
giải thoát các pháp, tức là thành đạo vô học, chẳng
biết thiên đế có đón tiếp hay không?” Nói xong
liền qua đời. Ngày an táng, tiết trời hết sức
trong trẻo, không mây mà bỗng đổ mưa, mọi người
đều lấy làm lạ (theo Tục Linh Thụy Tập).
* Siêu pháp
sư ở Tề Châu
Trong niên hiệu Khai Hoàng đời
Tùy, có vị tăng Huệ Siêu, lập hạnh tót vời.
Sư thường tụng Pháp Hoa, có một đệ tử
đă quên mất tên, đang tuổi cầu học, cũng
thông thạo ba quyển kinh Pháp Hoa. Một hôm, đứa đệ
tử ấy ngă bệnh, chết ở đất Tề, cách
Thái Sơn không xa. Huệ Siêu đến dâng hương, trần
thuật cặn kẽ ư định v́ sao đến đó.
Tượng gỗ bỗng phát ra tiếng bảo: “Sư giới
hạnh chuyên ṛng, gắng gỏi, điều Sư hỏi
han, tôi chẳng dám bẩm báo”. Liền dẫn Sư đến
trước phủ quân[64].
Huệ Siêu hỏi: “Đệ tử tôi nay ở tại chỗ
nào?” Phủ quân nói: “Người chết ở nơi đây,
chưa có chỗ để sanh về”. Huệ Siêu nói: “Tôi
muốn gặp mặt có được hay không?” Phủ quân
liền sai người hầu dẫn Sư đi về phía
Đông rặng núi mấy chục bước, quả nhiên
gặp mặt. Do vậy, Sư hỏi [đứa đệ
tử ấy] sướng khổ như thế nào? Đệ
tử thưa: “Chỉ bị g̣ bó, trói buộc, cũng chẳng
sướng khổ ǵ! Nghĩ chỗ sanh về chưa quyết
định, xin thầy cứu vớt cho”. Sư hỏi: “Làm
công đức ǵ?” Đệ tử nói: “Xin thầy tạo một
bộ kinh Pháp Hoa, đăi trai tăng một trăm vị”.
Sư trở về liền chép kinh, trai tăng. Xong việc,
lại đến yết kiến phủ quân. Phủ quân tiếp
đăi như trước, Sư kể lại những ǵ đă
làm. Phủ quân nói: “Sư vừa mới chép xong chữ Diệu
trong tựa đề kinh, vị ấy đă sanh vào chỗ
thù thắng”. Sư hỏi: “Sanh vào nơi đâu?” Phủ quân
nói: “Sanh làm con trai nhà giàu họ Vương ở Tề Quận,
đợi nó tṛn ba tuổi, sẽ có thể đến t́m”.
Ba năm sau, Sư liền t́m đến, nói: “Muốn được
gặp gỡ con trai đàn việt”. Họ Vương cự
tuyệt, nói chẳng có con. Sư bèn kể cặn kẽ lời
phủ quân. Người vợ đang ở trong pḥng, bảo
chồng: “Pháp sư linh cảm dường ấy, có thể
cho gặp mặt”, liền ôm con ra đặt ngoài cũi. Đứa
trẻ vừa thấy Sư, chạy đến nhào vào thầy,
ôm thầy buồn khóc hồi lâu. Cho tới khi nó lớn lên,
mang chí nguyện xuất gia, lại trở về phụng
sự sư Huệ Siêu (theo Linh Thụy Tập).
* Từ
thiền sư ở Kỳ Châu
Vị tăng tên Hiếu Từ
sống ở chùa Từ Môn. Từ bé, Sư đă tin theo Tam
Giai Phật pháp do thiền sư Tín Hành đề xướng,
bèn tu khổ hạnh, thân thường khất thực, mặc
y phấn tảo, sáu thời lễ sám. Hễ trụ nơi
đâu, Sư cũng dùng lời sau đây để giáo hóa người
khác, đề xướng: “Kẻ tụng kinh Đại
Thừa liền vào địa ngục A Tỳ trong mười
phương, hăy mau sám hối”. Một lúc nọ, sau khi Sư
thuyết pháp ở Kỳ Châu, có vị ưu-bà-di tŕ kinh Pháp
Hoa khuyên những người hữu duyên cùng tụng. Sư
nói: “Ngươi tŕ Pháp Hoa, chẳng thích hợp căn cơ,
đáng đọa địa ngục, hăy mau bỏ tụng
đi!” Những người khác đều bỏ tụng.
Vị ưu-bà-di cầm đầu chẳng tức giận,
liền trong ngày đại trai, vạn người tụ hội,
đốt hương, phát thệ rằng: “Nếu tôi tŕ
kinh Pháp Hoa chẳng xứng hợp ư Phật, nguyện thân
nhiễm bệnh ngặt khiến cho đại chúng trông thấy.
Lại nguyện thân này hăm nhập địa ngục ngay
khi c̣n sống. Nếu tôi tŕ kinh Pháp Hoa xứng thuận ư Phật,
nguyện thiền sư liền thọ ngay báo ấy”. [Bà ta] nói xong, Hiếu
Từ liền bị thần đánh, mất tiếng, chẳng
thể nói được. Những kẻ đề xướng,
ghi chép của Sư cũng bị mất tiếng. Trong số
đó, có năm vị lăo thiền sư cũng chẳng thể
nói được. Những người bỏ đọc
tụng do thấy sự báo ứng lạ lùng ấy lại
đọc tụng như trước (theo Tự Kính Lục).
* Sùng pháp
sư ở Tương Châu
Vị tăng Pháp Sùng dốc
chí nơi kinh luận, tinh thông Pháp Hoa nhất, soạn sớ
giải bốn quyển. Sư từng tới Lộc Sơn
ở Tương Châu. Sơn tinh hóa thành phu nhân tới chỗ
ngài Pháp Sùng xin thọ giới. Do vậy, [sơn tinh] bỏ
ngọn núi đang ở để dựng chùa, chẳng mấy
chốc hóa thành cuộc đẹp đẽ ở đất
Tương (theo tục Linh Thụy Tập).
* Hai vị
tăng ở Dương Châu và Kỳ Châu
Đầu niên hiệu Khai Hoàng,
tại Dương Châu có vị tăng tụng thông thạo
kinh Niết Bàn, khoe khoang hạnh nghiệp ấy. Tại Đông
Sơn ở Kỳ Châu có sa-di chỉ tụng phẩm
Phổ Môn. Hai người đều chết bất ngờ,
cùng tới âm ty. Diêm Vương liền mời sa-di ngự
ṭa vàng, tụng kinh mà vị ấy thường tụng, hết
sức trịnh trọng. Lại để vị Tăng
kia ngồi ṭa bạc, tụng kinh Niết Bàn, tâm chẳng tôn
kính cho lắm. Tụng xong, vua hỏi người giữ sổ
sách, rồi bảo: “Hai người đều c̣n tuổi
thọ”, bèn thả về. Vị tăng tụng kinh Niết
Bàn ỷ ḿnh tụng nhiều, tâm rất oán hận, hỏi
trụ xứ của sa- di, nguyện sau này sẽ t́m kiếm. Hai người đă
sống lại, vị tăng tụng kinh Niết Bàn tới
Kỳ Châu, thật sự t́m được sa-di, hỏi
han nguyên do. Sa-di thưa:
“Con tụng phẩm này có áo riêng, chỗ riêng, đốt hương
chú nguyện rồi mới mở miệng [tụng niệm],
hành pháp này chẳng biếng nhác, chứ chẳng có thuật
ǵ khác”. Tăng cảm tạ rằng: “Ta có tội sâu lắm!
Ta tụng kinh Niết Bàn oai nghi chẳng tề chỉnh, thân
và miệng bất tịnh, qua quưt cho xong đó thôi!” Cổ nhân
có nói: “Nhiều mà ác chẳng bằng ít mà lành”, được
chứng nghiệm qua chuyện này. Đấy cũng là tinh
tấn, nhưng chưa phải là Ba La Mật (theo Chỉ
Quán Phụ Hành).
* Thái pháp
sư ở My Châu
Thời Đại Tùy, có vị
tăng tên là Pháp Thái, họ Lữ. Thoạt đầu, Sư làm đạo sĩ đă mười mấy năm,
bỗng chán đạo ấy, hồi tâm về đấng
Đại Giác, qua Tỵ Sơn ở My Châu, theo thầy xuống
tóc, tŕ tụng kinh Pháp Hoa, liền được thông thạo.
Sư c̣n đích thân chép một bộ kinh ấy, có vài điều
linh dị. Do vậy, Sư lo liệu
hai ngàn đồng, mang kinh tới Ích Châu để trang hoàng.
Sư mang kinh tới Tạc Kiều th́ cầu găy, rơi xuống
nước. Tuy người hầu vớt được
Sư, nhưng mất rương đựng áo. Pháp Thái gào
to: “Tiền bạc, vật dụng chẳng quản, sao nỡ
mất kinh? Có ai vớt được, tôi sẽ biếu
hai ngàn đồng”. Khi đó, có người lặn xuống
nước t́m kiếm, chỉ t́m được tiền bạc,
vật dụng. Pháp Thái bèn đi dọc sông t́m kiếm, bỗng
thấy trên cồn băi có một gói vải, nhặt lấy xem
thử, th́ ra là kinh. Kinh được cỏ cây nâng đỡ,
trọn chẳng ướt chỗ nào! Sư bèn đem trang
hoàng, đem về chùa thờ phụng. Thường nghe có
mùi hương lạ ngưng đọng, Sư càng tinh tấn
gấp bội. Mỗi đêm tụng niệm một bộ
là lệ thường. Trong chùa có Bưu pháp sư chuyên giảng
dạy, chiều tối xem đọc [kinh điển], ngại
Pháp Thái tụng kinh gây phiền, muốn ép Sư đọc
nhỏ tiếng. [Bưu pháp sư] đến chỗ Sư,
bỗng thấy trước cửa pḥng Pháp Thái có vô số
vị thần đều quỳ gối, chắp
tay. Bưu pháp sư hổ thẹn, toát mồ hôi, lui về
(theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Cung thượng
nhân ở Thành Đô
Thượng nhân Huệ Cung,
họ ngoài đời là Châu, là người ở phủ Thành
Đô, xuất gia tại chùa Thiệu Đề, kết bạn
với vị tăng Huệ Viễn để siêng năng
học đạo, mong thành pháp khí. Huệ Viễn sang Trường
An nghe giảng Thành Thật Luận rồi trở về quê
giảng dạy, trác tuyệt không ai bằng! Huệ Cung sang
Kinh Dương, tham phỏng học đạo rồi quay
về. Thấm thoát đă ba mươi năm. Đêm hội
ngộ chuyện tṛ, Huệ Viễn nói năng như nước
chảy, Huệ Cung câm lặng, chẳng
đáp được. Huệ Viễn chê cười, Huệ
Cung nói: “Tôi bẩm tánh cực ngu, chẳng hiểu biết
ǵ!” Huệ Viễn hỏi: “Có tụng nổi một kinh nào
chăng?” Huệ Cung đáp: “Biết tụng phẩm Phổ
Môn”. Huệ Viễn vẫn khinh thường. Huệ Cung nói:
“Quyển kinh tuy nhỏ, nhưng do chính miệng đức
Phật tuyên thuyết. Tôi sẽ v́ huynh tụng một lượt”.
Huệ Cung liền trải ṭa tụng niệm. Vừa mới
cất tiếng, liền cảm thấy có mùi hương;
kế đó thấy hoa trời rơi tán loạn, nhạc trời
vang rền. Tụng kinh xong, [các thứ tướng lành] ngưng
dứt. Huệ Viễn làm lễ, tán thán, xin Huệ Cung lưu
lại dạy bảo. Huệ Cung nói: “Chẳng phải là sức
của tôi, mà là sức của chư Phật”. Huệ Cung bèn
giũ áo rời đi, chẳng biết kết cục như
thế nào! (theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Ẩn
thiền sư ở Kinh Châu
Thiền sư Pháp Ẩn trụ
đă lâu ở phía Đông rặng Phúc Thuyền tại Kinh
CHâu, dùng chuyện tụng kinh Pháp Hoa làm hạnh nghiệp của
chính ḿnh. Sư thường hận chưa rảnh để
quán tâm, bèn sang Tùng Tư để hỏi phương cách nơi
thiền sư Pháp Thường, đạt được
lư thú sâu xa. Một hôm, Sư đến từ biệt bạn
cũ là Hồ Quân Nghĩa, nhưng không gặp, bèn đề
trên vách: “Ngày tháng năm đó, tôi sẽ đi xa”. Sau đó,
Sư bỗng nói với chư tăng rằng: “Hôm nay tôi sẽ
ngủ một giấc dài, ngày mai chẳng thức dậy”.
Mọi người chen chúc ngoài cửa xem, thấy Sư nằm
bên hông phải, như ve thoát xác. Xem năm tháng Sư đă đề
trên vách khi trước, không ǵ chẳng phù hợp! (theo Tục
Cao Tăng Truyện).
* Sung pháp
sư ở Lư Sơn
Sư tên là Pháp Sung, con
nhà họ Tất ở Cửu Giang, chán đời xuất
gia, thường tŕ Pháp Hoa và Đại Phẩm rất nhiều
lượt, nhưng chưa ghi nhớ. Sư trụ tại
chùa Hóa Thành ở Lư Sơn, lại tu tập chánh định,
chẳng dính dáng nhân gian, thường khuyên chúng Tăng
chẳng cho người nữ vào chùa: [Nếu cho họ
vào], trên là tổn hại sự giáo hóa của Phật,
dưới là sẽ vướng vào lời đồn thổi
của thế tục. Có kẻ chẳng thuận theo, Pháp
Sung nói: “Chánh giáo chẳng lưu hành, theo nghĩa phải nên
sớm chết, c̣n lo ǵ cơi nước không tuân phụng giới
ư?” Liền ngầm sang đỉnh Hương Lô, gieo
thân cho nát xương, thề sanh Tịnh Độ. Có
người thấy Sư rơi xuống, liền t́m kiếm
th́ thấy ngài Pháp Sung thân thể chẳng bị tổn hại,
tụng kinh như cũ. V́ thế, khẩn khoản mời
Sư về chùa. Tăng cảm động trước
chuyện Sư dùng cái chết để can gián, liền
thôi cho nữ nhân vào chùa. Sáu năm sau, Sư mất, đang
lúc nắng gắt, nhưng thi thể chẳng hư nát,
thơm tho như hoa lan. Đó là chuyện trong niên hiệu
Khai Hoàng (theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Tú thượng
nhân ở Hoàng Châu
Cuối đời Tùy, có vị tăng Huyền Tú, sống tại chùa Tùy Hoa
ở Hoàng Châu, tánh thanh cao, ôn ḥa, thường tụng Pháp
Hoa luôn có tướng lạ, nhưng Sư chẳng cho đó
là lạ. Lúc đó, đang mùa Hạ nắng gắt, bạn
bè sai người hầu tới mời Sư đi hóng mát.
Kẻ hầu đến trước pḥng cửa Sư, bỗng
thấy có người ngựa chen chúc canh giữ, hoảng
sợ quay về. Bạn bè đích thân đến đó, thấy
đúng như vậy, xoay ḿnh đi vào cửa sau, thấy
binh giáp càng nhiều, chật ních không trung, chẳng thể đếm
nổi. Tứ chúng truyền tụng sôi nổi, đều
nói là “thần dị” (theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Sanh pháp
sư ở Tề Châu
Thích Tăng Sanh ở Tề Châu,
tánh thích cô độc. Thoạt đầu, Sư không trụ
một nơi cố định. Chỉ cần là chốn
già lam, chẳng cần biết có Tăng chúng hay không, Sư
liền tạm ở nơi đó, khất thực để
tự sống. Sư tụng kinh Pháp Hoa [tại đó] tṛn một
ngàn bộ liền dời sang nơi khác. Trong niên hiệu Khai
Hoàng, Sư tới chùa Linh Nham tŕ tụng. Một đêm, bỗng
thấy thần nhân mấy chục người phủ phục
lắng nghe. Tăng Sanh hỏi: “Các vị là ai?” Thần thưa:
“Đệ tử là sơn thần, sống ở đây đă
bảy trăm năm. Nay nghe tiếng pháp sư tụng
kinh, đặc biệt tới nghe nhận; xin thầy v́ chúng
con tụng niệm”. Rất lâu sau họ mới rời đi.
Từ đấy, họ thường tới. Kế đó,
Sư sang chùa Pháp Tạng ở Tương Châu để lo
khắc Đại Tạng. Sư thắp đèn trong mắt
để cúng dường Đại Thừa, tụng niệm
không ngừng. Về sau, Sư tịch tại đó (theo Linh
Thụy Tập).
* Lượng
pháp sư ở Tô Châu
Trong niên hiệu Đại Nghiệp,
tại Hổ Khâu có sư Tăng Lượng, mười
hai tuổi xuất gia, học đạo, chỉ tụng Pháp
Hoa. Tụng chưa đầy bốn mươi ngày, đă
thông suốt cả bộ. Sư đi về phương Nam,
đến Cối Kê, đối trước tượng
Tam Sanh[65] ở huyện Diệm
và tháp xá-lợi ở Mậu Sơn, ở mỗi nơi đều
đốt một ngón tay nhằm biểu thị dùng huệ
đăng để cúng dường. Sau đó, Sư quay về
quê cũ, trụ tại chùa Bắc Thiền. Một hôm, Sư
bỗng đ̣i nước nóng để tắm rửa,
từ biệt các đàn việt,
ngồi ngay ngắn, qua đời, cảm mùi
hương lạ đầy pḥng (theo Linh Thụy Tập).
* Hiển
thiền sư nước Bá Tế[66]
Sa-môn Huệ Hiển ở nước
Bá Tế, xuất gia từ bé, có chí lớn, chỉ tụng
kinh Pháp Hoa. Nếu Sư cầu phước
hoặc thỉnh nguyện, không ǵ chẳng như ư. Sư
nghe giảng Tam Luận, liền đến nghe nhận. Pháp
vừa nhiễm vào tâm thức, huệ giải càng tăng.
Thoạt đầu, Sư trụ tại chùa Tu Đức ở
nước ấy, có đại chúng th́ giảng, không có th́
thanh tĩnh tụng niệm. Tứ phương vẳng
nghe đạo phong, đều đến tham yết, xin chỉ
dạy. Sư phiền chán phải đón tiếp, bèn qua núi
Đạt Noa[67]
ở phương Nam. Núi ấy hết sức sâu và hiểm
trở, Huệ Hiển ngồi trong ấy, chuyên tu hành như
cũ, rốt cuộc chết tại đó. Đồng học
đặt thi thể Sư trong hang đá. Cọp ăn sạch
thân thể, chỉ c̣n đầu lâu và lưỡi c̣n lại.
Trải qua ba năm, lưỡi đỏ tươi, mềm
mại hơn trước; về sau biến thành màu tím, cứng
như đá. Đạo tục ngưỡng mộ vô cùng,
dựng tháp để ghi nhớ. Đó là chuyện xảy
ra vào đầu niên hiệu Trinh Quán đời Đường
(theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Hỷ pháp
sư ở Kinh Châu
Vị tăng
Pháp Hỷ sanh trong nhà họ Lư ở Tương
Dương. Bảy tuổi, Sư xuất
gia tại chùa Thanh Khê ở Kinh Châu. Đại chúng trong chùa
hơn bốn mươi người, Pháp Hỷ làm sa di, tu
hạnh Đầu Đà hầu hạ tăng chúng. Ngày th́
nấu nướng, đêm th́ tụng niệm, tu tập.
Trong núi chẳng có dầu, dùng củi để thắp
sáng. Mỗi đêm, Sư tụng một trang kinh. Tuy học
các kinh, Sư chỉ lấy Pháp Hoa làm cốt lơi. Tùy Văn Đế
sắc truyền Sư trụ tại chùa Thiền Định.
Lúc tuổi già, do mong được cảm thông, Sư thề tụng kinh Pháp Hoa một ngàn lượt. Do vậy,
chẳng ở trong pḥng cũ mà đi ṿng quanh nhiễu tháp.
Trong hai oai nghi, thề hành đủ số một vạn tám
trăm hạnh trong bổn nguyện. Tăng chúng trong chùa bỗng
thấy cỗ xe báu thắng ngựa trắng vào pḥng Pháp Hỷ,
t́m th́ chẳng thấy. Đó là chuyện cảm thông vậy!
Về sau, Sư về dưỡng
già tại Lô Lăng. Năm Trinh Quán thứ sáu (632), Sư
nhiễm bệnh, gọi môn nhân đến bảo: “Vô thường
đă tới, chớ chú trọng ồn náo, phiền nhiễu.
Tam giới hư vọng, chỉ là nhất tâm”. Đại
chúng bỗng nghe ở phía Bắc
khu rừng có tiếng âm nhạc và xe cộ văng vẳng;
do vậy, thưa với Pháp Hỷ. Pháp Hỷ nói: “Đă
xả quả báo thế gian, như thế nào lại sanh vào chỗ vui sướng?” Trong khoảnh
khắc, mùi hương lạ đầy thất, Sư ngồi
ngay ngắn mà hóa (theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Thông
pháp sư ở Chung Nam
Vị Tăng tên Hội Thông
là người xứ Ung Châu, từ bé đă ưa thích học
đạo, tánh cương nghị, tiết tháo cao cả. Sư ẩn cư tại Báo Lâm Cốc ở núi
Chung Nam để chuyên dốc sức đọc kinh Pháp Hoa.
Do thấy ngài Dược Vương xả thân, Sư liền
mong phỏng theo, riêng gom góp gỗ củi ḥng thực hiện.
Cuối niên hiệu Trinh Quán, trong đêm thanh, Sư tụng
phẩm Bổn Sự của Bồ Tát, dùng lửa đốt
thân. Khói lửa hừng hực, Sư nghiễm nhiên ngồi
xếp bằng tụng kinh như cũ. Lúc đó, mọi người
bỗng thấy từ phương Tây có luồng sáng trắng
to lớn xuyên vào đống lửa. Thiêu xong, [đại chúng] gom góp di hài, liền dựng
tháp thù thắng để lưu truyền hành trạng bất
hủ của Sư (theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Thông pháp
sư ở Ngưu Đầu
Sa-môn Trí Thông ở Tử Châu,
họ ngoài đời là Trần. Tám tuổi xuất gia, làm
đệ tử của pháp sư Chánh Đạo, chuyên tụng
Pháp Hoa, và dùng kinh ấy để giảng dạy. Sư trụ
trong núi Ngưu Đầu, oai nghi giữ giới, hàng phục
các đạo sĩ. Thường có hai con ngỗng đến
nghe thuyết pháp. Sư giảng hơn trăm lượt,
hai lần phóng quang. Trong niên hiệu Trinh Quán, Sư từ biệt
đại chúng mà mất. Toàn thể nhà cửa, điện
đường trong chùa đều chấn động, biến
thành sắc trắng trong khoảng một bữa ăn (theo
Tục Cao Tăng Truyện).
* Mân pháp
sư ở Tô Châu
Sư húy Huệ Mân, người
xứ Hà Đông. Chín tuổi xuất trần, lại c̣n siêng
tu bạch nghiệp (thiện nghiệp), tụng kinh Pháp
Hoa, sau một tháng liền thông thạo. Mười lăm
tuổi, Sư thỉnh pháp nơi Quang pháp sư ở Tân La, tài hoa bộc
phát, được khen ngợi là túc sĩ (bậc lăo thành
học rộng). Lúc mười lăm tuổi, Sư trở
về chùa Thi Quang Hưng ở Hải Diêm giảng kinh Pháp
Hoa. Mùi hương lạ, tiếng khảy ngón tay nhiều
lượt vang trên không trung. Thính chúng như
mây đùn, đều nói là điềm lành. Sau đó, Sư dời
sang chùa Thông Huyền, kết đồ chúng hành đạo mười
bảy năm, chân không ra khỏi cổng chùa. Cuối đời
Tùy, ly loạn, vùng Ngô Trung đói kém, tứ chúng chạy nạn,
chỉ có ngài Huệ Mân kiên quyết thà chết giữ chùa,
tu Thiền, tụng niệm. Triều đại nhà Đường
mở ra, Sư trụ tại chùa Nam Giản. Hai con thỏ,
một con báo cùng thân cận, ở chung với Sư. Ba ngày
trước khi Sư sắp mất, mùi hương lạ ngập
nhà, toàn thể đại chúng hỏi Sư, Sư đáp: “Ngày
mai ta sẽ ra đi; sanh tử là chuyện thường của
con người. Gởi thân trong cơi đời như mây trôi,
ai nấy hăy nghĩ tới vô thường, sớm cầu
tự độ”. Tới hạn, quả nhiên Sư thuận
theo vô thường mà hóa (Theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Đạt
pháp sư ở Ly Sơn
Trong niên hiệu Trinh Quán, có vị tăng tên Huệ Đạt, sống tại
Tân Lương Tự ở Ly Sơn. Sư dốc
chí tụng kinh Pháp Hoa, tính ra hơn sáu ngàn lượt. Trong
các oai nghi đi, ngồi, tiếng tụng niệm chẳng
dứt. Sư giữ ḷng yêu tiếc sanh mạng của chúng
sanh, một mực nh́n xuống, trên đất nếu có trùng,
bọ, liền xoay ḿnh tránh né. Có người gạn hỏi,
Sư đáp: “Bọn chúng và tôi sanh tử bất định,
đâu có biết ai sẽ thành Chánh Giác trước! Há nên
khinh thường?” Sau này, Sư ngồi xếp bằng qua
đời, người khác cho là Sư đang nhập Định.
Lưu lại năm đêm mới biết Sư đă qua đời
từ lâu. Thân thể lại chẳng
hư thối, bèn chôn luôn cả giường trong hang đá
(theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Tục
thượng nhân ở Ung Châu
Lúc nhà Đường vừa
mở nước, tại huyện Lễ Tuyền ở Ung
Châu có vị Tăng tên Di Tục, từ bé đă tụng
kinh Pháp Hoa trọn mấy ngàn lượt. Một hôm, Sư
nhiễm bệnh sắp mất, liền căn dặn bạn
là Huệ Khoách rằng: “Do đọc tụng, tôi mong điềm
lành ứng hiện để sanh tín tâm cho cơi tục. Sau khi
tôi chết, chôn rồi th́ mười năm sau xin hăy đào
lên. Nếu lưỡi hư hoại th́ biết tôi đọc
tụng chẳng có công hiệu ǵ! Nếu vẫn c̣n, xin hăy
báo với đạo tục xây dựng một tháp để
biểu thị tướng trạng linh ứng”. Nói
xong, qua đời. Về sau, [Huệ Khoách] làm theo lời dặn,
thấy máu thịt của Sư đă tan
hết sạch, chỉ c̣n lưỡi chẳng hư hoại,
bèn đựng lưỡi trong hộp, dựng tháp ở gộp
đá phía Nam Cam Cốc (theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Pháp sư
Cao Tịch thời cổ
Vị tăng Cao Tịch làm
bạn với Nhẫn pháp sư chùa Kiến Sơ, tụng
thông thạo kinh Pháp Hoa, nhưng không tinh tường giới
luật. Một hôm, Sư bệnh sắp mất, Nhẫn pháp
sư hỏi: “Ông chết rồi, sẽ thọ sanh ở đâu?
Xin hăy báo cho biết”. Cao Tịch nói: “Trước nay, tôi thường
cảm khái chuyện ấy. Nếu do thiện ác trong chốn
âm thầm [mà sanh về đâu], chắc chắn sẽ báo
cho ông biết”. Sau đó, Sư mất. Suốt hai năm vẫn
chẳng có tin tức. Tới năm thứ ba, Nhẫn pháp
sư bèn đến nhà Cao Tịch, cùng người nhà trèo lên
núi. Nhẫn pháp sư ngồi một ḿnh, trong lúc mông lung, thấy
Cao Tịch bảo: “Lúc lâm chung đă ước hẹn, muốn
báo tin đă lâu, nhưng v́ sự duyên chẳng thực hiện
được, cho nên đến trễ. Tôi nay làm tiểu
lại ở Thái Sơn, cũng chẳng khổ cho lắm”.
Nhẫn pháp sư hỏi: “Ông b́nh sanh tụng kinh, nghe pháp,
sao lại có quả báo như thế?” Cao Tịch nói: “Do nhờ
đó mà được như vậy. Nếu không, c̣n kém hơn
nữa”. Nói xong ẩn mất. Do vậy, Nhẫn pháp sư
càng thêm tinh tấn (xem ở cuối bản in kinh Pháp Hoa
thời cổ).
* Vị
tăng chùa Ngộ Chân
Trong niên hiệu Trinh Quán, vị
tăng tên là Diên Cán thuộc chùa Ngộ Chân núi Vương Thuận,
ban đêm đi qua Lam Khê, bỗng nghe tiếng tụng kinh
Pháp Hoa. Âm thanh ấy tuy nhỏ nhưng vang xa. Lúc đó, trăng
sao đă mờ, ngó bốn
phía mấy chục dặm không có ai. Vị tăng nghiêng tai
nghe kỹ, rồi vội trở về, t́m bạn đến
cùng t́m kiếm. Họ nhận thấy âm thanh ấy từ
trong đất vang ra, bèn đánh dấu chỗ ấy. Tới
sáng hôm sau đào lên, từ trong đất vùi, t́m được
một chiếc đầu lâu, màu sắc đă khô xỉn,
chỉ riêng môi và lưỡi tươi nhuận. Sư liền
mang về, dùng hộp đá đựng, cất bên hông đại
điện. Từ đó, mỗi đêm thường nghe tiếng
tụng kinh Pháp Hoa. Nam nữ ở Trường An kéo nhau đến
xem. Trong niên hiệu Khai Nguyên, bỗng bị vị Tăng xứ
Tân La lấy trộm hộp ấy đem đi. Tăng chúng
trong chùa đuổi theo th́ ông ta đă về tới Hải
Quốc (Đại Hàn) rồi (theo Thái B́nh Quảng Kư).
* Vị
tăng chùa Huyền Pháp
Tại phường An Ấp
ở Trường An có chùa Huyền Pháp, vốn là nhà cũ
của người trong làng là Trương Tần. Trương Tần từng cúng dường
một vị Tăng. Vị tăng ấy chuyên niệm
kinh Pháp Hoa cả mười mấy năm. Đồ đệ
của Tần bỗng vu cáo vị Tăng ấy thông dâm với
một đứa hầu gái, lại
c̣n do chuyện khác mà giết chết Sư. Sau đó, trong nhà ấy nghe
tiếng tụng kinh Pháp Hoa chẳng ngớt suốt ngày đêm.
Trương Tần biết sư bị oan, thẹn hối
chẳng kịp. V́ thế, đổi nhà thành chùa (theo Thái
B́nh Quảng Kư).
* Vị
tăng chùa Trĩ Sơn
Ở ngoài thành Quế Phủ,
cách Giang Đông năm dặm có chùa Trĩ Sơn. Thoạt đầu,
có một vị Tăng dựng am nơi đây, hằng ngày
tụng kinh Pháp Hoa, lại c̣n có thể giảng nói. Bỗng
có một con trĩ thường đến xếp cánh lắng
nghe. Hết quyển thứ năm, trĩ chẳng đến
nữa! Tám năm sau, nhà dân dưới chân núi sanh ra một
đứa con trai. Đứa bé mới tám tuổi, chẳng
ăn mặn, chẳng đùa giỡn, kiên quyết muốn
xuất gia với vị Tăng ấy. Cha mẹ cho nó đi
tu. Một hôm, Sư tắm rửa, bảo nó chà lưng giùm.
Nó nhất quyết không chịu cởi áo. Sư hỏi, nó đáp:
“Con đời trước chính là chim trĩ. Do nghe Sư giảng
kinh, tụng niệm mà được quả báo làm người.
Nay dưới nách vẫn c̣n lông chim trĩ. V́ thế chẳng
cởi áo”. Do vậy, Sư dạy nó năm quyển đầu
của kinh ấy, giống như nó đă quen học tập
từ trước. Hai quyển sau nó chẳng thể học.
Từ đó, núi ấy dùng chim trĩ để gọi tên. Do
có núi bèn dựng chùa, chùa đến nay hăy c̣n (theo Giới
Sát Loại).
* Thông pháp
sư ở Dương Châu
Vị tăng tên Trí Thông trụ
tại chùa Bạch Mă ở Dương Châu, chuyên tu tập
Tam Luận, rồi qua sông, trụ tại chùa An Lạc. Gặp
lúc nhà Tùy mất nước, Sư nghĩ cách quay về chẳng
được, bèn núp trong lau lách bên sông, tụng kinh Pháp Hoa.
Suốt bảy ngày Sư chẳng
đói, luôn có bốn con cọp đi tuần chung quanh. Trí Thông
nói: “Ta đă mười ngày không ăn, mạng chỉ trong
hơi thở, ngươi có thể ăn thịt ta”. Hổ
thốt ra tiếng người: “Tạo
trời lập đất, chẳng có lẽ ấy!”
Bỗng thấy có một ông cụ kẹp nách một chiếc
thuyền nhỏ tới nói: “Sư muốn vượt sông
th́ lên thuyền”. Bốn con hổ nh́n thấy bèn ứa lệ.
Huệ Thông nói: “Giữ ǵn trong lúc nguy ngập, cứu nạn
chính là lúc này”. Bèn cùng bốn con hổ lên thuyền, thuận
lợi vượt sang bờ Nam. Thuyền cập bờ, thuyền
và ông cụ bỗng chẳng
thấy đâu nữa! Trí Thông dẫn bốn con hổ nghỉ
tại phía Tây tháp Tây Hà, kinh hành, thiền tụng, thề không
ngủ. Đồ chúng theo Sư tám mươi mấy người.
Nếu có chuyện hung hiểm, hổ sẽ rống to. Do
vậy, mọi người sẽ cảnh giác. Tới giữa
niên hiệu Trinh Quán, lúc Sư đă chín mươi chín tuổi,
trong ngày Phật Đản, Sư đốt ḷ hương,
lễ khắp các vị thánh tăng, trở về tĩnh
thất, ngồi đoan nghiêm qua đời (theo Tục Cao
Tăng Truyện).
* Hưởng
pháp sư ở Thê Hà
Pháp Hưởng người
xứ Dương Châu, thân cao tám thước. Cốt cách, bộ
dáng khôi ngô. Mười sáu tuổi xuất gia, Sư tu tập siêng khổ, tụng thông suốt kinh Pháp Hoa,
coi đó là đức nghiệp. Đến già, Sư sang chùa
Tây Hà, lập thêm Pháp Hoa Đường để hành Pháp
Hoa tam-muội của tổ Trí Giả. Tinh tấn suốt
hai mươi mốt ngày, thu được điềm lành
linh nghiệm to lớn. Sư nhận biết, nhưng chẳng
nói. Có một thuở nọ, cọp xâm hại nhân dân suốt
mấy chục ngày. Đạo tục thiết đại
trai cầu giải nạn, hổ bỗng xông vào chỗ hành
lễ, quắp một
người mang đi. Sư đuổi
theo sau, kêu nó đứng lại: “Sao lại lỗ măng vậy?
Nay đang cử hành trai đàn, hăy thả người ra”.
Hổ liền thả người ấy. Sau đó, các con hổ
đều kéo đến. Sư dùng trượng gơ đầu
hổ, giảng thuyết chánh pháp. Từ đấy, chúng chẳng
c̣n làm hại nữa! (theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Thành pháp
sư ở Chung Nam
Vị tăng tên Pháp Thành ở
Ung Châu, từ bé đă dĩnh ngộ khác thường. Sư
xuất gia tại chùa Lam Điền, theo hầu ngài Tăng
Hoằng. Tăng Hoằng cũng là một vị tăng thần
dị. Pháp Thành vâng lời thầy răn, tụng kinh Pháp
Hoa, lấy đó làm bạch nghiệp. Lại hành tŕ Pháp Hoa
tam-muội, từng mộng thấy đức Phổ Hiền
khuyên biên chép đại giáo. Sư liền cậy người
chép tám bộ Bát Nhă, lại chép kinh Hoa Nghiêm, cảm chim có màu
lạ nhảy múa nơi án chép kinh. Sư chép kinh Hoa Nghiêm ở
nơi đất trống, do có chuyện phải đi, chưa
kịp thu dọn. Mưa to trút tầm tă. Tới khi trở
về, án chép kinh vẫn c̣n nguyên đó, các thứ khác đều
bị cuốn trôi. Tới giữa niên hiệu Trinh Quán, Sư
ngă bệnh, có chí nguyện sanh lên trời Đâu Suất, bèn
nói: “Nay có đồng tử đến đón, ta đi đây”.
Nói xong, miệng phóng quang minh, mùi hương lạ đầy
thất, điềm nhiên ngồi qua đời. Sư tụng
kinh Pháp Hoa mỗi kỳ kết Hạ năm trăm lần,
những lúc khác th́ tŕ kèm thêm, vẫn được hai lượt.
Nếu như gặp khách đến mà chưa tụng xong bộ kinh, sẽ chẳng nói chuyện
chi khác. Tính đại lược trong mười năm, số
các bộ kinh được tụng phải hơn một
vạn (theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Diễm
pháp sư ở Tô Châu
Sa-môn Trí Diễm đời Đường
là con nhà họ Châu ở Ngô Quận. Mẹ Sư họ Trương, nằm mộng thấy lên ngồi
trên tướng luân[68]
của tháp chùa Thông Huyền, bèn sanh ra Sư. Tám tuổi, Sư
xuất gia, phong cách kiên cường, tài hoa, tài năng khác vời.
Mười hai tuổi, Sư đọc trôi chảy kinh Pháp
Hoa, ai nấy đều gọi là “thần đồng”. Tới
khi chính thức xuống tóc (thọ Cụ Túc Giới), Sư
liền ra ngoài (du phương tham học) để nghe giảng,
thông huệ khai phát. Sau đó, Sư ẩn cư tại núi
Vũ Khâu ở Tô Châu. Ngoài lúc giảng giải, tu luyện,
Sư đều tu Phổ Hiền Sám, tụng kinh Pháp Hoa, tính
ra ba ngàn bộ. Ḷ hương chưa đốt, tự tỏa
khói thơm tho. B́nh chứa nước để dùng vào ban
tối mới cạn, đă ngầm tràn đầy nước,
dường như có các đồng tử cơi trời hầu
hạ vậy. Sư lại hành ba thứ Tịnh nghiệp,
tu tập mười sáu phép Quán mầu nhiệm (các phép Quán
trong Quán Kinh), từng dẫn dắt hơn năm trăm người.
Mỗi tháng, Sư tổ chức trai hội giảng kinh, trải
hơn mười năm, thệ nguyện giống hệt
như Lư Sơn, nào có khác ǵ? Trước sau, Sư giảng
Pháp Hoa và Duy Ma mỗi kinh đều ba mươi lượt.
Giảng Quán Kinh một trăm lần. Tới khi gần mất,
Sư răn nhắc, khích lệ học tṛ, thản nhiên qua
đời (Theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Tạng
pháp sư ở Việt Châu
Pháp sư Cát Tạng người
xứ Kim Lăng, bảy tuổi xuất gia, nương cậy
pháp sư Hưng Hoàng Lăng. Đối với những chỗ
quyết nghi, Sư khéo thông đạt lẽ uyên áo. Do sang
chơi Bách Việt, Sư ngụ tại chùa Gia Tường,
giảng kinh, diễn giáo. Người
hỏi đạo kéo đến như mây. Tùy Dượng Đế
khâm phục, sắc truyền Sư trụ tại chùa Nhật
Nghiêm. Khi đó, đại chúng ưa thích, tôn sùng diệu
kinh, Sư liền v́ họ phân tích. Bốn bộ chúng nghe
tiếng, cầu thỉnh muôn cách. Sư từng chép hai ngàn
bộ kinh Pháp Hoa, tạo hai mươi lăm bức tượng.
Lại dựng Phổ Hiền Đường, cung kính đối
trước thánh tượng tọa Thiền, tụng niệm.
Tới thời Vũ Tắc Thiên đời Đường,
do khâm kính đức hạnh của Sư, xuống chiếu
mời Sư trụ tŕ chùa Diên Hưng. Khi đó, Sư tuổi
đă cao, bệnh phát ra, triều đ́nh ban tặng thuốc
thang. Ngài Cát Tạng biết sắp thọ chung, soạn bộ
luận Tử Bất Bố (chết chẳng sợ hăi). Nội
dung đại lược như sau: “Tử do
sanh mà có, hăy nên sợ sanh. Nếu ta chẳng sanh, do đâu mà
có tử?” Viết xong, bỗng vào lúc sáng sớm, Sư tắm gội, thay áo, thắp hương, niệm Phật,
an nhiên ngồi qua đời. Sư giảng Pháp Hoa hơn một
trăm lượt, lại c̣n giảng Đại Phẩm,
Đại Luận, Hoa Nghiêm, Duy Ma, mỗi kinh đều
mười lượt, lại c̣n viết sớ giải lưu
hành trong cơi đời (theo Tục Cao Tăng Truyện).
* Bạt
pháp sư ở Tương Châu
Vị tăng ở Tương
Dương là Trí Bạt, con nhà họ Trương, sáu tuổi
xuất gia tại chùa Thường Tế trong quận ấy.
Hằng ngày, Sư tụng năm trang kinh Pháp Hoa. Đối
với nghĩa lư trong kinh, áng chừng có chỗ nắm vững,
bèn nói: “Kinh này chính là đại sự xuất thế to
lớn của chư Phật. Một người đắc
đạo, chẳng hoằng dương sẽ không được!”
Sư thề suốt đời nương tựa, hành tŕ
để khai hóa cho kẻ tục nhân mông muội được
nghe hiểu trọn vẹn. Sư vâng mạng lệnh của
pháp sư Cát Tạng ở kinh đô trần thuật lại,
Trí Bạt nói: “Nhất Thừa là mây, bèn chia thành ba. Cũng
có thể là Nhất Thừa tuôn mưa, chia thành ba [trận mưa]
hay không?” Đại chúng chẳng đáp được.
Ngài Cát Tạng nói: “Câu hỏi này của ông Bạt đă thấu
đạt sâu xa ư chỉ của kinh!” Ngài bèn phó chúc đại
pháp [cho Trí Bạt]. Về sau, Sư trụ tại chùa Kỳ
Xà, thường giảng Pháp Hoa, mỗi năm giảng năm
lần. Một hôm, Sư bỗng cáo biệt đại
chúng, mọi người đều chẳng lường được
ư Sư. Sư liền ngồi xếp bằng mà hóa (Theo Tục
Cao Tăng Truyện).
* Huưnh pháp
sư ở Biện Châu
Sư tên là Công Huưnh, họ ngoài
đời là Biên. Sáu tuổi xin theo Phật, mẹ lấy
làm lạ, dạy truyền miệng kinh Quán Âm, Sư liền
thuộc ngay. Mười sáu tuổi, Sư được
thỏa chí. Do vậy, vào Thái Sơn, theo hầu
Hoằng pháp sư. Công Huưnh nói: “Khoanh tay ngồi yên trong núi
rừng chính là đường lối tốt lành cho riêng ḿnh,
c̣n như duy tŕ những đường lối khác, chẳng
dùng cách giáo hóa khuyên dụ sẽ chẳng thể được!”
Sư bèn đi về phương Nam tham học, trụ tại
chùa Huệ Phước nơi đất Biện (Khai Phong, tỉnh Hà Nam), chuyên dùng
Pháp Hoa làm công khóa trọng yếu, soạn năm quyển sớ.
thường giảng diễn trong trấn. Mỗi lần Sư
giảng đến phẩm Dược Thảo Dụ, trời
ắt đổ mưa, mọi người đều lấy
làm lạ. Sư giảng kinh Pháp Hoa từ đầu đến
cuối, tính ra năm mươi lần, c̣n giảng giải
các kinh khác, chưa dễ nêu trọn. Về sau, Sư mất
tại chùa ấy. Trước hôm Sư mất, có mùi hương
lạ và quang minh. Ngài Công Huưnh trông thấy, bèn nói: “Nguyện
nương theo điềm lành này sanh về Tịnh Độ”.
Nước trong cái giếng Sư uống, lúc Sư mất
bỗng khô cạn. Tống táng xong xuôi mấy hôm sau, nước
mới lại đầy tràn như cũ (theo Tục Cao
Tăng Truyện).
* Chứng
pháp sư ở kinh đô
Ông nội của pháp sư
Trí Chứng chính là vua Minh Đế nhà Tiêu Lương[69].
Sư trụ tại chùa Đại Trang Nghiêm ở kinh đô,
coi nhẹ địa vị, vinh hoa, ưa chuộng đạo
nghiệp. Gia đ́nh Sư nhiều đời thờ Phật,
đặc biệt tôn sùng kinh Pháp Hoa. Người trên kẻ
dưới trong họ đều kiền thành tụng niệm.
Sư từng soạn sớ giải cho kinh, ngầm thâu thập
lời phê chú của mấy vị [cổ đức chú giải
trước đó], in hằn trong tâm tưởng. Soạn xong,
vua bảo người trong họ dâng lên vua Đường.
Sư thường tự diễn giảng, hoằng dương.
Cha của Sư giữ chức Thái Phủ Khanh[70],
tâm chuộng thiện pháp, từ trẻ tới già, tụng
trọn một vạn lượt. Lại sai người
sao chép, tính ra hơn một ngàn bộ. Mỗi ngày vào chầu
vua, ắt sai kẻ hầu bưng kinh đi trước. Hễ
công việc rảnh rỗi đôi chút, ông liền đọc
tụng. Bạn đồng triều ngưỡng mộ,
coi là tuyệt luân. Kể từ Phật pháp truyền sang phương
Đông, họ Tiêu quả thật là gương mẫu cho
thiên hạ về hành tŕ Pháp Hoa (theo Tăng Truyền Truyện)
Vị quan trong cơi tục là Tiêu
Tử Lương đă tạo một ngàn bộ kinh Pháp
Hoa. Ông mộng thấy một người tặng cho một
bộ kinh, nói có chỗ sai lầm, tức là trong phẩm Thọ
Lượng thuộc quyển thứ năm thiếu mất
câu “nhất trần nhất kiếp” (mỗi vi trần
là một kiếp), đó chính là chỗ cốt lơi tột bậc
của Pháp Hoa. Do vậy, ông ghi thêm câu đó, bèn cảm điềm
lành có chim sẻ trắng bay lượn (Chuyện này trích
từ bài văn chú giải bài Linh Thụy Phú của thiền
sư Diên Thọ. Ông Tiêu Tử Lương ắt là quan Thái
Phủ Khanh [cha của pháp sư Trí Chứng]; do vậy chép
thêm vào đây).
* An pháp
sư ở Trường Sa
Vị Tăng tên Pháp An trụ
tại chùa Kiến Nguyên, nghe Sủng pháp sư giảng giải,
thông đạt rộng răi các lẽ huyền diệu trọng
yếu. Sư lại quanh năm tụng Pháp Hoa, giảng giải
bốn mươi lần. Bốn góc giảng ṭa bỗng
sanh một bụi hoa, có mười mấy nhánh. Trắng vàng
xen kẽ, cao năm sáu tấc, h́nh dạng giống như
hoa sen, thơm tho, tỏa sáng chói ngời. Có kẻ nghi là do khí
hậu nóng ẩm mà trổ hoa. Lại qua mấy ngày sau, ở
bên giảng sàng (chỗ pháp sư ngồi giảng) và chỗ
ngồi của đại chúng đều sanh tám chín cành hoa,
[hoa nở] suốt một tháng mới héo tàn. Đạo tục
xúm lại xem, đều nói là điềm lành do giảng
kinh. Về sau, Sư mất tại Trường Sa (theo Linh
Thụy Tập).
* Hướng
pháp sư ở Giang Đô
Vị tăng Huệ Hướng
họ Lưu, thường tụng kinh Pháp Hoa, kiêm giảng
giải nghĩa sâu. Về sau, Sư tới Giang Đô ở
Hoài Dương, trụ tại thôn Cố Đ́nh, mọi người
thỉnh Sư giảng kinh này. Khi đó, Sư đă một
trăm lẻ một tuổi, dáng vẻ vẫn tráng kiện,
bỗng bảo đại chúng: “Tôi phải đi rồi”.
Nói xong, Sư chắp tay ngồi ngay ngắn, qua đời. Họ
liền chôn Sư ở Đồng Sơn. Về sau, tiều
phu thường nghe tiếng tụng kinh ở chỗ chôn Sư.
Một hôm, quan Tư Mă Triệu Nguyên Khác đi qua đó, thấy
một đóa hoa sen, kinh ngạc hỏi han. Người trong
thôn thưa đó là mộ của
Hướng pháp sư. Nguyên Khác sai thuộc hạ đào lên,
thấy một khối xương trắng, nhưng lưỡi
vẫn nghiễm nhiên đỏ tươi. Rễ sen sanh từ
cái lưỡi đó. Trông thấy tướng lành linh dị
ấy, châu quận dâng sớ. Vua sắc truyền dựng
tháp để tôn sùng, kính phụng tại đó (theo Linh
Thụy Tập).
* Pháp
sư Bảo Thông
Ngài Bảo Thông phạm hạnh
tu tập chuyên ṛng, quanh năm tụng phẩm Đà La Ni của
kinh Pháp Hoa, khá có linh dị. Khi đó, trong thôn Dương Kiều, có người họ Triệu, vợ bị thần ám,
mời Bảo Thông đến tŕ chú. Bảo Thông tới nơi,
thần liền hiện h́nh. Bảo Thông nói: “Thần ở
trong thôn, lẽ ra phải nên tạo phước, sao lại
ngược ngạo ám người?” Thần thưa: “Đây
chẳng phải là do đệ tử làm, mà lũ tiểu quỷ
thuộc hạ gây ra”. Bèn gọi tiểu quỷ tới trước
mặt trách phạt. Do vậy, vợ họ Triệu lành bệnh.
Sau đó, vợ họ Triệu lại phát bệnh, ca ngâm
suốt ngày! Họ lại đến báo với ngài Bảo
Thông. Bảo Thông lại đến nơi, thấy con quỷ đă
từng bị quở trách ở trước
giường bệnh. Bảo
Thông nói: “Trước kia đă từng răn trị, sao ngươi
lại tái phạm? Nếu ngươi không đi, ta sẽ
tụng chú khiến cho đầu ngươi nứt thành bảy
miếng như cành cây A Lê”. Quỷ bèn khấu đầu
xin Sư thương xót. Từ đó trở đi, bệnh
khỏi hẳn, quỷ chẳng c̣n tới nữa (theo Linh
Thụy Tập).
* Nghi thiền
sư ở Tô Châu
Thiền sư Tăng Nghi trụ
tại chùa Khai Nguyên ở Tô Châu. Tại đại Phật
điện, Sư bỗng thấy một phụ nữ ôm
con tới thưa với Sư: “Con tôi mắc bệnh, xin Sư
tụng một bộ kinh Pháp Hoa”. Thiền sư vừa tụng
xong, liền có một người áo đỏ, đeo gươm
tới lễ bái, thưa: “Hôm trước, vợ tôi
v́ con bị bệnh, nhờ thầy tụng kinh, nay đă lành
bệnh, đặc biệt đến cảm tạ. Nghe nói
Sư xây đại điện, kính dùng mười ngàn đồng
để góp sức. Đệ tử là Hứa tướng
quân”. Sư hỏi: “Ông ở nơi đâu?” Họ Hứa nói:
“Ở sau nhà của Sư”. Nói xong, chẳng thấy đâu
nữa. Sư sai người đào đất t́m kiếm,
thấy một bộ hài cốt, có bội kiếm đặt
ngang thân. Mọi người đều than lạ. Sư làm
lễ cúng, an táng (theo Linh Thụy Tập).
* Chiếu
sư ở Biện Châu
Vị tăng Thần Chiếu
là người Biện Châu. Lúc Sư chín tuổi, gặp thời
ly loạn, quyến thuộc chết sạch, chỉ c̣n Sư
và mẹ bơ vơ, không nơi nương tựa. Không lâu
sau, mẹ chết. Sư bèn nương theo Minh Trí luật sư xuất gia. Phàm những ǵ được
nghe giảng giải một lượt, Sư đều
chẳng quên. Sư chỉ lấy tụng kinh Pháp Hoa làm đức
nghiệp. Sư lại nuôi một con chó, đi đâu nó cũng
đi theo. Tới khi Sư ngă bệnh, chó tru suốt đêm,
mọi người chẳng biết v́ lẽ ǵ. Tới khi
Sư đă tịch, họ mới hiểu điềm báo của
con chó. Tới khi an táng, chó phủ phục, khóc ṛng, bỏ ăn
mà chết (theo Tục Linh Thụy Tập).
* Trang pháp
sư ở Kinh Châu
Trong niên hiệu Cảnh Long[71]
đời Đường, có vị tăng tên Huyền
Trang[72],
người xứ Giang Lăng. Nhập đạo từ bé,
Sư thông hiểu rộng răi Đại Thừa và Tiểu
Thừa. Sư thông hiểu kinh Pháp Hoa nhất, coi như tánh
mạng. Suốt năm mươi năm, mỗi ngày tụng
bảy lượt. Sư từng tụng ra tiếng trong tĩnh
thất, cảm thiên nhân giáng hạ lắng nghe. Khi Sư thiết
trai, giảng giải, điềm lành lũ lượt. Hiếu
Ḥa Đế[73]
coi trọng đức hạnh của Sư, thiết trai để
Sư giảng giải tại Lâm Quang Điện. Huyền
Trang dâng biểu xin hồi hương, vua xuống chiếu
ban cho ngự thi, trăm quan cùng họa vận. Xem chi tiết
trong Đại Tống Cao Tăng Truyện.
* Triệt
thiền sư ở Giáng Châu
Thiền sư Pháp Triệt, người
Giáng Châu. Từ bé đă cần mẫn, thông thuộc kinh Pháp
Hoa, thường coi đó là hạnh nghiệp để
khuyên dụ, giáo hóa hết thảy. Sư lập điện
đường tại Tây Hà thuộc Cô Sơn, sáng lập
già-lam. Chỗ ấy vốn chẳng có nước, một
hôm, đất sụt xuống, gịng suối trong tuôn ra. V́
thế, thứ sử Tần Châu là Pḥng Nhân Dụ đích thân
xin vua ban biển đề tên chùa, dùng ngay chữ Hăm Tuyền
làm tên. Sư c̣n khéo tŕ chú, có nhiều ứng nghiệm. Tháng
Hai năm Vĩnh Huy thứ hai (651) đời Đường
[thuộc triều vua Đường Cao Tông], Sư biết
ḿnh sắp chết, căn dặn đồ chúng, rồi ngồi
thẳng qua đời. Khi đó, sắc trời quang đăng,
mưa hoa như tuyết, thơm ngát nhưng không tan. Cành lá
cây cỏ đều có màu trắng như bột, [hiện
tướng ấy kéo dài] tṛn đôi ba ngày rồi mới biến
mất. Sư mất đă ba năm, thân vẫn ngồi yên,
bất hoại. Công hạnh của Sư đúng là khó nghĩ
bàn (theo Linh Thụy Tập).
* Nghĩa
pháp sư ở Sơn Âm
Thích Đại Nghĩa là con
nhà họ Từ ở Sơn Âm, sanh ra đă sáng láng hơn người.
Lên bảy tuổi, cha dạy đọc sách, mỗi ngày Sư
nhớ mấy ngàn câu. Mười hai tuổi, Sư đi tu tại chùa Linh
Ẩn ở Sơn Âm. Kinh giáo hễ đọc rồi đều
thông thuộc, mọi người đều kính sợ. Nhằm
lúc Đường Trung Tông kế vị, ban ân cho mở giới
đàn thế độ tăng chúng. Sư thi đậu hạng
nhất trong cuộc khảo hạch về kinh Pháp Hoa. Từ đấy,
Sư tu tập, nghe kinh, hoằng dương xiển hóa tại
chùa Xứng Tâm. Trong niên hiệu Khai Nguyên[74],
Sư chôn cha mẹ; do vậy, vào Phật Lũng ở Thiên
Thai đọc Đại Tạng ḥng báo ân cù lao. Sư yết
kiến ngài Tả Khê, theo học Chỉ Quán, siêu nhiên ngộ
tâm. Để hoàn tất đại sự, Sư b́nh sanh tụng
Pháp Hoa và Niết Bàn, giữ giới Đại Tiểu Thừa
làm hạnh nghiệp. Lúc Sư mất, đại chúng đều
nghe trên hư không có tiếng tấu nhạc cơi trời (theo
Đại Tống Cao Tăng Truyện).
* Tu pháp
sư ở Thiên Thai
Pháp sư Quảng Tu họ ngoài
đời là Lưu, người xứ Đông Dương.
Bẩm tánh kiên nghị, thông sáng hơn người. Khi trưởng
thành, Sư nương cậy tổ mười bốn của
tông Thiên Thai là Thúy pháp sư, đạt được hết
truyền thừa của thầy. Người học chen
nhau theo hầu, lắm phen chật ních
ngoài cửa. Sư hằng ngày tụng kinh Pháp Hoa, Duy Ma, và Kim
Quang Minh v.v… sáu thời hành đạo. Tuổi già càng thêm vững
chí. Mỗi năm, Sư tu sám hối
bốn mươi chín ngày. Đó chính là môn thứ tư tức
Tùy Tự Ư tam-muội trong Chỉ Quán. Sau đó, Sư truyền
trao Tam Quán cho môn nhân và tín chúng tại gia. Trong niên hiệu Hội
Xương[75], Sư mất tại
chùa Thiền Lâm, di quan sang kim địa nơi Phật Lũng.
Đệ tử là Lương Vấn tạo mộ phần,
hỏa táng, thâu được hơn một ngàn viên xá-lợi,
bèn dựng tháp để thờ (theo Đại Tống Cao
Tăng Truyện).
* Đoan
Pháp Hoa ở Minh Châu
Theo Đại Tống Cao
Tăng Truyện ghi chép, vị tăng Toại Đoan, họ
ngoài đời là Trương, chẳng biết quê quán. Sư
xin xuất gia tại chùa Đức Nhuận. Chùa ấy chính
là Hám Trạch Thư Đường của quan Ngô Thái Phó
(tức là chùa Đông Phổ Tế tại Từ Khê hiện
thời). Sư là người chất trực, thanh cao, thuần
hậu, chẳng giao du bừa băi. Được thầy
truyền dạy kinh Pháp Hoa, Sư tụng đọc như
đă quen từ trước, mọi người đều
kinh hăi, tán thán. Trong mười hai thời, miệng niệm
chẳng bỏ sót. Tới già vẫn chẳng lười
nhác. Năm Hàm Thông thứ hai (861) đời Đường
[Ư Tông], sau khi ngồi xếp bằng, Sư thanh thản, an
định qua đời. Trong khoảnh khắc, miệng
sanh ra bảy đóa sen xanh, tinh khiết, thơm tho ngào ngạt.
Xa gần chen nhau đến xem. Do vậy, [môn đệ] tạo
khám, chôn Sư dưới chân núi Đông Sơn.
Suốt hai mươi mấy năm, trong tháp nhiều lượt
hiện quang minh. Tới khi mở tháp ra xem, h́nh chất hệt
như c̣n sống, lại rước về chùa, đắp
sơn để ǵn giữ. Đến nay, chân thân Ngài vẫn c̣n đó (nghe nói lại).
Đối với chuyện
bảy cành hoa sen, tôi từng hỏi ḍ bậc kỳ túc, họ
đều nói “Trước đó vẫn c̣n, sau loạn Kiến
Viêm[76]
mới bị mất”. Nhưng chân thân của Sư c̣n đó,
cổ điện oai nghiêm, tiên hiền đều kính sợ.
Có người làm thơ để lưu truyền đức
hạnh của Ngài. Trương Ngang làm thơ rằng: “Tăng
sử danh văn tại, vân khám hương hỏa thâm. Thử
thân phi cố vật, bất hoại bổn tùng tâm. Môn tĩnh
hồ sơn bích, đ́nh hàn cối bá âm. Hậu nhân hoàn khả
kế, chân giáo quyển hoàng kim” (Danh lừng trong tăng
sử, khám mây hương lửa dày, thân chẳng phải vật
cũ, chẳng hoại tâm thuở đầu. Cửa tĩnh,
núi hồ biếc, sân lạnh rợp bóng tùng. Người
đời sau kế tục, chân giáo quư tựa vàng). Vị
tăng Bảo Xung đề thơ rằng: “Kinh tích tụng
bạch liên, Thần di kỷ bách niên, sắc thân di thử địa.
Chân tánh tại hà thiên? Hồ nguyệt doanh hoàn khuyết,
nham hoa lạc phục nghiên. Duy sư công đức cốt,
đoan tọa nhược an Thiền” (Đă tụng
kinh sen từ thuở trước, tinh thần truyền lại
mấy trăm năm? Sắc thân để lại nơi này
nhỉ, chân tánh tầng trời nào ngự đây? Trăng
in mặt hồ tṛn rồi khuyết, gành đá hoa rơi, bông
lại đơm. Chỉ có xương sư ngời công đức,
đoan tọa an vui trong lẽ Thiền) (hai bài thơ ấy
được khắc vào đá).
* Tố pháp
sư ở Kinh Triệu
Vị tăng Thủ Tố bản
tánh cao cả, bén nhạy tuyệt luân. Sư trụ tại
chùa Đại Hưng Thiện ở kinh đô, luôn lấy
việc tụng niệm, hành tŕ làm chuyện quan trọng nhất.
Sư không bước chân ra khỏi cổng chùa suốt ba
mươi năm, tụng kinh Pháp Hoa ba vạn bảy ngàn bộ.
Hằng đêm, thường có con lửng
chó (raccoon) đi vây quanh nghe kinh. Khi Sư thọ trai, sẽ
có chim quạ đậu trên tay mổ thức ăn. Trong niên
hiệu Trường Khánh (821-825) đời Đường,
có vị tăng là U Huyền đề tặng rằng: “Tam
vạn liên kinh tam thập xuân, bán sanh bất đạp viện
môn trần” (ba vạn kinh sen ba mươi xuân, nửa đời
chẳng dính bụi ngoài sơn môn), quả thật là câu thơ
hay đáng sao lục (Theo Đại Tống Tăng Truyện).
* Tam Bạch
ḥa thượng ở Gia Ḥa
Sư tên là Nguyên Huệ, là hậu
duệ của quan B́nh Nguyên Nội Sử Lục Cơ đời
Tấn. Thuở c̣n để chỏm, Sư đă dĩnh ngộ,
trưởng thành th́ ôn nhuận. Sau khi xuất trần, thọ
giới, Sư vào Ngũ Đài Sơn chiêm lễ thánh tích.
Trở về, Sư an cư tại chùa Kiến Hưng, lập
chí “tŕ tam bạch” (giữ ba thứ trắng). Trong niên
hiệu Hội Xương[77]
gặp nạn [triều
đ́nh] sa thải [tăng
sĩ]. Đến đời Đường Tuyên Tông, Sư
lại dự vào gịng pháp. Trong niên hiệu Hàm Thông (860-874), Sư
đưa xá-lợi xương Phật sang Phượng Tường,
đốt ngón cái bên trái, miệng tụng kinh Pháp Hoa, ngón cái
bèn mọc lại. B́nh sanh, Sư tụng kinh Pháp Hoa chẳng đếm nổi
số. “Tam bạch” là cơm trắng, nước
trắng, muối trắng. Thân lại chẳng c̣n đụng
chạm, miệng tụng chân kinh, ư chẳng duyên theo hư
vọng. Ba điều ấy minh bạch, cho nên có danh hiệu
đẹp đẽ ấy. V́ thế, người đất
Ngô gọi Sư là Tam Bạch ḥa thượng (theo Đại
Tống Tăng Truyện).
* Sở pháp
sư ở Ôn Châu
Thích Hồng Sở đời
Đường, người xứ Vĩnh Gia. Hồng Sở
và anh em khí độ rộng răi, đều chuộng thoát tục.
Song thân cũng bằng ḷng, anh em giúp đỡ lẫn nhau,
thẳng thừng tụng tŕ, tu tập kinh Pháp Hoa. Khi đó,
chùa Đại Vân hoang vu, bỏ phế, Đường Chiêu
Tông sắc truyền trùng tu, Sư trông coi cho hoàn thành. Lương
Thái Tổ (Châu Ôn) ban y tía và phong hiệu, Sư từ tạ
chẳng nhận. Khi đó, Trịnh Thuyết tặng thơ
rằng: “Giá thượng tử y nhàn bất trước,
án đầu kim tự tọa trường khan” (Chẳng
màng y tía phơi trên giá, chữ vàng trên án chẳng
buồn nh́n). Sư bản tánh rộng răi, từ bi, mặt không có
sắc giận, mắt chẳng ngó xéo, chẳng thốt lời
hư vọng. Sư giảng kinh Pháp Hoa tới năm mươi
lượt. Có lúc, giảng đường bỗng sanh một
đóa hoa sen, đài to, cánh kép, tỏa hương thơm ngát.
Mọi người đua nhau khen lạ. Sư c̣n trích máu
chép một bộ kinh này, cho đến nay vùng Vĩnh Gia coi
là của báu truyền đời (Theo Đại Tống
Tăng Truyện).
* Cử pháp
sư ở Việt Châu
Vị tăng Hồng Cử
chính là anh của sư Hồng Sở [vừa nói trên đây].
Sư xuất gia tại chùa Long Cung ở đất Việt,
tinh thông kinh Pháp Hoa. Do vậy, đắc độ. Về
sau, Sư qua Trường An học Tỳ Ni. Do đọc
chữ ở bia chùa Hóa Độ, mắt mới lướt
qua hai hàng, có vị Cử Nhân trông thấy, yêu cầu Sư
đọc lại, [Sư đọc lại] chẳng sai một
chữ. Sư có trí nhớ mạnh mẽ dường
ấy. Sư ngày đêm tụng kinh, thường thấy quỷ
thần phù trợ, hộ vệ, hoặc v́ Sư thêm hương,
thêm đèn. Tới niên hiệu Trường Hưng nhà Lư Đường[78],
Sư không bệnh, ngồi mất. [Đệ tử đặt
Sư vào trong khám], cho tới canh ba, Sư gơ tay vào cửa khám
nói: “Do thiện hữu ở cơi Phật hiềm ta ăn mặc
bất tịnh, cho nên chuyển về [để thay đổi]”.
Thay đổi [y phục] xong, Sư lại ngồi ra đi.
Đến ngày thứ bảy, đỉnh đầu Sư
vẫn c̣n ấm. Sau khi an táng, thường có một con hổ
nhiễu quanh tháp kêu gào (theo Đại Tống Tăng Truyện).
* Hối
pháp sư ở Đông Kinh
Thích Trinh Hối, họ Bao, người
Ngô Quận. Mười ba tuổi, xuất gia tại chùa
Long Hưng, giữ tánh trầm tĩnh, tranh giành từng giây
phút để tu tập, [cho nên] qua khỏi một năm, Sư
đă tụng lưu loát kinh Pháp Hoa, dùng đó làm thường
nghiệp. Mỗi ngày, Sư tụng trọn hai bộ. Mười
chín tuổi, xuống tóc. Từ đấy, quanh vùng Y Lạc[79],
hễ chỗ nào có giảng pháp, không đâu Sư chẳng
tới nghe. Trong niên hiệu Thiên Hựu (904-907) đời Đường,
Sư tới trú ngụ tại chùa Tướng Quốc ở
kinh đô, giảng kinh Pháp Hoa khoảng mười lượt,
nhưng người ta chưa quy hướng, kính trọng.
Sư biết là “bán hàng hóa lạ lùng” cũng phải có thời
cơ. Sau đó, Sư gặp thủ lănh Tống Châu là ông Khổng
ngưỡng mộ cao hạnh của Sư, bèn bỏ ra bổng
lộc dựng điện đường để Sư
giảng Pháp Hoa quanh năm tại Tây Tháp Viện. Từ đấy
bèn ứng cơ.
Sư lại giở xem Đại
Tạng để mở rộng tri kiến. Phàm là ngôn từ
của bách gia chư tử trong sách vở thế gian, Sư
chẳng ngó tới, răn môn nhân rằng: “Các thuyết dị
đoan khiến cho chân tâm của
ta bị ch́m
đắm rối loạn, cần ǵ phải học tập?
Ta chỉ nguyện sư tử hống, trọn chẳng làm
chó rừng gào rú!” Về sau, khi sắp mất,
Sư tự chuẩn bị nước
nóng tắm gội, thay áo sạch sẽ, ngâm xướng
phẩm Thượng Sanh, lễ Phật. Sư bỗng hướng
vọng hư không, thưa: “Nhọc công thánh chúng xếp
hàng trên không tới đón”. Đồ đệ, bạn
lữ khi đó đều nghe tiếng nhạc trời. Trong
khoảnh khắc, Sư qua đời (theo Đại Tống
Cao Tăng Truyện).
* Vị
tăng chùa Thanh Y ở Đàm Châu
Tại ngơ Bắc trên đường
phố tại cửa Đàm Châu có chùa Thanh Y. Xưa kia, có vị
Tăng đă quên mất tên, tụng kinh Pháp Hoa tại nơi
đây, thường đạt được linh dị, cơi
đời chẳng thể lưu truyền cặn kẽ.
Có lúc, cảm vời hai đồng tử mặc áo xanh tới
phụng dưỡng. Sau khi Sư mất, được
an táng, bỗng trên mộ sanh hai đóa hoa sen. Đào lên xem
th́ ra hoa sen mọc từ lưỡi. Khi đó, châu quận
ghi lại chuyện đó, tŕnh tấu triều đ́nh. Do vậy,
vua ban cho tấm biển đề tên là “chùa Thanh Y”, dựng
chùa tại đó (theo Linh Thụy Tập).
* Kinh đề
trên vách đá tại chùa Cô Sơn ở Hàng Châu
Chùa Cô Sơn ở Tây Hồ
tại Hàng Châu. Vách đá khắc kinh Pháp Hoa ở trong chùa.
Thoạt đầu vào năm Nguyên Ḥa 12 (817), khi Nghiêm Hưu
Phục làm Thứ Sử, vị tăng tên Huệ Minh đă
bắt đầu có cái tâm thực hiện, hoàn tất vào năm
Trường Khánh thứ tư (824), khi Bạch Cư Dị
làm Thứ Sử. Vách khắc kinh theo chiều dọc là sáu
thước năm tấc, theo chiều ngang là năm mươi
bảy thước sáu tấc. Tiền chuyển vận do
Nghiêm Hưu Phục, Bạch Cư Dị, thứ sử Hồ
Châu Thôi Huyền Lượng, thứ sử Mục Châu Vi Văn
Khác, thứ sử Xử Châu Vi Công Lập, thứ sử Cù
Châu Trương Duật, thứ sử Tô Châu Lư Lượng,
thứ sử Việt Châu Nguyên Chẩn, thứ sử Xử
Châu Trần Hỗ [cùng đóng góp]. Thứ sử Bạch xin
tôi đề văn. Tôi thấy sở dĩ vị Tăng
mưu tính cho khắc kinh lên đá, cho đề văn lên bia,
là v́ muốn cho chẳng hư hoại. Nay văn đă khắc
trên bia, kinh đă khắc trên đá, lại là chuyện do chín
vị chư hầu xướng suất, cúng tiền. Nói gần
th́ cũng đáng gọi là do biểu lộ sự tôn sùng
khác thường mà thành chuyện bất hủ. Nói xa xôi, th́
chẳng biết có phần mấy vạn năm, bị trời
đất cùng chèn ép, bị âm dương cùng nung nấu, bị
lửa gió cùng tàn phá, tên gọi và h́nh hài đều diệt,
bốn biển chín châu đều là một hạt vi trần
trong cơi thái hư, sao biết là bất hủ được
chăng? Do suy nghĩ như thế th́ [xét ra] mưu tính của
vị Tăng cũng ổn vậy. Ngự Sử Nguyên Chẩn
ghi (theo Đường Văn Túy).
* Kinh khắc
trên vách đá tại Pháp Hoa Viện ở Tô Châu
Trong Pháp Hoa Viện chùa Trọng
Huyền ở Tô Châu, dùng vách đá để khắc kinh đạo
Phật. Khai thị ngộ nhập tri kiến của chư
Phật, dùng liễu nghĩa độ vô biên, dùng Viên Giáo phổ
độ vô cùng, không ǵ tôn quư bằng kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Chứng Vô Sanh Nhẫn, tạo Bất Nhị môn, trụ giải
thoát chẳng thể nghĩ bàn, không ǵ tột bậc bằng
kinh Duy Ma Cật. Tiếp độ tứ sanh cửu loại
nhập Vô Dư Niết Bàn, nhưng thật sự chẳng
độ, không ǵ hơn kinh Kim Cang Bát Nhă. Diệt tội,
gom phước, tịnh hóa hết thảy đường
ác, không ǵ nhanh chóng bằng kinh Phật Đảnh Tôn Thắng.
Ứng niệm thuận nguyện, sanh vào cơi Cực Lạc,
không ǵ nhanh chóng bằng kinh A Di Đà. Nêu rơ chánh quán Thật
Tướng, không ǵ hơn kinh Phổ Hiền Quán. Diễn
nói tự tánh, chấp nhận Bổn Giác, không ǵ sâu bằng
kinh Thật Tướng Pháp Mật. Rỗng tuếch pháp trần,
nương vào vô trí, không ǵ bằng Bát Nhă Tâm Kinh. Tám loại
kinh ấy trọn đủ mười hai bộ loại,
hợp thành mười một vạn sáu ngàn tám trăm
năm mươi bảy chữ, bao gồm ư chỉ trọng
yếu của tam thừa, trọn hết tạng bí mật
của chư Phật.
Vách đá ấy gồm bốn
tầng, cao một tầm (tám thước), dài mười
lăm trượng, dày một thước
tám tấc. Có hoa sen bằng đá che phủ trên dưới,
có thần bằng đá tạc để bảo vệ trước
sau. Nước chẳng thể nhấn ch́m, lửa chẳng
thể đốt cháy, gió chẳng thể thổi nát. Đó
gọi là “thí pháp vô thượng cho đến hết đời
vị lai”. Vách đá khắc kinh ấy được làm
vào năm Trường Khánh thứ hai (822) đời Đường,
hoàn thành vào năm Đại Ḥa thứ ba (829), sa-môn Thanh Hoảng
vạch ra kế hoạch, tăng Khế Nguyên viết chữ,
quan Đô Thủ Bạch Cư Dị ban lời ca tụng (trích
từ Bạch Thị Trường Khánh Tập).
* Kinh sen
tại chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai
Tôi vừa đến Thiên
Thai lễ tổ tháp. Tới chùa Quốc Thanh, nghe nói người
coi kho cất giữ các di vật lạ; do vậy, kèo nài
cho xem. Vị ấy đem ra rất nhiều vật, nay nêu
đại lược bốn món:
- Một là khám chứa tượng
thờ bằng tử đàn hương, cao chừng một
thước. Trong ấy, điêu khắc tám tướng thánh
dung của Thích Ca Như Lai như tướng giáng sanh v.v… Khám
thờ gồm hơn bảy trăm h́nh tượng, tinh xảo
thần diệu, thật sự khó nghĩ tưởng. Đấy
là tổ Trí Giả khi truyền Bồ Tát Giới cho Tùy Dượng
Đế đă được ban tặng.
- Hai là bộ kinh Pháp Hoa bằng
chữ vàng do tổ Trí Giả chép tay. Toàn bộ bản kinh
bút pháp thuần túy, khác nào do trời tạo ra. Đấy là
khi tổ chúng ta vâng chiếu của Trần Tuyên Đế
mà viết ở Kim Lăng.
- Ba là Tâm Kinh viết trên lá bối
tại Thiên Trúc. Vào triều đại Đại Tùy, một
vị Phạm tăng đă mang đến tặng cho tổ
Trí Giả.
- Bốn là kinh Pháp Hoa viết
bằng chữ vàng do Tiền Việt Vương chép, vi diệu,
tinh xảo, mẫu mực. Phía sau đề: “Ngô Việt
quốc vương Tiền Thục kính chép”. [Các bản
trân quư của] kinh này [tại chùa Quốc Thanh] gồm hai mươi
bộ, bộ kinh ấy là một trong hai mươi bộ
đó. Nay lại thấy Thọ thiền sư dâng bài Pháp
Hoa Kinh Linh Thụy Phú [lên Ngô Việt Vương], Tiền
Việt Vương soạn văn tán dương. Do đó,
vua truyền lệnh dùng vàng để chép một trăm bộ
kinh Diệu Pháp Liên Hoa, [đó là] chuyện thù thắng tột
bậc lắm thay! Xét ra, từ xưa đế vương
lưu truyền Phật giáo cố nhiên là nhiều, nhưng
chưa hề nghe [có vua chúa nào] biên chép siêng năng như thế.
Ấy là v́ [nhà vua] chẳng phụ trong hội Linh Sơn [được
đức Phật] phó chúc mà đặc biệt đến
Chấn Đán làm đầu mối quy y cho quần sanh vậy! Tông Hiểu
do sưu tập, biên soạn đă xong, đối với
chuyện đă được thấy khi trước cứ
canh cánh trong ḷng, nguyện khiến cho người chưa
nghe sẽ được nghe, bèn nâng bút ghi lại.
Pháp Hoa Kinh Hiển Ứng Lục, quyển
thượng hết
[1] Tông Hiểu (1151-1214) là một vị
cao Tăng thời Nam Tống, quê ở
Tứ Minh (nay là huyện Ngân, tỉnh Chiết Giang). Sư có pháp tự
là Đạt Tiên, hiệu là Thạch Chi. Sư thọ Cụ
Túc Giới lúc
mười tám tuổi,
theo học với các vị Cụ Am Cường và Vân Am Hồng.
Sư từng làm trụ tŕ chùa Thúy La tại Tứ Minh rồi
ẩn cư tại Tây Sơn, chuyên tụng kinh Pháp Hoa. Về
sau, Sư trụ tại chùa Diên Khánh, ngoài việc giảng
diễn, Sư dốc sức biên soạn Pháp Hoa Kinh Hiển
Ứng Lục, Lạc Bang Văn Loại, Minh Lương
Sùng Thích Chí, Lạc Bang Di Cảo, Tứ Minh Giáo Hạnh Lục,
Tam Giáo Xuất Hưng Tụng Chú, Bảo Vân Chấn Tổ
Tập, Kim Quang Minh Chiếu Giải, Thí Thực Thông Lăm,
Minh Giáo Biên v.v… Sư từng trích máu chép kinh Pháp Hoa, dùng mực
chép các bộ Hoa Nghiêm, Bảo Tích, Bát Nhă, Niết Bàn… Sư
từng bỏ tiền đào giếng tại Thành Nam, đặt
tên là Pháp Hoa Tuyền, lập đ́nh nghỉ chân cho khách lữ
hành, thí trà nước.
[2] Gia Hựu là niên hiệu thứ chín
và là niên hiệu cuối cùng của Tống Nhân Tông (Triệu
Trinh) sử dụng từ năm 1056 đến năm 1063.
[3] Đại Quán là niên hiệu của
Tống Huy Tông (Triệu Cát) từ năm 1107 đến
năm 1110.
[4] Do các vị Đẳng Giác Bồ
Tát đă gần với địa vị Diệu Giác nên gọi
là “á thánh”.
[5] Khánh Nguyên là niên hiệu của Tống
Ninh Tông (Triệu Khoách) nhà Nam Tống từ năm 1195 đến
năm 1200.
[6] Nhục Chi,
c̣n đọc là Nguyện Thị là một sắc dân sống
trên vùng thảo nguyên thuộc địa phận tỉnh
Cam Túc của Trung Hoa hiện thời vào thế kỷ thứ
nhất. Sau khi bị người Hung Nô đánh bại, họ
tách thành hai nhóm:
- Đại
Nhục Chi di cư tới vùng thung lũng Ili (phía Bắc
Thiên Sơn, thuộc biên giới giữa Kazakhstan và Trung Hoa).
Sau đó, họ bị người Ô Tôn (Wusun) đánh đuổi,
phải di cư đến Khang Cư (Sogdia), cuối cùng
đến lănh thổ Đại Hạ (Bactria). Trong thế
kỷ thứ nhất, một bộ tộc của Đại
Nhục Chi là Quư Sương (Kushana) trở thành hùng mạnh
nhất, lập nên vương triều Quư Sương có
lănh thổ chiếm trọn vùng trũng Tarim và vùng đồng
bằng giữa sông Pataliputra và sông Hằng. Vương triều
này đóng vai tṛ quan trọng trong việc truyền bá Phật
giáo vào Trung Hoa. Một vài bộ lạc của họ đă
di cư đến tận vùng biên giới giữa Tajikistan
và Uzbekistan hiện thời.
- Tiểu Nhục
Chi di cư về phương Nam đến giáp vùng biên giới
Tây Tạng. Một nhóm nhỏ của nhánh này ḥa nhập vào
tộc người Yết ở Sơn Tây (người Yết
sau này lập ra nhà Hậu Triệu).
[7] Vĩnh Khang là niên hiệu của Tấn
Huệ Đế (Tư Mă Trung) từ năm 300 đến
năm 301.
[8] Chi Độn, tức ngài Chi Đạo
Lâm (314-366). Sư vốn họ Quan, tên là Độn, quê ở
Trần Lưu tỉnh Hà Nam, nhưng theo gia đ́nh xuống
Giang Nam từ bé. Do Sư theo học
đạo với một vị Tăng xứ Nhục Chi,
bèn đổi họ là Chi, pháp hiệu là Đạo Lâm.
[9] Quan Trung (關中) là vùng đồng
bằng nằm ở trung bộ tỉnh Thiểm Tây, ở
dưới chân núi Tần Lănh. Vùng này thời cổ đất
đai trù phú, là một trung tâm kinh tế quan trọng từ
đời Tần đến đời Đường. V́
để vào vùng này vào thời Chiến Quốc, phải
đi qua bốn cửa ải, tức Đại Tán Quan ở
phía Tây, Hàm Cốc Quan ở phía Đông, Vũ Quan ở phía
Nam, và Tiêu Quan ở phía Bắc, nên gọi là Quan Trung (ở
trong các cửa ải). Kinh đô Trường An (thành phố
Tây An hiện thời) chính là kinh đô của nhiều triều
đại (Tây Châu, Tần, Tây Hán, Tân, Tây Tấn, Tiền Tần,
Hậu Tần, Tây Ngụy, Bắc Châu, Tùy, Đường).
[10] “Phận dă” (分野) là một khái niệm quan trọng
trong thiên văn học cổ của người Hán. Họ chia
các ngôi sao trên bầu trời (thật ra, họ chỉ quan tâm hai mươi tám cḥm sao, tức Nhị
Thập Bát Tú) thành từng khu vực tương ứng với
châu quốc của Trung Hoa. Họ căn cứ vào
đường dịch chuyển của Tuế Tinh (Mộc
Tinh) trong suốt một năm (đường di chuyển
ấy được gọi là “hoàng đạo”), mà chia hoàng đạo thành mười hai cung hoàng đạo (c̣n gọi là Thập
Nhị Thứ), tức Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Tu Tứ, Giáng Lâu, Đại
Lương, Thật Thẩm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa,
Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, và Tích Mộc.
Chẳng hạn Tinh Kỷ ứng với hai cḥm sao Đẩu,
Ngưu (tương với cḥm sao Ma Yết (Scorpion, ḅ cạp) trong tử
vi phương Tây) và khu vực Ngô, Dương Châu của
Trung Hoa. Khi nào có sao “lạ” (tức các ngôi sao chưa biết
đến trước đó, hoặc các ngôi sao không thuộc
một phận dă nào đó), hoặc các lưu tinh bỗng di chuyển
vào một phận dă khác, quan Thái Sử hoặc vị đứng
đầu Khâm Thiên Giám sẽ bói toán để xem điềm
cát hung, hoặc xem vùng đất đó có loạn lạc
hay điềm bất tường nào hay không.
[11] Đời Tần - Hán, do kinh đô đặt
tại Trường An thuộc tỉnh Thiểm Tây, cho nên
vùng đất ở ngoài ải Hàm Cốc th́ gọi là Quan
Ngoại (關外). Từ đời Đường
trở đi, vùng đất ngoài ải Nhạn Môn Quan th́ gọi
là Quan Ngoại. Lữ Quang chiếm đóng vùng đất ở
phía Tây tỉnh Thiểm Tây và Cam Túc.
[12] Cỏ Xỉ (茝) theo sách cổ
là một loại cỏ thơm. Hiện thời, các nhà nghiên
cứu cho rằng đây là tên gọi khác của loài dược
thảo Bạch Chỉ (白芷), rễ
được dùng làm thuốc, có tác dụng chữa phong
thấp, trừ mủ, giải cảm v.v…
[13] Lữ Long là con trai của Lữ Bảo
(em trai Lữ Quang). Khi đó, Lữ Quang chết, em trai của
Lữ Long là Lữ Siêu không phục Lữ Toản (con trai của
Lữ Quang), dấy loạn giết chết Lữ Toản,
ủng hộ Lữ Long lên ngôi vua nhà Hậu Lương. Lữ
Long làm vua chưa đầy hai năm th́ bị Diêu Hưng
nhà Diêu Tần công phạt, nhà Hậu Lương diệt
vong.
[14] Tấn Thư là bộ sử chép về
lịch sử nhà Tấn từ thời Tư Mă Ư cho đến
năm Nguyên Hy thứ hai (420) đời Tấn Cung Đế,
Lưu Dụ phế Tấn Đế, lập ra nhà Lưu
Tống. Bộ sử này do hai mươi mốt người
cầm đầu bởi Pḥng Huyền Linh, vâng lệnh Đường Thái
Tông biên soạn cho đến năm Trinh Quán 22 (648) mới
hoàn thành, gồm 130 quyển.
[15] Bộ sách này có tên gọi là Đạo
Tuyên Luật Sư Cảm Thông Lục, c̣n gọi là Đạo
Tuyên Luật Sư Cảm Thiên Thị Truyện (truyện
ngài Đạo Tuyên luật sư cảm vị trời hầu
hạ), hoặc c̣n gọi là Luật Tướng Cảm
Thông Truyện. Trong ấy có chép nhiều cuộc vấn
đáp giữa ngài Đạo Tuyên (tổ Nam Sơn Luật
Tông) và vị trời ấy về các sự tướng trong
Luật Tông.
[16] Ngài Đạo Sanh họ Ngụy,
quê ở Cự Lộc, do nương theo ngài Trúc Pháp Thải
xuất gia nên đổi họ là Trúc. Sau này theo Huệ Duệ,
Huệ Nghiêm sang Trường An, mới trở
thành đồ chúng của
pháp sư La Thập. Sư trước tác Nhị Đế
Luận, Phật Tánh Thường Hữu Luận, Pháp Thân
Vô Sắc Luận, Phật Vô Sanh Tịnh Độ Luận
v.v… có những ư nghĩa độc đáo vượt
trước thời đại, nên bị kẻ thủ cựu chấp chặt
văn tự phê phán nặng nề. Nhất là khi Sư
đọc bản Nê Hoàn Kinh sáu quyển, liền đề
xướng “Xiển Đề cũng có thể thành Phật”
liền bị quy kết là tà ngụy, phản giáo. Sư phải náu ḿnh tại Hổ Khâu. Sư giảng kinh cho
đá nghe, hỏi: “Nếu tôi giảng kinh đúng ư Phật,
đá hăy gật đầu”. Quả nhiên đá gật đầu.
Măi cho đến khi kinh Niết Bàn được dịch
đủ, mọi người mới khâm phục kiến
giải lỗi lạc của Sư.
[17] Bắc Tề
(Cao Tề, Hậu Tề) là một triều đại do
người Tiên Ty sáng lập vào thời Nam Bắc Triều,
tồn tại từ năm 550 tới năm 577, do Văn
Tuyên Đế (Cao Dương) vốn là quyền thần
nhà Đông Ngụy soán ngôi nhà Đông Ngụy lập ra. Kinh
đô là Nghiệp Thành (nay là huyện Lâm Chương, tỉnh
Hà Bắc). Nhà Bắc Tề truyền được sáu
đời rồi bị Bắc Châu Vũ Đế (Vũ
Văn Ung) diệt quốc.
[18] Trần Tuyên Đế (530-582) tên thật
là Trần Húc, là hoàng đế thứ tư của nhà Trần
thuộc Nam Triều thời Nam Bắc Triều. Ông
được coi là một vị vua có tài năng và siêng
năng coi sóc việc nước.
[19] Đúng ra, tên Ngài phải đọc
là Trí Nghĩ (智顗), nhưng từ trước đến
nay sách vở quen ghi tên ngài là Trí Khải (có lẽ do lầm
lẫn giữa chữ Khải (覬) và Nghĩ - 顗), cho nên chúng tôi vẫn tuân theo cách đọc này.
[20] Trần Khởi Tổ từng giữ
chức Sứ Tŕ Tiết Tán Kỵ Thường Thị,
nên thường gọi là quan Thường Thị.
[21] Theo cổ chế, Tăng sĩ
đi khất thực hoặc du hóa cầm theo tích trượng,
gọi là “chấn tích”. Do vậy, “chấn tích” ở
đây có nghĩa là Sư dời sang hành đạo tại
Kim Lăng (Nam Kinh).
[22] Khai Hoàng là niên hiệu của Tùy
Văn Đế (Dương Kiên) từ năm 581 đến
năm 600, lúc này Tùy Dượng Đế (Dương Quảng)
c̣n đang là hoàng tử, với tước hiệu là Tấn
Vương. Do Dương
Quảng c̣n là phiên vương
(chư hầu làm phên dậu của hoàng đế), cho nên
nói là “cư phiên”.
[23] Nguyên văn “xuyết cân, đoạn
huyền”. Đây là thành ngữ ngụ ư đă thôi làm ǵ
đó. Câu này dựa theo một câu nói trong truyện
Dương Hùng sách Hán Thư: “Chung Kỳ tử, Bá Nha
đoạn huyền, nhi bất khẳng dữ chúng cổ.
Quỳ nhân vong, tắc tượng thạch xuyết cân, nhi bất cảm vọng trác” (Chung Kỳ chết, Bá Nha cắt
đứt dây đàn, chẳng chịu khảy đàn cho mọi
người. Thợ nề khéo chết, thợ đá phá búa
chẳng dám đẽo bừa băi).
[24] “Sông treo” (Huyền Hà) c̣n gọi
là Địa Thượng Hà tức là ḷng sông cao hơn mặt
đất chung quanh. Vùng hạ lưu sông Hoàng thuộc
địa phận tỉnh Hà Nam và Sơn Đông có hơn
800 km ḷng sông cao hơn mặt đất chung quanh khiến
nước sông đổ ra biển cuồn cuộn rất
hùng mănh.
[25] Thị Lang là
chức quan được lập ra từ thời Hán, vốn
đầu tiên là chức quan cận thần của hoàng
đế. Về sau, do guồng máy hành chính cồng kềnh,
Thị Lang được phái làm phụ tá cho các Thượng
Thư. Lúc mới được bổ vào Thượng
Thư Tỉnh, quan viên được gọi là Lang Trung,
tṛn một năm thành Thượng Thư Lang, tối thiểu
ba năm mới được bổ làm Thị Lang. Thị
Lang tương đương với phó bộ trưởng
(thứ trưởng) hiện thời.
[26] Càn Phong là niên hiệu của
Đường Cao Tông (Lư Trị) từ năm 666 đến
năm 668. Trước sau, Đường Cao Tông sử dụng
14 niên hiệu khác nhau trong thời gian nhà vua trị v́.
[27] Sư trước tác chú giải Tứ
Phần Luật khá nhiều bộ, chẳng hạn như
Tứ Phần Luật Xan Phiền Bổ Khuyết Hành Sự
Sao, Tứ Phần Luật Xan Bổ Tùy Cơ Yết Ma Sớ,
Tứ Phần Luật Tỳ Kheo Hàm Chú Giới Bổn Sớ,
Tứ Phần Luật Tỳ Ni Sao v.v…
[28] Uất Tŕ Kính Tông là em trai của Uất
Tŕ Kính Đức. Uất Tŕ là một bộ tộc lớn
thuộc lớp quư tộc của người Tiên Ty tại
nước Vu Điền thời cổ. Họ vốn là người Tắc,
tức Tư Cơ Thái (Sycthians). Sau khi vào Trung Nguyên, họ trở thành một
bộ tộc hùng mạnh của người Tiên Ty, lập
nhiều chiến công dưới thời Bắc Ngụy,
trở thành một trong tám bộ tộc khai quốc công thần
của nhà Bắc Ngụy. Uất Tŕ có nghĩa là “người chinh phục”, hoặc “người thắng
lợi”. Do nỗ lực Hán hóa của nhà Bắc Ngụy,
người trong bộ tộc đều lấy chữ Uất
Tŕ làm họ.
[29] Chú giải kinh luận chỉ chú trọng
giáo nghĩa chánh yếu hoặc pháp môn chủ chốt trong một bộ kinh th́ gọi là “tông kinh”, phán
định kinh luận và giải thích từng câu th́ gọi
là “thích kinh”.
[30] Sơn Âm thuộc Việt Châu (nay là
huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang).
[31] Tức là được thọ
đại giới (Cụ Túc Giới) trước khi đủ
mười tám tuổi.
[32] Tổ sống
qua các đời vua nhà Đường: Huyền Tông
(Đường Minh Hoàng tức Lư Long Cơ), Túc Tông (Lư
Hanh), Đại Tông (Lư Dự), Đức Tông (Lư Quát), Thuận
Tông (Lư Tụng), Hiến Tông (Lư Thuần), Mục Tông (Lư Hằng),
Kính Tông (Lư Đam), Văn Tông (Lư Ngang). Kể từ thời
Đường Đại Tông, ngài được tôn làm Quốc
Sư nên nói là “thầy của bảy hoàng đế”.
[33] Cờ tiết là biểu hiện của
sứ giả. Theo truyền thuyết cổ đại, sứ
giả của Thiên Đế hoặc thần tiên bậc
cao sẽ cầm cờ tiết màu đỏ.
[34] Đại Nghiệp là niên hiệu
của Tùy Dượng Đế (Dương Quảng) từ
năm 605 đến năm 618.
[35] Trong lịch
sử có tám người được phong Vĩnh
Dương Vương, chuyện này lại không ghi rơ niên
hiệu, chỉ nói Sư là đệ tử tổ Trí Giả,
mà tổ sống vào đời Trần, như vậy có lẽ
Vĩnh Dương Vương là Trần Bá Trí, tự Sách
Chi, là con trai thứ mười hai của Trần Thế Tố
(Trần Thiến). Ông này là người tính t́nh đôn hậu,
học rộng, từng giữ các chức Thị Trung, Tả
Sứ, Tán Kỵ Thường Thị. Về sau làm Thượng
Thư Tả Bộc Xạ, kiêm chức Tư Nghiệp Quốc
Tử Giám.
[36] Bầy tôi gởi sớ hoặc
công văn để tâu tŕnh lên vua th́ gọi là ‘dâng biểu’.
[37] Châu Sán vốn là quan huyện thời
Tùy, về sau làm phản, quy tụ loạn dân tới mười
vạn người, đem quân chiếm đất vùng Hồ
Bắc, An Huy, Thiểm Tây, Tứ Xuyên, giết chóc vô số.
Hắn từng xưng là Sở Vương, lập ra
nước Sở. Nhưng khi thiếu lương, hắn và thuộc
hạ đă tàn nhẫn
ăn thịt người. Hắn từng đầu hàng
nhà Đường, được Đường Cao Tổ
Lư Uyên phong làm Sở Vương rồi lại phản
Đường, chạy theo Vương Thế Sung chống
Đường. Cuối cùng bị Đường
vương Lư Thế Dân (tức Đường Thái Tông sau
này) giết chết.
[38] Trọng Do, tên tự là Tử Lộ,
c̣n gọi là Quư Lộ, người đất Biện,
nước Lỗ, là đệ tử trứ danh của Khổng
Tử, được xếp vào hàng Thập Triết
(mười môn sinh đắc ư nhất của Khổng Tử).
Ông là người theo học với Khổng Tử sớm
nhất. Ông nổi tiếng với chuyện đi rất
xa đội gạo về nuôi cha mẹ. Có khi quá túng quẫn,
phải hái rau lê, rau hoắc cho cha mẹ đỡ ḷng. Về
sau, ông ra làm thuộc hạ của đại phu nước
Vệ là Khổng Khôi, đă khá giả th́ cha mẹ không c̣n
nữa. Ông thường đau xót, than thở. Trong tác phẩm Nhị
Thập Tứ Hiếu, cụ Lư Văn Phức đă viết như sau: “Thầy
Tử Lộ cũng người nước Lỗ, thờ
hai thân từng bữa canh lê. Thường khi đội gạo
đi về, xa xôi trăm dặm, nặng nề hai vai.
Đỉnh hoa biểu từ khơi bóng hạc, gót nam du nhẹ
bước tang bồng. Xe trăm cỗ, thóc muôn chung. Ngồi
chồng đệm ghép, ăn chồng vạc cao. Thân phú
quư ngắm vào thêm tủi, đức cù lao chạnh tới
ḷng đau. Nào khi đội gạo, canh rau. Muốn c̣n
như cũ, dễ hầu được chăng?”
[39] Nhạc Dương điện hạ
chính là Tiêu Sát, ông là con trai của Chiêu Minh thái tử (Tiêu Thống),
tức là cháu nội của Lương Vũ Đế. Về
sau, Tiêu Sát trở thành Lương Tuyên Đế.
[40] Giang Đông là từ ngữ chỉ
chung nằm ở phía Đông Trường Giang (sông
Dương Tử) tại Hoa Nam. Vùng này c̣n gọi là Giang Tả,
hoặc Giang Biểu. Do đời Đường lập
ra khu hành chính Giang Nam Đông Đạo thuộc địa
phận Giang Đông, nên về sau vùng này c̣n gọi là Giang
Nam, bao gồm khu vực phía Nam tỉnh An Huy, phía Nam Tô Châu,
Giang Tây. Từ ngữ này đôi khi hiểu theo nghĩa phiếm
chỉ là vùng đất phía Nam Trường Giang giáp biển.
[41] Thiên Ḥa là niên hiệu của Châu
Vũ Đế (Vũ Văn Ung) nhà Bắc
Châu từ năm 566 đến năm 572.
[42] Bức tượng
này chẳng phải là tượng khắc hay vẽ của
Đào Khản, mà là tượng Văn Thù Bồ Tát. Nguyên lai, Đào Khản là một
danh tướng đời Tây Tấn. Khi ông làm thứ sử
Quảng Châu, có ngư dân đến báo: Gần bờ biển, đến tối
thường có ánh sáng chiếu lên. Đào Khản liền
sai người t́m kiếm, rốt cuộc t́m được
một bức tượng Bồ Tát kim sắc, trên lưng
đề “tượng Văn Thù Sư Lợi do vua A Dục
tạo”. Đào Khản liền thỉnh về thờ tại
chùa Hàn Khê ở huyện Vũ Xương,
dân chúng quen gọi là “Đào Khản thụy tượng” (bức tượng tốt lành của
Đào Khản). Tới
khi Đào Khản trở về Kinh Châu, sai người chuyển
vận bức tượng theo. Dù dùng sức mạnh của
nhiều người cộng thêm trâu ḅ kéo, chỉ miễn
cưỡng chuyển được tượng
tới kè đá. Khi chuyển tượng lên thuyền, thuyền
ch́m ngay. Đào Khản biết Bồ Tát không chịu đi, lại rước về thờ tại chùa Hàn Khê
như cũ. Về sau, tổ Huệ Viễn dựng chùa
Đông Lâm tại Lư Sơn. Chùa xây xong, tổ thắp
hương thỉnh cầu, tượng chuyển về
đó nhẹ nhàng, không tốn chút công sức nào. Từ đó, tượng được thờ tại
chùa Đông Lâm.
[43] Cao Xương là một quốc gia
cổ ở Tây Vực. Cao Xương là phiên âm của chữ
Qocho trong tiếng Uigur (Duy Ngô Nhĩ), thuộc địa
bàn thành phố Thổ Lỗ Phiên (Turpan Shehiri) thuộc tỉnh
Tân Cương hiện thời. Vùng này thời Tần - Hán là một khu chiếm đóng và đặt đồn điền của người Hán, trực
thuộc quyền quản hạt của Lương Châu. Tới
thời Bắc Lương, một tay hào phú ở Cao
Xương là Hám Sảng do được người Nhu
Nhiên (Rouran, Lâu Lan) chống lưng, đă tự lập
làm Thái Thú, biến nơi này thành một quốc gia độc
lập. Cho tới thời Thái B́nh Chân Quân (440-451), Thư Cừ
Vô Húy đánh bại Hám Sảng, chiếm Cao Xương,
đổi tên thành Bắc Lương Cao Xương. Đến
năm 460, Cao Xương bị người Nhu Nhiên thôn
tính, đưa Hám Bá Châu lên làm vua. Cao Xương trải qua
nhiều triều đại do các sắc dân khác nhau chiếm
đóng, thành lập các vương triều khác nhau. Cao Xương Quốc
tồn tại cho đến năm 640 th́ bị nhà
Đường thôn tính, đổi thành Cao Xương Huyện. Sau
đó, đến năm 840, vùng này bị người Hồi
Hột chiếm, gọi là Cao Xương Hồi Hột.
[44] Hàm Ḥa là niên hiệu của Tấn
Thành Đế (Tư Mă Diễn) từ năm 326 đến
năm 334.
[45] Long An là niên hiệu của Tấn
An Đế (Tư Mă Đức Tông) nhà Đông Tấn từ
năm 397 đến năm 402.
[46] Người
Khương c̣n gọi là Nhĩ Mă (Rma), là một sắc dân
thiểu số sống tại vùng Tây Nam Trung Hoa (chủ yếu
là tại Tứ Xuyên). Tuy họ có văn tự riêng
nhưng đă bị thất truyền. Ngôn ngữ của họ
chia thành hai loại lớn là Bắc Khương và Nam
Khương thuộc ngữ hệ Tạng Miến (Tibeto-Burman
languages).
[47] Không phải dân địa
phương đến sống ở một vùng nào đó
th́ gọi là “ngụ cư”.
[48] Dịch Đ́nh ở đây là cái
đ́nh nghỉ chân. Thuở xưa, do
chuyển vận công văn cho mau chóng, thiết lập dịch
trạm. Tại dịch trạm có chỗ cho phu trạm
đổi ngựa, uống nước, chuyển công
văn cho người khác đưa tiếp v.v… Quy định
cứ bao nhiêu dặm th́ đặt một dịch trạm. Về sau, trên
quan lộ, cứ cách bao nhiêu dặm lại lập cái
đ́nh làm chỗ nghỉ chân cho người đi
đường, gọi là Dịch Đ́nh. Đôi khi dịch
đ́nh có đặt sẵn củi nước cho hành nhân
uống nước hay tự nấu cơm.
[49] Nguyên Gia là niên hiệu từ năm
424 tới năm 453 của Tống Văn Đế
(Lưu Nghĩa Long) nhà Lưu Tống thời Nam Triều.
[50] Thạch nhũ mọc trong ḷng hang có h́nh nón th́ gọi là chung nhũ (stalagmite).
[51] Hồ sàng c̣n gọi là “giao ỷ”
là một loại ghế xếp, chỗ mặt ghế để ngồi thường dùng dây bện
hoặc các giải băng vải dày căng trên mặt ghế
để có thể xếp lại dễ dàng.
[52] Đại Minh là niên hiệu của
Tống Hiếu Vũ Đế (Lưu Tuấn) thuộc
Nam Triều từ năm 457 đến năm 464.
[53] Châu Ngung, tự
là Ngạn Luân, người ở An Thành, huyện Nhữ
Nam. Ông nổi tiếng có văn tài từ bé, học rộng,
ưa thích Phật giáo. Ông được bạn thân của
ông nội là Tiêu Huệ Khai thưởng thức tài
năng, mang theo vào đất Thục, làm cố vấn
trong quân rồi làm huyện lệnh của Ph́ Hương
và Thành Đô. Ông thường nói Huệ Khai tánh t́nh quá nghiệt
ngă, thường dùng kinh Phật để khuyên can. Về
sau, ông trở thành phủ quân hành tham quân của An Thành
Vương Lưu Hoài. Đến năm Kiến Nguyên nguyên
niên (479), ông được phong làm huyện lệnh Sơn
Âm, rồi thăng làm Thái Tử Bộc, kiêm trước
tác, giảo định lễ nhạc. Sau ông ẩn cư ở
Chung Sơn, chuyên ăn chay, ở riêng một ḿnh trong lều
tranh trong núi. Tuy vậy, về sau do bị triệu vời,
ông nhận chức Quốc Tử Bác Sĩ, rồi mất
trong khi đang giữ chức Cấp Sự Trung. Ông viết
nhiều tác phẩm như Châu Ngung Tập, Châu Dịch Luận,
Đầu Hồ Kinh v.v… nhưng đều bị thất
truyền.
[54] Hiếu Kiến là niên hiệu của
Tống Hiếu Vũ Đế sử dụng từ
năm 454 đến 456.
[55] Đông Việt
c̣n gọi là Mân Việt chính là một quốc gia cổ
được thành lập tại vùng Phước Kiến
hiện thời. Sau khi nước Việt của Câu Tiễn
bị Sở diệt quốc, một số người
thuộc bộ tộc Ư Việt chạy tới kết
hợp với bộ tộc Mân lập ra quốc gia này,
đặt kinh đô tại Đông Dă (thành phố Phước
Châu hiện thời). Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất
Trung Nguyên, đă xóa sổ Mân Việt, lập ra quận Mân
Trung. Do người Việt bất khuất, nhà Tần
không phái huyện lệnh cai trị, chỉ phong cho lănh tụ
người Việt làm quận trưởng. Cho tới khi
Lưu Bang diệt Tần và Hạng Vũ lập ra nhà Hán,
đă phong Vô Tự làm Mân Việt Vương. Đó là thời
thịnh trị của Mân Việt. Tới thời Hán
Vũ Đế, do các mưu mẹo của người Hán
gây chia rẽ, cuối cùng Mân Việt hoàn toàn bị diệt
quốc. Về sau, khi nói tới Mân Việt th́ có nghĩa là
phần lớn tỉnh Phước Kiến và một phần
tỉnh Giang Tây.
[56] Viên Ngang làm quan trải hai triều
đại Nam Tề và Nam Lương, từng làm quan tới
chức Thượng Thư Lệnh, kiêm nhiệm chức
Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ty, nên thường được
gọi là Nghi Đồng Viên Ngang.
[57] Ở đây ngài Tông Hiểu viết
lầm, xét theo sự kiện được nêu trong câu chuyện
này th́ phải là nhà Bắc Châu (v́ Châu Vũ Đế là vua
thứ ba của nhà Bắc Châu, do quyền thần Vũ
Văn Thái thời Tây Ngụy kiến lập nền móng quyền
lực. Sau khi Vũ Văn Thái mất, cháu trai ông ta là Vũ Văn Hộ nắm
quyền, buộc Tây Ngụy Cung Đế thoái vị,
nhường ngôi cho Vũ Văn Giác tức Hiếu Mẫn
Đế, chính thức kiến lập nhà Bắc Châu). Trong khi đó, Hậu
Châu là triều đại cuối cùng của thời Ngũ
Đại (Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu
Tấn, Hậu Hán, Hậu Châu). Hậu Châu do Quách Oai sáng lập
năm 951, c̣n Bắc Châu do Vũ Văn Hộ sáng lập
vào năm 557.
[58] Bảy miếu tức miếu thờ
tổ tiên của đế vương thời cổ. Lễ
Kư quy định thiên tử thờ tổ tiên bảy đời.
Miếu thờ Thái Tổ (vua sáng lập triều đại)
đặt ở giữa, hai bên mỗi bên có ba miếu thờ
ḍng Chiêu (bên trái) và ba miếu thờ ḍng
Mục (bên phải). Tính từ Thái Tổ, nếu thế hệ
thuộc đời số lẻ th́ thờ bên Mục, số
chẵn th́ thờ bên Chiêu.
[59] Đại Tượng là niên hiệu
của Châu Tĩnh Đế (Vũ Văn Xiển, cháu nội của Châu Vũ Đế) sử dụng từ năm 579
đến năm 580.
[60] V́ Châu Vũ Đế phế Phật,
đuổi tăng sĩ về nhà, tăng sĩ phải ẩn
náu, không c̣n được cạo tóc, hành đạo, cho nên
coi như đă không c̣n Tăng tướng. Khi pháp nạn
chấm dứt, các vị tăng phải thọ giới lại.
[61] Cao Tổ là miếu hiệu của
Lương Vũ Đế. Miếu hiệu là danh xưng
để dùng trong khi tuyên sớ cúng tế các vị đế
vương đă qua đời tại Thái Miếu. Miếu
hiệu thường chỉ có một chữ đi kèm với
Tổ hay Tông (chữ Tổ thường dùng cho vị sáng
lập vương triều, hoặc những vị coi
như có công ngang với vua sáng lập), trong khi thụy hiệu
là tên nhằm ca ngợi đức của nhà vua rất dài.
Miếu hiệu thường có ư nghĩa khen chê của
người đời sau đối với một vị
vua, như Thái Tổ và Cao Tổ là vua khai sáng triều đại.
Thái Tông là người phát dương quang đại
vương triều. Thế Tổ và Thành Tổ thường
là người có công lao không kém vị vua khai sáng. Thế
Tông là người khiến cho vương triều bền
vững. Hiến Tông, Thánh Tông, Trung Tông là những
vị vua khiến cho triều đại
trung hưng. Nhân Tông, Duệ Tông, Hiếu Tông là vua nhân ái, hiếu
thuận, hiền lương. Triết Tông, Thành Tông, Hưng Tông, Hiển
Tông là những vị vua giữ vững sự thành tựu
của triều đại trước. Túc Tông hàm nghĩa ư nguyện trung
hưng triều đại chưa thành công, có tâm mà không thực
hiện được! Tuyên Tông, Cảnh Tông là vừa có
công vừa có tội. Đức Tông là vua từng gặp phải
cảnh loạn lạc phải đào vong. Ninh Tông hàm ư vua
quá nhu nhược. Chân Tông, Huyền Tông, Lư Tông, Thần
Tông, Đạo Tông là vua thích chuyện huyền diệu,
ưa chuộng Đạo giáo. Văn Tông là vua nhu nhược,
thiếu năng lực. Vũ Tông là vua ưa chuộng vũ lực, thích chinh
chiến. Cao Tông là triều đại
trở nên suy vi. Mục Tông, Quang Tông là vua có thời gian làm vua quá ngắn ngủi, hầu như không làm được
ǵ. Độ Tông, Thuận Tông, Định Tông hàm nghĩa
vua thuộc quá tŕnh chuyển tiếp, ảnh hưởng không lớn. Huệ Tông là không có phương
pháp trị quốc, giang sơn bị tàn phá. Hy Tông là vua hủ
bại, hôn ám. Ai Tông, Tư Tông là vua mất nước.
[62] Gia tăng là vị Tăng riêng cho
nhà vua học đạo, khác với quốc sư vừa
là thầy vừa là người thống lănh Tăng chúng cả nước.
Đôi khi quốc sư c̣n kiêm nhiệm địa vị cố
vấn tối cao của nhà vua và hoàng tộc.
[63] Hậu Lương (907-923) là một
vương triều thời Ngũ Đại, do Châu Ôn
(Lương Thái Tổ) soán ngôi nhà Đường. Do
trước đó, Châu Ôn (Châu Toàn Trung) được phong
là Lương Vương, nên lấy quốc hiệu là
Lương. Gọi là Hậu Lương nhằm phân biệt
với nhà Nam Lương (Tiền Lương) của
Lương Vũ Đế thời Nam Bắc Triều. Do
vua sáng lập họ Châu, nên c̣n gọi là Châu
Lương. Đôi khi sử gọi triều đại này là Ngụy Lương theo cách nói phủ
nhận của các triều đại cùng thời. Về
sau, vương triều này bị diệt bởi nhà Hậu
Đường của Lư Tồn Húc.
[64] Phủ Quân (府君) là danh xưng hàm ư nhiều nghĩa:
- Cách gọi tôn kính quan Thái Thú hoặc
Tri Phủ.
- Tiếng tôn xưng khi nói về cha
hay ông nội.
- Tiếng tôn xưng chung đối
với người nam đă chết.
Khi nói về các vị thành hoàng một
vùng, người Hoa hay gọi là Phủ Quân. Ở đây, Phủ Quân là tiếng
tôn xưng thần núi Thái Sơn, tức Đông Nhạc
Đại Đế. Trong tín ngưỡng dân gian, Đông
Nhạc Đại Đế chủ quản thần hồn
người mới chết, thống lănh các thành hoàng trong
thiên hạ. Thần Đông Nhạc xét xử tội báo, thẩm
vấn trước khi giao tội nhân cho Phong Đô Đại
Đế (cai quản địa ngục).
[65] Đây chính là
tượng Di Lặc Bồ Tát, thường được
gọi là Giang Nam Đệ Nhất Đại Phật.
Tượng được điêu khắc từ năm
Vĩnh Minh thứ tư (386) nhà Nam Tề cho đến
năm Thiên Giám 15 (516) đời Lương, mất ba
mươi năm mới hoàn tất. Do tượng là công sức
của ba vị Tăng Hộ, Tăng Thục và Tăng Hựu
nối tiếp nhau chủ tŕ tạo tác, nên gọi là Tam Sanh Tượng. Tượng Di
Lặc ngồi xếp bằng, ṭa ngồi cao 2m, thân cao
13,74m, đầu cao 3,8m. Tượng được tạc
dưới h́nh thức Bố Đại ḥa thượng,
có dung mạo thanh nhă, hoan hỷ, siêu thoát, trí huệ. Tuy tượng
rất to, nhưng rất đẹp đẽ, sinh động,
không hề thô vụng.
[66] Bá Tế (Baekje, hoặc Paekche), c̣n
phiên âm là Bách Tế, là một vương quốc cổ nằm
ở phía Tây Nam bán đảo Đại Hàn, tồn tại
từ thế kỷ 18 trước Công Nguyên cho đến năm
660, là một trong ba vương quốc
cổ của Đại Hàn (tức Cao Câu Ly (Goguryeo, đôi khi c̣n gọi là Cao Lệ), Tân
La (Silla) và Bách Tế). Vương quốc
Bách Tế được sáng lập bởi Ôn Tộ
vương (Onjo), con trai thứ ba của Châu Mông (Jumong).
Châu Mông là người sáng lập vương quốc Cao Câu
Ly. Vương quốc này lần lượt
đóng đô tại thành Úy Lễ (Wiriyeseong, tức Hanam ngày nay), Hùng Tân (Unjin, c̣n gọi là
Hùng Châu), cuối cùng là Tứ Tỳ (Sabi, nay thuộc quận
Phù Dư (Buyeo), phía Tây Đại Hàn). Thời cực thịnh,
Bách Tế kiểm soát toàn bộ miền Tây Đại Hàn,
kể cả một phần lănh thổ Liêu Tây của Trung
Hoa. Dân Bách Tế giỏi hàng hải, buôn bán khắp vùng
Đông Á và góp phần lớn trong việc truyền bá Phật
giáo sang Nhật Bản. Năm 660, Bách Tế bị liên quân
Tân La và nhà Đường đánh bại dưới triều vua Nghĩa Từ
(Uija), bị sát nhập vào
vương quốc Thống Nhất Tân La (Tongsilsilla).
[67] Tức là núi Hán Noa (Hallasan), đôi
khi viết theo kiểu Hán tự (Hanja) là Hán Nă sơn, vốn
là một núi lửa nằm trên đảo Jeju (Tế Châu) ở
cực Nam Hàn quốc. Qua nhiều triều đại, núi
có tên là Buak (Phủ Nhạc), Seonsan (Tiên sơn), Wonsan (Viên
sơn), Jinsan (Trấn sơn), Dumuak (Đầu Vô Nhạc),
Burasan (Phù La sơn), và Yeongjusan (Doanh Châu sơn).
[68] Tướng Luân (相輪) là một cấu trúc có h́nh cột dài, thường
đặt trên đầu các tháp hoặc nóc các ṭa điện
(nhất là trong các đền chùa của Nhật Bản),
mô phỏng lọng nhiều tầng che Phật trong quá khứ.
Tướng luân gồm một trụ dài, xuyên qua các thành phần
như sau (tính từ trên đỉnh xuống):
- Bảo châu (宝珠): Có h́nh cầu
hoặc giọt nước mắt, đôi khi phần này
được tạo h́nh có các tia lửa bao quanh (trong
trường hợp này, nó được gọi “hỏa viêm bảo châu”). Đôi khi trong
phần này, có đặt ngọc quư hoặc xá lợi.
- Phần kế
tiếp gọi là Long Xa (竜車), thường chỉ
là một khối cầu, nhỏ hơn một chút so với
phần Bảo Châu.
- Phần kế
tiếp gọi là Thủy Yên (水煙) gồm bốn miếng kim loại, khắc rỗng,
nhiều họa tiết, đặt vuông góc 90 độ.
- Phần kế
tiếp là Phong Đạc (風鐸), gồm nhiều chiếc chuông nhỏ gắn quanh phần
Thủy Yên.
- Dưới
đó là Cửu Luân (九輪) gồm chín miếng
đồng hoặc kim loại có h́nh bát úp, mô phỏng lọng
báu nhiều tầng. Tuy thế, đôi khi phần này chỉ
có tám hay bảy miếng.
- Phần Thọ
Hoa (受花) bằng kim loại
mô phỏng đóa sen có cánh cong lên. Thường là hoa sen tám
cánh, đôi khi làm thành hai tầng cánh.
- Phần Phục
Bát (伏鉢) có h́nh bát úp
ngược.
- Cuối cùng là
Lộ Bàn (露盤) là phần đế
của tướng luân.
[69] Tiêu Lương (502-557) c̣n gọi là
Nam Lương, Tiền Lương, hoặc Nam Triều
Lương chính là triều đại do Tiêu Diễn
(Lương Vũ Đế) sáng lập. Do đất phong
của Tiêu Diễn là Lương Quận, nên khi làm hoàng
đế, nhà
vua đă chọn quốc
hiệu là Lương. Lănh thổ nhà Lương bao gồm
trọn vùng Hoa Nam gồm 107 châu và 586 quận, kinh đô là
Kiến Khang (Nam Kinh). Lương Minh Đế tên thật
là Tiêu Vị. Cha của Tiêu Vị là Nhạc Dương Quận
Vương Tiêu Sát (con trai của Chiêu Minh Thái Tử Tiêu Thống)
bất ḥa với Tiêu Dịch (con trai thứ bảy của
Lương Vũ Đế). Khi Tiêu Dịch lên ngôi, trở
thành Lương Nguyên Đế, Tiêu Sát bèn quy thuộc nhà
Tây Ngụy, được phong làm Lương Vương,
cai quản vùng Tương Dương, Kinh Châu. Tiêu Sát bèn tự
xưng đế, cũng lấy quốc hiệu là
Lương, lấy Giang Lăng làm kinh đô. Sử gọi
nước Lương này là Tây Lương, tồn tại
ba mươi năm, truyền được ba đời
vua. Tây Lương về sau bị Tùy Văn Đế
(Dương Kiên) diệt quốc.
[70] Thái Phủ Khanh gọi đầy
đủ là Thái Phủ Tự Khanh, tức là người
đứng đầu Thái Phủ Tự. Thái Phủ Tự
là cơ quan được thiết lập từ thời
Bắc Tề, có nhiệm vụ chưởng quản kho
tàng của cung đ́nh và các cơ sở thương mại
do hoàng gia làm chủ (việc thương mại này
được gọi là “hoàng thương”). Đến
đời Tùy, Thái Phủ Tự quản lư toàn bộ việc
mậu dịch tại các châu quận, quản lư bổng lộc
của các quan liêu, điều hành vật giá. Đồng thời,
triều đ́nh c̣n thiết lập Thiếu Phủ Giám
chuyên lo kiến tạo cung điện, sản xuất vật
dụng cho triều đ́nh. Đến thời Minh - Thanh, Thái Phủ Tự và Thiếu Phủ
Giám bị gộp chung vào bộ Công.
[71] Cảnh Long là niên hiệu của
Đường Trung Tông (Lư Hiển) từ năm 707 đến
năm 710.
[72] Vị này không phải là Tam Tạng
pháp sư Huyền Trang (thường gọi là Đường
Tam Tạng hoặc Đường Tăng), v́ ngài
Đường Tam Tạng Huyền Trang pháp sư (602-664) họ Trần, quê ở Lạc
Dương, sống vào thời Đường Thái Tông và
Đường Cao Tông.
[73] Đường Trung Tông có thụy
hiệu là Hiếu Ḥa Hoàng Đế, về sau Đường
Huyền Tông tôn phong là Hiếu Ḥa Đại Thánh Hoàng Đế,
rồi lại dâng thụy hiệu lần nữa là Đại Ḥa Đại Thánh
Đại Chiêu Hiếu Hoàng Đế. Do vậy, Sử
thường gọi ông là Hiếu Ḥa Đế. Ông từng
làm vua lần thứ nhất khi cha là Đường Cao
Tông qua đời vào năm 684. Chưa đầy một
tháng, ông bị mẹ là Vũ Tắc Thiên phế
truất, ép nhường ngôi cho em là Lư Đán (Đường
Duệ Tông) kế vị. Năm 698, ông lại được Vũ Tắc Thiên chỉ định
làm Thái Tử. Đến năm 705, do Tể Tướng Trương
Gián Chi, Thị Lang Thôi Huyền Vĩ, tả vũ lâm tướng
quân Hoàn Nhan Phạm v.v… dùng cấm quân đảo chánh Vũ
Tắc Thiên (Sử gọi là Thần Long Chánh Biến) thành
công, lại đưa Lư Hiển lên ngôi vua trở lại.
Trong lịch sử, ông là người duy nhất có ông nội
(Đường Thái Tông), cha (Đường Cao Tông), mẹ
(Vũ Tắc Thiên), em trai (Đường Duệ Tông), con
(Đường Thương Đế Lư Trọng Mậu),
cháu trai (Đường Huyền Tông Lư Long Cơ là con trai
thứ ba của Đường Duệ Tông) đều là
hoàng đế, rất hiếm thấy.
[74] Khai Nguyên là niên hiệu của Đường
Huyền Tông từ năm 713 đến năm 741.
[75] Hội Xương là niên hiệu của
Đường Vũ Tông (Lư Viêm) sử dụng từ
năm 841 đến năm 847.
[76] Kiến Viên (1127-1130) là niên hiệu
của Tống Cao Tông (Triệu Cấu). Trong năm Kiến
Viêm thứ ba (1129), thống chế Miêu Phó và thứ sử
Oai Châu Lưu Chánh Ngạn phát động binh biến (làm phản,
đảo chánh), ủng hộ đưa Thái Tử Triệu
Phu mới ba tuổi lên ngôi, bức Cao Tông thoái vị. Sử
gọi chuyện này là “Kiến Viêm binh biến”. Về
sau, phe phản loạn bị Trương Tuấn và Hàn Thế
Trung của nhà Tống dẹp tan.
[77] Hội Xương là niên hiệu của
Đường Vũ Tông (Lư Viêm). Năm 845, do mê đắm
Đạo Giáo, nghe theo mưu mô của đạo sĩ Triệu
Quy Chân, Vũ Tông tấn công Phật giáo trên quy mô lớn. Trừ
bốn ngôi quốc tự Từ Ân, Tiến Phước,
Tây Minh, Trang Nghiêm tại Trường An, mỗi chùa giữ
lại 10 tăng sĩ trông nom, toàn bộ chùa miếu trong cả
nước bị phá hoại hay đóng cửa, tượng
Phật, chuông khánh bằng đồng bị nấu chảy
để đúc tiền, các thứ dụng cụ khác bằng
kim loại sẽ đúc thành nông cụ. Tăng sĩ bị
đuổi về đời, ruộng nương và tài sản
bị sung công. Sử gọi cuộc đàn áp này là “Hội
Xương pháp nạn”. Cho tới năm Hội
Xương thứ bảy (847), Vũ Tông chết, pháp nạn mới
chấm dứt.
[78] Trường Hưng là niên hiệu
của Đường Minh Tông (Lư Tự Nguyên) nhà Hậu
Đường từ năm 930 đến năm 934. Hậu
Đường (hoặc Lư Đường) là triều
đại thứ hai thời Ngũ Đại, chỉ tồn
tại 14 năm. Triều đại này do Lư Tồn Úc sáng lập
sau khi diệt nhà Hậu Lương của Châu Ôn, với
danh nghĩa khôi phục Đường triều, cho nên cũng xưng quốc hiệu là
Đường.
[79] Y Lạc là sông Y Thủy và Lạc
Thủy là hai con sông bao quanh Lạc Dương, nên Lạc
Dương cũng thường được gọi là Y
Lạc. Tấn Giao là kinh đô Trường An.