Diệu Pháp Liên Hoa Kinh
Thai Tông Hội Nghĩa
Phần 19
Phụ
lục 2: Pháp Hoa Kinh Tŕ Nghiệm Kỷ (法華經持驗紀)
* Lời
tựa của sách Pháp Hoa Kinh Tŕ Nghiệm Kỷ[1]
Pháp Hoa là vua trong các
kinh, đức Thế Tôn dùng tướng lưỡi rộng
dài, diễn giảng cái nhân thù thắng “niêm hoa” (拈華, giơ cành sen lên cho đại chúng
thấy), dung hội lẽ bí yếu của các pháp, khai Quyền
hiển Thật, tam thừa và nhất thừa đều
viên, trước sau bảy quyển, hơn sáu vạn chữ.
Mênh mông, bát ngát, đúng là quang cảnh to lớn! Tuy vậy,
trong hội Linh Sơn thuở ấy, mỗi thời trong
năm thời đều nói một pháp, Hoa Nghiêm là một,
A Hàm là hai, Phương Đẳng là ba, Bát Nhă là bốn, vẫn
chưa thỏa thích bổn hoài! Cuối cùng, Ngài lại nói
kinh này, hóa hiện vô lượng vô biên Pháp Thân, diễn nói
vô lượng vô biên pháp khẩu, nhắc đi nhắc lại,
triền miên, chẳng ngại rườm lời! Ở
đây, đức Thế Tôn lại nói nhiều đến
thế ư?
Xưa kia, đức
Phật sắp nhập Niết Bàn, ngài Văn Thù lại thỉnh
đức Phật chuyển pháp luân. Đức Phật quở
rằng: “Ta trụ thế bốn mươi chín năm,
chưa hề nói một chữ. Ông thỉnh ta lại chuyển
pháp luân, ta đă từng chuyển pháp luân ư?” Phàm một
lời chẳng thốt ra được, chín năm ngồi
nh́n vào vách. Đă từng nh́n vào vách chín năm, tức là một
lời vậy, cũng chính là “cần ǵ phải nói nữa?”
Có thể khéo ngộ hơn sáu vạn chữ này, sẽ có thể
phá sáu vạn chữ thành một lời, lại c̣n có thể
phá một lời để trở thành chẳng nói! Sao chẳng
thể mở rộng “vô ngôn” thành hơn sáu vạn chữ?
Sao chẳng thể hóa sáu vạn chữ thành trăm ngàn vạn
ức chữ? Tri kiến đă khai, viên tông nhanh chóng thấu triệt. Diệu pháp như vậy,
há nhiều ư? Chẳng nhiều! Nay lấy thế giới
nhiều như vi trần, nhọc nhằn trong nhà lửa,
may mắn sau khi được bạch quang[2]
chiếu khắp, bèn được vâng nhận kinh này, quả
thật là cầu bến trong nẻo sanh tử, là thang thềm
cho Tịnh Độ môn!
Kinh nói gấp gáp
dùng thọ kư để phó chúc. Pháp được lưu
truyền, bèn có năm môn, tối thượng là thọ
tŕ. Kế đó là giải nói, đọc tụng, biên chép,
và cúng dường. Như đối với một câu hay một
kệ, dốc chí quy y, dẫu là kẻ trong thôn làng, hay
người màn rủ trướng buông, hoặc kẻ tù rạc,
bệnh tật triền miên, cho tới loài có huyết khí
mang vảy, khoác lông có hiểu biết, hễ có ḷng kiền
thành tinh thuần, đều cùng được thấm
đẫm mưa Từ, huống hồ người chấn hưng gia
phong đại giác, tuyên bày giáo nghĩa sâu thẳm của
đức Thích Ca, được gọi là bậc đạo
sư long tượng, là thành tŕ của pháp giới ư?
Như
hoa sen là
loại hoa vốn nẩy
sanh từ bùn mà chẳng
nhiễm. Nhà lửa trong vi trần ngũ trược, nào
khác bùn lầy? Cầu riêng được vượt thoát
chẳng nhiễm trong ấy, mà nếu chẳng nghe diệu
pháp, sẽ không do đâu giải thoát được! V́ thế,
hiện tiền dùng đó để đặt tên kinh. Chắc
là đức Thế Tôn muốn dẫn dắt nước
Chấn Đán bèn trồng trọn
khắp một đóa sen xanh. Do hoa mà t́m thấy cuống,
do cuống mà t́m thấy rễ. Giếng ngọc, ao thu, so với
ao hoa nước tám đức, là một, hay là hai, xin hăy
nh́n từ ṭa báu giữa ba đời. Nếu lập tức
hiện ngàn tầng, c̣n chỗ nào để riêng t́m hoa Ưu Bát? Chẳng
ĺa sắc hương, nêu tỏ nhân quả; há lừa dối
ta ư? Há dối gạt ta ư?
Tôi
đă sưu tập những chuyện linh nghiệm do tŕ
kinh Kim Cang xong, nghĩ kinh này càng là biển thẳm trong âm
giáo[3],
hoằng dương và lưu thông càng cấp bách. Chuyện
cảm ứng linh dị, nhiều đời biên tập dẫy
đầy, bèn chọn lấy các sự ứng nghiệm của
các vị cổ đức danh hiền trong nhiều triều
đại đủ để làm chứng cớ khơi gợi
tín tâm. Tôi phỏng theo điều lệ biên tập [Kim Cang
Tŕ Nghiệm Kư] trước đó để tổng hợp
theo thứ tự, ngơ hầu người thấy nghe xong, sẽ tinh tấn tu
tŕ, cùng chứng tam-muội. Từ nói ba thừa, hội quy
nhất thừa, rốt
cuộc đạt đến ư chỉ kín nhiệm “một
cũng chẳng thể nói được”! Ngài Tào Khê (Lục
Tổ Huệ Năng) có bài kệ rằng: “Tâm mê Pháp Hoa
chuyển. Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa”. Liễu giải “một đại sự
nhân duyên khiến Phật xuất hiện trong thế gian” của kinh này, thật sự giác ngộ một hội
Linh Sơn nghiễm nhiên ngàn đời, th́ văn tự của
tôi lại trở thành thừa thăi rồi chăng?
Tịnh nghiệp
đệ tử Châu Khắc Phục ở Dương Tiện
trai giới, tắm gội soạn
* Dẫn khởi nhằm khuyên
lưu thông bộ Pháp Hoa Tŕ Nghiệm
Đối với
chỗ có kinh điển, lưu thông liền thuộc thiện
duyên, phước báo vô lượng. V́ thế nói rằng: “Có
thể truyền pháp Đại Thừa cho một người
sẽ là mười điều thiện. Truyền cho mười người
sẽ là một trăm điều thiện. Truyền cho bậc
đại quư hoặc đại hào kiệt, người
có sức lực to lớn, sẽ là một ngàn điều
thiện. In lại để lưu truyền rộng răi, sẽ
là một vạn điều thiện”. Huống hồ pháp môn Tịnh
Độ vượt thoát sanh tử luân hồi, vĩnh viễn
chẳng thoái chuyển cho đến khi thành Phật mới
thôi! Khuyên một người tu Tịnh Độ, chính là
thành tựu một chúng sanh thành Phật, Phàm người
thành Phật, ắt độ vô lượng chúng sanh. Các
chúng sanh được độ ấy đều do ta khởi
đầu, phước báo ấy đúng là chẳng thể
cùng tận! V́ thế, muốn khuyên hết thảy người
thấy nghe hăy mở rộng cái tâm, lấy tâm Phật làm
tâm của chính ḿnh, khiến cho ai nấy đều biết,
để đều được sanh hết về Tịnh Độ.
Ông Vương Long Thư đă nói: “Hăy tự nên tin chắc
chẳng hư dối”.
C̣n như hai kinh Hoa
Nghiêm và Pháp Hoa càng là tối thượng thừa trong các diệu
pháp do đức Phật đă nói. Quán Âm Đại Sĩ
phổ độ thế gian, không cơi nào chẳng hiện. Sự
tích cảm thông của các bậc hiền nhân trong quá khứ
rành rẽ, rạng ngời, mỗi mỗi đều tóm gọn,
thu thập, ḥng khuyên tấn tu, đúng là chuông, khánh cho
tương lai, là phương tiện môn tiếp dẫn tối
thượng
nơi đường cùng. Mùa Thu năm Mậu Tuất, tôi sưu tập các chuyện
linh nghiệm do tŕ kinh Kim Cang, đă có bài tiểu dẫn lưu
thông. Kính cẩn khẩn cầu những vị có cùng một
nghiệp với tôi, nay tôi khắc in các chuyện về sự
linh ứng do tŕ tụng Tịnh Độ, Pháp Hoa, Hoa
Nghiêm, Quán Âm, [những chuyện ấy] vốn sưu tầm
từ các ghi chép trong sách vở, ḥng nêu chứng cớ
khơi gợi tín tâm xưa nay, khá tận lực vận dụng
tâm lực và công sức nhỏ nhoi, với dụng ư [khiến
cho người có duyên đọc đến, sẽ] noi theo
[các tấm gương] bất hủ. Nhưng bản khắc
ván vụng về ở chốn này, chưa thể lưu
truyền rộng răi nơi tỉnh khác; người đă
cùng sanh về cơi Phật trang nghiêm, há có nên thiếu khuyết
pháp sự lưu thông thù thắng?
Lại thưa cùng
bậc thiện tín trong hiện thời, hễ được
thấy các bản in này, hăy chẳng tiếc sức khắc in bố thí rộng răi, hoặc
dùng nguyên bản, hoặc sửa chữa thêm. Nếu như
có chuyện liên quan tới sự linh ứng do tŕ nghiệm
do chính quư vị đă được thấy nghe mà sách này
thiếu sót, càng mong sẽ ghi nối tiếp vào phần
sau. Một câu tán dương chính là một câu hộ tŕ thiện
căn. Một niệm cổ động chính là một niệm
trừ khử tội nghiệp. Dùng đó để nối
tiếp huệ mạng của Phật ḥng tự lợi, lợi
tha. Đó chính là các vị thần hộ pháp đă hộ
tŕ pháp bảo, tự hộ tŕ người hoằng pháp,
vâng đội của báu, chắc chắn chẳng sai! Hiền
nhân thuở trước đă họa tranh to lớn để
[thí tặng] khuyên người niệm Phật; sau đó, do
người khác niệm Phật phần nhiều sanh về
Tịnh Độ, công đức bèn quy vào người thí
tranh cũng được sanh về Tịnh Độ.
Công đức pháp thí chẳng thể nghĩ bàn như thế
đó. Nguyện các vị đồng nhân
cùng gắng sức!
Đồng thiện đạo nhân
Châu Khắc Phục kính cẩn khẩn thiết [thưa tŕnh].
2.1. Lịch triều Pháp Hoa Tŕ Nghiệm
Kỷ, quyển thượng
Đồng thiện
đạo nhân Châu Khắc Phục thâu thập, biên soạn
Nam
Châu Thạch giảo đối
Tiềm
Xác cư sĩ Trần Tế Sanh kiểm nghiệm
* Thích Đàm Ma La Sát ở quận
Đôn Hoàng đời Tấn
Tiếng Hán dịch
[tên đại sư] là Pháp Hộ. Ngài vốn họ Chi, tám
tuổi xuất gia. Hằng ngày, Sư tụng kinh một vạn
chữ, dốc chí hoằng dương đại đạo.
Ngài đi khắp các nước ở Tây Vực, mang kinh Phật
bằng tiếng Phạn đến Hoa Hạ, dịch các bộ
Hiền Kiếp, Chánh Pháp Hoa. Cuối đời Tấn Vũ
Đế[4],
Ngài ẩn cư trong chốn núi sâu. Trong núi có khe suối
trong lành, Sư luôn dùng nước ấy để
tắm gội, rửa ráy. Về sau, do bị uế trược
mà suối bỗng khô cạn, Sư bồi hồi than rằng:
“Con người thiếu đức khiến cho suối
trong cạn gịng đó chăng?” Nói vừa xong, suối
tuôn nước tràn khe. Ḷng u thành của Sư cảm vời
như thế đó. Thuở đó, [mọi người] gọi
Sư là Đôn Hoàng Bồ Tát.
* Thích Cưu Ma La Thập đời
Tấn
[Tên Sư] dịch
sang tiếng Hán là Đồng Thọ. Sư là người
Thiên Trúc, bảy tuổi xuất gia, hằng ngày tụng một
ngàn bài kệ. Lúc mười hai tuổi, Sư tới
nước Sa Lặc[5].
Ngoài lúc thuyết pháp, Sư chuyên dốc sức nơi
Phương Đẳng. Do vậy, thanh danh vang khắp vùng
Thông Tả[6].
Vua Quy Tư đón Sư về nước, xin Sư khai diễn
chỗ uyên áo trong kinh Phương Đẳng. Sư v́ họ
biện định “các pháp đều là không, vô ngă”,
phân biệt “Ấm, Giới giả danh chẳng thật”.
Người nghe không ai chẳng cảm ngộ. Thời Phù
Tần[7],
quan Thái Sử tâu có ngôi sao hiện rơ nơi phần dă của
ngoại quốc, sẽ có bậc đại trí vào phù tá
Trung Hoa. Vua liền sai sứ sang thỉnh. Sau này, tới
tháng Chạp năm Hoằng Thỉ thứ ba (401), [Diêu
Hưng, vua nhà Hậu Tần] đón Sư tới Trường
An, trụ tại vườn Tiêu Dao. Sư dịch kinh Diệu
Pháp Liên Hoa, ư nghĩa đều viên thông, tâm đại chúng
đều khiếp phục. Sư lại tiếp tục dịch các kinh như Tiểu Phẩm [Bát Nhă], Kim Cang
Bát Nhă v.v… và các bộ luận hơn ba trăm quyển.
Sư yêu thích Đại Thừa, ôm chí hướng giảng
diễn rộng lớn. Lúc lâm chung, Sư bảo đại
chúng: “Nguyện các kinh do tôi tuyên dịch sẽ được
đời sau cùng hoằng truyền, lưu thông. Nay đối
trước đại chúng, thốt ra lời thề thành
thật. Nếu các kinh luận do tôi truyền dịch chẳng
sai lầm, sẽ khiến cho sau khi hỏa táng, lưỡi
chẳng cháy nát”. Năm Nghĩa Hy thứ năm (409)
đời Tấn, Sư tịch tại Trường An.
[Đồ đệ] tuân theo pháp ngoại quốc mà xà-duy
(trà tỳ, hỏa thiêu). Củi tắt, thân h́nh
Sư tiêu thất, chỉ có lưỡi chẳng cháy thành
tro!
* Vị tỳ-kheo Ma Ha La xứ Thiên
Trúc đời Tấn
Sư đọc Ma
Ha Diễn (Đại Thừa), đức hạnh lẫy lừng.
Quốc vương chánh tín, thường trải tóc phủ bùn
để Sư bước qua. Có người tâu vua:
“Người này chẳng đọc tụng kinh nhiều,
sao [bệ hạ] lại cúng dường to lớn?”
Vua bảo: “Ta từng vào nửa đêm, muốn gặp vị tỳ-kheo này, liền đến chỗ Ngài. Thấy
Sư ở trong một cái hang đọc kinh Pháp Hoa. Có
người quang minh kim sắc, cưỡi voi chúa trắng,
chắp tay cúng dường. Ta vừa mới tới gần,
liền chẳng thấy [người ấy đâu nữa]. Do vậy, ta hỏi tỳ-kheo:
‘V́ trẫm đến mà người kim sắc diệt mất
ư?’ Sư nói: ‘Đó chính là Biến Cát Bồ Tát’. Ngài Biến
Cát tự nói: ‘Nếu có người nào tụng kinh Pháp Hoa,
ta sẽ cưỡi voi trắng đến dạy bảo’.
Tôi đọc kinh này, ngài Biến Cát tự đến. Biến
Cát chính là Phổ Hiền Bồ Tát trong kinh. Ta nghe như thế
xong, lễ dưới chân Ngài, lui ra. V́ thế, ta nay siêng năng cúng dường”.
* Thích Bạt Trừng ở Trường An vào
đời Tấn
Sư xuất gia
lúc hai mươi tuổi, căn khí vụng về, chậm
chạp. Sư thề tụng Pháp Hoa, mỗi ngày ghi nhớ
một hàng, hoặc nửa bài kệ. Siêng khổ như thế,
tới lúc tám mươi tuổi mới thông suốt một
bộ. Một hôm, Sư bỗng thấy một vị thần
mặc áo đỏ, cầm sớ đến nói: “Thiên
đế phụng nghênh đón đại đức”.
Sư đáp: “Ta suốt đời tụng tŕ, chuyên cầu
Cực Lạc. Đao Lợi tuy thắng diệu, chẳng
phải là điều ta mong mỏi!” Thần bèn rời
đi. Lại một tối, Sư mộng thấy ṭa tháp
lớn bằng bảy báu. Sư ở trên tầng thứ
năm; nh́n ra xa, thấy bệ thành bằng bảy báu, chẳng
có ngằn mé. Có hai vị thần kim cang cầm xử đứng,
mấy chục người mặc áo xanh, tay cầm phất
trần trắng, phẩy bậc thang nói: “Đây là thành báu
chốn Tây Phương, đến đón ngài Bạt Trừng”.
Sư tỉnh mộng, liền sai đem y bát [bán đi lấy
tiền để] trai tăng đại chúng. Sư hỏi:
“Các vị có thấy một ngàn vị Phật hay không?”
Đại chúng nói: “Không thấy”. Lại hỏi: “Có ngửi
thấy mùi hương lạ hay không?” Đại chúng nói:
“Đều ngửi thấy”. Nói xong, Sư hướng về
phương Tây, lặng lẽ qua đời.
* Thích Huệ Viễn đời Tấn
Sư họ Giả,
người Nhạn Môn. Sư nghe sa-môn Thích Đạo An giảng
kinh Bát Nhă, lập tức khai ngộ, bèn theo thầy tu học.
Sư suy nghĩ, phúng tụng, tŕ niệm tinh tường.
Năm Thái Nguyên thứ sáu (381), Sư tới Lư Sơn,
trụ tại tinh xá Long Tuyền. Sư muốn dựng Lan
Nhă, nhưng c̣n thiếu vật liệu, cảm sơn thần
hiện ra trong mộng. Một tối, dông tố to lớn.
Đến sáng th́ gỗ đă chất như rừng. Thứ
Sử Hoàn Y kinh ngạc trước sự thần dị ấy,
bèn v́ Sư dựng chùa Đông Lâm, đặt tên đại
điện là Thần Vận. Sư từng nói: “Tam-muội
trong các giáo, có rất nhiều danh tự, nhưng công cao, dễ
tiến, niệm Phật đứng đầu”. Sư
bèn cùng Huệ Vĩnh, Huệ Tŕ v.v... kết xă niệm Phật.
Người thuở ấy gọi họ là Thập Bát Hiền.
Sư lại suất lănh đại chúng gồm một
trăm hai mươi ba người cùng tu Tịnh nghiệp.
[Sư chế ra] đồng hồ sen để
Thiền tụng sáu thời chẳng sót. Có pháp sư Huệ
Nghĩa bộc trực, trẻ tuổi cậy tài, từng
tới núi, gặp Sư đang giảng kinh Pháp Hoa, toan
đến bắt bẻ, bỗng hổ thẹn, toát mồ
hôi, lùi ra nói: “Vị này lời lẽ, dung mạo thật
đáng kính phục”. Chư Tăng ở Tây Thổ đều
ca ngợi “đất Hán có bậc khai sĩ Đại
Thừa”, thường hướng về phương
Đông kính lễ.
Ba mươi mấy
năm, Sư quyết chí nơi Tây Phương, ba lượt
thấy thánh tượng, nhưng im lặng chẳng nói. Tối
ngày Ba Mươi tháng Bảy năm Nghĩa
Hy 12 (416), tại khám thất ở phía Đông đài Bát Nhă,
Sư mới vừa từ Định khởi, thấy A
Di Đà Phật, thân đầy khắp hư không. Trong viên
quang, có vô lượng hóa Phật, Quán Âm
và Thế Chí đứng hầu hai bên. Lại thấy
nước chảy và quang minh, chia thành mười bốn
nhánh, chảy ṿng quanh cao thấp, diễn nói diệu pháp. Phật
dạy: “Ta do bổn nguyện lực đến an ủi
ông. Bảy ngày sau, ông sẽ sanh về nước ta”.
Sư lại thấy Phật Đà Da Xá, Huệ Tŕ, Huệ
Vĩnh, Lưu Di Dân ở cạnh đức Phật, tiến
lên trước, ṿng tay thưa: “Sư lập chí trước
hết, sao lại đến trễ vậy?” Sư biết
đă tới lúc, bảo môn nhân rằng: “Lúc ta mới ở
nơi đây, đă ba lượt thấy thánh tượng,
nay lại được thấy, ắt sẽ sanh về
Tịnh Độ”. Tới kỳ hạn, Sư ngồi
ngay ngắn, nhập trong tịch tĩnh. Lúc đó là ngày Sáu
tháng Tám. Sư có trước tác Lư Sơn Tập gồm
mười quyển.
* Thích Huệ Tŕ đời Tấn
Sư là em cùng mẹ
với tổ Huệ Viễn. Lúc mười tám tuổi,
Sư học khắp các kinh với ngài Đạo An, thông
hiểu Tam Tạng, tinh thông nhất là kinh Pháp Hoa. Thái Thú Dự
Chương là Phạm Ninh từng thỉnh Sư giảng
kinh Pháp Hoa và A Tỳ Đàm Luận. Bốn
phương tụ tập như mây. Năm Long An thứ ba
(399), Sư từ biệt anh để vào đất Thục.
Ngài Huệ Viễn giữ lại. Sư nói: “Đă muốn
cắt bỏ ái dục thành đạo, đúng là nên mong cầu
Tây Phương”. Sư tới Thành Đô, trụ tại
chùa Long Uyên, hoằng dương Phật pháp rộng lớn.
Người dự vào giảng đường của
Sư nói là “đăng Long Môn”.
Tới tháng Tư
năm Chánh Ḥa thứ ba (1113) đời Tống, [quan lại
ở] Gia Châu tấu tŕnh gió đánh gẫy cây to, có vị
Tăng đang nhập Định [trong thân cây ấy]. Vua sắc
truyền đưa Sư về kinh đô. Tháng Tám,
đưa Sư vào viện dịch kinh trong cung cấm. Gơ
khánh vàng, vị Tăng xuất định, nói: “Tôi là Huệ
Tŕ em của Huệ Viễn ở Đông Lâm. Do sang Tây đến
Nga Mi, do vậy bèn nhập Định ở nơi ấy”. Hỏi Sư muốn về đâu. Đáp: “Trần
Lưu” rồi lại nhập Định. Tống Huy Tông sai người vẽ tượng
Sư để ban hành, c̣n viết bài tán rằng: “Thất
bách niên tiền lăo cổ trùy, định trung tiêu tức hứa
thùy tri, tranh như chích lư Tây quy khứ, sanh tử đồ
lao mộc tác b́” (búa cổ đă bảy trăm năm
trước, trong Định tin tức há ai hay, khác nào dép lẻ[8]
về Tây Vực, nhọc nhằn sanh tử, gỗ như da).
* Thích Tăng Duệ đời Tấn
Sư là người
Kư Châu, tham học khắp các nơi, đến trọn các
cơi nước ở Thiên Trúc. Trở về Quan Trung, Sư
theo ngài La Thập học kinh nghĩa. Ngài La Thập dịch
kinh Pháp Hoa. Đối với câu “thiên kiến nhân, nhân kiến thiên” (người thấy trời, trời thấy người) trong bản dịch
[kinh Chánh Pháp Hoa] của ngài Trúc Pháp Hộ, ngài La Thập
nói: “Câu này quá mộc mạc”. Sư thưa: “Chẳng phải
là ‘nhân thiên giao tiếp, lưỡng
đắc tương kiến’ (trời người giao tiếp,
đôi bên trông thấy nhau) ư?” Ngài La Thập hoan hỷ, bèn dùng câu
văn ấy. Về sau, Sư vào Lư Sơn, nương
theo Viễn công (tổ Huệ Viễn) tu Tịnh nghiệp.
Sau đó, Sư dời sang kinh sư, trụ tại
Ô Y Tự, giảng nói Pháp Hoa. Người nghe đều
suy tôn khâm phục. Năm Nguyên Gia 16 (439), Sư hướng
về Tây, chắp tay, qua đời. Mọi người thấy
trước giường có một đóa sen vàng trong khoảnh
khắc ẩn mất. Khói hương năm màu từ trong
thất tuôn ra.
* Thích Pháp Sùng tại Diệm Đông
đời Tấn
Sư họ Trúc, nhập
đạo từ nhỏ, được xưng tụng là
bậc giới hạnh, có tiết tháo. Sư dốc chí
nơi kinh luận, giỏi nhất là Pháp Hoa. Sư từng
sang Lộc Sơn ở Tương Châu. Sơn tinh hóa làm
người cơi trời đến xin thọ giới với
Sư. Do vậy, sơn tinh xả núi đang cư trụ để dựng chùa. Sư ở
đó ít lâu, biến chỗ ấy thành chốn thịnh
vượng. Sau đó, Sư trở về núi Cát Hiện, kết
lều tranh, uống nước suối, vui với thiền
huệ. Sư có soạn Pháp Hoa Nghĩa Sớ gồm bốn
quyển.
* Thích Đạo Dung tại quận
Bành Thành đời Tấn
Sư theo ngài La Thập
vào vườn Tiêu Dao, tham dự dịch trường để
dịch bản mới tường tận của kinh Pháp Hoa. Sư mở ṭa giảng kinh, ngài La
Thập tự đến nghe, than là rất tuyệt diệu.
Sư và ngài Đàm Ảnh đều soạn Pháp Hoa Văn
Sớ, cùng được lưu truyền trong cơi đời.
Ngài Đàm Ảnh khéo giảng Chánh Pháp Hoa và Quang Tán Bát Nhă. Mỗi
vị xiển dương, người nghe đến cả
ngàn. Sư cũng giúp ngài La Thập dịch kinh, được
đại sư hết sức quư trọng.
* Thích Đàm Dực đời Tấn
Sư là người
Dư Hàng. Trước kia, sa-môn Pháp Chí thường tụng
Pháp Hoa, có con chim trĩ thường bay liệng nơi góc
ṭa, ra vẻ như đang lắng nghe.
Bảy năm sau, chim trĩ chết, ngài Pháp Chí đem chôn
nó. Ban đêm, Sư mộng thấy một bé trai đến
bái tạ: “Do nghe kinh mà con thoát khỏi loài chim. Nay con sanh làm
con của nhà họ Vương ở trước núi”. Nhà họ
Vương một hôm thiết trai. Sư vừa đặt
chân đến cửa, đứa bé nói: “Ḥa thượng của
ta đến rồi!” Pháp Chí vỗ về nói: “Đây là bé
trĩ của ta”. Cởi áo ra xem, dưới nách quả
nhiên có ba cọng lông chim trĩ. Do vậy, đặt tên là
Dực (翼, cánh). Đàm Dực bảy
tuổi xuất gia, mười sáu tuổi xuống tóc. Thoạt đầu,
Sư vào Lư Sơn, nương cậy Viễn công. Tiếp
đó, vào Quan Trung, theo học với ngài La Thập. Năm
Nghĩa Hy 13 (417), Sư trở về Cối Kê ở phương Đông.
Sư vào núi Tần Vọng, kết am tranh, gọi đó là
Pháp Hoa Tinh Xá, chuyên tụng Pháp Hoa.
Mười hai
năm sau, có một cô gái mặc áo màu, xách cái lồng, trong đó đựng một con lợn
trắng và hai củ tỏi. Cô ta tới trước mặt
Sư nói: “Thiếp vào núi hái rau Vi[9],
trời đă tối rồi, sài lang tung hoành, trở về
sẽ chẳng c̣n nẻo sống! Dám xin ở nhờ
Sư một đêm”. Sư tận lực khước từ,
cô gái buồn khóc không ngừng! Sư bèn cho cô ta nằm trên
giường cỏ. Nửa đêm, cô ta kêu đau bụng,
xin Sư xoa bụng. Sư lấy vải bọc tích trượng,
từ xa ấn lên bụng cô. Hôm sau, áo màu của cô gái biến
thành mây lành, lợn biến thành voi trắng, tỏi hóa thành
hai đóa sen, cô ta thăng lên không, bảo Sư rằng: “Ta
là Phổ Hiền Bồ Tát. Do không lâu nữa, ông sẽ quy
thuộc đại chúng của ta, nên ta đặc biệt
đến thử. Xem cái tâm của ông đúng là trăng
trong nước, chẳng thể bị nhiễm ô!” Ngài
nói xong, trời đổ mưa hoa, đất đều
chấn động. Thái Thú Mạnh Kư Phương sáng dậy
xem xét công việc, bỗng thấy mây lành ở
phương Nam, ánh sáng chiếu tận vào sân, biết là
đức Phổ Hiền thị hiện ứng hóa, bèn tâu
chuyện ấy lên triều đ́nh. Vua sắc truyền kiến
tạo chùa Pháp Hoa, tức là Thiên Y Tự hiện thời.
Sư đă hóa, đại chúng dùng nhựa cây sơn bó thân Ngài, giữ trong núi!
* Thích Pháp Khoáng chùa Ngơa Quan ở kinh
đô đời Tấn
Sư họ ngoài
đời là Cao, ngụ cư tại Ngô Hưng; phong cách,
tiết tháo cao vời. Sư từng v́ thầy ḿnh lễ
sám, tới ngày thứ bảy, cảm vời quang minh
năm màu chiếu vào pḥng, bệnh thầy liền lành. Về
sau, Sư ở trong hang đá nơi núi Tiềm Thanh, mỗi
ngày giảng ư chỉ “hội tam thừa về nhất
thừa” trong kinh Pháp Hoa, dạy kinh Vô Lượng Thọ
là cái nhân của Tịnh Độ. Sư thường ngâm
vịnh hai bộ [kinh ấy]. Tạ An là thái thú Ngô Hưng,
luôn hướng về Sư bày tỏ ḷng tôn kính. Giản
Văn Đế[10]
vời Sư đến hỏi về những sinh hoạt
thường nhật. Khi đó, có sao chổi xuất hiện,
vua đem chuyện đó cầu sư. Sư dốc hết
ḷng thành sám hối để giải trừ tai nạn. Chẳng
mấy chốc, sao chổi diệt mất. Trong niên hiệu
Hưng Ninh[11],
Sư sang phương Đông đến Nhă Da, trụ tại
chùa Xương Nguyên để cứu vớt những kẻ
bệnh khổ, không ǵ chẳng thỏa ḷng mong đợi.
Người ta thường thấy nơi Sư đi ngồi
có mấy chục vị quỷ thần hộ vệ
trước sau!
* Thích Pháp Tự tại núi Thạch
Thất ở Tây Thục vào đời Tấn
Sư là người
Cao Xương, đức hạnh thanh cao, cẩn trọng, ăn chay, tu Thiền. Về sau, vào đất Thục, sống trong khu mộ
của Lưu sư, tu hạnh Đầu Đà trong sơn
cốc. Cọp, rắn trông thấy Sư chẳng gây
thương tổn. Sư tụng ba kinh Pháp Hoa, Duy Ma, và Kim
Quang Minh, từng ở trong nhà đá, vừa tu Thiền, vừa
tụng niệm. Trong lúc giữa Hạ, Sư bỗng nằm
bên hông phải qua đời. Bảy ngày [thi thể] chẳng
hoại, người làng bèn dựng tháp. Một đêm, tháp
tỏa ánh sáng chiếu tỏ mấy dặm!
* Thích Pháp Nghĩa đời Tấn
Sư họ Trúc, nhập
đạo từ thuở để chỏm, nghiên học
tinh tường kinh Pháp Hoa. Về sau, ra kinh đô, mở
ṭa giảng pháp rộng răi. Trong niên hiệu Hưng Ninh,
Sư trở về Giang Tả[12],
ẩn dật tại tinh xá Bảo Sơn ở Cối Kê.
Năm Hàm An thứ hai (372), Sư bỗng mắc bệnh,
nhưng tụng kinh chẳng ngừng. Sư thường
niệm Quán Âm, đêm mộng thấy một đạo
nhân lôi ruột và bao tử Sư ra, gột rửa chất
bẩn rồi lại nhét vào bụng. Sư thức giấc,
bệnh đă khỏi hẳn!
* Hoa sen mọc từ ḥm sành
Năm Kiến
Hưng thứ hai (314) đời Tấn, cách huyện
Trường Sa hơn một trăm dặm về phía Tây,
từ trên đất bằng nẩy sanh hai gốc hoa sen
xanh. Đạo tục tranh nhau đến xem. Do vậy,
đào đất xuống một trượng hai thước,
t́m được một cỗ quan tài bằng sành. Sen trổ
từ chỗ quan tài bị hư hoại. Mở ra xem, thân
rễ hoa sen mọc từ chỗ ṿm miệng của đầu lâu. Phụ
lăo nói: “Xưa kia có vị tăng chẳng biết tên họ.
Sư tụng kinh Pháp Hoa hơn một vạn bộ. Chẳng
bệnh tật mà qua đời. Dùng sành làm quan tài, chính là cỗ
quan tài này đấy”. Mọi người dựng chùa tại
đó, đặt tên là Ngơa Quan (瓦官, quan tài bằng sành).
* Lưu Tŕnh Chi đời Tấn
Ông có tên tự là Trọng
Tư, người Bành Thành. Thoạt đầu, ông ra làm
quan, làm Tham Quân[13]
tại phủ. Sau đó, vào Lư Sơn, do dốc ḷng theo
Phật, nên từ quan. Triều đ́nh bàn định, ban
hiệu cho ông là Di Dân. Ông cùng với Viễn công, Lôi Thứ
Tông, Châu Tục Chi, Tông Bỉnh, Trương Thuyên v.v… kết
liên xă cùng tu Tịnh Độ. Ông khắc lời thề
trên đá, lại soạn thơ niệm Phật tam-muội để tỏ ư chuyên niệm và tọa
Thiền. Mới tu tập được nửa năm,
ông liền ở trong Định, thấy Phật quang chiếu
đất đều thành kim sắc. Ông sống trong núi
mười lăm năm, trong khi đang niệm Phật,
thấy A Di Đà Phật, quang minh từ tướng ngọc hào chiếu soi, an ủi, xoa đỉnh đầu. Một hôm, ông niệm Phật,
lại thấy vào ao bảy báu, hoa sen xanh trắng. Nước
ấy trong lặng. Một người cổ có viên quang, lồng
ngực có chữ Vạn, chỉ nước ao bảo:
“Nước tám công đức, ông hăy nên uống”. Tŕnh Chi uống
nước, thơm ngọt phi thường. Tới khi tỉnh
giấc, vẫn thấy mùi hương lạ tỏa ra từ
lỗ chân lông. Ông than: “Đây là duyên Tịnh Độ của
ta đă tới”.
Ông lại thỉnh
tăng, chuyển đọc kinh Pháp Hoa vài trăm lượt.
Chư Tăng ở Lư Sơn đều nhóm tới,
Tŕnh Chi đối trước tượng, dâng
hương, lại lạy, chúc rằng: “Con do di giáo của
đức Thích Ca nên biết có từ phụ Di Đà.
Hương này trước hết cúng dường Thích Ca
Mâu Ni Như Lai, kế đến cúng A Di Đà Phật. Kế
đó, cúng dường kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Sở dĩ
được sanh về Tịnh Độ, đều do
tŕ kinh này. Nguyện cho hết thảy hữu t́nh, đều
sanh về Tịnh Độ”. Ông hướng mặt về
Tây, chắp tay, qua đời. Khi đó là năm Nghĩa Hy
thứ sáu (410), mùi hương lạ ngào ngạt, suốt bảy
ngày mới tan. Viễn công soạn bia ghi đức hạnh
của ông.
* Sa-môn Cầu Na Bạt
Ma (Guṇavarman) nước Kế Tân đời Tống
Tên Sư dịch
sang tiếng Hán là Công Đức Khải. Sư thọ giới
lúc hai mươi tuổi, tụng kinh Pháp Hoa và các kinh,
hơn trăm vạn câu. Nguyên Gia nguyên niên (424), Sư theo
thuyền buôn thuận gió tới Quảng Châu. Tống
Văn Đế (Lưu Nghĩa Long) nghe tin, sắc châu quận
phát tiền. Sư theo đường bộ, tới trụ
tại núi Hổ Thị, lập riêng một Thiền thất
ở ngoài chùa trên núi. Núi trước đó vốn có nhiều
hổ gây tai ương. Từ đó trở đi, [người] đến đi không sao cả. Hoặc
có lúc gặp hổ, Sư lấy trượng ấn đầu
nó mà đi. Sư từng có lúc tọa Thiền trong biệt
thất, khi sa-di đến, thấy một con sư tử trắng
đứng dựa vào cột. Khắp quanh thất trổ
hoa sen xanh, màu sắc, ánh sáng chói mắt. Sa-di kinh ngạc hô lên, bỗng chẳng
thấy ǵ nữa. Tháng Giêng năm Nguyên Gia thứ tám (232),
Sư tới Kiến Khang (Nam Kinh), vua sắc trụ tŕ chùa
Kỳ Hoàn. Sư khai giảng Pháp Hoa, biện tài mầu nhiệm
lưu loát, người nghe đều sanh giải ngộ.
Mùa Hạ năm ấy, Sư ở chùa Định Lâm, khi
đó có người tin tưởng hái hoa xếp quanh ṭa giảng,
chỉ có chỗ Sư ngồi là sắc hoa càng tươi
thắm, mọi người đều nói đó là dấu
hiệu cho thấy Sư đă chứng thánh.
* Thích Đạo Sanh đời Tống
Sư là người
Cự Lộc. Từ bé, theo ngài Trúc Pháp Thải xuất gia.
Thoạt đầu, Sư vào Lư Sơn, ở yên trong núi bảy năm. Khi đó,
Sư tụng kinh Pháp Hoa, từng cho rằng trong lẽ trọng
yếu để nhập đạo, huệ giải là gốc.
Do vậy, Sư dùi mài nơi các kinh, chẳng
ngại mệt khổ. Sư vào Quan Trung, theo học với
ngài La Thập, biện tài vấn đáp cao vời, cơi đời
đều gọi Ngài là “thần ngộ”. Về sau,
Sư vào núi Hổ Khâu giảng kinh. Tới đoạn “Xiển
Đề đều có Phật tánh”, các tảng đá
đều gật đầu. Sư lại ở Bán
Đường, tụng kinh Pháp Hoa. Có một bé trai theo
Sư xuất gia, cũng tụng Pháp Hoa. Hiềm rằng bé
trai mạng chung; do vậy, chôn nó trong rừng. Một tối,
[nơi mộ nó] nghe tiếng tụng kinh, người làng
lấy làm lạ. Đào lên xem, thấy lưỡi nó trổ
hoa sen xanh. Do vậy, dựng tháp, sau xây thành chùa (tức là
chùa Bán Đường hiện thời).
Cao Khải Vi vịnh
thơ rằng: “Hoàng thổ đản mai cốt, khởi
năng mai tánh linh. Tích văn túc thảo gian, tằng phún
liên hoa thanh. Thân quy trường dạ đài, khẩu tụng
Tây Phương kinh. Tầm tích thù yểu yểu. Văn
thanh mỗi lănh lănh. Hàn đăng chiếu không tháp. Thời
hữu sơn tăng thính, ưng sử lân trủng văn, trầm mê tận giai tỉnh” (Đất vàng chỉ vùi
xương, há chôn nổi tánh linh? Xưa nghe trong đám cỏ,
từng trổ hoa sen xanh. Thân về cơi đêm thẳm, miệng
tụng kinh Tây Phương. T́m dấu ôi buồn thảm,
nghe tiếng mỗi lạnh lùng. Đèn lạnh soi tháp trống,
sơn tăng vừa lắng nghe, khiến cho các mộ gần,
trầm mê đều tỉnh ngộ).
* Thích Pháp Trang đời Tống
Sư là người
Hoài Nam; thuở trẻ, làm đệ tử của
Viễn công, nổi danh khổ hạnh. Tuổi già, Sư
sang Quan Trung, theo học với Duệ Công (ngài Tăng Duệ).
Đầu niên hiệu Nguyên Gia, Sư trụ tại chùa
Đạo Tràng. Bẩm tánh đơn giản, Sư mỗi
ngày chỉ ăn một bữa Ngọ, tụng kinh Niết
Bàn và Pháp Hoa, cảm thiên thần đến nghe. Vào cuối
đêm, mỗi khi Sư phúng tụng, những người ở
gần đó thường nghe trước thất của
Sư có tiếng binh khí [của thiên nhân] bảo vệ.
* Thích Huệ Khánh đời Tống
Sư họ Trúc,
người Quảng Lăng, trụ tại chùa Lư
Sơn, học thông tỏ kinh luật, là bậc thanh khiết,
có giới hạnh. Sư tụng các kinh như Pháp Hoa,
Tư Ích v.v… Mỗi đêm Sư phúng tụng, đều
nghe trong bóng tối có tiếng khảy ngón tay, tán thán. Trong
niên hiệu Nguyên Gia, Sư vượt sông gặp gió mạnh,
thuyền sắp ch́m, Sư chỉ tụng kinh không ngớt,
cảm thấy thuyền ở trong sóng dữ, đón băo
vượt gịng, như có người kéo đi vậy. Chốc
lát bỗng đến được bờ!
* Thích Đạo Quynh ở chùa Nam Giản
tại kinh đô thời Tống
Sư là người
Phù Phong. V́ thầy bệnh, Sư cùng bạn học ba
người, vào Hoắc Sơn ở Hà Nam để hái
nhũ thạch. Vào trong hang mấy dặm, ba người
chết ch́m, đèn đuốc lại tắt ngóm. Đạo
Quynh thầm tụng kinh Pháp Hoa, cậy vào ḷng thành xin
được cứu tế. Sư lại nghĩ tới
đức Quán Âm, trong khoảnh khắc, có ánh sáng như
đom đóm. Sư noi theo, bèn ra khỏi hang. Về sau, Sư cử hành Phổ Hiền
Trai, có hai vị tăng đến lễ Phật, ra khỏi
cửa bay lên không đi mất. Mọi người đều
kinh dị.
* Thích Đàm Đế đời Tống
Sư họ Khang, tổ
tiên là người nước Khang Cư[14].
Cuối đời Hán, chuyển vào Trung Hoa. Sau dời đến
Ngô Hưng. Cha Sư tên là Đan, làm Biệt Giá[15]
ở Kư Châu. Mẹ Sư họ Hoàng, đêm nằm ngủ, mộng thấy
một vị Tăng gọi bà Hoàng là mẹ, gởi một
chiếc phất trần và hai cái chặn sách[16]
bằng sắt chạm trổ. Tới khi bà thức, thấy
cả hai món đồ đều c̣n
đó. Do vậy, bà bèn có thai Sư. Khi
năm tuổi, mẹ lấy các vật như phất trần
v.v… cho xem, Sư nói: “Do Tần vương biếu tặng”.
Mẹ hỏi: “Con đặt ở chỗ nào?” Đáp: “Quên
mất rồi!” Sư mười tuổi xuất gia, chẳng
theo thầy học mà tự giải ngộ. Đối với
ư chỉ uyên áo của kinh Pháp Hoa, Sư biện giải
như sông treo. Sư từng theo cha đến Phàn Đặng,
gặp một vị Tăng đến từ Quan
Trung là Lược đạo nhân. Sư bỗng gọi tên
vị ấy. Lược đạo nhân nói: “V́ sao bé trai lại
gọi tên của bậc tôn túc?” Ngài Đạo Đế
đáp: “Xưa kia ḥa thượng chính là sa-di của Đế.
[Ḥa thượng] v́ chúng tăng hái rau, bị lợn rừng
làm bị thương. Nay bỗng gặp ông, ta bất giác
kêu lên”. Thoạt đầu, Lược đạo nhân chẳng
nhớ, bèn ḍ hỏi, Sư kể đầu đuôi, c̣n
đem chặn sách và phất trần cho xem. Lược
đạo nhân hiểu ra, khóc nói: “Ngài chính là tiên sư Hoằng
Giác pháp sư. Tiên sư từng giảng kinh Pháp Hoa cho Diêu
Trành, bần đạo làm đô giảng[17].
Diêu Trành tặng thầy hai món đồ”. Ông ta nhớ lại
ngày sư Hoằng Giác nhập diệt, chính là ngày gởi gắm
hai vật ấy. Lại nhớ đến chuyện hái
rau, càng thêm bi ngưỡng. Đến già, Sư vào chùa
Vũ Khâu ở đất Ngô, giảng Pháp Hoa, Đại
Phẩm, Duy Ma, mỗi kinh mười lăm lượt. Về
sau, Sư trở về Ngô Hưng, nhàn cư, uống nước suối suốt
hai mươi mấy năm. Cuối niên hiệu Nguyên Gia,
Sư thị tịch trong núi.
* Thích Đàm Thúy đời Tống
Sư trụ tại
chùa Bạch Mă ở Hà Âm, ăn rau, áo vải, tụng kinh
Chánh Pháp Hoa mỗi ngày một lượt. Sư từng có
lần trong đêm nghe có người gơ cửa, thưa: “Thỉnh
Sư giảng kinh chín mươi ngày”. Sư từ chối,
[người ấy] cứ cố kèo nài, Sư bèn chấp thuận. Sư vẫn đang ngủ, bỗng
thấy thân ḿnh đă ở trong đền Bạch Mă,
cũng có một đệ tử cùng ở đó. Từ
đấy, mỗi ngày Sư ngầm tới, chẳng có ai
biết. Về sau, tăng sĩ trong chùa đi qua đền
ấy, thấy có hai cái ṭa cao. Sư ở phía Bắc, đệ
tử ở phía Nam, dường như có tiếng giảng
nói. Lại nghe mùi hương lạ. Do vậy, cùng nhau lan
truyền chuyện thần dị. Sư giảng kinh tới
Hạ mới xong.
* Thích Phổ Minh đời Tống
Sư họ
Trương, người Lâm Truy, xuất gia từ bé, bẩm
tánh thanh thuần, lấy sám tụng làm hạnh nghiệp.
Khi Sư tụng kinh Pháp Hoa, bèn có ṭa riêng, áo riêng, chưa từng
uế tạp. Mỗi khi tụng tới phẩm Khuyến
Phát, liền thấy đức Phổ Hiền cưỡi
voi sáu ngà đứng trước mặt.
* Thích Bảo Thông đời Tống
Sư phạm hạnh
tinh tu, tụng phẩm Đà La Ni của kinh Pháp Hoa đă lâu
ngày. Lâu sau bèn có sự linh dị. Thuở đó, tại thôn
Dương Kiều, có vợ người họ Triệu bị
quỷ mị dựa, thỉnh Sư tụng phẩm Đà
La Ni. [Sư đến nơi], có thần hiện h́nh, gọi
quỷ ấy đến quở trách. Vợ ông Triệu
lành bệnh. Về sau, bệnh lại tái phát. Sư qua
đó, thấy con quỷ đă bị quở trách lần
trước. Sư nói: “Lần trước ta đă răn
dạy, nay sao ngươi lại đến nữa? Ta sẽ
tụng chú, khiến cho đầu ngươi vỡ thành bảy
miếng như cành cây A Lê!” Quỷ khấu đầu, ai
oán van xin, bỏ đi. Bệnh [của vợ ông Triệu]
liền lành!
* Thích Tăng Đăng đời Tống
Sư trụ tại
chùa Đại Lâm ở Lư Sơn, tụng
thông suốt kinh Pháp Hoa, ngày đêm chẳng dứt. Một
hôm, bỗng thấy trên hư không có một ṭa điện
bằng bạc, dần dần hạ xuống trong pḥng, chợt
biến thành điện vàng. Sư vào điện, ngồi,
đứng, kinh hành. Suốt ba năm như thế. Xa gần
tuân theo sự giáo hóa của Sư. Sư v́ người khác
thuyết giới, miệng tỏa quang minh. Một hôm,
Sư ra ngoài, trở về, bảo đệ tử: “Nay
ta sẽ lên điện vàng, chẳng trở ra nữa!”
Sư lập tức thản nhiên thoát hóa. Mùi hương lạ
quanh quẩn cả tháng!
* Thích Pháp Huệ đời Tống
Sư vốn họ
Hạ Hầu, giữ chí siêng khổ, luật hạnh nghiêm
cẩn, trong sạch. Cuối niên hiệu Đại Minh[18],
Sư sang Đông thăm Vũ Huyệt, ẩn cư tại
núi Thiên Trụ, tụng kinh Pháp Hoa, mỗi ngày trọn một
bộ, chí vượt cơi trần. Sư ở đó hơn
ba mươi năm, vương hầu, kẻ phú quư, chỉ
đến bái lạy ở cửa rồi quay về. Chỉ
riêng ông Châu Ngung ở Nhữ Nam, do tín lẫn giải đều
sâu, đặc biệt được Sư tiếp xúc. Chỗ
Sư tụng kinh luôn có mây màu bao phủ trên không trung.
* Thích Huệ Lượng đời
Tống
Từ bé, Sư
đă có danh tiếng tốt đẹp. Sư lập chùa tại
Lâm Truy, giảng Pháp Hoa, Đại Phẩm, Tiểu Phẩm
[Bát Nhă]. Người theo học vân tập từ ngàn dặm.
Về sau, Sư vượt sông, trụ tại chùa Hà Viên.
Nhan Diên Chi, Trương Tự luyến mộ đức lưu
luyến, thường than rằng: “Lời lẽ thanh diệu,
[pháp đạo] sắp dứt mà lại được phục
hưng”. Sư trước tác bộ Huyền Thông Luận
được lưu hành trong cơi đời.
* Thích Huệ Quả ở
Dương Châu đời Tống
Sư từ bé
đă ăn chay, giữ vững khí tiết. Trong niên hiệu
Thái Thỉ[19],
Sư sang kinh đô, trụ tại chùa Ngơa Quan, tụng kinh
Pháp Hoa và Thập Địa. Sư từng ở trong nhà xí
gặp một con quỷ kính lễ, thưa: “Xưa kia tôi
làm duy-na của chúng tăng, có chuyện nhỏ nhặt không
đúng pháp, bị đọa làm quỷ trong nhà xí. Pháp
sư từ bi hăy rủ ḷng cứu bạt. Tôi có ba ngàn
đồng chôn dưới gốc cây ấy. Xin Sư dùng
đó để làm phước”. Sư bảo đại
chúng đào tiền lên, v́ ông ta tạo một bộ kinh Pháp
Hoa. Sau đó, mộng thấy quỷ nói: “Do từ lực
đă được thác sanh”, hết sức cảm tạ
rời đi!
* Thích Huệ Ích ở kinh đô
đời Tống
Sư người
Quảng Lăng. Trong niên hiệu Hiếu Kiến[20],
Sư trụ tại chùa Trúc Lâm, tụng kinh Pháp Hoa, khổ
hạnh chuyên ṛng. Sư thề thiêu thân, phỏng theo chuyện
của Dược Vương Bồ Tát. Vua sai sứ khuyên
lơn, nhưng Sư không nghe. Năm Đại Minh thứ
bảy (463), nhằm ngày Phật Đản, Sư đến
cung khuyết từ biệt nhà vua, dặn ḍ [vua gắng hộ
tŕ] Phật pháp. Sư đặt vạc dầu ở Chung
Sơn, dùng vải bông quấn thân, tay tự cầm đuốc
đốt lửa, tụng phẩm Dược
Vương. Lửa cháy tới mắt th́ tiếng tụng
kinh mới dứt. Khi đó, [mọi người] nghe tiếng
kèn, sáo, mùi hương ngào ngạt. Ban đêm, vua mộng
thấy Sư căn dặn hộ pháp. Hôm sau, vua mở
đại hội, sắc truyền lập chùa Dược
Vương tại chỗ Sư thiêu thân.
* Thích Tăng Du đời Tống
Sư quê ở
Dư Hàng. Thoạt đầu, Sư trụ tại rặng
phía Nam của Lư Sơn, dựng tinh xá Chiêu Đề,
thường tŕ Pháp Hoa. Tháng Sáu năm Hiếu Kiến thứ
hai (455), Sư bảo đại chúng: “Kết lụy
trong tam đồ là do t́nh kiến và thân xác. T́nh kiến
cũng sắp tận, thân h́nh cũng nên bỏ đi.
Đường lối của Dược Vương, há
có xa ǵ!” Sư cáo biệt đại chúng, vào cái khám trong
đống củi, ngồi ngay ngắn, tụng phẩm
Dược Vương đốt thân rồi lấy đuốc
nhóm lửa. Đại chúng thấy khí màu tía vọt lên
không. Mười ngày sau, chỗ Sư đốt thân sanh hai
cây ngô đồng, người hiểu biết bảo
đó là Sa La song thụ hiện ra.
* Ni Huệ Ngọc đời Tống
Ni sư người Trường An, trụ
tại chùa Mục Ngưu ở Giang Lăng, tụng các kinh
như Pháp Hoa, Lăng Nghiêm v.v… mười ngày đă thông suốt.
Trong niên hiệu Nguyên Gia[21],
Sư thắp hương, lễ Phật, thề rằng: “Nếu
ḷng thành cảm ứng, sau khi xả thân, được thấy
cơi Phật, th́ trong ṿng bảy ngày, nguyện thấy Phật
quang”. Tới đêm thứ năm, trong rừng cây ở
phía Đông chùa, bỗng hiện tướng quang minh, h́nh sắc
rạng rỡ. Đại chúng đều than hy hữu.
* Ni Đạo Thọ đời Tống
Trong niên hiệu
Nguyên Gia đời Tống, ni Đạo Thọ tụng
kinh Pháp Hoa trọn ba ngàn bộ. Thường thấy trên
không trung có quang minh, lọng báu rủ xuống che đỉnh
đầu.
* Phí Thị vợ ông La Dư ở
Thục Đô đời Tống
Bà tụng Pháp Hoa từ
thuở trẻ, siêng năng tới mức chẳng mỏi
mệt. Về sau, bà bị đau tim, chết ngất. Trong
khi chờ khâm liệm, bà bỗng mộng thấy Phật
đưa tay xoa tim, ngay khi đó bà liền lành bệnh. Mọi
người trong nhà đều thấy kim quang, cũng nghe
mùi hương.
* Ni Trí Thông chùa Giản Tĩnh đời
Tống
Bà xả giới (hoàn tục), lấy ông Lương Quần Phủ, sanh một
trai được bảy tuổi. Nhà nghèo không có quần
áo. Lúc bà làm ni, có lụa trắng chép kinh Pháp Hoa, liền gột
tẩy để làm quần áo cho con. Bỗng toàn thân bà sanh
ghẻ lở, trùng trắng cùng khắp. Bà kêu gào mười
ngày rồi chết, nghe trên không trung có tiếng nói: “Hoại
kinh làm áo, mắc hoa báo này. Quả báo là trong địa ngục”.
Đó cũng là chuyện trong niên hiệu Nguyên Gia.
* Vương Huyền Mô đời
Tống
Ông là người
huyện Kỳ ở Thái Nguyên. Trong niên hiệu Nguyên Gia, ông
dẫn quân chinh phạt miền Bắc, thất trận, Tiêu
Bân[22]
muốn giết chết. Thẩm Khánh Chi can rằng: “Phật
Ly (tên thuở bé của Ngụy Thế Tổ[23])
oai chấn thiên hạ, há Huyền Mô có khả năng chống
nổi ư? Hơn nữa, giết chiến tướng
chỉ khiến cho chính ḿnh yếu thêm!” Tiêu Bân bèn thôi. Thoạt
đầu, Huyền Mô thấy sắp bị giết, mộng
thấy có người bảo: “Có thể tụng phẩm
Phổ Môn của kinh Pháp Hoa và Quán Âm thần chú một ngàn
lần, sẽ có thể thoát khỏi”. Ông thức dậy,
tụng niệm chẳng lơi lỏng. Bỗng nghe tin báo
đă ngưng hành h́nh. Về sau, ông làm quan tới chức
Khai Phủ[24].
* Vương Huệ Xưng đời
Tống
Năm Nguyên Gia thứ
tư (427) đời Tống, người xứ Sơ
Đô là Tôn Ngạn Tăng gia đ́nh nhiều đời thờ
Phật, có người thiếp tên là Vương Huệ
Xưng thường tụng kinh Pháp Hoa. Cô bỗng thấy
bến sông có quang minh. Đào lên, t́m được một
bức tượng Phật bằng vàng, phía trước có
khắc rằng: “Năm Canh Tư thuộc niên hiệu Kiến
Vũ thứ sáu (340), đạo nhân thuộc quan tự là
Pháp Tân tạo”; Pháp Tân chính là tiền thân của người
thiếp ấy.
* Thích Huệ Tấn đời Tề
Trong niên hiệu
Vĩnh Minh[25]
đời Tề, tại chùa Cao Ṭa ở Dương Châu, có sư Thích
Huệ Tấn là người xứ Ngô Hưng. Sư thuở
trẻ hùng dũng, thích hành hiệp. Lúc bốn mươi
tuổi, bỗng ngộ vô thường. Do vậy, Sư xuất
gia, áo vải, ăn rau, thề tụng Pháp Hoa, dụng tâm
siêng khổ. Sư vừa cầm quyển kinh liền bị
bệnh, bèn phát nguyện tạo một trăm bộ Pháp
Hoa để sám hối tội chướng đời
trước. Nguyện tạo kinh đă măn, Sư cũng
lành bệnh. Sau đó, Sư nguyện hồi hướng hạnh
nghiệp tụng niệm để được sanh về
Tịnh Độ, nghe trên không trung có tiếng nói: “Nguyện
của ông đă trọn, nhất định được
văng sanh”. Lúc Sư ngoài tám mươi tuổi, không bệnh
tật mà mất.
* Thích Hoằng Minh đời Tề
Sư là người
Cối Kê, vững chí siêng khổ, có khí tiết. Trong niên hiệu
Vĩnh Minh, Sư trụ tại chùa Vân Môn ở Sơn Âm, tụng
kinh Pháp Hoa, tu tập Thiền Định, sáu thời chẳng
lười nhác. Mỗi sáng, b́nh đựng nước
tự đầy, quả thật là do đồng tử
cơi trời hầu hạ. Mỗi khi Sư tọa Thiền,
hổ từng nằm phủ phục trong thất, thấy
Sư hoàn toàn chẳng động đậy, hồi lâu mới
bỏ đi.
* Thích Pháp Quỹ đời Tề
Sư họ Nguyễn,
người xứ Ư Tiềm thuộc Ngô Hưng, xuất
gia tại Kỳ Viên Tự. Sư bản tánh chất phác,
chẳng màng thế sự, tụng Pháp Hoa lâu ngày. Mỗi
khi được cúng dường trong dịp trai hội,
Sư gom góp lại để tạo tượng Phật bằng
gỗ chiên đàn. Tượng tạc xong, Sư tự lập
đại hội. Gia đ́nh Sư vốn kiều cư tại
kinh đô. Ngày hôm ấy, Sư trở về nhà, lại tới
chùa Định Lâm, trở về chùa Kỳ Viên. Về sau, xét cả ba chốn, đều
thấy Sư đến thọ trai giữa trưa, thật
sự là cùng lúc đến cả ba chỗ. Ngay trong chiều
hôm ấy, Sư trở về pḥng, đóng cửa qua đời.
Thi thể rất thơm tho, mềm mại, gập hai ngón
tay, mọi người đều ngộ Sư đă đắc
quả. V́ thế, dựng tháp tại chùa Kỳ Viên. Khi
đó là năm Vĩnh Minh thứ bảy (489) nhà Tề.
* Thích Huệ Dự đời Tề
Sư là
người Hoàng Long, sang kinh sư, trụ tại chùa Linh
Căn, tụng kinh Pháp Hoa ḥng làm cầu bến để cứu
khổ. Trong pḥng ngủ của Sư, từng thấy ba
người gơ cửa, áo mũ tươi sạch, cầm
nắm lọng hoa. Ngài Huệ Dự hỏi v́ lẽ nào? Họ
đáp: “Pháp sư sắp tịch, cho nên chúng tôi đến
đón”. Ngài Huệ Dự nói: “Có chút việc chưa xong, có
thể đợi một năm hay không?” Họ đáp:
“Được chứ!” Tới kỳ hẹn năm sau,
Sư không bệnh mà mất. Đó là năm Vĩnh Minh thứ
bảy (489) đời Tề, Xuân Thu của Sư là năm
mươi bảy tuổi.
* Thích Siêu Biện đời Tề
Sư họ
Trương, người Đôn Hoàng. Từ thuở bé
đă thần ngộ, trầm tĩnh. Sư lấy tụng
kinh Pháp Hoa làm thường khóa. Do nghe nói tại kinh đô,
Phật pháp chấn hưng mạnh mẽ, Sư từ Ba Sở
tới Kiến Nghiệp, trụ tại chùa Định
Lâm. Sư nhàn cư, tĩnh tọa nh́n vào
vách, suốt hơn ba mươi năm, tụng kinh Pháp Hoa.
Hằng ngày, Sư hạn định tụng một lần,
tâm mẫn tiệp, miệng đọc lưu loát luôn thừa sức. Sư thị
tịch năm Vĩnh Minh thứ mười (492), luật
sư Tăng Hựu tạo bia, Lưu Hiệp ở Đông Quản soạn văn. Chẳng
lâu sau, nơi chỗ chôn Sư, nẩy sanh một cành hoa sen
xanh.
* Thích Huệ Cơ đời Tề
Sư họ Lữ,
là người xứ Tiền Đường thuộc
đất Ngô. Mười lăm tuổi, Sư xuất gia
tại chùa Kỳ Hoàn. Sư miệt mài hành tŕ siêng khổ,
chuyên ṛng, giỏi Tiểu Phẩm Bát Nhă và Pháp Hoa. Sư trở
về, trụ tại chùa Pháp Hoa ở Sơn Âm, giảng
tuyên kinh giáo. Người học lũ lượt kéo tới,
Sư bèn lập tinh xá Bảo Lâm ở Hội Ấp. Sư
mộng thấy đức Phổ Hiền phóng quang tiếp
dẫn; do vậy, tạo tượng Phổ Hiền và voi
trắng sáu ngà. Cánh Lăng Vương (Tiêu Tử Lương) từng thưa hỏi Sư yếu
chỉ kinh Pháp Hoa, Sư bèn trước tác Pháp Hoa Nghĩa Sớ
ba quyển. Năm Kiến Vũ thứ ba (496)[26],
Sư thị hiện mắc bệnh. Đệ tử mộng
thấy mấy vị Phạm tăng ngồi xếp bằng,
nói từ nước Đại Thừa đến đón
ḥa thượng Huệ Cơ. Sư lặng lẽ qua đời!
* Thích Tăng Hầu đời Tề
Sư họ Cung,
người Tây Lương Châu, xuất gia từ nhỏ,
liền biết khổ hạnh. Sư sang kinh đô, tụng
kinh Pháp Hoa và Kim Quang Minh, cứ hai ngày là xong một bộ.
Hơn sáu mươi năm, Thiền tụng chẳng hề
bỏ phế. Sư đắp thất ở sau núi làm chỗ
để tu Thiền. Nơi Sư ở thường có mùi
hương lạ, cỏ cây lạ, chẳng biết từ
đâu tới. Ai đến cửa, đều nghiêm túc, im
lặng. Người thời ấy nói là do Sư có vị
thần hộ giới ngầm hộ tŕ. Năm Vĩnh
Nguyên thứ hai (500), Sư mắc bệnh nhẹ, chẳng
ăn, đ̣i nước súc miệng, chắp tay, ngồi xếp
bằng qua đời. Xuân thu tám mươi chín tuổi.
* Cánh Lăng Văn Tuyên Vương
Tiêu Tử Lương đời Tề
Ông có tên tự là
Vân Anh[27],
chú trọng đạo nghĩa, chuộng phong cách đạo
đức của cổ nhân, xem rộng khắp các kinh
sách, được cơi đời xưng tụng là “bút hải”.
Ông cùng với thái tử Văn Huệ (Tiêu Trưởng Mậu)
đều tinh thông Phật lư, thường triệu vời các danh
tăng giảng các kinh điển, tôn trọng pháp rất mực,
Giang Tả chẳng có ai bằng! Có lúc ông đích thân v́ chúng
tăng sắp đặt cơm nước. Ông tụng
kinh Pháp Hoa, ngầm cảm phạm âm thanh nhă… Trước
tác có Tịnh Trụ Tử hai mươi quyển
được lưu hành trong cơi đời. Tịnh Trụ, tiếng Phạn là Bố Tát
(Uposatttha), có nghĩa là thân, khẩu, ư thanh tịnh, theo
đúng giới mà trụ.
* Lưu Cầu đời Tề
Ông tên tự là Linh
Dự, người quận Nam Dương, tin ṛng đạo
Phật. Áo vải thô lễ Phật, ăn chay trường
tụng niệm, sáu thời chẳng khuyết. Đầu
niên hiệu Kiến Nguyên (479), vua xuống chiếu sai ông
làm Thông Trực Tán Kỵ Thị Lang[28],
ông chẳng vâng chiếu. Ông chuyên chú nơi hai kinh Pháp Hoa và
Hoa Nghiêm, tự giảng Phật nghĩa. Năm Kiến
Vũ thứ hai (495), ông được vời làm Quốc
Tử Bác Sĩ[29],
dời chỗ ở sang Tây Sa Châu ở Giang Lăng. Trong ban
ngày mùa Đông năm ấy, bỗng có mây trắng quẩn
quanh nơi cửa nhà, lại có mùi hương lạ, và tiếng
chuông, tiếng tụng kinh. Ông ngồi ngay ngắn qua đời.
* Thích Huệ Ước đời
Lương
Sư họ Lâu,
người xứ Thương Ô thuộc Đông
Dương. Lúc bé, Sư tụ cát làm tháp, chất đá làm
ṭa. Khi mười bảy tuổi bèn xuống tóc xuất
gia. Huyện lệnh đất Diệm là Châu Ngung hết sức
cung kính, tạo chùa Thảo Đường ở Chung
Sơn, thỉnh Sư đến đó ở. Thái Tể Trữ
Uyên, Thái Úy Vương Kiệm thỉnh Sư giảng các
kinh Pháp Hoa, Thắng Man v.v… để hoằng dương
pháp giáo rộng lớn. Ông Trữ Uyên mắc bệnh,
đang ngủ ban ngày, bỗng thấy một vị Phạm
tăng nói: “Bồ Tát sẽ tới, vị đạo nhân sẽ
đến chính là vị ấy”. Chốc lát, Sư đến
thăm, Trữ Uyên ngay lập tức được lành bệnh. Sư
chuộng Thiền tụng, cảm mùi hương lạ
đầy thất, mănh thú đi quanh thềm bậc. Sư
từng vào khe suối Xích Tùng ở núi Kim Hoa. Khi đó, có thần
quang, yêu quái dứt bặt. Trong niên hiệu Thiên Giám[30],
vua thọ Bồ Tát Giới từ Sư. C̣n như vương
hầu, phu nhân quyền quư, đạo tục, [xin thọ
giới với Sư] tính ra khoảng bốn
vạn tám ngàn người. Thường khi thọ giới,
có một con chim sẻ nhảy theo từng bậc. Truyền
giới xong, nó mới bay đi. Lại có hai con
công, đi thong thả tới giới đàn, duỗi cổ nghe pháp. Đại Đồng nguyên niên (535), Sư ngồi
qua đời. Sư được dựng tháp ở bên
trái mộ ngài Chí Công.
* Thích Pháp Vân đời Lương
Sư họ Châu, ở
Dương Tiện, xuất gia khi bảy tuổi. Sư
cao vời khôn sánh. Sư tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa,
nghiên cứu, suy nghĩ tinh tường, cặn kẽ. Lúc
ba mươi tuổi, Sư khai giảng Pháp Hoa và Tịnh
Danh tại chùa Diệu Âm, biện tài như gió cuốn,
người học chen chúc. Sư c̣n từng giảng kinh
Pháp Hoa tại chùa Quang Trạch, bỗng cảm hoa trời
đầy hư không, rơi xuống như tuyết bay.
Thuở đó, Chí Công đạo vượt xa mọi vị
tăng, thường đến chỗ sư Pháp Vân, liền
nghỉ lại hai đêm, gọi Sư là pháp sư Đại
Lâm. Ngài từng nói: “Ta muốn hiểu sư tử hống”.
Sư liền thăng ṭa phân tích, ngài Chí Công khảy ngón tay,
bảo: “Lành thay! Vi diệu quá, oai nghi giống như Viên
Ngang[31]”.
Có người từng cúng dường Tăng, phát nguyện
mong được huệ giải như Sư. Ban đêm,
người ấy bỗng thấy một vị Tăng bảo:
“Trong thời Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật,
pháp sư đă từng giảng kinh này, ông làm sao sánh bằng
được!”
* Pháp sư Vân Quang đời Lương
Chưa rơ họ tên
[thế tục] của Sư. Năm Phổ Thông thứ hai
(521), vua (Lương Vũ Đế) xuống chiếu vời
Sư giảng kinh Pháp Hoa trong nội điện, trời
mưa hoa báu. Trong niên hiệu Thiên Giám (502-519), do đại
hạn, vua hỏi Chí Công [cách nào cầu mưa]. Chí Công nói:
“Vân Quang có thể tuôn mưa”. Do vậy, vua thỉnh Sư
giảng Pháp Hoa. Tới câu “kỳ trạch phổ hiệp”
(thấm nhuần trọn khắp), trời liền mưa
dầm, cao thấp đều được nhuần thấm
trọn đủ.
* Thích Đạo Lâm đời
Lương
Sư người
Sơn Âm, có giới hạnh, giỏi Pháp Hoa và Niết Bàn.
Trương Tự ở nước Ngô tôn kính phụng sự.
Trong niên hiệu Thiên Giám, Sư sống tại chùa Tuyền
Lâm thuộc huyện Phú Dương. Trong chùa có quỷ quái.
Sư đến nơi, quỷ liền tiêu diệt. Đệ
tử Huệ Thiều bị nhà sụp đè, đầu
lơm vào ngực. Sư v́ ông ta tụng kinh Pháp Hoa cầu đảo.
Ông Thiều ban đêm mộng thấy hai vị đạo
nhân người Hồ lôi đầu ông ra, tới sáng bèn b́nh
phục. Mọi người đều khâm phục sự
cảm ứng thần diệu ấy!
* Thích Pháp Lẫm đời
Lương
Sư họ Nghiêm,
người Chi Giang, xuất gia tại Ngọc Tuyền
sơn tự. Sư thường tụng Pháp Hoa, khất thực,
mỗi ngày ăn một bữa, chẳng nằm, thường
ngồi. Sư quảy tích trượng viễn du, ngọn
Lư Sơn, đỉnh Ngũ Đài, Hành lănh, La Phù, không
chỗ xa xôi nào Sư chẳng tới. Sư trụ tại
gộp đá hẻo lánh, nhất chí Thiền Định.
Sư từng qua Đại Nhạc, sang Dư Châu, huyện
lệnh xét giấy phép du hành, Sư chỉ vào tráp đựng
kinh Pháp Hoa mang theo. Quan huyện tức giận, giam lại.
Sư bảy ngày không ăn, âm thanh tụng kinh chẳng dứt.
Huyện lệnh cảm ác mộng, liền đảnh lễ,
hối lỗi. Về sau, Sư trở về ẩn cư,
dùng Thiền tụng làm nghiệp. Khi mất, mùi
hương lạ tràn ngập, mười ngày mới hết.
* Thích Pháp Nhẫn đời
Lương
Sư người
Giang Lăng; thoạt đầu xuất gia tại chùa Thiên
Hoàng, tụng tŕ Pháp Hoa, mỗi ngày hai lượt. Do đại
chúng tụ tập lắm huyên náo, Sư đến ở dưới
Phúc Thuyền Nham ở phương Tây, tự tĩnh lặng
hành Đầu Đà. Ba mươi mấy năm, ăn vỏ
cây, mặc áo gai, hoặc ca-sa rách mà thôi! Sự tự sống
trong chốn rừng thẳm, chẳng cầu kẻ ngoại
hộ. Bảy ngày ăn một bữa, ngồi xếp bằng
quán tâm. Về sau, Sư nằm bên hông phải trong hang phía Bắc
mà qua đời!
* Thích Tăng Thiên ở Kinh Châu đời
Lương
Sư người
đất Ngô. Thuở bé, đă thông minh, cao cả, khiến
quan Thị Trung Vương Tích phải than lạ. Sư
thường tụng kinh Pháp Hoa, số tṛn sáu ngàn bộ. Một
hôm, Sư ngủ mộng thấy Phổ Hiền đại
sĩ, hương quang chói ḷa, đích thân xoa đầu
Sư. Sư kiêng không nói ra. Tới khi sắp thị tịch,
mới kể với những người cùng chí hướng.
Đối với các kinh như Pháp Hoa, Đại Phẩm,
Niết Bàn v.v… mỗi thứ Sư đều giảng mười lần,
đều soạn sớ để lưu truyền.
* Ni Đạo Tích xứ Ngô Hưng
đời Lương
Ni sư hiệu Tổng
Tŕ, đắc pháp với Tổ Bồ Đề Đạt
Ma. Sư ẩn cư trên đỉnh Biện Lănh, ngày
đêm tụng kinh Pháp Hoa trọn một vạn bộ, chẳng
ra khỏi núi suốt hai mươi năm. Về sau, Sư
quy tịch, được dựng tháp chôn toàn thân tại
chỗ Sư kết lều tranh. Đại Đồng
nguyên niên (535), trong tháp bỗng có một đóa sen xanh. Đạo
tục lấy làm lạ, mở tháp ra xem th́ thấy hoa sanh
từ cái lưỡi của Sư. Châu quận tŕnh tấu,
vua sắc truyền dựng chùa Pháp Hoa.
* Ni Pháp Tuyên ở Diệm Xuyên đời
Lương
Thoạt đầu,
Sư tụng kinh Pháp Hoa, nằm ngồi đều thấy
trướng lọng che phía trên. Cha mẹ liền cho Sư
xuất gia tại chùa Tề Minh. Từ đó, chẳng thấy
trướng lọng nữa! Từ đấy trở
đi, Sư đọc rộng các kinh luận, tham cứu
sâu xa lư uyên áo. Vương Nguyên Giản ở Hành Dương làm thái thú tại quận ấy, thỉnh Sư làm thầy
cho mẹ ḿnh tại Việt Thành.
* Trưng sĩ[32]
Dữu Tiển[33]
đời Lương
Ông có tên tự là Ngạn
Bảo, người Tân Dă. Thông kinh sử từ bé, tánh hiền
lành, giản dị, đặc biệt ưa thích chốn
lâm tuyền. Ông ở nơi rộng mười mẫu, núi
và ao chiếm một nửa. Thuở trẻ, ông chơi thân
với Lương Vũ Đế. Tới lúc đế khởi
binh, hạ chiếu phong cho ông làm Kư Thất ở phủ
B́nh Tây. Trong niên hiệu Phổ Thông, lại phong làm Hoàng Môn
Thị Lang, ông đều từ chối. Lúc tuổi già, ông
lập đạo tràng trong nhà, ở trong núi, ăn chay, sáu
thời lễ sám, tụng kinh Pháp Hoa. Mỗi ngày tụng một
bộ. Bỗng trong đêm, ông thấy một đạo
nhân, tự xưng là Nguyện Công, dung mạo, cử chỉ
rất lạ, gọi ông Tiển là Thượng Hạnh
tiên sinh, trao cho hương rồi đi. Năm Trung Đại
Thông thứ tư (532), ban ngày ông nằm ngủ, bỗng giật
ḿnh tỉnh giấc nói: “Nguyện Công lại đến, chẳng
thể ở lâu”. Nói xong bèn qua đời. Cả nhà đều
nghe trên hư không xướng: “Thượng Hạnh tiên
sinh đă sanh về Di Đà tịnh vực”. Lương Vũ Đế kính phục, xuống
chiếu ban cho ông thụy hiệu là Trinh Tiết tiên sinh.
* Chân Huyền Thành đời
Lương
Ông là người
Trung Sơn, thông đạt rộng răi kinh sử, được
Lương Giản Văn Đế (Tiêu Cương) nhận biết, phong làm Lục Sự
Tham Quân. Ông theo Tiêu Sát[34]
trấn thủ Tương Dương, do binh lực tại
Giang Lăng hùng mạnh, ông ngầm gửi thư kết
thân. Có kẻ tố cáo với Tiêu Sát, Tiêu Sát tin sâu Phật
pháp, thề nguyện chẳng giết người tụng
kinh Pháp Hoa. Huyền Thành chuyên tụng Pháp Hoa, do vậy
được miễn tội. Tiêu Sát về sau gặp mặt,
thường nói: “Ông Chân khéo đạt được sức
của kinh Pháp Hoa”.
* Hoa Thủ ni đời
Lương
Năm Phổ Thông
thứ hai (521) đời Lương, tại Cao Bưu có
Hoa Thủ ni, chí tiết trong sạch, tụng kinh Diệu
Pháp Liên Hoa ngày đêm chẳng sót. Về sau, cứ tụng
một quyển, trên móng tay phải của Sư sanh ra một cái hoa, h́nh dạng
như tơ lụa. Năm ngón tay đều có. Tụng
đến quyển thứ sáu, thứ bảy, trên tay đều
sanh hai hoa. Vũ Đế triệu kiến, hết sức
kính trọng. Người đương thời gọi ni
sư là Hoa Thủ ni.
* Tôn giả Nam Nhạc Huệ Tư
đời Trần
Sư con nhà họ
Lư ở Vũ Tân, tŕ giới từ bé, đảnh lễ
Pháp Hoa đến nỗi quên ngủ nghỉ. Do mưa dầm
ẩm thấp, Sư bị phù thũng, gắng chịu
đựng hướng về kinh, liền được
khỏi hẳn. Sư mộng thấy đức Phổ Hiền
cưỡi voi chúa trắng đích thân xoa đầu. Trên
đỉnh đầu Sư ngầm nổi lên nhục kế.
Lúc mười lăm tuổi, Sư xuất gia, thọ Cụ
Túc Giới, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, chuyên tụng
Pháp Hoa, tính ra phải một ngàn lượt, cảm vời
b́nh đựng nước chẳng cạn. Đồng tử
cơi trời hầu hạ.
Khi đó thiền
sư Huệ Văn do duyệt Đại Luận, đọc
tới phẩm Tứ Đế, thấy bài kệ “nhân
duyên sở sanh pháp, ngă thuyết tức thị Không, diệc
sanh vi giả danh, diệc danh Trung Đạo nghĩa”
(pháp sanh bởi nhân duyên, ta nói chính là không, cũng gọi là
giả danh, cũng gọi nghĩa Trung Đạo). Ngài Huệ
Văn bừng tỉnh đại ngộ, liền vọng
bái, tôn ngài Long Thọ làm thầy. Ngài nương theo luận,
lập ra pháp Quán. Sư (ngài Huệ Tư) liền đến
xin thọ pháp, ngày đêm nhiếp tâm, hông chẳng chạm
chiếu, ngồi Thiền suốt ba mươi ngày, đắc
Túc Mạng Thông, dũng mănh gấp bội. Bỗng Thiền
chướng dấy lên, tứ chi ră rời, thân chẳng
thuận theo tâm. Sư liền tự nghĩ: “Bệnh do
nghiệp sanh, nghiệp do tâm khởi. Nguồn tâm chẳng
khởi, ngoại cảnh làm ǵ được? Bệnh nghiệp
và tâm, đều như bóng mây”. Sư quán như thế,
điên đảo tưởng diệt, khinh an như
cũ. Nhưng [hành tŕ tinh tấn] suốt năm mà chẳng
đạt được ǵ, Sư ôm ḷng hổ thẹn sâu
xa, thả lỏng thân, dựa vào vách tường, bỗng
dưng đại ngộ Pháp Hoa tam-muội. Từ đó,
đối với các kinh chưa được nghe, đều
chẳng nghi ngờ, tự thông hiểu.
Kế đó, Sư
sang núi Đại Tô ở Quang Châu (光州), giảng kinh Đại
Bát Nhă, từng được cúng thí. Sư bèn ở chùa Tề
Quang, [dùng tiền cúng thí ấy]
tạo hai bộ kinh
Đại Phẩm Bát Nhă và Pháp Hoa đều chép bằng chữ
vàng. Lại tự soạn một bài nguyện văn, nguyện
vào thời Phật Di Lặc, thân và kinh ấy sẽ cùng lúc
xuất hiện, rộng hóa độ hết thảy.
Năm Quang Đại thứ hai (568), Sư vào ở trong
Nam Nhạc. Một hôm, Sư lên ngọn Chúc Dung, thần núi
xin thọ giới. Sư bèn v́ ông ta nói pháp yếu. Sư chỉ
gộp đá nói: “Trong một đời, ta đă từng tọa
Thiền ở đây, bị giặc chặt đầu”.
[Môn nhân] liền t́m được một bộ
xương khô (nay là Nhất Sanh Nham tại chùa Phước Nghiêm).
Sư đến góc Tây Nam, chỉ tảng đá lớn nói:
“Đời thứ hai, ta cũng từng sống ở
đây”, liền nhặt lấy đầu lâu dựng tháp,
để báo ơn tu tập đời trước (nay là
tháp Nhị Sanh). Sư lại tới chỗ ẩn khuất,
bảo: “Đây là chỗ chùa cổ, đời thứ ba ta
từng sống nhờ ở đây”. Khai quật th́ quả
nhiên có các vật dụng của Tăng và nền móng hăy
c̣n, Sư liền đắp đài v́ đại chúng thuyết
pháp (nay là Tam Sanh Tạng).
Đại chúng sợ
không có nước, Sư lấy tích trượng gơ vào
đá, do đó, hổ bỏ chạy, suối trào ra. Từ đó, hóa đạo càng thịnh,
vua Trần đặc biệt lễ kính. Người thời
đó gọi Ngài là Tư đại thiền sư. Tháng Sáu
năm Đại Kiến thứ chín (577), Sư xướng
Phật hiệu, chắp tay, qua đời. Mùi hương
lạ đầy thất. Sư từng dạy đại
chúng: “Nguồn đạo chẳng xa, biển tánh chẳng
xa, chỉ hướng về chính ḿnh mà cầu, đừng
t́m nơi nào khác. Hễ t́m sẽ chẳng được!
Dẫu có đạt được, cũng chẳng thật!”
* Thích Huyền Quang đời Trần
Sư là người
nước Tân La, chuyên tu phạm hạnh. Sư vượt
biển thẳm, cầu thiền pháp nơi Trung Thổ. Do
vậy, Sư đến Hành Sơn, tham yết Huệ
Tư đại thiền sư. Tổ dạy Tứ An Lạc
Hạnh, Sư bỗng chứng Pháp Hoa tam-muội. Quay trở
lại Giang Nam, ngồi thuyền ra biển khơi. Bỗng
thấy mây màu, [nghe tiếng] nhă nhạc, [trông thấy] cờ
tiết rực rỡ kéo tới. Trên hư không, truyền tới
tiếng hô: “Thiên đế vời sư Huyền Quang nói
pháp môn đă đích thân chứng đắc tại cung rồng”.
Sư chắp tay thoái thác. Thấy người áo xanh dẫn
đường, liền vào cung thành, chẳng giống
như phủ thự trong nhân gian. Chung quanh chẳng có ai
không phải là loài có mai, có vảy, xen lẫn với quỷ
thần. Đă lên đài cao, Sư đàm luận diệu
pháp suốt bảy ngày. Sau đó, vua khom ḿnh đưa tiễn,
Sư lại lên thuyền. Người chèo thuyền nói mới
trải qua nửa ngày. Tổ Nam Nhạc dựng ảnh
đường, trong ấy có vẽ h́nh tượng
Sư. Tổ đường chùa Quốc Thanh ở Thiên
Thai cũng thế.
* Từ Hiếu Khắc đời
Trần
Ông là người xứ
Diệm thuộc Đông Hải. Từ nhỏ đă đàm
luận huyền lư, đến lớn thông thạo ngũ
kinh. Đầu niên hiện Thái Thanh[35]
đời Lương, ông bắt đầu làm quan, giữ
chức Thái Học Bác Sĩ[36].
Tánh t́nh chí hiếu, cha mất bèn đau buồn khôn ngằn,
thờ mẹ trọn hết đạo hiếu. Trong niên
hiệu Thiên Gia (560-566), ông được phong làm
huyện lệnh đất Diệm. Không lâu sau, ông lại từ chức.
Trong niên hiệu Thái Kiến[37],
ông được vời ra làm Bí Thư Thừa, nhưng
không ra làm quan. Ông ăn chay trường, giữ Bồ Tát
giới. Ngày đêm giảng tụng kinh Pháp Hoa. Năm Thái
Kiến thứ sáu (574), được phong chức Tế
Tửu của Quốc Tử Giám. Lúc lâm chung, ông ngồi
ngay ngắn, niệm Phật, trong nhà có mùi hương dị
thường, xóm giềng đều kinh ngạc.
* Thích Tăng Chiếu đời Bắc
Ngụy
Sư trụ tại
chùa Đan Lănh ở Thái Sơn, thường dạo chơi
sơn thủy, thích chỗ thâm u, hiểm trở. Phổ
Thái nguyên niên (531), Sư tới Huỳnh Sơn, thấy chỗ
thác nước tuôn xuống có huyệt động, đi
sâu vào trong năm sáu dặm th́ ra khỏi hang. Sư đi về
phía Đông Bắc, thấy có con suối chảy giữa
các tảng đá. Nước suối trong suốt, cỏ
thuốc mọc chen chúc. Phía Bắc khe suối có ba gian nhà
ngói, h́nh dáng hết sức cổ xưa, thô lậu. Trước
sân, lúa thóc mọc lung tung. Phía Đông căn nhà có mấy cái giá đặt
đầy kinh sách nhà Phật. Gian giữa có cái cối xay
phủ đầy bụi. Trong phía Tây căn nhà, có một vị
sa-môn đang ngồi ngay ngắn nghiễm nhiên, bụi lấp
đến gối. Nh́n bốn phía chỉ có rừng rậm,
khe suối, chẳng c̣n ai khác ở. Trong chốc lát, Sư
gặp một vị thần tăng, tuổi khoảng sáu
mươi, lông mày dài cả trượng, vắt lên vành tai.
Gặp nhau hoan hỷ như đă quen biết từ trước.
Vị ấy hỏi Sư từ đâu đến rồi
tự nói: “Bọn tôi gồm ba người đồng học,
từ đấy lánh đời. Một người ra
ngoài chưa về, một người khô tọa, tợ hồ
nhập Diệt Tận Định. Nay đang ở trong
căn nhà phía Tây, ông có thấy hay chăng?” Sư thưa:
“Đă thấy!”
Do vậy, vị ấy
hái lúa, đem giă nấu cháo, lại vào rừng hái lê, táo cho
ăn. Hỏi Sư: “Thường ngày, thầy tụng kinh
ǵ?” Sư nói: “Tụng Pháp Hoa”. Vị tăng gật đầu,
nói: “Nghiệp tinh tấn quá tốt! Gian nhà phía Đông chất
chừng đó kinh toàn là do tôi tự tụng. Thầy có muốn
nghe hay không?” Sư chắp tay, thưa vâng. Vị tăng liền tụng kinh suốt
đêm, thanh vận trong trẻo, rơ ràng. Sư buồn ngủ,
vị Tăng bảo; “Thầy cứ ngủ đi, đây
là hằng nghiệp của tôi”. Tới sáng, vị Tăng lại
nấu ăn. Sư cảm tạ, từ biệt, vị
Tăng cũng chẳng giữ lại, chỉ nói: “Đồng
học của tôi đă đi rồi, nếu thầy gặp
gỡ sẽ khai ngộ to lớn, tiếc là chẳng gặp!”
Sư trân trọng từ biệt. Sư t́m đường
trở về, kết bạn cùng trở lại, chẳng biết
thác nước và huyệt động ở chỗ nào!
* Thích Chí Trạm đời Bắc
Ngụy
Sư người
Tề Châu, trụ tại chùa Hàm Thảo trong hang thẳm ở
phía Bắc Thái Sơn. Sư ít bày ra việc, ít nói, người
lẫn chim đều chẳng khiến cho Sư loạn tâm
được. Sư đọc tụng Pháp Hoa, người
khác chẳng lường được hạnh nghiệp
trong sạch của Sư. Khi Sư sắp mất, thần
tăng Chí Công bảo Lương Vũ Đế: “Vị
thánh tăng đắc quả Tu Đà Hoàn ở chùa Hàm Thảo
nơi phương Bắc hôm nay diệt độ”. Quả
nhiên trong ngày hôm ấy, Sư không bệnh mà tịch. Hai tay
đều duỗi một ngón ra. Có vị Phạm tăng
nói: “Đó là [dấu hiệu cho biết Sư đă đắc]
Sơ Quả!” Môn nhân vẫn chôn Sư trong núi ấy. Sau
đó, đào lên xem, chỉ có cái lưỡi chẳng hoại,
bèn dựng tháp để khơi gợi tín tâm.
* Lô Cảnh Dụ đời Bắc
Ngụy
Đầu thời
Tiết Mẫn Đế (Nguyên Cung) [nhà Bắc Ngụy],
ông làm Quốc Tử Bác Sĩ. Do mắc lụy, bị giam
trong ngục tại Tấn Dương[38].
Ông chí tâm tụng phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa; hễ
có sức th́ cũng tụng toàn bộ kinh ấy. Không lâu
sau, gông xiềng tự rớt. Kẻ coi ngục tâu lên triều
đ́nh, ông được xá tội!
* Thích Pháp Thượng núi Lâm Lự
đời Bắc Tề
Sư họ
Lưu, người Triều Ca. Mười hai tuổi vào
Thiền gia, được gọi là “thánh sa-di”. Sư tụng Pháp Hoa và Duy Ma mới
được hai mươi ngày th́ cả hai bộ đều
thông suốt. Sư bắt đầu giảng kinh Pháp Hoa,
đối đáp các nghi vấn, cật vấn, không ai chẳng
thán phục. Tề
Văn Tuyên Đế (Cao Dương) xuống chiếu phong Sư làm Đại
Thống Sư, trải tóc lót đất cho Sư đạp
lên. Người thời đó nói: “Tăng chúng bốn biển
ngưỡng vọng pháp nơi đạo tràng”. Tới
đời Tề
Vũ Thành Đế (Cao Trạm), người ở Đông Sơn
thuộc Tinh Châu đào đất, thấy một vật
giống như hai cái môi, trong đó có lưỡi màu đỏ
tươi hồng. [Quan lại địa phương] tâu
chuyện ấy lên, vua hỏi các đạo nhân, không ai biết.
Sư tâu: “Đấy là quả báo lục căn bất
hoại của người tŕ Pháp Hoa. Tụng trọn một
ngàn biến sẽ có sự chứng nghiệm ấy”. Vua
bèn sắc truyền đưa về chỗ thanh tịnh
để cúng dường, nhóm họp những người
tŕ kinh Pháp Hoa vây quanh tụng kinh, xin hiện thụy ứng
(sự ứng hiện tốt lành). Vừa mới thốt
lên tiếng [tụng niệm], cái miệng và lưỡi ấy
cùng lúc mấp máy, người trông thấy không ai chẳng rởn
da gà. Vua xuống chiếu đựng trong hộp đá, cất
trong hang núi.
* Thích Huệ Mạng đời Bắc
Châu
Sư họ Quách, người
xứ Tấn Dương, Thái Nguyên, tài hoa xuất sắc.
Tuổi mười lăm, Sư tụng kinh Pháp Hoa, trong hai mươi ngày, thấu triệt cả bộ.
Sư liền xuất gia, chuyên hành các sám pháp Phương
Đẳng, Phổ Hiền v.v… Về sau, Sư sang núi Tiên
Thành ở Hà Dương, trụ tại Thiện Quang Tự, giảng
diễn Đại Thừa. Đối với tông chỉ của
Thiền Trí, không ǵ chẳng đào sâu. Có sách tập hợp thư
từ trao đổi giữa Sư và Đới Quỳ ở
Tế Bắc, đáng gọi là sâu thẳm, thù thắng.
Thiền sư Pháp Âm ở cùng quận và Sư đáng gọi
là “đức bằng” (bằng hữu đức hạnh).
Sư đến chỗ Năng thiền sư chùa Quả
Nguyện ở Trường Sa cùng học tâm định, rồi
trở về Tiên Thành. Một tối, Sư chống gậy,
ở bên rừng tùng, ngó lại, cười nói: “Ta quyết
chí về Tây”. Vào tháng Mười Một năm Thiên Ḥa
thứ ba (568) đời Châu, Sư ngồi xếp bằng,
hướng về Tây niệm Phật, [đại chúng]
đều thấy Phật đến. Sư chắp tay qua
đời. Hương và nhạc lạ lùng xông khắp,
vang rền chẳng dứt. Tám ngày sau, sư Pháp Âm cũng
ngồi qua đời, tướng lành kỳ lạ đều
giống như ngài Huệ Mạng vậy.
* Thích Huệ Viễn đời Bắc
Châu
Sư họ Lư,
người Đôn Hoàng. Mười ba tuổi xuất gia,
hai mươi tuổi thọ Cụ Túc, trụ tại chùa
Thanh Hóa. Các duyên tụ tập, năm Thừa Quang thứ
hai, Châu Vũ Đế (Vũ Văn Ung) muốn diệt
pháp giáo, mọi người đều câm lặng. Sư
kháng chiếu, cực lực tŕnh bày [chủ ư]. Cạn hết
lư luận, chẳng lay chuyển được
vua, Sư liền ẩn cư tại Tây Sơn thuộc Cấp
Quận, tụng kinh Pháp Hoa. Tính ra trong ba năm, Sư tụng
trọn một ngàn lượt với dụng ư [mong cho] di
pháp [của đức Phật] được hoằng
thông. Năm Đại Tượng thứ hai (580), vua hối
lỗi, tại Đông Kinh và Tây Kinh, mỗi nơi dựng hai chùa Trắc Hỗ.
Sư bèn đến Thiếu Lâm, giảng kinh Pháp Hoa nhiều
năm. Đầu niên hiệu Khai Hoàng [nhà Tùy], triều
đ́nh sắc phong Sư làm Sa Môn Đô (người đứng
đầu tăng chúng) ở Lạc Châu ḥng khuông nhậm
Phật pháp. Mỗi lượt Sư giảng nói, đều
có một con ngỗng tới nghe. Nó chỉ cần nghe tiếng
chuông gọi đại chúng tụ tập, liền vào trong
điện, phủ phục nghe kinh. Nghe phạm
bái kết thúc buổi
giảng xong xuôi, nó
kêu lên rồi bay ra khỏi điện. Suốt sáu năm
như vậy, mọi người đều lấy làm lạ.
Về sau, Sư thị tịch, trong thất có mùi hương lạ.
* Thiên Thai Tu Thiền Tự Trí Giả
đại sư đời Tùy
Sư húy là Trí
Nghĩ (智顗), họ Trần, người Dĩnh Xuyên. Mẹ Ngài
nằm mộng thấy khói hương năm màu vờn quanh chui vào
ḷng, bèn có thai Sư. Đêm
sanh ra Sư, thần quang chiếu vào nhà. Bảy tuổi,
Sư vào chùa Quả Nguyện, nghe tăng tụng phẩm
Phổ Môn, vừa nghe một lượt đă nhớ ngay,
giống như đă quen tu tập từ kiếp trước.
Mười bảy tuổi, Sư lễ tượng Phật,
quyết chí xuất gia. Bỗng như trong mộng, Sư
thấy vách núi vạn tầng, mây che phủ nửa bóng mặt
trời, biển xanh mênh mông, bát ngát. Từ dưới núi [nh́n
lên, thấy] trên đỉnh núi có vị Tăng vẫy tay.
Trong khoảnh khắc, vị Tăng ấy duỗi tay kéo
Sư vào già-lam, nói: “Ông sẽ ở nơi đây”. Mười
tám tuổi Sư xuất gia, đến núi Đại Hiền,
tụng các kinh Pháp Hoa, Vô Lượng Nghĩa, Phổ Hiền
Quán v.v… Trải qua hai mươi ngày, đă tụng thông suốt
ba bộ.
Năm Thiên Gia nguyên
niên (560) đời Trần, Sư nghe danh đại thiền sư Huệ Tư trụ tại
núi Đại Tô, liền đến đảnh lễ. Ngài
Huệ Tư nói: “Xưa kia, tại Linh Sơn cùng nghe Pháp
Hoa, do túc duyên theo đuổi, nay lại đến đây”.
Do vậy, Tổ dạy Sư Phổ Hiền đạo
tràng, giảng Tứ An Lạc Hạnh. Sư nhập quán mười
bốn ngày, tụng kinh Pháp Hoa tới câu “thị chân tinh
tấn, thị danh chân pháp cúng dường Như Lai”
(đấy là thật sự tinh tấn, là pháp cúng dường
Như Lai chân thật) trong phẩm Dược Vương,
thân tâm rỗng rang, lặng lẽ nhập Định, bèn
thấy một hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan,
túc thông ngầm phát khởi. Sư bạch với ngài Huệ
Tư sở chứng, ngài Nam Nhạc tán thán: “Đấy
chẳng phải là ông không chứng, chẳng phải là ta
không biết. Môn định mà ông đă nhập chính là tiền
phương tiện của Pháp Hoa tam-muội. Môn tổng
tŕ mà ông đă phát khởi chính là sơ bộ của Toàn
Đa La Ni. Dẫu cho ngàn vạn các vị sư tinh thông
văn tự vẫn chẳng thể biện định cùng tột [sở
chứng ấy]!”
Đại Kiến
nguyên niên (569), Sư tới chùa Ngơa Quan ở Kim Lăng, khai
giảng tựa đề kinh Pháp Hoa. Vua truyền thôi chầu
một ngày, sai quần thần đến nghe. Sư liền
vào núi Thiên Thai, thấy đỉnh núi ở phía Nam rặng Phật
Lũng liền bồi hồi lưu tâm. Trước
đó, thần tăng Định Quang đă ở ngọn
núi ấy ba mươi năm. Sư đến nơi, ngài
Định Quang nói: “Thầy có nhớ lúc tôi vẫy tay và
dẫn vào chùa hay không?” Do vậy, Sư bèn ngộ ra ư
nghĩa của điều đă thấy khi lễ tượng.
Bởi đó, Sư sáng lập già-lam ở ngọn núi phía Bắc,
[nơi đó] tùng mọc thẳng tắp, suối chảy
giống hệt như trong mộng xưa. Chùa ở tại ngọn núi phía Bắc
được gọi là Hoa Đỉnh. Sư một ḿnh
hành Đầu Đà. Từ đấy, bầu trời Bát
Nhă rộng mở, xiển dương rộng lớn Pháp
Hoa. Thiên Thai gần bờ biển, dân sống bằng nghề
đánh cá. Tâm Sư thương xót, dùng tiền được
cúng thí để mua một khoảnh biển dùng làm ao phóng
sanh. Sư dâng biểu lên vua Trần, xin sắc
lệnh cấm đánh bắt [trong khoảnh biển ấy].
Sư v́ họ giảng kinh Kim Quang Minh, ngư dân nghe pháp,
đều quư sanh mạng, bỏ sát sanh. Sư gộp sáu
mươi ba chỗ thuộc Giang Khê, Ba Lương, hơn ba trăm dặm,
đều trở thành pháp tŕ.
Năm Khai Hoàng 12
(592), Sư sáng lập tinh xá tại núi Ngọc Tuyền ở
Đương Dương. Cha con Vũ An Vương Quan
Thánh[39]
hiển linh xin thọ giới, xin được làm đệ
tử hộ pháp. Sư trước tác các sách như Pháp Hoa
Huyền Nghĩa v.v… là bậc đại pháp vương
sư cả hai triều Tùy và Trần. Mùa Đông năm Khai
Hoàng 17 (597), Sư sắp nhập diệt, sai thị giả
xướng tụng kinh Pháp Hoa và Vô Lượng Thọ
để nghe và tư duy lần cuối. Nghe xong kinh Pháp Hoa, Sư tán thán: “Pháp môn là cha mẹ, huệ giải bởi
đó mà sanh. Bổn Tích rộng lớn, vi diệu khó
lường, quăng búa, đứt dây đàn vào ngày hôm nay
vậy!” Sư nghe kinh Vô Lượng Thọ xong, tán thán:
“Bốn mươi tám nguyện, trang nghiêm Tịnh Độ.
Ao hoa, cây báu, dễ đi mà chẳng có người! Kẻ
thấy tướng xe bốc lửa hiện mà có thể cải
hối, c̣n được văng sanh, huống hồ bậc
giới huệ huân tu! Do sức hành đạo, thật sự
chẳng luống uổng!” Xướng kinh xong, Sư lại
nói: “Thập Như, tứ bất sanh, thập pháp giới,
tam quán, tứ vô lượng, Tứ Tất Đàn, Tứ Đế,
thập nhị nhân duyên, Lục Ba La Mật, mỗi mỗi
pháp môn đều nhiếp hết thảy các pháp, đều
có thể khiến cho tâm thông đến thanh lương
địa”. Nói
xong, Sư xướng danh hiệu Tam Bảo, như nhập
tam-muội [mà thị tịch]. Sư được chôn tại
Phật Lũng Nham trong rặng Thiên Thai. Nói cặn kẽ th́
như trong các sách Quốc Thanh Bách Lục v.v…
* Thích Tăng Chiếu chùa Hành Nhạc
đời Tùy
Sư nghe pháp tâm
quán diệu thiện của ngài Nam Nhạc Huệ Tư bèn
đặc biệt đến tham yết. Những điều
Tổ chỉ dạy, không điều nào Sư chẳng nhận
lănh, giải ngộ. Về sau, Sư vâng theo mạng lệnh
của tổ Nam Nhạc Huệ Tư, hành Pháp Hoa tam-muội
ḥng tiêu túc chướng. Diệu hạnh sắp viên măn,
Sư thấy Phổ Hiền đại sĩ cưỡi
voi chúa trắng, phóng quang chứng minh. Lại cảm đấng
Phổ Môn đại từ thuyết pháp cho Sư. Từ
đấy, đốn ngộ huyền chỉ, biện tài
vô ngại. Ở trong đại chúng, Sư tu khổ hạnh và Thiền Định đều là bậc
nhất.
* Thích Đại Thiện ở Hành
Châu đời Tùy
Sư thuở bé sống
ở vùng rừng, thường tụng Pháp Hoa. Về sau,
Sư tham yết ngài Nam Nhạc, được khai Quán Huệ,
cung kính hành Pháp Hoa tam-muội, thâm nhập sâu nhất. Sau
này, Sư ngồi xếp bằng qua đời. Trong suốt
bảy ngày, trời đổ mưa hoa, mùi hương lạ
lắng đọng. Viên quan cai trị Hành Dương là Trần
Chánh Nghiệp thường hết sức lễ kính, gặp
Nội Sử[40]
Trịnh Tăng Cảo bèn mấy lượt ca ngợi
đức hạnh của Sư. Thường có thợ
săn vây bắt một bầy nai, ông Cảo nói với
Chánh Nghiệp: “Ông thường xưng tụng Đại
Thiện thiền sư có sức từ bi tam-muội, bầy
nai hiện thời sẽ như thế nào đây?” Ông Chánh
Nghiệp bèn xướng suất thuộc hạ đồng
thanh niệm “nam-mô Đại Thiện thiền
sư”, bầy nai bèn vọt
lên không trung, chạy thoát, mọi người
đều kinh hăi, thán phục.
* Thích Huệ Thành ở Kinh Châu đời
Tùy
Sư họ
Đoàn, người Lễ Dương, tụng thông thạo
các kinh Pháp Hoa, Duy Ma, Thắng Thiên Vương[41]
v.v… Sư gặp ngài Nam Nhạc Huệ Tư đại thiền
sư, được dạy nhập Pháp Hoa tam-muội.
Sư vâng lời hành tŕ suốt ba năm, ma nghiệp, thiền
quỷ nhanh chóng tan mất, dứt tuyệt. Về sau,
Sư tới Chi Giang, tạo chùa Thiện Huệ. Tháng Sáu,
nước sông dâng cao, trong một đêm có được kèo gỗ tốt. Có ông Đoàn Hoằng Giả là chủ của tinh xá, bỗng
tắt hơi. Sư đến nơi th́ ông ta mới sống
lại, thưa: “Con bị bắt tới chỗ vua, thấy Sư ở
trên điện nói: ‘Người này công đức chưa
hoàn tất, xin vua tha cho’. Vua đứng dậy, lễ
dưới chân Sư, theo lời Sư nói, thả
con về”. Lại có Thường luật sư nửa
đêm bắt rận quăng xuống đất, tới
sáng, Sư bảo: “Đêm qua có một đàn-việt bị
lạnh cóng, đáng thương”. Thường luật
sư hết sức hổ thẹn, vĩnh viễn tránh làm
như vậy.
* Thích Huệ Siêu chùa Ngộ Chân ở
núi Chung Nam đời Tùy
Sư họ Trầm,
người xứ Đan Dương, xuất gia từ nhỏ,
chuyên tụng Pháp Hoa. Nghe nói Huệ Tư đại thiền
sư ở Quang Châu riêng ngộ Nhất Thừa, hiểu
sâu xa Tam Quán, cùng với ngài Trí Giả trống ḷng, khiết tịnh, ôm áo đến
xin theo học. Ngài Huệ Tư nói: “Tâm tánh ông siêu việt,
là người sẽ đắc nhẫn”. Tới khi
Sư sang Hành lănh, lại cùng đường với ngài Trí
Giả. Sư tụng kinh nhiều năm. Về sau, Sư ẩn cư tại Chung Nam, hành
đạo tám năm. Tới khi nằm bệnh được
ít lâu, Sư triệu tập đồ chúng bảo: “Qua lại
là chuyện thường, trường sanh chẳng mừng.
[Sáng sanh] tối tử chẳng lo, Đệ Nhất
Nghĩa Không, thanh tịnh trí quán là chỗ ta nương cậy”.
Nói xong, Sư hướng về Tây, qua đời. Sư nhập
đạo lúc chín tuổi, liền tụng kinh Pháp Hoa.
Hơn năm mươi năm, Sư tụng hơn một vạn lần,
cảm được điều lành linh ứng chẳng
thể thuật trọn!
* Thích Huệ Oai đời Tùy
Sư là người
Giang Lăng, thuở trẻ nương cậy tổ Nam Nhạc,
hành Pháp Hoa tam-muội, chuyên nghĩ đến huyền tịch,
liền đắc Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ
Ngôn Đà La Ni, nghe hiểu tiếng người lẫn tiếng
chim thú. Vừa biết âm thanh ấy, Sư lại phát khởi,
chứng thần thông, bay lên không, đi trên nước
như bước trên đất bằng, mật hạnh
khác thường, chẳng ai có thể lường
được!
* Thích Quán Đảnh chùa Quốc
Thanh núi Thiên Thai đời Tùy
Sư họ Ngô,
người xứ Chương An, Lâm Hải. Sư sanh ra mới
ba tháng có thể theo mẹ xưng danh Tam Bảo. Bảy tuổi, Sư xuất tục, mỗi ngày nhớ
một vạn chữ. Hai mươi tuổi, Sư thọ Cụ Túc, yết kiến tổ
Trí Giả, bẩm thọ quán pháp. Sư nghiên cứu, dùi mài lâu ngày, nhanh chóng được ấn
khả. Về sau, Sư theo tổ Trí Giả tới Quang Trạch ở
Kim Lăng, nghe giảng Pháp Hoa. Lại ở Ngọc Tuyền
thuộc Giang Lăng, thọ lănh Pháp Hoa Huyền Nghĩa và
Ma Ha Chỉ Quán. Về già, Sư trụ tại tinh xá Xứng
Tâm ở Cối Kê, giảng nói Pháp Hoa. Khi đó, có những
lời như “nhảy vọt khỏi lồng rọ,
vượt mây, thoát ấn”. Tháng Tám năm Trinh Quán thứ sáu
(632), Sư thị tịch, trong thất có mùi hương lạ.
Sư giáo hóa đạo
tục, thần dụng khôn ngằn. Mỗi lần Sư tụng
kinh hay tĩnh tọa, thường có hoa trời rơi lăng
đăng bên cạnh. Người trong thôn Pháp Long, cách núi ba
mươi dặm, bị bệnh sắp chết. Con của
người ấy tới núi xin Sư cứu. Sư v́
người đó chuyển đọc kinh Pháp Hoa, đốt
hương chiên đàn. Bệnh nhân từ xa ngửi mùi
hương xông vào mũi, ngay lập tức khỏi hẳn.
Lại nữa, Nam Lănh ở Lạc An có cuộc đất
tên là An Châu, cây biếc, khe trong, nước suối xoáy ngầm,
đường xá chẳng thông. Sư lẩn quẩn yêu mến,
đoái nh́n mà thề rằng: “Nếu cuộc đất
này phẳng phiu, sẽ tới đây giảng kinh”.
Chưa đầy mười ngày, cát trắng trào lên trọn
khắp, đất bằng phẳng như gương ngọc.
Sư bèn giảng kinh Pháp Hoa và Kim Quang Minh để đền
đáp sự linh ứng ấy.
* Thích Chân Quán ở chùa Nam Thiên Trúc
thuộc núi Linh Ẩn đời Tùy
Sư họ Phạm,
ở Tiền Đường. Từ thuở bé, Sư có tướng lạ, lưỡi
có nhiều vằn màu tím. Hai bàn tay trái và phải có
đường chỉ h́nh thành chữ Tiên Nhân. Sư tụng
kinh Pháp Hoa, mỗi ngày hết một quyển. Năm Khai
Hoàng 14 (594), trời đại hạn, [đại chúng] thỉnh
Sư giảng kinh Hải Long Vương. Sư giảng phần Tự vừa xong, mưa
rào ồ ạt trút xuống. Núi
Linh Ẩn ở phía Tây huyện xưa kia được gọi
là Tiên Cư. Sư hành Đầu Đà trong nhà đá, đại
chúng dựng tinh xá, đặt tên là Nam Thiên Trúc, thỉnh
Sư trụ tại đó. Sư thường giảng Pháp
Hoa, coi đó là tâm yếu. Mỗi lần Sư rửa mặt,
nước thừa rơi xuống chẳng ướt
đất, mọi người đều lấy làm lạ.
Một hôm, thần Cao Đ́nh thỉnh Sư giảng kinh
Pháp Hoa, Sư cảm thần xả nhà làm chùa!
* Thích Phổ Minh ở Thiên Thai đời
Tùy
Sư vốn tên là
Pháp Kinh, họ Châu ở Cối Kê. Lúc c̣n bé, Sư đă chắp tay, xưng Phật hiệu.
Bỗng có vị Tăng chỉ bảo Sư đến núi
Thiên Thai, nói: “Ở đó có vị Bồ Tát áo mỏng,
thuyết pháp hóa độ cơi đời”. Do vậy,
năm Đại Kiến 14 (582), Sư đến núi Thiên
Thai, phụng sự tổ Trí Giả, chuyên tu sám pháp, hằng
ngày tụng Pháp Hoa. Về sau, Sư tới Lư Sơn, ở
gác thờ tượng [Văn Thù Bồ Tát do] Đào Khản
[t́m được], hành Thỉnh Quán Âm tam-muội. Đang
trong lúc Sư hành đạo, cảm một vị dị
tăng đổi tên cho Sư thành Phổ Minh. V́ thế,
Sư thưa với tổ Trí Giả, Ngài cũng
thuận theo. Về già, Sư trở về chùa Quốc
Thanh. Chỗ Sư ở cách chỗ có nước quá xa,
Sư chỉ đá nói: “Đá phun ra suối th́ cũng chẳng
sướng lắm hay sao?” Suối lập tức từ
đá phun ra, mỗi ngày cung cấp nước đủ
cho cả ngàn người. Tích Trượng Tuyền hiện
thời chính là con suối đó.
* Thích Trí Việt chùa Quốc Thanh ở
Thiên Thai đời Tùy
Sư họ Trịnh,
người xứ Nam Dương, ĺa khỏi trần tục
từ nhỏ. Sư đi khắp các nơi học đạo.
Tới Kim Lăng, gặp tổ Trí Giả, liền chiêm lễ
xin theo học, được mật truyền tâm yếu.
Ngài Trí Giả về già, quay về Thiên Thai,
đem đại chúng [tại Kim Lăng] giao cho Sư. Trong
hai mươi năm, Sư lần lượt khéo khuyên dạy,
người học quy tâm. Sư suốt đời tụng
Pháp Hoa, tính ra hơn một vạn bộ. Chỗ Sư ở,
b́nh chứa nước tự đầy. Năm Đại
Nghiệp 12 (616), Sư nằm bên hông phải, qua đời.
Trời mưa hoa lạ, cả cơi tối sầm.
* Thích Trí Tảo đời Tùy
Sư họ
Trương, người Lâm Hải. Lúc hai mươi tuổi,
Sư lên Thiên Thai, tham yết Trí Giả đại sư, cầu
xuất gia. Tổ Trí Giả dạy tụng Pháp Hoa, kiêm tu tam-muội.
Tới đêm thứ mười bốn, sau khi sám hối
xong, Sư thấy chín con rồng từ dưới
đất vọt lên, bay lên hư không. Tới sáng, Sư thưa hỏi, tổ Trí Giả bảo:
“Điều này biểu thị chúng sanh trong chín đường
(chín pháp giới) nghe kinh Pháp Hoa sẽ phá vô minh trong đời
tương lai, nhập pháp tánh Không”. Về sau, Sư
chuyển sang trụ tại chùa Bảo Lâm, chuyên tu Pháp Hoa
tam-muội. Đêm đầu tiên có quỷ lay lắc cánh cửa. Trong hai
mươi mốt ngày, mỗi đêm đều như thế,
thậm chí các hiện tượng như đập cột,
phá vách, tắt đèn. Sư chẳng bị lay động
chút nào, chỉ tọa Thiền, tụng kinh mà thôi. Tới
ngày hai mươi mốt hoàn tất, thấy một đồng
tử áo xanh tán thán: “Lành thay!” Nói xong, [đồng tử ấy]
biến mất.
* Thích Trí Hy đời Tùy
Sư họ Trần
ở Dĩnh Xuyên, xuất tục từ lúc thơ ấu.
Sư tới chỗ tổ Trí Giả núi Thiên Thai, bẩm thọ
Thiền quyết và tu tịch định. Sư thường
ở đạo tràng tu Thiền tại Phật Lũng,
hành Pháp Hoa tam-muội. Khi đó, Sư muốn tạo
đài hương. Do gỗ trong rừng cây ở ngọn Hương
Lô đẹp đẽ lạ thường, Sư muốn
chặt để dùng. Đại chúng nghi rằng đó là
chỗ thần ở, [khuyên Sư không
nên đụng đến]. Đêm đó, Sư mộng thấy
thần tặng cho, bảo: “Cây sanh bách ở ngọn Hương Lô đều xả hết
để làm đài kinh”. Sư bèn chặt cây. Có vị
tăng tên Pháp Vân muốn lên đỉnh núi tọa Thiền,
Sư ngăn trở bảo: “Ông đạo lực yếu ớt,
sơn thần mạnh mẽ, chẳng nên đi”. Pháp Vân không
nghe. Mới vừa một đêm, sơn thần hiện
h́nh đuổi về, mới hiểu ư của Sư nói
trước đó, sanh ḷng kính ngưỡng Sư sâu xa. Sư từng đến tháp
báu của vua A Dục, lễ tám vạn bốn ngàn lạy.
Trinh Quán nguyên niên (627), Sư ngồi ngay ngắn, xếp bằng,
vẫn cầm Như Ư thuyết pháp, đệ tử hỏi:
“Thầy sẽ sanh về chỗ nào?” Đáp rằng: “Như
ta thấy trong giấc mộng, sẽ sanh lên Đâu Suất”.
Sư nghiễm nhiên như nhập Thiền Định.
Trên hư không có tiếng đàn sáo, rất lâu sau [tiếng
nhạc] mới dứt.
* Thích Pháp Hưởng chùa Chánh Kiến
ở Dương Châu đời Tùy
Sư họ Lư,
người Duy Dương. Sư xuất gia siêng ṛng, theo học
với tổ Trí Giả, chuyên tụng Pháp Hoa. Ở bên cạnh
chùa Thê Hà tại Nhiếp Sơn, Sư lập Pháp Hoa
đường, hành tam-muội sám pháp. Hai mươi mốt
ngày tinh tấn, đạt được điềm lành
linh ứng to lớn, Sư yên lặng chẳng
nói. Trong núi có hổ dữ gây hại, đại chúng thiết
đại trai để giải trừ tai ương. Bỗng
hổ xông vào đại chúng, quắp một người chạy
đi. Sư lớn tiếng hô: “Hôm nay chuyên v́ ngươi lập
trai đàn, hăy nên thả người đó”. Hổ liền
thả kẻ đó trở về. Sau đó, mấy chục
con hổ tụ tập nơi trai đàn, mọi người
kinh sợ, tránh né. Sư lấy tích trượng gơ vào cổ
hổ thuyết pháp. Kể từ đó, chúng lánh xa, chẳng
thấy tung tích.
* Thích Đẳng Quán đời Tùy
Sư họ Tôn,
người Phú Dương, thọ Tâm Quán từ tổ Trí Giả.
Sư sống tại Thiên Thai, thường tụng Pháp Hoa.
Trong niên hiệu Trinh Quán, Sư sang chùa Pháp Nhẫn ở
Dư Hàng, khai giảng pháp ṭa. Ngày mồng Một Tết,
có người mặc y phục của bậc vương
giả, xưng là thần Cao Đ́nh đến yết kiến,
xin nhận lănh giới pháp. Sư liền lấy ḷ thắp
hương, truyền thọ Bồ Tát đại giới.
Thần lễ tạ ra đi.
* Thích Đại Chí chùa Phước
Lâm tại Lư Sơn đời Tùy
Sư họ Cố,
người Cối Kê, xuất gia từ thuở để
chỏm. Sư theo hầu ngài Thiên Thai Trí Giả. Năm Khai
Hoàng thứ mười (590), Sư đến Lư Nhạc,
trụ tại chùa Hoa Đảnh, tụng kinh Pháp Hoa, thanh
nhàn, tĩnh lặng. Tiếng tụng kinh trong trẻo, lan
xa, mọi người đều thích nghe. Về sau, Sư
dựng đạo tràng Tĩnh Quán trước ngọn Cam
Lộ, tu hạnh Đầu Đà. Sư trơ trọi một
thân, chẳng tránh né hổ, sói. Mỗi khi Sư bước
chân vào chỗ chúng, hổ đều tránh đi!
* Thích Đạo Duyệt ở núi
Thanh Khê thuộc Kinh Châu đời Tùy
Sư họ
Trương ở Chiêu Khâu, xuất gia tại chùa Ngọc
Tuyền. Sư tánh khí trầm tĩnh, sâu lắng, tụng
Pháp Hoa lâu năm. Thoạt đầu, ngài Trí Giả vào Ngọc
Tuyền, chẳng có chuông khánh. Từ nguồn nước,
Sư t́m được một mảnh đá lạ, bèn
treo lên để gơ, âm thanh ngân nga trong trẻo. Mỗi lần Sư tụng kinh,
tiếng như nước suối trong tuôn róc rách. Trọn
hết một quyển, Sư lại gơ khánh một tiếng,
người nghe nghiêm túc. Sư thọ thực, thường
lưu lại một chút để thí cho loài chim cá. Ḷng từ
thiện hun đúc, chúng hoặc bay đến đậu
trên vai, hoặc bơi vẫy vùng trên tay, các điềm cảm
ứng tốt lành chẳng phải chỉ một!
* Thích Đàm Tuân núi Bách Tiêm ở Hoài
Châu đời Tùy
Sư họ
Dương, người xứ Hoa Âm. Sư xuất gia tại
núi Bạch Lộc, chuyên tụng Pháp Hoa. Sư nghe nói Trù thiền
sư chùa Vân Môn thuộc Long Sơn là bậc tông tượng về Thiền Định,
xưa nay ít ai
sánh bằng, liền t́m đến
đảnh lễ. Về sau, Sư chuyển sang ở trong
hang Lộc Thổ để tu Thiền, khiến cho suối
khô có nước trở lại, hươu nai nhiễu
quanh viện. Khi đó, do giảng pháp, Sư tạm thời
qua Vân Môn, gặp phải đường tối,
sương mù mờ mịt, cảm vời
sơn thần chỉ
đường. Sư lại c̣n đi trong núi gặp hổ
đang đấu sức với nhau đă rất lâu chẳng ngừng, Sư dùng tích trượng tách ra,
dùng thân ngăn trở chúng. Cọp cúi đầu, bỏ chạy.
Sư thường nhập Thiền Định, lấy bảy
ngày làm hạn. Trong niên hiệu Khai Hoàng, vua ban chiếu khen
ngợi sự thần dị của Sư.
* Thích Đàm Vận ở Úy Châu
đời Tùy
Sư người
Định Châu, xuất gia từ bé, luôn tụng Pháp Hoa. Sư
dạo khắp Ngũ Đài, thấy trọn các tướng
trạng linh ứng. Sư ngừng chân nơi chùa Mộc
Qua ở Bắc Đài hơn hai mươi năm, Thiền
Tụng chẳng sót. Cuối đời Tùy, rối ren, loạn
lạc. Sư đă bảy mươi, bèn ẩn cư trong
núi Tỷ Can, suốt ngày đêm nhiếp tâm chẳng biếng nhác.
Sư thường muốn chép kinh Pháp Hoa, nhưng nhiều
năm chưa thực hiện được. Chất chứa
ư nguyện đă lâu, bỗng có một thư sinh tới nói
anh ta giỏi chép kinh, nguyện thành tựu
chí nguyện của Sư. Do vậy, quét dọn thất, dọn
sạch đất, ngậm hương, lặng lẽ
chép, ra th́ giữ giới, vào th́ tắm rửa. Chưa
đầy mười ngày, bảy quyển đều xong.
Sư toan đưa tiền công th́ khoảnh khắc chẳng
thấy [thư sinh] đâu nữa. Về
sau, do giặc Hồ bỗng
ập tới, Sư giấu kinh trong hang đá. Sau một
năm giặc mới yên, Sư trở về, t́m kinh chẳng
thấy. Sau đó, t́m được kinh trong lùm cỏ
dưới vách núi. Rương đựng kinh và vải bọc
đều hư nát, nhưng quyển kinh vẫn y như
cũ. Năm Trinh Quán 11 (637), Tuyên luật sư (ngài Đạo
Tuyên) đích thân thấy chuyện ấy.
* Thích Huệ Hải chùa An Lạc ở
Giang Đô đời Tùy
Sư người
Thanh Hà, họ Trương, tuổi thơ nhập đạo,
lấy Tịnh Độ làm điều cầu mong. Sư
chuyên ṛng nên được cảm vời. Bỗng có vị
tăng ở Tề Châu là Đạo Thuyên mang tượng
Vô Lượng Thọ Phật đến, vi diệu, tinh xảo
chưa từng có trong đời, nói: “Đây là do Ngũ
Thông Bồ Tát ở chùa Kê Đầu Ma tại Thiên Trúc, bay
lên không trung, đến thế giới An Lạc, vẽ vời
tôn dung”. Sư ngầm hiểu thịnh
t́nh, ôm ḷng lễ kính sâu xa, bèn thấy thần quang chiếu
sáng rực, mừng rỡ trước điềm hiếm
có. Tháng Năm năm Đại Nghiệp thứ năm
(609), Sư bỗng hướng về Tây lễ bái xong, ngồi
xếp bằng qua đời. Sư ngầm hành Ban Châu, về
già càng chuyên dốc, giảng kinh Pháp Hoa năm mươi
lượt. Sư hoằng pháp lợi sanh, dốc ḷng
nơi Tịnh Độ, đáng gọi đứng đầu
thuở ấy.
* Thích Huệ Cung chùa Chiêu Đề
tại Ích Châu đời Tùy
Sư kết bạn
với vị Tăng đồng học là Huệ Viễn.
Về sau, Sư sang Kinh Dương hỏi đạo rồi
trở về, thấm thoát đă ba mươi năm. Ban đêm tṛ
chuyện, Huệ Viễn nói như nước chảy,
Sư lặng thinh, chẳng đáp được. Huệ
Viễn nói: “Nhân giả có sở đắc ǵ chăng?”
Sư thưa: “Tánh tôi tối tăm, chẳng hiểu biết
ǵ!” Huệ Viễn nói: “Có tụng nổi kinh nào hay không?”
Sư đáp: “Chỉ tụng một quyển phẩm Phổ
Môn trong kinh Pháp Hoa, tôi sẽ tụng cho thầy nghe, chỉ
nên chí tâm nghe”. Sư bèn kết đàn, lên ṭa cao, vừa mới
thốt ra tiếng xướng đề kinh, đă cảm
thấy có mùi hương. Lâu sau, nghe tiếng thiên nhạc rền
trời, mưa hoa tán loạn. Kinh tụng xong, [các hiện
tượng ấy] mới hết. Huệ Viễn kính lễ,
cảm tạ.
* Thích Pháp Sung đời Tùy
Sư là người
Cửu Giang, họ Tất, thường tụng Pháp Hoa,
kiêm thông Đại Phẩm. Sư trụ tại chùa Hóa
Thành ở Lư Sơn, thường khuyên tăng chúng chẳng
cho nữ nhân vào chùa, v́ sẽ thương tổn sự
giáo hóa của Phật, rơi vào sự đồn đăi của
thói tục. Thoạt đầu, tăng chúng chẳng nghe
theo. Sư liền ở trên đỉnh Hương Lô trong
núi, gieo ḿnh xuống, thề nát xương cốt, cầu
sanh Tịnh Độ. Bỗng đang ở trong không trung,
đầu tự xoay lên trên, nhẹ nhàng rơi xuống,
thân chẳng tổn hoại tí nào! Đại chúng cảm
động trước hiện tượng lạ ấy,
cùng răn nhau bắt đầu chẳng cho nữ nhân vào
chùa. Cuối niên hiệu Khai Hoàng, Sư ngồi qua đời,
đang lúc nắng gắt mà thân thể chẳng hư hoại,
mùi hương lạ ngập thất.
* Thích Pháp Lăng đời Tùy
Sư họ Hứa,
người Nam Dương, không cư trụ nhất định
một chỗ nào; phần nhiều trụ tại Ngạc
Châu. Khi đó, Sư tụng đọc các kinh, nhưng chí
chuyên chú nơi Pháp Hoa. Sư thề nguyện trong sạch tụng niệm: Hễ cứ một lần tụng
là bảy lượt. Lâu ngày như thế, tiếng tụng
kinh như sấm động, xa gần đều nghe rơ
ràng. Người đời gọi Sư là Pháp Hoa Lăng. Có tỳ-kheo-ni
bị quỷ dựa, siêu ngộ huyền giải, ai
cũng gọi là bậc thông ngộ. Sư nói: “Đó là tà
quỷ”. [Sư đến chỗ bà ni ấy], cao giọng
quở trách, quỷ mị kinh sợ rời đi, bà ni ấy
đột nhiên mất sạch biện tài!
* Thích Pháp Hỷ ở Ung Châu đời
Tùy
Sư người
Tương Dương, họ Lư, bảy tuổi xuất tục,
dốc chí tŕ Pháp Hoa. Trong niên hiệu Nhân Thọ (601-604),
Sư trụ tại chùa Thiền Định ở kinh
đô, muốn ngầm cầu sự linh ứng, thề tụng
kinh Pháp Hoa một ngàn lần. Do vậy, Sư không ở
trong thất cũ, mà vừa đi kinh hành, vừa tụng
niệm đủ số tám trăm lượt, thệ tâm
chẳng tán loạn. Tăng chúng cùng chùa bỗng thấy có
xe báu anh lạc vào trong pḥng Sư, ép Sư cho vào xem, trọn
chẳng thấy ǵ, mới biết là do ngầm thông mà cảm
vời vậy.
* Thích Pháp Thành ở chùa Ngộ Chân
núi Chung Nam đời Tùy
Sư người
Ung Châu, họ Phàn, trụ tại chùa Vương Hiệu ở
Lam Điền, chuyên tụng Pháp Hoa. Sư quảy tráp đến
thăm các danh sơn, thề dốc ḷng phụng hành Pháp Hoa
tam-muội, mộng cảm vời Phổ Hiền Bồ
Tát khuyên biên chép Đại Thừa. Sư liền mướn
người chép tám bộ Bát Nhă. Lại tạo Hoa Nghiêm
đường, dốc cạn ḷng tinh thành để biên
chép, thọ tŕ. Khi đó, Hoằng Văn Học Sĩ
Trương Tĩnh vốn giỏi viết lách, Sư bèn thỉnh
[ông ta] đến chùa trên núi, bảo ông ta ngậm hương
chép trọn một bộ. Khi đó, cảm con chim lạ bay
tới án chép kinh, tự nhiên nhảy ṿng quanh. Đầu thời
Trinh Quán, Sư đích thân chép Pháp Hoa. Khi đó, Sư
đang ở nơi đất trống, do có chuyện phải
đi, chẳng thâu cất được, gặp lúc
mưa to trút xuống. Sư vội vàng trở về xem, cả
án chép kinh khô ráo, những thứ khác đều bị cuốn
trôi. Mùa Hạ năm Trinh Quán 14 (640), Sư bảo người
hầu: “Ta nghe nói các hành vô thường, sanh diệt chẳng
trụ, chín phẩm văng sanh lời ấy ứng nghiệm.
Nay có đồng tử đến đón rước, ta sẽ
ĺa đời”. Nói xong, miệng Sư phóng quang minh, chiếu
khắp cả nhà. Lại nghe mùi hương lạ ngào ngạt,
Sư ngồi ngay ngắn, qua đời. Sư tụng tập
Pháp Hoa, tính đại lược là mười năm,
hơn một vạn lần!
* Thích Pháp An đời Tùy
Sư trụ tại
chùa Kiến Nguyên, thông thạo rộng khắp lẽ huyền
yếu, tụng Pháp Hoa đă lâu, giảng hơn bốn
mươi lần. Bỗng bốn góc của giảng ṭa
đều sanh một lùm hoa có mười mấy nhánh, trắng
vàng xen lẫn, h́nh dạng giống như hoa sen,
hương quang rạng rỡ. Mười ngày sau, lại ở
bên bục giảng của Sư và chỗ ngồi của
đại chúng, đều sanh tám chín đóa hoa, một
tháng mới héo. Đạo tục kéo đến xem, tán thán
là điềm lành lạ lùng.
* Thích Pháp Thái đời Tùy
Sư là người
Long Sơn ở My Châu, thường tụng Pháp Hoa, tự
tay chép một bộ kinh, có mấy điều linh ứng.
Sư mang kinh sang Ích Châu để trang hoàng, bỗng đánh
rơi tráp đựng kinh xuống nước dưới
cầu, t́m chẳng được. Sư buồn khóc,
đi dọc theo hai bên bờ, bỗng thấy trên một
cù lao nhỏ có một cái bọc, sai người ra lấy
về th́ ra là kinh. Được cỏ cây nâng đỡ,
kinh trọn chẳng bị ướt chỗ nào. Sư hoan
hỷ khôn cùng, liền đem tới Thành Đô trang hoàng
xong, dùng đàn hương làm trục, trang hoàng tột bậc
trang nghiêm, đem về thờ ở chùa ḿnh. Mỗi đêm, mùi hương lạ
đầy nhà. Sư siêng năng tŕ tụng, mỗi đêm ắt
tụng hết một bộ. Khi đó, có Bưu pháp sư
tới giảng kinh ở chùa đó. Đêm đến,
Bưu pháp sư tới chỗ Sư tụng kinh, thấy
có nhiều người hồ quỳ chắp tay, Bưu
pháp sư toát mồ hôi, lui về.
* Thích Huyền Tú ở chùa Tế Hoa
thuộc Hoàng Châu đời Tùy
Sư luôn tụng
Pháp Hoa, thường có tướng lạ. Khi đó,
đang mùa hè nóng bức, Sư vừa mới tụng kinh
xong. Tăng chúng trong chùa thấy có người hộ vệ
nghiêm túc bên cạnh, sợ hăi bảo các đồng bạn
cùng đến xem th́ thấy không chỉ giống hệt
như trước, mà lại c̣n đầy ắp trên không. Tứ chúng
đều xưng là thần dị.
* Thích Hạnh Kiên đời Tùy
Sư thường
tu Thiền Quán, tiết tháo nghiêm cẩn. Sư ngẫu nhiên
đi sang phương Đông, trên đường ngang qua
Thái Sơn. Đêm xuống, ngụ tại miếu thờ
thần núi. Ông từ coi miếu nói: “Những người
ngủ nhờ gần đây, phần nhiều bị chết
bất ngờ, chớ nên ở lại”. Sư không nghe, cứ
trải rơm bên gian xép của miếu, ngồi ngay ngắn
tụng kinh. Khoảng canh một, nghe trong miếu có tiếng
ṿng ngọc rung. Trong chốc lát, thần xuất hiện,
áo mũ rất to lớn, thuộc hạ rầm rộ. Thần
hướng về Sư chắp tay; do vậy, Sư mời
ngồi tṛ chuyện như trong khoảng bữa ăn,
Sư hỏi: “Cơi đời truyền tụng Thái Sơn
cai quản quỷ, có chuyện ấy hay không?” Thần
đáp: “Có ạ, há chẳng phải là Sư muốn thấy
người đă mất ư?” Sư đáp: “Tôi có hai vị
tăng đồng học đă chết, mong gặp một
lần”. Thần hỏi tên tuổi rồi thưa: “Một
người đă sanh trong nhân gian, người kia c̣n trong
ngục chịu đối chất, chẳng thể gọi
đến. Sư đến gặp th́ được”. [Thần
liền sai người hầu] cùng Sư đến một
chỗ, thấy trong ngục ánh lửa hết sức hừng
hực. Sứ giả dẫn Sư vào. Từ xa, Sư thấy
một người ở trong lửa kêu gào, máu thịt bị
thiêu hôi thối. Sư chẳng nỡ ḷng nh́n, thương
xót xin trở ra, lại ngồi cùng với thần,
Sư hỏi: “Tôi muốn cứu đồng học có
được hay chăng?” Thần nói: “Được chứ!
Có thể v́ người ấy chép kinh Pháp Hoa, ắt sẽ
được miễn tội”. Sắp sáng, thần cáo từ
trở vào miếu. Ông từ coi miếu thấy Sư chẳng
chết rất lạ lùng. Sư rời đi, vội thực
hiện nguyện trước. Chép kinh và trang hoàng xong xuôi,
Sư cầm đến miếu ngủ lại. Thần hiện
ra như lúc trước, hoan hỷ lễ bái nói đă biết
Sư v́ người ấy chép kinh: “Vừa mới viết
đề kinh, người ấy đă được
thoát nạn. Nay đă sanh trong nhân gian”. Đó là chuyện
trong niên hiệu Đại Nghiệp.
* Cư sĩ Lục Thuần đời
Tùy
Ông là người
Ngô Quận, tâm thường mộ đạo. Ngày đêm tụng
tŕ một bộ kinh Pháp Hoa. Về sau, ông bỗng bị bệnh,
nằm ngửa, nh́n lên nóc nhà, mắt chẳng tạm nháy.
Có vị Tăng quen biết đến thăm bệnh, nhân
đó hỏi v́ sao ông nằm ngửa ngó lên kèo nhà vậy?
Ông nói: “Phật thọ kư Lục Thuần sẽ sanh lên trời
Dạ Ma. Nay tôi thấy cung điện, thành khuyết trên
cơi trời và các thiên chúng, cho nên ngắm nh́n chẳng mỏi mệt
vậy”.
* Nghiêm Cung ở Tương Châu
đời Tùy
Trong niên hiệu
Khai Hoàng đời Tùy, người xứ Tưởng Châu là Nghiêm Cung suốt
đời tịnh tâm quy y Phật pháp. Ông tạo tinh xá ở
ngoài thành, chép kinh Pháp Hoa, thanh tịnh cúng dường. Giấy
bút và biên chép đều chú trọng tinh sạch, tốt
đẹp nhất, tín tâm bố thí, chẳng dám dối trá.
Hễ có tiền liền thực hiện, chẳng hề
xin xỏ ai. Chép xong quyển nào, ông đều đích thân
ḍ theo từng chữ để kiểm giảo, đă lâu
ngày mà chẳng bỏ bê hay mỏi mệt. Từng có người
vay ông một vạn đồng, ông Cung bất đắc
dĩ phải đưa cho. Người vay tiền ngồi
thuyền bị lật thuyền, tiền mất sạch,
chỉ được thoát thân. Ngày hôm ấy, ông Cung vào kho
trong nhà, thấy món tiền đă cho vay ướt như bị
nhúng nước. Về sau, ông nghe chuyện ấy, mới biết là linh dị!
* Vương Phạm Hạnh ở
Lâm Nghi đời Tùy
Thuở bé ông bị
mù, mẹ thương xót, dạy truyền khẩu kinh Pháp
Hoa. Ông áo vải, ăn chay, thiền tụng chẳng thiếu
sót. Tính ra đă tụng được một vạn bảy
ngàn bộ. Về sau, ông ngồi xếp bằng qua đời.
Di ngôn bỏ xác trong thi lâm (cánh rừng để bỏ
xác). Lâu ngày, thịt da đă hết sạch, chỉ có
lưỡi chẳng hoại, màu như hoa sen.
* Thôi Ngạn Vũ ở Ngụy
Châu đời Tùy
Trong niên hiệu
Khai Hoàng đời Tùy, thứ sử Ngụy Châu là Thôi Ngạn
Vũ quê tại Bác Lăng, nhân đi đường bộ, tới
một ấp, bảo người theo hầu: “Đời
trước, ta từng làm một người
đàn bà trong ấp này, nay muốn đến xem”. Do vậy,
cưỡi ngựa đi vào ngơ hẹp, tới nhà đó,
sai người gơ cửa. Một cụ già ra chào. Ngạn
Vũ vào nhà, nh́n vào chỗ cao trên vách phía Đông, nói với chủ nhân: “Xưa kia,
ta từng cất kinh Pháp Hoa và năm cây thoa vàng ở
đó. Cuối quyển bảy của kinh bị lửa
đốt mất mấy hàng chữ. Nay mỗi lần tụng
kinh đến đó, tâm liền như quên mất”. Ông sai tả
hữu đục tường ra xem, hoàn toàn đúng như
ông đă nói. Chủ nhân khôn cầm nước mắt. Ngạn
Vũ biếu xén trọng hậu rồi đi.
* Đạo Tuyên luật sư chùa
Tây Minh ở kinh đô đời Đường
Sư người
Hồ Châu, con của Lại Bộ Thượng Thư Tiền
Thân đời Tùy. Khi mẹ có thai, mộng thấy một
vị Phạm tăng nói: “Bà mang thai luật sư
Tăng Hựu”. Sư mười sáu tuổi tụng
kinh Pháp Hoa, hai mươi ngày bèn thông suốt. Trong niên hiệu
Vũ Đức, Sư ẩn tích tại Chung Nam. Chỗ ở
thiếu nước, thần nhân chỉ chỗ, đào xuống
chừng hơn một thước, suối tự phun trào.
Do vậy, đặt tên chùa là Bạch Tuyền Tự. Về
sau, Sư dời sang chùa Phong Đức, do hành Ban Châu định,
cảm các rồng lễ yết, cúng dường kỳ hoa
dị quả. Sư giới đức vượt người,
soạn Tứ Phần Luật Sao. Lại biên soạn Nội
Điển Lục, Tam Bảo Cảm Thông Lục, Quảng
Hoằng Minh Tập, Tục Cao Tăng Truyện.
Trong niên hiệu
Trinh Quán, Sư ẩn cư trong núi Vân Thất, mọi
người thấy đồng tử cơi trời hầu hạ
chung quanh. Ban đêm, Sư kinh hành tại Tây Minh, bước
lên bậc vấp ngă, có thiếu niên mặc giáp trụ nâng
đỡ. Sư hỏi: “Là vị thần nào vậy?”
Đáp: “Tôi chính là Na Tra, con của thiên vương Tỳ Sa
Môn. Do Sư giới đức cao diệu, cho nên đến hộ vệ
bên cạnh”. Sư bèn hỏi cặn kẽ các chuyện
trong Phật pháp, thần nhất nhất trả lời. Thần
trao cho Sư răng Phật và tay báu để làm chứng
cớ tin tưởng rồi ẩn mất. Mùa Xuân năm
Càn Phong thứ hai (667), Sư cảm thiên nhân đến
đàm luận luật tướng. Một hôm, lại có một
vị trời đến lễ yết, nói: “Luật sư
sẽ sanh về cung trời Đổ Sử (Đâu Suất)”.
Vị ấy cầm một vật thưa: “Đây là Cức
Lâm Hương”. Ngày mồng Ba tháng Mười, Sư an tọa
qua đời, hiệu là Nam Sơn Giáo Chủ Trừng Chiếu
đại sư. Khi Sư viết lời tựa cho kinh
Pháp Hoa, Vi Đà Thiên do tôn sùng Pháp Hoa, chưa thay lời nói
đầu, đă bẩm báo mười phương chư
Phật, chư Phật đều cùng ấn khả, bài tựa ấy mới được lưu truyền, tức
là bài tựa được hoằng truyền hiện thời.
* Thích Cát Tạng đời
Đường
Sư họ An, vốn
là người An Tức[42],
đời tổ tiên di cư tới Nam Hải. Sư bảy
tuổi xuất gia, sau đó thọ Cụ Túc Giới, mang
chí hướng truyền đăng, tiếp tục chuyển
pháp luân. Sư trụ tại chùa Nhật Nghiêm ở kinh
đô, khai giảng Pháp Hoa. Người nghe tin kéo đến nghe, tính
ra cả vạn. Đầu niên hiệu Đại Nghiệp,
Sư chép một ngàn bộ Pháp Hoa, lại riêng đặt
tượng Phổ Hiền Bồ Tát, cung kính đối
trước tượng tọa Thiền, quán lư Thật
Tướng. Năm Vũ Đức thứ sáu (623), Sư
đổi sang trụ tại chùa Diên Hưng, các thứ cúng
dường khác lạ đua nhau đưa đến. Sáng
một ngày nọ, Sư đốt hương, ngồi xếp
bằng qua đời. Lúc ấy đang nhằm khi nắng
gắt, vẻ mặt Sư càng tươi sáng, [môn nhân] khắc
đá chôn Sư ở Bắc Nham. Sư b́nh sanh giảng kinh
Pháp Hoa hơn ba mươi lượt. Lúc sắp mất,
Sư soạn bài luận Tử Bất Bố (chết không
sợ), [đại ư] như sau: “Tử do sanh mà có, hăy nên
khóc v́ được sanh ra, chớ nên sợ chết”.
Văn c̣n nhiều, chẳng chép thêm!
* Thích Huệ Chủ đời
Đường
Sư người
Thỉ Châu, họ Giả. Thoạt đầu, Sư tới
kinh đô thọ Cụ Túc Giới tại chùa Cam Lộ.
Sư chuyên tụng kinh Pháp Hoa, cảm sơn thần dâng
cúng. Sư sáu thời hành đạo, chim, thú bay theo, giống
như ngưỡng mộ, lắng nghe. Sư c̣n trao truyền
Bồ Tát giới cho u lẫn hiển. Trong niên hiệu
Vũ Đức, Sư ở tại chùa Hương Lâm. Khi
đó Lăng Dương Công đến Ích Châu, dẫn theo
hơn một trăm con vật chở nặng đến
chùa, xếp chúng trong giảng đường, không ai dám
trái ư. Sư thấy uế tạp, liền vào Tăng pḥng,
cầm tích trượng và ba y ra, giơ trượng,
hướng về bọn la, lừa, chúng cùng lúc ngă nhào. Huyện
quan hết sức kinh hoảng, bắt Sư lên tố cáo.
Lăng Dương Công chẳng trách móc chút nào, chỉ nói:
“Nhờ Sư phá keo tham, được lợi ích to lớn
sâu xa”, tặng mười cân trầm
hương. Sau khi trở về kinh, ông ta bèn thọ giới
Bồ Tát.
* Thích Huyền Trang chùa Đại Từ
Ân ở kinh đô đời Đường
Sư họ Trần,
người huyện Trần Lưu. Lúc mười một
tuổi, Sư thường tụng Pháp Hoa và Duy Ma, tánh cang
cường, chánh trực, bất khuất. Năm Trinh Quán
thứ ba (629), Sư sang Tây Vực thỉnh các kinh chưa
được truyền sang Trung Hoa. Sư đến
nước Khúc Xà, cùng các thương nhân vượt qua
sông Căng Già
(sông Hằng). Phong tục nước
ấy chuyên dùng người để tế trời, họ
sắp giết Sư để tế. Bỗng gió lớn nổi
lên, cát bụi đầy trời, mặt trời
đang giữa ban ngày mà tối sầm. Họ cho rằng
Sư là thánh nhân, Sư bèn được thả ra. Sư tới
Trung Thiên Trúc, được nghe luận Du Già Sư Địa.
Sư vào thành Vương Xá, từ Thượng
Phương Giới Hiền luận sư học sâu xa lẽ
bí áo trong Đại Thừa, trí chứng ngày càng tăng.
Sư đi qua hơn một trăm năm mươi
nước. Mười chín năm sau, Sư chở kinh và
tượng về kinh đô. Sau đó, Sư dịch kinh luận
tính ra bảy mươi lăm bộ. Tháng Hai năm Lâm
Đức nguyên niên (664), Sư từ biệt đại
chúng, sai người xung quanh niệm Di Lặc Như Lai, nằm
an tường bên hông phải qua đời. Có dị
tăng dâng hương để bôi lên thân thể Sư.
Vua xuống chiếu chuẩn theo chuyện an táng Thế Tôn
[để cử hành tang ma]. Tháp thờ Sư ở Bắc
Nguyên thuộc Phàn Xuyên.
* Thích Huyền Uyển chùa Phổ
Quang ở kinh đô đời Đường
Sư họ
Dương, người Hoa Âm, giảng diễn Pháp Hoa
Đại Thừa v.v… và tham cứu sâu xa lư huyền áo, khéo
tŕnh bày chỗ u vi. Năm Nhân Thọ (602) thứ hai, Sư
tạo tượng vàng Thích Ca Như Lai cao một trượng
sáu. Ḷng chí thành ngầm cảm ứng, trời mưa diệu
hoa, bay lả tả như vân mẫu[43].
Đêm ấy, nhạc trời vang rền khắp không trung,
cho tới b́nh minh mới dứt. Vào giới kỳ nhằm
ngày mồng Tám tháng Hai mỗi năm, Sư nương theo
hai mươi lăm vị Phật để chuyển
đọc thần chú một ngàn lượt, tinh khiết,
trai giới, kinh hành. Đầu niên hiệu Trinh Quán, vua sắc
truyền hoàng thái tử và các vương đến thọ
Bồ Tát giới từ Sư. Anh em Tả Bộc Xạ[44]
Tiêu Vũ thường thưa hỏi ư chỉ “hội
tam quy nhất” trong hội Pháp Hoa, Sư v́ họ phân tích
lặp đi lặp lại chẳng mệt mỏi. Hữu
Bộc Xạ Đỗ Như Hối để lại di
ngôn, nguyện trải kiếp số làm đệ tử của
Sư. Mỗi lần Sư truyền giới, thuyết
pháp, có đồng cốt nói: “Thấy có dị loại quỷ
thần từ các phương tụ lại, ra vẻ
như đang nghe nhận”.
* Thích Khuy Cơ chùa Đại Từ
Ân đời Đường
Sư họ Uất
Tŕ, người Trường An, là đệ tử của
ngài Huyền Trang. Sư thông hiểu giáo pháp Đại Tiểu
Thừa. Về sau, Sư đến Ngũ Đài, trụ tại
Tây Hà Cổ Tự, thấy quyển kinh tỏa ánh sáng. T́m
xem th́ ra là Di Lặc Thượng Sanh Kinh. Sư bèn cất
bút soạn sớ. Từ đầu ngọn
bút, thu được hai mươi bảy
viên xá-lợi, hồng nhuận, đáng yêu. Sư tướng
mạo trông thô to, nhưng tâm từ bi, hóa đạo khắp
chốn. Sư sang Đông tới Bác Lăng, giảng kinh
Pháp Hoa, lại c̣n soạn đại sớ. Sư từng
tạo tượng Văn Thù Bồ Tát bằng ngọc, viết
kinh Đại Bát Nhă bằng chữ vàng. [Tượng và
kinh] đều tỏa thần quang sáng ngời khắp thất.
Thoạt đầu, ngài Huyền Trang đích thân truyền
dạy Du Già Sư Địa Luận, Sư lănh thọ trọn
hết chỗ mầu nhiệm. Trong nước gọi
Sư là Từ Ân pháp sư.
Khi đó, Đạo
Tuyên luật sư do hoằng dương Luật, cảm bếp trời cúng dường
thức ăn, thường chê trách Sư đi đâu
cũng phải có ba xe[45],
chẳng đáng kính lễ. Sư từng tới thăm
ngài Đạo Tuyên, hôm ấy đă quá ngọ mà thiên nhân chẳng
dâng thức ăn. Sư đi rồi, thiên thần mới
giáng xuống. Ngài Đạo Tuyên gạn hỏi v́ sao lại
đến sau giờ Ngọ. Vị trời ấy đáp:
“Vừa rồi tôi thấy bậc Đại Thừa Bồ
Tát ở đây, được [chư thiên, quỷ thần]
hộ vệ chung quanh rất nghiêm. Thần thông của bọn
tôi không đủ sức để tiến vào!” Ngài Đạo Tuyên nghe nói mới bắt
đầu kính phục [ngài Khuy Cơ].
* Thích Trí Thông ở chùa Thê Hà Tự
thuộc Nhiếp Sơn đời Đường
Sư trụ tại
chùa Bạch Mă ở Dương Châu, chuyên học tập Tam
Luận (Trung Luận, Thập Nhị Môn Luận, và Bách Luận).
Sau đó, vượt sông, trụ tại An Lạc Tự. Gặp
lúc nhà Tùy mất nước, Sư nghĩ cách trở về,
nhưng chẳng có cách nào, ẩn ḿnh trong đám lau lách bên
sông, tụng kinh Pháp Hoa. Bảy ngày chẳng đói, luôn có bốn
con hổ đi tuần chung quanh. Bỗng Sư thấy một
ông lăo cắp nách một chiếc thuyền bé, đến
nói: “Mời Sư vượt sông”. Trí Thông lên thuyền, bốn
con hổ ẩn núp, không chịu đi. Sư nói: “Chẳng
vượt sông ư?” Hổ bèn đứng lên, liền cùng
Sư vượt sông sang bờ Nam. Thuyền cập bờ,
bỗng chẳng thấy ông lăo đâu nữa. Sư dẫn bốn
con hổ trụ tại chùa Thê Hà. Trong niên hiệu Trinh Quán,
khi Sư chín mươi chín tuổi, ngồi ngay ngắn qua
đời. Hổ gào rống bi thương rồi bỏ
đi.
* Thích Trí Diễm ở chùa Thông Huyền
tại Tô Châu đời Đường
Sư họ Châu,
người Ngô Quận. Lúc mười hai tuổi, tụng
thông thạo kinh Pháp Hoa. Về sau, thọ Cụ Túc Giới
từ Diên pháp sư chùa Tần Hoàng. Sư giữ oai nghi
trang nghiêm, đạt sâu xa căn bản của giới.
Năm Vũ Đức thứ bảy (624), Sư trở lại
núi cũ, thường hành các sám pháp Pháp Hoa, Kim Quang Minh, Phổ
Hiền v.v… Tụng kinh Pháp Hoa hơn ba ngàn lượt, giảng
Niết Bàn và Pháp Hoa mỗi kinh ba mươi lượt,
Quán Kinh một trăm mười lượt.
Sư khắc khổ, siêng gắng, ḷ hương không đốt
mà tự cháy, b́nh đựng nước hễ cạn sẽ
tự đầy, các điều cảm ứng tốt lành
chẳng phải là một chuyện. Năm Trinh Quán thứ
tám (634), Sư thị hiện bị bệnh. Sư thấy
Phạm tăng tay cầm b́nh báu, nói: “Ta là Vô Biên Quang; sau này, Tịnh Độ gọi
là Công Đức Bảo Vương chính là ta vậy”.
Sư bảo môn đệ: “Vô Biên Quang Đại Thế
Chí đă tới. Công Đức Bảo Vương chính là
danh hiệu khi Ngài thành Phật. Do nhân mà nói đến quả,
ta sẽ về Tây lúc này đó chăng?” Sư liền ngồi
xếp bằng qua đời.
* Thích Trí Thông ở Tử Châu đời
Đường
Sư họ Trần,
tám tuổi ĺa tục, chuyên tụng Pháp Hoa, rất siêng giảng
dạy. Sư trụ tại núi Ngưu Đầu, khéo giữ
oai nghi, siêng khổ giữ vững giới hạnh. Thường
có hai con ngỗng đúng thời đến nghe pháp. Sư
giảng hơn trăm lượt, hai lần phóng quang minh.
Sư thị tịch trong niên hiệu Trinh Quán. Khi đó các
điện đường, pḥng ốc trong chùa đều
biến thành sắc trắng, đều chấn động
trong khoảng một bữa ăn mới thôi!
* Thích Trí Oai ở chùa Pháp Hoa núi Thiên
Thai đời Đường
Sư họ Tưởng, người xứ Tấn Vân, gia
đ́nh nhiều đời theo đạo Nho. Lúc Sư
mười tám tuổi, sắp cưới vợ, trên
đường gặp vị Phạm tăng bảo: “Tiền
thân của chàng thiếu niên này là quan Bộc Xạ Từ Lăng đời Trần. Do nghe ngài Trí Giả giảng kinh
Pháp Hoa, tự lập năm nguyện: Một là lâm chung
chánh niệm; hai là chẳng đọa tam đồ; ba là
thác sanh trong loài người; bốn là đồng chân xuất
gia; năm là chẳng đọa thành tăng sĩ chạy
theo thói tục. Nay ư ngươi như thế nào? Muốn
trái lời thề xưa ư?” Sư nghe xong liền cảm ngộ,
chẳng trở về nhà nữa, liền sang chùa Quốc
Thanh, xin thờ ngài Chương An làm thầy, thưa hỏi,
nhận lănh tâm yếu. Định huệ đều phát, liền
chứng Pháp Hoa tam-muội.
Thượng Nguyên
nguyên niên (674), Sư muốn lựa chọn chỗ đất
thù thắng để thuyết pháp, cầm tích trượng
thề rằng: “Tích trượng dừng lại ở
chỗ nào, chính là nơi tôi sẽ trụ”. Tích trượng
từ chùa Quốc Thanh bay đến núi Phổ Thông trong rặng
Thương Lănh cách đó năm trăm dặm. Do cuộc
đất chật hẹp, chẳng thể rộng dung
đồ chúng. Sư lại bay lên không ném tích trượng.
[Tích trượng bay] tới núi Hiên Viên Luyện Đan.
Sư bèn quyết tới đó, chặt gai, cắt tranh,
ngày giảng, đêm tọa Thiền, biên chép kinh điển.
Người theo học ngày một đông dần, chia thành
chín chỗ để ở. Do vậy, đặt tên chỗ
ấy là Pháp Hoa. Sư có phong cách thanh tú theo lối cổ. Mỗi
lần đăng ṭa, có mây tía che đỉnh, h́nh dạng
như lọng báu, chim chóc đậu bên cạnh, hết sức
ngoan ngoăn thân thiết. Từ chùa Pháp Hoa tới Thượng
Bản là chỗ Sư ở riêng khoảng tám mươi dặm.
Mỗi ngày Sư qua lại, thọ trai, dùng cháo, thiền giảng,
chưa từng thiếu sót. Mọi người đều
nói Sư có Thần Túc Thông. Vĩnh Long nguyên niên (680), Sư
ngồi qua đời, mùi hương lạ bảy ngày chẳng
tan. Người thuở đó gọi Sư là Pháp Hoa
tôn giả.
* Thích Huệ Đạt đời
Đường
Sư người
Thái Nguyên, chuyên tụng Pháp Hoa hơn năm ngàn lượt.
Trong các oai nghi đi ngồi, tiếng tụng kinh chẳng
thiếu sót. Sư giữ ḷng yêu mến sanh mạng loài vật,
mỗi lúc đi lại đều một mực nh́n xuống.
Hễ đất có trùng bọ, Sư ắt xoay ḿnh tránh né.
Nếu có ai hỏi, Sư đáp: “Bọn chúng và ta đều
thăng trầm bất định! Biết đâu chúng nó thành Chánh Giác
trước ta, sao dám xằng bậy khinh thường
ư?” Năm Trinh Quán thứ
tám (634), Sư ngồi qua đời, qua năm đêm mà vẻ
mặt vẫn như lúc đầu.
* Thích Di Tục chùa Lễ Tuyền ở
Ung Châu đời Đường
Sư tụng Pháp
Hoa một ngàn lượt. Trong niên hiệu Trinh Quán, do bị
bệnh, Sư bảo bạn là thiền sư Huệ Khoách rằng: “Tôi suốt đời tụng
kinh, ư mong có chứng nghiệm. Nếu sanh vào đường
lành th́ cái lưỡi chẳng hoại. Chôn độ mười
năm th́ hăy đào lên xem. Nếu lưỡi hư hoại
th́ biết là tôi tụng kinh chẳng có công trạng ǵ! Nếu
chẳng hoại th́ dựng một tháp để người
khác tin tưởng, hướng theo”. Nói xong liền tịch.
Mười năm sau, mở ḥm ra xem, quả nhiên lưỡi
chẳng hoại. Người mộ đạo [kéo đến
chiêm ngưỡng] đông như cái chợ, đại chúng
dựng tháp ở Cam Cốc Nhai. Các vị Thích tử
trước sau do tụng kinh Pháp Hoa mà đạt được
lưỡi chẳng hoại rất đông, chẳng thể
ghi hết được!
* Thích Nghĩa Trung chùa Đại Từ
Ân ở kinh đô đời Đường
Sư họ Doăn,
người Tương Viên. Hai mươi tuổi, thọ Cụ Túc Giới, nghe pháp
sư Khuy Cơ ở Trường An vừa mới soạn
bộ Pháp Hoa Nghĩa Sớ, liền tới giảng ṭa của
Ngài. Chưa hết năm năm, Sư đă thông hiểu
hai kinh Pháp Hoa, Vô Cấu Xưng (kinh Duy Ma Cật), và năm luận Duy Thức v.v…
Sư bèn soạn Pháp Hoa Kinh Sao hai mươi quyển. Những
người cùng hàng đọc xong, không ai chẳng gật
đầu thán phục. Mỗi khi Sư kinh hành, hướng
mặt về phía Tây Bắc, tâm ngầm nội quán, nguyện thấy đức
Từ Thị (Di Lặc Bồ Tát). Một ngày nọ,
Sư buổi sáng thức dậy, tắm rửa,
súc miệng, bỗng thấy mây hương đầy khắp
hư không, Sư ngẩng lên nh́n, chắp tay nói: “Tỳ-kheo
phàm trược nhọc công đại thánh khuất thân
đến tiếp dẫn”. Nói xong, Sư qua đời.
* Thích Pháp Dung đời Đường
Sư họ Vi,
người Diên Lăng thuộc Nhuận Châu. Khi mười
chín tuổi, Sư vào Mao Sơn, nương theo Linh pháp
sư, hai mươi năm chuyên ṛng chẳng
lười nhác. Sau này, Sư lập riêng lều tranh dưới
vách đá phía Bắc chùa U Thê ở núi Ngưu Đầu, lấy
Thiền tụng làm nghiệp. Núi vốn nhiều hổ, vắng
bặt dấu tiều phu. Sư vào núi, qua lại vô ngại.
Lại có bầy nai nhiễu quanh thất, nằm nghe. Trong
niên hiệu Trinh Quán, Sư giảng kinh Pháp Hoa dưới
vách núi. Lúc bấy giờ, tuyết trắng đọng
đầy thềm. Trong băng ngưng đọng, thấy
hai nhánh hoa, h́nh dạng như hoa phù dung, kim sắc rạng
rỡ, bảy ngày mới tàn!
* Thích Pháp Triệt ở Bồ Châu
đời Đường
Sư là người
Giáng Châu, siêng khổ từ bé, thông thạo kinh Pháp Hoa,
thường dùng phẩm Hóa Thành của kinh ấy để hóa độ
hết thảy. Trong ấp có Cô Sơn, Sư nương
vào đó để kết nghiệp, sáng lập lan nhă. Cuộc
đất ấy vốn cao vót, hiểm trở, từ
trước chẳng có nguồn nước hay suối.
Sư nhiều năm sùng đạo, một hôm, [tự
nhiên có] suối trong chảy ra. Thứ sử Pḥng Nhân Dụ
đích thân xin biển ngạch cho chùa, liền đặt
tên là chùa Hăm Tuyền. Sư từng gặp một người
cùi trên đường, bèn dẫn về núi, đào hang, cho
người ấy thức ăn, bảo người ấy
tụng Pháp Hoa. Người ấy hoàn toàn chẳng biết
chữ, lại c̣n đần độn, phải dạy từng
câu một. Sư trọn chẳng nề hà, mệt mỏi.
Dạy tới quyển thứ sáu, bệnh cùi dần dần
lành. Dạy xong kinh, lông mày mọc lại, da dẻ như
cũ.
* Thích Pháp Đạt chùa Nam Hoa tại
Thiều Châu đời Đường
Sư người
Hồng Châu, bảy tuổi xuất gia, tụng Pháp Hoa lâu
dài. Sau Sư sang Tào Khê lễ Lục Tổ. Tổ hỏi:
“Ông tụng kinh này, lấy ǵ làm tông?” Sư nói: “Con chỉ dựa
theo kinh văn mà niệm, chẳng biết tông thú!” Tổ bảo
lấy kinh mở ra tụng [cho Tổ nghe]. Sư liền lớn
tiếng tụng tới phẩm Thí Dụ, Tổ bảo: “Thôi!
Kinh này lấy nhân duyên xuất thế làm tông. Kinh dạy: ‘Do một đại sự nhân duyên
xuất hiện trong cơi đời’. Một đại
sự chính là tri
kiến của Phật. Nếu có thể từ nơi
tướng mà ĺa tướng, ở nơi không mà ĺa không,
nhất niệm tâm khai, đó là khai tri kiến của Phật.
Ông hăy nên tin tri kiến của Phật chính là tự tâm của
ông, trọn chẳng phải là vật nào khác! Đừng
hướng ra ngoài để cầu, [chính ḿnh] với Phật chẳng hai!” Tổ bèn nói kệ rằng: “Tâm
mê, Pháp Hoa chuyển. Tâm ngộ, chuyển Pháp Hoa. Tụng
kinh lâu không rơ. Thành oán thù của nghĩa. Vô niệm, niệm
tức chánh. Hữu niệm, niệm thành tà. Hữu vô, chẳng
bận ḷng, măi ngồi xe trâu trắng”. Sư nghe xong, bất giác buồn
khóc, cũng dùng kệ tán thán, có câu: “Tụng kinh ba ngàn
bộ, Tào Khê một câu quên”. Từ đó, Sư đốn
ngộ huyền chỉ.
* Thích Pháp Tuyền đời
Đường
Trong niên hiệu
Khai Nguyên, Sư ở chân núi phía Đông rặng Thiên Đồng,
lập tinh xá để cư trụ. Về sau, Sư dời
sang ở tháp Đa Bảo nơi góc Tây Nam. Hằng ngày,
Sư tụng kinh Pháp Hoa, cảm đồng tử cơi trời
đạp mây lên xuống, cầm thức ăn đến
cúng dường. Ban đêm, Sư liền nhiễu tháp kinh
hành. Người khác nh́n từ xa thấy thân Sư ngang bằng
tướng luân của tháp. Người đương thời
gọi Sư là Thái Bạch thiền sư.
* Thích Vô Úy chùa Thánh Thiện tại
kinh đô Lạc Dương đời Đường
Sư
vốn là người Trung Ấn Độ, tên tiếng Phạn
là Thâu Ba Ca La (Śubhakarasiṃha, c̣n
dịch là Thiện Vô Úy). Sanh ra, Sư đă có bẩm
tánh thần ngộ. Lúc mười ba tuổi, Sư nhường
nước, xuất gia, đạo đức và danh xưng
đứng đầu Thiên Trúc. Sư xuống phương
Nam tới bờ biển, gặp một Chiêu Đề[46]
thù thắng, đắc Pháp Hoa tam-muội. Sư tới
đâu giảng pháp, cũng đều luôn có tướng lạ.
Về sau, Sư theo thuyền buôn đến các nước,
ngầm tu Thiền tụng, miệng phóng bạch quang. Khi
đó, Trung Ấn Độ đại hạn, Sư ngầm
cầu nguyện, liền thấy đức Quán Âm ở
trong mặt trời, tay cầm b́nh quân tŕ[47],
rưới nước xuống đất. Khi đó, đại
chúng vui mừng cảm kích, đạt được
điều chưa từng có.
Sư sang Chấn
Đán, dùng lạc đà chở kinh. Lạc đà ch́m trong
sông, Sư cũng theo vào, ở trong cung rồng ba đêm, v́
họ tuyên nói pháp yếu. Lúc trở ra, kinh Phật đă chở
theo, chẳng ướt một chữ nào. Năm Khai Nguyên
thứ tư (716), Sư tới Trường An. Vua sắc
truyền trụ tại chùa Tây Minh, dịch các kinh Hư
Không Tạng và Đại Tỳ Lô Giá Na v.v… Từng gặp
lúc đại hạn, vua sai cầu mưa. Sư đựng
đầy một bát nước, tụng chú mấy
trăm lượt. Trong khoảnh khắc, có vật như
con ếch ngẩng đầu trên mặt nước. Chốc
lát sau, có làn hơi trắng từ bát bốc lên giống
như một xấp lụa trắng bay lên không. Trời nổi
gió, rền sấm, tối đen, mưa to như trút. Lại
từng có lúc mưa dầm dề quá lâu, Sư nặn đất
sét thành năm tượng bà già, dùng Phạm ngữ tụng
chú, tức khắc trời tạnh.
* Thích Huyền Lăng chùa Thanh Thái ở
Đông Dương đời Đường
Sư họ Phó,
cháu sáu đời của Song Lâm Đại Sĩ đời
Lương (Phó Hấp, tức Phó đại sĩ). Sư
xuất gia từ bé, thọ giới lúc hai mươi tuổi.
Nghe tông Thiên Thai hoằng truyền Chỉ Quán rất thịnh,
Sư đến chùa Thiên Quan tại Đông Dương, yết
kiến pháp sư Huệ Oai, tu Pháp Hoa tam-muội. Sư nhàm
chán nhân gian, chí gởi nơi rừng núi, chỉ chú trọng
mười tám thứ Thập Nhị Đầu Đà, ẩn
cư nơi Tả Khê Nham. Bốn mươi mấy
năm, Sư ở yên trong một thất, tự cho là rộng
như pháp giới. Sư từng nơi vách điện vẽ
tượng Quán Âm và [tôn giả] Tân Đầu Lô, dâng
hương, thâu liễm ư niệm, cảm thần quang
năm màu chói ngời cả thất. Đạo tục
đều đến xem, than là chưa từng có! Sư thị
tịch năm Thiên Bảo 13 (754), người thuở ấy
gọi Sư là Tả Khê tôn giả.
* Thích Trạm Nhiên chùa Quốc Thanh
núi Thiên Thai đời Đường
Sư người
Kinh Khê, họ Thích. Lúc hai mươi tuổi, Sư được học kinh với
thiền sư Tả Khê Huyền Lăng. Sư Tả Khê hết
sức kinh ngạc, lạ lùng [trước sự lănh hội
mẫn tiệp của ngài Trạm Nhiên]. Sư (ngài Trạm
Nhiên) từng mộng thấy chính ḿnh mặc tăng phục,
cắp nách hai cái bánh xe vào trong sông to. Ngài Tả Khê nói: “Ôi!
Ông sẽ dùng hai pháp Chỉ và Quán để độ chúng
sanh trong vực thẳm sanh tử đấy chăng?” Bèn
truyền dạy pháp Chỉ Quán mà Ngài đă được
truyền dạy [từ ngài Huệ Oai]. Năm Thiên Bảo
thứ bảy (748), Sư mới bỏ áo Nho xuất gia,
đến chùa Khai Nguyên ở đất Ngô, tận lực
hành diệu pháp, biên soạn trần thuật các
chương cú do chư tổ truyền thừa tới mấy
chục vạn chữ. Sư hoằng dương rộng
lớn giáo pháp Nhất Tâm Tam Quán. Sư thường cùng bốn
mươi vị danh tăng ở Giang Hoài cùng lễ
Ngũ Đài. Ngài Thanh Lương Trừng Quán suất lănh
đồ chúng cả ngàn người đón tiếp,
đưa tiễn; khi đó, mọi người đều
ca ngợi. Có môn nhân của Bất Không Tam Tạng[48]
là Hàm Quang bạch với Sư rằng: “Con vừa theo ngài
Bất Không sang Thiên Trúc, gặp một vị Phạm
tăng nói: “Nghe nói Đại Đường có bậc
Thiên Thai giáo tông, có thể hiểu Thiên và Viên, phân biệt tà
chánh, hiểu rơ Chỉ Quán, có thể dịch ra để
truyền đến cơi này hay chăng?” Sư nghe nói, than rằng:
“Có thể nói là Trung Hoa mất pháp, cầu nơi bốn
góc!” Tuổi già, Sư quay về Thiên Thai. Tháng Hai năm Kiến
Trung thứ hai (781), Sư dạy đại chúng rằng: “Nhất
niệm vô tướng gọi là Không. Không pháp nào chẳng
trọn gọi là Giả. Chẳng một, chẳng khác th́
gọi là Trung. Nơi phàm th́ gọi là ba nhân, nơi thánh là
ba đức. Tự lợi, lợi người khác, cốt
như thế mà thôi!” Nói xong, Sư dựa vào ghế mà
qua đời. Sư trước tác các bộ sách như
Pháp Hoa Thích Thiêm Sớ Kư v.v… được lưu truyền
rất rộng trong cơi đời.
* Thích Thần Ung chùa Đại Lịch
ở Việt Châu đời Đường
Sư là người
Chư Kỵ, họ Thái, mười hai tuổi nhập
đạo, nương theo thiền sư Tả Khê Huyền
Lăng [để tu học]. Sư tu tập Thiên Thai Chỉ
Quán, Pháp Hoa Huyền Sớ, giảng diễn suốt trong
năm hạ. Người học vùng Ngô Cối kéo đến
như mây. Trong niên hiệu Thiên Bảo[49],
Sư sang Trường An, ở chùa An Quốc. Về sau, Sư sang phương Đông trở về
Tương Hán. Có Trước Tác Lang[50]
Vi Tử Xuân học rộng, kiêu hănh, Sư bèn cùng ông ta tranh
biện, Tử Xuân chịu phục. Trung Thư Xá Nhân[51]
Uyển Hàm than rằng: “Có thể nói Sư là Ma Ni ở
ngoài cơi trần, sư tử trong các luận”. Người thời ấy cho đó là lời khéo diễn
tả vậy!
* Thích Đạo Tiêm ở Phật
Lũng đời Đường
Sư đọc trọn
khắp các trước tác của bách gia, tinh tường
nhất là kinh Pháp Hoa. Trong niên hiệu Đại Lịch[52],
Sư vào kinh đô hoằng hóa, trước thuật rất
nhiều. Sư có thể du hành qua lại trên hư không. Khi
đó, có người nói Sư đă chứng Thần Túc
Thông.
* Thích Đạo Tuân núi Chi H́nh ở
Tô Châu đời Đường
Sư họ
Trương, người Ngô Hưng, tham học ngài Tả
Khê, học Thiên Thai Chỉ Quán. Sư muốn rộng chép
kinh Pháp Hoa, bèn sáng lập Tịch Kinh Viện ở Chi H́nh,
cử mười bốn vị sa-môn hạnh nghiệp
chuyên ṛng, thường tŕ Pháp Hoa, đêm th́ thắp đuốc
tiếp nối ban ngày, ḥng hoằng dương Đại
Thừa. Vua sắc truyền chốn ấy là đạo
tràng Pháp Hoa. Ở trong núi, Sư đúc tượng Lô Xá Na,
và Đa Bảo Phật tháp, lấy tu Tịnh Độ làm
hạnh nghiệp trong hiện đời. Sư tạc
tượng A Di Đà Phật, b́nh thời giảng Pháp Hoa
Huyền Nghĩa, cả năm chẳng luống uổng
ngày nào. Thiên Bảo nguyên niên (742), tại đạo tràng
Linh Nham, Sư hành Pháp Hoa tam-muội, bỗng thấy ánh sáng to lớn xông lên trời, thân
Sư ở trong quang minh. Ngày hôm sau, Sư hỏi Kinh Khê Trạm
Nhiên đại sư. Ngài Trạm Nhiên bảo: “Quang minh
trí huệ từ tâm lưu xuất, sẽ dùng đó để
hiển phát Đệ Nhất Nghĩa Thiên”. Sư lại
nhập Pháp Hoa đạo tràng, thấy thân ḿnh đang ngồi
trên không trung, biết là tướng trạng sạch hết
tội cấu. Hưng Nguyên nguyên niên (784), Sư ngồi qua
đời. Môn nhân như Linh Hàn v.v… dựng tháp.
* Thích Thần Ngộ ở núi Thạch
Di tại Nhuận Châu đời Đường
Sư người
Lũng Tây, họ Lư. Thuở bé, Sư mắc bệnh ngặt
nghèo. Trong niên hiệu Khai Nguyên, Sư đối trước
tượng Bồ
Đề, nồng nhiệt sám hối,
mong trừ túc nghiệp, cảm ánh sáng lạ như tia sáng
mặt trăng mông lung chiếu khắp nhà. Bệnh khổ
nhanh chóng tiêu trừ. Năm Thiên Bảo thứ tư (745),
Sư xuất gia, thọ Cụ Túc Giới, thường
vào đạo tràng Pháp Hoa, lễ niệm suốt chín
mươi ngày. Do vậy, Quán Phật tam-muội hiện tiền.
V́ thế, Sư nói với môn nhân: “Tối tăm ảm
đạm ảnh hưởng ǵ đến mặt trời,
gió xoay chuyển nhưng hư không bất động. Nếu
thấu đạt vọng, có ǵ chẳng phải là tánh?”
Sư dựng nhà tại phía Đông núi Lao Lao, thường
hành Thiền Định. Ban đêm có sơn thần hiện
h́nh, xưng là cố Tân Thành Hầu đời Tùy, sống
tại Nam Lănh đă lâu. Nay nguyện dâng đất này
vĩnh viễn làm chỗ kinh hành. Nói xong, chẳng thấy
nữa. Mười năm sau, Sư ngồi xếp bằng
qua đời. Xà-duy xá lợi chồng chất, tươi
đẹp khá nhiều!
* Thích Chí Lân ở chùa Đại An
Quốc nơi kinh đô đời Đường
Sư họ Phạm,
người Duyện Châu. Mẹ Sư họ Vương chẳng tin Tam Bảo.
Ngài Chí Lân trốn sang Đông Đô, theo xuất gia với
Tu Luật Sư chùa Quảng Thọ. Năm Khai Nguyên thứ
mười (722), Sư nghĩ đến mẹ bèn về
thăm. Mẹ mất đă ba năm. Do vậy, Sư đến
miếu thờ thần Đông Nhạc trải tọa cụ,
tụng kinh Pháp Hoa, mong thấy Nhạc Đế để
hỏi mẹ sanh về chốn nào. Đến đêm, Sư thấy Nhạc Đế triệu vời,
nói: “Mẹ thầy đă bị giam trong ngục, đang chịu
các khổ”. Sư buồn khóc, mong mẹ thoát tội. Nhạc Đế nói: “Sư hăy
qua Mậu Sơn lễ tháp A Dục Vương, sẽ có
thể cứu”. Sư liền qua triều bái chùa ấy, buồn khóc, lễ bái tới
bốn vạn lạy. Bỗng nghe trên không trung có tiếng
gọi “Lân nhi”. Sư thấy mẹ cảm tạ rằng:
“Nhờ sức của con, mẹ được sanh lên trời
Đao Lợi”. Chốc lát chẳng thấy đâu nữa!
* Thích Sở Kim chùa Long Hưng ở
kinh đô đời Đường
Sư người
Quảng B́nh, họ Tŕnh, bảy tuổi xuất
gia, tụng kinh Pháp Hoa. Đủ tuổi thọ Cụ Túc
Giới, Sư thăng ṭa giảng pháp. Sau đó, nhân lúc
đêm thanh, tŕ tụng Pháp Hoa. Tụng tới phẩm
Đa Bảo Tháp, thân tâm và tinh thần nhẹ nhàng như nhập
Thiền Định. Đột nhiên, Sư thấy tháp báu
rành rành trước mắt, phân thân của Phật
Thích Ca đầy dẫy hư không. Sư cảm ngộ
đă sâu, lệ tuôn như mưa, liền mặc
áo vải, ngày ăn một bữa, chẳng ra khỏi cửa,
thề trong sáu năm sẽ dựng tháp ấy. Sư thấy
chùa Thiên Phước u nhàn, rộng răi, tính tạo tháp ở
đó. Khéo sao, tại chùa Thiên Phước có sư Hoài Nhẫn
bỗng nửa đêm thấy có một gịng nước bắt
nguồn từ chùa Long Hưng, chảy tuôn vào Thiên Phước,
lặng trong, sáng ngời. Trong ấy có chiếc thuyền
vuông, lại thấy tháp báu từ trên không giáng xuống. Hồi
lâu mới biến mất. Tới khi Sư đến đề
nghị, Hoài Nhẫn hân hoan giúp sức.
Sư mỗi
đêm tới chỗ đắp nền, siêng ṛng kinh hành.
Đại chúng nghe tiếng nhạc trời, đều ngửi
thấy mùi hương lạ. Thiên Bảo nguyên niên (742), bắt
đầu đặt tướng luân [trên đỉnh
tháp], cảm thông vua nằm mộng. Vua bèn đích thân đề
biển “Đa Bảo Tháp”, ban cho năm mươi vạn
đồng. Tháp xây xong, có mây ngũ sắc vờn quanh tháp.
Vạn người chiêm lễ, Sư nói với đồng
học: “Các tăng sĩ chúng ta hăy nên ôm ấp cùng một
chí hướng, hăy nên ngày đêm ở dưới tháp, tụng
tŕ Pháp Hoa, dẫu chết chẳng bỏ”. [Sư và chúng
tăng] ngâm vịnh kinh Pháp Hoa [tại đó] hơn sáu ngàn
bộ. Mỗi năm vào hai dịp Xuân Thu, tập hợp các
vị đại đức có cùng chí hướng, gồm
bốn mươi chín người, hành Pháp Hoa tam-muội. Trước
sau, cảm được bảy trăm hạt xá-lợi.
Tới năm thứ sáu, Sư muốn cất giữ xá-lợi
ḥng trang nghiêm đạo tràng, lại giáng xuống một trăm lẻ tám viên xá-lợi.
Sư vẽ Phổ Hiền Biến Tướng Đồ,
từ ngọn bút thu được liên tiếp mười
chín hạt xá-lợi, không hạt nào chẳng tự chuyển
động xoay tṛn, tỏa ánh sáng chói rực. Sư bèn thâu
thập xá-lợi, đựng trong hộp đá, tạc
tượng chính ḿnh bằng đá quỳ đội xá-lợi,
cùng đặt dưới tháp để biểu lộ ḷng
tôn kính. Từ thuở để chỏm, Sư tự chép
kinh Pháp Hoa, từng trích máu chép một bộ, dùng chữ
vàng để chép ba mươi sáu bộ, chép một ngàn bản
bằng mực thường để trấn tháp. Lại
chép một ngàn bộ để bố thí cho người thọ
tŕ. Chuyện linh ứng rất nhiều, cặn kẽ
như trong bia thiếp chùa Thiên Phước.
* Thích Đại Quang đời
Đường
Sư người
Ngô Hưng, họ Đường. Từ tuổi c̣n mọc
răng sữa, Sư đă niệm Pháp Hoa,
chỉ ba tháng là thông thạo. Tới khi xuất gia, mỗi
ngày Sư tŕ bảy quyển. Sư đi sang
phương Tây đến kinh đô. Đường Túc
Tông triệu vời vào cung cấm. Vua sắc truyền
Sư tụng kinh. Tới phẩm Tùy Hỷ Công Đức,
miệng Sư phóng quang minh năm màu. Vua hết sức vui
mừng, than thở: “Xưa ta mộng thấy một vị
Tăng ở đất Ngô miệng tŕ Đại Thừa.
Ánh sáng năm màu theo tiếng tụng mà phát ra. Nay giọng
nói và dáng vẻ của Sư giống hệt như trong mộng”.
Do vậy, vua ban tên là Đại Quang, sắc truyền hành
đạo tại chùa Thiên Phước. Qua hai mươi
tám ngày, Phạm âm vang xa thấu đến hoàng cung, vua rất
ngạc nhiên trước chuyện ấy.
Sau đó, Sư trụ
tại tinh xá Lam Điền. Trước đấy,
tăng chúng trong chùa mộng thấy có đồng tử
cơi trời giáng xuống, bảo rằng: “Tiếng tụng
kinh của sư Đại Quang thấu đến trời Hữu Đảnh”. Một
hôm, Sư đi trong núi, bỗng rơi xuống hang sâu. Do vậy,
Sư nghĩ tới tháp Phật Đa Bảo trong kinh Pháp
Hoa, nguyện tŕ phẩm ấy mười vạn lần.
Chớp mắt, vọt thân lên khỏi suối như có thần
nâng đỡ vậy. Về sau, Sư dâng biểu xin trở về đất Ngô, bèn
nương vào Tùng Kính thuộc chùa Pháp Hoa, dựng am để
ở. Sư hằng ngày tŕ kinh kệ Pháp Hoa để báo
nguyện trước. Tướng Quốc Lư Thân làm thứ
sử Ngô Hưng, đêm nghỉ tại đạo tràng tŕ
kinh, đột nhiên thấy bạch quang đầy khắp
hư không rạng ngời như ban ngày. Lần theo ánh sáng, ông ta thấy Sư đang ngồi yên,
tŕ kinh, ánh sáng tỏa ra từ mặt Sư, như mở
hào tướng. Tiếng tụng kinh vừa dứt, quang
minh cũng theo đó mà thâu hồi. Sư thị tịch
trong đầu niên hiệu Vĩnh Trinh[53],
mùi hương lạ ba ngày chẳng tan.
* Thanh Lương quốc Sư Trừng
Quán núi Ngũ Đài đời Đường
Sư người
Sơn Âm, họ Hạ Hầu, xuất gia lúc mười một tuổi, tụng thông
thuộc kinh Pháp Hoa. Sư bẩm tánh cao vời, thanh khiết.
Sư chuyên ṛng t́m cầu học hỏi bí tạng. Trong niên
hiệu Đại Lịch[54],
Sư theo thiền sư Kinh Khê Trạm Nhiên học các bộ
kinh sớ Thiên Thai Chỉ Quán, Pháp Hoa, Duy Ma v.v… Giải do
trí huệ bậc thượng phát sanh, bẩm tánh tự
nhiên. Năm Đại Lịch 11 (776), Sư thề đến
Ngũ Đài, đảnh lễ ngài Diệu Cát (Văn Thù),
lại c̣n sang Nga Mi, chiêm ngưỡng trọn khắp thánh
tượng Biến Cát (Phổ Hiền). Sư trở về
Ngũ Đài, soạn Hoa Nghiêm Tân Sớ, [diễn giải] tột cùng ư chỉ viên đốn.
Về sau, Sư trụ tại chùa Thê Nham núi Trung Điều.
Trong chùa có vị Tăng áo ngắn, cuồng ca. Phàm những
ǵ vị đó chỉ bày, chê trách, phần nhiều đều
ứng nghiệm. Khi Sư chưa đến, vị đó
xua đuổi tăng chúng, bắt họ quét dọn, nói:
“Chẳng lâu sau, Bồ Tát sẽ đến”.
Trước đó,
Tán Chi đại tướng[55]
vẽ trên vách chùa và quỷ quái sơn mị đều là những thứ gây họa. Khi Sư đến trụ
chùa này, chúng bèn tuyệt tích. Năm Trinh Nguyên 15 (799), vua xuống
chiếu vời Sư vào nội điện, thăng ṭa xiển
dương tông chỉ kinh Hoa Nghiêm, ban cho Sư mỹ hiệu
là Thanh Lương. Sư b́nh nhật luôn phát đại nguyện.
Nguyện thứ năm là “chưa xả báo thân này, sẽ
luôn tụng Pháp Hoa”. Lúc mới tạo sớ, cái ao
trước ṭa nhà sanh ra năm cành sen mọc đôi, mỗi
đóa hoa đều có ba đốt. Mọi người
đều tán thán, ngưỡng mộ. Sư thị tịch
năm Khai Thành thứ ba (838), được dựng tháp thờ
toàn thân tại Chung Nam. Vua có soạn bài văn tán thán.
* Thích Huệ Nhân chùa Bao Sơn ở
Ngô Quận đời Đường
Sư thông hiểu
Pháp Hoa, Kim Cang, siêng ṛng giảng tụng. Trong niên hiệu
Chí Đức[56],
vào lúc hoàng hôn, Sư thấy một người vào thưa:
“Vua thỉnh pháp sư”, thân Sư liền cứng đờ,
ngă lăn ra, chỉ có vùng tim vẫn ấm. Bảy ngày sau,
Sư mới tỉnh lại, tự nói: - Ta theo sứ giả
tới một ṭa thành. Ṭa thành ấy hết
sức rộng răi, tráng lệ. Vào thành gặp vua, tùy tùng của
vua tới mấy trăm người. Vua bước xuống
điện, tới trước cửa, vái chào, thưa:
“Đệ tử bất hạnh, chủ danh vọng tài lộc
trong cơi đời và trừng trị tội nhân, rất khổ
sở. Nghe thượng nhân khéo giảng Pháp Hoa, mong thầy
hăy giảng giải, phân tích”. Do vậy, ta thăng ṭa giảng
giải xong. Vua biếu tặng ba trăm xấp lụa,
sai người đưa về. Lại thấy bên cạnh
có hơn một trăm vị tăng, ngón tay đều
sanh móng sắt cấu xé nhau, máu thịt nhầy nhụa trên đất.
Do vậy, hoảng sợ sống lại. Sư ngồi dậy,
lụa đă chất trong pḥng.
* Vị tăng trong niên hiệu
Nguyên Ḥa đời Đường
Trong niên hiệu Nguyên
Ḥa[57]
đời Đường, có vị tăng vào cơi âm, thấy
Địa Tạng Bồ Tát. Đức Địa Tạng
hỏi Sư b́nh thời tu nghiệp ǵ? Sư thưa: “Con
niệm kinh Pháp Hoa”, Bồ Tát nói: “Chỉ chỉ bất
tu thuyết, ngă pháp diệu nan tư (Thôi thôi chẳng cần
nói, pháp ta diệu khó nghĩ), đó là nói hay chẳng nói?”
Tăng không đáp được, Quy Tông đáp thay. [Bồ
Tát dạy]: “Lần này hăy trở về, lần lượt
truyền dạy cho người khác lưu thông”.
* Thích Giám Không chùa Hương Sơn
ở Lạc Dương đời Đường
Sư họ Tề,
người Ngô Quận. Tuổi tráng niên, Sư dạo chơi
khắp vùng Ngô Việt. Đầu niên hiệu Nguyên Ḥa, gặp
lúc Tiền Đường mất mùa, đói kém, Sư tính
đến xin ăn tại chùa Thiên Trúc. Sư tới phía
Tây chùa Cô Sơn, đói đến nỗi không đi nổi.
Do vậy, tới bên sông, trào nước mắt, ngâm ngợi
bi thương để tiêu sầu. Bỗng có một vị
Phạm tăng cũng đến ngồi bên sông, nh́n Sư
cười nói: “Pháp sư tú tài, tư vị lữ du đă
đủ chưa?” Sư nói: “Tư vị lữ du là
được rồi, sao lại gọi là pháp sư?” Vị
Phạm tăng nói: “Ông không nhớ đă từng giảng
kinh Pháp Hoa tại chùa Đồng Đức ở Lạc
Dương ư?” Sư đáp: “Tôi sanh ra đến nay bốn
mươi lăm năm, chỉ quẩn quanh nơi vùng Ngô
Việt, làm sao có thể nói đến chuyện Lạc
Dương cho được?” Vị Phạm tăng nói:
“Hẳn là ông bị lửa đói thiêu đốt, chẳng
rảnh đâu mà ghi nhớ”. Liền lục trong đăy, lấy
ra một quả táo to như nắm tay, trao cho Sư, bảo: “Táo này là sản vật của
nước tôi, ăn vào sẽ đắc thượng trí,
biết quá khứ, vị lai”.
Sư quá đói,
ăn táo, vốc nước uống, bỗng ngáp dài, duỗi
ḿnh, gối đầu lên đá ngủ. Chốc lát tỉnh
giấc, Sư nhớ lại chuyện giảng
kinh ở chùa Đồng Đức rơ ràng như chuyện
đêm qua. Do vậy, bùi ngùi rơi nước mắt, hỏi:
“Chấn ḥa thượng c̣n sống hay không?” Phạm
tăng nói: “Do chưa chuyên tinh đạt mức, lại
tái sanh làm vị Tăng ở đất Thục”. “Thần
thượng nhân c̣n không?” Phạm tăng đáp: “Nguyện
trước chưa măn, đọa vào chốn nhung y chiến
mă”. “Ngộ pháp sư c̣n không?” Phạm tăng nói: “Thầy
chẳng nhớ hay chăng? Ông ta đối trước tượng đá ở
Hương Sơn đùa bỡn phát nguyện rằng: ‘Nếu
chẳng chứng Vô Thượng Bồ Đề, ắt
nguyện làm vị quan oai hùng, quyền quư’, nay đă làm
đại tướng quân rồi! Năm vị tăng vân
thủy thuở ấy, chỉ ḿnh tôi được giải
thoát, chỉ riêng ông chịu cảnh đói lạnh!”
Sư khóc, nói: “Tôi
suốt bốn mươi mấy năm, ngày chỉ ăn
một bữa, một tấm áo nâu ṣng, đối với
chuyện thế tục hư huyễn, quyết đoạn
cội nguồn. Nào ngờ phước chẳng hoàn bị,
gặp phải cảnh đói lạnh này”. Vị Phạm tăng nói: “Trên ṭa sư tử,
Sư nói quá nhiều lẽ dị đoan, khiến cho
người học pháp Không tâm sanh nghi hoặc, giới hạnh
thiếu sót. Tập khí xấu hăy c̣n đôi chút! H́nh cong th́
bóng vẹo, quả báo cũng phải nên là như thế!”
Sư nói: “Làm như thế nào đây?” Phạm tăng bảo:
“Nay sự việc đă định, tôi dùng cái duyên đời
khác để cảnh tỉnh ông”. Sư bèn lục đăy,
lấy ra một tấm gương, bảo
Sư rằng: “Muốn biết sang hèn sai khác, thời hạn
dài hay ngắn, Phật pháp hưng suy, ông hăy nên soi một
phen”. Sư soi hồi lâu, cảm tạ: “Điềm báo ứng,
lư tươi tốt hay héo khô, chỉ nghe theo mạng”.
Sư bèn cùng bạn nắm tay đi mấy bước, bỗng
chẳng thấy vị Phạm tăng đâu nữa.
Đêm hôm ấy, Sư xin xuất gia tại chùa Linh Ẩn.
Sư thọ Cụ Túc Giới,
chuyên tụng Pháp Hoa, càng nêu cao khí tiết khắc khổ. Về
sau, Sư tới Lạc Dương, gặp Liễu Trinh ở
Hà Đông nói chuyện ấy. Lại nói: “Tôi sống trên
đời bảy mươi bảy năm, cầm bát khất
thực, hăy c̣n sống chín năm nữa. Sau khi tôi diệt,
Phật pháp sẽ suy vi”. Ông Trinh gạn hỏi, Sư cầm
bút đề rằng: “Hưng nhất sa, suy hằng sa.
Thố nhi trí, khuyển nhi noa. Ngưu hổ
tương giao dữ giác nha, bảo đàn chung bất diệt kỳ hoa” (Hưng thịnh một hạt cát,
suy vi nhiều như cát sông hằng. Thỏ đặt bày,
chó bắt bớ. Trâu cọp cùng nhau đấu răng sừng,
đàn báu trọn chẳng diệt hoa ấy)[58].
Về sau, quả nhiên phù hợp lời sấm ấy, v́
Sư nói đến chuyện triều đ́nh sa thải
[Tăng sĩ, đóng cửa chùa] trong năm Hội
Xương (niên hiệu của Đường Vũ Tông).
* Thích Thủ Tố đời
Đường
Sư trụ tại
chùa Hưng Thiện ở Trường An, luôn chú trọng tụng tŕ, thề chẳng ra khỏi
chùa. Sư tụng kinh Pháp Hoa ba vạn bảy
ngàn bộ. Trong đêm, thường có con lửng chó (raccoon) nhiễu quanh nghe kinh. Khi
Sư thọ trai, chim chóc mổ thức ăn trên tay. Trong
sân chùa, có bốn gốc thanh đồng.
Trong niên hiệu Nguyên Ḥa, công khanh, quan lại nhiều
người đến văn cảnh chùa. Cây thanh đồng
tới hạ đổ mồ hôi, khiến cho áo người
khác bị lem luốc không thể gột rửa được.
Trịnh tướng quốc do vậy từng muốn chặt
bỏ. Sư căn dặn cây: “Ngươi dùng mồ hôi
làm bẩn người ta, người ta sẽ đốn
ngươi. Nếu có thể chẳng đổ mồ hôi
th́ đừng đổ nữa”. Từ đấy, cây quả
nhiên chẳng đổ mồ hôi nữa. Đầu niên hiệu
Trường Khánh[59],
có vị tăng Huyền U đề thơ nơi viện
này rằng: “Ba vạn kinh Sen, ba mươi xuân, nửa
đời chẳng dẫm bụi ngoài sân”. Người
đương thời coi đó là chuyện đáng để
ghi lại.
* Thích Vô Ngôn đời Đường
Sư họ Lư, giáo
pháp tinh mật. Sư từng cầm một
cái bát sắt nhập Định. Trời sắp quang
đăng th́ trong bát có ánh lửa chiếu lên trời, trời
liền quang tạnh. Trời sắp mưa th́ trong bát có
hơi trắng bốc lên, liền đổ mưa. Họ
Mông phong Sư làm Quán Đảnh pháp sư. Sư một hôm
giảng kinh Pháp Hoa, có ông lăo đứng nghe xong rồi
cưỡi gió mây mà đi. Đại chúng kinh ngạc hỏi
han, Sư bảo: “Đó là rồng ở Nhị Thủy”.
* Thích Diệu Hạnh đời
Đường
Sư tinh thông Thiên
Thai Giáo Quán, vào ở trong Thái Sơn, kết cỏ làm áo, hái
trái cây làm thức ăn. Sư hành Pháp Hoa tam-muội, cảm
đức Phổ Hiền hiện thân chứng minh. Về
sau, một buổi chiều, Sư thấy trên đất
lưu ly có một vị Phật và hai vị Bồ Tát, vọt
lên đứng giữa hư không. Đường Hy Tông
nghe danh Ngài, xuống chiếu ban hiệu là Thường
Tinh Tấn. Về sau, một ngày nọ, Sư lại thấy
đất báu, bảo người chung quanh rằng: “Ta
chẳng quán tướng mà lại thấy thật địa,
kỳ hạn về An Dưỡng đă đến rồi”.
Ngay trong ngày hôm đó, Sư nằm an tường bên hông phải
qua đời.
* Thích Toại Đoan đời
Đường
Sư người
Minh Châu, họ Trương, bỏ nhà xuất gia tại
chùa Đức Nhuận. Thầy dạy kinh Pháp Hoa, Sư tụng
như đă quen tu tập từ trước, mọi
người đều kinh hăi, tán thán. Trong mười hai
thời, Sư luôn phúng tụng chẳng để luống
qua. Năm Hàm Thông thứ hai (861), Sư bỗng ngồi xếp
bằng mà qua đời. Trong khoảnh khắc, miệng sanh ra bảy nhánh hoa sen xanh, tỏa
hương ngào ngạt, xa gần tới chiêm lễ. Do vậy,
tạo khám chôn Sư ở dưới Đông Sơn. Hai
mươi mấy năm sau, mở ra xem, thấy h́nh hài
như đang c̣n sống, bèn đón về chùa, bó nhựa cây sơn ta thành tượng. Nay đặt
tên nơi ấy là Chân Thân Viện.
* Thích Nguyên Huệ đời
Đường
Sư trụ tại chùa Pháp Không
Vương ở Gia Hưng, b́nh sanh tụng Pháp Hoa, chẳng
tính nổi số. Sư lập chí giữ ba bạch pháp. Ba
bạch pháp là thân chẳng vọng động, miệng chẳng
nói dối, ư chẳng vọng duyên. Đó là ba bạch nghiệp.
Người thuở đó gọi Sư là Tam Bạch Ḥa
Thượng. Trong niên hiệu Hàm Thông, Sư đưa xá-lợi
Phật cốt đến Phượng Tường, đốt
ngón cái bên trái, miệng tụng kinh Pháp Hoa. Chẳng đầy
một tháng, ngón ấy lại mọc ra.
* Thích Công Quưnh chùa Quảng Phước
tại Biện Châu đời Đường
Sư người
xứ Tuấn Nghi thuộc Biện Châu. Lúc sáu tuổi, mẹ
dạy truyền khẩu kinh Quán Âm, Sư học một
ngày bèn thuộc. Mười sáu tuổi, Sư xả tục, vào Thái Sơn, phụng
sự sư Hoằng Pháp. Sư thiểu dục, giữ vững
khí tiết, áo vải ngồi trong lều tranh. Sư tự
suy nghĩ: “Khoanh tay ngồi yên trong chốn núi rừng, một
mực tốt lành cho riêng ḿnh [th́ được]. Nếu
như duy tŕ, gởi gắm những ước vọng
khác mà chẳng giáo hóa, khuyên dụ, sẽ chẳng thể
hoằng dương”. Sư bèn đi tham học, trụ
tại chùa Huệ Phước, chuyên tụng Pháp Hoa, soạn
sớ giải gồm năm quyển. Sư thường
diễn giảng. Một hôm, Phổ Hiền Bồ Tát hiện
thân, cưỡi voi sáu ngà, đất đều trắng
như bạc. Trước sau, Sư giảng Pháp Hoa hơn
năm mươi lần. Mỗi lần Sư giảng tới phẩm Dược
Thảo Dụ, trời ắt đổ mưa.
* Thích Sở Vân đời Đường
Sư sanh vào cuối
đời Đường, xuất gia tại Hành Nhạc,
từng trích máu chép một bộ kinh Pháp Hoa, dài bảy tấc,
rộng bốn tấc, dày hai tấc. Sư dùng đàn
hương làm hộp đựng, cất trong Tam Sanh Tạng
chùa Phước Nghiêm. Lại khắc tám chữ trên đó rằng:
“Nhược khai thử kinh, thệ đồng Từ Thị”
(nếu [ai muốn] mở kinh này ra th́ phải có thệ
nguyện giống như đức Di Lặc). Trong niên hiệu
Hoàng Hựu[60],
có quư nhân đến chơi núi, trông thấy, nghi là hư vọng,
sai người dùng kềm phá niêm phong, có máu từng sợi
tràn ra. Trong khoảnh khắc, băo tố sét đánh xuống
sơn cốc. Khói mây tràn vào chùa, sờ soạng chẳng thấy
nhau, suốt ngày chẳng hết. Quư nhân hết sức kinh
sợ, gieo ḷng thành sám hối. Vị tăng tên Giác Phạm
chùa Thạch Môn ở Quân Khê vào đời Tống đă từng
đến thăm, kính cẩn vâng đội, nh́n kỹ th́
thấy sợi máu vẫn c̣n đó. Người cùng thời
là sư Thiền Nguyệt Quán Hưu, có thơ đề tặng rằng:
“Lóc da, trích máu sao mà khổ? V́ chép Linh Sơn chín hội
văn. Huyết mười ngón cạn thành bảy quyển,
cầu pháp sau này ai bằng ông?”
* Vị tăng chùa Ngộ Chân đời
Đường
Trong niên hiệu
Trinh Quán đời Đường, vị tăng ở Ngộ
Chân Tự tại Trường An, đêm nghỉ lại Lam
Khê, bỗng nghe có tiếng tụng kinh Pháp Hoa. Âm thanh nhỏ
nhẹ, lan xa. Dưới ánh trăng nh́n bốn phía, tịch
mịch chẳng thấy ai. Sư hoảng sợ, trở về
chùa thưa với chư Tăng, rủ họ đêm sau
cùng đến nghe. Họ nghe thấy tiếng tụng kinh
từ dưới đất vọng lên, bèn đánh dấu
chỗ đó. Ngày hôm sau, đào chỗ đánh dấu, kiếm
được một đầu lâu trong đống đất,
xương đă khô ran, chỉ có miệng và lưỡi
tươi nhuận, bèn đem về chùa, dùng hộp đá
đựng trong chái Tây của Phật điện. Từ
đó, mỗi đêm thường có tiếng tụng kinh Pháp Hoa phát
ra từ hộp đá. Trai gái ở Trường An đến
xem cả ngàn người. Về sau, hộp đá ấy bị
một vị Tăng ở Tân La lén trộm đi.
* Tôn Hàm đời Đường
Ông làm hiệu úy
trong quân của Lương Sùng Nghĩa tại Tương
Châu. Tuy ở trong quân, ông luôn kiền thành chép kinh Pháp Hoa. Một
hôm, ông chết đột ngột. Hai ngày sau sống lại,
nói ḿnh tới một vương phủ, nghi vệ rất
nghiêm. Nha lại dẫn ra một ông Tăng đối chất,
ông tăng tên là Hoài Tú, chết đă cả năm. Tăng
lúc sống phạm giới, vào cơi âm th́ không thấy ghi chép
điều thiện nào, bèn nói dối rằng: “Tôi từng sai Tôn Hàm chép
kinh Pháp Hoa”. Vua (Diêm vương) sai triệu Tôn Hàm đến đối
chất. Tôn Hàm thoạt đầu chẳng biết,
thưa là chẳng có. Ông tăng cứ khăng khăng. Tôn
Hàm bỗng thấy Địa Tạng Bồ
Tát bảo: “Nếu ông chấp nhận, th́ người ấy
cũng được hưởng ân, cũng sẽ được gia hộ”.
Tôn Hàm vâng lời, ông tăng
bèn được thả.
Ngay trong lúc đang
đối chất, ông thấy một vị vua mặc
nhung phục từ ngoài đi vào, tùy tùng cả trăm
người. Vua cơi âm xuống bệ đón vào, mời ngồi
lên bệ. Chẳng lâu sau, có trận gió lớn cuốn
đi mất. Lại có một người thường
tŕ kinh Kim Cang, nhưng thích ăn thịt. Phía bên trái có mấy
ngàn quyển kinh, bên phải chất thịt như núi, do thịt
nhiều, [Diêm vương] bèn sắp luận tội. Bỗng
từ trong đống kinh, văng ra một đốm lửa,
bay đến núi thịt. Trong khoảnh khắc, [núi thịt]
cháy sạch. Người ấy bước lên không trung mà
đi. Tôn Hàm hỏi đức Địa Tạng: “Vị
vua mặc nhung phục trước đó bị gió cuốn
tới đâu?” Ngài Địa Tạng nói: “Vị vua ấy
sẽ vào Vô Gián. Trận gió ấy chính là nghiệp phong”. Do
vậy, Bồ Tát dẫn Tôn Hàm đi xem địa ngục.
Đến cửa, lửa khói bốc hừng hực, ông sợ
chẳng dám nh́n, bỗng vạc sôi trào bọt, văng giọt
nước trúng đùi trái của ông, đau thấu tâm tủy.
Địa Tạng sai nha lại đưa ông về.
[Lúc ông sống lại],
vợ con đang vây quanh khóc lóc, đă một ngày trôi qua rồi.
Ông bèn dốc hết của cải trong nhà chép kinh Pháp Hoa,
quyết chí thề xuất gia. Chỗ bị nước
sôi văng trúng biến thành ghẻ lở, suốt đời
chẳng lành. Hoài Tú nói dối c̣n được miễn tội
phá giới, huống hồ người c̣n sống thật
sự chép kinh ư? Đức Địa Tạng khuyên nhủ
Tôn Hàm thừa nhận, chắc là ông tăng có điều
túc thiện nào đó. Ông Hàm chịu tai ách v́ vạc sôi, sao
biết chẳng phải là nghiệp? Từ đầu
đến cuối, ông vâng theo lời chỉ dạy của
đức Địa Tạng, rốt cuộc được
sống lại, tức là công đức chép kinh đă rành
rành rồi!
* Ni Pháp Tín ở Hà Đông đời
Đường
Đời
Đường, tại Hà Đông có luyện
hạnh ni tên là Pháp Tín, thường đọc Pháp Hoa. Bà
đặc biệt tạo tịnh thất, mời người
viết chữ đẹp chép kinh Pháp Hoa, trả công cao gấp
mấy lần, cực lực trang nghiêm. [Người chép
kinh] sáng dậy phải tắm rửa, thắp
hương, thay áo, dụng công chép bảy quyển, tám
năm mới xong. Năm Trinh Quán thứ hai (628), vị
tăng chùa Long Môn là Pháp Đoan nhóm chúng giảng diễn, muốn
mượn ni sư quyển kinh ấy, v́ cho đó là bản
khuôn mẫu. Ni sư cố từ chối, Pháp Đoan trách
mắng. Bất đắc dĩ, bà tự đưa đến
cho Pháp Đoan. Pháp Đoan mở ra xem, chỉ thấy giấy
vàng, chẳng thấy chữ. Sư hổ thẹn, sợ
hăi, đưa trả. Ni sư buồn khóc, nhận lấy,
dùng nước thơm rửa hộp đựng kinh, tắm
gội, xông hương, đội kinh lên đầu, nhiễu
Phật bảy ngày. Xong rồi mở ra xem, văn tự hiện
ra như cũ. Lại có vị ni tên là Pháp Nhuận, trụ
tại chùa Tam Muội Vương ở Đan Dương,
nhập đạo từ bé, chuyên ṛng tu Thiền huệ, tụng thông
thạo kinh Pháp Hoa, sáng tối không ngừng. Sau khi mất,
da thịt đều tan hết, chỉ c̣n tim và lưỡi
chẳng hư nát.
* Sầm Văn Bổn đời
Đường
Ông có tên tự là Cảnh
Nhân, người Cức Dương, tin Phật từ bé, tụng
phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa. Ông từng ngồi thuyền
sang Ngô Giang. Giữa gịng thuyền lật,
mọi người đều chết đuối. Văn
Bổn cũng rơi xuống nước. Bỗng nghe có
người nói: “Người có thể tụng kinh Pháp Hoa
th́ sẽ chẳng chết”. Nói
như thế ba lượt, ông liền nổi lên mặt
nước. Trong chốc lát, đến bờ. Một hôm,
ông làm trai
tăng tại nhà, một vị Tăng rời đi sau
cùng, nói: “Thiên hạ sắp loạn, ông may mắn chẳng
bị tai ương. Rốt cuộc được hưởng thái b́nh, phú quư”. Nói xong, chẳng thấy
đâu nữa. Tới khi Văn Bổn thọ trai, lại
từ trong bát, t́m được hai viên xá-lợi. Về
sau, ông làm quan cho nhà Đường tới chức Trung
Thư Lệnh.
* Hoàng Môn Thị Lang Vương Yêm
đời Đường
Ông bẩm tánh vụng
về, chậm chạp, một bộ kinh Pháp Hoa tụng
lâu ngày mới thông thạo. Về sau, bệnh chết, báo mộng
cho em trai là Thái Thú Tân An Vương Cố rằng: “Ta do tụng
kinh được sanh về Tây Phương. Nhưng do chậm
lụt, vẫn c̣n ở trong thai sen có cánh hoa bằng sắt.
Báo cho các ngươi biết, tâm hăy siêng gắng nơi kinh
điển”. Nói xong bèn từ biệt.
* Lệnh Hồ Nguyên Quỹ ở
Long Châu đời Đường
Ông là người xứ
Ba Tây, kính tin Phật pháp, vâng theo lời dạy của Hàng
thiền sư, chép một bộ kinh Pháp Hoa, sắp xếp
thành quyển trang nghiêm, đẹp đẽ, kiền thành
thờ ở trang trại tại Kỳ Châu. Một đêm,
lửa rừng cháy lan đến trại, nhà cửa trong
trang trại đều thành tro. Ông Quỹ sai bới tro, t́m
được ống đồng đựng kinh, th́ thấy
lớp bọc bên ngoài đă thành tro, kinh vẫn ngời ngời,
màu vàng chẳng thay đổi. Đó là chuyện trong
năm Trinh Quán thứ năm (631).
* Đổng Hùng ở Hà Nam đời
Đường
Trong niên hiệu
Trinh Quán đời Đường, Đổng Hùng ở
Hà Nam làm Đại Lư Thừa, do vướng vào chuyện
Lư Tiên Đồng, chúa thượng tức giận, sai Thị
Ngự là Vi Tông tra hỏi rất gấp. Lư Kính Huyền thuộc
Đại Lư Tự, Tư Trực Vương Hân v.v… mấy
chục người bị hạ ngục. Đổng Hùng
chuyên niệm phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa, hằng
ngày tụng ba mươi lượt, đêm cũng chẳng
ngủ. Gông xiềng bỗng tự tháo ra. [Ngục tốt]
kinh hăi báo lên người coi ngục. Đêm ấy, Giám Sát
Ngự Sử Trương Thủ Nhất trực đêm,
đích thân trông thấy, rất lạ lùng, bèn xiềng chặt,
niêm phong mới rời đi. Đổng Hùng vẫn tụng
kinh. Tới canh năm, xiềng tuột ra, rơi xuống
đất vang ra tiếng, mà giấy niêm phong c̣n nguyên. Trong
ngoài Ngự Sử Đài nghe chuyện ấy, đều lấy làm lạ.
Khi yên chuyện, những tù nhân cùng trại giam với ông
đều được thoát tội.
* Sử Ha Thệ tại Trường
An đời Đường
Đời
Đường, tại thôn Nam Sử thuộc Phước
Thủy, huyện Trường An, có Sử Ha Thệ b́nh
sanh tụng kinh Pháp Hoa, được tuyển làm nha lại
của huyện lệnh. Ông đi lại chuyên đi bộ,
chưa từng cưỡi ngựa, bởi vâng theo kinh dạy
mà thương xót hết thảy. Lúc lâm chung, có mùi
hương lạ, mọi người đều lấy
làm lạ. Mười năm sau, vợ ông mất, đào mồ
lên để hợp táng, thấy lưỡi ông vẫn
như lúc sống.
* Hiệu Úy Lư Sơn Long thuộc Hữu
Giám Môn đời Đường
Ông là người
Phùng Dực. Trong niên hiệu Vũ Đức, bỗng chết
đột ngột, chỉ có vùng tim vẫn c̣n ấm.
Bảy ngày, ông mới sống lại, nói:
- Ta tới một
quan thự (dinh thự của quan), trong đó có mấy ngàn
tù nhân, đều bị xiềng, đứng hướng
mặt về phía Bắc. Vua hỏi Sơn Long b́nh sanh làm
phước thiện ǵ? Ta thưa: ‘Hễ gặp người
làng luôn cho họ đồ vật’. Lại hỏi: ‘Ông lại
c̣n làm đức nghiệp ǵ?’ Ta đáp: ‘Hằng ngày tụng
hai quyển kinh Pháp Hoa’. Vua đứng dậy nói: ‘Rất
lành! Ông có thể lên ṭa cao ở phía Đông Bắc trước
thềm mà tụng’. Ta liền cất giọng đọc tựa
đề Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Tự Phẩm đệ
nhất. Vua nói: “Xin thôi! Ông tụng kinh không chỉ tự lợi,
mà c̣n khiến cho các tù nhân trong sân nghe pháp đều
được thoát tội! Lành thay!” Các tù nhân bỗng chẳng thấy đâu nữa. Vua
sai thả ta trở về. Ta đi về phía Đông, thấy
một ṭa thành bằng sắt rất rộng lớn. Nha lại
nói: “Đấy là đại địa ngục. Bên trong
chia ra từng ngăn, đều tùy theo bổn nghiệp mà
vào từng ngục chịu tội”. Ta nghe nói buồn sợ,
xưng Nam-mô Phật, lại xin nha lại dẫn ra. Ta bỗng
thấy ngoài thành có người ngồi, nằm. Ta hỏi
th́ nha lại nói: “Đấy là những kẻ mắc tội
báo, đáng vào vạc sôi, do được hiền giả
xưng Nam-mô Phật, các tội nhân tạm thời
được nghỉ một ngày”.
* Cháu nội ông Cao Biểu Nhân ở
Trường An đời Đường
Ông thường
đọc Pháp Hoa. Tháng Giêng năm Long Sóc
thứ ba (663), ông cưỡi ngựa ra cửa Thuận
Nghĩa, có hai kỵ sĩ đuổi theo, xưng là sứ
giả cơi âm, đặc biệt đến truy đuổi
ông. Ông Cao hoảng sợ chạy về phía Tây, muốn vào
chùa Phổ Quang. Quỷ nhanh chóng chặn đằng trước cửa, không cho ông vào. Ông lại chạy về
phía Đông muốn vào chùa Khai Thiện. Quỷ lại
ngăn đằng trước, ông bèn chạy vào phường
Lễ Tuyền. Một kỵ sĩ chặn đằng
trước, ông Cao đấm cho quỷ
đó rớt ngựa. Quỷ đằng
sau tức giận, từ
xa nắm tóc ông Cao lôi xuống ngựa. [Ông Cao hôn mê], người
nhà khiêng về, tới đêm mới sống lại, tự
nói:
- Ta đến gặp
vua cơi âm. Vua nói: “Cớ sao ngươi lấy trộm trái
cây của tăng, lại c̣n kể lỗi Tam Bảo?” Ta nhận
tội, không dám căi, vua nói: “Cái tội lấy
trộm trái cây, đáng nuốt bốn trăm năm
mươi ḥn sắt, thọ tội bốn năm mới
hết. Cái tội kể lỗi, đáng bị cày lưỡi”.
Do đó, thả về.
Nói xong, ông lại
đứt hơi, miệng như đang nuốt vật
ǵ, toàn thân đỏ ửng, suốt một ngày mới tỉnh.
Bốn năm như thế, quả báo nuốt ḥn sắt mới
hết. Ông bỗng lại tắt hơi, thần thức tới
chỗ vua. Vua sai quỷ sứ kéo lưỡi ra cày. Quỷ
cầm móc câu cạy miệng, sắc bén dị thường,
trọn chẳng lôi lưỡi ra được. Vua bèn xem
sổ sách, biết là do sức công đức v́ từng
đọc Pháp Hoa, chẳng thể kéo lưỡi ra
được, bèn tha tội cho về. Từ đó, ông
thường ở chùa Hóa Độ, hành ngũ hối pháp
để sám hối tiền khiên.
* Phan Quả ở kinh đô đời
Đường
Lúc hai mươi,
ông làm chức Đô Thủy Tiểu Lại (nha lại giúp
trông coi về đường thủy) tại huyện Phú
B́nh. Tới khi trở về nhà, cùng mấy thiếu niên
đi chơi ngoài đồng. Thấy một con dê đang
ăn cỏ, Phan Quả và bọn thiếu niên bắt đem về. Giữa
đường, dê kêu ầm lên, Phan Quả sợ chủ nó
nghe thấy, bèn cắt lưỡi nó, giết nó đem
ăn. Sau một năm, lưỡi Phan Quả dần dần
rút nhỏ, phải
gởi đơn xin
thôi làm tiểu lại. Huyện lệnh là Trịnh Dư
Khánh nghi dối trá, bắt mở miệng để xét nghiệm,
thấy lưỡi chỉ nhỏ bằng hạt đậu chứ
không mất. Quan hỏi nguyên cớ, ông lấy giấy viết
ra để trả lời. Huyện lệnh dạy ông chép
kinh Pháp Hoa, làm phước hồi hướng cho con dê. Phan
Quả theo đúng lời dạy mà phát tâm biên chép, trai giới
chẳng lười nhác. Sau một năm, lưỡi dần
dần mọc ra, b́nh phục như cũ. Lại đến
quan tŕnh đơn, huyện lệnh dùng ông làm Lư Chánh (trưởng làng).
* Thiếu Thường Bá[61]
Thôi Nghĩa Khởi đời Đường
Cha vợ của
ông là Tiêu Văn Khanh chuyên tŕ Pháp Hoa trọn mấy ngàn biến,
vĩnh viễn thôi ăn mặn. Vợ ông Thôi là Tiêu thị
chết vào tháng Năm năm Long Sóc thứ ba (663). Ông Thôi
làm chay hai mươi mốt ngày. Cô tớ gái là Tố Ngọc
bỗng nói giọng của phu nhân, cho biết lúc sống chẳng
tin Tam Bảo, nay chịu khổ chẳng thể nói: “Do các
vị v́ tôi tụng kinh, thiết trai, tôi được tạm
thả về. Tới ngày hai mươi sẽ trở lại,
dẫn Tố Ngọc đi xem tôi chịu tội”. Tới
kỳ hạn, quả nhiên Tố Ngọc chết. Ba ngày
sau, cô ta sống lại nói thấy cung điện, phủ thự
trong ṭa thành lớn, phu nhân vào một viện riêng. Trong chốc
lát vạc lửa, giường sắt đưa đến,
[phu nhân] chịu đủ mọi nỗi khổ độc.
Cô đột nhiên thấy ông Tiêu Văn Khanh ngồi trên
đài hoa sen, bảo Tố Ngọc rằng: “Con gái ta lúc sống
hay sân hận, ghen ghét, chẳng tin lời ta, chẳng tin
nhân quả. Nay chịu nỗi khổ này, ta chẳng thể
cứu được. Ngươi quay về, hăy nên bảo
với người nhà, khiến cho họ tu công đức ḥng được giải
thoát”. Lại thấy một vị Phạm tăng từ
không trung hạ xuống, dạy Tố Ngọc tụng kinh
Pháp Hoa. Sư dặn ḍ: “Ngươi hăy nên nhớ tŕ kinh
này, v́ người Diêm Phù Đề truyền tụng, sẽ
có người tin tưởng”. Lân Đức nguyên niên
(664), tại nhà Tưởng Tướng Quân thiết trai,
đón Tố Ngọc tới để thử cô ta tụng
kinh cơi âm. Có vị Phạm tăng nghe xong, chắp tay tán
thán: “Giống hệt như kinh bổn tại Tây Quốc
chẳng khác”, đại chúng mới kinh hăi, thán phục.
* Vợ chàng họ Mă
[Chuyện này] phát
sanh tại Thiểm Hữu. Trước kia, tập tục
của vùng đất này là cưỡi ngựa, bắn tên,
chẳng biết đến danh hiệu Tam Bảo. Năm
Nguyên Ḥa 12 (817), bỗng có một cô gái xinh đẹp xách giỏ bán cá. Người ta tranh
nhau muốn cưới cô. Cô gái nói: “Ai có thể trong một
đêm tụng thuộc phẩm Phổ Môn, tôi sẽ theo
người đó”. Tới sáng, tụng thấu triệt có
hơn hai mươi người. Cô ta lại lấy kinh
Kim Cang Bát Nhă [yêu cầu như trên]. Sáng ra, vẫn có mười
người thông thuộc. Cô ta lại lấy toàn bộ
kinh Pháp Hoa, hẹn ba ngày thông suốt, riêng chàng họ Mă là
có thể [tụng thuộc]. Chàng ta bèn sắm sửa đủ
lễ, đón cô về. Vào cửa, cô ta nói bị bệnh,
xin cho ở riêng một pḥng. Trong khoảnh khắc đă chết,
thân thể liền hư nát, họ bèn đem chôn. Mấy
hôm sau, có một vị lăo tăng áo tía, tới chỗ chôn,
sai đào lên
xem. Chỉ c̣n có
xương hoàng kim tỏa hăy c̣n. Sư bảo đại
chúng: “Đấy là Quán Âm đại sĩ thương xót các ngươi chướng nặng,
cho nên rủ ḷng ban phương tiện, thị hiện
ḥng hóa độ các ngươi”. Nói xong, Sư bay lên không mà đi (Xem
trong lời tựa tán thán bức tượng ở Tiềm
Khê đời Tống, có bản ghi là Phổ Hiền [thay
v́ Quán Âm]).
* Hai cô con gái họ Hoàng đời
Đường
Họ là người
Tấn Lăng, thuở nhỏ nghe tụng kinh Pháp Hoa, lắng
nghe lâu ngày, bèn nói: “Tôi hiểu nghĩa này”. [Từ đó, họ]
có thể đàm luận sâu xa về Thật Tướng. Về
sau, họ vào chùa An Quốc ở kinh đô làm ni, chị tên
là Tŕ Pháp, em tên là Huệ Nhẫn, cùng tu Pháp Hoa tam-muội. Chợt
có vị ni hiệu là Không Cô, từ ngữ, dung mạo rất
lạ, đến chỗ họ lễ sám, cùng họ hành
đạo. Mỗi khi tới giữa đêm, thân [Không Cô] tỏa
quang minh rạng rỡ. Như thế suốt ba năm,
[Không Cô] bèn rời đi. Có người nghi [Không Cô chính] là
đức Phổ Hiền hóa hiện. Năm Hưng Nguyên
thứ ba, Lương Túc ghi.
* Người thiếp của Đô
Thủy Sứ Tô Trường
Trong niên hiệu
Vũ Đức đời Đường, Đô Thủy
Sứ Tô Trường được phong làm thứ sử
Ba Châu, vượt sông Gia Lăng. Giữa gịng gió nổi,
thuyền lật. Mọi người cùng lúc chết ch́m. Chỉ
có người thiếp thường đọc kinh Pháp Hoa, khi nước tràn vào
thuyền, cô bèn đội hộp đựng kinh lên đầu,
thề cùng kinh chết ch́m. Sau đó, chỉ có ḿnh cô chẳng ch́m, theo
sóng dập dềnh. Trong khoảnh khắc tới bờ. Cô
nâng hộp kinh lên bờ, mở ra xem chẳng thấy bị
ướt. Rốt cuộc cô thiếp được toàn mạng.
Lại ở phía Bắc
thành Hoài Ninh, có chị dâu và cô em chồng cùng tụng Pháp
Hoa, tiếng như vàng ngọc. Sau khi họ chết, mộ
sanh một đóa sen hồng, nở x̣e rất đẹp.
Người đời sau bèn dựng chùa Hoa Đài nơi
cuộc đất ấy.
Lịch triều Pháp Hoa Tŕ Nghiệm
Kỷ quyển thượng hết
[1] Kỷ ở đây được
dùng theo ư nghĩa mô phỏng cách chép Sử trong lối biên
niên sử truyền thống. Trong cách chép sử do Tư Mă
Thiên đề ra, Bổn Kỷ là tiểu truyện của
hoàng đế trong một triều đại, trần thuật
cặn kẽ những sự kiện trọng đại
trong một quốc gia trong một triều đại cụ
thể. Châu Khắc Phục sưu tập các sự tích linh
ứng do tŕ kinh Pháp Hoa, phân loại theo mỗi triều
đại, sắp xếp theo thứ tự các triều
đại trong lịch sử. Đối với mỗi
câu chuyện trong cùng một triều đại, lại dựa
theo thời điểm trước sau trong từng triều
đại ấy để sắp xếp. Khi một nhân vật
sống qua hai vương triều như tổ Trí Giả
(Tổ sanh vào đời Trần, tịch vào đời
Tùy), sẽ chọn triều đại nào Ngài sống nhiều
hơn để xếp Ngài vào triều đại đó.
[2] Tức là quang
minh chiếu từ tướng bạch hào của đức
Phật như đă nói trong phẩm Tự của kinh Pháp Hoa.
[3] Đức Phật
dùng âm thanh để giáo hóa nên giáo pháp của Ngài gọi là âm giáo hoặc thanh giáo.
[4] Tấn Vũ
Đế chính là Tư Mă Viêm (235-290), người sáng lập
triều đại Tấn. Cha ông là Tư Mă Chiêu đă nắm
quyền thao túng nhà Tào Ngụy. Khi ông nội của ông ta là
Tư Mă Ư chết, Tư Mă Sư là con trai trưởng lên
thay. Khi Tư Mă Sư ốm chết, Tư Mă Viêm lên thay, kế
thừa tước hiệu Tấn Vương. Không lâu sau,
ông ép Tào Hoán (Ngụy Nguyên Đế) nhường ngôi cho
ḿnh, lập ra nhà Tấn.
[5] Sa Lặc (Shule,
c̣n phiên âm là Sớ Lặc) là một vương quốc cổ
của người Ba Tư thành lập trên một ốc
đảo trong sa mạc Taklamarkan, nằm ở phía Bắc
con đường tơ lụa, thủ đô là Kashgar
(Khách Thập). Họ nói tiếng Sakan (một ngôn ngữ cổ
ở phía Đông Iran). Tới thế kỷ thứ tám, họ
bị Thổ Phiên (một vương quốc
cổ của người Tây Tạng) chinh
phục. Cuối cùng bị sát nhập vào Khách Lạt Hăn Quốc
(Kara-Khanid Khanate), một vương quốc cổ của
người Thổ Nhĩ Kỳ. Vào thời Đường,
Sa Lặc trở thành lănh thổ phụ thuộc của nhà
Đường.
[6] Tức vùng thung
lũng thuộc rặng núi Pamir (Thông Lănh), nằm giữa phần
giao tiếp giữa các rặng núi Thiên Sơn, Khách Lạt
(Karakoram), Côn Luân, và Hưng Đô Khố Thập (Hindukush).
Vùng này nằm giữa các quốc gia Tajikistan, Kyrgyzstan, A Phú Hăn, Pakistan và
Trung Hoa.
[7] Phù Tần tức
là nhà Tiền Tần (350-394) do Phù Hồng sáng lập.
Đây là một nước trong thời Thập Lục Quốc.
Năm 350, một tướng lănh thuộc dân tộc Đê
là Phù Hồng chiếm cứ vùng Quan Trung, xưng là Tam Tần
Vương. Chẳng lâu sau, ông ta bị Ma Thu đầu
độc chết, con trai là Phù Kiên lên kế vị,
xưng đế. Do Quan Trung là lănh thổ của nhà Tần
thời Chiến Quốc, cho nên Phù Kiên lấy
quốc hiệu là Tần, đóng đô tại Trường
An. Phù Kiên chinh phục các tiểu quốc lân cận, như
diệt nhà Tiền Yên, đánh thắng Đông Tấn, chiếm
cứ Lương Châu và Ích Châu, diệt Tiền
Lương, diệt nước Đại của người
Tiên Ty, sai Lữ Quang chiếm đóng Tây Vực. Thời cực thịnh, lănh thổ nhà Tiền Tần
gần như chiếm trọn vùng bắc Trung Hoa. Sử nói: “Đông
đến tận biển thẳm, Tây thôn tính Quy Tư, Nam
bao gồm Tương Dương, Bắc đến tận
sa mạc”.
[8] Tổ Đạt
Ma sau khi đă tịch, có người sang sứ Tây Vực
thấy Tổ quảy một chiếc dép đi. Người
ấy về tâu lên, vua cho khai quật mộ, chỉ thấy trong quan tài c̣n một chiếc dép. Câu
này có ư sánh ví ngài Huệ Vĩnh thần dị chẳng khác
ǵ tổ Đạt Ma.
[9] Vi (薇) là một loại
rau dại, thuộc loài Dương Xỉ, tức Royal Fern, thường mọc
dưới bóng cây, dọc bờ suối. Phần thường
được dùng để ăn là búp non của nó.
[10] Giản Văn
Đế là Tư Mă Dục (320-372), tên tự là Đạo
Vạn, vua thứ mười bốn của nhà Tấn.
[11] Hưng Ninh là
niên hiệu sử dụng từ năm 363 đến
năm 365 của Tấn Ai Đế (Tư Mă Phi).
[12] Giang Tả
chính là Giang Đông, tức vùng phía Đông sông Trường
Giang (sông Dương Tử), bao gồm các tỉnh Giang Tô,
An Huy, thành phố Thượng Hải, tỉnh Chiết
Giang, tỉnh Giang Tây hiện thời.
[13] Tham Quân c̣n gọi
là Tham Quân Sự, tức Tham Mưu Quân Vụ, là chức
quan vơ, làm cố vấn cho trưởng quan.
[14] Khang Cư
(Sogdiana) là một quốc gia ở Trung Á, thuộc miền
Đông nước Kazakhstan (tức thung lũng Ferghana hiện
thời) và lưu vực sông Syr Daria. Sử Trung Hoa cho biết
nước này nằm phía Bắc Đại Uyển, phía
Tây nước Ngô Tôn, giáp giới Nhục Chi ở phía Nam.
Người Khang Cư là dân du mục. Hậu duệ của
họ là người Zhuz ở nước Kazakhstan.
[15] Chức quan này
gọi đủ là Biệt Giá Tùng Sự Sứ, là quan phụ
tá của Thứ Sử coi một châu. Do địa vị
khá cao, khi du hành có xe riêng, chẳng ngồi cùng một xe với
Thứ Sử, cho nên gọi là Biệt Giá, có trách nhiệm xử
lư thường vụ (hay thường gọi là Chánh
Văn Pḥng theo nghĩa hiện thời) trong phủ thự
của quan tri châu (thứ sử). Đời Tùy, chức quan này được gọi là Trưởng
Sử. Đời Tống, đổi thành Thông Phán.
[16] Chặn sách
(thư trấn) tức là vật dùng để đè lên
trang sách khi đọc để sách khỏi bị xếp
lại.
[17] Người phụ
tá sắp xếp cho pháp sư giảng kinh.
[18] Đại Minh
là niên hiệu thứ hai của Tống Hiếu Vũ Đế
(Lưu Tuấn) sử dụng từ năm 457 đến
464.
[19] Thái Thỉ là
niên hiệu của Tống Minh Đế (Lưu Úc) sử
dụng từ năm 465 đến 471.
[20] Hiếu Kiến
là niên hiệu đầu tiên của Tống Vũ Đế
(Lưu Tuấn) sử dụng từ năm 454 đến
năm 456.
[21] Nguyên Gia là niên
hiệu của Tống Văn Đế (Lưu Nghĩa
Long) từ năm 424 đến năm 453.
[22] Tiêu Bân là cháu họ
của Tiêu Tư Thoại (Tiêu Tư Thoại là cháu gọi bà Tiêu Văn Thọ là cô). Bà Tiêu Văn Thọ lấy Lưu Kiều (tức chú của vua khai sáng nhà Lưu Tống là Lưu Dụ). Mẹ Lưu Dụ mất ngay sau khi sanh, bà Tiêu
Văn Thọ nuôi nấng Lưu Dụ như con ruột. Về
sau, Lưu Dụ lên làm vua, bèn tôn Lưu Kiều làm Hiếu
Hoàng Đế, phong cho Tiêu Văn Thọ làm Hoàng Thái Hậu. Khi bà mất, được vua tôn phong thụy hiệu
là Hiếu Ư Thái Hậu. Do vậy, Tiêu Tư Thoại và họ
Tiêu được trọng dụng. Tiêu Bân do có tài thao
lược, được Tống Văn Đế trọng
dụng, phong làm chủ soái cuộc Bắc phạt đánh
nhà Bắc Ngụy.
[23] Ngụy Thế
Tổ tức là Ngụy Thái Vũ Đế, tên là Thác Bạt
Đảo. Ông này cũng là người nghe theo lời sàm tấu
của đạo sĩ Thôi Hạo, diệt trừ Phật
giáo tại Bắc Ngụy. Đây là lần pháp nạn
đầu tiên của Phật giáo Trung Hoa.
[24] Khai Phủ hiểu
theo nghĩa chung là quan viên có quyền hạn lớn, có thể
mở riêng phủ thự. Thời Tây Ngụy và Bắc
Châu, chia quân lực cả nước thành hai mươi bốn
quân. Mỗi quân lập ra một Khai Phủ là người
cầm đầu đội quân đó, mỗi quân chừng
hai ngàn lính.
[25] Vĩnh Minh là
niên hiệu của Nam Tề Vũ Đế (Tiêu Trách) từ
năm 483 đến năm 493.
[26] Kiến Vũ ở
đây là niên hiệu của Tề Minh Đế (Tiêu Loan) sử
dụng từ năm 494 đến năm 498; trong khi niên hiệu
Kiến Vũ được nói trong chuyện Vương
Huệ Xưng là niên hiệu của Triệu Vũ Đế
(Thạch Hổ) nhà Hậu Triệu sử dụng từ
năm 335 đến năm 348.
[27] Tiêu Tử
Lương (460-494) là con của Tề Vũ Đế (Tiêu
Trách), được phong làm Cánh Lăng Vương, làm quan
tới chức Tư Đồ. Văn Tuyên là thụy hiệu
của ông sau khi mất.
[28] Chức quan này
được đặt ra dưới thời Nguyên Đế
nhà Đông Tấn, trực thuộc Tán Kỵ Tỉnh, có
trách nhiệm theo hầu vua phê duyệt tấu
chương, can gián khi vua phạm sai lầm, chưởng
quản người hầu cận nhà vua.
[29] Quốc Tử
Bác Sĩ là chức quan trông coi việc giáo dục, trông coi
việc dạy dỗ các học sinh thuộc Quốc Tử
Giám, đồng thời là cố vấn chánh trị và
điển lễ, địa vị thấp hơn Quốc
Học Tế Tửu (hiệu trưởng Quốc Tử
Giám). Đến đời Tề, Quốc Học Bác Sĩ
có địa vị ngang với Trung Thư Lang. Bác Sĩ có
nghĩa là người học rộng, thấu hiểu sâu
xa kinh điển Nho gia.
[30] Thiên Giám là niên
hiệu của Lương Vũ Đế từ năm
502 tới năm 519.
[31] Viên Ngang
(461-540), tự là Thiên Lư, quan chức nhà Nam Tề và Nam
Lương, nổi tiếng chánh trực. Khi em trai của
Thượng Thư Lệnh Vương Yến là
Vương Hủ lạm quyền hối lộ, ông đàn
hặc thẳng thừng, không sợ quyền hào. Ông làm quan
đến chức Tư Không, kiêm Thượng Thư Lệnh,
Tả Quang Lộc Đại Phu, được
Lương Vũ Đế rất kính trọng. Viên Ngang
c̣n là một nhà đại thư pháp, văn tài lỗi lạc,
khéo vẽ vời.
[32] Trưng Sĩ
là danh xưng chỉ vị ẩn sĩ chẳng tiếp nhận
chức tước của triều đ́nh.
[33] Ở đây
sách ghi tên ông là Tiển (銑), trong khi sách Pháp Hoa Hiển Ứng Lục
lại ghi tên ông là Sân (詵), có lẽ là
lỗi lầm trong quá tŕnh khắc ván ghi xưa.
[34] Tiêu Sát là con
thứ ba của thái tử Tiêu Thống (Chiêu Minh thái tử),
tức là cháu nội của Lương Vũ Đế. Về
sau, ông này trở thành Lương Tuyên Đế.
[35] Thái Thanh là niên
hiệu thứ bảy và là niên hiệu cuối cùng của
Lương Vũ Đế sử dụng từ năm 547
đến năm 549. Lương Vũ Đế sử dụng
các niên hiệu Thiên Giám, Phổ Thông, Đại Thông, Trung
Đại Thông, Đại Đồng, Trung Đại
Đồng, và Thái Thanh.
[36] Thái Học Bác
Sĩ chính là chức quan Ngũ Kinh Bác Sĩ được
lập ra từ đời Hán, được phong cho những
người có tŕnh độ hiểu biết uyên thâm về
ngũ kinh của Nho gia để dạy các sĩ tử
thuộc Quốc Tử Giám (thoạt đầu gọi là
Thái Học). Thông thường, đời Hán - Ngụy, chia ra cụ thể các kinh như Thư Kinh
Bác Sĩ chẳng hạn. Từ thời Đông Tấn trở
đi, chỉ gọi chung là Thái Học Bác Sĩ. Trách nhiệm
cụ thể là dạy học con các quan từ ngũ phẩm
trở lên cũng như con cháu các quan đứng đầu
quận huyện, cũng như con cháu của các quan từ
tam phẩm trở lên được tuyển vào trường
Thái Học.
[37] Thái Kiến là
niên hiệu của Trần Tuyên Đế (Trần Húc) từ
năm 569 đến năm 582.
[38] Tấn
Dương là kinh đô nhà Bắc Ngụy, nay thuộc thành
phố Thái Nguyên. Nơi này c̣n được gọi là Tinh
Châu hay Long Thành.
[39] Quan Công
được gọi là Vũ An Vương v́ năm Đại
Quán thứ hai (1107), Tống Huy Tông
gia phong ông là Vũ An Vương, rồi cùng năm đó lại phong tặng thụy
hiệu là Chiêu Liệt
Vũ An Vương. Tới năm 1123, lại gia phong
Nghĩa Dũng Vũ An Vương. Tống Cao Tông gia phong thành Tráng Mục Nghĩa Dũng Vũ An Vương.
[40] Nội Sử
là một chức quan thân cận nhà vua, được lập
ra từ thời Tây Châu. Trách nhiệm chủ yếu là
chưởng quản pháp lệnh, giúp vua biên soạn văn
thư, truyền lệnh cho các khanh đại phu. Đến
đời Tùy, Nội Sử là danh xưng để gọi
Trung Thư Lệnh v́ nhà Tùy đổi cơ quan Trung Thư
Tỉnh thành Nội Sử Tỉnh. Tới đời
Đường, Nội Sử chính là Tể Tướng. Tới
đời Thanh, Nội Sử tương đương với
Đại Học Sĩ.
[41] Tức là kinh Thắng
Thiên Vương Bát Nhă Ba La Mật (Pravaradevarāja-pariprcchā). Kinh gồm bảy
quyển, do ngài Nguyệt Bà Thủ Na (Upaśūna) dịch vào năm Thiên Gia
thứ sáu (565) đời Trần. Kinh c̣n có danh xưng là Thắng
Thiên Vương Vấn Bát Nhă Kinh. Trong kinh này, thuận theo
lời hỏi thiên vương Bát Bà La (Pravara), đức Phật giảng giải Bát Nhă
thậm thâm và cách tu tập. Kinh gồm mười sáu phẩm,
chia thành bảy quyển. Kinh này chính là bản dịch khác của
hội thứ sáu trong bộ Đại Bát Nhă Kinh do ngài Huyền
Trang dịch.
[42] An Tức là một
vương quốc cổ tại Ba Tư (Iran hiện thời).
Tiếng Ba Tư gọi là Ashkanian, hoặc Parthia tồn tại
từ năm 247 đến năm 224 trước Công Nguyên.
Đế quốc này do vua Arsaces đệ nhất sáng lập.
Arsaces vốn là lănh tụ bộ tộc Parni chiếm cứ
vùng Parthia. Khi cực thịnh, đế quốc này trải
dài từ lưu vực sông Ấu Phát Lạp
Đê (Euphrates) tới A Phú Hăn và phần
Tây Pakistan. Do nằm trên con đường tơ lụa,
vương quốc này trở thành trung tâm mậu dịch
quan trọng thời ấy.
[43] Vân mẫu (Micas) là tên gọi chung cho các khoáng chất thuộc nhóm Phyllosillicate (tức các
hợp chất Sillicate có thể
tách ra thành từng miếng mỏng), có thể trong suốt
hoặc trong mờ. Mica thường là hợp chất của
Kalium, Natrium, hoặc Calcium kết hợp với nhôm,
manganese, hoặc sắt, và một thành phần không thể
thiếu là chất silicon bị oxyde hóa. Tùy theo cách kết hợp
khác nhau mà thành ra các loại mica khác nhau.
[44] Bộc Xạ
là chức quan đă có từ thời cổ. Theo Hán Quan Nghi
Chú, Bộc có nghĩa là chủ chốt, quản trị, c̣n
Xạ là v́ thời cổ coi trọng vũ thuật. Do vậy,
trong số những người cầm đầu thuộc
hạ, luôn chọn người giỏi bắn tên. V́ thế gọi là Bộc Xạ. Từ đời Hán
trở đi, Bộc Xạ là một danh xưng chung cho quan
viên, từ Thị Trung, Thượng Thư, Bác Sĩ, các
quan Lang, thậm chí người đứng đầu các cảng sông cũng gọi là Bộc Xạ.
Hoặc nói riêng, Thượng Thư Bộc Xạ là phó quan
cho Thượng Thư Lệnh. Từ đời Tùy, chức
trưởng quan đứng đầu Thượng
Thư Tỉnh gọi là Bộc Xạ, tức Thượng
Thư Bộc Xạ (không c̣n danh xưng Thượng
Thư Lệnh), các danh xưng khác về Bộc Xạ
đều bị phế trừ. Như vậy, Tả Hữu
Bộc Xạ chính là Tể Tướng (Thừa Tướng), Tả Bộc Xạ cao hơn Hữu Bộc Xạ.
Từ đời Tống Huy Tông, đổi Tả Hữu
Bộc Xạ thành Thái Tể và Thiếu Tể, từ
đó, không c̣n danh xưng này nữa. Trong các triều đại
Tùy, Đường, Ngũ Đại, chức Thượng
Thư Bộc Xạ chính là Tể Tướng. Tả Bộc
Xạ đứng đầu các quan, quản trị các bộ
Lại, bộ Hộ, bộ Lễ. Hữu Bộc
Xạ quản trị bộ Binh, bộ H́nh và bộ Công.
Trong đời Đường, Cao Tông đổi Bộc Xạ
thành Quốc Chánh, Vũ Tắc Thiên đổi thành Văn
Chương Tả Hữu Tướng, Huyền Tông đổi
thành Tả Hữu Thừa Tướng. Cuối đời
Đường, Bộc Xạ trở thành hư chức
(chức vụ không có thực quyền, chỉ để
gia tặng cho các Tiết Độ Sứ).
[45] Ngài Khuy Cơ
đi đâu cũng có ba chiếc xe: Xe đầu tiên chở
kinh sách, xe thứ hai do ngài tự ngồi, xe thứ ba chở
nữ nhạc công, tớ gái, thức ăn, nên có xước
danh là Tam Xa Pháp Sư. Tuy vậy, có người nói đây là
ngoa truyền, phóng đại, dựa trên chuyện khi
được pháp sư Huyền Trang khuyên xuất gia,
Sư nói chẳng buộc Sư đoạn thế duyên, chẳng
bắt Sư không ăn mặn mới chịu đi tu.
Đó là chuyện trước khi Ngài giác ngộ.
[46] Chiêu Đề
(Caturdeśa), dịch nghĩa
là Tứ Phương, vốn là danh xưng khác của tự
viện.
[47] Quân Tŕ (Kundikā), dịch nghĩa là B́nh,
Tháo B́nh (b́nh để đựng nước rửa ráy),
Thủy B́nh. Đây là một trong mười tám món mà hàng tỳ-kheo
thường mang theo để múc nước. Cũng có thể
dùng để chứa dầu, muối, thạch mật v.v…
Tùy theo công dụng mà sẽ có tên gọi khác nhau, như tịnh
b́nh (b́nh dùng để đựng nước uống), tháo
thủy b́nh (b́nh để múc nước rửa tay, rửa
mặt), tẩy túc b́nh (b́nh để múc nước rửa
chân), hoặc bất tịnh b́nh (b́nh chứa nước dùng
để rửa ráy khi đại tiện) v.v...
[48] Bất Không
(Amoghavajra, 705-774) là một vị cao tăng dịch kinh lỗi
lạc đời Đường. Do Ngài dịch chủ yếu
là kinh Mật Tông nên được tôn xưng là tổ của
Đường Mật. Ngài là người nước
Sư Tử (Samarkand) của Thiên Trúc, thông minh, mẫn tiệp
từ bé. Lúc 14 tuổi, Sư theo học với ngài Kim Cang
Trí, theo thầy đến Lạc Dương vào năm 720.
Sư thông hiểu nhiều ngôn ngữ. Các kinh do ngài Kim Cang
Trí dạy phần nhiều do ngài Bất Không dịch sang tiếng
Hán. Ngài được tổ Kim Cang Trí dạy rất nhiều
Mật pháp như Ngũ Bộ Quán Đảnh, Hộ Ma A
Xà Lê Giáo Pháp, Đại Nhật Kinh Tô Tất Địa
Nghi Quỹ, Chư Phật Đảnh Bộ. Tháng 12 năm
741, Ngài suất lănh các đệ tử như Hàm Quang, Huệ
Biện v.v… hơn ba mươi người xuất phát từ
Quảng Châu ngồi thuyền trở về Sư Tử Quốc.
Ngài học được pháp Kim Cang Đảnh Du Già, Tỳ
Lô Giá Na Đại Bi Thai Tạng. Ngài cần mẫn học
tập, đạt được chỗ thâm yếu, thu thập
nhiều kinh bổn. Năm 746, Ngài trở lại Trung Hoa và
bắt tay công việc dịch thuật.
[49] Thiên Bảo
là niên hiệu của Đường Huyền Tông
(Đường Minh Hoàng) từ năm 742 tới năm
756.
[50] Trước Tác
Lang là chức quan được đặt ra từ đời
Ngụy, trực thuộc Trung Thư Tỉnh, có trách nhiệm
biên soạn quốc sử. Đến đời Tấn,
đổi thành trực thuộc Bí Thư Tỉnh. Đến
thời Đường Cao Tông, đổi Bí Thư Tỉnh
thành Tư Văn Cục, Trước Tác Lang bị đổi
thành Tư Văn Lang Trung, nhưng đến năm Hàm Hanh
nguyên niên (670), đổi lại danh xưng cũ. Tuy nói là
biên soạn quốc sử, nhưng Trước Tác Lang
chuyên soạn thuật bi chí, chúc văn, văn tế…
hơn là chú trọng ghi chép sử.
[51] Đây là một
chức quan đặt ra từ đời Ngụy Tấn,
trực thuộc Trung Thư Tỉnh, thoạt đầu gọi
là Thông Sự Xá Nhân. Đến đời Lương bỏ
đi hai chữ Thông Sự, gọi là Trung
Thư Xá Nhân, có trách nhiệm biên soạn chiếu lệnh,
tham dự bàn chuyện cơ mật. Tới đời
Đường, Trung Thư Xá Nhân quản trị việc
soạn thảo và ban hành chế cáo (chiếu chỉ, thông
cáo) theo lệnh vua mà thôi.
[52] Đại Lịch
là niên hiệu của Đường Đại Tông (Lư Dự)
từ năm 766 đến năm 779.
[53] Vĩnh Trinh là niên hiệu của
Đường Thuận Tông (Lư Tụng) từ năm 805 tới
806.
[54] Đại Lịch là niên hiệu của
Đường Đại Tông (Lư Dự) từ năm 766
đến năm 779.
[55] Tán Chi (Pāñcika), c̣n phiên âm là Tán Chi Ca,
Bán Chi Ca, Ban Xả Ca, Bán Chi Dạ Xoa, Tán Chi Dạ Xoa, là một
trong tám vị đại tướng dạ xoa dưới
quyền Tỳ Sa Môn thiên vương, chồng của Quỷ
Tử Mẫu.
[56] Chí Đức là niên hiệu của
Đường Túc Tông (Lư Hanh) từ năm 756 đến
năm 758.
[57] Nguyên Ḥa là niên hiệu của
Đường Hiến Tông (Lư Thuần) từ năm 806
đến năm 821.
[58] Câu đầu có ư nói: “Đạo
pháp bị suy vi là chuyện phổ biến. Hưng thịnh
th́ ít ỏi, mà suy vi th́ rất thường”. Theo chánh sử, ngày Kỷ Măo (8 tháng 2
năm 840), vua lúc đó là Đường Văn Tông lâm trọng
bệnh, sai bọn Lưu Hoằng Dật, Tiết Quư
Lăng triệu tể tướng Dương Tư Phục
và Lư Giác vào cung để phó thác thái tử. Bọn hoạn
quan Cừu Sĩ Lương, Ngưu Hoằng Chỉ vốn
kiểm soát Văn Tông từ lâu, không muốn lập Thái Tử, bèn giả mạo chiếu chỉ,
phong em vua là Lư Triền làm Hoàng Thái Đệ, viện cớ
Thái Tử quá nhỏ, không thể đảm
đương triều chính được. Sau khi Văn
Tông chết vào hai ngày sau, chúng thừa cơ đưa Lư Triền
lên ngôi, tức Đường Vũ Tông. Đó là ứng với
câu “thố phục trí” (thỏ lại đặt bày.
Măo là thỏ, không phải là mèo như trong cách hiểu của
người Việt). Năm Nhâm Tuất, tức năm Hội
Xương thứ hai (842), Đường Vũ Tông nghe lời
xúi giục của đạo sĩ Triệu Quy Chân ra lệnh
đuổi tăng ni phạm giới hoặc phạm tội hoàn tục, tịch thu tài sản nhà
chùa. Thừa dịp này, vua cho đuổi 3.459 tăng ni (dù
có tội hay không có tội) hoàn tục, đóng tất cả
các chùa, chỉ giữ lại bốn chùa Từ Ân, Tiến
Phước, Tây Minh và Trang Nghiêm. Đó là ứng với câu “khuyển
nhi noa” (chó lại bắt bớ). Năm Hội Xương
thứ năm (845), tức năm Ất Sửu, vua hạ lệnh bắt tăng ni toàn
quốc hoàn tục, đồ đồng kể cả
tượng Phật trong các chùa đem đúc thành tiền,
đồ sắt chế thành nông cụ, phá hủy bốn
ngàn sáu trăm ngôi chùa, đuổi gần 27 vạn tăng
ni hoàn tục và bắt họ phải nộp thuế như dân thường. Vũ
Tông chết vào năm Hội Xương thứ sáu (846), tức
năm Canh Dần, ứng với câu “ngưu hổ
tương giao dữ giác nha”. Phật giáo lại
được phục hồi dưới thời
Đường Tuyên Tông (ứng với “bảo đàn chung bất diệt kỳ hoa”).
[59] Trường Khánh là niên hiệu của
Đường Mục Tông (Lư Hằng) từ năm 821
đến năm 825.
[60] Hoàng Hựu là niên hiệu của Tống
Nhân Tông (Triệu Trinh) từ năm 1049 đến năm
1054.
[61] Thiếu
Thường Bá tức là chức vụ Thị Lang. Năm
Long Sóc thứ ba (663), Đường Cao Tông đổi Thị
Lang thành Thiếu Thường Bá. Thị Lang thoạt đầu
vốn là quan viên hầu cận nhà vua, giúp vua các việc
hành chánh. Từ thời Đông Hán trở đi, Thị Lang
trực thuộc Thượng Thư Tỉnh, là phó quan của
vị đứng đầu một bộ (Thượng
Thư), tương đương với thứ trưởng
hiện thời.