Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa
phần
3
Đất
Cổ Ngô, Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật
妙法蓮華經綸貫會義
古吳後學蕅益智旭述
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt:
Đức Phong và Huệ Trang
1.2.1.1.5. Trả lời câu hỏi
Gồm hai phần:
Một là văn Trường Hàng, hai là kệ tụng.
1.2.1.1.5.1. Phần kinh văn Trường
Hàng
Chia thành bốn
phần: Một là suy nghĩ, cân
nhắc để giải đáp, hai là nêu đại lược
chuyện đă từng thấy để trả lời,
ba là nêu rộng chuyện đă từng thấy để
trả lời, bốn là phán định phân minh để
giải đáp.
1.2.1.1.5.1.1. Suy nghĩ, cân nhắc
để giải đáp
(Kinh) Nhĩ thời,
Văn Thù Sư Lợi ngữ Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát, cập
chư đại sĩ: - Thiện nam tử đẳng!
Như ngă duy thổn, kim Phật Thế Tôn dục thuyết
đại pháp, vũ đại pháp vũ, xuy đại
pháp loa, kích đại pháp cổ, diễn đại pháp
nghĩa.
(經)爾時文殊師利。語彌勒菩薩摩訶薩及諸大士。善男子等。如我惟忖。今佛世尊欲說大法。雨大法雨。吹大法螺。擊大法鼓。演大法義。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Văn Thù Sư Lợi bảo Di Lặc Bồ Tát
Ma Ha Tát và các vị đại sĩ: - Các thiện nam tử!
Như tôi suy nghĩ, cân nhắc, nay đức Phật Thế
Tôn muốn nói đại pháp, xối mưa pháp lớn, thổi
ốc pháp lớn, đánh trống pháp lớn, diễn pháp
nghĩa lớn).
“Thiện nam tử”:
Mở ra bảy phương tiện là Thiện. Có thể
nghe pháp độc diệu là Nam, c̣n nói là “thiện trượng
phu”. Danh xưng “trượng phu” (丈夫) cũng áp dụng
cho cả bốn giáo; ở đây, phải
hiểu là thuộc Viên Giáo. “Duy” (惟) là suy nghĩ, “thổn” (忖) là suy lường. Suy tính hiện thời giống
như xưa kia, suy lường xưa kia giống như
hiện tại. Nhưng ngài Văn Thù là cổ Phật,
lẽ nào chẳng biết? Nơi Tích, bèn thị hiện
tư duy đó thôi! “Dục thuyết
đại pháp” (muốn nói đại
pháp): Giải đáp đó là tướng lành thuyết pháp.
[Văn Thù Bồ Tát] suy nghĩ: Xưa kia, sau khi chư Phật nói kinh Vô Lượng Nghĩa, bèn khai Quyền, hiển Thật, gồm
thâu vô lượng về một. Nay tôi phán đoán, đức
Phật đă nói kinh Vô Lượng Nghĩa, cũng sẽ
khai Quyền hiển Thật, dung hội vô lượng về
một, “một” chính là đại pháp.
“Vũ đại
pháp vũ” (xối mưa pháp lớn) là trả lời
[thắc mắc] về điềm lành “mưa hoa”. Suy
nghĩ chư Phật thuở trước, sau khi tuôn bốn
loại hoa vào khắp các nhân vị (địa vị tu nhân) Trụ, Hạnh,
Hướng, Địa thuộc Viên Giáo. Tôi phán đoán
đức Phật hiện thời, sau khi mưa hoa, ắt cũng sẽ
đều thành tạo cái nhân thành Phật cho [các vị Bồ
Tát] thuộc [các địa vị] Trụ, Hạnh, Hướng,
Địa.
“Xuy đại
pháp loa” (thổi ốc pháp lớn): Thổi ốc (tù và)
làm hiệu lệnh, giải đáp thắc mắc cho tâm đại chúng hoan hỷ trước
điềm lành. [Ngài Văn Thù] suy nghĩ tứ chúng xưa
kia trông thấy điềm lành bèn hoan hỷ, đạt
được điều chưa từng có, trừ
chướng, dấy động căn cơ, tức là sửa
đổi khiến cho giáo, hạnh, lư của mọi
người đều đồng nhất; bèn đoán rằng
đại chúng hiện thời do hoan hỷ, cũng sẽ trừ
chướng, dấy động căn cơ, thay đổi
theo giáo, hạnh, lư giống như người thuở
trước, sửa đổi
rất sâu!
“Kích đại
pháp cổ” (đánh trống đại pháp): Giải
đáp thắc mắc về điềm lành “cơi đất
chấn động”. Suy nghĩ: Xưa kia, sau khi đại địa
chấn động, liền có sáu lượt phá giặc Vô
Minh; [do vậy tôi]
phán đoán đối với vị Phật hiện thời
(Phật Thích Ca), sau khi đại địa chấn động,
cũng sẽ có sáu lượt phá Vô
Minh Hoặc. Đó là chỗ mầu
nhiệm nhất của thanh giáo[1].
“Diễn đại
pháp nghĩa”: Giải đáp thắc mắc về tướng
lành “phóng quang”. Suy nghĩ: Xưa kia, chư Phật
phóng quang minh từ tướng bạch hào; sau đó, nói kinh Pháp Hoa. Do đạo
của chư Phật giống như nhau, tôi đoán rằng
sau khi đức Phật hiện thời phóng quang, cũng
sẽ nói kinh Pháp Hoa. Ngài (Văn Thù Bồ Tát) nói rộng về
năm điều [chứng tỏ] đạo của
chư Phật giống nhau. Năm câu như thế đều
là do suy nghĩ các điều trong quá khứ mà phán định
hiện tại. Tôi nói thêm để dung hội ư nghĩa:
[Chánh kinh] chỉ thiếu phần [Bồ Tát] suy nghĩ về
tướng lành nhập Định, nhưng các điềm
lành như mưa hoa, cơi đất chấn động v.v…
đều do nhập Định mà có, [nói về các tướng
lành ấy] th́ ư nghĩa đă đầy đủ rồi,
chẳng cần phải nhọc ḷng ngờ vực!
Do thiếu khuyết điều này, nên gọi là “lược
đáp” (略答, giải đáp
đại lược). Chuyện suy nghĩ, cân nhắc
để giải đáp này nhằm trả lời thắc
mắc về sáu điều lành trong cơi này.
1.2.1.1.5.1.2. Nêu đại lược
chuyện đă từng thấy để giải đáp
(Kinh) Chư thiện
nam tử! Ngă ư quá khứ chư Phật, tằng kiến
thử thụy, phóng tư quang dĩ, tức thuyết
đại pháp. Thị cố, đương
tri: Kim Phật hiện
quang, diệc phục như thị, dục linh chúng sanh hàm
đắc văn tri nhất thiết thế gian nan tín chi
pháp, cố hiện tư thụy.
(經)諸善男子。我於過去諸佛。曾見此瑞。放斯光已。卽說大法。是故當知今佛現光。亦復如是。欲令眾生咸得聞知一切世間難信之法。故現斯瑞。
(Kinh: Các thiện
nam tử! Nơi chư Phật quá khứ, tôi đă từng
thấy điều lành này. Sau khi đă phóng quang minh như
thế ấy, liền nói đại pháp. V́ thế, hăy nên
biết: Nay đức Phật
hiện tướng quang minh cũng giống như thế,
muốn cho chúng sanh đều được nghe biết
pháp mà hết thảy thế gian khó tin, cho nên hiện điềm
lành ấy).
Đây là nêu đại
lược chuyện đă từng thấy, chỉ nói về
chuyện phóng quang chính là giải đáp sáu điềm lành
trong các cơi khác; v́ sáu điều
lành nơi các cơi khác đều được soi tỏ bởi
quang minh do đức Phật đă phóng ra. “Văn” (聞, nghe) là nói đến
tín hạnh, “tri” (知, biết) là nói đến
pháp hạnh. Hết thảy các pháp khó tin trong thế gian,
đó gọi là “thâu nhiếp vô lượng về một,
khiến cho đại chúng khai thị ngộ nhập”,
thay đổi giáo, hạnh, lư của mọi người,
sáu phen phá vô minh, hiển lộ đạo của chư Phật
đồng nhất, b́nh đẳng. Đó chẳng phải
là điều mà căn cơ của chín pháp giới kia có thể
tin tưởng được!
1.2.1.1.5.1.3. Rộng nêu các điều
từng thấy để trả lời
Tức là cùng trả
lời các nghi vấn về cơi này và cơi kia. Ngài Di Lặc do
quang minh mà thấy phương Đông theo chiều ngang (thấy
trong không gian) bèn thưa hỏi. Ngài Văn Thù dẫn chuyện
xưa kia thấy Phật theo chiều dọc (thời gian)
để đáp, nhằm hiển thị “mười
phương ba đời chư Phật cùng một đạo”. Kinh văn chia
thành ba đoạn: Một là dẫn chứng một vị
Phật giống như vậy, hai là dẫn chứng hai vạn
vị Phật đều giống như
vậy, ba là dẫn chứng vị Phật tối hậu
cũng giống như vậy.
1.2.1.1.5.1.3.1. Dẫn chứng một
vị Phật giống như vậy
Gồm ba phần:
Một là thời tiết, hai là nêu tên, ba là thuyết pháp.
1.2.1.1.5.1.3.1.1. Thời tiết
(Kinh) Chư thiện
nam tử! Như quá khứ vô lượng vô biên bất khả
tư nghị A-tăng-kỳ kiếp.
(經)諸善男子。如過去無量無邊不可思議阿僧祇劫。
(Kinh: Các thiện
nam tử! Như vô lượng vô biên chẳng thể
nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp trong quá khứ).
1.2.1.1.5.1.3.1.2. Nêu tên
(Kinh) Nhĩ thời
hữu Phật, hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh
Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
(經)爾時有佛。號日月燈明如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, có Phật hiệu là Nhật Nguyệt Đăng
Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn).
“Nhĩ thời”
(lúc bấy giờ) là thuở chẳng thể nghĩ bàn kiếp
trong quá khứ. “Thời” chẳng phải là pháp thật
có, do nương vào Sắc và Tâm mà giả lập, thuận
theo thói tục mà phân biệt, chẳng hoại giả danh. Đó là Thế Giới Tất Đàn. Nghe “vô lượng
kiếp” liền biết chuyện sanh tử dài lâu, sanh
tâm chán ĺa. Đó là Vị Nhân Tất Đàn. [Nghe biết]
trước kiếp lại có kiếp, sẽ chẳng sanh
Đoạn Kiến. [Nghe nói] sau mỗi kiếp, lại có một kiếp
khác, sẽ chẳng sanh Thường Kiến. Đó là Đối
Trị Tất Đàn. Quán thời điểm lâu xa ấy
giống hệt như trong ngày nay, mười đời
xưa nay chẳng ĺa một niệm hiện tại. Đó
là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn. Khi đức
Phật xuất thế trong thuở ấy, cũng nói tam thừa,
tức [thuở đó] cũng là thời Ngũ Trược giống như
lúc đức Phật xuất thế trong hiện thời.
Nếu nói “ba đại A-tăng-kỳ kiếp tu hành
tích tập thành Phật”, đó chính là nói theo tướng
trạng trong Tam Tạng. Nếu nói “biết rơ tánh của
thời và kiếp là Không, một niệm tương ứng
với huệ, đại giác rạng ngời”. Đó
chính là Phật tướng trong Thông Giáo. Nếu nói “trong
chẳng thể nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp, hành trọn
hết vô biên các hạnh trong pháp giới, đoạn trừ
hai phẩm ngu (vô minh) vi tế và cực vi tế bèn thành Phật”.
[Nếu nói] “Ứng Thân ngồi trọn khắp dưới
trăm ức cây [Bồ Đề]”. Đó chính là Phật
tướng trong Biệt Giáo. Nếu nói “hiểu vô lượng
vô số kiếp là một niệm, biết rơ tánh của một
niệm chính là [cùng một] tánh từ xưa tới nay. Trí
nhập ba đời, nhưng chẳng qua lại.
Nhập tam-muội trong khoảng một sát-na, có thể thị
hiện chuyện thành Bồ Đề
xưa nay trong các biển quốc độ. Do v́ chúng sanh,
chẳng sanh mà thị hiện có sanh”. Đó chính là Phật
tướng trong Viên Giáo.
Xét theo Bổn Tích,
đức Phật Thích Ca trong hiện thời vốn thành
Phật đă lâu. Đó là Bổn. Ngài thị hiện
[giáng sanh] nơi vương cung là Tích. Chiêm nghiệm [điều
này], liền
biết đức Phật kia (Nhật Nguyệt
Đăng Minh Phật) cũng phải giống như thế.
Xét theo quán tâm, quán Ngũ Ấm
trong mỗi niệm đều sanh bởi nhân duyên, tức
Không, tức Giả, tức Trung. Đó gọi là “có Phật
xuất hiện trong cơi đời”. [Xét theo Lục
Tức Phật], từ Danh Tự mà có Phật, cho đến
Cứu Cánh có Phật.
Nhật Nguyệt
Đăng Minh (Candrasūryapradīpa) là danh hiệu riêng (biệt
hiệu). “Như Lai” v.v... là các danh hiệu chung (thông
hiệu). Hết thảy chư Phật đều có thông
hiệu và biệt hiệu, đều là thuận theo thế
gian mà giả lập. Đó là Thế Giới Tất
Đàn. Nghe danh hiệu bèn sanh khởi điều lành, chính
là Vị Nhân Tất Đàn. Vượt xa hết thảy phạm,
ma, sa-môn, bà-la-môn v.v… tức là Đối Trị Tất
Đàn. Nếu nghe danh hiệu của chư Phật đều
đạt được bất thoái chuyển nơi Vô
Thượng Bồ Đề, tức là Đệ Nhất
Nghĩa Tất Đàn.
Trong biệt hiệu
Nhật Nguyệt Đăng Minh, Nhật biểu thị huệ,
Nguyệt biểu thị Định, tức là phẩm đức tự
hành. Đăng Minh là phẩm đức “hóa độ
người khác”. Lại nữa, Nhật Nguyệt
Đăng [trong Nhật Nguyệt Đăng Minh] biểu thị
nhất tâm tam trí[2].
Hăy nên biết Phật trước (Phật trong quá khứ)
và Phật sau (Phật trong hiện tại và tương
lai), tự hành như nhau, hóa độ người khác giống
nhau, nhất tâm tam trí giống nhau. Lại nữa, Phật
có vô lượng đức, phải nên có vô lượng hiệu.
Như kinh Hoa Nghiêm nói ở trong thế giới Sa Bà này, Phật
Thích Ca có trăm ức mười ngàn danh hiệu, hà huống
các Ứng Thân trọn khắp các cơi số nhiều như
vi trần, danh hiệu há có cùng tận ư? Nhưng mỗi
danh hiệu đều
chiêu vời thật đức, đều là dùng hết cả
kiếp để diễn nói công đức ấy, trọn chẳng thể cùng tận! Dùng nay
để suy ra xưa, lẽ nào riêng Nhật Nguyệt
Đăng Minh lại chẳng giống như vậy?
Đối với
các thông hiệu như Như Lai v.v…, tiếng Phạn là
Đa Đà A Già Độ (Tathāgata), c̣n phiên âm là
Đát Thát A Kiệt, cơi này dịch thành Như Lai. A La Ha (阿羅訶, Arhat, A La Hán) trong tiếng Phạn, được
phương này dịch là Ứng Cúng (應供), cũng dịch là Chí Chân (至真), hoặc c̣n dịch là Vô Sở
Trước (無所著, chẳng chấp
trước). Tam Miệu Tam Phật
Đà (Samyak-saṃbuddha)
trong tiếng Phạn, được
phương này dịch là Chánh Biến Tri, c̣n dịch là Đẳng
Chánh Giác. Bệ Xỉ Giá La Na Tam Ban Na (Vidyā-caraṇa-saṃpanna) trong
tiếng Phạn được phương này dịch là
Minh Hạnh Túc. Tu Già Đà (Sugata) trong tiếng Phạn, được
phương này dịch là Thiện Thệ (善逝, khéo qua lại),
c̣n dịch là Hảo Khứ (好去, khéo đi).
Lộ Già Bại (Lokavida) trong tiếng Phạn, phương
này dịch là Thế Gian Giải. A Nậu Đa La (Anuttara) trong
tiếng Phạn, phương này dịch là Vô Thượng
Sĩ. Phú Lâu Sa Đàm Miệu Bà La Đề (Puruṣa-damya-sārathi)) trong
tiếng Phạn, phương này dịch là Điều Ngự
Trượng Phu. Xá Đa Đề Bà Ma Nậu Xá Nẫm (Śāsta
Deva-manuṣyāṇaṃ) trong tiếng
Phạn, được phương này dịch là Thiên Nhân Giáo
Sư. Chữ Phật Đà trong tiếng Phạn, phương
này dịch là Tri Giả Giác Giả, Lộ Ca Na Tha (Lokanatha)
trong tiếng Phạn, được
phương này dịch là Thế Tôn, tức là trọn đủ
mười hiệu công đức chân thật như
trên. V́ thế, được hết thảy thế gian
tôn kính. Để giải thích mười hiệu này, ắt
cần phải xét theo tứ giáo và sự khai hiển, nay chẳng
nói rườm rà. Bổn Tích và quán tâm phỏng theo đó
cũng có thể biết.
1.2.1.1.5.1.3.1.3. Thuyết pháp
(Kinh) Diễn
thuyết chánh pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện.
Kỳ nghĩa thâm viễn, kỳ ngữ
xảo diệu, thuần nhất vô tạp, cụ túc thanh bạch
phạm hạnh chi tướng. Vị cầu Thanh Văn
giả, thuyết ứng Tứ Đế pháp, độ sanh,
lăo, bệnh, tử, cứu cánh Niết Bàn. Vị cầu
Bích Chi Phật giả, thuyết ứng thập nhị nhân
duyên pháp. Vị chư Bồ Tát, thuyết ứng Lục Ba
La Mật, linh đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề, thành Nhất Thiết Chủng Trí.
(經)演說正法。初善。中善。後善。其義深遠。其語巧妙。純一無雜。具足清白梵行之相。為求聲聞者。說應四諦法。度生老病死。究竟涅槃。為求辟支佛者。說應十二因緣法。為諸菩薩。說應六波羅蜜。令得阿耨多羅三藐三菩提。成一切種智。
(Kinh:
Diễn nói chánh pháp, chặng đầu tốt lành, chặng
giữa tốt lành, chặng cuối tốt lành. Ư nghĩa
sâu mầu, lời lẽ khéo nhiệm, thuần nhất chẳng
xen tạp, trọn đủ tướng phạm hạnh
trắng sạch. V́ người cầu Thanh Văn, bèn nói
pháp Tứ Đế tương ứng, độ sanh, già,
bệnh, chết, [đạt đến] rốt ráo Niết
Bàn. V́ người cầu Bích Chi Phật,
nói pháp tương ứng là mười hai nhân duyên. V́ các Bồ
Tát, nói pháp tương ứng là Lục Ba La Mật, khiến
cho họ đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, thành Nhất
Thiết Chủng Trí).
Đây là nói rơ vị
Phật xưa kia đă v́ Thật mà hành Quyền, nói Đốn,
nói Tiệm, khai Quyền hiển Thật để cùng quy
vào pháp “chẳng Đốn, chẳng Tiệm”, giống
như t́nh huống được trông thấy trong quang
minh, và cũng tương đồng với sự thuyết
pháp của Phật Thích Ca. Thoạt đầu nói “diễn
thuyết chánh pháp” tức là nói về pháp Đốn
Giáo. Ba chặng đầu, giữa, và cuối đều tốt
lành, ước theo Đốn Giáo th́ là ba đoạn Tự,
Chánh, Lưu Thông. Ư nghĩa này sâu xa, chính là liễu nghĩa
trong Đốn Giáo, Nhị Thừa chẳng thể ḍ
lường ngằn mé. “Kỳ ngữ xảo diệu”
(lời lẽ hay khéo, mầu nhiệm) tức là kinh văn
Đốn Giáo, dung hội Lư, nói thẳng thừng, khiến
cho tâm Bồ Tát vui sướng.
“Thuần nhất vô tạp” (thuần nhất chẳng xen tạp) tức là Đốn
Giáo chẳng xen lẫn với Nhị Thừa. “Cụ
túc”: Đốn Giáo nói về pháp môn măn tự. “Thanh bạch”:
Đốn Giáo chẳng có tỳ vết nhị biên. “Phạm
hạnh”: Chính là vô duyên Từ trong Đốn
Giáo. Trên đây là nói vị Phật xưa kia nói Đốn
pháp giống như đức Phật [Thích Ca] nói Hoa Nghiêm
trong hiện thời. [Điều này] tương ứng với
lời hỏi thứ nhất về chuyện “thánh chúa sư tử
diễn nói kinh pháp vi diệu” trong phần trên.
Kế đó nói “vị
cầu Thanh Văn” (v́ người cầu Thanh Văn)
v.v… là nói vị Phật xưa kia đă thí tam thừa, có ư
nghĩa giống như vị Phật trong hiện thời
(Phật Thích Ca) nói từ Tam Tạng cho tới
Phương Đẳng, Bát Nhă, nhằm đáp lời hỏi
“nếu ai gặp khổ” cho đến “Phật tử
tu các thứ hạnh” trong phần trước. Tứ Đế
có bốn loại (sanh diệt, vô sanh, vô lượng, vô
tác), chi tiết th́ như trong sách Huyền Nghĩa đă giảng.
Nay v́ hàng Thanh Văn, bèn nói pháp
tương ứng là pháp sanh diệt. Đó gọi là “quả
báo trong tam giới” khổ sở thật sự, chẳng
thể tạo vui sướng. Phiền năo và nghiệp thật
sự là cái nhân gây ra khổ, chẳng có cái nhân nào khác nữa!
Hễ nhân diệt, quả sẽ diệt, cho đến an
lạc rốt ráo. Đạo diệt khổ chỉ là Giới,
Định, Huệ, chẳng c̣n đạo nào khác. Nhân duyên
cũng có bốn loại như [sách Pháp Hoa] Huyền
Nghĩa đă nói. Nay v́ Bích Chi Phật lại nói tướng
tương ứng sanh diệt có thể nghĩ bàn, tức
Vô Minh và Hành là hai chi có thể dẫn khởi, Thức, Danh
Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ là các chi được
dẫn khởi. Ái và Thủ là các chi có thể sanh khởi.
Sanh, Lăo, Tử là các chi được sanh khởi. Cái
được dẫn khởi và cái
được sanh khởi chính là Khổ Đế.
Cái có thể dẫn khởi và sanh khởi chính là Tập
Đế. Vô Minh diệt cho đến Lăo, Tử diệt,
đó là Diệt Đế. Trí quán nhân duyên chính là Đạo
Đế.
Thanh Văn độn
căn; do vậy, v́ họ nói tổng tướng là pháp Tứ Đế.
Căn cơ của Bích Chi Phật nhạy bén hơn, v́ thế
nói biệt tướng là pháp nhân duyên. Bốn
giáo tướng Ba La Mật như đă nói đại
lược trong phần trước. Nếu trực tiếp
nói về Lục Độ trong Tam Tạng th́ thuộc về
A Hàm. Nếu luận định đối chiếu giữa
Sự và Lư, phần nhiều dùng Lư đoạt Sự, bèn thuộc vào Phương Đẳng. Nếu
kèm theo Sự để bàn về Lư, phần nhiều dùng Lư
dung hội Sự, sẽ thuộc về Bát Nhă. Phần sau
[của đoạn kinh văn này] nói “đắc A Nậu
Đa La [Tam Miệu Tam Bồ Đề]” v.v… chính là
nói đức Phật quá khứ đă khai Quyền hiển
Thật, có ư nghĩa giống với thời Pháp Hoa của đức
Phật trong hiện tại. Nếu quán sơ sài theo mạch
văn th́ câu “linh đắc” (khiến cho đạt
được) dường như chỉ là thừa tiếp
ư nghĩa của câu “vị chư Bồ Tát” (v́ các Bồ
Tát); nhưng nếu xem xét kỹ càng mạch văn, sẽ
thấy ư nghĩa ấy (“thành Nhất Thiết Chủng
Trí”) chính là kết luận chung cho việc diễn nói chánh
pháp cho Thanh Văn, Duyên Giác v.v… Bởi lẽ, từ ban
đầu nói pháp Đốn nhằm khiến cho chúng sanh thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí; đối với kẻ
chưa thành tựu, bèn khéo khuyên dụ dần dần, dùng
[các giáo nghĩa thuộc] Tam Tạng, Thông, Biệt, kèm theo
các thứ phương tiện như nói đối chiếu,
nói kèm thêm v.v… để thành thục họ, hoặc là định,
bất định, hoặc hiển, hoặc mật, chẳng
phải là một chuyện, nhưng đều nhằm dẫn
về Pháp Hoa. Như thế th́ dù là Thanh Văn, hay là Bích Chi
Phật, hay Sự độ, thậm chí cho tới pháp Biệt
Giáo được nói kèm thêm trong Hoa Nghiêm, không ǵ chẳng
nhằm khiến cho [người được hóa độ]
đắc Vô Thượng Bồ Đề, thành tựu Nhất
Thiết Chủng Trí. Điều này tương ứng với
lời hỏi về chuyện “từ trong quang minh
trông thấy đức Phật nhập Niết Bàn, [đại chúng] dựng tháp [thờ
xá-lợi] trong các cơi khác, nhưng chẳng thấy trong cơi
khác có pháp hội nói kinh Pháp Hoa”. Do vậy, dẫn
đến nghi vấn, trở thành Phát Khởi Tự. Nay dẫn
chuyện xưa tương đồng, nhằm hiển thị
Pháp Hoa là sự luận đàm cuối cùng tột bậc về
liễu nghĩa, từ nay trở đi, chẳng c̣n có ǵ có
thể nói nữa, chỉ có “chẳng phải diệt”
mà xướng “nhập diệt” đó thôi! Giáo pháp trong suốt một đời đức Phật
được quy kết rốt ráo trong một ḿnh kinh này.
Mười phương ba đời, không đâu chẳng
đều như vậy. Được gọi là Diệu,
há có phải là nói suông ư? Phần thứ nhất, “dẫn
chứng một vị Phật giống như vậy”
đă xong!
1.2.1.1.5.1.3.2. Kế đó, dẫn chứng
hai vạn vị Phật cũng đều giống như
vậy
(Kinh) Thứ phục
hữu Phật, diệc danh Nhật Nguyệt Đăng
Minh. Thứ phục hữu Phật, diệc danh Nhật
Nguyệt Đăng Minh. Như thị nhị vạn Phật, giai đồng nhất tự, hiệu
Nhật Nguyệt Đăng Minh. Hựu đồng nhất
tánh, tánh Phả La Đọa. Di Lặc đương tri!
Sơ Phật, hậu Phật, giai đồng nhất tự,
danh Nhật Nguyệt Đăng Minh, thập hiệu cụ
túc, sở khả thuyết pháp, sơ trung hậu thiện.
(經)次復有佛。亦名日月燈明。次復有佛。亦名日月燈明。如是二萬佛。皆同一字。號日月燈明。又同一姓。姓頗羅墮。彌勒當知。初佛後佛。皆同一字。名日月燈明。十號具足。所可說法。初中後善。
(Kinh: Kế
đó, lại có Phật
cũng tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Kế đó, lại có Phật
cũng tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Hai vạn vị
Phật như thế, đều cùng một danh hiệu là
Nhật Nguyệt Đăng Minh. Lại có cùng một họ,
tức là họ Phả La Đọa. Di Lặc hăy nên biết!
Vị Phật đầu tiên và các vị Phật sau đó
đều cùng một danh hiệu là Nhật Nguyệt
Đăng Minh, mười hiệu trọn đủ, pháp
do các Ngài nói chặng đầu, chặng giữa, và chặng
cuối đều tốt lành).
Vị Phật
trước, vị Phật sau, không vị nào chẳng thí
Đốn, thí Tiệm, ḥng [chúng sanh được hóa
độ, sẽ] hội nhập “phi Đốn, phi Tiệm”.
Ngài Văn Thù khéo nói, chẳng chú trọng văn từ
rườm rà. V́ thế, đối với vị Phật
đầu tiên, nói cặn kẽ Đốn, Tiệm đă
đồng, chẳng qua chỉ nêu đại lược về sự khai hiển (khai Quyền,
hiển Thật). Nay đối với hai vạn vị Phật,
chỉ nói cùng tên, cùng họ, cùng đủ mười hiệu
giống nhau, thuyết pháp tốt lành như nhau. Cho đến
vị Phật cuối cùng, mới nói cặn kẽ sự
tương đồng giữa hiện tại và
tương lai. Nhật Nguyệt Đăng Minh đă gọi
là danh, mà cũng gọi là tự, hoặc cũng gọi là
hiệu. V́ thế, biết ba thứ
“danh, tự, hiệu” chỉ là giả lập, vốn
chẳng có thân, sơ, chẳng giống như người
hiện thời hư vọng sanh phân biệt, có chuyện
kiêng tên húy và chẳng kiêng tên húy.
Phả La Đọa
(Bharadvaja) là họ,
được dịch nghĩa là Tiệp Tật (捷疾, nhanh chóng),
cũng dịch là Lợi Căn, c̣n dịch là Măn Ngữ,
thuộc chủng tánh Bà La Môn. Giải thích theo quán tâm th́ Thập
Thiện mỗi điều đều có bách giới thiên
như, hợp thành một vạn. Tự hành và hóa độ
người khác đều trọn đủ, nên thành hai vạn.
1.2.1.1.5.1.3.3. Dẫn chứng vị
Phật cuối cùng cũng giống như vậy
Phần này lại
chia làm ba: Một là chuyện đă từng trông thấy giống
như chuyện đă xảy ra trong hiện tại,
hai là chuyện đă từng trông thấy giống với
chuyện đang xảy ra trong hiện tại, ba là chuyện
đă từng trông thấy giống với chuyện sẽ
xảy ra trong hiện tại.
1.2.1.1.5.1.3.3.1. Chuyện đă từng
trông thấy giống như chuyện đă xảy ra trong hiện
tại
(Kinh) Kỳ tối
hậu Phật vị xuất gia thời, hữu bát
vương tử, nhất danh Hữu Ư, nhị danh Thiện
Ư, tam danh Vô Lượng Ư, tứ danh Bảo Ư, ngũ danh
Tăng Ư, lục danh Trừ Nghi Ư, thất danh Hưởng
Ư, bát danh Pháp Ư. Thị bát vương tử oai đức tự
tại, các lănh tứ thiên hạ. Thị chư vương
tử, văn phụ xuất gia, đắc A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề,
tất xả vương vị, diệc tùy xuất gia,
phát Đại Thừa ư, thường tu phạm hạnh,
giai vi pháp sư. Dĩ ư thiên vạn Phật sở, thực
chư thiện bổn.
(經)其最後佛未出家時。有八王子。一名有意。二名善意。三名無量意。四名寶意。五名增意。六名除疑意。七名響意。八名法意。是八王子。威德自在。各領四天下。是諸王子。聞父出家得阿耨多羅三藐三菩提。悉捨王位。亦隨出家。發大乘意。常修梵行。皆為法師。已於千萬佛所植諸善本。
(Kinh: Vị
Phật cuối cùng lúc chưa xuất gia, có tám vương
tử: Một tên là Hữu Ư (Mati), hai tên là Thiện Ư
(Sumati), ba tên là Vô Lượng Ư (Anantamati), bốn tên là Bảo
Ư (Ratimati), năm tên là Tăng Ư (Viśeṣamati), sáu tên là Trừ
Nghi Ư (Vimatisamudghātin), bảy tên là
Hưởng Ư (Ghoṣamati), tám tên là Pháp Ư (Dharmamati). Tám
vương tử ấy oai đức tự tại, mỗi
vị đều thống lănh bốn thiên hạ. Các vị
vương tử ấy nghe tin cha xuất gia đắc Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều bỏ
ngôi vua, cũng theo cha xuất gia, phát ư Đại Thừa,
thường tu phạm hạnh, đều là pháp sư,
đă trồng các cội đức nơi ngàn vạn vị
Phật).
Vị Phật thuở
trước có tám người con, vị Phật hiện tại
chỉ có một, số lượng tuy khác, nhưng đều
xuất hiện trong cơi Đồng Cư. Do cơi nước
có Kiến Tư, đều thị hiện có con. Chuyện
có con giống nhau, nhưng một hay tám là do duyên, mỗi
bên đều có sự biểu thị riêng. Một con biểu
thị nhất đạo thanh tịnh, tám con biểu thị
Bát Chánh Đạo[3].
Lại nữa, con của vị Phật xưa kia phát ư
Đại Thừa, con của vị Phật hiện tại
(tức La Hầu La) trụ trong quả Tiểu Thừa,
sao ở đây lại nói là “giống
nhau”? Xưa kia, giáo hóa đă xong, hiển lộ chuyện
thuộc Bổn, nên nói là “phát Đại Thừa ư”.
[Con của vị Phật] trong hiện tại th́ chưa
nêu bày Tích, [cho nên] vẫn nói là La
Hán, đến kinh văn trong phần sau sẽ hiển Bổn,
[mới biết La Hầu La] chính là Bồ Tát. Đó là ư
nghĩa giống nhau. Mỗi vị [vương tử của
Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật] đều thống
lănh tứ thiên hạ[4],
tức là Kim Luân Vương. Có kẻ nói “Luân Vương
chưa chắc đă gặp Phật”, lời ấy chẳng
đúng!
1.2.1.1.5.1.3.3.2. Chuyện đă từng
thấy giống như chuyện trong hiện tại
Gồm hai phần:
Một là hiện tướng lành giống nhau, hai là nghi niệm
giống nhau.
1.2.1.1.5.1.3.3.2.1. Hiện tướng
lành giống nhau
Lại chia thành hai
tiểu đoạn: Một là giống như sáu tướng
lành trong cơi này. Hai là giống như sáu tướng lành trong
cơi khác.
1.2.1.1.5.1.3.3.2.1.1. Giống như sáu
tướng lành trong cơi này
(Kinh) Thị thời, Nhật Nguyệt
Đăng Minh Phật thuyết Đại Thừa kinh,
danh Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở
Hộ Niệm. Thuyết thị kinh dĩ, tức ư
đại chúng trung, kết gia phu tọa, nhập ư Vô
Lượng Nghĩa Xứ tam-muội, thân tâm bất động.
Thị thời, thiên vũ mạn-đà-la
hoa, ma-ha-mạn-đà-la hoa, mạn-thù-sa hoa, ma-ha-mạn-thù-sa
hoa, nhi tán Phật thượng, cập chư đại
chúng. Phổ Phật thế giới, lục chủng chấn
động. Nhĩ thời, hội trung tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu bà-di, thiên, long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A
Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân, cập
chư tiểu vương, Chuyển Luân Thánh Vương
đẳng. Thị chư đại chúng, đắc vị
tằng hữu, hoan hỷ hiệp chưởng, nhất
tâm quán Phật. Nhĩ thời, Như Lai phóng mi gian bạch
hào tướng quang, chiếu Đông phương vạn
bát thiên độ, mỵ bất châu biến.
(經)是時日月燈明佛。說大乘經。名無量義。教菩薩法。佛所護念。說是經已。卽於大眾中結加趺坐。入於無量義處三昧。身心不動。是時天雨曼陀羅華。摩訶曼陀羅華。曼殊沙華。摩訶曼殊沙華。而散佛上。及諸大眾。普佛世界。六種震動。爾時會中比丘比丘尼優婆塞優婆夷。天龍夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽。人。非人。及諸小王。轉輪聖王等。是諸大眾。得未曾有。歡喜合掌。一心觀佛。爾時如來。放眉間白毫相光。照東方萬八千土。靡不周徧。
(Kinh: Lúc
đó, Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật nói kinh Đại
Thừa tên là Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật
Sở Hộ Niệm. Nói kinh ấy xong, liền ở giữa
đại chúng, ngồi xếp bằng, nhập Vô Lượng
Nghĩa Xứ tam-muội, thân tâm bất động. Lúc ấy,
trời mưa hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha-mạn-đà-la,
hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha-mạn-thù-sa để rải lên Phật
và các đại chúng. Khắp thế giới Phật, sáu thứ
chấn động. Lúc bấy giờ, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu bà-di, trời, rồng, Dạ Xoa, Càn
Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi
nhân, và các tiểu vương, Chuyển Luân Thánh
Vương v.v… trong hội, các đại chúng ấy đều đạt
được điều chưa từng có, hoan hỷ chắp
tay, nhất tâm quán Phật. Lúc bấy giờ, Như Lai
phóng quang từ tướng bạch hào giữa hai mày, chiếu sáng một vạn tám ngàn cơi ở
phương Đông, không đâu chẳng trọn khắp).
1.2.1.1.5.1.3.3.2.1.2. Giống như sáu
tướng lành trong cơi kia
(Kinh) Như kim
sở kiến thị chư Phật độ.
(經)如今所見是諸佛土。
(Kinh: Như
các cơi Phật trông thấy trong ngày nay).
Chỉ nói “như
kim sở kiến” (như thấy trong hiện thời),
văn giản lược nhưng ư nghĩa trọn vẹn.
Phần thứ nhất, “hiện điều
lành giống nhau” đă xong.
1.2.1.1.5.1.3.3.2.2. Nghi niệm giống
nhau
(Kinh) Di Lặc
đương tri: Nhĩ thời, hội trung hữu nhị
thập ức Bồ Tát nhạo dục thính pháp. Thị
chư Bồ Tát, kiến thử quang minh phổ chiếu Phật
độ, đắc vị tằng hữu, dục tri thử
quang sở vị nhân duyên.
(經)彌勒當知。爾時會中。有二十億菩薩。樂欲聽法。是諸菩薩。見此光明普照佛土。得未曾有。欲知此光所為因緣。
(Kinh: Di Lặc
hăy nên biết: Trong hội thuở đó, có hai mươi ức
Bồ Tát vui thích, muốn nghe pháp. Các vị Bồ Tát đó trông thấy quang minh ấy chiếu
trọn khắp cơi Phật, đạt được
điều chưa từng có, muốn biết quang minh ấy
do v́ nhân duyên nào).
Đă nói “muốn
biết quang minh do nhân duyên nào” th́ theo đúng lư, phải có
hai phần Tự nêu câu hỏi và trả
lời câu hỏi, nhưng chẳng rườm
lời. Phần thứ hai, “chuyện đă từng
thấy giống như hiện thời” đă xong.
1.2.1.1.5.1.3.3.3. Chuyện
đă từng thấy sẽ giống như trong hiện tại
Gồm năm phần:
Một là do bậc đương cơ mà thuyết pháp giống
nhau, hai là thời tiết giống nhau, ba là xướng “nhập
diệt” giống nhau, bốn là thọ kư giống nhau,
năm là sau khi Phật diệt độ, kinh lưu thông giống
nhau.
1.2.1.1.5.1.3.3.3.1. Do bậc
đương cơ mà thuyết pháp giống nhau
(Kinh) Thời hữu
Bồ Tát, danh viết Diệu Quang, hữu bát bách đệ
tử. Thị thời, Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật
tùng tam-muội khởi. Nhân Diệu Quang Bồ Tát, thuyết
Đại Thừa kinh, danh Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát
Pháp Phật Sở Hộ Niệm.
(經)時有菩薩。名曰妙光。有八百弟子。是時日月燈明佛。從三昧起。因妙光菩薩。說大乘經。名妙法蓮華。教菩薩法。佛所護念。
(Kinh: Khi
đó, có Bồ Tát tên là Diệu Quang, có tám trăm
đệ tử. Lúc ấy, Nhật Nguyệt Đăng
Minh Phật từ tam-muội xuất, v́ Diệu Quang Bồ
Tát nói kinh Đại Thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ
Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm).
Vị Phật
xưa kia khởi Định, v́ Diệu Quang Bồ Tát (Varaprabha)[5]
nói kinh. Vị Phật hiện tại khởi Định,
v́ Xá Lợi Phất nói kinh. Xá Lợi Phất là thầy của
La Hầu La. Diệu Quang xưa kia là thầy của tám
vương tử, cho nên nói là “giống nhau”. Lại nữa,
Xá Lợi Phất đă được thọ kư, thật sự
là Bồ Tát. Xưa kia, lúc Diệu Quang nghe Pháp, việc ǵ phải thị hiện làm Thanh Văn?
1.2.1.1.5.1.3.3.3.2. Thời tiết giống
nhau
(Kinh) Lục thập tiểu kiếp, bất
khởi vu ṭa, thời hội thính giả, diệc tọa
nhất xứ, lục thập tiểu kiếp, thân tâm bất
động, thính Phật sở thuyết, vị như thực
khoảnh. Thị thời chúng trung, vô hữu nhất nhân,
nhược thân, nhược tâm, nhi sanh giải quyện.
(經)六十小劫。不起于座。時會聽者。亦坐一處。六十小劫。身心不動。聽佛所說。謂如食頃。是時眾中。無有一人。若身若心。而生懈倦。
(Kinh: Sáu
mươi tiểu kiếp, chẳng đứng dậy khỏi
chỗ ngồi. Người nghe trong hội khi đó,
cũng ngồi một chỗ suốt sáu
mươi tiểu kiếp, thân tâm bất động, nghe lời Phật
dạy, cho là như trong khoảng bữa ăn. Trong đại
chúng khi đó, chẳng có một ai dù thân hay tâm sanh lười
nhác, mệt mỏi).
Điều này giống
như kinh văn trong phần sau nói “năm mươi tiểu
kiếp coi như nửa ngày”, do Phật lực gia tŕ,
cho nên quên dài, thấy là ngắn. Trong phần sau, sẽ giải
thích cặn kẽ.
1.2.1.1.5.1.3.3.3.3. Xướng nhập
diệt giống nhau
(Kinh) Nhật
Nguyệt Đăng Minh Phật ư lục thập tiểu
kiếp, thuyết thị
kinh dĩ, tức ư Phạm, ma, sa-môn, Bà-la-môn, thiên, nhân A
Tu La chúng trung, nhi tuyên thử ngôn: “Như Lai ư kim nhật
trung dạ, đương nhập Vô Dư Niết Bàn”.
(經)日月燈明佛。於六十小劫說是經已。卽於梵魔沙門婆羅門天人阿修羅眾中而宣此言。如來於今日中夜。當入無餘涅槃。
(Kinh: Nhật
Nguyệt Đăng Minh Phật trong sáu mươi tiểu
kiếp, nói kinh ấy xong, liền ở trong đại
chúng Phạm, ma, sa-môn, Bà-la-môn, trời, người, A Tu La,
tuyên bố lời này: “Vào nửa đêm hôm nay, Như Lai sẽ
nhập Vô Dư Niết Bàn”).
Xưa kia nói Pháp Hoa
liền xướng “nhập diệt”. Trong phẩm Hiện Bảo
Tháp [của kinh Pháp Hoa], đức Phật hiện thời
cũng nói “Như Lai không
lâu sau sẽ nhập Niết Bàn”. Giáo hóa đă
xong, xướng “nhập diệt” giống như
nhau. Phạm là chúa của Sắc Giới,
Ma (Māras) là chúa
của Dục Giới (tức Tha Hóa Tự Tại thiên chúa).
Sa-môn (śramaṇa) được
phương này dịch là Cần Tức (勤息, siêng năng
dứt diệt [phiền năo]). Người xuất gia đều
được gọi bằng danh xưng này. Bà-la-môn được
phương này dịch là Tịnh Duệ (淨裔, hậu
duệ thanh tịnh [của Phạm Thiên]), c̣n dịch là Phạm
Chí (梵志, dốc
chí sống cuộc đời thanh tịnh), tức là chủng
tánh tôn quư trong hàng tại gia. Nói “thiên, nhân, A Tu La” nhằm
nêu đại lược ba loại thiện đạo,
đều là [liệt kê] theo phương diện thù thắng
do họ dễ nhập Phật pháp vậy.
1.2.1.1.5.1.3.3.3.4. Thọ kư giống
nhau
(Kinh) Thời hữu
Bồ Tát, danh viết Đức Tạng. Nhật Nguyệt
Đăng Minh Phật tức thọ kỳ kư, cáo chư tỳ-kheo:
“Thị Đức Tạng Bồ Tát, thứ
đương tác Phật, hiệu viết Tịnh Thân
Đa Đà A Già Độ, A La Ha, Tam Miệu Tam Phật
Đà.
(經)時有菩薩。名曰德藏。日月燈明佛卽授其記。告諸比丘。是德藏菩薩。次當作佛。號曰淨身多陀阿伽度阿羅訶三藐三佛陀。
(Kinh: Khi ấy
có Bồ Tát tên là Đức Tạng[6]. Nhật Nguyệt
Đăng Minh Phật liền thọ kư cho vị ấy, bảo
các tỳ-kheo: “Ông Đức Tạng Bồ Tát (Śrīgarbha) này kế tiếp
sẽ làm Phật, hiệu là Tịnh Thân (Vimalāṅganetra) Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri”).
Thọ kư cho Thanh
Văn là phần Chánh Tông của kinh này, chẳng nên tiết
lộ sẵn. Nay nói thọ kư cho bậc Bổ Xứ tức
là giống như Phật Thích Ca thọ kư Di Lặc vậy.
Hỏi: Trong Pháp Hoa
chưa hề thọ kư cho ngài Di Lặc, há có nên dẫn chứng
là giống nhau?
Đáp: Chỉ xét
theo một đời giáo hóa của đôi bên giống nhau,
nghĩa ấy là đủ rồi, cần ǵ cứ phải
câu nệ cưỡng ép tương xứng từng chi tiết
nhỏ nhặt! Huống hồ Phạn bản của kinh
Pháp Hoa chất đống dài đến tám dặm, không thể
nào truyền trọn hết sang Trung Hoa được? Ai
biết là trong bản tiếng Phạn chẳng có phần
kinh văn thọ kư cho bậc Bổ Xứ hay không? Trong phần
Thọ Kư, nêu đại lược ba đức, dù ba hay
mười, đều là
b́nh đẳng!
1.2.1.1.5.1.3.3.3.5. Sau khi Phật diệt
độ, lưu thông kinh giống nhau
Gồm ba đoạn:
Một, nói về sự nhập diệt, hai là nói đến
lợi ích do lưu thông kinh sau khi Phật nhập diệt,
ba là tổng kết, dung hội xưa nay.
1.2.1.1.5.1.3.3.3.5.1. Nói đến sự
nhập diệt
(Kinh) Phật
thọ kư dĩ, tiện ư trung dạ, nhập Vô Dư Niết
Bàn.
(經)佛授記已。便於中夜入無餘涅槃。
(Kinh: Đức
Phật thọ kư xong, liền vào nửa đêm, nhập Vô Dư Niết Bàn).
Thọ kư rồi liền
nhập Niết Bàn: Tuy cùng xuất hiện trong cơi Đồng
Cư, nhưng Ngũ Trược chưa quá đáng; v́ thế,
chẳng cần nói thêm kinh Đại Niết Bàn. Như
đức Phật Ca Diếp trong cơi này cũng nói kinh Pháp
Hoa xong, bèn nhập Niết Bàn. Nhưng Vô Dư Niết Bàn
nghĩa thông với Đại Thừa và Tiểu Thừa,
cần phải giảng rơ đôi chút. Có người nói: “Tiểu
Thừa do c̣n bị trói buộc nơi quả th́ gọi là
Hữu Dư, thân lẫn trí đều như tro th́ gọi
là Vô Dư. Đại Thừa do đă thấu hiểu cùng
tận ngũ trụ, cho nên gọi là Vô Dư”. Đấy cũng là một cách
giải thích. Luận chung về Niết Bàn, có ba loại:
- Một là tánh tịnh
Niết Bàn: Thánh phàm b́nh đẳng, tức Pháp Thân đức.
- Hai là viên tịnh
Niết Bàn, ra khỏi chướng, viên minh, tức Bát Nhă
đức.
- Ba là phương
tiện tịnh Niết Bàn: V́ chúng sanh, chẳng phải
sanh mà thị hiện có sanh, chẳng phải diệt mà thị
hiện có diệt, tức Giải Thoát đức.
Duy Thức lại
nói có bốn thứ Niết Bàn:
- Một là Tự
Tánh Thanh Tịnh Niết Bàn: Phật và chúng sanh b́nh đẳng
cùng có, chẳng do tu mà đạt được.
- Hai là Hữu
Dư Y Niết Bàn, tức là Chân Như thoát khỏi Phiền
Năo Chướng, dư y[7]
chưa diệt. Tam thừa khi mới chứng Vô Học
đạo, sẽ đạt được [loại Niết Bàn
này].
- Ba là Vô Dư Y Niết
Bàn, tức là phiền năo đă hết, khổ y cũng diệt. Đó là sở chứng của bậc Vô Học trong tam thừa
khi thân và trí đều tận.
- Bốn là Vô Trụ
Xứ Niết Bàn, tức là Chân Như vượt ngoài Sở Tri
Chướng, đại bi Bát Nhă thường giúp đỡ,
chẳng trụ trong sanh tử, chẳng trụ trong Niết
Bàn, cho đến tột cùng đời vị lai, tịch
mà thường chiếu, lợi ích chúng sanh.
Nay đem bốn
[loại Niết Bàn trong Duy Thức] đối chiếu với
ba [loại Niết Bàn trước đó] để có thể
hiểu ư nghĩa. Tự tánh thanh tịnh chính là tánh tịnh.
Hữu Dư, Vô Dư, thoát khỏi Phiền Năo Chướng
th́ chính là vô trụ. Thoát khỏi Sở Tri Chướng th́
là viên tịnh. Từ Thể khởi Dụng, nhiều
lượt xướng sanh, xướng diệt, nhưng
thật sự chẳng sanh, chẳng diệt, tức
là phương tiện tịnh. Duy Thức lại nói: “Hết
thảy chúng sanh chỉ có loại đầu tiên (tự
tánh thanh tịnh Niết Bàn), hàng Nhị Thừa vô học
có ba loại đầu (tự tánh thanh tịnh, hữu
dư, vô dư Niết Bàn), chỉ có đức Thế Tôn là có thể nói trọn
đủ cả bốn”. Bởi lẽ, tánh tịnh
Pháp Thân chúng sanh đều cùng có. V́ thế, đều có loại
thứ nhất. Khi hàng Nhị Thừa chứng Vô Học, th́
là Hữu Dư Y, chẳng gọi là Vô Dư. Cho tới khi
nhập diệt th́ mới gọi là Vô Dư, chẳng gọi
là Hữu Dư. Đấy chính là “trước sau chẳng
cùng lúc”, cho nên nói là “có
cả ba thứ đầu tiên”. Như Lai ngồi dưới
cội Bồ Đề, thành Đẳng Chánh Giác, tất cả
thân tâm chẳng c̣n hữu lậu. Khổ y[8]
vĩnh viễn hết sạch, th́ gọi là Vô Dư Y. Khổ
y chẳng tồn tại, tức là Ngũ Uẩn chân
thường th́ gọi là Hữu Dư Y. Chẳng trụ
vào hai bên, th́ gọi là Vô Trụ Xứ. Đấy chính là ư
nghĩa “bốn loại Niết Bàn đồng thời
trọn đủ”. V́ thế, có thể nói là “trọn
đủ cả bốn loại”. Do vậy bảo
là “thoạt đầu, thành Chánh Giác,
đă nhập trọn vẹn bốn loại Niết Bàn”. Nay nói “nửa
đêm nhập Tịch Diệt”, tức là v́ hàng độn
căn trong cơi Đồng Cư mà thị hiện diệt
độ giống như Nhị Thừa. Đấy chính là diệu
dụng của phương tiện thanh tịnh, chẳng phải là
thật sự diệt bèn nói là diệt, diệt có bao giờ
diệt ư?
1.2.1.1.5.1.3.3.3.5.2. Nói về lợi
ích do lưu thông kinh sau khi Phật diệt độ
(Kinh)
Phật diệt độ hậu, Diệu Quang Bồ Tát
tŕ Diệu Pháp Liên Hoa kinh măn bát thập tiểu kiếp, vị
nhân diễn thuyết. Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật
bát tử giai sư Diệu Quang. Diệu Quang giáo hóa, linh kỳ
kiên cố A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Thị chư vương tử cúng dường vô lượng
bách thiên vạn ức Phật dĩ, giai thành Phật đạo.
Kỳ tối hậu thành Phật giả, danh viết Nhiên
Đăng. Bát bách đệ tử trung, hữu nhất
nhân, hiệu Cầu Danh, tham trước lợi dưỡng.
Tuy phục độc tụng chúng kinh, nhi bất thông lợi,
đa sở vong thất, cố hiệu Cầu Danh. Thị
nhân diệc dĩ chủng chư thiện căn nhân duyên cố,
đắc trị vô lượng bách thiên vạn ức
chư Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán
thán.
(經)佛滅度後。妙光菩薩。持妙法蓮華經。滿八十小劫。為人演說。日月燈明佛八子。皆師妙光。妙光教化。令其堅固阿耨多羅三藐三菩提。是諸王子。供養無量百千萬億佛已。皆成佛道。其最後成佛者。名曰然燈。八百弟子。中有一人。號曰求名。貪著利養。雖復讀誦眾經。而不通利。多所忘失。故號求名。是人亦以種諸善根因緣故。得值無量百千萬億諸佛。供養恭敬尊重讚歎。
(Kinh: Sau khi
đức Phật diệt độ, Diệu Quang Bồ
Tát tŕ kinh Diệu Pháp Liên Hoa trọn tám mươi tiểu
kiếp, v́ người khác diễn nói. Tám người con của
Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật đều tôn ngài
Diệu Quang làm thầy. Diệu Quang giáo hóa, khiến cho họ
kiên cố nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Các vị vương tử ấy đă cúng dường vô
lượng trăm ngàn vạn ức Phật rồi, đều
thành Phật đạo. Vị thành Phật cuối cùng tên
là Nhiên Đăng[9]. Trong tám trăm
đệ tử, có một người tên là Cầu Danh (Yaśaskāma). Do tham đắm
lợi dưỡng, dẫu đọc tụng các kinh, nhưng
chẳng thông suốt, phần nhiều quên mất, nên
được gọi là Cầu Danh. Người ấy
cũng do nhân duyên đă gieo các thiện căn mà được
gặp vô lượng trăm ngàn vạn ức chư Phật,
cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán).
“Diệt hậu”
(sau khi đức Phật diệt độ) nói rơ lúc
lưu thông kinh. Diệu Quang là người lưu thông kinh. “Tám
mươi tiểu kiếp” là nói rơ thời gian lưu
thông kinh bao lâu. Tám người con và Cầu Danh là nói đến
lợi ích do lưu thông kinh. “Kiên cố”: Đă thành tựu
trước đó từ lâu rồi. Cầu Danh là vị kế
tiếp được Bổ Xứ làm Phật, cùng hiển
lộ nhân duyên trong Phật đạo “hoàn toàn cậy vào thầy
và bạn”, mà cũng hoàn toàn do tu chứng, hai đằng chẳng
hư dối vậy!
1.2.1.1.5.1.3.3.3.5.3. Tổng kết,
dung hội xưa nay
(Kinh) Di Lặc
đương tri: Nhĩ thời, Diệu Quang Bồ Tát, khởi dị
nhân hồ? Ngă thân thị dă. Cầu Danh Bồ Tát, nhữ thân thị dă.
(經)彌勒當知。爾時妙光菩薩。豈異人乎。我身是也。求名菩薩汝身是也。
(Kinh: Di Lặc
hăy nên biết: Diệu Quang Bồ Tát khi đó, há phải ai
khác? Chính là thân ta. Cầu Danh Bồ Tát chính là thân ông).
Nói rơ lợi ích do
lưu thông kinh, hướng dẫn tám vương tử và
tám trăm đệ tử, cho đến kết lại,
dung hội xưa nay. Gần là giải trừ điều
nghi, nhằm ngầm mở ra thọ lượng. Hoặc
là có kẻ nghi ngờ: “Ngài Di Lặc là bậc Bổ Xứ,
không nên hỏi, ngài Văn Thù chẳng phải là Bổ Xứ,
không nên đáp!” Nay nói rơ Di Lặc thuộc trong số tám
trăm [đệ tử của Diệu Quang Bồ Tát], phải
nên thưa hỏi. Văn Thù trước kia đă làm thầy,
hoằng dương và lưu truyền diệu pháp, cho
nên Ngài giải trừ mối nghi chẳng sai lầm! Lại
nữa, người nhỏ nhất trong tám vương tử đă thành Nhiên Đăng Phật; Nhiên Đăng thọ
kư cho Phật Thích Ca. Nay Văn Thù vốn là sư tổ, lại
làm đệ tử Phật Thích Ca. Thầy tṛ không nhất
định, nhằm ngầm hiển thị “sanh mà chẳng
sanh, diệt mà chẳng diệt”.
Hỏi: Xưa kia,
Di Lặc đă từng thấy chư Phật, từng nghe
Pháp Hoa, cớ sao nghi ngờ thưa hỏi?
Đáp: Do cơ nghi
của đại chúng trong thuở đó cần phải
được kích phát.
Phần thứ ba, “rộng nêu những
chuyện từng thấy để giải đáp” đă xong.
1.2.1.1.5.1.4. Phán định phân minh
để giải đáp
(Kinh) Kim kiến
thử thụy, dữ bổn vô dị, thị cố duy thổn,
kim nhật Như Lai đương thuyết Đại Thừa
kinh, danh Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở
Hộ Niệm.
(經)今見此瑞。與本無異。是故惟忖。今日如來當說大乘經。名妙法蓮華。教菩薩法。佛所護念。
(Kinh: Nay thấy
tướng lành này, chẳng khác thuở đó. V́ thế,
tôi xét nghĩ, ngày nay Như Lai sẽ nói kinh Đại Thừa
tên là Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ
Niệm).
Sáu tướng lành
xưa và nay đă giống nhau, xét nghĩ quyết định
chẳng sai: Đức Phật sẽ
nói Đại Thừa, chắc chắn đó là tướng
lành trước khi thuyết pháp. [Do bản kinh] có tên là Diệu
Pháp Liên Hoa, chắc chắn trước đó có tướng
lành mưa hoa. Pháp để dạy Bồ Tát, chắc chắn
là trước đó có tướng lành đại chúng hoan
hỷ. Do [kinh ấy] được Phật hộ niệm,
chắc chắn là trước đó có tướng lành cơi
đất chấn động. V́ cách giải đáp là
trước hết nêu ra dấu hiệu tương ứng,
sau đó mới khẳng định. Do vậy, nay phán
định rơ ràng để đại chúng nhất loạt
hiểu rơ, chẳng ngờ. Huống chi đại thánh
Văn Thù đă suy nghĩ trước rồi mới đoan
quyết ư? Phần Trường Hàng trong lời đáp
đă xong.
1.2.1.1.5.2. Kệ tụng
Gồm hai phần:
Một là phần kệ tụng nêu cặn kẽ các chuyện
đă từng thấy để giải đáp, hai là phần
kệ tụng về lời giải đáp do phán định
phân minh.
1.2.1.1.5.2.1. Kệ tụng nêu cặn
kẽ các chuyện đă từng thấy để giải
đáp
Chia thành hai phần:
Một là kệ tụng về một đức Phật
[và đức Phật hiện tại hiện tướng
lành] giống nhau, hai là kệ tụng về vị Phật
cuối cùng [và đức Phật hiện tại hiện
tướng lành] giống nhau, chẳng trùng tụng phần
“suy xét và nêu bày đại lược”, chỉ trùng tụng
phần nêu bày cặn kẽ. Nhưng trong phần [trùng tụng]
về sự nêu bày cặn kẽ, chỉ trùng tụng vị
Phật đầu tiên và cuối cùng, tỉnh lược
các vị Phật trung gian là đă đủ hiển lộ
ư nghĩa rồi, chẳng cần phải rườm lời!
1.2.1.1.5.2.1.1. Kệ tụng về một
đức Phật giống nhau
(Kinh) Nhĩ thời,
Văn Thù Sư Lợi ư đại chúng trung, dục
trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Ngă niệm
quá khứ thế, vô lượng vô số kiếp. Hữu
Phật nhân trung tôn, hiệu Nhật Nguyệt Đăng
Minh. Thế Tôn diễn thuyết pháp. Độ vô lượng
chúng sanh. Vô số ức Bồ Tát, linh nhập Phật trí
huệ.
(經)爾時文殊師利。於大眾中。欲重宣此義而說偈言。我念過去世。無量無數劫。有佛人中尊。號日月燈明。世尊演說法。度無量眾生。無數億菩薩。令入佛智慧。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Văn Thù Sư Lợi ở trong đại chúng,
muốn trùng tuyên lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: -
Tôi nhớ đời quá khứ, vô lượng vô số kiếp,
có Phật nhân trung tôn[10], hiệu Nhật
Nguyệt Đăng Minh. Thế Tôn diễn nói pháp, độ
vô lượng chúng sanh, vô số ức Bồ Tát, khiến
nhập trí huệ Phật).
Bài kệ tụng
này nói về thời tiết, nhân duyên, danh hiệu, và thuyết
pháp v.v…
1.2.1.1.5.2.1.2. Kệ tụng về vị
Phật cuối cùng giống nhau
Chia thành ba phần:
Một là kệ tụng về chuyện đă thấy giống
hệt như chuyện đă xảy ra trong hiện tại,
hai là kệ tụng về chuyện đă từng thấy
giống như chuyện đang xảy ra trong hiện tại,
ba là kệ tụng về chuyện đă thấy giống
như chuyện sẽ xảy ra trong hiện tại.
1.2.1.1.5.2.1.2.1. Kệ tụng về
chuyện đă thấy giống như chuyện đă xảy
ra trong hiện tại
(Kinh) Phật vị
xuất gia thời, sở sanh bát vương tử, kiến
đại thánh xuất gia, diệc tùy tu phạm hạnh.
(經)佛未出家時。所生八王子。見大聖出家。亦隨修梵行。
(Kinh: Lúc Phật
chưa xuất gia, sanh ra tám vương tử, thấy
đại thánh xuất gia, cũng theo tu phạm hạnh).
1.2.1.1.5.2.1.2.2. Kệ tụng về
chuyện đă từng thấy giống như chuyện
đang xảy ra trong hiện tại
Chia thành hai phần: Một là kệ
tụng hiện điềm lành giống nhau, hai là kệ tụng
về nghi niệm giống nhau.
1.2.1.1.5.2.1.2.2.1. Kệ tụng điềm
lành giống nhau
Lại chia thành
hai phần: Một là kệ tụng sáu điều lành trong
cơi này giống nhau, hai là kệ tụng sáu điều lành
trong cơi khác giống nhau.
1.2.1.1.5.2.1.2.2.1.1. Kệ tụng sáu
điều lành trong cơi này giống nhau
(Kinh) Thời
Phật thuyết Đại Thừa, kinh danh Vô Lượng
Nghĩa. Ư chư đại chúng trung, nhi vị quảng
phân biệt. Phật thuyết thử kinh dĩ, tức
ư pháp ṭa thượng. Gia phu tọa tam-muội, danh Vô
Lượng Nghĩa Xứ. Thiên vũ mạn-đà hoa.
Thiên cổ tự nhiên minh. Chư thiên, long, quỷ thần,
cúng dường Nhân Trung Tôn. Nhất thiết chư Phật
độ, tức thời đại chấn động.
Phật phóng mi gian quang, hiện chư hy hữu sự.
(經)時佛說大乘。經名無量義。於諸大眾中。而為廣分別。佛說此經已。卽於法座上。加趺坐三昧。名無量義處。天雨曼陀華。天鼓自然鳴。諸天龍鬼神。供養人中尊。一切諸佛土。卽時大震動。佛放眉間光。現諸希有事。
(Kinh: Phật
nói kinh Đại Thừa, tên là Vô Lượng Nghĩa. Ở
trong các đại chúng, v́ họ rộng phân biệt. Phật
nói kinh ấy xong, liền ngay trên pháp ṭa, xếp bằng, nhập tam-muội,
tên Vô Lượng Nghĩa Xứ. Trời mưa hoa mạn-đà,
trống trời tự nhiên vang. Chư thiên, rồng, quỷ
thần, cúng dường Nhân Trung Tôn. Hết thảy các cơi
Phật, lập tức chấn động lớn. Phật
phóng quang giữa mày, hiện các chuyện hy hữu).
Trong bài kệ tụng,
nêu ra chuyện trống trời tự vang tiếng, biểu
thị chuyện Vô Vấn Tự Thuyết (không ai hỏi
mà tự nói) trong phẩm Phương Tiện. “Hiện
các chuyện hy hữu” tức là trùng tụng chung các
điều lành.
1.2.1.1.5.2.1.2.2.1.2. Kệ tụng sáu
điều lành trong cơi khác giống nhau
Phần kinh
văn Trường Hàng chỉ nói đại lược “như
kim sở kiến thị chư Phật độ”
(như các cơi Phật được trông thấy trong hiện
thời), phần kệ tụng này nói chi tiết. Dẫu lời
văn tung hoành biến hóa, nói chung chẳng ra ngoài ư nghĩa
sáu tướng lành.
(Kinh) Thử quang
chiếu Đông phương. Vạn bát thiên Phật độ,
thị nhất thiết chúng sanh, sanh tử nghiệp báo xứ.
Hữu kiến chư Phật độ, dĩ chúng bảo
trang nghiêm, lưu ly, pha ly sắc, tư do Phật quang chiếu.
(經)此光照東方。萬八千佛土。示一切眾生。生死業報處。有見諸佛土。以眾寶莊巖。琉璃玻璃色。斯由佛光照。
(Kinh: Quang ấy
chiếu phương Đông, vạn tám ngàn cơi Phật, hiện
hết thảy chúng sanh, chỗ sanh tử nghiệp báo. Thấy
có các cơi Phật, dùng các báu trang nghiêm, lưu ly, màu pha lê,
đều do Phật quang soi).
Đây là trùng tụng
chuyện thấy tướng lành trong sáu đường
nơi cơi ấy, lại c̣n hiển lộ kèm thêm các cơi tịnh
uế bất đồng.
(Kinh) Cập kiến
chư thiên, nhân, long, thần, Dạ Xoa chúng, Càn Thát, Khẩn
Na La, các cúng dường kỳ Phật.
(經)及見諸天人。龍神夜叉眾。乾闥緊那羅。各供養其佛。
(Kinh: Và thấy
các trời, người, rồng, thần, chúng Dạ Xoa,
Càn Thát, Khẩn Na La, đều cúng dường Phật ấy).
Bài tụng này hiển
thị trong sáu đường có căn cơ thuộc về
Phật giới.
(Kinh) Hựu kiến
chư Như Lai, tự nhiên thành Phật đạo. Thân sắc
như kim sơn, đoan nghiêm thậm vi diệu. Như tịnh
lưu ly trung. Nội hiện chân kim tượng, Thế
Tôn tại đại chúng, phu diễn thâm pháp nghĩa.
(經)又見諸如來。自然成佛道。身色如金山。端嚴甚微妙。如淨琉璃中。內現真金像。世尊在大眾。敷演深法義。
(Kinh: Lại
thấy các Như Lai, tự nhiên thành Phật đạo.
Thân sắc như núi vàng, đoan nghiêm rất vi diệu.
Như nơi lưu ly sạch, hiện h́nh tượng vàng
ṛng, Thế Tôn giữa đại chúng, phô diễn pháp
nghĩa sâu).
Đây là trùng tụng
về điều lành thấy đức Phật ấy và
nghe Ngài thuyết pháp. “Tự nhiên thành Phật đạo”:
Phương tiện đạo th́ thêm dụng tâm tu tập.
Phát chân đạo tức là tùy ư tự nhiên hợp với
Lư. Tạng Phật (Phật trong Tạng Giáo) hễ ngồi
xuống th́ tùy ư [vận dụng] ba mươi bốn tâm,
Phật trong Thông Giáo th́ một niệm tương ứng,
chẳng cần phải vận dụng công sức. Diệu
Giác trong Biệt Giáo và Viên Giáo vốn đạt được
tương ứng, tự nhiên thành Phật đạo;
đó là Báo Thân. “Lưu ly” là Pháp Thân vốn thanh tịnh.
“Tượng vàng” là ứng theo [tâm nguyện của] chúng sanh mà hiện
h́nh. “Thâm pháp nghĩa” (pháp nghĩa sâu) chính là Đốn
Giáo Đại Thừa.
(Kinh) Nhất
nhất chư Phật độ, Thanh Văn chúng vô số.
Nhân Phật quang sở chiếu, tất kiến bỉ
đại chúng. Hoặc hữu chư tỳ-kheo, tại
ư sơn lâm trung, tinh tấn tŕ tịnh giới, do
như hộ minh châu.
(經)一一諸佛土。聲聞眾無數。因佛光所照。悉見彼大眾。或有諸比丘。在於山林中。精進持淨戒。猶如護明珠。
(Kinh: Trong mỗi
một cơi Phật, hàng Thanh Văn vô số, do Phật quang
chiếu đến, đều thấy đại chúng
đó. Hoặc có các tỳ-kheo, ở trong chốn núi rừng,
tinh tấn giữ tịnh giới, như bảo vệ
minh châu).
Đây là trùng tụng
tướng lành đắc đạo của tứ chúng
trong cơi kia. Nêu ra Thanh Văn để nói gộp chung tam thừa
trong Tạng Giáo. Nêu ra tỳ-kheo để gộp chung tứ
chúng. Hoặc hiểu bài kệ thứ hai nhằm nói về
Lục Độ trong phần sau th́ cũng được!
(Kinh) Hựu kiến
chư Bồ Tát, hành Thí, Nhẫn Nhục đẳng, kỳ
số như Hằng sa, tư do Phật quang chiếu. Hựu
kiến chư Bồ Tát, thâm nhập chư Thiền Định,
thân tâm tịch bất động, dĩ cầu vô thượng
đạo. Hựu kiến chư Bồ Tát, tri pháp tịch
diệt tướng, các ư kỳ quốc độ, thuyết
pháp cầu Phật đạo.
(經)又見諸菩薩。行施忍辱等。其數如恒沙。斯由佛光照。又見諸菩薩。深入諸禪定。身心寂不動。以求無上道。又見諸菩薩。知法寂滅相。各於其國土。說法求佛道。
(Kinh: Lại
thấy các Bồ Tát, hành tŕ Thí, Nhẫn Nhục… Số
như cát sông Hằng, đều do Phật quang chiếu. Lại
thấy các Bồ Tát, thâm nhập các Thiền Định.
Thân tâm lặng bất động, để cầu vô
thượng đạo. Lại thấy các Bồ Tát, biết
pháp tướng tịch diệt, đều ở trong
nước ḿnh, thuyết pháp cầu Phật đạo).
Đây là kệ tụng
nói về tướng lành “hành Bồ Tát hạnh” trong cơi ấy. Lục
Độ đă chung khắp bốn giáo, ắt Phương
Đẳng, Bát Nhă sẽ đều tương đồng
giữa phương Đông và cơi này. Phần kệ tụng
thứ nhất về chuyện hiện tướng lành giống
nhau đă xong.
1.2.1.1.5.2.1.2.2.2. Trùng tụng về nghi niệm
giống nhau
(Kinh) Nhĩ thời,
tứ bộ chúng, kiến Nhật Nguyệt Đăng Phật,
hiện đại thần thông lực. Kỳ tâm giai hoan hỷ,
các các tự tương vấn: “Thị sự hà nhân duyên?”
(經)爾時四部眾。見日月燈佛。現大神通力。其心皆歡喜。各各自相問。是事何因緣。
(Kinh: Bấy
giờ, bốn bộ chúng, thấy Nhật Nguyệt
Đăng Phật, hiện sức đại thần
thông, tâm họ đều hoan hỷ, ai nấy đều
thắc mắc: “Chuyện này nhân duyên nào?”)
Phần thứ hai, trùng tụng về chuyện từng trông thấy giống
như chuyện đang xảy ra trong hiện thời
đă nói xong.
1.2.1.1.5.2.1.2.3. Kệ tụng về
chuyện đă từng thấy giống như chuyện sẽ
xảy ra trong hiện tại
Gồm năm phần:
Một là kệ tụng [nêu rơ] do người
đương cơ mà thuyết pháp, hai là kệ tụng về
thời tiết, bốn là kệ tụng về chuyện
tuyên bố nhập diệt, năm là kệ tụng về
chuyện lưu thông kinh sau khi Phật diệt độ.
1.2.1.1.5.2.1.2.3.1. Trùng tụng về chuyện
do người đương cơ mà thuyết pháp
(Kinh) Thiên nhân sở
phụng tôn, thích tùng tam-muội khởi, tán Diệu Quang Bồ
Tát: “Nhữ vi thế gian nhăn, nhất thiết sở quy
tín, năng phụng tŕ pháp tạng. Như ngă sở thuyết
pháp, duy nhữ năng chứng tri”. Thế Tôn kư tán thán, linh
Diệu Quang hoan hỷ, thuyết thị Pháp Hoa kinh.
(經)天人所奉尊。適從三昧起。讚妙光菩薩。汝為世間眼。一切所歸信。能奉持法藏。如我所說法。唯汝能證知。世尊旣讚歎。令妙光歡喜。說是法華經。
(Kinh: Đấng
trời người tôn phụng, vừa từ tam-muội
xuất, khen Diệu Quang Bồ Tát: “Ông là mắt thế
gian, mọi người tin, hướng về. Hay vâng giữ
pháp tạng, như pháp của ta nói, chỉ ḿnh ông chứng
biết”. Thế Tôn đă tán thán, khiến Diệu Quang hoan
hỷ, nói kinh Pháp Hoa này).
1.2.1.1.5.2.1.2.3.2. Trùng tụng về thời
tiết
(Kinh) Măn lục
thập tiểu kiếp, bất khởi ư thử ṭa, sở
thuyết thượng diệu pháp, thị Diệu Quang pháp
sư, tất giai năng thọ tŕ.
(經)滿六十小劫。不起於此座。所說上妙法。是妙光法師。悉皆能受持。
(Kinh: Trọn
sáu nươi tiểu kiếp, chẳng rời chỗ ngồi
đó, pháp sư Diệu Quang ấy, đều có thể thọ
tŕ).
Sau khi nói xong Thí Thuyết Châu trong kinh văn thuộc phần
sau, [đức Phật] liền bảo ngài Xá Lợi Phất
rằng: “Vô trí nhân trung, mạc thuyết thử kinh”
v.v… (giữa những kẻ
vô trí, đừng nói kinh này). Hăy nên biết Diệu Quang
đều có thể thọ tŕ đúng như hiện thời
Xá Lợi Phất nhận lănh lời phó chúc của
đức Phật.
1.2.1.1.5.2.1.2.3.3. Trùng tụng về chuyện tuyên bố nhập diệt
(Kinh) Phật
thuyết thị Pháp Hoa, linh chúng hoan hỷ dĩ, tầm tức
ư thị nhật, cáo ư thiên nhân chúng: “Chư pháp Thật
Tướng nghĩa, dĩ vị nhữ đẳng thuyết,
ngă kim ư trung dạ, đương nhập ư Niết
Bàn. Nhữ nhất tâm tinh tấn, đương ly ư
phóng dật, chư Phật thậm nan trị, ức kiếp
thời nhất ngộ”.
(經)佛說是法華。令眾歡喜已。尋卽於是日。告於天人眾。諸法實相義。已為汝等說。我今於中夜。當入於涅槃。汝一心精進。當離於放逸。諸佛甚難值。億劫時一遇。
(Kinh: Phật
nói kinh Pháp Hoa, khiến chúng hoan hỷ rồi, liền ngay
trong hôm ấy, bảo các trời người
rằng: “Nghĩa Thật Tướng các pháp, đă v́ các
ông nói, ta nay vào nửa đêm, sẽ nhập vào Niết Bàn.
Ông nhất tâm tinh tấn, hăy ĺa các buông lung, chư Phật
rất khó gặp, ức kiếp gặp một lần”).
Trong kinh văn có
tuyên bố sẽ nhập diệt và có chúc lụy. Chúc lụy
giống như di giáo.
1.2.1.1.5.2.1.2.3.4. Trùng tụng về chuyện
thọ kư
(Kinh) Thế
Tôn chư tử đẳng, văn Phật nhập Niết
Bàn, các các hoài bi năo: “Phật diệt nhất hà tốc?”
Thánh chúa pháp trung vương, an ủy vô lượng chúng:
“Ngă nhược diệt độ hậu, nhữ đẳng
vật ưu bố. Thị Đức Tạng Bồ Tát,
ư vô lậu Thật Tướng, tâm dĩ đắc
thông đạt. Kỳ thứ đương tác Phật,
hiệu viết vi Tịnh Thân, diệc độ vô lượng
chúng”.
(經)世尊諸子等。聞佛入涅槃。各各懷悲惱。佛滅一何速。聖主法中王。安慰無量眾。我若滅度後。汝等勿憂怖。是德藏菩薩。於無漏實相。心已得通達。其次當作佛。號曰為淨身。亦度無量眾。
(Kinh: Các con
đức Thế Tôn, nghe Phật nhập Niết Bàn, ai nấy
buồn áo năo: “Sao Phật diệt nhanh vậy?” Thánh chúa vua các
pháp, an ủi vô lượng chúng: “Như sau ta diệt độ,
các ngươi đừng lo sợ, Đức Tạng Bồ
Tát đây, với Thật Tướng vô lậu, tâm đă
được thông đạt. Kế tiếp sẽ làm Phật,
danh hiệu là Tịnh Thân, cũng độ vô lượng
chúng).
Trong kinh văn có
nói tới chuyện buồn khóc, có an ủi, phủ dụ.
Do [đại chúng] buồn khóc, cho nên [Nhật Nguyệt
Đăng Minh Phật] an ủi, phủ dụ. Do an ủi,
phủ dụ, bèn thọ kư cho vị Bổ Xứ Phật,
giống như vị Phật trong hiện tại (Thích Ca
Mâu Ni Phật) giao phó chúng sanh chưa đắc độ
cho ngài Di Lặc.
1.2.1.1.5.2.1.2.3.5. Kệ tụng về
chuyện lưu thông kinh sau khi Phật diệt độ
Lại chia thành ba
phần: Một là kệ tụng về sự thị hiện
diệt độ, cúng dường, tinh tấn; hai là kệ
tụng về lợi ích do lưu thông kinh sau khi Phật diệt
độ; ba là kệ tụng tiểu kết, dung hội
xưa nay.
1.2.1.1.5.2.1.2.3.5.1. Kệ tụng về
sự thị hiện diệt độ, cúng dường,
tinh tấn
(Kinh) Phật
thử dạ diệt độ, như tân tận, hỏa diệt, phân bố chư
xá-lợi, nhi khởi vô lượng tháp. Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
kỳ số như Hằng sa, bội phục gia tinh tấn,
dĩ cầu vô thượng đạo.
(經)佛此夜滅度。如薪盡火滅。分佈諸舍利。而起無量塔。比丘比丘尼。其數如恒沙。倍復加精進。以求無上道。
(Kinh: Đêm
ấy, Phật diệt độ, như củi hết, lửa
tắt, phân chia các xá-lợi, để dựng vô lượng
tháp. Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, số như cát sông Hằng,
càng tinh tấn gấp bội, để cầu đạo
vô thượng).
Phần Trường
Hàng chỉ nói “nhập Niết Bàn”, kệ tụng kể
thêm dựng tháp và tứ chúng tinh tấn cầu đạo.
Đó gọi là “đối với kẻ đáng nên dùng
Niết Bàn để đắc độ, liền hiện
Niết Bàn để độ thoát họ”. “Tân tận, hỏa diệt” (củi hết, lửa
tắt): Tiểu Thừa coi cái thân quả báo là củi, trí
huệ là lửa. Huệ nương vào báo thân, thân diệt
th́ trí mất, tức là hễ diệt bèn vĩnh viễn diệt.
Đại Thừa coi căn cơ là củi, thích ứng
căn cơ là lửa. Căn cơ đắc độ của
chúng sanh đă hết, thân ứng hiện bèn diệt, ứng
hiện trọn khắp pháp giới, chẳng thể biết cùng tận được!
1.2.1.1.5.2.1.2.3.5.2. Kệ tụng về
lợi ích do lưu thông kinh sau khi Phật diệt độ
(Kinh) Thị Diệu
Quang Bồ Tát, phụng tŕ Phật pháp tạng, bát thập
tiểu kiếp trung, quảng tuyên Pháp Hoa kinh. Thị
chư bát vương tử, Diệu Quang sở khai hóa, kiên
cố vô thượng đạo, đương kiến
vô số Phật. Cúng dường chư Phật dĩ, tùy
thuận hành đại đạo, tương kế đắc
thành Phật, chuyển thứ nhi thọ kư. Tối hậu
Thiên Trung Thiên, hiệu viết Nhiên Đăng Phật,
chư tiên chi đạo sư, độ thoát vô
lượng chúng. Thị Diệu Quang pháp sư, thời hữu
nhất đệ tử, tâm thường hoài giải
đăi, tham trước ư danh lợi, cầu danh lợi
vô yếm, đa du tộc tánh gia, khí xả sở tập tụng,
phế vong, bất thông lợi. Dĩ thị nhân duyên cố,
hiệu chi vi Cầu Danh, diệc hành chúng thiện nghiệp,
đắc kiến vô số Phật, cúng dường ư
chư Phật, tùy thuận hành đại đạo, cụ
Lục Ba La Mật. Kim kiến Thích Sư Tử. Kỳ hậu
đương tác Phật, hiệu danh viết Di Lặc,
quảng độ chư chúng sanh. Kỳ số vô hữu
lượng.
(經)是妙光菩薩。奉持佛法藏。八十小劫中。廣宣法華經。是諸八王子。妙光所開化。堅固無上道。當見無數佛。供養諸佛已。隨順行大道。相繼得成佛。轉次而授記。最後天中天。號曰然燈佛。諸仙之導師。度脫無量眾。是妙光法師。時有一弟子。心常懷懈怠。貪著於名利。求名利無厭。多遊族姓家。棄捨所習誦。廢忘不通利。以是因緣故。號之為求名。亦行眾善業。得見無數佛。供養於諸佛。隨順行大道。具六波羅蜜。今見釋師子。其後當作佛。號名曰彌勒。廣度諸眾生。其數無有量。
(Kinh: Ngài Diệu
Quang Bồ Tát, vâng giữ Phật pháp tạng, trong tám
mươi tiểu kiếp, tuyên rộng kinh Pháp Hoa. Tám vị
vương tử đó, được Diệu Quang khai
hóa, đạo vô thượng kiên cố, được thấy
vô số Phật. Đă cúng dường chư Phật, tùy
thuận hành đại đạo, nối tiếp nhau thành
Phật, lần lượt thọ kư nhau. Thiên Trung Thiên cuối
cùng, hiệu là Phật Nhiên Đăng, đạo sư của
các tiên[11],
độ thoát vô lượng chúng. Pháp sư Diệu Quang ấy,
có một vị đệ tử, thường ôm ḷng biếng
nhác, tham đắm nơi danh lợi. Cầu danh lợi chẳng
chán, thường đến nhà quyền quư, buông bỏ việc
tu tập, quên bẵng, chẳng thông suốt. Do bởi nhân
duyên ấy, được gọi là Cầu Danh. Cũng
hành các thiện nghiệp, được thấy vô số
Phật, cúng dường các đức Phật, tùy thuận
hành đại đạo, trọn Lục Ba La Mật. Nay
thấy Thích Sư Tử. Sau này sẽ làm Phật, danh hiệu
là Di Lặc, rộng độ các chúng sanh. Số lượng
chẳng chừng hạn).
1.2.1.1.5.2.1.2.3.5.3. Kệ tụng tiểu
kết, dung hội xưa nay
(Kinh) Bỉ Phật
diệt độ hậu, giải đăi giả nhữ thị.
Diệu Quang pháp sư giả, kim tắc ngă thân thị.
(經)彼佛滅度後。懈怠者汝是。妙光法師者。今則我身是。
(Kinh: Phật
ấy diệt độ rồi, kẻ lười nhác là
ông, c̣n pháp sư Diệu Quang, nay chính là thân tôi).
Phần thứ nhất,
kệ tụng nêu cặn kẽ những chuyện đă
trông thấy để trả lời đă xong.
1.2.1.1.5.2.2. Kệ tụng phán
đoán phân minh để giải đáp
Gồm ba đoạn:
Một là kệ tụng nói kinh Pháp Hoa, hai là kệ tụng
về pháp để dạy hàng Bồ Tát, ba là kệ tụng
về chuyện được Phật hộ niệm.
1.2.1.1.5.2.2.1. Kệ tụng nói kinh
Pháp Hoa
(Kinh)
Ngă kiến Đăng Minh Phật, bổn quang thụy
như thử, dĩ thị tri kim Phật, dục thuyết
Pháp Hoa kinh.
(經)我見燈明佛。本光瑞如此。以是知今佛。欲說法華經。
(Kinh: Tôi
thấy Phật Đăng Minh, tướng sáng lành như
thế, bèn biết Phật hiện thời, muốn nói kinh
Pháp Hoa).
1.2.1.1.5.2.2.2. Kệ tụng về
pháp để dạy hàng Bồ Tát
(Kinh) Kim tướng
như bổn thụy, thị chư Phật phương
tiện. Kim Phật phóng quang minh, trợ phát Thật Tướng
nghĩa. Chư nhân kim đương tri, hiệp chưởng
nhất tâm đăi, Phật đương vũ pháp vũ,
sung túc cầu đạo giả.
(經)今相如本瑞。是諸佛方便。今佛放光明。助發實相義。諸人今當知。合掌一心待。佛當雨法雨。充足求道者。
(Kinh: Tướng
nay giống điềm xưa, phương tiện của
chư Phật. Nay Phật phóng quang minh, giúp bày nghĩa Thật
Tướng. Mọi người hăy nên biết,
chắp tay một dạ chờ. Phật sẽ
tuôn mưa pháp, thấm trọn người cầu đạo).
1.2.1.1.5.2.2.3. Kệ tụng về sự
hộ niệm của Phật
(Kinh)
Chư cầu tam thừa nhân, nhược hữu nghi hối
giả, Phật đương vị trừ đoạn,
linh tận vô hữu dư.
(經)諸求三乘人。若有疑悔者。佛當為除斷。令盡無有餘。
(Kinh: Người
cầu pháp tam thừa, nếu nghi ngờ, hối hận,
Phật sẽ trừ dứt cho, hết sạch chẳng
c̣n sót).
Trong phần kinh
văn trước đó, ngài Di Lặc đă giải trừ
bốn điều cật vấn, khiến cho ngài Văn Thù ắt phải đáp. Trong phần phán
đoán phân minh để giải đáp này, ngài Văn Thù
cũng đoạn trừ bốn nghi vấn ngấm ngầm,
khiến cho Di Lặc chẳng c̣n thắc mắc nữa:
1) Mối nghi thứ nhất,
do ngài Văn Thù nêu cặn kẽ chuyện quá khứ Phật
đă từng nói Pháp Hoa, cho nên ngài Di Lặc thầm nghi,
toan hỏi: “Chư Phật thuận theo các duyên, người
và thời đều khác nhau. Tuy cổ Phật đặt
tên kinh là Pháp Hoa, chắc ǵ vị Phật hiện nay
cũng gọi như thế?” Văn Thù bèn dùng bài kệ thứ
nhất để đoạn nghi: “Ngă kiến
Đăng Minh Phật, bổn quang thụy như thử.
Dĩ thị tri kim Phật, dục thuyết Pháp Hoa kinh”
(Tôi thấy Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật vốn
có tướng quang minh tốt lành như thế. Do vậy
biết đức Phật trong hiện thời cũng muốn
nói kinh Pháp Hoa). Đấy là đoạn trừ nghi niệm
đối với danh hiệu của kinh.
2) Do vậy, ngài Di Lặc
lại nghi: “Vốn có danh đồng, nghĩa đồng,
mà cũng có danh đồng, nghĩa khác. Tên gọi này nhằm
hiển thị, chuốc vời điều ǵ vậy?” Ngài
Văn Thù liền dùng bài kệ thứ hai để đoạn
nghi: “Kim tướng như bổn thụy, thị
chư Phật phương tiện, kim Phật phóng quang minh, trợ phát Đệ Nhất
Nghĩa” (tướng trong hiện thời giống như
điềm lành xưa kia, đó là phương tiện của
chư Phật. Nay đức Phật phóng quang minh để giúp phát khởi Đệ Nhất Nghĩa).
Đấy là đoạn trừ nghi niệm về Thể.
3) Ngài Di Lặc lại
nghi: “Thật Tướng vô tướng, ai có thể lănh hội
được?” Ngài Văn Thù liền dùng bài kệ thứ ba để đoạn
nghi: “Chư nhân kim đương tri, hiệp
chưởng, nhất tâm đăi, Phật đương
vũ pháp vũ, sung túc cầu đạo giả” (Mọi người hăy nên
biết, chắp tay, nhất tâm chờ, Phật sẽ tuôn
mưa pháp, khiến cho người cầu đạo
được trọn đủ). Đó là đoạn nghi
về Tông.
4) Nhân
đó, ngài Di
Lặc lại nghi: “Phật tuôn mưa pháp, chỉ
nhằm nhuần thấm Bồ Tát, hay là cũng thấm nhuần
Nhị Thừa vậy?” Ngài Văn Thù liền dùng bài kệ
thứ tư để đoạn nghi: “Chư cầu
tam thừa nhân, nhược hữu nghi hối giả, Phật
đương vị trừ đoạn, linh tận vô hữu
dư” (Những người cầu pháp tam thừa, nếu
có ngờ vực, hối hận, Phật sẽ v́ họ
đoạn trừ, khiến cho những
điều ấy hết sạch, chẳng c̣n sót). Đó là
đoạn nghi về Dụng.
Ngài Di Lặc nhiều
phen sanh nghi, ngài Văn Thù nhiều lượt đoạn
nghi. Sự đă cùng, Lư đă tận, liền đạt
được bổn hoài, trọn đủ hai món trang
nghiêm! (“Sự đă cùng” tức là ba điều nghi đối
với tên kinh, Tông, và Dụng, “Lư tận” là Thể đă
được hiển). Trong chương khai Quyền hiển
Thật của Tích Môn, phần thứ nhất là Tự Phần
đă xong.
2. Phương Tiện phẩm đệ
nhị (方便品第二, phẩm thứ
hai: Phương Tiện)
Phẩm này thuộc
vào phần Chánh Tông của kinh này. Vạn pháp đều
dung hội. Chứng Tín là nhằm chứng thực điều
này. Phát Khởi nhằm phát khởi điều này. Thí Dụ
nhằm sánh ví điều này. Cho đến lưu thông,
cũng nhằm lưu thông điều này! Giải thích phẩm
này chia thành hai phần: Trước là nói đại lược,
sau là nói chi tiết. Phần nói đại lược chia
thành hai đoạn: Trước là chánh thích (phần giải
thích chánh yếu), sau là liệu giản (phán định nhằm
loại trừ).
Phần Chánh Thích gồm
ba điều:
- Một, “Phương
là phương pháp, Tiện là Dụng (tác dụng)”. Pháp
cũng có vuông, tṛn; Dụng th́ có phù hợp hay chẳng phù hợp.
Tam thừa quyền biến là thước vuông, là vuông vắn[12],
Nhất Thật là thước tṛn, là tṛn trặn. Nếu
trí hướng theo khuôn khổ, sẽ là khéo dụng pháp
thiên lệch để phù hợp căn cơ của chúng
sanh. Nếu trí hướng đến sự viên dung th́ khéo
dùng pháp viên dung để phù hợp căn cơ của
chúng sanh. Như kinh này khiến cho [chúng sanh] ĺa các chấp
trước, thoát khỏi nỗi khổ trong tam giới. V́
thế, Như Lai ân cần xưng dương, tán thán
phương tiện; bởi lẽ, thuận theo ḷng mong muốn
của chúng sanh th́ chẳng phải là bổn hoài của Phật.
Cách [hiểu chữ Phương Tiện theo kiểu] này có
thể dùng để giải thích các kinh khác, chẳng
đúng với ư nghĩa của phẩm này!
- Hai, nếu nói
Phương Tiện là Môn. Môn là “có thể thông”, thông tới
điều được thông. Phương tiện quyền
biến đại lược đều làm cửa [để
thông vào] chân thật. Chân thật được hiển lộ
nhờ công của phương tiện. Từ [công năng]
hiển lộ mà có tên như vậy. V́ thế, dùng Môn để
giải thích Phương Tiện. Như kinh này mở cửa
phương tiện để chỉ bày tướng chân
thật. Nghĩa này có thể giải thích các kinh khác, chẳng
phải là ư của phẩm này.
- Ba, nếu nói Phương là Bí (bí mật), Tiện là diệu.
Nơi Tích th́ thành bí mật, nay khai bày Tích, [điều bí mật
ấy] sẽ trở thành diệu, khéo thông đạt các
phương, chính là “bí mật thật sự”: Chỉ ra bảo châu
vô giá trong áo lót, trao thưởng viên châu duy nhất trên
đỉnh đầu nhà vua, chẳng hai, chẳng khác. Chỉ
rơ kẻ làm khách là con ông trưởng giả, cũng chẳng
hai, chẳng khác. Phương tiện và Môn chính là bí diệu,
như kinh này dạy: “Duy ngă tri thị tướng, thập
phương Phật diệc nhiên. Chỉ chỉ bất tu
thuyết, ngă pháp diệu nan tư” (chỉ ta biết
tướng này, mười phương Phật cũng thế.
Thôi đi, chẳng cần nói; pháp ta mầu nhiệm khó
nghĩ được). V́ thế, dùng Bí để giải
thích Phương, dùng Diệu để giải thích Tiện
th́ sẽ đúng ư của
phẩm này.
Kế đó là liệu
giản:
- Cách giải thích
thứ nhất chính là phương tiện ở ngoài Thể,
là sự quyền biến
nhằm giáo hóa chúng sanh, thuận theo ư người khác để
nói. Cách giải thích thứ hai, cũng là phương tiện
ở ngoài Thể, là quyền biến ḥng tự hành và hóa độ người
khác, cũng là thuận theo ư người khác mà nói. Cách giải
thích thứ ba là đồng thể phương tiện, tức
là sự quyền biến để tự hành, thuận
theo ư của chính ḿnh mà nói.
- Lại nữa,
cách giải thích Phương Tiện thứ nhất, chẳng
phải là “năng nhập” (chủ thể tiến nhập),
chẳng phải là “sở nhập” (đối tượng
được tiến nhập). Cách giải thích Phương
Tiện thứ hai là năng nhập, chẳng phải là sở
nhập. Cách giải thích Phương Tiện thứ ba là
năng nhập, [mà cũng là] sở nhập.
- Lại nữa,
cách giải thích Phương Tiện thứ nhất là Bí,
chẳng phải là Diệu. Cách giải
thích Phương Tiện thứ hai là Bí, có thể nhập
Diệu. Cách giải thích Phương Tiện thứ ba th́
Bí chính là Diệu. Xét ra, trong kinh Chánh Pháp Hoa, phẩm này
được gọi là phẩm Thiện Quyền, Quyền
tức là phương tiện, chẳng hai, chẳng khác. “Cúi
đầu, giơ tay, đều thành Phật đạo”
chính là phương tiện khéo léo, quyền biến. Phần
giải thích đại lược đă xong.
Kế đó là giải
thích cặn kẽ; [đối với các ư kiến của
tổ Trí Giả nhằm] đả phá luận thuyết của
các vị cổ đức, tôi chẳng sao lục. Phẩm
này là phương tiện của Như Lai, thâu nhiếp hết
thảy các pháp như Không chứa đựng Sắc,
như biển thâu nạp các gịng, há có thể chỉ dùng một gịng, một
nhánh để giải thích sự to
lớn của pháp giới được ư? Nay nói về Quyền và Thật, trước
hết lập ra bốn câu, tức là: “Hết thảy
các pháp đều là Quyền. Hết thảy các pháp đều
là Thật. Hết thảy các pháp đều vừa là Quyền,
vừa là Thật. Hết thảy các đều chẳng phải
Quyền, chẳng phải Thật”.
“Hết thảy
các pháp đều là Quyền”: Như kinh văn dạy “tướng,
tánh, thể, lực, tác, nhân, duyên, quả, báo, bổn mạt”
v.v… của pháp giới là như thế. Những lời lẽ
như vậy đều là Quyền (những lời nói về Hữu sẽ chẳng ra ngoài
bách giới thiên như).
“Hết thảy
các pháp là Thật”: Như kinh văn nói Như Lai khéo nói
các pháp đẹp ḷng mọi người.
Tâm mọi người coi chuyện “nhập Thật”
là điều vui sướng (có nghĩa là “phù hợp
căn cơ”). Lại nói “các pháp vốn thường là
tướng tịch diệt” (cội gốc của các
pháp). Lại nói: “Lời của Như Lai nói đều
nhằm đạt tới địa vị Nhất Thiết
Trí” (cốt lơi của hóa nghi). Lại nói “đều
là chân thật, chẳng dối” (cội nguồn của
bổn hạnh). Đại kinh lại nói: “Bốn câu
đều chẳng thể nói” (quên mất Lư nơi giáo, các kinh văn đều coi “nhập Chứng” là Thật; cho nên
biết “có nói” hay “chẳng nói”, không ǵ chẳng
đều lấy chân thật làm gốc).
“Hết thảy
các pháp đều vừa là Quyền, vừa là Thật”:
Như kinh văn nói “tướng như thật của các
pháp” chính là để nói rơ hết thảy vừa là Quyền
vừa là Thật. Chẳng hạn như Bất Tịnh
Quán vừa là thật, vừa là hư (do đối trị
dục nên là Thật. Do tưởng [dục là] hư giả nên
là Hư. Chỉ một phép Quán này mà đă là vừa thật vừa hư, nào ngại pháp nào cũng
vừa thật vừa hư).
“Hết thảy
các pháp đều chẳng phải Quyền, chẳng phải
Phật”: Như kinh văn nói: “Phi như, phi dị”
(chẳng phải như, chẳng phải khác). Lại nói: “Diệc
phục bất hành thượng, trung, hạ pháp, hữu
vi, vô vi, thật, bất thật pháp, phi hư, phi thật,
như Thật Tướng dă” (Cũng lại chẳng
hành pháp thượng, trung, hạ, pháp hữu vi, vô vi, thật, bất thật, chẳng hư,
chẳng thật, như Thật Tướng). Nếu hết
thảy các pháp đều là Quyền, có ǵ chẳng bị phá? Dẫu cho trăm ngàn vị sư, mỗi vị
sư lập ra trăm ngàn thuyết, không ǵ chẳng phải
là Quyền! Những điều do Như Lai đă nói c̣n
là Quyền, huống hồ [các ngôn thuyết của] các vị
sư trong loài người há chẳng phải là Quyền
ư? Nếu hết thảy các pháp đều là Thật, lại
có ǵ chẳng bị phá? Chỉ có một
sự thật này, hai điều khác đều chẳng thật,
chỉ là một đạo cứu cánh, há có nhiều đạo
cứu cánh ư? Các kiến giải khác biệt của các
sư đều nhằm phá chuyện “nhập Thật”,
há c̣n bảo vệ hang ổ đó ư? Nếu hết thảy
các pháp đều vừa là Quyền vừa là Thật, lại
c̣n có ǵ chẳng bị phá? Hết thảy
đều có Quyền, có Thật, vậy th́ tự là một
đường, chẳng phải là cách hiểu nào khác!
Trong mỗi pháp, đều có Quyền và Thật, há có nên cứ
một mực là Quyền, hay một mực
là Thật? Nếu hết thảy các pháp đều chẳng
phải là Quyền, mà cũng chẳng
phải là Thật, có ǵ chẳng bị phá, c̣n phân vân chi nữa?
Cưỡng sanh kiến lập, thẳng thừng nêu tên mà
c̣n là như thế, huống hồ luận định chỉ
thú ư? Cần hiểu bốn câu ấy chỉ là một
pháp tánh. Pháp tánh chỉ là Chân Như Thật Tướng
như như Niết Bàn. Do Thể của pháp tánh chẳng
trái nghịch các pháp, chẳng thọ các pháp, chẳng trụ
trong các pháp, chẳng vào trong các pháp. V́ thế, mỗi một
danh tự, mỗi một tâm pháp, mỗi câu kệ, mỗi
nhân quả, mỗi mỗi phàm thánh, mỗi mỗi y báo và
chánh báo, cho đến “thập song” (mười cặp
định luận Quyền Thật) trong phần sau, không
ǵ chẳng phải là pháp giới, tự tại vô ngại.
Nghĩa này có thể thành tựu, nói cặn kẽ th́
như trong mười môn Bất Nhị đă nói, dù gốc
hay ngọn, Thể và Lư chẳng khác. Nói mà chẳng nói, chẳng
nói mà nói, chiếu tánh chẳng xa, tự tại vô cùng. Dẫu
vô cùng, chẳng ra ngoài bốn câu. Bốn câu chẳng có câu,
không có câu mà là câu, câu nào cũng đều riêng thâu nhiếp
mười phương Phật pháp. Nhưng bốn câu
trong mỗi giáo trước thời Pháp Hoa, câu nào cũng
đều chưa diễn tả thông suốt [bổn hoài của
Phật], cho đến hội này bèn là “một vị chẳng
khác”.
Cụ thể
như trong phẩm Dược Thảo Dụ, sai khác chính
là chẳng sai khác, chẳng sai khác chính là sai khác. Đấy
chính là câu thứ ba “vừa Quyền, vừa Thật”
được tách thành mười pháp. Đối với
mười pháp ấy, sẽ có tám lượt giải
thích:
- Một là nêu tên.
- Hai là sanh khởi.
- Ba là giải thích.
- Bốn là dẫn
chứng.
- Năm là gom mười
môn ấy thành ba loại Quyền Thật.
- Sáu là phân biệt
ba loại Quyền Thật chiếu soi ba loại Nhị
Đế.
- Bảy là dựa
theo các kinh để phán định Quyền Thật.
- Tám là dựa theo Bổn
Tích để phán định Quyền Thật.
(Chia thành từng
chương để giải thích riêng biệt là v́ đă
biết các pháp dung nhập trọn khắp lẫn nhau. Nêu
ra Thật th́ ngay trong Thật có Quyền, đó là nói “dùng
Quyền ấy làm phẩm
Phương Tiện”. Nêu ra Quyền th́ chính
là Quyền chẳng thể nghĩ bàn. Quyền ấy có Thật,
bèn dùng cái Quyền ấy gọi là phẩm Phương Tiện.
Nêu ra “vừa Quyền, vừa Thật”, th́ mỗi
đằng đều có chỗ hướng về. Đấy
chính là sự tương tức (Thật chính là Quyền,
Quyền chính là Thật) trong “Quyền, Thật” nơi Tích, thâu nhiếp ba thứ “Quyền, Thật” nơi Tích. V́ thế, dùng ngay phương tiện
chân thật để làm phẩm Phương Tiện. Nêu
ra “chẳng phải Quyền, chẳng phải Thật” th́
chỉ là lư phương tiện. Lư gồm thâu ba câu (“là Quyền”,
“là Thật”, “vừa là Thật vừa là Quyền”) đều
là phẩm Phương Tiện. Đấy chính là câu nào
cũng đều trọn khắp, đều là phẩm
Phương Tiện, cần ǵ phải riêng đối với
câu thứ ba lại tách ra thành mười pháp: Một là danh tiện, do trọn đủ Quyền
và Thật. Hai là nghĩa tiện, do thâu nhiếp trọn khắp.
Các câu khác là nghĩa tiện, nhưng chẳng gọi là Tiện.
Ba điều khác tuy có nghĩa Quyền, nhưng danh xưng
Quyền chẳng được như trong câu thứ ba, từ
ngay nơi tên gọi đă trọn đủ [ư nghĩa Quyền].
Dùng “ngay nơi Thật mà là Quyền” ấy để tạo
thành phẩm này.
V́ thế, đối
với mười cặp [phán định Quyền Thật]
trong phần sau, cặp nào cũng đều trọn đủ
danh tướng Quyền và Thật, đều lấy “từ
ngay nơi Thật mà là Quyền” làm phẩm Phương Tiện.
Huống chi, phần giải thích tổng
quát ba cặp đầu đều bao trùm tám môn (nêu tên, sanh
khởi, giải thích v.v…) trong phần luận định
về mười cặp ấy. Nếu chẳng phải là như thế, sẽ
chẳng phải là Sự Lư phương tiện cho đến
Tất Đàn, chẳng phải là liệt kê tên gọi của
pháp tướng trong phương tiện, cho đến chẳng
phải là mười nghĩa thuộc về Bổn Tích
trong kinh này. Mười nghĩa chẳng hai, nhưng Bổn
Tích dường như sai khác. Bổn và Tích tuy khác, nhưng
đều chẳng nghĩ bàn giống hệt như nhau.
Tướng của mười nghĩa khác biệt,
nhưng Thật Tướng như nhau. Do v́ chúng sanh [căn tánh khác biệt], mà nêu tên và sanh khởi,
cho đến Bổn Tích, Lư Sự, thậm chí Tất
Đàn khác nhau. Hễ hiểu ư sẽ quên lời, giải
thoát khỏi ngôn thuyết. Nếu thấy được ư
này, sẽ thường im
lặng mà thường nói, lời nói và xử sự chẳng
trái nghịch. Lại c̣n dùng ư chỉ ấy làm cảnh
để quán, khiến cho thấy rơ ràng cảnh được
quán. Các lời giải thích khác thiếu khuyết chính ở
chỗ này! Nhưng trong tám môn ấy (nêu tên, sanh khởi,
giải thích v.v…), bảy môn đầu thuộc về Tích
Môn, môn thứ tám thuộc về Bổn Môn. Tuy chưa đến
phần Bổn Môn [của kinh Pháp Hoa], nhưng lư Quyền
Thật đă trọn khắp. V́ thế, kinh văn trong phần
sau có nói: “Thị ngă phương tiện, chư Phật
diệc nhiên” (là phương tiện của ta, chư Phật
cũng thế). V́ thế, danh xưng Phương Tiện
thông với Bổn lẫn Tích.
Lại nữa, tám
môn ấy có thứ tự
theo ư nghĩa như sau: Nếu chẳng “nêu tên”, sẽ chẳng
có ǵ để giải thích. Nếu chẳng “sanh khởi”,
sẽ mê muội nơi thứ tự được diễn
nói. “Giải thích” nhằm chỉ bày tướng trạng của
phần luận định mười cặp Quyền Thật.
“Dẫn chứng” nhằm ngăn ngừa kẻ chẳng tin. “Kết quy” nhằm chỉ rơ nguyên ư của
phẩm này. “Phân biệt” là khiến cho phần giải
thích phẩm này có chỗ quy kết. Phần giải thích phán
định nhằm biết chỗ tồn tại của
thô và diệu. Như thế th́ mới tỏ lộ ư chỉ
sâu xa của phẩm này được. Lại biện
định sẵn về Bổn Tích, khiến cho [người
nghe] biết Quyền, Thật, Tự, Tha nơi Bổn
địa th́ mới tỏ lộ sự giáo hóa to lớn
nơi Tích là lâu xa hay gần đây).
[Nói tường tận
th́ tám môn ấy như sau]:
1) Nêu tên:
[Mười cặp luận định về Quyền Thật
th́] một là Sự Lư Quyền Thật, hai là Lư Giáo Quyền
Thật, ba là Giáo Hạnh Quyền Thật, bốn là Phược
Thoát (trói buộc và giải thoát) Quyền Thật, năm là
Nhân Quả Quyền Thật, sáu là Thể Dụng Quyền
Thật, bảy là Tiệm Đốn Quyền Thật, tám
là Khai Hợp Quyền Thật, chín là Thông Biệt Quyền
Thật, mười là Tất Đàn Quyền Thật.
2) Sanh khởi:
Từ cái gốc là Vô Trụ mà lập ra hết thảy các
pháp. Vô Trụ là Lư. Hết
thảy các pháp là Sự. Do Lư và Sự mà có Giáo. Do Giáo mà có Hạnh.
Do Hạnh mà có trói buộc và giải thoát. Do giải thoát mà
thành nhân quả. Từ quả mà Thể hiển hiện
công năng, tác dụng. Do Dụng mà có sự
giáo hóa Tiệm hay Đốn. Do tách ra thành Tiệm và Đốn,
mà có khai hợp (tách ra hay gộp lại). Từ khai hợp
mà có lợi ích thông hay biệt. Do lợi ích có thông và biệt,
mà phân biệt hai loại lợi ích. Do phân biệt hai loại
lợi ích, cho nên có Tứ Tất Đàn (Trong mười cặp
này, năm cặp đầu là từ nhân tới quả;
năm cặp sau là tác dụng thù thắng sẵn có nơi
cái quả. Trong cái nhân, nếu chẳng có bốn điều
đầu th́ ư nghĩa của nhân sẽ nông cạn, hẹp
ḥi. Nếu chẳng có năm điều sau, tác dụng của
quả sẽ thô thiển, nông cạn. Trong ấy, giáo chính
là thánh hóa (sự hóa độ của bậc thánh, tức sự
giáo hóa của Phật), lại c̣n dựa theo người
tiếp nhận mà đặt tên).
Lại nữa, tuy
kinh văn nêu lên người có thể giáo hóa, nhưng phải
xét theo người được hóa độ để
hiểu nghĩa. V́ thế, trong năm cặp sau, đối
với Thể và Dụng, chỉ dùng một
cặp tương ứng với người được
hóa độ, bốn cặp kia do dựa theo người có thể hóa độ mà
lập danh. Điều này lại tương đồng với
mười diệu nghĩa. Nếu chẳng như thế,
ai sẽ biết phương tiện cần phải có
đủ mười pháp? Ai biết mười pháp có ư nghĩa trọn khắp
trong một kinh? Nếu không có mười pháp, sẽ trở
thành kinh văn chẳng nói đến nhân quả cũng
như người hóa độ và kẻ được
hóa độ! V́ thế, dùng mười cặp [để
giảng giải Phương Tiện] th́ các điều trọng
yếu tột bậc sẽ được thấu hiểu
tận cùng.
“Phương”
chính là mười cặp [luận định Quyền Thật]
trong kinh này. Nếu như thế, kinh này từ đầu
đến cuối đều gọi là “phương tiện”. Lại c̣n chỉ
ra những điều đă dạy trước kia đều
là lập bày [để dẫn dụ về Nhất Thật]
th́ mới có thể nói đến phương tiện trong
kinh này. V́ thế biết: Chứng Tín trong Tự Phần nhằm phát khởi phương tiện. Thí Dụ chỉ là phương tiện để so
sánh, nhân duyên chỉ là phương tiện xưa kia, Bổn
Môn chỉ là phương tiện lâu xa. Lưu Thông chỉ là
phương tiện để chư Phật, Bồ Tát hoằng
thông giáo pháp. Do là phương tiện, cho nên gọi là “chân thật”. Nếu hiểu
được ư ấy, sẽ như nh́n vào trái cây trong bàn
tay, do một bộ kinh Pháp Hoa mà có thể biết cái tâm, trong
khoảng sát-na bèn thấu hiểu giáo môn trong suốt một
đời đức Phật. Nhân quả, tự tha, gộp
thành một pháp. Mười phương, ba đời, chẳng
ôm ḷng mong cầu chi khác. Dùng mười pháp thừa (mười
cặp luận định Quyền Thật) để quan
sát, sẽ có chỗ đặt chân nơi Pháp Hoa tam-muội.
Đường tu vô thượng Phật quả sẽ có
thể hy vọng).
3) Giải thích:
- Một là Lư Sự
Quyền Thật. Lư là Chân Như. Chân Như vốn tịnh,
dẫu có Phật hay chẳng có Phật, vẫn thường
hằng, chẳng đổi
khác. V́ thế, gọi Lư là Thật. Sự là tâm, ư, thức
v.v… dấy lên nghiệp tịnh hay bất tịnh, thay
đổi, chuyển dời bất định. V́ thế,
gọi Sự là Quyền. Nếu chẳng có Lư, sẽ không
có ǵ để lập Sự. Nếu chẳng có Sự, sẽ
không thể hiển thị Lư. Sự có công năng hiển thị
Lư. V́ thế, ân cần khen ngợi phương tiện (ai
chịu coi các thứ như tâm hữu lậu trong tam giới
v.v... là phẩm Phương Tiện được
Như Lai khen ngợi? Nếu chẳng như thế, ư
nghĩa “v́ chúng sanh” đặt ở chỗ nào? Ngôn từ
về tướng thế gian sẽ giải thích như thế
nào đây?)
- Hai là Lư Giáo Quyền
Thật: Lư Sự trên đây được gọi chung là
Lư. Chẳng hạn như Chân và Tục đều gọi
là Đế. Chư Phật do thấu hiểu [Lư Sự ấy]
mà thành thánh. “Thánh” là “chân chánh, chân thật”, muốn
dùng pháp của chính ḿnh để độ chúng sanh. Do Lư mà
lập Giáo, Giáo chính là Quyền. Chẳng có Giáo, sẽ không
có ǵ để hiển lộ Lư. V́ thế, Như Lai ca ngợi
phương tiện (từ vô minh pháp tánh cho đến hết
thảy các pháp thuộc giới ngoại đều là các
điều được diễn nói. Tâm, ư, thức
được gọi là Thể v́ trọn đủ
hết thảy các pháp thuộc giới ngoại. Ai biết
giáo pháp của kinh Pháp Hoa dùng các pháp
như thế ấy để diễn nói? Nếu chẳng
như vậy, Nghiêm vương (vua Diệu Trang Nghiêm) tà kiến,
Điều Đạt (Đề Bà Đạt Đa) ác nghịch, sẽ do đâu mà có?
Quả giáo[13] luận về
điều này, người diễn nói cũng là Quyền.
V́ thế biết giáo này chỉ nhằm nói lư này. Chẳng
do kinh này, ai sẽ chịu khen ngợi phẩm Phương
Tiện này là giáo pháp chỉ ra chỗ mê? Nếu
chẳng như vậy, đức Phật từ
tam-muội khởi, sẽ tán thán điều ǵ vậy?)
- Ba là Giáo Hạnh
Quyền Thật. Nương vào Giáo để cầu Lư, sẽ
sanh ra chánh hạnh. Do Hạnh có tiến nhập sâu hay cạn
khác nhau; v́ thế, Hạnh được gọi là Quyền.
Giáo chẳng có tiến nhập sâu hay cạn khác biệt; v́
thế, gọi là Thật. Chẳng có Giáo, sẽ không có ǵ
để lập Hạnh; chẳng có Hạnh, lấy ǵ
để lănh hội Giáo? Do Hạnh mà hiểu Giáo. V́ thế,
khen ngợi phương tiện (Nếu chẳng như vậy,
các môn như Phương Tiện Ba La Mật v.v… của
Như Lai làm sao chứng được?)
- Bốn là Phược
Thoát Quyền Thật. Hạnh trái nghịch Lư, sẽ bị trói buộc (phược, 縛). Trói buộc là hư
vọng; v́ thế gọi là Quyền. Hạnh thuận Lư, sẽ sanh ra Giải, Giải ngầm ứng hợp với Lư. V́ thế gọi
Thật (trong các kinh, bậc Địa Tiền (Bồ Tát
chưa đạt đến Sơ Địa) vẫn là
trái Lư; v́ chưa nhận biết Quyền. Riêng kinh này chỉ
rơ “không ǵ chẳng phải là cái nhân thành Phật” ḥng
hiển thị Thật). Chẳng trói buộc, sẽ không
do đâu mà cầu giải thoát. Được giải
thoát là nhờ bị trói buộc, như nhờ xác chết
mà vượt biển[14].
V́ thế, khen ngợi Phương Tiện (ai biết trong
kinh này, đức Phật cũng coi ác hạnh cũng là
phương tiện thiện xảo? Thí dụ về xác chết
áp dụng cho hết thảy).
- Năm là Nhân Quả
Quyền Thật. Nhân có tác dụng tiến nhập tạm
thời, nên gọi là Quyền. Quả nhất định
vĩnh viễn chứng vào lúc cuối cùng, nên gọi là Thật.
Chẳng có quả th́ nhân sẽ chẳng có ǵ để mong
mỏi. Không có nhân, quả sẽ chẳng thể tự hiển
hiện được. Quả do nhân mà đạt
được. V́ thế, khen ngợi phương tiện.
- Sáu là Thể Dụng
Quyền Thật. Các phương tiện trước đó là nhân. Chánh quán để tiến nhập
Sơ Trụ là quả (Sơ Trụ trong Viên Giáo là Phần
Chứng Quả). Trụ, xuất là Thể, Dụng. Thể chính là Thật
Tướng, chẳng có phân biệt. Dụng chính là lập
ra hết thảy các pháp, hơn kém khác nhau. Như chỉ một
cơi đại địa mà sanh ra các thứ mầm mộng
(Sơ Trụ [thị hiện] làm Phật trong một
trăm thế giới, tức là có thể thị hiện
trong mười pháp giới). Chẳng có đất, sẽ
không có ǵ để sanh ra vạn vật.
Chẳng sanh, sẽ không có ǵ để hiển thị đất.
Lần theo gịng t́m được nguồn; suy từ Dụng mà biết Thể.
V́ thế, khen ngợi Phương Tiện.
- Bảy là Tiệm
Đốn Quyền Thật. Luận chung về chuyện
tu nhân chứng quả, từ Thể dấy lên tác dụng,
đều có Tiệm và Đốn. Nay nói về chuyện
khởi tác dụng: Dụng Tiệm là Quyền, dụng
Đốn là Thật. Nếu chẳng có Tiệm dẫn khởi,
sẽ không do đâu để nhập Đốn được! V́ thế, khen ngợi Phương Tiện.
- Tám là Khai Hợp Quyền Thật. Từ Đốn tách ra thành
Tiệm, Tiệm chẳng tự hợp (do hai giáo Tạng
và Thông chẳng phế trừ tiểu pháp), cũng chẳng
hợp Đốn (hàng Bồ Tát trong ba giáo (Tạng, Thông,
Biệt) chẳng nhập Thật). V́ thế, gọi là Quyền. Tiệm
đến rốt ráo vẫn hợp với Đốn. V́
thế là Thật. Do tách ra (khai), cho nên hợp (gộp lại).
Khai có sức hợp. V́ thế, khen ngợi Phương Tiện.
- Chín là Thông Biệt
Quyền Thật. Thông tức là lợi ích chẳng thường
hằng của pháp bán tự, Biệt là lợi ích thường
trụ của pháp măn tự. Nhưng lợi ích thường
hằng và đạo dài lâu, dễ [khiến
cho hành nhân] nẩy sanh thoái thất. V́ thế, dùng hóa thành tiếp
dẫn [để hành nhân] sanh ư tưởng an ổn. Sau
đấy mới diệt sự biến hóa, dẫn đến
chỗ có của báu. Nếu chẳng có lợi ích chưa
toàn vẹn, sẽ chẳng thể lănh hội lợi ích
thường hằng. Lợi ích bán phần có công năng hiển
thị lợi ích măn phần. V́ thế, khen ngợi Phương Tiện.
- Mười là Tất
Đàn Quyền Thật. Ba môn Thế Giới, Vị Nhân,
Đối Trị Tất Đàn do thuộc vào thế gian,
nên là Quyền. Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn do
xuất thế gian, nên là Thật. Chẳng do thế gian, sẽ
chẳng đạt được xuất thế gian. Do
ba món Tất Đàn mà đạt được Đệ
Nhất Nghĩa. V́ thế, Như Lai ân cần khen ngợi Phương
Tiện. Phần thứ ba, giải thích đă xong.
4) Dẫn chứng:
Mười nghĩa này thông với đại giáo và tiểu
giáo, gồm trọn hết thảy các pháp. Nay lại dẫn
kinh này: “Bất như tam giới kiến ư tam giới” (chẳng như
tam giới mà thấy tam giới), tam giới là Sự. “Bất
như tam giới kiến” là Lư. Đó là dẫn chứng
về Lư, Sự, Quyền, Thật. Tướng tịch diệt
của pháp chẳng thể dùng ngôn từ để tuyên
nói, đó là Lư. “Do v́ sức phương tiện mà nói với
năm tỳ-kheo” chính là Giáo. Đó là dẫn chứng về
Lư Giáo Quyền Thật (cần phải nói: “Nhược
vô tánh giả, vị thuyết nhân thiên, năi chí Tu La vi hạ phẩm thiện” (nếu là kẻ
vô tánh (chẳng có căn tánh Đại Tiểu Thừa), bèn v́ kẻ
đó nói pháp nhân thiên, cho đến Tu La là hạ phẩm
thiện). “Năi chí vị thuyết vô tác Tứ Đế”
(cho đến v́ kẻ đó nói Vô Tác Tứ Đế). V́
thế biết: Theo Lư th́ đều là “chẳng thể nói”. Theo Sự th́ lớn
hay nhỏ đều có thể nói).
Nếu nghe kinh này,
sẽ là khéo hành Bồ Tát đạo. Lại c̣n “nhữ
đẳng sở hành, thị Bồ Tát đạo. Phật
tử hành đạo dĩ, lai thế đắc tác Phật”
(điều các ông đă hành là Bồ Tát đạo. Phật
tử đă hành đạo, đời
sau sẽ được làm Phật) v.v… Đấy là dẫn
chứng về Giáo Hạnh Quyền Thật. “Đản
ly hư vọng, danh vi giải thoát. Kỳ thật vị
đắc nhất thiết giải thoát” (chỉ là
hư vọng mà gọi là giải thoát. Thật ra là chưa
đạt được hết thảy các giải thoát).
Đó là dẫn chứng về Phược Thoát Quyền Thật
(trong Tiểu th́ hư vọng gọi là Phược (trói buộc),
ĺa [khỏi trói buộc] là giải thoát. Nếu
xét theo Đại Thừa, cái được gọi là trói
buộc đó, nay chỉ gọi là Thoát). Hành trọn tất
cả các đạo pháp của chư Phật là nhân, thành tựu
đắc quả nơi đạo tràng là quả. Đấy
là dẫn chứng về nhân quả Quyền Thật.
“Ngă dĩ Phật nhăn quán” (ta dùng Phật nhăn để
xem) là Thể, “kiến lục đạo chúng sanh” (thấy
chúng sanh trong sáu đường) là Dụng. Đấy là dẫn
chứng về Thể Dụng Quyền Thật.
“Thỉ kiến
ngă thân, văn ngă sở thuyết, tức giai tín thọ, nhập
Như Lai huệ” (vừa mới thấy thân ta, nghe lời
ta nói, liền đều tin nhận, nhập trí huệ của
Như Lai), nhanh chóng trừ khử sự tu tập trước
kia, người học tập Tiểu Thừa th́ là Tiệm.
Đấy chính là dẫn chứng của Tiệm Đốn
Quyền Thật. Đứa con nghèo thoạt đầu trốn
đi, chặng giữa dọn phân; đó là Khai. Sau đó,
được giao tài sản, th́ là Hợp. Đó là dẫn
chứng về Khai Hợp Quyền Thật. Trước là
diệt hóa thành, đó là Thông Ích. Sau đó, tới chỗ có
của báu, th́ là Biệt Ích. Đấy là dẫn chứng của
Thông Biệt Quyền Thật. Các thứ ham muốn, các thứ
tánh, tướng, ức niệm v.v… chính là dẫn chứng
của Tất Đàn Quyền Thật.
Đă dẫn cả
bộ kinh làm chứng, nay dẫn chứng riêng trong một
phẩm. Tuy chẳng theo thứ tự, nhưng phần kinh
văn về mười điều ấy (mười cặp Phương Tiện Quyền Thật) đều
đủ. “Chư Phật trí huệ thậm thâm vô lượng,
kỳ trí huệ môn nan giải, nan nhập” (trí huệ của
chư Phật rất sâu vô lượng, môn trí huệ ấy
khó hiểu, khó nhập). Hết thảy sự,
lư, cảnh, trí v.v… đều gọi là Thật.
Lập bày, diễn nói, biện định ngôn giáo đều
là trí huệ môn. Đấy là dẫn chứng Lư Giáo để
luận định Quyền Thật. “Nan giải, nan nhập,
nhất thiết Thanh Văn, Bích Chi Phật sở bất
năng tri” (khó hiểu, khó nhập, hết thảy Thanh Văn,
Bích Chi Phật chẳng thể biết được)
chính là đối với trói buộc hay giải thoát mà luận
định Quyền Thật. “Phật tằng thân cận bách thiên vạn ức vô số
chư Phật, tận hành chư Phật vô lượng
đạo pháp, dũng mănh tinh tấn, danh xưng phổ
văn” (Phật từng thân cận
trăm ngàn vạn ức vô số chư Phật, hành trọn
hết vô lượng đạo pháp của chư Phật,
dũng mănh tinh tấn, thanh danh rền khắp), tức là dựa theo giáo hạnh để luận
định Quyền Thật. “Thành tựu thậm thâm vị tằng hữu pháp, tùy
nghi sở thuyết, ư thú nan giải” (Thành tựu
pháp chưa từng có rất sâu, tùy theo lẽ thích đáng
mà nói, khó hiểu nổi ư thú), chính là dựa theo Thể và Dụng để luận
định Quyền Thật. “Ngô tùng thành Phật dĩ
lai” (Kể từ khi ta thành Phật đến nay), thành
Phật là quả, quả ắt có nhân. Đấy chính là
dùng nhân quả để luận định Quyền Thật. Các thứ
nhân duyên, các thứ thí dụ, ngôn giáo rộng diễn, vô số phương
tiện, hướng dẫn chúng sanh ĺa các chấp trước,
tức là luận định Quyền Thật xét theo Tiệm
Đốn. Như Lai phương tiện tri kiến Ba La Mật
đều đă trọn đủ, tức là dựa theo khai hợp
để luận định Quyền Thật. “Như Lai năng chủng
chủng phân biệt, xảo thuyết chư pháp, ngôn từ
nhu nhuyễn, duyệt khả chúng tâm” (Như Lai có thể
dùng các thứ phân biệt để khéo nói các pháp, ngôn từ
mềm mỏng, khiến cho đại chúng đẹp ḷng),
tức là luận định Quyền Thật dựa theo
thông ích và biệt ích. Nói tóm gọn, vô lượng vô biên
pháp chưa từng có, Phật đă đều thành tựu, tức là ba môn Tất Đàn (Thế Giới, Vị
Nhân, Đối Trị) thành tựu. “Chỉ Xá Lợi Phất!
Bất tu phục thuyết” (thôi đi, Xá Lợi Phất!
Chẳng cần phải nói nữa) tức là Đệ Nhất
Nghĩa Tất Đàn. Đó là luận định Quyền Thật
dựa trên Tứ Tất Đàn. “Phật thành tựu pháp
hiếm có, khó hiểu bậc nhất, chỉ có Phật và
Phật mới có thể hiểu rốt ráo Thật Tướng
của các pháp”; đó chính là Lư. Nói “các pháp tướng
như thế” v.v… đấy chính là Sự. Đó chính là
luận định Quyền Thật theo Lư Sự. Đoạn
này nói đại lược năm thứ Quyền Thật
của Phật, vị Phật nào cũng đều như
thế. Phần thứ tư là Dẫn Chứng đă xong.
5) Quy kết mười
pháp trên đây thành ba loại Quyền Thật. Trước
là Thông Kết, sau là Biệt Kết:
- Trước hết,
Thông Kết th́ mười pháp ấy chung cho bốn giáo, hợp thành bốn mươi món Quyền Thật. Như
trong Tam Tạng, tự chứng mười pháp (Lư Sự
Quyền Thật, Lư Giáo Quyền Thật, Giáo Hạnh Quyền
Thật v.v…) th́ gọi là “tự hành Quyền Thật”.
Đă nói ra mười pháp để lợi ích chúng sanh, th́
gọi là “hóa tha Quyền Thật”. Trong mười
pháp giáo hóa người khác, có Thật và Quyền, đều
gộp lại thành Quyền. Tự hành có mười pháp, cũng có Thật và Quyền, đều gộp
thành Thật, gọi chung là “tự hành hóa tha Quyền Thật”.
Đối với mười pháp trong ba giáo kia, đối
với mỗi giáo, đều gộp lại thành ba thứ
Quyền Thật (tức tự hành Quyền Thật, hóa tha
Quyền Thật, và tự hành hóa tha
Quyền Thật) cũng giống như thế (đấy
là thông trong thông). Lại trong mỗi giáo, đều dùng bốn
thứ “Lư Sự, giáo hạnh, phược thoát, nhân quả”
để làm “tự hành Quyền Thật”, dùng hai loại
Lư Giáo và Khai Hợp để làm “hóa tha Quyền Thật”.
Đối với mỗi giáo, đều dùng bốn loại
“Thể Dụng, Tiệm Đốn, Thông Biệt, Tất
Đàn” để làm “tự tha Quyền Thật”. Danh tự
tuy đồng, mỗi thứ đều có ư nghĩa khác biệt
(đó là biệt trong thông).
- Kế đó là biệt
kết. Ba giáo trước (Tạng, Thông, Biệt) dù thông hay biệt,
đều là hóa tha Quyền Thật, do đều nói theo ư
của người khác. Viên Giáo dù thông hay biệt, xét ra
đều là “tự hành Quyền Thật” v́ nói theo ư ḿnh. Ba
món “hóa tha Quyền Thật” dù quyền hay thật, đều
gọi là Quyền, c̣n “tự hành Quyền Thật” đều
gọi là Thật.
Kế đó, lại
kết thành bốn câu. Hễ “nói theo ư của
người khác”, tức là hết
thảy các pháp đều là Quyền. Hễ “nói theo ư ḿnh” tức là hết thảy các pháp đều là Thật. Chấp
nhận cả hai, tức là “hết thảy các pháp vừa
là Quyền, vừa là Thật”. Ngăn trở cả hai (phủ
định cả hai) tức là “hết thảy các pháp chẳng
phải Quyền, chẳng phải Thật”.
Kế đó, kết
thành ba lượt để giải thích phẩm kinh này. Nếu
là tự hành và tự ư th́ phần kinh văn này được
gọi là “đạo tràng
sở đắc pháp” (pháp đạt
được từ đạo tràng, là Thật). Đại
Kinh nói “tu đạo đắc
cố” (do tu đạo
mà đạt được, đó là Quyền). Thâu nhiếp
Đại Thừa, xứng với trí như lư, như lượng (như
lư là Thật, như lượng là Quyền), đều là
tự hành Quyền Thật trong Viên Giáo. Nói theo ư ḿnh, tuy Phật
chẳng thể thuyết pháp nơi ấy, dẫu có thể nói phương tiện, chúng sanh chẳng
thể tiếp nhận. Nếu khởi đầu chỉ
nói pháp này để thâu nhiếp chúng sanh th́ sẽ chẳng thể
được; v́ thế nói là “bất khả
thuyết, bất khả thuyết”.
Gác chuyện này lại,
dùng tự hành Quyền Thật kèm thêm Quyền Thật trong
Biệt Giáo để nhiếp thủ chúng sanh, th́ người đại cơ lợi căn sẽ
trực tiếp chứng đắc, c̣n kẻ độn
căn sẽ phải ṿng vèo mới đạt được.
Tiểu cơ th́ lợi hay độn đều chẳng
đạt được. Đấy chính là ư nghĩa trong
Hoa Nghiêm.
Gác việc ấy lại,
chỉ dùng bán tự Quyền Thật để thâu nhiếp
chúng sanh th́ người đại cơ dù lợi căn
hay độn căn đều ngầm đạt
được, nhưng chẳng đạt được
hiển nhiên. Tiểu cơ th́ lợi căn hay độn
căn chắc chắn cũng đều chẳng đạt
được. Đó chính là ư nghĩa trong Tam Tạng.
Gác chuyện này lại,
dùng chung Quyền Thật của tứ giáo để cùng
nhiếp thủ chúng sanh th́ đại cơ dù lợi
căn hay độn căn sẽ thẳng thừng hay ṿng
vèo mà đạt được, nhưng tiểu cơ th́ lợi
căn hay độn căn đều chắc chắn chẳng
đạt được. Đó là ư nghĩa của thời
Phương Đẳng.
Gác chuyện ấy
lại, xả ba thứ Quyền Thật của Tam Tạng, dùng ba thứ
Quyền Thật (tự hành, hóa tha, tự hành hóa tha) của
Thông, Biệt, Viên để cùng tiếp độ chúng sanh
th́ đại cơ dù lợi căn hay độn căn
đều đạt được. Tiểu cơ dù lợi
hay độn chắc chắn đều chẳng đạt
được. Đó là ư nghĩa
trong thời Bát Nhă.
Gác chuyện ấy
lại, bỏ ba thứ Quyền Thật trước
đó, chỉ dùng tự hành Quyền Thật trong Viên Giáo
để tiếp độ chúng sanh, đại tiểu dù
lợi căn hay độn căn đều đạt
được. Đó là ư nghĩa của thời Pháp Hoa.
Trí huệ của
Như Lai không ǵ chẳng thông đạt, xét rơ thời nghi
có thể sử dụng hay không? V́ thế, giải thích phẩm
này như sau: - Phương là các pháp, Tiện là vận dụng
thiện xảo. Khéo léo dùng phương pháp để tiếp
độ chúng sanh chứng đắc. V́ thế, ân cần
khen ngợi phương tiện (đấy là xét theo chuyện
sử dụng ba loại pháp (tự hành, hóa tha, tự hành
hóa tha Quyền Thật) trong bốn thời trước
(Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhă), sẽ chẳng
thể đạt tới Thật. V́ thế, chỉ trở
thành ư nghĩa sơ khởi để giải thích phẩm
này. Nếu tới thời Pháp Hoa, dẫu gọi là pháp dụng,
vẫn trở thành cách vận dụng pháp bí diệu, cho nên
có thể dùng ư nghĩa ấy để giải thích phẩm
kinh này. Tức là đối với danh xưng “phương
pháp”, trước kia áp dụng cho cả bốn giáo,
đến nay (đến khi nghe phẩm Phương Tiện
này), sẽ chẳng c̣n ba giáo trước nữa).
Lại nữa,
Như Lai tự chứng Quyền Thật đều chẳng
thể nói. Do nghĩ thương chúng sanh, nếu Phật nói
ra tự chứng Quyền [của chính ḿnh] để làm cửa
nẻo, th́ do chẳng phù hợp cơ nghi của chúng sanh,
chúng sanh sẽ chẳng thể tiến nhập. V́ thế,
sự tự chứng nơi Quyền cũng chẳng thể
nói được. Nếu nói Quyền Thật trong Biệt
Giáo để làm cửa nẻo th́ kẻ lợi căn tiến
nhập, kẻ độn căn chẳng thể tiến
nhập được. [Như vậy th́] thời Hoa Nghiêm
chẳng thích hợp căn cơ của chúng sanh. Quyền
Thật trong Biệt Giáo cũng chẳng thể nói. Nói Quyền
Thật của Tam Tạng làm cửa nẻo, người lợi
căn ngầm tiến nhập, kẻ độn căn vẫn
chẳng nhập. [Do vậy], thời Tam Tạng chẳng
thích hợp cơ nghi của chúng sanh, cũng chẳng thể
nói. Nói ba thứ hóa tha Quyền Thật làm cửa nẻo,
người lợi căn ngầm tiến nhập, kẻ
độn căn vẫn chẳng nhập; đó là thời
Phương Đẳng chẳng thích hợp cơ nghi của
chúng sanh, cũng chẳng thể nói! Nói hai loại hóa tha Quyền
Thật làm cửa nẻo, người lợi căn tiến
nhập, kẻ độn căn vẫn chẳng nhập;
[cho nên] thời Bát Nhă cũng chẳng thể nói, v́ chẳng
thích hợp cơ nghi của chúng sanh. Bỏ ba loại hóa
tha Quyền Thật, chỉ nói tự hành Quyền th́ người
lợi căn lẫn kẻ độn căn đều
được nhập. Từ đầu tới cuối,
đều lấy phương tiện làm môn. V́ thế,
Như Lai khen ngợi phương tiện. Giải thích phẩm
này bằng câu “phương tiện là cửa nẻo
để nhập Thật” chính là do ư nghĩa này.
Trong phần trước,
nói rơ Như Lai có thể biết phương tiện, có thể
sử dụng phương tiện; c̣n phần này nói rơ hành
giả có thể tùy thuận phương tiện (trước
hết, dựa theo phương pháp để nói rơ Như
Lai có thể biết, có thể sử dụng phương
tiện. Pháp là cái có thể biết, Dụng là cái có thể
dùng. Chúng sanh chẳng biết đó là phương tiện
của Phật, nay [kinh văn] đều phô bày ra cho chúng
sanh biết. Phần này dạy rơ chúng sanh hăy tùy thuận
phương tiện, tức là từ môn này mà tùy thuận
Thật, nhưng cũng chẳng biết phương tiện
chính là cái Thật để thuận theo. Nay cũng phơi
bày ra. Lại nữa, cả hai chương đều có
hai ư Ứng và Cơ, nhưng chương trước phần
nhiều nói theo Ứng, tức là nói về Như Lai.
Chương sau phần lớn nói theo Cơ, tức là nói
theo phía hành giả. V́ thế, lời ân cần khen ngợi
đều do Phật mà có).
Lại nữa,
Như Lai tự chứng, những điều đạt
được do tu đạo trong hết thảy các
phương tiện đều là chân thật, nhưng sự
chân thật ấy đều chẳng thể nói được.
Dẫu có thể nói ra, chúng sanh chẳng thể ngay lập
tức là Thật (chứng nhập
Thật). Dùng sức phương tiện, kèm theo “bất tức” (chẳng thể chứng nhập) để nói một
thứ “tức”, hàng lợi căn có thể “tức” (chứng nhập), độn
căn chẳng thể “tức”. Hoa Nghiêm lại thuần
nói về một thứ “bất tức” (chẳng phải
Quyền, chẳng phải Thật), hàng lợi căn bèn ngầm
“tức”, độn căn chẳng “tức”. Tam Tạng (Tạng
Giáo) lại kèm thêm ba món “bất tức” (chẳng nói đến
“tức Không, tức Giả, tức Trung”) để nói một
món “tức” (nói giáo pháp Tam Tạng tức là Thật), kẻ
lợi căn có thể “tức”, độn căn chẳng
“tức”. Phương Đẳng lại kèm thêm hai thứ
“bất tức” (chẳng chấp vào Nhị Biên, chẳng
chấp các pháp tức là Thật, hay tức là Quyền)
để nói một thứ “tức” (bản thể các pháp tức là Không), kẻ lợi
căn có thể tức, hàng độn căn chẳng tức.
Bát Nhă lại phế bỏ ba thứ “bất tức”, thuần
nói “hết thảy tức” (hết thảy các pháp tức là Không, ngay cả cái Không
ấy cũng là Không), lợi căn và độn
căn đều có thể “tức”, từ nơi
phương tiện mà được thấy chân thật.
Pháp Hoa th́ có hai ư:
- Dùng phương
tiện từ ngay trong phương tiện, đó là một
ư.
- Phương tiện
tức là chân thật, chân thật tức là viên nhân (cái nhân
viên măn), viên nhân tức là phương tiện để tự
hành.
Tự hành
phương tiện như thế, nay mới chứng nhập.
V́ thế, để giải thích phẩm này, bèn nói: “Phương là Bí, Tiện là Diệu, khéo
thông đạt các phương pháp th́ chính là bí mật thật
sự. Do tự hành phương tiện mà có danh xưng ấy.
V́ thế nói là phẩm Phương Tiện!” Phần thứ
năm, “gộp mười nghĩa thành ba loại Quyền
Thật” đă xong.
6) Phân biệt
hai thứ Quyền Thật để chiếu ba loại Nhị
Đế:
Trong phần trước
đă từ Thông và Biệt để quy kết Quyền
và Thật (Thông gồm mười cặp, mỗi cặp
đều có ba loại Quyền Thật. Biệt th́ có bốn
tự (tức bốn loại tự hành Quyền Thật),
hai tha (hai món hóa tha Quyền Thật) và bốn món “cùng tự
và tha”, tức tự hành hóa tha Quyền Thật). Nay vẫn
dựa theo trí chiếu ấy, sẽ dễ thấy ư
nghĩa. Nếu đều dùng mười loại để
giảng rơ chuyện tự hành hai trí (Quyền Trí và Thật
Trí) th́ sẽ là chiếu Nhị Đế (Tục Đế
và Chân Đế) thuận theo trí. Nếu đều dùng
mười pháp ứng hợp với các duyên, th́ sẽ là chiếu Nhị Đế thuận theo t́nh kiến.
Nếu “gom bốn thành hai” th́ chính là chiếu Nhị Đế
thuận theo trí và t́nh (trong mỗi giáo, đều gộp bốn
điều (“tức là Quyền”, “tức là Thật”, “vừa
là Quyền vừa là Thật”, “chẳng phải Quyền chẳng
phải Thật”) thành hai loại, tức là đối với
tự hành Quyền Thật đều gom vào Thật, hóa tha
Quyền Thật đều gom vào Quyền. Do vậy, chỉ
thành hai. Đó “thông trong thông” vậy).
Nếu tách ra để
chiếu Đế th́ [các môn] Sự Lư, Giáo Hạnh, Phược
Thoát, Nhân Quả đều là tự chứng, tức là chiếu
Nhị Đế thuận theo trí. Lư Giáo và Khai Hợp, hai
môn này thuộc về Hóa Tha, tức là chiếu Nhị Đế
thuận theo t́nh kiến. Thể Dụng, Tiệm Đốn,
Phân Biệt, Tất Đàn, bốn môn ấy
đều chung cho tự và tha, tức
là chiếu Nhị Đế thuận theo trí và t́nh (đó là
biệt trong thông).
Lại gộp chung
th́ Tam Tạng Giáo có ba mươi loại Nhị Trí (Thật
Trí và Quyền Trí), tức là hai loại trí để giáo hóa
người khác, tức là thuận
theo t́nh kiến mà chiếu Nhị Đế. Thông Giáo
và Biệt Giáo cộng lại có sáu mươi loại Nhị
Trí, tức là tự tha Nhị Trí chiếu Nhị Đế thuận theo t́nh
và trí. Thông Giáo th́ có lúc giống như Tam Tạng trong phần
trước mà chiếu Nhị Đế thuận theo t́nh
kiến, c̣n ba mươi loại Nhị Trí của Biệt
Giáo là tự tha Nhị Trí, chiếu Nhị Đế thuận
theo t́nh và trí (Trước là thâu nhiếp
Thông Giáo thành “tự tha”, do có thể thông với Biệt
Giáo và Viên Giáo. Thông Giáo là sơ môn của Đại Thừa.
Kế đó, phán định Thông Giáo chỉ là Tha, do trong
giáo ấy, chẳng nói đến lư Trung Đạo, giống
như sự đoạn diệt trong Tạng Giáo). Chỉ
có ba mươi thứ Quyền Thật trong Viên Giáo chính là
tự hành nhị trí, chiếu Nhị Đế thuận theo trí.
Lại nữa, ba giáo dù Thông hay Biệt (vẫn là nói: Đối
với mười cặp thuộc Thông, th́ trong mười
cặp, mỗi cặp đều có ba loại (tự hành,
hóa tha, và tự hành hóa tha). Xét theo Biệt, sẽ có bốn cặp là tự hành, hai cặp
là hóa tha v.v…) đều nhằm thích ứng duyên, đều
là hóa tha nhị trí, chiếu Nhị Đế thuận theo t́nh
kiến. Viên Giáo dù thông hay biệt đều là tự hành
Nhị Trí, tức là chiếu Nhị Đế thuận theo trí. Gộp chung Quyền Thật của ba giáo (Tạng,
Thông, Biệt) th́ đều là Quyền,
c̣n Quyền Thật của Viên Giáo đều là Thật. Đấy chính là tự tha hai trí, chiếu Nhị
Đế thuận theo t́nh và trí. Phần sáu, “phân
biệt Quyền Thật chiếu Nhị Đế” đă
xong.
7) Bảy là dựa
theo các kinh để phán định Quyền Thật:
Trước hết
là Hoa Nghiêm, luận theo giáo th́ chỉ là
măn tự. Luận về thời, chỉ là sữa. Luận
về pháp, chỉ là một tự hành [Quyền Thật] và
một hóa tha [Quyền Thật]. Luận về người
(đối tượng tiếp nhận) chỉ là Bồ
Tát, chứ hàng Nhị Thừa như điếc, như
câm. Nay kinh văn nói: “Vị tằng hướng nhân thuyết
như thị sự dă” (Chưa từng hướng về
người khác nói chuyện như thế).
Kế đó là Tam Tạng (thời A Hàm), luận về
giáo, chỉ là bán tự. Luận về thời, th́ là lạc.
Luận về pháp th́ là một loại hóa tha. Luận về
người, chỉ là Nhị Thừa. Kinh này nói: “Trụ
lập môn ngoại, trước tệ cấu y, chấp trừ
phẩn khí dă” (đứng ở
ngoài cửa, mặc áo xấu dơ, cầm dụng cụ
dọn phân).
Kế đến
là Phương Đẳng. Luận về giáo, đối với
bán tự mà nói măn tự. Luận về thời, cùng nói
đến lạc và tô. Luận về
pháp, có ba loại hóa tha [Quyền Thật], một loại tự
hành [Quyền Thật]. Luận về người th́ là tiểu
căn hâm mộ Đại Thừa. Nay kinh này nói: “Tâm
tương thể tín, nhập xuất vô nan dă” (Tâm dần
dần hiểu biết, tin tưởng, ra vào chẳng khó
khăn).
Kế đó là Bát
Nhă, luận về giáo th́ kèm theo bán tự để nói về
măn tự. Luận về thời, kèm sanh tô và thục tô. Luận
về pháp, có hai loại hóa tha, một loại tự hành.
Luận về người, th́ Đại giúp cho Tiểu,
Tiểu dạy Đại. Nay kinh này nói: “Xuất nạp,
thủ dữ, giai sử linh tri dă” (giao ra, thâu vào, nhận
lấy, ban cho, đều khiến cho hiểu biết).
Nay thời Pháp Hoa,
luận về giáo th́ là phế bán tự, nói măn tự. Luận
về thời, thuần là đề hồ. Luận về
pháp, chỉ có tự hành. Luận về người, “thử
thật thị ngă tử, ngă chi sở sanh, ngă thật thị
phụ, phó dĩ gia nghiệp, thọ kư tác Phật”
(đây thật sự là con ta, do ta sanh ra, ta thật sự
là cha nó. Giáo phó gia nghiệp cho nó, thọ kư sẽ thành Phật).
Những điều các giáo trước chẳng nói, nay
đều tuyên thuyết, chánh trực xả
phương tiện, chỉ nói đạo vô thượng.
V́ thế, tự hành Quyền được gọi là phẩm
Phương Tiện. Những điều khác hoặc là tự
tha nhị trí, hoặc hóa tha nhị trí (có thể là đối
với ba điều Giáo, Hạnh, Lư, trước đó
đă thấu hiểu; nhưng chuyện khơi mở cho người khác (tức
chuyện khai Quyền hiển Thật, hội tam quy nhất)
th́ các giáo (các giáo pháp trước thời Pháp Hoa) đều
chẳng có).
Lại nữa, Hoa
Nghiêm đối với hai loại Bồ Tát, nói một tự
(tự hành Quyền Thật) và một tha (hóa tha Quyền Thật),
chẳng màng hàng Nhị Thừa không nghe, không hiểu. Tam Tạng
th́ đối với Nhị Thừa nói một phép hóa tha
Quyền Thật, chẳng màng tới hàng Bồ Tát. V́ thế, chẳng có
tự hành Quyền Thật. Phương Đẳng đối
ứng cả Tiểu và Đại. Đối với Nhị
Thừa, bèn nói hai loại hóa tha Quyền Thật. Đối với
Bồ Tát th́ nói một tự hành Quyền Thật, một
hóa tha Quyền Thật. Bát Nhă th́ đối với Nhị
Thừa nói một hóa tha Quyền Thật, đối với
Bồ Tát th́ nói một tự hành Quyền Thật, một
hóa tha Quyền Thật. Pháp Hoa đối ứng trọn khắp
những người căn cơ đă chín muồi, chỉ
nói một tự hành Quyền Thật,
chẳng c̣n có hóa tha Quyền Thật. Kinh văn nói: “Bồ
Tát văn thị pháp, nghi vơng giai dĩ trừ, thiên nhị
bách La Hán, tất diệc đương tác Phật” (Bồ
Tát nghe pháp này, lưới nghi đều đă trừ, ngàn
hai trăm La Hán, cũng đều sẽ thành Phật). Hết
thảy chúng sanh đều đă nhập phương tiện
tự hành. V́ thế, có tên là phẩm Phương Tiện.
Phần thứ bảy, “dựa theo các kinh để
phán định Quyền Thật” đă xong.
8) Xét theo Bổn
Tích để phán định Quyền Thật:
Nơi Bổn địa, Như Lai từ lâu đă chứng đắc hết
thảy Quyền Thật, gọi là tự hành Quyền Thật.
Trong chặng giữa, thị hiện dấu tích, cũng chỉ
nói kèm thêm. Ngày nay, thị hiện dấu tích nơi Tịch
Diệt đạo tràng, kèm theo hóa tha Quyền Thật của
Biệt Giáo để nói đến tự hành Quyền Thật.
Kế đó, nói một thứ hóa tha Quyền Thật, sau
đó nói tam thừa, kế đó nói hai loại hóa tha Quyền
Thật, rồi lại nói “phế trừ tam thừa”
v.v… đều gọi là “hóa tha Quyền Thật”. Gom lại
th́ Quyền Thật nơi Bổn được gọi chung là Thật. Gom lại Quyền Thật
nơi Tích được gọi chung là
Quyền; tức là tự tha hợp Quyền Thật (tự
hành hóa tha Quyền Thật). Kết lại điều này, sẽ thành bốn câu: “Hết thảy là Thật”,
“hết thảy là Quyền”, “hết thảy vừa
là Quyền vừa là Thật”, “hết thảy chẳng
phải Quyền, chẳng phải Thật”.
Nơi Bổn, ngài Xá Lợi Phất đă chứng hết thảy Quyền
Thật, tức là tự hành Quyền Thật. Nơi Tích,
th́ tại Lộc Uyển, Ngài chỉ lănh nhận hóa tha Quyền
Thật. Trong thời Phương Đẳng, kẻ chấp
vào một thừa (Tiểu Thừa), sẽ bị ba thừa
chiết phục. Trong thời Bát Nhă, dùng hai thừa kia (Bồ
Tát Thừa và Duyên Giác Thừa) để chuyển một
thừa (Thanh Văn Thừa). Tới thời Pháp Hoa, phế
ba thừa, ngộ nhất thừa (Phật Thừa), đều là hóa
tha Quyền Thật. Gom Quyền Thật nơi Bổn làm
Thật, gom Quyền Thật nơi Tích làm Quyền, tức
là tự tha Quyền Thật, có thể biết là cũng trọn
đủ bốn câu. Nếu nói theo Tích của Phật th́
cũng là hóa tha Quyền Thật, cũng gọi là phẩm
Phương Tiện. Nếu xét từ chuyện dẫn nhập viên nhân để tự hành th́ cũng là phẩm
Phương Tiện. Nếu xét theo Quyền nơi Tích của
Xá Lợi Phất th́ cũng là phẩm Phương Tiện.
Nếu từ Tích của ngài Xá Lợi Phất mà nhập Thật
th́ cũng là phẩm Phương Tiện. Do các nghĩa
như thế mà gọi là phẩm Phương Tiện.
2.1. Nói thẳng vào phần Tích Môn
Chia làm hai phần:
- Từ phần
kinh văn hiện thời cho đến “đại sanh
hoan hỷ” (sanh hoan hỷ to lớn) chính là đại
lược chỉ ra tam thừa để hiển lộ
Nhất Thừa; do [hàng Thanh Văn] dấy động chấp
trước bèn sanh nghi.
- Kế đó, từ
“nhĩ thời, Thế Tôn cáo Xá Lợi Phất: - Nhữ
dĩ ân cần tam thỉnh, khởi đắc bất thuyết”
(lúc bấy giờ, Thế Tôn bảo Xá Lợi Phất: -
Ông đă ân cần thỉnh cầu ba lượt, há chẳng
thể không nói) cho đến phẩm Thọ Học Vô Học
Nhân Kư chính là nói rộng về chuyện “khai tam thừa,
hiển lộ Nhất Thừa” ḥng đoạn nghi
sanh tín.
2.1.1. Đại lược chỉ
ra tam thừa để hiển lộ Nhất Thừa,
[hàng Thanh Văn] dấy động chấp trước bèn
sanh nghi
2.1.1.1. Đại lược chỉ
ra tam thừa, ḥng hiển lộ Nhất Thừa
2.1.1.1.1. Trường hàng và trùng tụng
tán thán hai trí của Phật
2.1.1.1.1.1. Trường Hàng
2.1.1.1.1.1.1. Dựa vào ngôn từ
để tán thán hai trí
2.1.1.1.1.1.1.1. Nêu ra hai trí Quyền Thật
của chư Phật
2.1.1.1.1.1.1.1.1. Tán thán hai trí Quyền
Thật
(Kinh) Nhĩ thời,
Thế Tôn tùng tam-muội an tường nhi khởi, cáo Xá Lợi
Phất: - Chư Phật trí huệ thậm thâm vô lượng,
kỳ trí huệ môn nan giải, nan nhập, nhất thiết
Thanh Văn, Bích Chi Phật sở bất năng tri.
(經)爾時世尊。從三昧安詳而起。告舍利弗。諸佛智慧。甚深無量。其智慧門。難解難入。一切聲聞辟支佛所不能知。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, đức Thế Tôn từ tam-muội an tường
mà khởi, bảo Xá Lợi Phất: - Trí huệ của
chư Phật rất sâu vô lượng, môn trí huệ ấy
khó hiểu, khó nhập, hết thảy Thanh Văn, Bích Chi
Phật đều chẳng thể biết).
“Nhĩ thời”
là lúc ngài Văn Thù đă
trả lời câu hỏi xong. Đức Phật thường
ngự trong Định, sao lại nói là “khởi”? Ở
đây, có sự thị hiện. Các vị cổ Phật khi
nói kinh này, ắt trước hết nhập Vô Lượng
Nghĩa, tức là nhập Pháp Hoa. Nay đức Phật
[Thích Ca] cũng vậy, đó là thể hiện Thế Giới
Tất Đàn. Xót thương từ Định khởi,
quán lư, quán cơ, đôi đằng đều suy xét kỹ càng, ắt nói chẳng
sai lầm, tăng trưởng tín tâm của chúng sanh.
Đó là thể hiện Vị Nhân Tất Đàn. Xót
thương từ Định khởi, Phật tịch mà
thường chiếu, [thế mà] vẫn cần phải nhập
Định rồi mới thuyết pháp, huống hồ kẻ
tán tâm lại toan nói xằng bậy
ư? Đấy là thể hiện Đối Trị Tất
Đàn. Xót thương từ Định khởi, nhập
Định duyên theo lư, tâm an trụ trong Thật Tướng,
xuất Định bèn khiến cho kẻ khác an
trụ cái tâm nơi Thật Tướng. Đó là chỉ bày
Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn. Xót thương từ
Định khởi, an trụ trong bốn pháp ấy, cho nên
nói là “an tường nhi khởi” (tứ giáo đều
có Tứ Tất Đàn, nay cần phải xét tách bạch từng giáo
để hiển lộ sự viên măn).
“Cáo Xá Lợi Phật”
(bảo Xá Lợi Phất) v́ Ngài là người trí huệ bậc
nhất trong hàng Tiểu Thừa, muốn nhờ vào đó để
phá trí huệ Tiểu Thừa, ḥng hiển lộ trí huệ
Đại Thừa. Đó chính là lời giới thiệu của
người kết tập kinh.
Hỏi: “Cáo Xá Lợi
Phất” ở đây có ǵ khác biệt với Đại
Phẩm [Bát Nhă][15]?
Đáp: Sao lại
chỉ có Đại Phẩm? Bắt đầu từ Tứ
A Hàm cho đến cuối cùng trong kinh này, chỗ nào
cũng đều bảo, nhưng mỗi chỗ
đều khác nhau. Trong Tứ A Hàm, hoặc là v́ phát khởi
sanh diệt pháp luân cho nên bảo [Xá Lợi Phất]. Thời
Phương Đẳng th́ do bài xích [các pháp thiên tiểu] cho nên bảo. Thời Bát Nhă do tăng thêm nên bảo. Kinh
này v́ khai tam hiển nhất (vạch ra tam thừa là quyền
biến, hiển lộ Nhất Thừa mới là chân thật)
cho nên bảo. Trong
luận, ngài Thiên Thân có nói: “Bảo Thân Tử mà chẳng
nói với các vị Thanh Văn khác, là v́ [Xá Lợi Phất]
trí huệ sâu xa. Chẳng nói với các vị Bồ Tát là v́
có năm điều: Một, do đây là chuyện phải
làm của hàng Thanh Văn. Hai, do hồi hướng đại Bồ Đề. Ba, khiến cho họ
chẳng khiếp nhược. Bốn, khiến cho các
người khác phát khởi sự suy nghĩ tốt lành.
Năm, khiến cho họ chẳng dấy khởi cái tâm việc
làm đă xong”. Hăy nên biết năm ư ấy đều
chẳng giống các kinh khác. Trước hết là hiển
lộ giáo, chẳng nói “Thanh Văn được nhập
trí huệ của Phật”.
“Chư Phật
trí huệ thậm thâm vô lượng” (trí huệ của
chư Phật rất sâu vô lượng): Tán thán Thật
Trí, chẳng phải là ba loại hóa tha Quyền Thật. V́
thế nói là “chư Phật”. Nhằm chỉ rơ Thật
nơi tự hành, cho nên nói là “trí
huệ”. Đó là cái Thể của trí huệ, tức là
nhất tâm tam trí. Theo chiều dọc, thấu triệt nguồn
cội như Lư, nên nói là “thậm
thâm” (rất sâu). Theo chiều ngang, tột cùng bờ mé của
pháp giới, nên nói là “vô lượng”. Đấy là từ
ngữ ca ngợi. Vô lượng rất sâu, cao sâu, rộng
khắp. Ví như rễ sâu, ắt cành nhánh sum suê; nguồn
xa, ắt
gịng chảy sẽ dài. Thật Trí đă như thế, Quyền
Trí cũng giống như thế.
“Kỳ trí huệ
môn nan giải, nan nhập” (môn trí huệ ấy khó hiểu,
khó nhập): Tán thán Quyền Trí. Tiền phương tiện
của tự hành đạo có sức tiến nhập, nên
gọi là Môn (đó là cái nhân chân thật của bốn
mươi địa vị). Từ Môn mà nhập đạo
([đạt đến] quả vị Diệu Giác); thuộc
về đạo th́ gọi là Thật, trước khi nhập
đạo th́ là Quyền (đây là xét theo nhân quả để
luận Quyền Thật trong mười cặp, tức Sự Lư, Lư Giáo v.v… trong phần trước).
Thập Trụ mới hiểu được, v́ thế là
“nan giải” (khó hiểu). Do Thập Địa
mới nhập, nên là “nan nhập”,
chẳng phải là kẻ thuộc bảy phương tiện
có thể suy lường. Đấy chính là từ ngữ
tán thán Quyền, nhưng riêng nêu “Thanh Văn và Bích Chi Phật
chẳng thể biết” v́ họ chấp trước nặng
nề, cho nên riêng phá trước
(Nhị Thừa thuộc Tạng Giáo và Thông Giáo, Bồ Tát
trong Thông Giáo, Tam Hiền của Biệt Giáo, Thập Tín
trong Viên Giáo, được gọi chung là “thất
phương tiện”). Đối với bổn ư
nơi Pháp Thân, vốn phải dùng Tự Hành Quyền Thật
để xét, không căn cơ nào thoát khỏi. V́ thế
nói là “bất tri” (chưa kết duyên th́ gọi là Pháp
Thân. Sau khi đă kết duyên th́ gọi là “vô cơ”).
Hoa Nghiêm đốn chiếu, [hàng Nhị Thừa] như
điếc, như câm; v́ thế nói “không biết”.
Phương Đẳng quở trách, bài xích [hàng Tiểu Thừa chấp
trước pháp thiên tiểu] chỉ giữ ư niệm thanh tu cho
riêng ḿnh. V́ thế nói “chẳng biết”. Bát Nhă chuyển
giáo[16],
chẳng có tâm mong cầu, nên nói “chẳng biết”. Nay
căn cơ Đại Thừa đă được
khơi gợi, phát khởi, phóng quang chấn động
cơi đất, đạo của chư Phật trong cơi này,
cơi kia, dù xưa hay nay, đều giống như nhau! Do ôm ḷng nghi hoặc,
cho nên nói là “không biết”. Hàng lợi căn Bồ Tát
thấu hiểu từng điều, c̣n độn căn
th́ giống như Nhị Thừa; đó cũng là “chẳng
biết!”
2.1.1.1.1.1.1.1.2. Cùng giải thích Quyền
và Thật
(Kinh) Sở
dĩ giả hà? Phật tằng thân cận bách thiên vạn
ức vô số chư Phật, tận hành chư Phật vô
lượng đạo pháp, dũng mănh tinh tấn, danh xưng
phổ văn.
(經)所以者何。佛曾親近百千萬億無數諸佛。盡行諸佛無量道法。勇猛精進。名稱普聞。
(Kinh: V́ cớ
sao vậy? Phật từng thân cận trăm ngàn vạn ức
vô số chư Phật, hành trọn hết vô lượng
đạo pháp của chư Phật, dũng mănh tinh tấn,
danh xưng vang rền trọn khắp).
“Phật tằng
thân cận…” (Phật từng thân cận): Giải thích
Thật Trí. Ấy là v́ ngoài th́ gặp gỡ nhiều vị
Phật, nhận lănh những điều trọng yếu tột
cùng. V́ thế, Thật Trí rất sâu. Lại do trong th́ tu
hành thuần hậu, hành trọn hết các đạo pháp.
V́ thế, Thật Trí vô lượng. “Vô lượng”:
Giải thích theo chiều cao bèn rộng răi. “Thậm thâm” (rất sâu): Giải thích theo
chiều dọc th́ cao tột. “Dũng mănh tinh tấn…” là giải thích Quyền Trí. Ấy là v́ dũng mănh tinh
tấn bèn có thể nhập môn khó nhập. Đă nhập môn, sẽ
được nhuần thấm không ngằn mé, chúng sanh
đều khâm ngưỡng đức thù thắng; cho nên gọi là “phổ
văn” (nghe trọn khắp); cũng có thể hiểu
là “do dũng mănh tinh tấn
th́ có thể nhập pháp môn”, tức là giải
thích Quyền Trí sâu xa. “Danh xưng phổ văn” tức
là Quyền Trí rộng răi. Tuy chẳng nói “Quyền Trí rộng
sâu”, nhưng cứ phỏng theo Thật Trí th́ nghĩa ấy
sẽ thành tựu.
2.1.1.1.1.1.1.1.3. Cùng kết lại hai trí
(Kinh) Thành tựu
thậm thâm vị tằng hữu pháp, tùy nghi sở thuyết,
ư thú nan giải.
(經)成就甚深未曾有法。隨宜所說。意趣難解。
(Kinh: Thành tựu
pháp rất sâu chưa từng có, tùy theo cơ nghi mà nói, ư thú
khó hiểu).
Xứng lư rốt ráo, cho nên nói là “thành
tựu”. Đạt đến bờ kia, nên nói là “thậm
thâm” (rất sâu). Đó là tiểu kết về Thật
Trí. Tương xứng căn cơ khiến cho họ lănh hội, cho nên nói là “tùy nghi”. [Những
người thuộc] bảy phương tiện chẳng
biết, v́ thế nói là “nan giải” (khó hiểu). Đó là tiểu
kết về Quyền Trí. Hoặc có thể nói “thành tựu
thậm thâm vị tằng hữu pháp” (thành tựu pháp
chưa từng có rất sâu) là tiểu kết về tự
hành Quyền Thật. “Tùy nghi sở thuyết, ư thú nan giải” (thuận theo cơ nghi mà nói, ư thú
khó hiểu) là tiểu kết về hóa tha Quyền Thật. Tự
hành Quyền Thật th́ đều gọi là Thật. Hóa tha
Quyền Thật th́ đều gọi là Quyền. Phần
thứ nhất, “nói về Quyền Thật
của chư Phật” đă xong.
2.1.1.1.1.1.1.2. Nói về Quyền Thật
của Phật Thích Ca
2.1.1.1.1.1.1.2.1. Cùng tán thán Quyền Thật
(Kinh) Xá Lợi
Phất! Ngô tùng thành Phật dĩ lai, chủng chủng nhân
duyên, chủng chủng thí dụ, quảng diễn ngôn giáo,
vô số phương tiện, dẫn đạo chúng sanh, linh ly chư
trước.
(經)舍利弗。吾從成佛已來。種種因緣。種種譬喻。廣演言教。無數方便。引導眾生令離諸著。
(Kinh: Này Xá Lợi
Phất! Ta từ khi thành Phật đến nay, dùng các thứ
nhân duyên, các thứ thí dụ, rộng diễn ngôn giáo, vô số
phương tiện để hướng dẫn chúng sanh
ĺa khỏi các chấp trước).
[Nếu] Thật Trí chẳng
viên măn, Phật đạo sẽ chẳng thành! Đă nói “thành
Phật” th́ một thành, hết thảy đều thành,
tức là tán thán Thật Trí. Từ câu “chủng chủng
nhân duyên” (các thứ nhân duyên) trở đi, tán thán Quyền
Trí. Hơn bốn mươi năm, dùng ba loại hóa tha Quyền
Thật ḥng phù hợp căn cơ, khiến cho chúng
sanh lănh hội. V́ thế nói “các thứ nhân duyên”.
“Thí dụ” là như các tỷ dụ cây chuối, bọt
nước v.v… trong Tiểu Thừa, hoặc các thí dụ
thành Càn Thát Bà, huyễn sự v.v… trong Đại Thừa. “Quảng
diễn” là có thể từ một pháp nói ra vô lượng
nghĩa. “Vô số phương tiện” tức là bảy
loại phương tiện. “Dẫn đạo”: Diễn
nói “tán Thập Thiện” ḥng ĺa chấp trước
tam đồ. Nói “tịnh Thập Thiện” ḥng ĺa chấp
trước Dục Giới. Nói Tam Tạng ḥng ĺa chấp
trước Kiến Tư. Nói pháp Bồ Tát để ĺa chấp
trước Niết Bàn. Nói Phật pháp để ĺa chấp
trước thuận đạo pháp ái[17].
2.1.1.1.1.1.1.2.2. Cùng giải thích Quyền
Thật
(Kinh) Sở
dĩ giả hà? Như Lai phương tiện tri kiến
Ba La Mật, giai dĩ cụ túc.
(經)所以者何。如來方便知見波羅蜜。皆已具足。
(Kinh: V́ lẽ
nào vậy? Phương tiện tri kiến Ba La Mật của
Như Lai đều đă đầy đủ).
Hai chữ Như
Lai nhằm nói đến Thật Trí. Từ trong Chân Như
Thật Tướng mà được thành Phật, cho nên gọi
là Như Lai. Hai chữ “phương tiện” nhằm
giải thích Quyền Trí. Do phương tiện thiện xảo,
cho nên có thể dùng các thứ nhân duyên, các thứ thí dụ
để diễn nói rộng răi các ngôn giáo. Tri kiến Ba La
Mật chính là cùng nêu lên Quyền và Thật. “Tri kiến”:
Nhất Thiết Chủng Trí được gọi là Thật
Tri (實知). Phật nhăn gọi
là Thật Kiến. Đạo Chủng Trí gọi là Quyền
Tri (權知). Pháp Nhăn gọi
là Quyền Kiến. Do đều cùng đạt đến bờ mé của Lư
Sự, cho nên đều gọi là Ba La Mật. “Giai dĩ cụ
túc” (đều đă trọn đủ): Quyền lẫn
Thật đều rốt ráo.
2.1.1.1.1.1.1.2.3. Cùng tổng kết Quyền
Thật
(Kinh) Xá Lợi
Phất! Như Lai tri kiến quảng đại thâm viễn,
vô lượng, vô ngại, lực, vô sở úy, Thiền
Định, giải thoát, tam-muội, thâm nhập vô tế,
thành tựu nhất thiết vị tằng hữu pháp.
(經)舍利弗。如來知見。廣大深遠。無量。無礙。力無所畏。禪定解脫。三昧。深入無際。成就一切未曾有法。
(Kinh: Này Xá
Lợi Phất! Tri kiến của Như Lai rộng lớn,
sâu xa, vô lượng, vô ngại, lực, vô sở úy, Thiền
Định, giải thoát, tam-muội, thâm nhập chẳng
ngằn mé, thành tựu hết thảy các pháp chưa từng
có).
“Quảng đại”
(rộng lớn) là nói theo chiều ngang, “thâm viễn”
(sâu xa) là nói theo chiều dọc. Thật Trí chẳng phải
dọc, chẳng phải ngang. Mượn lời khen ngợi
theo chiều dọc lẫn chiều ngang, [ḥng diễn tả
ư] chiếu soi chẳng có cùng cực, giống như hộp
to th́ nắp to. “Vô lượng”: Địa vị Phật
là đại từ bi hỷ xả. “Vô ngại” là tứ
biện tài nơi địa vị Phật. “Lực”
là Thập Lực thuộc địa
vị Phật. “Vô sở úy” là tứ vô sở úy thuộc
địa vị Phật. “Thiền” là Thật Tướng
Thiền. “Định” là Thủ Lăng Nghiêm Định.
“Tam-muội” là vương tam-muội. “Thâm nhập
vô tế” (Thâm nhập chẳng ngằn mé) là tổng kết
Quyền Trí theo chiều dọc sâu xa. “Thành tựu nhất
thiết vị tằng hữu pháp” (thành tựu hết
thảy các pháp chưa từng có): Tổng kết Quyền
Trí theo chiều ngang rộng lớn. Phần thứ nhất, “nhờ vào ngôn từ
để tán thán hai trí” đă xong.
2.1.1.1.1.1.2. Ngăn dứt ngôn từ
tán thán hai trí
2.1.1.1.1.1.2.1. Nêu ra duyên do ngăn dứt
sự tán thán
2.1.1.1.1.1.2.1.1. Thẳng thừng nêu
ra duyên do ngăn dứt sự tán thán
(Kinh) Xá Lợi
Phất! Như Lai năng chủng chủng phân biệt, xảo
thuyết chư pháp, ngôn từ nhu nhuyễn, duyệt khả
chúng tâm.
(經)舍利弗。如來能種種分別。巧說諸法。言辭柔軟。悅可眾心。
(Kinh: Này Xá
Lợi Phất! Như Lai có thể phân biệt các thứ,
khéo nói các pháp, lời lẽ mềm mỏng, đẹp ḷng
đại chúng).
“Chủng chủng
phân biệt xảo thuyết chư pháp” (các thứ phân
biệt, khéo nói các pháp) là nhắc lại Quyền. “Ngôn từ
nhu nhuyễn duyệt khả chúng tâm” (lời lẽ mềm
mỏng, đẹp ḷng đại chúng) là nhắc lại
Thật. Kinh văn trong đoạn trước [trần
thuật chuyện từ trong quang minh] thấy nơi các cơi khác, [chư Phật] nói đốn pháp, có nói [chư Phật] “phát ra âm thanh mềm
mỏng”. Kinh văn trong phần sau chép ngài Thân Tử (Xá
Lợi Phất) lănh ngộ, bèn thưa “văn
Phật nhu nhuyễn âm” (nghe âm thanh mềm mỏng của
đức Phật). V́ thế nói là “cử Thật”
(nêu ra Thật) th́ tâm đại chúng do đạt được
Thật mà vui sướng. Trong phần trước, đă
cậy vào ngôn từ để tán thán, trước là Thật,
sau là Quyền, nhằm chỉ rơ từ Thật mà dẫn khởi
Quyền. Nay chấm dứt lời tán thán bằng ngôn từ
[theo thứ tự] “trước Quyền, sau Thật” là v́ muốn
gom Quyền về Thật.
2.1.1.1.1.1.2.1.2. Nêu ra cảnh dứt bặt
ngôn từ
(Kinh) Xá Lợi
Phất! Thủ yếu ngôn chi, vô lượng vô biên vị
tằng hữu pháp, Phật tất thành tựu.
(經)舍利弗。取要言之。無量無邊未曾有法。佛悉成就。
(Kinh: Này Xá
Lợi Phất! Nói tóm lại, vô lượng vô biên các pháp
chưa từng có, Phật đều
thành tựu).
“Thủ yếu”:
Nêu bày đầu mối, c̣n nói “nêu đại lược”.
“Vô lượng vô biên” là nói đến Quyền. “Vị
tằng hữu pháp” (pháp chưa từng có) là nói về
Thật. Nói hai chuyện ấy Phật đă đều
thành tựu, do tu đạo mà đạt được
th́ chuyện ấy có thể nói. Nếu chỉ nói một
chuyện, ắt chẳng nên nói là “tất” (悉, đều). “Tất” tức là nói cả
Quyền lẫn Thật đều chẳng thể nghĩ
bàn. Phần thứ nhất, nêu lên nguyên do dứt bặt lời
tán thán đă xong.
2.1.1.1.1.1.2.2. Thẳng thừng
ngăn dứt sự tán thán bằng ngôn từ
2.1.1.1.1.1.2.2.1. Dứt bặt sự
tán thán bằng ngôn từ
(Kinh) Chỉ,
Xá Lợi Phất! Bất tu phục thuyết.
(經)止。舍利弗。不須復說。
(Kinh: Thôi!
Xá Lợi Phất! Đừng nên nói nữa).
Pháp này sâu xa, vắng
lặng, ngôn ngữ dứt bặt, Thể chẳng thể
nói được. V́ thế, [thốt lời] ngăn trở
để tán thán. Nếu từ bi giảng nói, nghe rồi
chẳng thể hiểu, sẽ tổn
thương thiện căn. V́ thế, ngăn trở
[đừng thưa hỏi nữa].
2.1.1.1.1.1.2.2.2. Giải thích ư ngăn
trở tán thán
(Kinh) Sở
dĩ giả hà? Phật sở thành tựu đệ nhất
hy hữu nan giải chi pháp, duy Phật dữ Phật, năi
năng cứu tận chư pháp Thật Tướng. Sở
vị: Chư pháp như
thị tướng, như thị tánh, như thị thể,
như thị lực, như thị tác, như thị nhân,
như thị duyên, như thị quả, như thị báo,
như thị bổn mạt cứu cánh đẳng.
(經)所以者何。佛所成就第一希有難解之法。唯佛與佛。乃能究盡諸法實相。所謂諸法如是相。如是性。如是體。如是力。如是作。如是因。如是緣。如是果。如是報。如是本末究竟等。
(Kinh: V́ lẽ
nào vậy? Phật đă thành tựu pháp hiếm có, khó hiểu
bậc nhất, chỉ có Phật và Phật mới có thể
thấu hiểu rốt ráo Thật Tướng của các
pháp, tức là các pháp tướng như thế, tánh như
thế, thể như thế, lực như thế, tác
như thế, nhân như thế, duyên như thế, quả
như thế, báo như thế, gốc ngọn rốt ráo
b́nh đẳng như thế).
Đấy là giải
thích lư do “v́ sao
ngăn trở tán thán”. Có hai ư:
- Một, Phật
là bậc tối thượng, thành tựu tu đắc pháp
tối thượng. V́ thế, chẳng thể nói, tức
là nói theo trí huệ có thể thấu hiểu
rốt ráo.
- Hai là cảnh giới
rất sâu chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế, chẳng thể
nói; tức là nói theo Thật Tướng của pháp
được thấu hiểu rốt ráo.
“Thành tựu”
đối lập với “chẳng thành tựu”. “Đệ
nhất” tương phản với “chẳng phải đệ
nhất”. “Hy hữu” tương phản với “bất hy hữu”, “khó hiểu”
đối lập với “chẳng khó hiểu”.
Đem quả đối ứng với cái nhân, tự đối
ứng với tha, cần phải xét theo giáo vị[18],
phân biệt, chọn lọc cặn kẽ những kẻ khác, ḥng hiển thị Phật là bậc tối
thượng. Quyền Thật theo chiều ngang trọn vẹn,
cho nên chẳng thể nói, chỉ có Phật và Phật mới
có thể thấu hiểu rốt ráo.
[Chúng sanh nghe
Phật thuyết pháp] chặng đầu và
chặng giữa, chỉ đạt được một
phần, chưa tột cùng nguồn cội, như trăng
đêm Mười Bốn, tác dụng của ánh trăng chưa
trọn vẹn. Chỉ riêng Phật với Phật mới
thấu hiểu rốt ráo ngằn mé, như trăng đêm
Rằm, Thể không ǵ chẳng tṛn đầy, ánh sáng không
đâu chẳng trọn khắp, nhằm hiển thị Quyền
Thật theo chiều dọc sâu xa. Do tu đạo mà đạt
được, cho nên chẳng thể nói!
“Thật Tướng
của các pháp”: Nêu đại lược cảnh Quyền
Thật rất sâu! “Chư pháp” chính là bách giới
thiên như, tức là Quyền trong Thật. “Thật Tướng” là nói đến
lư thể Trung Đạo, tức là Thật nơi Quyền.
Đó gọi là “chư pháp b́nh đẳng như thế
đó”. Để giải thích cặn kẽ cảnh Quyền
Thật rất sâu, cần phải lập ra bốn
lượt giải thích:
- Một là dựa
theo mười pháp giới.
- Hai là dựa theo
Phật pháp giới.
- Ba là xét theo sự
ly hợp (tách ra hay gộp vào).
- Bốn là xét theo
địa vị.
Kinh nói “chư
pháp”, cho nên dùng mười pháp giới để giải
thích. Kinh nói “Phật sở thành tựu hy hữu chi pháp”
(Phật đă thành tựu pháp hiếm có), cho nên dùng Phật
pháp giới để giải thích. Kinh nói “chỉ chỉ,
bất tu thuyết, ngă pháp diệu nan tư” (thôi, thôi, chẳng
cần nói. Pháp của ta mầu nhiệm khó nghĩ), cho nên
dùng tách ra hay gộp vào để giải thích. Kinh nói: “Duy
Phật dữ Phật năi năng cứu tận” (chỉ
có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu tột
cùng); v́ thế, dùng địa vị để giải
thích.
1) Một là xét theo mười
pháp giới, [mười pháp giới] tức là lục
phàm tứ thánh (sáu đường
và bốn thánh pháp giới, tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát, và Phật). Pháp tuy vô lượng, chẳng ra
ngoài con số mười. Trong mỗi pháp giới, tuy lại
có nhiều chi phái, nhưng chẳng ra khỏi Thập
Như. Như địa ngục giới, chia ra sẽ có
đủ tướng, tánh, cho đến bổn mạt [của địa ngục giới], mà cũng có đủ tướng, tánh, bổn mạt…
của súc sanh giới, cho đến
cũng có đủ tướng, tánh, bổn mạt… của
Phật pháp giới, chẳng hề khuyết giảm. V́ thế,
A Tỳ Đàm Tỳ Bà Sa viết: “Địa ngục
đạo thành tựu pháp của Tha Hóa Thiên”, tức là
nói theo lệ này. Chín pháp giới kia cũng giống như thế.
Hăy nên biết: Mỗi pháp giới
đều có đầy đủ Thập Như của
chín pháp giới kia. Nếu chiếu theo Thập Như thuộc
chín pháp giới, thuộc vào địa
vị của chính ḿnh, th́ gọi là Quyền.
Chiếu theo Thập Như của Phật giới thuộc
địa vị của chính ḿnh th́ gọi là Thật. Trong
một có trọn đủ vô lượng, trong vô lượng
có một. V́ thế, gọi là “bất khả tư nghị”
(chẳng thể nghĩ bàn). Phàm phu tuy có đủ,
nhưng tuyệt lư, mê t́nh (tự coi thường [bản
thân], cho là chính ḿnh chẳng
có phần, cho nên nói là “tuyệt lư”. Suy nghĩ theo dị
kiến, cho nên nói là “mê t́nh”). Nhị Thừa tuy có đủ,
nhưng xả ly cầu thoát (ba đường chính là [cảnh
giới để ngộ chân thường], nhưng họ
bỏ đó, chẳng quán, né
tránh Không để cầu Không, đâm ra [Quyền Thật
sẵn có ấy] trở thành phương tiện giúp cho sự
giải thoát nhỏ nhoi). Bồ Tát tuy có đủ, nhưng
do chẳng chiếu trọn vẹn, cho nên gọi là “chẳng
rơ ràng” (Tạng Giáo và Thông Giáo chiếu lục đạo,
Biệt Giáo chiếu theo thứ tự. V́ thế nói là “chẳng
trọn vẹn”). Như Lai hiểu thấu triệt, chiều
dọc lẫn chiều ngang đều trọn đủ
(vô lượng trong một là “chiều ngang”. Vô lượng chính là một, tức là “chiều dọc”.
Nhiều và một chính là lẫn nhau; v́ thế nói “trọn
đủ”), chỉ riêng Phật hiểu rơ, những
kẻ khác chẳng thấy, chẳng thể tuyên nói, giăi
bày. V́ thế, “chỉ chỉ tuyệt ngôn” (thôi, thôi, hăy dứt lời). Do phần
Huyền Nghĩa trong phần trước đă nói rồi,
cho nên nay không ghi cặn kẽ.
b) Xét theo Phật
pháp giới để giải thích: Phật giới chẳng
có tướng, chẳng phải là không có tướng, mà
nói “như thị tướng”, tức là nói đến
nhân duyên của vạn thiện. V́ thế, kinh văn trong
phần sau viết “chúng bảo trang hiệu” (các thứ
báu trang hoàng). Phật giới chẳng phải là tánh, mà
cũng chẳng phải là không có tánh, mà nói là “như thị
tánh”, tức là nói đến liễu nhân của trí huệ.
V́ thế, kinh văn trong phần sau nói “hữu
đại bạch ngưu” (có trâu trắng lớn). Phật
giới chẳng phải là Thể, chẳng phải là không
có Thể, mà nói “như thị Thể”, chính là nói đến
chánh nhân của Thật Tướng. V́ thế, kinh văn
trong phần sau có nói “kỳ xa cao quảng” (xe ấy
cao rộng). Phật giới chẳng phải là lực, chẳng
phải không là lực, mà nói “như thị lực”, tức
là từ lực, thiện căn lực v.v… của Bồ
Đề đạo tâm. V́ thế, kinh văn trong phần
sau nói: “Hựu ư kỳ thượng, trương thiết
hiển cái” (lại trên xe ấy chưng bày tàn lọng).
Phật giới chẳng phải là tác, chẳng phải là
bất tác, mà nói “như thị tác”, tức là nói
đến tùy ư vô công dụng đạo. V́ thế, kinh
văn trong phần sau nói “kỳ tật như phong”
(nhanh như gió). Phật giới chẳng phải nhân, chẳng
phải không là nhân, mà nói “như thị nhân” chính là nói tới bốn
mươi mốt địa vị. V́ thế, kinh văn
trong phần sau nói: “Thừa thị bảo thừa, du vu tứ phương” (ngồi xe báu ấy dạo
chơi bốn phương). Phật giới chẳng phải
duyên mà cũng chẳng phải không là duyên, mà nói “như
thị duyên”, tức là nói đến hết thảy trợ
Bồ Đề đạo. V́ thế kinh văn trong phần
sau nói: “Hựu đa bộc tùng, nhi thị vệ
chi” (Có nhiều tôi tớ theo hầu và bảo vệ).
Phật giới chẳng phải quả, chẳng phải
không là quả, mà nói là “như thị quả”, tức
là nói đến Diệu Giác rạng ngời, viên nhân ắt
chứng đắc. V́ thế, kinh văn trong phần sau
nói: “Trực chí đạo tràng” (tới thẳng đạo
tràng). Phật giới chẳng phải là báo mà cũng chẳng
phải không là báo, thế mà nói “như thị báo”, tức là nói
đến Đại Bát Niết Bàn. V́ thế, kinh văn trong phần
sau nói “đắc vô lượng vô lậu thanh tịnh
chi quả báo” (đạt được quả báo vô
lượng vô lậu thanh tịnh). Phật giới chẳng
phải gốc, chẳng phải ngọn, mà nói là “bổn
mạt” th́ “bổn” (gốc) là Phật tướng, “mạt” (ngọn) tức là Phật báo. Đó là tự
hành Quyền. Phật chẳng b́nh đẳng, chẳng bất
b́nh đẳng, mà nói “cứu cánh đẳng” (rốt ráo b́nh đẳng) tức là nói
đến Thật Tướng. V́ thế, gọi
chương này là Thật Tướng, tức là tự hành
Thật. Từ ngay nơi Thật mà là Quyền; v́ thế
nói là “bổn mạt”. Từ ngay nơi Quyền mà là
Thật, cho nên nói “đẳng”.
(Hỏi: “Phật
giới ở đây có ǵ khác với Phật giới trong
mười pháp giới thuộc phần trước?”
Đáp: Trong phần
trước là c̣n đang mê, đang ở trong nhân, thông với
ngộ, thông với quả. C̣n ở đây chỉ có quả,
chẳng thông với nhân và mê. V́ thế, mỗi pháp đều
sử dụng [cách nói] “song phi” (đều chẳng
phải), “phi tướng” tức là chẳng Giả, “phi
bất tướng” tức là chẳng Không. Tuy nêu ra “song
phi”, vẫn có ư nghĩa Tam Đế. Chín pháp giới kia
cứ chuẩn theo đây sẽ biết, bèn biết “bổn
mạt cứu cánh đẳng”. Như thế th́ mới
gọi là “Phật Thừa rốt ráo”. V́ thế,
đều dùng kinh văn nói về cỗ xe to để tổng
kết.
Xét theo kinh văn
trong phẩm này, chính là Thật Tướng sẵn có của
các pháp trong Phật quả. Trong phần nói Thí Dụ th́
chính là cỗ xe lớn trang nghiêm để đến đạo
tràng. Đối với đời trước th́ chính là chỗ
khai Quyền hiển Thật nơi quả Phật tột
cùng. Trong Bổn môn, chính là diệu pháp được khế
nhập bởi vị Phật đă thành Phật từ lâu.
Nếu đă hiểu phần Chánh Tông, há c̣n mê đối với
phần Lưu Thông ư? Đối với một câu, một
kệ như thế mà có thể hết sức tin tưởng, th́ thuyết “tam
đức, tam quỹ”[19]
sẽ rạng ngời trước mắt. Nếu hiểu
ư này, dẫu diễn nói rộng răi suốt tám năm[20], đều chẳng ra ngoài
một niệm. Trải suốt năm mươi tiểu
kiếp, nghiễm nhiên giống như một sát-na! Phỏng
theo đó, sẽ biết giáo pháp thích hợp căn cơ suốt
một đời của đức Phật
ở ngay trong tâm tánh. Mười phương Phật sự
rành rành trước mắt. Căn tánh của pháp giới hễ
nắm vững dễ thông, tùy nghi diễn nói, đều chỉ
về Tạng lư).
Đấy là tự
hành Quyền Thật của Như Lai, vô thượng nhất.
Vô thượng tướng cho đến vô thượng
quả báo theo chiều ngang rộng răi, theo chiều dọc
sâu thẳm, chẳng có ǵ hơn được! V́ thế, nêu bày “Thật
Tướng của các pháp”. Phỏng theo lệ ấy,
cũng nên nói Thật Tánh, Thật Thể, Thật Lực, cho đến Cứu Cánh
Đẳng của các pháp, [nhưng chánh kinh] chỉ nêu lên một
điều (tức Thật Tướng
của các pháp) để nói gộp chung đó thôi. Như
Lai chiếu trọn khắp, ngang lẫn dọc đều trọn
vẹn, như nh́n vào trái cây trong ḷng bàn tay. Chỉ v́ phàm phu
giống như hai mắt đều mù, Nhị Thừa
như mắt chột, Bồ Tát
như nh́n trong đêm tối, mông lung chẳng biết rơ, chẳng
thể nói được! V́ thế, “chỉ chỉ tuyệt
ngôn” (thôi thôi, đừng nói).
c. Xét theo tách ra hay gộp
vào để giải thích. Như tâm Phật quán thập giới
Thập Như th́ vô thượng tướng cho đến
vô thượng quả báo đều chỉ là một Phật
pháp giới. Như biển gồm thâu muôn gịng, như ngàn
chiếc xe đi cùng một đường. Đấy
chính là Tự Hành Quyền Thật. Nếu thuận theo ư của
người khác, bèn có Thập Như, tánh, tướng v.v… của chín pháp
giới; tức là Hóa Tha Quyền Thật. Hóa Tha tuy vẫn
có Thật, nhưng đều gộp chung vào Quyền; tự
hành tuy vẫn có Quyền, nhưng đều gộp chung
vào Thật, tức là Tự Hành Hóa Tha Quyền Thật. Thuận
theo người khác th́ là Khai, thuận theo chính ḿnh th́ là Hợp.
Ngang dọc đều chiếu trọn vẹn, khai hợp
tự tại. Tuy tách ra vô lượng,
nhưng vô lượng là một. Tuy gộp lại làm một,
một mà vô lượng. Tuy [dường như có] “vô lượng” và “một”, mà chẳng phải một,
chẳng phải vô lượng! Tuy chẳng phải một,
chẳng phải vô lượng, mà là một, là vô lượng.
Chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu
cùng tận. Phàm phu phỉ báng, chẳng tin; Nhị Thừa
mê mờ, chẳng tiếp nhận, Bồ Tát chẳng hiểu
rơ cội gốc của trần. Do v́ nghĩa này, bèn “chỉ
chỉ tuyệt ngôn”.
d. Bốn là xét theo
địa vị để giải thích. “Như thị
tướng” là hết thảy chúng sanh đều có Thật
Tướng, vốn tự sẵn có. Đấy chính là
tướng mạo của Như Lai Tạng. “Như thị
tánh” tức là tánh đức trí huệ Đệ Nhất
Nghĩa Không. “Như thị Thể” chính là lư pháp tánh
Trung Đạo. Đó là Tam Đức chung cho cả mười
pháp giới, địa vị nào cũng đều có. Nếu
thấu hiểu ba đức ấy, sẽ dự vào địa
vị Thập Tín, bèn gọi là “như thị lực,
như thị tác”. Dự vào bốn mươi mốt
địa vị, th́ gọi là “như thị nhân, như
thị duyên”. Nếu đạt tới địa vị
Phật th́ gọi là “như thị quả, như thị
báo”. Ba món đầu gọi là Bổn, ba món sau gọi là
Mạt. Trước sau đều là ba đức, gọi
là Cứu Cánh Đẳng. Tam Đức nơi địa vị
đầu tiên th́ thông với ác và thiện, thông hiền,
thông thánh, thông Tiểu, thông Đại, thông với khởi
đầu, thông với cùng cực (kết quả cuối
cùng). Dẫu ở trong ác mà chẳng ch́m, tuy ở nơi thiện
mà chẳng thăng lên. Tuy ở nơi hiền mà chẳng
thấp kém, tuy ở nơi thánh mà chẳng cao. Tuy ở
nơi Tiểu mà chẳng hẹp ḥi, tuy ở nơi Đại
mà chẳng rộng răi. Tuy ở khởi đầu mà chẳng
mới mẻ. Tuy ở tột bậc mà chẳng cũ kỹ!
V́ thế là chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể nói
được. V́ thế, “chỉ chỉ tuyệt ngôn”.
Lại nữa, “tam đức cứu cánh đẳng” (tam đức
rốt ráo b́nh đẳng) là tướng và tánh của
mười pháp giới, Quyền Thật gộp vào, tách ra,
sai biệt ngần ấy. Dùng b́nh đẳng đại huệ
để như thật quán, “cứu cánh giai đẳng” (rốt ráo đều
b́nh đẳng). Nếu mê cảnh này, bèn có tánh tướng
của sáu pháp giới, gọi là Thế Đế. Nếu
hiểu cảnh này, tức là có tánh, tướng của Nhị
Thừa, gọi là Chân Đế. Thấu đạt điều
này, chẳng mê, chẳng hiểu, tức là có tướng
tánh của Bồ Tát giới và Phật giới, tức Trung Đạo
Đệ Nhất Nghĩa Đế. Nếu dùng huệ ấy
để b́nh đẳng xem xét Tục Đế, Tục
Đế chẳng phải là mê. B́nh đẳng xem xét Chân Đế th́ Chân Đế chẳng
phải là giải. Chẳng phải giải,
chẳng phải mê, đều chẳng phải là mê hay giải,
chỉ gọi là “b́nh đẳng”. Nếu song chiếu
th́ Quyền chính là Thật, Thật chính là Quyền, tuy hai
mà chẳng hai; cũng gọi là Cứu Cánh Đẳng
(đấy là dựa theo Hoặc để thấu hiểu
Đẳng).
Lại nữa,
đối với cảnh Quyền Thật bất nhị,
[chúng sanh thuộc
về] bảy loại phương tiện đều chẳng thể
dùng trí bất nhị để coi cảnh bất nhị
là b́nh đẳng được. Chỉ có chư Phật
dùng trí bất nhị để coi cảnh bất nhị
b́nh đẳng. V́ thế nói là Cứu Cánh Đẳng
(đó là b́nh đẳng xét theo người).
Lại nữa, nay
căn cơ Đại Thừa được kích phát, chẳng
nói về “tướng, tánh” của chín giới mà nói thẳng
thừng “tướng, tánh” của hết thảy, đều
nhập vào trong tướng, tánh của Phật giới.
Các giáo trước đó chưa nói, tức xưa chẳng
b́nh đẳng với nay. Giáo pháp hiện thời nói ra, liền biết “xưa và nay b́nh
đẳng”. V́ thế nói là “cứu
cánh đẳng” (đó là sự b́nh đẳng xét theo
giáo).
Lại nữa, sở
dĩ phải dùng bốn lượt để giải
thích, nhằm chỉ rơ “lư thâu nhiếp
trọn khắp”, cho nên dựa
theo mười pháp giới để giải thích. Nhằm
nói rơ cực chứng cao tột, cho nên dựa
theo Phật giáo để giải thích. Nhằm nói rơ tác dụng
giáo hóa của Phật, cho nên xét theo “hợp ly” (gộp
lại hay tách ra) để giải thích. Nhằm nói rơ Tam
Đức trọn khắp, cho nên xét theo các địa vị
để giải thích. Phần thứ nhất, tức phần
văn Trường Hàng tán thán hai trí của đức Phật
đă xong!
* Ghi chú của
người chuyển ngữ:
Do phần giảng
về Thập Như quá sâu, quá phức tạp, chúng tôi xin
trích thêm lời giảng của pháp sư Phổ Hành như
sau [để những
liên hữu trí huệ cạn kém như mạt nhân có thể
hiểu sơ lược về Thập Như]:
“Chư pháp” tức
là các pháp thuộc mười pháp giới, từ dưới
là địa ngục giới cho đến tột cùng là Phật
pháp giới. Mỗi một pháp đều có trọn đủ
các đặc tánh như sau: Tướng sai biệt, tánh bất
biến, Thể của sắc thân, công dụng lực, công
năng tạo tác, nhân chứa đựng quả, duyên ḥng
giúp cho cái nhân kết thành quả, cái quả do cái nhân cảm
thành, báo khổ lạc tương ứng với cái nhân,
tướng là gốc, báo là ngọn. Từ gốc đến
ngọn, nếu dùng Tam Đế Không, Giả, Trung để
quán viên dung, th́ chỗ quy kết của chúng đều là
lư b́nh đẳng Thật Tướng. Do vậy nói “như
thị tướng” cho đến “như thị bổn mạt
cứu cánh đẳng”.
2.1.1.1.1.2. Trùng tụng
2.1.1.1.1.2.1. Kệ tụng về chuyện
mượn ngôn từ để tán thán hai trí
Đối chiếu
kệ tụng với phần kinh văn [Trường Hàng]
trên đây, sẽ có [cách nói] cặn kẽ hay đại lược
sai khác ḥng dễ hiển lộ.
2.1.1.1.1.2.1.1. Kệ nói gộp lại
để tán thán nhị Phật, nhị trí
Phần kinh văn
Trường Hàng đối với hai vị Phật đều
tán thán, biểu thị hóa duyên khác nhau. Trong kệ tụng,
gộp hai vị Phật lại để tán thán, nhằm biểu thị
hai trí tương đồng.
(Kinh) Nhĩ thời,
Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ
ngôn: - Thế Hùng bất khả
lượng, chư thiên cập thế nhân, nhất thiết
chúng sanh loại, vô năng tri Phật giả, Phật lực,
vô sở úy. Giải thoát chư tam-muội, cập Phật
chư dư pháp, vô năng trắc lượng giả.
(經)爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。世雄不可量。諸天及世人。一切眾生類。無能知佛者。佛力無所畏。解脫諸三昧。及佛諸餘法。無能測量者。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, đức Thế Tôn muốn trùng tuyên nghĩa này,
bèn nói kệ rằng: - Thế Hùng[21] chẳng thể
lường, chư thiên và người đời, hết
thảy loài chúng sanh, không ai hiểu biết Phật, Phật
lực, vô sở úy, giải thoát, các tam-muội, và các pháp
khác của Phật, không ai suy lường nổi).
Bài kệ thứ nhất
trùng tụng chung Thật Trí của hai vị Phật. Bài kệ thứ hai, trùng tụng
chung Quyền Trí của hai vị Phật. “Chư dư
pháp” (các pháp khác): Tức là hóa tha Quyền Thật, tức
là dùng tự hành để hóa tha. Từ trong một pháp, mở
ra vô lượng. Tất cả các phương tiện, không ǵ
chẳng từ ngay nơi Quyền mà chính là Thật. V́ thế,
cũng chẳng thể suy lường.
2.1.1.1.1.2.1.2. Kệ tụng gộp
chung hai vị Phật để giải thích lời tán thán
và kết lại lời tán thán
(Kinh) Bổn
tùng vô số Phật, cụ túc hành chư đạo, thậm
thâm vi diệu pháp, nan kiến, nan khả liễu. Ư vô
lượng ức kiếp, hành thử chư đạo dĩ,
đạo tràng đắc thành quả, ngă dĩ tất tri
kiến.
(經)本從無數佛。具足行諸道。甚深微妙法。難見難可了。於無量億劫。行此諸道已。道場得成果。我已悉知見。
(Kinh: Vốn
từ vô số Phật, hành trọn đủ các đạo,
pháp vi diệu rất sâu, khó thấy, khó thể hiểu.
Trong vô lượng ức kiếp, đă hành các đạo ấy,
đắc quả nơi đạo tràng, ta đều thấy
biết trọn).
Bài tụng này nhằm
giải thích và kết lại ư nghĩa của hai chương
trước, nhưng văn tự biến hóa, chẳng cần
phải ghép đối ứng từng câu. Bởi lẽ,
nói đến hai pháp Quyền Thật vi diệu rất sâu, sẽ là khó thấy, khó hiểu nhất. Do ta và
chư Phật vốn đă ở nơi vô số vị Phật, hành
đầy đủ trọn hết vô lượng đạo
pháp. Do trong vô lượng kiếp đă hành đạo ấy,
bèn ngồi nơi đạo tràng, thành tựu Phật quả.
V́ thế, có thể thấy biết trọn hết pháp vi
diệu Quyền Thật này. Trong vô lượng kiếp,
hành đạo trọn đủ. V́ thế, Quyền Trí
viên măn, thành chánh quả nơi đạo tràng. Do vậy, Thật
Trí viên măn. Đấy cũng là xét theo nhân quả để
luận định Quyền Thật. Phần thứ nhất,
dựa vào ngôn từ để tán thán hai trí đă xong.
2.1.1.1.1.2.2. Kệ tụng về chuyện
dứt bặt ngôn từ tán thán hai trí
2.1.1.1.1.2.2.1. Kệ tụng giải
thích ư nghĩa v́ sao Phật dạy “thôi tán thán”
(Kinh) Như thị
đại quả báo, chủng chủng tánh tướng
nghĩa, ngă cập thập phương Phật, năi năng
tri thị sự.
(經)如是大果報。種種性相義。我及十方佛。乃能知是事。
(Kinh: Quả
báo lớn như thế, các thứ nghĩa tánh, tướng…
Ta và mười phương Phật, mới biết chuyện như thế).
Đây là trùng tụng
ư nghĩa “chỉ có Phật và Phật mới có thể
thấu hiểu rốt ráo Thật Tướng của các
pháp b́nh đẳng”. Đầu tiên là nêu ra quả báo;
sau đó, nêu ra tánh và tướng trước
hết [để đại diện], các thứ trong khoảng
giữa (tức các món Như Thị c̣n lại trong Thập
Như Thị) sẽ có thể biết. “Đại quả
báo” tức là quả báo mầu nhiệm. “Các thứ
tánh, tướng” chính là trăm
giới ngàn pháp sai biệt bất đồng. “Nghĩa”
chính là Cứu Cánh Đẳng.
2.1.1.1.1.2.2.2. Trùng tụng chuyện dứt
tuyệt ngôn từ tán thán
(Kinh) Thị
pháp bất khả thị, ngôn từ tướng tịch
diệt, chư dư chúng sanh loại, vô hữu năng
đắc giải. Trừ chư Bồ Tát chúng, tín lực
kiên cố giả.
(經)是法不可示。言辭相寂滅。諸餘眾生類。無有能得解。除諸菩薩眾。信力堅固者。
(Kinh: Pháp
này chẳng thể chỉ, tướng ngôn từ tịch
diệt, các loài chúng sanh khác, chẳng ai có thể hiểu.
Trừ các vị Bồ Tát, có tín lực kiên cố).
Đây là trùng tụng
ư chỉ “hăy thôi đi, chẳng cần nói nữa”. “Thị
pháp” (pháp này) tức là diệu cảnh Quyền Thật
được chiếu bởi hai trí (Quyền Trí và Thật Trí) của chư Phật.
Đó gọi là “Thật Tướng của các pháp bách giới
thiên như chẳng thể nghĩ bàn”. Thật Tướng
chẳng có nơi chốn; v́ thế, chẳng thể chỉ
bày, chẳng thể dùng ngôn ngữ để diễn tả
được. Do vậy, “ngôn từ tướng tịch
diệt”. Dẫu Phật có thể nói pháp “chẳng thể
nói” này, nhưng chúng sanh chẳng thể nào hiểu
được! V́ thế, “thôi đi, chẳng cần
nói nữa!” Do đă chẳng
thể hiểu được, vậy th́ pháp sẽ trọn
chẳng thể truyền ư? Do đó, nói “trừ
chư Bồ Tát chúng, tín lực kiên cố giả” (trừ
các vị Bồ Tát là những người có tín lực kiên
cố) th́ có thể hiểu được! “Tín lực kiên cố” là nói tới bậc Thập Tín trong Viên Giáo. Tiếp
theo đây, nói cặn kẽ các chúng sanh khác đều chẳng
thể hiểu được.
(Kinh) Chư Phật
đệ tử chúng, tằng cúng dường chư Phật,
nhất thiết lậu dĩ tận, trụ thị tối
hậu thân. Như thị chư nhân đẳng, kỳ lực
sở bất kham. Giả sử măn thế gian, giai như
Xá Lợi Phất, tận tư cộng độ lượng,
bất năng trắc Phật trí. Chánh sử măn thập
phương, giai như Xá Lợi Phất, cập dư
chư đệ tử, diệc măn thập phương
sát, tận tư cộng độ lượng, diệc phục
bất năng tri. Bích Chi Phật lợi trí, vô lậu tối
hậu thân, diệc măn thập phương giới. Kỳ
số như trúc lâm, tư đẳng cộng nhất tâm.
Ư ức vô lượng kiếp, dục tư Phật Thật
Trí, mạc năng tri thiểu phần. Tân phát ư Bồ Tát,
cúng dường vô số Phật, liễu đạt
chư nghĩa thú. Hựu năng thiện thuyết pháp,
như đạo, ma, trúc, vi, sung măn thập phương
sát, nhất tâm dĩ diệu trí, ư Hằng hà sa kiếp,
hàm giai cộng tư lượng, bất năng tri Phật
trí. Bất thoái chư Bồ Tát, kỳ số như Hằng
sa, nhất tâm cộng tư cầu, diệc phục bất
năng tri.
(經)諸佛弟子眾。曾供養諸佛。一切漏已盡。住是最後身。如是諸人等。其力所不堪。假使滿世間。皆如舍利弗。盡思共度量。不能測佛智。正使滿十方。皆如舍利弗。及餘諸弟子。亦滿十方剎。盡思共度量。亦復不能知。辟支佛利智。無漏最後身。亦滿十方界。其數如竹林。斯等共一心。於億無量劫。欲思佛實智。莫能知少分。新發意菩薩。供養無數佛。了達諸義趣。又能善說法。如稻麻竹葦。充滿十方剎。一心以妙智。於恒河沙劫。咸皆共思量。不能知佛智。不退諸菩薩。其數如恒沙。一心共思求。亦復不能知。
(Kinh: Các
đệ tử chư Phật, từng cúng dường
chư Phật, hết thảy lậu đă hết, trụ
nơi thân cuối cùng. Những người như thế
đó, sức đều chẳng kham được! Giả
sử đầy thế gian, đều như Xá Lợi Phất,
vắt óc cùng suy lường, chẳng thể ḍ Phật
trí. Dẫu trọn khắp mười phương, đều
như Xá Lợi Phất, và các đệ tử khác, cũng
trọn mười phương cơi, vắt óc cùng suy lường,
vẫn chẳng thể biết nổi! Bích Chi Phật trí
sáng, thân vô lậu cuối cùng, cũng đầy mười
phương cơi, số nhiều như rừng trúc, bọn
họ cùng một ḷng, trong ức vô lượng kiếp,
mong suy Phật Thật Trí, chẳng thể biết chút phần.
Tân phát ư Bồ Tát, cúng dường vô số Phật, liễu
đạt các nghĩa thú, lại hay khéo thuyết pháp,
như lúa, mè, tre, lau, đầy ắp mười
phương cơi, nhất tâm dùng trí mầu, trong Hằng hà sa
kiếp, đều cùng nhau suy lường, chẳng thể
biết Phật trí. Các Bồ Tát bất thoái, số như
cát sông Hằng, nhất tâm cùng nghĩ cầu, cũng chẳng
thể biết được!)
Sáu câu đầu vạch
rơ: Hàng lậu tận đệ tử chẳng biết. Bốn
câu kế tiếp, chỉ ra ngài Xá Lợi Phất không biết.
Phần thứ ba gồm sáu câu, vạch ra các đại
đệ tử chẳng biết. Phần thứ tư gồm
tám câu, chỉ ra Bích Chi Phật chẳng biết. Bích Chi Phật
nghịch thuận quán mười hai nhân
duyên, v́ thế gọi là “lợi trí” (trí huệ nhạy
bén, thông sáng). “Phật Thật Trí”: Tự hành Quyền
Thật đều gọi là Thật. Phần thứ
năm gồm mười câu, chỉ ra hàng phát tâm Bồ Tát
chẳng biết. Hoặc là nói những người tu Lục
Độ ba A-tăng-kỳ kiếp nhưng chưa đoạn
Hoặc, hay là nói đến người phát tâm trong hai giáo
Thông và Biệt, họ đối với giáo của chính
ḿnh đều có thể liễu đạt nghĩa thú Tứ
Đế, nương theo đó mà phát khởi Tứ Hoằng
Thệ Nguyện, ai nấy đều có thể phô diễn
đạo pháp thuộc giáo của ḿnh, lần lượt
so với những người thuộc các loại trước
đó, đều có thể xưng là bậc diệu trí.
Như Tạng Giáo do siêu việt thế gian, nên gọi
là Diệu, Thông Giáo do liễu đạt “[vạn pháp] chính
là Không”, cho nên là Diệu, Biệt Giáo do ngưỡng vọng, tin tưởng Trung Đạo
nên là Diệu. Phần thứ sáu gồm bốn câu, vạch
rơ Bất Thoái Bồ Tát chẳng biết. Thông Giáo đoạn
trừ phiền hoặc thuộc giới nội, dẫu
đắc bất thoái, nhưng chẳng biết biệt lư
Trung Đạo. Tam Hiền (Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng) thuộc Biệt Giáo, tuy đắc
Vị Bất Thoái và Hạnh Bất Thoái, chẳng biết
Trung Đạo “trọn đủ hết thảy các
pháp, chính là hết thảy các pháp”.
2.1.1.1.1.2.2.3. Trùng tụng cảnh dứt
bặt ngôn từ
(Kinh) Hựu
cáo Xá Lợi Phất! Vô lậu bất tư nghị, thậm
thâm vi diệu pháp, ngă kim dĩ cụ đắc, duy ngă tri
thị tướng, thập phương Phật diệc
nhiên.
(經)又告舍利弗。無漏不思議。甚深微妙法。我今已具得。唯我知是相。十方佛亦然。
(Kinh: Lại
bảo Xá Lợi Phất! Vô lậu chẳng nghĩ bàn, pháp
vi diệu rất sâu, ta nay đă đạt đủ, chỉ
ta biết tướng ấy, mười phương Phật
cũng thế).
Đây
là phần kệ tụng nói về vô lượng vô biên pháp
chưa từng có, Phật đều đă thành tựu. Hai
câu cuối cùng cũng là trùng tụng “chỉ
có Phật và Phật mới có thể thấu suốt rốt
ráo Thật Tướng của các pháp b́nh đẳng”. “Vô
lậu” là Thật Tướng thuần nhất. Ngoài Thật
Tướng, chẳng có pháp nào khác! “Bất tư nghị” (chẳng nghĩ bàn): Tâm hành
xứ diệt, ngôn ngữ dứt bặt. “Thậm thâm vi
diệu” (rất sâu vi diệu): Chỉ có chư Phật
chứng nhập, khế ngộ! Do lại nương theo
nghĩa vô lậu, đối với Thập Như trong phần
trước, nếu xét theo mười pháp giới để
giải thích, Thập Như của mười
pháp giới gồm thâu lư tánh của phàm lẫn
thánh chẳng sơ sót, thâu nhiếp Tam Đế chẳng
sơ sót, thâu nhiếp Quyền Trí và Thật Trí chẳng
sơ sót. Do nương theo nghĩa chẳng thể nghĩ
bàn, Thập Như trong phần trước nếu xét theo
nghĩa “khai, hợp” để giải thích, th́ ngay
nơi Quyền chính là Thật, ngay nơi Thật chính là Quyền,
cho nên chẳng thể nghĩ bàn, do
nương theo nghĩa vi diệu rất sâu! Đối với
Thập Như trong phần trước, xét theo Phật pháp
giới để giải thích th́ là nương theo [ư nghĩa] “chỉ có ta biết nghĩa ấy”. Đối
với Thập Như trong phần trước, xét theo
địa vị để giải thích, hai đằng
đều có thể biết. Trong phần khai hiển đại
lược, phần thứ nhất là văn Trường Hàng và Trùng Tụng tán thán hai trí của Phật đă xong.
2.1.1.1.2. Kệ tụng trùng tuyên chuyện
khi đức Phật đại lược khai Quyền
hiển Thật, [hàng Nhị Thừa] dấy động chấp
trước, sanh nghi
2.1.1.1.2.1. Chư Phật hiển Thật
(Kinh)
Xá Lợi Phất đương tri, chư Phật ngữ
vô dị, ư Phật sở thuyết pháp, đương
sanh đại tín lực, Thế Tôn pháp cửu hậu, yếu
đương thuyết chân thật.
(經)舍利弗當知。諸佛語無異。於佛所說法。當生大信力世尊法久後。要當說真實。
(Kinh: Xá Lợi
Phất nên biết, chư Phật nói chẳng khác, đối
với pháp Phật nói, nên sanh đại tín lực. Pháp Thế
Tôn lâu sau, phải nên nói chân thật).
“Chư Phật
ngữ vô dị” (lời chư Phật chẳng khác):
Điều này hiển thị chư Phật giáo hóa giống
nhau. Hai câu kế đó nhằm khuyến tín. Hai câu sau cùng hiển lộ lẽ Thật. Có thể thấy những
điều đă nói từ trước đến nay đều
chẳng phải là chân thật. Do [đức Phật] phá
trừ sự chấp trước xưa kia, nên nay [đại
chúng trong hội] sanh nghi. Trong kinh văn thuộc phần
sau, [ngài Xá Lợi Phất có nói] “tương phi ma tác Phật”
(chẳng phải ma hiện làm Phật ư?) chính là v́
do nghe lời này [bèn sanh ngờ vực]. Phật đă dùng lời
chân thật khuyên tin tưởng, sao lại ngược ngạo sanh nghi? V́ ngăn ngừa
“do nghi mà sanh báng”, cho nên cần phải khuyến tín.
2.1.1.1.2.2. Nêu rơ Phật Thích Ca mở
ra tam thừa
(Kinh) Cáo chư
Thanh Văn chúng, cập cầu Duyên Giác thừa, ngă linh thoát
khổ phược, đăi đắc Niết Bàn giả,
Phật dĩ phương tiện lực, thị dĩ tam
thừa giáo, chúng sanh xứ xứ trước, dẫn chi
linh đắc xuất.
(經)告諸聲聞眾。及求緣覺乘。我令脫苦縛。逮得涅槃者。佛以方便力。示以三乘教。眾生處處著。引之令得出。
(Kinh: Bảo
các vị Thanh Văn, và người cầu Duyên Giác, khiến
họ thoát khổ trói, đạt đến đạo Niết
Bàn, Phật dùng sức phương tiện, chỉ dạy
đạo tam thừa, chúng sanh nơi nơi chấp, dẫn
họ thoát ra khỏi).
Bài kệ thứ nhất
thẳng thừng chỉ ra: Xưa kia đă lập ra ba thừa.
Thanh Văn là Tiểu Thừa, Duyên Giác là Trung Thừa, [c̣n
những ai] ba A-tăng-kỳ tu Lục Độ, thoát khỏi
các nỗi khổ ràng buộc, đạt tới Niết
Bàn th́ chính là Đại Thừa. Hai câu kế tiếp thẳng
thừng đả phá: [Cả ba thừa
ấy] đều là do phương tiện mà giả nói, toàn
là chẳng thật. Hai câu sau nhằm giải thích ư nghĩa
v́ sao lập bày như thế: V́ dẫn dắt họ thoát
khỏi chấp trước, là chuyện bất đắc
dĩ đó thôi. Phần thứ nhất, nêu đại
lược về chuyện Khai Quyền Hiển Thật
đă xong.
2.1.1.2. Khởi nghi, thưa hỏi
2.1.1.2.1. Trần thuật mối nghi
2.1.1.2.1.1. Lời trần thuật của
người kết tập kinh
(Kinh) Nhĩ thời,
đại chúng trung, hữu chư Thanh Văn, lậu tận
A La Hán, A Nhă Kiều Trần Như đẳng, thiên nhị bách nhân, cập phát Thanh
Văn, Bích Chi Phật tâm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc,
ưu bà-di, các tác thị niệm.
(經)爾時大眾中。有諸聲聞。漏盡阿羅漢。阿若憍陳如等千二百人。及發聲聞辟支佛心比丘比丘尼優婆塞優婆夷。各作是念。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, trong đại chúng có các vị Thanh Văn, lậu
tận A La Hán như A Nhă Kiều Trần Như v.v… một
ngàn hai trăm người, và các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu bà-di phát tâm Thanh Văn và Bích Chi Phật,
ai nấy nghĩ như thế này).
Trong phần trên,
[đức Phật đă] chê trách tam thừa đều
là phương tiện. Nay [chánh kinh] chỉ trần thuật
hàng Nhị Thừa dấy ḷng nghi, là v́ họ chấp trước nặng nề, nghi sâu, cho nên riêng
nêu ra. Như trong phần
sau, khi trần thuật những người ôm ḷng nghi, bèn
nói số lượng các vị Bồ Tát cầu thành Phật
khoảng chừng tám vạn người. V́ thế biết
là tam thừa đều khởi ḷng nghi.
2.1.1.2.1.2. Nói rơ chuyện sanh nghi
(Kinh) Kim giả
Thế Tôn hà cố ân cần xưng thán phương tiện,
nhi tác thị ngôn: “Phật sở đắc pháp thậm
thâm nan giải, hữu sở ngôn thuyết, ư thú nan tri, nhất
thiết Thanh Văn, Bích Chi Phật sở bất năng cập.
Phật thuyết nhất giải thoát nghĩa, ngă đẳng
diệc đắc thử pháp, đáo ư Niết Bàn, nhi
kim bất tri thị nghĩa sở thú!
(經)今者世尊。何故慇懃稱歎方便。而作是言。佛所得法甚深難解。有所言說。意趣難知。一切聲聞辟支佛所不能及。佛說一解脫義。我等亦得此法。到於涅槃。而今不知是義所趣。
(Kinh: Nay
đức Thế Tôn v́ lẽ nào ân cần khen ngợi
phương tiện, mà nói như thế này: “Đức Phật
đạt được pháp rất sâu, khó hiểu, ngôn
thuyết do Phật nói ra ư
nghĩa khó biết. Hết thảy
Thanh Văn, Bích Chi Phật chẳng thể biết nổi”. Đức Phật
nói một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng đă đắc pháp ấy, đạt tới Niết Bàn, nhưng nay
chẳng biết nghĩa này đi về đâu?)
“Hà cố ngôn Phật
sở đắc pháp thậm thâm nan giải” (V́ sao nói “Phật đạt được pháp rất sâu khó hiểu”): Nghi Thật Trí của Phật. “Hà cố ngôn hữu
sở ngôn thuyết ư thú nan tri” (V́ sao nói “ngôn thuyết do Phật nói ra ư nghĩa khó biết”) là nghi Quyền Trí của Phật. Do trước kia,
Phật nói ra trí huệ của tam thừa, [chúng sanh thuộc
căn cơ tam thừa] cùng chứng chẳng sai kém, chỉ
có dư tập (tập khí c̣n thừa sót) là đă hết
hay chưa hết đó thôi! Nay Ngài bỗng ca ngợi hai trí
của Như Lai chẳng phải là điều chúng ta có thể
đạt được; v́ thế, bèn sanh nghi. Từ câu “Phật
thuyết nhất giải thoát nghĩa” (Phật nói một
nghĩa giải thoát) trở đi, là tự nghi
điều chính ḿnh đă đạt được. Thánh
đạo tam thừa là lẽ trọng yếu chân thật
để vượt thoát, ta tu lư ấy cũng đạt
đến Niết Bàn, nhưng nay đức Phật bỗng
nói [các lư ấy] đều là phương tiện, chẳng
biết điều ǵ mới là chân thật? Do vậy nói “chẳng
biết nghĩa ấy đi về đâu”. Phần thứ
nhất, trần thuật nghi vấn đă xong.
2.1.1.2.2. Xin giải quyết mối
nghi
Trong phần này,
kinh văn gồm ba lượt thỉnh và hai lần
ngăn trở, cộng với một lần ngăn trở
trong đoạn trước thành ba lượt ngăn trở.
Ngăn trở lần thứ nhất là v́ lư sâu khó hiểu.
Thỉnh lần đầu là v́ ḿnh lẫn người xin
được giải trừ mối nghi. Ngăn trở lần
thứ hai v́ [đại chúng nghe pháp ấy sẽ] kinh sợ,
ngờ vực chẳng tin. Thỉnh lần thứ hai là v́
người gieo căn lành đă lâu ắt đều hiểu.
Ngăn trở lần cuối cùng là v́ kẻ nào hủy báng
[pháp này], ắt đọa vào
đường ác. Lần thỉnh cuối cùng là v́ hàng lợi
căn sẽ được lợi ích. Hoặc có thể
hiểu là Phật sẵn biết do dùng ba lượt
ngăn trở th́ người đạt được lợi
ích trước sau sẽ không giống nhau, cho nên ba lượt
ngăn trở để được cầu thỉnh ba
lần.
2.1.1.2.2.1. Thỉnh lần thứ nhất
2.1.1.2.2.1.1. Trường Hàng
2.1.1.2.2.1.1.1. Nêu bày mối nghi về
nhị trí
(Kinh) Nhĩ thời,
Xá Lợi Phất tri tứ chúng tâm nghi, tự diệc vị
liễu, nhi bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Hà nhân, hà duyên,
ân cần xưng thán chư Phật đệ nhất
phương tiện thậm thâm vi diệu nan giải chi
pháp?”
(經)爾時舍利弗。知四眾心疑。自亦未了。而白佛言。世尊。何因何緣。慇懃稱歎諸佛第一方便。甚深微妙難解之法。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Xá Lợi Phất biết tâm nghi của tứ
chúng, chính ḿnh cũng chẳng rơ, bèn bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Do nhân nào, duyên nào mà ân cần khen ngợi
pháp phương tiện rất sâu, vi diệu, khó hiểu bậc
nhất của chư Phật?”)
2.1.1.2.2.1.1.2. Nêu bày lời thỉnh
(Kinh) Ngă tự
tích lai, vị tằng tùng Phật văn như thị thuyết.
Kim giả, tứ chúng hàm
giai hữu nghi, duy nguyện Thế Tôn phu diễn tư sự,
Thế Tôn hà cố ân cần xưng thán thậm thâm vi diệu
nan giải chi pháp?
(經)我自昔來。未曾從佛聞如是說。今者四眾咸皆有疑。惟願世尊敷演斯事。世尊何故慇懃稱歎甚深微妙難解之法。
(Kinh: Con từ
xưa đến nay chưa từng nghe Phật nói như
thế. Nay tứ chúng đều có ḷng nghi, kính mong đức
Thế Tôn nêu bày chuyện này: V́ sao đức Thế Tôn ân
cần ca ngợi pháp rất sâu vi diệu khó hiểu?)
2.1.1.2.2.1.2. Kệ tụng
2.1.1.2.2.1.2.1. Trùng tụng mối nghi
đối với hai trí
(Kinh) Nhĩ thời,
Xá Lợi Phất dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết
kệ ngôn: - Huệ nhật đại thánh tôn, cửu năi
thuyết thị pháp, tự thuyết đắc như thị,
lực, vô úy, tam-muội, Thiền Định, giải thoát
đẳng, bất khả tư nghị pháp. Đạo
tràng sở đắc pháp, vô năng phát vấn giả, ngă
ư nan khả trắc, diệc vô năng vấn giả. Vô vấn
nhi tự thuyết, xưng thán sở hành đạo, trí huệ
thậm vi diệu, chư Phật chi sở đắc.
(經)爾時舍利弗。欲重宣此義而說偈言:慧日大聖尊。久乃說是法。自說得如是。力無畏三昧。禪定解脫等。不可思議法。道場所得法。無能發問者。我意難可測。亦無能問者。無問而自說。稱歎所行道。智慧甚微妙。諸佛之所得。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, ngài Xá Lợi Phất muốn nhắc lại
nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Đại thánh tôn huệ
nhật, nói pháp này đă lâu, tự nói đắc như thế,
lực, vô úy, tam-muội, Thiền Định, giải thoát
thảy, pháp chẳng thể nghĩ bàn. Pháp đắc
nơi đạo tràng, không ai thưa hỏi được,
con nghĩ rất khó lường, cũng chẳng thể
thưa hỏi. Chẳng hỏi mà tự nói, khen ngợi
đạo đă hành, trí huệ rất vi diệu, chư Phật
đă đạt được).
“Thị pháp”
(pháp này) là nói đến Thật Trí. “Lực, vô úy đẳng”
là nói đến Quyền Trí. “Đạo tràng sở đắc”
([pháp] đạt được nơi đạo tràng) là tự
hành Quyền Thật. “Ngă ư nan khả trắc” (ư con chẳng
thể lường) là nói đến hóa tha Quyền Thật
(do là đồng thể phương tiện, cho nên khó
lường). “Sở hành đạo”: Kết lại tự
hành Quyền. “Phật sở đắc” kết lại
tự hành Thật, “vô vấn tự thuyết” (chẳng
hỏi mà tự nói) tức kết lại ư nghĩa hóa
tha. Nếu chẳng muốn tự hành, hóa độ người
khác, sao lại chẳng hỏi mà tự khen ngợi vậy?
2.1.1.2.2.1.2.2. Trùng tụng chuyện tứ
chúng thuộc tam thừa đều nghi hoặc
(Kinh) Vô lậu
chư La Hán, cập cầu Niết Bàn giả, kim giai đọa
nghi vơng, Phật hà cố thuyết thị? Kỳ cầu
Duyên Giác giả, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, chư thiên, long, quỷ
thần, cập Càn Thát Bà đẳng, tương thị
hoài do dự, chiêm ngưỡng Lưỡng Túc Tôn: “Thị sự vi vân hà?” Nguyện Phật vị giải thuyết.
(經)無漏諸羅漢。及求涅槃者。今皆墮疑網。佛何故說是。其求緣覺者。比丘比丘尼。諸天龍鬼神。及乾闥婆等。相視懷猶豫。瞻仰兩足尊。是事為云何。願佛為解說。
(Kinh: Các La
Hán vô lậu, và người cầu Niết Bàn, nay đều
đọa lưới nghi; “V́ sao Phật nói vậy?” Những
người cầu Duyên Giác, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, các trời,
rồng, quỷ thần, cùng với Càn Thát Bà… nh́n nhau đều
do dự[22],
chiêm ngưỡng Lưỡng Túc Tôn[23]: Chuyện này là
thế nào? Mong Phật giải nói cho).
Câu đầu nói
đến Tiểu Thừa, câu thứ hai nói về Lục
Độ Đại Thừa. Bài kệ thứ hai nói về
Trung Thừa và tứ chúng v.v…
2.1.1.2.2.1.2.3. Kệ tụng nêu ra niềm
nghi của chính ḿnh
(Kinh) Ư
chư Thanh Văn chúng, Phật thuyết ngă đệ nhất,
ngă kim tự ư trí, nghi hoặc bất năng liễu, vi
thị cứu cánh pháp? Vi thị sở hành đạo?
(經)於諸聲聞眾。佛說我第一。我今自於智。疑惑不能了。為是究竟法。為是所行道。
(Kinh: Trong
các vị Thanh Văn, Phật nói con bậc nhất, nay trong
tâm trí con, ngờ vực, chẳng thể
rơ, đó là pháp rốt ráo? Hay là đạo
đă hành?)
“Cứu cánh pháp”
(pháp rốt ráo) là quả. “Sở hành đạo” là
nhân. Trong đoạn kinh văn trước đó, Phật
bài xích pháp tam thừa do Ngài đă dạy đều là
phương tiện. Nay con nghi tam thừa, mỗi thừa
đều có nhân quả, nương theo lời dạy mà tu
chứng, chưa hề sai lầm. Nếu nói đó là
phương tiện, chẳng phải là chân thật, th́
cái quả đă chứng chẳng thật ư? Hay là cái
nhân đă hành chẳng thật ư?
2.1.1.2.2.1.2.4. Kệ tụng về nỗi
nghi của Phật tử
(Kinh) Phật
khẩu sở sanh tử, hiệp chưởng, chiêm ngưỡng đăi, nguyện
xuất vi diệu âm, thời vị như thật thuyết.
(經)佛口所生子。合掌瞻仰待。願出微妙音。時為如實說。
(Kinh: Con sanh
từ miệng Phật[24], chắp tay,
chiêm ngưỡng chờ, nguyện thốt ra diệu âm,
đúng thời như thật nói).
Đấy là nói tới
Bồ Tát thuộc Thông Giáo và Biệt Giáo có nghi vấn. Nếu
họ chẳng nghi, lẽ nào lại chắp tay, chiêm
ngưỡng ư?
2.1.1.2.2.1.2.5. Nêu chung đại chúng
cùng nghi để cầu thỉnh
(Kinh) Chư
thiên, long, thần đẳng, kỳ số như Hằng sa,
cầu Phật chư Bồ Tát, đại số hữu
bát vạn, hựu chư vạn ức quốc, Chuyển
Luân Thánh Vương chí, hiệp chưởng dĩ kính tâm,
dục văn cụ túc đạo.
(經)諸天龍神等。其數如恒沙。求佛諸菩薩。大數有八萬。又諸萬億國。轉輪聖王至。合掌以敬心。欲聞具足道。
(Kinh: Các trời,
rồng, thần thảy, số như cát sông Hằng, các Bồ
Tát cầu Phật, số nhiều đến tám vạn, lại
từ vạn ức nước, Chuyển Luân Thánh
Vương đến, chắp tay, tâm kính trọng, muốn
nghe đạo trọn đủ[25]).
Lần “thỉnh
vấn” thứ nhất đă xong.
2.1.1.2.2.2. Ngăn trở [bảo
đừng hỏi] lần thứ hai, v́ sợ [thính chúng]
hoài nghi
(Kinh) Nhĩ thời,
Phật cáo Xá Lợi Phất: “Chỉ, chỉ, bất tu phục
thuyết. Nhược thuyết thị sự, nhất thiết
thế gian, chư thiên cập nhân, giai đương kinh
nghi”.
(經)爾時佛告舍利弗。止止。不須復說。若說是事。一切世間諸天及人。皆當驚疑。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất:
“Thôi, thôi, đừng nên nói nữa! Nếu nói chuyện này,
hết thảy chư thiên và người trong thế gian sẽ
đều kinh hăi, ngờ vực”).
2.1.1.2.2.3. Thưa hỏi lần thứ
hai, nêu rơ [trong đại chúng có những người] túc
căn nhạy bén, cho nên chẳng hoài nghi
(Kinh) Xá Lợi
Phất trùng bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Duy nguyện
thuyết chi. Duy nguyện thuyết chi. Sở dĩ giả
hà? Thị hội vô số bách thiên vạn ức A-tăng-kỳ
chúng sanh tằng kiến chư Phật, chư căn mănh lợi,
trí huệ minh liễu, văn Phật sở thuyết, tắc
năng kính tín”. Nhĩ thời, Xá Lợi Phất dục
trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: “Pháp
vương vô thượng tôn, duy thuyết nguyện vật
lự. Thị hội vô lượng chúng, hữu năng
kính tín giả”.
(經)舍利弗重白佛言。世尊。惟願說之。惟願說之。所以者何。是會無數百千萬億阿僧祇眾生。曾見諸佛。諸根猛利。智慧明了。聞佛所說。則能敬信。爾時舍利弗。欲重宣此義而說偈言。法王無上尊。惟說願勿慮。是會無量眾。有能敬信者。
(Kinh: Xá Lợi
Phất lại bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch
Thế Tôn! Kính mong Ngài hăy nói. Kính xin Ngài hăy nói. V́ lẽ nào vậy?
Trong hội này, vô số trăm ngàn vạn ức
A-tăng-kỳ chúng sanh từng thấy chư Phật, các
căn nhạy bén, trí huệ sáng tỏ, nghe lời Phật
dạy, đều có thể sanh ḷng kính tín”. Lúc bấy giờ,
ngài Xá Lợi Phất muốn nói lại nghĩa này, bèn nói kệ
rằng: “Đấng pháp vương vô thượng, xin hăy
nói chớ nghi, vô lượng chúng trong hội, có thể
kính tin vậy”).
2.1.1.2.2.4. Ngăn trở lần thứ
ba để bảo vệ kẻ tăng thượng mạn
(Kinh) Phật
phục chỉ Xá Lợi Phất: “Nhược thuyết thị
sự, nhất thiết thế gian thiên, nhân, A Tu La, giai
đương kinh nghi. Tăng thượng mạn tỳ-kheo,
tương trụy ư đại khanh”. Nhĩ thời,
Thế Tôn trùng thuyết kệ ngôn: “Chỉ chỉ, bất
tu thuyết. Ngă pháp diệu nan tư, chư tăng thượng
mạn giả, văn tất bất kính tín”.
(經)佛復止舍利弗。若說是事。一切世間天人阿修羅皆當驚疑。增上慢比丘。將墜於大阬。爾時世尊重說偈言。止止不須說。我法妙難思。諸增上慢者。聞必不敬信。
(Kinh: Đức
Phật lại ngăn Xá Lợi Phất: “Nếu nói chuyện
này, hết thảy trời, người, A Tu La trong thế
gian sẽ đều kinh hăi, ngờ vực. Hạng tỳ-kheo
tăng thượng mạn sẽ rơi vào hầm to”. Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn nhắc lại bằng
kệ như sau: “Thôi thôi, chớ nói nữa! Pháp ta diệu
khó nghĩ, những kẻ tăng thượng mạn, nghe
rồi chẳng kính tín”).
2.1.1.2.2.5. Thỉnh lần thứ ba,
trần thuật sẽ có nhiều người được
lợi ích, đời đời tiếp nhận sự giáo
hóa, chẳng dấy tâm tăng thượng mạn
(Kinh) Nhĩ thời,
Xá Lợi Phất trùng bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Duy
nguyện thuyết chi, duy nguyện thuyết chi. Kim thử
hội trung, như ngă đẳng tỷ bách thiên vạn ức,
thế thế dĩ tằng tùng Phật thọ hóa. Như
thử nhân đẳng, tất năng kính tín, trường
dạ an ổn, đa sở nhiêu ích”. Nhĩ thời, Xá Lợi
Phất dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ
ngôn: “Vô thượng lưỡng túc tôn, nguyện thuyết
đệ nhất pháp. Ngă vi Phật trưởng tử,
duy thùy phân biệt thuyết. Thị hội vô lượng
chúng, năng kính tín thử pháp. Phật dĩ tằng thế
thế, giáo hóa như thị đẳng, giai nhất tâm hiệp
chưởng, dục thính thọ Phật ngữ. Ngă đẳng
thiên nhị bách, cập dư cầu Phật giả, nguyện
vị thử chúng cố, duy thùy phân biệt thuyết. Thị
đẳng văn thử pháp, tắc sanh đại hoan hỷ”.
(經)爾時舍利弗重白佛言。世尊。惟願說之。惟願說之。今此會中。如我等比百千萬億。世世已曾從佛受化。如此人等。必能敬信。長夜安隱。多所饒益。爾時舍利弗。欲重宣此義而說偈言。無上兩足尊。願說第一法。我為佛長子。惟垂分別說。是會無量眾。能敬信此法。佛已曾世世。教化如是等。皆一心合掌。欲聽受佛語。我等千二百。及餘求佛者。願為此眾故。惟垂分別說。是等聞此法。則生大歡喜。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Xá Lợi Phất lại bạch cùng đức Phật
rằng: “Bạch Thế Tôn! Kính mong hăy nói, kính mong hăy nói.
Nay trong hội này, có trăm ngàn vạn ức người
như chúng con, đời đời đă từng
được Phật giáo hóa. Những người như
thế ắt có thể kính tin, đêm dài an ổn, đạt
được nhiều lợi ích rộng lớn”. Lúc bấy
giờ, Xá Lợi Phất muốn trùng tuyên nghĩa này, bèn
nói kệ rằng: “Đấng lưỡng túc vô thượng,
xin nói pháp bậc nhất. Con là trưởng tử Phật,
xin phân biệt nói cho. Hội này vô lượng chúng, hay kính
tin pháp này. Phật đă từng đời đời, giáo
hóa họ như thế, đều nhất tâm chắp tay, muốn
nghe nhận lời Phật. Chúng con ngàn hai trăm, và người
cầu Phật khác, nguyện Phật v́ bọn họ, rủ
ḷng phân biệt nói, bọn họ nghe pháp này, ắt sanh hoan
hỷ lớn”).
Phần thứ nhất,
đại lược khai tam hiển nhất, dấy động
chấp trước sanh nghi đă xong.
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh
Luân Quán Hội Nghĩa
phần 3 hết
[1] Thanh giáo (聲教): Do đức Phật
dùng âm thanh (ngôn ngữ) để giáo hóa nhằm phù hợp
căn tánh của chúng sanh trong cơi Sa Bà, nên gọi là “thanh
giáo” (giáo hóa bằng âm thanh).
[2] “Nhất tâm tam trí” là đồng thời
trong một tâm mà đạt được Nhất Thiết
Trí, Đạo Chủng Trí và Nhất Thiết Chủng Trí.
[3] Chú thích của pháp sư Phổ
Hành: “Cổ nhân cho rằng tám người con biểu thị
Bát Chánh Đạo, hoặc biểu thị tám thức,
nhưng tên của tám vị đều có chữ Ư, tợ hồ
chẳng tương ứng với sự biểu thị
pháp. Nay dựa theo kinh văn để giải thích như
sau: Duy Thức Luận gọi cái thức thứ bảy (Mạt
Na Thức) luôn suy xét, so lường là Ư. “Ư” ấy luôn duyên
theo thức thứ tám, chấp có thật ngă, thật pháp.
V́ thế gọi là Hữu Ư. Nó cũng thông với tánh thiện,
nên có tên là Thiện Ư. Do chẳng mất tánh quư báu (Như
Lai Tạng), nên gọi là Bảo Ư. Duyên lực tăng trưởng
thù thắng, nên gọi là Tăng Ư. Như hang vọng tiếng dội, nên gọi Hưởng
Ư. Luôn duyên theo Pháp Trần, nên gọi là Pháp Ư. Chẳng thể
diễn tả, suy lường, nên gọi là Vô Lượng
Ư. Hễ nghi niệm nẩy sanh đều nên trừ dứt,
cho nên gọi là Trừ Nghi Ư”.
[4] Tứ thiên hạ
tức là bốn đại châu (Đông Thắng, Tây
Ngưu, Nam Diêm Phù Đề, Bắc Câu Lô). Do bốn châu ấy
vây quanh núi Tu Di, nên gọi là Tứ Thiên Hạ.
[5] Pháp sư Phổ Hành chú giải: “Diệu
là chẳng thể nghĩ bàn, Quang có thể chiếu tan vô
minh. Do vậy, Bồ Tát tên là Diệu Quang”.
[6] Pháp sư Phổ Hành chú thích: “Bồ
Tát hàm tàng vô lượng công đức, cho nên gọi là
Đức Tạng. Tịnh Thân: Thân Phật thanh tịnh,
tướng hảo trang nghiêm, cho nên hiệu là Tịnh Thân”.
[7] “Y” có nghĩa là c̣n có thân
nương vào hữu lậu, do c̣n Hoặc nghiệp sót thừa, cho nên gọi là Dư. Hữu Dư Y tức
là Hoặc nghiệp gây nên sanh tử
đă hết, nhưng vẫn c̣n có khổ quả hữu lậu
sót thừa. Chẳng hạn như ngài Kiều Phạm Ba
Đề đă chứng thánh quả, nhưng c̣n ác tật
miệng luôn nhai nhóp nhép như trâu nhơi.
[8] Khổ y tức là thân do khổ báo.
V́ thân là chỗ để con người nương vào mà
tồn tại, nên thân được gọi là Y.
[9] Nhiên Đăng Phật (Dipaṁkara), c̣n
dịch là Định Quang Phật, Đăng Quang Phật,
Phổ Quang Phật, hoặc có lúc c̣n phiên âm là Đề
Hoàn Yết Phật. Theo kinh Thụy Ứng: “Khi Định
Quang Phật xuất thế, ta làm Bồ Tát, tên là Nho Đồng,
mua hoa đến cúng Định Quang Phật, rải hoa cúng
dường. Hoa ngừng trên không trung, Phật hiểu ư, bèn tán thán:
- Ông đă học thanh tịnh trong vô số kiếp, do vậy
bèn thọ kư, trong chín mươi mốt kiếp sau, trong kiếp
có tên là Hiền Kiếp, ông sẽ làm Phật, hiệu là
Thích Ca Văn”. Trí
Độ Luận quyển chín chép: “Khi Nhiên Đăng Phật
sanh ra, hết thảy mọi thứ chung quanh như được đèn chiếu
sáng, nên gọi là Nhiên Đăng thái tử. Khi Ngài thành Phật,
cũng hiệu là Nhiên Đăng, cựu dịch là Định
Quang Phật”. Theo
kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển 13, trong kiếp quá khứ
lâu xa, có vua tên là Địa Chủ, đem nửa phần
Diêm Phù Đề trao cho bầy tôi của vua là Thiện Minh
thống trị. Lúc phu nhân của Thiện Minh sanh con, cả
Diêm Phù Đề sáng rực quang minh sắc vàng. Đứa bé sanh ra dung mạo đoan chánh, đủ
ba mươi hai tướng; do vậy, đặt
tên là Đăng Quang. Lúc hai mươi chín tuổi,
Đăng Quang xuất gia học đạo, thành Phật
ngay trong đêm ấy. Thiện Minh và bốn mươi ức
người đến chỗ Đăng Quang Như Lai
nghe thuyết pháp. Như Lai lại đến chỗ vua
Địa Chủ thuyết pháp. Địa Chủ chính là
tiền thân của Phật Thích Ca.
[10] Đây là một trong các đức
hiệu của Phật. Trong nhân loại, đức Phật
tôn quư nhất, thù thắng nhất. V́ thế gọi là Nhân
Trung Tôn (bậc đáng tôn quư trong nhân loại).
[11] Chú thích của pháp sư Phổ
Hành: “Tiên ở đây phải hiểu là người tu
hành. Bát Nhă Đăng Luận viết: - Các vị Thanh
Văn, Bồ Tát v.v… đều được gọi là
Tiên”.
[12] Ư nói sự quyền biến của
tam thừa do thích hợp với từng loại căn
cơ, cho nên không thể dung nạp hết thảy
mọi căn tánh, hoặc dung thông với mọi hoàn cảnh
được, giống như thước vuông có góc cạnh,
không thể đặt vào đâu cũng phù hợp
được!
[13] Theo lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ,
Quả Giáo hiểu đơn giản chính là dùng sự giác
ngộ nơi quả địa thù thắng làm cái tâm tu hành
cho chúng sanh trong khi tu nhân. Nói cách khác, chỗ phát xuất
để tu hành trong quả giáo chính là từ cái quả do
mười phương Như Lai đạt được.
Chẳng hạn như dùng Tịnh Độ để xét
th́ Phật hiệu chính là danh hiệu nơi quả đức
của Phật, là sự kết tinh của giác ngộ, là bản
thể chân tâm của chư Phật, cho nên tŕ danh hiệu
Phật chính là trực tiếp huân tập Phật quả
vào trong tâm của chính ḿnh. V́ thế, pháp môn Tịnh Độ gọi
là Quả Giáo.
[14] Đây là một thí dụ trong kinh,
như người rơi xuống biển, phải
nương vào cái thây nổi để vượt sóng gió
vào bờ. Đây là tỷ dụ để thoát sanh tử,
phải nương vào các phương tiện quyền biến.
Sau khi đă đến bờ, bèn bỏ phương tiện,
không khư khư chấp trước phương tiện
nữa.
[15] Đại Phẩm Bát Nhă là tên gọi
tắt của bộ Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Kinh, gồm chín mươi mốt phẩm, do ngài Cưu Ma La Thập dịch sang tiếng
Hán. Bộ kinh này được ngài Long Thọ chú giải,
soạn thành Đại Trí Độ Luận, và được
ngài Cát Tạng chú thích thêm bằng tác phẩm Đại Phẩm
Nghĩa Sớ. Đây là các tác phẩm trọng yếu cho
các hành giả nghiên cứu giáo nghĩa Bát Nhă.
[16] Đây là một thuật ngữ của
tông Thiên Thai để mô tả thời Bát Nhă. Do đức
Phật bảo hàng Thanh Văn như ngài Tu Bồ Đề
thay Phật thuyết Bát Nhă cho các vị Bồ Tát nên gọi
là “chuyển giáo”.
[17] “Pháp ái” tức là ḷng yêu thích thiện pháp của
Bồ Tát. Pháp ái có hai thứ:
1. Căn cơ Tiểu Thừa và Bồ
Tát do chưa đoạn pháp chấp, cho nên yêu mến Niết Bàn Thiên Không, và yêu mến, chấp
trước các thiện pháp. Pháp ái loại này cần phải
đoạn trừ.
2. Đại bi của Phật
cũng gọi là vô thượng pháp ái, hoặc vô thượng
chân ái.
Thuận đạo pháp ái (c̣n gọi
là Tự Đạo pháp ái, tương tự pháp ái) là pháp
ái của hàng Bồ Tát chưa nhập Sơ Trụ. Chân đạo
pháp ái là pháp ái của bậc Bồ Tát đă từ Sơ Trụ
trở lên.
[18] “Giáo vị” ở đây là nói theo ngũ vị
giáo trong kinh Niết Bàn, tức các vị sữa, lạc,
sanh tô, thục tô, đề hồ.
[19] Tam Đức là Pháp Thân, Bát Nhă, và Giải
Thoát. Tam Quỹ (三軌) là một khái niệm
trong tông Thiên Thai, hàm ư “ba pháp có thể dùng làm khuôn phép”, tức là:
1. Chân Tánh Quỹ: Chẳng hư ngụy
là Chân, chẳng thay đổi là Tánh. Chân Tánh Quỹ chính là
bản thể của Chân Như Thật Tướng.
2. Quán Chiếu Quỹ: Trí huệ
quán thấu đạt chân tánh.
3. Tư Thành Quỹ: Trí giúp cho việc
quán chiếu khiến cho vạn hạnh trong chân tánh
được khai phát.
[20] Theo cách phán giáo của tông Thiên Thai,
thời Pháp Hoa được đức Phật nói trong suốt
tám năm.
[21] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Phật
là bậc anh hùng tuyệt thế, có thể hiểu những
điều mà người đời chẳng hiểu
được, có thể hành những điều người
đời khó hành, có thể chứng những điều
người đời khó chứng, có thể đoạn
những điều người đời khó đoạn.
V́ thế, gọi là Thế Hùng”.
[22] Pháp sư Phổ Hành chú giải: “Do
(猶) vốn là tên của một loài thú.
Nó vốn dự pḥng loài người làm hại, nên
có lúc leo tót lên cây, có lúc lại tuột xuống. V́ thế,
dùng từ ngữ Do Dự để sánh ví sự nghi hoặc,
bất định”.
[23] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Lưỡng
Túc Tôn: Phật trọn đủ hai trí Quyền và Thật,
tôn quư cao thượng nhất, nên gọi là Lưỡng Túc
Tôn”.
[24] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Pháp
Thân của Bồ Tát do nghe pháp được nói từ kim
khẩu của đức Phật mà sanh, v́ thế gọi
là Phật khẩu sở sanh tử”.
[25] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Xưa
kia nói pháp Nhị Thừa, chính là bán tự giáo, chẳng gọi
là ‘trọn đủ’. Nay cầu thỉnh Phật hăy nói Nhất
Thừa măn tự giáo th́ mới là trọn đủ”.