Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa

phần 6

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Thai Tông Hội Nghĩa, quyển thứ hai

Đất Cổ Ngô, Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật

妙法蓮華經綸貫會義

古吳後學蕅益智旭述

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

3.3.1.2.2.2.1.2. Trùng tụng Biệt Thí

 

          Chia thành ba phần:

          - Một là trùng tụng thí dụ trưởng giả thấy lửa.

          - Hai là trùng tụng thí dụ bỏ ghế[1], dùng xe.

          - Ba là trùng tụng thí dụ b́nh đẳng ban cho cỗ xe lớn.

          Lược đi không trùng tụng thí dụ “chẳng hư vọng”.

 

3.3.1.2.2.2.1.2.1. Trùng tụng thí dụ trưởng giả thấy lửa

 

          (Kinh) Thị thời trạch chủ, tại môn ngoại lập, văn hữu nhân ngôn: “Nhữ chư tử đẳng, tiên nhân du hư, lai nhập thử trạch. Trĩ tiểu vô tri, hoan ngu nhạo trước”. Trưởng giả văn dĩ, kinh nhập hỏa trạch.

          ()是時宅主。在門外立。聞有人言。汝諸子等。先因遊戲。來入此宅。稚小無知。歡娛樂著。長者聞已。驚入火宅。

          (Kinh: Khi đó, ông chủ nhà, đang đứng ở ngoài cửa, nghe có người kể rằng:
“Các đứa con của ông, trước
đó v́ chơi đùa, vào trong nhà này. Thơ dại, chẳng hiểu biết, vui đùa, rất ưa thích”. Trưởng giả nghe nói xong, kinh hăi vào nhà lửa).

 

          Ba câu đầu trùng tụng người trông thấy. Năm câu kế đó, trùng tụng điều được trông thấy. Hai câu sau cùng, trùng tụng nỗi kinh sợ. Người ở ngoài cửa thuộc địa vị Pháp Thân. “Lập” (đứng) nghĩa là thường ôm ḷng đại bi, muốn cứu chúng sanh, chẳng ngự trên ṭa Đệ Nhất Nghĩa Không! Kinh văn trong phần trước (phần Trường Hàng) nói “thấy”, phần kệ tụng nói là “nghe”. Dùng “nghe” thay cho “thấy”, hiển lộ “thấy”“nghe” chẳng hai! Có người nói: “Pháp là thầy của Phật”, tức là nói đến pháp tam-muội! Nếu nhập tam-muội, sẽ có thể thấy căn cơ. Tam-muội khiến cho Phật trông thấy. V́ thế nói “văn hữu nhân ngôn” (nghe có người nói rằng). “Tiên nhân du hư, lai nhập thử trạch” (trước đó, do chơi đùa mà vào trong nhà này) có hai nghĩa:

          - Một là khi mới phát tâm, liền gọi là Xuất. Chưa dự vào địa vị Bất Thoái, vẫn dấy lên Kiến Tư. V́ thế nói “du hư lai nhập thử trạch” (vui chơi vào trong nhà này).

          - Hai là Lư tánh vốn tịnh, chẳng phải là pháp thuộc tam giới. Do vô minh, cho nên dấy lên hư luận, hư vọng có sanh tử. V́ thế nói “do vui chơi mà vào trong nhà này”.

          “Trĩ tiểu” (thơ dại): Chưa đạt đến đại thiện. “Vô tri”: Bị Si Hoặc quấn trói. “Kinh nhập” (kinh hăi tiến vào): Do đại bi mà ứng hiện.

 

3.3.1.2.2.2.1.2.2. Trùng tụng thí dụ bỏ ghế, dùng xe

3.3.1.2.2.2.1.2.2.1. Trùng tụng chuyện bỏ ghế

 

          Trong phần kết hợp thí dụ với pháp thuộc phần trước, chỉ kết hợp thí dụ với Khuyến môn. Nay chỉ trùng tụng Giới môn, [tuy vậy, ư nghĩa] vẫn hiển hiện lẫn nhau.

 

          (Kinh) Phương nghi cứu tế, linh vô thiêu hại. Cáo dụ chư tử, thuyết chúng hoạn nạn: Ác quỷ, độc trùng. Tai hỏa mạn diên, chúng khổ thứ đệ, tương tục bất tuyệt. Độc xà, ngoan, phúc, cập chư Dạ Xoa, Cưu Bàn Trà quỷ. Dă can, hồ, cẩu, điêu, thứu, si, kiêu, bách túc chi thuộc, cơ khát năo cấp, thậm khả bố úy. Thử khổ nạn xứ, huống phục đại hỏa! Chư tử vô tri, tuy văn phụ hối, do cố nhạo trước, hy hư bất dĩ.

          ()方宜救濟。令無燒害。告喻諸子。說眾患難。惡鬼毒蟲。災火蔓延。眾苦次第。相續不絕。毒蛇蚖蝮。及諸夜叉。鳩槃茶鬼。野干狐狗。鵰鷲鴟梟。百足之屬。饑渴惱急。甚可怖畏。此苦難處。況復大火。諸子無知。雖聞父誨。猶故樂著。嬉戲不已。

          (Kinh: T́m phương cách cứu vớt, để khỏi bị thiêu hại. Bèn khuyên dụ các con, nói rơ các hoạn nạn: Ác quỷ và trùng độc, lửa tai ương tràn lan. Các khổ theo thứ tự, liên tục chẳng hề dứt. Rắn độc dữ, rắn lục, và các quỷ Dạ Xoa, cùng quỷ Cưu Bàn Trà. Chó rừng, cáo, chồn, chó. Diều, cú, ưng, kên kên, và loài trùng trăm chân, bị đói khát bức bách, rất đáng nên sợ hăi. Đó là chốn khổ nạn, lại c̣n có lửa dữ!” Các con chẳng hay biết, tuy nghe cha khuyên răn, vẫn ham đắm như cũ, đùa giỡn chẳng hề ngơi).

 

          Bốn bài kệ rưỡi đầu tiên trùng tụng [trưởng giả] toan vận dụng các cách khuyên răn. Bài kệ sau đó, trùng tụng chuyện sử dụng phương cách ấy chẳng đạt hiệu quả. “Phương nghi”: Toan dùng đại giáo ḥng thích hợp t́nh thế. “Cáo dụ” (bảo ban, khuyên dụ): Tức là [vận dụng] phương cách khuyên răn, nêu ra các hoạn nạn. “Ác quỷ, độc trùng”: Nêu chung các thứ bị thiêu đốt, tức là chúng sanh có độn sử và lợi sử gồm mười thứ. Ba câu kể từ “tai hỏa mạn diên” (lửa tai ương lan tràn): Nêu chung thế lửa đốt và tướng trạng thiêu đốt. Hai bài kệ nói về rắn độc v.v… nhằm nói cặn kẽ những thứ bị thiêu đốt, tức là liệt kê các thứ Sử lợi, độn, chẳng theo thứ tự. Hai câu kệ từ “thử khổ nạn xứ” (chốn khổ nạn ấy), nhằm tổng kết bằng cách so sánh, nhân quả trong tam giới đă chẳng thể chịu đựng nổi; huống hồ c̣n có Ngũ Trược dấy lên ư? “Chư tử vô tri” (các con chẳng hay biết), tức là chẳng có căn cơ Đại Thừa, chẳng chịu tin nhận. Con đă chấp trước Kiến Tư sâu đậm, cứ chơi đùa chẳng thôi. Cha khuyên răn chẳng thể lay chuyển được; đó chính là ư nghĩa “ngưng dứt sự giáo hóa” [bằng các pháp viên đốn thuộc Đại Thừa].

 

3.3.1.2.2.2.1.2.2.2. Trùng tụng thí dụ dùng ba loại xe

 

          Lược đi không trùng tụng chuyện cha đă biết trước tâm [ham thích] của các con.

 

3.3.1.2.2.2.1.2.2.2.1. Trùng tụng chuyện tính nên dùng ba loại xe

         

          (Kinh) Thị thời trưởng giả, nhi tác thị niệm: “Chư tử như thử, ích ngă sầu năo. Kim thử xá trạch, vô nhất khả nhạo, nhi chư tử đẳng, đam miện hy hư, bất thọ ngă giáo, tương v hỏa hại, tức tiện tư duy, thiết chư phương tiện.

          ()是時長者。而作是念。諸子如此。益我愁惱。今此舍宅。無一可樂。而諸子等。耽湎嬉戲。不受我教。將為火害。卽便思惟。設諸方便。

          (Kinh: Lúc đó, ông trưởng giả, bèn nghĩ như thế này: “Các con như thế đó, khiến ta thêm sầu năo. Nay trong nhà lửa này, không chuyện ǵ đáng vui! Thế mà các con ta, cứ ham đắm giỡn đùa, chẳng nghe lời ta dạy, chắc sẽ bị lửa thiêu”. Ông lập tức suy nghĩ, lập ra các phương tiện).

 

          Bài kệ thứ nhất nêu ra ư tưởng suy nghĩ. Bài kệ kế tiếp, nêu ra nguyên do vận dụng Tiểu pháp: Do [chúng sanh] chấp trước Kiến Tư; v́ thế, chỉ có cách vận dụng Tiểu pháp. Hai câu kế đó, nói rơ ư nghĩa vận dụng Tiểu pháp. Nếu chẳng dùng Tiểu pháp th́ Đại lẫn Tiểu đều cùng mất. V́ thế nói: “Tương vị hỏa hại” (Sẽ bị lửa làm hại). Hai câu kế đó, [ư nói] thật sự suy nghĩ cách vận dụng Tiểu pháp.

 

3.3.1.2.2.2.1.2.2.2.2. Trùng tụng lời tán thán ba loại xe hy hữu

 

          (Kinh) Cáo chư tử đẳng: - Ngă hữu chủng chủng, trân ngoạn chi cụ, diệu bảo hảo xa, dương xa, lộc xa, đại ngưu chi xa, kim tại môn ngoại. Nhữ đẳng xuất lai, ngô vị nhữ đẳng, tạo tác thử xa, tùy ư sở nhạo, khả dĩ du hư.

          ()告諸子等。我有種種。珍玩之具。妙寶好車。羊車鹿車。大牛之車。今在門外。汝等出來。吾為汝等。造作此車。隨意所樂。可以遊戲。

          (Kinh: Liền bảo các con rằng: - Cha có rất nhiều thứ, đồ chơi đáng vui thích, các xe báu tốt đẹp, xe dê và xe nai, cùng với xe trâu lớn. Nay đang đặt ngoài cửa, các con hăy ra đây. Cha đă v́ các con, tạo tác các xe ấy, tùy ư các con thích, bèn có thể dạo chơi).

 

          Bốn câu đầu trùng tụng sự Khuyến Chuyển. Ba câu kế đó trùng tụng Thị Chuyển (chuyển bằng cách chỉ bày hoặc thị hiện). Câu “nhữ đẳng xuất lai” (các con hăy ra đây) trùng tụng Khuyến Chuyển. Bài kệ sau cùng, trùng tụng Chứng Chuyển. “Ta có thể chế tạo xe” tức là dẫn điều chính ḿnh đă chứng ḥng chứng minh chẳng sai lầm.

 

3.3.1.2.2.2.1.2.2.2.3. Trùng tụng [chuyện các thứ xe] ấy vừa đúng ḷng mong mỏi của các con

 

          (Kinh) Chư tử văn thuyết, như thử chư xa, tức thời bôn cạnh, tŕ tẩu nhi xuất, đáo ư không địa, ly chư khổ nạn.

          ()諸子聞說。如此諸車。卽時奔競。馳走而出。到於空地。離諸苦難。

          (Kinh: Các con nghe cha nói, các xe như thế đó, lập tức tranh giành nhau, rảo chạy ra khỏi cửa, đến được chỗ đất trống, ĺa khỏi các khổ nạn).

 

          “Văn thuyết” (Nghe nói): Trùng tụng Văn Huệ. “Bôn cạnh” (tranh giành): Trùng tụng Tư Huệ và Tu Huệ. “Tŕ tẩu nhi xuất” (rảo chạy thoát ra): Trùng tụng Kiến Đế[2]. “Đáo ư không địa” (đến nơi đất trống): Trùng tụng Vô Học. Hai bài tụng nhằm trùng tụng chuyện bỏ ghế, dùng xe để sánh ví cảnh.

 

3.3.1.2.2.2.1.2.2.3. Trùng tụng thí dụ b́nh đẳng ban cho cỗ xe lớn

3.3.1.2.2.2.1.2.2.3.1. Trùng tụng thí dụ cha hoan hỷ v́ thấy các con thoát nạn

 

          (Kinh) Trưởng giả kiến tử, đắc xuất hỏa trạch, trụ ư tứ cù, tọa sư tử ṭa, nhi tự khánh ngôn: “Ngă kim khoái lạc! Thử chư tử đẳng, sanh dục thậm nan, ngu, tiểu, vô tri, nhi nhập hiểm trạch. Đa chư độc trùng, ly m khả úy, đại hỏa mănh diễm, tứ diện câu khởi. Nhi thử chư tử, tham lạc hy hư, ngă dĩ cứu chi, linh đắc thoát ly. Thị cố chư nhân, ngă kim khoái lạc”.

          ()長者見子。得出火宅。住於四衢。坐師子座。而自慶言。我今快樂。此諸子等。生育甚難。愚小無知。而入險宅。多諸毒蟲。魑魅可畏。大火猛燄。四面俱起。而此諸子。貪樂嬉戲。我已救之。令得脫離。是故諸人。我今快樂。

          (Kinh: Trưởng giả thấy các con, đều thoát khỏi nhà lửa. Ở nơi ngă tư đường, ngồi trên ṭa sư tử, vui mừng tự nhủ rằng: “Ta nay vui sướng lắm, các đứa con ta đây, đẻ nuôi rất khó khăn, nhỏ, dại, chẳng hiểu biết, đi vào căn nhà hiểm, có nhiều thứ trùng độc, loài ly mỵ đáng sợ. Lửa to cháy hừng hực, bốn phía đều cháy bùng, nhưng các đứa con này, ham vui cứ đùa giỡn. Nay ta đă cứu được, khiến chúng được thoát ĺa. V́ thế, mọi người ơi! Ta nay vui sướng lắm).

 

          “Trụ ư tứ cù” (ở nơi ngă tư) biểu thị đă thấy rành rẽ Tứ Đế. “Tọa sư tử ṭa” (ngồi trên ṭa sư tử): Chủ nhà thoạt đầu ở ngoài cửa, c̣n mang nỗi lo âu, sợ hăi, nên nói là “lập” (đứng). Nay thấy con thoát nạn mới chẳng sợ hăi; v́ thế nói là “tọa” (ngồi). Phẩm Phương Tiện nói: “Kim ngă hỷ vô úy” (nay ta vui mừng, không sợ hăi) chính là nghĩa này.

          Lại nữa, trước đó, căn cơ Đại Thừa chưa thấu hiểu, nên nói là “lập”. Nay giáo hóa Tiểu Thừa đă hoàn tất, nên nói là “tọa”. “Lập” là ngầm lợi lạc, “tọa” là lợi ích hiển nhiên. “Nhi tự khánh ngôn” (tự vui mừng, nói rằng): Có căn cơ để có thể hóa độ, cho nên vui mừng. Nơi hai vạn ức chư Phật, đều dạy các căn ấy bằng Đại Thừa, cho nên nói là “sanh”. Trong chặng giữa, dùng pháp Tiểu Thừa để thành thục họ. V́ thế nói là “dục” (nuôi nấng). Trải qua nhiều thời gian nhiều lượt nuôi nấng; v́ thế nói là “thậm nan” (rất khó). Thiện căn vẫn c̣n ít ỏi, cho nên nói là “ngu tiểu” (ngu dại, nhỏ nhoi). Bị vọng Hoặc che lấp, nên nói là “vô tri”. Do vô tri, cho nên dấy lên trược. Dấy trược, ắt chuốc quả. V́ thế nói là “nhập trạch” (vào trong nhà). Hai câu như “đa chư độc trùng” (nhiều loại độc trùng) v.v… trần thuật chung tướng lợi độn trong tam giới. Hai câu như “đại hỏa mănh diễm” (lửa to cháy mạnh) v.v… trần thuật chung thế lực của tám khổ trong tam giới. Hai câu “nhi thử chư tử” (nhưng các đứa con này) v.v… nêu ra sự khởi Kiến, khởi ái, chẳng thể tự dẹp trừ. Hai câu “ngă dĩ cứu chi” (ta đă cứu được) v.v… nêu rơ nguyên do [khiến cho trưởng giả] hoan hỷ. Hai câu như “thị cố chư nhân” (v́ thế mọi người ơi) tổng kết ư hoan hỷ.

 

3.3.1.2.2.2.1.2.2.3.2. Trùng tụng thí dụ các con đ̣i cha ban cho xe

 

          (Kinh) Nhĩ thời chư tử, tri phụ an tọa, giai nghệ phụ sở, nhi bạch phụ ngôn: “Nguyện tứ ngă đẳng, tam chủng bảo xa, như tiên sở hứa. Chư tử xuất lai, đương dĩ tam xa, tùy nhữ sở dục. Kim chánh thị thời, duy thùy cấp dữ”.

          ()爾時諸子。知父安坐。皆詣父所。而白父言。願賜我等。三種寶車。如前所許。諸子出來。當以三車。隨汝所欲。今正是時。惟垂給與。

          (Kinh: Lúc bấy giờ các con, biết cha đă an tọa, đều cùng đến chỗ cha, mà thưa cùng cha rằng: “Xin cha cho chúng con, ba loại xe quư báu, như cha đă từng hứa. Các con ra khỏi cửa, sẽ cho ba loại xe, tùy ḷng con mong muốn. Nay chính là đúng lúc, xin rủ ḷng ban cho”).

 

          “Tri phụ an tọa” (biết cha đă ngồi yên) là lúc đ̣i xin xe, tương ứng với lúc sắp nói kinh Pháp Hoa. “Giai nghệ phụ sở” (đều đến chỗ cha): Cung cách đ̣i xin xe, tương ứng với chuyện trong hội này, mọi người đều dùng tâm cung kính đến chỗ đức Phật. “Nguyện tứ ngă đẳng, tam chủng bảo xa” (nguyện ban cho các con ba loại xe báu): Tức là chánh thức cầu xin. “Như tiền sở hứa” (như đă hứa trước đó): Do chấp vào quá khứ mà nghi hiện tại. Trước kia, [đức Phật] nói thật sự có tam thừa, thuận theo ḷng ham muốn của con. Nay lại quở trách đó là phương tiện, ắt sẽ rủ ḷng ban bố riêng cho con.

 

3.3.1.2.2.2.1.2.2.3.3. Trùng tụng thí dụ b́nh đẳng ban xe lớn cho các con

 

          (Kinh) Trưởng giả đại phú, khố tạng chúng đa, kim, ngân, lưu ly, xa cừ, mă năo, dĩ chúng bảo vật, tạo chư đại xa, trang hiệu nghiêm sức. Châu táp lan thuẫn, tứ diện huyền linh. Kim thằng giao lạc. Chân châu la vơng. Trương thi kỳ thượng. Kim hoa chư anh, xứ xứ thùy hạ, chúng thái tạp sức, châu táp vi nhiễu. Nhu nhuyễn tăng khoáng, dĩ vi nhân nhục, thượng diệu tế điệp, giá trị thiên ức. Tiễn bạch tịnh khiết, dĩ phú kỳ thượng. Hữu đại bạch ngưu, ph́ tráng đa lực, h́nh thể xu hảo, dĩ giá bảo xa. Đa chư tân tùng, nhi thị vệ chi. Dĩ thị diệu xa, đẳng tứ chư tử.

          ()長者大富。庫藏眾多。金銀瑠璃。硨磲碼碯。以眾寶物。造諸大車。莊校嚴飾。周帀欄楯。四面懸鈴。金繩交絡。真珠羅網。張施其上。金華諸纓。處處垂下。眾綵雜飾。周帀圍繞。柔輭繒纊。以為茵褥。上妙細氎。價值千億。鮮白淨潔。以覆其上。有大白牛。肥壯多力。形體姝好。以駕寶車。多諸儐從。而侍衛之。以是妙車。等賜諸子。

          (Kinh: Trưởng giả rất giàu có, kho tàng thật rất nhiều, vàng, bạc và lưu ly, xa cừ với mă năo, dùng các vật quư báu, chế tạo các xe lớn, trang hoàng đẹp lộng lẫy. Chung quanh có bao lơn, bốn phía đều treo linh. Dây vàng dùng giăng xen. Mành lưới bằng chân châu, căng che ở phía trên. Hoa vàng, các chuỗi ngọc, treo rủ khắp mọi chỗ. Trang hoàng đủ màu sắc, phủ trọn khắp quanh xe. Dùng lụa là mềm mại, để lót làm nệm ngồi. Vải mềm mịn quư báu, giá trị tới ngàn ức. Trắng trong, rất sạch sẽ, để phủ ở trên nệm. Có trâu trắng to lớn, mập khỏe, lại rất mạnh. Thân h́nh rất đẹp đẽ, dùng để kéo xe báu. Đông đảo các tôi tớ, theo hầu và hộ vệ. Dùng các xe quư ấy, b́nh đẳng cho các con).

 

          Hai câu đầu, trùng tụng nguyên do v́ sao có các cỗ xe. Sáu bài kệ rưỡi tiếp đó, đều nhằm trùng tụng rơ ràng thể chất của xe. Hai câu sau cùng, nhắc lại ư nghĩa [b́nh đẳng ban cho các con xe báu], nhưng lược đi chẳng nói đến chuyện tâm cha b́nh đẳng. Nhưng xe b́nh đẳng, các con được nhận xe b́nh đẳng, ắt cái tâm b́nh đẳng đă rơ rệt rồi! Nhà để chứa đồ vật gọi là Khố (), có thể sánh ví lục căn có đủ hết thảy các pháp. Đất chứa vật gọi là Tạng (), có thể sánh ví các hạnh trọn đủ hết thảy các pháp. Lại c̣n Ấm, Giới, Nhập v.v… trọn đủ hết thảy các pháp, có thể sánh ví như Tạng. Xét ra, do Lư như đất, đạo phẩm, Lục Độ trọn đủ hết thảy các pháp, có thể sánh ví với Khố (kho). Do xét theo Tu giống như nhà, trong mỗi pháp thật sự có đủ hết thảy các hạnh và hết thảy các pháp. Trong mỗi hạnh, trọn đủ hết thảy các pháp và hết thảy các hạnh. V́ thế, gọi là “khố tạng chúng đa” (có nhiều kho tạng), giàu to. Tánh trọn đủ các pháp, gọi chung là “chúng bảo” (các thứ báu).

          Từ tánh mà khởi tu th́ gọi là “tạo”. Con đông sẽ đi nhiều, xe cũng phải nhiều theo, bèn gọi là “chư” (các). Thể chất của mỗi cỗ xe, không cỗ nào chẳng cao rộng, nên gọi là “đại”. Lại cần phải chỉ bày mới biết, con có tu th́ [mới biết], nên gọi là “tạo”. Do trong tánh chẳng có tu, [tuy nói là] “tạo” mà vốn là sẵn có; đó là bản thể của xe. Từ chữ “trang hiệu” (trang hoàng) trở đi, hàm nghĩa đều trọn đủ các Độ. Bốn câu đầu như vừa mới giải thích. Hai câu “chân châu la vơng” (lưới mành chân châu) v.v… trùng tụng lưới mành [che phủ trên xe]. Ḷng Từ chẳng phải chỉ có một môn, giống như các mắt lưới. Trong mỗi mắt lưới, đều có một viên chân châu, như các môn Từ đều cùng được gọi là Thật. Hai câu “kim hoa, chư anh” (các chuỗi hoa vàng) trùng tụng chuyện treo các chuỗi hoa rủ xuống, nhằm hiển thị ư nghĩa: Các căn cơ đều vui sướng trọn khắp.

          “Chúng thái tạp sức” (trang hoàng đủ màu sắc) là nói đến các chỗ được [đức Phật] rủ ḷng hóa độ. Lập bày phương tiện ứng hiện bất đồng là “châu táp vi nhiễu” (vây khắp chung quanh), tức là nói đến cơ nghi nhiếp hóa chúng sanh chẳng hề khuyết thiếu! “Nhu nhuyễn tăng khoáng” (lụa là mềm mại) trùng tụng chữ Uyển (, mềm mại). “Dĩ vi nhân nhục” (dùng làm đệm ngồi), trùng tụng chữ Diên (, nệm lót ngồi). Bốn câu “thượng diệu tế điệp” (vải mềm mịn quư báu) v.v… trùng tụng hai chữ “trùng phu” (重敷, xếp chồng lên nhiều lớp), ư nói: Các loại Sự Thiền (Thiền Định thuộc về sự tướng) đều chính là Thật Tướng, chẳng giống với các thứ phiền năo xen tạp của phàm phu, tiểu quả. V́ thế, “tiễn bạch tịnh khiết thượng diệu” (trắng trẻo, tinh sạch, tốt đẹp nhất)! “Đại bạch ngưu” th́ như trong phần trước đă giải thích. “Tân tùng” (儐從) chính là “bộc tùng” (僕從, tôi tớ, người theo hầu). Những điều khác dễ hiểu!

 

3.3.1.2.2.2.1.2.2.3.4. Trùng tụng thí dụ các con được xe đều hoan hỷ         

 

          (Kinh) Chư tử thị thời, hoan hỷ dũng dược, thừa thị bảo xa, du ư tứ phương, hy hư khoái lạc, tự tại vô ngại.

          ()諸子是時。歡喜踴躍。乘是寶車。遊於四方。嬉戲快樂。自在無礙。

          (Kinh: Lúc bấy giờ các con, rất vui mừng, hớn hở, ngồi cỗ xe báu ấy, dạo chơi khắp bốn phương, vui chơi rất sung sướng, tự tại chẳng ngăn ngại).

 

          Nương vào diệu huệ Trung Đạo, theo chiều ngang dạo chơi bốn thứ Tứ Môn[3], bốn thứ Tứ Đế, theo chiều dọc trải qua bốn mươi mốt địa vị, chứng Tứ Đức thường, lạc, ngă, tịnh rốt ráo. Phần thứ nhất, trùng tụng thí dụ đă xong.

 

3.3.1.2.2.2.2. Trùng tụng nhằm đối ứng thí dụ với pháp

3.3.1.2.2.2.2.1. Đối ứng tổng thí

3.3.1.2.2.2.2.1.1. Đối ứng thí dụ về trưởng giả với pháp

 

          (Kinh) Cáo Xá Lợi Phất! Ngă diệc như thị, chúng thánh trung tôn, thế gian chi phụ.

          ()告舍利弗。我亦如是。眾聖中尊。世間之父。

          (Kinh: Bảo với Xá Lợi Phất! Ta cũng như thế đó, tôn quư trong các thánh, là cha của thế gian).

 

          Câu “ngă diệc như thị” (ta cũng giống như thế) trùng tụng địa vị và danh hiệu. Hai câu kế đó, trùng tụng đối ứng danh và hạnh với pháp, đồng thời tán thán đức.

 

3.3.1.2.2.2.2.1.2. Trùng tụng nhằm kết hợp thí dụ “năm trăm người” với pháp

 

          Phần này kèm thêm ư nghĩa “ba mươi đứa con”.

 

          (Kinh) Nhất thiết chúng sanh, giai thị ngô tử, thâm trước thế lạc, vô hữu huệ tâm.

          ()一切眾生。皆是吾子。深著世樂。無有慧心。

          (Kinh: Hết thảy các chúng sanh, đều là con của ta, chấp sâu thế gian lạc, chẳng có tâm trí huệ).

 

          “Nhất thiết” (hết thảy) chỉ năm đường trong tam giới. “Ba mươi” là con thuộc về duyên nhân, “nhất thiết” là con thuộc về chánh nhân.

 

3.3.1.2.2.2.2.1.3. Trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của toàn thể ngôi nhà và ư nghĩa “một cửa”

 

          (Kinh) Tam giới vô an, do như hỏa trạch.

          ()三界無安。猶如火宅。

          (Kinh: Tam giới chẳng yên ổn, ví như nhà lửa cháy).

 

3.3.1.2.2.2.2.1.4. Trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của chuyện lửa bốc cháy

 

          (Kinh) Chúng khổ sung măn, thậm khả bố úy, thường hữu sanh lăo, bệnh tử ưu hoạn. Như thị đẳng hỏa, xí nhiên bất tức.

          ()眾苦充滿。甚可怖畏。常有生老。病死憂患。如是等火。熾然不息。

          (Kinh: Các nỗi khổ đầy dẫy, rất đáng nên kinh sợ, thường có sanh và lăo, bệnh, chết cùng lo sầu. Các thứ lửa như thế, cháy hừng hực chẳng ngơi).

 

          Hai câu đầu nhằm nêu bày [các sự khổ và nỗi kinh hăi]. Hai câu kế đó giải thích, hai câu cuối nhằm kết lại. Phần thứ nhất, trùng tụng kết hợp Tổng Thí với ư nghĩa biểu thị pháp đă xong.

 

3.3.1.2.2.2.2.2. Trùng tụng kết hợp Biệt Thí với pháp

3.3.1.2.2.2.2.2.1. Trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của “thấy lửa”

 

          (Kinh) Như Lai dĩ ly, tam giới hỏa trạch, tịch nhiên nhàn cư, an xử lâm dă. Kim thử tam giới, giai thị ngă hữu. Kỳ trung chúng sanh, tất thị ngô tử, nhi kim thử xứ, đa chư hoạn nạn. Duy ngă nhất nhân, năng vi cứu hộ.

          ()如來已離。三界火宅。寂然閑居。安處林野。今此三界。皆是我有。其中眾生。悉是吾子。而今此處。多諸患難。唯我一人。能為救護。

          (Kinh: Như Lai đă ĺa khỏi, ngôi nhà lửa tam giới, nhàn cư trong thanh vắng, ở yên nơi đồng, rừng. Nay cả tam giới này, đều cùng thuộc về ta. Chúng sanh ở trong đó, đều là con của ta. Nhưng nay nơi chốn này, có nhiều nỗi hoạn nạn, chỉ riêng một ḿnh ta, có thể cứu giúp họ).

 

          Bài kệ đầu tiên trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của chủ thể có thể trông thấy (năng kiến). Chính v́ vương tam-muội vắng lặng, tịch mà thường chiếu; cho nên có thể thấy. Sáu câu kế tiếp trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của những điều được trông thấy (sở kiến). Hai câu sau cùng, trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của chuyện trưởng giả kinh hăi vào trong nhà lửa.

 

3.3.1.2.2.2.2.2.2. Trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của chuyện bỏ ghế, dùng xe

3.3.1.2.2.2.2.2.2.1 Trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của chuyện bỏ ghế

 

          (Kinh) Tuy phục giáo chiếu, nhi bất tín thọ, ư chư dục nhiễm, tham trước thâm cố.

          ()雖復教詔。而不信受。於諸欲染。貪著深故。

          (Kinh: Dẫu ta đă dạy bảo, nhưng họ chẳng tin nhận. Đối với các dục nhiễm, tham đắm đă rất sâu).

 

          Câu thứ nhất trùng tụng ư nghĩa suy tính [dùng pháp nào] thích hợp [để hóa độ]. Câu thứ hai nhắc lại ư [dùng các đại pháp để hóa độ] đều chẳng được! Hai câu cuối giải thích nguyên do “v́ chúng sanh chẳng tin”; và cũng bao hàm ư nghĩa “thôi hóa độ”.

 

3.3.1.2.2.2.2.2.2.2. Trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của chuyện “dùng xe để tiếp dẫn

 

          (Kinh) Dĩ thị phương tiện, vị thuyết tam thừa, linh chư chúng sanh, tri tam giới khổ, khai thị diễn thuyết, xuất thế gian đạo. Thị chư tử đẳng, nhược tâm quyết định, cụ túc Tam Minh, cập lục thần thông, hữu đắc Duyên Giác, bất thoái Bồ Tát.

          ()以是方便。為說三乘。令諸眾生。知三界苦。開示演說。出世間道。是諸子等。若心決定。具足三明。及六神通。有得緣覺。不退菩薩。

          (Kinh: Do bởi phương tiện ấy, v́ họ nói tam thừa, khiến cho các chúng sanh, biết tam giới là khổ, khai thị và diễn nói, đạo xuất ly thế gian. Nếu các đứa con ấy, tâm đều đă quyết định, trọn đủ ba thứ Minh, và sáu món thần thông, có kẻ đắc Duyên Giác, hoặc bất thoái Bồ Tát).

 

          Hai câu đầu trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của việc suy tính vận dụng tam thừa. Bốn câu kế tiếp trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của việc khen ngợi ba loại xe hy hữu. Sáu câu cuối trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của chuyện [ba loại xe] phù hợp mong ước của các con. “Nhược tâm quyết định” (Nếu tâm quyết định): Trùng tụng chung các địa vị chứng đắc trong tam thừa. Bốn câu từ “cụ túc” (đầy đủ) trở đi, riêng trùng tụng khi các địa vị tam thừa tranh nhau thoát khỏi tam giới, thông với ư nghĩa bất thoái và ba giáo trước. Phần thứ hai, “trùng tụng chuyện bỏ ghế, dùng xe” đă xong.

 

3.3.1.2.2.2.2.2.2.3. Trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của chuyện b́nh đẳng ban cho [các con] cỗ xe lớn

3.3.1.2.2.2.2.2.2.3.1. Trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của chuyện b́nh đẳng ban cho

 

          (Kinh) Nhữ Xá Lợi Phất! Ngă vị chúng sanh, dĩ thử thí dụ, thuyết nhất Phật Thừa. Nhữ đẳng nhược năng, tín thọ thị ngữ, nhất thiết giai đương, thành đắc Phật đạo.

          ()汝舍利弗。我為眾生。以此譬喻。說一佛乘。汝等若能。信受是語。一切皆當。成得佛道。

          (Kinh: Này ông Xá Lợi Phất! Ta đă v́ chúng sanh, sử dụng thí dụ này, để nói một Phật Thừa. Nếu các ông có thể, tin nhận lời nói này, th́ hết thảy sẽ đều, được thành tựu Phật đạo).

 

          Trước hết, trùng tụng ư nghĩa “[tất cả] đều là con của ta, b́nh đẳng ban cho Đại Thừa, cho đến “đều dùng sự diệt độ của Như Lai để giúp họ diệt độ”, tương ứng với tâm b́nh đẳng.

 

          (Kinh) Thị thừa vi diệu, thanh tịnh đệ nhất, ư chư thế gian, vi vô hữu thượng, Phật sở duyệt khả, nhất thiết chúng sanh, sở ưng xưng tán, cúng dường, lễ bái.

          ()是乘微妙。清淨第一。於諸世間。為無有上。佛所悅可。一切眾生。所應稱讚。供養禮拜。

          (Kinh: Phật Thừa này vi diệu, là thanh tịnh bậc nhất, ở trong các thế gian, không ǵ hơn được nữa. Được chư Phật ưa thích, hết thảy các chúng sanh, đều phải nên ca ngợi, cúng dường và lễ bái).

 

          Đây chính là trùng tụng nhất tướng, nhất chủng. “Được các đức thánh ca ngợi” v́ có thể sanh ra niềm vui tịnh diệu bậc nhất, ứng hợp với thể chất của các cỗ xe [được nói trong thí dụ].

 

          (Kinh) Vô lượng ức thiên, chư lực, giải thoát, Thiền Định, trí huệ, cập Phật dư pháp, đắc như thị thừa.

          ()無量億千。諸力解脫。禪定智慧。及佛餘法。得如是乘。

          (Kinh: Có vô lượng ức ngàn, các lực và giải thoát, Thiền Định với trí huệ, và các Phật pháp khác, đạt được thừa như thế).

 

          Đây là trùng tụng ư nghĩa “ta có vô lượng vô biên các pháp tạng trí huệ, lực, vô úy v.v… của chư Phật”, tương ứng với nguyên do có xe. Phần thứ nhất, trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của việc b́nh đẳng ban cho đă xong.

 

3.3.1.2.2.2.2.2.2.3.2. Trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của thí dụ các con hoan hỷ   

 

          (Kinh) Linh chư tử đẳng, nhật dạ kiếp số, thường đắc du hư, dữ chư Bồ Tát, cập Thanh Văn chúng, thừa thử bảo thừa, trực chí đạo tràng. Dĩ thị nhân duyên, thập phương đế cầu, cánh vô dư thừa, trừ Phật phương tiện.

          ()令諸子等。日夜劫數。常得遊戲。與諸菩薩。及聲聞眾。乘此寶乘。直至道場。以是因緣。十方諦求。更無餘乘。除佛方便。

          (Kinh: Khiến cho các đứa con, ngày đêm trải kiếp số, thường luôn được vui chơi, cùng với các Bồ Tát, và các bậc Thanh Văn, ngồi trên xe báu ấy, đến thẳng chốn đạo tràng. Do bởi nhân duyên đó, t́m kỹ khắp mười phương, chẳng có thừa nào khác, trừ Phật nói phương tiện).

 

          Bảy câu đầu chỉ ra ai nấy đều đạt được Đại Thừa pháp hỷ. Bốn câu sau tổng kết khuyến tín. “Nhật dạ” (ngày đêm): Vừa mới đạt được trí quang Trung Đạo từ tri kiến của Phật, giống như “ban ngày”; các thứ vô minh hăy c̣n, giống như “ban đêm”. Tự đạt được trí Trung Đạo như ban ngày, từ bi vào trong sanh tử như đêm. Thường hành hai pháp; v́ thế nói là “du hư”. Rộng hóa độ tam thừa cùng đạt được Nhất Thừa, v́ thế nói “dữ chư Bồ Tát cập Thanh Văn chúng, thừa thử bảo thừa” (cùng với các vị Bồ Tát và hàng Thanh Văn ngồi xe báu ấy). Thừa ấy viên đốn, chẳng có tướng cong vạy. V́ thế nói “trực chí đạo tràng” (đến thẳng đạo tràng). Kế đó, tổng kết nhân duyên “chỉ có một thừa duy nhất, chẳng có ba thừa”, ư nghĩa dễ hiểu. Phần thứ ba, trùng tụng ư nghĩa biểu pháp của “b́nh đẳng ban cho cỗ xe lớn” đă xong!

 

3.3.1.2.2.2.2.2.2.4. Trùng tụng nhằm đối ứng “vô hư vọng” với pháp

 

          (Kinh) Cáo Xá Lợi Phất! Nhữ chư nhân đẳng, giai thị ngô tử. Ngă tắc thị phụ. Nhữ đẳng lũy kiếp, chúng khổ sở thiêu, ngă giai tế bạt, linh xuất tam giới. Ngă tuy tiên thuyết, nhữ đẳng diệt độ, đản tận sanh tử, nhi thật bất diệt. Kim sở ưng tác, duy Phật trí huệ. Nhược hữu Bồ Tát, ưng thị chúng trung, năng nhất tâm thính, chư Phật thật pháp. Chư Phật Thế Tôn, tuy dĩ phương tiện, sở hóa chúng sanh, giai thị Bồ Tát.

          ()告舍利弗。汝諸人等。皆是吾子。我則是父。汝等累劫。眾苦所燒。我皆濟拔。令出三界。我雖先說。汝等滅度。但盡生死。而實不滅。今所應作。唯佛智慧。若有菩薩。於是眾中。能一心聽。諸佛實法。諸佛世尊。雖以方便。所化眾生。皆是菩薩。

          (Kinh: Bảo với Xá Lợi Phất! Toàn thể nhóm các ông, đều là con của ta, c̣n ta chính là cha. Các ông trải nhiều kiếp, bị các khổ nung đốt. Ta đều cứu vớt cho, khiến thoát khỏi tam giới. Tuy ta trước kia nói, các ông đều diệt độ, chỉ là hết sanh tử, chẳng phải thật diệt độ! Nay việc phải nên làm, chỉ có trí huệ Phật. Nếu có Bồ Tát nào, ở trong đại chúng này, có thể nhất tâm nghe, thật pháp của chư Phật. Các vị Phật Thế Tôn, tuy đều dùng phương tiện, ḥng hóa độ chúng sanh, đều thành Bồ Tát cả!)

 

          Bốn câu đầu trước hết xác định t́nh cha con thiên tánh tương quan tột bậc! Tức là trùng tụng ư “Như Lai cũng giống như thế, chẳng có hư vọng”. Bốn câu kế tiếp, trùng tụng ư “thoạt đầu nói tam thừa để dẫn dắt chúng sanh”. Mười bốn câu kế đó trùng tụng ư sau đó, chỉ dùng Đại Thừa để độ thoát”.

 

          (Kinh) Nhược nhân tiểu trí, thâm trước ái dục. Vị thử đẳng cố, thuyết ư Khổ Đế. Chúng sanh tâm hỷ, đắc vị tằng hữu. Phật thuyết Khổ Đế, chân thật vô dị. Nhược hữu chúng sanh, bất tri khổ bổn, thâm trước khổ nhân, bất năng tạm xả. Vị thị đẳng cố, phương tiện thuyết đạo. Chư khổ sở nhân, tham dục vi bổn. Nhược diệt tham dục, vô sở y chỉ. Diệt tận chư khổ, danh đệ tam đế. Vị Diệt Đế cố, tu hành ư đạo, ly chư khổ phược, danh đắc giải thoát.

          ()若人小智。深著愛欲。為此等故。說於苦諦。眾生心喜。得未曾有。佛說苦諦。真實無異。若有眾生。不知苦本。深著苦因。不能暫捨。為是等故。方便說道。諸苦所因。貪欲為本。若滅貪欲。無所依止。滅盡諸苦。名第三諦。為滅諦故。修行於道。離諸苦縛。名得解脫。

          (Kinh: Nếu là kẻ trí nhỏ, chấp ái dục sâu đậm, ta v́ hạng người ấy, nói ra lư Khổ Đế. Chúng sanh nghe vui mừng, được điều chưa từng có. Đức Phật nói Khổ Đế, chân thật, chẳng sai khác. Nếu có chúng sanh nào, chẳng biết cội gốc khổ, chấp khổ nhân sâu đậm, chẳng thể tạm bỏ được. Sẽ v́ hạng người ấy, phương tiện để nói đạo: Trong các nhân gây khổ, tham dục là cội gốc. Nếu diệt trừ tham dục, khổ c̣n nương vào đâu? Diệt sạch hết các khổ, gọi là Đế thứ ba. Do v́ Diệt Đế ấy, mà tu hành nơi Đạo, ĺa khỏi khổ trói buộc, th́ gọi là giải thoát).

 

          Đây là trùng tụng ư “chẳng phải là trọn hết chúng sanh đều có thể thọ tŕ pháp Đại Thừa”. Do đó, đức Phật dùng sức phương tiện, v́ họ nói Sanh Diệt Tứ Đế. Cội gốc của Khổ chính là Tập Đế. “Phương tiện thuyết đạo”: Vẫn là nói phương tiện. “Đệ tam đế” chính là Diệt Đế. Những điều khác dễ hiểu!

 

          (Kinh) Thị nhân ư hà, nhi đắc giải thoát, đản ly hư vọng, danh vi giải thoát. Kỳ thật vị đắc, nhất thiết giải thoát. Phật thuyết thị nhân, vị thật diệt độ. Tư nhân vị đắc, vô thượng đạo cố, ngă ư bất dục, linh chí diệt độ. Ngă vi pháp vương, ư pháp tự tại, an ổn chúng sanh, cố hiện ư thế.

          ()是人於何。而得解脫。但離虛妄。名為解脫。其實未得。一切解脫。佛說是人。未實滅度。斯人未得。無上道故。我意不欲令至滅度。我為法王。於法自在。安隱眾生。故現於世。

          (Kinh: Người ấy nơi pháp nào, mà đạt được giải thoát? Chỉ là ĺa hư vọng, bèn gọi là “giải thoát”. Thật ra, chưa đạt được, hết thảy các giải thoát! Đức Phật nói kẻ đó, chưa thật sự diệt độ, v́ kẻ đó chưa đắc, đạo quả vô thượng vậy! Ư của ta chẳng muốn, khiến người đó diệt độ. Ta là đấng pháp vương, nơi pháp được tự tại. V́ an ổn chúng sanh, mà xuất hiện trong đời).

 

          Đây là trùng tụng ư “Như Lai có vô lượng pháp tạng trí huệ, lực, vô sở úy v.v… Có thể ban pháp Đại Thừa cho hết thảy chúng sanh”. “Đản ly hư vọng” (chỉ ĺa hư vọng) tức là ĺa Kiến Tư. “Nhất thiết giải thoát” (hết thảy các giải thoát) tức Đại Niết Bàn của Như Lai. “Vị thật diệt độ” (chưa thật sự diệt độ): Biến Dịch sanh tử vẫn c̣n. “Vô thượng đạo”: Nhất Thiết Chủng Trí. Pháp vương xuất hiện trong cơi đời để an ủi chúng sanh, hứa ba mà ban một, há có hư vọng? Phần trùng tụng đă xong.

          Trong bốn đoạn lớn của phần Thí Thuyết Châu, phần đầu tiên là thí dụ khai tam hiển nhất, có thỉnh, có đáp. Trong phần đáp có ba đoạn. Phần chánh yếu nói về Thí Thuyết đă xong.

 

3.3.1.3. Khuyến tín lưu thông

 

          “Tín” là tin vào lời Phật dạy “đối với các đối tượng nào chớ nên nói [khai tam, hiển nhất]”. “Khuyến” là khuyên [tin nhận] đối tượng nào th́ có thể lưu truyền hay chẳng lưu truyền pháp này. Do có hai nghĩa ấy, cho nên nói là “khuyến tín”.

 

3.3.1.3.1. Nêu bày cả hai ư nghĩa [khi nào nên tuyên nói và khi nào chớ nên nói]

 

          (Kinh) Nhữ Xá Lợi Phất! Ngă thử pháp ấn, vị dục lợi ích, thế gian cố thuyết. Tại sở du phương, vật vọng tuyên truyền.

          ()汝舍利弗。我此法印。為欲利益。世間故說。在所遊方。勿妄宣傳。

          (Kinh: Này ông Xá Lợi Phất! Pháp ấn[4] này của ta, v́ muốn tạo lợi ích, cho thế gian nên nói, các chỗ ông đi qua, chớ tùy tiện tuyên truyền).

 

          Bốn câu đầu nêu rơ [lúc nào] có thể nói hoặc chớ nên nói [pháp này]. V́ lợi ích thế gian mà nói ra pháp ấn Thật Tướng này của ta. Như trong bốn mươi mấy năm, lúc chưa nói ra là v́ năm ngàn người chưa lui về, cho nên chẳng nói. Hai câu kế đó, chỉ ra: Đối với đối tượng nào th́ có thể hay chẳng thể lưu truyền pháp này, chớ nên tuyên truyền bừa băi. Đối với kẻ ác mà cứ cưỡng nói, sẽ khiến cho họ đọa khổ! Đối với người thiện mà chẳng nói, sẽ khiến cho họ lầm lỡ, chẳng đạt được niềm vui này. Do ḷng đại bi thương xót kẻ ác, cho nên chẳng nói với họ. Do ḷng đại từ nghĩ đến người thiện, hăy nên nói cho họ biết. Xét ra đoạn văn này, chính là đức Phật đă phó chúc ngài Thân Tử (Xá Lợi Phất) như thế, tức là giống như Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật phó chúc ngài Diệu Quang. C̣n như ngài Thân Tử nhập diệt trước Phật, bất quá là tiểu cơ thấy như thế. Ngày nay được nghe Pháp Hoa, há chẳng phải là do sức lưu thông của ngài Thân Tử ư?

 

3.3.1.3.2. Giải thích

3.3.1.3.2.1. Giải thích đối với ai có thể nói, và đối với ai chớ nên nói

 

          (Kinh) Nhược hữu văn giả, tùy hỷ đảnh thọ, đương tri thị nhân, A Duy Việt Trí. Nhược hữu tín thọ, thử kinh pháp giả, thị nhân dĩ tằng, kiến quá khứ Phật, cung kính cúng dường, diệc văn thị pháp. Nhược nhân hữu năng, tín nhữ sở thuyết, tắc vi kiến ngă, diệc kiến ư nhữ, cập tỳ-kheo tăng, tịnh chư Bồ Tát. Tư Pháp Hoa kinh, vị thâm trí thuyết. Thiển thức văn chi, mê hoặc bất giải. Nhất thiết Thanh Văn, cập Bích Chi Phật, ư thử kinh trung, lực sở bất cập. Nhữ Xá Lợi Phất! Thượng ư thử kinh, dĩ tín đắc nhập, huống dư Thanh Văn. Kỳ dư Thanh Văn, tín Phật ngữ cố, tùy thuận thử kinh, phi kỷ trí phận.

          ()若有聞者。隨喜頂受。當知是人。阿惟越致。若有信受。 此經法者。是人已曾。見過去佛。恭敬供養。亦聞是法。若人有能。信汝所說。則為見我。亦見於汝。及比丘僧。幷諸菩薩。斯法華經。為深智說。淺識聞之。迷惑不解。一切聲聞。及辟支佛。於此經中。力所不及。汝舍利弗。尚於此經。以信得入。況餘聲聞。其餘聲聞。信佛語故。隨順此經。非己智分。

          (Kinh: Nếu có ai được nghe, tùy hỷ, kính cẩn nhận, hăy nên biết người đó, là A Duy Việt Trí. Nếu có ai tin nhận, kinh pháp vô thượng này, người ấy ắt đă từng, thấy chư Phật quá khứ, cung kính cùng cúng dường, và cũng nghe pháp này. Nếu người nào có thể, tin tưởng lời ông nói, tức là đă thấy ta, cũng như đă thấy ông, và thấy tỳ-kheo tăng, cùng các vị Bồ Tát. Phật v́ người trí sâu, nói kinh Pháp Hoa này. Kẻ thức cạn nghe đến, mê hoặc, chẳng hiểu được! Hết thảy các Thanh Văn, cùng với Bích Chi Phật, đối với kinh pháp này, sức họ chẳng hiểu được. Ông Xá Lợi Phất ơi! Chính ông với kinh này, c̣n do tin mà vào, huống các Thanh Văn khác! Những vị Thanh Văn khác, do tin tưởng lời Phật, bèn tùy thuận kinh này, chẳng do trí của họ).

 

          Đây là nói rơ tướng trạng lợi ích thế gian của Như Lai, luận chung th́ là lợi ích trong ba đời. Luận định riêng biệt th́ là bàn về hàng Nhị Thừa sanh ḷng tin. Bài kệ thứ nhất chính là xét theo sự lợi ích trong hiện tại để nói. A Duy Việt Trí (Avaivartika) trong tiếng Phạn, được phương này dịch là Bất Thoái. Sáu câu kế tiếp, xét theo điều thiện trong quá khứ để nói. Sáu câu kế tiếp, xét theo điều thiện trong vị lai mà nói. Kinh văn trong phần sau có nói: “Nhược thâm tín giải giả, kiến Phật thường tại Linh Thứu” (nếu người tin hiểu sâu, sẽ thấy Phật thường tại Linh Thứu) chính là nghĩa này. Bốn câu kế tiếp, tổng kết phần trước ḥng dẫn khởi phần sau: Như Lai quán thấy bậc trí sâu đạt được lợi ích trong ba đời; do đó, Ngài v́ họ nói [kinh Pháp Hoa]. “Thiển thức bất giải” (kẻ hiểu biết nông cạn sẽ chẳng hiểu), sẽ chẳng v́ kẻ đó nói. Ba bài kệ sau cùng, minh xác: Nhị Thừa do tín mà nhập. “Phi kỷ trí phận” (chẳng do trí huệ của chính ḿnh): Người thật sự đắc A La Hán ắt tin lời Phật. V́ thế, dẫu là người trí yếu kém, vẫn có thể nói với người ấy. C̣n như năm ngàn kẻ tăng thượng mạn, đức Phật chẳng nói với họ.

 

3.3.1.3.2.2. Giải thích đối với đối tượng nào có thể lưu truyền, đối tượng nào th́ đừng nên

3.3.1.3.2.2.1. Xét theo đại bi môn, đừng nói với kẻ ác

 

          (Kinh) Hựu Xá Lợi Phất! Kiêu mạn, giải đăi, kế ngă kiến giả, mạc thuyết thử kinh. Phàm phu thiển thức, thâm trước ngũ dục, văn bất năng giải, diệc vật vị thuyết. Nhược nhân bất tín, hủy báng thử kinh, tắc đoạn nhất thiết, thế gian Phật chủng.

          ()又舍利弗。憍慢懈怠。計我見者。莫說此經。凡夫淺識。深著五欲。聞不能解。亦勿為說。若人不信。毀謗此經。則斷一切。世間佛種。

          (Kinh: Ông Xá Lợi Phất ơi! Với kẻ kiêu, lười nhác, chấp trước nơi ngă kiến, chớ nên nói kinh này. Với phàm phu hiểu cạn, chấp sâu nơi ngũ dục, nghe rồi chẳng thể hiểu, cũng chớ nói kinh này. Nếu kẻ nào chẳng tin, hủy báng kinh điển này, chính là đoạn hết thảy, Phật chủng của thế gian).

 

          Những điều được tuyên thuyết trong kinh này thuần luận bàn Thật Tướng. Dùng ấn Thật Tướng để in vào trọn khắp các pháp, cho nên khiến cho điều thiện bé tí, điều hiểu biết nhỏ nhoi đều cùng trở thành duyên. Nhưng người Kiến Tư nặng nề, nghe [pháp này], sẽ phạm hai lỗi: Một là chẳng tin; hai là hiểu lầm. Nói “chẳng tin” là do trí nông cạn, chấp Quyền, nghi Thật. Nói “hiểu lầm” là do chấp vào kinh văn, thẳng thừng coi chấp trước “thường, lạc, ngă, tịnh” của ngoại đạo chẳng khác viên lư. Ví như [thí dụ] gă thầy thuốc cũ chuyên dùng sữa độc để chữa bịnh [trong kinh Niết Bàn]. Hai lỗi ấy cùng gọi là “hủy báng kinh này”, đều đoạn Phật chủng trong thế gian. V́ lẽ nào vậy? Kinh này dùng duyên nhân và liễu nhân để làm Phật chủng. Nếu chấp Quyền, nghi Thật, sẽ chẳng tin do điều thiện nhỏ mà thành Phật. Đấy là đoạn duyên nhân chủng trong thế gian, mà cũng là tự đoạn liễu nhân chủng. Nếu hiểu lầm thường lạc, tức là [giống như gă thầy thuốc dốt được nói trong kinh Niết Bàn] chẳng biện định sữa tốt hay xấu, chính là đoạn liễu nhân chủng trong thế gian. Lại tự nói “Hoặc chính là Bát Nhă, nghiệp chính là giải thoát, chẳng c̣n tu các thiện pháp”, cũng là tự đoạn duyên nhân chủng. Nay bài kệ đầu tiên nói về kẻ Kiến Hoặc nặng nề. Bài kệ kế tiếp nói về Tư Hoặc nặng nề. Bài kệ sau cùng nêu chung hai lỗi.

 

          (Kinh) Hoặc phục tần túc[5], nhi hoài nghi hoặc. Nhữ đương thính thuyết, thử nhân tội báo: Nhược Phật tại thế, nhược diệt độ hậu, kỳ hữu phỉ báng, như tư kinh điển. Kiến hữu độc tụng, thư tŕ kinh giả, khinh tiện tăng tật, nhi hoài kết hận. Thử nhân tội báo, nhữ kim phục thính. Kỳ nhân mạng chung, nhập A Tỳ ngục, cụ túc nhất kiếp. Kiếp tận cánh sanh, như thị triển chuyển, chí vô số kiếp. Tùng địa ngục xuất, đương đọa súc sanh. Nhược cẩu, dă can, kỳ h́nh khốt[6] sấu, lê thảm giới lại, nhân sở xúc nhiễu. Hựu phục vi nhân, chi sở ố tiện, thường khốn cơ khát, cốt nhục khô kiệt. Sanh thọ sở độc. Tử bị ngơa thạch. Đoạn Phật chủng cố, thọ tư tội báo. Nhược tác trách đà[7], hoặc sanh lư trung, thân thường phụ trọng, gia chư trượng chủy. Đản niệm thủy thảo, dư vô sở tri. Báng tư kinh cố, hoạch tội như thị. Hữu tác dă can, lai nhập tụ lạc. Thân thể giới lại, hựu vô nhất mục, vị chư đồng tử, chi sở đả trịch, thọ chư khổ thống. Hoặc thời trí tử. Ư thử tử dĩ, cánh thọ măng thân. Kỳ h́nh trường đại, ngũ bách do-tuần, lung ngăi vô túc, uyển chuyển phúc hành. Vị chư tiểu trùng, chi sở táp thực. Trú dạ thọ khổ, vô hữu hưu tức. Báng tư kinh cố, hoạch tội như thị. Nhược đắc vi nhân, chư căn ám độn. Toa lậu loan tích, manh lung bối ủ. Hữu sở ngôn thuyết, nhân bất tín thọ. Khẩu khí thường xú, ly mỵ sở trước. Bần cùng, hạ tiện, vị nhân sở sử, đa bệnh, tiêu sấu. Vô sở y hỗ. Tuy thân phụ nhân, nhân bất tại ư. Nhược hữu sở đắc, tầm phục vong thất. Nhược tu y đạo, thuận phương trị bệnh, cánh tăng tha tật, hoặc phục trí tử. Nhược tự hữu bệnh, vô nhân cứu liệu. Thiết phục lương dược, nhi phục tăng kịch. Nhược tha phản nghịch, sao kiếp thiết đạo. Như thị đẳng tội, hoạnh ly kỳ ương. Như tư tội nhân, vĩnh bất kiến Phật, chúng thánh chi vương, thuyết pháp giáo hóa. Như tư tội nhân, thường sanh nạn xứ, cuồng lung tâm loạn, vĩnh bất văn pháp. Ư vô số kiếp, như Hằng hà sa, sanh triếp lung á, chư căn bất cụ, thường xử địa ngục, như du viên quán. Tại dư ác đạo, như kỷ xá trạch. Đà, lư, trư, cẩu, thị kỳ hành xứ. Báng tư kinh cố, hoạch tội như thị. Nhược đắc vi nhân, lung, manh, ấm, á, bần cùng chư suy, dĩ tự trang nghiêm. Thủy thũng, càn tiêu, giới lại, ung thư. Như thị đẳng bệnh, dĩ vi y phục. Thân thường xú xứ, cấu uế bất tịnh. Thâm trước ngă kiến. Tăng ích sân khuể. Dâm dục xí thịnh, bất trạch cầm thú. Báng tư kinh cố, hoạch tội như thị. Cáo Xá Lợi Phất! Báng tư kinh giả, nhược thuyết kỳ tội, cùng kiếp bất tận. Dĩ thị nhân duyên, ngă cố ngữ nhữ, vô trí nhân trung, mạc thuyết thử kinh.

          ()或復顰蹙。而懷疑惑。汝當聽說。此人罪報。若佛在世。若滅度後。其有誹謗。如斯經典。見有讀誦。書持經者。輕賤憎嫉。而懷結恨。此人罪報。汝今復聽。其人命終。入阿鼻獄。具足一劫。劫盡更生。如是展轉。至無數劫。從地獄出。當墮畜生。若狗野干。其形𩑔瘦。黧黮疥癩。人所觸嬈。又復為人。之所惡賤。常困饑渴。骨肉枯竭。生受楚毒。死被瓦石。斷佛種故。受斯罪報。若作馲駝。或生驢中。身常負重。加諸杖捶。但念水草。餘無所知。謗斯經故。獲罪如是。有作野干。來入聚落。身體疥癩。又無一目。為諸童子。之所打擲。受諸苦痛。或時致死。於此死已。更受蟒身。其形長大。五百由旬。聾騃無足。宛轉腹行。為諸小蟲。之所咂食。晝夜受苦。無有休息。謗斯經故。獲罪如是。若得為人。諸根闇鈍。矬陋𤼣躄。盲聾背傴。有所言說。人不信受。口氣常臭。魑魅所著。貧窮下賤。為人所使。多病痟瘦。無所依怙。雖親附人。人不在意。若有所得。尋復忘失。若修醫道。順方治病。更增他疾。或復致死。若自有病。無人救療。設服良藥。而復增劇。若他反逆。抄劫竊盜。如是等罪。橫罹其殃。如斯罪人。永不見佛。眾聖之王。說法教化。如斯罪人。常生難處。狂聾心亂。永不聞法。於無數劫。如恒河沙。生輒聾瘂。諸根不具。常處地獄。如遊園觀。在餘惡道。如己舍宅。駝驢豬狗。是其行處。謗斯經故。獲罪如是。若得為人。聾盲瘖瘂。貧窮諸衰。以自莊嚴。水腫乾痟。疥癩癰疽。如是等病。以為衣服。身常臭處。垢穢不淨。深著我見。增益瞋恚。淫欲熾盛。不擇禽獸。謗斯經故。獲罪如是。告舍利弗。謗斯經者。若說其罪。窮劫不盡。以是因緣。我故語汝。無智人中。莫說此經。

          (Kinh: Hoặc có kẻ cau có, mà ôm ḷng ngờ vực. Ông hăy nên lắng nghe, tội báo của kẻ đó: Như Phật c̣n tại thế, hoặc sau khi diệt độ, hễ kẻ nào phỉ báng, kinh điển như thế này. Thấy có người đọc, tụng, chép, phụng tŕ kinh này, bèn khinh miệt ghen ghét, rồi ôm ḷng kết hận. Tội báo của kẻ đó, ông nay lại nên nghe. Kẻ đó sau khi chết, sẽ vào ngục A Tỳ, trọn đủ suốt một kiếp. Kiếp hết rồi lại sanh, cứ xoay vần như thế, cho đến vô số kiếp. Từ địa ngục thoát ra, sẽ đọa làm súc sanh. Hoặc chó nhà, chó rừng, thân trụi lủi, tong teo, đen đúa, c̣n ghẻ lác, bị loài người chọc ghẹo. Lại c̣n bị người ta, ghét bỏ và khinh rẻ, thường khổ sở đói khát, xương và thịt khô khao. Sống chịu nỗi khổ nhục, chết bị quăng ngói, đá. V́ đoạn mất Phật chủng, hứng chịu tội báo ấy. Hoặc lại làm lạc đà, hoặc sanh trong loài lừa. Tấm thân thường chở nặng, lại c̣n bị roi vọt. Chỉ nghĩ tới cỏ, nước, chẳng biết đến chi khác. Do báng bổ kinh này, mắc tội như thế đó. Có kẻ làm chó hoang, đi vào trong xóm làng. Thân thể đầy ghẻ lở, lại chột mất một mắt, bị bọn trẻ nít vây, quăng ném và đánh đấm, chịu các nỗi đau khổ. Hoặc có lúc chết đi. Đời này đă chết rồi, lại phải làm thân rắn. Thân thể nó to dài, đến năm trăm do-tuần, điếc, ngây, lại không chân, quằn quại ḅ trườn đi. Bị các loài trùng nhỏ, cắn rỉa nơi thân h́nh. Suốt ngày đêm chịu khổ, chẳng có lúc ngưng nghỉ. Do báng bổ kinh này, mắc tội như thế đó. Nếu lại được làm người, các căn đều tối, đụt. Lùn, xấu lại vẹo què. Ḷa, điếc, lại gù lưng. Hễ có nói năng ǵ, chẳng có ai tin tưởng. Hơi miệng thường hôi thối, bị quỉ mỵ dựa thân. Bần cùng và hèn mọn, thường bị người sai khiến. Lắm bệnh, thân c̣m cơi. Chẳng có chỗ nương cậy. Tuy thân cận ai đó, người ta chẳng quan tâm. Nếu có được điều ǵ, liền quên bẵng mất ngay. Nếu học làm nghề thuốc, theo đúng toa chữa bệnh, người ta bệnh nặng thêm, hoặc đến nỗi chết ngắc. Nếu chính ḿnh có bệnh, chẳng ai cứu chữa nổi. Dù uống thuốc tốt lành, bệnh tật càng nguy ngập. Hoặc kẻ khác phản nghịch, cướp giật, trộm lấy mất. Các tội lỗi như thế, luôn mang vạ bất ngờ. Tội nhân như thế đó, vĩnh viễn chẳng thấy Phật, là vua trong các thánh, thuyết pháp giáo hóa cho. Kẻ tội nhân như thế, thường sanh chỗ hoạn nạn. Tâm cuồng loạn, tai điếc, vĩnh viễn chẳng nghe pháp. Ở trong vô số kiếp, nhiều như cát sông Hằng, sanh ra liền điếc, câm, các căn chẳng toàn vẹn. Thường ở trong địa ngục, như dạo chơi vườn nhà. Trong các đường ác khác, như trong nhà chính ḿnh. Lạc đà, lừa, lợn, chó, là chỗ hắn thường đi. Do báng bổ kinh này, mắc tội như thế đó. Nếu được làm thân người, điếc, đui, lẫn câm ngọng, nghèo túng, các suy bại, dùng để tự trang nghiêm. Phù thũng, bệnh khô khát, ghẻ, lác và ung thư. Các bệnh như thế ấy, dùng để làm y phục. Thân thể thường hôi hám, dơ bẩn, chẳng sạch sẽ. Chấp ngă kiến sâu đậm. Sân khuể càng lừng lẫy. Tánh dâm dục hừng hực, chẳng màng loài cầm thú. Do báng bổ kinh này, mắc tội như thế đó. Bảo với Xá Lợi Phất! Kẻ phỉ báng kinh này, nếu nói tội của hắn, hết kiếp chẳng thể xong. Do bởi nhân duyên này, cho nên ta nói với ông, đối với kẻ vô trí, chớ nên nói kinh này!)

 

          Đây là nói cặn kẽ ác báo sẽ chiêu cảm do phỉ báng kinh, răn nhắc [người hoằng kinh] chớ nên tuyên truyền bừa băi!

          Hỏi: Báng kinh sanh tội, há chẳng phải kinh là cái duyên gây nên tội ư?

          Đáp: Đức Phật nói kinh chỉ nhằm sanh phước. Kẻ mê chẳng tin, tự mắc tội ương. Như Tứ Đại vốn để dưỡng dục người và vật. Kẻ ngu xâm phạm, tự chuốc lấy tổn hại. Nay Phật ra rả răn nhắc, khiến cho người hoằng kinh phải suy xét căn cơ, cũng như khiến cho kẻ khác biết [tội ương] ḥng tránh khổ. Có thể nói là đại bi triệt để! Phần thứ nhất, “xét theo đại bi, đừng nói kinh này với kẻ ác” đă xong.

 

3.3.1.3.2.2.2. Xét theo đại từ, hăy nên nói với thiện nhân

3.3.1.3.2.2.2.1. Nêu ra tướng trạng của năm cặp thiện nhân có thể tuyên nói kinh

 

          (Kinh) Nhược hữu lợi căn, trí huệ minh liễu, đa văn cường thức. Cầu Phật đạo giả, như thị chi nhân, năi khả vị thuyết. Nhược nhân tằng kiến, ức bách thiên Phật, thực chư thiện bổn, thâm tâm kiên cố. Như thị chi nhân, năi khả vị thuyết.

          ()若有利根。智慧明了。多聞強識。求佛道者。如是之人。乃可為說。若人曾見。億百千佛。植諸善本。深心堅固。如是之人。乃可為說。

          (Kinh: Nếu có người lợi căn, trí huệ lại thông sáng, nghe nhiều và hiểu rộng, tâm mong cầu Phật đạo. Đối với người như thế, mới nên giảng nói cho. Nếu ai đă từng thấy, ức trăm ngàn vị Phật, gieo bồi các cội lành, thâm tâm rất kiên cố. Người được như thế đó, mới nên giảng nói cho).

 

          Lợi căn và nhớ dai thuộc về hiện tại. “Thấy Phật, gieo căn lành” là quá khứ. Đây là một cặp quá khứ và hiện tại.

 

          (Kinh) Nhược nhân tinh tấn, thường tu Từ tâm, bất tích thân mạng, năi khả vị thuyết. Nhược nhân cung kính, vô hữu dị tâm, ly chư phàm ngu, độc xử sơn trạch. Như thị chi nhân, năi khả vị thuyết.

          ()若人精進。常修慈心。不惜身命。乃可為說。若人恭敬。無有異心。離諸凡愚。獨處山澤。如是之人。乃可為說。

          (Kinh: Nếu có người tinh tấn, thường tu hành ḷng Từ, chẳng tiếc nuối thân mạng, mới nên giảng nói cho. Nếu có ai cung kính, chẳng có tâm khác biệt, ĺa các kẻ phàm ngu, ở riêng nơi núi đầm. Người được như thế đó, mới nên giảng nói cho).

 

          “Tu ḷng Từ” là thương xót kẻ dưới. “Cung kính” là tôn trọng người trên. Lại nữa, tinh tấn tu Từ sẽ chẳng vướng mắc trong Niết Bàn. Ĺa các phàm ngu, sẽ chẳng vướng mắc sanh tử. Đây là một cặp phước - huệ.

 

          (Kinh) Hựu Xá Lợi Phất, nhược kiến hữu nhân, xả ác tri thức, thân cận thiện hữu. Như thị chi nhân, năi khả vị thuyết. Nhược kiến Phật tử, tŕ giới thanh khiết, như tịnh minh châu, cầu Đại Thừa kinh. Như thị chi nhân, năi khả vị thuyết.

          ()又舍利弗。若見有人。捨惡知識。親近善友。如是之人。乃可為說。若見佛子。持戒清潔。如淨明珠。求大乘經。如是之人。乃可為說。

          (Kinh: Lại này Xá Lợi Phất! Nếu thấy có người nào, ĺa bỏ ác tri thức, thân cận các bạn lành. Người được như thế đó, mới nên giảng nói cho. Nếu thấy có Phật tử, giữ ǵn giới thanh khiết, như bảo châu sáng sạch, cầu kinh điển Đại Thừa. Người được như thế đó, mới nên giảng nói cho).

 

          Bỏ ác, thân thiện. Đó là ngoại cầu, gọi là Quư (thẹn). Tŕ giới như minh châu, tức là ǵn giữ bên trong, th́ gọi là Tàm (hổ). Đây là một cặp hổ thẹn.

 

          (Kinh) Nhược nhân vô sân, chất trực nhu nhuyễn, thường mẫn nhất thiết, cung kính chư Phật. Như thị chi nhân, năi khả vị thuyết. Phục hữu Phật tử, ư đại chúng trung, dĩ thanh tịnh tâm, chủng chủng nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, thuyết pháp vô ngại. Như thị chi nhân, năi khả vị thuyết.

          ()若人無瞋。質直柔輭。常愍一切。恭敬諸佛。如是之人。乃可為說。復有佛子。於大眾中。以清淨心。種種因緣。譬喻言辭。說法無礙。如是之人。乃可為說。

          (Kinh: Nếu có người chẳng sân, thẳng thắn, tánh mềm mỏng, thường thương xót hết thảy, cung kính các đức Phật. Người được như thế đó, mới nên giảng nói cho. Lại có Phật tử nào, ở giữa các đại chúng, dùng cái tâm thanh tịnh, đủ mọi thứ nhân duyên, thí dụ và ngôn từ, thuyết pháp chẳng ngăn ngại. Người được như thế đó, mới nên giảng nói cho).

 

          Chất trực, kính Phật, chính là tự hành. Thí dụ, thuyết pháp là hóa độ người khác. Đây là cặp tự - tha.

 

          (Kinh) Nhược hữu tỳ-kheo, vị Nhất Thiết Trí, tứ phương cầu pháp, hiệp chưởng đảnh thọ, đản nhạo thọ tŕ, Đại Thừa kinh điển. Năi chí bất thọ, dư kinh nhất kệ. Như thị chi nhân, năi khả vị thuyết. Như nhân chí tâm, cầu Phật xá-lợi. Như thị cầu kinh, đắc dĩ đảnh thọ, kỳ nhân bất phục, chí cầu dư kinh, diệc vị tằng niệm, ngoại đạo điển tịch. Như thị chi nhân, năi khả vị thuyết.

          ()若有比丘。為一切智。四方求法。合掌頂受。但樂受持。大乘經典。乃至不受。餘經一偈。如是之人。乃可為說。如人至心。求佛舍利。如是求經。得已頂受。其人不復。志求餘經。亦未曾念。外道典籍。如是之人。乃可為說。

          (Kinh: Nếu như có tỳ-kheo, v́ cầu Nhất Thiết Trí, cầu pháp khắp bốn phương, chắp tay, cung kính nhận, chỉ ưa thích thọ tŕ, các kinh điển Đại Thừa. Cho đến chẳng tiếp nhận, một bài kệ kinh khác. Người được như thế đó, mới nên giảng nói cho. Như có người chí tâm, mong cầu xá-lợi Phật. Cầu được kinh như thế, được rồi cung kính thọ. Người ấy lại chẳng c̣n, mong cầu kinh ǵ khác, mà cũng chưa hề niệm, các sách vở ngoại đạo. Người được như thế đó, mới nên giảng nói cho).

         

          Cầu pháp bốn phương là khởi đầu của “thỉnh ích” (cầu thỉnh pháp ích). “Đảnh thọ chuyên tu” (cung kính tiếp nhận, chuyên tu) là kết cục nương tựa. Đấy là một cặp khởi đầu và kết thúc.

          Hỏi: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Thọ nhất phi dư, thị danh ma nghiệp” (thọ một điều, chẳng thọ chi khác th́ gọi là ma nghiệp). Cớ sao nay nói: Thậm chí chẳng thọ một bài kệ của kinh khác?

          Đáp: Nếu chấp vào t́nh kiến để nói, sẽ là thọ nhất, ắt sẽ chẳng đến nỗi chẳng có thứ khác. V́ thế là ma nghiệp. Nếu luận theo nghĩa khai hiển, th́ ngoài một (nhất Phật Thừa), sẽ chẳng có ǵ khác. V́ thế, có thể dùng “một” để gồm thâu các thứ khác. Phần thứ nhất, nói về năm cp thiện nhân đă xong.

 

3.3.1.3.2.2.2.2. Tổng kết đối với những đối tượng nào có thể nói kinh này

 

          (Kinh) Cáo Xá Lợi Phất! Ngă thuyết thị tướng, cầu Phật đạo giả, cùng kiếp bất tận, như thị đẳng nhân, tắc năng tín giải. Nhữ đương vị thuyết, Diệu Pháp Hoa kinh.

          ()告舍利弗。我說是相。求佛道者。窮劫不盡。如是等人。則能信解。汝當為說。妙法華經。

          (Kinh: Bảo với Xá Lợi Phất! Ta nói tướng trạng ấy, của người cầu Phật đạo, dẫu hết kiếp chẳng trọn, những người như thế đó, sẽ có thể tin hiểu. Ông hăy v́ họ nói, kinh Diệu Pháp Liên Hoa).

 

          Thiện tín rất đông, nêu đại lược mười tướng để chỉ bày phương pháp lưu thông. Trong châu thứ hai là Thí Thuyết Châu, phần thứ nhất là khai tam hiển nhất đă xong. Trên đây, giải thích phẩm Thí Dụ đă xong. Sau đây, sẽ giải thích phẩm Tín Giải.

 

4. Phẩm thứ tư: Tín Giải (Tín Giải phẩm đệ tứ, 信解品第四)

 

          Căn cơ có lợi hay độn, Hoặc (phiền năo) th́ có dày hay mỏng. Thuyết th́ có pháp và thí (thí dụ), ngộ th́ có trước, sau. Kinh văn nói: “Thế Tôn văng tích thuyết pháp kư cửu, ngă thời tại ṭa, thân thể b́ giải, đản niệm Không, Vô Tướng, Vô Tác. Ư Bồ Tát pháp, bất sanh nhất niệm hảo nhạo chi tâm” (Xưa kia, đức Thế Tôn thuyết pháp đă lâu. Khi đó con ngồi nơi đó, thân thể mỏi mệt, sanh lười nhác, chỉ nghĩ tới Không, Vô Tướng, Vô Tác. Đối với pháp Bồ Tát, chẳng sanh một niệm tâm ưa thích). Thoạt đầu, nghe nói đại lược, do dấy động chấp trước bèn sanh nghi. Khi nghe nói cặn kẽ về năm loại Phật, [vẫn c̣n] mông lung, chưa hiểu. Nay nghe Thí Dụ, hoan hỷ, hớn hở, tín giải phát sanh, hết nghi, hiểu lư. Hoan hỷ là Thế Giới Tất Đàn. Tín tâm sanh khởi là Vị Nhân Tất Đàn. Hết nghi là Đối Trị Tất Đàn. Hiểu lư chính là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn. Viên dung Tứ Tất Đàn, cùng lúc đều đạt được! V́ thế, gọi là phẩm Tín Giải.

          Lại nữa, phàm là bẩm thọ Đại giáo hay Tiểu giáo, đổi phàm thành thánh, mỗi đằng đều có địa vị theo thứ tự. Tiểu Thừa do nghe mà sanh giải, Khổ nhẫn sáng tỏ, tín tâm tương xứng với hạnh. Quán sát trọn khắp các pháp, Khổ nhẫn sáng tỏ, pháp bèn xứng với hạnh. Nếu tín hạnh chuyển vào tu đạo, th́ gọi là “tín giải”. Nếu pháp hạnh chuyển vào tu đạo, th́ gọi là “kiến đắc”. Chuẩn theo Tiểu Thừa để xét Đại Thừa, cũng phải nên như thế. Nay kẻ trung căn nghe nói Thí Dụ, trước hết là phá nghi hoặc, nhập Đại Thừa kiến đạo. V́ thế, gọi là Tín. Tiến nhập Đại Thừa tu đạo, cho nên gọi là Giải. Kinh văn chép: “Vô thượng bảo tụ, bất cầu tự đắc. Ngă đẳng kim nhật, chân thị Thanh Văn. Dĩ Phật đạo thanh, linh nhất thiết văn” (Khối báu vô thượng, chẳng cầu mà tự đạt được. Chúng con ngày nay, thật sự là Thanh Văn. Dùng âm thanh Phật đạo, khiến cho hết thảy đều được nghe), tức là nghe Viên giáo, dự vào các địa vị của Viên Giáo. V́ thế gọi là phẩm Tín Giải.

          Xét theo Bổn Tích, bốn vị đại đệ tử nhập Đại Thừa đă lâu, đă thành tựu Phật pháp. Nơi Tích th́ do dẫn khởi trung căn, cho nên thị hiện mới vừa tín giải. V́ thế, gọi là phẩm Tín Giải.

          Xét theo quán tâm, liễu đạt “ngoài tâm chẳng có pháp”, th́ gọi là Tín. Từ trong một niệm tâm nhỏ nhoi hiện tiềnthấy hết thảy các pháp, th́ gọi là Giải. Từ Danh TTín Giải cho đến Cứu Cánh Tín Giải.

 

* Trung căn lănh giải trong Thí Thuyết Châu

 

          Gần là lănh ngộ nhà lửa, xa là lănh ngộ phương tiện.

 

4.1. Người kết tập kinh trần thuật

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Huệ Mạng Tu Bồ Đề, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Mục Kiền Liên, tùng Phật sở văn vị tằng hữu pháp, Thế Tôn thọ Xá Lợi Phất A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề kư, phát hy hữu tâm, hoan hỷ, dũng dược, tức tùng ṭa khởi, chỉnh y phục, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, nhất tâm hiệp chưởng, khúc cung cung kính, chiêm ngưỡng tôn nhan.

          ()爾時慧命須菩提。摩訶迦栴延。摩訶迦葉。摩訶目犍連。從佛所聞未曾有法。世尊授舍利弗阿耨多羅三藐三菩提記。發希有心。歡喜踴躍。卽從座起。整衣服。偏袒右肩。右膝著地。一心合掌。曲躬恭敬。瞻仰尊顏。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Huệ Mạng Tu Bồ Đề, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Mục Kiền Liên, từ Phật được nghe pháp chưa từng có, [nghe] đức Thế Tôn thọ kư Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cho ngài Xá Lợi Phất, phát tâm hy hữu, hoan hỷ, hớn hở, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh đốn y phục, trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất, nhất tâm chắp tay, khom ḿnh cung kính, chiêm ngưỡng tôn nhan).

 

          Phần đầu kinh văn trước hết trần thuật nội tâm. Kế đó, từ “tức tùng ṭa khởi” (liền từ chỗ ngồi đứng dậy), trần thuật oai nghi bên ngoài. Riêng ngài Thiện Cát (Tu Bồ Đề) được gọi là Huệ Mạng; ba vị kia được gọi là Ma Ha. Luận định chung, [cả bốn vị] đều là đại, đều là huệ. Ngài Thiện Cát giải Không, Không Huệ là mạng. Đó là xét theo hạnh. (Nếu xét theo nhân duyên), trong các vị có trí huệ th́ Phật huệ là bậc nhất. Trong thời Bát Nhă, đức Phật sai ngài Tu Bồ Đề dạy thay. Bậc trí huệ vâng theo mệnh lệnh, nên gọi là Huệ Mạng. (Xét theo giáo), ba vị đệ tử kia ít thọ lănh mệnh lệnh. Ma Ha đă được giải thích trong phần trước. Ở đây, cũng có đủ sự lănh giải nơi ba nghiệp. Phát tâm hy hữu, tức là tâm lănh giải (tiếp nhận và giải ngộ). “Từ chỗ ngồi đứng dậy” chính là thân lănh giải. “Nhi bạch Phật ngôn” (mà bạch cùng đức Phật rằng) tức là khẩu lănh giải.

          “Tùng Phật sở văn vị tằng hữu pháp” (được nghe pháp chưa từng có từ đức Phật): Gần là chỉ thí dụ về nhà lửa, xa th́ là phần Pháp Thuyết Châu giản lược và chi tiết. Lại nghe đức Thế Tôn thọ kư cho ngài Thân Tử, những người cùng hàng suy ngẫm, sẽ biết chính ḿnh ắt có phần. Do vậy, phát khởi tâm hy hữu, hoan hỷ, hớn hở. Sự biểu hiện bên ngoài dễ hiểu. Nếu xét theo sự biểu thị pháp, “từ chỗ ngồi đứng dậy” [biểu thị] bỏ sự chứng Không của Tiểu Thừa. “Chỉnh đốn y phục”: Trí Đoạn của Thanh Văn chính là Pháp Nhẫn của Bồ Tát. “Trật vai áo phải”: Bên phải biểu thị Quyền. Xưa kia, chưa khai Quyền, ví như vai phải c̣n [bị y ca-sa] che đậy. Nay đă khai Quyền, cho nên trật vai áo bên phải. “Gối phải đặt sát đất”: Đất biểu thị Nhất Thật. Biết Quyền chính là Nhất Thật. “Chắp tay” biểu thị Quyền và Thật bất nhị. Bất nhị tức là nhất tâm “chẳng phải Quyền, chẳng phải Thật”. “Cung” (, khom ḿnh) là chẳng phải thẳng, chẳng phải cong, mà có thể thẳng, có thể cong. Thẳng biểu thị Thật, cong biểu thị Quyền. Nay khom ḿnh cung kính chiêm ngưỡng tôn nhan, biểu thị dùng Quyền của ta để tiến nhập Thật của Phật.

 

4.2. Bạch Phật, tự trần thuật

         

          Phần Trường Hàng và Trùng Tụng trần thuật sự giải ngộ. Mười ba bài kệ kế đó nhằm tán thán ân sâu của Phật.

 

4.2.1. Trường Hàng và Trùng Tụng

4.2.1.1. Trường Hàng

4.2.2.1.1. Dựa theo pháp để lược thuật sự nhận lănh, giải ngộ

4.2.2.1.1.1. Chánh pháp thuyết

4.2.2.1.1.1.1. Nói rơ trước đó [hàng Thanh Văn] do sẵn có ba điều, cho nên chẳng cầu [tấn tu]

4.2.2.1.1.1.1.1. Nêu bày

 

          (Kinh) Nhi bạch Phật ngôn: - Ngă đẳng cư Tăng chi thủ, niên tịnh hủ mại, tự vị dĩ đắc Niết Bàn vô sở kham nhậm, bất phục tấn cầu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          ()而白佛言。我等居僧之首。年並朽邁。自謂已得涅槃無所堪任。不復進求阿耨多羅三藐三菩提。

          (Kinh: Mà bạch cùng đức Phật rằng: - Chúng con đứng đầu Tăng chúng, tuổi đă già suy, tự cho là đă đắc Niết Bàn, chẳng c̣n kham gánh vác [pháp Đại Thừa], chẳng c̣n tiến cao hơn cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

          - Một là do đă đứng đầu trong Tăng chúng, cho nên chẳng cầu. Pháp lạp[8] đă cao, kẻ hậu học lấy ta làm khuôn phép. Nếu bỗng dưng sửa đổi đường lối, bỏ Tiểu, cầu Đại, sợ sẽ gây trở ngại cho kẻ hậu học. Tự củng cố ḿnh, hộ tŕ kẻ khác; do vậy, chẳng cầu. Nhưng chấp vào điều nhỏ nhặt là pháp lạp, đại pháp hoàn toàn bị thiếu khuyết. Chẳng bỏ Tiểu pháp, do chưa biết đến chuyện “khai tam”. “Tự củng cố” tức là chấp trước vào tiểu pháp chẳng rời. “Hộ tŕ người khác” tức là mê nơi khuôn phép to lớn. Đó là lỗi lầm thứ nhất.

          - Hai là do tuổi già, suy yếu, cho nên không cầu. Nếu làm bậc Bồ Tát, phải nên gánh vác đại đạo, rộng độ chúng sanh. Nay đă già suy, chẳng thể kham nổi, cho nên chẳng cầu. Nhưng đối với chuyện đoạn chứng ngay trong một đời, lại viện vào lư do tuổi cao để tự coi thường chính ḿnh, hạt giống lép chưa loại trừ. Đó là v́ vọng kiến mà chẳng đảm nhiệm. Đấy là lỗi lầm thứ hai.

          - Ba là [tưởng lầm] đă đắc Niết Bàn, cho nên chẳng cầu. Cao nguyên, đất bằng chẳng sanh hoa sen. Đă nhập chánh vị vô vi, chẳng lại kham phát đại tâm. Do đó, chẳng cầu. Nhưng trước kia, đối với thật nghĩa đă mê, chỉ so đo công lao nơi chánh vị. Do t́nh chấp kiên cố ấy, chẳng biết những ǵ chính ḿnh đă hành chính là Bồ Tát đạo. Đó là lỗi lầm thứ ba.

 

4.2.2.1.1.1.1.2. Giải thích

         

          (Kinh) Thế Tôn văng tích thuyết pháp kư cửu, ngă thời tại ṭa, thân thể b́ giải, đản niệm Không, Vô Tướng, Vô Tác, ư Bồ Tát pháp, du hư, thần thông, tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh, tâm bất hỷ nhạo. Sở dĩ giả hà? Thế Tôn linh ngă đẳng xuất ư tam giới, đắc Niết Bàn chứng. Hựu kim ngă đẳng niên dĩ hủ mại, ư Phật giáo hóa Bồ Tát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, bất sanh nhất niệm hảo nhạo chi tâm.

          ()世尊往昔說法旣久。我時在座。身體疲懈。但念空無相無作。於菩薩法遊戲神通淨佛國土成就眾生。心不喜樂。所以者何。世尊令我等出於三界。得涅槃證。又今我等年已朽邁。於佛教化菩薩阿耨多羅三藐三菩提。不生一念好樂之心。

          (Kinh: Khi trước, đức Thế Tôn nói pháp đă lâu, lúc đó chúng con đang ngồi nơi ṭa, thân thể mỏi mệt, chỉ nhớ nghĩ Không, Vô Tướng, Vô Tác, đối với pháp Bồ Tát, du hư, thần thông, nghiêm tịnh cơi Phật, thành tựu chúng sanh, tâm chẳng ưa thích. V́ cớ sao vậy? Đức Thế Tôn dạy chúng con ra khỏi tam giới, chứng đắc Niết Bàn. Nay chúng con lại do tuổi tác già nua, đối với pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác do Phật dạy cho hàng Bồ Tát, chẳng sanh một tâm niệm ưa thích).

 

          Ngồi trong pháp hội mỏi mệt, giải thích chuyện [tự thấy] chính ḿnh thuộc loại đứng đầu Tăng chúng cho nên chẳng cầu. Kế đó, giải thích chuyện đắc Niết Bàn. Sau cùng, giải thích [lư do chẳng tấn tu] là v́ tuổi tác đă già lụn. Phần thứ nhất, “chỉ ra trước kia do đă có ba điều, cho nên chẳng cầu [Vô Thượng Chánh Giác]” đă xong!

 

4.2.2.1.1.1.2. Nay do hiểu Nhất Thừa, cho nên tự đạt được

 

          (Kinh) Ngă đẳng kim ư Phật tiền, văn thọ Thanh Văn A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề kư, tâm thậm hoan hỷ, đắc vị tằng hữu, bất vị ư kim, hốt nhiên đắc văn hy hữu chi pháp, thâm tự khánh hạnh, hoạch đại thiện lợi.

          ()我等今於佛前。聞授聲聞阿耨多羅三藐三菩提記。心甚歡喜。得未曾有。不謂於今。忽然得聞希有之法。深自慶幸。獲大善利。

          (Kinh: Chúng con nay ở trước Phật, nghe Thanh Văn được thọ kư Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tâm rất hoan hỷ, đạt được điều chưa từng có, chẳng ngờ ngày nay bỗng được nghe pháp hy hữu, rất mừng rỡ, đạt được điều lợi lành to lớn).

 

          Do nghe Pháp Thuyết và Thí Thuyết tầng tầng khai hiển đại lược và cặn kẽ, cho nên tín giải. Chỉ nêu chuyện Thanh Văn được thọ kư, v́ thọ kư ắt phải do khai hiển mà đạt được. Phần thứ nhất là Chánh Pháp Thuyết đă xong.

 

4.2.2.1.1.2. Nêu đại lược thí dụ

 

          (Kinh) Vô lượng trân bảo, bất cầu tự đắc.

          ()無量珍寶。不求自得。

          (Kinh: Vô lượng trân bảo chẳng cầu mà tự đạt được).

 

          Xưa kia, trong thời Bát Nhă lănh giáo, đă nói là Bồ Tát, chẳng phải là đến hiện thời [mới là] hoàn toàn được b́nh đẳng ban cho! Phần thứ nhất, xét theo pháp, trần thuật đại lược sự tiếp nhận, giải ngộ đă xong.

 

4.2.2.1.2. Xét theo thí dụ để nói rộng về sự lănh nhận, giải ngộ

4.2.2.1.2.1. Lập thí dụ

4.2.2.1.2.1.1. Thỉnh cầu được nêu thí dụ

         

          (Kinh) Thế Tôn! Ngă đẳng kim giả nhạo thuyết thí dụ dĩ minh tư nghĩa.

          ()世尊。我等今者樂說譬喻以明斯義。

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Chúng con nay thích nói thí dụ để nêu rơ nghĩa ấy).

 

          Giống như lễ nghi trong thế gian, mong được chấp thuận, trước hết cần phải thỉnh cầu [cho phép] phát khởi.

 

4.2.2.1.2.1.2. Lập thệ

4.2.2.1.2.1.2.1. Thí dụ về cha con thất lạc nhau

         

          [Dùng thí dụ để trần thuật] sự lănh ngộ tổng thí trong phần trước (thí dụ trong phẩm Thí Dụ) và phần trùng tụng đại lược trong phẩm Phương Tiện.

 

4.2.2.1.2.1.2.1.1. Con bỏ cha rời đi

4.2.2.1.2.1.2.1.1.1. Trái nghịch cha mà bỏ đi

 

          (Kinh) Thí nhược hữu nhân, niên kư ấu trĩ, xả phụ đào thệ, cửu trụ tha quốc, hoặc thập, nhị thập, chí ngũ thập tuế.

          ()譬若有人。年旣幼稚。捨父逃逝。久住他國。或十。二十。至五十歲。

          (Kinh: Ví như có người, tuổi c̣n thơ dại, bỏ cha trốn đi, ở lâu nơi nước khác, hoặc mười, hai mươi, cho đến năm mươi năm).

 

          “Thí như hữu nhân” (Ví như có người): Hàng Nhị Thừa tự sánh ví. “Niên ấu trĩ” (tuổi c̣n thơ dại): Sánh ví thiện căn yếu ớt, ít ỏi. “Cha” ví như Ứng Thân của Như Lai, tức là nói do được hai vạn ức Phật dạy vô thượng đạo, đă trở thành cha con. Sau khi Ứng Thân chấm dứt sự ứng hóa, [hàng Nhị Thừa] thoái thất đại tâm, đó gọi là “xả phụ” (ĺa bỏ cha). Tự bị che lấp bởi vô minh, gọi là “đào” (, trốn tránh). Tiến hướng sanh tử, gọi là Thệ (, đi đến). Luân hồi trong tam giới, ngũ dục, th́ gọi là “cửu trụ tha quốc” (ở lâu nơi nước khác). Thiên đạo là “hoặc thập” (hoặc mười). Nhân đạo là “nhị thập” (hai mươi). Trải qua khắp năm đường là “chí ngũ thập tuế” (tới năm mươi năm). Đấy là lănh ngộ ư nghĩa “các con trước đó do vui chơi mà vào trong nhà ấy” được nói trong phần trước.

          Hỏi: Ứng Thân thôi hóa hiện, chúng sanh dấy lên Hoặc, đó là cha ĺa bỏ con, chẳng phải là con bỏ cha [th́ mới là đúng chứ?]

          Đáp: Do chúng sanh chẳng cảm, cho nên ỨngThân rời khỏi thế gian, vẫn thành ư nghĩa “con bỏ cha”.

          Lại dựa theo quán tâm để giải thích, Bổn Giác là cha, chủng tử Thỉ Giác là con. Sức chủng tử nhỏ nhoi, tức là “ấu trĩ”. Do trái nghịch Bổn Giác, dấy khởi vô minh, tức là “xả phụ đào thệ” (bỏ cha trốn đi). Tịch Quang lư tánh là “bổn quốc”. Ngũ dục sanh tử là “tha quốc” (nước khác). Trải qua năm đường th́ là “năm mươi năm”.

 

4.2.2.1.2.1.2.1.1.2. Hướng đến bổn quốc để trở về

 

          (Kinh) Niên kư trưởng đại, gia phục cùng khốn, tŕ sính tứ phương, dĩ cầu y thực, tiệm tiệm du hành, ngộ hướng bổn quốc.

          ()年旣長大。加復窮困。馳騁四方。以求衣食。漸漸遊行。遇向本國。

          (Kinh: Kẻ đó tuổi đă lớn, càng thêm bần cùng, khốn khổ, rong ruổi bốn phương để cầu cơm áo, du hành dần dần, t́nh cờ trở về nước ḿnh).

 

          “Niên kư trưởng đại” (tuổi tác đă lớn): Ví như thiện căn Đại Thừa đă ngầm hun đúc. “Gia phục cùng khốn” (càng thêm bần cùng, khốn khổ): Ví như thoái thất Đại Thừa đă lâu, tàn phước dần dần mất đi, chịu đủ tám nỗi khổ, chẳng đạt được lẽ xuất yếu. V́ thế “cùng” (, nghèo túng). Bị tám khổ thiêu đốt, cho nên “khốn” (, khốn đốn). “Tŕ sính tứ phương” (rong ruổi bốn phương): Trải khắp thân, thọ, tâm, pháp; suy cầu trọn khắp có, không, song diệc (vừa có vừa không), song phi (chng phải có, chẳng phải không). “Dĩ cầu y thực” (để cầu cơm áo): Trong ấy, cầu thức ăn chánh đạo, cầu áo trợ đạo. “Tiệm tiệm du hành, ngộ hướng bổn quốc” (du hành dần dần, t́nh cờ trở về nước ḿnh): Bất ngờ gặp gỡ th́ gọi là Ngộ. Ngoại đạo chán khổ, cầu lư, tuy chẳng thích đáng, vẫn có thể là duyên “được hóa độ. Lúc đức Phật mới xuất thế, các hàng ngoại đạo đều đắc độ trước, tức là ư này. Phần thứ nhất, “thí dụ con bỏ cha mà đi” đă xong.

 

4.2.2.1.2.1.2.1.2. Cha t́m con, ở lại giữa chừng

 

          (Kinh) Kỳ phụ tiên lai, cầu tử bất đắc, trung chỉ nhất thành. Kỳ gia đại phú, tài bảo vô lượng, kim, ngân, lưu ly, san hô, hổ phách, pha lê, châu đẳng. Kỳ chư thương khố, tất giai doanh dật, đa hữu đồng bộc, thần, tá, lại dân, tượng, mă, xa thặng, ngưu, dương vô số, xuất nhập tức lợi, năi biến tha quốc, thương cô, cổ khách, diệc thậm chúng đa.

          ()其父先來。求子不得。中止一城。其家大富。財寶無量。金銀琉璃。珊瑚琥珀。玻瓈珠等。其諸倉庫。悉皆盈溢。多有僮僕。臣佐吏民。象馬車乘。牛羊無數。出入息利。乃徧他國。商估賈客。亦甚眾多。

            (Kinh: Cha kẻ đó từ trước đến nay t́m con chẳng được, bèn ở lại một thành trong đó. Nhà ông ta giàu to, của báu vô lượng, vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, pha lê, châu v.v… Các kho vựa thảy đều đầy ắp, có nhiều tôi tớ, người trợ tá, kẻ chạy việc, nhân dân, voi, ngựa, xe cộ, trâu, dê vô số. Chi ra, thâu vào, lợi tức trọn khắp các nước khác. Thương nhân, lái buôn cũng rất đông đảo).

 

          Sau khi thoái thất Đại Thừa, cầu cơ duyên mà chẳng được! V́ thế nói “cầu tử bất đắc” (t́m con chẳng được). Chẳng v́ một đứa con mà phế bỏ gia nghiệp, ví như đức Phật chẳng v́ một chỗ không có căn cơ mà bỏ các phương khác, chẳng giáo hóa. V́ thế nói “trung chỉ nhất thành” (ở lại một thành trong đó), tức là cơi Phương Tiện. Ở giữa hai cơi Thật Báo và Đồng Cư, th́ gọi là Trung. Xét theo Hữu Dư Niết Bàn mà gọi là Thành. Trụ trong Quyền Lư th́ gọi là Chỉ (ngưng lại, ở lại), Quyền Lư ấy chính là Thật Tướng. V́ thế gọi là “kỳ gia” (nhà của ông ta). Trọn đủ vạn đức, v́ thế là “đại phú”. Phước đức thuộc Ngũ Độ (Bố Thí, Tŕ Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định) là Tài (của cải), trí huệ Bát Nhă là Bảo (vật báu). Hướng dẫn hết thảy các pháp đều là Ma Ha Diễn (Đại Thừa); v́ thế nói là “vô lượng”. Bảy báu như vàng, bạc v.v… chính là ba mươi bảy đạo phẩm trong Viên Giáo. Đó là lănh ngộ ư nghĩa “trưởng giả giàu to” [trong phẩm Thí Dụ] thuộc phần trước.

          “Thương khố doanh dật” (Kho vựa đầy ắp): Chỗ để chứa gạo là Thương (, vựa), sánh ví Thiền Định có thể sanh ra một trăm lẻ tám môn tam-muội. Chứa vật là Khố (, kho), sánh ví Thật Tướng có thể phát khởi mười tám Không trí. Tự cung cấp cho ḿnh là Doanh (), giáo hóa ra ngoài là Dật (). Đấy là lănh giải ư nghĩa “có nhiều ruộng nương, nhà cửa” trong phần trước. “Đồng bộc” (tôi tớ) ví như Phương Tiện Ba La Mật, tức là lănh giải ư nghĩa “cập chư đồng bộc” (và các tôi tớ) trong phần trước. Hơn nữa, Nhị Thừa thuộc hai giáo và Bồ Tát trong Thông Giáo, ba mươi tâm (tức ba mươi địa vị thuộc Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng) trong Biệt Giáo, đều như tôi tớ. Thập Địa trong Viên Giáo như “thần” (, bầy tôi thân cận). Thập Hồi Hướng như Tá (, kẻ phụ tá, trợ tá, trợ lư). Thập Hạnh như Lại (, các nhân viên cấp dưới của thần tá). Thập Trụ như dân. Vừa mới nhập cảnh giới của Phật th́ người trong cả nước đều là dân của vua. Thập Hạnh tu tập các pháp, rong ruổi các thứ; v́ thế như Lại. Thập Hồi Hướng Lư Sự hơi sâu, chức vị gần bên vua; v́ thế như Tá. Thập Địa phù tá Phật giáo hóa, hàng ma, chế địch; v́ thế như Thần (bầy tôi thân cận, cận thần).

          “Voi” ví như Nhất Tâm Tam Quán, chuyển vận Viên Giáo Đại Thừa. “Ngựa” ví như Thứ Đệ Tam Quán, chuyển vận Biệt Giáo Đại Thừa. “Trâu” ví như hai phép Quán Tức Không (Thể Không) và Tích Không, chuyển vận Thông Giáo và Tạng Giáo Đại Thừa. “Dê” ví như pháp tự phân tích để tự hành Quán, chuyển vận Thanh Văn Thừa. Không nói đến nai là do kinh văn giản lược.

          Lại nữa, Bích Chi Phật gặp Phật, được gom vào hàng Thanh Văn. “Vô số” là nói đến các pháp Quyền và Thật, đều gọi là “xa thặng” (xe cộ). Quán trí Quyền Thật được gọi là “voi, ngựa, trâu, dê”. Không chỉ là giáo pháp rất nhiều mà Quán Trí cũng lại vô số. “Xuất nhập” (ra vào): Tuy hai mà chẳng hai th́ là Nhập (nhập Trung). Bất nhị mà là hai, th́ là Xuất (xuất Trung). Lại nữa, bất nhị mà là hai th́ là Nhập (nhập Không, nhập Hữu). Hai mà chẳng hai th́ là Xuất (Xuất Không Hữu. Hai đằng dung thông lẫn nhau, đấy là nói theo Tam Đế). Vô lượng quy hoàn một th́ là Nhập. Từ trong một sanh ra vô lượng là Xuất (đấy là nói theo Nhị Đế). Có tác dụng hóa độ người khác là Xuất, có tác dụng tự hành th́ là Nhập (đấy là nói theo Tự và Tha, chỉ là vận dụng Tam Đế hay Nhị Đế trên đây). Ban ra pháp ích cho chúng sanh là Tức (tiền lăi), công giáo hóa quy về chính ḿnh là Lợi. Trọn khắp ba cơi chính là “năi biến tha quốc” (trọn khắp tới các nước khác). Chỉ có pháp tánh độ, th́ gọi là “kỷ quốc” (nước của chính ḿnh). Hàng hóa lưu động gọi là Thương (), chứa hàng tại một chỗ gọi là Cổ (), ví như các Bồ Tát vào khắp ba cơi để cầu pháp lợi; v́ thế nói “thậm đa” (rất nhiều). Hoặc Bồ Tát cơi này đến cơi khác để nghe pháp, hoặc bậc đại sĩ từ phương khác đến cơi này để nghe kinh. Lại nữa, Ứng Thân và Hóa Thân ví như lái buôn, đem thật pháp vào trọn khắp ba cơi, hóa độ, lợi ích chúng sanh quy vào Pháp Thân, cho nên nói là “thậm đa”. Như người trong thế gian khiến cho kẻ khác kiếm tiền, sanh lợi, th́ chính ḿnh cũng có lợi.

 

4.2.2.1.2.1.2.1.3. Con t́nh cờ đến thành của cha

 

          (Kinh) Thời bần cùng tử, du chư tụ lạc, kinh lịch quốc ấp, toại đáo kỳ phụ sở chỉ chi thành.

          ()時貧窮子。遊諸聚落。經厯國邑。遂到其父所止之城。

          (Kinh: Khi đó, đứa con nghèo túng ấy đi qua các làng xóm, trải qua thành ấp của các nước, đến ṭa thành chỗ cha hắn ở).

 

          Đấy là sánh ví sau khi đă thoái thất Đại Thừa, gặp đủ mọi nỗi khổ, sanh ḷng chán sợ sâu đậm, muốn cầu xuất ly. Dùng tà huệ Đoạn Thường để quán sát thôn xóm Ngũ Ấm, nước “mười tám Giới”, ấp “mười hai Nhập”, cầu áo cơm chánh đạo và trợ đạo khắp nơi! Do cảnh khổ ấy làm cơ duyên, cảm ḷng đại bi của Phật, có ư nghĩa đắc Niết Bàn. V́ thế nói là “toại đáo phụ sở chỉ thành” (bèn đến ṭa thành nơi cha hắn ở).

 

4.2.2.1.2.1.2.1.4. Cha buồn nhớ con

 

          (Kinh) Phụ mỗi niệm tử, dữ tử ly biệt ngũ thập dư niên, nhi vị tằng hướng nhân thuyết như thử sự, đản tự tư duy, tâm hoài hối hận. Tự niệm lăo hủ, đa hữu tài vật, kim, ngân, trân bảo, thương khố doanh dật, vô hữu tử tức. Nhất đán chung một, tài vật tán thất, vô sở ủy phó. Thị dĩ ân cần mỗi ức kỳ tử. Phục tác thị niệm: “Ngă nhược đắc tử, ủy phó tài vật, thản nhiên khoái lạc, vô phục ưu lự”.

          ()父每念子。與子離別五十餘年。而未曾向人說如此事。但自思惟。心懷悔恨。自念老朽。多有財物。金銀珍寶。倉庫盈溢。無有子息。一旦終沒。財物散失。無所委付。是以慇懃每憶其子。復作是念。我若得子。委付財物。坦然快樂。無復憂慮。

          (Kinh: Cha thường nghĩ đến con, cùng con ly biệt hơn năm mươi năm, nhưng chưa từng nói với người khác chuyện như thế đó, chỉ tự suy nghĩ, ôm ḷng hối hận, tự nghĩ già suy, có nhiều của cải, vàng, bạc, trân bảo, kho vựa đầy ắp, chẳng có con cái. Một mai chết mất, của cải tiêu tán, tài vật thất lạc, không người giao phó. V́ thế, thường ân cần nhớ đến con. Lại nghĩ như thế này: “Nếu ta t́m được con, giao phó của cải cho nó, tâm sẽ thanh thản, vui sướng, chẳng c̣n lo nghĩ nữa”).

 

          Từ “phụ mỗi niệm tử” (cha thường nghĩ tới con) trở đi, là nghĩ đến nỗi khổ do mất con. Từ “phục tác thị niệm” (lại nghĩ như thế này) trở đi, ngẫm nghĩ niềm vui do t́m được con. Như Lai từ xưa đến nay, luôn nghĩ đến các con có căn cơ Đại Thừa. V́ thế nói “mỗi niệm” (thường nghĩ tới). Mở ra quỷ đạo và Tu La, cho nên nói “ngũ thập dư niên” (hơn năm mươi năm). “Vị tằng thuyết” (chưa từng nói): Chưa từng hướng về thần tá lại dân trong cơi Phương Tiện để nói về cơ duyên của đứa con ấy (các thần tá v.v… ấy chẳng phải là hoàn toàn không biết căn cơ, tánh t́nh của đứa con nghèo, nhưng chưa đến lúc nói với đứa con nghèo! Chủ và bạn cùng ẩn Thật chưa nói, quyền biến thuận theo căn cơ của chúng sanh. Do vậy, chẳng nói). Hơn nữa, kể từ khi [đức Phật] ứng thế tới nay, từ các pháp ṭa Hoa Nghiêm, Phương Đẳng, Bát Nhă, cũng chưa từng hướng đến các đại sĩ nói rành rẽ “Thanh Văn vốn là Phật tử!” “Tâm hoài hối hận” (ôm ḷng hối hận): Hối tiếc trước kia chẳng siêng năng dạy bảo, đến nỗi con do không được dạy bảo mà bỏ trốn. Hận con chẳng suy nghĩ ân nghĩa, lợt lạt t́nh thân của ta! Dùng chuyện này để sánh ví Như Lai hối hận chẳng ân cần giáo hóa, khiến cho chúng sanh nhập nội phàm[9], đến nỗi họ thoái thất sự hiểu biết sẵn có, tiếc hận họ chẳng thể tinh tấn, chí ư kiên cố, lợt lạt chánh pháp của ta, thân cận sáu trần. “Tự niệm lăo hủ” (tự nghĩ chính ḿnh già suy): Thời giáo hóa sắp xong, đại pháp chưa truyền, như già suy mà chẳng có con.

          Hỏi: Các vị Bồ Tát được Pháp Thân giáo hóa, đều kham thành bậc Bổ Xứ, sao lại ưu tư như thế?

          Đáp: Pháp Thân hóa độ, vốn chẳng hưng phế, ai bàn đến chuyện già suy? Nay nói về quyến thuộc của Hóa Thân th́ có hai loại:

          - Một là bậc Pháp Thân đại sĩ cùng làm nh Hưởng Chúng, nơi Tích tuy là đệ tử, nhưng nơi Bổn có thể là thầy. Hạng này cũng chẳng thuộc loại “tự niệm lăo hủ” (tự nghĩ già suy).

          - Hai là phàm phu trong cơi Đồng Cư, thoạt đầu từ hóa Phật mà phát khởi đạo tâm, gọi đó là “con”. Con kế nghiệp cha khiến cho gịng tộc chẳng dứt. Dứt đoạn. Như ngài Thân Tử được thọ kư làm Hoa Quang Phật, tức là Phật chủng trong một phương sẽ liên tục bất đoạn, gia nghiệp Đại Thừa được nối tiếp giao phó. Nếu ngài Thân Tử là căn cơ chẳng thể hóa độ, pháp tài Đại Thừa hiện thời sẽ chẳng được giao phó, Phật chủng sau này biết gởi gắm vào đâu? Chính v́ thế mà rên rẩm “già suy”. Có căn cơ để có thể hóa độ th́ gọi là “đắc tử” (có con). Thọ kư thành Phật chính là “phó tài vật” (giao phó của cải). Xứng với bổn tâm th́ gọi là “khoái lạc”. Phần thứ nhất, “thí dụ cha con lạc mất nhau” đă xong.

 

4.2.2.1.2.1.2.2. Thí dụ cha con gặp nhau

 

          [Đây chính là] lănh ngộ thí dụ “trưởng giả thấy lửa” trong phần trước (phẩm Thí Dụ) và Ngũ Trược được nói trong phần Trùng Tụng thuộc phẩm Phương Tiện. Nhưng trong phần Pháp Thuyết và Thí Thuyết đều nói cha thấy con trước; ở đây, lại nói con thấy cha trước. Ấy là v́ xét theo phía Phật, do linh trí liền biết trước. Xét theo phía chúng sanh, do căn cơ đă thành thục, sẽ cảm ứng. Ứng hiện tương ứng căn cơ chẳng trước, chẳng sau, chẳng thể nghĩ bàn, nhưng đặc biệt nêu ra chuyện trước sau!

 

4.2.2.1.2.1.2.2.1. Con thấy cha

 

          (Kinh) Thế Tôn! Nhĩ thời, cùng tử dung nhẫm triển chuyển, ngộ đáo phụ xá, trụ lập môn trắc, dao kiến kỳ phụ, cứ sư tử sàng, bảo kỷ thừa túc. Chư bà-la-môn, sát-lợi, cư sĩ, giai cung kính vi nhiễu. Dĩ chân châu anh lạc, giá trị thiên vạn, trang nghiêm kỳ thân. Lại dân, đồng bộc, thủ chấp bạch phất, thị lập tả hữu. Phú dĩ bảo trướng, thùy chư hoa phan. Hương thủy sái địa, tán chúng danh hoa, la liệt bảo vật, xuất, nội, thủ dữ, hữu như thị đẳng chủng chủng nghiêm sức, oai đức đặc tôn. Cùng tử kiến phụ hữu đại thế lực, tức hoài khủng bố, hối lai chí thử, thiết tác thị niệm: “Thử hoặc thị vương, hoặc thị vương đẳng, phi ngă dung lực đắc vật chi xứ. Bất như văng chí bần lư, tứ lực hữu địa, y thực dị đắc. Nhược cửu trụ thử, hoặc kiến bức bách, cưỡng sử ngă tác”. Tác thị niệm dĩ, tật tẩu nhi khứ.

          ()世尊。爾時窮子傭賃展轉。遇到父舍。住立門側。遙見其父。踞師子床。寶几承足。諸婆羅門剎利居士。皆恭敬圍繞。以真珠瓔珞。價直千萬莊嚴其身。吏民僮僕。手執白拂。侍立左右。覆以寶帳。垂諸華旛。香水灑地。散眾名華。羅列寶物。出內取與。有如是等種種嚴飾。威德特尊。窮子見父有大勢力。卽懷恐怖。悔來至此。竊作是念。此或是王。或是王等。非我傭力得物之處。不如往至貧里。肆力有地。衣食易得。若久住此。或見逼迫。強使我作。作是念已。疾走而去。

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Lúc bấy giờ, gă nghèo lần lượt làm mướn, t́nh cờ đến nhà cha, đứng ở bên cửa, từ xa thấy cha ḿnh ngồi trên giường sư tử, ghế báu đỡ chân. Các bà-la-môn, sát-lợi, cư sĩ đều cung kính vây quanh. Dùng chuỗi ngọc chân châu giá trị ngàn vạn để tô điểm thân h́nh. Thuộc hạ, tôi tớ tay cầm phất trần trắng, đứng hầu hai bên. Che bằng trướng báu, treo rủ các phan hoa. Nước thơm rưới đất, rải các hoa quư, báu vật la liệt phát ra, thâu vào, lấy, cho, có các thứ trang hoàng như thế, oai đức đặc biệt tôn quư. Gă nghèo thấy cha có thế lực to lớn, liền ôm ḷng hoảng sợ, hối hận đă đến nơi đây, trộm nghĩ như thế này: “Đây hoặc là vua, hoặc bậc ngang hàng với vua, chẳng phải là chỗ ta làm thuê để được vật dụng. Chẳng bằng đến xóm nghèo, có chỗ để ta tha hồ ra sức, dễ kiếm được cơm áo. Nếu ở lâu nơi đây, có thể sẽ bị bức bách, ép ta phải làm”. Suy nghĩ như thế xong, liền nhanh chóng rời khỏi).

 

          Đoạn kinh văn này có bốn ư:

          - Một, nguyên do đến gặp cha: Do v́ đi làm mướn.

          - Hai, chỗ trông thấy cha, nép ở bên cửa.

          - Ba, thấy tướng trạng của cha ngồi trên giường sư tử cho tới oai đức đặc biệt tôn quư.

          - Bốn, sanh ḷng sợ hăi, trốn lánh. Tức là thấy cha có đại thế lực, bèn hối hận đă đến đây v.v…

          1) “Lần lượt đi làm thuê”: Do chán khổ, ưa lạc, t́m cầu lư vị, dần dần tích tập thiện căn giúp cho việc xuất thế. Do thiện căn ấy, cảm ứng Phật từ bi ứng hiện. V́ thế nói “ngộ đáo phụ xá” (t́nh cờ đến nhà cha). “Cha” ví như đạo hậu Pháp Thân. “Xá” (nhà) sánh ví vô duyên từ bi. Hai căn cơ Tiểu Thừa và Đại Thừa, cùng đả động “căn nhà” ấy. Do có căn cơ Đại Thừa, cho nên nói “dao kiến kỳ phụ” (từ xa thấy cha). Do có căn cơ Tiểu Thừa, nên nói “trụ lập môn trắc” (đứng ở bên cửa). Nếu chỉ có Tiểu Thừa, chẳng có Đại Thừa, sẽ chẳng thể “dao kiến tôn đặc chi thân” (từ xa trông thấy thân tôn quư, đặc biệt), mà cha cũng chẳng nên hoan hỷ v́ nay tài vật, kho đụn có người để giao phó. Nếu chỉ có Đại Thừa, chẳng có Tiểu Thừa, sẽ chẳng thể “trụ lập môn trắc”, mà cũng chẳng thể nói “phi ngă dung lực đắc vật chi xứ” (chẳng phải là chỗ ta ra sức làm thuê để có được vật dụng).

          2) Trong ư thứ hai, nói “môn trắc”, [hàm ư] hai phép Quán là phương tiện, như hai bên cửa. Căn cơ trong Viên Giáo sẽ đứng ngay cửa để nh́n thẳng, Nhị Thừa Thiên Chân ví như ở bên cạnh cửa, chỉ là Không tam-muội. Thiên Chân huệ nhăn liếc nh́n Pháp Thân. Đả động, chuốc vời xa xôi, cho nên nói là “dao” (, từ đằng xa).

          3) Trong ư thứ ba, nói “cứ sư tử sàng” (ngồi trên giường sư tử): Pháp Thân viên báo, ngự yên trên ṭa pháp tánh Đệ Nhất Nghĩa Không, chẳng c̣n các nỗi sợ hăi v́ thông hoặc, biệt hoặc, tám ma[10] v.v… “Bảo kỷ thừa túc” (ghế báu đỡ chân): Định và Huệ làm chân. Thật Đế làm ghế. Vô sanh Định Huệ nương vào cảnh Chân Như. Bà-la-môn là tịnh hạnh. Quư tộc cao quư, thanh khiết ví như bậc Ly Cấu Bồ Tát thuộc địa vị Đẳng Giác trong hội Hoa Nghiêm. Sát-lợi (Kṣatriya) là gịng dơi vua chúa, ví như các vị đại Bồ Tát từ Cửu Địa cho đến Sơ Địa trong hội Hoa Nghiêm. Cư sĩ giàu mà chưa quư, ví như các vị Bồ Tát thuộc ba mươi tâm (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng) trong hội Hoa Nghiêm. “Chân châu anh lạc” ví như giới rốt ráo, Thủ Lăng Nghiêm Định, hết thảy các thứ huệ, pháp âm đà-la-ni là bốn loại anh lạc. “Giá trị thiên vạn” (giá trị ngàn vạn): Sánh ví dùng công đức thuộc bốn mươi địa vị để trang nghiêm Pháp Thân. “Lại dân đồng bộc”: Nếu xét theo dị môn để giải thích ư nghĩa, “dân ví như người bẩm thọ phương tiện giáo để đoạn Thông Hoặc. “Lại” ví như người bẩm thọ Biệt Giáo để đoạn Thông Hoặc. Nếu xét theo đồng môn để giải thích ư nghĩa, vẫn là sánh ví Phương Tiện Ba La Mật, trong là đồng với Thật Trí, ngoài tương đồng cơ duyên. Ví như “lại dân” có ư nghĩa:Trong là phụng sự, ngoài là phục dịch”.

          “Bạch phất” (phất trần trắng) nhằm sánh ví tác dụng của Quyền Trí. “Hữu” ví như nhập Không Trí, dùng phủi trừ bụi Tứ Trụ. “Tả” ví như nhập Giả Trí, dùng phủi trừ bụi vô tri. Hai điều ấy chính là phương tiện Trung Đạo. V́ thế nói là “thị lập” (đứng hầu). “Bảo trướng” (trướng báu) ví như từ bi chân thật. “Hoa” sánh ví Tứ Nhiếp (Catvāri Saṃgrahavastūni, tức Bố Thí, Đồng Sự, Lợi Hành, Ái Ngữ). “Phan” sánh ví thần thông. “Hương thủy sái địa” (nước thơm rưới đất): Ví như pháp thủy rẩy vào tâm địa của các Bồ Tát để lắng đọng Hoặc trần, cũng ví như Định thủy rẩy trừ tán tâm. “Tán chúng danh hoa” (rải các hoa quư): Ví như hoa Thất Tịnh: Một là tam tụ tịnh giới, hai là Thủ Lăng Nghiêm đại định, ba là Thật Huệ, bốn là đoạn nỗi nghi đối với Nhị Đế, năm là hành nơi phi đạo mà thông đạt Phật đạo, sáu là trí đức viên măn, hiểu rơ kiến tánh, bảy là Đoạn Đức thành tựu, vĩnh viễn hết sạch vô minh. “La liệt bảo vật”: Ví như công đức chân thật la liệt trong các địa vị. “Xuất nội thủ dữ” (chi ra, thâu vào, cho lấy) như đă giải thích trong phần trước. “Oai đức đặc tôn”: Quang minh vô biên, h́nh sắc vô biên, tướng hải và tùy hảo lồng lộng ṿi vọi.

          4) Trong ư thứ tư, “hữu đại thế lực”: Trí to lớn th́ gọi là “đại lực”, thần thông to lớn th́ gọi là đại thế, ví như ư nghĩa [ông trưởng giả] “thân thủ hữu lực” (thân và tay có sức) trong phần kinh văn trước đó (phẩm Thí Dụ). “Khủng bố” (kinh hoảng sợ hăi): Căn cơ Tiểu Thừa yếu kém, khiếp sợ đại đạo. “Hối lai chí thử” (hối hận đă đến nơi đây): Phật vốn muốn dùng đại pháp để tiếp độ, nhưng chẳng có căn cơ tương xứng, chỉ có chúng sanh mang ư nghĩ thoái thất Đại Thừa. “Thiết tác thị niệm” (trộm nghĩ như thế này): Trong căn cơ ngấm ngầm có ư nghĩa ấy, chẳng phải là hiển nhiên thấy trực tiếp Thắng Ứng Thân. Bởi lẽ, cha con thấy nhau, tuy ví như cảm ứng đạo giao chẳng thể nghĩ bàn, nhưng luận theo sự giáo hóa th́ cha thấy con trước, đó là Như Lai soi xét căn cơ. Đạo lư là như thế đó. Nay nói con thấy cha trước và nơi chốn v.v… hoàn toàn chẳng phải là con đă thấy, chỉ là xét theo căn cơ tương ứng, trần thuật cặn kẽ từ đầu đến đuôi nguyên do tiếp nhận sự giáo hóa đó thôi!

          “Thử hoặc thị vương, hoặc thị vương đẳng” (đấy hoặc là vua, hoặc bậc ngang với vua): Ba Tuần là vua, đồ đệ của hắn là “đẳng”. Căn cơ Tiểu Thừa hôi đoạn (diệt thân sau khi nhập diệt, chẳng c̣n sắc thân), chẳng có ngôn từ để nói năng, dứt bặt h́nh sắc. Nh́n Thắng Ứng từ xa, trời, người chẳng thể sánh bằng. Pháp tướng do [Thắng Ứng Thân] nói ra, khác hẳn Nhị Thừa vời vợi. Tiểu trí, đức mỏng, chưa từng thấy nghe, liền ngỡ đó là ma, hoặc bè lũ ma! Lại như [trong đoạn kinh văn] khai tam hiển nhất đại lược, ngài Thân Tử c̣n tự hồ nghi “chẳng phải là ma hiện thành Phật, nhiễu loạn tâm ta ư?” Huống hồ, lúc [đức Phật] mới thành đạo, nếu Ngài dùng ngay Đại Thừa để tiếp độ tiểu căn, họ chẳng thể nào không ngờ Phật là ma ư?

          Lại nữa, Pháp Thân là vua, cùng nói đến Báo Thân và pháp tương xứng th́ gọi là “vương đẳng”. Pháp Thân và Báo Thân của Đại Thừa chẳng phải là chỗ đạt được lợi ích của Tiểu Thừa. V́ thế nói “phi ngă dung lực đắc vật chi xứ” (chẳng phải là chỗ để ra sức làm thuê ḥng đạt được vật dụng). Ví như căn cơ Tiểu Thừa chẳng thể tiếp nhận sự giáo hóa bằng Đại Thừa. “Bần lư” (xóm nghèo) ví như cái lư Không rỗng tuếch, chẳng chứa đựng vạn đức, hoặc sánh ví cảnh TKiến (bốn thứ kiến chấp đối với nhị biên, hoặc kiến chấp đối với thường, lạc, ngă tịnh). “T lực hữu địa” (có chỗ để tha hồ dốc hết sức): Ví như Thiên Không tương xứng tiểu trí, hoặc sánh ví TKiến tương xứng với thế trí (trí huệ thế gian). “Y” (áo) ví như hành hạnh, “thực” (cơm) ví như huệ hạnh. “Y thực dị đắc” (dễ có được cơm áo): Ví như có thể đạt được áo cơm vô lậu nơi Hữu Dư Niết Bàn, hoặc sánh ví có thể đạt được thế gian vị Thiền. “Nhược cửu trụ thử” (nếu ở lâu nơi đây): Hành Đại Thừa đạo, trải qua vô lượng kiếp. V́ thế nói là “cửu trụ”. Ta vốn chán sợ sanh tử, nếu tu Đại Thừa, ắt phải vào trong sanh tử, rộng học vạn hạnh. V́ thế nói là “bức bách”. Ta vốn ưa thích Tiểu pháp, nay buộc ta phát tâm Đại Thừa, tức là “cưỡng sử” (ép buộc làm). Bỏ Đại giữ lấy Tiểu, cho nên nói là “tật tẩu” (nhanh chóng đi khỏi).

 

4.2.2.1.2.1.2.2.2. Cha thấy con

 

          (Kinh) Thời phú trưởng giả, ư sư tử ṭa, kiến tử tiện thức, tâm đại hoan hỷ, tức tác thị niệm: “Ngă tài vật khố tạng, kim hữu sở phó. Ngă thường tư niệm thử tử, vô do kiến chi, nhi hốt tự lai, thậm thích ngă nguyện. Ngă tuy niên hủ, do cố tham tích”.

          ()時富長者。於師子座。見子便識。心大歡喜。卽作是念。我財物庫藏。今有所付。我常思念此子。無由見之。而忽自來。甚適我願。我雖年朽。猶故貪惜。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, ông trưởng giả giàu có ở trên ṭa sư tử, thấy con liền nhận biết, tâm rất hoan hỷ, liền nghĩ như thế này: “Của cải, kho tàng của ta nay đă có người để giao phó. Ta thường nghĩ nhớ đứa con này, không cách nào gặp nó, nay nó bỗng tự đến, rất hợp ḷng ta mong mỏi. Ta tuy đă già, vẫn c̣n tham tiếc”).

 

          Đoạn kinh văn này cũng có bốn ư:

          - Một, ṭa sư tử là chỗ trông thấy con. Pháp Thân của Như Lai ngự trong cảnh Đệ Nhất Nghĩa Không vô úy, chiếu rơ căn cơ.

          - Hai, thấy con liền nhận biết, biết đó là chúng sanh đă kết duyên xưa kia.

          - Ba, thấy con bèn hoan hỷ. Phật luôn t́m cầu căn cơ của con, nay căn cơ xứng hợp ḷng Từ. V́ thế hoan hỷ. Đấy là sự lănh ngộ “chuyện kinh sợ to lớn trong thí dụ” thuộc phần trước. Từ trong phương tiện mà khởi tâm đại bi. Trong phần trước nói về sự dẹp khổ, nên bảo là “kinh bố” (kinh hoảng, sợ hăi). Nay nói về sự ban vui, cho nên nói “hoan hỷ”.

          - Bốn, do thấy con bèn thỏa nguyện. Xưa kia thấy chúng sanh sau khi đă thoái thất Đại Thừa, rong ruổi bốn phương t́m cầu cơm áo, lần lượt làm thuê, thường muốn ban tài sản cho con, nhưng do chẳng có căn cơ [tương xứng], cho nên chẳng thực hiện được. Hiện thời, căn cơ t́m đến, xứng hợp tâm đại từ. V́ thế nói “khố tạng kim hữu sở phó” (kho tàng nay đă có chỗ để giao phó). Chúng sanh lưu chuyển sanh tử, bị các sự khổ bức bách, khiến cho tâm đại bi đau đớn. V́ thế nói “ngă thường tư niệm” (ta thường nghĩ nhớ). Tuy muốn cứu bạt, nhưng chẳng có căn cơ [tương xứng] làm sao tế độ? Do vậy nói “vô do kiến chi” (không cách nào trông thấy). Nay có căn cơ để có thể độ, v́ thế nói “nhi hốt tự lai” (bỗng nó tự đến). Tương xứng với tâm đại bi, cho nên “thậm thích ngă nguyện” (rất hợp ḷng ta mong mỏi). Một kỳ hóa độ đă xong, cho nên nói “niên hủ” (lại c̣n xét theo sự thị hiện được Phật Nhiên Đăng thọ kư, cho đến từ Đâu Suất giáng thần, xuất gia, thành đạo, tức là chuyện hóa độ trong một thời kỳ đă sắp xong). Chưa thấy căn cơ Đại Thừa, pháp sẽ chẳng thể giao phó được. Các đồ đệ trong tương lai sẽ do ai mà được độ thoát? V́ người đáng độ, cho nên nói “tham tích” (tham tiếc). Phần thứ hai, “thí dụ về cha con gặp nhau” đă xong.

 

4.2.2.1.2.1.2.2.3. Thí dụ về sự truy đuổi và khuyên dụ

 

          Lănh ngộ thí dụ “bỏ ghế, dùng xe” trong phần trước, và ư nghĩa thực thi phương tiện để hóa độ trong phẩm Phương Tiện.

 

4.2.2.1.2.1.2.2.3.1. Sai người bên cạnh đuổi theo

 

          (Kinh) Tức khiển bàng nhân, cấp truy tương hoàn. Nhĩ thời, sứ giả tật tẩu văng tróc, cùng tử kinh ngạc, xưng oan đại hoán: “Ngă bất tương phạm, hà vị kiến tróc?” Sứ giả chấp chi dũ cấp, cưỡng khiên tương hoàn. Vu thời, cùng tử tự niệm vô tội, nhi bị tù chấp, thử tất định tử, chuyển cánh hoàng bố, muộn tuyệt tích địa.

          ()卽遣旁人。急追將還。爾時使者。疾走往捉。窮子驚愕。稱怨大喚。我不相犯。何為見捉。使者執之逾急。強牽將還。于時窮子自念無罪。而被囚執。此必定死。轉更惶怖。悶絕躄地。

          (Kinh: Liền sai người bên cạnh gấp rút đuổi theo bắt lại. Khi đó, kẻ được sai bảo nhanh chóng đuổi bắt. nghèo kinh ngạc, lớn tiếng kêu oan: “Tôi chẳng xúc phạm, v́ sao bị bắt?” Kẻ được sai bảo càng gấp gáp, bắt lấy hắn, cưỡng lôi trở về. Lúc đó, gă nghèo tự nghĩ ḿnh vô tội mà bị bắt bớ, đây ắt là phải chết, càng thêm hoảng sợ, mê ngất, ngă quỵ xuống đất).

 

          Đây là lănh ngộ “cả hai môn Khuyến và Giới đều chẳng có căn cơ tương ứng”. “Bàng nhân” (người bên cạnh): Trí là chủ thể sai khiến, Giáo là đối tượng được sai khiến. Từ Phật mà phát xuất mười hai bộ loại kinh điển. Lại nữa, “thần, tá” v.v… chính là người bên cạnh. Như trong kinh Hoa Nghiêm, Pháp Huệ Bồ Tát nói Thập Trụ, Công Đức Lâm Bồ Tát nói Thập Hạnh, Kim Cang Tràng Bồ Tát nói Thập Hồi Hướng, Kim Cang Tạng Bồ Tát nói Thập Địa v.v… “Cấp truy tương hoàn” (gấp rút đuổi theo bắt về): Toan dùng Khuyến môn thuộc giáo pháp Đốn [để hóa độ]. “Tật tẩu văng tróc” (nhanh chóng đến bắt): Đại Thừa nêu bày nghĩa hiển lộ chánh trực, dùng đó để đối ứng căn cơ, ḥng nhanh chóng đạt đến Bồ Đề. Nếu coi Bồ Tát là “người bên cạnh” th́ Bồ Tát đều tự có thần lực, lại được Phật gia bị, cũng có thể khiến cho kẻ đó nhanh chóng nhập Bồ Đề. “Cùng tử kinh ngạc” (gă nghèo kinh ngạc) tức là thực hiện Khuyến Môn th́ chẳng có căn cơ. Đă chẳng có căn cơ, dẫu cho họ xưa kia đă từng phát [tâm Bồ Đề], nhưng bỏ quên lâu ngày chẳng nhớ, chợt nghe đại giáo, tâm chống trái, cho nên kinh hoảng. Do chẳng biết, nên ngạc nhiên. Tiểu Thừa coi phiền năo là oán, coi sanh tử là khổ. Nếu khuyên “phiền năo chính là Bồ Đề”, họ sẽ gào to kêu oan uổng! Nếu nghe “sanh tử chính là Niết Bàn”, sẽ gào to kêu đau khổ! Ta chẳng dính dáng ǵ đến chuyện cầu Đại Thừa, sao lại dùng Đại Thừa để bắt ta?

          “Sứ giả chấp chi dũ cấp, cưỡng khiên tương hoàn” (Kẻ được sai khiến càng gấp gáp bắt lấy, cưỡng lôi về), ví như toan dùng Giới môn của Đại Thừa để hóa độ, v́ kẻ đó nói các chuyện đáng sợ hăi. “Cùng tử tự niệm vô tội” (gă nghèo tự nghĩ vô tội): Ví như Giới môn chẳng có căn cơ [tương xứng để tiếp nhận]. “Tội” sánh ví như từ bi. Chúng sanh do mắc tội, vào trong nhà ngục sanh tử; Bồ Tát v́ ḷng từ bi, vào ngục cứu giúp. Nhị Thừa chẳng có ḷng đại từ đại bi ấy, v́ thế nói là “vô tội”. Bảo họ nhập sanh tử, tức là “bị tù chấp” (bị bắt bớ, tù đày). Chẳng có đại phương tiện để nhập sanh tử, ắt sẽ vĩnh viễn đánh mất huệ mạng tam thừa. V́ thế nói “thử tất định tử”ây là ắt phải chết). Do suy nghĩ các chuyện như thế đó, cho nên nói “chuyển cánh hoàng bố” (càng thêm hoảng sợ). Tiểu trí chẳng hiểu đại giáo, v́ thế nói “muộn tuyệt” (mê ngất). Yếu ớt nơi đất vô minh, cho nên nói là “tích địa” (lăn quay ra đất).

 

          (Kinh) Phụ dao kiến chi, nhi ngữ sứ ngôn: “Bất tu thử nhân, vật cưỡng tương lai. Dĩ lănh thủy sái diện, linh đắc tỉnh ngộ, mạc phục dữ ngữ”. Sở dĩ giả hà? Phụ tri kỳ tử chí ư hạ liệt, tự tri hào quư, vi tử sở nan. (Cố tuy) thẩm tri thị tử, nhi dĩ phương tiện, bất ngữ tha nhân, vân thị ngă tử. (Ư thời) sứ giả ngữ chi: “Ngă kim phóng nhữ, tùy ư sở thú”. Cùng tử hoan hỷ, đắc vị tằng hữu, tùng địa nhi khởi, văng chí bần lư, dĩ cầu y thực.

          ()父遙見之。而語使言。不須此人。勿強將來。以冷水灑面。令得醒悟。莫復與語。所以者何。父知其子志意下劣。自知豪貴。為子所難。(故雖)審知是子。而以方便。不語他人云是我子。(於時)使者語之。我今放汝。隨意所趣。窮子歡喜。得未曾有。從地而起。往至貧里。以求衣食。

          (Kinh: Cha từ xa trông thấy, bảo kẻ được sai khiến rằng: “Chẳng cần gă đó, đừng cưỡng ép hắn đến. Dùng nước lạnh rưới vào mặt cho hắn tỉnh lại. Đừng nói ǵ với hắn nữa!” V́ lẽ nào vậy? Cha biết con chí ư kém hèn, tự biết chính ḿnh giàu có, sang cả, khiến cho con khiếp sợ. (V́ thế, tuy) biết rơ là con ḿnh, mà dùng phương tiện, chẳng nói với người khác đó là con ta. (Khi đó), kẻ được sai khiến bảo: “Nay ta thả ngươi đi đâu tùy ư”. Gă nghèo hoan hỷ, được điều chưa từng có, từ dưới đất đứng lên, đi qua xóm nghèo để cầu cơm áo).

 

          Đây là lănh ngộ [ư nghĩa] “đối với cả hai môn Khuyến và Giới, đều ngưng dứt sự giáo hóa”. Ấy là v́ đă nắm rơ sâu xa ư Phật, tuy [đức Phật] toan vận dụng Khuyến môn [để hóa độ], nhưng chẳng có căn cơ [tương xứng]. Ư [hóa độ] vẫn chưa ngơi, lại toan dùng Giới môn, nhưng chẳng thể thực hiện được. Sau đấy mới thôi [dùng pháp Đại Thừa viên đốn để] hóa độ. Kinh văn cũng gồm bốn ư:

          - Một, suy nghĩ chấm dứt sự hóa độ [bằng đại pháp viên đốn]. Nói “phụ dao kiến” (cha từ xa trông thấy), tức là Tiểu Thừa cách biệt Đại Thừa xa thẳm, cho nên nói là “dao” (, từ đằng xa). “Ngữ sứ ngôn” (nói với kẻ được sai khiến): Nếu coi giáo là “sứ” th́ trí vốn thuyết giáo, nhưng trí biết [thính chúng] chẳng có căn cơ. Do trí ngưng dứt, cho nên giáo ngưng dứt. Nếu coi người là “sứ”, th́ như trong kinh Tịnh Danh có nói “nhiếp nhữ thân hương, vô linh bỉ chư chúng sanh nhi khởi Hoặc trước” (hăy thâu nhiếp mùi hương nơi thân ngươi lại, đừng khiến cho chúng sanh khởi Hoặc chấp trước)[11]. Lại như ngài Phổ Hiền vào cơi Sa Bà này, rút thân nhỏ lại, đều là do nghĩa này. “Vật cưỡng tương lai” (đừng cưỡng bức đem tới): Đă chẳng có căn cơ Đại Thừa, sợ thương tổn thiện căn của người ấy. “Lănh thủy sái diện” (dùng nước lạnh rảy vào mặt): Biết kẻ đó tiểu chí, hăy nên dùng nước lư “hôi đoạn” để rảy vào khuôn mặt hướng về Niết Bàn của người ấy, khiến cho người ấy ĺa phiền muộn, dần dần ngộ Tứ Đế. “Mạc phục dữ ngữ” (đừng nói ǵ với hắn nữa): Quyết định phải nên ngưng giáo hóa bằng Đại Thừa.

          - Thứ hai, từ “sở dĩ giả hà” (v́ lẽ nào vậy) trở đi, giải thích ư nghĩa [v́ sao phải] ngưng dứt sự giáo hóa bằng Đại Thừa. [Do chúng sanh] chán khổ, thích Không. V́ thế, “chí ư hạ liệt” (chí ư hèn kém). Bi và Trí chưa phát; v́ thế, sợ hăi kẻ quyền quư. Biết chắc chắn [các chúng sanh ấy] ở chỗ hai vạn ức Phật đă từng phát đạo tâm, thật sự là Phật tử; nhưng v́ bảo vệ, cho nên chẳng nói với ai khác, tức là từ thời A Hàm cho đến thời Bát Nhă, chưa từng nói rơ “Nhị Thừa thành Phật”!

          - Thứ ba, từ “sứ giả ngữ” (kẻ được sai khiến nói), nêu rơ ngưng dứt sự giáo hóa bằng Đại Thừa. “Ngă kim phóng nhữ” (nay ta thả ngươi) tức là biết căn cơ Đại Thừa [của chúng sanh] yếu ớt. “Tùy ư sở thú” (đi đâu tùy ư): Tức là biết điều lành thuộc về Tiểu pháp mạnh mẽ.

          - Thứ tư, từ “cùng tử hoan hỷ” (gă nghèo hoan hỷ) trở đi, chính là dứt sự giáo hóa nhằm tương xứng với căn cơ. Do kẻ đó chẳng bị đại giáo bức bách, cho nên hoan hỷ. Do dùng Tiểu pháp tương xứng, cho nên [kẻ đó] có thể tỉnh ngộ. V́ thế nói “tùng địa nhi khởi” (từ dưới đất đứng lên). Cầu chánh trợ đạo nơi lư đản Không (chỉ biết Chân Không, chẳng biết Diệu Hữu), hoặc cầu chánh trợ đạo từ nơi TKiến. V́ thế nói “văng chí bần lư, dĩ cầu y thực” (đi qua xóm nghèo để cầu cơm áo). Phần thứ nhất, “sai người bên cạnh đuổi theo” đă xong.

 

4.2.2.1.2.1.2.2.3.2. Thí dụ sai hai người khuyên dụ

4.2.2.1.2.1.2.2.3.2.1. Lănh ngộ ư nghĩa “cùng dạy cả ba thừa”

 

          Lănh ngộ gần th́ là hiểu ư chỉ “dùng ba loại xe để cứu con”, xa th́ “thực hiện quyền biến, [tuyên thuyết pháp Tứ Đế] ở Ba La Nại”. Phần này lại chia thành bốn phần: Một, lănh ngộ chuyện “nên dùng ba loại xe”, hai là lănh ngộ chuyện “cha biết trước tâm ư của con”, ba là lănh ngộ chuyện “tán thán ba cỗ xe”, bốn là lănh ngộ chuyện “do đúng ư mong muốn của các con, nên chúng tranh giành nhau ra khỏi nhà lửa”.

 

4.2.2.1.2.1.2.2.3.2.1.1. Lănh ngộ chuyện toan dùng ba loại xe

 

          (Kinh) Nhĩ thời, trưởng giả tương dục dụ dẫn kỳ tử, nhi thiết phương tiện, mật khiển nhị nhân, h́nh sắc tiều tụy, vô oai đức giả: “Nhữ khả nghệ bỉ, từ ngữ cùng tử, thử hữu tác xứ, bội dữ nhữ trị[12]. Cùng tử nhược hứa, tương lai sử tác. Nhược ngôn dục hà sở tác, tiện khả ngữ chi, cố nhữ trừ phẩn. Ngă đẳng nhị nhân, diệc cộng nhữ tác”.

          ()爾時長者。將欲誘引其子而設方便。密遣二人。形色憔悴。無威德者。汝可詣彼。徐語窮子。此有作處。倍與汝直。窮子若許。將來使作。若言欲何所作。便可語之。雇汝除糞。我等二人。亦共汝作。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, trưởng giả muốn dẫn dụ con ḿnh, bèn lập phương tiện, ngầm sai hai người, h́nh sắc tiều tụy, chẳng có oai đức: “Các ngươi hăy đến chỗ nó, thong thả nói với gă nghèo, ở đây có chỗ để làm thuê, trả công gấp bội cho ngươi. Nếu gă nghèo chấp thuận, hăy đưa nó đến làm. Nếu hỏi muốn nó làm ǵ, có thể bảo rằng: Mướn ngươi dọn phân. Hai người chúng ta cũng sẽ làm chung với ngươi”).

 

          Đă thôi giáo hóa bằng Đại Thừa, chẳng nỡ bỏ con côi, tính lập phương tiện. V́ thế nói “tương dục” (mong muốn). Bốn vị đại đệ tử đều đă lănh ngộ phần nào, chẳng dính dáng đến hàng Bồ Tát. V́ thế, ngầm sai hai người. Xét theo pháp, [“hai người”] chính là Tứ Đế và mười hai nhân duyên. Xét theo lư, chính là hữu tác chân tục (chân và tục có tạo tác). Xét theo người th́ chính là Thanh Văn và Duyên Giác. Nhưng nói “mật khiển” (ngầm sai), xét theo giáo, ẩn tàng pháp măn tự là “mật”, chỉ bày pháp bán tự là “khiển” (sai khiến). Xét theo Lư, ẩn Thật là Mật, chỉ bày Quyền là Khiển. Xét theo người, “trong ngầm là Bồ Tát hạnh”, chính là Mật, “ngoài hiện tướng Thanh Văn” là Khiển. Trong giáo pháp Nhị Thừa, chẳng tu tướng hảo, chỉ nói Khổ, Vô Thường, Vô Ngă, Bất Tịnh. V́ thế nói “h́nh sắc tiều tụy”. Chẳng trọn đủ Thập Lực, Tứ Vô Sở Úy; cho nên nói “vô oai đức”. Do dùng Tiểu giáo để độ Tiểu cơ (căn cơ Tiểu Thừa), v́ thế nói “nhữ khả nghệ bỉ” (ngươi có thể đến chỗ nó). Lư được nói trong Tiểu giáo th́ quanh co, ẩn tàng, chẳng thẳng thừng nắm bắt như Đại Thừa, cho nên nói “từ ngữ cùng tử” (thong thả nói với gă nghèo). Kiến đạo và tu đạo là hai chỗ để thực hiện đoạn Hoặc. V́ thế nói “thử hữu tác xứ” (ở đây có chỗ làm). Sáu hạnh của ngoại đạo chỉ có thể chế phục Hoặc, sanh vào hai giới trên (Sắc Giới và Vô Sắc Giới); nay tu đế duyên (Tứ Đế và Thập Nhị Nhân Duyên), sẽ có thể đoạn Hoặc, ra khỏi biển sanh tử. V́ thế nói “bội dữ nhữ trị” (trả giá gấp bội cho ngươi). “Cùng tử nhược hứa” (nếu gă nghèo chấp thuận): Có căn cơ là “hứa”, bèn lập giáo. Chẳng có căn cơ th́ sẽ chẳng hứa, chẳng lập giáo. Nhị Thừa chỉ muốn trừ Hoặc, giữ lấy sự chứng đắc, chẳng bàn tới chuyện nghiêm tịnh (trang nghiêm thanh tịnh) cơi Phật hay thành tựu chúng sanh. V́ thế nói “cố nhữ trừ phẩn” (mướn ngươi dọn phân). “Ngă đẳng nhị nhân diệc cộng nhữ tác” (hai người chúng ta cũng làm chung với ngươi): Xét theo giáo, tức là độn căn Nhị Thừa dựa vào giáo mà hành hạnh th́ mới có thể tu nghiệp. Xét theo lư, Trí và Đế giúp lẫn nhau. Xét theo người, Quyền nhân và Thật nhân cùng tu hành.

 

4.2.2.1.2.1.2.2.3.2.1.2. Lănh ngộ chuyện “cha biết trước tâm ư của con” và lănh ngộ sự tán thán ba loại xe     

 

          (Kinh) Thời nhị sứ nhân, tức cầu cùng tử, kư dĩ đắc chi, cụ trần thượng sự.

          ()時二使人。卽求窮子。旣已得之。具陳上事。

          (Kinh: Khi đó, hai người được sai khiến liền t́m gă nghèo. Đă t́m được bèn nói cặn kẽ chuyện trên đây).

 

          Biết chắc chắn là có căn cơ; v́ thế nói là “đắc chi” (đă t́m được), tức là lănh ngộ chuyện biết trước tâm ư của con. “Cụ trần thượng sự” (nói cặn kẽ chuyện trên đây): Thuê về cùng làm chung. Dọn phân Tập Khổ, trả cho giá tiền Đạo Diệt, tức là lănh ngộ sự tán thán ba loại xe.

 

4.2.2.1.2.1.2.2.3.2.1.3. Lănh ngộ chuyện “xứng với ước nguyện của con, chúng nó tranh nhau ra khỏi nhà lửa”

 

          (Kinh) Nhĩ thời, cùng tử tiên thủ kỳ giá, tầm dữ trừ phẩn. Kỳ phụ kiến tử, mẫn nhi quái chi.

          ()爾時窮子。先取其價。尋與除糞。其父見子。愍而怪之。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, gă nghèo trước đă chấp nhận giá ấy, bèn t́m đến dọn phân. Cha hắn thấy con bèn thương xót và trách móc).

 

          Hâm mộ Diệt th́ mới chịu tu Đạo. V́ thế nói “tiên thủ kỳ giá” (trước đó đă chấp nhận giá ấy). “Tầm dữ trừ phẩn” (t́m đến dọn phân): Giống như nói trước đó đă hỏi giá, thấy giá vừa hợp ước nguyện. “Trừ phẩn” là tranh nhau ra khỏi [tam giới]. “Mẫn” là thương xót v́ con chấp lấy quả Tiểu Thừa, “quái” (trách móc) v́ con chẳng cầu Phật đạo. Phần thứ nhất, “lănh ngộ chuyện v́ sao phải cùng dạy ba thừa” đă xong.

 

4.2.2.1.2.1.2.2.3.2.2. Lănh ngộ dụng ư giáo hóa

 

          Lănh ngộ nơi địa vị Pháp Thân, [đức Phật] soi chiếu phương tiện đă lâu; chẳng phải là đến đạo thụ (lúc thị hiện thành đạo dưới cội Bồ Đề), [đức Phật] mới biết dùng Tiểu Thừa [để tiếp độ]. Sớm biết chúng sanh kiêng sợ thân tôn quư đặc biệt, [đức Phật giống như ông trưởng giả trong thí dụ này] đích thân khoác áo bẩn thỉu (tức là thọ thân trượng sáu giống như người b́nh phàm). V́ thế, suy từ chuyện trước mà lănh ngộ để thấu hiểu chuyện hiện thời.

          Hỏi: Bốn vị đại đệ tử do nhân ǵ mà có thể biết Pháp Thân chiếu soi đă lâu?

          Đáp: Suy từ cái gần mà biết cái xa! Nếu tới đạo thụ mới biết chẳng có cănĐại Thừa, sẽ chẳng nên từ Đâu Suất giáng thần, chánh huệ nương gá vào thai, cho đến thị hiện có phiền năo, lấy phi tần, sanh con. Ba mươi bốn tâm, hậu thân đoạn kết; trải nghiệm tháo gỡ chuỗi ngọc tướng hải[13] vi diệu, mặc áo bẩn thỉu, thô hèn [tức thọ thân cao] trượng sáu [chỉ có ba mươi hai tướng đại nhân và tám mươi tùy h́nh hảo]. Đó là v́ soi xét căn cơ đă lâu.

 

4.2.2.1.2.1.2.2.3.2.2.1. Lănh ngộ Phật đă từ lâu toan dùng Quyền trí để phương tiện hóa độ

 

          (Kinh) Hựu dĩ tha nhật, ư song dũ trung, dao kiến tử thân.

          ()又以他日。於牖中。遙見子身。

          (Kinh: Lại một ngày nọ, từ trong cửa sổ, trông thấy thân con từ xa).

 

          “Hựu” là từ ngữ trịnh trọng. Muốn lănh ngộ ư nghĩa nơi địa vị Pháp Thân, biết sự mầu nhiệm của việc thực hiện hóa độ thuận theo căn cơ, nhắc lại ư Phật. V́ thế, mở đầu chương này bèn nói “hựu”. “Tha” chỉ Pháp Thân. Nhị Thừa tự cho rằng Quyền Lư là chính ḿnh; v́ thế, coi Thật Lư đối lập với ḿnh mà gọi là Tha. “Nhật” là thời, mà cũng là trí. Khi nương vào Pháp Thân, dùng trí để chiếu soi căn cơ; v́ thế, nói là “tha nhật”. Trong phần lănh hội chuyện cùng dùng ba thừa để giáo hóa trong phần trước, đă lănh ngộ tác dụng hành xử của Hóa Thân. V́ thế, Nhị Thừa nói là “kỷ nhật” (ngày của chính ḿnh). Nay lănh ngộ ư nghĩa, lănh ngộ các chuyện thuộc tác dụng của Pháp Thân; v́ thế, Nhị Thừa được gọi là “tha nhật”. Lại xét theo Pháp Thân của Như Lai để nói, Thật Trí chiếu Thật là “kỷ”, Quyền Trí chiếu phương tiện là Tha. Lại nữa, tự hành Quyền Thật là “kỷ”. Hóa tha Quyền Thật là Tha. Lại nữa, Hóa Tha chiếu Thật là Kỷ, hóa tha chiếu Quyền là Tha. Nay đúng trong lúc tham cứu, lănh ngộ Pháp Thân, dùng Hóa Tha Quyền trí chiếu Quyền cơ (căn cơ thuộc về Quyền) dường có, dường không, chiếu Quyền dụng (tác dụng của Quyền) dường như có thể, chẳng thể. V́ thế nói “tha nhật”.

          “Song dũ”: [Cửa sổ trổ] nơi nhà gọi là Song (), [lỗ to khoét] trên tường th́ gọi là Dũ (). Đă chẳng phải là cửa giữa, cho thấy nơi chốn chật hẹp, ví như Quyền Trí chiếu căn cơ thiên lệch. “Dao” (, cách xa): Tiểu Thừa cách Đại Thừa quá xa. “Kiến” (thấy): Toan muốn tiếp độ. “Tử” (con): Kẻ đă từng kết duyên khi xưa. Đấy là do con cách biệt ở ngoài cửa sổ, chẳng phải là do lỗi trưởng giả có cái nh́n thiên kiến!

 

4.2.2.1.2.1.2.2.3.2.2.2. Lănh ngộ chuyện từ lâu đă biết những kẻ đó yêu thích tiểu pháp

 

          (Kinh) Luy sấu tiều tụy, phẩn thổ trần bộn, ô uế bất tịnh.

          ()羸瘦憔悴。糞土塵坌。汙穢不淨。

          (Kinh: C̣m cơi, tiều tụy, phân đất lấm lem, ô uế, chẳng sạch).

 

          Do tu trí nơi nhân th́ kém sức nên “luy” (, gầy c̣m). Do tu phước nơi nhân th́ lực ít ỏi, nên là “sấu” (, tong teo). Trong th́ sợ vô thường nên là “tiều” (, ṃn mỏi, khô khao), ngoài gặp tám nỗi khổ, nên là Tụy (, xơ xác). Tứ Trụ là “phẩn thổ” (phân đất), vô tri là “trần bộn” (bụi bám lem luốc).

 

4.2.2.1.2.1.2.2.3.2.2.3. Lănh ngộ ư từ lâu đă biết cần phải tán thán ba loại xe

 

          (Kinh) Tức thoát anh lạc, tế nhuyễn thượng phục, nghiêm sức chi cụ, canh trước thô tệ, cấu nị chi y, trần thổ bộn thân, hữu thủ chấp tŕ trừ phn chi khí, trạng hữu sở úy.

          ()卽脫瓔珞細輭上服嚴飾之具。更著麤弊垢膩之衣。塵土坌身。右手執持除糞之器。狀有所畏。

          (Kinh: Liền tháo chuỗi ngọc, y phục quư báu, mềm mịn, các vật trang sức, đổi sang mặc áo thô tệ, bẩn thỉu, bụi đất lấm thân, tay phải cầm nắm dụng cụ dọn phân, dáng vẻ đáng sợ).

 

          “Tức thoát” (liền tháo) ví như Ứng Thân và Báo Thân vô lượng công đức, thường gọi là chuỗi ngọc Đà La Ni Giới, Định, Huệ thuộc bốn mươi hai địa vị. “Tế nhuyễn thượng phục” (áo quư báu mềm mịn) là Tịch Diệt Nhẫn, và các vật trang nghiêm, tức các tướng hải lớn nhỏ. Bởi lẽ, nếu dung mạo và y phục tốt đẹp, con sẽ kinh sợ. Nhị Thừa chẳng nên trông thấy tướng hảo ấy; v́ thế gỡ ra. “Canh trước” (đổi sang mặc): Hiện h́nh tướng cao trượng sáu th́ gọi là Thô. Sanh Nhẫn và Pháp Nhẫn th́ gọi là Tệ. Thị hiện có phiền năo hữu vi, hữu lậu, th́ gọi là “trần thổ bộn thân” (bụi đất lấm thân). “Hữu thủ” (tay phải) sánh ví Quyền dụng (tác dụng của Quyền). “Trừ phẩn chi khí” (Dụng cụ dọn phân): Ví như pháp môn để đối trị Kiến Tư; tự dùng pháp ấy để đoạn kết sử ḥng thành Phật. Lại dùng pháp ấy để hóa độ người khác; v́ thế gọi là “chấp tŕ” (cầm nắm). Thị hiện cùng sợ hăi sanh tử [giống như chúng sanh], lại c̣n thị hiện có các quả báo như gió lạnh, ăn lúa mạch dành cho ngựa v.v… cho nên nói là “trạng hữu sở úy” (dáng vẻ đáng sợ).

 

4.2.2.1.2.1.2.2.3.2.2.4. Lănh ngộ từ lâu đă biết tương xứng ư nguyện, tiếp nhận vâng hành

 

          (Kinh) Ngữ chư tác nhân: “Nhữ đắc cần tác, vật đắc giải tức”. Dĩ phương tiện cố, đắc cận kỳ tử, hậu phục cáo ngôn: “Đốt! Nam tử! Nhữ thường thử tác, vật phục dư khứ. Đương gia nhữ giá. Chư hữu sở tu, bồn, khí, mễ, miến, diêm, thố chi thuộc, mạc tự nghi nan. Diệc hữu lăo tệ sứ nhân, tu giả tương cấp, hảo tự an ư. Ngă như nhữ phụ, vật phục ưu lự. Sở dĩ giả hà? Ngă niên lăo đại, nhi nhữ thiếu tráng. Nhữ thường tác thời, vô hữu khi đăi, sân hận, oán ngôn, đô bất kiến nhữ hữu thử chư ác như dư tác nhân. Tự kim dĩ hậu, như sở sanh tử”. Tức thời trưởng giả cánh dữ tác tự, danh chi vi nhi. Nhĩ thời, cùng tử tuy hân thử ngộ, do cố tự vị khách tác tiện nhân. Do thị chi cố, ư nhị thập niên trung, thường linh trừ phn.

          ()語諸作人。汝得勤作。勿得懈息。以方便故。得近其子。後復告言。咄。男子。汝常此作。勿復餘去。當加汝價。諸有所須盆器米麵鹽醋之屬。莫自疑難。亦有老弊使人。須者相給。好自安意。我如汝父。勿復憂慮。所以者何。我年老大。而汝少壯。汝常作時。無有欺怠瞋恨怨言。都不見汝有此諸惡如餘作人。自今已後。如所生子。卽時長者更與作字。名之為兒。爾時窮子雖欣此遇。猶故自謂客作賤人。由是之故。於二十年中常令除糞。

          (Kinh: Bảo các người làm: “Các ngươi phải siêng làm việc, đừng nên lười nghỉ”. Dùng phương tiện đó để được gần con. Sau đấy, lại bảo rằng: “Này chàng trai! Ngươi thường làm nơi đây, đừng đi nơi khác, ta sẽ trả công thêm cho ngươi. Các thứ cần dùng như chậu, bát, gạo, bột, muối, dấm, ngươi chớ nghi ngại. Cũng có gă đầy tớ già hèn hạ, nếu cần th́ ta sẽ ban cho, hăy khéo an ḷng. Ta như cha ngươi, chớ nên lo sầu. V́ cớ sao vậy? V́ ta tuổi đă già cả, c̣n ngươi trẻ mạnh. Trong lúc làm việc, ngươi thường chẳng lừa dối, giận hờn, thốt lời oán thán. Trọn chẳng thấy ngươi có các tật xấu đó như những kẻ làm công khác! Từ nay trở đi, ngươi như con đẻ của ta”. Ngay khi đó, trưởng giả liền đặt tên cho hắn, gọi hắn là con. Lúc đó, gă nghèo tuy vui mừng trước sự đăi ngộ ấy, vẫn tự cho ḿnh là khách, là kẻ hèn. Do bởi lẽ đó, trong hai mươi năm, thường sai dọn phân).

 

          Đoạn kinh văn này sánh ví đầy đủ pháp môn [ba mươi bảy] đạo phẩm, gồm bảy khoa, dùng tướng trạng dọn phân hiển nhiên để lănh ngộ [ư nghĩa] “các con tâm hớn hở, hăng hái, xô đẩy giành nhau cùng rảo chạy ra khỏi nhà lửa” trong phần trước:

          - Một là câu “ngữ chư tác nhân” (nói với những người làm công), sánh ví pháp Tứ Niệm Xứ. Dụng cụ dọn phân chính là cảnh để đoạn trừ kết sử, tức là địa vị ngoại phàm Văn Huệ.

          - Hai là “nhữ đẳng cần tác, mạc đắc giải tức” (các ngươi hăy nên siêng năng làm việc, đừng nên lười biếng, thôi nghỉ), ví như Tứ Chánh Cần, có thể phát khởi địa vị Noăn. [Địa vị] Noăn là nội phàm. V́ thế, nói “đắc cận kỳ tử” (để được gần con).

          - Ba là “hậu phục cáo ngôn” (sau đó lại bảo rằng), ví như Tứ Như Ư Túc. “Đốt” (, chao ôi) là từ ngữ kinh ngạc cảm thán, khiến cho [người nghe] bỏ tán loạn, nhập tĩnh. Chánh Cần thuộc trí, như nam tử thuộc Dương. Như Ư Túc thuộc Định, như phụ nữ là Âm. Nếu chỉ có Chánh Cần thúc giục, sẽ chẳng tương ứng với Chân. V́ thế, nói “đốt” để khiến [cho hành nhân] tu Như Ư Túc. Niệm, Xứ, Chánh Cần động, chẳng chuyên nhất, chẳng gọi là Thường. Trong Tứ Như Ư, Định chẳng duyên theo lẽ khác, tư duy là Định, hễ tư duy bèn đoạn. Định là đoạn, chuyên nhất. V́ thế nói “nhữ thường thử tác” (ngươi thường làm ở nơi đây), chẳng c̣n động loạn lăng xăng nữa! V́ thế nói “vật phục dư khứ” (đừng đi nơi khác nữa). Đấy là Đảnh vị. Trong Như Ư Quán, có thể phát sanh vô lậu. V́ thế nói “đương gia nhữ giá” (sẽ tăng thêm tiền công cho ngươi). Hữu lậu, vô lậu, trợ đạo, chánh đạo đều cầu từ Như Ư Quán. Hễ cần liền đạt được, cho nên nói “chư hữu sở tu mạc tự nghi nan” (các thứ cần dùng, chớ nên nghi ngại).

          Chậu, đồ đựng sánh ví bản thể của Tứ Thiền chứa đựng chi lâm[14]. Gạo ví như Sanh Không Trí là thô, bột ví như Pháp Không Trí là tế (trong Tạng Giáo cũng có Pháp Không, chẳng phải là Pháp Không của Đại Thừa). Những điều này thuộc về chánh đạo. Muối ví như vô thường trong mười sáu hành quán. Dấm ví như khổ. Các điều này thuộc về trợ đạo. Như [chỉ có] gạo và bột sẽ khó ăn, cần phải có muối, dấm trộn vào. Ví như chánh đạo khó hiển lộ, cần phải có trợ đạo giúp sức.

          “Diệc hữu lăo tệ sứ nhân” (cũng có kẻ tớ già hèn tệ): Trong Như Ư Quán, có thể phát khởi thần thông để thay thế tay chân, nhưng thần thông kém cỏi, yếu ớt; cho nên nói là “lăo tệ”. Lại nữa, trong các pháp môn, trợ đạo như cửu tưởng, thập tưởng, bát bội xả v.v… được sánh ví như kẻ để sai khiến. Trong Như Ư Quán, cũng có các pháp ấy. Cần phải có các pháp ấy để giúp cho chánh đạo, để đều trở thành người cùng được giải thoát. V́ thế nói “tu giả tương cấp” (hễ cần th́ sẽ ban cho).

          - Bốn, “hảo tự an ư” (khéo tự an ḷng): Sánh ví Ngũ Căn. Nếu có Ngũ Căn, th́ sẽ an ổn, chắc chắn, khó hư hoại. Đây là Nhẫn vị.

          - Năm, “ngă như nhữ phụ” (ta như cha của ngươi): Sánh ví Ngũ Lực thuộc địa vị Thế Đệ Nhất, dường như đă hiểu, đă gần với lẽ Chân. V́ thế nói ngă như nhữ phụ” (ta như cha của ngươi) cho đến “như sở sanh tử” (như con ruột của ta).

          Từ “sở dĩ giả hà” (v́ cớ sao vậy) trở đi, giải thích ư nghĩa “như cha”. Phật thuộc chỗ chung cục của đạo, đă trọn đủ Trí Đoạn; cho nên nói là “lăo đại” (già cả). Ngươi thuộc chỗ khởi đầu của đạo, chẳng có Trí Đoạn; cho nên nói là “thiếu tráng” (trẻ mạnh). Do có Tín Lực, nên chẳng lừa đối. Do có Tinh Tấn Lực, cho nên chẳng biếng nhác. Do có Niệm Lực, cho nên chẳng sân. Do có Định Lực, cho nên chẳng hận. Do có Huệ Lực, cho nên chẳng oán. Xa là ví như các kiến chấp cầu lư của ngoại đạo; gần th́ ví như bốn địa vị Tứ Niệm Xứ v.v… cũng chưa tránh khỏi năm lỗi[15].

          - Sáu, “tức thời cánh dữ tác tự, danh chi vi nhi” (lập tức bèn đặt tên, gọi hắn là con): Sánh ví Thất Giác, Bát Chánh Đạo, nhập địa vị Kiến Đạo. Tâm Thế Đệ Nhất chẳng gián đoạn chứng Chân. V́ thế nói “tức thời”. Từ đấy trở đi, chuyển phàm thành thánh. Do đó, nói: “Cánh tác dữ tự” (bèn đặt tên cho hắn). Kinh A Hàm nói năm loại Phật tử, tức Tứ Quả và Bích Chi Phật. Bồ Tát chẳng đoạn kết sử, nghĩa của “con” chưa thành, đó chính là nghĩa này.

          - Bảy, “nhĩ thời, cùng tử tuy hân thử ngộ” (lúc bấy giờ, gă nghèo vui mừng trước sự đăi ngộ ấy) trở đi, ví như địa vị tu đạo Thất Giác, Bát Chánh. Do chẳng biết đảm nhiệm nối tiếp Đại Thừa; cho nên nói “nhị thập niên trung, thường linh trừ phẩn” (trong hai mươi năm, thường sai dọn phân). V́ thế nói “do cố tự vị khách tác tiện nhân” (vẫn như cũ, tự cho ḿnh là khách, là kẻ hạ tiện). Do kẻ đó chỉ bẩm thọ Quyền giáo tu hành để hết khổ. V́ thế nói “nhị thập niên trung thường linh trừ phẩn”, tức là Kiến Đế nhất vô ngại, nhất giải thoát. Tư duy đạo cửu vô ngại, cửu giải thoát. Phần ba,truy ngược lại các thí dụ [để lănh hội] đă xong.

 

4.2.2.1.2.1.2.2.4. Thí dụ về lănh nhận, giao phó gia nghiệp

 

           Gần là lănh ngộ thí dụ “b́nh đẳng ban cho cỗ xe lớn trong nhà lửa”; xa là lănh ngộ phần Hiển Thật thuộc Kệ Tụng trong phẩm Phương Tiện.

 

4.2.2.1.2.1.2.2.4.1. Nhận lănh gia nghiệp

4.2.2.1.2.1.2.2.4.1.1. Thấu hiểu, tin nhận

         

          (Kinh) Quá thị dĩ hậu, tâm tương thể tín, nhập xuất vô nan, nhiên kỳ sở chỉ, do tại bổn xứ.

          ()過是已後。心相體信。入出無難。然其所止。猶在本處。

          (Kinh: Sau đó, tâm gă dần dần thấu hiểu, tin tưởng, ra vào chẳng e sợ, nhưng vẫn ở chỗ cũ).

 

          Đây chính là sánh ví thời Phương Đẳng quở trách Tiểu pháp. Do kẻ đó đă đạt được cái “giá” [chứng đắc] Niết Bàn, đă chẳng phải là chuyện hư huyễn. Nay v́ hàng Bồ Tát nói pháp Đại Thừa, cũng ắt là con tin tưởng cha chẳng hư dối. Đức Phật biết họ đă đoạn Kiến Tư, nghe Đại Thừa chẳng báng bổ, vô lậu căn nhạy bén, có thể sanh khởi tín tâm nhỏ nhoi, tức là cha tin tưởng con. Do vậy, được thấy thân tôn quư, đặc biệt. Nghe giáo pháp Đại Thừa, th́ gọi là Nhập. Lại bị quở trách, chiết phục, vẫn thấy thân trượng sáu thuyết pháp Tiểu Thừa, th́ gọi là Xuất. Đối với đại, tiểu, xuất, nhập, tuy chẳng c̣n nghi nan, vẫn cho rằng “Đại Thừa là chuyện của hàng Bồ Tát, chẳng phải là bổn phận thuộc về trí huệ của chính ḿnh”, chẳng chịu hồi tâm hướng về Đại Thừa. V́ thế, nói “sở chỉ do tại bổn xứ” (vẫn ở lại chỗ cũ).

 

4.2.2.1.2.1.2.2.4.1.2. Bảo con nhận lănh gia nghiệp

4.2.2.1.2.1.2.2.4.1.2.1. Bảo con trông coi gia sự

         

          (Kinh) Thế Tôn! Nhĩ thời, trưởng giả hữu tật, tự tri tương tử bất cửu, ngữ cùng tử ngôn: - Ngă kim đa hữu kim, ngân, trân bảo, thương khố doanh dật. Kỳ trung đa thiểu, sở ưng thủ dữ, nhữ tất tri chi. Ngă tâm như thị, đương thể thử ư. Sở dĩ giả hà? Kim ngă dữ nhữ, tiện vi bất dị, nghi gia dụng tâm, vô linh lậu thất.

          ()世尊。爾時長者有疾。自知將死不久。語窮子言。我今多有金銀珍寶。倉庫盈溢。其中多少。所應取與。汝悉知之。我心如是。當體此意。所以者何。今我與汝。便為不異。宜加用心。無令漏失。

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Lúc bấy giờ, trưởng giả bị bệnh, tự biết chẳng lâu sau sẽ chết, bảo gă nghèo rằng: “Ta nay có nhiều vàng, bạc, trân bảo, kho đụn đầy ắp. Số lượng trong ấy nhiều ít, nên thu chi ra sao, con đều phải biết. Tâm cha như thế, con hăy nên hiểu ư ấy. V́ cớ sao vậy? Nay cha và con chẳng khác biệt ǵ, con hăy nên gắng dụng tâm, đừng để hao hụt, mất mát”).

 

          Đây chính là sánh ví thời Bát Nhă chuyển giáo. “Tương tử bất cửu” (chẳng lâu sau sẽ chết): Có căn cơ bèn ứng; đó là Sanh. Căn cơ đă hết, sự ứng hiện phải chấm dứt; đó là Tử. Nay căn cơ đáng giáo hóa đă sắp hết, ứng thân do đó chẳng thể trụ thế lâu dài. “Vàng” ví như lư Trung Đạo, “bạc” ví như chân lư. Lư chẳng phải nhiều, nhưng xét theo các môn th́ cũng có thể nói là “nhiều”. Chẳng hạn như Không chẳng phải chỉ có mười tám món, nhưng do xét theo mười tám pháp được phá mà gọi là Thập Bát Không. Trong phần khuyến học, đă nói hết thảy các pháp môn đều là trân bảo. “Thương” (vựa) ví như Định môn, tức một trăm lẻ tám tam-muội. “Khố” (kho) ví như huệ môn, tức là mười tám Không cảnh. Kho vựa Định Huệ gồm thâu hết thảy Thiền Định, trí huệ, chẳng bị thiếu khuyết. Trong dư dả, ngoài đầy ắp! V́ thế nói là “doanh dật”. “Kỳ trung đa thiểu” (số lượng nhiều ít trong ấy) ví như hai môn Bát Nhă rộng và lược. Bồ Tát hành Bát Nhă, phải nên biết tướng rộng và lược. “Lược” tức Thiểu, “rộng” tức là Đa. Tự hành là Thủ (lấy), hóa độ người khác là Dữ (cho). Trong Đại Phẩm có nói: “Nhữ đương vị Bồ Tát thuyết” (ông hăy nên v́ hàng Bồ Tát mà nói). Do vậy, nói: “Nhữ tất tri chi” (con đều nên biết hết). “Ngă tâm như thị” (tâm cha như thế): Phật dùng Bát Nhă làm tâm. “Đương thể thử ư” (hăy thấu hiểu ư ấy): Răn nhắc con hăy cùng ta lănh hội Pháp Không.

          “Kim ngă dữ nhữ tiện vi bất dị” (nay cha và con chẳng khác nhau) có ba nghĩa:

          - Một là gia bị khiến cho nói; v́ thế, [Thanh Văn thay Phật giảng pháp trong hội Bát Nhă] chẳng khác Phật nói.

          - Hai, các pháp đều Như; cho nên chẳng khác! Đó gọi là “Thiện Cát như, Như Lai như”. Nhất như, chẳng phải là nhị như.

          - Ba, ngày nay mới ngộ cha con thiên tánh tương quan, cho nên chẳng khác. Nhưng hàng Nhị Thừa một mực cho rằng “được gia bị”, cho nên trở thành khác biệt (như Bát Nhă nói: “Khởi Nhị Thừa nhân, cảm hữu sở thuyết. Hữu sở thuyết giả, giai thị Phật lực” (hàng Nhị Thừa há dám nói năng ǵ. Có nói năng ǵ, đều là do Phật lực). Do căn cơ chưa chuyển, cho nên nói là “gia bị”).

          “Nghi gia dụng tâm, vô linh lậu thất” (hăy nên gắng dụng tâm, đừng để sai sót, mất mát) có hai nghĩa:

          - Một là xét theo giáo, v́ hàng Bồ Tát mà nói, đừng để sai sót, thất lạc.

          - Hai là xét theo lư. Đấy chính là vật của ông, chớ nên để sót mất!

 

4.2.2.1.2.1.2.2.4.1.2.2. Vâng mạng nhận lănh hiểu biết

 

          (Kinh) Nhĩ thời, cùng tử tức thọ giáo sắc, lănh tri chúng vật, kim, ngân, trân bảo, cập chư khố tạng, nhi vô hy thủ nhất xan chi ư. Nhiên kỳ sở chỉ cố tại bổn xứ, hạ liệt chi tâm, diệc vị năng xả.

          ()爾時窮子卽受教敕。領知眾物金銀珍寶。及諸庫藏而無希取一餐之意。然其所止故在本處。下劣之心。亦未能捨。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, gă nghèo liền vâng theo lời răn truyền, tiếp nhận coi sóc các vật, vàng, bạc, trân bảo, và các kho tàng, nhưng chẳng có ư niệm mong lấy [của cải] đáng chừng một bữa ăn. Chỗ ở của gă vẫn ở tại chỗ cũ, cái tâm kém hèn cũng chưa thể xả).

 

          “Vô hy thủ” (chẳng mong lấy): Như ngài Thiện Cát (Tu Bồ Đề) tuy nói Bát Nhă, nhưng tự nhủ “ta chẳng có phần nơi đây”! “Chỉ bổn xứ” (ở tại chỗ cũ): Vẫn giữ chắc cái quả Tiểu Thừa đă chứng. “Vị xả hạ liệt tâm” (chưa bỏ cái tâm kém hèn): Tuy hổ thẹn v́ tu tập tiểu pháp, nhưng chưa thể hồi tâm hướng Đại.

          Hỏi: Tới thời Bát Nhă, hàng Nhị Thừa ngầm đạt được lợi ích, v́ sao chẳng có ư mong cầu đạt được?

          Đáp: Lănh biết vô lượng pháp môn sai biệt, cho nên gọi là “biệt ích”. Chẳng có tâm mong cầu giữ lấy, cho nên gọi là “mật đắc” (ngầm được). Nếu chịu mong mỏi, giữ lấy, sẽ là “hiển đắc”, lẽ đâu gọi là “mật đắc”? Phần thứ nhất, trong thí dụ về lănh nhận gia nghiệp, phần lănh hội ư nghĩa “thoát nạn, hoan hỷ” trong phần trước đă xong.

 

4.2.2.1.2.1.2.2.4.2. Thí dụ về giao phó gia nghiệp

4.2.2.1.2.1.2.2.4.2.1. Chánh thức giao phó gia nghiệp, tức lănh ngộ hai ư nghĩa “con đ̣i xin xe” và “cha b́nh đẳng thí cho cỗ xe lớn như nhau”

         

          (Kinh) Phục kinh thiểu thời, phụ tri tử ư, tiệm dĩ thông thái, thành tựu đại chí, tự bỉ tiên tâm. Lâm dục chung thời, nhi mạng kỳ tử, tịnh hội thân tộc, quốc vương, đại thần, sát-lợi, cư sĩ, giai tất dĩ tập, tức tự tuyên ngôn: “Chư quân đương tri, thử thị ngă tử, ngă chi sở sanh. Ư mỗ thành trung, xả ngă đào tẩu, linh b́nh tân khổ, ngũ thập dư niên. Kỳ bổn tự mỗ, ngă danh mỗ giáp, tích tại bổn thành, hoài ưu thôi mịch, hốt ư thử gian, ngộ hội đắc chi. Thử thật ngă tử, ngă thật kỳ phụ. Kim ngă sở hữu nhất thiết tài vật, giai thị tử hữu, tiên sở xuất nội, thị tử sở tri”.

          ()復經少時。父知子意。漸以通泰。成就大志。自鄙先心。臨欲終時。而命其子。幷會親族。國王大臣。剎利居士。皆悉已集。卽自宣言。諸君當知。此是我子。我之所生。於某城中。捨我逃走。竮辛苦五十餘年。其本字某。我名某甲。昔在本城。懷憂推覓。忽於此間。遇會得之。此實我子。我實其父。今我所有一切財物。皆是子有。先所出內。是子所知。

          (Kinh: Lại qua ít lâu sau, cha biết ư con đă dần dần thông thái, thành tựu chí lớn, tự chê tâm trước. Khi sắp lâm chung, ông bảo con và thân tộc nhóm lại. Quốc vương, đại thần, sát-lợi, cư sĩ đă đều tụ tập, ông tự tuyên bố: “Các vị nên biết: Đây là con tôi, do tôi sanh ra. Ở trong thành nọ, nó bỏ tôi trốn đi, trôi nổi, cay đắng suốt hơn năm mươi năm. Nó vốn tên đó, c̣n tôi tên là… Xưa ở tại thành này, ôm ḷng lo lắng t́m kiếm, bỗng ở nơi đây, t́nh cờ gặp nó. Đây thật là con tôi, tôi thật sự là cha nó. Nay tất cả hết thảy tài vật tôi đă có đều của con tôi, trước đây các thứ phát ra, thâu vào, con tôi đều coi sóc”).

 

          “Phục kinh thiểu thời” (lại qua ít lâu sau): Ví như sau thời Bát Nhă. Ngay trong khi nói kinh Vô Lượng Nghĩa, đă nghe “vốn từ một pháp, sanh ra vô lượng các pháp”, ắt suy nghĩ “vô lượng các pháp phải nên hoàn nhập một pháp!” Khi suy nghĩ như thế, dần dần thông thái. Do vậy, căn cơ Đại Thừa được phát khởi. Cho đến trong kinh này, đă thốt ra ba lượt thỉnh, gọi là “tự bỉ tiên tâm” (tự chê cái tâm trước đó). Đấy chính là lănh hội ư nghĩa [các con] đ̣i xin xe trong phần trước. “Lâm dục chung thời” (lúc sắp lâm chung) như kinh văn trong phần sau đă nói: “Như Lai bất cửu tương nhập Niết Bàn” (chẳng lâu sau, Như Lai sẽ nhập Niết Bàn), đó là nói đến thời Pháp Hoa vậy. “Mạng kỳ tử” (truyền lệnh cho con ḿnh): Tức là những người được hóa độ bởi hai vạn ức Phật, căn cơ Đại Thừa đă chín muồi, mười phương vân tập. Hai chữ “tịnh hội” (cùng nhóm họp) gồm chung các điều tiếp đó. Nói “thân tộc” là nói đến Ảnh Hưởng Chúng, bao gồm mười phương Pháp Thân Bồ Tát. Nói “quốc vương” tức là hết thảy các kinh tiệm và đốn. Đúng theo căn cơ mà tạo lợi ích cho chúng sanh, mỗi bộ mỗi khác, cho nên gọi là Quốc. Kinh nào cũng đều nói là “bậc nhất”, cho nên mỗi kinh đều gọi là “vương”. Nay kinh này dung thông các kinh, cho nên gọi là “tịnh hội quốc vương” (và nhóm họp các quốc vương). Đẳng Giác Bồ Tát là “đại thần”. Thập Địa Bồ Tát là sát-lợi; hàng Bồ Tát thuộc ba mươi tâm (các địa vị thuộc Tam Hiền) cư sĩ. Từ “chư quân đương tri” (các vị nên biết) trở đi, tổng kết, dung hội cha con. Thật sự theo ta học, cho nên nói “thử thị ngă tử” (đây là con ta). Từ ta mà hiểu biết, cho nên nói là “ngă chi sở sanh” (do ta sanh ra).

          “Ư mỗ thành giả” (ở tại thành nọ): Tại Tây Trúc, kinh văn của kinh này nhiều, có thể nói đến danh tự của quốc độ trước kia, chẳng hạn như nhân duyên của Đại Thông Trí Thắng Phật. Nay kinh này giản lược, chỉ nói là “mỗ mỗ” (này nọ). Trái nghịch pháp Đại Thừa, trốn vào sanh tử. V́ thế nói “xả ngă đào tẩu” (bỏ ta trốn đi). Trải qua đủ cả sáu đường, cho nên nói “ngũ thập dư niên” (hơn năm mươi năm). Trong địa vị Pháp Thân, thường t́m ṭi căn cơ có thể hóa độ. V́ thế nói “tích tại bổn thành, hoài ưu thôi mịch” (Xưa kia ở tại thành ấy, lo buồn t́m kiếm), cho đến ngày nay mới cảm ứng đạo giao. V́ thế nói “hốt ư thử gian, ngộ hội đắc chi” (bỗng ở nơi đây t́nh cờ t́m được). Từ chữ “kim ngă sở hữu” (nay các thứ ta có) trở đi, chánh thức giao phó gia nghiệp. Hết thảy tài vật tức là vạn hạnh, vạn đức của Đại Thừa. “Tiên sở xuất nội” (các thứ chi ra, thâu vào trước kia) tức là nói đến các pháp Bát Nhă cộng và bất cộng đại lược hay chi tiết. “Tiên dĩ lănh tri” (nó đă trông coi từ trước): Nay chỉ giao phó. Do vậy, kinh Pháp Hoa chỉ đàm luận khai, thị, ngộ, nhập tri kiến của Phật, chẳng c̣n nói cặn kẽ hết thảy các hành tướng. Đấy là lănh hội ư nghĩa “b́nh đẳng ban cho cỗ xe lớn”.

 

4.2.2.1.2.1.2.2.4.2.2. Được giao phó bèn hoan hỷ

 

          Lănh hội ư nghĩa “được xe, hoan hỷ” trong phần trước.

 

          (Kinh) Thế Tôn! Thị thời cùng tử văn phụ thử ngôn, tức đại hoan hỷ, đắc vị tằng hữu, nhi tác thị niệm: “Ngă bổn vô tâm hữu sở hy cầu, kim thử bảo tạng tự nhiên nhi chí”.

          ()世尊。是時窮子聞父此言。卽大歡喜。得未曾有。而作是念。我本無心有所希求。今此寶藏自然而至。

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Lúc bấy giờ, gă nghèo nghe lời ấy của cha, liền rất hoan hỷ, đạt được điều chưa từng có, mà nghĩ thế này: “Ta vốn chẳng có ḷng mong cầu, nay kho báu này tự nhiên đưa đến”).

 

          Sánh ví trong thời Tam Tạng, tâm vốn chẳng mong cầu. Trong thời Phương Đẳng, tuy hổ thẹn v́ tiểu pháp, tự cho là chính ḿnh chẳng có hy vọng, cho nên chẳng cầu. Trong thời Bát Nhă, tuy lănh nhận, hiểu biết, nhưng tự cho chẳng thuộc về bổn phận của chính ḿnh, cho nên không cầu. Chẳng cầu như thế mà nay tự đạt được! Nhưng nguyên do của sự hoan hỷ ấy có gần và xa. Nếu [cha] chẳng dạy [con] làm thuê trước đó, ban cho cái giá (tiền công) một ngày, há tâm con có thể dần dần thấu hiểu, tin tưởng ư? Ủy thác gia nghiệp, giao phó tài sản, ví như do Tam Tạng mà đoạn kết sử th́ mới kham cùng [hàng Bồ Tát] nghe Đại Tập. Bị ngài Tịnh Danh (Duy Ma Cật) chiết phục, chuyển giáo Bát Nhă, dẫn đến ngày nay được khai hiển, thọ kư. Làm thuê, chấp nhận công sá, tức là nguyên do xa. Thấu hiểu, tin tưởng, thông hiểu tường tận chính là nguyên do gần.

          Lại nữa, trong phần thí dụ dẫn dụ trước đó, đều cùng có hai ư:

          - Một, lănh ngộ chuyện đức Phật dùng cả ba thừa để giáo hóa khởi nguồn từ dưới cội đạo thụ (cội Bồ Đề), cuối cùng là thoát khỏi nhà [lửa đang cháy hừng hực].

          - Hai, suy lường để lănh hội ư nghĩa, khởi đầu từ Pháp Thân, kết thúc bằng suy nghĩ nhập diệt.

          Nay trong phần lănh nhận và giao phó, cũng có hai ư:

          - [Một là] suy t́m lănh hội ḷng từ bi dùng bốn vị (sữa, lạc, sanh tô, và thục tô) để điều phục.

          - Hai là rốt cuộc tiếp nhận tài sản được giao phó rốt ráo là một vị [đề hồ].

          Xa, gần, đầu, cuối, gộp chung lại để luận định ngũ vị (sữa, lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ), v́ sao? Chính là sai khiến người bên cạnh. Lời nói của người bên cạnh ví như pháp viên đốn trong hội Hoa Nghiêm. Đó là khởi đầu của giáo. Người bên cạnh ví như ḅ, lời họ nói ví như sữa. V́ thế nói “từ Phật mà phát ra mười hai bộ kinh”, tức là vị đầu tiên (vị sữa). Nếu dùng pháp đó (pháp Hoa Nghiêm viên đốn) để tiếp độ hàng Nhị Thừa, sẽ chẳng có căn cơ [tương xứng để] tiếp nhận, họ sẽ “mê muội, ngă lăn ra đất”, căn cơ hoàn toàn sống sít như sữa [chưa qua tinh luyện].

          Kế đó, [trong thí dụ] nêu ra: Ngầm sai hai người đến nói pháp “dọn phân” (dẹp trừ trần cấu trong tâm), ví như tại Lộc Uyển, nói ba thừa, Tiểu căn bèn tin tưởng, đổi phàm thành thánh, như chuyển sữa thành lạc. V́ thế nói “từ mười hai bộ xuất sanh Tu Đa La”, tức là vị thứ hai (lạc).

          Kế đó, nói “tâm thấu hiểu, tin tưởng, ra vào chẳng gặp khó khăn”, ví như nói các kinh Phương Đẳng, Tịnh Danh, đề cao Đại, chiết phục Tiểu, hàng Nhị Thừa nghe Đại pháp chẳng phỉ báng, chiết phục căn cơ Tiểu Thừa chẳng thoái thất [tín tâm đối với Đại Thừa]. Ấy là do Tam Tạng đoạn kết sử, nhận lấy cái giá một ngày. V́ thế, chấp thuận khen ngợi [Đại pháp], chê bai [Tiểu pháp]. Nếu chưa đoạn kết sử, sẽ không thể kham nghe hoằng dương Đại pháp! Nếu trước đó, chẳng tiếp nhận Khuyến Môn, cũng chẳng thể kham nghe chiết phục Tiểu pháp. Nếu trước đó, chẳng tiếp nhận Giới môn, mà nay chẳng phỉ báng, chẳng lui sụt, là do tâm dần dần tin tưởng, thấu hiểu. Đă đích thân chứng Tiểu, cho nên tin Đại chẳng hư dối. Đạt được giá trị Niết Bàn, cho nên thấu hiểu sự chiết phục mà chẳng sân, tuy [luôn nghĩ các pháp môn Đại Thừa] chẳng phải là chuyện của chính ḿnh, nhưng chẳng ngờ vực, báng bổ! Cái tâm thuần thục như từ lạc sanh ra sanh tô. V́ thế nói “từ Tu Đa La xuất sanh kinh Phương Đẳng”, tức vị thứ ba (sanh tô).

          Kế đó, trưởng giả tự biết không lâu sẽ chết, ví như trong hội Bát Nhă, khiến cho họ (các vị đại Thanh Văn) lănh giáo, v́ hàng đại Bồ Tát nói Ma Ha Bát Nhă. Đă nhận coi sóc các vật (các pháp môn Đại Thừa), thống nhiếp trọn khắp pháp môn, tâm sáng tỏ, biện tài càng tăng thêm hâm mộ vui sướng. Chỉ hận [căn tánh Nhị Thừa vẫn] trụ trong Tiểu pháp, [tự coi các pháp tài Đại Thừa] chẳng phải là vật của chính ḿnh, [đức Phật bèn] tháo bỏ chuỗi anh lạc, đổi sang áo cũ dơ, mở phương tiện, hứa khả, [các chúng sanh căn tánh Nhị Thừa hướng về đại pháp], há chẳng vui sướng ư? Do vậy, tâm họ dần dần thông thái, thành tựu đại chí, như từ sanh tô sanh ra thục tô. V́ thế, nói: “Từ Phương Đẳng xuất sanh Ma Ha Bát Nhă”, tức vị thứ tư (thục tô).

          Kế đó, lúc sắp lâm chung, dặn bảo con, ví như sau thời Bát Nhă, phán biện thiên tánh (chân tánh), xác định cha con, hội quy tam thừa về nhất thừa, giao phó tài sản và thọ kư, nói giáo pháp Pháp Hoa, khai tri kiến của Phật, chỉ bày tướng chân thật. Nghi tâm của hàng Bồ Tát đă trừ, Thanh Văn được làm Phật, đều dùng sự diệt độ của Như Lai để diệt độ, như từ thục tô sanh ra đề hồ. Cho nên nói “từ Ma Ha Bát Nhă xuất sanh Đại Niết Bàn”, tức vị thứ năm (đề hồ).

           Bốn vị đại đệ tử thấu hiểu sâu xa ư Phật, nhận lănh giáo pháp “nhất hóa ngũ vị” (từ Nhất Thừa mà thuận theo căn tánh của chúng sanh, chia thành năm thời giáo hóa), theo thứ tự từ đầu đến đuôi, kinh văn xuất sanh ư nghĩa ấy (Đây chính là hàng Thanh Văn chậm lụt nhất, cần phải trải qua năm vị. Nếu căn cơ hơi nhạy bén hơn đôi chút, sẽ là bốn, ba, hoặc hai vị, liền được nhập Thật. V́ thế, ngũ thời giáo riêng biệt này chỉ xét theo một loại căn tánh nghe pháp [để luận định như thế]. Chớ nên chấp vào một trường hợp riêng biệt, để rồi bắt bẻ các trường hợp chung. Lại nữa, Hoa Nghiêm như mặt trời chiếu vào núi cao. A Hàm như ánh sáng mặt trời soi thấu hang thẳm. Khi chiếu vào hang thẳm, chưa hề chẳng chiếu núi cao. Khi nói A Hàm, lẽ nào chẳng nói Hoa Nghiêm? Phương Đẳng và Bát Nhă cứ phỏng theo đó mà suy. Ngưi hiện thời chỉ đọc một sách Tứ Giáo Nghi[16], chẳng biết học rộng [các giáo nghĩa của] Thai Tông, há có thể biết nổi đại dụng và đại cơ của Như Lai ư?) Phần thứ nhất, “lập thí dụ” đă xong.

 

4.2.2.1.2.2. Kết hợp thí dụ với pháp

 

          Phần này hết sức giản lược, do trong phần thí dụ đă nói cặn kẽ, cho nên chẳng luận định lần nữa, cốt sao hiểu ư, chẳng cần phải rườm lời!

 

4.2.2.1.2.2.1. Đối ứng thí dụ “cha con lạc mất nhau” với pháp

 

          (Kinh) Thế Tôn! Đại phú trưởng giả, tắc thị Như Lai. Ngă đẳng giai tự Phật tử.

          ()世尊。大富長者。則是如來。我等皆似佛子。

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Ông trưởng giả giàu to chính là Như Lai. Chúng con đều giống như con của Phật).

 

          “Tự” có hai nghĩa:

          - Một, là do giữ lấy căn cơ Đại Thừa, cho nên là con. Xưa kia chưa bỏ trốn, đă chẳng phải là chân vị, do vẫn c̣n thuộc địa vị ngoại phàm. V́ thế gọi là Tự (, dường như).

          - Hai, do giữ lấy căn cơ Tiểu Thừa mà là con. Con đă trốn khỏi cha, do chê bai, bèn nói là Tự (dường như), tức là dùng chữ Tự để kết hợp với ư nghĩa biểu pháp của chuyện cha con lạc mất nhau.

 

4.2.2.1.2.2.2. Nêu ư nghĩa biểu pháp của chuyện “cha con gặp nhau”       

 

          (Kinh) Như Lai thường thuyết ngă đẳng vi tử.

          ()如來常說我等為子。

          (Kinh: Như Lai thường nói chúng con là con).

 

          Chỉ kết hợp với pháp chuyện “trưởng giả thấy con liền nhận biết”, tức là đă bao gồm tám ư nghĩa trong hai đoạn kinh văn nói về “cha thấy con” và “con thấy cha”.

 

4.2.2.1.2.2.3. Nêu ư nghĩa biểu pháp của thí dụ [cha cho người] “truy đuổi và khuyên dụ”

4.2.2.1.2.2.3.1. Nêu ư nghĩa biểu pháp của chuyện “sai người bên cạnh truy đuổi”

         

          (Kinh) Thế Tôn! Ngă đẳng dĩ tam khổ cố, ư sanh tử trung, thọ chư nhiệt năo, mê hoặc, vô tri, nhạo trước tiểu pháp.

          ()世尊。我等以三苦故。於生死中受諸熱惱。迷惑無知。樂著小法。

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Chúng con do v́ tam khổ, ở trong sanh tử, hứng chịu các thứ nhiệt năo, mê hoặc, vô tri, ưa thích, chấp trước tiểu pháp).

 

          Tam khổ là Hoại Khổ, Hành Khổ,Khổ Khổ. “Thọ chư nhiệt năo” tức là ngũ trược chướng nặng. “Mê hoặc, vô tri” tức là chẳng tiếp nhận lời khuyên răn. “Nhạo trước tiểu pháp” (ưa thích, chấp chặt pháp Tiểu Thừa): Tức là chỉ có tiểu chí, chẳng kham tiếp nhận sự giáo hóa bằng pháp Đại Thừa.

 

4.2.2.1.2.2.3.2. Đối ứng chuyện “hai người đến khuyến dụ” với pháp

4.2.2.1.2.2.3.2.1. Kết hợp chuyện “cùng tiếp nhận sự giáo hóa bằng tam thừa” với pháp

 

          (Kinh) Kim nhật Thế Tôn linh ngă đẳng tư duy, quyên trừ chư pháp hư luận chi phẩn. Ngă đẳng ư trung, cần gia tinh tấn, xưng chí Niết Bàn nhất nhật chi giá. Kư đắc thử dĩ, tâm đại hoan hỷ, tự dĩ vi túc, tiện tự vi ngôn: “Ư Phật pháp trung, cần tinh tấn cố, sở đắc hoằng đa”.

          ()今日世尊。令我等思惟蠲除諸法戲論之糞。我等於中勤加精進。稱至涅槃一日之價。旣得此已。心大歡喜。自以為足。便自謂言。於佛法中勤精進故。所得宏多。

          (Kinh: Ngày nay đức Thế Tôn bảo chúng con tư duy, dẹp trừ phân dơ, tức các pháp hư luận. Ở trong ấy, chúng con siêng năng, ra sức tinh tấn, gọi là đạt tới cái giá “Niết Bàn một ngày”[17]. Đă đạt được điều ấy rồi, tâm hết sức hoan hỷ, tự cho là đủ, liền tự nhủ rằng: “Do siêng năng tinh tấn trong Phật pháp mà đạt được rộng nhiều”).

 

          “Linh ngă đẳng tư duy” (khiến cho chúng con tư duy) chính là kết hợp các chuyện đă trần thuật cặn kẽ trong phần trước với ư nghĩa biểu pháp. “Cần gia tinh tấn” (càng thêm siêng năng tinh tấn) tức là kết hợp với pháp chuyện “t́m con về, bảo dọn phân”. “Đắc chí Niết Bàn” (được đạt tới Niết Bàn) là nêu ư nghĩa biểu pháp của chuyện đă chấp nhận giá cả [thuê mướn về dọn phân]” trong phần trước.

 

4.2.2.1.2.2.3.2.2. Kết hợp với pháp chuyện lănh thọ ư nghĩa

 

          (Kinh) Nhiên Thế Tôn tiên tri ngă đẳng tâm trước tệ dục, nhạo ư tiểu pháp, tiện kiến túng xả, bất v phân biệt nhữ đẳng đương hữu Như Lai tri kiến bảo tạng chi phần.

          ()然世尊先知我等心著弊欲。樂於小法。便見縱捨。不為分別汝等當有如來知見寶藏之分。

          (Kinh: Nhưng trước đó, đức Thế Tôn đă biết trước tâm chúng con chấp trước ham muốn hèn tệ, ưa thích tiểu pháp, chúng con liền bị Phật buông bỏ, Ngài chẳng v́ chúng con nói phân biệt: “Các ông sẽ có phần nơi kho báu tri kiến của Như Lai”).

 

          Trong phần trước, đă nói “một ngày nọ, từ xa trông thấy thân con”, nay lại nói “đă biết trước”. Trong phần trước nói “luy sấu tiều tụy” (c̣m cơi, tiều tụy), nay nói “tâm trước tệ dục” (tâm chấp trước các ham muốn kém cỏi) v.v… Trong phần trước nói “tức thoát anh lạc” (liền tháo chuỗi ngọc), phần này nói “bất vị phân biệt” (chẳng v́ chúng con phân biệt) v.v… Phần thứ ba, “cho người truy đuổi và khuyên dụ” đă xong.

 

4.2.2.1.2.2.4. Kết hợp với pháp chuyện lănh nhận và giao phó gia nghiệp

4.2.2.1.2.2.4.1. Kết hợp với pháp chuyện nhận lănh gia nghiệp

         

          (Kinh) Thế Tôn dĩ phương tiện lực, thuyết Như Lai trí huệ. Ngă đẳng tùng Phật đắc Niết Bàn nhất nhật chi giá, dĩ vi đại đắc. Ư thử Đại Thừa, vô hữu chí cầu, ngă đẳng hựu nhân Như Lai trí huệ, vị chư Bồ Tát khai thị diễn thuyết, nhi tự ư thử vô hữu chí nguyện. Sở dĩ giả hà? Phật tri ngă đẳng tâm nhạo tiểu pháp, dĩ phương tiện lực, tùy ngă đẳng thuyết, nhi ngă đẳng bất tri chân thị Phật tử.

          ()世尊以方便力說如來智慧。我等從佛得涅槃一日之價。以為大得。於此大乘。無有志求。我等又因如來智慧。為諸菩薩開示演說。而自於此無有志願。所以者何。佛知我等心樂小法。以方便力隨我等說。而我等不知真是佛子。

          (Kinh: Đức Thế Tôn dùng sức phương tiện, nói trí huệ của Như Lai. Chúng con từ Phật đạt được cái giá Niết Bàn một ngày, cho là đă đạt được rất nhiều, đối với pháp Đại Thừa này chẳng có chí mong cầu. Chúng con lại nhờ vào trí huệ của Phật mà khai thị, diễn nói cho các vị Bồ Tát, nhưng chính ḿnh đối với các pháp ấy chẳng có chí nguyện! V́ lẽ nào vậy? Phật biết tâm chúng con ưa pháp Tiểu Thừa, bèn dùng sức phương tiện, thuận theo chúng con mà nói, nhưng chúng con chẳng biết chính ḿnh là con thật sự của Phật).

 

          “Dĩ phương tiện lực, thuyết Như Lai trí huệ” (dùng sức phương tiện, nói trí huệ của Như Lai), tương ứng với “tâm tương thể tín, xuất nhập vô nan” (tâm dần dần thấu hiểu, tin tưởng, ra vào chẳng ngăn ngại) trong phần trước. “Ư thử Đại Thừa vô hữu chí cầu” (đối với Đại Thừa, chẳng có chí mong cầu), tương ứng với “sở chỉ do tại bổn xứ” (vẫn ở tại chỗ cũ) trong phần trên. “Hựu nhân Như Lai trí huệ vị chư Bồ Tát khai thị, diễn thuyết” (lại nhờ vào trí huệ của Như Lai mà v́ các vị Bồ Tát khai thị, diễn nói), tương ứng với “thọ mạng lănh tri” (vâng lệnh nhận lănh trông coi) trong phần trước. “Nhi tự ư thử, vô hữu chí nguyện” (nhưng chính ḿnh đối với các pháp ấy, chẳng có chí nguyện) tương ứng với “vô hy thủ” (chẳng mong giữ lấy) trong phần trước. Từ “sở dĩ giả hà” (v́ cớ sao vậy) trở đi, giải thích ư “vô hy thủ”. Do sức phương tiện của Phật, Ngài dùng pháp Thật Tướng để nói với hàng Nhị Thừa, nhưng [tuy Phật giảng nói như thế], chúng con chẳng hiểu ư nghĩa bất cộng [giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa].

 

4.2.2.1.2.2.4.2. Kết hợp với pháp về chuyện giao phó gia nghiệp

4.2.2.1.2.2.4.2.1. Giao phó gia nghiệp

 

          (Kinh) Kim ngă đẳng phương tri Thế Tôn ư Phật trí huệ vô sở lận tích. Sở dĩ giả hà? Ngă đẳng tích lai, chân thị Phật tử, nhi đản nhạo Tiểu pháp. Nhược ngă đẳng hữu nhạo Đại chi tâm, Phật tắc vị ngă thuyết Đại Thừa pháp. Ư thử kinh trung, duy thuyết Nhất Thừa, nhi tích ư Bồ Tát tiền, hủy tư Thanh Văn nhạo tiểu pháp giả, nhiên Phật thật dĩ Đại Thừa giáo hóa.

          ()今我等方知世尊於佛智慧無所恡惜。所以者何。我等昔來真是佛子。而但樂小法。若我等有樂大之心。佛則為我說大乘法。於此經中。唯說一乘。而昔於菩薩前。毀訾聲聞樂小法者。然佛實以大乘教化。

          (Kinh: Nay chúng con mới biết đối với trí huệ của Phật, đức Thế Tôn chẳng hề keo tiếc. V́ cớ sao vậy? Chúng con xưa nay thật sự là Phật tử, nhưng chỉ ưa thích pháp Tiểu Thừa. Nếu chúng con có tâm ưa thích Đại Thừa, Phật sẽ v́ chúng con nói pháp Đại Thừa. Trong kinh này, chỉ nói Nhất Thừa, nhưng trước kia, đối trước các Bồ Tát, [Phật] đă chê trách hàng Thanh Văn ưa chuộng pháp Tiểu Thừa, nhưng Phật thật sự dùng Đại Thừa để giáo hóa).

 

4.2.2.1.2.2.4.2.2. Hoan hỷ

 

          (Kinh) Thị cố, ngă đẳng thuyết bổn vô tâm hữu sở hy cầu, nhi pháp vương đại bảo tự nhiên nhi chí, như Phật tử sở ưng đắc giả, giai dĩ đắc chi.

          ()是故我等說本無心有所希求。今法王大寶自然而至。如佛子所應得者。皆已得之。

          (Kinh: V́ thế, chúng con nói [chính ḿnh] vốn chẳng có tâm mong cầu mà vật báu lớn của đấng Pháp Vương tự nhiên đưa đến, đối với các thứ Phật tử đáng phải nên có, liền đều đạt được).

 

          Phần Trường Hàng của chương “trung căn lănh ngộ, bạch Phật tự trần thuật” đă xong.

 

4.2.2.2. Trùng Tụng

4.2.2.2.1. Trùng tụng Pháp Thuyết   

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Ma Ha Ca Diếp dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Ngă đẳng kim nhật, văn Phật âm giáo, hoan hỷ, dũng dược, đắc vị tằng hữu, Phật thuyết Thanh Văn, đương đắc tác Phật, vô thượng bảo tụ, bất cầu tự đắc.

          ()爾時摩訶迦葉。欲重宣此義而說偈言。我等今日。聞佛音教。歡喜踴躍。得未曾有。佛說聲聞。當得作佛。無上寶聚。不求自得。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, ngài Ma Ha Ca Diếp muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Chúng con trong hiện thời, nghe thanh giáo của Phật, ḷng hoan hỷ, hớn hở, được điều chưa từng có. Phật nói hàng Thanh Văn, sẽ được thành Phật quả, khối quư báu vô thượng, chẳng cầu mà tự được).

 

4.2.2.2.2. Nêu thí dụ

4.2.2.2.2.1. Lập thí dụ

4.2.2.2.2.1.1. Trùng tụng chuyện cha con thất lạc nhau

4.2.2.2.2.1.1.1. Trùng tụng chuyện con bỏ cha trốn đi

 

          (Kinh) Thí như đồng tử, ấu trĩ vô thức, xả phụ đào thệ, viễn đáo tha thổ, châu lưu chư quốc, ngũ thập dư niên.

          ()譬如童子。幼稚無識。捨父逃逝。遠到他土。周流諸國。五十餘年。

          (Kinh: Ví như đứa trẻ nhỏ, thơ dại, chẳng hiểu biết, rời bỏ cha trốn đi, xa lánh sang chốn khác, nổi trôi khắp các nước, suốt hơn năm mươi năm).

 

          “Châu lưu chư quốc” (trôi nổi các nước) ví như luân hồi trong tam giới. “Ngũ thập dư niên” (hơn năm mươi năm) ví như trải trọn khắp sáu đường.

 

4.2.2.2.2.1.1.2. Trùng tụng “cha t́m cầu con [chẳng được], bèn dừng lại

 

          (Kinh) Kỳ phụ ưu niệm, tứ phương thôi cầu, cầu chi kư b́, đốn chỉ nhất thành, tạo lập xá trạch, ngũ dục tự ngu. Kỳ gia cự phú, đa chư kim, ngân. Xa cừ, mă năo. Chân châu, lưu ly. Tượng, mă, ngưu, dương. Liễn, dư, xa thặng. Điền nghiệp, đồng bộc. Nhân dân chúng đa. Xuất nhập tức lợi, năi biến tha quốc. Thương cô, cổ nhân, vô xứ bất hữu, thiên vạn ức chúng, vi nhiễu cung kính. Thường vị vương giả, chi sở ái niệm. Quần thần, hào tộc, giai cộng tôn trọng. Dĩ chư duyên cố, văng lai giả chúng. Hào phú như thị, hữu đại lực thế.

          ()其父憂念。四方推求。求之旣疲。頓止一城。造立舍宅。五欲自娛。其家巨富。多諸金銀。硨磲碼瑙。真珠琉璃。象馬牛羊。輦輿車乘。田業僮僕。人民眾多。出入息利。乃徧他國。商估賈人。無處不有。千萬億眾。圍繞恭敬。常為王者。之所愛念。群臣豪族。皆共宗重。以諸緣故。往來者眾。豪富如是。有大力勢。

          (Kinh: Cha nó thường buồn nhớ, t́m kiếm khắp bốn phương, t́m kiếm mỏi mệt rồi, bèn ở lại một thành, cho xây cất nhà cửa, vui hưởng năm món dục. Nhà ông ta giàu to, có rất nhiều vàng, bạc. Xa cừ và mă năo. Chân châu cùng lưu ly. Voi, ngựa, trâu, và dê, kiệu, cáng và xe cộ. Ruộng, vườn, nhà, tôi tớ, nhân dân thật đông đảo. Thâu, chi, kiếm lời lăi, tới trọn khắp nước khác, khách thương và doanh nhân, không xứ nào chẳng có. Ngàn vạn ức nhân vật, cung kính vây quanh ông. Thường được bậc vua chúa, yêu mến, nghĩ nhớ tới. Quan lại, hàng quyền quư, đều cùng nhau tôn trọng. Do bởi các duyên đó, người lui tới đông đảo. Giàu mạnh như thế đó, có thế lực to lớn).

 

          “Tứ phương thôi cầu” (t́m cầu khắp bốn phương): Sánh ví chuyện t́m kiếm căn cơ có thể hóa độ trong tứ sanh. “Đốn chỉ nhất thành” (ở lại một thành): Ví như phương tiện tịnh Niết Bàn trong cơi khác, dựng nhà từ bi, lập viện tánh Không, hưởng thụ ngũ trần thù thắng, nhiệm mầu, pháp lạc xứng tánh. Ấy là do Phật ngự trong cơi Phương Tiện, mà cũng chính là Thật Báo, và cũng chính là cơi Tịch Quang. “Vua” ví như Pháp Thân và Tự Thọ Dụng Thân, đấy là Thắng Ứng Thân. V́ thế, được vua yêu mến. “Quần thần, hào tộc” ví như bậc Pháp Thân đại sĩ. “Văng lai giả chúng” (người qua lại đông đảo) ví như Bồ Tát từ các cơi khác qua lại nghe pháp.

 

4.2.2.2.2.1.1.3. Trùng tụng chuyện cha lo sầu, tưởng nhớ

 

          (Kinh) Nhi niên hủ mại, ích ưu niệm tử, túc dạ duy niệm, tử thời tương chí, si tử xả ngă, ngũ thập dư niên, khố tạng chư vật, đương như chi hà?

          ()而年朽邁。益憂念子。夙夜惟念。死時將至。癡子捨我。 五十餘年。庫藏諸物。當如之何。

          (Kinh: Nhưng tuổi đă già nua, càng thêm buồn nhớ con, ngày đêm chỉ suy nghĩ, giờ chết đă sắp đến, con si dại bỏ ta, đă hơn năm mươi năm, kho tàng cùng các vật, sẽ làm như thế nào?)

 

4.2.2.2.2.1.1.4. Trùng tụng chuyện con t́nh cờ đến thành của cha

 

          (Kinh) Nhĩ thời cùng tử, cầu sách y thực, tùng ấp chí ấp, tùng quốc chí quốc, hoặc hữu sở đắc, hoặc vô sở đắc, cơ ngạ luy sấu, thể sanh sang tiển, tiệm thứ kinh lịch, đáo phụ trụ thành.

          ()爾時窮子。求索衣食。從邑至邑。從國至國。或有所得。或無所得。饑餓羸瘦。體生瘡癬。漸次經歷。到父住城。

          (Kinh: Lúc đó, đứa con nghèo, v́ kiếm t́m cơm áo, ấp này sang ấp khác, nước này sang nước kia, hoặc có khi cầu được, có lúc chẳng cầu được, đói kém, thân c̣m cơi, thân thể sanh ghẻ lở, dần dần trải các nơi, đến ṭa thành cha ở).

 

          Trải qua Thập Nhị Xứ và Thập Bát Giới để cầu chánh đạo và trợ đạo. V́ thế nói “tùng ấp chí ấp, tùng quốc chí quốc” (từ ấp này sang ấp kia, từ nước này sang nước nọ). Xét theo điều thiện hữu lậu, th́ sẽ có sở đắc. Xét theo điều thiện vô lậu, sẽ chẳng có sở đắc. Chẳng có pháp Đại Thừa là “cơ ngạ” (đói khát). Chẳng có lực dụng to lớn là “luy” (gầy ṃn), chẳng có công đức to lớn là “sấu” (ốm o, c̣m cơi, gầy ṃn). Mê nơi đế lư bèn dấy lên Kiến Tư, tức là “thể sanh sang tiển” (thân thể sanh ghẻ lở). Phần thứ nhất, trùng tụng “cha con thất lạc nhau” đă xong.

 

4.2.2.2.2.1.2. Trùng tụng chuyện cha con gặp nhau

4.2.2.2.2.1.2.1. Trùng tụng chuyện con thấy cha

 

          (Kinh) Dung nhẫm triển chuyển, toại chí phụ xá. Nhĩ thời trưởng giả, ư kỳ môn nội, thi đại bảo trướng, xử sư tử ṭa, quyến thuộc vi nhiễu. Chư nhân thị vệ, hoặc hữu kế toán. Kim, ngân, bảo vật, xuất nội tài sản, chú kư khoán sớ. Cùng tử kiến phụ, hào quư tôn nghiêm, vị thị quốc vương, nhược quốc vương đẳng, kinh bố tự quái, hà cố chí thử? Phú tự niệm ngôn, ngă nhược cửu trụ, hoặc kiến bức bách, cưỡng khu sử tác. Tư duy thị dĩ, tŕ tẩu nhi khứ, tá vấn bần lư, dục hướng dung tác.

          ()傭賃展轉。遂至父舍。爾時長者。於其門內。施大寶帳。處師子座。眷屬圍繞。諸人侍衛。或有計算。金銀寶物。出內財產。注記券疏。窮子見父。豪貴尊嚴。謂是國王。若國王等。驚怖自怪。何故至此。覆自念言。我若久住。或見逼迫。強驅使作。思惟是已。馳走而去。借問貧里。欲往傭作。

          (Kinh: Lần lượt làm thuê mướn, đến trước nhà của cha. Khi đó, ông trưởng giả, ở trong nhà của ḿnh, căng màn châu báu lớn, ngự trên ṭa sư tử. Các quyến thuộc vây quanh, đông đảo kẻ hầu hạ. Hoặc có kẻ tính toán, vàng, bạc, các vật báu. Thu chi các tài sản, biên chép các bằng khoán. Đứa con nghèo thấy cha, sang quư và tôn nghiêm, nghĩ đó là quốc vương, hay bậc giống như vua, kinh hăi tự trách ḿnh: “Sao ta lại đến đây?” Gă thầm tự nhủ rằng: “Nếu ta ở đây lâu, chắc sẽ bị bức bách, cưỡng ép sai khiến làm”. Nghĩ ngợi như thế rồi, rảo chạy khỏi chỗ đó, hỏi thăm xóm nghèo nàn, muốn đến để làm thuê).

         

          Hai câu đầu trùng tụng nguyên do thấy cha. Mười câu kế tiếp, trùng tụng con thấy tướng trạng của cha. Trong phần trên nói chỗ con thấy cha là ở bên cạnh cửa, đoạn này nói ông trưởng giả ở bên trong cửa, tức là nói rơ nơi chốn. Đối với hạnh nguyện của Bồ Tát, phần nhiều nói tới các chuyện thuộc mặt Sự, cho nên nói là “kế toán”. Dùng chi tiết để nói rơ những điều đại lược th́ gọi là Chú, thọ kư là Kư. Tứ Hoằng Thệ là Khoán, tu hành là Sớ. Mười bốn câu kế đó từ “cùng tử kiến phụ” (đứa con nghèo thấy cha) trở đi trùng tụng con sanh ḷng sợ hăi, tránh né, ư nghĩa dễ hiểu.

 

4.2.2.2.2.1.2.2. Trùng tụng chuyện cha thấy con

 

          Chỉ trùng tụng “chỗ cha thấy con” và “vừa thấy liền nhận biết”, không trùng tụng chuyện “hoan hỷ, hợp với ư nguyện”.

 

          (Kinh) Trưởng giả thị thời, tại sư tử ṭa, dao kiến kỳ tử, mặc nhi thức chi.

          ()長者是時。在師子座。遙見其子。默而識之。

            (Kinh: Lúc ấy ông trưởng giả, trên ṭa sư tử, xa trông thấy con ḿnh, im lặng, nhận biết nó).

         

          Phần thứ hai, “trùng tụng chuyện cha con gặp nhau” đă xong.

 

4.2.2.2.2.1.3. Trùng tụng chuyện truy đuổi, khuyên dụ

4.2.2.2.2.1.3.1. Trùng tụng chuyện người bên cạnh [ông trưởng giả] truy đuổi   

 

          (Kinh) Tức sắc sứ giả, truy tróc tương lai. Cùng tử kinh hoán, mê muộn tích địa: “Thị nhân chấp ngă, tất đương kiến sát. Hà dụng y thực, sử ngă chí thử?” Trưởng giả tri tử, ngu si hiệp liệt, bất tín ngă ngôn, bất tín thị phụ.

          ()卽勅使者。追捉將來。窮子驚喚。迷悶躃地。是人執我。必當見殺。何用衣食。使我至此。長者知子。愚癡狹劣。不信我言。不信是父。

          (Kinh: Ông liền sai người hầu, đuổi theo bắt đem về. Gă nghèo hoảng sợ gào, mê ngất, ngă xuống đất: “Người này bắt bớ ta, ắt sẽ đem giết chết, cần ǵ v́ cơm áo, khiến ta đến nỗi này?” Trưởng giả biết con ḿnh, ngu si, tâm hẹp, hèn, chẳng tin tưởng lời cha, chẳng tin ta là cha).

 

4.2.2.2.2.1.3.2. Trùng tụng chuyện hai người đến khuyên dụ

4.2.2.2.2.1.3.2.1. Trùng tụng chuyện thuê mướn

 

          (Kinh) Tức dĩ phương tiện, cánh khiển dư nhân, diểu mục toa lậu, vô oai đức giả, nhữ khả ngữ chi, vân đương tương cố, trừ chư phẩn uế, bội dữ nhữ giá. Cùng tử văn chi, hoan hỷ tùy lai, vị trừ phẩn uế, tịnh chư pḥng xá.

          ()卽以方便。更遣餘人。眇目矬陋。無威德者。汝可語之。云當相雇。除諸糞穢。倍與汝價。窮子聞之。歡喜隨來。為除糞穢。淨諸房舍。

          (Kinh: Liền vận dụng phương tiện, lại sai khiến kẻ khác, mắt chột và lùn xấu, chẳng có oai đức ǵ, ngươi hăy nên bảo nó, ta sẽ thuê mướn nó, dọn trừ các phân nhơ, trả nó giá gấp bội. Đứa con nghèo nghe nói, hoan hỷ theo họ về. V́ dọn các phân nhơ, dọn sạch các pḥng nhà).

 

          Diểu mục” (眇目, mắt chột): Ví như Thiên Không tiểu trí. “Toa” () là theo chiều dọc th́ ngắn ngủn, ví như chẳng thấu hiểu nguồn cội của Thật Tướng. “Lậu” () là theo chiều ngang th́ hẹp ḥi, ví như chẳng trọn đủ vạn thiện để trang nghiêm. Chẳng phải là Tứ Vô Sở Úy, cho nên “vô oai”. Chẳng phải thường, lạc, ngă, tịnh, nên “vô đức”. “Tịnh chư pḥng xá” là thanh tịnh sáu căn và nhà cửa Ngũ Ấm.

 

4.2.2.2.2.1.3.2.2. Trùng tụng chuyện sai làm

 

          (Kinh) Trưởng giả ư dũ, thường kiến kỳ tử, niệm tử ngu liệt, nhạo vi bỉ sự. Ư thị trưởng giả, trước tệ cấu y, chấp trừ phẩn khí, văng đáo tử sở, phương tiện phụ cận, ngữ linh cần tác. Kư ích nhữ giá, tịnh đồ túc du, ẩm thực sung túc, tiến tịch hậu noăn. Như thị khổ ngôn, nhữ đương cần tác. Hựu dĩ nhuyễn ngữ, nhược như ngô tử.

          ()長者於牖。常見其子。念子愚劣。樂為鄙事。於是長者。著弊垢衣。執除糞器。往到子所。方便附近。語令勤作。旣益汝價。幷塗足油。飲食充足。薦席厚暖。如是苦言。汝當勤作。又以輭語。若如吾子。

          (Kinh: Trưởng giả trong cửa sổ, thường trông thấy con ḿnh, nghĩ con ḿnh ngu hèn, thích làm chuyện hèn kém. Do vậy, ông trưởng giả, mặc y phục xấu dơ, tay cầm đồ dọn phân, qua đến chỗ con làm, tạo phương cách thân cận, bảo con hăy siêng làm, đă tăng giá cho ngươi, cùng với dầu bôi chân, thức ăn đều đầy đủ, đệm chiếu đều dày ấm. Tha thiết bảo thế này: “Ngươi hăy nên siêng làm”, lại dịu dàng bảo nó: “Coi ngươi như con ta”).

 

          Hai câu đầu, trùng tụng chuyện toan dùng Quyền Trí đă lâu. Hai câu kế, trùng tụng chuyện từ lâu đă biết họ ưa thích tiểu pháp. Bốn câu kế tiếp, trùng tụng từ lâu đă biết cần phải tán thán ba loại xe. Mười câu kế tiếp, trùng tụng từ lâu đă biết do thỏa thích ư nguyện, họ sẽ thọ hành. Chữ “ngữ” (nói) nhằm trùng tụng Tứ Niệm Xứ. Ba chữ “linh cần tác” (dạy hăy siêng làm) trùng tụng Tứ Chánh Cần. Sáu câu từ “kư ích nhữ giá” (tăng giá cho ngươi) trùng tụng Tứ Như Ư Túc. “Đồ túc du” (dầu bôi chân): Dầu có thể trừ phong, sánh ví Thiền Định; lại có thể nổi trên nước, ví như thần thông. “Ẩm thực” tức gạo, bột, muối, dấm… “Tiến tịch hậu noăn” (đệm, chiếu dày ấm): Sánh ví chuyện rèn luyện huân tu các môn Thiền. “Như thị khổ ngôn, nhữ đương cần tác” (nói tha thiết như thế đó, ngươi hăy nên siêng làm): Kết lại “đốt, nam tử, nhữ thường thử tác” (này chàng trai, ngươi hăy thường làm ở chỗ này) v.v… trong phần trước. “Hựu dĩ nhuyễn ngữ, nhược như ngă tử” (lại dùng lời mềm mỏng: “Coi ngươi như con ta”) tức là trùng tụng phần kinh văn nói về Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác, Bát Chánh v.v… từ câu “hảo tự an ư” (hăy khéo an ḷng) trong phần trước. Phần thứ ba, trùng tụng chuyện “đuổi theo, khuyên dụ” đă xong.

 

4.2.2.2.2.1.4. Trùng tụng chuyện “lănh nhận và giao phó gia nghiệp”

4.2.2.2.2.1.4.1. Trùng tụng chuyện lănh nhận gia nghiệp

 

          (Kinh) Trưởng giả hữu trí, tiệm linh nhập xuất, kinh nhị thập niên, chấp tác gia sự, thị kỳ kim, ngân, chân châu, pha lê, chư vật xuất nhập, giai sử linh tri. Do xử môn ngoại, chỉ túc thảo am, tự niệm bần sự, ngă vô thử vật.

          ()長者有智。漸令入出。經二十年。執作家事。示其金銀。真珠玻瓈。諸物出入。皆使令知。猶處門外。止宿草菴。自念貧事。我無此物。

          (Kinh: Ông trưởng giả có trí, cho con dần ra vào, trải qua hai mươi năm, chăm sóc chuyện trong nhà, dạy con biết vàng, bạc, chân châu và pha lê, các vật được thu chi, đều dạy con biết rơ. Con vẫn ở ngoài cửa, nương náu nơi am tranh, tự nghĩ phận nghèo nàn, ta chẳng có vật đó).

 

          Hai câu đầu trùng tụng chuyện “tâm dần dần thấu hiểu, tin tưởng”. Sáu câu kế, trùng tụng chuyện đứa con vâng lời cha đứng ra coi sóc [gia nghiệp]. Bốn câu sau cùng, trùng tụng [con tuy trông coi tài sản], chẳng mong cầu giữ lấy. “Kinh nhị thập niên” (trải qua hai mươi năm): Dạy Bồ Tát đoạn Kiến Tư thuộc giới ngoại, chẳng giống với hai mươi năm dọn phân trước đó.

 

4.2.2.2.2.1.4.2. Trùng tụng chuyện giao phó gia nghiệp

4.2.2.2.2.1.4.2.1. Trùng tụng chuyện chánh thức giao phó gia nghiệp

 

          (Kinh) Phụ tri tử tâm, tiệm dĩ khoáng đại, dục dữ tài vật, tức tụ thân tộc, quốc vương, đại thần, sát-lợi, cư sĩ. Ư thử đại chúng, thuyết thị ngă tử, xả ngă tha hành, kinh ngũ thập tuế. Tự kiến tử lai, dĩ nhị thập niên. Tích ư mỗ thành, nhi thất thị tử, châu hành cầu sách, toại lai chí thử. Phàm ngă sở hữu, xá trạch, nhân dân, tất dĩ phó chi, tứ kỳ sở dụng.

          ()父知子心。漸已曠大。欲與財物。卽聚親族。國王大臣。剎利居士。於此大眾。說是我子。捨我他行。經五十歲。自見子來。已二十年。昔於某城。而失是子。周行求索。遂來至此。凡我所有。舍宅人民。悉以付之。恣其所用。

          (Kinh: Cha biết tâm con ḿnh, đă dần dần lớn rộng, muốn trao cho tài vật, bèn nhóm họp thân tộc, quốc vương và đại thần, sát-lợi cùng cư sĩ. Giữa đại chúng đó, nói: - Đây là con của ta, bỏ ta sang nơi khác, đă suốt năm mươi năm. Từ khi thấy con tới, là đă hai mươi năm. Xưa kia tại thành đó, lạc mất đứa con này, trải khắp nơi t́m kiếm, nên mới đến nơi đây. Phàm những ǵ ta có, nhà cửa và nhân dân, đều giao phó cho nó, mặc t́nh nó sử dụng).

 

          “Nhị thập niên” (hai mươi năm): Nếu xét theo sự tự hành của Nhị Thừa th́ là hai mươi năm dọn phân, hoặc sau khi đă dọn phân th́ mới gọi là con. Tức là chuyện chuyển giao làm lụng th́ gọi là “hai mươi năm”, hoặc là xét theo Nhị Thừa mà gọi là hai mươi năm.

 

 4.2.2.2.2.1.4.2.2. Trùng tụng niềm hoan hỷ do được giao phó

 

          (Kinh) Tử niệm tích bần, chí ư hạ liệt, kim ư phụ sở, đại hoạch trân bảo, tịnh cập xá trạch, nhất thiết tài vật, thậm đại hoan hỷ, đắc vị tằng hữu.

          ()子念昔貧。志意下劣。今於父所。大獲珍寶。幷及舍宅。一切財物。甚大歡喜。得未曾有。

          (Kinh: Con nghĩ xưa nghèo khó, chí ư cam kém hèn, nay ở nơi cha ḿnh, được rất nhiều trân bảo, cùng với nhiều nhà cửa, hết thảy các tài vật, ḷng hoan hỷ rất lớn, đạt được chưa từng có).

 

          Phần thứ nhất, “trùng tụng về chuyện lập thí dụ” đă xong.

 

4.2.2.2.2.2. Trùng tụng kết hợp thí dụ với pháp

4.2.2.2.2.2.1. Đối ứng với pháp chuyện [cha con] cùng lạc mất nhau, cùng thấy nhau

 

          (Kinh) Phật diệc như thị, như ngă nhạo Tiểu.

          ()佛亦如是。如我樂小。

          (Kinh: Đức Phật cũng như thế, biết con ưa Tiểu Thừa).

 

          Do con ưa thích Tiểu Thừa, cho nên lạc mất cha. Do Phật biết căn tánh của con, giống như cha trông thấy con.

 

4.2.2.2.2.2.2. Đối ứng với pháp chuyện “truy đuổi, khuyên dụ”

 

          (Kinh) Vị tằng thuyết ngôn, nhữ đẳng tác Phật, nhi thuyết ngă đẳng, đắc chư vô lậu, thành tựu Tiểu Thừa, Thanh Văn đệ tử.

          ()未曾說言。汝等作佛。而說我等。得諸無漏。成就小乘。聲聞弟子。

          (Kinh: Nên chưa hề bảo con: “Các ông sẽ thành Phật”, chỉ nói với chúng con: - Đạt được các vô lậu, thành tựu pháp Tiểu Thừa, là đệ tử Thanh Văn).

 

          Hai câu đầu tương ứng với chuyện truy đuổi, bốn câu cuối tương ứng với chuyện khuyên dụ.

 

4.2.2.2.2.2.3. Đối ứng với chuyện lănh nhận và giao phó gia nghiệp

4.2.2.2.2.2.3.1. Đối ứng với pháp chuyện lănh nhận gia nghiệp

4.2.2.2.2.2.3.1.1. Đối ứng với pháp chuyện vâng lệnh trông coi

 

          (Kinh) Phật sắc ngă đẳng, thuyết tối thượng đạo, tu tập thử giả, đương đắc thành Phật, ngă thừa Phật giáo, vi đại Bồ Tát. Dĩ chư nhân duyên, chủng chủng thí dụ. Nhược can ngôn từ, thuyết vô thượng đạo. Chư Phật tử đẳng, tùng ngă văn pháp, nhật dạ tư duy, tinh cần tu tập. Thị thời chư Phật, tức thọ kỳ kư, nhữ ư lai thế, đương đắc tác Phật. Nhất thiết chư Phật, bí tạng chi pháp, đản vị Bồ Tát, diễn kỳ thật sự, nhi bất vị ngă, thuyết tư chân yếu.

          ()佛勅我等。說最上道。修習此者。當得成佛。我承佛教。為大菩薩。以諸因緣。種種譬喻。若干言辭。說無上道。諸佛子等。從我聞法。日夜思惟。精勤修習。是時諸佛。卽授其記。汝於來世。當得作佛。一切諸佛。秘藏之法。但為菩薩。演其實事。而不為我。說斯真要。

          (Kinh: Phật truyền dạy chúng con, nói đạo pháp tối thượng, người tu tập pháp ấy, sẽ được thành Phật quả. Con vâng lời Phật dạy, v́ các đại Bồ Tát, dùng các món nhân duyên, cùng đủ mọi thí dụ. Bao nhiêu thứ ngôn từ, để nói đạo vô thượng. Các hàng Phật tử thảy, nghe pháp từ chúng con, suốt ngày đêm tư duy, siêng ṛng mà tu tập. Lúc bấy giờ, chư Phật, liền v́ họ thọ kư: “Ông trong đời mai sau, sẽ được thành Phật quả”. Pháp ẩn tàng bí mật, của hết thảy chư Phật, chỉ v́ hàng Bồ Tát, diễn nói sự chân thật, nhưng chẳng v́ chúng con, nói pháp chân yếu ấy).

 

          Trong phần [kinh văn Trường Hàng] kết hợp với pháp, đă đối ứng chuyện thấu hiểu, tin tưởng, ủy thác, giao phó gia nghiệp với pháp; nhưng kệ tụng chỉ đối ứng với pháp chuyện ủy thác gia nghiệp. “Tối thượng đạo” chính là Ma Ha Bát Nhă.

 

4.2.2.2.2.2.3.1.2. Trùng tụng sự đối ứng với pháp chuyện con chẳng có ư mong cầu

         

          Phần kinh văn này nói rộng, lại chia thành ba tiểu đoạn.

         

4.2.2.2.2.2.3.1.2.1. Nhắc lại thí dụ nêu rơ “con không có ư mong cầu”       

 

          (Kinh) Như bỉ cùng tử, đắc cận kỳ phụ, tuy tri chư vật, tâm bất hy thủ, ngă đẳng tuy thuyết, Phật pháp bảo tạng, tự vô chí nguyện, diệc phục như thị.

          ()如彼窮子。得近其父。雖知諸物。心不希取。我等雖說。佛法寶藏。自無志願。亦復如是。

          (Kinh: Như đứa con nghèo kia, được thân cận bên cha, tuy hiểu biết các vật, tâm chẳng hề mong cầu. Chúng con tuy diễn nói, tạng báu trong Phật pháp, tự chẳng có chí nguyện, cũng giống như thế đó).

 

4.2.2.2.2.2.3.1.2.2. Giải thích v́ sao chẳng có ư niệm mong cầu

 

          (Kinh) Ngă đẳng nội diệt, tự vị vi túc, duy liễu thử sự, cánh vô dư sự. Ngă đẳng nhược văn, tịnh Phật quốc độ, giáo hóa chúng sanh, đô vô hân nhạo. Sở dĩ giả hà? Nhất thiết chư pháp, giai tất không tịch, vô sanh, vô diệt, vô đại, vô tiểu, vô lậu, vô vi. Như thị tư duy, bất sanh hỷ nhạo. Ngă đẳng trường dạ, ư Phật trí huệ, vô tham, vô trước, vô phục chí nguyện, nhi tự ư pháp, vị thị cứu cánh. Ngă đẳng trường dạ, tu tập Không pháp, đắc thoát tam giới, khổ năo chi hoạn, trụ tối hậu thân, hữu dư Niết Bàn. Phật sở giáo hóa, đắc đạo bất hư, tắc vi dĩ đắc, báo Phật chi ân.

            ()我等內滅。自謂為足。唯了此事。更無餘事。我等若聞。淨佛國土。教化眾生。都無欣樂。所以者何。一切諸法。皆悉空寂。無生無滅。無大無小。無漏無為。如是思惟。不生喜樂。我等長夜。於佛智慧。無貪無著。無復志願。而自於法。謂是究竟。我等長夜。修習空法。得脫三界。苦惱之患。住最後身。有餘涅槃。佛所教化。得道不虛。則為已得。報佛之恩。

            (Kinh: Chúng con đă nội diệt, tự cho đă đủ rồi, chỉ xong được việc ấy, chẳng có chuyện chi khác. Nếu chúng con được nghe, thanh tịnh Phật quốc độ, giáo hóa các chúng sanh, thảy đều chẳng ưa thích. V́ lẽ nào như vậy? Bởi hết thảy các pháp, thảy đều là không tịch, vô sanh và vô diệt, chẳng lớn, cũng chẳng nhỏ, vô lậu và vô vi. Do suy nghĩ như thế, chẳng sanh ḷng ưa thích. Chúng con trong đêm dài, đối với trí huệ Phật, chẳng tham, chẳng chấp giữ, cũng chẳng có chí nguyện, đối với pháp của ḿnh, tự cho là rốt ráo. Chúng con trong đêm dài, thường tu tập pháp Không, được thoát khỏi hoạn nạn, khổ năo trong tam giới, trụ trong thân cuối cùng, hữu dư y Niết Bàn. Như Phật đă giáo hóa, đắc đạo chẳng hư huyễn, tức là đă có thể, báo đền ân đức Phật).

 

          Bài kệ thứ nhất ư nói: Do đă đoạn chứng trong pháp Tiểu Thừa, chẳng mong cầu đoạn chứng của Đại Thừa. Bài kệ kế tiếp nói: Do đă có trí huệ Tiểu Thừa, chẳng ưa thích trí huệ Đại Thừa. Hai bài kệ kế tiếp, giải thích sự đoạn chứng trong Tiểu Thừa. Nửa bài kệ kế đó, giải thích trí huệ Tiểu Thừa. Nửa bài kệ kế tiếp, giải thích lần nữa về sự đoạn chứng của Tiểu Thừa. Bài kệ sau cùng giải thích lần nữa trí huệ của Tiểu Thừa.

 

4.2.2.2.2.2.3.1.2.3. Kết lại ư chẳng mong cầu

         

          (Kinh) Ngă đẳng tuy v, chư Phật tử đẳng, thuyết Bồ Tát pháp, dĩ cầu Phật đạo, nhi ư thị pháp, vĩnh vô nguyện nhạo. Đạo sư kiến xả, quán ngă tâm cố, sơ bất khuyến tấn, thuyết hữu thật lợi.

          ()我等雖為。諸佛子等。說菩薩法。以求佛道。而於是法。永無願樂。導師見捨。觀我心故。初不勸進。說有實利。

          (Kinh: Tuy chúng con đă v́, các hàng Phật tử thảy, tuyên thuyết pháp Bồ Tát, để mong cầu Phật đạo, nhưng đối với pháp ấy, trọn chẳng hề mong thích. Đức đạo sư buông bỏ, v́ quán sát tâm con, thoạt đầu chẳng khuyến khích, nói các điều lợi thật).

 

          Do con chẳng mong ước, ưa thích, khiến cho đấng đạo sư phải buông bỏ. Do Ngài quan sát tâm con, trọn chẳng phải là tiếc nuối đại pháp. Phần thứ nhất, “trùng tụng chuyện lănh nhận gia nghiệp” đă xong.

 

4.2.2.2.2.2.3.2. Trùng tụng chuyện kết hợp pháp với giao phó gia nghiệp

4.2.2.2.2.2.3.2.1. Trùng tụng kết hợp pháp với chuyện giao phó gia nghiệp

 

          Sáu câu đầu nhắc lại thí dụ, sáu câu cuối nhằm kết hợp với pháp.

         

          (Kinh) Như phú trưởng giả, tri tử chí liệt, dĩ phương tiện lực, nhu phục kỳ tâm, nhiên hậu năi phó, nhất thiết tài vật, Phật diệc như thị, hiện hy hữu sự, tri nhạo Tiểu giả, dĩ phương tiện lực, điều phục kỳ tâm, năi giáo đại trí.

          ()如富長者。知子志劣。以方便力。柔伏其心。然後乃付。一切財物。佛亦如是。現希有事。知樂小者。以方便力。調伏其心。乃教大智。

          (Kinh: Như trưởng giả giàu có, biết con chí kém hèn, bèn dùng sức phương tiện, để điều phục tâm con, sau đó mới giao phó, hết thảy các tài vật. Đức Phật cũng như thế, hiện ra chuyện hy hữu, biết con chuộng Tiểu pháp, bèn dùng sức phương tiện, điều phục cái tâm con, rồi dạy cho đại trí).

 

4.2.2.2.2.2.3.2.2. Trùng tụng kết hợp pháp với hoan hỷ

 

          (Kinh) Ngă đẳng kim nhật, đắc vị tằng hữu, phi tiên sở vọng, nhi kim tự đắc. Như bỉ cùng tử, đắc vô lượng bảo. Thế Tôn ngă kim, đắc đạo, đắc quả, ư vô lậu pháp, đắc thanh tịnh nhăn. Ngă đẳng trường dạ, tŕ Phật tịnh giới, thỉ ư kim nhật, đắc kỳ quả báo. Pháp vương pháp trung, cửu tu phạm hạnh, kim đắc vô lậu. Vô thượng đại quả, ngă đẳng kim giả, chân thị Thanh Văn. Dĩ Phật đạo thanh, linh nhất thiết văn. Ngă đẳng kim giả, chân A La Hán, ư chư thế gian, thiên, nhân, ma, phạm, phổ ư kỳ trung, ưng thọ cúng dường.

          ()我等今日。得未曾有。非先所望。而今自得。如彼窮子。得無量寶。世尊我今。得道得果。於無漏法。得清淨眼。我等長夜。持佛淨戒。始於今日。得其果報。法王法中。久修梵行。今得無漏。無上大果。我等今者。真是聲聞。以佛道聲。令一切聞。我等今者。真阿羅漢。於諸世間。天人魔梵。普於其中。應受供養。

          (Kinh: Chúng con trong hiện thời, được pháp chưa từng có, chẳng phải điều sẵn mong, thế mà nay tự được. Như đứa con nghèo kia, có được vô lượng báu. Bạch Thế Tôn, con nay, đắc đạo và đắc quả, ở trong pháp vô lậu, đạt được mắt thanh tịnh. Chúng con trong đêm dài, giữ Phật giới thanh tịnh, mới từ ngày hôm nay, đạt được quả báo ấy. Trong pháp của Pháp Vương, tu phạm hạnh đă lâu, nay đạt được vô lậu. Quả báo lớn vô thượng, chúng con trong ngày nay, thật sự là Thanh Văn. Khiến tiếng đạo của Phật, hết thảy đều được nghe. Chúng con trong ngày nay, thật là A La Hán, ở trong các thế gian, trời, người, ma, phạm vương, ở trong khắp chúng đó, đáng tiếp nhận cúng dường).

 

          “Đắc đạo” là đắc đạo Thật Tướng. “Đắc quả” đạt được một phần Vô Thượng Bồ Đề Đại Thừa Tập Quả. “Vô lậu pháp” là Trung Đạo chẳng ṛ rỉ nhị biên. “Đắc thanh tịnh nhăn” (đạt được mắt thanh tịnh): Đạt được một phần Phật nhăn. Đó là nói đến khai tri kiến của Phật. Tịnh giới trở thành duyên nhân chân thật. V́ thế, đạt được diệu báo. Phạm hạnh trở thành liễu nhân chân thật, cho nên đạt được diệu quả. Những điều thấy biết chính là chánh nhân lư tánh, tức Pháp Thân đức. “Thật sự là Thanh Văn, thật sự là A La Hán” tức địa vị Sơ Trụ trong Viên Giáo. Một phần là Chân, th́ hết thảy các phần đều chân, tức là phần chứng tam đức trong mười pháp giới, chỉ là xét theo địa vị của chính ḿnh mà khai hiển. V́ thế nói là Thanh Văn, A La Hán. Phần thứ nhất, trùng tụng sự trần thuật giải ngộ trong phần Trường Hàng đă xong.

 

4.2.2.2.2.2.3.3. Tán thán ơn Phật sâu đậm

 

          (Kinh) Thế Tôn đại ân, dĩ hy hữu sự, lân mẫn giáo hóa, lợi ích ngă đẳng, vô lượng ức kiếp, thùy năng báo giả. Thủ túc cung cấp, đầu đảnh lễ kính, nhất thiết cúng dường, giai bất năng báo. Nhược dĩ đảnh đới, lưỡng kiên hà phụ, ư Hằng sa kiếp, tận tâm cung kính. Hựu dĩ mỹ thiện, vô lượng bảo y, cập chư ngọa cụ, chủng chủng thang dược. Ngưu đầu chiên đàn, cập chư trân bảo, dĩ khởi tháp miếu, bảo y bố địa. Như tư đẳng sự, dĩ dụng cúng dường, ư hằng sa kiếp, diệc bất năng báo. Chư Phật hy hữu, vô lượng vô biên, bất khả tư nghị, đại thần thông lực, vô lậu, vô vi. Chư pháp chi vương, năng vi hạ liệt, nhẫn ư tư sự. Thủ tướng phàm phu, tùy nghi vị thuyết. Chư Phật ư pháp, đắc tối tự tại, tri chư chúng sanh, chủng chủng dục lạc, cập kỳ chí lực, tùy sở kham nhậm, dĩ vô lượng dụ, nhi vị thuyết pháp. Tùy chư chúng sanh, túc thế thiện căn. Hựu tri thành thục, vị thành thục giả, chủng chủng trù lượng, phân biệt tri dĩ, ư nhất thừa đạo, tùy nghi thuyết tam.

            ()世尊大恩。以希有事。憐愍教化。利益我等。無量億劫。誰能報者。手足供給。頭頂禮敬。一切供養。皆不能報。若以頂戴。兩肩荷負。於恆沙劫。盡心恭敬。又以美膳。無量寶衣。及諸臥具。種種湯藥。牛頭栴檀。及諸珍寶。以起塔廟。寶衣布地。如斯等事。以用供養。於恆沙劫。亦不能報。諸佛希有。無量無邊。不可思議。大神通力。無漏無為。諸法之王。能為下劣。忍於斯事。取相凡夫。隨宜為說。諸佛於法。得最自在。知諸眾生。種種欲樂。及其志力。隨所堪任。以無量喻。而為說法。隨諸眾生。宿世善根。又知成熟。未成熟者。種種籌量。分別知已。於一乘道。隨宜說三。

          (Kinh: Đại ân của Thế Tôn, đem việc hiếm có này, thương xót dạy bảo cho, khiến chúng con lợi ích, dẫu vô lượng ức kiếp, ai có thể đáp đền? Dâng lên tay lẫn chân, mọp đầu để lễ kính, dùng hết thảy cúng dường, đều chẳng thể báo đáp. Nếu lại dùng đầu đội, hai vai cùng cơng vác, trải kiếp cát sông Hằng, dốc hết ḷng cung kính. Lại dùng món ăn ngon, vô lượng áo quư báu, và các thứ đồ trải, cùng các thứ thuốc thang. Gỗ ngưu đầu chiên đàn, và các thứ trân bảo, dùng để dựng tháp, miếu, y báu đem phủ đất. Làm những chuyện như thế, dùng để cúng dường Phật, trong hằng hà sa kiếp, vẫn chẳng thể báo đền! Chư Phật rất hy hữu, có vô lượng vô biên, sức thần thông to lớn, vô lậu và vô vi, đều chẳng thể nghĩ bàn. Là vua của các pháp, hay v́ kẻ hèn kém, nhẫn thọ được chuyện này: Với phàm phu chấp tướng, tùy nghi v́ họ nói. Ở trong hết thảy pháp, chư Phật tự tại nhất, biết rành các dục lạc, cũng như các chí lực, của hết thảy chúng sanh, tùy sức họ kham nổi, dùng vô lượng thí dụ, để v́ họ thuyết pháp. Thuận theo các thiện căn, túc thế của chúng sanh, lại biết đă thành thục, hay vẫn chưa thành thục, trù tính đủ mọi lẽ, phân biệt để biết rành, từ trong đạo Nhất Thừa, tùy nghi nói thành ba).

         

          “Thế Tôn đại ân”:

          - Một, đức Phật thoạt đầu kiến lập từ bi, dẹp trừ nỗi khổ cho lục đạo, ban cho bốn thánh lạc, trọn khắp mười pháp giới, vào trong Tứ Hoằng Thệ. Đó là ân đức thuộc về Như Lai thất (nhà của Như Lai).

          - Hai, Như Lai hành Bồ Tát đạo, giáo hóa tạo lợi ích, hoan hỷ, từng dạy chúng con Đại Thừa. Tuy giữa chừng [chúng con] lại quên mất, nhưng trí nguyện chẳng mất, do nhà của Như Lai thanh lương, ấm áp. Đó là ân đại từ ban vui.

          - Ba, chúng sanh gặp khổ, ngóng nh́n cha mà thôi! Đức Phật xét cơ nghi ấy, như nghé con t́m mẹ, hành trọn Lục Độ để lợi ích chúng sanh. Đấy chính là nhà của Như Lai che lạnh, ngăn nóng, tức ân đại bi dẹp khổ.

          - Bốn, đức Phật đă thành đạo, đáng hưởng niềm vui tịch diệt vô vi, nhưng ẩn tàng thần đức ấy, dùng pháp vui của kẻ nghèo, NGiới, Thập Thiện, nước lạnh rảy vào mặt, khiến cho họ tỉnh ngộ. Đó chính là ân “áo Phật ngăn che cái nóng tham dục”.

          - Năm, thị hiện h́nh tượng của vị lăo tỳ-kheo để thuận tiện thân cận, ban cho [chúng sanh] cái giá một ngày. Đó là ân “áo Phật ngăn trừ cái lạnh do kiến chấp, nóng bức do ái”.

          - Sáu, sau đó trở đi, do tâm [của hàng Nhị Thừa] dần dần thấu hiểu, tin tưởng, [đức Phật] quở trách, chê bai [Tiểu pháp], khiến cho họ thẹn Tiểu, hâm mộ Đại. Đó là ân “áo Phật che chắn xấu xí”.

          - Bảy, [con] tuân lệnh coi sóc gia nghiệp. Vàng, bạc, kho tàng [cha] đều dạy cho con hiểu biết. Đó là ân “áo Phật ban cho con sự trang nghiêm”.

          - Tám, nhóm họp thân tộc, xác định quan hệ cha con, giao phó gia nghiệp. Khối báu vô thượng, chẳng cầu mà tự đạt được. Đó chính là ân nơi ṭa của Như Lai.

          - Chín và mười là đă ngồi nơi ṭa, thân ư thanh thản, vui sướng, an ổn, dùng tiếng đạo của Phật để khiến cho hết thảy đều được nghe, đáng được trọn khắp trời người cúng dường. Đó là ân của Như Lai ṭa khiến cho trọn đủ tự hành và hóa độ người khác.

          “Ngưu đầu chiên đàn”: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Xuất Ly Cấu sơn, nhược dụng đồ thân, hỏa bất năng thiêu” ([Hương này] sanh từ núi Ly Cấu, nếu dùng để bôi thân, lửa sẽ chẳng thể đốt). Mười ân ở đây, nhà gồm ba ân, áo gồm bốn ân, ṭa gồm ba ân. Hăy nên biết từ trong nhà mà được áo, có ân che chở, nuôi nấng. Do trong nhà có ṭa, tạo thành tác dụng ban cho và dẹp trừ. Ṭa nhờ vào áo và nhà, khiến cho tự hạnh và tha hạnh đều thành tựu. Áo nhờ vào ṭa và nhà, khiến cho lư đầu tiên và lư sau cùng đều được hiển. Do vậy, ba nghĩa hợp thành đại ân, luận định ân sâu nặng khó báo, chớ nên quên báo ân. Trong phần hai, tức phần Thí Thuyết Châu, chương thứ hai nói về sự lănh nhận giải ngộ của hàng trung căn đă xong.

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa

Quyển hai hết

 

 



[1] Trong phần Trường Hàng có nói: Ông trưởng giả nghĩ thân và tay của chính ḿnh có sức mạnh to lớn, có thể dùng bàn, ghế, hoặc áo để vượt thoát cái cửa đang cháy, nhưng nghĩ các con thơ dại, ham chơi, cửa lại hẹp nhỏ, cho nên từ bỏ không dùng cách ấy.

[2] Kiến Đế: Hiểu theo nghĩa hẹp là “đă thấu hiểu chứng ngộ chân lư Tứ Thánh Đế”, tức là từ quả Dự Lưu (Nhất Quả) trở lên. Hiểu theo nghĩa rộng th́ là “thấu hiểu, chứng ngộ chân lư”. Nếu xét theo Tiểu Thừa th́ từ Sơ Quả trở lên, c̣n xét theo Đại Thừa th́ từ Sơ Địa trở lên.

[3] Tứ Môn là một thuật ngữ của tông Thiên Thai chỉ Không Môn, Hữu Môn, Diệc Hữu Diệc Không Môn và Phi Hữu Phi Không Môn.

[4] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Ấn là ấn chứng. Pháp là pháp lư. Phàm kinh văn có pháp lư để ấn chứng th́ gọi là pháp ấn. Do pháp lư để ấn chứng trong kinh này Nhất Thừa Thật Tướng, cho nên gọi là Thật Tướng ấn. V́ thế, phẩm Phương Tiện mới nói: V́ nói Thật Tướng ấn”.

[5] Chữ này thường đọc là “tần thích”, nhưng theo tự điển trực tuyến zdic.net/hans th́ âm Phổ Thông là píncù, tức là phải đọc là “tần túc”. Hơn nữa, tự điển Khang Hy phiên thiết chữ là “tử lục thiết” hay “thất lục thiết”, tức là chỉ có thể đọc thành âm “túc” hay “thúc”.

[6] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Khốt (𩑔) có nghĩa là đầu không có tóc, hay con vật trụi lông”.

[7] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Trách đà (馲駝) chính là lạc đà”.

[8] Pháp lạp c̣n gọi là pháp tuế, hạ lạp, pháp hạ, giới lạp, tăng lạp, sanh lạp, sanh hạ pháp lạp, chỉ số năm đă an cư kết hạ sau khi đă thọ giới Cụ Túc của một vị Tăng hay ni. Theo quy củ tùng lâm, ngày cuối cùng của kỳ An Cư Kết Hạ được gọi là “thọ tuế nhật”, kể từ hôm đó, hạ lạp (pháp lạp) được tăng thêm một năm. Căn cứ vào pháp lạp nhiều hay ít mà định ra hạ lạp, trung lạp, thượng lạp ḥng ấn định thứ tự nhằm tỏ sự tôn kính. Vị có pháp lạp cao nhất sẽ được gọi là Nhất Lạp, Lạp Măn, hoặc Cực Lạp. Trong thiền lâm Trung Hoa, pháp lạp của các vị tăng được ghi chép cẩn thận vào Tăng tịch, gọi là Giới Lạp Bạ (sổ ghi chép giới lạp). Tuân theo thứ tự giới lạp ấy để xếp chỗ ngồi thành thượng tọa, trung tọa, hạ tọa trong các pháp đàn, gọi chung là Lạp Thứ (thứ tự theo giới lạp).

[9] Nội Phàm là một giai vị trước khi đạt đến địa vị Kiến Đạo. Hễ tu hành Phật đạo mà chưa chứng chánh lư th́ đều gọi là phàm phu, nhưng nếu đă phát khởi trí giải tương tự chánh lư th́ gọi là Nội Phàm. Chưa phát trí giải tương tự chánh lư th́ gọi là Ngoại Phàm. Ngũ Đ́nh Tâm trong Tiểu Thừa, Niệm Xứ trong Biệt Giáo, Tổng Tướng Niệm Xứ thuộc địa vị Tam Hiền được gọi chung là Ngoại Phàm. Đă chứng Noăn, Đảnh, Thế Đệ Nhất th́ gọi là Nội Phàm. Trong Đại Thừa, coi địa vị Phục Nhẫn trong Thập Tín là Ngoại Phàm, c̣n Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng gọi là Nội Phàm.

[10] Tám ma: Phiền năo ma, Ấm ma, tử ma, Tha Hóa Tự Tại Thiên Tử ma (Thiên ma), vô thường, vô lạc, vô ngă, bất tịnh.

[11] Đây là một câu chuyện trong phẩm Hương Tích của kinh Duy Ma Cật (kinh Tịnh Danh). Khi các vị Bồ Tát và hàng Thanh Văn theo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đến thăm bệnh cư sĩ Duy Ma Cật. Sau một hồi vấn đáp pháp môn Bất Nhị, đă đến giờ thọ trai của chư Tăng, cư sĩ Duy Ma Cật liền biến hiện thần thông, sai hóa Bồ Tát đến cơi Chúng Hương cách Sa Bà bốn mươi hai hằng sa cơi Phật ở phương trên để xin cơm. Trong cơi ấy, Phật hiệu là Hương Tích dùng mùi thơm để làm Phật sự. Y báo và chánh báo trong cơi Chúng Hương đều có mùi thơm. Có chín trăm vạn Bồ Tát trong cơi Chúng Hương thấy hóa Bồ Tát, biết cơi Thích Ca Mâu Ni Phật đang giảng kinh, bèn xin phép Hương Tích Phật qua cơi Sa Bà nghe kinh. Phật Hương Tích dạy các vị Bồ Tát ấy phải thâu nhiếp mùi hương nơi thân để chúng sanh trong cơi Sa Bà chẳng sanh tham đắm.

[12] Theo pháp sư Phổ Hành, tuy chữ này viết là Trực, phải đọc là Trị, v́ văn bản cổ viết theo lối giả tá.

[13] Các tướng của Phật vô lượng, mỗi tướng lại có vô lượng tùy h́nh hảo làm quyến thuộc. V́ thế, kinh Hoa Nghiêm dùng chữ Tướng Hải để diễn tả tướng đại nhân và tùy h́nh hảo nơi báo thân Phật chẳng thể thấy biết trọn hết.

[14] “Chi lâm” nói đầy đủ là “chi lâm công đức”, tức mười tám loại công đức sanh khởi bởi Tứ Thiền Định. Theo sách Pháp Giới Thứ Đệ, quyển thượng, mười tám chi gồm:

1. Sơ Thiền Thiên Định gồm năm chi: Giác chi, quán chi, hỷ chi, lạc chi, nhất tâm chi.

2. Nhị Thiền Thiên Định gồm bốn chi: Nội tịnh chi, hỷ chi, lạc chi, nhất tâm chi.

3. Tam Thiền Thiên Định gồm năm chi: Xả chi, niệm chi, huệ chi, lạc chi, nhất tâm chi.

4. Tứ Thiền Thiên Định gồm bốn chi: Bất khổ bất lạc chi, xả chi, niệm thanh tịnh chi, nhất tâm chi.

[15] Năm lỗi (ngũ quá):

1. Tự hại: Tức là kẻ hủy phạm giới, thân, khẩu, ư nghiệp thường bất tịnh, thường hứng chịu bần cùng, khổ sở, thiếu phước, thiện thần xa lánh.

2. Bị kẻ trí quở trách, tức là người hủy giới bị các thiện tỳ-kheo quở trách, xa lánh.

3. Tiếng xấu đồn rộng, tức kẻ hủy giới do ba nghiệp chẳng thanh tịnh, sống chung với những kẻ bất thiện, tiếng xấu lan xa.

4. Lâm chung sanh hối hận.

5. Chết rồi sẽ đọa ác đạo.

[16] Tứ Giáo Nghi là một tác phẩm gồm sáu quyển, do tổ Thiên Thai Trí Giả đại sư soạn vào đời Tùy, thuyết minh khái niệm hóa nghi và hóa pháp. Sách này lại được nhiều vị đại tri thức chú giải như Tứ Giáo Nghi Tập Giải (do Tùng Nghĩa soạn vào đời Tống), Tứ Giáo Nghi Bị Thích (Nguyên Túy soạn vào thời Nguyên), Tứ Giáo Nghi Tập Chú (do Mông Luận soạn vào đời Nguyên), Tứ Giáo Nghi Tập Chú Tiết Nghĩa (do Linh Diệu tiết lục), Tứ Giáo Nghi Chú Vựng Bổ Phụ Hoằng Kư (do Tánh Quyền soạn) v.v…

[17] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Hàng Nhị Thừa siêng khổ đoạn Hoặc, chỉ đạt được Hữu Dư Niết Bàn thuộc Tiểu Quả, chẳng đạt được thọ dụng to lớn, nên nói là cái giá một ngày”.