Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa
phần
2
Đất
Cổ Ngô, Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật
妙法蓮華經綸貫會義
古吳後學蕅益智旭述
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt:
Đức Phong và Huệ Trang
1.1.2.1.1.1.1.3. Nêu tên và tổng
kết
(Kinh)
Kỳ danh viết A Nhă Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp,
Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Già Da Ca Diếp, Na Đề
Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền
Liên. Ma Ha Ca Chiên Diên, A Nậu Lâu Đà, Kiếp Tân Na, Kiều
Phạm Ba Đề, Ly Bà Đa, Tất Lăng Già Bà Tha, Bạc
Câu La, Ma Ha Câu Hy La, Nan Đà, Tôn Đà La Nan Đà, Phú Lâu Na Di
Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề, A Nan, La Hầu La.
Như thị chúng sở tri thức đại A La Hán đẳng.
(經)其名曰。阿若憍陳如。摩訶迦葉。優樓頻螺迦葉。伽耶伽葉。那提迦葉。舍利弗。大目犍連。摩訶迦旃延。阿㝹樓馱。劫賓那。憍梵波提。離婆多。畢陵伽婆蹉。薄拘羅。摩訶拘絺羅。難陀。孫陀羅難陀。富樓那彌多羅尼子。須菩提。阿難。羅睺羅。如是眾所知識大阿羅漢等。
(Kinh:
Tên các Ngài là A Nhă Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp,
Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Già Da Ca Diếp, Na Đề
Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền
Liên, Ma Ha Ca Chiên Diên, A Nậu Lâu Đà, Kiếp Tân Na, Kiều
Phạm Ba Đề, Ly Bà Đa, Tất Lăng Già Bà Tha, Bạc
Câu La, Ma Ha Câu Hy La, Nan Đà, Tôn Đà La Nan Đà, Phú Lâu Na Di
Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề, A Nan, La Hầu La. Các
vị đại A La Hán được mọi người
hay biết như thế).
Từ “A Nhă” trở xuống là nêu tên [các vị A La Hán]. Từ
“như thị” trở đi là tổng kết. Trong phần nêu danh, nêu ra đại
lược hai mươi mốt vị tôn giả. Các đệ
tử của đức Phật đều có đủ các
hạnh, nhưng ẩn đi công năng viên măn, mỗi vị
từ một đức mà đặt tên, ḥng dẫn khởi
điều tốt lành trọn khắp.
* Kiều Trần Như (Kauṇḍinya) là họ,
phương này dịch là Hỏa Khí (火器, đồ
vật để thắp lửa), thuộc chủng tánh Bà
La Môn. Do tổ tiên Ngài thờ lửa, nên từ đó mà đặt
tên gịng họ. Lửa có hai nghĩa “chiếu sáng” và “thiêu đốt”.
“Chiếu” th́ tối tăm chẳng sanh; “đốt” th́ vật
chẳng sanh. Đấy là dùng Bất Sanh làm họ. A Nhă (Ajñāta) là tên, phương
này dịch là Dĩ Tri (已知, đă
biết), hoặc Vô Tri (無知). [Danh
xưng này] chẳng phải là “không biết”, mà có nghĩa là “biết Vô”. Nếu
nói theo Nhị Đế (Chân Đế và Tục Đế)
th́ là biết Chân, tức là dùng Vô Sanh Trí làm tên. Lại nữa,
các kinh luận gọi Ngài là Liễu Bổn Tế (了本際), hoặc Tri Bổn
Tế (知本際). Nếu xét theo
Tứ Đế th́ là “biết Diệt”. Hoặc c̣n dịch là Đắc Đạo. Kinh
Tăng Nhất A Hàm nói: “Ngă Phật pháp trung, khoan nhân, bác
thức, sơ thọ pháp vị giả, Kiều Trần
Như vi đệ nhất” (Trong Phật pháp của ta,
người khoan dung, nhân từ, hiểu rộng, thọ
hưởng pháp vị đầu tiên th́ Kiều Trần
Như là bậc nhất). Đó là Thế Giới Tất
Đàn.
Xưa
kia, vào lúc cơi đời đói kém, đức Phật hóa
thành con cá lớn, nín hơi, chẳng thở. Có
năm người thợ mộc đẽo lấy thịt
cá trước
tiên. Đức Phật thề trong đời vị lai,
sẽ độ những người ấy trước.
Trước hết, nguyện ban cho họ Vô Sanh; v́ thế
nói là A Nhă. Lại nữa, vào thời Ca Diếp Phật, có
chín người học đạo, năm người
chưa đắc quả, thề sẽ khai ngộ đầu
tiên trong pháp của Phật Thích Ca. Do bổn nguyện lôi
kéo, Ngài (Kiều Trần Như) đạt Vô Sanh trước
hết, nên gọi là A Nhă. Đó là Vị
Nhân Tất Đàn.
Đêm
sâu ngủ say, chẳng ai có thể tỉnh giấc, mặt
trời chưa mọc, sao Kim hiện ra trước. Kiều
Trần Như đắc Vô Sanh Trí đầu tiên, ví như
sao Mai, là khởi đầu của các thứ sáng sủa.
Trí sáng của hết thảy mọi người chẳng
ai hơn Trần Như. Phá tối trước nhất,
không ǵ hơn sao Mai. Hết thảy mọi người diệt
tăm tối, chẳng ai hơn Kiều Trần Như
được. V́ thế, Ngài có tên là A Nhă. Đó là Đối
Trị Tất Đàn.
Thái
Tử [Tất Đạt Đa] vào núi học đạo.
Phụ vương sai năm người theo hầu, hai
người thuộc bên mẹ, ba người thuộc bên
cha[1].
Hai người coi dục là tịnh, ba người dùng khổ
hạnh để tịnh. Khi Thái Tử tu khổ hạnh,
hai người bỏ đi. Thái Tử xả khổ hạnh,
nhận lấy thức ăn, dầu bơ, nước ấm [do cô Tu Già Đà (Sujātā) dâng cúng], ba người lại
bỏ đi. Thái Tử đắc đạo, trước
hết v́ năm người ấy nói Tứ Đế. Kiều
Trần Như thưa bày giải ngộ trước hết;
v́ thế tên là A Nhă. Đó là Đệ Nhất Nghĩa Tất
Đàn.
Xét
theo giáo, từ Quán mà phán giáo, Lư sẽ dễ chia chẻ. V́
thế, tỉ mỉ dùng Quán để phân biệt. Huống
hồ, trong số một vạn hai ngàn [vị Thanh
Văn], Kiều Trần Như đứng đầu. Vô
Sanh chính là cốt lơi của các phép Quán; [nêu tên Ngài đầu
tiên v́] muốn cho [thính chúng] nghe tên sẽ biết hạnh,
phỏng theo người mà biết cái tâm.
Xét
theo Tam Tạng Giáo th́ “mù” ví như trí Vô Sanh, “gương”
ví như cảnh Vô Sanh. Sáu món trong Ấm, Giới,
Nhập v.v… ví như cái nhân trong hiện tại. H́nh bóng [hiện
ra trong gương] ví như cái quả trong đời vị
lai. Nếu mở mắt, cầm lấy gương, do h́nh
thể đối trước gương, sẽ có h́nh
bóng sanh ra. Do ngu nên chẳng đoạn tuyệt [sự chấp
trước vào h́nh bóng]. Nếu nhắm mắt như mù, sẽ
chẳng thấy ǵ, chẳng thấy sáu phần [Ấm, Giới,
Nhập v.v...], do cái nhân ấy chẳng sanh, sẽ chẳng
thấy h́nh bóng trong gương, tức là cái quả chẳng
sanh. V́ thế kinh A Hàm nói: “Nhược
vị hữu Sắc, Sắc thị tịnh, tịnh tức
sanh, phi bất sanh. Nhược vị hữu Thọ,
Tưởng, Hành, Thức, Thức thị
tịnh, tịnh tức sanh, phi bất sanh. Nhược vị
hữu Thọ, Thọ thị lạc, lạc tức sanh,
phi bất sanh. Nhược vị hữu Tưởng, Hành,
Thức, Sắc, Sắc thị lạc, lạc tức sanh,
phi bất sanh. Nhược vị hữu Tưởng Hành,
Tưởng Hành thị ngă, ngă tức sanh, phi bất sanh.
Nhược vị hữu Thức Sắc Thọ, Thọ
thị ngă, ngă tức sanh, phi bất sanh. Nhược vị
hữu Thức, Thức thị thường, thường
tức sanh, phi bất sanh. Nhược vị hữu Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, Hành thị thường, thường
tức sanh, phi bất sanh. Thí như chấp kính kiến diện,
diện thị sanh, phi bất sanh. Nhược vị hữu
Ngũ Ấm, tất thị sanh, phi bất sanh. Nhược
năng tri Sắc phi tịnh, năi chí Thức phi thường.
Hựu năng tri Sắc vô thường, khổ, vô ngă, bất
tịnh, năi chí Thức vô thường, khổ, vô ngă, bất
tịnh giả, thị vi bất sanh, phi thị sanh. Như
manh chấp kính, bất kiến tượng sanh, thị vi
bất sanh, phi thị sanh. Kư tri bất sanh, ninh phục
ư trung, kế ngă thị Sắc, kế ngă dị Sắc,
kế ngă tại Sắc trung, kế Sắc tại ngă trung,
năi chí Thức diệc như thị” (Nếu nói có Sắc, Sắc
là tịnh, tịnh tức là sanh, chẳng phải là bất
sanh. Nếu nói có Thọ, Tưởng, Hành, Thức, Thức là tịnh, tịnh tức là sanh, chẳng phải
là bất sanh. Nếu nói có Thọ, Thọ là lạc, lạc
tức là sanh, chẳng phải là bất sanh. Nếu nói có
Tưởng, Hành, Thức, Sắc, Sắc là lạc, lạc
tức là sanh, chẳng phải là bất sanh. Nếu nói có
Tưởng Hành, th́ Tưởng Hành là ngă, ngă tức là sanh,
chẳng phải là bất sanh. Nếu nói có Thức Sắc
Thọ, Thọ là ngă, ngă tức là sanh, chẳng phải là bất
sanh. Nếu nói có Thức, Thức là thường, thường
tức là sanh, chẳng phải là bất sanh. Nếu nói có Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, th́ Hành là thường, thường
tức là sanh, chẳng phải là bất sanh. Ví như cầm
gương soi mặt, mặt là sanh, chẳng phải là bất
sanh. Nếu nói có Ngũ Ấm th́ đều là sanh, chẳng
phải là bất sanh. Nếu có thể biết Sắc chẳng
phải là tịnh, cho đến Thức chẳng phải
là thường. Lại có thể biết Sắc là vô
thường, khổ, vô ngă, bất tịnh, cho đến
Thức là vô thường, khổ, vô ngă, bất tịnh, là
bất sanh, chẳng phải là sanh. Như kẻ mù cầm
gương, chẳng thấy h́nh bóng sanh ra, đó là bất
sanh, chẳng phải là sanh. Đă biết là bất sanh, há
c̣n ở trong ấy, so đo ngă là Sắc, so đo ngă khác Sắc,
so đo ngă ở trong Sắc, so đo Sắc ở trong Ngă,
cho đến Thức cũng như thế). Quán như thế
th́ cái nhân trong hiện tại và cái quả trong vị lai
đều chẳng sanh, như kẻ mù đối trước
gương, chẳng thấy h́nh tượng. Đó gọi
là Quán trí quán Ấm
vô sanh.
Quán
Nhập và Giới th́ tuy biển sâu rộng, vẫn có bờ
bên này, bờ bên kia, v́ nước có chừng hạn. Như
mắt đă thấy Sắc, yêu mến, chấp trước,
tham lạc, dấy lên nghiệp nơi thân, miệng, ư.
Đó là biển cả, ch́m đắm hết thảy trời,
người, A Tu La trong thế gian. Hăy nên biết mắt là
biển cả, Sắc là sóng trào. Do yêu mến cái Sắc ấy
mà bị vùi dập trong đó. Ở trong đó, khởi lên
sự hiểu biết bất thiện; đó là rồng, cá
ác. Dấy lên ganh ghét, hăm hại th́ là nam La Sát. Dấy lên ái
nhiễm th́ là nữ La Sát. Dấy lên thân, miệng, ư th́ là uống
nước mặn, tự chết mất. Đó là v́ nhăn sắc
vô tri mà sanh ra vô minh ái. Do ái sanh, nên gọi là Hành. Do Hành sanh,
nên gọi là Nghiệp. Nghiệp trói buộc Thức làm
Trung Ấm, đó là Thức sanh. Thọ thân trong thai th́ gọi
là Danh Sắc sanh. Năm phần tay, chân, và đầu
đă h́nh thành, th́ gọi là Lục Nhập sanh. Lục Nhập
đối ứng sáu trần, th́ gọi là Xúc sanh. Đối
ứng với trần, phân biệt khổ hay lạc th́ gọi
là Thọ sanh. Đối với trần, dấy tâm đắm
nhiễm, th́ gọi là Ái sanh. Rong ruổi t́m cầu bốn
phương th́ gọi là Thủ Sanh. Tạo [các nghiệp nơi] thân, miệng, ư th́ gọi
là Hữu sanh. Đáng nhận lấy Ngũ Ấm của vị
lai th́ gọi là Sanh sanh. Ngũ Ấm trong vị lai biến
đổi, gọi là Lăo sanh. Ấm trong vị lai bị
hư hoại th́ gọi là Tử sanh. Sự nóng nảy
trong tâm gọi là Ưu sanh. Thốt tiếng kêu to th́ là Bi
sanh. Thân tâm tiều tụy th́ gọi là Khổ Năo sanh.
Đó gọi là khi mắt thấy Sắc, liền sanh ra một
đống khổ sở to lớn gồm mười hai
nhân duyên trong ba đời. Tai, mũi, lưỡi, thân, ư, sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp, nhăn giới, cho đến pháp giới
cũng lại như thế. Đó là Nhập Giới sanh,
chẳng phải là bất sanh.
Bất
Sanh là như thế nào? Khi quán nhăn sắc, chẳng gieo hạt
giống khổ, chẳng sanh mầm khổ, chẳng ṛ rỉ
nước thối, chẳng tụ tập ruồi nhặng.
Nếu hạt giống chẳng sanh, mầm sẽ chẳng
sanh, ắt nước thối chẳng sanh, ắt ruồi
nhặng chẳng sanh. V́ thế, gọi là Bất Sanh. Khi mắt
thấy sắc, dấy khởi cảm giác tham hay giận;
đó là “hạt giống của khổ”. Nghĩ tới
pháp ngũ dục th́ là mầm khổ. Sáu căn chấp giữ
sáu trần th́ gọi là “nước thối ṛ rỉ”. Ở
trong sáu trần, thiện ác đua nhau dấy lên, đó là
“ruồi nhặng”. Nếu biết nhăn sắc là vô thường, khổ,
không, vô ngă, th́ tham, giận sẽ chẳng sanh, niệm dục
chẳng sanh, chấp cảnh chẳng sanh, hành vi thiện
ác chẳng sanh. Đó là Bất Sanh. Đối với tai,
mũi… tiếng, mùi… cũng giống như thế. Nhăn giới
cho đến pháp giới cũng như thế. Kiều Trần
Như đạt được trí Bất Sanh trong Tam Tạng
(Tạng Giáo) trước hết. V́ thế gọi là A Nhă.
Quán
trong Thông Giáo th́ như huyễn nhân cầm huyễn kính, dùng
huyễn lục phần (mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ư) rọi vào huyễn kính, sẽ thấy huyễn ảnh.
H́nh bóng đó chẳng do gương sanh, chẳng do sáu phần
sanh, chẳng phải do gương và sáu phần ḥa hợp
mà sanh, chẳng phải ĺa gương và sáu phần mà sanh.
Đă chẳng từ bốn câu[2]
mà sanh th́ chẳng phải là trong, ngoài, chặng giữa, chẳng
thường tự có, cũng chẳng diệt mất, chẳng
tới các phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Tánh vốn vô sanh, chẳng
phải là “diệt Sanh th́ mới là vô sanh”. Tánh vốn vô diệt,
chẳng phải là “diệt Diệt th́ mới là vô diệt”.
Do vô sanh, vô diệt, nên nói là Vô Sanh. Thọ, Tưởng,
Hành, Thức cũng giống như thế. Mười hai
Nhập, mười tám Giới cũng giống như thế.
Quán
theo Biệt Giáo th́ gương ví như pháp giới, mắt
ví như quán trí. Xanh, vàng, đỏ, trắng, lớn, nhỏ,
dài, ngắn ví như mười pháp giới (xanh ví như
nhân quả địa ngục, vàng ví như nhân quả ngạ
quỷ, đỏ ví như nhân quả của súc sanh, trắng
ví như nhân quả của trời, người. Tiểu sắc
ví như nhân quả của Nhị Thừa. Đại sắc
ví như nhân quả của Thông Giáo Bồ Tát. Đoản sắc
ví như nhân quả của Biệt Giáo Bồ Tát. Trường
sắc ví như nhân quả của Phật), đều phân
biệt ở trong gương chẳng sai lầm. Nếu
muốn uốn nắn chính ḿnh, phải làm cho nhân quả của
chín pháp giới [nơi chính ḿnh] chẳng sanh một nhân quả
nào. Nếu muốn uốn nắn người khác, hăy làm
cho nhân quả của chín pháp giới nơi người
khác chẳng sanh một nhân quả nào. Nương vào pháp giới,
hành Bồ Đề hạnh, theo thứ tự vận dụng
trí Tích Không Quán và Thể Không Quán[3],
đoạn tứ trụ sanh[4]
khiến cho nó chẳng sanh. Kế đó, vận dụng hằng
sa Phật pháp để đoạn Trần Sa phiền năo,
khiến cho vô tri chẳng sanh. Sau đó, dùng trí huệ Thật
Tướng để đoạn vô minh, khiến cho
căn bản chẳng sanh. Nếu chẳng có tứ trụ,
ắt Phần Đoạn [sanh tử] chẳng sanh. Nếu
chẳng có vô tri th́ phương tiện chẳng sanh. Nếu
chẳng có vô minh th́ Thật Báo chẳng sanh. Sanh cũng chẳng
sanh, mà bất sanh cũng chẳng sanh. V́ thế, gọi là
Bất Sanh.
Quán
theo Viên Giáo th́ ví như nh́n vào
cái gương tṛn trặn (tṛn trặn ví như lư cảnh,
“nh́n vào” ví như trí), chẳng nh́n vào mặt lưng của
tấm gương (lưng tấm gương ví như vô
minh, mặt gương ví như trí sáng, gương ví
như cái nhân của mười pháp giới). Chẳng quán
h́nh bóng (h́nh thể ví như duyên của mười pháp giới;
bóng ví như cái quả của mười giới), chẳng
phải là lưng tấm gương, chẳng tối
tăm, chẳng phải là mặt gương, chẳng phải
là sáng sủa. Chẳng giữ lấy các thứ h́nh dung, chẳng
giữ lấy các thứ bóng ảnh, chỉ quán sự tṛn
trặn, chẳng có bờ mé, chẳng có khởi đầu
hay kết thúc, chẳng có sáng, tối, chẳng có một,
khác, sai biệt. Viên quán (phép Quán trong Viên Giáo) cũng thế,
chẳng giữ lấy tướng mạo của mười
pháp giới, chẳng có thiện, ác, chẳng có tà, chánh, chẳng
có lớn, nhỏ v.v… Hết thảy đều mất, chỉ
duyên theo Thật Tướng của các pháp. Pháp tánh và Phật
pháp dù là sắc hay hương, không ǵ chẳng phải là Thật
Tướng. Quán nghiệp phiền năo sanh khởi đều
chính là vô sanh. Vốn chẳng có sanh và bất sanh, cho nên nói
là Vô Sanh. Ấm, Nhập, Giới khổ chính là Pháp Thân. Do
chẳng hiển hiện, nên gọi là Pháp Thân. Chướng
chính là Pháp Thân. Tham, giận, si chính là Bát Nhă. Do chẳng thể
nói rơ, cho nên gọi là Bát Nhă. Chẳng có ǵ để có thể
chiếu, tánh tự sáng suốt. Đó là Bát Nhă. Nghiệp hạnh
trói buộc, đều gọi là giải thoát. Chẳng phải
là cắt đứt trói buộc th́ mới được
thoát, mà cũng chẳng có cái Thể nào để có thể
trói buộc, mà cũng chẳng có cái ǵ có thể trói buộc.
V́ thế gọi là giải thoát. Giải thoát tức là nghiệp
chẳng sanh. Bát Nhă tức là phiền năo chẳng sanh. Pháp
Thân tức khổ chẳng sanh. Ba món (Pháp
Thân, Bát Nhă, giải thoát) bất sanh chính là một món bất
sanh; một món bất sanh chính là ba món bất sanh, chẳng
ba, chẳng một. V́ thế nói là Bất Sanh, huống hồ
biến dịch phiền năo nghiệp khổ chẳng phải
là bất sanh ư? (Điều này phải có trọn đủ
mười thừa, mười cảnh, và phương tiện
v.v… [tức là] hoàn toàn nói đến nội dung của bộ sách Ma
Ha Chỉ Quán vậy).
Xét
theo Bổn Tích, Kiều Trần Như vốn tự bất
sanh, chẳng phải là nay mới bất sanh. Do muốn dẫn
khởi sữa thành lạc, cho nên nơi Tích bèn thị hiện bất sanh trong giáo
đầu tiên (Tạng Giáo). Do v́ dẫn khởi lạc
thành sanh tô, nên nơi Tích bèn thị hiện bất sanh trong
Thông Giáo. Do v́ dẫn khởi sanh tô thành thục tô, nên
nơi Tích thị hiện bất sanh trong Biệt Giáo. V́ dẫn
khởi thục tô thành đề hồ, nên nơi Tích bèn thị
hiện bất sanh trong Viên Giáo. Nhưng nơi Bổn địa,
Ngài bèn trụ trong A Tự Môn[5],
tức là “hết thảy
các pháp thoạt đầu bất sanh”. Nếu nghe A Tự Môn,
sẽ hiểu hết thảy các nghĩa đều chẳng
phải là sanh, chẳng phải là bất sanh. Thị hiện
dấu tích để dẫn dụ hóa độ, cho nên có
thể sanh mà chẳng sanh. Chúng sanh nếu có thể lănh hội
trọn vẹn bất sanh, sẽ giống hệt A Nhă [Kiều
Trần Như], chẳng phải Bổn, chẳng phải
Tích, chẳng phải sanh, chẳng phải bất sanh.
Đại sự nhân duyên bèn hoàn tất tại đó. V́ thế,
kinh văn trong phần sau có nói: “Phú Lâu Na chủng chủng
biến hóa sự, ngă nhược cụ túc thuyết, chúng
sanh văn thị giả, tâm tắc hoài nghi hoặc” (nếu
ta nói trọn đủ các chuyện biến hóa của Phú
Lâu Na, chúng sanh nghe điều ấy, sẽ ôm ḷng ngờ vực)
chính là do ư nghĩa này vậy. Kinh A Hàm nói A Nan cầm tàn, lọng,
đèn theo sau đức Phật, Đại Phạm
vương cầm tàn, lọng, đèn theo sau Kiều Trần
Như. Đó đều là thị hiện dấu tích ḥng hiển
Bổn.
Bất Sanh xét theo quán tâm, cứ dựa theo
Tam Quán th́ sẽ có thể biết bất
sanh. Giải thích như thế chính là do nghe một câu, dù là
[nói về] người, hay [nói về] pháp, đều trở
thành hóa nghi, đều có thể quán, có thể khiến cho
người đời sau nghe danh tự bèn khởi hạnh,
nhờ vào lời dạy mà biết cái Thể, suy nghĩ
Tích mà thấy Bổn, t́m ṭi nhân duyên của nó, soi xét rộng
khắp gốc ngọn. Nếu thấu hiểu ư này, sẽ
từ một người, hoặc một câu kinh, bèn có thể
trên là cầu cảnh, dưới là biết căn cơ
để hóa độ, có thể hiểu phương thức
giáo hóa của bậc thánh, có thể khiến cho đại
chúng b́nh phàm được hưởng lợi ích, có thể
thấu đạt sự giống nhau và khác biệt giữa
danh và nghĩa, có thể biết hạnh b́nh đẳng, lư khác biệt, có thể biết
thuận theo kinh văn mà nhập quán, có thể hiểu Bổn,
Tích, nhân, pháp, có thể tin vào chuyện giáo hóa dài lâu,
có thể ngưỡng vọng thánh ân khó báo, có thể biết
chúng sanh khó hóa độ, có thể hiểu biết lư tột khó. Người chẳng thấy
những điều ấy, sẽ cho là rườm rà! Giải
thích về Kiều Trần Như đă xong!
*
Ma Ha Ca Diếp (Mahākāśyapa) được
phương này dịch là Đại Quy Thị (大龜氏, họ rùa to), cũng dịch Quang Ba (光波, sóng ánh
sáng), cũng dịch là Ẩm Quang (飲光, nuốt
mất ánh sáng). Ngài tên là Tất Bát La (Pippala), nhân duyên rộng
nhất. Nói đại lược th́ như trong sách Văn
Cú[6], người cần
biết có thể t́m trong ấy. Ngài là bậc Đầu Đà
đệ nhất, đích thân nhận lănh lời phó chúc của
đức Phật, là Sơ Tổ ở Tây Trúc. Đầu
Đà (Dhūta) trong tiếng
Phạn, được phương này dịch là Đẩu
Tẩu (抖擻, giũ sạch, rung lắc),
do dùng mười hai hạnh để giũ sạch mười
hai loại lỗi:
- Một là ở chỗ A Lan Nhă để ĺa
lỗi ồn náo.
-
Hai là thường hành khất thực, nhằm ĺa lỗi
ăn nhờ chúng Tăng và nhận lời biệt thỉnh.
-
Ba là khất thực theo thứ tự, ḥng ĺa lỗi
chọn lựa [nơi chốn hoặc nhà thí chủ] để
khất thực.
-
Bốn là vâng giữ pháp chỉ ăn một bữa, nhằm
ĺa lỗi mong cầu nhiều.
-
Năm là ăn có chừng hạn, nhằm ĺa lỗi tham vị
ngon.
-
Sáu là sau giờ Ngọ chẳng uống các thứ nước
trái cây, mật v.v… nhằm ĺa lỗi mong cầu ham muốn.
-
Bảy là mặc y phấn tảo[7],
nhằm ĺa lỗi chuộng y phục.
-
Tám là chỉ có ba y, nhằm ĺa lỗi tăng giảm.
-
Chín là ở chốn mồ mả, nhằm ĺa lỗi thường
ưa thích, so đo điên đảo.
-
Mười là ngồi dưới cội cây, nhằm ĺa lỗi
sợ hăi.
-
Mười một là ngồi nơi đất trống, nhằm
ĺa lỗi tham đắm cây cối.
-
Mười hai là chỉ ngồi không nằm, nhằm ĺa lỗi
giặc phiền năo.
Ngài
trọn đủ các hạnh như kinh Thập Nhị
Đầu Đà đă nói chi tiết. [Trong mười hai hạnh
ấy], có năm pháp thuộc về trụ xứ, năm
pháp thuộc về ẩm thực, và hai pháp thuộc về
y phục. Lại dựa theo chuyện khất thực
để nói rơ ư nghĩa Đẩu Tẩu:
Dễ đạt
được bèn sanh ḷng vui mừng, khó đạt
được ắt nổi sân. Đạt được
món ngon bèn yêu thích, xin nhằm thứ xấu bèn rầu
rĩ. Ưu hỷ do sắc mà khởi, đó là Sắc Ấm.
Hứng chịu nỗi ưu hỷ ấy, tức là Thọ
Ấm. Giữ lấy tướng ưu hỷ, tức là
Tưởng Ấm. Ưu hỷ chính là Hành Ấm. Phân biệt
ưu hỷ là Thức Ấm. Ưu hỷ chính là Ư Nhập
và Pháp Nhập, cũng chính là ư pháp, ư thức tam giới.
Giới, Nhập, Ấm chính là Khổ Đế. “Ta có thể
khất thực” chính là Ngă Kiến. Chấp trước có
ngă và vô ngă th́ chính là Biên Kiến. Coi chuyện khất thực
là đạo, tức là Giới Thủ Kiến. Coi khất
thực là thật, tức là Kiến Thủ Kiến. Coi
như thế là chân thật, tức là Tà Kiến. Được
khen ngợi bèn vui mừng th́ chính là tham. Bị hủy báng
bèn tức giận, đó chính là sân. [Tự cho là] ta có thể
[thực hiện hạnh khất thực] tức là mạn.
Bị quở trách th́ là nghi. Chẳng hiểu rơ tức là
si. Đó là Thập Sử, trải qua tam giới và Tứ
Đế, thành tám mươi tám Sử, gọi chung là Tập
Đế. Nếu biết bốn thứ điên đảo
trong khất thực, do bị sự liên tục
tương tự che lấp, bèn ngỡ là Thường. Hợp
ư th́ cho là Lạc. Bị “di chuyển, hành động” che lấp,
ngỡ đó là Ngă. Do [các thứ bất tịnh trên thân thể]
bị che phủ bởi lớp da mỏng, bèn cho là Tịnh.
Nhận biết bốn thứ che lấp, chẳng có bốn
thứ điên đảo, siêng năng ngăn chặn hai thứ
ác, sanh trưởng hai thứ thiện, tu Tứ Định,
Căn, Lực, Giác, Đạo. Đó là Đạo Đế.
Trong khất thực, chẳng so đo cái Ngă th́ si diệt.
Do si diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên sân diệt. Do sân
diệt nên chẳng tự đề cao, tức là mạn
diệt. Do mạn diệt, nên bị quở trách bèn chẳng
nghi ngờ. Do vô ngă, nên Ngă Kiến diệt. Do Ngă Kiến diệt,
nên Biên Kiến diệt. Chẳng chấp đó là đạo,
nên Giới Thủ Kiến diệt. Chẳng
chấp trước tà vạy, cho nên Tà Kiến diệt. Do
mười điều ấy đă diệt, tám mươi
tám món Sử là những thứ trói buộc phái sanh[8]
cũng bị diệt. Do các món Sử phái sanh đă bị
diệt, sự ràng buộc nơi cái quả là hai
mươi lăm Hữu cũng bị diệt. Đó là Diệt
Đế. Nếu trong khi khất thực, chẳng thấy
bốn Chân Đế, sẽ lưu chuyển lâu dài trong khổ
hải sanh tử to lớn. Nếu có thể thấy Tứ
Đế, sẽ đoạn được sanh tử.
Sanh tử đă tận, sẽ chẳng c̣n thọ các Hữu.
Đó là quán huệ của Đẩu Tẩu trong khi khất
thực. Các pháp và y phục và chỗ ở [trong hạnh
Đầu Đà] cũng giống như thế. Đó là
Đầu Đà xét theo Tam Tạng Giáo.
Đẩu Tẩu trong Thông Giáo th́ duyên Chân chứng Tịch,
đó là trụ xứ. Dùng Không Huệ làm thức ăn,
dùng “Không tâm hành các hạnh” làm y phục, thường tánh là Không. Khi “không ǵ chẳng phải
là tánh Không”, Không Huệ giũ sạch, đều như huyễn
hóa, vọng tưởng các ác hay tịch diệt đều chẳng dấy lên, tâm (tâm
vương) và tâm số pháp (tâm sở) chẳng lưu chuyển.
Do chẳng thể đạt được, trong các
tương ứng, Không sẽ tương ứng
thù thắng bậc nhất. Trong các khổ hạnh,
Không Hạnh bậc nhất. Trong
các thứ giũ bỏ, Không Huệ giũ bỏ bậc nhất.
Đẩu Tẩu trong Biệt Giáo th́ coi nương
vào Pháp Thân là trụ xứ (do tâm mong mỏi Pháp Thân mà tu hai
đức), Bát Nhă làm thức ăn. Trong hết thảy các
hạnh, trang nghiêm bằng che lấp, ngăn trở,
giũ sạch các điều ác thuộc về hắc nghiệp.
Bát Nhă giũ sạch các điều ác thuộc phiền năo.
Pháp Thân giũ sạch các điều ác thuộc nỗi khổ
sanh tử. Trước hết là giũ sạch nghiệp
khổ phiền năo Phần Đoạn. Kế đó,
giũ sạch các nghiệp khổ phiền năo thuộc Biến
Dịch. Đó là Trung Đạo chánh quán Đầu Đà,
vượt xa khổ hạnh do hàng Nhị Thừa đă
hành.
Đẩu Tẩu trong Viên Giáo th́ trụ xứ chính là
y phục, chính là thức ăn (vốn có ba đức, tu
đắc cũng thế), chỉ là một pháp, mà nói phân
biệt thành ba. Hễ giũ sạch một thứ th́ hết
thảy đều giũ sạch. (Hạnh làm y phục)
th́ hết thảy giũ sạch là một thứ giũ sạch.
(Huệ làm thức ăn) th́ chẳng phải một, chẳng
phải hết thảy. (Thân ở trong) hết thảy sự
giũ sạch, không ǵ chẳng phải là Thật Tướng.
Sở hành của chư Phật là Như Lai hạnh, vượt
xa sở hành thanh tịnh của các vị Bồ Tát.
Nói
theo Bổn Tích, th́ Bổn là cùng ngồi nơi lư Tất
Cánh Không với Như Lai, cùng đạt được
Pháp Thân rộng lớn, cùng đạt được trí huệ
vô ngại, cùng đạt được vô lượng
công đức. Trong th́ xả pháp ái, ngoài th́ chẳng có cấu
nhiễm. Trong lẫn ngoài đều giũ sạch. Vốn
đă thanh tịnh, muốn dẫn khởi vị sữa,
bèn giũ sạch nơi Sự. Kế đó, để dẫn
khởi vị lạc, giũ sạch nơi Không. Kế
đó, để dẫn khởi vị sanh tô, bèn giũ sạch
nơi Biệt. Kế đó để dẫn khởi thục
tô, giũ sạch nơi Viên.
Nói theo quán tâm, th́ từ ngay
nơi Không mà giũ sạch sự chấp tướng. Từ
ngay nơi Giả, giũ sạch Trần
Sa. Từ ngay nơi Trung, giũ sạch vô minh. Nơi nhất
tâm giũ sạch Trần Sa v.v…
*
Ưu Lâu Tần Loa (Uruvilvā) được
phương này dịch là Mộc Qua Lâm (木瓜林, rừng đu
đủ). Na Đề (Nadī) phương này dịch là
Hà (sông), cũng dịch là Giang. Già Da (Gayā) phương
này dịch là Thành. Ba anh em các Ngài đều là ngoại
đạo thờ lửa. Nhân duyên của các Ngài được
chép trong kinh Thụy Ứng và các bộ luật[9].
Xét
theo giáo, như kinh Tăng Nhất
A Hàm nói Ưu Lâu Tần Loa có thể bảo vệ tứ
chúng, cung cấp tứ sự, khiến cho chẳng thiếu
thốn, thật sự là bậc nhất. Na Đề tâm ư
vắng lặng, hàng phục các kết sử, tinh tấn bậc
nhất. Già Da quán các pháp đều chẳng chấp trước,
có thể khéo giáo hóa bậc nhất, tức là nói đến
chuyện giáo hóa những ai thuộc vị “lạc”. Nếu
chuyển [từ lạc] thành sanh tô, hăy nên thẹn [v́ chính
ḿnh c̣n đang tu tập] Tiểu pháp mà hâm mộ đại
pháp, cứ phỏng theo đó sẽ biết. Nếu chuyển
thành thục tô, hăy nên nương theo nghiệp để nhận lănh giáo. Nếu
chuyển thành đề hồ, sẽ được thọ
kư thành Phật giống như trong kinh này.
Xét
theo Bổn Tích, trụ trong Tam Đức, “rừng”
chính là Bát Nhă, “thành” chính là Pháp Thân, “nước” (Na
Đề nghĩa là “sông”) chính là Giải Thoát. Đó là tạng bí
mật nơi Bổn, c̣n nơi Tích th́ nương vào rừng,
thành, hay nước để độ chúng sanh.
Xét
theo quán tâm, chánh quán tâm tánh Trung Đạo bất động, như ṭa thành pḥng ngự địch. Bất động
mà động, như nước gột sạch điên
đảo nơi các Biên (chấp trước Biên Kiến).
Chiếu soi khô héo lẫn tươi tốt, như rừng
um tùm, ba pháp cùng giúp nhau, tức là anh em ruột thịt vậy.
*
Xá Lợi Phất (Śāriputra), phương
này dịch là Thân Tử (身子), cũng dịch
là Châu Tử (珠子). Ngài tên là Ưu
Bà Đề Xá (Upadeśa), phương này dịch
là Luận Nghĩa (論義), trí huệ bậc
nhất. Nhân duyên của Ngài được nói chi tiết
trong sách Văn Cú.
Xét
theo giáo, trí huệ xét theo Tam Tạng (Tạng Giáo) th́ là mười trí của bậc Vô Học,
đoạn kết sử, chứng Chân, giúp Phật giáo hóa,
hoằng dương. Thích Luận gọi Ngài là “vị
đại tướng ở bên phải” [của đức
Phật]. Trí huệ trong Thông Giáo th́ như trong kinh Bát Nhă đă
nói “v́ sao gọi là Ma Ha Tát”, tức là ngă kiến, chúng
sanh kiến, Phật kiến, Bồ Đề kiến, chuyển
pháp luân kiến, các thứ kiến như thế đều
bị phá th́ gọi là Ma Ha Tát. Trí huệ này khác với trí
huệ trong Sơ Giáo (Tạng Giáo). Trí huệ trong Biệt
Giáo hăy nên dựa theo “ngũ vị” (sữa, lạc,
sanh tô, thục tô và đề hồ) để phân biệt.
Như từ lúc ban sơ, chỉ nghe sữa và lạc, chẳng
nghe các vị khác. Phát tâm tu hành, chỉ hành [các giáo pháp thuộc
vị] sữa và lạc. Đấy chính là trí huệ của
Sơ Giáo. Nếu chỉ nghe lạc, lạc chẳng do sữa,
đối với tánh thiện và ác, tánh vốn tự không,
chẳng do tu thiện mà phá ác. Diệt Sắc, giữ Không,
chỉ tu “tức Không”. Đó chính là trí huệ của
Thông Giáo. Nếu từ nguyên sơ, được nghe đề
hồ. Do đề hồ, vắt ḅ t́m sữa, chưng sữa
thành lạc, chuyển lạc thành sanh tô, chuyển sanh tô
thành thục tô th́ mới đạt được đề
hồ. Hành giả tu như thế tức là trí huệ của
Biệt Giáo. Nếu từ nguyên sơ, chỉ nghe ḅ ăn cỏ
Nhẫn Nhục, liền có thể sanh ra đề hồ.
Nếu ai có thể uống [đề hồ ấy], các bệnh
đều trừ. Hết thảy các loại thuốc
đều được bao gồm trong ấy. Tu hạnh
ấy th́ là trí huệ của Viên Giáo.
Xét
theo Bổn Tích, Bổn th́ trụ trong Thật Tướng,
Trí Độ (Bát Nhă Ba La Mật) là mẹ. Từ cảnh
sanh ra trí huệ, cảnh chính là Thân. Trí huệ là Tử
(con), thương xót chúng sanh. Nơi Tích th́ Thân Tử thuộc
ngũ vị. Do muốn chuyển máu “ác
phiền năo” thành sữa tốt lành, bèn thị hiện
làm bậc trí huệ trong ngoại đạo, làm vị
đại luận sư. Muốn nấu sữa thành lạc,
thị hiện trí huệ nơi Tam Tạng, trí huệ chỉ
kém đức Thế Tôn. Muốn dẫn khởi chuyển
lạc thành sanh tô, tuy dung nạp đại pháp, mà hiện [trí huệ
thuộc] tiểu pháp, chịu khuất phục dưới
sự quở trách của ngài Tịnh Danh (Duy Ma Cật)[10].
V́ muốn dẫn khởi chuyển sanh tô thành thục tô, an
ủi, lợi lạc những người có cùng phạm hạnh,
lănh hội giáo pháp Bát Nhă. V́ muốn dẫn khởi thục
tô thành đề hồ, trong hội Pháp Hoa bèn ngộ đầu
tiên. Những điều ấy đều là sự thị
hiện bên ngoài, thuộc về Tích; bên trong th́ bí mật giữ
Bổn địa th́ là thật sự [đă thành Phật]
từ lâu xa.
Xét
theo quán tâm, Nhất Tâm Tam Quán thâu nhiếp hết thảy
trí huệ. Quán tâm tức Không, thâu nhiếp hết thảy
trí huệ thuộc về vị lạc. Quán tâm tức Giả,
thâu nhiếp hết thảy trí huệ thuộc về hai loại
tô (sanh tô và thục tô), cùng với trí huệ thế gian.
Quán tâm tức Trung, thâu nhiếp trí huệ thuộc vị
đề hồ. Đó gọi là trong quán tâm, một trí huệ
là hết thảy trí huệ, hết thảy trí huệ là một
thứ trí huệ, chẳng phải là một trí huệ, chẳng
phải là hết thảy trí huệ.
*
Đại Mục Kiền Liên (Mahāmaudgalyāyana) là họ, dịch là
Tán Tụng (讚誦), c̣n dịch là
Lai Bặc Căn (萊菔根), hoặc dịch
là Hồ Đậu (胡豆)[11].
Ngài tên là Câu Luật Đà (Kolita), thần thông bậc nhất.
Thích Luận gọi Ngài là “đệ tử bên trái” [của đức Phật].
Xét
theo giáo, nương vào Tứ Thiền, dấy lên mười
bốn thứ biến hóa. Nương vào quán luyện, huân tu
mười món Nhất Thiết Vô Lậu Sự
Thiền, có thể hiện mười tám món thần biến.
Đó chính là thần thông trong Sơ Giáo (Tạng Giáo).
Nương vào Không để khởi huệ, dùng cái tâm
Không Huệ để tu các thần thông. Đó chính là thần
thông trong Thông Giáo. Theo thứ tự, nương theo Tam
Đế mà tu tập, đạt được thần
thông, lần lượt thâm nhập, vượt xa Nhị
Thừa. Đấy chính là thần thông trong Biệt Giáo. Nương
vào Thật Tướng, đạt được thần
thông. Chẳng dùng hai tướng để thấy các cơi
Phật, từ Chân mà khởi ứng, chẳng rời Chân Tế
mà [ứng hiện] trọn khắp trong mười pháp giới.
Đó là thần thông trong Viên Giáo (Nói “chẳng dùng hai
tướng” th́ “bất nhị” tức là Thật Tướng. “Thấy các cơi” chính là thần thông. Nương theo lư mà thấy, nên
nói “chẳng thấy có hai tướng”. Nói này nọ
như thế là để phân biệt: Hai món đầu (thần
thông trong Tạng Giáo và Thông Giáo) là do tu mà đạt
được; hai món sau (thần thông trong Biệt Giáo
và Viên Giáo) là do phát khởi mà đạt được). Tạng
Giáo dựa vào Sự Thiền, Thông Giáo nương vào chân
lư, Biệt Giáo th́ nương vào cả hai điều trên đây.
Viên Giáo tùy ư phát khởi. Hai thứ trước được
gọi là Thông, là Hóa (biến hóa). Hai thứ sau được
gọi là Mật, là Ứng. Hai thứ trước nhằm
điều phục chúng sanh. Hai thứ sau nhằm thấy
căn cơ của chúng sanh. Hai thứ trước có thể
bị phá hoại; hai thứ sau chẳng thể phá hoại.
Hai thứ trước nhằm dạy đạo, hai thứ
sau nhằm chứng đạo. Hai thứ thần thông trước chỉ có trong thân hiện tại;
hai thứ thần thông sau chung khắp
ba đời. Hai thứ trước th́ phải thuộc
vào địa vị thánh mới tu thần thông. Hai thứ
sau th́ địa vị phàm phu cũng tu trọn các thần
thông. Hai thứ trước th́ nương vào đâu
cũng đều có thể tu; hai thứ sau th́ ắt phải
có sự nương tựa thù thắng).
Xét
theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ trụ trong Chân Tế Thủ
Lăng Nghiêm Định, có thể trong một niệm, ứng
hiện trọn khắp mười phương, thị hiện
các thứ, thực hiện Phật sự v́ ḷng từ bi.
Nơi Tích th́ là thần thông thuộc ngũ vị, dẫn
khởi [hành nhân] tiến nhập tột cùng.
Xét
theo quán tâm th́ quán trong một tâm, thoáng chốc có hết
thảy các tâm, quán hết thảy các tâm bỗng chẳng có
hết thảy các tâm. Tâm chẳng phải là Hữu hay Vô, thông
thấu Thật Tướng.
*
Ma Ha Ca Chiên Diên (Mahākātyāyana), phương
này dịch là Văn Sức (文飾), cũng dịch
là Phiến Thằng (扇繩), cũng dịch
là Hảo Kiên (好肩), luận
nghĩa bậc nhất.
Xét
theo giáo, nương vào Khổ, Không, Vô Ngă để luận
định Đoạn Kiến, Thường Kiến v.v…
Đó là luận nghĩa trong Sơ Giáo. Nương vào không,
vô sở hữu, bất khả đắc để phá
Đoạn Kiến, Thường Kiến v.v… Đó là luận
nghĩa trong Thông Giáo. Nương vào Tổng Tŕ, Tứ Biện
Tài để quán căn cơ, chiếu Giả, cho thuốc
đúng bệnh, phá Đoạn Kiến, Thường Kiến
v.v… Đó là luận nghĩa trong Biệt Giáo. Nương
vào Thật Tướng rốt ráo chẳng Hữu chẳng
Vô để phá Đoạn Kiến, Thường Kiến v.v…
Đó là luận nghĩa trong Viên Giáo.
Xét
theo Bổn Tích, nơi Bổn, trụ trong hai thứ trang
nghiêm phước đức và trí huệ, có thể hỏi,
có thể đáp. V́ thương xót chúng sanh mà nơi Tích thị
hiện làm vị luận nghĩa sư thuộc “ngũ
vị”.
Xét
theo quán tâm, th́ quán trí suy xét cảnh, cảnh phát khởi trí.
Trí và cảnh đắp đổi. Đó tức là Luận
Nghĩa xét theo quán tâm vậy.
*
A Nậu Lâu Đà (Aniruddha), phương này dịch
là Vô Bần, c̣n dịch là Như Ư, là em họ của đức
Phật, Thiên Nhăn bậc nhất.
Xét
theo giáo, nương vào Thiền thế gian, phát sanh Thiên
Nhăn, th́ là ngoại đạo phàm phu. Nương vào Vô Lậu
Sự Thiền để phát sanh Thiên Nhăn th́ thuộc về
ư nghĩa trong Tam Tạng. Nương vào cái huệ thấu
hiểu pháp vô lậu để phát khởi các hạnh.
Nương vào các hạnh, phát sanh Thiên Nhăn; đó là ư
nghĩa theo Thông Giáo. Nương vào tán thiện phát sanh nhục
nhăn, nương vào Thiền phát sanh Thiên Nhăn, nương vào
Chân phát sanh Huệ Nhăn, nương vào Tục phát sanh Pháp
Nhăn, nương vào Trung phát sanh Phật Nhăn. Đó là ư
nghĩa theo Biệt Giáo. Nương vào Thật Tướng,
phát sanh Thiên Nhăn, Thiên Nhăn tức Phật Nhăn. Đó là ư
nghĩa trong Viên Giáo.
Lại
nương theo tán thiện tu nhục nhăn, nương theo
Thiền tu Thiên Nhăn. Đó là ư nghĩa trong Tam Tạng.
Nương theo Không để tu nhục nhăn và Thiên Nhăn;
đó là ư nghĩa trong Thông Giáo. Theo thứ tự tu ngũ
nhăn là ư nghĩa trong Biệt Giáo. Chẳng theo thứ tự
mà tu ngũ nhăn th́ là ư nghĩa trong Viên Giáo.
Xét
theo Bổn Tích, th́ Bổn là trụ trong Thật Tướng
chân Thiên Nhăn, chẳng dùng hai tướng để thấy
các cơi Phật. Nơi Tích th́ thị hiện Bán Đầu
Thiên Nhăn.
Xét
theo quán tâm, quán nhân duyên sanh thiện tâm, tức là nhục
nhăn. Quán nhân duyên sanh định tâm, đó chính là Thiên Nhăn.
Quán nhân duyên sanh tâm Không, tức Huệ
Nhăn. Quán nhân duyên sanh tâm tức Giả, th́ là Pháp Nhăn. Quán nhân
duyên sanh tâm tức Trung, th́ chính là Phật Nhăn.
*
Kiếp
Tân Na (Kapphiṇa), phương này dịch là Pḥng Tú (房宿).
Cha Ngài cầu đảo nơi sao Pḥng[12] mà sanh ra Ngài. Ngài khéo
biết tinh tú bậc nhất. Lại do nghỉ đêm cùng
với Phật trong một căn nhà mà được chứng
quả[13], cho nên có tên như thế.
Xét
theo giáo, phân tích, phá trừ “cái nhà” Căn và Trần, cùng Phật ở trong nhà Chân Đế; đó
là ư nghĩa trong Tam Tạng. Thấu đạt Căn Trần, chính là cùng
Như Lai nghỉ đêm trong nhà Chân Đế; đó chính là
ư nghĩa trong Thông Giáo. Phân biệt nhà cửa “Căn Trần” trong mười
pháp giới, đều được thấy Phật;
đó là ư nghĩa trong Biệt Giáo. Trong một gian nhà “Căn Trần”, liền thấy hết
nhà cửa, thấy hết thảy Phật; đó là ư
nghĩa trong Viên Giáo.
Xét
theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ cùng với Như Lai ngự
nơi Thật Tướng; c̣n Tích th́ thị hiện nghỉ
nơi các nhà.
Quán
tâm th́ quán nhà Ngũ Ấm, chia chẻ cái Không chính là Không,
cùng nghỉ đêm với hóa Phật. Quán nhà Ngũ Ấm
chính là Giả, cùng nghỉ đêm với Báo Phật (Báo Thân Phật). Quán nhà Ngũ Ấm
chính là Trung, cùng nghỉ đêm với Pháp Thân Phật.
*
Kiều Phạm Ba Đề (Gavāṁpati), phương
này dịch là Ngưu Ty (牛呞, trâu nhơi),
được thiên vương cúng dường bậc nhất.
Xét
theo giáo, trụ trong vườn trời nhằm chỉ bày
điều lành; có tướng trâu nhơi nhằm chỉ
bày điều ác. Đó là ư nghĩa trong Tam Tạng. Dùng thân
có tướng trâu nhơi mà đắc đạo, nhằm
chỉ dạy “ác chẳng phải là ác”. Ở trong vườn
cơi trời mà có tướng trâu nhơi nhằm chỉ bày
“thiện chẳng phải là thiện”. Đó là ư nghĩa
trong Thông Giáo. Chỉ bày thiện ác trong giới nội (trong
tam giới) và giới ngoại (ở ngoài
tam giới); đó là ư nghĩa trong Biệt giáo. Chỉ bày Thật
Tướng của thiện ác là ư nghĩa trong Viên Giáo.
Xét
theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ trụ trong tứ vô sở
úy[14],
an trụ thánh chúa như trâu chúa Đệ Nhất Nghĩa
Thiên. Nơi Tích th́ hiện tướng trâu nhơi, vui
sướng ngự trên cơi trời.
Xét
theo Quán Tâm, quán lư Trung Đạo trong tâm tánh, bước
đi vững vàng, an tường, ngay thẳng, nhanh chóng
như gió (tức là dùng tướng trượng phu
ngưu vương, cũng thông với ư nghĩa dùng trâu trắng
để kéo xe [trong phẩm sau]).
* Ly Bà Đa (Revata), phương
này dịch là Tinh Tú (星宿), c̣n dịch là Giả Ḥa Hợp (假和合). Do bị hai con quỷ tranh thân xác mà Ngài đắc đạo[15].
Ngài tọa Thiền, nhập Định, tâm chẳng đảo
loạn (điên đảo, tán loạn) bậc nhất.
Xét
theo giáo, phân tích, phá trừ Ngũ Ấm chẳng phải do
ta sở hữu. Đó là ư nghĩa trong Tam Tạng. Thấu
đạt Ngũ Ấm vốn chẳng do ta sở hữu;
đó là ư nghĩa trong Thông Giáo. Phân biệt Ngũ Ấm
trong mười pháp giới đều chẳng phải là
của ta. Đó là ư nghĩa trong Biệt Giáo. Thông đạt
Ngũ Ấm chẳng phải là của ta, chẳng phải
thuộc về
người khác, thấy Thật Tướng của
các Ấm. Đó là ư nghĩa trong Viên Giáo.
Xét
theo Bổn Tích th́ Bổn là trụ trong Nhật Tinh Tú tam-muội,
Tích th́ thị hiện danh hiệu ấy.
Xét
theo quán tâm, niệm Phật, thấy mười
phương Phật đông nhiều giống như ban
đêm trông thấy các ngôi sao v.v… (Trong phần trước, xét theo giáo th́ là gởi
gắm nơi giả ḥa hợp. Nay nơi Bổn Tích, ngắm
sao và xét theo các tinh tú đều là tùy tiện. Thấy
chư Phật [nhiều] như các ngôi sao chính là dựa theo
ư trong kinh Ban Châu. [Để hiểu ư của phần] quán
tâm, hăy nên rộng dẫn kinh Ban Châu Tam Muội).
*
Tất Lăng Già Bà Tha (Pilindavatsa), phương
này dịch là Dư Tập (餘習, tập khí c̣n
sót lại)[16].
Ngài khổ hạnh ngồi dưới cội cây, chẳng
tránh né mưa gió bậc nhất.
Xét theo giáo, do đă diệt Mạn, cho nên chẳng
có Mạn. Đó là ư nghĩa trong Tam Tạng. Từ ngay
nơi mạn mà vô mạn, đó là ư nghĩa trong Thông Giáo.
Phân biệt mười pháp giới cao thấp. Đó là ư
nghĩa trong Biệt Giáo. Tám thứ ngă tự tại[17], trọn đủ
Phật pháp. Đó là ư nghĩa trong Viên Giáo.
Xét theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ trụ
trong “thường, lạc, ngă, tịnh, bát tự tại
ngă”, phạm thanh vi diệu. Nơi Tích th́ thị hiện
tâm ngạo mạn, ác khẩu.
Xét theo quán tâm th́ quán lời thô tháp hay tiếng
mềm mỏng đều quy vào Đệ Nhất Nghĩa
(Tam quán tổng hay biệt đều là Đệ Nhất Nghĩa.
Các Hoặc đă phá đều là thô).
* Bạc Câu La (Vakkula), phương
này dịch là Thiện Dung (善容, dung mạo
tốt lành), thọ một trăm sáu mươi tuổi,
chẳng bị bệnh, chẳng yểu. Thường thích
nhàn cư bậc nhất.
Xét theo giáo, diệt ồn náo, nhập lẽ
Chân,
đó là sự tịch tĩnh trong Tam Tạng. Từ ngay
nơi ồn náo mà chứng nhập lẽ Chân,
đó là sự tịch tĩnh trong Thông Giáo. Ĺa hai bên, nhập
Trung, đó là sự tịch tĩnh trong Biệt Giáo. Từ
ngay nơi hai bên mà là Trung. Đó là sự tịch tĩnh
trong Viên Giáo.
Xét
theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ trụ trong Đại Tịch
Tĩnh Định. Trường thọ là Thường, chẳng
có bệnh là Lạc, chẳng yểu là Ngă, tịch tĩnh
là Tịnh. Ngự trong căn cội Tứ Đức ấy.
Nơi Tích th́ thị hiện sáu căn tịch tĩnh.
Xét
theo quán tâm, tâm tánh Trung Đạo tức Không, tức Giả,
tức Trung, chính là thường lạc ngă tịnh quán.
*
Ma Ha Câu Hy La (Mahākāuṣṭhila), phương
này dịch là Đại Tất (大膝, đầu gối to), là cậu của
ngài Xá Lợi Phất, biện tài bậc nhất[18].
Xét
theo giáo, ngoài thông thạo bốn Vi Đà (Vedas)[19],
trong là thông suốt Tam Tạng. Đó là tứ biện tài của
Sơ Giáo. “Ngă vô sở
đắc”, biện định
như thế là tứ biện tài của Thông Giáo. Dù danh hay
nghĩa đều trọn khắp mười pháp giới.
Đó là biện tài của Biệt Giáo. Nương vào Thật
Tướng, trọn khắp hết thảy các biện tài.
Đó là biện tài của Viên Giáo.
Xét
theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ trụ nơi khẩu mật,
khẩu luân giáo hóa chẳng thể nghĩ bàn, đại
định, đại huệ. Nơi Tích th́ thị hiện
đầu gối to.
Xét
theo quán tâm, “quán tâm tức Không” chính là Định, [quán tâm] tức Giả chính là Huệ,
dùng để trang nghiêm cái tâm.
*
Nan Đà (Nanda), c̣n dịch là Phóng Ngưu Nan Đà, phương
này dịch là Thiện Hoan Hỷ. Có thuyết nói ngài chính là
Bạt Nan Đà trong Luật Tạng.
Xét
theo giáo, Sự hoan hỷ, Lư chẳng hoan hỷ; đó chính là ư nghĩa
trong Tam Tạng. Sự hoan hỷ chính là Lư hoan hỷ, đó
là ư nghĩa theo Thông Giáo. Thuộc vào Hoan Hỷ Địa
là ư nghĩa trong Biệt Giáo. Thuộc địa vị Hoan
Hỷ Trụ là ư nghĩa trong Viên Giáo (Trong Thập Trụ,
vốn không có danh xưng Hoan Hỷ, nhưng xét theo địa
vị trong Biệt Giáo, do chứng đạo giống như nhau, cho nên mượn
danh xưng đó mà gọi là Hoan Hỷ Trụ).
Xét
theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ trụ trong Thật Tế, chẳng hỷ, chẳng bất hỷ;
nơi Tích th́ gọi là Hoan Hỷ.
Xét
theo quán tâm, quán tâm tương tự tương ứng với
Lư th́ gọi là Hoan Hỷ Quán.
*
Tôn Đà La [Nan Đà] (Sundarananda)[20]
phương này dịch là Hảo Ái, cũng dịch là
Đoan Chánh, [vị này được] gọi tên theo vợ.
Nan Đà th́ như đă giải thích trong phần trước.
Vị này là em ruột của đức Phật[21].
Xét
theo giáo, Tục Đế có pháp hỷ, Chân Đế chẳng
có hỷ. Đó là ư nghĩa trong Tam Tạng. Tục hỷ
chính là Chân hỷ, đó là ư nghĩa trong Thông Giáo. Từ pháp
hỷ trong Thông Giáo mà có pháp hỷ trong pháp hỷ của Tục
Đế. Đó là ư nghĩa theo Biệt Giáo. Từ trong sự
hoan hỷ chung mà trọn đủ hết thảy các pháp hỷ,
đó chính là ư nghĩa trong Viên Giáo.
Bổn
Tích và quán tâm th́ giống như đă nói trong [phần luận
định về ngài] Nan Đà.
*
Phú Lâu Na (Pūrṇa), dịch là Măn Nguyện, đó là tên của cha Ngài. Di
Đa La Ni (Maitrāyaṇī) dịch
nghĩa là Từ Nữ, là tên của mẹ Ngài. Ngài
được gọi tên theo cha mẹ. V́ thế,
được gọi là Măn Từ Tử. Ngài là vị thuyết
pháp bậc nhất[22].
Xét
theo giáo, th́ trân trọng, siêng năng phân tích pháp, việc làm
đă xong, tức là đă măn nguyện trong Tam Tạng. Thấu
đạt chính là Không, đă chứng đắc Không, tức
là đă măn nguyện trong Thông Giáo. Pháp nhăn trọn đủ,
tức là đă măn nguyện trong Biệt Giáo. Trụ trong bí
mật tạng, tức là đă măn nguyện trong Viên Giáo.
Xét
theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ đă măn nguyện từ
lâu, nơi Tích th́ thuyết pháp bậc nhất, thị hiện
làm tri thức của chúng sanh.
Xét
theo quán tâm th́ như trong Chỉ Quán, quán nhân, hạnh, lư v.v…
các thiện tri thức (“Nhân” là Phật, Bồ
Tát, La Hán. “Hạnh” là Lục Độ đạo phẩm.
“Lư” là pháp tánh Thật Tế).
*
Tu Bồ Đề (Subhūti), phương
này dịch là Không Sanh, cũng dịch là Thiện Cát, Thiện
Nghiệp, hoặc Thiện Hiện, là vị Giải Không (thấu hiểu Không) bậc nhất.
Xét
theo giáo, diệt Sắc, Không Trí sanh, đó là ư
nghĩa trong Tạng Giáo. Thấu hiểu Sắc, Không Trí nẩy
sanh, đó là ư nghĩa trong Thông Giáo. Từ Hữu Trí sanh ra
Không Trí, từ Không Trí sanh ra Tục Trí. Từ Tục Trí
sanh ra Trung Trí, đó là ư nghĩa của Biệt Giáo. Không
sanh tức là Hữu Trí, cũng tức là trí trong Tục Trí; đó là ư nghĩa trong Viên Giáo.
Xét
theo Bổn Tích, nơi Bổn là trụ Thật Tướng
Pháp Thân, nơi Tích th́ thị hiện thấy Không mà sanh.
Xét
theo quán tâm, chẳng ở trong, ngoài, chặng giữa, chẳng
phải là tự có. Đó là quán tâm Pháp Thân.
*
A Nan (Ānanda), phương
này dịch là Hoan Hỷ, hoặc dịch là Vô Nhiễm[23],
là em họ của đức Phật[24], đa văn bậc nhất.
Xét
theo giáo, Hoan Hỷ A Nan thuộc về Tam Tạng. Hiền
A Nan là Thông Giáo. Điển Tạng A Nan là Biệt Giáo. Hải
A Nan là Viên Giáo.
Xét
theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ trụ trong chẳng hoan hỷ,
chẳng không hoan hỷ. Pháp Thân như hư không, trí huệ
như mây mưa, có thể tŕ, có thể thọ. Nơi Tích
th́ là hoan hỷ.
Xét
theo quán tâm, do tương ứng với
Không, Giả, Trung, cho nên hoan hỷ, từ danh tự cho đến chân quán
tương ứng.
* La Hầu La (Rāhula), phương
này dịch là Phú Chướng (覆障, ngăn
trở), là con của đức Phật. Nhân duyên như đă
nói trong sách Văn Cú. Ngài mật hạnh bậc nhất.
Xét theo giáo, phân tích pháp Đạo Đế
chướng Tứ Trụ; đó là ư nghĩa theo Tam Tạng.
Thấu hiểu pháp Đạo Đế chướng Tứ
Trụ, đó chính là ư nghĩa trong Thông Giáo. Tam trí theo thứ
tự chướng ngũ trụ, đó chính là ư nghĩa
trong Biệt Giáo. Nhất tâm tam trí chướng ngũ trụ,
đó là ư nghĩa trong Viên Giáo.
Xét
theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ trụ trong Trung Đạo,
chướng lấp nhị biên. Nơi Tích th́ là thị hiện
ngăn trở.
Xét
theo quán tâm, do Giả mà chướng Niết Bàn. Do Không mà
chướng sanh tử. Do Trung mà chướng phi sanh tử,
phi Niết Bàn.
Đoạn
kinh văn này được kết lại bằng câu “chúng
sở tri thức” (được mọi người
hay biết), có thể giải thích: Tri chỉ là Thức. Hoặc
nói: Nghe tên là Tri, thấy h́nh dáng là Thức. Hoặc: Thấy
h́nh dáng là Tri, thấy tâm là Thức.
Xét
theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ làm bậc tri thức măn tự
của chúng sanh, nơi Tích th́ là bậc tri thức bán tự.
Xét
theo quán tâm th́ như sách [Ma Ha] Chỉ Quán đă nói. Trên
đây, phần giải thích về các vị Thanh Văn
được nhiều người hay biết đă xong.
1.1.2.1.1.1.2. Các vị
Thanh Văn ít được hay biết
(Kinh)
Phục hữu học vô học nhị thiên nhân.
(經)復有學無學二千人。
(Kinh:
Lại có các vị Hữu Học, Vô Học hai ngàn người).
Kế
đó, nêu ra các vị ít được hay biết, chỉ
nêu số lượng và địa vị, chẳng tán thán
phẩm đức, gọi những vị này là “các vị
ít được hay biết”. Phàm chẳng thể suy
lường thánh, chẳng thể dùng chuyện “được
biết đến” nhiều hay ít
để phân định bậc thánh hơn kém. Chỉ là
đối với kẻ mong cao, hâm mộ xa, bèn dùng các vị
được nhiều người hay biết để
dẫn khởi; c̣n đối với người giấu
tên ẩn đức, nhún nhường th́ dùng các vị ít
người hay biết để dẫn khởi. Do tùy thuận
chúng sanh, cho nên có chừng đó vị. Chớ nên v́ nhiều
hay ít nơi Tích mà đánh mất Bổn.
Xét
theo giáo, Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả trong Tạng
Giáo là bậc hữu học, Tứ Quả là bậc Vô
Học. Trong Thông Giáo, trước khi đạt đến
địa vị Ly Dục th́ gọi là Hữu Học.
Đă đạt đến địa vị ấy th́ gọi
là Vô Học. Lại nữa, Cửu Địa đều gọi
là Hữu Học. Địa vị thứ mười là Phật
Địa th́ gọi là Vô Học. Trong Biệt Giáo và Viên Giáo,
hoặc là dùng công dụng và vô công dụng để biện
định Hữu Học và Vô Học, hoặc dùng trọn
đủ và chẳng trọn đủ để biện
định Hữu Học và Vô Học. Lại nữa, trong
kinh A Hàm, ngoại đạo hỏi đức Phật: “La
Hán có c̣n học hay không?” Đức Phật đáp: “La Hán
chẳng làm ác pháp, trụ trong thiện pháp, học sự
vô học ấy th́ gọi là Học”. Nếu như thế,
bậc Hữu Học cũng được gọi là Vô Học.
V́ lẽ nào? Đă đoạn giống như nhau, chẳng
c̣n đoạn nữa, tức là Vô Học! Đó là bốn
câu (Học, Vô Học, “Học chính là Vô
Học”, “chẳng Học và chẳng phải Vô Học”). Xét theo ngũ phương tiện[25],
sẽ cộng thành năm câu. Xét theo tứ giáo th́ cũng phỏng
theo lệ đó, [bốn lần năm] bèn thành hai
mươi câu.
Xét
theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ là Pháp Thân đại
sĩ, thuộc vào địa vị Học và Vô Học măn
tự. [Nơi Tích] th́ chúng sanh đáng nên dùng bậc Hữu
Học và Vô Học bán tự để trang nghiêm song thụ[26],
tiếp nối lưu truyền.
Xét
theo quán tâm, chánh quán Trung Đạo, chẳng duyên theo nhị
biên. Ở chặng giữa th́ chính là Vô Học. Có thể
quán như thế th́ gọi là Học. Lại chẳng duyên
mà duyên th́ gọi là Vô Học Học. Thường quán
như thế gọi là Học Vô Học. Đối với
kẻ chưa tu, sẽ trở thành câu thứ năm.
Cũng có thể coi Lư là câu thứ năm. Cũng có thể
đối với Tam Quán (Không, Giả, Trung), mỗi phép Quán đều có năm câu. Nếu xét theo quán môn để
nói về số lượng th́ sắc tâm trọn đủ
Thập Giới, Thập Như. Giới và Như luận
định lẫn nhau, tức là hai ngàn[27].
Phần nói về các vị tỳ-kheo đă xong.
1.1.2.1.1.2. Chúng tỳ-kheo-ni
(Kinh)
Ma Ha Ba Xà Ba Đề tỳ-kheo ni, dữ quyến thuộc
lục thiên nhân câu. La Hầu La mẫu Da Thâu Đà La tỳ-kheo-ni
diệc dữ quyến thuộc câu.
(經)摩訶波闍波提比丘尼。與眷屬六千人俱。羅睺羅母耶輸陀羅比丘尼。亦與眷屬俱。
(Kinh:
Tỳ-kheo-ni Ma Ha
Ba Xà Ba Đề và quyến thuộc sáu ngàn người
nhóm họp. Mẹ của La Hầu La là tỳ-kheo-ni
Da Thâu Đà La cũng cùng với quyến thuộc nhóm họp).
Ma
Ha Ba Xà Ba Đề (Mahāprajāpati), phương này dịch là
Đại Ái Đạo, là d́ của đức Phật.
Nơi Bổn, Ngài trụ trong pháp môn Trí Độ, c̣n Tích
là mẹ của ngàn đức Phật, sanh thành, dưỡng
dục bậc đạo sư. Giải thích theo quán tâm th́
Trung Quán rộng lớn là Đại, ḷng Từ vô duyên là
Ái. Lư Trung Đạo rỗng rang, thông suốt là Đạo.
Đại tức là tự hành, Ái chính là hóa độ
người khác. Nếu do ḷng yêu thương mà thọ
sanh, do ḷng Từ mà dính dáng đến Hữu, Đạo liền
dung thông tự hành và hóa độ người khác.
“Sáu
ngàn người” là số lượng. Xét theo quán tâm,
quán lục căn thanh tịnh, [mỗi
căn] trọn đủ một ngàn công đức [như đă nói trong phẩm Tùy Hỷ Công Đức,
nên thành ra sáu ngàn].
Da
Thâu Đà La (Yaśodharā), phương
này dịch là Hoa Sắc, cũng dịch là Danh Văn. Lúc tại
gia, đức Phật có ba vị phu nhân: Một là Cù Di (Gopikā), hai là Da Thâu, ba là Lộc Dă (Mrigadāva). Xét theo Bổn
Tích, Thê (妻, vợ) có
nghĩa là Tề (齊, đều bằng),
[vậy th́ vợ của Bồ Tát] há có phải là [phàm phu]
lè tè sát đất ư? [Da Thâu Đà
La] là vợ của Bồ Tát, cho nên biết nơi Bổn
th́ trụ trong pháp hỷ tịch định vi diệu,
nơi Tích th́ là vợ của Thái Tử. Xét theo quán tâm, quán
Không vô lậu pháp hỷ, bèn dùng Lộc Dă để biểu
thị cho vợ (do bà này chẳng sanh con). Quán Giả đạo
chủng trí pháp hỷ, bèn dùng Da Thâu để biểu thị
cho vợ (do sanh La Hầu La). Quán Trung pháp hỷ, bèn dùng Cù
Di để làm vợ ḥng biểu thị (do là vợ cả).
Trên
đây đều là chia theo từng vị [Thanh Văn]
để nói về Bổn Tích và quán tâm, nay bèn tổng luận,
ḥng hiển thị sự quyền biến khéo léo để
nêu bày quán hạnh tinh vi. Nói chung về Bổn Tích th́ Thủ
Lăng Nghiêm Định thị hiện các thứ, xứng
hợp khéo léo căn tánh, không ǵ chẳng thực hiện!
Nay luận định theo chuyện gần đây th́ đức
Thích Ca thị hiện thác sanh trong cung vua. Sau khi Ngài giáng thần
vào thai của thánh hậu (Ma Da phu nhân), hàng Pháp Thân đại
sĩ đều phù tá đức Phật thực hiện sự
giáo hóa, giáng sanh trong các gia tộc khác. Như đức Phật
dùng kim thân ba mươi hai tướng
tốt lành để ứng hiện đản sanh, các vị
Đại Sĩ cũng giáng sanh khắp chốn. Hoặc là
[khi giáng sanh] thị hiện nhà cửa trống rỗng
(ngài Tu Bồ Đề), hoặc chất báu tuôn xuống
(ngài Măn Từ Tử), hoặc mẹ mang thai bèn biện tài
nổi trội, hiểu rơ các giấc mộng (ngài Xá Lợi
Phất). Như khi hoàng thái tử (Thái Tử Tất Đạt
Đa) ĺa nước, bỏ ngôi vua, vượt thành học
đạo, các vị đại sĩ đều theo thầy
thọ học, tài nghệ đều thông, trở thành bậc
thầy của kẻ khác. Như khi Như Lai chuyển
pháp luân lần đầu
tiên, mở cửa cam lộ, các vị Đại Sĩ
biết duyên giáo hóa chưa chín muồi, thị hiện cùng
nhau chẳng tiếp nhận, phân chia môn đ́nh, chống
đối, đề cao đạo của chính ḿnh mới
là chân thật. Người giáo hóa và kẻ được
giáo hóa đều hoàn toàn sanh khởi như sữa. Nếu
duyên giáo hóa đă chín muồi, th́ tơ trắng dễ nhuộm
màu, hoa sen trong ao nở sớm, đổi phàm thành thánh, chuyển
sữa thành lạc, bậc thầy của đồ chúng
trở thành đệ tử thượng thủ của
đức Phật. Hoặc là trí huệ, thần thông, biện
tài, tam-muội, ai nấy đều là bậc nhất, cùng
phù tá đấng pháp vương. Độ kẻ chưa
được độ, kẻ đă chín muồi càng thêm
chín muồi. Trong hội Phương Đẳng, nghe công
đức chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát, ắt
thẹn Tiểu, hâm mộ Đại, như chuyển lạc
thành sanh tô. Kế đó, nghe môn Bát Nhă Ma Ha Diễn (Bát Nhă
Đại Thừa), thoạt đầu là giải ngộ
sắc, tâm, rốt cuộc đắc [Nhất Thiết]
Chủng Trí. Vẫn ôm ḷng hẹp ḥi, [phân biệt] Tiểu,
Đại, ra, vào, trao, nhận, hoặc chung, hoặc riêng,
hoặc Thiên, hoặc Viên, vâng mạng nhận biết, tâm dần
thông thái[28],
như chuyển sanh tô thành thục tô. Kế đó, nghe Pháp
Hoa, lănh hội tánh vốn sẵn có, biết chắc là cha
con, được thọ kư, được giao phó Đại
Thừa, bỏ ba thừa, quy về một thừa, như
bốn vị kia (sữa, lạc,
sanh tô, thục tô) đều thành cùng một vị
đề hồ, chẳng để riêng một ai được diệt
độ, mà đều dùng sự diệt độ của
Như Lai khiến cho [mọi người cùng] được diệt
độ.
Pháp
thần (法臣, bầy tôi trong
Phật pháp) của đấng pháp vương, do đại
sự mà xuất thế, khéo dùng phương tiện. Thoạt
đầu dùng bán tự pháp, phá hai mươi lăm Hữu
rối ren, thành tựu bốn cây khô (phá trừ bốn
đảo kiến về thường, lạc, ngă, tịnh)
nơi Song Thụ, lợi ích chúng sanh. Kế đó, dùng bán
pháp và măn pháp, phá sự độc thiện[29]
của hàng Nhị Thừa, thành tựu sự rộng lớn
của Bồ Tát, lợi ích thánh nhân, thành tựu bốn cây
tươi tốt nơi Song Thụ (chứng nhập
thường, lạc, ngă, tịnh), lợi ích thánh nhân. Sau
đó, dùng thường trụ măn tự, phá nhị biên
trước sau, thành tạng bí mật “chẳng khô héo, chẳng
tươi tốt” của Phật, đạt lợi ích rốt
ráo. Chủ tướng công lao hoàn tất, đại thệ
nguyện viên măn. V́ thế, trong hội Pháp Hoa, Thân Tử
(Xá Lợi Phất) và Mục Liên dứt bặt sự giáo
hóa, thánh chúa đă trọn hết phận sự, cũng chẳng
c̣n trụ thế bao lâu nữa! Kinh văn nói: “Như ngă
bổn thệ nguyện, kim giả dĩ măn túc, Như Lai bất
cửu, đương nhập Niết Bàn” (như bổn
thệ nguyện của ta nay đă được trọn
đủ, chẳng bao lâu nữa, Như Lai sẽ nhập
Niết Bàn). Lời tuyên bố diệt độ đă bắt
đầu từ lúc đó. Hai vạn vị Nhật Nguyệt
Đăng Minh Phật, Ca Diếp Phật v.v… đều rốt
ráo trong thời Pháp Hoa. Nay thầy tṛ của Phật đều
nêu bày rơ Tích Môn trong kinh này: “Trong th́ ngầm
hành Bồ Tát hạnh, ngoài hiện tướng Thanh Văn”. [Trong phẩm Như
Lai Thọ Lượng, đức Phật tuyên bố] “kể
từ khi ta thật sự thành Phật tới nay, đă là
vô lượng ức kiếp”. Từ đó mà suy,
các vị đại La Hán từ địa vị Pháp Thân,
rủ ḷng soi bóng tùy duyên, in dấu trong muôn gịng nước,
hiện Hữu Học, Vô Học, làm người nam, kẻ
nữ, làm tăng, làm tục, nhờ sức Thủ Lăng
Nghiêm, không ǵ chẳng thực hiện! Phương tiện
quyền biến khéo léo được thực hiện
như thế đó. Giải thích hai tầng Bổn Tích tổng
và biệt như thế đó, vẫn sợ đánh mất
ư chỉ, nếu cứ thẳng thừng đối với
mỗi câu đều phiên dịch danh tự [của các vị
Thanh Văn có nghĩa là ǵ] th́ chúng Thanh Văn há có khác biệt
với các giáo khác ư?
Nói
chung về quán tâm, trên đây, thầy tṛ ban bố sự
giáo hóa là do Pháp Thân thực hiện. Nếu chẳng tạo
phương tiện để quán, sẽ vô ích cho hành nhân.
Như kẻ nghèo đếm của báu, giống như kẻ
mù cầm đuốc. Nhưng tâm số (tâm sở) rất
nhiều, hăy nói theo thiện số (các thiện tâm sở),
giống như các đệ tử tuy đông đảo,
chỉ nêu ra mười vị. Mười thiện số
(mười thiện tâm sở) phù tá tâm vương, có thể
đổi ác hướng lành, đổi phàm thành thánh, hoàn
tất hết thảy các pháp môn, chỉ lấy mười
tâm số làm gốc. Như mười vị đệ tử
phù tá đức Phật giáo hóa, cùng thuần thục chúng
sanh vững vàng nơi Phật pháp. Mười vị, mỗi
vị đều trọn đủ các đức, nhưng
chỉ nói đến sở trường để tuyên dạy
Phật đạo, ḥng thuận
theo ḷng mong muốn của chúng sanh. Kẻ cầu trí huệ
tôn ngài Thân Tử (Xá Lợi Phất) làm thầy, cho
đến kẻ mong đa văn theo học với ngài A
Nan. Do cùng phù tá đấng pháp vương mà mỗi vị
chấp chưởng một chức trách. Nay quán tâm cũng
giống như thế, mỗi mỗi đều thuộc
trong tâm, đều trọn đủ tâm vương và tâm số
để thành tựu phép Quán. Do tâm vương và tâm số giúp đỡ lẫn nhau mà được khai ngộ, hoặc
do tưởng tâm sở mà nhập đạo, hoặc do dục tâm sở
mà nhập đạo. Tùy theo lẽ đáng nên mà tâm
vương và tâm số cùng công kích để biến đổi
các tâm trần lao ḥng làm Phật sự. Tu phép Quán này mà
chưa ngộ th́ quán hạnh như sữa. Nếu phát khởi
vô lậu th́ quán hạnh như lạc. Nếu phá Trần
Sa, sẽ như sanh tô và thục tô. Nếu phá vô minh, Quán sẽ như đề hồ. Nếu chẳng hết
sạch tâm số trần lao, quán sẽ chẳng hoàn tất.
V́ thế, kinh dạy: “Chúng sanh bất độ tận,
ngă bất thành Chánh Giác” (chẳng độ hết chúng
sanh, ta chẳng thành Chánh Giác) chính là ư này. Trí Húc cho rằng:
Đối với hai mươi mốt vị đại
La Hán, hăy nên chuẩn theo Duy Thức, [hai mươi mốt
vị ấy] biểu thị chung cho hai mươi mốt
pháp thiện tâm sở, tức là Xúc, Tác Ư, Thọ, Tưởng,
Tư, Dục, Giải, Niệm, Định, Huệ, Tín,
Tàm, Quư, Tinh Tấn, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Khinh An, Bất Phóng Dật,
Hành Xả, Bất Hại. Mỗi mỗi đều tương
ứng, mỗi mỗi đều trọn đủ các
đức, cùng phù tá tâm vương, tự lợi, lợi
lạc người khác đến tột cùng đời vị
lai, chẳng hề đoạn tuyệt, nhưng chẳng
phiền mỗi tâm số phải phối ứng với một
vị La Hán, cốt sao hiểu ư mà thôi! Phần đầu
tiên, nói về chúng Thanh Văn đă xong.
1.1.2.1.2. Chúng Bồ Tát
Thích
Luận nói: “Bồ Tát bao gồm bốn chúng tại gia và
xuất gia”. V́ sao lại kể riêng biệt? Đáp: Có Bồ
Tát thuộc vào bốn chúng, nhưng trong tứ chúng có các vị chẳng phải
là Bồ Tát; v́ những người ấy chẳng phát tâm
làm Phật. Nay nêu riêng những vị cùng phát tâm cầu làm
Phật, gọi là “Bồ Tát chúng”. Kinh văn chia làm ba
phần: Một là nêu căn khí, hai là tán thán phẩm đức,
ba là nêu tên và tổng kết.
1.1.2.1.2.1. Nêu bày căn
khí
(Kinh)
Bồ Tát Ma Ha Tát bát vạn nhân.
(經)菩薩摩訶薩八萬人。
(Kinh:
Bồ Tát Ma Ha Tát tám vạn người).
Nói
đầy đủ th́ phải là Bồ Đề Tát
Đỏa Ma Ha Tát Đỏa (Bodhisattva Mahasattva), ngài La Thập
nói giản lược [là Bồ Tát]. Bồ Đề
(Bodhi) dịch là Đạo, Tát Đỏa (Sattva) dịch là
Hữu T́nh. Ma Ha dịch là Đại. [Bồ Tát] tức là
Đại Đạo Tâm Hữu T́nh. Đó chính là [biện định
rơ] căn khí, chủng loại. Bồ Tát có nhiều loại,
tức Thiên, Thông, Biệt, Viên. Như Thích Luận viện
dẫn Ca Chiên Diên Tử (Kātyāyani-putra) nhằm
nói về người hành viên măn Lục Độ, muốn
điều phục chúng sanh căn cơ c̣n đang là máu trở
thành sữa. Hoặc như Đại Phẩm Bát Nhă nói có Bồ
Tát phát tâm tương ứng với Tát Bà Nhă (Sarvajña, Nhất Thiết Trí), ḥng điều phục sữa
thành lạc. Hoặc như Đại Phẩm nói có Bồ
Tát phát tâm du hư thần thông, tịnh hóa cơi Phật,
ḥng muốn đào luyện lạc trở thành sanh tô và thục
tô. Hoặc như Đại Phẩm nói có Bồ Tát phát tâm
liền ngồi nơi đạo tràng, thành Chánh Giác, chuyển
pháp luân, độ chúng sanh, tức là điều chế tô
thành đề hồ. V́ thế, trong phần sau, kinh có nói: “Bồ
Tát văn thị pháp, nghi vơng giai dĩ trừ” (Bồ
Tát nghe pháp này, lưới nghi đều đă trừ). Lại
nói: “Nhược Bồ Tát bất văn Pháp Hoa, phi thiện
hành Bồ Tát đạo. Nhược văn thử kinh, tức
thiện hành Bồ Tát đạo” (Nếu Bồ Tát chẳng
nghe kinh Pháp Hoa, th́ chẳng phải là khéo hành Bồ Tát đạo.
Nếu nghe kinh này, tức là khéo hành Bồ Tát đạo). V́
thế, nói đại lược bèn có bốn loại [Bồ Tát].
Xét
theo Bổn Tích, Bổn địa khó lường, hoặc
thuộc địa vị Đẳng Giác, hoặc bằng
với đấng pháp vương. Như Văn Thù vốn
là Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật, nhưng
thị hiện làm Bồ Tát phù tá Phật Thích Ca, ḥng dẫn dắt các chúng sanh thuộc bốn vị
(sữa, lạc, sanh tô, thục tô) cùng về đề hồ.
Nhưng xét theo sự thành tựu rốt ráo của Ngài
nơi Bổn địa, há có phải là ngày nay Ngài mới
nhập Đại Thừa, cũng chẳng phải là
nơi Tịch Diệt đạo tràng [mặt trời mới mọc] chiếu núi cao
trước! Dù Đốn hay Tiệm, đều là những
chuyện được thực hiện thuộc về
Tích.
Xét
theo quán tâm, Trung Đạo chánh quán, cùng chiếu cả hai
đế (Tục Đế và Chân Đế) th́ gọi là
Đại. Thông thấu cực quả (quả vị tột
cùng, tức Phật quả) th́ gọi là Đạo. Phá
ngũ trụ trần lao th́ gọi là Thành Chúng Sanh (thành tựu
chúng sanh).
“Tám
vạn người” là số lượng. Trong các kinh
khác, đại chúng nhóm họp rất đông, cớ sao
kinh này lại ít? [Nguyên nhân là do] hoặc nói đến một
con số đại lược, hoặc ví như vua bàn
chuyện cơ mật, mọi người trong cả nước
làm sao cùng tham gia bàn luận cho được? Nay mở tạng
bí mật, chẳng dính líu đến quyền biến hay hạ
căn, những người chứng tín đều chẳng
phải hạng lơ mơ, ắt phải đều là
người căn tánh viên đốn và có cội nguồn
sâu xa nơi Bổn.
Xét
theo quán tâm, quán một thiện tâm trọn đủ bách giới
thiên như. Thập Thiện chính là vạn pháp. Xét theo Bát
Chánh Đạo th́ chính là tám vạn pháp môn (Thập Thiện
là đối tượng để quán, Bát Chánh Đạo
là chủ thể để quán).
1.1.2.1.2.2. Tán thán phẩm
đức
(Kinh)
Giai ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề bất
thoái chuyển, giai đắc Đà La Ni, nhạo thuyết
biện tài, chuyển bất thoái chuyển pháp luân, cúng
dường vô lượng bách thiên chư Phật. Ư
chư Phật sở, thực chúng đức bổn,
thường vị chư Phật chi sở xưng thán.
Dĩ Từ tu thân, thiện nhập Phật huệ, thông
đạt trí, đáo ư bỉ
ngạn. Danh xưng phổ văn vô lượng thế giới,
năng độ vô số bách thiên chúng sanh.
(經)皆於阿耨多羅三藐三菩提不退轉。皆得陀羅尼。樂說辯才。轉不退轉法輪。供養無量百千諸佛。於諸佛所植眾德本。常為諸佛之所稱歎。以慈修身。善入佛慧。通達大智。到於彼岸。名稱普聞無量世界。能度無數百千眾生。
(Kinh: Đều
chẳng thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề, đều đắc Đà La Ni, nhạo
thuyết biện tài, chuyển pháp luân chẳng thoái chuyển,
cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật.
Gieo các cội đức nơi chư Phật, thường
được chư Phật khen ngợi. Dùng ḷng Từ
để tu thân, khéo nhập trí huệ của Phật, thông
đạt trí đến bờ bên kia. Tiếng tăm vang rền
vô lượng thế giới, có thể độ vô số
trăm ngàn chúng sanh).
Câu
đầu tiên vừa nói rơ địa vị, vừa tán
thán phẩm đức. Mười hai câu kế đó chỉ
tán thán phẩm đức. Gộp chung mười ba câu là
tán thán phẩm đức theo chiều dọc (thời gian)
lẫn chiều ngang (không gian). A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề (Anuttara
Samyak Saṁbodhi) được phương này dịch
là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có ư nghĩa thông
khắp bốn giáo.
“Bất
thoái chuyển” xét theo Vị (địa vị), Hạnh,
và Niệm để luận định Bất Thoái, và
cũng có bốn thứ riêng biệt:
-
Nếu nói “chẳng sanh trong ba ác đạo” th́ gọi là Vị
Bất Thoái. Chẳng sanh nơi biên địa, các căn
tṛn vẹn, chẳng thọ thân nữ, th́ gọi là Hạnh
Bất Thoái. Thường biết túc mạng th́ gọi là
Niệm Bất Thoái. Trọn đủ hết các điều
ấy th́ gọi là A Bệ Bạt Trí. Đó là ư nghĩa
trong Tam Tạng.
-
Nếu [thuộc các địa vị] từ Sơ Địa
cho tới Lục Địa, chẳng lui sụt xuống
phàm phu, th́ gọi là Vị Bất Thoái. Tuy chánh sử[30]
đă tận, nhưng chưa thể tu trọn khắp vạn
hạnh, hạnh vẫn c̣n lui sụt. Đạt tới Thất
Địa th́ gọi là Hạnh Bất Thoái, nhưng vẫn
dấy lên ư niệm Nhị Thừa. V́ thế, niệm có
lui sụt. Đạt tới Bát Địa, đạo và
quán cùng lưu xuất, ḥa nhập vào nước của
gịng pháp th́ gọi là Niệm Bất Thoái, gọi là địa
vị A Bệ Bạt Trí. Đấy chính là ư nghĩa tam thừa
cùng lên Thập Địa trong Thông Giáo.
-
Các vị trong Địa Luận Tông[31]
nói: “Thập Trụ là Chứng Bất Thoái, Thập Hạnh
là Vị Bất Thoái. Thập Hồi Hướng là Hạnh
Bất Thoái. Thập Địa là Niệm Bất Thoái”.
Đó là ư nghĩa trong Biệt Giáo. Kinh Anh Lạc nói: “Sơ
Địa tam quán hiện tiền, tâm nào cũng đều
tịch diệt, tự nhiên lưu nhập”. Đó
cũng là ư nghĩa trong Biệt Giáo.
-
Như kinh Hoa Nghiêm nói Sơ Trụ đạt được
“một thân là vô lượng thân của Như Lai”, trọn
đủ ba món Bất Thoái. Đó chính là ư nghĩa trong Viên
Giáo. Đó là chuyện thuộc về Nhất Thật, nay
dùng cách phán giáo này để phán định địa vị
mầu nhiệm vậy.
Xét
theo Bổn Tích, Bổn địa tịch diệt, c̣n chẳng
phải là Thập Địa, huống hồ Sơ Trụ!
C̣n chẳng phải là Sơ Trụ trong Viên Giáo, huống hồ
Biệt Giáo và Thông Giáo ư? Các địa vị thuộc
Thông Giáo và Biệt Giáo có thể dùng để giải thích
các loại đại chúng được liệt kê [trong
phần Chứng Tín] của các kinh khác, chứ [hàng Bồ
Tát trong] kinh này chỉ thuộc địa vị trong Viên
Giáo. Đă chẳng biết Tích, làm sao có thể biết Bổn
cho được?
Xét
theo quán tâm, Tam Quán chính là tam bất thoái. Lại nữa, Nhất
Tâm Tam Quán chính là nhất tâm tam bất thoái, cần phải
dựa theo Lục Tức [để biện định].
Câu này theo chiều dọc, tán thán Sơ Hoan Hỷ Địa,
chẳng thoái đọa vào nhị biên, nhập Trung Đạo.
Theo chiều ngang là tán thán Sơ Phát Tâm Trụ, vượt
ra ngoài nhị biên, trừ phàm siêu thánh.
“Giai
đắc Đà La Ni” (đều đắc Đà La
Ni): Đà La Ni được phương này dịch là Giá
Tŕ (遮持), tức “ngăn
che điều ác, ǵn giữ điều thiện”. Theo
chiều dọc, tán thán Ly Cấu Địa (Nhị Địa),
Giới Độ (Thi La Ba La Mật) thanh tịnh. Theo chiều
ngang, tán thán Sơ Trụ, ngăn che ba chướng, ǵn giữ
ba đức.
Câu
“nhạo thuyết biện tài” theo chiều dọc, tán
thán Phát Quang Địa (Tam Địa), đắc đại
văn tŕ, trọn đủ tứ vô ngại biện[32].
Theo chiều ngang, tán thán công đức nghiêm mật nơi
khẩu của bậc Sơ Trụ.
Câu
“chuyển bất thoái chuyển pháp luân” theo chiều dọc,
tán thán Diễm Huệ Địa (Tứ Địa) tự
phá Hoặc của chính ḿnh, và phá mê ám cho
người khác. Theo chiều ngang, tán thán Sơ Trụ ngay
trong thân hiện tại có thể làm Phật, thuyết pháp
độ sanh.
Câu
“cúng dường vô lượng bách thiên chư Phật”
(cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật),
theo chiều dọc, tán thán Nan Thắng Địa (Ngũ
Địa), dùng sức Thiền Định thần thông ḥng dấy khởi cúng dường trọn khắp.
Theo chiều ngang, tán thán Sơ Trụ có thể thừa sự
trọn khắp mười phương chư Phật.
Câu
“ư chư Phật sở, thực chúng đức bổn”
(nơi chỗ chư Phật, gieo các cội đức), theo
chiều dọc, tán thán Hiện Tiền Địa (Lục
Địa), Bát Nhă hiện tiền. Trí là gốc của
đức, giống như gieo trồng nơi đất.
Theo chiều ngang th́ là tán thán Sơ Trụ đạt
được cội gốc Thật Tướng, có thể
gieo trồng các đức.
Câu
“thường vị chư Phật chi sở xưng thán”
(thường được chư Phật khen ngợi),
theo chiều dọc, tán thán Viễn Hành Địa (Thất
Địa), nhị trí phương tiện đă vượt
khỏi hết thảy, rộng tu lợi ích, tương xứng,
thấu hiểu Phật tâm. Theo chiều ngang, tán thán Sơ
Trụ khai tri kiến của Phật, giống như
chư Phật. V́ thế, được Phật xưng
dương, khen ngợi.
Câu
“dĩ Từ tu thân” (dùng ḷng Từ để tu thân),
theo chiều dọc, tán thán Bất Động Địa
(Bát Địa): Ḷng Từ huân tập
tam nghiệp, huân tập cái thân vào trong năm đường,
huân tập miệng v́ đại chúng thuyết pháp, huân tập
cái tâm v́ họ lập bày phương tiện. Theo chiều
ngang, tán thán bậc Sơ Trụ do sức của ḷng Từ
vô duyên, có thể hiện trọn khắp các sắc thân, ứng
trọn khắp pháp giới.
Câu
“thiện nhập Phật huệ” (khéo nhập trí huệ
của Phật), theo chiều dọc, tán thán Thiện Huệ
Địa (Cửu Địa), thâm nhập Thật Tế,
khéo thấu triệt cội nguồn. Theo chiều ngang, tán
thán Sơ Trụ nhập bí mật tạng.
Câu
“thông đạt đại trí”, theo chiều dọc,
tán thán Pháp Vân Địa (Thập Địa), Trí Ba La Mật
tăng thượng nhất. Theo chiều ngang, tán thán nhất
tâm tam trí của Sơ Trụ không thể chướng ngại.
Câu
“đáo ư bỉ ngạn” (tới bờ bên kia) theo
chiều dọc, tán thán nội đức của Đẳng
Giác đạt tới bờ kia Tam Đế. Theo chiều
ngang, tán thán Sơ Trụ hiểu thấu rốt ráo Sự
Lư.
Câu
“danh xưng phổ văn vô lượng thế giới”
(tiếng tăm rền vang vô lượng thế giới)
theo chiều dọc, tán thán ngoại đức của bậc
Đẳng Giác, quán đảnh thọ chức, pháp giới
đều cùng nghe tiếng. Theo chiều ngang, tán thán đức
trọn vẹn chân thật của Sơ Trụ
tương xứng với danh tướng.
Câu
“năng độ vô số bách thiên chúng sanh” (có thể
độ vô số trăm ngàn chúng sanh) theo chiều dọc,
tán thán ân đức giáo hóa người khác của Đẳng
Giác. So với các địa vị thấp hơn, ân đức
ấy thù thắng nhất, rộng nhất. Theo chiều
ngang, tán thán Sơ Trụ có thể làm chỗ y chỉ cho
mười pháp giới.
Các
địa vị đều có đủ các đức,
nhưng nay dựa theo chiều dọc để giải
thích sự sai khác là v́ tánh t́nh con người chuộng lạ.
Lại dựa theo danh xưng của Thập Địa
[để giải thích] là v́ thuận tiện. Hơn nữa,
giải nghĩa theo chiều dọc sẽ dễ hiểu,
nên tuân theo cách ấy để giải thích kinh văn.
Sơ Trụ đă có vô lượng vô biên công đức chẳng
thể nghĩ bàn, nhưng mười ba câu kinh ấy chỉ
là nói đại lược đó thôi! Sơ Trụ mà c̣n như thế, từ Nhị Trụ
cho đến Đẳng Giác [cứ phỏng theo đó] mà
biết. V́ thế, Đại Phẩm nói: “Sơ A Tự
Môn cụ tứ thập nhất tự công đức,
hậu Trà diệc cụ chư tự công đức. Trung
gian diệc nhĩ, tự đẳng, ngữ đẳng,
công đức diệc đẳng” (Đầu tiên
là môn chữ A có đầy đủ công đức của
bốn mươi mốt chữ kia. Chữ
Trà cuối cùng cũng có đủ công đức của
các chữ khác. Chặng giữa (tức các chữ giữa
A và Trà) cũng thế. Chữ b́nh đẳng, lời b́nh
đẳng, công đức cũng b́nh đẳng).
Xét
theo quán tâm th́ Không Quán là Toàn Đà La Ni[33].
Giả Quán là trăm ngàn Toàn Đà La Ni. Trung Quán là Pháp Âm
Phương Tiện Đà La Ni. Lại nữa, Không Quán quán
tâm chỉ có danh tự, tức là Văn Tŕ Đà La Ni. Giả
Quán quán tâm vô lượng tâm, tâm và tâm số
pháp đều là pháp môn, tức Hành Tŕ Đà La Ni. Trung Quán
quán tâm chính là Thật Tướng, tức là Nghĩa Tŕ
Đà La Ni. Giả Quán quán tâm có đủ mười giới
pháp, tức Pháp Vô Ngại Biện. Trung Quán quán tâm mười
pháp giới đều vào
trong Thật Tướng, tức Nghĩa Vô Ngại Biện.
Không Quán quán tâm mười pháp giới chỉ có danh tự,
ngôn ngữ, tức Từ Vô Ngại Biện. Quán nhất
tâm chính là ba tâm, ba tâm chính là nhất tâm, một pháp giới
là hết thảy các pháp giới, xoay chuyển vô ngại, tức
là Nhạo Thuyết Vô Ngại Biện. Không Quán là chuyển
Vị Bất Thoái pháp luân. Giả Quán là chuyển Hạnh Bất
Thoái pháp luân. Trung Quán là chuyển Niệm Bất Thoái pháp
luân.
Cúng
dường Phật chỉ là tùy thuận lời Phật.
Nay thuận theo lời Phật dạy, tu ba quán tâm th́ chính
là cúng dường Phật. Phá ngũ trụ, đạt
được giải thoát, tức là cúng dường Pháp.
Ḥa hợp lư Tam Đế, tức là cúng dường
Tăng.
Lại
nữa, các hạnh tâm phụ trợ quán trí tâm, tức là
cúng dường Phật. Quán trí tâm khai phát cảnh giới
chính là cúng dường Pháp. Cảnh và trí tâm ḥa hợp, tức
là cúng dường Tăng. Cái tâm Thật Tướng chính
là cội gốc của quán trí tâm. Quán trí tâm là cội gốc
của các hạnh tâm. Hễ đạt được cái
gốc th́ gieo trồng thành công. V́ thế nói là “thực
chúng đức bổn” (gieo trồng các cội đức).
Quán trí tâm ngầm hợp cảnh giới, cảnh giới
in vào quán trí. Trí chiếu thường hợp với cảnh,
chính là “chư Phật sở thán” (được
chư Phật khen ngợi). Không Quán được Pháp
Duyên Từ huân tập. Giả Quán được Chúng Sanh
Duyên Từ huân tập. Trung Quán được Vô Duyên Từ huân tập. Không Quán nhập Phật huệ của Thông Giáo. Giả Quán nhập Phật huệ của Biệt Giáo. Trung Quán nhập
Phật huệ của Viên Giáo. Không Quán đạt
đến bờ kia Nhất Thiết Trí. Giả Quán đạt
đến bờ kia Đạo Chủng Trí. Trung Quán đạt
đến bờ kia Nhất Thiết Chủng Trí. Không Quán
nghe Chân Đế. Giả Quán nghe Tục Đế. Trung
Quán nghe trọn khắp Trung Đạo Đệ Nhất
Nghĩa Đế, và cũng nghe trọn khắp Tam Đế.
Không Quán độ trăm ngàn chúng sanh thuộc Tứ Trụ.
Giả Quán độ trăm ngàn chúng sanh nơi Trần Sa.
Trung Quán độ trăm ngàn chúng sanh trong vô minh. Nhất Tâm Tam Quán có vô
lượng, tán thán chẳng thể cùng tận, chỉ nói
đại lược mà thôi!
1.1.2.1.2.3. Nêu tên và tổng
kết
(Kinh)
Kỳ danh viết Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Quán Thế
Âm Bồ Tát, Đắc Đại Thế Bồ Tát, Thường
Tinh Tấn Bồ Tát, Bất Hưu Tức Bồ Tát, Bảo
Chưởng Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát,
Dũng Thí Bồ Tát, Bảo Nguyệt Bồ Tát. Nguyệt
Quang Bồ Tát, Măn Nguyệt Bồ Tát, Đại Lực Bồ
Tát, Vô Lượng Lực Bồ Tát, Việt Tam Giới Bồ
Tát, Bạt Đà Bà La Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Bảo
Tích Bồ Tát, Đạo Sư Bồ Tát. Như thị đẳng
Bồ Tát Ma Ha Tát bát vạn nhân câu.
(經)其名曰。文殊師利菩薩。觀世音菩薩。得大勢菩薩。常精進菩薩。不休息菩薩。寶掌菩薩。藥王菩薩。勇施菩薩。寶月菩薩。月光菩薩。滿月菩薩。大力菩薩。無量力菩薩。越三界菩薩。跋陀婆羅菩薩。彌勒菩薩。寶積菩薩。導師菩薩。如是等菩薩摩訶薩八萬人俱。
(Kinh:
Tên các Ngài là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Quán Thế Âm
Bồ Tát, Đắc Đại Thế Bồ Tát, Thường
Tinh Tấn Bồ Tát, Bất Hưu Tức Bồ Tát, Bảo
Chưởng Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát,
Dũng Thí Bồ Tát, Bảo Nguyệt Bồ Tát, Nguyệt
Quang Bồ Tát, Măn Nguyệt Bồ Tát, Đại Lực Bồ
Tát, Vô Lượng Lực Bồ Tát, Việt Tam Giới Bồ
Tát, Bạt Đà Bà La Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Bảo
Tích Bồ Tát, Đạo Sư Bồ Tát. Các vị Bồ Tát Ma
Ha Tát như thế tám vạn người nhóm họp).
Đại danh của Đại Sĩ hoặc là từ
pháp môn, hoặc từ hạnh đức, hoặc từ bổn
nguyện. Tuy là một tên mà chứa đựng vô lượng
nghĩa. Nay dựa theo kinh và quán tâm để giải thích
danh hiệu của mười tám vị Bồ Tát.
* Văn Thù Sư Lợi (Mañjuśrī), phương
này dịch là Diệu Đức. Đại Kinh dạy: “Liễu
liễu kiến Phật tánh, do như diệu đức đẳng”
(Thấy rành rẽ Phật tánh giống như Diệu Đức
v.v…) Kinh Tư Ích[34]
nói: “Tuy thuyết chư pháp, nhi bất khởi pháp tướng,
bất khởi phi pháp tướng. Cố danh Diệu Đức”
(Tuy nói các pháp mà chẳng dấy lên tướng pháp, chẳng
dấy lên tướng phi pháp. V́ thế tên là Diệu Đức).
Kinh Bi Hoa nói: “Nguyện ngă hành Bồ Tát đạo sở
hóa chúng sanh, giai ư thập phương tiên thành Chánh Giác,
linh ngă Thiên Nhăn tất đắc kiến chi. Ngă chi quốc
độ giai nhất sanh Bồ Tát, tất linh tùng ngă khuyến
phát đạo tâm. Ngă hành Bồ Tát đạo, vô hữu tề
hạn. Bảo Tạng Phật ngôn: - Nhữ tác công đức
thậm thâm, thậm thâm, nguyện thủ diệu độ,
kim cố hiệu nhữ vi Văn Thù Sư Lợi, tại
Bắc phương Hoan Hỷ thế giới tác Phật,
hiệu Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích, kim do hiện tại,
văn danh diệt tứ trọng tội” (Nguyện các
chúng sanh được tôi giáo hóa khi hành Bồ Tát đạo,
sẽ đều trong mười phương thành Chánh Giác
trước, khiến cho Thiên Nhăn của tôi thảy đều
trông thấy. Quốc độ của tôi toàn là Nhất
Sanh Bổ Xứ Bồ Tát đều do tôi khuyên phát đạo
tâm. Tôi hành Bồ Tát đạo chẳng có ngằn hạn.
Bảo Tạng Phật nói: - Ông nay tạo công đức rất
sâu, rất sâu, nguyện giữ lấy cơi mầu nhiệm.
V́ thế, nay đặt cho ông danh hiệu là Văn Thù
Sư Lợi. Ông sẽ thành Phật tại thế giới
Hoan Hỷ ở phương Bắc, hiệu là Hoan Hỷ Tạng
Ma Ni Bảo Tích, đến nay vẫn c̣n tại thế,
người nghe danh hiệu ông sẽ diệt bốn trọng
tội).
Kinh
Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội lại nói: “Quá khứ vô
lượng A-tăng-kỳ kiếp, hữu Phật hiệu
Long Chủng Thượng Tôn Vương, diệc tức
Văn Thù” (Trong quá khứ vô lượng A-tăng-kỳ
kiếp, có Phật hiệu là Long Chủng Thượng Tôn
Vương, cũng chính là Văn
Thù).
Xét
theo quán tâm, tam đức bí tạng chẳng dọc, chẳng
ngang, cho nên gọi là Diệu Đức.
*
Quán Thế Âm, tiếng Phạn là Bà Lâu Cát Đê Thuế (Avalokiteśvara), sẽ
được giải thích cặn kẽ trong phẩm Phổ
Môn[35].
Xét
theo quán tâm, tam trí th́ gọi là Quán, Tam Đế là Thế,
Tam Quán nói đến Bổn, cho nên gọi là Âm (kinh văn sẽ
dựa theo mặt Sự để giải thích, coi đối
tượng được Ngài tiếp độ là Âm. Ở
đây, chỉ xét theo chủ thể quán sát, cho nên gọi những
điều được Ngài tuyên nói là Âm).
*
Đắc Đại Thế, c̣n gọi
là Đại Thế Chí (Mahāsthāmaprāpta). Kinh Tư
Ích nói: “Ngă đầu túc chi xứ, chấn động tam
thiên đại thiên thế giới, cập ma cung điện.
Cố danh Đại Thế Chí” (chỗ ta đặt chân
chấn động tam thiên đại thiên thế giới và
cung điện của ma. V́ thế, tên là Đại Thế
Chí). Quán Kinh nói: “Đản kiến thử Bồ Tát nhất
mao khổng quang, tức kiến thập phương chư
Phật tịnh diệu quang minh. Thị cố hiệu thử
Bồ Tát danh Vô Biên Quang. Dĩ trí huệ quang, phổ chiếu
nhất thiết, linh ly tam đồ, đắc vô thượng
lực. Thị cố hiệu thử Bồ Tát vi Đại
Thế Chí” (Chỉ thấy quang minh nơi một
lỗ chân lông của vị Bồ Tát này, liền thấy
quang minh tịnh diệu của mười phương
chư Phật. V́ thế, gọi tên vị Bồ Tát này là
Vô Biên Quang. Ngài dùng quang minh trí huệ chiếu trọn khắp
hết thảy, khiến họ ĺa tam đồ, đạt
được sức vô thượng. V́ thế, gọi vị
Bồ Tát này là Đại Thế Chí).
Xét
theo quán tâm, Tam Chỉ[36]
làm chân, đặt nơi đất Tam Đế (Không, Giả,
Trung), chấn động mười pháp giới, hết
thảy chỗ trụ của Kiến Ái đều bị
nghiêng ngả, lay động.
*
Thường Tinh Tấn (Satasamitabhiyakta, Nityodyukta): Kinh Đại
Bảo Tích nói: “Thị Bồ Tát vị nhất chúng sanh
kinh vô lượng kiếp tùy trục bất xả, do bất
thọ hóa, vô nhất niệm khí xả, dĩ thân tâm câu tấn
cố” (Vị Bồ Tát này v́ một chúng sanh bèn trải
qua vô lượng kiếp theo sát chẳng
bỏ mà kẻ đó vẫn chẳng tiếp nhận sự
giáo hóa của Ngài, Ngài chẳng có một niệm vứt bỏ
v́ thân và tâm đều tinh tấn vậy).
* Bất Hưu Tức (Anikṣiptadhura,
chẳng ngơi nghỉ): Kinh Tư Ích
nói: “Hằng hà sa kiếp vi nhất nhật dạ, thị
tam thập nhật vi nguyệt, thập nhị nguyệt vi
tuế, quá bách thiên vạn ức kiếp, đắc trị
nhất Phật. Như thị trị hằng sa Phật, hành
chư phạm hạnh, tu tập công đức.
Nhiên hậu thọ kư, tâm bất hưu tức” (Lấy Hằng
hà sa kiếp làm một ngày đêm, coi ba mươi ngày
như thế là một tháng, mười hai tháng là một
năm. Trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp mới
được gặp một vị Phật. Gặp hằng
sa Phật như thế, hành các phạm hạnh, tu tập
công đức. Sau đó được thọ kư, tâm chẳng
ngơi nghỉ).
Xét
theo quán tâm, quán Không mà chẳng trụ vào Không, xuất Giả
mà chẳng trụ vào Giả, nhập Trung mà chẳng trụ
vào Trung, cùng chiếu cả hai Đế (Chân Đế và Tục
Đế) th́ gọi là Bất Hưu Tức. Bất
Hưu Tức và Thường Tinh Tấn ư nghĩa gần
giống như nhau. Muốn phân biệt th́: Tiến nhập
chẳng gián đoạn là Tinh Tấn, lâu dài chẳng bỏ
là Bất Hưu Tức. V́ thế, giải thích theo Quán th́ gọi
là Bất Trụ, [dùng ư nghĩa ấy] để giải
thích Bất Hưu Tức. Cũng xét theo thời gian dài lâu,
nhưng thọ kư và lợi sanh khác nhau!
*
Bảo Chưởng (Ratnapāni, tay cầm báu vật): Kinh Phổ Siêu
nói: “Bị thượng đức khải, vô năng trở
bại. Nhược ư mộng trung, bất chí Nhị Thừa.
Thường dĩ thật tâm, chư thông huệ tâm, vị
nhân giảng tuyên ư chư trân bảo, tâm vô tham tích” (Mặc
áo giáp thượng đức, không thể bị ngăn trở,
đánh bại. Dẫu ở trong mộng, chẳng nghĩ
tưởng Nhị Thừa. Thường dùng thật tâm,
các tâm thông huệ, v́ người khác giảng nói các trân bảo,
tâm chẳng tham tiếc). Xét theo quán tâm, chẳng nghĩ bàn
Tam Đế th́ gọi là Bảo. Nhất Tâm Tam Quán th́ gọi
là Chưởng (掌, bàn tay). Dùng tay
Quán ấy để nắm giữ của báu Tam Đế
ḥng tự lợi, lợi người.
*
Dược Vương (Bhaiṣajyarāja): Kinh Bi Hoa nói: “Nguyện
Hiền Kiếp nhất thiên tứ Phật sơ thành đạo,
ngă giai cúng dường. Chư Phật nhập
diệt, ngă giai khởi tháp. Kiếp tận khổ năo, ngă
giai cứu hộ. Đao binh, tật dịch, tác đại
dược vương. Nhiên hậu tác Phật. Bảo Tạng
Phật ngôn: - Kim đương tự nhữ vi Hỏa Tịnh
Dược Vương, tại hậu tác Phật, tức
Lâu Chí Như Lai” (“Nguyện trong Hiền
Kiếp khi một ngàn lẻ bốn vị Phật mới
thành đạo, tôi đều cúng dường. Chư Phật
nhập diệt, tôi đều dựng tháp. Kiếp tận,
khổ năo, tôi đều cứu vớt, che chở. Đao
binh, bệnh dịch, tôi làm đại dược
vương. Sau đó thành Phật”. Bảo Tạng Phật
nói: “Nay ta đặt tên cho ông là Hỏa Tịnh Dược
Vương. Sau này sẽ làm Phật, tức Lâu Chí Như
Lai”). Xét theo quán tâm, Nhất Tâm Tam Quán tự chữa trị
ḿnh, chữa trị người khác.
*
Dũng Thí (Pradānaśūra,
dũng mănh bố thí): Thí trọn khắp
pháp bảo xuất thế cho chúng sanh chẳng chán mệt.
*
Bảo Nguyệt (Ratnachandra): Tam Đế đă chứng
đáng quư như báu vật. Tam Trí[37]
dùng để chứng [Tam Đế] chiếu trọn vẹn
như trăng.
*
Nguyệt Quang (Candraprabha): Tam Trí viên diệu có thể
trừ phiền năo tối tăm, nóng bức.
*
Măn Nguyệt (Pūrṇacandra): Tam Trí viên minh, chẳng hề khuyết
giảm.
*
Đại Lực (Mahāvikramin): Trí và cảnh
ngầm hợp, có lực dụng to lớn.
*
Vô Lượng Lực (Anantavikramin): Dùng đại
lực dụng để ứng trọn khắp các duyên, dẹp
khắp các khổ.
*
Việt Tam Giới (Trailokya-vikramin, vượt thoát tam giới): Dùng Nhất Tâm
Tam Quán để siêu việt hai thứ Biến Dịch và
Phần Đoạn trong tam giới.
*
Bạt Đà Bà La (Bhadrapāla), phương này
dịch là Thiện Thủ (善守), c̣n dịch là
Hiền Thủ (賢守), hoặc Hiền
Thủ (賢首), hoặc Hiền
Hộ (賢護). Kinh Tư Ích
nói: “Nhược chúng sanh văn danh giả, tất định
đắc Tam Bồ Đề, cố danh Thiện Thủ.
Vị cư Đẳng Giác, chúng hiền chi thủ, cố
danh Hiền Thủ. Thiện xảo tương hộ, linh
kỳ bất thoái, cố danh Hiền Hộ” (Nếu
chúng sanh nghe tên Ngài, nhất định đắc Chánh Giác,
cho nên tên là Thiện Thủ. Thuộc địa vị
Đẳng Giác, đứng đầu các vị hiền
nhân, nên tên là Hiền Thủ. Khéo léo bảo vệ khiến cho họ chẳng lui sụt, cho nên tên là Hiền Hộ).
Xét theo quán tâm, Trung Đạo chánh quán là thượng thủ
bậc nhất trong các điều thiện.
*
Di Lặc (Maitreya), phương
này dịch là Từ Thị. Kinh Tư Ích nói: “Chúng sanh kiến
giả, tức đắc từ tâm tam-muội” (Chúng
sanh trông thấy Ngài liền đạt được từ
tâm tam-muội). Kinh Bi Hoa nói: “Phát nguyện ư đao hỏa
kiếp trung, cứu hộ chúng sanh” (Phát nguyện trong
kiếp đao binh, sẽ cứu vớt, che chở chúng
sanh). Ngài tên là A Dật Đa (Ajita), phương này dịch
là Vô Năng Thắng (không ai hơn được). Xét theo
quán tâm, Trung Đạo chánh quán tức là vô duyên đại
từ, từ thiện căn lực, khiến cho các tâm số
đều cùng nhập và thấu hiểu pháp đại từ.
*
Bảo Tích (Ratnākara) là tích tụ của
báu nhất tâm tam trí.
*
Đạo Sư (Susāthavāha): Kinh Tư Ích nói: “Ư
đọa tà đạo chúng sanh, sanh đại bi tâm, linh
nhập chánh đạo (đạo dă), bất cầu ân báo
(sư dă)” (Đối với chúng sanh đọa vào tà
đạo, sanh tâm đại bi, khiến cho họ nhập
chánh đạo (đó là “hướng dẫn”), chẳng cầu
báo ân; đó là
“Sư”). Xét theo quán tâm, tam quán diệu trí hướng dẫn
hết thảy các hạnh, chẳng đọa vào nhị
biên, đều nhập chánh quán.
Câu
kết luận có ư nghĩa dễ hiểu.
Phần thứ hai nói về các vị Bồ Tát đă xong.
1.1.2.1.3. Tạp chúng
Quả
báo và h́nh tướng phức tạp. Người đắc
đạo và chưa đắc đạo xen tạp. Trong ấy,
người đắc Nhị Thừa đạo, vô lậu
trí xen tạp với vô minh. Người đắc Bồ
Tát trong đó th́ các vị ḥa quang đồng trần và các
căn cơ sai khác xen tạp. Người đắc Phật
đạo trong ấy, một pháp trọn đủ hết
thảy các pháp, cho nên nói là Tạp. “Tạp” có ư
nghĩa như thế đó, chẳng thể dùng h́nh tướng
phàm phu để phán định. Lại chẳng thể
dùng năm đường trời, người v.v… để
phán định. Kinh văn chia thành tám phần: Một là Dục
Giới thiên chúng, hai là Sắc Giới thiên chúng, ba là long
chúng, bốn là Khẩn Na La chúng, năm là Càn Thát Bà chúng, sáu
là A Tu La chúng, bảy là Ca Lâu La chúng, tám là nhân chúng.
1.1.2.1.3.1. Dục Giới
thiên chúng
(Kinh)
Nhĩ thời, Thích Đề Hoàn Nhân, dữ kỳ
quyến thuộc nhị vạn thiên tử câu. Phục hữu
Minh Nguyệt thiên tử, Phổ Hương thiên tử, Bảo
Quang thiên tử, tứ đại
thiên vương, dữ kỳ quyến thuộc vạn
thiên tử câu. Tự Tại thiên tử, Đại Tự
Tại thiên tử, dữ kỳ quyến thuộc tam vạn
thiên tử câu.
(經)爾時釋提桓因。與其眷屬二萬天子俱。復有明月天子。普香天子。寶光天子。四大天王。與其眷屬萬天子俱。自在天子。大自在天子。與其眷屬三萬天子俱。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Thích Đề Hoàn Nhân và quyến thuộc
của ông ta là hai vạn thiên tử nhóm họp. Lại có
Minh Nguyệt (Candra) thiên tử, Phổ
Hương (Samantagandha) thiên tử, Bảo
Quang (Ratnaprabha) thiên tử, tứ
đại thiên vương và quyến thuộc của họ
là một vạn thiên tử nhóm họp. Tự Tại thiên
tử, Đại Tự Tại thiên tử và quyến thuộc
của họ là tám vạn thiên tử nhóm họp).
Thích
Đề Hoàn Nhân (Śakra Devānām Indra), phương
này dịch là Năng Tác (能作, có thể làm), là chúa của Tam Thập
Tam Thiên. Xét theo giáo, kinh A Hàm nói rơ Đế Thích đắc
quả A Na Hàm. Kinh Bát Nhă nói người thưa hỏi Bát
Nhă trong mười phương đều tên là Thích Đề
Hoàn Nhân. Biệt Giáo và Viên Giáo nói Thích Đề Hoàn Nhân
đắc Thủ Lăng Nghiêm tam-muội, nội chứng
khác nhau. Trong Hiền Kiếp, sau hai ngàn bốn mươi bốn
kiếp sau, sẽ thành Phật, hiệu là Vô Trước Thế
Tôn.
Xét
theo Bổn Tích, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng là ba mươi. Thập Địa là một,
Đẳng Giác là hai, Diệu Giác là chủ
[đó là ư nghĩa biểu thị pháp của Tam Thập Tam
Thiên], cùng ngự trong Đệ Nhất Nghĩa Thiên, cùng uống
cam lộ Thật Tướng; đó chính là Bổn. Ngự
trên đỉnh núi Tu Di (Sumeru); đó là Tích.
Xét
theo quán tâm, tự hành Thập Thiện, khuyên người
khác hành Thập Thiện, tùy hỷ hành Thập Thiện.
Đó là ba mươi điều thiện, đều là
Không, đều là Giả, đều là Trung, tức là ba
mươi ba Quán môn.
Ba
vị thiên tử như Minh Nguyệt v.v… đều là nội
thần (內臣, các vị cận thần
phụ chánh), giống như khanh tướng. Hoặc nói Minh
Nguyệt là Bảo Cát Tường Nguyệt thiên tử do
Đại Thế Chí Bồ Tát ứng hiện. Phổ
Hương là Minh Tinh thiên tử, do Hư Không Tạng Bồ
Tát ứng hiện. Bảo Quang là Bảo Ư Nhật thiên tử
do Quán Thế Âm ứng hiện. Đó là giải thích theo Bổn
Tích.
Xét
theo quán tâm, Tam Quán chính là Tam Trí. Tam Trí chính là Tam Quang. Từ
Tam Đế sanh ra Tam Trí. Đế (諦, sự chân thật)
chính là Thiên. Trí chính là Tử.
Tứ
đại thiên vương (Chaturmahārājikā) là ngoại thần, giống
như vơ tướng:
-
Đông phương Đề Đầu Lại Trá (Dhṛtarāṣṭra), phương
này dịch là Tŕ Quốc (持國), c̣n dịch là
An Dân, ở núi hoàng kim, thống lănh Càn Thát Bà và Phú
Đơn Na (Pūtana)[38].
-
Nam phương Tỳ Lưu Lặc Xoa (Virūḍhaka), phương
này dịch là Tăng Trưởng, c̣n dịch là Miễn Ly,
ở trên núi lưu ly, thống lănh Cưu Bàn Trà và Bệ Lệ
Đa[39].
-
Tây phương Tỳ Lưu Bác Xoa (Virūpākṣa), phương
này dịch là Quảng Mục, c̣n dịch là Tạp Ngữ,
ở trên núi bạch ngân, thống lănh rồng và Tỳ Xá Xà[40].
-
Bắc phương Tỳ Sa Môn (Vaiśravaṇa), phương
này dịch là Đa Văn, sống trên núi thủy tinh, thống
lănh Dạ Xoa và La Sát.
Mỗi
thiên vương thống lănh hai loại quỷ, chẳng để cho chúng năo hại con người.
V́ thế, họ được gọi là Hộ Thế (Lokapāla,
bảo vệ thế gian).
Xét
theo Bổn Tích, Bổn là bốn vị vua thường, lạc,
ngă, tịnh, hộ tŕ cặp cây Tứ Đức (thường,
lạc, ngă, tịnh) của Phật pháp, chẳng để
cho người ngoài bứt lá, bẻ cành, chém chặt, phá hoại.
Nơi Tích th́ là bốn vị vua bảo hộ cơi đời.
Xét
theo quán tâm th́ trí quán Tứ Đế chính là bốn vị
vua. Mỗi Đế trừ Ái Hoặc và Kiến Hoặc,
tức là thống lănh tám bộ, chẳng để cho chúng
nó năo hại con người (bốn giáo, mỗi giáo có Tứ
Đế, đều xưng vương trong mỗi giáo ấy).
Chẳng liệt kê Dạ Ma, Đâu Suất là do kinh văn
nói giản lược.
Tự
Tại chính là Hóa Lạc Thiên (Nirmāṇarati). Đại Tự
Tại là Tha Hóa Thiên (Para-nirmita-vaśa-vartin). Xét theo Bổn
Tích, Bổn th́ trụ trong các môn Định như Tự Tại,
Tự Tại Vương v.v… Nơi Tích th́ là hai vị trời.
Xét theo quán tâm th́ nhập Không là tự tại, nhập Trung
là đại tự tại.
1.1.2.1.3.2. Sắc Giới
thiên chúng
(Kinh)
Sa Bà thế giới chủ Phạm thiên vương, Thi Khí đại
phạm, Quang Minh đại phạm đẳng, dữ kỳ
quyến thuộc vạn nhị thiên thiên tử câu.
(經)娑婆世界主梵天王。尸棄大梵。光明大梵等。與其眷屬萬二千天子俱。
(Kinh: Chủ
của thế giới Sa Bà là Phạm thiên vương, Thi
Khí đại phạm, Quang Minh đại phạm v.v… cùng với
quyến thuộc của họ một vạn hai ngàn thiên tử
nhóm họp).
Sa
Bà (Sahāloka), phương
này dịch là Nhẫn. Kinh Bi Hoa nói: “Thị chư chúng
sanh, nhẫn thọ Tam Độc, cập chư phiền
năo, cố danh Nhẫn độ” (Các chúng sanh ấy chịu
đựng Tam Độc và các phiền năo, v́ thế gọi
là cơi Nhẫn).
“Phạm”
(Brahma) được phương này dịch là Ly Dục,
trừ bỏ ràng buộc với các địa vị thấp
hơn, thăng lên Sắc Giới, c̣n gọi là Cao Tịnh.
Thi
Khí (Śikhin), phương
này dịch là Đảnh Kế (頂髻, búi tóc trên đỉnh đầu),
Quang Minh (Jyotiṣprabha) là trời Nhị Thiền.
“Đẳng” là nói chung Tam Thiền và Tứ Thiền.
Xét
theo giáo, Phạm Vương là vị chủ yếu thay mặt [chúng sanh] thỉnh pháp luân, thỉnh tiểu pháp bèn là tiểu căn, thỉnh
đại pháp bèn là đại căn.
Xét
theo Bổn Tích, Bổn th́ trụ thanh tịnh Nhất Thật diệu cảnh, Tích th́ sống trong Sắc Giới.
Xét theo quán tâm, quán trừ Hoặc uế
bèn gọi là Phạm.
1.1.2.1.3.3. Long chúng
(Kinh)
Hữu bát long vương: Nan Đà long vương, Bạt
Nan Đà long vương, Sa Già La long vương, Ḥa Tu Cát
long vương, Đức Xoa Ca long vương, A Na Bà
Đạt Đa long vương, Ma Na Tư long
vương, Ưu Bát La long vương đẳng, các dữ
nhược can bách thiên quyến thuộc câu.
(經)有八龍王。難陀龍王。跋難陀龍王。娑伽羅龍王。和修吉龍王。德叉迦龍王。阿那婆達多龍王。摩那斯龍王。優鉢羅龍王等。各與若干百千眷屬俱。
(Kinh:
Có tám vị long vương: Nan Đà long vương, Bạt
Nan Đà long vương, Sa Già La long vương, Ḥa Tu Cát long
vương, Đức Xoa Ca long vương, A Na Bà Đạt
Đa long vương, Ma Na Tư long vương, Ưu Bát
La long vương v.v… Mỗi vị cùng với vài trăm
ngàn quyến thuộc nhóm họp).
Nan Đà (Nanda), phương
này dịch là Hoan Hỷ. Bạt (Upa) phương này dịch
là Thiện. Hai anh em long vương này thường hộ
tŕ nước Ma Kiệt Đề (Magadha), tưới
mưa đúng thời, chẳng có năm nào đói kém, [quốc
gia ấy] tức là chỗ ngài Mục Kiền Liên giáng sanh.
Họ sống trong biển cả. Xét theo Bổn Tích, th́ Bổn
là trụ trong Hoan Hỷ Địa, c̣n Tích th́ sống trong
biển. Xét theo quán tâm, Tam Quán tức là Trung Đạo sanh
pháp hỷ.
Sa
Già La (Sāgara, biển), do sống trong
biển mà có tên đó. Nơi Bổn th́ trụ trong biển Trí Độ (Bát Nhă Ba La Mật), Tích th́ ở
trong biển thẳm. Xét theo quán tâm th́ Trung Đạo quán
như biển, có thể thống lănh muôn gịng.
Ḥa
Tu Cát (Vāsuki), phương
này dịch là Đa Đầu (nhiều đầu), c̣n gọi
là Bảo Xưng (寶稱). Nơi Bổn
th́ trụ trong Phổ Hiện Sắc Thân tam-muội,
nơi Tích bèn thị hiện nhiều đầu. Xét theo
quán tâm, một thứ giả th́ hết thảy đều
giả. Một thứ không th́ hết thảy đều
không. Một thứ trung th́ hết thảy đều trung.
V́ thế gọi là Đa Đầu.
Đức
Xoa Ca (Takṣaka), phương
này dịch là Hiện Độc, c̣n dịch là Đa Thiệt
(nhiều lưỡi). Nơi Bổn th́ trụ trong Nhạo
Thuyết Vô Ngại Biện, nơi Tích th́ thị hiện
nhiều lưỡi. Xét theo quán tâm, Nhất
Tâm Tam Quán như cái trống có bôi thuốc độc, có thể
phát ra bốn thứ biện tài.
A Na Bà Đạt Đa (Anavatapta), phương
này dịch là Vô Nhiệt, do cái ao[41] mà có tên gọi đó.
Ở trên đỉnh của Tuyết Sơn trong Diêm Phù Đề,
chẳng có ba thứ hoạn nạn, tức cát nóng, gió dữ,
chim cánh vàng (Ca Lâu La). Nơi Bổn th́ trụ trong thường
lạc ngă tịnh thanh lương, nơi Tích th́ ở trong
ao trong mát. Xét theo quán tâm th́ tam quán diệu huệ, trừ sạch
ngũ trụ phiền năo lằng nhằng, thoát khỏi cát
nóng “hai thứ chết” (Phần Đoạn và Biến Dịch).
Ma
Na Tư (Manasvin), phương này dịch là Đại Thân,
hoặc dịch là Đại Ư, hoặc dịch là Đại
Lực. Tu La dốc nước biển nhấn ch́m thành Hỷ
Kiến[42],
vị long vương này bèn cuộn thân ngăn sạch
nước biển. Nơi Bổn th́ trụ trong pháp môn Vô
Biên Thân, nơi Tích th́ là thân thể to lớn. Xét theo quán tâm,
Trung Đạo chánh quán tánh chất rộng lớn.
Ưu
Bát La (Utpalaka), phương này dịch là Thanh Liên Hoa Tŕ (ao
hoa sen xanh), [long vương được] đặt tên
theo chỗ trụ. Nơi Bổn th́ trụ trong Pháp Hoa
tam-muội, nơi Tích th́ sống trong cái ao ấy. Xét theo
quán tâm th́ tam quán chính là tu nhân, nhân chính là hoa sen vậy.
1.1.2.1.3.4. Khẩn Na La
chúng
(Kinh)
Hữu tứ Khẩn Na La vương: Pháp Khẩn Na La
vương, Diệu Pháp Khẩn Na La
vương, Đại Pháp Khẩn Na La vương, Tŕ Pháp
Khẩn Na La vương, các dữ nhược can bách thiên
quyến thuộc câu.
(經)有四緊那羅王。法緊那羅王。妙法緊那羅王。大法緊那羅王。持法緊那羅王。各與若干百千眷屬俱。
(Kinh: Có bốn
Khẩn Na La vương: Pháp (Dharma) Khẩn Na La
vương, Diệu Pháp (Sudharma) Khẩn Na La
vương, Đại Pháp (Mahādharma) Khẩn Na La
vương, Tŕ Pháp (Dharmadhara) Khẩn Na La
vương, mỗi vị cùng vài trăm ngàn quyến thuộc
nhóm họp).
[Khẩn
Na La (Kiṃnara)] c̣n gọi là
Chân Đà La, phương này dịch là Nghi Thần (ngỡ
là thần, trông giống như thần), [v́ họ] giống như
người nhưng có một sừng, là pháp nhạc thần
của Thiên Đế, đáng nên tấu pháp môn của bốn
giáo. Nơi Bổn th́ trụ trong chẳng thể nghĩ
bàn, chẳng khởi Diệt Định. An trụ trong Thiền,
chắp tay, dùng ngàn vạn kệ tụng tán thán các đấng
Pháp Vương. Nơi Tích th́ tấu nhạc, ca vịnh Thập
Lực. Xét theo quán tâm th́ quán âm thanh chính là Không, là Giả, là
Trung, tức là tán Phật.
1.1.2.1.3.5. Càn Thát Bà chúng
(Kinh) Hữu tứ Càn Thát Bà vương: Nhạc
Càn Thát Bà vương, Nhạc Âm Càn Thát Bà vương, Mỹ
Càn Thát Bà vương, Mỹ Âm Càn Thát Bà vương, các dữ
nhược can bách thiên quyến thuộc câu.
(經)有四乾闥婆王。樂乾闥婆王。樂音乾闥婆王。美乾闥婆王。美音乾闥婆王。各與若干百千眷屬俱。
(Kinh: Có bốn
vị Càn Thát Bà vương: Nhạc (Manojña) Càn Thát Bà
vương, Nhạc Âm (Manojñasvara) Càn Thát Bà
vương, Mỹ (Madhura) Càn Thát Bà
vương, Mỹ Âm (Madhurasvara) Càn Thát Bà
vương, mỗi vị cùng với vài trăm ngàn quyến
thuộc nhóm họp).
Càn Thát Bà (Gandharva), phương
này dịch là Khứu Hương (嗅香, ngửi
mùi thơm), dùng hương làm thức ăn. Cũng dịch
là Hương Ấm (香陰). Thân họ
tỏa mùi thơm, là tục nhạc thần của Thiên
Đế. “Nhạc” là kỹ thuật biểu diễn
điêu luyện (tràng đảo kỹ, 幢倒伎, tức
nghệ thuật làm xiếc nhào lộn, tung hứng). Nhạc
Âm là nhịp trống, đàn, sáo. Mỹ là kỹ thuật
biểu diễn hay khéo. Mỹ Âm là sự đẹp đẽ
thù thắng trong tiếng đàn sáo (“Tràng” tức là “duyên
tràng” (緣幢), tức
sào, cọc. Đảo (倒)
nghĩa là quăng, lật ngược v.v… [Hai chữ này
ghép lại để chỉ các tạp kỹ, tức các loại
biểu diễn giống như làm xiếc, chẳng hạn như leo dây, múa cột,
tung hứng, đu bay v.v…] Dùng Tục để biểu thị
Chân, cũng có thể đối ứng với pháp môn tứ
giáo để giải thích). Bổn là trụ trong diệu
Giả chẳng thể nghĩ bàn, Tích th́ tấu nhạc thế
tục. Xét theo quán tâm, Không và Trung chính là Giả.
1.1.2.1.3.6. A Tu La chúng
(Kinh) Hữu tứ A Tu La vương: Bà Trĩ
A Tu La vương, Khư La Khiên Đà A Tu La vương, Tỳ
Ma Chất Đa La A Tu La vương, La Hầu A Tu La
vương, các dữ nhược can bách thiên quyến thuộc
câu.
(經)有四阿修羅王。婆稚阿修羅王。佉羅騫駄阿修羅王。毗摩質多羅阿修羅王。羅睺阿修羅王。各與若干百千眷屬俱。
(Kinh: Có
bốn vị A Tu La vương: Bà Trĩ A Tu La vương,
Khư La Khiên Đà A Tu La vương, Tỳ Ma Chất
Đa La A Tu La vương, La Hầu A Tu La vương, mỗi
vị cùng với vài trăm ngàn quyến thuộc nhóm họp).
A
Tu La (Asura), phương này dịch là Vô Tửu (無酒, không có rượu),
cũng dịch là Vô Đoan Chánh (無端正), c̣n dịch là Phi Thiên
(非天, chẳng phải
là chư thiên).
Bà
Trĩ (Baḍin): Phương này dịch
là Bị Phược (被縛), tức là bị
Đế Thích trói. Nơi Bổn th́ có thể dùng năm thứ
ràng buộc để trói ma và ngoại đạo. Nơi
Tích th́ tạo h́nh tượng như thế. Xét theo quán tâm,
dùng ba quán trí để trói ngũ trụ hoặc, nhập
vào Thật Tế.
Khư
La Khiên Đà (Kharaskandha), phương này dịch là Quảng
Kiên Giáp (廣肩胛, bờ vai rộng),
cũng dịch là Ác Ấm, có thể khiến cho nước
biển dâng trào. Nơi Bổn th́ trụ trong hai trí Quyền
và Thật, từ bi gánh vác chúng sanh, nơi Tích th́ là thị
hiện bờ vai to rộng. Xét theo quán tâm th́ Tam Quán có thể
che lấp biển cả sanh tử ngũ trụ.
Tỳ
Ma Chất Đa La (Vemacitra, Vimalacitra), phương này dịch
là Tịnh Tâm, cũng dịch là Chủng
Chủng Nghi (các thứ ngờ vực), tức là cha của
phu nhân Xá Chỉ (Śacī)[43]. Xét theo
Bổn Tích, sắc và tâm vốn tịnh, nơi Tích thị
hiện xấu xí, ghen ghét. Xét theo quán tâm th́ chánh quán Trung Đạo
tức là tâm tịnh,
La Hầu (Rahu), phương này dịch là Chướng
Tŕ (障持, ngăn trở,
nắm giữ), giơ tay che lấp ánh sáng của mặt
trời và mặt trăng. Nơi Bổn th́ tŕ Trung Đạo
Thật Tướng, có thể ngăn trở ánh sáng tà vạy
của nhị biên. Nơi Tích th́ thị hiện giống
như thế. Xét theo quán tâm, tŕ Chân Đế, chướng
lấp ánh sáng ái kiến. Tŕ Trung Đế, ngăn trở
ánh sáng của Không và Hữu.
Lại
nữa, xét chung theo các giáo th́ Sơ Giáo Bồ Tát trọn
đủ ngũ trụ, gọi là “bị trói buộc”.
Thông Giáo Bồ Tát hơi rộng hơn, nên gọi là Quảng
Kiên Giáp (vai to rộng). Biệt Giáo th́ sơ tâm biết
Trung, gọi là Tịnh Tâm. Viên Giáo ngăn chướng Hoặc,
giữ lư, nên gọi là Chướng Tŕ.
Xét
chung về Bổn Tích th́ nơi Bổn trụ trong Đệ
Nhất Nghĩa Thiên, nơi Tích thị hiện chẳng phải
là thiên chúng. Xét chung về quán tâm th́ chủ thể để
quán (năng quán) là Không, chẳng có trời, người
trong tam giới. Chủ thể để quán chính là Giả,
chẳng có phương tiện nghĩa thiên. Chủ thể
để quán chính là Trung, chẳng có Thật Báo nghĩa
thiên. Nhất Tâm Tam Quán trụ Thường Tịch Quang, là
trời người mà chẳng phải là trời, chẳng
phải là người.
1.1.2.1.3.7. Ca Lâu La chúng
(Kinh)
Hữu tứ Ca Lâu La vương, Đại Oai Đức
Ca Lâu La vương, Đại Thân Ca Lâu La vương,
Đại Măn Ca Lâu La vương, Như Ư Ca Lâu La
vương, các dữ nhược can bách thiên quyến thuộc
câu.
(經)有四迦樓羅王。大威德迦樓羅王。大身迦樓羅王。大滿迦樓羅王。如意迦樓羅王。各與若干百千眷屬俱。
(Kinh: Có bốn
vị Ca Lâu La vương: Đại Oai
Đức (Mahātejas) Ca Lâu La
vương, Đại Thân
(Mahākāya) Ca Lâu La vương,
Đại Măn Ca Lâu La vương
(Mahāpūrṇa), Như Ư (Maharddhiprāpta) Ca Lâu La vương, mỗi
vị cùng với vài trăm ngàn quyến thuộc nhóm họp).
Ca
Lâu La (Garuḍa)[44],
phương này dịch là Kim Xí (金翅, cánh bằng vàng). Oai thế trấn
áp các rồng, bèn có tên là Đại Oai Đức. To lớn
hơn muôn loài bèn tên là Đại
Thân. Rồng luôn thỏa măn ư ḿnh nên có tên là Đại Măn.
Đầu có bảo châu, nên tên là Như Ư. Xét theo giáo,
hơn hẳn các ngoại đạo th́ gọi là Đại
Oai Đức. Là sơ môn của Đại Thừa nên gọi
là Đại Thân. Hằng sa Phật pháp th́ gọi là Đại
Măn. Viên minh tự tại th́ gọi là Như Ư. Bổn Tích
và quán tâm có thể phỏng theo đó mà biết.
1.1.2.1.3.8. Nhân chúng
(Kinh)
Vi Đề Hy tử A Xà Thế vương, dữ nhược
can bách thiên quyến thuộc câu.
(經)韋提希子阿闍世王。與若干百千眷屬俱。
(Kinh:
Con bà Vi Đề Hy là vua A Xà Thế cùng với vài trăm
ngàn quyến thuộc nhóm họp).
Vi
Đề Hy (Vaidehī), phương
này dịch là Tư Duy, là tên của mẹ. Cha tên là Tần
Bà Sa La (Bimbisāra), phương
này dịch là Mô Thật
(模實). A Xà Thế (Ajātaśatru), phương này dịch là Vị
Sanh Oán (未生怨, oán thù kể từ
khi chưa sanh ra), hoặc
gọi là Bà Lưu Chi, phương này dịch là Vô Chỉ
(không có ngón tay). Cung nhân giấu diếm, gọi ông ta là Thiện
Kiến. Tên gọi Thiện Kiến là Bổn, c̣n danh xưng
Vô Chỉ là sự biểu hiện nơi Tích. Trong kinh Phổ
Siêu, [có nói] ông ta trước đó
đă sám hối diệt tội, cho nên trong hội Pháp
Hoa, được dự vào Chứng Tín Chúng. Trong kinh Niết
Bàn, đă trần thuật cội nguồn mọi chuyện.
Nơi Bổn th́ đă trụ trong giải thoát chẳng
thể nghĩ bàn, nơi Tích th́ thị hiện Ngũ Nghịch.
Xét theo quán tâm, giết cha vô minh, hại mẹ tham ái.
Hỏi:
Đức Phật thuyết pháp trong loài người, cớ
sao kinh liệt kê loài người ít ỏi?
Đáp: Kinh văn
lược đi chẳng chép, chứ nhân loại thật
ra chẳng ít. [Trong phần sau], kinh văn
chép “cập chư tiểu vương, Chuyển Luân Thánh
Vương đẳng” (và các tiểu vương, Chuyển
Luân Thánh Vương v.v…) Kinh Vô Lượng Nghĩa liệt
kê bốn Luân Vương, quốc vương, quần thần,
dân chúng, nam nữ, số lượng rộng lớn.
Hơn nữa, trong phẩm Phân Biệt Công Đức có nói
tứ thiên hạ cho đến đại thiên vi trần số
người đắc đạo. Trong số ấy, há chẳng
có loài người ư?
Hỏi:
Trời, người, rồng, quỷ đều thấy
Phật, nghe pháp, nhưng địa ngục đạo và
Vô Sắc Giới cớ sao chẳng kể ra?
Đáp:
Nay sẽ biện định ư nghĩa ấy. Các đường
thăng trầm do có tŕ giới hay hủy giới. Thấy
Phật hay chẳng thấy Phật là do thừa có hoăn (thong
thả, rề rà, buông lỏng) hay cấp (gấp gáp, nghiêm
ngặt). Tŕ giới có thô hay tế, cho nên thọ báo có
hơn kém. Thừa để tŕ th́ có Đại, Tiểu,
cho nên thấy Phật có Quyền hay Thật. Lại phán
định đại lược thừa và giới th́ mỗi
đằng đều có ba phẩm. Kế đó, dùng bốn
câu để liệu giản th́ ư nghĩa ấy sẽ rơ rệt:
-
Một là giới và thừa đều cấp.
-
Hai là giới hoăn, thừa cấp.
-
Ba là giới cấp, thừa hoăn.
-
Bốn là giới và thừa đều hoăn.
Nhưng
luận chung về giới thừa, hết thảy thiện
pháp, hết thảy quán huệ đều được gọi
là Giới, cũng đều có thể gọi là Thừa.
Như ngũ thừa nhân,
thiên v.v… và Đạo Cộng Giới v.v… Nay phán định
riêng biệt th́ Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện, Bát
Trai, Xuất Gia Luật Nghi, cho đến Định Cộng
Giới có thể pḥng ngự thân và miệng, ngăn che ác
đạo quả, đạt được cái quả
nhân thiên, th́ đều gọi là Giới. Nếu nghe kinh
sanh hiểu biết, dùng quán trí để suy t́m Tứ Đế,
Thập Nhị Nhân Duyên, Lục Độ, sanh diệt, vô
sanh, vô lượng, vô tác các trí, có thể phá phiền năo, chuyên chở [hành nhân] thoát khỏi sanh tử
th́ gọi là Thừa.
a.
Một là giới và thừa đều cấp. Tŕ hạ
phẩm giới, tức là giới cấp, quả báo ở
trong loài người. Tŕ Tiểu Thừa tức là thừa
cấp, dùng thân trong nhân loại, thấy Phật nghe pháp
trong Tam Tạng Giáo. Tŕ Trung Thừa tức là thừa cấp,
dùng thân người để thấy đạo, nghe pháp
trong Thông Giáo Đại Thừa cho đến các giáo pháp
Đại Thừa kèm theo phương tiện. Tŕ thượng
thừa th́ là thừa cấp, dùng thân người để
thấy Phật, nghe pháp trong các giáo như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa
v.v… và Viên Giáo trong các giáo. Nếu tŕ trung phẩm giới th́
là giới cấp, quả báo là trong Dục Giới Thiên. Tŕ
Tiểu Thừa là thừa cấp. Dùng thân cơi trời trong Dục
Giới để thấy Phật, nghe pháp trong Tam Tạng Giáo. Những giáo khác giống như đă nói trong phần
trước. Nếu tŕ thượng phẩm giới th́ là
giới cấp, cộng thêm tu Thiền Định, quả
báo là trong Sắc Giới hoặc cơi trời Vô Sắc. Tŕ
Tiểu Thừa là thừa cấp, dùng thân trong Sắc Giới hoặc Vô Sắc
Thiên để thấy Phật, nghe pháp trong Tam Tạng Giáo.
Những giáo khác giống như đă nói trong phần
trước. Giải thích câu đầu tiên đă xong.
b.
Hai là giới hoăn, thừa cấp.
Đối với tam phẩm giới đều hoăn đăi
(không tŕ giới nghiêm túc, lơ là, ơ hờ), quả báo
là đọa trong tam đồ. Tŕ Tiểu Thừa là thừa
cấp. Dùng thân tam đồ để thấy Phật nghe
pháp trong Tam Tạng Giáo. Những giáo khác giống như
đă nói trong phần trước. Giải thích câu thứ
hai đă xong.
c.
Ba là giới cấp, thừa hoăn. Do ba loại giới (hạ
phẩm, trung phẩm, thượng phẩm) đều cấp (tŕ giới nghiêm ngặt, chân thành), thọ thân
trong trời, người, Sắc, Vô Sắc Thiên. Do tam thừa
hoăn (không nghiêm túc học đạo, tu đạo), tuy Phật
xuất thế thuyết pháp tam thừa, nhưng v́ [hành
nhân] yêu đắm quả báo sung sướng, đắm
đuối, hoang đàng nơi ngũ dục, cho nên chẳng
thấy Phật, chẳng nghe pháp. Chẳng hạn như ba
ức gia đ́nh tại thành Xá Vệ và chư thiên đắm
đuối dục lạc trong tam giới là hạng người
như thế đó. Giải thích câu thứ ba đă xong.
d.
Bốn là giới lẫn thừa đều hoăn, thọ quả
báo trong tam đồ, chẳng thấy Phật, chẳng
nghe pháp. Kinh này chẳng kể hạng địa ngục,
v́ giới của họ hoăn đăi, bị quả báo khổ
sở, nặng nề ngăn cách, thượng
thừa lại hoăn, chẳng thể thấy
Phật và nghe pháp trong hội Pháp Hoa được! Các kinh
khác có liệt kê là v́ họ đối với các thừa
khác “có gấp”.
Lại
c̣n chẳng kể Vô Sắc Giới Thiên, v́ họ đối
với thượng phẩm giới th́ gấp, cho nên thọ thân trong
cơi trời, nhưng chấp trước pháp vị nơi
Định, cho nên thượng thừa trở thành hoăn
đăi, chẳng thể thấy Phật, nghe pháp trong hội
Pháp Hoa. Các kinh khác có nhắc tới họ là v́ đối với
các thừa khác, họ “có gấp” (nghiêm ngặt dụng công
tu tập). Nếu hiểu ư này, nhất nhất suy xét trời
rồng tám bộ, sẽ biết bổn duyên của họ
là hoăn đăi hay gấp rút, sẽ đều hiểu rơ ư
nghĩa v́ sao họ đến, hoặc chẳng đến
[tham dự pháp hội]. Giải thích cặn kẽ th́
như trong Tịnh Danh Sớ đă nói.
Lại biết “dùng Quyền để dẫn
khởi Thật” th́ ư nghĩa Bổn Tích càng rơ hơn. Hăy nên
dùng điều này để suy xét quán hạnh của chính
ḿnh, sẽ có thể nhận biết nhân quả ba đời
rành rành. Ngài Diệu Lạc (tôn giả Kinh Khê Trạm Nhiên)
nói: “Tịnh Danh Sớ dùng bảy nghĩa để giải
thích bốn câu: Một là nói do thừa và giới [khác nhau] mà thấy
Phật khác nhau. Hai là do hai hạnh tin pháp khác nhau. Ba là do
Đại Thừa và Tiểu Thừa khác biệt. Bốn
là do căn tánh tiệm hay đốn. Năm là ứng tích.
Sáu là quán tâm. Bảy là hóa độ người khác”. Trước
hết là nói về thừa và giới:
-
Có Thừa th́ sẽ gặp Phật; chẳng có Thừa, sẽ
chẳng đến dự.
-
Hai là tin pháp, tọa Thiền, nghe học, giảng nói, đều
được gặp Phật. Chỉ tùy theo pháp đă tu tập
là Đại hay Tiểu [mà sẽ nghe pháp Đại hay Tiểu.
Đó là điều thứ ba].
- Bốn là tiệm đốn, v́
Đại Thừa hay Tiểu Thừa mỗi pháp đều
có Tiệm hay Đốn.
-
Năm là ứng tích, chính ḿnh đạt được hai
mươi lăm môn vương tam-muội, ứng hiện
trong hai mươi lăm Hữu, dẫn hành giả thật
sự hành pháp đến chỗ Phật.
-
Sáu là quán tâm, chỉ
thuận theo quán hạnh để phán định sự thấy
Phật.
-
Bảy là hóa độ người khác, thấy hay chẳng
thấy đều xét theo phương diện lợi lạc
người khác. Bậc đại quyền thị hiện
dấu tích được nói đại lược như
kinh văn trong phần này.
Phần
thứ nhất, liệt kê đại chúng đă xong.
1.1.2.2. Tổng kết
đại chúng nhóm họp
(Kinh)
Các lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện.
(經)各禮佛足。退坐一面。
(Kinh:
Đều lễ dưới chân Phật, lui ra ngồi qua
một bên).
Phần
thứ nhất của Tự Phần, nêu chung về hai môn
Tích Môn và Bổn Môn đă xong.
1.2. Phần tựa nói
riêng về hai môn Tích Môn và Bổn Môn
Kinh
văn được chia làm hai phần:
-
Một là từ phần kinh văn ở chỗ này cho đến
phẩm An Lạc Hạnh chính là phần Khai Quyền Hiển
Thật của Tích Môn.
-
Hai là từ phẩm Tùng Địa Dũng Xuất cho đến
phẩm Thường Bất Khinh là phần Khai Cận Hiển
Viễn của Bổn Môn.
1.2.1. Tích Môn Khai Quyền
Hiển Thật
Chia
thành ba phần:
-
Một là kinh văn thuộc Tự Phần.
- Hai là từ phẩm
Phương Tiện cho đến phẩm Thọ Học Vô
Học Nhân Kư là kinh văn thuộc phần Chánh Thuyết
(Chánh Tông Phần).
-
Ba là từ phẩm Pháp Sư cho đến phẩm An Lạc
Hạnh thuộc vào phần Lưu Thông [của Tích Môn].
1.2.1.1. Tự phần của
Tích Môn
Chia
thành năm đoạn:
-
Một là phần Tự nhóm họp đại chúng.
-
Hai là phần Tự về hiện tướng lành.
-
Ba là phần Tự nêu ra suy nghĩ nghi ngờ.
-
Bốn là phần Tự nêu thắc mắc.
-
Năm là phần Tự giải đáp câu hỏi.
Phần
Tự về chuyện nhóm họp đại chúng chính là
Nhân Nhất. Phần Tự nói về chuyện hiện
tướng lành (瑞相, thụy tướng)
là Lư Nhất. Phần Tự nói về suy nghĩ nghi ngờ
là Hạnh Nhất. Phần Tự vấn đáp là Giáo Nhất.
Đó là giải thích xét theo nhân duyên (nhóm họp đại
chúng là Thế Giới Tất Đàn. Hiện tướng
lành là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn. Suy nghĩ
ngờ vực là Vị Nhân Tất Đàn. Hỏi đáp là
Đối Trị Tất Đàn, một mực như thế
đó).
Xét
theo giáo, phần Tự này nhằm dẫn nhập phần
Chánh Tông, chẳng phải là Tam Tạng, chẳng phải
Thông, chẳng phải Biệt, mà nhằm dẫn khởi phần
Chánh Tông thuộc Viên Giáo (chỉ chú trọng Viên Giáo, nên nói “chẳng
phải” [Tạng, Thông, Biệt]).
Xét
theo Bổn Tích, nếu dùng phần Tự này để
giới thiệu Tứ Nhất (Nhân Nhất, Lư Nhất,
Giáo Nhất, Hạnh Nhất) trong Bổn Địa thuộc
phẩm Thọ Lượng th́ sẽ tự hiểu rơ
nghĩa này (Bổn Môn th́ phải tới phẩm Thọ
Lượng [mới nói rơ], nhưng cũng có thể biểu
thị sẵn [ngay trong Tích Môn]. Hăy nên biết trong phần
Tự này, hiển thị rơ rệt về Tích Môn gồm bốn
điều, ngầm biểu thị Bổn Môn cũng có bốn
điều. [Chuyện đức Phật] thành Phật
đă lâu [từ vô lượng A-tăng-kỳ kiếp
trước] chẳng vượt ra ngoài bốn điều
ấy. [Thành Phật] đă lâu hay mới đây tuy khác biệt,
nhưng lư Tứ Nhất giống hệt như nhau).
Xét
theo quán tâm, Nhất Tâm Tam Đế là Lư Nhất. Nhất
Tâm Tam Quán là Hạnh Nhất. Người quán như thế
là Nhân Nhất. Có thể diễn nói cảnh được
quán th́ là Giáo Nhất. Lại thường quán Tam Đức,
Năng và Sở đều gồm bốn mục: Pháp Thân
là Lư, Bát Nhă là Giáo, giải thoát là Hạnh. Ḥa hợp ba pháp sẽ
thành “giả danh nhân”[45],
tức là quán hạnh Như Lai. Nếu xét theo địa vị Lục Tức th́ địa vị nào
cũng có Tứ Nhất. Trong mỗi niệm, niệm nào
cũng gồm Tứ Nhất. Mỗi sắc, mỗi
hương, không ǵ chẳng phải là Tứ Nhất. Quán hạnh
như thế, đúng là Pháp Hoa tam-muội. Tâm và cảnh
phát khởi lẫn nhau, tức là Tứ Nhất trong nhân
duyên quán. Chẳng giống với ba giáo kia th́ là Tứ Nhất
xét theo các giáo. Đă thành Phật từ lâu xa, tức là Tứ
Nhất nơi Bổn địa quán.
1.2.1.1.1. Phần Tự
về đại chúng vân tập
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn, tứ chúng vi nhiễu, cúng dường,
cung kính, tôn trọng, tán thán.
(經)爾時世尊。四眾圍繞。供養恭敬尊重讚歎。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
tứ chúng vây quanh đức Thế Tôn, cúng dường,
cung kính, tôn trọng, tán thán).
Câu
trước nói về oai nghi của đại chúng nhóm họp;
câu sau nói về đại chúng vân tập cúng dường. “Nhĩ
thời” là lúc sắp hiện sáu tướng lành. “Tứ
chúng” là Phát Khởi Chúng, Đương Cơ Chúng, Ảnh
Hưởng Chúng, và Kết Duyên Chúng.
Phát
Khởi (發起) là dùng trí soi xét
thông suốt quyền mưu, biết căn cơ, biết
đúng thời, bèn khơi gợi, phát động để
thành tựu sự lợi ích, như voi lớn bẻ cây
để cho voi con được no ḷng. Nói “phát khởi
khiến cho nhóm họp”, tức là [những ai] phát khởi
tướng lành cho đến phát khởi chuyện vấn
đáp v.v… th́ đều gọi là Phát Khởi Chúng (ứng theo
[căn tánh của] chúng sanh mà lập bày th́ gọi là Quyền,
thuận theo lẽ thích nghi mà chế lập th́ gọi là
Mưu. Vừa có mưu, vừa có quyền, nên gọi là “quyền
mưu” (權謀). Thật Trí dung hội bên trong, chẳng
suy nghĩ mà thích đáng, nên nói “trí
giám” (智鑒, trí xét soi). Soi
xét điều thiện trong quá khứ có thể sanh trưởng,
có thể thành tựu, cho nên gọi là “biết căn
cơ”. Phù hợp đúng dịp chẳng sai chạy, nên
gọi là “biết thời”. Đó là “nội đức”.
Kích phát ḷng đại từ b́nh đẳng, dẫn phát
điều thiện của đại chúng trong thuở ấy,
nêu tỏ đại huệ bất nhị, thôi thúc khiến
cho ba nghiệp được lợi ích. Lại c̣n kích phát
túc nhân của đại chúng nhóm họp, phát khởi lợi
ích mầu nhiệm của bậc đương cơ, hoằng
dương đại giáo của Như Lai, lay động
sự cố chấp của chúng sanh trong thuở ấy. Lại
c̣n đánh động ḷng đại bi của Phật, cho
nên nói là “kích phát”. Khơi mở thánh chỉ (ư chỉ
của Phật), nên gọi là Dương (揚, hoằng dương,
nêu tỏ), khiến cho họ nghe điều chưa
được nghe th́ gọi là “phát động”. Khiến
cho người nghe thật sự được thỏa
măn th́ gọi là “thành biện” (成辦), [khiến cho người nghe] ắt
đạt được giải ngộ th́ gọi là “lợi
ích”. Đó là tác dụng ở bên ngoài. Voi chúa đại
quyền bẻ cây Pháp Thân để đến chỗ dấy
lên sự ứng hiện, diễn nói Thật trong Nhất Thừa,
khiến [cho người đắc độ] no đẫy
cơ duyên diệu hạnh. Năm phần của Phát Khởi
Tự đều nhằm tạo lợi ích cho căn cơ
của chúng sanh, cho đến phần vấn đáp v.v…
đều nhằm dẫn nhập phần Chánh Tông).
“Đương
cơ” (當機) tức là [những
ai] đă gieo cội đức từ trước, duyên hợp,
thời cơ chín muồi, chẳng rời khỏi chỗ
ngồi[46],
vừa nghe liền đắc đạo (Luận định
xít xao th́ là bậc Sơ Trụ, thâu nhiếp trọn khắp
lục căn, ngũ phẩm).
“Ảnh
hưởng” (影響) là các vị Phật
trong quá khứ, hoặc Pháp Thân Bồ Tát, ẩn giấu sự
viên cực, khuông pḥ đấng pháp vương. Tuy chẳng
làm ǵ, nhưng có lợi ích to lớn. Đấng hóa chủ
hiện thân diễn nói, ắt phải nhờ có hóa bạn
tạo ảnh hưởng. V́ thế, Đại Luận
có câu hỏi: “V́ lẽ nào các tỳ-kheo thường theo
đức Thế Tôn?” Đáp: Như bệnh đă lành, thường
theo thầy thuốc, nhằm hiển lộ tài năng của
y sư”. Luận ấy chỉ nói đến chuyện
trong thực tế mà c̣n có ảnh hưởng như thế;
huống hồ Pháp Thân Bồ Tát hay cổ Phật thị
hiện giúp Phật giáo hóa ư? V́ thế, biết tứ
chúng giống như người bệnh nhẹ đă lành,
tám bộ [quỷ thần] như người bệnh nặng
đă khỏi. Nặng hay nhẹ đều có ảnh
hưởng dù Quyền hay Thật.
“Kết
duyên” (結緣) là những ai
không có sức hướng dẫn, kích động [cơ duyên
thành tựu đạo phẩm cho người khác], đức
hạnh th́ chẳng có tác dụng khiến cho chúng sanh tuân phục,
nghiêm tŕ, căn trong quá khứ nông cạn, tam huệ
(Văn, Tu, Tư) chẳng nẩy sanh. Đời hiện tại
tuy thấy Phật, nghe pháp, nhưng chẳng có bốn món lợi
ích Tất Đàn, chỉ tạo nhân duyên đắc độ
trong tương lai (trọn đủ Tứ Tất Đàn
th́ gọi là Đương Cơ. Ngũ phẩm là lợi
ích về Thế Giới. Lục căn là lợi ích thuộc
về Vị Nhân và Đối Trị. [Đại chúng
đương cơ] từ Sơ Trụ trở lên là lợi
ích thuộc về Đệ Nhất Nghĩa Tất
Đàn. Nếu chưa nhập phẩm (chưa dự vào
ngũ phẩm[47]),
đều gọi là Kết Duyên. Do vậy, trước khi
đạt tới ngũ phẩm, sẽ chẳng có bốn
điều lợi ích [thuộc về Tứ Tất
Đàn] đối với Tam Huệ. Do chẳng có Văn Huệ,
sẽ chẳng có Thế Giới Tất Đàn. Chẳng có
Tư Huệ, cho nên chẳng có Vị Nhân Tất Đàn. Do
chẳng có Tu Huệ, cho nên chẳng có Đối Trị Tất
Đàn. Do chẳng chứng nhập, nên không có lợi ích thuộc
Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn. Lợi ích trong
Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn có thông và biệt.
Thông th́ bao gồm ngũ phẩm, biệt th́ là Sơ Trụ.
V́ thế, nói đến đắc độ cũng có
thông và biệt, tức là thông và biệt trong Đệ Nhất
Nghĩa).
Chúng
tỳ-kheo có bốn loại riêng biệt (phát khởi,
đương cơ, ảnh hưởng, kết duyên), ba
chúng kia (tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di) cũng thế,
hợp thành mười sáu chúng. Giống như vào thời
Đại Thông Trí Thắng Phật, các vương tử
giảng lại [kinh Pháp Hoa sau khi Đại Thông Trí Thắng
Phật nhập Định], họ chính là Phát Khởi Chúng
thời đó. Những người nghe pháp đắc
đạo chính là Đương Cơ Chúng thuở đó.
Nghe pháp mà chưa đắc độ, nhưng đời đời
gặp gỡ, có người thuộc địa vị
Thanh Văn trong hiện thời, tức là Kết Duyên Chúng
thuở đó. Vị Phật ấy đă có bốn lần
bốn mười sáu chúng, vị Phật hiện tại
(Thích Ca Mâu Ni Phật) có cùng một đạo,
há chẳng có [mười sáu chúng] ư? Đấy là mười
sáu chúng trong Viên Giáo. Ba giáo kia phỏng theo đó cũng có thể
biết.
Xét
theo Bổn Tích, hăy dựa theo Thể và Dụng để
nói về Bổn Tích. Bổn th́ trụ trong địa vị
tôn quư cùng cực (Phật quả), hoặc thuộc địa
vị Pháp Thân sâu xa. Nơi Tích th́ là mười sáu chúng trong
bốn giáo.
Xét
theo quán tâm, suy xét cảnh, tác quán, sẽ thuộc vào địa
vị Danh Tự và Quán Hạnh, sẽ trở thành Kết Duyên
Chúng. Dự vào địa vị Tương Tự, sẽ
trở thành Đương Cơ Chúng. Thuộc vào địa
vị Phần Chân (Phần Chứng Tức Phật), sẽ
trở thành Phát Khởi Chúng và Ảnh Hưởng Chúng (Nếu
đă nhập từ xưa, th́ chỉ gọi là Ảnh
Hưởng Chúng. Nếu là mới nhập th́ gọi là
Đương Cơ Chúng, mà cũng là Ảnh Hưởng
Chúng, cũng như là Phát Khởi Chúng, giống như các vị
phát thệ hoằng truyền kinh vậy).
“Vi
nhiễu” (vây quanh): Lúc đức Phật mới xuất
thế, loài người chưa biết pháp, Tịnh Cư Thiên
giáng hạ, hóa hiện h́nh dáng con người, đến
chỗ Phật đi nhiễu theo chiều phải. Nhiễu
xong bèn lễ kính. Lễ xong, bèn ngồi nghe pháp, [quy cách ấy]
bèn trở thành khuôn mẫu. Đó là giải thích theo nhân
duyên (Tịnh Cư Thiên giáng hạ tức là Thế Giới
Tất Đàn. Hóa thành thân người, tức Vị Nhân Tất
Đàn. Coi là khuôn mẫu, tức Đối Trị Tất
Đàn. Lễ xong nghe pháp chính là Đệ Nhất Nghĩa
Tất Đàn). “Đoàn nhiễu” (團繞, đi ṿng quanh) tức là nói tới
oai nghi đi nhiễu quanh, biểu thị căn cơ thuộc
bốn môn đă động, đều thấy viên lư.
Đem Viên đối ứng với Thiên th́ theo lệ
có bốn nghĩa. Đó chính là dựa theo giáo để giải
thích.
Lại
nữa, thân Phật trọn khắp tướng hảo
trang nghiêm, đi nhiễu quanh bốn phía để chiêm
ngưỡng, tăng trưởng Niệm Phật Định.
Đó chính là dựa theo quán tâm mà giải thích.
Nếu
quán sắc thân của Phật mà thấy Pháp Thân,
th́ là giải thích theo Bổn Tích.
Lại
dựa theo Thể, Dụng và lâu xa hay gần đây [để
luận định] th́ nơi Bổn, trụ trong Pháp Thân bất
động mà chẳng phải bất động, nơi
Tích th́ thị hiện căn cơ thuộc các giáo đi nhiễu
quanh đức Phật.
“Cúng
dường”: Nếu luận định chung th́ ba nghiệp
đều là cúng dường. Nếu luận định
riêng biệt th́ cần phải khiêm ty, cẩn trọng, kiền
thành, kính lễ th́ mới gọi là “cung kính”. Chí tâm
chuyên chú là “tôn trọng”. Thốt lời khen ngợi
th́ gọi là “tán thán”. Dùng y báo để bố thí th́ gọi
là “cúng dường”. Ở đây, kinh văn nói giản
lược. Nói chi tiết th́ như trong kinh Vô Lượng
Nghĩa: Bếp trời, hương trời, đồ
đựng trên cơi trời v.v… là cúng dường. Đại
Trang Nghiêm Bồ Tát và tám vạn đại sĩ chắp
tay, đó là cung kính. Nhất tâm chiêm ngưỡng là tôn trọng.
Thuyết kệ tụng mỗi câu có bảy chữ chính là
tán thán. Trong kinh ấy, đại chúng vân tập, thuyết
pháp xong, nghiễm nhiên chẳng giải tán, từ ngay
nơi pháp ṭa ấy, nói kinh Pháp Hoa. V́ thế dùng các chi tiết
được nói trong kinh ấy để giải thích các
chỗ đại lược trong kinh này, ư nghĩa chẳng
trở ngại!
1.2.1.1.2. Phần Tự
về hiện tướng lành
1.2.1.1.2.1. Hiện sáu
tướng lành trong cơi này
Phần
này chia thành sáu đoạn:
- Một là tướng lành thuyết pháp.
- Hai là tướng lành nhập Định.
- Ba là tướng lành tuôn mưa hoa.
- Bốn là tướng lành đại địa
chấn động.
- Năm là tướng lành đại chúng
hoan hỷ.
- Sáu là tướng lành phóng quang.
Thuyết pháp biểu thị “thuyết pháp
diệu” và “trí diệu”. Nhập Định biểu thị
“hạnh diệu”. Tuôn mưa hoa biểu thị “vị diệu“
(địa vị mầu nhiệm). Đất chấn
động biểu thị “cảnh diệu” và “thừa diệu”.
Đại chúng hoan hỷ biểu thị “quyến thuộc
diệu” và “lợi ích diệu”. Phóng quang biểu thị “cảm
ứng diệu” và “thần thông diệu”. V́ thế, sáu
điều ấy đều được gọi là phần
Tự về hiện tướng lành. Chỗ này bất
đồng với Thần Thông Diệu được nói
trong phần Huyền Nghĩa. Trong ấy, [thần thông diệu]
bao gồm sáu tướng lành thuộc về hương,
gió, đại địa thanh tịnh… giữa hai cơi; cho
nên gồm thâu trọn khắp; c̣n kinh văn trong phần
này chẳng nói đến cơi khác, mà là cơi này tự trọn
đủ. Đối với các kinh văn được
xét đến, đều có ư nghĩa thông và
biệt. Những lời lẽ biểu thị đều
hàm chứa ư nghĩa rộng lớn. Bởi lẽ, đối
với đại sự, bậc đại nhân tạo sự
cảm động to lớn, ḥng khiến cho căn cơ
to lớn được hưởng lợi ích to lớn.
Để hiển thị đại lư, đều cần
phải có đại quyến thuộc phù trợ đại
hội, đều cảm đại thời, đại vận
(cơ duyên to lớn) chín muồi. Nếu chẳng phải
là Linh Sơn đă cùng hội đủ [các nhân duyên ấy]
th́ để [cho các căn trong] đời này có thể
đích thân tiếp nhận, há có thể khế hợp
được ư, há có thể suy lường nổi
ư?
1.2.1.1.2.1.1. Tướng
lành thuyết pháp
(Kinh)
Vị chư Bồ Tát thuyết Đại Thừa kinh, danh
Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ
Niệm.
(經)為諸菩薩說大乘經。名無量義。教菩薩法。佛所護念。
(Kinh: V́ các
vị Bồ Tát nói kinh Đại Thừa tên là Vô
Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ
Niệm).
Câu
đầu nêu ra Pháp Thể sẽ
được nói. Câu kế đó, nêu ra tên của Thể.
Câu thứ ba nói đến chỗ nương tựa của
Bồ Tát. Câu thứ
tư nói đến sự thủ hộ của Phật.
Đại Thừa: Kinh Thiện Giới nói
có bảy thứ đại:
-
Một là pháp đại, ư nói mười hai bộ Tỳ
Phật Lược (Vaipulya, Phương Quảng).
-
Hai là tâm đại, tức cầu Vô Thượng Đại
Bồ Đề.
-
Ba là giải đại, tức là thấu hiểu Bồ
Tát tạng.
-
Bốn là tịnh đại, tức là kiến đạo,
tâm địa thanh tịnh.
-
Năm là trang nghiêm đại, tức là phước đức,
trí huệ.
-
Sáu là thời đại, tức ba A-tăng-kỳ kiếp
tu hành.
-
Bảy là cụ túc đại, tức là dùng tướng hảo
tự trang nghiêm để đắc Bồ Đề.
[Trong
ấy], điều thứ sáu chính là nhân đại, điều
thứ bảy là quả đại. Đại nhân, đại
quả th́ được gọi là kinh Đại Thừa.
Nay đem mười diệu để đối ứng
th́ pháp đại là “cảnh diệu”, tâm đại và giải
đại chính là “trí diệu”, tịnh đại và trang
nghiêm đại là “hạnh diệu”, thời đại là
“vị diệu” (sự mầu nhiệm nơi địa vị),
cụ túc đại là “tam pháp diệu” (ba pháp Giới,
Định, Huệ đều diệu). Do nhân mà có quả,
Năng lẽ nào chẳng có Sở? V́ thế, không chỉ có
năm thứ trước, mà ắt c̣n kèm thêm năm
thứ sau. Nhưng ba A-tăng-kỳ, nghĩa bao gồm Tam
Tạng, từ tên gọi giống nhau, có thể
tương ứng với thập diệu.
Vô
Lượng Nghĩa: Kinh ấy nói: “Tùng nhất pháp sanh,
kỳ nhất pháp giả, sở vị vô tướng. Vô
tướng bất tướng, danh vi Thật Tướng.
Tùng thử Thật Tướng, sanh vô lượng pháp” (Từ
một pháp sanh, một pháp ấy chính là nói tới vô tướng.
Vô tướng chẳng phải là tướng th́ gọi là
Thật Tướng. Từ Thật Tướng, sanh ra vô
lượng pháp). Nói tới nhị pháp, tam đạo, tứ
quả, nay sẽ giải thích. “Vô tướng” là chẳng
có tướng sanh tử. “Bất tướng” là chẳng
có tướng Niết Bàn, Niết Bàn
cũng không. V́ thế nói là “bất tướng”, tức là nói “Trung
Đạo là Thật Tướng”. “Nhị pháp”
chính là Đốn và Tiệm. Đốn là như hết thảy
các pháp đốn trong Hoa Nghiêm. Tiệm là hết thảy
các pháp thuộc Tam Tạng, Phương Đẳng, Bát Nhă
v.v… “Tam đạo” tức tam thừa. Tứ Quả tức
La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, và Phật. Các pháp ấy
được gọi là Vô Lượng. Thật Tướng
được gọi là Nghĩa Xứ. Từ một
nghĩa xứ, xuất sanh vô lượng pháp, và vô lượng
nghĩa xứ lại nhập vào một nghĩa xứ
để làm Tự (dẫn đường cho kinh Pháp Hoa).
Ví như tính toán, từ một phép toán mà suy ra các phép toán khác.
Sau đó, loại bỏ các phép toán khác để quy vào một
kết quả tính toán. Do các phép toán [trung gian không chứa kết
quả cuối cùng] nên bỏ đi, các phép toán trung gian chính
là các bước dẫn khởi đến bước loại
trừ cuối cùng. Tách ra chính là bước dẫn khởi
cho việc ghép lại cũng giống như thế. Từ
trong một mà phát ra các ư nghĩa, rồi lại thâu tóm các ư
nghĩa về một.
“Giáo
Bồ Tát pháp”: Vô lượng nghĩa xứ dùng để
dạy Bồ Tát. Nghĩa xứ tức là Đế lư. Kinh
văn trong phần sau có nói: “Phổ linh nhất thiết
chúng, diệc đồng đắc thử đạo”
(khiến cho hết thảy mọi người cũng cùng
đắc đạo này). Lại nói: “Nhược ngă ngộ
chúng sanh, tận giáo dĩ Phật đạo” (nếu ta
gặp chúng sanh, đều dùng Phật đạo dạy)
chính là ư này.
“Phật
sở hộ niệm”: Vô lượng nghĩa xứ do
Phật tự chứng đắc. Kinh văn trong phần
sau có nói: “Phật tự trụ Đại Thừa, tuy dục
khai thị, nhi chúng sanh căn độn, cửu mặc
tư yếu, bất vụ tốc thuyết” (Phật tự
trụ trong Đại Thừa, tuy muốn khai thị,
nhưng do căn cơ của chúng sanh chậm lụt, cho
nên chẳng nói điều ấy đă lâu, chẳng vội
nói). V́ thế nói là “hộ niệm”.
1.2.1.1.2.1.2. Tướng
lành nhập Định
(Kinh)
Phật thuyết thử kinh dĩ, kết gia phu tọa, nhập ư Vô Lượng
Nghĩa Xứ tam-muội, thân tâm bất động.
(經)佛說此經已。結加趺坐。入於無量義處三昧。身心不動。
(Kinh: Đức
Phật nói kinh này xong, ngồi xếp bằng, nhập trong
Vô Lượng Nghĩa Xứ tam-muội, thân tâm bất
động).
“Gia phu tọa” (加趺坐,ngồi
xếp bằng, chéo chân, hai ḷng bàn chân lật ngửa lên): Từ
xưa, chư Phật
và các đệ tử đều hành pháp này khiến
cho kẻ khác cung kính, ḥng đẹp ư của trời,
người. V́ thế, chẳng giống với nghi tiết
của thế gian và ngoại đạo, do có thể phá ma
quân, do có thể phát khởi tâm Chánh Giác. Đấy chính là ư
nghĩa Tứ Tất Đàn.
“Nói
kinh xong, bèn nhập
tam-muội”: Định và Huệ thành tựu lẫn
nhau, chẳng có Thiền sẽ không có trí; v́ thế, trước hết nhập Định. Chẳng
có trí, sẽ không có Thiền; v́ thế, thuyết pháp trước.
Trí chính là Thiền, Thiền chính là trí, trước sau nhập
xuất, chẳng bị ngăn ngại. Kẻ ôm ḷng nghi
nói: “Nếu chưa nói vô lượng nghĩa th́ có thể
nhập môn Định ấy! Nói kinh ấy xong, cớ sao
nhập Định?” Giải rằng: “Do kinh ấy dẫn đường cho kinh Pháp Hoa! V́ sao? Nếu chẳng mở
ra [vô lượng nghĩa] trước; sau đó, sẽ
không có ǵ để gộp lại! Trước hết nhập
khai Định dẫn khởi cho hợp Định[48].
V́ thế, gọi là “tướng lành”.
“Thân
tâm bất động”: Do chỗ để duyên theo
tương ứng với Thật Tướng nghĩa xứ.
Nguồn cội của cái thân b́nh lặng dường hư không. Lư tánh nơi tâm rốt
ráo thường tịch. Trong kinh văn thuộc phần
sau, trong bài kệ tán thán Đại Thông Trí Thắng Phật
có nói: “Thân tâm cập thủ túc, tịch nhiên an bất
động. Kỳ tâm thường đảm phạ, vị
tằng hữu tán loạn” (Thân, tâm và chân tay, vắng lặng,
an, bất động. Tâm Ngài thường an
định, chưa hề có tán loạn). Nay thân như kim
cang, chẳng thể lay chuyển. Tâm dường hư không, chẳng có phân
biệt. Ǵn giữ pháp Vô Lượng Nghĩa Xứ tam-muội
nơi thân tâm. V́ thế, bất động. Định
nương vào nghĩa xứ, vẫn gọi là “vô lượng”. Môn Định ấy
vắng lặng mà thường chiếu, có thể biết
thế gian từ một pháp ấy mà sanh ra vô lượng
pháp. Pháp thể của cái thân vốn là vận
động, nay khiến cho nó bất động; pháp thể của
cái tâm có tánh chất phân biệt, nay giữ cho nó chẳng phân
biệt. Ư nghĩa
được trần thuật đă rơ ràng vậy.
Hỏi:
[Hễ nói đến] “tướng lành” th́ vốn là
nói đến chuyện kỳ lạ, thuyết pháp và nhập
Định vốn là oai nghi thường hằng của Phật,
sao lại nói là “tốt lành”?
Đáp:
[Đức Phật] thuyết pháp vừa xong, ngay lập tức
nhập Định, khiến cho đại chúng khi ấy
chẳng giải tán, nghiêm túc chờ đợi. V́ thế
biết: Do phần thuyết pháp trước đó, toàn thể
đại chúng tụ tập, đợi nghe phần giảng
sau đó. Đó là điều đặc biệt lạ
lùng, khác với các buổi thuyết pháp thông thường,
lẽ nào chẳng phải là “điều tốt lành”? Tuy nhập
khai định, ư ở chỗ hợp Định, khác với
chuyện nhập Định thông thường, lẽ nào
chẳng phải là tốt lành? Ngài Văn Thù lại dẫn
sáu điềm lành của cổ Phật, đều có những
chuyện ấy. Nếu xưa kia chẳng phải là tướng
lành, sao có thể chứng minh cho hiện tại được?
Xưa nay giống hệt nhau, há có thể dùng phàm t́nh để
phủ định ư?
1.2.1.1.2.1.3. Tướng
lành tuôn mưa hoa
(Kinh)
Thị thời, thiên vũ Mạn Đà La hoa, Ma Ha Mạn
Đà La hoa, Mạn Thù Sa hoa, Ma Ha Mạn Thù Sa hoa, nhi tán Phật
thượng, cập chư đại chúng.
(經)是時天雨曼陀羅華。摩訶曼陀羅華。曼殊沙華。摩訶曼殊沙華。而散佛上。及諸大眾。
(Kinh: Khi
đó, trời mưa hoa Mạn Đà La (Mandārava), hoa Ma Ha Mạn
Đà La (Mahāmandārava), hoa Mạn Thù Sa (Mañjūṣaka), hoa Ma Ha Mạn
Thù Sa (Mahāmañjūṣaka)
để rải lên đức Phật và các đại
chúng).
Bốn
thứ hoa theo lối cựu dịch là Bạch, Đại
Bạch, Xích (đỏ), Đại Xích, hoặc dịch là
Thích Ư, Đại Thích Ư, Nhu Nhuyễn, Đại Nhu Nhuyễn.
“Bạch” biểu thị Thập Trụ “khai Phật tri kiến”. Đại Bạch biểu
thị Thập Hạnh “thị Phật tri kiến”. Xích biểu
thị Thập Hồi Hướng “ngộ Phật tri kiến”. Đại Xích biểu thị Thập Địa “nhập Phật tri kiến”. Bốn mươi
địa vị đều là cái nhân thành Phật. Cái nhân ấy
sanh từ Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa. V́ thế,
từ trên trời tuôn xuống. Nhân có nghĩa “hướng
đến quả”; v́ thế, rải lên đức Phật.
Nhân quả như thế, ai sẽ cảm vời
đạt được? Chỉ có đại
chúng trong hội này vào thuở đó. V́ vậy nói “cập
chư đại chúng” (và các đại chúng).
1.2.1.1.2.1.4. Tướng
lành đại địa chấn động
(Kinh) Phổ Phật thế giới lục
chủng chấn động.
(經)普佛世界。六種震動。
(Kinh: Khắp
thế giới Phật, sáu thứ chấn động).
Biểu
thị Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu
Giác là sáu phen phá vô minh. Vô minh đă gần hết, mỏng mảnh,
chưa từng hoàn toàn bị phá hủy, nay sắp bị
phá hoại, cho nên dùng chuyện
chấn động cơi đất để biểu thị.
Kinh Ưu Bà Tắc Thanh Tịnh Hạnh nói: “Bồ Tát
sanh thời động địa, thị thử sanh
dĩ tận, vô phục phiền năo, nhất thiết chúng
sanh ưng đắc đạo giả, phiền năo
tương diệt, cố động” (Khi Bồ Tát
sanh bèn chấn động cơi đất, nhằm biểu
thị sanh đă hết, chẳng c̣n phiền năo. Hết thảy
chúng sanh đáng nên đắc đạo, phiền năo sắp
diệt, cho nên chấn động), chính là nghĩa này.
Giải
thích theo Bổn Tích th́ như ngài Văn Thù giải
trừ điều nghi, dẫn chuyện cổ Phật
để đáp, ngầm đạt được ư này.
Đó chính là “biết Bổn”. Không chỉ các vị Phật
xưa kia đă hiện tướng lành ấy, mà đức
Thế Tôn nơi Bổn cũng hiện tướng lành ấy,
chẳng phải chỉ là một phen trong hiện thời!
Giải
thích theo quán tâm, th́ là chấn động sáu căn, tiêu tan
chấp trước nơi lục căn. Như tướng
đất kiên cố, lay động cơi đất khó lay
động, biểu thị tịnh hóa các căn chưa
thanh tịnh. [Các tướng chấn động như]
Đông vọt lên, Tây ch́m xuống, phương Đông màu
xanh, chủ gan, gan chủ mắt. Phương Tây màu trắng, chủ phổi, phổi chủ mũi. Điều này biểu
thị công đức sanh từ nhăn căn, diệt phiền
năo nơi tỵ căn, tỵ căn sanh khởi công đức.
Phương Nam màu đỏ, chủ tâm, tâm chủ lưỡi.
Phương Bắc màu đen, chủ
thận, thận chủ tai. Bốn bên biểu thị thân, trung
ương biểu thị ư. Thân có đủ bốn
căn, ư duyên trọn khắp bốn căn. Các
phương đối ứng [phương này] vọt lên,
phương kia ch́m xuống, biểu thị công đức
lần lượt sanh ra nhau, phiền năo diệt lẫn
nhau. Hăy nên biết như thế.
Sáu
thứ chấn động, theo cựu dịch th́ là động,
khởi, dũng, chấn, hống, và giác. Rung lắc chẳng
yên th́ gọi là Động (動). Từ dưới
dâng cao lên th́ là Khởi (起). Trồi lên hụp
xuống th́ là Dũng (起). Có tiếng
động ngầm (ầm ́ không nghe rơ tiếng) th́ là Chấn
(震). Phát ra tiếng
vang răng rắc là Hống (吼). Khiến cho chúng sanh nhận biết kinh sợ th́ là
Giác (覺). Tân dịch th́
nói là Động, Dũng, Kích, Chấn, Hống, Bộc.
Kích (擊) là như va
đập. Bộc (爆) là như tiếng
lửa [cháy nổ lốp bốp]. Ba thứ đầu là
h́nh tướng, ba thứ sau là âm thanh. Do kinh luận nêu
đại lược, nên chỉ nói là “chấn động”,
tức là đối với h́nh tướng và âm thanh mỗi
loại, chỉ nêu một thứ. Trong mỗi loại, lại
có ba thứ là động, biến động, đẳng
biến động. Ngay nơi chỗ ấy bị lay
động th́ gọi là Động. Tứ thiên hạ
đều động là Biến Động (徧動). Đại
thiên thế giới đều động th́ gọi là
Đẳng Biến Động (等徧動). Năm thứ kia
cũng thế, hợp thành mười tám thứ chấn động, tức
là biểu thị sự tịnh hóa mười tám giới.
Lại nữa, căn nào cũng đều tu Tam Quán,
như mười tám món động. Tướng
động tuy có mười tám loại, nhưng cái bị
động chỉ là một, tức đại địa.
Như căn tuy có sáu món, giới tuy có mười tám món, do
vô minh đă phá th́ hết thảy đều bị phá.
1.2.1.1.2.1.5. Tướng
lành đại chúng hoan hỷ
(Kinh)
Nhĩ thời, hội trung tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, thiên, long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A
Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân, cập
chư tiểu vương, Chuyển Luân Thánh Vương,
thị chư đại chúng, đắc vị tằng hữu,
hoan hỷ hiệp chưởng, nhất tâm quán Phật.
(經)爾時會中比丘、比丘尼。優婆塞。優婆夷。天。龍。夜叉。乾闥婆。阿修羅。迦樓羅。緊那羅。摩睺羅伽。人。非人。及諸小王。轉輪聖王。是諸大眾。得未曾有。歡喜合掌。一心觀佛。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, trong hội, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, Dạ Xoa, Càn
Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người,
chẳng phải người, và các tiểu vương,
Chuyển Luân Thánh Vương, các đại chúng ấy
đạt được điều chưa từng có,
hoan hỷ chắp tay, nhất tâm quán Phật).
Ưu-bà-tắc
(Upāsaka) phương này
dịch là Cận Sự Nam. Ưu-bà-di (Upāsikā), phương
này dịch là Cận Sự Nữ, bẩm thọ Tam Quy,
Ngũ Giới, là những người thân cận, thừa sự Tam Bảo, nhưng chia thành tại gia
và xuất gia. Tại gia th́ gọi là Cận Sự, xuất
gia th́ gọi là Cận Trụ. Xuất gia th́ ở trong
Tăng-già-lam (tự viện), nhưng chưa cạo bỏ
râu tóc, chưa thọ mười giới. V́ thế, chẳng
gọi là Sa Di.
Dạ
Xoa (Yakṣa), phương
này dịch là Tiệp Tật (捷疾, nhanh chóng), cũng dịch là
Dũng Kiện (勇健, mạnh mẽ), c̣n dịch là Bạo Ác, là tên một
loài quỷ phi hành.
Ma
Hầu La Già (Mahoraga), phương này dịch là Đại
Phúc Hành (大腹行, loài ḅ trườn
lớn)[49],
những loại kia như đă giải thích trong phần
trước. “Nhân phi nhân”: Tứ chúng là người,
tám bộ th́ là phi nhân. Câu này nhằm tổng kết.
“Tiểu
vương” như mười sáu quốc vương[50],
cho đến những người đứng đầu
các thôn xóm. Chuyển Luân Thánh Vương
(Chakravarti-raja) có bốn
loại:
- Một là Kim Luân Vương, vua tứ thiên
hạ.
-
Hai là Ngân Luân Vương làm vua ba thiên hạ, trừ Bắc
Châu (Bắc Câu Lô Châu).
-
Ba là Đồng Luân Vương, vua hai thiên hạ, trừ Tây Châu (Tây Ngưu Hóa Châu).
-
Thiết Luân Vương, vua của Nam Châu (Diêm Phù Đề).
Hỏi:
Thuở đức Phật tại thế, há có bốn luân
vương ư?
Đáp: Người
đáng được nghe kinh Pháp Hoa đều từ các
cơi khác nhóm đến.
Hỏi:
V́ sao trong phần liệt kê đại chúng trước
đó chẳng liệt kê họ?
Đáp:
Cùng nghe để chứng tín, đều chẳng phải
liệt kê tùy tiện được, phần nhiều [là
liệt kê những người] thuộc hai loại Ảnh
Hưởng và Phát Khởi [để chứng tín]. Nay trong
phần này nói trọn khắp chúng Đương Cơ và
Kết Duyên, chớ nên bắt bẻ! Đại chúng thấy
mưa hoa, đất chấn động, biết cam lộ
sắp giáng. V́ thế, hân hoan, hớn hở đầy ắp
trong tâm. biểu thị căn cơ to lớn sẽ
được phát khởi, cảm vời sự ứng hiện
thù thắng.
Hỏi:
Hỷ nộ là chuyện thường t́nh của con người,
sao lại coi là tướng lành? Đáp:
Hoa trời sướng mắt, đất động rúng
ḷng. V́ thế, Đại Kinh nói: “Động thời
năng linh chúng sanh tâm động” (Khi [đại địa] động có thể
khiến cho tâm chúng sanh động). Hoa và đất biểu
thị điều lành bên ngoài. Tâm vui sướng là điều
lành bên trong, chẳng phải là sự vui sướng tầm
thường. Tuy trước kia đă từng có, nhưng
chẳng bị hoan hỷ lay động, có thể nhất
tâm quán Phật, sao chẳng phải là điều lành? Xét
theo giáo, hoan hỷ động Ấm tâm, là ư nghĩa trong
nhân thiên. Hoan hỷ động Chân Đế vô lậu tâm
là ư nghĩa trong Tạng Giáo và Thông Giáo. Hoan hỷ động
cái tâm “tức Giả” chính là ư
nghĩa trong Biệt Giáo. Hoan hỷ động Thật
Tướng tâm là ư nghĩa trong Viên Giáo. Ở đây là [sự
động tâm] theo Viên Giáo.
Hỏi:
Thật lư bất động, sao lại nói là động?
Đáp:
Động chính là phát khởi. Căn cơ Viên Giáo sẽ
thành th́ gọi là “động Thật Tướng”.
Xét theo Bổn Tích, Bổn là trụ trong tam-muội bất
động, c̣n Tích là dùng đất chấn động
để biểu thị sự phát khởi. Xét theo quán tâm
th́ một niệm diệu quán vừa động, các tâm sở
khác đều tùy thuận mà động theo!
1.2.1.1.2.1.6. Tướng
lành phóng quang
(Kinh)
Nhĩ thời, Phật phóng mi gian bạch hào tướng
quang, chiếu Đông phương vạn bát thiên thế giới,
mỵ bất châu biến.
(經)爾時佛放眉間白毫相光。照東方萬八千世界。靡不周徧。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, đức Phật phóng quang từ tướng bạch
hào giữa hai mày, chiếu một vạn tám ngàn thế giới
ở phương Đông, không đâu chẳng trọn khắp).
Phóng
quang biểu thị ứng theo căn cơ mà lập giáo,
phá Hoặc trừ nghi. “Bạch hào” (Ūrṇā, tướng
lông trắng cuộn tṛn theo chiều phải như một
viên ngọc chính giữa hai mày): Kinh Quán Phật Tam Muội
Hải nói: “Phật sơ sanh thời, khiên trường
ngũ xích. Khổ hạnh thời, trường nhất
trượng tứ xích. Đắc Phật thời, trường
nhất trượng ngũ xích. Kỳ hào trung biểu câu
không, bạch như lưu ly đồng, nội ngoại
thanh tịnh. Tùng sơ phát tâm, trung gian hạnh hành chủng
chủng tướng mạo, năi chí nhập Niết Bàn nhất
thiết công đức, giai hiện hào trung” (Lúc đức
Phật sơ sanh, bạch hào kéo ra dài năm thước.
Khi khổ hạnh, dài một trượng bốn thước.
Khi thành Phật, dài một trượng năm thước.
Bạch hào ấy trong ngoài đều rỗng không, trắng
như ống lưu ly, trong ngoài thanh tịnh. Các thứ tướng
mạo từ sơ phát tâm, trong khoảng giữa hành các hạnh,
cho đến hết thảy công đức khi nhập Niết
Bàn đều hiện trong bạch hào).
Bạch
hào ở giữa hai lông mày, biểu thị Trung Đạo
thường hằng. Nó mềm mại, biểu thị Lạc.
Cuộn vào, duỗi ra tự tại, biểu thị Ngă. Màu
trắng biểu thị Tịnh. Phóng quang nhằm phá
tăm tối, biểu thị Trung Đạo sanh ra quang
minh trí huệ. Chiếu cơi này và cơi khác, biểu thị tự
giác, giác ngộ người khác. Lại nữa, Tạng và
Thông tuy biết hai Đế (Chân Đế và Tục Đế), nhưng chẳng
biết Trung Đạo, như có hai lông mày mà chẳng có bạch
hào. Biệt Giáo tuy biết Tam Đế (Chân Đế,
Tục Đế và Trung Đế), chẳng thể
trọn đủ hết thảy các pháp trong bạch hào. Nay
các chuyện từ ban đầu cho tới mai sau trong pháp
giới đều hiện nơi bạch hào, chính là biểu
thị ư nghĩa Viên Giáo.
Lại
nữa, các kinh nói phóng quang khác nhau. Trong phẩm Như Lai Hiện
Tướng của kinh Hoa Nghiêm, từ nơi răng phóng
quang, phát ra kệ tụng để nhóm họp đại
chúng; đấy là biểu thị sắp thuyết pháp. Lại
nữa, phóng quang từ giữa hai mày, [quang minh tỏa ra]
nhập vào chân, biểu thị dùng cực quả làm cái nhân
chân thật. Trong phẩm Phổ Hiền Tam Muội, từ
lỗ chân lông, phóng quang tán tụng Phổ Hiền, biểu
thị hạnh Phổ Hiền trọn khắp. Trong phẩm
Quang Minh Giác, phóng quang từ hai bàn chân, biểu thị pháp
môn Thập Tín. Trong phẩm Tu Di Sơn Đảnh, phóng
quang từ hai ngón chân, biểu thị Thập Trụ. Trong
phẩm Dạ Ma Thiên Cung, phóng quang từ
hai chân rọi lên trên, biểu thị Thập Hạnh. Trong
phẩm Đâu Suất Thiên Cung, phóng quang từ
hai gối, biểu thị Thập Hồi Hướng.
Trong phẩm Thập Địa, phóng quang từ giữa hai
mày, biểu thị Thập Địa chứng thẳng vào
Trung Đạo. V́ thế nói kiêm và biệt. Trong phẩm
Như Lai Xuất Hiện, phóng quang minh từ tướng
bạch hào, [quang minh chiếu xong liền] nhập vào đỉnh
đầu diệu đức. Đó là khiến cho [bậc
đương cơ] thưa hỏi Phật pháp viên diệu.
Phóng quang minh từ miệng, nhập vào miệng ngài Phổ
Hiền, tức là dạy [Phổ Hiền Bồ Tát] hăy nói
Phật pháp viên diệu. Trong phẩm Nhập Pháp Giới,
phóng quang minh từ tướng bạch hào, khiến cho các
vị Bồ Tát thấy Phật sự trong trọn khắp
pháp giới. Đấy là muốn khiến cho chúng sanh an trụ
trong Sư Tử Tần Thân tam-muội. Trong kinh Đại
Phẩm Bát Nhă, từ tướng bánh xe ngàn căm dưới
ḷng bàn chân cho đến nhục kế trên đỉnh
đầu, mỗi tướng đều phóng sáu vạn ức
quang minh. Đấy là dùng thân luân để biểu thị
Bát Nhă trọn khắp. Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, diện
môn[51]
tỏa ánh sáng, biểu thị miệng Phật mật thuyết
tạng bí mật. Nay kinh này bạch hào phóng quang, biểu thị
Trung Đạo Thật Tướng. V́ thế, ngài Văn Thù nói: “Kim Phật phóng quang minh, trợ phát
Thật Tướng nghĩa” (nay đức Phật
phóng quang minh, nhằm giúp phát khởi nghĩa Thật Tướng).
Quang minh c̣n soi thấy chuyện trong mười pháp giới
của cơi này và cơi khác, nhằm biểu thị mười
pháp giới không ǵ chẳng do một ấn Thật Tướng
in vào.
Xét
theo giáo, thân Phật cao trượng sáu phóng quang là ư
nghĩa theo Tam Tạng. Kèm theo Thắng Ứng Thân và Liệt
Ứng Thân phóng quang là nghĩa trong Thông Giáo. Thân tôn
quư đặc biệt phóng quang là ư nghĩa theo Biệt Giáo.
Thân trượng sáu chính là Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na phóng quang,
đó là ư nghĩa trong Viên Giáo. Long nữ tán thán rằng: “Vi
diệu tịnh Pháp Thân, cụ tướng tam thập nhị” (Pháp Thân sạch
vi diệu, đầy đủ băm hai tướng)
chính là khai hiển Viên Giáo vậy.
Phương Đông là khởi đầu của
các phương, biểu thị Thập Trụ là địa
vị khởi thỉ. Thuyết pháp trong Tích Môn có thể
khiến cho sanh thân Bồ Tát rỗng rang thấy Lư, dự
vào địa vị Thập
Trụ trong Viên Giáo, khai Phật tri kiến. Nêu ra điều
đầu tiên, sẽ biết điều ở giữa và
sau cùng. V́ thế nói “mỵ bất châu biến”
(không đâu chẳng trọn khắp). Hăy nên biết là các
phương cũng đều như thế, các địa
vị cũng thế. Nếu thuyết pháp theo Bổn Môn, bốn
phương Phật vân tập biểu thị Pháp Thân Bồ
Tát “tăng đạo, tổn sanh” (dần dần
tăng trưởng ngộ trí, dần dần tổn giảm
sanh tử), tăng trưởng bốn địa vị.
“Một
vạn tám ngàn thế giới”: Như trong kinh Hoa Nghiêm, hễ
quang minh chiếu soi sẽ là tính bằng “sát trần số”
(số lượng vi trần trong một cơi Phật), ở
đây sao lại ít vậy? Đặc biệt biểu thị
mười tám giới, mỗi giới đều có bách giới
thiên như, thành ra một vạn tám ngàn! Những điều
như thế không ǵ chẳng phải là cảnh giới
nơi Phật huệ! Ngài Di Lặc hỏi: “Phóng một
quang minh thanh tịnh, chiếu vô lượng cơi”, cho nên
biết phương vị được chiếu đến
không chỉ hạn cuộc tại phương Đông, số
lượng rơ ràng không chỉ là một
vạn tám ngàn vậy!
Hơn
nữa, một vạn tám ngàn cơi được chiếu
đều là cơ duyên ngũ trược, đều cần
phải v́ Thật mà thực hiện Quyền, khai Quyền
hiển Thật giống như Phật Thích Ca trong cơi này vậy.
Nếu có các cơi Phật thuần nói Đại Thừa,
Đại cách biệt với Tiểu, như những
điều được thấy trong quang minh [diễn tả]
trong các kinh như Hoa Nghiêm, tuy cảnh giới thù thắng,
chẳng hiển lộ trọn đủ phương tiện
thiện xảo của Như Lai từ đầu đến
cuối được! V́ thế, chẳng giống như
cảnh lành mầu nhiệm trong kinh này. Quang minh chiếu thấu
phương Đông, do quang minh bèn được thấy
sáu điều lành nơi các cơi khác. Tức là chúng sanh trong
sáu đường, chư Phật thuyết pháp, tam thừa
tu chứng, nhập Niết Bàn và dựng tháp v.v… Như thế
th́ mười pháp giới dù tánh, hay tướng, hay thể,
hay lực, hay tác, hay nhân, hay duyên, hay quả, hay báo, từ gốc
đến ngọn, đều hiện rành rành trong một
quang minh. Theo chiều ngang gồm trọn chẳng có ngằn mé,
theo chiều dọc tột cùng từ đầu đến
cuối. Như h́nh tượng trong gương, như
trăng trong nước, nói là có th́ chẳng có, bảo là
không th́ chẳng không. Ngoài quang minh chẳng có cơi nước,
ngoài cơi nước chẳng có quang minh. Nói là Không, là Giả,
là Trung, bậc thượng căn lợi trí có thể
hướng đến nơi ấy mà nhanh chóng hiểu rơ “Quyền Thật đồng thể, chẳng phải
Quyền, chẳng phải Thật”. Người
chưa thấu hiểu, bèn dùng ba tầng thiện xảo
để nói. Có kẻ bảo: “Nhất quang Đông chiếu,
diệu thể toàn chương” (một luồng quang minh chiếu sang phương
Đông, cái Thể mầu nhiệm được phơi
bày trọn vẹn), gần như đă thấu hiểu [ư
chỉ ấy]. Phần đầu, nói về sáu điều
lành nơi cơi này đă xong.
1.2.1.1.2.2. Sáu điều
lành ở cơi khác
Tức là do muốn khiến
cho [đại chúng nghe kinh] trong cơi này dễ hiểu
các cảnh giới được trông thấy bởi
điều lành thứ sáu tức “phóng quang”, cho nên lại
viện dẫn chuyện tương đồng, chia thành
sáu tiểu đoạn:
- Một là thấy tướng
lành trong sáu đường.
- Hai là thấy tướng
lành của chư Phật. [Điều một và hai chính là]
một cặp “thượng thánh, hạ phàm”.
- Ba là tướng lành nghe thuyết pháp.
- Bốn là trông thấy
tướng lành tứ chúng đắc đạo. Đây là
một cặp “nhân, pháp”.
- Năm là thấy tướng
lành Bồ Tát hành các hạnh.
- Sáu là thấy tướng
lành chư Phật nhập Niết Bàn. Đây là một cặp
“thỉ, chung” (khởi đầu và kết thúc).
Đă có chúng sanh đáng
được giáo hóa, bèn có Phật có thể giáo hóa. Hễ
có Phật bèn có thuyết pháp. Hễ thuyết pháp liền
có đệ tử. Đệ tử tức là khởi
đầu của hành tŕ. Đă có khởi đầu của
hành tŕ, ắt đạt đến kết cục. Lại
nữa, sáu điều lành trong cơi này cùng biểu thị chúng
sanh sẽ đạt được tự giác; sáu điều
lành trong cơi kia biểu thị chúng sanh sẽ đạt
được giác tha. Lại nữa, sáu điều lành
trong cơi này và cơi kia nhằm biểu thị chư Phật cơi
này và cơi kia có cùng một đạo. Năm điều lành
đầu tiên chính là hiển lộ cơi này và cơi kia đă giống
nhau; điều lành thứ sáu nhằm hiển thị cơi
này sẽ giống như cơi kia.
1.2.1.1.2.2.1. Thấy
điều lành trong sáu đường
(Kinh) Hạ chí A Tỳ
địa ngục, thượng chí A Ca Ni Trá thiên, ư thử
thế giới, tận kiến bỉ độ lục thú
chúng sanh.
(經)下至阿鼻地獄。上至阿迦尼吒天。於此世界。盡見彼土六趣眾生。
(Kinh: Dưới là
đến địa ngục A Tỳ, trên là đến trời
A Ca Ni Trá, trong thế giới này thấy trọn hết
chúng sanh thuộc sáu đường trong cơi kia).
A Tỳ (Avīci),
phương này dịch là Vô Gián, ở chỗ thấp nhất
trong thế giới. A Ca Ni Trá (Akaniṣṭha),
phương này dịch là Sắc Cứu Cánh, là chỗ cao tột
trong Sắc Giới. Câu này thừa tiếp ư “quang minh chiếu
đến một vạn tám ngàn cơi ở phương
Đông” trong phần trước, chiếu thấu từ
địa ngục A Tỳ cho đến Sắc Cứu
Cánh Thiên, không ǵ chẳng được quang minh hiển hiện
trọn hết. V́ thế, đại chúng trong hội vào
thuở ấy liền ở trong thế giới này mà thấy
trọn hết chúng sanh sáu đường trong các cơi kia, tức
là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, Tu La, người,
trời. Đó là hiện ngũ trược trong các
cơi ấy, giống như cơi này.
1.2.1.1.2.2.2. Thấy
điều lành chư Phật
(Kinh) Hựu kiến bỉ
độ hiện tại chư Phật.
(經)又見彼土現在諸佛。
(Kinh: Lại thấy
chư Phật đang trụ thế trong các cơi ấy).
Đây là quang minh hiển hiện
chư Phật trong các cơi ấy. Các Ngài v́ [thế giới]
ngũ trược mà xuất hiện trong cơi đời.
Điều này có cùng ư nghĩa xuất thế với Phật
Thích Ca.
1.2.1.1.2.2.3. Điều
lành nghe thuyết pháp
(Kinh) Cập văn
chư Phật sở thuyết kinh pháp.
(經)及聞諸佛所說經法。
(Kinh: Và
nghe kinh pháp do chư Phật
đă nói).
Đây là hiển hiện các
vị Phật ấy thoạt đầu từ một pháp
vô tướng, chẳng đốn mà là đốn, diễn
nói Đại Hoa Nghiêm, có cùng ư nghĩa với chuyện Phật
Thích Ca diễn nói kinh Hoa Nghiêm trong cơi này.
1.2.1.1.2.2.4. Thấy
điều lành tứ chúng đắc đạo
(Kinh) Tịnh kiến bỉ
chư tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di,
chư tu hành đắc đạo giả.
(經)並見彼諸比丘比丘尼優婆塞優婆夷諸修行得道者。
(Kinh: Lại thấy
các tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di là những
người tu hành đắc đạo trong cơi ấy).
Đây là hiển hiện Phật
trong cơi ấy chẳng phải tiệm mà là tiệm, v́ kẻ độn
căn mà thuyết pháp Tam Tạng. Tứ chúng nương theo, bèn đạt
được Tứ Quả xuất thế và Bích Chi Phật
đạo, có cùng ư nghĩa với chuyện Phật Thích Ca
nói giáo pháp Tam Tạng trong cơi này.
1.2.1.1.2.2.5. Thấy
điều lành Bồ Tát hành các hạnh
(Kinh) Phục kiến chư
Bồ Tát Ma Ha Tát chủng chủng nhân duyên, chủng chủng
tín giải, chủng chủng tướng mạo, hành Bồ
Tát đạo.
(經)復見諸菩薩摩訶薩。種種因緣。種種信解。種種相貌。行菩薩道。
(Kinh: Lại thấy các thứ
nhân duyên, các thứ tín giải, các thứ tướng mạo
hành Bồ Tát đạo của các vị Bồ Tát Ma Ha Tát).
Đây là hiển hiện các
vị Phật ấy chẳng phải tiệm mà là tiệm,
v́ người Đại Thừa nói các kinh Đại Thừa
Phương Đẳng, Bát Nhă, có cùng ư nghĩa với chuyện
Phật Thích Ca nói hai giáo thuộc vị tô (sanh tô và thục
tô) trong cơi này. Xưa kia, gieo thiện căn nơi bốn
giáo làm nhân, nay vâng theo pháp môn trong bốn giáo làm duyên. Trong bốn
giáo, mỗi giáo đều có tín giải, lấy đó làm chủ
thể để cảm (năng cảm), tu hành tứ giáo.
Lại trong mỗi giáo, mỗi giáo
đều có bốn môn. V́ thế nói là “chủng chủng
tướng mạo” (các thứ tướng mạo).
1.2.1.1.2.2.6. Thấy điều
lành chư Phật nhập Niết Bàn
(Kinh) Phục kiến
chư Phật bát Niết Bàn giả. Phục kiến
chư Phật bát Niết Bàn hậu, dĩ Phật xá lợi
khởi thất bảo tháp.
(經)復見諸佛般涅槃者。復見諸佛般涅槃後。以佛舍利起七寶塔。
(Kinh: Lại thấy
chư Phật nhập Niết Bàn. Lại thấy sau khi chư Phật nhập Niết Bàn, [tứ chúng] đem xá-lợi của Phật dựng tháp bảy
báu).
Đây là [quang minh] hiển hiện
đức Phật ấy giáo hóa xong xuôi, thâu vô lượng
pháp quy hoàn một pháp, thị hiện diệt độ, chấm
dứt giáo hóa, cho đến dựng tháp để làm Phật
sự. Tức là khởi đầu xuất thế cho đến kết thúc bằng thời Tượng Pháp, quang minh chiếu tới cơi ấy đă phô bày rành rành
trước mắt chuyện tạo lợi ích Quyền và Thật trong suốt
một đời giáo hóa của vị Phật ấy. Dùng
cơi kia để suy ra cơi này, năm thứ trước
đă giống nhau, điều sau cùng há sai khác? Hăy nên biết
đức Thích Ca từ lúc mới thành đạo, đă từ
một pháp vô tướng nói ra vô lượng pháp, chẳng
đốn mà là đốn, chẳng tiệm mà là tiệm. Chuyện ấy
đă xong, nay ắt phải nên thâu vô lượng pháp trở
về một pháp, khai Quyền hiển Thật, xướng rằng “sẽ nhập diệt” giống như trong cơi kia.
Hỏi: V́ sao trong quang minh chẳng
hiện [chư Phật] nói kinh Pháp Hoa trong các cơi ấy?
Đáp: Nếu hiển hiện
rành rẽ, sẽ chẳng thành dẫn khởi, mà cũng chẳng
thể khiến cho chúng hội nẩy sanh nghi niệm, [khiến cho] ngài Di Lặc nêu câu hỏi, Văn Thù bèn cân nhắc để trả lời. Như thế th́ hai
thuyết Tích và Bổn sẽ chẳng do đâu phát khởi
được! [Như thế th́] làm sao chắc chắn
đạt được vô biên lợi ích trong hiện tại
và sau khi đức Phật diệt độ? V́ thế,
bèn nói ư chỉ chánh yếu của kinh Pháp Hoa. Chỉ đối
với một chuyện quang minh chiếu sang phương
Đông mà đă có kiến giải chấp chặt một bề,
chẳng biết nói năng hay im lặng đều trọn
đủ Tứ Tất Đàn! Tứ Tất Đàn do nhập
Định chỉ phù hợp bậc thượng thượng
căn. Tứ Tất Đàn do thuyết pháp sẽ thích ứng
trọn khắp ba căn. Tứ Tất Đàn của nhập
Định chỉ hạn cuộc trong hiện tại. Tứ
Tất Đàn của sự thuyết pháp lưu thông sẽ
phổ cập tận vị lai. Do chẳng biết lẽ
ngầm chứng minh, cho nên mới có nhiều dị kiến!
Hỏi: Quang minh soi chiếu các điều được
trông thấy theo chiều ngang (không gian) trong một thời,
sao lại nói là “trước Đốn, sau Tiệm”
cho đến “hội quy” [tam thừa về nhất
thừa, vô lượng pháp về một pháp]?
Đáp: Xa hay gần đều
có thể khiến cho thấy nghe, th́ khiến cho thấy nghe quá khứ
và vị lai đều khiến cho thấy nghe, há có khó ǵ? V́ thế, khiến cho mười
phương từ đầu đến cuối, rạng
ngời như ở ngay trước mắt, há có nên dùng
phàm t́nh nhỏ nhặt để suy lường thánh cảnh
ư?
Hỏi: Các điều trông
thấy trong quang minh chẳng phải là thuần đốn,
mà chỉ là tiệm đấy chăng?
Đáp: Đại chúng thuở
ấy chỉ do quang minh mà trông thấy. Bản lănh to lớn
để làm chuyện ấy là do đức Thế Tôn,
nhưng Ngài đă khiến cho đại chúng trông thấy
[các sự tướng ấy bèn biết] “vốn là để
chứng minh [cơi này và phương khác] giống như
nhau, phóng quang minh nhằm
thành tựu Nhất Thật”. V́ thế, Sự tuy khác mà Lư
tuyệt đối, chẳng phải do quang minh nhuần thấm.
Hỏi: Chữ Bát (般) được phương này nói là Nhập, Niết Bàn là Diệt
Độ, Tạng Giáo và Thông Giáo là “hôi đoạn”[52],
cho nên nói là Bát Niết Bàn. Đă hiển lộ viên thường,
há nên nói là “nhập diệt”?
Đáp: Phật xuất hiện
trong cơi Đồng Cư, về mặt Sự, ắt phải
thị hiện nhập diệt. Nếu biết “chẳng
phải sanh” mà thị hiện sanh, liền biết sanh chính
là “chẳng phải sanh”. Nếu biết chẳng phải
diệt mà thị hiện diệt, liền biết diệt
chính là phi diệt. Đọc phẩm Thọ Lượng,
mối nghi ấy sẽ tự cởi gỡ.
Xá-lợi (Śarīra), c̣n
nói là Thất-lợi-la, phương này dịch là Linh Cốt (靈骨, xương thiêng). Tháp, nói đầy đủ là Tháp
Bà (Stupa), hoặc là Tể Đổ Ba, phương này dịch
là Phương Phần (方墳, mồ vuông), hoặc dịch là Viên
Trủng (圓塚, mộ tṛn), c̣n dịch là Cao Hiển. Phần
thứ hai, trần thuật hiện tướng lành đă
xong.
1.2.1.1.3. Trần thuật
nghi niệm
Gồm hai phần: Một
là Di Lặc nghĩ ngợi, khởi nghi, hai
là đại chúng suy nghĩ khởi nghi.
1.2.1.1.3.1. Di Lặc suy
nghĩ, khởi nghi
(Kinh) Nhĩ thời, Di Lặc
Bồ Tát tác thị niệm: “Kim giả Thế Tôn hiện
thần biến tướng, dĩ hà nhân duyên nhi hữu thử thụy? Kim Phật Thế Tôn
nhập ư tam muội, thị bất khả tư nghị hiện hy hữu sự, đương
dĩ vấn thùy, thùy năng đáp giả?” Phục tác thị
niệm: “Thị Văn Thù Sư Lợi pháp vương chi
tử, dĩ tằng thân cận, cúng dường quá khứ
vô lượng chư Phật, tất ưng kiến thử
hy hữu chi tướng, ngă kim đương vấn”.
(經)爾時彌勒菩薩作是念。今者世尊現神變相。以何因緣。而有此瑞。今佛世尊入於三昧。是不可思議現希有事。當以問誰。誰能答者。復作此念。是文殊師利法王之子。已曾親近供養過去無量諸佛。必應見此希有之相。我今當問。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Di Lặc
Bồ Tát nghĩ như thế này: “Nay đức Thế
Tôn hiện tướng thần biến, do nhân duyên ǵ mà có
điều lành này? Nay Phật Thế Tôn nhập tam-muội,
chuyện biến
hiện hiếm
có chẳng thể nghĩ này hăy nên hỏi ai? Ai có thể
đáp được?” Lại nghĩ như thế này:
“Ngài Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử đây
đă từng thân cận, cúng dường vô lượng
chư Phật trong quá khứ, ắt sẽ thấy tướng
hy hữu này, ta hăy nên hỏi Ngài”).
Ngài Di Lặc có ba ư niệm:
- Một, từ chữ “kim
giả” trở đi là suy nghĩ về sáu điều
lành.
- Hai, từ chữ “Phật”
trở đi, suy nghĩ sẽ hỏi ai.
- Ba, từ chữ “phục
tác” trở đi, là nghĩ tới ngài Văn Thù.
Ư niệm về Văn Thù dấy
lên th́ ư niệm thứ hai mất đi, chỉ c̣n ư niệm
đầu tiên, nhưng trở thành nghi hoặc.
“Thần biến” (神變): “Thần” là “thiên tâm” (tâm tự nhiên), tức
là nội huệ tự nhiên. “Biến” là biến động,
tức là sáu điều lành tỏ lộ ra ngoài. Kinh Thủ
Lăng Nghiêm Tam Muội nói: “Phật trụ bất nhị
pháp, năng tác thần thông” (Đức Phật trụ
trong pháp Bất Nhị có thể thực hiện thần
thông). Pháp lực của đấng Pháp Vương siêu việt, bao trùm hết thảy, ngài Di Lặc chẳng lường
được sự biến hóa bên ngoài, mà cũng chẳng
hiểu nội huệ. V́ thế, dấy lên ư niệm ngờ
vực. Kẻ vụng về chẳng biết tài khéo, kẻ
tán loạn chẳng biết Định, phàm phu chẳng biết
bậc thánh, tiểu thánh chẳng hiểu biết Thân Tử (Xá Lợi Phất), Thân Tử chẳng hiểu biết Bồ Tát, Bồ
Tát chẳng biết bậc Bổ Xứ, Bổ Xứ chẳng
biết đấng tôn cực (Phật). Đây là cảnh
giới tôn cực; v́ thế, ngài Di Lặc chẳng biết.
Nhưng ngài Di Lặc đă gieo nhiều điều thiện,
lẽ đâu chẳng biết phảng phất? Hăy nên biết
là Ngài ẩn tàng sự sáng suốt, thị hiện tối
tăm, quyền biến nói là “chẳng biết”.
Hỏi: Hết thảy Bồ
Tát đều là pháp vương tử, cớ sao riêng đề
cao ngài Văn Thù?
Đáp: Do có hai
nghĩa: Một là trong các vị pháp vương tử,
đức của ngài Văn Thù
cao vượt.
Hai là trong các kinh, ngài Văn Thù đều là Thượng Thủ
của các vị Bồ Tát.
1.2.1.1.3.2. Đại
chúng suy nghĩ khởi nghi
(Kinh) Nhĩ thời, tỳ-kheo,
tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cập chư
thiên, long, quỷ thần đẳng, hàm tác thử niệm:
“Thị Phật quang minh thần thông chi tướng, kim
đương vấn thùy?”
(經)爾時。比丘比丘尼優婆塞優婆夷。及諸天龍鬼神等。咸作此念。是佛光明神通之相。今當問誰。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, và các trời,
rồng, quỷ thần v.v… đều nghĩ như thế
này: “Tướng quang minh thần thông này của Phật nay
hăy nên hỏi ai?”)
Đại chúng có hai ư niệm:
Một là chánh niệm sáu điều lành, hai là nghĩ nên hỏi
ai. Nếu đối chiếu với kệ tụng trong phần
sau, cũng có ba ư niệm. Phần kệ tụng có nói: “Tứ
chúng hân ngưỡng, chiêm nhân cập ngă” (Tứ chúng vui
sướng, ngưỡng mộ, chiêm ngưỡng nhân giả
và tôi). Chẳng có ư niệm thứ ba, sao lại chiêm ngưỡng
nhân giả? Đoạn [chánh kinh] này chẳng nói là v́ muốn
đề cao bậc Bổ Xứ trước.
Hỏi: Văn Thù và Di Lặc
phẩm đức và địa vị ngang nhau, cớ sao một
vị hỏi, một vị đáp?
Đáp: Căn cơ có
tương ứng, hay không tương ứng. Địa
vị tuy ngang nhau, nhưng do chủ khách phải nên khác
nhau, thánh nhân thừa dịp, nếu chẳng có người
hỏi, sẽ chẳng thể đáp (đó là nói theo
nhân duyên). Pháp môn lại có Quyền và Thật, bậc Bổ
Xứ nơi Quyền th́ cần phải hỏi, người
ở nơi Thật cần phải đáp (đó là xét theo
giáo). Tích lại có [thành tựu đạo quả] lâu xa hay
gần đây. Gần đây th́ hỏi, lâu xa bèn đáp
(đó là xét theo Bổn Tích). Tên gọi lại có ư nghĩa dễ
hiểu. Di Lặc là Từ, Từ là v́ chúng sanh, cho nên cần
phải hỏi. Văn Thù là diệu đức, đă là
đức th́ cần phải đáp (đó là giải thích
theo quán tâm). Phần trần thuật về ba mối nghi niệm
đă xong.
1.2.1.1.4. Nêu lời hỏi
Gồm hai phần: Một
là phần Trường Hàng, hai là kệ tụng.
1.2.1.1.4.1. Trường
Hàng
Gồm hai phần: Một là người
kết tập kinh trần thuật, hai là nêu lời thưa
hỏi.
1.2.1.1.4.1.1. Người
kết tập kinh trần thuật
(Kinh)
Nhĩ thời, Di Lặc Bồ Tát dục tự quyết
nghi, hựu quán tứ chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cập chư thiên, long, quỷ
thần đẳng chúng hội chi tâm.
(經)爾時彌勒菩薩。欲自決疑。又觀四眾。比丘比丘尼。優婆塞優婆夷。及諸天龍鬼神等。眾會之心。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Di Lặc Bồ Tát muốn giải quyết
mối nghi của chính ḿnh. Lại xét tâm niệm của tứ
chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, và
chư thiên, rồng, quỷ thần v.v… trong hội).
Cùng
trần thuật nỗi nghi của chính ḿnh và người
khác. Ư nghĩa dễ hiểu.
1.2.1.1.4.1.2. Chánh thức
nêu lời hỏi
(Kinh)
Nhi vấn Văn Thù Sư Lợi ngôn: - Dĩ hà nhân duyên nhi
hữu thử thụy, thần thông chi tướng, phóng
đại quang minh, chiếu ư Đông phương vạn
bát thiên độ, tất kiến bỉ Phật quốc giới
trang nghiêm?
(經)而問文殊師利言。以何因緣。而有此瑞神通之相。放大光明。照於東方萬八千土。悉見彼佛國界莊嚴。
(Kinh:
Hỏi Văn Thù Sư Lợi rằng: - Do nhân duyên ǵ mà có
tướng tốt lành và thần thông này, phóng quang minh to lớn chiếu đến
một vạn tám ngàn cơi ở phương Đông, đều
thấy sự trang nghiêm trong các Phật quốc giới ấy?)
Cùng
hỏi về cơi này và cơi khác, ư nghĩa dễ hiểu.
1.2.1.1.4.2. Kệ tụng
Gồm hai phần: Một
là kệ tụng để hỏi những điều trên
đây, hai là kệ tụng nhằm xin giải đáp. Do ư
nghĩa ǵ mà có kệ tụng? Trong Tỳ Bà Sa Luận, ngài
Long Thọ có nói: “Một là tùy thuận quốc độ.
Thiên Trúc có thuyết rải hoa và xâu hoa. Như trong thế
gian này, sau bài Tựa bèn có bài Minh. Hai là thuận theo ḷng
ưa muốn khác nhau, có
người thích nói bằng văn xuôi, có người thích
nói thành thi kệ (hai điều này là Thế Giới Tất
Đàn). Ba là tùy thuận chúng sanh hiểu biết bất
đồng. Hoặc là [tùy thuộc người nghe] do tán
nói bằng văn xuôi mà hiểu, hoặc nhờ thơ kệ
mà hiểu (đó là Vị Nhân Tất Đàn). Bốn là tùy
thuộc lợi căn hay độn căn. Người lợi
căn th́ vừa nghe liền ngộ, kẻ độn
căn th́ phải nhắc lại mới ngộ (Đó là
Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn). Lại c̣n biểu
thị Phật ân cần nhắc lại (điều thứ
năm cũng là Vị Nhân Tất Đàn). Lại do đối
với đại chúng tụ tập có trước, sau; v́
thế có kệ tụng (Đối Trị Tất Đàn,
có thể trừ mối nghi cho người đến sau)”. Luận ấy
nêu ra mười nghĩa, nay chỉ kể ra sáu. Năm
điều đầu th́ như đă trích dẫn. (Điều
thứ sáu là khiến cho người đến sau sanh ḷng
tin đối với kinh, cũng là Vị Nhân Tất
Đàn. Bảy là dễ vận dụng ngôn từ, thay đổi
phong cách thuyết pháp, cũng là Đối Trị Tất
Đàn. Tám là chỉ bày nghĩa vô tận. Chín là nói rơ bậc
cao tột có cách nói không hạn chế. Hai điều này
cùng là Đệ Nhất Nghĩa Tất
Đàn. Điều thứ mười trong luận chính là
điều thứ sáu trong đoạn văn trích dẫn
trên đây).
1.2.1.1.4.2.1. Kệ tụng
để hỏi những điều trên đây
Gồm
hai phần: Một là hỏi sáu điều lành trong cơi này;
hai là hỏi về sáu điều lành trong cơi khác.
1.2.1.1.4.2.1.1. Hỏi sáu điều
lành trong cơi này
(Kinh)
Ư thị, Di Lặc Bồ Tát dục trùng tuyên thử
nghĩa, dĩ kệ vấn viết: - Văn Thù Sư Lợi!
Đạo sư hà cố? Mi gian bạch hào, đại quang phổ
chiếu, vũ Mạn Đà La, Mạn Thù Sa hoa. Chiên đàn
hương phong, duyệt khả chúng tâm. Dĩ thị nhân
duyên, địa giai nghiêm tịnh, nhi thử thế giới,
lục chủng chấn động. Thời tứ bộ
chúng, hàm giai hoan hỷ, thân ư khoái nhiên, đắc vị tằng
hữu.
(經)於是彌勒菩薩。欲重宣此義。以偈問曰。文殊師利。導師何故。眉間白毫。大光普照。雨曼陀羅。曼殊沙華。旃檀香風。悅可眾心。以是因緣。地皆嚴淨。而此世界。六種震動。時四部眾。咸皆歡喜。身意快然。得未曾有。
(Kinh: Ngay khi
đó, Di Lặc Bồ Tát muốn nói lại nghĩa này,
dùng kệ hỏi rằng: - Văn Thù Sư Lợi! Đạo
sư[53] cớ
ǵ? Bạch hào giữa mày, đại quang chiếu khắp,
mưa Mạn Đà La, hoa Mạn Thù Sa. Gió thơm Chiên
Đàn[54],
vui đẹp ḷng người. Do nhân duyên ấy, đất
đều nghiêm tịnh, nhưng thế giới này, sáu thứ
chấn động. Bốn chúng khi đó, thảy đều
hoan hỷ, thân ư vui sướng, được chưa từng
có).
Phần
kinh văn Trường Hàng hỏi chung sáu điều lành của
cơi này. Trong phần kệ có nói đến gió thơm và
đất thanh tịnh, nhưng không nói đến chuyện
thuyết pháp và nhập Định. Nh́n vào kinh văn th́ có
thể nói là [giữa phần Trường Hàng và Kệ Tụng]
“có tăng giảm”, nhưng xét theo ư nghĩa th́ chẳng vậy. Thuyết
pháp là huệ tánh, nhập Định là tâm tự nhiên. Từ
huệ tánh và tâm tự nhiên, có thể phóng quang, chấn
động cơi đất. Nêu lên cái ngọn liền biết
cái gốc; v́ thế, tuy lược bớt mà chẳng phải
là lược bớt. Lại nữa, chỉ với hai chữ
“đạo sư” [trong kệ tụng] chính là hỏi
về thuyết pháp, nhập Định; bởi lẽ, do
thuyết pháp, nhập định có thể hướng dẫn
người khác. Hoa trời mầu nhiệm tột bậc,
há có sắc mà chẳng có hương? V́ thế, có hoa bèn có
gió thơm. Hoa đă tụ tập trên mặt đất,
đất liền trang nghiêm, thanh tịnh, biểu thị:
Nếu do nhân mà tiến tới quả, quả sẽ trang
nghiêm, thanh tịnh. Như kinh Kim Quang Minh nói: “Tụ tập
công đức, trang nghiêm Pháp Thân”. V́ thế, dùng gió
thơm, cơi đất thanh tịnh, hiển lộ bốn
thứ hoa, đó là tăng mà chẳng tăng vậy.
1.2.1.1.4.2.1.2. Hỏi về
sáu điều lành trong cơi khác
Gồm có sáu điều:
-
Một là hỏi về chúng sanh trong sáu đường.
-
Hai là hỏi về chuyện thấy các đức Phật
ấy và nghe thuyết pháp.
-
Ba là hỏi về bốn chúng trong cơi ấy.
-
Bốn là kết phần trước để dẫn khởi
phần sau.
-
Năm là hỏi về chuyện tu Bồ Tát hạnh trong
cơi khác.
-
Sáu là hỏi về chuyện cúng dường xá-lợi trong
cơi khác, tức là hỏi về chuyện đức Phật
nhập Niết
Bàn.
1.2.1.1.4.2.1.2.1. Hỏi về
chúng sanh trong sáu đường
(Kinh)
Mi gian quang minh, chiếu vu Đông phương, vạn bát
thiên độ, giai như kim sắc, tùng A Tỳ ngục,
thượng chí Hữu Đảnh, chư thế giới
trung, lục đạo chúng sanh, sanh tử sở
thú, thiện ác nghiệp duyên, thọ báo hảo xú, ư thử
tất kiến.
(經)眉間光明。照于東方。萬八千土。皆如金色。從阿鼻獄。上至有頂。諸世界中。六道眾生。生死所趣。善惡業緣。受報好醜。於此悉見。
(Kinh:
Quang minh giữa mày, chiếu sang phương
Đông, vạn tám ngàn cơi, đều như sắc vàng, từ
ngục A Tỳ, lên đến Hữu Đảnh, trong các
thế giới, lục đạo chúng sanh, tiến hướng
sanh tử, nghiệp duyên thiện ác, thọ báo tốt xấu,
đều thấy trong ấy).
Chúng
sanh trong sáu đường là giả danh “năng thú”
(có thể tiến vào sáu đường). “Sanh tử”
là chỗ Ngũ Ấm tiến nhập. Nghiệp duyên thiện
ác là cái nhân để tiến nhập. “Tốt, xấu”
là cái quả để tiến hướng. Hữu Đảnh
là tột đỉnh của tam hữu, chỉ Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng Thiên. Phần Trường Hàng có nói A Ca
Ni Trá, tức là chỉ nói đến Sắc Cứu Cánh
Thiên. Nay nói như thế (tức là nói “chỉ đến
trời Hữu Đảnh”), [xét theo đúng lư], do
nương theo quang minh nh́n xa, [sẽ phải trông thấy
tận Vô Sắc Giới], v́ [chư thiên] Vô Sắc Giới
đă không có h́nh sắc, cho nên chẳng thể thấy [h́nh
dáng của họ], c̣n nếu nh́n theo nghiệp duyên sanh tử,
thọ báo sai biệt, sẽ đều trông thấy. Theo
đúng lư, phải nên chiếu trọn khắp Vô Sắc Giới.
1.2.1.1.4.2.1.2.2. Hỏi về
chuyện thấy Phật và nghe thuyết pháp
(Kinh) Hựu đổ
chư Phật, thánh chúa sư tử, diễn thuyết kinh
điển, vi diệu đệ nhất. Kỳ thanh thanh tịnh,
xuất nhu nhuyễn âm, giáo chư Bồ Tát, vô số ức
vạn, phạm âm thâm diệu, linh nhân nhạo văn, các
ư thế giới, giảng thuyết chánh pháp. Chủng chủng nhân duyên, dĩ vô
lượng dụ, chiếu minh Phật pháp, khai ngộ chúng
sanh.
(經)又覩諸佛。聖主師子。演說經典。微妙第一。其聲清淨。出柔軟音。教諸菩薩。無數億萬。梵音深妙。令人樂聞。各於世界。講說正法。種種因緣。以無量喻。照明佛法。開悟眾生。
(Kinh: Lại thấy
chư Phật, thánh chúa sư tử, diễn nói kinh điển,
vi diệu bậc nhất. Âm thanh thanh tịnh, thốt tiếng
mềm mỏng, dạy các Bồ Tát, vô số ức vạn.
Phạm âm sâu mầu, khiến người thích nghe, trong mỗi thế
giới, giảng
nói chánh pháp. Các thứ nhân duyên, vô lượng thí dụ, soi
sáng Phật pháp, khai ngộ chúng sanh).
Thập Địa trong Biệt
Giáo và Thập Trụ trong Viên Giáo được gọi là
Thánh. Đức Phật lại tôn quư nhất, nên gọi là
Thánh Chúa. Nói pháp Đại Thừa, quyết định vô
úy. V́ thế gọi là Sư Tử. Đốn giáo thuần
là Đại Thừa, nên nói là “đệ nhất”. Nói
lư Trung Đạo, cho nên âm thanh thanh tịnh. Thuận theo
pháp Thật Tướng, cho nên âm thanh mềm mỏng. Chẳng
có chúng Nhị Thừa, cho nên nói là “giáo chư Bồ
Tát” (dạy các Bồ Tát). Điều được nói
là Tam Đế theo thứ tự, cho nên là Thâm (sâu xa), Tam
Đế viên dung là Diệu. Xứng lư bậc
đương cơ, cho nên nói là “linh nhân nhạo văn”
(khiến cho kẻ khác thích nghe). Trọn khắp bảy xứ,
chín hội[55], nên
nói là “các ư thế giới” (ở mỗi thế giới).
Hai giáo, tám môn, v́ thế nói là “chủng chủng” (các thứ).
Chẳng xen lẫn ba thừa, nên gọi là Phật pháp.
Người nghe liền nhập Phật huệ, nên nói là “khai
ngộ”. Điều này tương đồng với
giáo nghĩa của Hoa Nghiêm trong cơi này.
1.2.1.1.4.2.1.2.3. Hỏi về
tứ chúng trong cơi khác
(Kinh) Nhược nhân tao
khổ, yếm lăo bệnh tử, vị thuyết Niết
Bàn, tận chư khổ tế. Nhược nhân hữu phước,
tằng cúng dường Phật, chí cầu thắng pháp, vị
thuyết Duyên Giác. Nhược hữu Phật tử, tu chủng
chủng hạnh, cầu vô thượng huệ, vị thuyết
tịnh đạo.
(經)若人遭苦。厭老病死。為說涅槃。盡諸苦際。若人有福。曾供養佛。志求勝法。為說緣覺。若有佛子。修種種行。求無上慧。為說淨道。
(Kinh: Nếu ai gặp
khổ sở, chán chường già, bệnh, chết, v́ họ nói Niết Bàn, trừ hết sạch các khổ. Nếu như ai có phước, đă từng cúng dường Phật, chí
cầu pháp
thù thắng, v́ họ nói Duyên Giác. Nếu có các Phật
tử, tu tập
các thứ hạnh,
để cầu vô thượng huệ, v́ họ nói tịnh đạo).
Nếu có ai gặp khổ,
bèn v́ người ấy mở ra pháp Thanh Văn Thừa.
Đă gặp khổ, lại tạo ác nghiệp, sẽ chẳng
hết khổ, căn bản là chúng sanh. Đă gặp khổ
mà tạo thiện nghiệp, chán cơi dưới, nắm níu cơi trên, th́ khổ
cũng chẳng thể hết, sẽ sanh làm người, hoặc sanh trên cơi trời, tŕ giới,
tu Định. Gặp khổ mà cầu giải thoát trong
pháp của ngoại đạo th́ khổ vẫn chẳng hết,
chẳng biết Tam Bảo, Tứ Đế, và Tứ Niệm
Xứ, chỉ có thể tăng thêm kiến chấp,
tăng trưởng sai trái, lại c̣n tích tập cội khổ!
Gặp khổ mà có thể chán nhàm trọn khắp sanh, lăo,
bệnh, tử trong tam giới, lại c̣n có thể chán Tập,
bèn có thể cảm Phật giảng nói Niết Bàn. Từ
đấy trở đi, tu đạo xuất thế, vĩnh
viễn chấp dứt sự khổ. Đó gọi là “do
biết khổ nên đoạn Tập; do hâm mộ Diệt
nên tu Đạo”. Nếu là người có phước,
[đức Phật sẽ v́ người ấy] mở ra
Bích Chi Phật Thừa. Bích Chi Phật gieo phước trong
trăm kiếp, v́ thế nói là “hữu phước”.
Quán đại lược tổng tướng của Tứ
Đế th́ gọi là Liệt (kém cỏi), quán cặn kẽ
biệt tướng của mười hai nhân duyên là Thắng.
Lại nữa, Tứ Đế dùng Khổ làm môn đầu
tiên, nên là Liệt. Nhân duyên dùng Tập Đế làm môn đầu
tiên nên là Thắng. Do quán mười hai nhân duyên mà được giác ngộ th́ gọi là Duyên Giác. Nếu có Phật
tử vừa bắt đầu bèn tu Lục Độ th́ là Bồ Tát Thừa. Có tâm đại từ
bi, kham kế thừa chủng tánh Phật, th́ gọi là Phật
tử. Chuyện thuộc Lục Độ rất rộng,
nên nói là “chủng chủng hạnh” (các thứ hạnh).
Chí cầu làm Phật th́ gọi là “vô thượng huệ”.
Trong Lục Độ chẳng có sáu điều tệ, cho
nên gọi là “tịnh đạo”. Đó là lấy
Đạo Đế làm môn đầu tiên; điều này tương đồng
với ư nghĩa tam thừa của Tam Tạng giáo trong cơi
này!
1.2.1.1.4.2.1.2.4. Kết
phần trước để dẫn khởi phần sau
(Kinh) Văn Thù Sư Lợi!
Ngă trụ ư thử, kiến văn nhược tư, cập
thiên ức sự. Như thị chúng đa, kim
đương lược thuyết.
(經)文殊師利。我住於此。見聞若斯。及千億事。如是眾多。今當略說。
(Kinh: Văn Thù Sư Lợi! Ta
trụ nơi đây, thấy nghe như thế, và ngàn ức
sự, nhiều như thế đó, nay nói đại
lược).
“Kiến văn nhược tư” (Thấy nghe như thế đó)