Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Thai Tông Hội
Nghĩa
Phần 20
2. Lịch triều Pháp Hoa Tŕ Nghiệm
Kỷ, quyển hạ
* Vị
tăng chùa Đại Từ
Thời Ngũ Đại, tại chùa Đại
Từ ở Thành Đô, có vị tăng luôn tụng kinh Pháp
Hoa. Một hôm, Sư vào núi Thanh Thành hái thuốc. Sư men theo
suối, vượt qua chỗ hiểm, bỗng mây mù nổi
lên bốn phía, chẳng biết theo đường nào. Chốc
lát, mây tan, thấy một ṭa gác bên khe suối rất cao
đẹp. Sư đến cửa, người hầu
vào báo, bước ra nói: “Tiên sinh thỉnh thầy tụng
kinh mà thầy thường hành tŕ”. Vị tăng lớn tiếng
tụng, tới phẩm Bảo Tháp, tiên sinh mặc đồ
dân quê, cầm gậy lê, hai mày dài chấm vai, đốt
hương, chắp tay nghe hồi lâu. Tụng xong, họ dọn
cơm nấu bằng hạt kê, kỷ tử, rau cúc,
thơm như cam lộ, biếu một hoàn (sáu lượng)
tiền. Người hầu đưa Sư lên đường,
Sư hỏi [tiên sinh] tên họ là ǵ, người hầu
đáp: “Đó là tiên sinh Tôn Tư Mạc”. Sư mới than
thở, người hầu bỗng chẳng thấy
đâu nữa. Sư lại t́m trọn ba ngày, nhưng
đă quên mất chốn cũ. Quay về, xem lại món tiền
được biếu, chính là tiền vàng. Do ăn một
bữa cơm ấy, thân Sư nhẹ nhàng, không bệnh tật.
Đường Sử nói ông Tôn một trăm năm
mươi tuổi. Cho đến lúc thỉnh tụng kinh
th́ đă cách trước đó ba trăm năm rồi.
[Chuyện này] trích từ Tương Sơn Dă Lục[1].
* Thích Đạo Tiềm chùa Vĩnh
Minh ở Tiền Đường thời Ngô Việt
Sư người Bồ Tân,
họ Vũ, từng ở trong sơn trai (trai pḥng trên núi)
hành Pháp Hoa Sám hai mươi mốt ngày, bỗng thấy
đức Phổ Hiền ngự trên voi, dừng trên cửa
tam quan trước chùa tháp. Ṿi voi gác thẳng lên chỗ hành
sám. Hán Nam quốc Tiền vương dựng chùa Huệ Nhật
mời Sư ở đó. Sư từng duyệt Đại
Tạng Kinh, trong khi ngồi yên lặng, Sư thấy ngài
Văn Thù hiện thân. Về sau, Sư lễ tháp A Dục
Vương, quỳ thẳng đảnh lễ, lệ tuôn
như mưa. Bỗng thấy xá-lợi ở ngoài chiếc
chuông treo, bèn nhiễu quanh. Sư bi hỷ xen lẫn. Năm
Kiến Long thứ hai (961), Sư ngồi qua đời.
Xà-duy có xá-lợi rất nhiều. [Môn nhân] dựng tháp để
chứa, đỉnh tháp phóng bạch quang như lúc Sư mới
mất vậy.
* Thiền sư Trí Giác chùa Vĩnh Minh
thời Ngô Việt
Sư húy Diên Thọ, người
Đan Dương, họ Vương, dời sang sống ở
Dư Hàng. Thuở niên thiếu, Sư tụng kinh Pháp Hoa, vừa
tụng xong bảy hàng đă cảm bầy dê quỳ nghe.
Lúc hai mươi tám tuổi, Sư làm trấn tướng ở
Hoa Đ́nh, dùng công quỹ để phóng sanh, mắc tội,
bị phán xử tử. Lúc sắp bị hành h́nh, vẻ mặt
Sư chẳng thay đổi. Văn Mục Vương[2]
lấy làm lạ, tha cho, bảo Sư đi xuất gia.
Sư nương theo thiền sư Thúy Nham ở Tứ
Minh [để xin thế độ], trụ tại chùa Long
Sách, làm việc nặng phụng sự đại chúng. Mỗi
ngày, Sư chỉ ăn một bữa, ngồi măi chẳng
nằm. Không lâu sau, Sư yết kiến Thiên Thai Thiều
quốc sư[3],
trụ tại chùa Quốc Thanh, hành Pháp Hoa Sám. Nửa
đêm, Sư thấy Phổ Hiền Bồ Tát cầm hoa
sen bỗng trao cho Sư. Sư lại c̣n tu Định chín
mươi ngày trên đỉnh Thiên Trụ trong rặng Thiên
Thai, thấy Quán Âm đại sĩ dùng cam lộ rưới
cho, bèn đạt được biện tài vô ngại.
Năm Kiến Long thứ hai
(961), Trung Ư Vương[4]
thỉnh Sư trụ tại đạo tràng Vĩnh Minh.
Tăng hỏi: “Kinh dạy hết thảy chư Phật
và pháp của chư Phật đều từ kinh này lưu
xuất, ‘kinh này’ là ǵ vậy?” Sư đáp: “Lâu dài chuyển
chẳng chuyển, chẳng nghĩa, cũng chẳng thanh”.
Hỏi: “Thọ tŕ như thế nào?” Sư đáp: “Nếu
muốn thọ tŕ, cần phải dùng mắt mà nghe!”
Sư ở Vĩnh Minh mười lăm năm, đại
chúng thường là hai ngàn người. Sư được
ban hiệu là Trí Giác. Năm Khai Bảo thứ bảy (974),
Sư vào núi Thiên Thai, truyền giới tiếp độ
khoảng hơn một vạn người. Sư thường
truyền Bồ Tát Giới cho bảy chúng, đêm thí thực,
sáng phóng sanh. Sáu thời rải hoa, hành đạo, công khóa mỗi ngày một
trăm lẻ tám thiện sự, chưa từng tạm phế.
Hễ c̣n có sức th́ tụng kinh Pháp Hoa. Tính ra, Sư tụng
được một vạn ba ngàn bộ, đều hồi
hướng trang nghiêm Tịnh Độ. Người
đương thời gọi Sư là Từ Thị Hạ
Sanh. Sư soạn bộ Tông Kính Lục một trăm quyển
để dung hội các chỗ tương đồng và dị
biệt trong tông chỉ của Thiên Thai, Hiền Thủ và Từ
Ân. Sư lại soạn Tâm Phú,
và các sách Duy Tâm Quyết, Vạn Thiện Đồng Quy v.v…
Sư từng ban đêm qua ngọn núi khác đi kinh hành, trên
không trung khi đó nghe có tiếng tù và,
nhạc trời tấu vang. Tháng Hai năm Khai Bảo thứ
tám (975), Sư chín mươi tám tuổi, đốt
hương, ngồi xếp bằng mà tịch. Tháp ở
núi Đại Từ, vua cơi âm vẽ tượng đảnh
lễ, chi tiết th́ như trong biệt truyện.
* Thích Hồng Sở chùa Đại Vân
ở Ôn Châu thời Ngô Việt
Sư là người Vĩnh
Gia, con nhà họ Đường. Sư vốn nghi dung thanh
cao, thản nhiên xuất tục. Trong thời đầu của
niên hiệu Càn Hóa[5],
Tiền Vũ Túc Vương thỉnh Sư trụ tại
chùa Hưng Long, khai giới đàn tiếp độ. Vua ban
y tía, Sư không nhận. Khi đó, thi nhân Trịnh Thuyết
sang chơi phương Nam, đích thân chiêm
ngưỡng cao hạnh của Sư, đă làm thơ tặng
Sư rằng: “Y tía trên giàn không mặc tới, chữ
vàng trên án chẳng buồn nh́n”. Sư giảng kinh Pháp
Hoa tính ra hơn năm mươi hội. Một hôm, trong giảng
đường bỗng nẩy sanh hoa sen, đài kép, cánh
kép, mùi thơm nồng nàn. Cho tới nay, tại Vĩnh Gia vẫn
tôn là Tăng Bảo.
* Thích Khả Châu chùa Long Hưng tại
Hàng Châu thời Ngô Việt
Sư người Tấn
Lăng, họ Phó. Đă xuất gia, bèn sang Dự
Chương, tham cứu cùng tột Pháp Hoa Đại Sớ
của ngài Từ Ân (Khuy Cơ). Sư đến chùa Long
Hưng, khai diễn Pháp Hoa, đạo tục tham dự
luôn là mấy trăm người. Tiền Vũ Túc
Vương truyền lệnh Sư ban đêm giảng kinh
cho cơi âm tại Thiên Bảo Đường, thường
thấy có các quỷ thần hiện h́nh hộ vệ. Từng
có đồng cốt cúng tế thần ở đền
Đồng Quan, thỉnh măi mà thần chẳng giáng hạ.
Về sau, thần nhập thân đồng
cốt nói: “Ta mới từ Đại Thần Thiên Bảo
Đường nghe pháp trở về”. Vũ Túc Vương lấy
làm lạ, biếu tặng Sư như ư và bát bằng vàng,
ban hiệu là Thông Minh. Sư soạn Pháp Hoa Tự Sao một
quyển.
* Thích Tự Tân thuộc Ứng Thụy
Viện ở Tuyên Châu đời Tấn[6]
Sư trai giới tinh sạch,
t́m thầy [học đạo], nghiên cứu tinh tường
Pháp Hoa chưa từng lười nhác, phế bỏ. Sư
từng vào núi Tuyên Thành hái thuốc, đi vào một cái hang
sâu. Thoạt đầu tối tăm rồi thấy mặt
trời chiếu sáng. Đi mấy dặm, bên động
có một cái hang ngách, nước suối róc rách. Sư thấy
dưới cội tùng to có am tranh, một vị Tăng
lông mày trắng như tuyết,
khoác áo chằm vá, tọa Thiền. Bên cạnh có một
cái khánh và đồ đánh lửa. Sư gơ khánh, vị
Tăng xuất định, mở mắt, kinh ngạc hỏi:
“Ủa! Sư do duyên ǵ mà đến đây?” Sư bèn thuật
hành tung, vị Tăng chắp tay mời ngồi, đánh lửa
đun trà, hương vị [trà] đáng yêu. Chiều tối,
vị Tăng nhường am cho Sư ngủ. Nh́n ra th́
Tăng leo lên cái ổ to trên ngọn tùng, nghe tiếng Ngài tụng
kinh Pháp Hoa, âm thanh rất trong trẻo. Trong khoảnh khắc,
nghe Sư quở mắng: “Lũ súc sanh này, nay đă làm loài
lông lá, sao lại khổ sở khiến cho con người
sợ hăi, hăy mau trở về rừng rậm, chẳng nên
tự tiện xuất hiện!” Sư liếc nh́n th́ ra hổ
báo riu ríu bỏ đi. Tới sáng, Tăng từ cội tùng
trèo xuống, an ủi. Sư xin ở lại hầu hạ.
Tăng nói: “Từ chỗ này nh́n ra, toàn là cỏ cây
khô héo, bốn phía trọn chẳng có khói bếp của con
người, chẳng phải là chỗ Sư ở
được!” Lại hỏi: “Ông chẳng đói ư?”
Bên khe suối có mấy trăm gốc lúa. Tăng hái lúa,
tách ra được ba vốc gạo, nhổ rau dại,
nấu chung thành thức ăn, bảo Sư trở về.
Vị tăng
đưa tới cửa động nói: “Gặp nhau chẳng
phải là chuyện ngẫu nhiên. Ông đă uống trà và
ăn cháo rau, cả đời sẽ chẳng thiếu cái
ăn!” Sư theo đường trở về chùa ḿnh, th́
ra đă hơn một tháng, bèn dẫn những người
bạn thân thiết quay lại t́m, chẳng biết động
ở chỗ nào. Đó là chuyện trong năm Thiên Phước
đời Văn Mục Vương xứ Ngô Việt.
* Thích Nghĩa Sở chùa Khai Nguyên ở
Tề Châu đời Châu[7]
Sư người
Tương Châu, họ Bùi, bảy tuổi xuất gia.
Sư lễ kinh Pháp Hoa, cứ mỗi chữ là một lạy,
lạy trọn một bộ. Đối với tông Câu Xá,
Sư thấu đạt chỗ u vi, tột bậc. Sư
biên soạn Thích Thị Lục Thiếp[8],
khởi đầu bằng Pháp Vương Lợi Kiến
Bộ, kết thúc bằng Sư Tử Thú Loại Bộ, tập
hợp thành một bộ sách lớn. Hiển Đức
nguyên niên (954), vua sắc truyền đưa bộ sách vào Sử
Quán. Thoạt đầu, Sư biên soạn, hai mắt bị
mù, thầy thuốc chữa không được. Sư bèn
ngầm sám hối trong tâm. Kiền thành như thế chẳng
gián đoạn, sau một năm, mắt sáng lại, mọi
người nói đó là điềm chứng tỏ sự cảm
ứng.
* Thích Thiệu Nham đời Tống
Sư người Ung Châu, họ
Lưu. Phàm kinh sách trăm loại, hễ đọc tới, Sư đều
như ôn tập. Tới khi vào đất Ngô Cối, Sư
trụ tích tại chùa Thủy Tâm ở Hàng Châu, luôn phúng tụng
kinh Pháp Hoa chẳng bỏ suốt ngày đêm. Bỗng cảm
trên đất bằng sanh ra hoa sen. Cả thành kéo đến
xem. Năm Kiến Long thứ hai (961), ư nguyện tụng
kinh đă viên măn, Sư thề phỏng theo Dược
Vương Bồ Tát thiêu thân. Khi đó, Hán Nam quốc
vương
họ Tiền cố sức can ngăn. Sư liền lại
gieo ḿnh xuống sông Tào Nga[9]
để nuôi bụng cá, dường như có thần nhân
nâng chân, sóng to vỗ bủa mà Sư như ngồi
trên đài báu. Vua bèn tạo Thượng Phương Viện,
thỉnh Sư ở đó. Năm Khai Bảo thứ tư
(971), Sư nói với người hầu: “Ta tụng kinh
Pháp Hoa đă hai vạn bộ,
quyết mong sanh về An Dưỡng, nay may đă
được thỏa bổn hoài”. Nói xong, Sư ngồi
xếp bằng qua đời. Trà-tỳ, xá-lợi vô số,
di cốt sáng ngời như ngọc.
* Thích Hy Tịch đời Tống
Sư người Vĩnh
Gia, họ Hồ, từ bé đă tụng kinh Pháp Hoa, trọn
một tháng liền thông suốt. Sau khi đă thọ Cụ
Túc, Sư yết kiến Tủng pháp sư ở Thiên Thai
để tham cứu, học tập Chỉ Quán. Sư từng
ngụ tại chùa Dục Vương ở Tứ Minh, mộng
thấy lên chùa Quốc Thanh, có ṭa tràng báu, ghi là đài
Văn Thù. Phía ngoài có lan can chặn lại, muốn vào chẳng
thể được. Bỗng thấy Quán Âm từ bên
trong bước ra, khom ḿnh đón tiếp. Từ đó,
Sư nhạo thuyết vô tận, bèn ở tại chùa Quốc
Thanh thuộc Phật Lũng để tiếp tục
giảng huấn, và lập đạo
tràng Loa Khê. Người học kéo đến như mây.
Năm Thái B́nh Hưng Quốc thứ năm (980), Sư sang
Phù Giang ở Hoàng Nham phóng sanh, giảng phẩm Lưu Thủy
Trưởng Giả [của kinh Kim Quang Minh]. Sư tới
linh thạch ở Hải Môn, phục hoạt đạo
tràng an cư mùa Đông của tổ Trí Giả, khiến
cho nơi đó trở thành một ngôi chùa danh tiếng sầm
uất. Sư suốt đời giảng kinh Pháp Hoa mười
mấy lượt. Dân Âu Việt[10]
chuộng săn bắn, từ khi nghe Sư giáo huấn,
đều quăng cung, xé lưới. Công thuyết pháp của
Sư chưa từng có!
* Thích Nghĩa Thông đời Tống
Sư họ Doăn, thuộc
hoàng tộc Cao Ly, có phạm tướng dị thường:
Lông mày dài hơn năm tấc. Thuở bé, Sư xuất gia
ở Quy Sơn Viện. Vào niên hiệu Thiên Phước
đời Hậu Tấn, Sư sang trung thổ, tới chỗ
Vân Cư Thiều quốc sư ở Thiên Thai, bỗng có chỗ
khế ngộ. Tới khi tham yết Loa Khê (tức ngài Thích Hy Tịch, tổ thứ mười
lăm của tông Thiên Thai, vừa được nhắc tới
trong đoạn trên), nghe tông chỉ “nhất tâm tam
quán”, Sư bèn than rằng: “Cái học viên đốn từ
nay đều thấu triệt rồi”. Sư bèn ở lại
đó thọ nghiệp. Lâu sau, Sư muốn giong buồm trở
về Đông; thái thú Tứ Minh là Tiền Duy Trị cố
giữ Sư lại, nói: “Chỉ mong lợi sanh, cứ ǵ
phải trở về Kê Lâm[11]?”
Sư bèn trụ tại Truyền Giáo Viện (thuộc Loa Khê). Năm Thái B́nh Hưng Quốc thứ
sáu (981), [Truyền Giáo Viện] được ban biển
ngạch đề tên là Bảo Vân. Sư hoằng
dương Giáo Quán gần hai mươi năm. Đoan Củng
nguyên niên (988), Sư nằm bên hông phải qua đời.
* Thích Ngộ Ân đời Tống
Sư họ Lộ, người Hải
Ngu. Trong niên hiệu Trường Hưng[12],
Sư đến chùa Huệ Tụ
ở Côn Sơn, học Nam Sơn Luật. Sau
đó, nghe Tam Quán của tông Thiên Thai, ngầm khế hợp
huyền giải, liền tạo Từ Quang Viện Chí Nhân
Sư ở Tiền Đường, giảng dạy nhiều năm.
Đối với Pháp Hoa, Kim Quang Minh, và Chỉ Quán Luận,
Sư đều hiểu rơ chỗ huyền vi. Tháng Tám
năm Ung Hy thứ ba (986), Sư mộng thấy sa-môn khoác
ca-sa, cầm ḷ vàng đốt hương, nhiễu quanh thất
ba ṿng, tự nói là “Tổ Sư Quán Đảnh đến
đây tiếp đón”. Tỉnh mộng, Sư c̣n ngửi
thấy mùi hương lạ, bèn hướng về Tây, chắp
tay qua đời. Trong viện đều nghe trên hư không
có tiếng tơ trúc, linh, đạc. Sư thản nhiên về
Tây.
* Thích Tỉnh Niệm ở Thủ
Sơn thuộc Nhữ Châu đời Tống
Sư người Lai Châu, họ
Địch, thọ học tại chùa Nam Thiền thuộc
quận nhà. Sư đến khắp giảng ṭa tại các
tùng lâm. Sư thường ngầm tụng kinh Pháp Hoa, mọi
người gọi Sư là Niệm Pháp Hoa. Về già,
Sư hầu ngài Phong Huyệt [Diên Chiểu thiền
sư]. Một hôm, Sư cùng vị Chân viên đầu[13]
cùng hỏi han xong, Phong Huyệt hỏi: “Như thế nào
là Thế Tôn chẳng nói mà nói?” Chân viên đầu nói: “Bột
cưu thụ đầu cưu” (chim bột cưu[14]
là con bồ câu đậu trên cành cây). Phong Huyệt nói: “Ông
tạo nhiều si phước để làm ǵ, sao không tham
cứu để thấu hiểu ngôn cú?” Ngài lại hỏi
Sư, Sư đáp: “Động dung dương cổ lộ,
bất đọa tiễu nhiên cơ” (mỉm cười
nêu lối cũ, cơ duyên chẳng để sót)[15].
Ngài Phong Huyệt bảo Chân viên đầu: “Sao ông không
xem câu hạ ngữ (câu đáp) của Niệm Pháp Hoa?” Ngày
mồng Bốn tháng Chạp năm Thuần Hóa thứ ba
(992), Sư thượng đường nói kệ, có câu “kim
niên kư khước lai niên sự” (năm nay hăy nhớ
chuyện sang năm). Tới ngày tháng đó trong năm Thuần
Hóa thứ tư (993), chẳng sai lời dự kư trước
đó, Sư vẫn thượng đường nói kệ
rằng: “Chư tử mạn ba ba, quá khước kỷ
Hằng hà. Quán Âm chỉ Di Lặc, Văn Thù bất nại
hà?” (Các ông cứ ồn ào, đă qua mấy sông Hằng? Quán Âm chỉ Di
Lặc, Văn Thù biết làm sao?) Hồi lâu sau, Sư lặng
lẽ qua đời. Xà-duy t́m được xá-lợi
ngũ sắc.
* Thích Tri Lễ đời Tống
Sư hiệu là
Pháp Trí, họ Kim, người Tứ Minh. Từ ngài Bảo
Vân Thông, Sư được truyền dạy Thiên Thai Giáo
Quán. Trong niên hiệu Thuần Hóa[16],
Sư giáo hóa cực thịnh, học tṛ như rừng.
Sư tận lực hành Pháp Hoa và Ban Châu tam-muội, mong sanh
về An Dưỡng. Sư từng kết bạn với
mười người có cùng chí hướng để tu
sám. Kỳ hạn ba năm đă măn, Sư toan thiêu thân để
báo đền kinh mầu nhiệm. Văn công
Dương Ức, Lư công Tuân Úc, tâu lên triều
đ́nh ban cho Sư y tía và đạo hiệu Pháp Trí đại
sư. [Hai vị ấy] vâng chỉ khuyên Sư trụ thế.
Môn nhân là Bổn Như thưa hỏi về tông chỉ của
kinh vương, Sư nói: “Ngươi hăy làm giám viện cho
ta ba năm”. Bổn Như vâng lời, ba năm đă măn, lại
đến thưa hỏi. Sư ra oai, hét một tiếng,
Bổn Như rỗng rang khai ngộ, bèn tŕnh kệ tụng
rằng: “Xứ xứ phùng quy lộ, thời thời phục
cố hương, bổn lai thành hiện sự, hà tất
đăi tư lượng?” (Chốn chốn gặp nẻo
về, luôn luôn về quê cũ, vốn thành chuyện hiện
thời, cần ǵ đợi suy nghĩ). Sư tùy cơ
khai ngộ như thế đó.
Sư suốt đời tu
sám;
bảy lần hành sám, mỗi kỳ hai mươi mốt
ngày. Trong tông Thiên Thai, Sư là chuẩn đích. Sư trước
tác [Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh] Diệu Tông Sao
để nêu tỏ rộng khắp ư chỉ “quán tâm, quán
Phật”. Ngày mồng Một
Tết
năm Thiên Thánh thứ sáu (1028), Sư tu Quang Minh Sám. Tới
ngày mồng Năm, Sư triệu tập
đại chúng thuyết pháp, bỗng xưng Phật hiệu
mấy trăm câu, ngồi xếp bằng, thoát hóa. [Môn nhân
đặt thi thể Sư] trong khám chẳng đóng lại,
suốt mười bốn ngày, vẻ mặt Sư
vẫn như c̣n sống, móng tay và tóc đều mọc dài
ra, lưỡi chẳng hoại như hoa sen vậy. Thanh Hiến
Công Triệu Biện viết bài minh đề tháp. Từ tổ Long Thọ truyền
cho ngài Huệ Văn đời Bắc Tề, Huệ
Văn truyền cho Nam Nhạc Huệ Tư, Huệ Tư
truyền cho Thiên Thai Trí Khải, cho tới ngài Pháp Trí,
Sư được tôn là vị tổ thứ mười
bảy của tông Thiên Thai.
* Thích Tuân Thức chùa Thiên Trúc núi Linh Ẩn
đời Tống
Sư tự Tri Bạch, họ
Diệp ở Ninh Hải. Sư vào chùa Quốc Thanh, đối
trước tượng Phổ Hiền Bồ Tát đốt
một ngón tay, thề truyền Thiên Thai Giáo Quán. Đầu
niên hiệu Ung Hy, Sư yết kiến ngài Bảo Vân Thông,
huệ giải phát khởi đẹp đẽ. Nhằm
ngày kỵ tổ Trí Giả, Sư đốt đỉnh
đầu, thề tận lực hành bốn môn tam-muội.
Sư trở về Thiên Thai, do siêng khổ học tập
đến nỗi ói ra máu, nhưng vẫn kiên quyết hành
đạo, măn bốn mươi chín ngày, chợt như mộng
thấy đức Quán Âm duỗi tay vào miệng Sư, lôi
ra mấy con trùng. Ngài lại duỗi ngón tay, rót cam lộ
vào miệng Sư. [Sư liền cảm thấy] thân tâm
thanh lương, bệnh từ trước nhanh chóng khỏi
hẳn.
Năm Tường Phù thứ
tám (1015), Sư chuyển sang sống tại Thiên Trúc. Trong
niên hiệu Thiên Hy[17],
Văn Mục Công cai quản đất Hàng, chuyện đầu
tiên là t́m đến thăm Sư trong núi, xin Sư giảng
kinh Pháp Hoa và ư nghĩa “tâm, Phật, chúng sanh, ba pháp đều
như”, biện tài phát khởi rơ rệt. Văn Mục
Công tán thưởng chẳng ngớt. Ở phía Đông chùa,
Sư dựng Quán Nhật Am để vận dụng quán
tưởng pháp quán Tây Phương. Sư nương theo
kinh Vô Lượng Thọ, soạn thuật Văng Sanh Tịnh
Độ Sám Nghi và Hạnh Nguyện Pháp Môn được
lưu hành rất rộng trong cơi đời. Sư thường
hành Pháp Hoa tam-muội, lấy chín mươi ngày làm kỳ hạn,
cảm ứng chẳng phải chỉ có một chuyện.
Sư dựng Quang Minh Sám Đường, đối với
mỗi cây cột, mỗi
viên ngói, ắt đều tụng chú Đại Bi bảy
biến. Trải qua nhiều
lượt binh hỏa, ṭa nhà ấy nghiễm nhiên một
ḿnh tồn tại là do nguyện lực tạo thành. Năm
Thiên Thánh thứ mười (1032), Sư thị tịch.
Người đương thời gọi Sư là Từ
Vân Sám Chủ.
*
Pháp Hoa Đại Sĩ Chí Ngôn chùa Khai Bảo đời Tống
Sư tự nói ngài họ Hứa
ở Thọ Xuân. Tuổi hai mươi, Sư sang Đông
Đô, đắc độ nơi Thất Câu Chi Viện. Một
hôm, Sư đọc Vân Môn Lục, bỗng khế ngộ.
Chẳng lâu sau, Sư bèn thông hiểu
Túc Mạng. Sư dung mạo lạ lùng, nh́n thẳng chẳng
nháy, miệng mấp máy chẳng biết Sư đang nói
ǵ, thường ngày chẳng thể thiếu sót, luôn thích tụng
kinh Pháp Hoa. Do vậy, được đặt hiệu [là
Ngôn Pháp
Hoa đại sĩ]. Khi Sư sắp mất, bảo mọi
người: “Ta từ vô lượng kiếp đến
nay thành tựu quốc độ Thệ Đa,
phân thân hoằng dương, giáo hóa, nay trở về Nam”. Sau đó, Sư
an tường qua đời. Tống Nhân Tông từng dâng
hương, ngầm cầu nguyện rằng: “Sáng mai, thỉnh
Pháp Hoa đại sĩ thọ trai tại Hóa Thành Điện”.
Sáng ra, nội thị tâu rằng: “Ngôn Pháp Hoa từ cửa
ngách bên phải bước vào, sắp đến tẩm
điện, quát mà chẳng thể ngăn được!”
Chúa thượng cười nói: “Trẫm thỉnh Ngài đến”.
Sư đến nơi, liền ngồi lên giường ngự, xếp bằng thọ
cúng. Chúa thượng hỏi về chuyện trữ quân
(thái tử), Sư cầm bút, viết chữ
to “mười ba, mười ba”. Sau, Anh Tông tức vị,
tức là con trai thứ mười ba của Bộc An Ư
Vương. Văn Mục Công Lữ Mông Chánh[18]
thỉnh Ngôn
Pháp Hoa thọ trai, hỏi tương lai tốt xấu
như thế nào? Sư chỉ viết hai chữ Bạc
Châu. Tới khi ông bị băi chức Tể Tướng,
được cử ra coi Bạc Châu mới hiểu ư lời
sấm khi trước.
* Thích Bổn Như chùa Năng Nhân ở
Đông Dịch Sơn đời Tống
Sư là người huyện
Cú Chương, Tứ Minh. Thưở nhỏ, Sư
nương theo ngài Pháp Trí. Năm Tường Phù thứ
tư (1011), Sư tới Đông Sơn, hoằng
dương Giáo Quán rộng lớn, giảng các kinh Pháp Hoa,
Kim Quang Minh, Quán Vô Lượng Thọ v.v… mỗi kinh đều
hơn sáu bảy lượt. Sư lại tụ tập một
trăm vị tăng, tu Pháp Hoa trường sám suốt một
năm. Sư từng ở phía Tây Nam của núi, thấy một
con hổ đang nằm, bèn lấy trượng chạm nó,
bảo: “Đây chẳng phải là chỗ ngươi ở!”
Hổ gục đầu bỏ đi. Sau Sư ở chỗ
hổ nằm kết am, an dưỡng trong ấy. Trước
đó, đă có ngũ thông thần ở đó. Mỗi khi
Sư tọa Thiền, họ liền khiêng giường
đi trên hư không. Sư hâm mộ di phong Lư Sơn, bèn
cùng với các hiền nhân như Tuân công Chương Đắc
Tượng kết Bạch Liên Xă. Trong niên hiệu Khánh Lịch[19],
triều đ́nh sắc tứ ban hiệu cho Sư là Thần
Chiếu, và áo hậu màu tía, ban biển đề tên chùa là
Bạch Liên. Về sau, Sư thuyết pháp, giă biệt đại
chúng. Giang thượng nhân thấy trên chót mây có vị
Tăng đi về Tây. Năm Gia Định thứ tư
(1211) cải táng, khi đó đă là hai trăm năm sau, mở
ḥm thấy từ nhan nghiễm nhiên, râu tóc mọc dài, xá-lợi
đầy quan tài.
* Thích Tổ Thiều chùa Thiên Trúc núi
Linh Ẩn đời Tống
Sư người huyện
Thiên Thai, họ Lưu. Mười chín tuổi đă tụng
thông thuộc kinh Pháp Hoa. Sư vào Đông Dịch tham yết
ngài Từ Vân, đắc trọn ư chỉ huyền
áo. Sư chỉ hành Pháp Hoa tam-muội, dùng đó làm thường
khóa. Sư từng tu Quang Minh Sám một trăm ngày đêm. Tới
khi đă tu được một nửa, bỗng thấy
cờ quạt, tràng phan đầy dẫy trước mặt.
Người dẫn đường hô là Đại Biện
Thiên Tôn. Sư liền đứng dậy, chắp tay. Vị
trời ấy nói: “Sư truyền bá, hoằng thông Đại
Thừa, lợi ích rộng nhiều”. Nói xong biến mất.
Sư lại đến Hoài Tứ, mộng thấy có vị
Tăng xoa đầu, bảo: “Ta là ḥa thượng
Văn Thù, dạy cho ông năm nghĩa vô sanh”. Sư thức
giấc, ngũ tạng rỗng rang như nhai băng tuyết.
* Thích Hữu Nghiêm đời Tống
Sư người huyện Lâm Hải, họ Hồ. Mười bốn tuổi, Sư sang Đông Sơn, nương theo ngài Thần Chiếu, tu tập Thiên Thai Giáo Quán. Trong niên hiệu Thiệu Thánh[20], Sư ẩn cư tại đỉnh núi phía Đông của rặng Xích Thành, kết am tranh dưới cội cây Tra. Do vậy, tự đặt tên là Tra Am. Sư hành Pháp Hoa tam-muội, hễ cầu giải trừ hạn hán hay lụt lội, Sư vừa tŕ tụng đă có cảm ứng lạ kỳ như [hô to trong sơn cốc bèn lập tức có] tiếng vang. Mẹ của Sư bị bệnh mắt, Sư đối trước Quán Âm đại sĩ, tưởng tay cầm Nhật Quang Ma Ni [trong số ngàn cánh tay của Bồ Tát]. Mẹ liền mộng thấy Sư cầm mặt trời ở trước mặt. Tỉnh giấc, mắt sáng lại. Một hôm, Sư ở trong Định, thấy thiên thần bảo rằng: “Tịnh nghiệp của Sư đă thành”. Lại mộng thấy trong ao sanh đóa sen to lớn, thiên nhạc vang rền bốn phía. Sư bèn soạn một bài Tây Quy Tự Tiễn để dạy đại chúng. Bảy ngày sau, Sư ngồi xếp bằng qua đời. Trên tháp có quang minh như mặt trăng suốt cả ba đêm rồi mới ẩn.
* Thích Xử Hàm đời Tống
Sư họ Vương ở
Thiên Thai. Sau khi thọ Cụ Túc, Sư nghĩ Phật pháp rộng
lớn, nếu chẳng
tận lực học, sao có thể kiến đạo.
Sư liền vào Thiên Phong duyệt Đại Tạng Kinh.
Ba năm đă xong, Sư đến yết kiến ngài Thần
Chiếu, ngộ sâu xa ư chỉ trong giáo pháp. Về sau,
Sư trụ tŕ chùa Bạch Liên, truyền Thiên Thai Giáo Quán,
thường tu Pháp Hoa tam-muội. Tháng Bảy Nguyên Hựu
nguyên niên (1086), Sư triệu tập đồ chúng, phân
chia y bát, bảo rằng: “Ngày Hai Mươi Ba này ta sẽ
trở về Tịnh Độ”. Sư bảo thị giả
vào lúc thỉnh chuông buổi sáng sẽ báo cho mọi người
biết. Đến thời, Sư thong thả ngồi dậy,
xếp bằng mà tịch. Dương Thứ Công soạn
bài tán có câu: “Di thư phong rồi, ngồi xếp bằng,
chẳng trụ bạch liên, sanh bạch liên”.
* Thích Linh Chiếu đời Tống
Sư người Đông
Dương, họ Lô. Bẩm sanh thề dốc chí nơi
Không môn. [Dụng công học kinh] chưa đầy một
tháng, Sư đă thông thuộc hai kinh Pháp Hoa và Kim Quang Minh.
Sư quảy tráp đến các giảng ṭa, nghiên cứu
tinh tường Tam Quán của Thiên Thai. Về già, Sư trụ
tại chùa Siêu Quả ở Hoa Đ́nh. Trong niên hiệu
Nguyên Phong[21],
Sư kết các thiện lữ thành tịnh xă, ḥng phỏng
theo di phong của Đông Lâm. Sư từng mộng thấy
Di Đà Tam Thánh. Sư quỳ hỏi: “Con suốt đời
tụng kinh, mong sanh về Tịnh Độ, có được
thỏa nguyện hay không?” Quán Âm nói: “Tịnh Độ
chẳng xa. Có nguyện liền sanh, chẳng cần ngờ
nữa”. Sư lại trong đêm thanh tụng kinh, mộng
thấy đức Phổ Hiền. Do vậy, phát tâm tạo
tượng Phổ Hiền Bồ Tát, thề tụng kinh
Pháp Hoa một vạn bộ, ḥng trang nghiêm tịnh báo. Một
hôm, trong Định, Sư thấy có dị tướng, liền
nằm chồng chân qua đời. Xà-duy, lưỡi chẳng
hoại, xá-lợi vô số.
* Thích Khả Cửu đời Tống
Sư trụ tại chùa Khai
Nguyên ở Tứ Minh, thường tụng kinh Pháp Hoa.
Sư cùng Văn Trung Công Tô Thức thân thiết nhất.
Sư thường ở Tường Phù thuộc Tây Hồ,
một căn pḥng tiêu điều, thanh bạch giữ phận
nghèo. Đang lúc xem đèn nơi Cửu Khúc, Tô Thức rời
khỏi người hầu, một ḿnh đi vào thất của
Sư, trọn chẳng có đèn đuốc, chỉ nghe mùi
hoa Chiêm Bặc đọng lại. Ông ngưỡng mộ,
tán thán, đề thơ, trong đó có câu: “Bất bả
lưu ly nhàn chiếu Phật, thỉ tri vô tận bổn
phi đăng” (Chẳng dùng đèn soi chiếu bàn
Phật, mới hay vô tận chẳng phải đèn).
Năm Nguyên Hựu thứ tám (1091), Sư không bệnh, ngồi
qua đời. Ba ngày sau, Sư sống lại nói: “Thần
thức của ta đă dạo nơi Tịnh Độ. Thấy
tướng trạng cơi ấy giống hệt sự
trang nghiêm được nói trong Thập Lục Quán Kinh. Tất
cả đài sen trong ao bảy báu đều ghi tên họ của
người sẽ văng sanh. Một đài tử kim đề
Huân Công thuộc Quảng Giáo Viện tại phủ Thành
Đô đă sanh trong đó. Lại có một đài vàng,
đề Tôn Thập Nhị Lang ở Minh Châu, một đề
Khả Cửu. Lại có một đài bạc đề Từ
Đạo Cô ở Minh Châu”. Nói xong, Sư lại
qua đời. Năm năm sau, Từ đạo cô mất,
mùi hương lạ đầy thất. Lại bảy
năm nữa, Tôn Nhị Lang mất. Khi đó, mọi
người nghe tiếng nhạc trời nghênh đón trên
hư không, đều đúng như Sư đă nói.
* Thích Kế Trung thuộc Pháp Minh Viện
tại Ôn Châu đời Tống
Sư ở Vĩnh Gia, họ
Khâu. Tám tuổi được xuất gia, đến Nam Hồ
nương theo ngài Quảng Trí, ngộ rành rẽ Giáo Quán
hành Pháp Hoa và Kim Quang Minh tam-muội, chẳng để thiếu
sót ngày nào. Sư trừ bệnh, đuổi tà quái, thần
ứng khó lường! Năm Nguyên Phong thứ năm
(1082), Sư nhóm họp đại chúng thuyết pháp rồi
qua đời. Quang minh màu đỏ chiếu thấu hư
không. Các thành viên trong tịnh nghiệp xă và toàn giáo đều
mộng thấy thần nhân mặc giáp vàng bảo: “Trung
pháp sư đă sanh lên Đâu Suất”.
* Thích Tư Chiếu đời Tống
Sư người Tiền
Đường, họ Dương. Sư tham cứu thần
ngộ, có khế hợp rồi bèn trích máu chép kinh Pháp Hoa gồm
bảy quyển. Sư dựng tiểu am, đặt tên là
Đức Vân, chuyên tu Niệm Phật tam-muội suốt
ba mươi năm. Mùa Xuân Tuyên Ḥa nguyên niên (1191), một tối, Sư
thấy Phật hiện thân kim sắc, liền kết ấn,
ngồi qua đời. Sư tụng kinh Pháp Hoa một ngàn bộ và bảy kinh Tịnh Độ, mỗi chữ lễ
một lạy, lễ Pháp Hoa như thế đă mười
lần, khổ hạnh không hai.
* Thích Trung Lập ở Minh Châu đời
Tống
Sư ở Ngân Huyện, họ
Trần. Xuất gia từ bé, được ban hiệu là
Trí Minh. Trong niên hiệu Hy Ninh[22],
Sư ở Nam Hồ, kế thừa pháp ṭa của ngài Thần
Trí, hằng ngày tuyên giảng Chỉ Quán. Trong niên hiệu
Nguyên Hựu[23],
Sư lại trụ tŕ chùa Diên Khánh, tu Pháp Hoa tam-muội sám
pháp suốt bảy năm. Khi hành pháp sắp viên
măn, một hôm trong khi Thiền Quán, Sư thấy một chiếc
thuyền to. Đại chúng muốn lên
thuyền đều chẳng được, chỉ ḿnh
Sư ngồi trong đó ra đi. Từ đấy, trí huệ
biện tài của Sư như suối trào. Sư tụng
Pháp Hoa hơn một vạn bộ. Sư nhương tai, cứu nạn, không ǵ chẳng thần nghiệm! Phù
Tông ở Vĩnh Gia thưa với Sư: “Tôi từng thấy
Đại
Ma Lợi Chi Thiên và Vi Đà ở trong mộng cầu hộ
pháp, mong có ngày nào đó, họ được
đặt bài vị trong sám đường và Sư làm chủ
sám”. Do vậy, chuyện lập tượng [Ma Lợi Chi
Thiên và Vi Đà trong sám đường] bắt nguồn từ
Sư. Trần Oánh Trung từng tán thán Sư rằng: “Nghiêm
tịnh Mộc Xoa, giữ vững tịnh lự, dùng thân
làm lưỡi, nói trăm ức sự”.
* Thích Tịnh Phạm thuộc Vô
Lượng Thọ Viện tại Cô Tô đời Tống
Sư người Gia Ḥa, họ
Trúc. Đầu niên hiệu Nguyên Hựu, Sư trụ tŕ
chùa Đại Từ ở Cô Tô, đă giảng kinh Pháp Hoa
mười mấy lượt. Trong niên hiệu Đại
Quán[24],
Sư kết xă gồm hai mươi bảy vị tăng
tu Pháp Hoa Sám. Mỗi kỳ phương tiện, lấy hai
mươi tám ngày làm hạn. Ba hội như thế, cảm
đức Phổ Hiền trao giới Yết Ma. Tới khi
Bồ Tát hô “tịnh phạm tỳ-kheo” th́ âm thanh to lớn
vang rền như thỉnh chuông lớn. Tam-muội sắp
thành, có hai vị tăng làm lễ, thưa: “Mùa Xuân năm
nay, chúng con đến Thạch Kiều lễ thánh tích. Bỗng
thấy không trung rưới hoa, mùi hương lạ khác
thường. Một vị tăng bèn nói: ‘Phạm pháp chủ
ở Cô Tô chủ tŕ kỳ sám hối tán hoa đến tận
đây’. Nói xong,
chẳng thấy đâu nữa. Do vậy,
[chúng con] tới chiêm lễ”. Sau đó, trong hội
sám, lại thấy Vi Đà Thiên tuần hành sám thất, hễ
xét thấy hành nhân nào có chút sai trái bèn gây chướng ngại, khiến họ phải
thoái lui. Trong niên hiệu Nguyên Phù[25],
Sư từng mộng thấy ḿnh tới cơi âm, bậc
vương giả đón lên ṭa, sai nha lại xét sổ bộ,
nói: “Tịnh Phạm tỳ-kheo đă trải nhiều kiếp
luôn giảng Pháp Hoa”. Vua liền đứng dậy đảnh
lễ, sai sứ đưa Sư về. Vào cuối niên hiệu
Chánh Ḥa[26],
sau khi Sư thị tịch, có xá-lợi
năm màu.
* Thích Đàm Dị đời Tống
Sư người Dư Diêu,
họ Đỗ. Thuở bé, Sư xuất gia tại chùa
Long Tuyền, đă học tập Thiên Thai Giáo Quán. Sư bế
quan, chuyên tu Tịnh nghiệp, tụng kinh Pháp Hoa đủ
năm ngàn bộ, Phổ Hiền Quán Hạnh và kinh Di
Đà, mỗi thứ đều một vạn quyển. Hằng
ngày, Sư tŕ Phật hiệu chẳng dứt. Đầu
niên hiệu Sùng Ninh[27],
Sư dâng hương, bảo đại chúng: “Đă tới
lúc tôi sanh vào Tịnh Độ, sẽ nương đài
kim cang theo Phật về Tây! Nguyện [đại chúng] nỗ
lực tấn tu, sẽ có thể
gặp gỡ”. Nói xong, Sư điềm nhiên qua
đời.
* Thích Tông Lợi ở núi Đạo Vị
tại Cối Kê đời Tống
Sư người Cối Kê,
họ Cao. Đă thọ giới Cụ Túc, sang Cô Tô,
nương cậy ngài Thần Ngộ. Sư tu Pháp Hoa Sám,
toan định kỳ hạn là ba năm. Bỗng thấy
Phổ Hiền Bồ Tát ngự trên không lướt qua, liền
đi theo Ngài đến Bích Chiểu ở Tân Thành, chuyên tu
Niệm Phật tam-muội. Chánh Ḥa nguyên niên (1111), do trời
hạn, Sư cầu mưa, cảm long vương hiện
thân kim sắc, mưa lành nhuần thấm. Cuối niên hiệu Kiến Viêm[28],
Sư ở núi Đạo Vị, buộc ḷng nơi Tịnh
Độ. Tới đêm thứ ba, đảnh châu ở
trên tượng vẽ bỗng tỏa sáng. Một
hôm, Sư bảo đệ tử rằng: “Phật đến
rồi, ta sắp về An Dưỡng”. Sư liền
viết kệ, có câu “Nhất tướng đạo nhân
quy khứ lai, kim đài tọa đoạn càn khôn trách”
(nhất tướng đạo nhân hăy trở về,
đài vàng đă đoạn, càn khôn hẹp). Sư lặng
lẽ qua đời.
* Thích Đạo Sâm ở Ôn Châu đời
Tống
Sư người Nhạc
Thanh, họ Bành. Mười tám tuổi thọ Cụ Túc Giới,
tới Nam Hồ nương cậy ngài Viên Chiếu. Trong
Thiền Định, Sư thấy tôn giả Tứ Minh tọa
Thiền trên giường, đàm luận pháp tướng
sâu xa. Từ đấy, tâm địa Sư rỗng rang, do
vậy, hành Pháp Hoa tam-muội, cảm Phổ Hiền đại
sĩ phóng quang. Trí huệ biện tài càng tăng thêm. Có
người bị bệnh đă lâu, Sư v́ người
đó thuyết pháp, thí thực, phần nhiều được
lành bệnh. Cuối niên hiệu Thiệu Hưng[29],
Sư bỗng nhóm chúng tụng Quán Kinh, ngày đêm chẳng dứt.
Đại chúng ngửi thấy mùi hương đầy
thất. Sư nói: “Phật đến tiếp dẫn
ta”. Sư liền tắm rửa, thay quần áo, bảo
đại chúng phúng tụng phẩm An Lạc Hạnh. Tụng
chưa xong th́ Sư đă đột ngột qua đời.
Lưu khám[30]
hơn cả tháng, sắc diện và thân thể vẫn như
đang c̣n sống.
* Thích Tùng Nhă đời Tống
Sư là người Tiền
Đường. Thoạt đầu, Sư theo ngài Hải
Nguyệt học thông thạo Chỉ Quán, liền vào Thiên
Vương Viện ở Nam Sơn, tụng kinh Pháp Hoa
hơn hai vạn bộ. Sư tụng các kinh khác và lễ
Phật tới một trăm vạn lạy. Sư lễ
kinh Pháp Hoa, cứ một chữ là một lạy, hành
như thế ba lượt. Tâm sư mong mỏi Tịnh
Độ, suốt đời chẳng ngồi xoay lưng
về phía Tây, ḷng tinh thành như thế đó. Hiến Sứ[31]
Dương Kiệt đă soạn An Lạc Quốc gồm
ba mươi bài tán tặng Sư. Bài thứ nhất là “Tịnh
Độ trọn khắp các pháp giới, nhọc công sao chỉ
riêng Tây Phương? Chỉ cần được nhập
vào cơi ấy, chốn chốn thảy đều là Bồ
Đề”. Tại chùa Tịnh Trụ, Sư vẽ bức
họa cửu phẩm tam-muội, cho khắc lên đá. Nhiều
người được cảm hóa. Về sau, Sư
không bệnh tật qua đời, cảm mùi hương lạ,
nhạc trời. Mọi người đều nói đó là
điềm chứng tỏ Tây Phương thánh chúng tới
đón.
* Thích Hàm Oánh đời Tống
Sư bẩm thừa Thiên
Thai Giáo Quán, từng
dùng chữ bạc để chép kinh Pháp Hoa, hễ gặp
danh hiệu Phật, Bồ Tát bèn dùng chữ vàng. Cơi đời
xưng tụng là “pháp môn chí bảo”. Trong niên hiệu
Kiến Viêm, giặc Kim tràn tới, chùa viện bị đốt
sạch. T́m trong đống gạch ngói th́ thấy bản
kinh này chẳng bị tổn hoại chữ nào.
* Thích Tổ Nam đời Tống
Sư sống trên ngọn Vân
Phong của Nam Nhạc, trích huyết chép kinh A Di Đà
năm trăm quyển, kinh Kim Cang một trăm quyển,
kinh Pháp Hoa mười bộ. Tốn hết hai mươi
bảy năm, đều dùng máu để chép. Những
năm cuối đời, Sư máu cạn, thân lộ
xương, nhưng tiếng niệm Phật
chẳng dứt. Một hôm, Sư ngồi qua đời tại
Phương Trượng, giữa hai mày nhô ra xá-lợi, cứ
lấy đi lại sanh ra viên khác.
* Dụ Tư Tịnh đời Tống
Ông là người Tiền
Đường, tự đặt hiệu là Tịnh Độ
Tử, đă sớm theo hầu Anh pháp sư giảng kinh
Pháp Hoa. Sau đó, ông thường tŕ tụng, chuyên tâm niệm
Phật. Hễ rảnh th́ vẽ tượng Phật. Hễ
vẽ, ắt sẽ ở trong tịnh thất, tĩnh lặng
tâm tưởng, thấy quang minh của A Di Đà Phật rồi
mới hạ bút. Năm Đinh Tỵ (1137) trong niên hiệu
Thiệu Hưng, ông ngồi ngay ngắn bảy ngày, nhất
tâm niệm Phật, lặng lẽ qua đời.
* Trưng sĩ Tả Thân đời Tống
Ông là người huyện
Lâm Hải, Thiên Thai, thọ Bồ Tát giới từ ngài Thần
Chiếu, khắc tượng Tây Phương Tam Thánh,
đêm ngày chú trọng kiền thành. Ông tụng kinh Pháp Hoa ba
ngàn bốn trăm bộ, Kim Cang Bát Nhă hai vạn quyển.
Mùa Thu năm Thiệu Thánh thứ hai (1095), ông cậy sa-môn
xướng tựa đề kinh Pháp Hoa, lại thọ
thêm Bồ Tát Giới, liền thấy ba người to lớn
đứng ở bờ sông, mời ông Tả Thân lên thuyền.
Ông liền thỉnh Tăng tụng kinh Di Đà, rồi nói:
“Ta đă thấy Phật quang”. Ông ngồi ngay ngắn qua
đời.
* Phạm Nghiễm ở Nhân Ḥa đời
Tống
Ông thường ăn chay,
đạm bạc đối với thế duyên, nói: “Ta từ
nay là kẻ ăn nhờ ở đậu”. Hằng ngày, ông
tụng kinh Pháp Hoa. Lại c̣n tự tay viết một bộ
kinh, tột bậc trang nghiêm. Trong niên hiệu Đại
Quán, ông bỗng thấy đức Phổ Hiền cưỡi
voi trắng sáu ngà, phóng kim sắc quang, bảo ông Nghiễm
rằng: “Ông từng tụng Pháp Hoa, niệm A Di Đà Phật,
được sanh về Tịnh Độ, cho nên ta đến
báo với ông”. Qua một đêm, ông thấy thánh chúng x̣e
tay [tiếp dẫn], bèn ngồi chắp tay, qua đời.
* Trương Khánh ở Biện Kinh
đời Tống
Trong niên hiệu Tường
Phù, ông làm người coi ngục, thường giữ ḷng Từ
và thận trọng. Ban ngày, ông cẩn thận quét dọn.
Trong tháng nóng, càng thêm siêng năng. Thức ăn, thuốc
men, đồ trải nằm ắt
đều tinh sạch. Ông thường khuyên răn các
đồng nghiệp: “Người ta bất hạnh vướng
ṿng lao lư, nếu chúng ta chẳng biết thương xót th́
kẻ mắc tội biết
kêu van vào đâu?” Ông suốt đời tŕ tụng kinh Pháp
Hoa. Mỗi khi gặp tù trọng tội bị hành h́nh, ông
đều trai giới, tụng kinh suốt một tháng mới
thôi. Ông thường dạy tù nhân, có tội th́ hăy nên chấp
nhận; đừng vu cáo người lương thiện
khiến cho oan nghiệt của ḿnh càng nặng hơn. Vợ
ông là Viên Thi lúc bốn mươi tám tuổi, nhiễm dịch
chết ba ngày, bỗng tỉnh lại nói: “Thoạt đầu
tôi tới một chỗ bẩn thỉu, mong đến
được chỗ thanh lương. Bỗng thấy Bạch
Y đại sĩ nói: ‘Bà chẳng nên tới đây, lại
c̣n chưa có người nối ḍng. Chồng bà có nhiều
âm đức, con cháu sẽ hưng thịnh’. Ngài bèn dùng tay
kéo tôi ra, tôi được sống lại”. Năm sau,
bà sanh con tên là Hanh, làm quan tới chức Tam Ban Tá[32].
Trương Khánh tám mươi hai tuổi, không bệnh tật
mà mất. Sáu đứa cháu nội đều làm quan vinh hiển,
được gọi là “thế tộc”.
* Vô Vi Quân Sứ Lư Ngộ đời Tống
Ông chuyên tụng Pháp Hoa, bỗng
đi đường trong đêm tối gặp
lũ quỷ khinh nhờn. Bỗng
thấy một cụ già áo vải, giày rơm, lớn tiếng quát rằng: “Người
này thường tụng Pháp Hoa, không được xâm phạm!” Quỷ tan chạy,
cụ già cũng chẳng thấy đâu!
* H́nh Bộ Đô Quan[33]
Lục Nguyên đời Tống
Ông hiệu là Tỉnh Am, sống
tại Hoành Khê thuộc huyện Tứ Minh. Mỗi sáng thức
dậy, ông liền rửa ráy, súc miệng, vào tịnh thất,
dâng hương, ngồi xếp bằng, tụng kinh Pháp
Hoa, mắt chẳng nh́n ngó điều ǵ khác. Thoạt tiên,
ông xướng kệ rằng: “Rửa tay, buổi sáng mở
kinh văn, chẳng cầu được phước hoặc
tiêu tai, thế duyên đoạn hết từ đây đoạn,
trong ánh kiếp hỏa múa một hồi”. Liền mở
quyển kinh ra tụng, tiếng thanh thúy như chuỗi ngọc.
Hằng ngày, ông tụng một biến suốt ba
mươi năm. Lúc tuổi tám mươi, ông tăng lên
thành [mỗi ngày] tụng ba bộ. Từ thơ phú có thể
thấy được ư ông. Trong thơ có câu “thanh thần
tam độ đáo Linh Sơn” (ba lượt đến
Linh sơn vào sáng sớm). Ông tụng được chín
ngàn bốn trăm tám mươi lăm bộ [kinh Pháp Hoa].
Lại duyệt Tỳ Lô Đại Tạng. Phàm Thai tông
(tông Thiên Thai), Luật Bộ, Thiếu Thất Tâm Tông (Thiền Tông), không ǵ chẳng tham cứu rộng
răi. Ông lại tụng thánh hiệu Di Đà, nhất ư về
Tây. Tháng Tư năm Thiệu Hưng thứ năm (1135),
ông đă tám mươi lăm tuổi, tắm rửa, đội
mũ, mặc áo qua đời, bỗng nghe từ nơi miệng
và mũi tỏa ra hương hoa sen thơm ngát cả ngày mới
hết.
* Đăi Chế Triều Thuyết Chi
đời Tống
Ông có tên tự là Dĩ Đạo,
từng sang Hồ Nam tham yết ngài Trí Minh, nghe nói tam thiên cảnh quán liền hoan hỷ
nguyện học. Tuổi già, ông hằng ngày tụng kinh
Pháp Hoa không thiếu sót, tự đặt biệt hiệu
là Vị Thượng
Lăo Pháp Hoa (ông lăo tụng
Pháp Hoa trên sông Vị).
* Trương Bỉnh đời Tống
Ông cai trị Kư Châu. Một
tên cướp lớn đoạt tài sản của dân, lại
c̣n dâm loạn con gái của người ta. Trương Bỉnh
phẫn nộ cùng cực, lập giàn, đóng đinh gă
đó ở cửa [phủ nha], ba ngày sau sai người bằm
vụn hắn. Về sau, ông mắc bệnh sốt rét. Một hôm,
đúng Ngọ, bệnh phát nguy kịch. Bỗng thấy
trung sứ đến gọi Trương Bỉnh, ông
gượng bệnh đến nơi. Tới một tẩm
điện, nghe tiên đế Chân Tông lớn tiếng quát
trong rèm: “Sao Trương Bỉnh phi pháp giết người?
Cho hắn đối biện với nạn nhân”. [Quỷ sứ]
dẫn ông Bỉnh tới góc Tây Nam của điện, mở
cửa ngục, tù nhân bị cùm trói muôn vẻ. Ông mới biết
ḿnh chẳng ở trong cơi người. Một tội nhân bị
xiềng chặt, huyết nhục đầm đ́a, khóc
lóc, tố cáo: “Mày phi pháp giết tao, chi thể rải rác,
vĩnh viễn chẳng được thọ sanh, làm sao
bây giờ?” Ông Bỉnh mới nhận ra đó là gă cướp,
bèn quát mắng: “Mày phạm tội chỉ chết một
lần. Dẫu giết mày vạn lần cũng chẳng
đủ rửa nhục cho cô ta! C̣n dám tố cáo ư?” Gần
đó có một nha lại, chính là viên nha lại cũ đă
theo ông Bỉnh lúc ông tùng sự tại Hà Dương, nói:
“Ngũ h́nh c̣n có thường điển, cũng chẳng
trách hắn tố cáo!” Ông Bỉnh hỏi: “Làm thế nào
đây?” Viên nha lại nói: “Chỉ khiến cho hắn
được thác sanh th́ Ngài có thể trở về”. Ông Bỉnh
sợ hăi, hỏi cách nào khiến cho gă đó thác sanh. Viên nha
lại nói: “Không ǵ bằng kinh Pháp Hoa, nhưng phải chí
thành hứa hẹn”. Ông Bỉnh bèn hứa khi trở về, sẽ thỉnh Tăng tụng một
trăm bộ. Gă tù chẳng buông, tăng tới một
ngàn bộ vẫn
thế. Ông Bỉnh càng sợ, viên nha lại nói: “Chẳng cần
nhiều! Chỉ cốt sao tụng lâu dài, hằng ngày thỉnh
Tăng tụng một bộ, hứa thực hiện suốt
đời th́ sẽ có thể đưa hắn đi thác
sanh”. Ông Bỉnh hứa sẽ làm đúng như vậy, quả
nhiên chẳng thấy [gă cướp ấy]. Ba ngày sau, ông mới
hoàn hồn, bèn mời tăng mỗi ngày tụng một bộ,
tới chết chẳng bỏ. Chuyện này trích từ
Tương Sơn Dă Lục.
* Khương học sĩ ở Toại
Châu đời Tống
Ông tuổi hai mươi bị
chết đột ngột, vua cơi âm quở trách: -
Ngươi đời trước làm lành, đời này
đáng lẽ thọ tám mươi hai tuổi, năm
Đinh Sửu thi đỗ Tiến Sĩ, địa vị
đạt tới công khanh. Lẽ ra, ngươi chớ nên
giết trâu ăn thịt đến nỗi bị giảm
thọ, tuyệt lộc. Ngươi há chẳng nghe bài kư về
chuyện Hải Châu bảy ngày đêm dông tố, trời
giáng xuống cái trống đá ư? Bài kư ấy viết rằng:
“Lục súc đều do nghiệp trước, chỉ có trâu
khổ sở nhất”. Ngươi thấy đó, kẻ bị
chết ngang xương đều là kẻ ăn thịt
trâu!
Nói xong, một nha lại bên
cạnh bảo: “Ngươi hăy nên gấp cầu được
hoàn hồn để sửa lỗi. Nếu không, bị
phán vào địa ngục, sẽ chẳng có thuở
thoát ra!” Ông Khương cầu chỉ dạy. Nha lại
nói: “Âm phủ kính trọng người biên chép, thọ tŕ
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh và kinh Kim Cang, Thái Thượng Cảm
Ứng Thiên nhất. Nếu ngươi phát tâm, sẽ có thể
được thoát nạn”. Ông Khương vâng theo, xin hoàn
hồn ḥng sửa lỗi, chép kinh, phụng dưỡng cha
mẹ. Vua cơi âm chấp thuận, ông liền được
tái sanh. Từ đó, ông hiếu dưỡng song thân, giữ
giới kiêng dâm và giết, chép kinh, tŕ chú, thường thuật
chuyện ấy để khuyên người khác, cảm hóa
ngày càng đông. Về sau, ông đỗ
đạt, làm quan tới Học Sĩ.
* Phan Miện Giả ở Nam Hải
đời Tống
Ông giả
điên chẳng lường được, người
đời gọi ông là Phan Áng; ấy là v́ thông tục gọi
kẻ điên là Áng (盎). Áng thường nói kệ
tụng Pháp Hoa với người ở kinh đô, lui tới
mỗi ngày một nhiều hơn. Một dị nhân bảo:
“Ông Áng chính là Nhật Quang Phật”. Có Triệu Đường
thoạt đầu làm mạc quan[34],
bỏ việc theo ông Áng đi khắp nơi, đạt trọn
hết đạo của ông. Ông Áng liền ẩn mất,
ông Đường cũng ngồi qua đời. Hỏa
thiêu, thu được mấy thưng xá-lợi. Văn
Trung Công Tô Thức do giao du với Đường Tử
Sưởng mà nhận được bốn mươi
tám hạt, từng viết bài Triệu Tiên Sinh Xá Lợi Kư
* Ông Lục đồ tể ở
Thành Nam, Hồ Châu đời Tống
Lúc ông hai mươi ba tuổi,
thấy một vân thủy tăng[35]
tới cửa, miệng nói “giáo hóa người hữu
duyên”. Ông Lục chẳng hiểu. Vị tăng nói: “Ông giết
trâu dê vô số, sao không đổi nghề?” Ông Lục nói:
“Tôi thừa kế nghề của tổ tiên, rất khó bỏ
được!” Vị Tăng nói: “Ông không đổi nghề,
đời sau ắt đọa vào loài ấy, phải thọ
oán báo, chẳng có thuở thoát ra. Tôi thấy ông đời
trước đă có thiện căn, hăy nên gấp chuyên tâm
thọ tŕ kinh Diệu Pháp Liên Hoa và kinh Kim Cang để tiêu
trừ ác nghiệp, tăng trưởng thiện phước”.
Nói xong, bỗng chẳng thấy Sư đâu nữa! Ông Lục
bèn tỉnh ngộ, ăn chay, thề chẳng làm nghề giết
chóc nữa. Ông vẽ một bức A Di Đà Phật, Quán
Âm, Thế Chí, kiền thành sắp đặt cúng dường,
theo thầy tập luyện tụng hai kinh. Chưa tới
năm năm, ông đă có thể tụng thuộc ḷng. Mỗi
ngày, ông đối trước Phật dâng hương, tụng
một bộ kinh Pháp Hoa, một quyển kinh Kim Cang, sám hối,
nguyện độ các chúng sanh đă bị ông giết
sẽ sớm được sanh về Tịnh Độ.
Lúc tám mươi mốt tuổi, khi sắp tạ thế,
khoảng nửa tháng trước đó, ông đă hẹn khắp
với các thân hữu, vào ngày mồng Chín tháng Mười Một, sẽ
đăi cơm để từ biệt. Đến hẹn,
mọi người đều đến ăn cơm chay
xong, ông bỗng đ̣i tắm rửa, thay áo, ngồi ngay ngắn,
đọc kệ, qua đời. Kệ rằng: “Sáu
mươi năm lẻ ĺa sát nghiệp, tay ném đao, cân,
ngầm tu hành. Hôm nay t́m được lối Bồ Đề,
lửa đỏ sao mà sen bỗng sanh”.
* Châu Thị Như Nhất đời
Tống
Bà thuở nhỏ được
gả về nhà họ Tiết ở Tứ Minh. Lúc hai
mươi mấy tuổi, liền tự giữ ḿnh thanh tịnh,
mặc đạo phục tại gia, ở nơi rừng
vắng, thêu bảy quyển kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Mười
năm mới xong, tới phẩm Hóa Thành Dụ, nơi mũi
thêu nhặt được xá-lợi như hạt gạo,
liên tiếp thu được mấy chục hạt. Đối
với mỗi câu, mỗi chữ, bà đều xướng
lễ ba lần. Tới khi bà thêu tượng Di Đà Tam
Thánh, tột bậc kỳ diệu. Bà tụng các kinh Đại
Thừa xuôi thuận như nước rót từ trên cao xuống.
Bà từng khắc gỗ để tạo tranh khuyên người
niệm Phật. Người được bà giáo hóa cả
hai mươi vạn. Năm Thiệu Hy thứ tư (1134),
bà thị hiện mắc bệnh nhẹ, y sĩ kê thuốc
đan sa, bà nói: “Ta chắc chắn văng sanh, đan sa[36]
để làm ǵ?” Bà lặng lẽ nằm bên hông phải qua
đời. Đàm thiền sư ở Quất Châu có soạn
truyện về bà.
* Lư Thị mẹ ông Đổng ở
huyện Đức Hưng đời Tống
Bà tụng phẩm Phổ Môn
ba mươi mấy năm. Về sau, vào cơi âm, thấy
đức Quán Âm x̣e tay dẫn dắt, quang minh như ban
ngày, bảo: “Số bà đă tận, nhưng v́ có thiện
căn, nên ta đến giúp đỡ”. Bà bỗng sống lại.
* Kỹ nữ Lô Mị ở Dĩnh
Châu đời Tống
Trong niên hiệu Khánh Lịch[37]
đời Tống, Văn Trung Công Âu Dương Tu coi
Dĩnh Châu. Có quan kỹ tên là Lô Mị, dáng dấp, phong vận
đoan trang, diễm lệ, trong miệng thường tỏa
hương hoa sen, lan tỏa khắp cả chỗ ngồi.
Có một vị tăng người đất Thục, khá
biết chuyện trong đời trước của mọi
người, nói: “Nàng này kiếp trước làm ni, tụng
kinh Pháp Hoa suốt ba mươi năm. Do một niệm
sai lầm, bèn đến nông nỗi này!” Ông hỏi kỹ
nữ: “Ngươi đă từng đọc kinh Pháp Hoa hay
chưa?” Cô ta đáp: “Thiếp đă thất thân nơi chốn
này, chẳng rảnh đâu mà đọc!” Ông sai người
mang kinh tới đưa cho xem, cô ta vừa xem liền tụng ngay,
như đă trọn quen tập luyện từ trước.
Đổi sang kinh khác th́ cô ta chẳng thể đọc
được! Do vậy, ông mới tin chủng tử tu tập
chẳng phải là hư vọng.
* Đứa tới gái của bà Triệu
đời Tống
Trong niên hiệu Thiệu
Hưng đời Tống, Triệu mẫu tại Phụng
Hóa chuyên tŕ Pháp Hoa. Một đứa tớ gái trộm nghe
lâu ngày, bỗng nhớ bốn câu “thanh liên hoa
hương, bạch liên hoa hương, hoa thụ
hương, quả thụ hương”. Do vậy, cô ta
cứ ngâm ngợi, phúng tụng chẳng dứt. Về sau
chết đi. Nơi chỗ được an táng sanh một
đóa sen xanh. Thích Bổn Không trần thuật.
* Bà Hoàng ở Triều Sơn đời
Tống
Bà chuyên tụng Pháp
Hoa và Kim Cang, chuyên tâm niệm Phật. Bỗng bà bị kiết
lỵ, chỉ uống nước, không ăn. Một vị
tăng tu Thiền ở trong am gần đó, mộng thấy
bà đến nói: “Sẽ sang Tây Phương”. Hai ngày sau, bà
hướng về Tây niệm Phật, ngồi ngay ngắn
qua đời. Xa gần đều thấy ráng đỏ
che trên nhà bà.
* Tần Thị Tịnh Kiên đời
Tống
Bà nhà ở Tùng Giang, tự
nhàm chán thân nữ, không cùng ở một chỗ với chồng
nữa, tinh ṛng tŕ trai giới, tụng niệm các kinh Pháp
Hoa, Hoa Nghiêm, Kim Quang Minh, Bát Nhă làm thường khóa, nóng lạnh
chẳng gián đoạn. Sáng tối bà lễ Phật, tu Di
Đà Sám. Lâu ngày có quang minh chiếu vào thất, bà hướng
về Tây, ngồi yên qua đời.
* Nghi nhân[38]
Lục Thị đời Tống
Bà là người Tiền
Đường, là vợ ông Vương Dư thời
đó. Bà thường tụng Pháp Hoa, ư chuyên dốc nơi
Tịnh Độ. Một hội lễ sám của bà là một
vạn câu niệm Phật, suốt ba mươi năm chẳng
thiếu sót. Về sau, bà mắc bệnh nhẹ, bỗng
nghe tiếng trống trời tự vang ra tiếng, mọi
người mới kinh dị. Bà liền hướng mặt
về Tây, hai tay kết ấn, qua đời.
* Thích Hoằng Tế chùa Phổ
Phước tại Tiền Đường đời
Nguyên
Sư có pháp hiệu là Thiên Ngạn,
người xứ Dư Diêu, họ Diêu. Sư mồ côi từ
bé, nương theo chú là Măn công xuất gia. Sư thiên tánh cao
tột tuyệt luân. Được dạy kinh Pháp Hoa, chẳng
mấy chốc Sư đă có thể ghi nhớ. Mười
sáu tuổi, Sư được thọ giới, liền
tŕ luật chẳng biếng nhác. Sư cảm khái, có chí
hướng hoằng dương đại pháp, liền
sang huyện Ngân, nương theo Toàn công ở Bán Sơn,
để học Thiên Thai Chỉ Quán, chuyên tu Pháp Hoa và Tịnh
Độ sám pháp. Dường như trong khi quán định,
Sư thấy tôn giả ban cho như ư bằng sừng tê giác.
Từ đó, Sư biện luận ngày càng khéo, bèn khai pháp ở
vùng Đông Ngô Lưỡng Chiết. Sư coi lưu thông
giáo pháp là Đệ Nhất Nghĩa, giảng Pháp Hoa một
trăm mười hội, nhiều lần cảm điềm
lành hoa trời. Diêm quan[39]
thấy bờ biển sụt lở, thỉnh Sư mở
đại hội Thủy Lục. Sư ngầm vận tâm
quán tưởng, cầm cát biển chú nguyện, quăng khắp
các chỗ. Vết chân Sư đi tới đâu, bờ biển
chẳng sụt lở nữa. Năm Chí Chánh thứ bảy
(1347), Sư triệu tập đại chúng, dặn ḍ “duy
tâm Tịnh Độ” rồi ngồi ngay ngắn, viết
kệ, qua đời.
* Trần Quân Chương đời
Nguyên
Ông là người Hoàng Nham,
đoan nghiêm, thận trọng, ít nói. Lúc bốn mươi
tuổi, ông lấy bà Diệp, tụng niệm Pháp Hoa, niệm
Phật kính cẩn. Lúc sáu mươi tuổi, bệnh nguy
ngập. Một tối, ông bảo con trai là Cảnh Tinh
đỡ ngồi lên, bảo rằng: “Ta trở về”. Hỏi:
“Về nơi nào?” Đáp: “Chẳng có chỗ đến”. Lại
nói: “Ta chết rồi hăy nên xà-duy (hỏa thiêu) theo cách của
tăng lữ”. Nói xong, chắp tay xưng nam-mô A Di Đà Phật
mà qua đời.
* Thích Thiện Kế chùa Năng Nhân tại
Thiên Thai đời Minh
Sư hiệu Hải Huệ,
người xứ Chư Kỵ. Sư vừa mới biết
nói, nghe mẹ niệm Phật hiệu, liền chắp tay
cất giọng ḥa theo. Mười tuổi, Sư xuống
tóc tại chùa Linh Bí ở Sơn Âm, theo ngài Đại
Sơn Khôi tu tập Thiên Thai Giáo Quán. Về sau, Sư đắc
pháp nơi ngài Trạm Đường Trừng. Sư ba lần
trụ tŕ danh lam, hoằng xiển Pháp Hoa Huyền Nghĩa và
Văn Cú, sáng giảng, tối giải, ngũ chương,
tứ thích[40],
nghĩa lư uyên áo rạng ngời. Trong khi giảng giải, Sư
từng cảm mộng tôn giả Tứ Minh. Lúc tuổi
già, Sư ẩn cư nơi Hoa Kính, nghiêm túc tu Tịnh nghiệp.
B́nh sanh Sư giảng Pháp Hoa, Kim Quang Minh, chủ tu là Pháp
Hoa và Tịnh Độ Sám, cảm ứng linh dị chẳng
phải chỉ là một chuyện.
* Liên Tŕ đại sư chùa Vân Thê núi
Ngũ Vân đời Minh
Sư húy Châu Hoằng, người
đất Cổ Hàng, họ Trầm. Tuổi hai
mươi, Sư gởi ḷng nơi Phật thừa. Năm
Bính Dần (1566) thời Gia Tĩnh, Sư nương theo
ngài Vô Môn Tánh Thiên để xuống tóc; không lâu sau, thọ
Cụ Túc Giới. Một bầu, dép lẻ[41],
tham học trọn khắp các phương. Sư đến
Ngũ Đài ở phương Bắc, cảm Văn Thù Bồ
Tát phóng quang. Năm Tân Mùi (1571) trong niên hiệu Long Khánh, Sư
thấy núi Vân Thê sơn thủy u tịch, bèn kết lều
tranh để suốt đời sống tại đó.
Vùng Hoàn Sơn có nhiều hổ gây tai họa. Sư v́ chúng
nó phúng kinh, thí thực, tai họa do hổ bèn yên. Gặp
năm hạn hán, Sư đi dọc theo ruộng niệm
Phật, chân Sư bước tới đâu, mưa đúng
thời nhuần thấm [tới đó]. Từ đấy,
hóa đạo đại thịnh.
Sư ở riêng một ḿnh,
một môn Tịnh Độ dung hội Tam Tạng, chỉ
quy lẽ duy tâm. Tăng tục bốn phương đảnh
lễ dưới đài sen, mỗi ngày tính ra cả ngàn
người. Các bậc hiền hào nối gót tới cửa
hỏi đạo, đều được điểm
hóa, tham cứu đại sự, không ai chẳng chế ngự
được cái tâm. Sư lại ôm ḷng bi mẫn tột
bậc, soạn bài Giới Sát Phóng Sanh Văn (văn kiêng giết,
phóng sanh) để khuyên đời. Trong ngoài thành, chỗ
có núi, Sư đều lập ao phóng sanh, quanh năm cứu
vớt các sanh mạng thuộc loài có lông, có vảy chẳng
thể kể xiết.
Trong niên hiệu Vạn Lịch[42],
Từ Thánh thái hậu sai nội thị đem áo ca-sa tía,
cúng dường trai tăng, thưa hỏi pháp yếu.
Người trong nước nghe danh Sư, đều
xưng ngài là Vân Thê Cổ Phật. Sư ngầm tu Tứ
An Lạc Hạnh, gánh vác chánh pháp, mật hạnh khó thấy.
Sư dùng Niệm Phật tam-muội để nhiếp trọn
ba căn, trở thành người kế thừa tổ
Vĩnh Minh. Thiền sư Hám Sơn soạn bài minh đề
ở tháp của đại sư rằng: “Nếu chẳng phải là phó chúc, chắc
chắn từ đất vọt lên”, v́ biết Sư
là người kín nhiệm vậy. Sư từng soạn
bài tán bức tranh thêu kinh Pháp Hoa rằng: “Trong bốn
mươi chín năm, khai thị Phật tri kiến. Đạt
được đầu mối ấy, hiện trong hết
thảy trần, người ta dùng bút mực, ngươi
dùng kim và chỉ, mỗi cánh hoa sen sanh, từng chữ quang
minh khắp. Tâm tướng vốn vô h́nh, tức cảnh
có thể chuyển. Ta dùng bút làm lưỡi, để
đề cao chuyện này, cùng kết duyên Bồ Đề,
măi chuyển Không Vương điện”. Sư lại
c̣n từng soạn kệ
sớ cho kinh Pháp Hoa, được chép trong Vân Thê Pháp Vựng.
* Thích Đức Thanh đời Minh
Sư là người đất
Toàn Tiêu, họ Thái. Chín tuổi,
Sư đă có thể tụng phẩm Phổ Môn. Mười
hai tuổi, được thầy dạy Pháp Hoa, học
ba tháng Sư đă đọc tụng thông suốt. Hai
mươi tuổi tu Thiền, quyết chí tham cứu.
Sư lên kinh đô, yết kiến An pháp sư, nghe giảng
Pháp Hoa, Duy Thức. Sư đă tới Thanh Lương, tới
Hám Sơn ở Bắc Đài, thích vẻ đẹp lạ lùng của núi ấy, nên lấy hiệu
là Hám Sơn. Sư trở về Nam đến Thiếu Lâm,
chiêm lễ tượng Sơ Tổ (Bồ Đề Đạt Ma). Trên đường
Đông A, Sư rỗng rang liễu ngộ, bèn có kệ rằng:
“Tử sanh đêm ngày, nước chảy hoa rụng,
ngày nay mới biết, lỗ mũi hướng xuống”.
Sư bèn đến Bắc Đài, ở lại chỗ sâu
thẳm, hiểm trở nhất tại Long Môn, [ở trong
căn] nhà cũ chỉ c̣n mấy cây cột. Khi đó,
Sư thấy băng tuyết trên vạn quả núi, thân tâm
tiêu sái. Nước khe chảy cuồn cuộn [phát ra tiếng]
như sấm. Sư nhất niệm chẳng sanh, muôn tiếng
vang dường như im bặt. Sư phát nguyện trích
máu ḥa bột vàng, chép một bộ kinh Hoa Nghiêm ḥng kết duyên Bát Nhă, kiêm báo ơn cha mẹ.
Khi đó, Sư nhiều lần cảm dị mộng, thấy
đức Từ Thị trong lầu gác rộng lớn, nói
pháp vi diệu. Lại mộng thấy vào hang Kim Cang, thấy
Thanh Lương đại sư ngồi tựa giường
báu lớn, khai thị quán cảnh viên dung. Từ đấy,
túc chướng tan ră.
Năm Ất Mùi (1595) triều
Vạn Lịch, do chuyện tặng đại tạng kinh
gây liên lụy, Sư bị đày tới Lôi Châu. Đến
Kim Lăng, Sư gặp thiền sư Đạt Quán. Lúc
đến đường rẽ, ngài Đạt Quán cầm
tay nói: “Tôi nghe chuyện thầy mắc nạn, sẽ đối
trước Phật, tụng một trăm bộ Pháp Hoa
để sám hối tội khiên từ trước, đó
là tấm ḷng của tôi mà là lưỡi của
thầy”. Sư vâng dạ. Về sau, đến lănh ngoại[43],
Sư dựng Thiền thất nơi lũy đá, nhóm
đại chúng tụng niệm công khóa để đáp
đền nguyện trước. Sư bèn giảng kinh Pháp
Hoa một lượt. Tới phẩm Kiến Bảo Tháp, Sư cảm
ngộ ư Phật. Năm Mậu Ngọ (1618), Sư định
cư tại chùa Pháp Vân thuộc ngọn Ngũ Nhũ ở
Lư Sơn, phỏng theo sáu thời [tụng niệm] của
tổ Huệ Viễn, khắc hương thay cho đồng
hồ, chuyên tâm tu Tịnh nghiệp. Sư từng dùng khai
thị ngộ nhập để phán thích toàn thể bản
kinh, viết thành Pháp Hoa Thông Nghĩa gồm bảy quyển.
* Thích Hồng Ân chùa Đại Báo Ân ở
Kim Lăng đời Minh
Sư họ Hoàng, người
Kim Lăng. Mười ba tuổi, Sư nghe giảng Pháp
Hoa. Tới đoạn “tam giới vô an, do như hỏa
trạch” (ba cơi chẳng yên, ví như nhà lửa), Sư rỗng
rang khai ngộ, xin cha cho xuất gia. Sư với ngài Hám
Sơn Đức Thanh cùng theo thầy là ḥa thượng Vô
Cực. Sư đến Thiếu Lâm ở Tung Sơn, tới
Phục Ngưu an cư kết đông rồi quay về.
Sư lại sang Ngũ Đài, [có chí hướng] cao cả lấy pháp làm trách nhiệm
của ḿnh. Trong niên hiệu Vạn Lịch, Sư ngồi
trên nghê ṭa[44],
giảng diễn Pháp Hoa. Hằng ngày xoay quanh muôn
vạn ư chỉ để riêng nêu ra [chỗ thù thắng,
độc đáo] của kinh Pháp Hoa, tham cứu thẳng
vào ư Phật. Một trận mưa nhuần thấm, hai loại
cây, ba loại cỏ thảy đều được thấm
nhuần, người nghe than là chưa từng có. Sư
thuyết pháp gần ba mươi năm. Mỗi lần chẳng
giảng bèn tu Thiền Quán. Sư từng kết lều
tranh trong núi Trường Hưng để tu tập
tĩnh lự. Sư nhập Định hai ngày, cỏ cây,
nhà cửa đều chấn động. Hám Sơn trần
thuật khí khái cứng cỏi của Sư đúng là bậc
hưng pháp truyền đạo.
* Thích Chân Giác ở Phật Lũng Nham
núi Thiên Thai đời Minh
Sư có pháp tự là Bách Tùng,
người Côn Sơn, họ Vương, phạm tướng
lạ lùng, vốn sẵn có linh tri. Về sau, do t́m ṭi trong
kinh Phật, Sư biết cơi đời vô thường, xuất
gia, thọ Cụ Túc Giới. Sư đến Ngô Hưng
tham yết pháp sư Nguyệt Đ́nh, dự vào giảng
ṭa kinh Pháp Hoa. Nghe tới phẩm Phương Tiện liền
khai ngộ. Năm Giáp Tư (1564) đời Gia Tĩnh, núi Thiên
Thai thỉnh Sư giảng Pháp Hoa. Ư Sư không muốn tới,
mộng thấy thần nhân mặc áo đỏ bảo rằng:
“Duyên của Sư đă tới, ta sẽ hộ tŕ Sư
đến”. Dân chúng ở Thiên Thai thoạt đầu theo
tà giáo, Sư vận dụng mạnh mẽ biện tài xảo
diệu, quét sạch hết [các tà kiến]. Họ đều
biết niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Kể
từ đó, suốt hai mươi sáu năm, không năm
nào chẳng có giảng ṭa, xa gần đều nghe tiếng.
Người học tôn Sư là pháp sư Diệu Phong.
Sư giảng kinh Pháp Hoa và Diệu Tông Sao, hoằng
dương rộng lớn Giáo Quán, khiến cho người
đương thời biết tông chỉ tánh lẫn
tướng đều do sự đức hóa của
Sư. Lâm chung, Sư viết Tam Tự Tỉnh rồi qua
đời. Sư từng tu Tùy Tự Ư tam-muội, mỗi
khi gặp bệnh cảnh, Chỉ Quán càng gắng công,
Sư có trước tác bộ Tịnh Độ Mộng
Đàm Kư.
* Thích Chân Thanh đời Minh
Sư hiệu là Tượng
Tiên, người xứ Tương Đàm, họ La. Thuở
trẻ, Sư vào Nam Nhạc, theo ḥa thượng Bảo Lâm
xuống tóc rồi thọ Cụ Túc Giới. Hằng ngày,
Sư tŕ kinh Pháp Hoa, kiêm tu khổ hạnh. Lúc hai mươi
lăm tuổi, Sư ngồi thuyền vượt biển
lễ Phổ Đà. Trong thuyền, Sư bỗng có điều
tỉnh ngộ. Do đến thăm di tích Diêm Quan, Sư trụ
tích tại chùa Giác Hoàng. Bỗng Sư mắc bệnh, chợt
thấy Quan Thánh (Quan Công) trao cho linh dược, bảo:
“Sư là bậc chí nhân, xin hăy mở rộng quy củ huyền
diệu, ḥng cảnh tỉnh
thói tục trong đời mạt”. Bệnh liền lành. Sau
đó, Sư đi về phương Nam, đến
chơi Thiên Thai, chuyên ṛng tu Chỉ Quán. Năm năm sau, lại
vào
ngọn núi phía Nam của Hoa Đảnh,
bảo: “Đời Tống, Vĩnh Minh đại sư
từng Thiền Định chín mươi ngày ở
đây”. Sư ngưỡng mộ phong cách ấy, bèn kết
am tranh trên nền cũ, kết xă tu Đại Tiểu Di
Đà Sám Pháp mỗi loại suốt ba năm, rộng tán
dương tông Thiên Thai và chuyên ṛng phô diễn ngũ hối.
Một tối, Sư mộng
thấy một ṭa cung điện tráng lệ, Di Đà Tam
Thánh ngồi theo từng hàng. Do vậy, Sư lễ bái trọn
khắp, thấy sa-di trao cho một tấm
thẻ trên đề bốn chữ “giới hương
huân tu”. Năm Đinh Hợi (1587) thời Vạn Lịch,
Từ Thánh thái hậu đặc biệt ban tặng Sư
bốn bộ áo hậu tử kim, giáng chỉ khen ngợi,
tôn sùng. Quan Trủng Tể là Ngũ Đài Lục Quang Tổ[45]
mời Sư chủ tŕ pháp tịch Hư Phù Dung. Sư từ
chối, chẳng nhận. Về sau, Sư dời sang chùa Từ
Vân núi Đông Dịch là chỗ tôn giả Tuân Thức đắc
đạo. Suối róc rách trong khe, bóng tùng lô nhô, Sư lặng
lẽ Thiền Định tại đó. Về sau, Sư
nhận lời thỉnh của quan
Tông Bá là Lục Thụ
Thanh tại Vân Gian thỉnh cầu, xiển dương sự
mầu nhiệm của kinh Pháp Hoa tại Bổn Nhất
Thiền Viện. Tháng Giêng năm Quư Tỵ (1593), Sư ngồi
qua đời. Đă năm ngày mà mặt vẫn như c̣n sống.
Trà-tỳ có mùi hương lạ, xa gần có mấy vạn
người tới dự.
* Thích Tánh Chuyên ở Thạch Thành thuộc
Thiên Thai đời Minh
Sư người Côn Sơn,
họ Trương, hiệu là Thủ Am. Thuở nhỏ, Sư đă
xuống tóc, tham học thiện tri thức các nơi.
Sư yết kiến ngài Diệu Phong, thọ giới, dự
nghe giảng ṭa Pháp Hoa của Ngài. Về sau, Sư từ biệt
ngài Diệu Phong, qua Phong Đảnh, hành hạnh Đầu
Đà. Trong mười hai thời, Sư chỉ tụng
Pháp Hoa, hành Thiền Định sâu. Sư từng ở
trong Định, thấy ao báu ở Tây Phương biến
thành màu lưu ly, dài rộng không ngằn
mé. Sư đem chuyện ấy thưa với ngài Diệu
Phong. Ngài Diệu Phong nói: “Đó là tướng trạng
Quán Hạnh mới kiến lập, đừng sanh ḷng chấp
trước th́ sẽ là thiện cảnh giới. Nếu
chấp lấy, hoặc nói ra, sẽ vướng vào các thứ
tà”. Do vậy, Sư giữ sâu kín, chẳng nói ra. Thạch
Thành có tượng Di Lặc cao trăm thước. Thời
cổ nói [tượng ấy] là tượng Tam Sanh Phật,
do ba vị Tăng Hộ, Tăng Thục, Tăng Hựu
qua ba đời tạo tác mới hoàn tất. Trong thời
Gia Tĩnh, do chiến tranh, vàng thếp trên tượng bị
lột mất. Sư thếp mới lại. Sư lại
dựng điện bằng đá tương xứng với
tượng, cảm Phật phóng quang, ban đêm mà sáng
như ban ngày.
Mùa Thu năm Giáp Th́n, thiền
sư được mời truyền
đăng, giảng Tiểu Bổn Di Đà Kinh. Có người
thỉnh Sư đổi sang giảng kinh Di Lặc Thượng
Sanh Hạ Sanh, Sư nói: “Chẳng phải vậy! Tôi nghe
Di Đà và Di Lặc, một thân một trí huệ, lực, vô úy cũng thế. Tôi vốn
mong hải chúng cùng ngộ bổn tánh Di Đà chính là bổn
tánh Di Lặc. Trước hết, hăy đến liên hoa Tịnh
Độ rồi mới dự Long Hoa Thắng Hội”. Giữa Đông
năm Bính Ngọ, Sư tắm rửa, thay áo, bảo đại
chúng thỉnh chuông, tụng kinh. Sư ngồi xếp bằng,
niệm Phật mà hóa. Mấy hôm trước đó, trong
Đại Phật Nê Hoàn Điệp[46],
sanh một gốc Linh Chi, to bằng nắm tay, màu trắng
xen hồng, mềm mại, sạch sẽ, đáng yêu.
Người trông thấy đều nói là điều ứng
nghiệm Sư sẽ văng sanh Tịnh Độ.
* Thích Truyền Đăng đời
Minh
Sư họ Diệp, người
đất Cô Miệt, từ bé đă theo xuống tóc với
Hiền Ánh Am thiền sư. Sau đó, Sư yết kiến
pháp sư Bách Tùng, nghe giảng Pháp Hoa, chợt có sự thần
hội. Kế đó, Sư nghe giảng Lăng Nghiêm. Nửa
đêm, Sư vào thất hỏi yếu chỉ của
Lăng Nghiêm đại định. Ngài Bách Tùng trừng mắt,
ngó Sư lom lom, Sư liền khế nhập. Ngài Bách Tùng
phó thác áo ca-sa kim vân tử lũ. Sư suốt đời
tu các pháp sám Pháp Hoa, Đại Bi, Kim Quang Minh, Di Đà,
Lăng Nghiêm v.v… chẳng bỏ sót ngày nào. Từ đó,
thanh danh giảng pháp của Sư truyền xa. Tư Thành
Phùng Mộng Trinh, Thái Tể Lục Quang Tổ quyên tiền
mua đất trên núi biếu tặng. Do vậy, Sư ở
chùa Cao Minh thuộc U Khê. Trước đó, có nông dân ở
vùng núi là Diệp Kỳ chôn cha mẹ ở sau núi, bỗng mộng
thấy Huyền Bật Chân Quân nói rằng: “Đây là cuộc
đất thánh đạo tràng, ngày sau sẽ có bậc nhục
thân Bồ Tát thực hiện Phật sự to lớn.
Ngươi hăy mau chóng cải táng để khỏi mắc
họa”. Diệp Kỳ chẳng tin, bỗng cả nhà
đều ngă bệnh. Họ Diệp sợ hăi bèn dời mộ.
Ngày hôm sau Sư tới, bèn lập tổ đ́nh Thiên Thai ở
nơi ấy.
Người học ùa tới. Sư ngự trên cỗ xe to
rộng, ban cam lộ biện tài. Sư từng soạn [Tịnh
Độ Sanh] Vô Sanh Luận nhằm giảng rơ ư
nghĩa văng sanh Tịnh Độ. Năm Giáp Th́n, Sư nhận lời thỉnh
của thiền sư Thủ Am, đối trước Tân
Xương Đại Phật, thăng ṭa giảng nghĩa. Toàn thể đại
chúng khi đó nghe trong hang đá tấu nhạc trời, tiếng
tơ trúc réo rắt, chẳng phải là âm nhạc trong thế
gian. Giảng xong, nhạc bèn im bặt. Mỗi năm, tu bốn
thứ tam-muội, Sư đích thân suất lănh đại
chúng, tinh tấn dũng mănh tụng chú Lăng Nghiêm, kinh Duy
Ma v.v… Hễ ai chẳng phải là Nho sĩ ắt đều mặc
áo chằm, cảm quỷ thần hộ vệ bên cạnh.
Trước sau, Sư nhận lời thỉnh giảng
hơn bảy mươi kỳ. Lúc bảy mươi
lăm tuổi, Sư biết trước thời giờ,
chính tay viết năm chữ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, lại
cao giọng xướng tựa đề kinh đôi lượt,
thản nhiên qua đời. Sư có hiệu là Vô Tận.
Người đồng thời là thiền sư Hoàng Bá
Thâm Hữu, hiệu là Vô Niệm, thiền sư Bác Sơn
Đại Nghĩ, hiệu là Vô Dị, đều là các bậc
y vương trong cơi trược, là tṛng mắt của trời
người. Người thuở đó gọi các Ngài là Tam
Vô.
* Thích Truyền Kư ở Tây Khê
thuộc Vũ Lâm đời Minh
Sư là người Ngân Thủy,
cơi đời gọi là Ḥa Thượng Pháp Hoa, là cao đồ
của ngài Diệu Phong. Sư tánh chuộng ở một
ḿnh, ẩn tích tại Tây Khê. Ẩn thân Long Thọ suốt
ba mươi mấy năm. Sư hằng ngày lấy tụng
Pháp Hoa làm nghiệp, đă tụng hơn chín ngàn bảy
trăm bộ. Năm Bính Tuất (1586) thời Vạn Lịch,
ngu ty[47]
Huân Thuần Hy cử hành [pháp hội] Pháp Hoa tam-muội sám.
Sư dốc sức quên mệt, tận lực tu trường
kỳ ba lượt, trải qua chín đợt nóng lạnh,
thường đạt được điềm lành ứng
hiện, nhưng Sư im lặng chẳng nói. Về sau,
Sư ngưng lễ tụng, ở trên đường Tây
Khê, gánh nước, vác củi, hành các Phật sự. Nếu
có ai nói: “Ḥa thượng c̣n làm chuyện công đức hữu
vi đó chăng?” Sư lớn tiếng đáp: “Vô vi há ở
ngoài hữu vi hay sao?” Tháng Bảy năm Quư Sửu, Sư
giă từ các đệ tử, niệm Phật ba ngàn câu,
xướng tựa đề kinh Diệu Pháp Liên Hoa bốn
lượt, mặt hướng về Tây, chắp tay qua
đời. Tới sáng hôm sau, đảnh đầu vẫn
c̣n ấm. Mùi hương lạ lâu sau mới tan.
* Thích Quảng Mạc chùa Vân Thê đời
Minh
Sư có pháp tự là Nhân An.
Thoạt đầu, Sư đến Thiên Tùng Môn, cầm
kinh cật vấn, [nhưng rồi qua vấn đáp, trở
nên hết sức] ngưỡng phục Mật Tạng Khai
công. Sau đó, Sư kết giới tại Đại Vân, tập
hạnh Thiền Na. Do Khai công khuyên bảo, Sư mới lại
học Giáo. Do vậy, Sư đến khắp các giảng
ṭa. Năm Ất Dậu (1585) thời Vạn Lịch, pháp
sư Bách Tùng giảng Pháp Hoa ở chùa Phước
Điền tại Hổ Lâm. Năm Bính Tuất (1586), [pháp sư Bách Tùng] lại ở Linh Phong Sơn Tự,
giảng Pháp Hoa Huyền Nghĩa. Sư đều quảy
tráp đến nghe, khế hợp rỗng rang ư chỉ “hội
tam quy nhất”. Năm Đinh Hợi (1587), Thiên Tùng lăo
nhân giảng Thủ Lăng Nghiêm tại Lư Đông Thiền.
Sư lại rong ruổi đến nghe. Đương thời,
trong số những người có thể đối
đáp, lăo nhân tính Sư là một người trong số
đó. Từ đấy, nghĩa biện của Sư ngày
một tăng, đối với các kinh văn khác nhau trong
Tam Tạng, các học thuyết khác nhau của bách gia, hễ
mở sách ra, Sư biết ngay chỗ quy túc. Sư bùi ngùi bảo:
“Văn tự Bát Nhă đều lưu xuất từ hạnh
Thiền Na. Xét theo căn khí của tôi, chẳng thể thẳng
thừng cắt đứt t́nh căn, bị hai món chướng
ấy gây khó. Dùng Pháp Hoa làm cầu bến để vượt
biển sanh tử, làm thang, cầu để lên bờ Niết
Bàn”. Năm Nhâm Th́n (1592), Sư lễ ngài Vân Thê, nghe pháp
môn Tịnh Độ, tam tâm viên phát, thề giữ lấy
hoa đài. Sư viết kệ có câu “chịu ân đều
là pháp, đặt chân chợt như về”. Sư làm
chín bài thơ Hoài Tịnh Độ đều cổ kính,
điềm đạm, sâu xa, khúc chiết, thẳng thừng
khế hợp bi nguyện của Tây Phương Phật.
Sư có chí nguyện hoằng dương đại pháp, từng
biên soạn một quyển Pháp Hoa Cảm Ứng lưu
hành trong cơi đời.
* Thích Quảng Thừa đời Minh
Sư có
pháp tự là Thiệu Giác. Tuổi hai mươi, Sư thọ
nghiệp nơi ngài Đại Giác, tham cứu sâu xa các tông
Thiên Thai và Hiền Thủ. Cơ biện[48]
như gió, người nghe đều kính phục. Về
sau, Sư nương theo ngài Thúy Phong thọ giới, cạo
tóc. Vân Thê đại sư thấy Tịnh Độ
Văn do Sư biên soạn, gọi Sư là “nghĩa hổ”.
Sư siêng tu sám pháp, chứng nhập Pháp Hoa tam-muội. Từ
đấy, duyệt các kinh điển, nghi vấn tan vỡ,
rạng ngời. Sư v́ đại chúng giảng giải
nhiều năm chẳng lười nhác. Về sau, Sư
không bệnh tật mà qua đời. Hoàng Hải Ngạn
Đoan Bá soạn bài minh đề tháp.
* Thích Tăng Phục ở Giang Âm
đời Minh
Sư đạo
đức cao trọng. Cuối đời Vạn Lịch,
Sư thường chép kinh Pháp Hoa, nhiều năm mới
xong. Viết xong, Sư ném bút trong ao. Khi đó, đang nhằm
lúc rét buốt giữa tháng Chạp, bỗng có một
đóa hoa sen từ trong băng mọc ra, vươn cao thẳng
tắp. Sư bèn đặt tự hiệu là Băng Liên
Đạo Nhân. Hiếu Liêm[49]
Hạ Thụ Phương phụng sự Sư, tận mắt
thấy chuyện lạ ấy.
* Thích Tánh Thiên đời Minh
Sư hiệu là Lăng Nhiên,
người đất Ngô Tùng, xuất gia tại Phổ
Đà. Năm Canh Thân (1620) trong niên hiệu Thái Xương,
Châu Đông Uyên ở Vân Gian qua Nam Hải lễ đại
sĩ, thỉnh Sư tụng kinh Pháp Hoa để cầu
siêu cho mẹ. Sư v́ bà ta tụng kinh, hồi hướng
trước tượng Vi Đà Thiên. Ông Châu có một con
trâu rất khỏe, từ đấy bỗng lăn ra chết.
Không lâu sau, [hồn mẹ] nhập vào thân vợ ông, gọi
con bảo: “Trước kia, do khẩu nghiệp nặng nề
nên làm trâu. Nay do công đức của kinh Pháp Hoa, đă thoát
khỏi nỗi khổ làm trâu. Lại cầu ngài Lăng Nhiên lễ
sám để có thể thác sanh”. Do vậy, Sư v́ bà ta lễ
sám, thí Diệm Khẩu Thực. Đêm hôm ấy, ông Châu mơ màng
thấy mẹ đến cảm tạ: “Nhờ sức lễ
sám, sanh vào nhà hàng xóm”. Tới sáng, ông kể lại với Sư
giấc mộng. Vừa khéo, Trịnh thị ở hàng xóm mới
sanh một trai. Họ nh́n nhau kinh ngạc, hỏi vào lúc nào,
th́ ra đúng vào lúc đạo tràng vừa mới hoàn tất.
Sư từng trích máu chép kinh Pháp Hoa. Chép xong hơn sáu ngàn chữ
lưu loát như đă quen làm từ trước. Tĩnh thất
nơi Sư ở, trên bức tường đất đều
có các h́nh dạng của các cành, lá hoa sen. Người lễ
Phổ Đà ai cũng tùy hỷ, chắp tay tán thán.
* Thích Tế Châu đời Minh
Vào đời Minh, chùa Thứu
Phong trên đường H́nh Bộ ở Bắc Kinh là chỗ
thờ một bức tượng Phật bằng chiên
đàn từ thời cổ. Trụ tŕ thần miếu
vào những năm cuối là vị tăng tên Tế Châu, bẩm
tánh chất trực, thờ Phật khâm ngưỡng, nghiêm
túc, nhưng giữ giới không uống rượu chẳng
nghiêm ngặt. Một hôm, có người mặc áo
ngắn đến bảo: “Ta là Vô Thường ở địa
phủ, bà cụ X… do lúc c̣n sống chẳng có một
điều thiện nào, bị vướng trong
địa ngục chẳng thể thoát được!
Mồng Một và ngày Rằm mỗi tháng, bà từng
đến chùa lễ Phật, mang hoa quả tới cúng
dường thầy. Do nhân duyên ấy, bà ta hy vọng thầy
sẽ tụng một bộ kinh Pháp Hoa để được
thác sanh”. Tế Châu ngờ vực, chưa tin,
nói: “Ông đă là quỷ, khó đến được đất
Phật, sao không chiêm lễ?” Quỷ đáp: “Có đô thành
hoàng ở trong, tôi chẳng dám vào”. Do vậy, sư Tế
Châu nghĩ: “Canh năm ngày hôm ấy, có người
muốn làm thiện sự, bèn lập bài vị Thành Hoàng ở
cạnh chánh điện. Lời ấy đúng là chẳng
hư dối”. Sư bèn vào ngày Rằm tháng Bảy,
quỳ trước Phật điện phúng tụng kinh
Pháp Hoa. Tới quyển thứ năm, do trời nóng nên
Sư quá khát, t́m trà chẳng được. Thấy trên bàn
có một bầu rượu. Lắc thử th́ hăy c̣n rượu,
bèn hớp một ngụm rượu lạnh. Sư vẫn
quỳ trước Phật để hoàn kinh.
Ngày hôm sau, Vô Thường lại
đến bảo: “Bà cụ nhờ Sư tụng kinh, trọn
bốn quyển, khắp cơi âm đều tỏa kim quang. Ngay
trong lúc bà ta sắp ĺa địa ngục thác sanh, bỗng một
luồng hơi rượu xông vào cơi âm. Từ quyển thứ
năm cho tới quyển thứ bảy đều như
thế. V́ vậy, vẫn chẳng đắc lực”.
Sư Tế Châu nghe nói, rởn da gà, bèn phát nguyện chí
thành, tụng kinh bù cho bà ta. V́ thế, Sư nghiêm giữ giới
không uống rượu, vĩnh viễn chẳng dám phạm.
Đường Công Thời từng khắc chuyện này ở
mặt sau tấm bia nghiêm tịnh đạo tràng của
chùa ấy.
Xưa kia, lại có một vị
cao tăng, quỳ tụng kinh Pháp Hoa ba mươi năm, bỗng
thấy một thanh y đồng tử bảo: “Sư tụng
Pháp Hoa đă rất lâu, nhưng mỗi lần rửa tay,
chỉ là nhúng nước mà thôi, chẳng đúng pháp tẩy
tịnh, dơ bẩn chạm vào Pháp Bảo, sẽ c̣n thọ
tội”. Sư kinh sợ nói: “Bị tội báo ǵ?’ Đồng
tử nói: “Sẽ đọa làm gịi trong phân”. Nói xong, chẳng
thấy đâu nữa. Vị tăng hết sức sợ
hăi; từ đó, tẩy
tịnh đúng như pháp. Xét ra pháp tẩy tịnh, trước
là dùng tro bụi, sau là dùng tháo đậu (tức xà pḥng) chà
xát. Rửa tay th́ có bài chú Tịnh Thủ, rửa thân th́ có Tịnh
Thân Chú, mỗi chú đều niệm bảy lần. Chẳng
niệm chú, dẫu rửa bằng trọn hết nước
bốn biển cũng chẳng thể tịnh. Tịnh Thủ
chú là “Án, chủ ca lạt da, sa ha”. Tẩy Thân Chú là “Án,
hạ nẵng mật lật đế, sa ha”.
* Thích Hành Nhân đời Minh
Sư có pháp tự là Chỉ
Nhất, người đất Quang Sơn, tỉnh Hà Nam,
họ Trương. Hai mươi tuổi, đọc sách tại
động Bạch Lộc. Sư gặp vị dị
tăng nói: “Ông có đại nạn, hăy nên tŕ thánh hiệu
Đại Bi th́ sẽ có thể thoát”. Sư lắng ḷng thọ
tŕ. Năm Tân Tỵ (1641) trong niên hiệu Sùng Trinh, giặc
Hiến[50]
phá huyện, giết chóc đến Sư th́ gươm
đao bỗng tự găy. Giặc lấy làm lạ,
Sư thoát chết, quyết chí xuống tóc. Năm Giáp Thân
(1644), Sư tới Kim Lăng, theo ḥa thượng Thiên Hoa
Muội thọ Cụ Túc Giới xong, do thấy giặc
giă nổi lên, bèn men theo gịng [Trường Giang] đi về
Đông. Tới Côn Sơn, Sư giảng các kinh Kim Cang,
Lăng Nghiêm v.v… nơi tịnh thất. Đạo tục
đều quy ngưỡng. Mùa Xuân năm Mậu Tư (1648), họ
Từ xả nhà ở Tây Giao [biến thành chùa], mời
Sư đến ở. Mùa Xuân năm Canh Dần (1650),
Sư giảng diễn Pháp Hoa, biện huệ (trí huệ biện
tài) như mây nổi, thính chúng mỗi ngày
đông đến vạn người. Có bạch hạc từ
trên không đáp xuống, ṿng quanh pháp ṭa mấy ṿng. Nghe giảng
xong, nó bèn nghiêm nghị kêu dài rồi bay đi. Sư bèn
đặt tên am là Pháp Vũ. Năm Tân Măo (1651), Côn Ấp
đói to, Sư chủ tŕ thí cháo. Tâm lực đều dốc
hết, cho nên ngă bệnh. Ngày mồng Hai tháng Giêng năm
Nhâm Th́n (1652), Sư ngồi ngay ngắn, nói kệ rồi
qua đời.
* Con ngựa của sư Vĩnh Minh
chùa Báo Ân đời Minh
Trong niên hiệu Gia Tĩnh
đời Minh, trụ tŕ chùa Báo Ân là tăng Vĩnh Minh,
pháp hiệu Tây Lâm. Sư nuôi một con ngựa. Sư
thường cưỡi nó từ chùa đến bộ Lễ.
Khi lên ngựa, Sư thầm niệm kinh Pháp Hoa. Tới cửa
bộ Lễ xuống ngựa, vừa đúng hết
một quyển, coi đó là lệ thường. Đối
diện trước chùa ấy có một thai phụ, đêm
mộng thấy con ngựa ấy vào nhà, bèn sanh một trai.
Sáng ra, đến chùa hỏi thăm, con ngựa chết vào
đúng lúc ấy. Nhà ấy về sau cho đứa con
đó làm đồ đệ sư Tây Lâm. Nó cực ngu xuẩn,
dạy chữ, một chữ cũng khó nhớ! Chỉ dạy
truyền khẩu một quyển Pháp Hoa, liền có thể
tụng thuộc, đúng là ngựa do nghe kinh mà đắc
độ! Truyện này trích từ Kim Lăng Tỏa Sự.
Lại có vị Tăng tụng
kinh Pháp Hoa bên hồ. Một con cóc nghe tiếng tụng kinh,
bỗng làm ra vẻ ngẩng đầu, chắp tay quỳ
nhiều lần. Có lúc làm như tọa Thiền. Không lâu sau
nó tắt hơi, Pháp sư Đường Tu Nhă nói: “Ư Phật,
cốt tủy của tổ, tâm của ta,
ư chỉ của kinh. Nhắm mắt, lắng ḷng nghe cặn
kẽ, giọt đề hồ thấm vào trong gan ruột.
Dẫu là loài trùng, há chẳng say đề hồ mà ngủ
vùi ư?”
Chuyện này thấy ghi trong Đạt Quán Ngữ Lục.
* Thích Minh Huân đời Minh
Sư là người An Huy, vốn
có tên là Hồ Văn Trụ. Trong niên hiệu Thiên Khải,
Sư làm Trung Thư Xá Nhân. Do chẳng nghe theo lệnh Ngụy
Đương (Ngụy Trung Hiền)[51]
chép kinh, bèn cáo quan. Tới năm Bính Tuất (1646), ông bỗng
bị ghẻ mặt người, đau đớn chẳng
thể chịu nổi. Mùa Đông năm Tân Măo (1651), ông ngất
lịm đi. Đang trong lúc mơ màng, nghe ghẻ mặt
người nói: “Ta là Lô Chiêu Dung đời Lương.
Trong cung tại Lạc Dương, gặp giặc giết
chết. Nay đă hơn sáu trăm năm, vẫn c̣n vướng
trong sổ quỷ, mà ông chính là người đă giết
ta thuở đó. Nay ông đă được chuyển thân
làm nam tử, hăy nên chép các kinh như Pháp Hoa v.v… để tự
cứu và cứu ta”. Văn Trụ xót xa cầu xin ngưng
đau sẽ liền chép. Lúc đó, ông đang ở Nghi
Chân, lập tức sắm sửa giấy bút, chép các kinh
Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Kim Cang, Lăng Nghiêm v.v… và Thủy Sám. Mỗi
lần chép liền hết đau, ngừng bút lại
đau trở lại. Mất một năm mới chép xong
kinh, bệnh liền lành.
Mùa Hạ năm Đinh Dậu
(1657), ông gặp ngài Đôi Sơn ở Đức Khánh, thuật
cặn kẽ chuyện này, nhưng chưa đoan chắc
là Tiêu Lương hay Châu Lương. [Trước đó,
ông đă hỏi ư những vị có học vấn rộng
thời đó như] Thái Sử Lư Minh Duệ, Tử Do
Vương Định, mọi người đều nêu
ư kiến, nhưng cũng chưa đoan quyết được!
Đôi Sơn nói: “Đó là thời Châu Lương, v́ thời
Tiêu Lương, Lạc Dương thuộc nhà Ngụy.
Hơn nữa, Chiêu Dung cũng là danh hiệu địa vị
của cung nhân thời Đường, do ủng hộ
Chiêu Tông[52]
mà bị hại. Nếu ông chẳng phải là Châu Hữu
Khuê th́ cũng là Thị Thúc Tông vậy!” Ông bèn ghi điều
này vào sách, xem chương Tiết Công Thẩm. Nay Đôi
Sơn Đạo tức là Mễ Bút Kư. Xét ra, lời khảo
luận của Đôi Sơn cặn kẽ nhất. Chỉ
có điều như thế th́ Lương Chiêu Dung phải
nên ghi là Đường Chiêu Dung. Hoặc là ông Hồ trong
lúc ngất đi, do âm Đường và Lương gần
nhau mà nghe sai cũng chưa biết chừng. Châu Thạch Tục
ghi lại.
* Đồng tử chép kinh đời
Minh
Vào đời Minh,
tương truyền tại chùa Bảo Lâm ở Tô Châu có
đứa bé mười ba tuổi tới chùa, nói muốn
có một tịnh thất để chép kinh. Tăng chúng
trong chùa để cho nó ở riêng một pḥng. Nó lấy giấy
bút chép kinh Pháp Hoa, dùng nửa bức giấy
tằm của Cao Ly vẽ một cái tháp bảy tầng. Mỗi
tầng là một quyển. Giấy dài chừng bốn
thước, rộng chừng một thước rưỡi.
Kinh văn hơn sáu ngàn chữ đều đầy đủ,
mấy ngày là xong, giữ trong chùa. Đồng tử chẳng
biết đi đâu. Người làng là Trần Văn Cương
đích thân thấy tháp ấy, chữ to bằng hạt mè,
nghiêm ngặt, phân minh, bên trái về phía dưới ghi: “Hành
đồng hải vương Sư Quang viết”. Nay [bức
vẽ ấy] thuộc về họ Hoa ở Đăng Khẩu.
* Long Đắc Phu đời Minh
Ông là quận thừa ở Tứ
Minh, thanh liêm, thẳng thắn, chuộng đạo.
Khi đó, tại Phổ Đà có hai vị trụ tŕ, một
vị là Trí Huệ, giới luật tinh nghiêm, đạo tục
quy ngưỡng. Vị kia tên là Chân Biểu, tuy lănh đạo
tùng lâm, nhưng tánh ương bướng, phá giới.
Năm Nhâm Ngọ (1582) thời Vạn Lịch, ông vâng lệnh
Giám Ty, tra hỏi Chân Biểu. Do [Chân Biểu phạm] lỗi
nhỏ là đánh đập Sa Di, ông bèn đến núi để
phân xử. Ông sai đem một bộ kinh Pháp Hoa ra đốt,
bắt chúng tăng đều nhảy qua đó, thề chẳng
tái phạm, c̣n chính ḿnh tới hậu điện lễ
bái. Ông bỗng cảm thấy hai đùi mềm oặt, chẳng
thể động được, thân thể nóng bức kỳ
lạ, nhanh chóng hôn mê thiếp đi. Trong lúc mơ màng, nghe
có tiếng truyền lệnh rằng: “Phụng đạo
mà hủy đạo, càng trừng phạt nặng hơn.
Chỉ v́ yêu dân, phạt ba con trâu đá đè quan tài”. Quận
thừa nghĩ đấy ắt là mạng lệnh của
quan cơi âm, chết như thế sẽ vào đường
ác, [bèn van nài]: “Tôi không biết tội hủy kinh to ngần
ấy! Từ nay trở đi, nguyện suốt đời
trai giới, sẽ gấp từ quan để nhập
đạo ḥng tự chuộc tội”.
Sư Đại Trí cũng
v́ ông xót xa cầu xin, tụng kinh lễ sám. Trong định, Sư
thấy một ṭa thành bằng sắt vây quanh. Trong thành có
thi thể lơa lồ chồng chất. Quận thừa
cũng ở trong số đó, riêng ông chẳng lơa lồ.
Sư chí tâm sám hối, bỗng thấy trên không giáng xuống
một đạo bạch quang. Quận thừa
như có người lôi ra, sống lại. Quận thừa
thấy sa-môn như mây tụ, hỏi: “V́ sao ngươi thiêu hủy kinh, phạm điều
răn to lớn này?” Quận thừa thưa: “Con đă biết
tội rồi, nguyện dùng trăm điều để
đền một. Trước hết, quyên hết bổng
lộc để trai tăng một vạn vị Sư”.
Các vị sa-môn đều ẩn. Đêm ấy, gia đồng
của quận thừa thấy trong đêm tối có hai ngọc
nữ đầu có hai búi tóc, tay cầm tràng, lọng, phẩy
giường bước qua, vang ra tiếng. Cán tràng chạm
vào mặt gia đồng, nó kinh sợ kêu ầm lên, bệnh của
quận thừa liền lành. Khi đó, ông không ăn, không chớp
mắt đă mười ngày rồi. Đồ Nghi Bộ
Long mục kích chuyện ấy bèn ghi lại.
* Châu Nguyên Chánh ở Hải Diêm đời
Minh
Lúc ông làm Chư
Sanh, giảng học vấn của Khổng Mạnh th́
đoan chánh, chẳng cẩu thả. Sau sáu mươi tuổi,
ông thâm nhập Thiền duyệt. Chọn ba gian nhà xấu ở
phía sau phủ trạch để [làm chỗ] bế quan, chẳng
dính đến việc nhà. Trên ngạch cửa,
đề sáu chữ “ví như ta đă chết rồi”.
Công khóa mỗi ngày, buổi sáng là một quyển kinh Pháp
Hoa. Sau giờ Ngọ tĩnh tọa. Tháng Tư năm Canh
Thân, Đường Nghi Chi và môn nhân của ông là Trần Tắc
Lương đến thăm. Tiên sinh bảo ông
Lương: “Nghi Chi trước kia đă từng viết
thư cho ông, khuyên ông bỏ cái học có lợi cho Thái Tây
mà hăy học Phật. Đấy là lời tốt lành, hăy
nên tha thiết nghe theo”. Ông Lương thưa: “Thầy tuổi
đă cao, có lẽ nên nới lỏng giới cấm rượu
đôi chút”. Tiên sinh nói: “Ư ông là bước vào độ tuổi
suy yếu, hăy nên nhờ vào mấy chén để điều
huyết dưỡng khí đó chăng? Chẳng biết ta
đối với chuyện sanh tử đă vạch đứt
rồi, sao c̣n nói lời ấy?” Khi tiên sinh nói đă vạch
đứt rồi, liền dùng tay vạch một đường
trên ghế, ư nói đă liễu sanh tử rồi! Người
trông thấy đều run sợ, tôn kính.
Tháng Bảy, ông không bệnh
tật ǵ, bảo với con rằng: “Ở đây ta không có
chuyện ǵ, có thể lên đường rồi!” Con hỏi:
“Cha đến nơi nào?” Đáp: “Đến Tây
Phương”. Con và cháu cố giữ lại, ông chấp thuận.
Tới ngày mồng Một tháng Chạp, ông thị hiện
bị bệnh, không ăn, người nhà hốt hoảng
lo hậu sự. Tiên sinh bảo: “Đừng vội! Đó
là chuyện vào nửa đêm ngày mồng Tám tháng Chạp”.
Đến kỳ hạn, ông ngồi ngay ngắn sắp ra
đi. Lại nói: “Ta cả đời chẳng có mảy
may phụ người. Mùa Đông năm nay, người thợ
mộc sau nhà v́ ta sửa sang một khoảnh đất
sau cổng, v́ mong ta sẽ đăi khách vào Nguyên Đán, nên
đă san bằng mặt đất cho người già tiện
đi lại. Nhă ư ấy ta chưa báo đáp”. Ông lấy giấy
viết một bài thơ cảm tạ. Trong ấy có một
chữ viết sai, ông lại cầm bút tô sửa. Ông thong
dong ngồi vững vàng rồi qua đời. Lúc đó, gà vừa
gáy, tiên sinh đă răn nhắc sẵn người nhà: Khi
ông ra đi, đừng cho phụ nữ đến! Hai ba
giờ sau th́ họ mới có thể đến. Có đến
cũng đừng khóc lóc. Trời đă sáng, quyến thuộc mới tới cử
ai[53].
Tiên sinh tỉnh lại, mở mắt nhưng không mở miệng,
chỉ lắc đầu ra hiệu dẫn nữ nhân
đi. Họ đi hết rồi ông mới nhắm mắt
ĺa đời. Khi đó, đến
đi tự do dường ấy. Chuyện này
được thấy trong sách Diệu Ư Am Kỷ Cầu.
* Vương Lập Cốc đời
Minh
Ông tự là Bá Vô, người
Thai Châu. Thuở bé, theo cha là Đại Trung Thừa
Vương Sĩ Tánh đến núi Kê Túc. Họ vào trong một
vách đá, thấy ngài Ca Diếp nói: “Các vị từ
nơi đến?” Ông Vương giật ḿnh. Ngài Ca Diếp
nói: “Ông đọa trong nhà lửa, hăy hành từ, nhẫn,
giới, mai sau sẽ mạnh mẽ đẩy lùi gịng
nước chảy xiết. Dưới cầu, thân trước
vẫn c̣n đó”. Trong khoảnh khắc, vách đá hợp
lại như cũ. Từ đấy, ông Vương giữ
vững giới kiêng giết. Năm Bính Ngọ (1606)
trong niên hiệu Vạn Lịch, ông đỗ Hương
Tiến[54],
mộng thấy cha có lời khuyên dụ “trong mười
năm th́ có năm lần chết; hăy gieo đức để
hóa giải tai ương”. Ông bèn đối trước
Tam Bảo ở Gia Ḥa, thề ăn chay trường, và ở
Thiên Thai thề giữ bốn giới sát, đạo, dâm, vọng.
Về sau, ông làm huyện lệnh ở Tân Cam.
Năm Mậu Ngọ (1618),
ông vào đất Cận. Thuyền đến Địch Cảng,
ban đêm ông bị âm phủ bắt về. Vị chủ
nhân cơi âm (Diêm vương) lớn tiếng quát: “Tuổi thọ
của ngươi đến tháng Tám năm Bính Th́n (1616)
đă tận, kéo dài đến nay là do sức trai giới,
sao lại bỏ?” Ông Vương khấu đầu, cảm
tạ: “Làm quan th́ do t́nh thế chẳng thể không như
vậy được!” Vị chủ nhân cơi âm nói: “Cố
nhiên! Hiềm rằng mạng hết th́ sao?” Vua sai người
xua ông vào ngục. Một vị tể quan ở bên trái cầu thỉnh: “Xin
hăy thử tính các chuyện [ông ta đă làm] sau khi đă phá giới!”
Trong chốc lát, đưa tới hai cái rương: Các mệnh
lệnh, văn quyển, và mỗi yết thị, mỗi
lá thư khi ông làm huyện lệnh Tân Cam. Những câu nói
đùa thường viết trên các mẫu giấy nhỏ
cũng đều có. Mỗi thứ đều có hơi bốc
lên, xanh, đen, đỏ, trắng, màu sắc khác nhau. Vị
chủ nhân sai phân loại để kiểm. Trước hết,
kiểm những thứ có màu đen và xanh được
chất thành đống. Kế đó là kiểm đống
có khí màu trắng. Đống xanh dần dần thu nhỏ,
lại kiểm đống trắng, đống xanh
bèn ẩn mất. Đống có khí màu đen rút nhỏ bằng
cái chén, nhưng đống có màu đỏ riêng bốc
hơi hừng hực. Ông Vương liếc nh́n, thấy
kinh Kim Cang do ông đă khắc in và Háo Sanh Biên, Xă
Thương Quyển đều có. Vị chủ nhân nói:
“Đấy là biết gieo đức, hăy c̣n có lẽ sống,
chỉ tổn hại ngũ quan, có thể cho ông ta bảo toàn
tánh mạng được!”
Vua bèn ra lệnh khoét mắt,
ông liền cảm thấy tối đen chẳng thấy
được ǵ, chỉ cảm thấy có người lôi
đi. Vừa cất bước bèn tỉnh giấc. Nhướng mắt
thấy ánh đèn như bị đâm, trọn chẳng thể
mở mắt ra được. Thầy thuốc cho uống
thuốc sáng mắt, trong đêm tợ hồ có người
lại dùng đinh đóng vào mắt, khổ sở cùng cực!
Ông bèn thôi dùng thuốc, quyết ư xin từ quan trở về
quê, bỏ nhà tu Tịnh nghiệp, thề tŕ Pháp Hoa một
ngàn bộ, và hằng ngày tụng kinh Kim Cang, Phạm Vơng
để cầu được ngầm gia hộ. Tháng Bảy
năm Canh Thân (1620), ông lễ sám ở U Khê, trong
đêm, mộng thấy Đại Sĩ dùng cành
dương rẩy cam lộ chấm vào tṛng mắt. Sáng dậy, bỗng
thấy mọi vật, hai mắt sáng lại. Sau đó, ông
đến khắp các môn đ́nh Vân Thê và Bác Sơn, sống
thêm mười hai năm nữa, hiệu là Bích Như đại
sư, có ghi lại chuyện hồi sanh.
* Vưu Hoằng Viễn ở Tô Châu
đời Minh
Ông yêu thích một cô gái hàng
xóm, lén ước định chung thân, cưới cô ta làm
thiếp. Vợ ghen tuông, đối xử tàn tệ, lại
c̣n dùng cách nguyền rủa, khiến cho cô ta mau chết. Chẳng
lâu sau, người thiếp quả nhiên chết. Hơn một
năm, vợ cũng mắc bệnh lâu ngày, gọi bà Lư bầu
bạn. Trong đêm, người vợ thấy có người
váy đỏ, áo xanh, tha thướt tới trước mặt,
chỉ bà vợ quở: “Mạng ta chưa đáng chết,
do ngươi nguyền rủa, khiến cho ta chết yểu.
Nay ta đă tố cáo ở Nhạc Ty truy bắt
ngươi!” Nói xong, chẳng thấy đâu nữa. Đêm
hôm sau, quả nhiên người vợ tắt hơi. Hoằng
Viễn tâm niệm người thiếp chết oan, và các
thệ nguyện mà vợ đă hứa trong lúc b́nh thời,
và các loại văn thư quá nhiều, ắt sẽ khiến
cho ḿnh mắc lụy. Ông ta bèn hằng ngày tŕ tụng kinh Ngọc
Hoàng được mấy trăm bộ. Lại cầu
người thờ Chân Vũ[55]
là Trầm đạo sĩ ở Huyền Diệu Quán lập
Thủy Lục Đạo Tràng để tạ lỗi
trước.
Sau đó, trong khi bị bệnh,
Hoằng Viễn thấy bị quỷ tốt hung hăng bắt
đi. Tới
một cung khuyết, biển đề là Nhạc Phủ.
Vua ngồi trên điện, quát bảo Hoằng Viễn và vợ
về chuyện cùng nguyền rủa. Hoằng Viễn khấu
đầu biện bác chẳng phải lỗi ḿnh! Vua hô tả
hữu áp giải vợ và thiếp của Hoằng Viễn
ra làm chứng. Người vợ nghẹn lời. Vua nói:
“Ngươi tuy không biết chuyện, nhưng văn án nguyền
rủa của người đàn bà này rất nhiều, phá
trừ như thế nào?” Hoằng Viễn chưa đáp.
Trước án, một viên phán quan tâu với vua: “Từ chỗ
Cao Chân đă có văn thư chuẩn án rồi!” Vua sai lấy
quyển văn để xem, trao cho Hoằng Viễn. Hoằng
Viễn hoảng hốt, chẳng rảnh để đọc
kỹ, chỉ thấy chữ son mấy ḍng ở cuối
trang giấy. Vua nói: “Văn thư đă chuyển đến
Phong Đô, nói sẽ tâu tŕnh. Nay nói là công văn tŕnh lầm”.
Trong khoảnh khắc, có hai thần tướng mặc
giáp trụ hiện trong sân: Một vị là Quan Thánh, vị
kia là tâm tướng Vương Linh Quan[56].
Linh Quan nh́n vua nói: “Sai lầm nhỏ này chẳng đáng hỏi
tới!” Vua gật đầu.
Linh Quan dùng chân khều chân Hoằng Viễn, nói “đi”, [Hoằng
Viễn] bèn được đi ra. Đường quanh co
mấy khúc, lại vào một ty. Có sáu vị Tăng ngồi
trong đó, gọi Hoằng Viễn cật vấn. Người đứng đầu nói: “Hăy trở lại, hăy nên gia nhập ty Ngũ Ôn[57]
đi!” Hoằng Viễn kể rơ chuyện Cao Chân xá tội,
Tăng nói: “Ngươi biết tuân phụng Đạo Giáo
mà quên Phật, tức là lẽ lợi hại trong ấy
cũng chẳng phải là nhỏ! Nay đă được
sống lại, hăy gấp mời sáu vị Tăng tuổi
cao có đức, tụng sáu bộ
kinh Pháp Hoa th́ mới có thể tiêu diệt tội khiên!” Họ
ra lệnh thả về, Hoằng Viễn mới sống lại.
Hôm sau, lập tức thỉnh Tăng tụng kinh đúng số.
Cho tới nay, ngày Rằm mồng Một mỗi tháng đều
niệm kinh sám, dẫu hết sức bận bịu vẫn
chẳng bỏ!
* Cát Uyển đời Minh
Ông tên tự là Thạch B́nh
người Côn Sơn, dốc ḷng thành học đạo.
Ông đóng cửa tham cứu kinh Phật, quanh năm không biết
mỏi mệt, quy tâm nơi Pháp Hoa nhiều nhất, dùng kinh này làm công khóa
thường nhật. Ông nghĩ thời gian trôi qua như
chớp xẹt, diệu pháp khó nghe, muốn báo ân Phật
th́ hoằng truyền kinh là trọng yếu. Do vậy,
sưu tập truyện của tiên hiền cổ đức
từ đời Tấn, Tống cho tới Nguyên, Minh, tạo
thành bộ Cảm Thông Lục bốn quyển. Cuối mỗi
quyển đều có luận định. Thấm thoát mấy
năm chưa xong. Mùa Thu năm Tân Măo, do suy yếu mệt
nhọc, ông bị bệnh trầm kha cả năm. Tới
mùa Đông năm Nhâm Th́n, do liên tiếp mấy đêm đều
cảm mộng khác lạ, thấy thần nhân đến
khắc in tác phẩm ấy, bèn dốc cạn sức lực
gắng hoàn thành. Sách soạn xong, bệnh cũng lành.
* Trần Tế Sanh ở Ngô Môn đời
Minh
Ông tự là Hoàng Sĩ, là
trưởng tử của Văn Trang Công, dốc sức
làm thiện sự. Đối với những lời hay, hạnh
đẹp xưa nay, không ǵ chẳng chính tay sưu tập,
chép lại, chất tới tận kèo nhà. Ông chuộng nhất
nội điển, thường kết liên xă, tŕ tụng Pháp
Hoa lâu ngày chẳng giải đăi. Bỗng mộng thấy
một cụ già, phong thái cổ xưa, lạ lùng, tay cầm
kinh Pháp Hoa viết bằng chữ vàng cùng nhân quả sự
tích trao cho. Ông Trần hớn hở vái lạy, nhận lấy.
Trời sáng, bộ Pháp Hoa Cảm Thông Lục do họ Cát ở
Lộc Thành đă khắc in quả nhiên được chở
tới Viễn Diệu Đường của ông Trần
để lưu thông. Lại có một người bạn
đem chuyện dùng mực pha bột vàng chép toàn bộ kinh
Pháp Hoa đến hỏi, là chuyện trong cùng một ngày.
Chẳng lâu sau, trên đường, ông thấy một bộ
kinh Pháp Hoa do Lư Chánh Khanh ở Tân An chép bằng chữ vàng, liền thỉnh về để
cúng dường, tạo thành hợp bích[58], trang nghiêm thắng diệu. Người
khác nh́n vào, đều than là hy hữu, mới tin do ḷng u thành
cảm vời, Phật sự nhân duyên chẳng thể
nghĩ bàn như thế. Trước tác của ông Trần
có Cộng Tri Lục, Đồng Thiện Hội Toàn Lục,
và Hương Lâm Quảng Thư v.v… đều
được lưu hành trong cơi đời.
* Mẹ ông Công Bộ Đàm Trinh Mặc
đời Minh
Nghiêm thái phu nhân chăm lo gia
đ́nh, dạy con, đều đúng chừng mực. Tuy
chồng con sang quư, bà vẫn áo vải, ăn rau, dốc
ḷng tin Phật pháp. Bà coi trọng kinh Pháp Hoa và kinh Kim Cang nhất,
sáng tối lễ tụng. Tuổi già, thêm vào [thời khóa]
kinh Hoa Nghiêm, mỗi ngày một quyển. Lại có thể
v́ các con dâu giảng giải ư nghĩa chánh yếu. Năm
Nhâm Thân (1632) trong niên hiệu Sùng Trinh, bà thị hiện bị
bệnh, bèn đứng dậy tắm rửa, thay áo, lễ
Phật, nói: “Ta một đời kính Phật, nếu thật
sự có duyên với Phật, sẽ khiến cho di thể
chẳng hôi thối”. Do vậy, bà chắp tay, ngồi xếp
bằng qua đời. Lúc đó đang là tháng Bảy nắng
gắt, bà vẻ mặt mỉm cười như hăy c̣n sống,
mùi thơm phảng phất. Khi an táng, chẳng hề có ruồi
bọ. Người trông thấy, chẳng ai không khen là lạ
lùng.
Pháp Hoa Tŕ Nghiệm Kỷ, quyển hạ
hết
Lời Hồi Hướng
Kinh Pháp Hoa là một trong ba bộ
kinh Viên Giáo Nhất Thừa (Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, và Phạm
Vơng), nghĩa lư sâu thẳm, dẫu có diễn giải, tán
thán bao nhiêu đi nữa, vẫn chẳng khác nào nêu ra một
hạt cát trong sa mạc mênh mông. Đệ tử nhờ
phước thừa mà có cơ hội chuyển ngữ bộ
hội nghĩa này của Tổ Ngẫu Ích, lại
được đọc các sự tích cảm ứng của
các bậc tiên hiền, vô cùng thẹn hổ v́ học thức
kém cỏi, chẳng thể diễn tả lời kinh ư tổ
suông sẻ, găy gọn. Càng hổ thẹn v́ tiền nhân chẳng
tiếc sức hành tŕ, truyền bá, mà bản thân ḿnh th́ chẳng
có tí xíu công hạnh nào, lại c̣n giải đăi, biếng
nhác, cô phụ bi tâm của bao thế hệ thầy tổ.
Càng đọc các sự tích, càng thêm tin tưởng pháp môn
Tịnh Độ, v́ qua những chuyện cảm ứng
được chép trong Hiển Ứng Lục và Tŕ Nghiệm
Kỷ, có thể thấy rất rơ những bậc đại
thiện tri thức quảng học đa văn, sau khi
đă thâm đắc Thiền Tông và Giáo Quán, đều quy
tâm Tịnh Độ, nhất tâm cầu sanh Cực Lạc.
Càng thêm kinh sợ
trước gương cảnh tỉnh của những vị
dày công đọc tụng, nhưng do chưa phát nguyện văng
sanh, đến nỗi v́ một niệm tâm sai lầm, kiếp
sau phải lưu lạc, phí uổng công lao tu tập cả
đời thuở trước. Nếu việc
làm kém cỏi này của chúng con có chút công đức nào, đều xin hồi
hướng về lịch đại tổ tiên, phụ mẫu,
sư trưởng, tông thân quyến thuộc, lũy kiếp
oán thân trái chủ và mười phương pháp giới
chúng sanh, đặc biệt là các liên hữu đă luôn khuyến
tấn, góp phần sửa chữa, tán trợ ấn tống.
Trân trọng cảm tạ các vị liên hữu Đức
Phong, Huệ Trang và Diệu Âm Trịnh Lộc đă giúp giảo
duyệt, góp ư sửa chữa. Nguyện do công đức
này, thế giới ḥa b́nh, tai ương tật bệnh của
chúng sanh tiêu trừ, tứ chúng đồng tu tín tâm kiên cố,
đạo nghiệp tinh chuyên, hoằng dương rộng
lớn Phật pháp để chuyển cơi Sa Bà thành Tịnh
Độ.
Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa kính bạch.
Ngày 04 tháng 01 năm 2023.
[1] Tương
Sơn Dă Lục là tác phẩm theo thể loại bút kư dă sử
ghi rất nhiều sự kiện lẫn các câu chuyện
truyền thuyết từ thời Bắc Tống mới mở
nước cho đến thời Tống Thần Tông,
cũng như các phong tục, tập quán thời ấy.
Sách do sư Văn Oánh biên soạn trong niên hiệu Hưng
Ninh đời Tống Thần Tông, do chủ yếu nói về chùa Kim Loan tại Tương
Sơn ở Kinh Châu, cho nên đặt
tên sách như vậy.
[2] Văn Mục
Vương tức là Tiền Nguyên Quán (887-941), chính là hoàng đế
thứ hai của nước Ngô Việt thời Ngũ
Đại. Ông là con thứ năm của Ngô Việt Thái Tổ
Vũ Túc Vương Tiền Lưu. Ngô Việt là
vương quốc nhỏ độc lập, lănh thổ
bao gồm các tỉnh Chiết Giang, Thượng Hải, và
phía Nam tỉnh Giang Tô.
[3] Tức ngài Đức Thiều,
thầy của Ngô Việt Vương. Sư pháp húy là Đức
Thiều, người huyện Long Tuyền thuộc Xử
Châu, kế thừa ḍng thiền Pháp Nhăn. Sư vào núi Thiên
Thai dựng chùa nên gọi là Thiên Thai Đức Thiều, chứ
Sư không thuộc tông Thiên Thai. Khi đó, các tác phẩm của
tổ Trí Giả bị tản lạc, chỉ xứ Tân La giữ được toàn vẹn.
Sư liền sang nước ấy chép lại toàn bộ, đem về Trung Hoa,
đưa vào Đại Tạng Kinh.
[4] Trung Ư
Vương chính là Tiền Thục. Ông là con trai thứ chín của Văn Mục
Vương, là vị vua cuối cùng của Ngô Việt. Khi
nhà Tống thành lập, ông đă thần phục, và sát nhập
vào nhà Tống để giữ yên sự ổn định
cho vùng hạ lưu sông Dương Tử. Tống Thái Tông
đă ban cho ông tước hiệu là Hán Nam quốc
vương, cho nên đôi khi
Trung Ư Vương được gọi là Hán Nam quốc
vương như trong câu chuyện ngài Thích Đạo Tiềm
thuộc phần trên.
[5] Càn Hóa là niên hiệu
của Hậu Lương Thái Tổ Châu Toàn Trung (Châu Ôn) từ
năm 911 đến năm 913.
[6] Tấn ở
đây là một vương triều thời Ngũ Đại
Thập Quốc, không phải là nhà Tấn do Tư Mă Viêm sáng
lập sau thời Tam Quốc. Do tác phẩm này được viết
theo thể loại biên niên sử, nhà Tấn trong câu chuyện
này chỉ có thể là nhà Tiền Tấn (896-923) do Lư Khắc
Dụng sáng lập, hoặc nhà Hậu Tấn (936-947) do Thạch
Kính Đường sáng lập. Câu cuối cùng trong chuyện
nói rơ là niên hiệu Thiên Phước, mà Thiên Phước
chính là niên hiệu của Thạch Kính Đường từ
năm 936 đến 944, cho nên Tấn ở đây phải
là nhà Hậu Tấn.
[7] Châu ở
đây là Hậu Châu (951-960) thời Ngũ Đại, do
Quách Oai diệt nhà Hậu Hán của Lưu Trí Viễn mà lập
ra triều đại này (do vậy, đôi khi c̣n gọi là
Quách Châu). Lănh thổ nhà Hậu Châu bao gồm các tỉnh Hà
Nam, Sơn Đông, nam bộ Sơn Tây, nam bộ tỉnh Hà
Bắc, Thiểm Tây, phía Đông Cam Túc, phía Bắc tỉnh Hồ
Bắc và một phần tỉnh An Huy và Giang Tô. Quách Oai
không có con, sau khi ông ta chết, cháu là Sài Vinh
lên làm vua (tức Châu Thế Tông). Tuy Sài Vinh này chỉ làm vua
được 5 năm, nhưng đă dốc sức diệt
Phật pháp tại vùng Hoa Bắc. Khi Sài Vinh chết, con là
Sài Tông Huấn (Hậu Châu Cung Đế) bảy tuổi
lên ngôi. Năm 960, do nghe tin đồn liên quân Bắc Hán và
Liêu tấn công, triều đ́nh sai Điện Tiền
Đô Kiểm Điểm Triệu Khuông Dẫn đi
đánh. Triệu Khuông Dẫn dẫn quân đến Trần
Kiều; đạo diễn binh lính tôn Triệu
Khuông Dẫn lên làm vua (lấy cớ vua quá nhỏ không thể bảo vệ được đất nước).
Triệu Khuông Dẫn dẫn quân về Biện Kinh, ép Cung Đế phải nhường ngôi. Do trước
đó Triệu Khuông Dẫn từng làm Quy
Đức Tiết Độ Sứ cai quản Tống Châu, cho nên lấy quốc hiệu là Đại Tống.
[8] Thích Thị Lục
Thiếp là tác phẩm mô phỏng theo Lục Thiếp của
Bạch Cư Dị, nội dung là tập hợp tất cả
văn chương và nghĩa lư liên quan đến họ
Thích trong Đại Tạng, chia thành nhiều môn (mỗi
môn được gọi là một Bộ, sách gồm
năm mươi bộ), đầu tiên là Phật, Pháp,
Tăng Bảo, thần hộ pháp, vua tôi, cho tự xá tháp
điện, cầm thú, thảo mộc v.v… Đối với
mỗi điều đều ghi rơ xuất xứ. Hậu
Châu Thế Tông truyền đưa sách này vào Sử Quán và
ban cho ngài Thích Nghĩa Sở mỹ hiệu Minh Giáo đại
sư.
[9] Sông Tào Nga (c̣n gọi là Kha Thủy,
Thượng Ngu giang, Đông Tiểu giang, Hiếu Nữ
giang) ở phía Đông tỉnh Chiết Giang, là chi lưu lớn
thứ hai của sông Tiền Đường. Sông dài đến
192 km. Chỗ rộng nhất đến 600m, lưu vực
sông rộng đến 5.922 km2. Tương truyền, vào
đời Đông Hán, cô gái có hiếu là Tào Nga đă v́ vớt xác cha (cha cô chết
đuối trong sông này) mà tự trầm để xác ḿnh
đẩy xác cha lên bờ, cho nên sông có tên như thế.
[10] Âu Việt c̣n gọi là Đông Việt,
hay Đông Âu, là vùng đất ở phía Nam tỉnh Chiết Giang, thuộc lưu vực
Âu giang và Linh giang, bao gồm Ôn Châu, Thai Châu,
Lệ Thủy v.v... Đây là lănh thổ của một thị tộc Bách Việt.
Bách Việt là một cộng đồng nhiều sắc tộc
khác nhau sống từ phía Nam Trường giang cho đến
Bắc Việt Nam. Theo các nhà nghiên cứu,
Việt (越) là biến thể của Việt (鉞, nghĩa gốc
là cái búa hay cái ŕu bằng đồng) bắt nguồn từ sự khéo léo của người Việt trong kỹ thuật
đúc đồng làm mũi
tên, lưỡi cày, ŕu đồng, trống đồng.
Theo Lộ Sử của La Bí đời Tống th́ “Việt
Thường, Lạc Việt, Mân Việt, Âu Việt, Âu
Ngai, Thả Âu, Tây Âu, Cung Nhân, Mục Thâm, Tồi Phu, Cầm
Nhân, Thương Ngô, Việt Âu, Quế Quốc, Tổn Tử,
Sản Kư, Hải Quư, Cửu Khuẩn, Kê Dư, Bắc
Đới, Bộc Cú, Âu Ngô được gọi chung là
Bách Việt”. Sở dĩ có danh xưng Âu Việt v́ họ
sống trong lưu vực của Âu giang. Lănh tụ của
Âu Việt được coi là hậu duệ của Việt
Vương Câu Tiễn khi nước Việt bị diệt
cuối đời Chiến Quốc. Thời Tiền Hán,
lănh tụ của người Âu Việt là Sô Dao từng đem quân giúp Lưu Bang
đánh Hạng Vũ, nên khi Lưu Bang lên ngôi, lập ra nhà
Hán, đă phong cho Sô Dao làm Đông Hải Vương cai quản
vùng này. Lúc đó, tiểu quốc này được gọi
là Đông Âu quốc (tức thái ấp của Sô Dao).
[11] Kê Lâm (雞林, Gyerim) là tên cũ để
gọi một khu vực của cổ vương quốc
Tân La (Silla) trên bán đảo Đại
Hàn. Theo truyền thuyết, vào năm 65, vua Thoát Giải Ni
Sư Kim (脫解尼師今, Talhae Isageum) của vương quốc
Tân La nghe gà gáy trong khu rừng phía Tây Khánh Châu (Gyeongju), sai cận
thần đi xem xét th́ t́m được một cái hộp
vàng treo trên cành cây, quang minh tỏa ra từ cái hộp đó. Trên nắp hộp, có một con gà trắng đang gáy
liên tục. Vua sai mở hộp, trong đó có một bé
trai. Vua thích thú nhận nuôi đứa bé, đặt tên là
Kim Át Trí (Kim Alji, Kim và Alji đều có nghĩa là vàng). Khu rừng
ấy được gọi là Kê Lâm. Kim Át Trí trở thành
thỉ tổ của hoàng tộc họ Kim của Tân La.
[12] Trường Hưng là niên hiệu
của vua Minh Tông (Lư Tự Nguyên) nhà Hậu Đường
từ năm 930 đến năm 934. Do Sư mất trong đời vua Tống Thái Tông nên vẫn
coi Sư thuộc đời Tống. Hậu Đường
là triều đại thứ hai trong thời Ngũ Đại
(Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn,
Hậu Hán, Hậu Châu) trước khi Triệu Khuông Dẫn
thống nhất phần lớn Trung Hoa (phần lớn
phía Bắc Trung Hoa thời đó đă thuộc Liêu và Kim).
[13] Viên đầu (園頭) là vị Sư trông nom vườn tược trong
chùa.
[14] Bột cưu (鵓鳩, c̣n gọi là bột cô) là một loài bồ câu
thường biết dưới danh xưng Turtle Dove, lông
cánh có vằn đen và nâu xen lẫn. Khi nó kêu nhiều th́ trời
sẽ mưa.
[15] Mục Vô Thiền Pháp Uyển trong
tạp chí Bồ Đề Thụ đă giải thích câu này
như sau: “Động dung là khi Phật Thích Ca giơ cành
hoa lên, ngài Ca Diếp mỉm cười; đó là động
dung. ‘Dương cổ lộ’ là phù hợp với
đường lối xưa kia. Bất đọa tiễu
nhiên cơ là chẳng để lỡ thời tiết nhân
duyên, tức là người chứng đạo mới có thể
cảm nhận sự huyền diệu trong từng phút
giây, chẳng thể nào diễn tả được”.
[16] Thuần Hóa
là niên hiệu của Tống Thái Tông (Triệu Khuông
Nghĩa), sử dụng từ năm 990 đến năm
994.
[17] Thiên Hy là niên hiệu thứ tư của
Tống Chân Tông (Triệu Hằng), sử dụng từ
năm 1017 đến năm 1021. Tống Chân Tông dùng các niên
hiệu Hàm B́nh, Cảnh Đức, Đại Trung Tường
Phù, Thiên Hy và Càn Hưng.
[18] Lữ Mông Chánh (946-1011), tự là
Thánh Công, người xứ Lạc Dương. Ông là một
vị đại thần nổi danh đời Tống, ba
lượt được phong làm Tể Tướng. Ông
đỗ trạng nguyên khi 21 tuổi, được phong
làm Tương Tác Giám Thừa Thông Phán Thăng Châu. Ông
được phong làm Đồng Trung Thư Môn Hạ B́nh
Chương Sự (Tể Tướng) ba lần vào năm
988, 993 và 1011. Bảy người con trai của ông đều
làm quan. Cháu trai ông là Lữ Di Giản (tức cháu nội của
Lữ Quy Tường. Lữ Quy Tường là em trai của
cha Lữ Mông Chánh) cũng được phong làm Đồng
Trung Thư Môn Hạ B́nh Chương Sự.
[19] Khánh Lịch là niên hiệu của Tống
Nhân Tông từ năm 1041 đến năm 1048.
[20] Thiệu Thánh là niên hiệu của
Tống Triết Tông (Triệu Hú) từ năm 1094 đến
năm 1098.
[21] Nguyên Phong là
niên hiệu của Tống Thần Tông (Triệu Húc) từ
năm 1078 đến năm 1085.
[22] Hy Ninh là niên hiệu của Tống
Thần Tông (Triệu Húc) từ năm 1068 đến
năm 1077.
[23] Nguyên Hựu
là niên hiệu của Tống Triết Tông (Triệu Hú) sử
dụng từ năm 1086 đến năm 1094.
[24]
Đại Quán là niên hiệu của Tống Huy Tông (Triệu
Cát) từ năm 1107 đến năm 1110.
[25] Nguyên Phù là niên hiệu thứ ba của
Tống Triết Tông sử dụng từ năm 1098 tới
năm 1100.
[26] Chánh Ḥa là niên hiệu của Tống
Huy Tông (Triệu Cát) từ năm 1111 đến năm 1118.
[27] Sùng Ninh là niên hiệu của Tống
Huy Tông từ năn 1102 đến năm 1106.
[28] Kiến Viêm là niên hiệu của Tống
Cao Tống từ năm 1127 đến năm 1130.
[29] Thiệu Hưng là niên hiệu của
Tống Cao Tông từ năm 1130 đến năm 1162.
[30] Lưu khám: Quàn quan tài chưa chôn hay thiêu.
[31] Hiến Sứ c̣n gọi là Hiến
Ty, tức Đề Điểm H́nh Ngục Công Sự tại
các Lộ (nhà Tống chia nước nhiều Lộ, giống
như khái niệm tỉnh sau này). Chức quan này phụ
trách thẩm tra các nghi án, khảo sát, đàn hặc quan lại
các cấp, tương đương chức Án Sát Sứ
về sau này. Hiến Sứ c̣n là danh xưng để gọi
các quan Ngự Sử.
[32] Thời Tống,
chức quan vơ được chia thành ba ban là Đông, Tây, và
Hoành, gọi chung là Tam Ban. Chức quan vơ khởi đầu
sẽ gọi là Tam Ban Tá, cao hơn là Tam Ban Phụng Chức,
cao nhất là Tiết Độ Sứ. Tống Sử cho biết
thời Tống Nhân Tông, lập ra chức Nội Điện
Sùng Ban, Tả Hữu Thị Cấm để bảo vệ
hoàng cung, đổi chức Điện Tiền Thừa Chỉ
thành Tam Ban Phụng Chức.
[33] H́nh Bộ được gọi là
Đô Quan Ty vào đời Tào Ngụy, trưởng quan của ty ấy
được gọi
là Đô Quan Lang. Về sau, mới đổi
thành H́nh Bộ, cho nên gọi chung là H́nh Bộ
Đô Quan.
[34] Mạc quan: Chức quan giúp việc
cho các quan chức lớn từ cấp Tri Châu trở lên,
thường gọi là Sư Gia, Mạc Khách, Mạc Tân, Mạc
Hữu. Chức vụ này bắt nguồn từ thời
Đường. Sau khi loạn An Lộc Sơn b́nh định,
các quan chức lớn như Tiết Độ Sứ, Quan
Sát Sứ, Đoàn Luyện Sứ, Pḥng
Ngự Sứ v.v… thiết lập hệ thống hành chánh của
riêng ḿnh, tự lựa chọn các quan văn phù tá. Các viên
quan đó được gọi chung là Mạc Quan. Chẳng
hạn như Tiết Độ Sứ lập ra các chức
quan Hành Quân Tư Mă, Phó Sứ,
Phán Quan, Chi Sứ, Trưởng Thư Kư, Thôi Quan, Tuần
Quan v.v…
[35] Vị tăng đi hành cước,
hoặc du tăng, không có trụ xứ
nhất định.
[36] Đan sa (丹砂, Cinnabar) c̣n gọi là Châu Sa (朱砂), Xích Đan (赤丹), Hống Sa (汞沙), Thần Sa (辰砂), chính là sulfur thủy ngân, có màu đỏ sậm.
Chất này thường được dùng để chiết
xuất thủy ngân. Người Hoa dùng nó làm thuốc trấn
kinh, giải nhiệt, an thần, điều trị chứng
mất ngủ, cũng như dùng trị các bệnh ngoài da,
tuy đây là chất độc. Các nhà luyện kim của
Đạo giáo c̣n sử dụng châu sa để luyện
đan, pha với các kim loại nặng như ch́, và các chất
độc khác với tham vọng tăng tuổi thọ,
hoặc thành tiên bay lên trời. Rất nhiều vua
chúa uống vào đă bị điên loạn, hay lở loét đến
chết.
[37] Khánh Lịch là niên hiệu của Tống
Nhân Tông từ năm 1041 đến năm 1048.
[38] Nghi nhân là phong hiệu của vợ
quan. Từ niên hiệu Chánh Ḥa đời Tống Huy Tông, mẹ
và vợ của quan văn từ Triều Phụng đại
phu cho tới Triều Nghị đại phu (tức là thuộc
hàm chánh ngũ phẩm) được phong làm Nghi Nhân, cao
hơn An Nhân, và thấp hơn Cung Nhân. Đời Nguyên th́ vợ
và mẹ của quan chức từ thất phẩm trở
lên được phong là Nghi Nhân. Thời Minh - Thanh th́ vợ và mẹ của quan
ngũ phẩm trở lên mới được phong là
Nghi Nhân.
[39] Diêm Quan là chức quan chuyên kiểm
soát việc sản xuất và kinh doanh muối. Trách nhiệm chủ yếu là bảo đảm không có chuyện
buôn muối lậu v́ Trung Hoa đất rộng, các tỉnh
nội địa phải mua muối từ vùng biển với
giá cao, do đó, kinh doanh muối là một nguồn lợi rất
lớn để đánh
thuế của triều đ́nh.
[40] Tức là dùng ngũ trùng huyền
nghĩa để giảng một bộ kinh, gồm: Thích danh (giải thích tên kinh), biện
thể, minh tông (biện định tông thú, tức kinh này chủ
yếu dạy về giáo pháp nào, đó là Tông. Do vâng theo cái tông
ấy để tu hành sẽ đạt được cái
quả ǵ. Đó là Thú), luận dụng (luận định
tác dụng) và phán giáo (phán định thuộc giáo tướng
nào trong Tạng, Thông, Biệt, Viên, thuộc Bồ Tát tạng
hay Thanh Văn tạng). Tứ thích là cách giải thích kinh
văn dựa theo bốn phương diện như ngài Ngẫu
Ích đă sử dụng trong Pháp Hoa Thai Tông Hội Nghĩa
trước đó: Nhân duyên, ước giáo (dựa theo từng
giáo trong bốn giáo để luận định ư nghĩa
của từng đoạn kinh văn), Bổn Tích và quán
tâm.
[41] Ư nói hành cước tham học, dựa
theo điển cố: Tổ Đạt Ma
sau khi mất được chôn tại núi Hùng Nhĩ. Sứ
giả đi Tây Vực trở về tâu với vua gặp
Tổ bên Tây Vực, trên vai quảy một chiếc dép. Vua
cho người khai quật mộ th́ thấy trong mộ chỉ
c̣n lại một chiếc dép.
[42] Vạn Lịch là niên hiệu của
Minh Thần Tông (Châu Dực Quân) từ năm 1573 đến
năm 1620. Từ Thánh Thái Hậu chính là Hiếu Định
Thái Hậu (1545-1614), mẹ của vua Minh Thần Tông. Bà họ
Lư, không biết tên, chỉ biết quê bà ở Thành Huyện,
phủ Tây Dực, tỉnh Sơn Tây, được phong
làm hoàng quư phi của Minh Mục Tông (Châu Tải Kỵ). Bà
được đưa vào làm cung nhân cho Dụ
Vương Châu Tải Kỵ lúc 15 tuổi. Do bà xinh đẹp,
thông minh, hiền thục, Châu Tải Kỵ ưa thích bèn nạp
bà làm thiếp thất. Khi Châu Tải Kỵ lên ngôi, trở thành Minh Mục Tông, bà được
phong làm Hoàng Quư Phi. Tuy bà sanh nhiều con nhất, được
vua hết sức sủng ái, nhưng đối với Trần
Hoàng Hậu không con, lại bị thất sủng, bà vẫn
giữ trọn lễ nghĩa, cung kính, không kiêu căng. Khi
Minh Mục Tông tạ thế, con trai của bà lên ngôi tức
Minh Thần Tông, bà được phong là Từ Thánh Hoàng
Thái Hậu. Khi Minh Thần Tông c̣n nhỏ, bà dạy con rất
nghiêm khắc, hễ vua phạm lỗi bèn bị phạt quỳ.
Ngay cả khi ông ta đă là vua, bà không khoan nhượng
trước sai lầm của vua. Khi Minh Thần Tông say
rượu hăm hiếp Vương thị là cung nhân hầu
Thái Hậu, bị Thái Hậu cật vấn, vua chối phắt,
tới khi Thái Hậu đem sổ sách ghi chuyện lâm hạnh
của vua ra cho vua đọc, ông ta mới miễn cưỡng
thừa nhận. Thái Hậu bắt vua phải phong cho
Vương thị làm phi tần. Từ đó, vua mang dạ
oán mẹ. Thái Hậu sùng Phật, thường bố thí xây
dựng chùa, vua lại mê Đạo Giáo, mâu thuẫn giữa hai mẹ con càng sâu. Khi
Vương Thị sanh con là Châu Thường Lạc, vua gọi
Thường Lạc là Đô Nhân Tử (con của cung nữ),
mà Thái Hậu lại xuất thân là cung nữ, cho nên bà càng bực
tức. Điều đó dẫn đến chuyện các thiền
sư được Thái Hậu coi trọng cũng bị
vạ lây như ngài Hám Sơn Đức Thanh chẳng hạn;
do Thái Hậu tặng vàng cho Sư chép kinh, vua đă ghét ngài
Đức Thanh sẵn, nhất là khi vua sủng ái Trịnh
Quư Phi, c̣n Thái Hậu thích Vương Thị, cậy ngài Đức
Thanh chủ tŕ lễ cầu
tự cho Vương Thị sanh con trai. Tới khi vua ban
Đại Tạng cho các chùa trong nước, Thái Hậu
đă đặc biệt dành riêng một bộ cho ngôi chùa Hải
Ấn nơi Sư trụ tŕ. Tới khi Sư trùng tu chùa, vua bèn sai
người vu cáo Sư tự tiện tu bổ chùa không xin
phép, lén dùng công quỹ để phạt Sư đi
đày.
[43] Lănh ngoại c̣n gọi là Lănh Nam, tức
là vùng đất ở phía Nam rặng Ngũ Lănh, tức
vùng đất bao gồm các tỉnh Quảng Đông, Quảng
Tây, Hải Nam hiện thời. Rặng Ngũ Lănh bằng
đá hoa cương chạy từ Đông sang Tây dài 600 km,
gồm năm rặng núi nhỏ (Việt Thành Lănh, Đô
Bàng Lănh, Manh Chử Lănh, Kỵ Điền Lănh, và Đại
Dữu Lănh), là ranh giới tự nhiên phân cách vùng Lưỡng
Quảng với Giang Nam.
[44] Nghê ṭa (猊座) chính là ṭa sư tử. Sư tử
c̣n được gọi là Toan Nghê (狻猊) trong các thư tịch cổ. Về sau, Toan Nghê lại biến
thành một trong chín con của rồng, và người ta cho rằng Toan Nghê thích ngửi khói
hương, cho
nên các lư, đỉnh
thường tạc h́nh tượng con nghê (tức toan
nghê) ngồi trên nắp. Đặc điểm của Toan
Nghê khi tạo h́nh là bờm thành h́nh xoắn ốc, không có vảy,
thân h́nh nhất là trên chỗ tiếp giáp giữa chân và ḿnh
thường có xoắn ốc. Trong khi đó, kỳ lân phải
có sừng và vảy.
[45] Ông Lục Quang Tổ (1521-1597) tự
là Dữ Thằng, biệt hiệu là Ngũ Đài cư
sĩ. Ông làm quan đến chức Lại Bộ Thượng
Thư, chức vụ này tương ứng với chức
Thiên Quan Trủng Tể thời cổ, nên người
đời vẫn quen gọi Lại Bộ Thượng
Thư là Trủng Tể, tuy Lại Bộ Thượng
Thư không phải là người đứng đầu
các quan như Trủng Tể trong quy chế thời cổ.
[46] Điệp là cái váy xếp nhiều
lớp. Ở đây, Nê Hoàn Điệp chính là Nê Hoàn Tăng (Nivasana, c̣n
phiên âm là Nê Phược Ta Na, hoặc Nê Phạt Tán Na), hay c̣n
gọi là Nội Y, Hạ Y, chính là cái xà rông để che phần
dưới thân thể của chư Tăng. Trong đoạn
này, ông Châu Khắc Phục có ư nói nơi chiếc xà rông (hay
chiếc xiêm) của tượng nơi chính điện tự
nhiên trổ nấm Linh Chi.
[47] Ngu ty tức là ngu bộ ty, là một
trong bốn ty trực thuộc bộ Công, có trách nhiệm
quản trị núi rừng, sông hồ, cây cỏ, các vườn
tược của chánh quyền, điều hành các hoạt
động sản xuất, cung ứng, cấm người
dân tùy tiện khai thác hoặc phá hoại môi sinh.
[48] Ứng đối trong nhà Thiền.
[49] Thoạt đầu, Hiếu Liêm có nghĩa là “hiếu
thuận với cha mẹ, khiêm tốn, có tài năng, chánh trực”. Theo kiến nghị của Đổng
Trọng Thư, Hán Vũ Đế vào năm Nguyên Quang
nguyên niên (134 trước Công Nguyên) đă hạ chiếu cho
các châu, quận cử ra một người hiếu thảo,
liêm khiết để bổ nhiệm làm quan, nhưng họ
không có thật chức. Thoạt đầu, họ
được phái vào các bộ để tập sự, ḥng xem xét tài năng và phẩm hạnh.
Sau một thời gian dài quan sát, thấy phẩm
đức tốt đẹp, mới thật sự bổ nhiệm vào các chức vụ.
Về sau, để bảo đảm khả năng phụng
sự của các hiếu liêm, các hiếu liêm được
đưa về kinh phải thông qua kỳ khảo hạch
kinh học (thông thạo kinh điển Nho gia) cũng
như các kỹ năng hành chánh cần thiết th́ mới được
bổ nhiệm. Sau này, đến đời Minh - Thanh, Hiếu Liêm trở thành một danh xưng chung để gọi người đậu
Cử Nhân.
[50] Tức quân phản loạn do
Trương Hiến Trung cầm đầu. Minh Tư Tông
(Sùng Trinh Đế) tin dùng hoạn quan, tăng thuế nặng
nề, lo tích trữ vàng bạc trong kho riêng. Vua lại ngờ
vực, nghe lời sàm tấu, bỏ tù dũng tướng Viên
Sùng Hoán (người anh hùng đă ba lần đánh
bại quân Thanh toan xâm chiếm Trung Nguyên) khiến cho quốc gia suy yếu, nhân tâm chán nản.
Dân chúng đói khát lầm than bèn nổi loạn. Năm Sùng
Trinh thứ 3 (1630), Trương Hiến Trung tụ tập
18 trại nông dân, hưởng ứng cuộc khởi
nghĩa của Vương Gia Dật tại Thiểm Tây,
chiến đấu chủ yếu tại các tỉnh Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà
Nam, An Huy, Hồ Bắc, Tứ Xuyên v.v… Về sau, ông ta
xưng là Đại Tây Vương, đặt quốc hiệu
là Đại Tây, thủ đô là Thành Đô (Tứ Xuyên), chống phá dằng
dai cho đến khi nhà Minh mất nước, quân Thanh vào
Trung Nguyên, Trương Hiến
Trung mới bị tướng nhà Thanh giết
chết.
[51] Đây là một hoạn quan lũng
đoạn triều chánh nhà Minh. Ông ta tên thật là Ngụy
Tứ, sau khi vào cung đổi tên thành Lư Tấn Trung; về
sau đổi lại họ Ngụy. Do khéo lấy ḷng vua,
ông ta được Minh Hy Tông ban tên là Ngụy Trung Hiền.
Ngụy Trung Hiền dựa thế của vú nuôi là Khách Thị.
Khi Hy Tông lên ngôi vua, sủng ái Khách Thị, trao cho bà rất
nhiều quyền hạn. Ngụy Trung Hiền vốn là tâm
phúc của Khánh Thị cũng được vua tin
dùng, cho hắn nhiều quyền hạn. Đặc biệt
là giao cho hắn coi Đông Xưởng (cơ quan mật vụ
của triều đ́nh). Hắn gài người vào Nội
Các khiến cả triều đ́nh toàn là tay chân
của hắn, giết chóc, hăm hại những người
chống đối không khoan nhượng. Các quan lại
hùa theo nịnh bợ hắn. Một tuần phủ Chiết
Giang đề xướng lập sanh từ (đền thờ
sống) cho hắn, ai đi qua cũng phải lạy 5 lạy
và hô to “cửu bách tuế” (tức là chỉ kém “thiên tuế” là danh xưng dành cho các thân
vương). Măi cho đến khi Minh Tư Tông lên ngôi, triệt
hạ Khách Thị và truy bắt hắn, hắn sợ tội,
thắt cổ chết.
[52] Đường Chiêu Tông (Lư Kiệt)
là vua áp chót của nhà Đường. Cuối đời
Đường, hoạn quan lũng đoạn triều
chánh, các phiên trấn tung hoành, không nghe lệnh chính quyền
trung ương. Khi quân nổi loạn Hoàng Sào đă bị
dẹp yên, Đường Hy Tông (Lư Huyên) trở về
Trường An, lâm bệnh nặng, không qua khỏi. Các quan
muốn đưa hoàng đệ Lư Bảo lên nối ngôi,
nhưng hoạn quan Dương Phục Cung ủng hộ một người
em khác của vua là Lư Kiệt, v́ thế, Lư Kiệt được
phong làm Hoàng Thái Đệ và lên ngôi khi Hy Tông qua đời.
Trong các nỗ lực chống lại các Tiết Độ
Sứ Lư Khắc Dụng, Trần Kính Tuyên, và Lư Mậu
Trinh, Đường Chiêu
Tông lâm vào bế tắc, phải
nhờ tay quân phiệt Châu Toàn Trung (Châu Ôn) giúp đỡ. Cuối
cùng, Châu Ôn thâu tóm quyền hành. Đến năm 904 th́ Châu Ôn sát hại Đường Chiêu Tông.
Châu Ôn sai con nuôi là Châu Hữu Cung (tức Hữu Khuê) và thống
quân Thị Thúc Tông đem quân vào cung giết Chiêu Tông,
đưa con ông ta là Lư Chúc lên làm vua, tức Đường
Ai Đế. Năm 905, Châu Ôn giết chết Đường
Ai Đế, soán ngôi, lập ra nhà Hậu Lương, tức
Châu Lương.
[53] Theo cổ lễ, khi khâm liệm,
con cháu và thân thuộc lớn tiếng kêu khóc tỏ ḷng
thương xót người đă mất, chuyện này
được gọi là Cử Ai.
[54] Thí sinh đỗ kỳ thi châu huyện
khảo hạch để thi Tấn Sĩ th́ gọi là
đỗ hương tiến.
[55] Chân Vũ tức Huyền Vũ
Đại Đế (Bắc Cực Huyền Thiên Thượng
Đế, Chân Vũ Đăng Ma Đại Đế, Vô
Lượng Tổ Sư) là vị thần thống ngự
phương Bắc trong Đạo Giáo. Do theo Ngũ Hành,
phương Bắc thuộc Thủy, cho nên Chân Vũ thống trị thủy tộc, tất cả
các sự vật liên quan đến nước. Do vậy,
ông c̣n được gọi là Thủy Hắc Đế.
Ông có một đạo hiệu nữa là Đăng Ma Thiên Tôn
Chân Vũ Đại Đế, cùng với Phục Ma Đại
Đế Quan Thánh Đế Quân và Khu Ma Chân Quân Chung Quỳ Đế Quân được gọi
là Tam Phục Ma Đế Quân trong Đạo Giáo. Núi Vũ Đang là
đạo tràng chánh yếu của ông. Đạo Kinh nói ông là hóa thân lần
thứ tám mươi hai của Thái Thượng Lăo Quân.
[56] Vương Linh Quan c̣n gọi là
Vương Thiên Linh Quan, Long Ân Chân Nhân, hoặc Thái Ất
Lôi Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn, là vị thần trấn thủ
sơn môn của Đạo Giáo, thuộc bộ Lôi, bộ
Hỏa và là thần hộ pháp được sùng bái nhất
của Đạo Giáo. Ông chính là một vị
trong tứ đại hộ
pháp của Đạo Giáo (Ôn Thái Bảo, Mă Thiên Quân, Triệu
Nguyên Soái, và Vương Linh Quan). Ông được
coi là ngự tiền đại tướng của Ngọc
Hoàng, đứng đầu năm trăm vị linh quan,
cho nên c̣n có danh xưng là Đô Thiên Đại Linh Quan.
[57] Ngũ Ôn Ty là phủ thự của
ngũ ôn thần, tức năm vị thần gây bệnh dịch
(ôn dịch) trong Đạo Giáo, bao gồm Xuân Ôn
Trương Nguyên Bá, Hạ Ôn Lưu Nguyên Đạt, Thu Ôn
Triệu Công Minh, Đông Ôn Chung Sĩ Quư, và Tổng Quản
Trung Ôn Sử Văn Nghiệp.
[58] Ư nói kinh Pháp Hoa và sách Cảm Thông Lục
đều quư báu, đẹp đẽ như một
đôi ngọc bích đặt kề nhau.