Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa
phần
18
II. Pháp Hoa Kinh
Hiển Ứng Lục, quyển hạ (法華經顯應錄卷上)
* Đạt thiền sư ở Hồng
Châu
Thiền sư Pháp Đạt, người xứ
Hồng Châu, bảy tuổi xuất gia, tụng kinh Pháp Hoa. Sau khi đă xuống tóc, thọ
Cụ Túc Giới, Sư đến lễ thiền sư Lục
Tổ Huệ Năng ở Tào Khê. Tổ bảo: “Ông lễ
mà đầu không sát đất, chẳng bằng không lễ!
Xem ra, trong tâm ông ắt chứa đựng vật ǵ
đó!” Pháp Đạt thưa: “Con đă niệm kinh Pháp
Hoa ba ngàn bộ”. Tổ nói: “Lễ vốn để
đánh găy tràng ngạo mạn, [thế mà ông lễ bái]
đầu chẳng hề chạm đất”. Tổ lại
nói: “Ông nay tên là Pháp Đạt, siêng tụng chưa
ngưng nghỉ, chỉ là tụng suông theo âm thanh, minh tâm
th́ gọi là Bồ Tát, chỉ tin theo lời Phật vô ngôn,
hoa sen từ miệng phát ra”. Tổ lại nói: “Kinh ấy
lấy ǵ làm tông?” Pháp Đạt thưa: “Học nhân ngu
độn không biết”. Tổ nói: “Kinh ấy lấy
nhân duyên xuất thế làm tông. Chỉ có một đại
sự là tri kiến của Phật! Ông chớ nên hiểu
sai rằng khai thị ngộ nhập chính là tri kiến của
Phật, chứ bọn ta chẳng có phần! Ngài đă là
Phật, đă đầy đủ tri kiến, cớ sao lại
phải khai? Hăy nên biết tri kiến của Phật chỉ
là tự tâm của ông, chẳng có cái Thể nào khác! Chỉ
v́ tự che lấp quang minh, tham ái trần cảnh, nhọc
công Phật phải từ tam-muội khởi, dùng các thứ
khuyên nhủ để [chúng sanh] ngưng dứt [trần
lao]. Ông chỉ chấp niệm kinh là công đức, có khác
ǵ mao ngưu yêu chuộng cái đuôi?”
Pháp Đạt thưa: “Nếu đúng như Tổ dạy,
con chẳng cần tụng kinh ư?” Tổ bảo: “Kinh
có lỗi ǵ mà ngăn chướng ông niệm. Hăy nghe ta nói
kệ: Tâm mê, Pháp Hoa chuyển. Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa. Tụng
lâu, chẳng hiểu ḿnh, là oán cừu của nghĩa. Vô niệm,
niệm tức chánh. Hữu niệm, niệm thành tà. Hữu
vô đều chẳng được, xe trâu trắng ngự
hoài”. Pháp Đạt đă được khai mở, hoan
hỷ nói kệ rằng: “Tụng kinh ba ngàn bộ. Tào Khê
một câu quên. Chẳng hiểu ư xuất thế, đâu hết
cuồng nhiều đời. Dê, nai, trâu quyền lập.
Trước, giữa, sau khéo bày. Ai biết trong nhà lửa.
Vốn sẵn đấng pháp vương”. Tổ nói:
“Nay ông mới đáng gọi là vị Tăng niệm kinh”.
Pháp Đạt đă lănh thọ huyền chỉ; từ
đó, tụng tŕ chẳng thiếu sót. Xem tường tận
[chuyện này] trong Truyền Đăng Lục.
* Dung
thiền sư núi Ngưu Đầu
Bộ Đường Tục Tăng Truyện
có chép vị tăng Pháp Hùng, họ ngoài đời là Vi,
người xứ Nhuận Châu. Gia đ́nh Sư nhiều đời học Nho; Sư thông thạo rộng khắp
sử sách, nhưng chẳng có ư định kinh bang tế
thế. Một hôm, Sư ngẫu nhiên đọc Bát Nhă, liễu
đạt Chân Không, bèn bỏ Nho, trốn vào Lữu Sơn,
đổi áo phùng dịch[1]
thành nâu ṣng, tham cứu đạo này. Trong suốt hai
mươi năm, Sư chuyên ṛng chẳng biếng
nhác. Trong niên hiệu Trinh Quán, Sư ở thạch thất
núi Ngưu Đầu v́ tứ chúng hơn bốn trăm
người, giảng kinh Pháp Hoa. Khi đó, tuyết đọng
đầy bậc thềm. Bỗng từ trong băng đọng,
nẩy sanh hai đóa hoa, h́nh dạng như hoa
phù dung, rạng rỡ như sắc vàng, suốt cả bảy ngày mới ẩn.
Lại có vị quan lớn là Tiêu Nguyên Thiện
thỉnh Sư giảng Bát Nhă, cảm vời đại
địa rúng động. Chuông, khánh, hương án thảy
đều rung động, bay ra ngoài chùa, Sư vẫn
điềm nhiên chẳng hay. Lưu Vũ Tích lại viết bia nơi tháp
Sư rằng: “Công đức thần diệu của
Sư cảm sườn núi khô hạn có suối trào ra, sen trổ giữa tuyết mênh
mông, rắn to khuất phục, bầy nai nghe pháp. Xét ra,
Sư trụ tại Ngưu Đầu… Tứ Tổ Đạo
Tín thiền sư ngửa trông núi ấy có khí lành, hỏi
thăm th́ quả nhiên thấy có nhiều… dấu tích[2].
Một lời khế ngộ, truyền đại pháp của
Phật. Từ đó, ứng duyên giảng kinh, đều
đạt được linh nghiệm”. Bèn biết xưa nay Thiền và Giáo
vận dụng lẫn nhau, nhưng hiện thời chẳng
phải là như vậy!
* Thiền
sư Thái Bạch ở Minh Châu
Cảnh Đức Thiền Tự tại
núi Thiên Đồng đă có từ thời Tây Tấn. [Thoạt
đầu], có người học Phật lập đền
thờ trên gộp đá, trải qua bốn trăm năm.
Tới năm Khai Nguyên 20 (732) đời Đường,
cao tăng Pháp Tuyền dựa theo đồ kư[3],
vạch lùm bụi, t́m được dấu tích cũ, bèn
tạo tinh xá ở sườn núi phía Đông. Quan Chánh Tự
của Bí Thư Tỉnh[4]
là Vạn Tế Dung trước hết dựng tháp Đa Bảo
ở góc Tây Nam, cao vót tới mấy nhận[5].
Ngài Pháp Tuyền sống tại đó, hằng ngày tụng
kinh Pháp Hoa, cảm đồng tử cơi trời đạp
mây thăng giáng, đem thức ăn cơi trời dâng cúng.
Đến đêm, Sư nhiễu tháp, kinh hành. Người khác
từ xa thấy thân Sư cao bằng Tướng Luân trên
đỉnh tháp. Thoạt đầu, mẹ Sư nằm mộng
thấy thiên nữ Cát Tường[6]
dẫn bà đến cung của Ma Lợi Chi Thiên[7].
Sau đó, bà hoài thai Sư. Do vậy, Sư được gọi là thiền sư Thái Bạch.
Trong chùa có Phạm Đích soạn bài kư thuật rơ chuyện
này (theo Tứ Minh Đồ Kinh).
* Tích
thiền sư ở Hồ Châu
Ni sư húy là Đạo Tích, hiệu Tổng
Tŕ, không rơ người xứ nào. Ngài đắc pháp nơi
tổ Bồ Đề Đạt Ma. Xét theo Truyền
Đăng Lục, ngài Đạt Ma chẳng khế hợp Lương Vũ Đế, bèn sang
Thiếu Lâm, nh́n vách chín năm. Một hôm, Tổ
bảo đại chúng: “Ta muốn về lại Thiên Trúc ở phương
Tây, các vị hăy nói sở
đắc của chính ḿnh”. Khi đó, ngài Đạo Dục
nói: “Như con thấy, chẳng chấp văn tự, chẳng
ĺa văn tự, đó là công dụng của đạo”.
Tổ bảo: “Ông đạt được phần da của
ta”. Ni Tổng Tŕ thưa: “Nay con hiểu: Như ngài Khánh Hỷ
(A Nan) thấy cơi của A Súc Phật, hễ thấy rồi
sẽ chẳng thấy nữa”. Tổ bảo: “Bà
được phần thịt của ta”. Ngài Đạo
Phó thưa: “Tứ Đại vốn là Không, Ngũ Ấm
chẳng phải là có, nhưng theo chỗ con thấy th́ chẳng
có một pháp”. Tổ bảo: “Ông được phần
xương của ta”. Ngài Huệ Khả lễ bái, đứng
nguyên tại chỗ ḿnh. Tổ bảo: “Ông đạt
được phần tủy của ta”. Tổ Đạt
Ma bèn phó pháp cho ngài Huệ Khả để lập tông.
Ngài Đạo Tích tuy chưa đạt
được phần tủy [trong giáo pháp của tổ
Đạt Ma], nhưng chí hành đạo chưa hề quên.
Ngài liền ẩn cư trên đỉnh núi của rặng
Biện Lănh tại Hồ Châu, ngày đêm tụng kinh Pháp Hoa
trọn mười vạn bộ. Gần
hai mươi năm chẳng
xuống núi. Về sau, Ngài quy tịch. [Môn nhân] dựng tháp
đựng toàn thân tại chỗ Ngài kết am tranh. Tới
Đại Đồng nguyên niên (535), trong tháp bỗng có một
đóa hoa sen xanh. Đạo tục đều lấy làm lạ;
do vậy, mở tháp ra xem, thấy nhục thân của ni
sư bất hoại. Hoa ấy sanh từ lưỡi của
Ngài. Lại từ trong tháp t́m thấy một bộ kinh Sen
(kinh Pháp Hoa). Châu quận dâng biểu tấu tŕnh sự việc,
triều đ́nh sắc truyền dựng chùa Pháp Hoa. Chùa ấy
đến đời Đại Tống sửa biển
đề thành Quán Âm Viện, dùng Pháp Hoa để đặt
tên cho núi. Tháp của ni sư hăy c̣n. Trong niên hiệu Thuần
Hy[8],
vị tăng trụ tŕ là Tịnh Nhiên lại xây
Tổ Đường để phụng sự
hương khói, khắc đá ghi lại [sự tích của
ngài Đạo Tích].
* Thượng tọa Thiên Hạ ở
Hồ Châu
Sư vốn tên là Băo Ngọc
(抱玉, ôm ngọc), họ Đường,
người xứ An Cát ở Ngô Hưng. Mẹ họ Mai,
khi mới vừa ốm nghén đă ghét thức ăn mặn
tanh hôi. Đến khi Sư sanh ra, trong độ tuổi mọc
răng sữa, Sư đă nghĩ tới
Phật thừa. Sư bèn theo xuất gia với ni Tổng
Tŕ chùa Pháp Hoa, nguyện tụng kinh Pháp Hoa. Ba tháng đă
đọc thông suốt. Từ đó, hằng ngày Sư tŕ
bảy bộ. Lúc vừa hai mươi tuổi, Sư lên
kinh đô thọ giới. Khi đó, hoàng đế Đường Túc Tông đêm mộng thấy một
vị tăng ở xứ Ngô tụng kinh Pháp Hoa, miệng tỏa
quang minh năm màu, giọng xứ Ngô trong trẻo. Cho tới
sáng ra chầu, vua sắc truyền hơn hai trăm vị
Tăng tại kinh thành có thể tụng Pháp Hoa vào cung cấm.
Vua nh́n th́ thấy họ đều chẳng phải là
người trong giấc mộng.
Băo Ngọc vừa vào cửa ải,
vị quan coi cửa ải hỏi “v́ sao Sư từ xa
đến?” Sư đáp: “Tôi khéo tụng kinh Pháp Hoa, cầm
kinh đến thọ giới”. Vị quan tâu lên; vua liền
giáng chỉ triệu kiến. Vua viết: “Giọng nói và
dáng vẻ của Sư giống như người trẫm
đă mộng thấy”. Vua liền ban pháp ṭa cho ngồi để tụng kinh. Tới
phẩm Tùy Hỷ Công Đức, khóe miệng Sư phóng
quang minh năm màu. Vua hết sức vui sướng, nói:
“Chính là ánh sáng như trẫm đă thấy trong mộng”.
Kinh tụng vừa xong, vua ban canh thất bảo, sai đắp
đàn thơm riêng để Sư thọ giới, ban hiệu
là Đại Quang, phong làm “Thiên Hạ thượng
tọa”.
Sư ở kinh đô ba năm, chuyên nhất tŕ tụng. Lại
vâng sắc chỉ tới hành đạo tại chùa Thiên
Phước, trải qua hai mươi tám ngày, Phạm âm trọn
khắp, vua [ở trong cung]
c̣n
nghe tiếng. Sư ở riêng tại Lam Điền tinh xá.
Sư lại vâng chiếu trụ tŕ chùa Tư Thánh.
Sư Đại Quang viện
cớ mẹ c̣n ở đất Ngô, dâng biểu xin quay về
báo ân. Vua chẳng đồng ư. Sư lại đeo vật
trang hoàng lên đầu, đội kinh Pháp Hoa tụng niệm,
liền có chiếu chấp thuận cho Sư trở về.
Đại Quang tâu rằng: “Thần trở về quê
hương, có ba điều nguyện: Một là phụng
dưỡng mẹ già. Hai là xin bệ hạ độ Tăng
trong thiên hạ. Ba là mong tu bổ chùa Pháp Hoa”. Vua xuống
chiếu ban tiền cho Hồ Châu để dựng một
ṭa tháp Đa Bảo, tượng Di Lặc, một bộ
kinh Pháp Hoa, một người hầu. Đă về quê,
Sư dựng am tại Tùng Kính của chùa Pháp Hoa, hằng
ngày tŕ kinh kệ Pháp Hoa để báo đại ân của
vua. Tới cuối Đông, khi niên hiệu đổi thành
Vĩnh Trinh[9],
Sư sang từ biệt thứ sử Nhan Pḥng Thiện,
nói: “Tôi phải đi. Cơi người vô thường, giống
như mộng huyễn”. Trở về chùa, Sư điềm
nhiên ngồi qua đời, cảm mùi hương lạ phảng
phất suốt ba ngày chẳng tan. Sư được
chôn cạnh am. Thưở ấy, đại chúng đều
nói Sư là hậu thân của ni sư Tổng Tŕ đời
Lương. Sự giáo hóa của bậc chí nhân ai
có thể luận bàn được thay! Chuyện này
được thấy ghi trên bia do Nhiên sư
đă lập.
Nếu xét theo Đại Tống
Tăng Truyện, sách ấy cho rằng Đại Quang và
Băo Ngọc là hai người [khác nhau], tức là do sưu tầm
tài liệu sai lệch. Nay tôi lại trích lục tiểu
truyện trong sách ấy để chép thêm: Khi Sư trụ
tại Lam Điền, tăng chúng trong chùa trước
đó mộng thấy đồng tử cơi trời giáng hạ,
bảo: “Tiếng tụng kinh của ngài Đại Quang thấu
tới trời Hữu Đảnh, chẳng phải là chuyện
nói suông”. Sư Đại Quang một hôm ngồi yên nơi
đạo tràng, tự thấy thần nhân từ trời
giáng xuống, dùng tay xoa bóp tim Sư. Từ đấy,
Sư công lực càng thêm mạnh hơn, thân thể, tinh thần
chẳng mệt nhọc. Có lần Sư vô t́nh đi trong
núi, bỗng rơi xuống giếng, liền nghĩ tới
tháp Phật Đa Bảo, nguyện tŕ phẩm ấy mười
vạn lượt, bỗng dưng tung ḿnh thoát ra, dường
như có thần nhân nâng lên.
Về sau, Sư vâng chiếu
trụ chùa Tư Thánh, chùa do Văn Đức hoàng hậu[10]
xây dựng. Chùa bỗng bị hỏa tai, từ trong ngói, gạch,
t́m được mấy bộ kinh không tổn hại một
chữ. Đem chuyện ấy tŕnh tấu lên, vua giáng chỉ
xây lại. Đại Quang nhận lănh kinh văn, tinh tấn
gấp bội. Kế đó, Sư xin trở về đất
Ngô. Đă trở về, Sư đến huyện Ô Tŕnh.
Tướng quốc Lư Thân làm thứ sử của
Ngô
Hưng, ở lại đạo tràng tŕ kinh [của sư
Đại Quang]. Ông bỗng thấy bạch quang
đầy khắp hư không. T́m xem th́ thấy ngài
Đại Quang đang ngồi yên, tŕ kinh; ánh sáng tỏa
ra từ mặt Ngài. Áo ca-sa của Sư bốn
mươi năm chưa từng giặt giũ, nhưng giới
hương ngào ngạt. Sư mỗi ngày ăn một bữa,
suốt bảy mươi năm chưa hề ăn phi thời.
Lư tướng quốc trọn chẳng tin tưởng
Không môn cho mấy, nhưng hết sức kính trọng
Sư, đích thân viết văn bia, ghi là Mặc Chiếu
Tŕ Kinh Đại Đức Thần Dị Bi Minh (bài minh ngự chế nơi văn bia ghi lại chuyện
thần dị của vị đại đức tŕ kinh).
* Thiền sư Đại Viên ở
Tây Kinh
Tên húy của ngài là
Sở Kim, sanh trong nhà họ Trần ở đất Kinh
Triệu (kinh đô). Mẹ Ngài do mộng thấy chư
Phật, bèn có thai Sư. Sư quả thật là con đấng
pháp vương, bảy tuổi đă chán cơi tục,
theo xuất gia tại chùa Long Hưng ở phủ nhà. Tới
khi lễ tạng thám kinh[11],
rút được kinh Pháp Hoa, liền tụng thông suốt,
thanh vận như nước chảy. Sau khi đă thọ
Cụ Túc Giới, Sư thăng đường nghe giảng,
nhanh chóng thâu nhận tạng báu. Sư từng trong đêm
thanh phô diễn, tán vịnh kinh này, tụng tới phẩm
Bảo Tháp, thân tâm nhẹ nhàng, bỗng thấy tháp báu ở
đằng trước, phân thân của Phật Thích Ca
đầy dẫy trên hư không. Từ đó, Sư không ra
khỏi Thiền pḥng, tụng niệm suốt
sáu năm, thề dựng tháp ấy để đền đáp
sự linh ứng.
Hoài băo chân thành vừa
dấy, đàn na tín thí t́m đến, liền khởi
công xây cất. Tại chỗ đắp nền, Sư mỗi
đêm tŕ niệm công khóa. Đại chúng bỗng nghe tiếng
nhạc trời, mùi hương lạ ngào ngạt. Sư
đă khế lư, tiến nhập Phật tâm, liền cảm
vời vua mộng thấy. Đường Huyền Tông thấy
dưới pháp danh [của người dựng tháp] có chữ Kim[12],
thăng triều hỏi [các quan đó] là ai, nhưng chẳng
ai biết. Thanh danh của Sư truyền đến kinh
đô, phù hợp với điều vua
t́m cầu từ giấc mộng. Do vậy, vua ban năm
mươi vạn đồng, một ngàn xấp lụa
để [dùng làm chi phí] xây cất. Lại ngự đề
bức hoành Đa Bảo Tháp để treo nơi tháp… [Tháp
xây xong], Sư hành sám pháp, liền cảm mây ngũ sắc vờn
quanh trên tháp... [Sư
bày tỏ ước nguyện] “ta muốn tập hợp
bảy vị tăng, hợp thành cùng một chí nguyện,
ngày
đêm tụng tŕ dưới tháp, khiến cho khói
hương chẳng dứt, pháp âm vô cùng”. Mọi người
vui vẻ vâng theo. Mỗi dịp Xuân Thu, Sư tập hợp
bốn mươi chín người đồng hạnh cùng
hành tŕ Pháp Hoa tam-muội. Sư liền được vua hạ
chiếu chấp thuận thành thường lệ. Trong
đạo tràng, thâu được rất nhiều xá-lợi.
Một hôm, Sư vẽ tượng Phổ Hiền, cảm
được mười chín viên xá-lợi hiện ra từ
ngọn bút. Sư lại trích huyết chép các kinh như Pháp
Hoa Hành Pháp v.v… cũng dùng vàng ṛng [ḥa mực] chép ba
mươi sáu bộ kinh mầu nhiệm này để trấn
tháp báu. Lại chép một ngàn bộ phân phát cho đại
chúng thọ tŕ.
Hóa duyên hoàn tất, ngày Thất
Tịch (mồng Bảy tháng Bảy) năm Càn Nguyên thứ
hai (759) [đời Đường Túc Tông], Sư nằm
bên hông phải, an nhiên qua đời. Xuân thu sáu mươi
hai năm. Thiên tử đau xót, sai sứ phúng điếu.
Sư được dựng tháp tại Pháp Hoa Lan Nhă ở
phía Tây thành ấy. Từ thuở để chỏm, Sư
đă cam phận đạm bạc, chẳng mặc tơ
lụa, chân chỉ đi hài bằng cỏ bện, mỗi
ngày ăn một bữa trưa, khổ học suốt ba Đông.
Đức
hạnh [của Sư] nhiều đến nỗi chẳng
thể tuyên dương, ghi chép trọn đủ. Tới
năm Trinh Nguyên 13 (797), Đậu Văn Trường tâu rằng:
“Trong năm Thiên Bảo, ngài Sở Kim đă v́ nước dựng
tháp, đặt tại Pháp Hoa đạo tràng, nay đă
hơn sáu mươi năm, tăng chúng lễ niệm, tiếng tụng kinh chẳng dứt. Đă
trải qua bốn đời vua mà chưa từng biểu
dương phẩm đức”. Vua xuống chiếu
chấp thuận, sắc truyền thụy hiệu là Tại
Viên thiền sư (Sự tích của Sư ghi trong Đại
Tống Cao Tăng Truyện do dựa theo bia Phi Tích Thiền
Sư. Tướng lành linh dị được chép trong
bài kư của Sầm Huân. Do ghi chép bất đồng, có chỗ
sai khác. Nay tổng hợp cả hai bài văn ấy để
mong [hành trạng của Sư] được toàn mỹ).
* Tuân pháp sư ở Tô Châu
Sư giữ chí nguyện cao
khiết khác vời, chẳng màng sự
vinh diệu… Nhất tâm tam quán, sùng phụng Phật thừa.
Do chép rộng kinh Pháp Hoa, bèn lập Khán Kinh Viện tại
núi Chi H́nh ở Tô Châu. Ngày thứ nhất phát tâm, ngày thứ
hai liền quy hoạch nền móng, chẳng vượt
khỏi lề lối. Điện các xây dựng hoàn tất.
Đại Lịch nguyên niên (766), các quan đứng đầu
Tô Châu như Vi Nguyên Phủ v.v… đều cùng thấy
tướng thù thắng, bèn cùng nhau dâng biểu. Vua xuống
chiếu đặc biệt dựng Pháp Hoa Đạo Tràng.
Dọc theo Trường Giang về phương Đông, kiến
lập mười bảy chỗ, đều do sức của
Tuân pháp sư. Sư lại c̣n chọn ra hai
mươi bảy vị Tăng hạnh chuyên ṛng để
thường tŕ kinh này ḥng báo ân vua. Sư lại đúc
tượng Lô Xá Na Phật, dựng tháp Đa Bảo, tạo
tượng Di Đà, chép ba bộ lớn (Pháp Hoa Huyền
Nghĩa, Pháp Hoa Văn Cú, Ma Ha Chỉ Quán) đầy khắp
đạo tràng.
Về sau, Sư hành Pháp Hoa
tam-muội tại Linh Nham, bỗng thấy ánh sáng to lớn
túa lên trời. Tuân pháp sư ngự trong chánh niệm, nghiễm
nhiên ở trong quang minh. Hôm sau, Sư đem chuyện ấy
hỏi ngài Kinh Khê Trạm Nhiên, Ngài bảo: “Quang minh trí huệ
từ tâm lưu xuất, chẳng phải là do ḷng tinh thành
đạt đến cùng cực ư?” Lại có lần
Sư ở trong chùa ḿnh, vào Pháp Hoa đạo tràng, tự thấy
thân ḿnh ngồi trên không trung. Bậc đă chứng ngộ
trước biết đấy chính là tướng trạng
đă gột sạch phiền cấu. Sư quy tịch,
[trước hôm đó], trong núi ấy có hai vị tăng là
Ích pháp sư và Hàn pháp sư cùng nằm mộng thấy
đại điện đổ nát. Thật ra, đấy
là điềm báo Tuân pháp sư đă mất (theo Đại
Tống Tăng Truyện).
* Vận pháp sư ở Tây Hà
Trong niên hiệu Trinh Quán,
có pháp sư Đàm Vận. Từ bé, Sư đă khác thế
tục, chuyên tụng kinh Pháp Hoa; nhưng hăy c̣n hai quyển
[chưa tụng xong]. Sư vào Hằng Nhạc t́m nơi yên
tĩnh để tụng cho xong bộ kinh ấy. Bỗng
gặp một vị ẩn thiền sư nói: “Tụng
kinh không ǵ chẳng phải là đạo duyên!”… [Nói xong],
Ngài đem âm vận tụng niệm mà ḿnh thường hành
để dạy bảo, Sư kính cẩn hành theo. Sư
đọc kinh tới khi trụ tại Ngũ Đài suốt
hai mươi năm. Thân mặc áo cũ nát, mỗi ngày chỉ
ăn một bữa. Đối với kinh đă tụng
khi trước, tâm chẳng nghĩ mà miệng niệm suốt
ba mươi năm, chẳng sót một chữ nào! Về
sau, Sư thông suốt cả hai quyển sau.
Sư thường muốn
khiết tịnh chép một bộ kinh ấy. Đă mấy
năm mà chẳng
thực hiện được, bỗng cảm vời một
thư sinh đến nói [chính ḿnh] giỏi sao chép. Ngài
Đàm Vận bèn lập quy củ, [thư sinh ấy] liền
[tuân theo quy củ ấy], ở trong nhà đá sao chép. Sáng
vào, chiều ra, bộ dạng khác lạ, thâm sâu. Chưa
đầy mười ngày, bảy quyển
đă trọn đủ. Sư vui mừng, nấu cơm
đáp tạ, bỗng chẳng thấy [thư sinh ấy]
đâu nữa. Về sau, giặc giă loạn lạc, Sư
giấu kinh trong hang đá. Giặc yên, Sư trở về t́m
kinh. Do
chôn trong rừng, rương và vải gói kinh đă mục
nát, nhưng kinh vẫn y như thuở đầu. Sư ngồi
mất tại núi B́nh Dao ở Tây Hà. [Sư thọ] hơn
tám mươi tuổi. Sư ẩn cư trong
núi rừng sáu mươi năm, chẳng màng danh lợi, chẳng
nuôi người hầu, không ghi tên vào sổ sách [quản lư
Tăng Ni của triều đ́nh], chẳng cô phụ trách
nhiệm của chính ḿnh. Đúng là bậc thượng
sĩ đức nghiệp vĩ đại, thanh khiết (Theo
Tục Cao Tăng Truyện).
* Chương pháp sư ở Đông
Kinh
Pháp sư Phó Chương,
người phủ Khai Phong. Cha Sư là phú nông tại ấp
Bành Ân. Ngoài việc thế tục, [ông cụ] luôn tụng
niệm kinh Phật, lại c̣n hiểu ư chỉ giảng
nói [trong kinh]. Mẹ Sư họ H́nh, mộng thấy vào
chùa, tay ôm lấy pháp khí, do vậy mà hoài thai Sư. Cha biết
con là đứa bé khác lạ, chỉ tay vào bụng vợ,
thề sẽ cho con xuất gia. Sư mười một tuổi
nhập đạo, được thầy dạy kinh Pháp
Hoa, Nhân Vương, Tịnh Danh, chẳng bao lâu đă thông
suốt. Tới khi thôi để chỏm, Sư bèn
nghe giảng, học tập kinh Pháp Hoa ở chỗ Lăng pháp
sư. Sư miệt mài nơi pháp thủy suốt hai
mươi năm, chưa từng xao lăng ngày nào. Sư nói kệ
tịch diệt. Khi trà-tỳ, khói hết, lửa tắt,
lưỡi chẳng cháy thành tro. Trước đó, cha của
Sư đọc tụng kinh Pháp Hoa, sau khi mất, hỏa
thiêu, lưỡi cũng chẳng hoại. Cha con có cùng một
chứng nghiệm, đúng là hiếm có! (theo Đại Tống
Tăng Truyện).
* Luân Tăng Lục ở Tinh Châu
Sa-môn Kế Luân, họ Tào,
quê ở Tấn Dương. Tuổi thiếu niên, Sư
đă mang chí lớn, quyết cầu xuất gia. Bổn
Sư truyền dạy kinh Pháp Hoa, Sư mỗi ngày niệm
ba trang, lay động sự tu tập trong quá khứ. Sau
khi đă làm Tăng[13],
Sư học thông thuộc kinh này, thấu hiểu giáo
nghĩa uẩn tàng tột bậc. Do vậy, soạn Pháp
Hoa Kinh Sao ba quyển. Họ Lưu chiếm cứ vùng Tinh
Phần, coi trọng đạo hạnh của Sư, phong
cho Sư làm Hữu Nhai Tăng Lục[14].
Sư đối xử với đại chúng vừa khoan
dung vừa kiên quyết, chẳng ai dám trái nghịch,
chống đối. Một ngày nọ, Sư thị hiện
ngă bệnh, nêu ư nguyện muốn sanh về Tri Túc Thiên
(Đâu Suất Thiên). Sau khi Sư mất, đỉnh đầu
vẫn nóng cả nửa ngày mới lạnh. Sau khi xà-duy
(trà-tỳ, hỏa thiêu), xá-lợi sáng bóng, xa gần tranh
nhau thỉnh về cúng dường (theo Đại Tống
Tăng Truyện).
* Anh pháp sư ở Ngũ Đài
Trong niên hiệu Khai Nguyên
đời Đường, có vị tăng
tên Thần Anh, người xứ Thương Châu. Sư
phúng tụng kinh điển, ngày đêm chẳng lười
nhác. Sư tham học khắp các tri thức, tới núi
Ngũ Đài. Một hôm, Sư vào chơi khu rừng ở
phía Tây chùa, bỗng nhiên thấy một ṭa viện, có biển
đề là Pháp Hoa. Ngài Thần Anh thong thả bước
vào, thấy một ṭa tháp Đa Bảo Phật rực rỡ,
tráng lệ y như kinh Pháp Hoa đă nói. Lại có tượng
Văn Thù và Phổ Hiền bằng ngọc thạch tinh tế,
đẹp đẽ rạng ngời, khéo léo khó lường.
Quy mô của ṭa viện giống như Thập Tự tại
núi Ngũ Đài… Ngài Thần Anh ra khỏi chùa, kể với
chúng Tăng những điều phi thường đă thấy.
[Họ cùng Sư đi t́m], đi chừng ba mươi dặm,
chẳng thấy có ǵ. Ngài Thần Anh buồn khóc nói:
“Đây chính là đức đại thánh cảnh tỉnh ngộ tôi”.
Sư liền kết lều tranh ở lại chỗ
dường như có tháp Đa Bảo, phát nguyện rằng:
“Con sẽ ở trên nền của viện biến hóa này mà
dựng một ngôi chùa, ḥng đáp tạ sự linh ứng”.
Lâu ngày chầy tháng, đàn tín
như rừng, Sư bèn tậu ngọc thạch từ Dịch
Châu cách đó ngàn dặm để tạo tượng hai vị
Bồ Tát, xinh khéo như đă từng trông thấy. Viện
đă hoàn thành, lại đặt tên là Pháp Hoa. Ngài Thần
Anh thuyết pháp, trụ tŕ, chỉnh tề như
được cắt xén vậy! (theo Đại Tống
Tăng Truyện).
* Lân cung phụng ở kinh đô
Sư họ ngoài đời
là Phạm, người Duyện Châu. Cha Ngài không thích Tam Bảo,
hễ thấy Tăng ắt khạc nhổ. Sư có
nhũ danh là Lân Nhi, từ bé, hễ gặp Tăng liền
ngưỡng mộ. Do vậy, Sư trốn nhà xuất gia,
nương vào chùa Quảng Ái tại Đông Đô. Tới
lúc được thọ giới, pháp danh là Tử Lân. Sau
mười một năm, Sư bỗng nhớ cha mẹ,
trở về thăm. Cha đă mù mắt, mẹ mất
đă ba năm rồi. Sư muốn báo ân nuôi nấng, v́ thế,
tới đền thờ thần Thái Sơn (Đông Nhạc
Đại Đế) cầu biết chỗ mẹ sanh về
đâu trong cơi âm. Sư liền trải tọa cụ, một
dạ tụng kinh Pháp Hoa, thề gặp Thiên Tề
Vương[15].
Vương thương xót tâm Sư khẩn thiết,
hiện h́nh hỏi han. Ngài Tử Lân nói: “Mẹ tôi
họ Vương mất đă ba năm rồi, nay ở
nơi đâu?” Kẻ giữ sổ sách của vua nói:
“Vương thị nay đang bị giam trong ngục chịu
khổ!” Từ Lân hỏi: “Mẹ tôi tội ǵ mà đến
nỗi ấy?” Vua nói: “Lúc sanh ḥa thượng, mẹ Ngài
ăn nhiều trứng gà. Lại lấy ḷng trắng trứng
để bôi lên ghẻ nhọt trên đầu”. [Sư than
khóc]: “Mẹ do Lân mà tạo nghiệp, phải chịu khổ
trong ngày nay, há Lân chẳng có phần ư?” [Sư cầu xin mẹ được
phóng thích. Vua
nói]: “Không có cách nào phóng thích. Nếu Sư qua Mậu Sơn
lễ tháp A Dục Vương…”[16]
Sư đối trước [tháp thờ xá-lợi] tại
chùa Chương Sơn, dập đầu xót xa thưa thỉnh.
Lễ tới bốn vạn lạy, bỗng nghe có tiếng
gọi “Tử Lân”. Nh́n lên hư
không, Sư thấy
mẹ ở trong đám mây, cảm tạ: “Do sức của
con, mẹ được sanh lên trời Đao Lợi. Do vậy,
tới báo với con”. Nói xong ẩn mất. Nay trên đỉnh
núi sau chùa A Dục Vương, có Thúy Vi Am chính là nơi
Sư cư trụ. Về sau, Sư giảng giải rộng
răi kinh luận, thanh danh rất hậu. Túc Tông hoàng đế
triệu vào cung cấm để thưa hỏi. Sư biện
tài cao thâm, mẫn tiệp, được vua ban cho áo tía,
phong làm quan Cung Phụng[17]
(theo Đại Tống Tăng Truyện).
* Siêu pháp sư ở Lư Sơn
Vị tăng
Cảnh Siêu luôn tŕ giới, bẩm tánh khuôn phép, chất trực,
chẳng hề cẩu thả, lười nhác. Sư trụ
tại Lư Sơn, chỉ lấy việc tụng kinh Pháp
Hoa làm sự vụ thường nhật. Sư lễ kinh Hoa
Nghiêm mỗi chữ là một lạy,
[lễ như thế] đă
hai lượt. Sư đốt một ngón tay để cúng
dường. Kế đó, lễ
Pháp Hoa, Sư cũng đốt
ngón tay như thế. Từ đó, dưới da nơi thân
Sư ẩn ẩn xuất hiện xá-lợi,
tṛn trặn, bóng sáng. Hễ có người xin, nơi chiếu Sư ngồi,
hoặc chỗ Sư đi đều có [xá-lợi rơi ra].
Trong năm Thiên Phước[18]
đời Thạch Tấn, Sư mất tại am (theo
Đại Tống Tăng Truyện).
* Chân pháp sư ở Lạc Kinh (kinh đô Lạc
Dương)
Pháp sư
tên là Hồng Chân, là con nhà họ Thuần Vu ở Hoạt
Châu. Sư ngộ cơi trần là lồng rọ từ bé, quyết
cầu xuất ly, bẩm tánh chuyên nhất, xuất trần.
Thầy dạy cho diệu pháp, Sư học một lượt
đă thông suốt. Cả đời Sư tụng kinh Pháp
Hoa khoảng một vạn lần… Về sau, Sư đến
triều đ́nh dâng biểu xin thiêu thân để cúng dường
tháp thờ Phật. Vua chẳng đồng ư, ngài Hồng
Chân than thở: “Thiện căn kém cỏi, ma chướng
càng mạnh”. Bèn lui về chùa Quảng Ái, xả sạch
y bát, bố thí bất kể lúc nào. Bỗng Sư ngồi
điềm nhiên qua đời. Qua mấy ngày mà vẻ mặt
vẫn như c̣n sống. Khi đưa Sư đi thiêu hóa,
lưỡi nghiễm nhiên hăy c̣n, càng thêm tươi đỏ.
Người vùng Y Lạc (Lạc Dương) kính trọng Sư như Phật.
Đó là chuyện vào thời Lưu Hán[19]
(theo Đại Tống Tăng Truyện).
* Vị tăng quên mất tên ở
Đàm Châu
Trong niên hiệu Càn Hựu
(948) đời Hán, tại Đàm Châu có một vị
Tăng đă quên mất tên, luôn tụng kinh Pháp Hoa, miệng
chẳng nói lời chi khác. Trường Sa Văn Chiêu
Vương (Mă Hy Phạm) đặc biệt
tôn trọng, triệu vời Sư về Tương Tây Viện
ở phủ Thiên Sách để cúng dường. Nhưng
Sư nói chuyện quỷ dị, một hôm gọi vị
tri điện tăng[20]
sai ông ta hăy mau di chuyển tượng Phật sang hai chái.
Đại chúng đều cho là Sư đă phát cuồng.
Sư trợn mắt cười, trong khoảnh khắc
tự vào chánh điện, chiếm ṭa Phật, nghiễm
nhiên ngồi qua đời. Đạo tục trong cả
châu đều tôn kính, lấy làm lạ (Theo Đại Tống
Tăng Truyện).
* Vị thần tăng núi Tuyên Thành
Dưới thời
Tiền Vũ Túc Vương (Tiền Lưu), có vị Tăng
tên Tự Tân, trụ tại Thụy Ứng Viện, từng
vào núi Tuyên Thành hái thuốc. Sư đi vào động chừng
mấy dặm, bỗng thấy dưới cội tùng bên
khe suối có am tranh. Một vị tăng lông mày trắng
như tuyết, khoác ca-sa tọa Thiền, bên cạnh có một
cái khánh. Tự Tân gơ khánh, vị Tăng mở mắt hỏi
“do duyên nào mà đến đây?” Sư bèn nổi lửa, nấu
trà tiếp đăi. Chiều xuống, Tự Tân được
vị tăng nhường chỗ cho ngủ, chính ḿnh th́
vào trong một cái ổ lớn trên chót cây tùng để tụng
kinh Pháp Hoa, âm thanh tột bậc trong trẻo, khiến
người khác ưa thích nghe. Chốc lát lại nghe quở
mắng: “Bầy súc sanh lông lá này sao lại khổ sở
khiến cho chúng sanh sợ hăi, mau trở về rừng
đi, đi nhanh đi!” Tự Tân liếc nh́n th́ ra là hổ
báo. Sáng hôm sau, Tự Tân xin ở lại hầu hạ
Sư. Sư đáp: “Nơi này toàn là cỏ khô, bốn
phía tuyệt chẳng có khói bếp, chẳng phải là chỗ
thầy cư ngụ được!” Sư lại hái kê, nấu thành cơm đăi ăn rồi
tiễn về, c̣n nói: “Ông ăn món này, cả đời chẳng
thiếu cái ăn”. Tự Tân trở về tự viện,
[mới biết đă rời chùa] hơn một tháng rồi.
Tới khi trở lại t́m [chỗ vị thần tăng ở]
th́ đă quên mất đường (theo Đại Tống
Tăng Truyện).
* Vị tăng ở phủ Thành
Đô
Phủ Thành Đô có vị
Tăng tụng kinh Pháp Hoa hữu công. Tuy Vương Quân và
Lư Thuận[21]
hai phen dấy loạn đất Thục, Sư cũng chẳng
gặp hại. Một hôm, Sư bỗng thấy sơn bộc[22]
nói: “Sáng mai tiên sinh thỉnh Sư tụng kinh, sẽ nghênh
đón ở chợ bán thuốc”. Sư tới nơi th́ có
người đă chờ ở đó, dẫn vào Khê Lănh,
[trông thấy] mấy tầng khói biếc rồi thấy một
ngôi gác trên Khê Sơn, đó chính là chỗ người ấy
ở. Người hầu ra thưa: “Tiên sinh thỉnh
Sư tụng kinh; do già bệnh nên [tiên sinh] thức dậy
chậm trễ. Nếu tụng tới phẩm Bảo Tháp,
xin báo cho biết”. Sư báo [đă tụng tới phẩm
đó], tiên sinh quả nhiên đi ra, mặc y phục nhà quê,
cầm gậy bằng gỗ lê, hai mày rủ xuống tận
vai, lặng lẽ chắp tay, thắp hương, nghe kinh ở
bên cạnh. Lúc mời Sư thọ trai th́ mâm đan bằng
dây mây, đũa tre, cơm nấu bằng hạt kê, [rau bằng] cẩu kỷ và hoa cúc, chẳng nêm
muối hay dầu, nhưng ăn ngon như cam lộ. Dùng
cơm xong, biếu tặng Sư sáu lượng tiền bạc.
Người hầu thưa: “Tiên sinh gởi lời nhắn
Sư đă từ xa đến, tạ lỗi chẳng kịp
đón tiếp”. Người hầu liền đưa
Sư về. Ở trên đường, Tăng hỏi:
“Tiên sinh họ là ǵ?” Đáp: “Họ Tôn”. Hỏi: “Tên ǵ?”
Người hầu liền viết hai chữ Tư Mạc[23] trên bàn tay của
Sư. Sư kinh hăi, người hầu chẳng thấy
đâu nữa. T́m kiếm suốt ba ngày, hoàn toàn đă quên mất
lối. Trở về, nh́n lại món tiền tặng th́ là
một trăm đồng vàng. Trong ấy, có năm sáu phần
là vàng, một nửa c̣n là sắt. Do một bữa
cơm ấy mà Sư thân nhẹ nhàng, chẳng bệnh tật.
Tới niên hiệu Nguyên Hy đời Tống, Sư đă
một trăm năm mươi tuổi, dạo chơi măi
nơi đô thị. Về sau, ẩn mất chẳng thấy
nữa! (theo Sơn Dă Lục).
* Ngang pháp sư ở Tương Châu
Tại Tương Châu, có
pháp sư Đạo Ngang, trụ tại chùa Khai Nguyên.
Sư thường giảng kinh Pháp Hoa. Một hôm giảng
xong, Sư bỗng
thấy thánh chúng cầm tràng phan và tấu nhạc từ
không trung hạ xuống, bảo rằng: “Đâu Suất
Đà Thiên đặc biệt đến đón tiếp”.
Ngài Đạo Ngang nói: “Cơi trời là căn bản sanh tử,
trước nay tôi chưa hề mong. Nguyện của tôi là
Tây Phương”. Nói xong, họ chẳng hiện nữa.
Trong khoảnh khắc, liền nghe tiếng nhạc ở
Tây Phương rộn ră, khác hẳn nhạc khi trước.
Sư vui vẻ, nói: “Đă tới lúc rồi, ta sẽ
đi đây. Mọi người hăy khéo trụ, siêng niệm
Di Đà, cùng sanh về cơi tịnh”. Nói xong, lư
hương rơi khỏi tay, Sư liền ở trên ṭa
cao, nhắm mắt, qua đời. Tứ chúng hết sức
kinh ngạc, tán thán (theo Văng Sanh Lược Truyện).
* Trí Giác thiền sư ở Hàng Châu
Sư húy Diên Thọ, người
đất Dư Hàng. Từ thuở bé, Sư đă biết
kính trọng Phật thừa. Tuổi hai mươi học
tập, tụng niệm Pháp Hoa, thực hiện cả
năm hạnh, mới vừa sáu mươi ngày đă xong
xuôi. Thuở đó, có con dê quỳ nghe kinh. Sư từng làm
quan trông coi tiền thuế ở Bắc Quách, thấy tôm cá
liền mua ngay để phóng sanh hết cả. Sư lấy
trộm tiền công quỹ để dùng phóng sanh. Sự việc
bị phát giác, Sư mắc tội chết. Tiền
vương (vua xứ Ngô Việt) sai sứ quan sát. Nếu
Sư sợ hăi liền giết chết; nếu không th́ tha.
Tới khi [đao phủ] sắp vung đao, sắc diện
Sư chẳng thay đổi, [sứ giả liền vâng lệnh
vua] xá tội ấy. Do vậy, Sư xin xuất gia tại
Thúy Nham ở Minh Châu. Văn Mục Vương (Tiền
Nguyên Quán, vua xứ Ngô Việt) cho phép Sư xuống tóc.
Sư từng hành Pháp Hoa tam-muội tại chùa Quốc
Thanh. Ban đêm thấy thần cầm kích tiến vào.
Sư trách kẻ đó tự tiện bước vào. Thần
thưa: “Con gieo tịnh nghiệp đă lâu mới đến
được nơi đây”.
Lại có một lần,
Sư giữa đêm tu hành xong, hoa sen cúng dường
trước tượng Phổ Hiền bỗng rơi vào
tay. Do vậy, Sư nghĩ tới hai điều nguyện:
Một là nguyện suốt đời thường tụng
Pháp Hoa, hai là nguyện suốt đời rộng lợi
ích các phẩm (các loại chúng sanh). Nhớ tới hai điều
nguyện ấy, Sư lại thích Thiền tịch (tọa
Thiền), chẳng thể tự quyết. Sư bèn làm hai
cái thăm, một đề là “nhất tâm thiền định”, hai là đề “tụng kinh, vạn
thiện trang nghiêm”. Giữa hai con đường ấy, sẽ
có một con đường thành công, cần phải rút
thăm bảy lượt. Sư bèn tinh thành cầu đảo
Phật, Tổ, thuận tay rút thăm. Cả bảy lượt,
đều rút được cái thăm “tụng kinh, vạn
thiện trang nghiêm”. Do vậy, Sư một dạ chuyên
tu Tịnh nghiệp. Sư liền qua đỉnh núi Thiên Trụ,
tụng kinh suốt ba năm. Trong Thiền Quán, Sư thấy
đức Quán Âm dùng cam lộ rưới vào miệng, từ
đó, Sư phát
khởi biện tài của đức Quán Âm.
Thoạt đầu, Sư trụ
tại Tuyết Đậu, sau chọn [trụ tích tại]
Vĩnh Minh. Đại chúng [theo học] tới hai ngàn
người. Người đương thời gọi
Sư là Di Lặc Hạ Sanh. Sư hết sức siêng
năng tinh tấn, mỗi ngày hành một trăm lẻ tám
thiện sự. Sư b́nh sanh tụng kinh khoảng một
vạn ba ngàn bộ, soạn Tông Kính Lục gồm một
trăm quyển. Tác phẩm ấy được
đưa vào Đại Tạng. Tới niên hiệu Khai Bảo[24]
nhà Đại Tống, Sư thị hiện ngă bệnh,
dâng hương, bảo ban đại chúng rồi ngồi xếp
bằng mà tịch (Sự tích của Sư đều
được chép cặn kẽ trong Đại Tống
Tăng Truyện, Tăng Bảo Truyện, Bảo Châu Tập.
Chuyện Sư dùng tiền công quỹ để phóng sanh,
xem trong bộ Đông Pha Đại Toàn).
* Đức pháp sư ở Tứ Châu
Trong niên hiệu Thái B́nh
Hưng Quốc[25],
vị tăng tên Hoài Đức ở Giang Nam, tự ĺa tục,
kính cẩn dùng nguyện để trang nghiêm thân. Sư tụng
thông thuộc Pháp Hoa, do vậy đắc độ. Từ
đó, tuy lên ṭa giảng, Sư rốt cuộc chuyên chú tụng
tŕ. Tuổi già, Sư du hóa bốn phương, lễ tháp của
ngài Tăng Già. Nhà Đại Tống sai sứ giả cầm
phan, hoa dâng cúng. Ngài Hoài Đức thề muốn đốt
thân cúng dường. Trước hết, Sư xả y bát
để đăi trai tăng. Kế đó, dùng giấy làm y
phục quấn thân, tưới sáp, lễ bái, từ tạ
tăng chúng, tay cầm hai cây đuốc, lên đỉnh
đống củi, nổi lửa tụng kinh. Ngọn lửa
bốc cao, thân Ngài nghiêng ngửa, vẫn nghe tiếng tụng
kinh. Người xem không ai chẳng buồn tiếc. Cho tới
khi thu thập tàn cốt, xá-lợi rất nhiều. Sứ
giả trở về tấu tŕnh, vua c̣n phải biến sắc
mặt (theo Đại Tống Tăng Truyện).
* Nham pháp sư ở Hàng Châu
Vị tăng tên Thiệu
Nham là con nhà họ Lưu ở Ung Châu, bảy tuổi nhập
đạo. Kinh sách hễ xem qua, sẽ giống như ôn tập.
Sư du hành khắp nơi, tới Hàng Châu, quải tích tại
chùa Thủy Tâm. Sư luôn tŕ kinh Pháp Hoa chẳng xả suốt
ngày đêm. Chợt cảm vời trên đất nẩy
sanh hoa sen, cả thành chiêm ngưỡng, sư Thiệu Nham
vội đạp cho nát. Nhân đó, Sư phát thệ phỏng
theo ngài Dược Vương thiêu thân. Khi đó, Tiền
vương dốc ḷng tôn trọng, quy kính, khẩn khoản
xin Sư đừng làm. Sư lại ngầm gieo thân xuống
sông Tào Nga để nuôi cá. Sư nhảy xuống sông,
nhưng chẳng ch́m, nói: “Dường như có thần nhân nâng
chân”. Đúng lúc gặp ngư dân vớt lên. Tiền
vương liền dựng Thượng Phương Viện,
vời Sư sống tại đó. Trong niên hiệu Khai Bảo,
Sư cảm bệnh, chẳng dùng thuốc thang, cơm
nước, liền dặn ḍ rằng: “Ta tụng kinh
Pháp Hoa tới hai vạn bộ, quyết dùng đó để
mong về An Dưỡng. Nay may mắn thỏa ḷng ấp ủ”.
Nói xong bèn ngồi mất. [Môn đồ] di quan đến trà-tỳ
ở núi Long Tỉnh, thu được xá-lợi chẳng
đếm xiết. Xương sáng bóng như ngọc. Họ
bèn dùng hộp đá đựng lấy, đặt ở Ảnh
Đường. Thái Sư Tôn Thừa Hựu soạn
văn bia (theo Đại Tống Tăng Truyện).
* Vân thượng nhân ở Hành Nhạc
Sở Vân thượng nhân ở
Hành Nhạc, sanh vào cuối đời Đường, là
người có chí hạnh. Sư từng trích máu chép một
bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dài bảy tấc, rộng bốn
tấc, dày hai tấc. Sư làm hộp đựng bằng
Chiên Đàn cất trong Phước Nghiêm Tam Sanh Tạng. Lại
khắc tám chữ trên hộp rằng: “Nếu mở kinh
này, thề đồng Từ Thị”. Trong niên hiệu
Hoàng Hựu[26]
có quư nhân đến chơi núi, trông thấy, nghi là hư vọng,
sai người dùng kềm phá [niêm phong],
liền có máu như từng sợi chảy ra. Trong khoảnh
khắc, gió, sấm rung chuyển núi, khói mây ùa vào nhà,
[mọi người] sờ soạng, chẳng thấy
đường suốt cả ngày. Quư nhân hết sức
kinh hăi, dốc ḷng thành sám hối. Than ôi! Nguyện lực
dường ấy!
Tôi từng đến
thăm nơi đó, đến đảnh lễ, nh́n kỹ
vẫn thấy tơ máu như cũ. Thiền Nguyệt
Quán Hưu có thơ vịnh rằng: “Dịch b́, thích huyết
thành hà khổ, vị tả Linh Sơn tam hội văn. Thập
chỉ lịch càn chung thất trục. Hậu lai cầu
pháp cánh vô quân” (tạm dịch: Lột da trích máu, v́ sao khổ?
V́ chép Linh Sơn tam hội văn. Huyết mười ngón
cạn thành bảy quyển, cầu pháp sau này ai bằng
ông). Chuyện này được thấy chép trong Lâm Gian Lục.
Trong niên hiệu Thuần Hy, quan Tham Chánh Phạm Thành Đại
đă đi qua chùa này, xin được thấy bộ kinh
ấy, dùng kệ tán thán rằng: “Phật tử chân pháp
thân, hoảng diệu tử kim sắc, tán măn thập
phương giới, tụ vi thất quyển thư, thất
quyển biến hà sa, chấn dược thuyết diệu
pháp. Phi tụ diệc phi tán, thị tắc pháp nhăn quán”
(chân pháp thân Phật tử, màu vàng tía chói ngời, tỏa khắp
mười phương cơi, tụ thành sách bảy quyển.
Bảy quyển cát sông Hằng, phấn chấn nói diệu
pháp, chẳng tụ cũng chẳng tán, chính là pháp nhăn quán).
* Quang pháp sư ở Kỳ Châu
Tại chùa Vĩnh Lạc ở
Kỳ Châu, có vị tăng tên là Đạo Quang. Sư là
người thuần hậu, được xóm làng tôn kính.
Sư từng trích huyết ḥa mực để chép một
bộ kinh Pháp Hoa. Bên cạnh mỗi ḍng đều vẽ vời
tô điểm như giọt mưa trên hư không, chỉnh
tề như cá bàng chài[27]
quây quần, đều do sức tinh tấn tạo thành,
hương tri kiến hun xông. Nếu chẳng phải
như vậy, sao có thể vi diệu dường ấy? Lại
nữa, trong một hào tướng, thấy một vạn
tám ngàn cơi Phật, trong một sát-na nhập Vô Lượng
Nghĩa tam-muội, gọi là “báo Phật ân”. Kinh hành,
nói năng, im lặng, không ǵ chẳng phải là thọ dụng.
Tôi từ phương Bắc trở về, trông thấy bộ
kinh ấy do Sư chép, xét hành vi của Sư, đúng là
tương ứng với ngôn ngữ của Phật, Bồ
Tát, há c̣n có ư niệm thế gian ư? Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Niệm
niệm bất dữ thế gian tâm hợp, thị đại
tinh tấn” (niệm nào cũng chẳng dính dáng đến
thế gian, th́ là đại tinh tấn). Đó chính là [nói về]
sư Đạo Quang vậy (theo Thạch Môn Văn Tự
Thiền).
* Ngôn Pháp Hoa ở kinh đô
Ngôn Pháp Hoa chẳng biết từ
đâu tới, Ngài du hành tại kinh đô. Thoạt đầu,
thấy Sư trụ tại Câu Chi Viện thuộc Cảnh
Đức, phạm tướng lạ lùng, cổ xưa,
nh́n thẳng chẳng nháy, mồm luôn
mấp máy chẳng biết Sư đang nói ǵ. Tương
truyền là Sư đang tụng kinh Pháp Hoa; v́ thế,
[đại chúng] gọi là [Ngôn Pháp Hoa]. Ngài ăn uống chẳng
chọn lựa, đạo tục gọi Ngài là “cuồng
tăng”. Khi Tống Nhân Tông, chưa lập Thái Tử,
vào ban đêm, thắp hương cầu khấn: “Ngày mai,
con thiết trai tại điện Hóa Thành, thỉnh Pháp Hoa
đại sĩ giáng lâm”. Sáng ra, vua khoác pháp phục chờ
đợi. Bỗng có người tâu rằng: “Ngôn Pháp Hoa từ
cửa ngách bên phải đi vào tẩm điện, quát
Sư ngưng lại chẳng được”. Vua cười
bảo: “Trẫm thỉnh Ngài đến”. Đă đến nơi, Sư thăng
lên giường ngự, ngồi xếp bằng, thọ
cúng xong,
Vua nói: “Trẫm do chưa lập Thái Tử, các đại
thần đều bàn tán. V́ thế trẫm muốn biết
có con cái hay không, xin Đại Sĩ quyết đoán cho!”
Sư cầm bút viết: “Thập tam, thập tam” mấy chục hàng. Vua không hiểu
ư Sư. Về sau, Tống Anh Tông[28]
lên ngôi vua, chính là con trai thứ mười ba của Bộc
An Ư Vương, mọi người mới hiểu ư ấy.
Lúc sắp mất, Sư nói: “Ta từ vô lượng kiếp
đến nay, thành tựu quốc độ Thệ Đa,
phân thân hoằng dương, giáo hóa, nay trở về Nam”.
Nói xong bèn tịch (theo Tăng Bảo Truyện).
* Ân Pháp Hoa ở Diêu Giang
Phía trên Long Tuyền ở
Dư Diêu có vị tăng tên là Thiệu Ân, chẳng biết
người thời nào! Sư chuyên tụng
kinh Pháp Hoa làm đức nghiệp. Khi đó, tại Hổ
Khâu có bậc tu nhă trong họ Thích[29]
soạn ca từ để tán dương chuyện ấy.
Ư nghĩa ca từ rạng rỡ, trác tuyệt xưa nay. Hạnh
nghiệp của ngài Thiệu Ân tuy chưa được
ghi chép trong truyện kư, nhưng xem kỹ bài ca ấy, đủ
thấy công hạnh tụng niệm, tu tập của
Sư. Nêu đại lược như sau: “Sắc núi trầm
trầm, khói tùng bảng lảng, dưới khu rừng vắng,
trên tảng đá to, có một vị tăng, xếp bằng
trên đó, cầm ngang tích trượng, tụng kinh Sen Trắng,
từ sáng đến tối. Bên phải, bên trái, dấu cọp,
vết sói, mười đống, năm đống, hoa
chất tán loạn. Ngẫu nhiên gặp gỡ, chưa biết
sâu xa, chẳng biết người thời nay, hay người
thời xưa. Sư là Đàm Ngạn, hay là Đàm Dực?”
Cho
đến nói: “Người đời nếu thấy,
h́nh dáng của sư, ai biết tâm sư? Người đời
dẫu biết tâm sư, ai có thể biết tên sư?
Sư tên Y Vương Hành Phật Lệnh, đến trị
tâm bệnh cho chúng sanh nhọc nhằn, có thể khiến
cho kẻ cuồng đắc định, kẻ nhơ
được tịnh, kẻ tà được chánh, kẻ
phàm thành thánh. Như thế th́ không chỉ loài người
cung kính, mà cũng sẽ khiến cho rồng, quỷ tán vịnh.
Há phường trái giác xuôi theo trần lao chẳng đảnh
lễ, quy mạng ư?”
* Cổ thiền sư ở Linh Phong
Trong niên hiệu Kiến Trung
Tĩnh Quốc (1011), có Cổ thiền sư, đạo hiệu
là Linh Phong Tẩu (ông già ở Linh Phong). Lúc mười ba tuổi,
Sư do nghe người khác tụng kinh Pháp Hoa, bỗng
như trở về chốn cũ, do vậy bèn niệm
kinh ấy. Chẳng mấy tháng đă thông suốt. Các anh cho
là có thể dạy bảo, bèn ngăn cấm, bắt đọc
sách Nho. Sư liền bị bệnh mắt chẳng lành,
bèn cầu nguyện với Tăng Già đại sĩ[30].
Bỗng Sư mộng thấy sét đánh trúng mắt,
đang ngủ gào to, mọi người kinh hăi đến
xem, thấy mắt đă hết bệnh. Sư bèn xin xuất
gia, quả nhiên thi đậu [cuộc khảo
hạch về] kinh này. [Tăng quan] tâu lên [triều
đ́nh], Sư được
phép xuống tóc. Sau đó, Sư tham học
ba mươi năm; do vậy, lơ là việc tụng
niệm. Tuổi già, Sư nghĩ tới, bèn tụng thử,
chẳng sót một chữ. Sư lại tham cứu rỗng
rang ư chỉ của kinh, tham cứu thấu hiểu “ư tổ
sư từ Tây qua”, cảm ân sâu của Phật, liền
dựa theo đề cương của từng phẩm,
viết thành ba mươi hai bài tụng. Bài đầu tiên
là: “Huưnh tuyệt ngôn tư xưng diệu pháp. Bổn lai
thanh tịnh dụ liên hoa. Hội Quyền quy Thật
chân phương tiện. Phổ vị nhân trừ nhăn lư sa” (nói nghĩ dứt bặt
gọi diệu pháp. Vốn sẵn thanh tịnh ví liên hoa. Hội
Quyền về Thật, chân phương tiện. Trừ
cát trong mắt cho mọi người). Bài tụng cuối
cùng như sau: “Bất thuyết thuyết kinh siêu tích tích,
bất ngôn ngôn cú hiển huyền huyền. Thảng nhân
kích tiết khai tâm nhăn. Nhất hội Linh Sơn thượng
nghiễm nhiên” (chẳng nói, nói kinh vượt mọi
Tích. Chẳng
bảo,
mọi câu hiển lẽ huyền. Nếu do khơi gợi,
khai tâm nhăn. Một hội
Linh Sơn vẫn nghiễm nhiên).
* Khả thiền sư ở Lư
Sơn
Thích Tổ Khả, tự
Chánh B́nh, là con của Tô Bá Cố[31]
ở Tây Thục, em của Dưỡng Trực (Tô Tường). Trong niên hiệu Sùng Ninh[32],
Sư trụ tại Lư Sơn. Thuở bé, theo đuổi
học vấn trong gia đ́nh, dự vào Giang Tây Thi Phái[33],
tài năng sâu thẳm, ư tưởng sâu xa, tao nhă, chẳng
kém cổ nhân. Một hôm, Sư bỗng mạnh mẽ tỉnh
ngộ, nói: “Diện mạo đă vào Thu, cứ chuyên ngâm
vịnh, nếu bỗng bị ma chết lôi đi, chiến
tướng nào bày ra để đối địch?”
Do vậy, Sư yết
kiến bậc kỳ túc, thưa: “Trong tạng thừa bí
điển, kinh nào là thù thắng?” Bậc kỳ túc bảo:
“Pháp Hoa là vua trong các kinh”. Cố nhiên, Tổ
Khả tin
tưởng, bèn cung kính xem xong, nói: “Kinh này tạm được,
chỉ có hai câu ‘hương phong xuy ủy hoa, cánh vũ
tân hảo giả’ (gió thơm cuốn đi hoa héo, lại
mưa hoa mới đẹp) là khá xứng hợp
với ư trong đoạn sau!” Do Khả Cố coi
thường, thốt ra lời ấy, liền mắc bệnh
Ca Ma La (bệnh cùi), khắp thân thối nát, chẳng thể
gần, cả ba mươi năm mới mất. V́ thế,
trong tùng lâm gọi Sư là Lại Khả (ông Khả cùi).
Kinh dạy: “Nhược kiến thọ tŕ thị kinh giả,
xuất kỳ quá ác, thử nhân hiện thế đắc
bạch lại bệnh” (nếu thấy người
thọ tŕ kinh này mà nói lỗi ác của kẻ đó, người
ấy trong đời này sẽ bị bệnh bạch lại)
có thể suy ra mà biết: Phật ngôn chẳng hư huyễn
vậy! (theo Chú Pháp Hoa Kinh).
* Quán đại sư ở Hàng Châu
Sư tên là Thiện Thăng,
là hậu duệ của họ Trọng tại Tiền
Đường. Sư mười tuổi xuất gia,
mười lăm tuổi thông thạo kinh Pháp Hoa. Mười
bảy xuống tóc, sang Đông Kinh học đạo ba
mươi năm, giao du với bậc cao nho, hoặc
người thông đạt đạo Thích, thấu hiểu
Phật học sâu xa. Trong niên hiệu Thiên Hy[34],
Sư vâng chiếu làm Tăng Lục, cùng với Giản
Trường v.v… chú thích Ngự Chế Pháp Âm Tập, Sư
được dự vào trong số những người
biên soạn. Xong việc, được vua ban hiệu,
Sư liền trở về quê. Trong niên hiệu Khang Định[35],
Sư vào núi Thiên Trúc, sống tại Nhật Quán Am của
Tuân Thức Sám Chủ. Sư chẳng xuống núi suốt
mười mấy năm, tụng kinh Pháp Hoa hơn một
vạn biến. Tôi tới Tiền Đường, liền
vào núi gặp. Sư khỏe mạnh, tinh tường, sáng
suốt, nói năng như cũ. Một hôm, Sư gửi
thư nói: “Nguyện của tôi đă trọn rồi, sắp
qua đời. Người ta ắt sẽ chôn tôi
dưới tháp. Xin ông ghi nhớ, ngày sau sẽ đem thiêu
hóa”.
Do vậy, tôi soạn bài minh rằng: “Sơn nguyệt
đ́nh đ́nh hề sư chi tâm, sơn tuyền lănh lănh hề
sư chi cầm, kỳ tánh tồn hề thục vi cổ
kim. Liêu chí chi hề Thiên Trúc chi sầm” (Trăng soi đỉnh
núi ṿi vọi, ấy là tâm Sư, nước khe núi lành lạnh,
ấy là tiếng đàn của Sư. Tánh ấy tồn tại
nào phân xưa nay. Tạm gởi chí
nơi đỉnh Thiên Trúc) (Phạm Văn Hy ghi, xem trong
bộ Thánh Tống Văn Hải).
* Đoan Sư Tử ở Hồ Châu
Sư tên là Pháp Đoan, họ
ngoài đời là Khâu, người xứ Ô Tŕnh. Từ lúc
thôi bú sữa, Sư liền chẳng ăn mặn. Chưa
đến tuổi hai mươi, Sư đă thi khảo
hạch kinh điển. [Trúng tuyển], Sư xuống tóc,
theo tu học tại Giải Không Viện ở Ngô Sơn. Thoạt
đầu, theo pháp sư Tường Phù Tịnh Giác học
Thai Hành Tam Quán. Về sau, Sư đi tham học khắp
nơi. Sư đắc pháp đạo [của thiền
phái] Hoàng Long, ba lượt chuyển dời đến Tây Dư, thường
thực hiện sư tử hống. Lại c̣n làm sư tử
hư, mọi người gọi Sư là Đoan Sư Tử.
Về sau, Sư lui về trụ tại Quy Vân Am ở Ngô
Sơn, suốt
ngày đêm tụng kinh Pháp Hoa. Làm thơ rằng: “Niên lăo
hoàng hoàng thần cánh thanh, dạ thâm u thất tụng liên
kinh. Nhi tôn thùy giác ưng hiềm ngă. Thạch bản thời
xao tam tứ thanh” (Tuổi già hoảng hốt, càng thanh
tỉnh, đêm sâu thất kín tụng kinh sen. Cháu
con say giấc càng bực lăo, khánh đá lại khua ba bốn
phen).
Có mộ của mẹ Sư
ở trước núi khoảng một dặm. Mỗi sáng,
Sư thong thả đi đến đó
tụng kinh một bộ rồi mới về. Người
ở Hồ Châu tranh nhau thỉnh Sư tụng kinh. Sư
nhất quyết [người thỉnh] phải có đủ
năm trăm đồng mới bắt đầu tụng
kinh. Đọc mấy câu rồi Sư liền cầm
tiền bỏ đi, hễ gặp người đói lạnh
bèn cho hết.
Sư chuộng lời ca từ của ngư phủ, hễ
sáng trăng bèn ngâm ngợi cho tới sáng! Tại
Tráp Khê (Chiết Giang), có vị tăng tên là Hồi Đầu,
dẫu hàng sĩ phu cũng tin vào sự hư vọng của
hắn;
Tú Châu có gă
cuồng tăng hiệu là Bất Thác, thuyết pháp cuồng
loạn cơi đời, Sư đều có thể phá trừ[36].
Du Tú Lăo viết bài sớ trần thuật chuyện Sư
khai đường thuyết pháp như sau: “Xô ngă Hồi
Đầu, đạp ngă Bất Thác, bảy quyển kinh Sen
chưa tụng, một tiếng ca ngư phủ đă nghe
trước”. Sư nghe lời ấy, liền lên
ṭa ngâm rằng: “Vốn là một gă câu cá ở Tiêu
Tương, từ Đông, từ Nam, từ Tây, từ Bắc”.
Đại chúng khen hay. Sư nói: “Ta quán pháp của
đấng pháp vương, pháp của đấng pháp
vương là như thế”, liền bước xuống
ṭa. Về sau, Sư do bị bệnh liền mất,
thọ bảy mươi hai tuổi. Người Đông
Ngô thờ phụng, gọi Ngài là Tán Thánh (Sư có ngữ
lục, cũng xem trong Tăng Bảo Truyện).
* Oánh giáo chủ ở Minh Châu
Sư húy là Oánh, chẳng biết
pháp tự, trụ tại Quảng Nghiêm Viện ở Giang
Đông, là môn đệ của tôn giả Diên Khánh Pháp Trí, bẩm
thừa Giáo Quán, bản lănh sâu xa. V́ thế, người ta
gọi Sư là Giáo Chủ. Sư từng dùng bạc [ḥa mực]
để chép một bộ kinh Pháp Hoa gồm bảy quyển.
[Đối với] danh tự của Phật, Bồ Tát
trong ấy th́ đổi sang viết bằng chữ vàng.
Bút pháp cứng cáp, vượt xa giới thư pháp, kinh
đựng trong hộp có trục ngọc, người
trông thấy đều kính sợ. Rốt cuộc, Sư
quy tịch tại viện ấy, mộ tháp hăy c̣n. Nay kinh ấy tuy đă trải qua nhiều năm, vẫn
nghiễm nhiên c̣n đó. Trong niên hiệu Kiến
Viêm[37],
viện đường bị cướp phá nát, trong đống
ngói sỏi, chỉ t́m được một bộ kinh ấy.
Trong niên hiệu Thuần Hy[38],
có Pháp Liên Giảng Chủ trụ tŕ [chùa ấy]. Một
hôm, Sư đang ngủ say, bỗng nghe có tiếng huyên náo như
tiếng ngàn vạn người. Sư kinh hăi, chồm dậy
mới thấy là Phương Trượng Biệt Thất
bị hỏa hoạn. Lửa đă bao trùm cả ṭa nhà.
Kinh ấy được đặt trên chiếc đài nhỏ
gác lên trụ. Sư xông vào lửa, đỡ xuống, kinh
chẳng bị tổn hại ǵ. Than ôi! Kinh này hai lượt
trải qua lửa dữ, xa là do công huân Đại Thừa
được thiên long bảo vệ, gần th́ do hạnh
nguyện kiên cố của pháp sư ǵn giữ. Phật dạy
người đọc kinh này, lửa chẳng thể
đốt, đă được ứng nghiệm vậy (Tông
Hiểu đích thân được Pháp Liên Giảng Chủ
kể lại).
* Cửu Pháp Hoa ở Minh
Châu
Vị Tăng tên Khả Cửu ở Khai Nguyên thuộc Minh Châu
thường tụng kinh Pháp Hoa. Người
đương thời gọi Sư là Cửu Pháp Hoa. B́nh sanh,
Sư hồi hướng thiện căn tŕ tụng để
trang nghiêm Tịnh Độ. Năm Nguyên Hựu
thứ tám (1092), Sư không bệnh mà ngồi ngay ngắn
qua đời. Qua ba ngày sau, Sư bỗng sống lại,
nói: “Thần thức của ta dạo chơi Tịnh
Độ. Tướng trạng cơi ấy hệt như sự
trang nghiêm mà Thập Lục Quán Kinh đă nói. Đài sen trong
ao bảy báu đều ghi tên họ người sẽ văng
sanh. Một đài sen tử kim ghi tên Huân Pháp Hoa thuộc Quảng
Giáo Viện tại phủ Thành Đô xứ Đại Tống
đă sanh về đó. Lại có một đài vàng ghi Tôn Thập
Nhị Lang ở Minh Châu. Lại
có một đài vàng ghi tên Cửu Pháp Hoa ở Minh Châu. Lại
c̣n một đài bạc ghi tên Từ đạo cô ở
Minh Châu”.
Nói xong, Sư lại ngồi mất. Năm năm sau, quả
nhiên Từ đạo cô ngồi qua đời. Lúc bà mất,
mùi hương lạ đầy thất. Mười hai
năm sau, Tôn Thập Nhị Lang mất; khi đó, nghe tiếng
thiên nhạc. Tướng lành linh ứng trùng điệp, mọi
người đều ngưỡng mộ (theo Long
Thư Tịnh Độ Văn).
* Phạm pháp chủ ở Tô Châu
Sư tên là Tịnh Phạm,
người xứ Gia Ḥa, họ ngoài đời là Thả.
Mẹ mộng thấy quang minh đầy nhà, thấy thần
nhân giống như Phật; do vậy hoài thai Sư. Sư
sanh ra, mới mười tuổi, đă nương vào chùa
Thắng Quả để xuất gia, xuống tóc. Sư theo
hai vị pháp sư là Trạm và Khiêm học giáo, đạt
được truyền thừa. Thoạt đầu,
Sư trụ tại Vô Lượng Thọ Viện, giảng
kinh Pháp Hoa mười mấy lượt. Trong niên hiệu
Đại Quán[39],
Sư tập hợp hai mươi bảy vị tăng tu Pháp
Hoa Sám. Mỗi kỳ, phương tiện và chánh tu gồm
hai mươi tám ngày, thực hiện liên tiếp ba hội.
Ḷng tinh thành cảm thông bề trên, cảm đức Phổ
Hiền truyền thọ pháp Yết Ma, gọi tên “Tịnh Phạm tỳ-kheo”,
tiếng như gơ chuông. Khi đó, tri huyện Trường
Châu là Vương Công Độ đích thân thấy chuyện
ấy, khắc đá ghi lại bài kư.
Sư lại từng mộng
thấy một người mặc áo vàng mời vào cơi âm,
thấy vua (Diêm vương) sai thuộc hạ kiểm sổ
sách, nói: “Tịnh Phạm tỳ-kheo trải nhiều kiếp
số giảng kinh Pháp Hoa”. Liền sai sứ giả đưa
Sư về. Một hôm, trong khi Thiền Quán, toàn thể
đại chúng thấy kim giáp thần nhân hồ quỳ
trước mặt Sư. Lại nữa, trong kỳ tu Sám ở
nơi khác, được Vi Đà Thiên kiểm điểm
trong đại chúng có kẻ nào giới hạnh chẳng
nghiêm tịnh. Sám kỳ tuy đă dự định từ
trước, nhưng sau đó, quả nhiên chẳng tu sám
pháp toàn vẹn được. Lúc đó, quan thái thú ở Cô
Tô là Ứng Công có đứa tớ gái bị quỷ mị
gây rối, liền thỉnh Sư truyền giới. Yêu quái
ấy liền diệt. Cát thị thỉnh Sư thí giới
để siêu độ chồng, thấy chồng nhiễu
quanh Sư ba ṿng rồi rời đi. Ông Giả là quan
Đăi Chế[40],
thấy đạo hạnh của Sư liền bổ nhiệm
Sư làm quản nội pháp chủ. Sư truyền tŕ
hơn bốn mươi năm. Sau khi mất, hỏa thiêu,
thâu được xá-lợi ngũ sắc (theo Bảo
Châu Tập).
* Minh Ngộ pháp sư ở Hồ Châu
Đại sư Nhược
Quán, người ở trấn Thế Ô, họ ngoài đời
là Tiền. Sư xuất gia tại Gia Hội
Viện, lập hạnh tót vời, tứ chúng khâm ngưỡng.
Năm Thiệu Hưng 18 (1148), Sư từng kết mười
vạn người cùng tu hành Tịnh nghiệp. Bảng
khuyến hóa ghi: “Tôi trộm nghĩ sanh tử không ngằn
mé, luân hồi chẳng dứt. Chỉ có về An Dưỡng
là chẳng thoái chuyển. Tôi ẩn giấu tung tích chốn
núi non, sanh diệt mộng huyễn gần hai mươi
năm, chẳng vào thành thị. Thường xem hai kinh Pháp
Hoa và Kim Quang Minh, mỗi ngày một trăm lượt. Tính
ra đă sáu mươi vạn bộ, thề cùng pháp giới
chúng sanh trang nghiêm Tịnh Độ. Người nhập hội
mỗi người niệm Phật hiệu mười vạn
tiếng. Người đắc đạo trước sẽ
lần lượt độ thoát người sau. Người
mạng chung trước sau đều cầm hoa sen văng
sanh Tịnh Độ”. Một hôm, Không Tướng Giảng
Chủ đến thăm. Thọ trai xong,
Sư bỗng cầm bút viết kệ, rồi ngồi xếp
bằng qua đời. Ngài Không Tướng chứng minh
[tướng trạng văng sanh của Sư] hết sức
khác lạ thù thắng. Hôm trà-tỳ nhằm ngay lúc giữa
trưa, xá-lợi đua nhau xuất hiện, sáng ngời
chói mắt. Đạo tục tranh nhau nhặt lấy, xương
cũng chẳng c̣n. Than ôi! Sự tụng tŕ của Sư
trong cơi đời chưa từng có. Phàm kẻ thấy
nghe, không ai chẳng bội phần ca ngợi! (theo Bảo
Châu Tập).
* Bao pháp sư ở Ôn Châu
Sa-môn Khế Bao, gởi thân
trong nhà họ Từ, là người xứ Hoành Dương
nơi đất Đại. Từ bé, Sư đă ôm chí hướng
xuất tục. Sư đắc độ nơi Thọ
Thánh Viện, là người giản dị, thận trọng,
thông sáng. Cho đến khi tham học, do đến Bách Việt,
trông thấy hạnh nghiệp của thiền sư Đàm
Dực ở núi Thiên Y, Sư xúc động,
ngưỡng mộ, bèn phát tâm suốt đời tụng
kinh Pháp Hoa. Từ đấy, Sư trở về quê nhà, chẳng
dính líu đến việc đời, một dạ tuyên
dương, tŕ tụng. Cho đến cuối Đông,
khi niên hiệu đổi thành Chí Ḥa (1054), Sư
niệm Phật suốt bảy ngày, tắm gội, thay áo,
xưng tụng Phật hiệu mà qua đời. Thường
ngày, đối với các kinh chú Đại Thừa, danh hiệu
của Phật, Bồ Tát th́ Sư hoặc ra rả niệm,
hoặc trích máu biên chép. Nếu nh́n vào các ghi chép, sẽ [thấy
hành trạng của Sư] được ghi chép trong các tác
phẩm riêng; ở đây, chẳng thể thuật trọn.
Đương thời, hàng
văn sĩ đến thăm tháp của Ngài, phần nhiều
để lại thơ vịnh. Nay nêu đại lược
ba chương, ngơ hầu [độc giả] có thể thấy
muôn một công hạnh của Sư vậy! Châu Khản ở
Vĩnh Gia đề thơ rằng: “Phi sương phi lộ.
Hàn không, hàn dạ, dạ dạ bán băng, lan can tử hoàng,
thiên chúng hiệp chỉ, chưởng thính tụng tự.
Tự đáo nhật thượng” (Sương
tuôn, móc rưới, trời đêm rét buốt, đêm lạnh
băng đọng, lan can sắc tía, chư thiên chắp
tay, lắng nghe giọng tụng, cho đến sáng bừng).
Trường Cát ở Thiên Thai đề thơ: “Kim nghê
hương phún không nhàn đường. Kinh thanh tùng vận
ḥa thanh thương. Tây phong nguyệt lạc hàn dạ
trường. Bạch phù dung măn tâm địa hương”
(Tạm dịch: Nghê vàng[41]
hương tỏa viện thanh nhàn, thông quyện tiếng
kinh vang thánh thót. Trăng lặn, gió Tây, đêm buốt
lạnh.
Phù dung thơm ngát cơi tâm điền). Có danh nhân chẳng ghi
tên họ nói: “Ưng hướng Thứu phong thân đắc
kư. Đề hồ hương vị măn tâm điền.
Nhân gian kiếp thạch chung tu hoại. Nan hoại ngô
sư thiệt thượng liên” (Linh Sơn đáng
được thân thọ kư, hương vị đề
hồ ngập tự tâm, kiếp thạch[42]
nhân gian dầu có
hoại, lưỡi thầy vẫn khó hoại sen hồng) (theo Chi Viên Tập).
* Pháp sư Thanh Biện ở Nam B́nh
Pháp sư Ôn Tề sanh trong
nhà họ Châu ở Tiền Đường. Sư xuất
gia chuyên học tập giáo nghĩa Thiên Thai, thâm nhập chỗ
sâu thẳm của Pháp Hoa, tiếng tăm rền khắp.
Sư bảy lượt ngồi đạo tràng, người
theo về như mây. Lúc sư trụ tŕ Nam B́nh, viên Xu Mật
Sứ là Tưởng Dĩnh Thúc tặng thơ rằng: “Đạo
nhân trùng diễn liên hoa giáo. Phật Lũng gia
phong hảo đế thính” (Đạo nhân nhiều
lượt giảng kinh Sen, Phật Lũng gia phong măi khéo truyền).
Sư từng nói: “Ta thấy Pháp Hoa Nhất Thừa
đă được bậc tiên hiền nhiều phen tán
dương, trần thuật, nhưng chưa nghe nói có vị
nào dùng kệ để phu dương. Xưa kia, Thiện
Huệ đại sĩ[43]
ca tụng
kinh Kim Cang trọn chẳng chán. Ta thuở bé đă từng
học theo cái học của bá gia trong sáu kinh đạo
Nho, thích viết thơ thẩn. Nay tuy già lụn, đối
với chuyện này, gieo vần cũng chẳng xấu hổ
vậy!”
Do vậy, đối với mỗi phẩm trong hai
mươi tám phẩm [của kinh Pháp Hoa], Sư đều đặt
một bài tụng. Đối với phẩm Tự, Sư
viết: “Nhất đa thâm diệu tích niên hy, vân ảnh
phi hoa ảnh tượng kỳ, Di Lặc, Văn Thù lưỡng
nhiêu thiệt, thỉ tri cung bẩm cựu oai nghi” (tạm
dịch: Một nhiều thâm diệu nhiều năm hiếm,
mây rợp hoa bay cũng lạ kỳ, Văn Thù, Di Lặc cùng đua tiếng, mới
hay vốn giữ cựu oai nghi). Đối với phẩm
Phương Tiện th́ viết: “Trùng quan vô kiện thán
nan nhập, diệu thủ xao khai xứ xứ thông. Mật
diệp tàn chi đốn linh lạc. Trác nhiên cao cách chiến
thanh phong” (tạm dịch: Cửa nhiều tầng
mà không
ch́a khóa, chỉ đành than thở khó vào suông. Tay khéo nếu
như vừa gơ, mở. Nơi nơi chốn chốn thảy đều thông.
Lá dày, cành úa mau rơi rụng. Phong cách cao vời thách
gió Đông). Các bài tụng này đă có bản in
lưu hành từ trước, chỉ chép một hai bài, ngơ
hầu đồng đạo ngưỡng mộ!
* Dĩnh pháp sư ở Hồ Châu
Trong niên hiệu Đại
Quán, tại Ngô Hưng có pháp sư Nguyên Dĩnh truyền dạy
tông [Thiên Thai] tại Phật Lũng. Sư nghĩa học
rộng sâu, tôi đích thân thấy trước thuật của
Sư được ghi rất nhiều trong các mục
lục giáo điển. Trong đó, có bộ Pháp Hoa Tục
Linh Thụy Tập, cơi đời chưa được thấy
tác phẩm ấy. Về sau, t́m cầu khắp nơi, quả
nhiên t́m được. Sách ấy gồm hai quyển, ghi
chép hơn một trăm người, chia thành mười
khoa: Một là Phổ Hiền chứng minh, hai là diệu
nhân thành tựu, ba là quỷ thần cung kính, bốn là cầm
thú khâm phục, năm là sở nguyện thành tựu, sáu là
hóa Phật đến đón, bảy là văng sanh Tịnh
Độ, tám là quả báo sanh thiên, chín là lưỡi chẳng
hư hoại, mười là hương quang biểu lộ
điềm lành. Ấy là v́ Phật Thừa là một,
nhưng cảm vời tùy theo cơ nghi, thụy tướng
rất nhiều. Nếu Sư chẳng tổng hợp lại
để nêu bày, cơi đời sao có thể biết được?
Cuối cùng Sư kết xướng rằng: “Nếu
coi Thật Tướng là Pháp Hoa th́ các kinh, các hạnh, không
ǵ chẳng phải là Pháp Hoa. Nếu coi chuyện hy hữu
là điềm linh ứng tốt lành, thân này, thân khác,
không ǵ chẳng phải là điềm lành linh ứng. Nay
riêng v́ lẽ này, gom các sự tích lạ lùng, nguyện cho
người thấy nghe cũng sẽ đạt
được điều mà người con Phật
đáng nên đạt được”.
* Nhă xà-lê ở Hàng Châu
A-xà-lê Tùng Nhă, người xứ
Tiền Đường, dốc ḷng tu tập tại Tịnh
Trụ Viện, nương theo thầy Hải Nguyệt
Đô chùa Thiên Trúc, đạt được truyền thừa
Tam Quán của tông Thiên Thai, nhưng không có ư dấn ḿnh vào
cơi đời, bèn nói: “Hâm mộ hư danh sao bằng tu thật
hạnh; nói năng thanh tịnh mà hạnh ô trược, [sẽ
bị] hiền thánh quở trách”. Sư náu
ḿnh tại Thiên Vương Viện ở Nam Sơn, chuyên lấy
đọc tụng làm nghiệp hạnh. B́nh sanh, Sư xem
kinh Pháp Hoa năm tạng[44],
kinh Kim Cang bốn tạng, kinh Di Đà mười tạng,
lễ Phật Thích Ca ba mươi vạn lạy, lễ
tháp thờ chân thân [của ứng thân Phật, Bồ Tát]
mười lượt. [Đối với] mỗi
chữ [trong kinh văn] đều lễ ba lạy
th́ Sư lễ kinh Pháp Hoa [như thế] ba lượt. Lễ
Phật Di Đà một trăm vạn lạy. Tụng Phật
hiệu của Ngài năm ngàn vạn câu. Khi đó, Hiến
Sứ[45]
Dương Kiệt khâm phục sự tinh tu của Ngài, tự
soạn An Lạc Quốc Tán gồm ba mươi
chương biếu tặng. Sư muốn cho hóa đạo
vô cùng, bèn vẽ chân dung tam bối cửu phẩm, ghép vào
bài văn tán dương ấy, cho khắc lên đá tại
Tịnh Trụ Viện. Suốt đời, Sư chẳng
xoay lưng về phía Tây. Ḷng tinh thành như thế đó. Về
sau, Sư chẳng bệnh tật mà ngồi qua đời,
cảm mùi hương lạ đầy nhà, nhạc trời
rền vang hư không. Mọi người đều nói
đó là điềm cảm vời thánh chúng từ Tây
Phương đến đón Sư vậy (theo Bảo
Châu Tập).
* Ác pháp sư ở Hàng Châu
Thích Duy Ác là con nhà họ Kim ở
Tiền Đường, ĺa tục từ thuở thơ dại.
Sư siêng năng dốc sức nơi kinh Pháp Hoa. [Sau khi]
thi đậu kỳ khảo thí kinh sách, bèn được
dự vào gịng pháp. Sư lập chí sâu xa, tĩnh lặng,
đóng cửa, tạ tuyệt mọi chuyện, lắng
ḷng tụng kinh này đủ năm ngàn lượt. Từ
năm Khang Định thứ hai (1041), Sư bắt
đầu duyệt Tạng (xem Đại Tạng Kinh). Cứ
hết một quyển bèn tụng năm quyển Tâm Kinh. Một
tạng đă măn, năm tạng Tâm Kinh cũng trọn vẹn.
Sư ba lượt duyệt Đại Tạng như thế.
Sư xem kinh Hoa Nghiêm hai trăm bộ, kinh Kim Quang Minh
năm ngàn bộ, Tâm Kinh một trăm tạng. Kim Cang, Tiểu
Di Đà, chú Đại Bi, mỗi thứ hai mươi tạng.
Lăng Nghiêm, Viên Giác, Duy Ma, mỗi thứ ba ngàn bộ, kinh
Thiên Phật Danh hai ngàn bộ, tôn hiệu Di Đà một ngàn
vạn tiếng. Tất cả nhân lành đều một dạ
trang nghiêm Tịnh Độ. Mùa Thu năm Sùng Ninh nguyên niên
(1102), Sư bỗng mắc bệnh, kết ấn, ngồi
mất, thọ tám mươi chín tuổi. Hỏa thiêu th́ mấy
chiếc răng chẳng cháy thành tro. Linh Chi Đại Trí Luật Sư ngưỡng mộ
phẩm đức của Sư, đề rằng: “Tôi
từng thấy các vị cao tăng trong ba triều đại
chỉ tu Thiền, tụng kinh, tướng lạ lúc lâm
chung há chẳng phải là tâm thần tĩnh lặng, chú mục
nơi thánh cảnh đó ư? Môn trọng yếu để
xuất ly, không ǵ hơn được pháp này! Cổ đức
đă nói: Làm Tăng mà chẳng dùng mười khoa để
phụng sự Phật, uổng phí trăm năm. Nhắn
nhủ học nhân trong tương lai, há chẳng mong
được bằng Ngài ư?” (theo Bảo Châu Tập).
* Dị xà-lê ở Dư Diêu
A-xà-lê Đàm Dị sanh trong
nhà họ Đỗ ở Diêu Giang, thoát tục tại
chùa Long Tuyền. Trong niên hiệu Hoàng Hựu (1049-1054),
Sư được ân chuẩn đắc độ, tu tập
giáo pháp Thiên Thai tại vùng Lưỡng Chiết[46].
Sở nghiệp đă toại, Sư trở về chốn
cũ. Nếu ép Sư làm trụ tŕ, Sư đều kiên
quyết chẳng thuận. Tuổi già, Sư bế quan, dứt
tuyệt mọi chuyện, chuyên tu Tịnh nghiệp. Sư
tụng kinh Pháp Hoa đủ năm ngàn bộ. Kinh Phổ
Hiền Quán, kinh Di Đà, [mỗi thứ] một vạn quyển,
Phật hiệu chẳng thể tính số. Khi đổi
sang niên hiệu Sùng Ninh (1102), Sư bỗng mắc
bệnh, gọi đồ đệ, dặn họ dâng
hương, bảo rằng: “Đă tới lúc ta sanh về
Tịnh Độ. Ta sẽ nương đài kim cang theo Phật
về Tây. Nguyện [đại chúng] nỗ lực tấn
tu ḥng được gặp gỡ!” Nói xong, tay kết
Phật ấn, đạm bạc ngồi qua đời.
Khi trà-tỳ, lưỡi và xâu chuỗi chẳng hoại, mọi
người đều kính trọng (theo Chi Viên Tập).
* Thông thượng nhân ở Tiền
Đường
Vị Tăng tên Tư Thông,
người Tiền Đường. Lúc mười lăm
tuổi, cha mẹ muốn con lấy vợ,
Sư chán ghét sâu xa tù ngục gia đ́nh, liền trốn vào
núi Thiên Trúc Linh Ẩn, xuất gia tại
chùa Pháp An. Sư lập chí siêng khổ. Hằng ngày, Sư
ra ngoài thành khất thực, đêm chẳng ngủ, chuyên tụng
kinh Pháp Hoa. Tới lúc hai mươi tuổi, Sư ôm kinh
đi thi, liền đỗ kỳ thi tuyển Tăng. Từ
đó, Sư mỗi
ngày tŕ hai bộ; ngoài ra th́ niệm Phật
hiệu. Nếu có kẻ nói: “Tụng kinh là đủ rồi,
cần ǵ phải niệm thêm Phật hiệu?” Sư
đáp: “Mạng chung muốn sanh về nước ấy,
há chẳng hệ niệm trong tâm?” Một hôm, Sư mắc
bệnh thời khí, bèn nói: “Ta trong đêm đă thấy Phật,
Bồ Tát, thánh chúng cùng nói đều đến tiếp dẫn;
hai ngày nữa, ta sẽ ra đi”. Đệ tử là Tổ
An thưa: “Sợ là ma cảnh, chẳng thể vội vàng
theo ngay!” Sư đáp: “Lúc ta mạng chung, nếu nơi
ngực sanh hoa sen, tức là điềm ứng nghiệm
đă sanh về Tịnh Độ vậy”. Hai ngày sau, trời
mới hửng sáng, Sư bảo Tổ An gơ khánh, nói: “Phật
và Bồ Tát đă đầy trong hư không”. Đại
chúng cùng niệm Phật, Sư lặng lẽ qua đời.
Ḍ thử, toàn thân đều lạnh, chỉ có nơi ngực
có một khoảng chừng bằng bàn tay ôn nhuận, h́nh dạng
như hoa sen x̣e nở, quả nhiên phù hợp với lời
Sư đă nói (theo Bảo Châu Tập).
* Chiếu pháp sư ở Tú Châu
Pháp sư Linh Chiếu,
người Đông Dương, sanh ra đă cao cả bất
phàm, có chí nguyện làm Tăng. Từ khi vào Không Môn, Sư
chưa từng nằm xuống, ngày đêm lễ tụng.
Chưa đầy một tháng, Sư đă thông thuộc hai
kinh Pháp Hoa và Kim Quang Minh. Đến tuổi hai mươi,
Sư thi đỗ khoa khảo hạch kinh điển. Sau khi
thọ Cụ Túc, Sư quảy tráp theo học các nơi, thấu
đạt trọn hết đạo Tam Quán của tông
Thiên Thai, thăm viếng các chùa nổi tiếng. Tuổi
già, Sư trụ
tại chùa Siêu Quả ở Hoa Đ́nh. Trong niên hiệu
Nguyên Phong[47],
Sư kết
xă hơn hai vạn người, phỏng theo phong thái của
Đông Lâm, hâm mộ giáo huấn sanh về Tây Phương.
Sư từng mộng thấy Di Đà Tam Thánh, Sư quỳ
hỏi: “Con suốt đời tụng kinh cầu sanh Tịnh
Độ, có được thỏa nguyện hay chăng?”
Ngài Quán Âm chỉ dạy: “Tịnh Độ chẳng xa,
hễ có nguyện liền sanh, chớ nên ngờ nữa!”
Lại nữa, trong đêm
thanh,
Sư tụng kinh, mộng thấy ngài Phổ Hiền, do vậy
liền phát tâm tạo tượng Bồ Tát, thề tụng
một vạn bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa để trang
nghiêm quả báo nơi Tịnh Độ. Sư tụng các
kinh khác chẳng tính nổi số. Sư bỗng nằm bệnh,
bảo đại chúng rằng: “Ta trong khi bệnh thấy
có tướng lạ, quyết sẽ thỏa nguyện sanh về Tịnh
Độ”. Sư bèn xếp chân qua đời. Lúc
xà-duy (hỏa táng), lưỡi chẳng hoại, mềm mại,
tươi nhuận như lúc c̣n sống, xá-lợi tràn trề,
đỏ trắng xen lẫn, há có thể nói chẳng phải
là do sức tinh tấn duy tŕ ư? (theo Chi Viên Tập).
* Trạm pháp sư ở Ô Trấn
Sư họ Tiêu, tên là Duy Trạm,
[gia tộc] nhiều đời sống ở Vĩnh Gia. Mẹ
Sư ban đêm mộng thấy nuốt bảo tháp mà có thai
Sư. Sư ĺa tục từ bé, chuyên tụng Pháp Hoa. Khảo
thí trúng cách, được xuất gia. Sư theo học với
Đông Linh Khâm công, Huệ Giác Ngọc công, Phổ Từ
Thâm công, giồi mài nghiêm mật, đạt trọn hết
lẽ huyền áo. Trong niên hiệu Kiến Viêm, Sư thuyết
pháp tại Thọ Thánh Viện, viết các bộ Quang Minh
Kư, Hộ Quốc Kư v.v… Phàm thực hiện Phật sự,
đều đạt ứng nghiệm. Sư mỗi ngày tụng
một bộ Pháp Hoa, niệm Phật hiệu hai vạn tiếng.
B́nh nhật, Sư ít ngủ. Mỗi lúc nắng
gắt hoàng hôn, Sư ngồi ngay ngắn trong chỗ cỏ
cây rậm rạp để thí cho muỗi ṃng đốt.
Đệ tử thấy Sư tuổi đă cao, xin thôi khổ
hạnh. Sư nói: “Các loài xuẩn động sao có thể
kết duyên thù thắng cùng Pháp Hoa? Khiến cho chúng nó hút máu
ta để gieo chủng tử Đại Thừa! Nguyện
đời đời giải thoát”.
Về sau, Sư thoái cư am
thất, suốt mấy năm chuyên ṛng tu Tịnh nghiệp.
Một hôm, Sư nhiễm bệnh, ngồi nghiễm nhiên
qua đời. Khói trà-tỳ bay tới đâu, chỗ đó
có xá-lợi. Dân chúng thỉnh cầu, đều
được như nguyện. Đoan Sư Tử từng
tham học với Sư, có bài kệ khóc rằng: “Sơn
tăng hà sự dă bi t́nh, vị ức lâm gian thiện hữu
nhân. Vạn bộ liên kinh do vị măn. Thập phương
duyên thục dĩ phân thân. Đ́nh tiền lăo thụ phiêu
hoàng diệp. Vân ngoại thiềm quang tố măn luân. Nhược
vấn ngă sư hành xứ khứ, vô biên giới nội
dĩ thê thần” (tạm dịch:
Sơn tăng sao cũng đẫm buồn thương? V́
nhớ bạn lành chốn núi rừng. Vạn bộ kinh sen
c̣n chửa trọn, mười phương duyên chín đă
phân thân. Cây cỗi trước sân vàng lá rụng, vượt
mây vầng nguyệt sáng mười phần. Thầy tôi nếu
hỏi về đâu tá? Vô biên cơi nước thảy hiện
thân) (theo Bảo Châu Tập).
* Minh Trí pháp sư ở Minh Châu
Sư húy Trung Lập, con nhà họ
Trần ở Ngân Chi. Mẹ mộng thấy vầng mặt
trời xuyên vào bụng mà sanh ra Sư. Sư từ bé đă
cao vời bất phàm, bèn cho xuất gia. Mới chín tuổi,
được thầy dạy kinh Pháp Hoa, Sư vừa mới
đọc đă in sâu vào thần thức. Trong niên hiệu
Gia Hựu[48],
Sư dự thi [khảo hạch kinh điển] ở phủ
Khai Phong, đắc độ, theo xuất gia với ngài Quảng
Trí chùa Diên Khánh tại quận nhà. Sư siêng năng học
đạo, chẳng biết bản lănh sâu tới đâu. Về
sau, Sư được thỉnh trụ tŕ chùa ấy. Từ
đầu đến cuối, trong mười năm, Sư
mở rộng pháp ṭa. Mỗi năm đều chọn lựa
đồ chúng cùng tu Pháp Hoa Sám. Một hôm, trong khi Thiền
Quán, bỗng [mọi người] thấy một chiếc
thuyền to. Đại chúng muốn lên thuyền đều
không thể, một ḿnh Sư qua lại trong đó. Từ
đó, huệ giải phát khởi như suối trào, Sư
giảng Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Pháp Hoa Văn Cú, Ma Ha Chỉ
Quán, mỗi bộ mấy chục lượt. B́nh thời,
dường như chẳng thể nói, nhưng khi giảng
giải, biện định, th́ Sư hùng hồn,
cương nghị, thính giả nghe quên mệt. Suốt
đời,
Sư tụng kinh Pháp Hoa cả vạn lần. Các hạnh
môn khác chẳng dễ ǵ chép đủ. Sư bỗng mắc
bệnh, hai lượt ngửi thấy mùi hương lạ,
bèn triệu tập học tṛ, bảo: “Ai nấy hăy nên tấn
tu, sẽ lại gặp gỡ trong hội của chư Phật”.
Nói xong, Sư hướng
về Tây ngồi mất. Quan Đăi Chế Triều Thuyết
Chi soạn văn bia ghi lại đức hạnh của
Ngài, quả thật là của báu văn chương tại
Tứ Minh vậy!
* Pháp sư Vô Úy ở Minh Châu
Sư tên là Pháp Cửu, họ
ngoài đời là Trịnh, người xứ Diêu Giang. Bảy
tuổi, Sư
xuất gia tại Long Tuyền Tự. Trong niên hiệu Chánh
Ḥa[49],
Sư thi
đỗ khóa khảo thí kinh Pháp Hoa, được xuống
tóc. Tới tuổi năm mươi, quy ẩn nơi núi
Thanh Tu thuộc Minh Châu. Sư phong thái cao đẹp, trí huệ
sắc bén hơn người, đối với chúng sanh chẳng
hề vui giận, cười nói như xuân về. Thoạt
đầu, Sư nghe giảng, tu tập dưới ṭa của
ngài Quảng Nghiêm Trí Dũng. Kế đó, tham học khắp
nơi rồi ở dưới pháp ṭa của ngài Tô Đài
Huệ Giác, khăng khăng dốc sức, chẳng ngại
nóng lạnh, đạt được trọn hết truyền
thừa huyền diệu của tông Thiên Thai. Kế đó,
Sư quảy gói dạo chơi mây nước, gặp ngài
Đại Huệ tại Song Kính, được ấn khả
sâu xa. Hiềm rằng tông phong lôi kéo Sư nhập
thế,
buộc Ngài
trụ tŕ Thanh Tu Viện bảy năm. Ngài mở học
đường, dạy dỗ đại chúng, thầy tṛ
nghiêm túc, hết sức có phong độ của tùng lâm thời
cổ. Trong núi có Sư Tử Nham, Sư bèn lập Vô Úy Thất,
an trụ trong đó. Khóa tụng thường nhật là
mười bộ kinh. Riêng một bộ Pháp Hoa, Sư
tụng tới hai mươi vạn lượt. Cảnh
giới u thâm chẳng ai có thể đạt tới
được!
Thầy Tuyết Khê Hy Nhan từng
làm thơ truy điệu rằng: “Sa khám minh diệt triện
yên tàn. Thất trục liên kinh tại thiệt đoan. Cảo
mộc thân chi song kỷ lănh, lưu tuyền thanh lạc xỉ
nha hàn. Hiểm di nhất tiết chung vô biến. Phục lạp
tam y cánh độc nan. Do hận tê chi tùng thử thỉ.
Đàm huyền vô phục khẩu lan phiên” (tạm dịch:
Bảy quyển kinh sen trên chót lưỡi, giảng ṭa
đèn tắt, khói hương tàn. Thân gỗ héo gầy, song
ghế lạnh. Suối tuôn róc rách, rét run người.
Hiểm, yên một tiết không thay đổi, càng hiếm
ba y suốt trọn năm. Vẫn hận
cơ phong nay dứt bặt, đàm huyền thôi vẳng tiếng
thầy tuyên). Khi đó, có Hà Khuê thuộc Lại Bộ ngưỡng
vọng đạo hạnh của Sư, kết giao làm bạn
phương ngoại. Ông ta từng trong ngày giỗ của
mẹ, cậy Sư thăng ṭa tụng kinh Pháp Hoa. Do ḷng
tinh thành cảm vời [điềm lành], bèn soạn Nhất
Thừa Am Kư để ghi lại phẩm đức của
Sư.
* Chiếu xà-lê ở Hàng Châu
Sư Tư Chiếu người
Tiền Đường. Sau khi đă là Tăng, Sư tham học
khắp nơi, nghiên cứu tông thừa. Do giải đă
đạt được, liền lập hạnh. Mỗi
đêm cho đến canh tư, Sư liền thức dậy,
huân luyện Tịnh nghiệp, xưng tụng Phật danh.
Các tỳ-kheo giải đăi nghe tiếng Sư [tụng niệm],
chẳng dám ngủ yên! Xưa kia, tỳ-kheo Pháp Tạng phát
ra bốn mươi tám nguyện, Sư cũng ngưỡng
vọng phỏng theo, liền cầm lư hương, bạch
rằng: “Cổ Phật chẳng đoạt nguyện của
kim Phật. Kim Phật há trái nguyện của cổ Phật
ư?” Sư tự tin dường ấy. Sư từng
trích máu chép một bộ Pháp Hoa, cứ mỗi chữ là một
lễ. Thực hiện mười lượt như thế.
Như thế cho đến các kinh Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm
v.v… tổng cộng lễ hơn hai trăm bảy
mươi quyển. Sư đọc kinh Pháp Hoa một ngàn
bộ, Quán Kinh năm tạng, Di Đà mười tạng.
Lại c̣n giáo hóa đạo tục kết hệ niệm tịnh
nghiệp hội suốt ba mươi năm. Một hôm,
Sư bị bệnh, đêm mộng thấy thân vàng trượng
sáu. Từ đó, mỗi ngày luân phiên thỉnh bảy vị
Tăng giúp Sư thành tựu mười niệm. Đủ
bảy ngày, Sư ngồi dậy, chắp tay, cùng đại
chúng lớn tiếng xưng Phật hiệu. Hồi lâu,
Sư gập ngón tay kết ấn, lặng lẽ ngồi
qua đời. Xà-duy, răng và xâu chuỗi chẳng hoại,
đại chúng đều thấy. V́ thế, chẳng phải
là giả trá, hư huyễn vậy (theo Bảo Châu Tập).
* Nam thượng nhân ở Hành Châu
Đầu niên hiệu Thiệu
Hưng[50],
tại Hành Châu có vị tăng tên Tổ Nam, trụ tại
chùa Pháp Luân thuộc quận ấy. Kể từ khi xuống
tóc, Sư chuyên tu khổ hạnh, cắt ngón tay lấy máu
chép kinh Pháp Hoa mười mấy bộ, kinh Kim Cang một
trăm quyển, kinh Di Đà năm vạn quyển. Biên
chép như thế suốt hai mươi bảy năm, từ
đầu đến cuối hệt như nhau. Sư
thường niệm Di Đà cầu sanh Tịnh Độ.
Lúc tuổi già, huyết cạn, thân khô, không bệnh tật,
vẫn có thể đi và ngồi
được. Một hôm, Sư yết kiến
phương trượng, gặp mặt rồi trọn chẳng
nói ǵ, bỗng Sư ngồi ngay ngắn, nhắm mắt qua
đời. Hóa ra, ư Sư muốn vị Đường
Đầu chứng minh hậu sự vậy. Sau khi hỏa
táng, nơi giữa mày của Sư tuôn ra ngũ sắc
xá-lợi, chẳng đếm nổi bao nhiêu viên. Đạo
tục thỉnh cầu, đều được như
nguyện. To lớn thay! Phật tử khắc khổ, xét
khắp xưa nay, hiếm ai sánh bằng! Trong lúc tọa
thoát, há chẳng phải là trở về Tây Phương
ư? (theo Bảo Châu Tập).
* Tông đại sư ở Minh Châu
Tại Quảng Phước
Viện ở trong thành, vị tăng Khả Tông, họ
ngoài đời là Dương, người Ngân huyện. Sư bảy
tuổi xuất gia, tụng thông thuộc kinh Pháp Hoa. Hai
mươi hai tuổi, thi đậu khảo thí về kinh
điển, bèn xuống tóc. Sư cốt cách thanh cao hơn
người, chí thú khác người, oai nghi tề chỉnh,
nói năng thận trọng, lập công khóa thường nhật
đọc tụng sách Phật. Hễ rảnh rỗi th́ giở
xem ngoại điển, giỏi thơ phú, khéo viết thư
pháp theo lối chữ Thảo. Đến già, một hôm Sư
bỏ sạch [thơ phú, thư pháp, xem đọc ngoại
điển], dốc ḷng thành tu Tịnh nghiệp. Sư xem
trọn Đại Tạng Kinh một lượt, chín
năm huân tu Pháp Hoa Sám. Đi, đứng, nằm ngồi
thường ở trong đó, chẳng thấy lầm lỗi
của thế gian. Một hôm, Sư ngă bệnh, gọi
đệ tử nói: “Đại sự của ta sắp
tới rồi, các con hăy nên tinh tấn hành đạo, đừng
quên mất lời ta. Ta b́nh sanh tấn tu, chưa từng phạm
giới. Nếu thật sự đắc đạo, chết
rồi ắt có điềm lạ”. Sau mấy ngày,
bỗng trên chân giường nẩy sanh một gốc cỏ
Chi màu trắng, có vằn như hoa sen. Sư trông thấy
bèn nói rằng: “Chỗ ta ở hiện ra điềm này,
đă đến lúc phải đi rồi”. Liền viết
kệ rằng: “Vô kinh khả tụng, vô Phật khả
niệm. Kim nhật lâm hành, đại gia chứng nghiệm”
(Chẳng có kinh để tụng, chẳng có Phật
để niệm, hôm nay sẽ ra đi, mọi người
hăy chứng nghiệm). Sư buông bút, ngồi xếp bằng
qua đời. Người trong quận chen nhau đến
xem.
Quan Thái Thú Đăi Chế là
ông Tần cũng dốc ḷng muốn thấy, bèn khoét đất
chỗ hoa mọc,
thấy điều lạ lùng là đất khô ran mà rễ
cành và hoa mơn mởn. Mọi người tấm tắc
hồi lâu, dâng hương rồi quay về. Bậc hiền
nhân thuở trước đă tán thán rằng: “Kinh khán nhất
Đại Tạng giáo, sám-ma
cửu tải huân tu, dĩ chứng Pháp Hoa tam-muội. Bạch
liên b́nh địa sanh thu” (Xem kinh trọn một
giáo pháp Đại Tạng, huân tu sám hối suốt chín
năm, đă chứng Pháp Hoa tam-muội, đất bằng
sen trắng trổ tươi tắn). Chuyện này xảy
ra vào năm Thiệu Hưng 16 (1146). Viện ấy có ghi lại
t́nh trạng, hoa ấy tới nay vẫn c̣n, nay ghép thêm [h́nh
vẽ hoa ấy] vào tiểu truyện để người
đọc có thể h́nh dung.
* Thật thiền sư ở Minh Châu
Vị tăng trụ tŕ truyền
pháp của thiền viện Nhiêu Ích tại Thạch Môn, huyện
Tứ Minh, là Ngạn Thật
xuất tục từ nhỏ, tụng kinh Pháp Hoa. Đến
tuổi hai mươi, Sư thi
kinh sách, được ân chuẩn đắc độ. Từ
đấy, suốt sáu mươi năm, chẳng quên kinh
nơi tâm và miệng. Tuổi già, Sư trụ tại chùa
Thiên Y ở Thiệu Hưng, giữ chức Thủ Tọa
Liêu. Ngày Hai Mươi Lăm tháng Năm năm Càn Đạo
thứ năm (1170), bỗng từ chỗ chiếu trúc
trải dưới án kinh, sanh ra một đóa hoa lạ.
Hoa ấy màu xanh và trắng, hai cánh có gân nhỏ giống
như hoa sen, mỗi ngày một to hơn, cao chừng một
thước. Tới khi hoa tàn, đến ngày Mười Bốn
tháng Sáu, lại mọc ra một cành, cũng có hai lá, dài bốn
tấc, linh thụy dị thường. Cơi đời truyền
tụng ca ngợi rất nhiều. Trong quận,
có quan thừa ở huyện Vũ Khang là Tăng Tấn yêu
chuộng đạo bèn trần thuật duyên cớ, cho khắc
gỗ in rồi biếu tặng, chỉ có ba ngàn bản.
Nay tôi lại đăng tải, ngơ hầu chuyện này chẳng
bị thất truyền.
* Pháp sư Trừng Chiếu ở Minh
Châu
Ḍng họ của pháp sư
nhiều đời sống tại Từ Khê. Sư họ Trần,
tên là Giác Tiên. Trừng Chiếu là pháp hiệu được
ban tặng. Sư sanh ra thông minh, mẫn tiệp, xuất
gia tại Tinh Tấn Viện. Thầy dạy kinh Pháp Hoa,
Sư vừa đọc đă thông thuộc. Sau khi thọ
giới, thoạt đầu, Sư theo học với
ngài Diên Khánh Minh Trí, lại theo học với ngài Thiên Trúc Huệ
Giác. Sư học hỏi, suy tư, đối với Giáo
Quán của tông Thiên Thai, không ǵ chẳng thấu hiểu. Mọi
người thỉnh Sư trụ tŕ Bảo Lâm Viện. Sư
liên hoàn giảng tập Pháp Hoa Tam Đại Bộ (Pháp Hoa
Huyền Nghĩa, Pháp Hoa Văn Cú, Ma Ha Chỉ Quán), truyền
dạy chưa từng phí uổng ngày nào. Mùa Xuân năm
Tĩnh Khang (1127), trời đại hạn, Sư đối
trước long thiên giảng kinh, trời liền mưa dầm
suốt ba ngày, trăm dặm hoan hô. Đạo tục cảm
kích sự thần dị của Sư, bèn dựng Quang Minh
Tràng để vĩnh viễn nêu bày.
Kế đó, Sư dời
sang pháp ṭa Diên Khánh, khôi phục, hoằng dương giáo
pháp của Tổ, đi khắp trong ngoài. Năm Thiệu
Hưng thứ tám (1138), Sư lui về Bảo Lâm để
tính an cư cho đến hết đời. Ngoài việc
giáo hóa, Sư chỉ lấy Pháp Hoa làm tâm yếu, khóa tụng
hằng ngày chưa hề thiếu khuyết. Sư đă tụng
kinh đến một vạn bộ. Sư chọn chỗ
sâu kín trong [cuộc đất đặt] Phương
Trượng để dựng một gian thất, đặt
tên là Diệu Liên Đường. Sư an trụ trong
đó, chỉ chú trọng một chuyện ấy,
chí mong về Tây. Sư tŕ kinh Di Đà bốn
mươi bảy tạng, tam tâm (tâm quá khứ, tâm hiện
tại, tâm vị lai) đặt nơi Tịnh nghiệp,
có thể nói là “chuyên chú”. Về sau, Sư cảm bệnh nhẹ,
v́ đại chúng thuyết pháp, an nhiên qua đời.
Liêm Bố soạn văn bia ghi
đức hạnh của Sư có đoạn: “Khi Sư
trụ tại Diên Khánh, thầy Nguyệt Đường vừa
tới tham học. Sư biết đó là căn khí thích
đáng, liền bảo rằng: ‘Ông ắt trụ tại
núi này’. Sau này, quả nhiên phù hợp lời ấy. Ngài Nguyệt Đường
sắp mất, liền bảo môn nhân rằng: ‘Nơi tháp của
cụ Trừng Chiếu ở trong lùm cỏ tại Bảo
Lâm, thường có người trong đêm sâu thanh tĩnh
nghe tiếng tụng kinh Pháp Hoa’. Chuyện này rất lạ,
huống hồ Sư trụ trong núi này, truyền tŕ cật
lực. Ta chết rồi, các ông hăy nên dựng riêng một
ṭa tháp tại Tổ Lũng để đón [linh cốt] của
Ngài dời về đó”. Tới khi mở tháp [của
ngài Trừng Chiếu] để rước [linh cốt] về,
thấy trên linh cốt của Sư
mọc một cành ngọc trúc, màu sắc như đồng
xanh!
* Pháp sư Nguyệt Đường tại
Minh Châu
Sư húy Huệ Tuân, đạo
hiệu Nguyệt Đường, họ Trần. Tổ
tiên là người Vĩnh Gia, đến đời ông Ngài,
bèn dời sang Cù Sơn thuộc Minh Châu. Mẹ Ngài từng
mộng thấy một vị Tăng đến nhà hóa
duyên, sau đó có thai Ngài. Từ thuở để chỏm,
Ngài cử chỉ cao vời bất phàm. Do vậy, xả
gia vào cửa Phật, giồi mài trong Tổ Ấn Viện.
Thầy dạy kinh Pháp Hoa, Sư xem đọc mấy
lượt liền thông thuộc, mọi người đều
kinh hăi, lấy làm lạ. Sau khi đă thọ Cụ Túc,
Sư trở về thăm cha mẹ. Bà nội khuyên nhủ:
“Cháu đă xuất gia, hăy nên là vị tăng giống
như một Phật tử trung hậu của Ôn Châu,
đừng quan tâm lưu luyến nhà cha mẹ!” Sư vâng
theo lời dạy ấy, dốc chí học tập. Thoạt
đầu, theo học với ngài Trừng Chiếu chùa Diên
Khánh. Thầy vừa thấy, liền biết là pháp khí. Thuở
đó, ngài Thảo Am là bậc nhất, Sư liền lên
phương Bắc cầu đạo, thông hiểu trọn
hết đạo trọng yếu. Kế đó, Sư muốn
học thêm, bèn tham học khắp vùng Lưỡng Chiết.
Quay về, gặp thầy Viên Biện tại Nam Hồ
đang khôi phục, hoằng dương tông chỉ. Sư
trí giải cao ngất, cơ phong lănh ngộ sắc bén.
Cuối niên hiệu Thiệu
Hưng, Sư được chọn làm Trụ Tŕ. [Sau
đó] qua bốn lượt chuyển đổi, Ngài dời
tới Diên Khánh. Pháp ṭa ṿi vọi, muôn ư chỉ đông đầy,
mọi người ca ngợi Ngài biện tài tuyên
dương thong dong chẳng khác ngài Phú Lâu Na, há chẳng phải
đúng như vậy ư? Sư tuy thuận duyên tiếp
độ chúng sanh, nhưng nội hạnh càng siêng gắng.
Công khóa hằng ngày lấy [tụng trọn hết] bảy
quyển kinh Pháp Hoa là lệ thường. Dẫu lạnh
buốt, nắng gắt, bệnh tật, vẫn chẳng
lười nhác. Suốt mười năm đều
như thế, ngôn lẫn hạnh đều trọn vẹn.
Một hôm, Sư ngă bệnh, khí sắc dường như
sắp ra đi. Đệ tử thỉnh Sư thuyết
pháp. Sư nói: “Há pháp có nói năng ư?” Sư liền
cầm bút viết kệ để bảo ban đại
chúng, xưng Phật hiệu liên tiếp. [Sau đó], hai tay
buông xuống, kết Di Đà Ấn[51],
ngồi xếp bằng qua đời. Theo di ngôn, tuân theo chế
định của Phật [quàn xác] năm ngày sau mới hỏa thiêu, pháp cốt
chia làm hai phần: Một phần đưa về Thân
Lũng ở Cù Sơn, một phần dựng tháp ở Nam
Thành Tổ Nguyên. Có kẻ bàn rằng chư Tổ đều
được táng toàn thân, [không nên chia đôi pháp cốt, họ]
bèn dùng tóc cắt từ đỉnh đầu
của Sư để biểu thị chí nguyện của
Sư. Chưa đầy một năm sau, ngẫu nhiên có học
nhân đến xin mở tháp thờ tóc Sư để chiêm
lễ, bỗng thấy cả một vốc xá-lợi,
tươi sáng lóng lánh. Ghi chép lại chuyện này th́ có quan
Đề Cử là ông Lục Nguyên soạn
bài tán. Ở đây, chỉ ghi lại các điểm chánh yếu
đó thôi!
* Ḥa Pháp Hoa ở Minh Châu
Đời Tống, tại
Quảng Tế thuộc huyện Phụng Hóa, có vị
Tăng tên là Pháp Ḥa, sanh trong nhà họ
Giang. Sư ĺa tục từ bé, bẩm tánh b́nh dị, mặc
áo vải chằm vá, có phong độ của cổ nhân,
thường tụng kinh Pháp Hoa, sáng tối chẳng nghỉ.
V́ thế, người thuở đó gọi Sư là Ḥa Pháp
Hoa. Trong viện có giảng tăng để có thể
nương tựa. Một hôm, Sư đắp y đến
thưa hỏi về chuyện Dược Vương thiêu
thân. Thầy chẳng hiểu dụng tâm của Sư, bèn giảng
giải ư chỉ “chân pháp cúng dường”. Pháp Ḥa nghe
lời ấy, hoan hỷ, hớn hở rời đi. Khi
đó, nhằm đêm Hai Mươi Bốn trong tiết
Thượng Nguyên, nơi góc Đông Bắc của
Phương Trung Viện, lửa lớn cháy tận trời.
Một vị Tăng chạy tới chữa lửa, bỗng
thấy Sư chắp tay ngồi xếp bằng trong lửa,
miệng ra rả tụng kinh. Trước mặt, bày
hương đèn cúng dường kinh Pháp Hoa. Lại c̣n
đặt bài tụng giă biệt cơi đời vào văn
phát nguyện. Bài tụng như sau: “Nước xiết
chèo thuyền, đến bờ chẳng trôi. Tàn tuyết
theo lửa hồng tan sạch. Thân thanh
thản theo bước thánh hiền phiêu du”. Nguyện văn đại lược
như sau: “Pháp Ḥa nguyện đốt thân hư huyễn
này để thành hương vô giá. Trước
là dâng lên mười phương Tam Bảo diệu pháp
thượng thừa. Kế đến, dâng thiên long bát bộ.
Trước là mong nhị thánh hồi loan[52]
trùng hưng xă tắc, sau là nguyện con khi tái sanh trong đời
sau, thường diễn Đại Thừa, rộng độ
các phẩm” v.v…
Lửa bốc cao, trong ấy
có luồng sáng năm màu chiếu lên không. Đêm ấy chẳng
có gió lộng, bỗng nghe có tiếng trống rền lẫm
liệt, lại có mùi hương lạ ngào ngạt. Hôm sau,
bổn sư thâu liệm hài cốt ở ngoài pḥng. Có
bốn tín nữ đến lễ chỗ Ngài hóa thân, thấy
chỗ tro c̣n lại rúng động, bèn thử bới ra
t́m, ngẫu nhiên được hai mươi mấy viên
xá-lợi. Mọi người kéo nhau tới xem. Di cốt
như các viên châu chồng chất. Từ đó, tiếng
đồn lan xa, người đến thỉnh càng
đông, ứng hiện càng nhiều. Xương và tro đều
bị thỉnh sạch.
Có người thỉnh
được một cái răng, chứa trong tráp, có nhà
giàu ưa thích, mong đổi lấy bằng ba mươi
ngàn đồng. Sư được mọi người dốc
ḷng tôn kính như thế đó… Hiềm rằng tứ chúng
lũ lượt kéo tới chiêm lễ, người kính mộ
khác nào ong dồn kiến tụ, khiến cho việc lễ
chân thân nơi đỉnh Ngọc Kỷ gây trở ngại.
Liền có người thưa kiện là nhà chùa làm chuyện
mê hoặc quần chúng. Thái Thú Thiếu Bảo Quách công cai
trị nghiêm ngặt, bắt vị tăng chủ chùa tống
giam. Mấy ngày sau, sau khi bản án tŕnh lên, [quan cầm bút
toan phê án xử tội], bỗng có một con ruồi bám vào
đầu bút, phát ra tiếng khóc ai oán, xua đuổi chẳng
được. Quan biết là do di thân (thân thể c̣n sót lại
của sư Pháp Ḥa) cảm thông, liền quăng bút tha cho.
Đó là năm Giáp Dần tức năm Thiệu Hưng thứ
tư (1134). Viện chẳng lập bia nêu chí, Tông Hiểu
đến thăm, hăy c̣n bậc kỳ túc trong viện từng
đích thân thấy nghe. Do vậy, ghi lại để mong
ngày sau sẽ chép vào tăng sử.
* Tá Pháp Hoa ở Minh Châu
Vị tăng tên Vân Tá xuất
gia tại Hải Huệ Viện ở đất Ngân,
chuyên tŕ kinh Pháp Hoa. Sư thi đậu [cuộc khảo hạch
kinh điển], được phép xuất gia. Từ
đấy, Sư tham học tông Thiên Thai. Dẫu qua lại
nhiều nơi [để tham học] đă nhiều
năm, nhưng Sư chưa hề phế
bỏ hạnh nghiệp. Về già, Sư trở về Diên
Khánh. Bốn mươi mấy năm, Sư quanh quẩn
nơi tĩnh thất, tụng đọc rơ ràng, du
dương. Hằng ngày, Sư lấy chuyện tụng đủ
bốn bộ [kinh Pháp Hoa] làm chuẩn. Lúc ngoài tám
mươi, Sư ngẫu nhiên mắc bệnh cũ, chẳng
đến nỗi suy sụp, khốn khổ, liền tắm
gội, thay áo chỉnh tề, nghiêm túc, bảo các huynh đệ
phúng tụng phẩm An Lạc Hạnh. Trong khoảng bữa
ăn, Sư ngồi ngay ngắn qua đời. Cho tới
lúc hỏa táng, khói lửa như kim sắc, hoặc có
năm màu thơm ngát. Tới lúc thâu thập di cốt, th́ thấy
xương Ngài có màu đen, kiên cố, trong rỗng, ngoài
tṛn, có h́nh dạng như [các hạt] xâu chuỗi bằng gỗ
Mộc Hoạn[53],
mọi người đều lấy làm lạ.
* Kinh Pháp Hoa tại chùa Nhạc Lâm ở
Minh Châu
Chùa Tông Phước tại
Nhạc Lâm, huyện Phụng Hóa thuộc Minh Châu có Sắc
Tứ Sùng Ninh Các, là nơi thờ phụng chân tượng
của ngài Bố Đại ḥa thượng. Năm Thiệu
Hưng 31 (1161) bị hỏa hoạn, cháy sạch. Từ
trong ngói gạch, t́m được một bộ kinh Diệu
Pháp Liên Hoa, chẳng tổn hại
mảy
may, đó là đầu mối linh ứng của chân pháp môn
vậy. Khi đó, có pháp sư Nguyệt Đường Huệ
Tuân làm thơ ca ngợi rằng: “Ngọc trục kim
văn khởi phạm cung, tín tri diệu kệ diệc nan
đồng. Kỷ tằng lâu các tùy yên mặc. Nhất bộ
liên kinh xuất hỏa hồng. Hương phủng thụy
quang phân bảo giám. Nguyệt hàm chân sắc xạ hàn không.
Khả lân pháp mạt nhân kiêu mạn, trùng hiển Ma Đằng
trúc phạm công” (Trục ngọc, kinh vàng, dựng phạm
cung. Biết rơ diệu kệ cũng khó đồng. Mấy
tầng
lầu gác tan thành khói, một bộ kinh Sen thoát lửa hồng.
Hương tỏa thụy quang nâng quyển báu, trăng soi
chân sắc rực hư không. Đáng
thương pháp mạt, người kiêu mạn. Hiện lại
Ma Đằng đă dày công)[54].
Có người nói:
“Trước kia, tại Tuyền Châu có một ṭa gác báu thuộc
Tịnh Nhân Thiền Viện bị hỏa hoạn. Trong đám
tro tàn, chỉ riêng có một bộ kinh Pháp Hoa nghiễm nhiên
như cũ. Tứ chúng không ai chẳng khâm ngưỡng
công đức thần diệu của Phật pháp. Vị
tăng tên là Triều Phụng bèn làm bài thơ ấy”.
Nhưng người và vật ở hai nơi quá xa, không
cách nào hỏi han biết được. Nay tôi ghi lại cả
hai chuyện, mong người biết đầu mối sẽ
đính chánh cho.
* Bài thơ của thầy Giám Tông ở
Minh Châu
Cuối niên hiệu Thiệu
Hưng, tại Vận Giám Tự Pḥng của Từ Khê
Đông Tự thuộc Minh Châu có một đứa trẻ
từ vùng núi tên là Hồng Chí, xuất gia lúc bảy tuổi.
Do được thầy răn dạy đúng mực, nó tụng
thông suốt kinh Pháp Hoa. Mỗi ngày tới lúc đêm thâu, nó
nhiễu quanh điện Phổ Hiền tụng kinh, âm
thanh thanh nhă, người nghe đều lấy làm lạ.
Trong chùa có Tuyết Am Tông Sư Giám Công tặng thơ rằng:
“Sở sở sơn đồng t́nh tự nhàn. Vị tri
thân thế lưỡng tương can, thời tương
bích triện dao song hạ, mỗi bả thanh liên vị thiệt
đoan. Hồ nguyệt phi lai vân ốc lănh. Tùng phong xuy lạc
tiễn sàng hàn. Thử thời lưu thủy thanh thê uyển,
trắc nhĩ thiên tiên phạ dạ lan” (đứa bé
vùng núi thanh tao, tâm t́nh thanh nhàn, chẳng biết thân thế
hai đằng liên quan, đúng thời ở bên dưới
khung cửa sổ chạm trổ, nó sẽ dùng chót lưỡi như đóa
sen xanh [để tụng niệm]. Ánh trăng bên hồ
chiếu tới ngôi nhà phủ trong mây lạnh. Gió lùa cuốn
lá thông rơi trên giường lạnh. Khi đó, tiếng
nước chảy róc rách êm ả, nghiêng tai nghe tiếng
thiên tiên, sợ [vô ư] làm vỡ đêm thâu).
* Toàn Pháp Hoa ở Minh Châu
Trong niên hiệu Nguyên Hựu,
tại Từ Phước Viện ở Minh Châu có Toàn Pháp
Hoa, tụng kinh ba mươi năm. Tính theo bộ, sẽ
là một vạn năm ngàn. Sư thường ở trong một
cái thất tiêu điều, ngồi lọt thỏm
trong
ghế, tay cầm xâu chuỗi, chí thành tụng niệm trong
tâm. Ngoài cửa lăng xăng, Sư vẫn bất động.
Ngày là vậy, mà đêm cũng vậy, chẳng có mảy
may lười nhác. Sư có đệ tử là Phạm Dung,
lên kinh đô tham học. Khi đó, Tả Nhai Tăng Lục
là Tịnh Chiếu Thiền Sư Đạo Trăn, trụ
tại Thập Phương Tịnh Nhân Lễ Tự, nghe
đức hạnh của Sư, bèn gởi thi phú [biếu
tặng]. Bậc hiền nhân trong triều đ́nh trông thấy,
đều gởi lời chúc tụng rất nhiều. Quan
Tả Triêu Tán Lang Đại Lư Tự Bạ là Từ Vân soạn
lời tựa, khắc vào đá nơi viện.
Nay ghi lại sáu bài, để
truyền tụng đức hạnh của Sư. Tăng
Lục viết: “Kỷ hồi thất trục đoạn
vi biên, tŕ tụng do tâm cửu dũ kiên. Văn thuyết
cao niên bội tinh tấn. Thiệt căn ưng tự nhất
hồng liên” (mấy lần bảy quyển dây lề
đứt[55],
tŕ tụng tâm thành càng vững bền, nghe nói tuổi
cao càng tinh tấn, lưỡi Ngài nhất định nẩy
hồng liên).
Tả Triều Nghị Đại Phu Thượng Thư
Đồn Điền Lang Trung là Lư Chi Thuần viết: “Khứ
lư vi tăng thoát hộ biên, tinh tŕ diệu pháp cửu di
kiên. Thân tâm thanh tịnh tương hà tịnh. Đại
hoa phong điên ngọc tỉnh liên” (ĺa tục, xuất
gia, thoát buộc ràng, chuyên tŕ diệu pháp vững ḷng son.
Thân tâm đều tịnh, c̣n ǵ tịnh? Giếng ngọc
sen tươi đỉnh Đại Hoa). Tả Triều Phụng
Đại Phu Thượng Thư Hộ Bộ Lang
Trung là Lâm Thiệu viết: “Ẩn kỷ tiêu nhiên tụng
bảo biên. Chân Như bất động thử tâm kiên.
Thanh thần sổ quyển liêu giá nhăn. Hảo đối
Khuông Lư xă lư liên” (Dựa ghế lặng thinh tụng
kinh báu, Chân Như bất động tâm càng bền, tinh
mơ mấy quyển lướt qua mắt, khéo xứng Khuông
Lư dự hội sen). Tả Triều Tán Đại Phu
Thượng Thư H́nh Bộ Lang Trung là Mạc Quân Trần
viết: “Đại sự nhân duyên tụng thất biên,
nhất lô hương hỏa lăo di kiên. Sư ưng ngộ
nhập thân thanh tịnh. Nguyện hiệu đương
niên tán bích liên” (Đại sự nhân duyên tụng bảy
quyển, một ḷ hương đốt vững bền
tâm. Sư đă ngộ nhập thân thanh tịnh, sen biếc
mong Sư rải hiện tiền). Tả Triều Phụng
Lang Hành Bí Thư Tỉnh Trước Tác là Hoàng Đ́nh Kiên
nói: “Nhiếp ư tŕ kinh tận kiếp hôi, nhân gian xứ xứ
diệu liên khai. Đà niên tụng măn tam thiên bộ, hựu
mịch Tào Khê nhất cú lai” (Nhiếp ư tŕ kinh tận kiếp
trần, nhân gian chốn chốn nở sen tươi, bao
năm tụng trọn ba
ngàn bộ, lại kiếm Tào Khê một câu thiền) (Khắc
đá chép hai mươi bài).
* Thân Pháp Hoa ở Minh Châu
Vị tăng tên Trí Thân, họ
ngoài đời là Tiết, người làng Vạn Linh thuộc
huyện Ngân. Từ thuở bé, Sư xuất gia tại
chùa Thê Tâm, được thầy dạy kinh Pháp Hoa, thề
đọc thuộc ḷng. Đầu niên
hiệu Thiệu Hưng, triều đ́nh mở khoa thi kinh
sách, Sư trúng tuyển làm Tăng. Từ đó, học trọn khắp giáo luật. Đă khai
phát bổn tâm, Sư bèn trở về chỗ cũ, đóng
cửa ở trong một cái thất, dứt hẳn
danh lợi. Hằng ngày, Sư lấy tŕ một bộ kinh
Pháp Hoa làm chuẩn. Khi đó, ở phía Đông thành, đại
chúng nhóm họp tụng tập kinh này, thỉnh Sư làm
giáo thọ. Sư chẳng từ chối được,
bèn tận lực chủ tŕ. Sư đặt tên cho hội
ấy là Đàm Hoa Xă, đến nay hăy c̣n. Về già, Sư
càng
thêm dụng công tu hành, mỗi ngày tụng hai bộ, hoặc
đến ba bộ. Sư thập phần xứng chức,
chẳng thiếu sót trong việc giảng dạy lẫn
tŕ tụng. Khi đó, có nhiều vị học Thiền, học
Giáo bèn [xướng vịnh] lan truyền danh tiếng của
Sư. Thơ ca tích tập từ
các trước tác của hơn ba mươi người,
cũng là chuyện nổi tiếng một thời.
Đệ tử Sư là Pháp
Mâu vẫn c̣n giữ được bút tích của Sư,
nay tóm tắt các điều trọng yếu, ngơ hầu truyền
xa. Thiền
sư Huệ Phổ ở Thương
Châu
làm thơ xướng rằng: “Thiệt thượng
thanh liên phún dị hương. Công thành vạn bộ khả
du dương. Vị thường an tẩm trường
tinh tấn. Cá thị tăng trung chân đống lương”
(Trên lưỡi sen xanh phun hương lạ, kinh tụng vạn
bộ đáng tuyên dương. Chưa từng ngủ nghỉ,
luôn tinh tấn, quả đúng tăng nhân bậc đống
lương). La Nguyệt thiền sư đề: “Kinh
liêm chung nhật đối lô hương. Lưu thủy thanh
thanh tự ức dương, hữu đạo chỉ
ưng sanh gián thế. Cao tăng bất độc tại
Tề Lương” (Nước chảy êm đềm
dường khen ngợi, tụng kinh suốt buổi
trước ḷ hương, bậc hữu đạo sanh
trong cơi thế, cao tăng đâu phải chỉ Tề
Lương[56]).
Sư Huệ Vân nói: “Mật thất liên phương viễn
thấu hương. Tam châu đại sự quảng phu
dương. Lữu tỳ hạ hữu ḱnh thiên trụ.
Đại hạ cao đường không đống
lương” (Mật thất hương sen tỏa ngát
hương, tam châu đại sự rộng phu
dương, trụ chống trời cao lều tranh có, viện
lớn ṭa cao thiếu cột rường)[57].
Thầy Trí Tâm viết: “Trúc phần cúng khóa băo văn
hương, thiệt quyển triều âm biến cử
dương. Thước đỉnh hữu hoài huân tịnh
phạm. Yến nê vô phục nọa điêu lương”
(mộ trúc tụng kinh hương sực nức, triều
âm lưỡi chuyển tiếng vang rền, sẻ quẩn
đỉnh hương xông phạm hạnh. Yến thôi kết
tổ bẩn kèo hoa)[58].
* Thuần Pháp Hoa tại Minh Châu
Vị tăng tên Đạo Thuần
tại Huệ Đăng Viện thuộc Ngân Thủy, họ
ngoài đời là Vương. Sư nhập đạo
trong niên hiệu Chánh Ḥa. Tới niên hiệu Kiến Viêm, giặc
giă (quân Kim) tràn vào cơi, sát hại lương dân không thể
đếm. Sư trông thấy ôm ḷng trắc ẩn, nghĩ
chỉ có Phật pháp là có thể cứu vớt. Do vậy
phát đại tâm, công khóa chuyên tụng niệm Pháp Hoa. Chỉ
trong hai mươi năm, Sư tụng trọn một vạn
bốn ngàn bộ. Tụng tập [kinh Pháp Hoa] trước
đó chẳng tính vào số ấy. Bước vào tuổi
bảy mươi, Sư thiết trai tăng, lễ sám. Sau
đó, được Tuần thiền sư ở Nguyễn
Sơn soạn sớ, đại lược như sau: “Kể
từ khi nước nhà gặp nạn đao binh, con
người gặp phải nỗi lo đồ thán. Do vậy,
cảm phát tấm ḷng son, càng thêm tu tập bạch nghiệp,
thọ tŕ bí cáo Nhất Thừa[59],
quyết để lại dư phong siêng năng, tinh tấn,
khói hương chẳng ngừng vờn quanh nơi song cửa
sáng ngời. Kinh văn giở măi trên án kinh thanh tịnh.
Xuân thu qua mắt, mấy phen lá rụng, hoa thắm, sự
vật hư hoại, vạn cảnh nước chảy
mây tan. Thấy long nữ thành Phật, biết rơ chẳng
phải là tướng. Ngưỡng mộ Dược
Vương thiêu cánh tay, thề muốn vong thân. Ba lần tắm
gội, ba phen hun đúc, tiêu tháng ngày nơi bảy ngàn hai
trăm[60].
Một duỗi, một cuộn, lật quyển vàng nơi
chín vạn tám ngàn[61],
đạt được duyên không nạn, vui mừng sâu
xa”.
Sư thọ tám mươi bảy tuổi. Ngày Rằm tháng
Mười năm Thiệu Hưng 27 (1157), Sư tắm gội,
rửa tay, thay áo sạch, bảo ban đại chúng rồi
ra đi. Sau khi trà-tỳ, đại chúng tranh nhau thu thập
xá-lợi, chẳng biết số lượng. Sự giáo
hóa của Phật chẳng phải càng thêm sáng ngời bởi
vị này ư?
* Giới giảng sư ở Minh Châu
Tại Pháp Khánh Viện ở
Quản Giang thuộc Ngân Xuyên, có vị tăng tên là Pháp Giới,
họ ngoài đời là Đỗ. Chánh nhân xuất gia, hạnh
nghiệp chân thật. B́nh sanh, sư ăn rau, chẳng
đoái tưởng h́nh hài. Sư từng tạo Đại
Phật Điện tại viện ấy, dựng tháp
Đa Bảo, đào vét ao to để tưới tắm
ruộng đất. Đại chúng chịu ân chẳng ít.
Năm Thiệu Hưng 20 (1150), pháp đường hư
nát, Sư phát tâm sửa chữa. Sư liền lặn lội
trong nhân gian, trích máu chép một bộ kinh Pháp Hoa, gom góp tiền
bố thí để hoàn thành. Xây dựng xong, Sư chia các cuộn
kinh chép làm ba phần, bọc trong ba tầng vải bọc.
Phía ngoài quấn giấy dầu, đặt trong ba viên hỏa
châu [gắn ở kèo chính của đại điện], ư
muốn dùng để trấn tự viện vĩnh viễn
chẳng hư hoại. Hai mươi năm sau, kèo chính lại
bị hư, ngài Pháp Giới lại trùng tu. Sư lấy hỏa
châu xuống, xem kinh đă đặt trong đó th́ trọn
chẳng thấy trang nào, đạo tục đều than
lạ. Có người hiểu biết bảo do thành ư của
của Sư, cảm vời thiên long đón về thờ
phụng rồi. Vị tăng ấy về sau truyền thừa
giáo nghĩa Thiên Thai, trụ tŕ núi này, Tông Hiểu từng
đích thân bái phỏng; bởi thế, biết tường
tận chuyện này.
2. Cao ni (gồm mười
ba vị)
* Hinh pháp sư ở Lạc
Dương
Thời Đông Tấn có ni
sư Trúc Đạo Hinh, sanh trong nhà họ Dương ở
Thái Sơn. Sư bẩm
tánh chuyên chú, cẩn thận, chẳng hề trái nghịch
chúng sanh. Khi làm sa-di, bị đại chúng sai khiến,
Sư cam chịu khổ, chẳng mệt mỏi. Lúc hai
mươi tuổi, Sư tụng hai kinh Pháp Hoa và Duy Ma,
nghiên cứu, t́m cầu ư vị nơi nghĩa lư. Đến
già,
càng thêm siêng năng. [Truyền thống] tỳ-kheo-ni tụng
kinh được khởi đầu từ ngài Đạo
Hinh vậy. Sư trụ tại Đông
Tự ở Lạc Dương, tuân giữ khí tiết, giới
hạnh, được mọi người tôn kính. Khi đó,
có một ả tên là Dương Lệnh Biện, chuyên tu tập
thuật hít thở của Hoàng Lăo, cũng được mọi
người kính trọng, nhưng ganh ghét ngài Đạo
Hinh, liền ngầm đem thuốc độc bỏ vào thức
ăn của Ngài. Ngài Đạo Hinh trúng độc, đệ
tử hỏi nguyên do bị bệnh. Ni sư đáp: “Đạo
chẳng thành đều là nhằm đền trả túc duyên đó thôi!” Sư liền qua đời
(Theo Đại Tạng Cao Ni Truyện trong ḥm kinh chữ
Quần).
* Hiền pháp sư ở Tư Châu
Ni sư húy Trí Hiền, họ
ngoài đời là Triệu, người Thường
Sơn. Sư tu giới hạnh cẩn trọng, tuy phóng
khoáng nhưng chẳng xen tạp. Khi đó, quan cai quản châu quận là Thái Thú Đỗ
Bá tin phục Hoàng Lăo, đố kỵ đạo Phật,
t́m cách kiềm chế, đặt ra các quy định ngặt
nghèo chẳng thể thực hiện được để
thử thách ngài Trí Hiền. Thấy ngài Trí Hiền thừa
sức chịu đựng, liền ép buộc Sư ở
một ḿnh [không được có đồ chúng]. Ngài Trí Hiền
biết ư hắn, thề chẳng vi phạm [lệnh cấm
của hắn]. Tới khi Phù Kiên lên ngôi, đặc biệt
kính trọng ni sư, v́ ni sư mà tạo
áo ca-sa thêu thùa [để ban
tặng].
Về sau, Sư trụ tại Tây Tự, hiển
dương rộng lớn đại pháp. Sư tụng
kinh Chánh Pháp Hoa cứ một ngày đêm là hết một bộ.
Chỗ Ngài ở thường có các loài chim nương
đậu;
khi Ngài kinh hành, chúng liền bay theo (theo Cao Ni Truyện).
* Thọ pháp sư ở Giang Lăng
Trong niên hiệu Nguyên Gia nhà Tống,
có ni sư Đạo Thọ, chẳng rơ là người ở
đâu. Sư thanh cao, ḥa nhă, điềm đạm, tĩnh
lặng, được ca ngợi là người có hiếu,
cung kính. Từ bé, Sư đă thọ Ngũ Giới,
chưa từng hủy phá. Do buồn v́ nỗi tang cha mà Sư trở
thành ốm yếu, bệnh tật đă lâu năm chẳng
lành. Sư từng phát nguyện: “Nếu tôi lành bệnh, sẽ
liền xuất gia”. Quả nhiên lành bệnh; do vậy bèn xuống
tóc. Tuổi già, Sư trụ tại chùa Kỳ Hoàn ở
Giang Lăng, siêng khổ hơn người. Sư tụng
kinh Pháp Hoa trọn ba ngàn lượt, thường thấy
điềm lành quang minh, nhưng chẳng nói. Một
đêm, Sư bỗng thấy trên hư không có lọng báu rủ
xuống che đỉnh đầu. Người
đương thời nói đó là sự ứng nghiệm
do tŕ tụng (theo Cao Ni Truyện).
* Ngọc pháp sư ở Giang Lăng
Ni sư Huệ Ngọc,
người Trường An, siêng hành giới thiện,
đạo đức đều hoàn bị. Sư giáo hóa du
hành chẳng ngại nóng lạnh. Sư trụ tại chùa Mục
Ngưu ở Giang Lăng, tụng kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm
v.v… trong ṿng mười ngày đă thông suốt, cơi đời
cho là kỳ lạ. Trong niên hiệu Nguyên Gia đời Tống,
Sư khổ hạnh trai giới, phát thệ rằng: “Nếu
con thành tâm có cảm ứng, sau khi xả thân, ắt thấy
cơi Phật. Trong bảy ngày, nguyện thấy
Phật quang”. Tới đêm thứ năm, trong rừng
cây ở phía Đông chùa bỗng hiện tướng quang
minh, h́nh sắc chói ngời. Mọi người trông thấy
đều hoan hỷ. Sư liền lập Thiền
Đường nơi cuộc đất tỏa quang minh
để an trụ thanh chúng (theo Cao Ni Truyện).
* Tuyên pháp sư ở Sơn Âm
Ni sư Pháp Tuyên là con gái nhà họ
Vương ở Diệm Xuyên. Từ bé, Sư đă quyết
chí ĺa tục, bảy tuổi liền ăn chay. Mười
tám tuổi, Sư
tụng thông thuộc kinh Pháp Hoa, lại c̣n có thể thấu
hiểu chỉ quy. Trong lúc ngồi, nằm, Sư liền
thấy trướng lọng che phía trên. Bỗng có kẻ
mai mối, Sư đều từ khước. Đến
tuổi hai mươi, cha mẹ dẫn Ngài đến chùa
Tề Minh xuất gia. Ngay trong hôm đó, trướng lọng
chẳng hiện nữa. Từ đó, Sư thông thạo rộng
khắp kinh luận, nghiên cứu thông hiểu lư sâu. Tuổi
già, Sư dời sang chùa Chiêu Minh ở Sơn Âm, nhiều
lượt giảng kinh luật, thanh danh rền
khắp vùng Vũ Huyệt. Hễ được cúng thí,
Sư đều dùng để tạc tượng, chép
kinh. Đời Lương, Vương Nguyên Giản ở
Hành Dương đến quận thỉnh Sư làm thầy
cho mẹ ḿnh (theo Cao Ni Truyện).
* Ni sư Hoa Thủ ở Cao Bưu
Ni sư người huyện
Cao Bưu, chí tiết thanh sạch, ngôn ngữ và hành vi thanh
cao, tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa suốt ngày đêm chẳng
bỏ. Thoạt đầu, Sư tụng một quyển,
bỗng trên móng tay phải sanh một đóa hoa có h́nh dạng
như lụa buộc. Theo thứ tự, tụng tới
quyển thứ năm, trên năm móng tay đều sanh một
hoa. Tụng đến quyển thứ sáu và thứ bảy,
trên bàn tay cùng sanh hai hoa to hơn hoa trên móng tay. Do vậy,
thanh danh truyền đến cung vua. Trần Vũ Hoàng (Trần
Bá Tiên)[62]
sắc truyền nhập cung cho vua xem, Từ đấy trở
đi, người trong quận đua nhau gọi bà là Hoa Thủ
Ni (theo Linh Thụy Tập).
* Ni sư Pháp Tín ở Hà Đông
Trong niên hiệu Vũ Đức
đời Đường, có ni sư Pháp Tín, tŕ tụng thông
suốt kinh Pháp Hoa. Sư thệ nguyện nghiêm cẩn từ
đầu đến cuối, c̣n muốn chép một bộ
thật tinh tường, bèn t́m kiếm người chép, hứa
trả giá gấp bội. Mỗi sáng thức dậy,
[người chép kinh phải] tắm gội, thay áo mới
sạch. Trên án kinh, lại c̣n khoét vách, [đặt ống]
thông ra ngoài, h́nh dạng như ống trúc. Người viết
hễ thở ra, liền nhẹ ngậm
ống trúc phun hơi thở ra ngoài. Chép kinh bảy quyển,
mất tám năm mới xong. Ni sư bày cỗ chay, bái sám
ăn mừng, lập đạo tràng thanh tịnh,
hương, hoa tín phụng. Tới năm Trinh Quán 13 (639),
có vị tăng ở chùa Long Môn là Pháp Đoan thường
giảng kinh này. Do bản kinh này của Sư tốt đẹp
tột bậc, ông ta liền sai người đi thỉnh.
Sư cố từ chối, chẳng được,
đành tự đưa đến. Tới khi Pháp Đoan mở
ra đọc, chỉ thấy giấy vàng, trọn chẳng
có một chữ nào! Pháp Đoan xấu hổ, sợ
hăi, liền trao trả. Sư biết là do mạo phạm,
bèn dùng nước thơm xối rửa hộp đựng
kinh, đội kinh nhiễu Phật kinh hành suốt bảy
ngày đêm. Tới lúc mở ra xem, kinh hoàn phục như
cũ! (theo Pháp Uyển Châu Lâm).
* Hai vị pháp sư Pháp Nhẫn ở
Đông Kinh
Họ Hoàng ở Tấn
Lăng sanh hai con gái, chị năm tuổi, em ba tuổi. Thấy
có người tụng kinh Pháp Hoa trong sân, chị em nghe xong
bèn nói: “Tôi hiểu kinh này”. Từ đấy trở đi,
họ bèn có thể đàm luận nghĩa Thật Tướng.
Về sau, cùng làm ni tại chùa An Quốc ở kinh đô. Chị
pháp danh là Tŕ Pháp, em là Huệ Nhẫn. Hai vị cùng chí
hướng tu Pháp Hoa tam-muội. Bỗng có một vị
ni tự xưng là Không Cô, dung mạo, ngôn từ rất
lạ lùng, cùng ở chung với họ. Thường là tới
nửa đêm, quang minh nơi thân chói ngời. Ba năm
như thế rồi rời đi. Nếu có ai hỏi, hai
vị ni cười x̣a chẳng đáp. Người hiểu
biết đoán đấy là đức Phổ Hiền. Do
vậy, danh rền kinh đô, dẫu là thiền sư Nhất
Hạnh[63]
cũng dốc ḷng kính ngưỡng. Lương Túc đă
ghi chép hành trạng của họ.
* Hai chị em ni sư ở Kinh Châu
Đầu thời Trinh Quán,
tại Kinh Châu có hai vị ni là chị em, cùng tụng Pháp
Hoa, nhàm chán sâu xa thân thể, đều muốn xả thân
để cầu vô thượng đạo. Từ đấy,
trở đi, họ liền đoạn ngũ cốc, uống
các loại dầu thơm, bảo sẵn đạo tục
ngày ước hẹn đốt thân. Trên phố lớn, họ
bày hai ṭa cao, dùng vải thấm sáp quấn thân, chỉ chừa
khuôn mặt. Hai vị tụng kinh Pháp Hoa tới phẩm
Dược Vương, chị dùng lửa đốt đỉnh
đầu em, em dùng lửa đốt đỉnh đầu
chị. Trong đêm khuya thanh tĩnh, hai bó đuốc cháy rực
sáng ngời. Lửa cháy tới mắt, tiếng tụng
kinh vẫn c̣n vang vọng. Cho tới sáng, cả ṭa [họ
ngồi] cũng cháy, xương thịt đều tiêu, chỉ
lưỡi vẫn c̣n. Đại chúng dựng tháp để
biểu dương muôn đời, xem khoa Di Thân trong Tục
Cao Tăng Truyện.
* Nhuận pháp sư ở Nhuận Châu
Ni sư Pháp Nhuận, trụ
tại chùa Tam Muội Vương ở Đan Dương.
Từ bé, Sư đă ít nói, tu ṛng thiền huệ, tụng
thông thạo kinh Diệu Pháp Liên Hoa suốt ngày đêm chẳng
thiếu sót. Tới lúc bảy mươi bốn tuổi,
Sư mạng chung, di ngôn để lộ xác thí cho chúng
sanh, căn dặn đệ tử vâng theo. Trùng, thú ăn sạch,
chỉ c̣n lưỡi và tim, lưỡi vẫn đỏ,
tim hơi đen. Đại chúng liền dựng tháp thờ
phụng (theo Linh Thụy Tập).
* Ni sư Trí Thông ở kinh đô
Trong niên hiệu Nguyên Gia
đời Lưu Tống, tại chùa Giản Tĩnh ở
kinh đô, có ni sư Trí Thông, tuổi tác và diện mạo
đều đẹp đẽ. Ni sư tin đạo chẳng
chuyên dốc, bèn hoàn tục làm vợ của ông Lương
Quần Phủ. Về sau, bà ta sanh một trai tṛn bảy tuổi
th́ nhà nghèo chẳng trông cậy vào đâu được! Thuở làm ni, bà ta có mấy quyển kinh
như Pháp Hoa v.v… đều viết trên lụa, bèn giặt
giũ, gột tẩy để may áo. Con mặc vào ngă bệnh.
Bà ta hoảng hốt, kinh hăi, hổ thẹn, khắp thân biến
thành tróc lở, hư nát, trông giống như bị bỏng
lửa, sanh ra trùng trắng. Mỗi ngày, có hơn cả một
thưng [trùng như thế]. Đau đớn, bứt rứt,
ngày đêm kêu gào. Bỗng nghe trên không trung có tiếng bảo:
“Hoại kinh làm áo, mắc phải báo ứng kịch liệt
ấy”. Hơn mười ngày sau, bà ta bèn chết (theo
Pháp Uyển Châu Lâm).
3. Tín nam (ba mươi
hai người)
* Lưu Di Dân ở Lư Sơn
Lưu Tŕnh Chi đức hiệu
là Di Dân, là hậu duệ của Sở Nguyên Vương (Lưu Giao)[64]
đời
Hán. Ông thông thạo sách vở của bách gia, ưa chuộng
nhất Phật lư, đạo nghĩa khiến bậc công
hầu kính trọng, nhưng hễ được mời
mọc, chèo kéo, ông đều thoái thác, tránh né. Viễn công ở
Lư Sơn kết liên xă gồm mười tám vị hiền
nhân, tôn ông làm thượng khách. Từ đó, ông chọn sống
tại Tây Lâm, suốt mười hai năm tu Niệm Phật
tam-muội. Một hôm, ông mắc bệnh, chú tâm niệm
xong, thấy quang minh từ tướng bạch hào của
Phật. Lại thấy thân Phật Di Đà như núi tử
kim, hào quang tỏa ra các màu sắc. Tŕnh Chi thỉnh Phật
xoa đỉnh đầu, dùng y che cho con. Phật liền
xoa đầu ông, kéo y che cho. Ông lại thấy thân ḿnh vào
ao bảy báu, uống nước tám công đức. Uống
vào,
[cảm thấy] nước thơm ngọt, mùi
hương lạ toát ra từ lỗ chân lông. Do vậy, ông
bảo đại chúng: “Khi tướng này đă hiện
th́ duyên Tịnh Độ của tôi đă tới”. Ông liền
đối trước tôn tượng, dâng hương,
chúc nguyện rằng: “Con vâng theo di giáo của đức
Thích Ca, biết đến Tây Phương Tịnh Độ.
Trước là cầm hương này dâng lên đức Thích
Ca, kế đó, cúng Phật Di Đà, nguyện đều
chiết phục, nhiếp thọ. Ba là phụng tŕ kinh Pháp
Hoa mầu nhiệm, do vậy được văng sanh. Công do
kinh này”. Nói xong, ông hướng về Tây, chắp tay, qua
đời. Ông Lưu được như thế, toàn là
do sức của kinh Pháp Hoa. Do vậy, thỉnh Tăng chúng
cùng tụng kinh này mấy trăm biến để làm trợ
hạnh (theo Lư Sơn Tập của pháp sư Huệ
Viễn).
* Người do tụng kinh mà lưỡi
thông lợi tại Tinh Châu
Dưới triều đại
Vũ Thành hoàng đế nhà Bắc Tề[65],
ở sườn núi Đông Hăn tại Tinh
Châu, có người đào đất, thấy có một chỗ
trắng vàng xen lẫn. Bỗng t́m được một vật,
có h́nh dạng như hai cái môi. Trong đó, có một
cái lưỡi màu đỏ tươi nhuận. Châu huyện
lấy làm lạ, đem chuyện ấy tâu lên. Vua hỏi quan
lại, không ai đáp được. Vua bèn xuống chiếu
sai sa-môn Đại Thống Pháp Thượng [xem xét]. Pháp
Thượng tâu: “Đấy là quả báo của người
tŕ kinh Pháp Hoa lục căn bất hoại. Người này
tụng ngàn bộ, hiện ra sự ứng nghiệm
như thế”. Vua bèn sắc truyền quan Trung Thư là
Cao Trân: “Khanh là người tin tưởng, tự đến
xem, ắt có sự linh dị”. Cao Trân vâng mệnh đến
đó, bèn tụ tập các vị tăng tŕ kinh Pháp Hoa, cầm
ḷ hương nhiễu quanh, tuyên tụng kinh này, bảo rằng:
“Bồ Tát Niết Bàn đă nhằm lúc Tượng Pháp
lưu hành; nếu không sai lầm, xin hiện tướng
lành linh ứng”. Nói rồi cao giọng tụng kinh. Lưỡi
và môi ấy ngay lập tức chấn động, có dáng vẻ
như đang đọc tụng. Tứ chúng trông thấy,
không ai chẳng rởn da gà. Đạo Trân trở về
tâu lên, vua hạ chiếu dùng hộp đá đựng, lập
tháp để biểu dương (theo Lương Cao
Tăng Truyện).
* Trưởng sử Trương
Sướng
Đời Tấn có
Trương Sướng làm trưởng sử[66]
của Tiếu vương[67].
Vương và Trương Sướng do có chuyện bị
trói buộc ở chỗ Đ́nh Úy[68].
Trương Sướng đă có chánh tín từ trước,
liền phát tâm tụng phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa một
ngàn lần để cầu thoát nạn. Tiếng niệm
vang ra, gông cùm liền hư găy, hai người đều
được thoát ra. Quán Âm Truyện của Tạ Phu
đời Tấn có ghi chép truyện này, sách Thiên Thai Biệt
Hành Nghĩa Sớ[69]
có trích dẫn.
* Trinh Tiết xử sĩ Dữu Sân
Dữu Sân đời
Lương, tự là Ngạn Bảo, người Tân Dă. Thuở
bé, do nghe răn nhắc, bèn dốc sức học kinh sử.
Ông bẩm tánh hiền lành, đơn giản, đặc biệt
yêu thích chốn lâm tuyền, ăn rau, áo vải thô, chẳng
chú trọng sản nghiệp. Thuở bé, ông đă quen biết
Lương Vũ Đế. Tới khi vua khởi binh, phong
cho ông làm B́nh Tây Phủ Kư Thất[70].
Lại hạ chiếu phong làm Hoàng Môn Thị Lang[71],
ông đều lấy cớ bị bệnh không dậy nổi.
Tuổi già, ông chuyên dốc ḷng nơi đạo Thích. Trong
nhà lập đạo tràng, sáu thời lễ sám, tụng kinh
Pháp Hoa mỗi ngày một lượt. Bỗng trong một
đêm thanh, ông thấy một đạo nhân tự xưng
là Nguyện Công, dung mạo và cử chỉ rất lạ,
gọi Dữu Sân là Thượng Hạnh tiên sinh, trao cho
hương rồi đi. Về sau, ông mắc bệnh, kinh
ngạc nói: “Nguyện Công lại đến, chẳng thể
ở lâu”. Vẻ mặt ông chẳng
thay đổi, bỗng dưng qua đời. Cả nhà
đều nghe trên hư không xướng rằng: “Thượng
Hạnh tiên sinh đă sanh về Di Đà tịnh vực”.
Vua xuống chiếu ban thụy hiệu là Trinh Tiết Xử
Sĩ để hiển lộ khí tiết cao cả của
ông (theo Nam Sử).
* Thứ sử Ngụy Châu Thôi Ngạn
Vũ
Trong niên hiệu Khai Hoàng
đời Tùy, thứ sử Ngụy Châu là Thôi Ngạn
Vũ ở Bác Lăng lên đường nhận chức.
Tới một ấp, ông bỗng bảo người theo hầu:
“Xưa kia,
ta đă từng làm vợ người khác trong ấp này,
nay biết chỗ ở cũ”. Do vậy, cưỡi ngựa
theo đường nẻo quanh co đến một căn
nhà, sai người hầu gơ cửa. Chủ nhà là một
ông lăo ra chào, mời vào. Ông Vũ thăng đường,
ngồi xuống. Ông cũ hỏi: “Quan nhân do chuyện ǵ mà
đến đây?” Ông Vũ nói: “Đời trước tôi
là vợ ông”. Ông cụ nói: “Lấy ǵ làm bằng chứng
để kiểm nghiệm?” Ông Vũ nói: “Quyển kinh Pháp
Hoa do tôi đă tụng khi trước và năm chiếc thoa
vàng giấu trong vách phía Đông, cách mặt đất chừng
sáu bảy thước. Chỗ cao gồ lên trên tường
chính là chỗ đó. Trang cuối của quyển thứ
bảy kinh ấy bị lửa đốt mất chữ.
Tôi nay tụng kinh ấy, phần sau thường quên mất”.
Do vậy, sai người khoét chỗ cao trên tường,
quả nhiên t́m được kinh bị lửa thiêu mất
trang cuối, và cũng kiếm được thoa vàng, giống
hệt như lời ông Vũ đă nói. Chủ nhà khóc nói:
“Lúc vợ tôi c̣n sống thường tụng kinh này, thoa
vàng cũng là của bà ta”. Ngạn Vũ lại nói: “Bọng
cây ḥe trước sân là chỗ tôi chứa tóc rụng khi
sanh nở”. Thử cho kẻ khác t́m, quả nhiên thấy tóc
ấy. Chủ nhà trông thấy, vui buồn đan xen. Ngạn
Vũ bèn tặng y phục, vật dụng rồi đi (theo
Linh Thụy Tập).
* Thư sinh ở Tinh Châu
Phía Tây thành Tinh Châu có một
thư sinh, chưa tới tuổi ba mươi, tụng tŕ
kinh Pháp Hoa, đạt được ư của Phật pháp,
thệ nguyện đốt thân cúng dường Đại
Thừa. Anh ta bèn gom góp mấy trăm bó rơm khô, xếp thành một
cái lầu. Ai hỏi nguyên cớ, đều giấu kín chẳng
nói. Anh ta bỗng nửa đêm nổi lửa tự thiêu,
đến khi có người tới cứu th́ đă cháy
đến bụng rồi! (Theo Linh Thụy Tập).
* Sầm Văn Bổn ở Giang
Lăng
Trung Thư Lệnh[72]
Sầm Văn Bổn là người Giang Lăng, ôm ḷng chánh
tín từ nhỏ, thường tụng phẩm Phổ Môn
trong kinh Pháp Hoa. Ngẫu nhiên do công cán, ông ngồi thuyền
vượt Tùng Giang ở đất Ngô. Giữa ḍng nổi
gió, người lẫn thuyền đều ch́m. Văn Bổn
nổi lên mặt nước, nghe có người nói: “Chỉ
niệm Phật, tụng kinh ắt chẳng chết”.
Nói như thế ba lượt. Do đó, ông theo sóng cuốn
lên được bờ Bắc. Sau đó, ông trai tăng tại
Giang Lăng, chúng tăng đều tụ tập. Có một
vị Tăng rời đi sau cùng, bảo
Văn Bổn: “Thiên hạ mới loạn, ông may mắn chẳng
bị hại, sẽ gặp lúc thái b́nh mà được phú
quư”. Nói xong đi mất, Văn Bổn có một lúc trong
chén ăn cơm t́m được hai viên xá-lợi, đạt
được phú quư thái b́nh đều đúng như lời
vị tăng đă nói (theo Linh Thụy Tập).
* Vương Phạm Hạnh ở Lâm
Nghi
Trong niên hiệu Khai Hoàng, tại
Lâm Nghi có Vương Phạm Hạnh, từ bé đă mù hai mắt.
Mẹ thương xót, dạy truyền khẩu kinh Pháp Hoa.
Phạm Hạnh tụng được một vạn bảy
ngàn bộ. Sau đó, mắt tuy mù, nhưng các chuyện
như ngày đêm đi lại, bện đệm, may áo v.v…
đều chẳng trở ngại. Người khác nghi ông
có sở đắc riêng biệt, hỏi th́ trọn chẳng
chịu nói. Ông áo vải, ăn rau, suốt đời không
lấy vợ. Lúc bảy mươi mốt tuổi bèn mất,
di ngôn bỏ xác trong thi lâm mặc cho chim thú ăn nuốt.
Thịt hết, xương c̣n, lưỡi chẳng hoại,
màu như hoa sen. Người em trai là Huệ Nghĩa dùng hộp
sứ đựng lấy, hương đèn tôn kính thờ
phụng (theo Linh Thụy Tập).
* Vương Yêm ở Lâm Nghi
Vương Yêm là người
Lâm Nghi thuộc Lang Gia, ông nội và cha đều làm quan to.
Vương Yêm làm quan tới chức Hoàng Môn Thị Lang, bẩm
tánh vụng về, chậm lụt, chuyên ưa thích Đại
Thừa, tụng một bộ Pháp Hoa từ đầu tới
cuối thông suốt. Về sau, ông chết v́ bệnh. Ông có
em trai là Cố, tức thái thú Tân An, cũng tụng kinh Pháp
Hoa. Ông Cố bỗng mộng thấy
anh trai nói: “Ta sanh về Tây Phương trong thai hoa sen cánh
sắt. Sau năm trăm năm hoa nở mới được
thấy Phật. Do chuyên chí siêng khổ tụng kinh, cho nên
được sanh về Tây Phương. Do chậm
lụt nên vẫn c̣n phải thọ thai báo. Nay bảo cho các
ngươi biết, hăy nên nghĩ đến quả báo sau
này mà dốc ḷng siêng năng nơi kinh điển, đừng
biếng nhác”. Nói xong liền từ biệt (theo Linh Thụy
Tập).
* Lục Thuần ở Ngô Quận
Lục Thuần là người
Ngô Quận, tuy tại gia, tâm thường mộ đạo.
Một bộ kinh Pháp Hoa ngày đêm tŕ tụng. Về sau,
ông bỗng bị bệnh, một mực nằm ngửa, mở
mắt nh́n lên trần nhà, trọn chẳng tạm nháy mắt.
Có vị Tăng quen biết đến hỏi: “Ông nằm
ngửa để nh́n trần nhà làm ǵ vậy?” Đáp: “Phật
thọ kư Lục Thuần sẽ sanh lên trời Dạ Ma. Nay tôi trông thấy cung
điện, thành khuyết và các thiên chúng trên cơi trời ấy.
V́ thế, tôi nay ngắm nh́n chẳng mệt”. Bốn ngày
sau, ông mất. Đó là chuyện trong niên hiệu Đại
Nghiệp (theo Linh Thụy Tập).
* Nghiêm Pháp Hoa ở Dương Châu
Trong triều đại
Đại Tùy, có Nghiêm Cung là người Đan
Dương, cả nhà tin tưởng, thường tụng
kinh Pháp Hoa. Có lúc, tụng tới phẩm Bảo Tháp, ông bèn
buông kinh than thở: “Trong tháp báu có hai vị Như Lai.
Phân thân chư Phật số lượng chẳng ít, v́ sao
ta nay chẳng thể cảm thấy?” Ông than thở, cảm
khái rất lâu. Tới đêm, mộng thấy một vị
Hồ tăng, tự xưng là Pháp Thoát bảo: “Nếu tụng
kinh này, muốn thấy chư Phật, hăy nên giải nói,
lưu thông, cúng dường, nguyện ấy có thể thỏa”.
Nhân đó, Nghiêm Cung phát tâm tạo một trăm bộ kinh.
Chưa kịp thực hiện, ông bỗng mắc bệnh
nặng, bèn phát nguyện tạo thêm một ngàn bộ. Bệnh
đă lành, ông liền dựng Tạo Kinh Đường trong
nhà ḿnh ở Dương
Đô. Dù giấy hay bút [để chép kinh], ắt đều phải tịnh
tâm, chẳng được dối trá, hễ cần liền
lo liệu. Thư sinh [chép kinh] thường có mười mấy
người, ông đúng pháp cung cấp. Nghiêm Cung đích thân
kiểm giảo [các bản kinh đă chép], dẫu nhọc
nhằn chẳng than mệt.
Từng có người vay một
vạn đồng từ số tiền tạo kinh. Nghiêm
Cung bất đắc dĩ phải đưa cho. Kẻ
đó được tiền, thuyền ra giữa gịng,
bỗng thuyền bị lật, tiền mất, người
c̣n. Ngày hôm ấy, ông Cung vào kho, thấy tiền bạc ẩm
ướt, khá ngạc nhiên! Về sau, gặp người
vay tiền, mới biết ông ta bị ch́m thuyền. Một
hôm, bỗng có một vị dị tăng khoảng tám
mươi tuổi, tự nói: “Ta từ nước Quy
Tư đến, nay sẽ sang núi La Phù, nghe ông tạo kinh,
xin thỉnh một bộ”. Nghiêm Cung trao kinh, Tăng tặng
một b́nh vàng nặng bốn mươi lượng, nguyện
giúp tạo kinh. Nói xong rời đi. Nghiêm Cung ḍ theo, chẳng
biết vị ấy ở đâu!
Lại có Hầu Chí từ Bà
Dương đến, tới hồ Cung Đ́nh gặp trận
gió, người cùng thuyền đều chết ch́m, chỉ
có Hầu Chí c̣n sống. Có người dẫn ông ta vào miếu,
thấy thần nhân cầm gươm ngồi, hỏi
Hầu Chí: “Có biết ông Nghiêm Cung tạo kinh Pháp Hoa ở
Tưởng Sơn hay không? Ta muốn gởi một vạn
đồng để dự vào công đức đó!” Nói
xong, ẩn mất. Ngày kế đó, Hầu Chí tới
Đương Đồ, bỗng thấy có một người
tự nói là họ Hứa đến t́m Hầu Chí, để
lại một vạn đồng, ép ông ta nhận lấy rồi
đi. Hầu Chí suy nghĩ, mới biết là tiền của
thần, liền chở đến Giang Ninh, giao tiền cho
Nghiêm Cung.
Nghiêm Cung càng vững chí, tạo
tới ba ngàn bộ. Lại có người đánh cá trong
đêm thấy có ngọn lửa lấp loáng nổi trên mặt
sông, bèn lấy thuyền ra đón lấy, th́ ra là một
rương kinh do ông Nghiêm Cung tạo. Sau đó, ông phát nguyện
rằng: “Không một chữ nào chẳng qua mắt, không
chữ nào mà chẳng dụng tâm”. Do Nghiêm Cung tạo nhiều
kinh, con cháu vẫn nối tiếp nghiệp ấy. Cơi đời
gọi ông là Cung Pháp Hoa. Cuối đời Tùy, đạo tặc
tung hoành, nghe ông tích thiện, đều cùng
ước hẹn chẳng vào làng ấy, người làng
đều được nhờ! (xem trong Linh Thụy Tập
và Nam Sơn Tam Bảo Cảm Ứng Lục).
* Sử Ha Thệ ở kinh đô
Đời Đường,
tại làng Phong Cốc ở phía Tây Nam kinh thành, có Sử Ha
Thệ ḷng ôm ấp thiện đạo từ bé, giữ
khí tiết thanh cao, thường tụng phẩm An Lạc
Hạnh của kinh Pháp Hoa chẳng sót thời khắc nào.
Ông ôm ḷng bi nhẫn, thề chẳng cưỡi ngựa, do
kinh dạy thương xót hết thảy, ngầm giữ
trong tâm, thanh danh truyền đến tận quan lại
đứng đầu địa phương. Ông qua lại
giữa kinh thành và quê nhà, tâm luôn ngầm tŕ tụng, do sợ
gặp kẻ quen biết, toàn đi ngơ rẽ. Tới ngày
lâm chung, cảm hương lạ ngập nhà. Thân thích, làng
xóm đều ngửi thấy. An táng mười năm, vợ
ông ta
chết, [con cái] bèn chôn chung một chỗ [với cha]. Do vậy,
mở quan tài ra xem, thấy lưỡi vẫn tươi hồng.
Do vậy, dời đi,
chôn ông riêng một chỗ để hiển lộ công hạnh
(theo Pháp Uyển Châu Lâm).
* Lư Sơn Long ở Phùng Dực
Tả
Giám Môn Hiệu Úy[73]
Lư Sơn Long, người xứ Phùng Dực. Trong niên hiệu
Vũ Đức[74]
đời Đường bỗng chết đột ngột. Do sờ thấy tim c̣n nóng, người nhà không nỡ an
táng. Bảy ngày sau, ông sống lại, nói rằng: “Thoạt
đầu bị một sứ giả bắt tới
trước điện Diêm Vương, thấy mấy
ngàn tù nhân. Vua hỏi Sơn Long rằng: “Ngươi tạo
phước nghiệp ǵ?” Đáp: “Tụng được
hai quyển kinh Pháp Hoa”. Vua khen đại thiện, liền
sai trải ṭa, thỉnh ông tụng kinh. Sơn Long xướng
“Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Tự phẩm đệ nhất”,
vua liền bảo thôi. Sơn Long hạ ṭa. Nh́n lại, các
tù nhân đều bay lên không mà đi. Vương xưng tụng
do công đức của kinh, khiến cho mọi người
đều được giải thoát. Vua liền sai
đưa Sơn Long tái sanh. Lại truyền sứ giả
dẫn dạo chơi các ngục. Sơn Long thấy một
ṭa thành sắt cao lớn, phía trên có nhà, chung quanh có nhiều
cửa sổ nhỏ. Nam nữ đều bay vào, chẳng
thoát ra được nữa! Sơn Long buồn đau, sợ
hăi, xưng “nam-mô Phật”, xin sứ giả
dẫn ra. Lại thấy các chuyện như vạc sôi sùng
sục v.v… Sứ giả nói: “Nay ông được thoát,
đều là do sức của kinh. Ông trở về hăy nên
đăi ăn chúng tôi”. Sơn Long bèn hứa. Đă sống lại,
ông thấy thân thuộc đang chuẩn bị đồ liệm,
liền sai chuẩn bị đồ ăn đặt bên chỗ
có nước để cúng tế. Bỗng thấy ba
người đến cảm tạ: “Ông chẳng thất
tín”. Nói xong, họ ẩn mất (theo Thái B́nh Quảng Kư).
* Lệnh Hồ Nguyên Quỹ ở Long
Châu
Năm Trinh Quán thứ năm
(631), Lệnh Hồ Nguyên Quỹ là người huyện Ba
Tây thuộc Long Châu, tin tưởng, coi trọng Phật
pháp, chép các kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Niết Bàn v.v… Ông sợ phạm
sai lầm, bèn cậy Kháng thiền sư kiểm giảo.
Kinh chép xong liền mang đến trang trại ở Kỳ
Châu. Một hôm, ông đi khỏi, trang trại ấy bị
lửa từ bên ngoài cháy lan, trong chốc lát cháy rụi.
Nguyên Quỹ trở về than thở khôn xiết. Do vậy,
bảo người khác gạt tro, t́m thấy ống đồng
bịt vàng, bỗng thấy các kinh c̣n y nguyên, màu vàng vẫn
chẳng thay đổi, nhưng tựa đề Kim Cang
Bát Nhă bị cháy đen. Ông bèn tự nói nguyên nhân: Do lúc viết,
có một vị quan nhân có thể viết, người ấy
do đi gấp, chẳng rảnh để khiết tịnh,
mà cầm bút viết ngay. Do vậy bị lửa thiêu.
Người ấy hiện thời c̣n sống, kinh tốt
lành cũng c̣n. Chuyện này do sư Thần Sát chủ chùa
Tây Minh tại kinh đô chính mắt trông thấy bèn kể
lại (trích từ Nam Sơn Cảm Thông Lục).
* Đổng Hùng ở Hà Đông
Đổng Hùng người
Hà Đông. Trong niên hiệu Trinh Quán đời Đường,
ông ta làm Đại Lư Thừa[75],
chánh tín, thờ Phật, ăn chay đă nhiều năm. Về
sau, do có chuyện, ông cùng với đồng
sự Lư Kính Huyền, Vương Hân bị tù đày. Đổng
Hùng chuyên niệm phẩm Phổ Môn đủ ba ngàn lượt
để cầu thoát khỏi. Bỗng một đêm, gông
cùm tự rơi rớt, lính coi ngục kinh hoảng. Họ
xích lại, niêm phong rồi rời đi. Đổng Hùng lại
phúng tụng đến khi trống đổ canh năm, xiềng
xích lại tự tuột ra. Kính Huyền trọn chẳng
tin Phật, tới khi thấy Đổng Hùng có chuyện ấy,
mới biết Phật pháp linh ứng. Vương Hân
cũng niệm tôn hiệu của tám vị Bồ Tát ba vạn
lần, cùng với Đổng Hùng đều được
xá tội (theo Pháp Uyển Châu Lâm).
* Viên Chí Thông ở Lũng Thành
Viên Chí Thông người huyện
Lũng Thành. Từ bé, ông đă trai giới, tụng
hai kinh Pháp Hoa và Kim Cang. Lúc hai mươi tuổi, bị bắt
lính, bị sai đi đánh dẹp tám giặc man, cách nhà vạn
dặm. Trên đường, ông tŕ tụng chẳng dứt.
Tới biên cương phía Nam, quân đại bại, phần
nhiều bị tổn thương, kinh hoảng không cùng. Bỗng
có năm người cưỡi ngựa đi đằng
trước, người cuối cùng nói với Chí Thông:
“Ông tu thiện quả, tụng niệm kinh văn, chúng tôi thủ hộ những người tốt lành khiến
cho họ chẳng
thể bị
hại. Ông đi thêm chừng bảy dặm, có một ṭa
tháp, có thể vào núp trong đó. Quân man sẽ trở về
doanh trại của họ”. Lại thấy hai vị
tăng bảo Chí Thông: “Đàn việt do sức đọc
tụng, cho nên vừa sai năm người hộ vệ.
Ông hăy nên tinh tấn, sẽ luôn có thiện thần khuông phù,
tán trợ”. Nói xong, nương theo hư không bay đi. Ông tự
nghĩ ḿnh đă trải qua ba trận, không có tấc sắt
trong tay. Giặc man b́nh định, ông được trở
về.
Năm Trinh Quán thứ tám
(634), ông mắc bệnh qua đời, thấy sứ giả
bắt tới trước điện Diêm Vương. Vua
hỏi làm thiện hạnh ǵ? Chí Thông thưa:
“Thường tŕ hai kinh Pháp Hoa và Kim Cang, trai giới, lễ
sám”. Vua nghe nói, chắp tay khen “lành thay”, truy xét xem nguyên nhân
giả thật nào khiến cho ông tới đây? Vua tâu lên
thiên tào kiểm điểm, vua lại lấy án từ viết
rằng: “Người này hăy c̣n sáu năm tuổi thọ”.
Vua sai đem giường vàng, ghế ngọc lên điện,
xếp bày mền đệm, thỉnh Chí Thông ngồi trên
đó để tụng kinh, mỗi kinh vừa hết một
quyển liền thôi. Vua sai người giữ sổ sách đem
sổ ghi công đức tới, thấy trong đó viết:
“Chí Thông tụng Pháp Hoa và Kim Cang mỗi thứ một vạn
lượt”. Lễ Phật, trai sám đều ghi rơ từng
điều trong ấy. Vua nói: “Đức nghiệp của
ông quá sâu, hăy nên cho xem địa ngục để biết
tội phước chẳng sai!” Sai người dẫn ông
đi về phía Tây chừng năm dặm, thấy
một ṭa thành lớn, lầu canh
chen chúc, lưới sắt buông phủ. Trong cửa có ngục
tốt, thân h́nh cao lớn, tay cầm chĩa sắt, đứng
ở hai bên. Chó bằng đồng ở ngay trước cửa,
phun nước đồng sôi thiêu đốt tội nhân.
Mười tám địa ngục đều ở trong
đó. Chí Thông trông thấy run sợ, lại đến chỗ
vua. Vua bảo: “Ông thấy địa ngục, càng phải
nên siêng tu.
V́ thế, nay tôi xin cho ông được sống thọ”.
Chí Thông sống lại, thuật chuyện như trên (theo
Linh Thụy Tập).
* Mộ Dung Văn Sách ở Tần
Châu
Trong niên hiệu Đại
Nghiệp, tại Tần Châu có Mộ Dung Văn Sách tụng
kinh Pháp Hoa và Kim Cang suốt ngày đêm không ngớt. Một
hôm, bỗng có hai người cầm một tờ văn
thiếp cho xem nói: “Diêm La đại vương sai tới
bắt ông, ông hăy đi ngay”. Văn Sách kinh sợ, theo sứ
giả tới một ṭa thành lớn, có sáu tầng tường
vây, cửa nẻo hắc ám. Bước vào, liền thấy
cung điện, có Diêm Vương đang ngồi, bộ hạ
hộ vệ oai nghiêm. Phía dưới có nam nữ thuộc
các nước, h́nh dáng khác biệt. Mỗi người
đều được gọi tên, tới Văn Sách, vua
hỏi có hạnh nghiệp ǵ? Văn Sách thưa các chuyện
có thể thực hiện như tụng kinh Kim Cang, Pháp Hoa,
trai giới v.v… Vua chắp tay, sai tra sổ sách, bảo:
“Chưa đáng chết!” Vua phán đưa về. Văn
Sách đi về phía Tây chẳng biết đường nẻo,
bỗng gặp một vị sa-di nói: “Ông có thể đi
theo tôi”. Qua khỏi sáu tầng cửa, gặp chỗ hắc
ám, sa-di tay cầm bó đuốc sáng [soi đường].
Ông liền được thoát ra, sống lại. Do vậy,
Văn Sách tụng niệm chuyên ṛng, siêng gắng (theo Linh
Thụy Tập).
* Người cùi ở Giáng Châu
Đời
Đường, tại chùa Hăm Tuyền
thuộc Cô Sơn, Giáng Châu, có thiền sư Pháp Triệt.
Sư đi trong núi, thấy
một người cùi ở trong huyệt đất xin
Sư thức ăn. Sư thương xót, dẫn về sống
trong chùa, vẫn đào huyệt đất cho người ấy
ở, trao cho cơm áo, căn dặn người ấy tụng
kinh Pháp Hoa. Kẻ ấy hoàn toàn chẳng biết
chữ, đă thế c̣n dốt nát. Sư dạy từng
câu một, trọn chẳng nề hà mệt nhọc. Sư
dạy được một nửa, người ấy bỗng
mộng thấy được một vị tăng chỉ
dạy. Từ đó về sau, dần dần thông huệ.
Tới quyển thứ năm, thứ sáu, lở loét trên
thân dần dần lành. Khi thông thuộc cả bộ kinh,
toàn thân lành bệnh. Đức Phật nói kinh là thuốc
lành chữa bệnh tật, lời ấy đă được
chứng nghiệm (theo Linh Thụy Tập).
* Cao Văn ở kinh đô
Trong niên hiệu Long Sóc[76],
tại kinh đô có Cao Văn là cháu nội của Cao Biểu
Nhân[77],
từng đọc kinh Pháp Hoa. Một hôm, anh ta cưỡi
ngựa ra ngoài cửa Thuận
Nghĩa, bỗng thấy hai kỵ sĩ đuổi theo. Hỏi
han th́ họ nói: “Ta là sứ giả của Diêm Vương
đến bắt ngươi!” Cao Văn kinh hoảng, trốn
tránh đều chẳng khỏi, liền bị họ túm
xuống ngựa, lôi tuột đầu tóc giống như
dao cắt. Người nhà cáng về, tới khi sống lại,
bèn nói: “Diêm Vương hỏi ta v́ sao ăn trộm trái cây
của Tăng? V́ sao kể lỗi Tam Bảo? Bèn theo
đúng pháp chịu tội, chẳng dám thốt lời. Vua
phán tội trộm trái cây đáng nuốt bốn trăm
năm mươi viên sắt, chịu phạt trong bốn
năm. Cái tội kể lỗi đáng bị cày lưỡi.
Sau đó, sai thả ra, bèn sống lại”. Được
ít lâu sau, Cao Văn lại
chết ngất, miệng như
nuốt vật, toàn thân đỏ au, có tướng trạng
khổ sở. Lại trải qua một ngày mới tỉnh
lại, nói: “Ta trải qua bốn ngày trong địa ngục,
nuốt hết ḥn sắt, khổ sở chẳng thể
nói nổi! [Quỷ sứ] vừa mới muốn kéo lưỡi
ra cày, nhưng kéo không ra, tra hồ sơ th́ nguyên nhân là do từng đọc
kinh Pháp Hoa, cho nên chẳng thể lôi lưỡi ra
được, bèn thả cho sống lại”. X Nay thấy ông ta
đang ở chùa Hóa Độ, nghe pháp, sám hối nơi pháp
sư Viên Măn (theo Nam Sơn Tam Bảo Cảm Thông Lục).
* Tiêu Khanh và tỳ nữ Tố Ngọc
Trong năm Long Sóc thứ ba
(663), có vợ chồng Tư Nguyên Thiếu Thường Bá
Thôi Nghĩa Khởi chẳng tin Phật pháp cho lắm! Cha vợ
của ông ta là Tiêu Khanh, rượu thịt chẳng cho vào
cửa, chuyên tụng Pháp Hoa, Bát Nhă mấy ngàn lượt.
Một hôm, vợ ông ta (vợ Thôi Nghĩa Khởi) chết,
ông v́ bà ta tu phước ba thất. Cúng chay xong, bà ta nhập
vào cô tớ gái tên Tố Ngọc nói: “Lúc sống, tôi tuy nghe
nói đến địa ngục nhưng chẳng tin, nay chịu
khổ chẳng thể nói được! Do các vị v́
tôi tụng kinh, thắp đèn, bèn được tạm trở
về. Mấy ngày nữa, tôi sẽ đến dẫn Tố
Ngọc tới cơi âm”. Tới kỳ,
quả nhiên Tố Ngọc chết đột ngột. Cô ta
bỗng thấy một ṭa quan phủ to lớn. Phu nhân vào
biệt viện. Trong chốc lát, vạc lửa, giường
sắt đều kéo tới, phu nhân hứng chịu các sự
khổ sở. Bỗng nhiên, Tố Ngọc thấy cha bà ta
là Tiêu Khanh ngồi trên đài hoa sen, bảo Tố Ngọc rằng:
“Con gái ta lúc sống chẳng nghe lời ta, chẳng tin thiện
ác, thường có nhiều sân hận, đố kỵ, nay
chịu nỗi khổ này. Ngươi trở về, hăy nên
bảo con cái cô ta làm các công đức để cô ta được
giải thoát”. Lúc bất giờ, [Tố Ngọc] lại thấy
một vị tăng Bà La Môn từ không trung hạ xuống,
dạy Tố Ngọc tụng kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Dược
Sư, mỗi thứ một biến, hoàn toàn dùng tiếng
Phạm để tụng. Tố Ngọc hoàn toàn hiểu
ngôn âm. Như thế suốt ba ngày, Tố Ngọc mới sống
lại, thuật cặn kẽ chuyện trên đây. Khi
đó, có Tiết tướng quân nghe chuyện, bèn kính trọng,
sắp đặt cỗ chay mời Tố Ngọc, bảo
cô hăy thử niệm các kinh ấy. Cô ta liền lên ṭa tụng
niệm, chẳng sót chữ nào. Một vị Phạm
tăng hiện diện tại đó, chắp tay tán thán: “Giống
hệt như tại Tây Vực, ngữ âm chẳng khác”.
Toàn thể
đại chúng kinh ngạc. Ông Tiết bèn tâu lên thiên tử,
thiên tử tán thán: “Trong bá quan cũng có người chẳng
tin Phật pháp, [thế mà] cơi âm như thế đó, há chẳng
sợ hăi ư?” Quư nhân trong triều nghe nói, đều sanh
chánh tín (Theo Cảm Thông Lục).
* Ưu-bà-tắc ở Phủ Châu
Tại Phủ Châu có chùa Hoa Tạng
cách huyện về phía Nam bảy mươi bước.
Xưa kia, trong thời Lư Đường, chùa có tên là Quang
Độ Tự. V́ đời Đường có ưu-bà-tắc
chuyên tụng kinh Pháp Hoa tại đây. Một hôm, ông đột
nhiên thấy một cụ già nói: “Thất Lang Quân ở
Đàm Pha (miếu thờ Đàm Pha Thất Lang Quân có chép
trong tự điển[78]
của quận ấy) bảo rằng: Xin hăy ngưng tŕ tụng
chốc lát để mượn đường đi qua.
Trong ngày hôm nay, sẽ kiến tạo tinh xá”. Chiều
hôm ấy, sấm sét, mưa gió ồ ạt, khi trời
quang tạnh, bỗng thấy kèo, xà, cột, chất chồng
phía trên. Sau này, vị ưu-bà-tắc ấy quy tịch,
được dựng tháp thờ toàn thân ở phía Nam chùa.
Tới niên hiệu Tường Phù[79]
thuộc bổn triều, trong tháp bỗng sanh bảy
đóa hoa sen, cả quận đều lấy làm lạ.
Thái Thú đích thân tâu lên, [vua truyền] sửa biển đề
theo tên được ban hiện thời (theo Phủ Châu
Đồ Kinh).
* Trương Bỉnh ở Kư Châu
Trương Bỉnh cai trị
Kư Châu. Một hôm, có gă trộm cướp bóc tài vật của
dân, lại gian dâm con gái của họ. Cha mẹ tố cáo,
ông tức giận, sai bày giàn đóng đinh tên cướp ở
cửa [công đường]. Ba ngày sau, sai người
băm vụn hắn. Mọi người bàn tán [ông làm
như vậy] khiến dân chúng thỏa dạ. Mấy
năm sau, ông bỗng bị bắt tới âm phủ, nghe
trên điện, sau rèm châu có tiếng quát vang: “Trương
Bỉnh sao dám phi pháp sát hại mạng người?” [Quỷ
sứ] dẫn ông đến trước ngục để
đối chất, ông liền thấy một tù nhân máu thịt
đầm đ́a, khóc rằng: “Mày phi pháp giết tao, nay tao
không có chỗ thọ sanh”! Ông mới nhớ đó là gă giặc
ở Kư Châu, liền mắng nhiếc: “Dẫu giết vạn
cái thân của mày cũng chẳng đủ rửa nhục
cho cha mẹ của họ, mày c̣n dám tố cáo ư?” Có một
viên nha lại bên cạnh nói: “Ngũ h́nh[80]
đều có thường điển, cũng chẳng
trách bị thưa kiện vậy!”[81]
Ông nh́n lại th́
ra đó là một thuộc hạ khi ông giữ chức ở
Hà Dương. Ông hỏi: “Nên làm như thế nào?” Viên nha lại
đáp: “May là tuổi thọ của ông chưa hết, chỉ
cần khiến cho nó thọ sanh là được rồi!”
Ông bối rối, hỏi viên nha lại cách thực hiện.
Viên nha lại nói: “Công đức chuyển dời to lớn
không ǵ bằng kinh Diệu Pháp Liên Hoa”. Ông liền hứa tụng
một trăm bộ; tăng thêm đến một ngàn bộ,
gă tù nhân đó vẫn chẳng buông tha. Viên nha lại
nói: “Chẳng cần nhiều như vậy. Chỉ cốt
sao [tŕ niệm] lâu dài, sao bằng mỗi ngày tŕ một bộ,
cho đến hết đời chẳng bỏ ư?”
Trương Bỉnh bằng ḷng làm theo lời đó, gă tù
nhân bỗng được thả đi. Trương Bỉnh
đă sống lại, liền suốt đời chẳng
quên tŕ tụng! (theo Nhạo Thiện Tập).
* Vô Vi Quân Lư Ngộ
Năm Thiệu Hưng 28
(1158), Vô Vi Quân Chỉ Huy Sứ Lư Ngộ đón tiếp vị
quận thái thú[82]
mới ở phía Tây thành. Đă đi hơn mười
dặm, nghe thái thú c̣n ở xa, ông liền
trở về nhà. Bỗng nhiên thấy khoảng một
trăm người từ bên cạnh đường xuất
hiện, đều như những đứa trẻ
dăm ba tuổi, hô to xông tới trước mặt, hợp
lại công kích. Thoạt đầu, ông Lư chẳng sợ
cùng chúng nó đấu sức. Mỗi nắm đấm vung
ra, ắt có mười mấy đứa ngă lăn xuống
đất. Chúng nó vừa ngă liền đứng dậy,
đă tan tác rồi liền hợp lại. Như thế bốn
lượt, có đứa hăm hở trèo lên vai, giựt
khăn, nắm tóc. Ông Lư càng quẫn bách, chẳng thể chạy
thoát được. Chúng nó vừa tấn công vừa lôi lên
trước. Bỗng có một cụ già áo vải, giày cỏ,
chẳng biết từ đâu đến, lớn tiếng
quát rằng: “Vị quan nhân này thường tŕ kinh Pháp Hoa. Nếu
tổn thương ông ta, há chẳng phiền lụy ta
ư?” Cụ quát
bảo chúng nó lui ra, quỷ liền tan mất, cụ già
cũng chẳng thấy đâu nữa!
Ông Lư trở về tới cửa thành, không thể đi nổi
nữa. Người giữ cửa nâng trở về. Tới
nhà, ông hôn mê bất tỉnh. Các con cởi áo nh́n xem, chỉ
thấy vết bầm xanh khắp thân, liền chiêu hồn
ở chỗ ấy, thỉnh Tăng tụng kinh Pháp Hoa.
Hơn nửa năm, ông mới có thể chống gậy
đi lại, ông ngờ cụ già là thổ thần (theo
Di Kiên Đinh Chí).
* Tả Thân ở Thai Châu
Tả Thân là người Lâm
Hải thuộc Thai Châu. Tánh t́nh khiêm cung, ngay thẳng. Ông
luôn giữ thái độ chẳng nhận của phi
nghĩa dẫu mảy may. Chưa đến tuổi
trưởng thành, ông đă thọ Bồ Tát
Giới từ pháp sư Thần Chiếu ở Đông Dịch.
Từ đó, giữ vững, ngoài lúc thọ trai vào buổi
trưa ra, dẫu thuốc thang cũng không uống. Ông cho
khắc tượng Tây Phương Tam Thánh, chuyên cần
hương đèn, tụng kinh Pháp Hoa ba ngàn bốn trăm
bộ, kinh Kim Cang Bát Nhă hai vạn lần, dựng cầu,
đắp đường, cứu trợ kẻ cô độc,
túng thiếu. Năm Thiệu Thánh thứ ba (1096), ông ngă bệnh,
vẫn gắng ngồi dậy lớn tiếng niệm Phật,
căn dặn người thân cận, bảo con thỉnh vị
tăng Tịnh Viên giảng Pháp Hoa đại nghĩa, lại
c̣n thọ thêm giới pháp. Ông liền mộng thấy ba
người vẻ mặt tươi nhuận, tinh sạch,
đứng trên bờ sông, rủ ông lên thuyền,
chớp mắt đi về phương Tây. Ông tỉnh giấc,
liền thỉnh tăng phúng tụng kinh Di Đà. Chưa tụng xong, bèn nói: “Ta đă thấy Phật
quang, ắt sanh về Tịnh Độ”. Ông bèn chồm
dậy tắm rửa, thay áo, dặn ḍ đừng khóc, rồi
xưng Phật hiệu, kết ấn, vui sướng qua
đời (theo Bảo Châu Tập).
* Phạm Nghiễm tại phủ Lâm
An
Phạm Nghiễm người
huyện Nhân Ḥa. Ông thường ăn chay, chẳng dính líu
chuyện đời. Con ông chẳng thể duy tŕ gia nghiệp,
ông chẳng màng tới, chỉ nói: “Ta là khách trọ mà thôi!”
Do vậy, ông hằng ngày đọc kinh Pháp Hoa, chuyên tâm chẳng
lười nhác. Lại c̣n biên chép một bộ kinh ấy.
Trong niên hiệu Đại Quán, ông đă hơn bảy
mươi tuổi, bỗng gọi cháu là Từ Khản bảo:
“Cháu hăy nên v́ ta lo liệu hậu sự. Ta chỉ sống
đôi ba ngày nữa thôi”. Kế đó, Từ Khản nghe
ông Phạm Nghiễm ở trong Phật đường lớn
tiếng gọi Phổ Hiền Bồ Tát, vâng dạ mấy
lượt, phần nhiều nói hai chữ “cố thị”
(cố nhiên là như thế). Từ Khản hỏi han, ông
đáp: “Ta thấy Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi
voi trắng sáu ngà, quang minh soi vào ta, thuần là kim sắc,
cho biết: Do ta xem
kinh Pháp Hoa, niệm Phật Di Đà, được sanh về
Tịnh Độ. Cho nên Ngài đến
báo cho biết, giờ Măo ngày mai, ta sẽ ra
đi, Ngài và đức Phật sẽ cùng đến tiếp
dẫn. Kể từ đấy, ta vâng dạ”. Tới lúc đó,
ông Nghiễm liền niệm Phật, Bồ Tát, trông thấy
thánh chúng x̣e tay, tự nói: “Nghiễm là người
như thế nào mà được Phật, Bồ Tát tiếp
dẫn?” Ông nói liên tiếp: “Thật là ngại quá” rồi
ngồi chắp tay, nhắm mắt qua đời (theo Bảo
Châu Tập).
* Triều đăi chế ở Tung
Sơn
Vào thời Tống Huy Tông,
ông Triều Thuyết Chi giữ chức Trung Thư Đăi
Chế, tên tự là Dĩ Đạo, là cháu bốn đời
của Văn Nguyên Công (Triều Quưnh)[83].
Văn Nguyên Công giữ tước Thái Tử Thiếu Phó, về
dưỡng lăo tại Thanh Phong, tâm vui hưởng cảnh
nhàn, quy hướng Phật Thừa. Ông soạn
bia Pháp Tạng, có Kim Đạo Viện Tập được
lưu hành trong cơi đời. Ông hiểu lư mầu nhiệm,
cốt lơi của Nho và Mặc. Triều Đăi Chế do sẵn
có gia học, xem khắp các kinh sách nhà Phật. Do làm quan mà tới
Tứ Minh, dự vào hàng ngũ môn đệ của pháp
sư Diên Khánh Minh Trí, đạt được chỗ sâu
thẳm trong giáo nghĩa Thiên Thai. Tông Hiểu từng đọc
mấy bài trong bộ Tung Sơn Tập của ông diễn
giảng cặn kẽ các pháp như cảnh quán nhất niệm
tam thiên v.v… Xét bản lănh của ông, nếu chẳng có
Lương Kính Chi[84]
tái thế, không ai có thể
sánh bằng ông được. Cháu nội của ông tên là Tử
Kiện, có bài kư viết: “Ông nội tôi học giáo pháp của
ngài Thiên Thai Trí Giả, hằng ngày tụng kinh Pháp Hoa, có
đạo hiệu là Thiên Thai Giáo Tăng. Lại c̣n
được gọi là Lăo Pháp Hoa”. Nh́n vào những
điều được nói, đủ biết ông đă
thọ dụng Phật thừa viên diệu, uẩn tàng chẳng
cạn vậy!
* Lục Lang Trung tại Minh Châu
Lục Nguyên Đạo hiệu
là Tỉnh Am cư sĩ, sống tại Hoành Khê thuộc
Minh Châu, là cháu nội của Văn Chương Tả Thừa Tướng Lục Điền. Ông làm quan tới
chức H́nh Bộ Đô Quan Lang Trung[85],
đảm nhiệm chức Đề Cử tại Phước
Kiến. Do tang mẹ nên về quê. Do va chạm lời nói với
Trịnh Hưng Duệ, bèn xin từ quan, về nhà. Khách
đến, ông ắt chắp tay nói: “Tôi cùng ông Trịnh chẳng có hiềm
khích; đấy là cừu oán nhiều đời. Nếu
tâm này chẳng quên, ắt đôi bên sẽ ăn miếng trả
miếng chẳng có lúc nào dứt.
Tôi kính cẩn dùng thiện pháp để giải trừ”.
Ông bèn dốc chí tŕ kinh Pháp Hoa. Mỗi sáng, ông thức
dậy tắm gội, thay quần áo, vào tịnh thất,
dâng hương, ngồi xếp bằng, mắt chẳng
nháy. Trước hết, xướng kệ rằng: “Quán
thủ thanh thần bối diệp khai, bất cầu
chư phước, bất nhương tai. Thế duyên
đoạn xứ tùng tha đoạn, kiếp hỏa quang
trung vũ nhất hồi” (sáng dậy rửa tay để
tụng kinh, chẳng cầu được phước,
giải tai ương, duyên đời nên đoạn đều
nên đoạn, kiếp hỏa sáng ḷa múa một
hồi). Sau đó, ông mở
quyển kinh ra tụng đọc, chẳng rề rà, chẳng
gấp gáp, tiếng tụng như chuỗi ngọc. Mỗi
ngày, ông tụng một biến suốt ba mươi
năm. Tới tuổi tám mươi, bèn tăng thành ba bộ.
Nh́n vào thơ phú của ông, sẽ
thấy được ư ông; chẳng hạn
như thơ ông có câu “thanh thần tam độ đáo
Linh Sơn” (sáng sớm ba lượt đến Linh
Sơn). Ông dùng giấy mực vẽ [cảnh pháp hội
Linh Sơn] gồm một trăm bức, tạo thành một
bức vẽ lớn, con ông tích lại
thành một quyển to. Tính chung số lượt tụng
kinh là chín ngàn bốn trăm tám mươi lăm lần.
Tính số quyển th́ là sáu vạn sáu ngàn ba trăm chín
mươi lăm quyển. Lúc rảnh rỗi, ông lại
đọc Tỳ Lô Đại Tạng[86].
Phàm giáo nghĩa Thiên Thai, Luật Bộ, Thiếu Lâm tâm tông
(Thiền Tông), không ǵ chẳng tham cứu rộng răi. Ông lại
tụng Phật hiệu Di Đà, một dạ về Tây.
Năm Thiệu Hy thứ năm (1194), ông đă tám
mươi lăm tuổi. Ngày mồng Sáu tháng Tư, ông
đ̣i nước nóng để tắm gội, đội
mũ, mặc áo chỉnh tề, liền nằm qua đời.
Tới khi nhập liệm, [người nhà] bỗng ngửi
thấy mùi hoa sen ngào ngạt, chẳng biết từ
đâu đến. Tới khi đậy nắp quan tài, mới
biết hơi thơm ấy phun ra từ miệng và mũi
[của ông]. Khi đó, nữ nhân đa số chẳng ngửi
thấy mùi hương, há có phải là do ngũ chướng
ngăn lấp đó chăng? Em trai ông là Hoa Văn Các Học
Sĩ[87]
Lục Du soạn mộ chí cho ông, có nói cặn kẽ chuyện
ấy.
* Đỗ Tín ở Minh Châu
Tại cuộc đất
tên là Quản Giang thuộc làng Tường Phụng, huyện
Ngân, có Đỗ Tín kết Bội Phục Xă để tụng
kinh Pháp Hoa. Ông dành ra hai gian nhà để làm chỗ cho đại
chúng tụ tập. Về sau, có một gă không ra ǵ họ Uất
Tŕ sống ở đó, bèn phế bỏ chỗ ấy, biến thành chỗ giết chóc, nấu nướng.
Năm Càn Đạo thứ tám (1172), mưa Thu khiến cho
nước lụt dâng trào. Đỗ Tín ở gần suối,
tuy nhà cao năm tầng vẫn bị lũ cuốn trôi,
đất đá cũng chẳng c̣n. Kinh của ông ta tụng
theo sóng trôi đi mười mấy dặm, ngừng ở
băi đất hoang thuộc Nam Hải. Ba bốn ngày sau
nước rút, có người họ Kim ở Quản
Sơn nhặt được. Thoạt đầu mở
gói ra xem, thấy lầy nhầy nước bùn. Kế
đó, mở kinh ra xem, trong ngoài thanh tịnh chẳng có một
tí ướt át nào. Vĩ đại thay! Phật nói đọc
tụng kinh này nước chẳng thể trôi; nh́n vào chuyện
tốt lành kỳ lạ này,
quả thật là phù hợp! Trong đời có gă ma hủy
kinh Phật, chúng nó có biết là “có chỗ chẳng thể
diệt tuyệt” như thế hay chăng?
* Ngô Chấn ở Minh Châu
Tại huyện Từ Khê, có
Phụng Công Ngô Chấn, tâm chú trọng thiện đạo.
Ông từng dùng mực tự chép một bộ kinh Pháp Hoa,
đọc tụng chẳng sơ sót. Ngày Hai Mươi
tháng Sáu năm Nhân Dần trong niên hiệu Thiệu Hy[88]
[nhà ông] bị hỏa hoạn,
mọi người vội vàng chữa lửa, đồ
đạc bị thất tán. Sau cơn hỏa hoạn, ông
nghĩ tới kinh ấy. Hôm sau, mới t́m được ở
nhà hàng xóm, hiềm rằng đă mất quyển thứ
tư. Ông biết là bị lửa đốt. Bảy ngày
sau, con trai ông là Hưng Tông lật ngói gạch t́m kiếm,
thấy kinh ấy nghiễm nhiên dưới đó, chỉ
có phần đầu quyển hơi bị tổn hoại
đôi chút. Tứ chúng trông thấy đều than thở là
lạ lùng. Kinh ấy được con cháu ông trân quư, ǵn giữ.
Một hôm, thiền sư Nhật Chiếu do nhận lời
mời, đi qua chỗ ấy, bèn xin đến
thăm. Do vậy, họ xin Sư lưu lại
một bài tụng, [Sư viết]: “Cư sĩ Tứ Nhất ở Diên
Lăng bẩm tánh tinh thuần, chuyên dốc, nguyện lực
vững chắc, đích thân chép kinh Liên Hoa, gặp hỏa
hoạn chẳng hoại. Do vậy,
đề bài kệ quê kệch để chứng minh
như sau: “Kiếp hỏa trung tồn thất quyển
kinh, duy bằng nhất niệm khế thiên chân, đằng
kim huy cổ hồn vô biến. Tận thị Linh Sơn hội
thượng nhân” (kiếp hỏa riêng c̣n bảy quyển
kinh, chỉ nhờ một niệm khế thiên chân, sáng rực
xưa nay không biến đổi, Linh Sơn toàn bậc
thượng thiện nhân). Chuyết Am Đức Quang chùa A Dục Vương viết”.
* Trần Thế Nhân ở Minh Châu
Trong niên hiệu Thiệu Hy,
phía sau Tuần Kiểm Ty[89]
ở ngoài cửa Tây của Minh Châu, có Trần Thế Nhân,
đêm mộng thấy một dị nhân, mũ xiêm hùng
vĩ tựa như bậc vương giả, gọi Thế
Nhân bảo: “Ta có bảy viên minh châu ban cho ngươi”. Thế
Nhân thưa: “Nhà tôi thô hèn,
chẳng dám tham nhận lấy”. Vị vua ấy nói: “Châu
này là của báu vô giá. Ta đă cho ngươi, ngươi chỉ
nên nhận lănh”. Thế Nhân bèn kư tên, ôm về đặt
trên bàn, bỗng dưng [các viên châu] tỏa ra quang minh to lớn,
người nhà không ai chẳng hoan hỷ. Ông tỉnh mộng,
suy nghĩ, tuy chẳng biết nguyên do, nhưng trong tâm luôn
cho là tướng lành. Sáng ra bỗng một người bạn
thân đến cửa, khuyên nhủ hăy tụng kinh Pháp Hoa.
Ông liền phát tâm dự hội [tụng kinh Pháp Hoa ấy].
Ghi tên xong, bỗng nhớ đến bảy viên châu và vị
vua trong giấc mộng, đó chẳng phải là đấng
pháp vương ban cho ta bảy quyển kinh Pháp Hoa đó
ư? Tâm thần cảm vời như thế đó. Người
truyền dạy kinh là Tạ Văn Bân. Do giấc mộng ấy,
thuận duyên phù hợp, bèn được làm tăng, tới
nay vẫn c̣n. Khi đó, nhiều người dùng kệ tán
thán, pháp sư Từ Thất Diệu Vân chùa Diên Khánh nói: “Đắc
châu thất khỏa mộng phân minh, thiên hiểu phùng nhân
khuyến tụng kinh, vị động xỉ nha tiên cảm
ứng, phương tri diệu pháp bổn viên thành”
(được châu bảy hạt mộng phân minh, sáng ra gặp bạn khuyên
tụng kinh, chưa động môi răng đă cảm ứng,
mới hay diệu pháp vốn viên thành). Vị thiền
sư đă xin thôi làm trụ tŕ của chùa
Báo Ân là Huệ Anh nói: “Mộng lư minh châu thất khỏa
viên, toàn cai diệu pháp phỉ tâm truyền. Chỉ kim hội
đắc cá trung ư, tận tại xuân phong bách thảo biên”
(minh châu trong mộng bảy hạt tṛn, toàn thể diệu
pháp vốn tâm truyền, hễ nay thấu hiểu chân ư ấy,
gió xuân trăm cỏ thổi rập rờn).
* Uông Kính ở phủ Khánh Nguyên
Tại Lôi Phong thuộc Ngân
Huyện có Uông Kính, con ông tên là Long Chuyên. Gia đ́nh sống
bằng nghề đồ tể. Lúc Uông Kính tám mươi
tám tuổi, bỗng có thiện tâm, từ niên hiệu Càn
Đạo[90]
liền gia nhập Pháp Hoa xă. Tới ngày Mười Bảy
giữa Đông năm Khánh Nguyên cải nguyên (1194), bị hỏa
hoạn. Cả hai gian nhà tranh bắt lửa cháy rụi.
Kinh Pháp Hoa trong Phật đường được hàng
xóm cứu ra, chỉ được một nửa, phần
c̣n lại vẫn ở trong khói lửa bốc lên hừng hực.
Người đứng gần xem th́ nói là làn khí giống
như lụa trắng, kẻ ở xa
th́ nói giống như rồng trắng cuộn ḿnh. Làn
hơi ấy nghi ngút bốc lên xông thẳng đến
Từ Khê Áo cách đó mười mấy dặm, quyện
vào hàng cây. Có tiều phu họ Chương nhặt
được, chính là bảy phẩm kinh từ phẩm
Phương Tiện trở đi. Kế đó, có người
phụ nữ vùng núi họ Thịnh, từ nơi đồng
hoang lại nhặt được phẩm Tự. Uông Kính
nhất nhất thỉnh về, chỉ thiếu phần tựa
hoằng truyền mà thôi. Tông Hiểu ẩn cư chẳng
xa, nhưng nghe nói lại chẳng đích xác. Một hôm, tôi
đến thăm ông Kính, xin xem kinh ấy, th́ ra là bản
kinh do tiến sĩ Uông Trạch cúng thí.
* Vương Văn Phú ở Minh Châu
Trên hồ Quảng Đức
ở phía Tây huyện Ngân, có hai anh em họ Vương, sống
bằng nghề chài lưới. Anh là Văn Phú hơi có thiện
tâm, lúc rảnh rỗi bèn đọc kinh Pháp Hoa. Kinh đặt
trong Phật đường. Trong tháng Tư của năm
Thuần Hy thứ năm (1178), mưa to trút xuống. Bỗng
sấm sét đánh chết vợ người em, lửa trời
đốt rụi nhà tranh, chỉ chừa lại ba cây cột
đỡ bốn kèo nhà bắc trên Phật đường,
kinh nghiễm nhiên đặt dưới đó. Cho tới
khi thầy đồng bói toán, bốn phương đến
xem, đều nói là “thần dị”.
4. Tín nữ (gồm mười
bốn người)
* Vợ chàng họ Mă ở Thiểm Hữu
Vợ chàng họ Mă, chẳng
rơ xuất xứ. Thời Đại Đường, Phật
giáo hưng thịnh, đất Thiểm Hữu[91]
có tập tục cưỡi ngựa bắn tên, nghe danh hiệu
Tam Bảo bèn khinh miệt. Cô ta thương xót họ ngu muội,
đến chỗ đó. Mọi người thấy thiếu
nữ phong vận đơn chiếc, muốn che chở cô
ta. Cô gái nói: “Tôi chẳng có cha mẹ, cũng mong có chỗ
nương nhờ; nhưng chẳng ham muốn
tài sản thế gian, chỉ cần là người thông
minh, hiền thiện, có thể tụng kinh Phật th́ tôi sẽ
muốn theo”. Đám đàn ông đều ùa đến xem mắt.
Cô ta bèn trao cho họ phẩm Phổ Môn, ai có thể trong một
đêm đọc thông thuộc th́ sẽ gả cho. Tới
hôm sau, người tụng thông thuộc chỉ c̣n hai
mươi mấy người. Cô ta nói: “Con gái chỉ một
thân, gia thế trinh khiết, chẳng thể dùng một
thân phụng sự nhiều người, hăy đổi sang
tụng thứ khác”. Do vậy, dùng Kim Cang Bát Nhă. Tới hôm
sau, có mười người thuộc. Cô gái lại trao cho
họ bảy quyển Pháp Hoa, ước hẹn ba ngày
đọc thông thuộc. Tới kỳ hạn, chỉ có
chàng họ Mă có thể đọc thấu triệt. Cô gái
nói: “Chàng đă có thể thắng mọi người, có thể
thưa với cha mẹ, có đủ mai mối, sính lễ
th́ mới thành thân”.
Cho tới khi họ Mă dùng lễ
đón về, sắp tới cửa, cô gái bèn nói: “Vừa mới
phải ứng phó lễ lạc, trong người không khỏe,
xin cho một căn pḥng riêng. Chờ đến khi thân thể
ổn rồi sẽ lại gặp chàng”. Do vậy, họ
dọn riêng cho cô ta ở pḥng khác. Tiệc đăi khách
chưa tàn, cô ta đă qua đời, thân thể rữa nát;
họ bèn chôn ngay. Chưa được mấy ngày, có một
vị tăng mặc y tăng-già lê màu tía, dáng vẻ quê
mùa, cũ kỹ đến t́m cô gái. Họ Mă dẫn Sư
tới chỗ chôn cất. Vị tăng liền dùng tích
trượng gạt đất cát, thấy thi thể cô gái
đă tiêu tan, chỉ c̣n xương như cái khóa vàng. Vị
tăng liền nhặt lấy, gột rửa trong sông, treo
lên tích trượng, bảo mọi người: “Vị
thánh nhân này thương xót các ngươi chẳng tin chánh
pháp, bèn phương tiện khuyên dụ, hóa độ. Hăy
nghĩ tới cái nhân lành, ḥng khỏi đọa vào biển
khổ”. Sư bỗng nhiên vọt lên không đi mất.
Mọi người trông thấy đều buồn khóc,
chiêm lễ chẳng dừng.
Từ đấy, cả xứ
thờ Phật, tụng kinh là do sức của cô gái (theo
Thích Thị Biên Tân Lục). Trong Quán Âm Tán của Sơn Cốc
đạo nhân có đoạn ghi: “Thiết dục chân kiến
Quán Thế Âm, kim sa than đầu Mă lang phụ” (nếu
muốn thấy đức Quán Thế Âm thật sự,
[chính là] vợ chàng họ Mă trên băi cát vàng). Lại nữa,
Vạn Thọ Thể thiền sư ở B́nh Giang làm kệ
tụng rằng: “Thập phần mỹ mạo thùy gia nữ,
bách bội thông minh thị Mă lang. Kham tiếu kim sa than bạn
ước. Thỉ chung nhân á bất thành song” (Gái nhà ai
mười phần xin đẹp? Thông minh trăm vẻ Mă
lang quân. Nực cười ước hẹn bên cồn
cát, dẫu cho cưới gả chẳng thành đôi).
* Hai người chị dâu, em chồng
ở Hoài Ninh
Bờ Bắc của sông bảo
vệ thành gần Hoài Ninh có chùa Hoa Đài. Thoạt đầu
là trong một
gia tộc lớn có cô con gái có thể tụng kinh Pháp Hoa.
Anh cô ta lấy vợ, tâm [chị dâu] cũng ưa thích [Phật
pháp]. Chẳng mấy chốc, chị dâu và em chồng đều
có thể tụng thuộc. Thường đến lúc
đêm khuya thanh tĩnh, gió mát trăng trong, hai người
đồng thanh tụng niệm. Dẫu là tiếng vàng khua
ngọc chạm trong cơi đời, vẫn không ǵ có thể
sánh bằng âm vận [tụng niệm] ấy. Một thuở
nọ, họ ngă bệnh, chị dâu lẫn em chồng
đều chết. Một ngày kia, từ mộ chị dâu
bỗng sanh một đóa sen hồng, nở x̣e hết sức
đẹp đẽ. Mọi người đều lấy
làm lạ. Khai quật mộ th́ thấy rễ sen từ miệng
chị dâu quấn ṿng quanh mộ cô em chồng. Lại
đào mộ em chồng, [th́ ra] rễ sen có gốc từ
miệng cô em chồng. Ấy là do cô em chồng dạy chị
dâu tụng kinh, cho nên biểu lộ nguyên do như thế.
Châu quận nghe biết, bèn tŕnh tấu. Vua bèn ban biển
đề Hoa Đài Tự để dựng chùa (theo Linh
Thụy Tập).
* Vương Huệ Xưng đời
Nam Tống
Năm Nguyên Gia 14 (437) đời
Tống, gia đ́nh Tôn Ngạn Tằng nhiều đời
thờ Phật. Ông có một người thiếp tên là
Vương Huệ Xưng, tin tưởng Phật pháp từ
bé, tụng kinh Pháp Hoa lâu ngày. Một hôm, bỗng thấy ven
sông có ánh sáng nhiều màu. Ông sai người đào sâu xuống
ba thước, t́m được một bức tượng
Phật bằng vàng. Kể cả quang minh và ṭa sen [th́
tượng cao] hai thước một tấc, bàn chân ghi: “Năm
Canh Tư nhằm Kiến Vũ nguyên niên (317), các đạo nhân như Pháp Tân v.v…
thuộc chùa Ngơa Quan tạo”, họ liền trau chuốt
để thờ phụng (Theo Tam Bảo Cảm Thông Truyện).
* Đứa tớ gái của Tô thứ
sử
Trong niên hiệu Vũ Đức
đời Đường [Cao Tổ, tức
Lư Uyên],
Đô Thủy Sứ[92]
Tô Trường được phong làm thứ sử Ba Châu,
đem cả gia đ́nh đến chỗ trấn nhậm.
Do vậy, họ vượt sông Giang Lăng. Giữa gịng
gió băo, thuyền bè ch́m đắm. Nam nữ hơn sáu
mươi người đều cùng lúc mất mạng,
chỉ có đứa tớ gái thường đọc kinh
Pháp Hoa. Sóng bủa vào thuyền, cô ta bèn đội hộp
đựng kinh lên đầu, thề cùng kinh chết,
nhưng cô chẳng ch́m ngay, cứ dập dềnh theo sóng.
Khoảnh khắc đến bờ, cô ta nâng hộp đựng
kinh, trèo lên, mở kinh ra xem, trọn chẳng bị thấm
ướt. Về sau, cô ta lấy chồng ở
Dương Châu, càng dốc ḷng tin tưởng, tụng niệm
hơn xưa (theo Pháp Uyển Châu Lâm).
* Trần thị ở Trường An
Lưu Công Tín tại phường
Thông Quỹ ở Trường An, có vợ là Trần thị.
Mẹ vợ do bệnh mà chết trước. Trần thị
bỗng chết đột ngột, thấy một người
dẫn vào địa ngục, thấy trọn khắp các
tướng tội. Sau đó, bà ta thấy một cửa
ngục bằng đá bỗng mở ra, mẹ ở trong
đó đang chịu khổ cực nặng. Mẹ thấy
con gái bèn nói: “Con hăy nên
v́ mẹ chép một bộ kinh Pháp Hoa để mẹ
được thoát khỏi”. Nói xong, cửa đóng lại.
Trần thị sống lại, kể chuyện, ông Lưu
tin tưởng, liền cậy em rể là Triệu Sư Tử
chép kinh ấy. Bỗng có kinh sanh (người chép kinh thuê) cầm
một bộ kinh Pháp Hoa mới chép xong xin đổi lấy tiền. Họ
Triệu nói: “May là có kinh này có thể mua, chẳng cần phải
chép”. Ông Lưu nghe theo, trang hoàng [bộ kinh ấy] cho đẹp
đẽ, đưa kinh cho Trần thị. Trần thị
một hôm cúng cơm cho mẹ, mộng thấy mẹ nói:
“Trước kia mẹ bảo con chép một bộ kinh, sao
con không làm?” Con thưa: “Đă mua một bộ rồi”. Mẹ
nói: “Ta v́ kinh đó mà chịu tội nặng hơn. Ngục
tốt đánh vỡ xương sống của ta v́ chẳng
nên lấy kinh của nhà họ Phạm làm của ḿnh!”.
Người con tỉnh giấc, vội mời người
viết. Kinh chép xong, lại mộng thấy mẹ bảo:
“Mẹ nhờ sức kinh đă thoát khỏi âm ty, an thân
nơi chốn tốt lành, nay đến báo với
con.
Con hăy giữ tín tâm, khéo sống trên thế gian”. Cô con gái bèn
ḍ hỏi [xuất xứ] của bản kinh trước,
quả nhiên là viết cho người họ Phạm. Đó
là chuyện trong năm Long Sóc[93]
đời Đường (theo Pháp Uyển Châu Lâm).
* Phí thị ở Ninh Châu
Đời Tống, vợ
ông La Dư là Phí Thị, người xứ Ninh Thục. Cha
bà húy là Duyệt, làm thái thú Ninh Châu. Bà Phí tín kính Tam Bảo, tụng
kinh Pháp Hoa, trong khoảng mấy năm, siêng khổ chẳng
lười nhác. Bà bỗng bị mắc bệnh đau tim,
trở thành nguy ngập. Cả nhà hoảng sợ, bà Phí dấy
lên ư niệm: “Ta tụng kinh siêng khổ, ắt được
gia hộ tốt lành, trọn chẳng v́ chuyện này mà lâm
vào tử địa”. Nghĩ xong bèn nằm ngủ, liền
mộng thấy Phật đích thân duỗi tay
qua cửa sổ xoa lên tim, trong ngoài đều thấy kim
quang đầy nhà. Lại nghe mùi hương lạ vây bủa người khác. Từ đó lành bệnh,
người trông thấy không ai chẳng sanh ḷng tin! (theo
Thái B́nh Quảng Kư)
* Con gái Nhậm Trưng Quân ở Thai
Châu
Chùa Dũng Tuyền ở huyện
Lâm Hải ở Thai Châu, vào đời Đường
trước kia là chỗ ở của ông Nhậm Trưng
Quân. Ông Nhậm dốc chí thanh bạch, cao cả, kiên cường,
lại c̣n tin sâu Phật pháp, tu nhiều thiện quả.
Ông có cô con gái nhật khóa chuyên tụng kinh Pháp Hoa. Có một
lúc, trong gian pḥng tụng kinh sanh ra bảy gốc sen xanh, cơi
đời đều lấy làm lạ. Trưng Quân trông thấy,
thiện tâm phát khởi, liền muốn xả nhà biến
thành chùa. Chuyện ấy c̣n đang thầm tính, khi đó,
có thiền sư Cao Ngọc trụ tích kết am tại núi
Lâu Thạch, cách nhà ông chẳng xa. Trong khi Sư Thiền Định,
tích trượng của Sư bay đến cắm xuống
sân nhà Trưng Quân. Ông tận lực nhổ lên, nhưng tích
trượng đă cắm sâu xuống ba thước đất.
Nước suối phun lên cao ba thước. Do vậy, ông
liền xây chùa tại ngôi nhà ấy, thỉnh thiền
sư khai sơn thuyết pháp, trụ tŕ. V́ lẽ đó,
chùa có tên là Dũng Tuyền Viện, hăy c̣n bài kư. Chuyện
này nghe từ Tịnh Minh Giảng Sư Bảo Cái tại
Phụng Hóa. Sư Bảo Cái từng đến chùa đó
khắc bia [câu chuyện ấy].
* Chị dâu của Thái Thú quận Cao
An
Chị dâu của Triều Phụng
Thái Thú Tôn Vu ở góa năm mười chín tuổi, tự
thề mỗi ngày ăn một bữa, suốt đời
tụng kinh Pháp Hoa, chẳng tái giá nữa. Khi ông Vu làm thái
thú quận Cao An, chị dâu đă bảy mươi hơn,
diện mạo tươi sáng, đi lại nhẹ nhàng.
Vào tháng Sáu mùa Hạ năm Chánh Ḥa thứ sáu (1117), bà bỗng
thu dọn kinh bổn, thu xếp quần áo chia cho người
hầu. Ông Vu hỏi nguyên nhân, bà cười bảo: “Ba ngày
nữa chị sẽ chết”. Đến lúc đó, quả
nhiên bà không bệnh, an tĩnh qua đời (theo Hồng
Giác Phạm Trí Chứng Truyện).
* Kỹ nữ Lô Mị Nhi tại
Dĩnh Châu
Âu Dương Văn Trung Công
(Âu Dương Tu) khi cai trị tại Dĩnh Châu, có một
quan nô[94]
tên là Lô Mị Nhi, sắc diện, dáng vẻ đoan trang, diễm
lệ, khéo cười nói. Trong miệng cô ta thường
có mùi hoa sen tỏa ra. Người ngồi xung quanh đều
lấy làm lạ, nhưng chẳng biết nguyên do. Bỗng
có một vị Tăng từ đất Thục đến,
khá hiểu biết chuyện đời trước. Do vậy,
ông Âu kể với vị ấy chuyện này. Vị
tăng nói: “Nàng ta đời trước từng làm ni, tụng
kinh Pháp Hoa ba mươi năm, do một niệm sai lầm
mà đến nông nỗi này!” Ông Âu Dương Tu chưa tin.
Về sau, ông gặp cô kỹ nữ ấy bèn hỏi: “Nàng
có từng đọc kinh Pháp Hoa hay chưa?” Cô ta nói: “Thiếp
thất thân nơi chốn này, chẳng rảnh rỗi
được!” Ông sai đem kinh cho cô ta. Cô ta vừa xem bèn
tụng như đă thuộc làu; đổi
sang kinh khác th́ không thể đọc được! Vị
tăng ấy nói há có sai ư? Xem chuyện này trong bộ Độn Tề Nhàn Lăm [của
Trần Chánh Mẫn]. Than ôi! Làm ni ba mươi năm tụng kinh,
đấy cũng là hạng người tinh tấn, do một
niệm sai lầm bèn sa chân. Ư niệm của người
đời há nên bất chánh ư? Nay làm thân kỹ nữ,
dùng thân tôn quư nhất trong loài người để hứng
chịu sự hèn tệ, bất tịnh của kẻ khác.
Nếu có thể hồi quang phản chiếu, chán ngán chuyện
đă làm, chuyên dốc ḷng thành đọc tụng kinh Đại
Thừa, th́ long nữ trong một sát-na nhanh chóng thành Chủng
Trí Giác, ai nấy đều
có phần! Nếu chẳng tỉnh ngộ, ác cảnh hiện
tiền, địa ngục, tam đồ chẳng có chỗ
trốn tránh!
* Kỹ nữ Dương Vận ở
Hồ Châu
Tại Hồ Châu có xướng
kỹ[95]
tên Dương Vận, tự chép kinh Pháp Hoa. Mỗi lần
cầm bút ắt đều trước đó ăn chay, tắm
gội, thay áo. Về sau, cô ta bị bệnh chết trong
đêm. Mẹ cô ta mộng thấy Dương Vận đến
từ biệt: “Con do sức chép kinh, nay được
thác sanh làm con gái nhà họ Thái là huyện lại[96]
thuộc huyện sảnh Ô Tŕnh”. Khi đó, vợ ông Thái là
Phương Nương trong đêm ấy, mộng thấy
có người khiêng kiệu đến nhà, ra đón th́ là
Dương Vận nói đến xin ở nhờ. Bà tỉnh
dậy sanh ra một gái. Mẹ cô ngày sau t́m đến
thăm, cô con gái lặng lẽ mỉm cười (theo
Khuê Xa Chí).
* Quách đạo nhân ở phủ Lâm
An
Đạo nhân Quách Thị,
pháp danh Diệu Viên, là người huyện Nhân Ḥa. Từ
bé, bà đă
được gả vào nhà họ Văn ở An Khê. Chồng
bà ta thích ăn chơi, chẳng quan tâm tới gia nghiệp.
Do vậy, bà ta xin về (trở lại nhà cha mẹ đẻ),
khoác áo tu đạo tại gia, lập chí ăn chay trường,
tụng kinh Pháp Hoa, tu Pháp Hoa Sám, tụng kinh Di Đà và niệm Phật hiệu.
Bà thường hướng về Tây, quán kỹ mặt trời
lặn. Một hôm, trên hư không có tiếng nói: “Này Quách
Diệu Viên! Như bà tu tập, chắc chắn sanh về
An Dưỡng”. Từ đấy, trở đi, bà càng
thêm tinh tấn, tâm chẳng tạm nghỉ. Tới lúc lâm chung,
bà tắm gội, thay áo, thỉnh tăng niệm Phật,
ngồi ngay ngắn qua đời. Đó là chuyện trong
năm Ất Sửu (1145) niên hiệu Thiệu Hưng (theo
Bảo Châu Tập).
* Trầm thị ở Minh Châu
Đầu niên hiệu Thiệu
Hưng, họ Ngũ ở Thạch Thu có cô dâu mới họ
Trầm, là người Định Hải thuộc Giang
Nam. Cô ta bẩm tánh trinh thục, tự tu thiện quả.
Mẹ chồng mỗi sáng tụng kinh Pháp Hoa, con dâu cẩn
thận hầu hạ. Hễ mẹ mở kinh ra, đều
đến nghe nhận, hoặc một hai phẩm cho đến
một quyển, lâu ngày chẳng biết mỏi mệt. Một
lúc nọ, cô ta mắc bệnh, liền thưa với mẹ
chồng: “Do mẹ
chồng tụng kinh, con dâu mới được nghe. Duyên
trần gian đă hết, chẳng kịp hầu hạ,
nguyện sẽ gặp gỡ trong hội của chư Phật
vào đời khác. Con mạn phép làm bài kệ để lại:
B́nh sanh vui sướng, chết cũng phong lưu, đến
bước cuối cùng, căn dặn đầu giường”.
Nói xong, vươn ḿnh ngồi dậy, xếp bằng qua đời. Mẹ
chồng thấy con dâu siêu thoát như vậy, đến kể
với thiền sư Hoằng Trí chùa Thiên Đồng.
Sư nghe rồi tán thán, vui mừng. [Gia đ́nh] bèn liệm vào khám,
tới khi hỏa thiêu, từ trong tro, t́m được vô
số hạt rạng ngời cứng chắc, sáng lóng lánh, tứ chúng trông thấy đều than
thở hy hữu. Đấy là chuyện do Pháp Chánh Tông
Sư thuộc chùa Hồ Tâm đích thân thấy nghe. V́ thế,
được truyền tụng trong cơi đời.
* Đứa tớ gái nhà họ Triệu
ở Minh Châu
Cuối niên hiệu Thiệu
Hưng, tại huyện Phụng Hóa, có người họ
Triệu. An nhân[97]
mẹ ông ta trọng Phật, trai giới, tụng kinh Pháp
Hoa. Trong nhà có một đứa tớ gái, lâu ngày nhớ
được bốn câu, tức là “thanh liên hoa
hương, bạch liên hoa hương, hoa thụ hương,
quả thụ hương”. Từ đó, cô ta động
tĩnh, làm lụng đều ngâm vịnh [bốn câu ấy]
chẳng dứt. Người khác nghe thấy, cho là cô ta nói
đùa, chẳng biết cô ta cũng có chỗ dụng tâm. Một
ngày, làm việc trái ư chủ nhân, cô ta bị lăng tŕ đến
chết. Họ bèn vùi thây cô ta ở hậu viên. Không lâu sau,
nơi đó bỗng trổ một đóa hoa sen xanh,
hương sắc đáng yêu. Kẻ khác chẳng biết
cô ta, chỉ có an nhân là ngầm biết. Đó là chỗ cảm
ứng do tụng bốn câu kinh. An nhân lại chẳng ẩn
giấu đức của cô ta, ngầm nói với Hư
Đường pháp sư là Bổn Không, sư Bổn Không
thường nói tương tự để giáo hóa người
khác. Tông Hiểu từng đích thân nghe nói, bèn chép kèm vào
đây!
* Châu Như Nhất ở Minh Châu
Châu Thị tên là Như Nhất,
là vợ ông Tiết ở Tứ Minh, là hậu duệ của
Khâm Thành Hoàng Hậu[98],
tức là cháu hai đời của Uyên Thánh Cung. Từ lúc gả
cho ông Tiết, bà coi cơi đời như bụi đất,
bùn lầy. Lúc ngoài hai mươi, liền nói với chồng
muốn ở một ḿnh thanh tịnh, tự khoác pháp phục
tu tại gia, ăn chay trường. Bà từng dùng lụa
vàng sai kinh sanh (người chép kinh thuê) biên chép bảy quyển
của kinh Pháp Hoa, đích thân dùng nhung biếc để
thêu trên đó. Nét thêu vờn quanh kín kẽ, trông
như nét mực vừa viết xong. Mất mười
năm mới hoàn thành. Bà lại thêu tượng Di Đà,
Quán Âm, chẳng khác ǵ hội họa. Từ tựa đề
kinh, bà tôn kính lạy tám vạn bốn ngàn lạy. Cứ mỗi
câu, mỗi chữ, đều xướng lễ ba lần.
Một bộ kinh Pháp Hoa mất ba tháng có thể tụng thuộc.
Lại khuyên hai vạn người niệm Phật Di
Đà. Bà cho
khắc gỗ để in h́nh Phật, niệm mười
vạn tiếng mới ngưng. Bà lại bán đồ
tư trang để làm ba ngày pháp hội, tụ hội
đạo tục cả vạn người, cúng trai một
ngàn vị tỳ-kheo, tạo tràng báu chứa kinh Pháp Hoa và
tên người niệm Phật để đón về chùa
Diên Khánh. Bà bỗng mắc bệnh nhẹ, tới lúc nhắm
mắt, liền ngồi dậy, xếp bằng. Ông Tiết
nói: “Trong nhà ta không có kiểu ấy, xin hăy nằm xuống”.
Bà liền nằm bên hông phải, qua đời.
Năm đó, bà ta ba mươi bảy tuổi, thiên sư Bảo
Đàm ở Quất Châu tán thán.
Pháp Hoa Kinh Hiển Ứng Lục,
quyển hạ chung
* Bài tựa khắc in bộ Pháp Hoa
Kinh Hiển Ứng Lục
Pháp Hoa kinh là vua các kinh, là lời
luận đàm cùng cực rốt ráo. V́ thế, kinh
được tŕ tụng nhiều nhất, mà người
đạt được linh nghiệm chẳng thể kể
xiết. Nhưng các sự tích ấy được ghi chép
rải rác trong sách vở, chẳng thể thấy trọn.
Dẫu có người sưu tập, nhưng cũng chẳng
đủ nhiều, sơ sót quả thật chẳng ít!
Pháp sư Thạch Chi Tông Hiểu đời Tống có hai
quyển Hiển Ứng Lục đă chọn lựa các
chuyện cảm ứng hiển nhiên xưa nay được
chép rành mạch, rơ ràng trong sách vở, và những điều
Sư được đích thân thấy nghe, biên tập
hoàn thiện, quả thật đủ để nêu bày chứng
cớ khơi gợi
ḷng tin từ đời trước ḥng khuyên bảo mai
sau. Bộ sách ấy đă được lưu truyền,
nhưng lâu ngày bị khuất lấp. Tôi ngẫu nhiên có
được [sách ấy] để xem
đọc, muốn khắc ván để lưu truyền rộng
răi, nhưng duyên chưa tới. Gần đây, các vị lăo
túc thuộc Tịnh Nghiệp Xă trong núi thấy vậy, bảo
tôi rằng: “Năm thứ diệu hạnh chính là cái nhân
thù thắng của Tịnh Độ. Sách này được
lưu thông, há chẳng tùy hỷ ư?” Bèn khuyên những
người trong liên xă chia sẻ tịnh tài thơm thảo
để cùng giúp cho chuyện này [thành tựu]. Tôi vui mừng,
giảo chánh lần nữa để khắc in.
Hưởng Bảo[99],
thượng tuần giữa Thu năm Đinh Mùi (1727),
Đông Duệ sa-môn Lượng Điển kính cẩn trần
thuật.
[1] Phùng Dịch (逢掖) vốn
là một loại áo rộng tay mà Nho sĩ thường mặc.
Do phần nách áo (thân áo nối với tay áo) may rất rộng
nên gọi là Phùng Dịch (Dịch (掖) là chữ giả tá của
Dịch (腋) có nghĩa là nách).
[2] Do trong nguyên bản có nhiều chữ
bị mất, nên câu này dịch không trọn vẹn.
[3] Đồ Kư (圖記) là cách gọi khác của
Phương Chí (方志), tức sách vở ghi lại h́nh thế,
đặc điểm, phong tục của một địa
phương.
[4] Bí Thư Tỉnh c̣n gọi là Lan
Đài, Lân Đài, Phùng Sơn, hoặc Bí Thư Giám, là một cơ quan hành chánh
được thiết lập từ thời Hoàn Đế
nhà Đông Hán, trực thuộc Thái Thường Tự, về
sau thành một cơ quan chuyên biệt. Cơ quan này có trách nhiệm quản lư tất cả
hồ sơ, sổ sách, thư tịch, các trước tác
của hoàng gia, cũng như soạn thảo các văn bản
dùng trong tế lễ của hoàng tộc. Từ đời
Đường trở đi, trong Bí Thư Tỉnh lại
thiết lập các chức quan Bí Thư Giám (đứng
đầu Bí Thư Tỉnh), Bí Thư Thiếu Giám (c̣n gọi
là Lan Đài Thị Lang) làm phó, Bí Thư Thừa (giống
như người xử lư thường vụ), Bí Thư
Lang, Giảo Thư Lang, Chánh Tự, Chủ Sự, Lệnh
Sử, Thư Lệnh Sử, Điển Thư, Khải Thư,
Đ́nh Trưởng, Chưởng Cố, Thục Chỉ,
Trang Hoàng, Bút Tượng, tổng số đến
tám mươi tám người.
[5] Nhận (仞, c̣n đọc là Nhẫn) là
đơn vị đo lường thời cổ,
được quy định là chiều dài khi giang thẳng
hai tay của một người đàn ông trưởng
thành. Đời Châu quy định tám thước là một
Nhận, đời
Hán th́ bảy thước là một Nhận.
[6] Cát Tường thiên nữ (Lakṣmī), c̣n
dịch là Công Đức Thiên Nữ, Tài Bảo Thiên Nữ,
Bảo Tạng Thiên Nữ, Công Đức Thiên Nữ (Sridevi),
Thế Mẫu, Nhũ Hải Nữ, Cát Khánh Nữ, Liên Hoa Nghiêm
Sức, Cụ Tài, Bạch Sắc, Đại Danh Xưng,
Liên Hoa Nhăn, Đại Quang Diệu, Bảo Quang… là vị
thiên nữ chủ tŕ tài bảo, ban phước lạc cho chúng
sanh, giữ vai tṛ hộ pháp trong Phật giáo (thuộc nhóm Nhị
Thập Chư Thiên). Bà là vợ của Tỳ Nữu Thiên
(Vishnu, Tỳ Thấp Nô). Thần chú Thiện Nữ Thiên thuộc Thập
Tiểu Chú trong khóa tụng buổi sáng của Thiền môn
là bài chú do bà đă nói
trong kinh Kim Quang Minh. Trong Phật giáo Tây Tạng, bà được
coi là vị hộ pháp bảo hộ riêng của Đại
Lai Lạt Ma. Điểm
đặc biệt là khác với
các h́nh tượng xinh đẹp hiền hậu như thường
thấy trong Ấn giáo hoặc Phật
giáo Bắc Tông nói chung, Tạng
truyền Phật giáo tạc tượng bà dưới dạng
phẫn nộ, da đen đúa, nhe nanh, trợn
mắt, bốn tay, da xanh dương, cưỡi lừa, dùng
yên cương bằng các con rắn, đeo chuỗi anh lạc
kết bằng đầu lâu v.v…
[7] Ma Lợi Chi Thiên (Marici, có nghĩa là
“tia sáng”) là một vị Bồ Tát thị hiện thân thiên nữ,
thuộc nhóm Nhị Thập Tứ Thiên thường
được mô tả trong các mạn đà la của Phật
giáo. Ngài được coi là vị thiên nữ tương ứng
với ánh sáng mặt trời, chủ tŕ việc trừ si
ám cho chúng sanh. Ngài thường được tạc
tượng dưới h́nh dạng thiên nữ có ba mặt,
h́nh dung tươi trẻ xinh đẹp, tám tay, ngồi
trên ṭa sen đặt trên lưng của tám con lợn. Theo
các nhà nghiên cứu, Đạo Giáo đă vay mượn vị Bồ Tát này từ Phật
giáo để tạo ra nữ thần Đẩu Mẫu
Nguyên Quân (mẹ của Cửu Hoàng Đại Đế tức
chín v́ sao trong chùm sao Bắc Đẩu (Tham Lang, Cự Môn, Lộc
Tồn, Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân) cộng với
Tả Phù và Hữu Bật).
[8] Thuần Hy là niên hiệu của Tống
Hiếu Tông (Triệu Thận) từ năm 1174 đến
năm 1189.
[9] Vĩnh Trinh
là niên hiệu của Đường Thuận Tông (Lư Tụng)
sử dụng từ năm 805 đến
năm 806.
[10] Văn Đức hoàng
hậu (601-636) chính là vợ vua Đường Thái Tông. Sử
không chép tên bà, chỉ biết bà là người Tiên Ty, họ
Trưởng Tôn, có hiệu là Quán Âm Tỳ (đầy tớ
của đức Quán Âm), con gái của quan Hữu Kiêu Vệ
Tướng Quân Trưởng Tôn Thịnh. Anh bà là Trưởng
Tôn Vô Kỵ được xếp
vào hàng khai quốc công thần của nhà Đường.
Bà mồ côi cha từ lúc tám tuổi, được cậu
là Cao Sĩ Liêm nuôi dưỡng. Bà lấy Lư Thế Dân
(Đường Thái Tông) lúc 13 tuổi, được phong
là Tần Vương Phi. Bà là người hiền hậu
luôn can ngăn chồng, tận lực bảo vệ các vị
đại thần trung chánh quá thẳng tính làm trái ư vua. Bà mất
khi mới 36 tuổi, được chôn tại Chiêu
Lăng.
[11] Lễ tạng thám kinh: Khi chưa biết
chắc nên tu tập pháp môn nào ḥng phù hợp căn cơ, cổ
đức thường lễ sám tinh thành, sau đó vào Tàng
Kinh Các, lễ bái Đại Tạng Kinh, nhắm mắt rút
một quyển kinh, mở ra trúng kinh nào th́ tu theo pháp môn dạy
trong kinh đó.
[12] Theo bi kư tại tháp Đa Bảo tại
chùa Thiên Phước, sự kiện này được ghi chép
rơ ràng hơn: Đường Huyền Tông trong năm Thiên Bảo
nguyên niên (742) mộng thấy ḿnh bước lên một ṭa
bảo tháp chín tầng. Vua thấy trên đó có đề
pháp danh của người kiến tạo, phía dưới
có ghi một chữ Kim. Vua hỏi triều đ́nh, mới
biết có thiền sư Sở Kim [đang quyên góp dựng
tháp Đa Bảo], bèn thưởng vàng lụa để dựng
tháp. Mất bốn năm, tháp mới xây xong, được
vua đích thân ngự đề tên tháp. Lối chữ viết
của Nhan Chân Khanh trên bia tháp này được coi là mẫu
mực thư pháp, nên có nhiều người rập chữ
(tức là dùng giấy than chà lên bia để lấy nét chữ
đem bán cho người đang tập viết).
[13] Ư nói: Sau khi đă thọ Cụ Túc
Giới th́ mới chính thức là Tăng.
[14] Đây là một chức vụ quản
lư các tăng ni để đảm bảo không có tăng
sĩ giả danh chẳng thọ giới trà trộn vào hàng ngũ tăng ni.
Chức quan này được thiết lập dưới
đời Đường và Tống nhằm quản trị
tăng ni và bổ nhiệm các vị tăng giữ chức
vụ quản lư, kiểm tăng, trục xuất tăng
sĩ giả mạo hoặc vi phạm giới luật. Thoạt
đầu, trong niên hiệu Trinh Nguyên, lập ra chức Tả
Nhai và Hữu Nhai Công Đức Sứ, sau đó đặt
thêm chức Hữu Nhai và Tả Nhai Tăng Lục
để giúp. Đến đời Tống, lập ra
riêng một cơ cấu quản trị gọi là Tăng Lục
Ty. Tăng sĩ phải thông qua khảo hạch mới
được Tăng Lục Ty cho phép thọ giới và cấp giấy chứng
nhận gọi là Độ Điệp. Trong Tăng Lục
Ty, lại đặt ra các chức Tăng Lục (đứng
đầu tăng sĩ cả nước), không c̣n chức
Công Đức Sứ, phía dưới có các vị phụ tá
như Giảng Kinh Thủ Ṭa, Giảng Luận Thủ Ṭa,
Giám Nghĩa v.v… Các chức vụ này dưới thời
Minh - Thanh được coi như quan chức của triều
đ́nh có phẩm trật và lương bổng, nhưng bỏ
các danh xưng Tả Nhai và Hữu Nhai.
[15] Thiên Tề Vương chính là tước
hiệu của thần núi Thái Sơn. Vị thần này
được Đạo Giáo tôn xưng là Đông
Nhạc Thái Sơn Thiên Tề Đại Sanh Nhân Thánh Đại
Đế, nên được gọi tắt là Thiên Tề
Vương, đôi khi c̣n gọi là Thái Sơn Phủ Quân,
Đông Nhạc Đế Quân, Nhạc Đế Gia, Nhạc
Đế v.v… Theo Đạo Giáo, Ngài đứng đầu năm vị đại đế
cai quản ngũ nhạc, có chức trách cai trị cơi âm.
Ngài được coi là một vị thần hộ pháp
trong Hán truyền Phật giáo.
[16] Phần này nguyên bản bị mất
chữ.
[17] Cung Phụng quan là danh xưng để chỉ chung các quan viên thuộc Trung
Thư Tỉnh và Môn Hạ Tỉnh. Đôi khi, quan viên thuộc
Ngự Sử Đài cũng gọi là Cung Phụng Quan. Xét
ra, Trung Thư Tỉnh và Môn Hạ Tỉnh đều là các
cơ cấu hành chánh, không thích hợp cho một vị
Tăng, Ngự Sử Đài cũng thế. Đời
Đường, có lập ra Cung Phụng Cục bao gồm
những người có một tài khéo đặc biệt
nào đó để cống hiến đế vương;
những người thuộc Cung Phụng Cục đều
gọi là Cung Phụng Quan. Có lẽ Sư thuộc trường
hợp này v́ Sư
là vị thầy hỏi
đạo của nhà vua.
[18] Thiên Phước là niên hiệu của
Hậu Tấn Cao Tổ (Thạch Kính Đường) từ
năm 936 tới năm 944. Vào thời Ngũ Đại, Thạch
Kính Đường thuộc sắc dân Sa Đà, do lập nhiều công
lao với nhà Hậu Đường, trở thành quyền
thần. Ông ta diệt nhà Hậu Đường năm 936,
lập ra nhà Hậu Tấn. Triều đại này trước
sau chỉ tồn tại được hai đời vua,
tồn tại 12 năm. Nhà Hậu Tấn bị Khiết
Đan diệt quốc, v́ khởi đầu, Thạch Kính
Đường nhờ quân Khiết Đan ủng hộ mà
đủ sức diệt Hậu Đường. Sau
đó, để lấy ḷng người Khiết Đan, Thạch Kính Đường đă cắt đất của
mười sáu châu thuộc các tỉnh Hà Bắc và Sơn
Tây cho vương triều Liêu của người Khiết
Đan, tôn vua Liêu (Da Luật Đức Quang) làm cha, dẫn tới việc các ngoại
tộc như Mông Cổ, Khiết Đan, Đảng Hạng,
Nữ Chân v.v… chiếm đóng miền Bắc Trung Hoa
hơn 400 năm cho tới khi Châu Nguyên Chương thống nhất Trung
Hoa.
[19] Nhà Lưu Hán (c̣n gọi là Hậu
Hán) là triều đại do Lưu Trí Viễn (thuộc sắc
tộc Sa Đà) thành lập vào thời Ngũ Đại
sau khi nhà Hậu Tấn (Thạch Tấn) diệt vong và Liêu
Thái Tông (Da Luật Đức Quang) của nhà Liêu vừa chết,
khiến cho t́nh h́nh nước Liêu rối ren.
Trí Viễn đă thừa cơ sáng lập nhà Hậu Hán,
nhưng chỉ làm vua được một năm rồi
chết, con là Lưu Thừa Hựu (Hán Ẩn Đế)
lên ngôi, chẳng biết cách cai trị, lại nghi kỵ
công thần Quách Oai, toan giết chết ông ta. Quách Oai làm phản,
diệt nhà Hậu Hán, lập ra nhà Hậu Châu. Trước
sau, nhà Hậu Hán chỉ tồn tại
chưa đầy bốn năm!
[20] Tri điện tăng là vị
tăng trông coi chánh điện trong một
tùng lâm, chuyên lo bảo tŕ, sắp đặt, trang hoàng trong
chánh điện.
[21] Vương Quân vốn
xuất thân là nông dân vốn là thuộc hạ của quan Kiềm Hạt Ích Châu (nay là Thành Đô tỉnh
Tứ Xuyên) là Phù Thiệu Thọ. Năm Hàm B́nh thứ ba
(1000), quân đồn thú là Triệu Diên Thuận chẳng chịu
nổi thượng cấp chèn ép, tụ họp đồng
bạn giết chết Phù Thiệu Thọ, tôn Vương
Quân làm lănh tụ, đặt quốc hiệu là Đại
Thục, niên hiệu là Hóa Thuận, công phá Hán Châu (nay là huyện Quảng Hán tỉnh
Tứ Xuyên). Số người đi theo lên đến mười
mấy vạn. Quân khởi nghĩa đánh bại tướng
nhà Tống là Dương Hoài Trung. Măi cho đến tháng Chín
năm ấy, tướng nhà Tống là Trương Cát vận
chuyển lương thảo đến nơi, sai bộ
tướng là Lôi Hữu Chung phản công, phá tan quân phản
loạn tại Thành Đô. Vương Quân phá ṿng vây, chạy
đến Phú Thuận. Thế cùng lực kiệt, ông ta tự
tử vào tháng Mười năm ấy.
Năm Thuần Hóa thứ tư
(993), tại huyện Thanh Thành một tay phú nông chuyên trồng
trà là Vương Tiểu Ba đề ra khẩu hiệu
“san bằng giàu nghèo”, tuyên bố “ta ghét giàu nghèo bất b́nh
đẳng, ta sẽ v́ các ngươi thực hiện công
bằng”, phát động khởi nghĩa. Sau khi hắn tử
trận năm ấy, em vợ hắn là Lư Thuận trở
thành lănh tụ quân khởi nghĩa. Lư Thuận suất lănh
đại quân từ Giang Nguyên tấn công Thục Châu, Cung
Châu, giết chết quan tri châu, thông phán v.v… Sau đó, chia
quân thành hai tấn công và chiếm đóng một loạt các
quận huyện tại Tứ Xuyên như Song Lưu, Ôn
Giang, B́ Huyện v.v… Cánh quân do Lư Thuận suất lănh th́ tấn
công Thành Đô, Hán Châu, Bành Châu. Quân phản loạn đông tới
mấy chục vạn người. Hai lượt triều
đ́nh nhà Tống sai người dẹp loạn đều đại
bại, Lư Thuận bèn xưng là Đại Thục
Vương, lấy niên hiệu là Ứng Vận. Về
sau, Tống Thái Tông phải phái các tướng lănh nhiều
kinh nghiệm như Vương Kế Ân, Lôi Hữu Chung,
Doăn Nguyên v.v… từ nhiều ngả phối hợp tấn
công, mất một năm mới giết chết Lư Thuận,
cầm tù các lănh tụ quân phản loạn khác. Dư đảng
vẫn dấy binh các nơi, măi cho đến năm Chí Đạo thứ hai (996) mới
hoàn toàn dẹp yên.
[22] Sơn bộc: Tùy tùng, người
hầu của thần núi.
[23] Tôn Tư Mạc (541-682) là một y sĩ kiêm đạo sĩ trứ
danh đời Đường. Ông được coi là một
thầy thuốc kiêm hóa học gia vĩ
đại thời cổ, được tôn xưng là
Dược Vương. Triều Tống sắc phong tôn hiệu là Diệu Ứng Chân Nhân, Đạo Giáo tôn ông là Thiên Y Diệu Ứng Quảng
Viện Thiện Tế Chân Quán, tôn thờ làm Y Thần. Ông
sống vào thời Tây Ngụy, nổi tiếng thông minh và
nhớ dai từ bé. Ông tinh thông học thuyết của bách
gia chư tử, hứng thú sâu đậm với đạo
Lăo Trang, giỏi lư luận âm dương, giỏi bói toán.
Điểm đặc biệt là ông cũng hiểu kinh Phật
rất sâu. Ông lắm bệnh tật từ bé, đến nỗi
than thở “tiền mua thuốc làm khánh kiệt gia sản”. Nhận thấy
dân nghèo chết v́ không có tiền mua thuốc, nên từ lúc mười tám tuổi, ông lập chí học y
để cứu người, trở thành một vị y sư lỗi lạc.
Các đời vua Châu Tuyên Đế, Châu Tĩnh Đế,
Tùy Văn Đế, Đường Thái Tông, Đường
Cao Tông đều ra sức dùng quan cao lộc cả để
chèo kéo ông làm ngự y, nhưng ông đều
uyển chuyển từ chối, hoặc chỉ làm ngự
y một thời gian ngắn cho vua Đường Thái Tông.
Ông cáo bệnh, xin về hưu, ẩn cư trong núi
Vương Ốc. Tác phẩm Bị Cấp Thiên Kim Yếu
Phương (các toa thuốc trọng yếu đáng giá ngàn
vàng ứng dụng cho các trường hợp cấp bách) của
ông được đánh giá rất cao. Dân gian Trung Hoa truyền
tụng rằng sau khi chết, trở thành thần, ông kết
bái huynh đệ với hai vị thầy thuốc nổi
tiếng khác là Ngô Thao và Hứa Tốn, gọi chung là Bảo
Sanh Tam Chân Nhân. Có nơi như vùng Mân Nam, Đài Loan lại
tương truyền rằng Tôn Tư Mạc, Ngô Thao và Hứa Tốn thật ra
chỉ là cùng một người, tái sanh trong các triều
đại khác nhau để cứu đời và được
gọi chung là Bảo Sanh Đại Đế.
[24] Khai Bảo là niên hiệu của Tống
Thái Tổ (Triệu Khuông Dẫn) sử dụng từ
năm 968 cho đến năm 976.
[25] Thái B́nh Hưng Quốc là niên hiệu
của Tống Thái Tông (Triệu Quang Nghĩa) từ năm
976 đến năm 984.
[26] Hoàng Hựu là niên hiệu của Tống
Nhân Tông (Triệu Trinh) từ năm 1049 đến năm
1054.
[27] Nguyên văn “lại ngư” (瀨魚, wrasse, rainbow fish) là một loại
cá biển nhỏ, nhiều màu sắc rực rỡ. Chúng có
tập tính bơi thành bầy ngay ngắn, nương theo
các đàn cá lớn hơn để kiếm ăn.
[28] Tống Anh Tông vốn tên là Triệu
Tông Thật, về sau đổi tên thành Triệu Thự,
là con của Bộc An Ư Vương (Triệu
Doăn Nhượng), cháu nội của Triệu Nguyên Phần
(con trai thứ tư của Tống Thái Tông). Khi ba tuổi,
được Tống Nhân Tông (do ba người con trai của
Tống Nhân Tông đều chết sớm) đưa vào
cung nuôi dưỡng. Anh em của Tống Nhân Tông đều
chết cả rồi, nên Triệu Thự được lập
làm hoàng tử khi ông đă ba mươi tuổi. Ông lên ngôi
vua năm Gia Hựu thứ tám (1063) sau khi Tống Nhân Tông chết.
[29] “Tu nhă” (修雅) là từ ngữ tán thán người thanh cao, không thô tục.
“Tu nhă trong họ Thích” tức là một vị tăng thanh cao.
[30] Ngài Tăng Già (628-710) là cao tăng
đời Đường, được tôn xưng là Tứ
Châu Đại Thánh, c̣n được dân gian tôn xưng là Tứ
Châu Phật. Ngài từ Lương Châu vào Trung Hoa khuyến
hóa, hóa duyên chủ yếu tại các vùng Tần, Lạc,
Ngô, Sở. Năm Long Sóc nguyên niên (601), Ngài nhận lời
thỉnh đến Tứ Châu truyền giáo. Sư thuyết
pháp xong, bảo chủ nhân: “Nơi này chính là đất già
lam xưa kia, đào đất lên sẽ biết”. Chủ
nhân sai người đào lên, quả nhiên t́m được
một tấm bia, đề tên Hương Tích Tự, một
tượng Phật, đại sư bảo đó là Phổ
Chiếu Vương Phật. Chủ nhân
liền phát tâm biến nhà thành chùa, tức Phổ Chiếu
Vương Tự. Đường Trung Tôn tôn ngài làm quốc
sư, đón về kinh làm phương trượng chùa Tiến
Phước. Từng có người đàm luận Phật
pháp với Sư, bỗng thấy Ngài hóa thành Thập Nhất
Diện Quán Âm. Sư nhập Niết Bàn năm Cảnh Long
thứ tư (710), chân thân chẳng mục nát.
[31] Bá Cố chính là tên tự của Tô
Kiên, một thi nhân nổi danh đời Bắc Tống.
Ông này quê ở Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến,
làm quan đến chức Kiến Xương Quân Thông Phán,
bạn rất thân với Tô Đông Pha.
[32] Sùng Ninh là niên hiệu của Tống
Huy Tông (Triệu Cát) từ năm 1102 đến năm 1106.
[33] Giang Tây Thi
Phái là một trào lưu thơ ca đời Tống, do Hoàng
Đ́nh Kiên chủ xướng, các thành viên bao gồm Trần
Sư Đạo, Phan Đại Lâm, Tạ
Dật, Hồng Sô, Nhiêu Tiết, Tăng Tổ Khả, Từ
Phủ, Hồng Bằng, Lâm Mẫn Tu, Tô Dương v.v…
Đại đa số các thành viên là người Giang Tây.
Thơ của họ chuộng dùng điển cố, gieo những
vần hiểm, âm điệu du dương, phần nhiều
chú trọng h́nh thức.
[34] Thiên Hy là niên hiệu của Tống
Chân Tông (Triệu Đức Xương) từ năm 1017 tới
năm 1021.
[35] Khang Định là niên hiệu của
Tống Nhân Tông (Triệu Trinh) từ năm 1040 đến
năm 1041.
[36] Trong tác phẩm Lâm Gian Lục do pháp
sư Huệ Hồng biên tập, chuyện này được
nói rơ ràng hơn: “Khi đó, có một gă cuồng tăng sách
động mọi người tuân theo thói tục, ngay cả
hàng sĩ đại phu cũng tin theo lời hư vọng
của hắn. Hắn mới vừa cùng Thái Thú Nhuận
Châu ăn thịt, Sư đă xông tới, chỉ vào hắn
nói: “Ngay trong lúc này, Phật là như thế nào?” Hồi
Đầu quẫn bách, chẳng trả lời được.
Sư đập vào đầu hắn, xô ngă rồi bỏ
đi. Lại có cuồng tăng hiệu là Bất Thác, thuyết
pháp ở Tú Châu. Người nghe đông nghẹt cả
thành. Sư nắm chặt hắn, hỏi: “Phật là
như thế nào?” Bất Thác c̣n đang nghĩ ngợi,
Sư đạp ngă hắn rồi đi”.
[37] Kiến Viêm là niên hiệu của Tống
Cao Tông từ năm 1127 đến năm 1129.
[38] Thuần Hy là niên hiệu của Tống
Hiếu Tông từ năm 1174 đến năm 1189.
[39] Đại Quán là niên hiệu của
Tống Huy Tông (Triệu Cát) từ năm 1107 đến
năm 1110.
[40] Đăi Chế là chức quan
được thiết lập từ đời Đường,
từ ngũ phẩm trở lên, có nhiệm vụ trực
ban hằng ngày tại Trung Thư Tỉnh và Môn Hạ Tỉnh
để vua tham khảo ư kiến khi có chánh sự cần phải giải quyết. Năm Văn Minh nguyên niên
(684), triều đ́nh hạ lệnh: Quan ngũ phẩm trở lên, có tiếng
thanh liêm, phải luân phiên túc trực ở
Chương Thiện Môn và Minh Phước Môn để làm
cố vấn cho hoàng đế. Chuyện này được gọi là Đăi Chế (chờ
chiếu chỉ). Đến đời Tống, triều đ́nh thiết lập chức vụ này thành chức quan thường trực, có trách nhiệm vừa làm cố vấn vừa
truyền đạt chiếu chỉ của nhà vua. Đối
với mỗi điện đường để thiết
tiểu triều hay đại triều, đều lập
quan Đăi Chế riêng, như Bảo Ḥa Điện Đăi
Chế, Long Đồ Các Đăi Chế, Thiên Chương
Các Đăi Chế v.v…
[41] Nghê ở
đây là con Toan Nghê, tức một loại sư tử, do
có truyền thuyết nói Toan Nghê là một trong chín đứa
con của rồng, thích ngửi và phun khói hương, cho nên
người ta thường đắp h́nh nó trên các cái
lư hay đỉnh đốt hương.
[42] Kiếp thạch:
Để giải thích một đại kiếp dài lâu như
thế nào, kinh văn thường dùng tỷ dụ như
sau: Có một ḥn đá mỗi bề rộng bốn
mươi dặm. Cứ mỗi trăm năm, thiên nhân
giáng xuống dùng áo trời phẩy qua một lần cho
đến khi ḥn đá ấy ṃn hết th́ là một đại
kiếp.
[43] Thiện Huệ đại sĩ tức
là Phó Đại Sĩ. Phó Đại Sĩ (497-569), tên là Phó
Hấp, tự Huyền Phong, tự hiệu là Thiện Huệ
đại sĩ, người huyện Nghĩa Ô thuộc Vụ
Châu, là một cư sĩ trứ danh trong Phật giáo sống
vào thời Lương Vũ Đế, hành tung thần dị.
Ngài cùng với tổ Đạt Ma và Bảo Chí thiền
sư được gọi là Lương Đại Tam
Đại Sĩ (ba vị đại sĩ đời
Lương). Ngài được coi là hóa thân của Di Lặc
Bồ Tát, giảng giải kinh Kim Cang theo một phong cách
riêng biệt, và được đánh giá là người
tiên phong khiến cho Thiền Tông hưng thịnh tại
Trung Hoa.
[44] Theo Phật Học Từ Điển
của Đinh Phước Bảo, Tạng là cách tính số
lượng kinh đă đọc tụng. Cứ năm ngàn
không trăm bốn mươi tám quyển (lần đọc
tụng) được tính là một tạng. Cách tính này bắt
nguồn từ Khai Nguyên Thích Giáo Lục thống kê trong thời ấy, kinh điển nhà Phật [được dịch sang tiếng
Hán] gồm năm ngàn không
trăm bốn mươi tám quyển. Nếu tính theo các Đại Tạng Kinh
đời sau như Tống Tạng, Vĩnh Lạc Đại
Tạng, Càn Long Tạng th́ số lượng các
quyển trong Đại Tạng Kinh càng nhiều hơn nữa, nhưng thế
tục đă quen gọi con số năm ngàn không trăm bốn
mươi tám quyển (lượt) là một Tạng. Ngoài ra, c̣n có những cách hiểu
khác như năm trăm là một tạng (hiểu
tương ứng theo ngũ vị tấn tu có năm
trăm
môn Ba La Mật), hoặc
coi một ngàn là một tạng (nhằm hiển thị
bách giới thiên như), hoặc coi ba ngàn là một tạng
(theo quan điểm ba ngàn tánh tướng của tông Thiên
Thai), hoặc coi năm ngàn là một tạng (do năm
trăm môn ba la mật, mỗi môn đều có Thập
Như Thị), hoặc coi một vạn là một tạng
(hiển thị ư nghĩa: Vạn đức cùng phô bày), hoặc
coi tám vạn bốn ngàn là một tạng, hiển thị
ư nghĩa tám vạn bốn ngàn trần lao. Tuy có nhiều
cách nói, nhưng cách hiểu “một tạng là năm ngàn không trăm bốn mươi tám quyển” vẫn là cách hiểu phổ biến
nhất.
[45] Hiến Sứ là danh thông tục
để gọi chức quan Đề H́nh (Đề
Điểm H́nh Lộ), c̣n gọi là Hiến Ty, tức chức
quan chưởng quản việc tố tụng, chấp
pháp, và quản trị tù ngục tại các châu huyện.
[46] Do Sư sống vào thời Tống
Nhân Tông, Lưỡng Chiết ở đây phải hiểu
là Lưỡng Chiết Lộ (Lộ là một khu vực
hành chánh đời Tống. Lănh thổ Đại Tống
được chia thành mười lăm lộ), bao gồm
mười bốn châu như Tô Châu, Thường Châu, Nhuận
Châu, Hàng Châu, Hồ Châu, Minh Châu, Việt Châu v.v… Tức là bao gồm
toàn bộ tỉnh Chiết Giang, thành phố Trấn Giang của tỉnh Giang Tô, và Thượng
Hải hiện thời. Sở dĩ gọi là Lưỡng
Chiết v́ dựa theo tên gọi Chiết Giang Đông Đạo
và Chiết Giang Tây Đạo thời Ngũ Đại.
Lưỡng Chiết Lộ thoạt đầu có tên là
Lưỡng Chiết Đông Bắc Lộ được
lập ra trong năm Thái B́nh Hưng Quốc thứ ba (978).
Đến thời Nam Tống, lại tách ra thành Lưỡng
Chiết Tây Lộ và Lưỡng Chiết Đông Lộ.
[47] Nguyên Phong là niên hiệu của Tống
Thần Tông (Triệu Húc) từ năm 1078 đến năm
1085.
[48] Gia Hựu là niên hiệu của Tống
Nhân Tông từ năm 1056 đến năm 1063.
[49] Chánh Ḥa là niên hiệu của Tống
Huy Tông (Triệu Cát) từ năm 1111 đến năm 1118.
[50] Thiệu Hưng là niên hiệu của
Tống Cao Tông (Triệu Cấu) từ năm 1131 đến
năm 1162.
[51] Di Đà Ấn gần giống
như ấn Thiền Định, hai tay xếp lại đặt trước
bụng, ḷng bàn tay ngửa lên,
tay phải đặt trên tay trái, đặt ở trước
bụng, hai ngón nhỏ và ngón cái của mỗi tay tạo
thành h́nh khuyên tṛn, lưng hai ngón trỏ đặt sát nhau. Ấn
này c̣n gọi là Thượng Phẩm Thượng Sanh Ấn
(tượng Phật Di Đà ngồi thường
được tạc kết ấn này). Cũng kết ấn
như thế, nhưng thay ngón trỏ bằng ngón giữa
th́ thành Thượng Phẩm Trung Sanh Ấn. Vẫn kết
ấn như thế, nhưng thay ngón bằng ngón đeo nhẫn
th́ gọi là Thượng Phẩm Hạ Sanh Ấn. Hai tay
nâng lên ngang ngực, hai bàn tay đặt trước hai vai,
ḷng bàn tay hướng ra trước, ngón trỏ và ngón cái tạo
thành h́nh khuyên nơi mỗi bàn tay th́ gọi là Trung Phẩm
Thượng Sanh Ấn. Cũng giữ nguyên tư thế ấy,
nhưng thay ngón trỏ bằng ngón giữa th́ là Trung Phẩm
Trung Sanh Ấn. Cũng làm như thế, thay ngón giữa bằng
ngón áp út th́ gọi là Trung Phẩm Hạ Sanh Ấn. Hai ḷng
bày tay hướng ra trước, tay phải giơ lên
đặt gần vai, tay trái hướng xuống dưới,
ngón trỏ và ngón cái kết thành h́nh khuyên. Đó là Hạ Phẩm
Thượng Sanh Ấn. Lần lượt thay ngón trỏ
bằng ngón giữa và ngón áp út, sẽ có Hạ Phẩm Trung
Sanh Ấn và Hạ Phẩm Hạ Sanh Ấn. Trong Mật
Tông c̣n dạy một loại ấn Di Đà nữa, tức
là ấn được Phật Di Đà sử dụng
trong Kim Cang Giới Mạn Đà La: Hai bàn tay chắp lại,
giơ ngang ngực, hai ngón giữa dựng lên hơi cong chống
vào nhau như cánh sen. Hai ngón cái đặt chéo nhau, các ngón c̣n
lại đan chéo vào nhau, sao cho ngón phải ở trên, ngón
trái ở dưới. Sách Mật Tông chú giải rằng:
Các ngón đan vào nhau biểu thị sanh tử kết
phược, cong x̣e giống như hoa sen tám cánh, biểu thị
Như Lai Tạng Thức, đồng thời biểu thị
phàm thánh bất nhị. Ngón giữa cong như cánh sen biểu
thị Bổn Tôn tức Phật tánh siêu xuất trần
phược. Nói cách khác, trong sanh tử triền phược, chân tánh chẳng mất. Để tiến
nhập Chân Như pháp giới, không thể nào t́m cầu
phương tiện ở ngoài triền phược, phải tự chuyển hóa triền phược
thành cảnh giới như như bất nhị.
[52] Trong tháng Mười Một năm
1125, do triều đ́nh nhà Tống hủ bại, nhà Liêu yếu
kém, Kim Thái Tông của người Nữ Chân (tức dân Măn
Thanh sau này) xua quân Nam Hạ. Quân Kim thiện chiến, tiến
công chiếm sạch vùng Bắc Hoàng Hà. Tống Huy Tông hốt
hoảng, muốn trốn khỏi kinh đô. Triều thần
xin nhà vua nhường ngôi cho Thái Tử Triệu Hoàn. Ngày 7 tháng 1, Huy Tông xuống chiếu nhường
ngôi cho thái tử, xưng Giáo Chủ Đạo Quân Thái Thượng
Hoàng, thái tử Triệu Hoàn trở thành Khâm Tông, niên hiệu
là Tĩnh Khang. Khâm Tông nhu nhược, thiếu quyết đoán,
chỉ tính kế tháo chạy, một ḷng
nghị ḥa, tuy nhiều trung thần, tướng giỏi,
quân dân quyết tâm kháng địch. Vua lại mê tín, cấp vũ khí cho bọn
du đăng lập ra đội quân gồm 7777 người,
gọi là Lục Giáp Binh, nhưng họ không chống nổi
quân Kim. Lúc bấy giờ có gă đạo sĩ bịp bợm
là Quách Kinh xưng có pháp thuật đánh tan quân Kim. Tướng
lănh cần vương là Trương Thúc Dạ sai hắn
cầm quân, hắn lén mở cửa thành bỏ trốn, quân
Kim thừa cơ đánh úp kinh đô
Biện Kinh. Thấy quân Tống c̣n đông, dân chúng nhiều
người yêu nước, quân Kim nhân nhượng, đ̣i nhà Tống
đầu hàng. Cuối cùng, cha con Huy Tông và Khâm Tông bị
Kim Thái Tông ra lệnh bắt giải về Bắc, các tông
thất nhà Tống bị cầm tù, nhà Bắc Tống diệt
vong. Sử gọi sự kiện này là Tĩnh Khang Chi Biến
(biến loạn trong năm Tĩnh Khang) hay Tĩnh Khang chi
sỉ (nỗi nhục Tĩnh Khang). Ở đây,
sư Pháp Ḥa nguyện hai vua được thả về
để trùng hưng xă tắc nhà Tống.
[53] Mộc Hoạn (Aristakāksa) là một loại cây thân gỗ, rụng lá
theo mùa, nở hoa nhỏ màu vàng vào mùa Hạ. Quả của
nó tách ra làm ba, chứa nhiều hạt cứng, tṛn, đen
tuyền, kích thước từ 5 đến 8 mm, có thể dùng làm hạt xâu chuỗi.
[54] Ở đây, do cố gắng chuyển
ngữ thành thơ, nhưng v́
văn bút vụng về, ư thơ của ngài Nguyệt
Đường đă bị bỏ sót, xin dịch nghĩa
như sau: Trục ngọc, kinh văn bằng chữ vàng,
được dựng phạm cung (chùa tháp) để thờ
phụng. Biết chắc là các bài kệ mầu nhiệm
trong kinh văn cũng khó có ǵ để có thể sánh bằng! Mấy tầng
lầu gác do hỏa hoạn đă bị ám khói đen
như mực, chỉ riêng bộ kinh Pháp Hoa thoát khỏi lửa
đỏ. Kinh điển quư báu được
hương thơm, ánh sáng tốt lành nâng đỡ. Ánh trăng chứa đựng màu sắc chân thật chiếu
lên hư không trong đêm lạnh. Đáng thương
người đời Mạt Pháp kiêu mạn, cho nên [Tam Bảo]
lại hiển hiện lần nữa công lao đắp nền
(tạo cơ sở truyền tŕ Phật pháp tại Trung
Hoa) của ngài Ca Diếp Ma Đằng.
[55] Vi biên (韋編) là cái dây buộc lề sách bằng
da trâu. Thuở xưa, chưa có giấy, sách viết lên các
thẻ tre rồi dùng dây bằng da trâu buộc lại cho khỏi
thất lạc, cái dây ấy gọi là Vi Biên. Khổng Tử
đọc kinh Dịch đến nỗi ba lượt vi
biên bị đứt. Ở đây do Sư đọc kinh
Pháp Hoa nhiều lượt, nên Từ Vân cũng dùng điển
tích này để sánh ví sự dụng công của Sư chẳng
kém Khổng Tử.
[56] Ư nói: Không phải chỉ đời
Tề, đời Lương mới có bậc cao tăng!
[57] Hai câu này mang ư nghĩa ca ngợi
sư Trí Thân: Ngài tuy sống trong lều tranh rách nát nhưng
là bậc lương đống (rường cột chính
yếu) cho Phật pháp, ví như trụ chống trời,
c̣n các nơi tự viện cao lớn, nguy nga lại không có
người làm rường cột cho Phật pháp như
Ngài.
[58] Ư nói: Sư ẩn cư trong lều
tranh nơi rừng trúc, không bon chen với đời, giống
như vùi thân trong nấm mộ bằng trúc, nhưng
hương thơm giới hạnh bát ngát. Ân thanh tụng
kinh của sư cuồn cuộn như sóng biển, v́ lều
vắng, chim sẻ bay quẩn quanh nơi ḷ hương, vô
t́nh được hun đúc bởi phạm hạnh của Sư. Chim én cũng thôi làm tổ
nơi nhà cao sang (thôi tha bùn kết tổ nơi chốn có rường
kèo chạm khắc của nhà giàu có) để kéo về
nơi Sư ḥng nghe kinh.
[59] Bí cáo Nhất Thừa chính là kinh Pháp
Hoa, do kinh phơi bày bảo ban lẽ bí mật nên gọi là
“bí cáo”.
[60] Sư tụng kinh trong 20 năm, một
năm âm lịch chỉ có 360 ngày, tức là 360x20=7.200 ngày. V́ thế nói là “tiêu tháng ngày
nơi bảy ngàn hai trăm”. Trước mỗi
lần tụng kinh, Sư đều tắm
gội, xông hương thanh tịnh, nên nói là “ba lần
tắm gội, ba lần xông”.
[61] Sư tụng được một
vạn bốn ngàn bộ, mà kinh Pháp Hoa có bảy quyển nên 14.000x7=98.000 quyển, do vậy nói “lật
quyển vàng nơi chín vạn tám ngàn”. Hơn nữa,
đời Tống chưa in kinh theo lối đóng thành sách (phương sách) mà vẫn in kinh trên một miếng
giấy dài, hai đầu có trục gỗ để tiện mở kinh, nên mới
gọi là Quyển. Khi đọc
kinh phải mở ra một đầu, cuộn vào một
đầu để đọc phần kế tiếp, nên nói là “một cuộn, một
duỗi”. Giấy in kinh thường tẩm nhựa cây
ḥe để giấy vừa dai vừa chống mối mọt nên có sắc vàng. V́ thế gọi
là “quyển vàng” (hoàng quyển).
[62] Trần Vũ Hoàng là thụy hiệu
của Trần Bá Tiên (Trần Cao Tổ), người sáng lập
vương triều nhà Trần trong thời Nam Bắc Triều.
[63] Nhất Hạnh (683-727) là một vị
cao tăng đời Đường. Ngài họ
Trương, pháp hiệu là Kính Hiền, đạo hiệu
Đại Huệ thiền sư, c̣n gọi là Nhất Hạnh
A-xà-lê. Ngài c̣n được xưng tụng là nhà thiên
văn học, lịch pháp gia, toán học gia, phong thủy
gia lỗi lạc nhất thời ấy. Ngài được
tôn xưng là một vị tổ trong bát tổ của Chân
Ngôn Tông (Mật Tông Đông Độ). Ngài là hậu duệ
của Trương Công Cẩn (đại thần thời
Đường Thái Tông). Năm hai mươi tuổi, do song thân đều khuất bóng, lại
gặp gỡ Hoằng Cảnh đại sư chùa Ngọc
Tuyền điểm hóa, Ngài manh nha ư niệm xuất gia. Sau
đó, Ngài xin xuất gia với pháp sư Phổ
Tịch ở Tung Sơn. Do thâm nhập Nhất Hạnh
tam-muội, cho
nên có pháp danh là Nhất
Hạnh. Khi pháp sư Thiện Vô Úy từ Na Lan Đà tại
Thiên Trúc đến Trường An, Sư theo ngài học
Thai Tạng giáo pháp. Ngài vâng lệnh Đường Huyền
Tông, theo hầu Sư và tham gia đạo tràng dịch kinh
Đại Nhật. Khi ngài Kim Cang Trí đến Lạc
Dương, Ngài lại được truyền thọ
giáo pháp Kim Cang Giới. Ngài thông thạo Phạm văn, đồng thời hiểu
sâu xa toán pháp và thiên văn học của Ấn Độ.
Do vậy, Ngài là người có tŕnh độ thiên văn học
và lịch pháp cao nhất thời ấy. Đặc biệt,
Ngài là người thông thạo lượng giác học
(trigonometry), vận dụng chúng rất xảo diệu trong
công cuộc trắc địa, tính quỹ đạo tinh
tú. Do tinh thông lịch số,
Ngài được vua Đường sai tu chỉnh
Đại Diễn Lịch, cùng với Lương Lệnh
Toản chế tạo hoàng đạo du nghi, hỗn nghi, phục
củ v.v… để xem thiên văn, tính toán quỹ đạo
của các tinh tú để tính lịch chính xác hơn, thực
hiện công cuộc trắc địa đầu tiên trong
lịch sử Trung Hoa. Tác phẩm nổi tiếng nhất
của Ngài là Đại Nhật Kinh Sớ (chú giải kinh
Đại Nhật). Có lẽ do quá lao lực, Ngài mất
khi mới 45 tuổi, nhưng khi mất, Ngài ngồi xếp
bằng, an nhiên thị tịch. Các tác phẩm nổi tiếng của
Ngài là Đại Nhật Kinh Sớ, Đại Diễn Lịch,
Nhiếp Điều Phục Tạng, Đại Tỳ Lô
Giá Na Phật Nhăn Tu Hành Nghi Quỹ.
[64] Ông này chính là
em ruột của Hán Cao Tổ (Lưu Bang). Ông này từng
theo học với Phù Khâu Bá (học tṛ của Tuân Tử), từng
chú thích kinh Thi. Khi Lưu Bang khởi nghĩa chống Tần,
ông theo phù tá anh, rất được Lưu Bang tín nhiệm.
Sau này, khi đă thành hoàng đế, Lưu Bang nghi kỵ các
công thần, bèn giả vờ đi chơi đến Vân Mộng,
lập kế bắt giam Hàn Tín đang làm Sở
Vương, giáng xuống làm Hoài Âm Hầu, chia nước
Sở thành hai: Lưu Cổ làm Kinh Vương, Lưu Giao
làm Sở Vương.
[65] Vũ Thành hoàng đế chính là Cao
Trạm, là con trai thứ tư của Cao Hoan (quyền thần
nhà Đông Ngụy). Sau khi Cao Hoan và người anh cả là
Cao Trừng chết, người anh thứ hai của ông là
Cao Dương nắm trọn quyền hành. Cao Dương
thao túng Đông Ngụy, cuối cùng ép Ngụy Hiếu
Tĩnh Đế (Nguyên Thiện Kiến) phải nhường
ngôi, lập ra nhà Cao Tề.
[66] Trưởng Sử là chức quan
có nhiệm vụ tương đương với Bí
Thư Trưởng, c̣n gọi là Biệt Giá. Chức quan này có tánh chất không nhất
định. Thời Hán, Trưởng Sử là quan phụ
tá của Thái Thú (người đứng đầu một
quận). Đến thời Nam Bắc Triều, Trưởng
Sử là cấp dưới của Thứ Sử, nhưng
thường cai trị một quận, hoặc các châu phủ.
Trong các vương phủ, người đứng đầu
coi việc hành chánh cũng gọi là Trưởng Sử.
Đến thời Đường, người đứng
đầu hành chánh các vương phủ, đô hộ phủ,
đô đốc phủ, tướng soái phủ, châu phủ,
đều gọi là Trưởng Sử. Nếu là Đại
Đô Đốc Phủ, Trưởng Sử có quyền
điều khiển Tiết Độ Sứ. Đến
đời Tống th́ chỉ có thân vương phủ
(vương gia thuộc hoàng tộc), công chúa phủ mới có chức quan Trưởng Sử.
[67] Tiếu Vương ở đây là
Tư Mă Thừa (264-322). Ông là cháu nội của Tư Mă Tấn
(con trai thứ sáu của Tư Mă Ư). Thời Đông Tấn,
ông làm quan đến chức Thứ Sử Tương Châu. Khi
Vương Đôn dấy loạn, ông cầm binh đánh dẹp, bị vây khổn
tại Trường Sa (trị sở của Tương
Châu). Cuối cùng, Trường Sa thất thủ, Tư Mă
Thừa và thuộc hạ bị bắt, không lâu sau, bị
giết chết.
[68] Đ́nh Úy (c̣n gọi là Đại
Lư Tự Khanh, hoặc Tác Sĩ) là chức quan được
thiết lập vào đời Tần, chưởng quản
h́nh ngục, dự vào Cửu Khanh. Có thể hiểu
Đ́nh Úy tương đương với Bộ Trưởng
Tư Pháp, đồng thời là Chánh Án Tối Cao Pháp Viện hiện
thời.
[69] Tức là bộ
Quán Âm Nghĩa Sớ. Tác phẩm này nhằm chú giải phẩm
Phổ Môn do tổ Trí Khải giảng, đệ tử là
Chương An Quán Đảnh ghi lại. Tuân theo cách giải
thích như trong Pháp Hoa Văn Cú, tổ cũng dùng tứ
giáo, tứ thích (nhân duyên, ước giáo, bổn tích và quán
tâm) để giải thích phẩm Phổ Môn. Về sau,
ngài Tri Lễ lại c̣n soạn Quán Âm Nghĩa Sớ Kư
để chú giải bộ sớ này.
[70] Kư Thất là chức quan văn
chưởng quản văn thư. Từ đời Tấn
trở đi, các quan địa phương, vương
gia, vương phủ đều có chức quan Kư Thất
để quản trị văn thư. Trong quân đội
th́ lập ra Kư Thất Tham Quân để soạn thảo
các văn thư thông cáo, báo tin, tấu tŕnh t́nh h́nh chiến
trận về triều đ́nh, ghi chép công huân, lịch công
tác v.v…
[71] Hoàng Môn Thị Lang c̣n gọi là Hoàng
Môn Lang, hoặc Cấp Sự Hoàng Môn Thị
Lang, tức là chức quan hầu cận thân cận nhất
của hoàng đế. Thoạt đầu, người giữ
chức vị này là
người đóng vai tṛ truyền đạt chiếu chỉ
của hoàng đế. Về sau, với guồng máy hàng
chính ph́nh to, Hoàng Môn Thị Lang trực thuộc Môn Hạ Tỉnh
(cơ quan có trách nhiệm thẩm tra chiếu lệnh, tức
là đóng vai tṛ giám sát các chiếu lệnh đă ban hành có
được đúng với quy định hay không. Nói
cách khác, trong cơ cấu Tam Tỉnh, Thượng Thư Tỉnh
tương đương với cơ quan hành pháp tối
cao, người đứng đầu Thượng Thư
Tỉnh tương đương với Thủ Tướng
hiện thời (Lục Bộ trực thuộc Thượng
Thư Tỉnh). Trung Thư Tỉnh tương
đương với guồng máy lập pháp, quyết
định quốc sách, soạn thảo chiếu chỉ.
Môn Hạ Tỉnh đóng vai tṛ giám sát, đàn hặc các quan
chức, quan chức đứng đầu Môn Hạ Tỉnh
gọi là Thị Trung. Từ đời Tùy trở đi,
Hoàng Môn Thị Lang (Môn Hạ Thị Lang) là phó thủ
trưởng của Môn Hạ Tỉnh. Đến đời
Tống, vai tṛ của ba tỉnh bị xóa nḥa v́ người
đứng đầu các quan được gọi là
Thượng Thư Tả Bộc Xạ kiêm Môn Hạ Thị
Lang. Tuy danh xưng ba tỉnh vẫn c̣n, nhưng thực chất
chỉ là một tỉnh. Dưới Hoàng Môn Thị Lang là quan Trung Thường Thị
(đến đời Đường Tống gọi là Tả
Tán Kỵ Thường Thị), và dưới nữa là các
quan gián nghị đại phu.
[72] Trung Thư Lệnh là người
đứng đầu cơ quan Trung Thư Tỉnh. Thoạt
đầu, Trung Thư Tỉnh chỉ có trách nhiệm quản
trị văn khố, thư pḥng của hoàng đế, do
các hoạn quan đảm nhiệm. Do vua khi đọc chiếu
chỉ, lúc muốn quyết định thường hỏi
ư kiến của người hầu chung quanh, mà hoạn quan không đủ học
thức, cũng như do họ sống
lẩn quẩn trong cung cấm, bị hoen ố bởi các
chuyện đấu đá trong cung đ́nh, nên dễ
đưa ra những ư kiến sai lạc. Do vậy, Trung
Thư Tỉnh dần dần mở rộng cho các đại
sĩ phu tham dự và trở thành một cơ cấu tham vấn
giúp hoàng đế quyết định quyết sách, thậm
chí soạn thảo chiếu chỉ. Sau này, các chức vị
Trung Thư Lệnh, Thượng Thư Lệnh, Thượng
Thư Bộc Xạ… dần dần trở thành hư vị,
chỉ là tước do các trọng thần giữ quyền
hành trọng yếu kiêm nhiệm. Dưới
đời Đường Thái Tông, Sầm Văn Bổn thoạt
đầu làm Bí Thư Lang, Trung Thư Thị Lang, cùng với
Lệnh Hồ Đức Phân biên soạn Châu Thư (sử
kư nhà Bắc Châu). Về sau, ông được bổ làm
Trung Thư Lệnh, cùng giữ ngôi tể tướng với
các vị Trưởng Tôn Vô Kỵ, Cao Sĩ Liêm, Đường
Kiệm, Dương Sư Đạo, Lưu Tự, Mă Châu,
Chử Toại Lương… Ông là người điềm tĩnh,
trung hậu, chân thật, rất được Đường
Thái Tông tín nhiệm. Khi Đường Thái Tông chinh phạt
Cao Ly, đă ủy nhiệm ông phù tá thái tử Lư Trị giám
quốc, đồng thời quản trị mọi việc
hậu cần điều phối quân lương, chiến
phí cho chiến dịch.