Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa

phần 2

Đất Cổ Ngô, Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật

妙法蓮華經綸貫會義

古吳後學蕅益智旭述

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

1.1.2.1.1.1.1.3. Nêu tên và tổng kết

 

          (Kinh) Kỳ danh viết A Nhă Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Già Da Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên. Ma Ha Ca Chiên Diên, A Nậu Lâu Đà, Kiếp Tân Na, Kiều Phạm Ba Đề, Ly Bà Đa, Tất Lăng Già Bà Tha, Bạc Câu La, Ma Ha Câu Hy La, Nan Đà, Tôn Đà La Nan Đà, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề, A Nan, La Hầu La. Như thị chúng sở tri thức đại A La Hán đẳng.

          ()其名曰。阿若憍陳如。摩訶迦葉。優樓頻螺迦葉。伽耶伽葉。那提迦葉。舍利弗。大目犍連。摩訶迦旃延。阿樓馱。劫賓那。憍梵波提。離婆多。畢陵伽婆蹉。薄拘羅。摩訶拘絺羅。難陀。孫陀羅難陀。富樓那彌多羅尼子。須菩提。阿難。羅睺羅。如是眾所知識大阿羅漢等。

          (Kinh: Tên các Ngài là A Nhă Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Già Da Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Chiên Diên, A Nậu Lâu Đà, Kiếp Tân Na, Kiều Phạm Ba Đề, Ly Bà Đa, Tất Lăng Già Bà Tha, Bạc Câu La, Ma Ha Câu Hy La, Nan Đà, Tôn Đà La Nan Đà, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề, A Nan, La Hầu La. Các vị đại A La Hán được mọi người hay biết như thế).

 

          Từ “A Nhă” trở xuống là nêu tên [các vị A La Hán]. Từ “như thị” trở đi là tổng kết. Trong phần nêu danh, nêu ra đại lược hai mươi mốt vị tôn giả. Các đệ tử của đức Phật đều có đủ các hạnh, nhưng ẩn đi công năng viên măn, mỗi vị từ một đức mà đặt tên, ḥng dẫn khởi điều tốt lành trọn khắp.

          * Kiều Trần Như (Kauṇḍinya) là họ, phương này dịch là Hỏa Khí (火器, đồ vật để thắp lửa), thuộc chủng tánh Bà La Môn. Do tổ tiên Ngài thờ lửa, nên từ đó mà đặt tên gịng họ. Lửa có hai nghĩa “chiếu sáng” và “thiêu đốt”. “Chiếu” th́ tối tăm chẳng sanh; “đốt” th́ vật chẳng sanh. Đấy là dùng Bất Sanh làm họ. A Nhă (Ajñāta) là tên, phương này dịch là Dĩ Tri (已知, đă biết), hoặc Vô Tri (無知). [Danh xưng này] chẳng phải là “không biết”, mà có nghĩa là “biết Vô”. Nếu nói theo Nhị Đế (Chân Đế và Tục Đế) th́ là biết Chân, tức là dùng Vô Sanh Trí làm tên. Lại nữa, các kinh luận gọi Ngài là Liễu Bổn Tế (了本際), hoặc Tri Bổn Tế (知本際). Nếu xét theo Tứ Đế th́ là biết Diệt. Hoặc c̣n dịch là Đắc Đạo. Kinh Tăng Nhất A Hàm nói: “Ngă Phật pháp trung, khoan nhân, bác thức, sơ thọ pháp vị giả, Kiều Trần Như vi đệ nhất” (Trong Phật pháp của ta, người khoan dung, nhân từ, hiểu rộng, thọ hưởng pháp vị đầu tiên th́ Kiều Trần Như là bậc nhất). Đó là Thế Giới Tất Đàn.

          Xưa kia, vào lúc cơi đời đói kém, đức Phật hóa thành con cá lớn, nín hơi, chẳng thở. Có năm người thợ mộc đẽo lấy thịt cá trước tiên. Đức Phật thề trong đời vị lai, sẽ độ những người ấy trước. Trước hết, nguyện ban cho họ Vô Sanh; v́ thế nói là A Nhă. Lại nữa, vào thời Ca Diếp Phật, có chín người học đạo, năm người chưa đắc quả, thề sẽ khai ngộ đầu tiên trong pháp của Phật Thích Ca. Do bổn nguyện lôi kéo, Ngài (Kiều Trần Như) đạt Vô Sanh trước hết, nên gọi là A Nhă. Đó là Vị Nhân Tất Đàn.

          Đêm sâu ngủ say, chẳng ai có thể tỉnh giấc, mặt trời chưa mọc, sao Kim hiện ra trước. Kiều Trần Như đắc Vô Sanh Trí đầu tiên, ví như sao Mai, là khởi đầu của các thứ sáng sủa. Trí sáng của hết thảy mọi người chẳng ai hơn Trần Như. Phá tối trước nhất, không ǵ hơn sao Mai. Hết thảy mọi người diệt tăm tối, chẳng ai hơn Kiều Trần Như được. V́ thế, Ngài có tên là A Nhă. Đó là Đối Trị Tất Đàn.

          Thái Tử [Tất Đạt Đa] vào núi học đạo. Phụ vương sai năm người theo hầu, hai người thuộc bên mẹ, ba người thuộc bên cha[1]. Hai người coi dục là tịnh, ba người dùng khổ hạnh để tịnh. Khi Thái Tử tu khổ hạnh, hai người bỏ đi. Thái Tử xả khổ hạnh, nhận lấy thức ăn, dầu bơ, nước ấm [do cô Tu Già Đà (Sujātā) dâng cúng], ba người lại bỏ đi. Thái Tử đắc đạo, trước hết v́ năm người ấy nói Tứ Đế. Kiều Trần Như thưa bày giải ngộ trước hết; v́ thế tên là A Nhă. Đó là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn.

          Xét theo giáo, từ Quán mà phán giáo, Lư sẽ dễ chia chẻ. V́ thế, tỉ mỉ dùng Quán để phân biệt. Huống hồ, trong số một vạn hai ngàn [vị Thanh Văn], Kiều Trần Như đứng đầu. Vô Sanh chính là cốt lơi của các phép Quán; [nêu tên Ngài đầu tiên v́] muốn cho [thính chúng] nghe tên sẽ biết hạnh, phỏng theo người mà biết cái tâm.

          Xét theo Tam Tạng Giáo th́ “mù” ví như trí Vô Sanh, “gương” ví như cảnh Vô Sanh. Sáu món trong Ấm, Giới, Nhập v.v… ví như cái nhân trong hiện tại. H́nh bóng [hiện ra trong gương] ví như cái quả trong đời vị lai. Nếu mở mắt, cầm lấy gương, do h́nh thể đối trước gương, sẽ có h́nh bóng sanh ra. Do ngu nên chẳng đoạn tuyệt [sự chấp trước vào h́nh bóng]. Nếu nhắm mắt như mù, sẽ chẳng thấy ǵ, chẳng thấy sáu phần [Ấm, Giới, Nhập v.v...], do cái nhân ấy chẳng sanh, sẽ chẳng thấy h́nh bóng trong gương, tức là cái quả chẳng sanh. V́ thế kinh A Hàm nói: Nhược vị hữu Sắc, Sắc thị tịnh, tịnh tức sanh, phi bất sanh. Nhược vị hữu Thọ, Tưởng, Hành, Thức, Thức thị tịnh, tịnh tức sanh, phi bất sanh. Nhược vị hữu Thọ, Thọ thị lạc, lạc tức sanh, phi bất sanh. Nhược vị hữu Tưởng, Hành, Thức, Sắc, Sắc thị lạc, lạc tức sanh, phi bất sanh. Nhược vị hữu Tưởng Hành, Tưởng Hành thị ngă, ngă tức sanh, phi bất sanh. Nhược vị hữu Thức Sắc Thọ, Thọ thị ngă, ngă tức sanh, phi bất sanh. Nhược vị hữu Thức, Thức thị thường, thường tức sanh, phi bất sanh. Nhược vị hữu Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Hành thị thường, thường tức sanh, phi bất sanh. Thí như chấp kính kiến diện, diện thị sanh, phi bất sanh. Nhược vị hữu Ngũ Ấm, tất thị sanh, phi bất sanh. Nhược năng tri Sắc phi tịnh, năi chí Thức phi thường. Hựu năng tri Sắc vô thường, khổ, vô ngă, bất tịnh, năi chí Thức vô thường, khổ, vô ngă, bất tịnh giả, thị vi bất sanh, phi thị sanh. Như manh chấp kính, bất kiến tượng sanh, thị vi bất sanh, phi thị sanh. Kư tri bất sanh, ninh phục ư trung, kế ngă thị Sắc, kế ngă dị Sắc, kế ngă tại Sắc trung, kế Sắc tại ngă trung, năi chí Thức diệc như thị (Nếu nói có Sắc, Sắc là tịnh, tịnh tức là sanh, chẳng phải là bất sanh. Nếu nói có Thọ, Tưởng, Hành, Thức, Thức là tịnh, tịnh tức là sanh, chẳng phải là bất sanh. Nếu nói có Thọ, Thọ là lạc, lạc tức là sanh, chẳng phải là bất sanh. Nếu nói có Tưởng, Hành, Thức, Sắc, Sắc là lạc, lạc tức là sanh, chẳng phải là bất sanh. Nếu nói có Tưởng Hành, th́ Tưởng Hành là ngă, ngă tức là sanh, chẳng phải là bất sanh. Nếu nói có Thức Sắc Thọ, Thọ là ngă, ngă tức là sanh, chẳng phải là bất sanh. Nếu nói có Thức, Thức là thường, thường tức là sanh, chẳng phải là bất sanh. Nếu nói có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, th́ Hành là thường, thường tức là sanh, chẳng phải là bất sanh. Ví như cầm gương soi mặt, mặt là sanh, chẳng phải là bất sanh. Nếu nói có Ngũ Ấm th́ đều là sanh, chẳng phải là bất sanh. Nếu có thể biết Sắc chẳng phải là tịnh, cho đến Thức chẳng phải là thường. Lại có thể biết Sắc là vô thường, khổ, vô ngă, bất tịnh, cho đến Thức là vô thường, khổ, vô ngă, bất tịnh, là bất sanh, chẳng phải là sanh. Như kẻ mù cầm gương, chẳng thấy h́nh bóng sanh ra, đó là bất sanh, chẳng phải là sanh. Đă biết là bất sanh, há c̣n ở trong ấy, so đo ngă là Sắc, so đo ngă khác Sắc, so đo ngă ở trong Sắc, so đo Sắc ở trong Ngă, cho đến Thức cũng như thế). Quán như thế th́ cái nhân trong hiện tại và cái quả trong vị lai đều chẳng sanh, như kẻ mù đối trước gương, chẳng thấy h́nh tượng. Đó gọi là Quán trí quán Ấm vô sanh.

          Quán Nhập và Giới th́ tuy biển sâu rộng, vẫn có bờ bên này, bờ bên kia, v́ nước có chừng hạn. Như mắt đă thấy Sắc, yêu mến, chấp trước, tham lạc, dấy lên nghiệp nơi thân, miệng, ư. Đó là biển cả, ch́m đắm hết thảy trời, người, A Tu La trong thế gian. Hăy nên biết mắt là biển cả, Sắc là sóng trào. Do yêu mến cái Sắc ấy mà bị vùi dập trong đó. Ở trong đó, khởi lên sự hiểu biết bất thiện; đó là rồng, cá ác. Dấy lên ganh ghét, hăm hại th́ là nam La Sát. Dấy lên ái nhiễm th́ là nữ La Sát. Dấy lên thân, miệng, ư th́ là uống nước mặn, tự chết mất. Đó là v́ nhăn sắc vô tri mà sanh ra vô minh ái. Do ái sanh, nên gọi là Hành. Do Hành sanh, nên gọi là Nghiệp. Nghiệp trói buộc Thức làm Trung Ấm, đó là Thức sanh. Thọ thân trong thai th́ gọi là Danh Sắc sanh. Năm phần tay, chân, và đầu đă h́nh thành, th́ gọi là Lục Nhập sanh. Lục Nhập đối ứng sáu trần, th́ gọi là Xúc sanh. Đối ứng với trần, phân biệt khổ hay lạc th́ gọi là Thọ sanh. Đối với trần, dấy tâm đắm nhiễm, th́ gọi là Ái sanh. Rong ruổi t́m cầu bốn phương th́ gọi là Thủ Sanh. Tạo [các nghiệp nơi] thân, miệng, ư th́ gọi là Hữu sanh. Đáng nhận lấy Ngũ Ấm của vị lai th́ gọi là Sanh sanh. Ngũ Ấm trong vị lai biến đổi, gọi là Lăo sanh. Ấm trong vị lai bị hư hoại th́ gọi là Tử sanh. Sự nóng nảy trong tâm gọi là Ưu sanh. Thốt tiếng kêu to th́ là Bi sanh. Thân tâm tiều tụy th́ gọi là Khổ Năo sanh. Đó gọi là khi mắt thấy Sắc, liền sanh ra một đống khổ sở to lớn gồm mười hai nhân duyên trong ba đời. Tai, mũi, lưỡi, thân, ư, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nhăn giới, cho đến pháp giới cũng lại như thế. Đó là Nhập Giới sanh, chẳng phải là bất sanh.

          Bất Sanh là như thế nào? Khi quán nhăn sắc, chẳng gieo hạt giống khổ, chẳng sanh mầm khổ, chẳng ṛ rỉ nước thối, chẳng tụ tập ruồi nhặng. Nếu hạt giống chẳng sanh, mầm sẽ chẳng sanh, ắt nước thối chẳng sanh, ắt ruồi nhặng chẳng sanh. V́ thế, gọi là Bất Sanh. Khi mắt thấy sắc, dấy khởi cảm giác tham hay giận; đó là “hạt giống của khổ”. Nghĩ tới pháp ngũ dục th́ là mầm khổ. Sáu căn chấp giữ sáu trần th́ gọi là “nước thối ṛ rỉ”. Ở trong sáu trần, thiện ác đua nhau dấy lên, đó là “ruồi nhặng”. Nếu biết nhăn sắc vô thường, khổ, không, vô ngă, th́ tham, giận sẽ chẳng sanh, niệm dục chẳng sanh, chấp cảnh chẳng sanh, hành vi thiện ác chẳng sanh. Đó là Bất Sanh. Đối với tai, mũi… tiếng, mùi… cũng giống như thế. Nhăn giới cho đến pháp giới cũng như thế. Kiều Trần Như đạt được trí Bất Sanh trong Tam Tạng (Tạng Giáo) trước hết. V́ thế gọi là A Nhă.

          Quán trong Thông Giáo th́ như huyễn nhân cầm huyễn kính, dùng huyễn lục phần (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư) rọi vào huyễn kính, sẽ thấy huyễn ảnh. H́nh bóng đó chẳng do gương sanh, chẳng do sáu phần sanh, chẳng phải do gương và sáu phần ḥa hợp mà sanh, chẳng phải ĺa gương và sáu phần mà sanh. Đă chẳng từ bốn câu[2] mà sanh th́ chẳng phải là trong, ngoài, chặng giữa, chẳng thường tự có, cũng chẳng diệt mất, chẳng tới các phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Tánh vốn vô sanh, chẳng phải là “diệt Sanh th́ mới là vô sanh”. Tánh vốn vô diệt, chẳng phải là “diệt Diệt th́ mới là vô diệt”. Do vô sanh, vô diệt, nên nói là Vô Sanh. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng giống như thế. Mười hai Nhập, mười tám Giới cũng giống như thế.

          Quán theo Biệt Giáo th́ gương ví như pháp giới, mắt ví như quán trí. Xanh, vàng, đỏ, trắng, lớn, nhỏ, dài, ngắn ví như mười pháp giới (xanh ví như nhân quả địa ngục, vàng ví như nhân quả ngạ quỷ, đỏ ví như nhân quả của súc sanh, trắng ví như nhân quả của trời, người. Tiểu sắc ví như nhân quả của Nhị Thừa. Đại sắc ví như nhân quả của Thông Giáo Bồ Tát. Đoản sắc ví như nhân quả của Biệt Giáo Bồ Tát. Trường sắc ví như nhân quả của Phật), đều phân biệt ở trong gương chẳng sai lầm. Nếu muốn uốn nắn chính ḿnh, phải làm cho nhân quả của chín pháp giới [nơi chính ḿnh] chẳng sanh một nhân quả nào. Nếu muốn uốn nắn người khác, hăy làm cho nhân quả của chín pháp giới nơi người khác chẳng sanh một nhân quả nào. Nương vào pháp giới, hành Bồ Đề hạnh, theo thứ tự vận dụng trí Tích Không Quán và Thể Không Quán[3], đoạn tứ trụ sanh[4] khiến cho nó chẳng sanh. Kế đó, vận dụng hằng sa Phật pháp để đoạn Trần Sa phiền năo, khiến cho vô tri chẳng sanh. Sau đó, dùng trí huệ Thật Tướng để đoạn vô minh, khiến cho căn bản chẳng sanh. Nếu chẳng có tứ trụ, ắt Phần Đoạn [sanh tử] chẳng sanh. Nếu chẳng có vô tri th́ phương tiện chẳng sanh. Nếu chẳng có vô minh th́ Thật Báo chẳng sanh. Sanh cũng chẳng sanh, mà bất sanh cũng chẳng sanh. V́ thế, gọi là Bất Sanh.

          Quán theo Viên Giáo th́ như nh́n vào cái gương tṛn trặn (tṛn trặn ví như lư cảnh, “nh́n vào” ví như trí), chẳng nh́n vào mặt lưng của tấm gương (lưng tấm gương ví như vô minh, mặt gương ví như trí sáng, gương ví như cái nhân của mười pháp giới). Chẳng quán h́nh bóng (h́nh thể ví như duyên của mười pháp giới; bóng ví như cái quả của mười giới), chẳng phải là lưng tấm gương, chẳng tối tăm, chẳng phải là mặt gương, chẳng phải là sáng sủa. Chẳng giữ lấy các thứ h́nh dung, chẳng giữ lấy các thứ bóng ảnh, chỉ quán sự tṛn trặn, chẳng có bờ mé, chẳng có khởi đầu hay kết thúc, chẳng có sáng, tối, chẳng có một, khác, sai biệt. Viên quán (phép Quán trong Viên Giáo) cũng thế, chẳng giữ lấy tướng mạo của mười pháp giới, chẳng có thiện, ác, chẳng có tà, chánh, chẳng có lớn, nhỏ v.v… Hết thảy đều mất, chỉ duyên theo Thật Tướng của các pháp. Pháp tánh và Phật pháp dù là sắc hay hương, không ǵ chẳng phải là Thật Tướng. Quán nghiệp phiền năo sanh khởi đều chính là vô sanh. Vốn chẳng có sanh và bất sanh, cho nên nói là Vô Sanh. Ấm, Nhập, Giới khổ chính là Pháp Thân. Do chẳng hiển hiện, nên gọi là Pháp Thân. Chướng chính là Pháp Thân. Tham, giận, si chính là Bát Nhă. Do chẳng thể nói rơ, cho nên gọi là Bát Nhă. Chẳng có ǵ để có thể chiếu, tánh tự sáng suốt. Đó là Bát Nhă. Nghiệp hạnh trói buộc, đều gọi là giải thoát. Chẳng phải là cắt đứt trói buộc th́ mới được thoát, mà cũng chẳng có cái Thể nào để có thể trói buộc, mà cũng chẳng có cái ǵ có thể trói buộc. V́ thế gọi là giải thoát. Giải thoát tức là nghiệp chẳng sanh. Bát Nhă tức là phiền năo chẳng sanh. Pháp Thân tức khổ chẳng sanh. Ba món (Pháp Thân, Bát Nhă, giải thoát) bất sanh chính là một món bất sanh; một món bất sanh chính là ba món bất sanh, chẳng ba, chẳng một. V́ thế nói là Bất Sanh, huống hồ biến dịch phiền năo nghiệp khổ chẳng phải là bất sanh ư? (Điều này phải có trọn đủ mười thừa, mười cảnh, và phương tiện v.v… [tức là] hoàn toàn nói đến nội dung của bộ sách Ma Ha Chỉ Quán vậy).

          Xét theo Bổn Tích, Kiều Trần Như vốn tự bất sanh, chẳng phải là nay mới bất sanh. Do muốn dẫn khởi sữa thành lạc, cho nên nơi Tích bèn thị hiện bất sanh trong giáo đầu tiên (Tạng Giáo). Do v́ dẫn khởi lạc thành sanh tô, nên nơi Tích bèn thị hiện bất sanh trong Thông Giáo. Do v́ dẫn khởi sanh tô thành thục tô, nên nơi Tích thị hiện bất sanh trong Biệt Giáo. V́ dẫn khởi thục tô thành đề hồ, nên nơi Tích bèn thị hiện bất sanh trong Viên Giáo. Nhưng nơi Bổn địa, Ngài bèn trụ trong A Tự Môn[5], tức là hết thảy các pháp thoạt đầu bất sanh. Nếu nghe A Tự Môn, sẽ hiểu hết thảy các nghĩa đều chẳng phải là sanh, chẳng phải là bất sanh. Thị hiện dấu tích để dẫn dụ hóa độ, cho nên có thể sanh mà chẳng sanh. Chúng sanh nếu có thể lănh hội trọn vẹn bất sanh, sẽ giống hệt A Nhă [Kiều Trần Như], chẳng phải Bổn, chẳng phải Tích, chẳng phải sanh, chẳng phải bất sanh. Đại sự nhân duyên bèn hoàn tất tại đó. V́ thế, kinh văn trong phần sau có nói: “Phú Lâu Na chủng chủng biến hóa sự, ngă nhược cụ túc thuyết, chúng sanh văn thị giả, tâm tắc hoài nghi hoặc” (nếu ta nói trọn đủ các chuyện biến hóa của Phú Lâu Na, chúng sanh nghe điều ấy, sẽ ôm ḷng ngờ vực) chính là do ư nghĩa này vậy. Kinh A Hàm nói A Nan cầm tàn, lọng, đèn theo sau đức Phật, Đại Phạm vương cầm tàn, lọng, đèn theo sau Kiều Trần Như. Đó đều là thị hiện dấu tích ḥng hiển Bổn.

          Bất Sanh xét theo quán tâm, cứ dựa theo Tam Quán th́ sẽ có thể biết bất sanh. Giải thích như thế chính là do nghe một câu, dù là [nói về] người, hay [nói về] pháp, đều trở thành hóa nghi, đều có thể quán, có thể khiến cho người đời sau nghe danh tự bèn khởi hạnh, nhờ vào lời dạy mà biết cái Thể, suy nghĩ Tích mà thấy Bổn, t́m ṭi nhân duyên của nó, soi xét rộng khắp gốc ngọn. Nếu thấu hiểu ư này, sẽ từ một người, hoặc một câu kinh, bèn có thể trên là cầu cảnh, dưới là biết căn cơ để hóa độ, có thể hiểu phương thức giáo hóa của bậc thánh, có thể khiến cho đại chúng b́nh phàm được hưởng lợi ích, có thể thấu đạt sự giống nhau và khác biệt giữa danh và nghĩa, có thể biết hạnh b́nh đẳng, lư khác biệt, có thể biết thuận theo kinh văn mà nhập quán, có thể hiểu Bổn, Tích, nhân, pháp, có thể tin vào chuyện giáo hóa dài lâu, có thể ngưỡng vọng thánh ân khó báo, có thể biết chúng sanh khó hóa độ, có thể hiểu biết lư tột khó. Người chẳng thấy những điều ấy, sẽ cho là rườm rà! Giải thích về Kiều Trần Như đă xong!

          * Ma Ha Ca Diếp (Mahākāśyapa) được phương này dịch là Đại Quy Thị (大龜氏, họ rùa to), cũng dịch Quang Ba (光波, sóng ánh sáng), cũng dịch là Ẩm Quang (飲光, nuốt mất ánh sáng). Ngài tên là Tất Bát La (Pippala), nhân duyên rộng nhất. Nói đại lược th́ như trong sách Văn Cú[6], người cần biết có thể t́m trong ấy. Ngài là bậc Đầu Đà đệ nhất, đích thân nhận lănh lời phó chúc của đức Phật, là Sơ Tổ ở Tây Trúc. Đầu Đà (Dhūta) trong tiếng Phạn, được phương này dịch là Đẩu Tẩu (抖擻, giũ sạch, rung lắc), do dùng mười hai hạnh để giũ sạch mười hai loại lỗi:

          - Một là ở chỗ A Lan Nhă để ĺa lỗi ồn náo.

          - Hai là thường hành khất thực, nhằm ĺa lỗi ăn nhờ chúng Tăng và nhận lời biệt thỉnh.

          - Ba là khất thực theo thứ tự, ḥng ĺa lỗi chọn lựa [nơi chốn hoặc nhà thí chủ] để khất thực.

          - Bốn là vâng giữ pháp chỉ ăn một bữa, nhằm ĺa lỗi mong cầu nhiều.

          - Năm là ăn có chừng hạn, nhằm ĺa lỗi tham vị ngon.

          - Sáu là sau giờ Ngọ chẳng uống các thứ nước trái cây, mật v.v… nhằm ĺa lỗi mong cầu ham muốn.

          - Bảy là mặc y phấn tảo[7], nhằm ĺa lỗi chuộng y phục.

          - Tám là chỉ có ba y, nhằm ĺa lỗi tăng giảm.

          - Chín là ở chốn mồ mả, nhằm ĺa lỗi thường ưa thích, so đo điên đảo.

          - Mười là ngồi dưới cội cây, nhằm ĺa lỗi sợ hăi.

          - Mười một là ngồi nơi đất trống, nhằm ĺa lỗi tham đắm cây cối.

          - Mười hai là chỉ ngồi không nằm, nhằm ĺa lỗi giặc phiền năo.

          Ngài trọn đủ các hạnh như kinh Thập Nhị Đầu Đà đă nói chi tiết. [Trong mười hai hạnh ấy], có năm pháp thuộc về trụ xứ, năm pháp thuộc về ẩm thực, và hai pháp thuộc về y phục. Lại dựa theo chuyện khất thực để nói rơ ư nghĩa Đẩu Tẩu:    

          Dễ đạt được bèn sanh ḷng vui mừng, khó đạt được ắt nổi sân. Đạt được món ngon bèn yêu thích, xin nhằm thứ xấu bèn rầu rĩ. Ưu hỷ do sắc mà khởi, đó là Sắc Ấm. Hứng chịu nỗi ưu hỷ ấy, tức là Thọ Ấm. Giữ lấy tướng ưu hỷ, tức là Tưởng Ấm. Ưu hỷ chính là Hành Ấm. Phân biệt ưu hỷ là Thức Ấm. Ưu hỷ chính là Ư Nhập và Pháp Nhập, cũng chính là ư pháp, ư thức tam giới. Giới, Nhập, Ấm chính là Khổ Đế. “Ta có thể khất thực” chính là Ngă Kiến. Chấp trước có ngă và vô ngă th́ chính là Biên Kiến. Coi chuyện khất thực là đạo, tức là Giới Thủ Kiến. Coi khất thực là thật, tức là Kiến Thủ Kiến. Coi như thế là chân thật, tức là Tà Kiến. Được khen ngợi bèn vui mừng th́ chính là tham. Bị hủy báng bèn tức giận, đó chính là sân. [Tự cho là] ta có thể [thực hiện hạnh khất thực] tức là mạn. Bị quở trách th́ là nghi. Chẳng hiểu rơ tức là si. Đó là Thập Sử, trải qua tam giới và Tứ Đế, thành tám mươi tám Sử, gọi chung là Tập Đế. Nếu biết bốn thứ điên đảo trong khất thực, do bị sự liên tục tương tự che lấp, bèn ngỡ là Thường. Hợp ư th́ cho là Lạc. Bị “di chuyển, hành động” che lấp, ngỡ đó là Ngă. Do [các thứ bất tịnh trên thân thể] bị che phủ bởi lớp da mỏng, bèn cho là Tịnh. Nhận biết bốn thứ che lấp, chẳng có bốn thứ điên đảo, siêng năng ngăn chặn hai thứ ác, sanh trưởng hai thứ thiện, tu Tứ Định, Căn, Lực, Giác, Đạo. Đó là Đạo Đế. Trong khất thực, chẳng so đo cái Ngă th́ si diệt. Do si diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên sân diệt. Do sân diệt nên chẳng tự đề cao, tức là mạn diệt. Do mạn diệt, nên bị quở trách bèn chẳng nghi ngờ. Do vô ngă, nên Ngă Kiến diệt. Do Ngă Kiến diệt, nên Biên Kiến diệt. Chẳng chấp đó là đạo, nên Giới Thủ Kiến diệt. Chẳng chấp trước tà vạy, cho nên Tà Kiến diệt. Do mười điều ấy đă diệt, tám mươi tám món Sử là những thứ trói buộc phái sanh[8] cũng bị diệt. Do các món Sử phái sanh đă bị diệt, sự ràng buộc nơi cái quả là hai mươi lăm Hữu cũng bị diệt. Đó là Diệt Đế. Nếu trong khi khất thực, chẳng thấy bốn Chân Đế, sẽ lưu chuyển lâu dài trong khổ hải sanh tử to lớn. Nếu có thể thấy Tứ Đế, sẽ đoạn được sanh tử. Sanh tử đă tận, sẽ chẳng c̣n thọ các Hữu. Đó là quán huệ của Đẩu Tẩu trong khi khất thực. Các pháp và y phục và chỗ ở [trong hạnh Đầu Đà] cũng giống như thế. Đó là Đầu Đà xét theo Tam Tạng Giáo.

          Đẩu Tẩu trong Thông Giáo th́ duyên Chân chứng Tịch, đó là trụ xứ. Dùng Không Huệ làm thức ăn, dùng “Không tâm hành các hạnh” làm y phục, thường tánh là Không. Khi không ǵ chẳng phải là tánh Không, Không Huệ giũ sạch, đều như huyễn hóa, vọng tưởng các ác hay tịch diệt đều chẳng dấy lên, tâm (tâm vương) và tâm số pháp (tâm sở) chẳng lưu chuyển. Do chẳng thể đạt được, trong các tương ứng, Không sẽ tương ứng thù thắng bậc nhất. Trong các khổ hạnh, Không Hạnh bậc nhất. Trong các thứ giũ bỏ, Không Huệ giũ bỏ bậc nhất.

          Đẩu Tẩu trong Biệt Giáo th́ coi nương vào Pháp Thân là trụ xứ (do tâm mong mỏi Pháp Thân mà tu hai đức), Bát Nhă làm thức ăn. Trong hết thảy các hạnh, trang nghiêm bằng che lấp, ngăn trở, giũ sạch các điều ác thuộc về hắc nghiệp. Bát Nhă giũ sạch các điều ác thuộc phiền năo. Pháp Thân giũ sạch các điều ác thuộc nỗi khổ sanh tử. Trước hết là giũ sạch nghiệp khổ phiền năo Phần Đoạn. Kế đó, giũ sạch các nghiệp khổ phiền năo thuộc Biến Dịch. Đó là Trung Đạo chánh quán Đầu Đà, vượt xa khổ hạnh do hàng Nhị Thừa đă hành.

          Đẩu Tẩu trong Viên Giáo th́ trụ xứ chính là y phục, chính là thức ăn (vốn có ba đức, tu đắc cũng thế), chỉ là một pháp, mà nói phân biệt thành ba. Hễ giũ sạch một thứ th́ hết thảy đều giũ sạch. (Hạnh làm y phục) th́ hết thảy giũ sạch là một thứ giũ sạch. (Huệ làm thức ăn) th́ chẳng phải một, chẳng phải hết thảy. (Thân ở trong) hết thảy sự giũ sạch, không ǵ chẳng phải là Thật Tướng. Sở hành của chư Phật là Như Lai hạnh, vượt xa sở hành thanh tịnh của các vị Bồ Tát.

          Nói theo Bổn Tích, th́ Bổn là cùng ngồi nơi lư Tất Cánh Không với Như Lai, cùng đạt được Pháp Thân rộng lớn, cùng đạt được trí huệ vô ngại, cùng đạt được vô lượng công đức. Trong th́ xả pháp ái, ngoài th́ chẳng có cấu nhiễm. Trong lẫn ngoài đều giũ sạch. Vốn đă thanh tịnh, muốn dẫn khởi vị sữa, bèn giũ sạch nơi Sự. Kế đó, để dẫn khởi vị lạc, giũ sạch nơi Không. Kế đó, để dẫn khởi vị sanh tô, bèn giũ sạch nơi Biệt. Kế đó để dẫn khởi thục tô, giũ sạch nơi Viên.

          Nói theo quán tâm, th́ từ ngay nơi Không mà giũ sạch sự chấp tướng. Từ ngay nơi Giả, giũ sạch Trần Sa. Từ ngay nơi Trung, giũ sạch vô minh. Nơi nhất tâm giũ sạch Trần Sa v.v…

          * Ưu Lâu Tần Loa (Uruvilvā) được phương này dịch là Mộc Qua Lâm (木瓜林, rừng đu đủ). Na Đề (Nadī) phương này dịch là Hà (sông), cũng dịch là Giang. Già Da (Gayā) phương này dịch là Thành. Ba anh em các Ngài đều là ngoại đạo thờ lửa. Nhân duyên của các Ngài được chép trong kinh Thụy Ứng và các bộ luật[9].

          Xét theo giáo, như kinh Tăng Nhất A Hàm nói Ưu Lâu Tần Loa có thể bảo vệ tứ chúng, cung cấp tứ sự, khiến cho chẳng thiếu thốn, thật sự là bậc nhất. Na Đề tâm ư vắng lặng, hàng phục các kết sử, tinh tấn bậc nhất. Già Da quán các pháp đều chẳng chấp trước, có thể khéo giáo hóa bậc nhất, tức là nói đến chuyện giáo hóa những ai thuộc vị “lạc”. Nếu chuyển [từ lạc] thành sanh tô, hăy nên thẹn [v́ chính ḿnh c̣n đang tu tập] Tiểu pháp mà hâm mộ đại pháp, cứ phỏng theo đó sẽ biết. Nếu chuyển thành thục tô, hăy nên nương theo nghiệp để nhận lănh giáo. Nếu chuyển thành đề hồ, sẽ được thọ kư thành Phật giống như trong kinh này.

          Xét theo Bổn Tích, trụ trong Tam Đức, “rừng” chính là Bát Nhă, “thành” chính là Pháp Thân, “nước” (Na Đề nghĩa là sông) chính là Giải Thoát. Đó là tạng bí mật nơi Bổn, c̣n nơi Tích th́ nương vào rừng, thành, hay nước để độ chúng sanh.

          Xét theo quán tâm, chánh quán tâm tánh Trung Đạo bất động, như ṭa thành pḥng ngự địch. Bất động mà động, như nước gột sạch điên đảo nơi các Biên (chấp trước Biên Kiến). Chiếu soi khô héo lẫn tươi tốt, như rừng um tùm, ba pháp cùng giúp nhau, tức là anh em ruột thịt vậy.

          * Xá Lợi Phất (Śāriputra), phương này dịch là Thân Tử (身子), cũng dịch là Châu Tử (珠子). Ngài tên là Ưu Bà Đề Xá (Upadeśa), phương này dịch là Luận Nghĩa (論義), trí huệ bậc nhất. Nhân duyên của Ngài được nói chi tiết trong sách Văn Cú.

          Xét theo giáo, trí huệ xét theo Tam Tạng (Tạng Giáo) th́ là mười trí của bậc Vô Học, đoạn kết sử, chứng Chân, giúp Phật giáo hóa, hoằng dương. Thích Luận gọi Ngài là “vị đại tướng ở bên phải” [của đức Phật]. Trí huệ trong Thông Giáo th́ như trong kinh Bát Nhă đă nói “v́ sao gọi là Ma Ha Tát”, tức là ngă kiến, chúng sanh kiến, Phật kiến, Bồ Đề kiến, chuyển pháp luân kiến, các thứ kiến như thế đều bị phá th́ gọi là Ma Ha Tát. Trí huệ này khác với trí huệ trong Sơ Giáo (Tạng Giáo). Trí huệ trong Biệt Giáo hăy nên dựa theo “ngũ vị” (sữa, lạc, sanh tô, thục tô và đề hồ) để phân biệt. Như từ lúc ban sơ, chỉ nghe sữa và lạc, chẳng nghe các vị khác. Phát tâm tu hành, chỉ hành [các giáo pháp thuộc vị] sữa và lạc. Đấy chính là trí huệ của Sơ Giáo. Nếu chỉ nghe lạc, lạc chẳng do sữa, đối với tánh thiện và ác, tánh vốn tự không, chẳng do tu thiện mà phá ác. Diệt Sắc, giữ Không, chỉ tu “tức Không”. Đó chính là trí huệ của Thông Giáo. Nếu từ nguyên sơ, được nghe đề hồ. Do đề hồ, vắt ḅ t́m sữa, chưng sữa thành lạc, chuyển lạc thành sanh tô, chuyển sanh tô thành thục tô th́ mới đạt được đề hồ. Hành giả tu như thế tức là trí huệ của Biệt Giáo. Nếu từ nguyên sơ, chỉ nghe ḅ ăn cỏ Nhẫn Nhục, liền có thể sanh ra đề hồ. Nếu ai có thể uống [đề hồ ấy], các bệnh đều trừ. Hết thảy các loại thuốc đều được bao gồm trong ấy. Tu hạnh ấy th́ là trí huệ của Viên Giáo.

          Xét theo Bổn Tích, Bổn th́ trụ trong Thật Tướng, Trí Độ (Bát Nhă Ba La Mật) là mẹ. Từ cảnh sanh ra trí huệ, cảnh chính là Thân. Trí huệ là Tử (con), thương xót chúng sanh. Nơi Tích th́ Thân Tử thuộc ngũ vị. Do muốn chuyển máu “ác phiền năo” thành sữa tốt lành, bèn thị hiện làm bậc trí huệ trong ngoại đạo, làm vị đại luận sư. Muốn nấu sữa thành lạc, thị hiện trí huệ nơi Tam Tạng, trí huệ chỉ kém đức Thế Tôn. Muốn dẫn khởi chuyển lạc thành sanh tô, tuy dung nạp đại pháp, mà hiện [trí huệ thuộc] tiểu pháp, chịu khuất phục dưới sự quở trách của ngài Tịnh Danh (Duy Ma Cật)[10]. V́ muốn dẫn khởi chuyển sanh tô thành thục tô, an ủi, lợi lạc những người có cùng phạm hạnh, lănh hội giáo pháp Bát Nhă. V́ muốn dẫn khởi thục tô thành đề hồ, trong hội Pháp Hoa bèn ngộ đầu tiên. Những điều ấy đều là sự thị hiện bên ngoài, thuộc về Tích; bên trong th́ bí mật giữ Bổn địa th́ thật sự [đă thành Phật] từ lâu xa.

          Xét theo quán tâm, Nhất Tâm Tam Quán thâu nhiếp hết thảy trí huệ. Quán tâm tức Không, thâu nhiếp hết thảy trí huệ thuộc về vị lạc. Quán tâm tức Giả, thâu nhiếp hết thảy trí huệ thuộc về hai loại tô (sanh tô và thục tô), cùng với trí huệ thế gian. Quán tâm tức Trung, thâu nhiếp trí huệ thuộc vị đề hồ. Đó gọi là trong quán tâm, một trí huệ là hết thảy trí huệ, hết thảy trí huệ là một thứ trí huệ, chẳng phải là một trí huệ, chẳng phải là hết thảy trí huệ.

          * Đại Mục Kiền Liên (Mahāmaudgalyāyana) là họ, dịch là Tán Tụng (讚誦), c̣n dịch là Lai Bặc Căn (萊菔根), hoặc dịch là Hồ Đậu (胡豆)[11]. Ngài tên là Câu Luật Đà (Kolita), thần thông bậc nhất. Thích Luận gọi Ngài “đệ tử bên trái” [của đức Phật].

          Xét theo giáo, nương vào Tứ Thiền, dấy lên mười bốn thứ biến hóa. Nương vào quán luyện, huân tu mười món Nhất Thiết Vô Lậu Sự Thiền, có thể hiện mười tám món thần biến. Đó chính là thần thông trong Sơ Giáo (Tạng Giáo). Nương vào Không để khởi huệ, dùng cái tâm Không Huệ để tu các thần thông. Đó chính là thần thông trong Thông Giáo. Theo thứ tự, nương theo Tam Đế mà tu tập, đạt được thần thông, lần lượt thâm nhập, vượt xa Nhị Thừa. Đấy chính là thần thông trong Biệt Giáo. Nương vào Thật Tướng, đạt được thần thông. Chẳng dùng hai tướng để thấy các cơi Phật, từ Chân mà khởi ứng, chẳng rời Chân Tế mà [ứng hiện] trọn khắp trong mười pháp giới. Đó là thần thông trong Viên Giáo (Nói “chẳng dùng hai tướng” th́ bất nhị tức là Thật Tướng. Thấy các cơi chính là thần thông. Nương theo lư mà thấy, nên nói “chẳng thấy có hai tướng”. Nói này nọ như thế là để phân biệt: Hai món đầu (thần thông trong Tạng Giáo và Thông Giáo) là do tu mà đạt được; hai món sau (thần thông trong Biệt Giáo và Viên Giáo) là do phát khởi mà đạt được). Tạng Giáo dựa vào Sự Thiền, Thông Giáo nương vào chân lư, Biệt Giáo th́ nương vào cả hai điều trên đây. Viên Giáo tùy ư phát khởi. Hai thứ trước được gọi là Thông, là Hóa (biến hóa). Hai thứ sau được gọi là Mật, là Ứng. Hai thứ trước nhằm điều phục chúng sanh. Hai thứ sau nhằm thấy căn cơ của chúng sanh. Hai thứ trước có thể bị phá hoại; hai thứ sau chẳng thể phá hoại. Hai thứ trước nhằm dạy đạo, hai thứ sau nhằm chứng đạo. Hai thứ thần thông trước chỉ có trong thân hiện tại; hai thứ thần thông sau chung khắp ba đời. Hai thứ trước th́ phải thuộc vào địa vị thánh mới tu thần thông. Hai thứ sau th́ địa vị phàm phu cũng tu trọn các thần thông. Hai thứ trước th́ nương vào đâu cũng đều có thể tu; hai thứ sau th́ ắt phải có sự nương tựa thù thắng).

          Xét theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ trụ trong Chân Tế Thủ Lăng Nghiêm Định, có thể trong một niệm, ứng hiện trọn khắp mười phương, thị hiện các thứ, thực hiện Phật sự v́ ḷng từ bi. Nơi Tích th́ là thần thông thuộc ngũ vị, dẫn khởi [hành nhân] tiến nhập tột cùng.

          Xét theo quán tâm th́ quán trong một tâm, thoáng chốc có hết thảy các tâm, quán hết thảy các tâm bỗng chẳng có hết thảy các tâm. Tâm chẳng phải là Hữu hay Vô, thông thấu Thật Tướng.

          * Ma Ha Ca Chiên Diên (Mahākātyāyana), phương này dịch là Văn Sức (文飾), cũng dịch là Phiến Thằng (扇繩), cũng dịch là Hảo Kiên (好肩), luận nghĩa bậc nhất.

          Xét theo giáo, nương vào Khổ, Không, Vô Ngă để luận định Đoạn Kiến, Thường Kiến v.v… Đó là luận nghĩa trong Sơ Giáo. Nương vào không, vô sở hữu, bất khả đắc để phá Đoạn Kiến, Thường Kiến v.v… Đó là luận nghĩa trong Thông Giáo. Nương vào Tổng Tŕ, Tứ Biện Tài để quán căn cơ, chiếu Giả, cho thuốc đúng bệnh, phá Đoạn Kiến, Thường Kiến v.v… Đó là luận nghĩa trong Biệt Giáo. Nương vào Thật Tướng rốt ráo chẳng Hữu chẳng Vô để phá Đoạn Kiến, Thường Kiến v.v… Đó là luận nghĩa trong Viên Giáo.

          Xét theo Bổn Tích, nơi Bổn, trụ trong hai thứ trang nghiêm phước đức và trí huệ, có thể hỏi, có thể đáp. V́ thương xót chúng sanh mà nơi Tích thị hiện làm vị luận nghĩa sư thuộc “ngũ vị”.

          Xét theo quán tâm, th́ quán trí suy xét cảnh, cảnh phát khởi trí. Trí và cảnh đắp đổi. Đó tức là Luận Nghĩa xét theo quán tâm vậy.

          * A Nậu Lâu Đà (Aniruddha), phương này dịch là Vô Bần, c̣n dịch là Như Ư, là em họ của đức Phật, Thiên Nhăn bậc nhất.

          Xét theo giáo, nương vào Thiền thế gian, phát sanh Thiên Nhăn, th́ là ngoại đạo phàm phu. Nương vào Vô Lậu Sự Thiền để phát sanh Thiên Nhăn th́ thuộc về ư nghĩa trong Tam Tạng. Nương vào cái huệ thấu hiểu pháp vô lậu để phát khởi các hạnh. Nương vào các hạnh, phát sanh Thiên Nhăn; đó là ư nghĩa theo Thông Giáo. Nương vào tán thiện phát sanh nhục nhăn, nương vào Thiền phát sanh Thiên Nhăn, nương vào Chân phát sanh Huệ Nhăn, nương vào Tục phát sanh Pháp Nhăn, nương vào Trung phát sanh Phật Nhăn. Đó là ư nghĩa theo Biệt Giáo. Nương vào Thật Tướng, phát sanh Thiên Nhăn, Thiên Nhăn tức Phật Nhăn. Đó là ư nghĩa trong Viên Giáo.

          Lại nương theo tán thiện tu nhục nhăn, nương theo Thiền tu Thiên Nhăn. Đó là ư nghĩa trong Tam Tạng. Nương theo Không để tu nhục nhăn và Thiên Nhăn; đó là ư nghĩa trong Thông Giáo. Theo thứ tự tu ngũ nhăn là ư nghĩa trong Biệt Giáo. Chẳng theo thứ tự mà tu ngũ nhăn th́ là ư nghĩa trong Viên Giáo.

          Xét theo Bổn Tích, th́ Bổn là trụ trong Thật Tướng chân Thiên Nhăn, chẳng dùng hai tướng để thấy các cơi Phật. Nơi Tích th́ thị hiện Bán Đầu Thiên Nhăn.

          Xét theo quán tâm, quán nhân duyên sanh thiện tâm, tức là nhục nhăn. Quán nhân duyên sanh định tâm, đó chính là Thiên Nhăn. Quán nhân duyên sanh tâm Không, tức Huệ Nhăn. Quán nhân duyên sanh tâm tức Giả, th́ là Pháp Nhăn. Quán nhân duyên sanh tâm tức Trung, th́ chính là Phật Nhăn.

                * Kiếp Tân Na (Kapphiṇa), phương này dịch là Pḥng Tú (房宿). Cha Ngài cầu đảo nơi sao Pḥng[12] mà sanh ra Ngài. Ngài khéo biết tinh tú bậc nhất. Lại do nghỉ đêm cùng với Phật trong một căn nhà mà được chứng quả[13], cho nên có tên như thế.

          Xét theo giáo, phân tích, phá trừ “cái nhà” Căn và Trần, cùng Phật ở trong nhà Chân Đế; đó là ư nghĩa trong Tam Tạng. Thấu đạt Căn Trần, chính là cùng Như Lai nghỉ đêm trong nhà Chân Đế; đó chính là ư nghĩa trong Thông Giáo. Phân biệt nhà cửa “Căn Trần” trong mười pháp giới, đều được thấy Phật; đó là ư nghĩa trong Biệt Giáo. Trong một gian nhà “Căn Trần”, liền thấy hết nhà cửa, thấy hết thảy Phật; đó là ư nghĩa trong Viên Giáo.

          Xét theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ cùng với Như Lai ngự nơi Thật Tướng; c̣n Tích th́ thị hiện nghỉ nơi các nhà.

          Quán tâm th́ quán nhà Ngũ Ấm, chia chẻ cái Không chính là Không, cùng nghỉ đêm với hóa Phật. Quán nhà Ngũ Ấm chính là Giả, cùng nghỉ đêm với Báo Phật (Báo Thân Phật). Quán nhà Ngũ Ấm chính là Trung, cùng nghỉ đêm với Pháp Thân Phật.

          * Kiều Phạm Ba Đề (Gavāṁpati), phương này dịch là Ngưu Ty (牛呞, trâu nhơi), được thiên vương cúng dường bậc nhất.

          Xét theo giáo, trụ trong vườn trời nhằm chỉ bày điều lành; có tướng trâu nhơi nhằm chỉ bày điều ác. Đó là ư nghĩa trong Tam Tạng. Dùng thân có tướng trâu nhơi mà đắc đạo, nhằm chỉ dạy “ác chẳng phải là ác”. Ở trong vườn cơi trời mà có tướng trâu nhơi nhằm chỉ bày “thiện chẳng phải là thiện”. Đó là ư nghĩa trong Thông Giáo. Chỉ bày thiện ác trong giới nội (trong tam giới) và giới ngoại (ở ngoài tam giới); đó là ư nghĩa trong Biệt giáo. Chỉ bày Thật Tướng của thiện ác là ư nghĩa trong Viên Giáo.

          Xét theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ trụ trong tứ vô sở úy[14], an trụ thánh chúa như trâu chúa Đệ Nhất Nghĩa Thiên. Nơi Tích th́ hiện tướng trâu nhơi, vui sướng ngự trên cơi trời.

          Xét theo Quán Tâm, quán lư Trung Đạo trong tâm tánh, bước đi vững vàng, an tường, ngay thẳng, nhanh chóng như gió (tức là dùng tướng trượng phu ngưu vương, cũng thông với ư nghĩa dùng trâu trắng để kéo xe [trong phẩm sau]).

          * Ly Bà Đa (Revata), phương này dịch là Tinh Tú (星宿), c̣n dịch là Giả Ḥa Hợp (假和合). Do bị hai con quỷ tranh thân xác mà Ngài đắc đạo[15]. Ngài tọa Thiền, nhập Định, tâm chẳng đảo loạn (điên đảo, tán loạn) bậc nhất.

          Xét theo giáo, phân tích, phá trừ Ngũ Ấm chẳng phải do ta sở hữu. Đó là ư nghĩa trong Tam Tạng. Thấu đạt Ngũ Ấm vốn chẳng do ta sở hữu; đó là ư nghĩa trong Thông Giáo. Phân biệt Ngũ Ấm trong mười pháp giới đều chẳng phải là của ta. Đó là ư nghĩa trong Biệt Giáo. Thông đạt Ngũ Ấm chẳng phải là của ta, chẳng phải thuộc về người khác, thấy Thật Tướng của các Ấm. Đó là ư nghĩa trong Viên Giáo.      

          Xét theo Bổn Tích th́ Bổn là trụ trong Nhật Tinh Tú tam-muội, Tích th́ thị hiện danh hiệu ấy.

          Xét theo quán tâm, niệm Phật, thấy mười phương Phật đông nhiều giống như ban đêm trông thấy các ngôi sao v.v… (Trong phần trước, xét theo giáo th́ là gởi gắm nơi giả ḥa hợp. Nay nơi Bổn Tích, ngắm sao và xét theo các tinh tú đều là tùy tiện. Thấy chư Phật [nhiều] như các ngôi sao chính là dựa theo ư trong kinh Ban Châu. [Để hiểu ư của phần] quán tâm, hăy nên rộng dẫn kinh Ban Châu Tam Muội).

          * Tất Lăng Già Bà Tha (Pilindavatsa), phương này dịch là Dư Tập (餘習, tập khí c̣n sót lại)[16]. Ngài khổ hạnh ngồi dưới cội cây, chẳng tránh né mưa gió bậc nhất.

          Xét theo giáo, do đă diệt Mạn, cho nên chẳng có Mạn. Đó là ư nghĩa trong Tam Tạng. Từ ngay nơi mạn mà vô mạn, đó là ư nghĩa trong Thông Giáo. Phân biệt mười pháp giới cao thấp. Đó là ư nghĩa trong Biệt Giáo. Tám thứ ngă tự tại[17], trọn đủ Phật pháp. Đó là ư nghĩa trong Viên Giáo.

          Xét theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ trụ trong “thường, lạc, ngă, tịnh, bát tự tại ngă”, phạm thanh vi diệu. Nơi Tích th́ thị hiện tâm ngạo mạn, ác khẩu.

          Xét theo quán tâm th́ quán lời thô tháp hay tiếng mềm mỏng đều quy vào Đệ Nhất Nghĩa (Tam quán tổng hay biệt đều là Đệ Nhất Nghĩa. Các Hoặc đă phá đều là thô).

          * Bạc Câu La (Vakkula), phương này dịch là Thiện Dung (善容, dung mạo tốt lành), thọ một trăm sáu mươi tuổi, chẳng bị bệnh, chẳng yểu. Thường thích nhàn cư bậc nhất.

          Xét theo giáo, diệt ồn náo, nhập lẽ Chân, đó là sự tịch tĩnh trong Tam Tạng. Từ ngay nơi ồn náo mà chứng nhập lẽ Chân, đó là sự tịch tĩnh trong Thông Giáo. Ĺa hai bên, nhập Trung, đó là sự tịch tĩnh trong Biệt Giáo. Từ ngay nơi hai bên mà là Trung. Đó là sự tịch tĩnh trong Viên Giáo.

          Xét theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ trụ trong Đại Tịch Tĩnh Định. Trường thọ là Thường, chẳng có bệnh là Lạc, chẳng yểu là Ngă, tịch tĩnh là Tịnh. Ngự trong căn cội Tứ Đức ấy. Nơi Tích th́ thị hiện sáu căn tịch tĩnh.

          Xét theo quán tâm, tâm tánh Trung Đạo tức Không, tức Giả, tức Trung, chính là thường lạc ngă tịnh quán.

          * Ma Ha Câu Hy La (Mahākāuṣṭhila), phương này dịch là Đại Tất (大膝, đầu gối to), là cậu của ngài Xá Lợi Phất, biện tài bậc nhất[18].

          Xét theo giáo, ngoài thông thạo bốn Vi Đà (Vedas)[19], trong là thông suốt Tam Tạng. Đó là tứ biện tài của Sơ Giáo. Ngă vô sở đắc, biện định như thế là tứ biện tài của Thông Giáo. Dù danh hay nghĩa đều trọn khắp mười pháp giới. Đó là biện tài của Biệt Giáo. Nương vào Thật Tướng, trọn khắp hết thảy các biện tài. Đó là biện tài của Viên Giáo.

          Xét theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ trụ nơi khẩu mật, khẩu luân giáo hóa chẳng thể nghĩ bàn, đại định, đại huệ. Nơi Tích th́ thị hiện đầu gối to.

          Xét theo quán tâm, quán tâm tức Không chính là Định, [quán tâm] tức Giả chính là Huệ, dùng để trang nghiêm cái tâm.

          * Nan Đà (Nanda), c̣n dịch là Phóng Ngưu Nan Đà, phương này dịch là Thiện Hoan Hỷ. Có thuyết nói ngài chính là Bạt Nan Đà trong Luật Tạng.

          Xét theo giáo, Sự hoan hỷ, chẳng hoan hỷ; đó chính là ư nghĩa trong Tam Tạng. Sự hoan hỷ chính là Lư hoan hỷ, đó là ư nghĩa theo Thông Giáo. Thuộc vào Hoan Hỷ Địa là ư nghĩa trong Biệt Giáo. Thuộc địa vị Hoan Hỷ Trụ là ư nghĩa trong Viên Giáo (Trong Thập Trụ, vốn không có danh xưng Hoan Hỷ, nhưng xét theo địa vị trong Biệt Giáo, do chứng đạo giống như nhau, cho nên mượn danh xưng đó mà gọi là Hoan Hỷ Trụ).

          Xét theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ trụ trong Thật Tế, chẳng hỷ, chẳng bất hỷ; nơi Tích th́ gọi là Hoan Hỷ.

          Xét theo quán tâm, quán tâm tương tự tương ứng với Lư th́ gọi là Hoan Hỷ Quán.

          * Tôn Đà La [Nan Đà] (Sundarananda)[20] phương này dịch là Hảo Ái, cũng dịch là Đoan Chánh, [vị này được] gọi tên theo vợ. Nan Đà th́ như đă giải thích trong phần trước. Vị này là em ruột của đức Phật[21].

          Xét theo giáo, Tục Đế có pháp hỷ, Chân Đế chẳng có hỷ. Đó là ư nghĩa trong Tam Tạng. Tục hỷ chính là Chân hỷ, đó là ư nghĩa trong Thông Giáo. Từ pháp hỷ trong Thông Giáo mà có pháp hỷ trong pháp hỷ của Tục Đế. Đó là ư nghĩa theo Biệt Giáo. Từ trong sự hoan hỷ chung mà trọn đủ hết thảy các pháp hỷ, đó chính là ư nghĩa trong Viên Giáo.

          Bổn Tích và quán tâm th́ giống như đă nói trong [phần luận định về ngài] Nan Đà.          

          * Phú Lâu Na (Pūrṇa), dịch là Măn Nguyện, đó là tên của cha Ngài. Di Đa La Ni (Maitrāyaṇī) dịch nghĩa là Từ Nữ, là tên của mẹ Ngài. Ngài được gọi tên theo cha mẹ. V́ thế, được gọi là Măn Từ Tử. Ngài là vị thuyết pháp bậc nhất[22].

          Xét theo giáo, th́ trân trọng, siêng năng phân tích pháp, việc làm đă xong, tức là đă măn nguyện trong Tam Tạng. Thấu đạt chính là Không, đă chứng đắc Không, tức là đă măn nguyện trong Thông Giáo. Pháp nhăn trọn đủ, tức là đă măn nguyện trong Biệt Giáo. Trụ trong bí mật tạng, tức là đă măn nguyện trong Viên Giáo.

          Xét theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ đă măn nguyện từ lâu, nơi Tích th́ thuyết pháp bậc nhất, thị hiện làm tri thức của chúng sanh.

          Xét theo quán tâm th́ như trong Chỉ Quán, quán nhân, hạnh, lư v.v… các thiện tri thức (“Nhân” là Phật, Bồ Tát, La Hán. “Hạnh” là Lục Độ đạo phẩm. “Lư” là pháp tánh Thật Tế).

          * Tu Bồ Đề (Subhūti), phương này dịch là Không Sanh, cũng dịch là Thiện Cát, Thiện Nghiệp, hoặc Thiện Hiện, là vị Giải Không (thấu hiểu Không) bậc nhất.

          Xét theo giáo, diệt Sắc, Không Trí sanh, đó là ư nghĩa trong Tạng Giáo. Thấu hiểu Sắc, Không Trí nẩy sanh, đó là ư nghĩa trong Thông Giáo. Từ Hữu Trí sanh ra Không Trí, từ Không Trí sanh ra Tục Trí. Từ Tục Trí sanh ra Trung Trí, đó là ư nghĩa của Biệt Giáo. Không sanh tức là Hữu Trí, cũng tức là trí trong Tục Trí; đó là ư nghĩa trong Viên Giáo.

          Xét theo Bổn Tích, nơi Bổn là trụ Thật Tướng Pháp Thân, nơi Tích th́ thị hiện thấy Không mà sanh.

          Xét theo quán tâm, chẳng ở trong, ngoài, chặng giữa, chẳng phải là tự có. Đó là quán tâm Pháp Thân.

          * A Nan (Ānanda), phương này dịch là Hoan Hỷ, hoặc dịch là Vô Nhiễm[23], là em họ của đức Phật[24], đa văn bậc nhất.

          Xét theo giáo, Hoan Hỷ A Nan thuộc về Tam Tạng. Hiền A Nan là Thông Giáo. Điển Tạng A Nan là Biệt Giáo. Hải A Nan là Viên Giáo.

          Xét theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ trụ trong chẳng hoan hỷ, chẳng không hoan hỷ. Pháp Thân như hư không, trí huệ như mây mưa, có thể tŕ, có thể thọ. Nơi Tích th́ là hoan hỷ.

          Xét theo quán tâm, do tương ứng với Không, Giả, Trung, cho nên hoan hỷ, từ danh tự cho đến chân quán tương ứng.

          * La Hầu La (Rāhula), phương này dịch là Phú Chướng (覆障, ngăn trở), là con của đức Phật. Nhân duyên như đă nói trong sách Văn Cú. Ngài mật hạnh bậc nhất.

          Xét theo giáo, phân tích pháp Đạo Đế chướng Tứ Trụ; đó là ư nghĩa theo Tam Tạng. Thấu hiểu pháp Đạo Đế chướng Tứ Trụ, đó chính là ư nghĩa trong Thông Giáo. Tam trí theo thứ tự chướng ngũ trụ, đó chính là ư nghĩa trong Biệt Giáo. Nhất tâm tam trí chướng ngũ trụ, đó là ư nghĩa trong Viên Giáo.

          Xét theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ trụ trong Trung Đạo, chướng lấp nhị biên. Nơi Tích th́ là thị hiện ngăn trở.

          Xét theo quán tâm, do Giả mà chướng Niết Bàn. Do Không mà chướng sanh tử. Do Trung mà chướng phi sanh tử, phi Niết Bàn.

          Đoạn kinh văn này được kết lại bằng câu “chúng sở tri thức” (được mọi người hay biết), có thể giải thích: Tri chỉ là Thức. Hoặc nói: Nghe tên là Tri, thấy h́nh dáng là Thức. Hoặc: Thấy h́nh dáng là Tri, thấy tâm là Thức.

          Xét theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ làm bậc tri thức măn tự của chúng sanh, nơi Tích th́ là bậc tri thức bán tự.

          Xét theo quán tâm th́ như sách [Ma Ha] Chỉ Quán đă nói. Trên đây, phần giải thích về các vị Thanh Văn được nhiều người hay biết đă xong.

 

1.1.2.1.1.1.2. Các vị Thanh Văn ít được hay biết

         

          (Kinh) Phục hữu học vô học nhị thiên nhân.

          ()復有學無學二千人。

          (Kinh: Lại có các vị Hữu Học, Vô Học hai ngàn người).

 

          Kế đó, nêu ra các vị ít được hay biết, chỉ nêu số lượng và địa vị, chẳng tán thán phẩm đức, gọi những vị này là “các vị ít được hay biết”. Phàm chẳng thể suy lường thánh, chẳng thể dùng chuyện “được biết đến nhiều hay ít để phân định bậc thánh hơn kém. Chỉ là đối với kẻ mong cao, hâm mộ xa, bèn dùng các vị được nhiều người hay biết để dẫn khởi; c̣n đối với người giấu tên ẩn đức, nhún nhường th́ dùng các vị ít người hay biết để dẫn khởi. Do tùy thuận chúng sanh, cho nên có chừng đó vị. Chớ nên v́ nhiều hay ít nơi Tích mà đánh mất Bổn.

          Xét theo giáo, Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả trong Tạng Giáo là bậc hữu học, Tứ Quả là bậc Vô Học. Trong Thông Giáo, trước khi đạt đến địa vị Ly Dục th́ gọi là Hữu Học. Đă đạt đến địa vị ấy th́ gọi là Vô Học. Lại nữa, Cửu Địa đều gọi là Hữu Học. Địa vị thứ mười là Phật Địa th́ gọi là Vô Học. Trong Biệt Giáo và Viên Giáo, hoặc là dùng công dụng và vô công dụng để biện định Hữu Học và Vô Học, hoặc dùng trọn đủ và chẳng trọn đủ để biện định Hữu Học và Vô Học. Lại nữa, trong kinh A Hàm, ngoại đạo hỏi đức Phật: “La Hán có c̣n học hay không?” Đức Phật đáp: “La Hán chẳng làm ác pháp, trụ trong thiện pháp, học sự vô học ấy th́ gọi là Học”. Nếu như thế, bậc Hữu Học cũng được gọi là Vô Học. V́ lẽ nào? Đă đoạn giống như nhau, chẳng c̣n đoạn nữa, tức là Vô Học! Đó là bốn câu (Học, Vô Học, Học chính là Vô Học, chẳng Học và chẳng phải Vô Học). Xét theo ngũ phương tiện[25], sẽ cộng thành năm câu. Xét theo tứ giáo th́ cũng phỏng theo lệ đó, [bốn lần năm] bèn thành hai mươi câu.

          Xét theo Bổn Tích, nơi Bổn th́ là Pháp Thân đại sĩ, thuộc vào địa vị Học và Vô Học măn tự. [Nơi Tích] th́ chúng sanh đáng nên dùng bậc Hữu Học và Vô Học bán tự để trang nghiêm song thụ[26], tiếp nối lưu truyền.

          Xét theo quán tâm, chánh quán Trung Đạo, chẳng duyên theo nhị biên. Ở chặng giữa th́ chính là Vô Học. Có thể quán như thế th́ gọi là Học. Lại chẳng duyên mà duyên th́ gọi là Vô Học Học. Thường quán như thế gọi là Học Vô Học. Đối với kẻ chưa tu, sẽ trở thành câu thứ năm. Cũng có thể coi Lư là câu thứ năm. Cũng có thể đối với Tam Quán (Không, Giả, Trung), mỗi phép Quán đều có năm câu. Nếu xét theo quán môn để nói về số lượng th́ sắc tâm trọn đủ Thập Giới, Thập Như. Giới và Như luận định lẫn nhau, tức là hai ngàn[27]. Phần nói về các vị tỳ-kheo đă xong.

 

1.1.2.1.1.2. Chúng tỳ-kheo-ni

 

          (Kinh) Ma Ha Ba Xà Ba Đề tỳ-kheo ni, dữ quyến thuộc lục thiên nhân câu. La Hầu La mẫu Da Thâu Đà La tỳ-kheo-ni diệc dữ quyến thuộc câu.

          ()摩訶波闍波提比丘尼。與眷屬六千人俱。羅睺羅母耶輸陀羅比丘尼。亦與眷屬俱。

          (Kinh: Tỳ-kheo-ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề và quyến thuộc sáu ngàn người nhóm họp. Mẹ của La Hầu La là tỳ-kheo-ni Da Thâu Đà La cũng cùng với quyến thuộc nhóm họp).

 

          Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahāprajāpati), phương này dịch là Đại Ái Đạo, là d́ của đức Phật. Nơi Bổn, Ngài trụ trong pháp môn Trí Độ, c̣n Tích là mẹ của ngàn đức Phật, sanh thành, dưỡng dục bậc đạo sư. Giải thích theo quán tâm th́ Trung Quán rộng lớn là Đại, ḷng Từ vô duyên là Ái. Lư Trung Đạo rỗng rang, thông suốt là Đạo. Đại tức là tự hành, Ái chính là hóa độ người khác. Nếu do ḷng yêu thương mà thọ sanh, do ḷng Từ mà dính dáng đến Hữu, Đạo liền dung thông tự hành và hóa độ người khác.

          “Sáu ngàn người” là số lượng. Xét theo quán tâm, quán lục căn thanh tịnh, [mỗi căn] trọn đủ một ngàn công đức [như đă nói trong phẩm Tùy Hỷ Công Đức, nên thành ra sáu ngàn].

          Da Thâu Đà La (Yaśodharā), phương này dịch là Hoa Sắc, cũng dịch là Danh Văn. Lúc tại gia, đức Phật có ba vị phu nhân: Một là Cù Di (Gopikā), hai là Da Thâu, ba là Lộc Dă (Mrigadāva). Xét theo Bổn Tích, Thê (, vợ) có nghĩa là Tề (, đều bằng), [vậy th́ vợ của Bồ Tát] há có phải là [phàm phu] lè tè sát đất ư? [Da Thâu Đà La] là vợ của Bồ Tát, cho nên biết nơi Bổn th́ trụ trong pháp hỷ tịch định vi diệu, nơi Tích th́ là vợ của Thái Tử. Xét theo quán tâm, quán Không vô lậu pháp hỷ, bèn dùng Lộc Dă để biểu thị cho vợ (do bà này chẳng sanh con). Quán Giả đạo chủng trí pháp hỷ, bèn dùng Da Thâu để biểu thị cho vợ (do sanh La Hầu La). Quán Trung pháp hỷ, bèn dùng Cù Di để làm vợ ḥng biểu thị (do là vợ cả).

          Trên đây đều là chia theo từng vị [Thanh Văn] để nói về Bổn Tích và quán tâm, nay bèn tổng luận, ḥng hiển thị sự quyền biến khéo léo để nêu bày quán hạnh tinh vi. Nói chung về Bổn Tích th́ Thủ Lăng Nghiêm Định thị hiện các thứ, xứng hợp khéo léo căn tánh, không ǵ chẳng thực hiện! Nay luận định theo chuyện gần đây th́ đức Thích Ca thị hiện thác sanh trong cung vua. Sau khi Ngài giáng thần vào thai của thánh hậu (Ma Da phu nhân), hàng Pháp Thân đại sĩ đều phù tá đức Phật thực hiện sự giáo hóa, giáng sanh trong các gia tộc khác. Như đức Phật dùng kim thân ba mươi hai tướng tốt lành để ứng hiện đản sanh, các vị Đại Sĩ cũng giáng sanh khắp chốn. Hoặc là [khi giáng sanh] thị hiện nhà cửa trống rỗng (ngài Tu Bồ Đề), hoặc chất báu tuôn xuống (ngài Măn Từ Tử), hoặc mẹ mang thai bèn biện tài nổi trội, hiểu rơ các giấc mộng (ngài Xá Lợi Phất). Như khi hoàng thái tử (Thái Tử Tất Đạt Đa) ĺa nước, bỏ ngôi vua, vượt thành học đạo, các vị đại sĩ đều theo thầy thọ học, tài nghệ đều thông, trở thành bậc thầy của kẻ khác. Như khi Như Lai chuyển pháp luân lần đầu tiên, mở cửa cam lộ, các vị Đại Sĩ biết duyên giáo hóa chưa chín muồi, thị hiện cùng nhau chẳng tiếp nhận, phân chia môn đ́nh, chống đối, đề cao đạo của chính ḿnh mới là chân thật. Người giáo hóa và kẻ được giáo hóa đều hoàn toàn sanh khởi như sữa. Nếu duyên giáo hóa đă chín muồi, th́ tơ trắng dễ nhuộm màu, hoa sen trong ao nở sớm, đổi phàm thành thánh, chuyển sữa thành lạc, bậc thầy của đồ chúng trở thành đệ tử thượng thủ của đức Phật. Hoặc là trí huệ, thần thông, biện tài, tam-muội, ai nấy đều là bậc nhất, cùng phù tá đấng pháp vương. Độ kẻ chưa được độ, kẻ đă chín muồi càng thêm chín muồi. Trong hội Phương Đẳng, nghe công đức chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát, ắt thẹn Tiểu, hâm mộ Đại, như chuyển lạc thành sanh tô. Kế đó, nghe môn Bát Nhă Ma Ha Diễn (Bát Nhă Đại Thừa), thoạt đầu là giải ngộ sắc, tâm, rốt cuộc đắc [Nhất Thiết] Chủng Trí. Vẫn ôm ḷng hẹp ḥi, [phân biệt] Tiểu, Đại, ra, vào, trao, nhận, hoặc chung, hoặc riêng, hoặc Thiên, hoặc Viên, vâng mạng nhận biết, tâm dần thông thái[28], như chuyển sanh tô thành thục tô. Kế đó, nghe Pháp Hoa, lănh hội tánh vốn sẵn có, biết chắc là cha con, được thọ kư, được giao phó Đại Thừa, bỏ ba thừa, quy về một thừa, như bốn vị kia (sữa, lạc, sanh tô, thục tô) đều thành cùng một vị đề hồ, chẳng để riêng một ai được diệt độ, mà đều dùng sự diệt độ của Như Lai khiến cho [mọi người cùng] được diệt độ.

          Pháp thần (法臣, bầy tôi trong Phật pháp) của đấng pháp vương, do đại sự mà xuất thế, khéo dùng phương tiện. Thoạt đầu dùng bán tự pháp, phá hai mươi lăm Hữu rối ren, thành tựu bốn cây khô (phá trừ bốn đảo kiến về thường, lạc, ngă, tịnh) nơi Song Thụ, lợi ích chúng sanh. Kế đó, dùng bán pháp và măn pháp, phá sự độc thiện[29] của hàng Nhị Thừa, thành tựu sự rộng lớn của Bồ Tát, lợi ích thánh nhân, thành tựu bốn cây tươi tốt nơi Song Thụ (chứng nhập thường, lạc, ngă, tịnh), lợi ích thánh nhân. Sau đó, dùng thường trụ măn tự, phá nhị biên trước sau, thành tạng bí mật “chẳng khô héo, chẳng tươi tốt” của Phật, đạt lợi ích rốt ráo. Chủ tướng công lao hoàn tất, đại thệ nguyện viên măn. V́ thế, trong hội Pháp Hoa, Thân Tử (Xá Lợi Phất) và Mục Liên dứt bặt sự giáo hóa, thánh chúa đă trọn hết phận sự, cũng chẳng c̣n trụ thế bao lâu nữa! Kinh văn nói: “Như ngă bổn thệ nguyện, kim giả dĩ măn túc, Như Lai bất cửu, đương nhập Niết Bàn” (như bổn thệ nguyện của ta nay đă được trọn đủ, chẳng bao lâu nữa, Như Lai sẽ nhập Niết Bàn). Lời tuyên bố diệt độ đă bắt đầu từ lúc đó. Hai vạn vị Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật, Ca Diếp Phật v.v… đều rốt ráo trong thời Pháp Hoa. Nay thầy tṛ của Phật đều nêu bày rơ Tích Môn trong kinh này: Trong th́ ngầm hành Bồ Tát hạnh, ngoài hiện tướng Thanh Văn. [Trong phẩm Như Lai Thọ Lượng, đức Phật tuyên bố] “kể từ khi ta thật sự thành Phật tới nay, đă là vô lượng ức kiếp”. Từ đó mà suy, các vị đại La Hán từ địa vị Pháp Thân, rủ ḷng soi bóng tùy duyên, in dấu trong muôn gịng nước, hiện Hữu Học, Vô Học, làm người nam, kẻ nữ, làm tăng, làm tục, nhờ sức Thủ Lăng Nghiêm, không ǵ chẳng thực hiện! Phương tiện quyền biến khéo léo được thực hiện như thế đó. Giải thích hai tầng Bổn Tích tổng và biệt như thế đó, vẫn sợ đánh mất ư chỉ, nếu cứ thẳng thừng đối với mỗi câu đều phiên dịch danh tự [của các vị Thanh Văn có nghĩa là ǵ] th́ chúng Thanh Văn há có khác biệt với các giáo khác ư?

          Nói chung về quán tâm, trên đây, thầy tṛ ban bố sự giáo hóa là do Pháp Thân thực hiện. Nếu chẳng tạo phương tiện để quán, sẽ vô ích cho hành nhân. Như kẻ nghèo đếm của báu, giống như kẻ mù cầm đuốc. Nhưng tâm số (tâm sở) rất nhiều, hăy nói theo thiện số (các thiện tâm sở), giống như các đệ tử tuy đông đảo, chỉ nêu ra mười vị. Mười thiện số (mười thiện tâm sở) phù tá tâm vương, có thể đổi ác hướng lành, đổi phàm thành thánh, hoàn tất hết thảy các pháp môn, chỉ lấy mười tâm số làm gốc. Như mười vị đệ tử phù tá đức Phật giáo hóa, cùng thuần thục chúng sanh vững vàng nơi Phật pháp. Mười vị, mỗi vị đều trọn đủ các đức, nhưng chỉ nói đến sở trường để tuyên dạy Phật đạo, ḥng thuận theo ḷng mong muốn của chúng sanh. Kẻ cầu trí huệ tôn ngài Thân Tử (Xá Lợi Phất) làm thầy, cho đến kẻ mong đa văn theo học với ngài A Nan. Do cùng phù tá đấng pháp vương mà mỗi vị chấp chưởng một chức trách. Nay quán tâm cũng giống như thế, mỗi mỗi đều thuộc trong tâm, đều trọn đủ tâm vương và tâm số để thành tựu phép Quán. Do tâm vương và tâm số giúp đỡ lẫn nhau mà được khai ngộ, hoặc do tưởng tâm sở mà nhập đạo, hoặc do dục tâm sở mà nhập đạo. Tùy theo lẽ đáng nên mà tâm vương và tâm số cùng công kích để biến đổi các tâm trần lao ḥng làm Phật sự. Tu phép Quán này mà chưa ngộ th́ quán hạnh như sữa. Nếu phát khởi vô lậu th́ quán hạnh như lạc. Nếu phá Trần Sa, sẽ như sanh tô và thục tô. Nếu phá vô minh, Quán sẽ như đề hồ. Nếu chẳng hết sạch tâm số trần lao, quán sẽ chẳng hoàn tất. V́ thế, kinh dạy: “Chúng sanh bất độ tận, ngă bất thành Chánh Giác” (chẳng độ hết chúng sanh, ta chẳng thành Chánh Giác) chính là ư này. Trí Húc cho rằng: Đối với hai mươi mốt vị đại La Hán, hăy nên chuẩn theo Duy Thức, [hai mươi mốt vị ấy] biểu thị chung cho hai mươi mốt pháp thiện tâm sở, tức là Xúc, Tác Ư, Thọ, Tưởng, Tư, Dục, Giải, Niệm, Định, Huệ, Tín, Tàm, Quư, Tinh Tấn, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Khinh An, Bất Phóng Dật, Hành Xả, Bất Hại. Mỗi mỗi đều tương ứng, mỗi mỗi đều trọn đủ các đức, cùng phù tá tâm vương, tự lợi, lợi lạc người khác đến tột cùng đời vị lai, chẳng hề đoạn tuyệt, nhưng chẳng phiền mỗi tâm số phải phối ứng với một vị La Hán, cốt sao hiểu ư mà thôi! Phần đầu tiên, nói về chúng Thanh Văn đă xong.

 

1.1.2.1.2. Chúng Bồ Tát

 

          Thích Luận nói: “Bồ Tát bao gồm bốn chúng tại gia và xuất gia”. V́ sao lại kể riêng biệt? Đáp: Có Bồ Tát thuộc vào bốn chúng, nhưng trong tứ chúng có các vị chẳng phải là Bồ Tát; v́ những người ấy chẳng phát tâm làm Phật. Nay nêu riêng những vị cùng phát tâm cầu làm Phật, gọi là “Bồ Tát chúng”. Kinh văn chia làm ba phần: Một là nêu căn khí, hai là tán thán phẩm đức, ba là nêu tên và tổng kết.

 

1.1.2.1.2.1. Nêu bày căn khí

 

          (Kinh) Bồ Tát Ma Ha Tát bát vạn nhân.

          ()菩薩摩訶薩八萬人

          (Kinh: Bồ Tát Ma Ha Tát tám vạn người).

 

          Nói đầy đủ th́ phải là Bồ Đề Tát Đỏa Ma Ha Tát Đỏa (Bodhisattva Mahasattva), ngài La Thập nói giản lược [là Bồ Tát]. Bồ Đề (Bodhi) dịch là Đạo, Tát Đỏa (Sattva) dịch là Hữu T́nh. Ma Ha dịch là Đại. [Bồ Tát] tức là Đại Đạo Tâm Hữu T́nh. Đó chính là [biện định rơ] căn khí, chủng loại. Bồ Tát có nhiều loại, tức Thiên, Thông, Biệt, Viên. Như Thích Luận viện dẫn Ca Chiên Diên Tử (Kātyāyani-putra) nhằm nói về người hành viên măn Lục Độ, muốn điều phục chúng sanh căn cơ c̣n đang là máu trở thành sữa. Hoặc như Đại Phẩm Bát Nhă nói có Bồ Tát phát tâm tương ứng với Tát Bà Nhă (Sarvajña, Nhất Thiết Trí), ḥng điều phục sữa thành lạc. Hoặc như Đại Phẩm nói có Bồ Tát phát tâm du hư thần thông, tịnh hóa cơi Phật, ḥng muốn đào luyện lạc trở thành sanh tô và thục tô. Hoặc như Đại Phẩm nói có Bồ Tát phát tâm liền ngồi nơi đạo tràng, thành Chánh Giác, chuyển pháp luân, độ chúng sanh, tức là điều chế tô thành đề hồ. V́ thế, trong phần sau, kinh có nói: “Bồ Tát văn thị pháp, nghi vơng giai dĩ trừ” (Bồ Tát nghe pháp này, lưới nghi đều đă trừ). Lại nói: “Nhược Bồ Tát bất văn Pháp Hoa, phi thiện hành Bồ Tát đạo. Nhược văn thử kinh, tức thiện hành Bồ Tát đạo” (Nếu Bồ Tát chẳng nghe kinh Pháp Hoa, th́ chẳng phải là khéo hành Bồ Tát đạo. Nếu nghe kinh này, tức là khéo hành Bồ Tát đạo). V́ thế, nói đại lược bèn có bốn loại [Bồ Tát].

          Xét theo Bổn Tích, Bổn địa khó lường, hoặc thuộc địa vị Đẳng Giác, hoặc bằng với đấng pháp vương. Như Văn Thù vốn là Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật, nhưng thị hiện làm Bồ Tát phù tá Phật Thích Ca, ḥng dẫn dắt các chúng sanh thuộc bốn vị (sữa, lạc, sanh tô, thục tô) cùng về đề hồ. Nhưng xét theo sự thành tựu rốt ráo của Ngài nơi Bổn địa, há có phải là ngày nay Ngài mới nhập Đại Thừa, cũng chẳng phải là nơi Tịch Diệt đạo tràng [mặt trời mới mọc] chiếu núi cao trước! Dù Đốn hay Tiệm, đều là những chuyện được thực hiện thuộc về Tích.

          Xét theo quán tâm, Trung Đạo chánh quán, cùng chiếu cả hai đế (Tục Đế và Chân Đế) th́ gọi là Đại. Thông thấu cực quả (quả vị tột cùng, tức Phật quả) th́ gọi là Đạo. Phá ngũ trụ trần lao th́ gọi là Thành Chúng Sanh (thành tựu chúng sanh).

          “Tám vạn người” là số lượng. Trong các kinh khác, đại chúng nhóm họp rất đông, cớ sao kinh này lại ít? [Nguyên nhân là do] hoặc nói đến một con số đại lược, hoặc ví như vua bàn chuyện cơ mật, mọi người trong cả nước làm sao cùng tham gia bàn luận cho được? Nay mở tạng bí mật, chẳng dính líu đến quyền biến hay hạ căn, những người chứng tín đều chẳng phải hạng lơ mơ, ắt phải đều là người căn tánh viên đốn và có cội nguồn sâu xa nơi Bổn.

          Xét theo quán tâm, quán một thiện tâm trọn đủ bách giới thiên như. Thập Thiện chính là vạn pháp. Xét theo Bát Chánh Đạo th́ chính là tám vạn pháp môn (Thập Thiện là đối tượng để quán, Bát Chánh Đạo là chủ thể để quán).

 

1.1.2.1.2.2. Tán thán phẩm đức

 

          (Kinh) Giai ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề bất thoái chuyển, giai đắc Đà La Ni, nhạo thuyết biện tài, chuyển bất thoái chuyển pháp luân, cúng dường vô lượng bách thiên chư Phật. Ư chư Phật sở, thực chúng đức bổn, thường vị chư Phật chi sở xưng thán. Dĩ Từ tu thân, thiện nhập Phật huệ, thông đạt trí, đáo ư bỉ ngạn. Danh xưng phổ văn vô lượng thế giới, năng độ vô số bách thiên chúng sanh.

          ()皆於阿耨多羅三藐三菩提不退轉。皆得陀羅尼。樂說辯才。轉不退轉法輪。供養無量百千諸佛。於諸佛所植眾德本。常為諸佛之所稱歎。以慈修身。善入佛慧。通達大智。到於彼岸。名稱普聞無量世界。能度無數百千眾生。

          (Kinh: Đều chẳng thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đều đắc Đà La Ni, nhạo thuyết biện tài, chuyển pháp luân chẳng thoái chuyển, cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật. Gieo các cội đức nơi chư Phật, thường được chư Phật khen ngợi. Dùng ḷng Từ để tu thân, khéo nhập trí huệ của Phật, thông đạt trí đến bờ bên kia. Tiếng tăm vang rền vô lượng thế giới, có thể độ vô số trăm ngàn chúng sanh).

 

          Câu đầu tiên vừa nói rơ địa vị, vừa tán thán phẩm đức. Mười hai câu kế đó chỉ tán thán phẩm đức. Gộp chung mười ba câu là tán thán phẩm đức theo chiều dọc (thời gian) lẫn chiều ngang (không gian). A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Anuttara Samyak Saṁbodhi) được phương này dịch là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có ư nghĩa thông khắp bốn giáo.

          “Bất thoái chuyển” xét theo Vị (địa vị), Hạnh, và Niệm để luận định Bất Thoái, và cũng có bốn thứ riêng biệt:

          - Nếu nói “chẳng sanh trong ba ác đạo” th́ gọi là Vị Bất Thoái. Chẳng sanh nơi biên địa, các căn tṛn vẹn, chẳng thọ thân nữ, th́ gọi là Hạnh Bất Thoái. Thường biết túc mạng th́ gọi là Niệm Bất Thoái. Trọn đủ hết các điều ấy th́ gọi là A Bệ Bạt Trí. Đó là ư nghĩa trong Tam Tạng.

          - Nếu [thuộc các địa vị] từ Sơ Địa cho tới Lục Địa, chẳng lui sụt xuống phàm phu, th́ gọi là Vị Bất Thoái. Tuy chánh sử[30] đă tận, nhưng chưa thể tu trọn khắp vạn hạnh, hạnh vẫn c̣n lui sụt. Đạt tới Thất Địa th́ gọi là Hạnh Bất Thoái, nhưng vẫn dấy lên ư niệm Nhị Thừa. V́ thế, niệm có lui sụt. Đạt tới Bát Địa, đạo và quán cùng lưu xuất, ḥa nhập vào nước của gịng pháp th́ gọi là Niệm Bất Thoái, gọi là địa vị A Bệ Bạt Trí. Đấy chính là ư nghĩa tam thừa cùng lên Thập Địa trong Thông Giáo.

          - Các vị trong Địa Luận Tông[31] nói: “Thập Trụ là Chứng Bất Thoái, Thập Hạnh là Vị Bất Thoái. Thập Hồi Hướng là Hạnh Bất Thoái. Thập Địa là Niệm Bất Thoái”. Đó là ư nghĩa trong Biệt Giáo. Kinh Anh Lạc nói: “Sơ Địa tam quán hiện tiền, tâm nào cũng đều tịch diệt, tự nhiên lưu nhập”. Đó cũng là ư nghĩa trong Biệt Giáo.

          - Như kinh Hoa Nghiêm nói Sơ Trụ đạt được “một thân là vô lượng thân của Như Lai”, trọn đủ ba món Bất Thoái. Đó chính là ư nghĩa trong Viên Giáo. Đó là chuyện thuộc về Nhất Thật, nay dùng cách phán giáo này để phán định địa vị mầu nhiệm vậy.

          Xét theo Bổn Tích, Bổn địa tịch diệt, c̣n chẳng phải là Thập Địa, huống hồ Sơ Trụ! C̣n chẳng phải là Sơ Trụ trong Viên Giáo, huống hồ Biệt Giáo và Thông Giáo ư? Các địa vị thuộc Thông Giáo và Biệt Giáo có thể dùng để giải thích các loại đại chúng được liệt kê [trong phần Chứng Tín] của các kinh khác, chứ [hàng Bồ Tát trong] kinh này chỉ thuộc địa vị trong Viên Giáo. Đă chẳng biết Tích, làm sao có thể biết Bổn cho được?

          Xét theo quán tâm, Tam Quán chính là tam bất thoái. Lại nữa, Nhất Tâm Tam Quán chính là nhất tâm tam bất thoái, cần phải dựa theo Lục Tức [để biện định]. Câu này theo chiều dọc, tán thán Sơ Hoan Hỷ Địa, chẳng thoái đọa vào nhị biên, nhập Trung Đạo. Theo chiều ngang là tán thán Sơ Phát Tâm Trụ, vượt ra ngoài nhị biên, trừ phàm siêu thánh.

          “Giai đắc Đà La Ni” (đều đắc Đà La Ni): Đà La Ni được phương này dịch là Giá Tŕ (遮持), tức “ngăn che điều ác, ǵn giữ điều thiện”. Theo chiều dọc, tán thán Ly Cấu Địa (Nhị Địa), Giới Độ (Thi La Ba La Mật) thanh tịnh. Theo chiều ngang, tán thán Sơ Trụ, ngăn che ba chướng, ǵn giữ ba đức.

          Câu “nhạo thuyết biện tài” theo chiều dọc, tán thán Phát Quang Địa (Tam Địa), đắc đại văn tŕ, trọn đủ tứ vô ngại biện[32]. Theo chiều ngang, tán thán công đức nghiêm mật nơi khẩu của bậc Sơ Trụ.

          Câu “chuyển bất thoái chuyển pháp luân” theo chiều dọc, tán thán Diễm Huệ Địa (Tứ Địa) tự phá Hoặc của chính ḿnh, phá mê ám cho người khác. Theo chiều ngang, tán thán Sơ Trụ ngay trong thân hiện tại có thể làm Phật, thuyết pháp độ sanh.

          Câu “cúng dường vô lượng bách thiên chư Phật” (cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật), theo chiều dọc, tán thán Nan Thắng Địa (Ngũ Địa), dùng sức Thiền Định thần thông ḥng dấy khởi cúng dường trọn khắp. Theo chiều ngang, tán thán Sơ Trụ có thể thừa sự trọn khắp mười phương chư Phật.

          Câu “ư chư Phật sở, thực chúng đức bổn” (nơi chỗ chư Phật, gieo các cội đức), theo chiều dọc, tán thán Hiện Tiền Địa (Lục Địa), Bát Nhă hiện tiền. Trí là gốc của đức, giống như gieo trồng nơi đất. Theo chiều ngang th́ là tán thán Sơ Trụ đạt được cội gốc Thật Tướng, có thể gieo trồng các đức.

          Câu “thường vị chư Phật chi sở xưng thán” (thường được chư Phật khen ngợi), theo chiều dọc, tán thán Viễn Hành Địa (Thất Địa), nhị trí phương tiện đă vượt khỏi hết thảy, rộng tu lợi ích, tương xứng, thấu hiểu Phật tâm. Theo chiều ngang, tán thán Sơ Trụ khai tri kiến của Phật, giống như chư Phật. V́ thế, được Phật xưng dương, khen ngợi.

          Câu “dĩ Từ tu thân” (dùng ḷng Từ để tu thân), theo chiều dọc, tán thán Bất Động Địa (Bát Địa): Ḷng Từ huân tập tam nghiệp, huân tập cái thân vào trong năm đường, huân tập miệng v́ đại chúng thuyết pháp, huân tập cái tâm v́ họ lập bày phương tiện. Theo chiều ngang, tán thán bậc Sơ Trụ do sức của ḷng Từ vô duyên, có thể hiện trọn khắp các sắc thân, ứng trọn khắp pháp giới.

          Câu “thiện nhập Phật huệ” (khéo nhập trí huệ của Phật), theo chiều dọc, tán thán Thiện Huệ Địa (Cửu Địa), thâm nhập Thật Tế, khéo thấu triệt cội nguồn. Theo chiều ngang, tán thán Sơ Trụ nhập bí mật tạng.

          Câu “thông đạt đại trí”, theo chiều dọc, tán thán Pháp Vân Địa (Thập Địa), Trí Ba La Mật tăng thượng nhất. Theo chiều ngang, tán thán nhất tâm tam trí của Sơ Trụ không thể chướng ngại.

          Câu “đáo ư bỉ ngạn” (tới bờ bên kia) theo chiều dọc, tán thán nội đức của Đẳng Giác đạt tới bờ kia Tam Đế. Theo chiều ngang, tán thán Sơ Trụ hiểu thấu rốt ráo Sự Lư.

          Câu “danh xưng phổ văn vô lượng thế giới” (tiếng tăm rền vang vô lượng thế giới) theo chiều dọc, tán thán ngoại đức của bậc Đẳng Giác, quán đảnh thọ chức, pháp giới đều cùng nghe tiếng. Theo chiều ngang, tán thán đức trọn vẹn chân thật của Sơ Trụ tương xứng với danh tướng.

          Câu “năng độ vô số bách thiên chúng sanh” (có thể độ vô số trăm ngàn chúng sanh) theo chiều dọc, tán thán ân đức giáo hóa người khác của Đẳng Giác. So với các địa vị thấp hơn, ân đức ấy thù thắng nhất, rộng nhất. Theo chiều ngang, tán thán Sơ Trụ có thể làm chỗ y chỉ cho mười pháp giới.

          Các địa vị đều có đủ các đức, nhưng nay dựa theo chiều dọc để giải thích sự sai khác là v́ tánh t́nh con người chuộng lạ. Lại dựa theo danh xưng của Thập Địa [để giải thích] là v́ thuận tiện. Hơn nữa, giải nghĩa theo chiều dọc sẽ dễ hiểu, nên tuân theo cách ấy để giải thích kinh văn. Sơ Trụ đă có vô lượng vô biên công đức chẳng thể nghĩ bàn, nhưng mười ba câu kinh ấy chỉ là nói đại lược đó thôi! Sơ Trụ mà c̣n như thế, từ Nhị Trụ cho đến Đẳng Giác [cứ phỏng theo đó] mà biết. V́ thế, Đại Phẩm nói: “Sơ A Tự Môn cụ tứ thập nhất tự công đức, hậu Trà diệc cụ chư tự công đức. Trung gian diệc nhĩ, tự đẳng, ngữ đẳng, công đức diệc đẳng” (Đầu tiên là môn chữ A có đầy đủ công đức của bốn mươi mốt chữ kia. Chữ Trà cuối cùng cũng có đủ công đức của các chữ khác. Chặng giữa (tức các chữ giữa A và Trà) cũng thế. Chữ b́nh đẳng, lời b́nh đẳng, công đức cũng b́nh đẳng).

          Xét theo quán tâm th́ Không Quán là Toàn Đà La Ni[33]. Giả Quán là trăm ngàn Toàn Đà La Ni. Trung Quán là Pháp Âm Phương Tiện Đà La Ni. Lại nữa, Không Quán quán tâm chỉ có danh tự, tức là Văn Tŕ Đà La Ni. Giả Quán quán tâm vô lượng tâm, tâm và tâm số pháp đều là pháp môn, tức Hành Tŕ Đà La Ni. Trung Quán quán tâm chính là Thật Tướng, tức là Nghĩa Tŕ Đà La Ni. Giả Quán quán tâm có đủ mười giới pháp, tức Pháp Vô Ngại Biện. Trung Quán quán tâm mười pháp giới đều vào trong Thật Tướng, tức Nghĩa Vô Ngại Biện. Không Quán quán tâm mười pháp giới chỉ có danh tự, ngôn ngữ, tức Từ Vô Ngại Biện. Quán nhất tâm chính là ba tâm, ba tâm chính là nhất tâm, một pháp giới là hết thảy các pháp giới, xoay chuyển vô ngại, tức là Nhạo Thuyết Vô Ngại Biện. Không Quán là chuyển Vị Bất Thoái pháp luân. Giả Quán là chuyển Hạnh Bất Thoái pháp luân. Trung Quán là chuyển Niệm Bất Thoái pháp luân.

          Cúng dường Phật chỉ là tùy thuận lời Phật. Nay thuận theo lời Phật dạy, tu ba quán tâm th́ chính là cúng dường Phật. Phá ngũ trụ, đạt được giải thoát, tức là cúng dường Pháp. Ḥa hợp lư Tam Đế, tức là cúng dường Tăng.

          Lại nữa, các hạnh tâm phụ trợ quán trí tâm, tức là cúng dường Phật. Quán trí tâm khai phát cảnh giới chính là cúng dường Pháp. Cảnh và trí tâm ḥa hợp, tức là cúng dường Tăng. Cái tâm Thật Tướng chính là cội gốc của quán trí tâm. Quán trí tâm là cội gốc của các hạnh tâm. Hễ đạt được cái gốc th́ gieo trồng thành công. V́ thế nói là “thực chúng đức bổn” (gieo trồng các cội đức). Quán trí tâm ngầm hợp cảnh giới, cảnh giới in vào quán trí. Trí chiếu thường hợp với cảnh, chính là “chư Phật sở thán” (được chư Phật khen ngợi). Không Quán được Pháp Duyên Từ huân tập. Giả Quán được Chúng Sanh Duyên Từ huân tập. Trung Quán được Vô Duyên Từ huân tập. Không Quán nhập Phật huệ của Thông Giáo. Giả Quán nhập Phật huệ của Biệt Giáo. Trung Quán nhập Phật huệ của Viên Giáo. Không Quán đạt đến bờ kia Nhất Thiết Trí. Giả Quán đạt đến bờ kia Đạo Chủng Trí. Trung Quán đạt đến bờ kia Nhất Thiết Chủng Trí. Không Quán nghe Chân Đế. Giả Quán nghe Tục Đế. Trung Quán nghe trọn khắp Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế, và cũng nghe trọn khắp Tam Đế. Không Quán độ trăm ngàn chúng sanh thuộc Tứ Trụ. Giả Quán độ trăm ngàn chúng sanh nơi Trần Sa. Trung Quán độ trăm ngàn chúng sanh trong vô minh. Nhất Tâm Tam Quán có vô lượng, tán thán chẳng thể cùng tận, chỉ nói đại lược mà thôi!

 

1.1.2.1.2.3. Nêu tên và tổng kết

 

          (Kinh) Kỳ danh viết Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đắc Đại Thế Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, Bất Hưu Tức Bồ Tát, Bảo Chưởng Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dũng Thí Bồ Tát, Bảo Nguyệt Bồ Tát. Nguyệt Quang Bồ Tát, Măn Nguyệt Bồ Tát, Đại Lực Bồ Tát, Vô Lượng Lực Bồ Tát, Việt Tam Giới Bồ Tát, Bạt Đà Bà La Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Bảo Tích Bồ Tát, Đạo Sư Bồ Tát. Như thị đẳng Bồ Tát Ma Ha Tát bát vạn nhân câu.

          ()其名曰。文殊師利菩薩。觀世音菩薩。得大勢菩薩。常精進菩薩。不休息菩薩。寶掌菩薩。藥王菩薩。勇施菩薩。寶月菩薩。月光菩薩。滿月菩薩。大力菩薩。無量力菩薩。越三界菩薩。跋陀婆羅菩薩。彌勒菩薩。寶積菩薩。導師菩薩。如是等菩薩摩訶薩八萬人俱。

          (Kinh: Tên các Ngài là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đắc Đại Thế Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, Bất Hưu Tức Bồ Tát, Bảo Chưởng Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dũng Thí Bồ Tát, Bảo Nguyệt Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát, Măn Nguyệt Bồ Tát, Đại Lực Bồ Tát, Vô Lượng Lực Bồ Tát, Việt Tam Giới Bồ Tát, Bạt Đà Bà La Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Bảo Tích Bồ Tát, Đạo Sư Bồ Tát. Các vị Bồ Tát Ma Ha Tát như thế tám vạn người nhóm họp).

 

          Đại danh của Đại Sĩ hoặc là từ pháp môn, hoặc từ hạnh đức, hoặc từ bổn nguyện. Tuy là một tên mà chứa đựng vô lượng nghĩa. Nay dựa theo kinh và quán tâm để giải thích danh hiệu của mười tám vị Bồ Tát.

          * Văn Thù Sư Lợi (Mañjuśrī), phương này dịch là Diệu Đức. Đại Kinh dạy: “Liễu liễu kiến Phật tánh, do như diệu đức đẳng” (Thấy rành rẽ Phật tánh giống như Diệu Đức v.v…) Kinh Tư Ích[34] nói: “Tuy thuyết chư pháp, nhi bất khởi pháp tướng, bất khởi phi pháp tướng. Cố danh Diệu Đức” (Tuy nói các pháp mà chẳng dấy lên tướng pháp, chẳng dấy lên tướng phi pháp. V́ thế tên là Diệu Đức). Kinh Bi Hoa nói: “Nguyện ngă hành Bồ Tát đạo sở hóa chúng sanh, giai ư thập phương tiên thành Chánh Giác, linh ngă Thiên Nhăn tất đắc kiến chi. Ngă chi quốc độ giai nhất sanh Bồ Tát, tất linh tùng ngă khuyến phát đạo tâm. Ngă hành Bồ Tát đạo, vô hữu tề hạn. Bảo Tạng Phật ngôn: - Nhữ tác công đức thậm thâm, thậm thâm, nguyện thủ diệu độ, kim cố hiệu nhữ vi Văn Thù Sư Lợi, tại Bắc phương Hoan Hỷ thế giới tác Phật, hiệu Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích, kim do hiện tại, văn danh diệt tứ trọng tội” (Nguyện các chúng sanh được tôi giáo hóa khi hành Bồ Tát đạo, sẽ đều trong mười phương thành Chánh Giác trước, khiến cho Thiên Nhăn của tôi thảy đều trông thấy. Quốc độ của tôi toàn là Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát đều do tôi khuyên phát đạo tâm. Tôi hành Bồ Tát đạo chẳng có ngằn hạn. Bảo Tạng Phật nói: - Ông nay tạo công đức rất sâu, rất sâu, nguyện giữ lấy cơi mầu nhiệm. V́ thế, nay đặt cho ông danh hiệu là Văn Thù Sư Lợi. Ông sẽ thành Phật tại thế giới Hoan Hỷ ở phương Bắc, hiệu là Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích, đến nay vẫn c̣n tại thế, người nghe danh hiệu ông sẽ diệt bốn trọng tội).

          Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội lại nói: “Quá khứ vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, hữu Phật hiệu Long Chủng Thượng Tôn Vương, diệc tức Văn Thù” (Trong quá khứ vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, có Phật hiệu là Long Chủng Thượng Tôn Vương, cũng chính là Văn Thù).

          Xét theo quán tâm, tam đức bí tạng chẳng dọc, chẳng ngang, cho nên gọi là Diệu Đức.

          * Quán Thế Âm, tiếng Phạn là Bà Lâu Cát Đê Thuế (Avalokiteśvara), sẽ được giải thích cặn kẽ trong phẩm Phổ Môn[35].

          Xét theo quán tâm, tam trí th́ gọi là Quán, Tam Đế là Thế, Tam Quán nói đến Bổn, cho nên gọi là Âm (kinh văn sẽ dựa theo mặt Sự để giải thích, coi đối tượng được Ngài tiếp độ là Âm. Ở đây, chỉ xét theo chủ thể quán sát, cho nên gọi những điều được Ngài tuyên nói là Âm).

          * Đắc Đại Thế, c̣n gọi là Đại Thế Chí (Mahāsthāmaprāpta). Kinh Tư Ích nói: “Ngă đầu túc chi xứ, chấn động tam thiên đại thiên thế giới, cập ma cung điện. Cố danh Đại Thế Chí” (chỗ ta đặt chân chấn động tam thiên đại thiên thế giới và cung điện của ma. V́ thế, tên là Đại Thế Chí). Quán Kinh nói: “Đản kiến thử Bồ Tát nhất mao khổng quang, tức kiến thập phương chư Phật tịnh diệu quang minh. Thị cố hiệu thử Bồ Tát danh Vô Biên Quang. Dĩ trí huệ quang, phổ chiếu nhất thiết, linh ly tam đồ, đắc vô thượng lực. Thị cố hiệu thử Bồ Tát vi Đại Thế Chí” (Chỉ thấy quang minh nơi một lỗ chân lông của vị Bồ Tát này, liền thấy quang minh tịnh diệu của mười phương chư Phật. V́ thế, gọi tên vị Bồ Tát này là Vô Biên Quang. Ngài dùng quang minh trí huệ chiếu trọn khắp hết thảy, khiến họ ĺa tam đồ, đạt được sức vô thượng. V́ thế, gọi vị Bồ Tát này là Đại Thế Chí).

          Xét theo quán tâm, Tam Chỉ[36] làm chân, đặt nơi đất Tam Đế (Không, Giả, Trung), chấn động mười pháp giới, hết thảy chỗ trụ của Kiến Ái đều bị nghiêng ngả, lay động.

          * Thường Tinh Tấn (Satasamitabhiyakta, Nityodyukta): Kinh Đại Bảo Tích nói: “Thị Bồ Tát vị nhất chúng sanh kinh vô lượng kiếp tùy trục bất xả, do bất thọ hóa, vô nhất niệm khí xả, dĩ thân tâm câu tấn cố” (Vị Bồ Tát này v́ một chúng sanh bèn trải qua vô lượng kiếp theo sát chẳng bỏ mà kẻ đó vẫn chẳng tiếp nhận sự giáo hóa của Ngài, Ngài chẳng có một niệm vứt bỏ v́ thân và tâm đều tinh tấn vậy).

          * Bất Hưu Tức (Anikṣiptadhura, chẳng ngơi nghỉ): Kinh Tư Ích nói: “Hằng hà sa kiếp vi nhất nhật dạ, thị tam thập nhật vi nguyệt, thập nhị nguyệt vi tuế, quá bách thiên vạn ức kiếp, đắc trị nhất Phật. Như thị trị hằng sa Phật, hành chư phạm hạnh, tu tập công đức. Nhiên hậu thọ kư, tâm bất hưu tức” (Lấy Hằng hà sa kiếp làm một ngày đêm, coi ba mươi ngày như thế là một tháng, mười hai tháng là một năm. Trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp mới được gặp một vị Phật. Gặp hằng sa Phật như thế, hành các phạm hạnh, tu tập công đức. Sau đó được thọ kư, tâm chẳng ngơi nghỉ).

          Xét theo quán tâm, quán Không mà chẳng trụ vào Không, xuất Giả mà chẳng trụ vào Giả, nhập Trung mà chẳng trụ vào Trung, cùng chiếu cả hai Đế (Chân Đế và Tục Đế) th́ gọi là Bất Hưu Tức. Bất Hưu Tức và Thường Tinh Tấn ư nghĩa gần giống như nhau. Muốn phân biệt th́: Tiến nhập chẳng gián đoạn là Tinh Tấn, lâu dài chẳng bỏ là Bất Hưu Tức. V́ thế, giải thích theo Quán th́ gọi là Bất Trụ, [dùng ư nghĩa ấy] để giải thích Bất Hưu Tức. Cũng xét theo thời gian dài lâu, nhưng thọ kư và lợi sanh khác nhau!

          * Bảo Chưởng (Ratnapāni, tay cầm báu vật): Kinh Phổ Siêu nói: “Bị thượng đức khải, vô năng trở bại. Nhược ư mộng trung, bất chí Nhị Thừa. Thường dĩ thật tâm, chư thông huệ tâm, vị nhân giảng tuyên ư chư trân bảo, tâm vô tham tích” (Mặc áo giáp thượng đức, không thể bị ngăn trở, đánh bại. Dẫu ở trong mộng, chẳng nghĩ tưởng Nhị Thừa. Thường dùng thật tâm, các tâm thông huệ, v́ người khác giảng nói các trân bảo, tâm chẳng tham tiếc). Xét theo quán tâm, chẳng nghĩ bàn Tam Đế th́ gọi là Bảo. Nhất Tâm Tam Quán th́ gọi là Chưởng (, bàn tay). Dùng tay Quán ấy để nắm giữ của báu Tam Đế ḥng tự lợi, lợi người.

          * Dược Vương (Bhaiṣajyarāja): Kinh Bi Hoa nói: “Nguyện Hiền Kiếp nhất thiên tứ Phật sơ thành đạo, ngă giai cúng dường. Chư Phật nhập diệt, ngă giai khởi tháp. Kiếp tận khổ năo, ngă giai cứu hộ. Đao binh, tật dịch, tác đại dược vương. Nhiên hậu tác Phật. Bảo Tạng Phật ngôn: - Kim đương tự nhữ vi Hỏa Tịnh Dược Vương, tại hậu tác Phật, tức Lâu Chí Như Lai” (“Nguyện trong Hiền Kiếp khi một ngàn lẻ bốn vị Phật mới thành đạo, tôi đều cúng dường. Chư Phật nhập diệt, tôi đều dựng tháp. Kiếp tận, khổ năo, tôi đều cứu vớt, che chở. Đao binh, bệnh dịch, tôi làm đại dược vương. Sau đó thành Phật”. Bảo Tạng Phật nói: “Nay ta đặt tên cho ông là Hỏa Tịnh Dược Vương. Sau này sẽ làm Phật, tức Lâu Chí Như Lai”). Xét theo quán tâm, Nhất Tâm Tam Quán tự chữa trị ḿnh, chữa trị người khác.

          * Dũng Thí (Pradānaśūra, dũng mănh bố thí): Thí trọn khắp pháp bảo xuất thế cho chúng sanh chẳng chán mệt.

          * Bảo Nguyệt (Ratnachandra): Tam Đế đă chứng đáng quư như báu vật. Tam Trí[37] dùng để chứng [Tam Đế] chiếu trọn vẹn như trăng.

          * Nguyệt Quang (Candraprabha): Tam Trí viên diệu có thể trừ phiền năo tối tăm, nóng bức.

          * Măn Nguyệt (Pūrṇacandra): Tam Trí viên minh, chẳng hề khuyết giảm.

          * Đại Lực (Mahāvikramin): Trí và cảnh ngầm hợp, có lực dụng to lớn.

          * Vô Lượng Lực (Anantavikramin): Dùng đại lực dụng để ứng trọn khắp các duyên, dẹp khắp các khổ.

          * Việt Tam Giới (Trailokya-vikramin, vượt thoát tam giới): Dùng Nhất Tâm Tam Quán để siêu việt hai thứ Biến Dịch và Phần Đoạn trong tam giới.

          * Bạt Đà Bà La (Bhadrapāla), phương này dịch là Thiện Thủ (善守), c̣n dịch là Hiền Thủ (賢守), hoặc Hiền Thủ (賢首), hoặc Hiền Hộ (賢護). Kinh Tư Ích nói: “Nhược chúng sanh văn danh giả, tất định đắc Tam Bồ Đề, cố danh Thiện Thủ. Vị cư Đẳng Giác, chúng hiền chi thủ, cố danh Hiền Thủ. Thiện xảo tương hộ, linh kỳ bất thoái, cố danh Hiền Hộ” (Nếu chúng sanh nghe tên Ngài, nhất định đắc Chánh Giác, cho nên tên là Thiện Thủ. Thuộc địa vị Đẳng Giác, đứng đầu các vị hiền nhân, nên tên là Hiền Thủ. Khéo léo bảo vệ khiến cho họ chẳng lui sụt, cho nên tên là Hiền Hộ). Xét theo quán tâm, Trung Đạo chánh quán là thượng thủ bậc nhất trong các điều thiện.

          * Di Lặc (Maitreya), phương này dịch là Từ Thị. Kinh Tư Ích nói: “Chúng sanh kiến giả, tức đắc từ tâm tam-muội” (Chúng sanh trông thấy Ngài liền đạt được từ tâm tam-muội). Kinh Bi Hoa nói: “Phát nguyện ư đao hỏa kiếp trung, cứu hộ chúng sanh” (Phát nguyện trong kiếp đao binh, sẽ cứu vớt, che chở chúng sanh). Ngài tên là A Dật Đa (Ajita), phương này dịch là Vô Năng Thắng (không ai hơn được). Xét theo quán tâm, Trung Đạo chánh quán tức là vô duyên đại từ, từ thiện căn lực, khiến cho các tâm số đều cùng nhập và thấu hiểu pháp đại từ.

          * Bảo Tích (Ratnākara) là tích tụ của báu nhất tâm tam trí.

          * Đạo Sư (Susāthavāha): Kinh Tư Ích nói: “Ư đọa tà đạo chúng sanh, sanh đại bi tâm, linh nhập chánh đạo (đạo dă), bất cầu ân báo (sư dă)” (Đối với chúng sanh đọa vào tà đạo, sanh tâm đại bi, khiến cho họ nhập chánh đạo (đó là “hướng dẫn”), chẳng cầu báo ân; đó là “Sư”). Xét theo quán tâm, tam quán diệu trí hướng dẫn hết thảy các hạnh, chẳng đọa vào nhị biên, đều nhập chánh quán.

          Câu kết luận ư nghĩa dễ hiểu. Phần thứ hai nói về các vị Bồ Tát đă xong.

 

1.1.2.1.3. Tạp chúng

 

          Quả báo và h́nh tướng phức tạp. Người đắc đạo và chưa đắc đạo xen tạp. Trong ấy, người đắc Nhị Thừa đạo, vô lậu trí xen tạp với vô minh. Người đắc Bồ Tát trong đó th́ các vị ḥa quang đồng trần và các căn cơ sai khác xen tạp. Người đắc Phật đạo trong ấy, một pháp trọn đủ hết thảy các pháp, cho nên nói là Tạp. “Tạp” có ư nghĩa như thế đó, chẳng thể dùng h́nh tướng phàm phu để phán định. Lại chẳng thể dùng năm đường trời, người v.v… để phán định. Kinh văn chia thành tám phần: Một là Dục Giới thiên chúng, hai là Sắc Giới thiên chúng, ba là long chúng, bốn là Khẩn Na La chúng, năm là Càn Thát Bà chúng, sáu là A Tu La chúng, bảy là Ca Lâu La chúng, tám là nhân chúng.

 

1.1.2.1.3.1. Dục Giới thiên chúng

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thích Đề Hoàn Nhân, dữ kỳ quyến thuộc nhị vạn thiên tử câu. Phục hữu Minh Nguyệt thiên tử, Phổ Hương thiên tử, Bảo Quang thiên tử, tứ đại thiên vương, dữ kỳ quyến thuộc vạn thiên tử câu. Tự Tại thiên tử, Đại Tự Tại thiên tử, dữ kỳ quyến thuộc tam vạn thiên tử câu.

          ()爾時釋提桓因。與其眷屬二萬天子俱。復有明月天子。普香天子。寶光天子。四大天王。與其眷屬萬天子俱。自在天子。大自在天子。與其眷屬三萬天子俱。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Thích Đề Hoàn Nhân và quyến thuộc của ông ta là hai vạn thiên tử nhóm họp. Lại có Minh Nguyệt (Candra) thiên tử, Phổ Hương (Samantagandha) thiên tử, Bảo Quang (Ratnaprabha) thiên tử, tứ đại thiên vương và quyến thuộc của họ là một vạn thiên tử nhóm họp. Tự Tại thiên tử, Đại Tự Tại thiên tử và quyến thuộc của họ là tám vạn thiên tử nhóm họp).

 

          Thích Đề Hoàn Nhân (Śakra Devānām Indra), phương này dịch là Năng Tác (能作, có thể làm), chúa của Tam Thập Tam Thiên. Xét theo giáo, kinh A Hàm nói rơ Đế Thích đắc quả A Na Hàm. Kinh Bát Nhă nói người thưa hỏi Bát Nhă trong mười phương đều tên là Thích Đề Hoàn Nhân. Biệt Giáo và Viên Giáo nói Thích Đề Hoàn Nhân đắc Thủ Lăng Nghiêm tam-muội, nội chứng khác nhau. Trong Hiền Kiếp, sau hai ngàn bốn mươi bốn kiếp sau, sẽ thành Phật, hiệu là Vô Trước Thế Tôn.

          Xét theo Bổn Tích, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng là ba mươi. Thập Địa là một, Đẳng Giác là hai, Diệu Giác là chủ [đó là ư nghĩa biểu thị pháp của Tam Thập Tam Thiên], cùng ngự trong Đệ Nhất Nghĩa Thiên, cùng uống cam lộ Thật Tướng; đó chính là Bổn. Ngự trên đỉnh núi Tu Di (Sumeru); đó là Tích.

          Xét theo quán tâm, tự hành Thập Thiện, khuyên người khác hành Thập Thiện, tùy hỷ hành Thập Thiện. Đó là ba mươi điều thiện, đều là Không, đều là Giả, đều là Trung, tức là ba mươi ba Quán môn.

          Ba vị thiên tử như Minh Nguyệt v.v… đều là nội thần (內臣, các vị cận thần phụ chánh), giống như khanh tướng. Hoặc nói Minh Nguyệt là Bảo Cát Tường Nguyệt thiên tử do Đại Thế Chí Bồ Tát ứng hiện. Phổ Hương là Minh Tinh thiên tử, do Hư Không Tạng Bồ Tát ứng hiện. Bảo Quang là Bảo Ư Nhật thiên tử do Quán Thế Âm ứng hiện. Đó là giải thích theo Bổn Tích.

          Xét theo quán tâm, Tam Quán chính là Tam Trí. Tam Trí chính là Tam Quang. Từ Tam Đế sanh ra Tam Trí. Đế (, sự chân thật) chính là Thiên. Trí chính là Tử.

          Tứ đại thiên vương (Chaturmahārājikā) là ngoại thần, giống như vơ tướng:

          - Đông phương Đề Đầu Lại Trá (Dhṛtarāṣṭra), phương này dịch là Tŕ Quốc (持國), c̣n dịch là An Dân, ở núi hoàng kim, thống lănh Càn Thát Bà và Phú Đơn Na (Pūtana)[38].

          - Nam phương Tỳ Lưu Lặc Xoa (Virūḍhaka), phương này dịch là Tăng Trưởng, c̣n dịch là Miễn Ly, ở trên núi lưu ly, thống lănh Cưu Bàn Trà và Bệ Lệ Đa[39].

          - Tây phương Tỳ Lưu Bác Xoa (Virūpākṣa), phương này dịch là Quảng Mục, c̣n dịch là Tạp Ngữ, ở trên núi bạch ngân, thống lănh rồng và Tỳ Xá Xà[40].

          - Bắc phương Tỳ Sa Môn (Vaiśravaṇa), phương này dịch là Đa Văn, sống trên núi thủy tinh, thống lănh Dạ Xoa và La Sát.

          Mỗi thiên vương thống lănh hai loại quỷ, chẳng để cho chúng năo hại con người. V́ thế, họ được gọi là Hộ Thế (Lokapāla, bảo vệ thế gian).

          Xét theo Bổn Tích, Bổn là bốn vị vua thường, lạc, ngă, tịnh, hộ tŕ cặp cây Tứ Đức (thường, lạc, ngă, tịnh) của Phật pháp, chẳng để cho người ngoài bứt lá, bẻ cành, chém chặt, phá hoại. Nơi Tích th́ là bốn vị vua bảo hộ cơi đời.

          Xét theo quán tâm th́ trí quán Tứ Đế chính là bốn vị vua. Mỗi Đế trừ Ái Hoặc và Kiến Hoặc, tức là thống lănh tám bộ, chẳng để cho chúng nó năo hại con người (bốn giáo, mỗi giáo có Tứ Đế, đều xưng vương trong mỗi giáo ấy). Chẳng liệt kê Dạ Ma, Đâu Suất là do kinh văn nói giản lược.

          Tự Tại chính là Hóa Lạc Thiên (Nirmāṇarati). Đại Tự Tại là Tha Hóa Thiên (Para-nirmita-vaśa-vartin). Xét theo Bổn Tích, Bổn th́ trụ trong các môn Định như Tự Tại, Tự Tại Vương v.v… Nơi Tích th́ là hai vị trời. Xét theo quán tâm th́ nhập Không là tự tại, nhập Trung là đại tự tại.

 

1.1.2.1.3.2. Sắc Giới thiên chúng

 

          (Kinh) Sa Bà thế giới chủ Phạm thiên vương, Thi Khí đại phạm, Quang Minh đại phạm đẳng, dữ kỳ quyến thuộc vạn nhị thiên thiên tử câu.

          ()娑婆世界主梵天王。尸棄大梵。光明大梵等。與其眷屬萬二千天子俱。

          (Kinh: Chủ của thế giới Sa Bà là Phạm thiên vương, Thi Khí đại phạm, Quang Minh đại phạm v.v… cùng với quyến thuộc của họ một vạn hai ngàn thiên tử nhóm họp).

 

          Sa Bà (Sahāloka), phương này dịch là Nhẫn. Kinh Bi Hoa nói: “Thị chư chúng sanh, nhẫn thọ Tam Độc, cập chư phiền năo, cố danh Nhẫn độ” (Các chúng sanh ấy chịu đựng Tam Độc và các phiền năo, v́ thế gọi là cơi Nhẫn).

          “Phạm” (Brahma) được phương này dịch là Ly Dục, trừ bỏ ràng buộc với các địa vị thấp hơn, thăng lên Sắc Giới, c̣n gọi là Cao Tịnh.

          Thi Khí (Śikhin), phương này dịch là Đảnh Kế (頂髻, búi tóc trên đỉnh đầu), Quang Minh (Jyotiṣprabha) là trời Nhị Thiền. “Đẳng” là nói chung Tam Thiền và Tứ Thiền.

          Xét theo giáo, Phạm Vương là vị chủ yếu thay mặt [chúng sanh] thỉnh pháp luân, thỉnh tiểu pháp bèn là tiểu căn, thỉnh đại pháp bèn là đại căn.

          Xét theo Bổn Tích, Bổn th́ trụ thanh tịnh Nhất Thật diệu cảnh, Tích th́ sống trong Sắc Giới. Xét theo quán tâm, quán trừ Hoặc uế bèn gọi là Phạm.

 

1.1.2.1.3.3. Long chúng

 

          (Kinh) Hữu bát long vương: Nan Đà long vương, Bạt Nan Đà long vương, Sa Già La long vương, Ḥa Tu Cát long vương, Đức Xoa Ca long vương, A Na Bà Đạt Đa long vương, Ma Na Tư long vương, Ưu Bát La long vương đẳng, các dữ nhược can bách thiên quyến thuộc câu.

          ()有八龍王。難陀龍王。跋難陀龍王。娑伽羅龍王。和修吉龍王。德叉迦龍王。阿那婆達多龍王。摩那斯龍王。優鉢羅龍王等。各與若干百千眷屬俱。

          (Kinh: Có tám vị long vương: Nan Đà long vương, Bạt Nan Đà long vương, Sa Già La long vương, Ḥa Tu Cát long vương, Đức Xoa Ca long vương, A Na Bà Đạt Đa long vương, Ma Na Tư long vương, Ưu Bát La long vương v.v… Mỗi vị cùng với vài trăm ngàn quyến thuộc nhóm họp).


          Nan Đà (Nanda), phương này dịch là Hoan Hỷ. Bạt (Upa) phương này dịch là Thiện. Hai anh em long vương này thường hộ tŕ nước Ma Kiệt Đề (Magadha), tưới mưa đúng thời, chẳng có năm nào đói kém, [quốc gia ấy] tức là chỗ ngài Mục Kiền Liên giáng sanh. Họ sống trong biển cả. Xét theo Bổn Tích, th́ Bổn là trụ trong Hoan Hỷ Địa, c̣n Tích th́ sống trong biển. Xét theo quán tâm, Tam Quán tức là Trung Đạo sanh pháp hỷ.

          Sa Già La (Sāgara, biển), do sống trong biển mà có tên đó. Nơi Bổn th́ trụ trong biển Trí Độ (Bát Nhă Ba La Mật), Tích th́ ở trong biển thẳm. Xét theo quán tâm th́ Trung Đạo quán như biển, có thể thống lănh muôn gịng.

          Ḥa Tu Cát (Vāsuki), phương này dịch là Đa Đầu (nhiều đầu), c̣n gọi là Bảo Xưng (寶稱). Nơi Bổn th́ trụ trong Phổ Hiện Sắc Thân tam-muội, nơi Tích bèn thị hiện nhiều đầu. Xét theo quán tâm, một thứ giả th́ hết thảy đều giả. Một thứ không th́ hết thảy đều không. Một thứ trung th́ hết thảy đều trung. V́ thế gọi là Đa Đầu.

          Đức Xoa Ca (Takṣaka), phương này dịch là Hiện Độc, c̣n dịch là Đa Thiệt (nhiều lưỡi). Nơi Bổn th́ trụ trong Nhạo Thuyết Vô Ngại Biện, nơi Tích th́ thị hiện nhiều lưỡi. Xét theo quán tâm, Nhất Tâm Tam Quán như cái trống có bôi thuốc độc, có thể phát ra bốn thứ biện tài.

          A Na Bà Đạt Đa (Anavatapta), phương này dịch là Vô Nhiệt, do cái ao[41] mà có tên gọi đó. Ở trên đỉnh của Tuyết Sơn trong Diêm Phù Đề, chẳng có ba thứ hoạn nạn, tức cát nóng, gió dữ, chim cánh vàng (Ca Lâu La). Nơi Bổn th́ trụ trong thường lạc ngă tịnh thanh lương, nơi Tích th́ ở trong ao trong mát. Xét theo quán tâm th́ tam quán diệu huệ, trừ sạch ngũ trụ phiền năo lằng nhằng, thoát khỏi cát nóng “hai thứ chết” (Phần Đoạn và Biến Dịch).

          Ma Na Tư (Manasvin), phương này dịch là Đại Thân, hoặc dịch là Đại Ư, hoặc dịch là Đại Lực. Tu La dốc nước biển nhấn ch́m thành Hỷ Kiến[42], vị long vương này bèn cuộn thân ngăn sạch nước biển. Nơi Bổn th́ trụ trong pháp môn Vô Biên Thân, nơi Tích th́ là thân thể to lớn. Xét theo quán tâm, Trung Đạo chánh quán tánh chất rộng lớn.

          Ưu Bát La (Utpalaka), phương này dịch là Thanh Liên Hoa Tŕ (ao hoa sen xanh), [long vương được] đặt tên theo chỗ trụ. Nơi Bổn th́ trụ trong Pháp Hoa tam-muội, nơi Tích th́ sống trong cái ao ấy. Xét theo quán tâm th́ tam quán chính là tu nhân, nhân chính là hoa sen vậy.

 

1.1.2.1.3.4. Khẩn Na La chúng

 

          (Kinh) Hữu tứ Khẩn Na La vương: Pháp Khẩn Na La vương, Diệu Pháp Khẩn Na La vương, Đại Pháp Khẩn Na La vương, Tŕ Pháp Khẩn Na La vương, các dữ nhược can bách thiên quyến thuộc câu.

          ()有四緊那羅王。法緊那羅王。妙法緊那羅王。大法緊那羅王。持法緊那羅王。各與若干百千眷屬俱。

          (Kinh: Có bốn Khẩn Na La vương: Pháp (Dharma) Khẩn Na La vương, Diệu Pháp (Sudharma) Khẩn Na La vương, Đại Pháp (Mahādharma) Khẩn Na La vương, Tŕ Pháp (Dharmadhara) Khẩn Na La vương, mỗi vị cùng vài trăm ngàn quyến thuộc nhóm họp).

 

          [Khẩn Na La (Kiṃnara)] c̣n gọi là Chân Đà La, phương này dịch là Nghi Thần (ngỡ là thần, trông giống như thần), [v́ họ] giống như người nhưng có một sừng, là pháp nhạc thần của Thiên Đế, đáng nên tấu pháp môn của bốn giáo. Nơi Bổn th́ trụ trong chẳng thể nghĩ bàn, chẳng khởi Diệt Định. An trụ trong Thiền, chắp tay, dùng ngàn vạn kệ tụng tán thán các đấng Pháp Vương. Nơi Tích th́ tấu nhạc, ca vịnh Thập Lực. Xét theo quán tâm th́ quán âm thanh chính là Không, là Giả, là Trung, tức là tán Phật.

 

1.1.2.1.3.5. Càn Thát Bà chúng

 

          (Kinh) Hữu tứ Càn Thát Bà vương: Nhạc Càn Thát Bà vương, Nhạc Âm Càn Thát Bà vương, Mỹ Càn Thát Bà vương, Mỹ Âm Càn Thát Bà vương, các dữ nhược can bách thiên quyến thuộc câu.

          ()有四乾闥婆王。樂乾闥婆王。樂音乾闥婆王。美乾闥婆王。美音乾闥婆王。各與若干百千眷屬俱。

          (Kinh: Có bốn vị Càn Thát Bà vương: Nhạc (Manojña) Càn Thát Bà vương, Nhạc Âm (Manojñasvara) Càn Thát Bà vương, Mỹ (Madhura) Càn Thát Bà vương, Mỹ Âm (Madhurasvara) Càn Thát Bà vương, mỗi vị cùng với vài trăm ngàn quyến thuộc nhóm họp).

 

          Càn Thát Bà (Gandharva), phương này dịch là Khứu Hương (嗅香, ngửi mùi thơm), dùng hương làm thức ăn. Cũng dịch là Hương Ấm (香陰). Thân họ tỏa mùi thơm, là tục nhạc thần của Thiên Đế. “Nhạc” là kỹ thuật biểu diễn điêu luyện (tràng đảo kỹ, 幢倒伎, tức nghệ thuật làm xiếc nhào lộn, tung hứng). Nhạc Âm là nhịp trống, đàn, sáo. Mỹ là kỹ thuật biểu diễn hay khéo. Mỹ Âm là sự đẹp đẽ thù thắng trong tiếng đàn sáo (“Tràng” tức là “duyên tràng” (緣幢), tức sào, cọc. Đảo () nghĩa là quăng, lật ngược v.v… [Hai chữ này ghép lại để chỉ các tạp kỹ, tức các loại biểu diễn giống như làm xiếc, chẳng hạn như leo dây, múa cột, tung hứng, đu bay v.v…] Dùng Tục để biểu thị Chân, cũng có thể đối ứng với pháp môn tứ giáo để giải thích). Bổn là trụ trong diệu Giả chẳng thể nghĩ bàn, Tích th́ tấu nhạc thế tục. Xét theo quán tâm, Không và Trung chính là Giả.

 

1.1.2.1.3.6. A Tu La chúng

 

          (Kinh) Hữu tứ A Tu La vương: Bà Trĩ A Tu La vương, Khư La Khiên Đà A Tu La vương, Tỳ Ma Chất Đa La A Tu La vương, La Hầu A Tu La vương, các dữ nhược can bách thiên quyến thuộc câu.

          ()有四阿修羅王。婆稚阿修羅王。佉羅騫駄阿修羅王。毗摩質多羅阿修羅王。羅睺阿修羅王。各與若干百千眷屬俱。

          (Kinh: Có bốn vị A Tu La vương: Bà Trĩ A Tu La vương, Khư La Khiên Đà A Tu La vương, Tỳ Ma Chất Đa La A Tu La vương, La Hầu A Tu La vương, mỗi vị cùng với vài trăm ngàn quyến thuộc nhóm họp).

 

          A Tu La (Asura), phương này dịch là Vô Tửu (無酒, không có rượu), cũng dịch là Vô Đoan Chánh (無端正), c̣n dịch là Phi Thiên (非天, chẳng phải là chư thiên).

          Bà Trĩ (Baḍin): Phương này dịch là Bị Phược (被縛), tức là bị Đế Thích trói. Nơi Bổn th́ có thể dùng năm thứ ràng buộc để trói ma và ngoại đạo. Nơi Tích th́ tạo h́nh tượng như thế. Xét theo quán tâm, dùng ba quán trí để trói ngũ trụ hoặc, nhập vào Thật Tế.

          Khư La Khiên Đà (Kharaskandha), phương này dịch là Quảng Kiên Giáp (廣肩胛, bờ vai rộng), cũng dịch là Ác Ấm, có thể khiến cho nước biển dâng trào. Nơi Bổn th́ trụ trong hai trí Quyền và Thật, từ bi gánh vác chúng sanh, nơi Tích th́ là thị hiện bờ vai to rộng. Xét theo quán tâm th́ Tam Quán có thể che lấp biển cả sanh tử ngũ trụ.

          Tỳ Ma Chất Đa La (Vemacitra, Vimalacitra), phương này dịch là Tịnh Tâm, cũng dịch là Chủng Chủng Nghi (các thứ ngờ vực), tức là cha của phu nhân Xá Chỉ (Śacī)[43]. Xét theo Bổn Tích, sắc và tâm vốn tịnh, nơi Tích thị hiện xấu xí, ghen ghét. Xét theo quán tâm th́ chánh quán Trung Đạo tức là tâm tịnh,

          La Hầu (Rahu), phương này dịch là Chướng Tŕ (障持, ngăn trở, nắm giữ), giơ tay che lấp ánh sáng của mặt trời và mặt trăng. Nơi Bổn th́ tŕ Trung Đạo Thật Tướng, có thể ngăn trở ánh sáng tà vạy của nhị biên. Nơi Tích th́ thị hiện giống như thế. Xét theo quán tâm, tŕ Chân Đế, chướng lấp ánh sáng ái kiến. Tŕ Trung Đế, ngăn trở ánh sáng của Không và Hữu.

          Lại nữa, xét chung theo các giáo th́ Sơ Giáo Bồ Tát trọn đủ ngũ trụ, gọi là “bị trói buộc”. Thông Giáo Bồ Tát hơi rộng hơn, nên gọi là Quảng Kiên Giáp (vai to rộng). Biệt Giáo th́ sơ tâm biết Trung, gọi là Tịnh Tâm. Viên Giáo ngăn chướng Hoặc, giữ lư, nên gọi là Chướng Tŕ.

          Xét chung về Bổn Tích th́ nơi Bổn trụ trong Đệ Nhất Nghĩa Thiên, nơi Tích thị hiện chẳng phải là thiên chúng. Xét chung về quán tâm th́ chủ thể để quán (năng quán) là Không, chẳng có trời, người trong tam giới. Chủ thể để quán chính là Giả, chẳng có phương tiện nghĩa thiên. Chủ thể để quán chính là Trung, chẳng có Thật Báo nghĩa thiên. Nhất Tâm Tam Quán trụ Thường Tịch Quang, là trời người mà chẳng phải là trời, chẳng phải là người.

 

1.1.2.1.3.7. Ca Lâu La chúng

         

          (Kinh) Hữu tứ Ca Lâu La vương, Đại Oai Đức Ca Lâu La vương, Đại Thân Ca Lâu La vương, Đại Măn Ca Lâu La vương, Như Ư Ca Lâu La vương, các dữ nhược can bách thiên quyến thuộc câu.

          ()有四迦樓羅王。大威德迦樓羅王。大身迦樓羅王。大滿迦樓羅王。如意迦樓羅王。各與若干百千眷屬俱。

          (Kinh: Có bốn vị Ca Lâu La vương: Đại Oai Đức (Mahātejas) Ca Lâu La vương, Đại Thân (Mahākāya) Ca Lâu La vương, Đại Măn Ca Lâu La vương (Mahāpūrṇa), Như Ư (Maharddhiprāpta) Ca Lâu La vương, mỗi vị cùng với vài trăm ngàn quyến thuộc nhóm họp).

 

          Ca Lâu La (Garuḍa)[44], phương này dịch là Kim Xí (金翅, cánh bằng vàng). Oai thế trấn áp các rồng, bèn có tên là Đại Oai Đức. To lớn hơn muôn loài bèn tên là Đại Thân. Rồng luôn thỏa măn ư ḿnh nên có tên là Đại Măn. Đầu có bảo châu, nên tên là Như Ư. Xét theo giáo, hơn hẳn các ngoại đạo th́ gọi là Đại Oai Đức. Là sơ môn của Đại Thừa nên gọi là Đại Thân. Hằng sa Phật pháp th́ gọi là Đại Măn. Viên minh tự tại th́ gọi là Như Ư. Bổn Tích và quán tâm có thể phỏng theo đó mà biết.

 

1.1.2.1.3.8. Nhân chúng

 

          (Kinh) Vi Đề Hy tử A Xà Thế vương, dữ nhược can bách thiên quyến thuộc câu.

          ()韋提希子阿闍世王。與若干百千眷屬俱。

          (Kinh: Con bà Vi Đề Hy là vua A Xà Thế cùng với vài trăm ngàn quyến thuộc nhóm họp).

 

          Vi Đề Hy (Vaidehī), phương này dịch là Tư Duy, là tên của mẹ. Cha tên là Tần Bà Sa La (Bimbisāra), phương này dịch là Mô Thật (模實). A Xà Thế (Ajātaśatru), phương này dịch là Vị Sanh Oán (未生怨, oán thù kể từ khi chưa sanh ra), hoặc gọi là Bà Lưu Chi, phương này dịch là Vô Chỉ (không có ngón tay). Cung nhân giấu diếm, gọi ông ta là Thiện Kiến. Tên gọi Thiện Kiến là Bổn, c̣n danh xưng Vô Chỉ là sự biểu hiện nơi Tích. Trong kinh Phổ Siêu, [có nói] ông ta trước đó đă sám hối diệt tội, cho nên trong hội Pháp Hoa, được dự vào Chứng Tín Chúng. Trong kinh Niết Bàn, đă trần thuật cội nguồn mọi chuyện. Nơi Bổn th́ đă trụ trong giải thoát chẳng thể nghĩ bàn, nơi Tích th́ thị hiện Ngũ Nghịch. Xét theo quán tâm, giết cha vô minh, hại mẹ tham ái.

          Hỏi: Đức Phật thuyết pháp trong loài người, cớ sao kinh liệt kê loài người ít ỏi?

Đáp: Kinh văn lược đi chẳng chép, chứ nhân loại thật ra chẳng ít. [Trong phần sau], kinh văn chép “cập chư tiểu vương, Chuyển Luân Thánh Vương đẳng” (và các tiểu vương, Chuyển Luân Thánh Vương v.v…) Kinh Vô Lượng Nghĩa liệt kê bốn Luân Vương, quốc vương, quần thần, dân chúng, nam nữ, số lượng rộng lớn. Hơn nữa, trong phẩm Phân Biệt Công Đức có nói tứ thiên hạ cho đến đại thiên vi trần số người đắc đạo. Trong số ấy, há chẳng có loài người ư?

          Hỏi: Trời, người, rồng, quỷ đều thấy Phật, nghe pháp, nhưng địa ngục đạo và Vô Sắc Giới cớ sao chẳng kể ra?

          Đáp: Nay sẽ biện định ư nghĩa ấy. Các đường thăng trầm do có tŕ giới hay hủy giới. Thấy Phật hay chẳng thấy Phật là do thừa có hoăn (thong thả, rề rà, buông lỏng) hay cấp (gấp gáp, nghiêm ngặt). Tŕ giới có thô hay tế, cho nên thọ báo có hơn kém. Thừa để tŕ th́ có Đại, Tiểu, cho nên thấy Phật có Quyền hay Thật. Lại phán định đại lược thừa và giới th́ mỗi đằng đều có ba phẩm. Kế đó, dùng bốn câu để liệu giản th́ ư nghĩa ấy sẽ rơ rệt:

          - Một là giới và thừa đều cấp.

          - Hai là giới hoăn, thừa cấp.

          - Ba là giới cấp, thừa hoăn.

          - Bốn là giới và thừa đều hoăn.

          Nhưng luận chung về giới thừa, hết thảy thiện pháp, hết thảy quán huệ đều được gọi là Giới, cũng đều có thể gọi là Thừa. Như ngũ thừa nhân, thiên v.v… và Đạo Cộng Giới v.v… Nay phán định riêng biệt th́ Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện, Bát Trai, Xuất Gia Luật Nghi, cho đến Định Cộng Giới có thể pḥng ngự thân và miệng, ngăn che ác đạo quả, đạt được cái quả nhân thiên, th́ đều gọi là Giới. Nếu nghe kinh sanh hiểu biết, dùng quán trí để suy t́m Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Lục Độ, sanh diệt, vô sanh, vô lượng, vô tác các trí, có thể phá phiền năo, chuyên chở [hành nhân] thoát khỏi sanh tử th́ gọi là Thừa.

          a. Một là giới và thừa đều cấp. Tŕ hạ phẩm giới, tức là giới cấp, quả báo ở trong loài người. Tŕ Tiểu Thừa tức là thừa cấp, dùng thân trong nhân loại, thấy Phật nghe pháp trong Tam Tạng Giáo. Tŕ Trung Thừa tức là thừa cấp, dùng thân người để thấy đạo, nghe pháp trong Thông Giáo Đại Thừa cho đến các giáo pháp Đại Thừa kèm theo phương tiện. Tŕ thượng thừa th́ là thừa cấp, dùng thân người để thấy Phật, nghe pháp trong các giáo như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa v.v… và Viên Giáo trong các giáo. Nếu tŕ trung phẩm giới th́ là giới cấp, quả báo là trong Dục Giới Thiên. Tŕ Tiểu Thừa là thừa cấp. Dùng thân cơi trời trong Dục Giới để thấy Phật, nghe pháp trong Tam Tạng Giáo. Những giáo khác giống như đă nói trong phần trước. Nếu tŕ thượng phẩm giới th́ là giới cấp, cộng thêm tu Thiền Định, quả báo là trong Sắc Giới hoặc cơi trời Vô Sắc. Tŕ Tiểu Thừa là thừa cấp, dùng thân trong Sắc Giới hoặc Vô Sắc Thiên để thấy Phật, nghe pháp trong Tam Tạng Giáo. Những giáo khác giống như đă nói trong phần trước. Giải thích câu đầu tiên đă xong.

          b. Hai là giới hoăn, thừa cấp. Đối với tam phẩm giới đều hoăn đăi (không tŕ giới nghiêm túc, lơ là, ơ hờ), quả báo là đọa trong tam đồ. Tŕ Tiểu Thừa là thừa cấp. Dùng thân tam đồ để thấy Phật nghe pháp trong Tam Tạng Giáo. Những giáo khác giống như đă nói trong phần trước. Giải thích câu thứ hai đă xong.

          c. Ba là giới cấp, thừa hoăn. Do ba loại giới (hạ phẩm, trung phẩm, thượng phẩm) đều cấp (tŕ giới nghiêm ngặt, chân thành), thọ thân trong trời, người, Sắc, Vô Sắc Thiên. Do tam thừa hoăn (không nghiêm túc học đạo, tu đạo), tuy Phật xuất thế thuyết pháp tam thừa, nhưng v́ [hành nhân] yêu đắm quả báo sung sướng, đắm đuối, hoang đàng nơi ngũ dục, cho nên chẳng thấy Phật, chẳng nghe pháp. Chẳng hạn như ba ức gia đ́nh tại thành Xá Vệ và chư thiên đắm đuối dục lạc trong tam giới là hạng người như thế đó. Giải thích câu thứ ba đă xong.

          d. Bốn là giới lẫn thừa đều hoăn, thọ quả báo trong tam đồ, chẳng thấy Phật, chẳng nghe pháp. Kinh này chẳng kể hạng địa ngục, v́ giới của họ hoăn đăi, bị quả báo khổ sở, nặng nề ngăn cách, thượng thừa lại hoăn, chẳng thể thấy Phật và nghe pháp trong hội Pháp Hoa được! Các kinh khác có liệt kê là v́ họ đối với các thừa khác “có gấp”.

          Lại c̣n chẳng kể Vô Sắc Giới Thiên, v́ họ đối với thượng phẩm giới th́ gấp, cho nên thọ thân trong cơi trời, nhưng chấp trước pháp vị nơi Định, cho nên thượng thừa trở thành hoăn đăi, chẳng thể thấy Phật, nghe pháp trong hội Pháp Hoa. Các kinh khác có nhắc tới họ là v́ đối với các thừa khác, họ “có gấp” (nghiêm ngặt dụng công tu tập). Nếu hiểu ư này, nhất nhất suy xét trời rồng tám bộ, sẽ biết bổn duyên của họ là hoăn đăi hay gấp rút, sẽ đều hiểu rơ ư nghĩa v́ sao họ đến, hoặc chẳng đến [tham dự pháp hội]. Giải thích cặn kẽ th́ như trong Tịnh Danh Sớ đă nói.

          Lại biết “dùng Quyền để dẫn khởi Thật” th́ ư nghĩa Bổn Tích càng rơ hơn. Hăy nên dùng điều này để suy xét quán hạnh của chính ḿnh, sẽ có thể nhận biết nhân quả ba đời rành rành. Ngài Diệu Lạc (tôn giả Kinh Khê Trạm Nhiên) nói: “Tịnh Danh Sớ dùng bảy nghĩa để giải thích bốn câu: Một là nói do thừa và giới [khác nhau] mà thấy Phật khác nhau. Hai là do hai hạnh tin pháp khác nhau. Ba là do Đại Thừa và Tiểu Thừa khác biệt. Bốn là do căn tánh tiệm hay đốn. Năm là ứng tích. Sáu là quán tâm. Bảy là hóa độ người khác”. Trước hết là nói về thừa và giới:

          - Có Thừa th́ sẽ gặp Phật; chẳng có Thừa, sẽ chẳng đến dự.

          - Hai là tin pháp, tọa Thiền, nghe học, giảng nói, đều được gặp Phật. Chỉ tùy theo pháp đă tu tập là Đại hay Tiểu [mà sẽ nghe pháp Đại hay Tiểu. Đó là điều thứ ba].

           - Bốn là tiệm đốn, v́ Đại Thừa hay Tiểu Thừa mỗi pháp đều có Tiệm hay Đốn.

          - Năm là ứng tích, chính ḿnh đạt được hai mươi lăm môn vương tam-muội, ứng hiện trong hai mươi lăm Hữu, dẫn hành giả thật sự hành pháp đến chỗ Phật.

          - Sáu là quán tâm, chỉ thuận theo quán hạnh để phán định sự thấy Phật.

          - Bảy là hóa độ người khác, thấy hay chẳng thấy đều xét theo phương diện lợi lạc người khác. Bậc đại quyền thị hiện dấu tích được nói đại lược như kinh văn trong phần này.

          Phần thứ nhất, liệt kê đại chúng đă xong.

 

1.1.2.2. Tổng kết đại chúng nhóm họp

         

          (Kinh) Các lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện.

          ()各禮佛足。退坐一面。

          (Kinh: Đều lễ dưới chân Phật, lui ra ngồi qua một bên).

 

          Phần thứ nhất của Tự Phần, nêu chung về hai môn Tích Môn và Bổn Môn đă xong.

 

1.2. Phần tựa nói riêng về hai môn Tích Môn và Bổn Môn     

         

          Kinh văn được chia làm hai phần:

          - Một là từ phần kinh văn ở chỗ này cho đến phẩm An Lạc Hạnh chính là phần Khai Quyền Hiển Thật của Tích Môn.

          - Hai là từ phẩm Tùng Địa Dũng Xuất cho đến phẩm Thường Bất Khinh là phần Khai Cận Hiển Viễn của Bổn Môn.

 

1.2.1. Tích Môn Khai Quyền Hiển Thật

         

          Chia thành ba phần:

          - Một kinh văn thuộc Tự Phần.

          - Hai là từ phẩm Phương Tiện cho đến phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Kư là kinh văn thuộc phần Chánh Thuyết (Chánh Tông Phần).

          - Ba là từ phẩm Pháp Sư cho đến phẩm An Lạc Hạnh thuộc vào phần Lưu Thông [của Tích Môn].

 

1.2.1.1. Tự phần của Tích Môn

         

          Chia thành năm đoạn:

          - Một là phần Tự nhóm họp đại chúng.

          - Hai là phần Tự về hiện tướng lành.

          - Ba là phần Tự nêu ra suy nghĩ nghi ngờ.

          - Bốn là phần Tự nêu thắc mắc.

          - Năm là phần Tự giải đáp câu hỏi.

          Phần Tự về chuyện nhóm họp đại chúng chính là Nhân Nhất. Phần Tự nói về chuyện hiện tướng lành (瑞相, thụy tướng) là Lư Nhất. Phần Tự nói về suy nghĩ nghi ngờ là Hạnh Nhất. Phần Tự vấn đáp là Giáo Nhất. Đó là giải thích xét theo nhân duyên (nhóm họp đại chúng là Thế Giới Tất Đàn. Hiện tướng lành là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn. Suy nghĩ ngờ vực là Vị Nhân Tất Đàn. Hỏi đáp là Đối Trị Tất Đàn, một mực như thế đó).

          Xét theo giáo, phần Tự này nhằm dẫn nhập phần Chánh Tông, chẳng phải là Tam Tạng, chẳng phải Thông, chẳng phải Biệt, mà nhằm dẫn khởi phần Chánh Tông thuộc Viên Giáo (chỉ chú trọng Viên Giáo, nên nói “chẳng phải” [Tạng, Thông, Biệt]).

          Xét theo Bổn Tích, nếu dùng phần Tự này để giới thiệu Tứ Nhất (Nhân Nhất, Lư Nhất, Giáo Nhất, Hạnh Nhất) trong Bổn Địa thuộc phẩm Thọ Lượng th́ sẽ tự hiểu rơ nghĩa này (Bổn Môn th́ phải tới phẩm Thọ Lượng [mới nói rơ], nhưng cũng có thể biểu thị sẵn [ngay trong Tích Môn]. Hăy nên biết trong phần Tự này, hiển thị rơ rệt về Tích Môn gồm bốn điều, ngầm biểu thị Bổn Môn cũng có bốn điều. [Chuyện đức Phật] thành Phật đă lâu [từ vô lượng A-tăng-kỳ kiếp trước] chẳng vượt ra ngoài bốn điều ấy. [Thành Phật] đă lâu hay mới đây tuy khác biệt, nhưng lư Tứ Nhất giống hệt như nhau).

          Xét theo quán tâm, Nhất Tâm Tam Đế là Lư Nhất. Nhất Tâm Tam Quán là Hạnh Nhất. Người quán như thế là Nhân Nhất. Có thể diễn nói cảnh được quán th́ là Giáo Nhất. Lại thường quán Tam Đức, Năng và Sở đều gồm bốn mục: Pháp Thân là Lư, Bát Nhă là Giáo, giải thoát là Hạnh. Ḥa hợp ba pháp sẽ thành “giả danh nhân”[45], tức là quán hạnh Như Lai. Nếu xét theo địa vị Lục Tức th́ địa vị nào cũng có Tứ Nhất. Trong mỗi niệm, niệm nào cũng gồm Tứ Nhất. Mỗi sắc, mỗi hương, không ǵ chẳng phải là Tứ Nhất. Quán hạnh như thế, đúng là Pháp Hoa tam-muội. Tâm và cảnh phát khởi lẫn nhau, tức là Tứ Nhất trong nhân duyên quán. Chẳng giống với ba giáo kia th́ là Tứ Nhất xét theo các giáo. Đă thành Phật từ lâu xa, tức là Tứ Nhất nơi Bổn địa quán.

 

1.2.1.1.1. Phần Tự về đại chúng vân tập

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn, tứ chúng vi nhiễu, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán.

          ()爾時世尊。四眾圍繞。供養恭敬尊重讚歎。

      (Kinh: Lúc bấy giờ, tứ chúng vây quanh đức Thế Tôn, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán).

 

          Câu trước nói về oai nghi của đại chúng nhóm họp; câu sau nói về đại chúng vân tập cúng dường. “Nhĩ thời” là lúc sắp hiện sáu tướng lành. “Tứ chúng” là Phát Khởi Chúng, Đương Cơ Chúng, Ảnh Hưởng Chúng, và Kết Duyên Chúng.

          Phát Khởi (發起) là dùng trí soi xét thông suốt quyền mưu, biết căn cơ, biết đúng thời, bèn khơi gợi, phát động để thành tựu sự lợi ích, như voi lớn bẻ cây để cho voi con được no ḷng. Nói “phát khởi khiến cho nhóm họp”, tức là [những ai] phát khởi tướng lành cho đến phát khởi chuyện vấn đáp v.v… th́ đều gọi là Phát Khởi Chúng (ứng theo [căn tánh của] chúng sanh mà lập bày th́ gọi là Quyền, thuận theo lẽ thích nghi mà chế lập th́ gọi là Mưu. Vừa có mưu, vừa có quyền, nên gọi là “quyền mưu” (權謀). Thật Trí dung hội bên trong, chẳng suy nghĩ mà thích đáng, nên nói “trí giám” (智鑒, trí xét soi). Soi xét điều thiện trong quá khứ có thể sanh trưởng, có thể thành tựu, cho nên gọi là “biết căn cơ”. Phù hợp đúng dịp chẳng sai chạy, nên gọi là “biết thời”. Đó là “nội đức”. Kích phát ḷng đại từ b́nh đẳng, dẫn phát điều thiện của đại chúng trong thuở ấy, nêu tỏ đại huệ bất nhị, thôi thúc khiến cho ba nghiệp được lợi ích. Lại c̣n kích phát túc nhân của đại chúng nhóm họp, phát khởi lợi ích mầu nhiệm của bậc đương cơ, hoằng dương đại giáo của Như Lai, lay động sự cố chấp của chúng sanh trong thuở ấy. Lại c̣n đánh động ḷng đại bi của Phật, cho nên nói là “kích phát”. Khơi mở thánh chỉ (ư chỉ của Phật), nên gọi là Dương (, hoằng dương, nêu tỏ), khiến cho họ nghe điều chưa được nghe th́ gọi là “phát động”. Khiến cho người nghe thật sự được thỏa măn th́ gọi là “thành biện” (成辦), [khiến cho người nghe] ắt đạt được giải ngộ th́ gọi là “lợi ích”. Đó là tác dụng ở bên ngoài. Voi chúa đại quyền bẻ cây Pháp Thân để đến chỗ dấy lên sự ứng hiện, diễn nói Thật trong Nhất Thừa, khiến [cho người đắc độ] no đẫy cơ duyên diệu hạnh. Năm phần của Phát Khởi Tự đều nhằm tạo lợi ích cho căn cơ của chúng sanh, cho đến phần vấn đáp v.v… đều nhằm dẫn nhập phần Chánh Tông).

          “Đương cơ” (當機) tức là [những ai] đă gieo cội đức từ trước, duyên hợp, thời cơ chín muồi, chẳng rời khỏi chỗ ngồi[46], vừa nghe liền đắc đạo (Luận định xít xao th́ là bậc Sơ Trụ, thâu nhiếp trọn khắp lục căn, ngũ phẩm).

          “Ảnh hưởng” (影響) là các vị Phật trong quá khứ, hoặc Pháp Thân Bồ Tát, ẩn giấu sự viên cực, khuông pḥ đấng pháp vương. Tuy chẳng làm ǵ, nhưng có lợi ích to lớn. Đấng hóa chủ hiện thân diễn nói, ắt phải nhờ có hóa bạn tạo ảnh hưởng. V́ thế, Đại Luận có câu hỏi: “V́ lẽ nào các tỳ-kheo thường theo đức Thế Tôn?” Đáp: Như bệnh đă lành, thường theo thầy thuốc, nhằm hiển lộ tài năng của y sư”. Luận ấy chỉ nói đến chuyện trong thực tế mà c̣n có ảnh hưởng như thế; huống hồ Pháp Thân Bồ Tát hay cổ Phật thị hiện giúp Phật giáo hóa ư? V́ thế, biết tứ chúng giống như người bệnh nhẹ đă lành, tám bộ [quỷ thần] như người bệnh nặng đă khỏi. Nặng hay nhẹ đều có ảnh hưởng dù Quyền hay Thật.

          “Kết duyên” (結緣) là những ai không có sức hướng dẫn, kích động [cơ duyên thành tựu đạo phẩm cho người khác], đức hạnh th́ chẳng có tác dụng khiến cho chúng sanh tuân phục, nghiêm tŕ, căn trong quá khứ nông cạn, tam huệ (Văn, Tu, Tư) chẳng nẩy sanh. Đời hiện tại tuy thấy Phật, nghe pháp, nhưng chẳng có bốn món lợi ích Tất Đàn, chỉ tạo nhân duyên đắc độ trong tương lai (trọn đủ Tứ Tất Đàn th́ gọi là Đương Cơ. Ngũ phẩm là lợi ích về Thế Giới. Lục căn là lợi ích thuộc về Vị Nhân và Đối Trị. [Đại chúng đương cơ] từ Sơ Trụ trở lên là lợi ích thuộc về Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn. Nếu chưa nhập phẩm (chưa dự vào ngũ phẩm[47]), đều gọi là Kết Duyên. Do vậy, trước khi đạt tới ngũ phẩm, sẽ chẳng có bốn điều lợi ích [thuộc về Tứ Tất Đàn] đối với Tam Huệ. Do chẳng có Văn Huệ, sẽ chẳng có Thế Giới Tất Đàn. Chẳng có Tư Huệ, cho nên chẳng có Vị Nhân Tất Đàn. Do chẳng có Tu Huệ, cho nên chẳng có Đối Trị Tất Đàn. Do chẳng chứng nhập, nên không có lợi ích thuộc Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn. Lợi ích trong Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn có thông và biệt. Thông th́ bao gồm ngũ phẩm, biệt th́ là Sơ Trụ. V́ thế, nói đến đắc độ cũng có thông và biệt, tức là thông và biệt trong Đệ Nhất Nghĩa).

          Chúng tỳ-kheo có bốn loại riêng biệt (phát khởi, đương cơ, ảnh hưởng, kết duyên), ba chúng kia (tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di) cũng thế, hợp thành mười sáu chúng. Giống như vào thời Đại Thông Trí Thắng Phật, các vương tử giảng lại [kinh Pháp Hoa sau khi Đại Thông Trí Thắng Phật nhập Định], họ chính là Phát Khởi Chúng thời đó. Những người nghe pháp đắc đạo chính là Đương Cơ Chúng thuở đó. Nghe pháp mà chưa đắc độ, nhưng đời đời gặp gỡ, có người thuộc địa vị Thanh Văn trong hiện thời, tức là Kết Duyên Chúng thuở đó. Vị Phật ấy đă có bốn lần bốn mười sáu chúng, vị Phật hiện tại (Thích Ca Mâu Ni Phật) cùng một đạo, há chẳng có [mười sáu chúng] ư? Đấy là mười sáu chúng trong Viên Giáo. Ba giáo kia phỏng theo đó cũng có thể biết.

          Xét theo Bổn Tích, hăy dựa theo Thể và Dụng để nói về Bổn Tích. Bổn th́ trụ trong địa vị tôn quư cùng cực (Phật quả), hoặc thuộc địa vị Pháp Thân sâu xa. Nơi Tích th́ là mười sáu chúng trong bốn giáo.

          Xét theo quán tâm, suy xét cảnh, tác quán, sẽ thuộc vào địa vị Danh Tự và Quán Hạnh, sẽ trở thành Kết Duyên Chúng. Dự vào địa vị Tương Tự, sẽ trở thành Đương Cơ Chúng. Thuộc vào địa vị Phần Chân (Phần Chứng Tức Phật), sẽ trở thành Phát Khởi Chúng và Ảnh Hưởng Chúng (Nếu đă nhập từ xưa, th́ chỉ gọi là Ảnh Hưởng Chúng. Nếu là mới nhập th́ gọi là Đương Cơ Chúng, mà cũng là Ảnh Hưởng Chúng, cũng như là Phát Khởi Chúng, giống như các vị phát thệ hoằng truyền kinh vậy).

          “Vi nhiễu” (vây quanh): Lúc đức Phật mới xuất thế, loài người chưa biết pháp, Tịnh Cư Thiên giáng hạ, hóa hiện h́nh dáng con người, đến chỗ Phật đi nhiễu theo chiều phải. Nhiễu xong bèn lễ kính. Lễ xong, bèn ngồi nghe pháp, [quy cách ấy] bèn trở thành khuôn mẫu. Đó là giải thích theo nhân duyên (Tịnh Cư Thiên giáng hạ tức là Thế Giới Tất Đàn. Hóa thành thân người, tức Vị Nhân Tất Đàn. Coi là khuôn mẫu, tức Đối Trị Tất Đàn. Lễ xong nghe pháp chính là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn). “Đoàn nhiễu” (團繞, đi ṿng quanh) tức là nói tới oai nghi đi nhiễu quanh, biểu thị căn cơ thuộc bốn môn đă động, đều thấy viên lư. Đem Viên đối ứng với Thiên th́ theo lệ có bốn nghĩa. Đó chính là dựa theo giáo để giải thích.

          Lại nữa, thân Phật trọn khắp tướng hảo trang nghiêm, đi nhiễu quanh bốn phía để chiêm ngưỡng, tăng trưởng Niệm Phật Định. Đó chính là dựa theo quán tâm mà giải thích.

          Nếu quán sắc thân của Phật mà thấy Pháp Thân, th́ là giải thích theo Bổn Tích.

          Lại dựa theo Thể, Dụng và lâu xa hay gần đây [để luận định] th́ nơi Bổn, trụ trong Pháp Thân bất động mà chẳng phải bất động, nơi Tích th́ thị hiện căn cơ thuộc các giáo đi nhiễu quanh đức Phật.

          “Cúng dường”: Nếu luận định chung th́ ba nghiệp đều là cúng dường. Nếu luận định riêng biệt th́ cần phải khiêm ty, cẩn trọng, kiền thành, kính lễ th́ mới gọi là “cung kính”. Chí tâm chuyên chú là “tôn trọng”. Thốt lời khen ngợi th́ gọi là “tán thán”. Dùng y báo để bố thí th́ gọi là “cúng dường”. Ở đây, kinh văn nói giản lược. Nói chi tiết th́ như trong kinh Vô Lượng Nghĩa: Bếp trời, hương trời, đồ đựng trên cơi trời v.v… là cúng dường. Đại Trang Nghiêm Bồ Tát và tám vạn đại sĩ chắp tay, đó là cung kính. Nhất tâm chiêm ngưỡng là tôn trọng. Thuyết kệ tụng mỗi câu có bảy chữ chính là tán thán. Trong kinh ấy, đại chúng vân tập, thuyết pháp xong, nghiễm nhiên chẳng giải tán, từ ngay nơi pháp ṭa ấy, nói kinh Pháp Hoa. V́ thế dùng các chi tiết được nói trong kinh ấy để giải thích các chỗ đại lược trong kinh này, ư nghĩa chẳng trở ngại!

 

1.2.1.1.2. Phần Tự về hiện tướng lành       

1.2.1.1.2.1. Hiện sáu tướng lành trong cơi này

 

          Phần này chia thành sáu đoạn:

          - Một là tướng lành thuyết pháp.

          - Hai là tướng lành nhập Định.

          - Ba là tướng lành tuôn mưa hoa.

          - Bốn là tướng lành đại địa chấn động.

          - Năm là tướng lành đại chúng hoan hỷ.

          - Sáu là tướng lành phóng quang.

          Thuyết pháp biểu thị “thuyết pháp diệu” và “trí diệu”. Nhập Định biểu thị “hạnh diệu”. Tuôn mưa hoa biểu thị “vị diệu“ (địa vị mầu nhiệm). Đất chấn động biểu thị “cảnh diệu” và “thừa diệu”. Đại chúng hoan hỷ biểu thị “quyến thuộc diệu” và “lợi ích diệu”. Phóng quang biểu thị “cảm ứng diệu” và “thần thông diệu”. V́ thế, sáu điều ấy đều được gọi là phần Tự về hiện tướng lành. Chỗ này bất đồng với Thần Thông Diệu được nói trong phần Huyền Nghĩa. Trong ấy, [thần thông diệu] bao gồm sáu tướng lành thuộc về hương, gió, đại địa thanh tịnh… giữa hai cơi; cho nên gồm thâu trọn khắp; c̣n kinh văn trong phần này chẳng nói đến cơi khác, mà là cơi này tự trọn đủ. Đối với các kinh văn được xét đến, đều ư nghĩa thông và biệt. Những lời lẽ biểu thị đều hàm chứa ư nghĩa rộng lớn. Bởi lẽ, đối với đại sự, bậc đại nhân tạo sự cảm động to lớn, ḥng khiến cho căn cơ to lớn được hưởng lợi ích to lớn. Để hiển thị đại lư, đều cần phải có đại quyến thuộc phù trợ đại hội, đều cảm đại thời, đại vận (cơ duyên to lớn) chín muồi. Nếu chẳng phải là Linh Sơn đă cùng hội đủ [các nhân duyên ấy] th́ để [cho các căn trong] đời này có thể đích thân tiếp nhận, há có thể khế hợp được ư, há có thể suy lường nổi ư?

 

1.2.1.1.2.1.1. Tướng lành thuyết pháp

 

          (Kinh) Vị chư Bồ Tát thuyết Đại Thừa kinh, danh Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm.

          ()為諸菩薩說大乘經。名無量義。教菩薩法。佛所護念。

          (Kinh: V́ các vị Bồ Tát nói kinh Đại Thừa tên là Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm).

 

          Câu đầu nêu ra Pháp Thể sẽ được nói. Câu kế đó, nêu ra tên của Thể. Câu thứ ba nói đến chỗ nương tựa của Bồ Tát. Câu thứ tư nói đến sự thủ hộ của Phật.

          Đại Thừa: Kinh Thiện Giới nói có bảy thứ đại:

          - Một là pháp đại, ư nói mười hai bộ Tỳ Phật Lược (Vaipulya, Phương Quảng).

          - Hai là tâm đại, tức cầu Vô Thượng Đại Bồ Đề.

          - Ba là giải đại, tức là thấu hiểu Bồ Tát tạng.

          - Bốn là tịnh đại, tức là kiến đạo, tâm địa thanh tịnh.

          - Năm là trang nghiêm đại, tức là phước đức, trí huệ.

          - Sáu là thời đại, tức ba A-tăng-kỳ kiếp tu hành.

          - Bảy là cụ túc đại, tức là dùng tướng hảo tự trang nghiêm để đắc Bồ Đề.

          [Trong ấy], điều thứ sáu chính là nhân đại, điều thứ bảy là quả đại. Đại nhân, đại quả th́ được gọi là kinh Đại Thừa. Nay đem mười diệu để đối ứng th́ pháp đại là “cảnh diệu”, tâm đại và giải đại chính là “trí diệu”, tịnh đại và trang nghiêm đại là “hạnh diệu”, thời đại là “vị diệu” (sự mầu nhiệm nơi địa vị), cụ túc đại là “tam pháp diệu” (ba pháp Giới, Định, Huệ đều diệu). Do nhân mà có quả, Năng lẽ nào chẳng có Sở? V́ thế, không chỉ có năm thứ trước, mà ắt c̣n kèm thêm năm thứ sau. Nhưng ba A-tăng-kỳ, nghĩa bao gồm Tam Tạng, từ tên gọi giống nhau, có thể tương ứng với thập diệu.

          Vô Lượng Nghĩa: Kinh ấy nói: “Tùng nhất pháp sanh, kỳ nhất pháp giả, sở vị vô tướng. Vô tướng bất tướng, danh vi Thật Tướng. Tùng thử Thật Tướng, sanh vô lượng pháp” (Từ một pháp sanh, một pháp ấy chính là nói tới vô tướng. Vô tướng chẳng phải là tướng th́ gọi là Thật Tướng. Từ Thật Tướng, sanh ra vô lượng pháp). Nói tới nhị pháp, tam đạo, tứ quả, nay sẽ giải thích. “Vô tướng” là chẳng có tướng sanh tử. “Bất tướng” là chẳng có tướng Niết Bàn, Niết Bàn cũng không. V́ thế nói là bất tướng”, tức là nói “Trung Đạo là Thật Tướng”. “Nhị pháp” chính là Đốn và Tiệm. Đốn là như hết thảy các pháp đốn trong Hoa Nghiêm. Tiệm là hết thảy các pháp thuộc Tam Tạng, Phương Đẳng, Bát Nhă v.v… “Tam đạo” tức tam thừa. Tứ Quả tức La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, và Phật. Các pháp ấy được gọi là Vô Lượng. Thật Tướng được gọi là Nghĩa Xứ. Từ một nghĩa xứ, xuất sanh vô lượng pháp, và vô lượng nghĩa xứ lại nhập vào một nghĩa xứ để làm Tự (dẫn đường cho kinh Pháp Hoa). Ví như tính toán, từ một phép toán mà suy ra các phép toán khác. Sau đó, loại bỏ các phép toán khác để quy vào một kết quả tính toán. Do các phép toán [trung gian không chứa kết quả cuối cùng] nên bỏ đi, các phép toán trung gian chính là các bước dẫn khởi đến bước loại trừ cuối cùng. Tách ra chính là bước dẫn khởi cho việc ghép lại cũng giống như thế. Từ trong một mà phát ra các ư nghĩa, rồi lại thâu tóm các ư nghĩa về một.

          “Giáo Bồ Tát pháp”: Vô lượng nghĩa xứ dùng để dạy Bồ Tát. Nghĩa xứ tức là Đế lư. Kinh văn trong phần sau có nói: “Phổ linh nhất thiết chúng, diệc đồng đắc thử đạo” (khiến cho hết thảy mọi người cũng cùng đắc đạo này). Lại nói: “Nhược ngă ngộ chúng sanh, tận giáo dĩ Phật đạo” (nếu ta gặp chúng sanh, đều dùng Phật đạo dạy) chính là ư này.

          “Phật sở hộ niệm”: Vô lượng nghĩa xứ do Phật tự chứng đắc. Kinh văn trong phần sau có nói: “Phật tự trụ Đại Thừa, tuy dục khai thị, nhi chúng sanh căn độn, cửu mặc tư yếu, bất vụ tốc thuyết” (Phật tự trụ trong Đại Thừa, tuy muốn khai thị, nhưng do căn cơ của chúng sanh chậm lụt, cho nên chẳng nói điều ấy đă lâu, chẳng vội nói). V́ thế nói là “hộ niệm”.

 

1.2.1.1.2.1.2. Tướng lành nhập Định

 

          (Kinh) Phật thuyết thử kinh dĩ, kết gia phu tọa, nhập ư Vô Lượng Nghĩa Xứ tam-muội, thân tâm bất động.

          ()說此經已。結加趺坐。入於無量義處三昧。身心不動。

          (Kinh: Đức Phật nói kinh này xong, ngồi xếp bằng, nhập trong Vô Lượng Nghĩa Xứ tam-muội, thân tâm bất động).

 

          “Gia phu tọa (加趺坐,ngồi xếp bằng, chéo chân, hai ḷng bàn chân lật ngửa lên): Từ xưa, chư Phật và các đệ tử đều hành pháp này khiến cho kẻ khác cung kính, ḥng đẹp ư của trời, người. V́ thế, chẳng giống với nghi tiết của thế gian và ngoại đạo, do có thể phá ma quân, do có thể phát khởi tâm Chánh Giác. Đấy chính là ư nghĩa Tứ Tất Đàn.

          “Nói kinh xong, bèn nhập tam-muội”: Định và Huệ thành tựu lẫn nhau, chẳng có Thiền sẽ không có trí; v́ thế, trước hết nhập Định. Chẳng có trí, sẽ không có Thiền; v́ thế, thuyết pháp trước. Trí chính là Thiền, Thiền chính là trí, trước sau nhập xuất, chẳng bị ngăn ngại. Kẻ ôm ḷng nghi nói: “Nếu chưa nói vô lượng nghĩa th́ có thể nhập môn Định ấy! Nói kinh ấy xong, cớ sao nhập Định?” Giải rằng: “Do kinh ấy dẫn đường cho kinh Pháp Hoa! V́ sao? Nếu chẳng mở ra [vô lượng nghĩa] trước; sau đó, sẽ không có ǵ để gộp lại! Trước hết nhập khai Định dẫn khởi cho hợp Định[48]. V́ thế, gọi là “tướng lành”.

          “Thân tâm bất động”: Do chỗ để duyên theo tương ứng với Thật Tướng nghĩa xứ. Nguồn cội của cái thân b́nh lặng dường hư không. Lư tánh nơi tâm rốt ráo thường tịch. Trong kinh văn thuộc phần sau, trong bài kệ tán thán Đại Thông Trí Thắng Phật có nói: “Thân tâm cập thủ túc, tịch nhiên an bất động. Kỳ tâm thường đảm phạ, vị tằng hữu tán loạn” (Thân, tâm và chân tay, vắng lặng, an, bất động. Tâm Ngài thường an định, chưa hề có tán loạn). Nay thân như kim cang, chẳng thể lay chuyển. Tâm dường hư không, chẳng có phân biệt. Ǵn giữ pháp Vô Lượng Nghĩa Xứ tam-muội nơi thân tâm. V́ thế, bất động. Định nương vào nghĩa xứ, vẫn gọi là vô lượng. Môn Định ấy vắng lặng mà thường chiếu, có thể biết thế gian từ một pháp ấy mà sanh ra vô lượng pháp. Pháp thể của cái thân vốn là vận động, nay khiến cho nó bất động; pháp thể của cái tâm có tánh chất phân biệt, nay giữ cho nó chẳng phân biệt. Ư nghĩa được trần thuật đă rơ ràng vậy.

          Hỏi: [Hễ nói đến] “tướng lành” th́ vốn là nói đến chuyện kỳ lạ, thuyết pháp và nhập Định vốn là oai nghi thường hằng của Phật, sao lại nói là “tốt lành”?

          Đáp: [Đức Phật] thuyết pháp vừa xong, ngay lập tức nhập Định, khiến cho đại chúng khi ấy chẳng giải tán, nghiêm túc chờ đợi. V́ thế biết: Do phần thuyết pháp trước đó, toàn thể đại chúng tụ tập, đợi nghe phần giảng sau đó. Đó là điều đặc biệt lạ lùng, khác với các buổi thuyết pháp thông thường, lẽ nào chẳng phải là “điều tốt lành”? Tuy nhập khai định, ư ở chỗ hợp Định, khác với chuyện nhập Định thông thường, lẽ nào chẳng phải là tốt lành? Ngài Văn Thù lại dẫn sáu điềm lành của cổ Phật, đều có những chuyện ấy. Nếu xưa kia chẳng phải là tướng lành, sao có thể chứng minh cho hiện tại được? Xưa nay giống hệt nhau, há có thể dùng phàm t́nh để phủ định ư?

 

1.2.1.1.2.1.3. Tướng lành tuôn mưa hoa

 

          (Kinh) Thị thời, thiên vũ Mạn Đà La hoa, Ma Ha Mạn Đà La hoa, Mạn Thù Sa hoa, Ma Ha Mạn Thù Sa hoa, nhi tán Phật thượng, cập chư đại chúng.

          ()是時天雨曼陀羅華。摩訶曼陀羅華。曼殊沙華。摩訶曼殊沙華。而散佛上。及諸大眾。

          (Kinh: Khi đó, trời mưa hoa Mạn Đà La (Mandārava), hoa Ma Ha Mạn Đà La (Mahāmandārava), hoa Mạn Thù Sa (Mañjūṣaka), hoa Ma Ha Mạn Thù Sa (Mahāmañjūṣaka) để rải lên đức Phật và các đại chúng).

 

          Bốn thứ hoa theo lối cựu dịch là Bạch, Đại Bạch, Xích (đỏ), Đại Xích, hoặc dịch là Thích Ư, Đại Thích Ư, Nhu Nhuyễn, Đại Nhu Nhuyễn. “Bạch” biểu thị Thập Trụ khai Phật tri kiến. Đại Bạch biểu thị Thập Hạnh “thị Phật tri kiến”. Xích biểu thị Thập Hồi Hướng ngộ Phật tri kiến. Đại Xích biểu thị Thập Địa nhập Phật tri kiến. Bốn mươi địa vị đều là cái nhân thành Phật. Cái nhân ấy sanh từ Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa. V́ thế, từ trên trời tuôn xuống. Nhân có nghĩa “hướng đến quả”; v́ thế, rải lên đức Phật. Nhân quả như thế, ai sẽ cảm vời đạt được? Chỉ có đại chúng trong hội này vào thuở đó. V́ vậy nói “cập chư đại chúng” (và các đại chúng).

 

1.2.1.1.2.1.4. Tướng lành đại địa chấn động

 

          (Kinh) Phổ Phật thế giới lục chủng chấn động.

          ()普佛世界。六種震動。

          (Kinh: Khắp thế giới Phật, sáu thứ chấn động).

 

          Biểu thị Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác là sáu phen phá vô minh. Vô minh đă gần hết, mỏng mảnh, chưa từng hoàn toàn bị phá hủy, nay sắp bị phá hoại, cho nên dùng chuyện chấn động cơi đất để biểu thị. Kinh Ưu Bà Tắc Thanh Tịnh Hạnh nói: “Bồ Tát sanh thời động địa, thị thử sanh dĩ tận, vô phục phiền năo, nhất thiết chúng sanh ưng đắc đạo giả, phiền năo tương diệt, cố động” (Khi Bồ Tát sanh bèn chấn động cơi đất, nhằm biểu thị sanh đă hết, chẳng c̣n phiền năo. Hết thảy chúng sanh đáng nên đắc đạo, phiền năo sắp diệt, cho nên chấn động), chính là nghĩa này.

          Giải thích theo Bổn Tích th́ như ngài Văn Thù giải trừ điều nghi, dẫn chuyện cổ Phật để đáp, ngầm đạt được ư này. Đó chính là “biết Bổn”. Không chỉ các vị Phật xưa kia đă hiện tướng lành ấy, mà đức Thế Tôn nơi Bổn cũng hiện tướng lành ấy, chẳng phải chỉ là một phen trong hiện thời!

          Giải thích theo quán tâm, th́ là chấn động sáu căn, tiêu tan chấp trước nơi lục căn. Như tướng đất kiên cố, lay động cơi đất khó lay động, biểu thị tịnh hóa các căn chưa thanh tịnh. [Các tướng chấn động như] Đông vọt lên, Tây ch́m xuống, phương Đông màu xanh, chủ gan, gan chủ mắt. Phương Tây màu trắng, chủ phổi, phổi chủ mũi. Điều này biểu thị công đức sanh từ nhăn căn, diệt phiền năo nơi tỵ căn, tỵ căn sanh khởi công đức. Phương Nam màu đỏ, chủ tâm, tâm chủ lưỡi. Phương Bắc màu đen, chủ thận, thận chủ tai. Bốn bên biểu thị thân, trung ương biểu thị ư. Thân có đủ bốn căn, ư duyên trọn khắp bốn căn. Các phương đối ứng [phương này] vọt lên, phương kia ch́m xuống, biểu thị công đức lần lượt sanh ra nhau, phiền năo diệt lẫn nhau. Hăy nên biết như thế.

          Sáu thứ chấn động, theo cựu dịch th́ là động, khởi, dũng, chấn, hống, và giác. Rung lắc chẳng yên th́ gọi là Động (). Từ dưới dâng cao lên th́ là Khởi (). Trồi lên hụp xuống th́ là Dũng (). Có tiếng động ngầm (ầm ́ không nghe rơ tiếng) th́ là Chấn (). Phát ra tiếng vang răng rắc là Hống (). Khiến cho chúng sanh nhận biết kinh sợ th́ là Giác (). Tân dịch th́ nói là Động, Dũng, Kích, Chấn, Hống, Bộc. Kích () là như va đập. Bộc () là như tiếng lửa [cháy nổ lốp bốp]. Ba thứ đầu là h́nh tướng, ba thứ sau là âm thanh. Do kinh luận nêu đại lược, nên chỉ nói là “chấn động”, tức là đối với h́nh tướng và âm thanh mỗi loại, chỉ nêu một thứ. Trong mỗi loại, lại có ba thứ là động, biến động, đẳng biến động. Ngay nơi chỗ ấy bị lay động th́ gọi là Động. Tứ thiên hạ đều động là Biến Động (徧動). Đại thiên thế giới đều động th́ gọi là Đẳng Biến Động (等徧動). Năm thứ kia cũng thế, hợp thành mười tám thứ chấn động, tức là biểu thị sự tịnh hóa mười tám giới. Lại nữa, căn nào cũng đều tu Tam Quán, như mười tám món động. Tướng động tuy có mười tám loại, nhưng cái bị động chỉ là một, tức đại địa. Như căn tuy có sáu món, giới tuy có mười tám món, do vô minh đă phá th́ hết thảy đều bị phá.

 

1.2.1.1.2.1.5. Tướng lành đại chúng hoan hỷ

 

          (Kinh) Nhĩ thời, hội trung tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, thiên, long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân, cập chư tiểu vương, Chuyển Luân Thánh Vương, thị chư đại chúng, đắc vị tằng hữu, hoan hỷ hiệp chưởng, nhất tâm quán Phật.

          ()爾時會中比丘、比丘尼。優婆塞。優婆夷。天。龍。夜叉。乾闥婆。阿修羅。迦樓羅。緊那羅。摩睺羅伽。人。非人。及諸小王。轉輪聖王。是諸大眾。得未曾有。歡喜合掌。一心觀佛。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, trong hội, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người, và các tiểu vương, Chuyển Luân Thánh Vương, các đại chúng ấy đạt được điều chưa từng có, hoan hỷ chắp tay, nhất tâm quán Phật).

 

          Ưu-bà-tắc (Upāsaka) phương này dịch là Cận Sự Nam. Ưu-bà-di (Upāsikā), phương này dịch là Cận Sự Nữ, bẩm thọ Tam Quy, Ngũ Giới, là những người thân cận, thừa sự Tam Bảo, nhưng chia thành tại gia và xuất gia. Tại gia th́ gọi là Cận Sự, xuất gia th́ gọi là Cận Trụ. Xuất gia th́ ở trong Tăng-già-lam (tự viện), nhưng chưa cạo bỏ râu tóc, chưa thọ mười giới. V́ thế, chẳng gọi là Sa Di.

          Dạ Xoa (Yakṣa), phương này dịch là Tiệp Tật (捷疾, nhanh chóng), cũng dịch là Dũng Kiện (勇健, mạnh mẽ), c̣n dịch là Bạo Ác, là tên một loài quỷ phi hành.

          Ma Hầu La Già (Mahoraga), phương này dịch là Đại Phúc Hành (大腹行, loài ḅ trườn lớn)[49], những loại kia như đă giải thích trong phần trước. “Nhân phi nhân”: Tứ chúng là người, tám bộ th́ là phi nhân. Câu này nhằm tổng kết.

          “Tiểu vương” như mười sáu quốc vương[50], cho đến những người đứng đầu các thôn xóm. Chuyển Luân Thánh Vương (Chakravarti-raja) có bốn loại:

          - Một là Kim Luân Vương, vua tứ thiên hạ.

          - Hai là Ngân Luân Vương làm vua ba thiên hạ, trừ Bắc Châu (Bắc Câu Lô Châu).

          - Ba là Đồng Luân Vương, vua hai thiên hạ, trừ Tây Châu (Tây Ngưu Hóa Châu).

          - Thiết Luân Vương, vua của Nam Châu (Diêm Phù Đề).

          Hỏi: Thuở đức Phật tại thế, há có bốn luân vương ư?

Đáp: Người đáng được nghe kinh Pháp Hoa đều từ các cơi khác nhóm đến.

          Hỏi: V́ sao trong phần liệt kê đại chúng trước đó chẳng liệt kê họ?

          Đáp: Cùng nghe để chứng tín, đều chẳng phải liệt kê tùy tiện được, phần nhiều [là liệt kê những người] thuộc hai loại Ảnh Hưởng và Phát Khởi [để chứng tín]. Nay trong phần này nói trọn khắp chúng Đương Cơ và Kết Duyên, chớ nên bắt bẻ! Đại chúng thấy mưa hoa, đất chấn động, biết cam lộ sắp giáng. V́ thế, hân hoan, hớn hở đầy ắp trong tâm. biểu thị căn cơ to lớn sẽ được phát khởi, cảm vời sự ứng hiện thù thắng.

          Hỏi: Hỷ nộ là chuyện thường t́nh của con người, sao lại coi là tướng lành?   Đáp: Hoa trời sướng mắt, đất động rúng ḷng. V́ thế, Đại Kinh nói: “Động thời năng linh chúng sanh tâm động” (Khi [đại địa] động có thể khiến cho tâm chúng sanh động). Hoa và đất biểu thị điều lành bên ngoài. Tâm vui sướng là điều lành bên trong, chẳng phải là sự vui sướng tầm thường. Tuy trước kia đă từng có, nhưng chẳng bị hoan hỷ lay động, có thể nhất tâm quán Phật, sao chẳng phải là điều lành? Xét theo giáo, hoan hỷ động Ấm tâm, là ư nghĩa trong nhân thiên. Hoan hỷ động Chân Đế vô lậu tâm là ư nghĩa trong Tạng Giáo và Thông Giáo. Hoan hỷ động cái tâm tức Giả chính là ư nghĩa trong Biệt Giáo. Hoan hỷ động Thật Tướng tâm là ư nghĩa trong Viên Giáo. Ở đây là [sự động tâm] theo Viên Giáo.

          Hỏi: Thật lư bất động, sao lại nói là động?

          Đáp: Động chính là phát khởi. Căn cơ Viên Giáo sẽ thành th́ gọi là “động Thật Tướng”. Xét theo Bổn Tích, Bổn là trụ trong tam-muội bất động, c̣n Tích là dùng đất chấn động để biểu thị sự phát khởi. Xét theo quán tâm th́ một niệm diệu quán vừa động, các tâm sở khác đều tùy thuận mà động theo!

 

1.2.1.1.2.1.6. Tướng lành phóng quang

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật phóng mi gian bạch hào tướng quang, chiếu Đông phương vạn bát thiên thế giới, mỵ bất châu biến.

          ()爾時佛放眉間白毫相光。照東方萬八千世界。靡不周徧。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật phóng quang từ tướng bạch hào giữa hai mày, chiếu một vạn tám ngàn thế giới ở phương Đông, không đâu chẳng trọn khắp).

 

          Phóng quang biểu thị ứng theo căn cơ mà lập giáo, phá Hoặc trừ nghi. “Bạch hào” (Ūrṇā, tướng lông trắng cuộn tṛn theo chiều phải như một viên ngọc chính giữa hai mày): Kinh Quán Phật Tam Muội Hải nói: “Phật sơ sanh thời, khiên trường ngũ xích. Khổ hạnh thời, trường nhất trượng tứ xích. Đắc Phật thời, trường nhất trượng ngũ xích. Kỳ hào trung biểu câu không, bạch như lưu ly đồng, nội ngoại thanh tịnh. Tùng sơ phát tâm, trung gian hạnh hành chủng chủng tướng mạo, năi chí nhập Niết Bàn nhất thiết công đức, giai hiện hào trung” (Lúc đức Phật sơ sanh, bạch hào kéo ra dài năm thước. Khi khổ hạnh, dài một trượng bốn thước. Khi thành Phật, dài một trượng năm thước. Bạch hào ấy trong ngoài đều rỗng không, trắng như ống lưu ly, trong ngoài thanh tịnh. Các thứ tướng mạo từ sơ phát tâm, trong khoảng giữa hành các hạnh, cho đến hết thảy công đức khi nhập Niết Bàn đều hiện trong bạch hào).

          Bạch hào ở giữa hai lông mày, biểu thị Trung Đạo thường hằng. Nó mềm mại, biểu thị Lạc. Cuộn vào, duỗi ra tự tại, biểu thị Ngă. Màu trắng biểu thị Tịnh. Phóng quang nhằm phá tăm tối, biểu thị Trung Đạo sanh ra quang minh trí huệ. Chiếu cơi này và cơi khác, biểu thị tự giác, giác ngộ người khác. Lại nữa, Tạng và Thông tuy biết hai Đế (Chân Đế và Tục Đế), nhưng chẳng biết Trung Đạo, như có hai lông mày mà chẳng có bạch hào. Biệt Giáo tuy biết Tam Đế (Chân Đế, Tục Đế và Trung Đế), chẳng thể trọn đủ hết thảy các pháp trong bạch hào. Nay các chuyện từ ban đầu cho tới mai sau trong pháp giới đều hiện nơi bạch hào, chính là biểu thị ư nghĩa Viên Giáo.

          Lại nữa, các kinh nói phóng quang khác nhau. Trong phẩm Như Lai Hiện Tướng của kinh Hoa Nghiêm, từ nơi răng phóng quang, phát ra kệ tụng để nhóm họp đại chúng; đấy là biểu thị sắp thuyết pháp. Lại nữa, phóng quang từ giữa hai mày, [quang minh tỏa ra] nhập vào chân, biểu thị dùng cực quả làm cái nhân chân thật. Trong phẩm Phổ Hiền Tam Muội, từ lỗ chân lông, phóng quang tán tụng Phổ Hiền, biểu thị hạnh Phổ Hiền trọn khắp. Trong phẩm Quang Minh Giác, phóng quang từ hai bàn chân, biểu thị pháp môn Thập Tín. Trong phẩm Tu Di Sơn Đảnh, phóng quang từ hai ngón chân, biểu thị Thập Trụ. Trong phẩm Dạ Ma Thiên Cung, phóng quang từ hai chân rọi lên trên, biểu thị Thập Hạnh. Trong phẩm Đâu Suất Thiên Cung, phóng quang từ hai gối, biểu thị Thập Hồi Hướng. Trong phẩm Thập Địa, phóng quang từ giữa hai mày, biểu thị Thập Địa chứng thẳng vào Trung Đạo. V́ thế nói kiêm và biệt. Trong phẩm Như Lai Xuất Hiện, phóng quang minh từ tướng bạch hào, [quang minh chiếu xong liền] nhập vào đỉnh đầu diệu đức. Đó là khiến cho [bậc đương cơ] thưa hỏi Phật pháp viên diệu. Phóng quang minh từ miệng, nhập vào miệng ngài Phổ Hiền, tức là dạy [Phổ Hiền Bồ Tát] hăy nói Phật pháp viên diệu. Trong phẩm Nhập Pháp Giới, phóng quang minh từ tướng bạch hào, khiến cho các vị Bồ Tát thấy Phật sự trong trọn khắp pháp giới. Đấy là muốn khiến cho chúng sanh an trụ trong Sư Tử Tần Thân tam-muội. Trong kinh Đại Phẩm Bát Nhă, từ tướng bánh xe ngàn căm dưới ḷng bàn chân cho đến nhục kế trên đỉnh đầu, mỗi tướng đều phóng sáu vạn ức quang minh. Đấy là dùng thân luân để biểu thị Bát Nhă trọn khắp. Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, diện môn[51] tỏa ánh sáng, biểu thị miệng Phật mật thuyết tạng bí mật. Nay kinh này bạch hào phóng quang, biểu thị Trung Đạo Thật Tướng. V́ thế, ngài Văn Thù nói: “Kim Phật phóng quang minh, trợ phát Thật Tướng nghĩa” (nay đức Phật phóng quang minh, nhằm giúp phát khởi nghĩa Thật Tướng). Quang minh c̣n soi thấy chuyện trong mười pháp giới của cơi này và cơi khác, nhằm biểu thị mười pháp giới không ǵ chẳng do một ấn Thật Tướng in vào.

          Xét theo giáo, thân Phật cao trượng sáu phóng quang là ư nghĩa theo Tam Tạng. Kèm theo Thắng Ứng Thân và Liệt Ứng Thân phóng quang là nghĩa trong Thông Giáo. Thân tôn quư đặc biệt phóng quang là ư nghĩa theo Biệt Giáo. Thân trượng sáu chính là Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na phóng quang, đó là ư nghĩa trong Viên Giáo. Long nữ tán thán rằng: “Vi diệu tịnh Pháp Thân, cụ tướng tam thập nhị(Pháp Thân sạch vi diệu, đầy đủ băm hai tướng) chính là khai hiển Viên Giáo vậy.

          Phương Đông là khởi đầu của các phương, biểu thị Thập Trụ là địa vị khởi thỉ. Thuyết pháp trong Tích Môn có thể khiến cho sanh thân Bồ Tát rỗng rang thấy Lư, dự vào địa vị Thập Trụ trong Viên Giáo, khai Phật tri kiến. Nêu ra điều đầu tiên, sẽ biết điều ở giữa và sau cùng. V́ thế nói “mỵ bất châu biến” (không đâu chẳng trọn khắp). Hăy nên biết là các phương cũng đều như thế, các địa vị cũng thế. Nếu thuyết pháp theo Bổn Môn, bốn phương Phật vân tập biểu thị Pháp Thân Bồ Tát tăng đạo, tổn sanh (dần dần tăng trưởng ngộ trí, dần dần tổn giảm sanh tử), tăng trưởng bốn địa vị.

          “Một vạn tám ngàn thế giới”: Như trong kinh Hoa Nghiêm, hễ quang minh chiếu soi sẽ là tính bằng “sát trần số” (số lượng vi trần trong một cơi Phật), ở đây sao lại ít vậy? Đặc biệt biểu thị mười tám giới, mỗi giới đều có bách giới thiên như, thành ra một vạn tám ngàn! Những điều như thế không ǵ chẳng phải là cảnh giới nơi Phật huệ! Ngài Di Lặc hỏi: “Phóng một quang minh thanh tịnh, chiếu vô lượng cơi”, cho nên biết phương vị được chiếu đến không chỉ hạn cuộc tại phương Đông, số lượng rơ ràng không chỉ là một vạn tám ngàn vậy!

          Hơn nữa, một vạn tám ngàn cơi được chiếu đều là cơ duyên ngũ trược, đều cần phải v́ Thật mà thực hiện Quyền, khai Quyền hiển Thật giống như Phật Thích Ca trong cơi này vậy. Nếu có các cơi Phật thuần nói Đại Thừa, Đại cách biệt với Tiểu, như những điều được thấy trong quang minh [diễn tả] trong các kinh như Hoa Nghiêm, tuy cảnh giới thù thắng, chẳng hiển lộ trọn đủ phương tiện thiện xảo của Như Lai từ đầu đến cuối được! V́ thế, chẳng giống như cảnh lành mầu nhiệm trong kinh này. Quang minh chiếu thấu phương Đông, do quang minh bèn được thấy sáu điều lành nơi các cơi khác. Tức là chúng sanh trong sáu đường, chư Phật thuyết pháp, tam thừa tu chứng, nhập Niết Bàn và dựng tháp v.v… Như thế th́ mười pháp giới dù tánh, hay tướng, hay thể, hay lực, hay tác, hay nhân, hay duyên, hay quả, hay báo, từ gốc đến ngọn, đều hiện rành rành trong một quang minh. Theo chiều ngang gồm trọn chẳng có ngằn mé, theo chiều dọc tột cùng từ đầu đến cuối. Như h́nh tượng trong gương, như trăng trong nước, nói là có th́ chẳng có, bảo là không th́ chẳng không. Ngoài quang minh chẳng có cơi nước, ngoài cơi nước chẳng có quang minh. Nói là Không, là Giả, là Trung, bậc thượng căn lợi trí có thể hướng đến nơi ấy mà nhanh chóng hiểu rơ Quyền Thật đồng thể, chẳng phải Quyền, chẳng phải Thật. Người chưa thấu hiểu, bèn dùng ba tầng thiện xảo để nói. Có kẻ bảo: “Nhất quang Đông chiếu, diệu thể toàn chương” (một luồng quang minh chiếu sang phương Đông, cái Thể mầu nhiệm được phơi bày trọn vẹn), gần như đă thấu hiểu [ư chỉ ấy]. Phần đầu, nói về sáu điều lành nơi cơi này đă xong.

 

1.2.1.1.2.2. Sáu điều lành ở cơi khác

 

          Tức là do muốn khiến cho [đại chúng nghe kinh] trong cơi này dễ hiểu các cảnh giới được trông thấy bởi điều lành thứ sáu tức “phóng quang”, cho nên lại viện dẫn chuyện tương đồng, chia thành sáu tiểu đoạn:

          - Một là thấy tướng lành trong sáu đường.

          - Hai là thấy tướng lành của chư Phật. [Điều một và hai chính là] một cặp “thượng thánh, hạ phàm”.

          - Ba là tướng lành nghe thuyết pháp.

          - Bốn là trông thấy tướng lành tứ chúng đắc đạo. Đây là một cặp “nhân, pháp”.

          - Năm là thấy tướng lành Bồ Tát hành các hạnh.

          - Sáu là thấy tướng lành chư Phật nhập Niết Bàn. Đây là một cặp “thỉ, chung” (khởi đầu và kết thúc).

          Đă có chúng sanh đáng được giáo hóa, bèn có Phật có thể giáo hóa. Hễ có Phật bèn có thuyết pháp. Hễ thuyết pháp liền có đệ tử. Đệ tử tức là khởi đầu của hành tŕ. Đă có khởi đầu của hành tŕ, ắt đạt đến kết cục. Lại nữa, sáu điều lành trong cơi này cùng biểu thị chúng sanh sẽ đạt được tự giác; sáu điều lành trong cơi kia biểu thị chúng sanh sẽ đạt được giác tha. Lại nữa, sáu điều lành trong cơi này và cơi kia nhằm biểu thị chư Phật cơi này và cơi kia có cùng một đạo. Năm điều lành đầu tiên chính là hiển lộ cơi này và cơi kia đă giống nhau; điều lành thứ sáu nhằm hiển thị cơi này sẽ giống như cơi kia.

 

1.2.1.1.2.2.1. Thấy điều lành trong sáu đường

 

          (Kinh) Hạ chí A Tỳ địa ngục, thượng chí A Ca Ni Trá thiên, ư thử thế giới, tận kiến bỉ độ lục thú chúng sanh.

          ()下至阿鼻地獄。上至阿迦尼吒天。於此世界。盡見彼土六趣眾生。

          (Kinh: Dưới là đến địa ngục A Tỳ, trên là đến trời A Ca Ni Trá, trong thế giới này thấy trọn hết chúng sanh thuộc sáu đường trong cơi kia).

 

          A Tỳ (Avīci), phương này dịch là Vô Gián, ở chỗ thấp nhất trong thế giới. A Ca Ni Trá (Akaniṣṭha), phương này dịch là Sắc Cứu Cánh, là chỗ cao tột trong Sắc Giới. Câu này thừa tiếp ư “quang minh chiếu đến một vạn tám ngàn cơi ở phương Đông” trong phần trước, chiếu thấu từ địa ngục A Tỳ cho đến Sắc Cứu Cánh Thiên, không ǵ chẳng được quang minh hiển hiện trọn hết. V́ thế, đại chúng trong hội vào thuở ấy liền ở trong thế giới này mà thấy trọn hết chúng sanh sáu đường trong các cơi kia, tức là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, Tu La, người, trời. Đó hiện ngũ trược trong các cơi ấy, giống như cơi này.

         

1.2.1.1.2.2.2. Thấy điều lành chư Phật

 

          (Kinh) Hựu kiến bỉ độ hiện tại chư Phật.

          ()又見彼土現在諸佛。

          (Kinh: Lại thấy chư Phật đang trụ thế trong các cơi ấy).

 

          Đây là quang minh hiển hiện chư Phật trong các cơi ấy. Các Ngài v́ [thế giới] ngũ trược mà xuất hiện trong cơi đời. Điều này có cùng ư nghĩa xuất thế với Phật Thích Ca.

 

1.2.1.1.2.2.3. Điều lành nghe thuyết pháp

 

          (Kinh) Cập văn chư Phật sở thuyết kinh pháp.

          ()及聞諸佛所說經法。

          (Kinh: Và nghe kinh pháp do chư Phật đă nói).

 

          Đây là hiển hiện các vị Phật ấy thoạt đầu từ một pháp vô tướng, chẳng đốn mà là đốn, diễn nói Đại Hoa Nghiêm, có cùng ư nghĩa với chuyện Phật Thích Ca diễn nói kinh Hoa Nghiêm trong cơi này.

 

1.2.1.1.2.2.4. Thấy điều lành tứ chúng đắc đạo

 

          (Kinh) Tịnh kiến bỉ chư tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, chư tu hành đắc đạo giả.

          ()並見彼諸比丘比丘尼優婆塞優婆夷諸修行得道者。

          (Kinh: Lại thấy các tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di là những người tu hành đắc đạo trong cơi ấy).

 

          Đây là hiển hiện Phật trong cơi ấy chẳng phải tiệm mà tiệm, v́ kẻ độn căn thuyết pháp Tam Tạng. Tứ chúng nương theo, bèn đạt được Tứ Quả xuất thế và Bích Chi Phật đạo, có cùng ư nghĩa với chuyện Phật Thích Ca nói giáo pháp Tam Tạng trong cơi này.

 

1.2.1.1.2.2.5. Thấy điều lành Bồ Tát hành các hạnh

 

          (Kinh) Phục kiến chư Bồ Tát Ma Ha Tát chủng chủng nhân duyên, chủng chủng tín giải, chủng chủng tướng mạo, hành Bồ Tát đạo.

          ()復見諸菩薩摩訶薩。種種因緣。種種信解。種種相貌。行菩薩道。

          (Kinh: Lại thấy các thứ nhân duyên, các thứ tín giải, các thứ tướng mạo hành Bồ Tát đạo của các vị Bồ Tát Ma Ha Tát).

 

          Đây là hiển hiện các vị Phật ấy chẳng phải tiệm mà là tiệm, v́ người Đại Thừa nói các kinh Đại Thừa Phương Đẳng, Bát Nhă, có cùng ư nghĩa với chuyện Phật Thích Ca nói hai giáo thuộc vị tô (sanh tô và thục tô) trong cơi này. Xưa kia, gieo thiện căn nơi bốn giáo làm nhân, nay vâng theo pháp môn trong bốn giáo làm duyên. Trong bốn giáo, mỗi giáo đều có tín giải, lấy đó làm chủ thể để cảm (năng cảm), tu hành tứ giáo. Lại trong mỗi giáo, mỗi giáo đều có bốn môn. V́ thế nói là “chủng chủng tướng mạo” (các thứ tướng mạo).

 

1.2.1.1.2.2.6. Thấy điều lành chư Phật nhập Niết Bàn

 

          (Kinh) Phục kiến chư Phật bát Niết Bàn giả. Phục kiến chư Phật bát Niết Bàn hậu, dĩ Phật xá lợi khởi thất bảo tháp.

          ()復見諸佛般涅槃者。復見諸佛般涅槃後。以佛舍利起七寶塔。

          (Kinh: Lại thấy chư Phật nhập Niết Bàn. Lại thấy sau khi chư Phật nhập Niết Bàn, [tứ chúng] đem xá-lợi của Phật dựng tháp bảy báu).

 

          Đây là [quang minh] hiển hiện đức Phật ấy giáo hóa xong xuôi, thâu vô lượng pháp quy hoàn một pháp, thị hiện diệt độ, chấm dứt giáo hóa, cho đến dựng tháp để làm Phật sự. Tức là khởi đầu xuất thế cho đến kết thúc bằng thời Tượng Pháp, quang minh chiếu tới cơi ấy đă phô bày rành rành trước mắt chuyện tạo lợi ích Quyền và Thật trong suốt một đời giáo hóa của vị Phật ấy. Dùng cơi kia để suy ra cơi này, năm thứ trước đă giống nhau, điều sau cùng há sai khác? Hăy nên biết đức Thích Ca từ lúc mới thành đạo, đă từ một pháp vô tướng nói ra vô lượng pháp, chẳng đốn mà đốn, chẳng tiệm mà tiệm. Chuyện ấy đă xong, nay ắt phải nên thâu vô lượng pháp trở về một pháp, khai Quyền hiển Thật, xướng rằng sẽ nhập diệt giống như trong cơi kia.

          Hỏi: V́ sao trong quang minh chẳng hiện [chư Phật] nói kinh Pháp Hoa trong các cơi ấy?

          Đáp: Nếu hiển hiện rành rẽ, sẽ chẳng thành dẫn khởi, mà cũng chẳng thể khiến cho chúng hội nẩy sanh nghi niệm, [khiến cho] ngài Di Lặc nêu câu hỏi, Văn Thù bèn cân nhắc để trả lời. Như thế th́ hai thuyết Tích và Bổn sẽ chẳng do đâu phát khởi được! [Như thế th́] làm sao chắc chắn đạt được vô biên lợi ích trong hiện tại và sau khi đức Phật diệt độ? V́ thế, bèn nói ư chỉ chánh yếu của kinh Pháp Hoa. Chỉ đối với một chuyện quang minh chiếu sang phương Đông mà đă có kiến giải chấp chặt một bề, chẳng biết nói năng hay im lặng đều trọn đủ Tứ Tất Đàn! Tứ Tất Đàn do nhập Định chỉ phù hợp bậc thượng thượng căn. Tứ Tất Đàn do thuyết pháp sẽ thích ứng trọn khắp ba căn. Tứ Tất Đàn của nhập Định chỉ hạn cuộc trong hiện tại. Tứ Tất Đàn của sự thuyết pháp lưu thông sẽ phổ cập tận vị lai. Do chẳng biết lẽ ngầm chứng minh, cho nên mới có nhiều dị kiến!

          Hỏi: Quang minh soi chiếu các điều được trông thấy theo chiều ngang (không gian) trong một thời, sao lại nói là “trước Đốn, sau Tiệm” cho đến “hội quy” [tam thừa về nhất thừa, vô lượng pháp về một pháp]?

          Đáp: Xa hay gần đều có thể khiến cho thấy nghe, th́ khiến cho thấy nghe quá khứ và vị lai đều khiến cho thấy nghe, há có khó ǵ? V́ thế, khiến cho mười phương từ đầu đến cuối, rạng ngời như ở ngay trước mắt, há có nên dùng phàm t́nh nhỏ nhặt để suy lường thánh cảnh ư?

          Hỏi: Các điều trông thấy trong quang minh chẳng phải là thuần đốn, mà chỉ là tiệm đấy chăng?

          Đáp: Đại chúng thuở ấy chỉ do quang minh mà trông thấy. Bản lănh to lớn để làm chuyện ấy là do đức Thế Tôn, nhưng Ngài đă khiến cho đại chúng trông thấy [các sự tướng ấy bèn biết] “vốn là để chứng minh [cơi này và phương khác] giống như nhau, phóng quang minh nhằm thành tựu Nhất Thật”. V́ thế, Sự tuy khác mà Lư tuyệt đối, chẳng phải do quang minh nhuần thấm.

          Hỏi: Chữ Bát () được phương này nói là Nhập, Niết Bàn là Diệt Độ, Tạng Giáo và Thông Giáo là “hôi đoạn”[52], cho nên nói là Bát Niết Bàn. Đă hiển lộ viên thường, há nên nói là “nhập diệt”?

          Đáp: Phật xuất hiện trong cơi Đồng Cư, về mặt Sự, ắt phải thị hiện nhập diệt. Nếu biết “chẳng phải sanh” mà thị hiện sanh, liền biết sanh chính là “chẳng phải sanh”. Nếu biết chẳng phải diệt mà thị hiện diệt, liền biết diệt chính là phi diệt. Đọc phẩm Thọ Lượng, mối nghi ấy sẽ tự cởi gỡ.

          Xá-lợi (Śarīra), c̣n nói là Thất-lợi-la, phương này dịch là Linh Cốt (靈骨, xương thiêng). Tháp, nói đầy đủ là Tháp Bà (Stupa), hoặc là Tể Đổ Ba, phương này dịch là Phương Phần (方墳, mồ vuông), hoặc dịch là Viên Trủng (圓塚, mộ tṛn), c̣n dịch là Cao Hiển. Phần thứ hai, trần thuật hiện tướng lành đă xong.

 

1.2.1.1.3. Trần thuật nghi niệm

 

          Gồm hai phần: Một là Di Lặc nghĩ ngợi, khởi nghi, hai là đại chúng suy nghĩ khởi nghi.

 

1.2.1.1.3.1. Di Lặc suy nghĩ, khởi nghi

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Di Lặc Bồ Tát tác thị niệm: “Kim giả Thế Tôn hiện thần biến tướng, dĩ hà nhân duyên nhi hữu thử thụy? Kim Phật Thế Tôn nhập ư tam muội, thị bất khả tư nghị hiện hy hữu sự, đương dĩ vấn thùy, thùy năng đáp giả?” Phục tác thị niệm: “Thị Văn Thù Sư Lợi pháp vương chi tử, dĩ tằng thân cận, cúng dường quá khứ vô lượng chư Phật, tất ưng kiến thử hy hữu chi tướng, ngă kim đương vấn”.

          ()爾時彌勒菩薩作是念。今者世尊現神變相。以何因緣。而有此瑞。今佛世尊入於三昧。是不可思議現希有事。當以問誰。誰能答者。復作此念。是文殊師利法王之子。已曾親近供養過去無量諸佛。必應見此希有之相。我今當問。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Di Lặc Bồ Tát nghĩ như thế này: “Nay đức Thế Tôn hiện tướng thần biến, do nhân duyên ǵ mà có điều lành này? Nay Phật Thế Tôn nhập tam-muội, chuyện biến hiện hiếm có chẳng thể nghĩ này hăy nên hỏi ai? Ai có thể đáp được?” Lại nghĩ như thế này: “Ngài Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử đây đă từng thân cận, cúng dường vô lượng chư Phật trong quá khứ, ắt sẽ thấy tướng hy hữu này, ta hăy nên hỏi Ngài”).

 

          Ngài Di Lặc có ba ư niệm:

          - Một, từ chữ “kim giả” trở đi là suy nghĩ về sáu điều lành.

          - Hai, từ chữ “Phật” trở đi, suy nghĩ sẽ hỏi ai.

          - Ba, từ chữ “phục tác” trở đi, là nghĩ tới ngài Văn Thù.

          Ư niệm về Văn Thù dấy lên th́ ư niệm thứ hai mất đi, chỉ c̣n ư niệm đầu tiên, nhưng trở thành nghi hoặc.

          “Thần biến” (神變): “Thần”“thiên tâm” (tâm tự nhiên), tức là nội huệ tự nhiên. “Biến” là biến động, tức là sáu điều lành tỏ lộ ra ngoài. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội nói: “Phật trụ bất nhị pháp, năng tác thần thông” (Đức Phật trụ trong pháp Bất Nhị có thể thực hiện thần thông). Pháp lực của đấng Pháp Vương siêu việt, bao trùm hết thảy, ngài Di Lặc chẳng lường được sự biến hóa bên ngoài, mà cũng chẳng hiểu nội huệ. V́ thế, dấy lên ư niệm ngờ vực. Kẻ vụng về chẳng biết tài khéo, kẻ tán loạn chẳng biết Định, phàm phu chẳng biết bậc thánh, tiểu thánh chẳng hiểu biết Thân Tử (Xá Lợi Phất), Thân Tử chẳng hiểu biết Bồ Tát, Bồ Tát chẳng biết bậc Bổ Xứ, Bổ Xứ chẳng biết đấng tôn cực (Phật). Đây là cảnh giới tôn cực; v́ thế, ngài Di Lặc chẳng biết. Nhưng ngài Di Lặc đă gieo nhiều điều thiện, lẽ đâu chẳng biết phảng phất? Hăy nên biết là Ngài ẩn tàng sự sáng suốt, thị hiện tối tăm, quyền biến nói là “chẳng biết”.

          Hỏi: Hết thảy Bồ Tát đều là pháp vương tử, cớ sao riêng đề cao ngài Văn Thù?

          Đáp: Do có hai nghĩa: Một là trong các vị pháp vương tử, đức của ngài Văn Thù cao vượt. Hai là trong các kinh, ngài Văn Thù đều là Thượng Thủ của các vị Bồ Tát.

 

1.2.1.1.3.2. Đại chúng suy nghĩ khởi nghi

 

          (Kinh) Nhĩ thời, tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cập chư thiên, long, quỷ thần đẳng, hàm tác thử niệm: “Thị Phật quang minh thần thông chi tướng, kim đương vấn thùy?”

          ()爾時。比丘比丘尼優婆塞優婆夷。及諸天龍鬼神等。咸作此念。是佛光明神通之相。今當問誰。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, và các trời, rồng, quỷ thần v.v… đều nghĩ như thế này: “Tướng quang minh thần thông này của Phật nay hăy nên hỏi ai?”)

 

          Đại chúng có hai ư niệm: Một là chánh niệm sáu điều lành, hai là nghĩ nên hỏi ai. Nếu đối chiếu với kệ tụng trong phần sau, cũng có ba ư niệm. Phần kệ tụng có nói: “Tứ chúng hân ngưỡng, chiêm nhân cập ngă” (Tứ chúng vui sướng, ngưỡng mộ, chiêm ngưỡng nhân giả và tôi). Chẳng có ư niệm thứ ba, sao lại chiêm ngưỡng nhân giả? Đoạn [chánh kinh] này chẳng nói là v́ muốn đề cao bậc Bổ Xứ trước.

          Hỏi: Văn Thù và Di Lặc phẩm đức và địa vị ngang nhau, cớ sao một vị hỏi, một vị đáp?

          Đáp: Căn cơ có tương ứng, hay không tương ứng. Địa vị tuy ngang nhau, nhưng do chủ khách phải nên khác nhau, thánh nhân thừa dịp, nếu chẳng có người hỏi, sẽ chẳng thể đáp (đó là nói theo nhân duyên). Pháp môn lại có Quyền và Thật, bậc Bổ Xứ nơi Quyền th́ cần phải hỏi, người ở nơi Thật cần phải đáp (đó là xét theo giáo). Tích lại có [thành tựu đạo quả] lâu xa hay gần đây. Gần đây th́ hỏi, lâu xa bèn đáp (đó là xét theo Bổn Tích). Tên gọi lại có ư nghĩa dễ hiểu. Di Lặc là Từ, Từ là v́ chúng sanh, cho nên cần phải hỏi. Văn Thù là diệu đức, đă là đức th́ cần phải đáp (đó là giải thích theo quán tâm). Phần trần thuật về ba mối nghi niệm đă xong.

 

1.2.1.1.4. Nêu lời hỏi

         

          Gồm hai phần: Một là phần Trường Hàng, hai là kệ tụng.

 

1.2.1.1.4.1. Trường Hàng

 

          Gồm hai phần: Một là người kết tập kinh trần thuật, hai là nêu lời thưa hỏi.

 

1.2.1.1.4.1.1. Người kết tập kinh trần thuật

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Di Lặc Bồ Tát dục tự quyết nghi, hựu quán tứ chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cập chư thiên, long, quỷ thần đẳng chúng hội chi tâm.

          ()爾時彌勒菩薩。欲自決疑。又觀四眾。比丘比丘尼。優婆塞優婆夷。及諸天龍鬼神等。眾會之心。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Di Lặc Bồ Tát muốn giải quyết mối nghi của chính ḿnh. Lại xét tâm niệm của tứ chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, và chư thiên, rồng, quỷ thần v.v… trong hội).

 

          Cùng trần thuật nỗi nghi của chính ḿnh và người khác. Ư nghĩa dễ hiểu.

 

1.2.1.1.4.1.2. Chánh thức nêu lời hỏi

 

          (Kinh) Nhi vấn Văn Thù Sư Lợi ngôn: - Dĩ hà nhân duyên nhi hữu thử thụy, thần thông chi tướng, phóng đại quang minh, chiếu ư Đông phương vạn bát thiên độ, tất kiến bỉ Phật quốc giới trang nghiêm?

          ()而問文殊師利言。以何因緣。而有此瑞神通之相。放大光明。照於東方萬八千土。悉見彼佛國界莊嚴。

          (Kinh: Hỏi Văn Thù Sư Lợi rằng: - Do nhân duyên ǵ mà có tướng tốt lànhthần thông này, phóng quang minh to lớn chiếu đến một vạn tám ngàn cơi ở phương Đông, đều thấy sự trang nghiêm trong các Phật quốc giới ấy?)

 

          Cùng hỏi về cơi này và cơi khác, ư nghĩa dễ hiểu.

 

1.2.1.1.4.2. Kệ tụng

 

          Gồm hai phần: Một là kệ tụng để hỏi những điều trên đây, hai là kệ tụng nhằm xin giải đáp. Do ư nghĩa ǵ mà có kệ tụng? Trong Tỳ Bà Sa Luận, ngài Long Thọ có nói: “Một là tùy thuận quốc độ. Thiên Trúc có thuyết rải hoa và xâu hoa. Như trong thế gian này, sau bài Tựa bèn có bài Minh. Hai là thuận theo ḷng ưa muốn khác nhau, có người thích nói bằng văn xuôi, có người thích nói thành thi kệ (hai điều này là Thế Giới Tất Đàn). Ba là tùy thuận chúng sanh hiểu biết bất đồng. Hoặc là [tùy thuộc người nghe] do tán nói bằng văn xuôi mà hiểu, hoặc nhờ thơ kệ mà hiểu (đó là Vị Nhân Tất Đàn). Bốn là tùy thuộc lợi căn hay độn căn. Người lợi căn th́ vừa nghe liền ngộ, kẻ độn căn th́ phải nhắc lại mới ngộ (Đó là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn). Lại c̣n biểu thị Phật ân cần nhắc lại (điều thứ năm cũng là Vị Nhân Tất Đàn). Lại do đối với đại chúng tụ tập có trước, sau; v́ thế có kệ tụng (Đối Trị Tất Đàn, có thể trừ mối nghi cho người đến sau)”. Luận ấy nêu ra mười nghĩa, nay chỉ kể ra sáu. Năm điều đầu th́ như đă trích dẫn. (Điều thứ sáu là khiến cho người đến sau sanh ḷng tin đối với kinh, cũng là Vị Nhân Tất Đàn. Bảy là dễ vận dụng ngôn từ, thay đổi phong cách thuyết pháp, cũng là Đối Trị Tất Đàn. Tám là chỉ bày nghĩa vô tận. Chín là nói rơ bậc cao tột có cách nói không hạn chế. Hai điều này cùng là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn. Điều thứ mười trong luận chính là điều thứ sáu trong đoạn văn trích dẫn trên đây).

 

1.2.1.1.4.2.1. Kệ tụng để hỏi những điều trên đây

 

          Gồm hai phần: Một là hỏi sáu điều lành trong cơi này; hai là hỏi về sáu điều lành trong cơi khác.

 

1.2.1.1.4.2.1.1. Hỏi sáu điều lành trong cơi này   

 

          (Kinh) Ư thị, Di Lặc Bồ Tát dục trùng tuyên thử nghĩa, dĩ kệ vấn viết: - Văn Thù Sư Lợi! Đạo sư hà cố? Mi gian bạch hào, đại quang phổ chiếu, vũ Mạn Đà La, Mạn Thù Sa hoa. Chiên đàn hương phong, duyệt khả chúng tâm. Dĩ thị nhân duyên, địa giai nghiêm tịnh, nhi thử thế giới, lục chủng chấn động. Thời tứ bộ chúng, hàm giai hoan hỷ, thân ư khoái nhiên, đắc vị tằng hữu.

          ()於是彌勒菩薩。欲重宣此義。以偈問曰。文殊師利。導師何故。眉間白毫。大光普照。雨曼陀羅。曼殊沙華。旃檀香風。悅可眾心。以是因緣。地皆嚴淨。而此世界。六種震動。時四部眾。咸皆歡喜。身意快然。得未曾有。

    (Kinh: Ngay khi đó, Di Lặc Bồ Tát muốn nói lại nghĩa này, dùng kệ hỏi rằng: - Văn Thù Sư Lợi! Đạo sư[53] cớ ǵ? Bạch hào giữa mày, đại quang chiếu khắp, mưa Mạn Đà La, hoa Mạn Thù Sa. Gió thơm Chiên Đàn[54], vui đẹp ḷng người. Do nhân duyên ấy, đất đều nghiêm tịnh, nhưng thế giới này, sáu thứ chấn động. Bốn chúng khi đó, thảy đều hoan hỷ, thân ư vui sướng, được chưa từng có).

 

          Phần kinh văn Trường Hàng hỏi chung sáu điều lành của cơi này. Trong phần kệ có nói đến gió thơm và đất thanh tịnh, nhưng không nói đến chuyện thuyết pháp và nhập Định. Nh́n vào kinh văn th́ có thể nói là [giữa phần Trường Hàng và Kệ Tụng] “có tăng giảm”, nhưng xét theo ư nghĩa th́ chẳng vậy. Thuyết pháp là huệ tánh, nhập Định là tâm tự nhiên. Từ huệ tánh và tâm tự nhiên, có thể phóng quang, chấn động cơi đất. Nêu lên cái ngọn liền biết cái gốc; v́ thế, tuy lược bớt mà chẳng phải là lược bớt. Lại nữa, chỉ với hai chữ “đạo sư” [trong kệ tụng] chính là hỏi về thuyết pháp, nhập Định; bởi lẽ, do thuyết pháp, nhập định có thể hướng dẫn người khác. Hoa trời mầu nhiệm tột bậc, há có sắc mà chẳng có hương? V́ thế, có hoa bèn có gió thơm. Hoa đă tụ tập trên mặt đất, đất liền trang nghiêm, thanh tịnh, biểu thị: Nếu do nhân mà tiến tới quả, quả sẽ trang nghiêm, thanh tịnh. Như kinh Kim Quang Minh nói: “Tụ tập công đức, trang nghiêm Pháp Thân”. V́ thế, dùng gió thơm, cơi đất thanh tịnh, hiển lộ bốn thứ hoa, đó là tăng mà chẳng tăng vậy.

 

1.2.1.1.4.2.1.2. Hỏi về sáu điều lành trong cơi khác

 

          Gồm có sáu điều:

          - Một là hỏi về chúng sanh trong sáu đường.

          - Hai là hỏi về chuyện thấy các đức Phật ấy và nghe thuyết pháp.

          - Ba là hỏi về bốn chúng trong cơi ấy.

          - Bốn là kết phần trước để dẫn khởi phần sau.

          - Năm là hỏi về chuyện tu Bồ Tát hạnh trong cơi khác.

          - Sáu là hỏi về chuyện cúng dường xá-lợi trong cơi khác, tức là hỏi về chuyện đức Phật nhập Niết Bàn.

 

1.2.1.1.4.2.1.2.1. Hỏi về chúng sanh trong sáu đường

 

          (Kinh) Mi gian quang minh, chiếu vu Đông phương, vạn bát thiên độ, giai như kim sắc, tùng A Tỳ ngục, thượng chí Hữu Đảnh, chư thế giới trung, lục đạo chúng sanh, sanh tử sở thú, thiện ác nghiệp duyên, thọ báo hảo xú, ư thử tất kiến.

          ()眉間光明。照于東方。萬八千土。皆如金色。從阿鼻獄。上至有頂。諸世界中。六道眾生。生死所趣。善惡業緣。受報好醜。於此悉見。

          (Kinh: Quang minh giữa mày, chiếu sang phương Đông, vạn tám ngàn cơi, đều như sắc vàng, từ ngục A Tỳ, lên đến Hữu Đảnh, trong các thế giới, lục đạo chúng sanh, tiến hướng sanh tử, nghiệp duyên thiện ác, thọ báo tốt xấu, đều thấy trong ấy).

 

          Chúng sanh trong sáu đường là giả danh “năng thú” (có thể tiến vào sáu đường). “Sanh tử” là chỗ Ngũ Ấm tiến nhập. Nghiệp duyên thiện ác là cái nhân để tiến nhập. “Tốt, xấu” là cái quả để tiến hướng. Hữu Đảnh là tột đỉnh của tam hữu, chỉ Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên. Phần Trường Hàng có nói A Ca Ni Trá, tức là chỉ nói đến Sắc Cứu Cánh Thiên. Nay nói như thế (tức là nói “chỉ đến trời Hữu Đảnh”), [xét theo đúng lư], do nương theo quang minh nh́n xa, [sẽ phải trông thấy tận Vô Sắc Giới], v́ [chư thiên] Vô Sắc Giới đă không có h́nh sắc, cho nên chẳng thể thấy [h́nh dáng của họ], c̣n nếu nh́n theo nghiệp duyên sanh tử, thọ báo sai biệt, sẽ đều trông thấy. Theo đúng lư, phải nên chiếu trọn khắp Vô Sắc Giới.

 

1.2.1.1.4.2.1.2.2. Hỏi về chuyện thấy Phật và nghe thuyết pháp

 

          (Kinh) Hựu đổ chư Phật, thánh chúa sư tử, diễn thuyết kinh điển, vi diệu đệ nhất. Kỳ thanh thanh tịnh, xuất nhu nhuyễn âm, giáo chư Bồ Tát, vô số ức vạn, phạm âm thâm diệu, linh nhân nhạo văn, các ư thế giới, giảng thuyết chánh pháp. Chủng chủng nhân duyên, dĩ vô lượng dụ, chiếu minh Phật pháp, khai ngộ chúng sanh.

          ()又覩諸佛。聖主師子。演說經典。微妙第一。其聲清淨。出柔軟音。教諸菩薩。無數億萬。梵音深妙。令人樂聞。各於世界。講說正法。種種因緣。以無量喻。照明佛法。開悟眾生。

          (Kinh: Lại thấy chư Phật, thánh chúa sư tử, diễn nói kinh điển, vi diệu bậc nhất. Âm thanh thanh tịnh, thốt tiếng mềm mỏng, dạy các Bồ Tát, vô số ức vạn. Phạm âm sâu mầu, khiến người thích nghe, trong mỗi thế giới, giảng nói chánh pháp. Các thứ nhân duyên, vô lượng thí dụ, soi sáng Phật pháp, khai ngộ chúng sanh).

 

          Thập Địa trong Biệt Giáo và Thập Trụ trong Viên Giáo được gọi là Thánh. Đức Phật lại tôn quư nhất, nên gọi là Thánh Chúa. Nói pháp Đại Thừa, quyết định vô úy. V́ thế gọi là Sư Tử. Đốn giáo thuần là Đại Thừa, nên nói là “đệ nhất”. Nói lư Trung Đạo, cho nên âm thanh thanh tịnh. Thuận theo pháp Thật Tướng, cho nên âm thanh mềm mỏng. Chẳng có chúng Nhị Thừa, cho nên nói là “giáo chư Bồ Tát” (dạy các Bồ Tát). Điều được nói là Tam Đế theo thứ tự, cho nên là Thâm (sâu xa), Tam Đế viên dung là Diệu. Xứng lư bậc đương cơ, cho nên nói là “linh nhân nhạo văn” (khiến cho kẻ khác thích nghe). Trọn khắp bảy xứ, chín hội[55], nên nói là “các ư thế giới” (ở mỗi thế giới). Hai giáo, tám môn, v́ thế nói là “chủng chủng” (các thứ). Chẳng xen lẫn ba thừa, nên gọi là Phật pháp. Người nghe liền nhập Phật huệ, nên nói là “khai ngộ”. Điều này tương đồng với giáo nghĩa của Hoa Nghiêm trong cơi này.

 

1.2.1.1.4.2.1.2.3. Hỏi về tứ chúng trong cơi khác

 

          (Kinh) Nhược nhân tao khổ, yếm lăo bệnh tử, vị thuyết Niết Bàn, tận chư khổ tế. Nhược nhân hữu phước, tằng cúng dường Phật, chí cầu thắng pháp, vị thuyết Duyên Giác. Nhược hữu Phật tử, tu chủng chủng hạnh, cầu vô thượng huệ, vị thuyết tịnh đạo.

          ()若人遭苦。厭老病死。為說涅槃。盡諸苦際。若人有福。曾供養佛。志求勝法。說緣覺。若有佛子。修種種行。求無上慧。說淨道。

          (Kinh: Nếu ai gặp khổ sở, chán chường già, bệnh, chết, v́ họ nói Niết Bàn, trừ hết sạch các khổ. Nếu như ai có phước, đă từng cúng dường Phật, chí cầu pháp thù thắng, v́ họ nói Duyên Giác. Nếu có các Phật tử, tu tập các thứ hạnh, để cầu vô thượng huệ, v́ họ nói tịnh đạo).

 

          Nếu có ai gặp khổ, bèn v́ người ấy mở ra pháp Thanh Văn Thừa. Đă gặp khổ, lại tạo ác nghiệp, sẽ chẳng hết khổ, căn bản là chúng sanh. Đă gặp khổ mà tạo thiện nghiệp, chán cơi dưới, nắm níu cơi trên, th́ khổ cũng chẳng thể hết, sẽ sanh làm người, hoặc sanh trên cơi trời, tŕ giới, tu Định. Gặp khổ mà cầu giải thoát trong pháp của ngoại đạo th́ khổ vẫn chẳng hết, chẳng biết Tam Bảo, Tứ Đế, và Tứ Niệm Xứ, chỉ có thể tăng thêm kiến chấp, tăng trưởng sai trái, lại c̣n tích tập cội khổ! Gặp khổ mà có thể chán nhàm trọn khắp sanh, lăo, bệnh, tử trong tam giới, lại c̣n có thể chán Tập, bèn có thể cảm Phật giảng nói Niết Bàn. Từ đấy trở đi, tu đạo xuất thế, vĩnh viễn chấp dứt sự khổ. Đó gọi là “do biết khổ nên đoạn Tập; do hâm mộ Diệt nên tu Đạo”. Nếu là người có phước, [đức Phật sẽ v́ người ấy] mở ra Bích Chi Phật Thừa. Bích Chi Phật gieo phước trong trăm kiếp, v́ thế nói là “hữu phước”. Quán đại lược tổng tướng của Tứ Đế th́ gọi là Liệt (kém cỏi), quán cặn kẽ biệt tướng của mười hai nhân duyên là Thắng. Lại nữa, Tứ Đế dùng Khổ làm môn đầu tiên, nên là Liệt. Nhân duyên dùng Tập Đế làm môn đầu tiên nên là Thắng. Do quán mười hai nhân duyên mà được giác ngộ th́ gọi là Duyên Giác. Nếu có Phật tử vừa bắt đầu bèn tu Lục Độ th́ là Bồ Tát Thừa. Có tâm đại từ bi, kham kế thừa chủng tánh Phật, th́ gọi là Phật tử. Chuyện thuộc Lục Độ rất rộng, nên nói là “chủng chủng hạnh” (các thứ hạnh). Chí cầu làm Phật th́ gọi là “vô thượng huệ”. Trong Lục Độ chẳng có sáu điều tệ, cho nên gọi là “tịnh đạo”. Đó là lấy Đạo Đế làm môn đầu tiên; điều này tương đồng với ư nghĩa tam thừa của Tam Tạng giáo trong cơi này!

 

1.2.1.1.4.2.1.2.4. Kết phần trước để dẫn khởi phần sau

 

          (Kinh) Văn Thù Sư Lợi! Ngă trụ ư thử, kiến văn nhược tư, cập thiên ức sự. Như thị chúng đa, kim đương lược thuyết.

          ()文殊師利。我住於此。見聞若斯。及千億事。如是眾多。今當略說。

          (Kinh: Văn Thù Sư Lợi! Ta trụ nơi đây, thấy nghe như thế, và ngàn ức sự, nhiều như thế đó, nay nói đại lược).

 

          “Kiến văn nhược tư” (Thấy nghe như thế đó)